Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

Ván bài lật ngửa - Phần 7

PHẦN 7

CHƯƠNG 1

Thông báo của Bộ nội vụ:
Sáng 8-5-1963, nhân cuộc rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm, nhiều biểu ngữ được giương lên chống đối chính phủ. Ngay tại Từ Đàm, chỗ tập trung hành lễ, các biểu ngữ ấy được nhà sư tên Trí Quang đọc lớn qua máy phóng thanh và giải thích một cách xuyên tạc đường lối của Việt Nam Cộng hòa. Nhiều đại diện chính quyền có mặt nhưng vẫn bình tĩnh và nhờ đó, cuộc lễ được cử hành đến kết thúc, không có việc gì đáng tiếc xảy ra. Tối lại, theo dự kiến của chương trình đã phân phát rộng rãi và đã phát thanh thì phải có cuộc múa hoa tại chùa Từ Đàm nhưng không biết vì lẽ gì, chương trình đó bị Ban tổ chức lễ Phật đản hủy bỏ. Vài trăm người kéo xuống Đài vô tuyến Huế để nghe phát thanh, nhưng buổi phát thanh này bãi bỏ vì Ban giám đốc Đài vô tuyến Huế cho rằng nếu phát cuốn băng ghi âm cuộc tập họp buổi sáng ở chùa Từ Đàm thì có phương hại đến an ninh quốc gia. Một cuộc cãi vã xảy ra giữa ông Giám đốc Đài vô tuyến Huế với một số người háo thắng. Ngay lúc đó, nhà sư Trí Quang và ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên đến, tiếp theo là ông Phó tỉnh trưởng nội an và Ban an ninh nhằm dàn xếp ổn thỏa sự tranh chấp. Trong khi các vị này đang nói chuyện trước cổng Đài vô tuyến thì ông Phó tỉnh trưởng bị liệng cục đá làm móp chiếc nón sắt nhà binh của ông. Ông Phó tỉnh trưởng ra lệnh xịt nước giải tán đám đông song vô hiệu. Để bảo đảm an toàn cho Đài vô tuyến và cho các quan chức cùng nhà sư Trí Quang, ông Phó tỉnh trưởng ra lệnh ném lựu đạn cay nhằm giải tán đám đông, bấy giờ bị những phần tử Cộng sản xúi giục đang hò hết những khẩu hiệu bôi lọ chế độ tự do của Việt Nam Cộng hòa và xúc phạm cả đến vị lãnh tụ anh minh của dân tộc Ngô Tổng thống. Bỗng hai tiếng nổ lớn phát ra, rõ ràng là do bọn Cộng sản thực hiện, làm nhiều người chết và bị thương. Hai lỗ thủng dưới dưới đất do tiếng nổ đào xới là bằng chứng mà các chuyên viên đều kết luận đó là loại plaxtic MK chỉ Cộng sản mới có chứ quân đội quốc gia chưa từng sử dụng bao giờ. Còn tin đồn rằng Ban an ninh đã cho xe thiết giáp, tăng cán người, đó là sự vu khống bỉ ổi mà tác giả không ai khác là Cộng sản và các phần tử bất mãn, tay sai của thực dân và phong kiến. Xe tăng hay xe bọc thép không thể nào leo lên cổng Đài vô tuyến Huế vì đài nằm trên ngọn đồi cao, phai vượt qua nhiều bậc tam cấp.
Cơ quan an ninh chính phủ đang ráo riết truy tầm thủ phạm và chắc chắn trong một ngày không xa, sẽ đem bọn người ấy ra trước pháp luật để bắt chúng phải đền tội.
Sài Gòn ngày 10 tháng 5 năm 1963
Bộ trưởng Bộ nội vụ VNCH
BÙI VĂN LƯƠNG
Báo cáo tuyệt mật của Chi cục Trung ương tình báo Mỹ:
1. 13 giờ ngày 6-5-1963 tức theo lịch Trung Quốc là 13-4, viên Tỉnh trưởng Thừa Thiên đến chùa Từ Đàm ở cố đô Huế gặp nhà sư Trí Quang, chuyển mật lệnh của Ngô Đình Cẩn, em ruột của tổng thống Diệm và là người đầy quyền lực ở phần phía Bắc của Việt Nam Cộng hòa. Ông Cẩn ra lệnh cho những người theo đạo Phật không được treo cờ Phật nhân lễ Phật đản lần thứ 2.507. (Theo nghi thức Phật giáo ngày này tương ứng với ngày Noel). Viên tỉnh trưởng Thừa Thiên yêu cầu nhà sư Trí Quang ký vào một thông cáo nhân danh Phật giáo về vấn đề nói trên. Nhà sư Trí Quang đề nghị viên tỉnh trưởng giải thích lý do của yêu cầu đó. Viên tỉnh trưởng trả lời rằng chính mình cũng không rõ nhưng vẫn kiên quyết yêu cầu nhà sư thực hiện. Nhà sư Trí Quang cho rằng ông không đủ thẩm quyền ra một thông cáo như vậy.
2. 20 giờ 30 ngày 6-5, tỉnh trưởng Thừa Thiên chuyển công điện của tổng thống Ngô Đình Diệm cho nhà sư Trí Quang. Công điện mang số 9.159 gởi từ Sài Gòn vào hồi 15 giờ ngày 6-5 và nhận được ở Huế cùng ngày vào 16 giờ. Toàn văn bức điện mà bản sao của Tỉnh trưởng Thừa Thiên mang số 40/TT/HC/PT kèm chữ ký của Tỉnh trưởng:
“Đổng lý văn phòng Phủ Tổng thống điện quí ông Tỉnh trưởng. Văn phòng Phủ Tổng thống trân trọng chuyển đến quí ông chỉ thị sau đây của Tổng thống:
Ra chỉ thị cho các cơ quan phụng sự bất kỳ tôn giáo nào, trên các cơ sở phụng tự (nhà thờ, chùa chiền v.v…) chỉ treo cờ quốc gia mà thôi. Chính phủ đã hỏi các tổ chức tôn giáo, họ đều đồng ý là công dân trong một nước chỉ treo cờ quốc gia. Sự treo cờ ảnh phía trong thì tùy nghi (thường thì treo ảnh, có dán ảnh như bức vải lá cờ, ở các nước dẫu phía trong nơi phụng tự người ta cũng treo cờ quốc gia). Lúc trước vì tránh treo cờ đỏ sao vàng Việt Minh hay cờ tam tài của Pháp thì có những tôn giáo treo cờ hiệu tôn giáo. Nay nước nhà đã độc lập nên chỉ treo cờ quốc gia, các tư gia cũng vậy. Nay chỉ thị”.
3. Trong đêm hôm đó, từ 21 giờ đến gần sáng, Phật giáo họp tại chùa Từ Đàm do Tổng hội chủ Thích Tịnh Khiết, một cao tăng được các nhà sư và Phật tử trọng vọng như lãnh tự tinh thần tối cao, chủ tọa.
Người thuyết trình là nhà sư Trí Quang. Tổng hội chủ muốn đi đến một giải pháp ôn hòa nhưng nhiều thành viên tham dự hội nghị không đồng ý. Một số chủ trương Phật giáo tuyên bố không tổ chức lễ Phật đản năm nay để phản đối. Số khác, đông hơn, quyết định phản kích quyết liệt. Nhà sư Trí Quang được phân công thảo bức điện khẩn gởi Phật giáo thế giới: Cờ Phật giáo đã bị cấm treo ở các chùa Phật ngay trong ngày Phật đản quốc tế. Yêu cầu can thiệp với chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
Cũng nhà sư này thảo bức điện gởi Ngô Đình Diệm: “Phật giáo rất xúc động về công điện 9.159 cấm treo cờ Phật trong ngày lễ Phật đản quốc tế. Chúng tôi không tin rằng quyết định đó có xuất phát từ ý kiến của Tổng thống. Thỉnh cầu Tổng thống ra lịnh điều tra và thu hồi công lịnh nói trên. Trân trọng”.
Một bức điện khác, đúng hơn là một thông tư gửi các tập đoàn Phật giáo Việt Nam: Cờ Phật giáo bị triệt hạ bởi công điện của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Các tập đoàn sẵn sàng chờ lệnh.
Cả ba bức điện đều mang tên Tổng hội chủ Thích Tịnh Khiết.
4. Nhà cầm quyền ở Huế quyết định không chuyển ba bức điện nói trên và vào 9 giờ sáng ngày 7-5, tỉnh trưởng Thừa Thiên mời nhà sư Trí Quang và một số nhà sư khác đến tư dinh của Ngô Đình Cẩn để gặp Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương và tỉnh trưởng Thừa Thiên. Cuộc trao đổi nhanh chóng thu kết quả. Bộ trưởng Nội vụ sẽ bay về Sài Gòn yêu cầu Tổng thống thu hồi quyết định 9.159. Tại đây, Ngô Đình Cẩn đã nói một câu hay nhất trong đời ông: “Tôi xin đoan chắc rằng, một trò Ơn chết làm chết cả một chính phủ, huống chi cờ của một tôn giáo lớn bị hạ ngang ngược như thế”.
5. 14 giờ ngày 7-5-1963, hàng nghìn người theo đạo Phật đến chùa Từ Đàm là nơi coi như tổng hành dinh của Phật giáo miền Trung báo tin toàn bộ cờ Phật bị triệt hạ bởi những đoàn cảnh sát hung hăng, chẳng những triệt hạ mà còn xé nát vứt xuống đường, đánh đập, dọa dẫm tín đồ. Những chiếc đèn lồng có dấu hiệu hoa sen cũng chung số phận với như cờ Phật giáo. Vào 17 giờ, tại chùa Từ Đàm người ta đã có thể kết luận rằng chiến dịch khủng bố Phật giáo không chỉ ở Huế mà khắp Trung phần, thậm chí rộng hơn nữa. Tại hai con đường chính của thành phố Huế là Trần Hưng Đạo và Phan Bội Châu, tình trạng không thể nào mô tả khác hơn là chế độ của Tống thổng Diệm hay ít nhất cũng là chính quyền Thừa Thiên đã sử dung vũ lực kể cả súng, để hạ những ngọn cờ Phật.
6. Từ 18 giờ trở đi, chùa Từ Đàm bị bao vây bằng bộ binh, quanh cảnh và thiết giáp. Bốn chiếc xe bọc thép vượt sườn đồi, húc đổ cổng tường nhà chùa. Nhưng quân lực chỉ làm đến mức đó.
7. Tất cả trở nên bi đát thật sự và vô phương cứu chữa từ 6 giờ sáng 8-5, địa điểm bùng nổ lại không phải là ngôi chùa mà trước cổng Đài phát thanh Huế. Lấy cớ bảo vệ Đài phát thanh, Phó tỉnh trưởng nội an Thừa Thiên, thiếu tá Đặng Sỹ đã ra lệnh ném lựu đạn cay, bắn súng và sử dụng luôn chất nổ. Có tất cả 44 người chết tại trận, tới 33 người bị thương. Đây là một sự kiện nghiêm trọng chưa từng có.
Ghi chú của Helen Fanfani, phóng viên tờ Financial Affairs:
Toàn văn cái gọi là “báo cáo tối mật” của Chi cục tình báo Mỹ lại được in ronéo, dịch ra nhiều thứ tiếng và tôi gửi về cho ban biên tập có thể đã chậm so với các hãng thông tấn khác.
Thông cáo của Tổng nha Thông tin:
Về việc lộn xộn nhỏ xảy ra tại Huế đã bị nhiều hãng thông tấn nước ngoài xuyên tạc. Tổng nha Thông tin được phép trình bày sự thật: Vì một hiểu lầm đáng tiếc nhân viên công lực và một số tín đồ Phật giáo có va chạm nhỏ. Lợi dụng tình hình, Việt Cộng tung lựu đạn làm chết 7 người và bị thương 6 người. Phương tiện duy nhất mà cơ quan an ninh sử dụng để vãn hồi trật tự và ngăn ngừa Cộng sản chỉ là vòi xịt nước, loại thường, vòi cỡ 2 phân không có khả năng gây thương tích cho bất kỳ người nào. Hiện nay, tình hình đã yên tĩnh. Dân chúng rất phẫn uất về việc Việt Cộng lợi dụng lễ Phật đản để tàn sát, quấy rồi và chia rẽ đồng bào với chính phủ.
Sài Gòn ngày 9 tháng 5 năm 1963
Tổng giám đốc Tổng nha Thông tin
PHAN VĂN TẠO
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa nói chuyện với đồng bào ở Huế:
“Đồng bào ở Huế,
Sau một thời gian để cho các gia đình thiêng liêng và các cán bộ công cũng như tư, tự nhận định đường lối chính nghĩa về những điều kiện thiết yếu cho sự bảo vệ chính nghĩa chung cũng như chính nghĩa riêng của mình, nhất là trong giai đoạn sống còn này của dân tộc, mà tự giải quyết lấy những sự hiểu lầm về vấn đề treo quốc kỳ và những sự thi hành lệch lạc đường lối quốc gia do một số cán bộ công cũng như cán bộ tư.
Tôi rất buồn khi nhận thấy đồng bào và nhất là cán bộ công, tư hãy còn chưa đủ thấm nhuần đường lối của dân tộc, nên tôi kêu gọi đồng bào hãy tự động nhận thức nhiệm vụ bảo vệ lấy an ninh công cộng triệt để tuân hành kỷ luật quốc gia, học tập chính chắn mọi vấn đề trên lâp trường lương tri và chính nghĩa quốc gia, để tôi giải quyết vấn đề cho đúng với đường lối đấu tranh của dân tộc”.
Cuộc họp báo của cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu
(Ghi chép của phóng viên Helen Fanfani, báo Mỹ Financial Affairs).
Sáng nay, 10-5, vào 8 giờ, giờ địa phương tại dinh Độc Lập, cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu mở cuộc họp báo, dĩ nhiên quanh tình hình sôi động mấy hôm nay liên quan đến “vụ Phật giáo”. Tôi đặt vụ Phật giáo trong ngoặc kép bởi vì như những gì sẽ chứng minh dưới đây, trong các câu hỏi và câu trả lời của cuộc họp báo cho phép người ta liên tưởng đến một phạm vi chính trị rộng lớn hơn nhiều lần sự bất đồng về các nghi thức tôn giáo trong khuôn khổ luật lệ hiện hành ở Việt Nam Cộng hòa.
Có lẽ đây là lần đầu tiên ở Sài Gòn mà các nhà báo Việt Nam và ngoại quốc đến dự cuộc họp báo đông đúc nhất mà cũng háo hức nhất, một số không ít từ Mỹ, Pháp, Tây Đức, Nhật, Úc, Hongkong, Bangkok vừa xuống sân bay Tân Sơn Nhứt đã chạy một mạch vào dinh Độc Lập. Ông Ngô Đình Nhu mặt áo complet màu tro, đầu chải rẽ, thắt cà vạt xanh sậm, bề ngoài thật tươi tỉnh hiếm có đối với người luôn luôn trầm tư. Ông muốn tạo cảm giác cho các nhà báo là chế độ vẫn nắm chắc tình thế. Tổng giám đốc thông tin Phan Văn Tạo, ít tiếng tăm, lặng lẽ ngồi cạnh cố vấn và thủ vai người đệm đàn - không phải một người đệm đàn sành nghề nghiệp.
Không nghi thức, không đọc thông báo trước, cố vấn Ngô Đình Nhu đi ngay vào thực chất của cuộc gặp mắt giới báo chí:
Tình hình một tuần lễ này đã được các bạn theo dõi chăm chú, tôi nghĩ như vậy – ông nói, mắt ngó thẳng chúng tôi đầy tự tin. Các luồng thông tin không nhất thiết phù hợp nhau. Tôi không cho điều đó là không bình thường. Tuy nhiên, hôm nay, tôi muốn cùng các bạn nhìn sự việc với đôi mắt khách quan. Chúng ta là những người trong trận tuyến tự do. Cơ sở đó sẽ giúp chúng ta dễ dàng cùng nhau thông cảm. Tôi đề nghị các bạn nêu câu hỏi và tôi sẽ trả lời và trả lời ngay từng câu hỏi. Tôi muốn cuộc họp báo không bị bất kỳ một gò bó nào. Chúng ta có thể gọi hôm nay là buổi trao đổi, cùng thỏa đáng. Xin mời…
Ông Nhu châm lửa vào điếu thuốc và tôi lưu ý, chiếc gạc tàn pha lê lớn sạch bóng đã đầy tàn thuốc lá sau cuộc họp báo: ông Nhu hút có lẽ đến 40 điếu trong vòng 2 giờ…
PHÓNG VIÊN ASAHI: Theo thông báo chính thức, sự việc bùng nổ ở Huế vào ngày 8-5. Song, chính tôi có mặt ở Huế, sự việc bắt đầu từ 24 giờ ngày 2-5, nghĩa là khi giới Phật giáo sửa soạn lễ Phật đản thường lệ của họ. Cuộc đàn áp diễn ra khi đám đông dân - hôm đó là ngày chủ nhật và trước lễ Phật đản đúng một tuần – bị cảnh sát chận không cho vượt cầu Nguyễn Hoàng. Các nguồn tin của chính phủ cho biết - tất nhiên mãi về sau này mới cho biết – số dân lối 300 và có 54 người bị thương, không ai bị thương nặng, tất cả đã về nhà, không ai bị bắt… Con số dân, với chính ống kính của tôi ghi nhận, nhiều hơn nguồn tin của chính phủ hơn 10 lần, con số bị thương hơn 5 lần, bị thương nặng như bị cảnh sát bẻ gãy tay, đánh gãy chân gồm 16 người và ít nhất 6 người đã chết ngay tại chỗ, hoặc khi đến bệnh viện. Tôi không rõ số chết, khi về nhà. Còn số bị giam, như dư luận, chính là con số của 6 ni cô và 10 nhà sư… Tôi xin nêu lên ba câu hỏi:
Một: Lệnh cấm treo cờ phải chăng đã được dự kiến trước? Hay nó là kết quả của sự việc ngày 2-5?
Hai: Vì sao nhà cầm quyền Huế hành động như vậy?
Ba: Vì sao chính phủ Trung ương không thi hành một biện pháp nào trừng phạt các lực lượng vô cớ đàn áp đám đông và chỉ có biện pháp tiếp sau tức là lệnh số 9.159 ngày 6-5?
NHU: Không hề có lệnh cấm treo cờ Phật giáo. Chỉ có lệnh, như mọi quốc gia khác, nơi công cộng không một lá cờ nào được thay quốc kỳ như Dụ số 10 của Tổng thống quy định. Công chức Thừa Thiên hành động không có ý kiến của Trung ương. Ta hiểu Huế ở gần vĩ tuyến 17, nhà cầm quyền tại đây e ngại sự đột nhập của Cộng sản, điều không phải là viễn vông. Tuy vậy, họ đều bị kỷ luật, do qua nhiệt tình và không đủ khôn khéo, cũng không loại trừ một ít ai đó bị giật dây.
ASAHI: Cho phép tôi hỏi thêm ba câu: Một, tại sao Dụ số 10 không áp dụng với đạo Thiên Chúa? Chính ống kính của tôi ghi nhiều cuộc rước lớn theo nghi thức đạo Thiên Chúa tại Huế nhân Noel, cách lễ Phật đản chưa được 5 tháng. Đó là chưa kể cuộc rước lễ từ La Vang về Huế, lễ rước Trà Kiệu? Hai, theo chúng tôi biết, thiếu tá Đặng Sỹ bị bãi chức sau lễ Phật đản chứ không phải sau ngày 2-5. Ba, có thể xem ý kiến của ông Ngô Đình Cẩn là Trung ương không?
NHU: Tổng giám mục địa phận Sài Gòn đã ra thông báo: chỉ treo cờ đạo bên trong các nhà thờ, tu viện…
ASAHI: Xin lỗi, đó là thông báo mới đây thôi và cũng ở địa phận Sài Gòn thôi…
NHU: Nhưng, ông thấy đấy, chúng tôi không kỳ thị tôn giáo. Chúng tôi thi hành kỷ luật nhiều sĩ quan cảnh sát Huế ngay ngày 3-5. Tất nhiên, xin ông hiểu, không phải bất kỳ kỷ luật nội bộ nào của chúng tôi đều công bố cả. Có lẽ mọi chính phủ đều làm như vậy, nhất là với ngành nội chính. Còn câu hỏi thứ ba của ông, tôi nhắc lại, đại biểu của chính phủ tại Trung nguyên Trung phần của Việt Nam Cộng hòa hiện nay là ông Nguyễn Xuân Khương.
ASAHI: Ông cố vấn vẫn chưa trả lời về sự việc tại cầu Nguyễn Hoàng.
NHU: Tất cả đang được cứu xét và ai phạm tội sẽ bị nghiêm trị…
LE FIGARO: Trong các thông cáo, chính phủ Việt Nam nhắc nhiều lần rằng Việt Cộng chủ mưu xúi giục tín đồ đạo Phật biểu tình và cũng chính Việt Cộng ném chất nổ MK… Nhưng, nhiều người tận mắt trong thấy chính lực lượng an ninh làm việc đó…
NHU: Ông không biết rằng bộ sắc phục an ninh không phải là vật mà Việt Cộng khó tìm?
LE FIGARO: Nhưng người ta biết cả mặt người cho nổ chất nổ… Và, đó là khối TNT rất thông dụng trong quân lực Việt Nam Cộng hòa.
NHU: Cũng như thế, Việt Cộng tìm TNT và các loại vũ khí của quân lực Việt Nam Cộng hòa không phải là điều mới xảy ra…
LE FIGARO: Thế tại sao phải đổi TNT qua MK?
NHU: Một sơ sót kỹ thuật, chúng tôi đã khiển trách bộ phận thông tin.
LE FIGARO: Thông báo của Tổng nha Thông tin nhắc, ngoài Cộng sản, còn tay sai thực và phong nhúng vào vụ Huế. Dư luận Pháp muốn hiểu rõ hai danh từ “thực” và “phong” nhằm ám chỉ ai?
NHU: Tôi nói về “phong” trước. Huế là cố đô. Các thế lực bảo hoàng vẫn còn đông. Còn “thực”, ông muốn hiểu như thế nào, tùy ông, một nhà báo Pháp!
LE FIGARO: Tôi sẽ rất hân hạnh thông báo câu trả lời của ông cố vấn với dư luận Pháp trong số báo Figaro số mai. Cảm ơn ông cố vấn!
ĐẠI DIỆN TRUNG ƯƠNG XÃ ĐÀI BẮC TẠI HỒNG KÔNG: Ông cố vấn giải thích như thế nào việc Phật giáo là một tôn giáo dễ dàng nghe Cộng sản vô thần?
NHU: Hồng Kông gồm các nhà doanh nghiệp lớn vẫn có người theo Trung Cộng kia mà!
TRUNG ƯƠNG XÃ: Nhưng đây là dân chúng, những bức ảnh cho thấy dân chúng khá đông…
NHU: Ông quên dân chúng dự Phật đản. Họ tụ họp vì lý do đó…
ĐẠI DIỆN UPI: Nếu bạn đồng nghiệp của tôi, ông Raymind Wang, không hỏi tiếp ông cố vấn, tôi xin phép từ câu trả lời của ông cố vấn mà đặt một câu hỏi: Dân chúng tụ họp đông đảo vì lý do tôn giáo thế thì việc gì lực lượng an ninh của chính phủ phải dùng vòi rồng và hơi cay?
NHU: Liệu rằng cảnh sát ở nước Mỹ có cách nào phân biệt được trong đám đông, ai là dân thường đi hành hương hay làm một việc gì đó, đi dạ hội chẳng hạn với một người Cộng sản? Vòi rồng và lựu đạn cay càng không có khả năng phân biệt những thứ mà chính con người còn chưa phân biệt nỗi!
UPI: Một câu trả lời có tính triết lý. Rất tiếc chúng ta đang nói chuyện chính trị. Vì một ít người mà đi đến sự thô bạo với số đông, dư luận phương Tây khó đồng tình với chính phủ của Tổng thống Diệm.
NHU: Trong trường hợp này, thưa ông Roger Spekinsk, có vẻ hãng thông tấn UPI hoặc chính xác hơn, cá nhân ông, là một đồng minh đáng tin cậy của Việt Cộng!
ĐẠI DIỆN WASHINGTON POST: Nhân danh Nghiệp đoàn các phóng viên nước ngoài ở Sài Gòn mà tôi là thư ký, tôi phản đối cách nói của ông cố vấn.
NHU: Các ông có thể phản đối mặc dù trong thâm tâm tôi muốn các ông đồng tình. Tuy nhiên vấn đề là sự thật.
FANFANI: Tôi xin phép được hỏi một câu…
NHU: À! Financial Affairs đây rồi. Xin mời…
FANFANI: Tôi sẽ hỏi một câu rất hiền lành: Từ câu trả lời của ông cố vấn cho bạn đồng nghiệp Washington Post, người ta có quyền lật ngược nội dung: những cuộc đàn áp đẫm máu liên tục diễn ra ở Huế phải chẳng là đồng minh đáng tin cậy của Cộng sản?
NHU: Cô Helen thân mến, chúng ta nên nghiêm chỉnh.
FANFANI: Tôi không thấy trong câu nói của tôi có một chút khôi hài nào… Ông cố vấn muốn hôm nay không phải là một cuộc họp báo mà một cuộc trao đổi. Vậy thì, ông có cho rằng nhà sư Trí Quang đại diện cho một xu hương chính trị nào đó không?
NHU: Tôi không thích võ đoán. Tuy nhiên, với những bằng chứng xác thực, tôi có thể giới thiệu hai đặc điểm của ông Trí Quang: Một là, quê của ông ở phía Bắc vĩ tuyến 17, từng học đạo với một nhà sư nay đang ở Hà Nội. Hai là, ông Trí Quang có nhiều bạn bè thuộc đảng Đại Việt…
FANFANI: Ông cố vấn lại bắt đầu rơi vào cái chỗ mà ông vừa kết án, tức là ông nói chuyện tiếu lâm. Quê của gia đình ông cố vấn – nghĩa là có Tổng thống Diệm – cũng ở phía Bắc vĩ tuyến 17. Điều đó hình như không hề cắt nghĩa bất kỳ một khía cạnh nào của sự cố ở Huế và của cá nhân nhà sư Trí Quang. Còn về đảng Đại Việt, cũng tiếu lâm nốt khi ông cố vấn hàm ý chỉ ra rằng giữa Cộng sản và đảng Đại Việt có mối quan hệ thân ái thông qua môi giới của nhà sư Trí Quang.
NHU: Cô nhà báo đi quá xa giới hạn của cuộc trao đổi giữa chúng ta rồi. Cô có quyền suy luận song không phải ở đây…
FANFANI: Cảm ơn ông cố vấn đã làm sáng tỏ nhiều uẩn khúc mà chúng tôi rất quan tâm…
ĐẠI DIỆN BÁO JEO (1): Thưa ông cố vấn, độc giả tiếng Pháp ở Việt Nam rất cần một minh định: Những người Pháp dính dáng như thế nào đối với vụ lộn xộn vừa rồi?
NHU: Trước hết, ông Hubert thân mến, ở Việt Nam không có ai trong cộng đồng cái gọi là Francophone (2), càng không có ai Francophile (3), nếu có – và với hơn 100 năm kể từ khi pháo thuyền Pháp bắn những quả đại bác vào Cửa Hàn, tức Đà Nẵng hiện nay để rồi sau đó chiếm cứ đất nước chúng tôi, ở Việt Nam hiện nay có một cộng đồng tên của nó là Francophobe (4)! Tuy nhiên, đó là chuyện dĩ vãng, dù dĩ vãng chưa phải đã xa xôi lắm. Hiện nay, năm 1963, tháng 5, tôi có thể nói rằng tôi không thấy một yếu tố nào để nói về một dính líu như vậy, dính líu theo cái nghĩa người Pháp tại Việt Nam, người Việt vẫn còn giữ mối quan hệ dưới một dạng nhất định với người Pháp, chính phủ Pháp – những lực lượng đó liên can đến vụ Huế.
PHÓNG VIÊN BBC: Còn sự dính líu của người Hoa, nói rộng hơn của Trung Cộng?
NHU: Câu trả lời của tôi tương tự như câu trả lời vừa rồi.
ĐẠI DIỆN HÃNG THÔNG TẤN TANJUNG: Ông cố vấn có tin rằng sự kiện ngày 8-5 ở Huế sẽ không phát triển thêm về mức độ cũng như về phạm vi?
NHU: Trước hết, tôi xin cảm ơn đại diện của hãng thông tấn Nam Tư, một nhà báo Cộng sản duy nhất nước ngoài và là nhà báo Cộng sản không ngụy trang. Triển vọng của tình hình không phải là việc dễ đoán hay quyết đoán bởi tình hình không chỉ tùy thuộc ở chính phủ. Tuy nhiên mọi người Việt Nam trở lại khung cảnh mà Việt Nam Cộng hòa đang sống. Chúng tôi đang chiến đấu, một cuộc chiến đấu sinh tử với kẻ thù của chúng tôi ở trong và ngoài nước, những kẻ thù địch với thế giới tự do.
Và luôn cả những người trong thế giới tự do mà vì những lợi ích thiển cận, những suy nghĩ thiếu tầm chiến lược đang thọc tay vào cục diện đất nước chúng tôi. Tôi tha thiết mong các bạn nhà báo có mặt hôm nay, với lương tâm nghề nghiệp và với cái nhìn sáng suốt, góp sức với nước cộng hòa non trẻ chúng tôi đang bị xâm lược và dừng ngay chiến dịch có tính chất quốc tế bôi nhọ Việt Nam Cộng hòa, việc làm không lường nổi hậu quả tai hại. Việt Nam Cộng hòa là tiền đồn của thế giới tự do. Chúng tôi không chỉ đổ máu cho riêng mình… Tôi nhấn mạnh rằng ở Việt Nam Cộng hòa không có vấn đề kỳ thị tôn giáo, không có vấn đề áp bức đạo Phật cũng như không có đàn áp dân chủ. Trái lại, dân chủ ở Việt Nam Cộng hòa phần nào quá trớn là khác. Nhưng tôi cũng cảnh cáo những người đội lốt đạo Phật rằng, vì lợi ích tối thượng của Tổ quốc, chúng tôi sẽ không mềm yếu.
PHÓNG VIÊN NEWSWEEK: Thưa ông cố vấn, lời kêu gọi bạn hữu quốc tế của ông vừa rồi có nhằm nước Mỹ không?
NHU: Thưa bà Catherine Barbara, bà là một nhà báo kỳ cựu, thay mặt cho một tờ báo có uy tín ở Mỹ, lại sống nhiều năm ở Sài Gòn, bà có thể hơn ai hết biết rằng Việt Nam Cộng hòa coi nước Mỹ là một đồng minh lớn, một đồng minh trụ cột. Sự nghiệp độc lập tự do của Việt Nam Cộng hòa không tách khỏi mối liên minh huynh đệ ấy… Chúng tôi rất vui mừng trước chính sách liên tục của nước Mỹ ở châu Á và ở Việt Nam Cộng hòa hiện nay Tổng thống Kennedy đang thực hiện. Tuy nhiên, trong dư luận Mỹ, kể cả trong quốc hội, có một bộ phận nhỏ thôi, đang nhìn thực trạng Việt Nam Cộng hòa với cặp mắt ngờ vực, đôi khi độc ác…
NEWSWEEK: Tin đồn khá rộng rãi ở Mỹ và ở Sài Gòn về vai trò của đại sứ Frederich Nolting – vai trò thiên vị, che đỡ cho chính phủ ông Diệm. Ông cố vấn đánh giá tin đồn đó như thế ào?
NHU: Đại sứ Nolting là một người bạn quý của Việt Nam Cộng hòa, là một người giàu kiến thức và thấu đáo điều kiện của đất nước chúng tôi. Dĩ nhiên, không phải không có những cự ly trong nhận thức những sự việc nào đó giữa đại sứ và chúng tôi. Điều mà tôi nhấn mạnh là Ngài Nolting không bao giờ lầm lẫn giữa vai trò một toàn quyền hoặc thái thú xa xưa. Chắc chắn rằng đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến các đồn đãi mà bà Catherine nhắc tới…
Cuộc họp báo chấm dứt vào 10 giờ. Cố vấn Ngô Đình Nhu có vẻ sửa soạn trước khá kỹ cho cuộc “đụng độ” và ông biểu lộ sự mãn nguyện sau đó; ông đi bắt tay khắp các ký giả, chụp hình chung với họ thậm chí quàng vai tôi khá âu yếm và đùa với Victor, chồng tôi: “Khi Helen ngã vào tôi, ông nhớ chỉnh ống kính cho thật “nét” nhé!”. Tuy nhiên tôi cảm ơn ông “đã làm sáng tỏ nhiều uẩn khúc”, nghĩa là tôi cảm thấy hết sức rõ sự rối rắm trong các câu trả lời của ông Nhu, một nhà hùng biện mà không ai không phục. Ông Nhu tươi tỉnh bề ngoài, cố giữ tự chủ trong khi toàn bộ tư tưởng của ông thiếu xuyên suốt. Ông không thể giải thích nỗi vụ Huế - một vụ chủ mưu ở phía chính phủ. Nói theo thuật ngữ quân sự, chính phủ Sài Gòn “ngự phòng từ xa” và họ sợ Phật giáo là ngòi pháo. Dẫu sao, Huế vẫn là một thị trấn bé nhỏ, biệt lập. Ông Nhu hiểu như vậy. Và, ông thành công hay thất bại tùy thuộc vào ở một điểm thôi: ông khoanh vùng vụ Huế ở Huế hay ngược lại… Dẫu sao, với các tín hiệu tháng 5 này tại Việt Nam Cộng hòa, phóng viên báo chí, truyền hình khắp thế giới sửa soạn visa vào Sài Gòn chắc không phải là quá sớm…
Văn thư của Văn phòng cố vấn Ngô Đình Nhu gởi Việt tấn xã:
“Ông cố vấn chỉ thị: cứ cho các phóng viên nước ngoài phát tin về buổi họp báo của ông cố vấn, không cắt xén, hạn chế. Tuy nhiên, chú ý cho phát ưu tiên bài tường thuật của hãng Reuter và đài BBC, nhất là của đài BBC vì nội dung rất có lợi cho ta”.
Báo cáo mật của bác sĩ Trần Kim Tuyến gửi Ngô Đình Nhu:
“Tôi đã thực hiện đúng chỉ thị của ông cố vấn: Chỉ cho phái viên Viễn Đông của BBC, cho phóng viên Manila Time và cho Hambourg Zeitung đưa tin như ý của ông cố vấn. Họ hứa sẽ liên tục có bài và tin. Đang vận động Đài truyền hình Bỉ phỏng vấn ông cố vấn. Đài Pháp và Mỹ từ chối. Riêng Paris Match sẵn sàng ra một số đặc biệt, hủy bỏ các ảnh đã săn ở Huế nhưng giá quá cao, chờ quyết định của ông cố vấn. Đã điều đình với Victor mua các ảnh, nhưng chưa có hiệu quả. Sẽ dùng biện pháp Hải quan khi Victor rời Sài Gòn sang Hồng Kông sáng mai…”
Thông cáo của Tòa đại biểu chính phủ ở Trung nguyên Trung phần:
Bộ trưởng Bộ nội vụ quyết định bổ nhiệm thiếu tá Lê Quang Hiển, nguyên Giám đốc Cảnh sát quốc gia miền Nam Trung nguyên Trung phần làm Giám đốc cảnh sát quốc gia miền Bắc Trung nguyên Trung phần thay trung tá Trần Văn Thương chuyển hoàn về Bộ nội vụ.
Điện đàm giữa Fishell và Bộ trưởng Phủ tổng thống Nguyễn Đình Thuần:
THUẦN: Thưa giáo sư, ông có ý kiến gì về quyết định đối với thiếu tá Đặng Sỹ. Chúng tôi đã thảo xong lệnh…
FISHELL: Ông Bộ trưởng có thể cho biết nội dung của lệnh đó không?
THUẦN: Thưa được. Xét trách nhiệm trực tiếp của thiếu tá trong vụ lộn xộn ở Huế, quyết định bãi chức Phó tỉnh trưởng nội an, cách hàm thiếu tá, đương sự phải trình diện ở Tổng nha Cảnh sát quốc gia chịu sự thẩm vấn và bị tạm giữ theo chế độ sĩ quan chờ cứu xét…
FISHELL: Tôi nghĩ rằng cách chức Phó tỉnh trưởng là đủ. Tạm thời để thiếu tá Đặng Sỹ thôi giữ chức Phó tỉnh trưởng nội an… Lời văn như vậy có lẽ thỏa đáng. Các biện pháp khác không cần thiết và không công bằng.
THUẦN: Thưa giáo sư, tôi sẽ báo lại với ông Nhu ý kiến của giáo sư.
FISHELL: Không phải ý riêng của tôi. Chào ông Bộ trưởng.
Thượng tọa Trí Quang bay vào Sài Gòn. Tin riêng của báo Sài Gòn Mới:
Theo nguồn tin đặc biệt của bổn báo, thượng tọa Trí Quang từ Huế đã bay vào Sài Gòn, ngày 12-5 đang ngụ tại một ngôi chùa ở đô thành.
Nhân đây, Sài Gòn Mới xin hiến bạn đọc cấp bậc các giáo phẩm Phật giáo mà từ trước tới nay chúng ta chưa biết…
Lệnh đặc biệt của Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia gửi Cảnh sát đô thành và các tỉnh:
Theo dõi di chuyển của các nhà sư từ Huế vào phía Nam. Tìm mọi cách khéo léo nhưng kiên quyết giữ họ tại Huế. Cảnh sát sân bay Phú Bài, đường bộ và xe lửa phải chấp hành triệt để lệnh này.
NGUYỄN VĂN Y
Phúc trình của Tổng giám đốc Thông tin:
Kính gởi ông cố vấn chính trị Phủ tổng thống.
Tuân lệnh của ông cố vấn, chúng tôi đã triệu tập một số nhà báo của các tờ “Cách mạng quốc gia”, “Ngôn luận”, “Tự do” đến Nha tổng giám đốc phổ biến đường lối của chính phủ về việc đưa tin tức ở Huế: Giảm bớt lượng tin, bỏ hẳn việc trưng bằng cớ về Việt Cộng ném lựu đạn và đặt chất nổ, giữ giọng thật hòa dịu với Phật tử và các nhà sư theo tinh thần thông điệp của Tổng thống… Nhưng, một số ký giả vẫn viết bài theo chiều hướng cũ, đặc biệt ký giả Tô Văn và một số trong danh sách thân Đại Việt. Chúng tôi được biết linh mục Raymond De Jaegher, Chủ tịch Hiệp hội Thái Bình Dương tự do họp riêng với số ký giả này và hình như trả thù lao khá cao bằng đôla để họ viết các bài bài xích Phật giáo, những bài đó đăng rải rác trên tờ Buổi Sáng của Mai Lan Quế là em ruột của thiếu tướng Mai Hữu Xuân và một vài tờ Việt ngữ. Tờ Đông Phương tiếng Hoa, chịu sự bảo trợ về tài chính của linh mục Raymond De Jaegher cũng dịch đăng. Dĩ nhiên, tờ “Free Pacific” đăng các bài đó bằng tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha.
Trong trường hợp này, Tổng nha Thông tin không thể can thiệp được. Xin kính trình để ông cố vấn tường và cho chỉ thị.
PHAN VĂN TẠO
Phúc trình của Tổng nha Cảnh sát:
Đài phát thanh Hà Nội và đài Việt Cộng cho tới nay chưa đăng tin hoặc bình luận gì về vụ ở Huế. Đài Moscou, phần tiếng Việt, nhắc lại một tin của Pháp tấn xã, không bình luận. Trái lại, đài Bắc Kinh cả phần tiếng Việt và các tiếng Hoa phát cho Đông Nam Á đưa nhiều tin, kèm bình luận gay gắt.
Thông báo chiến sự hàng tuần của Bộ Tổng tham mưu:
Từ 2 đến 9 tháng 5, toàn chiến trường lắng dịu một cách bất thường trừ trận Tân Bình (Quảng Tín). Chung quanh Huế, không có một dấu hiệu tập trung nào của Việt Cộng.
Tin vắn của báo “Cách mạng Quốc gia”
Sau một thời gian nghiên cứu ở Học viện chỉ huy cao cấp tại Fort Bragg, Hoa Kỳ và nghiên cứ tình hình chống du kích Huk ở Phi Luật Tân, du kích Mã Lai, đại tá Nguyễn Thành Luân đã về đến Sài Gòn hôm qua, 14-5. Cùng về với đại tá có phu nhân cũng tốt nghiệp Học viện nghiên cứu cảnh sát Mỹ. Đại tá Đặng Văn Quang, chỉ huy trưởng, Tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống, ông Đổng lý văn phòng Phủ tổng thống, đại tá Phó tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia, trung tá James Casey đại diện cho Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ và ông Trần Trung Dung với tư cách gia đình Tổng thống đã ra sân bay đón đại tá Nguyễn Thành Luân và phu nhân.
Thông cáo của Tổng hội Phật giáo Việt Nam:
Lễ cầu siêu cho các nạn nhân ở Huế trong vụ Phật đản sẽ được tổ chức khắp các chùa trong toàn quốc vào một ngày thống nhất, sẽ thông báo sau.
THÍCH TÂM CHÂU
(Thừa lệnh Tổng hội chủ)
Đại diện của tổ chức Phật giáo Thế giới gửi Tổng Thống Ngô Đình Diệm:
Rất xúc động và rất tiếc về sự việc bi thảm ở Huế ngày 8-5. Mong chính phủ Việt Nam Cộng hòa có biện pháp trấn an và bảo đảm quyền hành đạo của đạo Phật.
---
(1) Journal d’ Extrême Orient: Nhật báo Viễn Đông (báo tiếng Pháp, xuất bản ở Sài Gòn)
(2) Francophone: nói tiếng Pháp
(3) Francophile: thân Pháp
(4) Francophobe: chống Pháp.

CHƯƠNG 2

Luân và Dung vắng mặt ở Sài Gòn hơn một năm, Trong thời gian ấy, ngoài những tháng nghiên cứu trong Học viện, họ đi lại nhiều nơi trên nước Mỹ và cả châu Âu. Dĩ nhiên, lần xuất ngoại dài ngày đầu tiên này trong đời, giúp họ một loạt hiểu biết mới và kèm theo một loạt suy nghĩ mới.Tình hình trong nước đến với họ qua thông báo của đại sứ quán, qua đài phát thanh và một số báo chí. Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ: Trần Văn Chương và quan sát viên của Việt Nam Cộng hòa tại Liên hợp quốc: bà Trần Văn Chương, đã dành cho vợ chồng Luân một ưu ái gia đình đặc biệt. Người viết thư thường xuyên nhất cho Luân, ngoài Nguyễn Thành Động lại là Ngô Đình Nhu. Trong những bức thư này, có cái khá dài. Nhu phản ảnh tình hình trong nước thì ít, mà than thở thì nhiều. Đôi bức thư bộc lộ nỗi hoảng sợ, mặc dù anh ta không nói rõ nỗi hoảng sợ đó là gì và cứ băn khoăn mãi về thời gian ở nước ngoài của Luân mà anh ta cho là quá dài.
“Tôi nghĩ là tôi đã sai lầm khi đồng ý để anh vào Học viện Fort Bragg. Anh không cần phải có những kiến thức chuyên môn quá sâu về hành quân. Chắc chắn anh có thể trở thành một tướng lĩnh nổi tiếng, nhưng như thế sẽ là một tổn thất đối với sự nghiệp của chúng ta. Anh đi rồi, tôi thấy hết sức trống trải. Người ta chửi tôi đương nhiên là không đếm xuể, nhưng họ chửi lén, còn số tâng bốc tôi cũng tương ứng như vậy. Tóm lại, tôi không có interlocuteur (1) và thẳng thắn, tôi không có cả adversaire – adversaire (2) với nghĩa franc-jeu (3). Gia đình đã dời sang dinh Gia Long, anh cũng biết, và ủy ban tái thiết dinh Độc Lập được thành lập, anh cũng biết. Thật buồn cười khi Tổng thống đích thân nghiên cứu bảng thiết kế xây dựng lại dinh Độc Lập.
Tôi sẽ không nói về dáng dấp của cái dinh tương lai ấy. Bởi ý của tôi là phục chế lại kiểu của cái dinh từ thuở nó còn mang tên Norodom. Kiến trúc Pháp vừa bệ vệ vừa thanh tú. Mà thôi, cái buồn cười lại ở chỗ khác. Tổng thống mời một chiêm tinh gia – thông thường chúng ta gọi là thầy địa lý, hoặc nôm na hơn là thầy bói - để tính các quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài... sao cho nơi ở của nguyên thủ quốc gia tránh được những quả bom kiểu cuối tháng 2. Tôi không phản đối xây hầm bêtông kiên cố, nhưng tôi hết sức lạ lùng về lòng tin nhiệt thành của Tổng thống đối với các thuyết âm dương ngũ hành. Đã thế, khôi phục quách ngọn cờ quẻ Ly của Trần Trọng Kim để đạt một sự hài hòa đúng mức! Hôm tay thầy bói - cũng may là một tay thầy bói chưa mù - giảng về những cửa, những hướng mà dinh Độc Lập phải xây theo, thì Tổng thống bảo tôi ngồi nghe, cùng với Đức cha. Tôi không nói một lời vì biết Tổng thống sẽ nổi cơn thỉnh nộ. Đức cha gật gù, sau cùng bảo: “Kết hợp cả Đông Tây cũng là một cách tốt, tôi cho xây dựng nhà thờ Phú Cam theo những nguyên tắc na ná như vậy”. Nhà tôi khuyên tôi: “Thôi anh, Tổng thống chẳng có thú vui gì, mình đừng làm cho ảnh phiền”. Tôi không rõ kiến trúc sư số một của ta, người được giải thưởng lớn ở La Mã là Ngô Viết Thụ có ẩn ý gì hay không, khi trong bản thiết kế mặt tiền của dinh nhìn qua thấy toàn là xương, cũng còn may mắn, không phải là xương sọ! Vào những lúc “đơn thương độc mã” như vậy, tôi thấm thía về sự vắng mặt của anh. Anh ở nhà, có thể giảm nhẹ những việc lố bịch đó, bởi tiếng nói của anh dễ được Tổng thống nghe hơn của tôi và anh biết cách nói hơn tôi.
Một chuyện khác cũng không vui. Tượng bà Trưng được dựng khá bề thế ở giữa một công viên, nhưng dư luận thì cho đó là tượng của nhà tôi. Anh thấy đấy, toàn những chuyện chẳng ra làm sao cả trong khi cường độ chiến tranh mỗi lúc mỗi gia tăng và thiệt hại của chúng ta mỗi lúc một lớn hơn. Tướng Paul Harkins úp mở với tôi rằng viện trợ Mỹ về khí tài quân sự được thực tế chứng minh là không đủ để giành chiến thắng. Chắc anh hiểu hàm ý của nhận xét đó. Tôi hỏi đại tướng: cần bao nhiêu thực binh Mỹ nữa. Ông ta nhún vai và trả lời: “Cần đủ để chiến thắng”. Tôi lại hỏi: “Có thể lấy chiến tranh của Pháp ở Đông Dương hay chiến tranh Triều Tiên làm một tiêu chuẩn tính toán không?”. Ông ta nhíu mày: “Lúc cao nhất Pháp có 20 vạn quân viễn chinh ở Đông Dương - mỏng quá chăng? Còn ở Triều Tiên, Mỹ cần gần 30 vạn - nhiều quá chăng?”. Rồi ông ta cười: “Lính Nam Triều Tiên đánh giỏi hơn lính Nam Việt”... Và, ông ta nhấn mạnh: “Cần bao nhiêu thực binh Mỹ là tùy ở năng lực chiến đấu của Nam Việt”.
Tình hình Lào cũng kích động dư luận trong nước. Pathet Lào mở rộng địa bàn kiểm soát đến nỗi thủ tướng Boun Oum và tướng Nousavan bay sang Sài Gòn vận động chúng ta ủng hộ họ chống Cộng. Một đồng minh láng giềng mong manh cỡ đó thì thật nguy hiểm đối với cao nguyên Trung phần của chúng ta. Còn Sihanouk, như anh đã biết, le prince qui boude (4), ông ta luôn luôn đồng bóng, chửi Cộng sản Cambôt tàn tệ nhưng lại cho phép Việt Cộng thiết lập một phòng thông tin tại Nam Vang và làm ngơ để Kossem tiếp tục cái Fulro lá mặt lá trái của hắn ta, lôi kéo một nhóm người Thượng, và người Chàm từ Việt Nam Cộng hòa sang Camp Rolland huấn luyện. Triển vọng của tình hình, chưa thấy sáng sủa, đặc biệt khi tướng Paul Harkins vừa được chính phủ Mỹ chỉ định kiêm nhiệm Tư lệnh quân đội Mỹ cả ở Việt Nam và Thái Lan.
Thôi, anh liệu mà thu xếp về nước càng sớm càng tốt. Cho tôi hỏi thăm cô Thùy Dung.”
Trên đây là một trong các bức thư của Nhu gửi cho Luân. Với các bức thư đó, Luân hình dung được sức ép của quân Giải phóng đối với quân Sài Gòn và từ cái nền như vậy, biến động chính trị ở Nam Việt là không tránh khỏi. Luân tin chắc rằng cú ném bom của Nguyễn Văn Cử và Phạm phú Quốc là lời cảnh cáo sau chót của Mỹ. Bây giờ, không cần cảnh cáo nữa. Nếu Diệm đủ khôn ngoan thì còn buộc Kennedy cân nhắc, bằng ngược lại...
Nguồn tin chính trị thì Luân theo dõi qua các bài của Helen Fanfani. Luân đặc biệt lưu ý đến tin về ngày Phật đản năm 1962 được cử hành hết sức long trọng tại chùa Xá Lợi Sài Gòn với cả trăm nghìn người tham gia theo quyết định của Phật giáo thế giới. Fanfani đã phân tích sự việc đó như là một dấu hiệu chính trị nổi bật: Phật giáo leo lên vũ đài và đằng sau các nhà sư là một khối lượng người rất khó ước định. Fanfani là một nhà báo sắc sảo, càng về sau, Luân càng khâm phục cách ghi nhận và đánh giá tình hình Nam Việt của cô. Nhiều phóng viên báo chí và thông tấn ở Sài Gòn, song Fanfani xứng đáng đại diện cho giới tài chính ngân hàng Mỹ - bao giờ cũng suy tính mọi lợi hại trên tầm bao quát. Luân đã cắt một bài của Fanfani mà anh cho là hay nhất trong các bài của cô. Dung cũng đồng ý như vậy. Bài báo viết vào đầu năm 1963, sau kỳ Noel mà Fanfani về Mỹ và gặp vợ chồng Luân - họ đi chơi tận Chicago, Los Angeles và San Francisco. Đó là lần duy nhất mà Luân gặp Fanfani ở Mỹ. Trái với Saroyan, Fanfani không hề viết riêng thư cho Luân. Cô cười khi cùng sóng đôi với Luân trên bãi biển: “Tôi viết cho ông thường nhất đấy chứ... Chẳng lẽ ông không đọc bài của tôi?”
Bài báo đặc sắc gợi cho Luân suy nghĩ, không dài, tựa là Việc đầu tư của Mỹ ở Nam Việt.
“Cái đích mà những người có quyền thế ở Mỹ, quyền thế thật sự mặc dù chưa bao giờ họ ký tên vào bất cứ một mảnh giấy con nào về các vấn đề hành chính, có vẻ mỗi lúc mỗi xa tầm với của họ ở Nam Việt. - Fanfani mở đầu bài báo. Cô viết tiếp: “Thực tế Nam Việt dấy lên cuộc tranh chấp mà vào lúc sơ khởi, hầu như chưa ai nghĩ rằng sẽ có cuộc tranh chấp như vậy. Việt Nam hay Đông Dương thuộc Pháp, vốn định mệnh đã an bày, và thật ít người Mỹ biết đến sự có mặt của nó trên hành tinh, chứ đừng nói ý định nước Mỹ dính líu vào đây. Vào thế kỷ XIX, một đại diện của hoàng đế Việt Nam tên là Bùi Viện sang Washington xin cứu viện chống lại người Pháp thì Tổng thống Mỹ lắc đầu. Nhưng lịch sử không chịu đừng yên. Năm 1951, tướng 5 sao - sau khi ông ta chết, được truy phong thống chế - Jean de Lattre de Tassigny, với tư cách là Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương đến Mỹ để xin viện trợ quân sự giữa lúc chiến tranh Triều Tiên vào hồi sắp tàn cuộc. Cái bóng ma ám ảnh cuộc thương lượng của De Lattre và chính phủ Mỹ là sự can thiệp của Trung Cộng, điều mà đúng vào ngày De Lattre hấp hối trên giường bệnh, một tướng 5 sao khác của Pháp, tướng Juin - và ông này về sau cũng được phong thống chế - khẩn cấp có mặt ở Washington xin Mỹ hãy hành động như ở Triều Tiên.
Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ lúc bấy giờ là đại tướng Bradley hoài nghi về khả năng Trung Cộng dám liều lĩnh. Theo tướng Bradley, Trung Cộng đủ khôn ngoan để học bài học Triều Tiên: nếu Mac Arthur bị Tổng thống Mỹ cách chức vì chuẩn bị vượt sông Áp Lục tiến đánh cảnh cáo Trung Quốc; thì Trung Cộng gửi liền cho Mỹ một thông điệp bằng hành động: nguyên soái lừng danh Bành Đức Hoài bị Mao Trạch Đông cách chức vì ông ta thề quét quân Mỹ ra ngoài vịnh Triều Tiên.
Chính phủ Hoa Kỳ nhắc lại sự cam kết đầu tiên là quan tâm hàng đầu đến viện trợ kinh tế theo điểm 4 trong chương trình Truman (5), mặc dù chính phủ Pháp từng cử đại sứ ở Viễn Đông để trao đổi những kiến nghị với chính phủ Mỹ về thái độ của Mỹ trong cuộc chiến Đông Dương. Sự lơ là của tướng Bradley còn liên quan đến tuyên bố của tướng Pháp Carpentier, Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp vào đầu năm 1950 tại Đông Dương: “Nếu Mỹ muốn việc trợ quân sự cho các quốc gia Đông Dương thuộc Pháp thì nhất thiết sự viện trợ đó phải thông qua Liên hiệp Pháp, tức là quân đôi Pháp”. Có lẽ tướng Carpentier bị chính phủ Pháp khiển trách, do đó mà giữa tháng 5-1950 Bộ trưởng ngoại giao Anh, Pháp, Mỹ họp tại Paris với chủ đề: Viện trợ quân sự và kinh tế cho Đông Dương. Đầu tháng 6 cùng năm, Robert Blum, Trưởng phái đoàn Mỹ tới Sài Gòn chính thức thông báo phần viện trợ kinh tế của Mỹ cho Đông Dương tài khóa 1950-1951 lên đến 23.5 triệu dollar, còn viện trợ quân sự chỉ bằng vũ khí và quân nhu, sẽ qua tay quân đội Liên hiệp Pháp. Sáu ngày sau, một ủy ban viện trợ kinh tế Hoa Kỳ được thiết lập ở Sài Gòn để tiếp nhận những triệu dollar khiến nhiều người thèm rỏ dãi nói trên. Chúng ta có thể nói được rằng, đó là số tiền đầu tư quan trọng của Mỹ vào Đông Dương mà chủ yếu là vào Việt Nam.
Cũng cần thiết nhắc lại rằng, con số 23.5 triệu dollar của Mỹ đã góp phần đưa cuộc đàm phán Pau thoát khỏi tình trạng cù nhầy mà nguyên do là chính phủ Pháp của Vincent Auriol vẫn luyến tiếc chế độ trực trị các thuộc địa cũ. Ngày 22-7-1950, hai chuyến máy bay đầu tiên mang cờ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, hạ cánh ở sân bay Tân Sơn Nhất, bấy giờ còn rất cũ kỹ. Thuốc men, bột DDT, thuốc kháng sinh, dụng cụ y tế v.v... nhãn hiệu USA được phân phối trực tiếp cho chính phủ Việt Nam mà không qua các cơ quan Pháp, dù cho cái “chính phủ Việt Nam” đó gồm những người xem tiếng Pháp là tiếng mẹ đẻ. Bất cứ một mưu đồ lớn nào của các nhà chính trị cũng đều mở đầu một cách hiền lành, nhân đạo như vậy cả. Chính phủ Mỹ tự rút kinh nghiệm: Mùa xuân cùng năm, hai chiếc tàuchiến Mỹ bỏ neo trên sông Sài Gòn, ngay cái thành phố rất náo động và bài ngoại nổi tiếng, đã bị hàng mấy trăm ngàn người giận dữ xua đuổi. Tiếc là nhà tiên tri Nostradamus (6) không dự đoán nổi cái điềm trên là hứa hẹn hay hăm dọa. Thận trọng hơn, một phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ do Thứ trường quốc phòng Malby và tướng Erskine cầm đầu “không kèn không trống” đến Sài Gòn và phúc trình sau đó của họ được Tổng thống Mỹ chấp nhận cực kỳ nhanh chóng nếu không nói là Tổng thống đã quyết định từ trước. Âm thầm và rón rén như những kẻ buôn lậu, giữa tháng 8-1950, một tàu buôn Mỹ cập bến Sài Gòn và mọi hoạt động chỉ về đêm: súng, đạn pháo, xe bọc thép v.v... hối hả nhập vào các kho của quân đội Pháp. Quyển sử về sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam và Đông Dương mở ra chương thứ nhất với chuyến tàu trọng tải 15.000 tấn đó.
Thang 10 cùng năm, Thủ tướng Pháp Pleven lại cử bộ trưởng quốc phòng Jule Moch sang Mỹ thúc viện trợ quân sự nhưng nói rõ chỉ viện trợ vũ khí mà thôi. Một ngày đáng ghi nhớ trong quyển sử mà tôi tin thế nào cũng sẽ xuất hiện, ngày 10-10-1950 một phái đoàn viện trợ quân sự Hoa Kỳ đặt dưới quyền của tướng Brinsk chính thức treo ngọn cờ lấm chấm những ngôi sao xanh và vằn vện những sọc đỏ giữa Sài Gòn. Nước Mỹ quyết định từ bóng tối bước ra ánh sáng vào đúng cái thời điểm bản lề của cuộc chiến Đông Dương: toàn tuyến biên giới Việt Bắc do những lực lượng tinh nhuệ nhất của quân viễn chinh Pháp trú đóng bị chiếc chổi khổng lồ của tướng Giáp quét một nhát sạch nhẵn, từ Cao Bằng qua Đông Khê, Thất Khê đến Lạng Sơn với 5.000 tù binh và hai đại tá sừng sỏ.
Giới doanh nghiệp Mỹ lúc đầu chú ý đến Việt Nam ít hơn giới chính trị và giới quân sự. Ngót trăm năm cai trị của Pháp, miền đất hẻo lánh này của thế giới chỉ trưng bày được trong thông tin kinh tế quốc tế với mặt hàng quá khiêm nhường: cao su thì thua Malaysia, cà phê xếp sau Brasil, các loại quặng chỉ mới tính bằng đơn vị tấn, trừ than đá và lúa gạo. Nhưng cuộc chiến tranh Pháp - Việt đã khiến cho giới doanh nghiệp Mỹ từ chỗ thờ ơ, đến chỗ quan tâm đặc biệt tình hình Việt Nam. Có lẽ cái khác nhau giữa họ - giới doanh nghiệp - với giới quân sự và chính trị chung quanh những vấn đề như vị trí chiến lược, như tiền đồn ngăn chặn làn sóng đỏ, vẫn còn trừu tượng; nhưng cái yếu tố hấp dẫn lồ lộ như nhà thôi miên cuốn hút họ: những chục triệu dollar công khai và hàng trăm triệu dollar bí mật cần phải được sử dụng, tuy tận miền Viễn Đông nhưng không thể vượt ngoài quỹ đạo của nền kinh tế Mỹ. Giới doanh nghiệp Mỹ bắt đầu làm tính với Việt Nam một cách thực dụng như họ làm tính với đồng bào họ và khi Trưởng phái bộ kinh tế đầu tiền của Mỹ ở Sài Gòn, ông Williamon, công bố số tiền viện trợ kinh tế cho Việt Nam tài khóa 1951-1952 là 25 triệu dollar thì các hãng buôn Mỹ thiết lập nhanh nhẩu chưa từng có cơ quan đại diện của mình trong các khách sạn sang trọng giữa trung tâm Sài Gòn. Một viện hối đoái được thành lập và một Huỳnh Văn Lang thân Pháp, một Đinh Quang Chiêu thân Mỹ song song điều hành công việc. Giới doanh nghiệp Mỹ không cần thiết lập nhiều ngân hàng ở Sài Gòn, trừ chi nhánh ngân hàng Manhattan, bởi các ngân hàng của Trung Hoa Tưởng Giới Thạch và của Hongkong thật sự hay phần quan trọng là của họ. Rồi cuộc chiến tranh Việt - Pháp kết thúc, rất bi thảm đối với nước Pháp nhưng rất rực rỡ đối với chính phủ Mỹ. Thế là, từ trước, khu vực ảnh hưởng xa nhất Đông Nam Thái Bình Dương của Mỹ dừng tại Philippines, bây giờ, nó thêm hàng nghìn cây số lên mép lục địa Đông Nam Á, trên đất liền. Bỗng nhiên trong giới doanh nghiệp Mỹ lưu hành một
luận điểm mỗi ngày mỗi trở nên chính thống: Đông Dương có vị trí chính trị, quân sự, kinh tế với tầm cỡ chiến lược, mà nếu như Mỹ bị hất ra khỏi nơi đó thì có nghĩa thủ đô Washington sẽ thất thu! Người xướng xuất cái lý thuyết viễn tượng khá phi thường ấy là giáo sư Henry Kissinger với một đồng minh mang bệnh tâm thần là thượng nghị sĩ Mac Carthy, dưới sự bảo trợ của một kẻ lõi đời: Foster Dulles. Các con số về tiềm năng kinh tế của Việt Nam đều được máy tính điện tử thổi phồng theo cấp số nhân. Foster Dulles chết vì bệnh ung thư nhưng rất tiếc trình độ khoa học chưa đủ sức tìm trong các tế bào rối loạn của cựu Ngoại trưởng Mỹ phần nào tượng hình ung nhọt Việt Nam. Giới doanh nghiệp Mỹ nhảy xổ vào Nam Việt Nam sau Hiệp định Genève, nói trắng ra là nhảy xổ vào 300 triệu dollar viện trợ và chừng đó dollar viện trợ quân sự hằng năm giống những cầu thủ ruby XV thô bạo dùng quyền Anh, võ Judo và cả những nhọn lao người da đỏ đánh rạp người Pháp trên thương trường. Ngày nay, những người định đoạt chính sách nước Mỹ rất thống nhất với nhau: Phải đẩy lùi càng xa càng tốt nguy cơ Trung Cộng thọc tay vào Đông Dương. Thật là may mắn, Mao Trạch Đông đã viện trợ hào phóng cho nước Mỹ bằng cách ông ta thọc tay khuấy động nội bộ nước Trung Hoa và cả phe Cộng sản quốc tế, trong đó thế nào cũng có giới Hoa kiều đông đúc ở Chợ Lớn. Phải giữ Bắc Việt tạm thời tồn tại phía Bắc vĩ tuyến 17. Lúc bấy giờ, nghĩa là mấy năm liền sau Hiệp nghị Genève, ý định này không phải là viễn vông: ông Hồ Chí Minh còn bận nhiều việc gấp hơn. Nước Mỹ phải nhập cảng vào Nam Việt thật nhiều cirage và verni để đánh bóng chiếc tủ kính trưng bày sự có mặt của nước Mỹ ở khu vực Đông Nam Á. Đó là sự có mặt rất đỗi ôn tồn và niềm nở, giàu có và vung tay, thậm chí rất tế nhị. Nước Mỹ chăm sóc cả những bộ ngực mỹ miều của các cô gái Nam Việt, dành một sự quan tâm ngang với quan
tâm kinh thánh, vòng nở nang của đùi và mông. Nhưng - chữ “nhưng” mà Eisenhower nổi đóa và Kennedy sắp chửi thề - Tổng thống Việt Nam Ngô Đình Diệm thích dùng cirage và verni của Mỹ đánh bóng cho cái mà danh từ Á Đông gọi là chiếc ngai vàng. Ông ta say mê trở thành hoàng đế hơn các nhà doanh nghiệp Mỹ say mê khai thác các thứ có thể khai thác trên đất nước ông. Và ở đây, tồn tại một sự can thiệp của lịch sử dù chính phủ Mỹ có nhắm mắt cũng phải thấy - đó là Cộng sản. Bây giờ họ tự xưng là Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Họ nói rằng họ chống sự xâm lược của Mỹ và chế độ độc đoán của gia đình ông Ngô Đình Diệm để xây dựng một miền đất nước không có tiếng súng, không có áp bức của nước ngoài, không có bóc lột và đối xử ngang ngược trong nước. Họ đòi thi hành Hiệp nghị Genève và tuyên bố độc lập với chế độ Cộng sản Bắc Việt bởi họ chủ trương trung lập. Nhưng đồng thời họ cứ nhắc đi nhắc lại mãi rằng đất nước Việt Nam của họ là một dân tộc của họ thống nhất từ 4.000 năm.
Muốn thắng Cộng sản ở Nam Việt, không một nhà chiến lược quân sự Mỹ nào không nghĩ đến qui mô chiến tranh nhất thiết phải mở rộng toàn cõi Việt Nam, hơn nữa, toàn Đông Dương.
Cái nguy cơ Trung Cộng can thiệp dứt khoát đã lùi xa, xa hơn cả những gì mà giới chiến lược Mỹ mơ ước, nghĩa là tấn thảm kịch Triều Tiên gần như tuyệt đối không thể tái diễn: không có những yếu tố vật chất, đối ngoại và tâm lý để tái diễn. Cái giá sinh mệnh hàng triệu lính Trung Quốc tại Triều Tiên chỉ để làm ranh chia hai Triều Tiên, nhích xuống phía nam vài chục cây số thì quả là giá quá cao. Trung Cộng vẫn giúp Cộng sản Việt Nam ở cả Nam và Bắc, nhưng đó là một sự giúp đỡ tự nó đã có giới hạn. Trung Cộng không muốn một Việt Nam thuộc Mỹ để phải hứng ngọn đòn vu hồi từ phía dưới khó đối phó. Nhưng Trung Cộng cũng không thích thú một Việt Nam thoát ly sự chi phối của Trung Quốc mà các hoàng đế tiền bối của họ luôn luôn nhắc nhở họ phải hoàn thành tốt. Nước Mỹ rõ ràng chỉ phải đối phó với một nước Việt Nam, mà theo Mao, cần thiết cắt đôi lâu dài như Triều Tiên, Đức. Ngay cái đảo nhỏ xứ Đài Loan mà họ cũng chỉ dọa bằng những lần cảnh cáo nhiều đến nỗi thành lố bịch. Nhưng Nga Sô đã là nước đầu tiên đưa người lên vũ trụ. Thành tựu về kỹ thuật quân sự của Nga sẽ được Cộng sản Việt Nam thụ hưởng trong chừng mực cần thiết. Ở chiến trường Nam Việt, người Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bắt đầu nếm khá cay đắng những thành tựu ấy, kể luôn những vũ khí tuy mang nhãn hiệu Trung Cộng nhưng từ model Nga Sô. Nước Pháp vẫn bất đồng với Mỹ về vấn đề Đông Dương, Ấn Độ luôn trung thành thuyết trung lập ảnh hưởng ngày một rộng. Thế là bài toán Việt Nam đối với nước Mỹ thêm nhiều con số mới. Chiếc tủ kính trưng bày hàng mẫu không chỉ gồm có thuốc lá Salem, nịch vú và xilip, mà còn có cả những khẩu súng của các hãng Colt, Remington v.v... Dĩ nhiên giới doanh nghiệp chẳng thiệt thòi gì. Không bán tủ lạnh, xe hơi du lịch thì bán các bộ quân phục và xe tăng,
máy bay ném bom - lãi to hơn nhiều.
Công cuộc đầu tư ở Nam Việt cứ lộn rồng lộn rắn như thế và mỗi ngày thêm nhiều triệu chứng cho thấy sự đầu tư sẽ chủ yếu bằng sinh mệnh của những người Mỹ và bằng cả vận mệnh của nước Mỹ. Các tổng thống Mỹ từ nay trở đi có dám chấp nhận một cuộc phiêu lưu như vậy hay không, đó còn là ẩn số. Song, không còn là ẩn số điều sau đây: chính giới Mỹ giải thích cái tình trạng tấn thối lưỡng nan của mình ở Nam Việt, sự thụt lùi của nỗ lực chống Cộng với các kết quả xám xịt bằng một luận điểm bất ngờ nhất nhưng lại được thống nhất nhất - sự tồn tại của chính cá nhân Tổng thống Ngô Đình Diệm. Con người mà 9 năm trước nước Mỹ gọi rằng “vị cứu tinh của nước Việt Nam đau khổ”, trong phút chốc đã trở thành một thứ Dracula không chỉ hù con nít mà là một hiểm họa thật sự đe dọa nước Mỹ. Chính thức mà nói, nước Mỹ đầu tư vào Việt Nam bằng cái vốn Ngô Đình Diệm. Và bây giờ, bán chính thức mà nói, nhà độc tài Nam Việt đang lên giá cực cao trên thị trường chứng khoán Mỹ - cái giá của “một vật tế thần”, hiểu theo cách phương Đông. Cái có thể trở nên chuyện huyền thoại là ông Diệm cứ ngỡ mình như một thực thể do ý Chúa. Giới doanh nghiệp Mỹ, trái lại, tiêm nhiễm một thói quen sau Thế chiến thứ 2 - nước ít bị tổn thất nhất - là không cần biết ông A hay ông B cầm quyền ở nước nào đó. Lý Thừa Vãng hay Phác Chánh Hi, Magsaysay hay Macapagal... mà chỉ cần biết các kết số lời lỗ trong các giao dịch tính bằng dollar. Và, nói theo ngôn ngữ của giới gangster: “Diệm! Hãy cầu nguyện đi!”.
Bài báo tuyệt vời! Luân tấm tắc. Nếu không bị các ràng buộc về trách nhiệm, Luân đã gọi điện khen Fanfani. Nhưng, thật kỳ quặc, Nhu không hề nhắc đến các nhận định đó của Fanfani trong hằng tá thư anh ta viết cho Luân. Fanfani, chẳng thiện cảm chế độ Diệm, nhưng cô cũng không hoàn toàn tán thành cách dính líu của Mỹ vào Nam Việt. Hiểu theo một nghĩa nào đó, Fanfani đánh động ông Diệm. Tờ Financial Affairs sở dĩ đăng bài này của Fanfani là vì - chính Fanfani tiết lộ với Luân - số ngân hàng chi phối tờ báo chưa chia chác được bao nhiêu món viện trợ Mỹ ở Nam Việt.
Luận gặp Saroyan hai lần. Lần trước, chỉ vài tháng sau khi Luân đến Fort Bragg. Lần sau tại Paris, nơi Luân dừng chân ngơi nghỉ và sửa soạn đi Philippines và Malaysia.
Saroyan đến Fort Bragg và hẹn gặp Luân ở khách sạn, ngày chủ nhật.
- Tôi đã nói chuyện qua dây nói với bà đại tá. - Saroyan bắt tay Luân, nói luôn - Và tôi cũng báo cho bà đại tá là tôi sẽ gặp ông. Bà đại tá tỏ ý tiếc vì chương trình nghiên cứu không cho phép bà cùng ông tiếp tôi...
Saroyan, trong trang phục hè, “đẹp mê hồn” như chính Luân nói với Dung sau đó, mặc chiếc áo pull mỏng ngắn tay, quần jean bó sát, ngồi trước mặt Luân, dành cả mấy phút ngắm anh.
- Tôi nhớ ông... Nhớ một tình nhân... – Saroyan nói giọng thật buồn - Tôi cùng Fishell về Mỹ nghỉ hè ba tuần. Fishell lao đầu vào công việc của các cơ quan, quá nhiều cơ quan. Tôi chỉ đến Hội phụ nữ từ thiện Mỹ vài lần. Yêu cầu của tôi không có gì to tát nên họ đồng ý dễ dàng. Vài chục nghìn chiếc chăn, với chục nghìn đôi tất, một ít thuốc sốt rét... Thì giờ rỗng. Sang Việt Nam rồi, tôi mới biết nước Mỹ rỗng. Thr61 là tôi báo với Fishell tôi đi chơi. Ông ta chỉ xin lỗi tôi đã không thể rời Washington lấy một giờ... Tôi đến đây, bang Bắc Carolina này.
- Bà có bảo với giáo sư là bà sẽ gặp tôi không? - Luân hỏi, nhíu mày.
Saroyan cười, phô hàm răng trắng và, do đó, đôi môi càng nổi màu đỏ ướt, ngoẻo đầu, nũng nịu:
- Không báo!
Luân vẫn ngồi yên.
- Không báo không vì tôi sợ Fishell ngăn cản hay nghi ngờ tôi... Fishell không ngăn cản đâu, trái lại. Nếu tôi mà nhắc ông thì chính Fishell sẽ gợi ý tôi nên đến Fort Bragg ngay. Dĩ nhiên, gợi ý luôn một vài việc gì đó, bẩn thỉu không chịu được. Fishell không nghi ngờ, bởi tại sao lại nghi ngờ? Ông chắc không thể hiểu rằng nếu ông và tôi trở thành tình nhân thì kẻ sung sướng nhất lại là Fishell... Thế đấy, đại tá Luân!
Bỗng nghiên, vẻ nũng nịu dễ thương của Saroyan tan tựa làn khói mỏng. Và, cô ta ôm mặt khóc nức nở.
Tim Luân se thắt. Anh không mảy may nghi ngờ Saroyan chơi trò gài bẫy. Không, một cô gái – Saroyan đáng được gọi cô gái hơn là bà - đau khổ thật sự khi phải lấy một tay trùm tình báo. Anh đứng lên, vòng sau lưng Saroyan, dùng chính khăn tay của anh lau mắt cho cô.
- Đừng khóc, Saroyan!
Làn đầu tiên, Luân gọi Saroyan âu yếm như vậy.
- Đi rửa mặt nhé. - Luân xốc Saroyan đứng lên.
Gian phòng tĩnh mịch, ấm cúng, khiêu gợi. Cái gì cũng có thể xảy ra và xảy ra tới cùng. Saroyan đứng lên, gần như áp sát vào Luân, bộ ngực phập phồng theo hơi thở dồn dập. Luân nhìn vào mắt thăm thẳm của Saroyan, quàng lưng cô, dìu vào phòng rửa mặt. Luân biết rằng không chỉ riêng anh kiềm chế, mà Saroyan cũng kiềm chế.
- Tại sao Saroyan không ly dị Fishell? -Luân hỏi.
- Tại sao tôi không ly dị? - Saroyan cười héo hắt, khi trở lại ghế, cô không tô lại má và Luân bỗng thèm hôn lên đôi má không trang điểm đó.
- Cả tiếng Pháp và tiếng Anh đều nghèo từ hơn tiếng Việt và tiếng Ảrập - Saroyan nói - Trong xưng hô, tôi sẽ không gọi ông là đại tá Luân. Vous, toi, you, moi, I... cần hiểu theo tiếng Việt. Tôi biết tiếng Việt quá ít và chưa hề dùng nó bao giờ. Anh, em.. Được không?
Luân cười buồn và gật đầu.
- Em trở lại câu hỏi của anh. Không ly dị vì luật Hồi giáo không cho người phụ nữ cái quyền đó. Ly dị là một khái niệm xa lạ đối với đạo Hồi. Chỉ có việc người đàn ông bỏ một người đàn bà... Người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ và ruồng bỏ...
- Nhưng, Saroyan không cần cả cái mạng che mắt, biết uống rượu, hút thuốc lá, ăn thịt lợn, chắc không bao giờ đọc kinh Coran và hành hương về La Mecque (7)
- Biết khiêu vũ nữa! - Saroyan tươi tỉnh lại.
- Koweit không phải là nước Ảrập quá bảo thủ, anh hiểu như vậy... .
- Anh chưa hiểu gì cả, Luân ạ... Em còn cha mẹ, còn chị, anh và em... họ đang sống ở Koweit. Anh có biết ai dự lễ cưới của em với Fishell không? Tiểu vương Koweit. Nước Mỹ và riêng Fishell cần dầu lửa Koweit, nhà vua Koweit biết rằng dân Koweit không thể bới bằng tay để tìm dầu lửa. Đó là một sợi dây cột em cho đến khi nào chính Fishell thấy cần một người vợ khác, một phụ nữ da đen chẳng hạn, bởi nước Mỹ và cơ quan của Fishell không dừng tầm dòm ngó trong một giới hạn nào cả.
- Coi chừng vợ Fishell có thể là một phụ nữ ở sao Kim! - Luân đùa.
- Anh nói không quá đâu. - Saroyan vẫn nghiêm nghị - Nếu sao Kim có sinh vật và nước Mỹ mò tới... Nhưng em không cắt sợi dây ràng buộc ấy chẳng phải chỉ vì số phận những người thân ở Koweit. Em tự hỏi: Tìm tình yêu ở đâu?
Saroyan lại khóc lần nữa. Luân không ngăn cô. Thôi để cho cô ấy khóc, nước mắt làm vơi đi u uất...
- Em chưa có tình yêu. Fishell là người đàn ông đầu tiên biến em thành đàn bà nhưng giữa ông ta và em có đủ các thứ của mối giao tiếp nam nữ, trừ tình yêu. Giả sử Fishell yêu em, chắc chắn em sẽ đáp ứng lại với tất cả tấm lòng. Ngoài lý do chữa trị, Fishell cần đàn bà. Chỉ có thế thôi... Em nói hơi thô, anh đừng giận. Fishell coi đàn bà như một giống vật và đàn bà đối với Fishell được ghi trong chương trình hằng ngày của òng ta, vào giờ nào và bao lâu. Fishell cấm em có con với ông ta. Fishell trên 60 tuổi, chính thức ăn ở với năm người gọi là vợ và ông ta không có một đứa con nào cả. Trên tất cả em muốn anh hiểu một điều: Fishell là người Mỹ...
Luân thở dài. Ngồi cách anh có nửa mét, một phụ nữ đẹp đang oằn oại. Chắc chắn Saroyan không thiếu các loại trang sức đắt tiền nhất, các tiện nghi sinh hoạt hiện đại nhất. Vậy mà Saroyan vẫn là người nghèo, rất nghèo...
- Anh biết John Hing không? - Saroyan hỏi đột ngột.
- Có!
- Fishell và John Hing thuộc hai huyết thống khác hẳn nhau nhưng lại giống nhau như hai giọt nước. Với anh, em không muốn che giấu bất kỳ điều gì. Em đã quan sát kỹ gian phòng này, không có máy nghe lén... Một lần, Fishell đưa em đến nơi John Hing, nói là thăm xã giao. John Hing ngụ tại khách sạn Majestic. Fishell dặn em mặc jupe, để hẳn vai trần. John Hing ôm hôn em như hôn vợ một người bạn, sau đó, bảo Fishell: Bà nhà thật mỹ miều, nhưng tôi bao giờ cũng hành lạc vào buổi trưa. Tôi không phí thì giờ ban đêm, bởi đêm tối cho ta nhiều gợi ý; giữa lúc thiên hạ ngủ, ta thức!? Chúng ta nên bắt đầu trao đổi những suy nghĩ, còn bà Fishell có thể tìm nơi giải tri khác. Em hoàn toàn không ngờ Fishell sử dụng em như một con điếm. Em tát vào mặt cả Fishell lẫn John Hing và ra khỏi phòng. Không ai trong họ phản ứng - có, có phản ứng, họ cười. Tiếng cười cũng không lâu. Đêm đó, em khóc. Fishell về nhà, không mang theo một tí mùi rượu nào. Ông ta thay quần áo và bảo em, giữa lúc chiếc gối của em ướt đẫm: Xong rồi! Thống nhất rồi!... John Hing là tay rất biết điều. Ngày mai, Lansdale sẽ gặp tôi. Ngày kia, tôi sẽ gặp Lâm Sử, một tay Trung Cộng, có cỡ... Fishell vừa nói vừa lột quần áo em. Em chống cự. Gì thế? - Fishell hỏi. Và ông ta không cần em trả lời, bởi đồng hồ trên bàn chỉ cái giờ mà Fishell đã xếp công việc hàng ngày.
Luân lấy một chiếc khăn ướt, lau mặt Saroyan.
- Fishell biết rõ quan hệ giữa Nolting vả Lệ Xuân. Chính Fishell tạo điều kiện cho quan hệ đó nẩy nở, kéo dài. Ảnh làm tình của hai người phải kể đến hàng xấp trong tủ Fishell. Nhưng bây giờ, Fishell cho rằng không cần thiết nữa. Ông ta hay đùa với Nolting: Anh say mê nghề ngoại giao mà buông thả trái tim thì tốt nhất nên về vườn! Fishell chưa một lần hôn Lệ Xuân, ông ta bảo: Tôi không tìm cảm giác trong cái hôn, còn dấn sâu với con mụ này, tôi lại không có nhu cầu, mặc dù công bằng mà nói, thân thể mụ hấp dẫn.
- Saroyan! - Luân kêu khẽ.
Saroyan đưa tay ngăn Luân:
- Anh cần nghe, nghe cho hết. Phần cốt yếu khiến em đến gặp anh, em chưa nói... Tất nhiên, em không bao giờ được tiếp xúc với các tài liệu mật của Fishell, song thỉnh thoảng vẫn nghe Fishell nói với người này người khác, đôi khi nói với em. Lần nghỉ hè này, Fishell thật sự làm việc với Colby - anh thừa biết Colby là ai. Cùng về Mỹ, tuy xê dịch thời gian, cả Lansdale, William Porter, James Casey. Em tin rằng họ sửa soạn một phúc trình cho Tổng thống Mỹ - những bản phúc trình của họ bao giờ cũng được Tổng thống đánh giá cao. À, em quên, John Hing cũng về Mỹ. Có thể ông ta không trực tiếp hội họp với Colby nhưng, theo em hiểu, tiếng nói của John Hing đặc biệt nặng trong chính sách Viễn Đông của Tổng thống Mỹ, bởi cũng theo em suy luận, John Hing vừa là thành viên quản trị Công ty vũ khí Colt, vừa là phó chủ tịch Tổng công ty hóa chất Ohio Chemical Corporation, chuyên sản xuất thuốc diệt cỏ, và nhiều công ty siêu quốc gia khác nữa, vừa giữ liên hệ chặt với giới Hoa kiều Đông Nam Á, được cả Đài Bắc lẫn Bắc Kinh tin cậy... Vấn đề sẽ được đặt ra là còn hay không còn cần ông Diệm ở Nam Việt, đứng về lợi ích của Mỹ và cả của những quan hệ đan chéo trong vùng. Fishell gần đây hay cáu kỉnh với Nolting và theo em, Nolting sắp bị thay thế.
Luân rót cho Saroyan một cốc nước.
- Nếu chỉ là việc ông Diệm, em không phải bận tâm... Nhưng anh là người của ông Diệm. Fishell từng nhiều lần khen anh. Em không đủ sức phán đoán các khả năng. Tuy nhiên, em vẫn linh tính có đến hai triển vọng về anh. Hoặc anh sẽ trở nên một con người mà vị trí na ná như ông Diệm ở Nam Việt hoặc anh sẽ không còn là gì cả. Fishell khen anh. Nhưng, trong lời khen, ông ta hàm ý gờm anh. Fishell gờm ai thì thật rất rủi ro cho người đó...
Những điều Saroyan thổ lộ không phải bất ngờ đối với Luân, kể cả phần mà tình báo Mỹ dành riêng cho anh - chiếc ngai hay một phát súng. Trong lần gặp gỡ đầu tiên với đại sứ Mỹ Rheinardt tại Câu lạc bộ thủy trên bán đảo Bình Quới Tây, Luân đã nghe ý định của người Mỹ. “Nước Mỹ cần những con đại bàng biết khống chế những con đại bàng khác bay cho đúng hướng”. Hình như Rheinardt nói một câu tương tự như vậy.
Tuy nhiên, Luân vẫn băn khoăn và anh không đủ dữ kiện để giải đáp: Liệu rằng thay thế Diệm trong thời điểm hiện nay đã thật có lợi cho cách mạng chưa? Năm 1957, Luân tán thành, thậm chí nhúng tay vào một hành động nhằm trừ khử Ngô Đình Diệm trên cao nguyên Buôn Ma Thuột. Lúc bấy giờ, thế lực thân Pháp chưa sụp hẳn mà thế lực thân Mỹ còn phôi thai. Mỹ có mặt ở Nam Việt chỉ với vài trăm cố vấn. Diệm mà bị lật đổ lúc đó thì Nam Việt rơi ngay vào cảnh hỗn loạn. Nhũng người kháng chiến chống Pháp, các đảng viên và quần chúng yêu nước chưa bị tổn thất lớn, cách mạng có thể giành được một cái gì đó. Sự biến tháng 11-1960 nếu thành công, tình thế tuy phức tạp nhưng chắc cách mạng sẽ giữ một vai trò có ý nghĩa. Sự biến đầu năm 1962 chỉ là trò trẻ con. Tỉ dụ như Diệm chết vì những quả bom thì Nguyễn Tôn Hoàn sẽ đăng quang. Một đảng Đại Việt cầm quyền mở đường cho lực lượng Mỹ đổ ồ ạt lên Nam Việt và trong phần nội trị, Đại Việt sẽ không chỉ xây một P.42... Bây giờ, cũng chưa cỏ những nhân tố mới khả quan hơn cho thời kỳ “hậu Ngô Đình Diệm”. Nhận định của anh chính xác không? Người mà anh có thể trao đổi trên đất Mỹ là Thùy Dung, vợ anh. Dung cũng băn khoăn như anh. Thật cực khi mà tình thế phát triển vùn vụt, anh lại phải mỗi ngày nếu không có mặt ở giảng đường để nghe các tướng lĩnh, các giáo sư Mỹ thuyết giảng thì vẫn cắm đầu trước những trang sách trong thư viện. Dung không khác anh. Cô than thở: phải nghe, phải đọc, phải ghi chép và phải nhớ những nguyên tắc và biện pháp nghiệp vụ cảnh sát, đối lập trong từng chi tiết với kiến thức và tình cảm của cô. Họ khổ sở trong vai diễn, nhưng họ khổ sở hơn khi ở đây, cách Tổ quốc cả một đại dương, anh Sáu Đăng hay A.07 chẳng thể nào hướng dẫn họ. Nguyên tắc hoạt động của họ ngăn cấm một cách khe khắt mọi quan hệ với bên ngoài, kể cả những thế lực, nhân sĩ, cá nhân tốt bụng đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng, dù người Mỹ, người nước ngoài hay Việt kiều.
- Em đến đây với mục đích thông tin cho anh, mà cũng chỉ có thể thông tin bao quát như vậy thôi...
Saroyan ái ngại nhìn Luân. Cô tôn trọng cái trầm ngâm kéo khá dài của anh.
- Bây giờ em phải về và sửa soạn theo Fishell sang Việt Nam để tiếp tục những tháng ngày cay đắng. Cầu Đức Ala phù hộ cho anh và mong anh cầu đức Chúa Trời phù hộ cho em...
Saroyan lại bưng mặt khóc... Luân đứng lên, đến cạnh cô, nhẹ nhàng nâng cô dậy, âu yếm vuốt tóc cô. Saroyan ghì chặt Luân và trong nước mắt đầm đìa, cô hôn Luân trong tiếng kêu nho nhỏ: “Anh yêu!”
Luân chợt nhớ đến Tiểu Phụng trong vùng tối của một tàng cây trên đường phố Sài Gòn vào một đêm mà sau đó, sau cái hôn nồng nàn Tiểu Phụng tặng anh, cô gái người Hoa đáng thương đã chết thê thảm. Luân rùng mình. Saroyan đờ đẫn ngó anh:
- Anh khinh em?
Luân lắc đầu. Với cả hai bàn tay, Luân áp chặt má Saroyan và từ từ cúi xuống.
- Em cảm ơn anh, nhưng em không chấp nhận một sự ban ơn và thương hại! - Saroyan thều thào.
“Trời! Chính Tiểu Phụng cũng nói một câu như vậy!”. Luân ngó vào mắt Saroyan và, rất kiên quyết, anh luôn cô đắm đuối. Hai người ghì chặt nhau khá lâu.
- Bây giờ, em mới cảm ơn anh đúng với ý nghĩa của chữ “cảm ơn”. Anh cho em cái mà em khao khát...
Lân tiễn Saroyan ra sân bay và anh chỉ quay lại Học viện khi chiếc Boeing lẫn vào chân trời.
Thùy Dung, một tuần lễ sau đến Fort Bragg, theo yêu cầu của Luân. Cô nghe tất cả và cô cũng khóc nức nở, không phải vì ghen tức.
- Nếu có một người con gái mà em thương thì người đó chính là Saroyan, cũng như trước đây em thương Tiểu Phụng. Anh của em đã làm một việc đúng.
Lần thứ hai Luân gặp Saroyan tại Paris. Lần đó có Thùy Dung. Luân tế nhị để cho hai người nói chuyện trên những lối mòn của khu rừng Boulogne.
Saroyan sắp trở lại Koweit và cô cho biết, có lẽ không phải cô mà Fishell thực hiện việc ly dị. Lý do rất đơn giản: trữ lượng dầu mỏ của Koweit thấp hơn của Arabie Seoudite và Fishell sau ly dị sẽ lấy một người trong hoàng tộc Faycal - nghe đâu bà này trên 50 tuổi.
Cả Luân và Dung đều chỉ có thể chia sẻ nỗi đau của Saroyan bằng những lời khuyên. Saroyan cung cấp cho họ thêm một số tài liệu mới, đặc biệt là những tài liệu về mối quan hệ của Fishell với một nhà sư ở Nam Việt. Không phải ngẫu nhiên mà khoa Phật học được thành lập vài năm nay ở trường Đại học Berkeley và Michigan. Người ta bắt đầu nói đến các nhà sư tiến sĩ Phật học như các tiến sĩ Thần học là linh mục trước đây.
- Với anh, em chỉ khuyên một câu trong lần chia tay có thể coi như là vĩnh biệt này: hết sức cẩn thận…
Saroyan nói với Luân như vậy trước mặt Dung. Cô chỉ bắt tay Luân mà không hôn, mặc dù Dung đã bước cách họ khá xa, một dấu hiệu cho phép.
- Em chỉ cần một lần được yêu là đủ. Anh hãy dành tất cả cho Thùy Dung. - Saroyan bảo Luân, rưng rưng nước mắt.
- Tại sao vĩnh biệt? - Luân hỏi.
Saroyan nhún vai.
- Em không thể tiếp tục ở Sài Gòn cho đến khi nào xong thủ tục ly dị? - Luân bảo.
- Em hiểu! - Saroyan cười - Em sẽ cố gắng và có gắng vì anh. Anh cho phép em? - Saroyan hôn Luân - Em hôn để cảm ơn sự tin cậy của anh.
Saroyan ôm ghì Dung khá lâu. Cả hai đều khóc. Saroyan khẩn thiết xin Luân và Dung đừng tiễn cô ra sân bay.
*
Thư của Nguyễn Thành Động gồm toàn tin chiến sự với cái giọng xốc hông quen thuộc của anh ta.
“Lão Harkins bị Việt Cộng đấm cho gãy hết cả răng - từ nay lão sẽ không ăn bánh mì mà chỉ ăn cứt thôi. Ngày 2-1-1963, con ách chủ của Harkins bị cháy queo. Tin tình báo cho biết Việt Cộng tập trung 2 tiểu đoàn ở rìa Đồng Tháp Mười, tại một địa danh mà khi xuất hiện trong bản thông báo chiến sự thì chỉ có trời mới cạy cái tên đó ra khỏi lịch sử quân sự nước Mỹ: Ấp Bắc. Tôi đoán chắc là đại tá không thể tìm trên bản đồ tỉ lệ lớn nhất tên cái ấp này. Thế là Harkins ra lệnh cho Bộ tổng tham mưu của ta, với sự yểm trợ của một khối lượng trực thăng lớn chưa từng thấy chở 5 tiểu đoàn gồm Biệt động quân, lính Sư 7, lính Dù đổ xuống cánh đồng đã khô ráo. Việt Cộng từ trong các công sự đã bố trí đón sẵn trận đánh này, dùng súng trường, trung liên là chính, với vài khẩu đại liên, hạ bầy trực thăng đen như quạ ấy khi chúng lọt vào tầm hiệu quả của hỏa lực. Trực thăng rơi như lá vàng rơi - đại tá cho phép tôi nói văn chương một chút. Thông cáo của tướng André êm đềm như bài Blue Danube nhưng vợ con bọn lính kéo đến nhà xác để nhìn mặt lần chót người thân của mình thì náo động cả Sài Gòn, cả Mỹ Tho. Cái huyền thoại “chiến thuật trực thăng vận” gãy đổ giống những nhà cao tầng giữa một cơn động đất. Thế mà, 3 hôm sau, tướng Harkins dù mất hết răng vẫn ca ngợi nhưng chiếc trực thăng của ông ta. Đại tá thấy rồi đó, 11.000 quân Mỹ ở Nam Việt không múa được một bài nào cho ra hồn. Tôi có thể tóm tắt tình hình quân sự như sau: chúng ta bị đánh tơi bời khắp các hưởng, bị đánh đến sặc máu mũi, què giò, bò lê bò lết. Khi đại tá về nước sẽ làm việc với xếp mới: trung tướng Dương Văn Minh được cử làm cố vấn quân sự Phủ tổng thống, giao chức Tư lệnh hành quân lại cho Mai Hữu Xuân và trung tướng André từ Tư lệnh vùng I về giữ chức Tư lệnh lục quân. Kiến Hòa thân yêu của chúng ta, nhờ trời, chưa bị vố nào choáng váng, có lẽ vì chúng tôi chưa chịu nhận cố vấn quân sự Mỹ. Có tin sắp tới Trần Ngọc sẽ ra làm tỉnh trưởng Thừa Thiên thay cho Nguyễn Văn Đăng nào đó. Em út của đại tá, thằng Động này ớn sườn nếu người ta lại nổi điên cử Động làm tỉnh trưởng. Cầu trời khấn phật cho đại tá về sớm, họa may bầy em út sống lâu được chăng. Bọn thằng Trương Tấn Phụng, Lê Khánh Nghĩa, luôn cả ông Lâm - vừa mới lên lon thiếu tướng - cũng mong như tôi. Thằng cha Cao Tòng gì đó sư trưởng 13, đã thôi nghề cầm quân và được giao nhiệm vụ đúng sở trường của y - y vốn nổi tiếng “đại tá lái bò” - phụ trách quân nhu vùng III, chuyên cung cấp thuốc lá quân tiếp vụ cho lính cùng với những hộp thịt bò đóng nhãn một hãng miền Nam nước Mỹ, nhưng ra lò tại các căn phố của “chệc” Chợ Lớn… Thêm vài cái mới, nói trước để đại tá khỏi bỡ ngỡ khi trở về: máy bay bắt đầu rải các chất hóa học làm trụi lá cây. Vườn dừa hiền hòa của tụi mình còn một cái thân chĩa lên trời. “Tô hủ tiếu” (8) vừa tuyên bố một chính sách đặc biệt ly kỳ rùng rợn, gọi là chính sách chiêu hồi và cho thành lập những khu để nhốt mấy thằng cha Việt Cộng hụ hợ, chầu rìa, giả hiệu. Thành phần phe Quốc gia tụi mình “được tăng cường” với mấy thằng chó chết đó thì mùi xú uế càng lừng.
Bao giờ thì tụi này có thể khui sâm banh đón đại tá?”
Mỗi lần nhận được thư của Nguyễn Thành Động, Luân toát mồ hôi. Thư bị kiểm duyệt thì chết cả đám Rất may, Động không bao giừ gửi thư theo đường bưu điện, mà do những người bạn thân mang sang...
Đại sứ lưu động Ngô Đình Luyện gặp vợ chồng Luân ở London. Vợ chồng Luân sang thăm người chị của Luân đang dạy học tại đây. Luyện trao cho Luân một bức thư của Nhu mà Luyện không rõ nội dung.
“Anh Luân!
Nếu có cách nào tiện và an toàn tuyệt đối, anh sang Berlin gặp người anh của anh đang làm đại sứ ở Đông Đức. Điều kiện của phía bên kia về một giải pháp cho vấn đề Việt Nam là những gì? Anh đốt thư này. Chào anh, thăm cô Thùy Dung.
Nhu.
16-2-l963.
Tái bút: Giữ kín cả với ông bà nhạc của tôi và với chú Luyện”.
Bức thư ngắn gần như một điện tín được bọc trong ba lần phong bì. Luân lặng lẽ đốt thư và suy tính. Có nên không? Qua người chị, Luân biết anh của mình mạnh khỏe và trong gia đình, họ vẫn thư từ cho nhau. Người chị không có gì phải ngại: một nhà giáo không hoạt động chính trị. Chị đã vài lần sang Đông Berlin thăm anh. Khi Luân đến London, chị
định gọi dây nói cho người anh, nhưng Luân ngăn lại - điều khiến người chị giận dỗi.
- Anh em ruột nói chuyện, thăm hỏi một chút cũng không được sao? Phía ông Diệm cứ cho phía bên kia nằm sau bức màn sắt, bây giờ chị hiểu ai mới đố kỵ các quan hệ bình thường của con người...
Luân không giải thích và biết khó mà giải thích cho người chị thông. Luân cứ phải đặt mình luôn luôn trong tầm theo dõi của tình báo Mỹ và các phe chống Diệm đang lưu vong. Anh nhớ nhiều cú điện thoại của Nguyễn Tôn Hoàn, của Nguyễn Chánh Thi, Phan Huy Cơ… mặn có, chua có, cay có, thậm chí hăm he, chửi bới. Ngay chuyện James Casey đến Học viện cảnh sát thăm Dung cũng cho thấy sự bao vây đó.
James Casey, sau nhiều lần nói chuyện với Dung bằng điện thoại, đã bất thần đến trường, vào một buổi mà hắn nắm chắc là Dung có mặt một mình nơi phòng riêng.
Học viện cảnh sát đặt tại thành phố Greewonod, cách Fort Bragg 4 giờ xe lửa tốc hành và 50 bay.
James Casey gõ cửa. Dung ngồi cạnh điện thoại, đang nói chuyện với Luân, ngỡ người phục vụ gõ cửa nên mời vào. James Casey lọt vào phòng, Dung thoáng cau mặt, nhưng cô thay đổi liền thái độ.
- Chào trung tá... Xin mời ngồi... Chờ tôi một chút, tôi đang nói chuyện với nhà tôi...
Dung nói cho cả James Casey và Luân cùng nghe.
- Vâng, trung lá James Casey đến thăm em... Anh muốn nói chuyện với trung tá? - Dung quay về phía James Casey - Nhà tôi muốn nói chuyện với trung tá...
Thật ra, Luôn không bảo như vậy, chính Dung gài thế trận. Trước khi trao máy cho James Casey, Dung nói thêm:
.- Bây giờ là 14 giờ. Em sẽ đón anh vào 16 giờ để cùng đi xem hát và ăn tối... Vâng, máy bay cất cánh lúc 15 giờ, em nhớ...
Đó là cái hẹn không có thật - James Casey cầm máy, hau háu dán mắt vào ngực Dung - Dung mặc robe de chambre - và khi Dung đi vào phòng trong thay áo thì tuy miệng liếng thoáng nói với Luân, James Casey trông theo đôi chân trần của Dung như muốn nuốt chửng...
Dung trở ra trong bộ quần áo sĩ quan cánh sát. James Casey hiểu đó là dấu hiệu tống khứ hắn. Hắn ngồi đối diện với Dung, chưa mở lời thì người phục vụ đã vào phòng mang thức uống. Dung gọi người phục vụ từ phòng ngủ của cô. Người phục vụ - một cô gái Mỹ - ngồi ở góc phòng khánh, chờ yêu cầu.
- Rủi ro cho tôi. - James Casey thở dài. – Tôi đến không đúng lúc. Bà sắp phải đón ông... Trong dự định, tôi muốn xin bà cho cái hân hạnh là được cùng bà đi dự một buổi nhạc, cùng ăn... Tôi sắp sang Sài Gòn, dành phần thời gian cuối này cho cuộc gặp gỡ mà tôi ao ước từ lâu... Thật rủi ro....
- Có gì gọi là rủi ro, thưa trung tá. - Dung trả lời, giọng oai nghiêm - Nếu không trở ngại, xin mời trung tá trở lại vào 17 giờ, vợ chồng tôi sẽ rất vui mừng được mời trung tá đi xem kịch, nhạc và dùng bữa.
- Cảm ơn bà. Có lẽ tôi phải trở về Florida ngay, thăm qua gia đình... Từ hôm tôi về Mỹ, chưa thăm nhà. - James Casey tỏ tình khá trắng trợn. Tất nhiên hắn nói láo. Vợ hắn đeo hắn, có lẽ hôm nay hắn bày một mẹo đó mới thoát tới đây...
- Tôi hỏi bà một việc; bà có cần gửi thư cho ông cụ ở Hà Nội không? Tôi sẽ chuyển đi giúp. Nghe đâu ông cụ đang yếu. - James Casey thì thào.
James Casey đánh đúng cái khao khát của Dung. Từ lâu, cô bặt tin cha. “Chà, viết được cho bố vài chữ, hay quá!” Dung nghĩ.
- Tôi cũng có thể chuyển trở lại cho bà thư của ông cụ... Với bà, điều gì làm được, tôi không từ chối...
James Casey ngó trân trối vào môi Dung.
“Không được!”. Dung nhanh chóng trở lại thực trạng.. .
- Vô cùng cảm ơn trung tá. Song, tôi thấy không cần thư từ cho cha tôi... - Dung lấy tất cả sức mạnh để nói một câu trái ngược với thâm tâm đến như thế.
- Quái! - James Casey kêu - Tại sao bà lại có thể không nhớ ông cụ? Mấy dòng thăm hỏi, sao không làm?
- Tôi nhớ bố tôi, tất nhiên. Song, tôi không muốn những hàng chữ của tôi bị lợi dụng. - Dung mỉm cười.
- Lợi dụng? - James Casey trố mắt - Ai? Tôi?
- Cộng sản bắt được thư của tôi, thật rầy rà...
James Casey nhún vai. Chuông điện thoại reo. Dung đến máy.
- Alô! Anh đó hả? - Dung reo - Vâng, anh sắp ra sân bay. Em cũng vậy... Trung tá James Casey chắc cũng sắp từ giã em về Florida. Vâng, nhất định em có mặt ở sân bay trước anh... Anh muốn thi với em ư? Anh sẽ thua... Không, em lái cẩn thận. Nếu em đứng ngay cầu thang máy bay khi anh vừa xuống thì anh thua em cái gì nào?... Ồ! Anh yêu, sao anh lại có thể ở với em những ba hôm? Thế thì em phải vạch ngay một chương trình...
Dung phấn khởi - đúng vậy - nhưng cô cố tình bộc lộ công khai sự phấn khởi như chặn mọi mơ ước hão của James Casey. Cô biết là Luân không muốn cô một thân một mình đối phó với James Casey. Không phải Luân giả bộ để lừa James Casey, mà anh sắp đến thật.
Đặt máy xuống, mặc kệ James Casey ngồi thừ người với ly Cognac, Dung liếng thoắng dặn cô hầu phòng các việc cần sửa soạn, luôn việc phải làm ngay loại hoa mà Luân thích...
James Casey đứng lên.
- Xin chào bà...
Hắn thất thểu ra cửa và, đây là lần đầu, hắn không hôn tay Dung.
*
Nên hay không nên? Nhu có lẽ đã bị chặn hết lối thông sang phía bên kia nên mới nhờ Luân. Dứt khoát không phải là cái bẫy giăng nhằm vào Luân, một tín hiệu SOS thật sự. Nhưng, cuộc tiếp xúc, nếu có, lợi hại như thế nào? Thôi được, A.07 và các anh sẽ quyết định điều đó. Còn Mỹ? Chúng có chực chờ để vồ Luân khi anh liên hệ với một đại sứ Cộng sản Việt Nam ở một nước Cộng sản, dù cho đó là anh ruột của Luân? Dung cũng nát óc như Luân. Nằm chung trên chiếc gối, hai người ngó lên trần nhà, im lặng. Bên ngoài, sương mù dày đặc.
Luân có một người anh - anh Hai - bác sĩ Louis Nguyễn Thành Luân, mở phòng mạch tại Toulouse. Vợ đầm, nhưng Luân và Dung chỉ gặp Louis ở Paris, lần nào cũng đều ra sứ quán vì Louis thuộc nhóm trí thức thiên tả. Chị Tư của Luân, Christine, kiến trúc sư, sống ở Milan, Ý, sang Mỹ thăm Dung và Luân nhiều lần. Hai vợ chồng Luân cũng sang Milan một lần, ở nhà Christine. Christine và chồng - họa sĩ tranh trí – yêu nghề và yêu nước, yêu nước kín đáo. Em út của Luân, Marie-Louise, cũng kiến trúc sư và chồng là kỹ sư hóa học, công khai ủng hộ kháng chiến Việt Nam, hội viên tích cực của phong trào Việt kiều yêu nước Quebec, cho nên khi Luân và Dung sang Canada không bao giờ đến Quebec, chỉ gặp em tại Montreal và cam kết với nhau không nói chuyện chính trị.
Marguerite giống Christine. Chồng là một nhà khảo cổ. Hai vợ chồng mù tịt về thời cuộc.
Luân và Dung phải giữ gìn từng li từng li; cũng như ở Sài Gòn, thật lâu họ mới đến thăm Gustave, anh Ba của Luân, người ghét Mỹ ra mặt...
- Anh ơi! - Dung quay người sang chồng – Em nghĩ là anh nên gọi điện cho anh Năm. Gọi điện từ đây cũng được. Chỉ cần tính câu nói thế nào để anh Năm hiểu được Nhu muốn tiếp xúc với ta...
Luân vẫn nằm im.
- Theo em, anh không gọi điện hay không tỏ ra một cử chỉ nào muốn thăm hỏi anh Năm sẽ bất lợi. Chúng tinh vi lắm....
Dung nói đúng. Luân cũng tính đến tình huống đó. Anh hôn vội lên má Dung, rồi trỗi dậy. Nửa giờ sau, cuộc điện đàm bắt đầu:
- Alô, Robert đây...
- Alô, Jean đây...
- Khỏe không, Jean?
- Khỏe, còn Robert?
- Khỏe. Em và vợ em đang ở chỗ Marguerite...
- Vậy sao? Đến đó lâu chưa? Chút nữa, cho anh nói chuyện với Thùy Dung.
- Vâng... Đã 9 năm rồi, anh em ta không gặp nhau. Em rất nhớ anh... Chà, giá mà em gặp anh để xem anh thay đổi như thế nào? Chị khỏe không?
- Tất nhiên, anh rất muốn gặp chú và cô em dâu. Chị khỏe, nhắc chú luôn. Chị than mãi: làm sao nhìn mặt Thùy Dung một lần. Chị đang ở cạnh anh... Chú nói với chị nhé...
- Thưa chị, em Robert đây. Chúc chị khỏe. Dạ, Thùy Dung sẽ nói chuyện với chị.
- Thưa chị, em là Dung. Dạ, em cũng rất muốn gặp chị…
- Chỉ nghe giọng nói, chị đã hình dung thím nó đẹp ra sao rồi... Chị hôn em nhiều. Sao lâu có con vậy... Có con đi... Con gái phải giống mẹ nghe... Em nói chuyện với anh Năm, nghe...
- Alô, thưa anh Năm, em chào anh... Dạ, cám ơn. Em không được tin bố em. Cám ơn... Chị Marguerite nói chuyện với anh...
- Alô, Marguerite đây... Em “trung lập” nên mới ráp được mối cho mấy người...
*
Khi Luân trở lại Paris, đổi máy bay sang Manila thì sứ quán Việt Nam chuyển đến anh một bức thư.
“Tôi là người của luật sư Jean Nguyễn Thành Luân, muốn gặp riêng ông. Nơi gặp: bờ sông Seine, đoạn ngó sang Ile de France, vào 19 giờ ngày thứ ba. Tôi biết mặt ông, nên sẽ tự tìm ông”. Chữ ký tên không đọc được...
Luân mỉm cười. Anh gửi lại sứ quán bức thư đó và đề nghị đại sứ, nếu thấy cần, tìm hiểu người gửi và báo cáo cho Nhu biết.
Luân ở Manila 10 ngày. Những cuộc tiếp xúc với các cơ quan chống du kích Huk không có gì đáng chú ý. Chính phủ Philippines chủ yếu dùng lực lượng quân sự tiến công quân Huk. Sai lầm của du kích Huk là bám rùng núi, nơi rất ít dân và khó khăn về lương thực. Philippines lại gồm nhiều đảo, quân chính phủ dễ phong tỏa du kích. Luân biết chắc Huk sẽ chỉ mỗi ngày mỗi khó khăn hơn mà thôi, trừ phi họ đổi phương thức hoạt động.
Anh sang Kuala Lumpua. Tình hình chung của du kích Đông Nam Á giống nhau: họ bước vào cuộc chiến đấu bằng các giáo huấn và kinh nghiệm của Mao Trạch Đông. Thật tai hại khi người ta nâng thành phổ cập công cuộc giành chính quyền ở Hoa Lục: Trung Quốc đất rộng, người đông, chọn căn cứ lãnh đạo đầu não ở vùng có thế vững, trực tiếp nhận giúp đỡ của Liên Xô và tiến hành đấu tranh trong những điều kiện đặc biệt: cả thế giới lo chống chủ nghĩa phát xít, vấn đề dân tộc - tức là nạn xâm lược của Nhật – nổi bật trong yêu cầu chính trị của nhân dân Trung Quốc, giai cấp tư sản cằm quyền vừa yếu, vừa thối nát, vừa chia rẽ và nhất là chưa có kinh nghiệm chống du kích; khi Nhật bị Liên Xô đánh bại, Trung Cộng thừa hưởng đủ mọi thứ: thế chính trị, đất đai kiểm soát, cơ sở vật chất và vũ khí... Các nước Đông Nam Á trỗi dậy sau chiến tranh, trừ 3 nước Đông Dương, hầu hết đều do giai cấp tư sản bản xứ lãnh đạo công cuộc đòi độc lập, đi từ những yêu sách tự trị mà thu hồi dần chủ quyền. Những người Cộng sản không giữ được vai trò hàng đầu, nói chung không giành được ngọn cờ độc lập dân tộc.
Trong thắng lợi của những nước tư sản ở Đông Nam Á, xét cho cùng, có phần thỏa hiệp của chính các nước thực dân nhằm ngăn chặn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cũng phải kể đến một thực tế là sức ép của Mỹ. Mỹ lợi dụng sự suy yếu của các đế quốc mà mở rộng ảnh hưởng; các đế quốc muốn duy trì sự có mặt của mình ở các thuộc địa cũ đều phải dựa vào Mỹ. Nơi đấu tranh gay gắt nhất, đồng thời cũng có những tiền đề phát triển cách mạng tốt nhất là Indonésia, nhưng sai lầm của đảng Cộng sản - chính xác hơn là sai lầm của quan điểm Mao Trạch Đông - đã dẫn đến một kết quả cực kỳ đau đớn. Tác động xấu của sự kiện Indonesia len lỏi tận các vùng heo hút của Malaysia, nơi mà thực tế cấu tạo dân số rất phức tạp đã phản ánh vào nội bộ đảng Cộng sản: Chủ tịch đảng là một người Mã Lai, Phó chủ tịch là người Ấn và Tổng bí thư – Trần Bình - một người Hoa chính cống. Có thể diễn đại tình hình Malaysia như thế này: chiến sĩ du kích phần lớn là phu cao su người bản xứ cộng với một ít công nhân nông nghiệp người Ấn, vài người Thái, còn đảng viên lãnh đạo, kể cả Trung ương nằm trong tay người Hoa. Khi Luân đến Malaysia, ấp chiến lược đã trở thành đơn vị hành chính khắp lãnh thổ, vùng du kích thu hẹp và xê dịch dần lên phía bắc, giáp với biên giới Thái Lan. Nguy cơ tan rã của du kích Malaysia lớn đến nỗi nhà cầm quyền Malaysia giới thiệu với Luân hàng loạt cán bộ cấp cao của quân du kích lần lượt đầu thú và đang hợp tác với cơ quan an ninh. Chua xót và tự hào - Luân và Dung sống mấy ngày ở Malaysia trong tâm trạng mâu thuẫn đó. Chua xót vì thất bại trước mắt và triển vọng khá mờ mịt của bạn. Tự hào vì Nam Việt Nam không có một chút gì giống các nước này. Kinh nghiệm chống Cộng của các nước này nhất định bị Việt Nam vô hiệu hóa.
Theo chương trình, Luân và Dung ở Malaysia 2 tuần. Nhưng, đến ngày thứ năm thì Luân nhận được điện khẩn của Nhu gọi Luân về Sài Gòn bằng một chuyến máy bay quân sự Mỹ...
*
Báo cáo Mật.
Nơi nhận: Ông cố vấn Ngô Đình Nhu.
Chúng tôi biết chắc, từ Luân Đôn, đại tá Nguyễn Thành Luân đã điện đàm dài 15 phút với người anh ruột của đại tá là Jean Nguyễn Thành Luân, đại sứ của Bắc Việt tại Đông Đức. Nội dung cuộc điện đàm chưa rõ. Kính trình ông cố vấn tường.
Mai Hữu Xuân.
Báo cáo Mật
Nơi gửi: Phân cục tình báo Paris.
Nơi nhận: Giám đốc Trung tâm tình báo Mỹ, Washington.
Đồng gửi: Phân cục tình báo Sài Gòn.
Ngày 25-2, vào 19 giờ 6 phút, từ điện thoại đặt tại ngôi nhà số 27 Red Square 411, London, đại tá Nguyễn Thành Luân nói chuyện với đại sứ quán Cộng sản Bắc Việt ở Đông Berlin sau nửa giờ hẹn với trung tâm bưu điện. Người hẹn là Marguerite Nguyễn Thành Luân, giáo sư London Music Center, chủ hộ. Người tiếp nhận điện là Jean Nguyễn Thành Luân, luật sư, đại sứ Bắc Việt. Đã ghi âm được cuộc nói chuyện. Toàn bộ như sau...
Trong cuộc điện đàm, xin được phép lưu ý các vị về những câu: “giá mà em được gặp anh” của đại tá, “anh rất muốn gặp chú” của Jean, “em trung lập” của Marguerite... Có thể hiểu như qui ước về một cuộc hẹn nào đó. Tất nhiên cần phải phối kiểm và đối chiếu với nhiều sự kiện khác mới đi đến những kết luận chính xác. Một tràng những sự kiện đó là đại sứ lưu động Ngô Đình Luyện từ Sài Gòn bay thẳng sang London gặp đại tá Luân.
Điện khẩn
Nơi gửi: Đại sứ quán Mỹ, Kuala Lumpua
Nơi nhận: Đại sứ quán Mỹ, Sài Gòn.
Độ mật: Tuyệt mật.
Đại tá Nguyễn Thành Luân đột ngột rời Malaysia mà lý ra ông ta phải ở thêm gần mười ngày nữa. Yêu cầu theo dõi và xác minh lý do.
---
(1) Người đối thoại
(2) Đối thủ - đối thủ
(3) Thẳng thắn, sòng phẳng
(4) Ông hoàng “bốc”.
(5) “Point Quatre” Plan Truman: tháng 1-1949, tổng thống Mỹ Truman công bố bổ sung chương trình Marshall một điểm (điểm 4): Mỹ sẽ giúp đỡ tài chính và kỹ thuật cho các quốc gia chậm tiến, nhằm mở rộng ảnh hưởng Mỹ.
(6) Nhà thiên văn và bác sĩ (1503-1566), tên thật là Michel De Nostre-Dame, tác giả các quyển sách tiên tri.
(7) Đất thánh của đạo Hồi.
(8) ám chỉ Ngô đình Diệm, do đọc trại “Ngô tổng thống” mà ra

CHƯƠNG 3

Vừa đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhứt, Luân và Dung cảm giác liền cái không khí ngột ngạt của thủ đô. Những người ra đón vợ chồng Luân, tuy cái bắt tay đầu tiên rất chặt theo phép lịch sự nhưng đôi mắt thì đầy lo âu. Có lẽ trừ James Casey, hắn ta quan tâm về hướng khác và một sĩ quan không quân Việt Nam, trung tá Nguyễn Cao Kỳ. Trong vòng non 2 năm, Kỳ được thăng hai cấp và lần này y thêm một bộ râu mép khá dầy.
Trong khi chào và bắt tay Luân, đôi mắt một mí của y loé lên ánh sáng kiêu ngạo và y không cần phải cố ngoi để cho mọi người trông thấy y như trước đây. Đại tá Đặng Văn Quang lặng lẽ bước cạnh Luân còn Trần Trung Dung thì nói khẽ vào tai Luân: Tình hình gay go lắm, anh vào ngay dinh Gia Long gặp ông cố vấn.
Tại phòng đợi sân bay, số phóng viên báo chí nước ngoài, tốp rời Việt Nam và tốp mới đến đang làm thủ tục dưới sự dòm ngó đầy ác cảm của quân cảnh và cảnh sát.
- Nhiều mật vụ! - Dung bảo Luân. Anh cũng đã thấy những người mặt thường phục trà trộn trong hành khách.
Xe đưa vợ chồng Luân vào trung tâm thành phố bị nghẽn khá lâu sau khi vượt cầu Công Lý. Người bảo vệ cho biết từ một tuần nay, thành phố náo động liên tục vì các cuộc cầu siêu cho nạn nhân Huế - ngoài các buổi lễ tại tất cả các chùa, tăng ni và tín đồ còn rước bài vị, thành từng đoàn, có đoàn đông đến mấy nghìn người, kéo qua các phố, vừa đi vừa niệm Phật. Hôm nay Nha cảnh sát đô thành được đặt trong tình trạng báo động 100% để đối phó với các lễ cầu siêu lớn nhất ở Đô thành từ sau vụ Huế. Lễ cầu siêu bắt đầu ở chùa Ấn Quang, đường Sư Vạn Hạnh - Minh Mạng - Trần Quốc Toản - Phan Thanh Giản - Bà Huyện Thanh Quan. Tổ chức Phật giáo đã chính thức thông báo - thông báo chứ không phải xin phép - với Nha cảnh sát về chương trình và lộ trình nói trên. Tổng nha ra lệnh cô lập các khu vực, tuyệt đối cấm mọi hình thức ngăn cản lễ cầu siêu và cuộc diễu hành. Xe của Luân dừng trước một ngôi chùa nhỏ. Tăng ni và Phật tử choáng hết đám đất trống quanh chùa, tràn luôn mặt đường. Các nhà sư đã gắn một hệ phóng thanh khá mạnh và Luân nghe rõ từng lời, có lẽ của bài điếu văn. Đúng vậy, kết thúc bài điếu văn, người xướng đọc nói rõ: Chư vị vừa nghe ai điếu của hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam.
Lần đầu, Luân và Dung nghe danh từ mới: “Mùa pháp nạn”.
Luân trao đổi với Dung bằng mắt. Rõ ràng một cái gì hết sức nguy kịch đối với cơn bệnh trầm kha của chế độ Ngô Đình Diệm. Từ sự việc ở Huế ngày 8-5 đến hôm nay, 21-5, vừa vặn 2 tuần lễ, trung tâm phản kháng đã chuyển một nghìn cây số vào nơi nhạy cảm nhất của Việt Nam Cộng hòa. Nhà cầm quyền đã thất bại - một thất bại chiến lược - khi không thể cô lập hóa sự kiện Huế như là một hiện tượng địa phương. Không dập tắt nổi phong trào phản kháng mang danh nghĩa Phật giáo ở một thành phố nhỏ là Huế, ở một tỉnh lẻ loi ngăn cách là Thừa Thiên thì họ không có tài phép gì triệt tiêu mũi nhọn tiến công trong bộ cà sa và với tiếng niệm Phật.
Tình cảnh Việt Nam Cộng hòa giống như các dự báo thời tiết của Nha khí tượng: Một cơn bão đã hình thành ngoài khơi biển Đông, với các cấp gió bao nhiêu đó, đang di chuyển mỗi giờ bao nhiêu cây số đó… Trong lịch sử nền Đệ nhất Cộng hòa, chắc chắn rằng đây là cơn bão lớn nhất và cũng có thể tốc độ di chuyển nhanh nhất - biết cơn bão song không sao ngăn chặn nổi.
Cuối cùng, xe của Luân phải theo đường Yên Đỗ, ra Hai Bà Trưng, lại theo đường Trần Quang Khải vòng tận Đakao để về nhà. Khắp các giao điểm, cảnh sát và cảnh sát dã chiến đằng đằng sát khí, còn các đám đông tuy lặng lẽ song cứ nhìn gương mặt của họ thì đã cho thể hiểu trận đụng độ nẩy lửa sẽ bùng dậy trong khoảnh khắc.
Người thông báo cho vợ chồng Luân những tin tức chi tiết, cụ thể là chị Sáu nấu bếp. Mừng rỡ chào hỏi vợ chồng Luân xong, chị Sáu bắt đầu tuôn ra bao nhiêu là chuyện quanh các chùa. Luân biết chị Sáu hiền lành, ít nói, thật ra không hẳn là tín đồ đạo Phật theo cái nghĩa chặt chẽ. Chị tin trời Phật thánh thần, mỗi tháng hai lần rằm và mồng một mang đến một ngôi chùa nào thuận đường hơn hết mấy ốp nhang, vài nải chuối. Chị không thuộc một câu kinh Phật nào bởi tiếng Phạn rất khó nhớ, ngoài ba chữ: Nam mô Phật. Chị Sáu đứng hẳn về phía nhà chùa, khi nhắc đến vụ Huế thì nước mắt rưng rưng. Qua chị Sáu, Luân chiêm nghiệm nhiều điều: Lý do tôn giáo trong cuộc tranh chấp gây cấn hiện nay chỉ là cái cớ - nhiều thế lực dựa vào chính sách kỳ thị tôn giáo của chính phủ Diệm để khuấy động; đông đảo dân chúng nhân vụ Phật giáo và biểu lộ nỗi bất bình sâu xa của mình đối với chế độ, nỗi bất bình ngấm ngầm với đủ nguyên cớ chỉ chờ dịp là bộc phát.
Luân và Dung vào dinh Gia Long theo điện gọi của Nhu. Nhu mệt mỏi bắt tay hai người và khi Dung đi gặp Trần Lệ Xuân thì Nhu hỏi liền:
- Sao? Hồi âm favorable (1)?
Luân hiểu Nhu muốn nói đến mối liên lạc với Jean.
- Chỉ mới ở dạng bắn tín hiệu. Tôi bắn và bên kia trả lời ở mức nhận được tín hiệu. Thế thôi.
Nghe Luân trả lời, Nhu thở dài, nói như tự hỏi:
- Muộn quá rồi chăng?
Tất nhiên, đã quá muộn. Luân từng nhắc nhiều lần ý kiến của anh với Nhu: không thể xem việc thương lượng với “phía bên kia” như là một thủ thuật làm nũng với Mỹ. Không thể nào có chuyện “phía bên kia” lại chịu bảo trợ cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Vấn đề phải là thương lượng thành thật. Ngay bây giờ, ngồi trên những ngọn dao, Nhu vẫn mơ màng cái mưu mẹo của anh ta cứu vãn nổi cơ đồ sụp đổ. Hơn một năm vắng mặt ở Sài Gòn, nay trở về, nhìn qua cửa sổ, Luân thấy dinh Độc Lập đang quét lớp vôi cuối cùng. Thời gian xây dựng một cơ ngơi như vậy phải nói là nhanh. Điều đáng tiếc đối với anh em Diệm - Nhu là khi họ hoàn thành nơi phô trương quyền uy của chế độ thì chế độ đã không còn quyền uy phô trương.
- Ta đang gặp những đối thủ lợi hại. Chúng tấn công ta theo một kế hoạch vạch trước. - Nhu bắt đầu phân tích hiện tình của Nam Việt - Tôi đoán trước ý đồ của chúng chuyển địa bàn từ Huế vào Sài Gòn. Tiếc là Nguyễn Văn Y đã không bóp chết từ trong trứng ý đồ của chúng, Nguyễn Văn Y, Trần Kim Tuyến đều không phải là đối thủ của các tay thầy chùa đầy tham vọng trần tục, rất quỷ quyệt và có học thức. Lễ cầu siêu là cái gì? Xin lỗi anh Luân, các nhà sư đang dùng phương pháp của Cộng sản. Cầu siêu cho những người tử nạn ở Huế, hiền lành và hợp đạo lý biết bao nhiêu, nhưng cũng thâm độc biết bao nhiêu. Mỗi một cuộc tập họp, mỗi một câu kinh cầu nguyện đều dấy lên trong lòng những người theo đạo Phật sự bực tức… Chúng đang chơi cái trò nhen nhúm lửa…
Luân thấy tội nghiệp cho Nhu. Anh ta không phải không hiểu chế độ đang dấn vào chỗ mỗi lúc mỗi tối mịt, nhưng lại hoàn toàn không hiểu nguồn gốc sâu xa của nguy cơ đó, nhìn sự phản kháng của những người theo đạo Phật cách biệt với bối cảnh chung.
- Tại sao Tổng thống lại ra lệnh bỏ cờ Phật trong lễ Phật đản ở Huế? - Luân hỏi.
- Anh biết rõ quá mà! Tôi can nhưng Tổng thống không nghe. Người đáng trách hơn hết là Đức Cha, chị Cả Lễ và chú Cẩn. Tất cả đều không hiểu vị trí, thế lực của đạo Phật. Cộng vào đó, tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Văn Đăng và phó tỉnh trưởng Đặng Sỹ hành động như những tên ngu ngốc.
- Tôi e rằng lý giải của anh có phần đơn giản. Những cái anh nói chỉ là giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước. Tôi cũng không tin cả Đăng lẫn Sỹ, quá nhiệt thành nên thô bạo. Làm sao có thể loại trừ khả năng Đăng và Sỹ thực hiện một ý định của anh đó. Bây giờ, kể cả chúng ta lập tòa án khẩn cấp và xử bắn tỉnh trưởng và phó tỉnh trưởng Thừa Thiên cũng không giải tỏa nổi cái không khí hết sức căng thẳng khắp cả nước…
- Đại sứ Nolting vẫn nhắc lời cam kết của nước Mỹ. - Nhu nói bằng một giọng mất hết tự tin.
- Nếu chính phủ Mỹ thay Nolting? - Câu hỏi của Luân đè nặng hơn mái đầu bạc khá nhanh của Nhu.
- Đã có tin Cabot Lodge sắp thay Nolting. - Giọng Nhu như thều thào.
- Kennedy chăm sóc chúng ta kỹ quá! Ông ta cử sang Việt Nam cỡ lãnh tụ đảng Cộng hòa, ứng cử viên Tổng thống của nước Mỹ để làm đại sứ. Anh có thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề không?
Nhu không trả lời, đầu càng cúi thấp hơn, khẽ bảo:
- Chiều nay anh đến chào Tổng thống, dùng cơm với gia đình, sau đó tôi và anh trao đổi tiếp.
- Tôi xin phép anh đến ra mắt trung tướng Dương Văn Minh, bây giờ là người chỉ huy trực tiếp tôi, nếu anh vẫn chưa định giao tôi công việc khác.
- Được! Anh cũng nên chú ý xem nhận định của tướng Dương Văn Minh về tình hình Phật giáo như thế nào. Ông ta là một tín đồ sùng đạo Phật… Đáng lẽ tôi phải thông báo cho anh nhiều hơn, nhưng tôi quá mệt. Văn phòng sẽ cung cấp các tài liệu cho anh. Cũng lẽ ra anh vừa về nước, nên nghỉ ngơi nhưng công việc lại đòi anh phải giúp một tay. Tôi hy vọng đâu rồi sẽ vào đó…
Nhu ngồi im trên ghế, rít thuốc. Luân vào phòng trong chào Lệ Xuân. Lệ Xuân đang ngồi nói chuyện với Dung, mặt hầm hầm:
- Chào anh Luân mới về! - Mụ chìa tay bắt tay Luân khá lỏng lẻo - Tôi đang nói với cô Thùy Dung về Tổng nha cảnh sát. Cô Dung phải bảo với ông Y rằng không có cầu siêu, không có tụng niệm gì hết. Giải tán, đóng cửa chùa… Với mấy thằng trọc mà mềm yếu thì có ngày chết với chúng.
Lệ Xuân vụt đứng lên, nện mạnh đế giày, đi lại, quên mời Luân ngồi. Luân tự tìm chỗ ngồi.
- Bọn nó còn làm trò gì nữa? Tổng thống muốn nhượng bộ, nhà tôi cứ than: khó lắm, khó lắm… - Lệ Xuân nhại giọng chồng, bĩu môi: - Không khó! Tôi bảo phải thẳng tay. Lúc này mà không thẳng tay thì hối hận về sau. Đại sứ Mỹ cũng cùng ý kiến với tôi. Bên ngoài, Việt Cộng đánh, bên trong Phật giáo phá, không phải giữa Phật giáo với Việt Cộng thông đồng với nhau là gì? Tôi bảo phải chuyển vụ lộn xộn ở Huế, các vụ cầu siêu ở Sài Gòn, ở các tỉnh ra các vụ chính trị. Tại sao không lục soát các chùa kiếm cán bộ Việt Cộng nằm vùng, thậm chí chính các thầy chùa cỡ bự đích thân là Việt Cộng, kiếm truyền đơn, máy in, cờ, súng, lựu đạn… Không ít đâu! Ông Y trình là không có các thứ ấy!
Mắt Lệ Xuân long sòng sọc - đôi mắt ngày thường khá đẹp, rất tình tứ.
- Không có cũng phải làm ra cho có! Cô Thùy Dung hiểu ý tôi rồi chứ?
Lệ Xuân ngồi phịch xuống ghế, ôm ngực:
- Mệt chao ôi là mệt… Lại còn ra lệnh bắt Đặng Sỹ! Giá như cả nước có được vài nghìn Đặng Sỹ… Tôi bảo: Không ai được động đến sợi lông chân của Đặng Sỹ. Tôi bảo: thăng Đặng Sỹ lên đại tá!
Chuông điện thoại reo. Lệ Xuân nhấc máy.
- Helo! Yes, Lệ Xuân here…(2)
Luân và Dung khẽ chào Lệ Xuân, mụ ra hiệu cho phép hai người rời khỏi phòng… Lệ Xuân tiếp tục nói, giọng nũng nịu nhưng vẻ mặt thì thật đanh đá.
- Bà ta nổi điên rồi! - Luân bảo Dung
- Nolting gọi bà ta. Tay đại sứ Mỹ này chơi cái trò “củ cà rốt” tới cùng. - Dung nhận xét.
Hai người sang phòng làm việc của Diệm. Ông vồn vã ôm Luân, vỗ vào vai Dung, ân cần kéo hai người ngồi. Trông ông phờ phạc hẳn.
- Sao, hai cháu học hành thế nào?
Biết là ông hỏi lấy lệ, Luân cũng trả lời lấy lệ.
- Cháu Luân nghe chính giới Mỹ nhận xét về tình hình ở nước ta như thế nào? Họ về hùa với tụi xấu, phải không? - Câu này, Diệm hỏi và chăm chú chờ Luân trả lời.
- Thưa Tổng thống, cháu rời đất nước Mỹ trước khi xảy ra vụ Phật giáo ở Huế cho nên dư luận cụ thể xung quanh vụ này của chính giới Mỹ cháu chưa được biết rõ…
- Tôi muốn hỏi những ý kiến chung hơn. Phật giáo chẳng qua là việc nhỏ, rồi chính phủ sẽ thu xếp ổn thỏa thôi. Vài phần tử quá khích, bất mãn gây kích động, ta vạch mặt được chúng thì nhân tâm hết xao xuyến…
- Thưa Tổng thống, trong thời gian ở Mỹ, cháu cũng như nhà cháu bận nghiên cứu trong Học viện thỉnh thoảng mới gặp vài nhân vật Mỹ. Có thể chia các nhân vật mà cháu tiếp xúc làm mấy loại. Phó tổng thống Mỹ Johnson, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mac Namara trong vài lần gặp cháu, quan tâm đến tình hình chính trị ở nước ta, có cái họ không ưng ý, nhưng đều ca ngợi Tổng thống…
- Cháu gặp hai ông đó mấy lần?
- Thưa, Phó tổng thống Mỹ nhân chuyến đi thị sát vùng Carolina - Bắc, gọi cháu đến dinh Thống đốc của bang trong một buổi ăn sáng. Thời gian nói chuyện độ 45 phút… Còn Bộ trưởng quốc phòng Mỹ thì cháu gặp ba lần, cả ba lần đều tại đại sứ quán nước ta ở thủ đô Mỹ…
- Tôi nhớ rồi, đại sứ quán có báo cáo…
- Thưa, cả ba lần đều có đại sứ Trần Văn Chương dự, kể cả lần mới nhất trước khi cháu rời Mỹ. Tuy dài ngắn khác nhau, trong ba lần gặp gỡ, Bộ trưởng và cháu chủ yếu bàn về các vấn đề quân sự, nhất là vấn đề trang bị cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa… Một giới khác mà cháu gặp là đại biểu quốc hội Mỹ, các thượng nghị sĩ như Fulbright, Mac Govern, Goldwater, Wallace… Như Tổng thống đã rõ, thế lực của các thượng nghị sĩ này khá lớn, ảnh hưởng quan trọng đến chính sách của chính phủ Mỹ. Fulbright thường đắn đo về cục diện Đông Nam Á. Có lẽ ông chủ trương kềm chế trong một giới hạn nào đó sự ủng hộ của chính phủ Mỹ đối với ta mặc dù ông vẫn muốn nước Mỹ ngày phải mỗi đứng vững ở khu vực này. Mac Govern, trái lại, gần như theo thuyết “L’Amérique d’abord”(3) của các Tổng thống Mỹ vào đầu thế kỷ và có thể nói là ác cảm với chúng ta. Về một cực đối lập hẳn, Goldwater, Wallace mà dư luận Mỹ gọi là “diều hâu” cùng với nhiều nghị sĩ chung quan điểm, chủ trương Mỹ phải tăng viện tối đa cho chúng ta, không ngại mở rộng chiến tranh lên phía Bắc vĩ tuyến 17, thậm chí toàn Đông Dương… Goldwater chê ta không đủ kiên quyết trong đối nội…
- Đức Hồng y Spellman có nói với tôi về hai thượng nghị sĩ này và các đồng chí của hai ông. Tuy nhiên, hình như phái của ông ta thiểu số.
- Nếu tính tương quan trong Quốc hội hiện thời thì các ông chưa có tiếng nói quyết định, nhưng Ngũ giác đài có lẽ đứng sau lưng phái các ông… Còn giới báo chí, chắc Tổng thống đã rõ đang phân hoá. Nhưng những bài của Water Lippman vẫn có trọng lượng hơn…
- Cũng giống như những bài của con mụ Fanfani, nghe đâu bạn của cháu. - Diệm nghiêm mặt - Tôi đã bảo ông Phan Văn Tạo và ông Ngô Trọng Hiếu trục xuất mụ ta, nhưng không rõ vì sao đại sứ Nolting lại không bằng lòng… Nếu cháu có gặp mụ ta thì nên nói cho mụ biết: Mụ phải cẩn thận!
Dừng lại một chút, Diệm hỏi tiếp:
- Cháu có gặp Colby không?
- Thưa không!
- Chắc là ông ta không thích cháu. - Diệm quay sang Thùy Dung - Còn cháu?
- Thưa Tổng thống, việc gì ạ? - Dung trả lời nhỏ nhẹ như một đứa cháu dâu trước mặt bậc trưởng thượng khả kính trong gia đình. Thái độ của Thùy Dung khiến mặt Diệm dịu hẳn, có lẽ gần đây ông phải nghe những câu, những chuyện mà ông cho là xúc phạm đến vai vế cần phải được tuyệt đối tôn trọng của ông.
- À, tôi hỏi hơi thừa. Colby không gặp cháu đâu. Nói chung, ông ta không thích những người trong gia đình chúng ta.
- Thưa Tổng thống, cháu có gặp những người chỉ huy cơ quan FBI (4) để trao đổi kinh nghiệm về nghề nghiệp.
- Ừ, tốt lắm… - Diệm đột ngột hỏi Luân: - Cabot Lodge là người thế nào?
- Thưa Tổng thống, một chính khách có cỡ của Mỹ. Cháu chưa gặp ông ta lần nào nên chưa thể có ý kiến trình lên Tổng thống.
Câu chuyện đến đó thì bị cắt ngang. Đổng lý văn phòng Phủ tổng thống sau tiếng gõ cửa nhè nhẹ, bước vào:
- Trình Tổng thống, linh mục Hoàng, như đã hẹn, xin được Tổng thống tiếp.
Diệm ngần ngừ giây lát, rồi bảo:
- Ông mời vào.
Luân và Dung đứng lên toan rút lui.
- Hai cháu cứ ngồi có thể hiểu biết thêm tình hình vì hai cháu xa đất nước cũng hơi lâu.
Viên Đổng lý văn phòng gập người chào Diệm, thụt lui mãi tận cửa, bấy giờ mới gật đầu chào vợ chồng Luân và mới dám quay lưng. “Bên ngoài đang thay đổi vùn vụt nhưng ông Diệm vẫn cố giữ cái nghi vệ hình thức. Chắc chắn đó là một trong những sức đẩy triều đại của ông ta lao nhanh xuống vực” - Luân thầm nghĩ.
Cửa mở, linh mục Hoàng hấp tấp bước vào. Ngô Đình Diệm đứng lên:
- Xin chào Cha! Mời Cha ngồi.
Linh mục Hoàng khệnh khạng ngồi xuống chiếc ghế bành và Diệm rời bàn viết đến ngồi cạnh ông. Linh mục Hoàng chỉ khẽ gật đầu đáp lễ khi Luân và Dung đứng lên chào ông.
- Về nước bao giờ đấy? - Linh mục hỏi, hách dịch - Tôi quên tên anh và cô bé này.
Luân chỉ mỉm cười.
- Coi thư của Cha, con muốn Cha nói rõ hơn. Còn hai cháu đây là người nhà. - Diệm ôn tồn nói với linh mục Hoàng.
- Ý của tôi tóm tắt như thế này: Một, tiếp tục phong tỏa chùa Từ Đàm ở Huế cho đến khi nào bọn chúng chịu đói không nổi, phải bò ra xin cơm thì ta mới tha tội. Hai, phong tỏa tất cả các chùa ở đô thành và các tỉnh nếu có các cuộc tập họp, Tổng thống quên rằng Quốc hội đã ủy quyền cho Tổng thống ban bố tình trạng khẩn trương trong cả nước hay sao? Ra liền một sắc lệnh giới nghiêm từng khu vực… Ba, tống xuất tất cả bọn nhà báo nước ngoài, đóng cửa các tờ báo trong nước đưa tin và ủng hộ Phật giáo. Bốn, cho phép tôi thành lập ngay một mặt trận cứu nguy đất nước, tổ chức những cuộc biểu dương lực lượng lớn, tràn ngập thành phố. Chúng nó muốn “so găng” thì chúng ta cho chúng nó biết: Trên võ đài, hạng “ruồi”, hạng “giấy” không thể nào địch nổi với hạng “nặng”. Tổng thống nên nhớ, lực lượng quy tụ chung quanh tôi không chỉ “nặng” mà còn “siêu nặng”! Tôi cam đoan trong vọng một tuần lễ sẽ dẹp đám giặc chòm này.
Linh mục Hoàng nói rất hùng hồn, Diệm lặng lẽ nghe, đôi lúc kín đáo nhếch mép cười… Dung và Luân ngồi yên. “Ông ta vừa nhớ thời vàng son tổng chỉ huy dân binh ở đồng bằng Bắc Việt, thay cho các câu giảng đạo bằng các tràng liên thanh, vừa có vẻ một bốcxơ quá tự tin ở độ nặng của thân xác mình. Vào năm này mà ông ta đòi “so găng” với Phật giáo thì thật quái lạ”. Luân theo dõi cuộc nói chuyện qua đó, anh thấy cái viễn tưởng hỗn độn của chế độ Diệm.
- Chúng nói không dấy lên chuyện treo cờ treo quạt thì chúng ta cũng phải ra tay, huống chi chính chúng nó eo sèo. Cơ hội quá tốt để dẹp bớt chùa chiền sư vãi. Tổng thống có biết từ năm 1954 tới nay trong vòng 9 năm, ở Việt Nam Cộng hòa xây mới và sửa chữa bao nhiêu chùa không? 4.766 cái, trong đó có 1275 cái mới tinh! Tổng thống có biết hiện giờ cả nước có bao nhiêu sư vãi không? Gần hai trăm nghìn. Thế mà chính phủ cứ trơ mắt ra nhìn. Hẳn Tổng thống từng nghe chuyện sư hổ mang? Tôi có đọc một chuyện nói về Nguyễn Kim Muôn ở Gia Định hồi thời Pháp. Sư mà ăn thịt chó, sư mà có hàng chục vợ…
Càng nói, linh mục Hoàng càng hăng. Luân cố kềm để khỏi bật cười. Ông ta quên phức những chuyện của chính ông ta, lại xứ đạo Bình An - có lẽ còn cao hơn sư Muôn nhiều lần.
Linh mục Hoàng mở chiếc cặp, rút ra một tập sách in ronéo.
- Tôi công bằng lắm! Trị bọn thầy chùa đồng thời cũng phải trị nội bộ giới linh mục tu sĩ chúng ta. Ai cho phép bọn này phổ biến những tài liệu chống đối đạo quá nguy hiểm như thế!
Diệm liếc qua tựa tập sách, im lặng. Luân cầm tập sách lên. Đó là các tài liệu trù bị của Công đồng Vatican 2, sẽ do Giáo hoàng Jean XXIII chủ trì, gồm 2.500 Hồng y và Giám mục của 85 nước.
Giới báo chí quốc tế gọi Công đồng Vatican 2 là “bước ngoặc của giáo hội Thiên chúa trong kỷ nguyên con người lên vũ trụ”. Tập sách chỉ in mấy phần liên quan đến lễ khai mạc ngày 11-11-1962 và chương trình mà đại hội sẽ bàn bạc. Tập sách do một số linh mục thuộc giáo phận Sài Gòn xuất bản.
- Cấm lưu hành những thứ tà thuyết này! - Linh mục Hoàng gầm gừ.
- Nhưng, đây là Công đồng do Giáo chủ triệu tập! - Diệm can thiệp, rõ ràng Tổng thống không bằng lòng để cho vị linh mục vượt quá giới hạn, va chạm đến đấng chủ chăn của đạo Thiên chúa.
Linh mục Hoàng vẫn tỉnh bơ:
- Tôi đã trực tiếp phản đối Đức giám mục Nguyễn Văn Bình về thông cáo của Tòa giám mục nhắc giáo dân treo cờ tòa thánh trong nhà thờ. Tại sao vậy? Tại sao phải nhượng bộ? Tôi nghĩ là Tổng thống nên có ý kiến với Đức giám mục. Chúng ta không sợ một cuộc thánh chiến! Còn Công đồng Vatican 2… hừ!
Linh mục Hoàng nhún vai.
- Thưa Cha, chính phủ và cá nhân con sẽ cứu xét các ý kiến của Cha. Tuy nhiên, mong Cha hiểu cho hoàn cảnh tế nhị hiện thời của chính phủ - Diệm nói rất khiêm nhường.
- Bào đệ của Tổng thống từng lăng nhục tôi. - Linh mục Hoàng mím môi - Tới những lúc như thế này thì các người mới sáng mắt ra nên dựa vào ai…
Nói xong, linh mục Hoàng đứng phắt dậy chào Diệm, xách cặp ra khỏi phòng, không thèm ngó đến Luân và Dung.
- Khó khăn quá! - Diệm than thở - Cháu đọc cái này!
Diệm lại bàn viết, lấy hai tờ giấy đánh máy trao cho Luân. Đó là hai điện mật.
Bức điện thứ nhất:
“Bộ trưởng Bộ ngoại giao Mỹ vừa mời tôi đến Bộ ngoại giao, chính thức cho biết Tổng thống Mỹ theo dõi với tất cả lo lắng sự kiện Huế và hy vọng chính phủ Việt Nam dàn xếp êm đẹp các tranh chấp kiểu đó để tập trung sức cho công cuộc chống Cộng. Tuy không có công hàm, tôi cho rằng đó là một lời phản kháng cần lưu ý. Ký tên: Trần Văn Chương Washington, 18-5-1963”.
Bức điện thứ hai:
“Giới ngoại giao ở Liên hiệp quốc, qua các tin báo chí đang xôn xao về vụ Phật giáo Huế. Những người từ trước vẫn có thiện cảm với Việt Nam Cộng hòa cũng đòi được giải thích. Đề nghị ở nhà cung cấp ngay một tài liệu, dưới dạng thơ luân lưu càng hay, để đại diện của ta phân phát cho các đại biểu và giành chủ động đối với các đại biểu Cộng sản và thân Cộng. Ký tên: Bà Trần Văn Chương, New York, 17-5-1963”.
Luân mang hai bức điện đặt lên bàn của Diệm.
- Khó khăn quá! - Diệm nhắc lại - Chú Cẩn lại không đồng ý tống giam Đặng Sỹ…
Luân, lần đầu, thấy sự thống nhất giữa Cẩn và Lệ Xuân, sự thống nhất chung quanh bảo vệ một kẻ giết người!
- Thằng đó dại dột quá! - Diệm tặc lưỡi.
Luân hiểu Đặng Sỹ - anh nhớ lần ra Huế dự lễ thượng thọ vợ Ngô Đình Khả, chính Đặng Sỹ đón và đưa anh từ Phú Bài về nhà. Trên xe, Đặng Sỹ đã nói nhiều lời về đạo Phật, về các ngôi chùa. Anh ta dại dột thật, nhưng dại dột có chủ đích…
- Hai cháu nhớ gọi điện cho Đức Cha… Ngài nhắc hai cháu luôn! - Diệm dặn vợ chồng Luân. Hai người kiếu từ Tổng thống. Diệm tiếp tục ngồi trên chiếc ghế bành. Văn phòng quá rộng và Diệm trở nên trơ trọi…
Luân và Dung về đến nhà thì chị Sáu, trong lúc dọn dẹp cơm, đưa cho hai người xem một thông tư in ronéo đóng mộc mang tên Tổng trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Việt Nam. Tờ thông tư nói rõ: vì một lý do riêng, lễ cầu siêu các Phật tử tử vì đạo ở Huế phải hoãn, không chùa nào được hành động trước khi có lệnh mới.
Đọc qua tờ thông tư, Luân thấy ngờ ngợ. Hai vợ chồng ngồi vào bàn - bữa cơm đầu tiên trên quê nhà mà chị Sáu sửa soạn thật kỹ - Luân vẫn không rời tờ thông tư.
- Người ta nói tờ thông tư này là giả! - chị Sáu vừa bày thức ăn vừa nói.
- Ai nói? - Luân hỏi.
- Thầy Quảng Liên nói ở chùa Xá Lợi…
- Chắc là “sáng kiến” của ông Tạo, ông Hiếu… - Luân bảo Dung - Họ chống đỡ và chống đỡ bằng tiểu xảo…
- Cũng có thể một rạn nứt ngay trong Phật giáo, vào lúc bắt đầu.
- Có lý! Để xem… - Luân đồng tình với vợ.
Buổi chiều, Luân đến dinh Gia Long chào trung tướng Dương Văn Minh, cố vấn quân sự đặc biệt của Tổng thống.
Luân và trung tướng biết nhau khá lâu nhưng chưa bao giờ hai người nói chuyện riêng.
Vào đến giữa phòng làm việc - Dương Văn Minh đang ngồi sau bàn viết, xem một hồ sơ hay báo cáo gì đó - Luân chập gót chân, đưa tay lên vành kêpi:
- Trình trung tướng, tôi, đại tá Nguyễn Thành Luân có mặt!
Trung tướng Minh đứng lên hơi vội vàng.
- Chào đại tá! - Ông bắt tay Luân - Ngồi! Ngồi!
Ông mời Luân và chọn chiếc ghế đối diện.
- Tại sao đại tá không nghỉ ngơi vài hôm? Nghe tin đại tá muốn gặp tôi, tôi đã dặn anh em văn phòng cứ để đại tá thong thả… - Minh nói ôn tồn.
- Đã gặp ông cụ với ông cố vấn rồi hả? - Minh hỏi.
- Thưa, đã gặp…
- Bà đại tá khoẻ không?
- Cám ơn trung tướng, nhà tôi bình thường.
- Khóa nghiên cứu kết quả không?
- Thưa, cũng thêm được nhiều hiểu biết mới.
- Đại tá Quang đã làm việc với đại tá chưa?
- Thưa, tôi gặp đại tá ngoài sân bay…
- À, tôi quên ông Quang đón đại tá…
Câu chuyện mở đầu theo lối “vấn đáp” cộc lốc như vậy. Luân thừa hiểu tướng Minh không ưa Luân, kẻ như con cháu nhà Tổng thống. Có thể nói ông đề phòng Luân. “Ông ta coi mình như một Cần Lao gộc, bộ hạ thân tín của Diệm. Hơn nữa, hạng “sớm đầu tối đánh”, vì mình từ chiến khu về. Trong hàng các tướng lĩnh của Diệm, Luân để ý đến Dương Văn Minh. Ông ta có phần nào tự phân biệt với các sĩ quan cao cấp khác ở cái mà đám bộ thuộc coi ông như một thứ Mạnh Thường Quân. Người ta thường nhắc đến ông về mặt nhân cách hơn là tài năng. Luân giao thiệp với tướng Minh đều đặn khi ông phụ trách Bộ tư lệnh hành quân và Luân tìm thấy ở ông còn sót lại những nét chất phác nhất định mà những đồng cấp của ông đánh mất từ lâu. Ông không mang tai tiếng về rượu, về gái nhất là về buôn lậu. Ông lại kém khoa ăn nói, phần nào hơi hệch hạc.
Ngồi trước mặt Luân là một trung tướng 47 tuổi, cắt tóc ngắn, thân hình vạm vỡ. Giá như đây không là cuộc yết kiến của một sĩ quan trong Tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống với vị tướng cố vấn quân sự đặc biệt của Tổng thống mà là cuộc trao đổi về quần vợt thì chắc sẽ sôi nổi - tướng Minh vốn là một cây vợt có hạng trên sân C.S.S (5). Luân để ý đến tướng Minh còn vì một lý do khác: Hồ sơ của bác sỹ Trần Kim Tuyến chứa nhiều nghi vấn về mối quan hệ giữa tướng Minh với “phía bên kia”. Dĩ nhiên bác sĩ Tuyến có thói quen thổi phồng những mối liên hệ ấy: Kỳ thật, trong giòng họ của ông Minh có một số đi kháng chiến, kể cả đứa em ruột của ông nay là một sĩ quan Bắc Việt. Ngoài ra không còn cái gì khác. Rất dễ hiểu, con đường thăng quan tiến chức của tướng Minh khá chậm. Ông nổi tiếng trong chiến dịch Hoàng Diệu cuối năm 1955, truy kích tàn quân Bình Xuyên ở Rừng Sác sau khi Trịnh Minh Thế chết. Bấy giờ ông mang hàm đại tá và trợ lý cho ông là trung tá Nguyễn Khánh. Đầu năm 1956, Diệm sai ông bình định miền Tây với chiến dịch mang tên Nguyễn Huệ và ông đeo lon thiếu tướng, cũng vẫn do Nguyễn Khánh - hàm đại tá - trợ lý. Trong 4 tháng, chiến dịch kết thúc, ông được coi là người có công phủ dụ Năm Lửa và Ba Cụt về với Diệm. Tháng 8 năm đó, ông được bổ làm Tổng thư ký trường trực Bộ quốc phòng, kiêm chỉ huy Phân khu Sài Gòn - Chợ Lớn, kiêm luôn chỉ huy chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, kế tiếp chiến dịch Nguyễn Huệ và song song với chiến dịch Trương Tấn Bửu ở miền Đông do Mai Hữu Xuân chỉ huy. Trong quân đội, người ta chờ ông lên trung tướng. Tháng 12-1956, danh sách thăng chức được công bố. Trung tướng Lê Văn Tỵ thăng đại tướng, các thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ, Trần Văn Đôn, Trần Văn Minh - còn gọi là Minh nhỏ - thăng trung tướng, đại tá Thái Quang Hoàng thăng thiếu tướng. Không có tên Dương Văn Minh. Những người thông thạo thời cuộc cho rằng ông bị thất sủng, có thể vì ông không tán thành cách xử sự đối với tướng Hòa Hảo Ba Cụt: Ngô Đình Diệm cho Nguyễn Ngọc Thơ chiêu hàng Ba Cụt lần nữa; tin vào lời hứa hẹn Nguyễn Ngọc Thơ, Ba Cụt đến điểm hẹn: quân đội Diệm phục kích bắt sống Ba Cụt, kết án tử hình và hành quyết ông ta. Cũng có thể tướng Minh xuất thân từ trường võ bị Pháp, và không tỏ ra mặn mà lắm với việc nghiên cứu kiến thức quân sự Mỹ. Gần như ông ẩn cư trong Bộ quốc phòng - người thay chức Tổng thư ký của ông là bác sĩ Trần Quang Diệu, chẳng liên can gì đến nghề binh. Sau đó ông được thuyên chuyển về Bộ tổng tham mưu, đứng đầu Bộ tư lệnh hành quân một lúc. Gọi là chỉ huy trưởng Bộ tư lệnh hành quân nhưng trong tay chẳng có quân. Ông dùng thì giờ đọc sách, đánh banh và chơi phong lan. Cũng có dư luận cho rằng sở dĩ Diệm mời ông làm cố vấn quân sự đặc biệt là do vấn đề Phật giáo mỗi lúc mỗi quan trọng về mặt chính trị mà ông là một Phật tử.
- Thưa trung tướng, tôi vắng nhà hơi lâu, muốn được trung tướng cho một vài nhận định bao quát về tình hình quân sự trong nước. - Nguyễn Thành Luân lái câu chuyện sang phần nghề nghiệp.
Tướng Minh cười. Cái cười phô bày những điều ông không hài lòng:
- Tiếng là cố vấn quân sự cho Tổng thống, tôi được thông tin không đầy đủ. Bộ Tổng tham mưu báo cáo tin chiến sự về cho Phủ tổng thống, ông Nhu là người tiếp xúc với toàn bộ tin tức ấy, và tôi chỉ được trao cho những phần ít quan trọng hơn hết.
Tôi có thể không cần đọc những báo cáo đó mà nghe thông cáo chiến sự trên đài phát thanh, hai cái không khác nhau mấy. Mỗi ngày, tôi phải vào đấy vì không lẽ không vào. Tổng thống cũng ít hỏi ý kiến tôi. Đại tá Đặng Văn Quang còn bận rộn hơn tôi và khi đại tá về, chắc chắn trong nhóm sĩ quan kề cận Tổng thống, đại tá là người bận rộn nhất! Tôi nghĩ là ông Nhu đã cho đại tá biết những điều cần biết, những điều tôi không được quyền biết!
Luân rơi vào tình thế khó xử. Hẳn là tướng Minh đã nói rất thật.
- Thưa trung tướng, nếu quả cách làm việc ở Phủ tổng thống là như vậy, tôi cũng không bằng lòng. Một cố vấn quân sự của Tổng thống phải được giao trách nhiệm và chịu trách nhiệm về những vấn đề ảnh hưởng đến cục diện chung.
- Nghị định bổ tôi làm cố vấn ghi khá đầy đủ những trách nhiệm mà đại tá nhắc. Nhưng đó chỉ là một tờ nghị định. Còn tôi, một thứ cây kiểng…
- Thưa trung tướng, tôi sẽ đạo đạt lên Tổng thống và sẽ trao đổi với ông cố vấn Ngô Đình Nhu về việc này. Tôi chỉ mong trung tướng xem tôi là một sĩ quan cấp tá trong Tham mưu biệt bộ, một sĩ quan dưới quyền của trung tướng.
Tướng Minh lại cười, lần này thì chua chát hơn.
- Khó mà phân ranh giữa công và tư ở đây, hiện thời. Phải chi người ta rành rẽ trong việc phân ranh, tình hình đâu có loạn xạ. Tôi là một quân nhân, tôi thích mọi cái rõ ràng. Chính trị can thiệp vào quân sự. Chính trị và quân sự lại bị kinh tế can thiệp. Quốc gia và gia đình lộn xộn. Bây giờ tới phiên đạo này đạo kia chỏi nhau. Anh em chiến sĩ chịu đựng hy sinh mà cấp trên vùi đầu vào những tranh giành, những chia xẻ kỳ cục, thì làm sao chống Cộng nổi. Mỹ họ dòm ngó nước mình dữ lắm. Tôi sợ tới một lúc nào đó, đại tướng Tỵ, tôi, đại tá, thậm chí Tổng thống sẽ trở thành con rối trong tay họ… - Tướng Minh đang từ từ hé cái phần u uẩn bên trong của ông. Luân lặng lẽ nghe.
- Quân sĩ là để đánh giặc, súng đạn là để bắn giặc chứ không phải để hạ cờ đạo Phật, để bắn vào Phật tử…Xe tăng, đại tá nhớ cho, xe tăng - tướng Minh gằn giọng - lại cán người chỉ vì người đó muốn treo lá cờ đạo. Tôi không thể hiểu vì sao các ông lớn lại bận tâm lá cờ đạo Phật đến như vậy.
- Thưa trung tướng, tôi bắt đầu tìm hiểu các sự kiện ở Huế và cũng thắc mắc như trung tướng.
- Ông thắc mắc thật không? - Tướng Minh soi mói nhìn Luân và có lẽ, vẻ mặt trầm ngâm của Luân bảo đảm được cái thắc mắc thật sự của anh.
- Bây giờ chính đại tá phải trả lời cho tôi: Tổng thống và ông Ngô Đình Nhu muốn đi tới đâu? Ông hãy lấy tư cách là người của gia đình Tổng thống mà trả lời. Tôi muốn hỏi: Cần bao nhiêu nhà chùa bị bao vây nữa? Cần bao nhiêu Phật tử chết nữa? Nói thật, nếu tôi là Việt Cộng, tôi đánh rốc, chúng ta không có đất mà chôn. Tại sao Tổng thống lại biến những người hiền lành thành hung dữ? Giáo sư Fishell vừa hỏi tôi sáng nay câu đó mà tôi không trả lời được. - Tướng Minh ngưng nói, thở nặng nhọc.
“Thế là đã rõ!” - Luân suy nghĩ – “CIA đang chơi trò vừa nhen lửa vừa đổ dầu vừa gọi gió”.
- Đại tá biết giáo sư Fishell chứ?
- Thưa trung tướng, biết. Giáo sư là cố vấn cho các viện đại học của chúng ta. - Luân trả lời để thăm dò hiểu biết của tướng Minh về tên trùm CIA này.
- Phải rồi! Một học giả uyên bác, thấu đáo với các vấn đề Phương Đông. Ông ta quen Tổng thống từ thuở Tổng thống còn ở tu viện Maryland, tận tình đưa Tổng thống về nước, tận tình phò tá Tổng thống. Theo Fishell, đạo Phật ở Việt Nam có lịch sử dài lâu hơn đạo Thiên chúa. Đối với dân Việt Nam, đạo Phật không phải chỉ là một tín ngưỡng tôn giáo mà là một thói quen văn hóa. Ông ấy giới thiệu với tôi các sách nghiên cứu về đạo Phật. Phải nói là ông ấy giúp tôi rất nhiều. Chắc đại tá biết, tôi xuất thân từ tú tài đôi toán học, ít đọc các loại sách khác ngoài sách toán. Ông Fishell đã bổ túc cho tôi…
Tướng Minh không thể nghe được tiếng thở dài rất nhẹ của Luân. “Một con cá cắn câu và tay phù thủy Fishell đã thôi miên được viên tướng ngờ nghệch này. Fishell định dùng viên tướng này vào việc gì đây?”. Trong nhất thời, Luân chưa tìm ra đáp số.
- Thưa trung tướng, tôi nghĩ rằng Tổng thống muốn chống Cộng. - Luân trả lời chung chung.
- Tự nhiên là như vậy, không ai không thấy, nhưng tới ba bảy đường chống Cộng. Ông Nerhu, ông Unu, ông Phouma, ông Sihanouk không chống Cộng sao?
Qua câu nói, tướng Minh đã cho Luân một vài cơ sở đánh giá xu hướng chính trị, hoặc ít ra, mơ ước vừa manh nha của ông.
Luân từ giã tướng Minh đúng quân phong quân kỷ. Tướng Minh có vẻ hài lòng tiễn Luân ra khỏi phòng.
“Giữa tướng Minh và Mai Hữu Xuân có quan hệ gì không?”
Luân tiếc là chưa chủ ý tìm hiểu khía cạnh quan trọng đó trong cuộc trao đổi vừa rồi.
Bữa cơm chiều trong dinh Gia Long không được vui. Tuy gọi rằng đó là bữa cơm đón tiếp vợ chồng Luân nhưng câu chuyện lại xoáy quanh những sự kiện dồn dập xảy ra trong ngày. Đức Giám mục - vừa từ Huế bay vào - cho biết vòng vây chùa Từ Đàm vẫn thắt chặt nhưng Phật tử bên ngoài vẫn liều mạng xông vào tiếp tế. Các chùa khác ở Huế đều tiếp tục cầu siêu. Nhu cho biết ở đô thành, tất cả các chùa thuộc các môn phái khác nhau đều cầu siêu, trừ một nhóm thuộc phái Cổ Sơn Môn. Tình hình các tỉnh cũng tương tự. Những nhóm Cổ Sơn Môn, thường gọi là thầy cúng, không có ảnh hưởng trong giới Phật giáo.
Cuối bữa ăn, Nhu có báo ngày 15 Tổng thống sẽ gặp một phái đoàn Phật giáo.
- Gặp phái đoàn Phật giáo? - Trần Lệ Xuân không giấu nổi kinh dị.
- Phải gặp! Dư luận xôn xao lắm… - Nhu trả lời.
- Đã thế, tại sao anh không bắt Tổng thống đến chùa Xá Lợi hay chùa Ấn Quang dâng hương niệm Phật! - Trần Lệ Xuân xô ghế, rời bàn ăn, bỏ ra ngoài. Bữa cơm giải tán trong không khí nặng nề.
Về nhà, Luân đi lại suốt mấy tiếng đồng hồ ngoài hàng hiên. Anh tổng hợp các dữ kiện và cố gắng tìm xem mối liên hệ lục giác phát triển đến đâu: CIA - Phật giáo - Quân đội Sài Gòn - Phòng Nhì Pháp - các phe phái chống Diệm - phần tử yêu nước Phật tử.
*
Thông báo của Phủ Tổng thống:
Thứ tư 15-5-1963 từ 10 giờ 30 đến 13 giờ, tại dinh Gia Long, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã tiếp một phái đoàn Phật giáo gồm các vị:
Thượng tọa Thích Thiện Hòa, Trị sự trưởng Giáo hội tăng già toàn quốc.
Thượng tọa Thích Tâm Châu, Phó hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam.
Ông Mai Thọ Truyền, Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt.
Đại đức Lâm Em, Phật giáo phái Théravada (người Việt gốc Miên)
Đại đức Phát Tri, Phó tăng thống Phật giáo nguyên thủy Việt Nam
Thượng tọa Thích Thiện Hoa, Phó trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Nam Việt.
Cụ Vũ Bảo Vinh, Hội Phật học Bắc Việt.
Cùng dự buổi tiếp kiến với Tổng thống có ông Bộ trưởng Bộ nội vụ Bùi Văn Lương và ông Bộ trưởng Bộ công dân vụ Ngô Trọng Hiếu.
Phái đoàn đã trình lên Tổng thống 7 nguyện vọng. Tổng thống đã cứu xét từng nguyện vọng và đã giải quyết thỏa đáng. Cuộc tiếp xúc kết thúc trong tinh thần hiểu biết và thân ái.
Tường thuật cuộc họp báo của phái đoàn Phật giáo:
Sài Gòn (Tin riêng của báo Lẽ Sống)
Chiều hôm qua, 16-5, tại chùa Xá Lợi, phái đoàn đại diện Phật giáo sau khi tiếp kiến Tổng thống đã mở cuộc họp báo. Ngoài các vị trong phái đoàn, có thêm nhiều thượng toạ, đại đức, các đại diện báo chí trong và ngoài nước và đông đảo Phật tử. Sau khi ngỏ lời chào thường lệ, thượng tọa Thích Thiện Hoa, phát ngôn viên của phái đoàn, trình bày như sau:
- Phái đoàn của chúng tôi gồm có 5 đại đức và 2 cư sĩ. Trong số 5 nhà sư, 4 thuộc Tổng hội Phật giáo Việt Nam, phái Đại thừa, một thuộc phái Nguyên thủy người Việt và một thuộc phái Théravada người Việt gốc Miên.
Thành phần ấy chỉ rằng tuy chia nhiều môn phái, chỉ có một Phật giáo ở Việt Nam và trong mọi trường hợp, tất cả các môn phái ấy đều đoàn kết chặt chẽ trong tinh thần cũng như trong hành động.
Do ông Bộ trưởng Công dân vụ hướng dẫn, chúng tôi được Tổng thống tiếp hồi 10 giờ 45, tại dinh Gia Long, trước sự hiện diện của ông Bộ trưởng Bộ nội vụ.
Sau khi kính chào Tổng thống, chúng tôi có trình một bản nguyện vọng, gồm 5 điểm chính và 2 điểm phụ, ghi rõ trong một tuyên ngôn do vị lãnh đạo tối cao Phật giáo Việt Nam (Hòa thượng Thích Tịnh Khiết) và các Đại đức, Chủ tịch Giáo hội Tăng già và Hội Phật giáo Trung phần ký tên ngày 10-5-1963. Năm điểm chính ấy là:
1. Bãi lệnh cấm treo cờ Phật giáo.
2. Cho Phật giáo hưởng một chế độ ngang hàng với các Hội Truyền giáo Thiên Chúa.
3. Chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo hiện nay ở Huế.
4. Cho tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo.
5. Đền bồi cho gia đình nạn nhân và nghiêm trị những người có trách nhiệm trong vụ đổ máu.
Hai điểm phụ do phái đoàn chúng tôi thêm vào là:
- Chính phủ bảo đảm an ninh cho phái đoàn độ 20 người (tăng già và cư sĩ) ra thăm Phật giáo Huế và an ủi vác gia đình nạn nhân.
- Ra lệnh các cấp quân chính đừng làm điều gì trở ngại những buổi lễ cầu siêu cho vong linh nạn nhân ở khắp các chùa toàn quốc.
Sau đây là những giải quyết của Tổng thống:
1. Bãi lệnh treo cờ:
Tổng thống báo sở dĩ có lệnh cấm treo giáo kỳ ngoài vòng trụ sở của mỗi tôn giáo là vì chính Tổng thống đã nhận thấy bên Phật giáo cũng như bên Công giáo, việc sử dụng lá cờ đạo quá bừa bãi và không có tinh thần tôn trọng màu cờ quốc gia. Để tránh những hiểu lầm ở cấp thừa hành, Tổng thống đưa ra một thể thức ấn định sự sử dụng cờ Phật giáo như sau trong các ngày lễ Phật giáo:
a) Tại chùa hay trụ sở hành lễ: Ngoài đường treo cờ quốc gia. Trong phạm vi chùa hay trụ sở, nếu có treo đại kỳ thời trên lá cờ quốc gia, dưới là cờ Phật giáo nhỏ hơn. Từ ngoài cổng chùa hay trụ sở trở vô được treo cờ Phật giáo xen với cờ quốc gia.
b) Tại đài làm lễ lộ thiên: Cũng một nguyên tắc, nghĩa là ngoài phạm vi lễ đài và ngoài đường thời treo cờ quốc gia. Phía trong treo cờ Phật giáo xen với cờ quốc gia.
c) Đám rước: Đại kỳ quốc gia đi trước, đại kỳ Phật giáo đi sau ở đầu đám rước. Ngoài ra, tuyệt nhiên không có một lá cờ nào khác.
d) Tại tư gia Phật tử: Được treo cờ Phật giáo trước bàn thờ
2. Cho Phật giáo hưởng một chế độ ngang hàng với các Hội truyền giáo Thiên chúa:
Phái đoàn trình rằng, Dụ số 10 quy định các hiệp hội (associations) đã đặt các Hội truyền giáo Thiên chúa ra ngoài thể lệ ghi trong các Dụ ấy và có dự rằng sẽ có một quy chế riêng cho các Hội truyền giáo nói trên. Nhưng trên 10 năm rồi, chưa thấy ban hành quy chế riêng ấy.
Tuy nhiên, Công giáo tiếp tục được hưởng những quyền tự do do những ký kết với chính phủ Pháp xưa lưu lại, còn Phật giáo thời được xem như những hiệp hội ngoài đời và mọi hoạt động đều bị gò bó trong những thể lệ của Dụ số 10.
Tổng thống đáp: Đây là một vấn đề hành chính chuyên môn cần phải nghiên cứu.
Phái đoàn lưu ý Tổng thống về điểm Nha trước bạ bắt buộc Hội Phật giáo muốn mua đất xây cất cơ sở, phải có phép trước của Tổng thống. Sự bắt buộc ấy, nếu áp dụng cho các hội truyền giáo ngoại quốc, thời hiểu được, còn áp dụng cho các tổ chức Phật giáo trong nước thời không có lý do. Tổng thống bảo có lẽ có sự hiểu lầm, vậy phải trình cho Tổng thống biết chẳng những trong việc này mà trong tất cả các việc khác nếu Phật giáo thấy có sự sai lầm.
3. Chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo hiện nay ở Huế:
Tổng thống đáp: Chính quyền có phận sự giữ gìn an ninh trật tự. Nếu chấm dứt bắt bớ thời kẻ tạo loạn thừa cơ mới làm sao? Ông Bộ trưởng Nội vụ quả quyết không có nhà sư nào bị bắt, còn những kẻ bị bắt là những hạng lưu manh phá rối. Ông Bộ trưởng Công dân vụ lớn tiếng phản kháng câu “Khủng bố tín đồ Phật giáo”
Đáp câu hỏi của phái đoàn, ông Bộ trưởng cho biết chưa tìm ra thủ phạm ném plastic, nhưng theo cuộc điều tra thì có lẽ Việt Cộng.
Phái đoàn hỏi: Ông Bộ trưởng đã nói là công chúng bất thình lình kéo nhau đến đài vô tuyến nghe phát thanh chứ không có ý biểu tình. Như vậy thời làm sao kẻ phá rối biết mà đem plastic đến liệng, vì hành vi này bao giờ cũng có sự chuẩn bị trước, sau khi biết rõ là có sự tụ họp.
Ông Bộ trưởng đáp: Kẻ phiến loạn có lẽ đã len lỏi vào hàng ngũ Phật giáo từ sáng, khi đám rước Phật biến thành cuộc biểu tình.
4. Cho tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo:
Tổng thống cho biết quyền tự do tín ngưỡng đã ghi trong Hiến pháp và riêng Tổng thống không bao giờ có ý thiên vị một tôn giáo nào. Bằng cớ là chính phủ đã để cho Phật giáo tự do tổ chức tín đồ từ thành thị đến thôn quê và thực hiện nhiều cơ sở tốt đẹp.
Phái đoàn trình có nhiều sự áp bức khó dễ cấp thừa hành với dụng ý chận nghẹt sự sinh hoạt hàng ngày của Phật giáo.
Tổng thống bảo nếu có những sự kiện như thế, thời trình nhà chức trách cấp cao hơn xét xử.
Phái đoàn cho rằng có nhiều việc đã trình ngay Tổng thống mà chưa được giải quyết, thí dụ như gần đây việc xin nhập cảnh phim “Sakya”. Trong lúc Phật giáo chờ sự giải quyết của Tổng thống thì Bộ Kinh tế cho phép nhập tạm.
Tổng thống, cũng như ông Bộ trưởng nội vụ và công dân vụ quả quyết rằng việc nhập tạm là một thủ tục hành chính không liên can gì đến sự quyết định đã có rồi của chính phủ là phim Sakya sẽ bị cấm chiếu trên toàn quốc.
5. Đền bồi cho các gia đình nạn nhân và nghiêm trị những người có trách nhiệm trong cuộc đổ máu:
Tổng thống cũng như ông Bộ trưởng nội vụ cho biết trong số nạn nhân có người Công giáo, có người không phải là Phật giáo, con em của cảnh binh và nhân viên. Toà đại biểu chính phủ đã nghĩ đến việc trợ cấp cho tất cả. Còn việc nghiêm trị thời cuộc điều tra đang tiếp tục.
- Bảo đảm an ninh cho một phái đoàn ra Huế:
Sau khi cân nhắc hiệu quả trong việc bảo vệ trật tự công cộng nhân một phái đoàn ra Huế, Tổng thống giao cho ông Bộ trưởng Công dân vụ phối hợp với Bộ Nội vụ liên lạc với nhà chức trách ở Huế để thương lượng với các cấp lãnh đạo tại chỗ hầu tránh mọi sự giao động khi phái đoàn trong Nam ra thăm.
Ngày giờ khởi hành, tùy từng phái đoàn và sẽ gồm ba tăng và ba cư sĩ.
- Ra lệnh đừng làm trở ngại các lễ cầu siêu trên toàn quốc:
Tổng thống có ý kiến nên tổ chức trong chùa và đừng tụ họp quá đông. Ông Bộ trưởng Công dân vụ đề nghị đợt tới, rằm tháng 7 làm long trọng cho toàn thể chúng sinh.
Trên đây là ý kiến hoặc quyết định của Tổng thống. Phái đoàn chúng tôi sẽ trình lại cho các Ban trị sự Phật giáo toàn quốc biết và lấy quyết định chung.
Sau khi thượng tọa Thích Thiện Hoa thông báo kết quả cuộc họp với Tổng thống, một cư sĩ không xưng tên đã đứng lên tả lại cảnh tượng ở chùa Từ Đàm và ở Đài phát thanh Huế. Theo cư sĩ này, chính quyền đã cố ý dùng vũ lực cấm ngày Phật đản và không ngại cả sự chém giết. Hiện nay, chùa Từ Đàm bị phong tỏa, nhiều tăng ni và Phật tử kiệt sức. Ông báo động với dư luận trong và ngoài nước. Giữa lúc cư sĩ đang nói, nhiều người mặc thường phục nhưng lưng lại đeo súng, chen lên gần bục gỗ. Một số thanh niên Phật tử lập ra hàng rào bảo vệ. Đáng lẽ còn có mục hỏi của nhà báo và trả lời của phái đoàn song còi cảnh sát đã rú liên hồi. Cả chùa báo động, sợ bị phong tỏa như chùa Từ Đàm, nên mọi người kéo nhau ra đường. Ở các ngã dẫn đến chùa Xá Lợi, cảnh sát dã chiến đã dàn hàng, sửa soạn tấn công. Số hiếu động trong Phật tử cũng tìm gậy, đá, sẵn sàng nghinh chiến.
Không rõ do một lịnh từ đâu, cảnh sát dã chiến tự nhiên rút êm… Nhưng cuộc họp báo cũng bất thành.
THÔNG CÁO CHUNG VIỆT - MỸ
Sau một thời gian nghiên cứu, chính phủ Mỹ thỏa thuận tăng gia việc trợ cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa ngỏ hầu thực hiện chương trình ấp chiến lược mà tổng chi phí lên đến trên 2 tỷ đồng. Ngay lập tức, chính phủ Mỹ góp thêm 55 triệu Mỹ kim tính bằng nông phẩm, phân bón, kẽm gai, xi măng, vũ khí dùng cho dân vệ.
Sài Gòn, ngày 17 tháng 5 năm 1963.
Ký thay chính phủ Mỹ:
Đại sứ Nolting
Ký thay chính phủ Việt Nam Cộng hòa
Bộ trưởng Bộ ngoại giao: Vũ Văn Mẫu
THÔNG CÁO BÁO CHÍ CỦA TÒA BẠCH ỐC
Ngày 25-5-1963, Tổng thống Mỹ Kennedy đã cho báo chí biết rằng Mỹ sẽ rút quân khỏi Việt Nam bất cứ lúc nào mà chính phủ Việt Nam Cộng hòa yêu cầu; một ngày sau khi có yêu cầu đó, quân đội Mỹ sẽ lần lượt về nước. Tổng thống hy vọng tình thế Việt Nam cho phép, vào cuối năm nay, quân đội Mỹ đã có thể rời Việt Nam.
THÔNG TRI CỦA VĂN PHÒNG TỔNG THỐNG
Do có nhiều tin tức xuyên tạc cố ý, Văn phòng Tổng thống nhắc lại với công chúng: chính phủ không hề chủ trương kỳ thị tôn giáo, vẫn tôn trọng tự do tín ngưỡng…
THÔNG BÁO CỦA GIÁO HỘI TĂNG GIÀ NAM VIỆT
Để tưởng nhớ các Phật tử tử nạn ở Huế, các tăng ni và Phật tử chùa Ấn Quang và Xá Lợi quyết định tuyệt thực 48 giờ, kể từ ngày 30-5-1963.
THÔNG CÁO CỦA NHA CẢNH SÁT ĐÔ THÀNH
Từ 14 giờ 30 đến 18 giờ hôm nay, 30-5, một số tăng ni biểu tình trước trụ sở Quốc hội. Để bảo vệ an ninh trật tự, cảnh sát được lệnh giải tán. Vài cuộc xô xát do hiểu lầm xảy ra. Không ai bị thương.
THÔNG BÁO KHẨN CỦA PHÁI ĐOÀN PHẬT GIÁO
Một số tăng ni đến Quốc hội yêu cầu thực hiện những điều Tổng thống hứa, đã bị cảnh sát đàn áp bằng lựu đạn cay và dùi cui. Nhiều tăng ni bị thương nặng.
Chùa Từ Đàm (Huế) đang nguy ngập: chính quyền đã cắt điện, nước một tuần lễ nay.
Ngày 3 và 4 tháng 6, Phật tử Huế lại bị cảnh sát đàn áp.
THÔNG CÁO CỦA PHỦ TỔNG THỐNG
Theo chỉ thị của Tổng thống, một Ủy ban liên bộ gồm Bộ trưởng Bộ nội vụ Bùi Văn Lương, Bộ trưởng Phủ tổng thống Nguyễn Đình Thuần do Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đứng đầu, đã thành lập để cùng phía Phật giáo giải quyết các khó khăn phát sinh từ một tháng nay.
Phần Phật giáo, một Ủy ban liên phái đã thành lập, gồm các thượng tọa Thích Thiện Minh, Thích Thiện Hoa, Thích Huyền Quang, Thích Đức Nghiệp do thượng tọa Thích Tâm Châu đứng đầu.
Phiên làm việc đầu tiên giữa hai Ủy ban ấn định vào ngày 5-6-1963.
Điện tín của Bộ ngoại giao Mỹ gửi đại sứ Nolting:
Tổng thống xác định lập trường ủng hộ cố gắng của chính phủ Việt Nam do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Quan điểm của Tổng thống là các vụ Phật giáo không thể trở thành lý do để chính phủ Mỹ xét lại thái độ của mình…
(Bản sao điện tín này được gửi cho Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu và Ngoại trưởng đã chuyển cho văn phòng Phủ tổng thống)
Điện tuyệt mật của Colby gửi Fishell:
Vụ “Phật giáo” chỉ tiến triển đến mức đó thì chưa thể “bắn tín hiệu xanh”. Trao đổi thêm với John Hing. Trực tiếp gặp Lâm Sử để hoàn thành kế hoạch “Hight-pressure” (6) và sửa soạn kế hoạch “Horse-tail” (7) một khi cái trước thực hiện trót lọt.
----------
(1) Thuận lợi.
(2) Alô, phải… Lệ Xuân đây…
(3) Nước Mỹ trước hết
(4) Cơ quan an ninh nội địa Mỹ.
(5) Cercle Sportil Saigonale: Câu lạc bộ thể thao Sài Gòn, nay là sân Tao Đàn.
(6) Cao áp.
(7) Đuôi ngựa.

CHƯƠNG 4

Buổi sáng ngày 11-6, theo kế hoạch, các chùa trong đô thành tiếp tục lễ cầu siêu cho các nạn nhân ngày 8-5 ở Huế.
Nhìn bên ngoài, tình hình quan hệ Phật giáo và chính phủ có vẻ được lắng dịu đôi chút sau khi Ủy ban liên bộ chính phủ và Ủy ban liên phái của Phật giáo tiếp xúc thường xuyên và đi đến một vài thỏa thuận. Các cuộc tuyệt thực phản đối của tăng ni lan rộng khắp các tỉnh miền Trung và ở đô thành lần lượt chấm dứt.
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ra một số quyết định mà người ta có thể hiểu như là một mức nhượng bộ nào đó: trung tá Trần Ngọc, tỉnh trưởng Kiến Hòa được đề cử làm thị trưởng thành phố Đà Nẵng thay thế Hà Thúc Luyện. Tuy nhiên, cái nút gây căng thẳng vẫn chưa được tháo mở - cuộc bao vây chùa Từ Đàm ở Huế, nơi mà theo ý của Phan Quang Đông và được Diệm tán thành, là cái “lò” tiêu biểu cho sự “cứng đầu” của Phật giáo, chừng nào chưa buộc các nhà sư Từ Đàm quy hàng với bản nhận tội vô tình hay cố ý tiếp tay Cộng sản thì chưa thể chấm dứt cái gọi là chiến dịch “củng cố quyền lực chính phủ”
Một số khá đông tăng ni và Phật tử tập trung từ sáng sớm tại chùa Phật Bửu trên đường Cao Thắng. Nha cảnh sát đô thành được thông báo về lễ cầu siêu này và giám đốc nha nhìn thông báo ấy ngang với hoặc thấp hơn những lễ cầu siêu ở các địa điểm khác, bởi Phật Bửu là ngôi chùa quá nhỏ, nằm ở một vùng lao động - chợ Vườn Chuối. Chín giờ, lễ cầu siêu chấm dứt không có xung đột - tăng ni và Phật tử đọc kinh cầu nguyện trong trật tự còn nhân viên công lực, gồm một tiểu đội cảnh sát lặng lẽ theo dõi bên ngoài chùa. Cũng chừng ấy mật vụ và công an chìm được bố trí chen lẫn với Phật tử. Tất cả đều hiền lành và hẳn, cảnh sát cũng như mật vụ đều nghĩ rằng hôm nay họ sẽ có được một ngày rãnh rỗi.
Từ Phật Bửu Tự, các tăng ni rước bài vị nạn nhân ra đường Phan Đình Phùng. Số tín đồ không đông lắm và người ta đoán các tăng ni sẽ đến bến xe Nguyễn Cư Trinh để lên đường ra Huế. Chín giờ ba mươi, đoàn kéo đến ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt. Tại đây, một số tăng ni đã tập hợp từ trước. Hai con đường giao thông quan trọng của đô thành bỗng tắt nghẽn. Tăng ni và Phật tử, đông lối 700 người, hình thành một vòng tròn. Từ trên chiếc xe du lịch hiệu Austin mang số DBA 599, hai nhà sư bước xuống.
Một trong hai nhà sư, tuổi lối 70, người dong dỏng cao, mặc áo đạo màu nâu, thanh thản ngồi xếp bằng giữa ngã tư, một tay chấp trước ngực, một tay lần tràng hạt, còn nhà sư kia thì lấy từ trong xe ra một can xăng loại 20 lít, tưới lên người nhà sư đang ngồi. Xăng xối từ đầu, đẫm ướt toàn thân nhà sư. Một diêm quẹt lóe lửa, ngọn đuốc bùng cháy, khói và lửa bốc cao. Bảy trăm tăng ni đồng loạt quỳ chung quanh ngọn lửa đọc một đoạn kinh bằng tiếng Phạn.
Nhà sư tự thiêu, trong vùng lửa đỏ, ngồi như tĩnh tọa, chỉ ngã xuống khi tắt thở. Thời gian diễn biến sự việc kéo dài lối 45 phút. Thi thể của vị sư hỏa thiêu được bọc trong một tấm vải và toàn đoàn bước sau thi thể, tiếp tục đọc kinh, hướng về chùa Xá Lợi.
*
THÔNG BÁO CỦA NHA THÔNG TIN:
Hồi 9 giờ 30 ngày 11-6, tại góc đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng, một người đã dùng xăng tự sát. Tên ông ta là Nguyễn Văn Khiết, 73 tuổi, quê ở Khánh Hoà.
Cuộc điều tra của Nha cảnh sát đang được tiến hành để tìm hiểu nguyên nhân của vụ tự sát.
*
THÔNG BÁO CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO:
Thượng tọa Thích Quảng Đức, năm nay thọ 73 tuổi, xuất gia học đạo khi lên 7 tuổi với hòa thượng Thích Hoàng Thân. Ngoài thế tục, thượng tọa tên là Lâm Văn Tức, sau đổi là Nguyễn Văn Khiết, đạo hiệu Thích Quảng Đức, pháp danh Thụy Thủy, pháp tự Hành Pháp. Ngài thụ sadi năm 15 tuổi, thọ cụ túc giới lúc 20 tuổi và phát nguyện tham thiền trên núi 3 năm liền. Sau 2 năm vân du hóa đạo, Ngài về nhập thất ở Ninh Hòa và Nha Trang, làm chứng minh đạo sư cho chi hội Ninh Hòa Việt Nam Phật học và kiểm tăng tỉnh Khánh Hoà. Thượng tọa Thích Quảng Đức nghiên cứu giáo lý Phật ở Nam Vang 3 năm, kiến tạo và trùng tu cả thảy 31 ngôi chùa. Ngôi chùa cuối cùng Ngài trụ trì là Quan Thế Âm tự, số 66 đường Nguyễn Huệ, Phú Nhuận. Thượng tọa người thôn Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà, Trung Việt.
Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chính phủ. Toàn thể tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam đang cầu nguyện cho Ngài.
*
THÔNG ĐIỆP CỦA TỔNG THỐNG GỬI ĐỒNG BÀO THỦ ĐÔ:
Sài Gòn (VTX)
Sau đây là nguyên văn thông điệp truyền thanh của Tổng thống gửi đồng bào thủ đô tối nay, 11-6-1963.
Đồng bào thân mến ở Thủ đô.
Sau cuộc tiếp xúc giữa Ủy ban liên bộ với đại diện Tổng hội Phật giáo ngày 5-6-1963, về phía chính phủ đã thi hành mọi biện pháp thích nghi để ổn định tình thế tại cố đô Huế và đời sống tại thành phố nay đã hoàn toàn trở lại bình thường. Ngày mai, 12-6-1963, một phái đoàn Tổng hội Phật giáo sẽ tới Sài Gòn để tiếp tục cuộc thảo luận với Ủy ban liên bộ về những vấn đề do Tổng hội đề ra.
Công việc đang tiến hành điều hòa như vậy thì sớm nay, do sự tuyên truyền quá khích che giấu sự thật, gây sự hoài nghi về thiện chí của chính phủ, khiến một số người bị đầu độc gây một án mạng oan uổng làm cho tôi rất đỗi đau lòng.
Tôi kêu gọi đồng bào hãy bình tĩnh nhận định tình thế, sáng suốt xét mọi vấn đề trên căn bản lương tri và ái quốc. Đồng bào hãy tin chắc rằng, tất cả mọi vấn đề dầu khó khăn đến mấy cũng có thể giải quyết trên lẽ công bằng và trên tình đoàn kết huynh đệ của dân tộc. Nếu trong hàng ngũ Phật giáo hãy còn phần tử nào vì nghe lời xuyên tạc mà lầm tưởng rằng có âm mưu thủ đoạn nào để trì hoãn cuộc giải quyết, để đàn áp bất công Phật giáo thì tôi long trọng tuyên bố cho đồng bào biết rằng, sau lưng Phật giáo trong nước hãy còn có hiến pháp, nghĩa là có tôi.
*
THÔNG BÁO VỀ VIỆC TĂNG NI VÀ THIỆN TÍN ĐẾN CHÙA XÁ LỢI
Nha cảnh sát đô thành trân trọng thông báo:
Do chỉ thị của ông Bộ trưởng nội vụ, ngày 11-6-1963 hồi 20 giờ, Giám đốc Nha cảnh sát quốc gia đô thành có tiếp xúc với ông Tổng thư ký Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo và đã thỏa thuận về những điều sau đây nhằm mục đích để cho các sư sãi, tăng ni, thiện tín có thể đến chùa Xá Lợi chiêm bái hay hành lễ cầu siêu cho giác linh Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11-6-1963:
1. Chương trình hành lễ cầu siêu:
- Tất cả các sư sãi tăng ni, thiện tín sẽ tập trung tại chùa Giác Minh, 578 đường Phan Thanh Giản để lần lượt được Ban tổ chức và nhà cầm quyền đô thành hướng dẫn bằng xe đến chùa Xá Lợi.
- Số sư sãi, tăng ni, thiện tín tối đa cho mỗi phiên hành lễ là 400 người.
- Thời gian hành lễ được ấn định kể từ ngày 12-6-1963 đến ngày 15-6-1963 vào lúc 20 giờ và dành cho các chùa kể dưới đây:
Ngày 12-6-1963
5g00: Chư tăng trụ chùa Xá Lợi, 10g00: Chùa Giác Minh, 15g00: Chùa Từ Nghiêm, 20g00: Chùa Ấn Quang.
Ngày 13-6-1963
5g00: Chư tăng trụ chùa Xá Lợi, 8g00: Chùa Phật Bửu, 10g00: Chùa Kỳ Viên, 15g00: Chùa Chantareansey, 16g00: Chùa Ấn Quang, 20g00: Hội Phật học Nam Việt.
Ngày 14-6-1963
5g00: Chư tăng trụ chùa Xá Lợi, 8g30: Chùa Vạn Thọ, 10g00: Chùa Giác Nguyên và Chánh Giác, 15g00: các chùa Trung Hoa, 17g00: Chùa Từ Nghiêm, 20g00: Chùa Phước Hòa.
Ngày 15-6-1963
5g00: Chư tăng trụ chùa Xá Lợi, 8g00: Chùa Ấn Quang, 10g00: Chùa Chantareansey, 15g00: Chùa Kỳ Viên, 17g00: Chùa Vạn Thọ, 20g00: Chùa Từ Nghiêm.
- Thiện tín muốn đến chùa Xá Lợi bái hay hành lễ, dầu không có “chân” trong các chùa ghi trên đây được phép tháp tùng theo các phái đoàn và muốn được như vậy, cũng phải tập trung tại chùa Giác Minh.
2. Các xe của chùa Xá Lợi (Hội Phật học Nam Việt) được Nha Cảnh sát quốc gia đô thành cấp phù hiệu để ra vào chùa hành sự thong thả, bất luận lúc nào.
3. Cấp giấy chứng nhận cấp cho nhân viên chùa Xá Lợi sẽ được ông Giám đốc Nha Cảnh sát quốc gia đô thành ký tên cho phép xuất nhập chùa Xá Lợi bất luận lúc nào.
Những điều thỏa thuận giữa đôi bên kể trên đã bắt đầu áp dụng kể từ ngày 12-6-1963 vào hồi 12 giờ và đến hết ngày 12-6-1963, hồi 19 giờ đã có 1.620 người được hướng dẫn đến chùa Xá Lợi để chiêm bái hoặc hành lễ cầu siêu. Những người này đã ra về trong vòng trật tự và êm thắm.
Sài Gòn, ngày 12 tháng 6 năm 1963.
Giám đốc Nha cảnh sát quốc gia đô thành Sài Gòn.
TRẦN VĂN TƯ
Tổng kiểm tra CSQG
*
Luân hoàn toàn bất ngờ đối với vụ tự thiêu của vị cao tăng Thích Quảng Đức. Tổng nha Cảnh sát quốc gia cũng như Sở Nghiên cứu chính trị của Trần Kim Tuyến sửng sốt trước cái tin chấn động ấy. Thế nhưng nhà báo Mỹ Helen Fanfani lại có nhiều bức ảnh ghi lại hành động tử vì đạo lần đầu tiên của giới Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ gần đây.
Fanfani đến nhà Luân với một xấp ảnh đã được phóng đại. Giữa lúc Dung và Fanfani trao đổi về những góc cạnh thuộc tư thế của vị hòa thượng trước và trong cái chết, Luân bồi hồi như chạm trán với một sự cố mà tầm vóc không chỉ đơn giản là một vụ tự thiêu để phản đối. Trong vòng 5 tuần lễ, kể từ lúc chính quyền Thừa Thiên nổ súng vào đám đông Phật tử ở chân cầu Nguyễn Hoàng tại Huế, không khí chính trị của Việt Nam Cộng hòa đột ngột căng thẳng. Chắc chắn rằng cái chết của Thích Quảng Đức mới đúng là phát đại bác báo hiệu trận công đồn bước vào giai đoạn chót. Theo thuật ngữ quân sự mà Luân có thói quen liên nghĩ để so sánh các tình huống, đột phá khẩu mở vào dinh lũy của tổng thống Ngô Đình Diệm đã đủ rộng để cho không phải một trung đoàn, một quân đoàn mà để cho những đợt sóng thần nhận chìm và quét sạch những gì là chướng ngại - chướng ngại của cả hai phía: Mỹ cần qua xác Diệm để đạt ý đồ làm chủ Nam Việt; quần chúng cần xóa một tên độc tài.
Thông điệp của Ngô Đình Diệm vừa cho thấy ông cảm giác khá nhanh về mối nguy cơ mà vụ tự thiêu này sẽ dẫn tới, đồng thời vẫn chưa bỏ kiểu cách nhìn tình hình theo lối kẻ cả, rõ ràng với tinh thần hiếu thắng của một vị hoàng đế. “Tôi long trọng tuyên bố cho đồng bào biết rằng, sau lưng Phật giáo vẫn còn có Hiến pháp, nghĩa là có tôi”. Diệm có lẽ đã gắng hết sức mình để tự kềm chế, đáng lý ông không nên dùng chữ “sau lưng” mà phải “đứng trên Phật giáo”. Vượt qua tất cả, Diệm sống với cái ảo giác ông là người giữ quyền lực tối cao ở đất nước này. Ông xem vụ tự thiêu vì lý do chính trị là một vụ “án mạng oan uổng”! Ông tưởng rằng bằng một thông điệp ngắn gọn, với lời lẽ “có ân có uy”, tình hình sẽ ổn định ngay. Trong cơn tức giận và dĩ nhiên là bấn loạn, ông quên rằng chính ông đã kêu gọi dân chúng Huế đừng xao xuyến sau ngày 8-5 và kết quả là cảnh sát dã chiến Huế đã phải dùng bạo lực cao hơn và nhiều hơn để xua sư sãi vào các ngôi chùa, đặc biệt biến chùa Từ Đàm thành một nhà tù tệ hại vượt qua tất cả các nhà tù hiện có.
Giám đốc Cảnh sát đô thành Trần Văn Tư, lập lại bài bản cũ: hạn chế lễ viếng hòa thượng Thích Quảng Đức. Chế độ của Ngô Đình Diệm vẫn xét sự biến động Phật giáo một cách riêng lẻ: nếu như khoanh vụ Huế vào giữa vòng rào chùa Từ Đàm thì sẽ xóa được trong chương trình nghị sự của họ vấn đề Phật giáo; còn bây giờ nếu giảm đến mức tối thiểu số người đi viếng hòa thượng Thích Quảng Đức, thì có vẻ sự thể chỉ còn là một cái chết của một nhà sư, với các đoàn thể phúng điếu thông thường... Thậm chí Tổng nha Thông tin đã nhanh nhẩu đến nỗi gọi vụ tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức là một vụ tự sát.
Những bức ảnh mà Fanfani ghi được - rồi đây nhất định sẽ được công bố rộng rãi trong và ngoài nước - có một sức chứa kỳ lạ. Chỉ cần xét vấn đề ở một góc độ nhỏ thôi. Tổng thống Ngô Đình Diệm đã trở thành một cái gì vô nghĩa lý trước một Thích Quảng Đức ung dung, tự tin về hành động của mình. Ngọn lửa bốc cao, mảnh áo ngoài thành tro cuốn theo làn gió nhẹ, da thịt của hòa thượng trở thành chất đốt và chỉ đến lúc đó, đến lúc mà toàn bộ hệ thần kinh của hòa thượng cùng với toàn bộ tế bào đã khô kiệt, hòa thượng mới từ từ ngã xuống. Làm sao một chế độ, dù đủ súng ống, lại có thể đương đầu nổi với những cái chết tương tự? Không thể tán thành phương pháp đấu tranh của hòa thượng Thích Quảng Đức - nó mang nhiều yếu tố tiêu cực - Luân không giấu giếm sự khâm phục nhà sư. Anh hiểu rằng, nếu tách hành động của nhà sư ra khỏi các loại chủ trương mà chắc chắn có tác động đến nhà sư, thì sự hi sinh của Thích Quảng Đức, đã phản ảnh trên một khía cạnh nào đó tính cách của con người Việt Nam chân chính...
- Tại sao cô có thể chứng kiến được cảnh này? - Luân hỏi Fanfani.
Cô nhà báo Mỹ dường như đoán trước Luân sẽ hỏi câu đó nên mỉm cười:
- Nếu tôi bảo rằng vì tình cờ đi ngang mà tôi thu được ảnh của vụ tự thiêu thì đại tá sẽ nhún vai. Tôi “ngửi” được sẽ có một quả bom nổ và tôi xông xáo. Không phải Fishell cho tin, đời nào ông ta cho tôi những loại tin cỡ đó. Đại tá bằng lòng cách giải đáp đó của tôi không?
Luân không tỏ ra một thái độ nào. Fanfani trở nên tinh nghịch:
- Tôi mới nói với bà đại tá: bà là nhân viên cấp khá cao trong ngành cảnh sát, kề cận Tổng giám đốc và tiếp xúc hàng ngày với đủ loại báo cáo, thế mà bà đã không ngờ trước vụ Thích Quảng Đức. Còn ông, đủ điều kiện hơn bà để nắm mọi ngóc ngách của tình hình, ông cũng bàng hoàng nốt! Ông bàng hoàng nghĩa là ông Nhu cũng bàng hoàng.
- So với Victo, cô đã gác một điểm quan trọng! Các bức ảnh của cô sẽ làm cho tờ báo của cô đi đúng với tính chất tài chính của nó... - Luân cười nhẹ.
- Tôi báo cho đại tá một tin: Tôi chỉ thu được một số ảnh trong khi một ký giả người châu Á - một người châu Á thì là chắc chắn, còn có phải là ký giả hay không thì tôi chưa khẳng định - quay cả một cuốn phim. Có thể ông ta quay nhiều cuốn phim. Đại tá có nghĩ rằng John Hing liên can đến vụ tự thiêu này không?
- Có thể. Và, tuy tôi không hân hạnh chứng kiến sự việc tại hiện trường như cô, nhưng tôi biết chắc chắn ít nhất còn có một caméra nữa...
- Của ai?
- Theo tôi, ông Mai Hữu Xuân không bàng quan.
Điện thoại reo. Nhu gọi Luân vào dinh Gia Long gấp.
- Với tôi, vụ tự thiêu cao cả của hòa thượng Thích Quảng Đức sẽ bị khai thác. Thật lòng, tôi đau đớn trước một cái chết mà tôi khâm phục cái chết đó.
Luân nói những lời chót với Fanfani trước khi lên xe.
- Ông kỹ sư là một con người kỳ quặc! - Fanfani nhận xét như vậy với Dung.
- Dù thế nào cái chết của hòa thượng cũng là một thảm kịch. Anh Luân của tôi không thích các loại thảm kịch. - Dung trả lời Fanfani.
*
Có mặt ở phòng làm việc của Diệm gần đủ mặt: Nhu, Luyện, Trần Lệ Xuân, Đức cha Ngô Đình Thục, bác sĩ Trần Kim Tuyến, đại tá Tổng giám đốc cảnh sát Nguyễn Văn Y, đại tá Đặng Văn Quang - sắp rời tham mưu biệt bộ sang phụ trách trung tâm tình báo - đại tá Nguyễn Thành Luân và bí thư của tổng thống Võ Văn Hải.
Nhìn qua thành phần, Luân hiểu rằng Diệm muốn nghe ý kiến của những người thân cận nhất để đi đến một ý kiến cực kỳ quan trọng. Đô thành và khắp các tỉnh giống như cơn dầu sôi. Vụ tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức khơi dậy những tiềm lực mà bấy lâu chế độ Diệm tạm thời nén ém được. Hết sức phũ phàng đối với Diệm - ông vẫn ngồi trên chiếc ghế bành quen thuộc nhưng vắng hẳn nụ cười thỏa mãn thường lệ mỗi khi có cuộc tập họp mang tính chất gần như gia đình này - thiên huyền thoại “không thể nào lật đổ nổi chế độ Ngô Đình Diệm” bỗng phá sản và hơn nữa, đảo ngược một cách tàn nhẫn: không một chế độ nào dễ lật đổ hơn chế độ Ngô Đình Diệm!
Diệm mở đầu cuộc họp, quên cả chọn giọng nói: ông có biệt tài nói giọng Bắc với người di cư, giọng Bắc Trung Bộ với những người đồng hương và giọng Nam với các đối tượng còn lại - bữa nay ông nói giọng lai tạp:
- Tình hình thì ai cũng đã rõ, hết sức vô lý. Giữa lúc toàn dân nỗ lực tối đa để chiến thắng Cộng sản và ngày chiến thắng gần kề thì các lão thầy chùa gây rối. Phải dập tắt tất cả các hành động đâm sau lưng chiến sĩ của bọn giả danh tu hành!
Diệm liếc về phía đại tá Tổng giám đốc cảnh sát và bác sĩ Trần Kim Tuyến.
- Sao lạ rứa? Vụ tự tử để gây kích động giữa một ngã tư lớn của đô thành mà các cơ quan cảnh sát, tình báo của chính phủ hoàn toàn không hay biết. Các ông ngủ cả à? Đã thế, còn để cho phóng viên nước ngoài chụp ảnh, quay phim. Phóng viên nước ngoài dò được tin tức trong khi ông Y, ông Tuyến chỉ báo cáo với tôi khi bọn chúng đã khiêng xác chết về chùa Xá Lợi...
Diệm lại liếc về phía Nhu - Luân ngồi cạnh Nhu:
- Nhượng bộ! Chính trị! Chú Nhu thấy rồi đó. Phải chi ngay đầu tháng 5 ta tóm cổ tất cả bọn sư sãi ở Huế, tống chúng vào lao Phủ Thừa, thì tình hình đâu có rối như hiện giờ.
Diệm nói như quát, mặt lúc tái, lúc đỏ. Những người dự họp im lặng. Nhu cau mày, rít thuốc liên hồi. Ngô Đình Thục ngó đăm đăm bộ ba Trần Kim Tuyến, Nguyễn Văn Y, Đặng Văn Quang - cả ba khoanh tay ngồi thu lu. Chân mày của Trần Lệ Xuân xếch ngược, môi mím chặt. Ngô Đình Luyện, khác với tất cả, ngó sang dinh Độc Lập, hình như thích thú khu vườn rợp mát đầy cổ thụ hơn là vấy vào cái không khí oi ả của gian phòng, Võ Văn Hải nép hẳn ở hàng ghế sau, với cuốn sổ và cây bút lúc nào cũng sẵn trên tay, Luân chọn một thái độ mà anh cho là thích hợp: bình tĩnh lắng nghe Tổng thống quở, thỉnh thoảng ra chiều suy nghĩ, thong thả từng lọn khói thuốc.
- Đúng như Tổng thống nói, thật vô lý! - Ngô Đình Thục hậm hực.
Đức cha Ngô Đình Thục vừa được phong chức Tổng giám mục địa phận Huế. Với ông, chức vụ đến hơi muộn. Và điều mà ông bận tâm chính là những sự cố từ năm 1960 đã trở thành những chướng ngại vật trên con đường tiến đến tước vị Hồng y mà ông thèm muốn đến độ điên cuồng. Em ông, vị tổng thống khai sáng nền Cộng hòa ở Nam Việt, còn gì hợp lý hơn là chính ông nhận chiếc mũ Hồng y đầu tiên ở Việt Nam? Năm nay, kỷ niệm 25 năm ông thụ phong Giám mục. Lễ Ngân khánh được sửa soạn từ lâu. Một ủy ban tổ chức đã thành lập và hoạt động vào tháng 3 năm nay, gồm một danh sách rôm rả. Trưởng ban tổ chức là Chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ, phó trưởng ban là Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Quang Trình, Bộ trưởng Công dân vụ Ngô Trọng Hiếu, Viện trưởng Viện đại học Huế, linh mục Cao Văn Luận. Đó là tổ chức cấp Trung ương, còn cấp tỉnh thì trưởng ban là tỉnh trưởng. Thông báo của ban tổ chức Trung ương cho biết lễ Ngân khánh của vị Giám mục niên trưởng Việt Nam sẽ được tổ chức vào ngày 29-6-1963 và tuy không nằm trong diện những ngày lễ của Nhà nước, nhưng vì công lao của Đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục, dân chúng hãy xem đó như là ngày quốc lễ. Công cuộc lạc quyên được Bộ Công dân vụ xúc tiến mạnh mẽ kết hợp với các cấp hành chính, quân sự, cảnh sát và đoàn thể. Chỉ trong vòng có một tháng, trưởng ban tổ chức Trương Vĩnh Lễ đã báo cáo với Đức cha số tiền do các nhà hảo tâm và dân chúng đóng góp đã lên đến trên 20 triệu đồng. Riêng chuyến đi của Đức Tổng giám mục ra La Vang, quỹ mừng lễ Ngân khánh của địa phận Quảng Trị đã hơn nửa triệu đồng.
Cũng chính chuyến đi từ La Vang trở về Huế đã làm cho Đức Tổng giám mục bất bình. Dọc theo quốc lộ, cờ Phật tung bay, lấn át cả cờ đạo Thiên Chúa. Về đến Phú Cam chiều ngày 7-5, Ngài gọi tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Văn Đẳng, phó tỉnh trưởng phụ trách nội an thiếu tá Đặng Sỹ và đại diện chính phủ ở Bắc Trung nguyên Trung phần Hồ Đắc Khương đến quạt cho một trận ra trò. Sau đó, ông hấp tấp bay vào Sài Gòn.
- Rứa! Những cái mà tôi lo xa thì bây giờ đã rõ. - Tổng giám mục mất hẳn vẻ ôn tồn của vị chủ chăn - Đáng lý dẹp Phật giáo thì chính phủ lại kỷ luật tỉnh trưởng và phó tỉnh trưởng Thừa Thiên. Linh mục Hoàng biên cho tôi một thơ dài, ông ta bất mãn chú Nhu. Chính phủ không dựa vào người theo đạo Chúa mà lại mơn trớn đạo Phật, thật lạ lùng... Cái trò tự thiêu nguy hiểm lắm!
Trần Lệ Xuân bây giờ mới cất tiếng:
- Thưa Đức cha, chẳng có gì nguy hiểm. Con cho đó là một vụ “rôti”. Còn những kẻ nhúng tay vào các vụ “rôti” thì phải truy tố trước pháp luật về tội sát nhân. Tôi đề nghị chính phủ ra ngay một sắc lệnh cấm chỉ những hành động tương tự với những điều khoản gắt gao. - Lệ Xuân ném giữa cuộc họp những từ ngữ dữ dội.
Ngô Đình Nhu, nếp nhăn như thêm sâu trên vầng trán thông minh, hỏi vợ:
- Em đã nói những câu vừa rồi với ai chưa?
- Nói rồi! - Môi của Lệ Xuân cong lên - Em nói với phóng viên tờ Washinggon Post ngày hôm qua. Em nói rõ, bằng tiếng Pháp, tự thiêu là rotissage và kẻ tổ chức tự thiêu là assasin. Em nói như vậy đó. Những tên thầy chùa muốn tự “quay” thì cứ để cho chúng tự “quay”. Chúng bảo sẽ về đất Phật. Mặc kệ Phật tổ với cái món “rôti” thịt người khét lẹt, buồn nôn...
Có lẽ trong những trường hợp như thế này, Lệ Xuân bộc lộ chân thật nhất con người của mụ ta. Luân cố nén cái cười mỉm, nhưng anh nghe rõ tiếng thở dài sườn sượt của Nhu.
- Tôi nghĩ là chị đã quá giận. - Ngô Đình Luyện nói: nếu vấn đề không gây cấn đến mức thì Luyện rất ít tỏ rõ ý kiến trong các cuộc họp - Những từ của chị dùng sẽ là vũ khí mà những kẻ chống chúng ta trong cũng như ngoài nước, nhất định vồ lấy để đập lại chúng ta. Ở nhà, các anh chị khó hiểu tâm lý của thế giới đối với Việt Nam Cộng hòa chúng ta. Tôi tin là anh Luân nhạy cảm trước những bất lợi mà gia đình chúng ta, chế độ chúng ta phải đối phó...
- Cũng có đến ba bảy đường dư luận. - Trần Lệ Xuân tiếp tục lồng lộn, không thèm ngó mặt Luyện - Dư luận bị đầu độc, chúng ta phải giải độc. Chẳng lẽ chúng ta xin lỗi những kẻ tự đổ xăng vào mình, tự châm lửa. Họ thích tự sát, họ thích tự đốt chùa của họ, chúng ta phải làm gì? Chúng ta có trói gô họ lại đâu, có đổ xăng vào người họ đâu? Mấy năm trước, Hoàng Văn Đáp cũng đã tự thiêu trước tòa đô chính, vài dư luận xấu muốn nhân đó bôi lọ chúng ta, nhưng chân lý vẫn là chân lý. Hoàng Văn Đáp chết, một oan án, thế thôi. Thằng cha Nguyễn Văn Khiết vừa tự sát, hoặc hắn bị những người khác giết giữa ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt, thêm một oan án nữa. Thế thôi. Đó là công việc của ngành cảnh sát hình sự: truy tầm thủ phạm, tống giam, đưa ra tòa, bỏ tù... Bấy nhiêu việc mà cả một bộ máy quốc gia không giải quyết được, lại phiền lòng đến Tổng thống, Đức Tổng giám mục. Người Mỹ nhìn vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức như thế nào? Bà Lindsay Nolting nói với tôi: “Cảnh sát Nam Việt tồi quá... ”
Ngô Đình Nhu đưa tay ra hiệu ngăn vợ:
- Đại sứ Nolting lại nói khác với tôi.
- Ông Nolting nói cái gì? - Lệ Xuân hỏi chồng một cách gay gắt.
- Ông ta bảo rằng đây là một vụ chính trị nghiêm trọng. Ông ta không chê trách cảnh sát mà lo ngại về những điều kiện dẫn đến vụ tự thiêu, nhất là hậu quả của nó...
- Thưa Tổng thống, thưa Đức Tổng giám mục, thưa ông cố vấn - đại tá Đặng Văn Quang đứng lên. Từ nãy giờ Quang là người duy nhất đứng lên rồi mới dám nói - Cơ quan tình báo Mỹ hình như biết trước vụ tự thiêu, bởi vì 9 giờ 30 phút hơn một chút, ông Fishell gọi điện cho tôi, nói rõ tên tuổi và pháp danh của người tự thiêu. Sau đó, ông mời tôi lại cơ quan của ông và cho xem một cuốn phim dài 25 phút ghi toàn bộ hình ảnh từ buổi lễ cầu nguyện ở ngôi chùa nhỏ đường Cao Thắng về chùa Xá Lợi. Ông ta còn cho biết một cuốn phim khác, đang in tráng quay cảnh cầu siêu ở chùa Xá Lợi. Tôi muốn trình với Tổng thống và quý vị khía cạnh đó...
Nói xong, Đặng Văn Quang ngồi xuống, lấm lét ngó quanh.
Nhu bỗng ngó thẳng Trần Kim Tuyến:
- Bác sĩ Tuyến có nhận được một nguồn tin nào báo trước không?
Tuyến tái mặt, lắc đầu lia lịa.
- Còn ông Y? - Nhu hỏi rà.
Y nhổm lên:
- Thưa không.
Luân chờ Nhu hỏi mình, nhưng Nhu lại bóp trán.
- Thưa Tổng thống, thưa Đức cha... Nhu nói mà không ngó ai cả - Chúng ta cần hết sức tỉnh táo. Cái gì ở đằng sau vụ tự thiêu và nhất là cái gì ở đằng trước nó? Ta có thể nào xét vụ tự thiêu vừa rồi tách ra khỏi sự cố ngày 11-11-1960, sự cố tháng 27-2-1962 hay không? Tôi không tin là Phật giáo đủ sức khuấy động đến mức thành áp lực đối với chính phủ.
Nhu móc trong túi ra một bức thư:
- Tôi xin phép Tổng thống đọc bức thư của Cha Cao Văn Luận từ Mỹ gửi về, chỉ đọc những đoạn cần thiết thôi. “Ngày 16-5, tôi lên máy bay đi Mỹ với Âu Ngọc Hồ và trạm đầu tiên tôi đáp xuống là San Francisco. Tôi muốn nhắc lại một chút, ngày 14-5, tôi tham dự lễ đặt viên đá đầu tiên xây cất trường Đại học Sư phạm ở Thủ Đức, cùng với Tổng thống. Đại sứ Nolting hỏi tôi về tình hình ở Huế và tôi trả lời rằng tình hình sở dĩ gây cấn cũng có phần lỗi của chính phủ, chẳng hạn chính phủ cấm treo cờ đúng ngày lễ Phật đản trong khi các cuộc lễ bên Công giáo thì được tự do treo cờ. Ngày 15, Tổng thống gặp tôi và đã khiển trách tôi là đã chỉ trích chính phủ trước một đại sứ ngoại quốc. Tôi đã thưa với Tổng thống là tôi chỉ đưa ra một vài giải thích và thật tình tôi xem hành động của chính phủ ở Huế là bất lợi. Nhân tiện, tôi cũng bộc bạch với Tổng thống, đại ý: số giáo dân Thiên Chúa ở trong Nam chỉ vài trăm nghìn, nhờ phong trào di cư, tổng cộng ngót một triệu, tỉ lệ đó vẫn là thấp so với toàn dân mà Tổng thống và các chức vụ lớn trong chính quyền đều do người Công giáo đảm trách. Dù không có sự thiên vị nào đi nữa, mà chỉ dựa vào tài năng thì bên ngoài, người ta cũng có thể nói rằng Tổng thống thiên vị Công giáo và bạc đãi các tôn giáo khác. Mặt khác, ai cũng thấy từ khi Cụ cầm quyền thì nhà thờ mọc lên khắp nơi, các nhà thờ bị phá hủy trong chiến tranh đều đã được tái thiết gần hết, cả những nơi không có bao nhiêu giáo dân cũng có nhà thờ đồ sộ. Trước đó nữa, tôi yết kiến Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, Ngài chia sẻ với tôi những lo âu tương tự. Nhưng Đức cha Ngô Đình Thục thì lại bảo tôi: Cha cứ yên tâm, các phong trào chống đối của dân bất quá như ngọn lửa rơm bùng lên một chốc rồi tắt ngay, có chi phải sợ.
Những điều tôi băn khoăn được xác nhận ngay tại San Francisco. Ông chủ tịch tổ chức Asia Foundation vốn thiện cảm với Việt Nam Cộng hòa từ lâu, trong bữa cơm thân mật đã nói nỗi lo lắng của ông với tình hình Huế và Sài Gòn. Từ San Francisco tôi đến Hoa Thạnh Đốn. Đại sứ Trần Văn Chương đón tôi tại phi trường và cùng ngồi xe với tôi về tòa đại sứ, ông Trần Văn Chương hỏi qua về tình hình trong nước và báo cho tôi biết những khó khăn mà đại sứ Việt Nam đang gặp phải ở Mỹ. Đại sứ hàm ý trách cứ tôi đã không dùng ảnh hưởng của mình tác động với Tổng thống và khi biết rằng quan điểm của tôi không được Tổng thống nghe theo thì đại sứ thở dài. Nhân vật Mỹ đầu tiên tôi gặp là Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, tiểu ban Montana. Ông Mansfield là người rất có thế lực thuộc đảng Dân chủ cầm quyền, ông lo lắng cho chế độ của Tổng thống ta khó qua được cơn sóng gió. Ông nói rõ dư luận Mỹ trước năm 1960 rất có thiện cảm với Tổng thống ta. Nhưng sau cuộc bầu cử Tổng thống ngày 9-4-1961, báo chí Mỹ bắt đầu chỉ trích chế độ Việt Nam Cộng hòa và cũng bắt đầu dùng danh từ “Nhà độc tài” để mô tả Tổng thống. Ông Mansfield cho rằng cuộc bầu cử đó là “gian lận” - gian lận không cần thiết vì uy tín của Tổng thống trong nước đảm bảo cho Tổng thống đắc cử dễ dàng. Thượng nghị sĩ Mansfield cho tôi biết rằng hiện nay chẳng những dư luận báo chí Mỹ mà phần lớn các nhân vật trong chính phủ Mỹ đều cho rằng chế độ Việt Nam Cộng hòa là gia đình trị, Công giáo trị, không đoàn kết được toàn dân, đẩy những kẻ đối lập quốc gia đến bước đường cùng phải chống đối bằng bạo động, do đó không thể thắng được Cộng sản. Chính phủ Mỹ cũng như dân chúng Mỹ hết sức lo lắng và thất vọng. Ông khuyên tôi nên trình bày lại với Tổng thống hiểu chiều hướng của dư luận Mỹ, và nếu có thể, nên giúp Tổng thống thay đổi đường lối, nhân sự thì mới được sự ủng hộ của Mỹ, bằng không rất có thể Mỹ sẽ bỏ rơi Tổng thống, nếu không phải là bỏ rơi Việt Nam.
Tôi cố gắng biện hộ cho Tổng thống, trả lời rằng theo chỗ tôi thấy thì không có nạn cuồng tín tôn giáo tại Việt Nam lúc này, và cũng không có sự xung đột tôn giáo nào giữa Phật giáo - Công giáo. Có thể có những mâu thuẫn hiềm khích giữa chính quyền và Phật giáo.
Tổng thống không mấy tin tưởng Phật giáo và Phật tử tích cực chống Cộng cho nên dè dặt đối với Phật giáo. Tôi cũng trình bày về chuyện cấm treo cờ, biến cố ở Huế, vừa đưa ra lối giải thích cùng quan điểm của tôi. Những giải thích và biện hộ của tôi xem chừng không đủ sức thuyết phục được Thượng nghị sĩ Mansfield.
Trước khi chia tay, Thượng nghị sĩ Mansfield nhắc nhở lần nữa rằng nếu Tổng thống không có những thay đổi chính trị sâu rộng, nhằm đưa ra một chế độ dân chủ thật sự kết hợp nhiều thành phần chính trị dị biệt, thì chính phủ Mỹ cũng như dân chúng Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ Tổng thống lâu hơn được nữa.
Lúc bấy giờ đảng Dân chủ của Tổng thống Kennedy đang nắm quyền và ông Mansfield là một lãnh tụ có nhiều uy tín của đảng này. Lập trường cũng như ý kiến của ông có thể được coi như lập trường không chính thức của đảng và chính phủ dân chủ.
Do đó những lời ông Mansfield nói ra làm tôi lo lắng nhiều lắm. Tôi có cảm tưởng là người Mỹ đã hết tin ở Tổng thống ta và đang nghĩ đến một thay đổi lớn lao, không phải chỉ là thay đổi nhân sự hay chính sách.
Tôi muốn biết thêm quan điểm của đảng Cộng hòa đối lập, do đó tôi thu xếp gặp Thượng nghị sĩ Dirksen, một lãnh tụ Cộng hòa lão thành. Ông Dirksen cũng cho tôi biết những ý kiến tương tự như ông Mansfield, nói rằng dân chúng Mỹ, các chính sách Mỹ không phân biệt Cộng hòa hay Dân chủ đều tỏ ý thất vọng với chế độ Tổng thống, và coi như sự ủng hộ của Mỹ đối với Tổng thống nên được chấm dứt càng sớm càng tốt.
Báo chí Mỹ có vẻ đã thổi phồng những xung đột giữa chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Phật giáo với một dụng ý nào đó tôi không hiểu rõ lúc bấy giờ.
Trong lúc tôi đang ở Hoa Thịnh Đốn, thì có tin về những cuộc lễ cầu siêu cho các nạn nhân trong vụ đổ máu tại đài phát thanh Huế và lễ cầu siêu đã biến thành biểu tình ở Huế và Sài Gòn, ngày 30-5, báo chí Mỹ đăng những tin tức về những hành động đàn áp Phật giáo, như quân đội hay các lực lượng an ninh canh gác các chùa ở Huế, cúp điện trong khu chùa Từ Đàm.
Trong thời gian này, tôi gặp ông Robert Kennedy, bào đệ Tổng thống Kennedy, hiện là Bộ trưởng Tư pháp; ông Kennedy chỉ trích những hành động độc tài đàn áp đối lập, kỳ thị tôn giáo của Tổng thống Diệm. Ông nói rằng nếu tình trạng này không thay đổi, thì chính phủ Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ Tổng thống Diệm được nữa, vì dư luận dân chúng và Quốc hội Mỹ sẽ làm áp lực buộc chính phủ Mỹ bỏ rơi Tổng thống Diệm, hoặc bỏ rơi hẳn Việt Nam.
Trong cuộc họp báo ngày 22-5 về Việt Nam, Tổng thống Kennedy, đã có những lời lẽ chỉ trích chính phủ của Tổng thống Diệm, và một câu nói của ông như một lời giận dỗi: Mỹ sẽ rút hết quân đội và chấm dứt viện trợ cho Việt Nam bất cứ lúc nào chính phủ Việt Nam yêu cầu. Trả lời cho báo chí, ông ngụ ý là Việt Nam muốn chiến thắng Cộng sản, thì cần có những thay đổi chính trị sâu rộng, từ căn bản.
Trong cuộc gặp gỡ với Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy, tôi được nghe ông nhắc lại những luận điệu này, và ông nói rõ hơn là Tổng thống Diệm phải mở rộng chính phủ, lập Thủ tướng, tăng quyền cho các Bộ trưởng, kêu gọi các thành phần chính trị đối lập tham gia tân chính phủ, chấm dứt những sự bắt bớ đàn áp vì lý do chính trị hay tôn giáo.
Giọng ông có vẻ gay gắt, khi nhắc đến những tin tức quanh việc đàn áp Phật giáo. Ông châm biếm rằng không nên vì cái chuyện cờ quạt mà làm mất lòng 80% dân chúng Việt Nam. Ông đề cập đến ông bà Nhu và tuy ông không nói rõ, song ngụ ý rằng cách hay nhất để xoa dịu dư luận Việt Nam cũng như Mỹ, là Tổng thống nên cho các ông Nhu, ông Cẩn và bà Nhu rời khỏi chính trường trong ít lâu, hay đi du lịch thế giới với tư cách cá nhân. Đến đây thì tôi không thể nghi ngờ gì được nữa. Tôi hiểu ảnh hưởng của ông Robert Kennedy với Tổng thống Kennedy. Vậy quan điểm của ông em cũng có thể được coi như quan điểm của ông anh.
Mặc dù ông Robert Kennedy không nói ra, nhưng tôi hiểu ý ông ta muốn dành cho Tổng thống Diệm một cơ hội cuối cùng, muốn tôi khuyên Tổng thống Diệm nên cải tổ chính trị sâu rộng để tránh khỏi bị Mỹ bỏ rơi.
Đến nơi nào tôi cũng được nghe những dư luận tương tự. Những sinh viên Việt Nam mà tôi gặp ở các nơi cũng tỏ vẻ bất mãn với Tổng thống Diệm, có lẽ vì bị ảnh hưởng của dư luận Mỹ nhiều hơn là do chính kiến của họ. Dĩ nhiên là tôi cố gắng bênh vực Tổng thống Diệm, nhưng tôi chẳng thuyết phục được ai cả... ”
Không khí phòng họp lặng như tờ, cái biến đổi duy nhất là sắc mặt của từng người. Người thay đổi sắc mặt nhanh nhất là Lệ Xuân và người hầu như không thay đổi là Nhu. Luân cố gắng chọn cho mình một số cử chỉ thích hợp. Thật ra, anh quá cẩn thận. Hầu như chẳng ai để ý đến anh. Những người như Trần Kim Tuyến, Nguyễn Văn Y có mỗi bận tâm riêng. Bức thư của linh mục Cao Văn Luận thật tàn nhẫn. Và, Ngô Đình Nhu còn tàn nhẫn hơn:
- Chưa hết! Thư của linh mục Luận còn một đoạn, tôi muốn Tổng thống, Đức cha và mọi người biết. Tôi xin đọc tiếp: “Tôi lên Nữu Ước và gặp một chuyện bất ngờ đau lòng. Giáo sư Buttinger, trước là Chủ tịch Hội New Land Foundtion (1) và bây giờ là Chủ tịch Hội “Những người Mỹ bạn Việt Nam” tỏ ra chán nản thất vọng về Việt Nam, về Tổng thống của ta và không còn sốt sắng giúp đỡ cho ta như trước nữa. Giáo sư Buttingger gợi ý ta nên thay đổi Hiến pháp, bớt quyền Tổng thống, chỉ định Thủ tướng và cho các Tổng Bộ trưởng có thực quyền gồm những nhà chính trị có uy tín và tốt nhất nên mời các chính sách đối lập tham gia tân chính phủ. Giáo sư Buttinger nhấn mạnh với tôi rằng chính phủ Việt Nam hãy chấm dứt cho được sự kỳ thị đối với Phật giáo.
Cũng tại Nữu Ước, gặp ông Fishell từ Việt Nam sang có lẽ do một công cán đặc biệt nào đó. Ông rời Việt Nam sau tôi mấy hôm và có nhiều tình hình hơn tôi, tất nhiên là tình hình không mấy lành mạnh đối với chúng ta. Ông Fishell không giấu giếm với tôi rằng ông là một trong những người lãnh đạo cấp cao của Trung ương tình báo Mỹ. Từ Michigan, ông Fishell hấp tấp tìm tôi ở Nữu Ước bằng một chuyến bay riêng và chúng tôi nói chuyện từ 14 giờ đến 24 giờ. Ông Fishell nói toạt với tôi rằng, “nếu Tổng thống Diệm không chịu thay đổi đường lối chính trị và cải tổ nội các, thì nội trong năm 1963 này, Mỹ sẽ tìm cách loại bỏ Tổng thống Diệm ra khỏi sân khấu chính trị bằng nhiều biện pháp, mà không loại trừ biện pháp xóa ông Diệm về mặt thể chất... ”
- Quá quắc lắm! - Diệm giận dữ đấm tay lên bàn - Tôi không phải là bù nhìn, không phải là tôi tớ của Mỹ. Việt Nam Cộng hòa không phải là một bang của Mỹ... Chú Nhu giao thư đó cho tôi, tôi sẽ gọi đại sứ Nolting đến và chính thức gửi kháng thư sang cho Tổng thống Mỹ...
- Hình như linh mục Luận hơn thổi phồng. Sự thể có lẽ không giống như thế. - Tổng giám mục nói mà ai cũng có cảm giác là ông đang bày tỏ hy vọng hơn là phát biểu một ý kiến.
Trần Lệ Xuân nói gần như quát:
- Nếu tôi bảo Tổng thống Mỹ Kennedy hãy cho ông Robert Kennedy thôi chức Bộ trưởng Tư pháp vì là em của Tổng thống thì thế nào? Lố bịch đến thế là cùng!
Trần Kim Tuyến rụt rè báo:
- Theo tin vừa nhận được, Paul Maurice Katterburg, trợ lý của Fishell và Colby vừa bí mật sang Sài Gòn.
- Hắn là ai? - Diệm hỏi.
Tuyến lúng túng, liếc cầu cứu Đặng Văn Quang và Nguyễn Văn Y, nhưng hai người kia đều khẽ lắc đầu.
- Anh Luân có biết tay này không? - Nhu hỏi.
- Biết sơ sơ qua một vài tài liệu của ông ta. Katterburg sinh năm 1922, người Bỉ, di cư đến Mỹ năm 1943, trước là nhân viên OSS nay là CIA, chuyên viên các vấn đề Đông Dương và Nam Dương, một trong những tác giả cuộc lật đổ Soekarno.
Không ai nói, nhưng gần như mọi người trong gian phòng đều cùng thốt một lượt trong tư tưởng: Vậy là đã rõ!
- Có lẽ mọi người chờ ý kiến của anh Luân. - Nhu bảo.
Trong tất cả những người có mặt, Luân bỗng trở thành một “cây đinh”. Anh biết tầm quan trọng của những ý kiến mà anh sắp phát biểu cùng với tính chất phức tạp của nó. Nói cái gì đây? Nói như thế nào? Nhưng, dẫu sao cũng không thể không nói. Anh đứng lên với vẻ trịnh trọng, nhưng Nhu đã ra hiệu cho anh ngồi và Diệm cũng bảo:
- Cháu Luân cứ ngồi mà nói!
- Trước hết, tôi không cho chúng ta phải đối phó với vấn đề Phật giáo mặc dù sự chống đối của Phật giáo đang là trung tâm của các rối ren. Vì lẽ đó, tôi nghĩ là chúng ta phải hết sức thận trọng vói những cái mà tôi tạm gọi là “hữu hình” để ngăn ngừa cái mà tôi cũng tạm gọi là “vô hình”
Phật giáo hiện nay hết con chỉ là biểu tượng của hoạt động một số nhà sư nào đó, một số chùa chiền nào đó, ở một địa phương nào đó. Nếu chính phủ tập trung đối phó một số nhà sư, một số chùa chiền... thì cái kết quả sẽ làm cho tình thế nghiêm trọng hơn, sự bất mãn lan rộng hơn và xét cho cùng, chính chúng ta bị dẫn dắt vào một trận đồ đầy đường ngay ngõ tắt, sinh nở ra nhiều đối thủ mới mà sau lưng họ là hàng triệu con người. Bức thư của cha Luận không có gì bất ngờ đối với chúng ta. Tôi đã từng nghe anh cố vấn nhiều lần nhắc đến mặt trái của chính sách Mỹ đối với Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, cái mà tôi chưa tự giải đáp được là vai trò của cha Luận và cuộc gặp gỡ giữa cha Luận với giáo sư Fishell phải chăng hoàn toàn ngẫu nhiên. Tôi xin nói rõ hơn: những chính sách Mỹ, Bộ trưởng Tư pháp Mỹ, sinh viên Việt Nam ở Mỹ phát biểu những lời mà cha Luận ghi trong thư là do họ tự nói hay cha Luận mớm cho họ. Đáng lý, với tư cách là một con chiên, tôi không có quyền đi sâu vào mối quan hệ của hàng giáo phẩm, của các đấng bề trên, nhưng tôi buộc lòng phải nghĩ đến những ý muốn không lấy gì làm kín đáo lắm của cha Luận qua những hoạt động ở Viện đại học Huế, những hoạt động mà cha Luận có lẽ cảm thấy đôi điều bị gò bó kể từ khi Đức cha được giao cai quản Tổng giáo phận...
Ngô Đình Thục lắng nghe đoạn sau của Luân, thỉnh thoảng ông gật đầu đồng tình.
- Người Mỹ nhắc đi, nhắc lại yêu cầu mở rộng cơ cấu chính trị. Ta hiểu cái chứa đựng bên trong của yêu cầu đó là gì? Chắc chắn họ muốn vây quanh Tổng thống là những Phan Quang Đán, Phan Huy Quát, Trần Văn Hương, Nguyễn Trân, Nghiêm Xuân Thiện, Phan Khắc Sửu... Chắc chắn là họ muốn thay đổi một số bộ phận bằng các Bộ trưởng tốt nghiệp ở Michigan và quan trọng hơn, giao quyền binh cho một số sĩ quan được họ đào tạo. Họ nhắc đến chế độ đại nghị - một Tổng thống ít quyền với một Thủ tướng nhiều quyền và họ nói toạt ra là phải cho anh chị Nhu lưu vong. Tức là sẽ giải tán đảng Cần Lao, Phong trào cách mạng quốc gia, Thanh niên và Thanh nữ Cộng hòa, bỏ Sở Nghiên cứu chính trị của bác sĩ Tuyến, Trung tâm tình báo mà đại tá Đặng Văn Quang sắp nhận chức thành một chi cục của Trung tâm tình báo Mỹ.
Tướng Paul Harkins chứ không phải tướng Lê Văn Tỵ là Tổng tham mưu trưởng... Tôi quên một ý: thay đảng Cần Lao bằng đảng Đại Việt... Tất cả để sửa soạn cho một cái gì? Cho một bộ máy cai trị “kiểu Mỹ” tại Việt Nam Cộng hòa và cho một lực lượng Mỹ chưa ai đoán được số quân tràn ngập lãnh thổ chúng ta và quân đội Việt Nam Cộng hòa sẽ trở lại thời kỳ của Pháp, nghĩa là chỉ đóng vai trò quân bổ túc, lính partisan. Tôi không đi quá xa trong suy luận, nhưng tôi tin ở những cơ sở để có những suy luận như vậy...
Luân dừng ngang đó. Anh phát ra một viễn tượng đối với gia đình Ngô Đình Diệm thật rùng rợn, mặc dù những người có mặt hôm nay ai cũng linh cảm mức này hay mức khác hình ảnh tang tóc ấy.
Ngô Đình Diệm vừa đập bàn hồi nãy, đang ngã người trên chiếc ghế bành, gương mặt đăm đăm. Có lẽ ông thấm thía về những thứ quyền uy mượn tạm và khi người chủ nợ muốn lấy lại, ông chỉ còn trơ trọi cái thân xác. Họa may còn Đức Chúa đoái hoài đến ông. Nhiều lần Diệm viết thư riêng cho Hồng y Spellman và bao giờ cũng nhận được thư trả lời đầy nồng nhiệt. Nhưng, lần hồi ông Diệm hiểu rằng Hồng y Nữu Ước không phải là người quyết định chính sách của Nhà Trắng. Trong phút chốc, những kỷ niệm cũ vụt qua giống như một đoạn phim thời sự mà thuở nền điện ảnh còn phôi thai: động tác của con người “cà giật” theo tốc độ của kỹ thuật quay phim lúc ấy, hình ảnh cũ bỗng trở nên kệch cỡm, đầy tính hài hước. “Nước Mỹ, chỉ coi lợi ích của nước Mỹ là quan trọng nhất” - Diệm chua chát nghĩ thầm. Và tự nhiên, ông nhớ liền đến Magsaysay và cái chết vì rơi máy bay ở đảo Cébu. Cái giá mà “người hùng” Phi Luật Tân phải trả, khi muốn nới chiếc thòng lọng thắt cổ của chính phủ Mỹ. Ông lại nhớ Lý Thừa Vãn, một “người hùng” khác của Đại Hàn đang sống lưu đày có lẽ còn tệ hơn Nã Phá Luân trên đảo Saint Hélène. Ông cũng nhớ đến Tưởng Giới Thạch. Người Mỹ hứa “giải phóng Hoa lục” và Tưởng thống chế từng tâm sự với ông cái ngày “ký khai đắc thắng mã đáo thành công”, cờ Thanh thiên bạch nhật rợp bóng Thiên An môn. Tổng thống Eisenhower há không từng nhắc ông công cuộc “Bắc tiến” thu hồi cả giang sơn, duyệt binh giữa Hà Nội, đó sao? Lãnh tụ cả nước Việt Nam - Diệm chưa bao giờ nghi ngờ khả năng trong tầm với ấy của ông. Lãnh tụ toàn Đông Dương - chẳng có gì phải bàn cãi. Lãnh tụ Nam Á, phải đâu là viễn vông. Diệm trở mình, chiếc ghế bành có lẽ lâu ngày không tra dầu mỡ, bật lên tiếng “cót két” khô khan. Giấc mộng bá chủ thu nhỏ đến mức ngang với chiếc ghế bành và hình như để giữ cho chiếc ghế bành được nguyên vẹn không phải là việc dễ.
- Tôi không phản đối phân tích của anh Luân, - Trần Lệ Xuân cất tiếng lanh lảnh - nhưng chữa cháy phải biết dập ngọn lửa nơi phát ra chủ yếu. Phải xóa ngay cái gọi là vấn đề Phật giáo! Đây là lúc chúng ta cần chứng minh với người Mỹ rằng chúng ta là chủ, chúng ta nắm vững tình hình, chúng ta đủ sức đè bẹp mọi phản kháng. Có như vậy, người Mỹ mới bắt buộc phải đánh giá lại thực trạng Việt Nam Cộng hòa từ những nguyên tắc căn bản nhất. Cả nhà còn nhớ khi Tổng thống về nước nhận chức Thủ tướng, quân trong tay tướng Hinh, lực lượng giáo phái cát cứ, quân đội Pháp còn mấy chục vạn, Cộng sản chưa bị đánh tan. Thế mà chúng ta đã thắng. Còn bây giờ? Thật lạ lùng nếu tự dưng chúng ta cho mình vào thế yếu và lại vào thế yếu trước các “lũ trọc” chỉ biết có “mô Phật” và chỉ biết có tự “rôti”. Chúng ta tự kỷ ám thị và cái đó là cái yếu nguy hiểm hơn hết. Phải hành động! Tổng nha Cảnh sát đừng ngủ gật nữa. Bộ Tổng tham mưu đừng tán gẫu nữa. Ông Tuyến, nếu cần, hãy đeo theo vài cặp kiếng để moi cho ra những tên đầu sỏ phiến động. Ông Quang hãy làm cho Trung ương tình báo của ông thành một cơ quan biết trước các mưu toan, kể cả mưu toan của CIA, chứ không phải chỉ làm báo cáo cho Tổng thống khi mọi việc đã rành rành.
Hãy chỉ thị cho ông Mẫu tiến hành một cuộc phản kích thật rộng trên thế giới. Tôi nói hơi vô lễ, Tổng thống và Đức cha chắc không bằng lòng, cha mẹ tôi đảm đương trọng trách ngoại giao nhưng gần đầy lại giao động. Cũng như chú Luyện, tôi nói thẳng, chú làm đại sứ lưu động còn quá tài tử... Tại sao không cho phép giáo dân phải biểu tình, tại sao không biểu dương lực lượng của Thanh niên, Thanh nữ Cộng hòa để dằn mặt bọn thầy chùa? Tại sao không thiết lập tòa án để xử các vụ giết người bằng hình thức tự thiêu? Tại sao không cách chức Viện trưởng Đại học Huế của Cha Luận. Tôi đồng ý với anh Luân, Cha Luận là một tên phản trắc, một tên làm mủ, làm nhọt, một tên tình báo ăn tiền của Mỹ. Ông ta thèm chức Giám mục mà không được. Thế là ông ta trở quẻ. Tại sao Tổng thống không sử dụng quyền mà quốc hội cho phép trong tình trạng khẩn cấp, mở liền các phiên xử của toàn án quân sự đặc biệt, tổng tính sổ từ vụ Bình Xuyên, vụ Nguyễn Chánh Thi, vụ Phạm Phú Quốc. Tại sao?...
Khi bắt đầu nói Lệ Xuân ngồi, nói một lúc mụ đứng dậy và trước mắt Luân, là một người đàn bà không còn một nét mỹ miều nào, sao mà giống những mô hình Võ hậu, Lữ hậu, Tây thái hậu trong tiểu thuyết và trên sân khấu đến thế!
- Còn anh! - Lệ Xuân gần như điểm mặt Ngô Đình Nhu - Anh đã thấy chủ trương nhượng bộ của anh mang đến cái gì rồi đó. Trước kia, với tướng Hinh, với Bảy Viễn và với Nguyễn Chánh Thi, anh cũng chủ trương nhượng bộ. Nếu nhượng bộ, tất cả chúng ta không lưu vong thì cũng vào khám. Làm mạnh, và mạnh hơn nữa. Tình hình đòi hỏi như vậy!
Lệ Xuân ngồi xuống, mặt mụ sát khí đằng đằng. Lệ Xuân thu được kết quả trông thấy. Diệm bắt đầu tươi tỉnh. Nhu tuy vẫn đắn đo nhưng anh ta không còn rít thuốc liên hồi, thói quen chứng tỏ anh ta đã có chủ kiến rõ ràng. Luân không nói gì hết và anh cũng biết, Trần Lệ Xuân không muốn đương đầu với anh.
Cuộc họp giải tán, Nhu ngồi nán lại khá lâu.
Luân tin rằng nội hôm nay, một loạt chỉ thị sẽ được ký.
*
Về đến nhà, Luân gặp Saroyan ngồi chờ anh ở phòng khách. Dung bận công việc ở Tổng nha.
- Em đã báo với bà đại tá và bà đại tá bảo em gặp anh. - Saroyan cầm tay Luân khá lâu.
- Saroyan ngồi xuống! - Luân bảo, Saroyan gặp anh nhất định vì một việc gì đó hết sức quan trọng. Và đúng như vậy.
Saroyan báo cho Luân biết một cuộc họp tuyệt mật của một số sĩ quan cấp tướng tại một nhà nào đó, có Fishell, Katterburg và James Casey. Đặc biệt dự họp có cả một nhà sư. Saroyan không biết nội dung cuộc họp, nhưng cô đoán rằng họ bàn những việc liên quan đến chế độ ông Diệm mà với cô, tức là liên quan đến Luân.
- Em biết được do Fishell về nhà quá muộn. Em bỗng nhớ đến anh và dọ thử: Tại sao gần đây anh ít gặp đại tá Luân, Fishell trả lời: Gã đại tá này dấn quá sâu vào gia đình ông Diệm...
- Em sắp rời Nam Việt, không thể tiếp tục nấn ná được nữa, Fishell dự kiến vào cuối năm này sẽ làm lễ thành hôn với bà hoàng xứ Ả Rập, hôn lễ chính thức cử hành tại Ryad. Hôm nay, ngày mà sự ly dị giữa em và Fishell bắt đầu có hiệu lực về mặt pháp lý. Em trở thành người tự do hoàn toàn nhưng đã không phải là vợ một Fishell thì em không thể có mặt ở Sài Gòn. Anh cũng biết, tình báo Mỹ không cho phép em kéo dài thời gian tại đây. Vậy là cái mà em hết sức mong muốn được giúp đỡ anh không thể thực hiện được. Em đã lấy xong vé máy bay, về Koweit một thời gian rồi sau đó sẽ tính. Nói cho đúng, Fishell lấy vé máy bay và quyết định ngày em phải rời Sài Gòn; có thể coi đây như một quyết định trục xuất.
Tất nhiên là Luân hiểu vì trước kia, Tiểu Phụng chỉ vương vấn với Luân vào giây phút cuối cùng mà phải nhận một cái chết thảm khốc.
- Bao giờ thì Saroyan lên máy bay?... - Luân hỏi.
- Chiều ngày mai.
- Saroyan đến đây Fishell có biết không?
- Biết, em có báo cho hắn.
- Fishell bảo sao?
- Hắn bảo: Cô đã trở thành người tự do, nhưng phong tục Việt Nam không cho phép đại tá Luân lấy hai vợ. Hắn cười nham nhở. Hắn bảo: John Hing thích cô nhưng cũng thích trong những giờ hạn định và cô đã tát ông ta rồi. Cô cứ đến từ biệt Nguyễn Thành Luân, tôi không ngại cô sẽ giao cho Nguyễn Thành Luân những tài liệu gì đó thuộc công vụ của tôi, bởi vì những gì tôi biết thì Nguyễn Thành Luân cũng biết, thậm chí đôi cái về Việt Nam còn biết hơn tôi!
- Saroyan đã thu xếp xong hành lý chưa?
- Xong, và đã chuyển ra sân bay, trừ một túi nhỏ.
- Thế thì, để đề phòng mọi bất trắc, tôi muốn Saroyan ở đây với chúng tôi và chiều mai, Dung và tôi sẽ tiễn Saroyan ra sân bay. Tôi rất ngại những đột biến có khi từ Fishell mà có khi từ người khác. - Luân bảo Saroyan, giọng âu yếm.
- Em sẽ làm theo ý anh mặc dù bây giờ việc em còn hay mất gần như vô nghĩa đối với em. Em mong muốn được ở bên cạnh anh, giúp anh, dĩ nhiên không thể với tư cách là vợ hay tình nhân, nhưng điều đó không có gì quan trọng. Trong thời gian vài năm sống ở Việt Nam, em khám phá ra một điều: giá mà người Ả Rập của em có được những hiểu biết như dân tộc anh... Rất tiếc, em không có khiếu chính trị và chắc chắn không thể mang về cho người Ả Rập điều mà họ cần...
- Saroyan không thấy mấy hôm nay đường phố Sài Gòn tràn ngập các nhà sư?
- Em thấy. Thoạt đầu em cũng nghĩ người Việt giống người Ả Rập, cũng cuồng tín. Nhưng khi đọc báo và xem ảnh về cái chết của nhà sư Thích Quảng Đức, em hiểu khác. Có thể có một số nhà sư nào đó cuồng tín, cũng có thể có một số nhà sư nào đó lợi dụng đạo Phật vì mục đích chính trị hay tài chính, hay tệ hại hơn, nhưng số đông lại biết điều khiển tín ngưỡng của mình vào những mục tiêu. Chỉ có điều em cảm thấy Fishell và những người của hắn ta thủ lợi đầy đủ hơn hết trong các sự biến hiện nay. Với anh, em mong đừng để rơi vào trong cơn hỗn loạn này. Anh phải sống, sống cho Thùy Dung và xin phép anh, sống cho em!
Saroyan khóc. Luân ngồi chết trân, tâm trạng rối bời.
Tiếng còi ôtô gọi cửa. Dung vào nhà, ôm choàng Saroyan...
“Một cuộc họp gồm một số tướng, một nhà sư, các nhân vật Mỹ có cỡ... Đạn đã lên nòng. Ngón tay xạ thủ đã đặt vào ổ cò. Chỉ còn từ từ siết cò... ” - Luân vừa ngó hai phụ nữ đang ríu rít với nhau vừa nghĩ đến một ngày chắc không xa lắm. Anh bỗng như choáng ngợt. Sự kiện - một khi bùng nổ - cao rộng hơn hiểu biết của anh và chắc chắn tác động của anh, nếu có, cũng chỉ là vài chi tiết... Đây là vấn đề của Trung ương, của những nhà chiến lược lớn và có lẽ, là vấn đề của quần chúng...
Mâu thuẫn nội bộ kẻ thù gần như khó điều hòa. Trong cơn hỗn loạn, anh phải làm gì, có thể làm gì, làm với anh, làm cách nào?
Chưa bao giờ Luân khốn khổ như hiện nay: Đứt liên lạc với cấp trên. Sa - con thoi nối liền giữa anh với lãnh đạo - bỏ hẹn. Anh cố theo bản nhắn tin của đài Hà Nội, đài Giải phóng, nhưng không bắt được ám hiệu. Mục rao vặt trên báo hằng ngày cũng không thấy một mẩu nào... Anh đã mạo hiểm gọi điện lại bác sĩ Tạ Trung Quân - nơi Sa làm việc - và không phải Sa mà một cô y tá trả lời. Vả lại, anh không biết tên mà Sa đang dùng, cho nên đành gác máy.
Trong cái nôn nả chung, Luân còn yêu cầu miệng: anh muốn gửi đứa con của Mai lên Nam Vang để ra Hà Nội - anh đã có địa chỉ của nó. Dung muốn đưa nó về ở chung nhà, song Luân không chịu: biết đâu, chính nhà anh cũng sẽ xáo trộn?
Trước khi cùng Dùng vào phòng riêng, Saroyan chợt tươi tỉnh.
- Anh đừng buồn. Em và Dung sẽ tính... Không phải không có cách. Nhưng, - Saroyan lại sa sầm mặt - có khi em không còn là em nữa...
Luân ngồi thừ mãi...
Anh không thể nào nghe được cuộc nói chuyện ở nhà riêng tướng Mai Hữu Xuân - giữa ông ta với trung tá Hùng, con người mặt choắt, cằm phất phơ vài sợi lông về số phận của Saroyan.
- Saroyan sẽ rời Sài Gòn bằng chuyến thường lệ của hãng hàng không Pan American vào 4 giờ chiều mai - Tướng Mai Hữu Xuân vừa nhả khói ông píp, vừa bảo trung tá Hùng đang đứng nghiêm. - Nghĩa là anh còn... - Tướng Xuân vén đồng hồ tay - anh còn 24 tiếng đồng hồ để làm cái việc mà tôi cần và ông Fishell thì không phản đối - không phản đối nếu anh thực hiện bằng cách nào đó không thể tạo cớ để ông ta phản đối...
Mặt trung tá Hùng như choắt thêm. Trong đầu hắn ta vụt qua một loạt phương án quen thuộc. Song với Saroyan thật khó... Cô ta ở chung nhà với Fishell và nhà do quân cảnh Mỹ gác. Cô ta ra đường đi xe của Fishell và vẫn có một thằng bảo vệ người Mỹ da đen ngồi sầm sầm đó, dù cho cô ta và Fishell đã ly dị.
- Ông Fishell không có mặt ở Sài Gòn đêm nay và trọn ngày mai... - Xuân nói - Nhưng, tôi khuyên anh đừng chọn nhà Fishell, vì, như thế, quân cảnh Mỹ sẽ nổ súng và bọn anh sẽ bị khử tại chỗ hoặc sau đó, liên lụy đến tôi. Vả lại, theo tôi biết Saroyan đang ở nhà đại tá Nguyễn Thành Luân. Tôi cũng khuyên anh đừng mò đến đó. Tổng nha Cảnh sát rải một lô công an chìm canh giữ nhà đại tá, nhà đại tá lại cùng một đường phố với nhà riêng của đại sứ Nolting, chung quanh có khá nhiều nhà riêng các đại sứ nước ngoài, cạnh Hội Việt - Mỹ... Nên nghĩ cách khác!
- Ngày mai, ông Fishell không tiễn Saroyan ra sân bay? - Hùng hỏi.
- Tất nhiên! Giờ máy bay cất cánh, ông Fishell mới bắt đầu cuộc viếng thăm xã giao tướng Tôn Thất Đính tại nhà riêng của tướng Đính trên Đà Lạt.
Trung tá Hùng xin phép ngồi xuống ghế, hút thuốc.
- Khử con mụ Saroyan không khó, nhưng nếu vì đó mà đụng đến thằng Nguyễn Thành Luân và con Thùy Dung thì sao? - Hùng hỏi.
Mai Hữu Xuân lắc đầu:
- Chưa phải lúc...
- Vậy thì khó...
- Tất nhiên là khó... Ngay với Saroyan, anh cũng phải cân nhắc. Fishell sẽ làm to chuyện nếu anh hé ra một dấu hiệu nhỏ rằng Saroyan chết vì bị ám hại chứ không vì tai nạn. Fishel truy lùng và anh không trốn thoát. Anh sẽ bị xử bắn!
Mai Hữu Xuân nói chuyện ấy bằng một giọng đều đều như ông ta trao đổi với trung tá Hùng về một buổi giải trí, một cuộc dạo mát. Trung tá Hùng vân vê sợi lông càm...
- Tôi cần khóa mồm Saroyan. Chắc chắn Fishell cũng cần, theo yêu cầu khác... Fishell ngại Saroyan lật tẩy các vụ cưới vợ của ông ta - nghề tình báo buộc ông ta luôn luôn đổi vợ và cái quan trọng đối với Fishell lại là quốc tịch của vợ, chứ không phải vợ...
Xuân tiếp tục đi lại trong phòng.
- Còn tôi, tôi cần vì Saroyan thân với Nguyễn Thành Luân. Tôi không sợ Saroyan cung cấp tin tức cho Luân - Luân hiểu trăm lần nhiều hơn Saroyan về các loại “thâm cung bí sử” của Sài Gòn, Hoa Thạnh Đốn... Nhưng, Saroyan nhất định sẽ có chồng. Giả tỷ mụ ta lấy một nhân viên cao cấp ở Bộ ngoại giao Mỹ chẳng hạn, rồi lại lộn sang Sài Gòn, anh nghĩ thế nào về chỗ dựa của Luân? Tôi không đoán suông đâu. Tôi biết chắc, chẳng bao lâu, Saroyan sẽ là phu nhân của Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á Bộ Ngoại giao Mỹ, nếu không phải là phu nhân của một nhân vật còn ghê rợn hơn - tướng Jones Stepp, chỉ huy phó các vấn đề an ninh, quân sự thuộc Ngũ Giác Đài, đặc trách châu Á và Thái Bình Dương: ông ta góa vợ và đã ngỏ lời xin cưới Saroyan... Giữa hai chiếc gường, Saroyan đang chọn - chọn vì thằng Luân...
- Có thể tôi đánh tỉa được. Có thể không. Điều kiện của thiếu tướng trói tay trói chân tôi. Không gây xây xát cho vợ chồng Luân thì không khử nổi Saroyan...
- Nếu chỉ xây xát... - Xuân trầm ngâm - Và nhất là nếu không hề hé ra một bằng cớ nào anh dính vào nội vụ...
- Cái đó thì tôi đảm bảo. Những người mà tôi giao việc, thiếu tướng cứ tin đi, họ như không có lưỡi!
-... Anh cứ làm!
Xuân phẩy tay. Trung tá Hùng hiểu: nếu lỡ “phạm dao” đến cả sinh mạng vợ chồng Nguyễn Thành Luân, cũng không đến nỗi nào, miễn là giấu biệt đầu mối...
Trung tá Hùng chào tướng Xuân, nhảy lên chiếc xe Jeep quân sự, một loáng sau đã có mặt ở một tiệm ăn và người mà gã gặp là Ly Kai.
*
Chuông điện thoại reo, Dung nhấc máy:
- Alô... Vâng, bà Saroyan có ở đây... Xin chờ một chút.
Saroyan cầm máy:
- Alô... à, chào cô! Cám ơn. Tốt quá. Không, tôi tự mua, miễn là cô dẫn tôi đến nơi bán. Chà có phiền cô lắm không? Xin cám ơn trước. Tôi đợi.
Dung không để ý lắm đến cuộc điện đàm của Saroyan, nhưng chính Saroyan bảo Dung.
- Tôi sắp đi ra phố một lúc, ca sĩ Minh Hiếu rủ tôi đi mua một chiếc ngà voi chạm trổ. Tôi muốn mang về cho gia đình vài món quà lạ ở đây. Xin lỗi Thùy Dung, tôi đi thay đồ...
Từ khi Luân đi làm việc, Saroyan nói chuyện khá lâu với Dung và hai người đổi cách xưng hô. Tin của Saroyan lóe lên trong óc Dung mối nghi ngờ. Cái gì đây?
Dung gọi điện cho Luân, thuật lại việc Saroyan sắp ra phố. Saroyan thay xong quần áo, Dung trao máy nói cho Saroyan.
- Đại tá muốn nói chuyện với Saroyan.
- Thế à? - Saroyan nói vào máy - Không lẽ... thôi được, xin “tuân lệnh” đại tá!
- Đại tá bảo Thùy Dung cùng đi với tôi, bằng xe nhà của chúng ta. Có lẽ không nên thì hành thêm một “mệnh lệnh” khác của đại tá, tức là lấy theo một bảo vệ.
- Saroyan đợi mình một chút. - Dung bảo - Ta phải thi hành y theo ý kiến của đại tá.
Khi Dung sửa soạn xong thì chuông ngoài cổng reo. Saroyan và Dung ngồi lên xe, băng trước có một vệ sĩ của Phủ tổng thống trong nhóm bảo vệ Luân. Cổng mở, một xe khác đang chực, trên xe không có ca sĩ Minh Hiếu mà là một gã lạ mặt, ngoài tài xế. Gã lạ mặt rõ ràng thất vọng khi thấy Saroyan cùng đi với Dung bằng xe riêng. Saroyan cám ơn gã và nhờ gã cám ơn ca sĩ Minh Hiếu.
Hai người đi mua một số hàng mỹ nghệ và họ về nhà khi đèn đường vừa lên; Luân chờ họ ăn tối.
Suốt đêm hôm đó, luôn sáng hôm sau, Saroyan và Dung quấn quít nhau, khi Saroyan nhắc đến viên công chức Bộ ngoại giao, rồi viên tướng Mỹ, Dung bật khóc.
- Saroyan không cần thiết phải làm như vậy!
- Tại sao không cần thiết? - Saroyan hỏi - Tôi bắt đầu hiểu quê hương của Thùy Dung qua anh Luân. Qua anh Luân, tôi lại hiểu quê hương của hai người sâu hơn. Bây giờ, tôi muốn hành động. Cần phải làm một cái gì cho các bạn. Ông Diệm là người không tốt, tôi tin như vậy. Nhưng anh Luân và Thùy Dung là người tốt. Fishell thay vợ như thay sơmi. Thế thì tại sao người Mỹ sẽ giữ mãi ông Diệm và tại sao không đổi cách cư xử với anh Luân và Thùy Dung? Không, tôi không để mất những người bạn quí...
... Hai vợ chồng Luân tiễn Saroyan ra sân bay. Xe theo đường Trương Minh Giảng. Sắp vượt cầu, Luân bỗng thấy một người đứng trên mui một chiếc xe chở khách đang đậu, hình như đưa tay ra một ám hiệu cho phía bên kia cầu. Linh tính báo với Luân có thể có một cái gì đó không tốt. Anh đột ngột bảo tài xế giảm tốc lực và rẽ ngoặc ngay lập tức vào lề, dừng hẳn xe lại. Mọi người trong xe nhảy vội ra ngoài. Đúng vào lúc đó, từ bên kia cầu, một xe tải vượt sang, người tài xế giống kẻ say rượu, lái xe ngoằn ngoèo. Tai nạn xảy ra: một xe tắc xi chưa vượt cầu đã bị chiếc xe tải đâm phải. Tên tài xế phóng khỏi xe, chạy biến. Luân nhìn lên mui chiếc xe chở khách - không có ai trên đó cả. Cảnh sát đến làm biên bản. Tài xế tắc xi chết, người khách đi trên xe bị thương nặng.
- Bây giờ, em càng quả quyết phải trở lại Sài Gòn cho bằng được! - Saroyan nói trong cơn giận dữ chứ không phải sợ hãi.
Họ vào sân bay, lên phòng đợi. Luân, Dung, vệ sĩ của Luân không rời Saroyan nửa bước.
- Chúng nó dám cho nổ máy bay lắm! - Dung nói khẽ vào tai Luân. Luân lắc đầu:
- Chưa đến mức đó đâu, nhất là chuyến của Hãng Pan America, toàn nhân vật có cỡ. Đây là tác phẩm của Mai Hữu Xuân, hoặc của bọn nào đó, nhưng không phải của CIA...
- Hành trình hơi dài... - Dung vẫn lo lắng.
Một quân nhân Mỹ đeo hàm đại tá đến chào Saroyan:
- Thưa bà, tôi là Stewart Senior làm việc ở Pentagone... Bà về Mỹ?
Saroyan lắc đầu:
- Tôi về Koweit.
Luân rạng rỡ hẳn, anh chìa tay bắt Stewart thật chặt
- Đại tá biết tướng Jones Stepp?
- Biết! - Stewart nháy mắt tinh nghịch - Rất biết, kể cả việc bà Saroyan đây... !
“Ổn rồi!” - Luân kêu thầm. Anh nói luôn:
- Thế thì Saroyan đã có bạn đường tin cậy. Tôi mong đại tá “hộ tống” bà phu nhân tương lại của tướng quân an toàn đến Koweit!
Stewart dập gót chân, cười:
- Tuân lệnh!
Vợ chồng Luân tiễn Saroyan tận cầu thang.
- Tôi sẽ trở lại! - Saroyan ôm cả hai người, nói trong tiếng nấc.
Không một ai trong họ có thể biết được, trong toalet dành cho phụ nữ tại phòng đợi, hai người mặc đồng phục nhân viên phục vụ sân bay đã trực sẵn với các dụng cụ: chiếc khăn lông to, chiếc găng tay! Saroyan sẽ bị bóp cổ và xác sẽ nằm trong toalet bị khóa chặt.
Và, cũng không một ai trong họ biết trung tá Hùng quát tháo Ly Kai; Ly Kai quát tháo lũ hạ thủ, và sau đó, trung tá Hùng lãnh đủ cơn thịnh nộ của tướng Mai Hữu Xuân để rồi đến lượt tướng Xuân nhận cú điện thoại từ Đà Lạt gọi về:
- Hello! Thế nào?
Người gọi gác máy, cắt ngang câu chuyện khi nghe Xuân báo:
- Thưa, bà Saroyan vào giờ này có lẽ đang có mặt tại gia đình bà, ở Koweit!
----------
(1) Xây dựng vùng đất mới.

CHƯƠNG 5

Cuộc họp tuyệt mật của số sĩ quan cấp tướng mà Saroyan báo với Luân, về phía Mỹ không có James Casey. Lý do là đại sứ Nolting không tán thành cuộc họp này, ông ta không muốn liên can quá lộ liễu đến một âm mưu chống lại tổng thống Ngô Đình Diệm. Thâm tâm Nolting chưa tán thành quan điểm loại Diệm vào lúc này - mối quan hệ nhân ngãi với Lệ Xuân giữ một tỉ lệ nào đó, tất nhiên, trong thái độ do dự này, đồng thời ông ta lại làm mọi cái có thể làm để cho việc loại Diệm chín muồi hơn mà vẫn giữ được tiếng là kẻ hết lòng ủng hộ Diệm. Fishell và Katterburg, với danh nghĩa những người bạn của các tướng lĩnh Việt Nam đến góp ý kiến về thời cuộc, thật ra là tác giả kiêm đạo diễn của vở kịch lớn được thai nghén rồi soạn thảo từ lâu, với những phân đoạn kỹ thuật chi tiết, chia thành từng trường đoạn, thậm chí với một bảng bố trí vai diễn - có vai chính và có vai phụ.
Về phía Việt Nam, có các tướng Mai Hữu Xuân, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, và 2 đại tá - Nguyễn Hữu Có và Đỗ Mậu - có vẻ như Lê Văn Kim hoặc Trần Văn Đôn khởi xướng cuộc họp tạo phản này, nhưng, trước khi khai mạc, Katterburg rầm rì rất lâu với Đỗ Mậu, còn Fishell thì trao đổi riêng với tướng Xuân.
Nơi họp là nhà riêng của đại tá Có - một bữa tiệc thịt rừng vào chiều thứ bảy, gồm những người bạn thân Việt và Mỹ.
Ngay những người dự họp đều không biết một chi tiết khá thú vị: sau khi nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu, Fishell đã bí mật gặp John Hing; còn John Hing, để chuẩn bị gặp Fishell, đã làm việc mấy tiếng đồng hồ liền với Lâm Sử có thể tóm gọn như sau: Trung Cộng dùng ảnh hưởng của mình để hạn chế tối đa mức hoạt động của Việt Cộng một khi xảy ra biến động có tầm cỡ quốc gia ở Sài Gòn. Lâm Sử thừa biết cái “biến động tầm cỡ quốc gia” ấy là gì, tuy nhiên anh ta đắn đo về lời cam kết. Lâm Sử tự đánh giá anh ta không có khả năng làm việc đó một cách trực tiếp. Bề ngoài, Lâm Sử phải tỏ rõ cho Việt Cộng thấy Bắc Kinh nhiệt liệt ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng ở miền Nam Việt Nam. Anh ta có thể xin gặp Khu ủy Cộng sản khu Sài Gòn - Gia Định, thậm chí có thể xin gặp Trung ương Cục miền Nam nhưng sẽ chẳng ăn thua nếu anh ta lại đưa ra đề nghị Việt Cộng đừng lợi dụng thời cơ rối loạn ở Sài Gòn để đánh rã quốc sách ấp chiến lược và đánh rã quân đội Sài Gòn. Một đề nghị như thế chẳng khớp chút nào với khẩu hiệu mà đài Bắc Kinh đang ra rả suốt ngày. Lâm Sử dễ dàng hẹn với Nghị Lực, một cán bộ lãnh đạo các tổ chức lao động và học sinh người Hoa ở thành phố thuộc Khu ủy Cộng sản Việt Nam. Cũng vậy thôi, Nghị Lực là một người trọng nguyên tắc, rất có kinh nghiệm chính trị, đôi khi đề nghị của Lâm Sử lại cung cấp cho Nghị Lực cơ sở để phản ánh về cơ quan lãnh đạo cấp cao của Việt Cộng và kết quả sẽ ngược hẳn ý muốn của Lâm Sử. Hơn nữa, gần đây mối quan hệ giữa nhóm Lâm Sử và nhóm Nghị Lực bắt đầu có những biểu hiện mâu thuẫn. Mâu thuẫn lớn xoay quanh một loạt quan điểm. Từ lâu rồi, Lâm Sử bảo vệ phương châm mà anh ta cho là “nguyên lý của chủ nghĩa Mác ở châu Á” - lực lượng cách mạng Nam Việt Nam phải trường kỳ mai phục, xúc tích lực lượng, chờ đợi thời cơ, dùng nông thôn bao vây thành thị, ở nông thôn thì cơ bản là tác chiến du kích và phòng ngự, không cần thiết xây dựng lực lượng chủ lực quá cấp đại đội. Diễn tiến của tình hình chung ở Nam Việt Nam từng ngày một chẳng những đính chính mà còn phủ định cái nguyên lý kia - cái nguyên lý đã đưa phong trào cách mạng một loạt các nước Đông Nam Á vào chỗ khó khăn nghiêm trọng. Mâu thuẫn cụ thể giữa hai nhóm xuất phát từ đối tượng mà hai nhóm phụ trách.
Xét về một nghĩa nào, mâu thuẫn đó thật sự gay gắt. Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm người Hoa thuộc tầng lớp tư sản mà số không nhỏ là tư sản mại bản. Do vấn đề được đổi quốc tịch, số tư sản người Hoa đã tham gia chính quyền ở nhiều dạng và nhiều mức, giữ vị trí then chốt trong một số ngành kinh tế như tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, thương nghiệp. Nghị định cấm 11 nghề của Ngô Đình Diệm thực tế bị vô hiệu hóa bởi vì tổng đại lý mua bán sắt thép không phải là Pô Xường Thài mà là Bá Thượng Đài. Ở đây, nẩy sinh một tranh chấp tất yếu giữa một bên là những ông chủ - tất cả đều vừa giữ quan hệ tốt với sứ quán Đài Loan, vừa giữ quan hệ bí mật với nhóm Lâm Sử - và một bên là những người Hoa lao động, mang quốc tịch Việt Nan hay theo quy chế ngoại kiều. Với số lao động này, nghị định cấm 11 nghề vẫn giữ nguyên hiệu lực. Trong vòng vài năm nay, nhiều cuộc đấu tranh nổ ra giữa chủ người Hoa và lao động cũng người Hoa. Mỗi lần nhóm Lâm Sử gặp nhóm Nghị Lực, cuộc tranh luận không còn dừng ở ngang các lời lẽ hữu hảo chung chung, ủng hộ lẫn nhau chung chung, mà thật sự là cuộc đối đầu giữa hai thế lực phản ánh vị trí xã hội đối lập mà hai nhóm đại diện. Lúc đầu, nhóm Nghị Lực đề nghị nhóm Lâm Sử hướng dẫn các chủ nhân người Hoa giải quyết thỏa đáng yêu cầu của những người làm thuê Hoa và Việt trong một số xí nghiệp, tiệm buôn nhất định. Thường thường nhóm Lâm Sử né tránh bằng cách giảng giải tràng giang đại hải về sách lược đối với Hoa kiều tư sản ở Đông Nam Á. Sau này, nhóm Nghị Lực đặt thẳng các yêu cầu và nói rõ vấn đề mà họ quan tâm là lợi ích của người Hoa nghèo trong cộng đồng Hoa - Việt ở miền Nam và ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Họ không có trách nhiệm gì đối với chính sách Hoa kiều của Bắc Kinh. Có thể nói được rằng, quan hệ của hai nhóm đang khá căng thẳng. Gần đây nhất, nhóm Nghị Lực đưa ra một loạt yêu sách về cải thiện điều kiện làm việc và lương bổng của công nhân các hãng dệt lớn nhất thành phố như hàng Vimytex và Vinatexco. Cả hai hãng gồm đến hơn một vạn công nhân, phần lớn là thiếu nữ người Hoa và cả hai hãng đều tồn tại dưới dạng tổ hợp Việt - Mỹ, nên hiểu Việt là những tư sản người Hoa đổi quốc tịch Việt Nam.
Một việc khác cũng không kém phức tạp. Nhóm Lâm Sử phát hành tờ tin lưu hành trong giới học sinh - là khu vực theo thỏa thuận giữa hai đảng, thuộc phần quản lý của nhóm Nghị Lực. Tờ tin mang tên “Diện hướng Tổ Quốc”, đăng tải các bài nói về công xã nhân dân, về bước “đại nhảy vọt” và các câu của “người cầm lái vĩ đại” được thần chú hoá, Nghị Lực đã trực tiếp phản đối việc làm này, coi như là sự can thiệp vào nội bộ Việt Nam và trái ngược với những điều đôi bên đã giao ước. Thế của nhóm Nghị Lực ngày một lớn do phong trào của người Hoa kết hợp với phong trào của người Việt trong xí nghiệp và ở trường học phát triển mạnh, được cuộc chiến tranh giải phóng ở nông thôn và các hoạt động vũ trang ở đô thị hậu thuẫn. Nhóm Lâm Sử hết rơi vào chỗ lúng túng này đến chỗ lúng túng khác bởi thiếu nhất quán trong lập luận của họ. Lâm Sử đã nhiều lần lên Nam Vang gặp đại sứ Trung Cộng xin chỉ thị. Liêu Thừa Chí, người cầm đầu Vụ Hoa kiều của Bắc Kinh đã điện cho Lâm Sử, truyền đạt chỉ thị của Trung ương Trung Cộng, nhưng đó cũng chỉ là những giáo huấn rất chung.
Chính sách của Bắc Kinh đối với Ngô Đình Diệm từ đầu năm 1962 đã thay đổi. Không phải Liêu Thừa Chí mà Hàn Niệm Long, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao của Trung Cộng, đồng thời là nhân vật chủ chốt của Ban đối ngoại trực thuộc Trung ương Trung Cộng đã điện cho Lâm Sử qua đại sứ Trung Cộng tại Nam Vang: Thay đổi Ngô Đình Diệm bằng cách nào đó là cần thiết đối với lợi ích của Trung Quốc bởi lẽ, trong tình hình hiện nay, sự tồn tại của Ngô Đình Diệm đồng nghĩa với việc xúc tiến những điều kiện thuận lợi để cho Việt Cộng kiểm soát toàn bộ Nam Việt Nam, hoặc trực tiếp do lực lượng Việt Cộng của Nam và Bắc phối hợp thực hiện hoặc thông qua bước quá độ kiểu chính phủ liên hiệp ở Lào. Hết sức đề phòng khả năng đảo chính tại Sài Gòn do chịu ảnh hưởng Việt Cộng hoặc vì sức ép của Việt Cộng ngoài chiến trường. Nếu có đảo chính thì lợi nhất đối với Trung Quốc là người Mỹ tổ chức đảo chính liên hiệp với các thế lực thân Pháp. Sự kiện đó xảy ra càng sớm càng tốt.
Phương hướng đã được vạch rõ. Những gì John Hing trao đổi với Lâm Sử, chỉ minh họa thêm chỉ thị của Hàn Niệm Long.
Trong một lần về Bắc Kinh, Lâm Sử đã được nghe các nhận định khái quát về phân chia vùng thế lực ở Đông Nam Á và Đông Dương của Trung ương Trung Cộng. Riêng Việt Nam, Nam vĩ tuyến 17 nằm trong vùng ảnh hưởng của Mỹ, có dung hòa lợi ích với Trung Cộng. Nước Việt Nam sẽ chia cắt lâu dài. Điều gì đụng chạm đến chủ trương đó đều phải bị gạt bỏ.
Trung Cộng hy vọng xa hơn: tạo ngay trong ruột của Việt Cộng ở miền Nam một phân hóa nào đó dẫn đến tư tưởng “tự trị” đối với cả nước; muốn được như vậy cần phải kéo dài chiến tranh, Mỹ cần phải tham gia sâu hơn vào chiến sự.
Trung Cộng theo dõi thật chi li những diễn tiến của tình hình Nam Việt và lo lắng về khả năng chính Ngô Đình Diệm, bị dồn vào thế bí, chìa bàn tay xin xỏ sự giúp đỡ của Việt Cộng. Cả John Hing và Lâm Sử đều nhìn Nguyễn Thành Luân, nay là đại tá, như một thứ gạch nối cực kỳ nguy hiểm một khi Diệm muốn thoát khỏi bế tắc. Tuy nhiên, cho đến giờ phút này, ý kiến của John Hing chưa được Fishell chấp nhận. Hơn thế nữa, một số nhân vật cao cấp của Mỹ còn đặt Nguyễn Thành Luân trong ngôi thứ trọng yếu khi Mỹ thay đổi “đồng minh” ở Nam Việt.
Gì thì gì, Lâm Sử vẫn phải trả lời cho John Hing. John Hing không bằng lòng câu trả lời nguyên tắc mà muốn hiểu xem Lâm Sử tác động cụ thể như thế nào với Việt Cộng.
- Các ông đã để vuột ra khỏi tay mình các ông bạn đồng minh Việt Cộng quí hóa của các ông... - John Hing nhún vai sau khi nghe câu trả lời rất lúng túng của Lâm Sử.
- Chúng ta phải suy tính cách của chúng ta. - John Hing bảo Fishell, sau khi lắc đầu về vai trò của nhóm Lâm Sử trong kế hoạch hành động của họ.
- Tôi đánh cuộc với Tổng thống Kennedy rằng, sẽ không có hậu quả gì đáng kể nếu ông Diệm bị thay thế. Dĩ nhiên, tình hình sẽ tùy thuộc ở chỗ sự thay thế êm thấm hay ồn ào. Tôi chủ trương cố gắng để thay thế êm thấm. Tất nhiên, ông Diệm và gia đình ông ta rất cứng đầu, cần thiết phải có một sức ép. Sức ép đó, phải từ các quân nhân bởi vì Nam Việt đang có chiến tranh, ông Diệm không thể giữ ghế Tổng thống nếu không được các tướng ủng hộ.
Cuộc họp bắt đầu bằng những lời phân tích của tướng Mai Hữu Xuân. Tướng Xuân nói trước hết về tình hình chiến sự mà theo ông là bi đát. Với tư cách là Tư lệnh hành quân, ông phác qua đại cương trạng thái các chiến trường, các binh quân chủng và qui kết mọi trách nhiệm vào sự lãnh đạo của tổng thống Diệm, đặc biệt nhấn mạnh đến sức phá hoại chính trị của vợ chồng Ngô Đình Nhu. Nói chung, những người dự họp không phản đối nhận định của tướng Xuân. Cái rắc rối bắt đầu ở chỗ phương pháp giải quyết. Tướng Xuân hăm hở nói đến một cuộc đảo chánh quân sự.
- Hành động chớp nhoáng bảo đảm chắc chắn thành công. Ở đây, tướng Đôn là tư lệnh lục quân. Với những điểm phải thanh toán, chúng ta cần một sư đoàn bộ binh, được pháo và thiết giám yểm trợ... Đại tá Có đang là Phó tư lệnh vùng 3 chiến thuật, sẽ ngăn ngừa mọi hướng tiếp ứng mà theo tôi, nếu có cũng không lấy gì làm quan trọng...
- Tôi nghĩ công việc sẽ không đơn giản như tướng Xuân tính, - tướng Lê Văn Kim, người được các tướng cho là “bộ não của một quân sư” phát biểu với sự dè dặt thường lệ của ông. - Liên binh phòng vệ Phủ tổng thống không phải là những “cây kiểng”. Sư đoàn 5 của đại tá Nguyễn Văn Thiệu đóng cách thủ đô có 30 cây số. Hải quân chưa có dấu hiệu bất mãn. Không quân còn là ẩn số. Chúng ta có thể hy vọng ở lính Dù, một bộ phận bảo an... Kế hoạch hành động khôn ngoan phải bao gồm một loạt tính toán, trong đó yếu tố chính trị là hết sức quan trọng...
- Chính phủ Mỹ sẽ tuyên bố ngay lập tức ủng hộ chính phủ mới. - Mai Hữu Xuân cắt ngang lời của Kim, liếc về phía Fishell. Fishell và Katterburg thì khoanh tay im lặng.
- Tôi cho là trở ngại chính của chúng ta không phải thuộc vấn đề kỹ thuật – đại tá Có nói - Ai sẽ cầm đầu chính phủ mới? Người đó, phải đủ uy tín trong quân đội và lời kêu gọi đầu tiên của người đó phải có hiệu lực làm bất động ít ra các đơn vị đóng quanh thủ đô và được giới Phật giáo ủng hộ.
- Tôi muốn lưu ý các anh: Tướng Tôn Thất Đính đang là Tư lệnh ở vùng 3 chiến thuật. Lực lượng ở trong tay của anh ta không phải là nhỏ. Chỉ cần anh ta bác bỏ chính phủ mới, chúng ta sẽ phải lâm vào tình thế khó xử và do đó chính biến phải kéo dài.
Nhận xét của tướng Đôn đẩy hội nghị vào điểm chết. Không ai hẹn ai, cả ba tướng đều giống như những tín đồ chờ lời phán xét của Chúa Trời. Mai Hữu Xuân bực bội mở bản đồ Sài Gòn, bản đồ bọc trong giấy kiếng, đã được vạch các mũi tên bằng bút chì mỡ. Ông toan thuyết trình tiếp. Đỗ Mậu ngó lên trần nhà, như đeo đuổi một ý nghĩ nào đó.
- Chúng tôi ủng hộ mọi sáng kiến nhằm cải thiện tình hình Nam Việt. - Fishell nói - Tuy nhiên nếu điều kiện khách quan đã tỏ ra bức xúc cho một sự thay đổi người cầm đầu nhà nước Nam Việt - thì thế lực để thực hiện việc đó lại còn quá mỏng. Tất cả chúng ta, không ai nuôi nấng ý muốn riêng tư nào đối với cá nhân Tổng thống Ngô Đình Diệm...
Fishell nói đến đây, ngó thẳng vào mặt Mai Hữu Xuân.
- Vấn đề là đường lối của chính phủ. Muốn chiến thắng Việt Cộng, chính phủ Nam Việt không thể để “lún sình” trong vụ Phật giáo. Thái độ của quân đội rõ ràng liên quan đến thái độ của chính phủ đối với Phật giáo, bởi số đông binh sĩ là tín đồ của tôn giáo này. Chính phủ Mỹ đã làm hết sức mình để hướng Tổng thống Diệm vào chính sách mềm mỏng. Những cố gắng ấy, cho đến nay, đã không thành công. Tôi nghĩ rằng trong bối cảnh và với những điều kiện như vậy, các tướng lĩnh Việt Nam cần có tiếng nói. Theo tôi, yêu cầu của những người cầm quân đối với Tổng thống Diệm có thể chia làm hai bước. Bước thứ nhất là công khai bày tỏ những lo lắng của các tướng lĩnh đối với tình hình chính phủ đàn áp đạo Phật và đề nghị Tổng thống Diệm ban hành ngay quyết định chấm dứt sự đàn áp đó. Kiến nghị phải mang nhiều chữ ký, nhất là phải có chữ ký của những tướng được quân đội tin cậy. Tôi muốn nêu một ví dụ: tướng Big Minh, nếu tướng Big Minh thay mặt cho tướng lĩnh trình bày yêu sách thì tôi tin là Tổng thống Diệm phải xét lại một cách căn bản chính sách của mình. Bước thứ hai, nghĩa là nếu bước thứ nhất không mang đến kết quả, thì các tướng lĩnh phải bằng một hình thức nào đó, biểu thị thái độ kiên quyết hơn như yêu cầu Tổng thống từ chức và xuất ngoại giống Tổng thống Lý Thừa Vãn ở Đại Hàn. Bước thứ hai tiến sát đến một hành động dứt khoát, nếu như tình thế bắt buộc và các ông, chỉ có các ông mới đủ sức cho ông Diệm thấy là các ông không nói suông. Thời gian không còn nhiều nữa. Nếu sự phản kháng của tín đồ Phật giáo lắng dịu thì coi như các ông đã đánh mất con chủ bài. Đại sứ Mỹ hiện nay sẽ chẳng tán thành bất kỳ một toan tính nào để thay đổi ông Diệm. Nhưng, đại sứ cũng sẽ không phải là trở ngại đối với các ông. Tôi phải nói điều đó, bởi vì, trong nhiều bản tuyên bố, các giới chính trị tại Sài Gòn hàm ý “cột” chính phủ Mỹ với chính sách khủng bổ Phật giáo của ông Diệm. Không phải như vậy. Và tôi cũng nói thẳng với ông Diệm: Nhiệm kỳ của đại sứ Nolting sắp chấm dứt...
Tướng Xuân xếp bản đồ lại. Những lời “phán” của Fishell có làm cho ông ta cụt hứng nhưng ông ta vẫn chưa chịu rút lui.
Bức thư gần đây nhất của Savani, người thầy và người bạn Pháp của ông, đã giúp ông nghị lực:
“Cái chúng ta chờ đợi, cái đó đang đến gần. Sự có mặt của nước Pháp ở Đông Dương thuộc Pháp vốn bắt nguồn từ những điều kiện lịch sử sâu xa, thái độ quay phắt của ông Diệm dù sao cũng chỉ mang ý nghĩa nhất thời. Đối đầu với Cộng sản ở Đông Dương, là nhiệm vụ mà thượng đế chỉ giao cho nước Pháp. Chúng ta phải thú nhận rằng chúng ta đã thua một số trận, thậm chí một số chiến dịch, nhưng, nói theo đại đế Napoléon, chúng ta chưa thất trận. Trái lại, người Mỹ đang cầu cứu chúng ta. Số sĩ quan được nước Pháp đào luyện, kể cả sĩ quan cao cấp, vẫn chiếm tỉ lệ lớn trong quân đội Nam Việt Nam. Đa số chính khách và trí thức Sài Gòn đều giữ cảm tình với nền văn minh Pháp. Còn dân chúng, họ đã có điều kiện thực tế để so sánh hai lối cư xử, nhất định sự hào hoa và tế nhị của Pháp bao giờ cũng được mến chuộng hơn tính cách thông tục và thực dụng kiểu Mỹ. Bản thân thiếu tướng, những cái mà thiếu tướng còn nắm được, không quá nhỏ bé - tôi muốn nói hệ thống điệp viên của Sở mật thám và của Phòng Nhì. Dĩ nhiên, hơn lúc nào hết, thắng lợi tùy thuộc ở tài suy đoán và chiến thuật của thiếu tướng. Sẽ không cần thiết làm như Nguyễn Chánh Thi đã làm. Điều kiện chính trị hiện nay khác hẳn năm 1960. Chỉ cần khéo léo lợi dụng các mâu thuẫn đang có thật trên cái nền phẫn nộ của dân chúng, biểu hiện gay gắt qua thái độ mỗi lúc một quyết liệt của tín đồ đạo Phật. Thiếu tướng gần đi đến đích mà chẳng nhọc công, vẫn bảo toàn được thế lực. Đó là tôi chưa nói một yểm trợ khác, gián tiếp hơn, nhưng vẫn không quan trọng: chính sách của Thái tử Sihanouk và xu thế của chính phủ Phouma. Hoàn toàn không nên lầm lẫn chủ thuyết trung lập của nhóm Băngđung - thực tế có lợi cho Cộng sản - với chủ thuyết trung lập Đông Dương của tướng De Gaulle. Đông Dương phải trung lập, nghĩa là phải thoát khỏi ảnh hưởng của Cộng sản lẫn của Mỹ. Giữa chúng ta, ông và tôi, nên thẳng thắn nhìn lại bước đường cũ. Chúng ta đã vấp một số sai lầm kỹ thuật mà chính phủ Pháp đã khắc phục sau này đối với Algérie và các thuộc địa thuộc châu Phi khác.
Sớm hơn như Nguyễn Chánh Thi là phiêu lưu. Nhưng, bây giờ trễ hơn là mất mát. Trễ hơn sẽ có nghĩa trên trận địa chỉ còn có Mỹ và Cộng sản. Vai trò “đệm” của chúng ta đòi hỏi “chớp” lấy những cái gì mà cả Mỹ, ông Diệm và Cộng sản đang biếu không.
Ông bạn Xuân thân mến, hẳn ông bạn đã đọc tiểu thuyết của Dumas: Truyện về bá tước Monte Cristo. Gần đây, các nhà điện ảnh Pháp dựng lên bộ phim “Vengeance de Monte Cristo”. Tôi biết gần 10 năm qua, ông bạn nuôi nấng một cách khôn khéo ý chí phục thù. Bây giờ, thiếu tướng thân mến, hãy như bá tước Monte Cristo, tuốt lưỡi gươm phục thù... ”
- Tại sao chúng ta không bổ sung những bước đi của ngài Fishell bằng kiểu của Stofenberg đối với Hitler? - Xuân đặt câu hỏi, đôi môi thâm mỉm cười.
- Bất kỳ ai trong chúng ta cũng có thể đóng được vai trò của Stofenberg.
Xuân nói tiếp rất tự tin.
Từ nãy giờ đại tá Đỗ Mậu chỉ nghe và suy nghĩ. Lần đầu, ông nói:
- Tất nhiên, mang một khối thuốc nổ cực mạnh chừng một ký lô, đựng trong chiếc cặp với chiếc đồng hồ điều khiển giờ nổ và đặt nó trong phòng họp có mặt Tổng thống Diệm, bất kỳ ai trong chúng ta đều có thể làm được. Stofenberg giả đò đi gọi dây nói để lấy tài liệu báo cáo với Hitler và chuồn thẳng; chiếc bàn đã cứu sống Hitler. Tôi hiểu chuyện ngày 20-7-1944 tại tổng hành dinh Maduri, Nhưng, vây quanh Hitler là Keitel, Goering, Himler... Còn vây quanh Tổng thống Diệm là ai? Tôi tán thành sự bổ sung của tướng Xuân với điều kiện là quả bom phải đặt dưới gường ngủ của Tổng thống Diệm, điều mà chắc chắn không ai làm nổi.
Giọng của Đỗ Mậu pha chút châm biếm khiến tướng Xuân tái mặt.
- Vả lại, - Đỗ Mậu nói tiếp - Vấn đề không phải là một âm mưu, một cuộc ám sát. Tôi nghiêng về khuyến cáo của các bạn Mỹ.
Thế là đại tá Có được giao việc tiếp xúc với tướng Big Minh và cuộc họp chấm dứt. Buổi thịt rừng gần như không ai nâng ly cầm đũa...
*
Nhu gọi Luân vào dinh Gia Long.
- Sau khi xin ý kiến Tổng thống, tôi muốn nhờ anh một việc. Như anh biết, sau cái chết của Thích Quảng Đức, tình hình tiếp tục xấu. Có thể, vấn đề Phật giáo ở Việt Nam Cộng hòa sẽ bị lợi dụng để “quốc tế hóa”. Nước láng giềng của chúng ta là Cambôt, một nước theo đạo Phật. Ở Việt Nam Cộng hòa, có gần 300.000 người Cambôt, tất cả đều là tín đồ Phật giáo phái Thereveađa, chịu hệ thống lãnh đạo của các vua sãi ở Nam Vang. Hiện nay, chống lại sự phá hoại của các nhà sư phải bằng chính những người theo đạo Phật. Chúng ta có được một số sư sãi và tín đồ di cư thuộc phái Tăng già Bắc Việt, một số thuộc phái Cổ Sơn Môn ở Nam Việt, cần tranh thủ thêm phái Therevađa. Anh nên đi Nam Vang một chuyến. Nhiệm vụ của anh là gặp Sihanouk. Sở dĩ Tổng thống và tôi nghĩ đến anh trong sứ mạng này là vì chúng tôi biết anh và Sihanouk từng học chung ở Trường Chasseloup Laubat, cùng lớp thậm chí cùng phòng interne (1). Anh nghĩ sao?
Luân hơi sửng sốt trước đề nghị của Nhu. Làm thế nào mà Luân có thể thuyết phục nổi các vua sãi ở Nam Vang, còn với Sihanouk, đúng anh và ông ta là bạn học khá thân, nhưng tình đồng môn chắc chắn chẳng nghĩa lý gì trước sự chia rẽ chính trị không còn thể cứu vãn giữa Nam Việt và Cambốt. Hay là Nhu một lần nữa muốn anh làm con thoi nối với đại sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đại sứ Nguyễn Thương cùng học Đại học Hà Nội với anh. Phòng thông tin của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở Nam Vang hình như do bạn của anh, Nguyễn Văn Hiếu phụ trách.
- Tôi sẵn sàng chấp hành mọi chỉ thị của Tổng thống và của anh. Song, tôi chưa hiểu tôi sẽ đến Nam Vang với tư cách nào và bằng cách nào trong khi ngoại giao của hai nước đã gián đoạn sau vụ nổ bom ở Hoàng cung. Ý kiến của anh quá đột ngột đối với tôi, liệu rằng tôi có thể tác động được gì các vị lãnh đạo tối cao của Phật giáo ở Cambôt và với thái tử Sihanouk.
- Gần đây bằng con đường không chính thức, chính phủ hoàng gia Cambôt muốn có một cuộc tiếp xúc giữa họ và chúng ta. Tôi chưa rõ họ định tiếp xúc vì vấn đề gì, có thể là vấn đề biên giới. Cũng có thể là một cớ để họ đánh lạc hướng chú ý của chúng ta. Có lẽ anh biết Cộng sản bắt đầu sử dụng một phần biên giới Cambôt làm bàn đạp luyện quân, đặt cơ sở hậu cẩn nhất là rút lương thực từ nội địa Cambôt. Tôi cử một đoàn đại biểu Quốc hội lên Nam Vang, đi bán chính thức do ông Hà Như Chi cầm đầu. Anh sẽ tháp tùng phái đoàn đó, không mang danh nghĩa gì cả vì anh không có chân trong Quốc hội. Đại khái, anh giữ chân cố vấn của phái đoàn. Đến Nam Vang, anh cứ tùy cơ ứng biến. Ông Ngô Trọng Hiếu sẽ giới thiệu với anh một số địa chỉ Việt kiều có thể làm “đầu cầu” giúp anh. Hoặc tự anh nẩy ra sáng kiến tại chỗ. Trong phái đoàn Quốc hội có một vài tín đồ của đạo Phật, họ sẽ gặp các vị lãnh đạo tinh thần của đạo Phật ở Nam Vang và dĩ nhiên anh chỉ đạo họ, có thể cùng đi với họ, nếu tiện, có thể không cần... Cách thức tiến hành cụ thể, văn phòng Quốc hội sẽ bố trí hoặc phái đoàn đi đường bộ, hoặc đáp máy bay.
... Luân suy nghĩ rất nhiều về chuyến “công du” khá đặc biệt này. Có thể nào nhân đây mà liên hệ với A.07? Tình hình Nam Việt Nam chuyển động vùn vụt, anh cần được chỉ đạo cụ thể. Không rõ vì sao cấp trên không liên lạc với anh? Nhưng, nguyên tắc bí mật lại dằn vặt anh. Riêng chuyến đi theo ủy thác của Nhu, cũng cần đánh tiếng với Mỹ như thế nào cho hợp lý. Anh mà đóng vai cố vấn của một phái đoàn Quốc hội Nam Việt, thì chỉ có những tên ngốc mới không đặt dấu hỏi và không theo dõi. Số lượng CIA ở Nam Vang cũng không kém ở Sài Gòn. Phòng Nhì Pháp thì nhất định nhung nhúc rồi.
Như vô tình, trong mộc cuộc điện đàm với James Casey, Luân cho biết anh phải vắng mặt ở Sài Gòn vài ngày.
- Tôi đã thấy danh sách của đại tá trong phái đoàn Quốc hội Việt Nam Cộng hòa bán chính thức “đi thăm thiện chí” Vương quốc Cambôt! - James Casey kêu lên - Hẳn là một thứ “mission impossible” (2). Chắc ông Nhu muốn nhờ đại tá đi “giải độc” vụ Phật giáo.
- Đúng vậy! - Luân cũng cười trong máy nói - Chỉ có điều không biết tôi có thể giải độc nổi hay không.
- Chúc đại tá may mắn.
Phái đoàn đáp máy bay. Một chuyến bay dân dụng đặc biệt được thỏa thuận giữa hai nước và hai nước cũng thỏa thuận không đưa tin này lên các phương tiện truyền thông đại chúng. Do đó, tại Tân Sơn Nhất không có lễ tiễn và tại Pochentong cũng không có lễ đón.
Tại Tân Sơn Nhất, Luân gặp một rắc rối nhỏ - đúng hơn, bị vây vào một rắc rối mà anh không lường. Khi xe đưa Luân vào sân bay - Dung không tiễn anh theo quy định chung - thì anh thấy một đám cảnh sát dã chiến bao quanh một phụ nữ người Âu, như sắp ra tay đàn áp. Chính là Helen Fanfani, săn tin từ đâu, chực sẵn ngay cửa phòng khách quốc tế sân bay, chờ chụp một số pô ảnh và phỏng vấn trưởng đoàn Hà Như Chi. Cảnh sát dã chiến cấm cô ta và cô ta phản đối.
- Đại tá Luân! Ông xem này... Họ định hành hung với tôi, toan đập vỡ máy ảnh và máy ghi âm của tôi... - Fanfani kêu to.
- Thế nhưng tại sao cô đến đây? Đến đây rất không hợp thời và không cần thiết... - Luân vẹt đám cảnh sát, bảo Fanfani.
- Xin lỗi đại tá... Nghề nghiệp của tôi... - Fanfani vừa nói, vừa mở máy ghi âm đeo trên vai...
Luân nhanh nhẹn thò tay tắt máy:
- Tôi cũng xin lỗi cô... Không có điều gì cần thu thanh cả và xin cô chớ gương máy ảnh lên... Trong trường hợp đó, cảnh sát dã chiến sẽ tịch thu máy của cô...
- Thế, tôi không cần cầu cứu ông nữa! - Fanfani giẫy nẩy - Tôi nhờ ông Hà Như Chi vậy...
Hà Như Chi còn nhanh hơn Luân, hấp tấp lọt vào phòng khách.
- Tôi thất bại! - Fanfani thểu não... - Lẽ nào ông không thấy cái lợi khi báo Mỹ đưa tin ông đi Phnôm Pênh?
Luân lắc đầu:
- Không có lợi gì cả... Đánh tiếng về việc của chúng tôi chỉ gây rắc rối. Tôi yêu cầu cô đừng đưa tin, bất kể dưới hình thức nào. Chúng tôi không “đi đêm” nhưng giữa hai chính phủ - Việt Nam Cộng hòa và Cambôt - thỏa thuận giữ cuộc tiếp xúc trong im lặng hoàn toàn. Cô thấy đây, ngay Thùy Dung còn không tiễn tôi kia mà!
Fanfani nhún vai:
- Nếu hãng A.P hay Reuter mà đưa tin “hớt” tay trên tôi thì ông sẽ khó ăn nói với tôi sau này...
- Tôi hứa sẽ cung cấp cho cô một reportageinédit (3) về Cambôt hiện nay, nếu cô thích... Chẳng hạn, điện Chamcar Môn, Hoàng cung, các bà vợ đẹp của thái tử Sihanouk... - Luân cười.
- Cám ơn! Những cái đó tôi thừa... Tôi chỉ muốn giành ưu tiên loan tin về phái đoàn các ông. - Fanfani làm mặt giận.
- Phái đoàn Quốc hội Việt Nam Cộng hòa lại có một cố vấn như tôi... Tin của cô độc đáo lắm, song sẽ rất nguy hiểm cho sứ mạng của chúng tôi.
- Sứ mạng gì? - Fanfani nháy mắt.
Luân không trả lời, chìa tay, Fanfani bắt tay Luân, siết chặt. Đám cảnh sát dã chiến lỡ bộ, đứng trân.
- Các anh không biết mối quan hệ giữa đại tá và tôi hay sao? - Fanfani vụt đùa với đám cảnh sát - Tôi và đại tá có thể hôn nhau...
Luân bảo Fanfani:
- Thôi, cô về... Hẹn gặp lại...
Anh bước vào phòng khách, vì biết rằng nếu chậm trễ, Fanfani dám dở trò trước mặt thiên hạ - cô ta chẳng coi chuyện thân mật với Luân là điều cấm kỵ...
Sau nửa giờ bay, máy bay đáp xuống sân bay Pochentong. Sân bay được mở rộng, nhiều đường băng với một nhà ga trang nhã và hiện đại. Luân thấy trên sân nhiều máy bay thuộc nhiều hãng hạ cánh: Aeroflot của Liên Xô, Air France của Pháp, Pan American của Mỹ, CSA của Tiệp, Japan Airline của Nhật, India Air của Ấn, China’s của Trung Cộng... Chiếc DC.10 chở phái đoàn không mang cờ nước nào, hạ cánh. Ngoài nhân viên sân bay, không ai đón. Đoàn đi thẳng vào nhà ga và lên luôn một ô tô Tiệp Khắc nhiều chỗ ngồi về trung tâm thành phố. Nhìn mặt cả đoàn, Luân buồn cười: tất cả - luôn hai nhà sư, một Việt tên Thích Vân Tự nói giọng miền Trung, một gốc Miên tên Thạch Chrei mà Luân biết là sản phẩm của Trần Kim Tuyến - mặt tái nhợt. Có vẻ như họ đi ra pháp trường! Quang cảnh sân bay trung lập khiến họ không yên tâm... Xe theo một đại lộ và đại lộ tên là Liên Xô! Đến ngã rẽ, xe chuyển hướng, bây giờ theo một đại lộ khác, mang tên Mao Trạch Đông. Xe qua một bệnh viện lớn bảng đề: Hopital de I’amitié Kampuchéenne – Soviétique (4). Trước khi lên đường, Luân đã nghiên cứu bản đồ Nam Vang; anh thấy lạ: đường Mao Trạch Đông chạy rìa thành phố và bệnh viện Miên - Xô nằm tận Toul Kok, ngoại ô. Chẳng lẽ chính phủ ông Sihanouk nhét phái đoàn tận ngoại ô? Nhưng xe lại rẽ về hướng trái, ngay chân cầu được gọi là cầu Sài Gòn vắt ngang sông Bassac và theo trục lộ lớn quay vào nội thành. Xe theo con đường mang tên Monivong rồi chuyển sang con đường rất sầm uất tên Charles de Gaulle, vòng qua một loạt tên đường Tito, Tiệp Khắc, Nerhu... chạy qua khu sứ quán. Cả đoàn gần như bị điện giật khi xe bỗng chạy chậm hẳn trước ngôi nhà treo ngọn cờ đỏ sao vàng!
Luân nhìn ngọn cờ rồi nhắm nghiền mắt. Anh xúc động và cố che giấu xúc động. Ngọn cờ lay nhẹ trong gió sớm, hiên ngang làm sao! Đã khá lâu, Luân mới nhìn rõ lá cờ, nhìn lá cờ trong tư thế uy nghi, đại diện cho đất nước. Giá mà... Luân không dám buông lỏng ham muốn.
Xe chỉ chạy chậm thôi. Sau cùng, xe dừng trước một khách sạn bốn tầng, tên Sukhakhan nằm trên đường Kampuchéa Krom. Không ai trong đoàn biết ý nghĩa con đường này, trừ Luân.
“Ông Hoàng Sihanouk chơi xỏ thật!” - Luân nghĩ – “Ông ta thị uy rõ rệt bằng cách đánh đòn cân não vào đoàn, phô trương chính sách trung lập của ông ta và sau cùng đặt trước đoàn một yêu sách: Kampuchéa Krom, có nghĩa là Miên miền hạ, tên còn đường ghi nhận tham vọng bành trướng của ông ta”.
Một nghị sĩ Miên đón đoàn tại phòng khách của khách sạn. Ông tự giới thiệu: Hing Hing, nguyên tỉnh trưởng Takeo. Tóm lại, một người không giữ vị trí chính trị gì đáng kể, gần như vô danh.
Hà Như Chi bất mãn. Ông ta tự vẽ cho mình vai vế khi cầm đầu một đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, bây giờ, chỉ được cho trú ngụ tại một khách sạn loại 3 sao, được một nghị sĩ hạng bét tiếp. Ở sân bay thì ông thông cảm được: tránh sự dòm ngó; còn ở đây là thủ đô, tại sao không đưa đoàn vào nhà quốc khách hoặc một khách sạn loại sang - nghe nói không hiếm gì ở Nam Vang.
Luân phải bảo nhỏ Hà Như Chi:
- Họ chịu tiếp và cho một nghị sĩ tiếp là đã quý rồi... Ông nên chú ý, nếu ông tỏ vẻ đối địch, họ tung tin sự có mặt của chúng ta ở Nam Vang thì lập tức báo La Dépêche tiếng Pháp, báo Trung Lập tiếng Việt và các báo khác sẽ mở ngay chiến dịch đánh ta và suốt ngày, hết đoàn biểu tình này đến đoàn biểu tình khác, ném đá tan cái khách sạn này...
Bữa cơm “tẩy trần” dù sao cũng thịnh soạn. Hing Hing nâng cốc chúc sức khỏe toàn đoàn Nam Việt. Ông báo là đoàn nghỉ suốt ngày hôm nay, ngày mai sẽ bắt đầu chương trình. Bắt đầu chương trình như thế nào thì ông không nói, nhưng dặn mọi người trong đoàn chớ ra khỏi khách sạn, e không được an toàn.
- Dân chúng thủ đô chúng tôi đang giận chính phủ các ngài, nếu họ biết các ngài từ Sài Gòn tới thì có thể họ hành hung.
Hà Như Chi muốn gặp “người có trách nhiệm” của Quốc hội, Hoàng gia và Bộ trưởng ngoại giao. Thích Vân Tự và Thạch Chrei xin yết kiến các vua sãi. Hing Hing ghi chú và hứa sẽ trả lời sau. Ông ta xem danh sách cả đoàn...
-Thằng cha cù lần này còn đi trình báo! - Hà Như Chi nhận xét và yên chí sẽ rảnh rang suốt buổi chiều và cả đêm: sử dụng thời gian sao cho đáng với chuyến công du.
Ông ta gọi người phục vụ. Lát sau, bóng phụ nữ thấp thoáng trong phòng ông ta - và một số phòng nữa.
Vào hai giờ chiều, Hing Hing trở lại khách sạn. Hà Như Chi không thể tiếp mà nhờ Luân thay.
- Hai vua sãi muốn gặp hai vị sư trong đoàn ngay... Nhờ ông gọi giúp. Tôi cùng đi với họ. - Hing Hing bảo Luân.
Luân gõ cửa phòng Thích Vân Tự. Gõ mấy lượt và chờ. Cửa mở hé. Không có ai trong phòng trừ nhà sư, nhưng toalet thì đóng chặt, và nhà sư ăn vận quá vội, ngay trên gường ngủ vẫn chưa kịp giấu các đồ lót của phụ nữ.
Luân gõ cửa phòng Thạch Chrei. Cửa không cài. Và so với Thích Vân Tự, nhà sư cũng không có gì che trên thân cùng một cô gái giống như vậy.
Luân khép cửa nói vọng vào ý kiến của Hing Hing.
Mười lăm phút sau, hai “đại diện” Phật giáo nghiêm trang rời khách sạn.
Luân ra ban công, nhìn bao quát khu vực. Nam Vang xây dựng khá nhanh và phải nói là đẹp. Nhà không cao lắm, năm tầng trở lại, ngăn nắp theo một quy hoạch tổng thể. Tuy nhiên, có vẻ các nhà sang trọng nhất thuộc về người Hoa - kiểu kiến trúc đặc sệt Trung Quốc.
Ông Hoàng Sihanouk chơi trò xiếc đi dây. Những thành công bước đầu khuyến khích ông: ông giữ được thăng bằng giữa một khu vực đang xáo trộn dữ dội. Đó là nói về đối ngoại. Còn đối nội, tình hình không thuận lợi lắm. Sau vụ Đáp Chuôn, các phần tử trí thức lại rục rịch chống ông. Quân đội, ngoài mặt trung thành với ông, nhưng nhiều phe nhóm chen vào chi phối, đáng kể hơn hết là Lon Nol, người mang huyết thống Trung Quốc, đang là tướng lĩnh nắm nhiều thực quyền với cương vị Tổng tham mưu trưởng. Phòng Nhì Pháp, vào lúc này, ủng hộ Sihanouk - là chỗ dựa quan trọng của ông Hoàng. Chỗ dựa ấy còn vững đến bao giờ thì lại tùy thuộc vào tác động của Mỹ - Sihanouk nhận viện trợ kinh tế Mỹ, không nhiều, trên 10 triệu dollar năm, nhưng chính là phần ngoại tệ quan trọng thứ nhì sau Pháp. Sihanouk tìm thêm chỗ dựa mới: Trung Quốc xây dựng cho ông một số xí nghiệp công nghiệp. Liên Xô giúp ông các công trình phúc lợi xã hội. Điều nguy hiểm là Sihanouk lạm dụng mối tác động qua lại giữa các nước lớn, nay đề cao quá trớn nước này, mai đả kích cũng quá trớn nước khác. Ông sống trong ảo tưởng là ông và chế độ của ông - là một báu vật mà các nước buộc phải nuông chiều...
Một xe Mercésdès dừng trước khách sạn. Luân không để ý lắm. Vài phút sau, Giám đốc khách sạn khúm núm đưa lên một người và người đó bước ra ban công, nghiêng mình:
- Thưa đại tá, tôi là Phuissara được lệnh của Samđech (5), mời đại tá vào Hoàng cung gặp Người.
Luân không ngờ cuộc gặp mặt quá nhanh như vậy với Sihanouk. Anh xin lỗi Phuissara, vào phòng thay quần áo. Anh định báo cho Hà Như Chi biết, nhưng cửa phòng của ông ta đóng chặt. Luân đành ghi mấy dòng, bảo người thư ký của đoàn trao lại khi Hà Như Chi thức dậy.
Trên xe, Phuissara tự giới thiệu người có họ hàng với Sihanouk, phụ trách lễ tân thay cho vị hoàng thân xấu số Vakrivan chết vì quả bom nổ năm trước - tác phẩm của Ngô Trọng Hiếu - Ly Kai.
Sihanouk đón Luân ở phòng khách riêng, đặt trong Điện Chamcar Môn, trên bờ sông Cửu Long. Luân vừa lên khỏi tam cấp thì Sihanouk đã vồn vã ôm ghì anh:
- Tao cứ ngỡ không bao giờ gặp mày! - Sihanouk nói tiếng Pháp và xưng hô như lúc hai người còn học chung.
- Tôi cũng vậy, tôi đâu tưởng có thể gặp Thái tử, nhất là gặp ở Phnôm Pênh... - Luân giữ khoảng cách cần thiết.
- Đọc bảng danh sách đoàn Quốc hội Sài Gòn, thấy tên mày, tao mừng quá, bảo gọi ngay...
Sihanouk lôi Luân vào phòng.
Cuộc nói chuyện bắt đầu bằng sự nhắc nhở các kỷ niệm cũ. Sihanouk nói rất say sưa, gần như một mình ông ta nói, với giọng “mái”. Quá khứ của những năm trung học được xốc dậy, Sihanouk quả có tài nhớ mọi chi tiết, kể cả chi tiết leo rào đi chơi đêm và nhờ Luân trùm mền lên gối đánh lừa giám thị.
- Tôi muốn trao đổi với Thái tử vài vấn đề liên quan đến hai nước chúng ta... - Luân lựa lúc thuận lợi, lái câu chuyện vào hướng chính.
Sihanouk gạt phắt:
- Ồ! Hôm khác đã... Vả lại, mày đâu phải trưởng đoàn... Hôm nay chúng ta sống lại thời trẻ, chỉ làm việc đó thôi.
Hai người dùng cơm tối và Sihanouk không ngớt thao thao.
- Đáng lẽ tao phải gọi vợ con ra chào mày, song - Sihanouk cười ha hả - Tao nhiều vợ như phong tục nước ta cho phép và do đó, nhiều con, gọi cả thì quá đông, gọi một người thì không tiện. Monique gần gũi tao nhất nhưng còn nhiều bà khác... Hơn nữa, họ chẳng chia xẻ được tí gì ngôi trường của chúng ta.
Mãi gần 10 giờ đêm, Luân mới chia tay Sihanouk.
- Quốc hội Campuchia cử Hing Hing làm việc với đoàn của Nam Việt. Có thể tao sẽ gặp mày lần nữa, lần đó, tha hồ cho mày nói chính trị!
Sihanouk bảo như vậy khi tiễn Luân xuống tận xe.
Hà Như Chi chờ Luân. Ông ta thất vọng vì cuộc tiếp xúc của Luân với Sihanouk chỉ đơn thuần bè bạn.
Thích Vân Tự và Thạch Chrei mang về kết quả không phấn khởi. Hai vua sãi trách cứ nặng lời chính sách của chính phủ Việt Nam đối với Phật giáo và còn doạ, nếu chính sách ấy mà lan đến người Khmer, thì hai vị sẽ có biện pháp phản đối kiên quyết.
Hai vua sãi hỏi Thích Vân Tự và Thạch Chrei có biết hòa thượng Thích Quảng Đức, người tự thiêu vừa rồi gây chấn động khắp thế giới đã từng học đạo ba năm ở Nam Vang hay không? Cả Thích Vân Tự lẫn Thạch Chrei đều không để ý đến chi tiết này.
- Ngài là người Khmer Krom (6) lại tu hành, đừng nên theo vết chân của ông Diệm.
Vua sãi phái Tiểu thừa bảo Thạch Chrei.
- Chúng tôi sẽ xin Giáo hội Phật giáo Nam Việt một xá lợi của hòa thượng Thích Quảng Đức để vào nơi tôn kính của chùa chúng tôi.
Vua sãi phái Đại thừa bảo như vậy.
Hôm sau, Hing Hing mời đoàn đến trụ sở Quốc hội làm việc. Đoàn Cambôt, ngoài trưởng đoàn Hing Hing, có thêm hai nhân viên Bộ ngoại giao, cấp thấp. Chương trình nghị sự do Hing Hing đưa ra gồm ba vấn đề lớn:
1. Xác định lại đường biên giới “không minh định” chạy dọc theo các tỉnh Kongpong Chàm - Kratiê của Cambôt với các tỉnh Tây Ninh và Bình Long của Nam Việt.
2. Xác định lại đường phân chia hải phận trên vịnh Thái Lan.
3. Qui chế người Khmer sống ở Nam Việt.
Chương trình của Hing Hing dồn đoàn Việt Nam vào chỗ lúng túng. Hà Như Chi không được chỉ thị bàn các vấn đề đó, dù chỉ bàn về các thể thức sẽ trao đổi. Tất cả đều quá lớn và nhất định ảnh hưởng đến lãnh thổ Nam Việt kể cả đảo Phú Quốc.
Luân không nói gì. Anh biết Sihanouk thỏa thuận cho đoàn đại biểu Quốc hội Nam Việt đến Nam Vang không phải để bàn các vấn đề trên. Chẳng qua ông “xả xú páp” mối quan hệ căng thẳng giữa hai nước và các vấn đề nêu lên để ném ra một đầu cầu mà hai bên hứa sẽ tiếp tục trao đổi. Chỉ như vậy thôi.
Hà Như Chi đưa ra “phản đề nghị”:
- Cambôt cam kết giữ trung lập triệt để trong các quan hệ nội bộ Nam Việt, kể cả vấn đề Phật giáo.
Cuộc họp ngừng. Chiều hôm đó, Hing Hing mở tiệc chiêu đãi. Đêm, đoàn Nam Việt được mời xem bộ phim màu “Nữ đại sứ”, kịch bản của Sihanouk, do ông đạo diễn, ông và vợ ông, bà Monique đóng vai chính. Chuyện phim là bản án về cuộc tạo phản của Đáp Chuôn ở Xiêm Rệp, có bàn tay của tình báo Việt Nam nhúng vào. Toàn bộ bộ phim toát tinh thần kì thị chủng tộc, tỉ như nữ tình báo Nam Việt làm tình với Đáp Chuôn tên là “Cô nước mắm”.
Luân xem nửa chừng, bỏ ra về. Anh tính toán kỹ và thấy cần phản ứng, mặc dù nội dung của bộ phim không phải không chứa ít nhiều sự thật.
Về đến khách sạn, Giám đốc khách sạn rối rít báo với Luân là hoàng cung gọi điện đến cho anh.
- Alô! - Luân nói vào máy - Kính chào Thái tử... Vâng, tôi không xem hết bộ phim. Tôi không nói về đạo diễn, diễn viên và các mặt kỹ thuật. Tôi chỉ phàn nàn tác giả nhìn dân tộc tôi một cách phiến diện...
- Tôi chỉ nói những người Việt nào như tôi mô tả. - Sihanouk giải thích - Anh không phải người Việt loại đó... Anh quên rằng chính tôi suýt chết vì gói quà của Ngô Trọng Hiếu?
- Tôi không quên. Và, gói quà không riêng của Ngô Trọng Hiếu. Nó được gởi từ Hồng Kông.
- Tôi biết... Thôi, nếu có điều gì tao làm phật lòng mày thì tao xin lỗi. Ngày mai, chúng ta gặp nhau.
Hà Như Chi trách Luân thiếu tế nhị ngoại giao, nhưng khi nghe Sihanouk gọi điện xin lỗi Luân thì ông ta đổi thái độ, bắt đầu chống chế dài dòng về việc ông ta không thể rời buổi chiếu phim được do cương vị trưởng đoàn bắt buộc. Ông ta rất ngại Ngô Đình Nhu biết chuyện này.
- Anh biết tin tức mới nhất ở Sài Gòn chưa? - Sihanouk hỏi Luân ngay khi hai người ngồi vào ghế, bắt đầu trao đổi.
- Chưa... Tin gì? - Luân hỏi.
- Ba tin: Một, Hội đồng các tướng lãnh ra thông báo kêu gọi đoàn kết, bình tĩnh, mong các vấn đề được giải quyết trong tình huynh đệ. Hội đồng các tướng lãnh - anh nhớ cho, chỉ ngày 11-11-1960 mới có danh xưng này. Và, Hội đồng các tướng lãnh lại không đứng trong tư thế quân nhân chấp hành ý kiến của Tổng thống, mà trèo lên cả trên đầu Tổng thống, ra lời khuyên kiểu trọng tài thổi còi! Nguy hiểm lắm! Tin thứ hai: Nhiều sư và ni cô biểu tình trước sứ quán Mỹ, yêu cầu Mỹ can thiệp ngăn chặn ông Diệm giết tín đồ đạo Phật. Cuộc biểu tình bị đàn áp trước mũi Mỹ... Đài truyền hình Mỹ tha hồ mà chiếu hằng giờ về những cái chính phủ Mỹ cần cho công chúng Mỹ biết. Tin thứ ba: Một cuộc biểu tình lớn xảy ra ở một ngôi chùa để dự lễ tang ông hòa thượng tự thiêu, đông đến cả vạn người. Xung đột dữ dội giữa người biểu tình và cảnh sát. Đến hàng nghìn người bị bắt...
Luân trầm ngâm. Đúng là anh chưa biết ba tin này, chắc sự việc xảy ra lúc anh rời Sài Gòn.
- Chính phủ do tôi cầm đầu tới nay chưa tỏ thái độ. Tôi không muốn bị Nam Việt kết tội chen vào việc nội bộ của Nam Việt. Nhưng, nếu Cambốt không phải là nước đầu tiên lên án chính phủ Sài Gòn thì Cambốt lại không thể im lặng nếu một nước nào đó ở Đông Nam Á mở đầu lên án, nhất là nếu nạn nhân của chính sách đàn áp gồm luôn người Khmer Krom. Tôi rất lạ về ông Diệm. Anh không thể ảnh hưởng đến ông ta hay sao? Ông ta có loạn thần kinh không? Ông ta hô hào chống Cộng bằng cách tạo đủ các điều kiện phì nhiêu nhất để cho Cộng sản nảy nở... Ông ta chắc không để ý rằng chống Cộng không thể không tính đến những đổi thay của thế giới... Còn một tin nữa, hôm nay, nữ phi hành gia đầu tiên của loài người, một người Nga, một người Cộng sản bay lên vũ trụ. Bà ta tên là Valentina Têrêxkhôva...
- Tôi biết ông Nhu phái anh lên gặp tôi, do chúng ta là bạn học. Tôi thích gặp bạn học, nhất là bạn thân. Nhưng, đó là việc khác. Tôi có thể cam đoan rằng Sihanouk là người ít thích ông Diệm đổ nhất trong số những kẻ ghét ông Diệm bởi vì ông Diệm đổ - hiện nay, không do Cộng sản - thì an ninh của Cambôt cũng bị đe doạ, trong khi đồng thời tôi cũng không bao giờ cho phép ông Diệm mạnh. Ông Diệm mạnh, rảnh tay có nghĩa nạn nhân sẽ là nước Cambôt trung lập chúng tôi, ít về dân số, kém về khả năng tự vệ. Tôi không giấu giếm anh. Tôi muốn ông Diệm suy nghĩ đến chính sách trung lập ở Nam Việt, mặc dù tôi biết rằng, quá trễ và thật sự chính sách trung lập không hợp khẩu vị ông Diệm. Những gì có thể hứa với anh, tôi đã hứa!
Luân hiểu rằng Sihanouk, trong trường hợp này, nói thật. Ông ta tỏ ra một nhà chính trị khá cứng. Như vậy, ông ta sẽ tiếp tục ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng trong chừng mực có thể kiềm chế chính phủ Sài Gòn.
Công việc của đoàn đại biểu coi như xong. Trước hôm lên máy bay về Sài Gòn, một nhà báo Pháp tên Georges Chaplas, đột ngột đến gặp Hà Như Chi với một lô phỏng vấn. Hà Như Chi đẩy sang Luân. Luân từ chối.
- Tôi không có điều gì để nói với nhà báo bởi tôi lên Nam Vang với tư cách cá nhân...
- Ông đi du lịch? - Georges Chaplas hỏi móc.
- Đúng, tôi đi du lịch - Luân bình thản.
- Ông gặp những ai?
- Tôi gặp các cô hướng dẫn và các ngôi đền.
- Ông có gặp Thái tử Sihanouk?
- Không!
- Có, ông có gặp. Gặp những hai lần!
- Không!
- Ông có gặp đại diện của Bắc Việt hoặc của Mặt trận Dân tộc Giải phóng?
- Nếu ông thích tin giật gân thì ông cứ nêu lên báo rằng tôi có gặp...
- Tôi muốn đưa tin trung thực, khách quan...
- Đó không phải là nhiệm vụ của tôi...
- Tôi vừa gặp ông Trần Bửu Kiếm... Ông biết ông ấy?
- Biết... Rất biết. Ông Kiếm đang phụ trách đối ngoại của Việt Cộng...
- Tôi muốn lưu ý ông rằng tôi gặp ông Kiếm ở đây, Phnôm Pênh...
- Rất tiếc tôi không phải là Thống đốc Phnôm Pênh để đánh giá tin của ông và có thái độ...
- Ông có tham gia Hội đồng tướng lĩnh Sài Gòn?
- Tôi là đại tá... Và, xin lỗi ông, tôi đang bận.
- Trưởng đoàn của ông ủy quyền cho ông tiếp tôi.
- Tôi đi du lịch, làm gì có trưởng đoàn! Tốt nhất ông đến với ông nào tự nhận là trưởng đoàn...
Luân trục Georges Chaplas ra khỏi phòng.
Sát giờ ra sân bay, Phuissara mang đến một gói quà của Sihanouk gửi tặng vợ Luân với danh thiếp:
“Bạn Nguyễn Thành Luân! Bạn và vợ bạn cứ yên tâm mở gói quà, vài món kỷ niệm của cá nhân tôi không thể gây ra tiếng nổ... Tôi cũng muốn gửi ông Diệm một món quà, song tiếc rằng ông ấy không phải là bạn tôi... ”
NORODOM SIHANOUK.
Luân cùng đoàn bước ra cửa khách sạn, sắp lên xe thì một nhà sư trẻ - áo choàng nửa vai vàng rực - cầm bình bát đến xin khất thực. Ở thủ đô Phnôm Pênh, sư hóa trai nhiều vô kể, chẳng ai lạ gì việc xuất hiện của nhà sư trẻ này, mặc dù, da của nhà sư hơi trắng so với các nhà sư Khmer khác.
Thoạt đầu, Luân cũng không để ý, nhưng trông qua một lần, anh giật mình. Nhà sư khá đẹp trai, đầu cạo nhẵn, liếc nhìn anh.
Luân kềm chế, giữ vẻ thật bình thản, ra hiệu mời nhà sư trẻ vào chờ anh, anh gọi một tô cơm và thức ăn. Khi người phục vụ mang cơm và thức ăn đến, đoàn đã lên xe.
Hà Như Chi bảo:
- Đại tá Luân làm động tác ngoại giao cuối cùng đấy...
Luân tiến sát nhà sư trẻ, cuối chào lễ phép rồi trút cơm, thức ăn vào bình bát. Không ai thấy tay Luân và tay nhà sư trẻ chạm nhau - Luân nhận một vật thật nhỏ, như cây tăm - và mọi người ngỡ Luân chúc tụng nhà sư và nhà sư cám ơn Luân. Sự thật, mấy câu ngắn như thế này:
- Có chỉ thị của A.07 cho anh Bảy!
- Cảm ơn... Mong gặp Sa quá...
- Sẽ nối lại liên lạc ở Sài Gòn... Theo dõi mục rao vặt trên báo Cách mạng quốc gia...
- Tôi về hôm nay...
- Anh chị có cháu chưa?
- Sắp...
Cái mà Luân day dứt mãi, bây giờ mới được giải quyết...
*
Báo cáo của Phân cục tình báo Mỹ
Nơi gởi: Phnôm Pênh
Nơi nhận: Sài Gòn
Đoàn đại biểu bán chính thức của Quốc hội Sài Gòn không thu được kết quả gì trong chuyến đi đến Phnôm Pênh. Chính phủ Hoàng gia tiếp hờ hững. Nguyễn Thành Luân gặp Sihanouk nhưng chỉ nhắc tìn cảm bạn bè cũ. Không có dấu hiệu Luân tiếp xúc với một nhân vật Cộng sản nào.
------------
(1) Nội trú (nói tắt).
(2) Nhiệm vụ bất khả thi.
(3) Phóng sự chưa hề công bố.
(4) Bệnh viện hữu nghị Miên - Xô.
(5) Hoàng thân
(6) Miên miền hạ

CHƯƠNG 6

Luân có trong tay một tập sách mỏng in ronéo do một Quốc Tân nào đó biên soạn, dĩ nhiên là lưu hành bí mật. Tổng nha Cảnh sát quốc gia tịch thu được tập sách, chuyển lên báo cáo với Ngô Đình Nhu và Nhu trao lại cho Luân để nghiên cứu. Tập sách gồm một số chương và một số tiết mà chương đầu tập trung nói về Ngô Đình Diệm và mối liên quan giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo.
Trong tiết: “Hoàn cảnh nào đã tạo ra Thủ tướng Ngô Đình Diệm?”, tác giả bắt đầu từ 1954 và nhận định rằng, do quyết định tối hậu của các đại cường, Việt Nam đã chia làm hai miền: Bắc bị Cộng sản thống trị, Nam dưới quyền chính phủ Quốc gia. Lúc đầu, chính phủ Quốc gia vẫn tiếp tục dựa vào Pháp nhưng không lâu thì Hoa Kỳ cảm thấy Pháp không đủ sức bảo vệ miền Nam tự do nên quyết định gánh vác sứ mệnh đẩy lùi sự đe dọa của Cộng sản. Do môi giới của Trần Văn Chương, đại sứ của Việt Nam ở Mỹ, Tổng thống Mỹ đã đi đến giải pháp Ngô Đình Diệm, Ngô - Trần là thông gia với nhau và ý kiến của ông được Hồng y Spellman ủng hộ, rất ăn khớp với dự định của Tổng thống Mỹ.
Tập sách nói đến con người Ngô Đình Diệm như sau: Nhờ người cha, Ngô Đình Khả, là quan đại thần triều Khải Định, Ngô Đình Diệm được học trường Hậu bổ, ra làm Tri huyện, sau thăng Tuần vũ. Sống trong buổi giao thời, với bản tính chấp nhất, quan liêu, tự mãn với địa vị của mình, ông Diệm chỉ là một người thuộc lớp “Cổ vô đạt, kim bất thông”.
Năm 1932, Bảo Đại từ Pháp về nước lập chính phủ Nam triều, ông Diệm được gọi từ Phan Thiết ra Huế giữ chức Lại bộ Thượng thư. Sau vì ghen tài với Phạm Quỳnh và thấy cái kém của mình trước một người tài hoa được nhà vua trọng dụng hơn, nên Diệm xin từ chức.
Suốt trong 12 năm, từ 1934 đến 1946 là lúc dân tộc chuyển mình trong phong trào đấu tranh giành độc lập, cả nghìn vạn chiến sĩ bị tù đày hoặc ngã gục trước mũi súng của thực dân. Vậy mà, từ Bắc chí Nam không thấy bóng dáng và tiếng nói của ông Diệm.
Thế rồi, đầu năm 1948, người ta lại thấy ông Diệm xuất hiện ở Đà Lạt để Bảo Đại ban cho chức Thủ tướng chính phủ thuộc địa. Nhưng do thế lực của Trung tướng Nguyễn Văn Xuân khi đó quá mạnh khiến ông Diệm bị thất vọng rồi ôm hận qua La Mã ở với anh ruột là Ngô Đình Thục.
Năm sau, ông Diệm qua Balê. Ở đây, ông sống trong một căn nhà trọ nghèo nàn, sinh hoạt như một chàng sinh viên kiết xác.
Khi ấy “hoàng thượng Bảo Đại” du hành qua Pháp. Có người kể tình cảnh ba đào của ông Diệm hiện tại cho “hoàng thượng” nghe, “hoàng thượng” bèn nghĩ đến thể thống quốc gia, chẳng gì cũng đường đường một vị “cựu Lại bộ Thượng thư”, sao nỡ để cho đày đọa trần ai thế!
Bởi vậy “hoàng thượng” thương tình nên giúp cho một số tiền, để người bầy tôi cũ của mình có thể thuê khách sạn mà ở cho đỡ tủi thân.
Tình trạng ông Diệm như vậy, ta đủ hiểu gia đình họ Ngô lúc đó bỉ cực đến thế nào?
Ông Diệm ở khách sạn của Hoàng đế Việt Nam thuê cho tại Balê được ít lâu thì anh ông, Giám mục Ngô Đình Thục, từ La Mã ghé qua đón ông sang Mỹ.
Ở đây, ông Diệm mặc áo dòng, hầu hạ Hồng y Spellman trong 4 năm và giữa lúc đang sửa soạn thành linh mục, thì một cơ hội nghìn năm một thuở đến với ông.
Hồng y Spellman thương tình người đồ đệ của mình, ông nhắm thời cơ và nhận thấy tình trạng đất nước Việt Nam lúc đó là một cơ hội tốt, có thể giúp Ngô Đình Diệm làm được nhiều việc có lợi hơn là nằm trong khuôn khổ một linh mục.
Bởi vậy, Hồng y Spellman đã sử dụng mọi uy tín và thế lực của mình để vận động với chính phủ Mỹ, đưa Ngô Đình Diệm về Việt Nam.
Trước việc làm của Spellman và lời đề nghị của Trần Văn Chương, chính phủ Mỹ vội vã cứu xét và chấp nhận ngay, vì thấy có hai điều lợi ích căn bản:
1. Dùng Diệm chắc chắn sẽ tạo được một chính phủ chống Cộng triệt để.
2. Qua Spellman, chính phủ Mỹ biết được bản tính của Diệm: thuần phục, dễ bảo. Điều đó cho biết một chính phủ do Diệm lãnh đạo sẽ không bao giờ hành động vượt ra ngoài chủ trương và sách lược của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Thế rồi, ông Diệm được sửa sang mày mặt, cởi bỏ áo dòng khổ hạnh để về Sài Gòn ngồi ghế Thủ tướng.
Và, việc gì đến đã đến!
“Giải pháp Bảo Đại không ổn thì Bảo Đại phải đi”!
Khi hoàng thượng bị truất phế, người những hai lần tuyên thệ làm bầy tôi trung thành của hoàng thượng và đã để hoàng thượng phải thương xót trong cơn ba đào tại hải ngoại, đã không ngần ngại phỉ nhổ và quét mực vào mặt hoàng thượng in trên giấy, rồi đem bêu xấu khắp các phố phường, thôn xóm.
Trong tiết “Chế độ Ngô Đình Diệm” tài liệu viết:
Khi đã truất phế xong Bảo Đại, ông Diệm bèn nghĩ đến việc chia bùi xẻ ngọt với anh em, bà con, tương tự như các bậc đế vương đời Xuân Thu - Chiến Quốc thường làm.
Với Ngô Đình Nhu, con người nuôi tham vọng trở thành “vua học thuyết và chính trị tại Việt Nam”, khi đã đóng vai cố vấn, nấp sau hậu trường, Nhu không từ một chước thần mưu quỷ nào để thu gom quyền hành về cho gia đình họ Ngô.
Ngô Đình Nhu đã âm mưu với Diệm thủ tiêu Hồ Hán Sơn và Trịnh Minh Thế, hai người có công đầu trong việc kiện toàn tổ chức, thu hồi quyền lực về cho chính phủ trung ương. Sau đó, các giáo phái, nhân sĩ, trí thức, đảng phái đối lập lần lượt bị anh em Ngô Đình Diệm hãm hại và làm cho tan rã.
Đã độc tài về chính trị, làm cho mọi người mất hết tự do, nhân dân sống trong cảnh nghẹt thở; gia đình họ Ngô còn độc tài về kinh tế. Trần Lệ Xuân, Ngô Đình Cẩn thi nhau lợi dụng uy thế của gia đình mình, lũng đoạn nền kinh tế quốc gia, khiến cả triệu người lâm vào cảnh đói khổ.
Những cảnh muôn vạn người nghèo khổ, mọi thứ tự do bị chà đạp, Việt Cộng đánh phá khắp nơi đều có tội của gia đình họ Ngô gây ra cả.
Đó là những nguyên nhân sâu sa tạo ra phản ứng của quần chúng. Nhưng nguyên nhân tối hậu thúc đẩy sức phản ứng quyết liệt của quần chúng lại là vấn đề Phật giáo.
Vậy tại sao có phong trào đấu tranh của Phật giáo đồ?
Đầu năm 1963, báo HongKong Tiger Standard tiết lộ: Giám mục Ngô Đình Thục đã không ngần ngại đọc diễn văn nói về sự phát triển Thiên Chúa giáo tại Việt Nam đã đến giai đoạn cực thịnh. Ông nhấn mạnh: Phật giáo Việt Nam đã tự hủy diệt lần mòn và tới nay không còn dấu hiệu gì chứng tỏ đó là một tôn giáo đang còn sinh hoạt...
... Một mục sư Tin lành đã hoạt động tại Việt Nam trong 12 năm qua cho biết: “ông Thục lợi dụng uy thế của người em làm Tổng thống để âm mưu cùng mọi người trong gia đình đặt kế hoạch biến Thiên Chúa giáo thành quốc giáo trong vòng vài năm... ”.
Báo HongKong Tiger Standard đặt vấn đề:
“Ông Thục muốn dâng công với Tòa thánh Vatican để chiếm chức Hồng y hay nuôi tham vọng trở thành giáo chủ Việt Nam giáo, tương tự như Anh giáo”?
Phù hợp với tiết lộ trên, thực trạng tại Việt Nam cũng cho ta thấy:
- Riêng tại miền Trung đã có mấy nghìn gia đình bị cưỡng bức tòng giáo.
- Ai không chịu theo Thiên Chúa giáo thì bị tù đày, giết chóc.
- Phật giáo đồ bị ngược đãi, nhiều địa phương, chính quyền công khai xúc phạm và khinh bỉ Phật giáo.
- Công chức, quân nhân theo Thiên Chúa giáo được ưu đãi hơn mọi người theo tôn giáo khác.
Ngoài ra, mặc dù Phật giáo đồ bất bình, ta thán về đạo dụ số 10, nhưng đạo dụ đó vẫn tồn tại suốt 9 năm cầm quyền của ông Diệm.
Đạo dụ số 10 có phương hại gì đến tinh thần tín ngưỡng cùng truyền thống của dân tộc ta?
Thoát thai từ chế độ thực dân, đạo dụ số 10 ban hành năm 1950 mang nặng tính chất bất công, kỳ thị tôn giáo.
Đạo dụ này hạ thấp tôn giáo xuống ngang hàng với các hội đua ngựa, đá banh. Nhưng đặc biệt, lại đặt các hội truyền giáo Thiên Chúa ra ngoài phạm vị đạo dụ đó.
Như vậy, rõ ràng thực dân muốn miệt thị dân tộc ta, nên coi tôn giáo của đại đa số nhân dân Việt Nam không có giá trị gì.
Ông Diệm lên nắm chính quyền, không những không sửa đổi đạo dụ đó, mà lại còn ký thêm một nghị định vào ngày 23-9-1960 nói về việc mua bán các bất động sản của các tôn giáo - dĩ nhiên, trừ Thiên Chúa giáo - dù bé nhỏ tới đâu cũng phải được sự cho phép của Tổng thống.
Trên danh nghĩa, mọi tôn giáo đều chịu sự kiểm soát của Phủ tổng thống một khi tiếp nhận bất động sản do tư nhân tiến cúng. Nhưng mặt trái của sự việc này ra sao? Ông Diệm liệu có tránh khỏi thiên vị khi chính nghị định này không phải là sáng kiến của ông, mà do sự yêu cầu của người anh ruột đầy quyền hành và đầy tham vọng trần tục!
Sự kiện đó làm cho người ta hiểu rằng, dù ông Diệm không dám mong ý tưởng hủy diệt Phật giáo, nhưng ít nhất ông cũng bị chi phối, khiến không thể công bình trong việc đối xử với các tôn giáo khác.
Đã thiếu minh chính, thiếu vô tư xuyên qua đạo dụ số 10 và nghị định ký ngày 23-9-1960, ông Diệm còn phó mặc mọi công việc thuộc phạm vi quyền hành của ông cho những kẻ thân tín trong gia đình. Mà những kẻ này là ai? Là những kẻ chẳng có cương vị, chẳng có trách nhiệm gì đối với lịch sử và dân tộc, nhưng trong lòng lại chứa đầy những tham vọng cuồng dại. Mỗi người một vẻ, mỗi người đều muốn trở thành “vua” trong lĩnh vực riêng: kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Vì vậy người dân chỉ khổ trong phạm vị độc tài kinh tế, chính trị, nhưng Phật giáo đồ còn khổ cả về mặt tinh thần, tức vấn đề tín ngưỡng bị đe doạ.
Quan điểm của tập sách thật hết sức rõ ràng. Nó đáp ứng trước hết là khẩu vị của nước Mỹ và không loại trừ bàn tay của CIA nhúng vào và khai thác, chủ yếu sự thù địch tôn giáo. Mục tiêu chống Cộng vẫn là hàng đầu của người viết sách. Dĩ nhiên, những sự kiện mà tập sách nêu ra đều đúng 100%, nhưng cách phân tích những sự kiện thì lại xuất phát từ những ý định có sẵn, làm thế nào để giải thích công cuộc chống Cộng kém hiệu quả ở Nam Việt Nam bằng một luận điểm và chỉ một luận điểm mà thôi: do Ngô Đình Diệm, biểu trưng tập trung nhất là đàn áp Phật giáo.
Tập sách minh họa nhận định của lãnh đạo mà Luân nhận được ở Nam Vang từ tay Sa. Trò khua động dư luận để tạo cớ “thay ngựa giữa dòng” bắt đầu một cách rộn ràng.
Chẳng có gì khó hiểu khi thượng tọa Thích Tâm Châu, Chủ tịch Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo bỗng dưng ra một lời đính chính rằng Phật giáo không chấp nhận sự ủng hộ của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ngày mùng 10-6, Hãng thông tấn Pháp AFP loan tin này, tin bịa và thượng tọa Thích Tâm Châu đã đính chính thật. Người ta có thể thông cảm rằng Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến muốn cột phong trào Phật giáo với Việt Cộng nhưng người ta khó đoán mà thông cảm sự đính chính với lời lẽ hằn học của một nhà sư. Thượng tọa Thích Tâm Châu yêu cầu báo chí nói rõ rằng sự can thiệp của tướng Giáp là một việc làm không ăn thua vào đâu và ông ta không nhận sự ủng hộ ấy, mà ông ta xem như là một thủ đoạn của Cộng sản.
Trong đầu Luân, bài toán xoay quanh một ẩn số, đó là quần chúng, kẻ phán quyết số phận của chế độ Ngô Đình Diệm lẫn các phần tử lợi dụng đạo Phật, lợi dụng quần chúng, lợi dụng thế của cách mạng.
Ngày 16-6, Ủy ban liên bộ gồm Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng Phủ tổng thống Nguyễn Đình Thuần và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Bùi Văn Lương đã ký với phái đoàn Phật giáo một thông cáo chung. Đó là kết quả của 3 ngày thảo luận tại hội trường Diên Hồng. Thông cáo chung gồm 5 điều khoản, trong đó phía chính phủ có những nhượng bộ và phía Phật giáo cũng thế. Nếu người ta chú ý đến giờ ký bản thông cáo chung - 1 giờ sáng - thì có thể hiểu quá trình “cò kè” phức tạp đến chừng nào. Thông cáo chung được hòa thượng Tổng hội chủ Phật giáo kiểm nhận và Tổng thống Ngô Đình Diệm thông qua. Bên trên chữ ký của Diệm là hai dòng bút tích của ông: “Những điều được ghi trong thông cáo chung này thì đã được tôi chấp nhận nguyên tắc ngay từ lúc đầu”.
Bị bắt buộc phải hạ mình ngang với các sư, Ngô Đình Diệm vẫn cố vớt vát.
Cái chết của hòa thượng Thích Quảng Đức vẫn chưa đủ độ mạnh để cảnh tỉnh chính phủ Ngô Đình Diệm.
Mười ngày sau khi thông cáo chung được ký kết, Tổng thủ lãnh Thanh niên Cộng hòa Ngô Đình Nhu đã xác lập: Phong trào Thanh niên Cộng hòa là một phong trào quần chúng, không phải là một phong trào của chính phủ để mù quáng làm tay sai cho bất cứ ai. Người ta chỉ có thể giải thích quan điểm đó là Thanh niên Cộng hòa không thừa nhận thông cáo chung. Nhu đã nói rõ: Các nhà sư rất hăng hái lợi dụng, xuyên tạc một cách trắng trợn và ngoan cố để đầu độc một số tín đồ và gây áp lực với các vị đại đức hầu phát động một chiến dịch bất tuân pháp luật... Sự nguy hiểm của công việc thiếu giáo dục, thiếu học tập, thiếu cảnh giác nhân dân, để một số bất cứ lúc nào cũng có thể trở nên cuồng tín. Trong một vụ làm chết người có tổ chức bằng cách tưới xăng đốt một vị thượng tọa và các nhà sư không ngần ngại hành hung các cảnh sát...
Theo gợi ý chung của Nhu, Cao Xuân Vỹ, Tổng giám đốc Nha thanh niên, vận động một cuộc biểu tình đại quy mô để yêu cầu Ngô Đình Diệm duyệt lại bản thông cáo chung mà Vỹ cho là quá khoan hồng với Phật giáo. Một số cuộc mít tinh khác lập kiến nghị lên án Phật giáo. Một bộ phận trong nhóm Lục Hòa Tăng và Cổ Sơn Môn, theo gợi ý của Nhu, đã đánh điện cho Hội Phật giáo Sri Lanka lên án các hoạt động của Phật giáo Việt Nam.
Trong thời gian này, Diệm chơi trò hai mặt. Một mặt dùng Nguyễn Ngọc Thơ để xoa dịu, một mặt dùng Cao Xuân Vỹ để kích động.
Phía Phật giáo cũng có cách phản ứng riêng. Chan Htoon, Chủ tịch Hội Phật giáo thế giới đã ra lời kêu gọi Phật giáo thế giới ủng hộ Phật giáo Nam Việt Nam chống lại sự áp bức và ngược đãi Phật tử. Thái tử Norodom Sihnouk, Quốc trưởng Cambôt yêu cầu giải quyết gấp rút vấn đề tôn giáo bằng đường lối hòa bình, phù hợp với những nguyên tắc đã được ghi trong tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc. Sihanouk còn đánh động các chính phủ Mỹ, tổng thống Ấn Độ, rổng thống Pháp, thủ tướng Anh; và bà Bandaranaike, thủ tướng Sri Lanka cũng hành động tương tự.
Thông điệp của Sihanouk, như ông ta cam kết với Luân, lời lẽ hết sức có mức độ. Nhưng các trung tâm Phật giáo Miến Điện, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, Iran, Nhật Bản và một số nước khác đã họp tại Tân Gia Ba để bày tỏ thái độ ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo Nam Việt.
Điều mà dư luận lấy làm lạ xoay quanh chỗ hai phe chống đối đổ cho nhau là Việt Cộng. Phật giáo, qua Thích Tâm Châu, đã gán cho Ngô Đình Nhu là Cộng sản, là sử dụng nghệ thuật của Cộng sản khi gọi những người Phật giáo là phản động, là phiến loạn. Trên tờ The Times of Viet Nam, Trần Lệ Xuân cho đăng một bài tố cáo rằng những cuộc biểu tình của Phật giáo đều được tổ chức đúng như dự kiến của Cộng sản.
Phật giáo tố cáo ông Ngô Trọng Hiếu đã cho 300 cán bộ công dân vụ cạo trọc đầu, giả làm sư để làm mất thanh danh Phật giáo, thậm chí thuê may cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam. Thông cáo của Bộ Nội vụ trưng ra các bằng chứng về sự dính líu của Phật giáo với Việt Cộng: tịch thu ở chùa này truyền đơn, ở chùa kia lựu đạn, ở chùa nọ chất nổ, bắt được quả tang cán bộ Cộng sản hóa trang làm sư với giấy thông hành giả và súng ngắn. Vân vân và vân vân.
Chín giờ sáng ngày 23-7-1963, trong lúc chùa Xá Lợi đang diễn ra cuộc họp báo của bà Diệu Huệ, mẹ của giáo sư Bửu Hội, cho hay bà sẽ tự thiêu thì một đoàn biểu tình án ngữ lối ra vào chùa với các băng ghi: Đại diện cho 5 vạn thương phế binh và 12 vạn cô nhi quả phụ, yêu cầu hãy chấm dứt gây chia rẽ trong hàng ngũ Quốc gia. Trong các khẩu hiệu, ngoài những câu chống Cộng quen thuộc, Ngô Trọng Hiếu còn sáng tác ra một nội dung ngộ nghĩnh: Yêu cầu Tổng hội Phật giáo kết tội Lê Đình Thám, người sáng lập Hội Phật giáo, hiện làm tay sai cho Cộng sản miền Bắc. Nhưng có lẽ, cơ quan tình báo Mỹ đặc biệt chú ý đến hai khẩu hiệu:
- Đừng để ngoại bang xâm nhập chủ quyền dân tộc.
- Chấm dứt mọi hành động vọng ngoại ươn hèn.
Hết sức lý thú là sau cuộc biểu tình “tự động” của dân vệ và thương phế binh trước chùa Xá Lợi, Tổng giám đốc Thông tin Phan Văn Tạo hỏa tốc họp báo. Tạo thanh minh rằng chính phủ không hay biết về cuộc biểu tình này, người chịu trách nhiệm là trung tá Trần Thanh Chiêu, thanh tra Trung ương dân vệ đoàn Chính phủ đã cách chức và phạt trung tá Chiêu 40 ngày trọng cấm. Nhưng, sau cuộc họp báo giật giân này chẳng bao lâu thì Trần Thanh Chiêu lại được thưởng Anh dũng bội tinh.
Tình hình vừa căng thẳng vừa lộn xộn, có bi và có hài.
... Luân đọc các tin trên báo, trong các báo cáo và anh bỗng cười. Dung kinh ngạc.
- Em đoán xem tại sao anh cười? - Luân hỏi vợ.
- Chịu thôi!
- Hiện nay, ai cũng nhắc đến Việt Cộng cả. Em nhớ cuộc xung đột ở bán đảo Sinai giữa Ai Cập và Do Thái không? Ai Cập tuyên bố: Chúng tôi sẽ thắng vì chúng tôi noi theo tấm gương anh hùng của Việt Nam. Do Thái tuyên bố: Chúng tôi sẽ thắng vì chúng tôi học các bài học dũng cảm, kiên quyết của Việt Nam... Tại Sài Gòn, chính phủ buộc Phật giáo là Việt Cộng, Phật giáo buộc chính phủ là Việt Cộng... Trăm sự đều do Việt Cộng cả!
- Tất nhiên, họ xuyên tạc. Song, cái đáng nói là Việt Cộng buộc họ phải nhắc đến như một huyền thoại.
- Em nói đúng. Xét cho cùng, tất cả rắc rối thuộc nội tình của chế độ thân Mỹ ở Nam Việt sẽ không có hoặc có dưới mức gay gắt, nếu chúng ta không tồn tại, dân tộc ta không thể hiện bản lĩnh và từ 1954, không có một miền Bắc tự do, từ 1960, không có một Mặt trận Giải phóng hùng mạnh...
Luân dịu dàng ghì Dung, hôn lên má cô.
*
12 giờ trưa ngày 4-8, Thích Nguyên Hương, một nhà sư trẻ, sinh năm 1940 đã tự tưới xăng lên mình, tự châm lửa tại Đài chiến sĩ trước Tòa tỉnh trưởng Phan Thiết. Thích Nguyên Hương chết kéo theo những rắc rối mới. Cơ quan công lực tỉnh Bình Thuận bắt nhốt các tăng ni Phật tử đến viếng Thích Nguyên Hương tại nhà xác của bệnh viện. Tàn bạo hơn nữa, cảnh sát bẻ nhục thân của thầy Nguyên Hương để nhét vào hòm, đưa về Tuy Phong tránh mũi nhọn của quần chúng tại thị xã Phan Thiết.
Đại đức Thích Nguyên Hương tự thiêu không phải là một hành động đột ngột. Ngày 30-7, đại đức đã gửi một thư trần tình và bức thư đó - cùng với bức thư của đại đức gửi cho cha mẹ - được công bố trên báo chí.
20 giờ ngày 12-8, một thiếu nữ vóc dáng mảnh dẻ, mặc chiếc áo dài màu xanh đã dùng búa tự chặt tay mình tại chùa Xá Lợi. Đó là nữ sinh Mai Tuyết An. Cũng như trường hợp Thích Nguyên Hương, Mai Tuyết An đã dự định hành động và không giấu giếm ý định của mình.
Ngày 13-8, tại Huế, đại đức Thích Thanh Tuệ lại tự thiêu. 8 giờ ngày 15-8, tại Ninh Hòa, ni cô Diệu Quang tự thiêu tại chùa Ninh Hội. Ngày 16-8, tại Huế, trong khuôn viên tại chùa Từ Đàm, thượng tọa Thích Tiêu Diêu tự thiêu.
Tất cả đẩy tình hình Nam Việt đến chỗ bùng nổ.
Bình luận của các báo: Hầu hết các báo đều đăng các tin bình dưới đây, không mang chữ ký.
*
Bảng thông cáo chung, gáo nước lạnh dội vào ngọn lửa le lói...
2 giờ ngày 16-8-1963, bản thông cáo chung được ký kết giữa chính phủ và Phật giáo sau 2 ngày đêm hội đàm, 5 nguyện vọng chính đáng của Phật giáo được công nhận. Tổng hội Phật giáo Việt Nam tuyên bố, cuộc đấu tranh đã hoàn thành trong giai đoạn cần thiết.
Tổng hội Phật giáo Việt Nam đã thực hiện đúng với chương trình đấu tranh thuần túy tôn giáo, cương quyết từ chối mọi sự lợi dụng của những tổ chức chính trị. Bức thư của thượng tọa Thích Tâm Châu, Chủ tịch Ủy ban liên phái đăng trên tờ Đồng Nai chống lại sự lợi dụng của Võ Nguyên Giáp đồng thời vạch rõ vị trí hoạt động của Phật giáo Việt Nam trong cuộc đấu tranh thuần túy tôn giáo cho 5 nguyện vọng Phật giáo đồ.
Bản thông cáo chung giữa chính phủ và Phật giáo được ký kết như một giáo nước lạnh xối vào ngọn lửa le lói của bọn trung lập định lợi dụng cuộc đấu tranh huynh đệ ở Việt Nam.
*
Phối hợp chặt chẽ giữa bọn trung lập thân Cộng Việt - Miên
Trong thời gian có cuộc đấu tranh tôn giáo thì tại Cambôt, bọn trung lập thân Cộng Cao Miên cũng như lưu vong Việt Nam hớn hở mừng rỡ. Điện tín, thư từ giữa bọn trung lập Cambôt và bọn trung lập thân Cộng Việt Nam cầm đầu là Trần Văn Hữu có sự giúp sức của bọn Hồ Thông Minh, Phạm Huy Cơ, cấu kết với nhóm Việt Cộng của Mai Văn Bộ định thành lập ngay một chính phủ lưu vong mà bản tuyên ngôn đầu tiên kiểu trung lập Lào năm 1960.
Một số chính khách lưu vong từ Balê về Nam Vang hăm hở họp hằng ngày để bàn về tình hình Sài Gòn trong thời gian có cuộc đấu tranh tôn giáo.
*
Sự thật về âm mưu Sihanouk và lưu vong
Cuộc đấu tranh của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, đúng như Đức hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam và thượng tọa Thích Thiện Minh, Trưởng phái đoàn Phật giáo Việt Nam đã nói là thuần túy tôn giáo.
Cũng như Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đã nói, tinh thần bản thông cáo chung được ký kết giữa Phật giáo và chính phủ là tinh thần đoàn kết huynh đệ, những minh định trên đây của các vị lãnh đạo chính phủ cũng như Phật giáo, hơm một lần đã làm sáng tỏ thiện chí xây dựng của những người yêu nước, đặt quyền lợi của Tổ quốc, của dân tộc lên trên hết.
Những bọn cơ hội, bọn hoạt động, bọn tay sai cho Cộng sản, vẫn cố tình lệch lạc, nhắm mắt, bưng tai, âm mưu lợi dụng cuộc đấu tranh huynh đệ trong nội bộ Việt Nam Cộng hòa, muốn biến cuộc đáu tranh thuần túy tôn giáo của Tổng hội Phật giáo Việt Nam thành một cuộc đấu tranh chính trị có lợi cho bọn đế quốc, bọn Cộng sản và bọn thù nghịch quốc tế.
Tại Nam Vang, trong một buổi lễ khánh thành một ngôi chùa, thái tử Norodom Sihanouk, Quốc trưởng Cao Miên đã tuyên bố, sẽ tích cực can thiệp để cứu “những đạo hữu Việt Nam - của ông”. Sau đó, chính quyền Cao Miên tổ chức cuộc biểu tình của các sư sãi Cao Miên đến trước Tòa đại diện Việt Nam Cộng hòa để đưa kiến nghị.
Thái tử Norodom Sihanouk đích thân viết thư cho Tổng thống Kennedy, Thủ tướng Mac Milan, Tổng thống Ấn Độ và UThant, Tổng thơ ký Liên hợp quốc yêu cầu can thiệp vào vấn đề nội bộ Việt Nam Cộng hòa.
Tổng thống Kennedy đã trả lời Norodom Sihanouk rằng: “Nguyên tắc dân chủ, Tổng thống Kennedy không thể can thiệp vào vấn đề nội bộ Việt Nam Cộng hòa và Tổng hội Phật giáo đã đi đến một thỏa hiệp tốt đẹp.”
Norodom Sihanouk nấp sau bức bình phong tôn giáo để thực hiện một âm mưu chính trị.
Trong khi ấy, tại Nam Vang, bọn Ca Văn Thỉnh, đại diện kinh tế mậu dịch của Việc Cộng, Lê Phủ Doãn, tên trùm giám điệp Việt Cộng đã cùng với một số lưu manh, chạy theo với một số chính khách Cao Miên để tập hợp thêm một số bất mãn lưu vong ở Cambốt với sự giúp đỡ của Cambôt lợi dụng phong trào đấu tranh tôn giáo ở Việt Nam Cộng hòa điều động một số người đánh phá vùng biên giới. Một mặt, có sự phối hợp của Cộng sản miền Nam phá hoại ở đô thị gây ra những cuộc náo loạn, biến cuộc đấu tranh thuần túy tôn giáo thành cuộc đấu tranh chính trị quần chúng để lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
*
Tờ New York Times cuối tháng 7, đăng một bài tường thuật của Erich Wulf, nhà thần học, gốc Đức, nhiều năm ở Nam Việt Nam. Tường trình của bác sĩ Erich Wulf cùng với hàng loạt cuộc diễn thuyết của ông trên đất Mỹ đã dẫn đến một cuộc hội kiến giữa công và các nhân vật có thẩm quyền của chính phủ Hoa Kỳ trong đó đáng để ý là Ngoại trưởng Dean Rusk và nhà chính trị có thế lực của đảng Cộng hòa Cabot Lodge. Erich Wulf nói:
“Ngày 8-5-1963, tại cố đô Huế, tôi phải tìm hết cách mới lén lút vào được căn nhà xác để xem 8 tử thi bị quân đội của tổng thống Ngô Đình Diệm bắn đứt đầu, gãy chân ngay trước khi chính phủ vội vàng đem chôn... Tôi là người Tây phương, không có ân huệ gì với Phật giáo Việt Nam, không có ác cảm gì với chính phủ Ngô Đình Diệm; tôi nói những điều này là tôi trông thấy, các ông nghĩ sao?
Đầu tháng 6, tôi cố gắng lắm mới tìm được cách vào săn sóc chớp nhoáng cho 62 sinh viên Phật tử, nạn nhân của những vụ “tạc đạn lửa chế tạo tại Hoa Kỳ” do chính phủ Ngô Đình Diệm gây ra. Trong chương trình viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam, gồm có nhiều thứ, nhưng chắc các ông đã nhận thấy chính phủ Ngô Đình Diệm không ham chuộng chuyên viên y tế và thuốc men bằng súng bom!
Các ông hiện nay là những yếu nhân của chính phủ Hoa Kỳ, nếu có những người dân của các ông tuyệt thực để phản đối chính sách của các ông; các ông đối phó với họ bằng cách nào? Tất nhiên, các ông phải áp dụng phương thức nhân đạo chung mà thế giới thường làm: cứu xét nguyện vọng để thỏa mãn; nếu chưa thể được thì phải giữ họ mà tiêm thuốc bổ để duy trì sức khỏe cho cơ thể họ. Các ông có biết ở miền Nam Việt Nam, người ta đã đối phó như thế nào không? Khi 300 sư sãi và Phật giáo đồ tuyệt thực 48 giờ trong chùa Từ Đàm, thì chính quyền cho lính đến bao vây, cúp điện nước. Hết hạn tuyệt thực của tăng ni, họ lại mang dây thép gai đến phong tỏa, không cho chở thực phẩm vào chùa. Vài ngày sau, một số người hoạt động trong chi nhánh hội Hồng thập tự quốc tế tại Việt Nam bí mật nhờ tôi tới xem xét có muối và nước trong chùa Từ Đàm mà các vị sư đang cần để tìm cách cứu giúp. Nhưng tôi cũng bị chung một số phận với các sinh viên Phật tử đội cơm tới chùa để cúng đường, họ bị đuổi về, sau khi thực phẩm bị quăng xuống cống. Còn tôi, tôi bị dây thép gai trói chặt lấy lương tâm và lòng thương xót của tôi.
Cũng vì việc phong tỏa này nên các sinh viên Phật tử nhất tề nổi dậy, rồi họ bị khủng bố, bị đả thương rất nhiều và nhiều người bị thương tích vô cùng trầm trọng. Tôi không thể dành cho các sinh viên này một phương pháp trị liệu đặc biệt nào, vì nhân viên chính phủ đã từ chối không cho tôi biết là họ dùng loại lựu đạn gì. Nhưng có biết cũng vô ích vì chỉ một ngày sau, tất cả các bệnh nhân của chúng tôi đều được mang đi và được giam ở một nơi rất cẩn mật, đến nỗi hiện nay chúng tôi cũng không nhận được tin tức gì về số phận của họ. Trong số những người bị thương, và bị giam giữ bí mật này có nhiều người tôi quen biết vì họ là những sinh viên ưu tú của lớp học mà tôi dạy, trước ngày bị thương trầm trọng, một trong những sinh viên ưu tú của Trường y khoa Huế đã gặp người bạn đồng nghiệp rất thân của tôi tại một góc phố. Đồng nghiệp của tôi không nhận ra anh sinh viên Phật tử này nữa, vì trông anh quá hốc hác do sự hành hạ dã man gây ra”.
Mũi tiến công đột phá của Erich Wulf được dư luận Hoa Kỳ tán đồng - dư luận báo chí và dư luận chính giới - như đã chờ đợi từ lâu, theo bản hợp xướng đã xong phần phối âm. Tờ New York Herald Tribune lên tiếng sớm nhất:
“Thượng tọa Thích Quảng Đức, một vị tu sĩ Phật giáo đã biến tấm áo cà sa vàng của mình thành một dàn hỏa thiêu không phải là một người duy nhất có thể tự đốt mình. Tổng thống Ngô Đình Diệm tại Nam Việt Nam cũng đang làm một việc rất hay là ông đang tự đốt hết nền tảng của chế độ ông... ”
Thượng nghị sĩ Wayne L.Morse thuộc tiểu bang Oregon dự vào cuộc hòa âm ngay lập tức: “Chúng tôi không đồng ý cho một dollar nào nữa để ủng hộ một chế độ độc ác và tàn bạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm tại Nam Việt Nam”. Trước nghị viện, ông Morse nói thẳng thừng: “Chế độ hiện thời ở Nam Việt Nam không đáng hưởng sự hy sinh tín mệnh của một trẻ em người Mỹ... ”
*
THÔNG BÁO CỦA BỘ NỘI VỤ
Từ ngày 5 đến ngày 12 tháng 7 năm 1963, Tòa án quân sự đặt biệt Việt Nam Cộng hòa đã xử 94 can phạm gồm 19 sĩ quan và 75 thường nhân liên quan đến cuộc phiến động ngày 11 tháng 11 năm 1960. Tòa tuyên án chung thẩm tử hình đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh lữ đoàn dù, trung tá Vương Văn Đông, đồng thời đã kêu án từ 18 năm khổ sai đến 7 năm khổ sai và 5 năm cấm cố các thiếu tá Phan Trọng Chinh, trung úy Nguyễn Bá Mạnh Hùng vv...
Về thường nhân, tòa đã kết án thỏa đáng các tên Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Thành Phương, Đinh Xuân Hoạt, Phạm Lợi, Vũ Hồng Khanh, Phan Bá Cầm, Bùi Lương, Nguyễn Tường Tam, Hoàng Hồ, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Tăng Nguyên, Nguyễn Tiến Hỷ, Lê Quang Luật, Lê Ngọc Chấn, Trần Văn Tuyên, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Văn Đỗ v.v...
*
NHÀ VĂN NHẤT LINH NGUYỄN TƯỜNG TAM TỰ SÁT
Tin các báo:
Nhà văn nổi tiếng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, một lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng, từng là Chủ nhiệm những tờ báo nổi tiếng như Phong Hóa, Ngày Nay, Xướng Xuất, Tự lực văn đoàn, tác giả nhiều quyển tiểu thuyết, đã có lúc giữ chức Ngoại trưởng chính phủ Việt Minh, vào 1 giờ 12 phút ngày 8-7-1963 đã trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Đồn Đất bằng thuốc độc, giữa lúc tòa án quân sự đặc biệt đang xét xử ông.
Đám tang Nguyễn Tường Tam được cử hành theo thể thức Phật giáo và một đoàn người đông đảo đã đưa linh cửu Nguyễn Tường Tam đến cầu siêu tại chùa Xá Lợi. Nguyễn Tường Tam được chôn ở chùa Giác Minh, Gò Vấp. Ông hưởng thọ 57 tuổi.
*
MỘT TÊN KHỦNG BỐ VIỆT NAM MƯU TOAN LIỆNG LỰU ĐẠN VÀO ĐÁM TANG NHẤT LINH
Tin VTX
Một tên khủng bố Việt Cộng đã bị bắt ngày hôm qua trong lúc đang trà trộn vào đám đông người dự đám táng nhà văn Nguyễn Tường Tam tại nghĩa trang chùa Giác Minh (Gò Vấp).
Tên này là phu xích lô số 0125 lúc ấy đậu trước nhà cạnh nghĩa trang.
Theo nhà chức trách, tên này mặc sơ mi kiểu quân nhân, trên túi áo để một trái lựu đạn. Vẫn theo nhà chức trách thì vị trên đường vào nghĩa trang là độc đạo, nên tên VC này chưa dám ném trái lựu đạn, vì y sợ khi ném rồi thì không có lối thoát thân.
Thật quả là một điều may mà tên khủng bố chưa thi hành được thủ đoạn, nếu không, có lẽ sẽ gây tai nạn cho nhiều người, vì lúc ấy còn đông người dự đám tang.
Cuộc điều tra của nhà chức trách còn đang tiến hành.
*
THÔNG BÁO CỦA NHA TỔNG GIÁM ĐỐC THÔNG TIN
Ngày 7-7-1963, trước cửa chùa Nguyệt Quang ở hẻm 164 đường Trương Minh Giảng đã xảy ra một vụ lộn xộn như sau:
Sáng hôm đó, một số sư sãi làm lễ cầu siêu trong chùa rồi sắp hàng kéo ra đường định biểu tình, nên các cảnh sát viên yêu cầu họ trở về chùa với lý do trật tự an ninh. Một vài ký giả ngoại quốc đứng gần đó đã tiến tới vạch lối cho sư sãi đi: đó là một trường hợp đi ra ngoài quyền hạn của báo chí.
Tiếp theo ký giả Peter Arnett, thuộc hãng thông tấn Associated Press giơ máy chụp hình và phó thẩm sát viên Lâm Văn Lý thuộc Tổng nha Cảnh sát quốc gia ra lệnh không được chụp sau khi đã xuất trình phù hiệu cảnh sát. Ký giả Arnett không những không tuân lệnh mà còn quay ống ảnh vào chính mặt ông Lâm Văn Lý chụp.
Ông Lâm Văn Lý lấy tay che ống kính máy ảnh, thì bị ký giả Malcolm Browne, cũng thuộc hãng AP, hành hung. Đồng thời ký giả Peter Arnett quay lại đánh thẩm sát viên Nguyễn Văn Lang tới giải vây cho phó thẩm sát viên Lâm Văn Lý. Cả hai nhân viên công lực đều bị thương nhẹ, và rách áo.
Còn phía ký giả Arnett Browne khai bị hư máy ảnh.
Việc này chỉ là một vụ lộn xộn nhỏ có thể xảy ra bất cứ ở nơi nào. Nhưng rất tiếc rằng một số các ký giả ngoại quốc đã tự ý cho việc này có một tầm quan trọng hơn, cho rằng “chính phủ Việt Nam định tâm dùng vũ lực đàn áp ký giả ngoại quốc” trong khi chính mấy ký giả đó đã dùng vũ lực để đàn áp cảnh sát - nói tóm lại, đã thổi phồng việc này thành một đề tài chính trị nên Tổng nha thông tin có bổn phận phải đặt lại vụ lộn xộn trong khuôn khổ sự thực.
*
ĐIỆN KHẨN
Peter Arnett gửi Tổng xã AP Sài Gòn ngày 9-7.
Thông báo của Nha tổng giám đốc Thông tin Việt Nam Cộng hòa về trường hợp của tôi và của Browne là hoàn toàn xuyên tạc. Chính Nguyễn Văn Lang và Lâm Văn Lý cùng nhiều cảnh sát đã đánh chúng tôi. Ở Sài Gòn, người ta đang sáng tác những thông báo dối trá đến độ nhơ nhớp. Ví dụ người ta đưa tin một tên khủng bố Việt Cộng mưu toan liệng lựu đạn vào đám tang nhà văn nổi tiếng Nhất Linh và tên khủng bố bị bắt. Đó là một vụ tưởng tượng, mặc dù chính phủ ông Diệm cố chụp ảnh chiếc xích lô. Thói nói láo đã trở thành một bệnh dịch được nhà nước Việt Nam Cộng hòa gieo rắc và khuyến khích cho lây lan...
*
Luân và Nhu ngồi đối diện cả 15 phút. Ngoài rít thuốc, họ im lặng. Luân đoán rằng Nhu sắp tung thêm một đòn nữa vào Phật giáo - đòn gì, anh chưa biết.
Trong những tháng gần đây, Nhu mất hẳn vẻ điềm đạm và sâu sắc mà Luân vẫn phục anh ta. Nhu bắt đầu nói năng thiếu cân nhắc, có nhiều quyết định thật đột ngột và chẳng hợp lý, nhất là trên mặt trận dư luận và trong đối phó cụ thể. Cảm thấy uy tín của chế độ mà anh ta là “linh hồn” - như anh ta tự nhận đôi khi lộ liễu - sa sút nghiêm trọng trong mấy năm nay, Nhu thích ca ngợi quá khứ, kể công. Không ít lần Luân phải chịu đựng hàng giờ với Nhu: anh ta “độc chiếm” diễn đàn thao thao bất tuyệt. So với tuổi, Nhu già quá sớm - già về khả năng suy xét.
Đối thủ của anh ta, bây giờ là cả một chính phủ Mỹ, tất nhiên rất vui lòng trước những sơ xuất liên tục của anh ta - đúng như tờ New York Herald Tribune nhận xét - “gia đình Tổng thống Diệm đang thúc đẩy sự thiêu hủy của chính mình”.
- Đã đến lúc mà một nhượng bộ nhỏ cũng trở nên nguy hiểm! - Nhu nói. - Ta phải làm mạnh. Tổng thống Mỹ ủng hộ ta. Số đông nhà sư chân chính ủng hộ ta. Các tướng nói chúng đều đứng sau lưng chính phủ. Ngay Big Minh, ông ta cũng chỉ lưu ý tôi là đề phòng cấp dưới lợi dụng danh nghĩa chính phủ mà gây ra hiểu lầm trong dư luận... Về người Mỹ, tôi nghe đâu Kennedy đau một thứ bệnh gì đó nan y.
Luân bỗng thấy thương hại Nhu. Anh so sánh Nhu với những ngày cuối cùng của Hitle mà anh xem trong nhiều sách! Đầu tháng 4, nghĩa là cách ngày Hitle tự sát non tháng, khi các vành đai phòng thủ ngoại vi dẫn đến Berlin bắt đầu nát vụn trước các mũi tiến công dữ dội của quân đội Xôviết, Hitle đã hò hét: “Đối với chúng ta, chỉ có việc đơn giản là phải đứng vững. Ở mặt trận phía đông, có thể chống cự với quân Nga ít nhất 2 tháng nữa. Từ đây đến đó, liên minh Nga - Mỹ - Anh sẽ đổ vỡ và sẽ ký một thỏa hiệp với nước nào đề nghị với ta trước... ”. Hitle có cái nhìn lịch sử khá độc đáo vào lúc y mạt vận: y cắt nghĩa thắng lợi của vua Frederik (1) là do... cái chết bất ngờ của Nga hoàng Elizabeth.
Bởi vậy, ngày 13-4, tin tổng thống Mỹ Roosevelt từ trần được bọn đầu sỏ phát xít tiếp nhận với sự vui mừng điên dại. Goebel ngã lăn ra bất tỉnh, rồi gọi điện cho Hitle: Thưa Quốc trưởng, hôm nay, đúng là bước ngoặt. Hitle cũng nhảy cỡn lên, gọi điện thoại loạn xạ đi khắp nơi.
Nhu đang ở trong tình trạng bấn loạn. Anh ta hy vọng hão huyền.
Nhu đứng lên, Luân biết là Nhu không còn sức để trao đổi với anh những vấn đề thực tế, mặc dù Nhu giao anh một cặp tài liệu cực dày về các vấn đề bảo vệ ấp chiến lược, hẹn hôm nay bàn. Hai người bắt tay nhau. Chưa bao giờ hai người lại ít nói như hôm nay. Nhu lững thững đi vào phòng riêng. Luân có cảm giác Nhu cố gắng thật dữ để lê đôi chân...
---
(1) Còn gọi là Frederik II đại đế, vua Phổ (1740-1786), chiến thắng cuộc chiến tranh “7 năm” của các nước liên minh Nga, Pháp, Áo. Elizabeth, nữ hoàng Nga (1741-1782), con gái của Pierre Đại đế.

CHƯƠNG 7

Frederick E. Nolting thỏa mãn với bài trả lời của ông cho ký giả Don Paker của Hãng UPI. Nolting nhẩm đọc:
“Hơn 2 năm sống tại Việt Nam, tôi chưa bao giờ nhận thấy dấu hiệu nào chứng tỏ có sự kỳ thị tôn giáo tại xứ này.
Vấn đề Phật giáo bỗng dưng nổi lên và tôi công nhận tình hình đang rất xấu nhưng không thể nghĩ rằng nguồn gốc của nó là từ phía chính phủ. Trái lại, chính phủ Việt Nam thành thật mong muốn giải quyết vấn đề Phật giáo theo nguyên tắc dàn xếp những hiểu lầm nho nhỏ bị phóng đại với những động cơ rõ ràng là không minh bạch. Với tư cách là người đại diện cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ở Việt Nam, tôi rất tiếc có người tung hỏa mù quanh vấn đề Phật giáo cốt làm xóa nhòa những thành quả của chính phủ Việt Nam trong công cuộc chiến đấu chống Cộng sản và phát triển kinh tế, nâng cao mức sống rõ rệt của người dân tại xứ này. Dư luận Mỹ và các nước khác cần được soi sáng nếu chúng ta vẫn còn nuôi ý chí chiến thắng Cộng sản. Đó là những gì tôi thấy cần thiết nói với công chúng Mỹ”.
Nolting bấm chuông gọi thư ký. Vài giờ sau, phát biểu của ông sẽ truyền về đến Mỹ và được công bố rộng rãi. Bản sao của bài trả lời được gửi tới cho tờ The Times of Viet Nam tại Sài Gòn.
Với Nolting, đây là một động tác quan trọng cuối cùng với tư cách đại sứ Mỹ trước khi rời Việt Nam. Chiều nay, ông sẽ bay lên Đà Lạt, dĩ nhiên theo lời mời của Trần Lệ Xuân. Ông và Lệ Xuân thỏa thuận nghỉ hai ngày tại Đà Lạt. Ngày thứ ba sẽ dành cho cuộc tiễn đưa của dân Khánh Dương, phía tây Nha Trang, nơi ông và vợ đỡ đầu xây dựng trụ sở của chính quyền, trường học và bệnh xá. Bà Lindsay Nolting sẽ từ Sài Gòn bay thẳng ra Nha Trang để gặp ông và Trần Lệ Xuân từ Đà Lạt xuống. Quyết định của Tổng thống Mỹ thay thế đại sứ ở Việt Nam Cộng hòa đã khiến cho chế độ Sài Gòn hoang mang. Còn với Nolting, ông ta đã sửa soạn từ lâu cho việc rời Sài Gòn. Vai trò của ông đã xong. Ông thỏa mãn hoàn toàn. Và, đã đến lúc không nên dấy sâu hơn nữa: Lệ Xuân hết còn là cái gì khiến Nolting háo hức. Trong vòng nửa tháng nay, hầu như ngày nào Nolting cũng gặp Lệ Xuân. Điều kiện nơi ông làm việc cũng như nhà riêng của ông, không cho phép hai người vượt quá mức nghi lễ mặc dù Nolting cảm thấy Lệ Xuân dễ dàng đối với ông hơn bao giờ hết. Dẫu sao thì cuối cùng rồi hai người vẫn có thể sống bên nhau một cách thỏa mãn và cũng có thể nói là hoàn toàn tự do trong vài ngày. Nolting có trong tay bản báo cáo của Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mac Namara trình cho Tổng thống Mỹ ngày 15-5 cùng với bản báo cáo của Ngoại trưởng Dean Rusk. Nolting tin rằng lần gặp gỡ này với Lệ Xuân được hứng thú là nhờ Mac Namara. Làm sao Lệ Xuân không cảm động được khi đọc những dòng trong báo cáo tuyệt mật này: “Tôi có cảm giác rằng việc nước Mỹ ủng hộ Tổng thống Ngô Đình Diệm là hoàn toàn chính xác. Ông Diệm xuất hiện ở Việt Nam như một phép màu. Chỉ một mình, ông Diệm đã soạn thảo bản Hiến pháp, tổ chức chính phủ mới và trong vòng không đầy mười năm đã biến Nam Việt Nam từ một nước đang ở chế độ phong kiến trở thành một quốc gia tân tiến, đã tăng gấp 3 hệ thống giáo dục trong nước, đã tổ chức được một quân đội quy củ, thiện chiến, trung thành và đã đem lại trật tự trong nước. Cần lưu ý rằng Tổng thống Ngô Đình Diệm đã thực hiện ngần ấy công cuộc trong khi phải đương đầu với các hoạt động chiến tranh do Việt Cộng gây ra. Tuy chúng ta chưa có thể tiên đoán một cách chính xác kết quả chung cuộc của cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam, nhưng công bình mà nói, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho chúng ta niềm hy vọng lớn nhất. Quan điểm của Bộ quốc phòng là bất kỳ một ý định nào nhằm loại Tổng thống Ngô Đình Diệm, thậm chí nhằm giảm bớt quyền lực của ông, cũng sẽ đưa nước Mỹ đến tai họa”.
Tường trình của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ không là một tài liệu mật. Sau khi công bố phát biểu của Ngoại Trưởng Dean Rusk trong đó, ông xác nhận lập trường không thay đổi của Hoa Kỳ là ủng hộ chính phủ Việt Nam do tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo, mặc dù tình hình nội bộ Nam Việt có rối ren do vấn đề Phật giáo gây ra. Richard Phillips, phát ngôn viên của Bộ ngoại giao đã đính chính những tin tức đăng tải trên một số báo Hoa Kỳ cho rằng chính phủ Hoa Kỳ có thể đã dự liệu một giải pháp thay thế ở Việt Nam. Vấn đề nội bộ Cộng hòa Việt Nam về Phật giáo không làm thay đổi lập trường của Hoa Kỳ. “Chúng tôi,” Richard Phillips nói, “nghĩ rằng chính phủ Việt Nam Cộng hòa và giới Phật giáo sẽ giải quyết thỏa đáng và sớm về vụ tranh chấp này”.
Tài liệu thứ hai tuy công khai song Nolting vẫn dùng nó để minh họa cho tài liệu thứ nhất. Nolting đang chìm sâu trong suy nghĩ, sửa soạn trước những lời lẽ một khi chỉ còn riêng ông ta với Trần Lệ Xuân trên biệt điện Đà Lạt, thì tiếng ồn ào từ bên ngoài vọng tới. Phó đại sứ Trueheart hấp tấp xô cửa bước vào:
- Phật tử biểu tình đòi gặp ngài!
- Gặp tôi? – Nolting sửng sốt.
- Vâng. Họ muốn nhờ đại sứ chuyển một bức thư của Phật giáo cho Tổng thống chúng ta.
- Tôi không thể gặp họ, tôi không thể tiếp xúc với những người biểu tình, nghĩa là chính phủ Mỹ không thể nhúng tay vào công việc đơn thuần nội bộ của Việt Nam Cộng hòa!
- Nhưng nếu họ cứ ngồi lì hoặc phá cửa vào, thì sao?
- Điều đó nhất thiết không được xảy ra, ông nghe rõ chứ, ông Trueheart?
- Tôi nghe rõ!
Phó đại sứ Trueheart quay lưng, nhưng Nolting đã gọi lại:
- Tuyệt đối không để có va chạm nhỏ giữa quân cảnh Mỹ và người biểu tình!
Trueheart gật đầu. Ông ta hỏi:
- Thế còn quân cảnh và cảnh sát dã chiến Việt Nam?
Nolting nhún vai.
*
Chiếc trực thăng hạ cánh trên một khoảng đất trống ngay rìa quận lị Khánh Dương. Đám đông dân chúng tụ tập - một số người là Thượng, một số là người Kinh, một số là Hoa kiều. Nhưng, binh lính và gia đình họ vẫn đông hơn. Mỗi người cầm trên tay hai lá cờ Việt Nam Cộng hòa và Mỹ. Nhiều băng treo quanh. Đại loại, những băng đó ghi: Tri ân đại sứ Nolting! Tổng thống Ngô Đình Diệm muôn năm! Nhiệt liệt hoan nghênh ông bà Nolting, công dân của Khánh Dương! Nhiệt liệt hoan nghênh bà dân biểu Ngô Đình Nhu!
Vợ chồng Nolting được Trần Lệ Xuân hướng dẫn bước ra cầu thang tiếp nhận tiếng hoan hô của những người có mặt. Trần Lệ Xuân lần này mặc áo pull và quần jean. Khó mà đoán Lindsay Nolting cảm nghĩ như thế nào về Lệ Xuân khi mà bà thừa biết sự đi lại và mưu đồ của chồng và mụ ta từ 2 năm nay – vụng trộm với bà nhưng gần như công khai với người khác. Cái lý do mà Nolting bảo là ông cần cùng Lệ Xuân bàn việc 2 ngày trên Đà Lạt không thể thuyết phục được bà. Nhưng Lindsay Nolting đã là vợ của một nhà ngoại giao Mỹ chuyên nghiệp, bà hiểu ý nghĩa của những sự tiếp xúc kiểu đó. Nolting có say đắm Lệ Xuân hay không? Lindsay Nolting chỉ băn khoăn bấy nhiêu. Và khi bà nắm chắc chồng bà là một kịch sĩ lão luyện, bà an tâm. Thậm chí đôi lúc bà nghĩ, nếu Lệ Xuân sinh được một đứa con giống hệt Nolting thì chưa hẳn là một điều không may. Bổng lộc của một đại sứ Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa rất dồi dào, không phải xét, từ đồng lương hoặc quỹ mật của đại sứ quán. Bà đã có một bộ sưu tập về nghệ thuật điêu khắc người Chàm gần như vô giá. Bà lại có đến hàng trăm cổ vật Trung Quốc - những ấm, những chén cách nay hàng nghìn năm. Quà biếu của Lệ Xuân. Cả Nolting và bà đều được tặng một tượng bán thân bằng vàng do một nghệ sĩ có tài của Việt Nam sáng tác, mỗi tượng cân gần một ký lô. Cũng là quà của Lệ Xuân. Bà đã có thể ký gửi ở ngân hàng Thụy Sĩ và Canada một số dollar hàng trăm vạn - cả đời Nolting dù tằn tiện mấy cũng không thể dành dụm nổi một phần số tiền đó.
Lindsay Nolting biết tính toán. Một lần, tại nhà riêng của đại sứ, bà tiếp lệ Xuân và như vô tình để rơi một bức ảnh kẹp trong một quyển sách. Bức ảnh chụp Lệ Xuân và Nolting đang hôn nhau, trên người Lệ Xuân chỉ còn vài miếng vải mỏng. Lệ Xuân đỏ bừng mặt và hai tượng bán thân ra đời sau sự kiện như vậy để đổi lấy tấm ảnh và phim. Lindsay Nolting trao ảnh và phim với lời dặn gọn gãy bằng tiếng Pháp: Sois prudente! (1)
Kỳ mục Khánh Dương đón vợ chồng Nolting và Trần Lệ Xuân khá độc đáo. Ba người được mời lên ba chiếc kiệu thường chỉ dành để rước sắc thần, đòn chạm trổ và sơn son thiếp vàng. Tám người lực lưỡng khiêng một chiếc kiệu. Màn vén lên để chúng dân chiêm ngưỡng. Theo sau kiệu, các kỳ mục, có người râu tóc bạc, vận áo dài bằng the xanh, bịt khăn be. Kiệu đi một vòng sân rồi thẳng vào một ngôi nhà mà các kỳ mục gọi là công quán. Tại đây Nolting thay quần áo. Ông ta mặc y hệt kỳ mục trong làng, còn Lệ Xuân thì diện chiếc áo dài, lần này không hở cổ. Chỉ có mỗi Lindsay vẫn mặc như cũ. Sau tuần trà, kỳ mục mời ba vị khách đến ngôi đình. Trẻ con, hẳn là đã được người lớn dạy cẩn thận, vẫn cố nín cười bởi một ông Mỹ lại mặc áo dài khăn be, trông hết sức ngộ nghĩnh. Lệ Xuân liếc về các kỳ mục, cau mày. Mụ ta cảnh cáo thái độ vô lễ, không những của trẻ con mà của một số phụ nữ: có người che miệng cười.
Ba hồi trống vang rền rừng núi. Ba hồi đại hồng chung ngân dài. Lindsay Nolting tựa lưng vào cột đình theo dõi, có thể bà thích thú. Nolting và Lệ Xuân thắp hương rồi quỳ xuống chiếu đã kê sẵn hai chiếc gối. Người ta có cảm giác Nolting và Lệ Xuân làm lễ tơ hồng.
Một kỳ mục chắc chắn là niên trưởng, đọc một văn kiện như sau: Các bậc trưởng thượng quận Khánh Dương cùng với các hội đồng hương chính trong quận, căn cứ vào lời thỉnh cầu của đại sứ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ Frederick Nolting, đã quyết định nhận Frederick Nolting là công dân danh dự của quận Khánh Dương và cũng quyết định đổi tên Nolting thành Nguyễn Đôn Tín...
Nolting trịnh trọng tiếp nhận tờ quyết định, đứng nghiêm trước bàn thờ thần chừng một phút. Sau đó, một cuộc mít tinh quần chúng, Nolting nói bằng tiếng Việt, thay mặt cho vợ tỏ lòng cám ơn kỳ mục và dân chúng quận Khánh Dương. Trần Lệ Xuân thay mặt cho quận Khánh Dương đáp lời. Mụ ca ngợi Nolting là một đại sứ vĩ đại, một người bạn vĩ đại của Việt Nam Cộng hòa.
Bữa tiệc kéo dài đến xế chiều. Trực thăng đón họ và đêm đó họ nghỉ tại Nha Trang.
Không hiểu bằng cách nào mà Nolting lại đến được với Lệ Xuân lúc gần sáng.
- Em nên xuất ngoại một chuyến để giải độc dư luận châu Âu và châu Mỹ.
Đó là sáng kiến cá nhân cuối cùng của Nolting với Lệ Xuân, trước khi ông ta vội vã mặc quần áo, và chuồn khỏi phòng Lệ Xuân. Dù vội vã, ông vẫn như để lại cái nuối tiếc - chính cái nuối tiếc ấy nuôi hy vọng cho Lệ Xuân...
Nolting không ngờ ở Sài Gòn, nhà sư Thích Tâm Châu đã gửi cho ông một văn thư chính thức phản đối bài phát biểu của ông với hãng UPI, kèm theo bản sao bức điện của Tổng hội Phật giáo Việt Nam đánh cho Tổng thống Kennedy, cũng với nội dung như vậy.
*
Sài Gòn (VTX)
Sáng 14/8/1963, bà cố vấn, Chủ tịch sáng lập Phong trào phụ nữ liên đới Việt Nam đã vi hành đến Ba Xuyên thăm Phong trào phụ nữ liên đới địa phương.
Tại lễ tuyên thệ của Phụ nữ bán quân sự của tỉnh, sau khi bà Trưởng ban chấp hành Phong trào liên đới tỉnh đọc diễn văn chào mừng và đệ trình công tác huấn luyện bán quân sự từ 7-7-1962 đến 7-7-1963, bà cố vấn đã ban huấn từ cho hơn 1.000 thanh nữ bán quân sự hai khóa Đồng Tâm và Đồng Tiến với sự hiện diện của một số rất đông thính giả gồm quan khách và dân chúng.
Bà cố vấn đã nhắc lại về cuộc tranh đấu của phụ nữ cho chính nghĩa, trong đó phụ nữ đã cố gắng tột bực và luôn luôn tôn trọng sự thật và lòng ngay thẳng. Đó là tiêu chuẩn của một thành công vững bền và lâu dài.
Bà cố vấn Ngô Đình Nhu đã ứng khẩu nhấn mạnh như sau:
- Như chị em thấy, không phải bất chiến tự nhiên thành, không phải chỉ với chính nghĩa mà tự nhiên chúng ta thắng. Nước của chúng ta không có tham vọng đi xăm lăng nước người, chúng ta chỉ có một ước vọng rất chính đáng là được ăn yên ở yên, được phát triển và bảo vệ đất nước.
Theo ý nghĩa đó, phụ nữ chúng ta không ưa giành giật gì của ai, cai trị gì ai. Chúng ta chỉ suy luận là chúng ta không phải là một con dân thấp kém và chúng ta chỉ xin được thật sự nam nữ bình quyền, bình đẳng.
Như tôi đã nói nhiều lần, chính nghĩa ấy mặc dầu kết sức chính đáng, đã không tự nhiên thắng và cũng không thắng dù chúng ta đã cố gắng khá nhiều một cách ngay thẳng.
Lý do là vì giá phải trả để thắng không những dựa trên một sự đấu tranh ngay thẳng, mà còn phải đấu tranh tột bực.
Ngay thẳng nghĩa là không được dùng các thủ đoạn xảo trá, lừa bịp. Ngay thẳng nghĩa là phải luôn luôn rất trung thực khi đấu tranh.
Tột bực nghĩa là không phải đấu tranh trong một phạm vi nào đó, mà bỏ phạm vi khác, tột bực là làm tròn nhiệm vụ trong tất cả các phạm vi: gia đình, xã hội, quân sự. Dĩ nhiên có thể một người không thể lo được hết nhưng nói chung, chúng ta phải liệu sao có phụ nữ tại cả ba phạm vi, một người phải đảm nhận ít nhất là hai phạm vi.
Hơn thế nữa, để khỏi phản bội chính nghĩa của một con dân là bảo vệ xứ sở, kiến thiết nước nhà và chính nghĩa của phụ nữ là bảo vệ nhân vị, củng cố quyền lợi chính đáng của chúng ta, cũng như để khỏi phản bội công lao của chúng ta để đừng bao giờ trở thành như dã tràng, cố gắng hết sức nhưng không đến đâu, chúng ta phải đặt tất cả cố gắng của chúng ta trong một khuôn khổ có tổ chức bảo đảm, có quy tắc vững chắc, rồi dựa vào đó mà áp dụng kỷ luật “triệt để”.
Một tràng pháo tay vang dội tiếp đón lời huấn thị bà cố vấn.
Xong buổi lễ, bà cố vấn cùng phái đoàn lần lượt đến thăm các cơ sở xã hội của phong trào liên đới: trụ sở tỉnh, cô nhi viện Khánh Hưng và quán cơm xã hội Khánh Hưng.
Bà Chủ tịch sáng lập Phong trào phụ nữ liên đới Việt Nam nhân dịp này, đã ứng khẩu nhắn nhủ chị em về đường lối hoạt động của phong trào liên đới trong kỷ luật và dựa trên nguyên tắc dân chủ.
Cử tọa dồn hết tâm trí theo dõi từng chi tiết các lời huấn thị của bà Chủ tịch sáng lập Phong trào phụ nữ liên đới, nhất là khi bà Chủ tịch đề cập đến vấn đề như sau:
“Chị em đừng để cho sự dị đoan, mê tín mê hoặc chị em.
Có thể nói tất cả gia đình chúng tôi là theo đạo ông bà. Riêng thân mẫu tôi theo Phật giáo, thân sinh tôi theo đạo Khổng – 20 năm về trước tôi cũng đã rất chú ý tới Phật giáo và cũng có đi chùa, niệm Phật - vì lý do đó, tôi có hiểu phần nào về Phật giáo. Cũng vì tôi hiểu mục đích chính của Phật giáo nên tôi mới ghét thậm tệ những người dám lợi dụng Phật giáo để mê hoặc chị em.
Theo tôi được biết thì giáo lý đạo Phật đã dạy mình phải tự giải thoát ra khỏi những điều nô lệ hóa chúng ta như đau khổ, bằng cách kiềm hãm và không thỏa mãn nó. Những đau khổ của loài người như: đói, khát, lạnh, giận, ghét, hận, tham lam... bất cứ cái gì có thể nô lệ hóa chúng ta.
Theo tôi, ai cũng có thể tin giáo lý đạo Phật vì chính Đức Phật đã thi hành các điều Đức Phật đặt ra và nhờ đó, đã tự giải thoát được, nghĩa là đã đạt được Niết Bàn. Vậy nếu Đức Phật đã thi hành được các điều đó, thì ai cũng có thể làm được.
Chính Đức Phật không bao giờ tự xưng là một thánh nhân nào hết mà chỉ coi mình như một người thường, cố gắng đạt được mục đích của loài người là tự giải thoát. Vì thế mà chị em có thể hiểu ngay là mê tín dị đoan cũng như các chiến dịch không dựa được trên một lý lẽ chính đáng nào và chỉ gây oán hận, bạo động và lộn xộn với những lời mỉa mai mạt sát vu vơ kẻ khác, rồi lại đổ cho họ những tội mà chính mình công khai phạm hằng ngày, nhất là không thể nằm trong đường lối do Đức Phật đã vạch ra.
Chẳng những vậy, đó còn là một sự nô lệ hóa chúng ta một cách trắng trợn, và với ý gì? Không lẽ để bảo vệ một tín ngưỡng mà không ai tranh chấp, nhất khi đức tin là một sức mạnh mà giá trị chính ở điểm là không ai có thể đụng chạm gì tới được vì ở trong lòng ta.
Tôi thấy làm lạ khi thấy những người tự xưng là theo giáo lý đạo Phật mà lại mê tín dị đoan hoặc tệ hơn nữa dùng mê tín dị đoan để mê hoặc thiên hạ. Việc đó, chúng ta không thể chấp nhận được.
Vừa mới đây, có một em bé nhỏ mới 18 tuổi tự nhiên đi chặt tay mình (may mà không đến nỗi gì) và cho biết rằng “bà Ngô Đình Nhu, là người phụ nữ chúng tôi rất biết ơn vì đã giải phóng phụ nữ, nhưng vì bà đã động tới các sư, những người mà đức độ hơn bà tới một trăm phần, nên tôi thấy tín ngưỡng của chúng tôi bị lâm nguy, vậy tôi chặt tay hy sinh để phản đối và bảo vệ tín ngưỡng”.
Nghe việc đó, tôi hết sức ngao ngán, không phải là vì em đó phán rằng ai đó đức độ trăm phần hơn tôi, vì sự thật về việc đó chỉ có trời mới biết được đúng thôi. Tôi chỉ ngao ngán là vì em đó là một phụ nữ.
Thật vậy, nếu một ai khác làm việc đó thì có lẽ tôi không chú ý gì lắm vì tôi ít khi trọng các việc quá khích vô lý. Theo tôi, mình làm chủ mạng mình. Vậy ai coi rẻ mạng mình đến nỗi sẵn sàng hy sinh mà không cần muốn biết là có nên hay không, thì họ toàn quyền. Quyền mình là phê bình và xem nên đề cao hay coi thường sự hy sinh đó.
Nhưng đây là một phụ nữ lại mới bằng tuổi con tôi, thì có chán không? Mục đích của kẻ trá hình là ngăn cản tôi làm nhiệm vụ công dân, là giải độc ai đã bị mê hoặc. Bây giờ chúng lại xui trẻ con dọa tôi. Tôi mở miệng thì các trẻ tự tử. Vậy chị em nghĩ sao? Nếu ai không đồng ý với tôi, sao không nói công khai lý lẽ của họ đi, các lý lẽ của tôi được nêu rõ khi tôi không tán thành, sao lại mạt sát tôi sau lưng rồi nếu tôi phúc đáp lại xúi các trẻ tự tử phản đối? Quan niệm gì lạ vậy? Như vậy thì ai còn trọng cái chết phi lý của mình nữa. Nhưng như vậy cũng đủ để chị em chú ý đến vấn đề đọc kỹ các lời tuyên bố của tôi và cấp tốc thực thi chiến dịch giải độc và chiêu hồi nếu thấy nên. Chúng ta không thể để cho một thiểu số phi lý áp đảo tinh thần của ta đến nỗi ta có thể quên đại đa số phụ nữ đang trông đợi ở một sự lãnh đạo sáng suốt, bất khuất nhưng cũng nhân đạo của chúng ta, nếu những người lầm đường lạc lối biết chiêu hồi”.
Lời tuyên bố của bà cố vấn được đại hội nhiệt liệt hoan nghênh.
Bà cố vấn và phái đoàn trung ương rời Ba Xuyên lúc 15 giờ 30 và đã để lại cho chị em Ba Xuyên một mối tình liên đới sâu đậm, một ý chí quyết thắng vì chính nghĩa và một niềm tin tưởng trong công cuộc giải độc cùng chiêu hồi những kẻ đi lầm đường lạc lối.
*
BÀ CỐ VẤN NGÔ ĐÌNH NHU TRẢ LỜI BÁO NEW YORK TIMES
Thưa ông,
Tham chiếu bài bình luận ngày 9-8-1963 của báo ông mạ lỵ tôi một cách vô căn cứ và vô ích, với một giọng điệu làm tôi ngạc nhiên khi đọc thấy ở một tờ báo như tờ của ông, tôi xin hỏi rằng: Khi có những người không xứng đáng dám lợi dụng tôn giáo để làm chuyện lố bịch thì những ai sùng kính tôn giáo phải tiếp tay cho cái trò chơi xúc phạm thần thánh hay là phải vạch mặt chỉ tên bọn chúng ra?
Nếu ta không có can đảm để tố giác, nếu ta cúi đầu trước sự điên rồ và ngu xuẩn, thì làm sao có hy vọng đối phó được bao điều lầm lạc sơ hở của thế nhân, thường bị Cộng sản lợi dụng cùng theo một cách thức như vậy?
Có lẽ tôi gây xúc động cho một số người khi nói rằng: “Phải đánh những kẻ khiêu khích mười lần hơn, nếu những kẻ ấy dám khoác áo thầy tu” hoặc “chỉ còn nước vỗ tay cổ võ khi coi tuồng nướng thầy tu. Thật vậy là sao mà chịu trách nhiệm về sự điên rồ của kẻ khác được!”
Đúng vậy, có lẽ tôi gây xúc động thật đối với những lời ấy, nhưng tôi đã phải nói sao bây giờ khi một phần thế giới này đang mất trí – về vấn đề mệnh danh là “Phật giáo”, nhờ sự giúp sức của các báo như báo của ông – nên cần phải được chữa trị bằng cách cho điện giật”.
Hơn nữa, tại sao lại phải bị mê hoặc và áp đảo đến nỗi không thể nhận thấy rằng các nhà tu hành, chính vì được coi là “thánh thiện” và “học thức” nên càng phải được coi là phạm tội và khó bề dung thứ khi họ dám hành động xúc phạm thần thánh nhằm mục đích gây nên tình trạng bất an cho xứ sở đang ở trong tình trạng chiến tranh, cũng như khi họ dám coi thường luật lệ của xứ sở và của tín ngưỡng họ nữa, chung qui gọi là để tranh đấu cho một quyền lợi mà thật sự không bao giờ bị ai chối bỏ, và hơn thế nữa, đã được chính phủ luôn luôn cố gắng bảo vệ.
Một vài người còn nói rằng: “Mọi việc tiến triển êm đẹp cho đến khi bà Ngô Đình Nhu đánh đổ tất cả với những lời công kích”, với những người này, tôi thấy cần phải nhắc lại rằng sự thật không bao giờ đã ổn thỏa - bằng chứng là những lời hăm dọa của những kẻ phản loạn hằng ngày được phổ biến trong nước và trên báo chí hoàn cầu mà ai cũng đều biết.
Thật vậy, làm sao ổn thỏa được khi mà, để làm vừa lòng và xoa dịu một thiểu số thầy tu giả trá, nghĩa là đem lại một tình thế êm dịu với họ, chỉ có cách là quỳ gối dâng cho họ trên khay vàng trọn đất nước và thành công của ta. Mục đích của tôi không bao giờ như thế. Mục đích của tôi là lột trần bộ mặt thật của bọn chúng dù chúng núp với hình thức giả hiệu nào cũng vậy.
Tôi đã gọi họ đúng tên, nghĩa là Việt gian, là Việt gian. Còn ông, thì vì bị chìm đắm trong mặc cảm giả tạo về một vấn đề mà ông cũng như báo chí Hoa Kỳ đã tưởng chỉ là “vấn đề Phật giáo”, ông chỉ thấy rặt có chùa và áo cà sa.
Nhưng tại sao ông không nhìn thẳng con người nấp sau bộ áo, ông lại không nhìn thẳng về những hoạt động lén lút sau bình phong của chùa chiền?
Vả lại, nếu phải nhận là “tu hành” những người thật sự không bao giờ có tư cách ấy, và chỉ vì họ muốn vậy, tại mình quá sợ những gì mình tưởng là sức mạnh của họ, thì tại sao chúng ta lại phải hy sinh lớn lao như thế kia để chống lại sự giả dối và nhất là lực lượng Cộng sản, thật sự mạnh hơn biết bao?
Tôi cũng tự nhận là đang đấu tranh bảo vệ tôn giáo và Tổ quốc, và tôi thách thức bất cứ ai có thể nêu lên bất cứ gì trong hành động và lời nói của tôi mà đã xúc phạm đến mục đích ấy.
Vì tình giao hữu giữa hai quốc gia chúng ta, tôi khẩn cấp yêu cầu ông hãy cố gắng tìm hiểu bạn hữu và đồng minh trước khi lao đầu vào cạm bẫy của kẻ thù, kẻ thù chung cho nước ông cũng như nước tôi; và cạm bẫy rõ rệt nhất mà chúng ta phải tránh là không bao giờ được hốt hoảng, đừng có cắn rứt nhau đến nỗi không lo lột mặt nạ những kẻ dám lạm dụng và lợi dụng những gì mà chúng ta coi là thiêng liêng nhất, tôn giáo và tín ngưỡng.
Thành thật
Bà Ngô Đình Nhu
*
Thùy Dung sanh một đứa con trai. Hai vợ chồng đặt tên là Nguyễn Thành Lý. Thằng bé hội được những nét đẹp của cha và mẹ, rất kháu khỉnh.
Tổng thống cử Chánh văn phòng đến chúc mừng. Ngô Đình Nhu và Trần Lệ Xuân đều có quà tặng. Riêng Lệ Xuân đã vào nhà bảo sanh thăm Dung ngay sau Dung xổ lòng. Đức Tổng giám mục cũng điện vào thăm hỏi. Ngày đầy tháng của bé Lý, người đến thăm khá đông. Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia, đại tá Đặng Văn Quang và một số quan chức tuy không thân tình với Luân nhưng vẫn muốn tỏ ra quan tâm đến Luân. Chiều tối thì Nguyễn Thành Động, Lê Khánh Nghĩa bấm chuông. Một lúc sau thiếu tướng Lâm cũng có mặt. Họ bày bàn ở sau vườn. Mừng con trai của Luân đầy tháng chẳng qua là cái cớ. Những sĩ quan này, tuy mỗi người một quan điểm, nhưng gặp nhau trong một suy nghĩ chung: tình hình rồi sẽ ra sao? Thiếu tướng Lâm mở đầu câu chuyện, sau khi nổ một chai sâm banh:
- Hấp hối! Tôi nói rằng chế độ đang hấp hối. Cũng tốt thôi. Vậy là một triều đại sẽ phải cáo chung. Chúng ta chưa có thể biết hình dạng của bước cáo chung nhưng phải cáo chung. Anh Luân có nhớ không, tôi từng nói ông Diệm là một người anh hùng nhưng ông trở thành anh hùng quá nhanh và do đó, như một ngạn ngữ: Từ chỗ vĩ đại đến chỗ lố bịch chỉ có một bước. Ông Diệm đang ở trên phần đất của sự lố bịch... - Lâm nâng ly:
- Ta hãy uống chúc sức khỏe ông Diệm – và cũng chúc sức khỏe đại tá Nguyễn Thành Luân người đã làm tất cả những gì có thể làm được để chống đỡ cho gia đình ông Diệm không rơi vào cảnh chán chê như hiện nay. Không ai trách được anh Luân, người Mỹ hay các phe nhóm đang muốn hạ bệ ông Diệm. Trong nhiều lần nói chuyện với nhau, tôi và bạn bè của tôi ví anh Luân như Gia Cát Lượng, tài bất phùng thời!
Luân cười thật tươi:
- Thiếu tướng xỏ tôi. Tôi không phải là Gia Cát Lượng, và tôi không theo xu hướng khôi phục nhà Hán. Tôi bảo vệ cái mà tôi cho là cần bảo vệ...
- Cái cần bảo vệ đó là cái gì? – Thiếu tướng Lâm phản kích.
- Tôi biết cái mà đại tá muốn bảo vệ. - Nguyễn Thành Động lên tiếng – Nhưng thật khó. Tôi đã làm thử ở Bến Tre theo gương đại tá và tôi đã thất bại. So với lúc đại tá có mặt, Kiến Hòa bây giờ nát như tương bằm. Ấp chiến lược thoi thóp. Chúng ta là những quân nhân, khổ nổi là quân nhân cấp thấp. Tôi băn khoăn mãi, không biết mình phải làm gì nếu Sài Gòn ra lệnh cho tôi bắn vào các nhà sư biểu tình và cũng sẽ không biết phải làm gì nếu một cấp trên nào đó ra lệnh tôi bắn vào dinh Tổng thống...
Giọng Nguyễn Thành Động thật chán chường.
- Đúng, chúng ta là quân nhân, nhưng mỗi quân nhân đều có cái đầu riêng. Đầu để suy nghĩ. – Người nói câu đó là Lê Khánh Nghĩa.
- Ông Diệm sẽ đổ và chắc sẽ đổ trong thời gian không xa mấy. – Lê Khánh Nghĩa nói tiếp – Có lẽ ông Diệm hết còn là cái gì để chúng ta bận tâm. Cái mà chúng ta bận tâm là sau ông Diệm. Nếu sau ông Diệm, một chính phủ hợp lòng dân ra đời, thật là điều tốt lành. Hợp lòng dân bây giờ nghĩa là làm đủ mọi cách để chấm dứt chiến tranh, thực hiện một nền dân chủ, chấm dứt chế độ độc tài gia đình trị. Chấm dứt chiến tranh chỉ có thể bằng thương lượng với đối phương. Còn ngược lại, sau ông Diệm là mở rộng chiến tranh, là chiến tranh ác liệt hơn thì có nghĩa đất nước sẽ bị tàn phá kinh khủng và những quân nhân như chúng ta là lính đánh thuê.
Người Mỹ sẽ diễn lại cái trò Cao Ly tại đây. Chắc chắn gay gắt hơn Cao Ly thập bội, thiếu tướng Lâm cũng như trung tá Động nếu quan tâm thì nên quan tâm theo hướng đó...
Luân cố giấu một nụ cười. Những điều Lê Khánh Nghĩa trình bày cũng chính là những điều ghi trong chỉ thị của A.07 gửi cho Luân. Thiếu tướng Lâm và trung tá Động rõ ràng bị Lê Khánh Nghĩa thuyết phục. Động thở dài:
- Lực lượng bảo an một tỉnh như Kiến Hòa không thể xoay chuyển nổi cục diện.
- Tôi còn không có lấy được một tiểu đội. – Thiếu tướng Lâm gầm gừ - Tôi cảm giác là thời cuộc đi quá nhanh. Ông Diệm, ông Nhu, bà Nhu dường như nóng ruột hơn cả chúng ta, họ đẩy cho tình thế nhảy vọt. Đặc biệt là bà Nhu, con sư tử cái. Ai đời dám trả lời với báo New York Times: Đánh sư như thế chưa ăn thua, tôi còn đánh mạnh gấp mười lần; đến nỗi ông Trần Văn Chương, bố của bà đã phải ra tuyên bố nói rằng bà Ngô Đình Nhu đã tỏ ra vô lễ và không có tư cách khi tuyên bố về Phật giáo. Tôi chán gia đình ông Diệm – xin lỗi đại tá Nguyễn Thành Luân – nhưng tôi còn chán hơn người Mỹ. Đại sứ Nolting nói rằng vấn đề Phật giáo không có gì quan trọng. Không đáng kể, vấn đề đáng kể là phải thắng trong cuộc chiến tranh và mọi người phải dồn hết tâm lực theo hướng này. Ông Diệm, bà Nhu có thể chết vì cái trò mặt sấp, mặt ngửa của ông đại sứ kỳ quặc này...
- Chẳng kỳ quặc đâu. – Nguyễn Thành Động lắc đầu – Tôi chưa thấy một đại sứ nào làm tròn trách nhiệm bằng ông Nolting. Với nước Mỹ, ông đã tạo điều kiện đủ chín muồi cho một sự thay đổi danh chánh ngôn thuận. Người Mỹ được giới Phật giáo ngưỡng mộ như là ân nhân nếu họ lật ông Diệm. Người Mỹ tức là chính phủ Mỹ, còn Nolting thì nếu không về hưu cũng sẽ gầy một sòng bạc khác ở nơi khác. Với bà Nhu, đại sứ Nolting đã đóng rất tròn vai người yêu, một mực che chở cho bà Nhu. Bà Nhu lõa lồ đấy, nhưng vẫn được nặn tượng đặt ở công viên Mê Linh bởi bà được nấp sau cái lưng của Nolting...
- Tôi muốn nói chuyện về người Mỹ. - Thiếu tướng Lâm ngắt lời trung tá Động – Trong thời gian còn chiến tranh ở Đông Dương, Mỹ bảo chúng ta đánh Cộng sản cho Pháp là đồng minh của họ rồi sau họ sẽ cho chúng ta một chính phủ tốt: bây giờ thì họ lại bảo chúng ta đánh Cộng sản cho ông Diệm và khi nào hòa bình trở lại, họ sẽ cho chúng ta một chính phủ tốt. Nay mai họ lại sẽ bảo chúng ta đánh Cộng sản cho một cha chủ ba trợn nào đó để có một chính phủ tốt. Nghe họ làm quái gì!
Không khí đột nhiên trầm lặng. Gần như không ai buồn mở miệng. Luân hiểu trong ba người khách thì trừ Lê Khánh Nghĩa, hai người kia mới đạt đến mức phê phán chế độ cần phải soát xét những người bất mãn với chế độ trong hàng sĩ quan cấp cao đông đến bao nhiêu và lý do bất mãn của từng người hoặc từng nhóm người. Về phương diện này, có vẻ CIA và các cơ quan tình báo nước ngoài, kể cả Trung Cộng, nắm được bao quát hơn Luân.
- Phải làm gì? – Nguyễn Thành Động đặt câu hỏi, phá tan sự im lặng. Nhưng sự im lặng không bị phá tan. Không hẹn, cả ba người đều ngó Luân, như chờ đợi ý kiến phán quyết. “Làm gì?”. Chính Luân cũng chưa biết.
Khách ra về, bắt tay nhau khá nặng nề. Luân trở vào phòng. Dung thay tã lót cho con. Thằng bé, tay nắm chặt, tay và chân co duỗi liên hồi như nó định bơi trong không khí, đôi mắt mở to, miệng cười. Luân ngồi cạnh vợ. Anh thở dài. Dung đánh giá đúng tiếng thở dài của Luân. Cô ngước nhìn chồng, chia sẻ.
- Nếu tình thế bất lợi, em sẽ bồng con vào chiến khu!
Luân không trả lời vợ. Đúng, trong bài toán cần giải đáp đối với thời cuộc bây giờ thêm một con số mới và Luân không thể không đếm xỉa đến...
*
Tuyệt mật
Đại cương về “Kế hoạch nước lũ”
Kế hoạch “Nước lũ” được chia thành hai phần:
- Phân hóa và cô lập.
- Trấn áp và đấu tranh.
A) Phân hóa và cô lập
- Giữa các chùa ở Sài Gòn.
- Giữa Sài Gòn và các tỉnh.
- Kiểm soát chặt chẽ và hạn chế sự xê dịch của nhà sư và chư tăng, ni.
- Bao vây kinh tế, nhất là những vận dụng cần thiết cho sự thông tin và tuyên truyền.
B) Trấn áp và đấu tranh:
Phần này có hai biện pháp:
- Tiêu cực
- Tích cực
1. Tiêu cực
Liên tiếp tổ chức những tuần lễ như:
- Biết ơn tử sĩ.
- Giúp đỡ thương phế binh.
- Giúp đỡ gia đình tử sĩ.
- Mừng chiến thắng
- Ghi ơn những vị tiền bối cách mạng quốc gia.
- Ghi ơn những vị anh hùng dân tộc
- v.v...
Những tuần lễ này được tổ chức với mọi phương tiện sẵn có của chính quyền.
Kế hoạch này được chỉ thị tối mật cho các cơ quan, đoàn thể chia nhau luân phiên làm rùm beng trong thời gian từ 3 đến 4 tháng, nhằm mục đích cho quần chúng quên lãng cuộc đấu tranh của Phật giáo.
2. Tích cực.
Chủ trương làm mạnh để đàn áp hợp pháp:
- Mệnh danh các phong trào này, đảng nọ, nhóm kia... viết những bức thư công kích, đả kích, tố cáo Phật giáo gửi đến các cơ quan chính phủ và các nhân vật cao cấp (Phật giáo) và các báo chí trong và ngoài nước cùng các tòa đại sứ, lãnh sự tại Sài Gòn.
- Tổ chức đánh cắp trái tim (2) để phanh phui sự lừa bịp và thần thánh hóa của Phật giáo.
- Cho người len lỏi vào trong các chùa để lấy tài liệu, tìm tòi hay “tạo nên” (monter coups) những nhà sư có cấp bậc cao phạm pháp bằng mọi hình thức để truy tố trước pháp luật, quần chúng trong nước và quốc tế.
- Mua chuộc một số nhà sư cao cấp tố cáo những hành động của Tổng hội Phật giáo.
- Theo dõi để bắt hết những người cộng tác hay tiếp tay với các nhà sư để chặt tay chân, tai mắt của Tổng hội Phật giáo.
(“Kế hoạch nước lũ” không mang chữ ký của cơ quan dự thảo, lại do Tổng hội Phật giáo phát hành, gửi đến các cơ quan thông tấn và cả Tổng thống – ghi chú của hãng UPI)
*
TIN VỀ MỘT CUỘC ĐẢO CHÍNH
Sài Gòn (phóng viên báo Phillipines Herald).
Hiện nay, đang có dư luận dai dẳng ở Sài Gòn về khả năng nổ ra một cuộc đảo chính hoặc do những quân nhân tán thành Phật giáo, hoặc do chính phủ tạo cớ để đàn áp Phật giáo mạnh tay hơn hoặc do một số thế lực chống Cộng cho rằng chính phủ hiện hữu quá nhu nhượt, cần thay đổi. Gần đây ông cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu đã công khai tuyên bố về khả năng đảo chính từ những sĩ quan bất mãn các nhượng bộ đối với Phật giáo của chính phủ. Các giới am hiểu tình hình Nam Việt, đều cho lời ông Nhu mang tính cách đe dọa hơn là phản ánh khả năng có thật. Dẫu sao, không khí Sài Gòn hình như gần kề với một đột biến nào đó.
*
ĐIỆN CỦA PHÂN XÃ UPI GỬI TỔNG XÃ
Cử ngay sang Sài Gòn một số phóng viên năng nổ, kèm cả máy quay phim.
*
Tuyên bố báo chí của bà cố vấn Ngô Đình Nhu: Chúng ta không thể thối lui được nữa.
“Ngày 6-8-1963, Đài tiếng nói Hoa Kỳ có mô phỏng một lời tuyên bố của đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn, dựa theo đó đại sứ không tán thành các lời nhận xét “thiếu lễ độ” của tôi, liên quan đến vụ ám sát thượng tọa Thích Quảng Đức, do Đài vô tuyến truyền hình CBS truyền ngày 1-8-1963.
Tại cuộc phỏng vấn đó và đáp lại câu hỏi: “Bà có nghĩ rằng các Phật tử muốn lật đổ chính quyền này không?” tôi đã có trả lời chính xác như sau:
“Không phải các Phật tử. Mà chỉ có vài người tự xưng là “lãnh đạo Phật giáo” mà chúng tôi ví như những kẻ tàn bạo, muốn lật đổ chính quyền này mà thôi. Nhưng giữa mong muốn và năng lực làm được, có cả một sự khác biệt. Thật vậy, đối với chính phủ này đang đem quốc gia đến thắng lợi trong chiến tranh chống Cộng sản và đang xây dựng chính ngay tại căn bản quốc gia, nghĩa là tại các cấp – một nền dân chủ thật sự, có đủ đảm bảo nhất vì được cấu tạo từ hạ tầng cơ sở - đối với các thành tích ấy, thử hỏi các nhà tự xưng là “lãnh đạo Phật giáo” đã làm được những gì?
Họ không có chương trình và cũng chẳng có nhân vật khả dĩ thay thế cho sự thiếu sót chương trình. Và tất cả hành động của họ chung qui vào việc là đem “nướng” sống nhà tu, ngay cả không phải với phương tiện tự túc, mà với xăng dầu được nhập cảng. Lý do của cuộc sát nhân ấy là gì? Chỉ là mạo nhận để bênh vực một lập trường mà không bao giờ bị xúc phạm đến!
Lời lẽ ấy của tôi có thể được xem là “thiếu lễ độ” thật đấy, nếu sự kiện này liê quan đến các “việc thần thánh” chân chính; nhưng thật ra trường hợp ở đây đâu có phải như vậy! Ngoài ra, tôi không hiểu tại sao chúng ta lại phải chịu để cho các lý sự cùn, dựa trên những hoàn cảnh giả tạo, mà kẻ thù chính tông đã dựng đứng lên, mê hoặc và áp đảo chúng ta?”
Dù sao tôi rất biết ơn đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn đã cho tôi có dịp xác nhận lại quan điểm của tôi về vấn đề này:
Nước Việt Nam ở trong tình trạng chậm tiến về nhiều mặt, nguyên nhân sự chậm tiến ấy do chiến tranh ác liệt mà Cộng sản quốc tế đã đem lại.
Vì lý do ấy, Việt Nam không thể nào cho phép một cuộc thoái bộ nữa. Và thật là một sự thoái hóa đến... tối tăm, man rợ của tiền lịch sử, khi xui khiến phụ nữ, trẻ con, và các bô lão, dù có điên rồ, bệnh hoạn hay vô dụng đến đâu đi nữa – đi đến chỗ hủy mình vì một quyền lợi không bao giờ bị ai chối cãi, với mục đích phong các người khốn khổ ấy thành “thánh nhân và tử vì đạo”, để khiêu khích chung quanh xác chết của họ một sự thờ phượng khả dĩ gây mầm móng rối loạn xã hội và ngay cả việc sát nhân khác.
Những hành động này chứng tỏ sự vô liêm sĩ đến độ mà nhân cách và lòng tự trọng của dân tộc Việt Nam không thể nào tha thứ được, tại vì những hành động này chứa đựng, không những một sự lạm dụng trắng trợn lòng tin tưởng của các tín đồ, mà hơn nữa, đó là một cuộc xâm phạm đến sự kính nể mà dân tộc Việt Nam có quyền hưởng đối với toàn thế giới.
Vì danh dự và thể diện nước nhà, những hành động ấy phải được tố giác và được đặt lại đúng trong nội dung của nó.
Tôi chỉ có làm thế thôi... và tôi rất tiếc KHÔNG nói được rằng tôi đồng ý với những người nào đã nghĩ một cách khác”.
Bà NGÔ ĐÌNH NHU
*
TIN CỦA BÁO NEW YORK TIMES
Trả lời phỏng vấn của chúng tôi hỏi về việc nếu các nhà sư cứ tiếp tục tự thiêu thì chính phủ có biện pháp gì đối phó không, bà cố vấn Ngô Đình Nhu trả lời: “Chúng nó là bọn bán nước. Bởi thế, dù chúng nó có nướng sống 30 nam và nữ, hoặc hơn, chúng tôi cũng sẽ vẫn tiến tới và vỗ tay hoan hô. Chúng tôi không phải chịu trách nhiệm gì về sự điên rồ của những kẻ ấy”.
*
THÔNG BÁO CỦA BỘ QUỐC GIA GIÁO DỤC
Do không còn thích hợp với nhiệm vụ đang gánh vác, linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện đại học Huế được phép thôi giữ chức này. Chính phủ sẽ cử một Viện trưởng khác.
TIN CỦA HÃNG AFP
Kể từ ngày 18-8-1963, một loạt các Khoa trưởng đại học thuộc Viện đại học Huế đã xin từ chức để phản đối việc chính phủ bãi chức Viện trưởng của linh mục Cao Văn Luận. Hành động này không hẳn vì cảm tình với linh mục Viện trưởng mà để bày tỏ thái độ bất bình với chính phủ.
Tiếp sau thái độ của các nhà giáo là thái độ của học sinh. Trong một tuyên cáo, Liên đoàn học sinh Phật giáo Việt Nam đã nói thẳng với chính phủ là họ không tín nhiệm cách cai trị vừa qua. Họ nhắc đến một học sinh bị đã bị người Pháp bắn chết cách đây 13 năm tên Trần Văn Ơn. Điều đó có nghĩa là nếu chính phủ không tìm cách giải quyết tình hình đang hết sức căng thẳng ở Nam Việt thì xu hướng chống chính phủ vì lý do Phật giáo có thể biến thành một cái gì nguy hiểm hơn. Trần Văn Ơn là một học sinh được Cộng sản suy tôn như anh hùng. Cho tới nay, chưa có một dấu hiệu rõ rệt nào Cộng sản lợi dụng phong trào Phật giáo ở Nam Việt, nhưng người ta không loại trừ xu thế của chính phong trào, trước sự ngoan cố của chính phủ, sẽ nghiêng về phía tả. Còn các nhà sư có tham vọng chính trị, trong khi đính chính thẳng thừng mối quan hệ của họ với Cộng sản, đã không bỏ qua một cơ hội nào lợi dụng Cộng sản – lợi dụng sức ép của Cộng sản hiện nay về chính trị và quân sự ở Nam Việt, và lợi dụng cả quá khứ của Cộng sản.
Giới Phật giáo đã quảng bá khắp nơi những lời tuyên bố nảy lửa của bà Ngô Đình Nhu. Giới ngoại giao ở thủ đô Nam Việt nhận xét rằng đó là cách làm tốt nhất dấy lên sự công phẫn của quần chúng.
----------
(1) Hãy thận trọng
(2) Trái tim của hòa thượng Thích Quảng Đức

CHƯƠNG 8

Luân quyết định thăm dò giới Phật giáo, trước hết là tìm hiểu ý đồ của một số nhà sư đứng đầu Ủy ban liên phái. Trong bộ thường phục nghiêm chỉnh, Luân đến chùa Xá Lợi vào buổi chiều 20-8.
Trước khi đi, Luân điện cho Nhu. Nhu trả lời uể oải:
- Tùy anh. Nhưng, tôi nghĩ là sẽ không thể nói chuyện đạo lý với các nhà sư quá tự phụ và quá ỷ lại vào nước ngoài này. Anh định đến chùa nào?
Nghe Luân sẽ đến chùa Xá Lợi, Nhu ngập ngừng một thoáng trong điện thoại rồi buông thõng: “Anh cứ đi!”
Một thoáng ngập ngừng của Nhu gợi cho Luân và Dung nhiều suy đoán. Nhu ngại một thông đồng nào đó giữa Luân và giới Phật giáo? Nhu ngại Luân nghe giới Phật giáo tố khổ rồi phân vân? Hay cái khác?
Thật ra, cho đến bay giờ, Luân vẫn chưa “phân thế” rạch ròi trong Phật giáo. Có thể xác định được thế lực thân Mỹ, thậm chí là CIA trong một số nhà sư liên quan mật thiết với đảng Đại Việt, phần lớn là di cư.
Cũng có thể biết chắc số nhà sư có lòng yêu nước liên quan đến mức này hay mức khác với kháng chiến trước kia và hiện nay cùng với một số nhà sư tu hành đơn thuần, tỉ như hòa thượng Thích Quảng Đức. Nằm giữa hai thế lực này là ai? Thế lực nào giữ vai trò quyết định? Phật tử thì đương nhiên đang sôi sục. Luân hiểu rằng phạm vi Phật tử ở đây không chỉ để chỉ những tín đồ của đạo Phật theo cái nghĩa chặt chẽ. Trong hàng ngũ biểu tình mấy tháng nay, có không ít người thật sự chưa một lần đi chùa, chưa một ngày ăn chay. Vấn đề Phật giáo trở thành vấn đề quần chúng đông đảo. Nó chứng tỏ không ai không muốn thay đổi chế độ hiện hành – mục đích thay đổi thì khác nhưng nguyện vọng thay đổi thì thống nhất, có lẽ trừ một bộ phận theo đạo Thiên chúa. Ngay với đạo Thiên chúa, cũng bắt đầu ló dạng những bất đồng quan điểm với Tổng thống Diệm chung quanh chính sách Phật giáo của chính phủ. Theo tin của cảnh sát, một ít linh mục đã có mặt tại các chùa và tỏ thiện cảm với những Phật tử bị đàn áp.
Cổng chùa Xá Lợi được thanh niên Phật tử và một số nhà sư trẻ canh phòng cẩn mật. Luân xuất trình danh thiếp. Anh phải đợi hơn 15 phút, một cư sĩ lớn tuổi, có vẻ là một trí thức, đón anh. Thạch, bảo vệ của Luân không được theo Luân.
Luân bước vào một gian phòng rộng, có máy điều hòa nhiệt độ. Ba nhà sư – tất cả còn trẻ - đứng lên niệm Phật hiệu và một trong ba người mời Luân ngồi. Cư sĩ đón Luân cũng ngồi cạnh đấy.
Chỉ cần liếc qua, Luân đã có thể nhận xét đây không phải những người cao cấp nhất của Ủy ban liên phái nói chuyện với Luân.
Một nhà sư mắt nâu, mỏng môi mở lời:
- Chúng tôi hân hạnh được đón đại tá, người của gia đình Tổng thống. Lẽ ra các thầy của chúng tôi hầu chuyện với đại tá nhưng các ngài đang tĩnh tọa. Chúng tôi được các thầy cho phép trao đổi mọi vấn đề với đại tá. Tôi là Thích Đức Nghiệp, trong phái tăng già Bắc Việt. Còn đây là đại đức Thích Từ Đức, thuộc phái tăng già Nam Việt.
Nhà sư được giới thiệu dong dỏng cao, nét chất phác bộc lộ ra ngoài, khẽ cúi đầu niệm: Mô Phật!
Thích Đức Nghiệp chỉ sang người phía bên phải ông: một nhà sư đeo kiếng trắng, gọng vàng.
- Đây là đại đức Thích Nhất Hoa, tiến sĩ, nhà văn, nhà thơ.
Người được giới thiệu hơi ưỡn ngực.
- Tôi là kiến trúc sư Nguyễn Văn Thi. – Cư sĩ dẫn Luân vào, tự giới thiệu.
- Các vị đã biết tôi, chắc cũng biết luôn tôi là tín đồ đạo Thiên Chúa. Nhưng hôm nay, khi đến đây, tôi không đại diện cho chính phủ và cũng không dính dáng gì đến tín ngưỡng. Tôi là một quân nhân, phàm quân nhân thì không được phép làm chính trị. Tôi chỉ muốn tìm hiểu những gì khiến Ủy ban liên phái và Ủy ban liên bộ không thể gặp nhau: không thể đi đến thỏa thuận mặc dù đã có thông cáo chung. Các vị có thể xem tôi như một người quan tâm đến sự ổn định nội bộ của Việt Nam Cộng hòa và có thiện chí. Tuy không cùng tín ngưỡng với các vị, tôi vẫn rất tôn trọng đạo Phật...
Hai nhà sư ngó nhau – Thích Đức Nghiệp và Thích Nhất Hoa. Có lẽ họ trao đổi cách phải đối phó với Luân mà sự xuất hiện tại chùa Xá Lợi có lẽ là đột ngột.
- Chúng ta nên bắt đầu từ chỗ nào? – Thích Đức Nghiệp nói. – Chẳng lẽ chúng ta lại phải lùi thời gian trở về các sự kiện ở Huế vào tháng 5 hoặc xa hơn? Đại tá, dù cho rằng mình không được quyền làm chính trị nhưng với cương vị quan trọng trong tham mưu biệt bộ của Tổng thống, đồng thời là người cộng sự thân tín của ông cố vấn Ngô Đình Nhu, hẳn đã rõ hết mọi tình hình. Chúng tôi không dám tiếp nhận những lời tốt đẹp của đại tá về tôn giáo chúng tôi. Chúng tôi tạm thời tin vào thiện chí của đại tá. Nhưng đã đến lúc chúng ta phải sòng phẳng với nhau. Chúng tôi không có điều gì phải giấu giếm Tổng thống. Hằng ngày, mật vụ của Tổng thống hẳn đã phúc trình đầy đủ cho văn phòng của Tổng thống. Một cuộc điều tra, dù cho một đại tá thực hiện, vẫn sẽ không thêm được điều gì mới so với các phúc trình ấy!
Thích Đức Nghiệp tiến công Luân ngay, trong khi nói, đôi mắt của ông ta lóe lên những tia hung tợn, mâu thuẫn với chiếc áo nâu mà ông ta mặc và Luân nghĩ rằng, ông ta chưa hề được giáo lý Phật cảm hóa. Luân chợt thấy vui vui: Tay này mà đấu khẩu với Lệ Xuân thì đúng là “kỳ phùng địch thủ”!
- Dẫu sao thì chúng ta cũng cần phải minh bạch. Tôi đến đây không để trinh sát nhà chùa, không để thu thập tài liệu. Đó không phải là công việc của tôi. – Luân vừa nói vừa mỉm cười – Chúng ta có thể bắt đầu từ chỗ nào mà các vị thấy cần bắt đầu. Trong vai vế nhỏ bé của mình, tôi sẽ cố gắng hết sức để tìm được tiếng nói chung giữa chính phủ và các vị cầm đầu đạo Phật.
- Chúng tôi xin lỗi đại tá. Đại đức Thích Đức Nghiệp vốn nổi tiếng là người nóng tính, bộc trực, mong đại tá hỉ xả. Như ý của đại tá, chúng ta sẽ bắt đầu từ chỗ phân tích xem vì sao thông cáo chung không được thi hành.
Thích Nhất Hoa chen vào câu chuyện với thái độ đĩnh đạc.
- Cũng chẳng có gì khó hiểu khi thông cáo chung biến thành mảnh giấy lộn, bởi vì chính phủ chỉ muốn có một thông cáo chung. Phó tổng thống, xét về danh vị, là nhân vật số hai của đất nước nhưng xét về giá trị có thật thì ông Nguyễn Ngọc Thơ chỉ là bù nhìn. Chữ ký mang tên ông cũng giả tạo như chức tước của ông. Không phải đây là lần đầu ông Thơ làm cò mồi. Có điều, thời thế đã khác lúc ông Thơ dụ hàng tướng Lê Quang Vinh. Chúng tôi sẵn sàng ký thông cáo chung nhưng chúng tôi cũng sẵn sàng đối phó với mọi lật lọng. Ngay cả Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng không phải là người giữ quyền lực cao nhất ở đây. Ông Nhu, bà Nhu! Chính hai người đang thao túng quốc gia và căm ghét thông cáo chung. Hai người căm ghét thông cáo chung bởi vì họ nghĩ rằng, những người theo đạo Phật sẽ từ bỏ yêu sách thiêng liêng của mình với vài dòng chữ ru ngủ và khi điều đó không xảy ra, họ điên cuồng tức giận. Thiện chí nghĩa là đôi bên cùng nghĩ đến cách giải quyết êm đẹp những bất đồng này, khác. Chính phủ rất có thiện chí với đạo Thiên Chúa nhưng lại rất ít, thậm chí không hề có thiện chí với đạo Phật. Từ khi có thông cáo chung đến nay, thời gian cũng chưa lâu lắm nhưng tình hình thì phát triển hết sức khẩn trương, đến nổi, nếu quả chính phủ có thiện chí như đại tá nói, cần có một thông cáo chung thứ hai mà nội dung không thể dừng ngang mức thông cáo chung lần trước!
- Nghĩa là thế nào? – Luân hỏi.
Thích Nhất Hoa mỉm cười – tuy chỉ là một nụ cười thật nhẹ mà hàm chứa một cái gì của kẻ bề trên, của người nghĩ rằng mình đang chiến thắng.
- Phật giáo không làm chính trị. Nhưng Phật giáo biết đòi hỏi những người làm chính trị phải có một thái độ như thế nào đối với đạo Phật, một tôn giáo về thực tế là quốc giáo ở Việt Nam. Trước đây, chúng tôi chỉ yêu cầu chính phủ Thiên Chúa giáo của ông Ngô Đình Diệm cư xử phải chăng với tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam. Bây giờ chúng tôi cảm thấy rằng không thể dừng yêu sách ở mức đó. Đã có quá nhiều các bậc tu hành và những tín đồ hy sinh cho đạo pháp. Cách nào đó, chúng tôi phản bội lại những hy sinh cao cả đó.
- Nghĩa là các vị muốn thay đổi chế độ?
- Không! Không có chuyện thay đổi chế độ tự do ở nước Cộng hòa chúng ta. – Thích Nhất Hoa trả lời.
- Các ngài nghĩ gì về chiến tranh?
- Tôi phải nói để đại tá an tâm. – Thích Đức Nghiệp nói – Chẳng những chúng tôi chủ trương phải loại bỏ Cộng sản vô thần ở miền Nam mà còn thực hiện yêu cầu lớn lao hơn, điều mà Tổng thống Ngô Đình Diệm không làm nổi: chúng ta sẽ Bắc tiến!
Câu nói sắt máu của Thích Đức Nghiệp được những người có mặt tiếp nhận, theo quan sát của Luân, bằng nhiều thái độ khác nhau: Thích Nhất Hoa khẽ liếc Thích Đức Nghiệp như một nhắc nhở thận trọng trong lời ăn tiếng nói; Thích Từ Đức và cư sĩ kiến trúc sư Nguyễn Văn Thi khẽ lắc đầu. Với Luân, tuy anh đã dự đoán nhưng vẫn không ngờ nhà sư di cư này lại háo sát đến thế.
- Vậy là chính phủ hiện hữu và các vị gần như là không còn có thể tìm được tiếng nói chung. Tôi diễn đạt như vậy có đúng không?
- Lỗi không phải từ phía Phật giáo. – Thích Nhất Hoa trả lời.
- Tôi muốn lưu ý các vị là chính phủ có trong tay lực lượng quân sự mạnh...
- Và cảnh sát, mật vụ, Thanh niên, Thanh nữ Cộng hòa, Phong trào cách mạng quốc gia, Phụ nữ liên đới, đảng Cần Lao, Tổng liên đoàn lao công... - Thích Nhất Hoa chen vào, giọng mỉa mai – nhưng chính phủ không còn ông Nolting. Mọi thứ sẽ đảo lộn bởi ông Cabot Lodge không phải là ông Nolting.
- Tôi hiểu! – Luân nói, hết sức điềm đạm – Tôi hiểu rất rõ.
Và Luân thở dài. Những người có mặt dứt khoát không thể hiểu tiếng thở dài của Luân.
Vừa lúc đó, một nhà sư lao vào phòng như một ngọn gió mạnh – một nhà sư cũng trẻ.
- Báo động! Kế hoạch “Nước lũ” bắt đầu thực hiện đêm nay!
Trao cho Thích Đức Nghiệp một mảnh giấy, ông ta chợt thấy Nguyễn Thành Luân.
- Ủa! Có đại tá ở đây?
Luân lễ phép chào ông.
Mảnh giấy được trao cho hai đại đức và ông kiến trúc sư.
- Xin giới thiệu với đại tá, đây là đại đức Thích Tâm Giác...
Luân đã nghe tiếng nhà sư này từ lâu. Trong báo cáo mật của Trần Kim Tuyến, nhà sư đã được nhắc đến như một phần tử có tham vọng trở thành đại tá Trưởng phòng tuyên úy của Phật giáo trong quân đội.
- Một tín đồ đạo Phật báo cho chúng tôi đêm nay chính phủ sẽ tiến công các chùa. Không rõ ông đại tá có nắm được kế hoạch đó không và – xin lỗi đại tá – việc đại tá đột ngột đến chùa có liên quan gì đến kế hoạch đó không?
Luân có đọc kế hoạch “Nước lũ” trong bản tin của UPI. Dung không biết về kế hoạch này. Trần Kim Tuyến không hé môi mà Luân thì không tiện hỏi Ngô Đình Nhu.
- Thú thật, tôi chỉ biết cái danh xưng này qua hãng thông tấn ngoại quốc. Còn tôi, như từ đầu đã trình với các vị, tôi đến chùa Xá Lợi với tư cách riêng.
Năm người có mặt trong phòng đều nhìn Luân. Họ hoài nghi. Thích Nhất Hoa cười lạt.
- Tôi không tán thành bạo lực đối với Phật giáo – do đó tôi không tán thành cái gọi là kế hoạch “Nước lũ”. Nếu quả có một kế hoạch như thế, tôi sẵn sàng làm con tin tại đây khi chính phủ tấn công các chùa.
Luân nói, rất thành khẩn.
- Nguồn tin này chính xác một trăm phần trăm! - Thích Tâm Giác nhấn mạnh, ông ta ngồi xuống và chìa tấm giấy cho Luân xem. Nửa tờ polure, viết tay: Các thầy nên sẵn sàng, nội đêm nay chính phủ sẽ tiến công bằng võ lực các chùa.
Không có chữ ký. Nhưng nét chữ thì không xa lạ với Luân: Mai Hữu Xuân.
- Đã trình cho chư tôn hòa thượng chưa? – Nhất Hoa hỏi Tâm Giác.
- Đã và cũng đã báo động cho các vị lãnh đạo các chùa trong đô thành nhưng không báo động kịp các tỉnh.
- Ở chùa có điện thoại không? – Luân hỏi.
- Có. Nhưng để làm gì? – Nhất Hoa hỏi – Đại tá định nói chuyện với ông Nhu?
Luân gật đầu và đi đến chỗ đặt máy. Điện thoại bị cắt đứt.
- Với những triệu chứng như thế này, có khả năng các chùa chiền bị tấn công thật. – Luân bảo, căng thẳng – Tôi muốn liên lạc với Phủ tổng thống. Phiền các vị cho người cầm thư của tôi ra cổng chùa, giao cho người bảo vệ của tôi mang vào Phủ tổng thống.
Tâm Giác, Nhất Hoa, Đức Nghiệp không thích thú với sự can thiệp này. Nhất Hoa bảo:
- Không cần! chính phủ muốn gặt cái quả lớn hơn thì cứ gieo cái nhân tương xứng...
- Nhưng, tiến công có nghĩa là đổ máu, Phật tử khó tránh khỏi ít nhất cũng là thương tích! Không thể được! – Luân gằn giọng.
Trước mặt anh, ba nhà sư rõ ràng coi thường sinh mệnh của tăng ni và Phật tử. Có vẻ họ còn sốt ruột khi kế hoạch “Nước lũ” thực hiện chậm. – Một cơn giận nổi lên khiến Luân mất bình tĩnh:
- Các vị muốn đánh đổ ông Diệm, tôi không ngăn. Nhưng không thể lợi dụng xương máu của quần chúng. Các vị không sẵn sàng mang thư thì tôi sẽ ra cổng giao thư và trở vào đây cùng chịu chung số phận với các vị!
Không cần biết phản ứng của chung quanh, Luân xé một tờ giấy trong sổ tay và hí hoáy viết.
- Tôi sẽ mang thư ra cổng cho đại tá. – Thích Từ Đức nói. Từ khi Luân bắt đầu cuộc trao đổi ý kiến, đây là lần đầu Thích Từ Đức lên tiếng – Tôi nghĩ đại tá cũng có thể ra về...
Luân trao mảnh giấy cho Từ Đức.
- Cám ơn đại đức. Tôi ở đây!
Từ Đức tất tả bước ra khỏi phòng. Gian phòng im ắng một cách nặng nề. Trong đầu Luân, nhiều điều được soi sáng. Người báo tin cho Phật giáo cũng sẽ là người chỉ huy cuộc đàn áp – Mai Hữu Xuân là một con người như thế đó. Kế hoạch “Nước lũ” có thể do chính tay ông ta thảo ra, có tham khảo ý kiến của Fishell, John Hing, thậm chí tham khảo cả ý kiến của Thích Tâm Châu và ba nhà sư đang ngồi trước anh.
Thích Từ Đức trở vào, trả thư cho Luân, giọng buồn bả:
- Chùa bị phong tỏa rồi!
- Ai phong tỏa? – Luân hỏi.
- Tôi ra đến cổng thì gặp một toán an ninh quân đội đuổi tôi trở vào...
- Bên ngoài có cảnh sát hay quân đội không?
- Chưa thấy... Tín đồ ở ngoài đường đông lắm...
Luân cười gằn:
- Mai Hữu Xuân!
Thích Từ Đức và kiến trúc sư Nguyễn Văn Thi không thấy có điều gì khác lạ trong nhận xét của Luân, còn ba người kia thì mặt hơi biến sắc.
- Không phải... - Thích Đức Nghiệp buộc miệng nhưng ông ta ngừng ngang và Luân thấy rõ Tâm Giác ra hiệu bằng cách đạp lén chân ông ta.
“Thằng cha Mai Hữu Xuân ra tay trước, hắn bít cửa chùa để “kế hoạch nước lũ” đánh thật đau vào Phật giáo – nghĩa là đánh thật đau vào Ngô Đình Diệm” – Luân nghĩ như vậy.
*
Song song với cuộc đối thoại giữa Luân và một số đại đức, bên trong hậu liêu của chùa, các hòa thượng và thượng tọa không phải tham thiền như Thích Đức Nghiệp nói mà họ, cấp cao nhất của những người lãnh đạo phong trào Phật giáo hiện thời, đang họp. Hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết vì mệt nên vắng mặt. Thượng tọa Thích Tâm Châu tự giới thiệu là được hòa thượng Hội chủ trao cho toàn quyền quyết định, đã chủ trì cuộc họp.
Từ chiều, giới lãnh đạo Phật giáo đã nhận được nhiều nguồn tin khác nhau về cuộc tấn công của cảnh sát. Trong những nguồn tin đó, có cả nguồn tin của giáo sư Fishell. Thượng tọa Thích Tâm Châu gửi giấy mời các vị có chân trong Ủy ban liên phái đến chùa Xá Lợi. Trừ một vài vị bận việc, hầu hết đều có mặt. Mở đầu, thượng tọa Thích Tâm Châu thông báo về tình hình có thể xảy ra trong đêm. Thượng tọa cũng nhắc lại gần như toàn văn thông tin của giáo sư Fishell, người mà các vị trong Ủy ban liên phái chỉ biết là một học giả Mỹ am tường các vấn đề phương Đông, vấn đề Phật giáo, một nhà nghiên cứu khoa học có tầm cỡ.
Một vị đã nêu câu hỏi với Thích Tâm Châu: Vì sao giáo sư Fishell lại biết kế hoạch tấn công các chùa chiều đêm nay?
Thích Tâm Châu trả lời rằng có thể vì Fishell giao thiệp rộng.
Một vị thượng tọa khác hỏi: Nếu giáo sư Fishell giao thiệp rộng, biết được tin đích xác các chùa sẽ bị tấn công tại sao ông không can thiệp với sứ quán Mỹ và với Tổng thống Ngô Đình Diệm?
Thích Tâm Châu không tả lời câu hỏi đó mà nhắc lại rằng, đã được tin thì Ủy ban liên phái phải đối phó. Ông phác ra một kế hoạch. Một mặt, ông thông báo cho giới báo chí trong và ngoài nước về khả năng xấu có thể xảy ra và đánh động dư luận. Hai, ông thông tin cho tất cả các chùa sửa soạn đối phó, chỉ thông tri cho các vị lãnh đạo, không cho tăng ni nói chung và Phật tử biết. Ba, đối phó cụ thể là sẵn sàng hy sinh vì đạo pháp. Ông tuyên bố: “Giờ lâm tử đã đến mà kế hoạch của chúng ta không thể vượt khỏi khuôn khổ bất bạo động cổ truyền. Nhưng bất bạo động mà không chịu chết âm thầm, không để cho bạo quyền tàn sát một cách lặng lẽ khiến họ có thể bưng bít dư luận. Bởi vậy, kế hoạch đối phó nằm trong khuôn khổ bất khuất, dụng nguyên lực biến thân để thành kim cương, thành gang thép rồi kết khối lại chịu cực hình cho đến chết để được tử đạo và để cầm cự cho tới thanh thiên bạch nhật khiến sự hy sinh cao cả này vang dội lên làm rung động từ cội rễ thiện tín con người và để Phật giáo đồ noi gương tiếp nối đấu tranh vì chính pháp”.
Quan điểm của thượng tọa Thích Tâm Châu được chấp thuận. Nhưng, có một vị cao tăng nêu lên một vấn đề: Tại sao chúng ta báo động với cơ quan báo chí trong và ngoài nước, với các tòa đại sứ với lãnh sự mà lại không báo động với Ủy ban liên bộ hoặc với Tổng thống, đồng thời cũng lại không thông báo cho thanh niên tăng sĩ trong các ban trật tự các chùa, cho các tín đồ có mặt ở các chùa? Theo vị cao tăng này thì nếu ủy ban liên phái làm tất cả những việc trên, sẽ có hy vọng buộc chính quyền đình chỉ kế hoạch tấn công và tránh cho tăng sĩ và đồng bào Phật tử khỏi bị thảm sát. Chúng ta – vị cao tăng ấy nói – rất hoan hỉ noi gương thánh tăng Thích Quảng Đức nhưng chúng ta không nên để những tăng ni tuổi đạo còn non thay mặt cho đạo pháp mà tử nạn như các vụ tự thiêu hoặc có hành động phản kháng gần đây. Chúng ta cần phải tránh cho Phật tử bất kể mức độ hy sinh nào.
- Thì giờ quá gấp rút, chư tôn hòa thượng miễn cho tranh cãi. - Thích Tâm Châu đã lẩn tránh câu hỏi của vị cao tăng.
*
Tường thuật của một phóng viên.
(Bản in ronéo)
Tối 20-8-1963, nếp sinh hoạt thường nhật của chùa Xá Lợi có thay đổi đôi chút. Khác với mọi khi, đêm nay, mới 9 giờ giữa lúc các thiện tín, sau khi lễ Phật xong, ra về.
Nhưng, ra tới cổng, họ đụng một số an ninh quân đội, buộc họ quay vào chùa. Cái sự khác thường này khiến tăng sĩ và tín đồ lo lắng. Nhưng, một đại đức đã động viên họ: “Không việc gì phải sợ!”
Thời gian cứ chậm chạp trôi qua. Cổng chùa, mặt tiền, bên hông đều được đóng lại kỹ lưỡng. Ngoài đường, người qua lại bắt đầu thưa thớt, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe hơi hoặc xe gắn máy lướt nhanh trên đại lộ.
Trong sân chùa, trái với lệ thường, các ngọn đèn điện thường được tắt bớt, hôm nay ánh sáng như rực rỡ hơn.
11 giờ đêm, thời gian vẫn lặng lẽ trôi. Trên gác, các thượng tọa hầu hết đã vào phòng riêng an nghỉ. Tín đồ nằm la liệt ngoài sân. Thỉnh thoảng mới có một đại đức lướt nhanh qua hành lang hướng về phòng thượng tọa Thích Tâm Châu, nơi duy nhất có tiếng máy đánh chữ nhè nhẹ.
Dưới nhà hậu, phần lớn chư ni đã nghỉ, chỉ còn một số đang lom khom, lặng lẽ lau nốt mấy bậc thềm hoa. Số khác bận rộn trong việc quay ronéo, đóng thành từng bản tin tức để phân phối vào sáng hôm sau. Họ yên lặng làm việc, thận trọng, nhẹ nhàng.
12 giờ. Trên đường phồ bỗng xuất hiện một toán người mặc áo sơ mi bỏ ngoài, quần tây. Họ ngồi trên xe đạp, từ từ lượn quanh, ngó vào chùa dò xét...
Thế rồi, trong giây lát, một hồi còi ré lên và một đoàn trên 200 người, tay lăm lăm súng cắm lưỡi lê ào tới bao vây chùa. Đoàn người này mặc đồ trận rằn ri, mũ sụp xuống lấp trán. Họ thi nhau xông tới phá hai cổng chùa. Trong chốc lát, các cổng đều bật tung và đoàn người võ trang hùng hổ tràn vào chùa. Họ cúi lom khom, lủi nhanh, núp vào các gốc cây, bờ tường, giống như đoàn quân thiện chiến đang xung kích trận địa sống chết với kẻ thù.
Lúc này chư tăng, ni đều đã dậy cả, ai nấy vồn vã leo cầu thang rút lên thượng điện.
Các thượng tọa gấp rút gọi dây nói cho các ký giả, sứ quán, nhưng đường dây đã bị cắt đứt, đồng thời điện trong chùa cũng bị cắt luôn. Thế là, trong màn đêm, lờ mờ qua ánh điện đường, sân chùa tràn ngập bọn người hung dữ, sát khí đằng đằng. Họ ồ ạt xông vào chính điện, đập phá cánh cửa, đạp đổ bàn thờ hòa thượng Thích Quảng Đức và phá tan hộp đựng tiền công đức của thiện tín thập phương rồi cướp hết. Họ như điên cuồng, đập phá bàn ghế, xô đạp hương đài, chặt cánh tay và móc mắt Phật lấy cặp nhãn kim cương trị giá trên hai chục triệu đồng.
Trong khi đoàn người mệnh danh “quân đội chính phủ” đang đột nhập phá phách ở phía dưới chùa, thì trên thượng điện, tất cả tăng, ni và đạo hữu đều quay quần chung quanh hòa thượng và các thượng toạ. Người người nhất trí, khỏe trước yếu sau trấn đóng hai đầu cầu thang không cho bọn người hung dữ tiến lên xâm phạm vào các thượng tọa.
Ngay từ phút đầu của cuộc tấn công, cảnh chùa đã trở nên huyên náo, bên dưới bọn người hung dữ phá phách rầm rầm, ở trên thượng điện, chư tăng ni khua trống, đánh chuông, đập thùng thiếc cùng kêu la inh ỏi làm náo động cả một góc thủ đô.
Khi thanh toán xong dưới nhà, bọn người hung dữ nương theo hai cầu thang xông lên thượng điện. Nhưng họ gặp ngay phản ứng của hàng ngũ thanh niên tăng sĩ; ngoài những bàn ghế chất đầy hai đầu cầu thang dùng làm chướng ngại vật, tăng ni còn đem ấm chén, bát đĩa và tất cả vật dụng trong phòng ra xếp thành một đống phía sau; hễ kẻ nào nhô lên từ phía chân cầu thang, lập tứ các đồ vật dụng được ném xuống xối xả, khiến bọn người hung dữ không sao tiến lên được. Lập tức, lựu đạn cay từ dưới thi nhau tung lên sân thượng điện, tiếng nỗ chát chúa vang ra, cả trăm tăng, ni bị khói cay ho sặc sụa, nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng. Một số người sức yếu, ngất đi nằm vật xuống.
Bọn người hung dữ lại từ dưới xông lên. Các thanh niên tăng ni, mặc dù nước mắt nước mũi chảy ràn rụa làm mù mịt không trông thấy gì, nhưng họ vẫn liên tiếp thay phiên nhau nhắm hướng cầu thang liệng vật dụng xuống. Lựu đạn cay lại từ dưới nhất loạt tung lên, khói đen tỏa dầy đặc, nhiều tăng, ni bị lựu đạn nổ ngay trên mình hoặc bị vỏ thủy tinh bắn ra cắt đức da thịt, máu chảy quá nhiều nên ngã quỵ xuống.
Để đối phó lại, hàng tiền đạo tăng sĩ được võ trang bằng khăn ướt, bịt trên mặt để ngăn bớt khói cay.
Lần thứ ba, sau khi hưu chiến 15 phút, bọn người không tim không óc lại nhất loạt xông lên, lần này họ đội trên đầu mỗi người một chiếc ghế tựa để ngăn “đạn” từ trên xả xuống; đồng thời, họ vừa xung kích vừa tung lựu đạn cay.
Nhưng, kẻ xung kích dùng đòn độc, lấy ghế làm mộc, thì người bị tấn công, cũng đổi chiến lược, các đạn hạng nặng, như bàn giấy, chậu cảnh được quăng xuống và bất cứ một thứ thì như nước sôi, vỏ chai, hễ vớ được là họ quăng liên hồi...
Nhưng, bọn người phía dưới hung dữ quyết bám sát trận địa, hết lớp này đuối sức thì đám kia xông lên và lựu đạn vẫn nổ liên tiếp làm đinh tai điếc óc chư tăng. Trận chiến diễn ra ác liệt, chư ni một số ngã gục, một số bị ho sặc sụa, phải chạy vào phòng tắm, đóng chặt cửa tránh khói, còn một số vẫn hăng hái tìm kiếm vật dụng cho chư tăng ném xuống.
Thời gian khủng khiếp nặng nề trôi... chư tăng đã phần kiệt sức mà lực lượng cứu viện không có. Kẻ ngoại cuộc duy nhất ủng hộ là hãng USOM. Từ các cửa sổ trên lầu cao, những bàn tay người ngoại quốc, đàn bà có, đàn ông có, đưa tay vẫy liên hồi, rồi cũng những bàn tay đó, nắm chặt lấy nhau đấm vào không khí ngụ ý tán trợ và cổ võ. Thế rồi, từ trên đỉnh ngôi nhà lầu hãng USOM, ánh điện của máy chụp hình lóe lên ánh sáng, lại càng chớp nháy liên tiếp khi một bóng người đàn bà vận quân phục từ trên xe Haptơrăc nhảy xuống. Người đàn bà này đứng giữa đường, hai tay chống ngang hông ngó vào cổng chùa Xá Lợi. Lập tức viên chỉ huy bọn người hung dữ được báo động và y chạy tới khúm núm trước người đàn bà này. Người đàn bà vận quân phục chỉ trỏ và quát tháo một hồi rồi lên xe đi thẳng.
Trong chùa, trận chiến khởi đầu từ 1 giờ đến 2 giờ 45 phút thì thế cờ bắt đầu chuyển hướng. Lực lượng vũ trang xông lên hùng hổ bao nhiêu thì sức kháng cự của tăng ni yếu dần đi bấy nhiêu. Các vật dụng của nhà chùa dùng làm vũ khí đã hết... Thậm chí, chư tăng phải dùng đến cả những bàn ghế trước đây dùng làm chướng ngại vật quăng xuống...
Thế là mọi người chỉ còn hai bàn tay trắng, đưa ra đón lấy những mũi nhọn của lưỡi lê ào ạt từ dưới lao lên. Lần lượt những người tu hành bị bọn người hung dữ thúc lưỡi lê vào ngực, vào lưng, dồn tới một xó chùa. Còn cảnh nào thương tâm bằng cảnh những người tu hành, từ bỏ tất cả trừ mảnh áo cũ kỹ che thân. Nay áo đó cũng bị rách tả tơi hoặc bị lựu đạn làm cho cháy xém rách nát cả da thịt.
Khi đã chiếm xong thượng điện, bọn người hung dữ tiếp tục khủng bố. Họ tràn vào thư viện bắt trói đánh đập các thầy ở đây rồi dẫn đi. Thầy Hoàng Lạc, không chịu để cho chúng bắt, thầy chạy ra sân lầu đại điện, nhào xuống đất để chết. Không ngờ lại rớt xuống trúng đầu bọn hung dữ ở phía dưới; chúng hoảng hốt nổ súng, nhưng thầy Hoàng Lạc đã rơi xuống sân nằm bất tỉnh, khiến những viên đạn này lại bắn lộn vào đám đông, mấy mạng gục xuống. Sau đó, chúng lục xạo khắp các phòng, chân đạp tung cửa, tay chuẩn bị bóp cò súng, miệng gầm thét chửi rủa tục tĩu...
Có nhiều thầy vừa ra tới cửa bị chúng còng tay, rồi đẩy đi. Qua một trận ngửi hơi ngạt các thầy mệt mỏi, bước đi chậm chạp, bị chúng tống báng súng vào lưng, khiến các thầy ngã sấp xuống gạch. Tay lại bị còng ra phía sau, không thể chống đỡ nên các thầy đành chịu cảnh dập mày dập mắt, máu tuôn ướt áo, ướt đường.
Như để hả giận, vừa dồn các thầy ra chỗ ngồi tập trung trước sân thượng điện, bọn người hung dữ vừa chửi rủa vừa đánh đập, chúng bất kể già trẻ, ngôi vị trong chùa.
Kế đó, đèn được bật sáng; mọi người mới biết đoàn người hung dữ này không ai xa lạ mà chính là bọn mật vụ, cảnh sát, và lực lượng đặc biệt do Trần Văn Tư, Giám đốc cảnh sát đô thành chỉ huy tổng quát. Riêng Dương Văn Hiếu, tay chân đắc lực của lãnh chúa miền Trung được đặc biệt phái vào Sài Gòn, chỉ huy mật vụ của Ngô Đình Nhu và Lê Quang Tung, Tư lệnh lực lượng đặc biệt thì chỉ thấy quân mà không thấy mặt chúng. Không rõ chúng chỉ huy đánh chiếm mạn nào hay nằm ở “Bộ tư lệnh chiến dịch đánh chùa”?
Theo lệnh Trần Văn Tư, bọn mật vụ lần lượt bắt hòa thượng Hội chủ, các thượng tọa, đại đức dẫn ra xe. Chúng vừa tìm kiếm vừa reo lên “A, thằng Tâm Châu đây rồi... cả thằng Giác Đức nữa, may quá!”. Lập tức chúng xúm lại khiêng hai thượng tọa xuống. Đại đức Thích Đức Nghiệp cũng bị chúng lôi đi lệt xệt trên cầu thang. Thế rồi các vị bị chúng đưa đi, giam mỗi người một phương nào không ai biết.
Sau khi chúng kiểm soát kỹ lưỡng khắp chùa một lần nữa, thấy không còn sót ai, bọn mật vụ, cảnh sát, lực lượng đặt biệt, xếp hàng hai bên lối đi, mỗi đứa cách nhau một thước, nối tiếp nhau từ trên Phật điện, xuống cầu thang vòng ra cổng. Chúng quay mặt đối diện với nhau, rồi một bọn khác tới lùa mấy trăm tăng ni ra xe.
Chư tăng, ni đông quá nên cầu thang trở nên chật chội, không thể nào đi nhanh được. Điều đó lại để cho bọn mật vụ có cơ hội tức giận nguyền rủa. Từ phía sau, bọn chúng chửi bới, xô đẩy và dùng báng súng thúc mạnh vào lưng chư tăng. Trong đoàn tăng, ni bị xô đạp này, nhiều người yếu quá ngã xuống, nhất là chư vị, chân không dẫm lên những đống máu đông đặc lầy nhầy đọng trên cầu thang, khiến không gượng được nên ngã xuống.
“Mặc kệ!”, “Chết bỏ!”, chúng vừa quát tháo, vừa xô mạnh cho những người phía sau giày xéo lên những người phía trước vừa ngã dưới bậc cầu thang. Có nhiều vị tăng chỉ vì cố dừng lại khiêng mấy ni cô bị ngã nhưng vì yếu sức không sao gượng dậy được giữa đám chân người lủng củng, dồn dập từ trên cao lấn xuống, nên bị chúng dùng gậy đập lên đầu đến váng óc té xỉu đi.
Cho tới 3 giờ rưỡi sáng, bọn người gian ác này hoàn toàn thành công trong việc đánh phá chùa Xá Lợi.
Ngoài những thượng tọa bị đưa đi, giam riêng, còn bao nhiêu tăng ni chúng chất lên xe chở về Rạch Cát nhốt trong một cái đồn hoang dại, hẻo lánh thuộc quận 7, ngoại ô Chợ Lớn.
Sau đó, chúng đem xe hơi tới hốt các tăng, ni, đạo hữu bị chết, bị ngất hoặc bị thương trầm trọng, nằm la liệt trên sân thượng điện về bệnh viện Cộng Hòa. Chúng chở luôn cả những “chiến lợi phẩm” mà chúng không “nuốt” được như máy móc, giấy tờ về quận 3, còn bao nhiêu thứ có thể bỏ túi được thì chúng “chia bùi xẻ ngọt” với nhau.
Chùa Xá Lợi sau hơn 3 tiếng đồng hồ sóng gió kinh hoàng, lúc này hoàn toàn tan hoang. Thứ duy nhất còn lại ngoài mấy chục bức tượng, đồ đạc hư nát là máu tươi, thịt bấy của tăng ni loang lổ khắp sân chùa.
Sáng ra, người ta mới biết người đàn bà đêm qua mặc quân phục, hằn học nhìn vào chùa Xá Lợi là bà Ngô Đình Nhu tức Trần Lệ Xuân.
Trần Lệ Xuân tới để chứng kiến cảnh tàn sát cho hả lòng căm giận đối với những người độc nhất trên đất nước này, dám công khai đả kích bà ta và công khai chống lại uy quyền của họ Ngô.
Ngoài ra, Trần Lệ Xuân còn tới để đôn đốc bọn tay sai phá chùa, chiếm lại bức thư của thân phụ bà ta mới gửi về tạ lỗi với các vị thượng tọa cách đây mấy ngày về việc Trần Lệ Xuân đã vô lễ xúc phạm tới mấy thầy, mạt sát Phật giáo, một tôn giáo mà họ Trần tôn thờ.
Trong khi chùa Xá Lợi chìm trong cảnh tang tóc máu lửa, thì hầu hết các chùa trong lãnh thổ gia đình Ngô Đình Diệm thống trị đều chung một số phận như vậy.
Riêng tại chùa Từ Đàm, Huế, trong đêm 20-8-1963, với 5.000 Phật tử túc trực bao quanh nhục thân cố thượng tọa Thích Tiêu Diêu đã là một cản trở rất lớn cho bọn tay chân Ngô Đình Cẩn. Ngô Đình Cẩn phải huy động 2.000 quân, chiến đấu từ 1 giờ đêm đến 8 giờ sáng mới thanh toán xong chiến trường. Sở dĩ có trận chiến đấu ác liệt như vậy là vì Phật giáo đồ tưởng rằng lực lượng Ngô Đình Cẩn tới cướp thi hài thượng tọa Thích Tiêu Diêu như chúng đã từng làm đối với các tăng ni tự thiêu trước đây. Và cũng vì vậy nên chư thượng tọa có mặt trong chùa để yên cho Phật giáo đồ cầm cự, cố sống chết bảo vệ lấy thi hài duy nhất của bốn vị tự thiêu tại miền Trung còn lại.
Trong những phút cuối cùng của cuộc giao tranh, Phật giáo đồ đã có lần phóng hỏa đốt chùa để cùng nhau chết trong vòng vây nguy khốn chứ không chịu khuất phục trước bạo quyền...
Nhưng việc làm này bị thất bại bởi lực lượng Ngô Đình Cẩn quá đông, chúng ào vào dập tắt lửa và tấn công dữ dội, làm cho Phật giáo đồ rối loạn, xô lấn, ngã chồng chất lên nhau.
Trong chùa lúc này, Phật tử chỉ còn hai bàn tay không giơ ra chống đỡ với lưỡi lê của kẻ bạo tàn. Bao nhiêu củi đuốc, bàn ghế, ấm chén, nồi niêu, bát đĩa, soong, chảo trong chùa, Phật giáo đồ đều dùng thay vũ khí và đã ném đi hết sạch. Vì thế, lực lượng vũ trang của Ngô Đình Cẩn chỉ còn việc lần lượt bắt trói từng người dẫn đi.
Thế rồi sáng hôm sau, ngày 21-8-1963, tại thủ đô Sài Gòn, thành phố Huế và khắp các tỉnh, khi mọi người thức dậy ra đường, đã thấy nhan nhãn những truyền đơn, hiệu triệu và sắc lệnh thiết quân luật dán đầy trên tường. Xe thông tin gắn loa phóng thanh chạy khắp phố thường thôn xã loan tin: “Chính phủ đã diệt trừ xong bọn phản động!”.
Chiều tối quần chúng lại được chính quyền cho biết, trong cuộc kiểm soát các chùa, quân đội tịch thu được vũ khí, tài liệu, chứng tỏ nhiều nhà sư hoạt động cho Việt Cộng...
*
TUYÊN CÁO CỦA TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HÒA
Trước những biến cố gần đây do Cộng sản chủ mưu, đặc biệt nhất tại miền Đông Nam Á, Lào quốc, trực tiếp ảnh hưởng đến biên giới Việt Nam.
Đồng thời tại quốc nội, giữa lúc toàn dân toàn quân đang tận lực chống Cộng sản xâm lăng, đồng bào đã thấy rõ, từ 3 tháng rưỡi nay, ý chí hòa giải tột bực của chính phủ trong việc giải quyết những vấn đề do Tổng hội Phật giáo nêu lên, nhưng những cố gắng ấy không được hưởng ứng do một số người đầu cơ chính trị, lợi dụng tôn giáo, lợi dụng thái độ hòa giải tột bực của chính phủ liên tiếp hành động bất hợp pháp để tạo nên một tình trạng rối loạn phá hoại chính sách ấy, cản trở chủ trương dân chủ pháp trị, rất tổn thương cho uy tín của Phật giáo, chỉ lợi cho Cộng sản.
Do đó, chiếu điều 44 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa, kể từ ngày 21 tháng 8 dương lịch 1963, tôi tuyên bố ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn lãnh thổ quốc gia.
Ủy nhiệm cho quân đội Việt Nam Cộng hòa tận dụng mọi phương tiện và thi hành mọi biện pháp cần thiết do sắc lệnh ban hành giới nghiêm qui định để vãn hồi an ninh trật tự công cộng hầu bảo vệ quốc gia, chiến thắng Cộng sản, xây dựng tự do dân chủ.
Sài Gòn ngày 20-8-1963
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa
NGÔ ĐÌNH DIỆM
*
Việt Nam Cộng hòa
Tổng thống phủ
Văn phòng
Số 84 – TTP
TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HÒA
Chiếu hiến pháp Việt Nam Cộng hòa nhất là điều 55;
Chiếu sắc lệnh số 124-TTP ngày 28-5-1961 ấn định thành phần chính phủ;
Chiếu nhu cầu hiện tại;
Để đảm bảo an ninh trật tự công cộng.
SẮC LỆNH
Điều 1: Nay tuyên bố tình trạng giới nghiêm trên toàn lãnh thổ Việt Nam, kể từ ngày công bố sắc lệnh này cho tới khi có lệnh mới.
Điều 2: Luật lệ nào xét ra cần ngưng thi hành sẽ được tuyên bố tạm đình chỉ áp dụng.
Điều 3: Quân đội Việt Nam Cộng hòa chịu trách nhiệm hoàn toàn về an ninh công cộng, và để đạt tới mục đích ấy, có quyền trong suốt thời hạn giới nghiêm:
+ Xét các tư gia bất cứ giờ nào, bắt giữ các người xét có hại cho an ninh công cộng.
+ Cấm mọi cuộc hội họp, tụ tập có thể phương hại cho an ninh trật tự công cộng.
+ Hạn chế tự do báo chí, kiểm soát hệ thống phát thanh, kiểm soát phim ảnh kịch trường.
+ Cấm tàng trữ, lưu hành những ấn loát phẩm, tài liệu, truyền đơn xét có hại đến an ninh công cộng.
Điều 4: Tất cả mọi vi phạm đến trật tự công cộng đều thuộc thẩm quyền của tòa án quân sự.
Điều 5: Các bộ trưởng và tổng tham mưu trưởng liên quân chiếu nhiệm vụ, thi hành sắc lệnh này.
Sắc lệnh này được công bố theo thủ tục khẩn cấp.
Sài Gòn, ngày 20-8-1963
Ký tên: Ngô Đình Diệm
*
QUÂN LỆNH SỐ 1 CỦA QUYỀN TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG LIÊN QUÂN QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA
Chiếu sắc lệnh ngày 20-8-1963, tuyên bố tình trạng giới nghiêm trên toàn lãnh thổ Việt Nam, bắt đầu từ ngày 20-8-1963 cấm chỉ dân chúng:
1. Trong giờ giới nghiêm không được ra khỏi nhà.
2. Cấm hội họp, tụ tập có thể gây phương hại đến an ninh trật tự công cộng.
3. Không được có hành động gián tiếp hoặc trực tiếp phá rối trị an như ấn loát, lưu hành và tàng trữ mọi tài liệu báo chi truyền đơn, hình ảnh có tính cách phá hoại an ninh quốc gia. Tất cả mọi ấn loát phẩm và điện tín đều phải chịu chế độ kiểm duyệt.
4. Phải trao lại tức khắc cho cơ quan quân sự địa phương gần nhất những vũ khí đạn dược dù đã được phép mang, kể cả những vũ khí bén nhọn.
5. Mọi vi phạm một trong các điều khoản ghi trên sẽ bị truy tố trước tòa án quân sự theo thủ tục khẩn cấp
KBC 4.002
20-8-1963
Trung tướng Trần Văn Đôn
*
LỜI KÊU GỌI ĐỒNG BÀO CỦA TIẾNG NÓI QUÂN ĐỘI
Kính thưa đồng bào,
Đã đến lúc toàn thể mọi người phải đứng dậy đập tan những mưu mô chia rẽ của bọn người vong bổn cấu kết với phong kiến thực dân và Cộng sản làm đất nước chúng ta lâm nguy từ mấy tháng gần đây. Không lúc nào bằng lúc này, quân đội chúng tôi đang xả thân chiến đấu vì chính nghĩa, vì tự do, vì sự an ninh của đồng bào thì trong khi đó một số người ngoan cố đã giày xéo lên sự hy sinh vô bờ bến đó. Hàng chục vạn chiến sĩ đã đổ máu gục ngã ngoài chiến trường chống Cộng để bảo vệ sự sống yên vui của toàn dân, để giành giật từng thước đất tự do, để lo bồi từng niềm tin mà lẽ dĩ nhiên có cả niềm tin rộng lớn của tất cả các tôn giáo. Trong khi đó, một bọn người an nhàn đã lợi dụng che mặt bằng hình thức này hay hình thức khác làm phân tâm ly tán, cố làm những hy sinh của chiến sĩ trở nên vô nghĩa.
Hơn một năm nay, chính đồng bào từ thành thị tới thôn ấp đã hăng say nỗ lực nhỏ mồ hôi hòa cùng máu chiến sĩ để xây dựng một xã hội mới, một đời sống mới trên các tiêu chuẩn công bằng bác ái và dân chủ pháp trị. Sự hy sinh đó đang tiến mạnh trên con đường chiến thắng thì thình lình bị phản bội do mưu mô của bọn Việt gian phản quốc cấu kết cùng Việt Cộng, giặc chia rẽ và giặc chậm tiến phá hoại dân tộc chúng ta.
Đã từ lâu rồi, quân đội chúng tôi im lặng chịu đựng, tuân theo sự ôn hòa tột bực của chính phủ. Sự chịu đựng, câm nín đó, chính là một sự hy sinh thứ hai mà chúng tôi đã phải gánh chịu. Mặc dầu bị khiêu khích bằng mọi cách, kể cả những cách nhỏ nhen nhất như ném đá vào đầu quân đội, tuyên truyền rỉ tai để phỉ báng quân đội, vu cáo cho đồng đội chúng ta đàn áp tự do, là vô nhân cách trong khi chúng tôi chiến đấu vì tự do, vì chính họ, vì hạnh phúc của toàn dân. Bọn Việt gian phản quốc đã gây dư luận xấu xa khiến thế giới tự do, một số người nhẹ dạ, đã nghe chúng làm hại đến uy danh của dân tộc. Danh dự của quân đội bị phỉ báng. Danh dự của dân tộc bị bán đứng như vậy mà bọn chúng reo cười! Bọn chúng reo cười cả trên những cái chết thảm khốc nhất. Chúng tưởng rằng như vậy là quân đội đã thua, quân đội đã chịu hàng phục trước những mánh khoé xảo quyệt của chúng. Nhưng chiến sĩ Cộng hòa không bao giờ chịu khuất phục. Đồng bào hãy cùng chúng tôi vùng lên quyết đập tan mọi mưu mô xảo quyệt, thanh toán tận gốc rễ bọn Việt gian phá hoại. Giờ phút lịch sử đã điểm!
*
ĐÀ NẴNG THIẾT QUÂN LUẬT SAU KHI CÓ BIỂU TÌNH BẤT HỢP PHÁP.
Đà Nẵng (VTX) 20-8.
Theo thông tín viên Việt tấn xã, một cuộc biểu tình bất hợp pháp tổ chức hồi 16 giờ ngày 18-8 vừa qua đã diễu hành từ hai chùa Phổ Đà và Thị Hội qua các đường phố thị xã Đà Nẵng.
Lối một nghìn người, kể cả những kẻ hiếu kỳ kéo theo sau, có mặt trong cuộc biểu tình này.
Chính quyền và quân đội tỏ tinh thần thiện chí hòa giải tột bực.
Chính quyền địa phương và quân đội đồn trú tại Đà Nẵng đã không ngăn trở cuộc biểu tình này vì muốn bày tỏ thiện chí hòa giải tột bực do Ngô tổng thống đã đề ra trước đây.
Trung tá Trần Ngọc, Thị trưởng Đà Nẵng, đã kịp thời kêu gọi anh em binh sĩ triệt để biểu dương tinh thần kỷ luật khả dĩ tránh được mọi âm mưu phá vỡ thiện chí hòa giải của chính phủ. Nhờ đó, trật tự đã duy trì.
Dân chúng vô sự, nhưng một quân dân bị thương.
Phía chính phủ, xe thông tin bị đập phá, một quân dân bị thương. Phía đoàn người biểu tình, không có ai việc gì.
Cuộc biểu tình đã chấm dứt hồi 18 giờ cùng ngày.
*
THIẾT QUÂN LUẬT.
Lệnh thiết quân luật toàn thị xã Đà Nẵng đã được nhà cần quyền ban hành nội trong đêm 18-8 từ 22 giờ 30 cho đến 6 giờ sáng 19-8, nhằm bảo vệ an ninh cho dân chúng.
Đặc biệt lệnh này được thi hành suốt đêm ngày kể từ 6 giờ sáng ngày 18-8 cho đến khi có một quyết định mới.
*
TUYÊN NGÔN CỦA CHÍNH PHỦ
(21-8-1963)
I- Chính sách quốc gia từ tình trạng chậm tiến, chia rẽ và chiến tranh phá hoại của Cộng sản, nhằm tạo một cách nhanh chóng những điều kiện thuận lợi nhất cho sự thực hiện tinh thần hiến pháp và thực thi dân chủ pháp trị đồng đều cho mọi người, không phân biệt giai cấp, sắc dân, hay tôn giáo, là một chính sách mà chính phủ quyết tâm theo đuổi cho đến cùng bất kể trở ngại từ đâu đến.
II - Chính sách của chính phủ trong “vụ Phật giáo” nhằm cốt yếu việc thực thi chính sách quốc gia nói trên, vẫn được chính phủ theo đuổi một cách kiên nhẫn và quyết tâm hơn.
Chính sự quyết tâm này đã đưa đến việc Tổng thống ban hành lệnh giới nghiêm để bẻ gãy sự cố tình phá hoại chính sách trên do một thiểu số sư tăng thuộc Tổng hội Phật giáo, và để sau đó tái lập những điều kiện thuận lợi cho sự thực thi chính sách của chính phủ, chính sách mà mọi người đều công nhận không những là hợp với lẽ phải, mà còn là dựa trên một sự kiên nhẫn tột bực.
III - Chính phủ nhất định từ đây không dung túng một sự lạm dụng nào về tôn giáo với mục đích chính trị, một sự lạm dụng nào về các chùa chiền, biến nơi tôn nghiêm để cầu nguyện, suy niệm và hành đạo trở nên những trụ sở tuyên truyền phá rối, khủng bố hay âm mưu chống lại an ninh quốc gia, mọi hành động nào nhằm đầu độc những linh hồn ngây thơ, mê hoặc các tâm trí, xúi giục người khác tự hủy rồi khai thác xác chết trong 4 ngày để tổ chức mít-tinh, biểu tình chống lại an ninh quốc gia.
Chính phủ, vì quyền lợi tối cao của quốc gia và vì tôn trọng Phật giáo, coi tất cả những hành vi đó là trọng tội, thứ nhất là nước đang có chiến tranh.
IV - Tất cả những người bị giữ vì những biện pháp đầu tiên của lệnh giới nghiêm đều được đối xử tử tế và họ sẽ được trả lại tự do một cách nhanh chóng nếu họ sớm dứt khoát với sự lầm lẫn đạo với đời, với sự lạm dụng tôn giáo vào mục đích chính trị.
V - Tất cả các cán bộ quân dân chính đều phải theo đường lối minh định trên đây.
*
Sài Gòn (VTX).
Vì phải bảo đảm an ninh và trật tự chung của hàng triệu sinh mạng đồng bào tại đô thành.
Vì quân đội đã nhiều lần kêu gọi và nhắc nhở toàn thể đồng bào hợp tác với quân đội để thi hành lệnh giới nghiêm.
Vì cần phải áp dụng mọi biện pháp cứng rắn cần thiết để ngăn chặn mọi cuộc bạo động có thể đưa đến kết quả tai hại cho nền an ninh quốc nội.
Vì phải cương quyết tiêu diệt mọi âm mưu khuynh đảo để tiếp tay cho bọn Cộng sản tạo điều kiện quấy rối để thôn tín quốc gia.
Tổng trấn đô thành Sài Gòn thông báo lần cuối cùng:
Kể từ ngày hôm nay, tất cả các lực lượng phụ trách an ninh tại đô thành như Quân đội, Bảo an, Dân vệ, Cảnh sát và Thanh niên chiến đấu đã được lệnh nổ súng vào tất cả các cuộc tụ họp, các đám biểu tình, các nhóm người bạo động vi phạm lệnh giới nghiêm tại đô thành.
Đồng bào hãy bình tĩnh, sáng suốt và tích cực đề cao cảnh giác để khuyên răn, gìn giữ, và dạy dỗ các con em hầu tránh mọi vi phạm luật pháp quốc gia, có thể đưa đến hậu quả vô cùng tai hại.
Sài Gòn, ngày 20-8-1963
Thiếu tướng
TÔN THẤT ĐÍNH
Tổng trấn đô thành Sài Gòn
*
Việt tấn xã
Sau đây là bức tâm thư gửi sinh viên, học sinh của thiếu tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh quân đoàn 3 kiêm Tư lệnh vùng 3 chiến thuật, kiêm Tổng trấn đô thành Sài Gòn:
Trong cuộc chiến tranh cách mạng hiện nay của toàn dân chống kẻ thù chung Cộng sản; quân đội cũng như các bạn bảo an, dân vệ, thanh niên, hằng ngày phải dãi nắng dầm sương, và chịu xả thân khắp đó đây trên chiến địa để tạo thành sức mạnh chống đở quốc gia và giữ gìn biên cương lãnh thổ.
Trong lúc đó, từ tiền tuyến đến hậu phương, toàn dân ai nấy đều nỗ lực hăng say để kiến thiết quốc gia, xây dựng hạnh phúc và tiêu diệt Cộng sản thì lại có một nhóm âm mưu lợi dụng sự tranh chấp về tôn giáo làm mục tiêu đấu tranh chính trị, cấu tạo tình trạng rắc rối, phân tán tiềm lực quốc gia và cản trở sự chiến đấu của quân đội mà thật ra chỉ có lợi cho Cộng sản.
Ở tiền tuyến, quân địch đang tìm mọi cách áp dụng mọi hình thức chiến tranh để tiêu diệt ta mà hậu phương thì an ninh bị hăm dọa, trật tự bị xáo trộn, sinh hoạt quốc gia bị đình trệ, tạo nên tình trạng bế tắc mà dù cho nhân dân có tinh thần cao cả đến đâu, quân đội có hùng mạnh thế mấy đi nữa, cũng không thể nào đương đầu nổi với Cộng sản.
Trước tình trạng đe dọa và vô cùng nguy ngập hiện nay, có thể đưa đến sự tồn vong của đất nước, chính phủ đã ban hành lệnh giới nghiêm để giao nhiệm vụ bảo vệ an ninh và duy trì trật tự lại cho quân đội, hầu tạo lại tình trạng ổn định cho toàn thể đồng bào được yên vui sinh sống.
Trước hơn ai hết, các anh chị em là thành phần trí thức, là rường cột của đất nước, và tương lai và vận mệnh của quốc gia suy vong hay hưng thịnh đều tùy thuộc ở thế hệ của các anh – chị – em, gái cũng như trai.
Các anh – chị – em phải suy luận kỹ càng và mạnh dạn gánh lấy nhiệm vụ lịch sử để cùng góp sức với quân đội trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc hiện nay.
Tôi không đòi hòi ở các anh chị em một việc làm khó khăn, một công tác nguy hiểm, mà chỉ mong các anh chị em nhận thức rõ ràng tình trạng nguy ngập cho đất nước mà tất cả các anh chị em đều có trách nhiệm về sự tồn vong hầu phụ giúp quân đội chóng hoàn thành nhiệm vụ vì cứu quốc.
*
Bản tin tức về việc Quân đội Việt Nam Cộng hòa thi hành sắc lệnh ngày 20-8-1963.
Tại Sài Gòn – Thi hành Sắc lệnh ban hành tình trạng giới nghiêm của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã tức khắc mở các cuộc khám xét nhiều nơi được ghi là khả nghi.
Kết quả, tại chùa Ấn Quang ta đã tịch thâu được 3 trái mìn, 10 dao găm. Tại chùa Théravada, ta đã tịch thâu được 1 tiểu liên, 14 bánh plastic, radio.
Tại chùa Xá Lợi, ta đã bắt gặp nhiều dụng cụ ấn loát.
Cuộc khám xét chấm dứt hồi 1 giờ 30 sáng.
Công cuộc duy trì an ninh trật tự trên toàn lãnh thổ đang được thi hành nghiêm chỉnh, chúng tôi sẽ lần lượt loan tin trong những bản tin đặt biệt trong ngày.
Sài Gòn: Giới nghiêm từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng. Lưu thông trong giờ giới nghiêm phải có giấy đặc biệt.
*
Sài Gòn (VTX)
Thiếu tướng Tôn Thất Đính, Tổng trấn Sài Gòn – Chợ Lớn kiêm tư lệnh vùng 3 chiến thuật và quân đoàn 3 vừa ra thông cáo để cho dân chúng rõ về lệnh giới nghiêm tại thủ đô như sau:
Kể từ 9 giờ tối ngày 21-8-1963, lệnh giới nghiêm từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng được áp dụng trong phạm vi thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn. Dân chúng cư trú trong thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn không được ra khỏi nhà hay đi trong các đường phố trong giờ giới nghiêm mà không có giấy thông hành đặc biệt do nhà chức trách quân sự cấp phát. Người nào bị bắt gặp ngoài đường phố, trong các giờ giới nghiêm mà không có giấy thông hành kể trên sẽ bị nghiêm trị theo quân luật.
Các toán tuần tiễu đã nhận được chỉ thị nổ súng vào bất cứ người nào bị bắt gặp ngoài đường phố trong những giờ giới nghiêm lẫn tránh hay chạy trốn không để toán tuần tiễu xét hỏi.
*
Luân về đến nhà vào 4 giờ sáng. Trong đời hoạt động của anh, đêm vừa qua đặc biệt nặng nề. Cọ xát với thực tế, anh đã có thể kết luận về điều gì nhất thiết phải xảy ra, không ngày mai cũng ngày kia. Khi đám cảnh sát dã chiến, mật vụ xông vào chùa, Luân áng ngữ ngay cửa. Anh lóe một chút hy vọng: một sĩ quan cảnh sát nào đó nhìn ra mặt anh và anh có thể đứng ra dàn xếp. Nhưng, chính Thích Đức Nghiệp và Thích Tâm Giác đã lôi anh lên cầu thang. Rõ ràng cả hai không thích cuộc tấn công chùa Xá Lợi bị chận ở ngoài sân. Tiếng kêu thét kinh hoàng bên dưới giống lưỡi dao đâm vào tim Luân. Anh vùng khỏi hai nhà sư, gọi to:
- Dừng lại ngay! Tôi là...
Anh không thể nói hết câu. Bây giờ, không phải hai nhà sư mà đến mấy người lực lưỡng – anh không kịp đếm – vật anh ngã, bịt miệng anh. Anh cố vùng vẫy nhưng đã bị trói tay và chính Thích Đức Nghiệp nhét vào miệng anh chiếc khăn. Họ tống anh vào một góc phòng.
Trận chiến đấu vô nghĩa diễn ra trước mắt anh. Tại đây, anh chỉ quan tâm đến những cái chết, những vết thương mà anh biết không phục vụ cho cái gì cả. Chính phủ Ngô Đình Diệm ngu xuẩn đến độ dùng bạo lực đánh vào tăng ni. Và, một số người mang cái vỏ Phật giáo quyết dùng số tăng ni ấy làm vật hy sinh...
Luân cố cựa quậy. Anh cởi được dây trói anh, rút chiếc khăn khỏi miệng:
- Dừng lại! – Anh thét lớn.
Nhưng, một thanh gỗ - anh không thể biết từ phía nào – đã nện vào gáy anh và anh ngã quỵ, thiếp luôn...
- Dậy!
Luân bừng tĩnh nhờ một cú đá vào lưng của một cảnh sát dã chiến. Anh bị còng tay và bị xô xuống cầu thang. Anh không nhớ đã thiếp bao lâu, nhưng bây giờ cảnh chùa Xá Lợi tan hoang, toàn bộ sư, ni, tín đồ, quần áo tả tơi, máu me đầy người, đang khó nhọc trèo lên những chiếc xe bít bùng.
- Lẹ lẹ... Đồ... !
Có tiếng chửi thề. Và khi Luân nhận ra người chửi thề thì người ấy cũng nhận ra Luân.
- Ủa!...
Người đó là Trần Văn Tư, Giám đốc cảnh sát đô thành.
Tư hốt hoảng. Ông ta vừa chập gót chân vừa quát tên cảnh sát đang lôi xểnh Luân:
- Không được đụng đại tá!
Tên cảnh sát ngơ gác.
- Đứa nào còng đại tá? Mở còng ngay! – Tư quát, nhưng tay vẫn để trên vành kêpi.
Luân không buồn đáp lễ.
- Vì sao đại tá lại lọt vào đây?
Luân không buồn trả lời. Anh rất muốn được theo các tăng, ni đến nơi giam giữ.
Tư ra lệnh cho một cảnh sát. Luân biết Tư cho gọi bộ đàm báo cáo với ai đó.
- Đại tá!
Người lao đến Luân là Thạch.
- Trời ơi! – Thạch kêu thảng thốt.
Luân cười an ủi Thạch:
- Không có chi, chú đừng quýnh...
- Em bị ngăn bên ngoài, không sao vào được. Em toan đi gọi điện, nhưng an ninh quân đội đã buộc em bất động trên xe. - Thạch hổn hển phân trần, y như việc vừa xảy ra với Luân là do lỗi của anh ta.
- Trình đại tá, ông cố vấn muốn nói chuyện với đại tá! – Trần Văn Tư báo cáo.
Luân nghiêng đầu nhìn viên chỉ huy cảnh sát thành phố, bước ra cổng chùa – không phải đến máy bộ đàm nói chuyện với Nhu mà lên xe về nhà.
- Còn gì để nói? – Luân lẩm nhẩm.
Dung thức trắng canh chờ chồng. Cô khóc òa khi Luân xuất hiện ở cửa.

CHƯƠNG 9

Người đến chia buồn đầu tiên với Luân sau cái đêm hãi hùng ở chùa Xá Lợi là Trần Kim Tuyến. Thoạt nghe Thạch báo Tuyến xin gặp Luân, Luân và Dung hơi ngờ ngợ. Lẽ nào gã trùm mật vụ này dám vác mặt gặp Luân khi sự biến đẫm máu ở chùa Xá Lợi là công trình mà nếu gã không vạch kế hoạch và chỉ huy thì cũng đồng tình. Nhu định qua Trần Kim Tuyến, bày thêm trò gì với Luân đây? Luân là một nhân chứng và Nhu chắc chắn không thích thú về những nhân chứng cỡ Luân.
Sáng nay, Luân điện đàm với Nhu. Anh quyết định không nói chuyện với Nhu song chính Nhu gọi anh. Anh tóm tắt những gì anh thấy và bản thân là nạn nhân của trận càn quét hung bạo chưa từng có vào chùa chiền. Luân không dấu sự bực dọc và phê phán nặng lời hành động của chính phủ. Anh đã dùng cả từ “ngu xuẩn”, “man rợ” để chỉ vụ chùa Xá Lợi. Nhu trước sau im lặng. Câu hỏi duy nhất của anh ta liên quan đến sức khỏe của Luân rồi gác máy, lẩn tránh tranh luận.
Bây giờ, Trần Kim Tuyến đến.
- Ít nhất hắn cũng sẽ báo cho anh hay một chân tùy viên quân sự tại một sứ quán nào đó đang chờ anh, trong vòng 24 giờ nữa... - Luân bảo Dung.
- Có thể xấu hơn không?
Luân cười siết vợ vào ngực:
- Không... Bởi vì nếu Nhu định một biện pháp tồi tệ với chúng ta thì bác sĩ Trần Kim Tuyến không cần đến đây. Một vụ chùa Xá Lợi kiểu “bỏ túi” sẽ diễn ra, có khi cả vào ban ngày!
Thằng Lý thức giấc, nhoẻn miệng cười – nó cười tiếp với một bà tiên nó gặp trong giấc ngủ.
Luân cúi hôn con và hôn Dung.
Bác sĩ Trần Kim Tuyến đợi Luân ở phòng khách. Vẻ mặt bồn chồn của vị bác sĩ đứng đầu cơ quan mật vụ khiến Luân rút liền nhận xét: Anh đoán sai. Và, anh đoán sai thật.
- Tôi đến chào từ biệt ông bà kỹ sư... - Tuyến bắt tay Luân giọng rầu rầu.
- Thế nào? – Luân kinh ngạc đến sững sờ.
- Đây, ông kỹ sư đọc thì rõ.
Tuyến chìa cho Luân tờ giấy đánh máy:
“Nay bổ nhiệm bác sĩ Trần Kim Tuyến làm Tổng lãnh sự Việt Nam Cộng hòa tại nước Cộng hòa Ả Rập thống nhất (Ai Cập)”. Diệm ký quyết định, đề ngày 21-8, tức là hôm nay. Luân hoàn toàn không hiểu, thậm chí chưa bao giờ nghĩ đến khả năng kỳ cục như vậy.
- Bác sĩ từ chức Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị. Tôi chưa nghe và cũng không thấy anh Nhu dự định, việc này...
- Tôi không từ chức. Tổng thống chấm dứt nhiệm vụ của tôi vào tối hôm qua.
- Tại sao?
- Ông Nhu giải thích: Tôi bị giới Phật giáo và cả người Mỹ buộc cho nhiều tội, tôi phải rời Sài Gòn.
Giọng Tuyến càng ngao ngán:
- Một Tổng lãnh sự mà phải rời thủ đô trong vòng 48 tiếng đồng hồ... Và, không cần biết chính phủ Le Caire chấp nhận hay không! Lối “thí tốt” của ông Nhu thật tàn nhẫn... Tôi còn quá ít thì giờ nên gặp ông kỹ sư. Tôi muốn trao đổi vài việc hệ trọng với ông...
Tuyến ngó quanh. Phòng khách chỉ có hai người. Luân cố suy đoán. Cử chỉ của Tuyến đặt cho Luân nhiều câu hỏi và câu hỏi quan trọng hơn cả là liệu Nhu và Tuyến đẩy anh vào cái bẫy rập gì. Tới giờ này, dù Tuyến cầm công lệnh đi làm Tổng lãnh sự - với Tuyến, một cuộc lưu đầy – Luân vẫn chưa thể nhẹ dạ tách hai người riêng lẻ. Trong đảng Cần Lao, Tuyến giữ ngôi thứ chỉ sau Nhu và Luân; còn trong quân đội, Tuyến – không mang quân hàm – là nhân vật quan trọng số hai của đảng: Phó quân ủy trung ương mà Luân chỉ là ủy viên. Từ năm 1955 cho đến nay, Nhu và Tuyến gắn bó như hình với bóng. Ý kiến của Nhu phải qua bàn tay của Tuyến mới trở thành hành động. Tuyến thuộc hạng ít nói, ít xuất hiện chính thức, song bộ máy mật vụ đầy quyền lực của Tuyến ám ảnh mọi nhân vật, kể cả nhân vật quan trọng. Chỉ cần một vài chữ nguệch ngoạc của Tuyến, mạng sống của bất kỳ ai đều được định đoạt trong nháy mắt. Tuyến khử hàng nghìn đối thủ của gia đình Diệm – Nhu bằng đủ biện pháp, chung lại là ám sát, còn cách thức thì muôn hình trạng, từ thuốc độc, bắn, đánh chết, chặt đầu đến cho cọp xé ở P.42. Hai hung thần ấy đâu dễ phân hóa, nhất là vào lúc chế độ nhà Ngô giống “nghìn cân treo sợi tóc” như hiện nay?
Tuyến chẳng khó gì mà không hiểu sự hoài nghi của Luân. Môi của tay trùm mật vụ nhếch cười chua chát, đôi mắt sau kiếng cận bừng lên ánh oán độc – không phải với anh Luân, rõ rồi.
- Ông kỹ sư chưa tin tôi... Và cũng khó tin thật. Không ai tin. Luôn tôi, tôi không tin sẽ có ngày này... - Tuyến nói, đều đều.
- Tôi phải rời đất nước, nếu không, sẽ là nạn nhân của chính bộ máy do tôi xây dựng. Sở Nghiên cứu chính trị bị thủ tiêu... Ông kỹ sư không biết sao?
Luân không biết. Tuyến chìa cho Luân một tờ giấy khác, cũng do Diệm ký, quyết định giải tán Sở nghiên cứu chính trị, với lý do “không cần thiết nữa”. Quyết định ký ngày hôm qua và ghi rõ “gửi các báo”.
Luân chưa đọc báo hôm nay.
- Báo đăng cả tin tôi được bổ Tổng lãnh sự. Mọi việc đã công khai hóa. Quân ủy cho phép tôi thôi nhiệm vụ. Ban chấp hành đảng cho phép tôi rút ra khỏi Trung ương... Tôi sụp đổ trước khi chế độ sụp đổ...
Thế mà Luân mù tịt. Nhu không bàn với anh một lời dù anh không phải là hạng “chạy hiệu” trong Trung ương Cần Lao. Giữa lúc anh rơi vào thế trận hỗn độn tại chùa Xá Lợi thì Nhu quyết định một loạt chủ trương. Như vậy – Luân nghĩ – không chỉ có anh lãnh một gậy vào gáy mà còn Tuyến. Anh trỗi dậy nổi, Tuyến phải đội nón ra đi. Trong trường hợp này, rõ ràng Nhu như con bệnh tiến gần đến chỗ hôn mê. Anh ta không đủ sáng suốt. Anh ta sợ Tuyến, sợ một kẻ rành nội bộ triều đình nhà Ngô như rành những sợi chỉ trong lòng bàn tay Tuyến. Bao giờ thì đến lượt Luân? Không! Nhu kiệt sức rồi, không thể cho anh đo ván, dù muốn chăng nữa.
Tuyến hăng lên – hiện tượng hiếm có – cắt dòng suy nghĩ miên man của Luân:
- Tôi tha thiết với công lao của chúng ta – ông Nhu, ông kỹ sư, tôi... Tôi không muốn thấy công lao ấy thành làn khói. Cái gì sẽ xảy ra nếu một cuộc đảo chính do ai đó chủ xướng và, nói thật, tôi không sợ sinh mệnh mình bị đe dọa mà đau lòng vì bước đường chống Cộng của chúng ta đi chưa trọn... Một cuộc đảo chính!
Tuyến nhấn mạnh “Một cuộc đảo chính” và dừng ngay đó. Luân hoàn toàn ý thức về một cuộc đảo chính khó tránh khỏi, ngày mai, ngày kia... Chế độ thúc đẩy đảo chính – đã như cơn dịch từ khi Nguyễn Chánh Thi đánh vào dinh Độc Lập – gấp rút chín muồi. Giờ thì khả năng đảo chính nhều hơn bất kỳ thời gian nào trước đây, có vẻ ai cũng có thể đảo chính, chứ không riêng gì lính Dù. Lực lượng đảo chính sẽ được dân chúng và giới Phật giáo coi như anh hùng cứu dân khỏi ách đàn áp khủng khiếp. Người Mỹ, với thói quen dùng đảo chính để răn dạy tay sai, không đời nào bỏ qua cơ hội. So với lúc Nguyễn Chánh Thi, ngày nay người Mỹ dấn sâu vào Nam Việt, nắm trong tay cả chiếc mũi của ông Diệm, nếu thấy cần thì bóp...
Luân và Tuyến không nói, mỗi người theo đuổi suy nghĩ riêng của mình.
Đã có thể kết luận được: Tuyến không làm trò cò mồi rẻ tiền cho Nhu. Hắn đang bất mãn – Luân nhủ thầm.
- Một cuộc đảo chính! – Tuyến nhắc lại, chấm dứt những phút im lặng nặng nề - Tôi không thích kẻ khác làm cuộc đảo chính ấy. Tại sao không phải chúng ta? Chúng ta không thiếu lực lượng...
Tuyến đi thẳng vào lý do mà ông đến gặp Luân.
- Một cuộc đảo chính? – Luân hỏi gặng, trong khi trong đầu óc anh lóe lên một loạt phương án hành động.
- Đúng, một cuộc đảo chính và đó là tình hình không thể khác. Chúng ta buộc phải lựa chọn, bởi vì đảo chính nhất thiết sẽ nổ ra: hoặc những tên dùng đảo chính để quét tất cả công sức của chúng ta hoặc chúng ta đảo chính để giữ và đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp mà chúng ta gắn bó bằng mạng sống... Ông Diệm, ông Nhu đã tỏ rõ thiếu năng khiếu chính trị, bất tài, thất đức. Phải thay thế nguyên thủ quốc gia. Và chỉ thay thế nguyên thủ quốc gia mà thôi...
- Ai sẽ thay thế? – Luân hỏi nghiêm túc, Tuyến nhận thấy người đối thoại quan tâm đến vấn đề mà ông ta đặt.
- Trước mắt, không thể không là một quân nhân. Một quân nhân được các tướng lĩnh nghe theo đồng thời người Mỹ cũng chấp thuận...
- Còn về lâu về dài?
- Ông kỹ sư thừa biết tướng lĩnh không cai trị được. Người cai trị phải đủ điều kiện chính trị... - Tuyến lập lờ.
- Bác sĩ nên nói thẳng. Tôi không thích úp mở. - Luân nói hơi cau mày.
- Với ông kỹ sư, không có gì gọi là bí mật trong quan hệ giữa ông và tôi. – Tuyến mau miệng – Người có đủ điều kiện chính trị hiện thời, theo tôi và theo một số đông bạn Mỹ mà tôi tiếp xúc, là ông!
- Tôi? – Luân cười mỉm.
- Tôi nói với trách nhiệm... Phải, ông! Đại sứ Mỹ vừa nhận chức nói thẳng với tôi như vậy.
Luân chợt nhớ lần trao đổi với Nhu, cách đây bảy, tám năm. Kiểu “luận anh hùng” của Trần Kim Tuyến đưa Luân lên mây xanh và trong bài toán của hắn, Luân chẳng qua cũng chỉ là một chất độn.
- Tôi nghĩ hơi khác. – Luân tiếp tục cười mỉm – Người có thể gánh vác trọng trách quốc gia hiện thời phải là bác sĩ. Tôi nói với tinh thần trách nhiệm. Tôi tự biết năng lực của mình...
- Ông kỹ sư khiêm tốn quá... Dĩ nhiên, tôi và nhiều người khác sẽ hết lòng cộng tác với ông kỹ sư... Ông kỹ sư là cái gạch nối quý giá giữa các thế lực, đảng Cần Lao và số cán bộ của ông Diệm, ông Nhu dễ dàng chấp nhận ông kỹ sư, người Mỹ thì dứt khoát rồi, giới Phật giáo không chống ông, các tướng lĩnh tin cậy ông... Sau đảo chính, ông kỹ sư sẽ nhận một trọng trách dân sự, tỷ như thủ tướng và sau đó, chúng ta lần lần điều chỉnh...
Tuyến nói y như ông ta là một phù thủy, tự bày binh bố trận. Tuy nhiên, Luân hiểu rằng Tuyến nuôi nấng ý định này từ lâu và đã xếp tới xếp lui nhiều lần các quân cờ, với sự gợi ý và tham gia của nhóm người Mỹ nào đó.
- Giả tỷ như điều ông nói là tất yếu xảy ra, số phận ông Diệm, ông Nhu ra sao? – Luân hỏi.
- Thiếu chi cách! – Tuyến nhún vai – Chủ tịch hội đồng cố vấn tối cao, nếu ông ta ở lại. Sang Pháp hoặc Mỹ đều trị bệnh gì đó. Tôi nói ông Diệm. Còn ông Nhu, đành phải lưu vong cùng bà vợ thôi!
- Tại sao bác sĩ thố lộ tất cả các cơ mật như vậy với tôi? – Luân hỏi đột ngột.
- Tôi chờ câu hỏi này của ông kỹ sư... Ông Diệm, ông Nhu hiểu ông có chừng mực. Tôi thì khác, tôi hiểu... Nói bấy nhiêu, có lẽ ông kỹ sư hết thắc mắc. – Tuyến đáp lại, rất bình tĩnh.
Tuyến bủa một cái lưới bí hiểm quanh Luân. Hắn hiểu mình như thế nào? Thằng cha láu cá thật...
- Tôi chưa hết thắc mắc, trái lại, thắc mắc thêm. Tôi và ông bác sĩ là yếu nhân của đảng Cần Lao cả hai đều có chân trong quân ủy...
- Đúng vậy! – Tuyến ngắt lời Luân – Ông cùng Nhu kiến tạo chủ thuyết Cần Lao. Hơn nữa, ông là con nuôi của Giám mục Ngô Đình Thục... Song...
Tuyến ngừng lại, ngó Luân. Đôi mắt của ông ta không có vẻ gì cận, linh hoạt hẳn. Luân không tránh, anh cũng ngó thẳng Tuyến. Chừng năm giây chậm chạp trôi qua.
- Song, ông từng đi kháng chiến, có đầu óc Quốc gia thực sự, không chấp nhận một chế độ độc tài. Ông không bán linh hồn cho ông Diệm, ông Nhu mà có chủ kiến riêng...
Luân chưa thể thở phào. Thằng cha láu cá này đưa dẫn Luân đến đâu?
- Tôi là mật vụ. Tôi theo dõi ông. Ông Nhu bảo tôi theo dõi ông về một hướng khác, tôi cần hiểu ông về hướng khác. Những ngày đầu ông về thành, tôi đặt máy ghi âm, bắt song đôi điện thoại, bố trí tài xế Vũ Huy Lục theo ông và nhiều cách khác, chắc ông chả lạ gì. Và, tôi nói thật, không phải tôi không nắm trong tay một số bằng chứng mà tôi tin là ông không chối cãi nổi về những dính dáng của ông với phía bên kia... Trường hợp Vũ Huy Lục, chẳng hạn! Vũ Huy Lục không chết mà đã gặp ông – nơi gặp thì tôi không rõ song ông ngồi trên xe Lục lái, tôi có ảnh!
Luân như nghẹt thở. Khủng khiếp quá. Trong một thoáng, anh nghĩ phải bắn chết ngay tên trùm mật vụ này. Tuyến có vẻ chẳng để ý đến phản ứng của Luân, nói tiếp, giọng đều đều:
- Không chỉ vụ Lục, tôi hoài nghi khi ông tổ chức tự vệ Bình Dương, xử lý nhiều trường hợp ở Kiến Hòa và tôi biết chắc – tiếc là không có bằng chứng – ông quan hệ với một phụ nữ tên Mai, người đứng đằng sau trận ném bom dinh Độc Lập năm ngoái. Tôi không nói việc ông tiếp đại úy Phan Lạc và giúp gã vượt biên giới – ông khôn ngoan nhờ ông Nhu cho phép gã vượt biên giới một cách công khai, có đủ lý lẽ. Phan Lạc cùng một số sĩ quan Cộng hòa đã liên minh với Việt Cộng. Hôm nay, khi tôi định bàn với ông chuyện lớn của đất nước thì không cần giấu giếm: tôi từng định “khử” ông.
Thời gian cho phép tôi cộng một loạt hiện tượng về ông và tại sao tôi để cho ông sống? Đơn giản thôi, chỉ cần tôi báo cho tất cả nghi vấn cùng vài bằng chứng với ông Nhu, ông sẽ nằm dưới P.42...
Nhưng đó đâu phải là chuyện của tôi? Nói thật chính xác, từ trước vụ ném bom dinh Độc Lập, tôi chưa hội đủ tài liệu về ông. Lúc đó, nếu tôi hiểu về ông như sau này thì nhất định tôi đã ra tay. Lúc đó, tôi không như từ đó về sau... Từ đó về sau, tôi thay đổi. Tôi không thích chết chùm cùng gia đình ông Diệm, không thích chết mà mang tiếng xuẩn ngốc. Tôi bắt đầu phân tích về ông và vỡ lẽ rằng, ông giác ngộ sớm hơn tôi. Ông sửa soạn khá kỹ, không phải phao để tự cứu lúc đắm đó, mà cả một phương lực khả dĩ tạo vị thế mới cho Việt Nam Cộng hòa... Ông giữ liên lạc với phía bên kia vừa mức khiến họ ảo giác về ông, ông tham gia nhiệt liệt vào chế độ ông Diệm mà vẫn giữ khoảng cách trước công luận, ông xây dựng lực lượng, ông tiếp xúc với người Mỹ mà không lọt vào cái thòng lọng CIA, ông giữ cảm tình với phái trung lập thân Pháp cả với Sihanouk... Tóm tắt, ông là một con người chiến lược, nhìn xa, tính rộng. Ngay việc ông lưu ân tình với Lại Văn Sang cho thấy, không phải bây giờ như tôi, mà từ khi hợp tác với chế độ, ông đã “phân thế”, dự kiến... Tôi hiểu ông như vậy. Tôi đảm bảo rằng người Mỹ cũng hiểu ông như vậy...
Luân cố qua lời nói, nét mặt của Tuyến để đo độ thành thật của hắn.
- Tôi và ông, nếu còn chỗ chưa đồng nhất thì chỗ đó là thời gian xử sự. - Tuyến nói tiếp – Tôi thấy không thể chần chờ. Đảo chính là cái không sao tránh khỏi, vấn đề sống chết đối với chúng ta không phải có đảo chính hay không mà ai đảo chính. Ai đảo chính có lợi nhất? Đảng Cần Lao đảo chính là có lợi nhất... Giáo sư Fishell nghiên về hướng đó. Ông kinh ngạc về Nolting? Nolting nói riêng với tôi sau khi chia tay. Ông ta tuy vẫn luyến tiếc những lần đi lại với Trần Lệ Xuân song không mù quáng. Tôi hỏi ông ấy: Đã ướm thử đại tá Luân chưa? Ông ấy nhún vai: Đại tá Luân sẽ nổi giận. Nolting vừa rời nước ta mấy hôm nhưng tôi tin là ông kỹ sư không nổi giận. Mọi tệ hại đã phơi bày. Tình hình đòi chúng ta hành động...
*
Đúng, tình hình bao quát của miền Nam Việt Nam vụt qua trong trí Luân. Cái “có lợi nhất” của Tuyến và của Luân không giống nhau. Nhưng Tuyến rất đúng khi nhấn mạnh rằng “đảo chính là không tránh khỏi”. Ngày càng lộ rõ những dấu hiệu đảo chính. Về cơ bản, mọi đổi thay bộ máy chính trị ở miền Nam đều phải có ý kiến của Mỹ. Tuy nhiên, Luân đánh giá ảnh hưởng của Mỹ còn mức độ - chưa hoàn toàn chi phối mọi ngóc ngách của tình thế và chưa nắm tuyệt đối mọi lực lượng chống Diệm. Bàn tay CIA thọc khá sâu vào các lĩnh vực nhưng có sự có mặt chưa đến hai chục nghìn sĩ quan và binh lính Mỹ còn mỏng để Mỹ giựt dây – kẻ lãnh dollar Mỹ và sẵn sàng làm bất cứ điều bại hoại nào, lại hoặc giữ vị trí khiêm tốn trong chế độ Diệm, hoặc chỉ như con rối, hò hét các khẩu hiệu mà không có thực lực: kẻ tuy đi với Mỹ mà lòng vẫn vương vấn Pháp, số này thật sự nắm binh quyền; kẻ đáng ngờ về những dính dáng với Cộng sản kể cả dưới hình thức tình cảm bè bạn, gia tộc... Cuộc chống đối giới Phật giáo cung cấp cho Mỹ cơ hội nghìn vàng. Song CIA thừa biết, tay sai của chúng chỉ là số ít. Trong lần James Casey gặp anh gần đây nhất, anh hiểu Mỹ không phải đắn đo mặc dù chế độ Diệm sống nhờ dollar Mỹ, cắt đứt viện trợ kinh tế tức bóp mũi Diệm, song Diệm sẽ giãy giụa, rất không có lợi cho Mỹ.
- Đại tá nhìn phong trào Phật giáo hiện nay như thế nào? – James Casey hỏi Luân, và không đợi Luân trả lời, y nói luôn – Tôi rất ngại Phật giáo đi chệch con đường mà họ chọn... Con đường đòi hỏi bình đẳng tôn giáo. Khá nhiều nhà sư tán thành – tán thành kín đáo thôi – Mặt trận Giải phóng. Chiều hướng có thể xấu nếu các nhà sư ấy giữ vai trò chi phối phong trào giáo hội, họ khá đông và uy tín lớn. Tôi có đủ tài liệu về nhà sư Thích Quảng Đức, ông ta là một phần tử ít nhất cũng không chống Cộng. Tôi cũng có đủ tài liệu về nhà sư Thích Thiện Hoa, Thích Thiện Hòa, Thích Trí Tịnh, bà Huỳnh Liên v.v... Những nhà sư này được ông Thích Tịnh Khiết, ông Thích Đôn Hậu và các ông lãnh đạo tinh thần cao cấp của Phật giáo trọng vọng...
Luân xen vào:
- Còn các ông Thích Tâm Châu, Thích Đức Nghiệp, Lâm Em, Thích Tâm Giác, Thích Nhất Hạnh, Thích Huyền Quang...
- Ôi chà! – James Casey xua tay – Nếu kể hạng đó thì quá số cần thiết! Tôi nói chuyện nghiêm chỉnh với đại tá. Ngay Thích Hộ Giác, tôi mách riêng với đại tá, bố ông ta là một thủ lĩnh Phật giáo tên Thiện Luật, thân Cộng ra mặt! Một biến động xuất phát từ sự chống đối của Phật giáo rất dễ trở thành liên minh giữa tín đồ, các nhà sư đầu óc quốc gia với Việt Cộng. Tôi không thổi phồng nguy cơ đâu...
James Casey thuyết phục Luân nên tìm cách tác động Diệm, Nhu sửa soạn nhanh đường lối chính trị, James Casey thừa nhận Mỹ còn do dự vì thế lực của Mỹ trong Phật giáo chưa đủ liều lượng cho một đột biến.
Cũng như Trần Kim Tuyến, Luân băn khoăn về cái nút: ai đảo chính. “Ai đảo chính” sẽ quyết định bước phát triển sắp tới của miền Nam.
Luân nhớ một tài liệu mật do anh Sáu Đăng gửi vào. Tài liệu mật đó là bức điện của đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn gửi Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk đề ngày 12-5-1961, sau chuyến Phó tổng thống Mỹ L.B. Johnson thăm Sài Gòn: “Tướng Mac Garr và tôi có mặt tại các cuộc thảo luận giữa Diệm và Phó tổng tống về việc đưa các lực lượng Mỹ vào Việt Nam. Diệm nói với Phó tổng thống rằng hắn ta không muốn quân chiến đấu Mỹ đánh nhau ở Nam Việt trừ phi miền Bắc công khai vượt vĩ tuyến 17”.
Một tài liệu mật khác – cũng của anh Sáu Đăng – là báo cáo của Johnson gửi Kennedy, có đoạn: “Việt Nam giữ vai trò quyết định cơ bản tình hình Đông Nam Á trong thời điểm hiện nay và chưa ai đoán đến bao giờ thì vai trò đó sẽ giảm nhẹ. Chúng ta phải quyết định hoặc giúp đỡ các nước Đông Nam Á hết khả năng của chúng ta hoặc chịu thua ở khu vực này, kéo lùi đường phòng thủ của chúng ta về tận San Francisco và với khái niệm “nước Mỹ phòng ngự”. Quan trọng hơn, chúng ta sẽ nói với thế giới rằng đừng trông cậy ở chúng ta như họ từng trông cậy vào lúc Triều Tiên... ”
Nolting đã làm công việc gây sức ép, qua cả Lệ Xuân. Sự việc này thì Luân nắm chắc. Do đó ngày 13-10-1961, Diệm miễn cưỡng yêu cầu Mỹ gửi thêm lực lượng chiến đấu vào miền Nam. Diệm và Nolting thống nhất: lực lượng có giới hạn dưới một vạn và phải đưa vào hết sức bí mật. Robert, Mac Namara, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và tướng Taylor, cố vấn quân sự của Tổng thống Mỹ đến Sài Gòn, kết quả là Taylor đề nghị gửi ngay, dưới danh nghĩa “cứu trợ nạn lụt” ở Trung phần Nam Việt từ 8.000 đến 10.000 quân Mỹ, tất cả đặt dưới sự quản lý và điều khiển của CIA. Cửa đột phá đã mở. Đến nay, 18.000 quân Mỹ có mặt ở Nam Việt, mặc dù như tin tình báo Mỹ mà Luân nắm, Nolting thẳng thừng bác con số quân Mỹ quá lớn đó và ngay trong Nhà Trắng, Roger Hillsman cũng phản đối Kennedy cho rằng “cần cứu Diệm” bằng cách đưa quân Mỹ vào Nam Việt. Bạn thân của Kenendy, đại sứ Mỹ tại Ấn Độ John Kenneth Galbraith không tán thành Mỹ tiếp tục ủng hộ Diệm. Helen Fanfani đã hé cho Luân biết tin này: Galbraith cho rằng Diệm là tên độc tài non choẹt, cùng với em trai điều khiển công việc Nhà nước bằng cảnh sát, thích củng cố quyền lực gia đình hơn là theo đuổi lý tưởng Quốc gia và giải pháp tốt nhất là loại Diệm. Kennedy đã nghĩ đến khả năng cử Galbraith hội đàm với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa song Dean Rusk lại tin là tình hình chưa xấu đến như vậy.
Mac Namara và Taylor lại được Kennedy cử sang Sài Gòn. Luân chẳng rõ hai người đã phúc trình như thế nào với Kennedy nhưng Fanfani cho anh biết rằng cả hai đều bi quan...
- Tôi đoán Tổng thống Mỹ đã tiến hành nhiều phiên họp thu hẹp của Hội đồng an ninh quốc gia để bàn việc thanh toán ông Diệm. – Trần Kim Tuyến nói – Cơ sở cho phép Mỹ định các biện pháp là lời hứa của một số nhà sư. Tôi có tài liệu: Thích Tâm Châu hứa nếu Mỹ lật ông Diệm thì Mỹ có thể đưa bao nhiêu quân vào Việt Nam tùy ý. Cũng theo Thích Tâm Châu, sau khi ông Diệm bị lật có khả năng Mỹ không cần thêm quân: một chính phủ được lòng dân đảm bảo công cuộc chống Cộng tiến triển tốt đẹp, thậm chí các đồng chí của Thích Tâm Châu đảm bảo “Bắc tiến”... Ta phải tranh thủ hành động nhanh hơn các thế lực khác. Tướng Big Minh còn nghiêng ngả. Tướng Tôn Thất Đính tuy bảo vệ ông Diệm song nếu lực lượng của ta hành động, ông ấy sẽ nhập bọn thôi... Rất tiếc, tôi phải rời Sài Gòn. Tôi bày tâm sự với đại tá vì tôi chưa bao giờ xét lầm người. Đại tá thay tôi nắm các đầu mối và tùy nghi hành sự. Tôi bí mật trú tại Băng Cốc và giữ liên lạc chặt với đại tá...
- Đồng thời, giữ liên lạc chặt với Phân cục tình báo Mỹ. - Luân bổ sung, hơi cười.
- Tất nhiên! – Tuyến mau lẹ xác nhận – Đại tá thừa hiểu nếu người Mỹ không ôkê thì chớ hòng có một cải cách nhỏ, đừng nói đảo chính. Người Mỹ không ôkê, không có Nguyễn Chánh Thi, không có Nguyễn Văn Cử và cũng không có nốt Thích Tâm Châu...
- Người Mỹ? – Luân châm biếm – Đến mấy “người Mỹ”? Đến mấy CIA?
- Cánh Fishell mạnh nhất thế giới hiện nay!
- Chưa chắc! Tôi rất ngại Cabot Lodge. Ông ta không ưa Fishell...
- Sau lưng Fishell là Mac Namara!
- Sau lưng Cabot Lodge là Kennedy! Và, tôi nghĩ còn một nhân vật nữa mà bác sĩ không nhắc, một nhân vật người Việt Nam thèm đảo chính hơn tất cả...
- Đại tá muốn nói Mai Hữu Xuân? Không sợ! Gã chẳng có lực lượng. Phòng Nhì Pháp không đủ lực lượng...
- Ông bác sĩ! Nếu trong tính toán của ông có chỗ nào chưa ổn thì chỗ đó là Mai Hữu Xuân...
- Thôi được, tôi sẽ bổ cứu sau... Tôi ít thì giờ quá. Ta hãy đi vào kế hoạch cụ thể...
Trần Kim Tuyến thấp giọng.
*
Sau khi tân đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge đến Sài Gòn, một tuần lễ sau buổi tiễn đưa lưu luyến cựu đại sứ Nolting tại Phủ tổng thống, tình hình thủ đô Nam Việt như sợi dây đàn lên thật căng. Ngay trong vụ Xá Lợi, gần sáng, Ngô Đình Diệm triệu tập hội đồng chính phủ để thông báo quyết định của cá nhân ông ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn lãnh thổ, giao quân đội giữ an ninh trật tự. Người phản đối tổng thống là Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu. Ông Mẫu trình bày vắn tắt quan điểm của ông: hành động vũ lực của chính phủ sẽ khiến cái hố ngăn cách giữa chính phủ và Phật giáo càng thêm sâu. Không phải không có người nghĩ như ông Mẫu, song chẳng ai dám hó hé: Tổng thống đằng đằng sát khí. Ông Mẫu trình với Tổng thống: ông xin từ chức để cá nhân ông không dính đến, theo ông, một “sai lầm chết người”. Người ta chờ một sự trừng phạt sấm sét của ông Ngô Đình Diệm. Diệm tái mặt, ngó trừng trừng Vũ Văn Mẫu – điều rất khác thường đối với Diệm; ông ta ít ngó thẳng mặt người đối thoại. Nhưng, Diệm chỉ nói: Tôi đồng ý nhưng giáo sư phải xử lý Bộ Ngoại giao một lúc, chúng tôi bổ nhiệm người thay. Hẳn không vì Diệm sợ Mẫu, song với một nhân sĩ từng cộng tác với chế độ bảy, tám năm trời, Diệm thấy không tiện đối xử thô bạo.
Do vậy, khi Mai Hữu Xuân, bao giờ cũng rất thính mũi trước các sự kiện, mới 6 giờ sáng, xin gặp riêng Diệm – và được Diệm cho gặp – đã cung cấp nhiều tài liệu về Vũ Văn Mẫu, Diệm không nghe. Xuân báo với Diệm: Vũ Văn Mẫu là bạn cột chèo với luật sư Hoàng Quốc Tân mà Tân là cán bộ Cộng sản. Diệm hỏi lại: Thế, trường hợp nào ông sẽ bảo với tôi ông Tân là con cháu Hoàng Trọng Phu, Hoàng Cao Khải? Ông nên nhớ luật sư Trần Văn Chương là thông gia với chúng tôi...
Sáng hôm sau, Vũ Văn Mẫu xuống tóc, bày tỏ cái thái độ đứng về phía Phật giáo. Ngày hôm sau nữa, đại sứ Trần Văn Chương bị Diệm chấm dứt nhiệm vụ tại Washington.
Phi cảng Tân Sơn Nhất, do lệnh giới nghiêm, ngừng hoạt động. Tuy nhiên, chuyến máy bay chở đại sứ Cabot Lodge đã phá cả lệnh giới nghiêm ấy. Các nhà báo, phần lớn Mỹ và nước ngoài – chực khai thác vài lời của đại sứ - nhưng Cabot Lodge, không cười, nói cộc lốc: Không có gì để tuyên bố!
Chế độ Sài Gòn đón tân đại sứ bằng một loạt biện pháp mà qua chúng, ai cũng hiểu Diệm muốn nhắn với Mỹ: Sài Gòn không nhượng bộ Phật giáo – nên hiểu là không nhượng bộ sức ép của Mỹ, Bộ giáo dục đóng cửa tất cả các trường học kể từ 24-8. Ngày 29-8, hằng mấy vạn học sinh sinh viên biểu tình phản đối lệnh đóng cửa trường học, khi tập trung tại bùng binh chợ Bến Thành thì cảnh sát vũ trang xông vào giải tán. Một trận chiến bùng nổ - bùng nổ dữ dội. Học sinh, sinh viên dùng đá, gậy chống lại dùi cui. Nữ sinh Quách Thị Trang bị cảnh sát đâm chết. Gần 2.000 học sinh, sinh viên bị bắt, đưa thẳng lên Quán Tre, trại huấn luyện này biến thành nhà tù khổng lồ mà cai tù là tướng Trần Tử Oai – ông ta bắt số học sinh sinh viên phơi nắng, phơi mưa, nhịn đói theo chỉ thị trực tiếp của Nhu.
Buổi trình ủy nhiệm thư của Cabot Lodge ở Phủ tổng thống trùng với lễ cầu siêu cho Quách Thị Trang ở khắp các chùa.
Sau phần nghi thức, Diệm và Cabot Lodge trao đổi ý kiến. Diệm chờ Cabot Lodge phàn nàn trút cơn giận dữ lên chính phủ Mỹ, nhưng Cabot Lodge hoàn toàn giữ buổi trình ủy nhiệm thư trong khuôn khổ xã giao.
Ông ta chuyển đến tổng thống Nam Việt lời chào và chúc sức khỏe của Tổng thống Mỹ. Diệm cũng làm như vậy, thêm vài câu chúc tân đại sứ đóng góp hữu hiệu vào mối quan hệ thân hữu giữa hai quốc gia. Điều duy nhất mà Diệm nhắc là ông ta mong Cabot Lodge tận tụy và khách quan như cựu đại sứ Nolting. Đáp lại, cũng là điều duy nhất mà Cabot Lodge gợi ý là chính phủ Việt Nam Cộng hòa nên “thắt chặt khối đoàn kết quốc dân chung quanh Tổng thống”. Chẳng rõ có phải vì gợi ý của Tổng thống hay không mà mấy hôm sau, báo chí đưa tin Ngô Đình Diệm viếng một ngôi chùa ở Phú Nhuận. Cử chỉ rất tượng trưng này của Diệm lọt tỏm giữa một tràng biến cố ồn ào: Vương quốc Cambốt tuyên bố đoạn giao với Việt Nam Cộng hòa; Vũ Văn Mẫu hành hương sang sứ Phật Ấn Độ, chùa Xá Lợi được giải tỏa nhưng chính phủ cử một ban quản trị mới thuộc Hội phật học Nam Việt giữ chùa. Tổng trấn Tôn Thất Đính cho biết số học sinh, sinh viên giam ở Quán Tre đã được trả tự do, trừ vài người. Chính phủ hình như quyết định phản công bằng chính trị: Thanh niên, Thanh nữ cộng hòa biểu tình lớn ủng hộ chính phủ và Tổng thống; các trường trung học mở cửa lại... Quần chúng vẫn có cách phản ứng: học sinh các trường lớn như Trưng Vương Võ Trường Toản... không chịu đi học.
*
Ngày 2-9, vào buổi chiều, một chiếc xe Ford dừng trước nhà Luân. Xe mang số tư nhân, không có hộ tống. Thạch mở cổng cho Luân đi làm về, vừa thay quần áo, đang đùa với bé Lý và chờ Dung còn ở nơi làm việc. Khách vào nhà, tất cả bốn người – đều là người Mỹ. Ba dừng ngoài sân, một bước nhanh lên bậc thềm. Khách cao quá khổ, mặc bộ tropical xám tro. Khách là tân đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge.
- Xin lỗi đại tá, tôi đường đột đến nhà riêng đại tá mà không xin phép. Tôi không muốn cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta bị nhà báo lợi dụng.
Cabot Lodge chìa tay. Luân hơi bối rối vì bộ quần áo mặt trong nhà của anh.
- Đại tá khỏi thay quần áo. – Cabot Lodge hiểu liền sự bối rối của Luân – Ta nên xem nhau như bạn... Hẳn là bà đại tá đi làm chưa về.
Cabot Lodge không đợi Luân mời, đã ngồi xuống ghế, sau khi vuốt tóc bé Lý:
- Chà, chú bé Lý kháu quá! – Cabot Lodge khen.
“Gã biết về mình khá rõ!” – Luân nghĩ – “Gã biết chăc giờ này mình có ở nhà, Dung chưa về, biết cả thằng bé Lý”.
Chị Sáu mang nước.
- Chào chị Sáu! – Cabot Lodge nói và Luân dịch lại. Chị Sáu ngỡ ngàng buột miệng:
- Vì sao ông đại sứ biết thứ của tôi?
Luân chưa kịp trả lời thì Cabot Lodge đã nói:
- Có phải bà ta ngạc nhiên vì tôi gọi đúng tên của bà ta? Tôi còn biết người mở cổng tên Thạch, quê Chợ Gạo, tức là một vùng quê thuộc châu thổ sông Cửu Long, còn biết bác sĩ Soạn, biết kỹ sư Gustave...
Nói xong Cabot Lodge cười ha hả.
“Ngón đòn phủ đầu đây!” – Luân nhận xét.
Luân hiểu về Cabot Lodge cũng không kém. Anh bắt đầu nghiên cứu về tay chính khách cỡ bự này khi gã xuất hiện trong các cuộc vận động tranh cử bên Mỹ.
Henry Cabot Lodge Jr, sinh ở bang Massachusetts, năm nay 61 tuổi, vợ là Emily Sears, hai con – Georges Cabot và Henry Sears – thuở nhỏ học ở Boston, quê nhà, tiến sĩ văn chương Đại học Laval ở Canada, dạy học ở nhiều trường, viết các báo lớn ở Mỹ như Boston Evening Transcrift, New York Heral Tribune, Time, Life, Fortune magazines, Tổng giám đốc Viện nghiên cứu Đại Tây Dương, thượng nghị sĩ bang Massachusetts, đại diện Mỹ trong Hội đồng bảo an Liên hợp quốc từ năm 1953 đến 1960... Tóm lại, một nhân vật nặng ký so với các đại sứ Mỹ tiền nhiệm ở Việt Nam Cộng hòa. Rõ ràng, Kennedy “xuất chủ bài” để đối phó với tình hình đã sấn sâu vào rối loạn ở Sài Gòn. Và, Kennedy cũng ít nhiều có ẩn ý: Cabot Lodge là lãnh tụ đảng Cộng hòa, thôi thì các anh Cộng hòa ó ré về chính sách của chính phủ Mỹ thuộc đảng Dân chủ ở Viễn Đông, mời các anh tự tay giải quyết!
- Chúng ta bắt đầu, được chứ?
Cabot Lodge hỏi, không cần Luân đồng ý, nói luôn:
- Đại tá hãy tìm hiểu sau, hoặc tôi sẽ nói nhờ đâu tôi nắm các chi tiết quanh đại tá... Tướng Collins, đại sứ Rheinardt, Durbrow, và – Cabot Lodge bỗng cười nụ - Tướng Jones Stepp đều dặn tôi: người Việt Nam đầu tiên mà tôi cần gặp ở Sài Gòn là đại tá... Tất nhiên gặp theo cái nghĩa trọn vẹn, chứ tôi đã gặp tại sân bay Tân Sơn Nhất Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, Ngoại trưởng Mẫu – gặp tôi xong, ông Mẫu xuống tóc và tôi phải thanh minh rằng hành động của ông Mẫu không hề liên đới một tí gì với tôi – và đã trình ủy nhiệm thư cho Tổng thống Diệm... Tiện thể, xin báo cáo với đại tá tin vui: tướng Jones Stepp và phu nhân, bà Saroyan ấy mà, sắp sang Sài Gòn...
Luân vui thật. Thế là Saroyan giữ lời hứa. Có Saroyan lúc này, lợi cho công việc của Luân. Cabot Lodge đánh giá vẻ rạng rỡ của Luân theo hướng khác:
- Tướng Jones Stepp quí đại tá, qua phu nhân... Và, mọi quý trọng đều có giới hạn.
Luân không cần cãi lại. Anh hiểu Saroyan hơn là Cabot Lodge. Trong khoảnh khắc, công vụ lùi xuống hàng thứ yếu và Luân xót xa. Saroyan có quyền có một người chồng mà cô ấy yêu, còn việc cô ấy nhận lấy Jones Stepp, tuổi đáng bố cô, thì vì Luân...
- Theo đại tá, tình thế Nam Việt hiện thời ra sao? – Cabot Lodge đi vào trung tâm của cuộc gặp gỡ không hẹn này.
- Xấu... rất xấu! – Luân trả lời gọn.
- Xấu theo nghĩa nào?
- Theo nghĩa, tiềm lực đoàn kết quốc gia bị phá hoại nặng nề, chính phủ đối địch với dân chúng...
-... Và tạo cơ hội cho Cộng sản thu thắng lợi? – Cabot Lodge nói xen.
- Hậu quả đó là tất nhiên...
- Đại tá thấy có lối ra không?
- Chỉ thấy có sự phức tạp!
- Đâu đến bi quan như thế? Bác sĩ Trần Kim Tuyến gặp tôi... - Cabot Lodge nhìn chằm chằm vào mặt Luân – Chỉ 15 phút thôi, tôi thấy ông Tuyến không bi quan!
- Bi quan hay lạc quan là khái niệm và cảm thụ có thể của từng người, ông Diệm đang lạc quan đấy... Nhưng, trên lợi ích rộng lớn, ai cũng phải đắn đo, nhất là vị đại diện cho nước Mỹ. Có lần, tôi hỏi đại sứ Frederick Rheinardt: liệu người Mỹ định đưa bao nhiêu quân vào Nam Việt?
- Đại sứ Rheinardt trả lời như thế nào?
- Đại sứ lắc đầu.
- Tôi không khác ý đại sứ Frederick Rheinardt. Nếu đại tá nêu câu hỏi như vậy, tôi cũng lắc đầu. Tôi cho là 18.000 người Mỹ ở đây là thừa. Tôi muốn giảm...
- Một nguyện vọng lành mạnh! – Luân kêu lên. - Song thưa đại sứ, chỉ là nguyện vọng. Tôi muốn nhân dịp này xét duyệt, cùng đại sứ, một vài tấm gương. Ta hãy soi gương người Pháp... Được chứ?
- Tốt! Mời đại tá... Người Pháp ở Đông Dương?
- Không! Người Pháp ở Algérie. Bài học Đông Dương mà người Pháp rút ra là: phải có quân số đông hơn đối phương mới hòng chiến thắng. Họ đã nhân lý thuyết của Mao Trạch Đông lên gấp mấy lần – Mao bảo 3 đánh 1, người Pháp theo công thức 11 đánh 1: 760.000, để đè bẹp 65.000 quân kháng chiến Algérie. Đánh nhau 8 năm, mỗi ngày Pháp tốn 15 triệu franc. Đến hai cuộc phản nghịch trong nội bộ Pháp, rất hiếm đối với các nước văn minh phương Tây. Tướng Salan và Massu dù bị trừng phạt, nước Pháp vẫn lao đao, nền Đệ tứ cộng hòa sụp đổ... Có thể nói là nước Pháp đã thắng bằng quân sự ở Algérie nhưng rồi người Pháp phải ra đi, đi vĩnh viễn...
- Tôi hiểu ý đại tá. Còn tấm gương nào nữa?
- Hy Lạp... Thống chế John Harding của Anh có những 4 vạn quân trong khi cách mạng Hy Lạp chí có 300 quân, dưới quyền của đại tá Grivas...
- Và, người Anh đã thắng!
- Đánh nhau 5 năm... Quân số thay đổi, người Anh sắp thua nếu không có ván bài chính trị... Đúng, người Anh đã thắng, nhưng không thắng bằng quân sự... Đáng tuyên dương không phải John Harding, mà cơ quan tình báo Anh!
- Cứ cho đại tá có lý, Nam Việt thì sao?
- Đại sứ đã đọc bài South Vietnam’s international problems (1) đăng trong Pacific Affairs, số tháng 9-1959, của Bernard Fall chưa?
- Rất tiếc...
- Giáo sư Bernard Fall do khối SEATO thuê nghiên cứu công trình “Sự thâm nhập của Cộng sản vào khu vực”. Ông ta trình cho SEATO một lô nhận xét, đáng để ý là, Nam Việt đã bị bao vây và chia cắt bởi trong một thời gian ngắn, Cộng sản đã thủ tiêu các nhân viên cai trị của chính quyền Sài Gòn thuộc cấp xã. Phát hiện của Bernard Fall dẫn đến thông điệp liên bang của Tổng thống Kenendy tháng 5-1961 nói cụ thể con số cán bộ xã của Việt Nam Cộng hòa bị loại là 4.000 trong một năm và, ngài đại sứ chắc đã rõ, tướng Taylor sang Việt Nam, tiếp theo, sự can thiệp quy mô lớn của Mỹ. Với sự can thiệp đó, 10.000 trưởng ấp bị thủ tiêu. Vậy thì, ta cứ làm con toán nhỏ: bảo vệ 4.000 viên chức cần 18.000 nghìn lính Mỹ, bảo vệ 10.000 trưởng ấp cần 45.000 lính Mỹ. Và ai đoán nổi con số trưởng ấp sẽ bị loại lên đến bao nhiêu? Cái cớ thì đơn thuần tưởng tượng, còn biện pháp thì hao tốn khôn lường...
- Chúng ta dễ dàng nhất trí với nhau. Cho nên tôi đã gặp bác sĩ Trần Kim Tuyến.
“Gã mật vụ này thố lộ cái gì với Cabot Lodge?”. Luân huy động tất cả mọi thứ mà anh có: phản xạ, ấn tượng, bộ nhớ...
- Bác sĩ có đến từ giã tôi... - Luân tự chọn được phương pháp.
- Tôi biết... Bác sĩ Tuyến thông báo với tôi về cuộc gặp gỡ đó, và khuyên nên sớm làm quen với đại tá. Theo bác sĩ Tuyến, lối thoát ở Nam Việt dính dáng – không phải dính dáng mà tùy thuộc đại tá... - Cabot Lodge nói rất nghiêm chỉnh.
Luân vụt cười to:
- Ông Tuyến thổi phồng tôi đến nổ tung mất! Tôi là cái gì để xoay chuyển tình thế?
- Đại tá Luân, ông đừng cười! Ảnh hưởng của ông đối với ông Diệm thật quan trọng. Tôi muốn ông giải bày cặn kẽ các mặt lợi hại cho ông Diệm nghe. Ông bà Nhu nên rời Việt Nam. Chỉ bấy nhiêu thôi, chúng tôi lãnh phần thu xếp với Phật giáo. Đừng để quá muộn. Đừng để phong trào Phật giáo vượt khỏi khuôn viên nhà chùa, đừng để đám thanh niên quá khích – không thể không chú ý một bộ phận của đám này chịu tác động của Cộng sản – chiếm mặt bằng của phong trào... Nếu cần một sức ép, tôi xin hứa với đại tá. Ông Tuyến dự định một kế hoạch, tôi không phản đối...
Thế là Luân yên tâm. Tuyến không hé với Cabot Lodge những điều gã thì thầm vào tai Luân.
- Tôi thử cố gắng... Tuy nhiên, tôi không hy vọng.
- Cứ cố gắng! Ông Diệm cần hiểu chính phủ Mỹ làm mọi việc để tránh cho ông ta một thảm cảnh. Phần đại tá, chúng ta còn tiếp xúc nhiều lần. Những ngày sắp tới không nhẹ nhàng với đại tá.
Cabot Lodge cho số điện thoại riêng.
- Đại tá gọi, tôi sẽ đích thân nói chuyện với đại tá. Chỉ có tôi thôi!
Cabot Lodge ra về. Luân tiễn khách xong, thay quần áo, dặn chị Sáu bảo Dung ăn cơm trước, hôn thằng Lý rồi lên xe vào Phủ tổng thống.
“Mỹ vẫn còn do dự!” - Luân kết luận – “Phải sửa soạn hết sức đề kháng từ phía Diệm. Sức đề kháng mạnh, kéo dài đến đâu, cách mạng khai thác thời cơ thuận lợi đến đó... ”
*
Nhu tiếp Luân lạnh nhạt. Luân làm vẻ chẳng để ý đến sự cư xử khác thường của Nhu. Anh quyết định thuật tỉ mỉ cuộc nói chuyện với Cabot Lodge, trừ phần liên quan đến Trần Kim Tuyến. Nhu cau mày và sau đó, đưa Luân vào phòng làm việc của Diệm.
Diệm phờ phạc hẳn. Ông ta bắt tay Luân hời hợt rồi lặng lẽ nghe Nhu. Nhu thuật khá đủ, Luân khỏi báo cáo thêm.
- Chi mà thảm họa? – Diệm nổi nóng – Thằng ni chẳng am tường tình hình, lại quen phách lối, lãnh tụ đảng Cộng hòa mà như rứa!
Nhu và Luân chào Diệm, sang phòng Nhu:
- Tổng thống dạo này hay cáu gắt... Việc nước rối rắm mà – Nhu mời Luân ngồi.
- Anh Luân này, tôi dự kiến một cú...
“Cú” dự kiến là Nhu cho nổ ra một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ với lý do chính phủ bất lực trong nội trị để giới Phật giáo lộng hành. Cuộc “đảo chính” không đụng đến tổng thống nhưng thành lập một “Nội các cứu quốc”, Nhu nắm quyền quân sự, an ninh...
“Như vậy là liều thuốc “giới nghiêm” và “tình trạng khẩn cấp”, vụ đột kích chùa Xá Lợi, sát hại Quách Thị Trang, đóng cửa trường học... chưa đủ đô.”
Luân nghĩ bụng. Quả Nhu giải khát bằng thuốc độc.
- Tôi phân vân. – Anh nói – Liệu người Mỹ sẽ phản ứng ra sao.
- Ở Sài Gòn, không chỉ có Cabot Lodge. Còn Fishell... - Nhu trả lời, chắc nịch.
- Nhưng tôi nghe giáo sư Fishell sắp rời Việt Nam sang Ba Tư...
- Fishell đi, chính sách của Fishell ở lại!
- Ai sẽ đứng ra “đảo chính”?
- Tổng trấn Sài Gòn, tướng Tôn Thất Đính!
Luân im lặng khá lâu.
- Anh ngại ông tướng hoàng tộc này? Anh Diệm đã nhận Đính làm con nuôi. Người nhà chúng ta đấy!
Luân im lặng song đầu anh hoạt động dữ dội. Trò chơi của Nhu cực kỳ nguy hiểm. Nguy hiểm đối với bản thân Diệm, Nhu. Những gì mà Luân có trong tay về viên tướng – hống hách, rỗng tuếch, thạo chơi bời hơn cầm quân, nhiều khả năng phản trắc – không phiền lòng anh mà anh lo lắng vì người điều khiển Đính một cách thật sự dứt khoát không phải là Nhu. Tại sao không phải là Fishell? Và tại sao Fishell không qua Đính loại Diệm – loại nhanh chóng, tránh mọi sơ hở khiến cách mạng lợi dụng được?
- Hay là... - Nhu sốt ruột vì Luân cứ ngó ra ngoài cửa sổ, không nói không rằng – Hay là anh gặp tướng Đính... Tôi giao cho anh bàn với Đính các chi tiết. Anh sẽ chỉ đạo Đính.
Luân không hứng thú trước việc Nhu giao, tuy nhiên, anh muốn gặp Đính.
Xe Luân vào trại Lê Văn Duyệt. Đính đón Luân, do Nhu điện dặn trước. Bề ngoài cởi mở của Đính không khỏa lấp nổi cái lúng túng của anh ta khi Luân đương nhiên là cấp trên mà anh ta phải phục tùng.
- Tôi rất mừng nhận quyết định của ông cố vấn. Có đại tá bên cạnh, tôi vững lòng hơn... - Đính xởi lởi, lúc chỉ có hai người ngồi kề nhau.
Kế hoạch của Đính quá đơn giản. Đó là vụ Xá Lợi mở rộng, thế thôi, toàn bộ nội các, kể cả Nguyễn Ngọc Thơ sẽ tạm trú tại trại Lê Văn Duyệt một thời gian. Diệm sẽ lên Đà Lạt. Trại Quán Tre thêm kẽm gai, bót gác để nhốt chừng ba hay bốn vạn người. Số cầm đầu Phật giáo bị an trí ở Phú Quốc, cùng với số nhân sĩ dính với đảng Đại Việt. Đính – như Nhu hứa – vừa là Tổng trưởng quốc phòng vừa là Tổng tham mưu trưởng. Các tướng như Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Trần Văn Đôn... nhất loạt cho về hưu.
Luân không tin đó là kế hoạch thật. Kế hoạch thật là gì?
Chuông điện thoại reo. Đính nhấc máy. Luân nghe văng vẳng tiếng của một người Mỹ. À, tiếng của James Casey.
- Pardon! Je suis accupé... Le colonel Nguyễn Thành Luân est ici! Voulez vous parler avec lui? (2)
Đính nói ào ào. Chỉ trẻ con mới không hiểu là anh ta báo động về sự có mặt của Luân với James Casey để gã người Mỹ đừng nói tiếp.
- James Casey rủ tôi đi uống... - Đính lấp liếm.
- Tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch của thiếu tướng và sẽ nhận xét sau. – Luân nhỏm dậy, toan kiếu từ.
Chuông điện thoại lại reo. Lần này, Luân nghe giọng của John Hing.
Ra hiệu cho Đính, Luân ra khỏi phòng. Anh chạm mặt Mai Hữu Xuân ngay hành lang.
- Chào đại tá! – Xuân đưa tay trước...
- Chào thiếu tướng! – Luân chập gót chân... - Thiếu tướng Đính đang ở trong phòng. Mời thiếu tướng vào...
Như bận việc, Luân bước vội ra xe. Anh hiểu là Xuân ngó theo anh và chủ đề mà Xuân trao đổi liền với Đính là anh...
*
... Ngày 9-9, văn phòng Quốc hội ra thông báo: Bà Trần Lệ Xuân, dân biểu, xuất ngoại sang Belgrade dự hội nghị phụ nữ quốc tế đồng thời kết hợp đi một số nước nhằm “giải độc” dư luận thế giới về tình hình Nam Việt.
Cái “cú” mà Nhu sửa soạn không xảy ra. Anh ta buộc phải lùi một bước trước yêu sách của Cabot Lodge...
Trước hôm Trần Lệ Xuân rời Sài Gòn, có một bữa cơm gia đình vào buổi tối. Ngoài Diệm, Nhu, Lệ Xuân, Giám mục – từ Huế vừa đến – các con của Nhu, vợ con Trần Trung Dung, còn có vợ chồng Luân. Không khí nặng nề. Mọi người im lặng, thỉnh thoảng trao đổi với nhau bằng mắt, ngay nĩa muỗng cũng khua uể oải. Đám trẻ con len lén ở một bên bàn, Ngô Đình Lệ Thủy lừ mắt chúng mãi...
Lệ Xuân xuất ngoại với danh nghĩa cầm đầu đoàn đại biểu Sài Gòn dự hội nghị Liên hiệp các nghị sĩ thế giới. Mặc dù hội nghị lần này tổ chức tại Belgrade, thủ đô Nam Tư, một nước Cộng sản, báo chí Sài Gòn gần như không khai thác khía cạnh độc đáo ấy – đệ nhất phu nhân Việt Nam Cộng hòa chống Cộng khét tiếng có mặt ở một nước Cộng sản, sẽ được đón tiếp theo nghi thức dành cho dân biểu – mà xoay quanh danh từ “giải độc”. Tuyên bố của Lệ Xuân vẫn nảy lửa: thóa mạ giới Phật giáo, xỉa xói Mỹ. “Họ cần diêm quẹt và xăng không? Tôi sẽ cấp cho”. Mụ nói về các vụ tự thiêu đã xảy ra hoặc dự định. Hà Như Chi, Phó đoàn, giải thích với báo chí về chuyến đi như là một nhu cầu bức thiết và hoàn toàn chủ động của Việt Nam Cộng hòa.
Tất nhiên, bộ mặt thật của sự việc chỉ phô bày bên trong các bức tường dinh Gia Long và tại bữa cơm chia tay ảm đạm này.
- Ta lùi một bước rồi đó! – Cuối cùng, Lệ Xuân ném cái hậm hực ra bàn ăn, khuấy động không khí – Sẽ tới lượt anh Nhu. Còn ai nữa?
Giám mục bỗng đằng hắng. Diệm từ từ cúi đầu xuống dĩa súp. Dư luận chưa được thông báo song cả nhà đều biết Khâm mạng Tòa thánh truyền đạt chỉ thị của Vatican gọi Giám mục đầu tháng 10 sang La Mã yết kiến Giáo hoàng.
“Thế là lùi tới hai bước!”. Luân hiểu như vậy.
Tình hình vài hôm nay tạm lắng dịu đôi chút. Học sinh lai rai trở lại trường, song chủ yếu không phải để học. Truyền đơn, báo tay tràn ngập, nhất là những loại mang danh nghĩa Phật giáo.
- Em định chấm dứt giới nghiêm từ trưa ngày 14 tới – Nhu nói với Diệm, tránh câu hỏi của Lệ Xuân.
- Ừ! – Diệm buông thỏng.
- Lại lùi! Battre en retraite (3)! Lùi tận đâu? – Lệ Xuân quắc mắt ngó chồng.
- Phải chận trước một số nước nêu vấn đề Phật giáo ở ta tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc. Phức tạp lắm! – Nhu nói trổng.
- Mặc kệ họ... Việc gì họ lại xía vô nội trị của ta?
Lệ Xuân hung hăng tuy rằng mụ cũng rất lo khả năng “quốc tế hóa” vụ Phật giáo.
- Tiến triển ở Liên hiệp quốc đến đâu rồi, hả cháu Luân? – Diệm hỏi.
Luân trình bày vắn tắt: Ngày 4-9, có 16 nước gồm Afghanistan, Algérie, Cambodia, Sri Lanka, Guinée, Ấn Độ, Indonésia, Mông Cổ, Nigéria, Iran, Ruwanda, Sierra Léone, Somalie, Trinité và Tobago, Mali và Népal gửi văn thư cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc xin ghi vào chương trình nghị sự Đại hội đồng Liên hiệp quốc khóa XVIII vấn đề mệnh danh là “sự vi phạm nhân quyền tại Nam Việt”. Văn thư, kèm phụ bản giải thích, đã gửi cho tất cả hội viên Liên hiệp quốc. Rất nhiều khả năng văn phòng Liên hiệp quốc sẽ ghi vấn đề vào chương trình nghị sự và Đại hội đồng sẽ xem xét theo thủ tục khẩn cấp. Cũng rất chắc chắn Đại hội đồng sẽ cử một đoàn điều tra sang Sài Gòn...
- Thật là bọn tiếp giáo cho giặc! – Lệ Xuân nói như quát...
- Ông Bửu Hội phản ứng ra răng? – Diệm hỏi.
- Giáo sư đã phổ biến một văn thư phản đối việc đưa một vấn đề đơn thuần nội bộ Nam Việt ra Liên hiệp quốc. – Nhu trả lời.
- Em sẽ đến Mỹ! Em phải nói thẳng... Ông Bửu Hội chỉ làm lấy lệ thôi; bà mẹ của ông nằm trong danh sách tự thiêu phản đối chúng ta; ông ta thuộc hoàng tộc... - Lệ Xuân xô ghế, ra khỏi bàn.
- Nếu có phái đoàn điều tra thì có thể gồm những nước nào? – Diệm giả như không để ý thái độ của Lệ Xuân hỏi tiếp.
Nhu ngó Luân, Luân từ tốn:
- Chưa thể chắc chắn, song bằng các nguồn tin tin cậy được, đoàn thế nào cũng có các nước trung lập thuộc châu Á, châu Phi và Nam Mỹ. Trưởng đoàn, đại diện của Vương quốc A Phú Hãn (3), như Hoa Kỳ đang vận động và tên cụ thể là đại sứ Abdul Rama Pazhwak...
- Một người theo đạo Hồi? – Giám mục hỏi.
- Thưa, đúng vậy.
- Trong 16 nước đứng lên chống mình chẳng có nước nào hiểu tình hình thực tế của Nam Việt. – Nhu càu nhàu.
- Anh Luân nói ông đại sứ gì sẽ làm Trưởng đoàn? – Lệ Xuân từ bàn của đám nhỏ hỏi vọng sang.
- Tôi đoán và cộng với tin của các hãng thông tấn, của cô Fanfani... Có thể không đúng hẳn. Nhưng, A Phú Hãn đứng đầu danh sách đòi Liên hiệp quốc xét vụ Phật giáo ở ta cho nên tôi nghĩ ông Pazhwak sẽ đảm đương trách nhiệm ấy, vì ông là đại sứ của A Phú Hãn tại Liên hiệp quốc...
Lệ Xuân bảo Lệ Thủy đưa cho mụ mảnh giấy và cây bút:
- Tên ông ta viết như thế nào? – Lệ Xuân hỏi Luân.
Dung kín đáo liếc Luân. Cả hai đoán Lệ Xuân ghi Pazhwak vào bảng tên những người mà trong chuyến đi này mụ sẽ tác động đến bằng cách nào đó.
- Tôi sang Mỹ, thế nào cũng gặp bà Kennedy.
Bà Kennedy mà Lệ Xuân nhắc là mẹ của đương kim Tổng thống Mỹ, người đã sang Sài Gòn và Lệ Xuân cùng Diệm chính thức tiếp bà, sau đó Lệ Xuân hướng dẫn bà đi thăm viếng một số cơ sở xã hội, giống như những lần Lệ Xuân cùng Diệm tiếp nhà báo nữ nổi tiếng Suzane Labia, hoàng hậu Thái Lan và nhiều phu nhân khác. Vào những lúc bối rối, người ta thường ảo tưởng – Trần Lệ Xuân nhớ đến mẹ Kennedy và ngỡ rằng bà là cái phao. Luân và Dung gặp nhau trong sự đánh giá này.
Bữa cơm kết thúc sớm. Những chai sâm banh nổ giòn mà ai cũng chỉ nhúng môi.
- Tại sao chúng ta có vẻ thúc thủ? Tại sao? – Lệ Xuân đứng dậy, tay chống lên bàn.
Thái độ ấy khiến Luân nhớ câu chuyện đối đáp giữa Diệm, Nhu và Lệ Xuân mà có người thuật cho anh nghe, trong biến cố 11-11-1960. Lính Dù bao vây dinh Độc Lập, Nguyễn Chánh Thi kêu gọi Diệm đầu hàng; Diệm đã tuyên bố trên đài phát thanh từ chức và giao quyền cho phái đảo chính. Số phận coi như đã định đoạt, Diệm ngồi thừ trên ghế bành. Nhu cau mày mà chưa tìm ra kế. Diệm hỏi Nhu, uể oải: “Chú định thế nào?”. Nhu trả lời, hờ hững: “Anh làm Tổng thống thì anh định đoạt chứ tôi đâu có làm Tổng thống!”. Giữa lúc đó, Lệ Xuân giận dữ, chồm tới: “Tại sao chúng ta lại thất bại một cách dễ dàng như thế? Gọi Nguyễn Khánh vào cho tôi!”. Nguyễn Khánh hấp tấp vào, đứng nghiêm. Lệ Xuân đi đi lại lại, ra lệnh với từng chi tiết. Khánh dập gót chân, chạy vụt ra khỏi phòng.
- Không thể đầu hàng bất kỳ mức nào! – Lệ Xuân rít lanh lảnh... - Chúng nó thích đảo chính thì ta cho chúng nó được đảo chính, sợ gì? Thời thế bây giờ không giống 1960 đâu... !
Người hầu gái vào, báo: dân biểu Huỳnh Ngọc Nữ xin gặp Lệ Xuân.
- Ta sẽ trở lại phương pháp đối phó... Tôi bận giây lát – Lệ Xuân ra ngoài.
Diệm và Thục có vẻ lên tinh thần đôi chút, nhưng Nhu thì vẫn trầm trầm. Hẳn Nhu so sánh tình hình 1960 khác bây giờ, khác theo hướng bất lợi cho chính phủ. Phật giáo là một. Thế của chính phủ trong Thiên Chúa giáo không như trước – đã xuất hiện nhiều nhóm liên kết với Phật giáo – là hai. Việt Cộng mạnh hơn 1960 gấp bội, là ba. Biết bao người nuôi mộng thay thế Diệm, họ có quân trong tay, là bốn. Mỹ không giấu diếm quan điểm “thay đổi chính sách” ở Sài Gòn, tức ít nhất cũng điều chỉnh bộ máy của Diệm, là năm. Harriman, Hillman, Forrestal, Mac Namara lũ lượt kéo sang Sài Gòn và phúc trình của họ thật là tai hại. Cách đây 2 tháng, Mỹ cắt đứt viện trợ cho lực lượng đặc biệt, chỗ dựa chính của Diệm. Tám năm trước, Diệm cũng dùng kiểu đó: cắt viện trợ quân các giáo phái và các giáo phái bị đánh rã dễ dàng. Ngày hôm qua, Cabot Lodge chính thức thông báo với Diệm: Kennedy đang nghỉ mát ở Cape Cod, thông qua đề nghị của Forrestal yêu cầu ông Diệm phải loại Nhu, bằng không, Mỹ sẽ không chịu trách nhiệm về sự ổn định của Sài Gòn.
- Họ kề dao vào cổ chúng ta! – Nhu bảo Luân.
- Bà Huỳnh Ngọc Nữ đến vì việc chi, hỉ? – Diệm hỏi, không ăn nhập gì với câu chuyện đang chi phối tâm trạng mọi người.
- Chắc là bàn phong trào phụ nữ - Nhu trả lời.
- Hay là bàn về hãng giấy Cogido, rạp Rex, nhà sách Xuân Thu? – Diệm quật lại giọng rầu rĩ...
Luân và Dung ra hiệu với nhau, đứng lên xin phép về.
- Anh nhớ việc tôi bàn với anh. – Nhu giữ tay Luân trong tay anh ta hơi lâu – Anh nên xuống Cần Thơ gặp tướng Cao, tiện thể, ghé Mỹ Tho gặp Bùi Đình Đạm.
Luân gật đầu.
- Chú nhắc tôi mới nhớ, đã lâu rồi, thằng Cao không về thăm tôi. – Diệm bảo.
- Có, có về, song anh bận việc nên chỉ làm việc với em...
*
... Luân và Dung có mặt trong số người tiễn Trần Lệ Xuân tại sân bay. Bài ứng khẩu của Lệ Xuân được các nhà báo thu băng tại phòng khách danh dự.
“Tôi sẽ trở về, nhanh thôi. Người ta đầu cơ trên xương máu chiến sĩ, trên những hy sinh của dân tộc và giới phụ nữ. Song, chân lý không dễ dàng bị khuất lấp. Chúng ta có rất nhiều bè bạn khắp thế giới. Tôi sẽ cố gắng hết sức mình để khôi phục lại bộ mặt thật của tình hình Việt Nam Cộng hòa và chỉ ra ai là kẻ chủ mưu, ai phải chịu trách nhiệm, ai là tòng phạm, ai là nạn nhân. Như các bạn biết rõ, một nhà sư tự nhiên chạy vào lánh nạn ở sứ quán một nước đồng minh của Việt Nam Cộng hòa. Tại sao phải “lánh nạn”, “nạn” là gì? Tại sao không chọn một sứ quán nào khác mà chọn sứ quán của nước đồng minh kia? Cần phải làm cho thế giới hiểu rằng sứ quán của một nước đặt ở một nước không nên và không thể là trung tâm chỉ huy các hoạt động gây rối, tạo điều kiện lật đổ hoặc là hang ổ để các hạng gián điệp ẩn náu”.
Phòng khách bỗng chốc biến thành nơi họp báo chớp nhoáng.
Nhà báo Helen Fanfani hỏi: Bà tự nguyện xuất ngoại hay do một áp lực nào?
Lệ Xuân cau mày: Tại sao lại có áp lực? Ai áp lực? Nhà báo Financial Affairs nên nhớ Việt Nam Cộng hòa là một quốc gia có chủ quyền...
Helen hỏi tiếp: Bà định sang Mỹ, có “xin” gặp Tổng thống Mỹ không?
Lệ Xuân nhún vai: Người cần nghe ý kiến khách quan về tình hình Việt Nam Cộng hòa không phải tôi. Tôi không “xin” gặp. Nếu nhà báo thích dùng chữ “xin” gặp thì chắc chắn cũng không phải là tôi!
Francois Sully, tuần báo NewsWeek, hỏi:
Thưa bà, bà có định đến Liên hiệp quốc không?
Lệ Xuân trỏ mặt nhà báo: Ủa, chúng tôi đã trục xuất ông từ năm ngoái, sao ông còn luẩn quẩn ở đây?
Francois Sully cười: Có lẽ bà không còn nhiều thì giờ lắm... Tôi trở lại Việt Nam vì thời hạn cấm tôi hành nghề tại đây đã hết hiệu lực, mặc dù những gì tôi phản ánh vẫn còn nguyên: tham nhũng, chính phủ chuyên đánh giặc mồm...
Lệ Xuân: Và, tôi nhớ, ông tuyên bố: các ông – nghĩa là Mỹ, tờ báo ông viết xuất bản ỡ Mỹ - không nên cùng chết chìm với chúng tôi... Thật đáng tiếc cho ông, ông Francois Sully, các ông sẽ cùng chết chìm với những kẻ chống chúng tôi...
Francois Sully: Tôi nhắc lại: Bà không còn nhiều thì giờ lắm!
Lệ Xuân: Ông nói câu đó với ý nào?
Francois Sully: Với ý nghĩa cụ thể nhất – ông vén đồng hồ đeo tay – bà chỉ còn 15 phút thôi.
Lệ Xuân: Với mươi phút, chúng tôi thừa đủ vả vào mồm những tên ăn tiền của một nước nào đó vu không chúng tôi... Tôi sẽ đến Liên hiệp quốc!
Haberstam, phóng viên tờ New York Times: Xin bà cho tôi nửa phút...
Lệ Xuân: Mời ông! Ông bị Tổng thống Mỹ gọi về nước vì ông phanh phui sự dính líu của Mỹ ở Nam Việt...
Haberstam: Có phải bà cho rằng tình hình rối loạn hiện nay ở Nam Việt là do Mỹ đạo diễn?
Lệ Xuân: Tôi xin trả lời câu hỏi nửa phút của ông chỉ bằng một phần mười giây: Đúng!... Tôi xin lỗi các bạn, tôi còn phải từ giã chồng con và người thân của tôi...
Trên đường từ nhà ga ra sân bay, Lệ Xuân nói rất khẽ với Nhu điều gì đó và Nhu gật đầu. Sắp đến cầu thang, Lệ Xuân kéo Dung tách khỏi đám đông.
- Mọi sự chị trông cậy vào em và anh Luân. Em nhớ cho: nhiều người đang khúm núm Tổng thống, anh Nhu và chị, sẽ dễ dàng trở mặt. Tổng thống hay cả tin, cụ thích những kẻ cúi mọp, đi giật lùi trước cụ. Chị nghi ngờ bọn đó... Em nên bàn với ông Tổng giám đốc cảnh sát bám sát số quân nhân đang nắm quân. Chị đã bàn với anh Nhu nên tăng quyền cho anh Luân. Lực lượng đặc biệt của ông Tung không đủ sức đâu...
Lệ Xuân ôm hôn Dung và bắt tay Luân thật chặt. Mụ lần lượt ôm hôn các thành viên của Phong trào Phụ nữ liên đới. Điều rất lạ là trong số khách tiễn Lệ Xuân có vợ bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đã từ lâu gần như bị Lệ Xuân trù.
- Mọi hiểu lầm cũ, ta qua! – Lệ Xuân nói vào tai vợ Trần Kim Tuyến.
Nhu cầm tay vợ, đưa lên cầu thang. Cả hai, đến giữa cầu thang, quay lại để các nhà báo chụp ảnh. Lệ Xuân ngã hẳn vào ngực chồng, quanh hai người là bầy con: một ảnh gia đình Nhu đầm ấm nhất mà báo chí lần đầu có được...
Luân và Dung không ngờ một chuyến máy bay đáp xuống Tân Sơn Nhất trong lúc Lệ Xuân đang ở phòng khách, mang đến Sài Gòn hai nhân vật: Jones Stepp, thiếu tướng, phụ trách tình báo, trợ lý tướng Paul Harkins – thay cho Fishell đã sang Ryad – và phu nhân Soroyan...
*
Đúng buổi nhiều ngày tổ chức tuyển cử Quốc hội pháp nhiệm ba – thêm một ít liên danh “trang trí” nhưng phe thân chính phủ vẫn chiếm đa số tuyệt đối như mọi người dự đoán, kể cả Lệ Xuân vẫn đắc cử - Câu lạc bộ quân đội rộn ràng một cách khách thường. Sân tennis đông nghịt.
Tướng Dương Văn Minh, cố vấn quân sự của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đấu giao hữu với tướng Maxwell Taylor, cố vấn quân sự và phái viên đặc biệt của Tổng thống Mỹ; đại tá Nguyễn Thành Luân, trong tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống đấu với trung tá James Casey, tùy viên của tướng Paul Harkins. Sau trận đánh đơn – Minh thắng Taylor, Casey thắng Luân – đến trận đấu đôi: cặp Minh – Casey thắng cặp Luân – Taylor, rồi cặp Minh – Taylor thắng cặp Casey – Luân. Sau cùng, cặp Minh – Luân thắng đậm cặp Taylor – Casey. Dư luận xì xào về trận banh nỉ ngoại lệ này và chẳng ai quan tâm đến tỷ số cùng sự thắng bại. Chính Luân cũng không được báo trước – mãi trưa, anh mới được điện thoại của tướng Trần Văn Đôn, người tổ chức trận “giao hữu”. Sự bắt cặp cũng do tướng André bố trí. Luân phân tâm một lúc, giao và trả bóng hỏng nhiều, Taylor và Casey chơi bình thường – tuy họ cố tỏ ra xông xáo, theo Luân nhận định. Người “chơi ra chơi” là tướng Minh. Có lẽ hơn một chục lần Minh nhắc Luân khi hai người dự trận chót – lúc đầu, Minh nhắc nhã nhặn, sau thì cự hẳn. Luân phải tập trung tinh thần hơn và nhờ đó, thắng đậm.
Lúc chia tay, Taylor cười với Luân:
- Ông tướng của ông, – Ông ta ám chỉ tướng Minh – Có mỗi một bận tâm thôi, đó là quần vợt!
Dừng giây lát, Taylor nói tiếp:
- Tôi cám ơn đại tá đã không đem hết sở trường trong trận đấu đánh đôi mà tướng Minh và tôi đứng chung sân... Tôi tin đó là thái độ của đại tá. Tướng Minh và tôi là bạn, sẽ mãi mãi là bạn.
Luân về nhà thì gặp Saroyan cùng Thùy Dung ngồi ở phòng khách. Anh cố kiềm chế nhưng Saroyan vẫn sà vào anh khóc òa, mặc Thùy Dung ngồi đó. Thùy Dung cũng chặm nước mắt...
- Cám ơn Saroyan! – Luân thủ thỉ.
- Cám ơn đức Ala! Anh và Dung bình yên, thêm cháu Lý...
Saroyan bồng Lý trong lòng. Cả một thùng quà to tướng dành cho Lý và trong tiếng líu lo, Saroyan nói với Lý – dĩ nhiên, thằng bé chẳng thể hiểu – cả Luân và Dung thấu rõ nỗi xót xa của cô: Saroyan thèm một thằng bé giống như Lý. Tất cả đều thấy bất lực...
- Thôi ta hãy vào việc... - Saroyan tự trấn tĩnh – Em sang đây với Jones. Vào giờ chót, có trục trặc: người ta định cử tướng Lansdale, bây giờ đã hưu trí nhưng làm hợp đồng với Pentagone. Chính Tổng thống Kennedy can thiệp, nên Jones mới được đi. Em và Jones ghé Bangkok mấy hôm và em gặp bác sĩ Trần Kim Tuyến đang chờ thủ tục sang Cairo. Em hỏi thẳng ông ta: ai mưu toan giết hại em. Ông ta bảo: Mai Hữu Xuân, với sự đồng lõa của Fishell. Em và Jones vừa đặt chân lên đất Sài Gòn, Mai Hữu Xuân đã đến chào. Em hỏi luôn ông ta... Ông ta không chối, chỉ nói rằng em bây giờ có thể yên tâm vì thời thế đã khác. Em bảo em sẽ đến thăm anh, ông ta thản nhiên: “Bà có thể thăm bất cứ ai... ” Rồi ông ta và Jones thì thầm... Em biết, qua Jones: ngày 24-8, một số tướng Sài Gòn đề nghị lật ông Diệm, sau đêm lực lượng an ninh tấn công đẫm máu các chùa. Cabot Lodge chuyển điện về Mỹ, đúng ngày cuối tuần. Tổng thống không có mặt ở thủ đô. Các tướng Sài Gòn định ngày 29 hay 30 tháng 8 thì hành động...
- Các tướng nào, cô có thể kể vài tên không? - Luân hỏi.
- Điện viết tắt, em nhớ các chữ đầu K, X, D, và M. Hình như ba người.
Luân cau mày. Dung lẩm bẩm: K... Kim? X... Xuân? D... ?
- K là Khiêm, X đúng là Xuân, D tức là Đ theo mẫu tự ta... - Luân bảo.
- Vậy thì là Đính!
- Không! Chính... Đôn! André Đôn... Và, một trong các người đề nghị lật ông Diệm vì vụ tấn công các chùa lại chính là kẻ đã trực tiếp thực hiện vụ tấn công man rợ ấy! Tôi nhắc Saroyan, đó là Mai Hữu Xuân! Còn M? Minh? Big Minh? Không! Trần Văn Minh? Ít có khả năng M. nào?
- Em nói tiếp. – Saroyan rạng rỡ khi thông tin của cô có ích cho những người mà cô quý mến, thương yêu – Đầu tuần, Tổng thống chỉ thị: đại sứ Lodge phải chuyển cho ông Diệm một “tối hậu thư” gồm ba điểm: chấm dứt đàn áp Phật giáo kèm theo hủy bỏ giới nghiêm và trả tự do cho các sư và người theo đạo Phật bị bắt, cho các đảng không tán thành chính phủ hoạt động công khai và tham gia với một tỷ lệ thích đáng các cơ sở chính phủ, vợ chồng ông Nhu rời Việt Nam. Ông Diệm không thèm tiếp ông Lodge, không chịu nói chuyện điện thoại với sứ quán Mỹ... Ông Lodge điện cho Ngoại trưởng Dean Rusk, bức điện em nhớ đề ngày 29-8 và cũng nhớ một câu: “Nước Mỹ không còn mặt mũi nào trở lại làm lành với Diệm”.
Nhưng, chính Lodge cũng báo cáo với Rusk rằng các tướng Sài Gòn chưa nhất trí lắm về việc lật Diệm. Tướng Harkins cũng yêu cầu Tổng thống Mỹ nên xem lại... Thế là Victor Krulak, phái viên Bộ quốc phòng và Joseph Mendenhall, phái viên Bộ ngoại giao bí mật bay sang Sài Gòn...
- Tôi có biết, tuy không gặp... - Luân nói.
- Krulak cho rằng nếu ủng hộ ông Diệm mạnh hơn nữa thì có thể chiến thắng Cộng sản, Mendenhall cho rằng nếu chính phủ ông Diệm sụp đổ thì sẽ xảy ra chiến tranh tôn giáo – giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo – cho nên “Nhu phải rút lui hoặc bị loại” và ông Diệm “không phải là một hoàng đế mà là một Tổng thống dân chủ”.
- Ý của Jones Stepp thế nào?
Saroyan nhún vai:
- Một người thừa hành, không hơn không kém. Tùy những người quan trọng hơn.
Luân trầm ngâm.
- Trận bóng vừa rồi do sáng kiến của Cabot Lodge. Theo em, Cabot Lodge chỉ chịu làm đại sứ một thời gian ngắn... Sau đó, chính Taylor, tác giả của một kế hoạch bình định Nam Việt do ông ta và tiến sĩ Staley thảo. Taylor rất lạc quan, ông ta phát biểu với Jones rằng nếu nội tình Nam Việt được thu xếp ổn thì chậm nhất mùa thu năm 1965 ở Nam Việt không còn bóng dáng của một cuộc nổi dậy nào nữa mà chỉ là “bọn cướp có tổ chức”. Chiều hôm qua, tại đại sứ quán Mỹ, Cabot Lodge họp với Jones, Taylor, Casey và John Hing... Sau cuộc họp, họ ăn tối. Em không dự. Giá mà em dự, cũng có thể nắm đôi điều ngoài những cái mà Jones thuật lại. Em không thể dự!
Luân hiểu: Saroyan không chịu chạm mặt John Hing, kẻ mà cô đã tát vào mặt trước đây, khi Fishell toan dùng cô làm vật đổi chác trong nghề tình báo của hắn.
- Họ thống nhất hoạch định những bước đi sắp tới, như Jones hé với em.
- Gây sức ép mạnh hơn?
- Đúng... Tiếp tục đình viện trợ mọi mặt cho lực lượng đặc biệt, trì hoản các chuyến vận chuyển gạo, thuốc lá, sữa và các hàng hóa khác cho cả dân sự lẫn quân sự, cốt gây tâm lý hoảng loạn...
- Thâm độc thật! – Dung kêu lên.
- Theo em, – Saroyan vẫn nói như thầm thì với Luân – Sớm muộn gì ông Diệm cũng phải rời ghế Tổng thống... Đó là chuyện của ông ta. Còn chuyện của anh, của Dung và bé Lý... thật sự bận tâm em. Cho đến bây giờ, Jones rất coi trọng anh. Em chưa hề nói một lời về quan hệ riêng tư giữa chúng ta và, Dung đồng ý chứ? – quan hệ riêng tư giữa tôi và anh Luân bình thường thôi.
- Bình thường! – Dung siết cánh tay Saroyan.
- Nhưng Fishell không phải không thích thêu dệt. – Luân cười nhẹ - Tuy vậy, chắc chắn tướng Stepp chẳng đặt việc cá nhân của Saroyan vào thời cuộc... Mỹ sẽ dùng bàn tay sắt hay bàn tay nhung ở Sài Gòn tùy thuộc các yếu tố khác, lớn hơn nhiều.
- Anh để em nói... - Saroyan cướp lời. – Em muốn anh lánh xa ông Diệm. Tại sao anh không nhận một chân đại sứ ở một nước nào đó, chờ thời cuộc. Ông Tuyến đã làm như vậy.
Luân lắc đầu:
- Saroyan ngây thơ quá! Ông Tuyến không chọn mà người ta gán cho ông chức Tổng lãnh sự. Tôi xin đi làm đại sứ có nghĩa là tôi xin vào tù!
- Tại sao? Em đảm bảo Jones Stepp sẽ ủng hộ anh!
- Trước khi người Mỹ hạ bệ ông Diệm – nếu quả họ định – thì chớ có chọc tức ông ta. Jones Stepp, cả Cabot Lodge, Harkins... , đều không bịt được họng súng của ông ta... Vả lại, tôi không cần đi đâu cả. Là quân nhân, tôi phải đứng tại nơi quân nhân phải đứng...
Saroyan thở dài, cáo từ.
- Thỉnh thoảng, Saroyan đến chơi. – Dung bảo.
- Jones sẽ mời anh Luân và Dung đến chỗ chúng tôi... Nhớ mang bé Lý theo!
Saroyan ra khỏi phòng.
- Có một điều tôi dặn Saroyan. Không nên hỏi Jones Stepp nhiều quá, đừng đọc các giấy tờ mà ông ta giữ mật... - Luân choàng vai Saroyan, đưa ra xe.
- Anh không cần?
- Không phải... Song tôi cần hơn sự an toàn của Saroyan.
- Cám ơn anh... Em không đến nỗi quá ngốc đâu!
- Saroyan rất tốt, – Luân nói với Dung khi xe của Saroyan ra khỏi cổng nhà – Nhưng chưa có kinh nghiệm. CIA sẽ dùng Saroyan hoặc dọ dẫm anh, hoặc đánh lạc hướng anh, kể luôn những tài liệu và tin ngụy tạo...
- Anh lo xa là phải, song theo Saroyan, tướng Stepp say đắm Saroyan đến điên dại...
- CIA là những diễn viên mà chưa diễn viên chuyên nghiệp danh tiếng nào so nổi. – Luân cắt lời vợ.
*
Bài của Helen Fanfani: Bước ngoặt trong chính sách Mỹ ở Nam Việt?
Không có một sự kiện tầm cỡ đòi Tổng thống Kennedy xét duyệt lại chính sách Đông Nam Á của Mỹ, tỷ như cơn khủng hoảng vùng Caraibe hoặc viên phi công Power của chiếc U2. Thế nhưng, chính sách Mỹ vẫn đang được những người chóp bu của Nhà Trắng đánh giá một cách tổng quát trên một bình diện mà chính CIA thiết lập và nay đã hình thành như ý muốn của kẻ chủ xướng. Nam Việt dấn vào cuộc chiến tranh không tuyên chiến đã 3 năm và thật sự nước Mỹ cũng chỉ ném một lực lượng yểm trợ chưa đến 2 vạn người vào vùng núi non, nóng bức nam vĩ tuyến 17. Khí tài chiến tranh chủ yếu là những loại lỗi thời. Đương nhiên, Hội đồng an ninh quốc gia quan trọng hóa sự thể ở Nam Việt, dựa vào câu nói của J. Kennedy bấy giờ còn là thượng nghị sĩ: Việt Nam là nền tảng của thế giới tự do tại Đông Nam Á như viên đá đỉnh vòm cung, như nút chặn lỗ rò... Việt Nam là tác phẩm của chúng ta, chúng ta không thể bỏ rơi nó và chúng ta không thể lờ đi các nhu cầu của nó... (Phát biểu ngày 1-8-1956 tại Hiệp hội Những người Mỹ, bạn của Việt Nam). Cái “viên đá đỉnh vòm cung”, cái “nút chặn lỗ rò”, cái “tác phẩm của chúng ta” ấy từ chỗ chính phủ Mỹ tưởng tượng bây giờ đã trộn lẫn sự tồn vong với uy tín của nước Mỹ. Năm 1956, 2 năm sau chiến tranh Đông Dương kết thúc, 7 năm sau Trung Cộng thôn tín toàn bộ Hoa lục, 5 năm sau chiến tranh Triều Tiên. Sự lên gân kỳ quặc của thượng nghị sĩ Kennedy liên quan đến chiến lược ngừa Trung Cộng tràn xuống Đông Nam Á và Bắc Việt thu hồi nốt phần Nam Việt còn lại, giữa cuộc chiến tranh lạnh lên độ băng giá nhất. Và, về thực chất, Kennedy lấy sự ủng hộ hay ruồng bỏ ông Ngô Đình Diệm làm chuẩn cho cái gọi là “chúng ta không thể bỏ rơi nó và chúng ta không thể lờ đi các nhu cầu của nó”.
Việc Diệm thay Bảo Đại là sản phẩm của F. Dulles, Spellman, Lansdale, có cả bàn tay mụ đỡ của Mansfield và Kennedy. Công bằng mà nói, Harriman sáng suốt hơn; ông ta (Ông Diệm)... hoài bão một triều đình, trầm tư sống với nội tâm, không có sức hấp dẫn quần chúng, không hiểu cái gì xảy ra trong vòng 18 năm đảo lộn trên nước Việt Nam. Mẫu người lùn, béo tròn, đi đứng lạch bạch, luôn trang phục màu trắng như trong tháp ngà. Ham nói, chuyện nhỏ cũng thuyết hàng giờ, ít nghe nên ít biết phản ứng... Ý kiến của Harriman bị chế nhạo là chỉ “chú ý ngoại hình”. Tháng 8-1954, đại sứ Mỹ, tướng Collins, bảo tướng Pháp Ely rằng chớ ủng hộ tướng Hinh trong một mưu toan đảo chính, nếu ông Diệm bị lật thì Mỹ rút, Pháp phải tự mình đối phó với Cộng sản – nghĩa là đón một trận Điện Biên Phủ thứ hai tồi tệ hơn nhiều lần. Tháng 11-1954, một lần nữa, Lansdale bóp chết một âm mưu đảo chính, lần này do các tướng Hinh, Vỹ, liên minh với tướng Viễn. Số sĩ quan định đảo chính được Lansdale giải quyết theo kiểu lập dị của ông ta: mỗi người đuợc sang Manila chơi một tháng với các cô gái. Rồi, ngày 7-4-1955, tới phiên Collins đề xuất: Diệm không có khả năng đạt sự thống nhất cần thiết giữa ý chí và hành động... để làm cho Nam Việt khỏi rơi vào tay Cộng sản. Lowton Collins muốn thay Diệm, Tổng thống Eisenhower đồng ý, mọi sự đã sẵn sàng. Nhưng, Pháp đã cứu Diệm! Pháp bật đèn xanh cho Bình Xuyên nổ súng và trong khói đạn mịt mù, Diệm tỏ rõ đủ bản lĩnh dẹp tan nhón “Mafia” Bảy Viễn chẳng mấy khó khăn. F. Dulles đã nói: Không thể để Diệm thành một Kérensky! Mỹ thử nghiệm. Năm 1956, tướng 3 sao Samuel Williams điều khiển vỏn vẹn có 629 chuyên viên quân sự Mỹ, Williams từng đánh ở Triều Tiên, ông ta bị kiểu tấn công ồ ạt của Bắc Triều Tiên ám ảnh cho nên chỉ chú trọng xây dựng lực lượng dòm ngó Bắc Việt Nam – sau này, khi Nam Việt diễn ra tình trạng nổi dậy của du kích tại chỗ, ông ta bất lực. Không riêng gì ông ta, mà cả bộ tham mưu và học viện quân sự Mỹ đều “hố”. Chương trình huấn luyện sĩ quan Việt Nam của Mỹ nặng nề chiến dịch tấn công trung và sư đoàn, kể cả sử dụng vũ khí nguyên tử chiến thuật. Từ khi du kích mở rộng phạm vi hoạt động giữa ông Diệm và chính phủ Mỹ phát sinh nhiều bất đồng. Ông Diệm thăng tướng tá cho những mà ông nhìn suốt trong ruột họ sự trung thành mù quáng với cá nhân ông. Mỹ đòi các sĩ quan phải đánh giặc. Tuy nhiên, Lansdale và phái bộ Mac Garr vẫn ủng hộ Diệm – họ dồn sức chăm sóc Bảo an, Dân vệ và chủ trương Bảo an, Dân vệ phải được trang bị cả trực thăng, chiến xa. Phái đoàn Michigan chủ trương ngược lại: trang bị Bảo an, Dân vệ nhẹ, chăm sóc quân chính quy và các binh quân chủng khác. Lầu Năm Góc nghiêng về quan điểm của phái đoàn Michigan. Cuối năm 1960, Cộng sản kiểm soát bộ phận lớn nông thôn Nam Việt, đại sứ Mỹ Durbrow và phái bộ của tướng Mac Garr lại cãi vã. Mac Garr cho yêu cầu số một của Nam Việt là xây dựng lực lượng vũ trang chống Cộng! Durbrow cho phải thực hiện dân chủ - do đó, ép Diệm cải tổ chính phủ.
Chính phủ Mỹ chưa kết luận – Nam Việt lùi hàng thứ yếu trước điểm nóng Berlin, hội nghị cấp cao Paris thất bại và Fidel Castro lên cầm quyền ở Cuba. Eisenhower bàn giao chính quyền cho Kennedy. Mỹ thậm chí coi Lào mới là nơi nguy ngập nhất Đông Dương. Giữa lúc Mỹ lừng chừng, vụ vịnh Con Heo đánh một đòn nặng vào uy tín của Kennedy và Kennedy hoài nghi các dự án của Bộ tham mưu liên quân cùng các luận cứ của CIA: không có việc Mỹ gửi quân đến Lào đúng như lời khuyên của đại sứ Galbraith. Năm sau, Taylor đề nghị đưa 8.000 quân đặc nhiệm vào Việt Nam. Harriman bác thẳng thừng. Khi MACV thay MAAG, Paul Harkins, tướng 4 sao thay Mac Garr, quân Mỹ lên 9.000 người. Bom napalm đã được sử dụng. Cái rủi cho Harkins là đầu 1963, chiến thuật trực thăng vận bị Việt Cộng đánh bại, Nolting gợi ý với Diệm tăng thêm một ít lính Mỹ. Diệm nói thẳng: Tôi không thích chế độ bảo hộ! Từ non 700, nay Mỹ đã lên ngót 2 vạn – chẳng lẽ con số đó còn thấp? Chúng tôi cần vũ khí và phương tiện kỹ thuật tốt, người Mỹ các ông chỉ cho những thứ phế thải. Sự chênh lệch trình độ trang bị giữa lính Mỹ tại Việt Nam với quân đội chúng tôi xa cách đến mức ai trông cũng ngượng. Không trang bị, cắt giảm viện trợ đồng thời một số người Mỹ hô hoán: chúng tôi bất lực. Chúng ta là đồng minh nếu Tổng thống Mỹ hiểu chữ “đồng minh” hoàn toàn không mang hơi hướng của lối quan hệ bất bình đẳng của thời thực dân cũ thì phải giúp chúng tôi mạnh. Tự chúng tôi biết mình phải thắng Cộng sản như thế nào. Nhiều lần tôi trình bày rõ ý kiến của cá nhân tôi: Việt Nam Cộng hòa cần Mỹ giúp trong mức mà Mỹ không đổ bộ lên đất nước tôi một đội quân như người Pháp đã làm và thất bại. Việt Nam Cộng hòa sẵn sàng nghe mọi lời khuyên xây dựng song tôi sẽ phẫn nộ nếu đó không phải là lời khuyên mà mệnh lệnh. Lời khuyên thì tốt, mệnh lệnh thì sẽ chẳng bao giờ được xét tới vì Việt Nam Cộng hòa không có nghĩa vụ phải chấp hành mệnh lệnh của một nước khác, dù cho đó là Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ!... Có thể trưng vô số trường hợp Diệm phát biểu ý kiến nhất quán như vậy.
Nolting báo cáo tận chi tiết nhỏ quan điểm của Diệm. Và Nolting đã giã từ Sài Gòn, giữa lúc chính phủ Việt Nam và Phật giáo từ đấu khẩu chuyển sang đấu lưỡi lê, bom cay, gạch, đá, với hằng tá nhà sư tự thiêu. Cái đáng ngạc nhiên là tại hội nghị Honolulu, tháng 4 năm nay, tướng Paul Harkins vượt qua tất cả những vai lạc quan nhất về tình hình Nam Việt – ông long trọng thông báo với Bộ quốc phòng Mỹ rằng một bộ phận lớn, nếu không nói là tất cả nhân viên quân sự Mỹ đang có mặt ở Nam Việt sẽ ăn lễ Noel 1963 nơi quê nhà vì chiến tranh đã kết thúc! Thói thường các tướng hay nói lố, Leclerc từng tiên đoán sai sự thật đến những 9 năm ở Việt Nam, Ridgway cũng lấy ý muốn riêng làm thước đo thời gian chiến tranh ở Triều Tiên... Chẳng lẽ tướng Paul Harkins không học bài học lịch sử chưa xa xôi lắm ấy? Toàn bộ thông báo của tướng Harkins chưa được đưa ra công khai, song hình như luận điểm của ông dựa vào mức độ hoạt động không dồn dập của đối phương cuối năm 1962 và lòng tin tuyệt đối của ông vào chính sách ấp chiến lược. Sau hội nghị Honululu chẳng bao lâu, vụ Phật giáo nổ bùng. Báo chí chưa có dịp nghe tướng Harkins luận giải – bây giờ thì ông được một trạng sư biện hộ lỗi lạc, ấy là sự rối loạn nội bộ Việt Nam Cộng hòa khiến lính Mỹ không thể về Mỹ dự lễ Noel được! Những chuyên gia vấn đề Nam Việt đều nhất trí về khả năng nước Mỹ rẽ bước trong chính sách đối với Nam Việt, chắc chắn sẽ được công bố nay mai. Các phái đoàn gồm các nhân vật sừng sỏ, đặc biệt, tướng Maxwell Taylor – dư luận xưng tụng ông là ngôi sao sáng chói nhất trong các nhà quân sự chuyên nghiệp Mỹ hiện nay – đi lại như con thoi giữa Washington và Sài Gòn báo hiệu kế hoạch đã được âm thầm sửa soạn và đang ở vào thời kỳ thêm vài dấu chấm trước khi Tổng thống Kennedy ký. Bước rẽ ấy là gì? Có ba khả năng: Một là ông Diệm làm lành với Phật giáo đồng thời làm lành với các lực lượng bấy lâu thù địch ông, tỷ như nhóm Tinh Thần thân Pháp; ông bà Nhu rời hẳn Việt Nam, không can dự vào chính trị, giải tán đảng Cần Lao, mật vụ và thủ tiêu quyền binh của ông Cẩn ở Trung phần. Hai là người Mỹ tự mình cầm quyền cả quân sự lẫn dân sự và tiến hành cuộc chiến tranh theo kiểu Mỹ, với người Mỹ - để hay hạ bệ ông Diệm sẽ không mang ý nghĩa bao nhiêu. Ba là ông Diệm liên minh với Việt Cộng và trạng thái đấu tranh ở Nam Việt thay đổi từ căn gốc.
Khả năng thứ ba – có vẻ quái đản, song không phải là sản phẩm của sự tưởng tượng. Tất nhiên, nếu anh em ông Diệm quyết tâm tạo mối liên minh này thì họ phải từ bỏ nhiều thứ: dinh Gia Long, quang cảnh ngày ngày quan lại đến rạp mình hầu hạ, quyền lực, tài sản... thậm chí, chấp nhận bộ áo quần du kích. Ông Diệm, ông Nhu hẳn từng tính đến lối ra ấy – xét theo thứ tự, lối ra cuối cùng – nhưng cũng hẳn họ chưa hình dung từ vấn đề bao quát dẫn đến mỗi tình tiết dính liền với chiếc ghế bành, chiếc giường nhún nhẩy, cái búng tay... Trước kia, ông Diệm, ông Nhu thỉnh thoảng núp bóng Việt Cộng để eo sách Mỹ, bây giờ, có thể họ coi đó là một giải pháp. Nhưng, những người cách mạng Việt Nam có lý do hoài nghi chính đáng trước một “lời rao vặt” kiểu đó.
Ông Diệm chống Cộng – và đang chống Cộng – lại nhờ vả kẻ ông bắn giết một cách không ân hận chìa bàn tay với ông giữa lúc ông đang đắm thuyền. Chiến thuật dù mềm dẻo đến đâu cũng không dành chỗ cho một nhượng bộ như vậy ở người Cộng sản, nhất là chưa bào giờ có dấu hiệu họ sẽ thua trận. Rốt lại, ông Diệm, ông Nhu định lợi dụng Mặt trận Giải phóng. Thế nhưng, Đảng Cộng sản Việt Nam rất ít giống Elas ở Hy Lạp, càng khác hẳn đảng Cộng sản Indonésia, Malaysia, Philippine. Người Mỹ chỉ có lợi khi công bố các tài liệu liên quan đến sự “đi đêm” này của ông Diệm.
Khả năng một khó xảy ra không kém. Ông Diệm mà không có vợ chồng ông Nhu, đảng Cần Lao, mật vụ, mà không có lực lượng Thiên Chúa giáo di cư hưởng đặc quyền thì không còn là ông Diệm nữa. Chính thể Sài Gòn mà gồm cả nhóm Phật giáo, Đại Việt, trí thức do Pháp đào tạo, quân đội Sài Gòn do các tướng chẳng chịu ân sủng của ông Diệm, chẳng đồng hương, đồng đạo chỉ huy sẽ không còn là chế độ Sài Gòn nữa. Chịu danh xưng “Tổng thống”, chịu tổ chức bầu cử mỗi nhiệm kỳ mà không là hoàng đế và “Tổng thống suốt đời”, đó là nấc lùi tận cùng của ông Diệm. Lùi hơn nữa, ông không tưởng tượng được. Cho nên, khả năng thứ ba cũng không có nốt. Phật giáo không đánh trốc ông Diệm thì ông Diệm sẽ đánh trốc Phật giáo. Canh bạc chỉ còn hai cửa “sấp và ngửa”.
Loại hai khả năng đầu và chót, còn khả năng giữa. Khả năng của người Mỹ. Giữa người Mỹ với nhau, không phải không còn vấn đề tranh luận – chắc chắn giới chức cao cấp Mỹ tốn khá nhiều giấy, nước bọt và Tổng thống chắc chắn đang nhứt đầu... Dầu gì, quả bóng vẫn đang ở trong chân Mỹ. Sút thẳng, giáo bóng thêm vài lượt... bài toán đặt ra như vậy, trừ phi chính phủ Mỹ lại sút bóng vào chính lưới của mình...
*
Luân nóng lòng chờ chỉ thị của A.07. Anh viết một báo cáo thật dài – dài nhất so với tất cả các báo cáo mà anh đã gửi về cấp trên từ khi anh nhận nhiệm vụ. Anh phản ánh nhiều mặt tình hình và cũng đề xuất nhiều phương án, trong đó, anh xin phép được trực tiếp gặp một đồng chí lãnh đạo ở nơi nào do cấp trên chọn và cũng xin phép được quan hệ thẳng với Lê Khánh Nghĩa, bây giờ là chỉ huy trung đoàn thuộc sư đoàn 5 bộ binh, đóng ở Bầu Trài, cách Sài Gòn không quá xa. Những đầu mối mà Trần Kim Tuyến giao cho anh, anh kiểm tra chặt chẽ rồi, độ tin cậy không cao – tất nhiên, tin cậy theo nghĩa họ hành động đơn thuần vì bất mãn Diệm và là bộ hạ chịu ơn hoặc ăn chịu với Trần Kim Tuyến. Một trong những đầu mối đó là đại tá Nguyễn Văn Thiệu, Sư trưởng Sư 5 – cấp trên của Lê Khánh Nghĩa – và thiếu tá Nguyễn Bá Liên, chỉ huy phó thủy quân lục chiến. Trong bản danh sách khá dài, Luân chọn lựa mãi, anh tra cứu hồ sơ, nhờ Dung sưu tra thêm và anh đi đến kết luận: Tuyến nắm người nào thì tình báo Mỹ cũng nắm người đó. Vả lại, Tuyến không thể biết, có người do John Hing, có người do Mai Hữu Xuân chi phối. Làm một cuộc đảo chính vào thời điểm bấy giờ có lẽ không có gì dễ hơn, song, đối với Luân, mục đích và kết quả thực tế của đảo chính quan trọng hơn bản thân cuộc đảo chính. Luân thức thâu đêm với các phương án. Lật đổ Diệm, giải tán cơ cấu chính quyền hiện thời, thành lập một chính quyền có xu hướng ít nhiều dân tộc, chấp nhận thương lượng chấm dứt chiến tranh... Đó là phương án cao nhất. Muốn đạt một phương án như vậy, đảo chính phải chủ yếu gồm các lực lượng thật sự có ý thức chính trị, muốn tránh cho miền Nam đất nước cảnh chết chóc, tàn phá. Phải thanh toán chính quyền Ngô Đình Diệm thật nhanh và một chính phủ mới – đã được sửa soạn – công bố liền đường lối mới, kêu gọi Mặt trận Giải phóng ngồi vào bàn đàm phán. Như vậy, chính phủ mới phải có lực lượng nòng cốt bởi khả năng đảo chính liền sau đó – do các thế lực chống Cộng và do Mỹ điều khiển – nhất thiết xảy ra. Chính phủ mới sẽ ban bố các quyền dân chủ và Luân hy vọng quần chúng đứng lên chung quanh chính phủ mới. Có thể Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Huỳnh Văn Cao, Tôn Thất Đính, đặc biệt Mai Hữu Xuân sẽ phản ứng mạnh, kể cả Lê Quang Tung, Hồ Tấn Quyền, Nguyễn Cao Kỳ... nhưng nếu quần chúng tham gia đông đảo, những sĩ quan kia không dám liều lĩnh, chỉ cần Lê Khánh Nghĩa thọc nhanh trung đoàn 7 vào ruột Sài Gòn! Phương án “trung sách” là Diệm đổ, một chính phủ thân Pháp cầm quyền, tuyên bố theo đuổi trương đối ngoại trung lập, tuy vẫn chống Cộng nhưng loại dần ảnh hưởng Mỹ và đến một lúc nào đó sẽ đàm phán với Mặt trận Giải phóng. Phương án này dễ nhận diện hơn cả, bởi các tướng tiêu biểu hiện nay đều xuất thân từ “lò” Pháp. Nhưng đó lại là một phương án khá cơ động – Mỹ đủ sức nắm các sĩ quan dù thân Pháp trong máu. Phương án cuối cùng, chưa thể đo lường giá trị ngay là Diệm chống cự, trận đánh kéo dài, gây xáo trộn dữ dội...
Dung dự vào công việc vạch phương án của Luân. Cô cân nhắc từng chi tiếc và gợi ra nhiều khía cạnh để Luân suy nghĩ. Dung có một điểm khác Luân – rất khác: không tán thành liên hệ với Lê Khánh Nghĩa. Lập luận của cô rõ ràng; đảo chính mở đầu chứ chưa kết thúc, Luân không có quyền bộc lộ thân phận.
Cuối tháng 9, Luân nhận được chỉ thị - sở dĩ chỉ thị chậm là vì anh Sáu Đăng phải đích thân ra Hà Nội trình bày với A.07.
“Kỵ sĩ và Mimosa không cần gặp bất cứ đồng chí lãnh đạo nào. Việc đó, để cấp trên quyết định khi thấy thích hợp. Trong ba phương án, phương án một nó quá “lý tưởng”. Hai phương án sau khả dĩ gần thực tế, song điều quan trọng nhất là phải tùy cơ ứng biến. Bất cứ tình huống nào, Kỵ sĩ và Mimosa phải giữ thân phận là người Quốc gia. Tuyệt đối không được liên hệ với LKN. Hết sức đề phòng các diễn tiến nghịch thường, bọn tình báo bấy lâu “ngửi” thực chất của Kỵ sĩ và Mimosa, nhân dịp này gây khó khăn, thậm chí hãm hại. Cố mà tạo ra các điều kiện để quần chúng nổi dậy càng rộng càng tốt. Mỹ còn rất cay cú, chúng thất bại với con bài Diệm không có nghĩa là chúng chịu thua. Tóm lại, tình hình còn phức tạp, lực lượng so sánh chưa cho phép chúng ta “dứt điểm”... Không nên coi thường việc hóa thân vào các nhóm của Tuyến, tức là của một thế lực của Mỹ. Không từ chối cương vị mà Mỹ giao. Nên phân tích thái độ của Taylor sau trận “giao hữu”.”
Chỉ thị ngắn mà rõ. Luân cầm tay Dung:
- Em giỏi lắm...
Dung nép vào Luân và sau đó ghì chặt bé Lý rồi đưa con đi ngủ, để Luân tập trung, chắc là thâu đêm. Vạch ra, xóa đi, lại vạch ra chương trình hành động. Bây giờ, đã phải tính từng ngày...
*
Tờ Cách mạng quốc gia đăng một lời rao chen lẫn giữa vô số lời rao: Bán vườn cây ăn quả: xoài riêng, măng cụt, chôm chôm tại Lái Thiêu, hoa lợi lớn. Hỏi ông Hoãn ở 26/10 đường Phan Đình Phùng.
Đến ba nơi đồng thời đặt lời rao vặt ấy dưới kiếng “lúp”.
- Họ chưa chấp nhận ngày 26-10! – Tướng Trần Thiện Khiêm uể oải trao đổi với Mai Hữu Xuân.
- Trở ngại chắc chắn là vì tướng Đính... Bao giờ? – Xuân hỏi. Khiêm nhún vai. Cả hai tiếp tục buổi câu cá trên bờ sông như họ vẫn thường ngồi chung như vậy.
- Nhóm đảo chính chọn ngày Quốc khánh 26-10 nhưng chưa được Mỹ cho phép... - Luân bảo Dung. - Hoãn có nghĩa là sẽ xảy ra và xảy ra không xa ngày 26-10 bao nhiêu...
- Ta ra tay liền sau 26-10. – Nhu bảo Luân khi Luân được gọi vào dinh Gia Long – Tôi bàn với Tôn Thất Đính thực hiện một cuộc đảo chính gọi là kế hoạch Bravo. Giải tán toàn bộ chính phủ, tống giam một số tướng tá khả nghi, thiết lập tòa án binh xét xử ngay... Tổng thống sẽ tuyên bố trao quyền cho tôi. Đây, anh xem bài tôi sẽ phát biểu trên vô tuyến.
Luân nhận tờ giấy và đọc dòng mở đầu:
“Nhân danh Chủ tịch Ủy ban cứu nước, tôi tuyên bố từ nay cho đến khi tình hình trở lại bình thường, Tổng thống Ngô Đình Diệm không đảm đương công việc nước. Chủ tịch Ủy ban cứu quốc sẽ kiêm nhiệm quyền Quốc trưởng, chủ tọa nội các và Tổng tư lệnh tối cao... ”
Nhu và Luân không hề biết, vào lúc đó, một “giáo sư” đoán điềm giải mộng và chiết tự nổi tiếng tên là Minh Tân gặp Thiếu tướng Tư lệnh quân đoàn 3 và vùng 3 chiến thuật, kiêm Tổng trấn Sài Gòn Tôn Thất Đính ở nhà riêng của thiếu tướng, theo môi giới của Ly Kai.
- Tôi ghét dị đoan! – Đính bảo – Như Huỳnh Văn Cao, bất cứ điều gì xảy ra ông ta cũng nhờ Đức Mẹ báo mộng...
- Thiếu tướng yên trí... Tôi là một nhà khoa học. Tôi chỉ phân tích trên cơ sở khoa học. Thiếu tướng, xin lỗi, tên Đính. Tôi chưa rõ cụ thân sinh đặt tên thiếu tướng theo chữ nào? Có nhiều chữ Đính...
Tôn Thất Đính cười:
- Răng mà tôi biết!
- Cũng được... Đính bộ “Thạch” có nghĩa là hòn đá cột vào neo để giữ thuyền khỏi lắc lư mà cũng có nghĩa là cây cột gỗ để cột thuyền. Đính bộ “Kim” là đóng, như đinh đóng vào cột ấy. Đính bộ “Ngôn” nghĩa là ước hẹn và giữ lời, còn có nghĩa là nơi cao nhất, ví dụ hình tam giác thì nơi chóp bu là đính. Đính thiên lập địa: đội trời đạp đất... Đính nha, cái mầm non trên chóp cây – bourgeon terminal... Đính với chừng ấy nghĩa...
Lúc đầu, Tôn Thất Đính nghe lơ đãng, nhưng càng về sau càng chú ý.
- Lạ thật! – Đính nói thầm – Quả là điềm lành... Tên ta không có một nghĩa nào xấu cả? Nhất là cái nghĩa sommet của một triangle (5)... Tam đầu chế!
Đính thưởng cho “giáo sư” Minh Tân thật hậu.
Hôm sau, Đính vui miệng khoe với Luân về những kỳ ảo quanh cái tên của mình.
Luân chia vui với Đính. Luân biết gã thầy bói còn giấu ba cái nghĩa xấu của chữ “đính”. Một là “say rượu” hai là “cúi đầu sát đất”, ba là “mạo tên người khác”... Có vẻ ba cái nghĩa sau thích hợp với viên tướng hoàng tộc này hơn. Và, Luân tư lự:
- “Bravo” sẽ tiếp sau như thế nào?
---
(1) Những vấn đề nội tại của Nam Việt.
(2) Xin lỗi! Tôi bận. Đại tá Luân đang có mặt ở đây. Ông có muốn nói chuyện với ông ấy không?
(3) Vừa đánh vừa rút lui
(4) tức Afghanistan
(5) Đỉnh của tam giác.


Ván bài lật ngửa - Phần 1+2
Ván bài lật ngửa - phần 3+4
Ván bài lật ngửa - phần 5+6
Ván bài lật ngửa - phần 8 
Ván bài lật ngửa - Phần 9

Không có nhận xét nào: