PHẦN 5
CHƯƠNG 1
Mái tôn thủng lỗ chỗ, nhiều tấm xô lệch cong queo, mặt trời sắp trưa ném
xuống vô số tia châm chọc, luôn cả mấy khối sáng lóa mắt báo ngày cuối
cùng của năm Kỷ Hợi đang cận đến những giờ cuối cùng. Ngôi nhà trống
hoác, khung cửa sổ ngổn ngang, tường lém khói. Đại tá Phan Cao Tòng -
thân hình thực tế tương phản với tên gọi - ngồi sau chiếc bàn sắt màu
“ghi” méo mó, trên chiếc ghế xoay mất chỗ dựa, dán mắt vào xấp giấy.
Hàng chục sĩ quan đeo quân hàm thiếu tá, trung tá dồn nơi góc phòng, nín
thở theo dõi từng cái nhíu mày của đại tá. Không khí im vắng, trang
nghiêm đến độ những người có mặt dường như cử hành một lễ truy điệu.
Đúng, 20 tử thi phủ vải dù loang lở im lặng nằm trên băng ca xếp hàng
ngang ngay phòng bên cạnh. Nhưng, không phải sự mất mát nhân mạng kia
gây hốt hoảng mà cái kho vũ khí lồ lộ ngay trước mặt - kho vũ khí chỉ
còn nền gạch và giá gỗ - ám ảnh họ.
Ngôi nhà - Sở chỉ huy trung
đoàn Lam Sơn - hết còn vẻ hách dịch và trung tá trung đoàn trưởng phiền
muộn vì cha mẹ trót sinh anh ta cao lỏng khỏng, thật bất tiện vào lúc
như thế này, lúc mà anh ta thấy thừa cả một cái đầu trong số những cái
đầu càng cúi thấp càng tốt.
Nói chung, đại tá Tư lệnh sư đoàn đọc
là chính, và khi ông liếc về hướng thuộc hạ thì có nghĩa tình thế chưa
ổn. Quả đại tá chẳng còn bụng dạ đâu mà lên mặt - ông thích làm như thế
để trả thù lũ thuộc hạ từng khinh nhờn ông: Trước khi xảy ra sự cố hãi
hùng này chúng gọi ông là “đại tá lái bò” - việc cấp bách số một của ông
bây giờ là “bào chế” bản báo cáo trơn tuột để cấp trên có thể ôkê. Chốc
chốc, đại tá lau kính. Cặp kính gọng vàng ngày thường dán một chút trí
thức trên khuôn mặt bè của ông giờ đây trở chứng, cứ đóng lớp hơi đục,
lau mãi vẫn mờ. Lần đầu, thuộc hạ gặp vị chỉ huy sư đoàn không chải đầu
và cũng lần đầu ông gặp thuộc hạ nhìn ông với sự mong chờ và đồng lõa.
“Tao chứ không phải bất cứ ai trong bọn chúng mày đến hiện trường khi
mùi thuốc súng chưa tan… bố tiên sư chúng mày, giỏi thì trêu ông, xem
nào!”. Đại tá chợt nổi nóng, tay xoa nhẹ má - mảnh băng to tướng quấn
vòng ót ông, công trình của cô vợ đã nâng thêm uy thế ông. Tuy vậy, chưa
phải lúc… Bộ tư lệnh quân khu và Bộ tổng tham mưu điện liên hồi đòi báo
cáo. Ông hứa giữa trưa mai thì có, báo cáo sẽ được gửi bằng một chuyến
trực thăng đặc biệt.
Ông lại tiếp tục đọc, quên rít chiếc tẩu đang
kéo trệ mép ông, mũi phập phồng. Nếu ngày thường, bọn thuộc hạ đã kháo:
Coi kìa, đại tá đang đánh hơi dái bò!
Cô vợ mang cho ông cốc cà phê
đặc, rồi kéo ghế ngồi sát ông, ghé đọc. Chẳng ai coi đó là chuyện
chướng. Trái lại, ai cũng cầu khẩn cho bà đại tá đủ tài năng giữ nổi hoa
mai trên cầu vai họ hoặc chí ít giúp họ khỏi ra tòa án binh như bà biến
cái gò cằn cỗi ở Cẩm Giang thành trại bò sung nhất tỉnh. Băng Trinh -
tên của cô - thì thầm điều gì với đại tá mà đại tá thoáng cười - cái
cười hiếm hoi suốt mấy giờ qua - và mọi người nhìn cô như chiêm ngưỡng
Phật Bà Quan Âm, mặc dù, lần đầu tiên họ gặp cô không thoa son, đánh
phấn…
Có bốn bản báo cáo. Đại tá tự phát hiện hay cô Băng Trinh phát hiện, không ai rõ, song đại tá rút bút gạch lia lịa.
-
Mỗi ông nói một phách như thế này thì chết! - Đại tá gằn giọng - Giờ
Việt Cộng nổ súng không thống nhất, ông thì bảo 11 giờ, ông bảo 12 giờ,
ông bảo 3 giờ sáng… Sự thật là 1 giờ 2 phút, biết chưa? Giờ mới của Việt
Nam Cộng hòa còn giờ Việt Cộng thì đúng giữa khuya…
- Báo cáo thế
này lố bịch quá! - Đại tá bảo, rồi lè nhè giọng - Nhân lúc lính đổi gác,
một toán Việt Cộng lén lút bò vào bên trong trào trại Sùng định trộm
súng. Bị phát hiện, chúng bắn bừa bãi rồi bỏ chạy. Lập tức trung đoàn
trưởng trung đoàn Lam Sơn Hà Duy Cường truy kích. Quân ta đuổi kịp chúng
tại rìa rừng Trà Vông, phía đông thị xã Tây Ninh 25 kilômét, diệt nhiều
tên (Việt Cộng khiêng xác đồng bọn, song dựa vào dấu máu, có thể tính
chắc chắn chúng bị hạ không dưới 50 tên). Ta thu 6 súng cá nhân, 2 súng
cộng đồng. Bên ta 20 chiến hữu anh dũng đền nợ nước.
- Trung tá dám
ký tên vào báo cáo, tôi mời! - Đại tá mỉa mai - Tôi không dám. Một toán
Việt Cộng lén lút bò vào doanh trại, bỏ chạy như vịt khi bị phát hiện
lại có thể gây cho quân lực Việt Nam Cộng hòa những 20 tử thương! Xác
Việt Cộng thì được khiêng đi sạch, còn xác quốc gia nằm chềnh ềnh kia…
Trung tá diệt hết toán Vixi nhỏ mọn đó, lấy đâu chúng đủ người khiêng
đồng bọn? Và, trung tá, chạy cách nào mà nhanh thế? Hai mươi lăm kilômét
nhé! Bịa…
Đại tá kịp nhận ra mình đã lỡ lời:
- Bịa, tất nhiên… Mà bịa phải hữu lý.
Không ai lên tiếng. Trung tá Hà Duy Cường thở dài.
-
Đây là báo cáo của trung tá Tạ Khai, các ông nghe. - Đại tá lườm viên
trung tá tham mưu trưởng sư đoàn: anh chàng mang một chiếc bụng cực to -
“Vào 0 giờ 27 phút ngày 27 tháng 1, Việt Cộng thuộc các tiểu đoàn 60,
70, 80, 90, 100 của khu ủy Cộng sản Đông Nam bộ do thiếu tướng Cộng sản
Nguyễn Hữu Xuyến tự Tám Kiến Quốc (còn gọi là Tám Dên Dên) chỉ huy, Xứ
ủy viên Cộng sản Mai Chí Thọ tự Tám Cao làm chánh ủy, đại tá Nguyễn Nhọn
tự Tám Lê Thanh (còn có tên Tám Bằng Lăng) làm tham mưu trưởng, quân số
chúng lên đến 3.000 tên, trang bị sơn pháo, bích kích pháo và đại bác
không giật, dùng bộc phá đánh sập cổng trại Sùng, tràn ngập hậu cứ sư
đoàn 13 bộ binh tại Tua Hai, cách thị xã Tây Ninh 5 kilômét về hướng
Bắc. Trung đoàn Lam Sơn bị tổn thất tương đối nặng. Tham mưu trưởng sư
đoàn, trung tá Tạ Khai sử dụng trung đoàn Bãi Sậy phản công. Sau nửa giờ
kịch chiến, Việt Cộng bỏ chạy tán loạn. Quân ta truy kích tận bờ sông
Vàm Cỏ. Ghi nhận đầu tiên, địch chết và bị thương 500 tên. Theo tin dân
chúng, thiếu tướng cộng sản Nguyễn Hữu Xuyến và Xứ ủy viên Cộng sản Mai
Chí Thọ đã tử thương. Chúng tôi đang phối kiểm và sẽ phúc trình nay mai.
Ta thâu 80 vũ khí cá nhân, phần lớn sản xuất tại Trung Cộng, 10 vũ khí
cộng đồng gồm: 4 bích kích pháo 60 ly, 2 trọng liên 12 ly 8.
- Con
số địch hơi nhiều! - Đại tá nhếch mép - Trung tá tham mưu trưởng bấy giờ
ngủ tại Gò Dầu, nên tưởng tượng quá viễn vông. Ông lại cho trung đoàn
Bãi Sậy truy kích địch về hướng Tây, ngược hẳn hướng với trung tá Hà Duy
Cường… Người ta nhất định không tin báo cáo này bởi người ta biết trung
tá không thể hành quân truy kích với cái bụng to như thế. Muốn thêm một
hoa mai không có gì xấu, miễn đừng chơi trội người khác…
Ngôi nhà
tiếp tục im ắng. Đại tá đay nghiến cay độc bao nhiêu cũng được, nhưng
cần có lối thoát trước 12 giờ… Tạ Khai không có vẻ gì tự ái, ông ta chăm
chú lắng nghe, chờ đợi… Báo cáo tiếp của thiếu tá trưởng phòng quân báo
sư đoàn. Phần đầu, báo cáo giống phần đầu của tham mưu trưởng, chỉ khác
giờ nổ súng và thêm một chỉ huy phó Việt Cộng: đại tá Nguyễn Văn Thượt
tự Năm Quốc Đăng. Quân số Việt Cộng ở đây rút xuống còn 1.000 tên, không
có vũ khí nặng, hình thức chiến thuật là đặc công “phối hợp với vài tên
nội tuyến”, trận đánh nhằm yêu cầu tuyên truyền, thương vong đối phương
chưa xác định, vũ khí tịch thu thuộc loại súng cũ. Trung đoàn Yên Thế
truy kích về hướng Bắc, hủy 2 xe vận tải quân sự hiệu Môlôtôva tại cầu
Cần Đăng. Thương vong của ta “không đáng kể”…
- Lộn xộn quá! - Đại
tá nhận xét - Gán hai chiếc GMC cho hãng Môlôtôva không ổn… Nhắc làm gì
bọn nội tuyến? Không có nội tuyến trong sư đoàn, các ông nhớ cho… Theo
tôi, báo cáo của thiếu tá Lê Đạo, trưởng phòng an ninh sư đoàn là khá
hơn hết, nếu sửa chữa đôi chút và bổ sung vài chi tiết có ở báo cáo của
trung tá tham mưu trưởng và thiếu tá trưởng phòng quân báo.
Thiếu
tá Lê Đạo được đại tá cho phép đọc báo cáo viết sẵn. Con người lùn
choắt, nói giọng Quảng Bình rất khó nghe phút chốc trở nên “cây đinh”
của buổi diễn tập. Bản báo cáo được hối hả đánh máy. Đại tá ký tên xong,
chiếc trực thăng quay cánh. Ngôi nhà nhẹ hẳn.
Liền đó, những tiếng
nổ của bộc phá, các cỡ súng rộ lên, mấy căn trại khu gia binh bốc cháy
trong khi công binh vội vã xây lại cửa kho vũ khí cho nó nguyên vẹn như
chưa hề vơi đi dù là vài khẩu súng lẻ…
*
Trong quân đội Liên
hiệp Pháp, Phạm Văn Cảm và Phan Cao Tòng được xem như là anh em song
sinh. Cảm cao to, Tòng thấp. Cảm quê Sơn Tây, Tòng Nam Định. Cảm lớn hơn
Tòng trọn một con giáp. Thế mà hai người vẫn “song sinh”. Cớ sự như
sau: Phạm Văn Cảm xuất thân từ lính khố đỏ, sau chuyển sang chăn ngựa
cho tướng Alessandri, tư lệnh Bắc Bộ. Cảm thường đánh bạc ở phố Mã Mây,
có lần thua cháy túi, nhờ Tòng cho vay. Tòng làm bồi trong một khách
sạn. Hai người trở thành bạn. Chủ khách sạn, một cựu sĩ quan Pháp, có cô
vợ bé tên là Băng Trinh mà hắn đưa từ Sài Gòn ra, cô này dan díu với
Tòng, bị bắt tại trận, Băng Trinh phải vào nhà số, Tòng ra tòa với bản
án ăn cắp.
Cảm trả ơn Tòng, xin Alessandri can thiệp hủy bản án và
thu nhận Tòng cùng chăn ngựa với anh ta. Đại đội kỵ binh thành lập, hai
người đều được phong chức “thống chế” – Cảm là Maréchal de logis, tương
ứng với thượng sĩ bộ binh, còn Tòng Maréchal ferrant tức hạ sĩ chuyên
đóng móng ngựa (1). Băng Trinh đưa tiền dành dụm cho Tòng chuộc cô ra
khỏi nhà số. Hai người ăn ở chính thức từ đó. Hiệp ước Pháp Việt - gọi
là hiệp ước Elyséc 8-3-1949 - ra đời, thiên hạ nháo nhào lo xây dựng
quân đội quốc gia. Tổng trấn Bắc phần Nguyễn Hữu Trí đề nghị Alessandri
giúp đỡ một số sĩ quan nòng cốt cho Bảo chính đoàn. Phạm Văn Cảm được
phong chức phó đốc quân, tương đương hàm thiếu úy. Hai năm sau, Cảm đã
là tổng chỉ huy Bảo chính đoàn, hàm đại tá và Tòng chỉ huy Bảo chính
đoàn Hà Đông, hàm thiếu tá. Kết thúc chiến tranh, Tòng được thăng trung
tá. Di cư vào Nam, Cảm bị bãi chức vì tội lập quân số ma. Tòng lận đận
theo. Nhờ vợ vận động, Bộ tổng tham mưu lôi Tòng ra khỏi cảnh “ngồi chơi
xơi nước” và dự kiến thăng Tòng lên đại tá trừ bị, giao chỉ huy sư đoàn
13 bộ binh. Đeo lon đại tá thì Phan Cao Tòng thích, nhưng làm sư trưởng
cái sư đoàn mang con số 13 hãm tài thì Tòng ngại. Không có sư đoàn nào ở
Việt Nam Cộng hòa ghê rợn bằng sư đoàn 13. Kể từ ngày thành lập năm
1956 đến năm 1959 - năm người ta mớm chức sư trưởng cho Tòng - sư đoàn
trải qua ba lần lột xác mà nguyên nhân chỉ có một: Việt Cộng thâm nhập
hạ tầng. Năm 1957, binh sĩ sư đoàn cùng dân chúng kéo biểu tình đập phá
dinh tỉnh trưởng Tây Ninh; đầu năm 1958, phát hiện âm mưu binh biến
trong hai trung đoàn, cuối năm lại phát hiện âm mưu binh biến liên quan
tới ngót 200 binh lính và sĩ quan - cả hai lần đều dính với Hoàng Lệ
Kha, Ủy viên ban thường vụ Tỉnh ủy Việt Cộng Tây Ninh phụ trách binh
vận. Sư đoàn lại hoạt động trên địa bàn rừng rậm, dọc biên giới đầy dẫy
mật khu Cộng sản. Có thể nói, chức sư trưởng sư 13 “ế độ”, ai cũng ê
răng.
Băng Trinh suy nghĩ khác Tòng, cô thỏ thẻ bên gối: “Anh sắp
50 tuổi đầu, danh thì em không cần nhưng tụi mình cần vốn. Anh nhận chức
sư trưởng, em nhơn đó mà buôn bán. Vài năm, hễ hai đứa vững chơn đứng,
anh thôi đời lính. Thế nào mình cũng có con… Anh tính cho kỹ.”
Băng
Trinh khuất phục Tòng dễ dàng: lính, quan sư đoàn theo ai mặc kệ chúng,
sư đoàn tuy đóng gần vùng Việt Cộng mà mình không đụng họ thì mắc mớ gì
phải sợ… Để Tòng thật yên tâm, Băng Trình mời một nhà tướng số nổi
tiếng bói một quẻ cho tử vi. Quẻ tử vi vô cùng đẹp: Tòng có số giàu
sang, sống lâu và sắp lên cha… Điểm sau cùng lại ứng trước tiên: ngày
Tòng nhận hàm đại tá và chức sư trưởng, Băng Trinh mang thai. Đứa con
đầu lòng giống hệt Tòng. Tòng nổi tiếng sợ vợ, Băng Trinh lấy Tòng lúc
Tòng cù bơ cù bất. Nếu cô ả chỉ ham giàu thì hết me Tây sẽ thành me Mỹ,
cớ chi đeo đuổi Tòng. Ngay bây giờ, Tòng không có một chút gì hấp dẫn:
dốt nát, xấu mã. Còn Băng Trinh, tuổi ngấp nghé 30, vẫn hơ hớ… Băng
Trinh nói sao, Tòng nghe vậy. Trong đêm hãi hùng của sư đoàn, Tòng ngủ
tại nhà. Lúc đó, hơn một giờ ít phút. điện thoại dựng Tòng dậy: một
chuẩn úy trực ban của trung đoàn Lam Sơn báo trại Sùng bị tấn công. Tòng
ra sân nghe ngóng. Tua Hai cách thị xã không xa, thế mà chỉ vọng đến
mấy tràng súng nhỏ kèm vài tiếng mọt-ta (2). Tòng gọi trại Sùng. Không
ai trả lời. Ông lại gọi đến nhà riêng các trung đoàn trưởng, tham mưu
trưởng sư đoàn, trung đoàn. Im lặng. Đêm 29 Tết mỗi người vui chơi mỗi
ngã… Ông đành gọi Tỉnh đoàn bảo an. Không có trực máy. Công đường của
tỉnh trưởng lẫn nhà riêng đều giống vậy. Chẳng lẽ gọi về Sài Gòn? Ông
gác máy, ngồi cú rũ. Vào những lúc rối ren này, Băng Trinh tỏ ra hết sức
cần đối với ông.
- Việc gì mà anh rầu rĩ? Nếu quả Việt Cộng tấn
công, đâu họ lại không tấn công được… Cứ đợi mọi việc rõ ràng, ta sẽ
liệu. Ít ra, anh cũng hơn tất cả sĩ quan trong sư đoàn: anh gọi điện và
chỉ có anh có mặt ở Tây Ninh… Bây giờ, anh thay quân phục, cho sửa soạn
xe.
Tòng răm rắp theo lệnh vợ. Hai chiếc xe Jeep nổ máy, bật pha, song không lăn bánh.
Ba
giờ sáng, thiếu tá Lê Đạo cỡi mô tô tới. Gã bảo là gã theo dõi tình
hình tại nhà trong thị xã, song Tòng biết chắc gã ngủ đêm ở nhà một chức
sắc cao cấp Cao Đài gần chợ Long Hoa, tay chức sắc này chịu cho con gái
làm lẽ Lê Đạo.
Đại tá Phan Cao Tòng không thích Lê Đạo: hắn đồng
hương với Tổng thống, phụ trách an ninh quân đội, nghĩa là chuyên nhìn
chuyện phòng the của binh sĩ qua lỗ khóa, ai hắn cũng nghi, không Vixi
thì giáo phái… Nhưng bây giờ, họ cùng đắm thuyền nên cùng tìm phao để
bám. Lê Đạo là con nguời sắc sảo, nhấn mạnh rằng nguy cơ lớn nhất mà họ
phải đối phó - tất nhiên không với Việt Cộng mà với thượng cấp: nếu trại
Sùng bị hạ thì chỉ có thể bị hạ vì nội tuyến của Cộng sản. Trước thượng
cấp, mọi tội đồ đều có thể giảm khinh, trừ tội dung dưỡng nội tuyến
Cộng sản. Lê Đạo đã hình dung sẵn bản tường trình bịt kín những cái liên
quan đến điều đại kỵ này.
Vào lối 4 giờ sáng, liên lạc nối được
với hậu cứ. Một trung sĩ truyền tin tên Hai nào đó báo với sư trưởng là
Việt Cộng đã rút trước đây một giờ rưỡi, dùng hai chiếc GMC chở chiến
lợi phẩm ngược quốc lộ 22, thiệt hại chung của căn cứ là nhẹ: chẳng đánh
đấm gì, trừ nhóm sĩ quan tình báo sư đoàn trốn vào Sở chỉ huy trung
đoàn Lam Sơn kháng cự và bị diệt. Đúng như Lê Đạo đoán, cuộc tấn công
của Việt Cộng trót lọt nhờ nội ứng. Viên trung sĩ truyền tin không đủ
điều kiện đánh giá bao nhiêu binh sĩ Việt Nam Cộng hòa tiếp tay với Cộng
sản, nhưng anh ta cho biết một loạt chi tiết khủng khiếp: cổng chính
trại Sùng mở đúng một giờ đêm, thủ kho trao chìa khóa cho Việt Cộng; tài
xế của tiểu đoàn tiếp vận mang xe đến như sẵn sàng từ lâu; lính của các
trung đoàn hướng dẫn Việt Cộng truy lùng nhân viên tình báo và an ninh
quân đội. Theo trung sĩ Hai, số Việt Cộng dự trận chừng 200 có cả nữ và
phần lớn không vũ khí, nhưng khi rút, có vẻ quân số tăng gấp đôi…
Ra
lệnh cho hậu cứ sư đoàn bố trí đón ông dọc đường và nhờ Tỉnh đoàn bảo
an cho hai xe hộ tống, đại tá Phan Cao Tòng cùng thiếu tá Lê Đạo vào Tua
Hai.
“Họa đơn vô chí”, câu nói vớ vẩn ấy mà lại linh nghiệm: Bảo
an tỉnh hộ tống đại tá nhè bắn lực lượng sư đoàn đón đại tá. Bảo an vô
sự, sư đoàn chết bốn, bị thương cả chục. Một mảnh đạn của sư đoàn sớt má
đại tá…
Đại tá đến trại Sùng, cho nổi đèn đóm lên. Lúc sau, Băng
Trinh có mặt - cô nghe tin chẳng lành về đại tá, lập tức lên xe phóng
vào Sở chỉ huy. Vết thương - thật ra, khó gọi một vết trầy là vết thương
- được băng bó và đại tá thêm một bằng chứng hùng hồn nữa về vai trò
của cá nhân mình trong sự cố.
Mãi khi trời sáng, các sĩ quan mới
lục tục đến trình diện, kèm theo cái tin mà đại tá uất ức, ông bảo: “Sư
đoàn 13 vừa bị đánh vừa bị đạp. Một đại đội thuộc trung đoàn Yên Thế
tuần tra phía Bắc cầu Cần Đăng, khi rút về Trại Bí, đụng Việt Cộng đang
đốt hai chiếc GMC, nổ súng ẩu rồi bỏ chạy, gần một trung đội nhảy xuống
sông, chết chìm sáu”.
*
… Một ngày nặng nề trôi qua. Đại tá Phan Cao Tòng hy vọng mọi sự trót lọt, ông có thể yên ổn đón giao thừa.
Vào
9 giờ đêm, điện thoại réo. Phủ tổng thống lệnh cho ông ngày mai phải có
mặt tại Tham mưu biệt bộ dù ngày mai là mồng một Tết. Phan Cao Tòng
rụng rời chân tay. Chắc là kẻ nào đó đã thóc mách.
- Mấy thằng ở Tham mưu biệt bộ hay kiếm chuyện lắm! - Tòng than thở - Phen này tù mọt gông.
- Anh thử nghĩ có ai quen biết ở đó không? Ai chịu giúp mình, đền ơn đáp nghĩa bao nhiêu cũng được. - Băng Trinh gợi ý.
- Quen thì có, nhưng thằng chịu ăn lại không quyền hành, thằng quyền hành lại không chịu ăn… Thế mới rối!
Băng Trinh chợt nhớ người anh họ đang làm chỉ huy phó Bảo an tỉnh Tây Ninh. Cô hấp tấp tìm anh ta. Khi trở về, cô bảo chồng:
- Anh biết trung tá Nguyễn Thành Luân không?
-
Biết. Cùng học trên Đà Lạt với anh. Biết mặt chớ không giao du. Thằng
đó trước là Việt Minh, sau theo quốc gia, người được ông Diệm, ông Nhu
tin cậy…
- Không hối lộ được thằng đó đâu! - Tòng kêu lên - Nó học
giỏi, hay nói chính trị… - Tòng không tiện thú nhận: ông ta vừa nể vừa
phục Luân.
- Đâu phải chổ nào cũng hối lộ hết! - Băng Trinh rầy chồng.
Theo lời khuyên của vợ, Tòng quyết định sáng mai gặp Luân. Để thật yên tâm, Tòng rủ vợ cùng đi.
---
(1) Tác giả chơi chữ. “Maréchal” cũng có nghĩa là “thống chế”
(2) mortar: súng cối
CHƯƠNG 2
Luân đọc đi đọc lại phần nhận xét sau cùng trong báo cáo của đại tá Phan
Cao Tòng. Ngô Đình Nhu vạch một nét đỏ đậm dọc theo lề phần nhận xét
đó.
Báo cáo viết: Từ cuộc đột kích này, chúng tôi thấy: a) Việt
Cộng xuất phát từ bên kia biên giới - chắc chắn được sự ủng hộ ngầm của
Sihanouk - ngoài khả năng trinh sát của chúng ta; b) Tuy nhiên, mặt
khác, thực tế ấy vẫn cho thấy Việt Cộng chưa đủ mạnh theo cái nghĩa chưa
đủ thực lực tại chỗ để tổ chức những cuộc đột kích tương tự; c) Kỹ
thuật tiến công nặng yếu tố bất ngờ - chọn hậu cứ cấp sư đoàn của ta và
nhân ngày giáp Tết - nói rõ, Việt Cộng không thể nhận chiến vào các
trường hợp khác. Chúng chưa được huấn luyện chính quy, nhiều dấu hiệu
cho thấy đây là một toán ô hợp; d) Cuộc đột kích do cơ quan quân sự và
cán binh cao cấp nhất của Việt Công chỉ huy chứng minh đây là cố gắng
tối đa của chúng; e) Hành động của Việt Cộng nhằm mục đích tuyên truyền
hơn là quân sự; f) Từ tất cả những bằng chứng kể trên, chúng cần thì giờ
chuẩn bị. Trên bình diện quân sự, đây là hành động đột xuất. Nó sẽ
không luôn luôn hữu hiệu nếu quân lực Việt Nam Cộng hòa đề phòng cẩn
mật, tạo được màng lưới thu nhập tin tức bên kia biên giới. Hơn nữa,
quân lực Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn có thể dẫn dụ bọn phiến loạn vào
cái bẫy giăng sẵn để tiêu diệt chúng; g) Trận đột kích Tua Hai của Việt
Cộng và phản đột kích của sư đoàn 13 bộ binh là chiếu lệ đầu tiên cần
được phân tích từ góc độ công tác tham mưu, chúng tôi đã biên soạn sơ bộ
và mong được thượng cấp cho phép có dịp trình bày ở Cục quân huấn.
-
Anh chú ý các ý kiến của Phan Cao Tòng… - Nhu bảo Luân - Hay đấy! Chỉ
có một vấn đề thôi: tôi hiểu Tòng, hắn không đủ trình độ để đưa ra nhiều
ý kiến như vậy…
“Đâu chỉ có mỗi một vấn đề!” - Luân nghĩ thầm,
“Các báo cáo khác nhau đến độ kỳ quặc: báo cáo của Trung tâm tình báo,
của tỉnh trưởng Tây Ninh, thông báo của tùy viên quân sự sứ quán Mỹ… Nhu
đọc tất cả, nhưng lại bỏ qua những điểm sai biệt, có thể vì Nhu đang
dồn tâm trí cho một đòn chính trị mà với tư cách cố vấn của Tổng thống,
Nhu sẽ phát biểu trên đài phát thanh quốc gia nay mai, có thể vì Nhu tin
cánh nhà binh hơn. Trong mớ hổ lốn đó, báo cáo của Phan Cao Tòng lại
rất giống báo cáo của Lê Khánh Nghĩa, chỉ huy phó bảo an tỉnh Tây Ninh”.
Năm 1959, với chính thể Ngô Đình Diệm, đầy diễn biến phức tạp. Có
vẻ cơ ngơi mà chính thể tạo lập đạt đến tột đỉnh sau 5 năm bò theo một
triền núi, tuy nhiều chướng ngại vật song đều có thể vượt qua, đến nay
sườn phía khác tuồn tuột tận chân núi.
Đầu năm, Sài Gòn choáng
váng: chế độ Cộng sản Fidel Castro chiến thắng ở Cuba. Tổng thống rất
quyền lực và khá lâu năm, Batista - người của Mỹ, tất nhiên, bị lật đổ
và phải chạy trốn. Chiến thắng càng thêm lạ lùng khi người ta đo khoảng
cách giữa hai hòn đảo với thành phố Miami thuộc bang Florida của Mỹ, 200
cây số thôi - và quân phiến loạn Cộng sản thực tế chỉ là một nhóm vũ
trang do một luật sư trẻ cầm đầu. Đức Hồng y Aganianian, khâm mạng của
giáo hoàng La Mã, nhận sang dự đại hội Thánh Mẫu ở Sài Gòn, không giải
thích với anh em Diệm, Nhu lý do vì sao Fidel đánh tan Batista và vì sao
Hiệp chủng quốc Mỹ không đối phó khi nạn Cộng sản lăn sát cửa ngõ nhà
mình mà trong lời huấn dụ lại có hàm ý cảnh cáo: Chúa không ở với kẻ bị
dân oán. Nhà thờ Đức Bà được Tòa thánh nâng lên hàng Vương cung thánh
đường không trấn an nổi gia đình Tổng thống: Chỗ dựa Vatican chỉ là vật
phản chiếu mọi cử động của Washington. Người bạn lớn của Tổng thống Ngô
Đình Diệm, ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles, chết vì bệnh ung thư -
chỗ dựa thêm một xói mòn quan trọng. Cho nên, mặc dù vị tư lệnh Mỹ, đô
đốc Felix Stump, long trọng trao cho Tổng thống Diệm giải thưởng danh dự
“Lãnh đạo tự do” của tổ chức bảo vệ tự do Pensylvanie, Sài Gòn vẫn
không thoải mái.
Ngày 7-7, nhân kỷ niệm 5 năm chấp chánh, Tổng
thống đáp lời giáo sư Wesley Fishel vừa là người dìu dắt Diệm đến chiếc
ghế Tổng thống, vừa là quan chức CIA cao cấp điều hành công việc tại
Việt Nam hiện nay - bằng lối nói bóng gió, thành công của chế độ trong 5
năm qua là do nỗ lực của toàn dân…
Cái chết bí ẩn của Tổng thống
Philippin Magsaysay chưa thôi ám ảnh Diệm và lời khuyên còn bí ẩn hơn
của người kế nhiệm Carlos García nhân ông này sang Sài Gòn củng cố những
mặc cảm của Diệm mỗi lúc mỗi sâu thêm trong quan hệ với nước Mỹ: “Chúng
ta là kẻ sống với Đức tin và hãy phó thác tất cả cho Chúa”.
Đùng
một cái, Colagrove, nhân viên hãng Thông tấn Serrips-Noward tung ra một
loạt bài nói về việc sử dụng sai lệch các nguồn viện trợ Mỹ ở Việt Nam
Cộng hòa - đúng hơn, tố cáo nạn ăn cắp viện trợ. Quốc hội Mỹ, mà Đảng
Dân chủ giữ trọng lượng, la ó. Tổng thống Mỹ buộc gọi một lô tai to mặt
lớn Mỹ ở Sài Gòn từ đại sứ Durbrow đến giám đốc USOM Gardiner về Mỹ trả
lời đủ thứ chất vấn và Quốc hội ủy thượng nghị sĩ Dân chủ Mansfield -
vốn không ưa gia đình ông Diệm - cầm đàu một phái đoàn điều tra sang Sài
Gòn. Không ai không thấy qua sự việc này, chính phủ Mỹ muốn thò dần cây
gậy bên cạnh củ cà rốt…
Quan hệ với Nhật tốt hơn - món tiền thưởng
của Nhật trong Thế chiến thứ hai được dành trọn cho Việt Nam Cộng hòa
và để tỏ lòng biết ơn, nhân thái tử Nhật Akihito cưới vợ, Tổng thống Ngô
Đình Diệm gởi một cặp ngà voi làm quà. Nhưng, vào cuối thập niên 1950
này, vai trò quốc tế của Nhật còn khiêm tốn, hơn thế, sự liên hệ quá vồ
vập với một đất nước từng gây đau khổ cho cả châu Á rất dễ bị hiểu lầm
đã không cho phép ông Diệm đi xa hơn trong tìm kiếm liên minh với Nhật.
Tình hình Nam Dương nói chung khích lệ chế độ Sài Gòn: sự tồn tại của
Tổng thống Soekarno - quán quân nổi tiếng của chính sách trung lập thân
Cộng - đang được đếm từng ngày trước sức ép của lãnh tụ Hồi giáo Hatta
và quân đội.
Lào thì chưa ngã ngũ mà thêm rối ren. Sau khi bắt giam
các cán bộ cao cấp Pathét Lào, trong đó có “ông hoàng đỏ”
Souphanouvong, phái hữu quay sang tự xâu xé. Tướng Phoumi Nôsavãn mang
cả thiết giáp bao vây chính phủ Sananikone, ông này từ chức, gia quyền
cho Abhay, một lão già sắp chết. Cả Mỹ lẫn Việt Nam Cộng hòa xắn tay áo
nhảy vào Lào: Mỹ tăng viện trợ quân sự, Việt Nam Cộng hòa ký kết hiệp
ước kinh tế, song cả hai đều thất vọng - người Lào thích dollar nhưng
không thích đánh nhau…
Trước sau, Miên vẫn khiến Sài Gòn đau đầu.
Biên giới lộn xộn. Chưa xảy ra trận đụng độ nào lớn nhưng súng cứ nổ dai
dẳng, ngày nào cũng có. Sài Gòn lóe lên hy vọng: Sam Sary và Đáp Chuôn
tấn công Sihanouk. Ngô Trọng Hiếu, đại diện Việt Nam Cộng hòa ở Nam
Vang, đạo diễn cú đánh ngoạn mục này. Tuy nhiên, Sài Gòn mừng hơi sớm.
Sam Sary bỏ chạy. Đáp Chuôn bị bắn chết ngay trên lãnh địa hùng cứ của
ông ta là Siêm Rệp. Sài Gòn đánh giá quá cao nhóm thân Mỹ và đánh giá
quá thấp Sihanouk, ngỡ rằng chỉ với vài cuộc động binh ở biên giới của
Đáp Chuôn kết hợp với nhóm cảnh vệ tại thủ đô của Sam Sary, chế độ
Sihanouk bị lật đổ. Âm mưu phản loạn của Đáp Chuôn - Sam Sary thật ra
không lọt khỏi cặp mắt theo dõi của triều đình Nam Vang, nói đúng hơn,
của Phòng nhì Pháp. Umsvouth và Kossem, thừa lệnh Nhiek Tioulong, đưa
lính dù xung trận và họ dẹp loạn thật nhanh, gọn. Sự việc không kết thúc
ở mức đó, bởi Sihanouk thừa hiểu cái gì đằng sau Đáp Chuôn. Và, ông ta
họp báo: hai sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa làm nhiệm vụ cố vấn tác
chiến trong Bộ tham mưu của Đáp Chuôn bị bắt sống và được trình diện.
Tất nhiên, Việt Nam Cộng hòa phủ nhận, Sihanouk không cần sự công nhận
hay phủ nhận. Ông muốn cảnh cáo Sài Gòn chớ chơi trò cắn trộm. Khá đông
các quốc gia Đông Nam Á - tuy hùa với Mỹ - không thích Sài Gòn trở thành
một lính sen đầm khu vực. Tuy ghét Sihanouk, các quốc gia đó ngại cú
gây loạn vừa rồi ở Miên mở ra tiền lệ. Washington phê phán Fishel -
thiếu chặt chẽ trong kế hoạch hành động - nhưng không lên tiếng công
khai về sự việc đảo chính hụt ở Miên ở Sihanouk không tố cáo Mỹ mặc dù
ông ta nắm nhiều tài liệu đủ vạch trần Mỹ - cùng với Sài Gòn - kẻ chủ
mưu lật đổ ông. Sihanouk là con người lắm mưu mẹo vặt. Tháng 8, ông ta
nhắc lại lời Nhu mời ông viếng Sài Gòn và ông đến thủ đô Việt Nam Cộng
hòa giữa hàng rào danh dự, đi trên thảm nhung, nhận hoa cùng những cái
hôn nóng bỏng của các cô gái… Hai bên tuyên bố “dẹp hiểu lầm, thắt chặt
tình thân hữu”. Nhưng, chưa đầy một tháng kể từ chuyến viếng thăm mà báo
chí đôi bên cho là “hết sức kết quả” đó, ngày 1-9, Hoàng hậu Cao Miên
Kossamak - mẹ đẻ của Sihanouk - nhận được một gói quà của một hãng buôn
từ Hương Cảng gửi sang nhân sinh nhật của bà.
Đó là hãng buôn vẫn
chuyên cung cấp các vật dụng sinh hoạt của gia đình hoàng gia. Quốc
vương Suramarit và hoàng hậu ngự trên ngai vàng, muốn đích thân xem món
quà quý. Hoàng thân nội giám Vakrivan mở gói quà - trong một hộp, ràng
rịt cẩn thận. Khi gói quà bóc đến lớp giấy cuối cùng, sắp mở ra thì thái
tử Sihanouk vào. Ông ra hiệu cho Vakrivan tạm ngưng, để quốc vương và
hoàng hậu ra phòng ngoài tiếp khách. Mọi người vừa an vị ở phòng ngoài,
thì ở phòng trong, một tiếng nổ dữ dội giết chết hoàng thân Vakrivan,
phá tung gian phòng… Gói quà chính là một quả bom.
Dư luận Cao Miên
sôi sục. Người ta đề quyết Sài Gòn gây tội ác nhằm diệt nhà vua. Một
chút ánh hữu nghị vừa nhen lên đã tắt ngấm.
Ngô Đình Nhu lỡ khóc lỡ
cười. Anh ta gọi Ngô Trọng Hiếu tới dinh Độc Lập, cạo cho một trận là
tên quân sư này thiếu điều độn thổ:
- Anh ngu như bò. Ai lại cho nổ vào lúc này? Tôi đã bảo ngưng tất cả các dự định dính đến bọn Miên, tại sao anh dám cãi?
Ngô Trọng Hiếu chỉ chống chế:
- Kế hoạch này sửa không kịp…
Hắn
ta giấu biệt nguyên nhân: Hắn giao cho Ly Kai bố trí, Ly Kai báo với
Dương Tái Hưng và Dương Tái Hưng tự mình sang Hồng Kông bố trí. Khi Hiếu
bảo Ly Kai ngừng lại, Ly Kai báo với Tái Hưng. Tái Hưng lớn tiếng:
-
Không! Tôi đã thu xếp xong… Ngô Trọng Hiếu là cái gì mà ra lệnh cho
tôi? Thủ tiêu Sihanouk với cha mẹ nó cần thiết cho tôi chớ không phải vì
Ngô Trọng Hiếu hay Ngô Đình Nhu!
Nói thì găng như vậy song Dương Tái Hưng đưa Ly Kai 1.000 dollar bảo giúi cho Hiếu.
Ly Kai vừa giúi tiền vừa bảo:
- CIA thực hiện kế hoạch này, không sửa được.
Hiếu biết nếu hé với Nhu rằng có bàn tay của CIA thì lập tức hắn bị ném xuống hầm cọp ở Sở thú - cái P.42 rùng rợn ấy.
Thế
là bang giao Việt - Cambốt trở lại điểm chết. Có vẻ người Mỹ còn hung
hăng hơn trong tham vọng tiệu diệt xu hướng trung lập ở Nam Á. Ngày
25-9, thủ tướng Sri Lanka Bandaranaike bị ám sát tại Colombo. Và, dư
luận đặt một dấu hỏi to tướng về sự a tòng của Trung Cộng trên lĩnh vực
này - lĩnh vực chống trung lập: Quân đội Trung Cộng tràn qua biên giới
Ấn…
Tình hình đối nội của Việt Nam Cộng hòa cũng không bằng phẳng.
Nếu giáo chủ Phạm Công Tắc từ trần ở Nam Vang được Sài Gòn đón nhận như
một người vô danh tắt thở thì cuộc bầu cử Quốc hội khóa II lại đưa những
Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán ngoi lên và ngoi lên ngay tại đô thành.
Đán giành được nhiều phiếu nhất và nói chung, phe “độc lập” đánh bại
phần lớn ứng cử viên Phong trào Cách mạng Quốc gia, ở nơi mà sự gian lận
của Chính phủ bắt buộc phải khéo léo.
Kể ra mươi dân biểu chống
đối không thể lung lay nổi cơ chế của cái Quốc hội đã được đủ thứ luật
lệ rào chắn bảo đảm ưu thế tuyệt đối của chính phủ, nhưng Diệm không
bằng lòng. Nhu khác Diệm, anh ta muốn Quốc hội có đôi tiếng nói ngược -
món trang sức rẻ tiền mà rất hào nhoáng. Diệm không thể hình dung những
tay không tôn sùng ông là lãnh tụ cả chính trị lẫn tinh thần lại chiếm
ghế ở Quốc hội, dùng diễn đàn của Quốc hội xỉ vả ông và gia đình ông. Về
mặt này, Diệm chịu tác động của Trần Lệ Xuân.
Theo ý của Diệm, Ủy
ban hợp thức hóa đại biểu Quốc hội không thừa nhận Phan Quang Đán và
Nguyễn Trân. Quyết định được đưa ra trước mũi của thượng nghị sĩ
Mansfield, lãnh tụ đảng Dân chủ đang cùng một đoàn quan chức thanh tra
việc sử dụng viện trợ Mỹ ở miền Nam. Thái độ khiêu khích công khai đó
khiến ngay cả Eisenhower cũng bực mình. Đại sứ Durbrow nhận chỉ thị phải
trình bày với Diệm hậu quả xấu trước dư luận và Quốc hội Mỹ của những
hành động kiểu “Hoàng đế phương Đông” như vậy, song Diệm thậm chí không
tiếp Durbrow, viện cớ bận kinh lý nơi này nơi khác. Con người từng tuyên
bố “biên giới Hoa Kỳ kéo dài tận vĩ tuyến 17” bất bình chính sách của
Nhà Trắng, nhất là từ sau khi Foster Dulles chết, Diệm đôi lần thổ lộ
với Luân:
- Chính phủ Eisenhower núng thế trước Nga Sô đồng thời bị
Kroutchov mê hoặc trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ gần nửa tháng của ông
này… Bao nhiêu điều tôi và Tổng thống Hoa Kỳ thoả thuận bỗng tan biến.
Chúng tôi chẳng những đã nói tới mà còn đi sâu vào kế hoạch “Bắc tiến”.
Người Mỹ không thích tôi, họ cũng không thích ông Lý Thừa Vãng. Họ muốn
áp đặt ý riêng của họ và chính phủ do tôi lãnh đạo chỉ có nhiệm vụ thi
hành. Đâu được! Tôi không phải là bù nhìn. Họ thích Phan Quang Đán. Nếu
họ thích thì xin cứ rước Đán về Mỹ, làm tổng thống hay làm bồi, tuỳ họ,
còn ở Việt Nam, Đán không phải type (1) mà tôi cần.
Ngô Đình Nhu
đau khổ thật sự. Anh ta lắc đầu, trút lo lắng lên làn khói thuốc. Điều
an ủi Nhu phần nào là Luân chia sẻ lo lắng với anh ta.
- Fishel bủa
lưới quanh chúng ta! - Nhu kêu lên - Anh tổng thống, vợ tôi, cha Cẩn,
chị Cả Lễ… đều không chịu hiểu. Anh thừa biết corruption (2) là cái cớ
mà Mỹ thường dùng để xóa bỏ những kẻ họ không ưa, mặc dù họ khuyến khích
coruption ở các chế độ đồng minh với họ. Lưới của Fishel cụ thể là ai,
ta còn mù mờ, song tôi linh cảm cái lưới ấy đang thắt.
Nhờ lối nhìn
tình hình chính trị như vậy của Nhu mà Luân cứu được Phúc, người xả mấy
phát tiểu liên vào Diệm ở Ban Mê Thuột. Sau một thời gian điều tra
không kết quả. Nhu quyết định bắn Phúc. Anh ta hỏi ý kiến Luân, Luân
trầm ngâm khá lâu. Đợi Nhu giục mấy lần, Luân mới nói:
- Phúc không
khai không có nghĩa là Phúc không biết gì cả. Muốn Phúc khai, cần bền
bỉ, cảm hóa anh ta. Bắn Phúc tức là mặc nhiên cho phép cái lưới của
Fishel thắt lại, Phúc còn, đối thủ của ta nghi hoặc: ta biết hay chưa,
biết tới đâu… Có thể ta biết tất cả mà ta không bắt, ta muốn ban ân huệ
cuối cùng hay ta “lót ổ” để nắm quả tang cả bọn… Phúc nghiễm nhiên đóng
vai trò kềm chế, các đối thủ của ta rất muốn thủ tiêu Phúc, lưỡi gươm lơ
lửng trên đầu họ. Tôi phải dặn khám Chí Hòa giữ gìn Phúc như giữ gìn
sanh mạng của giám đốc khám. Tất nhiên, nếu anh có một lập luận khác
vững chắc hơn thì anh hành động…
Nhu không bắn Phúc. Trái lại, giám
đốc khám Chí Hòa được lệnh lấy cái đầu của mình ra đảm bảo an toàn cho
Phúc - Phúc không chết với bất kỳ lý do nào, kể luôn bịnh tật đau yếu!
*
Luân
sắp sửa vào dinh Độc Lập. Hôm nay, mồng một Tết, anh đến mừng tuổi Tổng
thống. Từ vài ba năm trở lại đây, sáng mồng một Tết, tất cả quan viên
văn võ của Sài Gòn đều phải chào Tổng thống, giống như ở Huế. Trước kia,
ở Huế ngày mồng một Tết là buổi khai triều đầu năm của Đức Kim thượng.
Khác chăng là Tổng thống sẽ mời mỗi người một ly sâm banh ngọt dịu thay
cho ngự tửu gắt cổ. Bản thân Tổng thống khó lòng nhớ hết thuộc hạ nhưng
Văn phòng Tổng thống ghi chú cẩn thận tên họ từng vị và chiếc máy quay
phim không bỏ sót một ai. Người nào vắng mặt không lý do sẽ được lên
danh sách - tội bất kính với Tổng thống ngang với tội phản loạn.
Chuông ngoài cổng reo. Thạch báo có khách - một phụ nữ.
Luân ngồi trước một phụ nữ rất trẻ và cũng rất đẹp. Cô mặt áo dài, quần lụa, trang điểm vừa phải.
-
Thưa ông kỹ sư, em là Băng Trinh - Lưu Thị Băng Trinh - vợ của đại tá
Phan Cao Tòng, sư trưởng sư đoàn 13 bộ binh… - Cô ta thỏ thẻ.
- Chào bà đại tá! - Luân nói. Nói xong, anh gọi vọng vào trong phòng: - Dung ơi, có khách!
- Em xin gặp riêng ông kỹ sư… - Cô ta ấp úng.
- Không sao, Dung là vợ tôi, không có gì bất tiện cùng tiếp khách với tôi.
Dung ra phòng khách, bắt tay Băng Trinh.
-
Theo lệnh của Phủ tổng thống, hôm nay đại tá Tòng có mặt ở Sài Gòn… Tôi
được giao làm việc với đại tá. Xin hẹn một giờ nữa, tức là 9 giờ, tại
văn phòng Tham mưu biệt bộ, từng dưới dinh Độc Lập… - Luân nói
- Dạ! Nhà em biết… Vì vậy em xin gặp ông kỹ sư.
- Tốt nhất mời đại tá đến văn phòng… - Luân nhỏm dậy. - Xin lỗi bà!
Băng Trinh cắn môi. Dung thông cảm với bạn gái:
- Anh nghe một chút… - Dung ngăn Luân - Thế nào?… Bà nên nói ngắn. Anh Luân tôi sắp phải đi…
Luân ngồi xuống.
-
Thưa ông, bà! - Băng Trinh nói bằng một giọng thiểu não - Em nghe tiếng
ông kỹ sư, nhà em cũng nhắc. Bởi vậy, em mạnh dạn tới đây, mong ông kỹ
sư thương dùm em…
Luân lạ gì viên sĩ quan cấp tá hay nhậu nhẹt, đầu
óc trống rỗng này. Tuy vậy, Tòng không thuộc hạng mưu mô, ít nhiều còn
liêm sỉ. Hai người chưa uống với nhau một cốc bia. Từ khi Tòng nắm sư
13, Luân theo dõi ông ta chặt hơn. Luân biết ông ta cầu an, né tránh các
cuộc lùng sục và đụng độ, nói chung nặng nề làm ăn.
Về cô vợ, Luân
đọc một số thông báo của mật vụ: nguyên là gái điếm, lấy Tòng lúc Tòng
còn làm bồi, nay hoàn lương, lợi dụng địa vị của chồng mua bán bò ở biên
giới - không phải là hạng chanh chua đanh đá.
- Chị nói đi - Dung
thay đổi cách xưng hô, sau khi quan sát Băng Trinh. Trên gương mặt già
dặn phong trần, Băng Trinh còn giữ những nét chất phác.
- Tụi em
biết là giấu giếm ai chứ khó mà giấu giếm ông trung tá… - Băng Trinh nói
đứt đoạn. - Cái vụ hậu cứ sư đoàn bị tấn công đó… Dạ! Trăm sự nhờ ông
bà thương… Được lịnh trình diện ngày mồng một Tết, vợ chồng em thấy
nguy. Em đã sửa soạn quần áo cho anh Tòng. Ảnh vô khám thì mẹ con em khó
sống. Tội ảnh nặng lắm, em mong ông bà thương giùm…
Dung không rõ
đầu đuôi sự việc nên chưng hửng, Luân không hơn, cũng chưng hửng. Lệnh
gọi Tòng về Tham mưu biệt bộ đúng mồng một Tết chẳng qua là do lối làm
việc máy móc của Văn phòng - trong khi ký điện, người ta căn cứ vào lịch
Tây mà quên ngày 28-1 là Tết Nguyên Đán. Còn nội dung báo cáo, ngoài
Luân, chưa ai ghi nhận một cái gì không bình thường.
- Tôi bận. - Luân xem đồng hồ - Xin hẹn đại tá vào 9 giờ hôm nay…
Băng Trinh biến sắc, bụm mặt khóc.
- Tôi chưa nói hết, - Luân tiếp - 9 giờ hôm nay, mời đại tá tới đây, nhà riêng tôi… Nếu bà không bận mời luôn bà…
Đến phiên Băng Trinh chưng hửng.
Luân
đi rồi, hai phụ nữ nói chuyện tiếp, dần dần như đôi bạn tâm tình. Băng
Trình thuật vắn tắt cho Dung nghe quãng đời gai góc của mình.
Là
con một công chức Đức Hòa, Băng Trinh học đến năm thứ hai trung học thì
cách mạng bùng nổ. Gia đình chạy giặc xuống tới Rạch Giá, không còn
đường chạy nữa, cha mẹ đưa cô và đứa em trai quay về Đức Hoà. Cha Băng
Trinh ra trình diện, nhưng Pháp tình nghi bác của Băng Trinh theo Việt
Minh, nghe đâu là chỉ huy quân sự. Trong một trận bố ráp, lính lê dương
bắt Băng Trinh và thay nhau làm nhục. Cô gái 15 tuổi, sau đó, bị sung
vào cái gọi là “tổ chức tình nguyện” - chuyên sống ở các doanh trại để
lính Tây mua vui. Một sĩ quan thích Băng Trinh, khi anh ta giải ngũ và
làm chủ một khách sạn ở Hà Nội, đem Băng Trinh về hầu hạ. Tại đây, cô
gặp Phan Cao Tòng. Tòng thuộc hạng “điếm vườn”, lù khù. Hai người lén
lút với nhau. Băng Trinh yêu Tòng chân thật - đó là người Việt đầu tiên
mà cô ăn nằm, không coi cô như món đồ chơi. Bị bắt tại trận, cô trở lại
nhà số. Với tiền của dành dụm của cô, Tòng chuộc cô ra và hai người sống
chung với nhau.
- Anh Nghĩa của em giận em. Cha mẹ từ em. Bác em
thì từ năm 1945 tới giờ em không biết tin. Nhưng, khi em với anh Tòng về
Tây Ninh, anh Nghĩa có lui tới.
Dung đã có thể nắm đầu đuôi: Tua
Hai sở dĩ bị hạ dễ dàng là nhờ nội tuyến trong sư 13 - con số khá lớn.
Tòng muốn che giấu việc đó. Và, rất có cơ sở để cho rằng chính Lê Khánh
Nghĩa - nguyên quận trưởng Gò Dầu, nay là chỉ huy phó Bảo an, mà Luân
đinh ninh là con trai của đồng chí Lưu Khánh - liên can đến vụ binh vận
quy mô này.
Dung nhìn Băng Trinh với đối mắt phấn khởi. Dứt khoát không phải trò gài bẫy của Mai Hữu Xuân, Trần Kim Tuyến hay Fishel…
…
Băng Trinh gọi Phan Cao Tòng tới khi Luân từ dinh Độc Lập trở về. Tòng
mặc thường phục, mắt trũng sâu. Chắc là mất ngủ. Ông ta lúng túng mãi
khi đối diện với Luân, mặc dù vẻ mặt rạng rỡ của vợ báo tình hình đã khả
quan. Luân chìa tay bắt, ông ta chập gót chân. Luân phải đỡ ông vào
ghế:
- Hôm nay, ngày Tết, anh chị đến nhà tôi. Trước hết, xin cám ơn! - Luân thân mật chào, không gọi theo cấp chức của Tòng.
- Ta nâng ly mừng tuổi nhau năm mới! - Luân khui một chai sâm banh…
- Thưa trung tá! - Tòng đứng lên. Ông ta đứng lên vì Băng Trinh giật áo ông mấy lần - Thưa ông, bà trung tá…
Tòng lúng túng mãi, ly sâm banh sánh ra ngoài.
- Mời cạn ly! - Luân cười.
- Nghe tin anh chị đã có cháu, xin cạn ly thứ hai - Luân tiếp tục xởi lởi.
Phan Cao Tòng được trấn an. Câu chuyện từ dè dặt ban đầu, cởi mở hơn về sau.
-
Chúng ta là lính, - Luân nói - Đời lính khó suôn sẻ, nhất là vào thời
buổi bây giờ. Tôi hứa giúp anh, giúp với tư cách bạn bè. Vả lại, sơ thất
của anh không thể quy tội một mình anh. Nếu phải ra tòa án binh thì
trung tá Hà Duy Cường ra đầu tiên vì trung đoàn Lam Sơn chịu trách nhiệm
giữ trại Sùng. Kế đó, thiếu tá Lê Đạo, ông ta canh gác sư đoàn thiếu
nghiêm ngặt, để địch trà trộn… - Luân vụt hỏi - Anh còn giữ bản báo cáo
của thiếu tá Lê Đạo không?
Tòng ngó vợ, Băng Trinh gật đầu.
- Thưa, em còn giữ… Em có mang theo đây!
- Chị cho tôi xin.
Luân đọc lại bản báo cáo đó, cười mỉm:
- Vậy là ổn. Anh chị có thể về ăn Tết. Lúc nào cần, tôi sẽ điện mời anh… À, anh chơi thân với thiếu tá Lê Đạo không?
-
Không! - Tòng trả lời quả quyết - Tôi với hắn mới liền lưng lần này
thôi. Hắn thuộc An ninh quân đội, trung tá thừa biết. Khó chơi lắm!
Lúc chia tay, Tòng do dự mãi, rồi đánh bạo:
- Tôi có một da cọp dồi bông, muốn tặng trung tá làm kỷ niệm…
Nói xong, Tòng và vợ khắc khoải chờ đợi. Luân xua tay:
- Đừng! Người ta dị nghị chết…
Anh xua tay mà Tòng hiểu là anh không từ chối
*
- Phân tích sự việc này coi… - Luân bảo Dung, khi trong phòng còn hai người.
Từ
lúc Luân bị thương, quan hệ giữa anh và Dung khăng khít. Họ không còn
kiềm chế tình cảm song vẫn chưa dám phá vỡ giới hạn trước khi được tổ
chức chính thức cho phép. Luân viết một điện báo với A.07, mãi chưa có
trả lời, mặc dù liên lạc đã nối chặt khi Lục nhảy dù xuống miền Bắc. Cứ
vài tuần, James Casey nhận được tin của Lục - có nghĩa là hoạt động
chung trôi chảy. Không chỉ tin của Lục, mà một số toán biệt kích nhảy dù
sau này gửi tin đều đặn, James Casey hí hửng, Luân và Dung mừng hơn.
Chưa biết đến lúc nào cuộc đấu trí kiểu này chấm dứt, song trước mắt,
địch bị dẫn sâu vào tròng.
- Phan Cao Tòng sẽ có ích cho ta! - Luân
kết luận. Anh mân mê bàn tay Dung… Giữa lúc đó, từ chiếc rađiô đặt giữa
nhà, đài phát thanh Quốc gia đang truyền đi bài nói của cố vấn Ngô Đình
Nhu.
----------
(1) Loại, mẫu
(2) Tham nhũng, nạn hối mại quyền thế
CHƯƠNG 3
Ngọn núi lửa Nam Việt Nam
Thực tế và cường điệu
Bài của Helen Fanfani
(Financial Affairs)
Sài
Gòn, tháng 2. Những người nước ngoài tại Sài Gòn am hiểu tình hình Nam
Việt Nam đều phân vân về bài nói của Ngô Đình Nhu, em trai và cố vấn
chính trị của Tổng thống, cũng là nhà lý luận quả quyết và hùng biện,
người đề ra chính sách của chế độ. Ông dành một giờ trên đài phát thanh
để thuyết phục dư luận Nam Việt Nam rằng Quốc gia chống Cộng non trẻ này
đang đứng trước hai nguy cơ, một là tai họa Cộng sản lớn hơn điều mà
người ta tưởng, hai là thái độ thiếu kiên định của Hoa Kỳ, cũng là một
thứ nguy cơ. Có lẽ một chi tiết cần chú ý trước tiên: bản ký âm bài nói
của ông Nhu không hoàn toàn khớp với bản dịch tiếng Pháp và tiếng Anh mà
Việt Tấn xã phát hành trong bản tin buổi chiều và cũng không hoàn toàn
khớp với bản tiếng Việt được công bố trên báo Việt ngữ, Ai cũng thấy bản
công bố chính thức được giảm nhẹ giọng hằn học ở phần phê phán Hoa Kỳ.
Tỉ như, ông Nhu khi nói, dùng danh từ “thiếu đạo lý”, khi công bố là
“thiếu thông cảm”. Một tỉ dụ khác: khi nói, ông Nhu gọi những quan chức
Mỹ thường chỉ trích Tổng thống Ngô Đình Diệm là “những quan thuộc địa
với thói quen nhìn các dân tộc châu Á qua con số chi xuất đồng dollar”
khi công bố, lại là: “những viên chức ích kỷ, chừng nào đó theo cách
nhìn “nước Mỹ trước hết” của một vài Tổng thống Mỹ trước kia muốn giới
hạn trách nhiệm nước Mỹ chỉ ở Tây bán cầu…”
Đây không phải là
chuyện vặt vãnh. Phải chăng, anh em ông Diệm muốn dấy lên làn sóng chống
Mỹ - dù hạn chế trên mặt trận báo chí - để chứng minh một cái gì đó
hoặc để vòi vĩnh một cái gì đó. Và, khi mà đọc lại bài viết, họ giật
mình và cố gắng điều chỉnh? Một nhân viên đại sứ quán Mỹ có vai vế, yêu
cầu không nêu tên, nói với nhà báo: Người nghe đài phát thanh bao giờ
cũng đông hơn người đọc báo. Đã có giả định được không, tình trạng bát
nước đổ và người đang hốt nó - như cách nói dí dỏm của người Việt?
Cách
đây vài tuần lễ, cũng trả lời phỏng vấn của tờ báo lớn của Pháp - tờ Le
Figaro - cũng chính ông Nhu nói: Chúng tôi đang ngồi trên một ngọn núi
lửa, chưa biết bao giờ nó sẽ phun.
Đã 3 năm kể từ một kẻ vô danh
bắn vào Tổng thống trên miền đất hứa Cao nguyên. Bộ trưởng cải cách điền
địa bị thương - chỉ một người thôi - nhưng cuộc thanh trừng như bất
tận. Dẫu sao suốt 3 năm đó, không một biểu hiện nguy kịch nào khiến chế
độ phải sợ hãi, về phía Cộng sản cũng như về phía những người Quốc gia
khác chính kiến với ông Diệm, nếu những thông báo công khai có thể tin
cậy được. Không ai không lạ lùng giữa khi guồng máy chạy bình thường -
rất bình thường nữa - thì đột nhiên chính phủ Nam Việt Nam ban hành một
sắc lệnh thời chiến: luật 10-59. Với đạo luật này - ngay nhà độc tài mụ
mẫm ở một Quốc gia Nam Mỹ cũng chưa dám áp dụng - Cộng sản và đồng lõa
phải bị xử chém.
Chiếc máy chém được lau chùi, sau khi nó biểu
dương một lần cách nay 4 năm để thi hành bản án đối với tướng Ba Cụt của
giáo phái Hòa Hảo. Chiếc máy chém bây giờ cần phát huy công suất, cho
nên nó lưu động. Và, luật 10-59 có hiệu lực ngay - một chiếc đầu rơi,
của một cán bộ Cộng sản cấp tỉnh tên là Hoàng Lệ Kha. Đồng thời, Nam
Việt Nam áp dụng kinh nghiệm Mã Lai, thành lập các khu tập trung gọi là
khu trù mật - dồn dân bấy lâu sống tản mạn vào đây, giữa bờ rào và tường
đất, dưới tầm súng của các chòi gác, hoàn toàn không có một tiện nghi
sinh hoạt nào, ngay nước uống.
Ở thành thị, chính phủ ông Diệm cho bầu cử Quốc hội, nhưng lại không cho ứng cử viên nhiều phiếu bước lên thềm Nhà hát lớn.
Sự
trái ngược, lộn ẩu trong chính sách của Nam Việt nảy ra một loạt giả
thuyết. Bài nói của ông Nhu phản ảnh rõ rệt sự trái ngược, lộn ẩu đó và
nhân thêm các phỏng đoán. Ông Nhu nói: “Chế độ Cộng hòa đang ở vào giờ
báo động. Chính phủ không muốn giấu giếm với quốc dân tình thế nguy hiểm
hiện nay”. Tuy vậy, ông Nhu không hề chứng minh “tình thế nguy hiểm”
một cách cụ thể mặc dù ông cố gắng chứng minh nguyên nhân của tình thế
đó. Có hai điều, theo lời ông Nhu: Một, những kẻ tự nhận là Quốc gia, là
chống Cộng nhưng nặng quyền lợi ích kỷ, vô tình hay cố ý tiếp tay cho
Cộng sản. Hai, đồng minh của Nam Việt Nam bị những kẻ nói trên mê hoặc,
có thái độ chập chờn trong sự lựa chọn giữa thời điểm nhạy cảm hiện nay -
hoặc giữ đúng lời cam kết ủng hộ các nổ lực của chính phủ mà Tổng thống
là đại biểu hiến định để đối phó hữu hiệu với Cộng sản, hoặc dung dưỡng
bọn bất tài đang bất mãn, gây khó khăn cho quá trình củng cố chế độ tự
do ở Nam Việt Nam và như vậy có nghĩa là sửa soạn dâng một phần đất còn
lại này cho kẻ thù…
Không ai nghi ngờ ý chí chống Cộng của Tổng
thống Diệm. Song, không ai không phát hiện qua bài nói của ông Nhu,
những mục tiêu đấu tranh mà chế độ ông Diệm xem ngang, thậm chí nguy
hiểm hơn Cộng sản: những người Nam Việt Nam không tán thành một số mặt
chính sách nào đó của Tổng thống và bản thân chính giới Mỹ, ở những phần
khác ý kiến với ông Diệm. Ít nhất, ông Diệm tự đặt cho mình ba đối thủ.
Trên bình diện thực hành, chế độ Sài Gòn chưa dám làm cái gì phạm
thượng đối với người Mỹ ngoại trừ sự nói xiên nói xéo. Còn đối với các
nhóm theo chủ nghĩa Quốc gia thì chế độ chắc chắn không nương tay.
Nước
Mỹ đang ở vào năm bầu cử. Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng vừa bắt đầu. Đảng
Dân chủ có vẻ chiếm lợi thế nhờ xu hướng của công chúng Mỹ đòi hỏi cải
thiện quan hệ với khối Cộng và nhờ Kennedy - người mà các cuộc thăm dò
nhất trí là sẽ được đảng Dân chủ đề cử trong cuộc so găng vào tháng 11
với đảng Cộng hoà. Đó chính là cơ sở - nếu không phải là cơ sở duy nhất -
cưỡng ép ông Nhu có bài nói thách thức vừa rồi. Tổng thống Eisenhower
có thể phiền lòng, song ông không còn mấy thì giờ để làm một errata (1)
đằng sau tác phẩm sinh nở và lớn khôn dưới thời của ông. Nhưng, Kennedy
thừa thì giờ để “lập lại trật tự” trong cái tôn ti mà nước Mỹ đang cố
giữ gìn.
Trái với phong tục cổ truyền của nước ông, ông Nhu không
chúc lành mà chúc dữ nhân ngày Tết. Quả núi lửa có thể phun - nó phải
phun - bởi trong vòng chiến, không chỉ có Cộng sản và chế độ ông Diệm.
Và, bởi chính ông Diệm và gia đình ông muốn nó phun, hơn thế nữa, đang
cố hết sức mình để thúc đẩy cho nó phun.
Câu ngạn ngữ sau đây không
chắc tới bạn đọc Finacial Affairs vì cây kéo kiểm duyệt Sài Gòn: Con
ếch thích to bằng con bò… Cường điệu một khi biến thành hiện thực - lạy
Chúa - không phải là điều mà chúng ta cầu nguyện…
*
Báo cáo của Sở nghiên cứu chính trị.
Nhóm
“Caravelle” - tên gọi do chương trình hành động của nhóm được thông qua
tại một bữa tiệc mở trên tầng sáu khách sạn Caravelle. Chỉ có tờ Thời
Luận đăng chương trình này. Báo tiếng Pháp - Journal d’Extrême Orient -
đưa tin vắn tắt. Nhưng, hãng UPI, AFP đánh đi tin chi tiết - giới thiệu
tỉ mỉ tiểu sử những người đứng đầu, nhất là Trần Văn Hương.
Chương trình nhấn mạnh hai điểm:
1-
Đòi chính phủ thực thi dân chủ, cụ thể là đòi để các xu hướng quốc gia
được quyền tập họp thành tổ chức, có cơ quan ngôn luận, được sử dụng đài
phát thanh và có quyền phát ngôn khác như in ấn, lưu hành ấn phẩm, diễn
thuyết. Đòi chính phủ đối thoại với các chính đảng, nhóm. Đòi tổ chức
bầu cử quốc hội và công nhận phe thiểu số đối lập trong nghị viện.
2- Tự do kinh doanh, hủy bỏ các hình thức độc quyền của chính phủ
Chương
trình nhằm khai thác sự bất mãn trong một số trí thức và một số nhà
doanh nghiệp. Chương trình cũng tỏ ra khéo léo mơn trớn dư luận Mỹ, đặc
biệt là dư luận ủng hộ đảng Dân chủ Mỹ đồng thời bỏ ngỏ khả năng thiết
lập lại quan hệ tốt hơn với Pháp.
Trong phiên họp chót, Phan Quang
Đán, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Trân phát biểu rất hăng. Đán khoe là “đã có
những cuộc tiếp xúc bổ ích với người có thẩm quyền của đảng Dân chủ Mỹ”.
Nguyễn Trân phân tích con đường cứu Việt Nam Cộng hòa khỏi rơi vào tay
Việt Cộng: thay đổi chế độ, từ tổng thống chuyển sang chế độ nghị viện,
từ độc đảng sang đa đảng. Hoàng Cơ Thụy nói về việc “phá thế cô lập của
Việt Nam Cộng hòa trong thế giới tự do” mà hành động đầu tiên là “tỏ ra
hiểu biết đầy đủ về vai trò của Pháp ở Đông Dương, một vai trò mang ý
nghĩa lịch sử lẫn thực tiễn hiện tại, bởi Pháp là một cường quốc.
Trần
Văn Hương kết luận cuộc họp. Ông nói ngắn và chung chung: Phải thực
hiện đoàn kết quốc gia để chiến thắng Cộng sản. Chương trình hành động
của nhóm được thông qua theo lối đưa tay.
Theo các nguồn tin, linh
hồn thật sự của nhóm là Nguyễn Trân. Với các bằng chứng, chúng tôi thấy
rõ hai thế lực sau đây đồng tình với Nhóm: một số sĩ quan và trí thức
từng dính với Phòng nhì Pháp và đảng Đại Việt Hà Thúc Ký, Trương Tử Anh,
kết liên với các nhóm Quốc dân đảng Nguyễn Hòa Hiệp. Cũng không loại
trừ khả năng Nhóm thoả thuận ngầm với Thích Tâm Châu. Riêng nhóm Đại
Việt Nguyễn Tôn Hoàn thì hình như đứng ngoài cuộc. Phần Trần Văn Hương,
ông ta không thích Đán và các phe, song háo danh, tự coi như người đứng
trên nên bị lợi dụng.
Sau đây, đính kèm:
1) Chương trình của Nhóm.
2) Băng ghi âm cuộc họp.
3) Danh sách 21 người dự họp.
*
Nhu
rõ ràng thấm mệt sau những ngày căng thẳng liên tục. Anh ta gần như nằm
hẳn trên ghế, chân gác lên bàn. Đôi mắt nặng nề nhìn người đối thoại
với mình một cách lơ đãng. Luân thông cảm với hoàn cảnh và gánh nặng mà
Nhu đang xốc đỡ. Chợt nhớ đến bài báo của Fanfani, Luân mỉm cười: Mỹ có
trước mắt hai mục tiêu - cách mạng và phe phái; Nhu thêm một bận tâm nữa
- Tổng thống Diệm. Như vậy, Nhu phải là người bận rộn nhứt.
- Anh cười cái gì? - Nhu hỏi, uể oải.
- Cười anh! Tôi vừa đọc một quyển sách, tựa là “Anh hùng thấm mệt”… - Luân trả lời, vẫn cười tiếp.
- Sách triết học hay văn học?
- Tiểu thuyết…
- Có chỗ nào giống tôi không?
- Giống… Giống chỗ “thấm mệt” nhưng con đường đi tới “thấm mệt” khác nhau xa.
- Anh còn thời giờ đọc tiểu thuyết, giỏi quá. Tôi chẳng những không còn thì giờ mà không còn đầu óc.
Nhu chống người dậy, châm thuốc.
-
Mệt kinh khủng! - Nhu nói khi nhả ra làn khói - Trước kia, chính tôi
đưa ra các đề thi, bây giờ chính tôi phải giải các đề thi. Toàn các đề
thi hiểm hóc. Anh có thấy như vậy không?
- Thấy chớ! - Luân gật đầu - Tôi khâm phục sức làm việc của anh…
-
Anh đọc báo cáo tuần của Bộ tham mưu chưa? - Nhu đùa sang Luân một xấp
giấy - Tình hình xấu lắm. Rất xấu. Ta mất một phần lớn làng xã, Cộng sản
đột ngột đẩy mạnh hoạt động, đặc biệt ở đồng bằng Nam phần. Tôi không
hiểu họ lấy súng ở đâu, mà trong một thời gian kỷ lục, lập ra bao nhiêu
tiểu đoàn, không có một dấu hiệu nào Bắc Việt tuôn người, tuôn súng vào
Nam. Vậy mới lạ!
Luân lật qua xấp giấy. Những con số khô khan,
những ghi nhận cụt ngủn mà anh quá quen. Với loại thông tin kiểu này,
không trách Ngô Đình Nhu càng đọc càng mù tịt.
- Súng ngựa trời là cái gì, anh Luân? - Nhu hỏi - Súng bập dừa nữa?
Luân
vừa đến Cục tác chiến, ở đó, anh thấy mấy khẩu “súng ngựa trời” tịch
thu được trong các cuộc hành quân. Sĩ quan tác chiến không gọi chúng là
“súng ngựa trời” mà là súng thô sơ, sứng tự tạo… chế theo kiểu súng săn,
bắn đạn ghém, gồm một ống sắt làm nòng, một cơ bẩm mổ vào hột nổ đốt
cháy khối thuốc và tống các thứ: miểng chai, đinh, mảnh sắt vụn, thậm
chí dây kẽm cắt ngắn… thành một vòng sát thương rộng. Hồi kháng chiến
chống Pháp, tiểu đoàn 420 chế được vài loại súng, nhưng không tiện bằng
“súng ngựa trời”. Luân hiểu hoàn cảnh mới cho phép lực lượng vũ trang
cách mạng tạo được vũ khí lợi hại. Người biết kỹ thuật quân khí đông hơn
trước, vật liệu không khó kiếm. Tỉ như phosphore rouge (2) đâu mà chẳng
có. Thuốc nổ còn lan tràn hơn.
“Súng ngựa trời” đi vào huyền
thoại. Quân cách mạng muốn đặt “súng” ở đâu cũng được, trên ngọn cây,
cạnh bờ đất, trong mái chòi. Chỉ chuyền một dây giật cơ bẩm, súng sẽ
khai hoả. Người bắn an toàn. Súng không có cỡ nòng nhất định, nó tùy ống
sắt - thậm chí, ống tre cũng tốt. Từ vài tháng nay, “súng ngựa trời”
gây khủng khiếp trong quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Bộ tổng tham mưu
và Cục tác chiến buộc phải mổ xẻ khẩu súng oái oăm đó. Các nhà chuyên
môn về vũ khí đều lắc đầu: trò chơi này làm suy sụp tinh thần quân lính
được sao? Tướng Williams, trưởng phái bộ quân sự Mỹ cũng bỏ công nghiên
cứu khẩu súng.
- Anh chưa thấy “súng ngựa trời” sao? - Nhu thấy
Luân im lặng, hỏi tiếp… - Tôi thấy rồi. Thấy súng… như cái ống thổi lửa ở
nhà quê. Tại sao nó nguy hiểm?
Luân nghĩ rằng tốt nhất là không
nên đi sâu vào khẩu súng ngựa trời. Nhu làm sao hiểu được sức mạnh của
khẩu súng, không chỉ từ “cái ống thổi lửa ở nhà quê”
- Tôi đã xem qua một lần, nhưng chưa để ý tính năng, cấu trúc… Nếu anh cần, tôi sẽ trả lời sau.
-
Được, hôm nào anh cho biết… Còn “súng bập dừa”? Súng “oảnh tầm sào”?
Nước nào chế tạo? Quân độc chưa tịch thu được khẩu “bập dừa” mặc dù tôi
ra lệnh phải kiếm cho được…
Tới đây, Luân bí như Nhu. Trong các
sách nghiên cứu vũ khí bộ binh, kể cả vũ khí chế tạo tại các nước xã hộ
chủ nghĩa, không đâu nói đến hai kiểu súng có cái tên rất lạ tai này.
Còn lúc kháng chiến - quả chúng nó chưa ra đời.
- Tôi chịu thua! - Luân thú nhận.
- Không sao… Thế nào cũng có lần ta tóm được chúng… Bây giờ tôi muốn bàn với anh…
Nhu gọi thức giải khát và sau khi hớp mấy hớp bia, anh ta nói, giọng trầm trầm:
-
Tôi tin là anh không khác tôi trong đánh giá tình hình. Bài nói của tôi
trên làn sóng bị cô nhà báo Fanfani gọi là sự thổi phồng có dụng ý.
Ngay Tổng thống cũng bảo tôi: Chú nói hơi quá. Nhưng không hại gì, tôi
cần báo động trước để trị bọn thằng Đán, thằng Trân… Anh thấy không,
Tổng thống đinh ninh tình hình không đáng ngại… Ta đành chưa vội tranh
luận với Tổng thống. Còn cô nhà báo, cô ta rất thông minh, thậm chí, hơi
dư thông minh. Cô ta là bạn của anh…
Luân nhún vai. Nhu cười:
-
Tôi quả quyết về phần cô ta, chưa chắc cô chịu dừng mối quan hệ với anh
ngang mức bạn, nếu không có cô Dung! Tất nhiên đó là chuyện riêng tư…
Nhu
bỏ lửng câu nói. Luân hiểu rằng Nhu không đơn thuần cột anh với Fanfani
theo kiểu tình cảm trai gái. Fanfani về Mỹ cuối năm 1958 và đã chính
thức lấy chồng - phóng viên tờ Newsweeks chuyên săn tin ảnh khu vực Đông
Nam Á, cách vài tuần từ Hồng Kông sang đây thăm vợ và Fanfani cũng làm
ngược lại như vậy, rất đều đặn. Tuy nhiên, Luân vẫn cứ lặng thinh. Trong
trường hợp anh để Nhu nghi nghi hoặc hoặc về quan hệ cá nhân giữa anh
với một cô nhà báo Mỹ, có thể chưa phải là có hại. - Trên mọi cái - Nhu
tiếp tục nói - an ninh nội địa đóng vai trò tiên quyết. Ta đủ mạnh làm
chủ tình thế tại đất nước ta thì mới hòng trả giá với đồng minh. Nhóm
Caravelle sở dĩ lăng nhăng vừa qua là vì an ninh nội địa mỗi ngày mỗi
xấu. Cho nên, nhiệm vụ số một của chính phủ là vãn hồi an ninh. Vãn hồi
an ninh hiện thời khác thời kỳ các giáo phái. Cộng sản khôn ngoan, có tổ
chức, có kinh nghiệm hơn giáo phái. Tôi nghiền ngẫm nhiều đêm các bài
viết của đại tá Thompson. Anh đã đọc rồi, phải không?
Luân gật đầu. Đó là tài liệu phân tích tình hình Mã Lai của Viên tư lệnh người Anh.
-
Cộng sản Mã Lai không yếu, nhưng khi họ bị cô lập khỏi dân chúng thì
chỉ còn còn đường rút vào rừng sâu. Chánh sách khu trù mật dựa vào kinh
nghiệm Mã Lai: tôi có thể nói nó là một bước nâng cao sáng kiến vũ trang
tự vệ của Anh ở Bình Dương. Khu trù mật toàn diện hơn: ta lập ra các
pháo đài chống Cộng cả về quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế. Tôi
không cho chính sách khu trù mật đã trăm phần hoàn hảo, bởi vậy muốn anh
đi một vòng kiểm tra, nơi đã lập xong, nơi sắp lập… Chúng ta sẽ trao
đổi cách bổ khuyết, sau chuyến kiểm tra của anh.
Luân đồng ý ngay. Anh xin Nhu nửa tháng để làm việc đó. Khi từ giã nhau, Nhu hỏi:
- Sao ông bà lâu có tin mừng quá vậy?
- Cô ấy chưa muốn có con. - Luân trả lời, thản nhiên.
- Anh đã lớn tuổi rồi, chậm con là không tốt… Tôi cứ ngỡ ông bà khó có con, nếu muốn, nhờ các giáo sư giỏi giúp…
Trên xe về nhà, Luân nghĩ ngợi mãi về câu nói của Nhu: Anh ta nói có hậu ý gì không?
*
Chuyến
kiểm tra khu trù mật giúp Luân hiểu đầy đủ hơn thực tế tình hình. Về
phương diện này anh thầm phục Nhu: Nhu ước lượng đúng nguy cơ mà chế độ
Sài Gòn đang bị đe dọa - bị đe dọa mạng sống.
Luân chọn Tuyên Nhơn
làm nơi đến đầu tiên. Anh chỉ có thể dùng trực thăng từ Tân Sơn Nhứt đáp
xuống bờ Kênh Xáng. Khu trù mật chưa có hình thù. Lính đóng giữa vòng
thành đất và dây kẽm gai. Hàng nghìn dân chúng dưới nắng Đồng Tháp Mười
đổ lửa, nai lưng đào các tuyến phòng thủ. Các làng quanh đó bị lùa ra
Tuyên Nhơn - hồi kháng chiến, Luân từng qua lại đấy và bấy giờ gọi là
vàm kênh Dương Văn Dương, con kênh đổ vào sông Vàm Cỏ Tây. Trung tá tỉnh
trưởng Kiến Tường đích thân chỉ huy xây khu trù mật Tuyên Nhơn - một
trong bốn khu trù mật trong tỉnh đã được Tổng thống duyệt; ba cái kia là
Mộc Hóa, Thủy Đông và Nhơn Hòa Lập. Quốc sách khu trù mật được giới
thiệu khá đầy đủ về ý nghĩa trong nhiều quyển sách, bài viết của những
tác giả lớn, như cố vấn Ngô Đình Nhu, Tổng giám đốc thông tin… Nhưng
trung tá tỉnh trưởng hiểu nó ở mức đơn giản hơn hết.
- Thưa trung
tá! - Ông ta báo cáo với Luân - Công chuyện đuổi dân khỏi làng xóm cũ
không phải dễ. Như tụi ở kinh Năm Ngàn, ở kinh Mười Hai, hầu hết gia
đình Cộng sản, tôi cho lính đốt nhà. Đốt nhà mà tụi nói chưa chịu ra.
Tôi cho thụt cối vô. Ra được một mớ. Sau Tết, đồng cạn nước, tôi cho xe
bọc thép ủi láng tè! Ra thêm mớ nữa. Tới bữa nay, tôi quy về tỉnh lỵ Mộc
Hóa phân nửa, còn phân nửa chia cho mấy khu… Trung tá có thể trình với
ông cố vấn rằng Kiến Tường xây xong khu trù mật nội trong năm nay..
Luân
hỏi han thêm các mặt tình hình trong tỉnh. Không phải viên tỉnh trưởng -
nhiều nét hao hao viên quận trưởng Gò Đen mà Luân và Dung gặp khi Nhu
mở màn đợt tố Cộng năm xưa, nghĩa là dư thừa máu lưu manh - mà thiếu tá
quận trưởng Tuyên Nhơn nho nhã kể cho Luân nghe nhiều điều, với Luân,
rất đặc sắc. Tay thiếu tá xuất thân sinh viên luật khoa, học trường võ
bị, đầu tiên làm ở Cục quân huấn, do cãi vã với cấp trên, bị tống khứ về
xứ trống lốc trống lơ này, hè mùa khô thì nắng cháy da, ngó mút con mắt
chưa thấy chòm cây xanh, mùa mưa thì nước dâng tận mí chân trời, bốn bề
y biển cả.
- Em chắc chắn là ông cố vấn, Tổng thống, đại tướng và
ông, không ai được đọc báo cáo chỉ huy phó bảo an tỉnh… Bởi trung tá
tỉnh trưởng đốt báo cáo đó rồi, đốt rồi còn vò cho tro nát bấy… Báo cáo
về trận gò Măng Đa. Gò Măng Đa nằm về phía tây Mộc Hóa, cách Mộc Hóa 20
cây số đường chim bay. Sau Tết chừng bốn hay năm ngày, tỉnh trưởng ra
lịnh cho thiếu tá chỉ huy phó bảo an hành quân vào gò Măng Đa, lùa số
dân còn sót, - chừng mươi hộ - ra khu trù mật. Em với thiếu ta chơi
thân, bạn học ở trường Pétrus Ký, nên anh ta rủ em cùng đi. Còn chờ làm
việc với tỉnh trưởng, em theo anh ta. Nước vừa rút, đường hơi khó đi.
Tụi này bắt đầu đi hồi 6 giờ sáng mà 11 giờ mới tới cái gò nhỏ, non một
tiếng nữa mới tới Măng Đa. Thiếu tá Long - tên anh chỉ huy phó bảo an -
bảo lính tạm nghỉ trên cái gò nhỏ đó. Tụi này đang vạch sậy leo lên gò
thì bỗng nghe có tiếng hô: “Tất cả đứng im! Đưa tay lên… Các anh rơi vào
ổ phục kích của quân cách mạng rồi… Ai kháng cự, ai chạy sẽ bị bắn…”
Người
nói trong sậy, không biết mặt mũi ra sao và cũng không biết họ đông hay
ít. Thế của tụi em thì rõ là bất lợi: họ ở trên gò cao, có cây cối che,
tụi em ở dưới đồng, không có cái gì để núp. Nước lại sền sệt…
Thiếu tá Long không biết phải làm sao. Lính, sĩ quan đã đứng như trời trồng, đưa súng lên cao.
- Xếp súng chỗ đất khô đó rồi dang ra ngoài ra, ngồi xuống, đặt tay lên ót, nhớ quay lưng vô gò…
Lịnh lần này được chấp hành thiệt lẹ, luôn thiếu tá Long và em - tụi em nộp hai khẩu súng ngắn.
Tuy
ngồi quay lưng lại, em vẫn cố gắng liếc xem họ sẽ làm gì. Trong lùm cây
nhô ra hai người, mình mẩy lấm sình. Họ chuyển số súng lên gò. Số súng
khá lớn - em quên nói: quân số của em gồm 380 người cho nên có lẽ thấy
chuyển chậm, họ ùa xuống đông hơn. Trung tá biết ai không? Hai chú nhỏ
chừng 13, 14 tuổi, ba người đàn bà, bốn ông già… Giữa lúc chuyển súng,
hai người tiến về phía tụi em - một trung niên thủ khẩu Colt của thiếu
tá Long, người thanh niên, ngoài khầu Vicker của em giắt ngang lưng, thủ
khẩu Thompson. Người trung niên bắt đầu diễn thuyết. Đại khái ông ta
chửi bới Tổng thống Diệm và đế quốc Mỹ, kêu gọi đấu tranh đánh đổ chế độ
độc tài gia đình trị. Ông ta nói không hay, không lưu loát, lộn xộn
nữa. Một người lính biết mặt ông ta và người thanh niên - hồi đó, người
lính sợ run, cố không để bị hai người kia phát hiện - anh ta nói với em
khi đã thoát nạn: ông trung niên là dân đặt trúm, cậu trẻ hơn là dân nhổ
bàng, chẳng phải quân đội Việt Cộng gì ráo!
Sau đó, tụi em được tha vì, theo lời ông trung niên: tui em lầm lạc, chưa có nợ máu với nhân dân.
Thế
là Kiến Tường mất trọn một tiểu đoàn súng. Thiếu tá Long tình thật khai
ngay, trung tá mắng cho một trận: Anh muốn kéo tôi chết chìm hả? Báo
cáo sửa đổi vụ gò Măng Đa thành một trận đụng độ ác liệt, Việt Cộng chết
mấy chục, ta vô sự, thu được gần 200 súng… Nhưng, sau đây mới thật là
chuyện khôi hài, vợ của tay lính mà em vừa nhắc, khi thăm chồng, thuật
cho mọi người nghe: Hôm đó, dân gò Măng Đa đi tát đìa, “quân số” gồm tổ
trưởng nông hội, một nam thanh niên, hai cô gái, một bà xồn xồn, bốn ông
già, hai chú nhỏ, tổng cộng 11. Họ chỉ có một khẩu “oảnh tầm sào” và
mươi viên đạn. Tát xong đìa, họ bắt cá thì thấy lính Quốc gia dàn hàng
ngang tiến vào gò. Không thể chạy vì đồng trống trải. Tổ trưởng nông hội
túng quá, hô hoán. Không dè lính Quốc gia ríu ríu đầu hàng. Súng chuyển
tới chiều mới hết.
Nghe rồi, em tức quá, xin trung tá cho em truy
kích. Trung tá can em: Đừng dại, chết uổng mạng… Cái ông trung tá này
hùng hổ với dân, lại rất ngán Việt Cộng.
Viên thiếu tá cho Luân
biết thêm: Cách vụ gò Măng Đa mấy hôm, tình huống cũng na ná và con số
cũng lớn: gần ba trăm súng các loại. Và Luân đã có thể giải đáp thắc mắc
của Nhu: Vì sao Việt Cộng đột ngột trang bị nhiều súng.
Cố giấu niềm vui, Luân hỏi với vẻ rất nghiêm chỉnh:
- Súng “oảnh tầm sào” là súng gì?
- Ồ! Trung tá không biết sao? Cây mousqueton indochinois (3), nòng dài như sào chống xuồng…
“Ra
là vậy!” - Luân kêu thầm – “Trong một thời điểm nào, nằm trong tay ai,
ống sắt “súng ngựa trời” mạnh như đại bác, khẩu súng trường cổ lỗ sĩ trở
thành liên thanh. Từ giữa năm 1954 đến nay, quân lính của chính quyền
Ngô Đình Diệm quen thói kiêu căng, bởi đồng bào ta không có vũ khí. Bây
giờ trở đi…” - Luân mỉm cười. Và anh nhớ số súng của ông Hai Sặt ở Phụng
Hiệp – “có thể chúng đang gieo kinh hoàng cho quân lính Diệm ở Cần
Thơ”.
Viên thiếu tá hiểu cái cười của Luân theo nghĩa khác.
- Tồi tệ quá, phải không, thưa trung tá?
Luân thấy thương hại anh chàng sĩ quan khờ khạo này.
-
Em không bi quan đâu! - Viên thiếu tá lại hiểu lầm cái nhìn của Luân -
Nếu em có quyền, như chịu trách nhiệm tỉnh Kiến Tường, em sẽ giành ngay
chủ động. Em đọc nhiều bài viết của trung ta, nghe bạn bè bàn tán về chủ
trương của trung tá bình định tỉnh Bình Dương… Đúng lắm, chống Cộng
theo kiểu các anh du côn không bao giờ thành công được. Chống Cộng là
công việc của trí tuệ.
Viên thiếu tá càng nói càng sôi nổi. Anh ta
tự nhận là đệ tử của Luân. Luân bỗng giật mình: Những tà thuyết mà anh
bắt buộc phải tung ra như hỏa mù đã ô nhiễm mấy người? Dầu sao viên
thiếu tá cũng dễ thương. Luân ghi nhớ tên anh ta: Trương Tấn Phụng.
Điểm
thứ hai Luân đến nghiên cứu là Ba Chúc, vùng người Miên, thuộc quận Tri
Tôn. Dân chúng bị cưỡng bức rời nơi sinh sống lâu đời, bỏ vườn bỏ nhà,
dồn vào khu chợ chật hẹp. So với Tuyên Nhơn, Ba Chúc khá hơn: đã có
những dãy phố lợp tôn xếp ngay hàng thẳng lối, có trường học, nhà
thương, đường sá. Tuy vậy, người Miên ủ rũ trước căn nhà nóng như thiêu,
con bò của họ không chuồng, rong khắp chợ, không có một cọng cỏ để
nhơi…
Còn non tuần lễ nữa, khu trù mật Ba Chúc khánh thành. Luân
biết là Tổng thống sẽ đích thân dự lễ khánh thành. Quan chức cấp tỉnh
nườm nượp kéo về Ba Chúc sửa soạn màn kịch khánh thành sao cho đẹp lòng
Tổng thống.
Đường trong khu trù mật sẽ mọc lên cây xanh - Luận lại
gặp trò gian dối đó ở Ba Chúc như anh từng gặp ở Ban Mê Thuột: Người ta
đang đào lỗ và sẽ cắm xuống các cây chặt trong vườn…
“Ngay trò lừa
bịp, cũng không cải tiến!” - Luân nghĩ thầm – “Bởi người ta lừa bịp cũng
không chịu cải tiến cách thưởng thức lừa bịp!”
Luân vào nhà
thương, Trung tá tỉnh trưởng cùng đi với Luân. Mấy chục người mặc quần
áo bệnh nhân nằm trên gường. Người ta sẽ mời Tổng thống lướt qua các
gường bệnh để thấy khu trù mật ưu ái với dân chúng như thế nào. “Bệnh
nhân” hầu hết là công chức cấp quận được lệnh phải tập đóng tuồng cho
thuần thục, Luân buồn cười quá, bảo tỉnh trưởng:
- Trung tá không
thấy cái khác nhau giữa người đau bịnh thật và giả sao? Bệnh nhân đều
mập mạp… Hơn nữa, không có bịnh nhân người Miên…
Câu trả lời của trung tá tỉnh trưởng khiến Luân sững sờ:
-
Tổng thống chỉ thích người bịnh mặc quần áo tốt còn Cụ đâu có để ý bịnh
thật bịnh giả, người Việt hay Miên. Vả lại, nếu lấy người Miên thì quần
áo dơ hết. Quần áo tôi mượn của nhà thương tỉnh, sau đó, phải trả đủ…
-
Chuyện đời như vậy đó! - Tỉnh trưởng nói tiếp: - Tôi biết trung tá
không ưa xoi mói, nên nói thật. Làm theo sở thích của Tổng thống thì yên
ổn, lại dễ lên chức!
Sau khu trù mật Ba Chúc, Luân đến Bình Hưng,
lãnh địa của cố đạo Nguyễn Lạc Hóa, một người Hoa. Tại đây, Luân nghe
thông báo của Nhu: Khi Luân vừa rời khỏi Ba Chúc, Việt Cộng nã cối vào
khu trù mật, gây một số tổn thất. Anh không rõ số phận của viên trung
tá, sự khôn ngoan lõi đời liệu cứu nổi ông ta khỏi bị Nhu trừng phạt
không?
Linh mục Nguyễn Lạc Hóa béo ị, với tất cả nét đặc trưng của
người Hoa phương Nam - nhanh nhẹn, nói nhiều - ngay trong cái bắt tay
đầu tiên đã tỏ rõ thái độ ngạo mạn của kẻ tự nhận là cha đẻ ra khu trù
mật. Đặc khu Bình Hưng thiết lập từ 1956 sau đợt di cư. Lúc đầu, nó chỉ
gồm những người Hoa theo đạo Thiên Chúa giáo trước đây sống ở Hải Phòng,
ở đảo Cát Bà, Móng Cái. Lần lần Nguyễn Lạc Hóa lùa thêm dân các làng
quanh đó, tạo một vòng đai bao quanh khu Bình Hưng. Hắn được phong hàm
trung tá và Bình Hưng thực tế là một căn cứ biệt kích, với một số huấn
luyện viên Mỹ, không phụ thuộc Sài Gòn về ngân sách.
Ngôi nhà gạch
quét vôi nổi lên giữa màu xám xịt của cả một khu toàn mái tôn, áp đảo
luôn ngôi nhà thờ đơn sơ cạnh đó. Nguyễn Lạc Hóa, tóc đốm bạc, trong bộ
quân phục, súng ngắn bên lưng, tiếp Luân phảng phất nghi thức của một
tiểu vương vịnh Ả Rập, trộn lẫn mùi vị một Tổng thống Trung Phi, như
Amin: Các cô gái nõn nà dâng rượu - khay bày nhiều loại, có Cognac,
Whisky, Ngũ Gia Bì - giữa gian phòng sáng điện, máy điều hòa mát lạnh.
-
Tôi đã bảo ông Nhu đến chục lần: Muốn trị tận gốc bọn Cộng sản phải
biết khủng bố - Nguyễn Lạc Hóa nói, giọng lơ lớ nhưng ý tứ rõ ràng - Tôi
không cần máy chém. Đưa máy chém đi hao tốn. Người của tôi bịt miệng
bọn Cộng sản giản dị hơn nhiều. Anh có thể nhìn tật mắt quanh đây, chẳng
đứa nào dám thở hơi Cộng sản…
- Con nghe đồn lính của Cha moi gan người ăn sống… - Luân nghiêng nghiêng đầu.
- Không! - Nguyễn Lạc Hóa xua tay - Ăn gan sống thế nào được? Phải nướng chứ!
- Rồi lắc vú phụ nữ…
- Như thế, có gì đáng phàn nàn? - Nguyễn Lạc Hoa hỏi lại, khiêu khích.
- Con chỉ nghe, bây giờ được Cha xác nhận. Cám ơn Cha… - Luân mím môi dằn từng tiếng.
- Anh không biết hay giả bộ không biết? Các sĩ quan Mỹ dạy cho lính của tôi đó.
Nguyễn Lạc Hóa cười rộ:
- Họ có lý. Cộng sản là một thứ mọi da đỏ. Theo tôi, đáng giết hơn mọi da đỏ nữa…
Luân cố tự kiềm chế để không rút súng nã vào sọ tên bại hoại đội lớp thầy tu này.
- Dương Tái Hưng có đến Bình Hưng không?
Luân đổi hướng câu chuyện.
- Anh cũng biết ông ta? - Nguyễn Lạc Hóa không trả lời mà hỏi lại.
- Lâm Sử chắc đã đến đây rồi? - Luân hỏi rấn tới.
- Lâm Sử nào?… - Nguyễn Lạc Hóa nhíu mày - À gã đại diện cho Trung Cộng, phải không? Anh quen nhiều người Hoa quá… Tốt! Tốt!
Luân
thấy không cần thiết ở lại lâu hơn tại Bình Hưng. Từ trên trực thăng
anh quan sát lần nữa toàn bộ cấu trúc đồn lũy của Nguyễn Lạc Hoá; nếu
anh chỉ huy thì cần vài tổ đặc công mở cửa đột phá ở hai hướng, tiêu
diệt đặc khu Bình Hưng không phải là chuyện khó.
Luân đáp xuống Vị
Thanh. Đây là chặng chót của chuyến công tác. Khi trực thăng sà thấp,
Luân kinh ngạc trước quang cảnh tiêu điều của cả khu trù mật - trọng
điểm số một của vùng sông Hậu, được long trọng khánh thành cách nay
không lâu, được quay thành bộ phim tài liệu giới thiệu rộng rãi trong và
ngoài nước.
Hèn chi, hôm qua, Luân nghe giọng nói trên bộ đàm của
tỉnh trưởng không mấy nồng nhiệt - ông ta chưa muốn tiếp phái viên Phủ
tổng thống. Mặt tiền khu trù mật ngó con kênh lớn, nhà cửa xiêu vẹo, hầu
như không có người.
- Một nhóm Cộng sản trà trộn vào gây rối -
Tỉnh trưởng giải thích - Chúng cưỡng bức đồng bào theo chúng ra ngoài…
Chúng tôi đang lùng bắt.
Nhìn vết đạn ràng ràng khắp nơi, Luân nghĩ
tới một trận tấn công của quân cách mạng. Nhưng qua báo cáo lúng ta
lúng túng của tỉnh trưởng, Luân hiểu không hề có Việt Cộng nào trà trộn
gây rối mà đây lại là cuộc đấu tranh của những người bị lùa vào khu trù
mật. Cuộc dấu tranh rất lớn, gần mười nghìn người tham dự. Quần chúng đã
bị lùa và sắp bị lùa mang khẩu hiệu, đơn từ đòi gặp tỉnh trưởng Chương
Thiện. Tỉnh trưởng lánh mặt. Quần chúng bao vây dinh tỉnh trưởng. Lính
được lệnh bắn dọa. Thế là xô xát. Những người bị lùa mang đồ đạc, gạo
thóc xuống xuồng trở về quê cũ. Lính ngăn không nổi.
- May mà lính
biết khôn không bắn vào dân! - Tỉnh trưởng chưa hết hãi hùng đã thú thật
- Chứ dân mà say máu thì chúng tôi không còn ai sống sót… Bây giờ, trăm
sự nhờ trung tá liệu lợi trình với Tổng thống và ông cố vấn. Chúng tôi
sẽ khôi phục khu trù mật, có điều không mau. Cộng sản đã có súng, du
kích lại bắt đầu hoạt động cách Vị Thanh vài cây số thôi…
Thế là
một tỉnh lỵ bị quần chúng tràn ngập! Luân phấn khởi trong lòng, dặn dò
chớ không rầy quở tỉnh trưởng, bay trở về Sài Gòn. Anh được Nhu cho miễn
viết một báo cáo đầy đủ. Nhu nghe anh chừng mươi phút, ngăn anh:
- Lúc khác tụi mình sẽ bàn kỹ. Bây giờ, có một công vụ đặc biệt, Tổng thống muốn đích thân giao anh…
----------
(1) Cải chính, sửa sai.
(2) Phốt pho đỏ, một hóa chất để chế tạo thuốc súng
(3) Súng trường Đông Dương (sản xuất tại Việt Nam)
CHƯƠNG 4
- Nghiêm!
Khẩu lệnh của đại tá lữ đoàn trưởng ngân dài. Ông đứng
trước hàng quân, đưa tay lên vành mũ. Chiếc xe mui trần chở Tổng thống
lăn bánh chầm chậm rồi dừng hẵn. Tổng thống rạng rỡ trong bộ quần áo màu
trắng mà ông ưa thích, tì tay lên thành vịn, thẳng người. Tiếng chập
gót chân như một nốt nhạc uyển chuyển vang lên đều đặn suốt hàng quân và
rừng mũ đỏ cùng màu loang lổ của bộ quần áo lính Dù khẽ động đậy - khẩu
tiểu liên được xốc dưới vai trái, còn cánh tay phải thì đặt vào nịt.
Ngực cả lữ đoàn ưỡn về phía trước. Cổ ngước cao. Công phu tạo hình chữ
thành tựu mỹ mãn: một quần thể tượng đắp nổi sừng sững dưới tàn điệp
chói chang hòa trong tia nắng vàng mùa xuân.
Không đợi các bài báo
kèm ảnh phát hành sau đó giới thiệu, mà khí thế đặc biệt hùng tráng của
buổi lễ gieo một ấn tượng sâu đậm vào những người trực tiếp chứng kiến
trên lễ đài dựng sau nhà thờ Đức Bà và trong đám đông tụ tập quanh quảng
trường.
Tổng thống tỏ ra có lý khi mời đoàn ngoại giao, các nhân
sĩ - nên hiểu là nhóm chống ông, công khai hoặc ngấm ngầm - dến dự lễ
duyệt binh này. Gọi lễ duyệt binh là theo giấy mời của Văn phòng Tổng
thống, kỳ thật, nó là lễ ra mắt của một lực lượng thôi: lính Dù. Lính Dù
ra mắt với quy mô lớn nhất từ khi binh chủng được chào đời ở Việt Nam
Cộng hòa. Còn vì sao Tổng thống hết sức hân hoan thì phải nghe thông
điệp của ông mới rõ.
Tổng thống không khệnh khạng trên lễ đài như
bao nhiêu lần đọc thông điệp trước. Ông đứng trên xe, chắc chắn để tạo
liên tưởng chính ông chỉ huy - chứ không chỉ là người lãnh đạo - ở tầng
xa xôi với những lính, những sĩ quan được tuyển chọn chặt chẽ này, những
người mà lòng trung thành với cá nhân Tổng thống nhất định phải tuyệt
đối. Tổng thống trả lại bằng sự tin cậy cũng tuyệt đối, những người hội
đủ bốn tiêu chuẩn do Tổng thống quy định: thiện chiến, gan dạ, quê miền
Trung, theo đạo Thiên Chúa.
Máy quay phim, máy ảnh, máy thu thanh
rình cái phút Tổng thống cất tiếng phá lệ trên chiếc xe mui trần, cạnh
ngọn hiệu kỳ của lính Dù, trước hàng quân mà số sĩ quan xếp thành hình
chóp, đỉnh chóp là đại tá Nguyễn Chánh Thi, các thiếu tá Phan Trọng
Chinh, Trần Xuân Soạn gần như đối mặt với Tổng thống.
Tổng thống
rút tờ giấy. Mắt ông vào tuổi 59 còn rất tinh tường để nhìn khắp lượt
hàng quân. Trong một giây, Tổng thống cau mày và trong một giây, Tổng
thống tìm được cái ý thay cho lời mở đầu khô khan của thông điệp viết
sẵn. Lần nữa, Tổng thống phá lệ:
- Hỡi các thiên thần mũ đỏ! Hỡi những đứa con yêu của ta!
Nhiều bức ảnh sau này cho thấy cả những giọt nước mắt trên má không chỉ của vài người lính, sĩ quan Dù…
Luân
đứng sau dãy ghế dành cho quan khách, trên lễ đài. Vị trí đó cho phép
anh được nhìn toàn cảnh hàng quân, Tổng thống và những người chứng kiến.
Hàng quân bỗng chốc đờ đẫn như bị thôi miên, Tổng thống tiếp tục thỏa
mãn, dân chúng hẳn vì hiếu kỳ nên sự trầm trồ, Luân đoán, tựu trung ở
cái dáng man rợ của hàng quân. Còn quan khách, cả một bí ẩn. Đại sứ Pháp
Jean Payart khoanh tay ngang ngực, gần như không cử động. Phan Khắc Sửu
vuốt mãi hàng ria mép, ông và bạn bè thừa hiểu lễ duyệt binh này nhằm
uy hiếp ai. Các địa phú thương người Hoa khép nép - đáng lý họ có quyền
thẳng lưng bởi chính họ nhận đỡ đầu lữ đoàn Dù. Tình cờ, Bá Thượng Đài
lại ngồi ngay trước Luân - ông ta càng co ro hơn, không dám ngoảnh nhìn
chung quanh; vụ đảng Rừng Xanh còn sờ sờ đó! Đại sứ Durbrow sóng đôi với
tướng Williams, hai người duy nhất tỏ rõ thái độ: họ hồ hởi vẫy chào
lính Dù. Thỉnh thoảng Durbrow ngoái cổ, nheo mắt với Luân, miệng cười
thật hào phóng. Tất nhiên, Luân không thể nào đoán ra ý nghĩa của cái
nheo mắt và nụ cười kia. Fanfani bước qua lễ đài. Cô ta gương máy, chỉnh
cận cảnh và bấm - ảnh đại sứ Mỹ đùa với Luân đã được ghi nhận.
Mặt
trời phía đông xô cái bóng đồ sộ của Vương cung thánh đường trùm lên
khu lễ đài nơi Tổng thống Diệm đang nhấm nháp quyền uy của mình. Có lẽ
ông ta không còn một mực tin ở chỗ dựa cố hữu nữa - đằng sau ông là nhà
thờ và nước Mỹ - mà tìm kiếm môt đảm bảo mới. Luân nghĩ như vậy. Gần gũi
Diệm, anh hiểu ra vị tổng thống thích được sùng bái ngang với thích
quyền lực. Trên một danh nghĩa nào đó, ông ta ngây thơ. Chính Luân chứng
kiến buổi lễ ông viếng Trịnh Minh Thế.
Ông ta hoàn toàn và thành
thật nuối tiếc viên sĩ quan - ông gọi Thế là “hổ tướng” - bị Nhu sớm
phát hiện khả năng phản bội… Bây giờ, ông có bao nhiêu là Trịnh Minh
Thế. Nếu Nhu không ngăn, Nguyễn Chánh Thi hôm nay đã đứng trước hàng
quân với hàm thiếu tướng rồi.
“Đôi khi người ta vui vẻ sửa soạn đào
huyệt tự chôn mình”! - Luân chợt nghĩ khi lính Dù đều bước qua mặt Tổng
thống… “Họ đang bị thôi miên. Và nếu họ tỉnh ra?”
*
Buổi
chiều, trong trại Lê Văn Duyệt - trước kia, tên gọi là Camp Chanson,
viên tướng viễn chinh Pháp bị du kích Sa Đéc giết chết ngay trong lễ
duyệt binh năm 1951 - đại tá lữ trưởng mở tiệc rượu. Quan khách không
đông lắm. Điều đó dễ hiểu thôi. Sự ưu ái quá mức của tổng thống đối với
lữ đoàn đã buồn lòng nhiều sĩ quan cầm đầu các quân chủng khác. Người ta
thấy hiện diện trong buổi tiếp tân các sĩ quan thuộc Liên binh phòng vệ
Phủ tổng thống dưới quyền của đại tá Lê Quang Tung - vừa lãnh nhiệm vụ
thay đại tá Nguyễn Thế Như thất sủng, các sĩ quan chỉ huy quân biệt
động. Có hai vị cấp tướng: trung tướng Thái Quang Hoàng và thiếu tướng
Mai Hữu Xuân, ngoài trung tướng Trần Văn Đôn thay đại tướng Lê Văn Tỵ
vắng mặt vì lý do sức khoẻ. Khách dân sự, ngoài các nhân vật ai cũng
biết và lúc nào cũng muốn được quay phim, chụp ảnh như Phan Quang Đán,
Hoàng Cơ Thụy, một số nhà báo, một số nghệ sĩ - nghệ sĩ nữ, “em” của lữ
đoàn - còn các thương phú trong Chợ Lớn - như Bá Thượng Đài, Tần Hoài… -
muốn noi gương tổng thống bày tỏ tâm tình với các đứa con cưng của
người…
Đại tá lữ trưởng tươi cười chạm cốc hết người này đến người
khác. Vây quanh đại tá là đại tá Lê Quang Tung, các sĩ quan Liên binh
phòng vệ, các sĩ quan biệt động quân - hai lực lượng cùng được tổng
thống thương yêu như con đẻ. Các chánh khách ngồi gần nhau, hai sĩ quan
tiếp họ.
Rượu vào lời ra, Lữ trưởng, môi tái mét, bô bô:
- Ông
Cụ đích thân vào đây gặp binh sĩ lữ đoàn, ngồi quây quần như chúng mình
hôm nay. Nhưng mà, mấy chữ mở đầu thông điệp của Cụ mới thật xúc động…
Mời bạn hữu cạn ly chúc sức khỏe ông Cụ.
Đúng ra, hai sĩ quan thỉnh
thoảng đứng lên chúc rượu, không thuộc lữ Dù: Trung tá Nguyễn Triệu
Hồng và trung tá Vương, giảng viên Trường đại học quân sự.
Có một
đại úy mà Luân để ý ngay khi ngồi vào bàn: Phan Lạc, chỉ huy phó biệt
động quân khu thủ đô - người hơi thấp, da ngăm. Đại úy Phan Lạc biểu lộ
rõ con người tự tin, năng động nhưng đầy tâm sự. Anh ta - cũng như Luân,
quan sát khắp lượt chủ khách - giữ thái độ trầm ngâm.
Luân quen
đại úy từ lúc anh học ở Đà Lạt mà đại úy là giảng viên. Theo những tài
liệu Luân nắm được, đại úy Phan Lạc vốn sinh viên Luật, bị động viên năm
1951 - bấy giờ anh ta ở Hà Nội. Là học sinh khóa sĩ quan người Việt đầu
tiên, khi Pháp “trao trả độc lập” cho Bảo Đại, Phan Lạc cùng khóa với
Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Bảo Trị, Nguyễn Đức Thắng… Năm 1957, Phan Lạc được
Diệm cho sang Mỹ học lớp báo chí ở New York và nghiên cứu về chỉ huy và
tham mưu ở Fort Bragg, bang Bắc Carolina. Anh ta là thư ký tòa soạn tạp
chí Đại học quân sự, tác giả một số bài luận văn đồng thời tác giả một
số bài thơ. Chính trong tờ Bách khoa mà Luân cộng tác một thời gian cũng
từng đăng bài của Phan Lạc. Luân nhớ đôi bài thơ khó hiểu, mà Phan Lạc
gửi gấm tỷ như nhưng câu:
Cơn sốt rét
Không lên ở đầu,ngực, tim
Đang bốc lửa ngút tâm hồn
…
Cái đau truyền kiếp ngàn đời
Cái đau của tự do…
Cuối cùng, đại úy Phan Lạc ngó Luân. Anh ta nhún vai. Luân chưa thể hiểu ngay ý nghĩa của cái nhún vai đó.
Lữ trưởng nốc một hơi, lật úp ly. Tiếng hoan hô râm ran. Bây giờ, lữ trưởng cởi phanh áo, chống nạnh:
-
Tướng sống chết vì tri ngộ. Được ông Cụ biết, một lời phủ dụ ân cần,
dẫu bôi gan óc cũng chưa chắc đã xứng với ân đức của lãnh tụ…
Nếu
đại tá lữ trưởng ồn ào thì hai trung ta ở Trường đại học quân sự và đại
úy Phan Lạc hết sức tiết kiệm lời. Cả ba - rất kín đáo - theo dõi Luân.
Luân hơi ngả người trên lưng ghế, nhấm nháp ly rượu và miệng luôn cười.
Anh biết rằng mọi người đang nhìn anh với tất cả ác cảm: gã “bồi” của
nhà Diệm.
Mai Hữu Xuân xem đồng hồ tay. Sau đó, ông ta ghé vào tai
đại tá Thi. Có lẽ ông cáo lỗi. Đúng vậy, thiếu tướng nhanh nhẹn bước lại
chỗ Luân:
- Xin chào trung tá! Tôi có chút việc…
Luân đứng lên lễ phép chào tiễn thiếu tướng trong khi đại tá lữ trưởng mải mê diễn thuyết, chỉ chìa tay hờ hững.
-
Trung thành! Sẵn sàng chấp hành lệnh của Tổng thống… Tôi nhắc lại: Dẫu
Tổng thống bảo lính Dù bước vào lửa, không một ai do dự! - Lữ trưởng
càng nói càng hăng tiết.
Chính vào lúc đó, bắt gặp cái liếc mắt
tinh tế của trung tá Vương và cái tiếp nhận cũng rất tinh tế của đại tá
lữ trưởng, Luân đủ tư liệu để mọc nối các giả định rời rạc của mình về
lữ đoàn Dù và vị chỉ huy của nó. Anh đọc được cái liếc mắt của Vương:
“Lố rồi! Tốp lại…”
Từ
đó, đại tá ít nói hơn. Luân hết ngạc nhiên: một người nổi tiếng mạnh
rượu như đại tá lữ trưởng không thể nào say dễ dàng như vừa rồi.
Luân thấy đã đến lúc nên từ giã chủ nhà. Đại tá lữ trưởng bắt tay Luân thật chặt:
- Nhờ trung ta trình bày với ông Cụ: chúng tôi hết sức phấn khởi!
Đại úy Phan Lạc đứng lên:
- Tôi rất muốn được gặp trung tá.
- Ồ! - Luân cười thật tươi - Xin đại úy cho một cái hẹn.
- Tôi sẽ điện thoại, chúng ta nói chuyện về binh pháp cổ! - Đại úy cũng cười.
- Hay! Tôi đã đọc các bài của đại úy.
Vương tiễn Luân. Hai người sánh vai ra khỏi phòng.
-
Trong công tác, chúng tôi còn cần rất nhiều sự chăm sóc, giúp đỡ của
trung tá - một sĩ quan mà chúng tôi kính trọng như đàn anh… - Vương nói,
cái vẻ khôn khéo hoàn toàn khớp với con người ông ta, khác hẳn đại tá
Thi.
- Bà trung tá và các cháu bao giờ thì sang Pháp? - Luân hỏi
một câu không ăn nhập gì với cái đà của buổi tiếp tân và càng không
tương xứng với mối quan hệ giữa anh và trung tá Vương - họ chỉ gặp nhau
quanh bàn họp, tuyệt nhiên không dính một chút riêng tư.
- À! -
Vương thoáng bối rối - Tôi định như vậy, song chưa tính ngày giờ cụ thể…
Có lẽ nhà tôi đi Tây Đức, ở đó có bác sĩ chuyên môn trị bệnh nhức đầu.
Các cháu theo mẹ, bởi nhà tôi không muốn xa con…
Vương không trả lời mà giải thích với những chi tiết không cần thiết.
Vợ
Vương xin đi chữa bệnh ở nước ngoài theo đề nghị của bác sĩ. Trần Kim
Tuyến bàng quan với việc này, song Luân chú ý. Dung quen vợ Vương và
Dung chưa hề nghe bà ta mắc bệnh nhức đầu - một thứ bệnh mà người ngoài
không tài nào nhận ra triệu chứng.
- Hôm nào chúng tôi mời trung tá
đến trường đại học… - Vương giành chủ động trong câu chuyện khi hai
người đến bãi đỗ xe - Tôi sắp giảng bài “Quân Dù trong đội hình lữ
đoàn”, chủ yếu nói về triển khai nhảy xuống các vùng địa hình phức tạp
và vào ban đêm… - Cám ơn trung tá! Song, trang bị của lính Dù e nhẹ quá
chăng?
- Không! Cả súng, đạn, mỗi người mang trên mình đến hai mươi ký lô.
-
Dầu sao, trang bị như vậy vẫn nhẹ… - Luân vừa nói vừa ngó mấy chiếc xe
bọc thép đậu ngay cổng, cạnh các khẩu pháo nghếch nòng.
Vương sững sờ. Trán ông lấm tấm mồ hôi… Bây giờ, ông ta hiểu Luân nói chữ “nhẹ” theo nghĩa nào!
-
Tôi chợt nhớ một ngạn ngữ phương Tây, của Gabriel Meurier: Les
conseillers ne sont pas les payeurs(1) - Luân nói, khi đã mở cửa xe -
Tôi chỉ là người quan sát!
Luân bắt tay Vương. Xe đã ra cổng, Vương còn đứng đó khá lâu
----------
(1) Người khuyên không phải là người phải trả (hậu quả của lời khuyên)
CHƯƠNG 5
- Em chuyển nhanh báo cáo này cho A.07 -
Luân đưa cho Dung một mảnh giấy. - Có thể sẽ có một cái gì đó dữ dội hơn
hai phát súng Tây Nguyên. Không phải hành động may rủi kiểu anh Phúc mà
từ một cái nền, từ những điều kiện đã chín muồi.
Nhận mảnh giấy, Dung đọc nhanh.
- Em sẽ mã ngay! - Dung bảo, - Nhưng…
Đôi mắt đen láy của người yêu ánh một số tia hoài nghi. Luân ngồi xuống cạnh cô.
- Anh tổng hợp các dữ kiện và đi đến kết luận này. Người Mỹ bắt đầu nghĩ đến khả năng xếp đặt lại con bài khi mà họ cảm thấy công thức được đề ra 5 năm qua đi gần đến sự phá sản - công thức một chính quyền bản xứ mạnh cộng với viện trợ Mỹ. Nói cụ thể hơn, công thức đó là Diệm - Williams - Gardiner. Thực tế, Nam Việt đứng trước nguy cơ khó tồn tại với tư cách một thực dân địa kiểm mới của Mỹ, ở đó Mỹ chỉ làm cái việc đơn giản là trả tiền và dạy bảo. Chính quyền đã mất một bộ phận nông thông quan trọng, đặc biệt ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Lực lượng cách mạng phát triển nhảy vọt. Diệm chẳng những không đáp ứng đòi hỏi ổn định tình hình mà Mỹ hết sức thiết tha, lại làm cho tình hình thêm phức tạp, tất nhiên, theo nhận định chủ quan của Mỹ, đảng Cộng hòa chắc chắn là phải rời chính quyền trong cuộc bầu cử tới, không còn đủ lý do bảo vệ Diệm. Đảng Dân chủ, ngay từ bây giờ, đang tính sổ. Họ không muốn, bốn năm sau, lại là nạn nhân như đảng Cộng hòa, thất cử vì thất bại ở Việt Nam.
Diệm, về phần ông, giải thích tình hình từ điểm xuất phát ngược hẳn: những khó khăn hiện thời do người Mỹ chao đảo trước phe Cộng sản, không dồn sức viện trợ cho Việt Nam, đặc biệt, không dám cam kết ủng hộ Nam Việt thay đổi lằn ranh chia đôi đất nước. Ông Diệm trách người Mỹ theo bánh xe của thực dân Pháp - kiềm hãm sự phát triển tại đây. Ông Diệm lần lần khẳng định ông ta phải đủ mạnh - chính sách của ông ta là xây dựng sức mạnh đó về chính trị, quân sự, ý thức hệ, mặc kệ người Mỹ thích hay không thích? - Nói như anh, Mỹ sắp thay công thức? - Dung hỏi.
Luân cười, cầm tay cô.
- Em đừng nghĩ thay công thức đồng nghĩa với xóa ông Diệm… Điều đó chưa cần thiết. Diệm vẫn còn - anh tin vậy - nhưng ông ta sẽ không chỉ làm việc với “hình thức Williams”…
- Nghĩa là Mỹ tăng thêm lực lượng?
- Em tôi thông minh thật! - Luân áp bàn tay Dung vào má mình - Mỹ tăng thêm lực lượng nghĩa là mở rộng vai trò ở Nam Việt. Vai trò Mỹ mở rộng, công thức biến chất - ông Diệm không còn là ông Diệm như trước đây.
- Và như điện của anh gởi A.07, có thể có một hành động cảnh cáo nào đó của Mỹ?
- Anh nghiêng về khả năng đó… Một ngọn roi của ông chủ nẹt vào mông con ngựa bất kham… Tuy nhiên…
Luân nhìn chăm chú mắt Dung.
- Tuy nhiên Diệm không đến nỗi khờ khạo không thấy cái gì đang chờ đợi ông. Ông hành động. Lữ đoàn Dù là một trong những hành động tự vệ đó. Vả lại, cả Mỹ và ông Diệm đều hiểu họ mất quyền chủ động trong tình hình Nam Việt, cho nên, khi đấu đá, họ vẫn tự kiềm chế, anh muốn nói yếu tố Pháp. Có thể cái bất ngờ đối với họ là Pháp.
Chuông điện thoại reo. Luân cầm máy:
- Tôi đây! Chào trung tá… Tôi nghe… Không có gì đặc biệt. Đó là nhận xét đơn thuần của một người quan sát về một vấn đề cũng đơn thuần kỹ thuật… Cám ơn, tôi sẽ có mặt!
Dung không hiểu nội dung Luân vừa trao đổi bằng điện thoại.
- Ai vậy, anh?
- Trung tá Vương… Ông ta băn khoăn nhận xét của anh ta về trang bị lữ đoàn Dù. Anh nhận xét rằng lữ đoàn Dù trang bị “nhẹ”. Ông ta muốn rõ ý anh… Vì ông ta hốt hoảng mà anh càng tin mình phân tích đúng… Em mã ngay bức điện nhé.
Dung giật đầu, đứng lên. Nhưng Luân giữ tay cô:
- Em cho anh hôn!
Dung đỏ bừng má, nhắm nghiềm mắt, chờ đón…
*
Luân đoán trước anh được gọi và dinh Độc Lập để làm gì. Gần một tuần nay Nhu giao cho anh đọc tất cả các báo cáo mới nhất của tỉnh trưởng Kiến Hòa, các thông báo liên quan đến Kiến Hòa của tình báo quân khu. Ở châu thổ sông Cửu Long, hiện nay, Kiến Hòa là tỉnh rơi vào điểm xấu nhất, đứng về an ninh nội địa. Tuy tỉnh trưởng Kiến Hòa cố chống chế và giảm nhẹ thực trạng, song bức tranh chung hết sức đen tối. Việt Cộng làm chủ gần như toàn tỉnh, chỉ trừ tỉnh lỵ và một số thị trấn. Cơ quan tình báo Mỹ coi Kiến Hòa là “vườn ươm các giống cây phiến loạn”, nếu không ngăn chận, toàn bộ lưu vực sống Cửu Long - còn có thể rộng hơn - sẽ bị Cộng sản tràn ngập.
Khi giao cho Luân tài liệu, Nhu bảo:
- Tôi định tung một lực lượng quân đội lớn bình định Kiến Hoà, tỷ như sư 7 và sư 21. Biệt động quân, nếu cần, cả lữ đoàn Dù. Anh nghiên cứu kỹ, rồi ta sẽ trao đổi. Nhưng gấp lắm…
Các tài liệu đều nêu lên nhận định - nói đúng hơn, giả định, bởi bì tình trạng Kiến Hòa không giống bất kỳ tình trạng nào mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn từng biết trước đây. Suốt 5 năm, cái tỉnh rợp bóng dừa và mênh mang sông nước này ngoan ngoãn - đến nỗi chưa bao giờ cần đến các cuộc hành quân - ngay đồn bót và dân vệ cơ hồ không có việc để làm, ngoài uống rượu, cờ bạc và trêu chọc gái, trừ vụ náo động sau ngày đình chiến ở Mỏ Cày - quân đội đàn áp đẫm máu một cuộc biểu tình mừng hòa bình của dân chúng. Sĩ quan ở Bộ tổng tham mưu không ít người mơ ước chân cai trị ở Kiến Hòa - nhàn hạ, yên thân, “đồng ra đồng vào” vừa phải. Cù lao lớn, cù lao nhỏ xanh mướt, dạo chơi bằng thuyền máy, bằng tàu trên sông là thú tiêu khiển lôi cuốn dân có tiền ở Sài Gòn mỗi cuối tuần. Mọi sự phẳng lặng. Đùng một cái, Kiến Hòa báo động khẩn. Qua vài ngày, hầu hết thị trấn và cả thị xã Trúc Giang bị cô lập. Hệ thống cai trị hạ tầng giống sáp kê gần lửa, đồn bót sụp đổ; hàng trăm nhân viên công an mất tích. Cù lao Bảo, cù lao Minh, Bình Đại hay Mỏ Cày, Ba Tri hay Thạnh Phú… chìm trong ánh đuốc rực trời, trong tiếng mõ lấn áp mọi tiếng súng.
Ban đầu, người ta đưa lên hàng chủ yếu nguyên nhân: Việt Cộng “từ nơi nào đó kéo về Bến Tre”. Vì chỉ có như vậy mới tạo nổi một đảo lộn quá sức lạ lùng. Nhưng lập luận đó không đứng vững: Việt Cộng từ nơi nào? từ Đồng Tháp Mười? từ rừng U Minh? Vô lý! Vài báo cáo đẩy nguyên nhân ra tận Hà Nội - Bắc Việt cho quân đổ bộ lên bờ biển Bến Tre.
Vài tháng qua, thêm chứng cớ, người ta biết là không có lấy một cán binh Việt Cộng nào từ nới khác đến Bến Tre. Tất cả là do dân Bến Tre! Và, người chỉ huy “Cộng sản dậy” ở Bến Tre - một người phụ nữ nổi tiếng lâu, thứ Ba, tên Định: Nguyễn Thị Định. Bài toán, với những phát hiện này, chỉ càng bí hiểm hơn. Bộ tổng tham mưu dốc xuống Kiến Hòa toàn bộ liên đoàn thủy quân lục chiến thuộc lực lượng tổng trù bị, mở một cuộc tấn công quy mô vào ba xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh của quận Mỏ Cày, nơi mà tin tình báo cho biết đầu não Tỉnh ủy Việt Cộng đang đóng sở chỉ huy. Cái gì mà quân lực Việt Nam Cộng hòa có - bom, pháo, giang thuyền, máy bay, xe lội nước - đều được sử dụng tối đa trên một diện tích chưa tới 4.000 hecta, địa hình nói chung không quá phức tạp. Suốt nửa tháng quần thảo, quân lực Việt Nam Cộng hòa không chạm trán một trận nào lớn với Việt Cộng, song giờ nào, phút nào cũng vấp tổn thất: bị bắn tỉa với kiểu súng cổ, bị vướng lựu đạn, đạp chông, bị “súng ngựa trời”, thậm chí, bị ong đánh! Dồn các tổn thất lại, con số thương vong đáng sợ: hàng nghìn - chết ít thôi, song mất khả năng chiến đấu là phổ biến. Vấn đề chưa phải hết. Một hôm, chợ Mỏ Cày náo động. Hàng vạn người - đa số là bà già, ông già, người tu hành, trẻ con - bồng bế, gồng gánh chạy vào thị trấn, nói là tránh “quân đội Quốc gia đốt nhà, phá làng, giết người”. Dọa họ, họ không nao núng. Bắn chỉ thiên, họ càng xông lên hăng hơn. Rốt cuộc, dinh quận bị vây. Quận trưởng báo cáo về tỉnh, tỉnh xin ý kiến Sài Gòn. Chỉ thị của Sài Gòn: xoa dịu. Thế là quận trưởng phải hứa thu quân. Cuộc càn quét ba xã chẳng những không hề hấn Việt Cộng mà còn đẻ ra một lực lượng chống đối mới - những người biểu tình, đặc biệt trong đó ngày càng nhiều hơn thân nhân binh sĩ đang tại ngũ.
Có thể nói là tình thế rối tinh.
*
- Anh thấy thế nào? - Nhu hỏi Luân.
- Khó hiểu! Bởi vậy, tôi không dám đưa ra một nhận xét. - Luân trao trả cặp hồ sơ dày cộm cho Nhu.
- Tôi sẽ giúp cho anh tìm hiểu! - Nhu mỉm cười, đưa cặp hồ sơ lại cho Luân - Tổng thống đã ký quyết định giao anh là tỉnh trưởng Kiến Hòa. Quyết định có hiệu lực từ chiều hôm qua.
Luân làm như bị bất ngờ. Thái độ của anh khiến Nhu cười ồ:
- Anh đừng rủa tôi ùn cho anh chuyện khó… Thiệt tình, từ gợi ý của Tổng thống. Tôi tán thành vì chưa thấy cách nào hay hơn…Sẵn sàng chứ?
Luân không trả lời ngay. Anh gõ mấy ngón tay lên mặt bàn, ngó đăm đăm bức tranh trên tường.
- Rubens gợi ý gì hay cho anh không? - Nhu hỏi, cười cười. Anh ta nói về bức tranh sơn dầu “Kermess” của danh họa Rubens - phiên bản có lẽ treo từ thời Toàn quyền Đông Duơng.
- Anh cho tôi suy nghĩ vài ngày, được không? - Luân đắn đo.
- Tôi tưởng là anh đã suy nghĩ cả tuần nay rồi… Anh thấy chỗ nào khó khăn hoặc bất tiện đối với chức vụ của anh? - Nhu bắt đầu sốt ruột.
- Tôi ngại không đảm đương nổi…
- Nếu anh nói như vậy, tôi yêu cầu anh xuống Kiến Hòa nội hôm nay! Kiến Hòa thiếu đầu đàn, anh hiểu chứ?
- Anh quên câu danh ngôn của Ani: Le chef du troupeau est un animal comme les autres (1) - Luân bớt căng thẳng.
- Không quên! Tôi còn nhớ một danh ngôn khác: C’est aux miracles que I’on connait les Saints; (2) Anh ta lấy tên thánh Robert (3) mà! Và, hôm nay, gần ngày lễ bổn mạng của của… Vả lại, Rubens đã tiên tri công việc của anh! Kermess (4)
- Tôi muốn biết quyền hạn của tôi… - Luân nói sang việc khác và Nhu biết là anh không từ chối nhiệm vụ.
- Anh khỏi lo! - Nhu cười như anh ta đúng là tri kỷ của Luân - Quyết định của Tổng thống nói rõ: Anh toàn quyền hành động… Anh đọc đi. - Nhu chìa cho Luân tờ giấy đánh máy…
Đọc xong, Luân vẫn im lặng.
- Còn gì nữa? - Nhu hỏi.
- Tới đây, có thể không phải giữa tôi và một số người khác nhau về cách lặp lại trị an ở Kiến Hòa mà giữa tôi và anh…
- Được! Đâu phải đây là lần đầu chúng mình khác ý nhau… Mà khác ý về cái gì?
- Anh định đưa một lực lượng lớn xuống Kiến Hòa… Tôi chưa tin lối ra tìm được từ các sư đoàn. Sư đoàn nào dám bắn các bà mẹ, nhất là trong các bà mẹ đó có cả mẹ ruột của mình?
Luân đã chiếu tướng Nhu. Anh ta ngắc ngứ một hồi lâu:
- Thôi, sau khi nắm đầy đủ tình hình tại chổ, tụi mình trao đổi lại. Có thể anh có lý. Nhưng, Kiến Hòa không phải là Bình Dương…
- Và năm 1960 không phải là năm 1958, chắc anh muốn nói như vậy. - Luân ngắt lời Nhu - Tôi không sẵn trong mình một cái khuôn…
- Tôi hiểu…
- Tôi chưa nói hết ý, anh hãy nghe: Nếu anh tin cậy vào những sư đoàn dám bắn mẹ chúng thì ta thực sự ngồi trên ngọn núi lửa!
Giọng Luân khô khốc. Anh giống kẻ đi săn quyết truy con thú tới cùng.
- Anh từng nói: Ami ou enemi, puisqu’on me craigne (5). Nếu cái khiến người ta sợ không còn hiệu lực nữa, sẽ thế nào? Y người dạy thú gãy cây roi điện.
Nhu chới với. Lần đầu tiên, anh nghe Luân phê phán kịch liệt như vậy. Tất nhiên, nếu vài năm trở về trước, lời lẽ kiểu đó của Luân chắc chắn đưa Nhu đến một hành động trừng phạt khủng khiếp, không nương tay.
- Tôi cám ơn anh. Thành thật cám ơn. - Nhu nói trong giọng trầm trầm - Mà tôi cũng tự cám ơn tôi! Tôi đã đủ khôn ngoan tạo ra sự hợp tác giữa chúng ta… Nếu không… Bây giờ thì tôi không muốn che giấu anh: Nhiều lúc tôi nghĩ đến biện pháp cụ thể lại trừ anh, và tôi tin anh đoán ra - nếu tôi cư xử với anh như vậy thì vĩnh viễn tôi không còn được nghe những lời khuyên chí tình, những lời khuyên xét cho cùng, vì chúng tôi…
- Vì cả tôi nữa! - Luân nói chen.
- Nếu anh thích diễn đạt theo ý riêng… Tôi định hôm nào rảnh nói chuyện với anh. Nói hết! Tại sao chúng ta không làm như vậy, phải không?… Sự hợp tác giữa chúng ta đi đến chỗ chúng mình tìm thấy tiếng nói chung. Đã đến lúc chúng ta không nên thủ thế… Điều quan trọng là mỗi người chúng ta đều có khía cạnh lợi cho nhau. Năm năm! Một alliance (6) khá bền bỉ… Vài hôm, khi anh về Sài Gòn. Còn bây giờ, tôi phải uống mừng tân tỉnh trưởng Kiến Hòa!
Nhu bấm chuông gọi người phục vụ.
*
Chỉ thị A.07 đến, nhưng không đủ. Bức điện dài khác thường chỉ thu được non một nửa. Điện đài bị bom.
“Được báo cáo của Kỵ sĩ và Mimosa. Hoan nghênh về việc riêng của hai đồng chí, tổ chức không thấy gì trở ngại. Xin được chúc mừng. Bản Tango đắc lực. Song, đến lúc chấm dứt. Bản Tango trên đường về. Sau đây là tóm tắt phân tích tình hình chung (không biết chúng nó lấy được nghị quyết 15 của Trung ương ở đâu ra?) a) Trong thời kỳ tạm thời ổn định của Mỹ - ngụy ở miền Nam đã qua, chúng đang bước vào giai đoạn khủng hoảng sâu sắc. Tình thế đó hé mở cho nhân dân miền Nam khả năng nâng cao hình thức đấu tranh chính trị và quân sự, nhanh chóng xây dựng lực lượng, giành địa bàn nông thôn và rừng núi rộng lớn, thúc đẩy thêm mẫu thuẫn nội bộ địch phát triển gay gắt… b) Có thể Mỹ buộc phải thay đổi tay sai bằng một hành động nào đó để cứu vãn tình hình, hoặc phải thay đổi chính sách ở miền Nam, đưa cố vấn Mỹ từ nhiệm vụ huấn luyện quân ngụy lên thành lực lượng tham gia hoạt động, với số lượng động hơn. Biến động gắn liền với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ. c)…
Chỉ có bấy nhiêu. Luân và Dung chưa từng nghe đến nghị quyết 15. Hay là Nhu giấu… Nếu thế, sự bộc bạch vừa rồi của anh ta là một làn khói, thăm dò. Nhưng, Luân tin là cảm giác của mình không phản bội. Hơn nữa, Nhu muốn đặt quan hệ giữa Luân và anh ta trên cơ sở mới. Luân dự kiến từ lâu xu thế này và đã sẵn sàng. Như vậy, nghị quyết 15 lọt vào tay ai? “Chúng nó” là Tổng ủy tình báo hay Đại sứ quán Mỹ? Rất có thể Nhu chưa biết gì về nghị quyết này.
Bức điện chưa hết, nhưng cũng đã nói những điều thật cốt yếu. Nó củng cố Luân. Hai chi tiết đáng mừng: Lục sắp vào và…
Đêm ấy, cửa phòng đóng kín. Luân và Dung ăn mặc đẹp. Họ đứng cạnh lọ hoa to.
Đám cưới lặng lẽ như thế đó… Đám cưới thật.
----------
(1) Người đầu đàn cũng là một động vật như các động vật khác.
(2) Chính trong mầu nhiệm mà người ta tìm ra các ông Thánh
(3) Thánh Robert, thế kỷ 11, lễ vào tháng 4
(4) Ngày hội
(5) Bạn hay thù, miễn họ sợ tôi
(6) Liên minh
Nhận mảnh giấy, Dung đọc nhanh.
- Em sẽ mã ngay! - Dung bảo, - Nhưng…
Đôi mắt đen láy của người yêu ánh một số tia hoài nghi. Luân ngồi xuống cạnh cô.
- Anh tổng hợp các dữ kiện và đi đến kết luận này. Người Mỹ bắt đầu nghĩ đến khả năng xếp đặt lại con bài khi mà họ cảm thấy công thức được đề ra 5 năm qua đi gần đến sự phá sản - công thức một chính quyền bản xứ mạnh cộng với viện trợ Mỹ. Nói cụ thể hơn, công thức đó là Diệm - Williams - Gardiner. Thực tế, Nam Việt đứng trước nguy cơ khó tồn tại với tư cách một thực dân địa kiểm mới của Mỹ, ở đó Mỹ chỉ làm cái việc đơn giản là trả tiền và dạy bảo. Chính quyền đã mất một bộ phận nông thông quan trọng, đặc biệt ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Lực lượng cách mạng phát triển nhảy vọt. Diệm chẳng những không đáp ứng đòi hỏi ổn định tình hình mà Mỹ hết sức thiết tha, lại làm cho tình hình thêm phức tạp, tất nhiên, theo nhận định chủ quan của Mỹ, đảng Cộng hòa chắc chắn là phải rời chính quyền trong cuộc bầu cử tới, không còn đủ lý do bảo vệ Diệm. Đảng Dân chủ, ngay từ bây giờ, đang tính sổ. Họ không muốn, bốn năm sau, lại là nạn nhân như đảng Cộng hòa, thất cử vì thất bại ở Việt Nam.
Diệm, về phần ông, giải thích tình hình từ điểm xuất phát ngược hẳn: những khó khăn hiện thời do người Mỹ chao đảo trước phe Cộng sản, không dồn sức viện trợ cho Việt Nam, đặc biệt, không dám cam kết ủng hộ Nam Việt thay đổi lằn ranh chia đôi đất nước. Ông Diệm trách người Mỹ theo bánh xe của thực dân Pháp - kiềm hãm sự phát triển tại đây. Ông Diệm lần lần khẳng định ông ta phải đủ mạnh - chính sách của ông ta là xây dựng sức mạnh đó về chính trị, quân sự, ý thức hệ, mặc kệ người Mỹ thích hay không thích? - Nói như anh, Mỹ sắp thay công thức? - Dung hỏi.
Luân cười, cầm tay cô.
- Em đừng nghĩ thay công thức đồng nghĩa với xóa ông Diệm… Điều đó chưa cần thiết. Diệm vẫn còn - anh tin vậy - nhưng ông ta sẽ không chỉ làm việc với “hình thức Williams”…
- Nghĩa là Mỹ tăng thêm lực lượng?
- Em tôi thông minh thật! - Luân áp bàn tay Dung vào má mình - Mỹ tăng thêm lực lượng nghĩa là mở rộng vai trò ở Nam Việt. Vai trò Mỹ mở rộng, công thức biến chất - ông Diệm không còn là ông Diệm như trước đây.
- Và như điện của anh gởi A.07, có thể có một hành động cảnh cáo nào đó của Mỹ?
- Anh nghiêng về khả năng đó… Một ngọn roi của ông chủ nẹt vào mông con ngựa bất kham… Tuy nhiên…
Luân nhìn chăm chú mắt Dung.
- Tuy nhiên Diệm không đến nỗi khờ khạo không thấy cái gì đang chờ đợi ông. Ông hành động. Lữ đoàn Dù là một trong những hành động tự vệ đó. Vả lại, cả Mỹ và ông Diệm đều hiểu họ mất quyền chủ động trong tình hình Nam Việt, cho nên, khi đấu đá, họ vẫn tự kiềm chế, anh muốn nói yếu tố Pháp. Có thể cái bất ngờ đối với họ là Pháp.
Chuông điện thoại reo. Luân cầm máy:
- Tôi đây! Chào trung tá… Tôi nghe… Không có gì đặc biệt. Đó là nhận xét đơn thuần của một người quan sát về một vấn đề cũng đơn thuần kỹ thuật… Cám ơn, tôi sẽ có mặt!
Dung không hiểu nội dung Luân vừa trao đổi bằng điện thoại.
- Ai vậy, anh?
- Trung tá Vương… Ông ta băn khoăn nhận xét của anh ta về trang bị lữ đoàn Dù. Anh nhận xét rằng lữ đoàn Dù trang bị “nhẹ”. Ông ta muốn rõ ý anh… Vì ông ta hốt hoảng mà anh càng tin mình phân tích đúng… Em mã ngay bức điện nhé.
Dung giật đầu, đứng lên. Nhưng Luân giữ tay cô:
- Em cho anh hôn!
Dung đỏ bừng má, nhắm nghiềm mắt, chờ đón…
*
Luân đoán trước anh được gọi và dinh Độc Lập để làm gì. Gần một tuần nay Nhu giao cho anh đọc tất cả các báo cáo mới nhất của tỉnh trưởng Kiến Hòa, các thông báo liên quan đến Kiến Hòa của tình báo quân khu. Ở châu thổ sông Cửu Long, hiện nay, Kiến Hòa là tỉnh rơi vào điểm xấu nhất, đứng về an ninh nội địa. Tuy tỉnh trưởng Kiến Hòa cố chống chế và giảm nhẹ thực trạng, song bức tranh chung hết sức đen tối. Việt Cộng làm chủ gần như toàn tỉnh, chỉ trừ tỉnh lỵ và một số thị trấn. Cơ quan tình báo Mỹ coi Kiến Hòa là “vườn ươm các giống cây phiến loạn”, nếu không ngăn chận, toàn bộ lưu vực sống Cửu Long - còn có thể rộng hơn - sẽ bị Cộng sản tràn ngập.
Khi giao cho Luân tài liệu, Nhu bảo:
- Tôi định tung một lực lượng quân đội lớn bình định Kiến Hoà, tỷ như sư 7 và sư 21. Biệt động quân, nếu cần, cả lữ đoàn Dù. Anh nghiên cứu kỹ, rồi ta sẽ trao đổi. Nhưng gấp lắm…
Các tài liệu đều nêu lên nhận định - nói đúng hơn, giả định, bởi bì tình trạng Kiến Hòa không giống bất kỳ tình trạng nào mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn từng biết trước đây. Suốt 5 năm, cái tỉnh rợp bóng dừa và mênh mang sông nước này ngoan ngoãn - đến nỗi chưa bao giờ cần đến các cuộc hành quân - ngay đồn bót và dân vệ cơ hồ không có việc để làm, ngoài uống rượu, cờ bạc và trêu chọc gái, trừ vụ náo động sau ngày đình chiến ở Mỏ Cày - quân đội đàn áp đẫm máu một cuộc biểu tình mừng hòa bình của dân chúng. Sĩ quan ở Bộ tổng tham mưu không ít người mơ ước chân cai trị ở Kiến Hòa - nhàn hạ, yên thân, “đồng ra đồng vào” vừa phải. Cù lao lớn, cù lao nhỏ xanh mướt, dạo chơi bằng thuyền máy, bằng tàu trên sông là thú tiêu khiển lôi cuốn dân có tiền ở Sài Gòn mỗi cuối tuần. Mọi sự phẳng lặng. Đùng một cái, Kiến Hòa báo động khẩn. Qua vài ngày, hầu hết thị trấn và cả thị xã Trúc Giang bị cô lập. Hệ thống cai trị hạ tầng giống sáp kê gần lửa, đồn bót sụp đổ; hàng trăm nhân viên công an mất tích. Cù lao Bảo, cù lao Minh, Bình Đại hay Mỏ Cày, Ba Tri hay Thạnh Phú… chìm trong ánh đuốc rực trời, trong tiếng mõ lấn áp mọi tiếng súng.
Ban đầu, người ta đưa lên hàng chủ yếu nguyên nhân: Việt Cộng “từ nơi nào đó kéo về Bến Tre”. Vì chỉ có như vậy mới tạo nổi một đảo lộn quá sức lạ lùng. Nhưng lập luận đó không đứng vững: Việt Cộng từ nơi nào? từ Đồng Tháp Mười? từ rừng U Minh? Vô lý! Vài báo cáo đẩy nguyên nhân ra tận Hà Nội - Bắc Việt cho quân đổ bộ lên bờ biển Bến Tre.
Vài tháng qua, thêm chứng cớ, người ta biết là không có lấy một cán binh Việt Cộng nào từ nới khác đến Bến Tre. Tất cả là do dân Bến Tre! Và, người chỉ huy “Cộng sản dậy” ở Bến Tre - một người phụ nữ nổi tiếng lâu, thứ Ba, tên Định: Nguyễn Thị Định. Bài toán, với những phát hiện này, chỉ càng bí hiểm hơn. Bộ tổng tham mưu dốc xuống Kiến Hòa toàn bộ liên đoàn thủy quân lục chiến thuộc lực lượng tổng trù bị, mở một cuộc tấn công quy mô vào ba xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh của quận Mỏ Cày, nơi mà tin tình báo cho biết đầu não Tỉnh ủy Việt Cộng đang đóng sở chỉ huy. Cái gì mà quân lực Việt Nam Cộng hòa có - bom, pháo, giang thuyền, máy bay, xe lội nước - đều được sử dụng tối đa trên một diện tích chưa tới 4.000 hecta, địa hình nói chung không quá phức tạp. Suốt nửa tháng quần thảo, quân lực Việt Nam Cộng hòa không chạm trán một trận nào lớn với Việt Cộng, song giờ nào, phút nào cũng vấp tổn thất: bị bắn tỉa với kiểu súng cổ, bị vướng lựu đạn, đạp chông, bị “súng ngựa trời”, thậm chí, bị ong đánh! Dồn các tổn thất lại, con số thương vong đáng sợ: hàng nghìn - chết ít thôi, song mất khả năng chiến đấu là phổ biến. Vấn đề chưa phải hết. Một hôm, chợ Mỏ Cày náo động. Hàng vạn người - đa số là bà già, ông già, người tu hành, trẻ con - bồng bế, gồng gánh chạy vào thị trấn, nói là tránh “quân đội Quốc gia đốt nhà, phá làng, giết người”. Dọa họ, họ không nao núng. Bắn chỉ thiên, họ càng xông lên hăng hơn. Rốt cuộc, dinh quận bị vây. Quận trưởng báo cáo về tỉnh, tỉnh xin ý kiến Sài Gòn. Chỉ thị của Sài Gòn: xoa dịu. Thế là quận trưởng phải hứa thu quân. Cuộc càn quét ba xã chẳng những không hề hấn Việt Cộng mà còn đẻ ra một lực lượng chống đối mới - những người biểu tình, đặc biệt trong đó ngày càng nhiều hơn thân nhân binh sĩ đang tại ngũ.
Có thể nói là tình thế rối tinh.
*
- Anh thấy thế nào? - Nhu hỏi Luân.
- Khó hiểu! Bởi vậy, tôi không dám đưa ra một nhận xét. - Luân trao trả cặp hồ sơ dày cộm cho Nhu.
- Tôi sẽ giúp cho anh tìm hiểu! - Nhu mỉm cười, đưa cặp hồ sơ lại cho Luân - Tổng thống đã ký quyết định giao anh là tỉnh trưởng Kiến Hòa. Quyết định có hiệu lực từ chiều hôm qua.
Luân làm như bị bất ngờ. Thái độ của anh khiến Nhu cười ồ:
- Anh đừng rủa tôi ùn cho anh chuyện khó… Thiệt tình, từ gợi ý của Tổng thống. Tôi tán thành vì chưa thấy cách nào hay hơn…Sẵn sàng chứ?
Luân không trả lời ngay. Anh gõ mấy ngón tay lên mặt bàn, ngó đăm đăm bức tranh trên tường.
- Rubens gợi ý gì hay cho anh không? - Nhu hỏi, cười cười. Anh ta nói về bức tranh sơn dầu “Kermess” của danh họa Rubens - phiên bản có lẽ treo từ thời Toàn quyền Đông Duơng.
- Anh cho tôi suy nghĩ vài ngày, được không? - Luân đắn đo.
- Tôi tưởng là anh đã suy nghĩ cả tuần nay rồi… Anh thấy chỗ nào khó khăn hoặc bất tiện đối với chức vụ của anh? - Nhu bắt đầu sốt ruột.
- Tôi ngại không đảm đương nổi…
- Nếu anh nói như vậy, tôi yêu cầu anh xuống Kiến Hòa nội hôm nay! Kiến Hòa thiếu đầu đàn, anh hiểu chứ?
- Anh quên câu danh ngôn của Ani: Le chef du troupeau est un animal comme les autres (1) - Luân bớt căng thẳng.
- Không quên! Tôi còn nhớ một danh ngôn khác: C’est aux miracles que I’on connait les Saints; (2) Anh ta lấy tên thánh Robert (3) mà! Và, hôm nay, gần ngày lễ bổn mạng của của… Vả lại, Rubens đã tiên tri công việc của anh! Kermess (4)
- Tôi muốn biết quyền hạn của tôi… - Luân nói sang việc khác và Nhu biết là anh không từ chối nhiệm vụ.
- Anh khỏi lo! - Nhu cười như anh ta đúng là tri kỷ của Luân - Quyết định của Tổng thống nói rõ: Anh toàn quyền hành động… Anh đọc đi. - Nhu chìa cho Luân tờ giấy đánh máy…
Đọc xong, Luân vẫn im lặng.
- Còn gì nữa? - Nhu hỏi.
- Tới đây, có thể không phải giữa tôi và một số người khác nhau về cách lặp lại trị an ở Kiến Hòa mà giữa tôi và anh…
- Được! Đâu phải đây là lần đầu chúng mình khác ý nhau… Mà khác ý về cái gì?
- Anh định đưa một lực lượng lớn xuống Kiến Hòa… Tôi chưa tin lối ra tìm được từ các sư đoàn. Sư đoàn nào dám bắn các bà mẹ, nhất là trong các bà mẹ đó có cả mẹ ruột của mình?
Luân đã chiếu tướng Nhu. Anh ta ngắc ngứ một hồi lâu:
- Thôi, sau khi nắm đầy đủ tình hình tại chổ, tụi mình trao đổi lại. Có thể anh có lý. Nhưng, Kiến Hòa không phải là Bình Dương…
- Và năm 1960 không phải là năm 1958, chắc anh muốn nói như vậy. - Luân ngắt lời Nhu - Tôi không sẵn trong mình một cái khuôn…
- Tôi hiểu…
- Tôi chưa nói hết ý, anh hãy nghe: Nếu anh tin cậy vào những sư đoàn dám bắn mẹ chúng thì ta thực sự ngồi trên ngọn núi lửa!
Giọng Luân khô khốc. Anh giống kẻ đi săn quyết truy con thú tới cùng.
- Anh từng nói: Ami ou enemi, puisqu’on me craigne (5). Nếu cái khiến người ta sợ không còn hiệu lực nữa, sẽ thế nào? Y người dạy thú gãy cây roi điện.
Nhu chới với. Lần đầu tiên, anh nghe Luân phê phán kịch liệt như vậy. Tất nhiên, nếu vài năm trở về trước, lời lẽ kiểu đó của Luân chắc chắn đưa Nhu đến một hành động trừng phạt khủng khiếp, không nương tay.
- Tôi cám ơn anh. Thành thật cám ơn. - Nhu nói trong giọng trầm trầm - Mà tôi cũng tự cám ơn tôi! Tôi đã đủ khôn ngoan tạo ra sự hợp tác giữa chúng ta… Nếu không… Bây giờ thì tôi không muốn che giấu anh: Nhiều lúc tôi nghĩ đến biện pháp cụ thể lại trừ anh, và tôi tin anh đoán ra - nếu tôi cư xử với anh như vậy thì vĩnh viễn tôi không còn được nghe những lời khuyên chí tình, những lời khuyên xét cho cùng, vì chúng tôi…
- Vì cả tôi nữa! - Luân nói chen.
- Nếu anh thích diễn đạt theo ý riêng… Tôi định hôm nào rảnh nói chuyện với anh. Nói hết! Tại sao chúng ta không làm như vậy, phải không?… Sự hợp tác giữa chúng ta đi đến chỗ chúng mình tìm thấy tiếng nói chung. Đã đến lúc chúng ta không nên thủ thế… Điều quan trọng là mỗi người chúng ta đều có khía cạnh lợi cho nhau. Năm năm! Một alliance (6) khá bền bỉ… Vài hôm, khi anh về Sài Gòn. Còn bây giờ, tôi phải uống mừng tân tỉnh trưởng Kiến Hòa!
Nhu bấm chuông gọi người phục vụ.
*
Chỉ thị A.07 đến, nhưng không đủ. Bức điện dài khác thường chỉ thu được non một nửa. Điện đài bị bom.
“Được báo cáo của Kỵ sĩ và Mimosa. Hoan nghênh về việc riêng của hai đồng chí, tổ chức không thấy gì trở ngại. Xin được chúc mừng. Bản Tango đắc lực. Song, đến lúc chấm dứt. Bản Tango trên đường về. Sau đây là tóm tắt phân tích tình hình chung (không biết chúng nó lấy được nghị quyết 15 của Trung ương ở đâu ra?) a) Trong thời kỳ tạm thời ổn định của Mỹ - ngụy ở miền Nam đã qua, chúng đang bước vào giai đoạn khủng hoảng sâu sắc. Tình thế đó hé mở cho nhân dân miền Nam khả năng nâng cao hình thức đấu tranh chính trị và quân sự, nhanh chóng xây dựng lực lượng, giành địa bàn nông thôn và rừng núi rộng lớn, thúc đẩy thêm mẫu thuẫn nội bộ địch phát triển gay gắt… b) Có thể Mỹ buộc phải thay đổi tay sai bằng một hành động nào đó để cứu vãn tình hình, hoặc phải thay đổi chính sách ở miền Nam, đưa cố vấn Mỹ từ nhiệm vụ huấn luyện quân ngụy lên thành lực lượng tham gia hoạt động, với số lượng động hơn. Biến động gắn liền với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ. c)…
Chỉ có bấy nhiêu. Luân và Dung chưa từng nghe đến nghị quyết 15. Hay là Nhu giấu… Nếu thế, sự bộc bạch vừa rồi của anh ta là một làn khói, thăm dò. Nhưng, Luân tin là cảm giác của mình không phản bội. Hơn nữa, Nhu muốn đặt quan hệ giữa Luân và anh ta trên cơ sở mới. Luân dự kiến từ lâu xu thế này và đã sẵn sàng. Như vậy, nghị quyết 15 lọt vào tay ai? “Chúng nó” là Tổng ủy tình báo hay Đại sứ quán Mỹ? Rất có thể Nhu chưa biết gì về nghị quyết này.
Bức điện chưa hết, nhưng cũng đã nói những điều thật cốt yếu. Nó củng cố Luân. Hai chi tiết đáng mừng: Lục sắp vào và…
Đêm ấy, cửa phòng đóng kín. Luân và Dung ăn mặc đẹp. Họ đứng cạnh lọ hoa to.
Đám cưới lặng lẽ như thế đó… Đám cưới thật.
----------
(1) Người đầu đàn cũng là một động vật như các động vật khác.
(2) Chính trong mầu nhiệm mà người ta tìm ra các ông Thánh
(3) Thánh Robert, thế kỷ 11, lễ vào tháng 4
(4) Ngày hội
(5) Bạn hay thù, miễn họ sợ tôi
(6) Liên minh
CHƯƠNG 6
Nếu nhìn lên bản đồ, người ta thấy rõ, về mặt quân sự, Kiến Hòa không
chiếm vị trí chiến lược. Trái lại, ba cù lao lớn: Minh, Bảo và An Hóa
hợp thành tỉnh như nép hẳn vào một góc, cố ý tránh những biến thiên, vui
với dòng sông bát ngát quanh năm soi bóng dừa.
Từ là một tổng -
tổng Tân An khi Võ vương Nguyễn Phúc Khoát đặt quan cai trị xứ này vào
năm 1757 - Bến Tre được thăng lần lên huyện, phủ và khi thực dân Pháp
chiếm ba tỉnh miền Tây, thăng lên hạt rồi tỉnh. Bến Tre đi vào lịch sử
khá sớm nhưng với tư cách một vùng đất ẩn cư. Người ta biết đến nó sau
biến cố mất Gia Định, những phần tử chống Tây “tị địa” về đây, trong đó,
có nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Cả khi vào lịch sử, Bến Tre cũng không ồn
ào, dù cho Phan Tôn, Phan Liêm - con của Phan Thanh Giản, người tiến sĩ
đầu tiên quan Nam Bộ, sinh ở Bảo Thạch, Ba Tri, người mà tên tuổi gắn
liền với nỗi ô nhục của triều đình Huế khuất thân “chuộc” ba tỉnh Đông
Nam bộ và lại để mất nốt ba tỉnh Tây Nam bộ - một thời dựng cờ nghĩa
trên mảnh đất trầm lặng này.
Sau Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp
tái chiếm Bến Tre. Một lần nữa, dân Bên Tre lại “tị địa” - dùng đường
biển, trên những chiếc thuyền mong manh, tìm tự do tận mũi Cà Mau. Những
người bám tỉnh dựng lên một trung đoàn rất nổi tiếng, trung đoàn 99 của
Đồng Văn Cống. Hòa bình lập lại, ngay vào những ngày đầu, chính quyền
Ngô Đình Diệm gây ra vụ thảm sát Mỏ Cày.
Cứ ngỡ Bến Tre nhịn nhục mãi.
Thế
rồi, đầu năm 1960, tin tức đột nhiên bay tới tập về Sài Gòn: Bến Tre,
cái tỉnh im ắng ấy, đứng trước nguy cơ lọt vào tay Việt Cộng.
Là
một cán bộ từng hoạt động ở Bến Tre - khá thông thạo đường đi nước bước
và con người ở đây - Nguyễn Thành Luân cũng bị bất ngờ. Anh không bao
giờ nghĩ đến Bến Tre lại trở thành trung tâm của cuộc khởi nghĩa miền
Nam - anh chờ đợi nơi khác, mà với trí thức của anh, dựa được vào rừng
núi, dễ dàng tiến và dễ dàng rút lui. Nhưng, chính Bến Tre - tỉnh của
những cù lao, nổ phát súng kinh hoàng vào chế độ, đúng lúc chế độ ổn
định nhất. Anh chợt nhớ đến ông già ba tri Thái Hữu Kiểm - dám đi bộ từ
Bến Tre ra tận triều đình Huế để cự lại một vụ cường hào ỷ thế hiếp dân.
Cái bề ngoài nho nhã - do lỗi sống giữa mảnh vườn ít xáo động - chứa
một sức bật tiềm tàng rất thông minh… Anh cũng nhớ ông Hai Sặc, người
Bến Tre “tị địa” xuống Phụng Hiệp.
Và, hôm nay, liền sau khi đặt
chân lên Bến Tre - chính phủ Ngô Đình Diệm đổi tên là Kiến Hòa, vốn tên
cũ thời Nguyễn - Luân phải chỉ huy một cuộc hành quân lớn. Đó là việc
giao lãnh đầu tiên giữa cựu và tân tỉnh trưởng. Cuộc hành quân dự định
từ trước, đã được quân khu cho phép và Bộ tổng tham mưu chuẩn y, cho nên
Luân không tiện bãi bỏ. Với lực lượng 5 tiểu đoàn Bảo an, 2 tổng đoàn
Dân vệ, một đại đội cảnh sát dã chiến, hầu hết giang thuyền trực thuộc
tiểu khu, cuộc hành quân quy mô trung đoàn và với dạng binh chủng hợp
thành nhằm Cồn Ốc - một trong những cồn lớn nằm trên sông Hàm Luông và
gần thị xã - theo yêu cầu của tỉnh trưởng ty công an: truy lùng cơ quan
Tỉnh ủy Việt Cộng, hoặc ít ra, một bộ phận của cơ quan đó mà tin mật báo
cho biết dời từ Định Thủy sang đây.
- Tin mật báo tin cậy được không? - Luân hỏi.
Trưởng
ty công an - không phải xa lạ với Luân: thiếu tá Lưu Kỳ Vọng, người của
Mai Hữu Xuân, sau một thời gian làm việc ở Nha an ninh quân đội, được
biệt phái sang công an và thiếu tướng Tổng giám đốc Nguyễn Văn Là bổ
nhiệm hắn ta về Bến Tre - xum xoe:
- Chắc ăn một trăm phần trăm!
Hắn
nói, kèm theo cái nháy mắt ngụ ý. Luân hiểu rằng mật báo là người của
công an trà trộn trong hàng ngũ kháng chiến. Hiểu như vậy, song Luân tỏ
vẻ không tin tưởng:
- Coi chừng tốn công vô ích… Cũng có ba bảy đường mật báo.
-
Không! - Thiếu tá Vọng cười nhũn nhặn. Bây giờ, hắn cố hết sức lấy lòng
tân tỉnh trưởng và cầu mong ông ta không phăng ra hắn trong vụ rượt bắt
ở Nhị tì Quảng Đông năm 1955 - Thưa trung tá (hắn hạ thấp giọng, ngó
chung quanh) một huyện ủy!
- Vậy sao? - Luân giả bộ sửng sốt pha lẫn hài lòng.
- Dạ em điểm huyệt tụi Cộng sản cỡ đó sắp lên! - Vọng hí hửng.
…
Từ “Lồng cu” - đặt trên giang đỉnh chỉ huy - Luân dùng ống dòm quan sát
Cồn Ốc, khi các tàu mặt dựng lượn dọc bờ tây cồn. Không khí thanh bình
trùm cả cồn. Không hề có một dấu vết bố phòng. Bến sông từng nhà, những
ngôi nhà ngói cổ, thản nhiên với sinh hoạt thường ngày: thuyền đậu, phụ
nữ giặt giũ… Giờ đổ bộ theo quy định đã tới. Đáng lẽ các cỡ súng nổ rộ,
Luân ra lệnh không được bắn, dù một phát, nếu chưa bị tấn công. Tàu đầu
bằng đã sử đụng bờ, thả bửng, từng toán lính và cảnh sát nối đuôi từ
nhiều điểm khác nhau, chạy ào lên cồn. Luân bước lên cồn khi các toán
sục sạo thọc sâu vào vườn. Một số dân - ước tới cả trăm - bị lùa ngồi
chồm hổm trên chiếc sân gạch rộng. Ngó qua số dân, Luân yên tâm: không
ai mang dáng dấp cán bộ. Hầu hết là ông bà già, phụ nữ đứng tuổi và trẻ
con.
“Thằng cha Vọng bị hố rồi!” - Luân nghĩ thầm – “Tỉnh ủy nào
lại đặt cơ quan trên cái cồn lúc nào cũng có thể bao vây như vậy? Nhất
định các đồng chí giữ phương châm hợp pháp. Ngay hầm chông, hố đinh cũng
không có thể có ở đây…”
Thiếu tá Vọng rảo bước trước đám dân. Luân
yên lặng theo dõi hắn. Luân bắt gặp hắn sựng một thoáng trước một
người. Tim Luân thắt lại. Chà, đồng chí của mình sao chường mặt ra đây
làm gì. Nhưng người đó không thể là cán bộ, dù thuộc cấp nào - da mặt
láng te, đôi mắt ti hí. Anh ta trạc trên dưới 40, mặc áo bà ba lụa
trắng. Và người đó liếc về một bà già ngồi phía trước. Luân ngờ ngợ về
bà già này - tóc hoa râm, khăn rằn vắt vai - như là anh đã gặp ở đâu đó.
Thiếu tá Vọng đến trước bà già. Bà già điềm tĩnh nhai trầu.
- Ê! - Thiếu tá Vọng chụp vai bà già lôi xểnh dậy - Bà là bà Hai Sặc, phải không?
Thôi,
đúng rồi… vợ Hai Sặc. Ngày Luân cùng Sa và Quyến rời khu 9 về thành,
cái đêm cuối cùng ngủ ở vùng tự do ngoại ô Phụng Hiệp đó. Con của Hai
Sặc, Tư Lóc - Trần Bảo Quốc, trung đội trưởng của tiểu đoàn 420 đã tập
kết. Con gái là y tế. Luân nhớ, nhớ rõ. À, vợ chồng Hai Sặc trở về quê,
hèn chi, khi Luân vừa tới, anh có cảm giác bà già này nhìn anh lom lom,
với đôi mắt tôi tối.
- Chớ hồi nào tới giờ tôi có đổi tên bao giờ đâu mà ông hỏi? - Bà Hai Sặc trả lời chậm rãi…
- Bà lẻo lự dữ! - Thiếu tá Vọng cười gằn - Được, để rồi cho bà lẻo lự… Nè! Tỉnh ủy ở nhà nào? Có ở nhà bà không?
- Tỉnh ủy là cái chi? - Bà Hai Sặc vẫn nhai trầu.
-
Bà đừng hỏi đố tôi! Dân Cồn Ốc mà không biết Tỉnh ủy Cộng sản sao?
Thằng Tư Cường, thằng Ba Đào ở đâu? - Thiếu tá Vọng thét inh ỏi.
- Ông làm quan sao ăn nói lỗ mãng quá vậy? - Bà già cự.
- Bà hỗn hả? - Thiếu tá Vọng tát bà già. Bà già quay mặt lại đám đông:
- Bà con thấy đó, Quốc gia đánh tôi… Tuổi tôi gì gì cũng cỡ tuỏi mẹ ông quan này…
Luân thấy đến lúc phải can thiệp:
- Thiếu tá, ông không được làm như vậy!
-
Trung tá không biết, con mụ già này ghê lắm… Chồng nó, con gái nó đều
Việt Cộng thứ thiệt. Chồng nó làm “căn cứ” cho Tỉnh ủy. Tôi phải bắt nó
phun ra chồng nó, con gái nó. Con gái nó - con Rô - là y tế của Tỉnh ủy…
Thiếu tá Vọng vẫn không buông tha bà già. Luân gạt tay hắn ra.
- Thiếm… - Luân nén xúc động - Thiếm cho biết Tỉnh ủy có ở đây không?
- Tôi đã nói tôi không biết Tỉnh ủy… - Bà già tránh mắt Luân.
- Thôi, bà chỉ chỗ trốn của chồng bà, thằng già Hai Sặc đó! - Thiếu tá Vọng gầm gừ.
- Ông nhà tôi qua Trà Vinh cày mướn từ sau Tết!
- Bà nói láo! Hai Sặc mà cày mướn… Hai Sặc ở đâu? Bà không chỉ, tôi bắn bà…! - Thiếu tá Vọng lên cò khẩu Colt 12 nghe cái rốp.
-
Ông Hai Sặc đi cày mướn miệt Vũng Liêm… Bà Hai nói thiệt. Ở đây, bà con
ai cũng biết… - Một ông gà búi tóc, áo trắng, tằng hắng rồi nói.
- Ông là chức sắc đạo Cao Đài? - Luân hỏi.
- Thưa quan, phải. Tôi là giáo hữu.
- Ông thuộc phái đạo của đốc phủ Nguyễn Ngọc Tương hay Tây Ninh?
- Thưa quan, tôi thuộc phái Minh Chơn Đạo của anh lớn Cao Triều Phát…
Tự nhiên, Luân hiểu. Phái Minh Chơn Đạo là phái kháng chiến hồi 9 năm.
- Nếu Hai Sặc không có ở đây, thì con Rô ở đâu? - Thiếu tá Vọng khăng khăng với bà Hai Sặc.
- Nó may mướn trên Sài Gòn!
- Nói láo cũng có sách chớ! Bà nói láo bỏ sách hết trơn… Con Rô mà biết may…
- Tại sao ông biết con Rô tôi không biết may? - Bà già hỏi vặn.
- Tôi biết! Nó ở đây…
- Ông biết sao ông không đi kiếm nó mà phải hỏi tôi?
Luân lại bắt gặp anh chàng mặt láng te ra dấu cho thiếu tá Vọng - gã chỉ xuống đất.
- Nè, nó trốn dưới hầm bí mật! Bà coi tôi rành không - Thiếu tá Vọng đắc chí, cười hô hố.
- Thì ông đào mà bắt nó!
-
Con mụ già này ngọt không chịu… Tao cho mày biết tao là ai… Đồ… - Thiếu
tá Vọng xông tới, ghì đầu bà già, toan nện thẳng cánh.
- Không được! - Luân xô thiếu tá Vọng sang một bên - Ông không có quyền làm bậy trước mặt tôi.
Luân nói, môi run run
-
Nó đây nè! - Nhiều tiếng reo. Tốp công an lôi một người con gái bất
tỉnh, ném lên sân. Cô gái không còn một tấm vải che thân.
Bà Hai Sặc nhào đến, ôm cô gái:
- Con! Con!
Giữa lúc đó, tốp công an bô bô với tốp bảo an:
- Gặp nó dưới hầm sau vườn… Tụi này mần luôn… Ngon thiệt!… Còn mới nguyên nghe!
Luân
choáng váng. Đầu anh bỗng ù ù. Anh bước tới tốp công an và bất thần ra
tay. Ba đứa can tội làm nhục cô gái không thể hiểu vì sao chúng bị đòn.
Máu chảy ròng ròng trên mũi chúng.
- Còng lại! - Luân ra lệnh, giọng thật đanh - Giải về tỉnh… Tôi sẽ đích thân bắn cả ba!
Thiếu tá Vọng chưng hửng.
Bà Hai Sặc đứng lên. Mắt bà long đỏ. Bà đến trước thiếu tá Vọng.
- Chồng tao, Tỉnh ủy ở đây… - Bà chỉ vào ngực - Đồ mọi rợ… Quốc gia bây là lũ mọi rợ!
Thiếu tá Vọng rút súng.
- Tao cho mầy chết. - Hắn nghiến răng. Luân, bằng một động tác nhanh như chớp, đánh bạt súng của thiếu tá Vọng.
- Người đáng chết là ông, ông thiếu tá! Tôi sẽ xử bắn ông ngay tại đây nếu ông động đến bà thiếm này…
Luân cởi chiếc áo khoác phủ lên người Rô đang thoi thóp và ra lệnh chấm dứt cuộc càn.
*
- Tôi không thể hiểu vì sao trung tá lại nới tay với tụi Cồn Ốc?… Con mụ Hai Sặc đáng lãnh một phát đạn lắm!
Lê
Như Hùng, trung tá Thủy quân lục chiến, cựu tỉnh trưởng Bến Tre, làm
xong thủ tục giao lãnh với tân tỉnh trưởng Nguyễn Thành Luân, vừa nói
vừa nhún vai.
- Tôi không thích để Việt Cộng thâu lợi. Bắn bà Hai
Sặc một phát, chúng ta sẽ phải nhận một nghìn phát trả thù… Bắn bà Hai
Sặc đâu có thể tìm ra Tỉnh ủy? Chúng ta chưa đến nỗi điên thì tại sao
lại hành động ngu xuẩn như vậy?
- Nói thật với trung tá, - Cựu tỉnh
trưởng tựa lưng vào ghế, khoanh tay - tôi rất nghi ngờ kết quả của
chính sách mà trung tá thí nghiệm ở đây. Tôi phải thanh minh với trung
tá, tôi từ giã Kiến Hòa không một chút nuối tiếc. Ví dụ trung tá thay
tôi sớm hơn một năm, có lẽ tôi cũng bực mình. Nơi nào yên tĩnh hơn đây?
Nhưng, đó là chuyện một năm về trước. Còn bây giờ… Tôi rất xấu hổ, với
tư cách con nhà binh, lại bàn giao cho trung tá một gia tài quá khốn
khổ. Chúng ta mất gần sạch. Ngay con đường ra bắc Tân Thạch cũng không
phải an toàn. Tôi đến Kiến Hòa và từng đi dạo trong rừng dừa, từng lướt
ván trên sông với người đẹp. Còn trung tá… Dạo trong khuôn viên tỉnh
đường. Tôi khuyên trung tá chỉ nên dạo trước lúc đèn lên… Có lẽ rồi đây
tôi sẽ đi Quảng Trị hoặc Đắc Tô. Không sao, không đâu khó chịu bằng ở
đây. Tôi sẽ áp dụng kinh nghiệm ở đây - ở Kiến Hòa. Tôi quá tiết kiệm
đạn và ngại chảy máu… Khi chia tay, tôi muốn đền bù cho trung tá bằng sự
chia sẻ kinh nghiệm đó.
Luân mỉm cười:
- Cám ơn anh… Trái
lại, tôi nghĩ rằng anh chưa tiết kiệm cả đạn lẫn máu đúng mức. Không thể
bắn hết, ví dụ bắn hết dân Cồn Ốc. Không làm sao bắn hết và chúng ta
cũng không dám làm như vậy…
- Tôi thành tâm mong trung tá thành
công… - Lê Như Hùng chép miệng - Mơn trớn một lò lửa bừng cháy, một bãi
chông kín mít, một tổ ong đang vỡ… Tôi e trung tá tự tin hơi nhiều. Mà
dù cho trung tá thành công, Kiến Hòa cũng chỉ là một tỉnh nhỏ, không
nghĩa gì so với cả nước Cộng hòa của chúng ta… Tôi từng nói với tướng
Williams khi ông thị sát nơi đây. Tôi nói: Kiến Hòa chỉ là cái dạ dày bị
loét, có thể bị ung thư nữa. Nhưng nói không chỉ tự tạo ra căn bệnh
hiểm nghèo đó cho nó. Nó phải hứng mọi thức ăn từ mồm, sự lọc lừa của
lưỡi, sự nhai nghiền của răng… Cắt phăng phần loét của dạ dày thì cứ
làm, song đừng nguyền rủa nó…
Giọng Lê Như Hùng - một sĩ quan từng
được Diệm nâng đỡ, chỉ huy Thủy quân lục chiến, binh chủng rất kiêu ngạo
- càng lúc càng chán chường.
- Chẳng lẻ người ta phải cắt cái mồm? - Luân hỏi, hóm hỉnh.
-
Thế trung tá nghĩ rằng người Mỹ vốn thực dụng lại rung đùi ngâm thơ
Longfellow (1) sau khi chi hàng núi tiền cho chúng ta? Năm 1958, tôi
tường trình về Phủ tổng thống những khả năng xấu đang ngấp nghé nhận
chìm chúng ta. Tham mưu biệt bộ gửi trả bản tường trình đó - tôi nói rõ,
lúc bấy giờ trung tá đang phụ trách chiến dịch “Cơn hồng thuỷ” - với
lời phê dốt nát: bi quan! Tôi phải rời Kiến Hòa chính vì cách điều khiển
của chính sự dốt nát đó. Bây giờ, họ lấy tôi làm vật tế thần và tạ tội
với người Mỹ… Trung tá có thể có vận may hơn tôi, trung tá là người nhà
của Tổng thống! Giá như Phủ tổng thống gửi kèm lời phê nông cạn kia cho
tôi vài chục khẩu đại bác!
- Đại bác không bắn được dân biểu tình! - Luân nheo mắt.
- Bắn được! Miễn dám bắn. - Cựu tỉnh trưởng sôi nổi hẳn - Napoléon nổi tiếng nhờ dám hạ nòng đại bác bắn vào đám biểu tình!
-
Và, vì vậy, ông ta càng nổi tiếng hơn ở Waterloo, ở Borodino (2) cuối
cùng im tiếng ở Sainte Hélène (3), chơi vơi ngoài Đại Tây Dương…
-
Xin vô phép ngắt lời trung tá… Đại bác không phải loại chuyên dùng đàn
áp biểu tình, song chính trị lại là sở đoản của bọn nhà binh - trung tá
đừng giận, kể luôn trung tá - và hơn nữa, của cả chế độ chúng ta. Chọn
lựa cái le moins mal (4), tôi nghiêng về cái khẩu đại bác!
- Chưa
chắc tôi đã nên cơm cháo gì ở đây? - Luân thân ái ngồi cạnh cựu tỉnh
trưởng - nhưng trách nhiệm được giao không thể thoái thác. Trước trách
nhiệm, tôi cũng như anh thôi, không dính với chuyện gia đình. Chính phủ
yêu cầu tôi bình định Kiến Hòa. Tôi nhận với điều kiện tôi không bị gò
bó để đạt yêu cầu bình định. Tôi nghĩ chúng ta không thiếu đại bác, ngay
ở Kiến Hòa. Xem qua sổ chi đạn đại bác, Kiến Hòa không kém tỉnh nào cả.
Nhưng, đất cứ mất, biểu tình cứ tăng, có lẽ đại bác và biểu tình cũng
lên song song. Tôi sẽ bắt cả hai cùng xuống!
Lê Như Hùng đứng lên:
-
Tôi mong trung tá thành công tuy rằng dứt khoát tôi không tin. Dù sao,
tôi cũng áy náy đã đào xới bằng đạn đại bác để trúng tá phải san lấp…
- San lấp trên mặt đồng ruộng không khó lắm! - Luân cười.
- Đúng! Tôi hy vọng trung tá san lấp những cái hố trong lòng người.
Luân thấy mến tay tỉnh trưởng bộc trực này.
- Anh có dặn tôi điều gì không?
Cưu tỉnh trưởng ngẫm nghĩ một lúc:
-
Có! Trung tá nên cẩn thận với gã thiếu tá Vọng… Thứ ma cô ma cạo hạ
đẳng! Gã chơi với James Casey, có vẻ là dân của CIA. Tống Văn Tình nói
với tôi.
Tống Văn Tình, như Géo Nam ở Vĩnh Long, xuất thân từ
Rédacteur (5) ngành cảnh sát Pháp - vốn là trưởng ty công an Kiến Hòa,
nay bị thay, chỉ còn là phó ty.
- Anh không giao cho tôi được một nhân mối nào trong nội bộ Việt Cộng sao? - Luân hỏi ướm.
Lê Như Hùng đưa tay lên trời:
-
Tôi biết có một nhân mối quan trọng. Nhưng, thằng thiếu tá Vọng nắm.
Nhân mối trao cho nó một tài liệu gì đó - nghe đâu nhờ cái tài liệu đó,
nó được hậu thưởng.
- Tài liệu gì? - Luân hồi hộp.
- Thú thật, tôi ghét những thứ giấy tờ… Nghe Tống Văn Tình nói, tài liệu nghị quyết của Cộng sản Bắc Việt…
Luân suýt “à” một tiếng, nhưng kịp kiềm chế.
Anh bắt tay Lê Như Hùng khá chặt.
-
Một điều tôi muốn nói trước khi chia tay: Nếu Hội đồng an ninh Quốc gia
có những nhận xét xấu về anh thì không phải do tôi… Trái lại!
- Tôi tin trung tá!
----------
(1) Nhà thơ nhân bản Mỹ (1807-1882)
(2) Những nói Napoléon đại bại
(3) Nơi Napoléon bị đày và chết
(4) Cái ít xấu hơn.
(5) Biên tập viên - một ngạch trật trung cấp cảnh sát.
CHƯƠNG 7
Luân ngụ tại ngôi nhà hai tầng quét vôi vàng, kiểu kiến trúc đồng loạt
các công sở xây dựng vào những năm đầu thực dân Pháp chiếm Nam Kỳ. Ngôi
nhà ngó ra sông Bến Tre, một chi lưu của sông Cửu Long, trong khuôn viên
rợp tàn cổ thụ, tường bao bốn phía. Đằng sau là tòa hành chính, nơi làm
việc của tỉnh trưởng.
Dung không theo Luân xuống đây - cô cần tiếp
tục ở cương vị cũ: Văn phòng Tổng nha cảnh sát Quốc gia. Người thân tín
còn lại của Luân là Thạch. Cho tới bây giờ, Thạch vẫn chưa hề hay biết
thân phận thật của Luân. Lòng trung thành của Thạch đối với Luân tất
nhiên sâu hơn nhiều so lúc anh mới về ở cạnh Luân, đó là lòng trung
thành của một người giúp việc lâu ngày cảm phục và yêu mến chủ. Vợ Thạch
thường nhắc anh chăm sóc Luân “như chăm sóc cha, anh ruột của mình”.
Thạch hiểu liền ý vợ: đạo lý ở đời phải vậy. Không phải Luân mà vợ Thạch
căn dặn Thạch dòm trước ngó sau chung quanh Luân. “Ổng là người ngay,
làm việc theo lẽ phải, thiếu gì người ghét, muốn hại ổng”. Vợ Thạch gợi ý
chung chung, còn Thạch sát Luân: nên tiếp nhận lời khuyên của vợ theo ý
nghĩa cụ thể: Sở nghiên cứu chính trị, An ninh quân đội, có thể cơ quan
tình báo Mỹ nữa không ưa trung tá. Việt Cộng thì khỏi nói.
Còn ông
Ngô Đình Nhu - ông tỏ ra bồ bịch với trung tá mà tại sao gã Hoa kiều Ly
Kai cứ thậm thò thậm thụt săn tin trung tá hoài? Mỗi lần Thạch báo với
Luân về thái độ khả nghi của Ly Kai thì Luân chỉ cười nhẹ: “Kệ gã!”. Ông
trung tá có thể bỏ qua gã Hoa kiều, chớ Thạch thì đời nào!
Đến Bến
Tre, Luân lấy lái xe tại chỗ - chuẩn úy Võ Văn Tập, đã phục vụ trung tá
Lê Như Hùng. Tập quê ngay tại thị xã, chưa vợ con, trước là học sinh.
Cha Tập, đốc học một trường quận nay hưu trí, mẹ chuyên nghề bánh mứt.
Hai mươi sáu tuổi, Tập thuộc dạng đẹp trai, ít nói, hiền. Tuy nhiên,
Thạch vẫn áy náy: gã lái xe có đôi mắt khá sắc, nhất là khi gã liếc
Luân. Cái vố trung sĩ Toàn chưa hết ám ảnh Thạch - mỗi lần Luân cởi
trần, vết thẹo trên vai khiến Thạch điếng người.
Dinh tỉnh trưởng
được phân đôi: Luân và Thạch ở tầng trên, tầng dưới thuộc các sĩ quan
tiếp cận tỉnh trưởng. Tất cả có bốn đại úy và một trung úy: đại úy chỉ
huy đội bảo vệ tỉnh trưởng; trung úy phụ trách truyền tin; đại úy chỉ
huy trưởng Bảo an tỉnh; đại úy tham mưu trưởng tỉnh; đại úy thư ký riêng
của tỉnh trưởng. Chung Văn Hoa và Nguyễn Thành Động, chỉ huy trưởng và
tham mưu trưởng tỉnh, ban ngày làm việc ở Sở chỉ huy đặt ở làng Sơn Động
trên đường đi Hàm Luông, ngay khu vực sân bay, chiều tối về nghỉ tại
đây. Trong năm sĩ quan đó, Hồ Nhựt Thanh phụ trách truyền tin là người
Bến Tre.
… Luân đang nghỉ trưa. Thật sự, anh chỉ chợp mắt một
thoáng thôi. Từ khi nhận nhiệm vụ, Luân phải làm việc ngày đêm. Anh hoàn
toàn nhận thức khá rõ khó khăn của mình trong tình hình cực kỳ phức tạp
của tỉnh và chính tình hình phức tạp ấy càng đẩy anh vào vị trí phức
tạp hơn. Đúng, Kiến Hòa không phải Bình Dương. Ở Bình Dương, mọi việc
chưa rõ ràng, chiến dịch “Cơn hồng thủy” mở giữa một vùng mà cuộc đấu
tranh vũ trang của nhân dân vừa chớm, anh dễ dàng che giấu hành động
tiếp trợ phong trào. Còn ở Kiến Hoà, hình thức vũ trang không còn dừng
ngang mức tự vệ mà đồng bào đã sử dụng nó như một phương tiện tấn công.
Nói cách khác, chiến tranh thực sự đã triển khai trên một diện rộng và
với một cường độ dồn dập. Anh em Diệm - Nhu - và chắc chắn cả Mỹ nữa -
muốn mượn bàn tay anh triệt hạ phong trào đấu tranh lên đến cao độ của
nhân dân Bến Tre. Anh bắt buộc phải vắt óc tìm cách sao cho vừa lòe được
Sài Gòn, vừa hỗ trợ cho Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh.
Một băn
khoăn khác không nhỏ, là cái gã mặt mũi phẳng phiu, đôi mắt giảo hoạt ở
Cồn Ốc. Tự nhiên, liên kết với điều trung tá Lê Như Hùng thổ lộ, Luân
bắt đầu nghiêng về khả năng “nghị quyết 15” lọt vào tay CIA qua con
đường này. Một tên nội gián - và nếu thiếu tá Hùng không huênh hoang,
thì hắn là một huyện ủy viên. Có phải hắn không? Hay hắn chỉ là đầu mối?
Liên lạc từ hôm điện đài bị bom chưa nối lại được. Anh và Dung không có
cách nào báo về cấp trên trừ phi chính cấp trên cho người móc. Đọc báo
hôm nào Luân cũng lục lạo phần nhắn tin ở trang chót. Chẳng thấy.
Chuông điện thoại reo. Nhu nói chuyện với anh. Hẳn phải có cái gì thật bức thiết, Nhu mới gọi cho anh giờ này.
- Alô! Chào anh. Tôi nghe đây… - Luân nói.
- Anh biết tin Nam Hàn chưa? - Giọng Nhu mất bình tĩnh.
- Việc ông Lý Thừa Vãn đó, phải không?
-
Đúng! Ông ta bị đưa đi an trí ở Hạ Uy Di (1) … - Giọng Nhu càng mất
bình tĩnh hơn. - Salaud! (2) Tụi nó dựa vào đám sinh viên, lấy cớ chống
bầu cử gian lận…
Luân theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình Nam
Triều Tiên từ khi anh chưa rời Sài Gòn. Nhưng anh không ngờ sự kiện đó
xúc động Nhu đến như vậy.
- Không chỉ ở Nam Hàn, Thổ Nhĩ Kỳ cũng
găng. Menderes (3) bị lật đổ… Các chính phủ hợp hiến đều bị lật đổ, mỉa
mai thật, không do Cộng sản… Ở Thổ, chính là quân đội.
Nhu cáu quá, lần nữa văng tục: Merde!(4)
Luân
không biết phải đối đáp sao cho ổn. Quả thần kinh dinh Độc Lập bị chấn
động. Bây giờ bất cứ hành vi nào của Mỹ nhằm gò cương bầy ngựa kéo xe
cho đúng hướng đều được anh em Diệm - Nhu tiếp nhận như mũi dao đâm vào
họ.
- Anh thấy thế nào? - Nhu sốt ruột, giục Luân… - Ta cần làm gì?
-
Tôi đồng ý với anh đó là sự tráo trở. Song không phải người ta có thể
tuỳ ý thọc tay vào bất cứ đâu và bao giờ cũng được yên lành cả… Ông Lý
Thừa Vãn, ông Menderès có cái nhược của các ông ấy… - Luân chọn lựa từng
lời.
- Anh có thể về Sài Gòn chiều nay không? - Nhu hỏi đột ngột.
- Anh cần tôi gấp sao?
- Thôi… - Nhu ngần ngừ - Hôm khánh thành khu trù mật Thành Thới, tôi sẽ gặp anh… Công việc thế nào?
Cuộc
điện đàm chấm dứt. Luân tư lự rất lâu. “Một ngày đột biến bằng mười
năm” Luân nhớ tới lời của một nhà cách mạng. Câu hỏi “Ta cần làm gì?”
của Nhu cũng chính là câu Luân tự hỏi…
Ngay chiều hôm đó, Luân ra
sân bay đón tướng Mỹ Mac Garr. Anh chưa từng quen viên tướng 3 sao sắp
thay tướng Samuel T. Williams này. Điều mà anh để ý là Mac Garr mới đặt
chân lên Sài Gòn ngày hôm kia. Có vẻ Kiến Hòa bận tâm phái đoàn quân sự
Mỹ hơn đâu hết. “Công thức thay đổi”, ít ra cũng một phần - Luân suy
nghĩ. Số nhân viên quân sự, khí tài chiến tranh, ngân sạch quân sự cùng
với Mac Garr nhất định sẽ tăng lên kéo theo hiệu quả là tiếng nói của
người Mỹ nặng cân hơn trước, không riêng lĩnh vực quân sự, quyền lực
chính trị của ông Diệm hiển nhiên cũng bị thu hẹp nếu người Mỹ vẫn còn
dùng ông.
Hóa ra không phải một mình Mac Garr và tuỳ tùng đến Bến
Tre: Đại tá người Anh, Thompson, nổi tiếng như chuyên gia cừ khôi chống
du kích ở Mã Lai cùng đi với Mac Garr.
Chủ và khách bắt tay nhau.
Thompson nồng nhiệt - thật ra ông ta tự hiểu vai vế của mình tại Việt
Nam bên cạnh người Mỹ. Mac Garr hờ hững. “Thị trường chứng khoán đồng
dollar lên” - Luân nghĩ thầm. Thay vì ngó thẳng viên quan đầu tỉnh Việt
Nam, tướng Mac Garr, ngay khi còn trên cầu thang chiếc Dakota, chăm chú -
bày tỏ cho mọi người biết là ông chăm chú - bày tỏ cho mọi người biết
là ông chăm chú - quan sát khu vực sân bay và Sở chỉ huy Bảo an tỉnh.
-
Bây giờ thì tôi hiểu vì sao các ông thua tại đây, tại tỉnh Kiến Hòa… -
Đó là câu mở miệng đầu tiêng của Mac Garr, khi mọi người vào Sở chỉ huy
Bảo an, ngồi giữa phòng khách. Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ, người làm
nhiệm vụ lễ tân đưa khách xuống Kiến Hòa che nỗi ngượng ngùng bằng cách
lấy khăn tay lau cặp kiếng đen. Đại tá Thompson tế nhị liếc nhìn trần
thiết trong phòng. Các sĩ quan tùy tùng Mỹ im lặng chờ đợi chủ tướng
phán nốt nhận xét, biết đâu không trở thành bài luận văn quân sự đăng
trên tờ Stars and Stripes (5). Đại tá Chung Văn Hoa, chưa nghe trôi chảy
tiếng Anh, nhờ đại úy Nguyễn Thành Động dịch và nghe xong, anh xẻn lẻn.
Nguyễn Thành Động trái lại, nhún vai:
- Tướng quân nói không đúng!
Anh
nói tiếng Anh. Mac Garr sửng sốt. Bởi trước mặt ông ta, một đại úy nhỏ
thó, cách biệt với ông ta về mọi phương diện: cấp chức, tuổi tác, thân
thể…
- Đại úy tham mưu trưởng bảo sao? - Mac Garr cố tự chủ, nhưng câu hỏi vặn vẫn đầy âm sắc chỉ huy.
-
Chúng tôi chưa thua, thưa tướng quân… - Đại úy Động không lẩn tránh cái
nhìn trịch thượng của Mac Garr cũng như cái nhìn sợ hãi của Nguyễn Ngọc
Lễ, giọng đĩnh đạc.
- Chưa thua? - Mac Garr giả bộ ngạc nhiên -
Chưa thua mà sân bay, sở chỉ huy được bảo vệ kỹ đến mức tôi không tài
nào đếm xuể bao nhiêu chiến hào và rào kẽm gai…
Mac Garr, sau đó, cười. Đại úy Động cắn môi, lờ cái liếc cảnh cáo “Im!” của Nguyễn Ngọc Lễ.
-
Thưa tướng quân, thói quen của các vị chỉ huy cao cấp là phải tìm một
lời khiển trách nào đó mỗi khi gặp cấp dưới. Rủi cho tướng quân, lời
khiển trách của tướng quân thiếu chính xác. Hơn nữa, từ biểu hiện phòng
thủ của căn cứ mà không quân đội nước nào được coi thường, tướng quân
lại mở rộng thành nhận xét bao quát về thắng bại của một chiến trường,
tôi hoàn toàn không thể hiểu!
- Anh phải hiểu! Bắt buộc anh phải
hiểu! - Mac Garr quát to, mặt đỏ nhừ - Các anh không được quyền chui tọt
vào chăn, lẩn tránh Vixi như con đà điểu… Các anh phải lùng sục. Hiểu
chưa, anh nhóc? Trường võ bị nào dạy anh như vậy? Saint Cyr hả?
-
Thưa tướng quân. - Động lạc giọng - Nếu có thì giờ, mời tướng quân đi
lùng sục với tôi. Xin nhớ cho: đi bộ, chớ không phải lùng sục bằng máy
bay. Có cần trình báo với tướng quân những vết thương trong người tôi
không? Ngay vị chỉ huy của tôi - Động trỏ Luân, tự nãy giờ bình thản
theo dõi cuộc đối đáp, nhiều lần cười mỉm trước những cái ra hiệu của
Nguyễn Ngọc Lễ bảo anh “tốp” thuộc hạ lại, - trung tá tỉnh trưởng cũng
mang vết thương chí mạng. Thưa tướng quân, tôi là đại úy Nguyễn Thành
Động, có tên có tuổi, chớ không phải anh nhóc nào đó. Còn tướng quân
muốn biết những kiến thức quân sự của tôi thu lượm từ đâu thì xin thưa:
tôi tốt nghiệp khóa đào tạo tham mưu cáo cấp Fort Bragg tại Hiệp chủng
quốc Hoa Kỳ!
Trong khi tranh luận, Động luôn luôn giữ thế của một
sĩ quan cấp úy trước một vị tướng. Thái độ nghiêm túc đó đã góp phần
thắng lợi cho anh.
Mac Garr quả lúng túng. Sự diễu võ dương oai của
ông đập lại ông. Đại tá Thompson châm thuốc mà ai cũng thấy ông cố che
nụ cười chế giễu rất “ăng lê”
- Đại úy ngồi xuống! - Luân thấy đến lúc cần can thiệp - Thưa tướng quân, tôi xin phép được tường tình tình hình trong tỉnh…
Luân cầm gậy, đứng trước bản đồ.
-
Xin lỗi trung tá tỉnh trưởng! - Mac Garr đưa tay ngăn Luân, giọng bỗng
dịu dàng - Một câu hỏi ngắn: đại úy Nguyễn Thành Động là em của trung
tá?
Rõ ràng là viên tướng Mỹ chưa rứt khỏi đại úy Động.
- Thưa
tướng quân, không! Chúng tôi cùng họ nhưng khác quê. Tôi sinh ở Vĩnh
Long, còn đại úy Động ở Kiến An, Bắc Việt. Trường hợp trùng họ khá phổ
biến tại Việt Nam…
- Dẫu sao tôi cũng phải ngỏ lời khen đại úy Động! - Mac Garr rời chổ ngồi đến bắt tay Động - Dũng cảm!
Chính nhờ lối xử sự khôn ngoan đó mà Mac Garr lấy lại được tư thế trong suốt thời gian nghe Luân.
-
Tôi muốn nêu một vấn đề… - Thompson đọc những ghi chú trong quyển sổ
tay, khi Luân nói xong - Thưa trung tá, như trung tá phân tích, tính
chất của tình hình tỉnh Kiến Hòa khá đặc biệt. Đặc biệt hơn Mã Lai, nơi
tôi đối đầu với Cộng sản. Ở Mã Lai, Cộng sản lập căn cứ trong rừng… Cô
lập Cộng sản với dân ở Mã Lai không khó lắm. Tôi muốn nghe trung ta nói
suy nghĩ của mình về chính sách của chính phủ tại Kiến Hòa trong đặc
điểm tình hình như vậy…
Luân ra chiều suy nghĩ. Anh không suy nghĩ
về nội dung vấn đề do Thompson nêu mà tính xem nên trả lời như thế nào
có lợi hơn hết - không phải với Thompson, chính là với Mac Garr.
-
Thưa đại tá, tôi phải nói lời đầu tiên là cám ơn đại tá. Tôi đã nghiên
cứu - nghiên cứu chứ không chỉ đọc - các bài viết của đại tá liên quan
đến cuộc chiến tranh chống du kích Cộng sản Mã Lai. Rất bổ ích. Trong
thế giới tự do, đại tá là nhà quân sự đi trước một bước trên lĩnh vực
này… - Luân tiếp tục rào đón.
- Trung tá vì cảm tình mà nhận xét thiên lệch đấy! - Thompson thích quá, đưa đẩy.
-
Phải chăng dựa vào kinh nghiệm của đại tá huân tước Thompson mà Việt
Nam thực hiện được chính sách khu trù mật? - Mac Garr hỏi.
- Có lẻ
tôi không cần giấu giếm quan điểm cá nhân về chính sách khu trù mật. Khu
trù mật không là biện pháp hay nhất, ít ra cũng tại Kiến Hòa… - Luân đã
xác định chiến thuật. Câu hỏi của Mac Garr gợi cho anh cái ý là người
Mỹ vốn nghèo nàn kinh nghiệm chống du kích, so với người Anh ở Mã Lai
thì người Mỹ chậm hơn nhiều ở Philippin, nên rất tự ái về mô hình “ăng
lê” trên bất cứ lĩnh vực nào, đặc biệt lĩnh vực quân sự - Tất nhiên là
một quân nhân, tôi chấp hành chính sách đó vô điều kiện, đồng thời, với ý
thức trách nhiệm tôi từng trình bày với Tổng thống nước tôi một vài mặt
hạn chế của nó…
- Trung tá có thể nói rõ hơn không? - Mac Garr sốt ruột.
-
Thưa tướng quân, tôi sắp nói… Mã Lai và Nam Việt khác nhau. Cộng sản Mã
Lai sống trong rừng - hoặc chủ yếu dựa vào rừng. Địa bàn của Cộng sản ở
Nam Việt, trái lại, trong dân. Cộng sản Mã Lai sao chép phương thức
hoạt động ngoại nhập chỉ thích hợp với những đất nước đất rộng, dân
đông. Cộng sản Nam Việt linh hoạt trong việc chọn lựa phương thức. Phong
trào Cộng sản Mã Lai cách bức với thế giới Cộng sản còn Nam Việt là một
phần của nước Việt Nam mà phần kia theo chính thể nào, các ngài đã rõ.
Sau cùng, phong trào Cộng sản Nam Việt thoát thai từ một phong trào dân
tộc mạnh mẽ, điều mà Mã Lai không có. Ở Mã Lai, chủ tịch Đảng Cộng sản
là một người Mã Lai, phó chủ tịch là một người Ấn Độ và Tổng bí thư -
Trần Bình - một người Trung Quốc. Có thể còn vài điểm dị biệt nữa, nhưng
ta hãy dừng ở những luận cứ cần thiết. Mã Lai thành công khi tách được
dân chúng với Cộng sản trên địa lý. Ở chúng tôi, Cộng sản tồn tại thậm
chí ngay giữa thủ đô thì khu trù mật khó mà đạt hiệu quả cách ly đó. Thú
thật, ở Kiến Hòa, rất phức tạp đối với chúng tôi trong phân biệt một
người dân với một Việt Cộng nếu chỉ theo các tiêu chuẩn ở Mã Lai: có vũ
khí hay không - không nhất thiết người Cộng sản nào cũng vũ trang; có
chống chính phủ bằng lời nói hay không - nếu thế thì khu trù mật đúng là
để nhốt Cộng sản bởi không chỉ riêng Cộng sản bất bình chính phủ…
Mac Garr nghe rất nghiêm túc, hình như ông bảo một đại tá ghi chép lời của Luân.
-
Thế thì theo trung tá, thực chất của tình hình Nam Việt là gì? - Mac
Garr hỏi - Tôi đọc kỹ, rất kỹ, phát biểu của ông Ngô Đình Diệm trong dịp
ngày đầu năm cổ truyền nước các ông. Ông Nhu nói đến một tình thế chiến
tranh mặc dù ông ấy tránh dùng từ chiến tranh. Hay, như nhà báo Helen
Fanfani: “bù lu bù loa” một cách cường điệu?
- Là những quân nhân,
chúng ta dể đánh giá các hiện tượng theo định kiến. Từ lâu rồi chiến
tranh không còn mang nghĩa thuần túy quân sự, như chúng ta từng đọc
trong các tác phẩm của các nhà chiến lược kinh điển. Chẳng hạn, đã có
thuật ngữ “chiến tranh lạnh”. Chẳng hạn, “chiến tranh cân não”
-
Thưa trung tá - Thompson nói, giọng trào phúng - để làm cho ngôn ngữ
phong phú, tôi đề nghị trung tá gọi cuộc chiến tranh ở Nam Việt là Chiến
tranh đặc biệt.
Mac Garr gật gù:
- Chúng ta không loại trừ sự tìm tòi những thuật ngữ bao quát được một hiện thực nào đó… Mời trung tá nói tiếp…
-
Vấn đề cốt lõi ở nước Cộng hòa chúng tôi là chính trị. Chính trị, vũ
khí thông dụng nhưng cơ bản. Chính trị tức là dân. Chúng tôi không sợ
một sự can thiệp quân sự từ bên ngoài mà sợ các bùng nổ từ bên trong.
Thẳng thắn mà nói, tình hình tạm thời xấu. Hiện nay không thể không liên
quan một phần đến một số chính sách đã qua của chúng tôi. Tỷ như nạn hà
lạm. Tỷ như sự hạn chế dân chủ…
- Và chế độ gia đình trị! - Mac Garr bất thần buông một câu dọa dẫm.
- Vâng! Gia đình trị, Thiên Chúa giáo trị. Trung bộ trị… - Luân phải ứng lập tức - Nếu những cái đó là thật…
-
Tôi cám ơn trung tá. Thông tin và bình luận của trung tá đặc biệt có
lợi cho chúng tôi. Bây giờ chúng ta đi sâu vào một số vấn đề quân sự và
dẫu sao chúng ta cũng không thể khước từ. Chiến tranh gì - quy ước hay
đặc biệt - đều đòi hỏi có quân đội, đồn lũy và trang bị. Trung tá cho
biết dự định xây dựng lực lượng ở Kiến Hòa trong năm 1960 và vài năm
tiếp theo…
Đáp lại đòi hỏi của Mac Garr, đại úy Nguyễn Thành Động cho căng lên một loạt biểu đồ và anh thuyết trình, đầy tự tin.
- Đại úy Động nắm vững kiến thức tham mưu lắm!
Mac
Garr nghe một lúc, bảo khẽ thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ, qua một sĩ quan
phiên dịch. Mac Garr muốn xỏ Lễ: Fort Bragg ưu việt hơn Saint Cyr. Mac
Garr đâu biết là Lễ chẳng học trường võ bị nào ráo!
Sau buổi làm
việc ở Sở chỉ huy, dùng cơm xong, Mac Garr cùng đoàn tùy tùng đi thăm
một đơn vị Bảo an, nghiên cứu vũ khí và khí tài, chứng kiến một đoạn
diễn tập ngắn.
Trước khi lên máy bay, ông ta vỗ vai Nguyễn Thành Động, nói vài lời phủ dụ, bắt tay Luân thật chặt:
-
Tổng thống Ngô Đình Diệm đã không lầm khi giao cho ông trọng trách tại
đây. Tôi hy vọng giữa cá nhân chúng ta có mối quan hệ. Tôi sẵn sàng tiếp
trung tá nếu trung tá thấy cần, vào lúc nào, tùy trung tá… Trung tá
thành công ở Kiến Hòa thì Nam Việt lưu giữ tôi được lâu ở cương vị
Trưởng phái bộ quân sự Mỹ. Nước Mỹ biết ơn trung tá. - Mac Garr nheo
mắt. Luân hiểu câu nói hàm xúc ấy: Mỹ lo lắng phải dính líu qua sâu về
quân sự ở Việt Nam…
Các sĩ quan cùng đi với Mac Garr cũng tỏ ra
trọng thị Luân. Nguyễn Ngọc Lễ thì rõ ràng không thích cấp dưới lại trội
lên như vậy.
- Anh bớt nói chính trị đi! Lo mà dẹp Việt Cộng. - Thiếu tướng Lễ ra vẻ kẻ bề trên, dặn Luân.
- Đại úy cừ thật! - Luân khen Động, khi khách vãn.
-
Chính bây giờ em mới thấy bản lĩnh của trung tá… Qua trung tá, em tự
nhận xét mình còn trẻ con. Với mấy thằng Mỹ, đánh phải ra đánh. Đánh rất
quân tử chứ không tiểu khí như em… Còn cái thằng đại tá Anh nữa… Kinh
nghiệm chó nhá mà cũng bày đặt dạy thiên hạ!
Luân rất vui. Động nhất định có ích… Người không vui là đại úy chỉ huy trưởng Bảo an tỉnh, Chung Văn Hoa…
----------
(1) tức Hawaii
(2) Đồ bẩn thỉu!
(3) Adnan Menderes (1899–1961), thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ (1950-1960).
(4) Đồ chó!
(5) Báo Sao và Sọc của quân Mỹ ở Thái Bình Dương - sao và sọc lá quốc kỳ Mỹ.
CHƯƠNG 8
Do thiếu tá Lưu Kỳ Vọng giục Luân ký tên vào bảng danh sách gồm 147
người “can án chính trị” theo luật 10-59, phải chuyển sang Trung tâm cải
huấn mà Luân quyết định trực tiếp kiểm tra trại tạm giam của Ty công an
sáng nay. Trại nằm một góc trong chu vi ty, cách dinh tỉnh trưởng chừng
trăm bước.
Luân bỏ trọn ngày đọc hồ sơ từng can phạm. Đại khái, có
thể chia hồ sơ làm hai loại: một, can phạm tự khai - khá mạnh lạc -
những tội trạng của mình. Trong loại thứ nhất, lời khai thường mơ hồ,
bất nhất và nhiều điểm vô lý - Luân hiểu đó là vì mớm cung hoặc cưỡng
cung. Loại thứ hai có thể gồm ba hạng: hạng non gan, chịu tra tấn kém,
phun hết những gì cần để đỡ đòn, thường hay nói lố hoặc đổ trút trách
nhiệm vào cấp cao hơn hoặc người chưa bị bắt; hàng trình bày quá trình
tham gia phong trào Việt Cộng của bản thân hết sức chi tiết, thậm chí
dám nhận những trách nhiệm quan trọng như du kích, tuyên truyền viên,
đôi người còn vỗ ngực tự xưng là đảng viên, cán bộ cấp huyện, cấp tỉnh…
những thứ dẫn họ đến máy chém theo luật 10-59.
Gần như tất cả can
phạm bị bắt từ tháng 9, tháng 10 năm 1959 đến giữa năm, lúc Luân lãnh
nhiệm vụ, nghĩa là vào thời điểm phong trào bạo lực quần chúng rộ lên ở
Bến Tre. Tại sao cựu tỉnh trưởng Lê Như Hùng không giải quyết? Câu hỏi
của Luân được phó Ty công an Tống Văn Tình giải đáp: Trung tá Lê Như
Hùng không tin vào hồ sơ, nhưng ông lại lảng tránh đụng độ với trưởng Ty
công an - người có thế lực, được thiếu tướng Là, tổng giám đốc Tổng nha
và thiếu tướng Mai Hữu Xuân, phụ trách bình định ở Bộ tổng tham mưu tin
cậy, có mối quan hệ chặt với James Casey… Khi được Luân hỏi ý riêng của
Tống Văn Tình, viên công chức gần như suốt đời phục vụ ngành mật thám,
một trong những đứa con còn sót lại của mật thám Pháp trong ngành công
an hiện thời, đã thổ lộ: Gì thì gì, vẫn phải có một chút lý…
Sự đối
kỵ của Tình - ai mà biết Tình đố kỵ Vọng vì đơn thuần nghề nghiệp hoặc
cá nhân ganh ăn hay còn có nguyên nhân sâu xa nào nữa - giúp Luân rất
nhiều. Chính Tình hé cho Luân một chi tiết: theo luật hiện hành, hễ can
phạm không ra tòa thì phải qua cải huấn, mà đã qua cải huấn thì tỉnh
trưởng không còn quyền đối với họ - các trung tâm cải huấn chịu hệ thống
dọc, đứng đầu ở Trung ương là đại tá Trần Vĩnh Đắt. Tống Văn Tình còn
nói: Thiếu tá Lưu Kỳ Vọng ra khẩu lệnh - thà bắt lầm còn hơn thả lầm; đã
bắt thì không thả; đã bắt thì người bị bắt phải có tội; không tội thì
điều tra viên chịu tội thay! Vọng thường khoe đó là phương ngôn của ông
cố vấn Ngô Đình Nhu.
Luân đọc rõ ý định của Tống Văn Tình. Thằng
cha này nhất định còn dính líu với Phòng nhì Pháp, chơi trò “khích
tướng” bẩy Luân tranh chấp với công an và với cả Ngô Đình Nhu. Không
sao!
Luân bảo Tống Văn Tình nộp cho anh toàn bộ danh sách những
người bị bắt, số đã thả, số “mất tích”, số còn giữ. Tống Văn Tình báo
cáo: số bị đánh chết hoặc thủ tiêu không nhiều, song không ít - tổng
cộng 9 tháng chừng ba chục. Số thương tật vì bị tra tấn thì rất đông,
tính hàng nghìn. Số được thả cũng hàng nghìn, trừ vài trường hợp nhờ
thân thế, hầu như phải đút lót.
… Luân bước chậm rãi theo hành lang
trại tạm giam. Nói chung, trại tạm giam có nơi nằm giữa những gian
phòng thoáng sạch. Tất nhiên, Lưu Kỳ Vọng không thể lừa được Luân - do
Luân quyết định kiểm tra trại giam mà gã phải bày bố như thế này. Qua
mỗi phòng, Luân dừng lại khá lâu. Cái đập vào mắt Luân là giữa số đông
còn xương với da, mỗi phòng còn vài người béo ị. Luân nghĩ liền đến
những hồ sơ rành mạch… Luân qua một phòng danh cho nữ can phạm thì nghe
trẻ sơ sinh khóc. Một chị, có lẽ xấp xỉ 30 đang cho con bú. Chú bé -
chắc sinh độ một tuần trở lại - khóc ré và chẳng có gì khó hiểu: người
mẹ không thể vắt cho con một giọt sữa.
Luân bảo nhân viên ty - anh
ta ôm cả chồng hồ sơ theo Luân - tìm lai lịch người mẹ. Lê Thị Hai, dân
làng Định Thủy, can tội “chứa chấp Việt Cộng”. Người Việt Cộng mà chị
chứa chấp không ai khác hơn là chồng chị, cha của thằng bé còn đỏ hỏn.
- Anh nhà hiện đang ở đâu? - Luân hỏi chị Lê Thị Hai.
Luân cố gắng lắm mới không nghẹt thở khi nghe người phụ nữ trả lời:
- Mấy ông bắn chết rồi còn hỏi làm gì?
- Mở cửa! - Luân ra lệnh.
-
Mời chị ra! Từ giờ này, chị được tự do… - Luân bảo, giữa sự ngỡ ngàng
của cả phòng giam và luôn số đi theo anh, nhất là của Lưu Kỳ Vọng. Gã
cau mày trước quyết định đột ngột này.
- Trình trung tá! - Gã nói - Tôi đề nghị trung tá không nên làm như vậy… Ở đây, toàn Việt Cộng nguy hiểm.
Luân chưa kịp phản ứng thì một bà - có lẽ tuổi phải trên 60, tóc bạc, gầy guộc - đã lớn tiếng:
-
Ai là Việt Cộng nguy hiểm, ông chỉ coi? Tôi từng tuổi này, làm sao theo
Việt Cộng nổi? Thủy quân lục chiến mấy ông kéo vô Bình Khánh, cứ nhè
nhà nào nuôi heo thì đề án tử là Cộng sản để bắt heo. Tôi là Việt Cộng,
bị tội nuôi con heo mà không chịu cho các ông giựt…
- Má tên gì? Ở đâu? - Luân hỏi. Anh nhớ trường hợp anh gặp trên Dầu Tiếng.
-
Úy! - Bà già kêu lên thảng thốt - Ông chánh chủ tỉnh đừng xưng hô làm
vậy… Tôi là Phạm Thị Lượm, ấp chợ làng Bình Khánh… Tôi chưa nói hết với
ông chánh ty mật thám…
Luân tức cười quá: Bà già gọi chức tước của anh và Vọng y như hồi Tây… - mà gọi như vậy cũng đúng thôi.
-
Ở khám nữ này, đố các ông kiếm cho ra một Việt Cộng… Còn mấy ông muốn
bỏ tù tụi tôi thì các ông cứ ghi đại, ai cũng Việt Cộng! - Bà già vẫn
sang sảng - Tôi nói thiệt, ông chánh ty mật thám mới đúng là Việt Cộng!
Càng nghe bà già nói, Luân càng thích. Bà già chắc chắn là nòng cốt của địa phương hoặc có con em đi cách mạng.
- Tôi là Việt Cộng? - Lưu Kỳ Vọng quắc mắt - Bà ăn nói ẩu tả…
-
Vậy chớ nếu ông không làm Cộng sản sao ông bắt bừa, đánh đập ác đức bà
con? Ông xúi bà con theo Việt Cộng! - Bà già không nao núng.
- Cho tôi xem hồ sơ má đây! - Luân bảo anh nhân viên. Đọc xong, hồ sơ gồm có mỗi tờ giấy lấy cung, không có chứng cứ gì.
- Thả má ra một lượt với chị Hai! - Luân ra lệnh.
- Tôi sẽ xét hết trường hợp từng người, ai vô tội sẽ được tự do. - Luân tuyên bố dõng dạc. Cả khám nữ nhìn anh lạ lùng.
-
Ông Tống Văn Tình! - Luân chỉ thị cụ thể - Ông giải quyết mọi thủ tục,
trả giấy tờ cho chị Hai, cho má Lượm, cấp tiền xe và tiền ăn đường cho
chị và má… Chút nữa, tôi ký giấy, để hai người về tới nhà trước trời
tối…
Luân lầm lũi bước tiếp. Nhưng được vài bước, anh quay ngoắt trở lại:
-
Nếu trong người chị có thương tích, xin nói rõ, chúng tôi lo điều trị
cho chị… Chị đừng nghi ngờ, không ai đụng đến chị… Anh ở nhà có được
chôn cất tử tế chưa? Nếu chị muốn, cứ làm đơn thưa vụ anh nhà bị giết,
chúng tôi sẽ xét… Hôm nay không tiện thì hôm khác, chị không cần mang
đến mà gửi theo nhà dây thép, cũng được…
Hết dãy phòng giam, Luân chợt bảo Lưu Kỳ Vọng:
- Ông trưởng ty cho tôi thăm nơi giam số bị bắt sau khi tôi nhận nhiệm vụ…
Rõ ràng, Lưu Kỳ Vọng choáng váng, gã hoàn toàn không ngờ tình huống này. Thấy Vọng luống cuống, Luân gắt:
- Thiếu tá nghe tôi nói không?
Chẳng
đặng đừng, Lưu Kỳ Vọng ra lệnh mở một cửa ngách. Vừa qua khỏi cửa, Luân
đã ngửi thấy mùi tanh tưởi. Một khu nhà lợp tôn lụp xụp, ẩn sau chuồng
xí. Phòng rộng không quá mười thước vuông nhốt ngót hai chục người -
mình đầy máu. Luân quen mặt khá nhiều: dân Cồn Ốc. Anh sang phòng kế -
nhỏ hơn. Và anh dường bị sét đánh: vợ Hai Sặc thoi thóp, hai người phụ
nữ đang quạt cho bà.
Luân xông tới trước mặt Lưu Kỳ Vọng:
- Cái gì? Ông cắt nghĩa coi…
Lưu Kỳ Vọng lùi xa, mặt không còn chút máu.
- Ông trưởng ty, ông thật cả gan! Ông ngỡ rằng chức tỉnh trưởng của tôi để làm trò giỡn, phải không?
Theo lệnh của Luân, nhân viên mở cửa. Anh bước hẳn vào trong. Vợ Hai Sặc mở mắt lờ đờ.
- Cô em gái đâu rồi? - Luân lay vợ Hai Sặc.
- Bên kia! - Vợ Hai Sặc phều phào - Ở dưới hầm…
Luân quày quả ra.
- Chổ nào? - Anh hỏi trỏng Lưu Kỳ Vọng.
Cô
Rô bị còng cả tay chân trong xà lim rộng bằng chiếc quan tài âm xuống
đất, dưới một bóng đèn điện cực sáng, cỡ hai trăm nến.
- Tôi bảo
đưa cô gái vào bệnh viện chạy chữa, ông đem cô vào đây! - Luân nghiến
răng - Ông sẽ phải trả lời trước tòa án đặc biệt về tội cố tình không
chấp hành lệnh của cấp trên, cố tình gây bất mãn trong dân chúng… Bà già
hồi nãy nói đúng!
- Thưa… - Lưu Kỳ Vọng lắp bắp.
- Tôi sẽ
nghe ông sau! - Luân cắt ngang - Bây giờ, ông đưa cô gái, bà mẹ cô ấy,
hai người đàn bà vào bệnh viện ngay. Ông cũng cho chuyển số người bị
giam riêng ra ngoài, tôi sẽ đọc hồ sơ của họ và có ý kiến giải quyết nội
hôm nay…
Luân đứng chờ mọi mệnh lệnh của anh được chấp hành xong
mới rời khu trại giam. Ngỡ là tai qua nạn khỏi, Lưu Kỳ Vọng lấy lại đôi
chút tinh thần và để chứng tỏ mình là người biết nhận lỗi, gã trực tiếp
gọi điện cho bệnh viện mang xe cấp cứu đến chở mẹ con bà Hai Sặc. Nhưng
Luân chưa buông tha gã. Anh bảo:
- Hôm ở Cồn Ốc, tôi quyết định bắt bốn nhân viên công an. Ông giam họ ở đâu? Tôi muốn gặp họ.
Lưu Kỳ Vọng chết lặng.
- Sao? Ông lại không thi hành lệnh của tôi! - Luân cau mày.
- Dạ, đã thi hành… - Vọng sợ quá, hối hả trả lời - Mời trung tá theo tôi…
Luân kịp thấy Vọng ra hiệu cho một nhân viên công an và tên này rảo bước.
- Anh kia! - Luân gọi giật tên công an - Anh khỏi đi trước…
Thế là cả đoàn trở lại văn phòng ty. Luân đoán là có điều gì mờ ám đây nhưng nhất thời chưa đoán ra.
Họ
lên bậc thang. Tầng trên ngôi nhà đặt văn phòng ty gồm ba phòng lớn.
Một, nơi làm việc của trưởng ty - đồng thời là nơi họp mật. Một, chỗ ở
của trưởng ty - gã sống một mình, vợ con vẫn còn tại Sài Gòn. Một, là
nơi gã đưa Luân vào.
Cửa mở hoác. Tiếng cười ồn ào. Khi Vọng xuất
hiện ngoài cửa, một người nào đó thét to: - Vọng, mày chơi không? Tao
thua sạch túi rồi… Đ.m…, bị mấy con điếm này mà tao xui…
Vọng không
kịp ra hiệu cho cả bọn. Trước mắt Luân, một sòng bạc đang hồi sát phạt,
tiền ùn đống, mấy cô gái mặc hớ hênh ngồi vòng ngoài và một tốp khác
thì ngất ngưởng quanh mâm rượu. Luân nhận ra ngay mấy tiên công an bị
anh đấm sặc mũi hôm nọ.
Lập tức, gian phòng lắng xuống. Chẳng tên nào có thể ngờ tỉnh trưởng mò lên đây.
- Anh kia là ai? - Luân trỏ một người cao quá khổ, áo không cài nút.
- Dạ, trung úy Bình, trưởng đồn Thành Triệu… - Vọng trả lời.
- Ông ta bị bắt? - Luân hỏi tiếp.
- Thưa không… Ông ta có dịp đến ty, gặp vui nên xà vào…
- Còn đây? - Luân trỏ một người tác roi roi, mặc sơ mi lụa sọc.
- Dạ, đại úy Mẹo, trưởng phòng điều tra của ty… Ông ta cũng lên chơi thôi.
- Còn các cô này? - Luân hỏi và nói luôn - Gái điếm?
Nghe
Luân nhắc tới mình, các cô co rút sau lưng những gã đàn ông, thật ra
không thể che kín các cô nổi, bời họ cũng cố làm cho bé nhỏ…
- Thật tôi không ngờ! - Luân ném một câu đánh giá chung, quay xuống lầu, chân nện mạnh bậc thang.
Chiều
hôm đó, Luân mời số người bị biệt giam đến dinh tỉnh trưởng. Anh yêu
cầu họ khai báo tường hợp bị bắt, tra tấn… và sau đó ký quyết định trả
tự do cho tất cả. Mỗi nạn nhân nhận được tiền tàu xe. Cũng chiều hôm đó,
trung úy Bình đồn trưởng Thành Triệu bị phạt một tuần trọng cấm và đại
úy Mẹo bị ngưng chức, chờ cứu xét. Cả hai bị ghép vào tội “giao du với
can phạm, cùng can phạm truỵ lạc ngay nơi công sở”. Tốp công an bị bắt ở
Cồn Ốc phải vào trại biệt giam.
Luân dành trọn ngày hôm sau giải
quyết những người trong bảng danh sách cải huấn. Cuộc điểm danh đã giúp
Luân kiểm tra lần nữa điều anh phát hiện qua hồ sơ. Như vậy, số đông
nhất là dân thường - họ dính dáng đến phong trào nhưng không phải là
người chỉ huy, cũng có mười trường hợp đáng nghi, song công an không
phăng ra manh mối. Luân xếp tất cả vào phần “phóng thích”. Trong loại
thứ hai, Luân chú ý những người tự khai như cán bộ Cộng sản chính cống -
ai cũng da dẻ hồng hào. “Cho mấy đứa cò mồi này ra tòa”. Luân xếp chúng
sang một bên. Nhưng vẫn còn quá ít. Gần 150 can phạm, chẳng lẻ chỉ chọn
được có năm, bảy người? Luân tìm trong hạng mà anh đoán là non gan, mất
khí tiết. Được thêm 15 người nữa. Tạm ổn.
Lễ phóng thích tổ chức
ngay sân trại giam. Dân chúng địa phương không hay biết gì nhưng phóng
viên báo chí nước ngoài lại có mặt khá đông. Trước giờ, Henlen Fanfani
đưa một người Mỹ râu tóc màu hung đến chào Luân. Anh ta là Victor Gray,
phóng viên ảnh của tờ Newsweek - chồng của Fanfani.
- Hân hạnh! - Victor Gray bắt tay Luân - Tuy hôm nay mới gặp ông song Henlen giúp tôi làm quen ông từ lâu…
- Victor không biết ghen, ông kỹ sư đừng ngại! - Fanfani đùa. Cả ba cười hồ hởi.
- Ông bắt đầu một trắc nghiệm nữa, phải không? - Fanfani vẫn liến thoắng.
-
Một trong những người mà tôi luôn luôn đề phòng là cô, cô Helen thân
mến! - Luân thân mật khoát vai Fanfani và kéo Victor Gray cùng bước lững
thững theo rìa sân - Cô thích đi xa hơn suy nghĩ của người khác trong
các bài báo thiên về phân tích tâm lý…
- Tôi sẽ không bao giờ gắn
cho ông bất kỳ một tư tưởng nào mà ông không có… Ông cố gắng chống đỡ
cho chế độ của ông Diệm đứng vững. Tôi sẽ viết như vậy. Tất nhiên, ông
cho phép tôi được bình luận về ý định của ông, tức là bình luận về tính
hiện thực của những cố gắng ấy…
- Ông Gray có thấy mình có một
người vợ đặc biệt sắc sảo về chính trị không? - Luân hỏi vui Victor và
ngầm bảo Fanfani là anh không thích tranh luận hôm nay.
- Tất nhiên là có! - Gray xác nhận - Giữa chúng tôi, bao giờ cô ấy cũng lấn át.
Fanfani không cãi, cô đột ngột hỏi Luân bằng tiếng Việt:
- Bà kỹ sư không ở Kiến Hòa? - Cô nói luôn - Chồng tôi không biết một tiếng Việt nào cả…
-
Sắp tới giờ, xin hẹn gặp lại cô Helen Fanfani và ông Victor sau buổi
lễ… - Luân rời hai người, rảo bước lại chiếc bạn kê trên thềm, dành cho
tỉnh trưởng.
“Can phạm” ngồi chồm hổm thành nhiều hàng, mỗi người
mang gói hành lý riêng. Ai cũng đinh ninh sau mấy lời hăm he của tỉnh
trưởng, tất cả được tống lên những chiếc xe bít bùng, chở đến một phương
trời nào đó - gọi là trại cải huấn - nơi mà số phận họ phó thác cho may
rủi. Sẽ chịu tra tấn tinh thần và thể xác dai dẳng, có thể nói là bất
tận, nếu sống sót. Và sống sót cũng thân tàn ma dại. Tiếng tăm các trại
cải huấn đã khá lừng lẫy để mọi người hiểu “đi cải huấn” còn rùng rợn
hơn ra trường bắn. Bởi vậy, mọi người im lặng. Họ chẳng để ý đến viên
tỉnh trưởng đang ba hoa.
- Tôi cho các người ít nhiều tham dự vào
những cuộc chống đối chính phủ Việt Nam Cộng hòa do Ngô Tổng thống lãnh
đạo… Không ai bị bắt oan cả. Theo luật 10-59, đáng lẻ các người phải ra
tòa. Tuy nhiên, chính phủ khoan hồng, bởi các người kém học, bị xúi
giục, chưa gây tội ác. Thừa lệnh Tổng thống, tôi nhắc các người từ nay
chăm lo làm ăn…
Luân nói tới đây thì khắp sân xao động. “Can phạm” ngó nhau và ngó anh.
-
Đây là lần cuối cùng chính phủ ban ân huệ. - Luân vẫn tiếp tục nói -
Nếu bị bắt lần nữa, các người đừng oán trách… Tôi đảm bảo các người được
tự do làm ăn. Bất kỳ ai ức hiếp các người, cứ tố cáo với tôi. Hễ đủ
bằng chứng, tôi sẽ trị thẳng tay. Tôi nhắc lại: tỉnh Kiến Hòa phải được
cai trị bằng luật pháp!
Tuy ý của Luân đã rõ, song mọi người vẫn chờ đợi ở tỉnh trưởng câu nói quyết định. Và, đây là câu nói đó:
- Kể từ giờ này, những ai có tên sau đây được trở về nhà mình… Ai không đủ tiền bạc, chính phủ sẽ giúp…
Đứng
khá xa đám đông mà Luân và các nhà báo nghe rõ tiếng rầm rì đột ngột
lan nhanh, phó Ty công an Tống Văn Tình gọi tên từng người. Mỗi người
nhận lệnh phóng thích mang chữ ký của tỉnh trưởng, các giấy tờ bị giữ
trước đây, kể cả tiền bạc, tư trang. Tống Văn Tình liền miệng nhắc: “Xem
coi đủ các thứ chưa? Ai còn thiếu, cho biết”. Tất nhiên không ai khiếu
nại - việc quan trọng nhất là thoát nhanh khỏi nơi đây.
Mỗi người
giữ một thái độ khác nhau khi rời Ty công an: người lặng lẽ, người liếc
Luân một cách bàng quan, người nhìn anh với vẻ khó hiểu, người cố giấu
không để nhà báo chụp rõ mặt, người khinh khỉnh, người khẽ gật đầu cám
ơn…
- Chừng mươi phút nữa thôi, ông trở thành đối tượng nghiên cứu của dân chúng toàn tỉnh Kiến Hoà… - Fanfani bảo Luân.
-
Và, qua ảnh của Victor Gray, bài của Helen Fanfani, chính giới Mỹ sẽ
mang “con quái vật” Nguyễn Thành Luân lên bàn mổ… - Luân đáp lại, hài
hước.
- Trong chính giới Mỹ cũng có những cái đầu tỉnh táo. Ông
không bị cô lập đâu! - Fanfani bác lại - Để ông không còn đất tấn công
tôi, tôi nói thêm: Ngay cả trong CIA cũng không phải ai đều theo Mac
Carthy (1) cả.
- Tôi thử ủng hộ ông - Victor nói - Tôi lấy được một
số ảnh rất có lợi cho ông. Mặc dù phương pháp của ông chưa thuyết phục
tôi… Dân chúng và Việt Cộng ở đây không ngô nghê. Trước tiên, họ đánh
một dấu hỏi trên việc làm của ông. Ai có lợi trong trường hợp này? Những
người nhà quê bị bắt vô cớ, họ có quyền về nhà, và viên tỉnh trưởng
bỗng trở thành ân nhân không mất tiền! Làm sao có thể giản dị như thế
được?
Victor hoàn toàn không hiểu rằng Luân rất sung sướng nghe phân tích của anh ta…
Sân vắng lần. Sau cùng, còn sót hai mươi mốt người.
-
Các người không được thả! - Luân bảo, trước vẻ mặt không lấy gì sợ hãi
của hai mươi mốt người đó - họ sẽ sang trại cải huấn - tức là họ chuồn
ra theo ngã hậu.
- Các người cũng không qua trung tâm cải huấn! -
Luân nói, gằn giọng - Tôi ký giấy truy tố các người, những nhân viên
Cộng sản chính cống…
Thái độ dửng dưng của số tù còn lại tan biến
tức khắc. Sao cớ sự ra như vậy? Họ đảo mắt tìm trưởng Ty công an. Lưu Kỳ
Vọng không dám nhìn họ.
- Tỉnh Kiến Hòa chưa lần nào thiết lập tòa
án quân sự đặc biệt… - Luân nói tiếp - Máy chém chưa lưu động tới đây.
Đó là điều phi lý.
Có người khóc. Có người nấc. Cảnh sát lùa họ vào trại biệt giam…
*
Báo cáo của thiếu tá Lưu Kỳ Vọng.
Kính gởi thiếu tướng Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia.
Trình thiếu tướng,
Thiểm
ty thấy có bổn phận trình lên thiếu tướng Tổng giám đốc tình trạng rất
kỳ lạ sau đây xảy ra ở Kiến Hòa trong vòng chưa đầy tháng nay:
Từ
khi thay trung tá Lê Như Hùng làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hoà, trung tá
Nguyễn Thành Luân giải quyết công việc theo một đường lối khác thường,
đang gây xôn xao trong giới chức tỉnh và xáo trộn quy tắc lâu năm của
thiểm ty, vốn là quy tắc do Tổng nha hướng dẫn. Ông Luân can thiệp quá
sâu phần chuyên môn của Ty công an, hơn nữa, ông trực tiếp ký lệnh phóng
thích đến 151 can phạm, tất cả đều xong hồ sơ về tội đích thân hoặc a
tòng hoạt động Việt Cộng trong tỉnh. Mặt khác, ông lại ký lệnh tống giam
và truy tố ra tòa án quân sự khá đông nhân viên công an, kể cả một số
mật báo viên và nhân viên đặc biệt của chúng tôi, cách chức và giam cứu
trung úy đồn trưởng Thành Triệu thuộc hệ cảnh sát đặc biệt, cách chức và
truy tố đại ủy trưởng phòng điều tra của ty về những tội không lấy gì
làm nghiêm trọng.
Hiện nay, nhân viên cộng lực tỉnh đều bất mãn,
giữa lúc mà bọn Việt Cộng đẩy mạnh hoạt động. Đó là nguy cơ lớn. Nhiều
vị đầu ngành trong tỉnh không hài lòng chính sách của trung tá Nguyễn
Thành Luân, như đại úy Chung Văn Hoa, chỉ huy trưởng Bảo an, nhưng sợ
thế lực của ông Luân nên không dám công khai phản đối.
Thiểm ty
khẩn cấp mật báo để thiếu tướng tường và mong thiếu tướng trình với Hội
đồng an ninh quốc gia và Tổng thống nguyện vọng của quan chức Kiến Hòa
là chính phủ sớm rút trung tá Nguyễn Thành Luân khỏi trách nhiệm hiện
nay, ngõ hầu tránh cho Kiến Hòa rơi vào tình thế xấu hơn.
Thiểm ty
cũng xin lưu ý thiếu tướng là trong thời gian chưa dài lắm kể từ khi
trung tá Luân được bổ xuống Kiến Hòa, chúng tôi ghi nhận số lượng tấn
công và quấy rối của Việt Cộng tăng gấp ba lần so với trước. Chúng kiểm
soát nhiều trục lộ bộ và thủy then chốt, trong đó có chợ Thơm, Hương Mỹ,
An Định… Tỉnh lỵ Trúc Giang bị bao vây, ban đêm Việt Cộng mít tinh ngay
cầu Ba Lai, cầu Chẹt Sậy và tự do chè chén giữa chợ Mỹ Lồng, cách trung
tâm Trúc Giang không xa.
Đính kèm bản đồ chiến sự trong ba tuần
mới nhất, bản đồ vùng Việt Cộng kiểm soát hoàn toàn, kiểm soát ban đêm,
bảng danh sách 151 can phạm được phóng thích, bảng danh sách 27 nhân
viên bị tống giam và truy tố.
Sau chót, một hiện tượng khiến thiểm
ty vô cùng nghi hoặc: Trung tá Luân hết sức quan tâm đến số mật báo viên
mà chúng ta gài trong hàng ngũ Việt Cộng, nhất là điệp viên mang bí số
J5 - ông ta nhiều lần hỏi dò thiểm ty.
Tờ trình này gởi riêng cho
thiếu tướng, mong thiếu tướng hủy khi đọc xong, bởi sẽ khó khăn cho
thiểm ty nếu tiết lộ tới tai trung tá Luân! Vợ trung tá Luân đang làm
việc ở phòng bí thư Tổng nha.
Xin thiếu tướng nhận nơi đây lòng trung thành tuyệt đối của tôi…
Trúc Giang, ngày … tháng… năm 1960
*
…
Báo cáo nói là gởi riêng cho thiếu tướng Nguyễn Văn Là nhưng cả Mai Hữu
Xuân, Fishel đều có. Hơn nữa, Dương Tái Hưng cũng nhận được một bản sao
bằng chụp ảnh…
Về phần Luân, anh biết báo cáo đó khá trễ: Ngày
16-7, khi dự lễ khánh thành khu trù mật Thành Thới, Ngô Đình Nhu trao
cho anh. Đó là bản chính, thiếu tướng Là chuyển báo với Nhu, không bình
luận. Nhu cũng không ghi chú như thói quen một chi tiết nào trong báo
cáo.
Lễ khánh thành xong. Nhu đáp trực thăng cùng Luân về tỉnh lỵ.
Họ trao đổi kế hoạch thêm một khu trù mật nữa, khu Thới Thuận, nằm sát
biển, cách huyện lỵ Bình Đại chừng mươi cây số.
- Tôi biết quan
điểm chung của anh về chính sách khu trù mật, - Nhu bảo Luân - song Tổng
thống quyết định đích thân khánh thành một cái của Kiến Hòa, cho nên
anh phải chú ý…
Luân trầm ngâm một lúc:
- Tôi sẽ đảm bảo an
toàn cho Tổng thống. Nhưng xin lỗi anh, tôi không tin vào kết quả của
khu trù mật về lâu dài. Theo tôi đó là một chủ trương nguy hiểm, chẳng
những mất lòng dân, thiếu hiệu quả cô lập Cộng sản, mà còn giúp Cộng sản
bám chặt hơn nữa, đưa Cộng sản tiếp cận ta hơn…
- Trước kia, nghĩa
là vào giữa năm 1959, tôi mê tín kinh nghiệm Mã Lai của người Anh. -
Nhu bộc lộ suy nghĩ của anh ta rất chân thành - Bây giờ, tôi thấy tôi
lầm… Tuy nhiên, chúng ta chưa thể xóa một chủ trương lớn, được giới
thiệu rộng rãi trong dư luận quốc tế, vẫn còn đợi tác dụng chiến thuật
và tâm lý ở một số nơi trong nước. Vả lại, Tổng thống chưa đổi ý, mặc dù
Tổng thống đã nói đến việc từ nay phải lo củng cố hơn là xây thêm khu
trù mật. Ở Kiến Hòa, tốt nhất là anh giữ đừng cho khu trù mật Thành Thới
tan rã, xây dựng khu Thới Thuận kịp khánh thành vào tháng 10 theo lệnh
của Tổng thống, đồng thời thực hiện phương hướng, bình định như anh dự
kiến… Mỗi ngày qua, tôi nghiêng hơn về chính sách của anh. Có thể trong
vài tháng tới, sẽ mở hội nghị toàn quốc bàn công tác bình định. Tôi hy
vọng anh sẽ giới thiệu kinh nghiệm cùng thành tích của Kiến Hòa…
Nhu nói tới đây, vừa cười vừa rút trong cặp ra một tờ giấy đánh máy:
- Tìm tòi bao giờ cũng rắc rối… Chuyện quả trứng của Christophe Colomb (2)…. Anh xem đây.
Luân
đọc tờ giấy có chữ đỏ bên trong: Confidential (3) - Báo cáo của thiếu
tá trưởng Ty công an Kiến Hòa Lưu Kỳ Vọng gởi thiếu tướng Nguyễn Văn Là.
Đọc xong, Luân cười lạt, trả lại cho Nhu.
- Anh giữ! Nên “tẩm quất” tay này một trận… - Nhu bảo.
-
Tôi chưa báo với anh về thiếu tá Vọng. Tôi thấy chưa cần quấy rầy anh.
Vả lại, xáo trộn nội bộ trong lúc này không hay lắm… - Luân thở dài.
-
Coi kìa! - Nhu kêu lên - Tôi thừa hiểu, dù tôi chưa biết chi tiết… Sao
anh có vẻ bực bội? Gã Vọng này không hiền đâu… Người của Mai Hữu Xuân!
-
Không chỉ của Mai Hữu Xuân! Anh biết tại sao tôi quan tâm đến tay mật
vụ mang bí số J5? Bây giờ, tôi mới biết nó mang bí số J5, chứ trước thì
Vọng giấu biệt.
- Chính tôi định hỏi anh việc đó. - Nhu chăm chú nghe.
- Anh nhận được một nghị quyết của Trung ương Cộng sản, gọi là nghị quyết 15 chưa?
Nhu cười:
- Được rồi… Tôi có mang theo đây, nếu anh chưa có, tôi đưa anh một bản…
- Anh nhận được từ bao giờ? Do đâu? - Luân hỏi, sốt ruột. Một số dự đoán của anh đúng hay sai tùy thuộc câu trả lời của Nhu.
- Hôm kia… Bộ tổng tham mưu chuyển sang, tài liệu tịch thu trong một cuộc hành quân ở Cai Lậy.
Nghe Luân thở ra, Nhu kinh ngạc:
- Anh thấy có điều gì không bình thường? Tài liệu đây…
Luân nhận tài liệu, lật vội vàng ở trang chót:
- Nghị quyết thông qua cuối năm 1959, mãi tới nay mới đến tay anh… Anh không lạ sao?
-
Tôi cho là Cộng sản lưu hành nghị quyết có phần hạn chế… Nhưng, cơ quan
tình báo ta cũng kém… - Nhu nói, mắt vẫn không rời Luân.
- Tôi biết chắc chắn: người Mỹ có nghị quyết này trước ta ít ra cũng ba, bốn tháng…
-
Điệp viên của Mỹ ở khắp nơi. - Nhu không tỏ vẻ hăm hở nữa - Có thể tình
báo của họ ở Moscow, ở Bắc Kinh kể cả ở Hà Nội lấy được…
- Rất tiếc, Mỹ nhận tài liệu ở Việt Nam Cộng hòa, hơn nữa, ở Kiến Hòa…
- Thế sao? - Nhu sa sầm mặt - Đại sứ Mỹ hay cô Fanfani bảo anh?
-
Không chỉ có hai người đó… Nhưng họ nói là họ có một nghị quyết quan
trọng của Cộng sản. Tôi tìm ra nguồn cung cấp. Thằng cha hay con mụ mang
bí số J5 trao tài liệu cho thiếu tá Vọng và ông ta lờ anh.
Nhu lắc đầu:
- Chưa logique (4) lắm! Thiếu tướng Là không giấu tôi…
- Nếu thiếu tướng Là cũng như anh, nghĩa là cũng bị “bịt mắt” thì sao? - Luân cười mỉm.
- Chà! Thằng Vọng… - Nhu gầm gừ.
- Anh có thể lần mối: ai được trao tài liệu, ngoài tình báo Mỹ?
- Mai Hữu Xuân có không? - Nhu hỏi.
- Tôi nghĩ là có!
Nhu
về Sài Gòn. Luân tư lự với những ngã rẽ đột ngột trong bước đường phát
triển của miền Nam. Chính phủ Ngô Đình Diệm sợ nghị quyết chuyển hướng
đấu tranh của Cộng sản thì ít mà sợ nhiều hơn lối đi vòng vèo của những
tờ giấy… Bắt tay Luân tại sân bay, Nhu nói, đầy ý nhị:
- Nguyên tắc
éliminateire (5) người ta định chơi trò bipartie (6) tất nhiên một
partie (7) phải ra rìa… Tại sao ta không chơi trò đó? Mong anh suy nghĩ…
Làm sao chuyển những biểu hiện mới này cho lãnh đạo? Luân gọi Dung - cô ấy phải gặp Sa…
Thiếu
tá Lưu Kỳ Vọng dường như không có xương sống khi gã bắt gặp ngay trên
bàn viết của tỉnh trưởng bản mật báo do chính gã ký tên - không phải một
bản sao. Thế là xong đời! Gã thầm trách mình không đủ khôn để đo lường
sức vóc của đối thủ: thiếu tướng Là chưa bằng cái móng chân của Luân.
-
Chắc ông rõ, tôi gọi ông đến để nghe ông giải thích về cái này… - Luân
đẩy báo cáo về phía Vọng - Tôi đủ chứng cớ đưa ông ra toàn hoặc tống
giam ông. Tôi đã không làm như vậy bởi tin rằng sớm muộn gì rồi ông cũng
hiểu. Thật đáng buồn, ông không hiểu. Có lẽ tôi phải nói thẳng với ông:
thiếu tướng Mai Hữu Xuân, thiếu tá James Casey nhận được tài liệu nghị
quyết 15 của Cộng sản do ông gửi, trong khi đó, cấp trên tại chỗ của ông
là trung tá tỉnh trưởng Lê Như Hùng và cấp trên dọc của ông là thiếu
tướng Nguyễn Văn Là không nhận được… Ông biết đó, bây giờ tôi không cần
mất công đưa ông ra tòa. Tôi có quyền xử bắn ông như đối với mọi điệp
viên nước đôi… Tôi cho ông cầu cứu Williams Porter, Fishel hay cả Mac
Garr sắp thay Williams hoặc ai mà ông thấy đủ sức cứu ông… Tôi sẵn lòng
chờ ba hôm trước khi trói ông vào cột.
Thiếu tá Vọng ngỡ rằng sự
khuất phục của gã đã cứu gã. Gã khai tuốt luốt mối quan hệ của gã với
Mai Hữu Xuân và CIA, thuận miệng, gã khai luôn việc gã được Mai Hữu Xuân
ra lệnh bắt cóc Luân hồi năm 1955. Lần đầu tiên, Luân nghe những tiếng
lóng: Pénalty, Franc direct… chỉ dùng trên sân cỏ. Bây giờ Luân biết J5
là ai: Nguyễn Văn Côn, huyện ủy viên Mỏ Cày, huyện đội phó. Còn tay mà
Luân nghi ở Cồn Ốc là chi ủy viên xã Thạch Phú Đông, trưởng công an xã,
tên Hiếm.
Vọng được tiếp tục làm việc.
----------
(1) Một nhân vật Mỹ chống Cộng mù quáng đến nỗi thành “chủ nghĩa Mac Carthy”
(2)
Christophe Colomb, người tìm ra Tân thế giới, trong cuộc gặp gỡ với
thân hữu, đố mọi người đặt quả trứng đứng. Không ai làm được. Ông đập
một đầu trứng và quả trứng đứng. Mọi người cười ông: Thế thì dễ. Ông
đáp: Khó là sự tìm tòi ban đầu.
(3) Mật.
(4) Hợp lý
(5) Nguyên tắc loại trừ.
(6) Song phương
(7) Một bên.
CHƯƠNG 9
Dung đến Bến Tre trước hôm quốc khánh 26-10. Đây là lần đầu Dung đến nơi
làm việc của chồng. Cô rất thích cảnh rừng dừa bạt ngàn êm đềm một màu
xanh, sông nước trùng trùng của Bến Tre. Luân đưa vợ đi thăm mộ cụ Đồ
Chiểu - di tích duy nhất còn có thể thăm được một cách tuyệt đối an
toàn.
- Anh tiếc không đi với em tới Cồn Ngao, Bảo Thạch, cửa Khâu
Băng… - Luân âu yếm bảo vợ. Từ khi yêu Dung, anh được Dung truyền cho
cách cảm thụ quê hương từ một khía cạnh nữa - cái đẹp thiên nhiên và dấu
vết của người đi trước. Dung từng ao ước: Thế nào cũng theo Luân đến
Cồn Ngao để thấm thía nỗi buồn của tác giả Lục Vân Tiên - “Ngùi ngùi mây
bạc cõi Ngao châu”… Nguyễn Đình Chiểu đã mở đầu bài thơ khóc Phan Thanh
Giản như vậy. Bảo Thạch, cái làng nhỏ “bờ biển Nam” nơi “kẻ học trò già
họ Phan” an nghỉ - Dung giúp Luân hiểu về “Chín chữ lòng son tạc” là
chín chữ khắc trên mộ bia Phan Thanh Giản theo di chúc của ông, được cụ
Đồ Chiểu trân trọng nhắc… Không đưa Dung đi những nơi cố ước, Luân như
tự thấy mình có lỗi, khiến Dung phải an ủi anh: Thế nào cũng có dịp…
Tình
hình nước Lào mấy tuần nay bận tâm chế độ Sài Gòn. Đại úy Kong Lee,
tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn Dù Lào tiến hành đảo chính chống lại
chính phủ phái hữu thân Mỹ ở Vạn Tượng, liên minh trên thực tế với
Pathét Lào, đòi thi hành đường lối trung lập. Cái mà Luân rút ra kết
luận là thế lực tư sản dân tộc ở Lào vẫn còn một sức mạnh nào đó, cộng
với thế lực thân Pháp vẫn chưa buông tay, họ núp dưới bóng của nhà vua,
hòa hoãn với Pathét Lào… Trong một bối cảnh cụ thể, một tiểu đoàn đủ làm
nên đại sự. Đại úy Kong Lee ám ảnh Luân đến mức Dung phát sợ:
-
Tình hình Lào khác tình hình ta; phe hữu phản động chia rẽ, thực lực
không hơn Pathét Lào bao nhiêu; phe thân Pháp còn ảnh hưởng trong nhiều
giới, xu hướng độc lập trung lập trước thực tế hai phe tả, hữu ngang sức
có điều kiện phát huy thanh thế; đóng được vai trò nghiêng về bên nào
thì bên đó thắng, họ có lãnh tụ và lợi dụng được uy tín nhà vua và tôn
giáo… Mỹ chưa phải độc chiếm Lào.
Luân vuốt tóc vợ:
- Anh biết
như em. Nhưng ở ta, xét từ một căn bản khác đâu có kém thuận lợi hơn
Lào, nhất là xét về thế lực Cách mạng. Nghị quyết 15 nói tới nhiều khả
năng.
- Em thấy anh nên xin ý kiến các anh… - Dung không yên tâm. Luân cười:
- Tất nhiên!
Nói
thế, nhưng cả hai đều nóng ruột. Chưa liên lạc được với A.07 hoặc anh
Sáu Đăng, mà cũng không thấy các anh móc Luân. Sa chưa cho hẹn. Luân
nghĩ tới Quyến, thậm chí Lê Khánh Nghĩa, chỉ huy phó Bảo an Tây Ninh -
những đầu cầu nối với lãnh đạo. Dung kiên quyết phản đối, vì như vậy là
quá khinh xuất, vi phạm nguyên tắc…
Giữa lúc hai vợ chồng Luân lật
bề mặt bề trái sự kiện Lào thì Ngô Đình Nhu xoáy mắt vào một tụ điểm:
binh chủng Dù đảo chánh ở Lào - Nhu vốn nghi ngại “đứa con cưng của Tổng
thống” từ khi Dù thành một lữ đoàn hùng mạnh. Cho nên, nhân một số tiền
đồn ở Kontum bị Việt Cộng tấn công, anh ta phái đại bộ phận lính Dù lên
tiếp viện…
… Khán đài lễ quốc khánh đặt ngay trước cổng dinh tỉnh
trưởng. Cả Nam Việt được lệnh tổ chức thật rầm rộ lần thứ 5 ngày khai
sinh nền Đệ nhất Cộng hòa. Cũng như các tỉnh, Kiến Hòa tổ chức trước một
ngày, ngày 25-10, để hôm sau, các quan chức đầu tỉnh còn về thủ đô
chung vui với Tổng thống.
Chương trình gồm: phát biểu của tỉnh
trưởng, đáp từ của dân quân chánh, múa lân, hội chợ, diễn kịch. Đêm, dạ
tiệc do làng An Hội đãi…
Chào cờ xong, Luân lên lễ đài, sắp sửa đọc
bài diễn văn sẳn. Dung ngồi hàng ghế đầu. Luân mở xấp giấy, trước khi
đọc, khẽ liếc vợ, mỉm cười. Bỗng anh bắt gặp vẻ mặt kinh hoàng của Dung
cùng tiếng thét thất thanh của cô: Lựu đạn! Thật ra, Luân cùng một lúc
nghe thấy tất cả những thứ đó: Vẻ mặt trắng nhợt, tiếng thét và cái
nhoài người như muốn vọt lên lễ đài của Dung, tiếng rú và bước nhảy vụt
tới của Thạch, quả lựu đạn lăn lộc cộc, sự náo loạn của sân lễ - hằng
trăm người vừa hô hoán vừa nhào xuống đất… Tuy nhiên, nhanh hơn hết vẫn
là Luân. Anh chộp quả lựu đạn ném ngược ra phía sau, bên trong vòng rào
dinh tỉnh trưởng, đồng thời ghì Dung vào lòng, xô Thạch té xấp… Mọi
người chờ tiếng nổ. Không có. Lựu đạn lép. Hú vía.
Thủ phạm bị bắt
liền tại trận. Một cậu học sinh. Một cậu học sinh mà Luân biết mặt, biết
tên. Cuộc mít tinh tiếp tục, nhưng không khí thật căng thẳng.
Cách
nay năm hôm, công an tỉnh bắt một thiếu niên lảng vảng trước dinh tỉnh
trưởng. Lê Ngọc Thường, học sinh đệ tam trường tỉnh, con của bà Ngô thợ
may. Công an quả quyết Thường đo đạc khoảng cách từ lề đường đến nơi sẽ
đặt lễ đài - hễ có lễ thì bao giờ lễ đài cũng đặt sát rào dinh tỉnh
trưởng, còn dân chúng đứng từ lề đường. Thường khai: cậu ta rình một con
sóc trên ngọn cây sao - quả cậu ta cầm chiếc giàn thung và túi quần
nhét nhiều sỏi. Công an không tin mà Luân cũng không tin. Cậu bé mặt mày
sáng sủa, trả lời trôi chảy các câu hỏi - sự thú nhận gián tiếp nó đã
được sửa soạn những câu trả lời từ trước. Dù sao, rình một con sóc trước
dinh tỉnh trưởng vãn không phải là trò chơi của cậu học sinh sắp thi tú
tài phần thứ nhất, hơn nữa, cậu quá đĩnh đạc. Luân ra lệnh thả Thường
với lời khuyên: Lo học. Công an gọi bà Ngô đến ty giao bà chăn giữ thằng
bé. Hôm sau bà Ngô hớt hãi trình với ty: Thường bỏ học trốn mất.
Và,
cậu bị bắt quả tang. Sau phần lễ chính thức, Luân bảo mang Thường đến
dinh tỉnh trưởng. Anh muốn đích thân hỏi cung Thường.
- Tại sao em định giết tôi? - Luân hỏi, ôn tồn.
Thường nín lặng. Đôi mắt thông minh ngó thẳng Luân, môi hơi cười cợt. Lưu Kỳ Vọng nổi đóa.
- Mày không có lưỡi hả? Trung tá hỏi sao mày không trả lời?
Thường ném cho Vọng cái liếc khinh miệt, rồi tiếp tục im lặng.
- Trung tá để nó cho tôi! - Vọng thở khò khè - Ngữ này không mềm xương không bỏ tật láo…
- Em nói đi! - Luân vẫn ôn tồn - Tại sao? Tại sao em ném lựu đạn vào tôi?
Thường không nói. Lưu Kỳ Vọng nhảy tới, thộp ngực Thường:
- Nói! - Gã giơ cao tay.
Luân vội ngăn gã:
- Đừng, thiếu tá!
Vọng quay về chỗ ngồi, hầm hừ:
-
Tại trung tá không cho đánh, nó lừng! Tôi nói thiệt, một cái lên gối,
nó khai tới ông bà ông vải liền… Nghe tao hỏi: Đứa nào biểu mày quăng
lựu đạn, lựu đạn lấy ở đâu?
- Nói đi em, tại sao em muốn giết ông Luân? - Thùy Dung hỏi, dịu dàng.
- Tại ghét! - Thường mãi mới nói và là một câu cụt lủn.
Luân phì cười:
- Tại sao ghét tôi?
- Ác ôn, ai mà không ghét! - Thường trả lời tuy rắn rỏi song hoàn toàn kiểu trẻ con.
- Tôi ác ôn chổ nào? Em có thấy tôi bắn giết, đánh đập ai không?
- Ông giả đò nhân đạo mà người của ông - Thường ngó Vọng - bắn giết hằng hà dân trong tỉnh! Ông không gạt nổi dân Bến Tre đâu…
Luân biết người lớn dạy Thường như vậy.
-
Chắc em đói bụng… - Luân đột ngột chuyển sang chuyện khác - Ăn đi rồi
về lo học. Còn muốn làm hiệp sĩ, chiến sĩ phía bên nào cũng vậy, phải
tập luyện cho giỏi, bình tĩnh… Lựu đạn chưa tháo chốt đã vội liệng, sao
nổ được…
Thường đớ người:
- Tôi tháo chốt rồi mà!
Luân cười bảo Vọng:
- Thiếu tá thấy không? Khờ khạo quá, bị gạt…
Luân bảo mua cho Thường hủ tiếu. Khi cậu ăn xong - cậu vừa ăn vừa liếc Luân - Luân ra lệnh cho cậu tự do muốn đi đâu thì đi.
Lưu Kỳ Vọng cuống quít:
- Thưa trung tá, để tụi này khui nó, tìm ra kẻ chủ mưu…
Luân lắc đầu:
- Trò của con nít, hơi đâu để ý!
Sau
cùng, Vọng tự rút ra nhận xét: Tay Luân này “điếm tổ”, y mượn trẻ con
quăng lựu đạn giả để quảng cáo y có số hên… Vọng có cơ sở: Quả lựu đạn
mà Thường ném không nổ chẳng phải vì Thường quên tháo chốt an toàn như
Luân nói mà vì lựu đạn bị tháo kim hỏa…
Nhưng hai hôm sau Công an
tỉnh chụp một căn nhà ngoại ô thị xã, khui hầm bí mật, bắt hai người -
một là Thường. Diễn biến nội vụ, Ty công an báo cáo như sau: Được mật
báo, đêm 28, rạng ngày 29 tháng 10, đội thám báo trực thuộc ty, do thiếu
tá Lai Văn Thố chỉ huy đã bao vây căn nhà ở ấp Cầu Tréo, làng An Hội,
sát sông Bến Tre, nơi thị ủy Cộng sản lén lút trú ngụ. Căn nhà nằm sâu
giữa vườn lôm chôm, vốn bỏ hoang từ lâu. Thoạt đầu nhân viên công lực
kêu gọi Việt Cộng đầu hàng, nhưng từ trong nhà, nhiều phát súng lục bắn
ra, buộc nhân viên công lực phải tấn công mạnh. Tuy nhiên vì trời tối,
không tiện lục soát. Khi đã sáng rõ, nhân viên công lực vào nhà, bắt
được mấy tấm đệm, ấm chén uống nước, tàn thuốc lá, giày dép… chứng tỏ
Việt Cộng hội họp (tám hay chín tên) và ngủ lại… Cuộc lục soát sau đó
phát hiện một hầm bí mật dưới gốc cây lôm chôm. Người đội nắp hầm trồi
lên đầu tiên là một đàn ông vạm vỡ. Hắn ta vừa thoát khỏi hầm, đã lôi từ
hầm lên khẩu tiểu liên Sten và bất ngờ lia vào đội thám báo, may không
ai trong đội thám báo trúng đạn. Nhân lúc hỗn loạn, hắn lao xuống sông
và biệt dạng. Cũng nhân lúc hỗn loạn, hai tên nữa dưới hầm tung hai lựu
đạn. May mà lựu đạn tịt ngòi. Cả hai bị bắt sống.
Không thể can
thiệp như hai lần trước, Luân đành để Ty công an khai thác Thường, nhưng
anh dặn phải đảm bảo sức khoẻ cho hung thủ để anh còn trực tiếp thẩm
vấn…
- Em có chú ý hai chữ “mật báo” trong tờ trình của Ty công an
không? - Luân thủ thỉ với vợ - Đó là cái gút mà ta phải phanh phui, bằng
không Bến Tre khó tránh tổn thất nặng. Một số tay sai của công an lòn
sâu vào nội bộ cơ quan chỉ đạo, ít nhất cũng đã có tên Côn, huyện ủy
viên kiêm huyện đội phó, tên Hiếm, chi ủy Thạch Phú Đông…
Ngày thứ
ba, Luân bảo Ty công an đưa sang dinh tỉnh trưởng người bị bắt một lượt
với Thường. Còn Thường, Luân ra lệnh thôi tra tấn, chờ anh…
… Một
trung niên, gầy, trán cao, mắt quầng đờ đẫn. Chắc chắn là ông ta cận
thị. Tờ khẩu cung ghi: Dương Văn Tâm, 38 tuổi, nguyên giáo viên Trường
trung học Bến Tre, bỏ nhiệm sở tháng 2 năm nay, hiện là nhân viên văn
phòng ban tuyên truyền thị ủy. Theo lời khai của Tâm, chẳng có họp hành
gì hôm đó, họ đi công tác, ghé nghỉ nơi trạm. Người bắn tiểu liên là
trưởng trạm. Họ ném lựu đạn để tự vệ. Hai ngày tra tấn của Ty công an
moi ra chừng ấy lời khai. Luân thừa biết đây là lời khai dối. Khai dối
không được hợp lý lắm.
- Ông nên khai lại! - Luân đặt tờ khẩu cung
qua bên - Ông muốn giấu điều gì tùy ông, song lời khai của ông không hợp
lý. Ông chỉ là nhân viên văn phòng một ban nhỏ của thị ủy, không sao
cả, nhưng ông không phải ghé trạm. Trạm sao có hầm bí mật và chỉ có một
hầm? Còn những chiếc đệm, còn giày dép, còn tàn thuốc lá… Các ông họp,
đúng vậy. Người dự họp sống công khai trong thị xã - các ông chọn điểm
họp như vậy cho tiện đi lại… Họp tới khuya thì nghe động. Số đông tản
khỏi khu vườn. Còn ba người không thể đột nhập vào thị xã nên “chém vè”.
Ông đánh rơi kiếng, không đủ lanh lẹ thoát chạy khi hầm bị khui. Cậu
Thường thì thiếu kinh nghiệm… Có thể tôi nói không ăn khớp một trăm phần
trăm, song đại thể là như vậy…
Đôi mắt thâm quầng của người bị bắt tên là Tâm lóe lên tia sáng kinh ngạc.
- Tôi cho phép ông về nhà giam suy nghĩ lời khai. Tôi cần sự hợp lý… - Luân bỗng hỏi: - Ông cận mấy dioptries (1)?
Tâm trả lời là sáu - khá nặng.
- Ông sẽ có kiếng để tự viết lời khai. Cho ông ba hôm…
Ngay
chiều hôm đó, thiếu tá Lưu Kỳ Vọng báo cáo riêng với Luân: J5 cho biết
người tên Dương Văn Tâm có bí danh Hai Kiếng, ủy viên thường vụ thị xã,
phụ trách trí và học sinh vận. Vọng đề nghị khai thác ráo riết Tâm để
lùa hết cơ sở Cộng sản trong giới thầy cô giáo, công tư chức và học
sinh.
Luân giả bộ đắn đo. Anh chưa tìm ra kế hạn chế tổn thất.
-
Ý của thiếu tá rất đúng!… - Luân bảo - Song còn có cách hay hơn. Tôi sẽ
tự cán đáng việc này… Nếu tay Tâm chịu làm việc cho mình, thiếu ta thấy
sao? - Sau cùng Luân nảy ra sáng kiến.
Vọng xoa tay lia lịa:
- Trung tá làm được, em út phục lăn. Nhưng…
- Khó phải không?
Vọng gật đầu.
- Thử cái coi! - Luân cười.
Vào thời gian đó, nhiều người trong thị xã bị công an bắt, số đông là học sinh, lao động, có một ít thầy giáo, viên chức.
Luân
và Dung suy nghĩ mãi: Giáo Tâm không khai, Thường không khai, tại sao
cơ sở bể rộ? Cái gì đây? Cũng đến hai mươi người, theo tờ trình của Ty
công an, thuộc hạng đầu mối quan trọng, trong đó gần phân nửa dự cuộc
họp ở ấp Cầu Tréo.
- Kỳ quá! - Luân lầm bầm. Dung chợt reo to:
-
Em thấy nguyên nhân rồi! Tại sao người dưới hầm trồi lên còn đủ thì giờ
lấy khẩu tiểu liên và, hơn nữa, cả băng đạn bắn mà không trúng ai cả?
Anh ta thoát đi dễ dàng, chẳng bị rượt đuổi.
- Đúng! - Luân hớn hở - Hai trái lựu đạn đều lép, giống y như trái ném vào anh!
Lập tức, Luân gọi thiếu úy Thố.
- Tại sao anh phát hiện được hầm? - Luân hỏi.
Thì ra, có dấu hiệu: ba vỏ lôm chôm xếp hình tam giác ngay trên nắp hầm.
- Anh có biết sẽ bị bắn không?
- Không, tin mật chỉ nhắc đề phòng lựu đạn…
- Tại sao các anh không ai bị thương?
- Hình như người bắn cố ý không chĩa ngay vào chúng tôi…”
Đúng
hẹn, Luân gặp Tâm. Lời khai đã hợp lý hơn. Họ hộp hội nghị đội tuyên
truyền, bị chụp, đa số lách theo vườn nên thoát. Anh ta là đội phó, cùng
đội trưởng ở lại. Đội trưởng đã bắn. Anh ta và chú Thường - liên lạc
của đội - ném lựu đạn nhưng vướng nắp hầm, không chạy được. Đội viên
không ai sống hợp pháp - họ đi giày, dép là để hóa trang qua đồn bót.
Luân chỉ cười tủm tỉm khi đọc xong lời khai.
-
Tôi không tin! - Luân bảo… - Anh nói dối! Anh là Hai Kiếng, ủy viên
thường vụ thị ủy… Anh phụ trách trí và học sinh vận. Người của tôi trong
các anh thông báo với tôi đầy đủ… Anh đừng hòng chối.
Hai Kiếng sững sờ. Hôm nay, anh đeo kiếng, nên có thể nhìn thấy Luân, viên tỉnh trưởng vừa về Bến Tre đã nổi danh quỷ quyệt.
Không đợi Hai Kiếng nói, Luân tuyên bố:
- Anh phải làm việc cho tôi!
Hai Kiếng xua tay:
-
Không đời nào! Ông có bắn tôi thì bắn, tôi không bao giờ chịu làm chó
săn… Ông mưu mẹo với ai chớ không lừa được tôi đâu… Đúng, tôi là Thường
vụ thị uỷ. Cứ xử tôi theo luật của các ông…
- Anh không chịu cũng
phải chịu… - Luân nạt đùa… - Còn cậu Thường! Tôi giao các người hằng
tuần phải báo cáo cho tôi… Báo cáo qua người của tôi đang làm việc với
các anh…
- Có phải ông Hiếm ở Cồn Ốc giao lựu đạn cho em không? - Luân hỏi riêng Thường.
Thường lắc đầu…
- Có phải cái ông trưởng trạm giao lựu đạn cho em?
Thường vẫn lắc đầu, song con mắt chớp chớp của nó lại xác nhận.
- Có phải J5? - Luân tự hỏi.
Tâm
và Thường được thả. Họ chẳng hiểu lý do. Còn Ty công an thì khen nức
nở: Ông trung tá mình cứng thiệt, xỏ mũi thằng Hai Kiếng te te!
*
Tính
toán của Luân có một sơ hở lớn mà anh không ngờ. Sơ hở đó đã gây nên
tổn thất đau lòng: Hai Kiếng bị xử tử… Thường thoát chết nhờ tuổi còn
nhỏ, nhưng bị giam. Và mọi việc chỉ sáng tỏ sau ngày Tết nguyên đán Tân
Sửu…
Luân quên Hai Kiếng, bởi một sự kiện chính trị lớn đột ngột
xảy ra ở Sài Gòn, ngày 11-11: cuộc đảo chính của lính dù nhằm lật đổ
Tổng thống Ngô Đình Diệm.
----------
(1) Độ cận thị
CHƯƠNG 10
Khách không hẹn là trung tá Vương. Điều khiến Luân suy nghĩ khi tiếp
ông: cuộc hành quân giải tỏa Dakpek, Dakto của quân Dù tận Bắc Kontum
vừa chấm dứt, trung tá Vương hối hả xuống Kiến Hòa. Cái lý do muốn được
“trao đổi kỹ về bài giảng ở đại học quân sự về đề tài triển khai quân Dù
trong đội hình lữ đoàn ở nơi yên tĩnh” không đủ giải thích sự có mặt
đột ngột của trung tá ở một địa phương ít yên tĩnh nhất Việt Nam Cộng
hòa hiện nay, trong khi quan hệ giữa Luân và ông ta còn xa mới được gọi
là bè bạn.
Cả hai cùng giữ miếng: Luân bình thản mời khách nhấm
nháp rượu pha nước dừa và tôm càng Bến Tre; trung tá Vương lại không dấu
vẻ bồn chồn. “Tiểu đoàn I Dù không thiệt hại nhiều”. Trung tá Vương
thoạt như định thuật cho Luân nghe về cuộc hành quân mà ông ta chẳng
liên quan gì. Nhưng, ông ta đổi đề tài hỏi Luân tình hình Kiến Hòa. Hỏi
để mà hỏi thôi, ông nghe rất lơ đãng. Hai người uống khá nhiều, câu
chuyện tiếp tục chạy vòng ngoài.
- Kennedy chắc thắng… Anh thấy thế
nào? – Trung tá Vương áng chừng không thể nào chịu đựng mãi tình trạng
kéo dài nhạt nhẽo, hỏi Luân.
- Thế nào theo nghĩa nào? – Luân hỏi
vặn, làm như không quan tâm lắm sự thay đổi nguyên thủ quốc gia Mỹ - Anh
muốn biết ý kiến của tôi về khả năng thắng cử của Kennedy trước Nixon
hay muốn biết nhận xét của tôi về những hậu quả một khi Kennedy thắng
cử?
- Kennedy thắng cử, đâu còn gì phải bàn…- Vương như lấy được
trớn – Cái cần bàn là chúng ta sống thế nào dưới chính quyền của đảng
Dân chủ…
- Có một nhà báo viết: đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ khác
nhau như hai đường ray. Nghĩa là về hình thức, hai đảng tổ chức riêng,
nhưng cả hai đều là thanh “ray” cùng đúc trong một khuôn, muốn dán nhãn
hiệu Cộng hòa hay Dân chủ vào thanh nào cũng được. Tôi thấy ngồ ngộ khi
người ta quan tâm đường ray mà quên xe lửa chạy trên ray! Chúng ta sẽ
sống với đảng Dân chủ như chúng ta đã sống với đảng Cộng hòa, bởi vì
chúng ta sống với chính đoàn xe… Đâu có gì khác.
- Khác chớ! – Trung tá Vương sôi nổi hẳn – Eisenhower bảo thủ hơn Kennedy… Kennedy trẻ, năng động, thích đổi mới…
-
Tôi chưa đủ tài liệu để có một nhận định về chính sách đối nội của
Kennedy. Nhưng về đối ngoại, tôi nghĩ là rất ít sự khác nhau giữa hai
tổng thống… - Luân vừa thăm dò vừa lái nội dung câu chuyện.
-
Kennedy rất định kiến về cung cách cai trị của chính phủ Việt Nam! Đặc
biệt, ông ta khó chấp nhận nền độc tài gia đình trị… - Vương tiến sát
đến chỗ mà Luân chờ.
- Anh quên là anh đang nói chuyện với một thành phần của nền độc tài gia đình trị đó! – Luân cười cởi mở.
-
Nếu tôi ghép anh vào triều đình của tổng thống Diệm theo nghĩa hiến
dâng cả thể xác lẫn linh hồn thì đã không trao đổi với anh… - Vương nói
rất nghiêm – Tôi lo lắng. Chiến tranh đang mỗi ngày mỗi tăng cường độ.
Chẳng lẽ chúng ta khoanh tay nhìn nó tàn phá đất nước một cách vô lối?
Chính phủ thêm súng thì Cộng sản cũng thêm súng… Đến một độ nào, Hoa Kỳ
tái diễn sự kiện Cao Ly và Nga Xô, Trung Cộng cũng không làm khác… Triển
vọng thật ghê rợn!
- Cứ cho như tình thế đất nước sẽ như anh dự
đoán, những sĩ quan trung cấp cỡ anh và tôi, chúng ta không thể đi quá
giới hạn của những bình luận viên hoặc con chiên hết lòng xin Chúa xót
thương mà giảm cơn thịnh nộ…
- Anh khiêm nhường thái quá! – Vương
hùng hồn – Nasser lung lay cả Trung Đông khi ông giữ cấp hiệu còn thấp
hơn chúng ta… Đất nước cần đổi thay…
- Tạm cho ý kiến của anh là
xác đáng, tôi vẫn thấy cần thiết phải rõ ràng một vấn đề kỹ thuật: Thế
nào là đổi thay và đổi thay bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đóng vai
trò các thẩm mỹ viện nhan nhản khắp nơi, biến cặp môi chì thành môi
mỏng, độn ngực lép thành no tròn…?
- Anh cho việc sửa sắc đẹp như
vậy là còn quá ít? – Vương hỏi, soi mói… - Trước hết, theo tôi cần có
các bác sĩ phẫu thuật ngoại khoa… Từ cơ sở đó, các chuyên gia lớn sẽ làm
nốt phần còn lại.
Tới đây Vương không úp mở nữa:
- Ông hoàng Phouma là một chuyên gia lớn, nhưng ông ấy không làm gì nổi nếu không có một con dao ngoại khoa Kong Lee …
Đã
rõ ràng… cái khôi hài ở đây là chuyện “chuyên gia lớn” mà Vương kỳ vọng
lại là Phan Quang Đán, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Tường Tam!
- Giải phẫu nào cũng rỉ máu… - Luân nói xa xôi.
- Tất nhiên! – Vương xác nhận – Ngay cả cắt bỏ ruột thừa…
- Tôi chỉ băn khoăn: con bệnh sẽ đẹp hay xấu hơn khi chạm tới dao kéo. Có những giải phẫu viên thẩm mỹ giỏi và tồi…
-
Thận trọng là đức tính tốt của con nhà binh. Song, có một phương ngôn:
Người ta không thể thưởng thức món ômơlét mà không đập vỏ trứng.
Luân cười phá:
- Trong cả hai nghề - mổ xẻ của bác sĩ thẩm mỹ và đập trứng của nhà bếp – tôi đều rất vụng!
-
Anh hiểu lầm chuyến thăm anh của tôi rồi! – Vương kêu to – Tôi không hề
có ý định rủ ren anh cầm dao kéo hay cầm muỗng … Nếu có, thì là mời anh
theo kiểu: La boufeille est tirée, il fault la vider…(1) Thật ra, một
tỉnh nhỏ, quân số lèng phèng, dù anh muốn can thiệp cũng không ăn thua –
bất kể cả phía nào, dự phần hay “cứu giá”. Khôn ngoan hơn hết là anh
trung lập… Tôi nói rõ một chút: “anh” không phải trung tá Nguyễn Thành
Luân, tỉnh trưởng Kiến Hòa đâu nhé…
- Anh ngại “ngư ông đắc lợi” phải không?
Trung tá Vương gật đầu.
- Tôi tin anh, gần như giao sanh mạng cho anh… - Vương thổ lộ nỗi lo lắng, khi cơn “bốc” dịu lại.
Luân không nói gì. Tiễn trung tá Vương ra xe, anh nhắc nhận xét cũ:
- Lính Dù trang bị nhẹ quá.
- Cám ơn anh! Tôi đã bổ khuyết rồi …
…
Trong thâm tâm, Luân thèm được làm trung tá Vương. Với anh, tình huống
sẽ không lập lờ kiểu Kong Lee. Thật tuyệt diệu, nếu chính anh làm chủ
Sài Gòn!
Luân gieo phịch người lên ghế, chìm trong bao ý nghĩ rộn ràng, đến nỗi Dung choàng tay qua cổ anh, anh mới sực tỉnh.
-
Một cuộc hùn hạp giữa những đầu sỏ lừa đảo. – Luân bảo Dung – Anh chàng
Vương sẽ vỡ mộng. Hiện tượng Kong Lee khuyến khích Phòng nhì Pháp, còn
CIA thì xúi bẩy. CIA cần một tát tai cảnh cáo anh em ông Diệm, Phòng nhì
mơ màng khôi phục trật tự thuộc địa cũ. Vương tin vào một chế độ trung
lập chịu ảnh hưởng Pháp thay cho chế độ thân Mỹ, ngăn chặn cách mạng ở
Nam Việt. “Đồng sàng” với Vương nhưng rất “dị mộng” là Nguyễn Chánh Thi –
tên hoạt đầu này thuộc đảng Đại Việt, mục tiêu đơn giản song trắng
trợn: một trong các ghế Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng quốc phòng,
Tổng tham mưu trưởng … Chuyện đột ngột xuống Bến Tre của Vương có thể do
Phòng nhì gợi ý: đừng để cách mạng nhân tình hình rối ren mà tấn công,
tạo lợi thế cho chế độ thân Pháp trong sự mặc cả sau này.
- Bao giờ thị họ bắt đầu? – Dung hỏi.
- Theo anh, đợi Kennedy lên, bật đèn xanh. Có thể cuối năm… Làm sao báo cho A.07?
*
Lại một khách không hẹn nữa đến Kiến Hòa.
Đại
úy Phan Lạc, chỉ huy phó Biệt động Quân khu thủ đô – khác với trung tá
Vương – đi thẳng vào vấn đề, khi vừa ngồi xuống ghế.
- Tôi không
tài nào chịu nổi! – Đại úy kêu lên giận dữ - Trung tá đã thấy lần nào
cảnh lính Dù mổ bụng Việt Cộng chưa? Thật dã thú! Chính mắt tôi thấy,
không phải một lần, cũng không phải mười lần…
- Do “Nỗi buồn dã thú” mà tôi đọc trên một tờ báo – Luân đùa. Anh nhắc bài thơ của Phan Lạc.
-
Không! – Phan Lạc nói thật nghiêm – Hai khái niệm khác nhau. Ở đây, tôi
nói họ là dã thú theo cái nghĩ họ muốn biến tất cả chúng ta: anh, tôi,
sĩ quan nói chúng, làm những tên chỉ huy bọn đồ tể. Biệt động quân rồi
sẽ phải cắm lưỡi lê vào bụng một người nào đó…
- Bây giờ, anh mang sự tức tối ấy đến đây để làm gì? – Luân cũng nghiêm trở lại – Anh định trút lên đầu tôi sao?
- Anh gánh một phần trách nhiệm vì là người của Tổng thống!
- Giả tỷ đúng như anh nói, tôi cũng không thể cải biến được tình hình.
- Được chớ! Nếu anh muốn…
Luân ngắm nghía viên đại úy ngồi trước anh. Anh ta là ai?
-
Tất nhiên, tôi rất muốn… - Luân cân nhắc lời lẽ - Ở Kiến Hòa, tôi cấm
mọi hành động vi phạm luật pháp thô bạo. Tôi nghiêm trị…
Đại úy Phan Lạc lắc đầu:
- Tỉnh Kiến Hòa quá nhỏ. Kể cả những gì trung tá đã làm ở Bình Dương, vẫn quá nhỏ…
- Ta hãy làm những cái nhỏ trong khi chưa có cái lớn. – Luân tiếp tục thăm dò.
-
Cái lớn không tự nó đến. Phải tạo ra… - Phan Lạc sôi nổi trái hẳn tính
khí thường ngày của anh mà Luân biết – Theo anh, một lữ đoàn Dù, một
tiểu đoàn Biệt động quân là nhỏ hay lớn? – Phan Lạc chợt hỏi Luân.
-
Có thể là nhỏ, có thể là lớn… Còn tùy. Anh từng nghiên cứu An Nam hành
quân pháp, Binh thư yếu lược, Hổ trướng khu cơ của Việt Nam, thế trận
của Gia Cát Lượng… Cho nên, nói với anh về tình hình, sự phối hợp trong
bố trí là thừa… - Luân quyết định trả lời lơ lửng.
Đại úy Phan Lạc đập mạnh hai bàn tay vào nhau, tặc lưỡi:
- Tiếc là tôi chỉ ở cấp đại úy!
- Cấp trung tá cũng chẳng hơn gì! – Luân cười nhẹ.
- Có phải anh nhận xét với ông Vương là lữ đoàn Dù trang bị nhẹ?
- Đúng!
- Biệt động quân có xe tăng và 12 khẩu pháo! Nặng hay nhẹ?
-
Vấn đề chắc không đơn giản ở chỗ có xe tăng và pháo. Làm sao xe tăng
chịu lăn xích và pháo chịu cất tiếng, đó mới thật sự là vấn đề! Làm sao?
Clausewitz (2) đã chạy rồi: Thống nhất chỉ huy, thống nhất tham mưu!
Đại úy Phan Lạc thở ra:
- Tôi nghĩ nguyên tắc của Clausewitz không tính đến điều may rủi…
Hai người không nói nữa. Phan Lạc ngó ra bên ngoài, rõ ràng đầu óc anh ta rất căng thẳng.
“Có thể là một người có thiện chí, song quá non!” – Luân đánh giá Phan Lạc.
-
Tôi hỏi thẳng anh và xin lỗi trước nếu câu hỏi làm anh khó chịu: Anh
còn giữ liên lạc với “phía bên kia” không? – Phan Lạc úp mở.
- Chi vậy? – Luân mỉm cười.
- Tất nhiên, tôi hỏi là có chủ ý …
- Đành phải không làm vừa lòng anh: Tôi không thấy lợi ích gì khi phủ nhận hay công nhận điều anh muốn biết!
- Thôi, tôi không cần anh trả lời câu đó. Tôi hỏi anh một câu khác: Tôi có thể tin cậy anh ở mức nào?
Luân bật cười:
- Tới mức mà anh đã cho tôi biết những điều khá bí mật từ lúc gặp tôi…
- Ngô Đình Nhu đã hỏi tôi: Tại sao tôi chống chính phủ? Và tôi đã trả lời: Vì tôi muốn bảo vệ chính phủ!
- Trả lời rất thông minh! – Luân khen.
- Tôi hy vọng sẽ còn gặp trung tá! – Phan Lạc đứng lên từ giã Luân. Luân tiễn Phan Lạc xuống thềm:
- Đại úy nên nhớ: ông Thi quan hệ chặt với CIA…
-
Tôi biết! – Phan Lạc bảo – Tôi biết cả tên của nhân viên CIA đó. Ông ta
là Carven, khoác áo phái đoàn viện trợ kinh tế. Chính luật sư Hoàng Cơ
Thụy mối lái cho Carven gặp Thi.
- Vậy là tốt… Còn Vương, ông ta là người của Phòng nhì…
- Tôi cũng biết.
- Chúc đại úy may mắn! – Luân vẫy tay hồi lâu, đến khi xe của đại úy Phan Lạc ra khỏi cổng.
Còn lại một mình, Luân như tiếc rẻ: Cậu Phan Lạc này bấm cò súng sớm quá!
*
Luân
đã phán đoán sai, Kennedy đắc cử ngày 10-11, cuộc đảo chính nổ ra ngày
hôm sau, 11-11. Dàn cảnh chính là kết quả của cuộc bầu cử, mặc dù theo
Hiến pháp Hoa Kỳ, tân tổng thống mãi đến cuối tháng giêng sang năm mới
nhận chức.
Vào 2 giờ sáng Luân choàng thức: trung úy truyền tin Hồ
Nhựt Thanh báo có điện khẩn của dinh Độc Lập. Luân linh cảm tình hình
đột biến.
Té ra không phải điện thoại mà đài phát sóng riêng của
Tổng thống thông báo chung các cấp quân sự, hành chính. Đài phát sóng
yếu, rất khó nghe, nhưng Luân biết được điều cần biết: Vào một giờ rưỡi
sáng nay, quân Dù đồn trú dã ngoại trong Sở thú nổ súng tấn công Liên
binh phòng vệ Phủ tổng thống đóng trong thành 11è RIC cũ đồng thời bao
vây dinh Độc Lập, kêu gọi tổng thống đầu hàng; Tham mưu biệt bộ Phủ tổng
thống ra lệnh các lực lượng thuộc sư đoàn 7 đóng ở Biên Hòa và sư đoàn
21 đóng ở Mỹ Tho về Sài Gòn “dẹp một nhúm sĩ quan Dù phản loạn”.
Luân
mở máy liên lạc đặc biệt, xin nói chuyện với Ngô Đình Nhu. Từ đầu máy
kia, tiếng Nhu nhòa trong tiếng liên thanh dữ dội: “Nhu đây, anh Luân
hả?… Dinh Độc Lập đang bị vây. Tôi đang cố liên lạc với đại tướng Tỵ…
Ngoài Dù, còn một số đơn vị Biệt động quân… Không có gì nguy ngập lắm…
Anh yên tâm!”. Giọng Nhu khá bình thản.
Như vậy, quân đảo chính vẫn
chưa đột nhập được vòng rào bảo vệ dinh. Điện thoại reo. Bây giờ, trung
tá Vương nói chuyện với Luân.
“Chào trung tá Luân. Tôi là Vương
đây… Điều mà tôi báo trước đang thành sự thật. Để giảm bớt đổ vỡ, chúng
tôi yêu cầu Tổng thống giao quyền lại cho một chính phủ mới, còn Tổng
thống và gia quyến sẽ được đảm bảo an toàn rời Việt Nam đến nơi nào do
Tổng thống chọn lựa… Ủy ban cách mạng đã gửi tối hậu thư cho Tổng thống.
Chúng tôi sẽ tổng tấn công nếu Tổng thống bác bỏ tối hậu thư đó. Tổng
thống không thể hy vọng quân tiếp viện, các cầu dẫn vào thủ đô đã bị
quân cách mạng chiếm… Tôi tin là trung tá hiểu thời thế, đừng vọng
động…”
Luân không đáp lại Vương một lời – các sĩ quan đã tề tựu quanh Luân.
Luân gác máy, bảo:
- Trung tá Vương, người cầm đầu quân đảo chính gọi điện cho chúng ta…
- Ông ta nói gì? Kêu gọi chúng ta đầu hàng? – Chung Văn Hoa hỏi.
- Cũng gần như vậy. Hình như ông ta gọi tất cả các tỉnh…
- Họ chưa chiếm đài phát thanh!
Nghe
nhận xét của đại úy tham mưu trưởng Nguyễn Thành Động, Luân cho mở máy
thu thanh: đài Sài Gòn im lặng, đài Quân đội liên tục đánh các bài hành
khúc. Để kiểm tra thêm, Luân gọi điện cho Nhà dây thép Sài Gòn – cô nhân
viên trực có mặt, cho biết súng nổ nhiều, quân Dù và Biệt động vận
chuyển trên các xe quân sự đổ về dinh Độc Lập.
“Không ổn rồi!” –
Luân kêu thầm. – “Quân đảo chính không biết, ngay phút đầu, chiếm đài
phát thanh và bưu điện… Những tài tử đảo chính!”
Đại úy Động nói bằng lời sự đánh giá đó: Ce sont des stagiaires!(3)
“Lại
không tấn công ngay, tấn công kiên quyết… Súng đã nổ, là một. “Tổng
thống”, hai “Tổng thống” – Luân tiếp tục suy nghĩ – Diệm, Nhu sẽ tìm
cách hoãn binh để quật lại…” Giữa Nguyễn Chánh Thi và Vương hình như
chưa khớp về ý định: Thi đòi Diệm đầu hàng, Vương đòi Tổng thống trao
quyền và bình an ra đi.
- Báo động trong toàn tỉnh! – Luân ra lệnh –
Đình chỉ tất cả các cuộc hành quân, đề phòng quân đảo chính tấn công.
Cho phép các đồn lẻ đuợc triệt thoái, nếu bị uy hiếp. Để đảm bảo mọi đơn
vị thông suốt nhiệm vụ, cho một máy bay trinh sát phóng thanh lệnh của
tôi!
Luân ghi băng lời kêu gọi của anh: “Một bộ phận quân đội giữa
đêm nay đánh vào dinh Độc Lập, nhân danh tỉnh trưởng Kiến Hòa, tôi ra
lệnh quân đội, công an, viên chức và nhân dân toàn tỉnh không được mất
trật tự, hốt hoảng, nghe tin đồn đãi…”
Trước khi trời sáng, toàn tỉnh Bến Tre biết có đảo chính ở Sài Gòn.
Luân
không rõ quá trình thương lượng tiến hành ra sao mà 10 giờ, đài của
dinh Độc Lập phát kêu gọi của Tổng thống: “Một số phần tử bất mãn và bọn
tay sai Thực – Phong – Cộng mưu đồ lợi ích riêng đã phản bội hiến pháp,
toan dùng vũ lực thanh toán thành quả cách mạng của Việt Nam Cộng hòa.
Tôi, Tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh sư đoàn 21 bộ binh lập tức về dẹp
bọn phản loạn”… Chính Ngô Đình Diệm đích thân đọc bản kêu gọi khẩn cấp
đó.
Nghĩa là thế nào? Luân tự hỏi. Nguy kịch rồi sao? Từ hai giờ
sáng đến giờ, anh túc trực tại phòng truyền tin cùng các sĩ quan trực
thuộc. Dung pha cho họ cà phê. Họ vừa nhai xăng-vich vừa chăm chú theo
dõi máy thu thanh, máy bộ đàm, điện thoại. Tin tức từng chập báo về: dân
chúng thị xã Trúc Giang xôn xao, tụ tập bàn tán…
Máy thu thanh lại
nhận được lời của Diệm: “Hỡi các thiên thần mũ đỏ! Hỡi các con yêu quý
của ta…” Máy bị tạp âm, không nghe được toàn văn. Luân buồn cười: Hôm
nào, lối nói cảm hứng của Tổng thống xúc động cả một lữ đoàn, nay thì
trơ trẽn. Tổng thống vốn không có giọng tốt để “ca” câu vọng cổ não nùng
đó!
- Có thể bọn stagiaires (4) này ăn may! – Đại úy tham mưu trưởng bắt đầu giao động.
Mười
một giờ, đài phát thanh Quốc gia bỗng lên tiếng, mở đầu bằng bài hành
khúc rất quen thuộc của Lưu Hữu Phước – bài “Lên đàng”. Tiếp sau, một
giọng chải chuốt lạ tai. đó là bác sĩ Phan Quang Đán, thay mặt cho Ủy
ban cách mạng: “Hỡi quốc dân đồng bào! Cuộc chiến đấu oai hùng của dân
chúng Việt Nam liên tiếp bị phản bội. Cộng sản đã cướp công của đồng
bào, thiết lập chế độ độc tài Đảng trị ở Bắc Việt. Ông Ngô Đình Diệm đã
cướp công của đồng bào, thiết lập chế độ độc tài gia đình trị ở Nam
Việt. Từ khi trèo lên ghế Thủ tướng rồi Tổng thống. Ông Diệm một mặt đàn
áp khủng bố các lực lượng quốc gia dân chính, một mặt dung túng cho gia
đình và tay chân vơ vét bóc lột dân chúng thậm tệ. Chế độ dân chủ bị
chà đạp, ông Diệm gian lận ngay trong các cuộc bầu cử. Thế nước lâm
nguy. Ngày nay, Cộng sản đang lộng hành khắp thôn quê, lợi dụng sự bất
mãn của dân chúng. Để chống Cộng hữu hiệu, mang ấm no hạnh phúc về cho
dân, hoàn thành sứ mạng thống nhất Tổ quốc, quân đội đã ra tay hành
động. Ngô triều đang hấp hối. Hội đồng cách mạng do tôi đứng đầu kêu gọi
quốc dân đồng bào hưởng ứng cách mạng, siết chặt hàng ngũ sau lưng quân
đội và Hội đồng cách mạng…”
Đài phát nhật lệnh của đại tá Nguyễn
Chánh Thi, Tổng tư lệnh quân đội cách mạng kêu gọi các binh chủng, chấp
hành chỉ thị của ông.
Những gì chi tiết nhất cũng chỉ đến mức độ
đó: cách mạng, dân chúng, quốc gia, chống Cộng. Thế thôi. Đại úy tham
mưu trưởng tặc lưỡi – anh ta khá nhạy bén về chính trị: Tào lao! Toàn
đánh giặc mồm.
Ba giờ chiều, đài phát thanh truyền đi nhật lệnh của
đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ: Tổng thống Ngô Đình Diệm
quyết định trao quyền cho các sĩ quan bàn bạc lập chính phủ mới… Sau đó,
Đài phát thanh Quốc gia phát tiếng nói của Tổng thống:
- Tôi, Tổng
thống Việt Nam Cộng hòa đã quyết định giải tán chính phủ hiện thời… Tôi
kêu gọi các tướng lãnh của quân đội Việt Nam Cộng hòa thành lập một
chính phủ lâm thời để có thể tiếp tục chiến đấu chống Cộng và bảo vệ xứ
sở. Đồng thời tôi muốn phối hợp với Ủy ban cách mạng thành lập một chính
phủ liên hiệp để tránh đổ máu và trấn an dân chúng. Tôi ra lệnh hội
đồng các tướng lãnh tìm tất cả phương pháp thích nghi để chấm dứt mọi
cuộc tuyên truyền xuyên tạc và ngưng bắn.
Luân cười trong bụng: Lại một đường “lả lướt” gây mơ hồ và kéo dài thời gian. Chẳng lẽ Phan Quang Đán là trẻ con?
Năm
giờ chiều, Hội đồng cách mạng tuyên bố: Sáng ngày 12 sẽ có cuộc biểu
tình lớn ủng hộ cách mạng và chào mừng chính phủ…. Cá cắn câu! Chạy trốn
đi là vừa, cái hội đồng cách mạng ngờ nghệch đó! Luân cố che đậy sự bực
tức của mình. Phan Quang Đán quả trẻ con!
Tình hình tuy vậy vẫn
chưa rõ ràng. Liên lạc với Phủ tổng thống bằng điện thoại thì bị cắt.
Liên lạc vô tuyến điện khi được khi không. Luân cố gắng nói chuyện với
Ngô Đình Nhu nhưng thất bại: tạp âm lấn át. Bộ tổng tham mưu bỗng từ
chối tiếp nhận điện của Luân. Nhà dây thép còn giữ đều đặn đường dây vô
và hữu tuyến song cho hay không thể nối với dinh Độc Lập được. Máy của
sư đoàn 21 luôn bận, Luân biết sư đoàn vẫn “án binh bất động”.
Một
đêm thấp thỏm nữa qua. Hy vọng của Luân lớn dần: tình thế có thể nhùng
nhằng, đủ thời gian để các đồng chí khai thác thời cơ giành đất giành
dân, nhất là phá khu trù mật.
Trong suốt đêm đó, Luân sục sạo các
đài phát thanh Hà Nội, Bắc Kinh, Mátxcơva, Paris, Luân Đôn, Manila… Nói
chung tin tức chưa có gì cụ thể. Đài Pháp, Mỹ kêu gọi kiều dân nước họ ở
Sài Gòn đừng ra đường. Trả lời phỏng vấn của nhà báo Helen Fanfani, đại
sứ Mỹ Durbrow nói gọn: Đó là việc nội bộ của Nam Việt.
Luân cũng sốt ruột chờ đợi báo cáo về hoạt động nhảy vọt của “Việt Cộng” trong tỉnh. Tình hình lại im ắng.
Tám
giờ, dinh Độc Lập gọi Luân: Nhu yêu cầu Kiến Hòa huy động lực lượng về
Sài Gòn cứu viện. Tiếng súng dồn dập nghe rõ trong máy. Giọng Nhu không
còn điềm tĩnh như lần trước.
Tất nhiên, phải nguy cấp lắm Nhu mới
gọi Bảo an cứu viện, nhất là Bảo an Bến Tre mà Nhu thừa biết cách bức đò
giang, điều động lên tới Sài Gòn không thể nhanh được.
Chung Văn Hoa ngần ngừ:
- Lỡ Việt Cộng tràn vào tỉnh lỵ thì sao?
Luân làm ra vẻ kiên quyết:
- Tập hợp các đơn vị có mặt, sửa soạn xe cộ: tỉnh trưởng sẽ chỉ huy hành quân.
Chín
giờ, Đài phát thanh quân đội tường thuật thu thanh cuộc họp báo tại Bộ
Tổng tham mưu của trung tá Vương, một trong những thành viên của Ủy ban
cách mạng, trung tá Vương nhấn mạnh rằng không phải là một cuộc đảo
chính. Lữ đoàn Dù và các binh chủng khác muốn “bày tỏ nguyện vọng với
Tổng thống”. Sự xuống nước kỳ quặc của quân đảo chính được giải thích
liền sau đó: Đài phát thanh quân đội đổi chủ, người xướng ngôn đọc lệnh
của đại tướng Tỵ buộc binh lính lữ đoàn Dù, Biệt động quân trở về doanh
trại sĩ quan trình diện tại Sở chỉ huy Biệt khu thủ đô. Từ giờ đó, đài
đưa tin đều về bước tiến của sư đoàn 7 và 21 bộ binh. Mười một giờ, sư
đoàn 21 chiếm vườn Tao Đàn, sư đoàn 7 chiếm sân bay Tân Sơn Nhất.
Mười
sáu giờ, dinh Độc Lập được giải tỏa. Mười bảy giờ, Tổng thống nói trên
đài. Lời lẽ và giọng khác hoàn toàn… “Sau một ngày biến cố tại thủ đô,
tôi, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa vì tha thiết đến sự bảo toàn lực lượng
quân đội trong nước phải đương đầu với Cộng sản, nên đồng ý tìm một
giải pháp dung hòa… Nhưng bọn phiến loạn đã luôn luôn xảo trá. Vì thế
cho nên tôi ra lệnh cho quân đội tham gia thanh toán chúng và bọn đầu cơ
chính trị đồng lõa… Bọn chúng sẽ bị pháp luật trừng trị xứng đáng…”
Mười
tám giờ, đài Nam Vang đưa tin: Một máy bay quân sự của Nam Việt xin hạ
cánh ở sân bay Pochenton – đi trên máy bay có 18 người gồm một trung
tướng, một đại tá, một trung tá, bốn thiếu tá, sáu đại úy, năm trung úy
và một thiếu uý.
Lực lượng Bảo an Kiến Hòa chưa sang hết sông thì
được lệnh quay về. Luân thất thểu như chính anh thua trận. “Đồ sọc dưa!”
– Luân mắng thầm bọn đảo chính.
Luân lên Sài Gòn ngay chiều tối.
Trước khi ngồi vào xe, anh được tin: hai khu trù mật của Kiến Hòa “bị
Việt Cộng san bằng”… “Khá” – Anh reo thầm.
Tại Sài Gòn, anh biết
thêm: trận đánh kéo dài 24 tiếng đồng hồ, làm chết và bị thương lối một
nghìn binh sĩ, vài trăm thường dân. Trong số binh sĩ chết có thiếu tá
Soạn bị phe đảo chính và trung tá Nguyễn Triệu Hồng bị lính phòng vệ bắn
ngay trong giờ đầu. Đại tá Nguyễn Chánh Thi cùng toàn bộ Bộ tham mưu
của ông ta chạy trốn bằng máy bay, mang theo trung tướng Thái Quang
Hoàng. Các nhân vật trong “Ủy ban cách mạng” như Phan Quang Đán, Hoàng
Cơ Thụy sau khi không được sứ quán Mỹ và Pháp cho tị nạn chính trị, đã
nộp mình. Không có tin gì về đại úy Phan Lạc. Luân cũng biết một phần
lớn khu trù mật các tỉnh vỡ. Luân không ở Sài Gòn lâu. Sau khi vấn an
Tổng thống, thăm vợ chồng Nhu – Nhu bận quá, không trao đổi nhiều với
Luân – anh trở về nhiệm sở, giữa lúc Quốc hội họp khẩn để “ngỏ lòng
trung thành với Tổng thống”, một cuộc mít tinh lớn tại Công trường Lam
Sơn mừng các chiến sĩ hai sư đoàn giải vây thắng lợi, lễ ra mắt Ủy ban
nhân dân chống đảo chính… Độc đáo nhất là trong hàng ngũ “tri ân Ngô
Tổng thống” có cả lính Dù – bây giờ không còn vênh váo nữa.
“Lần này thì thoát. Nhưng đâu phải chỉ có lần này?” Luân ngẫm nghĩ về tình thế của anh em Ngô Đình Diệm.
“Khi
mà những kẻ giải vây hôm nay thành kẻ bao vây, sự thể hiểm nghèo hơn
nhiều…” Ý kiến đó đến với Luân khi anh gặp trong đoàn giải vây những sĩ
quan Trần Thiện Khiêm, Huỳnh Văn Cao, Tôn Thất Đính… Anh thừa hiểu nếu
Nguyễn Chánh Thi dám rấn tới – tất nhiên với điều kiện sứ quán Mỹ đồng
tình – Sư đoàn 7 và 21 cũng sẽ kéo về Sài Gòn, nhưng không phải để “cứu
giá”. Sự chần chờ kéo dài hơn mười giờ đồng hồ và tốc độ hành quân của
hai sư đoàn không phải “vì lý do kỹ thuật” như các sĩ quan phân bua. Có
vẻ Nhu hiểu. Nhưng, chưa phải lúc “hỏi tội” hay tính sổ. Nhu đủ khôn
ngoan trong xử sự và thời điểm rất mong manh này. – Diệm không gọi Sư
đoàn 13! – Luân nghĩ đến đại tá Phan Cao Tòng.
Trên xe, Luân thắc mắc trường hợp không tin tức của đại úy Phan Lạc.
*
…
Hai ngày sau, Luân nhận được một cú điện thoại: Một nhà báo tên Nam xin
gặp anh – tỉnh trưởng – để phỏng vấn công cuộc bình định Kiến Hòa sau
chính biến ngày 11-11. Luân dễ dàng nhận ra tiếng nói của nhà báo – đó
là Phan Lạc.
Phan Lạc hóa trang thật khéo: đầu bạc, thêm râu mép và
râu cằm. Người ta quen Phan Lạc qua bộ quân phục, bây giờ khó phát hiện
anh trong bộ comlê màu sáng. Có lẽ cái lớn nhất giúp Phan Lạc lọt khỏi
các tầng công an là anh gầy rạc, má nhô cao.
- Biết thế này là phiền cho anh, song tôi cùng đường rồi. Tôi muốn vượt bên giới. Nhờ anh giúp.
Luân
suy tính khá lâu. Không, anh không một chút ngại đòn khiêu khích của kẻ
thù – với chừng đó lần tiếp xúc, anh biết anh không lầm: Phan Lạc khờ
khạo về chính trị, quá rõ, song không phải hạng cò mồi hạ cấp. Trên một
nghĩa nào, Phan Lạc đã và đang là đồng minh của cách mạng. Luân suy tính
cách giúp Phan Lạc tốt nhất – an toàn cho anh ta mà không lưu dấu vết
nguy hiểm cho anh. Anh nhớ đến Lưu Khánh Nghĩa. Có thể chỉ huy phó Bảo
an Tây Ninh đưa được Phan Lạc sang bên kia biên giới. Song, làm sao giới
thiệu Lạc với Nghĩa? Hay tay sư trưởng sư 13? Không nên – phải giữ quan
hệ với vợ chồng Phan Cao Tòng y như đã có. Quận trưởng Tuyên Nhơn,
Trương Tấn Phụng? Chưa được.
Người mà Luân dừng lại lâu hơn hết là Nhu. Phải, chỉ có Nhu…
- Tôi cố gắng thử xem, sẽ báo với anh khi có kết quả… Tôi im lặng, tức là kế hoạch không thành, anh liệu mà xoay… - Luân bảo.
-
Cám ơn anh nhiều – Phan Lạc bắt tay Luân thật chặt – Nói điều ơn nghĩa
với con người như anh là khiếm nhã. Song, tôi vẫn hy vọng có ngày đền
đáp. Tất nhiên, không đền đáp trực tiếp với anh – hiểu như vậy chật hẹp
quá. Tôi thua một keo, thua đau. Tôi sẽ nhớ đời: chọn bạn mà chơi! Những
kẻ mà tôi tin cậy không có cái gì để được tin cậy cả: thế lực, đầu óc,
tâm hồn… Tôi có sáu xe tăng, mười hai khẩu pháo, hai ngàn đạn, thế mà…
Đúng như anh nói, vấn đề là làm sao cho những thứ đó cục cựa. cái Bộ
tổng tư lệnh đảo chính là nồi tả pín lù. Vương nhiều toan tính quá. Thi
đần độn quá. Chúng tôi thua vì không dám tiến công ráo riết ngay, đập
rắn phải đập đầu!
Phan Lạc tuôn một thôi nỗi ấm ức. Luân khoác vai anh, giọng thân tình:
-
Nếu cần rút kinh nghiệm, anh nên xốc vấn đề tận nền móng của nó. CIA và
Phòng nhì chủ mưu, họ đã xác định lằn mức trước khi bấm nút cho các anh
nhảy múa. Đó là liên minh với ma quỷ. Các anh lại phó thác mặt chính
trị cho hạng hoạt đầu, bẻm mép, hèn nhát. Các anh sợ dân chúng…
Phan Lạc gật đầu:
- Anh tin đi, tôi sẽ làm lại!
Dù biết Phan Lạc đang ở trong tình cảnh nguy hiểm, Luân vẫn mời anh ta ăn nhẹ với anh – hẳn là viên đại úy đói lắm.
Trong
lúc ăn, Phan Lạc thuật cho Luân nghe chi tiết về cuộc đảo chính. Như
vậy, Phan Lạc nuôi ý nghĩ đảo chính từ lâu, đã dám in và rải truyền đơn
kêu gọi lật đổ Diệm, đã từ chối chức tỉnh truởng Bình Dương do Diệm gợi…
Nhưng, anh ta chỉ nghĩ đến việc nổ súng. Sự hợp tác của anh ta với
Nguyễn Chánh Thi hoàn toàn ngẫu nhiên và do đó, anh ta bị Vương và Thi
xoay. Chính vào lúc gay go, anh đi gặp Mac Garr tại nhà riêng, đường
Trần Quý Cáp. Mac Garr cười ruồi: Chuyện nội bộ các ông!
- Dẫu sao,
ông Diệm cũng núng thế! – Phan Lạc bảo – Ông ta phải bịa chuyện “Sở dĩ
lính dù, lính Biệt động kéo về dinh Độc Lập là vì bị gạt: họ ngỡ đi cứu
Diệm”! Ông ta cắn răng để xoa dịu. Ai đời hôm quốc khánh, chính Nguyễn
Chánh Thi dẫn đầu các sắc lính trong cuộc diễu binh và nữa tháng sau,
nện lại Diệm đau điếng… Còn nữa!
Từ giã Luân, Phan Lạc nói thêm:
- Lẽ ra tôi không cần thưa với anh, song tôi nghĩ cũng không vô ích: Tôi không hề hé răng với ai về mới quan hệ của anh.
Luân cười thoải mái:
- Tùy anh! Tôi sẵn sàng chấp nhận như đã chấp nhận ván bài không có lá nào giấu mặt…
…
Luân gặp Nhu đúng hôm chính phủ Cambốt trả cho Sài Gòn chiếc máy bay mà
các người chỉ huy cuộc đảo chính sử dụng để trốn sang Nam Vang. Trung
tướng Thái Quang Hoàng cùng về với chiếc máy bay đó.
Nhu tỏ ra cao
tay ấn: Anh ta tuyên bố với báo chí là Thái Quang Hoàng bị bắt cóc làm
con tin. Hoàng chỉ phải làm một tờ tường trình, trong đó nói hoàn cảnh
bị bắt cóc, những việc đã xảy ra ở Nam Vang. Và Hoàng được tự do.
-
Anh nhìn vụ chính biến rất bao quát… - Luân nói sau khi nghe Nhu thông
báo về thái độ đối với những người liên can: tha thứ cho quân nhân cấp
giữa và dưới, tống giam số chính khách, ổn định tinh thần binh sĩ, cải
tổ một số mặt trong bộ máy Nhà nước – Vấn đề là không cho đẻ số. Đại úy
Phan Lạc gặp tôi…
- Ái chà! Thằng đó gan dữ… Nó đâu rồi?
Nhu tròn xoe mắt.
- Anh định làm gì anh ta? – Luân hỏi, giọng vui.
- Không lẽ tôi mời nó uống sâm banh?
-
Tất nhiên! Không nên mời anh ta uống sâm banh hay bất kỳ thứ rượu nào,
nhưng cũng không cần thiết làm anh ta phát sợ. Anh hiểu xu hướng chính
trị của đại úy Phan lạc không?
- Không rõ lắm!
- Anh ta khác ông Thi, ông Đán… Anh có cần một thế cân bằng nào đó trong các lực lượng chống Việt Nam Cộng hòa không?
- Nếu vậy, anh quên là ta có Mai Hữu Xuân, tướng André và nhiều người khác…
- Không! Anh ta không ưa Pháp, không thích Mỹ. Anh ta ít nhiều mang ý thức Quốc gia… Gieo một chút ân tình, chỉ có lợi thôi…
Nhu rít thuốc liên hồi – triệu chứng của sự chấp nhận.
- Nó muốn gì?
- Tôi đảm bảo với anh ta: anh sẽ cho anh ta rời Việt Nam một cách yên ổn…
- Được! – Nhu dứt khoát – Anh nhắn nó: Tôi tha nó lần chót! Nó cứ đến đồn biên phòng nào tiện cho nó. Tôi sẽ điện…
-
Tôi thành thật chúc mừng anh! - Luân bảo Nhu – Anh biết bắt kịp nhịp độ
của các diễn tiến. Anh đã dám bỏ qua một Thái Quang Hoàng, “quốc
trưởng” của nhóm đảo chính. Anh ra lệnh không được khám xét nhà các sĩ
quan làm phản, không được đụng vợ con họ. Tôi góp thêm ý với anh: số
chính khách cũng kẻ này người khác, nên phân biệt. Đừng cho dư luận thế
giới nhìn ta như nhìn những kẻ trả thù. Nói cho cùng, ta đối phó với
Kennedy là chính… Nghe đâu Durbrow sẽ hưu trí, Frederick Nolting thay…
Nhu thở dài thườn thượt:
-
Tôi biết tự kiềm chế…Song, anh Tổng thống! Mong anh vì lợi ích chung,
nói thêm. Tổng thống định xóa sổ lữ đoàn Dù. Tôi can mãi. Nếu xóa sổ lữ
đoàn Dù thì cũng phải xóa sổ Biệt động quân, Thủy quân và ngay chính
Liên minh phòng vệ!
*
Gặp mặt giữa Dương Tái Hưng – Lâm Sử - Tào Côn.
TÀO
CÔN: Tưởng Tổng thống rất lo ngại… Người đích thân gọi điện chất vấn
Tổng thống Eisenhower và ông Allen Dulles. Người được đảm bảo là chính
phủ Mỹ cũng bị bất ngờ…
LÂM SỬ: Chu Tổng lý theo dõi rất chặt tình
hình vừa rồi. Ngay Mao Chủ tịch cũng hỏi han sự an nguy của ông Diệm.
Người dạy: Ngô Đình Diệm tốt! Trung Quốc cần Ngô Đình Diệm…
DƯƠNG TÁI HƯNG: Các ông chưa làm nghề dạy thú! Cho liều nha phiến rất cần, nhưng cũng cần cây roi điện…
LÂM SỬ: Việt Cộng nhân cơ hội này sẽ mạnh hơn… Xáo trộn chỉ có lợi cho Việt Cộng…
DƯƠNG TÁI HƯNG: Chúng tôi thuần hóa được Diệm. Các ông không làm tròn mọi cam kết…
LÂM SỬ: Tiên sinh quên rằng Việt Cộng còn một đồng minh nữa là Nga Xô!
DƯƠNG TÁI HƯNG: Nga Xô ở xa…
LÂM SỬ: Chúng tôi làm tất cả những gì có thể làm được!
DƯƠNG
TÁI HƯNG: Trừ việc thuần hóa Việt Cộng! Nghị quyết 15 là dấu hiệu Cộng
sản Việt Nam thoát khỏi lằn ảnh hưởng các ông. Tại sao không “trường kỳ
mai phục, súc tích lực lượng, chờ đợi thời cơ”? Hoặc, tại sao không thúc
đẩy phiêu lưu như ở Nam Dương, chiến đấu tuyệt vọng như ở Mã Lai, thoi
thóp như ở Phi Luật Tân, chao đảo như ở Thái Lan, biến thành thổ phỉ như
ở Miến Điện? Tại sao không đẻ ra được một Đảng gọi là “Mác – Lênin chân
chính” như ở nhiều nơi?
LÂM SỬ: Hoàn cảnh Việt Nam khác!
DƯƠNG TÁI HƯNG: Biến đổi hoàn cảnh! Nếu Trung Hoa lục địa muốn cải thiện giao hảo với nước Mỹ…
TÀO CÔN: Tôi nghĩ là Ngài Dương Tái Hưng quả là cao kiến!
DƯƠNG TÁI HƯNG: Còn gã Nguyễn Thành Luân?
LÂM SỬ: Tôi nghĩ là Ly Kai đã báo rõ với Ngài.
DƯƠNG
TÁI HƯNG: Nó đang là trung tá tỉnh trưởng. Nó sẽ là đại tá, thiếu tướng
tưlệnh quân khu, bộ trưởng và không loại trừ nó là Tổng thống!
LÂM SỬ: Hạn chế con đường thăng quan tiến chức của gã là việc của Ngài!
DƯƠNG
TÁI HƯNG: Không phải trong chúng tôi ai cũng giống nhau về cách nhìn
gã. William Porter đồng ý với tôi. Nhưng Durbrow, Fishel, Mac Garr và cả
Allen Dulles đòi tôi trưng bằng chứng gã đang là người của Việt Cộng…
Tôi không có!
LÂM SỬ: Tôi sẽ cố gắng.
*
Báo cáo tuyệt mật
của Durbrow gửi Tổng thống Eisenhower, đồng gửi Tổng thống kế nhiệm
J.F.Kennedy (thứ bổn gửi ngài Allen Dulles).
Trong những ngày sắp
tới, tôi sẽ giả từ chức vụ mà tôi đảm đương suốt mấy năm qua ở phần đất
rất khó hiểu này. Nói chung, với công vụ của một đại sứ, tôi đã cố gắng
và những gì tôi để lại hy vọng sẽ không phải là gánh nặng đối với người
thay thế tôi, cũng như tôi thừa hưởng tành tựu đáng ngợi khen của ngài
đại sứ tiền nhiệm Frederick Rheinardt.
Trong những ngày cuối cùng
của nhiệm kỳ, tôi đứng trước vô số tình thế phải xử trí. Sự êm đềm trong
quan hệ giữa chúng ta và Tổng thống Ngô Đình Diệm không còn nữa. Cuộc
chính biến 11-11, - người phụ tá của tôi là Williams Porter, đại diện
của CIA là Fishel đã báo cáo tỉ mỉ sự cố từng ngày với Tổng thống. Ở
đây, tôi muốn lùi xa khỏi các tác động thời sự để có một cái nhìn chiến
lược – cuộc diễn biến đó mở bước ngoặc mới, chẳng những trong chính sách
của chúng ta với đồng minh mà còn xuất phát từ những mục tiêu của nước
Mỹ chọn lựa, tạm gọi là những mục tiêu châu Á, vào thập niên 1960. Chúng
ta chọn lựa Nam Việt và không chọn lựa phương pháp để có mặt ở Nam Việt
– chấp nhận tất cả phương pháp miễn đảm bảo mục tiêu. Chính sách đó
không hề phiêu lưu, bởi, 10 năm sau ngày thành lập, nuớc Trung Hoa đồ sộ
của ông Mao Trạch Đông đã như một đứa trẻ bắt đầu tuổi trưởng thành,
thấy rằng tính hăng máu thường phải trả giá, có nhiều dấu hiệu muốn sống
hòa thuận với phương Tây – tất nhiên còn do những rạn nứt từ đại hội 20
của Đảng Cộng sản Xô Viết thúc đẩy nữa.
Có thể nói rằng, chúng ta
tiến chậm, song vững chắc trên con đường từng bước vô hiệu hóa Trung
Cộng trong vai trò đỡ đầu cố hữu của nó đối với các phong trào dân tộc
và Cộng sản ở Đông Nam Á, điều kiện để lôi cuốn nó cuối cùng cũng thành
đồng minh của chúng ta. Tôi nghiên cứu rất kỹ ý kiến của tiến sĩ Henry
Kissinger trong Foreign Affairs (5) và tán thành “chính sách Trung Cộng”
của ông. Nhưng tôi cảm giác tiến sĩ Kissinger đánh giá chưa thỏa đáng
phần bất lực của Trung Cộng đối với khu vực, đặc biệt đối với Việt Nam
sau khi phe Cộng sản xuất hiện bất đồng quan điểm.
Cùng sống với họ
một số năm, tôi khám phá ra tình cảm chống Trung Quốc mang tính truyền
thống lịch sử của một số đông người Việt Nam và tôi tin đó là tính
truyền thống quốc gia. Cũng dễ hiểu thôi, nếu người Pháp đô hộ Việt nam
non thế kỷ thì người Trung Quốc đã làm việc đó đến những mười thế kỷ.
Khác Hoa kiều ở Thái Lan, Mã Lai, Indonésia một động lực chính trị - Hoa
kiều ở Việt Nam giữ vai trò lưu mờ, nếu không nói một bộ phận thành đối
tượng đả kích của nhân dân địa phương.
Sở dĩ tôi dừng lại lâu
trong phân tích này là vì tôi nghĩ bên cạnh “chính sách Trung Cộng”,
Tổng thống còn có “chính sách Việt Nam”. Có hay không có người Trung
Quốc sát cánh, người Việt Nam vẫn hành động – quá khứ từng chứng minh
Việt Nam của Hồ Chí Minh giành độc lập dân tộc trước khi Mao Trạch Đông
vào Bắc Kinh. Trong khi thừa nhận vai trò kềm chế của Trung Cộng vẫn còn
chừng nào đó tại phần đất này, tôi không tuyệt đối hóa vai trò đó.
Nước
Mỹ sẽ tồn tại ở Nam Việt. Quyết tâm này ít nhất cũng đụng chạm đến hai
lĩnh vực: chúng ta có thái độ như thế nào với Bắc Việt và chúng ta có
thái độ như thế nào với chính quyền chống Cộng ở Nam Việt – hiện nay,
với chính quyền của Tổng thống Diệm? Về lĩnh vực thứ nhất, chúng ta dám
chấp nhận “một Triều Tiên lập lại” không? Chắc chắn sẽ không có việc
chúng ta và người Trung Quốc đánh nhau phía trên vĩ tuyến 17, nhưng tình
thế không vì vậy mà cho phép chúng ta thiếu cân nhắc. Tôi nghiên về
quan điểm: tất cả đều có thể, miễn chúng ta sẵn sàng. Lĩnh vực thứ hai
không kém phức tạp. Ông Ngô Đình Diệm ngày càng tỏ ra không phải một Bảo
Đại khi người Pháp còn thống trị ở đây. Ông ta thân Mỹ và chống Cộng –
chính xác như vậy – song ông ta đòi hỏi sự thân Mỹ ở mức đồng minh và
theo đuổi phương pháp chống Cộng của chính ông ta. Tôi có trong tay vô
số bằng chứng về những điều ông Diệm không thích chúng ta. Những cái đó
không đứng yên. Chúng sẽ phát triển và tôi xác tín rằng sớm muộn gì
chúng ta và ông ấy cũng phải chia tay. Vấn đề là chúng ta đừng để cảnh
chia tay bi đát. Sau cú đảo chính vừa rồi, ông Diệm thậm chí không gọi
đại sứ Mỹ đến để chất vấn. Ông chấp nhận sẽ sống giữa các mưu toan xóa
bỏ ông. Hiển nhiên, ông ta không can tâm “tử vì đạo”. Ông biết chỗ yếu
của chúng ta – nỗi lo sợ ông ta và Vệt Cộng liền lưng. Triển vọng lạ
lùng đó, tiếc thay, mỗi lúc mỗi thêm các yếu tố hiện thực.
Cư xử
với ông Diệm tức là cư xử với cả Nam Việt (mà tỷ trọng Việt Cộng không
nhỏ) và cư xử với Nam Việt là cư xử với cả nước Việt Nam.
Tôi xin phép đặt chỗ đứng như vậy để vị Tổng thống nhiệm kỳ tới của nước Mỹ và ngài đại sứ thay thế tôi tham khảo.
*
Một
sự cố tuy nhỏ song khiến đồn công an biên giới Mộc Bài nằm trên quốc lộ
số 1, bên kia là Bavet của Cambốt phải bàng hoàng. Họ được lệnh từ Phủ
tổng thống: có một xe Jeep chở một sĩ quan cấp đại úy sẽ đến kiểm tra
công việc biên giới. Đúng ngày nhưng chệch giờ, xe đến sớm – xe jeep đỗ
cách cổng chắn lối mười thước, một đại úy xuống xe. Ông ta không có giấy
tờ gì. Trung úy đồn trưởng tiếp ông ta. Ông ta hỏi đôi câu. Xong từ giã
đồn trưởng, bảo là quay xe về Gò Dầu. Khi ông ta lên xe – và trung úy
đồn trưởng vào đồn – thì xe chợt vọt nhanh, đâm gãy cổng chắn, lao sang
Cambốt. Lính gác mãi sau mới tỉnh hồn. Bấy giờ, xe đã tiến sâu vào
Cambốt, không ai dám bắn theo…
Có người nhìn được mặt viên sĩ quan: đại úy Phan Lạc, chỉ huy phó Biệt động quân, người dự vào chính biến 11-11.
*
Cái phải đến, đã đến.
AFP
– (bài của Georges Made) Phnôm Pênh. Một đài phát morse mang tên LPA
(6) tồn tại từ đầu năm 1960 ở một vùng nào đó của Nam Việt vừa công bố
bản cương lĩnh chính trị và tuyên ngôn hành động của tổ chức mới chống
chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm và đồng minh Hoa Kỳ của ông. Tên của
tổ chức là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tập hợp các
đoàn thể như đảng Nhân dân Cách mạng, đảng Xã hội cấp tiến, đảng Dân
chủ, Hội lao động, phụ nữ, nông dân, thanh niên, nhà báo, văn nghệ,
người Miên, phong trào dân tộc tự trị Tây Nguyên, những người theo đạo
Thiên chúa, đạo Phật, đạo Cao Đài, Hòa Hảo, những cá nhân tư sản, trí
thức, sĩ quan… Danh sách của Ủy ban Trung ương chưa được LPA giới thiệu
đầy đủ, nhưng người ta biết có bác sĩ Phùng Văn Cung, một trí thức vừa
rời thành phố vào mật khu, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, ông Trần Bửu
Kiếm, ông Y Bih Aléo, một nhà sư người Miên nổi tiếng, ông Sơn Vọng,
giáo chủ một giáo phái Cao Đài, ông Ngọc đầu sư Ngợi, nhà soạn kịch lớn
của Nam Việt, ông Trần Hữu Trang và nhiều người khác.
Như vậy, kể
từ ngày 20-12, chính phủ Nam Việt phải đối phó với một kẻ thù có tổ
chức, có cương lĩnh, có nhân sự, kẻ thù nguy hiểm nhất mà họ chưa từng
gặp từ khi ông Diệm cầm quyền. Văn kiện của Mặt trận không nói gì đến
lực lượng quân đội song giới ngoại giao ở thủ đô Cambôt cho rằng chính
lực lượng quân đội ANL (7) còn ra đời trước cả Mặt trận và là cơ sở đảm
bảo cho sự hoạt động của mặt trận.
Với kinh nghiệm thuần thục,
không bao lâu nữa, Mặt trận sẽ triển khai khắp Nam Việt. Mặt trận có
nhiều vùng đất đông dân, họ thật sự là một quốc gia trong một quốc gia.
Rồi đây, các chính phủ Cộng sản kể cả Trung Cộng sẽ giúp cho mặt
trận tự giới thiệu với dư luận quốc tế. Điều đáng nói là sẽ không ít
chính phủ không Cộng sản thuộc thế giới thứ ba giành cho Mặt trận cảm
tình. Mặt trận cũng sẽ giành được cảm tình kín đáo của một số nước dân
chủ có vai vế - tỷ như nước Pháp. Trên tất cả mọi cái, việc Mặt trận ra
đời có nghĩa là chính phủ của ông Diệm và người Mỹ thất bại lớn về đối
ngoại. Sau bao năm chính quyền Sài Gòn tố Cộng, ngày nay, một tổ chức
đối nghịch – không ai nghi ngờ về vai trò của những người Cộng sản Nam
Việt trong Mặt trận – lù lù xuất hiện, công nhiên thách thức cả sinh
mạng của chế độ được người Mỹ ủng hộ. Và, thời điểm Mặt trận xuất hiện
trên vũ đài là lúc nội bộ chế độ Sài Gòn rối ren hơn bao giờ hết.
Mặt
trận chủ trương thành lập một chính phủ liên hiệp rộng rãi, đưa Nam
Việt phát triển theo chính sách không liên kết và trung lập, đặt quan hệ
tốt với các nước dù thuộc chế độ chính trị nào, giải quyết vấn đề thống
nhất cả nước Việt Nam qua thương lượng bình đẳng, quan tâm đến tự do
kinh doanh của các tầng lớp, thoả mãn yêu cầu ruộng đất của nông dân và
cam kết một nền dân chủ rộng rãi, tuyệt đối cấm đoán chèn ép tôn giáo…
Thật hấp hẫn!
Không một người Việt nào ở Nam Việt không tìm thấy mình trong cương lĩnh đó.
Người
ta không chờ đợi phản ứng của ông Diệm và nước Mỹ - phản ứng tiêu cực
thôi. Song người ta chờ đợi chế độ Sài Gòn chiến đấu trong tư thế rút
lui. Dĩ nhiên, chế độ Sài Gòn dựa vào nước Mỹ. Nhưng nếu những người
cách mạng ở Nam Việt quyết định ra công khai chống chế độ Sài Gòn, họ đã
tin là họ sẽ thắng người Mỹ - dù hình thức cuộc tranh chấp thay đổi như
thế nào…
Nước Pháp vốn có quan hệ cố hữu với ba nước trên bán đảo
Đông Dương, nên chọn chỗ đứng nào? Tướng De Gaulle từng hô hào cho một
“nước Pháp vĩ đại”, đang là bạn thân của thái tử Sihanouk và hoàng thân
Phouma, tại sao không làm nốt công việc còn lại ở Việt nam? Nhiều triệu
chứng cho thấy FNL (8) muốn chứng tỏ mình đã quên quá khứ không vui với
nước Pháp, miễn là Pháp biết chìa tay – chứ không phải các pháo hạm và
các viên đô đốc vào thế kỷ XIX hay xe tăng của tướng Leclerc vào giữa
thế kỷ XX. Không ai ngăn cản Trung Cộng bành trướng xuống phía Nam có
hiệu lực bằng Cộng sản Việt Nam!
----------
(1) Rượu đã khui, mời cạn!
(2) Karl von Clausewitsz, danh tướng và nhà lý luận quân sự lớn của Đức (1780-1831)
(3) Những tay tập sự
(4) Tập sự
(5) Những vấn đề đối ngoại
(6) Thông tấn xã giải phóng (Liberation Press Agency)
(7) Armée Nationable de Libération (Quân giải phóng)
(8) Front National de Libération: Mặt trận giải phóng dân tộc
CHƯƠNG 11
Ở Sài Gòn, “Ủy ban nhân dân” mừng tổng thống thọ lục tuần do Tổng giám
đốc Tổng nha thông tin, bác sĩ Trần Văn Thọ, đứng đầu cùng một số nhân
sĩ, thương gia, tướng lĩnh ra thông cáo yêu cầu mỗi tỉnh thành lập một
ủy ban như vậy.
Không có một lệnh chính thức nào của chính phủ -
đây là “sáng kiến của nhân dân”! – Nhưng trong vòng vài ngày, các ủy ban
mừng thọ tổng thống mọc lên khắp nơi. Ở cấp trung ương, Phong trào cách
mạng quốc gia dựng ra ủy ban từng ngành. Sự cố gắng làm rầm rộ ngày thọ
của tổng thống không cón cái hăm hở của những năm Diệm vừa cầm quyền –
bây giờ, đến giới di cư cũng ngao ngán – mà cốt xóa đi phần nào vết
thương 11-11 và quan trọng hơn nữa, lễ mừng thọ tổng thống là cơ hội
“hốt bạc” của quan chức.
Ủy ban tỉnh Kiến Hòa đề xuất mở hội chợ
nhân dịp Tết nguyên đán Tân Sửu, để gây quỹ dùng cho các hoạt động rầm
rộ trong dịp mừng thọ này. Tỉnh trưởng không có lý do gì để bác ý kiến
đó.
Từ đầu năm dương lịch, hội chợ đã bắt đầu xây dựng, nhiều gian
hàng che dọc con đường dẫn xuống sông – phần lớn là gian hàng của người
Hoa ở Chợ Lớn. có khu giải trí, ăn chơi. Có sân khấu lộ thiên. Sẽ có thi
nữ công, bơi đua, thi hoa hậu. Ngày 23 Tết, cùng với lễ tiễn ông Táo về
trời, thị xã Trúc Giang rực rỡ cờ băng – tỉnh trưởng khai trương hội
chợ.
Luân dự định sau đó vài ngày, anh đi nghỉ vùng biển với Dung –
từ khi hai người thành vợ thành chồng, chưa được một ngày rảnh rang.
Nhưng, khai trương xong hội chợ, Luân vừa về nhà thì Lưu Kỳ Vọng báo
khẩn: J.5 cho hay Việt Cộng sửa soạn tấn công thị xã Trúc Giang trong
dịp Tết. Tuy chưa nắm cụ thể ngày giờ, lục lượng tấn công, song tin của
J.5 luôn luôn chính xác. Luân đành hoãn dự định đi nghỉ và gọi Dung.
Dung hẹn là sẽ xuống Bến Tre ăn Tết với Luân. Tại hội nghị quân sự tỉnh,
Chung Văn Hoa trình kế hoạch tỉ mỉ, được tham mưu trưởng tán thành và
được Lưu Kỳ Vọng bổ sung. Theo kế hoạch đó, sẽ dụ cho việt Cộng thọc sâu
vào thị xã rồi bao vây tiêu diệt. Lính được ăn Tết sớm, xong di chuyển
khỏi thị xã, không ra lệnh cắm trại công khai để đánh lừa địch. Lính tập
kết ở Cồn Phụng, An Hóa và Giồng Trôm, sẵn sàng phương tiện thủy và bộ.
Hễ tình hình động, tung quân kèm cơ giới bít các đường ra, chia nhỏ
Việt Cộng diệt từng nhóm một. Phòng xa, kế hoạch dự trù phối hợp với sư
đoàn 21 đóng bên Mỹ Tho và phân đội giang thuyền của Bộ tư lệnh Hải quân
đóng bên Vĩnh Long. Đó là trường hợp của lực lượng Việt Cộng có các
tiểu đoàn chủ lực khu tham chiến.
- Trúng mối lớn rồi! – Lưu Kỳ Vọng hí hửng.
Luân rơi vào tình trạng khó xử. Anh không thể không duyệt y kế hoạch phòng thủ và phản kích – nói chung rất hợp lý này.
Theo
ý Luân, quân giải phóng chưa đủ sức đánh chiếm một thị xã – quấy rối
bằng đặc công, biệt động thì được, nhưng nếu đặt yêu cầu cao hơn thí khó
tránh khỏi tổn thất. Tất nhiên, chắc chắn một trong các yếu tố mà Bộ
chỉ huy quân giải phóng tính đến là thời cơ và bộ phận nội tuyến. Chưa
rõ bộ phận nội tuyến mạnh đến đâu, chứ thời cơ thì coi như không còn bất
ngờ nữa.
Làm sao báo động với các đồng chí mình? Luân bồn chồn chờ
đợi Dung – mong cô ấy đã gặp được Sa và Sa đã nối được đường dây với
anh Sáu Đăng.
Ngày 27 Tết, Dung xuống Bến Tre. Tình hình liên lạc vẫn như cũ. Sa gọi điện cho cô: bản thân cậu ta cũng lúng túng.
Trưa 27 Tết, Lưu Kỳ Vọng, như cơn lốc, ùa vào văn phòng của Luân mà không kịp gõ cửa.
- Trình trung tá, nắm được ngày giờ, kế hoạch tấn công của Việt Cộng rồi …
Vọng
trao cho Luân một tờ giấy dầu – thứ dùng để gói hàng. Chỉ thị tấn công
thị xã Trúc Giang nằm gọn trong tờ giấy đó. Người chép chữ khá đẹp. Chép
bằng ngũ bội mài với nước – chất ngũ bội tiệp với màu vàng của tờ giấy
dầu.
Bôi lên giấy nước phèn đen thì chữ hiện rõ. Chỉ thị do trưởng
ban quân sự tỉnh Nguyễn Anh Đào ký. Ngày N là 30 Tết. Giờ G là đúng giao
thừa. Mở đầu coi như dự lệnh một tiếng nổ lớn đánh sập cổng dinh tỉnh
trưởng. Hiệu lệnh tiếp liền là bộc phá đánh nhà đèn. Lực lượng biệt động
lập tức chiếm dinh tỉnh trưởng, Ty công an, khám. Các mũi nhanh chóng
thọc vào thị xã, giữ các chốt giao thông và các cao điểm. Cơ sở nội ô
phát động quần chúng phá kềm, diệt ác. Một bộ phận vũ trang sẵn sàng
đánh viện từ các hướng. Nếu tình huống phát triển thuận lợi, sẽ giữ thị
xã suốt ngày hôm sau để đủ thời giờ chuyển chiến lợi phẩm ra căn cứ. Nếu
tình huống không thuận lợi, thì cố gắng làm chủ cho tới 4 giờ sáng, sẽ
rút theo ngả Giồng Trôm và vượt sông Hàm Luông. Chú ý tránh thương vong
cho dân …
J.5 ghi chú:
1) Bí thư tỉnh ủy Ba Địch đích thân chỉ huy.
2) Việt Cộng sử dụng nội tuyến, chưa rõ là ai, song rất có thể là người thân cận tỉnh trưởng.
-
Tôi thấy không có gì cần phải thay đổi kế hoạch đối phó của chúng ta… -
Vọng bảo – chỉ thêm hai chi tiết: tung hết lực lượng giang thuyền của
tỉnh, xin giang thuyền của hải quân, thống nhất giờ hoạt động là 12 giờ
đêm, ngăn hẳn mọi lưu thông trên sông Hàm Luông, sông Ba Lai và sông Bến
Tre; chia xe tăng, xe bọc thép làm hai cụm, một từ Giồng Trôm lên chiếm
cầu Chẹt Sậy, một từ sân bay qua chiếm cầu Ba Lai.
Luân ký thêm vào phần bổ sung kế hoạch, Vọng mang đi gặp Hoa.
-
Em mới nảy ra một ý kiến. Anh báo khẩn cấp với Tổng thống, Bộ tổng tham
mưu, Bộ tư lệnh quân khu về cuộc tổng tấn công này. Ta hy vọng các anh
của mình mã thám được, sẽ thông báo với tỉnh ủy Bến Tre. Hoặc trong các
cơ quan kia có người của ta…
Luân đồng ý ý kiến của Dung. Anh cho thảo và đánh hàng loạt điện, nhưng bảo Dung:
- Trễ quá!
Xế
chiều, Vọng lại đến. Công an phát hiện một người khả nghi vào tiệm
trồng răng Xuân Tiến, nằm trên con đường sầm uất của thị xã. Người khả
nghi đó là cậu học trò tên Thường… Sở dĩ Vọng phải báo cáo với Luân vì
gã nghĩ rằng tay giáo Tâm và cậu Thường đã “chịu làm việc cho Luân”.
- Không biết Thường có hẹn với trung tá không? – Vọng hỏi.
Luân nhíu mày như để nhớ xem, rồi bảo:
- Tôi quên… Nhưng nếu nó xin gặp tôi thì bí mật đưa nó tới đây…
Thạch báo: Chuẩn úy Võ Văn Tập, lái xe, khai đau răng, xin đi khám.
Đây là một tin lạ. Hình như Tập chưa bao giờ bị đau răng?
-
Chú cho chuẩn úy đi khám… - Luân dặn Thạch – Chú kín đáo theo Tập, nếu
anh ta vào tiệm Xuân Tiến thì chú cho tôi hay ngay… Nhớ, đừng lộ với bất
kỳ ai.
Mười phút sau, Thạch phi báo: Đúng, chuẩn úy Tập vào tiệm trồng răng Xuân Tiến, vừa đi vừa ngó dáo dác…
-
Chú đến tiệm trồng răng báo với Tập là tôi có việc cần lái xe gấp. Chú
giữ thái độ thật tự nhiên, chẳng hạn, chú bô bô: sục khắp các chỗ sửa
răng, trồng răng mới gặp được Tập, v.v.
Thạch gật đầu. Anh ta rất phần khởi vì đây là lần đầu Luân giao cho anh công việc có vẻ quan trọng.
Tập quay về, miệng cắn miếng bông to. Tuy nhiên, Luân đã nhận rõ cậu ta chẳng đau răng.
- Chú ngồi xuống! – Luân chỉ ghế cho Tập và anh chọn ghế đối diện.
- Sao? – Anh hỏi – Nhận bộc phá rồi chưa?
Tập giật thót. Miếng bông rơi xuống đất. Mãi một lúc sau cậu ta mới hoàn hồn:
- Bộc phá gì? Tôi không hiểu… Thưa trung tá – Giọng cậu ta lập cập.
- Đánh sập cổng dinh tỉnh trưởng, không bằng bộc phá thì bằng gì? – Luân nói, giọng đùa.
- Dạ…
- Tôi còn biết chú vừa gặp chú Thường để hẹn ngày giờ và nơi nhận bộc phá… Mười hai giờ đêm, giao thừa thì cho nổ.
Mắt Tập tóe lên ánh tinh nghịch, Luân hiểu ngay: Anh “tố” có điểm không đúng.
- Chú gặp chú Thường, phải không? – Luân hỏi lại.
- Thường nào? Trung tá càng nói tôi càng khó hiểu…
-
Thường nào à? Chút nữa, tôi cho hai người đối chất, luôn tay thợ nhổ
răng Xuân Tiến. – Luân lên giọng. Tập chớp mắt lia lịa, cậu ta núng thế!
- Mấy người cứ tưởng mình làm bí mật lắm… Đây, – Anh đưa cho Tập
chỉ thị của Ban quân sự tỉnh – chú đọc đi, tài liệu của Giải phóng đó …
Luân theo dõi nét mặt của Tập khi đọc tài liệu: nó biến đổi liền liền…
- Chú chú ý phần ghi thêm ở dưới chót đó… Nội tuyến ngay cạnh tỉnh ủy! Ai, nếu không phải là chú?
- Tôi giao chú cho công an điều tra! – Luân hầm hừ.
- Ra! – Luân quát… - Để rồi vài hôm nữa, tôi tóm hết tụi Việt Cộng, cho chú sáng mắt…
Tập
đinh ninh bị bắt, nặng nề đứng lên ra khỏi phòng. Nhưng chẳng ai chờ
bắt cậu ta cả. Cậu xuống thềm. Chẳng ai theo. Cậu ra cổng. Cũng vậy.
Từ trong cửa sổ, Luân thấy Tập rảo bước và sau đó, chạy biến…
Thường
cũng bị Thạch điệu về. Chú học trò không hề bối rối, lầm lì ngó Luân,
cái đầu bướng bỉnh ngẩng cao dường như thách thức:
- Em biết tội chưa? – Luân hỏi, dịu dàng. Thường không đáp.
-
Nếu tôi lại tha em, em có hứa là lo học không?… Tuổi của em cần học.
Lớn lên, đủ trí óc, chừng đó muốn làm gì cũng được. Tôi nhớ có một lần
nói với em như vậy…
Lời lẽ rất ân cần của Luân không động lòng chú học trò. Nó lắc đầu:
-
Ông bỏ tù hay bắn tôi, cứ việc! Tôi không bị ông gạt đâu… Thầy Tâm bị
ông gạt mà mắc tội với cách mạng. Tôi còn đây là nhờ mấy chú, mấy bác
thương nhỏ dại…
Nói tới đó, mắt Thường đỏ hoe, và, có lẽ nó hơi
phân vân: nước mắt chảy dài trên má viên trung tá tỉnh trưởng khét tiếng
nhiều thủ đoạn chính trị nham hiểm!
Luân hiểu tất cả: giáo Tâm bị nghi ngờ và chắc không còn sống… Nhất định, J.5 giữ một vai trò nào đó trong vụ xử này.
- Em có thể thuật kỹ hơn cho tôi nghe không? Ông Tâm nay ra sao?
-
Sợ gì mà tôi không nói… Thầy Tâm bị tòa án cách mạng xử tử, nhưng cấp
trên giảm án. Thầy hối hận quá, tự vận chết… Tại ông hết ráo! Ông phao
tin thầy Tâm với tôi chịu làm việc cho ông…
- Em tin chắc là thầy Tâm tự vận? – Luân hỏi, giọng buồn rầu.
- Thì tôi nghe nói lại…
- Cũng có thể ông bị bức tử, cũng có thể người ta giết ông…
Luân lẩm nhẩm.
Một lát sau, anh hỏi tiếp:
- Tại sao người ta dám cho em vô chợ?
- Tôi xin. Tôi phải chuộc tội!
- Vậy, bây giờ tôi thả em, em có dám quay lại mật khu không?
Thường ngần ngừ.
-
Tùy em…- Luân thở ra. Anh định nói nhiều với Thường, song nghĩ kỹ,
không tiện. Thường quá trẻ con để hiểu những lắt léo kiểu này – Em có
thể ra khỏi đây, còn đi đâu, em quyết định lấy.
Thường rời khỏi phòng làm việc của Luân, uể oải bước.
Không khéo, J.5 khử luôn Tập và Thường!
Chợt
Luân nhớ đến khối bộc phá. Tập giấu ở đâu? Rõ ràng nó cười mình vì mình
“tố” trật. Có lẽ nó không nhận bộc phá ở Thường mà nhận từ trước. Đích
thân Luân xuống ga ra xe. Chẳng khó khăn lắm, Luân tìm được khối bộc phá
hai mươi cân giấu trong đống vỏ xe ngổn ngang.
… Ngay chiều tối
hôm đó, đài truyền thanh thị xã loan báo: Phá vỡ một âm mưu của Cộng sản
tấn công tỉnh lỵ. Phòng thông tin trưng bày khối thuốc nổ lấy được –
không nói là lấy được ở đâu. Cả ngày hôm sau, hôm sau nữa Luân cho Ty
thông tin làm rùm beng về “chiến công” của Kiến Hòa. Đài Sài Gòn tiếp
thêm, không đâu là không biết sự kiện giật gân này.
Lưu Kỳ Vọng ngao ngán, nói lén với Chung Văn Hoa:
- Ông Luân khoái vỗ ngực xưng tên. Điệu này có đem kiệu rước, Việt Cộng cũng không đánh. Uổng quá trời!
*
Đúng như Lưu Kỳ Vọng đoán, thị xã Trúc Giang yên tĩnh suốt mấy ngày Tết.
Mồng
ba, công sở chưa làm việc, nhưng James Casey đã có mặt. Hắn đến Kiến
Hòa mà không thông báo trước mà mới tờ mờ sáng, hắn đã ngồi vắt vẻo giữa
phòng khách, trong bộ quân phục đầy bụi đất, cùng với Lưu Kỳ Vọng.
-
Trung tá phải khao tôi cái gì thật xứng đáng. – James Casey cười – Tôi
lặn lội suốt đêm qua, nói cho cùng vì trung tá! Hoặc, nếu cần chính xác
trong diễn đạt, tôi nói lại: Vì bà trung tá.
James Casey trâng tráo ngó Dung:
- Bà trung tá có mặt ở Kiến Hòa, để giữ an toàn tuyệt đối cho bà, tôi đích thân đi lùng sục…
Chưa rõ James Casey đã làm trò gì, Luân nhã nhặn:
- Nhà tôi và tôi rất cám ơn thiếu tá!
- Được, trung tá còn vài tiếng đồng hồ để trên tôi một cấp… Từ trưa nay, khoảng cách đó không còn nữa…
- Tôi chúc mừng trước cũng được… - Luân vui vẻ - Dung, em lấy chai Cognac!
Dung trao ly rượu cho James Casey.
- Xin phép trung tá! – Hắn hôn đắm đuối bàn tay Dung.
- Giá đây là châu Âu thì tôi đã có thể xin bà ân huệ cao hơn! – Gã nuối tiếc rời tay Dung, đôi mắt háo hức…
- Nào! Ta cạn ly mừng trung tá James Casey!
Xong tuần rượu, Dung xin phép vào trong.
- Ồ! Bà trung tá là người của ngành An ninh, chỉ có lợi khi nghe chuyện của chúng ta – James Casey kêu to.
- Dẫu sao, nhà tôi vẫn thuộc cơ quan khác… - Luân lắc đầu.
- Tiếc thật!… Ta làm một ly nữa… - James Casey tự rót – Ly này tôi mừng trung tá… Trung tá có một phu nhân tuyệt vời!
Luân hiểu James Casey nói gì: anh và Dung đã thực sự thành vợ chồng trước con mắt sành sỏi ăn chơi của gã.
- Ta vào việc! – James Casey bảo Vọng: “Ông trưởng ty cho màng “quà” tới đi…”
Vọng gọi điện và vài phút sau, chiếc Jeep Willy sơn màu ô liu đỗ trước thềm.
Hai người bịt mặt bị xô té xuống đất. Cả hai chỉ mặc quần đùi.
- Trung tá không lạ gã này! – James Casey chỉ một trong hai người đó là Thường.
-
Nó không phải là người của trung tá… Nó không nhận là người của trung
tá. Dẫu sao, tôi cũng cứ đưa nó về… - James Casey nhếch mép – Còn đây,
vật bảo đảm cầu vai tôi thêm một hoa mai. Trung tá có thể không biết,
nhưng chắc chắn nghe danh: Ba Lùn! Đừng vì tên cục mịch của nó mà lầm.
Lê Khắc Thuần… Trung tá nhớ chưa? Tỉnh ủy viên, bí thư thị ủy…
Lê Khắc Thuần - đã đứng dậy – không lùn, trái lại rất cao.
Luân chồm tới, bắt tay James Casey:
- Khen trung tá.
-
Ăn thua gì… Tôi còn nhiều “chủ bài” nữa kia… Rồi, trung tá sẽ phải chập
gót chân chào đại tá James Casey. Không lâu đâu… Tôi sắp tóm đầu sỏ
Việt Cộng, cỡ thường vụ tỉnh… ngay hôm nay, vuột một con mồi… - James
Casey cười hô hố - Con mồi đó… - James Casey chưa nói hết câu thì bắt
gặp cái liếc của Vọng, gã im bặt.
- Có lẽ đưa họ về trại giam! Ông James Casey cần tắm rửa, ta ăn sáng… - Luân bảo.
-
Tất nhiên, khai thác họ là chuyện của tỉnh trưởng. Song, “quà” như vậy
đã hết đâu? – James Casey hất hàm cho một nhân viên – chắc là người của
biệt kích Mỹ - tên đó lấy từ trong xe ra một bọc ny-lông.
- Trung tá sẽ phải đền ơn tôi… Tôi tháo ngòi quả bom nổ chậm giúp trung tá…
Theo lịnh của James Casey, bọc ny-lông được mở ra: chiếc đầu còn đầm đìa máu của chuẩn úy Võ Văn Tập.
-
Tôi trả giá hơi cao về thằng tài xế của trung tá: nó bắn chết hai người
của tôi… Chính tôi hạ nó. Và, nếu về tay không thì tiếc, tôi chặt đầu
nó.
Luân tối xầm mặt. Tiền sảnh dinh tỉnh trưởng như chồng chềnh.
Chỉ cần một phần mười giây, anh thanh toán hết – James Casey, thằng đi
theo nó, Lưu Kỳ Vọng, thằng lái xe… Nhất định anh bắn chính xác – không
lần nào chính xác hơn lần này.
- Trung tá không thích? – James Casey hỏi.
- Không! – Luân trả lời, nữa tỉnh nữa mê.
James Casey nhún vai:
- Lạ thật! Một sĩ quan từng trải mà lại nhát gan… Tôi sẽ mang nó về Sài Gòn…
Rõ ràng, mắt của chuẩn úy Tập mở to, nhìn Luân trừng trừng. Trong cái chết của Tập có phần lỗi của Luân – Luân hiểu như vậy.
-
Trung tá đa cảm… Bây giờ tôi mới hiểu… Nó là tài xế của trung tá, song
nó sẵn sàng giết trung tá. Như gã tài xế trước kia. Tôi thành thật
khuyên trung tá nên bỏ thói bi lụy nguy hiểm đó.
“Mày nói bậy!” – Luân nghĩ bụng – “Toàn với Tập khác nhau”.
Chiếc đầu lâu được gói lại. Hai người bị bắt được đưa về Ty công an.
James
Casey ăn sáng với Luân – gã kỳ kèo sự có mặt của Dung nhưng Dung chỉ ra
chào gã, lấy cớ là không khỏe. Gã lên xe về Sài Gòn.
Hôm sau, Luân
cũng đưa Dung về Sài Gòn. Anh đi dự hội nghị tổng kết công tác bình
định. Trước khi đi, anh chỉ thị Ty công an chờ anh hỏi cung Ba Lùn. Còn
Thường coi nó như người của tỉnh trưởng, chớ đụng tới.
Hoàn toàn dễ
hiểu khi Luân đuợc hội nghị vỗ tay kéo dài. Anh trình bày tóm tắt quan
điểm của anh về công tác bình định. Ngồi ở hàng ghế danh dự. Nhu thỉnh
thoảng gật đầu. Những cái gật đầu “đệm” của cố vấn Ngô Đình Nhu được cả
hội nghị hiểu như mọi người có nghĩa vụ phải vỗ tay, mặc dù chưa chắc ai
cũng tán thành Luân. Nói cho công bằng, chính không khí chính trị sau
biến cố 11-11 đã hỗ trợ Luân. Đúng vào dịp Tết, tổng thống ký lệnh thả
một số thành viên của nhóm Caravelle liên can đến vụ đảo chính như bác
sĩ Nguyễn Lưu Viên, Tạ Chương Phùng… hầu hết những người thân Pháp. Ngô
Đình Nhu quyết định ngọn đòn gió: tỏ cảm tình với Pháp để lấy lại thăng
bằng trong mối quan hệ quốc tế của Việt Nam Cộng hòa. Số thân Mỹ hoặc ít
nhiều quan hệ với đảng Đại Việt bị đối xử cay nghiệt hơn nhiều, như
Trần Văn Hương. Còn Phan Quang Đán thì là ngoại lệ. Trước tòa, Đán khóc
nức nở, đấm ngực nhận tội, dùng đủ từ ngữ tâng bốc Diệm, cầu xin một
chút ân huệ. Bộ máy thông tin sẵn sàng giới thiệu thật rộng rãi sự quy
hàng nhục nhã của Đán. Đán được giam giữ trong một phòng đủ tiện nghi và
người ta hứa sẽ trả tự do cho ông ta sớm nhất.
Cần phải hiểu rằng
trong sự cố 11-11, bản thân tổng thống cũng va vấp một điều thuộc lĩnh
vực đạo đức, y hệt trường hợp bắt tướng Hòa Hảo Ba Cụt trước đây: giả bộ
chịu điều đình với Nguyễn Chánh Thi qua môi giới của đại tướng Lê Văn
Tỵ để trì hoãn tốc độ tấn công của lực lượng đảo chính và khi quân “cứu
giá” chiếm được ưu thế, tổng thống trở cờ. Do vậy, tổng thống và cố vấn
Ngô Đình Nhu rất ngại đem các tay thủ lĩnh đảo chính ra xử trước tòa. Ai
mà lường nổi họ sẽ nói gì giữa công chúng – đặc biệt, trước các nhà báo
trong và ngoài nước.
Trước Tết, Nhu tập hợp được một số nhân vật
sửa soạn khai sinh cái gọi là Đại hội đại đoàn kết chống Cộng, với các
“cao thủ” chuyên áp phe chính trị: Nguyễn Gia Hiến, Trần Quốc Bửu, Phan
Huy Quát, Đặng Văn Sung, Lý Trung Dung. Tình thế đòi chế độ phải đổi
trang sức. Cho nên, cuộc chạy đua vào dinh Độc Lập đuợc dàn cảnh theo
thời thượng: Ngô Tổng thống không còn là “Tổng thống suốt đời”. Trong
danh sách tranh cử nhiệm kỳ II đã thấy, ngoài liên danh Diệm – Thơ, còn
liên danh Nguyễn Đình Quát – Nguyễn Thành Phương và Hồ Nhật Tân – Nguyễn
Thế Truyền. Đại khái, cho nó “dân chủ”. Quát chủ sở cao su, Phương
tướng Cao Đài – đầu sỏ hạng “bán trời không mời thiên lôi”. Tân và
Truyền – cặp lục bình cổ, đầy bụi bặm, chùi mãi chưa sạch. Cỡ đó thì
chịu sao thấu với Diệm mặc dù, trong chương trình tranh cử, Quát dám
nói: nếu đắc cử, ông ta sẽ điều đình ngưng bắn với Mặt trận giải phóng.
… Luân nói không dài. Cũng chẳng có gì để nói. Tình hình an ninh ở
Kiến Hòa “tốt hơn” như Phủ tổng thống đánh giá – căn cứ và số trận đụng
độ giảm rõ rệt với trước đây. Mà lý do thật sự là cơ sở hạ tầng của chế
độ Sài Gòn thu hẹp đến mức không còn thể nào thu hẹp hơn nữa để có thể
có nhiều cuộc đụng độ. “Đây là cuộc chiến tranh chính trị - Luân nhấn
mạnh – không giống bất kỳ cuộc chiến tranh nào chúng ta từng biết tới.
Việt Cộng sử dụng hình thức đánh du kích, nhưng đánh du kích chỉ mới là
một mặt của toàn cục diện. Những nguyên tắc đánh du kích nổi tiếng của
Mao Trạch Đông đã được cải tiến, bổ sung đến nỗi chúng thay đổi hẳn.
Thật là lý thú khi chính các đoàn cán bộ Trung Cộng sang Nam Việt nghiên
cứu học tập chiến tranh du kích – tôi có đủ bằng chứng nói như vậy. Vì
là cuộc chiến tranh chính trị, cho nên cách nhìn hiện tượng của chúng ta
bắt buộc phải khác với cách nhìn mà chúng ta quen thuộc trong sách vở
và trong quá khứ. Không nắm được dân, không có cơ hội chiến thắng. Nắm
dân tức là tranh thủ lòng dân, tranh thủ sự tín nhiệm của dân. Đừng nên
bao giờ tách công việc bình định của các viên sĩ quan chiến trường với
những cải cách của trung ương. Cũng như đừng nên bao giờ đo lường thành
quả của công việc bình định qua các bản tin chiến sự với con số đối
phương bị loại. Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta không phải chỉ tước phần
sinh lực của Cộng sản mà lạ hạn chế sự nảy nở của sinh lực đó. Tôi đang
thử nghiệm và tôi tin sẽ kết quả - bớt hành quân, bớt nhà tù. Bao giờ
tôi cũng nghĩ: Đây là cuộc tranh chấp giữa người Việt – cùng tiếng nói.
Nói bằng lời bao giờ cũng tốt hơn bằng súng, bằng máu. Tôi xin thuật một
chuyện để minh họa: Năm 1946, khi người Pháp trở lại Bến Tre, họ hành
quân liên miên. Bấy giờ, ở Cầu Mống thuộc Mỏ Cày, có một người từng đi
du học Pháp, tiểu điền chủ, tên Lâm Thiên Tứ. Nhà ông ta chứa du kích
Việt Minh. Quận trưởng Mỏ Cày – bạn học của ông – bắt được ông và đem cả
ông và đứa con trai là Lâm Thiên Trường ra bắn. Quận trưởng – tiếc là
tôi không biết tên – ngỡ với đòn thị uy đó, Việt Minh sẽ xẹp. Trái lại,
Việt Minh Mỏ Cày nổi dậy mạnh nhất Bến Tre và có đến hàng trăm Lâm Thiên
Tứ về phía họ. Đến Bến Tre, tôi học bài học đó.
Tràng vỗ tay thật
xôm và kéo dài. Nhu đón Luân, ôm choàng. Chưa phải Nhu cùng ý nghĩ như
Luân đâu – Luân hiểu thái độ rất mực trọng vọng này là để đền bù công
lao: Luân đã lựa đúng lúc để phô trương cái mà chế độ cần phô trương.
Với phe phái, Luân giành về tổng thống ngọn cờ thân dân nhân đạo. Với
người Mỹ, Luân ám chỉ: Có ba bảy đường giải quyết vấn đề nội bộ Nam
Việt.
CHƯƠNG 12
“Ba Lùn” – Lê Khắc Thuần – da ngăm, cao lớn. Chỉ cần nhìn qua một lần
gương mặt của anh, Luân biết anh là một con người kiên quyết, trung
thực.
- Anh là bí thư thị xã ủy? – Luân hỏi.
Thuần gật đầu. Qua ánh mắt của anh, Luân hiểu anh sẵn sàng chọn lựa cái chết, rất bình thản.
- Anh làm bí thư thị xã được bao lâu?
-
Vài tháng! – Thuần trả lời cụt ngủn. Có lẽ Thuần chờ đợi những câu hỏi
xoi mói, cốt tìm cơ sở cách mạng trong thị xã của viên tỉnh trưởng.
- Anh để Tập bị giết là tầm bậy! Các anh dở quá…
Luân
đột ngột to tiếng, Thuần khẽ liếc anh. Có lẽ, trong một thoáng, người
bí thư thị xã hơi ngạc nhiên: viên tỉnh trưởng bỗng dưng nổi nóng và
giọng nói như thét lại chứa một cái gì u uất.
- Anh bị bắt trong trường hợp nào? – Luân hỏi tiếp.
- Tôi đang ngủ. Biệt kích Mỹ ụp vô…
- Anh ngủ ở cơ quan thị xã?
Thuần không trả lời.
- Rồi các anh giơ tay đầu hàng? – Luân cười châm biếm.
-
Ai nói với ông như vậy? Tôi bắn… Tiếc là đạn lép… cả súng của chú
Thường, đạn cũng lép… Chú Tập chiến đấu bằng khẩu súng của chú. Tôi nói
như vậy để ông biết chúng tôi không hèn. Mà ông cũng đừng mong lung lạc
chúng tôi. Ông gây chia rẽ nội bộ chúng tôi nhưng với tôi, ông thất bại.
– Giọng của Thuần rất đanh.
Luân im lặng. Anh suy nghĩ.
- Ai thoát? – Anh hỏi.
- Tất nhiên là một đồng chí của chúng tôi… Ông có xẻ thịt tôi, tôi cũng không nói tên.
- Anh và Thường bắn bằng súng của các anh?
Thuần lầm lì.
- Súng lục, hiệu Browning Canada, còn mới. Tôi đã xem xét hai khẩu súng của các anh… Nhưng đạn bị tháo thuốc nổ. Anh thấy đây…
Luân đặt hai khẩu súng ngắn cùng hai băng đạn trước mặt Thuần.
- Anh cầm viên đạn xem, nó nhẹ bổng…
Thuần tò mò cầm viên đạn.
- Anh có thấy chỗ cạy trên viên đạn không?
Thuần đã thấy.
- Tập trốn tôi, ra mật khu gặp ai trước tiên?
Luân hỏi tiếp.
Thuần dường như bị các viên đạn ám ảnh, im lặng, cau mày. Luân không cần anh trả lời.
-
Cách đây không lâu, một người của các anh, ông giáo Tâm cũng bị biệt
kích chụp. Và, cũng có một người chạy thoát – song lính biệt kích không
ai chết dưới tràng đạn của người đó, hai trái lựu đạn đều không nổ, cũng
như trái lựu đạn mà Thường liệng lên lễ đài mong giết tôi, không nổ.
Lựu đạn tấn công của Mỹ mà không nổ! Bây giờ, tới phiên anh và chú
Thường… Rồi đây, thường vụ tỉnh ủy cũng khó tránh khỏi bị chúng tôi tóm.
Các anh ngỡ các anh tài! - Luân “xì” một tiếng khinh miệt – Đây, tôi
cho anh coi cái này…
Luân ném cho Thuần tờ giấy dầu. Thuần lúc đầu lơ đãng nhưng về sau thì chăm chú đọc.
-
Anh đã lọt vô đây, tôi chẳng có gì phải giấu anh… Tôi nằm trong ruột
các anh. Đánh chác làm sao nổi! Tôi đã cho Tập đọc tài liệu này. Chắc
Tập trốn ra, nói lại với các anh…
Luân biết rằng Tập chưa nói với Thuần bởi Thuần lộ rõ sự hốt hoảng khi đọc xong tài liệu.
-
Tôi đủ sức diệt các anh. Các anh ngu lắm! Tôi biết tên người chạy
thoát… Côn! Va tên Côn… Nè, giáo Tâm bị ám sát trong trại giam… Người
của tôi ra tay.
Luân nói một hồi, Thuần cắn môi, thở dồn dập.
-
Anh sẽ ra tòa, sẽ đền tội! – Luân dằn giọng – Tôi muốn anh lên máy chém
mà ấm ức. Liệu Cộng sản Bến Tre các anh cầm cự với tôi được bao lâu?
Các anh lo biểu tình! – Luân cười mỉa – Lo biểu tình mà không lo củng cố
nội bộ, xây dựng lực lượng. Nói thật, tôi rất thích các anh xua dân đi
biểu tình… Các anh quên là mỗi thứ hình thức chỉ thích hợp mỗi giai
đoạn. Chúng tôi lo thọc sâu, đánh các anh tận ổ! Để coi ai hơn ai!
Luân ra lệnh đưa Thuần về khám:
- Xuống khám mà rút kinh nghiệm cho kiếp sau.
Câu nói xốc óc của Luân chọc tức người bí thư thị ủy:
-
Ông kiêu căng, khoác lác quá… Người cần rút kinh nghiệm chính là ông.
Ông giỏi đánh lén chúng tôi. Song, cái chế độ mà ông phụng sự đang tan
rã. Ông khó tránh khỏi bị trừng phạt!
- Tôi có bị trừng phạt hay
không, chắc anh không còn thời gian để biết… Tôi sẽ bắn anh! – Luân vênh
váo – Tôi chỉ tiếc: viên đạn bị hoang phí vì giết một kẻ kém thông
minh.
Cửa mở. Thiếu tá Lưu Kỳ Vọng chực sẵn – gã có thể đã nghe hết cuộc đối đáp.
- Chẳng cần hỏi cung thằng cha này! – Luân bảo Vọng – Tôi đã quyết định xử bắn gã công khai…
- Kêu thằng Thường lên! - Luân bảo người thư ký riêng.
Khi Thường đến văn phòng, Luân cười.
- Sợ hết hồn, hả chú nhỏ?
Thường không nói, không rằng, đứng sựng trước mặt Luân. Luân bảo Thường ngồi xuống ghế, khép cửa phòng lại.
- Qua thương chú em nhỏ dại, tha mấy lần mà chú em cũng cứ u mê theo Việt Cộng… Đành bỏ tù chú em.
Có
tiếng gõ cửa. Trung úy truyền tin Hồ Nhựt Thanh chào Luân, đặt lên bàn
bức điện: “Đêm qua, vào 11 giờ, một lực lượng Việt Cộng không rõ quân
số, tấn công đồn ngoại vi quận lỵ Bình Đại, hướng Thới Thuận. Bảo an đẩy
lùi, bắt sống 5 tên…”
Luân ghi lên góc điện: Chuyển đại úy Chung Văn Hoa. Điện gấp cho Bình Đại giải 5 tù binh về Ty công an hỏi cung.
Tòng
khi đọc và ghi, Luân thấy Thường và trung úy Thanh háy mắt ra hiệu cho
nhau. Anh đã nhớ ra: Trung úy Thanh, người Bến Tre và hôm nay anh ta
trực tiếp trình diện Luân mà không qua thư ký là chuyện ít khi có.
-
Thế nào? – Luân hỏi Thường khi trung úy truyền tin khép cửa lại: cái
bóng của anh ta vẫn còn in trên cánh cửa lá sách – anh ta nán nghe – Chú
có giỏi thì cứ vượt ngục! Tôi dặn người gác khám xét kỹ, coi chú có
mang cưa sắt vô không. Với cây cưa sắt, chú dám cưa đứt còng, cưa luôn
cho bồ của chú, như tay Ba Lùn, rồi giở mái ngói, trốn mất… Tôi đi guốc
trong bụng chú nên nói để chú biết là tôi đề phòng hết rồi, đừng có lộn
xộn…
Cái bóng của viên trung úy truyền tin biến mất sau cánh cửa.
- Đồ con nít! Không lo học hành, - Luân lớn tiếng.
Thường bị đưa xuống khám. Luân trông theo, mỉm cười hy vọng.
Bốn
ngày sau, nhằm một đêm tối trời, số tù mới bị bắt ở Ty công an gồm bí
thư thị ủy Lê Khắc Thuần, chú học trò tên Thường, năm tù binh trận Bình
Đại đã cưa còng, bẻ rui, giở mái ngói, lặng lẽ trốn thoát.
Trưởng Ty công an Kiến Hòa vuốt mặt không kịp trước cơn thịnh nộ của tỉnh trưởng.
-
Nó cưỡng bức thằng Thường theo nó để khai thác, thế nào nó cũng giết
thằng nhỏ như giết giáo Tâm. Các anh thật không còn ra thể thống gì nữa…
Trưởng ty công an trút mọi tội lỗi lên phó ty Tống Văn Tình. Tống Văn Tình nện viên thiếu úy trưởng trại giam.
Một lệnh nghiêm mật của tỉnh trưởng ban hành: lập thêm ba tháp canh, lập hệ thống đèn cực sáng quanh khám.
*
Công an được tin: ngay cạnh con lộ đi Ba Tri, nơi dốc cầu Chẹt Sậy, hai tử thi đàn ông bị trói vào hai cọc…
Thiếu
tá Lưu Kỳ Vọng không kịp gọi điện cho Luân đã nhảy lên xe Jeep, cùng
một tiểu đội thám báo do thiếu úy Lai Văn Thố chỉ huy lao tới hiện
trường.
Luân biết sự việc sau đó chừng 15 phút. Anh cũng lên xe.
Khi xe Luân đến cầu Chẹt Sậy thì nghe hai tiếng nổ lớn, tiếp sau, nhiều
tràng đạn. Hình như một cuộc chạm súng, Luân dừng xe, theo dõi. Một số
dân chúng hớt hải chạy ngược về phía thị xã. Họ cho hay: Đêm qua, quân
giải phóng thiết lập tòa án tại cầu, xử bắn hai gián điệp phía Quốc gia
rồi để thây lại đó với một tấm băng ghi hàng chữ “số phận bọn phản bội
như thế này”. Tưởng là họ rút lui, ai dè khi ông trưởng ty công an tới
mở trói cho hai tử thi thì mìn nổ, tiếp đó, việt Cộng xả súng từ trong
vườn bắn ra.
Những người đi chung với Luân đều ngơ ngác – trừ trung
úy Thanh ngơ ngác vụng về? Cố biểu hiện tình cảm ngược lại với niềm vui
sâu kín, Luân chắc lưỡi, thở dài…
J.5 và tên điềm chỉ ở Cồn Ốc bị
xóa sổ, luôn cả trưởng Ty công an Lưu Kỳ Vọng. Bản thống kê thiệt hại
chắc khiến James Casey, Mai Hữu Xuân lồng lộn.
CHƯƠNG 13
Lúc đó, đã 10 giờ đêm. Luân tắt đèn, ngả mình lên giường. Gần đây, anh
bị mất ngủ. Công việc của anh tiến hành không phải tồi song anh không
bằng lòng. Tại Bến Tre, Luân giải quyết nhiều tình huống gay go và nói
chung, anh thắng lợi. Dẫu sao, vị trí của một viên tỉnh trưởng vẫn quá
hẹp.
Mỹ tiếp tục dùng Diệm. Uy thế Diệm xuống trông thấy từ sau
cuộc đảo chính 11-11 và nhất là từ sau Mặt trận dân tộc giải phóng ra
đời. Mỹ chưa bỏ Diệm là vì chưa có người thay và vì Mỹ hy vọng Diệm ngày
nay không cứng đầu như trước. Diệm hiểu tình hình đó khắc hẳn Mỹ. Một
lần, ông bảo Luân:
- Tổng thống Kennedy thức thời hơn Eisenhower, Kennedy thừa nhận tôi có quần chúng…
Nhu đủ thông minh để đánh giá thực chất của chính sách Mỹ:
-
Anh Luân này, Hoa Kỳ chỉ muốn ký với ta một thứ Modus vivendi (1) chớ
chưa chịu ký một Pacte (2). Ta phải thật nhanh tay. Cái định đoạt là
thực lực quân sự. Tôi cần bốn quân đoàn bộ binh thiện chiến, vài chục
tiểu đoàn tổng trù bị thật cứng, một lực lượng thiết giáp, pháo, không
và hải quân trang bị tối tân… Cái giá là chỗ đó. Tại sao ta không có
quyền có 170.000 quân thường trực, 60.000 nghìn quân bảo an, 200.000 dân
vệ?
Nhu trao cho Luân một kế hoạch mới về bình định:
- Khu
trù mật kềnh càng quá, tốn kém mà ít kết quả. Tôi nghiên cứu kỹ rồi,
tình hình ta khác tình hình Mã Lai, cho nên tôi dự thảo kế hoạch này. Ta
phải thành lập hàng trăm, hàng nghìn ấp chiến lược. Ấp là đơn vị thấp
nhất, trực tiếp với dân. Không cần đổi chỗ của dân – nếu có, cũng ít và
đổi chỗ gần thôi – mà xây ấp chiến lược ngay nơi dân ở. Tôi quyết định
mở trường đào tạo cán bộ khắp các tỉnh. Cán bộ xây dựng ấp chiến lược là
cán bộ làm dân vận. Anh có ý kiến gì, trao đổi thêm. Nếu tán thành anh
thí nghiệm ở Kiến Hòa xem…
Cùng với tài liệu Ấp chiến lược, Nhu
trao cho Luân dự kiến chỉnh đốn các quân khu: sẽ thành lập bốn vùng
chiến thuật và biệt khu thủ đô, mỗi vùng chiến thuật vừa phụ trách địa
bàn liên tỉnh vừa là bộ tư lệnh quân đoàn.
- Anh có hiểu gì về Frederick Nolting không? – Nhu hỏi Luân đột ngột.
- Tôi chưa biết. Nhưng, điều chắc chắn, ông ta là người của tân Tổng thống Mỹ. – Luân trả lời dè dặt.
-
Tất nhiên… Giữa tháng 5 tới, Phó tổng thống Mỹ Johnson sang ta… Chà! –
Nhu tặc lưỡi – Ta chậm quá! Trước mắt mấy ông quan này, ta xoàng xỉnh
quá coi không tiện.
Nhu sốt ruột mà A.07 cũng sốt ruột.
Bức mật thư do Vũ Huy Lục mang vào là một trong những nguyên nhân khiến Luân mất ngủ.
Lục,
theo con đường riêng – tình báo Mỹ tự cho là họ tổ chức được con đường
đó, nhưng Lục lại đi trong bố trí của cơ quan an ninh Bộ nội vụ của miền
Bắc. Đặt chân xuống Sài Gòn, anh báo cáo liền tình hình và mạng lưới
trinh sát do anh chỉ huy ở vùng đồng bằng Bắc bộ với James Casey và xin
đi thăm Luân. Anh gặp Dung trước, trao cho cô thư của cha. Ông cụ không
viết nhiều – dăm hàng thôi – Dung đã khóc sướt mướt, mặt dù cha Dung
không khỏe. Ông đã biết Dung lập gia đình và gửi lời thăm chàng rể. Lục
thì hoàn toàn không gặp ông, không nghe ai nhắc, anh chỉ có nhiệm vụ
mang mảnh giấy con này mà anh đã vê nhỏ hơn cọng tăm.
Lục hối hả
xuống Bến Tre. Muốn Luân bị bất ngờ, Dung không báo điện. Lục lù lù vào
cửa, Thạch rú lên, chừng đó Luân mới ôm chầm lấy Lục.
- Ê! Sao vô được? – Thạch hỏi. Lục đưa tay lên môi, Thạch biết mình lốc chốc, nín khe.
Luân mừng Lục: Anh ta bây giờ nghiễm nhiên là một cán bộ chững chạc của ta.
Lục được James Casey bổ làm huấn luyện viên các trường biệt kích.
Nhờ Lục, đường liên lạc với anh Sáu Đăng nối lại. Từ nay, Luân đã có thể báo cáo và nhận chỉ thị đều hơn.
A.07
phân tích tình hình miền Nam như sau: Mỹ đang tính toán thay ngựa giữa
dòng. Sở dĩ Mỹ trì hoãn việc loại anh em Diệm là vì ngại ta. Nhưng, sớm
muộn gì chúng cũng xóa anh em Diệm. Vấn đề nóng bỏng nhất là làm sao ta
đủ mạnh để đối phó với một tình huống có thể xảy ra: Mỹ đưa quân ồ ạt
vào miền Nam.
Luân tiếp thu sự chỉ đạo ấy theo lối của anh: hoặc
thúc đẩy Diệm – Nhu liên minh dưới một dạng và ở một mức nào đó với Mặt
trận, hoặc thay Diệm – Nhu bằng một nhóm khác có xu hướng độc lập dân
tộc, trung lập, ngăn chặn Mỹ biến miền Nam Việt Nam thành một chiến
trường đẫm máu mà rốt lại chỉ có người Việt phải hy sinh… Luân phác thảo
trong đầu hàng loạt phương án, nhưng chưa phương án nào khả dĩ trọn
vẹn.
Nhu từng gợi ý với anh khả năng chế độ Sài Gòn nói chuyện song
phương với Mặt trận. Song, anh ta cũng chỉ mới hé ra một thứ nguyện
vọng - có thể anh ta bực mình trước trò “đem con bỏ chợ” của Mỹ mà thốt
ra thôi, có thể anh ta muốn qua Luân mà bỏ trước cái phao về phía Mặt
trận để phòng bất trắc, có thể anh ta muốn dọa Mỹ. Tuy nhiên, sau khi
nhận được lời trấn an của Kennedy, anh ta không trở lại đề tài đó với
Luân lần nào nữa.
Còn khả năng thay Diệm – phải bằng bạo lực, Mặt
trận chưa đủ sức làm, và Mặt trận mà đủ sức thì nhất định Mỹ can thiệp.
Bạo lực do các phe phái, chẳng qua các phe phái – kể cả Đại Việt thế lực
khá hơn hết – hò hét trợ oai để kiếm chác thôi. Quân đội thì năm cha ba
mẹ … Bản thân anh không nắm được bao nhiêu.
Luân trỗi dậy, bật đèn. Đúng vào lúc đó, Thạch vào, dẫn theo Tống Văn Tình, bây giờ là trưởng ty công an thay Lưu Kỳ Vọng.
- Đêm nay Việt Cộng tấn công Trúc Giang. – Tống Văn Tình hốt hoảng, mặt trắng bệch.
- Lại tấn công? – Luân hỏi, hơi lơ đãng.
- Thưa, phải… Tấn công mạnh, quyết chiếm tỉnh lỵ!
Luân
khẽ lắc đầu. Anh nghĩ là không thể đánh chiếm thị xã nổi trong điều
kiện của quân giải phóng hiện nay, dù có thể quân giải phóng đã mạnh hơn
so với 3 tháng trước – lúc các anh bố trí tấn công vào dịp Tết. Tống
Văn Tình lại hiểu cái lắc đầu của Luân theo ý riêng:
- Thưa, một nội tuyến của Việt Cộng vừa tự thú với công an…
- Vậy sao? Ai? – Luân chợt thấy xương sống anh ớn lạnh: Chết! các đồng chí xây dựng nội tuyến kiểu đó, thật nguy hiểm.
-
Thưa, một thiếu úy giữ kho súng. – Tình vội vàng trình bày – Theo nó,
đêm nay Việt Cộng bí mật vào chợ, nó mở kho, Việt Cộng lấy súng trong
kho phân phát cho cơ sở…
“Ừ! Tấn công theo phương án đó có thể làm chủ được thị xã một lúc.” – Luân nghĩ thầm.
- Tại sao thằng đó tự thú? – Anh hỏi, giọng thắc mắc.
- Dạ, nó sợ… Giờ chót, nó tính là không ăn được nên xin gặp tôi… Nó cho biết điểm hẹn với Việt Cộng…
- Ông đã thông báo những đâu rồi?
- Dạ, tôi vừa báo cáo đại úy Hoa, đại úy Động…Hai người còn chờ lệnh của trung tá.
Luân khoát áo xuống tầng dưới. Vừa đi, anh vừa suy tính cách sao ngăn chận cuộc tiến công.
- Trình trung tá, tôi vừa ra lệnh báo động. – Chung Văn Hoa báo cáo.
- Được! – Luân gật đầu. Anh hỏi thêm Tình - Có thể tin thằng thiếu úy đó tới đâu?
Tình ngập ngừng… Luân dặn mọi người:
- Cứ đề phòng, nhưng coi chừng thằng gác kho súng đánh lạc hướng.
Đèn vụt tắt phụp gần như song song với một tiếng nổ long lở.
- Nhà đèn bị rồi! – Chung Văn Hoa hô hoán.
Súng trường, tiểu liên và trung liên rộ vùng ngoại ô Nam và Bắc thị xã.
Bộ đàm đồn Tân Thạnh kêu cứu: Việt Cộng áp sát đồn, chúng đang phá lộ.
- Coi chừng Việt Cộng đánh Ty công an, phá khám.
Tống Văn Tình thở hổn hển trước ý kiến nhắc nhở của Chung Văn Hoa.
- Làm sao bây giờ? – Tình nói như rên rỉ.
-
Cho lực lượng bảo vệ ở đây đến phụ với ty. – Nguyễn Thành Động lại đề
nghị, nhưng lần này, không ai tán thành kể cả Tống Văn Tình.
Một vài đám cháy – hình như Việt Cộng đã lọt vào nội ô.
Luân
bước ra khỏi nhà. Thật lòng, anh chờ đợi tiếng nổ ở Ty công an. Thạch
bám sát anh. Các sỹ quan bao quanh phòng truyền tin. Tiếng súng, tiếng
bộ đàm, - văng vẳng tiếng hò reo và khóc la; tiếng trống mõ, tiếng thùng
thiếc… ngần ấy âm thanh xôn xao cả khuôn viên dinh tỉnh trưởng.
- Thưa trung tá! - Một bóng đen hấp tấp lao tới Luân – Có điện khẩn của sở chỉ huy Bảo an tỉnh…
Trung
úy truyền tin Hồ Nhựt Thanh – Luân nhận ra anh ta khi anh ra đến bên
ngoài cổng. Luân nhận ra anh nhờ ánh lửa bập bùng và các chùm pháo sáng.
Đồng thời Luân cũng nhận ra một tia chớp từ tay anh ta.
Luân
trúng đạn ngay bụng. Anh sụm xuống, còn kịp thấy Thanh vọt thẳng xuống
bờ sông. Thạch phản ứng. Nhưng Luân níu tay anh, khẽ rên: “Chết tôi
rồi!” Mấy phát đạn bắn theo của Thạch vạch đường lửa đỏ lên trời. Tốp
lính gác, mãi sau mới hoàn hồn. từng tràng tiểu liên trở thành vu vơ.
*
Khi
Luân tỉnh thì tình hình đã trở lại bình thường. Người bác sĩ lạ mặt mỉm
cười với Luân. Anh biết là anh được giải phẫu và anh sống. Tiếng khóc
thút thít quen thuộc cùng với mùi quen thuộc: Dung áp bàn tay anh vào má
cô…
- Lên đường! – Người bác sĩ lạ mặt ra lệnh.
Té ra, người
ta mổ Luân ngay tại phòng khách dinh tỉnh trưởng. Chiếc băng ca nhấc
lên, thật êm ái. Hẳn là trực thăng chở Dung xuống đây cùng với bác sĩ sẽ
đưa Luân về Sài Gòn.
- Trung tá yên tâm dưỡng bệnh… Tổng thống đã
cử thiếu tá Lê Hoằng Thao tạm quyền, có ông Đỗ Thành Nhơn phụ tá. –
Nguyễn Thành Động thông báo, mặt buồn rười rượi.
- Anh có đau lắm
không? – Dung hỏi. Luân lắc đầu. Anh phải lắc đầu. Dung tiều tụy quá.
Anh phải cố nhịn cơn đau hậu phẫu: cả ruột gan anh như xát muối.
- Thằng Hồ Nhựt Thanh phản, nó bắn trung tá đó! – Thạch nghiến răng.
- Ai dè Hồ Nhựt Thanh là Việt Cộng! – Tống Văn Tình nói mà như mếu.
Tống
Văn Tình không dè chớ Luân chẳng lạ gì viên trung úy truyền tin là Việt
Cộng. Nhưng, anh vẫn bất ngờ: Thanh nhầm anh. Nghĩa là tỉnh ủy Bến Tre
quyết diệt anh. Trong cơn đau xé ruột, Luân được an ủi – hành tung của
anh vẫn được giữ kín. Miễn là anh còn sống, sự việc vừa rồi có lợi cho
anh…
- Nó có làm sao không? – Luân thều thào.
- Trung úy hỏi ai? Thạch ghé tai tận miệng Luân.
- Thằng Thanh…
Thạch lắc đầu. Luân nhoẻn miệng cười – nụ cười mà anh không tự chủ.
Bác sĩ – bây giờ Luân nhớ ông ta rồi – Giáo sư Trần Đình Đệ nghiêm mặt:
- Không ai được nói chuyện với trung tá!
Luân ngó Tống Văn Tình. Tình lợi dụng lúc giáo sư Đệ đang giải thích điều gì đó với Dung, cúi sát người Luân.
- Ty công an? – Luân hỏi.
- An toàn! – Tình trả lời mà ngỡ là làm vui cho Luân. Ông ta không thể nghe tiếng thở dài của Luân.
Luân định hỏi Chung Văn Hoa về tình hình quân sự nhưng gã này lảng xa chiếc băng ca.
“Y thèm chức tỉnh trưởng mà không được…” - Luân nghĩ.
Luân
ngó Dung. Dung đã tươi hơn. Cô lắc đầu, chỉ lén giáo sư Đệ. Nhưng đôi
mắt khẩn khoản của Luân kéo cô sát anh: Anh chưa chết, em yêu!
Dung đặt tay lên tay Luân.
- Tới sân bay rồi! – Dung bảo. Thật ra, Luân đã nghe cánh trực thăng quay.
Đoàn người xuyên một rừng dừa. Luân nhìn lên. Khoảng trời xanh ẩn hiện qua kẽ lá…
Chắc mất đứt một tháng là ít! – Luân chép miệng. Ánh nắng mai báo hiệu một ngày đẹp trời…
--------
(1) Modus vivendi: tạm ước
(2) Pacte: Hiệp ước
PHẦN 6
CHƯƠNG 1
Ngô Đình Diệm không thích thú bài diễn văn
nhậm chức của tổng thống Mỹ Kennedy. Chẳng phải vì bài diễn văn ấy thả
quả bóng thăm dò hòa hoãn với Nga Xô quanh vụ chiếc máy bay do thám U2
bị bắn rơi và phi công Power bị bắt sống mà vì lời lẽ mơ hồ của Kennedy
đối với ông. Kennedy nhắc rằng ông ta giữ nguyên các cam kết của các
tổng thống tiền nhiệm trong chính sách đối ngoại và, ở Nam Việt, Kennedy
“tiếp tục ủng hộ một thể chế tự do”. Quả những từ “thể chế tự do” khá
úp mở. Người ta có thể hiểu, như thói quen, nền đệ nhất Cộng hòa Nam
Việt do ông lãnh đạo đang là quán quân của thể chế đó. Song, người ta
vẫn có thể hiểu cách khác: “thể chế tự do” ngược với thể chế độc tài,
phát- xít, gia đình trị mà các nhóm chống ông gán cho ông. Không chỉ đài
Giải phóng hay đài Hà Nội gọi xách mé ông như vậy mà có vẻ nhiều giới,
cả bạn hữu ngoài nước, chọn góc độ và dùng lăng kính tệ hại ấy nhìn ông.
Tại sao tân tổng thống Mỹ không cam kết ủng hộ cá nhân ông như họ từng cam kết? Nam Việt tức là ông. Ủng hộ Nam Việt đương nhiên phải là ủng hộ ông. Người Mỹ muốn thay đổi cái chân lý đơn giản đó ư? Tại sao Kennedy không nói thẳng rằng tổng thống của đảng Dân chủ vẫn xem ông - Ngô Đình Diệm - là niềm tin cậy và hy vọng của Mỹ ở Đông Nam Á?
Sau cái ngày 11-11 đáng ghét, ông chờ đợi một lời xin lỗi của Mỹ, gián tiếp cũng được. Elbridge Durbrow, đại sứ và Mac Garr, trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ lờ việc này. Chẳng lẽ ông phải xin lỗi họ vì đã dẹp tan bọn đảo chính hoặc triệu tập họ đến dinh Độc Lập để gạ họ xin lỗi ông? Người Mỹ, chắc chắn rồi, đã nhúng tay vào vụ lính Dù, lính Biệt động bạo loạn, song ông không có bằng chứng buộc tội họ. Không đủ bằng chứng theo cái nghĩa ông không chụp được quả tang bàn tay của họ đang thò ra.
Kennedy nhậm chức hơn một tuần, đại sứ Durbrow gặp ông, không phải chính thức mà nhân lễ khánh thành Trung tâm kỹ thuật Phú Thọ. Có thể đánh giá cuộc nói chuyện xã giao kéo dài chừng năm phút giữa Durbrow và ông là những gì Kennedy nhắn nhủ ông. Ông giận tái mặt, chiếc can run bần bật trên tay. Giá phang được thằng đại sứ này mấy can liền, hỉ! Durbrow chỉ cười rất nhã nhặn.
“Tổng thống Kennedy quan tâm đặc biệt đến vấn đề thực thi dân chủ ở Nam Việt. Chính phủ, quốc hội và công luận Mỹ chờ đợi Việt Nam Cộng hòa và riêng cá nhân tôi, thưa Tổng thống kính mến, tôi hy vọng trong cuộc bàn giao giữa tôi và ngài đại sứ Frederick Nolting vào tháng 5 tới, tôi có thể hãnh diện thông báo cho người kế nhiệm rằng nơi mà ông ấy công cán không hề có những chuyện buồn phiền về trình độ dân chủ như các đại sứ Mỹ vẫn thường gặp ở Châu Phi hay Trung Đông…”
Durbrow nói như vậy, tay luôn sửa chiếc cà vạt, còn mắt thì ngó thẳng ông.
Láo xược! Ông cố kềm chế. Họ coi ông ngang với Mobutu (1) chăng? Eisenhower, thống tướng, con người hùng của Đệ nhị thế chiến còn chưa dám vô lễ với ông, Kennedy là cái thá gì lại dạy khôn ông?
Đầu óc ông Diệm khá lộn xộn sau buổi sáng đó ở Trung tâm Phú Thọ. Ảo tưởng về Kennedy trong ông tan biến. Hóa ra Kennedy chẳng thức thời hơn Eisenhower nữa. Về đến dinh Độc Lập, ông đi thẳng vào phòng làm việc của Nhu. Nhu vắng nhà, Trần Lệ Xuân tiếp ông.
Lệ Xuân khép nép trước sắc mặt hằm hằm của ông. Chợt, ông cảm thấy thần kinh dịu hẳn. Thì ra, quyền uy của ông không hề sút giảm, cô em dâu lắm lời và rất khôn ranh trước sau vẫn một mực tôn kính ông. Ừ, có vậy mới ra con dâu nhà họ Ngô Đình chứ. Thỏa mãn lòng tự ái, ông cười độ lượng. Trần Lệ Xuân lăng xăng phà trà:
- Anh làm em hết hồn!
Hôm đó, ông phá lệ: trao đổi với cô em dâu lời của Durbrow. Ông đã không lầm. Trần Lệ Xuân cực kỳ sắc sảo về chính trị. Lệ Xuân ngồi ghé ở xa lông, sau khi khoát thêm chiếc áo choàng. Cử chỉ này càng khiến ông hài lòng, bởi ông nhớ có một lần, ông lững thững đến phòng Nhu - Nhu vắng nhà như hôm nay - Lệ Xuân đón ông trong bộ áo quần ngủ mỏng dính. Ánh sáng trong phòng làm nền và trước ông, cô em dâu cơ hồ không có một tí gì trên người. Ông giận dữ quay lưng:
- Thím ăn mặc sao mà quái gở rứa!
Lần đó, Lệ Xuân khóc, xin lỗi, hứa hẹn.
- Họ ta gia giáo lâu đời. Thím nhớ cho.
Ông vẫn chưa nguôi giận. Nhu phải đưa vợ đến gặp ông, lần thứ hai, kèm theo Ngô Đình Lệ Thủy. Ông không thể giận lâu vì ông rất yêu đứa cháu gái khôn trước tuổi này.
- Theo em, - Lệ Xuân thỏ thẻ - chúng ta chẳng mất gì trong trò chơi dân chủ này, một liên danh ứng cử Tổng thống hay hai, ba, bốn cũng thế thôi. Còn đúng một tuần nữa thì đến ngày niêm yết danh sách các ứng cử viên tổng thống nhiệm kỳ hai, ta đủ thì giờ để chọn. Càng nhiều đối thủ, thắng lợi của tổng thống càng vẻ vang.
Ông khẽ lắc đầu. Thật vô lý khi ở Nam Việt lại có ai đó ra tranh cử ngôi Tổng thống với Ngô Đình Diệm. Phải ông chịu nghe lời Ngô Trọng Hiếu… Ông Diệm luyến tiếc - năm 1955, Ngô Trọng Hiếu nêu ý kiến là Hiến pháp ghi hẳn ông đảm đương ngôi vị Tổng thống suốt đời, như Soekarno ở Nam Dương. Thích quá, song ông ngại. Bấy giờ, thế lực ông chưa mạnh. Nhu phản đối, hơn nữa, sạc Ngô Trọng Hiếu một trận với các từ nặng nhất: ngu, đần độn, nịnh bậy… Nhu có quan điểm của chú ấy… Chẳng lẽ người ta hô “muôn năm” mình mà mình lại phải tự xếp ngang một gã phàm phu tục tử, lục lục thường tài nào đó. Ông cảm thấy lòng tự ái bị tổn thương nặng nề.
- Tình thế khác xưa, anh chịu nhúng nhường một chút. Đây cũng vì đại cuộc thôi… Suốt đời anh hy sinh cho dân, cho nước, bây giờ hy sinh thêm, càng sáng danh… Chẳng ai lẫn lộn phượng hoàng với gà. Có lúc, chính anh mời Trần Văn Soái làm quốc vụ khanh kia…
Trần Lệ Xuân đánh trúng tim đen ông. “Ừ, thím nói có lý… Năm nớ, Mỹ cần mình, năm ni, mình cần Mỹ”. Ông nhớ phân tích của Nhu sau cuộc đảo chính về tương quan giữa ông và Mỹ. “Chắc phải làm thế rồi, song chọn mấy thằng, thằng nào?”
- Rứa, nên có mấy liên danh? - Ông đột ngột đổi thái độ.
- Dạ, em nghĩ càng nhiều càng tốt.
Diệm trố mắt:
- Răng mà nhiều… Ứng cử Tổng thống chớ ứng cử hàng thịt sao?
- Dạ, tùy anh… nhưng cũng phải bốn, năm coi mới được… - Lệ Xuân một mực dịu dàng.
- Ba thôi! - Diệm quả quyết.
- Dạ, anh định thế nào, nhà em với em làm thế ấy… Ba cũng được. Đỡ hao tốn.
- Mà thằng mô?
- Dạ, nếu chọn bọn chánh khách bẻm mép thì e gây khó cho ta. Em tính chọn những tên tuy hào nhoáng song chỉ là thùng rỗng…
- Hừm! - Diệm xua tay - Tôi đi tranh cử với bọn thùng rỗng sao?
- Dạ, thùng rỗng là theo nhận định của chúng ta. Anh biết Hồ Nhật Tân.
- Biết! Nhân sĩ có tiếng.
- Dạ, Hồ Nhật Tân cùng đứng liên danh với Nguyễn Thế Truyền…
- Ừ, được. Ông Truyền cũng là nhân sĩ.
- Dạ, liên danh kia gồm Nguyễn Đình Quát và Nguyễn Thành Phương…
- Không được! Thằng Quát chẳng ai biết, thằng Phương sao tranh cử với tôi? Tôi chưa bỏ tù hắn đã là may cho hắn… - Diệm sừng sộ.
- Thưa anh, ông Tân, ông Truyền thuộc lớp trước, còn ông Quát, ông Phương thuộc lớp sau… Thế mới… bien orchestré (2). Vả lại… - Lệ Xuân cười thật có duyên.
- Vả lại, sao?
- Vả lại ông Phương nhận tiền rồi.
- Nhận tiền? Tôi không hiểu.
- Thưa anh tiền mướn các liên danh. Như chi phí lót đường vậy… Anh tranh cử với Phương càng khiến người Mỹ kính phục: anh bình dân.
Trần Lệ Xuân đã thuyết phục được Diệm
*
Nhân Tết nguyên đán Tân Sửu, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thả một số người thuộc nhóm Caravelle liên quan với cuộc đảo chính. Đáng lẽ Diệm còn có thể thả nhiều hơn nếu đại sứ Mỹ không quá nồng nhiệt với những kẻ bị bắt. Durbrow gợi ý với ông ta đến ba hay bốn lần về việc nên “trả tự do”. Ông ân xá và chỉ ân xá theo ý ông. Thế nào là trả tự do? Chúng làm loạn, ông gông cổ chúng, thế thôi… Thả Phan Quang Đán, Trần Văn Hương ư? Không đời nào! Chúng phải ra tòa!
Ngô Đình Nhu không sao lay chuyển nổi ý kiến đã thành cố chấp của Diệm. Với Nhu, cuộc đảo chính 11-11 đánh một đòn mạnh vào uy thế của chính phủ, nghiêm trọng hơn vụ Bình Xuyên, Ban Mê Thuột nhiều lần. Đây là sự việc từ nội bộ chế độ, từ quân đội, hơn nữa, từ binh chủng tin cậy nhất. Dẹp yên bạo loạn bằng kế hoãn binh - nói toạc ra, bằng sự lừa phỉnh như đối với Ba Cụt năm xưa qua cò mồi Nguyễn Ngọc Thơ, lần này qua cò mồi Lê Văn Tỵ - thêm một vết đen trong lịch sử nền Cộng hòa Cái cốt lõi nhất đã đạt, tức là cuộc đảo chính đã bị dập tắt, phải vớt vát sĩ diện bằng thái độ khoan dung. Nhu rất muốn đưa một số người “nhẹ dạ nên lầm đường lạc lối” ấy - như họ ghi trong đơn xin tha - vào mặt trận đại đoàn kết chống Cộng. Người Mỹ hẳn phải suy nghĩ, khi tổng thống Diệm cảm hóađược những kẻ toan xóa ông bằng súng. Nhưng Diệm không thèm nghe. Với Diệm, một chuỗi sự việc xảy ra trong hơn 7 năm ông cầm quyền, từ tướng Hinh, tướng Vỹ, các giáo phái và Bình Xuyên, qua vụ Ban Mê Thuột đến cuộc binh biến 11-11-1960, chẳng qua là những phản ứng của một thiểu số bất nãm do Thực - Phong - Cộng giật dây - bình thường thôi. Chúa giao cho ông cầm đầu Nam Việt, chỉ có Chúa mới thay đổi sứ mệnh tông đồ đó. Dân chúng đứng sau lưng ông, quân đội phục tùng ông, đồng minh xa gần kính nể ông.
Trong không ít lần, ông vỗ bàn với Nhu - đứa en trai mà ông vị nể về sự uyên bác. “Nó lú lẩn”. Ông hạ giá Nhu và bắt đầu thành kiến với các quyển sách dầy cộm bày khắp phòng làm việc của Nhu. Cố vấn được Tổng thống nghe, lại là vợ Nhu. “Thím Nhu giỏi hơn chú Nhu”. Ông tìm thấy ở đứa em dâu sự thâm trầm hơn cả em trai.
Cuộc vận động bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ hai khá rùm beng. Ứng cử viên Ngô Đình Diệm - Nguyễn Ngọc Thơ trong liên danh “Cây trúc” ra mắt cử tri tại Tòa đô chính. Từ ngôi vị tổng thống nay phải ăn nói theo kiểu một người cần lá phiếu, Diệm rất lúng túng. Ông cứ lầm lẫn mãi vị trí của mình. Nhưng ông không lúng túng lâu. “Tôi muốn nói thằng với quốc dân”. Ông trở lại phong độ cũ. Và ông nói thẳng. Đề tài của ông - không phải là xấp giấy được văn phòng sửa soạn kỹ và được Nhu xem lại lần cuối - xoay quanh cách sống của bậc quân tử. Ông ứng khẩu: “Bậc quân tử không phản bội, không đâm sau lưng kẻ khác”. Ông xỉ vả nhóm đảo chính, số chính khách xôi thịt, và, như mũi tên rời cây cung, ông đả kích thái độ của chính phủ Mỹ. Lần đầu ông dùng danh từ “thực dân” để chỉ đất nước mà ông từng giao phó cả thể xác lẫn linh hồn. Có lẽ, ông không thấy đại sứ Durbrow lặng lẽ rời phòng họp - mà dù có thấy, ông vẫn nói, nói như người say.
Báo chí buổi chiều tường thuật cuộc ra mắt của liên danh Diệm - Thơ. Ngô Đình Diệm vứt các tờ báo xuống nền gạch, gọi bí thư báo chí đến:
- Mần răng mà chúng nó thuật như rứa? Chẳng tờ báo nào phản ánh đúng lời tôi. Thậm chí, báo phịa ra những điều tôi không hề nói. Tầm bậy! Tôi có cám ơn Hoa Kỳ đâu.
Bí thư báo chí, trán rịn mồ hôi, mặc dù năm nay Sài Gòn rét nặng, trình cho ông bản tin của Việt tấn xã - nguồn tin chính mà các báo dựa vào.
- Tổng giám đốc Việt tấn xã đến ngay! - Ông ra lệnh.
Tổng giám đốc không trình diện, người trình diện là Nhu.
- Em sửa đó!
Diệm nhìn Nhu trừng trừng. Nhu chìa cho Diệm xem bài báo của Helen Fanfani, tựa cụt lũn: Lồng lộn. Tựa phụ: Ông Diệm tuyên chiến với Kennedy.
Diệm vứt bài báo, thét:
- Tống cổ con mụ đó ra khỏi Việt Nam Cộng hòa.
Nhu lắc đầu:
- Em không thể làm như anh muốn… Em điều đình để cô ta không gửi bài báo đi. Anh tuyên chiến nhưng bằng cái gì? Người Mỹ sẽ tuyên chiến và chúng ta phải thua, trong vòng mươi phút thôi. Họ bloque (3) ngoại tệ, quân đội không được phát lương, sẽ bắn vào dinh Độc Lập. Em mong anh bình tĩnh…
Nhu nói có bấy nhiêu, cúi lượm bài báo, bước ra khỏi phòng.
Ít khi nào Nhu căng thẳng với Diệm, nhưng hôm nay, anh ta buộc phải kéo Diệm trở lại cuộc sống thật.
Nhu đi khá lâu mà Diệm vẫn ngồi thừ trên chiếc ghế banh, tượng trưng quyền uy của nguyên thủ quốc gia. Ông vừa nghe một câu dễ sợ nhất - không phải ông không nghĩ đến “cú rờ ve” đó mà Mỹ vốn có ưu thế và là sở trường của họ, song mỗi lần thoáng nghĩ đến, ông xua nó ngay: Dễ gì! Bây giờ Nhu nói thẳng. Lời của Nhu, nhất là đôi mắt buồn rầu của Nhu đập mạnh ông. Mỹ có thể làm như vậy và họ chẳng khó khăn gì. Hồi năm một 1954, 1955 mỗi mình ông xốc vác gánh nặng ở miền Nam. Hiện thời, hằng tá kẻ sẵn sàng thay ông. Thảm cỏ trước dinh vẫn mượt mà, nhưng ông cảm thấy như thảm cỏ bồng bềnh và dinh Độc Lập lắc lư. Ngoài cổng, lính đổi phiên gác. Y hệt người máy, bước chân ngỗng đơn điệu. Tại sao không phải lũ người máy này sẽ quay súng chĩa về phía ông?
Diệm đến bên cửa sổ. Ngay bậc thềm dinh Độc Lập, hai sĩ quan đứng nghiêm, súng ngắn bên lưng.
- Phải dặn bác sĩ Tuyến đừng để bọn này có đạn trong súng…
Ông bỗng thấy vẻ mặt của hai sĩ quan kia gian giảo quá chừng.
Diệm lượm tờ báo lên. Ông dừng lại ở bài tường thuật liên danh Nguyễn Đình Quát - Nguyễn Thành Phương ra mắt cử tri: “Nếu chúng tôi đắc cử thì việc đầu tiên là chúng tôi thu xếp ngừng bắn…”. Chà, thằng chủ sở cao su quèn, thằng lính Cao Đài mạt hạng dám bán rao cả hòa bình! Không phải bọn mi mà ta, nếu cần… Liên danh Quát - Phương lấy con trâu làm biểu tượng. Diệm bĩu môi: Bọn hắn đần độn như trâu!
… Cuộc bầu cử Tổng thống diễn ra bình thường. Kết quả được công bố. Trong hơn 9 triệu cử tri, liên danh Diệm - Thơ được hầu như tuyệt đối phiếu. Diệm không hí hửng như bao lần trước. Muốn ghi bao nhiêu mà chẳng được. Báo cáo của các tỉnh đều lạc quan, nhưng Nhu có trong tay con số thật. Chừng hơn phân nửa cử tri đến thùng phiếu - chính phủ mất quyền kiểm soát trên phạm vi khá rộng ở nông thôn. Liên danh Hồ Nhật Tân - Nguyễn Thế Truyền cũng như Nguyễn Đình Quát - Nguyễn Thành Phương thu được một số phiếu không nhiều. Cái đáng ngại là tỷ lệ phiếu bất hợp lệ - bấm nát phiếu - hết sức cao. Cử tri không chọn giữa các liên danh mà biểu thị thái độ thù địch với chế độ. Nhu nhớ lần bầu cử trước. Rất ít trường hợp như vậy.
Diệm đón thông báo đó trong tâm trạng cay đắng. Dân chúng bỏ ông rồi sao?
Nhu an ủi ông với một kế hoạc mới: thành lập ấp chiến lược ở thôn xã thay cho khu trù mật quá kềnh càng, xây dựng thanh niên và phụ nữ Cộng hòa mạnh, chấn chỉnh quân đội. Diệm bị cuốn hút vào cái sau cùng: giải thể các quân khu có từ 1952 thay bằng ba vùng chiến thuật và biệt khu Thủ đô. Phải nắm chắc quân đội cái đã, ngăn tai họa từ trong cổng ngõ.
Ngày 1-4, tại lễ khởi công đắp đập Đa Nhim, Durborow nâng cốc chúc mừng Diệm. Diệm chạm cốc mà không vui. Cử chỉ ưu ái của Durbrow bao hàm ý nghĩa ban phúc, - Durbrow không là linh mục. Năm ngày sau, tại lễ phát phần thưởng văn chương. Durbrow lại chạm cốc với Nhu.
- Tôi sung sướng được chia vui với ông Cố vấn và qua ông Cố vấn, với Tổng thống. Bảy năm chấp chính Tổng thống Ngô Đình Diệm làm được nhiều việc tốt. Dư luận Mỹ hài lòng trước các thành tựu toàn diện của Việt Nam Cộng hòa. Tôi đã đọc Đò dọc của Bình Nguyên Lộc, Hoa đăng của Vũ Hoàng Chương, Thần tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan, các công trình biên khảo của Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Mạnh Bảo… những tác phẩm được giải. Tôi khâm phục đời sống tinh thần phong phú và sâu sắc của người Việt…
Nhu tươi cười, cám ơn. Mãi tới lúc đó, nhờ Durbrow, Nhu mới biết tên các tác phẩm trúng giải… “Thằng cha Vũ Hoàng Chương viết cái gì đây?”, Nhu chợt nhớ bài thơ tâng bốc Diệm của Vũ Hoàng Cương năm 1955. “Các tác phẩm này bợ đỡ lố bịch chính phủ, nên Durbrow khen? Hoặc nó chẳng nghĩa lý quái gì” - Nhu nghĩ thầm.
Quá bận, Nhu không nghe Bộ thông tin trình bày tình hình thế giới gần đây. Bởi vậy, khi Durbrow hỏi ý kiến về “vụ vịnh Con Heo”, anh ta nhún vai. Durbrow hiểu cái nhún vai của anh theo nghĩa khác, nên dành đến 15 phút thuyết giảng rằng đó là số kiều dân Cuba lưu vong tự động đổ bộ, không phải chủ trương của chính phủ Mỹ.
Về nhà Nhu gọi Tổng giám đốc Việt tấn xã tới và vỡ lẽ: CIA chiêu mộ đám người bạt mạng ở châu Mỹ Latin, cử tên José Mirose Cardona nào đó làm chỉ huy, đổ bộ lên Cuba và bị đánh tan tại một địa điểm, tục danh là vịnh Con Heo, còn tiếng Tây Ban Nha là Girón. Thảo nào Durbrow lải nhải mãi.
Gần đây, Nhu chớm trong đầu một so sánh: Mỹ không mạnh tuyệt đối trên thế giới. Còn Nga Xô. Những tên đánh thuê cho Mỹ chạy tán loạn trên bờ biển Cuba dưới vòng bay của một phi thuyền Nga lần đầu tiên chở người dọc ngang trong vũ trụ. Nhu lật tới lật lui tấm ảnh của phi hành gia Gagarine và phi thuyền Phương Đông, với Nhu là một ẩn số mới.
---
(1) Sese Seko Mobutu (1930-1997), người thực hiện cuộc đảo chính quân sự 1960, tổng thống Zaïre 1965-1997.
(2) Phối nhạc tốt.
(3) Phong tỏa.
Tại sao tân tổng thống Mỹ không cam kết ủng hộ cá nhân ông như họ từng cam kết? Nam Việt tức là ông. Ủng hộ Nam Việt đương nhiên phải là ủng hộ ông. Người Mỹ muốn thay đổi cái chân lý đơn giản đó ư? Tại sao Kennedy không nói thẳng rằng tổng thống của đảng Dân chủ vẫn xem ông - Ngô Đình Diệm - là niềm tin cậy và hy vọng của Mỹ ở Đông Nam Á?
Sau cái ngày 11-11 đáng ghét, ông chờ đợi một lời xin lỗi của Mỹ, gián tiếp cũng được. Elbridge Durbrow, đại sứ và Mac Garr, trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ lờ việc này. Chẳng lẽ ông phải xin lỗi họ vì đã dẹp tan bọn đảo chính hoặc triệu tập họ đến dinh Độc Lập để gạ họ xin lỗi ông? Người Mỹ, chắc chắn rồi, đã nhúng tay vào vụ lính Dù, lính Biệt động bạo loạn, song ông không có bằng chứng buộc tội họ. Không đủ bằng chứng theo cái nghĩa ông không chụp được quả tang bàn tay của họ đang thò ra.
Kennedy nhậm chức hơn một tuần, đại sứ Durbrow gặp ông, không phải chính thức mà nhân lễ khánh thành Trung tâm kỹ thuật Phú Thọ. Có thể đánh giá cuộc nói chuyện xã giao kéo dài chừng năm phút giữa Durbrow và ông là những gì Kennedy nhắn nhủ ông. Ông giận tái mặt, chiếc can run bần bật trên tay. Giá phang được thằng đại sứ này mấy can liền, hỉ! Durbrow chỉ cười rất nhã nhặn.
“Tổng thống Kennedy quan tâm đặc biệt đến vấn đề thực thi dân chủ ở Nam Việt. Chính phủ, quốc hội và công luận Mỹ chờ đợi Việt Nam Cộng hòa và riêng cá nhân tôi, thưa Tổng thống kính mến, tôi hy vọng trong cuộc bàn giao giữa tôi và ngài đại sứ Frederick Nolting vào tháng 5 tới, tôi có thể hãnh diện thông báo cho người kế nhiệm rằng nơi mà ông ấy công cán không hề có những chuyện buồn phiền về trình độ dân chủ như các đại sứ Mỹ vẫn thường gặp ở Châu Phi hay Trung Đông…”
Durbrow nói như vậy, tay luôn sửa chiếc cà vạt, còn mắt thì ngó thẳng ông.
Láo xược! Ông cố kềm chế. Họ coi ông ngang với Mobutu (1) chăng? Eisenhower, thống tướng, con người hùng của Đệ nhị thế chiến còn chưa dám vô lễ với ông, Kennedy là cái thá gì lại dạy khôn ông?
Đầu óc ông Diệm khá lộn xộn sau buổi sáng đó ở Trung tâm Phú Thọ. Ảo tưởng về Kennedy trong ông tan biến. Hóa ra Kennedy chẳng thức thời hơn Eisenhower nữa. Về đến dinh Độc Lập, ông đi thẳng vào phòng làm việc của Nhu. Nhu vắng nhà, Trần Lệ Xuân tiếp ông.
Lệ Xuân khép nép trước sắc mặt hằm hằm của ông. Chợt, ông cảm thấy thần kinh dịu hẳn. Thì ra, quyền uy của ông không hề sút giảm, cô em dâu lắm lời và rất khôn ranh trước sau vẫn một mực tôn kính ông. Ừ, có vậy mới ra con dâu nhà họ Ngô Đình chứ. Thỏa mãn lòng tự ái, ông cười độ lượng. Trần Lệ Xuân lăng xăng phà trà:
- Anh làm em hết hồn!
Hôm đó, ông phá lệ: trao đổi với cô em dâu lời của Durbrow. Ông đã không lầm. Trần Lệ Xuân cực kỳ sắc sảo về chính trị. Lệ Xuân ngồi ghé ở xa lông, sau khi khoát thêm chiếc áo choàng. Cử chỉ này càng khiến ông hài lòng, bởi ông nhớ có một lần, ông lững thững đến phòng Nhu - Nhu vắng nhà như hôm nay - Lệ Xuân đón ông trong bộ áo quần ngủ mỏng dính. Ánh sáng trong phòng làm nền và trước ông, cô em dâu cơ hồ không có một tí gì trên người. Ông giận dữ quay lưng:
- Thím ăn mặc sao mà quái gở rứa!
Lần đó, Lệ Xuân khóc, xin lỗi, hứa hẹn.
- Họ ta gia giáo lâu đời. Thím nhớ cho.
Ông vẫn chưa nguôi giận. Nhu phải đưa vợ đến gặp ông, lần thứ hai, kèm theo Ngô Đình Lệ Thủy. Ông không thể giận lâu vì ông rất yêu đứa cháu gái khôn trước tuổi này.
- Theo em, - Lệ Xuân thỏ thẻ - chúng ta chẳng mất gì trong trò chơi dân chủ này, một liên danh ứng cử Tổng thống hay hai, ba, bốn cũng thế thôi. Còn đúng một tuần nữa thì đến ngày niêm yết danh sách các ứng cử viên tổng thống nhiệm kỳ hai, ta đủ thì giờ để chọn. Càng nhiều đối thủ, thắng lợi của tổng thống càng vẻ vang.
Ông khẽ lắc đầu. Thật vô lý khi ở Nam Việt lại có ai đó ra tranh cử ngôi Tổng thống với Ngô Đình Diệm. Phải ông chịu nghe lời Ngô Trọng Hiếu… Ông Diệm luyến tiếc - năm 1955, Ngô Trọng Hiếu nêu ý kiến là Hiến pháp ghi hẳn ông đảm đương ngôi vị Tổng thống suốt đời, như Soekarno ở Nam Dương. Thích quá, song ông ngại. Bấy giờ, thế lực ông chưa mạnh. Nhu phản đối, hơn nữa, sạc Ngô Trọng Hiếu một trận với các từ nặng nhất: ngu, đần độn, nịnh bậy… Nhu có quan điểm của chú ấy… Chẳng lẽ người ta hô “muôn năm” mình mà mình lại phải tự xếp ngang một gã phàm phu tục tử, lục lục thường tài nào đó. Ông cảm thấy lòng tự ái bị tổn thương nặng nề.
- Tình thế khác xưa, anh chịu nhúng nhường một chút. Đây cũng vì đại cuộc thôi… Suốt đời anh hy sinh cho dân, cho nước, bây giờ hy sinh thêm, càng sáng danh… Chẳng ai lẫn lộn phượng hoàng với gà. Có lúc, chính anh mời Trần Văn Soái làm quốc vụ khanh kia…
Trần Lệ Xuân đánh trúng tim đen ông. “Ừ, thím nói có lý… Năm nớ, Mỹ cần mình, năm ni, mình cần Mỹ”. Ông nhớ phân tích của Nhu sau cuộc đảo chính về tương quan giữa ông và Mỹ. “Chắc phải làm thế rồi, song chọn mấy thằng, thằng nào?”
- Rứa, nên có mấy liên danh? - Ông đột ngột đổi thái độ.
- Dạ, em nghĩ càng nhiều càng tốt.
Diệm trố mắt:
- Răng mà nhiều… Ứng cử Tổng thống chớ ứng cử hàng thịt sao?
- Dạ, tùy anh… nhưng cũng phải bốn, năm coi mới được… - Lệ Xuân một mực dịu dàng.
- Ba thôi! - Diệm quả quyết.
- Dạ, anh định thế nào, nhà em với em làm thế ấy… Ba cũng được. Đỡ hao tốn.
- Mà thằng mô?
- Dạ, nếu chọn bọn chánh khách bẻm mép thì e gây khó cho ta. Em tính chọn những tên tuy hào nhoáng song chỉ là thùng rỗng…
- Hừm! - Diệm xua tay - Tôi đi tranh cử với bọn thùng rỗng sao?
- Dạ, thùng rỗng là theo nhận định của chúng ta. Anh biết Hồ Nhật Tân.
- Biết! Nhân sĩ có tiếng.
- Dạ, Hồ Nhật Tân cùng đứng liên danh với Nguyễn Thế Truyền…
- Ừ, được. Ông Truyền cũng là nhân sĩ.
- Dạ, liên danh kia gồm Nguyễn Đình Quát và Nguyễn Thành Phương…
- Không được! Thằng Quát chẳng ai biết, thằng Phương sao tranh cử với tôi? Tôi chưa bỏ tù hắn đã là may cho hắn… - Diệm sừng sộ.
- Thưa anh, ông Tân, ông Truyền thuộc lớp trước, còn ông Quát, ông Phương thuộc lớp sau… Thế mới… bien orchestré (2). Vả lại… - Lệ Xuân cười thật có duyên.
- Vả lại, sao?
- Vả lại ông Phương nhận tiền rồi.
- Nhận tiền? Tôi không hiểu.
- Thưa anh tiền mướn các liên danh. Như chi phí lót đường vậy… Anh tranh cử với Phương càng khiến người Mỹ kính phục: anh bình dân.
Trần Lệ Xuân đã thuyết phục được Diệm
*
Nhân Tết nguyên đán Tân Sửu, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thả một số người thuộc nhóm Caravelle liên quan với cuộc đảo chính. Đáng lẽ Diệm còn có thể thả nhiều hơn nếu đại sứ Mỹ không quá nồng nhiệt với những kẻ bị bắt. Durbrow gợi ý với ông ta đến ba hay bốn lần về việc nên “trả tự do”. Ông ân xá và chỉ ân xá theo ý ông. Thế nào là trả tự do? Chúng làm loạn, ông gông cổ chúng, thế thôi… Thả Phan Quang Đán, Trần Văn Hương ư? Không đời nào! Chúng phải ra tòa!
Ngô Đình Nhu không sao lay chuyển nổi ý kiến đã thành cố chấp của Diệm. Với Nhu, cuộc đảo chính 11-11 đánh một đòn mạnh vào uy thế của chính phủ, nghiêm trọng hơn vụ Bình Xuyên, Ban Mê Thuột nhiều lần. Đây là sự việc từ nội bộ chế độ, từ quân đội, hơn nữa, từ binh chủng tin cậy nhất. Dẹp yên bạo loạn bằng kế hoãn binh - nói toạc ra, bằng sự lừa phỉnh như đối với Ba Cụt năm xưa qua cò mồi Nguyễn Ngọc Thơ, lần này qua cò mồi Lê Văn Tỵ - thêm một vết đen trong lịch sử nền Cộng hòa Cái cốt lõi nhất đã đạt, tức là cuộc đảo chính đã bị dập tắt, phải vớt vát sĩ diện bằng thái độ khoan dung. Nhu rất muốn đưa một số người “nhẹ dạ nên lầm đường lạc lối” ấy - như họ ghi trong đơn xin tha - vào mặt trận đại đoàn kết chống Cộng. Người Mỹ hẳn phải suy nghĩ, khi tổng thống Diệm cảm hóađược những kẻ toan xóa ông bằng súng. Nhưng Diệm không thèm nghe. Với Diệm, một chuỗi sự việc xảy ra trong hơn 7 năm ông cầm quyền, từ tướng Hinh, tướng Vỹ, các giáo phái và Bình Xuyên, qua vụ Ban Mê Thuột đến cuộc binh biến 11-11-1960, chẳng qua là những phản ứng của một thiểu số bất nãm do Thực - Phong - Cộng giật dây - bình thường thôi. Chúa giao cho ông cầm đầu Nam Việt, chỉ có Chúa mới thay đổi sứ mệnh tông đồ đó. Dân chúng đứng sau lưng ông, quân đội phục tùng ông, đồng minh xa gần kính nể ông.
Trong không ít lần, ông vỗ bàn với Nhu - đứa en trai mà ông vị nể về sự uyên bác. “Nó lú lẩn”. Ông hạ giá Nhu và bắt đầu thành kiến với các quyển sách dầy cộm bày khắp phòng làm việc của Nhu. Cố vấn được Tổng thống nghe, lại là vợ Nhu. “Thím Nhu giỏi hơn chú Nhu”. Ông tìm thấy ở đứa em dâu sự thâm trầm hơn cả em trai.
Cuộc vận động bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ hai khá rùm beng. Ứng cử viên Ngô Đình Diệm - Nguyễn Ngọc Thơ trong liên danh “Cây trúc” ra mắt cử tri tại Tòa đô chính. Từ ngôi vị tổng thống nay phải ăn nói theo kiểu một người cần lá phiếu, Diệm rất lúng túng. Ông cứ lầm lẫn mãi vị trí của mình. Nhưng ông không lúng túng lâu. “Tôi muốn nói thằng với quốc dân”. Ông trở lại phong độ cũ. Và ông nói thẳng. Đề tài của ông - không phải là xấp giấy được văn phòng sửa soạn kỹ và được Nhu xem lại lần cuối - xoay quanh cách sống của bậc quân tử. Ông ứng khẩu: “Bậc quân tử không phản bội, không đâm sau lưng kẻ khác”. Ông xỉ vả nhóm đảo chính, số chính khách xôi thịt, và, như mũi tên rời cây cung, ông đả kích thái độ của chính phủ Mỹ. Lần đầu ông dùng danh từ “thực dân” để chỉ đất nước mà ông từng giao phó cả thể xác lẫn linh hồn. Có lẽ, ông không thấy đại sứ Durbrow lặng lẽ rời phòng họp - mà dù có thấy, ông vẫn nói, nói như người say.
Báo chí buổi chiều tường thuật cuộc ra mắt của liên danh Diệm - Thơ. Ngô Đình Diệm vứt các tờ báo xuống nền gạch, gọi bí thư báo chí đến:
- Mần răng mà chúng nó thuật như rứa? Chẳng tờ báo nào phản ánh đúng lời tôi. Thậm chí, báo phịa ra những điều tôi không hề nói. Tầm bậy! Tôi có cám ơn Hoa Kỳ đâu.
Bí thư báo chí, trán rịn mồ hôi, mặc dù năm nay Sài Gòn rét nặng, trình cho ông bản tin của Việt tấn xã - nguồn tin chính mà các báo dựa vào.
- Tổng giám đốc Việt tấn xã đến ngay! - Ông ra lệnh.
Tổng giám đốc không trình diện, người trình diện là Nhu.
- Em sửa đó!
Diệm nhìn Nhu trừng trừng. Nhu chìa cho Diệm xem bài báo của Helen Fanfani, tựa cụt lũn: Lồng lộn. Tựa phụ: Ông Diệm tuyên chiến với Kennedy.
Diệm vứt bài báo, thét:
- Tống cổ con mụ đó ra khỏi Việt Nam Cộng hòa.
Nhu lắc đầu:
- Em không thể làm như anh muốn… Em điều đình để cô ta không gửi bài báo đi. Anh tuyên chiến nhưng bằng cái gì? Người Mỹ sẽ tuyên chiến và chúng ta phải thua, trong vòng mươi phút thôi. Họ bloque (3) ngoại tệ, quân đội không được phát lương, sẽ bắn vào dinh Độc Lập. Em mong anh bình tĩnh…
Nhu nói có bấy nhiêu, cúi lượm bài báo, bước ra khỏi phòng.
Ít khi nào Nhu căng thẳng với Diệm, nhưng hôm nay, anh ta buộc phải kéo Diệm trở lại cuộc sống thật.
Nhu đi khá lâu mà Diệm vẫn ngồi thừ trên chiếc ghế banh, tượng trưng quyền uy của nguyên thủ quốc gia. Ông vừa nghe một câu dễ sợ nhất - không phải ông không nghĩ đến “cú rờ ve” đó mà Mỹ vốn có ưu thế và là sở trường của họ, song mỗi lần thoáng nghĩ đến, ông xua nó ngay: Dễ gì! Bây giờ Nhu nói thẳng. Lời của Nhu, nhất là đôi mắt buồn rầu của Nhu đập mạnh ông. Mỹ có thể làm như vậy và họ chẳng khó khăn gì. Hồi năm một 1954, 1955 mỗi mình ông xốc vác gánh nặng ở miền Nam. Hiện thời, hằng tá kẻ sẵn sàng thay ông. Thảm cỏ trước dinh vẫn mượt mà, nhưng ông cảm thấy như thảm cỏ bồng bềnh và dinh Độc Lập lắc lư. Ngoài cổng, lính đổi phiên gác. Y hệt người máy, bước chân ngỗng đơn điệu. Tại sao không phải lũ người máy này sẽ quay súng chĩa về phía ông?
Diệm đến bên cửa sổ. Ngay bậc thềm dinh Độc Lập, hai sĩ quan đứng nghiêm, súng ngắn bên lưng.
- Phải dặn bác sĩ Tuyến đừng để bọn này có đạn trong súng…
Ông bỗng thấy vẻ mặt của hai sĩ quan kia gian giảo quá chừng.
Diệm lượm tờ báo lên. Ông dừng lại ở bài tường thuật liên danh Nguyễn Đình Quát - Nguyễn Thành Phương ra mắt cử tri: “Nếu chúng tôi đắc cử thì việc đầu tiên là chúng tôi thu xếp ngừng bắn…”. Chà, thằng chủ sở cao su quèn, thằng lính Cao Đài mạt hạng dám bán rao cả hòa bình! Không phải bọn mi mà ta, nếu cần… Liên danh Quát - Phương lấy con trâu làm biểu tượng. Diệm bĩu môi: Bọn hắn đần độn như trâu!
… Cuộc bầu cử Tổng thống diễn ra bình thường. Kết quả được công bố. Trong hơn 9 triệu cử tri, liên danh Diệm - Thơ được hầu như tuyệt đối phiếu. Diệm không hí hửng như bao lần trước. Muốn ghi bao nhiêu mà chẳng được. Báo cáo của các tỉnh đều lạc quan, nhưng Nhu có trong tay con số thật. Chừng hơn phân nửa cử tri đến thùng phiếu - chính phủ mất quyền kiểm soát trên phạm vi khá rộng ở nông thôn. Liên danh Hồ Nhật Tân - Nguyễn Thế Truyền cũng như Nguyễn Đình Quát - Nguyễn Thành Phương thu được một số phiếu không nhiều. Cái đáng ngại là tỷ lệ phiếu bất hợp lệ - bấm nát phiếu - hết sức cao. Cử tri không chọn giữa các liên danh mà biểu thị thái độ thù địch với chế độ. Nhu nhớ lần bầu cử trước. Rất ít trường hợp như vậy.
Diệm đón thông báo đó trong tâm trạng cay đắng. Dân chúng bỏ ông rồi sao?
Nhu an ủi ông với một kế hoạc mới: thành lập ấp chiến lược ở thôn xã thay cho khu trù mật quá kềnh càng, xây dựng thanh niên và phụ nữ Cộng hòa mạnh, chấn chỉnh quân đội. Diệm bị cuốn hút vào cái sau cùng: giải thể các quân khu có từ 1952 thay bằng ba vùng chiến thuật và biệt khu Thủ đô. Phải nắm chắc quân đội cái đã, ngăn tai họa từ trong cổng ngõ.
Ngày 1-4, tại lễ khởi công đắp đập Đa Nhim, Durborow nâng cốc chúc mừng Diệm. Diệm chạm cốc mà không vui. Cử chỉ ưu ái của Durbrow bao hàm ý nghĩa ban phúc, - Durbrow không là linh mục. Năm ngày sau, tại lễ phát phần thưởng văn chương. Durbrow lại chạm cốc với Nhu.
- Tôi sung sướng được chia vui với ông Cố vấn và qua ông Cố vấn, với Tổng thống. Bảy năm chấp chính Tổng thống Ngô Đình Diệm làm được nhiều việc tốt. Dư luận Mỹ hài lòng trước các thành tựu toàn diện của Việt Nam Cộng hòa. Tôi đã đọc Đò dọc của Bình Nguyên Lộc, Hoa đăng của Vũ Hoàng Chương, Thần tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan, các công trình biên khảo của Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Mạnh Bảo… những tác phẩm được giải. Tôi khâm phục đời sống tinh thần phong phú và sâu sắc của người Việt…
Nhu tươi cười, cám ơn. Mãi tới lúc đó, nhờ Durbrow, Nhu mới biết tên các tác phẩm trúng giải… “Thằng cha Vũ Hoàng Chương viết cái gì đây?”, Nhu chợt nhớ bài thơ tâng bốc Diệm của Vũ Hoàng Cương năm 1955. “Các tác phẩm này bợ đỡ lố bịch chính phủ, nên Durbrow khen? Hoặc nó chẳng nghĩa lý quái gì” - Nhu nghĩ thầm.
Quá bận, Nhu không nghe Bộ thông tin trình bày tình hình thế giới gần đây. Bởi vậy, khi Durbrow hỏi ý kiến về “vụ vịnh Con Heo”, anh ta nhún vai. Durbrow hiểu cái nhún vai của anh theo nghĩa khác, nên dành đến 15 phút thuyết giảng rằng đó là số kiều dân Cuba lưu vong tự động đổ bộ, không phải chủ trương của chính phủ Mỹ.
Về nhà Nhu gọi Tổng giám đốc Việt tấn xã tới và vỡ lẽ: CIA chiêu mộ đám người bạt mạng ở châu Mỹ Latin, cử tên José Mirose Cardona nào đó làm chỉ huy, đổ bộ lên Cuba và bị đánh tan tại một địa điểm, tục danh là vịnh Con Heo, còn tiếng Tây Ban Nha là Girón. Thảo nào Durbrow lải nhải mãi.
Gần đây, Nhu chớm trong đầu một so sánh: Mỹ không mạnh tuyệt đối trên thế giới. Còn Nga Xô. Những tên đánh thuê cho Mỹ chạy tán loạn trên bờ biển Cuba dưới vòng bay của một phi thuyền Nga lần đầu tiên chở người dọc ngang trong vũ trụ. Nhu lật tới lật lui tấm ảnh của phi hành gia Gagarine và phi thuyền Phương Đông, với Nhu là một ẩn số mới.
---
(1) Sese Seko Mobutu (1930-1997), người thực hiện cuộc đảo chính quân sự 1960, tổng thống Zaïre 1965-1997.
(2) Phối nhạc tốt.
(3) Phong tỏa.
CHƯƠNG 2
Ngày 8-5-1961, Frederick Ernest Jr. Nolting đến Sài Gòn, thay Dlbridge Durbrow.
Có
thể tìm thấy vài chi tiết khác nhau giữa Nolting và Durbrow: Nolting
sinh 1911, trẻ hơn Durbrow 7 tuổi; nếu Durbrow là một chuyên gia các vấn
đề Đông Âu và Nam Á - ông từng làm lãnh sự ở liên Xô, Ba Lan, Rumani,
Mã Lai… - thì Nolting lại là một chuyên gia về các vấn đề bao quát hơn:
phụ trách Vụ Âu châu Bộ ngoại giao, có chân trong đoàn đại biểu Mỹ ở
khối Bắc Đại Tây Dương.
Sự thay đổi đại sứ được chính phủ Mỹ giải
thích như là điều bình thường. Vài chi tiết khác nhau giữa Nolting và
Durbrow không nói rõ hơn những gì mà dư luận muốn biết. Chính phủ Sài
Gòn lặng lẽ chấp nhận Nolting. Thật ra, cả Diệm lẫn Nhu chẳng thích thú
mấy Durbrow: ít năng nổ, vai trò lu mờ, chưa công khai, không tán thành
một việc cụ thể nào của Việt Nam Cộng hòa và cũng chưa hề tỏ ra nồng
nhiệt đối với sự nghiệp của họ Ngô. Mặt khác, Durbrow nhất định dính
dáng đến vụ đảo chính cuối năm 1960, ông ta rời Sài Gòn là phải.
Nolting
đến Sài Gòn không mang theo vợ, bà Olivia Lindsay sẽ sang khi đại sứ
xong bước tiếp xúc với thực tế và thấy rằng bà Olivia Lindsay có thể
sang. Gần đây, dư luận Mỹ đồn đãi về những hiểm nguy đối với người Mỹ ở
Nam Việt do du kích Cộng sản nhan nhản khắp nơi, cả tại Sài Gòn và giữa
ban ngày. Danh sách người Mỹ “thiệt mạng vì công vụ” ở Nam Việt dài ra
một cách đột ngột… Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ Trần Văn Chương và
đại sứ quan sát viên Việt Nam Cộng hòa tại Liên hợp quốc, bà Trần Văn
Chương, cung cấp tài liệu quá ít ỏi về Nolting. Phải chăng vì Nolting
liên hệ với khối quân sự Bắc Đại Tây Dương nên chính phủ Mỹ cử ông sang
Việt Nam - nơi mà công thức “vũ khí Mỹ, lính Nam Việt” trong cuộc chiến
tranh không tuyên bố đang bị thử thách? Hay là, với tư cách một nhà
thương lượng mềm mỏng, Nolting cần thiết cho sự hàn gắn những vết nứt
đáng lo ngại giữa chính phủ Mỹ và ông Diệm?
Ngô Đình Nhu tìm quyển:
Who’s who in American” (1), tập mới nhất và chỉ thấy những dòng tiểu sử
quá ngắn gọn của Nolting. Tổng nha cảnh sát, Trung tâm tình báo, Sở
nghiên cứu chính trị của bác sĩ Trần Kim Tuyến và Nha an ninh quân đội
đều mù tịt về Nolting. Buổi trình ủy nhiệm thư không giúp cho Nhu thêm
tư liệu, trừ ngoại hình của đại sứ Mỹ: dong dỏng cao, mắt hơi sâu, có nụ
cười tình tứ…
Sau Nolting ba hôm, Phó tổng thống Mỹ Lyndon Baines
Johnson đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất, trên dường từ Mỹ sang thẳng, chỉ
dừng chân ở Honolulu. Dĩ nhiên, Phó tổng thống Mỹ Richard Nixon đã từng
đến Nam Việt, nhưng người ta chờ đợi chuyến đi của Johnson bởi đã có
nhiều báo hiệu về sự bất đồng trên nhiều phương diện giữa Kennedy - bây
giờ là kẻ nắm quyền sinh sát trong Nhà Trắng - với cá nhân tổng thống
Diệm. Chuyến thăm Nam Việt của Johnson, do đó, có thể đóng góp vào quyết
định một kết thúc - kết thúc sự bất đồng, kết thúc nguyên nhân đẻ ra
bất đồng…
Tuyên bố báo chí được chuẩn bị sẵn của Phó tổng thống Mỹ
phát tại sân bay khá dài dòng. Vị thầy cãi Texas 53 tuổi dùng lối văn
nghề nghiệp để minh định lập trường Mỹ ở Nam Việt và Đông Nam Á. “Hợp
chủng quốc Mỹ ra đời do nhu cầu tự do. Chính phủ Mỹ dành tất cả nổ lực
để bảo vệ nền tự do của bản thân và của các quốc gia bạn hữu. Tổng thống
Mỹ cử người trợ lý thân cận của mình sang Sài Gòn bởi mối quan tâm và
lòng mong muốn chia xẻ với đất nước nhiều bất hạnh của các bạn và tin
ràng sự khát khao tự do là sức đẩy giúp các bạn chiến thắng tất cả trở
lực, kiến tạo cuộc sống phồn vinh”. Nguyễn Ngọc Thơ đưa Johnson từ sân
bay về thẳng dinh Độc Lập gặp Diệm, theo yêu cầu của Johnson. Diệm và
Johnson từng quen nhau khi Diệm sang Mỹ, năm 1956. Bấy giờ, đảng Cộng
hòa cầm quyền, thái độ của Johnson rất nhũn nhặn. Chính Johnson đọc một
bài chào Diệm, lời lẽ nồng nhiệt. Bây giờ họ vẫn bắt tay nhau nồng nhiệt
trước khi bước lên chiếc thảm đỏ trên thềm; song Diệm linh cảm Phó tổng
thống Mỹ không mang đến cho ông tin mừng - không chỉ vì Johnsong theo
đạo Tin Lành, khác với ông. Bức thư riêng của Kennedy mà Johnson trịnh
trọng trao cho Diệm có giá trị như một giấy giới thiệu, và cái câu hàm
xúc nhất lại là “tôi thẳng thắn mong Ngài và đại diện của nước Mỹ tìm
được tiếng nói chung vì tương lai của Nam Việt, trong đó, mọi tầm nhìn
thiển cận đều phải gạt bỏ, nếu chúng ta muốn chiến thắng…”
Cuộc hội đàm bắt đầu ngay sau bữa ăn trưa. Johnson đề nghị Nhu không nên dự họp.
“Dư
luận Mỹ quá thành kiến với ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Chính phủ Mỹ không
muốn khiêu khích dư luận”. Johnson nói toạc như vậy. Dự hội đàm, do đó,
về phía Nam Việt, chỉ có Diệm, Thơ, Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ,
ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu và về phía Mỹ, có Johnson, Nolting và Mac Garr.
Hai bên đi một vòng chân trời chính trị thế giới và châu Á, tình hình
toàn bán đảo Đông Dương và tình hình Nam Việt. Về tình hình thế giới,
Diệm tránh cho Johnson khó chịu nên lờ hẳn vụ Macsaysay chết trên đảo
Cébu, vụ Lý Thừa Vãn phải đi đày, cả vụ “vịnh Con Heo” và vụ chiếc máy
bay U2. Diệm cũng không bài bác quan điểm của Mỹ về sự rối loạn ở
Algérie - theo Mỹ, tướng Salan thấy được nguy cơ Cộng sản qua chính sách
thiếu cứng rắn của De Gaulle nên đã ly khai… Nhưng, tình hình Đông
Dương, nhất là tình hình Nam Việt, không được hội đàm đánh giá thống
nhất. Johnson cho rằng các chính thể tự do ở ba quốc gia thiếu khả năng
chận đứng sự bành trướng của Cộng sản. Diệm cho rằng “Không thể thắng
Cộng sản nếu các đồng minh hùng mạnh của ba quốc gia Đông Dương không
gột óc vụ lợi”. Johnson cho rằng Nam Việt nguy kịch. Diệm giảm nhẹ thế
lực của Cộng sản đến mức thấp nhất. Càng đi sâu vào tình hình Nam Việt,
họ càng xa cách nhau.
Diệm - cố kềm chế song không được kín đáo lắm
- phàn nàn về một nhúm giả danh Quốc gia “nấp dưới cái ô của người bạn
lớn của Việt Nam Cộng hòa gây rối hàng ngũ chống Cộng”, “Lực lượng biệt
kích Mỹ xây dựng gần như độc lập với quân đội Cộng hòa”, “Báo chí Mỹ đưa
tin về Việt Nam Cộng hòa đầy ác ý, phản ánh sai lạc cả tình hình lẫn
chủ tâm của chính phủ”… Diệm nói tiếng Anh - âm sắc còn cứng, song đúng
văn phạm. Vũ Văn Mẫu phiên dịch cho Thơ và Tỵ, Johnson tỏ ý không hài
lòng về “sự thiếu khéo léo của chính phủ Việt Nam Cộng hòa đối với các
nhân tài giàu thiện chí, sự thiếu khéo léo đã dẫn đến “một mức ly tán
nào đó trong nỗ lực chống Cộng ở Việt Nam và giúp cho Việt Cộng giành
được thắng lợi ở thôn xã”… Diệm giải thích, Johnson cáo buộc. Cuộc hội
đàm bế tắc. Buổi dạ tiệc tưng bừng vẫn không xua được nét đăm chiêu trên
mặt Diệm. Mọi người đều thấy Johnson thoải mái giả tạo.
*
Nguyễn
Thành Luân vừa rời bệnh viện, người còn xanh lả. Chính Nhu ghi tên Luân
vào danh sách những thượng khách trong buổi dạ tiệc. Nhu không muốn
chường mặt, dù trong buổi dạ tiệc nên chọn Luân thay anh ta. Thật ra,
Luân không có bất cứ danh nghĩa gì đến đây, nơi anh là người có cấp và
chức thấp nhất.
Luân chọn lối đi kín đáo đi vào phòng tiếp tân. Nhưng tướng Mac Garr đã nhận ra anh. Ông ta vồn vã đến chào:
- Xin chúc mừng trung tá bình phục.
- Cám ơn tướng quân!
- Đây, một nhân vật huyền thoại mà đại sứ cần làm quen. - Mac Garr giới thiệu Luân với Nolting.
-
Ồ! Hân hạnh! - Nolting nắm tay Luân chặt và lâu - Tôi nghe nhiều về
trung tá và nôn nóng muốn gặp. Rất tiếc, tôi sang Việt Nam vào lúc trung
tá bị thương. Sở dĩ tôi chưa vào bệnh viện là vì, mong trung tá thông
cảm, các việc bàn giao ở tòa đại sứ quá kéo dài…
- Không có chi.
Tôi xem việc bàn giao ở tòa đại sứ phải kéo dài giữa Ngài Durbrow và
Ngài Nolting là một sự trách cứ chúng tôi. Chúng tôi đã để tình hình bề
bộn… - Luân nói nghiêm túc.
Anh tranh thủ quan sát Nolting: một nhà
ngoại giao có vẻ một nhà ngoại giao hơi tài tử - nụ cười, bộ quần áo
may ở hiệu Dior, mùi nước hoa… Chắc chắn Nolting cũng quan sát anh.
-
Không… Hoặc, nếu quả như vậy đi nữa thì tỉnh Kiến Hòa vẫn không gây bận
tâm cho bất kỳ ai. Trước kia thì khác. Bây giờ, trung tá đã làm chủ
được tình hình. - Nolting kéo Luân lại bàn.
- Tôi chưa làm chủ được tình hình. Phát đạn xuyên người tôi đã làm chứng. - Luân thở dài như người có lỗi.
- Không phải. Ai lường nổi một tên phản bội bắn lén? Ta nghĩ đến cái gì cao rộng hơn một viên đạn… Nolting kéo ghế mời Luân.
Mac Garr rỉ tai với Johnson. Phó tổng thống Mỹ đi thẳng đến chỗ Luân.
- Xin chào vị anh hùng! - Johnson chìa tay.
Luân, đứng thẳng người, bắt tay Johnson.
- Cám ơn Phó tổng thống. Tôi không đủ tư cách làm một anh hùng.
Johnson giữa tay Luân trong tay mình, nói vừa đủ cho Diệm nghe - Diệm đang sắp ngồi vào bàn:
- Khiêm tốn là đức tính cần thiết của người anh hùng.
Luân làm như vừa trông thấy Diệm, nghiêng người chào.
- Cháu đã khá chưa? - Diệm hỏi, không bắt tay Luân.
- Cám ơn Tổng thống, cháu đã khỏe.
Một lóe kiêu hãnh trong mắt Diệm. Hẳn ông đã so sánh cử chỉ của Luân đối với Johnson và đối với ông.
Diễn từ của Diệm ngắn. Đáp từ của Johnson dài hơn. Dù ngắn hay dài, toàn lời phù phiếm.
Sau tuần khai vị, không khí lần lần tự nhiên hơn.
-
Tôi chưa nắm được hết các mặt tình hình Nam Việt. Những báo cáo mà tôi
đọc ở Washington dù sao cũng không thay được cho thực tế. Theo trung tá,
vấn đề gì là then chốt nhất trong sự kiện Nam Việt hiện nay? - Nolting
hỏi Luân.
Luân không trả lời ngay. Anh dự đoán những nước cờ mới trên bàn cờ mà một số quân đang xếp lại hay dự định xếp lại.
*
…
Viên đạn xuyên bụng, trổ ra dưới mạn sường đã đưa Luân vào cơn hôn mê.
Cuộc giải phẫu, dù ngay tại phòng khách dinh tỉnh trưởng, vẫn hoàn hảo.
Giáo sư Đệ là bậc thầy về khoa này. Người ta đưa Luân lên trực thăng.
Một cái lắc nhẹ ở máy bay, anh đau toát mồ hôi và anh hôn mê trở lại.
Anh
mở mắt và nhận ra ngay nơi quen thuộc - Bệnh viện Grall. Bây giờ, Dung
đang ngồi cạnh anh. Một cái gì xót xa cồn cào trong Luân. Dung tiều tụy
quá. So vớí lần anh chết hụt ở Bình Dương, Dung tiều tụy hơn nhiều. Anh
cảm thấy mình thật đáng trách. Tại sao Dung phải chịu đựng những khinh
xuất của chính anh? Liệu hạnh phúc mà anh mang lại bù đắp nổi những đau
đớn dằn vặt Dung - mà làm sao đoán trước đây có phải là lần cuối cùng
hay không?
Đôi mắt bồ câu vụt long lanh - cùng với cái mở mắt của
Luân. Nếu không có vị giáo sư người Pháp và giáo sư Đệ, cả nhóm bác sĩ
ngồi cách gường Luân vài bước thì cả hai chắc đã khóc òa.
Dung
nhoẻn cười, tay đặt lên môi Luân, tay kia vuốt mấy sợi tóc lòa xòa phủ
trán Luân. Một Dung biến hóa, khác hẳn mấy giây trước đó. Luân nén cái
thở dài. Cái sống và cái chết của mình đã là của Dung.
- Anh xin lỗi em! - Luân thều thào…
Dung đáp lại bằng cái lắc đầu nhè nhẹ. Nước mắt đầm đìa trên má cô: Anh có lỗi gì?
Kẻ
bắn Luân lần này không phải tên trung sĩ lái xe ở Bình Dương mà là một
nội tuyến - một người yêu nước, trà trộn đến cấp trung úy truyền tin.
Thật cay đắng. Và cũng thật đáng mừng: Nhất định sự việc xảy ra vào cái
đêm kinh hoàng ấy góp phần xóa dấu vết mà Luân để rơi rớt không ít trong
thời gian ngắn làm tỉnh trưởng Kiến Hòa. Chỉ cần cộng các biện pháp mà
Luân thực hiện với Thường, ông giáo Tâm, chuẩn úy Tập, với dân Cồn Ốc,
bà Hai Sặc và với bọn công an, biệt kích… những tay tình báo gà mờ nhất
cũng phải đặt một dấu hỏi to tướng. May quá, viên đạn trúng Luân vào chỗ
trí mạng và không ai nghi ngờ về dụng ý của kẻ bấm cò.
Tổng giám đốc công an, sau khi Luân bị bắn, đã thổ lộ với Dung:
-
Tổng nha nhận được nhiều báo cáo về trung tá tỉnh trưởng. Bác sĩ Tuyến
và ông Cố vấn cũng thấy lạ lùng. Tại sao trung tá lặp lại cách làm việc
mà người ta bắt buộc phải suy luận rằng trung tá tung đòn phản gián để
bảo vệ cán bộ đầu sỏ Việt Cộng? Nhưng, chính trung tá lại là mục tiêu số
một của Việt Cộng ở Kiến Hòa. Viên đạn xua tan mọi hoài nghi. Cái cần
trao đổi - tôi thành thật mong trung tá sẽ hồi phục - là trung tá có nên
tiếp tục vai trò phiêu lưu cũ hay không? Trung tá định lấy lòng dân,
nhưng dân lại nghe Việt Cộng. Người của Việt Cộng đeo bám trung tá… Tốt
hơn hết, trung tá vớ được tên nào bắn tên nấy…
Thiếu tướng Tổng
giám đốc cho Dung xem một tài liệu của Việt Cộng mà công an vừa tịch
thu: Thông báo của T.2 - mật danh của Khu ủy Trung Nam bộ, về những thủ
đoạn xoa dịu quần chúng của Nguyễn Thành Luân. Thông báo gọi Nguyễn
Thành Luân là một tên phản bội kháng chiến, liếm gót gia đình Ngô Đình
Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, một phần tử bại hoại cần phải loại bỏ với
bất cứ giá nào.
Hôm Luân về nhà, Nhu đến thăm. Anh ta phàn nàn:
- Vậy là “bên kia” kết án anh rồi…
Luân
hiểu Nhu nuối tiếc một chiếc cầu. Có lần, Nhu đã hỏi thẳng Luân khả
năng móc nối với “bên kia”. Bây giờ, theo Nhu, đổ vỡ hết…
Luân cười mỉm:
- Làm thế nào khác được… Khoảng cách lớn quá.
…
Cùng đề tài Luân bị ám sát, Ly Kai, Lâm Sử và Dương Tái Hưng có ba cách
nhìn khác nhau. Ly Kai tường thuật nội vụ cho hai người kia nghe và kết
luận: Việt Cộng đoạn tuyệt với Nguyễn Thành Luân. Lâm Sử, ngần ngừ khá
lâu, mới nói:
- Chưa chắc! Bằng cớ là Luân còn sống. Tại sao không
phải là một “khổ nhục kế”? Chuyện cổ Trung Quốc có trường hợp Vương Tá,
tướng của Nhạc Phi tự chặt tay để lừa quân giặc…
Dương Tái Hưng cười theo lối kẻ cả:
-
Không thể có chuyện “khổ nhục kế”. Thằng đó bắn Nguyễn Thành Luân thật.
Nó quyết giết y ta. Chỉ có sự may mắn đã cứu Nguyễn Thành Luân.
Ly Kai hí hửng:
- Đúng rồi, Việt Cộng đoạn tuyệt…
Dương Tái Hưng nheo mắt:
- Ông Ly Kai ngây thơ quá! Không có chuyện đoạn tuyệt…
Giữa sự ngơ ngác của Lâm Sử và Ly Kai, Dương Tái Hưng nhấn mạnh từng tiếng:
- Việt Cộng Bến Tre không được cấp trên cho biết Luân của ai. Nguyên tắc bí mật…
Thấy hai người gật đầu công nhận hắn cao kiến, Dương Tái Hưng nói tiếp:
- Nghĩa là việc theo dõi tên Luân vẫn phải tiếp tục, hơn nữa, tiếp tục thật nghiêm ngặt… Có dịp thì… - Gã ra dấu: bấm cò.
*
… Luân vẫn phải trả lời Nolting:
-
Câu hỏi của đại sứ quá rộng. Tôi chưa tìm được cách diễn đạt gọn mà
không rơi vào một thứ sáo rỗng. Tuy nhiên, trước sau tôi vẫn cho rằng,
muốn chiến thắng ở Nam Việt, phải nắm được quần chúng…
Nolting nhún vai:
-
Nếu tôi không lầm, trung tá là một quân nhân - gọi là quân nhân chuyên
nghiệp cũng được. Quân nhân nên diễn đạt theo lối riêng của mình.
Nolting liếc về phía Diệm:
- Người ta nói với tôi, ông Diệm và em trai, em dâu của ông ấy là vấn đề then chốt nhất…
Luân ngồi thẳng lưng. Cử chỉ có tính toán của Luân được Nolting đánh giá như một phản xạ. Ông ta cười gượng.
- Thế nào là “vấn đề then chốt nhất”? - Luân hỏi, giọng khô khan.
Nolting xua tay:
-
Chẳng lẽ Tổng thống một nước không là nhân tố quyết định hàng đầu tình
hình của nước đó? Việt Nam Cộng hòa, như Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, theo
chế độ tổng thống… Tạo điều kiện để cho Tổng thống Diệm làm hết vai trò
của ông ấy, tại sao không phải là “vấn đề then chốt nhất”?
Rõ ràng, Nolting lấp liếm.
Luân
bắt mạch quan điểm của ông ta - hẳn cũng là quan điểm của Kennedy: tìm
cách xoay Diệm sau khi gạt tay chân thân tính của ông. Anh thăm dò thêm
một bước:
- Trong ý nghĩa như vậy, tôi không có điều gì khác Ngài
đại sứ. Tuy nhiên, để giúp Tổng thống nước chúng tôi làm hết vai trò,
điều kiện không giản đơn…
- Trung tá có thể nói rõ hơn không?
- Tổng thống chúng tôi phải đối phó với rất nhiều khó khăn…
- Tôi hiểu! - Nolting ngắt lời Luân - Việt Cộng mạnh…
-
Không chỉ Việt Cộng - đến lượt Luân ngắt lời Nolting - Khó khăn đôi
khi, và bây giờ là thường khi, lại từ phía đồng minh của chúng tôi…
-
Ông là người của gia đình Tổng thống Diệm, - Nolting nói như thất vọng -
người ta gán cho ông là lãnh tụ quan trọng của đảng Cần Lao, thật không
sai.
- Ngài đại sứ hãy nghe, - Luân vẫn từ tốn - tôi chưa hề chối,
và việc gì phải chối, về mối quan hệ cá nhân của tôi với Tổng thống và
vị trí của tôi trong đảng Cần Lao. Nhưng những cái đó không phải là việc
cần trao đổi. Chúng tôi phạm một số thiếu sót, đúng như vậy… Cái thiếu
sót đó gọi chung là vội vàng. Quá vội vàng… Phải đâu người Mỹ không chịu
trách nhiệm gì cả trong các thiếu sót của chúng tôi? Trước kia, nước Mỹ
muốn xóa Bắc Việt Cộng sản qua chúng tôi. Hiện nay, nước Mỹ muốn thanh
toán Việt Cộng đôi ba tháng. Làm sao được?
Nolting lắng nghe và không rõ chịu hay không chịu lập luận của Luân, ông ta chạm ly với Luân.
*
Nhu
mời Luân đi chơi ngay buổi sáng mà báo chí công bố thông cáo chung Việt
- Mỹ: Hoa Kỳ sẽ tăng việc trợ quân sự, đảm đang luôn phần trang bị cho
lực lượng Bảo an, sẽ cử sang Việt Nam một phái đoàn cao cấp cùng Nam
Việt nghiên cứu kế hoạch quân sự, kinh tế và kế hoạch chống du kích Việt
Cộng.
Hai người ngồi chung một xe, có cảnh sát hộ tống, chạy theo
xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa vừa khánh thành cuối tháng trước, do hãng thầu
RMK - BRJ thực hiện. Lễ khánh thành đồng thời với lễ tuyên thệ nhậm chức
Tổng thống nhiệm kỳ hai của Diệm.
Xe vượt cầu Phan Thanh Giản, qua
vùng mới xây dựng: những dãy nhà lợp tôn lụp xụp nối tiếp đến ngã tư
Hàng Xanh. Xe lại vượt chiếc cầu rộng bắt qua sông Sài Gòn với tốc độ
100km/h. Luân chìm trong suy nghĩ: con đường chiến lược nối cảng Vũng
Tàu được xây dựng không phải là một thứ trang sức và cũng không phải chỉ
do nhu cầu kinh tế. Người Mỹ sửa soạn khá chu đáo cho mọi tình huống.
- Anh biết đêm hôm qua Di Linh bị tấn công không? - Nhu lại chìm trong hướng suy nghĩ khác, hỏi Luân.
Luân lắc đầu:
- Sao, thiệt hại lớn không?
-
Cũng kha khá… Mất ba tiền đồn. Đồng thời, công trường Đa Nhim cũng bị
tấn công, một số xe cộ, máy móc bị phá, một số chuyên viên Nhật bị
thương, tệ hơn hết là quận trưởng Đơn Dương bị bắt và bị sát hại…
Xe tăng tốc độ. Kim chỉ 120km/h.
- Sẽ xây dựng khu đại học ở đây. - Nhu trỏ một khu đồi phía trái - Và một huấn khu quân sự tại đây. - Nhu trỏ phía Chợ Nhỏ.
-
Phải đưa sinh viên ra ngoại thành. Dễ kiểm soát và kềm chế… - Nhu bỏ
lửng câu nói, hỏi đột ngột: - Anh biết tin đảo chính ở Đại Hàn chưa?
Luân
biết, qua đài BBC. Thủy quân lục chiến đóng ở Kimpo, cách Seoul 15 cây
số, kéo về thủ đô, tuyên bố lật đổ chính phủ, thành lập Hội đồng cách
mạng do tướng Chang Do Yung (2) cầm đầu…
- Kết quả rất hiển nhiên của việc người Mỹ thọc sâu vào nội trị một nước! - Nhu bình luận.
Luân hiểu Nhu lo lắng về bản thông cáo chung Việt - Mỹ.
- Bảo an sắp nhận viện trợ - Luân tặc lưỡi - Giới hạn của viện trợ đó tới đâu?
-
Chưa định rõ, đợi phái đoàn Mỹ sang. Johnson báo trước: Phái đoàn do
giáo sư Staley cầm đầu. Anh Tổng thống không yêu cầu song Johnson mặc
nhiên cho rằng Bảo an cần có cố vấn chống du kích… Johnson còn gợi ý ta
cử giáo sư Vũ Quốc Thúc tham gia soạn thảo kế hoạch kinh tế.
- Tại sao là Vũ Quốc Thúc? - Luân hỏi.
Nhu nhún vai:
- Có lẽ vì ông ta tốt nghiệp Thạc sĩ kinh tế học, hiện đang là cố vấn kinh tế của Tổng thống.
- Ông Thúc từng đứng đầu tổ chức chính trị Phong trào tranh thủ tự do…
- Cái đó thì chỉ có cái nhãn… - Nhu cười khinh miệt.
- Cái nhãn, đúng rồi. Song, ai cho ông ta dán nhãn?
Nhu lại nhún vai.
Xe vượt cầu sông Đồng Nai. Đến ngã rẽ ra Vũng Tàu. Nhu bảo dừng xe. Hai người đi bộ theo con đường còn bốc mùi nhựa hăng hắc.
- Johnson bảo riêng anh Diệm: cho tôi và nhà tôi nghỉ. Anh Diệm nổi nóng… Theo anh, tôi và nhà tôi nên như thế nào?
-
Còn như thế nào nữa? - Luân trả lời không do dự. Anh thừa biết Nhu
không phải là hạng suy nghĩ bằng cái đầu của người khác, nhưng dầu sao
vấn đề cũng gay gắt, Nhu mong Luân gợi được vài cảm hứng để anh ta chọn
phương án.
- Tôi nghe anh. - Nhu đứng lại. Hai người đối mặt nhau.
- Bài toán chỉ có hai đáp số: theo ý người Mỹ và không theo. Đi đến mỗi đáp số có phép giải khác nhau…
-
Chính vì bài toán chỉ có hai đáp số mà tôi phải hỏi anh. Càng ít đáp
số, bài toán càng phức tạp… - Nhu cười mà mắt vẫn ưu tư.
- Có phải việc anh chị không tham gia chính quyền mang một ý nghĩa quan trọng thật sự đối với người Mỹ? Tôi không tin như vậy…
-
Ta không mất công phân tích các toan tính thầm kín của người Mỹ. Bây
giờ, họ quả quyết rằng việc tôi và nhà tôi thôi dính líu đến chính trị
là sự đáp ứng tích cực của ta đối với việc Mỹ mở rộng viện trợ.
- Đằng sau yêu sách vô lý đó, là cái gì?
-
Là Mỹ hóa tình hình ở Nam Việt… Sẽ chỉ có một chính phủ bù nhìn. Thậm
chí, sẽ có những con người máy Việt Nam, những kẻ đánh thuê.
- Nhưng, Tổng thống sẽ bác bỏ…
- Tất nhiên… Song, tôi muốn Tổng thống không bị động.
- Tổng thống sẽ bị động gấp đôi nếu anh chị rời chính quyền. Nhượng bộ này kéo theo nhượng bộ khác. Và vân vân.
- Cám ơn anh! - Nhu xởi lởi - Ta sẽ bàn kỹ về chiến thuật… Anh chưa cần trở lại Kiến Hòa sớm.
Xe
quay về Sài Gòn. Nhu nói huyên thuyên so với bận đi, đủ thứ chuyện, kể
cả quyển tiểu thuyết “Dịch hạch” của Camus - anh ta không có thì giờ
đọc, con gái anh ta tóm lược cho anh ta…
*
Giám mục Ngô Đình
Thục ăn cơm với Luân. Suốt bữa ăn, ông ít quan tâm đến thực đơn - do
Dung trực tiếp nấu - mà hỏi han Luân về thời cuộc. Người chủ chăn giáo
phận rất có khiếu về kinh tài. Nhiều lúc, Dung phải vờ lấy khăn lau
miệng để khỏi cười vô lễ.
- Mần răng mà sắt, xi măng giá cao rứa…
Cha tính cho đứa nào sang Bến Tre mua dừa. Một hãng Nhật bằng lòng đổi
sắt, xi măng lấy dừa. Khi nó sang Bến Tre, con bảo bọn dưới giúp nó… Cha
cho phép họ đạo Cái Mơn xây thêm nhà thờ, chủng viện. Bổn đạo tự thu
xếp tiền nong. Chỉ cần cha sẵn sắt, xi măng… Còn gạch, họ mua dễ, vả lại
giá không cao…
Nhưng giám mục lại ngờ nghệch về chính trị:
-
Hôm bầu cử Tổng thống, cha hạ lệnh cho các linh mục trong giáo phận rao
giảng các nhà thờ: không bầu bán gì cả, chỉ có việc suy tôn Tổng thống
thôi… Cha cũng ra lệnh cho công an cấm tuyệt bọn Hồ Nhật Tân, Nguyễn
Đình Quát xuống các tỉnh. Bầu cử làm chi cho hao tốn. Cha nghe có người
nói chính phủ Mỹ bất hòa với chính phủ ta. Họ nói sai. Tuy Tổng thống Mỹ
theo đạo Tin Lành song họ cũng thờ Chúa. Cùng thờ Chúa với nhau, sao
lại bất hòa?
Giám mục hỏi Luân, đột ngột:
- Ở Kiến Hòa, Phật giáo ra răng?
- Có chùa, có sư và các ngày lễ, tín đồ vấn đến cúng vái… - Luân trả lời lửng lơ.
- Hừ! - Giám mục bực bội - Bọn nó chẳng hiền đâu… Con phải coi chừng.
Tiễn giám mục ra về, vợ chồng Luân ngồi lại, định soát xét các mặt của công việc thì Thạch vào:
- Thưa ông, nhà tôi với mấy đứa nhỏ lên, xin phép chào ông và cô…
Thạch chưa bao giờ gọi Dung là bà. Đơn giản thôi, Dung quá trẻ.
Vợ Thạch cùng hai con thập thò mãi ở hàng hiên, Dung phải dìu cả mẹ con vào, ấn ngồi lên ghế.
-
Con nghe ông bị tai nạn ở Bến Tre… Mắc mùa màng, không thăm ông được,
nay mới tới… Thiệt Trời Phật có mắt nên phù hộ người ngay… - Vợ Thạch
vừa nói vừa rưng rưng nước mắt.
Luân cố phân tích tâm trạng của
người phụ nữ nông thông này - đâu là tình cảm mà chị dành cho Luân, “ông
chủ biết điều của chồng” và đâu là khói mù của một bàn tay nào đó…
- Quê cô yên tĩnh không? - Luân hỏi.
-
Thưa, năm ngoái, tề lính bỏ chạy hết, “mấy ổng” chiếm nhà làng. Năm
nay, quân đi càn mấy lần vướng lựu đạn, nên chỉ đi theo lộ lớn. Nhà con
khuất vô trong, chưa bị mất con gà con vịt. Mà, đồn hay thụt mọt-chê…
Yên thì cũng yên mà lộn xộn thì cũng lộn xộn. Vái trời…
Nói bấy nhiêu, vợ Thạch im bặt. Hai đứa nhỏ nép vào mẹ, ngó Luân và Dung trân trối. Chị vái trời cái gì?
- Mấy anh giải phóng có kéo về chỗ cô không?
- Thưa có. Nhờ mép biền, họ đóng dọc theo rạch, “Quốc gia” không hay…
- Anh Thạch làm việc với “Quốc gia”, dưới đó không làm khó dễ cô sao?
- Thưa, chú bác trong làng biết nhà em chỉ vì chén cơm. Với lại, đi theo ông thì đâu làm bậy được…
- Ai nói với chị là đi theo tôi thì không làm bậy?
-
Dạ, tự em tính ra, chớ đâu có ai nói… - Vợ Thạch trả lời khá lanh, song
Luân bắt gặp một thoáng bối rối ở người phụ nữ chắc ít quen nói dối.
Luân dặn Thạch giữ vợ con ở Sài Gòn chơi vài ngày.
“Ai?”
- Luân tự đặt câu hỏi. Ai bày biểu cho vợ Thạch, bạn hay thù? Nếu là
thù, không khó đối phó lắm. Nếu là bạn, rất phức tạp - một đồng chí nào
đó phát hiện hành tung của Luân.
Luân và Dung thì thầm với nhau suốt buổi sáng. Chị Sáu dọn cơm, mời hai ba lần, vợ chồng Dung mới ngồi vào bàn.
---
(1) Từ điển nhân vật Hoa Kỳ
(2) Chang Do Yung (1923–?), thủ tướng Hàn Quốc (tháng 5 đến tháng 7 năm 1961)
CHƯƠNG 3
Bài của Helen Fanfani trên Financial Affairs:
LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ MỚI Ở NAM VIỆT - CÁC NHÀ SƯ.
Ngày
21-5-1961, Giáo hội tăng già kỷ niệm lễ Phật Thích Ca ra đời đặc biệt
rầm rộ tại một địa điểm ít ai có thể ngờ: sân vận động quân đội. Giáo
hội gồm các nhà sư quê Bắc Việt di cư vào Nam. Họ có trong người chiếc
hộ chiếu chống Cộng và kể từ 1954, họ vẫn bị mai một dưới một chính thể
được mô tả như là trấn áp các tôn giáo để đạo Thiên Chúa La Mã độc tôn.
Cờ Phật rợp sân vận động và vài nghìn tín đồ - nữ nhiều hơn nam và
trong nam, tuy khó kiểm kê song quân nhân mặc thường phục phải chiếm một
tỉ lệ nào đó - kính cẩn nghe các nhà sư thuyết pháp. Chưa chắc tín đồ
đã hiểu những câu triết học Phật giáo hàm súc quá tầm đối với trình độ
văn hóa trung bình, nhưng một cuộc tập hợp công khai khá quy mô của
những người di cư theo đạo Phật trên lãnh địa của quân đội hẳn có nhiều
ẩn ý. Chỉ nửa năm trước đây thôi, cũng quân độ đã làm cho chế độ ông Ngô
Đình Diệm choáng váng. Tập tục của các thể chế độc tài mà người ta quen
thuộc ở Nam Mỹ sau Đệ nhị thế chiến - liên quan chặt chẽ với bước tiến
của đồng dollar Mỹ - quảng bá khá nhanh ở Đông Á. Nước Thái Lan hiền
lành thế kia mà vẫn có đảo chính và dĩ nhiên quân đội dùng súng do Mỹ
trang bị “xếp đặt lại trật tự nội bộ” theo ý các tướng tá. Quân đội nhà
nghề trở thành một lực lượng chính trị - điều bị cấm tuyệt đối ở Mỹ lại
được khuyến khích rộng rãi bên ngoài. Dẫu sao, chuyển một đạo quân trong
doanh trại, trong đội hình, chịu kỷ luật nghiêm ra một chính đảng vẫn
ít tốn tiền và thời gian hơn xây dựng một chính đảng. Vấn đề là ở Nam
Việt, không phải chỉ có ông Diệm hiểu điều đó. Những người theo đạo Phật
di cư, chống Cộng quyết liệt, hiểu điều đó có vẻ trước ông Diệm.
Việt
Nam là một đất nước Phật giáo - chúng ta có thể khái quát như vậy nếu
không quá câu nệ. Đạo Phật đến xứ này ngắn nhất cũng trên 15 thế kỷ,
dưới triều đại các vua Trung Quốc đời Đường nổi tiếng sùng Phật. Đạo
Phật lại là tôn giáo châu Á, rất gần gũi với tình cảm người Việt. Còn
đạo Thiên Chúa, mãi thế kỷ XV mới có mặt trên một số vùng của Việt Nam.
Và, có mặt với những nhà truyền giáo dị tộc.
Người viết bài này dự
buổi lễ tại sân vận động và các bức ảnh có thể giúp bạn đọc hình dung
cuộc chạy đua giành quyền binh khó tránh ở Nam Việt mà các nhà sư nghiễm
nhiên thành đối thủ của tổng thống tín đồ đạo Thiên Chúa Ngô Đình Diệm.
Một nhà sư nổi tiếng vừa - nhưng qua buổi giảng đạo này, ông sẽ nổi
tiếng hơn - tên là Thích Tâm Châu, giống hệt các linh mục: minh họa một
câu kinh Phật bằng khái niệm chính trị mà ai cũng có thể hiểu. Ông nói:
Phật dạy chúng ta vị tha, còn một số người cầm quyền thì chỉ lo ăn ngon
mặc đẹp. Ông cố gắng phơi bày cái mà ông gọi là “sự ngược đãi đạo Phật”,
với lời lẽ khéo léo và rất hấp dẫn. Tôi đã trông tận mắt một số nữ tín
đồ khóc nức nở.
Cách đây ba tuần lễ, tôi dự một cuộc tập hợp đông
hơn ở trụ sở một tổ chức nghiệp đoàn Thiên Chúa giáo với vị lãnh đạo di
cư hách dịch - người ta nói ông Trần Quốc Bửu, tên của vị lãnh đạo ấy,
hành nghệ quản lý nghiệp đoàn như nghề cai thầu. Diễn văn soạn sẵn, ông
Bửu nhai lại câu phù chú: “Thăng tiến cần lao, đồng tiến xã hội”. Có vẻ
câu phù chú của ông Bửu bí hiểm hơn cả câu kinh Phật. Ông Bửu thích nghi
không khí sôi động của Sài Gòn chậm hơn nhà sư. Tôi biết còn một nghiệp
đoàn nữa, thuộc hệ thống quốc tế các đảng xã hội, gọi là Lực lượng thợ
thuyền mà ông Vân, người cầm đầu, chuyên lo điều đình để ông Diệm trả
lương hưu trí cho công chức thuộc guồng máy cai trị Pháp trước kia;
nghiệp đoàn đó quá già nua. Một nghiệp đoàn khác, gọi là Tổng liên đoàn
lao động, na ná CGT của Pháp, do ông Thốt cầm đầu, bị khủng bố liên miên
và chỉ được tổ chức lễ 1-5 trong khuôn viên trụ sở chật hẹp. Liệu rằng
nếu những người công đoàn viên này liên mình với những người Phật giáo
bất mãn kia thì ông Diệm có thể tránh khỏi nguy cơ không? Không chỉ các
trí thức, mà đã đến lượt các nhà sư, các tín đồ đạo Phật - hầu hết là
người nghèo - tỏ thái độ bực dọc. Hiện nay, các nhà sư chưa đủ lực lượng
- họ là di cư, cô lập trong dân chúng tại chỗ, nhưng mọi việc không
đứng yên mãi. Nhất là khi họ khám phá ra cái kho của cải đầy ắp - quân
đội - đang muốn ngoi lên thành thực thể chính trị. Tính cách tôn nghiêm
của triều đình ông Diệm bị trần tục hóa qua vụ 11-11. Và một khi ông
Diệm hiện thân như một tổng thống bằng xương bằng thịt thì quyền lực
thuộc về ai có súng trong tay.
Nhà thờ đã là lực lượng chính trị.
Tại sao nhà chùa không làm như thế? Các nhà sư đặt câu hỏi như vậy. Câu
hỏi của các nhà sư đặt ra tại một doanh trại quân đội - bao quát luôn
câu hỏi kèm: Tại sao không phải là quân đội? Bảng tổng kết 7 năm ông
Diệm chấp chánh cung cấp nhiều tư liệu để nhà chùa tố cáo ông. Nhà chùa
sẽ được dư luận hậu thuẫn tình cảm không thích đạo Thiên Chúa vốn ăn sâu
ở đây hàng trăm năm, ông Diệm kích động thêm tình cảm đó và chính nhà
cung cấp cho tình cảm đó những cơ sở và cơ hội rất hào phóng.
*
Ủy
ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam công bố
danh sách thành viên, tuyên ngôn, chương trình hành động và bài hát
chính thức.
Ngô Đình Diệm không quan tâm lắm đến nhân sự của Mặt
trận. Hầu hết xa lạ với ông, trừ luật sư Nguyễn Hữu Thọ và kiến trúc sư
Huỳnh Tấn Phát mà ông nghe tiếng. Chính ông đã bắt giam luật sư Nguyễn
Hữu Thọ ngay khi ông vừa chấp chánh.
Ngô Đình Nhu khác Diệm. Anh ta
để hằng buổi nghe các chuyên viên báo cáo về từng nhân vật của Mặt
trận. Anh hỏi thêm Luân những chi tiết. Và, ngay Luân cũng không biết
hết lai lịch các ủy viên Mặt trận: Võ Chí Công, Trần Nam Trung, Huỳnh
Đàng, Nguyễn Thạch v.v… là ai?
Khi được tin luật sư Nguyễn Hữu Thọ
thoát khỏi nơi quản thúc ông - một làng trung du - Nhu khiển trách tỉnh
trưởng Phú Yên thậm tệ, song chủ yếu là vì Nhu nhìn việc đó như báo hiệu
tình hình an ninh Phú Yên trở nên quá xấu. Bây giờ, Nhu thấm đau: anh
ta đã để sẩy một nhân vật có tầm cỡ.
Cộng sản công bố danh sách Mặt
trận - chính phủ Việt Nam Cộng hòa đối đầu từ nay không phải với một
bóng ma mà với một tổ chức có con người cụ thể.
Nhu vỗ bàn giận dữ
khi thiếu tướng Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia không trả lời được vì
sao, lúc nào, bằng cách gì mà nhà soạn kịch Trần Hữu Trang, bác sĩ Phùng
Văn Cung vô mật khu. Sẽ còn ai nữa? Nhu ra giá cái đầu của thiếu tướng
nếu Cộng sản lại công bố thêm một nhân vật Sài Gòn tham gia Mặt trận.
Nhu
đã nghe tin tức về lễ thống nhất các lực lượng vũ trang chống chính phủ
- bây giờ gọi là Quân giải phóng - và anh ta hiểu đối thủ xuất hiện
theo một kế hoạc dự tính.
Trần Kim Tuyến cho là Nhu đánh giá Mặt
trận hơi cao. Tuyến so sánh danh sách Mặt trận với chính phủ vừa cải tổ.
Nhu cười thương hại Tuyến:
- Ông bác sĩ nghèo kiến thức quá. Ông
cứ ngỡ các ông Trương Công Cừu, Nguyễn Đình Thuần, Bùi Văn Lương, Huỳnh
Hữu Nghĩa, Ngô Trọng Hiếu… là có giá lắm sao? Ta thừa, quá thừa các
gương mặt mập ú, cách biệt với dân, ngoài bằng cấp, tiểu sử, không có gì
để ghi. Nếu có, lại là thứ không thể ghi. Cộng sản đưa người nào thì
người đó có ảnh hưởng trong dân chúng. Ông kiếm cho tôi một người từng
vào tù ra khám thời Pháp về tội chính trị và lương thiện để tôi bổ sung
vào chính phủ ta. Không có!… Ông thử mời giáo sư Dương Minh Thới, bác sĩ
Nguyễn Xuân Bái tham gia nội các xem? Họ không thèm. Mà không chừng họ
đã là thành viên của Mặt trận. Hòa thượng Thích Thiện Hào là ai? Ông
không biết! Joseph-Marie Hồ Huệ Bá là ai? Ông không biết! Đại đức Sơn
Vọng là ai? Ông không biết! Trung tá Võ Văn Môn? Ông không biết! Tôi
mách giúp ông: Bảy Môn đó. Bảy Môn từng làm tham mưu trưởng cho Bảy Viễn
đó. Việt Cộng lôi kéo được cả một lãnh tụ người Rhađê, tên là Ibih
Aléo. Chớ có coi thường!
Gần đây, Nhu hay bực dọc. Chuyện không
đáng gì cũng khiến anh ta rống lên, quát tháo, mất dần cái điềm đạm,
thâm trầm cũ. Một trong những cơn tính khí thất thường ấy trút lên đầu
vị linh mục xứ đạo Bình An.
Sau vụ gánh hát Kim Thoa bị ném lựu
đạn, cách nay ngót 5 năm, linh mục Hoàng gần như không nói chuyện với
Nhu lần nào, mặc dù linh mục vẫn luôn chạm mặt Nhu ở các cuộc họp. Linh
mục đinh ninh có lúc Nhu phải phủ phục trước ông cầu sự giúp đỡ. Ông nắm
trong tay khối Thiên Chúa giáo di cư đồ sộ, gồm các linh mục và con
chiên từ Xóm Mới, Bắc Hà lên đến Hố Nai, Gia Kiệm. Các nhà thờ lớn trong
thành phố đều do các linh mục thân tín của ông cai quản. Thế lực của
ông không chỉ có ngần đó. Quốc hội, các bộ, các tướng, các ngân hàng,
công ty… Nhu phải biết ông là hạng người nào. Ngày xưa, Nhu dọa cắt viện
trợ cho quỹ di cư, ông sợ mất mật. Bây giờ, ông thách Nhu - mấy trăm
triệu dollar đã hóa thân vào guồng vận động của bao nhiêu ngân hàng,
công ty, bao nhiêu xứ đạo. Con số viện trợ vẫn còn song thật chẳng thấm
vào đâu so với cơ ngơi mà ông chi phối hiện nay. Tổng đoàn Bùi Chu -
Phát Diệm xưa kia không ra cái mẽ gì - mấy con gà, con lợn thu vét, mấy
bộ quần áo, mấy thùng thịt hộp của quân nhu Pháp, mấy trăm nghìn đồng
bạc Đông Dương… sao mà nhỏ bé đến thế. Ông không ngờ cung cách làm ăn
mới mang tiền về cho ông như nước.
Tóm lại, ông bỗng thấy mình cao
lớn hẳn khi bước vào phòng làm việc của Nhu. Đợi mãi, không thấy Nhu
mời, ông phải gửi danh thiếp báo là ông muốn gặp Nhu. Riêng cái danh
thiếp cũng có lịch sử của nó. Lúc đầu, danh thiếp rẻ tiền, in ba dòng:
Linh mục Hoàng - Cha sở Bình An - Sài Gòn. Nửa chừng, danh thiếp được in
tốt hơn, chữ phủ kín: Linh mục Hoàng - Cựu Tổng chỉ huy lực lượng phòng
vệ Bùi Chu - Phát Diệm - Cố vấn ủy ban Trung ương công dân Công giáo -
Chủ tịch Hội cựu chiến binh Công giáo Bắc Việt - Hội trưởng Hội ái hữu
Công giáo Bắc Việt.
Gần đây, ông bỏ hết các danh thiếp đó, bảo nhà
in Kim Lai in cho loại mới, trên giấy quý, chữ nổi. Và danh thiếp chỉ
ghi vỏn vẹn: Linh mục Phaolồ Hoàng, không đề tên, địa chỉ và số điện
thoại.
Chưa chắc Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, nếu tước bỏ cái tên
và chức, còn trơ trọi có mỗi cái họ trong danh thiếp, thiên hạ biết họ
là ai!
Ông ghi nguệch ngoạc đằng sau danh thiếp: Cha có việc muốn bàn với con. Gấp.
Thế là Nhu hẹn gặp ông. Nhu chờ ông ngay phòng làm việc và bắt tay ông niềm nở.
- Cha muốn bàn việc chi? Con sẵn sàng nghe.
Nhu mời ông ngồi.
- Nhiều việc lắm… Này…
Ông mở đầu bằng lối trịch thượng quen thuộc.
- Này, tại sao con để cho bọn thầy chùa làm lộng thế?
- Thưa cha, thế nào là làm lộng? - Nhu một mực ôn tồn.
Như được khuyến khích - đúng là Nhu cần ông - ông lên giọng:
-
Chứ còn gì mà không lộng… Lễ Phật ngay vận động trường quân đội, cờ
quạt rợp trời, dùng cả loa phóng thanh thuyết pháp… Thiếu cái gì nữa,
nào?
Ông nghiêng người, duỗi chân, tựa đầu vào tay, ngó Nhu, môi bĩu, mái tóc bạc cắt bằng phẳng khẽ lắc lư.
- Chết mất, con ạ! Khốn thật; con cầm giềng mối cả chế độ mà khinh xuất đến thế…
Có tiếng gõ cửa. Nhu nói vọng ra: “Vào!” Người bước vào là trung tá Nguyễn Thành Luân.
Linh
mục Hoàng vẫn không đổi bộ nửa ngồi nửa nằm trên chiếc ghế bành, không
chìa tay cho Luân. Mắt ông hấp háy với Nhu, ngầm bảo: Đuổi thằng này ra
khỏi phòng, để cha con ta nói chuyện.
Nhu lại mời Luân ngồi:
-
Anh Luân nghe, cha Hoàng muốn góp ý kiến với chúng ta… Cha vừa nói đến
nguy cơ Phật giáo do ta cho phép họ làm lễ Phật tại sân vận động quân
đội, có cờ, có loa… Mời cha nói tiếp!
Luân chào linh mục, ngồi xuống cạnh Nhu.
Linh
mục Hoàng không bằng lòng. “Nguy thật! Thằng cu Nhu bị quỷ ám đến mực
tin cậy thằng Cộng sản này như người nhà. Hơn nữa, nó còn xếp thằng Cộng
sản này vào hàng ngũ “chúng ta” và dĩ nhiên, mình là người ngoài. Bố
tiên sư chúng nó! Được, đã thế, ông đập luôn một lần!”
Giữa linh
mục và Luân thật sự không có quan hệ gì đặc biệt. Ông biết Luân ngay từ
ngày ông vừa di cư vào Nam. Lúc đầu, ông ngại, sau ông yên tâm bởi Luân
là con nuôi của đức giám mục. Lần hồi, ông không thích Luân: chủ trương
của Luân trái ngược với chủ trương của ông - Luân nhúng tay trong vụ
gánh hát Kim Thoa và theo như các tài liệu phối kiểm, người của Luân đã
bắn chết người của ông. Vậy, quết “lật tẩy” Luân - thằng Cộng sản này
thì sùng đạo thế nào được. Nhưng, cha sở nhà thờ Tân Định báo với ông là
kỹ sư Nguyễn Thành Luân, trừ bận việc xa Sài Gòn, không sáng chủ nhật
nào không đến nhà thờ đọc kinh. Cha sở Phú Cường, cha sở Trúc Giang đều
cho tin như vậy, khi Luân thực hiện công vụ ở hai nơi.
Chưa chịu,
ông xoay sang hướng phát hiện Luân làm ăn, mèo mỡ. Một sĩ quan thân cận
với tổng thống, lẽ nào không dính một trong hai món đó? Nhưng, ông tốn
công vô ích. Ông nguyền rủa Luân thậm tệ và vẫn chưa buông tha anh.
Bây
giờ, cái thằng Cộng sản đáng ghét nhất trong mọi thằng Cộng sản ấy đang
ngồi trước mặt ông, ngồi đàng hoàng, lại còn cười tủm tỉm nữa chứ!
-
Này, - Ông lại cao giọng - không cấm đạo Phật đã là may cho chúng nó.
Tại sao cho chúng chường mặt trước thiên hạ? Không chỉ có việc Phật
giáo. Còn việc bình định? Cộng sản mọc lên như rươi, mà chính phủ thì
chùn bước. Hồi cha ở Phát Diệm, hễ bắt được một tờ Cộng sản thì lập tức
triệt hạ cái thôn đó, lựa trong số dân vài đứa khả nghi chặt đầu liền.
Không diệt tận trứng thì chớ hòng chống Cộng. Con thấy đấy, suốt một dải
Kim Sơn, Tiền Hải sang Hải Hậu, chớ có một hoạt động Cộng sản nào trong
lúc cha còn cầm quân. Còn anh này - anh tên là gì nhỉ… - Ông trỏ Luân -
anh tập tễnh học lối Cộng sản, anh sẽ chết!
Rồi ông xoay qua Nhu:
- Con và cả ông Cụ nữa, đức giám mục nữa, nhẹ dạ quá. Xài bọn sớm đầu tối đánh!
Luân chưa biết phải ứng phó làm sao thì Nhu đã rít liên hồi điếu thuốc.
- Thưa cha, cha hoạt động đắc lực ở Ninh Bình - Nam Định…
- Chứ sao! - Linh mục Hoàng ưỡn ngực - Cha chặt đầu tất bọn Cộng sản… - Ông ngó Luân trừng trừng.
- Thảo nào! - Nhu giụi thuốc - Thảo nào mà Pháp và Quốc gia cuốn cờ khỏi Bắc Việt!
Linh mục Hoàng đưa tay ngăn Nhu. Nhu không để ông mở mồm:
-
Con khó hiểu là tại sao Cộng sản không tặng huân chương cao nhất cho
cha? Cha lập công to với Cộng sản, góp sức vào thất bại của Pháp và Quốc
gia. Và, vào Nam, cha vẫn chưa gột bỏ đầu óc đặc cứng ấy. Cha muốn chế
độ Cộng hòa sụp đổ hả? Hình như cha không thấy tình cảnh khó khăn của
đất nước hiện nay có dính đến sự kém thông minh của cha. Cha thích cha
Nguyễn Lạc Hóa chứ gì…
- Anh đừng hỗn! - Linh mục Hoàng gầm lên.
-
Con chưa bỏ tù cha là con còn tử tế chán. Cha cứ tưởng các hoạt động
kinh tài của cha qua mắt được con. Cha cứ tưởng các sổ ma trong các khu
di cư chỉ có cha biết. Cha cứ tưởng các trương mục ngân hàng do cha đứng
với đủ thứ tên là hợp pháp? Con biết rõ cha tụ tập các phần tử lưu manh
ra sao, họp ở đâu, nói cái gì, làm trò gì. Con nói “làm trò gì” tức là
trò tồi bại. Cha cần xem ảnh không? Cha biết ca sĩ Minh Thùy, vợ thiếu
tá Lạc ở Bình An chứ? Viên thiếu tá, linh mục phụ tá của cha, một Tổng
giám đốc và một thiếu tướng quanh thân thể cô Thùy, trong nhà riêng của
cha. Đủ chưa? Tất nhiên là chưa đủ. Con nhắc một phần trăm vụ thôi… Sao,
đưa cha ra tòa được không? - Nhu nói qua kẽ răng và rõ ràng, Nhu có thể
tuôn ra hàng lô vụ nữa.
Linh mục Hoàng tựa hẫng giò. Ông ta chỗi
dậy từ hồi nào ông không biết. Té ra Nhu rành ông quá. Té ra chính ông
đút đầu vào tròng của Nhu khi đến đây.
- Cha định làm gì tôi? Muốn
vòi vĩnh cái gì đó, phải không? Tôi sẽ để cha yên, với điều kiện cha
không được tụ tập bọn lưu manh nói bậy. Hồ sơ về cha dày lắm rồi.
Quên
phứt sự có mặt của Luân, linh mục Hoàng đứng lên, mồ hôi đầm đìa, lủi
thủi ra cửa… Nhu ngao ngán trông theo, thở dài não nuột. Luân lặng lẽ
châm thuốc…
*
Trần Lệ Xuân, với danh nghĩa chủ tịch Phong trào
phụ nữ liên đới, mở tiệc tiếp đại sứ Mỹ Nolting, tại trụ sở của hội -
ngôi nhà nhiều tầng rất khang trang vừa xây dựng xong trên đại lộ Trần
Quốc Toản.
Không rõ Nolting được thông báo về Trần Lệ Xuân như thế
nào mà diện bộ demie saison - áo tropical xanh nhẹ và quần tergal xám
tro - rất trẻ và cũng rất lẳng.
Lệ Xuân đón Nolting ngay cổng. Đại
sứ xuống xe đi sóng đôi với Lệ Xuân sau khi hôn lên bàn tay nõn nà của
mụ và ve vuốt nó khá lâu. Trong chiếc áo dài rộng cổ bằng loại lụa mỏng
màu sậm, đầu bới cao, quần satanh trắng, Lệ Xuân trang điểm vừa phải
nhưng bằng kỹ thuật già dặn, biết khoe những cái cần khoe. Ngay trong
cái giao tiếp đầu tiên, mụ đã biết ai là kẻ chiến thắng: đại sứ Mỹ - kín
đáo, tất nhiên - gắn chặt đôi mắt vào bờ vai mịn của mụ, nổi bật nhờ
màu áo tương phản.
Lệ Xuân đọc lời chào đại sứ bằng tiếng Anh. Ánh
đèn trình bày trọn thân hình mụ, cách Nolting không quá hai bước. Vừa
đọc, Lệ Xuân vừa quan sát và mụ thấy rõ Nolting háo hức nhắm nháp mụ.
Nolting ứng khẩu, cám ơn buổi đón tiếp, hứa sẽ cố gắng trong mức tối đa, giúp đỡ phong trào…
Nolting
tìm mọi cơ hội chạm vào da thịt Lệ Xuân. Duyên dáng và lịch sự, Lệ Xuân
tránh các tiếp xúc đó mặc dù mụ vẫn tỏ vẻ như mời mọc.
Cuộc vui kéo dài vừa phải. Nolting thòm thèm song đành phải ra về.
Lệ Xuân tiễn đại sứ ra xe và khi Nolting muốn accolade (1), mụ khéo léo tháo vòng tay Nolting.
Chiều
hôm sau, đại sứ mời bà chủ tịch Phong trào phụ nữ liên đới đến sứ quán
để “bàn cụ thể việc Tòa đại sứ Mỹ tài trợ cho phong trào” như thư ghi
rõ. Lệ Xuân cáo từ với lý do không khỏe và cử người phó - một bà lớn
tuổi - đi thay.
Một tuần lễ trôi qua, Lệ Xuân lại nhận được thư mời
khẩn thiết. Lần này, mụ đến. Nolting sa sầm mặt khi thấy Lệ Xuân cùng
đến với hai nhân viên của phong trào. Họ trao đổi qua loa và Lệ Xuân ra
về.
Lần thứ ba, Nolting lấy cớ là để trao cho bà chủ tịch ngân
phiếu 5.000 dollar của một tổ chức phụ nữ Mỹ, mời Lệ Xuân đến nhà riêng
của đại sứ.
Trong phòng khách, chỉ có hai người. Nolting đắm đuối nhìn Lệ Xuân, vẫn chiếc áo dài đen và chiếc cổ lồ lộ.
- Thưa bà, tôi nghĩ là bà trên 20 tuổi một ít…
Lệ Xuân cười thật tươi, cám ơn lời khen của Nolting và cho biết mình sắp 40.
Làm như kinh ngạc, Nolting cầm tay mụ:
- Bà là một phụ nữ châu Á đầu tiên mà tôi say mê. Tôi không giấu giếm: bà thật hấp dẫn.
Nolting nói hổn hển.
Lệ
Xuân khấp khởi: cá cắn câu. Lão Mỹ này rơi vào thế trận kín kín hở hở
của mụ. Mụ ra vẻ e lệ, mắt đục mờ, như sẵn sàng hiến dâng. Nolting hôn
thật lâu lên tay mụ. Rồi ông ta xốc mụ dậy, ghì chặt. Lệ Xuân nửa như
ưng, nửa như chống. Sau cùng, Nolting không đạt được cái mà y thèm khát
đến điên người và hôn lên đôi môi tô hồng khêu gợi của mụ. Lệ Xuân đẩy
Nolting ra, sửa lại tóc, mở cửa. Nolting hốt hoảng chạy theo, miệng lắp
bắp: “Xin lỗi… Bà đẹp quá… Tôi tha thiết yêu bà…” Trong khoảnh khắc
Nolting sợ - cuộc đời chính trị của ông ta có thể không suôn sẻ vì cái
phút vừa rồi. Nhưng, lên xe, Lệ Xuân ném lại cho Nolting nụ cười và cái
liếc hết sức âu yếm.
Bài bản mà Lệ Xuân sử dụng kéo dài nhiều ngày.
Nolting giống như kẻ mất hồn. Những lần gặp gỡ đã giúp Lệ Xuân nắm được
khá nhiều tài liệu về ý đồ của Mỹ đối với Nam Việt nói chung và đối với
gia đình Tổng thống Diệm nói riêng. Lệ Xuân chỉ bằng lòng cho Nolting
hôn khi viên đại sứ chìa cho mụ xem một bản sao điện mật, trong đó,
ngoại trưởng Mỹ căn cứ vào phân tích của Nolting, đồng ý không nên gạt
vợ chồng Ngô Đình Nhu ra khỏi chính quyền Nam Việt, bởi “sẽ làm suy yếu
thế lực chống Cộng” tại đây.
Và, các lần gặp gỡ chớp nhoáng, Lệ Xuân chỉ cho phép Nolting trong giới hạn đó.
---
(1) Ôm hôn
CHƯƠNG 4
Tổng thống Diệm ký quyết định bổ nhiệm thiếu tá Lê Hoằng Thao quyền tỉnh
trưởng khi Luân bị nạn và bây giờ thì bổ nhiệm chính thức thiếu tá Trần
Ngọc. Luân trở về Tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống, dưới quyền đại tá
Cao Văn Viên đồng thời phụ tá cho cố vấn Ngô Đình Nhu. Việc thuyên
chuyển này được giải thích như vì nhu cầu công vụ cộng với sức khỏe của
trung tá Luân. Trước khi Tổng thống ký quyết định, Nhu gặp Luân. Với
Luân, anh rời Kiến Hòa không có điều gì phải băn khoăn. Trên cương vị
tỉnh trưởng, trong một thời gian, Luân đã cố gắng tạo điều kiện hỗ trợ
cho phong trào Bến Tre nhiều mặt, cả vụ thanh toán nội gián - bây giờ,
qua tài liệu và các nguồn thông tin, anh biết Bến Tre là cái nôi và mũi
xung kích của “đồng khởi”, tức là vũ trang khởi nghĩa của quần chúng.
Tuy nhiên, quyết định dù sao cũng hơi đột ngột. Luân nghĩ rằng Nhu còn
để anh ở Kiến Hòa một thời gian nữa.
- Phái đoàn chuyên viên Mỹ sắp
sang Sài Gòn. Tổng thống muốn anh tham dự vào phái đoàn Việt Nam. Bởi
chúng ta và Mỹ sẽ bàn kỹ các vấn đề viện trợ. Ông Vũ Quốc Thúc là một
nhà kinh tế, nhưng viện trợ lại bao gồm cả quân sự, trong đó, có phần
bình định và yểm trợ cho quốc sách ấp chiến lược. Tôi biết anh còn tiếc
Kiến Hòa, bao nhiêu dự kiến bỏ dở. Không sao. Anh chưa hết dịp giúp Kiến
Hòa đâu. Vả lại các tỉnh đều cần kinh nghiệm của anh…
Nhu thuyết một hồi. Luân vừa nghe vừa phán đoán. Có thể Nhu ngửi ra một sơ hở nào đó của anh chăng?
-
Anh đừng cho là Tổng thống không tin tưởng ở các biện pháp bình định
Kiến Hòa của anh… Hoàn toàn chỉ vì anh cần có mặt ở Sài Gòn. Không thể
nào anh phân thân cùng lúc đảm trách hai chức vụ…
Nhu suy luận, qua nét mặt của Luân, nói luôn. Luân cười:
- Anh đoán hơi quá… Tôi băn khoăn thật, song là vị tôi chưa yên tâm tình hình Kiến Hòa.
-
Người thay anh có khả năng. Anh cứ “truyền nghề” cho anh ta. Anh được
sống với kỷ niệm cũ một tuần lễ. Kỷ niệm chẳng lấy gì làm vui!
Nhu đùa, cởi mở.
Cuộc
bàn giao không cần đến một tuần lễ, nhưng Luân vẫn dùng hết thời gian
đó: Anh đề cử đại úy Nguyễn Thành Động là chỉ huy trưởng thay cho đại úy
Chung Văn Hoa - được thăng thiếu tá và được bổ làm tỉnh trưởng Định
Tường, phần nào đáp ứng tham vọng của Hoa. Giá mà Động làm tỉnh trưởng
Định Tường thì hay quá! Anh nghĩ như vậy nhưng không sao thực hiện nổi.
- Trung tá đi rồi, chưa biết Kiến Hòa sẽ ra sao?
Nguyễn Thành Động than thở.
Luân
rất cảm tình với Động - theo ý Luân, một con người thẳng thắn, có đầu
óc dân tộc, thông minh. Chắc chắn là Động ít nhiều đặt nghi vấn về hành
vi của Luân. Tuy nhiên, Luân biết Động một mực ủng hộ anh.
- Sẽ ra sao theo nghĩa nào? - Luân hỏi lại.
- Hành quân lu bù, giết nhau vô lối… Động não nuột.
- Đâu rồi sẽ vô đó hết thôi! - Luân an ủi Động - Thiếu tá Ngọc không phải là người không tháo vát…
-
Tôi rành thằng Ngọc quá! Tôi với nó cùng học một lớp suốt trung học,
thi tú tài một lượt, cùng theo đại học Luật, cùng bị đưa vào trường sĩ
quan một lượt, cùng đeo lon thiếu úy một lượt… Nó làm sao bì nổi trung
tá.
Bỗng Động cười hóm hỉnh:
- Trừ cái món đó!
- Món gì?
Động hấp háy mắt:
- Nó nhiều bạn gái!
Rồi Động nói luôn:
-
Nó không hăng máu, nhưng người ta sẽ cách chức nó, thay bằng một thằng
tỉnh trưởng ngu ngốc nào đó suốt ngày hò hét! Bắn! Bắn…
Luân bắt tay Động thật chặt, dặn khi về Sài Gòn tìm gặp anh.
“Anh ta khủng hoảng tinh thần. Phải giúp anh ta.” - Luân nghĩ thầm.
Ngọc khá đẹp trai. Quần áo dù cho là quân phục, lúc nào cũng bảnh bao, người luôn thoảng mùi nước hoa đắt tiền.
-
Tôi ghét cay ghét đắng nghề đánh đấm. - Trần Ngọc nói với Luân - Tôi
thích làm chính trị, làm dân biểu, viết báo. Nhưng, trời không chìu tôi.
Cũng hên cho tôi, người ta cử tôi đến Kiến Hòa, nơi mà trung tá đã tạo
ra chỗ đứng khá vững bằng máu của trung tá. Tôi chỉ còn tiếp tục quét
các ổ Cộng sản rơi rớt. Kể cũng nhàn hạ.
Luân thầm thương hại anh
chàng tân tỉnh trưởng “tài tử”, Kiến Hòa không hiền như anh ta tưởng
đâu. Chẳng bao lâu nữa, anh ta sẽ thấm đòn.
- Tôi phục trung tá
chịu đựng thằng Lưu Kỳ Vọng. May mà Việt Cộng “xơi tái” nó. Trung tá
chắc không biết nó mật báo với bác sĩ Tuyến nhiều chuyện về trung tá,
trong đó có một chuyện động trời: trung tá tiếp đại úy Phan Lạc… - Trần
Ngọc nói lan man và Luân biết thêm anh ta mang tật ba hoa.
- Tôi
không rõ ông Vọng báo về tôi chuyện gì, còn riêng chuyện tiếp đại úy
Phan Lạc sau ngày 11-11 thì quả ông Vọng đã báo đúng sự thật.
Trần Ngọc giật nảy người:
- Sao? Trung tá tiếp Phan Lạc?
- Phải! Tôi tiếp tại đây, ngồi ngay chổ chúng ta đang ngồi…
- Trời! - Trần Ngọc kêu thảng thốt.
- Có gì đáng sợ đâu? Anh ta thua trận, đến cầu cứu tôi. Tôi giúp anh ta khỏi bị bắt, vượt biên giới sang Cam Bốt…
Trần Ngọc nhìn Luân trân trối.
- Mà, tất cả các việc đó, ông Nhu đều biết và đều đồng ý!
Trần Ngọc thở phào:
- Trung tá làm tôi đứng tim… Mấy cha nội chơi trò buôn bán chính trị, ghê thấy bà!
- Ủa! Thiếu tá mê làm “dân biểu” mà sợ buôn bán chính trị sao? - Luân trêu Trần Ngọc.
- Tôi làm chính trị “sa lông” còn mấy cha nội làm chính trị thiệt… Chào thua!
Ngọc nhìn khắp phòng khách.
-
Bộ sa lông cổ lỗ sĩ này nên cho vô musée (1). Tôi sẽ bố trí tại đây một
sàn nhảy. Một tuần không có một bal (2), tôi chịu không nổi. Trung tá
là nhà mô phạm, vả lại, trung tá khoái leo cao, có bà trung tá kè kè…
Tôi thề xin kiếu nghề công chức. Ráng một lúc, tôi đâm đơn xin thôi. Về
Sài Gòn, làm “chánh khứa”, vui với em út, sướng hơn…
Luân đã thấy
trước Trần Ngọc rất có ích cho Luân - tình hình mất an ninh từ nay chỉ
theo một cách giải thích thôi: sự bất lực của tân tỉnh trưởng. Nhưng,
dầu sao, chơi như vậy là không sòng phẳng. Cho nên, Luân khuyên Trần
Ngọc:
- Thiếu tá cẩn thận, ai mà lường trước hết mọi tình hình…
- Trung tá muốn nói Cộng sản ở Kiến Hòa?
- Đúng vậy… tôi chết hụt nên muốn thiếu tá đừng theo gót tôi.
Trần Ngọc cười hì hì:
-
Một là tôi không phải trung tá Luân, nghĩa là tôi không có chủ trương,
chủ đích gì ráo. Việt Cộng nếu không thương thì ít ra cũng thấy tôi
“hiền”, hiền hơn trung tá. Công đâu gài một nội tuyến tới cỡ trung úy để
hạ thủ tôi. Chắc trung tá không biết tôi là nhà thơ. Thơ tình đàng
hoàng. Đã in mấy tập. Sướt mướt kinh khủng. Không chừng Vixi lại bảo vệ
tôi, bởi lính mà đọc thơ tôi thì hết bình định, hết khu trù mật, hết ấp
chiến lược… Hai là, tôi chẳng bà con họ hàng gì với “tập đoàn thống trị
Ngô Đình Diệm”. Tôi bị động viên, phải đeo hoa mai. Vậy thôi. Ba là tôi
không rời khỏi dinh tỉnh trưởng, không hành quân, không thị sát cần quay
phim chụp ảnh thì làm ngay đây. Ngày mai, tôi cho thêm bao cát quanh
tường… ổn trăm, phải không?
Trần Ngọc thấy Luân vẫn không vui trước lời lẽ bông đùa của mình, nên phải nói thêm:
-
Cám ơn trung tá. Về kinh nghiệm, trung tá như đàn anh. Nói thiệt, kể họ
là dữ, tôi “tùy nghi di tản”… Dại gì tử thủ. Chỉ mong trung tá Tham mưu
biệt bộ chiếu cố cho khi đọc phúc trình…
Luân bật cười. Té ra, Trần Ngọc rồi cũng sẽ thực tế “chi viện” cho phong trào cách mạng Kiến Hòa - bằng lối riêng của anh ta.
Giữa
tháng 6, Luân rời Kiến Hòa, cuối tháng 6, quân giải phóng tấn công Phú
Túc, đầu tháng bảy, An Khánh - hai thị tứ quan trọng.
Đọc báo cáo
của Kiến Hòa, Luân cười thầm: Nguyễn Thành Động ghi con số tổn thất của
đôi bên thật chênh lệch: chính phủ từ thiệt hại không đáng kể đến thiệt
hại nhẹ, giải phóng bị sát thương rất nặng. Hẳn, tỉnh trưởng và chỉ huy
trưởng rất ăn ý với nhau.
Cuối tháng 6, Luân tham dự cuộc hội đàm
với phái đoàn Mỹ do Staley cầm đầu. Eugene Alvah Staley mà bảng lý lịch
tóm tắt ghi ở bìa quyển The future of underdeveloped countries (3) do
ông viết đã cho thấy thẩm quyền của vị giáo sư kinh tế 55 tuổi này: dạy ở
đại học Chicago và Viện nghiên cứu Thái Bình Dương, công tác ở Trung
Quốc năm 1944, chuyên gia vấn đề kinh tế Ấn Độ, nhân viên UNRRA (4)
Ngay
trong phiên làm việc đầu, Luân đã rút ra mấy kết luận: Staley và phái
đoàn Mỹ nắm tình hình Nam Việt khá cụ thể, xu hướng của Kennedy là cố
duy trì công thức “Vũ khí Mỹ + lính Nam Việt” đến khi nào không còn thể
duy trì được nữa; thêm viện trợ kinh tế, trước hết, chi một món tiền lớn
cho chương trình “Ấp chiến lược”. Staley có một nhược điểm: ông ta
tuyệt đối hóa sức mạnh của súng và dollar. Trùm lên tất cả, Staley bộc
lộ một toan tính: bằng dollar, nắm các sĩ quan Nam Việt. Trong phiên làm
việc này, Staley nhấn mạnh nhiều lần nhu cầu tăng quân số lính chính
quy Nam Việt lên 17 vạn và Hoa Kỳ tự nguyện lo trang bị cho 6 vạn Bảo
an. Ông ta phàn nàn về mức sống quá thiếu của sĩ quan và hứa ngân sách
viện trợ sẽ dành một phần thoả đáng để cải thiện mức sống đó. Có thể nói
về số quân và trang bị, Staley gặp Ngô Đình Nhu. Và chỉ gặp ở chỗ đó.
Vũ
Quốc Thúc, một con người ham nói dài dòng, ham phô trương vốn liếng
tiếng Anh, tiếng Pháp, còn thì chẳng có một chút gì là có thể đại diện
cho Việt Nam Cộng hòa. Thúc không nói một lời nào về dự định của Staley
và mặc dù mọi thứ đều soạn thảo ở Washington, Thúc vẫn trâng tráo đặt
cho cái kế hoạch còn chưa ra hình dạng ấy là “Công trình Staley - Vũ
Quốc Thúc”.
Sau buổi họp - mà mọi người chỉ có việc nghe Staley và
Vũ Quốc Thúc - Luân xin gặp Nhu. Anh đến dinh Độc Lập và Nhu tiếp anh
tại phòng khách lớn, có mặt Ngô Đình Diệm.
- Tôi không rõ ý định của Tổng thống và anh Nhu đối với kế hoạc Staley. Theo tôi, ta nên cân nhắc kỹ…
- Họ có nêu việc thêm cố vấn quân sự Mỹ không? - Diệm hỏi.
-
Chính thức thì không. Song, qua lối nhận xét của Staley, họ xem việc
thêm cố vấn quân sự gần như là hiển nhiên. Về bộ binh, họ chê cán bộ cấp
tiểu đoàn của chúng ta. Họ chê cán bộ cấp trung đoàn các binh chủng
quân thiết giáp, pháo, dù, hải quân, không quân. Họ chê công tác tham
mưu, đồ bản, huấn luyện, trinh sát. Về bảo an, họ chê các cấp chỉ huy
tỉnh. Staley cũng nói khá đậm về hệ thống hành chính, quản lý viện trợ
và an ninh của ta. Tổng hợp các nhận xét của Staley, tôi kết luận là họ
chú trọng nhiều nhất khâu cố vấn… Nếu với số lượng cố vấn cỡ đó, cần cả
một bộ chỉ huy Mỹ … Rắc rối!
Diệm tuy ngó Luân nhưng mắt ông như ngó một nơi nào đó xa xôi.
-
Chấp nhận hay không chấp nhận… - Nhu nói, trầm trầm - Không chấp nhận
thì chúng ta lấy gì nuôi quân lính, lấy gì đánh Cộng sản? Chấp nhận thì
người Mỹ chứ không phải chúng ta giữ tiếng nói quyết định… Tất nhiên,
vẫn còn một lối ra: Chấp nhận mức nào. Đồng thời, phải nắm chặt sĩ quan,
viên chức… Tôi mơ ước quân số này từ lâu. Nhưng phải là quân số của ta!
Xe tăng, pháo, máy bay, tàu - tất cả phải là của ta.
Nói đoạn chót, Nhu cắn chặt răng.
-
Tôi vẫn lo Mỹ không dừng ý định ngang những cái cái hiện nay. Mỹ không
bận bịu với các chính khách đối lập mà xoay hướng về sĩ quan, viên chức
của ta. - Luân nói.
- Anh Luân có nhiều ý kiến xác đáng. Song, ta
cũng có cách của ta. Hội đàm kéo dài đến ba tuần lễ. Anh tùy cơ ứng
biến. Ta cần tiền, vũ khí, tài trợ. Cố gắng tranh thủ cao nhất các yêu
cầu đó. Các thứ khác, anh trao đổi với ông Thúc. Ông Thúc “Mỹ hơn Mỹ”
cho nên anh phải ứng phó vất vả. Ta chậm hơn Mỹ một bước rồi đó…
-
Các lực lượng yểm trơ, tôi hơi ngại không quân - Luân nói - Tiếp nhận
hàng loạt máy bay AD6 có nghĩa đồng thời tiếp nhận hằng loạt phi công do
Mỹ huấn luyện. Ta chưa có người phi công nào cả…
Nhu thừ người khá lâu:
- Tôi sẽ làm việc với bác sĩ Tuyến về số phi công này…
Luân biết bác sĩ Tuyến chẳng giúp gì cho Nhu. Cái thế của anh em nhà Diệm là thế cỡi cọp - Luân nhận xét như vậy.
*
-
Giáo sư Staley cho tôi cảm giác là giáo sư muốn so sánh kế hoạch do
giáo sư thảo với kế hoạch của tướng Marshall. Tôi sẵn sàng tin là kế
hoạch có chỗ giống nhau, bởi vì, ít nhất, cả hai đều cùng một mục đích.
Tuy nhiên ta hãy tìm xem hoàn cảnh của mỗi kế hoạch. Kế hoạch Marshall
nhằm vực một Tây Âu bị chiến tranh tàn phá gượng dậy - là những quốc gia
đạt trình độ kinh tế phát triển trước khi nổ ra thế chiến. Tuy vậy, cái
đó chưa phải là quan trọng, cái quan trọng lại là ở các nước Pháp, Ý,
Hà Lan, Anh… không có du kích Cộng sản. Ý nghĩa quân sự của kế hoạch
Marshall thể hiện ở chỗ các quốc gia kiệt quệ ấy khôi phục đời sống kinh
tế và trên cơ sở của tiến bộ kinh tế mà đối đầu với thế giới Cộng sản.
Dù từng nước vẫn phải giải quyết vấn đề đảng Cộng sản ngay trong nhà
nhưng nhiệm vụ chính không phải như vậy, có lẽ trừ một vài trường hợp,
tỉ như Hy Lạp - nơi mà tổ chức EAM (5), na ná như Mặt trận giải phóng ở
Nam Việt hiện nay, nắm Elas (6), lực lượng vũ trang khá mạnh.
Luân
phát biểu ở phiên họp thứ hai. Staley và đoàn Mỹ lặng lẽ theo dõi. Vũ
Quốc Thúc không được thoải mái lắm khi Luân xin phép nói. Với ông, quyền
nói chỉ nên của trưởng đoàn. Tuy vậy, Thúc tỏ ra tế nhị - ông hiểu Luân
là người của Nhu.
- Ở Hy Lạp, chính kế hoạch của Marshall đánh bại Cộng sản vũ trang đấy! - Staley cắt ngang lời Luân.
-
Thưa giáo sư, không phải như giáo sư nói - Luân cười mỉm - Cộng sản Hy
Lạp thất bại trước khi kế hoạch Marshall triển khai. Không phải kế hoạch
Marshall mà 10.000 quân của tướng Anh Scobie đánh Elas… Nếu giáo sư
đồng ý, chúng ta có thể lấy trường hợp Hy Lạp làm điểm phân tích. Nghĩa
là, người Mỹ phải đổi quân lên Nam Việt. Ở Hy Lạp, nước Anh cần 10.000
quân là đủ, con số cần thiết ở Nam Việt là bao nhiêu, chưa ai dám đoán.
Tôi nhấn mạnh một yếu tố: Ở Hy Lạp, chính người Cộng sản tự làm suy yếu
mình. Lúc bấy giờ, khi chiến tranh kết thúc, họ là lực lượng mạnh nhất
nước về chính trị và quân sự - chỉ có họ bám trên đất nước Hy Lạp mà
đánh quân phe Trục, các thế lực khác, kể cả vua Georges đệ nhị, đều lưu
vong. Họ kiểm soát 16 trong 18 tỉnh toàn nước Hy Lạp. Thế mà, họ tan rã
thật nhanh sau đó. Lễ nộp vũ khí cho chính phủ của nhà vua Georges đệ
nhị tiến hành tại Athenes, quân Elas phục viên, Scobie và vua Georges
chỉ chờ có bấy nhiêu… Giáo sư có thể tin là ở Nam Việt, một tình thế như
vậy được lập lại?
Staley nhún vai:
- Biết đâu đấy!
Luân cười độ lượng:
-
Nếu chúng ta bàn một kế hoạch kinh tế - quân sự nghiêm chỉnh mà trông
cậy vào điều may rủi thì thật nguy hiểm. Cộng sản Nam Việt không phải là
Cộng sản Hy Lạp - không có gì rõ hơn, phải không?
Staley lắc đầu:
- Chưa rõ lắm! Họ cũng đã tập kết ra Bắc…
Luân làm như cố nén cười:
-
Nhưng, bây giờ họ có hàng mấy chục tiểu đoàn, hàng trăm đại đội - họ
mạnh hơn lúc đình chiến… Và ít nhất họ cũng rút được hai kinh nghiệm:
của Hy Lạp và của chính họ… Tôi xin phép trở lại kế hoạch của giáo sư.
Kế hoạch chưa tự giới thiệu giá trị ứng dụng. Hai mục tiêu mà kế hoạch
dự kiến quả không đủ, nếu tôi không nói là rất thiếu thiết thực. Tăng
quân và xây đồn không thể ngăn chặn Việt Cộng hoạt động. Thêm cố vấn Mỹ ở
các đơn vị và ở các cơ quan cai trị càng giúp cho Việt Cộng thêm cớ ly
gián chính phủ với dân chúng… Ở Nam Việt, cuộc chiến tranh - chúng ta
phải dùng từ “chiến tranh” để diễn đạt thực trạng hiện nay và hiện nay,
chiến tranh hết còn đơn phương, cả chính phủ và Việt Cộng cùng làm chiến
tranh - bất kể dưới dạng và mức nào, trọng tâm của nó vẫn là thu phục
nhân tâm. Khía cạnh kỹ thuật nhất thiết phải tùy thuộc vào khía cạnh
chính trị. Tôi cho kế hoạch của giáo sư cần bổ khuyết phần đó.
Staley
không hài lòng. Lập luận của viên trung tá Việt Nam này đã đảo lộn toàn
bộ ý định của kế hoạch. Rõ ràng, viên trung tá này ám chỉ sự thiếu vững
chắc của kế hoạch, hơn nữa, gã còn cho kế hoạch được soạn thảo bởi các
kỹ thuật viên - nghĩa là bởi các nhà chuyên môn đơn thuần.
Không hài lòng song Staley không nói. Phiên họp kết thúc trong không khí hơi nặng.
Tối
hôm đó Vũ Quốc Thúc xin gặp Tổng thống. Ông ta chuyển đề nghị của
Staley: nên rút trung tá Nguyễn Thành Luân ra khỏi phái đoàn Việt Nam
Cộng hòa để cho cuộc hội đàm có thể tiến triển nhanh. Diệm hứa sẽ cứu
xét. Nhu, sau khi nghe tin, kiên quyết phản đối. Anh ta đưa cho Diệm đọc
biên bản tốc ký của phiên họp. Tới phiên Diệm nổi nóng, ông gọi dây nói
cho Thúc: Không thay đổi gì cả!
Thúc lại nhắc Diệm ý kiến của
Staley, vào ngày thứ ba, khi mà phiên họp rơi vào điểm chết. Luân khăng
khăng cần phân bố ngân sách viện trợ một cách cân đối cho các hoạt động
giáo dục, y tế, xã hội. Staley nhất quyết tập trung cho tăng quân và xây
đồn lũy.
- Giáo sư Staley đề nghị hay ra tối hậu thư? - Diệm hỏi gay gắt.
- Thưa… - Thúc lúng túng - Thưa, giáo sư đề nghị thôi. Song, đề nghị đó liên quan đến viện trợ…
-
Giáo sư Staley nếu cho là thành phần của đoàn Việt Nam phải do đoàn Mỹ
chỉ định thì mời ông ấy đến gặp tôi! - Diệm dằn mạnh ống nói, vừa lúc
Luân đến báo cáo về tình hình phiên họp.
- Làm sao? - Nhu hỏi - Chẳng lẽ để hội đàm giẫm chân mãi một chổ?
-
Tùy Tổng thống và anh, - Luân nói - Tuy nhiên, có một điểm tôi thấy cần
lưu ý Tổng thống và anh cố vấn: Hiện thời, không phải chỉ mỗi chúng ta
lo cuộc chiến đấu chống Cộng thất bại, nước Mỹ cũng lo và nước Mỹ lo hơn
chúng ta. Chống Cộng ở Nam Việt Nam cần thiết đối với họ hơn đối với
chúng ta. Cho nên, họ sẽ không nhắc lại đề nghị đó nữa, Hoa Thịnh Đốn
nóng ruột lắm rồi…
Đúng như Luân dự đoán, phiên học thứ năm, Staley đi thẳng vào đề nghị của Luân. Ông ta nhượng bộ.
Vào
lúc đó, Taylor được cử là cố vấn quân sự cho Tổng thống Kennedy.
Maxwell Davenport Taylor, 60 tuổi, viên đại tướng sừng sỏ của Mỹ - nhà
lý luận, nhà chiến lược, chuyên gia các vấn đề Viễn Đông, từng chỉ huy ở
Triều Tiên - là một Taylor nổi tiếng trong dòng họ gồm quá nhiều Taylor
nổi tiếng. Không ai không thấy, Kennedy chọn Maxwell Taylor làm cố vấn
là vì cuộc chiến tranh Việt Nam…
---
(1) Viện bảo tàng
(2) Khiêu vũ.
(3) Tương lai của các quốc gia kém phát triển
(4) United Nations Relief and Rehabilitation Administration (Cơ quan quản trị của Liên hợp quốc về cứu trợ và tái thiết)
(5) Ethnikón Apeleftherotikón Métopon: Mặt trận giải phóng dân tộc
(6) Ethnikós Laïkós Apeleftherotikós Strátos: Quân quốc gia giải phóng dân tộc
CHƯƠNG 5
Với tư cách là sĩ quan tham mưu biệt bộ,
Luân tháp tùng đại sứ Nolting trong chuyến thị sát đồng bằng sông Cửu
Long đầu tiên của ông ta. Nolting sẽ đến và sẽ nghỉ đêm ở Cà Mau, tỉnh
lỵ An Xuyên. Sự chọn lựa một tỉnh tận cùng đất nước Việt Nam, nơi mà
Việt Cộng hầu như kiểm soát toàn bộ xóm làng có một ý nghĩa phô trương
rõ rệt vai trò cá nhân của đại sứ - Nolting muốn bản báo cáo của mình
gởi về Tòa Bạch Ốc phải sinh động. Ngoài Luân, tháp tùng đại sứ còn có
đại tá Lâm, ở Bộ tổng tham mưu. Lâm không thân với Luân mặc dù hai người
giống nhau ít nhiều về điểm liên hệ với “phía bên kia”. Cha Lâm, một
nhà giáo, từng là chủ tịch ủy ban Liên Việt tỉnh Cần Thơ trong kháng
chiến và nay tập kết ra Bắc, làm một việc gì đó ở Hà Nội. Chị ruột Lâm
cùng tập kết với cha và chồng là một sĩ quan Bắc Việt.
Năm 1945, Lâm đang học ban tú tài, theo Thanh niên Tiền phong, bị Pháp bắt trong một trận càn, thấy anh ta là học sinh, tống lên Trường võ bị Đà Lạt và năm 1947, ra trường với cấp thiếu úy trừ bị. Cũng năm đó Lâm và một số bạn tốt nghiệp Trường võ bị Đà Lạt như Quách Sến, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Trần Đình Lan rủ nhau ra bưng biền. Họ đầu quân dưới trướng Trần Văn Trà, Khu bộ trưởng Chiến khu 8 và được phân công huấn luyện Trường quân chính khu. Chưa xong một khoá, chịu cực không nổi, Nguyễn Khánh chủ trương trốn về thành. Trước khi trốn, Khánh dự định đánh cắp tài liệu, súng đạn và ghi chú các căn cứ Khu 8, nói là để khỏi bị Tây xử bắn về tội đào ngũ. Không rõ các người khác trong bọn đồng ý hay không dự định của Khánh, riêng Lâm không tán thành. Chịu cực không nổi thì trốn, đừng làm chuyện do thám gián điệp. Sau này, Lâm biết Nguyễn Khánh hành động theo bố trí của Phòng nhì Pháp. Từ đó, ở đâu anh cũng chửi Nguyễn Khánh; hai người đoạn giao.
Về thành, Lâm trốn một lúc. Người chị - bấy giờ chưa đi kháng chiến, là một hộ sinh nổi tiếng - vận động cho Lâm sang Pháp. Lâm chọn nghề cơ khí, đang sửa soạn vào trường thì tông tích bại lộ. May mà người đỡ đầu Lâm, một chính khách có cỡ ở Paris, đã xoay cho Lâm khỏi tù, nhưng phải vào học Trường thiết giáp của Lục quân Pháp mở ở Oran - Bắc Phi. Hết khóa, Lâm được giao hoàn cho Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương với hàm trung úy. Năm 1952, Lâm tòng sự tại võ phòng của Quốc trưởng Bảo Đại mà Chánh võ phòng là thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh. Trong vòng ba năm, Hinh từ thiếu tá Chánh võ phòng leo lên thiếu tướng Tổng tham mưu khi Pháp đầu hàng trong trận Điện Biên Phủ. Lâm không làm gì cả, vẫn mặc nhiên được thăng cấp. Khi Diệm nắm quyền, Hinh đeo lon trung tướng và Lâm, trung tá. Nhưng, từ 1954 đến nay, 7 năm trời, anh ta chỉ nhích lên mỗi một cấp. Có thể hai lý do đã ghìm chân Lâm: lai lịch gia đình và mối quan hệ với tướng Hinh. Hoặc, nếu cần, thêm lý do thứ ba: tướng Hinh dan díu với một nữ ký giả thường viết các phóng sự chiến trường ký tên Tú Vân - hiện thời, cô đang học môn kinh tế ở Đại học Berkeley; chồng cô, một quan chức Mỹ có quyền thế trong cơ quan USOM - Tú Vân không thích Lâm vì Lâm hay bêu rếu mối tình vụng trộm của cô. Chỉ đôi lần, Lâm đảm nhận chức vụ cầm quân, còn nói chung, ngày này qua ngày khác anh ngồi trước chồng báo cáo cao nghệu bên trong vòng rào Bộ tổng tham mưu.
Bỗng trở thành kẻ bất đắc chí, hay gây gổ, Lâm thích rượu mạnh ngang với xem đua ngựa.
Dĩ nhiên Luân biết Lâm qua bác sĩ Tuyến. Trong công vụ, họ gặp nhau luôn song chưa bao giờ hai người uống rượu tay đôi hoặc ngồi tán dóc. Lâm biết Luân - chắc vậy; anh ta đánh giá Luân như thế nào thì Luân chưa nghe.
Tướng Mac Garr đi cùng với Nolting. Thật ra, Mac Garr không cần phải đi. Nhiệm vụ của ông ta vừa chấm dứt, trong khi chờ đợi người thay thế sang để bàn giao, ông đi dạo một chuyến để “chào vĩnh biệt các bãi lầy” - như ông nói. Nolting mời ông cùng ngồi chung chiếc Highlifter Bell, loại trực thăng có thể bay cao 3.000 thước, 15 chỗ ngồi - còn rất hiếm ở Nam Việt.
Chuyến thị sát rời Tân Sơn Nhứt vào một buổi sáng mà Nha khí tượng cam đoan là không có mưa.
Sân bay Tân Sơn Nhứt chìm trong tiếng động nhứt tai của đủ loại máy bay lên xuống, nhất là những chiếc AD6 vừa tiếp nhận - loại chiến đấu cơ mang tên rất cao bồi “Skyraider” - càn quét xứ trời! AD6 được quảng cáo như loại máy bay ưu việt đối với chiến tranh chống du kích.
Nolting, nón panama, quần tropical, sơ- mi ngắn tay, xuống xe gần ngay chỗ máy bay đỗ. Mac Garr đến trước Nolting hai phút, đi đi lại lại trên nền bêtông với vẻ mặt cau có.
Nolting vừa ra khỏi xe, một đại úy dong dỏng cao, trạc tuổi 30, mắt như ngái ngủ, để râu mép, đứng nghiêm:
- Tôi, đại úy Nguyễn Cao Kỳ, xử lý thường vụ Bộ tư lệnh không quân, có mặt!
Giọng của đại úy Kỳ khàn khàn có phần lè nhè, nói tiếng Anh chưa chuẩn, pha nhiều âm sắc Pháp.
Thật sự, Nolting đi thị sát còn khá nhiều người thuộc Bộ ngoại giao, Bộ quốc phòng… cấp bậc cao hơn một đại ý, nhưng giữa lúc mọi người nhường nhau thì Cao Kỳ ngang nhiên ưỡn ngực lên tiếng trước.
Nolting bắt tay Kỳ, cám ơn. Và vẫy chào xã giao số người ra tiễn. Kỳ đưa Nolting khá sỗ sàng - kiểu đôi bạn cập kè - lại cầu thang máy bay. Y ta bước lên bậc thang, ý chừng muốn đưa Nolting tận chỗ ngồi. Nhưng, một trung tá Mỹ đã sỗ sàng không kém, gạt phắt Kỳ, nói trong cổ họng:
- Đi chỗ khác chơi!
Từ đầu, Luân đã để ý lối ngóc đầu kiếm chác của viên đại úy chưa mấy ai biết tiếng này, nhưng anh lặng lẽ theo dõi. Ngành không quân mới xây dựng, Mỹ chăm sóc nó. Số sĩ quan trẻ được đạo tạo gấp rút và Kỳ là một trong những phi công nắm khá sớm các loại máy bay kiểu mới - do vốn học ở Marrakeck và Avord của Pháp và được bổ túc ở Air Commandant Staff School Mỹ.
Đại tá Lâm, trái lại, bốp chát luôn!
- Nè, chú mày có biết thằng trung tá Mỹ bảo cái gì không? Nó bảo chú mày cút đi… Mặt dày hơn da trâu!
Anh ta bảo Kỳ lúc bước lên trực thăng. Kỳ không phản ứng, gã mải ngó theo Nolting.
Mọi người trên máy bay làm quen với nhau: ngoài Nolting, Mac Garr, đại tá Lâm, trung tá Luân, trung tá Tony Forting - cận vệ của Nolting, trung tá Thomas Hayden - cận vệ của Mac Garr, ba quân cảnh Mỹ và phi hành đoàn - một đại tá chỉ huy, hai lái, một hoa tiêu và một nhân viên vô tuyến điện, đều người Mỹ, dĩ nhiên.
Các tuỳ tùng khác và quân cảnh đi trên chiếc Chinook và hai chiếc Sikorsky. Đoàn trực thăng được cả một lực lượng hùng hậu hộ tống: một trinh sát cơ L19, ba trực thăng chiến đấu HU-1A, ba chiếc AD6.
Nolting khẽ nhún vai khi Tony Forting báo cáo về kế hoạch yểm trợ - ông làm ra vẻ không thấy cần thiết phải sử dụng nhiều máy bay như vậy.
- Cùng đi với đại tá Lâm và trung tá Luân là quá đảm bảo. Phải không?
Tony Forting lắc đầu:
- Thưa, lộ trình của chúng ta qua các vùng nguy hiểm!
Nolting nheo mắt:
- Ông quên là chúng ta bay trên trời?
- Thưa, vì vậy, chúng tôi lựa loại máy bay có độ cao an toàn.
- Ồ! - Nolting lại nhún vai - Thế thì còn trông thấy gì ở dưới mặt đất? Ông nên nhớ chúng tôi thích một buổi du ngoạn hơn là chui vào cái hộp thép này… Bay thấp một tí, được không?
Mac Garr mỉm cười. Luân, không khác gì Mac Garr song giữ vẻ mặt rất bàng quan. Bởi vì Nolting đưa ra một đề nghị mà thừa biết ông ta sẽ mãn nguyện: viên đại tá trưởng phi hành đoàn lắc đầu.
Chong chóng quay tít, máy bay nhấc bổng và trong vài phút, Sài Gòn lùi vào phía sau họ. Con đường số 4 hiện rõ như một vệt đen và máy bay, tuy trên lưng chừng cao, vẫn bám trục lộ được canh giữ nghiêm mật này.
Nolting xoay người, nhìn qua cửa kính cánh đồng bằng bát ngát. Mac Garr tựa cằm lên nắm tay, lim dim mắt. Nhiệm vụ trưởng phái bộ quân sự của Mac Garr chấm dứt không mất vẻ vang: khi ông thay Williams, Việt Cộng không nhiều bằng khi Harkins thay ông. Chưa ai nêu lên một nhận xét công khai về ông, song người ta đã thông báo: đại tướng Paul Harkins sẽ kế tiếp nhiệm vụ ở đây với tư cách mới: chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự viện trợ. Nghĩa là ông chỉ xứng đáng làm một cố vấn, Harkins thì là một tư lệnh chiến trường.
Luân ngồi đối diện với Mac Garr. Ông ta sực nhớ lần đến Bến Tre. Đại úy Nguyễn Thành Động đã cho ông ta một bài học.
- Khó chơi lắm! - Mac Garr bỗng làu bàu. Tất nhiên, Luân hiểu Mac Garr than “khó chơi lắm” với cái gì. Còn hồi đến Bến Tre, Mac Garr rất trịch thượng. “Các anh không được quyền chui tọt vào chăn, lẩn tránh Vixi như con đà điểu…” Ông ta đã nói như vậy. Co cả thân hình lực lưỡng vào chiếc ghế, Mac Garr giống con đà điểu thật! “Ái chà!”, Mac Garr kêu lên. Nolting quay lại.
- Gì thế, đại tướng? Ông cảm cúm à?
Mac Garr vẫn không đổi tư thế:
- Đại tướng (1)? Ông đại sứ kết thêm sao cho tôi đấy? Tôi bảo là khó nhá… Với bọn Vixi, khó nhá…
- Thế theo tướng quân, với ai thì dễ nhá? Mọi da đỏ chăng?
- Tôi nói nghiêm chỉnh đấy, ngài đại sứ. Tôi sắp rời Sài Gòn, còn ông, ông đứng lại, ít ra cũng vài năm. Các nhà chính trị có nhiều cách lý giải các hiện tượng. Cùng lắm, các ông ngồi thương lượng với đối phương. Như ở Bàn Môn Điếm bên Triều Tiên. Rồi, có khi các ông còn ôm hôn thắm thiết đối phương nữa. Chúng tôi không được quyền như vậy. Chúng tôi phải đánh và có mỗi nhiệm vụ đánh thắng… - Mac Garr nhắc những chữ “chúng tôi” vừa liếc Lâm và Luân, có ý như kéo những sĩ quan Việt Nam có mặt về phe ông ta… - Nhưng, đánh bằng cái gì? Nước bọt ư? Tôi từng bảo ông Durbrow: Hãy ghi vào báo cáo và cứ cách nhật báo cáo một lần về Ngũ Giác Đài. Súng, lính! Bấy nhiêu thôi. Ông Durbrow không dám. Khi Phó tổng thống Johnson đến Sài Gòn, ông ta còn làm ra bộ là người hiểu biết khoa học quân sự: Súng tất nhiên là cần, song vẫn cần người chỉ huy hơn. Ông ta nhận xét với Phó tổng thống trong lúc tôi cố sức chứng minh rằng thiếu súng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân…
Mac Gar sửng cồ hẳn:
- Chưa tới thời để các nhà ngoại giao dạo các bản nhạc du dương… Hãy để chúng tôi nói. Mac Arthur đấy, không để cho ông ta nói, quân Liên hợp quốc đến vĩ tuyến 38 là cùng. Chết cả triệu nhân mạng để rồi quay trở lại đúng cái nơi, thuở mà chưa có một người Mỹ nào chết cả…
- Tướng quân tự ví mình hơi quá đấy! - Nolting châm biếm - Mac Arthur là con người mà ngay Dick(2) cũng nể…
- Giá Mac Arthur ra tranh cử tổng thống, chưa chắc đã thua Eisenhower!
- Ồ! Tướng quân lập luận lạ thật. Nếu trường hợp giả định của tướng quân xảy ra, biết đâu Mac Arthur không xử sự hệt Eisenhower? Tướng quân muốn vượt vĩ tuyến 17?
- Tôi chưa thấy biện pháp nào hứa hẹn hơn…
Luân nhìn xuống đất: thị xã Vĩnh Long ẩn hiện. Anh bảo nhỏ đại tá Lâm, nhưng cũng cố ý cho Nolting và Mac Garr nghe:
- Quê tôi đây rồi!
Luân đã can thiệp đúng lúc: cả Mac Garr lẫn Nolting muốn chấm dứt cuộc cãi chài cãi cối vô vị, nhưng không biết chấm dứt như thế nào. Mac Garr nói đến Bắc tiến, song Luân biết cái đầu của viên tướng thất sủng này trống rỗng.
- Thế à? Đâu nào? - Nolting quay người lại, làm như chăm chú quan sát.
- Ngay ngã ba sông, phải không? - Mac Garr nói theo - Kìa, phía kia là Kiến Hòa… Tôi nhận ra rồi.
Đại tá trưởng phi hành đoàn mở bản đồ, chỉ chỗ mà trực thăng đang lướt qua.
- Thế Đồng Tháp Mười đâu? - Nolting hỏi.
- Thưa, chúng ta không bay trên Đồng Tháp Mười.
- Tiếc quá… Cái gì kia? - Nolting kêu lên khi thấy một số dân chúng tụ tập ven lộ 4.
Luân biết là dân chúng đang bị lùa xây ấp chiến lược.
- Việt Cộng? - Nolting lại hỏi, hơi mất bình tĩnh.
- Không phải! - Mac Garr tỏ ra thành thạo - Ven quốc lộ, làm gì có Vixi giữa ban ngày…
- Biết đâu! - Nolting thốt xong, biết mình hố, im bặt.
Mac Garr cười khẩy:
- Hòa Hảo là cái gì? - Nolting lại hỏi cho đỡ ngượng.
Mac Garr giả bộ không nghe, trỏ phía trước:
- Sắp đáp xuống Trà Nóc.
*
Nolting chỉ ở Trà Nóc nửa giờ. Đại tá cố vấn Mỹ và đại tá tư lệnh sư đoàn 21 Trần Thiện Khiêm mời khách dạo Cần Thơ một vòng, Nolting hứa sẽ làm việc đó khi trở lại, trưa ngày mai. Luân để ý đại tá Lâm và Khiêm gặp nhau - họ là bạn - không mặn mà, Lâm bắt tay Khiêm rồi tìm chỗ ngồi tách biệt.
Trực thăng tiếp tục bay trên lộ 4. Suốt đường bay, kế hoạch lập ấp chiến lược đang bắt đầu rất khẩn trương. Từ trên máy bay, Luân thấy nhiều cụm khói dày đặc - hẳn là quân đội đang đốt nhà dân. Đây là một kế hoạch tàn bạo - lùa hàng triệu người vào các chu vi ven lộ, thị trấn, dùng dân vệ canh phòng, bỏ ngõ các vùng khác cho máy bay pháo kích tự do. Kế hoạch do Nhu vạch, anh ta đã đưa cho Luân xem bản thảo và Luân lờ không góp ý kiến. Bản thảo được chụp ảnh và gởi cho anh Sáu Đăng.
Thật ra, kế hoạch của Nhu vẫn còn ở mức nguyên tắc. Chính Staley và Vũ Quốc Thúc chi tiết hóa bản kế hoạch, với sự đóng góp của Mai Hữu Xuân và cơ quan tình báo.
Bây giờ, Luân thấy cái lợi hại của kế hoạch đó. Anh tiếc là đã không chú ý đến nó sớm hơn. Quả gã đại tá người Anh Thompson đã bày ra trò nguy hiểm này.
Ấp chiến lược khác khu trù mật, đúng như Nhu phân tích - khu trù mật kềnh càng còn ấp chiến lược, theo tên gọi, lấy ấp làm đơn vị. Phá khu trù mật cần một đơn vị vũ trang đánh mạnh, như Luân chứng kiến ở Vị Thanh và ngay ở Kiến Hòa. Còn phá ấp chiến lược cần một phong trào du kích rộng và lực lượng quần chúng - chuyện không phải có được một ngày một buổi.
- Những cánh đồng rộng! - Nolting kêu lên, máy bay đang ở trên vùng Sóc Trăng - Thế mà người ta không cày cấy… Cần lo cày cấy! Nước Mỹ không thể nuôi mãi hàng mấy chục triệu dân Nam Việt. - Nolting nói như ra lệnh. Ông ta nói không có gì sai, song Mac Garr cứ cãi:
- Làm sao cày cấy? Ai cày cấy? Ngài quên là cả chúng ta lẫn Việt Cộng đang trong tình trạng chiến tranh.
- Chiến tranh vẫn phải cày cấy… Nhịn đói đánh giặc được sao?
- Chúng ta tranh luận trong phạm trù nào, thưa ngài đại sứ? Phạm trù không ăn thì không làm được bất cứ việc gì. Hay phạm trù cày cấy dưới bom đạn? Trong phòng có máy lạnh và nhất là trên giấy, người ta có thể bắt cả Đức Chúa Trời khiêu vũ. Còn trên trận địa… Mac Garr cười hô hố, rất võ biền.
- Tôi có cảm giác tướng quân sang Việt Nam không một giờ nào rời tiền duyên… Thế mà! - Nolting không chịu thua.
Luân thông cảm với Mac Garr. Ông ta cay cú. Công bằng mà nói, ông ta không có tội - hoặc, chính xác hơn, tội của ông không nặng hơn tội của tổng thống Mỹ. Tuy nhiên, có một lập luận đang lớn dần, quy trách nhiệm cho tướng Mac Garr. Nolting nhúng tay vào việc bẩn thỉu đó. Rồi đây, sau chuyến thị sát, Nolting sẽ góp thêm vào lập luận những bằng chứng. Kennedy cần Mac Garr - Mac Garr phải chịu trách nhiệm về việc Kennedy bắt buộc thêm viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa chống Cộng, lẽ ra có thể không cần nếu Mac Garr giỏi hơn… Nấp sau Mac Garr, Kennedy an toàn trước quốc hội Mỹ.
Mãi đến bây giờ Luân mới hiểu toàn bộ sự việc. Bận suy nghĩ, Luân quên phứt, anh đang bay trên vùng đất quen thuộc. Khi nhớ ra, trực thăng đã sà thấp. Các mái nhà cổ lỗ của Cà Mau vụt qua…
Trực thăng đáp xuống sân bóng. Quân cảnh Mỹ chực sẵn và một sĩ quan quân cảnh làm hiệu cho trực thăng đáp đúng nơi qui định. Họ không xuống sân bay; sân bay dành cho các máy bay hộ tống.
Luân bồi hồi bước lên nền đất. Bảy năm trước, anh từ giã khu giải phóng Tây Nam Bộ và bây giờ, anh vẫn chưa thể trở về đây với tư cách cũ. Hình ảnh bạn bè, các chiến sĩ của tiểu đoàn 420 chạy qua óc anh như một khúc phim. Họ ở đâu, ra sao?
- Trình quý vị, tôi, Vũ Liệu, thiếu tá tỉnh trưởng An Xuyên có mặt.
Một người da sạm, lùn, bụng khá to, cổ nung núc thịt, bê-rê đội lệch, quân phục loang lổ, chiếc thánh giá vàng óng ánh nơi ngực, kính đen to gọng, đang đứng nghiêm.
Theo hướng dẫn của Vũ Liệu, mọi người lên một dọc xe hơi đậu ngoài bìa sân bóng.
Một thiếu phụ đứng trên thang một chiếc trực thăng sơn cờ quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mấy người lính đang lôi từ khoang trực thăng ra những thùng, những bọc. Thiếu phụ chắp tay:
- Chào quý vị ạ!
Bà đẹp, đẹp sắc sảo nữa. Tóc uốn kiểu đào hát bóng, áo dài hồng nhạt, quần sa tanh trắng.
Nolting vui vẻ vẫy tay đáp lễ, nói tiếng Pháp:
- Bonjour, madame (3)
Và, tất cả đều bị bất ngờ, thiếu phụ đáp lại, rất nhí nhảnh:
- Bienvenue, Mon Excellence Nolting!(4)
Hơn thế nữa, bà đưa mấy ngón tay lên môi, hôn gió!
Rõ ràng Vũ Liệu ngẩng đầu hơi cao. Luân biết liền: bà thiếu tá tỉnh trưởng.
Đoàn qua khỏi chiếc trực thăng, Luân còn nghe bà - bây giờ thì giọng the thé:
- Tao đã bảo, bọn mày làm hỏng hết… Đâu, giỏ cà rốt đâu? Quên rồi… Thế này nhé, đứa nào lái trực thăng lên Cần Thơ mua nhanh cà rốt… Lựa thứ thật tươi… Đồ ăn hại!
Nolting, Mac Garr và số sĩ quan Mỹ chắc không hiểu bà ta nói gì. Còn Luân, anh ngẫm nghĩ: “Cái lũ này xô cả bọn chết lẹ thôi”.
Đại tá Lâm đi cạnh Luân, môi bĩu, Luân không đoán nổi đại tá bĩu môi về cái gì…
Dinh tỉnh trưởng - ngôi nhà ọp ẹp, nhưng tiện nghi bên trong khá tốt. Vũ Liệu mời khách giải khát - bia hộp, Pepsi Cola tùy thích.
- Madame vừa rồi là ai? - Nolting hỏi.
- Thưa, vợ tôi - Vũ Liệu trả lời, kiêu hãnh.
- Ô la la! - Nolting nhướng mày, kêu to. - Ông thật hạnh phúc… Bà thiếu tá đẹp, rất đẹp!
Mũi của Vũ Liệu phập phồng. Tốp sĩ quan Mỹ tùy tùng có đứa huýt sáo, có đứa giậm chân, có đứa búng ngón tay bóc bóc…
- Như thế này, tôi muốn thăm qua nơi làm việc của thiếu tá tỉnh trưởng, nếu không quấy rầy ông… - Nolting bảo.
Vũ Liệu đứng lên:
- Xin mời!
Luân định không đi; nhưng Vũ Liệu cầm tay anh:
- Mời trung tá… Ít khi trung tá xuống An Xuyên, mời trung tá quan sát… Để còn trình với ông Cụ giúp đỡ chúng tôi. Nghèo quá, trung tá ạ!
Luân tức cười: Dám cho trực thăng bay về Cần Thơ mua mấy củ cà rốt mà than nghèo!
Vũ Liệu dẫn đoàn khách vào phòng trong, lên cầu thang. Phòng làm việc của tỉnh trưởng khá thoáng, ngó ra con kinh nhỏ. Tường treo nhiều bản đồ với các ký hiệu xanh đỏ li ti. Nolting rõ ràng hài lòng.
- Tốt! - Ông ta vỗ vai Vũ Liệu, theo lối kẻ cả. Chợt Nolting thấy một chồng sách, mỗi quyển khá dày đặt trên bàn viết. Ông ta cầm lên, ngắm nghía. Bìa sách màu sặc sỡ, hình vẽ một lão mang bị, tay co duỗi…
- Sách gì đây? - Nolting hỏi.
Vũ Liệu lúng túng. Tất nhiên, Luân biết đó là sách gì.
- Nói chuyện đánh nhau? - Nolting lại hỏi.
Vũ Liệu gật đầu bừa.
- Đánh nhau bên Trung Quốc? Ngày xưa?
Vũ Liệu lại gật đầu.
Hiểu lầm thái độ của Vũ Liệu, Nolting bảo:
- Sách khó hiểu? Không sao. Bao giờ cũng vậy, bước đầu tiếp xúc với các kiến thức phong phú, thâm trầm dễ khiến người kém nghị lực nản lòng. Vả lại, thiếu tá đừng ngại. Người Mỹ chúng tôi cho rằng đánh giặc ở phương Đông phải học sách vở phương Đông. Tôi đặc biệt phấn khởi biết một sĩ quan Việt Nam chăm chú học…
Nolting bắt tay Vũ Liệu, rồi quay sang Luân:
- Tôi thành thật chúc mừng Tổng thống Diệm!
Vũ Liệu liếc Luân thật nhanh. Luân tươi cười bắt tay cám ơn Nolting.
Đại tá Lâm, đi sau đoàn khách, lại bĩu môi. Anh ta còn chơi ác, nhè lật tập sách, đọc lẩm nhẩm. Mặt Vũ Liệu tái dần. May quá, Nolting bước ra bao lơn.
- Dãy nhà gì kia? - Ông ta trỏ dãy nhà lắp ghép sơn xám cạnh rào dinh tỉnh trưởng.
- Thưa, nhà nghỉ của các cố vấn Mỹ. - Vũ Liệu trả lời lắp bắp, quên cả cách phát âm tiếng Anh.
- Ta đến đó! - Nolting bảo.
Xuống thang lầu, đại tá Lâm hích vào vai Luân:
- Anh chưa đọc “chưởng” bao giờ?
Luân cười, không trả lời đại tá Lâm mà hỏi Vũ Liệu:
- Thiếu tá luyện môn nào? Hàm mô công hay Nhất dương chỉ hay Giáng long thập bát chưởng?
Mặt Vũ Liệu vụt đỏ rần, các nọng thịt đỏ theo.
- Té ra trung tá Luân cũng thạo Anh hùng xạ điêu của Kim Dung. - Đại tá Lâm cười ục ục trong cổ.
- Tôi còn biết bộ “chưởng” đó do Hàn Giang Nhạn dịch, nhà An Hưng xuất bản, trọn bộ tám cuốn, dày lối bốn nghìn trang!
Luân trả lời, giọng vui. Anh chưa đọc, đúng vậy, song đại úy Nguyễn Thành Động thuộc làu, kể cho Luân nghe nhiều lần.
- Nhưng anh chưa biết giữa các quyển chưởng còn có cái khác. - Lâm bảo nhỏ.
- Cái gì?
- Điều lệ của đảng Đại Việt… Ông Vũ Liệu là đảng viên Đại Việt.
- Sao anh biết?
- Thì bìa điều lệ ghi: gửi đồng chí Vũ Liệu…
- Đại Việt nào?
Lâm nhún vai:
- Tới mấy Đại Việt?
- Ít ra, ba!
- Tôi chào thua… Đảng mẹ gì mà giống con hoang vậy…
Lâm cung cấp cho Luân một chi tiết quan trọng. Thì ra, Đại Việt dâm cây những chỗ khá béo bở…
Nolting đến dãy nhà lắp ghép. Nhà mới, mùi dầu thông nực mũi. Tất cả 25 gian, mỗi gian chia thành phòng ngủ, làm việc… cho một người, đủ tiện nghi, có cả máy lạnh và tủ lạnh.
Tony Forting bảo cái gì đó với Thomas Hayden. Thomas trả lời xong. Tony huýt sáo mồm.
Môi của đại tá Lâm lại bĩu dài - Luân chưa rõ lý do.
*
Sau buổi ăn trưa nhẹ, Nolting cùng đoàn tùy tùng lên trực thăng. Mac Garr không đi. Ông ta bảo đã thuộc lòng vùng đất Mũi. Hiện giờ, ông thích nhâm nhi Whisky.
Máy bay theo hướng đông nam, lướt trên thảm xanh của khu rừng đước rậm rạp, thỉng thoảng bị chia cắt bằng các con kinh phòng hộ có tự thuở nào và các con rạch uốn lượn.
Nolting không rời ống dòm. Luân quan sát bằng mắt thường. Với anh, đây là vùng đất hết sức thân quen. Anh đã chiến đấu tại đây, đã cùng đồng đội hành quân, luyện quân. Kỷ niệm một thời sống dậy mãnh liệt, da diết. Dưới tàn đước kia hẳn là những “làng rừng”, bây giờ, đồng bào không thể ở phơi ngoài trống nữa, máy bay Mỹ dữ dội hơn máy bay Pháp nhiều. Song, những “làng rừng” vẫn sống. Hẳn có họp xóm, họp đoàn thể, hẳn có đủ ca múa thiếu nhi. Rồi bộ đội lại về “làng rừng”, du kích lại tuần tra, các bà má lại lo chăm sóc đàn con đông dày, có đứa từ Bắc, từ Trung vào… Anh không thể hình dung cảnh ngày nay so với lúc anh ở tiểu đoàn 420 nhưng anh nghĩ là đại thể cũng giống nhau. Đúng ra, anh khó nhận dấu cũ - rừng rậm hơn xưa - trừ con sông Bồ Đề vẫn cuồn cuộn.
Trực thăng chếch về hướng tây nam. Một khu có vẻ là thị trấn hiện rõ lần. Nhiều hố bom; nhà cửa chỉ là đống tro đen ngòm, trừ một vài cái lác đác nấp dưới bóng cây. Thế là chợ Năm Căn không còn nữa.
- Không tốt! - Nolting kêu lên - Sao chưa bắn cháy nốt mấy cái chòi kia?
Nolting không hỏi đích danh ai, nhưng Vũ Liệu đã mau miệng:
- Vâng, tôi sẽ xóa chúng…
Mũi Cà Mau giống ngọn lao phóng ra biển cả, từng ngọn sóng ồ ạt phủ lên mõm đất nhọn rồi như hoảng hốt, giật lùi. Cảnh tượng hùng vĩ ấy không biết gợi cho Nolting cảm hứng như thế nào mà ông ta quay lại, nói với đại tá Lâm và Luân, kiểu một triết gia:
- Nam Việt là một tiền đồn, không theo nghĩa đen. Tôi từng có ấn tượng này khi xem bản đồ. Hôm nay, trên thực địa, quả tôi không lầm. Nếu các đảo Nhật Bản và đảo Đài Loan được ví như chiếc phao lềnh bềnh trên sóng biển thì bán đảo Cà Mau của quý vị chính là chiếc cầu đổ bộ rất kiên cố, chiếc cầu khổng lồ đúc bằng bê-tông cho phép nước Mỹ nối liền với lục địa châu Á. Một bàn đạp vô giá của Mỹ ở phương Đông. Tổng thống Diệm đã nói chí lý: Biên giới của nước Mỹ kéo dài tận vĩ tuyến 17.
- Hình như trước kia, trung tá Luân sống ở vùng này? - Nolting chợt hỏi.
- Vâng… Tôi chiến đấu ở vùng này - Luân trả lời, giả bộ như lơ đãng.
- Sống hay chiến đấu khác gì nhau? - Nolting cười mỉm - Thôi được, hiện giờ, dưới đó, cũng đang có những kẻ áp bàn chân lên đúng vết chân của người đi trước theo một xác tín đã thành mê tín: nước Pháp từng bại trận bởi những người đi dép bằng lốp ô tô, thậm chí, đi chân đất. Họ hiểu lịch sử như cái vòng khép kín, cố định, mặc dù họ tự xưng là phần tử duy vật biện chứng. Với họ, nước Pháp là đỉnh cao của sức mạnh. Nước Pháp đã đầu hàng độ dày của cành lá rậm rạp kia và thiên huyền thoại về chiếc áo giáp lá cây cứng hơn mọi thứ hợp kim ra đời…
Luân không ngắt lời ông ta. Nolting lại cười, với vẻ bao dung:
- Thời trung tá ngồi trong chỉ huy sở dưới tàn cây, lá cây chỉ rụng theo thời tiết. Còn bây giờ, với khoa học của nước Mỹ, việc lột chiếc áo giáp kia để nhìn tận rễ cây thì thật không có gì dễ hơn, vài chuyến máy bay với một khối lượng hóa chất nào đó, chúng tôi làm ra thời tiết theo ý muốn… Vài hôm nữa, phi hành gia Mỹ Johnson Glenn bay vào vũ trụ. Ngay các vì sao từ nay cũng khó giữ các bí mật của mình, chứ đừng nói một khu rừng…
- Tôi không nghi ngờ một chút nào về khả năng của khoa học, - Luân thấy cần nói, sau khi suy tính mức độ phản ứng - Khoa học quân sự của Mỹ và nói chung của thế giới hiện nay bắt các khu rừng để mình trần. Hơn thế nữa, bắt các khu rừng hết còn là rừng. Song, giải chiếc áo giáp của rừng với giải giáp con người có lẽ không giống nhau. Và, chúng ta quan tâm đến con người, đến sự chống đối, không phải của rừng mà là của con người.
Luân cũng cười mỉm.
Nolting gương mắt ngó Luân:
- Ồ! Trung tá hùng biện thật. Con người, hẳn trung tá muốn nhắc Việt Cộng? Theo tôi hiểu, trung tá là một chiến binh theo đúng nghĩa, thế mà chẳng lẽ hai phát đạn ở hai nơi - xin lỗi, phát thứ nhất ở một miền rừng nào, tôi không nhớ, phát thứ hai ở Bến Tre - chẳng lẽ hai phát đạn nhỏ xíu ấy đã làm trung tá hoảng? Tôi nói đùa thôi. Có lẽ quan điểm của trung tá bám chặt trung tá. Lần gặp trung tá đầu tiên, hình như tôi cũng nghe một câu tương tự… Tôi nhắc nhận xét của đại tá Thompson. Trung tá quen ông ấy?
Luân gật đầu.
- Chuyên gia chống du kích cớ lớn đấy… Đại tá nói rằng ở Mã Lai, khi người Anh cắt đứt mối đồng lõa giữa Cộng sản và rừng thì một tình huống phức tạp phát sinh: làm thế nào đủ chỗ giam giữ bọn đầu hàng?
- Binh thư phương Đông coi trọng ba mặt: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ở đây, ta không cần trao đổi về thiên thời - mỗi người hiểu mỗi phách. Cộng sản không tin có thượng đế, thiên thời đối với họ là thời thế. Về mặt này, Việt Nam Cộng hòa hội nhiều điều kiện tốt hơn Cộng sản. Nhân hòa? Các ông đang thực hiện kế hoạch Staley - Vũ Quốc Thúc, ấp chiến lược sẽ giúp các ông nắm dân.
Tổ chức toàn xã hội Nam Việt thành pháo đài, đơn thuốc đó quả của danh y. Sau chót, địa lợi. Ở đây, địa lợi là rừng. Nước Mỹ sẽ giúp các ông giành nốt địa lợi về các ông… Các ông có thể tin cậy nước Mỹ, song, dù cho quốc ca Anh có câu God save the king (5) thì phương ngôn Pháp lại dạy chúng ta: Aides toi, le ciel t’aidera (6)… Các ông phải tự cứu. Các ông bị chủ nghĩa dân tộc đầu độc quá nặng. Con người! Con người!… Hừ… - Nolting kéo dài giọng - Đồng bào… Trung tá nhận hai bản án tử hình đều do “đồng bào” của trng tá thực hiện… Không có “đồng bào”. Chỉ có các ông và Cộng sản…
Nolting vụt hỏi Vũ Liệu:
- Tôi nói đúng không, ông tỉnh trưởng?
Vũ Liệu hấp tấp:
- Yes, yes… All right (7)
Nolting quay sang đại tá Lâm:
- Tôi nói đúng không, đại tá?
Đại tá Lâm nhếch mép:
- Tôi không giỏi về chính trị nên không làm trọng tài được!
Nolting sững sờ mấy giây. Rồi, như nghề ngoại giao đã dạy ông ta, Nolting cười - không thể cắt nghĩa nụ cười của ông ta - và giương ống dòm lên.
Bỗng, ông ta kêu to:
- Cái gì kia? Các ông xem…
Trực thăng đang bay trên một dòng sông. Luân biết đó là sông Ông Đốc - vàm sông năm xưa anh tiễn các đồng chí trong tiểu đoàn xuống tàu Arkengels tập kết, ôm hôn Vũ Thượng và Lưu Khánh, mờ sáng lặng lẽ rời tàu, dấn vào cuộc đấu tranh kỳ lạ cho tới nay.
- Người ta đang làm mùa… - Vũ Liệu trả lời.
Dưới máy bay, nhiều vật trắng động đậy giữa cánh đồng ngập nước.
Nolting chỉnh ống dòm:
- Không phải làm mùa… Một cuộc tập trận. Đúng… Hình như có cả cỗ pháo nữa! Lên cao! Nhanh! - Nolting ra lệnh líu lưỡi, bảo Vũ Liệu: - Ông quan sát kỹ nào!
Vũ Liệu chìa cả ống dòm ra ngoài cửa máy bay.
- Nó tập trận, đúng không?
Nolting hỏi dồn dập. Vũ Liệu gật đầu.
- Một cuộc tập trận của Việt Cộng!
Nolting ra lệnh cho tá trưởng phi hành đoàn.
- Gọi máy bay oanh tạc!
Viên đại tá - có vẻ miễn cưỡng - vặn đài liên lạc.
Luân bình thản, bảo:
- Đừng gọi, mất công! Phụ nữ làm mùa. Họ đang cấy. Những chấm trắng là chiếc nón lá. Còn cái mà ngài đại sứ ngỡ là khẩu đại bác, chỉ là càng xe trâu chở mạ…
Nolting lại cầm ống dòm:
- Có lẽ trung tá nói đúng… Thiếu tá tỉnh trưởng thấy thế nào?
Vũ Liêu không phải là hạng người biết hổ thẹn:
- Thưa, đúng là nông dân làm mùa!
- Cách làm mùa ở Việt Nam khác ở Mỹ, tôi lầm. - Nolting nói xong, thoải mái tựa lưng vào ghế, ngầm bảo rằng sự lầm lẫn của ông ta cần phải được mọi người kính trọng. Độ vài giây, ông ta bật dậy:
- Không được! Ông Vũ Liệu nghe chưa! Không được cho phép bọn ở vùng Việt Cộng làm mùa…
Có lẽ Nolting chợt nhớ cuộc cãi lộn giữa ông ta và Mac Garr trên vùng trời Sóc Trăng.
- Có nên ra lệnh cho máy bay… - Vũ Liệu rất sẵn sàng chôn vùi các chiến nón trắng và việc đó sẽ đến trong vài phút, bởi đội AD6 vẫn ở trong tầm điều khiển của trực thăng chở Nolting.
Nolting ngần ngừ một lúc:
- Thôi, các ông sẽ chấm dứt chúng khi lúa trổ, như thế hiệu quả hơn. Hôm nay, ta đi dạo, đừng để bom đạn làm mất vui…
*
Tiệc bắt đầu khi trời lặn. Dinh tỉnh trưởng rực rỡ ánh đèn vừa mới kết thêm. Trong bộ quần áo dân sự, Vũ Liệu vẫn không bớt vẻ thô kệch. Vợ Vũ Liệu, mọi người đã biết tên bà ta, Trúc Đào - lộng lẫy tương xứng với bữa tiệc. Vũ Liệu khỏi phải dành cho Mac Garr mấy câu chúc tụng, tướng quân đã say nhừ. Vũ Liệu dành cả mười phút nói lên niềm hoan hỉ được đón Nolting, đại diện của nước Mỹ vĩ đại. Vũ Liệu cho biết “bữa ăn gia đình” này do Trúc Đào nấu. Trừ món tôm và lươn là sản phẩm Cà Mau, tất cả được mua ở Sài Gòn và Cần Thơ. Rượu, thuốc lá hảo hạng. Khăn lau ướp lạnh và sực nức mùi nước hoa đắt tiền.
Nolting và Trúc Đào sánh vai nhau ở đầu bàn, vị trí của chủ nhân. Ngoài số quan viên văn võ An Xuyên, hàng chục cô gái chia nhau kề cận khách - chẳng rõ họ tự đâu tới và nghề thật sự của họ là gì.
Trúc Đào vận chiếc áo vải thô, không tay. Hai bờ vai và cả một phần ngực để trần. Chiếc váy ngắn giới thiệu đầy đủ cặp đùi và bắp chân rắn chắc của bà ta.
Mọi người đã chếch choáng. Nolting bắt đầu háo hức nhìn Trúc Đào. Nhiều tiếng nữ rú the thé trước bàn tay cựa quậy của các sĩ quan Mỹ. Tony Forting, chắc là định nói khẽ thôi, song rượu đã không cho phép gã làm như ý. Gã nói vào tai cô gái cạnh gã.
- Tôi muốn ngủ với bà tỉnh trưởng, được không?
- Bậy! - Cô gái giãy nãy, cô nói tiếng Anh chưa được sõi.
- Sao bậy? - Tony nheo mắt.
- Chị tôi đấy!
- Chị thì chị… Nhưng, tôi thích. Tôi chỉ ngủ với bà ta khi bà ta khi bà ta có giấy chứng nhận chưa hề mang vi trùng Gônô… - Rồi Tony nhăn nhở - Đêm nay, tôi ngủ với cô… Bằng lòng chứ?
Tony đặt tay lên cổ cô gái.
- Năm dollar. Được không?
Cô gái cúi đầu, mặt đỏ bừng.
Thomas, ngồi đối diện, la ầm:
- Sao đắt thế? Ba dollar… Mà phải bắt nó tắm rửa thật sạch. Bọn gái Việt lắm rận, tởm khiếp!
Không ai trong bữa tiệc kể cả Vũ Liệu không nghe lời của ba người. Bọn Mỹ cười hô hố. Bọn sĩ quan dưới trướng Vũ Liệu gằm mặt ăn. Các cô gái cắn môi. Hình như, có cô khóc.
Luân không thể tiếp tục ngồi. Anh sợ mình không tự chủ nổi. Cũng chẳng ai để ý anh rời chỗ - có thể trừ cô gái “phần riêng” của anh. Nolting đờ đẫn. Nhà ngoại giao không thèm giữ thể thống nữa, có vẻ sắp nuốt chửng vợ Vũ Liệu.
Luân ra hàng hiên. Không khí bên ngoài giúp anh lấy lại bình tĩnh. Người anh chạm mặt là đại tá Lâm.
- Bọn chó đẻ! - Đại tá Lâm chửi đổng - Hồi sáng, tôi đã nóng. Thằng Tony nói gì với thằng Thomas khi vào khu nhà lắp ghép, anh biết không?
Dĩ nhiên, Luân không biết.
- Nó bảo: Mày ghi cho kỹ các đồ vật, bọ Việt chúa ăn cắp, kể cả tỉnh trưởng. Phải buộc nó ký nhận. Thằng Thomas trả lời: Đừng lo, mất một món trong nhà lắp ghép, tao bắt lão phải đền bằng cách để vợ lão ngủ với tao một đêm. Con mụ đứng trên cầu thang trực thăng đó… Bọn chó đẻ!
Luân không bình luận gì thêm.
- Tôi đi nghỉ! - Luân bảo.
- Tôi cũng vậy…
Luân phát hiện sự thay đổi của Lâm đối với anh: hình như nể hơn và thân hơn…
Hai người lên lầu, còn kịp thấy vợ Vũ Liệu rỉ tai Nolting. Gã đại sứ cười sặc sụa.
Lâm ngả lên gường và sau vài phút, ngáy vang. Luân mở rộng cửa phòng, ngắm bầu trời Cà Mau đầy sao…
---
(1) Nolting chơi chữ. “General” vừa có nghĩa là “đại tướng” vừa có nghĩa là “tướng quân”. Hàm đại tướng mang 4 sao, nhưng Mac Garr chỉ mới mang 3 sao.
(2) Gọi thân mật Eisenhower.
(3) Chào bà
(4) Chào mừng Ngài Nolting.
(5) Chúa phù hộ đức vua.
(6) Hãy tự cứu, trời sẽ giúp anh.
(7) Vâng, vâng, chí lý!
Năm 1945, Lâm đang học ban tú tài, theo Thanh niên Tiền phong, bị Pháp bắt trong một trận càn, thấy anh ta là học sinh, tống lên Trường võ bị Đà Lạt và năm 1947, ra trường với cấp thiếu úy trừ bị. Cũng năm đó Lâm và một số bạn tốt nghiệp Trường võ bị Đà Lạt như Quách Sến, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Trần Đình Lan rủ nhau ra bưng biền. Họ đầu quân dưới trướng Trần Văn Trà, Khu bộ trưởng Chiến khu 8 và được phân công huấn luyện Trường quân chính khu. Chưa xong một khoá, chịu cực không nổi, Nguyễn Khánh chủ trương trốn về thành. Trước khi trốn, Khánh dự định đánh cắp tài liệu, súng đạn và ghi chú các căn cứ Khu 8, nói là để khỏi bị Tây xử bắn về tội đào ngũ. Không rõ các người khác trong bọn đồng ý hay không dự định của Khánh, riêng Lâm không tán thành. Chịu cực không nổi thì trốn, đừng làm chuyện do thám gián điệp. Sau này, Lâm biết Nguyễn Khánh hành động theo bố trí của Phòng nhì Pháp. Từ đó, ở đâu anh cũng chửi Nguyễn Khánh; hai người đoạn giao.
Về thành, Lâm trốn một lúc. Người chị - bấy giờ chưa đi kháng chiến, là một hộ sinh nổi tiếng - vận động cho Lâm sang Pháp. Lâm chọn nghề cơ khí, đang sửa soạn vào trường thì tông tích bại lộ. May mà người đỡ đầu Lâm, một chính khách có cỡ ở Paris, đã xoay cho Lâm khỏi tù, nhưng phải vào học Trường thiết giáp của Lục quân Pháp mở ở Oran - Bắc Phi. Hết khóa, Lâm được giao hoàn cho Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương với hàm trung úy. Năm 1952, Lâm tòng sự tại võ phòng của Quốc trưởng Bảo Đại mà Chánh võ phòng là thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh. Trong vòng ba năm, Hinh từ thiếu tá Chánh võ phòng leo lên thiếu tướng Tổng tham mưu khi Pháp đầu hàng trong trận Điện Biên Phủ. Lâm không làm gì cả, vẫn mặc nhiên được thăng cấp. Khi Diệm nắm quyền, Hinh đeo lon trung tướng và Lâm, trung tá. Nhưng, từ 1954 đến nay, 7 năm trời, anh ta chỉ nhích lên mỗi một cấp. Có thể hai lý do đã ghìm chân Lâm: lai lịch gia đình và mối quan hệ với tướng Hinh. Hoặc, nếu cần, thêm lý do thứ ba: tướng Hinh dan díu với một nữ ký giả thường viết các phóng sự chiến trường ký tên Tú Vân - hiện thời, cô đang học môn kinh tế ở Đại học Berkeley; chồng cô, một quan chức Mỹ có quyền thế trong cơ quan USOM - Tú Vân không thích Lâm vì Lâm hay bêu rếu mối tình vụng trộm của cô. Chỉ đôi lần, Lâm đảm nhận chức vụ cầm quân, còn nói chung, ngày này qua ngày khác anh ngồi trước chồng báo cáo cao nghệu bên trong vòng rào Bộ tổng tham mưu.
Bỗng trở thành kẻ bất đắc chí, hay gây gổ, Lâm thích rượu mạnh ngang với xem đua ngựa.
Dĩ nhiên Luân biết Lâm qua bác sĩ Tuyến. Trong công vụ, họ gặp nhau luôn song chưa bao giờ hai người uống rượu tay đôi hoặc ngồi tán dóc. Lâm biết Luân - chắc vậy; anh ta đánh giá Luân như thế nào thì Luân chưa nghe.
Tướng Mac Garr đi cùng với Nolting. Thật ra, Mac Garr không cần phải đi. Nhiệm vụ của ông ta vừa chấm dứt, trong khi chờ đợi người thay thế sang để bàn giao, ông đi dạo một chuyến để “chào vĩnh biệt các bãi lầy” - như ông nói. Nolting mời ông cùng ngồi chung chiếc Highlifter Bell, loại trực thăng có thể bay cao 3.000 thước, 15 chỗ ngồi - còn rất hiếm ở Nam Việt.
Chuyến thị sát rời Tân Sơn Nhứt vào một buổi sáng mà Nha khí tượng cam đoan là không có mưa.
Sân bay Tân Sơn Nhứt chìm trong tiếng động nhứt tai của đủ loại máy bay lên xuống, nhất là những chiếc AD6 vừa tiếp nhận - loại chiến đấu cơ mang tên rất cao bồi “Skyraider” - càn quét xứ trời! AD6 được quảng cáo như loại máy bay ưu việt đối với chiến tranh chống du kích.
Nolting, nón panama, quần tropical, sơ- mi ngắn tay, xuống xe gần ngay chỗ máy bay đỗ. Mac Garr đến trước Nolting hai phút, đi đi lại lại trên nền bêtông với vẻ mặt cau có.
Nolting vừa ra khỏi xe, một đại úy dong dỏng cao, trạc tuổi 30, mắt như ngái ngủ, để râu mép, đứng nghiêm:
- Tôi, đại úy Nguyễn Cao Kỳ, xử lý thường vụ Bộ tư lệnh không quân, có mặt!
Giọng của đại úy Kỳ khàn khàn có phần lè nhè, nói tiếng Anh chưa chuẩn, pha nhiều âm sắc Pháp.
Thật sự, Nolting đi thị sát còn khá nhiều người thuộc Bộ ngoại giao, Bộ quốc phòng… cấp bậc cao hơn một đại ý, nhưng giữa lúc mọi người nhường nhau thì Cao Kỳ ngang nhiên ưỡn ngực lên tiếng trước.
Nolting bắt tay Kỳ, cám ơn. Và vẫy chào xã giao số người ra tiễn. Kỳ đưa Nolting khá sỗ sàng - kiểu đôi bạn cập kè - lại cầu thang máy bay. Y ta bước lên bậc thang, ý chừng muốn đưa Nolting tận chỗ ngồi. Nhưng, một trung tá Mỹ đã sỗ sàng không kém, gạt phắt Kỳ, nói trong cổ họng:
- Đi chỗ khác chơi!
Từ đầu, Luân đã để ý lối ngóc đầu kiếm chác của viên đại úy chưa mấy ai biết tiếng này, nhưng anh lặng lẽ theo dõi. Ngành không quân mới xây dựng, Mỹ chăm sóc nó. Số sĩ quan trẻ được đạo tạo gấp rút và Kỳ là một trong những phi công nắm khá sớm các loại máy bay kiểu mới - do vốn học ở Marrakeck và Avord của Pháp và được bổ túc ở Air Commandant Staff School Mỹ.
Đại tá Lâm, trái lại, bốp chát luôn!
- Nè, chú mày có biết thằng trung tá Mỹ bảo cái gì không? Nó bảo chú mày cút đi… Mặt dày hơn da trâu!
Anh ta bảo Kỳ lúc bước lên trực thăng. Kỳ không phản ứng, gã mải ngó theo Nolting.
Mọi người trên máy bay làm quen với nhau: ngoài Nolting, Mac Garr, đại tá Lâm, trung tá Luân, trung tá Tony Forting - cận vệ của Nolting, trung tá Thomas Hayden - cận vệ của Mac Garr, ba quân cảnh Mỹ và phi hành đoàn - một đại tá chỉ huy, hai lái, một hoa tiêu và một nhân viên vô tuyến điện, đều người Mỹ, dĩ nhiên.
Các tuỳ tùng khác và quân cảnh đi trên chiếc Chinook và hai chiếc Sikorsky. Đoàn trực thăng được cả một lực lượng hùng hậu hộ tống: một trinh sát cơ L19, ba trực thăng chiến đấu HU-1A, ba chiếc AD6.
Nolting khẽ nhún vai khi Tony Forting báo cáo về kế hoạch yểm trợ - ông làm ra vẻ không thấy cần thiết phải sử dụng nhiều máy bay như vậy.
- Cùng đi với đại tá Lâm và trung tá Luân là quá đảm bảo. Phải không?
Tony Forting lắc đầu:
- Thưa, lộ trình của chúng ta qua các vùng nguy hiểm!
Nolting nheo mắt:
- Ông quên là chúng ta bay trên trời?
- Thưa, vì vậy, chúng tôi lựa loại máy bay có độ cao an toàn.
- Ồ! - Nolting lại nhún vai - Thế thì còn trông thấy gì ở dưới mặt đất? Ông nên nhớ chúng tôi thích một buổi du ngoạn hơn là chui vào cái hộp thép này… Bay thấp một tí, được không?
Mac Garr mỉm cười. Luân, không khác gì Mac Garr song giữ vẻ mặt rất bàng quan. Bởi vì Nolting đưa ra một đề nghị mà thừa biết ông ta sẽ mãn nguyện: viên đại tá trưởng phi hành đoàn lắc đầu.
Chong chóng quay tít, máy bay nhấc bổng và trong vài phút, Sài Gòn lùi vào phía sau họ. Con đường số 4 hiện rõ như một vệt đen và máy bay, tuy trên lưng chừng cao, vẫn bám trục lộ được canh giữ nghiêm mật này.
Nolting xoay người, nhìn qua cửa kính cánh đồng bằng bát ngát. Mac Garr tựa cằm lên nắm tay, lim dim mắt. Nhiệm vụ trưởng phái bộ quân sự của Mac Garr chấm dứt không mất vẻ vang: khi ông thay Williams, Việt Cộng không nhiều bằng khi Harkins thay ông. Chưa ai nêu lên một nhận xét công khai về ông, song người ta đã thông báo: đại tướng Paul Harkins sẽ kế tiếp nhiệm vụ ở đây với tư cách mới: chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự viện trợ. Nghĩa là ông chỉ xứng đáng làm một cố vấn, Harkins thì là một tư lệnh chiến trường.
Luân ngồi đối diện với Mac Garr. Ông ta sực nhớ lần đến Bến Tre. Đại úy Nguyễn Thành Động đã cho ông ta một bài học.
- Khó chơi lắm! - Mac Garr bỗng làu bàu. Tất nhiên, Luân hiểu Mac Garr than “khó chơi lắm” với cái gì. Còn hồi đến Bến Tre, Mac Garr rất trịch thượng. “Các anh không được quyền chui tọt vào chăn, lẩn tránh Vixi như con đà điểu…” Ông ta đã nói như vậy. Co cả thân hình lực lưỡng vào chiếc ghế, Mac Garr giống con đà điểu thật! “Ái chà!”, Mac Garr kêu lên. Nolting quay lại.
- Gì thế, đại tướng? Ông cảm cúm à?
Mac Garr vẫn không đổi tư thế:
- Đại tướng (1)? Ông đại sứ kết thêm sao cho tôi đấy? Tôi bảo là khó nhá… Với bọn Vixi, khó nhá…
- Thế theo tướng quân, với ai thì dễ nhá? Mọi da đỏ chăng?
- Tôi nói nghiêm chỉnh đấy, ngài đại sứ. Tôi sắp rời Sài Gòn, còn ông, ông đứng lại, ít ra cũng vài năm. Các nhà chính trị có nhiều cách lý giải các hiện tượng. Cùng lắm, các ông ngồi thương lượng với đối phương. Như ở Bàn Môn Điếm bên Triều Tiên. Rồi, có khi các ông còn ôm hôn thắm thiết đối phương nữa. Chúng tôi không được quyền như vậy. Chúng tôi phải đánh và có mỗi nhiệm vụ đánh thắng… - Mac Garr nhắc những chữ “chúng tôi” vừa liếc Lâm và Luân, có ý như kéo những sĩ quan Việt Nam có mặt về phe ông ta… - Nhưng, đánh bằng cái gì? Nước bọt ư? Tôi từng bảo ông Durbrow: Hãy ghi vào báo cáo và cứ cách nhật báo cáo một lần về Ngũ Giác Đài. Súng, lính! Bấy nhiêu thôi. Ông Durbrow không dám. Khi Phó tổng thống Johnson đến Sài Gòn, ông ta còn làm ra bộ là người hiểu biết khoa học quân sự: Súng tất nhiên là cần, song vẫn cần người chỉ huy hơn. Ông ta nhận xét với Phó tổng thống trong lúc tôi cố sức chứng minh rằng thiếu súng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân…
Mac Gar sửng cồ hẳn:
- Chưa tới thời để các nhà ngoại giao dạo các bản nhạc du dương… Hãy để chúng tôi nói. Mac Arthur đấy, không để cho ông ta nói, quân Liên hợp quốc đến vĩ tuyến 38 là cùng. Chết cả triệu nhân mạng để rồi quay trở lại đúng cái nơi, thuở mà chưa có một người Mỹ nào chết cả…
- Tướng quân tự ví mình hơi quá đấy! - Nolting châm biếm - Mac Arthur là con người mà ngay Dick(2) cũng nể…
- Giá Mac Arthur ra tranh cử tổng thống, chưa chắc đã thua Eisenhower!
- Ồ! Tướng quân lập luận lạ thật. Nếu trường hợp giả định của tướng quân xảy ra, biết đâu Mac Arthur không xử sự hệt Eisenhower? Tướng quân muốn vượt vĩ tuyến 17?
- Tôi chưa thấy biện pháp nào hứa hẹn hơn…
Luân nhìn xuống đất: thị xã Vĩnh Long ẩn hiện. Anh bảo nhỏ đại tá Lâm, nhưng cũng cố ý cho Nolting và Mac Garr nghe:
- Quê tôi đây rồi!
Luân đã can thiệp đúng lúc: cả Mac Garr lẫn Nolting muốn chấm dứt cuộc cãi chài cãi cối vô vị, nhưng không biết chấm dứt như thế nào. Mac Garr nói đến Bắc tiến, song Luân biết cái đầu của viên tướng thất sủng này trống rỗng.
- Thế à? Đâu nào? - Nolting quay người lại, làm như chăm chú quan sát.
- Ngay ngã ba sông, phải không? - Mac Garr nói theo - Kìa, phía kia là Kiến Hòa… Tôi nhận ra rồi.
Đại tá trưởng phi hành đoàn mở bản đồ, chỉ chỗ mà trực thăng đang lướt qua.
- Thế Đồng Tháp Mười đâu? - Nolting hỏi.
- Thưa, chúng ta không bay trên Đồng Tháp Mười.
- Tiếc quá… Cái gì kia? - Nolting kêu lên khi thấy một số dân chúng tụ tập ven lộ 4.
Luân biết là dân chúng đang bị lùa xây ấp chiến lược.
- Việt Cộng? - Nolting lại hỏi, hơi mất bình tĩnh.
- Không phải! - Mac Garr tỏ ra thành thạo - Ven quốc lộ, làm gì có Vixi giữa ban ngày…
- Biết đâu! - Nolting thốt xong, biết mình hố, im bặt.
Mac Garr cười khẩy:
- Hòa Hảo là cái gì? - Nolting lại hỏi cho đỡ ngượng.
Mac Garr giả bộ không nghe, trỏ phía trước:
- Sắp đáp xuống Trà Nóc.
*
Nolting chỉ ở Trà Nóc nửa giờ. Đại tá cố vấn Mỹ và đại tá tư lệnh sư đoàn 21 Trần Thiện Khiêm mời khách dạo Cần Thơ một vòng, Nolting hứa sẽ làm việc đó khi trở lại, trưa ngày mai. Luân để ý đại tá Lâm và Khiêm gặp nhau - họ là bạn - không mặn mà, Lâm bắt tay Khiêm rồi tìm chỗ ngồi tách biệt.
Trực thăng tiếp tục bay trên lộ 4. Suốt đường bay, kế hoạch lập ấp chiến lược đang bắt đầu rất khẩn trương. Từ trên máy bay, Luân thấy nhiều cụm khói dày đặc - hẳn là quân đội đang đốt nhà dân. Đây là một kế hoạch tàn bạo - lùa hàng triệu người vào các chu vi ven lộ, thị trấn, dùng dân vệ canh phòng, bỏ ngõ các vùng khác cho máy bay pháo kích tự do. Kế hoạch do Nhu vạch, anh ta đã đưa cho Luân xem bản thảo và Luân lờ không góp ý kiến. Bản thảo được chụp ảnh và gởi cho anh Sáu Đăng.
Thật ra, kế hoạch của Nhu vẫn còn ở mức nguyên tắc. Chính Staley và Vũ Quốc Thúc chi tiết hóa bản kế hoạch, với sự đóng góp của Mai Hữu Xuân và cơ quan tình báo.
Bây giờ, Luân thấy cái lợi hại của kế hoạch đó. Anh tiếc là đã không chú ý đến nó sớm hơn. Quả gã đại tá người Anh Thompson đã bày ra trò nguy hiểm này.
Ấp chiến lược khác khu trù mật, đúng như Nhu phân tích - khu trù mật kềnh càng còn ấp chiến lược, theo tên gọi, lấy ấp làm đơn vị. Phá khu trù mật cần một đơn vị vũ trang đánh mạnh, như Luân chứng kiến ở Vị Thanh và ngay ở Kiến Hòa. Còn phá ấp chiến lược cần một phong trào du kích rộng và lực lượng quần chúng - chuyện không phải có được một ngày một buổi.
- Những cánh đồng rộng! - Nolting kêu lên, máy bay đang ở trên vùng Sóc Trăng - Thế mà người ta không cày cấy… Cần lo cày cấy! Nước Mỹ không thể nuôi mãi hàng mấy chục triệu dân Nam Việt. - Nolting nói như ra lệnh. Ông ta nói không có gì sai, song Mac Garr cứ cãi:
- Làm sao cày cấy? Ai cày cấy? Ngài quên là cả chúng ta lẫn Việt Cộng đang trong tình trạng chiến tranh.
- Chiến tranh vẫn phải cày cấy… Nhịn đói đánh giặc được sao?
- Chúng ta tranh luận trong phạm trù nào, thưa ngài đại sứ? Phạm trù không ăn thì không làm được bất cứ việc gì. Hay phạm trù cày cấy dưới bom đạn? Trong phòng có máy lạnh và nhất là trên giấy, người ta có thể bắt cả Đức Chúa Trời khiêu vũ. Còn trên trận địa… Mac Garr cười hô hố, rất võ biền.
- Tôi có cảm giác tướng quân sang Việt Nam không một giờ nào rời tiền duyên… Thế mà! - Nolting không chịu thua.
Luân thông cảm với Mac Garr. Ông ta cay cú. Công bằng mà nói, ông ta không có tội - hoặc, chính xác hơn, tội của ông không nặng hơn tội của tổng thống Mỹ. Tuy nhiên, có một lập luận đang lớn dần, quy trách nhiệm cho tướng Mac Garr. Nolting nhúng tay vào việc bẩn thỉu đó. Rồi đây, sau chuyến thị sát, Nolting sẽ góp thêm vào lập luận những bằng chứng. Kennedy cần Mac Garr - Mac Garr phải chịu trách nhiệm về việc Kennedy bắt buộc thêm viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa chống Cộng, lẽ ra có thể không cần nếu Mac Garr giỏi hơn… Nấp sau Mac Garr, Kennedy an toàn trước quốc hội Mỹ.
Mãi đến bây giờ Luân mới hiểu toàn bộ sự việc. Bận suy nghĩ, Luân quên phứt, anh đang bay trên vùng đất quen thuộc. Khi nhớ ra, trực thăng đã sà thấp. Các mái nhà cổ lỗ của Cà Mau vụt qua…
Trực thăng đáp xuống sân bóng. Quân cảnh Mỹ chực sẵn và một sĩ quan quân cảnh làm hiệu cho trực thăng đáp đúng nơi qui định. Họ không xuống sân bay; sân bay dành cho các máy bay hộ tống.
Luân bồi hồi bước lên nền đất. Bảy năm trước, anh từ giã khu giải phóng Tây Nam Bộ và bây giờ, anh vẫn chưa thể trở về đây với tư cách cũ. Hình ảnh bạn bè, các chiến sĩ của tiểu đoàn 420 chạy qua óc anh như một khúc phim. Họ ở đâu, ra sao?
- Trình quý vị, tôi, Vũ Liệu, thiếu tá tỉnh trưởng An Xuyên có mặt.
Một người da sạm, lùn, bụng khá to, cổ nung núc thịt, bê-rê đội lệch, quân phục loang lổ, chiếc thánh giá vàng óng ánh nơi ngực, kính đen to gọng, đang đứng nghiêm.
Theo hướng dẫn của Vũ Liệu, mọi người lên một dọc xe hơi đậu ngoài bìa sân bóng.
Một thiếu phụ đứng trên thang một chiếc trực thăng sơn cờ quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mấy người lính đang lôi từ khoang trực thăng ra những thùng, những bọc. Thiếu phụ chắp tay:
- Chào quý vị ạ!
Bà đẹp, đẹp sắc sảo nữa. Tóc uốn kiểu đào hát bóng, áo dài hồng nhạt, quần sa tanh trắng.
Nolting vui vẻ vẫy tay đáp lễ, nói tiếng Pháp:
- Bonjour, madame (3)
Và, tất cả đều bị bất ngờ, thiếu phụ đáp lại, rất nhí nhảnh:
- Bienvenue, Mon Excellence Nolting!(4)
Hơn thế nữa, bà đưa mấy ngón tay lên môi, hôn gió!
Rõ ràng Vũ Liệu ngẩng đầu hơi cao. Luân biết liền: bà thiếu tá tỉnh trưởng.
Đoàn qua khỏi chiếc trực thăng, Luân còn nghe bà - bây giờ thì giọng the thé:
- Tao đã bảo, bọn mày làm hỏng hết… Đâu, giỏ cà rốt đâu? Quên rồi… Thế này nhé, đứa nào lái trực thăng lên Cần Thơ mua nhanh cà rốt… Lựa thứ thật tươi… Đồ ăn hại!
Nolting, Mac Garr và số sĩ quan Mỹ chắc không hiểu bà ta nói gì. Còn Luân, anh ngẫm nghĩ: “Cái lũ này xô cả bọn chết lẹ thôi”.
Đại tá Lâm đi cạnh Luân, môi bĩu, Luân không đoán nổi đại tá bĩu môi về cái gì…
Dinh tỉnh trưởng - ngôi nhà ọp ẹp, nhưng tiện nghi bên trong khá tốt. Vũ Liệu mời khách giải khát - bia hộp, Pepsi Cola tùy thích.
- Madame vừa rồi là ai? - Nolting hỏi.
- Thưa, vợ tôi - Vũ Liệu trả lời, kiêu hãnh.
- Ô la la! - Nolting nhướng mày, kêu to. - Ông thật hạnh phúc… Bà thiếu tá đẹp, rất đẹp!
Mũi của Vũ Liệu phập phồng. Tốp sĩ quan Mỹ tùy tùng có đứa huýt sáo, có đứa giậm chân, có đứa búng ngón tay bóc bóc…
- Như thế này, tôi muốn thăm qua nơi làm việc của thiếu tá tỉnh trưởng, nếu không quấy rầy ông… - Nolting bảo.
Vũ Liệu đứng lên:
- Xin mời!
Luân định không đi; nhưng Vũ Liệu cầm tay anh:
- Mời trung tá… Ít khi trung tá xuống An Xuyên, mời trung tá quan sát… Để còn trình với ông Cụ giúp đỡ chúng tôi. Nghèo quá, trung tá ạ!
Luân tức cười: Dám cho trực thăng bay về Cần Thơ mua mấy củ cà rốt mà than nghèo!
Vũ Liệu dẫn đoàn khách vào phòng trong, lên cầu thang. Phòng làm việc của tỉnh trưởng khá thoáng, ngó ra con kinh nhỏ. Tường treo nhiều bản đồ với các ký hiệu xanh đỏ li ti. Nolting rõ ràng hài lòng.
- Tốt! - Ông ta vỗ vai Vũ Liệu, theo lối kẻ cả. Chợt Nolting thấy một chồng sách, mỗi quyển khá dày đặt trên bàn viết. Ông ta cầm lên, ngắm nghía. Bìa sách màu sặc sỡ, hình vẽ một lão mang bị, tay co duỗi…
- Sách gì đây? - Nolting hỏi.
Vũ Liệu lúng túng. Tất nhiên, Luân biết đó là sách gì.
- Nói chuyện đánh nhau? - Nolting lại hỏi.
Vũ Liệu gật đầu bừa.
- Đánh nhau bên Trung Quốc? Ngày xưa?
Vũ Liệu lại gật đầu.
Hiểu lầm thái độ của Vũ Liệu, Nolting bảo:
- Sách khó hiểu? Không sao. Bao giờ cũng vậy, bước đầu tiếp xúc với các kiến thức phong phú, thâm trầm dễ khiến người kém nghị lực nản lòng. Vả lại, thiếu tá đừng ngại. Người Mỹ chúng tôi cho rằng đánh giặc ở phương Đông phải học sách vở phương Đông. Tôi đặc biệt phấn khởi biết một sĩ quan Việt Nam chăm chú học…
Nolting bắt tay Vũ Liệu, rồi quay sang Luân:
- Tôi thành thật chúc mừng Tổng thống Diệm!
Vũ Liệu liếc Luân thật nhanh. Luân tươi cười bắt tay cám ơn Nolting.
Đại tá Lâm, đi sau đoàn khách, lại bĩu môi. Anh ta còn chơi ác, nhè lật tập sách, đọc lẩm nhẩm. Mặt Vũ Liệu tái dần. May quá, Nolting bước ra bao lơn.
- Dãy nhà gì kia? - Ông ta trỏ dãy nhà lắp ghép sơn xám cạnh rào dinh tỉnh trưởng.
- Thưa, nhà nghỉ của các cố vấn Mỹ. - Vũ Liệu trả lời lắp bắp, quên cả cách phát âm tiếng Anh.
- Ta đến đó! - Nolting bảo.
Xuống thang lầu, đại tá Lâm hích vào vai Luân:
- Anh chưa đọc “chưởng” bao giờ?
Luân cười, không trả lời đại tá Lâm mà hỏi Vũ Liệu:
- Thiếu tá luyện môn nào? Hàm mô công hay Nhất dương chỉ hay Giáng long thập bát chưởng?
Mặt Vũ Liệu vụt đỏ rần, các nọng thịt đỏ theo.
- Té ra trung tá Luân cũng thạo Anh hùng xạ điêu của Kim Dung. - Đại tá Lâm cười ục ục trong cổ.
- Tôi còn biết bộ “chưởng” đó do Hàn Giang Nhạn dịch, nhà An Hưng xuất bản, trọn bộ tám cuốn, dày lối bốn nghìn trang!
Luân trả lời, giọng vui. Anh chưa đọc, đúng vậy, song đại úy Nguyễn Thành Động thuộc làu, kể cho Luân nghe nhiều lần.
- Nhưng anh chưa biết giữa các quyển chưởng còn có cái khác. - Lâm bảo nhỏ.
- Cái gì?
- Điều lệ của đảng Đại Việt… Ông Vũ Liệu là đảng viên Đại Việt.
- Sao anh biết?
- Thì bìa điều lệ ghi: gửi đồng chí Vũ Liệu…
- Đại Việt nào?
Lâm nhún vai:
- Tới mấy Đại Việt?
- Ít ra, ba!
- Tôi chào thua… Đảng mẹ gì mà giống con hoang vậy…
Lâm cung cấp cho Luân một chi tiết quan trọng. Thì ra, Đại Việt dâm cây những chỗ khá béo bở…
Nolting đến dãy nhà lắp ghép. Nhà mới, mùi dầu thông nực mũi. Tất cả 25 gian, mỗi gian chia thành phòng ngủ, làm việc… cho một người, đủ tiện nghi, có cả máy lạnh và tủ lạnh.
Tony Forting bảo cái gì đó với Thomas Hayden. Thomas trả lời xong. Tony huýt sáo mồm.
Môi của đại tá Lâm lại bĩu dài - Luân chưa rõ lý do.
*
Sau buổi ăn trưa nhẹ, Nolting cùng đoàn tùy tùng lên trực thăng. Mac Garr không đi. Ông ta bảo đã thuộc lòng vùng đất Mũi. Hiện giờ, ông thích nhâm nhi Whisky.
Máy bay theo hướng đông nam, lướt trên thảm xanh của khu rừng đước rậm rạp, thỉng thoảng bị chia cắt bằng các con kinh phòng hộ có tự thuở nào và các con rạch uốn lượn.
Nolting không rời ống dòm. Luân quan sát bằng mắt thường. Với anh, đây là vùng đất hết sức thân quen. Anh đã chiến đấu tại đây, đã cùng đồng đội hành quân, luyện quân. Kỷ niệm một thời sống dậy mãnh liệt, da diết. Dưới tàn đước kia hẳn là những “làng rừng”, bây giờ, đồng bào không thể ở phơi ngoài trống nữa, máy bay Mỹ dữ dội hơn máy bay Pháp nhiều. Song, những “làng rừng” vẫn sống. Hẳn có họp xóm, họp đoàn thể, hẳn có đủ ca múa thiếu nhi. Rồi bộ đội lại về “làng rừng”, du kích lại tuần tra, các bà má lại lo chăm sóc đàn con đông dày, có đứa từ Bắc, từ Trung vào… Anh không thể hình dung cảnh ngày nay so với lúc anh ở tiểu đoàn 420 nhưng anh nghĩ là đại thể cũng giống nhau. Đúng ra, anh khó nhận dấu cũ - rừng rậm hơn xưa - trừ con sông Bồ Đề vẫn cuồn cuộn.
Trực thăng chếch về hướng tây nam. Một khu có vẻ là thị trấn hiện rõ lần. Nhiều hố bom; nhà cửa chỉ là đống tro đen ngòm, trừ một vài cái lác đác nấp dưới bóng cây. Thế là chợ Năm Căn không còn nữa.
- Không tốt! - Nolting kêu lên - Sao chưa bắn cháy nốt mấy cái chòi kia?
Nolting không hỏi đích danh ai, nhưng Vũ Liệu đã mau miệng:
- Vâng, tôi sẽ xóa chúng…
Mũi Cà Mau giống ngọn lao phóng ra biển cả, từng ngọn sóng ồ ạt phủ lên mõm đất nhọn rồi như hoảng hốt, giật lùi. Cảnh tượng hùng vĩ ấy không biết gợi cho Nolting cảm hứng như thế nào mà ông ta quay lại, nói với đại tá Lâm và Luân, kiểu một triết gia:
- Nam Việt là một tiền đồn, không theo nghĩa đen. Tôi từng có ấn tượng này khi xem bản đồ. Hôm nay, trên thực địa, quả tôi không lầm. Nếu các đảo Nhật Bản và đảo Đài Loan được ví như chiếc phao lềnh bềnh trên sóng biển thì bán đảo Cà Mau của quý vị chính là chiếc cầu đổ bộ rất kiên cố, chiếc cầu khổng lồ đúc bằng bê-tông cho phép nước Mỹ nối liền với lục địa châu Á. Một bàn đạp vô giá của Mỹ ở phương Đông. Tổng thống Diệm đã nói chí lý: Biên giới của nước Mỹ kéo dài tận vĩ tuyến 17.
- Hình như trước kia, trung tá Luân sống ở vùng này? - Nolting chợt hỏi.
- Vâng… Tôi chiến đấu ở vùng này - Luân trả lời, giả bộ như lơ đãng.
- Sống hay chiến đấu khác gì nhau? - Nolting cười mỉm - Thôi được, hiện giờ, dưới đó, cũng đang có những kẻ áp bàn chân lên đúng vết chân của người đi trước theo một xác tín đã thành mê tín: nước Pháp từng bại trận bởi những người đi dép bằng lốp ô tô, thậm chí, đi chân đất. Họ hiểu lịch sử như cái vòng khép kín, cố định, mặc dù họ tự xưng là phần tử duy vật biện chứng. Với họ, nước Pháp là đỉnh cao của sức mạnh. Nước Pháp đã đầu hàng độ dày của cành lá rậm rạp kia và thiên huyền thoại về chiếc áo giáp lá cây cứng hơn mọi thứ hợp kim ra đời…
Luân không ngắt lời ông ta. Nolting lại cười, với vẻ bao dung:
- Thời trung tá ngồi trong chỉ huy sở dưới tàn cây, lá cây chỉ rụng theo thời tiết. Còn bây giờ, với khoa học của nước Mỹ, việc lột chiếc áo giáp kia để nhìn tận rễ cây thì thật không có gì dễ hơn, vài chuyến máy bay với một khối lượng hóa chất nào đó, chúng tôi làm ra thời tiết theo ý muốn… Vài hôm nữa, phi hành gia Mỹ Johnson Glenn bay vào vũ trụ. Ngay các vì sao từ nay cũng khó giữ các bí mật của mình, chứ đừng nói một khu rừng…
- Tôi không nghi ngờ một chút nào về khả năng của khoa học, - Luân thấy cần nói, sau khi suy tính mức độ phản ứng - Khoa học quân sự của Mỹ và nói chung của thế giới hiện nay bắt các khu rừng để mình trần. Hơn thế nữa, bắt các khu rừng hết còn là rừng. Song, giải chiếc áo giáp của rừng với giải giáp con người có lẽ không giống nhau. Và, chúng ta quan tâm đến con người, đến sự chống đối, không phải của rừng mà là của con người.
Luân cũng cười mỉm.
Nolting gương mắt ngó Luân:
- Ồ! Trung tá hùng biện thật. Con người, hẳn trung tá muốn nhắc Việt Cộng? Theo tôi hiểu, trung tá là một chiến binh theo đúng nghĩa, thế mà chẳng lẽ hai phát đạn ở hai nơi - xin lỗi, phát thứ nhất ở một miền rừng nào, tôi không nhớ, phát thứ hai ở Bến Tre - chẳng lẽ hai phát đạn nhỏ xíu ấy đã làm trung tá hoảng? Tôi nói đùa thôi. Có lẽ quan điểm của trung tá bám chặt trung tá. Lần gặp trung tá đầu tiên, hình như tôi cũng nghe một câu tương tự… Tôi nhắc nhận xét của đại tá Thompson. Trung tá quen ông ấy?
Luân gật đầu.
- Chuyên gia chống du kích cớ lớn đấy… Đại tá nói rằng ở Mã Lai, khi người Anh cắt đứt mối đồng lõa giữa Cộng sản và rừng thì một tình huống phức tạp phát sinh: làm thế nào đủ chỗ giam giữ bọn đầu hàng?
- Binh thư phương Đông coi trọng ba mặt: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ở đây, ta không cần trao đổi về thiên thời - mỗi người hiểu mỗi phách. Cộng sản không tin có thượng đế, thiên thời đối với họ là thời thế. Về mặt này, Việt Nam Cộng hòa hội nhiều điều kiện tốt hơn Cộng sản. Nhân hòa? Các ông đang thực hiện kế hoạch Staley - Vũ Quốc Thúc, ấp chiến lược sẽ giúp các ông nắm dân.
Tổ chức toàn xã hội Nam Việt thành pháo đài, đơn thuốc đó quả của danh y. Sau chót, địa lợi. Ở đây, địa lợi là rừng. Nước Mỹ sẽ giúp các ông giành nốt địa lợi về các ông… Các ông có thể tin cậy nước Mỹ, song, dù cho quốc ca Anh có câu God save the king (5) thì phương ngôn Pháp lại dạy chúng ta: Aides toi, le ciel t’aidera (6)… Các ông phải tự cứu. Các ông bị chủ nghĩa dân tộc đầu độc quá nặng. Con người! Con người!… Hừ… - Nolting kéo dài giọng - Đồng bào… Trung tá nhận hai bản án tử hình đều do “đồng bào” của trng tá thực hiện… Không có “đồng bào”. Chỉ có các ông và Cộng sản…
Nolting vụt hỏi Vũ Liệu:
- Tôi nói đúng không, ông tỉnh trưởng?
Vũ Liệu hấp tấp:
- Yes, yes… All right (7)
Nolting quay sang đại tá Lâm:
- Tôi nói đúng không, đại tá?
Đại tá Lâm nhếch mép:
- Tôi không giỏi về chính trị nên không làm trọng tài được!
Nolting sững sờ mấy giây. Rồi, như nghề ngoại giao đã dạy ông ta, Nolting cười - không thể cắt nghĩa nụ cười của ông ta - và giương ống dòm lên.
Bỗng, ông ta kêu to:
- Cái gì kia? Các ông xem…
Trực thăng đang bay trên một dòng sông. Luân biết đó là sông Ông Đốc - vàm sông năm xưa anh tiễn các đồng chí trong tiểu đoàn xuống tàu Arkengels tập kết, ôm hôn Vũ Thượng và Lưu Khánh, mờ sáng lặng lẽ rời tàu, dấn vào cuộc đấu tranh kỳ lạ cho tới nay.
- Người ta đang làm mùa… - Vũ Liệu trả lời.
Dưới máy bay, nhiều vật trắng động đậy giữa cánh đồng ngập nước.
Nolting chỉnh ống dòm:
- Không phải làm mùa… Một cuộc tập trận. Đúng… Hình như có cả cỗ pháo nữa! Lên cao! Nhanh! - Nolting ra lệnh líu lưỡi, bảo Vũ Liệu: - Ông quan sát kỹ nào!
Vũ Liệu chìa cả ống dòm ra ngoài cửa máy bay.
- Nó tập trận, đúng không?
Nolting hỏi dồn dập. Vũ Liệu gật đầu.
- Một cuộc tập trận của Việt Cộng!
Nolting ra lệnh cho tá trưởng phi hành đoàn.
- Gọi máy bay oanh tạc!
Viên đại tá - có vẻ miễn cưỡng - vặn đài liên lạc.
Luân bình thản, bảo:
- Đừng gọi, mất công! Phụ nữ làm mùa. Họ đang cấy. Những chấm trắng là chiếc nón lá. Còn cái mà ngài đại sứ ngỡ là khẩu đại bác, chỉ là càng xe trâu chở mạ…
Nolting lại cầm ống dòm:
- Có lẽ trung tá nói đúng… Thiếu tá tỉnh trưởng thấy thế nào?
Vũ Liêu không phải là hạng người biết hổ thẹn:
- Thưa, đúng là nông dân làm mùa!
- Cách làm mùa ở Việt Nam khác ở Mỹ, tôi lầm. - Nolting nói xong, thoải mái tựa lưng vào ghế, ngầm bảo rằng sự lầm lẫn của ông ta cần phải được mọi người kính trọng. Độ vài giây, ông ta bật dậy:
- Không được! Ông Vũ Liệu nghe chưa! Không được cho phép bọn ở vùng Việt Cộng làm mùa…
Có lẽ Nolting chợt nhớ cuộc cãi lộn giữa ông ta và Mac Garr trên vùng trời Sóc Trăng.
- Có nên ra lệnh cho máy bay… - Vũ Liệu rất sẵn sàng chôn vùi các chiến nón trắng và việc đó sẽ đến trong vài phút, bởi đội AD6 vẫn ở trong tầm điều khiển của trực thăng chở Nolting.
Nolting ngần ngừ một lúc:
- Thôi, các ông sẽ chấm dứt chúng khi lúa trổ, như thế hiệu quả hơn. Hôm nay, ta đi dạo, đừng để bom đạn làm mất vui…
*
Tiệc bắt đầu khi trời lặn. Dinh tỉnh trưởng rực rỡ ánh đèn vừa mới kết thêm. Trong bộ quần áo dân sự, Vũ Liệu vẫn không bớt vẻ thô kệch. Vợ Vũ Liệu, mọi người đã biết tên bà ta, Trúc Đào - lộng lẫy tương xứng với bữa tiệc. Vũ Liệu khỏi phải dành cho Mac Garr mấy câu chúc tụng, tướng quân đã say nhừ. Vũ Liệu dành cả mười phút nói lên niềm hoan hỉ được đón Nolting, đại diện của nước Mỹ vĩ đại. Vũ Liệu cho biết “bữa ăn gia đình” này do Trúc Đào nấu. Trừ món tôm và lươn là sản phẩm Cà Mau, tất cả được mua ở Sài Gòn và Cần Thơ. Rượu, thuốc lá hảo hạng. Khăn lau ướp lạnh và sực nức mùi nước hoa đắt tiền.
Nolting và Trúc Đào sánh vai nhau ở đầu bàn, vị trí của chủ nhân. Ngoài số quan viên văn võ An Xuyên, hàng chục cô gái chia nhau kề cận khách - chẳng rõ họ tự đâu tới và nghề thật sự của họ là gì.
Trúc Đào vận chiếc áo vải thô, không tay. Hai bờ vai và cả một phần ngực để trần. Chiếc váy ngắn giới thiệu đầy đủ cặp đùi và bắp chân rắn chắc của bà ta.
Mọi người đã chếch choáng. Nolting bắt đầu háo hức nhìn Trúc Đào. Nhiều tiếng nữ rú the thé trước bàn tay cựa quậy của các sĩ quan Mỹ. Tony Forting, chắc là định nói khẽ thôi, song rượu đã không cho phép gã làm như ý. Gã nói vào tai cô gái cạnh gã.
- Tôi muốn ngủ với bà tỉnh trưởng, được không?
- Bậy! - Cô gái giãy nãy, cô nói tiếng Anh chưa được sõi.
- Sao bậy? - Tony nheo mắt.
- Chị tôi đấy!
- Chị thì chị… Nhưng, tôi thích. Tôi chỉ ngủ với bà ta khi bà ta khi bà ta có giấy chứng nhận chưa hề mang vi trùng Gônô… - Rồi Tony nhăn nhở - Đêm nay, tôi ngủ với cô… Bằng lòng chứ?
Tony đặt tay lên cổ cô gái.
- Năm dollar. Được không?
Cô gái cúi đầu, mặt đỏ bừng.
Thomas, ngồi đối diện, la ầm:
- Sao đắt thế? Ba dollar… Mà phải bắt nó tắm rửa thật sạch. Bọn gái Việt lắm rận, tởm khiếp!
Không ai trong bữa tiệc kể cả Vũ Liệu không nghe lời của ba người. Bọn Mỹ cười hô hố. Bọn sĩ quan dưới trướng Vũ Liệu gằm mặt ăn. Các cô gái cắn môi. Hình như, có cô khóc.
Luân không thể tiếp tục ngồi. Anh sợ mình không tự chủ nổi. Cũng chẳng ai để ý anh rời chỗ - có thể trừ cô gái “phần riêng” của anh. Nolting đờ đẫn. Nhà ngoại giao không thèm giữ thể thống nữa, có vẻ sắp nuốt chửng vợ Vũ Liệu.
Luân ra hàng hiên. Không khí bên ngoài giúp anh lấy lại bình tĩnh. Người anh chạm mặt là đại tá Lâm.
- Bọn chó đẻ! - Đại tá Lâm chửi đổng - Hồi sáng, tôi đã nóng. Thằng Tony nói gì với thằng Thomas khi vào khu nhà lắp ghép, anh biết không?
Dĩ nhiên, Luân không biết.
- Nó bảo: Mày ghi cho kỹ các đồ vật, bọ Việt chúa ăn cắp, kể cả tỉnh trưởng. Phải buộc nó ký nhận. Thằng Thomas trả lời: Đừng lo, mất một món trong nhà lắp ghép, tao bắt lão phải đền bằng cách để vợ lão ngủ với tao một đêm. Con mụ đứng trên cầu thang trực thăng đó… Bọn chó đẻ!
Luân không bình luận gì thêm.
- Tôi đi nghỉ! - Luân bảo.
- Tôi cũng vậy…
Luân phát hiện sự thay đổi của Lâm đối với anh: hình như nể hơn và thân hơn…
Hai người lên lầu, còn kịp thấy vợ Vũ Liệu rỉ tai Nolting. Gã đại sứ cười sặc sụa.
Lâm ngả lên gường và sau vài phút, ngáy vang. Luân mở rộng cửa phòng, ngắm bầu trời Cà Mau đầy sao…
---
(1) Nolting chơi chữ. “General” vừa có nghĩa là “đại tướng” vừa có nghĩa là “tướng quân”. Hàm đại tướng mang 4 sao, nhưng Mac Garr chỉ mới mang 3 sao.
(2) Gọi thân mật Eisenhower.
(3) Chào bà
(4) Chào mừng Ngài Nolting.
(5) Chúa phù hộ đức vua.
(6) Hãy tự cứu, trời sẽ giúp anh.
(7) Vâng, vâng, chí lý!
CHƯƠNG 6
“Tên Thái thú thời nay đây rồi!” Chuyến thị sát vùng Cà Mau đã cho Luân
cái ấn tượng khá sâu đậm về Nolting và bọn cùng đi. Giờ thì chúng trút
bỏ cái vỏ đại đức khoác kỹ 6, 7 năm nay. Mục đích xa, mục đích gần, mục
đích của chính phủ Mỹ và mục đích riêng của từng tên Mỹ đến Việt Nam
phơi bày không cần cả một tế nhị nhỏ. Tất nhiên không mấy ai chứng kiến
tận mắt, song qua cái mặt thỏa mãn của Nolting vào trưa hôm sau - gã dậy
rất trễ - mọi người dễ dàng đoán cái gì xảy ra đêm hôm qua giữa gã và
mụ vợ Vũ Liệu. Không chỉ có Nolting. Cả nhóm Mỹ tùy tùng, trong các ngôi
nhà lắp ghép…
- Thấy thằng Liệu, tôi muốn “phơ” vô bản mặt nó một băng!
Đại tá Lâm hầm hừ. Anh ta thậm chí không thèm bắt tay Trúc Đào: Con đĩ ngựa này thế nào cũng bị con mẹ Lệ Xuân lấy thẹo!
*
Sự
thể biến đổi khá nhanh từ sau thông báo Johnson - Diệm và khi Staley
bắt đầu nhẩm tính các con số với Vũ Quốc Thúc: con số của Staley quy
thành dollar, còn con số của Thúc quy thành nhân mạng… Vũ Liệu, lù khù
về hình thức, lại rất nhạy về hướng gió. Chính cái phát hiện của Lâm
giúp Luân hoàn chỉnh thêm bảng phân tích tình hình: Vũ Liệu thuộc đảng
Đại Việt, tuy chưa rõ Đại Việt nào. Cái pha phục thù rùng rợn bắt đầu
rồi đó. Sáu năm trước, Diệm thanh toán đẫm máu Đại Việt ở Ba Lòng, những
tên nuôi mộng là vương làm tướng này tạm thời chịu lép bề ngoài, ngầm
bành trướng thế lực - Luân hiểu “bành trướng thế lực” bao gồm luôn tạo
mối quan quan hệ với CIA. Hình như các nhóm Đại Việt Trương Tử Anh, Hà
Thúc Ký, Nguyễn Tôn Hoàn đã thoả thuận thống nhất hành động qua tổ chức
“Phòng trào quốc gia cấp tiến” do Nguyễn Ngọc Huy đứng tên - Huy là nhân
viên CIA, học hành đúng “bài bản”. Chúng lôi kéo thêm cánh Quốc dân
đảng miền Nam của Nguyễn Hòa Hiệp - một phần tử lưu manh từng chỉ huy đệ
tam sư đoàn đầy tội ác trong năm đầu kháng chiến chống Pháp. Sau lưng
Đại Việt là nhà sư di cư Thích Tâm Châu nhiều tham vọng trần thế. Trận
đồ coi như lần lần hình thành. Nguyễn Chánh Thi, lãnh tụ Đại Việt, nổ
súng cuối năm ngoái. Mỹ chưa muốn đi quá xa trong thái độ đối với Diệm
song vẫn hết lòng che chở cho đảng này trước các cuộc truy tầm gắt gao
của Diệm.
Vậy thì, chuyến thị sát Cà Mau không thể hiểu như chuyến
công cán bình thường của Nolting và Vũ Liệu dâng vợ cho Nolting cũng
không thể hiểu như chỉ vì y ta muốn thăng quan tiến chức.
Điều mà
Luân đang chắp nối từ nhiều hiện tượng riêng lẻ, được Nolting làm sáng
tỏ tại Cần Thơ. Trước các sĩ quan và viên chức Mỹ - Việt vùng sông
Bassac tập trung đón tiễn Nolting - đại sứ dạo thăm thành phố một vòng -
Nolting nói, rất trân trọng: “Chính phủ Mỹ, thiết tha với sứ mệnh bảo
toàn độc lập và tự do của Việt Nam Cộng hòa, ngày càng xác tín rằng đất
nước này đủ khả năng phối hợp hơn với chúng tôi trong sự nghiệp cao cả
đó. Nhân tài Việt Nam Cộng hòa đấy dãy. Tỉ như qua chuyến công tác ở mũi
Cà Mau, tôi làm quen với ông thiếu tá tỉnh trưởng Vũ Liệu, một con
người xuất sắc trong nghề cai trị cũng như nghề chỉ huy quân sự. Vấn đề
là, thưa các ông, cách sử dụng các nhân tài đó. Mọi thiên kiến về tôn
giáo, về sự khác biệt chính trị sẽ gây tổn thất cho cuộc kháng chiến
chống Cộng”
Đại tá Trần Thiện Khiêm - đứng đầu hàng - chập gót chân
khi Nolting dứt lời. Thật ra, vị chỉ huy khu vực có một động tác không
đúng lúc - chẳng sĩ quan nào làm như đại tá - song có thể lời hứa hẹn
bóng gió kia của Nolting kích thích anh ta đến nỗi không còn tự chủ
được.
Luân chợt nhớ viên sĩ quan cấp úy Nguyễn Cao Kỳ cố ngoi lên
trước Nolting, ngay chân cầu thang trực thăng tại Tân Sơn Nhứt, mà cái
gạt khinh miệt của Tony Forting không thể kéo hắn ta trở về thực tại…
Chẳng
rõ Vũ Liệu có thông báo cho Trần Thiện Khiêm hay không mà phòng khách
sân bay Trà Nóc chìm trong mà da thịt các cô gái, dù Nolting chỉ dừng
chân ngắn ngủi.
Thế là đã rõ!
Luân báo cáo khá tỉ mỉ các hiện
tượng trong chuyến đi của Nolting cho Nhu, tất nhiên không nói gì đến
đại tá Lâm và cũng tất nhiên không bình luận. Lệ Xuân chăm chú nghe.
-
An Nam đô hộ phủ? - Nhu làu bàu, đẩy về phía Luân tờ trình của Bộ tổng
tham mưu. Theo tờ trình, người Mỹ yêu cầu thăng Vũ Liệu từ thiếu tá lên
trung tá và giao ông ta chỉ huy thiết giáp.
- Được! Tôi đồng ý… - Nhu bảo - Tôi muốn thằng Đại Việt nhóc con này ở cạnh tôi…
Luân không thể bắt gặp cặp môi chợt cong của Lệ Xuân, kèm theo cái nhếch mép khó hiểu.
*
Luân
về nhà, chưa thay quần áo thì James Casey đến. Gã được thăng trung tá
sau các vụ biệt kích ở Bến Tre. Với vẻ mặt rầu rầu, James Casey thông
báo một tin nghẹt thở: huấn luyện viên biệt kích Vũ Huy Lục đào ngũ.
James
Casey đưa cho Luân tờ trình của thiếu tá trại trưởng, một Anthony
Lambroisky nào đó. Cố nén xúc động, Luân đọc. Theo tờ trình, huấn luyện
viên chuẩn úy Vũ Huy Lục phục trách môn nhảy dù và đổ bộ đường không
thám báo thường ngày vẫn đến lớp - trường biệt kích đặt ở gần Hải học
viện Nha Trang - sáng ngày kia, 3-7, bỗng không đến lớp. Ngưòi ta đi
tìm, không gặp Vũ Huy Lục ở các nơi anh ta lui tới. Lục sống độc thân
trong ngôi nhà dành cho huấn luyện viên. Phòng Lục còn nguyên đồ đạc.
Nhiều giả thuyết được nêu lên: Lục chết đuối - giả thuyết này không vững
vì Lục bơi rất giỏi, lại ít khi bơi xa và biển trong những ngày này êm.
Lục bị Việt Cộng bắt cóc - cũng không có cơ sở vì Lục chỉ quanh quẩn
trong thành phố. Lục đi chơi - cũng thế, Lục là một quân nhân rất kỷ
luật. Thế là đến giả thuyết sau cùng: Lục đào ngũ. Thiếu tá trại trưởng
lưu ý thêm một chi tiết: Ngày 1-7, đội người nhái đầu tiên của Hải quân
Việt Nam trình diện tại Nha Trang, liệu rằng hai sự việc này có quan hệ
với nhau không?
Tuy đầu óc rối bời, Luân vẫn theo dõi James Casey.
Cái gì đây? Tình báo Mỹ đã phát hiện Lục? Và như thế có nghĩa là “bản
tango số 3” lộ tẩy.
James Casey không thay đổi sắc mặt mà hắn mang
đến lúc đầu - rầu rầu. Có t thể là một màn kịch… Luân mau chóng rút ra
giả định: James Casey và tình báo Mỹ nghi ngờ Vũ Huy Lục, bắt anh, sau
một lúc điều tra, thủ tiêu anh. Cũng còn giả định khác: Chúng đang giam
giữ Lục và trọng tâm mà chúng quyết cạy răng Lục là thân phận Luân… Bất
kể như thế nào, sự thể rất nguy hiểm.
Luân trả tờ trình cho James
Casey, ngồi phịch xuống ghế, ôm đầu… Anh rơm rớm nước mắt. Luân vốn rất
thương Lục. Trong trường hợp này, anh chọn phương pháp không giấu giếm
tình cảm đó.
- Như vậy nghĩa là thế nào? - Luân hỏi, nghẹn ngào.
-
Mất tích… - James Casey đổi nội dung của tờ trình - Tôi thích dùng chữ
mất tích hơn đào ngũ. Không có một chứng cớ nào để buộc chuẩn úy Lục vào
cái tội xấu xa như vậy. Tại sao không là mất tích? Mất tích rộng nghĩa
lắm. Một tai nạn, một sự cố mà chuẩn úy là người phải gánh chịu… Kể cả
bị bắt cóc. Ai bắt cóc? Chắc không ít kẻ thèm biết về bên trong trại
biệt kích. Nha Trang không còn chỉ là bãi biển danh cho du khách. Cộng
sản xuất hiện vùng trung du khá thường… Trước khi có chứng cớ, không ai
có quyền tuyên án chuẩn úy Lục. Tôi biết trung tá xúc động. Tôi cũng xúc
động. Ta hãy cầu Chúa cho chuẩn úy…
James Casey đẩy các quân của
hắn trên bàn cờ về phía trận địa Luân? Luân suy tính. Anh từ từ ngước
mắt lên và James Casey thấy trong mắt Luân loé một tia vụt sáng.
- Trong tờ trình, trại trưởng có nhắc đến lễ trình diện người nhái… - Luân rắn rỏi trở lại.
- Tôi không tin… Trại trưởng giàu tưởng tượng thế thôi - James Casey xua tay.
-
Biết đâu. Cả trung tá và tôi, chúng ta không gần Lục. Hơn nữa, thời
gian Lục hoạt động ở Bắc Việt cũng khá lâu… Biết đâu… - Luân rấn tới.
-
Tôi không tin chừng nào người ta chưa chìa cho tôi bằng chứng… Còn thời
gian Lục ở Bắc Việt, tôi đảm bảo với trung tá. Nhiều “vọng gác” kiểm
tra anh ta, các “vọng gác” đều nhận xét ăn khớp: một con người hoàn hảo…
- Tại sao các ông gọi anh ta về Nam?
- Theo một “vọng gác”,
Lục ở lâu không lợi, dù anh an toàn tuyệt đối khi chạm đất. Không bị
phát hiện, anh vào khu nhà thờ và được che chở. Song, người cha cố nhà
thờ sau này có vẻ dao động. Vả lại, những điều ta cần, Lục đã cung cấp
đủ… - James Casey trình bày gần như thanh minh.
- Dù sao, tôi nghĩ cũng nên đề nghị trại trưởng lý giải nghi vấn của ông ta. Có thể ông ta có tài liệu…
-
Tôi đã làm việc đó. Tôi điện thoại mật cho ông ta. Như tôi đoán, ông ta
thích tưởng tượng, thích làm ra vẻ ta đây là con người biết xâu các dữ
kiện. Tôi hỏi: Nếu cho rằng Vũ Huy Lục đào ngũ thì anh ta đào ngũ bằng
cách nào, theo hướng nào? Trại trưởng im lặng mà tôi biết ở đầu máy kia,
ông ta so vai nữa. Đám người nhái là cái gì buộc Lục phải đào ngũ, giả
dụ Lục là tình báo của Việt Cộng? Trường biệt kích không đủ cái cần phải
báo với Việt Cộng hay sao? Và, đã thế, tội gì Lục phải đào ngũ? Vừa làm
huấn luyện viên vừa gửi tin tức cho Việt Cộng, không tốt hơn sao?
James Casey hùng biện, y như hắn tự bào chữa.
-
Tôi sẽ đứng về quan điểm của trung tá chừng nào trung tá chứng minh
được Lục vắng mặt vì một lý do không phải là đào ngũ… - Luân nói từng
tiếng.
- Tất nhiên tôi sẽ chứng minh… Tôi nghĩ đến một thế lực nào
đó hoặc nhắm vào tôi, hoặc nhắm vào trung tá mà bắt cóc hoặc ám hại
chuẩn úy Lục.
James Casey đứng lên.
- Tôi khác hẳn trung tá. -
Luân cũng đứng lên - Tôi thấy rất ít khả năng theo hướng đó… Lục tách
chúng ta quá lâu, chẳng giúp gì cho các người không thích chúng ta - tôi
cứ cho quả có ai đó không thích tôi đến mức bắt cóc hay ám hại người
liên quan với tôi.
James Casey lắc đầu:
- Ông quên bà kỹ sư từng bị bắt cóc ở Bình Dương. Tiện thể, tôi đề nghị trung tá dặn người thân lưu ý…
Luân
tiễn James Casey ra cổng. Mấy phút sau, Dung về. Nghe tiếng đóng cửa xe
và bước vội của Dung, Luân đoán có việc gì khẩn cấp đây.
Đúng, Dung mất bình tĩnh, kéo Luân xuống ghế, thì thào:
- Cô, chú em bị bắt rồi!
- Ai bắt?
-
Không rõ… Em đi làm về ghé tạt qua nhà cô, chú như thường lệ. Bà giúp
việc thấy em, khóc oà. Theo bà, trước đó độ mười lăm phút, một xe đỗ
trước nhà. Chú vừa từ phòng mạch về, đón khách. Tất cả bốn người. Họ bảo
gọi cô. Bà giúp việc nép phía sau nhà thấy họ đọc một tờ giấy - đọc cái
gì, bà giúp việc không nghe được - xong thì cô dặn bà coi chừng nhà,
rồi theo bốn người ra xe. Mặt cô tái xanh. Chú có vẻ tỉnh táo hơn… Xe
sắp chạy, một trong bốn người trở vào dọa bà giúp việc: Đừng gọi điện
thoại cho anh hay cho cho em.
“Một cuộc tổng nổ súng?”, Luân trầm ngâm.
Chuông ngoài cổng réo. Thạch mở cổng.
Thằng cháu kêu Luân bằng chú ruột như cơn gió, ùa vào phòng:
- Ba bị bắt rồi, chú Bảy ơi!
- Ai bắt?
Sự việc giống hệt nhà cô, chú Dung.
- Đúng là tổng nổ súng… - Luân lập lại ý nghĩ bằng lời.
- Ai nổ súng? - Dung hỏi.
- Cháu về nhà… Không sao đâu. Chú sẽ lo vụ này. - Luân không trả lời Dung, dặn đứa cháu…
-
Ta dùng phương pháp éliminatoire (1). Theo anh, James Casey không nhúng
tay vào. Cuộc nói chuyện vừa rồi với hắn cho phép anh tạm kết luận như
vậy.
- Anh vừa nói chuyện với James Casey?
- À, anh quên là em chưa biết tin Vũ Huy Lục mất tích.
- Sao? - Dung hốt hoảng.
- Em hãy nghe… - Luân thuật vắn tắt tờ trình của trại trưởng biệt kích và cách lập luận của James Casey.
- Em thấy James Casey có lý…
-
Cứ hẳn cho như vậy. Trần Kim Tuyến? Không có cơ sở… Nha Tổng giám đốc
công an? Càng ít cơ sở hơn. Đại Việt? Có thể… Song để làm gì? Công dân
vụ? Trần Vĩnh Đắt, Hoàng Đình Duyệt “hưu chiến” với chúng ta từ lâu… Các
đội biệt động thành? Không hành động kiểu đó.
- Đến đây, thủ phạm đã lộ mặt: Mai Hữu Xuân! - Dung nói to và hỏi luôn: - Nhưng để làm gì?
- Rồi ta sẽ hiểu…
- Liệu tính mạng của những người bị bắt… - Dung hỏi dồn.
- Theo anh, không nguy hiểm lắm. Mục đích rõ ràng là nhắm vào chúng ta…
- Phải làm gì?
- Anh còn chờ tin Lê Ngân. Đã thế này, họ đụng đến tất cả. Cả vợ Thạch ở chợ Gạo, cả Thạch… Gọi Thạch cho anh.
Thạch
không cung cấp cho Luân một hiện tượng gì đặc biệt. Cậu ta lại không
biết tin của vợ con… Chị Sáu nấu bếp cũng vậy. Có thể vì những người này
ở cạnh vợ chồng Luân mà họ chưa ra tay…
- Chú thử nhớ xem… Giả tỷ như người nào hỏi thăm nhà vợ chú… - Luân gợi ý Thạch.
-
Cũng có! - Thạch trả lời - Mà em thấy chuyện thường… Ông Ly Kai, hôm
trung tá đi Cà Mau về, gặp em ở sân ngoài dinh Độc Lập, mời em đi uống
rượu. Em từ chối. Ổng mới lân la hỏi về vợ con em…
Mắt Luân rạng
rỡ. Anh bắt được đường dây và do đó, hiểu thêm ý nghĩa của vụ “tổng nổ
súng” này. Theo Thạch, Ly Kai hỏi khá kỹ tên xóm ấp quê Thạch. Thạch vui
miệng nói hết.
- Có sao không? - Thạch lo lắng.
- Về phần vợ
con chú thì chắc chắn là vô sự, bởi chú đã khoe nhà chú ở sâu trong
ruộng, Việt Cộng hay tới tui… Công an, mật vụ hay an ninh quân đội đâu
dám mò xuống… Cái bậy là chú không hẹn đi nhậu với Ly Kai. - Luân tiếc
rẻ.
- Em đẩy đưa, nói là để coi bữa nào trung tá không đi đâu, em
sẽ báo cho ông ta. Nếu trung tá cần, em hẹn liền… Ông ta có cho em số
điện thoại.
- Vậy, chú gọi Ly Kai liền bây giờ… Chú nói là tôi và
cô Dung từ chiều ở trong dinh, sẽ ăn cơm với ông cố vấn, nên chú rảnh
vài giờ. Chú gọi ông ta từ trạm gác của dinh.
Luân theo dõi lom lom
cuộc điện đàm giữa Thạch và Ly Kai. Ly Kai sẽ lái xe đón Thạch, độ hai
mươi phút nữa, hẹn Thạch cổng đường Gia Long.
- Chú mang vũ khí theo. Sẽ có người của tôi bám sát. Nhớ đừng uống nhiều bia. Chú đi ngay đi.
Thạch
vừa khuất, Luân gọi điện cho Bộ chỉ huy Liên binh phòng vệ Phủ tổng
thống. Đại tá chỉ huy trưởng vắng, một thiếu tá trực ban nhận điện.
*
Thạch
ngỡ Ly Kai chở anh vào Chợ Lớn, nhưng không, Ly Kai đưa Thạch lại khách
sạn Vị Lai, đường Lê Lợi. Họ theo thang máy lên tầng bốn ở đó, có một
phòng riêng dành sẵn. Chỉ có Ly Kai, Thạch và chiếc bàn tròn cũng chỉ có
hai ghế. Thạch phán đoán liền: ghế mà Ly Kai mời Thạch ngồi kê sát tấm
vách ngăn đánh verni bóng. Có thể tấm vách chính là cánh cửa. Mọi sự sẽ
từ tấm vách này mà ra! Ai biết được cái gì đằng sau tấm vách?
Ly Kai mời Thạch gọi món ăn. Anh cười:
- Tùy xếnh xáng, món nào xếnh xáng ưa thì tôi ưa.
Món ăn bày một lúc, cùng nhiều loại rượu. Ly Kai cho người hầu bàn ra ngoài và dặn chỉ được vào khi hắn bấm chuông.
Qua
tuần khai vị, cửa phòng xịch mở. Ly Kai sa sầm mặt, toan quát. Nhưng
người mở cửa phòng không phải là hầu bàn - hai hoặc ba ông khách lầm
phòng, xin lỗi Ly Kai. Thạch hiểu ngay người của an ninh Phủ tổng thống,
anh vững bụng.
Ly Kai chạm cốc liên tiếp. Gì chớ món rượu mạnh thì
Thạch không chạy - đế vùng Chợ Gạo khá nổi tiếng. Chưa được một giờ,
chai Martell đã cạn. Ly Kai khui tiếp chai Remy Martin. Thấy cần kết
thúc, uống thêm vài ly. Thạch giả bộ say. Anh bắt đầu nói nhừa nhựa, líu
lưỡi, mắt nhắm mắt mở.
- Làm một cái nữa! - Ly Kai rót đầy ly. Ý chừng hắn muốn đánh đòn quyết định cho Thạch gục.
Thạch
run rẩy nhận ly, rượu sánh ra ngoài một ít. Anh uống cạn và sau đó, úp
sấp cả người lên bàn - anh cố ý né cái lưng chếch với tấm vách - ôm đầu.
Ky Kai khóa trái cửa, xong vỗ nhẹ vào tấm vách. Tấm vách đỏ au màu
verni bỗng tách làm hai. Thạch hé mắt nhìn: bên trong là một phòng, lỗ
nhố bóng mấy người.
- Lôi nó vô, giã rượu cho nó, rồi “tẩm quất” nó một trận. Nhớ, nó có súng…
Theo
lịnh của Ly Kai, hai người bước ra toan xốc nách Thạch, đồng thời mò
súng trong lưng Thạch. Một cú đánh cùi chỏ, hai tiếng “hự” nổi lên cùng
lúc, Thạch hất đổ chiếc bàn, tay lăm lăm khẩu súng ngắn, Ly Kai chưa kịp
phản ứng thì cửa phòng bị đá tung, nhóm an ninh Phủ tổng thống ùa vào.
Tấm vách chưa kịp khép lại.
- Tất cả đưa tay lên… Ai kháng cự sẽ bị bắn. - Thạch hô dõng dạc.
Anh
định bụng Ly Kai sẽ hoặc bỏ chạy hoặc sợ hãi. Trái lại, mặt hắn lạnh
như tiền. Hắn khoanh tay, ngó nhóm an ninh Phủ tổng thống:
- Ai cho phép mấy người lộn xộn? Muốn chết hả?
Thạch và nhóm an ninh ngơ ngác.
- Coi cái này thì biết! - Ly Kai đưa một tờ giấy đánh máy cho viên trưởng nhóm.
Liếc qua, viên trưởng nhóm trả tờ giấy cho Ly Kai - trả bằng hai tay rất mực kính cẩn.
Thạch biết tình thế xấu rồi. Anh quyết định sẽ bắn Ly Kai trước tiên.
Ly Kai quay lại Thạch:
- Tụi nó làm hư công chuyện của tao… Thôi, không cần bắt mày nữa. Về đi! Tiểu na má…
Thật
lạ lùng, Thạch bước ra cửa, vẫn đề phòng bị bắn hay đánh lén. Không có
gì cả. Anh đã kịp nhìn căn phòng sau tấm vách - hình như là một phòng
tra tấn còn lưu cả dấu máu trên tường…
*
Thạch đi một lúc,
Luân vào dinh Độc Lập, xin nói chuyển khẩn với Nhu. Luân đinh ninh Nhu
không hay biết việc này. Trái lại, Nhu biết tất cả.
- Thiếu tướng Mai Hữu Xuân xin phép tôi! - Nhu trả lời Luân, thản nhiên.
- Tôi không hiểu… Tại sao? - Luân hơi lúng túng trước tình huống quá bất ngờ.
- Anh đợi tôi vài phút. - Nhu quay máy điện thoại.
Luân đặt tay lên bụng - khẩu Walter lúc nào đạn cũng trên nòng. Hạ một Ngô Đình Nhu thì uổng quá!
- Tôi, Nhu đây, muốn nói chuyện với thiếu tướng Mai Hữu Xuân. - Nhu nói vào máy.
Tiếng trả lời vọng rõ.
- Xin nghe ông Cố vấn.
- Vụ F1 kết quả ra sao?
- Négatef (2).
- Vậy đó…
- Họ chẳng biết tí gì… Chúng tôi reflar (3) sai…
- Ông thiếu tướng còn có thể nói một cách bàng quan được thì lạ thật. - Nhu bỗng đổi giọng.
- Ở Đà Lạt, tên Lê Ngân kháng cự… Một lô sĩ quan hùa theo nó. Có đổ máu…
-
Lỗi của ai? Chẳng lẽ là lỗi ở học sinh sĩ quan… Tôi đoán trước ông thất
bại. Nếu học sinh sĩ quan mà có người chết thì ông phải ra tòa án binh!
- Không ai chết… Hai an ninh quân đội bị thương…
- Bây giờ,
việc của ông là: một, trả các người của ông bắt về nhà. Trả an toàn.
Hai, ông xin lỗi trung tá và bà trung tá Nguyễn Thành Luân. Ông xin lỗi,
còn tha lỗi hay không thuộc quyền trung tá. Ông Cụ với Đức giám mục
biết được thì nguy cho ông.
- Xin cho tôi điều tra số người đó hết đêm nay…
- Điều tra gì mà điều tra? Thả ngay! Người cần phải điều tra là ông, ông thiếu tướng.
Luân nói chen vào:
- Họ đang bắt cận vệ của tôi.
- Hình như trung tá Luân đang có mặt chỗ ông Cố vấn? - Mai Hữu Xuân hỏi.
- Đúng… Trung tá hỏi về người cận vệ của trung tá Luân? Ai cho phép ông…
Luân
thấy không cần đặt tay lên khẩu Walter nữa. Nếu như cuộc đối thoại giữa
Nhu và Xuân là màn kịch thì họ còn ở giai đoạn đối chứng bằng cớ.
Đầu dây bên kia, Mai Hữu Xuân ấp úng mãi.
- Ly Kai mời người cận vệ của tôi đi uống rượu…
Luân thấy rằng anh có thể qua cuộc đối thoại mà nắm thực chất của vấn đề.
- Tại sao có Ly Kai vào đây? - Nhu rít - Ông không hề báo với tôi ông sử dụng Ly Kai…
- Người lái xe cũ của tôi, Vũ Huy Lục, đang làm huấn luyện viên trường biệt kích Nha Trang cũng bị bắt cóc…
- Hả? Anh nói cái gì? - Nhu quay sang Luân, rõ ràng anh ta không ngờ chuyện đó.
Luân lặp lại.
- Quá lắm… - Nhu gằn giọng.
Đầu dây kia, Mai Hữu Xuân cũng thảng thốt:
- Không! Tôi không hề ra lệnh bắt cóc ở Nha Trang… Còn người cận vệ thì…
-
Tôi không có thì giờ! - Nhu cắt ngang - Ông thả ngay người cận vệ của
trung tá, ông phải tìm cho ra Vũ Huy Lục. Ông nghe rõ chưa?
Nhu gác máy, mặt hằm hằm.
- Anh ngồi xuống. Tôi phải nói rõ, kẻo bản hợp đồng giữa tôi và anh rách mất…
Luân bình tĩnh ngồi xuống, mặt hết sức lạnh lùng.
-
Thế này nhé. Mai Hữu Xuân báo với tôi rằng ông ta nắm đủ tài liệu về
anh - về hoạt động của anh ở Kiến Hòa. Theo ông ta, anh thi hành chỉ thị
của Trung ương Cục nhằm gây rối nội bộ Quốc gia, yểm trợ cho Cộng sản.
Tất nhiên, tôi không tin vì các tài liệu ông ta trưng ra toàn dựa theo
suy luận, chấp nối các sự kiện mà hầu hết các sự kiện đó tôi đều biết.
Ông ta quả quyết rằng các người sau đây được anh tổ chức hoặc tí nhiều
biết công việc của anh. À, ông ta gán luôn cô Thùy Dung vào nhóm tình
báo Việt Cộng. Các người đó là bà Sáu nấu bếp, vợ chồng bác sĩ gì tôi
quên tên, ở đường Trần Bình Trọng, là cô và dượng cô Dung, vợ Thạch,
thiếu úy Lê Ngân, người anh ruột của anh… Có thể tôi còn sót, song đại
khái là như vậy. Ông ta đề nghị cho ông ta thẩm vấn và hứa rằng vài
tiếng đồng hồ là xong. Ông ta kỳ kèo tôi ký lệnh vì về nguyên tắc ông ta
không có quyền. Tôi đồng ý.
Nhu mỉm cười, mời thuốc Luân.
-
Anh đừng nổi nóng. Tôi đồng ý bởi vì tôi tin rằng ông Xuân chẳng chứng
minh được cái gì cả. Với lão này, không để lão lọt xuống hố thì khó kềm
chế lắm… Anh thấy rồi, lão lọt xuống hố…
Điện thoại reo, Nhu nhấc máy và sau đó, trao cho Luân:
- Cô Dung gọi anh.
Dung báo với Luân nội vụ của Thạch, sau khi Thạch về nhà.
- Hóa ra anh cũng muốn xô lão Xuân xuống hố! - Nhu cười thoải mái, khi nghe Luân thuật cảnh ngộ của Thạch ở khách sạn Vị Lai.
-
Lão này táo tợn thật, dám thiết lập cả một cơ quan điều tra trong quán
ăn! - Nhu hầm hừ - Tôi sẽ ra lệnh hủy bỏ chỗ đó ngay lập tức!
- Bây
giờ thì tôi hiểu anh, - Luân dịu giọng - Song, những quyết định của anh
tựa dao hai lưỡi. Với tôi, không có gì đáng ngại, chỉ hơi phiền một
chút thôi. Còn với người khác? Mai Hữu Xuân rất dễ lợi dụng danh nghĩa
anh. Trong việc này, có một cái gì rất nghiêm trọng mà tôi tha thiết
mong anh lưu ý: sự cấu kết giữa Xuân và Ly Kai. Hoặc, tôi có thể nói
chính xác hơn cảm nghĩ của tôi: Ly Kai giật dây Mai Hữu Xuân.
Nhu bật cười:
-
Anh quá lo xa. Thằng Ba Tàu chủ sòng bạc Đại Thế Giới mà giật dây nổi
tay mật thám đầu có sạn là Mai Hữu Xuân? Không đời nào…
Luân vẫn một mực nghiêm túc:
-
Anh đừng cười! Ly Kai - nếu cá nhân hắn ta - chẳng có gì phải nói.
Nhưng, ai dám cam đoan là Ly Kai đơn độc? Hắn làm mật vụ cho anh, phải
đâu vì lý tưởng? Hắn mà có lý tưởng! Vì tiền, liệu anh trả cho hắn cao
hơn mọi tổ chức tình báo khác không? Đài Loan. Tại sao Đài Loan không
dùng hắn? CIA. Điều này thì quá rõ rồi. Vụ Bình Dương năm kia, hắn bao
che cho Bá Thượng Đài bề ngoài mua sắt phế thải, bề trong tiếp tế cho
bọn Phạm Văn Bời, Trung Cộng… Đây mới là tai họa. Tôi biết đại diện của
Trung Cộng tại Chợ Lớn, tên Lâm Sử. Phức tạp lắm. Nhưng phức tạp hơn mọi
phức tạp là - tôi suy luận thôi - các đầu mối ấy thống nhất qua một gã
tên Dương Tái Hưng. Dương Tái Hưng là gì, tôi chưa nắm chắc, song có vẻ
một tên điều phối các hoạt động tình báo quốc tế ở đây… Mai Hữu Xuân mà
dính với Ly Kai thì có nghĩa Phòng nhì Pháp cũng dự vào trò chơi quy mô
này… Anh còn nhớ Ymơ Eban, Kossem…
Nhu thừ người.
- Ta khử quách Ly Kai! - Nhu mím môi.
-
Chớ… - Luân hấp tấp - Ta dùng Ly Kai làm kẻ dẫn đường, tốt hơn… Tôi
nhắc anh lần nữa: Mai Hữu Xuân. Đó mới là kẻ mà anh cần để mắt. Tiếc là
bác sĩ Trần Kim Tuyến thua Mai Hữu Xuân đến mấy cái đầu!
Luân ra
về. Chỉ là một cú của Mai Hữu Xuân? Sự thật như Nhu nói hay từ sáng kiến
của Nhu? Nhu thực hiện một bước làm lành với Pháp qua Mai Hữu Xuân? Nhu
ngại Luân quá gần gũi với Mỹ? Khả năng sáng kiến của Mai Hữu Xuân có vẻ
hợp lý hơn. Nhu từng muốn mình làm đầu cầu quan hệ với “phía bên kia”
mà! Cũng không hẳn. Biết đâu chính vì muốn kiểm tra xem mình còn giữ
quan hệ với “phía bên kia” hay không mà Nhu bày trò này… Do Mai Hữu Xuân
khởi xướng - như Nhu cho biết - thì là chuyện hiểu được, nhưng hắn hành
động ăn khớp với cái gì, cái gì trực tiếp nhất thúc giục hắn phải hấp
tấp…
Luân nhớ lại thái độ của Nhu. Anh ta dường như chờ mình tới và có sẵn cách lý giải…
Vũ
Huy Lục? Còn hay mất? Có đúng là Nhu và Xuân không dính vụ Lục không?
Một vụ riêng lẻ, ngẫu nhiên mà trùng hợp của vụ kia thôi? Hay là một
“con tin” mà kẻ thù coi như chủ bài bắt anh phải quy hàng? Trong tất cả
các người được Mai Hữu Xuân chú ý, chỉ có Quyến, Lục là hiểu biết công
việc thật của anh. Quyến thì anh không ngại. Một đảng viên. Lục dù sao
cũng còn mới… Nhưng Luân gạt liền ý nghĩ chưa trọn tin Lục! Không, Lục
chết thì chết, không đời nào…
Xe về đến nhà, Luân quyết định mời tất cả những người bị bắt cóc đến.
Anh điện thoại báo cho Nhu biết quyết định của anh và đề nghị Nhu cho bác sĩ Tuyến cùng dự cuộc gặp gỡ đó với anh.
Nhu đồng ý ngay.
---
(1) Phương pháp loại trừ.
(2) Tiêu cực.
(3) Bố ráp, bắt gom.
CHƯƠNG 7
Nhưng, Luân chưa bắt đầu cuộc họp mặt các nạn nhân thì Nhu đã gọi Luân vào dinh Độc Lập.
- Anh cứ để việc đó cho bác sĩ Tuyến lo, có cô Dung thay anh. Tôi cần gặp anh gấp…
Luân
lại lên xe. Chuyện gì? Hay là Nhu không muốn các vụ bắt cóc phơi bày
trần trụi mọi khía cạnh mà chính anh ta không còn chổ núp? Một cú đánh
lén và bây giờ, anh ta sợ dấu vết? Luân tư lự mãi. Thạch thỉnh thoảng
liếc Luân qua kính chiếu hậu - vụ khách sạn Vị Lai thật kinh khủng với
Thạch. Tại sao những người Quốc gia cư xử với nhau đến mức ấy? Tại sao
ông Nhu ký giấy phép cho Ly Kai bắt anh? Nếu anh lọt vào tay chúng, chí
ít cũng một trận đòn mềm xương. Tất nhiên, chúng bắt anh vì trung tá. Mà
trung tá với ông Nhu rất thân kia mà! Tại sao? Trung tá vừa thoát chết ở
Kiến Hòa - do Việt Cộng chủ mưu - bây giờ lại bị Quốc gia rình rập. Kỳ
cục thấy bà…
Nhu đón Luân, không được vui. Anh ta đẩy cặp hồ sơ dày cộm cho Luân.
- Anh đọc đi…
“Bằng
chứng…” - Luân nghĩ về mình và như một phản xạ, đặt tay lên bụng. Anh
lật cặp hồ sơ. Và anh thở phào - cố nén không để Nhu nghe.
Té ra Lê
Thiệu và Hoàng Trọng, hai trí thức, gửi đơn cho Tổng nha thông tin xin
xuất bản tờ nhật báo Anh ngữ, lấy tên Saigon Daily News (1). Đơn xin chỉ
có một tờ giấy đánh máy, nhưng hồ sơ thì đủ thứ: ý kiến của Tổng nha
thông tin, Tổng nha cảnh sát, Phòng nghiên cứu chính trị, Tổng ủy tình
báo… kèm lý lịch của người đứng đơn - do các cơ quan an ninh sưu tra -
cùng bản chụp các bài báo của hai người viết đăng rải rác trên báo Mỹ,
phần lớn xoay quanh vấn đề chính trị và kinh tế quốc tế. Luân lật các
bài báo - khá nhiều - thấy Nhu gạch bằng bút chì đỏ với các dấu hỏi đậm.
Lý lịch của Lê Thiệu và Hoàng Trọng cũng bị Nhu gạch đậm những
đoạn liên quan đến cấp bằng của hai người - Michigan và Princeton.
-
Tôi bảo ông Ngô Trọng Hiếu dứt khoát bác đơn này. Ta đã có tờ Sài Gòn
Post, ở Sài Gòn mấy người đọc được tiếng Anh mà có tới hai tờ báo Anh
ngữ? Một Sài Gòn Post, một Journal D’Extrême (2) là đủ. Không khéo, các
tay thân Pháp so bì, đòi ra thêm tờ Pháp ngữ nữa.
Luân hiểu rằng Nhu chưa nói điều chủ yếu khiến anh ta nổi nóng. Và, nó đây:
-
Tôi không chịu nổi lối xấc xược của mấy tên trí thức vừa về nước. Đơn
xin ra báo mà phó bản gửi khắp thiên hạ: Đại sứ quán Mỹ, Phòng thông tin
Mỹ! Chúng nó khong xin ra báo, chúng nó yêu sách… Tôi không cho, để xem
chúng nó làm gì… Đồ… đồ cặn bã!
Câu chót, Nhu rít qua kẽ răng.
Bây
giờ, Luân lấy lại bình tĩnh. Có thể các vụ bắt cóc xảy ra đúng như Nhu
giải thích. Điều mà Nhu quan tâm lại là thêm một tờ báo tiếng Anh - với
sự nhạy cảm, Nhu nhìn tờ báo như một quân cờ nữa Mỹ gí vào anh em Tổng
thống. Thiệu và Trọng là ai. Luân chưa rõ song chắc tờ báo sẽ quấy rối
chế độ ở mức nào đó.
- Anh nói hết chưa?… Anh nghe tôi…
Giọng Luân thong thả, chứng tỏ anh đã suy nghĩ kỹ, rất kỹ. Nhu hiểu như vậy.
- Anh nói đi…
-
Có lẽ các sự kiện không êm ả tác động thần kinh anh. Theo tôi, sự khôn
khéo hiện nay có giá trị hơn bao giờ hết. Tôi nhớ một lần đã nói với
anh: tòa đại sứ Mỹ cao thêm một tầng, dinh Độc Lập thấp đi một tầng. Ta
đang làm việc với nước Mỹ của Kennedy, giữa thời buổi kế hoạch Staley -
chưa được Nhà Trắng ký, song đó chỉ là thủ tục - và nhất là sau sự cố
11-11, với không phải vài trăm cố vấn Mỹ mà cả vạn, với không phải một
MAAG (3) mà là một MAC (4). Ngân sách Việt Nam Cộng hòa, anh nắm vững
hơn tôi, tính bằng Mỹ kim. Khái niệm chủ khách bắt đầu phá với cách định
nghĩa thông thường. Và, kéo vào nước ta cả ngạn ngữ: People give
nothing for nothing! (5). Quân lực Việt Nam Cộng hòa vị tất giữ nguyên
mãi lời thề trung thành khi mà các phần Việt Nam Cộng hòa trên họ thu
hẹp đến mức chỉ còn cái thể xác. Áo, giày, thắt lưng, súng, mũ, bữa ăn,
cách bò toài, điếu thuốc lá… Ngay ngôn ngữ vị tất còn thuần khiết. Ngay
thể xác, người Mỹ trả lương… Anh thấy các bảng hiệu la liệt khắp Sài Gòn
không? Trường dạy tiếng Anh mọc, chưa chắc nấm đã nhanh bằng!
-
Tức là, theo anh, ta nên thuận cho ra một tờ báo Anh ngữ nữa, dù biết
rằng tờ báo đó chẳng dành cho ta lấy một gramme cảm tình? - Nhu hỏi,
giọng pha chế giễu…
- Đôi khi, chúng ta buộc phải gật đầu nhiều yêu sách tệ hại hơn gấp trăm, nghìn lần… - Luân kiên trì thuyết phục.
-
Anh nói hơi nhiều về tài chính… Đúng, Mỹ nắm ngân sách của ta. Song,
nếu chỉ riêng về tiền - tôi nói đô-la - tôi không ngại lắm…
- Anh
không ngại? - Luân hơi lạ, mang máng về một quan điểm chính trị nào đó
của Nhu, một đường lối “thắt lưng buộc bụng” chẳng hạn. Anh định cười.
Song Nhu đã bảo:
- Tôi có cách… Đến một lúc nào đó, anh sẽ hiểu. Còn bây giờ…
Nhu
thở dài. Anh ta rút tờ báo hằng ngày, liếc qua tựa chạy dài tám cột:
Đại đức Thích Nhật Thịnh, tiến sĩ thần học, thuyết trình ở Hội Việt Mỹ
về vấn đề bình đẳng tôn giáo trong xã hội dân chủ.
Luân vừa theo dõi Nhu vừa nói tiếp:
-
Khi Tổng thống Kennedy nhấn mạnh rằng quân nhân Mỹ ở Việt Nam có quyền
nổ súng, tôi không cho đó là câu tuyên bố đơn thuần quân sự, đơn thuần
xác lập thế đứng mới của quân nhân Mỹ trước đối phương. Và, điều này mới
thật đáng lưu ý: hơn mười nghìn quân Mỹ chỉ vừa vặn một đội tiền trạm,
nếu người Mỹ không định đùa với chiến tranh.
Nhu gạt cặp hồ sơ sang
bên - dấu hiệu cho biết tờ Sài Gòn Daily News sẽ được phép xuất bản.
Như tiện tay, Nhu mở tờ Sài Gòn Post, liếc qua.
- Công báo! Nhu chán nản - Khi có Sàigòn Daily News, tờ này phát không chưa chắc có người đọc…
Luân
hiểu rõ nỗi lo lắng của Nhu. Công giáo sẽ mất dần vị trí độc tôn mà chế
độ xây đắp từ bảy năm nay, cũng như Diệm nằm trong hàng tá nhân vật -
Mỹ rộng đường chọn lựa…
- Anh Luân nè! - Nhu chồm sát Luân, hạ thấp giọng - Tôi có cảm giác là đã đến lúc chúng ta chọn interlocuteur (6).
- Với Nguyễn Tôn Hoàn, hay Thích Tâm Châu, hay Mai Hữu Xuân, hay Phan Huy Quát? Cựu hoàng Bảo Đại chăng? Trần Văn Tuyên chăng?
Luân bày hàng xén. Nhu nhăn mặt:
- Tôi nói nghiêm chỉnh… Với đối thủ khó chơi nhất!
- Maitre (7) Nguyễn Hữu Thọ?
-
Anh đừng cho tôi tung hoả mù. Tôi đã suy tính kỹ. Đối thoại trong lúc
chúng ta còn đủ yên cương… Đúng, Mặt trận giải phóng, hoặc, trực tiếp
với Hà Nội.
Nhu nói, ngả người, mắt ngó lên trần. Cái logic khắc
nghiệt của cuộc sống đun đẩy tay đệ nhất mưu sĩ triều Ngô vào bước phiêu
lưu này.
- Tôi không phản đối sáng kiến lớn của anh và tôi cũng
tin là anh đã suy tính kỹ. Nhưng, theo tôi, tình như quyết định của anh
đến trễ. Trễ trên hai nghĩa: người mà anh muốn đối thoại e rằng họ không
công nhận tư cách đối thoại của chúng ta, hai là đệ tam nhân có chịu
cho anh chơi cây đàn thứ nhất không… Sự thể lần lần nghiêng về hướng
người Mỹ và Việt Cộng giành hết mặt bằng của sân khấu!
Đôi vai của Nhu rủ xuống. Chẳng qua Luân nói bằng lời những cái Nhu nhẩm trong óc…
- Không! Tôi sẽ chẳng bao giờ chịu số phận của kẻ lấp ló bên cánh gà! - Nhu chợt rống lên, đôi mắt ửng nhiều đường gân máu.
-
Hơn nữa, thương lượng là việc hệ trọng… - Luân làm vẻ không quan tâm
đến tình trạng gần như động kinh của Nhu, tiếp tục nói - Nếu chỉ vì bị
ép mà ta nảy ra ý thương lượng, nghĩa là thương lượng chỉ nằm trong mục
đích đe dọa… Đe doạ hay giận dỗi, cũng thế thôi… Nếu thương lượng theo
chiều hướng đó thì rốt cuộc rất nguy hiểm. Việt Cộng không tin ta. Người
Mỹ thêm cớ để xa ta. Có bao giờ anh tính rằng giữa anh và Việt Cộng có
một chỗ gần gũi nào đó không? Không có thì đừng nói đến thương lượng…
Tôi nhắc lại: hậu quả sẽ rất nguy hiểm…
Có thể có một lúc nào Nhu
tự ví mình cỡ Napoléon. Nhưng, bây giờ trước mặt Luân, Nhu là một
Napoléon sau trận đại bại ở Mátxcơva - bao nhiêu hào khí tan biến, còn
lại màu da mặt tai tái và đôi môi thâm.
- Tôi chưa hoàn toàn thống nhất với anh. - Nhu nói, uể oải - Ta còn trở lại đề tài này…
Rồi Nhu đưa ngón tay lên miệng:
- Between! (8)
Luân cười thông cảm, đứng lên:
- Vụ Mai Hữu Xuân…
-
Thằng cha phá rối… - Nhu cau mày - Tôi đã sạt nó một trận. Nó thề đó là
hành động cuối cùng của đời nó va chạm với anh. Nó xin phép được gặp
anh…
- Tôi gặp ông ta để làm gì? - Luân gằn giọng - Nói thật, nếu
cần chứng minh mối quan hệ hiện nay giữa ông ta với Savani, trùm Phòng
nhì Pháp, tôi chẳng có một chút khó khăn nào… Tôi không cần làm vì thừa
biết anh nắm mọi ngóc ngách. Nhưng…
Luân ngó thẳng Nhu - và Nhu lẩn cái nhìn tựa phóng hai tia lửa đó.
-
Nhưng, tôi mong anh đừng dùng Mai Hữu Xuân để balancer (9) với tôi. Mai
Hữu Xuân là cái gì? Tôi không phản đối anh dùng ông ta, mặc dù tôi luôn
nhắc anh: một con dao có thể đâm vào lưng anh bất cứ lúc nào. Nhưng ông
ta là hạng không hề biết sỉ nhục…
- Sao anh lại nghĩ như vậy? -
Nhu cười gượng - Tôi không bao giờ dùng gã để đối chọi với anh. Tôi biết
gã là ai và… - Nhu cười lớn - đem gã chọi với anh thì tôi cầm chắc cái
thua trong tay…
Luân toan nói thêm, điện thoại reo. Nhu cầm ống nghe và kêu thảng thốt:
- Vậy sao… Đại sứ an toàn không?… Đang lùng hung thủ?… Được, tôi sẽ cho người của An ninh Phủ tổng thống đến ngay…
Nhu gác máy, tay hơi run, gác mãi máy mới chịu nằm trong ổ.
- Đại sứ Nolting vừa bị ám sát.
- Sao? - Đến lượt Luân thảng thốt.
-
Hai tên Việt Cộng đi môtô ném lựu đạn vào xe đại sứ Nolting tại góc
đường Pasteur và Trần Quý Cáp. Lựu đạn lọt vào xe nhưng không nổ. Hung
thủ chạy thoát.
Nhu không thể nghe tiếng thở dài nuối tiếc của Luân.
- Đúng là Việt Cộng không? - Luân hỏi.
- Tôi cũng ngờ ngợ. Sao lựu đạn lại không nổ? Tôi phải gọi các nơi…
Luân
chào Nhu, ra về. “Thêm một “pha” ngoạn mục nữa trong vở diễn sắp đến
hồi gay cấn nhất”. Luân nghĩ thầm dù anh không thể xác định ý nghĩa
chính xác của vụ ném lựu đạn.
Vũ Huy Lục. Luân trở lại số phận của
Lục. Phải làm cho ra lẽ. Tất nhiên, “làm cho ra lẽ” không có nghĩa đút
đầu vào tròng của chúng. Khó khăn hơn cả: vẫn chưa rõ “chúng” là ai, Lục
ra sao rồi? Nước mắt chực trào - Lục có bề gì, lỗi ở Luân. Giá anh ta
cứ làm việc cho Trần Kim Tuyến và lái xe, chắc yên ổn.
Báo cáo của Luân về Lục, mãi không thấy anh Sáu Đăng hay A.07 cho nhận xét - cũng như nhiều báo cáo khác.
*
Lúc mà Luân băn khoăn trăm thứ thì tại chợ Bến Thành xảy ra một sự việc thu hút các nhà báo.
Buổi
sáng, một thiếu phụ - rất đẹp và lộng lẫy - rời chiếc xe Chrysler đen
đậu bên đường Phạm Ngũ Lão cùng một ngưòi đi theo, vào chợ. Người đi
theo đeo súng, do đó, người ta đoán bà là một mệnh phụ.
Bà mặc kiểu
áo “nâng cao”, kiểu áo hở cổ nổi tiếng của đệ nhất phu nhân Trần Lệ
Xuân: áo để trần hẳn vai và cho phép bộ ngực ngoi ra đến gần nửa.
Bà bước vào chợ - mọi ngưòi đàn ông dán mắt vào bà, còn bà, kiêu kỳ bước từng bước núng nính.
Bỗng,
một người nào đó - một phụ nữ đứng tuổi - từ trong đám đông khách mua
bán, nhảy xổ tới trước bà. Từ tay người phụ nữ, một lon sữa bò vụt bắt
tới. Bà ôm mặt thét to: “Trời đất ơi!”
Người cận vệ không tài nào phản ứng kịp - người chen nhau đông nghịt.
Bà ngã xuống, oằn oại. Mãi sau, xe cấp cứu mới đến.
Báo
chí tường thuật: Bà Trúc Đào, vợ trung tá Vũ Liệu, chỉ huy thiết giáp,
bị tạt ác-xít… Báo chí đăng ảnh một bộ mặt lở loét khủng khiếp…
Nhà
báo Fanfani săn tin đâu đó, viết một bài ngắn: Dư luận cho rằng bà Trúc
Đào bị đánh ghen. Bà có quan hệ với một quan chức cao cấp Mỹ và đó là
hậu quả. Ai chủ mưu? Dư luận cho rằng một bà khác - trong cuộc chạy đua
quanh “mốt” áo dài…
Một tờ báo tiếng Việt làm một phóng sự giật gân - Trúc Đào chiếm nửa trang báo. Nhưng, Tổng nha thông tin ra lệnh chấm dứt…
Trong
khi đó, đại sứ Mỹ Nolting quyết định Cơ quan tình báo Mỹ phải điều tra,
bởi lẽ ông có mối quan hệ bạn bè với trung tá Vũ Liệu. Cơ quan tình báo
Mỹ chưa kịp chấp hành lệnh của Nolting thì nhận được lệnh hủy bỏ cuộc
điều tra cũng của Nolting: nói không cần thiết.
Người nắm được tất
cả mọi việc là Tony Forting, cận vệ của Nolting. Tony đón Trần Lệ Xuân
vào nhà riêng đại sứ - bà đến chia mừng đại sứ vừa thoát nạn - và sau
gần hai giờ đồng hồ, tiễn bà, Foriting phát hiện mớ tóc bới rất kiểu cọ
của bà Nhu không như cũ và cũng phát hiện trên sơ mi đại sứ vài dấu son
môi…
Nolting, tần ngần vào phòng. Hẳn ông đang so sánh giữa Trúc
Đào và Trần Lệ Xuân - lần đầu tiên ông khám phá người đàn bà danh tiếng
như cồn ở Việt Nam Cộng hòa…
- Chỉ một lần thôi, như cô ta nói? Đâu được! - Nolting lẩm bẩm.
*
- A… lô!
Luân vừa nhấc máy thì nghe tiếng James Casey.
-
Alô! Trại biệt kích Nha Trang vừa báo: một xác người tấp vào bãi biển.
Mặt mũi đã rữa, quần áo không có… Nhưng vóc dáng thì rất giống chuẩn úy
Lục. Nạn nhân chết vì hai phát đạn súng ngắn xuyên ngực và bụng. Cuộc
khám nghiệm để xác nhận đang tiến hành. Sẽ có kết quả ngay…
Luân gác máy, rụng rời… Thế là hết Vũ Huy Lục. Dung bật khóc…
Điện thoại reo. Bây giờ thì Mai Hữu Xuân nói chuyện với Luân:
-
Đã tìm được xác Vũ Huy Lục. Tuy cuộc khám nghiệm cần thêm một ít thời
gian nữa mới hoàn tất, sóng chắc chắn là Vũ Huy Lục. Ông Lục bị giết.
Tôi cam đoan với trung tá: tôi không hề hay biết việc này và cam đoan
thêm, tôi sẽ lôi hung thủ ra ánh sáng. Khả năng nhiều nhất là Việt Cộng…
Tôi phải làm bởi trung tá, tôi dám chắc, vẫn nghi ngờ tôi. Tôi có lỗi,
song mong trung tá hiểu, tôi thực hiện chức vụ và bây giờ tôi sẵn sàng
được kề vai với trung tá nếu trung tá đồng ý…
Luân không ừ hử, lão quỷ quyệt như chồn cáo này giăng thêm cái bẫy gì nữa đây.
Điện thoại reo. Luân bực mình, không thèm nhấc máy. Dung phải làm thay. Hóa ra, Nhu gọi:
- Đại Hàn lại đảo chính nữa, anh biết chưa? Chưa biết? Park Chung Hee (10) lật Chang Do Yung.
Cả
Pak lẫn Chang, Luân đều mù tịt. Nhưng Nhu đặc biệt quan tâm đến sự cố
tận Nam Cao Ly. Cái bóng ma đang ám ảnh Nhu là quân đội mà nạn đảo chính
do họ chủ xướng giống cơn dịch lan tràn khắp thế giới.
Nhu chỉ thông báo bấy nhiêu rồi cúp máy. Luân gieo phịch người trên ghế, ôm đầu. Ai giết Lục? Vì sao?
Điện thoại reo. Vẫn Dung nhấc máy.
- Alô, xin lỗi, ai ở đầu dây… Dạ! Tôi là Thùy Dung… Ủa! - Dung che máy, gọi Luân, rất khẽ.
- Hả? - Luân vụt nhảy lên, giành máy.
- Alô…
---
(1) Sài Gòn Nhật báo.
(2) Nhật báo Viễn Đông
(3) Military Assistance and Advisory Group: Phái bộ viện trợ quân sự.
(4) Military Assistance Command: Bộ chỉ huy viện trợ quân sự.
(5) Không ai cho không cái gì cả.
(6) Người đối thoại.
(7) Luật sư.
(8) Giữa hai ta.
(9) Cân bằng.
(10) Park Chung Hee (1917-1979), nhà độc tài, tổng thống Hàn Quốc (1963-1979), người thực hiện của đảo chính quân sự năm 1961.
CHƯƠNG 8
Mùa mưa năm nay ảm đạm hơn mọi năm. Thông báo chiến sự hằng ngày dày đặc
tin tức chẳng lành đối với Việt Nam Cộng hòa; ngay dù trên báo chí mà
Việt tấn xã đã hạ đến mức thấp nhất tổn thất của phía chính phủ và thổi
lên đến mức phi lý thiệt hại của Việt Cộng, từ sự kiện đụng độ thường
xuyên đã gieo trong dân chúng ấn tượng xấu về tình hình an ninh khắp
lãnh thổ.
Ngày 16-7, tiểu đoàn nhảy dù giao chiến từ giữa trưa kéo
dài 6 giờ liền với một tiểu đoàn Việt Cộng mang số hiệu 502 tại vùng
trống trải Cao Lãnh. Đại tá Cao Văn Viên, thôi nhiệm vụ tham mưu biệt
bộ, đảm trách tư lệnh Dù, trực tiếp chỉ huy trận đánh ác liệt này. Tất
nhiên, quân Dù mất có ba, còn tiểu đoàn chủ lực thuộc quân khu II của
Việt Cộng, tức Trung Nam Bộ, thì coi như bị loại đến một phần ba quân số
- đó là bản tin của Việt tấn xã. Báo cáo tuyệt mật của đại tá tư lệnh
Dù gửi đại tướng Tổng tham mưu truởng lật ngược con số. Trận đánh được
đại tá mô tả như “quân ta rơi vào trận địa phục kích giăng sẵn của Việt
Cộng, theo chiến thuật “công đồn đả viện”. Căn cứ Mỹ Quí, tiền tiêu của
Bảo an Kiến Phong đóng sâu nhất vào vùng Cộng sản ở Đồng Tháp Mười báo
động khẩn: giữa đêm, Việt Cộng dùng kích bích pháo và đại bác không giật
đánh hư nặng vòng phòng thủ rìa căn cứ lấn chiếm từng chiến hào; quân
trú phòng gồm một đại đội tăng cường và một cố vấn Mỹ đề kháng anh dũng,
nhưng không thể chặn cái “biển người” mỗi lúc một thít vòng vây. Bộ chỉ
huy viện trợ Mỹ nhận bằng đường liên lạc vô tuyến điện riêng, lời cầu
cứu SOS của viên cố vấn Mỹ. Họ chưa thể tùy tiện tung quân – chưa đủ
quân số chiến đấu, nhất là quân đổ bộ đường không; vả lại, Kennedy chưa
bật đèn xanh – nên trao đổi với Bộ tổng tham mưu Nam Việt. Đại tướng
tổng tham mưu trưởng điều tiểu đoàn Dù xuất trận và lệnh cho đại tá lữ
trưởng phải đích thân chỉ huy.
Tin thì khẩn cấp – coi như căn cứ Mỹ
Quí thất thủ đến nơi – song suốt đêm, Việt Cộng chỉ đến vòng rào cuối
mà không tấn công thêm một bước nào. Pháo sáng soi rõ còn hơn ban ngày
cả vùng. Đại bác Cao Lãnh rót tới tấm quanh đồn, nhất là tập trung dọn
bãi trên một cánh đồng rộng. Tờ mờ sáng, khu vực AD6 ném bom ngót một
giờ. Tám giờ, trời quang, gió nhẹ, hơn chục Dakota nhả trên không Đồng
Tháp trọn tiểu đoàn Dù tinh nhuệ nhất – một trong ba tiểu đoàn của lữ
đoàn Dù. Tiểu đoàn chạm đất an toàn tuyệt đối. Đại tá Viên đáp trực
thăng đến giữa đội hình tiểu đoàn vào 9 giờ. Liên lạc với đồn Mỹ Quí nối
được ngay. Vẫn lời kêu cứu như kẻ sắp chết.
Quân Dù thận trong
tiến về căn cứ, chia làm hai mũi. Họ lội trên đồng, nước cao độ hai tấc,
khoảng cách chừng 5 cây số, họ mất gần hai tiếng. Hai máy bay trinh sát
bay thật cao – của Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ - thúc hối họ. Còn vài trăm
mét nữa. Căn cứ Mỹ Quí phơi mình dưới ánh nắng. Có vẻ như Việt Cộng đã
rút. Đài liên lạc lên tiếng đều đều…
Và, rõ ràng căn cứ vẫn chờ đón
quân tiếp viện. Vào cái phút mà tiểu đoàn Dù thở phào, đặt chân lên còn
đường lớn đến vào đồn thì súng nổ. Và súng rộ bốn phía, kể cả phía đồn.
Hai khẩu trọng liên bố trí trên tầng cao – ngọn cờ ba sọc vẫn phấp phới
– dường nín thở khạc những tràn đạn khủng khiếp.
Tiểu đoàn Dù bị
giã như người ta giã giò lụa. Buồn cười nhất là đài trong căn cứ không
ngừng phát lời kêu cứu của quân dân Mỹ và hai máy bay trinh sát nhất mực
thúc giục… Đại tá Viên – nhờ Trời Phật thôi – chỉ bị thương nhẹ vào
tay, chạy thục mạng.
Khi tỉnh hồn, đại tá biết bị mắc lừa. Đồn Mỹ
Quí chắc rơi vào tay Việt Cộng trong đêm. Bây giờ, nóc đồn đã cắm cờ sao
vàng nền đỏ xanh. Máy bay khu trục hủy diệt đồn – hẳn hủy diệt số xác
lính trú phòng…
Báo cáo tuyệt mất đó không tới tay tổng thống và cố
vấn Ngô Đình Nhu. Tổng tham mưu trưởng và các cộng sự bàn sửa chữa báo
cáo với ý kiến đồng lõa của đại tá lữ trưởng. Nó không quá thô bỉ như
tin của Việt tấn xã song màu sắc nói chung cũng rực rỡ. Cái rầy rà là
viên thượng sĩ Mỹ mất tích. Cũng may, đó là một thượng sĩ da đen, Bộ chỉ
huy của tướng Harkins dễ quên anh ta…
Một tuần sau vụ Mỹ Quí, cũng
giữa ban ngày, đoàn công xa chạy trên đường 14, ngoại ô xã Ban Mê Thuột
– lâu nay an toàn – bị phục kích. Quận trưởng sở tại, hai dân biểu quốc
hội và phó tỉnh trưởng Darlac chết.
Tháng 8, thông báo chiến sự
giới thiệu thêm phiên hiệu nhiều nhiều tiểu đoàn của Việt Cộng: 502,
506, 514, tiểu đoàn Tây Đô, Đồng Tháp…
Tháng 9, mở đầu bằng trận
đánh lớn ở Toumơrông, đông bắc Kontum. Đồn Poko và Đakka bị tràn ngập.
Quân số Việt Cộng, như báo cáo lên tới một nghìn.
Giữa tháng, tỉnh
lỵ Phước Thành mất. Lần đầu tiên, Việt Cộng đánh chiếm một tỉnh lỵ. Và,
cũng lần đầu tiên báo chí Sài Gòn đăng cáo phó: Thiếu tá tỉnh trưởng
Nguyễn Minh Mẫn, đại úy tỉnh phó Nguyễn Thành Tiết đã “anh dũng đền nợ
nước” tại Phước Vĩnh.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa vất vả tái chiếm
Phước Vĩnh – thật ra, chẳng giao chiến nhưng phải băng rừng suốt mấy
ngày: tỉnh lỵ trống trơn, xác quân lính chính phủ được Việt Cộng chôn
cất trước khi rút lui, mấy nghìn di cư bỏ Phước Thành, tìm nơi khác làm
ăn. Mũi dùi mà chính phủ toan thọc vào giữa chiến khu Đ đã gãy: tỉnh
Phước Thành bị quên lãng, không có một lời giải thích.
Đầu tháng
10, sự cố còn phức tạp hơn. Đại tá Hoàng Thụy Năm mất tích. Ông là
trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa bên cạnh Ủy hội quốc tế kiểm soát
đình chiến ở Việt Nam – thành lập theo hiệp nghị Genève 1954, gồm Ấn Độ,
Canada và Ba Lan mà hoạt động bị chính phủ Việt Nam Cộng hòa vô hiệu
hóa ngay vào những ngày đầu. Điều tra của công an cho biết: Đại tá Năm
có trại chăn nuôi riêng ở xã Linh Chiểu, sát tỉnh lỵ Thủ Đức, hôm đó,
1-11-1961, như thường lệ, ông và một cận vệ lên trại vào xế chiều. Xe
vào cổng trại, đổ ngay thềm ngôi nhà nghỉ. Người trại trưởng đón ông.
Ông vào phòng rửa mặt. Cận vệ và tái xế yên trí ông làm việc với trại
trưởng, rủ nhau ra ngoài cổng uống bia.
Mãi mặt trời sắp lặn, cận
vệ vào tìm ông theo lời ông dặn, để về Sài Gòn trước trời tối. Ông bến
mất, cùng với trại trưởng. Nơi ông ngồi, đồ đạc vẫn nguyên vị trí, nghĩa
là không có xô xát. Không ai trong trại thấy ông – mỗi khi lên trại,
ông thường mặc áo sơ mi ngắn tay, đầu trần.
Gặn hỏi mãi, sau cùng,
một nhân viên cho biết, lối 4 giờ, ba quân nhân từ phòng trại trưởng
đủng đỉnh đi ra phía sau trại, một trong ba người khá to con; một trong
ba người hình như bị thương nên quấn băng kín mặt. Họ mang ba lô dã
chiến… Người nhân viên không thể xác định có phải đó là đại tá Năm và
trại trưởng không vì anh bận cho heo ăn. Cạnh trại là căn cứ của đại đội
địa phương quân – quân nhân ra vào trại hằng ngày…
Đại tá Năm tự
nguyện theo Việt Cộng hay bị bắt cóc? Và, nhất thiết chỉ Việt Cộng tọc
tay vào không? Số phận của ông ra sao rồi?
Phủ tổng thống quan tâm
đặc biệt đến vụ này, mặc dù trên danh nghĩa, đại tá Hoàng Thụy Năm chỉ
là một sĩ quan liên lạc “đang ngồi chơi xơi nước”, dành hầu như hết thì
giờ chăm sóc khu trang trại với vài nghìn heo giống Yorkshire.
Nhu
trao đổi với Luân. Anh ta muốn biết, theo Luân, nếu Việt Cộng bắt cóc
đại tá Năm thì để làm gì? Thật ra, Luân chỉ gặp Hoàng Thụy Năm trong vài
lần ông đến Phủ tổng thống báo cáo tình hình của ủy hội quốc tế. Diệm
ít khi nghe. Nhu lại nghe chăm chú. Luân không được dự các cuộc họp mặt
như vậy.
Anh bảo thật với Nhu là anh chưa rõ nguyên nhân và cũng
không có điều kiện để phán đoán. Nhu cắn môi mãi. Rõ ràng anh ta băn
khoăn.
- Còn nếu không phải Việt Cộng? – Nhu hỏi.
- Có khả năng đó sao? – Luân hỏi lại.
- Có… tôi cho là có…
Rồi
Nhu gọi điện sang chỗ bác sĩ Tuyến, dặn phải canh đài Giải phóng và đài
Hà Nội xem có tin tức gì của đại tá Năm hay không…
Chưa bao giờ
Sài Gòn huy động một lực lượng công an, cảnh sát lớn đến như vậy. Cuộc
lần dấu đại tá Hoàng Thụy Năm phóng ra nhiều hướng, mà Củ Chi và Bến Cát
là hướng chính.
Trong ngày, Tổng giám đốc cảnh sát Quốc gia nhận
hàng chục cú điện thoại của Phủ tổng thống, hầu hết do Nhu đích thân hỏi
han tình hình. Thùy Dung, vì vậy, rất bận rộn. Đêm, cô phải trực đến 11
giờ. Đôi lần, Dung tiếp điện của Phủ tổng thống. Dù quen tiếng nói của
Dung, Nhu vẫn không một câu xã giao nào, toàn hạch về cuộc truy lùng.
Dung trả lời – chưa kết quả - thì giọng Nhu đanh hẳn, thậm chí quát tháo
nữa.
Nhu càng bồn chồn, Luân càng thêm cơ sở đánh giá vụ Hoàng
Thụy Năm. Năm lãnh một trách nhiệm tối mật nào đó của Nhu. Trách nhiệm
gì? Dễ đoán thôi. Trong tư cách trưởng phái đoàn liên lạc với Ủy hội
quốc tế. Hoàng Thụy Năm rất có thể thăm dò phái đoàn Ba Lan hoặc Ấn Độ
nhờ họ làm môi giới để Diệm tiếp xúc với “phía bên kia”. Có vẻ lần này
Nhu quyết rấn một nước cờ chứng tỏ với Mỹ rằng chế độ họ Ngô còn đủ tư
cách đối thoại và quyết chọn con đường đối thoại nếu chính sách Mỹ chập
chờn đối với “nền đệ nhất cộng hòa”. Rồi đây, kín kín hở hở, Nhu sẽ
“khoe” cái nhịp cầu mà anh ta đã lao và đã tìm được mối, một “cây đinh”
trong vở tuồng làm nũng. Ở bước khởi sự, Nhu muốn không một ai biết,
nhất là người Mỹ.
Nước cờ liều lĩnh của Nhu phạm hai sơ hở nghiêm
trọng. Một là, nó đơn thuần hù dọa Mỹ; thâm tâm Nhu, cho đến cuối năm
1961 này, không hề nghĩ đến việc tìm một giải pháp chấm dứt xung đột qua
thương lượng. Với anh ta và cả gia tộc Ngô Đình, chẳng có một điểm nào
gọi là gần gũi giữa phe của họ với Việt Cộng. Cái sơ hở đầu dẫn đến cái
sơ hở thứ hai: Mỹ không sợ. Mỹ không sợ vì biết chắc không đời nào Diệm –
Nhu thương lượng thật sự với Việt Cộng.
Đột nhiên, Hoàng Thụy Năm
mất tích. Có dư luận đánh dấu hỏi: Phải chăng Việt Cộng “cấy” Năm vào
chính quyền Việt Nam Cộng hòa, bây giờ gọi ông ta ra khu? Lối đoán mò
kiểu đó đang thịnh hành ở Sài Gòn. Song, ít người tin, bởi họ Hoàng Thụy
cũng là một vọng tộc ở Huế, bản thân Năm cũng chịu ân sủng nhà Ngô rất
nặng, đồng thời, là một “cậu ấm” – chẳng thể đủ bản lĩnh luồn sâu, leo
cao đến như vậy.
Hoàng Thụy Năm bị bắt cóc – dứt khoát rồi. Ai bắt cóc? Ai bắt cóc cũng gây nguy hiểm cho Diệm, Nhu cả.
Luân
viết báo cáo gửi anh Sáu Đăng. Báo cáo đề xuất: nếu ta bắt Năm thì đề
nghị khi tách thật nhanh và tạo một cớ hợp lý để thả Năm ngay.
*
Công
cuộc truy tần đại tá Hoàng Thụy Năm bị cơn bão đột ngột gây khó khăn.
Phát xuất từ biển Đông, cơn bão đổ bộ vào bờ biển Tây Nam phần – thật
hiếm có. Trong mấy ngày liền, mưa lớn, kéo dài. Mực nước sông Cửu Long
lên nhanh cấp kỳ. An Giang, Kiên Giang, Phong Dinh, Chương Thiện, Kiến
Phong, Kiến Tường, Long An ngập sâu. Gần một triệu người bị cơn bão –
tên quốc tế của nó là Wilda – cuốn sạch nhà cửa. Lối một triệu mẫu
ruộng, giữa lúc lúa trổ đòng đòng, chìm dưới nước. bão Wilda quay lại
hướng tàn phá ra các tỉnh Trung phần, Quảng Ngãi đến Huế.
Trong
hoàn cảnh rối ren như vậy, tướng Maxwell Taylor, cố vấn quân sự đặc biệt
của tổng thống Kennedy được cử sang thị sát tình hình Nam Việt. Bức thư
tay của Kennedy gửi cho Ngô Đình Diệm do Taylor chuyển, nhấn mạnh đến
“tình hình Nam Việt biến chuyển ngày mỗi xấu hơn và hiện giờ thì rõ ràng
là nghiêm trọng”. Diệm, Nhu tiếp nhận nhận xét của Kennedy như một thứ
cảnh cáo.
Đưa cho Luân đọc toàn văn bức thư tay – văn chương bóng
bẩy song ý tứ thì không thể nhầm lẫn – Nhu lại đi lại trong phòng, lo âu
và tức giận đè nặng từng bước của anh ta dù anh ta đi trên thảm len.
-
Người Mỹ thúc bách chúng ta! – Nhu hằn học. Đúng là Mỹ bổ vây các hướng
khép anh em Diệm vào chân tường. Nhưng, câu nói của Nhu còn hàm ý khác:
Mỹ bắt buộc anh em họ phải trả đũa ngay. Điều bí ẩn của mọi bí ẩn là
Nhu sẽ trả đũa như thế nào, bằng cái gì… Phong trào Thanh niên Cộng hòa
mà Nhu là Tổng thủ lĩnh? Phong trào Phụ nữ Cộng hòa mà Trần Lệ Xuân là
Tổng thủ lĩnh? Phong trào Cách mạng Quốc gia mà Trần Chánh Thành là Chủ
tịch? Hay Quân lực Việt Nam Cộng hòa? Hay là cái gì khác?
Nhu là
một chính khách sắc sảo. Luân thừa nhận bộ óc của Nhu khác thường: linh
hoạt, nhạy bén. Tuy nhiên, thời kỳ mà một ý kiến chỉ đạo đưa ra tạo liền
tác động chính trị, thời kỳ đó đã trở nên xưa cũ. Ngay thế lực Thiên
Chúa giáo di cư từng là chỗ dựa đáng tin cậy nhất của Ngô triều cũng
đang phân hóa. Nói chung, người ta ngao ngán chiến tranh. Những câu phù
chú “Cần lao nhân vị”, “thế giới tự do”… mất đến chín phần mười linh
nghiệm. Bộ phận còn hăng máu không tìm được lối ra ở cung cách và sức
mạnh làm chiến tranh của Diệm – Nhu.
Bỗng dưng, sự chọn lựa đặt lên
đòn cân: hoặc chế độ tự do của Nam Việt hoặc gia đình tổng thống Diệm.
Thực chất trên đòn cân là, Mỹ một đầu, Diệm một đầu. Đối trọng này, vào
những tháng cuối năm 1961 thật bất tiện đối với Diệm.
- Anh tham
gia phái đoàn Việt Nam! – Nhu ngồi xuống ghế, cũng nặng nề như anh ta
bước… - Lần này, ngoài Staley, có Taylor… Tôi hy vọng tài ứng phó của
anh.
Nhu nói, mệt mỏi. Thế là cái mà Nhu phản giáo lại Mỹ trong cơn
bị bức bách chỉ có bấy nhiêu. Cả một ý đồ lớn lao còn trông cậy mỗi một
tài miệng lưỡi trong một cuộc hội đàm – đúng ra, một cuộc họp mà người
Mỹ giành quyền đọc dictée (1), còn người Việt thì ghi chép, ghi chép sao
cho khỏi phạm lỗi chính tả.
- Tôi vốn kém môn écriture (2) – Luân đùa.
Nhu bật cười:
-
Anh quỷ quái thật. – Rồi Nhu nghiêm trở lại: - Ta cố tranh thủ thời
gian, khi lực lượng quân sự ta khá lớn, thế trên chiến trường cân bằng
hơn, bấy giờ anh không cần môn écriture nữa, thậm chí không cần môn
éloquence (3)… Bấy giờ, anh chỉ gật hoặc lắc đầu…
Giấc mơ của Nhu
viễn vông thật. Nếu quả đạt tới một thế cân bằng trên chiến trường thì
nó phản ảnh thế không cân bằng đến mức anh em Diệm – Nhu không còn là
cái gì trên đòn cân cả.
Luân hiểu – và, trong thâm tâm, có phần ái ngại cho cách tự làm êm dịu thần kinh của Nhu.
- Anh nên nghỉ ngơi… - Luân bắt tay Nhu với lời khuyên bè bạn.
- Cám ơn anh!
Hình như đây là lần đầu Nhu siết tay Luân chân thành.
*
Maxwell
Taylor – một đại tướng đẹp lão, nhã nhặn – những thứ bề ngoài cần thiết
cho một sĩ quan cao cấp mà lý lịch dày đặc những chi tiết. Con đường
hoạn lộ của Taylor khá thong dong: 22 tuổi, từ chân tú tài môn khoa học
xã hội, tốt nghiệp Viện hàn lâm quân sự; 32 tuổi, giảng viên đại học
quân sự và chuyên nghề giảng dạy các đại học quân sự trong và ngoài
nước, kể cả ở Seoul, ở Manila. Thông thạo nhiều ngoại ngữ, từng học ở
Tokyo, tùy viên quân sự ở Bắc Kinh. Năm 1939, công tác tại ban chỉ huy
sư đoàn không quân 82 tham chiến ở Sicile và Ý, năm 1943–1944, chỉ huy
sư đoàn không quân 101 ở chiến trường Viễn Tây. Tham mưu trưởng không
quân Mỹ ở châu Âu, tư lệnh vùng chiếm đóng Berlin sau Thế chiến, chỉ huy
sư đoàn số 8 trong chiến tranh Triều Tiên, tổng chỉ huy quân lực Mỹ ở
Viễn Đông và Thái Bình Dương… Tóm lại, một viên tướng Mỹ sừng sỏ, trí
thức. Cuộc họp không nghi thức, tiến hành tại một phòng rộng của Đại sứ
quán Mỹ, đường Hàm Nghi.
Cuộc họp kéo dài ba tuần, nhưng không liên
tục. Tướng Taylor thường thị sát các nơi, làm việc với các cơ quan quân
sự Mỹ - Việt. Mỗi phiên họp, Taylor nói và gần như chỉ có ông nói. Gọi
là cuộc họp – vì hai phái đoàn ngồi đối diện, trên chiếc bàn dài ngăn
đôi đính hai lá quốc kỳ - còn thì phái đoàn Việt Nam cắm cổ ghi các ý
kiến của Taylor, mặc nhiên như là chỉ thị cần thực hiện. Tức là cuộc họp
đi vào khía cạnh kỹ thuật. Trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa Nguyễn
Đình Thuần – có một dọc chức vụ: Bộ trưởng tại Phủ tổng thống kiêm bộ
trưởng phụ tá quốc phòng, xử lý bộ trưởng đặc nhiệm phối hợp an ninh –
cần mẫn hơn ai hết trong việc ghi chép. Người xum xoe thứ hai là Ngô
Trọng Hiếu, Bộ trưởng công dân vụ. Cả Thuần lẫn Hiếu đều muốn nhân cơ
hội này tự giới thiệu với Mỹ. Vũ Quốc Thúc lộ rõ thái độ kiêu ngạo bởi
vì dù sao ông ta cũng đi trước Thuần và Hiếu một bước. Kế hoạch mang tên
Staley và ông ta, bây giờ được tướng Taylor bổ sung, gồm ba tác giả:
Thúc cực kỳ hãnh diện vì tên ông được xếp cạnh tên Taylor. Tướng Lê Văn
Tỵ bàng quang. Với ông, hàm đại tướng và chức tổng tham mưu trưởng trước
đây vốn là trò trưng kiểng của Tổng thống Diệm, bây giờ lên giá một
chút – ông là trái độn của Mỹ. Thỉnh thoảng, Tỵ vẫn nhớ cuộc đời “binh
nghiệp” của ông. Xuất thân đội “chân xanh mắt ếch”, tức là tiểu đội
trưởng lính Garde civile locale (4) sau 1945 theo kháng chiến vài
tháng, sợ Tây quá, trốn về thành. Tây cho ông ta học lớp pháo binh và
phong lon “ách” (5) rồi quan một (6). Khi Tây về nước, ông đeo lon quan
ba (7). Tưởng đó là lon tột cùng, ai dè Diệm lại phong ông vượt cấp, lên
trung tá. Diệm và Hinh chỏi nhau. Hinh thua trí mụ Trần Lệ Xuân phải
sang Pháp, Tỵ được chỉ định thay Hinh làm tổng tham mưu trưởng, quân hàm
thiếu tướng. Sau vụ Bình Xuyên, Tỵ lên trung tướng và chẳng bao lâu,
đại tướng. Từ chú lính “đơdèm cùi bắp” – chữ gọi đùa hạng binh nhì thời
Pháp – bò đến đại úy, Tỵ tốn 30 năm. Từ đại úy đến đại tướng – ông khỏi
bò, thiên hạ “ẩy” ông lên – ông cần có 7 năm. Đã quá đủ rồi, sanh sự làm
chi cho mệt. Người không hề hé răng suốt cuộc hội đàm là ông.
Tướng
Taylor, hẳn đã nghe mật báo, thỉnh thoảng liếc trung tá Nguyễn Thành
Luân, nhưng không tỏ ra vồn vã. Taylor bắt tay Luân như với mọi người.
Cho đến một hôm, lúc mà cuộc hội đàm coi như không còn vấn đề gì để bàn,
chỉ chờ tổng thống Diệm thông qua và tổng thống Kennedy duyệt thì
Taylor buộc phải tranh luận với viên trung tá Việt ngồi hàng ghế thứ hai
sau lưng tướng Tỵ.
- Thưa tướng quân, tôi xin phép nêu một băn
khoăn. Tất cả chúng ta, ai cũng mong sớm chấm dứt những tháng ngày căng
thẳng như chúng ta thấy ở Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, liệu rằng ý định
đánh bại Việt Cộng trong vòng 18 tháng – nghĩa là đến giữa 1963 – có
quá lạc quan không?
- Trung tá cho là kế hoạch bình định thiếu cơ sở? – Taylor hỏi lại, giọng điềm đạm, nhưng rõ ràng ông ta cố hết sức kiềm chế.
- Tất nhiên! – Luân trả lời, dứt khoát.
Tướng
Tỵ hơi ngoảnh lại phía sau, nhìn anh. Nguyễn Đình Thuần gõ cây bút trên
giấy ra vẻ không ưng ý. Ngô Trọng Hiếu bỉu môi – chỉ bĩu môi cho phía
Mỹ thấy. Vũ Quốc Thúc cười lạt và muốn Luân biết ông ta cười lạt. Phía
Mỹ, Nolting khoanh tay trước ngực, lặng lẽ.
- Tôi chờ lý giải của trung tá. – Taylor nhún vai.
-
Tôi nêu một chi tiết thôi: trong vòng 18 tháng, chúng tôi không sao
huấn luyện đến nơi đến chốn 170.000 tân binh Việt Nam, đó mới tính số bộ
binh và chưa nói đến Bảo an. Đối với các binh quân chủng khác, thời
gian huấn luyện đòi hỏi lâu hơn… - Luân làm như không để ý chung quanh,
nói đều đều.
- Có lý! – Taylor kêu lên, song đôi mắt nheo của ông không chứng minh ông đồng ý với Luân.
-
Có lý, tôi nói về lý thuyết. – Taylor tựa người vào ghế - Nhưng, chúng
ta có quyền sáng tạo lý thuyết giải đáp được yêu cầu của chúng ta. Một,
mở thêm trường huấn luyện bộ binh; chúng tôi đảm bảo cho các ông huấn
luyện viên. Hai, rút ngắn thời gian huấn luyện; bỏ phần chính trị. Nói
thật, các ông diễn thuyết dài bao nhiêu chẳng ai để ý đến các khẩu hiệu
của các ông. Lính cần biết sử dụng vũ khí. Một tháng là quá đủ, súng
trường Garant lợi hại nhưng sử dụng đơn giản. Sáu tháng, với ba hay bốn
trung tâm huấn luyện, các ông thừa sức cho ra trường 25.000 quân. Bộ
trưởng Ngô Trọng Hiếu cam kết động viên dưới cờ, trong trường hợp cần
thiết, nửa triệu lính, đúng không, ông Hiếu?
- Đúng! – Hiếu trả lời hấp tấp.
-
Như vậy, chẳng những quân số 170.000 sẽ được huấn luyện mà quân lực các
ông còn có dự trữ lớn… Tôi đảm bảo quân lực Việt Nam sẽ được trang bị
tốt. Các ông tin, vũ khí bộ binh Mỹ không tồi lắm đâu và nhất là không
thiếu lắm đâu. Riêng về các binh quân chủng, đúng là khó. Song, trong
khi quân lực Việt Nam chưa cáng đáng hết các yêu cầu yểm trợ chiến đấu,
tướng Harkins sẽ giúp. Pháo, giang thuyền, không quân, thiết giáp… lần
lượt các ông sẽ có đủ người sử dụng thành thạo vũ khí Mỹ.
- Tôi được biết, qua bà Ngô Đình Nhu, thanh nữ Việt Nam đang được động viên và huấn luyện! – Nolting bổ sung.
-
Tuyệt! – Taylor tặc lưỡi – Chúng tôi sẽ trang bị cho lực lượng nữ binh
đó vũ khí thích hợp, cả quân phục nữa… Trung tá Luân thấy thế nào?
Luân ngó thẳng Taylor, trước câu hỏi khiêu khích của ông ta.
-
Thưa tướng quân, tôi càng thấy kế hoạch 18 tháng không thể đạt nổi. Rất
đơn giản, những người gọi là lính của Việt Nam Cộng hòa chỉ “lính” ở bộ
quân phục và khẩu súng. Dù các nhà báo gán cho hiện tượng đánh nhau ở
Nam Việt là gì – chiến tranh đặc biệt, chiến tranh chống lật đổ, nội
chiến, chiến tranh đơn phương, chiến tranh chống khủng bố… - chiến tranh
vẫn là chiến tranh. Chúng ta – nước Mỹ và Việt Nam Cộng hòa – cần những
chiến binh chứ không cần những người máy cầm súng.
- Thế, trung tá
tin rằng kéo dài thời gian có lợi cho chúng ta? Trung tá tin rằng chính
phủ Nam Việt đủ sức thắng Việt Cộng nhờ tiêm nhiễm vào con người Việt
Nam một thứ lý tưởng nào đó? Tôi không cho rằng Bắc Việt không thâm nhập
vào Nam Việt. Có đấy. Song, tôi cũng không cho rằng sự thâm nhập ấy đạt
đến một số lượng đủ thành lực lượng. Không, lực lượng chống các ông là
người Nam Việt, chủ yếu là người Nam Việt, thậm chí, có cả người di cư
nữa. Bảy năm, các ông không tiêm nhiễm nổi con người, các ông cần bao
nhiêu nữa? Tôi cần 18 tháng. Ấp chiến lược, xương sống của kế hoạch. Ấp
chiến lược kết hợp với tạo vùng trắng các mật khu và khu tiếp giáp, ngăn
đường thâm nhập từ rừng núi. Mười tám tháng vừa vặn cho chừng đó việc
làm…
Taylor càng nói, càng hăng.
- Xin lỗi tướng quân, nếu
Việt Cộng lại từ các ấp chiến lược đánh chúng ta, hoặc tôi diễn đạt rõ
hơn – Việt Cộng đánh chúng ta bằng các ấp chiến lược – thì chúng ta sẽ
làm gì? Tướng quân vừa có một nhận xét chí lý: 7 năm, chúng tôi sản sinh
người chống chúng tôi nhiều hơn là đào tạo người ủng hộ chúng tôi. Con
số đó, trong 18 tháng, sẽ có thể vượt hơn 7 năm…
Cuộc họp bị bất
ngờ. Số đông không dè Luân “dám” cãi và cãi găng. Riêng Taylor, ông ta
có thể không đoán trước câu hỏi ngược của Luân.
- Tôi cho rằng, ở Việt Nam Cộng hòa, yếu tố quyết định là lãnh đạo… Người Nam Việt không được lãnh đạo tốt!
Rõ ràng Taylor tránh né giải đáp thắc mắc của Luân. Ông ta đặt ra một vấn đề mới, bao quất hơn và cũng nghiêm trọng hơn.
-
Thưa tướng quân!– Luân nghiêm giọng – Chúng ta dự một cuộc họp
bàn về cách thức vãn hồi an ninh. Cuộc họp không thể là tòa
án. Không thể vì không ai cho phép chúng ta và chúng ta cũng
không đủ điều kiện phán xét.
Phiên họp đến đó chấm dứt.
Taylor ngượng ngùng bắt tay Luân. Nolting bước theo Luân đến tận
xe của anh, tỏ thái độ dàn hoà.
Về nhà, Luân nghe điện của Nhu:
- Hoan hô anh! – Nhu nói to trong máy.
Thì
ra, Nguyễn Đình Thuần và Ngô Trọng Hiếu vào dinh Độc Lập báo
cáo ngay sau phiên họp. Hai tay chứng minh họ bất bình cách nhận
xét của Taylor và ngỏ lời khen Luân. Bởi vì, sớm muộn gì Nhu
cũng biết và sự thật nguy hiểm cho họ khi họ bị Nhu nhìn như
hai tên rấp ranh trở cờ.
*
Tối hôm đó, Staley điện xin gặp Luân. Giáo sư báo là sẽ đến chơi với một người bạn nữa.
Và người bạn đó là Dương Tái Hưng.
Thật,
Luân không thể nào tưởng tượng mối quan hệ quái gở như thế
này. Thế mà, tại phòng khách nhà anh, Staley và Dương Tái Hưng
sánh đôi như hai tri kỷ.
Câu chuyện không chủ đích – họ bảo
là đến chơi thôi – kéo dài gần một giờ. Mãi, trước khi họ từ
giã, Dương Tái Hưng mới nói:
- Chúng tôi thấy khinh binh
Việt Nam Cộng hoà nên trang bị súng tiểu liên AR15 hoặc M16 hơn
là súng trường bán tự động M1 còn gọi là Garant. Trung tá là
một quân nhân, hẳn rõ tác dụng của mỗi loại. Dẫu sao, Garant
cũng lỗi thời. AR15 hoặc M16 bắn cực nhanh, tầm sát thương không
thua Garant, song là tiểu liên. Về trung liên, tốt nhất là AR10,
đại liên thì nên dùng Browning kiểu 30M.1919 A4 hoặc M60 – hợp
với vóc người châu Á. Chúng tôi cũng mách trung tá súng phóng
lựu M79…
Lạ lùng thật. Tên tình báo cỡ quốc tế như Dương
Tái Hưng lại đi với Staley và nói chuyện y như tên lái súng.
Taylor chủ trương trang bị súng Garant cho quân Nam Việt, còn
Staley và Dương Tái Hưng lại khuyên nên trang bị súng của hãng
Colt. Nghĩa là thế nào?
Dung gỡ bí: Anh đi tìm Fanfani.
Cô nhà báo ngụ ở khách sạn Majestic, đón Luân thân tình ngay phòng khách riêng của cô.
- Bà kỹ sư cho phép ông kỹ sư đến với tôi? – Fanfani hỏi, nghịch ngợm.
- Victor sang Hồng Kông, cuối tuần mới về. – Fanfani tiếp tục đùa. Cô chỉ nghiêm chỉnh khi Luân hỏi:
-
Tại sao giáo sư Staley không nêu ý kiến về trang bị quân lực
Việt Nam Cộng hòa ngay trong văn bản mà phải vòng qua tôi? Và,
tại sao gã Dương Tái Hưng ở đây?
- Tôi biết có lúc kỹ sư
cần đến tôi… - Fafani nói, giọng hơi buồn – Tôi giúp được kỹ sư
câu hỏi đầu: Tướng Taylor có cổ đông trong Công ty thu mua vật
liệu chiến tranh phế thải Keytesville – quê ông ta. Công ty thừa
hàng triệu tấn vũ khí kiểu hơi cổ. Nội chiến Trung Quốc tiêu
thụ một số, chiến tranh Triều Tiên tiêu thụ một số nữa, chiến
tranh Congo quá hẹp, Cuba thì nhóm lưu vong chẳng ra gì… Cần thị
trường. Nam Việt là thị trường tốt. Staley không thể ghi việc
đó vì Taylor sẽ phản đối. Lý do phản đối: hàng của hãng Colt
giá cao và thật ra quân lực Việt Nam Cộng hoà chưa cần đến
loại vũ khí tối tân hơn. Staley là cố vấn kinh tế và pháp
luật của hãng Colt.
- Thì ra vậy đó! – Luân gật đầu.
-
Câu hỏi thứ hai của ông kỹ sư, tôi chưa thể trả lời. Dương Tái
Hưng là con người bí ẩn. Tôi cố gắng làm vừa lòng ông trong
vài ngày tới.
Luân cám ơn Fanfani. Cô cầm tay Luân khá lâu,
chờ đợi. Luân ngó vào mắt Fanfani. Anh có thể hôn cô nhưng anh
không làm, dù biết chắc rằng chỉ cần một cái hôn đắm đuối anh
sẽ có nhiều thứ – kể cả sự an toàn cá nhân. Nhưng Luân không
làm bởi vì Fanfani yêu anh. Không thể đùa với tình yêu. Trong
một thoáng, anh nhớ Tiểu Phụng. Luân rời Fanfani, thở dài và
khi ra đến cửa, anh cũng nghe tiếng thở dài của Fanfani.
- Bọn lái súng! – Luân lẩm bẩm. Kế hoạch Staley – Taylor tự bộc lộ một trong những thực chất của nó.
*
Bảo
an gác cầu Bình Lợi phát hiện ngày 17-10 một tử thi nổi
vướng chân cầu. Chẳng bao lâu, người ta xác nhận đó là đại tá
Hoàng Thuỵ Năm, không bị thương tích gì cả. Rất có khả năng
đại tá Năm chết đuối…
Nhu lặng yên khá lâu khi nhận được báo cáo.
-
Ông ta mới chết thôi. Ngày 14 hay 15, trong khi ông ta bị bắt cóc
ngày 1. Nghĩa là nửa tháng ông ta nằm trong tay ai đó…
Nhu bảo Luân, giọng thật buồn…
---
(1) Bài văn mà thầy giáo đọc và học sinh viết để kiểm tra trình độ mẹo luật và chính tả của học sinh.
(2) Môn viết chữ đẹp.
(3) Hùng biện.
(4) Như Bảo an, tổ chức lính Việt Nam thời Pháp (trước 1945)
(5) Adjudant: tương đương thượng sĩ
(6) Thiếu úy
(7) Đại úy
CHƯƠNG 9
“L. về căn cứ an toàn. Có triệu chứng đường dây bị theo dõi, yêu cầu tạm
đình mọi liên lạc. Khi cần, sẽ có người gặp. Chúc thành công. Sáu Đ”.
Thư trên đây của anh Sáu Đăng, câu đầu liên quan đến Lục:
…
“Em bình yên. Ông vẫn đi nhà thờ đều chứ?”. Lục nói có bấy nhiêu, không
xưng tên. Gác máy nói, Luân cùng Dung phán đoán. Hai người tin Lục như
tin chính họ. Không thể nào có trò Lục làm con mồi nhử Luân. Nhưng, Lục
không phải là người già dặn trong nghề, nếu địch cao tay ấn hơn, thả
lỏng Lục để theo dấu thì sao? Tại sao cả James Casey và Mai Hữu Xuân đều
báo rằng Lục đã chết?
Rõ ràng, Lục hẹn gặp Luân ở nhà thờ, nơi mà
trước đây Lục vẫn chở Luân mỗi tuần đến đọc kinh sáng chủ nhật, Luân
tiếp tục như vậy mấy năm nay. Cứ đến nhà thờ như thường lệ. Luân quyết
định và Dung cũng đồng ý.
Hai vợ chồng cùng đi – Dung lấy cớ đi chợ
- khi xe ngừng, Luân thoáng thấy một tài xế tắc xi ngồi sau tay lái,
rất giống Lục, kết sụp tận chân mày, cằm tua tủa râu, kính đen. Dung
tinh mắt hơn, khẽ huých vào vai Luân. Luân xuống xe, bảo Thạch đưa Dung
đi chợ và đón anh sau. Nhà thờ đông bổn đạo, Luân trà trộn theo dòng
người ra vào và sau đó, đến chiếc xe tắc xi đã mở cửa sẵn. Đúng là Lục,
Lục cho xe về đường Hiền Vương và rẽ vào hướng Chợ Lớn.
Qua kiếng chiếu hậu, Lục nhìn Luân với tất cả tình cảm, Luân mỉm cười đáp lại.
- Nói đi! Vừa thoát chết hả? – Luân bảo, trìu mến.
- Vâng, suýt chút nữa em không còn gặp ông kỹ sư với cô Dung… Hồi nãy, em có thấy cô Dung… Ông với cô khỏe, em mừng.
- Ông, cô! – Luân đùa – Đồng chí chớ!
- Vâng… em quen miệng…
Lục
làm nhiệm vụ theo dõi các toán biệt kích đường không ở trường Nha
Trang, báo cáo với trung tâm mỗi khi có chuyến đổ bộ. Báo cáo của Lục,
đã mã hóa và viết “bạch” lên rìa báo, rìa trang sách hoặc toa thuốc,
hằng tuần mang đến một hốc đá nằm giữa Hải học viện và lầu ông Hoàng –
biệt điện xưa kia của Bảo Đại - trên bờ biển. Du khách đến ngắm cảnh ở
đây rất đông, nhất là chiều thứ bảy và ngày chủ nhật. Lục chỉ cần đặt
báo cáo vào hốc đá – giống một tờ giấy bị gió thổi tạt vào chỗ sâu kín
này – rồi ai đó, vào lúc nào đó, đến nhận. Mỗi báo cáo mang số riêng,
Lục biết báo cáo về đến trung tâm qua buổi nhắn tin vào Nam phát gần
giữa khuya của Đài tiếng nói Vệt Nam. “Ông Hà Hậu, gia đình đã nhận được
bưu thiếp đề ngày…”. Hoặc “Ông Xuân Huy”. Hoặc “Chị Lục Văn” v. v… Báo
cáo của Lục gửi đều đều và anh cũng nhận được tin đều đều.
Chiều
ngày 2-7, Lục mang một báo cáo đặc biệt ra hốc đá. Đặc biệt vì báo cáo
không phản ánh tin tức của biệt kích đường không mà liên quan đến toán
người nhái. Trường huấn luyện người nhái thành lập vài năm nay, thuộc Bộ
tư lệnh hải quân, do một trung tá người Việt phụ trách với nhóm huấn
luyện viên Mỹ. Trường người nhái và trường biệt kích của Lục đóng không
xa nhau mấy, song nội quy cấm ngặt quan hệ giữa hai trường.
Chỉ có
huấn luyện viên thỉnh thoảng vẫn gặp nhau ở quán rượu. Qua điều tra, Lục
biết nhân kết thúc khóa học đầu tiên, sẽ có cuộc ra quân.
Nhiều
toán người nhái, mỗi toán ba đến năm tên, sẽ thực tập đổ bộ thăm dò dọc
bờ biển bắc vĩ tuyến 17, mục đích đánh giá tình hình phòng vệ bờ biển
của miền Bắc, móc nối với bọn gián điệp tại chỗ, mở đầu cho hoạt động
biệt kích bằng hình thức người nhái. Năm điểm được dự kiến đổ bộ trong
đợt này – những nơi địa hình cho phép người nhái che dấu hành tung và có
bọn gián điệp tại chỗ đón. Năm điểm đó mang mật danh Sea từ 1 đến 5.
Ngoài ra, một điểm đặc biệt mang mật danh Explorer, mà toán người nhái
không đổ bộ nhưng phải thu thập tất cả tình hình của tàu hải quân và lực
lượng trú phòng miền Bắc: thu thập bằng quan sát, thậm chí, bằng bắt
cóc, khai thác nhân chứng sống và thủ tiêu sau đó. Phối hợp các nguồn
tin lại, Lục đoán các “Sea” trải từ cửa sông Gianh trở vào. Còn Explorer
chính là đảo Cồn Cỏ.
Mặt trời khuất sau núi. Bờ biển vắng dần. Lục
bước trên từng hòn cuội, như người dạo chơi, đến hốc đá. Quanh hốc đá
không có người. Ngoài sóng biển, tất cả yên lặng. Quan sát chung quanh,
không có gì khả nghi, Lục nhìn vào hốc đá. Hốc đá trống trơn. Lục toan
đặt báo cáo vào hốc – viết trên nhãn hộp sữa – thì đột nhiên nghe tiếng
quát:
- Giơ tay lên!
Từ các gộp đá, ba người chĩa súng ngắn vào Lục, cả ba nấp ở các gộp đá cách Lục mươi thước. “Mình bị phục kích” Lục than thầm.
- Đừng giỡn các bạn! Các bạn là ai?
Lục trì hoãn thời gian. Chắc chắn hộp thơ đã lộ, có thể giao liên đã bị bắt. Có nên để lọt vào tay chúng không?
- Ai mà giỡn với mày? Đưa tay lên!
Một tên hùng hổ. Nó bảo luôn đồng bọn:
- Coi chừng nó hủy tài liệu…
Thế là rõ. Thế là không thể để lọt vào tay chúng. Nó có ba tên… Lục chọn phương án hành động.
- Đưa tay lên!
Tên – dáng chừng chỉ huy – nhắc lại.
Lục từ từ đưa tay lên.
- Tước súng nó!
Tên
chỉ huy ra lệnh. Một tên, theo các hòn cuội, tiến đến, tay lăm lăm
súng. Hắn cách Lục chừng vài bước, lợi dụng hắn đang bước rất khó khăn
trên các hòn đá lông chông, đồng thời hắn lại là tấm lá chắn che Lục
khỏi bị hai tên kia bắn. Lục rút súng, nổ liền mấy phát, vừa nhảy núp
sau gộp đá. Tên đi tước súng của Lục ngã gục, rơi luôn xuống biển. Hai
tên kia, bàng hoàng một lúc, bắt đầu bắn. Song, bây giờ thì chúng không
thể nào dám xáp gần Lục. Lục dè xẻn đạn, chỉ bấm cò khi phát hiện chúng
di động. Nếu tiếp tục chọi nhau như thế này, chắc chắn sẽ “hòa”, trời
tối, mạnh ai nấy rút. Nhưng, trên đường, đã vang tiếng tiểu liên cùng
tiếng xe. Bọn chúng có tiếp viện; Lục đột ngột bắn thật căn về phía hai
tên – anh bắn hết băng đạn vừa thay, rồi lặng lẽ tụt xuống nước, men
theo bờ đá, vòng qua mõm đất nhỏ, bò sát mặt cát, lẫn vào các thuyền
đánh cá kéo lên cạn, vượt qua con đường mòn, vượt tường một ngôi biệt
thự không rõ của ai, chạy về hướng núi. Anh vẫn nghe súng nổ ở vùng gộp
đá.
Khi trời tối, Lục đã cách thành phố vài cây số. Bây giờ thì
không còn sợ bọn chúng truy đuổi nhưng lại rất dễ lọt vào bọn tuần tiểu.
Lục quyết định chọn một bụi rậm để ẩn mình. Không thể trở lại trường
biệt kích nữa. Còn đi làm du kích thì quá phiêu lưu. Cho nên, trời hừng
sáng. Lục chôn súng, băng đồng ra lộ, đón xe xuôi Ba Ngòi. Từ Ba Ngòi,
Lục chuyển sang xe lửa. Cứ thế, anh vô Sài Gòn. Đôi lần, anh bị hỏi
giấy. Cảnh sát nghi anh đào ngũ từ các lực lượng tiền đồn Quảng Trị hoặc
Tây Nguyên. Anh trình giấy – ký hiệu của trường huấn luyện biệt kích
làm các tay cảnh sát phải xin lỗi anh…
- Chỉ vậy thôi sao? – Nghe Lục thuật xong, Luân vụt hỏi, Lục không hiểu ý nghĩa câu hỏi, liếc Luân mãi.
“Chỉ
vậy thôi sao?” – tức là Luân không ngờ sự việc từ một nguyên nhân khác,
giản đơn hơn nhiều: hộp thư bị lộ, hoặc giao liên mang tài liệu bị lộ
rồi khai báo, địch phục kích… Trong trường hợp đó, nếu Lục thủ tiêu kịp
báo cáo thì vẫn cứ để chúng bắt, không đủ yếu tố buộc tội Lục. Chắc là
một nhóm công an đã hành động như nghiệp vụ của chúng. Thật tiếc cho
Lục!
Luân thở dài. Lục, lần này hiểu:
- Em có lỗi.
- Thôi đã lỡ rồi… Chú nên về khu, tùy trung tâm quyết định…
Luân thuật cho Lục nghe các tin tức về cái chết của anh.
– Có lẽ họ phát hiện xác cái thằng bị em… Em thưa với ông, em muốn tiếp tục làm việc với ông kỹ sư!
Luân phì cười:
- Bậy! Cứ về khu. Không thiếu cơ hội làm việc đâu. Vả lai, đồng chí, hiểu chưa, không có ông kỹ sư nào ở đây!
Lục cười theo.
-
Tôi sẽ bố trí cho anh về khu… Đến nơi, anh báo cáo ngay kế hoạch Sea và
Explorer, chắc chưa muộn… Nhớ, đừng nói gì về tôi với bất cứ kỳ ai…
Luân
xuống xe trước Chợ Lớn mới. Hai người từ giã nhau bằng mắt. Luân đi
loanh quanh một lúc, lên một tắc xi khác quay lại nhà thờ Tân Định.
Luân chưa kịp lên xe của Thạch và Dung – họ đến nhà thờ sau Luân vài phút – thì một cô gái gọi anh:
- Ông kỹ sư!
Luân
nhớ ra ngay cô gái – cô Mai, nhân viên tòa đô chính, người đã đưa Luân
vào chào Trần Văn Hương khi anh về thành năm 1955 và sau đó, gặp anh ở
trường Vương Gia Cần. So với 7 năm trước, Mai già hơn nhiều. Càng lớn
tuổi, Mai càng giống một người nào đó quen quen với Luân mà khi gặp Mai
lần đầu Luân cố đoán song đoán không ra
- Ông kỹ sư nhớ tôi không? – Mai đến cạnh Luân.
Luân chia tay bắt.
- Nhớ! Cô Mai khỏe không?
- Cám ơn… Tôi bình thường.
- Ai đây, xin hỏi, phải bà kỹ sư không?
Dung ra khỏi xe, bắt tay Mai. Luân giới thiệu:
- Cô Mai, nhân viên tòa đô chính, tôi nói cách đây 7 năm, còn bây giờ làm gì, tôi chưa biết.
- Tôi sang Hàng không dân dụng đã 5 năm nay!
- Thế à…? Còn đây, Dung, nhà tôi.
Mai nhìn Dung hơi lâu.
- Ông bà đi chơi sáng chủ nhật?
Dung gật đầu.
- Tôi có một việc muốn thưa với ông kỹ sư để nhờ giúp ý kiến. Tôi có thể gặp ông kỹ sư ở nhà riêng không?
- Được! Xin mời cô Mai. Cô biết nhà tôi chưa?
Mai lắc đầu. Luân đưa Mai tấm danh thiếp.
- Tôi sẽ gọi điện cho ông trước.
Luân
về đến nhà, vừa kịp thuật cho Dung nghe trường hợp của Lục, dặn Dung bố
trí cho Lục lên Củ Chi thì điện thoại reo: Mai xin gặp Luân ngay.
-
Cô ấy đến vì việc gì? – Dung hỏi. Luân không đoán nổi. Anh nhắc những
nhận xét của anh về Mai trước đây – một người có thể có mối quan hệ nào
đó với kháng chiến.
Mai vào nhà. Một mình Luân đón tiếp cô.
-
Tôi muốn hỏi ông một việc. Tôi mạo hiểm và tin rằng không linh cảm sai.
Tùy ông, hoặc giúp tôi ý kiến, hoặc gọi công an bắt tôi.
*
Ngọn
đèn điện soi lù mù gian nhà xây đá tảng. Chiếc cửa sắt nặng nề ngăn
gian hầm với bậc thang, cũng xây đá, hẳn là lối lên mặt đất. Một con
đường hẹp hun hút không rõ chạy về đâu ở đầu hầm bên kia.
Một người
trần truồng đang co quắp trên nền xi măng lạnh, thân thể bê bết máu.
Người đó – tuổi có lẽ trên dưới 60 – vụt nhỏm dậy. Cùng với tiếng động
nặng nề, hai chấm xanh lè theo con đường hẹp mỗi lúc một tiến sát gian
hầm. bây giờ thì thấy rõ rồi: con cọp to gần bằng con bê. Người đó lao
đến cửa sắt, lay mạnh: “Cứu tôi! Cọp!…”
Con cọp dừng lại vài giây,
nhe hàm răng chơm chởm. Nó rống còn to hơn cả tiếng kêu cứu. Chỉ một cái
nhún, cọp vồ gọn người đó. Ngọn đèn khẽ lắc lư. Nửa giờ sau, con cọp
ung dung theo con đường hẹp, vừa bước vừa liếm mép thỏa mãn. Gian hầm
còn lại chiếc đầu lâu, các bộ phận bầy nhầy và bộ xương. Nền xi măng lầy
máu.
…
- Tại sao cô biết việc đó?
Luân ôm đầu hỏi.
-
Chú ruột tôi là lao công vệ sinh chuồng cọp ở Sở thú. Ông chứng kiến
không phải một lần… Gian hầm đó nằm trong hệ thống mấy gian hầm, gọi là
P.42. Sợ quá, ông ngỏ ý xin thôi, ông Thái Đen – ông kỹ sư nghe tiếng
Thái Trắng, Thái Đen không? Vâng, hai ông đều tên Thái, mật vụ - ông
Thái Đen cười lạt: Được, tôi cho ông nghỉ, nhưng không về nhà mà vô hầm
đá… Chú tôi đành tiếp tục công việc thu dọn xương thịt, lau chùi máu mỗi
ngày. “Ở ngoài, ai biết được chuyện này, ông phải chết!”, Thái Đen bảo
như vậy, chú tôi biết ông ta không nói đùa.
- Những ai bị hại theo kiểu đó? – Luân hỏi, thái dương anh giật giật.
Mai không trả lời câu hỏi của Luân, nói tiếp:
-
Cách đây vài hôm, tôi đưa một người bạn trai về nhà. Anh là phi công
lái máy bay ném bom AD6, vừa tốt nghiệp ở Mỹ. Vì sao tôi quen với anh
phi công này, xin phép khỏi kể với ông kỹ sư, nhưng cũng cần nói thẳng:
anh ta nhỏ tuổi hơn tôi và không phải chuyện tình cảm. Chúng tôi đang ăn
cơm thì chú tôi ghé thăm. Ông mệt mỏi lắm. Chúng tôi mời ông dùng cơm,
ông cầm đũa, vừa ăn một miếng, bỗng nôn oẹ. Tôi hiểu lý do, người bạn
của tôi thì trố mắt nhìn. Tôi đỡ ông nằm tạm trên đi văng.
Trong
khi ăn, người bạn phi công kể lể về việc nhà: anh ở Thừa Thiên, cha và
hai người chú đều bị bắt vì dính líu với đảng Đại Việt – Hà Thúc Ký,
Phan Quang Đông giam giữ họ cùng một số người khác, sau đó giải tất cả
vào Sài Gòn, nghe nhốt ở khám tên P.42. Anh phi công sợ liên lụy, nhờ
người khác hỏi tin tức giúp, chẳng đâu có tin tức.
Chú tôi nghe
hết, lồm cồm ngồi dậy, rút trong túi ra một chiếc nhẫn bằng ngà voi, đặt
lên bàn. Vừa trông thấy chiếc nhẫn, anh phi công chụp lấy, run rẩy:
- Nhẫn của cha tôi!
…
Người chú của Mai, trong cơn xúc động, kể những điều trông thấy ở P.42.
Viên phi công, sau khi khóc ngất, đã đứng lên, từ giã Mai. Anh quyết
định hành động và anh ta sẽ hành động như thế nào, không khó khăn gì mà
không đoán ra.
- Cô muốn tôi có ý kiến, ý kiến về việc gì? – Luân ngó thẳng vào mắt Mai.
- Một là, theo ông, anh bạn phi công của tôi trả thù như vậy là nên hay không nên…
- Cô nói tiếp đi…
- Hai là, nếu không nên, thì anh ta phải làm gì. Còn nếu nên, thì lúc nào tiện nhất, tức là có kết quả nhất…
-
Trước khi trả lời cô – trả lời là tôi sẽ góp ý với cô hay gọi công an
bắt cô – tôi muốn cô cho biết vì sao cô lại đem một việc tày trời như
vậy hỏi tôi, một người mà cô thừa biết có mối liên hệ như thế nào với
chế độ.
Mai bình thản, điều đó cho thấy cô đã suy tính rất kỹ trước khi gặp Luân.
-
Không chỉ tôi mà cả Nam Việt, không ai không biết ông là người của ông
Diệm. Song, người nhà của ông Diệm vẫn không ngăn trở ông nói lên điều
của riêng ông. Ông từng thực hiện nhiều vệc không giống, hơn nữa, trái
ngược với ông Diệm…
- Cô theo dõi tôi kỹ quá! – Luân cười.
- Không chỉ riêng tôi theo dõi ông…
- Tại sao cô theo dõi tôi, cô có thể cho biết không?
-
Xin lỗi ông, tôi không thể làm vừa lòng ông… Tôi bịa ra một cớ, chắc
được, song không nên nói dối tại đây, lúc này… Ông cứ cho tôi giải thích
theo dõi ông vì tò mò chẳng hạn…
- Bảy năm trước, cô bảo tôi cái gì, tôi còn nhớ: ông tiếp tục sự nghiệp kháng chiến bằng cách vứt súng…
-
Ông có một trí nhớ tốt đặc biệt. Đúng, tôi đã nói như vậy. Sau đó, tôi
thất vọng hơn một mức nữa khi ông cộng tác với Ngô Đình Nhu. Nếu tôi
tiếp tục khư khư với định kiến thì, ông đừng phiền, tôi đã gợi ý cho anh
bạn phi công của tôi, trong một dịp nào thuận tiện, xả vào ông một băng
tiểu liên!
Mai nói rạch ròi. Cơ thể mong manh của cô gái chứa một nghị lực lớn; Luân thấy vui vui: Bảy năm Mai không còn non nớt.
- Cô có thể cho tôi biết cô là ai không? Cô biết tôi nhiều hơn tôi biết cô, thật không công bằng!
Mắt Mai chớp, nụ cười ranh mãnh:
- Tôi không thuộc về một phía nào có thể làm hại ông.
Luân bỗng hạ giọng:
- Mai đứt liên lạc từ bao giờ? Công tác binh vận thương đơn tuyến, dễ đứt liên lạc.
Mai lại chớp mắt, nụ cười vẫn ranh mãnh:
- Ông dẫn tôi đi quá xa rồi! Tôi trở lại câu hỏi chính.
-
Tôi không thể trả lời cho cô. – Luân nghiêm giọng – Như cô cho biết,
anh chàng phi công bạn của cô thuộc một gia đình Đại Việt. Với một phi
công Đại Việt, anh ta đã định làm, muốn ngăn cũng không ngăn nổi, anh ta
đã định không làm, muốn xúi cũng không xúi nổi. Chính họ hiểu hơn ai
hết phải làm như thế nào và làm lúc nào, nếu họ quyết tâm. Cô nên nhớ,
tai mắt của Đại Việt đâu đâu cũng có. Vả lại, tôi không thích những vụ
trả thù tư riêng…
- Ông vừa nói một câu không thật. Ông không thích
những vụ trả thù tư riêng, nhưng chẳng lẽ ông không tìm thấy trong
những vụ trả thù đến mức nào đó sẽ mang đến hậu quả không còn tư riêng
nữa…
Mai nói đều đều. Luân biết mình đang tiếp một tay có bản lĩnh.
Anh chợt nhớ Mạch Điền. Không! Mai không thể nào là Mạch Điền được.
- Tôi xin hỏi một câu bè bạn: Anh ở nhà khỏe không?
Mắt Mai vụt tối sầm.
- Nếu câu hỏi vô duyên của tôi phiền cô…
-
Không! Cám ơn ông… Ông quan tâm đến chúng tôi càng chứng tỏ tôi đã
không lầm khi trao đổi với ông về chuyện vừa rồi… Nhà tôi bị bắt và biệt
tích hai năm nay. Chắc ông muốn biết nhà tôi làm gì mà bị bắt. Bây giờ,
tôi không cần giấu, nhà tôi là một cán bộ hoạt động nội thành, anh ấy
dạy học và phụ trách tổ chức các nhà giáo…
- Anh bị bắt lúc nào?
- Giữa năm 1959, lúc anh đang dạy…
- Ai bắt?
- Lúc đầu, công an bót Hàng Keo, sau đó chuyển lên Nha cảnh sát Đô thành và mất tích…
- Có vào P.42 không?
- Chú tôi không gặp anh ấy, nhưng tôi nghĩ anh ấy chết tại P.42… Không phải lúc nào chú tôi cũng có mặt ở đó.
-
Tôi có thể hỏi thăm tin của anh, nếu chị cho biết tên. – Luân đổi cách
xưng hô – Anh còn sống thì tôi cũng có thể xoay xở cho anh được tự do…
-
Cám ơn ông nhiều… Tuy nhiên, tôi không còn một chút hy vọng. Các bạn tù
của anh ấy đều cho biết từ Nha cảnh sát Đô thành, anh ấy bị lôi đến một
nơi giam giữ nào đó rất bí mật và không còn ai gặp anh ấy nữa. Trong
giấy căn cước của nhà tôi là Lê Văn Hòa, giáo sư…
- Anh chị được mấy cháu? – Luân hỏi, sau khi ghi chú tên của chồng Mai.
- Một cháu, lên bốn… Cháu gái.
-
Tôi xin hỏi ông thêm một vài chi tiết kỹ thuật, - Mai chuyển nội dung
nói chuyện sang hướng khác – tôi muốn biết mỗi chiếc Skyraider chở được
bao nhiêu bom?
Luân ngó Mai một lúc. Người ta đã nói với cô những gì về loại máy bay sản phẩm của Thế chiến thứ hai này?
-
Đó là loại máy bay ném bom duy nhất chở nổi một trong lượng bằng chính
trọng lượng của nó, mà nó rất to, có thể mang ba tấn rưỡi bom các cỡ từ
350 đến 500 ký, bom miểng hay bom cháy hay napalm. Nó có bốn khẩu tiểu
pháo 20 ly… Tốc độ bay tối đa 500km/g, bay cao được 8 cây số, tầm hoạt
động 400 trăm cây số… Tất cả những gì thuộc số liệu cơ bản của
Skyraider, có bấy nhiêu.
- Cám ơn ông nhiều… Ba tấn rưỡi bom! Không phải ít…
- Nhưng, trọng tải thực tế thường thấp hơn… Nhất là nếu phải đi ném bom xa… Hiệu quả của nó cũng không phải ghê gớm lắm đâu…
- Chỉ cần ném trúng đích! – Mai nhấn mạnh. Luân thừa hiểu cái “đích” đó…
Câu chuyện càng lúc càng buồn đồng thời càng lúc càng giống như hai đồng chí trao đổi và chia xẻ với nhau.
- Chị cẩn thận với tay phi công Đại Việt. Đại Việt hung dữ, gian giảo chẳng thua ai… - Luân dặn dò trước khi Mai ra về.
*
Giữa những gọng kềm.
(Bài của Hellen Fanfani gửi báo Financial Affairs bằng telex)
Sài
Gòn, November. Trong khi cuộc hội đàm giữa đại diện của Tổng thống Mỹ
với phái đoàn Nam Việt đang đi vào những chi tiết của một chương trình
hành động chung và hiệu quả nhằm lật ngược tình thế ở Nam Việt – nay thì
xấu đến tồi tệ - Quốc hội Sài Gòn, dĩ nhiên dưới sức ép của Phủ tổng
thống, thông qua đạo luật số 13 trao cho ông Ngô Đình Diệm quyền hành
đặc biệt được ban bố các sắt luật trong tình trạng khẩn cấp, sau khi ông
Diệm tự mình ra sắc lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp 5 ngày trước đó.
Diễn đạt cách khác, nhà cầm quyền Nam Việt của ông Diệm xem Nam Việt ở
vào thời điểm báo động có tính cách toàn quốc. Một chính khách Nam Việt
rất thông thạo các vấn đề chính trị - và yêu cầu không tiết lộ tên –
cười với vẻ hài hước: “Tổng thống Diệm và em trai, em dâu của ông ta
chưa bỏ lối thủ đoạn vặt. Chính khách ấy bảo: “Chế độ Sài Gòn lợi dụng
kẻ thù của mình – sau khi đã lợi dụng Đức Chúa Trời, người di cư, phe
phái Quốc gia và đồng minh. Bây giờ, nếu Việt Cộng giảm cường độ chiến
tranh thì chính anh em ông Diệm nổi đóa. ”
Chế độ Sài Gòn có đứng
sát bờ vựt sụp đổ - do Việt Cộng – thì ông Diệm mới chuyển được cái thế
từ đang bị người Mỹ hạch sách lên cái thế hạch sách lại người Mỹ. Ông
Diệm ngoan cố với lập luận: Nam Việt suy yếu vì người Mỹ phân tán sức
ủng hộ, chập chờn giữa ông Diệm – mà thành công của những năm cuối thập
kỷ 1950 là sáng chói – với các nhóm, đeo đuổi trò chơi dân chủ nguy
hiểm. Tướng Taylor chứng kiến, trong dịp này, thái độ kiên quyết chống
Cộng, kiên quyết chiến tranh của ông Diệm và sự đoàn kết quốc gia vững
chắc – quốc hội đứng sau lưng Tổng thống. Vậy thì, con đường duy nhất đi
đến bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, tức giảm áp lực của Cộng sản, nếu không
chiến thắng giòn giã, ít ra cũng đẩy lùi Cộng sản về vị trí và thế lực
trước 1960, là phải dồn sự ủng hộ cho chế độ hợp hiến, hợp pháp do ông
Diệm đứng đầu, bạn đồng minh duy nhất ở Nam Việt mà Mỹ tin cậy được.
Người
ta nói với nhà báo nước ngoài: Còn phải xem quyền đặc biệt của ông Diệm
tác động đến Cộng sản như thế nào, trong khi cái quyền không giới hạn
ấy lại như lưỡi gươm lơ lửng trên đầu Damocles (1) đối với các đòi hỏi
“dân chủ hóa” Nam Việt, thực chất là đòi chia quyền với ông Diệm. Ngày
26-10, nhân Quốc khánh Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Mỹ hồi đáp: Mỹ tăng
viện vì tình hình Nam Việt khẩn trương.
Đến đây, sự thể không còn
đơn giản nữa. Tổng thống Mỹ vồ lấy cái cớ do chính ông Diệm bù lu bù loa
để mang cả vũ khí lẫn thực binh sang Viễn Đông, điều mà Eisenhower
không làm nổi. Có thể ông Diệm và người em trai khôn ranh của ông đang
hối hận. Kennedy thống nhất với ông Diệm về tình hình nguy kịch ở Nam
Việt nhưng lại chọn giải pháp xử lý khác – nếu không nói là ngược – với
ông Diệm.
Ngày 4-11 tướng Taylor về Mỹ, hoàn tất kế hoạch bình định
Nam Việt trong vòng 18 tháng. Viên tướng thích bắt mọi thực tế phụ
thuộc vào các nét bút chì của ông ghi trên giấy trấn an Tổng thống Mỹ:
“Người Mỹ chi một số nhân lực tối thiểu không thể gây xôn xao trong dư
luận và quốc hội Mỹ mà đạt hai mục tiêu chiến lược: đánh bại Việt Cộng
trong thời hạn lý tưởng nhất và khống chế chính quyền Sài Gòn trong
khuôn phép chặt chẽ nhất.
Trên chiến trường – mà chiến trường bây
giờ lan hầu như khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa: vùng bờ biển Trung phần
yên tĩnh suốt năm 1960: nay theo gót Nam phần. Chỉ kể thời gian từ lúc
tướng Taylor có mặt ở Sài Gòn – 25 ngày – Việt Cộng mở 30 trận tấn công
cấp tiểu đoàn hoặc nhiều tiểu đoàn nhắm vào các thị trấn xung yếu, kể
luôn tỉnh lỵ. Ngoại giao đoàn và các nhà báo được cảnh cáo chớ đi quá xa
nội ô Sài Gòn mà không có hộ tống. Một đại tá Việt Nam Cộng hòa bị bắt
cóc và người ta nhặt xác ông ở dưới dạ một chiếc cầu sát Sài Gòn.
Tướng
Taylor, người hùng Triều Tiên quên tiền lệ của tướng Leclerc, viên tổng
chỉ huy Pháp, người hùng thế chiến, cam kết bình định Nam Việt mấy tuần
lễ - cuộc chiến tranh của Pháp ở Việt Nam kéo dài 9 năm và người Pháp
đầu hàng ở Điện Biên Phủ và Genève.
Ông Diệm, nhà độc tài kiên
định, quên rằng nếu ông biết sử dụng kẻ thù như đồng minh để trả giá với
Mỹ thì Mỹ còn đủ điều kiện hơn ông làm việc tương tự. Mỹ đang mô tả
tình trạng khẩn cấp ở Nam Việt một trăm lần khẩn cấp hơn sự mô tả của
ông Diệm.
Những gọng kềm đang siết… Ông Diệm có vẻ hiểu thân phận –
ông ký lệnh bổ đại tá Nguyễn Văn Y làm Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia.
Ông quyết đối phó, không phải với những gọng kềm, mà đối phó với những
kẻ cùng lọt giữa gọng kềm như ông”.
Bài báo không được chuyển về Mỹ. Luân nhận bản sao bài báo dưới dấu để confidential (2) của Tổng nha thông tin.
---
(1)
Vua Denys (gọi là Denys Già để phân biệt với Denys Trẻ) ở xứ Syracuse
(đảo Sicile) thế kỷ 4 trước công nguyên cho treo một thanh gươm thật
nặng trên đầu Damocles, một viên triều thần để thử thách.
(2) Tuyệt mật.
CHƯƠNG 10
“Trong hằng loạt biện pháp ấy đáng chú ý hơn cả là “quốc sách” ấp chiến
lược và chiến thuật trực thăng vận. Với kế hoạch Staley – Taylor dự kiến
bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, Mỹ và ngụy lấy việc gom dân vào
ấp chiến lược làm “chương trình xương sống”. Ngô Đình Nhu gọi ấp chiến
lược là “kế cuối cùng” và ra lệnh cho bộ hạ không được quyền nghĩ đến
thất bại khi thực hiện kế hoạch này”…
Luân và Dung ngồi quanh chiếc
radio bán dẫn, theo dõi buổi tin tức của đài phát thanh Hà Nội. Ngoài
yêu cầu qua đài mà hiểu tình hình chung – họ đứt liên lạc sau khi Lục
vào lọt trong khu – các buổi phát của đài còn mang đến cho họ tình cảm
gắn bó với chiến trường, với cả miền Nam, với cả nước. Riêng Dung, cô
thông thạo các bài hát giải phóng – thỉnh thoảng, cô vẫn hát khẽ cho
Luân nghe “Chiếc khăn tay”, “Xuân chiến khu”, “Qua sông”…
Nghe xong
bản tin, Luân gọi Thạch đưa anh ra bờ sông. Gần đây hễ rảnh rang, Luân
thường ngồi băng đá trên bến Bạch Đằng ngắm dòng sông vào buổi tối. Có
khi Dung cùng đi với anh, nhưng thường anh đi một mình – Dung tôn trọng
những lúc anh suy tư.
Thạch ngồi trong xe nghe ca nhạc. Luân thững
lững đến chiếc băng đá quen thuộc, khuất bóng đèn, gần một khóm cây. Từ
radio trong xe, Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết song ca bài “Trăng rụng
xuống cầu”. Dòng sông màu sẫm đục, bên Thủ Thiêm, vài ánh sáng vàng bắt
trên sóng lăn tăn.
“Thế nào đây?” Luân bắt đầu soát lại các diễn
biến của tình hình. Ấp chiến lược quả gây khó khăn cho ta – qua báo cáo
của các nơi, Luân thấy rõ ngụy phần nào hồi phục sức lực sau cú bị
choáng váng năm 1960 kéo dài đến giữa năm 1961. Về đất, chúng chưa lấn
rộng được bao nhiêu song về dân, mức kiểm soát của chúng cao hơn trước.
Cũng qua thông báo chiến sự, Luân hiểu là quân giải phóng chưa đối phó
chủ động với chiến thuật trực thăng vận – khá mới mẻ. Taylor hy vọng
chiến thuật này sẽ giúp quân ngụy cơ động hơn, nhất là tận dụng được các
đơn vị tinh nhuệ và phát huy được ưu thế ở những địa hình bằng phẳng.
Taylor – khác Mac Garr – coi trọng châu thổ sông Cửu Long, lấy bình định
khu vực đông dân, nhiều tài nguyên này làm mục tiêu số một, trong khi
tạm thời sử dụng bom pháo và xây dựng các tuyến phòng ngự ngăn giải
phóng phía rừng núi. Hễ bình định xong đồng bằng, chúng sẽ mở các chiến
dịch đánh vào hệ thống căn cứ đầu não của Mặt trận giải phóng nằm phía
tây bắc Sài Gòn.
Hợp đồng tốt nhất với quân dân ta, theo trách
nhiệm của bản thân, Luân nghĩ nhiều đến những khả năng gây rối loạn nội
bộ Sài Gòn. Sau cú của Nguyễn Chánh Thi, tình hình bề ngoài có vẻ tạm
ổn, song Luân thừa hiểu các các mối mâu thuẫn không tài nào dàn xếp nổi
vẫn ngấm ngầm phát tirển, thậm chí rộng và sâu sắc hơn trước chính biến
11-11-1960, Mỹ đã hoãn mọi dự định thay đổi Diệm – một phần chờ đợi kế
hoạch Staley – Taylor triển khai, phần khác do thái độ ủng hộ Diệm rất
tích cực của Nolting. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Mỹ sẽ ủng hộ
Diệm với bất cứ giá nào. Kế hoạch Staley – Taylor mà sụp thì Diệm khó
lòng đứng vững. Vấn đề là đánh bại kế hoạch đó… Theo dõi nhiều bài bình
luận liên tục của đài Hà Nội cộng bản điểm tin, báo chí Hà Nội mà hằng
ngày Sở nghiên cứu chính trị cung cấp cho, Luân nhận thức rằng cơ quan
lãnh đạo của ta lấy đánh bại kế hoạch đó – qua phá vỡ ấp chiến lược –
làm công tác trọng tâm.
Thế lực chống Diệm thì nhiều song rời rạc.
Thế lực đó trong quân đội lại lệ thuộc hoàn toàn vào thái độ của Mỹ. Cái
còn bí ẩn là Đại Việt, Nguyễn Tôn Hoàn đang ở Mỹ. Hoàn sốt ruột, muốn
hành động sớm bởi gã ngại kế hoạch Staley – Taylor mà thành công thì Mỹ
sẽ giữ Diệm – gã dù tham chính, cũng chỉ là nhân vật số hai, số ba. Còn
đợi đến khi kế hoạch Staley – Taylor sụp thì không phải phe cánh của gã
được giao nhiệm vụ thay thế Diệm mà là người khác. Nhưng Hoàn sẽ làm gì?
“Người bạn phi công” của Mai có thể làm tới đâu?
Luân chìm trong
các loại logic mà anh lật tới lật lui nên không để ý hai người đứng sát
anh – cả hai đều lực lưỡng, đội kết kéo sụp. Khi Luân bừng tỉnh thì hai
khẩu súng ngắn đã gí vào đầu và hông anh:
- Ngồi yên! – Một giọng ồm ồm ra lệnh.
Luân bị tước súng.
- Đứng yên! - Vẫn giọng ồm ồm – Đừng hô hoán, nếu muốn sống. Chúng tôi là biệt động thành, hiểu chưa? Đi!
Một
tên thúc súng vào lưng Luân, đẩy anh men theo bóng cây, ra đường. Một
chiếc Citroen sơn đen đang nổ máy chờ. Từ xe Thạch, tiếng cao vút bây
giờ là của một nữ ca sĩ…
Luân bắt buộc phải chui vào băng sau xe, hai tên kẹp anh. Ghế trước, một tên ngồi sẵn, tay lăm lăm súng.
-
Chạy! – Tên ngồi trước bảo tài xế, rồi bảo Luân: - Nếu anh còn một chút
lương tâm thì không được chống cự. Theo chúng tôi về căn cứ. Ở đó, cấp
trên sẽ nói chuyện với anh.
Xe chạy ngã Nguyễn Bỉnh Khiêm ra cầu Phan Thanh Giản lên xa lộ.
“Họ
là ai?” Luân cố đoán. Hai tên kế Luân nồng nực mùi rượu. Ánh đèn đường
từng lúc soi vào xe: cả bốn tên mặt mũi bình thường. Khó có thể là biệt
động thành. Nhưng, biết đâu…
- Các ông cất súng, kẻo cảnh sát thấy, nguy hiểm các ông…
Luân
tìm hiểu bọn này bằng cách của anh. Anh thành công ngay: cả ba cho súng
vào túi. “Không phải Mai Hữu Xuân hay Trần Kim Tuyến. Còn khả năng:
CIA, Đại Việt, cũng không loại trừ biệt động thật”.
- Anh đừng hòng kêu cứu, chúng tôi đủ thời giờ kết liễu mạng anh… - Người ngồi ghế trước doạ
Đến ngã tư Hàng Xanh, đèn đỏ. Xe ngừng.
- Các anh bật đèn trong xe lên. Xe tối om, cảnh sát dễ nghi, sẽ xét hỏi, lôi thôi…
Luân
lại góp ý. Tài xế hiểu giống Luân, với tay mở công tắc. Hai cảnh sát
ngó vào xe. Bốn người trên xe cố giữ bình tĩnh. Luân có thể nhân cơ hội
này kêu cứu với cảnh sát, song anh không làm. Trong một thoáng, Luân đi
đến lập luận: Nếu là biệt động thành, anh sẽ nhờ nối liên lạc; nếu không
phải, có thể anh tìm ra một cái gí cần cho công việc của anh. Giả sử
đây là một nhóm muốn khử anh, họ bắn anh ở bờ sông rồi tẩu thoát, đâu
cần áp giải anh cho nguy hiểm. Do đó, Luân chỉ cười cười với hai cảnh
sát. Nhờ thái độ tự nhiên của Luân, hai cảnh sát cười đáp lễ.
Xe
ngoặt về hướng Bà Chiểu, rẽ sang bán đảo Bình Quới tây. Khi xe vượt cầu
Kinh, cả bốn người thở phào – Luân biết xe đã lọt vào vùng an toàn của
họ.
Con đường xuyên bán đảo tối om. Đèn pha xe quét hai bên lề đầy cây rậm rạp.
Xe
dừng trước một cổng lớn. Cổng mở, xe chạy luôn vào bên trong một khu
vườn có tường cao bao bọc. Xe đỗ sát thềm một biệt thự hai tầng, cạnh
sông. Trong biệt thự, đèn sáng choang. Luân kịp nhìn thoáng một chiếc
Jeep quân sự đậu nép – như cố giấu mình – đằng sau gốc xoài um tùm.
- Mời anh xuống, vào nhà… - Người ngồi ghế trước bước ra khỏi xe bảo Luân
Họ đưa anh vào phòng khách – bày biện trang nhã. Hẳn là ngôi nhà nghỉ cuối tuần của một tên giàu sộp nào đó.
-
Chào đồng chí Bảy Luân! – Một người béo lùn, đầu hói, trạc tuổi 50, đón
Luân ngay cửa phòng khách. Ông ta nói giọng Thừa Thiên.
- Đồng chí mạnh chứ? Ngồi, ngồi…Rồi ta nói chuyện… - Ông ta bắt tay Luân, kéo ngồi xuống ghế.
-
Tụi em phải uy hiếp đồng chí Bảy đó! – Người giọng ồm ồm nói – Xin giới
thiệu đồng chí Bảy, đây là đồng chí Hai Thuận, chỉ huy trưởng biệt động
thành.
- Trước hết, tụi này xin lỗi đồng chí. Cấp trên lệnh cho
chúng tôi mời đồng chí vào khu, nhưng không có điều kiện liên lạc với
đồng chí, theo dõi một thời gian phát hiện ra qui luật của đồng chí
chiều tối thường ngồi trên băng đá bến Bạch Đằng… Đành phải vô lễ vậy…
Trong công tác, đôi khi chúng ta phải ngụy trang. Tôi bảo các đồng chí:
đồng chí Bảy Luân tính Đảng cao, cứ nói là biệt động thành cần nói
chuyện với đồng chí, đồng chí sẽ không phản ứng… Quả đúng như dự đoán.
Bây giờ, tôi báo cáo với anh Bảy, khu ủy muốn gặp anh, gặp ở Hố Bò. Sáng
mai, chúng tôi sẽ bố trí đưa anh Bảy đi, theo đường du kích.
Hai Thuận giảng giải thao thao, khi gọi Luân là đồng chí, khi là anh. Luân ngó lên trần nhà tỉnh bơ.
- Đi theo đường du kích mất mấy hôm? – Luân hỏi.
Mặt Hai Thuận rạng rỡ - cái rạng rỡ không ăn nhập gì với nội dung câu hỏi của Luân.
- Dạ ba hôm…
- Sao lâu quá vậy?
- Đường khó lắm… Hố Bò ở xa…
- Hố Bò thuộc về đâu?
- Ủa, anh Bảy chưa biết Hố Bò sao? Hố Bò thuộc căn cứ Cục R…
- Anh Hai đã lên đó rồi?
- Nhiều lần… Mới tuần trước tôi về họp với anh Chín Dũng… Anh Bảy quen anh Chín không? Anh Chín là bí thư Khu ủy.
- Hố Bò ra sao? – Luân không trả lời, hỏi tiếp.
- Ối, quán xá đen nghẹt, buôn bán sầm uất lắm.
- Có phải bò qua hố không?
Hai Thuận chớp mắt, hơi hoang mang:
- Hết rồi! Có cầu, cầu lớn…
“Thằng cha này chưa chắc là Hai Thuận” - Luân nghĩ bụng.
- Ở đây có điện thoại, anh Bảy cần dặn chị Bảy việc nhà, xin gọi… Hoặc anh Bảy cần lấy tài liệu để báo cáo với Khu ủy…
- Cám ơn. Khỏi gọi. Thế nào nhà tôi cũng biết tôi đi đâu… - Luân nói ung dung.
- Vậy, anh Bảy không phải mới ra khu một lần? – Mặt của “Hai Thuận” lại rạng rỡ.
“Tụi này chắc đặt máy ghi âm…”. Luân cười nhẹ:
- Đúng, tôi ra vô mật khu nhiều lần rồi. Kể cả Hố Bò…
- Ủa, sao lúc nãy anh Bảy hỏi Hố Bò thuộc về đâu?
-
Ờ, tôi chưa rõ Hố Bò nào… Hố Bò mà tôi biết thuộc làng Phú Mỹ Hưng. Ở
đó, thuở xưa là chợ bán bò, bò dồn trong một cái hố… Còn Hố Bò mà anh
nói lại là cây cầu bắc ngang hố, người qua phải bò…
- Anh Bảy rành
vùng của mình hơn tụi tôi… Xin báo cáo với anh Bảy, đội biệt động tụi
tôi gồm hơn mười đội viên, tất cả là đảng viên. Tôi là chỉ huy trưởng
kiêm bí thư Đảng bộ. Nhân anh Bảy ghé đây, chi bộ họp bất thường, đề
nghị anh Bảy nói chuyện về tình hình nhiệm vụ. Hoạt động nội thành, tụi
tôi ít được bồi dưỡng, còn anh Bảy là cán bộ cấp cao, nhận chỉ thị, nhận
quyết định của Khu ủy hoặc của Trung ương thường xuyên. Anh Bảy nói
chuyện, anh em phấn khởi… Hỏi thiệt anh Bảy, hỏi cho biết để thêm tin
tưởng thôi: anh Bảy gặp anh nào ở ngoài Hà Nội vô chưa? Gặp tướng Trần
Nam Trung chưa? Trần Nam Trung là ai vậy anh Bảy? Phải Đồng Văn Cống
không?
- Biệt động các anh không ngăn cắt với nhau? – Luân châm thuốc, hỏi sang chuyện khác.
- Không… Ngăn cắt hả… cái đó. – Ông ta ngập ngừng.
- Họp ở đây, lỡ công an ụp vào thì làm sao né kịp?
- Anh Bảy yên tâm, ngôi nhà được canh gác cẩn thận.
Luân
vươn vai, đứng lên… Góc phòng, trên búp-phê, có một khung ảnh. Luân làm
như cần suy nghĩ, đi đi lại lại dọc theo phòng. Trong khung, ảnh một cô
gái đẹp. Và, Luân cười thầm: ảnh Trúc Đào, có lẽ chụp hồi chưa lấy Vũ
Liệu.
- Tụi này được Bộ chỉ huy quân khu nhắc nhở phải yểm trợ cho
anh Bảy hoạt động thắng lợi. Dễ gì có một cán bộ cỡ anh Bảy “mai phục”
lọt cạnh Tổng thống ngụy… - “Hai Thuận” tán riết.
- Đủ chưa? Luân ngồi xuống ghế, hỏi đột ngột.
- Đủ rồi. Anh em tập trung từ chiều, đang ngồi ở phòng trên lầu. Mời anh Bảy. – “Hai Thuận” hí hửng.
- Anh hiểu sai câu hỏi của tôi. Tôi hỏi anh vở tuồng đến đây đủ chưa… Các anh thu băng cuộc nói chuyện của tôi đủ chưa?
“Hai Thuận” sững sờ. Cái trán hói của ông ta lấm tấm mồi hôi.
- Anh Bảy nói gì, tôi nghe không rõ.
-
Thôi, ta đi vào cốt lõi của cuộc gặp gỡ. Tốt nhất, hãy tắt máy ghi âm
đi… Bởi vì, dầu có ghi, các anh cũng khó sử dụng được. Từ đoạn này trở
đi, băng ghi âm không giúp cho các ông tài liệu để làm áp lực trả giá
với tôi… Ông học lóm vài ngôn ngữ của Việt Cộng, nhưng buồn cho ông,
hiểu biết của ông cạn, quá cạn… Một đội biệt động chỉ có đội trưởng,
không có chỉ huy trưởng, không bao giờ có một đội biệt động lại biết mặt
nhau tất cả… lại còn “Cục R” – chỉ có phía Quốc gia gọi như vậy. Còn Hố
Bò… Muốn làm giả, cũng phải công phu, làm giả Việt Cộng càng công phu
hơn…
“Hai Thuận” từ sững sờ chuyển sang nổi cáu:
- Đã vậy… đã vậy tụi tôi không coi anh là đồng chí nữa… Đồ phản quốc, phản động! Đồ tay sai cho nhà Ngô!
-
Rất khó làm “đồng chí” với các ông… Tôi chỉ nói về sự thông minh. Phàm
người khôn, việc nhỏ cũng cho thấy chỗ khôn, còn người ngu, việc to bằng
cái đình vẫn ngu.
Luân khoanh tay trước ngực, thách thức.
- Im mồm… Tao bắn mày chết tươi bây giờ! – “Hai Thuận” gầm như con thú bị thương.
-
Chớ giở thói lưu manh… Cấp trên của ông không nương tay với ông nếu
cuộc nói chuyện hôm nay thất bại. Ông đóng quá lố vai được phân rồi…
Luân xem đồng hồ tay:
-
Vào đề ngay thôi, nếu ông được ủy quyền. Tôi nghi ngờ. Ông không đủ tư
cách. Dầu sao, cũng không nên phí thì giờ. Chậm độ nữa giờ, một dọc lãnh
tụ của các ông bị bắt, tôi cam đoan như vậy.
- Mày nói cái gì, thằng kia? – “Hai Thuận” vẫn một mực hùng hổ.
-
Ông mời người có đủ tư cách của đảng ông ra gặp tôi! Bằng không, chính
ông là kẻ phản đảng, đảng của ông. Hoàng Xuân Tửu, Hoàng Xuân Lâm, Vũ
Liệu, Hà Thúc Ký… Không ai thoát!
- Hả? – Mặt của “Hai Thuận” đực hẳn.
-
Ông ngu lắm. Tôi mất tích, Phủ tổng thống đặt câu hỏi: ai bắt cóc. Đảng
Đại Việt lòi lưng ngay. Một cú điện thoại của Ngô Đình Nhu, các ông từ
vùng I tới Sài Gòn, có cánh cũng không thoát. Ông Nhu chờ cái cớ để lùa
các ông xuống P.42. Cái cớ đó là tôi. Tốt vô cùng… hiểu chưa?
Luân lại xem đồng hồ tay.
- Ông còn già 20 phút một tí để tránh tai họa.
-
Còn mày, mày chỉ được một phút thôi. Nghe tao hỏi: Vì sao mày biết đây
là căn cứ của Đại Việt. Đứa nào mách với mày… Tao đếm ba tiếng… Một!
-
Ông quẫn trí rồi… - Luân vẫn điềm nhiên …- Nói thật chính xác, ông phá
vỡ kịch bản… Luôn Nguyễn Tôn Hoàn cũng không yên thân bên Mỹ. Mỹ hỏi tội
lãnh tụ tối cao của các ông: tại sao xuẩn ngốc đến thế để cả một chính
đảng bị tiêu diệt. Tiêu diệt còn đau đớn hơn biến cố đau lòng nữa…
-
Hai! – “Hai Thuận” lầm lì đếm, tay đã lăm le khẩu súng ngắn – Mày xưng
tội đi thì vừa, thằng chó săn nhà Ngô… Tao phải trả món nợ P.42 này… Mày
nhất định dính vào đó…
- Ngu xuẩn! – Chợt tiếng ai đó vang lên. Từ
cửa ngách một người bước ra. Để râu mép, mặc sơ mi ngắn tay, đeo kính
trắng, tuổi khó đoán – đã có nép nhăn ở khoé mắt song xét chung còn rất
trẻ.
- Dẹp khẩu súng của anh lại. – Người đó, giọng Quảng Trị ngó
“Hai Thuận”, lạnh lùng – Định đấu súng với trung tá Nguyễn Thành Luân à?
- Xin lỗi… - Ông ta nghiêng người – Để cấp dưới lỗ mãng với người
như trung tá, chúng tôi rất xấu hổ. Đảng quy của chúng tôi nghiệm mật,
trung tá tin đi, hắn sẽ được sửa trị ngang với lỗi lầm của hắn… Cút! –
Ông lại quắc mắt. lần này, “Hai Thuận” ríu ríu đứng lên, thất thểu bước
vào trong…
- Có lẽ ông Hai Thuận bị xúc động! – Luân trông theo cái vẻ chán chường của “Hai Thuận”, ái ngại.
- Cám ơn trung tá quan tâm. Đúng, hắn mất người anh ở P.42. Hắn không phải là Hai Thuận.
- Tên gì, không quan trọng. Hình như ông ta có một người cháu là phi công lái AD6.
- Đúng! Mà sao trung tá biết? – Người mới xuất hiện tỏ rõ kinh ngạc pha ít nhiều lo lắng.
- Xin phép ông. Tôi nói chuyện với ai đây?
-
Tôi là Hoàng. Xin lỗi trung tá về những gì vừa gây khó chịu cho trung
tá. Mọi việc khi nằm trên kế hoạch thì có vẻ hoàn hảo nhưng đi vào thực
hiện lại lộ không biết bao nhiêu khuyết điểm…
Ông ta ngồi vào chỗ “Hai Thuận”, nói vừa như thanh minh vừa như dạy đời
-
Tôi biết ông Hai Thuận có người cháu lái AD6 và biết luôn thảm cảnh của
gia đình ông. Do đó, tôi xin các ông chớ trừng phạt ông Thuận. Còn tại
sao tôi biết, thì – Luân cười thoải mái – nếu tôi không biết tình hình
trong đảng các ông mới là điều đáng kinh ngạc… Tuy nhiên, hình như các
ông để những ân oán kiểu ông Hai Thuận và kiểu vụ Ba Lòng cũ chen hơi
nhiều vào chủ trương của các ông…
Hoàng thỉnh thoảng gật đầu đáp lại nhận xét của Luân.
-
Chắc chúng ta cần nói chuyện hơi dài. Ít khi có dịp như hôm nay, nhất
là chúng ta nói chuyện thật cởi mở, tư cách mỗi bên đều không có gì phải
che dấu… Tôi nghĩ là trung tá nên gọi điện cho bà trung tá để việc vắng
mặt đột ngột của trung tá không gây ồn ào.
Thấy Luân mỉm cười, Hoàng nói tiếp:
- Tất nhiên, cũng để cán bộ Đại Việt chúng tôi không bị làm khó dễ.
Luân đến máy. Chỉ cần trễ vài phút nữa. Dung đánh động khắp nơi.
-
Anh đang chơi ở nhà người bạn… Người bạn nào à? Người bạn mà cô Mai
nhắc đến hôm nọ. Những người bạn như vậy… Anh sẽ về nhà trước giờ giới
nghiêm.
Mặt đối mặt, Luân và Hoàng đi vào “cuộc thương lượng” trên
thế cần bằng. Trước họ, một mâm đồ nhắm và rượu. Bên ngoài, sông Sài Gòn
nhấp nháy ánh sao trời.
- Chúng tôi trọng trung tá, một người Quốc
gia chân chính. Vận nước đang nghiêng ngửa, mọi người Quốc gia chân
chính đều phải thấy trách nhiệm. Đôi lần, ủy ban lãnh đạo tối cao của
đảng chúng tôi đặt vấn đề mời trung tá tham gia đảng. Song, chúng tôi
chưa biết phải mở lời như thế nào để trung tá thông cảm. Xin lỗi, dù
trung tá giữ cương vị tinh thần rất cao trong Trung ương đảng Cần Lao,
chúng tôi vẫn xem đó là một thích nghi hoàn toàn ứng phó… - Hoàng mở đầu
và đi ngay vào một trong những điều quan trọng nhất: rủ Luân vào đảng
Đại Việt.
- Có lẽ chúng ta không nên phí thì giờ… Xin lỗi ông. Tại
sao chúng ta phải “khai vị” bằng việc tuyên truyền cho đảng Đại Việt?
Cũng như các ông vừa phí thì giờ thử xem tôi có phải là Cộng sản không…
Chúng ta là những người quan tâm đến thời cuộc, tôi đồng ý lấy đó làm cơ
sở và chỉ dựa mỗi cơ sở đó thôi. Giả tỷ tôi lại rủ ông vào đảng Cần
Lao, thì ông thấy thế nào? Buồn cười quá phải không?
Hoàng đỏ mặt.
-
Nếu vậy, ta đi ngay vào điều hai bên đều quan tâm… Ông Diệm và cả chế
độ của ông từ lâu rồi là công cụ giúp Cộng sản rất đắc lực. Phải nói
chính ông ta, em trai, em dâu, anh, chị, toàn gia tộc ông ta mở đường
cho Cộng sản chiến thắng. Không phải chúng tôi mà nhiều người Mỹ cũng
nhận định như vậy… Không có gì bức bách hơn là phải thay thế ông Diệm…
-
Cứ cho lập luận của đảng các ông là đúng, tại các ông không trao đổi
với người Mỹ? Người Mỹ đủ sức làm một cuộc thay đổi nếu họ muốn…
-
Đó là chỗ còn đôi phần khó khăn. Với đại sứ Nolting, thay đổi nguy hiểm
hơn vẫn giữ ông Diệm. Nhưng, với một số giới chức Mỹ khác, thay đổi là
tất yếu. Rất tiếc, hiện nay quyền lực trong tay Nolting.
- Fishel không kém quyền lực lắm đâu! – Luân hóm hỉnh.
-
Trung tá hiểu nội tình người Mỹ rất thấu đáo. Song, Fishel do dự về
thời gian. Mà chúng tôi nghĩ kéo dài thêm một ngày, nguy cơ chủ nghĩa
quốc gia bị đánh bại ở Nam Việt lớn ra thêm một mức, đến độ vô phương
cứu vãng.
- Đã vậy, các ông làm sao được?
- Chúng tôi cho rằng
phải chứng minh với người Mỹ nguy cơ đó bằng cách chứng minh cho họ
thấy ở Nam Việt vẫn có những thế lực mạnh chống ông Diệm – ngoài Cộng
sản. Chúng tôi đủ sức làm một chứng minh như vậy…
- Hành động để
chứng minh dĩ nhiên không khó khăn, song nếu cần một tiếng vang thôi thì
các ông đã đo lường hết mọi hậu quả chưa?
- Không phải hành động để chứng minh một cách đơn độc, mà kèm cả một cuộc vận động lớn trong và ngoài nước, kể luôn bên Mỹ.
Tới bây giờ, sau nhiều câu nói, Hoàng vẫn chưa làm sáng tỏ lý do mà đảng Đại Việt phải dùng vũ lực đưa Luân tới đây.
- Tôi chưa thích thú lắm với nước cờ của các ông. Tuy nhiên, đó là quyền của các ông. Về phần tôi, các ông muốn gì?
- Đơn giản thôi. Với trung tá, chúng tôi chỉ mong một lời hứa…
- Hứa tham dự với các ông?
-
Không, không cần. Trước khi gặp trung tá, chúng tôi, có ý ấy, thậm chí
có ý, nếu trung tá nhận sẽ là một trong những lãnh đạo nội địa chủ chốt
của đảng… Bây giờ, chúng tôi thấy không cần.
- Hứa không tiết lộ ý định của các ông?
-
Không phải là vấn đề. Chúng tôi mời trung tá đến nói ý định rồi đề nghị
trung tá đừng tiết lộ - chi vậy? Với trung tá, chúng tôi không bao giờ
dám bất kính.
- Hứa không gây cản trở?
- Một phần nào… Cái lớn
là mời trung tá giữ một chức vụ trong nội các sẽ thành lập… Chưa phải
lúc nói rõ chức vụ ấy là gì, dĩ nhiên, chức vụ quan trọng, rất quan
trọng nữa… Và, chỉ nhận khi chúng tôi giải quyết xong họ Ngô. Nghĩa là
tránh cho trung tá mọi phiền toái…
- Cám ơn các ông rất chu đáo đối
với tôi… - Luân dừng câu nói một lúc; Hoàng háo hức chờ mà Luân thấy
giống con chồn chực mồi, đôi ria mép của ông ta động đậy luôn – Có phải
Fishel cần tên tôi trong bảng danh sách mà các ông thông báo với ông ta?
– Luân đặt thẳng một câu hỏi, bây giờ anh đã rõ thực chất của cuộc
“thương lượng”.
- Không chỉ có tên trung tá… - Hoàng đính chính, không giấu nổi lúng túng.
-
Tôi không nghĩ rằng giá chứng khoán của tôi cao đến thế… - Luân cười
cợt – Song, người Mỹ nổi tiếng thực dụng. Họ nắm mọi yếu tố ở Nam Việt
còn chặt hơn cả chúng ta… Tại sao họ không trực tiếp với tôi?
- Có thể họ chưa đánh giá chính xác xu hướng chính trị của trung tá…
- Các ông lại đánh giá chính xác?
- Dạ… phần nào… Tuy nhiên, chúng tôi với trung tá vẫn là người Việt Nam với nhau…
- Người Việt Nam? – Luân cười mỉm.
Hoàng không phải là hạng kém:
- Ông có biết một người tên là John Hing không? – Hoàng đưa Luân vào một ngõ khác.
“John Hing là Dương Tái Hưng. Sao lão này dính vào đây?”
Thấy Luân trầm ngâm, Hoàng nói luôn:
-
Không phải Fishel mà chính John Hing, một người rất thế lực – nếu không
nói là “siêu thế lực” – đòi hỏi danh sách. Ông ta có mọi thứ trong tay
nhưng vấn đề Nam Việt phải chính do người Việt Nam cáng đáng; ông ta bảo
như thế. Tôi tiết lộ một nguồn tin tối mật: Tình báo Trung Cộng tán
thành khử ông Diệm… Trước đây, họ chủ trương bảo vệ ông Diệm tới cùng;
bây giờ họ thống nhất với chúng tôi. Họ sợ Việt Cộng thắng nhờ những sai
lầm của ông Diệm. Tôi cũng cho rằng Việt Cộng nôn nóng theo hướng đó
không khác chúng ta. Nghĩa là, cái điều kiện khách quan chín muồi.
- Ông cho tôi biết quá nhiều. Phải chăng, ông theo ngạn ngữ: người biết nhiều chóng già? – Luân hỏi, hơi cười…
- Vì chúng tôi coi trung tá như người nhà! – Hoàng trả lời, mắt loé một tia ranh mãnh.
- Mọi việc cần phải đi đến kết thúc hôm nay? - Luân hỏi, xem đồng hồ tay.
- Không… Chúng ta còn gặp nhau…
-
Ông cho xe đưa tôi về… Tuy nhiên, tôi phải nói trước, nếu ngôi nhà này
bị công an khám nội đêm nay hoặc ngày mai thì không phải lỗi ở tôi…
- Tôi hiểu và đã dự kiến. Đảng chúng tôi có nhiều chiến khu…
“Chiến khu”, Hoàng nhắc Luân nhớ “chiến khu ma” Bình Quới Tây mà có lần Luân thuật cho đại sứ Mỹ Rheinardt nghe…
“Chúng
nó cài mình vào bẫy. Cuộc trao đổi được ghi băng. Khi cần, chúng sẽ bán
băng đó cho bất kỳ ai kể cả Nhu… Nhưng, chúng đơn giản quá, nặng về mưu
mô vặt quá… Dẫu sao…”, Luân suy nghĩ trên xe.
*
Luân gặp Nhu. Thoạt nghe Luân bị “bắt cóc”, Nhu sững sờ.
- Không sao… Anh thấy tôi chẳng sứt mẻ một chút nào cả, thậm chí, không trầy da. – Luân xởi lởi.
- Nó dám lộng như vậy! Đó là chuyện không thể chấp nhận.
Luân
biết Nhu nghĩ liền đến P.42 – với Nhu, Đại Việt đáng sợ hơn mọi thứ
trên đời. Anh ta từng nói: Bọn lưu manh làm chính trị - thà lưu manh như
Bình Xuyên – chúng không từ một thủ đoạn nào; Đại Việt tựa con rết, con
lươn, lũ hồ ly tinh…
Nghe Luân một lúc, Nhu cầm máy nói. Luân phải ngăn anh ta:
- Khoan, anh đừng nóng…
- Thằng tên Hoàng đó là ai? – Nhu hỏi.
Luân lắc đầu:
- Tôi không biết, hẳn một nhân vật lớn của Đại Việt; có thể lấy họ làm tên, Hoàng Xuân gì đó, chẳng hạn.
-
Tôi sẽ tìm ra nó! Còn ngôi nhà… Anh để tôi gọi Tổng nha… Thế nào, qua
khỏi Cầu Kinh chừng cây số, qua Cercle Nautique và trăm mét, về phía tay
trái, villa hai tầng, tường cao…
Luân tiếp tục báo – anh không đả động đến P.42 và các thứ liên quan, kể cả viên phi công AD6…
Điện thoại Tổng nha trả lời: đúng là nhà nghỉ của trung tá Vũ Liệu.
-
Cái thằng trung tá nhóc con này! – Nhu gằn giọng. - Fishel thì chẳng có
gì lạ. Ông ta trước kia ủng hộ anh Tổng thống hết mình, bây giờ xoay
hướng. Còn John Hing, tôi chưa nghe tên va lần nào… À, có phải cái thằng
tên là … là…
- Dương Tái Hưng!
- Đúng, có lần anh nhắc va với tôi… Va là cái gì?
- Có cổ phần trong Công ty ngựa bay Colt…
- Hừ… đến vậy kia! – Nhu buông thõng câu nói.
-
Tôi cho họ, tôi nói Đại Việt, còn trẻ con… Có thể họ lưu manh như anh
nhận xét. Song, họ vẫn là trẻ con… Đối phó của anh không nên chỉ nhắm
vào họ…
Nhu thừ người khá lâu.
- Anh có lý… Tôi sẽ làm việc
với đại sứ Nolting. Riêng anh, tôi khuyên anh nên thận trọng. Canh bạc
đến hồi sát phạt không nương tay!
Nhu cảm thấy mình yếu thế. Một
đảng Đại Việt vẫn làm anh ta mất thần. Anh ta lại rất giống Đại Việt –
sẽ “thưa gởi” với người Mỹ. Anh ta không biết đó là việc dại dột. Người
Mỹ sở dĩ còn tính toán trong thay đổi tay chân là sợ gia đình Diệm phản
ứng mạnh, tình thế sẽ xấu. Nếu Nhu chỉ cần xin sự phán xét của Mỹ, thì
chính anh tự thú cái nhược, không chỉ về thực lực mà cả về ý chí. Đó là
một thứ tín hiệu đóng góp vào xu hướng gạt Diệm đang hình thành, lớn dần
trong chính giới Mỹ… Lại qua Trần Lệ Xuân với Notling thôi! Ngay cả
trong thủ thuật này, Nhu cũng khờ khạo. Nolting thu lợi đầy đủ nhất:
chiếm Lệ Xuân và thực hiện ý định của Mỹ, hoặc chuẩn bị cho ý định đó
hội càng nhiều điều kiện càng tốt.
Luân rời dinh Độc Lập, với những kết luận như vậy.
Tất nhiên, Luân không thể biết, ngày hôm sau, thứ bảy, Lệ Xuân cùng Nolting bay lên Đà Lạt nghỉ cuối tuần.
Gã
đại sứ Mỹ không hề che dấu cái đam mê của gã. Vừa đặt chân lên ngôi nhà
nghỉ - xưa kia dành cho Bảo Đại – gã đã đòi hỏi Lệ Xuân.
- Em muốn anh làm sáng tỏ một vấn đề…
Lệ Xuân nằm trong vòng tay Nolting, không chịu đáp ứng.
- Lên Đà Lạt không để nói chuyện chính trị…
Nolting thều thào.
- Nhưng, em chỉ bằng lòng khi anh trả lời với em…
- Anh chỉ bằng lòng trả lời với em sau khi em bằng lòng… Anh chờ đợi giây phút này quá lâu…
Cuộc
đấu trí kéo dài một lúc, Lệ Xuân thua. Không phải vì tình dục bị kích
thích – Lệ Xuân là hạng chủ động cao với tình dục – mà vì y thị cho rằng
Nolting có thể chết vì y thị, cho nên nhượng Nolting một bước chỉ có
nghĩa là sẽ xỏ mũi gã đại sứ dại gái này, muốn dẫn gã đến đâu, tùy y
thị.
Như mụ nghĩ, sau cuộc truy hoan. Nolting hứa – gã cẩn thận ghi vào sổ tay nữa – sẽ “trị” Fishel và đồng bọn.
- Không có điều gì xảy ra với Tổng thống Diệm! – Nolting tiếp tục ve vuốt Lê Xuân.
Lệ
Xuân hoàn toàn không thể ngờ rằng Nolting sẵn sàng hứa – kể cả ly dị vợ
để lấy Lệ Xuân – bởi chương trình nghỉ mát Đà Lạt của gã còn cả đêm
nay, trọn ngày chủ nhật, đêm chủ nhật…
CHƯƠNG 11
Năm 1962 bắt đầu với thông cáo chung Việt – Mỹ, gồm 11 mục tiêu mà hai
bên quyết tâm đạt cho kỳ được, trong đó, nổi bật là huấn luyện cán bộ
hành chính xã ấp, mở rộng các hoạt động kinh tế, xã hội nông thôn, xây
dựng mạng lưới thông tin đến tận các xóm hẻo lánh đã quy ấp chiến lược,
kể cả miền thượng du… Thông cáo bộc lộ rõ ý định của Mỹ và chính quyền
Sài Gòn: bằng mọi giá, phải nắm cho được đơn vị hạ tầng.
Một khía
cạnh khác, thông cáo chứng minh sức ép của Mỹ đối với chính phủ của ông
Diệm: số phận của ông Diệm tùy thuộc ở chỗ có đủ khả năng đáp ứng chỉ
tiêu của tướng Mỹ Taylor hay không – khôi phục trong vòng 18 tháng toàn
bộ đất đai bị mất từ cuối năm 1959. Gần như một sự phân công: Mỹ sẽ làm
hết sức mình tăng cường quân chủ lực Nam Việt và trang bị, huấn luyện
Bảo an, Dân vệ, các lực lượng an ninh khác để ngăn chận và đánh bại quân
chủ lực Việt Cộng; với sự giúp đỡ cố vấn, phương tiện chiến tranh… của
Mỹ, ông Diệm phải cáng đáng khối việc to lớn, phức tạp còn lại. Cẩn thận
hơn, Mỹ cho phép Anh – dù là đồng chủ tịch hội nghị Genève về Đông
Dương năm 1954 – thành lập phái đoàn viện trợ an ninh và chống du kích
do thiếu tướng Thompson đứng đầu. Mỹ tạo khá đủ điều kiện; người ta đã
đọc trước ý định trong thâm tâm của họ: với những điều kiện tốt lành,
dồi dào như vậy mà ông Diệm không trị nổi Việt Cộng thì cái cần phải
đánh giá không phải là Việt Cộng mà là tài cán, uy tín của chính ông
Diệm.
Nhu không khờ khạo đến nỗi không hiểu ý của Mỹ. Bởi vậy, anh
ta hối thúc ngày đêm thuộc hạ các cấp ráo riết gom dân vào ấp chiến lược
– cố gắng chứng minh lần nữa “vai tò không thể thay thế” của tổng thống
Diệm trong sự nghiệp chống Cộng ở Nam Việt…
*
Luân gặp các
thiếu tá Nguyễn Thành Động, Lê Khánh Nghĩa, và Trương Tấn Phụng tại câu
lạc bộ quân nhân, sau phiên họp kéo dài bàn về kế hoạch bình định nông
thôn do thiếu tướng Mai Hữu Xuân trình bày. Cuộc họp bắt đầu từ 7 giờ
rưỡi sáng, kết thúc vào 4 giờ chiều, chỉ nghỉ ăn trưa có nửa giờ. Hầu
hết chỉ huy trưởng Bảo an tỉnh, quận trưởng khắp Nam Việt đều có mặt. Họ
ngồi chen chúc trong gian phòng rộng – hội trường của Bộ tổng tham mưu.
Bài thuyết trình khô khan và lê thê của tướng Xuân, các bản đồ vằn vện
bít kín tường, khói thuốc mù mịt khiến mọi người mệt nhoài. Tuy ai cũng
có trước mình quyển sổ và cây bút, nhưng ít người ghi chép, hoặc chỉ ghi
chép qua loa. Vả lại, cũng chẳng có gì để ghi chép. Tiếp lời tướng
Xuân, thiếu tướng Anh – Thompson – báo cáo kinh nghiệm đánh bại du kích
Mã Lai của ông ta. Không có phiên dịch – tướng Trần Văn Đôn, chủ tọa
buổi họp, nói rõ: từ cấp thiếu tá trở lên, sĩ quan Nam Việt bắt buộc
phải thạo tiếng Anh, mặc dù, chính tướng Đôn – tất nhiên, khi nói riêng
với người thân – bĩu môi chê cái thứ tiếng “quê mùa”, còn cái giọng thì y
như nhai kẹo cao su.
Bởi vậy, khi tướng Đôn kết luận rằng phiên
họp rất có kết quả, cám ơn thiếu tướng Mai Hữu Xuân và Thompson, tất cả
vỗ tay nồng nhiệt rồi cùng đứng lên, xô ghế ầm ĩ, chen nhau chạy bay đến
câu lạc bộ, kẻ ngồi tại quầy, kẻ đâu bàn thành từng nhóm, quanh các
thức uống…
Luân mời ba thiếu tá vây quanh chiếc bàn con kê sát cửa sổ. Họ gọi những cốc bia sủi bọt.
Thiếu
tá Trương Tấn Phụng, quận trưởng Tuyên Nhơn thuộc tỉnh Kiến Tường, đăm
chiêu. Có lẽ, anh ta là sĩ quan duy nhất ghi chép khá kỹ. Ngồi vào bàn,
anh ta vẫn còn lật sổ, ý chừng băn khoăn với những điều thu nhận. Nguyễn
Thành Động nháy mắt ra hiệu với Luân, muốn bảo: thằng học trò này ngây
thơ quá. Đúng, vẻ mặt của Phụng còn ngờ nghệch – nó tương phản bộ quân
phục rằn ri. Lê Khánh Nghĩa, trái lại, nhìn Luân bằng đôi mắt nôn nả -
chực thổ lộ một cái gì đó.
- Thế nào? – Luân hỏi Động – Công việc ở Kiến Hòa?
- Trung tá đọc báo cáo hằng ngày rồi – Động cười.
- Anh muốn tôi đổi ngược báo cáo của tỉnh trưởng Trần Ngọc và của anh để hiểu sự thật của Kiến Hòa? – Luân hóm hỉnh.
-
Trung tá nói không xa sự thật bao nhiêu. Tôi nói với Trần Ngọc: mày
đừng sợ, trung tá Nguyễn Thành Luân sẽ sửa lỗi cho báo cáo của Kiến Hòa.
Trung tá đi rồi, Việt Cộng đánh tụi này tối tăm mặt mày. Khu trù mật rã
sạch. Ấp chiến lược mới nhú lên quanh thị xã, coi mòi khó thọ vì xúc cả
dân lẫn Việt Cộng vào cùng chỗ. Vậy mà, ông Xuân nói ngon ơ! Cả cái lão
Thompson nữa, lão lên mặt dạy đời phát ghét…
Động hậm hực:
-
Hết chuyện làm rồi nên rước thằng Ănglê về làm thầy. Mã Lai với Nam Việt
khác nhau như hai thế giới. Mã Lai lộn xộn đủ thứ - du kích gồm người
Mã Lai, Ấn Độ, người Thái Lan, người Tàu, nhất là người Tàu. Dân trong
nước họ không thuần, chia năm xẻ bảy. Còn ta… Hừ!
Thiếu tá Trương Tấn Phụng chú ý nghe Động, đôi mắt mở thật to.
-
Tại sao chính phủ không coi quan trọng hàng đầu là giành nhân tâm? –
Phụng ngập ngừng đặt câu hỏi – Tôi nhớ nhiều bài của trung tá Luân viết
về vấn đề này hay quá mà!
Luân đỏ mặt. Anh toan đính chính giữa lúc Lê Khánh Nghĩa cười mỉm rất khó hiểu, thiếu tá Động nhún vai:
-
Bao giờ trung tá làm bộ trưởng thì họa may mới có thể áp dụng hết điều
viết trên báo vào thực tế. Làm bộ trưởng cũng không ăn thua, cả làm Tổng
tham mưu trưởng cũng vậy. Nói thiệt – Động nâng cốc bia – tôi ủng hộ
trung tá làm Tổng thống. Làm Tổng thống dễ ợt mà… chớ sĩ quan cấp tá, ở
Bến Tre, trung tá trực tiếp nhúng tay mà còn trậm trầy… Một người làm
một trăm người phá, tài bằng trời cũng chào thua. Quốc sách ấp chiến
lược nguy hiểm đủ phía. Ông Nhu cay cú, nhưng ông đâu dè tự mình nạp
mạng cho Mỹ…
Lê Khánh Nghĩa ngó quanh.
- Sợ mẹ gì! – Động vẫn
không hãm giọng – Thiên hạ nói rùm, mật vụ nghe đầy tai, báo cáo chắc
chất đống ở Phủ tổng thống… Phải không trung tá?
Luân mỉm cười mà không trả lời.
-
Mỹ lõi đời, xúi ông Diệm, ông Nhu lùa dân vô ấp chiến lược, phá nhà,
phá vườn người ta. Dân oán. Không phải vài người oán mà cả nước oán. Tới
lúc nào đó, nó bật đèn xanh, các phái chống ông Diệm ông Nhu, hạ bệ hai
ông. Mỹ được tiếng là làm ơn xóa chế độ độc tài, xả xú-páp an toàn, Mỹ
ngồi thêm vững ở cái xứ “Giao Chỉ” toàn bọn tướng lãnh, bộ trưởng chuyên
buôn lậu, phá trinh con gái, tán dóc… - Động dường bị kích động, nói cả
dây.
- Vậy, mình phải làm sao? – Trương Tấn Phụng hỏi, lo lắng.
- Làm như Nasser (1), dám không? – Câu trả lời đột ngột, đại tá Lâm bỗng xuất hiện sau lưng Động.
Luân kéo ghế mời đại tá.
- Ừ, ngồi với mấy cha coi bộ vui hơn… - Lâm ngồi xuống ghế. Luân ra hiệu cô chiêu đãi mang đến một cốc vại bia.
-
Tụi nó thách, tôi làm một hơi bốn cốc Cognac sec, bây giờ thêm bia, mấy
cha nhớ chở tôi về giùm. – Đại tá Lâm nốc ừng ực hết cốc bia, chính anh
búng tay gọi thêm cốc khác.
- Tôi bắt đầu giống thằng cha Dương
Văn Đức. Nổi khùng rồi… Sống với bọn ngu riết, mình không ngu được, nên
phát khùng… mấy bàn kia toàn nhảm nhí: chuyện cờ bạc, chuyện ăn cắp,
chuyện đùi các cô ca sĩ… Thèm làm Nasser quá! Quất mẹ nó một cái, sao
thì sao… Quất luôn lũ sĩ quan mất dạy này!
- Làm Nasser hay làm Kong Lee? – Thiếu tá Động hỏi, cười cười.
-
Chú thiếu tá hỉ mũi chưa sạch ở đâu mà tấp vô đám này? Không ghê trung
tá Tham mưu biệt bộ Nguyễn Thành Luân sao? Không ngán P.42 sao? Nói cho
mấy chú thiếu tá nhóc biết mà giữ miệng – Đại tá Lâm trỏ Phụng và Động –
Trung tá Luân dụ khị mấy chú uống, rượu vào lời ra, phun ráo ruột gan
để ông ta làm rắp-po (2) lập công đó…
Luân phì cười:
- Vậy thì người đầu tiên phải trả lời trước tòa án quân sự đặc biệt của đại tá Thọ là đại tá Lâm!
-
Tôi được bác sĩ Tuyến ân cần theo dõi lâu rồi. Có lẽ vì tôi là thằng
không có lính trong tay, nên ông bác sĩ chưa chịu bắt, cũng có thể ông
ta chờ tôi lọt sâu hơn vào trận đồ của ông ta, để ra tòa chỉ lãnh mỗi
một án tử hình… Nasser hay Kong Lee đều được. Park Chung Hee cũng được.
Phipul cũng được. Trừ Fidel Castro. Trừ là vì trong tụi mình, chẳng ai
giống ông ta, có điều kiện như ông ta. Ông ta là Cộng sản! Nếu có thì,
xin lỗi trung tá Luân đây! Rất tiếc, trung tá quá lậm với chủ thuyết Cần
Lao, hết còn quay về đường cũ nổi. Không làm thì chết chìm cả đám,
không sót mống nào. Cộng sản cám ơn ông Diệm, ông ta mở đường cho họ đến
chiến thắng ít tốn sức…
Đại tá Lâm hết tự chủ. Lưỡi anh ta líu.
-
Nè… thằng gì sư trưởng sư 13? Có con vợ lái bò đó… Bạn của thằng Động.
À, thằng Cao Tòng, lùn tịt mà Cao Tòng! Hôm nọ, tôi lên Tây Ninh, rủ tụi
nó đảo chính một cái thử thời vận, nó tái mặt tái mũi, đang cầm ly rượu
mà để rơi, bể ly. Đồ giặt quần áo lót cho vợ! Tôi mà nắm một sư đoàn,
phải biết…
Lê Khánh Nghĩa sa sầm mặt. Chỉ có Luân hiểu được sự phản ứng này.
- Đại tá quá chén rồi, ta đưa đại tá về! – Luân bảo. Động và Phụng xốc đại tá Lâm, bây giờ như không có xương sống, đưa ra xe.
- Ăn bậy nói bạ quá! – Lê Khánh Nghĩa lầu bầu.
-
Sở nghiên cứu chính trị của bác sĩ Tuyến nhận xét ông lâm nói tung lung
vì rượu, không có gì nguy hiểm. – Luân bảo Lê Khánh Nghĩa, hai người
bước song song ra khỏi câu lạc bộ.
- Có một người quen nhắn thăm trung tá! – Lê Khánh Nghĩa chợt nói.
- Ai? – Luân cảm giác anh sắp nghe một tin quan trọng.
- Trung tá Lưu Khánh!
- Ồ! – Trong thảng thốt, Luân ôm vai Lê Khánh Nghĩa…
- Trở vô rồi? – Giọng Luân run run.
- Vô rồi!
Vậy
là đúng như Luân phỏng đoán trước đây – khi Luân lên Tây Ninh cùng
Diệm, năm 1955 – Lê Khánh Nghĩa, con của đồng chí Liên trung đoàn trưởng
Lưu Khánh, người chỉ huy cũ của Luân.
- Chào trung tá! – Lê Khánh
nghĩa chập gót chân, siết tay Luân thật chặt, trước khi lên xe. Luân
nghĩ liền đến sư đoàn 13 – vợ của tay sư trưởng là em họ của Lưu Khánh
Nghĩa. Phía đó – phía căn cứ Tây Ninh – có một cái gì hứa hẹn đối với
công việc sắp tới của Luân.
“Các đồng chí lần lượt trở về” - Luân
nôn nao – “Biết đâu, cả Vũ Thượng, cả tiểu đoàn 402, cả trung đoàn …
đang có mặt ở chiến trường”.
Từ hơn năm nay, nghiên cứu chiếu lệ
các trận đánh, Luân phát hiện ra một đặc điểm: quân giải phóng đánh “bàn
bản” hơn, không hoàn toàn trong dạng du kích đơn thuần, nó chứng tỏ chỉ
huy quân giải phóng được đào tạo chính quy. Tỷ như trận đánh Phước Vĩnh
– trình độ bố trí binh hỏa lực và trình độ chiến – kỹ thuật khác hẳn
trận Trảng Sụp, càng cách biệt với trận Dầu Tiếng.
“Chiến tranh!”
Luân
kêu thầm. Chiến tranh đã thành việc hiển nhiên ở miền Nam, song vấn đề
là khống chế cuộc xung đột vũ trang đó tới mức mà Cách mạng giành được
thắng lợi với độ hy sinh thấp nhất. Luân đọc rất kỹ các tài liệu, sách
báo nói cuộc chiến tranh Triều Tiên: trong vòng 3 năm, hằng mấy triệu
người chết, đất nước bị tàn phá nặng nề. Chiến tranh ở miền Nam phát
triển một lúc nữa chắc chắn sẽ thành chiến tranh của Mỹ với cả nước Việt
Nam. Ở Việt Nam, không thể có “Chí nguyện quân Trung Quốc”, do đó tình
thế có phức tạp hơn Triều Tiên. Nhiều dấu hiệu ở Sài Gòn cho thấy Trung
Quốc của ông Mao đang ráo riết sửa soạn quay ngoắt 180 độ trên bình diện
chính sách đối ngoại… Tốt hơn hết là kết thúc giữa lúc Mỹ ở vào giai
đoạn còn thận trọng – đối với bộ chỉ huy của Paul Harkins, Mỹ hy vọng sự
dính líu về thực binh ở Nam Việt ngang một sư đoàn, tức là vài vạn
lính. Kết thúc được như vậy là lý tưởng. Nhưng bằng cách nào?
Luân
cảm thấy khả năng đó vượt tầm với của anh. Trong chế độ Sài Gòn, anh giữ
một địa vị quá thấp, xét theo nghĩa quyền lực; như một thứ sai vặt. Anh
có thể ảnh hưởng chừng nào đó đến đường lối của gia đình Ngô Đình Diệm
nhưng anh không nắm trong tay các đơn vị quân đội. Ngay khi anh được
giao tư lệnh chiến dịch Bình Dương hay tỉnh trưởng Kiến Hòa, binh mã
dưới quyền chỉ là các sắc lính địa phương, khó lòng thi thố một cái gì
vang động, áp đảo. Đại tá Lâm, người có thể phiêu lưu bạt mạng, ngoài
lính hầu và lái xe, vẫn tay trắng. Thiếu tá Phụng ở giữa Đồng Tháp Mười
với vài đại đội Bảo an. Thiếu tá Động, khá hơn, cũng chỉ vài tiểu đoàn.
Chỉ có Lê Khánh Nghĩa và sư đoàn 13, song Tây Ninh xa thủ đô tới hàng
trăm cây số…
*
Bộ tư lệnh Viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam, ký
hiệu là MACV chính thức công bố hoạt động ngày 8-2-1962, mồng 4 Tết
Nhâm Dần. Trụ sở tạm thời đóng tại góc đường Trần Hưng Đạo và Pétrus Ký,
nơi phái đoàn MAAG đóng trước đây, nằm giữa Sài Gòn và Chợ Lớn. Năm
ngày sau, tướng Harkins chính thức nhận chức chỉ huy trưởng thay cho
tướng Lionel C. Mac Gaar.
Paul Donal Harkins, sinh năm 1904 tại
bang Massachusett. Sự nghiệp binh bị không có gì đặc sắc, ngoài những
bằng cấp. Vị trí của ông ta khiêm tốn hơn nhiều so với Taylor, Collins
và cả Mac Gaar. Dư luân nói đùa: Kennedy chọn Harkins vì ông ngụ tại
thành phố San Francisco gần Việt Nam, chỉ cách có mỗi Thái Bình Dương.
Vả lại Harkins, dù đã 58 tuổi, vẫn sống độc thân – tha hồ mà đùa bỡn với
“Đệ nhất phu nhân Việt Nam Cộng hòa” Trần Lệ Xuân!
Nhận nhiệm vụ
chính thức hôm trước, hôm sau tướng Paul Harkins đến xem triển lãm mỹ
thuật. Báo chí bình luận: viên tư lệnh Mỹ không chỉ biết kế hoạch hành
quân mà còn biết thưởng thức các bức tranh như Ngựa của Lâm Triết – huy
chương vàng. Sự thật khác hẳn, Harkins chẳng quan tâm gì đến nghệ thuật,
sở sĩ ông ghé vào triển lãm là để mua một số tranh làm quà tặng các
tướng lĩnh Mỹ mà ông sắp gặp. Ngày 19-2, hội nghị quân sự Honolulu, gồm
chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ, đô đốc Felt, tư lệnh Mỹ ở
Thái Bình Dương, tướng Paul Harkins, tướng Lê Văn Tỵ… nhất trí ưu tiên
tăng viện cho Nam Việt một số lượng trực thăng lớn, nhằm chuyển vận hành
quân thay cho binh chủng dù nay đã lỗi thời.
Harkins trở lại Sài Gòn, bỗng nhiên dấy lên tin đồn: sắp đảo chính.
Hằng
ngày, Nhu bù đầu với các nguồn tin như vậy. Cơ quan bác sĩ Tuyến, Tổng
nha cảnh sát, An ninh quân đội, Trung ương tình báo được lệnh bám sát
các đối tượng mà Phủ Tổng thống “vô sổ bìa đen” từ lâu. Luân phải túc
trực gần như 24/24 giờ tại Tham mưu biệt độ - bây giờ, người đứng đầu là
đại tá Đặng Văn Quang. Trong mớ tài liệu hỗn tạp và mâu thuẫn, Luân
chưa tìm ra được manh mối. Đại tá Lâm nằm trong danh sách “phải bám sát”
và nhân viên mật vụ đã ghi lại lời của đại tá như sau: “Tao khoái đảo
chính, song tao có cái khỉ gì trong tay để đảo chính… Tao đâu có ngu mà
đưa đầu bằng xương, bằng thịt cho tụi nó thử đạn chì”.
Đại úy
Nguyễn Cao Kỳ, một “nhân vật khả nghi” khác, tài liệu vỏn vẹn: Kỳ suốt
ngày cùng bọn lưu manh Nguyễn Ngọc Loan, Lưu Kim Cương hú hí “hội đồng”
các cô chiêu đãi hàng không, khoác lác một tấc tới trời, song chỉ là
khoác lác.
Các “chính khách” thuộc nhóm Caravelle và nhóm 11-11 –
dự vào cuộc đảo chính năm 1960 – đóng cửa im ỉm, chẳng chơi bời giao du
với ai.
Vũ Liệu – sau khi Trúc Đào bị tạt ác- xít, sống với một vũ
nữ khác. Trần Thiện Khiêm ở Cần Thơ, không có dấu hiệu gì đáng để ý. Đại
tá Nguyễn Văn Thiệu, sư trưởng sư 5 đóng vùng Tây Bắc Sài Gòn, cố gắng
lấy lòng Nhu bằng cách báo cáo mật về đại tá Đỗ Cao Trí “có những dấu
hiệu không bình thường”, tố luôn Nguyễn Hữu Có. Sư đoàn 13 lọt ngoài mọi
tin tức cập nhật.
Mai Hữu Xuân báo cáo khá dài về Nguyễn Văn Y và
Nguyễn Khắc Bình – Trung ương tình báo – với nhiều triệu chứng lạ.
Nguyễn Văn Y và Nguyễn Khắc Bình báo cáo không kém tình tiết về Mai Hữu
Xuân.
“Tóm lại, tình hình không có gì rõ rệt. Đảo chính, nếu xảy
ra, chỉ có thể do Mỹ chủ trương. Ta cứ hỏi thẳng đại sứ Nolting”. Diệm
bảo Nhu. Từ sau chuyến đi nghỉ mát cuối tuần ở Đà Lạt năm trước, Lệ Xuân
không chịu gặp đại sứ Mỹ mặc dù Nolting nhiều lần yêu cầu với đủ lý do.
Đến khi vợ Nolting sang Việt Nam, Lệ Xuân bằng lòng đi tắm biển Long
Hải chung với hai vợ chồng đại sứ. Tại bãi biển, dưới chiếc dù màu sặc
sỡ, Nolting nhìn Lệ Xuân như điên dại – mụ phơi mình trên bãi cát, cố
tình bẹo Nolting.
Bây giờ thì phải tìm cái cớ để mời Nolting. Sáng
kiến, dĩ nhiên, do Lệ Xuân. Mụ tự nguyện gọi điện thoại cho Nolting
trước khi văn phòng Phủ tổng thống gửi thư chính thức.
- Ly Kai vừa
báo riêng với tôi một cuộc họp mặt tại nhà Bá Thượng Đài – Nhu bảo Luân
– Dự họp có John Hing, người mà anh nhắc tôi đề phòng, Bá Thượng Đài,
đại sứ Đài Loan, Lâm Sử, đại diện Trung Cộng. Tất nhiên, John Hing chủ
tọa. Gã cho cả bọn biết: sắp có biến cố. Gã không trả lời rõ biến cố đó
là gì, song cam đoan là biến cố sẽ xảy ra gần đây. Gã trù liệu những khả
năng tiếp theo biến cố, đặc biệt phân tích khía cạnh Việt Cộng nhân cơ
hội đó mà phá ấp chiến lược, chiếm đất chiếm dân ở nông thôn và biểu
tình đình công ở đô thị. Lâm Sử cam đoan rằng Việt Cộng chưa thể làm gì
được trong thủ đô, trừ các trận đánh mìn. Ở nông thôn, Trung Cộng không
tán thành Việt Cộng thành lập các đơn vị chủ lực cao hơn cấp đại đội,
nhưng vì Việt Cộng đã có đến cấp tiểu đoàn cho nên Trung Cộng sẽ kềm chế
quân chủ lực Việt Cộng ở mức tiểu đoàn riêng lẻ. John Hing nhận xét
rằng Trung Cộng mất ảnh hưởng đối với Việt Cộng và chế nhạo Lâm Sử: ngay
với người Hoa ở Sài Gòn, thế lực của nhóm Nghị Lực vẫn mạnh hơn nhóm
của Lâm Sử nhiều.
- Ly Kai báo cáo có bấy nhiêu? – Luân hỏi.
- Vài chi tiết nữa, song nội dung chủ yếu có bấy nhiêu.
Luân ngả người lên tựa ghế, bóp trán
- Tại sao Ly Kai báo cáo với anh?
-
Va vẫn làm như vậy… Về cuộc họp mặt này, tôi có một nguồn tin khác –
nguồn tin cho biết ngày giờ, địa điểm, số người na ná như báo cáo của Ly
Kai, song không nắm được nội dung.
- Chắc chắn người của anh để lộ, bọn chúng chủ động cho Ly Kai báo cáo… Tại sao anh không bắt quách John Hing, Lâm Sử?
-
Về Lâm Sử, tôi không muốn bắt. Anh ta là người của Bắc Kinh. Chưa phải
lúc gây căng thẳng với Bắc Kinh. Anh không thấy Bắc Kinh lần lần giúp
ích cho chúng ta hay sao? Tôi cho theo Lâm Sử và nhóm của anh ta để bắt
nhóm Nghị Lực. Nghị Lực nguy hiểm hơn, đó là nhóm thân Việt Cộng. Tiếc
rằng chúng nó khôn ngoan quá, một lần Ly Kai đến tận ổ chúng, song mất
dấu luôn. Còn John Hing, ông Fishel yêu cầu chúng ta không được đụng
tới. Cả đại sứ Nolting, cũng nhiều lần nhắc như vậy. Hắn ta quốc tịch
Mỹ, danh nghĩa là đại diện thương mại của Hãng hàng không Pan America và
nhiều hãng buôn khác.
- Ông ta thật sự là người của hãng sản xuất
vũ khí “Con ngựa bay” Colt… Nhưng, ta hãy trở lại vụ Ly Kai báo cáo. Tại
sao? Ly Kai là agent double (3), nguồn tin của va không thể chỉ có lợi
cho một phía. Hay là John Hing muốn nhờ Ly Kai đánh động với anh về một
cú nào đó sắp xảy ra? Gã Ly Kai… Ái chà!
Luân trở đi trở lại tên Ly
Kai khiến Nhu phát nhột. Cách đây không bao lâu, sau vụ Mai Hữu Xuân
bắt cóc những người liên quan đến Luân, Nhu hầm hừ đòi bắn bỏ Ly Kai,
thế mà bây giờ lại có vẻ tin cậy hắn ta.
- Tôi cho theo Ly Kai khá
chặt, anh tin tôi… Đúng như anh khuyên tôi, qua Ly Kai, tôi biết được
nhiều việc trong khối người Hoa... Tôi sẽ khử va khi va không còn có ích
nữa. Còn việc này, có thể là một thứ tín hiệu… Một cú? Cứ cho như là sẽ
có, song cú đó là cú gì? – Nhu cũng bóp trán. Trong khoảnh khắc, Luân
nhớ tới Mai. “Đúng rồi, chỉ có hướng đó thôi… Có mối liện hệ gì giữa Đại
Việt và John Hing?”
- Tôi cho rà kỹ, bộ binh, thiết giáp, dù… tất
cả đều bình thuờng. Tôi e rằng cái “cú” mà dư luận đồn đãi là thứ ballon
(4) thăm dò…
“Anh ta chưa rà kỹ đâu!” – Luân nghĩ thầm – “Anh ta
để sót cả một quân chủng mà vai trò mỗi ngày mỗi quan trọng trong cuộc
chiến”.
- Chúng ta sẽ hỏi Nolting… Cám ơn anh đã tốn nhiều công sức mấy hôm nay.
Nhu bắt tay Luân, có vẻ nhẹ nhõm.
*
Luân tìm Mai. Không khó khăn gì, cơ quan hàng không cho địa chỉ của cô – một phòng trong khu chung cư đường Tự Do.
- Ông kỹ sư gặp tôi có việc gì? – Mai mời Luân ngồi, giọng không được tự nhiên.
Một
cái liếc nhanh trần thiết trong nhà cho Luân nhận xét: cô sống đơn
giản, cơ hồ xập xệ, gần như tạm bợ; điều đó chứng tỏ Mai không có ý định
ở vĩnh viễn một nơi mà hằng ngày cô rất bận rộn.
- Tôi muốn hỏi cô về người bạn phi công của cô…
Mắt Mai chớp lia lịa.
- Thật bất tiện khi phải từ chối đề nghị của ông kỹ sư, người mà tôi rất mến. Tôi mong ông kỹ sư hiểu…
-
Cám ơn cô. Thế là đủ. Tôi chỉ cần biết có bấy nhiêu. Chúng ta, không ai
không bận tâm với tình thế. Tất nhiên, giá điều kiện cho phép, chúng ta
cho nhau biết nhiều hơn thì công việc chung nhất định có lợi… Dầu vậy,
tôi vẫn khuyên cô: Mỹ nắm kế hoạch hành động của người bạn của cô. Người
bạn của cô – xin lỗi cô, do nghề nghiệp thôi – tôi biết cả tên, tuổi.
Như cô cho tôi biết, anh ta là một Đại Việt, đúng hơn, cha anh ta là
lãnh tụ Đại Việt. Đại Việt chưa bao giờ là đảng yêu nước. Tôi không phản
đối cô, trái lại. Song, tôi mong cô hiểu cô đang tiếp cận với ma quỷ.
Dùng ma quỷ trị ma quỷ, hoàn toàn chính xác, cần thiết… miễn ta đừng lầm
ma quỷ với con người.
Mai cắn môi, đôi mắt nhìn Luân soi mói.
- Để cô tin rằng tôi không ba hoa, tôi viết tắt tên của người bạn phi công của cô…
Luân chấm tay vào nước trà, viết lên bàn ba chữ cái: N.V.C.
Mai thay đổi trông thấy: mặt cô tái.
-
Cô yên tâm. Trừ tôi, không ai biết. Tôi biết cũng nhờ cô. Qua vài thông
tin rời rạc của cô hôm cô đến nhà tôi. Tìm một nhân vật như vậy đâu có
khó đối với tôi. Tôi tốn vài mươi phút tra sổ của Bộ chỉ huy không quân.
Dầu sao, tôi đề nghị cô xem vụ này vừa tầm của nó. Tôi không cho rằng
vụ này không cần thiết, song đừng trông mong từ nó dẫn đến những đổi
thay lớn lao ngay lập tức. Cô nên nhớ: Mỹ cho phép – có nghĩa là Mỹ phải
có lợi trước tiên và nhiều hơn các phe khác…
- Tức là Mỹ bật đèn xanh… - Mai ấp úng.
- Không… Đúng hơn, chưa. Mỹ bật đèn vàng!
- Ta sẽ biến đèn vàng thành đèn xanh! – Mai rắn rỏi.
-
Ý nghĩ hay, nhưng e rằng hơi vội. Chuyển màu không đơn giản. Và, đừng
lấy nguyện vọng của mình thay cho những điều kiện thực tế. Nếu thuần túy
là nguyện vọng – Luân cười – chưa biết cô hay tôi là người sốt ruột
hơn… Nếu cô giữ trách nhiệm nào đó, có một lực lượng nhất định thì tôi
khuyên cô: đừng vội phơi lưng. Biết đâu Đại Việt và Mỹ không mong nhân
cơ hội này phát hiện lực lượng của đối phương. Tốn vài phi công, chịu
một vài sụp đổ nhỏ mà tiêu diệt lực lượng của đối phương – lực lượng
chúng sợ thật sự. Đâu phải là giá mắc?
Mai cắn mãi móng tay, thẫn thờ chào Luân, không tiễn khách về.
“Không biết cô ấy thông báo kịp cho cơ sở không?”
---
(1) Gamal Abdel Nasser (1918–1970), người thực hiện cuộc đảo chính quân sự năm 1956, tổng thống Ai CẬp 1956-1970
(2) rapport: báo cáo
(3) Điệp viên hai mang
(4) quả bóng
CHƯƠNG 12
Nolting dĩ nhiên theo tín ngưỡng Tin Lành, như số đông người Mỹ. Tên
thánh của ông ta là Frederick, tên của vị giám mục xứ Utrecht thuộc Hà
Lan thế kỷ IX mà lễ hằng năm vào ngày 18-7 – chẳng ăn nhập gì với buổi
tiếp tân linh đình tại dinh Độc Lập dành cho ông ta vào tối 26-2. Ông ta
sinh tháng 8-1911, còn ngày ông bị ám sát hụt qua đã lâu – những 5
tháng. Thế mà văn phòng Phủ tổng thống vẫn tìm ra cái cớ: Bà Olivia
Lindsay Crumpler, vợ đại sứ và các con sang Sài Gòn, gia đình tổng thống
Diệm chưa có dịp chào mừng cuộc đoàn viên, nên nhân ngày cuối tháng,
mời gia đình đại sứ “với tư cách bạn bè” đến chung vui một dạ tiệc
“ngoài nghi thức”. Đó là theo giấy mời chính thức – còn sự thỏa thuận
lại từ mấy phút điện thoại giữa Trần Lệ Xuân và đại sứ Nolting: đại sứ
cứ trách Trần Lệ Xuân tránh mặt ông và Lệ Xuân dịu dàng xin lỗi, hai
người trao đổi bóng gió kể cả gửi cho nhau nhiều cái hôn qua đường dây.
“Tin vịt!” – Lệ Xuân kết luận về những đồn đãi sắp có đảo chính. Nolting
không đời nào chịu nhúng tay vào một hành động gây hậu quả xấu cho Lệ
Xuân, người mà ông ta yêu đến mức tôn thờ. Lệ Xuân cười một mình trước
tấm kiếng – mụ tự ngắm – khi nhớ những lời ca ngợi của Nolting. Tám giờ,
dạ tiệc bắt đầu. Nolting, vợ và bốn con: Mary, Grace, Frances, và Jane
có mặt trước năm phút. Vợ chồng Nhu đón họ ở bậc thềm cuối cùng. Nolting
lịch sự hôn tay Lệ Xuân. Dưới các ánh đèn của phóng viên chụp hình và
quay phim, vị đại sứ thay mặt cho Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ và bà cố vấn
Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn cư xử đúng phép xã giao – ngay cả khóe mắt
của họ cũng không cung cấp bất kỳ một bằng chứng nhỏ nhất nào giúp cho
kẻ biết rành sự đi lại vụng trộm của họ có thể khai thác.
Tổng
thống chờ vợ chồng Nolting ngay tại chỗ ngồi của mình – đặt đầu chiếc
bàn dài. Kênh kiệu một cách vừa phải và thân tình một cách có tính toán,
Diệm đứng lên khi hai vợ chồng Nolting đến trước mặt; ông bắt tay khách
và hôn các con của họ.
Quan khách ngồi vào bàn. Toàn bộ nội các,
một số tướng lĩnh, chức việc, đô trưởng, Gardiner và các nhân viên cao
cấp USOM, trưởng phòng thông tin Mỹ USIS, giáo sư Webley Fishel, phó đại
sứ Porter, trung tá James Casey, đại tá Đặng Văn Quangv. v…Trung tá
Nguyễn Thành Luân ngồi cuối bàn. Hầu hết quan khách đều có phu nhân cùng
đi. Một dịp để các bà khoe sắc, giàu, sang, bặc thiệp… Một dịp trao đổi
nguồn tin về buôn hột xoàn, các sòng bạc dành riêng cho mệnh phụ đồng
thời kẻ vạch, bêu xấu nhau. Một dịp để các ông nhìn chòng chọc thân thể
vợ người khác. Và, trên tất cả, một dịp để các quan chức cao cấp Mỹ chọn
lựa “bồ” trong hằng mấy tá nữ thượng lưu…
Tổng thống nói đôi lời trước khi nổ sâm banh:
-
Trước hết, tôi xin lỗi bà Olivia Nolting. Đáng lẽ buổi tiệc mừng này
được tổ chức cách đây 25 ngày, khi bà vừa đặt chân lên đất nước chúng
tôi. Bấy giờ, sắp tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt Nam, tôi
muốn bà đại sứ có thời giờ thâm nhập, tìm hiểu phong tục một quốc gia
phương Đông xa xôi. Sau Tết, công việc bận rộn cả phía chúng tôi lẫn
phía ngài Nolting. Mãi hôm nay, chúng tôi mới lựa chọn được thời gian
thích hợp – công việc tạm ổn. Tuy trễ, song tôi tin là buổi gặp gỡ sẽ
hết sức đậm đà. Ngài Nolting, ngườì bạn lớn của Việt Nam Cộng hòa đã đổ
nhiều tâm lực vun bồi cho tình đoàn kết đồng minh keo sơn Việt – Mỹ, tôi
nghĩ rằng biểu lộ lòng biết ơn đó của việt Nam Cộng hòa không gì hơn
những cuộc tiếp xúc mang tính gia đình như hôm nay. Tiện thể, tôi xin
báo với Ngài đại sứ, chính phủ Việt Nam Cộng hòa quyết định tặng Ngài
Bội tinh Kim khánh, Bội tinh cao nhất mà Ngài là người nước ngoài đầu
tiên được tặng.
Tiếng vỗ tay rào rào chen với tiếng nổ sâm banh.
- Tôi xin các vị nâng cốc chúc sức khỏe bà Oliver Lindsay Nolting, ngài đại sứ Frederick Nolting, các công tử, tiểu thơ…
Diệm đưa ly sâm banh lên cao.
-
Thưa Tổng thống, thưa quí vị… - Nolting đứng lên, sửa cà vạt, nghiêng
mình khá sâu trước Diệm, chào mọi người, tỏ rõ ông ta xúc động thực sự -
Thật là niềm hạnh phúc ngoài tưởng tượng của chúng tôi khi chiều nay
đến đây dự buổi tiệc đầy ý nghĩa gia đình này. Bà Nolting nhờ tôi nói
lên lòng cảm ơn sâu sắc của bà và các con. Cá nhân tôi, tôi không thể
không bày tỏ sự cám ơn trước ân thưởng mà Tổng thống đã dành cho, dù
rằng, xét một cách trung thực, đóng góp của tôi không có gì đáng kể.
Chúng ta – Việt Nam Cộng hòa và Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ - đều chung mục
đích bảo vệ tự do. Tôi phải nói rằng nhiệm vụ của tôi nhẹ rất nhiều nhờ
vào tài lãnh đạo của Tổng thống và do đó, hoàn toàn chính đáng khi tôi
đề nghị tất cả chúng ta nâng cốc chúc sức khỏe Tổng thống Ngô Đình Diệm,
ông cố vấn Ngô Đình Nhu, bà cố vấn Ngô Đình Nhu và các vị trợ thủ cho
Tổng thống…
Nolting và vợ nâng cốc. Cả hai bước ra khỏi bàn, chạm cốc khắp lượt người có mặt.
-
Tổng thống Mỹ cam kết giúp đỡ Việt Nam Cộng hòa và vị lãnh tụ khả kính
của nó là Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tôi xin được chạm cốc riêng với ngài
Tổng thống!
Nolting và Diệm uống cạn. Buổi tiệc tiếp diễn giữa
những lời chúc tụng hoan hỉ như vậy. Diệm là người hài lòng, ông cười
luôn. “Tội nghiệp thím Nhu chịu cực khổ”. Ông ngó đứa em dâu với cái gật
đầu tưởng thưởng nhè nhẹ. Lệ Xuân ngồi cạnh Nolting – cố giấu song vẫn
không giấu nổi vẻ đắc thắng. Nolting vừa ăn vừa trao đổi với Diệm và
Nhu. Không khí cởi mở, thân ái ấy được phóng viên ghi không sót một chi
tiết.
Luân chiêm nghiệm: Mỹ đào tạo được một hạng ngoại giao chuyên
nghề - da mặt của chúng bằng sáp, lưỡi của chúng bằng chất dẻo hóa học,
với độ đàn hồi cao nhất.
Lê Văn Tỵ và các quân nhân lặng lẽ nhấp
rượu. “Mỹ cũng đào tạo được các tay võ biền chỉ biết vâng lệnh…” – Anh
chợt thấy Dung sa sầm mặt. Thì ra, James Casey đang ngó cô chòng chọc.
- Thằng khả ố! – Dung nói vào tai Luân. Luân cười mỉm.
- Em phải biết tự chủ. Mặc kệ hắn…
Nhìn
tổng quát buổi dạ tiệc, Luân thấy mọi người đều không được tự nhiên.
Phải chăng bản thân lý do buổi dạ tiệc – dù Diệm đã tưới lên nó nước hoa
hảo hạng, vẫn không đủ sức thuyết phục những người có mặt. Riêng Olivia
– mọi người đều kín đáo quan sát bà ta – tươi cười một cách rất tự
nhiên, tự nhiên đến mức giả tạo. Chăm sóc thật tỉ mỉ trang sức, Olivia
vẫn không xóa nổi nét tàn tạ của một phụ nữ phương Tây hết thời xuân
sắc, nhất là bà ngồi đối diện Lệ Xuân và giữa rừng hoa khôi của dạ tiệc.
Câu chuyện của Olivia và Lệ Xuân xoay quanh các mỹ viện – thật ra,
Olivia hơn tuổi Lệ Xuân không bao nhiêu, Lệ Xuân đẻ cũng không ít hơn bà
ta. Olivia mở ví, ghi vào sổ tay một lô tên crème, tên sách nói về giữ
sắc đẹp, tên mỹ viện ở Paris và Tokyo…
Đến 10 giờ, quan khách đã
ngà ngà, nhân viên phục vụ mời mọi người sang gian giữa – nơi bố trí
thành sàn nhảy. Diệm lấy cớ không quen thức khuya, bắt tay vợ chồng
Nolting và ủy cho Nhu thay ông. Thật ra, Diệm vốn ghét khiêu vũ. Đây là
lần đầu, ông cho phép mở khiêu vũ tại dinh Độc Lập. Nhu đã phải thuyết
phục ông khá lâu, ông bằng lòng sau khi thở dài:
- Thời thế khác nhiều quá!
Ý định của Nhu lộ liễu đến mức Nguyễn Văn Y, người nổi tiếng dốt chính trị, đã phải tặc lưỡi với Luân:
- Ông cố vấn rước quá nhiều ca sĩ, đào hát không mấy đứng đắn, e người ngoại quốc cười…
Luân
biết đây là công trình của Ngô Trọng Hiếu. Những cô gái “bốc lửa” như
báo chí gọi, trong các kiểu quần áo hở hang và mỏng dính ghì các quan
chức Mỹ, theo nhạc giậm giật, vang động cả dinh cơ bấy lâu là chốn thâm
nghiêm. Ngô Đình Nhu, đạo mạo và khô khan thế, vẫn mời Olivia Lindsay ra
sân. Đáp lại, Nolting và Lệ Xuân thành cặp, James Casey tìm Thùy Dung.
Đoán trước sự thể này, Dung lách vào trong.
- Bà trung tá đâu rồi, thưa trung tá?
James Casey hỏi Luân. Luân cũng giả vờ ngó quanh, tất nhiên không tìm thấy:
- Chắc nhà tôi nhức đầu vì mấy hớp sâm banh, cô ấy rất yếu rượu, dù là rượu nho.
James
Casey nhún vai thất vọng. Gã chọn một phụ nữ, hẳn là phu nhân một viên
chức Việt nào đó, khá hấp dẫn. Đèn mờ ảo, dinh Độc Lập dường tách khỏi
ngoại cảnh – cuộc chiến tranh đẫm máu lan đến mọi vùng hoang vắng. Lướt
qua đám khiêu vũ, người ta dễ có ấn tượng mối tình Việt Mỹ nóng sốt,
thơm tho như sự va chạm thịt da nam nữ và những câu thì thầm tình tứ
khắp gian phòng phảng phất màu sắc vương giả.
Bản nhạc chấm dứt.
Mọi người vỗ tay, trở lại ghế đã bày các thức uống. Nolting và Lệ Xuân
mang cốc ra hành lang, Nhu cũng làm như vậy với Olivia, Luân thấy Lệ
Xuân nói câu gì đó mà Nolting lắc đầu kiên quyết. Mặt Lệ Xuân rạng rỡ
hẳn.
“Gã đại sứ cam đoan không có đảo chính!” Luân nghĩ thầm.
Nhạc
lại trỗi. Olivia xin phép về trước với các con. Nhu chủ động mời
Nolting dự cho xong chương trình. Olivia vui vẻ nhận lời thay chồng. “Bà
ta đóng khá tròn vai trò đau nhói này nhưng không thể chứng kiến mãi
tấn tuồng…”, Luân nhận xét.
Nhu tìm chỗ ngồi nghỉ, đúng ngay chỗ Luân.
- Anh không nhảy? Cô Thùy Dung đâu? – Nhu hỏi.
- Cô ấy có lẽ không khỏe, vào trong. Tôi chưa nhảy vì chưa biết nhảy với ai… - Luân nói vui.
- Nếu anh muốn, tôi giới thiệu cho…
- Khoan đã… Tôi muốn thay anh quan sát một lúc…
- Cám ơn…
Hai người hút thuốc, ngó toàn cảnh sân nhảy.
Anh
cho cả cô Minh Hiến – gọi là Hiến “Vamp” – đến đây nữa sao? – Luân hất
hàm về một cô gái trong vòng tay Fishel; cô gần như phơi trọn bộ ngực đồ
sộ và cặp đùi tròn căng. Báo chí gần đây không ngày nào không nhắc đến
cô – hát không hay mà vẫn là cây đinh của “Sài Gòn by night” bởi cô cuốn
hút khách không chỉ bằng giọng hát. Người ta, thậm chí, nói đến những
cuộc đọ súng giữa các sĩ quan cấp tá, cấp tướng quanh cô, “Marilyn” hoặc
“B.B” Việt Nam.
- Biết làm thế nào được… - Nhu thở dài, như Diệm thở dài mấy hôm trước.
Luân
cảm thấy cái buồn rã rời trong Nhu, nhà tư tưởng lớn của chế độ, lãnh
tụ Phong trào thanh niên Cộng hòa, lãnh tụ đảng Cần Lao. Tình thế xô đẩy
con người tầm cỡ đó đi đến nhưng thủ pháp rẽ tiền nhất. Cho nên, hoàn
toàn không có gì khó hiểu khi Nhu xây một P.42. những dự báo kinh khủng.
Rõ ràng, hai nhân vật mà Nhu quyết “chài” là Nolting và Fishel. Giáo sư
Fishel, chuyên gia giúp linh mục Cao Văn Luận xây trường Đại học Huế,
cũng góp xây dựng Đại học Đà Lạt – cả hai đều dính đến giáo hội Thiên
Chúa – là đầu não CIA ở Nam Việt, người đưa Diệm lên ghế thay cho Bảo
Đại. Tiếng nói của ông ta nặng cân nhất về tình hình Nam Việt trước kia
cũng như hiện nay.
Lệ Xuân lả trong tay Nolting; Luân tin rằng Nhu
hiểu rõ những lời mà cả hai người đang nhỏ to với nhau. Nhu bình thản
đến lạnh lùng. “Mọi phương tiện đều tốt miễn nó đạt mục đích”. Ngô Đình
Nhu thể hiện câu triết lý cổ đại tại đây, bằng chính vợ mình. Lệ Xuân,
vẫn áo hở cổ, có vẻ già dặn hơn các cô gái nhảy chuyên nghiệp.
- Chú Nhu này! – Một người can thiệp vào sự yên lặng nơi góc phòng có Nhu và Luân. Người đó là giám mục.
- Đức cha chưa nghỉ? – Nhu đặt ghế mời anh.
- Chưa… Nhạc om sòm, nghỉ thế nào được… Luân không nhảy sao?
- Thưa, con không thấy hứng thú…
- Nên nhảy, con ạ. Hứng thú hay không, không phải là việc con cân nhắc. Bổn phận con phải nhảy!
“Ông giám mục đã bước khá sâu vào mưu mô chính trị rồi!” – Luân nghĩ.
- Dạ, con sẽ nhảy. Con đợi anh Nhu giới thiệu người mà anh ấy chọn cho con…
- Tốt! – Giám mục buông thõng câu nói. Ông bắt sang câu khác:
-
Chú Nhu nè, chú nhớ nói một tiếng với thằng Bộ trưởng kinh tế Hoàng
Khắc Thành để hắn cấp giấy phép đặc biệt cho chị Cả Lễ chở gạo ra miền
Trung…
- Khổ quá! – Nhu kêu lên – Đức cha cũng biết cơn bão Wilda
hủy hoại gần một triệu mẫu ruộng Tây Nam phần. Gạo Sài Gòn vọt lên gần
600 đồng một tạ, ta phải nhập hỏa tốc 50.000 tấn gạo Thái Lan. Làm sao
Bộ kinh tế cho phép tư nhân chuyển gạo ra Đà Nẵng để xuất cảng? Đã có
lệnh của Tổng thống cấm xuất khẩu gạo.
- Thiếu là thiếu vạn, thiếu
triệu, chớ thiếu chi vài nghìn tấn! Chú liệu mà cư xử, kẻo trong nhà lại
bất hòa, không tiện! – Giám mục xẵng gịong.
- Anh Luân thấy đấy! Tai tiếng quá nhiều rồi, bộ muốn chết chùm sao? – Giọng Nhu không còn lễ độ nữa.
Luân
tảng lờ không nghe. Chuyện tranh chấp trong gia đình Tổng thống càng về
sau càng gây cấn, quanh các món lợi, nhất là giữa Lệ Xuân và Cả Lễ, Ngô
Đình Cẩn…
- Tai tiếng quá nhiều! – Giám mục nhại lại, liếc về phía Lệ Xuân và Nolting.
- Vợ chồng tôi chấp nhận tai tiếng, là vì sao, Đức cha tất hiểu. – Nhu sừng sộ.
- Anh Luyện khi nãy không thấy, bây giờ lại có mặt!
Luân
chỉ về phía xa xa, Ngô Đình Luyện đang nhận Minh Hiến từ tay Fishel.
Anh muốn đánh lạc hướng cuộc cãi lẫy giữa hai anh em họ Ngô.
- Chú
ấy chỉ về đây vào lúc này, lúc khiêu vũ… Tôi mấy lần đề nghị Tổng thống
bãi chức đại sứ của chú ấy. Chẳng giúp được gì cho chính phủ, suốt ngày
chạy theo gái. Về đây, dám leo rào đi chơi suốt sáng… Quá thể rồi! – Nhu
lầu bầu, không chỉ nói về Luyện mà hẳn muốn nhắn nhe giám mục.
-
Chú xem vụ nhập cảng phân hóa học, ông đại sứ có đồng ý nới cho ta điều
kiện chút nào không? Trường Cần Lao nhân vị Vĩnh Long trông cậy số phân
đó...
Giám mục rõ là không nghe ra lời nhắn nhe của Nhu.
Vừa tức, vừa ngượng với Luân, Nhu đứng phắt dậy:
- Anh Luân đi theo tôi!
Luân ái ngại nghiêng mình chào giám mục.
Giám
mục làm một cử chỉ cho phép, rồi lững thững quay lưng theo hành lang ra
phía sau. Trông bước giận dỗi của giám mục, Luân bùi ngùi – giám mục
trước sau vẫn hết lòng che chở Luân, nhờ “cây dù” quyền thế của ông mà
Luân vượt qua khỏi những ngày đầu sóng gió. Đôi lúc Luân nghĩ đến một
trả ơn – cách nào đó, trong hoàn cảnh nào đó, anh chưa biết – song nhất
thiết phải như vậy. Một giáo phẩm cấp cao, tham vọng cả đời lẫn đạo đều
nồng nhiệt, giám mục càng về sau, theo cái đà phục chế “vương triều nhà
Ngô” thọc tay vào vô số chuyện mờ ám và ông quên rằng chính ông góp phần
khó khăn không nhỏ đe dọa sinh mệnh của dòng họ ông… Dù theo nghĩa nào,
ông vẫn là người ơn của mình”!
- Tôi bất lực! – Nhu vừa đi vừa càu
nhàu – Thật khó mà làm cho họ hiểu. Anh thấy đấy, nội bộ gia đình chúng
ta gây nên nhiều nguy hiểm không kém bất cứ kẻ thù nào…
Luân không
tiện can thiệp vào cơn bất mãn của Nhu. Dẫu sao, lịch sử đã an bài.
“Mâu thuẫn nội bộ địch là đồng minh của cách mạng” – Luân nhớ lời anh
Hai trong cuộc gặp gỡ trước khi Luân rời chiến khu. Mâu thuẫn ấy bức xúc
nhiều vẻ, đến nỗi phát lộ ngay giữa anh em ruột và trong cái gia đình
lẽ ra phải thuận thảo hơn ai hết, nhất là vào lúc này. Họ Ngô cầm quyền
từ tháng 7-1954 đến nay, tròn 6 năm 7 tháng, khoảng thời gian đủ để cho
viện trợ Mỹ và tình trạng chiến tranh sinh nở một tầng lớp tư sản mới –
tư sản cầm quyền. Nếu lợi ích của họ nhất trí với mục tiêu chống Cộng
thì họ rất chia rẽ nhau về sự phân chia lợi ích đó, trên lĩnh vực quyền
bính và kinh tế, mà quyền bính xét cho cùng cũng là kinh tế. Gia đình
Diệm tập trung mọi thứ danh lợi. Lớp tư sản không được tham chính, khá
đông về số lượng, khá mạnh về kinh tế, trực tiếp quan hệ với tài phiệt
Mỹ trong đó không ít là con bài dự bị của Mỹ. Trong lớp tham chính, bộ
phận tướng tá lớn dần, bất mãn với cách ăn chia của gia đình Diệm. Rồi
đến lượt gia đình Diệm, cánh Huế cho rằng Lệ Xuân dựa thế Diệm lấn lướt
họ. Chỉ nhìn từ góc độ đó thôi, tiền trình của họ Ngô thật mờ mịt…
Nhu
đưa Luân đến một thiếu phụ. Bà ngồi một mình có lẽ nghỉ mệt sau một bản
nhảy tốn nhiều sức. Với Luân, bà không phải là kẻ xa lạ. Saroyan –
người Ả Rập, vợ của Fishel. Thỉnh thoảng Luân gặp bà ta trong các buổi
tiếp tân. Bà đại diện cho Hội phụ nữ từ thiện quốc tế, kết hợp với công
tác của chồng mà thường trú ở Sài Gòn. Trên dưới 30 tuổi, nước da “cà
phê sữa” như đàn ông vẫn gọi, mái tóc đen nhánh và đôi mắt to. Saroyan
thu hút giới ngoại giao bằng vẻ đẹp pha Âu-Á, phần nào “man rợ” như
tướng André có lần nhận xét. Hôm nay, tại buổi dạ vũ đài các này, hai
ngôi sao sáng rực – Trần Lệ Xuân và Soroyan.
“Giá mà Thùy Dung của mình chịu ra sàn nhảy, phải nói có đến ba ngôi sao!”. Luân bắt tay Sorpyan và nghĩ thầm.
- Hân hạnh gặp trung tá! – Soroyan tươi cười chào Luân.
- Trung tá Nguyễn Thành Luân muốn mời bà! – Nhu nhã nhặn giới thiệu.
- Ồ! Ông cố vấn khỏi làm trung gian. Trung tá và tôi quen nhau từ lâu… Sẵn sàng!
- Thế sao? – Nhu làm vẻ sửng sốt. Và sau đó cười mỉm – Chúc bà một đêm vui vẻ!
Dàn nhạc bắt đầu chơi một bản valse. Luân đưa Soroyan ra giữa sàn.
- Buổi dạ vũ này hình như tổ chức theo một yêu cầu chính trị… - Soroyan bảo Luân.
- Tôi không rõ, thưa bà… Tôi là một quân nhân, và tại đây, tôi là chủ… - Luân trả lời, thăm dò.
-
Ông rõ, rất rõ! – Soroyan cười. – Tổng thống Diệm tìm cách tự vệ, tiếc
rằng đội quân tự vệ gồm số đông taxi girl (1) không thể là một đội quân
có sức chiến đấu tốt! Giống như Liên binh phòng vệ trước đây trong biến
cố 11-11…
Hẳn Soroyan nói đến Minh Hiến và các cô gái nhảy khác.
- Tệ hơn cả là ông Nhu cho bà Nhu đóng vai trò không mấy đẹp ấy quá lộ liễu.
Quả Lệ Xuân và Nolting đang lẩn vào một vùng tối.
- Xin lỗi bà giáo sư@ – Luân thấy cần thiết phải phản kích – Đây là một cuộc vui và bà cố vấn là chủ, ông Nolting là khách…
-
Ông tranh luận với tôi làm gì? Ngay ông, ông mời tôi nhảy đâu phải vô
tư? Thậm chí, ông Nhu nhờ ông… Ông vẫn với tư cách là chủ nhà đấy, phải
không?
Soroyan nói tiếng Pháp sõi như người Pari.
- Nếu vậy thì… - Luân nới lỏng tay.
-
Không sao, ông đừng vội nóng. Nếu ông không mời tôi, tôi cũng sẽ mời
ông, dù biết rằng ông coi trên trái đất này chỉ có mỗi bà trung tá. Tôi
thích ông!
Soroyan đặt tay Luân lên bờ vai trần của bà ta. Luân chợt rùng mình. Soroyan cười khúc khích:
- Sao ông sợ? Tôi có phải là con rắn độc đâu?
- Tôi không sợ nếu bà cho tôi biết bà nhảy với tôi là do sở thích của riêng bà. – Luân lấy lại tự chủ.
-
Ông muốn hỏi tôi có chịu ảnh hưởng của ông Fishel không, chớ gì? Trong
trường hợp này, tôi độc lập. Cần báo với ông, Fishel cảm tình với ông.
Nếu có một cái gì khiến Fishel khó chịu là ông trẻ, còn Fishel già.
Soroyan cười, phả cả hơi nóng vào mặt Luân, nhưng sau đó, bà ta lại sa sầm mặt…
- Ông xem phim “La Valse dans l’ombre” (2) chưa?
- Có… Robert Taylor và Vivien Leigh với bài “Ce n’est qu’un aurevoir” (3).
- Bỗng nhiên, tôi có cảm giá chúng ta đang ở trên bờ sông Tamise và ông sắp ra mặt trận… - Giọng Soroyan cực kỳ quyến rũ.
-
Tiếc là tôi không sẵn một tượng Phật để làm kỷ niệm cho bà… Và, chúng
ta ở trong một lâu đài chứ không ở dưới hầm tàu điện Luân Đôn, giữa mưa
bom V1, V2… - Luân đùa.
- Ông khác Fishel…
Fishel đã vồ Minh Hiến trở lại và hai người gần như hòa làm một… bản nhạc du dương nhưng hai người lại cuồng loạn.
- Giáo sư thích ca sĩ Minh Hiến!
- Không phải… Ông Fihel chưa hề biết thích ai, kể cả tôi. Ông ta ly dị vợ và cưới tôi, nhưng không phải vì say mê tôi…
Luân giả bộ kinh ngạc.
-
Tôi là người Kuwait. Xứ sở tôi, theo dự báo của các nhà địa chất, sẽ
trở thành một trong những nơi sản xuất dầu hỏa hàng đầu thế giới. Đấy,
vì sao Fishel cưới tôi. Công vụ đòi hỏi ông ấy như vậy và ông ấy cũng
thích như vậy… - Giọng Soroyan buồn buồn.
- Thế, tại sao giáo sư không cưới một phụ nữ Việt Nam, Minh Hiến chẳng hạn?
-
Trước kia, ông ấy định cưới một phụ nữ Việt Nam, trong gia tộc ông
Diệm, con của bà Cả Lễ hoặc của ông Khôi. Nhưng khi ông biết rằng, ông
sẽ rời Việt nam sang công cán ở Trung Đông, ông cưới tôi… Trước tôi, bà
vợ mà ông ấy ly dị là một người Nhật – đẹp mê hồn… Còn trước nữa, một
người Đức, xấu hơn bất kỳ người phụ nữ xấu nào trên hành tinh này… Chắc
chắn tôi không phải là bà Wesley Fishel cuối cùng… Ông Fishel đã vào
tuổi 62 rồi đó!
Hết bài nhạc, Luân đưa Soroyan về chỗ.
- Tôi
là bạn của Fanfani, Helen nhắc ông luôn! – Soroyan cười tinh quái. “À,
thì ra là cô nhà báo đã ba hoa về mình”. Luân ngồi cạnh Soroyan, suy
nghĩ về mối quan hệ hơi đột ngột hôm nay. Fanfani nói gì?
- Helen mê ông, nhưng cô ta biết là tuyệt vọng… Bà trung tá hãnh diện hay ghen về các mối qua hệ đó?
- Thùy Dung của tôi rất hiểu… - Luân trả lời lơ lửng.
- Không hiền đâu! Một nhân viên công an thì làm sao hiền được… Nhưng, nó có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
Tự nhiên, Luân cảm thấy thương hại cô gái Ả Rập. Anh chợt nhớ Tiểu Phụng, cô gái Hoa mà cái chết bi thảm ám ảnh dai dẳng Luân.
Giữa lúc đó, Thùy Dung từ phía trong bước ra.
Soroyan cầm tay Dung, kéo ngồi xuống cạnh:
-
Bà trung tá ẩn mình đâu đó theo dõi chúng ta! May mà trung tá không hôn
tôi, hoặc ngược lại. Cũng may mà đêm nay không có Fanfani… - Soroyan
cười hồn nhiên.
- Tôi chỉ cảm thấy bà và anh Luân tôi nhảy rất đẹp!
– Dung không chịu kém – Nếu các bạn hôn nhau, tôi xin được chia sung
sướng… Nói thế thôi, anh Luân tôi xấu trai lắm!
- Bà nói sai! – Soroyan reo – Bà mà bỏ trung tá, tôi lấy ngay!
Dung lay Luân:
- Thế nào, anh Luân?
Luân chưa hề đùa kiểu đó bao giờ, tai anh nóng bừng bừng, trong lúc Soroyan vẫn chưa buông tha anh:
- Nhảy đẹp đôi chứ! Bà đồng ý nhường trung tá cho tôi không?
- Nếu cả hai người tình nguyện, tôi chẳng những không phản đối mà còn hoan nghênh!
James Casey chực hờ từ bao giờ, bỏ cô vũ nữ giữa sân nhảy, phăm phăm đến trước Dung:
- Xin mời bà trung tá! Xin phép trung tá…
Dung dứt cười, vẻ tinh nghịch tan biến, uể oải đứng lên:
- Tôi không được khoẻ, xin tiếp trung tá James Casey một bài ngắn thôi.
- Đúng đấy! – Soroyan bảo.
-
Bà trung tá theo nếp phụ nữ châu Á chặt chẽ quá! – Soroyan bình luận
khi James Casey dìu Dung ra sàn, cô giữ khoảng cách với hắn và không rời
khu trung tâm, nơi ánh đèn sáng hơn mọi nơi.
“Tội nghiệp Dung. Đối với cô đấy là cực hình…”. Luân liếc vợ, chia xẻ.
-
Bà trung tá ra sân nổi bật như hoàng hậu của buổi dạ vũ. – Soroyan khen
– Ông hạnh phúc lắm. Tôi rất thích ông vì ông yêu vợ. Giá mà tôi được
như Dung…
Soroyan không thể biết Dung khổ sở như thế nào trong
những buổi tập khiêu vũ - ở trường của Bộ nội vụ trước kia và ở nhà sau
này; hai vợ chồng học động tác nhảy theo sách…
- Bà có thấy mọi người đàn ông ghen với tôi không? – James Casey tán.
Dung không trả lời, trông cho bài nhạc mau hết. Cô thở phào rời sân nhảy, James Casey trả Dung về chỗ.
- Bà thật quá dè xẻn với tôi… Liệu còn dịp nào tôi được tiếp bà nữa không?
Dung lặng lẽ sà cạnh Luân.
- Ông không cho bà Luân nhảy bấy nhiêu với ông là một đặc ân sao? – Soroyan gỡ cho Dung.
- Thế, tôi xin bà Fishel cho tôi một đặc ân thứ hai. – James Casey chìa tay cho Soroyan.
- Tôi có thể nhảy với ông cho tới sáng, nhưng, ông xem kia, ông Nhu sắp chúc chúng ta ngủ ngon…
Buổi
dạ vũ kết thúc vào nửa đêm. Nhu nói mấy lời cảm ơn. Nolting xin phép
đưa Lệ Xuân sang phía trái dinh Độc Lập, nơi ở của gia đình Nhu. Vừa lọt
vào hành lang, Nolting đã thầm thì:
- Nhớ nhé, cuối tuần, Nha Trang, Olivia không đi…
-
Ngài đại sứ biết em không từ chối bất kỳ một đòi hỏi nào của ngài. Em
yêu ngài. – Lệ Xuân dán sát người vào Nolting – Song nhiều việc khiến em
không vui…
- Ví dụ?
- Trước hết, dư luận về chúng ta. Kế đó,
gia đình chúng em bỗng trở thành đối tượng đả kích của dư luận báo chí
Mỹ, họ đánh chúng em còn hung hăng hơn đánh Cộng sản…
- Ô, bọn báo chí! Để ý làm gì! Tổng thống Mỹ cam kết ủng hộ Tổng thống Diệm. Vả lại…
Đến đúng lối rẽ vào phòng của Lệ Xuân, Notlting hôn Lệ Xuân.
- Em không thể mời anh vào phòng em lúc này... Anh đừng giận nhé…
Nolting thô bạo, ghì Lệ Xuân thật mạnh. Trong một thoáng, Lệ Xuân nhận thấy đôi mắt Nolting lóe một tia kỳ dị.
- Cuối tuần, Nha Trang…
Nolting
rời Lệ Xuân. Gã nuối tiếc – Lệ Xuân khó hiểu nổi nguyên nhân đích thật
của sự nuối tiếc kia… Mụ đinh ninh gã đại sứ thèm mà không thỏa mãn.
Ngoài thềm, Soroyan bắt tay Luân và nhân lúc Nhu và Fishel đang tỉ tê, bà nói thật nhanh vào tai Luân:
- Bất kể như thế nào, sáng mai, ông cũng không được đến đây trước 8 giờ… Ông nhớ!
*
Tin của Reuter:
Sài
Gòn bàng hoàng vì những tiếng nổ lớn. Hai chiếc máy bay ném bom AD6 ném
bom và bắn phá dinh Độc Lập từ lúc tờ mờ sáng. Nhiều cột khói bốc cao.
Chưa rõ số phận của Tổng thống Diệm.
Tin của AFP:
Một lần nữa,
quân đội can thiệp vào chính trị ở Sài Gòn. Hai chiếc máy bay chiến đấu
Skyraider, vừa được Mỹ trang bị cho quân đội Nam Việt đã ném bom và bắn
phá dữ dội dinh Độc Lập, nơi tượng trưng quyền uy của chế độ Tổng thống
Ngô Đình Diệm. Hình như không có bộ binh can thiệp. Khu vực trung tâm
thành phố bị cô lập. Dư luận đồn đãi Tổng thống Ngô Đình Diệm thiệt
mạng…
Tin của Hãng thông tấn Trung ương Đài Bắc:
Một trận oanh
kích xảy ra sáng nay ở Sài Gòn nhằm vào dinh Độc Lập. Một phi cơ phản
loạn bị bắn rơi. Thiệt hại không đáng kể. Tổng thống Diệm an toàn. Thống
chế Tưởng Giới Thạch đã nhân danh Trung Hoa Dân quốc gửi điện cho Tổng
thống Diệm…
Tin của AP:
Dinh Độc Lập giữa trung tâm Sài Gòn bị
hai phi cơ chưa rõ xuất xứ ném bom và bắn phá từ 7 giờ 15 đến 7 giờ 25,
giờ Sài Gòn. Bốn quả bom rơi vào cánh trái dinh Độc Lập, nơi ngụ của
gia đình ông bà Ngô Đình Nhu, bào đệ của Tổng thống Diệm. Cánh trái đó
sụp đổ hẳn. Cao xạ của Hải quân đã hạ một trong hai phi cơ, tại Nhà Bè,
ngoại ô phía nam thành phố vào lúc 7 giờ 35. Viên đại úy phi công tên là
Phạm Phú Quốc, nhảy dù, bị bắt sống. Phái viên bản hãng quan sát tại
chỗ: căn lầu tư thất của ông bà Nhu và văn phòng của bộ trưởng Nguyễn
Đình Thuần cháy dữ dội. Bà Ngô Đình Nhu bị thương nặng.
Thông báo của Phủ tổng thống:
Đài
Sài Gòn phát vào 10 giờ sáng: Sáng nay, hai phi cơ chiến đấu AD6 do hai
sĩ quan phi công Phan Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử lái, đã ném bom dinh
Độc Lập vào hồi 7 giờ 15. Bom gây một số thiệt hại vật chất. Hai nhân
viên phục dịch Phủ tổng thống mà một là phụ nữ, thiệt mạng. Tổng thống
và gia đình an toàn. Lực lượng bảo vệ Phủ tổng thống và Hải quân đóng
trên bến Bạch Đằng đã can thiệp kịp thời, đánh đuổi bọn phản nghịch. Một
trong hai phi cơ bị bắn rơi tại Nhà Bè, tên Phạm Phú Quốc, lái phi cơ
bị bắt sống. Chiếc kia bay sang Cambốt, hạ cánh vào 8 giờ 50 tại phi
trường Pochengtong. Bộ ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã mời đại diện
Cambốt đến trao công hàm chính thức yêu cầu trao trả phi cơ và tên
Nguyễn Văn Cử. Dư luận ghi nhận cả hai tên phi công thuộc đảng Đại Việt
và được đào tạo tại Trường không quân Carolina.
Phủ tổng thống kêu gọi dân chúng bình tĩnh. Bọn phản loạn tay sai ngoại bang và Cộng sản nhất định sẽ bị trừng trị đích đáng.
Nhật
lệnh của đại tướng Tổng tham mưu trưởng có đoạn viết: Hành vi đơn độc
của hai tên phản loạn chỉ khiến cho tướng lĩnh và sĩ quan Việt Nam Cộng
hòa càng siết chặt hàng ngũ quang Ngô Tổng thống…
Bức tâm thư của
đại úy Nguyễn Cao Kỳ, do Đài quân đội phát và do đại úy đọc có đoạn:
Nhân danh lực lượng không quân, tôi cực lực lên án hành động bỉ ổi của
hai tên lạc ngũ Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử. Đó là những tên “ăn cơm
Quốc gia thờ ma Cộng sản”, chúng cần phải được nghiêm trị. Trong giờ
phút trọng đại của đất nước, âm mưu ám hại Tổng thống, vị lãnh tụ anh
minh của dân tộc, đồng nghĩa với sự quỳ gối dâng miền Nam tự do cho Cộng
sản…
Cái đáng tức cười hơn cả là báo chí Sài Gòn phát hành buổi
sáng 27-2 đăng tin và tường thuật đêm dạ vũ trong dinh Độc Lập, kèm
nhiều ảnh. Riêng các tờ “Cách mạng quốc gia”, “Ngôn Luận”, “Tự Do” in
ảnh Diệm và Nolting chạm cốc, bài nói của cả hai. Việt tấn xã viết một
xã luận, nhan đề: Không khí đầm ấm Việt Mỹ, một cái tát vào bọn chia rẽ
khối đoàn kết thân hữu vững chắc. Tờ Tiền Tuyến đề tựa cho bài bình
luận: Bọn tung tin đảo chính, hãy coi đây! Dưới bài, ảnh Nolting và Lệ
Xuân, Nhu và Olivia đang lả lướt…
*
Điện thoại reo. Trần Lệ Xuân bị một mảnh gạch chém nhẹ vào má, cầm ống nghe.
- Nolting đây… Việc gì đã xảy ra? Ai ở đầu dây đó? Tổng thống Diệm, ông Nhu, bà Nhu như thế nào? Tôi sẽ đến ngay.
- Nolting gọi! – Lệ Xuân che ống nói bảo Nhu.
Nhu trong bộ áo ngủ xộc xệch, cau mày.
- Em trả lời nhé? – Lệ Xuân hỏi… Nhu gật đầu.
- Alô... Tôi, madame Nhu đây…
- Hoan hô… - Nolting gào trong máy.
- Rất tiếc, thưa đại sứ, tất cả chúng tôi đều bình yên…
Lệ Xuân gác máy, mạnh tay.
Ngày
28, Bộ ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố: Tình hình Nam Việt rất vững. Tổng
thống Kennedy gửi điện chúc mừng Tổng thống Diệm thoát nạn, lên án
“những tên Cộng sản” phá hoại…
Ngô Trọng Hiếu và Trương Công Cừu
kiến nghị tổ chức cuộc mittinh phản đối bọn Thức – Phong – Cộng. Nhu trả
lời: Dẹp! Tốn tiền vô ích.
Ngày 4-3, lễ Không quân nhất trí tại
bến Bạch Đằng. Tổng thống Diệm ngồi sát đại sứ Nolting xem các kiểu phi
cơ nhào lộn, trong lúc các tàu hải quân chĩa cao xạ tua tủa.
Cùng
ngày, Trần lệ Xuân đáp máy bay sang Nhật: vết thương trên má cần được
các chuyên gia thẩm mỹ xử lý. Chỉ có Ngô Đình Nhu và các con tiễn Lệ
Xuân.
… Cuộc điều tra cấp tốc do Trần Kim Tuyến tiến hành cho biết:
7 giờ 10 phút sáng, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử được
lệnh xuất kích can thiệp ở vùng Đức Hòa – một toán Việt Cộng không rõ
quân số tấn công một đồn Bảo an. Khi hai máy bay AD6 rời phi đạo, lấy
vòng bay khác thường. Đài chỉ huy cảnh cáo phi công: máy bay mang bom,
không được vượt ngang thành phố. Từ độ cao 3.000 mét ở phía Nhà Bè,
tránh ánh mặt trời vừa nhô, hai máy bay nối tiếp nhau lao xuống dinh Độc
Lập, nhả liền mỗi chiếc hai quả bom loại sát thương, cân nặng mỗi quả
100 cân Anh… Bom rơi khá chính xác. Lấy bựng khói làm điểm, máy bay lao
lần thứ hai, xả tiểu pháo 20 ly kỳ hết đạn. Chiếc do Cử lái cất đầu lên
và bay thẳng về phía tây. Chiếc do Quốc lái vì tránh cao xạ của Hải
quân, bay chệch về phía Nhà Bè và trúng đạn. Quốc nhảy dù, rơi xuống
vùng Tân Thuận… Quốc không chống cự khi bị lực lượng an ninh bao vây.
Nhu
gọi cả Bộ tư lệnh không quân đến Sở mật vụ, đích thân hỏi cung: Có đúng
là hai phi công cần phải xuất kích can thiệp một đồn bị tấn công không?
Tại sao hai phi công phản loạn lại có thể cùng bay một lượt? Tại sao
chọn rạng sáng ngày 27 là ngày dinh Độc Lập dậy muộn sau đêm dạ vũ?
Những cuộc bắt bớ âm thầm nhưng ráo riết lan ra ngoài binh chủng không quân. Số tình nghi Đại Việt đều bị câu lưu.
“Sau
Dù và Không quân, đến lượt binh chủng nào trở mặt?”. Nhà báo Fanfani
đặt câu hỏi. Đó cũng là câu hỏi của Nhu – và cũng là của Nguyễn Thành
Luân.
*
Khi những tiếng bom rung chuyển đập mạnh vào kính cửa sổ, Luân vọt ra khỏi nhà. Anh linh tính là sự cố đang đến.
- Đúng như bà Soroyan nói với anh. – Dung bảo.
Thạch trèo lên ngọn cây trước nhà:
- Dinh Độc Lập “bị” rồi!
Hai chiếc Skyraider lao xuống lần thứ hai, tiếng rít rờn rợn.
- Công trình của Fishel… - Luân và Dung ngó nhau.
Luân
chưa đoán tình thế sẽ đi đến đâu và cũng chưa biết việc nên làm trước
mắt là gì thì pháo cao xạ nổ dữ dội. Trên đường phố, tiếng xe chữa lửa
réo liên hồi – chứ không phải xe tăng.
- Một máy bay trúng đạn, bốc cháy… Phi công nhảy dù… - Thạch tiếp tục thông báo.
- Chắc chỉ có bấy nhiêu thôi… - Luân bảo Dung, thất vọng. Anh quay điện thoại. Dinh Độc Lập trả lời…
- Một lời cảnh cáo nữa… - Dung nhận xét.
- Có thể, lần cảnh cáo sau cùng…
Luân chợt nhớ đến Mai. Nhưng, nhiệm vụ không cho phép anh mạo hiểm gặp Mai. Nơi anh phải có mặt là dinh Độc Lập.
Luân
vấn an Tổng thống và giám mục. Cả hai đã chuyển sang dinh Gia Long. Mặt
cả hai tái mét, có thể không vì sợ những quả bom phản bội vừa rồi mà sợ
những bất trắc khôn lường trong những ngày sẽ tới.
Nhu lạnh lùng nhìn Luân.
- Thế đấy! CIA! – Nhu rít qua khẽ răng. Chỉ có mấy mươi phút, Nhu như già thêm hàng chục tuổi.
Rồi Nhu lên xe, đến chỗ bác sĩ Tuyến. Trông bàn tay anh ta run run mở cửa xe; Luân biết bầy cọp ở Sở thú sẽ được no nê.
Buổi
chiều, Dung từ Tổng nha cảnh sát về cho biết: Phạm Phú Quốc, sau 15
phút hỏi cung, đã khai tuốt luốt. Vũ Liệu chạy trốn song không thoát –
ông ta bị Mai Hữu Xuân bắt trên đường ra miền Trung. Trong danh sách
những kẻ trọng phạm, có Mai và người chú của cô, lao công Sở thú.
Luân
không ngại một chút nào Mai khai cho anh. Song, anh thấy không thể nào
cứu Mai nổi. Mai sẽ chết thôi, chết cực kỳ đau đớn như người chồng.
*
Đầu
tháng 4, Luân được lệnh của Tổng thống đi tu nghiệp ở Trường tham mưu
sĩ quan cao cấp tại Fort Brag, Hoa Kỳ. Thời hạn là một năm. Dung cũng
được tu nghiệp ở Học viện cảnh sát Bắc Caroline. Đồng thời với lệnh đó,
Luân được thăng hàm đại tá và Dung, trung úy.
Họ thu xếp để Thạch vào Trường cảnh sát Quốc gia, khóa đào tạo sĩ quan, mở ở Chợ Nhỏ, Thủ Đức.
Báo chí đưa tin về Luân xuất ngoại. Như vậy, anh Sáu Đăng, A.07 và Sa sẽ biết…
Tổng thống, giám mục và vợ chồng Nhu tiễn họ bằng một bữa cơm gia đình. Đó là bữa cơm mà những người dự ít nói nhất.
- Tôi mong anh, sau khi tốt nghiệp, về ngay… - Nhu bắt tay Luân thật chặt.
-
Nếu tướng Harkins không làm áp lực đến mức chỉ định đích danh anh, tôi
không chịu nhả anh trong lúc này đâu… Thôi, đằng nào cũng phải qua một
khóa – cái nhãn bắt buộc các sĩ quan và tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa.
Luân định từ giả số bạn bè như Nguyễn Thành Động, đại tá Lâm, Lê Khánh Nghĩa… song thấy không có lợi.
Đại
tá Đặng Văn Quang đưa vợ chồng Luân ra tận cầu thang máy. Đưa vợ chồng
Luân còn có Fanfani, James Casey và một thiếu tướng thay mặt cho
Harkins. James Casey cho hay hè này hắn về Mỹ và sẽ tìm thăm Luân và
Dung… Fanfani đùa: Có thể tôi về Mỹ vì bị trúc xuất!
Soroyan điện thoại cho Luân trước đó: hẹn gặp ở Mỹ.
Chiếc Boeing nghiên cánh, quay ra biển cả.
- Một năm tái ngộ! – Luân vẫy thành phố Sài Gòn đang chói chang nắng.
- Một năm! Bao nhiêu biến đổi!
Dung chép miệng.
Qua
ô cửa máy bay, dinh Độc Lập tàn phá đang bị đập nốt phần còn sót. Sơ đồ
xây lại dinh đã thông qua. Lần này, chính Tổng thống Diệm chỉ đạo, dinh
Độc Lập sẽ kiến trúc theo các quẻ của Kinh Dịch, mặc dù người thiết kế
là một Tây học – Ngô Viết Thụ.
---
(1) Gái nhảy.
(2) Vũ khúc trong bóng mờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét