Thứ Hai, 5 tháng 11, 2012

Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 3)


Chương 1
NGƯỜI LỮ HÀNH KHÔNG MỎI
1.
Anh cảm thấy mình như trắng tay.
Mọi việc phải làm lại từ đầu.
Từ một thầy Bốn ở một xứ đạo nghèo heo hút, một tù nhân trong đám người tử tội, anh đã vượt qua bao chặng đường gian nan, trở thành cận thần sủng ái của những kẻ cầm đầu chế độ. Anh đã lọt được vào thâm cung của triều đình họ Ngô, nắm hàng ngày trong tay những vấn đề cơ mật nhất của chế độ, giành được một vị trí lý tưởng đối với người cán bộ tình báo mà trước đây anh không dám mơ ước. Ván cờ đang chơi với rất nhiều lợi thế bỗng chốc bị xóa sạch. Giờ đây, mỗi lần đi ngang dinh Gia Long, anh lại trở thành khách qua đường.
Anh trở về nhà thờ Bình An trong lúc phong trào Công giáo ở khắp miền Nam đang lâm vào một tình thế bi đát chưa từng có suốt mấy chục năm qua. Cái chết của những người cầm đầu chế độ là những con chiên ngoan đạo cùng với sự ra đi không kèn không trống của một tổng giám mục, một giám mục nổi tiếng là lá cờ đầu chống Cộng, là những đòn nặng nề giáng vào Thiên chúa giáo. Nhiều xứ đạo tại miền Nam, như Phước Tuy ở Bà Rịa, Thanh Bồ, Đức Lợi ở Đà Nẵng, Phú Cam ở Huế... bị tiến công trả thù. Những xứ đạo khác ở Sài Gòn và vùng chung quanh đều lo sắp tới lượt mình. Giáo dân người mặc cảm tội lỗi, người e liên lụy, ai nấy như cò gặp mưa. Nhiều cha cố bơ phờ. Các linh mục tuyên úy trong quân đội không dám làm lễ misa cho con chiên. Khâm sứ tòa thánh và Tổng giám mục Sài Gòn đều buồn bã.
Rất đông giáo dân trước đây đã đi theo gia đình Diệm, tham gia đảng Cần lao - Nhân vị hoặc những tổ chức mật vụ, chính trị của Nhu, Cẩn sợ bị bắt bớ, trả thù. Cha cố đứng đầu những xứ đạo đã được Diệm nâng đỡ, lo giáo dân bị khủng bố, hoặc tài sản của xứ đạo bị chính quyền mới tịch thu. Họ kéo nhau chạy tới Tòa Tổng giám mục, Tòa Khâm sứ cầu cứu. Nhưng cả Tổng giám mục và Khâm sứ vừa không biết giải quyết ra sao, vừa lo dính líu vào chuyện chính trị mà Vatican đã nghiêm cấm. Nhưng dù sao các đấng bề trên cũng không thể bỏ rơi con chiên khi hoạn nạn. Khâm sứ và Tổng giám mục nghĩ ngay tới cha Hoàng và Hai Long, khuyên họ nên tới tìm sự khuyến cáo ở nhà thờ Bình An.
Xứ đạo Bình An sau một thời gian trở lại yên tĩnh, vắng vẻ như xưa, lại tấp nập người lui tới. Không riêng con chiên mà nhiều cha xứ cũng đến tha thiết đề nghị được gặp cha Hoàng. Khách thăm viếng lần này không làm cho ông vui. Trái lại, vì họ mà ông thêm buồn bực và suy nghĩ. Trong tình thế khó khăn của từng xứ đạo, từng người, ông cũng không biết nên khuyến cáo thế nào. Ông tránh họ bằng cách lặp lại lời của Khâm sứ tòa thánh cấm các linh mục không được dính líu vào chính trị, rồi bảo họ nên gặp Hai Long.
Thực ra, uy thế của hai nhà thờ Bình An và Phát Diệm không hề bị sứt mẻ qua cuộc đảo chính. Mọi người đều biết giáo dân hai xứ đạo này là nạn nhân của chế độ Diệm, cha Lê và cha Hoàng trước sau vẫn là người chống Diệm, Nhu. Riêng Bình An, tiếng tăm còn được nâng lên hơn trước, nhiều người đã biết, sau ngày đảo chính thành công, các ủy viên của Hội đồng tướng lĩnh đã kéo tới cảm ơn cha Hoàng. Cha Hoàng không đứng ngoài cuộc đảo chính. Vì vậy, có những cha xứ, giáo dân không qua Tòa Khâm sứ, Tòa tổng giám mục mà chạy thẳng tới đây.
Hai Long ân cần tiếp tất cả mọi người. Họ thấy trong những giờ phút khó khăn, anh luôn luôn ở bên họ. Với những cha xứ lo xứ đạo bị tiến công, anh nói mình sẽ trực tiếp can thiệp với Hội đồng quân nhân cách mạng, yêu cầu không để chuyện đó xảy ra. Một số cha cố lo tài sản của nhà thờ bị tịch thu, ngỏ ý muốn nhượng lại một phần, hoặc một nửa số cổ phần những công việc mà họ đang kinh doanh có lãi cho Hai Long. Anh kiên quyết từ chối, tỏ ra mình không bao giờ lợi đụng ai lúc gặp khó khăn. Nhưng anh hứa sẽ hết sức đấu tranh với Hội đồng quân nhân cách mạng, đòi không được đụng tới tài sản của giáo hội và nhà thờ Thiên chúa giáo. Trong khi trao đổi với một số tướng lãnh, anh đã biết giới quân sự cầm quyền chưa dám làm chuyện này. Với những người lo bị bắt bớ, vì đã tham gia vào những tổ chức chính trị của chế độ Diệm, anh khuyên họ hãy yên lòng vì chính anh cũng đã có thời gian dài cộng tác cả với Diệm, Nhu, Cẩn... Anh lựa lời an ủi những gia đình có người vừa bị bắt, và nói Chúa và các đấng bề trên sẽ không bao giờ quên họ.
Nhiều cha xứ thấy sau một thời gian, xứ đạo không bị tiến công, tài sản của nhà thờ không bị tịch thu, gặp Hai Long đã ngỏ lời hết sức cảm ơn. Thực ra, trong việc này, Hai Long chỉ góp được một phần qua những cuộc trao đổi với một số ủy viên trong Hội đồng quân nhân cách mạng. Cha cố ở nhiều xứ đạo đã chủ động lo lót với những quan chức ở địa phương, nên được họ để yên.
Nhiệm vụ của anh vẫn như cũ. Anh cần nhanh chóng khôi phục lại vị trí trước đây trong chính quyền mới. Nhưng tình hình chính trị ở Sài Gòn đang rối bời. Việc chấp chính từ sau ngày đảo chính vẫn do Hội đồng quân nhân cách mạng tạm thời nắm giữ, với mấy nhân vật trụ cột là Minh Lớn, Đôn, Kim, Xuân, Đính. Sự phân hóa, nghi kỵ trong Hội đồng ngày càng bộc lộ. Nhiều đơn vị tham gia đảo chính bị điều khỏi đô thành. Nhiều sĩ quan đã có công trạng trong đảo chính, và đã được thăng thưởng, nhưng lại bị theo dõi chặt chẽ. Một số ngôi sao mới nổi lên bầu trời chính trị ở Sài Gòn là Minh Lớn, Đôn và Kim. Nhiều tin đồn Minh Lớn sẽ trở thành quốc trưởng, Kim sẽ làm thủ tướng, Đôn là tổng trưởng Quốc phòng. Ghế tổng tham mưu trưởng sẽ vào tay Trần Thiện Khiêm; ghế bộ trưởng Nội vụ sẽ thuộc về Tôn Thất Đính. Những người lãnh đạo Phật giáo sẽ được trả công xứng đáng. Ai cũng biết các tướng lãnh không dễ gì lật đổ Diệm, Nhu nếu không có cuộc đấu tranh của phong trào Phật giáo diễn ra suốt mấy tháng qua. Cabot Lodge vốn có cảm tình với Phật giáo. Thích Trí Quang, chỉ rời khỏi Tòa đại sứ Mỹ sau khi cuộc đảo chính kết thúc thắng lợi. Cũng vẫn có tin đồn Trần Văn Chương, đại sứ Việt Nam cộng hòa tại Mỹ, bố vợ của Nhu, nhưng từ âàu đã tỏ rõ sự bất bình với chế độ Diệm, sẽ được đưa về làm thủ tướng.
Bản hiến ước tạm thời số 1 công bố khiến nhiều người ngỡ ngàng. Minh Lớn được cử làm quốc trưởng. Nhưng Minh Lớn lại chỉ định Nguyễn Ngọc Thơ, phó tổng thống của Diệm, làm thủ tướng, chịu trách nhiệm đứng ra thành lập chính phủ mới. Chính phủ do Thơ thành lập gồm 14 tổng trưởng, bộ trưởng, trong đó có vài ba tướng lãnh thân cận với Minh Lớn, số còn lại đa phần đã ở trong bộ máy chính quyền cũ, trước đây được Diệm tin dùng. Thơ chỉ loại trừ những người đã mật thiết gắn bó với Nhu. Có người gọi đây là “chế độ Diệm không Diệm”. Nhưng thực ra không phải như vậy. Trong chính phủ Thơ tuy phần lớn là những người cũ, nhưng nó đã mất đi cái linh hồn cùng với sức mạnh chủ yếu của nó, là Nhu với bộ máy mật vụ của y.
Nguyễn Ngọc Thơ là người cùng thế hệ với Diệm, xuất thân từ một đại địa chủ, thời Pháp thuộc đã làm đốc phủ sử Nam Kỳ, rồi làm bí thư cho toàn quyền Pháp Decoux. Thơ là một trong số những người hiếm hoi được Diệm trọng nể và tin dùng. Nhưng trong chế độ Diệm, Thơ chỉ đóng một vai trò rất mờ nhạt, một viên thư lại yên phận. Thơ không bao giờ tự coi mình là người thay mặt Diệm, kể cả khi Diệm đi vắng. Nhu đặc biệt coi thường Thơ. Thơ không hề có quan hệ đặc biệt nào với Mỹ, kể cả với tòa đại sứ Mỹ. Vậy tại sao Thơ lại được lựa chọn đứng ra thành lập chính phủ mới...? Hai Long hiểu đây chỉ là một giải pháp tạm thời của Cabot Lodge. Nhà Trắng muốn trước mắt làm nhẹ áp lực của dư luận đang lên án Mỹ, không những đã tàn sát Diệm, Nhu, mà còn đập nát cả chính quyền hợp hiến Việt Nam cộng hòa. Với Thơ và thành phần chính phủ do Thơ chọn, chính quyền cũ có vẻ như ít nhiều vẫn tồn tại. Và Thơ là một kẻ mà Cabot Lodge có thể cất đi bất cứ lúc nào.
Minh Lớn đã đưa những người cộng tác với mình nắm một số vị trí quan trọng: bộ Quốc phòng, bộ Nội vụ, Tổng nha Cảnh sát, đô trưởng Sài Gòn. Nhưng cánh Minh Lớn vẫn chưa củng cố được thực lực. Sự phân chia quả thực gây nên bất bình trong một số tướng lãnh còn nắm lực lượng trong tay. Bọn này sẽ không chịu ngồi yên. Mỹ vốn không mấy tin cậy những con người như Minh Lớn, Đôn, Kim đã có một quá khứ lâu dài gắn bó với Pháp. Cabot Lodge đang tiếp tục lựa chọn, chính quyền miền Nam chắc sẽ còn một thời gian không ổn định.
Hai Long đã tự cứu nguy bằng cách khéo léo trút bỏ những mối dây gắn chặt mình với chế độ Diệm, nhưng anh lại trở về vị trí xuất phát ban đầu. Anh chưa biết mình nên bước tiếp thế nào trong lúc tình hình còn đang nhiễu nhương.

2.
Một buổi, cha Hoàng đi gặp khâm sứ Tòa thánh về, cho người ra trường, mời Hai Long vào ngay. Ông ngồi đợi anh ở văn phòng với vẻ mặt đăm chiêu.
Cha Hoàng nói:
- Có việc khó giải quyết, phải cho mời thầy vô để cùng bàn.
- Thưa cha có chuyện chi?
- Hội đồng Giám mục toàn thế giới sắp họp ở Roma. Bộ truyền giáo Vatican chỉ thị phải tổ chức một cuộc triển lãm về Cộng đồng Vatican II tại Sài Gòn. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cho rằng không tổ chức được, vì khó bảo đảm an toàn. Nhưng Khâm sứ vẫn thấy nên cố gắng thực hiện chỉ thị của Bộ Truyền giáo. Người muốn tổ chức triển lãm càng sớm càng tốt để trấn an giáo dân, và làm giảm bớt không khí căng thẳng giữa Công giáo với Phật giáo. Mình không biết trả lời sao! Khám sứ hõi có thể tổ chức triển lãm ngay tại xứ đạo Bình An không? Xứ đạo nằm sát Chợ Lớn, thời gian qua lại không có điều tiếng chi. Như vậy là ý Đức Khâm sứ rất muốn làm, nếu tổ chức ở Sài Gòn khó, thì tổ chức ở đây. Mình phân vân quá. Thầy có ý kiến sao?
- Nếu là chỉ thị của Tòa thánh và Đức Khâm sứ nhiều lần nhắc nhở như vậy, thì dù khó khăn, xứ đạo ta cũng phải gắng làm.
- Nhưng bày ra rồi, liệu có êm thấm không? Lỡ xảy ra chuyện chi thì biết ăn nói ra sao?
- Thưa cha, nếu ta đã tổ chức thì phải cố gắng bảo đảm không để xảy ra chuyện gì.
- Nhưng làm cách nào? Vệ sĩ xứ đạo ta chỉ có tay không. Nếu hắn lại cho người tới liệng vô một vài trái lựu đạn như ở Huế thì tính sao?
- Thưa cha, mình đã làm thì phải buộc chính quyền vô lãnh chung trách nhiệm. Chuyện này khó, nhưng con sẽ lo.
Cha Hoàng tươi nét mặt:
- Mình biết việc dù khó tới đâu, nhưng cứ bàn với thầy là êm xuôi.
- Từ bữa nói chuyện với cha, và những ngày gần đây, con suy nghĩ rất nhiều. Ông Diệm, ông Nhu tuy là giáo dân, nhưng đã không nghe lời khuyến cáo của Tòa thánh, làm nhiều điều ngược với đường lối của giáo hội. Các ông đâu phải là con chiên lành của Chúa! Người đấu tranh mạnh đưa các ông để trở lại đường ngay, đâu phải là các tướng lãnh, mà chính là người của giáo hội Công giáo như cha Lê, cha Tổng... Nếu không có cha Tổng ngày đêm suy nghĩ, bàn bạc với các nhà lãnh đạo tôn giáo, các tổ chức chính trị, các tướng lãnh, kể cả Tòa đại sứ Mỹ, thì đâu có ngày mồng 1 tháng 11 vừa rồi? Như vậy tại sao chính quyền mới lại dung túng việc đàn áp giáo dân? Họ có biết trước ngày đảo chính thì các thượng tọa, đại đức nằm ở nhà thờ Bình An này chứ ở đâu! Chẳng lẽ đấu tranh xóa bỏ một bất công này, rồi lại nhận một bất công khác còn tệ hại hơn? Con đã có ý định lui về sống ẩn dật, nhưng những điều cha nói bữa trước đã làm con suy nghĩ lại. Những ngày qua, con đã gặp nhiều cha, nhiều giáo dân, thấy trong tình hình này, người còn có trách nhiệm với giáo dân, với giáo hội, chẳng thể thoái thác nhiệm vụ, ngồi khoanh tay cho kẻ ác làm bậy... Chẳng qua chỉ vì người Mỹ tàn ác quá, vô chính trị quá, đang tay giết hại cả đồng minh, nên mới tạo nên tình hình rối loạn. Cha Lê và cha Tổng với uy tín lớn của mình, đã tạo nên một cục diện chính trị mới ở miền Nam, chả lẽ vì một sai lầm của Mỹ mà để buông trôi! Người Mỹ thời gian qua đã sử dụng Phật giáo thành một lá bài quan trọng lật đổ chế độ Diệm. Vì ông Diệm là một giáo dân, nên trong khi đánh đổ ông Diệm, họ đã đánh luôn một đòn rất nặng vào Công giáo. Phải làm cho họ sớm nhận thấy sai lầm. Không thể để cho một số nhân viên CIA tùy tiện dựa vào Phật giáo, gây rối loạn tình hình chính trị miền Nam! Vì vậy theo con, Bình An ta cần tổ chức tốt cuộc triển lãm mà Tòa Khâm sứ đã trao. Sau đó, ta còn phải làm thêm nhiều việc khôi phục lại địa vị và uy tín giáo hội Thiên chúa giáo trên chính trường miền Nam, không thể để tổn hại vì những hoạt động vô ý thức của CIA.
Cha Hoàng lắng nghe từng lời của Hai Long, mỗi lúc càng nhìn anh với cặp mắt tán thưởng.
- Mình cũng đã nghĩ không thể để mãi tình hình này, rồi sẽ bàn kỹ với thầy. Riêng về vấn đề tổ chức triển lãm, nếu đã quyết định như vậy, thầy nên tới ngay Tòa Khâm sứ, trực tiếp trả lời cho Đức Khâm sứ...
Buổi chiều, trên đường từ Bình An về, Hai Long tới Tòa khâm sứ. Được tin, Khâm sứ cho người ra mời vào ngay.
Biết cha Hoàng và tổng giám mục Nguyễn Văn Bình đã nói nhiều về khó khăn nếu tổ chức cuộc triển lãm, Hai Long chỉ trình bày những dự kiến của anh về kế hoạch và chương trình tổ chức một cuộc triển lãm thật trọng thể, có mặt đại diện Hội đồng tướng lãnh, đại diện các tôn giáo, đảng phái và nhiều nhân sĩ Sài Gòn cùng với đông đảo giáo dân; cuộc triển lãm sẽ được những lực lượng an ninh của chính quyền bảo vệ chặt chẽ.
Khâm sứ ngồi nghe, miệng luôn luôn mỉm cười.
Sau khi trình bày xong những dự kiến, Hai Long nói:
- Con đã hiểu rõ ý của Đức Thánh cha, muốn phục vụ tốt cho giáo hội, để cho giáo hội trường tồn, thì các linh mục và giám mục phải đứng ngoài, không dính líu vào chính trị, ngõ hầu tránh một cuộc chiến tranh tôn giáo mà Công giáo vừa là thiểu số, lại vừa mất uy tín sau khi tổng thống Diệm bị sát hại. Đức Thánh cha và Đức Khâm sứ đã dốc hết tâm sức cũng không ngăn được bàn tay của kẻ dữ đối với những con chiên của mình. Nhưng với tư cách là một con chiên dốc lòng phục vụ Chúa, con xin tự nguyện dấn thân theo gương thánh Pierre, thánh bổn mạng của con, xin làm một tảng đá để góp phần xây nền móng vững bền cho giáo hội.
Khâm sứ tỏ vẻ hài lòng. Ông nói:
- Giáo hội đang ở trong những giờ phút khó khăn, con hãy vì Chúa mà hết lòng chống đỡ. Hiện nay, không có gì tốt hơn là hòa giải với Phật giáo và giao hảo với Hội đồng quân nhân cách mạng, hướng họ làm theo Chúa. Mặt khác, Tòa thánh muốn nhờ con gắng dùng ảnh hưởng của mình đối với Hội đồng, yêu cầu họ không đụng tới tài sản của giáo hội, trừ tài sản của anh em Diệm, và can thiệp với Hội đồng khoan hồng cho một số nhân vật Công giáo bị cách mạng bắt giữ, vì trước đây đã cộng tác với chế độ Diệm.
Hai Long nhận lời.
Ngày 22-11-1963, tức là đứng 20 ngày sau khi Diệm đổ, cuộc triển lãm về Cộng đồng Vatican II được tổ chức trọng thể tại trường trung học Đồng Tâm của giáo xứ Bình An. Hai Long đã nhờ người tới tòa đô trưởng gặp Mai Hữu Xuân, đang là Tổng giám đốc Tổng nha Cảnh sát, kiêm đô trưởng Sài Gòn, để đề nghị giúp đỡ về an ninh. Xuân sốt sẵng cử hai trung đội cảnh sát tới để bảo vệ trật tự trong thời gian triển lãm.
Buổi khai mạc có đại diện Hội đồng quân nhân cách mạng, đại diện các tôn giáo, đảng phái và khá đông nhân sĩ tới dự. Phái đoàn Phật giáo do các thượng tọa Thích Giác Đức, Thích Đức Nghiệp dẫn đầu. Đại diện khâm sứ Tòa thánh và phụ tá của Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cũng có mặt. Sau lễ khai mạc, quan khách khoảng 500 người, cùng dự tiệc trà thân mật với sự góp vui của ba dàn nhạc Công giáo.
Ngay sau khi kết thúc cuộc triển lãm, cả cha Hoàng và Hai Long cùng được mời tới Tòa Khâm sứ. Khâm không tiếc lời khen cuộc triển lãm đã thành công vượt sức tưởng tượng.
Cha Hoàng thực thà nói:
- Được như vậy là do tài tháo vát cũng như uy tín và mối giao hảo của thầy Hoàng Đức Nhã đối với các tướng lãnh và Phật giáo, chứ còn con có làm gì được cái chi! Con mới ngỏ lời xin phép tổ chức, mà họ đã vội lấy cớ an ninh gạt đi. Kết quả này chính con cũng không ngờ.
Khâm sứ nói tiếp luôn:
- Thầy Nhã là người có công lớn đối với giáo hội Việt Nam, và còn là ân nhân của nhiều gia đình có liên quan tới chế độ Diệm.
Khâm sức “chúc lành” trước khi hai người ra về, vì biết có nhiều khó khăn, nguy hiểm đang chờ họ.

3.
Cuộc triển lãm thành công tốt đẹp cùng với lời khen của khâm sứ dường như tiếp cho cha Hoàng một luồng sinh khí mới. Trên đường trà về Bình An, cha chánh xứ vui vẻ, sôi nổi hẳn lên:
- Vào lúc này mình đứng lên tập hợp lực lượng giáo dân Bùi Chu - Phát Diệm có lợi không?
- Thưa cha, trước đây khó khăn hơn nhiều, ta vẫn làm được; bây giờ có khó khăn bao nhiêu! Bọn cảnh sát đặc biệt, mật vụ vẫn thường o ép ta đã trốn chạy tan tác, chỉ còn lo thoát thân, những tên cầm đầu như Dương Văn Hiếu, Tá Đen... đều nằm trong khám chờ ngày xét xử, còn có điều chi đáng ngại?
- Mình muốn nói tới cái thế kẹt của Công giáo nói chung sau khi ông Diệm bị sát hại.
- Nhìn chung thì như vậy, nhưng riêng Phát Diệm ta không mất mát gì. Trái lại, uy tín ta càng tăng lên. Phát Diệm ta chống chế độ gia đình trị của ông Diệm ngay từ đầu, ta chính là người có công đầu trong việc lật đổ nền đệ nhất cộng hòa. Các tướng lãnh cầm đầu cuộc đảo chính hầu hết đều chạy đến ta. Người Mỹ muốn xuyên tạc lịch sử, định phất lá cờ Phật giáo hòng làm lu mờ ta. Nhưng họ dễ chi làm được, vì sự thật trước sau vẫn là sự thật!
- Thằng Mỹ quá ngu! Mình phải tính chuyện mở mắt cho nó! Chỉ tiếc đức cha Lê còn ở Roma...
- Đức cha đi vắng, thì còn cha. Dư luận trên chính trường miền Nam xưa nay đều nói: Đức cha Lê đạo cao đức trọng, hiểu biết. uyên thâm, nhưng chỉ là người cha tinh thần, người thực sự bài binh bố trận là cha Tổng. Vì vậy nên ai muốn nhờ cậy vào uy tín thì tới Đức cha Lê, ai muốn tính chuyện làm ăn đều phải tìm tới cha Tổng. Trong những biến cố vừa qua, mọi người càng thấy rõ điều đó...
Cha Hoàng ngồi im cho tới khi chiếc xe chạy qua cầu Nhị Thiên Đường, đi dọc con kênh Kinh Đôi về nhà thờ Bình An. Hai Long biết cha có điều chi suy nghĩ rất lung.
Cha bảo Hai Long vào văn phòng dùng bữa trưa để tiếp tục câu chuyện.
Trong bữa ăn, cha Hoàng nói vừa nẩy ra ý định tổ chức một lễ truy điệu thật lớn các chiến sĩ Bùi Chu - Phát Diệm trận vong, nhằm công khai tập hợp lực lượng, làm hậu thuẫn cho mình trong cuộc đấu tranh đang sôi nổi trên chính trường Sài Gòn. Cha muốn lễ này được tổ chức thật sớm để chuẩn bị cho những bước đi tiếp về sau mà cha đã có dự kiến.
Hai Long nhiệt liệt tán đồng.
Trước đây, dựa vào cha Lê, anh đã tạo được cho mình một vị trí trong gia đình họ Ngô cầm quyền. Cha Hoàng ngày nay chưa có được cương vị trên chính trường miền Nam như cha Lê, uy tín của Thiên chúa giáo lại đang ở vào thời kỳ giảm sút. Hơn thế, những nhân vật đứng đầu chính quyền hiện hữu, đều là những người theo đạo Phật. Họ cần tới cha Hoàng trong lúc lật đổ Diệm, là một tín đồ Thiên chúa giáo. Bây giờ công việc đã xong, Bình An không còn gì để thu hút họ. Nhưng anh không thể ngồi im ẩn náu đợi thời. Anh cần chủ động tạo cho mình một thế mới. Cha Hoàng phải có một vị trí như cha Lê trước đây, Bình An phải trở thành một trung tâm chính trị của khối giáo dân Thiên chúa giáo, nơi tập hợp những tôn giáo lớn, thường xuyên tạo một áp lực mạnh đối với Mỹ và chính quyền ngụy, buộc chúng không thể bỏ qua mỗi khi có một mưu đồ chính trị.
Hai Long nói với cha Hoàng:
- Đã có kinh nghiệm cuộc triển lãm vừa rồi, lần này ta sẽ tổ chức tốt hơn nữa.
Xứ đạo Bình An nhộn nhịp hẳn lên. Giáo dân tấp nập chạy tới nhà thờ nhận phân công. Người lo in giấy mời, đi móc nối với tất cả những giáo xứ có giáo dân Bùi Chu, Phát Diệm. Người lo tu bổ nhà thờ, trang trí hội trường, chuẩn bị vật chất cho một tiệc trà dự kiến đông tới ngàn người. Hai Long đặc trách việc mời các quan khách.
Một chuyện trục trặc nhỏ xảy ra. Cha Hoàng muốn trong buổi lễ trọng thể này, đứng sau cha, phải là Hai Long. Cha yêu cầu anh làm trưởng ban tổ chức. Hai Long sẽ góp phần bảo đảm cho buổi lễ thành công tốt đẹp, và cũng sẽ làm đẹp mặt thêm cho cha trước các quan khách. Trong thực tế, nếu không có Hai Long đứng ra lo liệu với chính quyền thì với tình hình này, buổi lễ rất khó được tổ chức. Nhưng Hai Long đề nghị trao nhiệm vụ trưởng ban tổ chức cho cựu phó tổng chỉ huy tự vệ Bùi Chu - Phát Diệm trước đây, là thiếu tá Trần Thiện. Không hiểu vì sao cha Hoàng không ưa Trần Thiện. Hai người sống với nhau như mặt trăng, mặt trời. Hai Long đã nhiều lần góp phần vào việc hòa giải giữa cha chánh xứ và người cộng tác kỳ cựu của mình. Hai Long chỉ mới hoạt động cho Tổng bộ tự vệ những năm gần đây. Với cương vị cựu phó tổng chỉ huy, Thiện làm trưởng ban tổ chức buổi lễ là đúng. Nhưng cha Hoàng không chịu chọn Thiện, lấy cớ Thiện ít quan hệ với các quan khách. Thiện biết ý cha Hoàng muốn gạt mình, nên ngay từ đầu đã tỏ vẻ bất bình. Hai Long nói mình chỉ là “quan văn”, việc này cần trao cho “quan võ” để giải quyết vấn đề cha Hoàng đã nêu, anh nhận làm nhiệm vụ tiếp tân với tư cách là trưởng ban đối ngoại của Tổng bộ tự vệ. Cuối cùng, cha Hoàng đành phải chịu. Trần Thiện rất hả, đánh giá Hai Long là người không màng danh lợi, thầm cảm ơn anh đã cố gắng vun vén cho mình.
Lễ truy điệu chiến sĩ tự vệ Bùi Chu - Phát Diệm trận vong được tổ chức vào ngày 4-1-1964. Hàng vạn giáo dân di cư công khai nô nức kéo về nhà thờ Bình An. Con đường nhỏ chạy dọc dòng Kinh Đôi từ Chợ Lớn về Bình An, nườm nượp người và xe cộ. Trong lúc uy thế của giáo hội sa sút, nhiều người phải chui lủi, trốn tránh để khỏi bị bắt bớ, trả thù, nhiều người phải tìm cách thanh minh là trước đây không có tội lỗi; những giáo dân kéo về Bình An trong dịp này đều cảm thấy tự hào. Họ hết lời ca ngợi cha Tổng đã làm cho mình lại được ngẩng cao đầu. Những giáo dân không phải là người Bùi Chu - Phát Diệm cũng thấy vinh dự lây.
Đại diện quân đội, chính quyền trung ương và đô thành Sài Gòn, đại diện các đoàn thể tôn giáo, đảng phái đều có mặt đông đủ.
Hàng ngàn tự vệ mặc đồng phục, đội ngũ chỉnh tề, tập họp trước nhà thờ với lá quân kỳ mới tinh. Quân nhạc tấu lên bài quân ca của vệ sĩ Phát Diệm.
Lễ Đồng tế do giám mục Trần Thanh Khâm đứng chủ lễ. Cha Hoàng mái tóc cắt ngắn điểm sương, cặp mắt quắc thước, mặt mày rạng rỡ, cao lớn và đường bệ trong chiếc áo choàng đen, cùng mấy vị linh mục khác đứng làm phó lễ. Có lẽ chưa bao giờ cha cảm thấy tự hào như trong buổi lễ lần này. Cha đã nhận thấy hàng ngàn những cặp mắt sùng kính của con chiên đang hướng về mình như hướng về một vị cứu tinh của giáo hội.
Sau buổi lễ, gần 1.000 người dự tiệc trà đứng do xứ đạo Bình An chiêu đãi. Nhiều người vây quanh cha chánh xứ. Một số khá đông chạy đi tìm Hai Long. Mọi người đều như choáng ngợp trước lực lượng hùng hậu của Tổng bộ tự vệ. Uy danh của cha Tổng rõ ràng là lên rất cao. Không riêng tướng lãnh mà cả những thượng tọa, đại đức cũng gọi cha Hoàng là “cha Tổng”.
Khác với cuộc triển lãm lần trước, lễ truy điệu lần này do Tổng bộ tự vệ mời nên tướng tá kéo tới khá đông. Các tướng gốc Phát Diệm như Phạm Xuân Chiểu, Linh Quang Viên, Phạm Văn Đổng... đều có mặt. Tiếp xúc với đội ngũ tướng tá này, Hai Long nhận thấy một sự phân biệt rõ ràng. Nhóm tướng tá của Phát Diệm đang nghe ngóng, liệu gió phất cờ. Nhóm thân cận của Đôn, Kim, Xuân đi với nhau, tách với nhóm của Khiêm, Thiệu. Họ kéo tới gặp Hai Long riêng từng nhóm, và lớn tiếng dèm pha nhau, không nể nang. Nhóm Đôn, Kim, Xuân nhờ Hai Long giúp họ truy quét hết những phần tử Cần lao, mật vụ của Nhu đang còn lẩn trốn. Với anh, mọi người đều tỏ ra ý hợp tâm đầu. Nhóm nào cũng hẹn sẽ gặp lại để bàn tiếp công việc. Riêng nhóm Phật giáo tỏ ý không bằng lòng Hội đồng quân nhân cách mạng. Họ coi các ủy viên trong Hội đồng đều là nhũng người võ biền, không am hiểu chính trị, không đánh giá đúng công lao của Phật giáo và Công giáo trong việc lật đổ chính quyền Diệm.
Những lực lượng chính trị của các tôn giáo đã bị lãng quên sau cuộc chính biến lật đổ chế độ Diệm. Buổi lễ đã làm sống lại tiếng tăm của nhà thờ Bình An và đặc biệt của cha Tổng. Cha vui vẻ hẳn lên. Nhưng Hai Long thấy đây chỉ mới là bước khởi đầu.

Chương 2
NGUYỄN KHÁNH CHỈNH LÝ
1.
Trong số những nhân vật chủ chốt cầm đầu cuộc đảo chính, Trần Thiện Khiêm là người tới Bình An sau cùng. Thái độ của Khiêm cũng khác hẳn những tướng lãnh đã tới trước đó. Khiêm mặc thường phục, đến nhà thờ vào buổi tối. Người lái xe cho Khiêm là Khổng Tiến Giác, linh mục tuyên úy của Bộ Tổng tham mưu. Cha Hoàng chỉ trao đổi với Khiêm chừng 15 phút rồi cho người đi mời Hai Long tới.
Hai Long gặp Khiêm lần đầu. Khiêm người cao lớn, tóc cắt ngắn, có dáng dấp một tướng quân sự. Diệm trước đây rất ưa những người chỉ huy quân sự có mẽ ngoài như thế này.
Cha Hoàng giới thiệu hai người làm quen với nhau, rồi nói với Khiêm:
- Việc chính trị thì thiếu tướng phải bàn với ông giáo đây. Tòa thánh đã khuyến cáo các giám mục và linh mục không tham gia vào chính trị. Ông giáo là thầy tu xuất nên đỡ phải e ngại. Thiếu tướng bàn với ông giáo cũng như bàn với tôi...
Cha Hoàng ngần ngừ giây lát rồi nói tiếp:
- Ông giáo ngày trước là cố vấn chính trị của ông cố vấn Ngô Đình Nhu, một “Cần lao gộc”, với ông thiếu tướng coi như người nhà, tôi không cần giấu giếm.
Hai Long không hiểu đôi bên đã trao đổi với nhau những gì. Anh biết Khiêm một thời được coi như “con gái” của gia đình họ Ngô.
Khiêm nói:
- Lần đầu hân hạnh gặp ông giáo, nhưng tôi đã nghe nói nhiều về ông giáo. Tôi vừa trình bày với cha Tổng, bữa nay tới Bình An cùng cha Khổng Tiến Giác, để xin những lời chỉ giáo về tình hình chính trị hiện thời.
Hai Long nhũn nhặn.
- Xin mời thiếu tướng cứ tiếp tục câu chuyện với cha Tổng cho tôi được cùng nghe.
Khiêm đưa mắt nhìn quanh rồi nói:
- Đảo chính vừa qua theo tôi là khó tránh, vì những người trong gia đình tổng thống đã phạm phải nhiều sai lầm. Nhưng một số tướng tá âm mưu sát hại tổng thống là điều quốc dân cũng như Quân lực Việt
Nam cộng hòa không thể dung thứ. Tổng thống do quốc dân bầu ra, lại là một nhà lãnh đạo nhân đức, liêm khiết, không dễ gì tìm được người thứ hai. Chính việc sát hại tổng thống đã mang lại hậu quả là tình hình chính trị rối nát hiện nay. Những người chủ mưu giết tổng thống vì lo sợ trách nhiệm của mình, nên đi từ sai lầm này qua sai lầm khác. Họ đang tiếp tục triệt hạ những người tuy tán thành đảo chính vì thấy cần có những cải cách trong việc điều hành chính quyền, nhưng không tán thành việc sát hại tổng thống. Tướng Đính là người có công đầu trong cuộc đảo chính, nhưng khi nghe tin tổng thống bị giết thì không kìm được đau thương, đập máy điện thoại, kêu khóc, giờ bị kiềm chế. Tướng Đỗ Mậu không tán thành việc sát hại tổng thống nên bị Hội đồng quân sự tìm mọi cách vô hiệu hóa. Tôi biết rõ họ đang trù liệu những việc làm vô cùng nguy hại cho quốc gia và cho Thiên chúa giáo. Vì vậy phải tới xin gặp cha Tổng và ông giáo để cùng bàn bạc, ngõ hầu tìm một giải pháp cứu nguy cho chế độ và cho giáo hội...
Khiêm ngừng lời, nhấp một ngụm nước trà, dường như muốn thăm dò phản ứng của những người đối thoại.
Hai Long nói:
- Những điều thiếu tướng vừa trình bày có quan hệ tới vận mệnh quốc gia và giáo hội, đã là người có trách nhiệm thì không thể không quan tâm và lo lắng. Cha Tổng đã coi thiếu tướng như người trong nhà, vậy thiếu tướng còn điều gì xin cứ cho biết tiếp để chúng tôi được bàn bạc cùng chia sẻ trách nhiệm.
Mặt Khiêm đanh lại:
- Tôi biết tướng Minh Lớn đang định xóa bỏ toàn bộ ấp chiến lược để dâng cả vùng nông thôn Việt Nam cộng hòa cho Cộng sản, tiếp đó sẽ mở đường hòa giải với Bắc Việt. Ai cũng biết Minh Lớn, tướng Đôn, tướng Kim đều là những người thân Pháp, mà chủ trương của Pháp là muốn trung lập hóa Nam Việt
Nam. Điều nguy hại cho giáo hội Thiên chúa giáo là cả 3 nhân vật này đều là những người theo Phật giáo, họ đang liên kết chặt chẽ với Phật giáo để dưa đạo Phật thành quốc giáo.
- Nếu như vậy thì tình hình rất nguy hiểm. – Hai Long nói.
- Có chắc họ dám làm như vậy không? – Cha Hoàng hỏi
- Tôi chịu trách nhiệm về những điều đã trình bầy vừa rồi.
- Nhưng còn Mỹ? Mỹ sẽ không để cho họ làm! - Hai Long nói với sự đồng tình của cha Hoàng.
- Thưa cha và ông giáo, đó chính là những điều người Mỹ hiện nay hết sức lo lắng.
Cha Hoàng trừng mắt:
- Vậy thì không thể để cho chúng yên. Các ông đã trù liệu những biện pháp chi?
- Thưa cha Tổng, phải lật đổ cả nhóm Minh Lớn, Đôn, Kim, Xuân và cả Đính. Đính tuy bị cánh Minh Lớn không ưa, nhưng vẫn có quyền lực trong tay và là một tên hoạt đầu rất nguy hiểm.
- Các ông có lực lượng để làm việc đó không?
- Thưa cha, đã định làm việc lớn thì không thể không trù tính lực lượng. Một ngày gần đây, người cộng tác với tôi sẽ tới ra mắt cha Tổng. Hiện nay, chúng tôi chỉ còn thiếu sự ủng hộ của Bình An nói riêng và khối giáo dân nói chung. Chúng tôi biết rõ uy tín của cha Tổng, nếu được cha Tổng đồng tình thì khối Công giáo cũng sẽ đồng tình. Tuy nhiên, chúng tôi cũng còn hơi e ngại về phía Phật giáo vì Phật giáo có gắn bó quyền lợi với những người đang nắm quyền hành.
- Ông thiếu tướng cho biết việc có gấp không? - Hai Long hỏi.
- Chúng tôi cần hoàn tất thêm một số động tác chuẩn bị, nhưng việc này không thể để kéo dài.
- Tôi nghĩ rằng người Mỹ không muốn sau cuộc đảo chính vừa qua, lại có những chuyện xảy ra ầm ĩ.
- Dạ... - Khiêm mỉm cười - Đúng như ông giáo vừa nói, chúng tôi đã trù liệu những biện pháp êm thấm nhất, miễn là đạt tới mục đích.
- Như lời cha Tổng, Tòa thánh Vatican không muốn giáo hội Việt Nam dính líu vào chuyện chính trị, nhưng vì trách nhiệm với quốc gia và giáo hội, trước một tình hình nghiêm trọng như ông thiếu tướng vừa trình bầy, chúng tôi với tư cách là những người công dân Công giáo, sẽ không thể khoanh tay ngồi im. Chỉ mong ông thiếu tướng cùng với những người cộng sự thông báo kịp thời mọi diễn biến để chúng tôi kịp có những hành động phối hợp.
Cha chánh sứ pha thêm một bình trà mới sau khi chiếc xe của khách rời khỏi nhà thờ Bình An.
Cha Hoàng nói:
- Thầy thấy những điều tướng Khiêm vừa nói là thật hay hư?
- Có phần thật, nhưng cũng có phần cần chờ xem thêm mới rõ là thật hay hư. Phần thật là nội bộ Hội đồng rối bét, nghi ngờ nhau, đang mưu tính hất cẳng nhau. Ta đã đánh giá giải pháp Minh và Thơ vừa rồi của Mỹ chỉ là một giải pháp tạm thời. Khiêm đã gián tiếp tự giới thiệu y là người của Mỹ, nếu bây giờ Mỹ định thay đổi con bài, thì cũng có lý. Mấy anh tướng trẻ này sẽ không dám ho he gì nếu không có Cabot Lodge đứng sau lưng. Nhưng vẫn phải chờ nghe thêm.
- Người cộng sự với Khiêm là ai?
- Khiêm vẫn cặp kè với Thiệu, nhưng chưa biết có phải là Thiệu nay là một người khác.
- Thời gian qua, trừ Minh Lớn; Đôn, Kim, Xuân đều đã tới đây. Như bây giờ ta ủng hộ Khiêm thì nên có thái độ như thế nào đối với họ?
- Ta sẽ ủng hộ cả họ cũng như ta vừa ủng hộ Khiêm. Miễn là họ phải cam kết thông báo kịp thời cho ta những dự kiến của họ, để ta lo công việc của ta. Công việc của ta là do Tòa Khâm sứ và
Vatican quyết định.
- Mấy ngày gần đây, các thầy ở Phật giáo vẫn liên tiếp chạy tới Bình An...
- Ta phải giữ chắc liên minh lâu dài với Phật giáo. Nếu Mỹ gạt Minh, Đôn thì Phật giáo chẳng được gì sau vụ vừa qua. Điều quan trọng đối với ta là những nhà lãnh đạo Phật giáo cũng như các tướng lãnh, phải thông báo kịp thời cho ta những dự kiến hành động của họ. Con thấy làm được như vậy là đúng với tinh thần khuyến cáo của Đức Khâm sứ bữa trước.
Cha Hoàng gật gù. Cha với cái điếu cầy, thong thả thông điếu, tra thuốc, châm lửa, rít một hơi dài, rồi ngồi lơ mơ nhìn làn khói.
Ông lẩm bẩm:
- Mình làm cái lễ truy diệu vừa qua rất đúng. Tay Khiêm tới đây một lời “cha Tổng”, hai lời “cha Tổng”, chắc là nghe cánh tướng tá đi về thuật lại buổi lễ... Bọn Mỹ quá ngu về chính trị! Người Pháp không bao giờ quên Công giáo trong mọi chính sách của họ ở Việt Nam. Từ khi xong việc tới nay, không còn thấy mặt Lu[1] Conien!
- Thưa cha, con nghĩ sớm muộn rồi họ cũng phải tới, kể cả những người cao hơn Lu Conien nhiều.
- Phải làm cho Cabot Lodge mở mắt ra! - Cha Hoàng bỗng thốt lên với giọng bực bội.

2.
Hai ngày sau, 7 giờ sáng, một chiếc xe Jeep sơn màu trắng từ phía Chợ Lớn chạy vào, dừng lại trước nhà thờ Bình An.
Từ trên xe, nhảy xuống hai người mặc quân phục. Một người thấp và béo tròn, mang lon trung tướng, đội chiếc mũ bê-rê màu huyết dụ có hai dải đen lủng lẳng sau gáy. Bộ mặt phì nộn của viên tướng có một vẻ hài hước với bộ râu nhỏ và nhọn ở cằm, vểnh ngược như râu dê. Đi theo y là một người cao gầy, mặc quân phục trắng, đeo lon đại tá.
Viên trung tướng nhanh nhẹn đi vào văn phòng, niềm nở bắt tay Hai Long như những người đã quen biết lâu ngày. Hai Long mời hai người ngồi, rồi đi gọi cha Hoàng.
Chiều hôm trước, viên đại tá gầy gò, Albert Nguyễn Cao, đã tới gặp Hai Long, nhờ bố trí cho cuộc hội kiến giữa cha Hoàng, ông giáo với trung tướng Nguyễn Khánh. Nhân vật thứ hai của màn kịch mới đã lộ mặt. Hai Long nhận lời rồi báo lại với cha Hoàng. Cha Hoàng cau mặt:
- Thằng này như chó đái chạy rông khắp nơi, giờ nó mới vác mặt tới đây. Nó đã tới cả Toà Khâm sứ, Tòa Tổng giám mục, các Đức cha đều đánh trống lảng. Thầy Thích Tâm Châu cũng khoe với mình, tướng Nguyễn Khánh có tới tìm.
- Thưa cha, cả Khiêm và Khánh chắc đều đã bán mình cho Mỹ, ta cứ gặp, xem Cabot Lodge muốn gì. Mình đã có sách lược của mình.
- Cũng nói vậy thôi, còn gặp thì cứ gặp...
Đã được Hai Long chuẩn bị trước, cha Hoàng ra tiếp khách một cách vui vẻ.
Khánh tươi cười, không đắn đo như Khiêm, vào việc ngay với vẻ hoạt bát:
- Trình cha Tổng và ông giáo, được nghe ông Khiêm về thuật lại cuộc hội kiến bữa trước, tôi quá mừng, nên xin vô Bình An ngay. Cha Tổng và ông giáo đã biết rõ thiếu tướng Khiêm và tôi. Trong Hội đồng tướng lãnh, ông Khiêm thân cô, thế cô, hồi đó lại chưa phải là cấp tướng, còn tôi thì ở quá xa. Nếu tôi có mặt ở đô thành, không khi nào để họ làm những việc quá bậy. Có làm thì có sai, sai thì cải, chớ đâu có lại đi làm việc lật đổ, sát nhân! Ai thương ông Minh, ông Đôn bằng tổng thống? Giờ giết tổng thống, có khác chi con giết cha! Ai sai với Đức cha Lê, cha Tổng, với Tổng bộ tự vệ Phát Diệm ta bằng ông Nhu? Nhưng các cha vẫn lấy tình thương của Chúa mà đối xử lại, để cho ông Nhu thấy sai lầm mà tự sửa. Đức cha Lê và cha Tổng còn cử cả phụ tá thân tín của các ngài tới giúp anh em tổng thống lo liệu mọi việc trong ngoài. Bữa nay gặp cha Tổng, tôi xin có một ý kiến khác với ông Khiêm bữa trước. Tôi không chỉ xin cha Tổng ủng hộ cho việc làm trước mắt, mà xin cha Tổng thương cho lâu dài. Mọi việc đối nội, đối ngoại, chính trị, quân sự sau này đều xin cha Tổng chỉ giáo cho.
Cha Hoàng ngồi nghe có vẻ bùi tai. Ông tươi mặt, hỏi Khánh:
- Việc trước tính trước, việc sau tính sau. Việc lớn trước mắt các ông đã chuẩn bị được tới đâu? Lực lượng có đủ chưa?
- Thưa cha, về lực lượng thì khỏi lo. Mấy vị cầm đầu đảo chánh đâu có quân quyền trong tay! Mấy ổng chỉ chuyên đi móc nối, mượn tay người khác mần rồi “tọa hưởng kỳ thành”! Toàn là những anh bất nhân, bất nghĩa, được cá phá nơm! Tướng tá, binh sĩ lập được công, đều bị họ e sợ, nghi kỵ, gạt bỏ. Nên bây giờ, họ tay trắng vẫn hoàn tay trắng! Những chiến tướng nắm quân là ông Khiêm và tôi.
- Vậy thì còn điều chi phải e ngại?
- Thưa cha, điều tôi còn e ngại chính là sự đồng tình của dân chúng, mà ở miền Nam này, nói dân chúng chính là nói tới các tôn giáo.
- Tôi biết ông trung tướng đã tới Tòa Khâm sứ và Tòa Tổng giám mục, ý kiến các đấng bề trên ra sao?
Mắt Khánh đảo nhanh, rồi y nói:
- Tôi tới gặp Đức Khâm sứ và Đức Tổng giám mục chỉ với tính chất trình diện, để có đường tới gặp cha Tổng, tránh điều tiếng sau này khi đã được cha Tổng giúp đỡ.
Cha Hoàng vẫn tiếp tục giọng mát mẻ:
- Thầy Thích Tâm Châu cũng nói với tôi, ông trung tướng có tới tìm!
- Thưa với cha Tổng, đó chỉ là thăm viếng xã giao, chớ đâu dám nói những lời gan ruột như bữa nay.
- Các tướng Đôn, Kim, Xuân đi với Phật giáo nhưng vẫn thường xuyên tự thân tới hoặc cho người chạy tới Bình An.
- Dạ... Họ bắt cá hai tay. Tôi biết rõ điều đó không qua mắt cha Tổng và ông giáo. Chúng tôi hiểu được những điều mà họ còn chưa hiểu. Chính cha Tổng mới là người thảo ra bản tuyên ngôn của các tôn giáo ủng hộ Hội đồng tướng lãnh cách mạng. Chỉ cần được cha Tổng ủng hộ là tất cả các tôn giáo khác cũng ủng hộ. Hơn nữa, họ không thể nào xóa tội ác giết hại những con chiên ngoan đạo của Thiên chúa giáo.
Biết cha Hoàng vẫn còn tự ái vì Khánh chậm tới Bình An, sợ ông nói quá đà hỏng việc, Hai Long lên tiếng:
- Những điều trung tướng vừa cho biết thêm khiến cha Tổng và chúng tôi yên tâm hơn để cùng các vị hoàn thành việc lớn và tính chuyện lâu dài. Nhưng qua lời ông Khiêm bữa trước thì cha Tổng còn đôi chút phân vân. Đối tượng của hai vị hơi đông. Có thể cùng một lúc hạ bệ cả 5 tướng Minh, Đôn, Kim, Xuân, Đính hay nên làm dần dần cho êm ả?
Nguyễn Khánh lại bắt đầu hoạt bát và tự tin:
- Chúng tôi dư sức hạ bệ tất cả cùng một lúc dưới hình thức một cuộc phản đảo chánh, và sẽ tiến hành rất êm ả, không gây đổ máu, không có cả tiếng súng. Cha Tổng và ông giáo hẳn đã thấy, vì sao cả một cuộc đảo chánh lớn như vậy, được hoạch định từ Mỹ quốc, cuối cùng lại đưa ông Nguyễn Ngọc Thơ lên làm thủ tướng! Đó chẳng qua chỉ là cái đệm. Giờ phải quẳng cái đệm đi cho rồi... Người Mỹ chủ trương như vậy. Nhưng, đã được cha Tổng và ông giáo nhận lời cùng lo chung việc lớn, thì tôi phải trình bày thiệt hết... Người Mỹ còn cân nhắc xem có nên xóa sạch ngay một lúc tất cả, hay là để lại một con cá to sau khi đã chặt hết vây đuôi.
Hai Long lái buổi nói chuyện đi vào bàn bạc công việc. Khánh cam kết sẽ thông báo kịp thời mọi dự kiến của những người đang chuẩn bị phản đảo chính, và sẽ cộng tác chặt chẽ với Phát Diệm về mọi mặt sau này khi y đã nắm được quyền lực. Ngược lại, cha Hoàng theo sự gợi ý khéo léo của anh, đã hứa sẽ ủng hộ về chính trị và tinh thần đối với cuộc phản đảo chính, vì quyền lợi của quốc gia và của giáo hội. Khánh không tiện qua lại nhà thờ Bình An nhiều, nên đề nghị mối liên lạc mật thiết giữa những người cầm đầu phản đảo chính với cha Hoàng sẽ được thực hiện qua trung gian giữa linh mục Khổng Tiến Giác, phụ tá của Khiêm, và đại tá Albert Nguyễn Cao, phụ tá của Khánh, với Hai Long.
Khi Nguyễn Khánh ra về rồi, cha Hoàng lầm bầm:
- Thằng Mỹ ngu thật là ngu! Sao một việc lớn như thế, vậy mà Công giáo từ mình tới Tòa Khâm sứ đều không biết chút nào!
- Thưa cha, phải làm cho họ thấy, nếu không cho ta biết thì ta vẫn cứ biết, không một việc nào trên chính trường miền Nam mà họ có thể hoàn tất nếu thiếu sự tham gia của Công giáo miền Nam và của giáo dân Phát Diệm!
Qua buổi nói chuyện, anh nhận thấy Mỹ đã chọn xong lá bài chính trị mới để thay thế những kẻ cỏ quá trình gắn bó nhiều với Pháp, không được tin cậy. Những con bài được Cabot Lodge chấm, quá tồi! Khánh bộc lộ rõ tính chất tham lam, thiển cận, hoạt đầu, luồn lách trơn tuột như rắn. Sự cộng tác giữa Khánh và Khiêm chỉ có tính chất tạm thời. Khiêm thâm trầm, nhiều mưu đồ; Khánh thủ đoạn, luôn luôn dìm người khác, không để cho ai hơn mình. Không thể có sự hợp tác lâu dài giữa hai con người như vậy. Anh đã có đủ cơ sở nhận định một sự thay đổi nhân sự sắp diễn ra trong chính quyền miền Nam để báo cáo về Trung tâm.

3.
Cuộc đảo chính lật đổ chế độ Diệm đã đưa hàng loạt người vào nhà tù, nhưng cũng không ít người được ra khỏi trại giam để nhường chỗ cho những kẻ mới tới. Đó là những chính trị gia, những tướng tá, linh mục, nhà sư, sinh viên, Phật tử, giáo dân... trước đây đã dính líu, hoặc bị tình nghi dính líu vào những vụ chống đối, đảo chính định lật đổ chế dộ Diệm. Trong số người được “giải phóng”, có cả những người đang sống lưu vong ở nước ngoài, như Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Phạm Phú Quốc, Nguyên Văn Cử... và một số người bị chính quyền Diệm buộc phải rời khỏi đất nước vì tội thân Pháp từ năm 1955, như tướng Nguyễn Văn Vỹ, trung tá Trần Đình Lan.
Để duy trì địa vị mới của mình, những người cầm đầu cuộc đảo chính, ngoài chức vụ thủ tướng phải dành cho Nguyễn Ngọc Thơ theo chỉ thị của Mỹ, đã chia nhau nắm những vị trí quan trọng. Mình Lớn được thăng thưởng đại tướng, vừa là quốc trưởng, vừa là chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng. Trần Văn Đôn trở thành trung tướng, bộ trưởng bộ Quốc phòng. Tôn Thất Đính, như lời mặc cả trước đây với tòa đại sứ Mỹ, trở thành bộ trưởng bộ Nội vụ. Mai Hữu Xuân được đề bạt lên thiếu tướng, làm tổng giám đốc Tổng nha Cảnh sát kiêm đô trưởng Sài Gòn.
lúc 3 giờ sáng ngày 30 tháng Giêng, một đêm đầu mùa khô oi ả, những hồi chuông điện thoại liên tiếp đã dựng Trần Văn Đôn khỏi giường ngủ. Viên đại úy trợ lý của Đôn báo cho y biết biệt thự đã bị nhiều binh lính bao vây và đang tìm cách đột nhập. Đôn vội quay số điện thoại gọi cho anh rể mình là tướng Lê Văn Kim:
- Đằng anh có chuyện chi không? Một số binh lính đang bao vây nhà tôi.
Kim trả lời, giọng hốt hoảng:
- Nhà này cũng vậy. Bọn lính tráng này rất lạ mặt. Chú hỏi Đính xem sao. Bảo Đính phải can thiệp ngay.
Đôn gọi diện thoại tiếp cho Đính.
Giọng Đính ngái ngủ, ngơ ngác:
- Bọn chúng tính mần chuyện chi hề? Tui sẽ tới anh ngay coi tình hình ra răng.
Đôn vừa đặt ống nghe xuống thì chuông điện thoại lại réo.
Đầu dây đằng kia là tiếng Nguyễn Văn Vỹ, một viên tướng sống lưu vong nhiều năm, mới từ Pháp về.
Vỹ la hoảng:
- Nguy quá, anh Đôn ơi! Nhiều nhân viên bảo vệ dân sự vừa xông vào nhà tôi, tước vũ khí của những người bảo vệ. Họ bắt trung tá Trần Đình Lan đưa đi đâu rồi!
Trần Đình Lan cũng là một sĩ quan lưu vong mới từ Pháp về cùng với Vỹ.
Đôn cảm thấy một tai họa đã tới, vội mặc quần áo rồi bảo viên đại úy trợ lý mở cửa, nói với những binh lính đang bao vây nhà, cử người chỉ huy vào gặp mình.
Một viên trung úy thuộc lực lượng bảo vệ dân sự tiến vào nhà.
Đôn hỏi:
- Vì sao giữa đêm khuya, trung úy lại đưa binh lính tới đột nhập biệt thự của tôi.
- Tôi được lệnh của ông Minh Lớn đưa binh lính tới tăng cường cho lực lượng bảo vệ tại đây.
Đôn không tin vào lời của anh ta, quay máy điện thoại hỏi Minh Lớn. Minh Lớn đáp với giọng mệt mỏi:
- Một số sĩ quan cấp dưới của chúng ta đang có những hành động kỳ quặc... Chúng ta sẽ bàn về việc này ở chỉ huy sở.
Minh lớn bỏ máy.
Vài phút sau, Đính gọi điện thoại báo cho Đôn biết mình vừa được tin tướng Khánh và tướng Khiêm đang tiến hành một cuộc đảo chính.
Đôn còn đang bàng hoàng thì một viên sĩ quan thuộc lực lượng cảnh sát chiến đấu, đeo lon thiếu tá bước vào. Y giơ tay chào, rồi nói:
- Tôi được lệnh của chủ tịch Hội đồng quân sự tới đón trung tướng về sở chỉ huy Bộ Tổng tham mưu. Xin trung tướng lên đường ngay cho, tình hình rất gấp, xe đang chờ ở ngoài.
Đôn miễn cưỡng rời khỏi nhà, bước lên chiếc xe của cảnh sát. Xe chạy qua nhà Minh Lớn. Đôn nhìn thấy biệt thự của Minh Lớn cũng có binh lính và cả xe bọc thép bao vây.
Đôn hỏi viên thiếu tá:
- Tại sao nhà ông Minh Lớn cũng bị vây?
Viên thiếu tá đáp:
- Đó là lực lượng bảo vệ tăng cường... Chủ tịch Hội đồng quân sự đang chờ ông ở sở chỉ huy lữ đoàn dù. Tôi sẽ đưa trung tướng tới đó.
Tại sở chỉ huy Lữ đoàn dù, Đôn được dẫn tới một dãy nhà ngang. Nhìn vào một căn buồng có lính gác bên ngoài, Đôn nhìn thấy Xuân đang ngồi trong đó với bộ mặt xám ngoét. Y hiểu vì sao cảnh sát đã đưa mình tới đây. Người chỉ huy họ là Xuân đã bị cầm tù. Và y đang cùng chịu chung một số phận. Đôn được mời vào một căn phòng kế liền nơi Xuân đang ngồi. Một người lính tới đứng chặn cửa ra vào.
Sáng ngày mồng 1, Đính, rồi Kim cũng lần lượt được đưa tới. Nhìn một sĩ quan đứng trên sân, Đôn nhận ra đại tá Nguyễn Chánh Thi, người cầm đầu cuộc đảo chính Diệm bất thành năm 1960, lưu vong ở Campuchia mới trở về. Đôn bảo người lính gác mời đại tá Thi vào gặp mình.
Đôn hỏi Thi:
- Đề nghị đại tá cho biết tại sao chúng tôi lại bị giam giữ ở đây như những người thường phạm?
Nguyễn Chánh Thi lạnh lùng trả lời:
- Tôi chỉ đơn thuần thi hành mệnh lệnh của cấp trên mà thôi! Trung tướng ráng đợi thêm ít phút, trung tướng Nguyễn Khánh sẽ tới gặp.
Nhưng rồi cho tới hết buổi trưa, không hề thấy ai tới.
Đến 2 giờ chiều ngày hôm đó, cả bốn viên tướng bị đưa lên ngồi chung trong một chiếc xe, do Nguyễn Chánh Thi áp tải, rời sở chỉ huy Lữ đoàn dù, chạy ra sân bay Tân Sơn Nhất. Chiếc xe dừng lại bên một máy bay vận tải quân sự đã chờ sẵn.
Đại tá Thi mời bốn viên tướng lên máy bay.
Vừa bước lên thang máy bay, tướng Đính vừa quay đầu lại nói với viên đại tá bằng giọng cay cú:
- Quả đất tròn, rồi có ngày lại gặp nhau!

4.
Cũng rạng ngày 30 tháng Giêng, trên Đài phát thanh Sài Gòn phát bản tuyên cáo của Nguyễn Khánh, giải thích vì sao phải tiến hành cuộc “chỉnh lý”, tên gọi của cuộc phản đảo chính: “Từ ba tháng nay, tình hình suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực và phản cách mạng. Một số viên chức chạy theo thực dân và Cộng sản. Do đó, một lần nữa quân đội lại phải đứng lên can thiệp...”.
Hội đồng quân nhân cách mạng ra quyết định chấm dứt nhiệm vụ của ban chấp hành hội đồng, thành lập ngày 1-11-1963, cách đó vừa tròn 3 tháng; và thay thế bằng một Hội đồng quân sự cách mạng được cải tổ do Nguyễn Khánh làm chủ tịch.
Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ bị bắt. Người ta nhìn thấy binh lính dẫn ông già vào sân cột cờ Bộ Tổng tham mưu, hai tay bị trói bằng một chiếc thắt lưng da. Nhưng rồi ông ta cũng được trả lại tự do sau khi đã đệ đơn xin từ chức cùng với toàn bộ nội các.
Bốn tướng Đôn, Xuân, Kim, Đính bị đưa ra miền Trung, quản thúc tại bãi biển Mỹ Khê. Mười ngày sau, họ được gọi tới sở chỉ huy Hải quân tại Đà Nẵng gặp chủ tịch mới của Hội đồng quân sự cách mạng.
Nguyễn Khánh gặp riêng từng người.
Khánh chỉ tiếp 3 tướng Kim, Đính, Xuân mỗi người từ 30 tới 45 phút. Riêng cuộc gặp tướng Đôn kéo dài một giờ rưỡi.
Khánh ngồi gồi chễm chệ trên chiếc ghế bành, nói với một giọng đầy uy quyền:
- Tôi thay mặt Hội đồng quân sự cách mạng báo để ông biết, các ông bị truất phế và đưa về đây quản thúc vì đã phạm vào tội thực thi một chính sách trung lập, mở đường cho việc bắt tay với Cộng sản.
Đôn cãi lại:
- Sự buộc tội này hoàn toàn vô căn cứ. Tôi đề nghị ông chủ tịch đưa ra những bằng chứng cụ thể.
- Hội đồng đã nắm được rất nhiều bằng chứng. Chỉ tạm kể một việc, các ông đã bất chấp sự can ngăn của nhiều ủy viên trong Hội đồng, đưa tướng Nguyễn Văn Vỹ và trung tá Trần Đình Lan về nước!
- Tôi không nhận thấy có sự liên quan nào giữa điều buộc tội của Hội đồng với việc cho phép hai ông Vỹ và Lan về nước.
- Tướng Vỹ bị trục xuất khỏi Việt Nam cộng hòa vì ông ta là người của Pháp. Người Pháp đã nuôi dưỡng tướng Vỹ suốt từ năm 1955 tới nay, trả lương hậu hĩnh cho ông ta, để ông ta tiếp tục làm việc cho mình. Ai còn không biết Pháp đang đi đôi với Việt Cộng chủ trương trung lập hóa miền Nam Việt Nam? Hội đồng đã biết rõ ông Lan có những quan hệ chặt chẽ với những tổ chức chính trị ở Pháp cũng như ở Việt
Nam hoàn toàn đối lập với chế độ. Hội đồng còn nhiều bằng chứng là ông Lan đã dùng nhiều tiền của Pháp mua chuộc nhiều người đi theo sự nghiệp và mưu đồ của ông ta.
- Tôi khẳng định điều ông chủ tịch vừa nói là hoàn toàn sai lầm. Tôi biết rõ ông Lan không có tiền của nào đem theo khi về nước. Chính gia đình tôi đã phải cho ông Lan vay một số tiền mặt để mua một số ít đồ dùng thiết yếu cho cá nhân.
Khánh đập bàn:
- Ông cần biết điều hơn... Nếu không kiếm được chứng cớ cụ thể để chứng minh cho những điều đã buộc tội các ông, thì có thể tạo ra những chứng cớ đó. Không khó lắm đâu!
Đôn ngồi đực ra. Khánh lại nói tiếp:
- Các ông cần hiểu, các ông đã phạm vào những tội ác rất lớn đối với đất nước, gây căm phẫn cho mọi người. Bắt các ông, đưa các ông đi quản thúc, chính là tôi đã cứu sinh mệnh cho các ông. Cần nhớ tới những nạn nhân của các ông là ông Diệm, ông Nhu... Thậm chí ngay lúc này, tôi có thể để cho người ta giết các ông một cách rất dễ dàng. Các ông chết cũng không oan uổng gì! Đã giết người, mà là người bị giết lại là tổng thống, thì phải đổi mạng, có chi đâu!
Hồi lâu Đôn mới nói:
- Cá nhân tôi không hề có chủ trương sát hại tổng thống. Chuyện này có nhiều nguyên do. Nếu hội đồng nhận thấy chúng tôi có những sai lầm thì xin đưa chúng tôi ra xét xử trước tòa án, ở đó chúng tôi sẽ trả lời những người buộc tội xem trách nhiệm thuộc về ai?
- Nhưng tổng thống cương vị cao trọng hơn ông nhiều, không có tội tình gì, đã không hề được đưa ra tòa xét xử trước khi các ông hành quyết!
Đôn hiểu rằng mình không thể cãi nổi với Khánh. Y đành ngồi im. Nhưng Khánh vẫn chưa chịu buông tha:
- Riêng cá nhân, tôi không tin ông và ông Đính là những người chủ trương trung lập, nhưng một số cộng sự của tôi, họ muốn buộc các ông tội đó. Họ không ưa ông vì ông là người say mê đi tìm những lạc thú cá nhân.
- Tôi tưởng những chuyện riêng về đời tư của tôi không liên quan gì tới chủ trương trung lập?
- Khi người ta đã muốn như vậy thì mọi việc đều có liên quan...
Và Khánh tiếp tục hỏi Đôn những câu xoáy vào cái chết của Diệm, Nhu, tiếp đến những chuyện không hay ho gì trong đời tư của Đôn. Tới lúc thấy đối thủ của mình rõ ràng là đã có thái độ khuất phục, Khánh mới nói:
- Tôi hiện thời là chủ tịch Hội đồng quân sự cách mạng, là tổng tham mưu trưởng quân đội, nhưng quyền lực vẫn bị hạn chế, vì tôi chỉ là người tới giờ phút cuối cùng mới tham gia vô công cuộc này... Các ông cũng phải khôn ngoan tự cứu lấy mình. Vừa rồi, hỏi chuyện từng người thì thấy các ông không thống nhất với nhau...
Đôn hiểu rõ sinh mệnh của mình đã nằm trong tay Khánh.
---
[1]tức Lucien

Chương 3
ĐÀ LẠT SƯƠNG MÙ
1.
Khánh và Khiêm đã thực hiện đúng lời cam kết với cha Hoàng. Đại tá Albert Nguyễn Cao và linh mục tuyên úy Khổng Tiến Giác thường xuyên qua lại nhà thờ Bình An thông báo với Hai Long những việc nhóm Khánh - Khiêm định làm. Khi có những chuyện quan trọng, như vấn đề nhân sự, thì Khánh hoặc Khiêm trực tiếp tới trao đổi. Khánh ngông nghênh với bộ quân phục dã chiến, chiếc mũ nồi đỏ và cái lon trung tướng. Còn Khiêm vẫn kín đáo tới vào buổi tối và mặc thường phục.
Nhờ mối quan hệ mới này, Hai Long lại nắm chắc được những thay đổi trong quân đội và chính quyền miền
Nam. Anh nhận thấy vai trò quan trọng của những viên trợ lý trong việc cung cấp tin tức. Chính họ mới nắm được những vấn đề, những số liệu cụ thể, những văn bản mà người chỉ huy họ nhiều khi không biết. Họ trao đổi, chuyện trò với anh một cách không dè dặt. Điều cần chú ý là khi muốn hỏi han điều gì, cần tìm ra lý do xác đáng.
Khánh và Khiêm đang thi nhau bán mình cho Mỹ. Khánh giảo hoạt hơn Khiêm nên đã giành được vị trí tin cậy. Việc Khánh vô hiệu hóa được những tướng như Minh Lớn, Đôn, Kim, Xuân, Đính rất có lợi cho ta, vì đây là những viên tướng có khả năng nhất của chế độ. Những hành động của Khánh tất nhiên sẽ dẫn tới sự lộn xộn, mất ổn định kéo dài trong bộ máy chính quyền, quân đội. Trước một tình hình như vậy, đế quốc Mỹ chưa thể đưa quân ồ ạt vào miền Nam Việt Nam. Hai Long thấy cần nuôi dưỡng tình trạng rối ren này càng lâu, càng tốt.
Khánh đã chiếm được lòng tin của Cabot Lodge bằng nhiều cách. Khánh hù dọa Lodge những người như Minh Lớn, Đôn, Kim, Xuân đều do Pháp đào tạo, đang thực hiện chủ trương trung lập hóa Nam Việt Nam để gạt Mỹ; Khánh nói mình đã có rất nhiều bằng chứng cụ thể. Minh Lớn với cá tính cao ngạo, lười biếng, không thích chạy vạy, lại có phần nào không ưa Mỹ so với Pháp, vốn đã bị Cabot Lodge e ngại từ trước. Khánh nói mình được cảm tình của các nhà lãnh đạo Thiên chúa giáo và Phật giáo; điều này, Khánh có làm được một phần. Khánh nói mình nắm được những đảng phái chính trị ở Nam Việt Nam; trong thực tế, Khánh cố nắm Đại Việt, một tổ chức chính trị gồm những quan lại, viên chức cao cấp cũ của Pháp và một số trí thức, tổ chức này có nhiều người đang chạy theo Mỹ. Điều quan trọng, hơn nữa, Khánh nói với Lodge, mình nắm được những tướng tá trẻ rất bất bình với đám tướng tá già của Pháp và của Diệm trước đây đang cản đường đi của họ, Khánh có thể tiến hành cuộc phản đảo chính một cách êm lẹ, không gây đổ máu. Đúng là Khánh đã móc nối được một số khá đông những tướng tá trẻ như Nguyễn Văn Thiệu, Lâm Văn Phát, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Bảo Trị, Lê Nguyên Khang, Cao Văn Viên, Chung Tấn cang... Số này ít gắn bó với Minh, Đôn và đều cảm thấy họ chưa được trả công đủ sau cuộc lật đổ chế độ Diệm. Chính đám tướng tá trẻ này đã giúp Khánh thực hiện nhanh chóng âm mưu phản đảo chính.
Sau khi gạt bỏ được Đôn, Kim, Xuân, Đính, Khánh lập tức tập trung mọi quyền lực vào tay mình. Khánh trở thành chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng, tổng tư lệnh quân đội, tổng tham mưu trưởng kiêm thủ tướng chính phủ. Minh Lớn được tạm giữ lại làm quốc trưởng bù nhìn. Khánh chọn Nguyễn Tôn Hoàn, một nhân vật cầm đầu Đại Việt, mới từ Pháp về, làm phó thủ tướng. Khánh đưa Lâm Văn Phát làm bộ trưởng bộ Nội vụ thay Tôn Thất Đính. Khánh bổ sung một loạt những tướng trẻ vào Hội đồng quân sự cách mạng để giành đa số. Khánh cử Nguyễn Văn Thiệu làm tham mưu trưởng liên quân.
Cabot Lodge tưởng là mình đã tìm được của quý, và nhiều người Mỹ khác cũng tưởng như vậy. Đầu tháng 3-1964, không lâu sau cuộc chỉnh lý, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara tới Sài Còn. McNamara không giấu sự hài lòng của mình đối với Khánh khi kết thúc bài diễn văn: “Các bạn có thể thấy tướng Nguyễn Khánh là một lãnh tụ xuất sắc nhất”. Nhân đà cao hứng, McNamara còn hô to bằng tiếng Việt: “Việt
Nam muôn năm!”. Người ta nhớ lại trước đó mấy tháng, sau cuộc đảo chính Diệm, McNamara cũng đã tới Sài Gòn, khi gặp Trần Văn Đôn, y bắt tay nhưng không nhìn mặt và không thèm nói với Đôn một lời. McNamara và Nguyễn Khánh đã cho ra đời bản kế hoạch McNamara - Nguyễn Khánh, với nội dung tăng cường chiến tranh, tăng cường viện trợ Mỹ và cố vấn Mỹ, tiến hành bình định miền Nam trong 2 năm 1964-1965, sau khi hoàn thành sẽ rút lực lượng Mỹ về nước.
Ngô Đình Cẩn vẫn bị giam giữ ở khám Chí Hòa. Sau ngày Khánh lên cầm quyền, có nhiều tin đồn Cẩn sẽ được tha và đưa ra nước ngoài. Ai cũng biết Khánh trước đây là người thân thiết của Diệm, và đã nhiều lần lớn tiếng phản đối việc sát hại Diệm, Nhu. Nhưng ngày 20 tháng 4, Cẩn vẫn bị đưa ra tòa. Nhiều người tin rằng Cẩn chỉ bị xét xử qua loa rồi được trả lại tự do.
Tại “tòa án cách mạng”, Cẩn bị khép tội cố sát có dự mưu, một người bị tình nghi là gián điệp ở miền Trung, từ năm 1960. Người này bị tay chân của Cẩn xô từ trên lầu xuống, nên đã chết. Cẩn chối mình không biết chuyện đó. Trước những lời tố giác khác, Cẩn nói: “Tôi quân sự không biết, hành chính không biết, học vấn tầm thường, biết chi mà ra lệnh cho ai!”. Tòa kết án Cẩn tội tử hình. Bốn ngày sau, Cẩn đệ đơn lên quốc trưởng Dương Văn Minh xin ân xá. Thời gian này, những người gần Khánh thấy y tỏ ra rất bối rối. Với quyền lực của Khánh, nếu Khánh nói một lời, Cẩn sẽ thoát chết. Nhưng Khánh không làm việc đó. Những cộng sự viên của Khánh an ủi: “Trong vụ này, thủ tướng cứ coi như vô can. Xử như thế nào là do tòa, ân xá hay không là do tướng Minh...”. Mười một ngày sau, Minh Lớn với tư cách quốc trưởng, bác đơn xin ân xá của Cẩn. Ngày 9 tháng 5, Cẩn bị xử bắn. Sáng đó, Khánh uống một hơi hết ly rượu mạnh, mắt lồi hẳn ra. Sau đó, Khánh bay ra Huế với ý định thăm cố đô để tranh thủ cảm tình. Được tin Khánh tới dinh tỉnh trưởng, dân chúng kéo tới bao vây la hét đả đảo. Khánh vội chuồn ra cửa sau, leo nhanh lên chiếc trực thăng rời Huế. Đêm hôm đó, Khánh vẫn ngủ ngon. Theo dư luận, Khánh không dám cứu Cẩn vì Khánh đã cùng Đỗ Cao Trí chia nhau số vàng Cẩn gửi lại trước khi bị bắt, và trong thời gian Cẩn ở khám Chí Hòa, Khánh đã gạ Cển chuyển tiền gửi ở những ngân hàng nước ngoài cho mình, đổi lầy tiền Việt Nam, nhưng Cẩn không nghe.
Cuối tháng 5, một hội đồng các cơ quan cao cấp họp ở Đà Lạt dưới quyền điều khiển của Khánh để xét xử 4 tướng Đôn, Kim, Xuân, Đính. Cả 4 tướng đều bị kết tội thiếu đạo đức, thiếu quan điểm rõ ràng, không đủ tư cách chỉ huy. Họ được trả lại tự do nhưng bị tước bỏ những chức vụ chỉ huy, và phải sống tại Đà Lạt, chỉ được rời khỏi đấy khi có lệnh. Minh Lớn cũng có mặt trong cuộc xét xử, nhưng không bênh vực được gì cho những người đã cộng sự với mình.

2.
Khánh vẫn tìm mọi cách khéo léo đối xử với Bình An. Thỉnh thoảng, Khánh cho người vào mời cha Hoàng và Hai Long ra dinh Gia Long, thông báo tình hình và xin ý kiến về thời cuộc. Nhưng cha Hoàng càng ngày càng tỏ ra không hài lòng về Khánh.
Ông nói:
- Thằng này khó xài, sáng “A-men”, tối “Na-mô”, lá mặt lá trái, chỉ khéo mồm. Nó dùng mình như những con bài để đạt tham vọng chớ có mang lại cho mình cái chi!
Cha Hoàng đã nhìn thấy sau cuộc chỉnh lý, Khánh chỉ vỗ về những tướng trẻ, lại đưa một đảng viên Đại Việt, mà cha Hoàng vốn rất ghét, vào làm phó thủ tướng, nhưng phía Công giáo thì không được gì.
Hai Long nói:
- Con người Khánh ta biết quá rồi. Ta phải quan hệ với Khánh vì Khánh đang được Mỹ dùng. Ta không quan hệ thì Mỹ cũng cứ dùng Khánh. Ta cần Khánh để tính công việc của ta. Con nghĩ rằng Khánh không phải không nhớ ơn Công giáo ta. Nhưng Khánh đâu được như ông Diệm, ông Nhu nghĩ gì làm nấy! Mọi việc làm của Khánh đều là theo lệnh Mỹ. Kẻ mù quáng chính là Mỹ. Mỹ chưa nhìn thấy vị trí của Thiên chúa giáo trên chính trường miền Nam. Cabot Lodge là một kẻ dị giáo. Y rất mê thiền. Y có thể ngồi nói chuyện hàng tháng với các tăng ni nhưng không thể ngồi tiếp các cha một đôi giờ!
Cha Hoàng sầm mặt.
Khi được tin Cẩn bị hành quyết, cha Hoàng rất phẫn nộ. Ông hầm hầm nói với Hai Long:
- Thằng Khánh đúng là kẻ bất nhân bất nghĩa. Nó ngồi ở ghế thủ tướng mà để xử ông Cẩn như vậy...?
- Thưa cha, con biết ông Cẩn khó thoát chết từ lúc Cabot Lodge trao ông Cẩn cho các tướng đảo chính. Nếu bây giờ Lodge để ông Cẩn sống thì hóa ra việc giết ông Diệm, ông Nhu trước đây là sai!
- Hai triệu giáo dân miền Nam cứ ngồi khoanh tay mặc cho tên dị giáo giết hết con chiên à? Huy động hết giáo dân di cư các xứ dạo ở Sài Gòn, Biên hòa, nói các cha cố dẫn đầu, kéo về Sài Gòn đạp tan tượng Kennedy, đuổi tên dị giáo cút về nước!
- Thưa cha đó là việc sớm muộn cũng phải làm, chỉ e còn chỉ thị của Tòa Khâm sứ...
- Làm ngay! Các cha bỏ áo thầy ấy tu ra, mặc quần áo như dân thì Khâm sứ cũng chẳng có gì mà quở trách. Các cha nhất thiết phải cùng đi với con chiên.
- Thưa cha, đúng rồi, các cha phải cùng đi, nhưng con nghĩ không nhất thiết phải đi đầu tất cả, mà chỉ cần đi lẫn vào giáo dân.
Cha Hoàng đồng ý với anh.
Chủ trương của cha Hoàng được các xứ đạo nhiệt liệt hưởng ứng.
Cuộc biểu tình thị uy của giáo dân tổ chức vào ngày 7 tháng 6. Bộ tham mưu cuộc biểu tình đặt trụ sở tại nhà thờ Huyện Sĩ, gồm cha Hoàng, cha Mai Ngọc Khuê, cha Hoàng Trung, phó chỉ huy Tổng bộ tự vệ Phát Diệm Trần Thiện và Hai Long.
Ha chục vạn giáo dân di cư Sài Gòn, Biên Hòa rầm rộ kéo về tập trung tại quảng trường Lam Sơn trước Tòa Hạ viện. Từng xứ đạo, dưới sự điều khiển trực tiếp của các cha, các thầy, đội ngũ chỉnh tề, nhiều người mang theo cả vũ khí phòng thân như gậy gộc, chĩa ba, chai lọ, gạch đá. Những người biểu tình kéo đổ tượng Kennedy. Nội dung cuộc biểu tình là đòi ngừng ngay những vụ hành quyết như xử bắn Ngô Đình Cẩn ngày 9 tháng 5, chống những vụ trả thù Công giáo như ở Phước Tuy, Thanh Bồ, Đức Lợi, Phú Cam... Một khẩu hiệu được viết bằng tiếng Anh và tiếng Việt trên nhiều tấm biểu ngữ, và được hô vang suốt từ đầu tới cuối cuộc biểu tình với sự phẫn nộ cao độ: “Cabot Lodge, cút về nước!”, “Cabot Lodge, go home!”.
Chi ít ngày sau, Công giáo ở những vùng có nhiều người di cư, hoặc những người thần phục gia đình họ Ngô, như ở Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Long Xuyên, Buôn Ma Thuột, Plây Cu, Công Tum, Đà Lạt... đua nhau biểu tình. Ở khắp nơi, khẩu hiệu “Cabot Lodge, cút về nước!” trở thành khẩu hiệu chính.
Sau cuộc biểu tình đầu tháng 6 ở Sài Gòn, giáo dân miền Nam đâu đâu cũng nhắc tới cha Hoàng. Nhiều xứ đạo ở các tỉnh cử người về Bình An, mời cha Hoàng tới thăm. Giáo dân đang giữa lúc nếu không lo bị tàn sát trả thù, thì cũng buồn vì Phật giáo trước đây vốn tĩnh lặng, nay trở thành một lực lượng có sức áp đảo, sự trọng nể của mọi người đối với tấm áo choàng của linh mục đã chuyển sang tấm áo cà sa của những thượng tọa, đại đức. Trong tình hình đó, cha Hoàng đã trở thành một thần tượng của giáo dân miền Nam.
Cha Hoàng bàn với các linh mục lập một tổ chức gọi là “Trung ương Công giáo tranh đấu để vãn hồi tình hình”. Tổ chức này hình thành vào trung tuần tháng 6. Các cha cố suy tôn cha Hoàng làm chủ tịch. Khâm sứ tòa thánh và tòa tổng giám mục tỏ vẻ e ngại vì như vậy là các linh mục lại tham gia vào chuyện chính trị. Cha Hoàng bèn đổi tên tổ chức này là “Trung ương Công giáo đại đoàn kết”. Tòa Khâm sứ và Tòa Tổng giám mục vẫn thấy phân vân.
Hai Long bàn với cha Hoàng:
- Theo khuyến cáo của Vatican thì Công giáo không nên tham gia vào chính trị, nhưng giáo dân nào cũng là công dân của một thể chế chính trị, không thể bó tay khi những quyền lợi công dân của mình bị vi phạm, chà đạp. Với tư cách tín đồ Thiên chúa giáo, giáo dân không tham gia vào chính trị, nhưng với tư cách công dân, thì không thể nào không đấu tranh chống lại đàn áp, bất công. Vậy nếu ta lấy tên tổ chức này là “Khối Công dân Công giáo đại đoàn kết”, thì có thể được Tòa thánh chấp nhận.
Cha Hoàng rủ Hai Long cùng tới Tòa khâm sứ và Tòa tổng giám mục trình bày ý kiến này. Sau khi nghe và hỏi cặn kẽ, cả Khâm sứ và Tổng giám mục đều tán thành.
Hai Long lại bàn với cha Hoàng, nhân khi tổ chức mới thành lập, người cầm đầu cũng nên đi một số địa phương giới thiệu cương lĩnh hành động để thúc đẩy phong trào, cũng là đáp lại lời mời của một số giáo xứ đã đến với cha Hoàng từ lâu.
Cuối tháng 6 và đầu tháng 7, cha Hoàng cùng với Hai Long đi thăm nhiều xứ đạo ở hầu khắp miền Nam, từ Huế tới Long Xuyên, Châu Đốc.
Cha Hoàng tự nhận là mình nói năng thiếu chặt chẽ, nên cần có anh đi theo. Tới các nơi ông chỉ giữ vai chủ trì, và giới thiệu Hai Long trình bày về mục đích và cương lĩnh hành động của tổ chức. Hai Long nói năng mạch lạc, lưu loát, cuốn hút người nghe về giáo lý cũng như về phương pháp hoạt động đấu tranh, và không quên luôn luôn đề cao cha Hoàng là chủ tịch của tổ chức. Cha Hoàng giới thiệu ở khắp nơi, Hai Long là cố vấn của mình và của Trung ương Khối Công dân Công giáo đại đoàn kết, để mọi người liên hệ khi có công chuyện nếu vắng mặt ông. Riêng với các giám mục và linh mục hạt trưởng, ông nói thêm Hai Long là “thầy tu xuất”, đã từng là phụ tá của Đức cha Lê từ những năm 1945, 1946 tới nay, là người sống thánh thiện, được thử thách, và sẵn sàng tử vì đạo, dưới chế độ Ngô Đình Diệm là phụ tá của cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu, hiện nay đang có vai vế đối với các tướng lãnh trong Hội đồng quân sự cách mạng, đã đấu tranh giải thoát cho nhiều người công giáo bị bắt bớ sau cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11, rất xứng đáng là một “lãnh tụ cửa giáo dân”.
Hai Long đã qua thời kỳ ở ẩn. Anh nghĩ điều cần với mình bây giờ là phải củng cố bộ mặt tinh thần mới, làm cho nhiều người quen với hình ảnh anh là một con chiên tốt đạo đẹp đời, sẵn sàng tử vì đạo.

3.
Cuộc đấu tranh của giáo dân miền Nam bùng lên khắp nơi đã nhanh chóng tác động tới Nhà Trắng. Cuối tháng 7, có nhiều tin đồn Cabot Lodge sắp bị thay thế.
Trong tháng 8, hàng chục vạn đồng bào Sài Gòn biểu tình vây quanh dinh Gia Long, đòi Nguyễn Khánh phải từ chức. Hàng vạn đồng bào, sinh viên, học sinh Huế, Đà Nẵng biểu tình, bãi khóa, bãi chợ, phản đối Nguyễn Khánh ký hiến chương Vũng Tàu.
Cha Hoàng quyết định đánh một đòn bồi tiếp đối với Cabot Lodge. Ông trao đổi với cha Mai Ngọc Khuê, người đã cùng ông lãnh đạo có kết quả cuộc biểu tình hồi đầu tháng 6, huy động giáo dân xứ đạo Tân Sa Châu tiến hành một cuộc biểu tình mới chống Cabot Lodge.
Cha Khuê bân:
- Lần này không cần huy động nhiều người, nhưng sẽ làm mạnh hơn lần trước, đưa giáo dân xông thẳng vào Bộ Tổng tham mưu, vừa đuổi Cabot Lodge vừa bắt phải trả lại tự do ngay cho những giáo dân bị bắt oan sau đảo chính.
Cha Hoàng tán đồng, nhưng nói thêm:
- Nếu xông thẳng vào Bộ Tổng tham mưu thì phải có sách lược, không để cho chúng đàn áp. Ngoài khẩu hiệu “Cabot Lodge, cút về nước!”, ta sẽ nêu khẩu hiệu “Ủng hộ Nguyễn Khánh”, và “Đả đảo Dương Văn Minh”, tố cáo Minh chủ trương trung lập, đòi chính Minh phải trả tự do cho giáo dân bị bắt. Ta ủng hộ Khánh thì quân đội không dám đàn áp. Ta chĩa mũi nhọn vào Minh vì Minh liên kết với Phật giáo.
Cha Khuê thấy ý kiến này là hay.
Ngày 26 tháng 8, khoảng 3.000 giáo dân do cha Khuê lãnh đạo, biểu tình mang theo cả gậy gộc, chĩa ba xông vào Bộ Tổng tham mưu. Họ giương cao những biểu ngữ và hô vang những khẩu hiệu như cha Hoàng và cha Khuê đã bàn.
Thời gian qua, chính quyền và quân đội không dám đàn áp những cuộc biểu tình của Công giáo. Nhưng lần này giáo dân có vũ trang lại xông thẳng vào trong doanh trại của một cơ quan đầu não quân đội. Binh lính hoảng hốt nổ súng. Kết quả sáu giáo dân thiệt mạng, hàng chục người khác bị thương.
Sự việc xảy ra hoàn toàn bất ngờ đối với cha Hoàng. Ông rất lo Khâm sứ sẽ khiển trách. Gần đây, vì tham gia nhiều vào những hoạt động chính trị, nên ông tránh tới Tòa khâm sứ và thường bảo Hai Long tới báo cáo tình hình. Lần này, ông lại bảo Hai Long tới thăm dò thái độ Tòa Khâm sứ.
Qua những lần tới báo cáo, Hai Long đã biết Khâm sứ một mặt e ngại những hoạt động chính trị vì đã có chỉ thị của Vatican, nhưng một mặt vẫn muốn giáo dân đấu tranh chống lại đàn áp. Hai Long tường thuật lại cuộc biểu tình ngày hôm trước ở Bộ Tổng tham mưu. Khi anh nói khẩu hiệu chính của giáo dân là “Cabot Lodge, go home!”, Khâm sứ mỉm cười, hỏi:
- Lần này lại tiếp tục nêu khẩu hiệu đó, các con chiên có lo sợ Mỹ trả thù không?
- Trình Đức Khâm sứ, chính vì sợ bị trả thù nên giáo dân phải ra tay trước. Mỹ đã giết một tổng thống Công giáo, giết một lúc cả ba anh em giáo dân, không chỉ vì Mỹ tàn bạo mà chính là Mỹ khinh khi, hăm dọa Công giáo. Giáo dân biểu tình là để cảnh cáo Mỹ vì đạo Chúa. Những Phật tử có thể hy sinh thân mình vì đạo, thì tín đồ Công giáo ta đâu có ngán!
Khâm sứ ngẫm nghĩ rồi nói:
- Thầy nên lấy danh nghĩa một trí thức Công giáo, viết một bản tường trình về vấn đề này để chuyển lên Giáo hoàng.
- Trình Đức Khâm sứ, con dốt nát về chuyện giấy tờ, không biết thưa gửi ra sao cho phải phép, e có điều thất lễ, nên không dám viết.
- Vậy tôi sẽ làm tờ trình về Roma, thuật với Giáo hoàng những điều thầy vừa nói, cố nhắc tới tên thầy, thầy có thuận không?
- Tùy ý Đức Khâm sứ, với Tòa thánh, con nghĩ chẳng có điều chi phải e ngại.
- Thầy hết lòng vì đạo Chúa như vậy là rất tốt. Với tư cách công dân, thầy cố gắng giúp cho công chuyện đấu tranh, thầy có những điều kiện tốt hơn cha Hoàng, đừng để cha Hoàng dính vô nhiều.
Hai Long về thuật lại với cha Hoàng. Vẻ mặt cha Hoàng đang căng thẳng lo âu chuyển ngay thành tươi tỉnh.
- Từ bữa qua tới giờ, mình ăn không được, ngủ không được. Thầy thuộc tính đức Khâm sứ, biết trình bầy nên ngài không quở trách. Lần sau, xảy ra chuyện gì khó khăn lại phải nhờ thầy đi.
Nhưng ngày hôm sau, cha Hoàng vẫn bị Khâm sứ gọi lên.
Khâm sứ nghiêm khắc hỏi:
- Tòa Khâm được tin cha và cha Khuê tổ chức biểu tình, làm thiệt mạng và bị thương nhiều giáo dân?
Cha Hoàng dựa vào những điều Hai Long đã kể, báo cáo lại tình hình đồng thời nhận khuyết điểm mình không dặn dò kỹ cha Khuê nên để xảy ra chuyện đáng tiếc.
Khâm sứ nói:
- Chuyện này sẽ làm cho tình hình càng phức tạp. E rằng Mỹ và chính phủ quân nhân sẽ kiếm cớ gây thêm khó khăn cho giáo hội và các linh mục.
- Trình Đức Khâm sứ, về phía ông Khánh chắc không có chuyện chi. Ông đã gửi giấy cho tôi nhận lỗi và mời tới gặp để thu xếp cho êm mọi chuyện.
- Nhưng đã có khuyến cáo của
Vatican là các cha không dính vô những chuyện này! Cần làm thì để cho giáo dân làm tốt hơn, những người như thầy Hai Nhã.
- Dạ.
- Có phải thầy Hai Nhã thường xuyên tiếp xúc với mấy ông tướng?
- Dạ, các tướng hay đến gặp tôi và thầy Hai ở nhà thờ Bình An.
- Nên để cho thầy Hai tiếp họ, giáo hội khỏi bị kẹt.
Cha Hoàng vốn rất phục tùng tòa Khâm sứ. Ông bắt đầu giới thiệu với mọi người, Hai Long thay mặt mình làm việc với họ theo khuyến cáo của khâm sứ. Như vậy, ông vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh mà không còn phải e ngại những búa rìu của bề trên mỗi khi có sai sót.

4.
Hai Long cảm thấy mình như vừa lạc vào một thế giới khác lạ. Sau nửa giờ ngồi trên máy bay, Sài Gòn oi bức, nhộn nhạo, không khí ngột ngạt mùi khói xăng, cùng với trăm ngàn mưu toan vật lộn gay gắt, xấu xa của cuộc sống như đã chìm sâu trong cõi hồng trần. Đà Lạt hiện lên giữa cao nguyên núi rừng trùng điệp, với không khí tươi mát, tĩnh lặng, sực nức mùi hương của những đồi thông, của những đóa hoa muôn màu làm anh ngây ngất. Con đường nhựa chạy quanh co giữa những đồi thông, những biệt thự xinh xắn ẩn hiện, náu mình dưới lùm cây tươi xanh, những khu vườn đầy hoa.
Chiếc xe ngựa, tiếng vó khua lóc cóc, chạy xuyên qua những đám mây mát rượi, đưa cha Hoàng và anh về thị trấn. Xe dừng lại bên một cái hồ.
Nhìn thấy những cặp trai gái, những cặp vợ chồng dắt theo con nhỏ đi dạo quanh hồ. Hai Long chạnh lòng nhớ tới vợ con. Vợ con anh đã phải chịu đựng bao nhiêu hy sinh nhưng chưa bao giờ được hưởng những giây phút thảnh thơi. Ước gì có một ngày nào đó, anh được cùng gia đình lên đây, anh cũng sẽ đưa vợ và các con đi dạo như thế kia... Với công tác của anh, không thể nói chắc ngày mai ra sau, mọi trò giả tạo này đều chỉ là tạm thời, sự yên ổn chỉ tính từng giờ.
Cha Hoàng nói:
- Không biết cái biệt thự số 2 nó ở đâu? Thầy đã tới Đà Lạt bao giờ chưa?
- Thưa, con tới đây lần đầu.
Cha Hoàng trỏ cái hồ:
- Hồ Xuân Hương... Sáng nay nghỉ ngơi ở đây cho thầy ngoạn cảnh thị xã, chiều vào trong đó, hay sáng mai vào cũng được.
Hai Long theo cha Hoàng thủng thỉnh đi dạo trên đường phố ngắm những quầy hàng mỹ nghệ với những ngôi nhà sàn, những chiếc thuyền buồm, chân dung những cô gái được tạo ra bằng gỗ thông, những cửa hàng bày toàn quần áo len, dạ dùng cho mùa lạnh. Thấy Hai Long mải mê nhìn các quầy hàng, cha Hoàng nói:
- Mấy thứ này ở Sài Gòn thiếu chi!
- Thưa cha, ở Sài Gòn, con chưa bao giờ đi dạo phố xem hàng. Từ những mẩu gỗ thông mà người ta có thể tạo ra những đồ kỷ niệm đẹp nhường kia. Bây giờ mới nhớ ra con người có lúc cần tới những đồ len dạ, thấy nhớ miền Bắc cha ạ...
Cha Hoàng dường như thiếu tự nhiên vì chiếc áo choàng thầy tu đã làm cho nhiều người chú ý. Kể ra một người đã xa lánh cuộc đời trần thế, không nên có những giờ dạo chơi ngắm nhìn phố xá.
Hai Long có cảm giác lâng lâng bay bổng. Không khí trong lành của vùng núi cao bỗng chốc làm cho anh khỏe hẳn ra, cơ thể như trẻ lại, tràn trề sức sống. Anh thấy yêu mọi cảnh vật, mọi con người ở đây. Họ đều như không có liên quan tới cuộc sống đấu tranh gay gắt ở Sài Gòn.
- Lạy cha ạ.
Một thiếu phụ nhỏ nhắn, trẻ đẹp, tay xách chiếc làn nhựa đứng trước mặt cha Hoàng. Cha ngơ ngác nhìn người đàn bà rồi đáp:
- Chào bà.
- Lâu lắm mới được gặp cha. Cha không nhận ra con. Con là vợ anh Trần Kim Tuyến đây mà.
- Ô, vậy ra là con. Cha lại nghĩ là bà bộ trưởng nào!
- Cha tới Đà Lạt lâu chưa ạ?
- Vừa xuống máy bay được một lát, đang dẫn ông phụ tá đi vãng cảnh thành phố.
Ông né mình sang bên giới thiệu Hai Long với vợ Trần Kim Tuyến:
- Đây là giáo sư Hoàng Đức Nhã!
Người thiếu phụ nghiêng đầu chào anh, rồi nói:
- Con đã biết tiếng giáo sư Nhã. Ông Hoàng Long, phụ tá của Đức cha Lê và ông cố vấn Ngô Đình Nhu.
Cha Hoàng vui vẻ:
- Thế thì quen biết cả rồi. Tại sao lâu lắm Tuyến không tới chỗ cha? Tuyến có ở đây không?
- Mai mốt nhà con mới lên. Nhà con ở Hồng Công về được ít lâu nay, cũng buồn nên chẳng đi đâu. Nếu cha còn ở đây vài ngày, chúng con sẽ tới thăm cha. Cha ở đâu ạ?
- Ông Khánh mời cha và thầy phụ tá lên làm việc. Định ngày mai mới vào trong biệt thự, hôm nay chưa biết sẽ ở đâu.
- Hay mời cha và giáo sư tới chỗ con. Con đang ở tại khách sạn Palace. Ở đó còn trống một số phòng, phong cảnh lại rất đẹp.
Thấy cha Hoàng còn lưỡng lự, người thiếu phụ nài nỉ:
- Cha và giáo sư về chỗ con đi. Con sẽ đặt thuê phòng. Con cũng cần thưa với cha một vài chuyện và việc của nhà con.
Hai Long không muốn ở gần vợ chồng Tuyến, nhưng cha Hoàng đã nhận lời. Sau khi thất sủng với Nhu, Tuyến bị đẩy ra nước ngoài. Diệm, Nhu đổ ít lâu, Tuyến trở lại Sài Gòn. Chắc hẳn vợ Tuyến đã nhanh chóng đánh hơi được mối quan hệ giữa cha Hoàng với chính quyền mới nên định nhờ vả chi cho chồng. Với nghề nghiệp của Tuyến, sớm muộn rồi Tuyến cũng sẽ đi với CIA. Nhưng cũng không sao. Chắc Tuyến chưa biết gì nhiều về anh như bọn Hiếu và Tá Đen. Hiện giờ Tuyến chỉ là một kẻ thất thế.
Cha Hoàng và Hai Long vào xem chợ cùng với vợ Tuyến, chờ chị ta mua ít trái cây, rồi về khách sạn Palace.
Phòng của Hai Long nằm trên lầu một, có cửa sổ mở ra mặt hồ. Trời không có nắng. Nước hồ trở thành màu chì sáng xao động, bồng bềnh mấy con thuyền mang hình chim thiên nga của khách du lịch. Tiếng gió thổi lao xao trên những lùm cây bên ngoài vọng vào. Cảnh vật ở đây như một thứ thuốc an thần ru ngủ con người.
Vợ Tuyến đã để trên bàn một chùm nho chín mọng. Những giờ còn lại của buổi sáng, chị ngồi tâm sự suốt ở phòng cha Hoàng. Hai Long tránh mặt. Vợ chồng Tuyến đã quen biết cha Lê và cha Hoàng từ những năm 1945, 1946. Trong thời kỳ Diệm cầm quyền, Tuyến là một cánh tay rất đắc lực của Nhu, chuyên lo vấn đề an ninh. Phát Diệm trở thành một đối tượng của chế độ Diệm, nên Tuyến cũng cắt liên lạc với các cha. Khi đôi bên nối lại liên lạc thì Tuyến bắt đầu thất sủng, phải ra nước ngoài. Câu chuyện của vợ Tuyến chắc chẳng có gì khác hơn là kể lể những công lao và than thở về sự thiệt thòi của chồng mình đối với chính quyền cũ cũng như chính quyền mới.
Có tiếng gõ cửa. Đã đến giờ ngủ trưa. Hai Long đoán là cha Hoàng ở phòng bên có điều gì cần hỏi.
Anh ngỡ ngàng khi nhận ra người thiếu phụ đứng trước cửa.
Chị hình như chưa thật tin có phải là anh không, buông lên một tiếng kêu rụt rè:
- Cậu giáo!
- Tú Uyên!
- Trời ơi! Đúng là anh thật ư?
- Anh cũng không ngờ lại còn được gặp em.
Chị lấy khăn tay, chấm vội những giọt nước mắt ứa ra vì mừng rỡ. Chị nhoẻn miệng cười, nói ríu rít như ngày xưa:
- Em nhận ra anh khi ngồi ở phòng ăn. Em hỏi bà cùng ngồi với anh, bả biểu đó là giáo sư Hoàng Đức Nhã. Thái độ của bả làm em khó chịu, nên em không hỏi thêm.
- Chị ấy là người quen của cha Hoàng, anh chỉ vừa gặp sáng nay.
Tú Uyên hơi bĩu môi, như muốn nói: “Tưởng chi, hóa ra...”
- Mời em vào nhà đã chứ.
Chị vén tà áo dài, ngồi xuống chiếc ghế mây, nhìn chùm nho lớn đặt trên bàn, rồi hỏi:
- Anh lên đây có một mình?
- Anh cùng đi làm việc với cha Hoàng. Cha ở phòng bên. Còn em?
- Em lên nghỉ cùng hai cháu.
Chị nhìn anh với cặp mắt buồn rầu. Cái vui giả tạo vừa rồi của chị đã biến mất. Cả hai người đều bối rối. Đã 18 năm qua. Bao nhiêu nước chảy dưới cầu. Họ không biết bắt đầu câu chuyện từ đâu. Bao nhiêu kỷ niệm dồn dập hiện lên trong đám sương mù của quá khứ.

5.
Cha Hoàng đổi ý kiến, ngay buổi chiều hôm đó, đã bảo Hai Long cùng mình đi gặp Khánh. Buổi nói chuyện với vợ Trần Kim Tuyến đã cho cha biết các tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim hiện đang bị quản chế ở đây. Cha không muốn ở lâu tại Đà Lạt, nếu Đôn, Kim tới, sẽ khó nói khi chuyện trò. Cha đã từng ủng hộ họ, giờ lại quay sang ủng hộ Khánh. Đôn và Kim không phải là con chiên. Nhưng nếu so với Khánh, họ còn có tư cách hơn.
Sự việc xảy ra ở Bộ Tổng tham mưu hôm 26 tháng 7 đã làm cho Khánh lúng túng. Khánh có liên quan cả về hai mặt với tư cách vừa là chủ tịch Hội đồng quân sự cách mạng, vừa là thủ tướng. Khánh mời cả cha Hoàng và Hai Long tới Đà Lạt để thương nghị. Khánh đã biết cha Hoàng là người cực đoan lại khó tính, còn mưu sĩ của cha thì trầm tĩnh và ôn hòa. Việc một số giáo dân di cư bị sát hại nếu không thu xếp cho êm sẽ bùng lên thành một phong trào chống Khánh. Khánh tuy đã ôm hầu hết mọi quyền lực trong tay, nhưng ngày càng cảm thấy mình ngồi trên lửa vì tình hình quân sự xấu đi rất nhanh, và những người bất bình với Khánh không ngừng tăng lên.
Cha Hoàng và Hai Long đi xe ngựa tới dinh 2. Đại tá Albert Nguyễn Cao ra đón hai người vào gặp Khánh.
Khánh đứng ở chân thềm, vồn vã:
- Trời, sao cha Tổng và ông giáo không “phôn”[1] vô để ông Cao ra đón mà lại đi xe ngựa?
Cha Hoàng mát mẻ:
- Thủ tướng còn bận nhiều việc, tránh được phiền phức chừng nào hay chừng ấy.
- Cha lo cho những việc tày đình, đưa cái xe ra đón cha có chi mà phiền phức!
Khánh tươi cười mời khách dùng ly rượu cho ấm người, cố tạo bầu không khí thông cảm, rồi vào vấn đề một cách Khiêm tốn:
- Từ ngày nhận nhiệm vụ, tôi đã chỉ thị cho cảnh sát, an ninh và quân đội là không được đụng tới quyền dân chủ của đồng bào, đặc biệt là giáo dân. Cha Tổng và ông giáo coi suốt thời gian qua, đâu có xảy ra điều chi đáng tiếc? Tai họa vừa rồi là do một số binh sĩ thiếu kỷ luật, hoảng hốt trước sự quá nhiệt tình và phẫn nộ của giáo dân. Chúng tôi sẽ nghiêm khắc trừng trị những quân nhân phạm tội. Bữa nay, xin mời cha Tổng và ông giáo tới để có lời xin lỗi, mong cha Tổng và ông giáo thu xếp cho công chuyện được êm thấm.
Cha Hoàng to tiếng ngay:
- Các ông tướng ngu quá là ngu! Dân người ta biểu tình chống Dương Văn Minh là để răn đe Phật giáo ăn hiếp mấy ông tướng trẻ. Người ta đuổi Cabot Lodge là để làm cho Mỹ phải nể mấy ông tướng Việt Nam. Người ta biểu tỉnh ủng hộ mình, thế mà lại cho lính xả súng bắn vào người ta?
Dưới mắt cha Hoàng, Khánh vẫn là một kẻ võ biền, trẻ tuổi, hãnh tiến, tới gặp mình để mưu cầu địa vị như trước đây. Cha quên Khánh đã trở thành người đứng đầu có thực quyền của chế độ, nên vơ đũa cả nắm, mạt sát các tướng trẻ ngay giữa tư dinh của Khánh. Hai Long nhận thấy Khánh sầm mặt, hai tai đỏ dừ. Anh xoa dịu:
- Cha Tổng rất trung thực, nghĩ sao nói vậy, có tin thủ tướng, có hết lòng ủng hộ thủ tướng, thì mới nói như vừa rồi. Cũng như hồi xưa cha Tổng rất mến phục trung tướng Nguyễn Văn Xuân, khi làm việc với thủ tướng Xuân, cha cũng thường thẳng thắn như vậy. Giờ chuyện không may đã xảy ra, trên đường lên đây, cha Tổng đã bàn với tôi sẽ cùng thủ tướng thu xếp cho ổn thỏa, không để cái sảy nảy cái ung, không để cho người ngoài xen vô, gây nên chuyện lớn phương hại cho chế độ như Phật giáo trước đây.
Hai Long đã nhắc tới Xuân vì vào thời đó, Khánh còn là sĩ quan tùy viên của Xuân để lưu ý Khánh tới tuổi tác, vai vế đã có từ lâu của cha Hoàng. Khánh cố nén tự ái cười gượng:
- Người trong nhà đóng cửa bảo nhau, cha Tổng đã thương, nên giải quyết cách chi xin cha Tổng cứ dạy cho.
Cha Hoàng vẫn không dịu giọng:
- Giết người là phải thường mạng! Muốn giải quyết êm chuyện này, quân đội phải đứng ra công khai xin lỗi giáo dân, phải trừng trị thật nặng cả binh lính và chỉ huy phạm vào tội giết người, và phải bồi thường cho mỗi gia đình có người bị thiệt hại 5 triệu đồng... Giáo dân miền Nam nhất định sẽ không lùi bước đâu! Cabot Lodge, go home! Lodge phải cút khỏi Nam Việt nam. Nếu Mỹ cứ đưa sang đây những người chống Thiên chúa giáo thì 2 triệu tín đồ sẽ không để cho Mỹ yên...
Khánh hiểu rằng rất khó thương nghị với cha Hoàng. Khánh đành phải nhận tất cả những điều kiện cha đặt ra, chỉ xin châm chước trong cách giải quyết cụ thể. Hai Long cảm thấy đã có một sự nứt rạn khó hàn gắn giữa Khánh và cha Hoàng. Anh lo vì vậy mà Khánh sẽ ngả sang Phật giáo.
Khánh mời cha Hoàng và Hai Long nghỉ lại dinh 2. Cha Hoàng từ chối.
Trước khi ra về, Hai Long phải tìm cách đứng riêng với Khánh.
- Cha Tổng đã có tuổi đang lúc nóng, sau đây tôi sẽ tìm cách thưa lại. Chẳng qua là cha bực ông Minh và ông Lodge, còn với cá nhân thủ tướng thì cha vẫn ưu ái, quý trọng. Ông thủ tướng cứ bình tâm lo việc khác, chuyện này trong vài ngày nữa, tôi sẽ thu xếp ổn thỏa. Lần sau, nếu lại có những việc tương tự, ông thủ tướng cứ cho người tới bàn bạc trước với tôi thì sẽ tránh được va chạm.
Nguyễn Khánh siết tay anh:
- Nhờ ông giáo chu toàn giúp cho. Anh em mình đã rất hiểu nhau, tôi quả là đang có nhiều chuyện phải lo... Cabot Lodge cũng sắp đi khỏi đây thôi.
- Như vậy rất hợp ý cha Hoàng. Nhưng ai sẽ thay?
- Có thể là Maxwell Taylor.
- Ông ta là tham mưu trưởng liên quân Mỹ, một nhà quân sự thuần túy!
- Nước mình đang có chiến tranh mà! Làm việc với một đại sứ là tướng quân sự có khi lại dễ chịu hơn.

6.
Hai Long có một buổi chiều, sau bữa cơm, cùng với Tú Uyên và hai đứa con nhỏ của chị đi dạo quanh hồ. Anh giữ ý, trước khi đi, đưa Tú Uyên và hai con của chị vào chào cha Hoàng.
- Trình cha, đây là một cô học trò nhỏ của con, hồi con còn học trung học ở Hà Nội.
- Cô học trò nhỏ... đã có hai con. - Cha Hoàng mỉm cười nói với Tú Uyên.
- Thưa cha, đó là chuyện cách đây gần hai chục năm. Anh Nhạ kèm con học thi C.E.P.S.I.[2] ạ. “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, con vẫn phải nhớ ơn thầy.
- Gia đình chị ở đâu?
- Chúng con ở Sài Gòn. Chồng con là luật sư Trịnh Ngọc Tường.
- Ủa, chị làm dâu Thanh Bồ.
- Thế cha biết nhà con ạ.
- Ông Tường ở trong Khối công dân Công giáo với tôi.
Cha Hoàng không nghi ngờ gì về sự quan hệ giữa hai người, vì từ khi đi lại ở Bình An, Hai Long vẫn tỏ ra là một con người thánh thiện.
Sương mù buổi chiều đã phủ kín những núi rừng ngút ngàn bao quanh thị trấn. Những ngôi nhà, những cây liễu rủ quanh hồ như đang tỏa ra quanh mình một làn khói lạnh. Tú Uyên trùm một chiếc khăn voan hồng và mặc chiếc măng-tô màu trắng có đai, trông gọn gàng như một cô gái. Chị và Hai Long mỗi người dắt tay một đứa trẻ. Vừa sáng nay, anh mới nghĩ tới có một ngày nào anh được cùng với vợ con đi dạo quanh hồ như thế này! Kể ra nếu không có chiến tranh, người đàn bà này có thể là vợ anh và những đứa nhỏ này có thể là con anh...
Trước Cách mạng tháng Tám, Hai Long học những năm cuối cùng để chuẩn bị thi Tú tài. Anh trọ tại gia đình một người quen ở cuối phố Duvignaud, Hà Nội. Sáng sáng, anh đạp xe tới trường học trên con đường phố vắng vẻ với khá nhiều biệt thự hai hoặc ba tầng, xinh xắn, của những nhà tư sản nhỏ, những viên chức. Hình ảnh cậu học trò nghèo, ngoan ngoãn, đứng đắn dần dần quen thuộc với bà con trong phố. Một hôm, ông chủ nhà nói với anh, có mặt gia đình muốn nhờ anh dạy buổi tối cho cô con gái đang chuẩn bị thi vào trung học, với lương tháng 5 đồng. Anh nhận lời ngay, vì số tiền này vừa đủ cho anh trả tiền trọ học. Cô gái đó là Tú Uyên. Bố Tú Uyên là viên chức cao cấp ở Tòa Thống sứ Bắc Kỳ. Anh tới kèm cô gái học vài tháng thì được ông phán mời về nhà. Nơi ở của cậu giáo là một căn buồng trên gác hai yên tĩnh. Hai bữa, anh được mời xuống cùng ăn cơm với gia đình. Tiền dạy học hàng tháng vẫn như cũ. Sau 2 năm, Tú Uyên thi đỗ, vào học trường Đồng Khánh. Anh chuyển sang dạy cho em Tú Uyên, một cậu bé rất ham chơi. Đảo chính Nhật, ông phán làm việc tiếp cho chính quyền Bảo Đại. Cách mạng tháng Tám, ông lại trở thành nhân viên của chính quyền ta. Một mối tình đã nảy nở giữa cậu giáo và cô nữ sinh trường Đồng Khánh. Rồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Gia đình Tú Uyên lúc đầu không chịu tản cư. Hai Long ở lại Hà Nội chiến đấu trong hàng ngũ tự vệ. Khi quân Pháp từ trong thành đánh rộng ra Ô Cầu Dền, ông phán mới hoảng hốt nhờ anh đưa ra ngoài. Một đêm, với tấm chứng minh thư tự vệ thành, Hai Long đưa cả gia đình đi trên những đường phố tối tăm, rền vang tiếng súng, qua nhiều trạm gác của ta, tới làng Cự Đà, nơi bà phán có người quen. Hai Long quay lại nội thành tiếp tục chiến đấu.
Chừng nửa tháng sau, tự vệ Liên khu II Hà Nội rút ra ngoại thành. Đêm đêm, họ đi vào nội thành, mở những trận tập kích quấy rối. Ban ngày, mỗi khi có dịp, Hai Long lại phóng về Cự Đà gặp gia đình Tú Uyên, kể chuyện chiến đấu ở Hà Nội. Anh nói kháng chiến còn lâu dài, sớm muộn rồi quân Pháp sẽ đánh ra những vùng chung quanh Hà Nội, và khuyên vợ chồng ông phán nên đi xa hơn, tới những nơi an toàn. Ông phán nghe theo lời anh, quyết định chuyển gia đình về quê ngoại ở Hưng Yên. Buổi sáng trước khi gia đình gồng gánh về Khoái Châu, anh và Tú Uyên đứng bịn rịn với nhau ở một gốc đa bên dòng sông nhỏ. Bà phán từ trong nhà đi ra tìm con gái. Tú Uyên nước mắt vòng quanh. Bà nhìn Hai Long một hồi rồi cầm lấy tay anh và tay con gái, nói với giọng xúc động: “Ba mợ từ lâu đã coi con như người trong nhà, bữa nay mợ có lời, mai mốt yên hàn, hai con sẽ nên vợ nên chồng”.
Họ bắt đầu xa nhau. Không phải Hai Long đã để quên đi mối tình đầu êm đềm và thơ mộng. Vì nghĩ tới Tú Uyên, nên sau một thời gian ở mặt trận Hà Nội, khi một số đơn vị chuyển lên Việt Bắc, anh đã xin trở về Thái Bình để tiếp tục chiến đấu ở quê hương. Anh muốn gặp lại Tú Uyên, và có ý định xin phép gia đình cho cô được thoát ly cùng mình đi chiến đấu. Mùa đông năm đó, anh tìm đến quê ngoại Tú Uyên ở Khoái Châu, thì gia đình vừa hồi cư về Hà Nội được vài ngày. Anh bâng khuâng với ý nghĩ, tuổi họ còn trẻ, nhưng họ đã ở hai bên bờ một con sông ngăn cách không thể nào vượt qua. Năm năm sau, nhận công tác mới, anh trở lại nội thành Hà Nội. Đã có thêm một thời gian dài được rèn luyện, thử thách trong chiến đấu, suy nghĩ và tình cảm của anh đối với gia đình Tú Uyên không còn được như xưa. Nhưng anh vẫn mong gặp lại người con gái đã dành cho mình một tình yêu không vụ lợi, đã giành được một vị trí trong trái tim mình những năm trước đây. Biết đâu gia đình Tú Uyên lại không trở thành một cơ sở của ta trong nội thành tạm chiếm, biết đâu Tú Uyên lại không trở thành một người cùng cộng tác với anh trong công tác mới... Nhưng anh nhanh chóng nhận ra đó chỉ là những ý nghĩ hão huyền. Trong những năm tạm chiếm, bố Tú Uyên lại tiếp tục là một nhân viên cao cấp trong ngụy quyền, Tú Uyên chưa đi lấy chồng, nhưng cả gia đình đã chuyển về Đà Nẵng, quê nội của Tú Uyên, sau khi ông bố bị gạt ra khỏi chính quyền... Không thể còn có một đường dây nhỏ nào dính líu giữa họ.
Vậy mà bỗng nhiên họ gặp lại nhau trên thị trấn cao nguyên tuyệt đẹp này, miền đất dành cho tình yêu, cho những cặp vợ chồng trong tuần trăng mật, và bây giờ họ đang đi sát bên nhau trong một buổi chiều đầy sương mù, cảnh vật như thực như hư.
Họ chăm chú nghe nhau kể lại những mẩu chuyện đứt quãng trong cuộc đời riêng của mỗi người trong 18 năm qua. Đôi lúc họ ngập ngừng, vì ý nghĩ: Có nên nói nữa không, lúc này còn nói để làm gì? Họ không gạn hỏi nhau, khi thấy một người không muốn nói tiếp, vì đều cảm thấy mình không có quyền làm chuyện đó. Họ e những câu hỏi vụng về sẽ làm tổng thương nhau. Hai Long biết bố mẹ Tú Uyên đã già, sống với số tiền lương hưu trí những năm làm việc cho Pháp ở Đà Nẵng. Theo bố mẹ vào Nam được mấy năm, chị lấy chồng, người cùng quê. Anh là luật sư. Đứa em trai của chị theo bộ đội từ những năm đó, nghe đâu hiện đang làm trung đoàn trưởng một đơn vị xe tăng ở miền Bắc. Cũng chính vì vậy mà gần đây, chồng chị mới chuyển về Sài Gòn, cho xa cái tiếng có người trong gia đình làm việc với Cộng sản. Trong cuộc sống riêng, chị được chồng hết sức chiều chuộng, nhưng không cảm thấy hạnh phúc vì tư tưởng, tình cảm của hai người nhiều lúc rất khác nhau.
Chị bỗng nói:
- Lâu rồi, em Thành có viết thư về nhà, nói rằng chưa lần nào gặp anh. Em nghĩ dại dột là anh đã... không còn nữa. Em tin chắc rằng không bao giờ gặp anh, vì nếu anh còn sống thì cũng ở phía bên kia...
- Cuộc thế xoay vần. Nhiều lúc anh cũng tự hỏi: Tại sao mình lại ở đây?
- Ở Sai Gòn, anh ở đường nào?
- Anh thường ở nhà thờ Bình An cùng với cha Hoàng. Xứ đạo này ở mãi ngoại thành Sài Gòn.
- Anh sẽ tới chơi với vợ chồng em chứ?
- Chúng mình sẽ cố giữ gìn ở nhau những tình cảm tốt đẹp nhất. Anh không mong gì hơn... ờ, thằng nhỏ buồn ngủ rồi.
Đứa bé mắt díp lại đi loạng choạng. Hai Long định cúi xuống thì chị đã nhanh hơn bồng lấy con.
- Đưa cháu cho anh. Thôi ta quay về. Về tới khách sạn còn xa.
Tú Uyên chuyển đứa nhỏ cho anh. Anh bỗng cảm thấy bàn tay ấm nóng của chị nắm lấy cổ tay mình.
Họ thủng thỉnh trở về khách sạn.
Một màn sương mù dồn tới xóa mờ mọi cảnh vật. Anh không còn nhìn rõ Tú Uyên. Nhưng một lần nữa, anh lại thấy một bàn tay nắm lấy cánh tay mình bóp chặt.
- Anh nhớ địa chỉ của chúng em chưa? Anh vẫn chưa trả lời. Anh sẽ tới thăm vợ chồng em chứ?
- Em thấy lúc nào anh cũng đi với các cha. Suốt nhiều năm nay, anh sống cuộc đời khổ hạnh của một thầy tu. Anh sẽ nhớ mãi cuộc gặp lại em hôm nay, một chiều sương mù ở Đà Lạt. Chúng mình lại có thêm một kỷ niệm đẹp...
Anh vẫn cố tránh không trả lời câu hỏi của chị.

7.
Sáng hôm sau, Tú Uyên ra sân bay tiễn Hai Long và cha Hoàng trở về Sài Gòn.
Trước mặt cha Hoàng, chị cố giữ vẻ tự nhiên của một người học trò cũ gặp lại thầy sau nhiều năm xa cách. Nhưng Hai Long vẫn đọc được trong mắt chị những thoáng buồn và đôi lúc như hờn giận.
Anh cũng phải chế ngự những tình cảm của mình. Anh đã nhiều lần thản nhiên khi đi ngang những trái cấm trong vườn cây của Chúa. Nhưng lần này anh không thể dửng dưng. Nó làm anh xao xuyến. Vì nó đánh thức một thời dĩ vãng khi anh còn trẻ, lần đầu đến với tình yêu. Người anh lâng lâng trong một trạng thái kỳ lạ.
Chiếc máy bay gầm lên rồi lao nhanh trên đường băng và rời khỏi sân bay.
Đà Lạt đã khuất sau màn mây trắng đặc quánh. Anh thấy như mình vừa ném xuống biển sương mù của cao nguyên một vật kỷ niệm quý báu để cố tình cắt đứt một mối dây liên hệ với quá khứ.
Độ cao của máy bay đã ổn định. Nhiều người bắt đầu hút thuốc lá. Lòng anh trở lại bình thản. Mình chưa hoàn toàn “miễn dịch” như đã tưởng. Cũng may, mình vẫn chưa đụng tới trái cấm. Còn đọng lại trong anh là một cái gì dịu dàng. Năm tháng không xóa nổi những tình cảm của chị đối với anh. Hình ảnh nào của anh đã in đậm dấu ấn trong tâm trí chị? Cậu giáo nghèo sáng sáng đạp xe đi ngang cửa, hay anh tự vệ với trái lựu đạn giắt ở thắt lưng, dưới bầu trời đêm đỏ hồng vì đạn lửa, dẫn gia đình chị ra khỏi vòng vây của quân Pháp ở Hà Nội? Câu nói của chị lại vang lên bên tai anh: “Em tin rằng không bao giờ gặp lại anh, vì nếu anh còn sống thì cũng ở phía bên kia...”. Điều đó động viên anh. Nếu một ngày nào đó, chị biết anh là ai, chắc là chị sẽ giữ mãi cho mình cái hình ảnh mà anh mong muốn... Cũng chỉ từng đó thôi. Mình như người vượn biển đầy sóng dữ trên con thuyền nhỏ. Không thể nấn ná lâu trên hòn đảo yên tĩnh tình cờ gặp trên dọc đường...
---
[1] phone: gọi điện thoại
[2] Cochinchine Enseignement primaire supérieur franco-indigène: Cao đẳng tiểu học Đông Dương, còn gọi là bằng Thành chung.

Chương 4
NGỰA CHUNG CHUỒNG
1.
Cuộc đấu tranh của giáo dân mấy tháng qua đã đưa cha Hoàng lên vị trí người cầm đầu phong trào với kết quả là đã phần nào phục hồi uy tín của Công giáo bị sứt mẻ sau đảo chính Diệm. Cha Khổng Tiến Giác, người thay mặt Khiêm giữ liên lạc với nhà thờ Bình An, đã vui vẻ nói với Hai Long, những linh mục tuyên úy trong quân đội lại tiếp tục làm lễ misa cho tín đồ binh sĩ. Từ khi nổ ra cuộc đấu tranh của Công giáo, lần nào Hai Long, tới gặp Khâm sứ, trước khi ra về, ông đều “chúc lành”. Khâm sứ không còn nghi ngờ gì, anh đúng là một tín đồ sẵn sàng “tử vì đạo”. Đầu tháng 4, Cabot Lodge bị gọi về nước. Người sang thay là Maxwell Taylor, một tướng chỉ huy quân sự thuần túy. Không riêng cha Hoàng hỉ hả ra mặt, mà Khâm sứ cũng rất vui. Khẩu hiệu của cha Hoàng đua ra đã giành được thắng lợi rất rõ ràng. Đã thành lệ, mỗi lần Hai Long tới báo cáo, Khâm sứ lại ban thưởng cho một hai chai rượu lễ đem về cùng cha Hoàng nhấm nháp với mấy hột đậu phộng, để tâm hồn phiêu diệu nơi thiên đàng.
Cha Hoàng đã có danh nghĩa hẳn hoi, là chủ tịch trung ương Khối Công dân Công giáo đại đoàn kết. Nhưng mọi người đều biết đứng sau ông là Hai Long. Ông không ngừng dấn mình vào cuộc đấu tranh, nhưng ông đã chú ý lùi về phía sau, đưa Hai Long ra những cuộc tiếp xúc công khai. Nhiều người cũng chủ động tìm tới Hai Long, vì thấy giải quyết mọi vấn đề với anh nhanh chóng và dễ dàng hơn với cha Hoàng. Tất nhiên mọi việc anh đều báo cáo với ông, và khi giải quyết anh đều nói mình đã “xin ý kiến của cha”, hoặc là “theo ý của cha thì nên làm như vậy”.
Giữa tháng 8, Trần Thiện Khiêm tới nhà thờ Bình An, tìm Hai Long với vẻ mặt tư lự, âm thầm.
Hai Long mang rượu lễ ra mời Khiêm, rồi nói:
- Gần đây gặp Khâm sứ, lần nào ngài cũng hỏi thăm về tình hình các tướng lãnh trong Hội đồng. Khâm sứ rất lo ngại vì đã nhiều tháng qua mà chính quyền miền
Nam vẫn chưa ổn định.
Khiêm thở dài:
- Tôi cũng rất lo. Cứ tiếp tục như vậy thì chỉ có lợi cho Việt Cộng.
- Ông Khánh kiêm tới từng ấy chức thì làm sao cho xuể! Có tài năng mấy cũng không thể ôm đồm nhiều quá như vậy.
- Mà ông Khánh đâu có nhiều tài năng! Lại còn phải tính tới cái đức nữa chớ. Đâu chỉ có giáo dân, có người xứ Huế bất bình vì việc hành quyết ông Cẩn? Mà cũng không riêng chỉ có chuyện ông Cẩn! Muốn đưa ông Thơ ra khỏi chính phủ thì chỉ cần có lời mời ông Thơ ra, can chi mà phải trói tay người ta điệu vô Bộ Tổng tham mưu. Tham gia đảo chánh chậm nhất là ông Khánh, nhưng khi đòi thăng thưởng thì nhanh nhất lại là ông Khánh. Ông chạy tuốt từ Nha Trang về tư dinh ông Thơ, năn nỉ ông Thơ đề nghị với tướng Minh, rồi lại mua lon, tự mang vô nhà ông Thơ, xin ông Thơ gắn cho mình đang khi ông Thơ còn mặc đồ ngủ. Vậy mà chơi ông Thơ như vậy đó!
- Người Mỹ quá tin Khánh nên tập trung quyền hành vô một tay ông ta.
- Họ bắt đầu nhận ra rồi, tuy quá muộn.
- Anh tin là như vậy ư?
- Tôi biết rõ điều đó.
- Nếu không sớm có sự cải tiến trong chính quyền thì chúng tôi rất lo. Vừa qua cha Tổng vừa đụng độ với ông Khánh ở Đà Lạt.
- Tôi còn biết thêm là sau đó, ông Khánh đã quyết định xa rời Công giáo để chạy theo các thầy.
- Tôi đã hẹn sẽ thu xếp mọi chuyện ổn thỏa, giúp ông Khánh, chả lẽ lại có chuyện như vậy?
- Tôi lấy danh dự nói đó là điều có thiệt, và không lạ đối với ông Khánh.
- Nếu vậy thì ông Khánh sẽ bị thiệt hại chứ không phải là giáo dân.
- Quá đúng!
Khiêm uống tiếp một hớp rượu lễ, mặt dần dần đỏ hồng. Hai Long biết đây mới là phần đầu câu chuyện do mình gợi ra. Khiêm đặt ly rượu xuống bàn, đánh diêm châm thuốc hút rồi nói:
- Từ ngày vô Bình An tới nay, đối với cha Tổng và anh giáo, tôi không giấu giếm điều chi. Tôi không phải là người đi hàng hai, hàng ba. Tôi biết rõ mọi việc trên chính trường miền Nam muốn thành đạt đều phải dựa vô Thiên chúa giáo. Tôi chủ trương làm cuộc chỉnh lý với ý định tốt, nhưng đã bị ông Khánh làm đổ bể. Bây giờ buộc phải tiếp tục. Lần ngày, tôi không chỉ đề nghị cha Tổng và anh giáo ủng hộ, mà cùng tham gia vô. Cục diện chiến trường miền
Nam đang chuyển biến rất xấu từ sau ngày đảo chính, 2/3 các ấp chiến lược mà ông Nhu và Bình An đã tốn bao công sức xây dựng, đã bị phá tan. Một phần ba còn lại cũng chỉ là cái vỏ, xanh vỏ đỏ lòng. Cha Tổng và anh giáo đều là người am tường quân sự, tôi đề nghị anh giáo lãnh nhận cho một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và khó khăn. Tôi tha thiết xin anh giáo lãnh cho chức Tư lệnh địa phương quân, trước mắt là với quân hàm đại tá. Riêng vấn đề này, tôi đã tham khảo ý kiến ông Khánh, ông hoàn toàn nhất trí. Đây là bước mở đầu để anh giáo cùng tham gia chấp chính. Tôi sẽ hết sức yểm trợ anh giáo hoàn thành công vụ khó khăn này. Mong anh giáo nhận lời cho.
- Vấn đề anh vừa nêu, đối với tôi quá đột ngột. Trong hiện tình, tôi nghĩ là một nhiệm vụ như vậy vượt quá sức mình.
- Tôi cần thưa thiệt là đã cân nhắc nhiều trước khi đưa ra lời đề nghị với anh giáo. Nhiệm vụ này đòi hỏi một người am tường nhiều mặt về cả quân sự và chính trị. Anh giáo đã làm việc cho Tổng bộ, lại từng có nhiều năm ở trong quân đội Bắc Việt và quân đội Pháp. Kế hoạch ấp chiến lược lại được hoạch định ngay tại nhà thờ Bình An. Như vậy về quân sự, không tìm đâu ra người hơn anh giáo. Về chính trị, anh rất hiểu Cộng sản, đã làm cố vấn chính trị cho ông Ngô Đình Nhu, lại còn là một nhà lãnh đạo của giáo dân. Anh giáo có những điều kiện tối ưu để đảm dương công việc này. Còn về mặt cấp bậc, như tôi đã nói, đó chỉ là bước đầu...
- Mong anh đừng hiểu lầm tôi về mặt địa vị, chức tước. Trước đây, khi nhiệm vụ cần tôi có mặt trong quân đội Bắc Việt, quân đội Pháp, tôi đã nhận những chức tước chẳng to lớn gì! Nhưng quả là hiện tình chiến sự tại Việt Nam cộng hòa làm tôi rất lo lắng. Lực lượng Việt Cộng đã quá lớn mạnh, quân lực Việt Nam cộng hòa không còn ở cái thế 20 chọi 1 như thời kỳ đầu chiến tranh. Tình hình chính trị lại quá rối ren. Vì vậy tôi mới nói nhiệm vụ anh vừa nêu ra đối với tôi quả là quá nặng.
- Tôi hoàn toàn tán đồng sự đánh giá của anh. Quân lực Việt Nam cộng hòa dù có được tăng cường thêm nhiều cũng không còn đủ sức chiến thắng Việt Cộng. Bắc Việt Nam đang cho quân xâm nhập Việt
Nam cộng hòa với một mức độ ghê gớm. Nhưng nhất định họ sẽ thất bại như Bắc Hàn đã thất bại ở Nam Hàn trước đây, vì chúng ta có đồng minh Mỹ. Không lâu nữa, quân đồng minh với toàn bộ những vũ khí tối tân của họ, sẽ cùng chiến đấu ở bên cạnh chúng ta.
- Gần đây, tôi đã nghe nói nhiều về chuyện đó, nhưng với thể chế dân chủ của Mỹ, chính phủ Mỹ không dễ gì đưa quân chiến đấu Mỹ tới Việt Nam cộng hòa. Còn chỉ với máy bay và xe tăng do chính quân Mỹ lái, thì chúng ta đã từng chứng kiến những thất bại ngay từ thời tổng thống Diệm.
- Về vấn đề này thì... anh giáo bỏ lỗi cho, tôi phải nói là anh đã lầm. Mỹ chưa đưa quân chiến đấu sang Việt Nam cộng hòa không phải do chính thể dân chủ ở Mỹ, mà do chính tại chính quyền Việt Nam cộng hòa. Cũng vì vậy mà ông Diệm, ông Nhu đã phải trả giá đắt. Chỉ cần một chính quyền Việt Nam thân hữu với đồng minh, và tương đối ổn định, là người Mỹ có thể đưa ngay quân vào. Việc này họ và ta đang làm. Tất nhiên với chính thể dân chủ ở Mỹ, người cầm quyền cũng phải tạo ra một cái cớ nào đó. Chuyện này dễ ợt, và đã được giải quyết rồi: Quốc hội Mỹ đã thông qua nghị quyết vịnh Bắc Bộ ngày 7 tháng 8 vừa qua. Đó...! Anh giáo nhận lời tôi đi!
Khiêm tươi cười nâng cao ly rượu.
Hai Long cũng vui vẻ rót rượu cho mình, nâng ly và nói:
- Tôi xin tri ân anh vì sự đánh giá cao và những cảm tình tốt đẹp với cá nhân tôi. Tôi là một giáo dân đã phó thác hồn xác nơi Chúa, trước đây vì hoàn cảnh đặc biệt có tham gia một số năm binh nghiệp, nhưng trong thâm tâm vẫn không muốn cảnh đầu rơi máu đổ, chỉ mong được toàn tâm nghiên cứu về giáo lý, thần học, nhiều lắm là tham gia vào những hoạt động xã hội của giáo hội, vì vậy mà tôi đã trở thành người của giáo hội. Nay nếu một phen nữa, vì nhiệm vụ đối với quốc gia, mà lại rơi vào nghiệp chướng thì trong lòng chẳng thanh thản, vui vẻ gì. Tôi cần xin ý kiến của cha Tổng và Tòa Khâm sứ trước khi chính thức trả lời anh.
Hai Long giơ ly rượu về phía Khiêm. Khiêm tranh thủ nói:
- Tôi sẽ gặp cha Tổng để xin cha ủng hộ lời đề nghị của chúng tôi.
Đôi bên cùng cụng ly.
Những ngày sau, Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Chiểu tới tấp chạy tới nhà thờ Bình An. Những câu chuyện xoay quanh âm mưu gạt Khánh mà Trần Thiện Khiêm đã nói, Hai Long thuật lại với cha Hoàng. Ông cau mặt:
- Không để làm chi cái tên ma giáo này!
Hai Long nói:
- Chưa chắc Khiêm đã làm gì được Khánh ngay. Bề ngoài, cha cứ giữ hòa khí với Khánh, không tỏ ra là ta đã nắm được tim đen của hắn. Hắn còn nắm quyền lực, không dại gì ta đẩy hắn đối đầu với ta, làm hại giáo dân. Nếu hắn chạy theo các thầy, thì ta liên minh chặt chẽ với các thầy, đề nghị cả Phật giáo và Công giáo cùng sát cánh đấu tranh với Hội đồng quân sự, đòi bảo đảm quyền lợi của các tôn giáo. Phật giáo đã có sự liên minh lâu dài với Công giáo, không dễ gì lại bỏ ta, đi theo một kẻ hoạt đầu. Nhưng lần này, đối với cánh Khiêm, ta sẽ đặt thẳng thừng những điều kiện của ta. Khiêm dù sao cũng đỡ lươn lẹo hơn Khánh.
Hai Long nhờ Phạm Xuân Chiểu nói với Khánh, anh đã quyết ổn thỏa về vụ giáo dân biểu tình ở Bộ Tổng tham mưu, chỉ cần Khánh chú ý tới vấn đề bồi thường thỏa đáng cho những nạn nhân và gia đình.
Anh cũng thuật lại với cha Hoàng chuyện Khiêm đề nghị với mình ra làm tư lệnh địa phương quân. Anh bàn nên lấy cớ Tòa thánh không đồng ý để khước từ. Cha Hoàng nói:
- Mời làm tướng cũng chả thèm nữa là cái anh đại tá!
Khiêm tỏ ý rất tiếc là đề nghị của mình không được chấp nhận.
Trung tâm đã chỉ thị cho Hai Long, trong tình hình lộn xộn hiện thời, chỉ nên củng cố bình phong, không vội chui vào chính quyền địch.

2.
Hai Long báo cáo đều đặn với Trung tâm về tình hình rối ren nội bộ của ngụy quyền và ngụy quân, dự kiến những cuộc đảo chính với quy mô nhỏ nhằm tranh giành quyền lực sẽ còn kéo dài, và Mỹ đang gấp rút xây dựng một ngụy quyền ổn định để đưa quân Mỹ, kể cả quân một số nước chư hầu, vào Nam Việt Nam.
Trung tâm chỉ thị cần theo dõi thật sát âm mưu, kế hoạch và tiến trình Mỹ đưa quân vào, và yêu cầu anh cung cấp gấp một bản Kế hoạch bình định của Mỹ-ngụy, cùng với một bộ bản đồ trên toàn miền Nam, tỷ lệ 1/50.000.
Hai yêu cầu sau làm anh lo lắng. Kế hoạch bình định nằm ở nha Bình định. Tại đây, anh chưa có quan hệ. Còn bản đồ thì ở cơ quan của Bộ Tổng tham mưu. Điều khó khăn nhất là phải tìm ra cái cớ vì sao mình cần có những thứ này cho thật hợp lý. Tiếc là trung tâm đề ra yêu cầu này sau khi anh đã chính thức khước từ lời đề nghị của Khiêm. Nếu biết trước, anh sẽ nói với Khiêm mình cần hiểu tình hình quân sự trước khi trả lời, và bảo Khiêm cho mình xem bản Kế hoạch bình định 2 năm của Mỹ và Việt Nam cộng hòa. Nhưng cơ hội này đã lỡ.
Anh nghĩ đến Hòe.
Sau khi ở cứ về, anh đã gặp Hòe, thông báo quyết định của Trung tâm tiếp nhận Hòe vào lưới của mình. Lần đầu, anh chính thức nói với Hòe về nhiệm vụ, tự nhận mình là trưởng lưới được phân công phụ trách Hòe về công tác cũng như về mặt Đảng. Hòe đã kiên nhẫn chịu đựng mọi thử thách suốt mấy năm qua, Hòe nhìn anh nước mắt rưng rưng: “Con thơ khát sữa anh à, bây chừ mới được mẹ cho bú”. Anh cũng thấy cay cay ở khóe mắt. Đôi lúc anh vẫn còn tự hỏi, một viên chức lâu năm của chế độ cũ, có một gia đình ổn định như Hòe, sao lại thiết tha từ bỏ cuộc sống êm ấm của mình, dấn thân vào cuộc chiến đấu cực kỳ hiểm nghèo này?
Anh có thêm một sức mạnh mới, một sự hỗ trợ về tinh thần không nhỏ. Anh không còn lẻ loi, cô đơn giữa lòng địch, lần đầu cảm thấy ấm áp vì đã có người cùng chia sẻ khó khăn, chia sẻ những tâm tư, tình cảm mà trước đây không biết nói với ai.
Hòe đã lặng lẽ chuẩn bị cho công tác được nhiều hơn anh tưởng. Trong thời gian qua, tuy chưa được trao nhiệm vụ, Hòe đã chủ động tạo thêm nhiều mối quan hệ trong chính quyền và quân đội. Hai Long nhìn thấy Hòe có khả năng đáp ứng nhiều yêu cầu công tác. Anh hướng dẫn Hòe siết chặt thêm một số mối quan hệ trước mắt cần khai thác. Anh bàn với Hòe cứ tiếp tục làm việc tại Tổng đoàn Công kỹ nghệ Việt Nam, chuẩn bị ra một tờ báo về kinh tế để mở rộng quan hệ xã hội, rồi tìm cách chui sâu vào chính quyền. Nếu ra được tờ báo, Hòe sẽ xóa được khoảng thời gian bị bắt trước đây để làm việc lâu dài.
Hai người trao đổi, về cái tên của tờ báo như cặp vợ chồng trẻ bàn nhau đặt tên cho đứa con đầu lòng. Cuối cùng, họ chọn cái tên “Vừng Đông”, để gửi gắm vào đó niềm hy vọng. Số báo đầu tiên sắp ra mắt bạn đọc.
Thấy Hai Long tỏ vẻ băn khoăn khi phổ biến những yêu cầu gấp về tài liệu của trung tâm, Hòe mừng rỡ nói:
- Những việc lớn anh Hai lo rồi, mấy chuyện này, anh Hai dành cho tôi. Đã quá lâu ngày tôi chưa đóng góp được việc chi cho cách mạng.
Hai Long hỏi:
- Anh định làm cách nào để kiếm ra những của độc này?
- Tôi quen với Bửu Chương hồi cùng bị bắt với nhau ở Tòa khâm. Bửu Chương là đảng viên Đại việt, nguyên là sĩ quan. Chương được tha về, không kiếm ra công ăn việc làm. Vừa qua, Nguyễn Tôn Hoàn mới ở Pháp về, được chọn làm phó thủ tướng. Khánh phân công cho Hoàn phụ trách công tác bình định. Hoàn lưu vong đã lâu, không biết mô tê chi, nhờ tôi kiếm người giúp việc. Tôi giới thiệu Chương, Hoàn ưng ngay vì Chương cùng là Đại Việt, lại là sĩ quan. Hoàn bố trí Chương làm phó giám đốc nha Bình định. Bửu Chương khá thân với tôi.
- Như vậy thì thuận lợi lắm rồi đó. Nhưng anh định kiếm cớ gì để xin Chương những thứ này?
Hòe lúng túng:
- Để tôi suy nghĩ, có cách nào hay nhứt, sẽ báo lại anh sau. Kế hoạch bình định thì chắc chắn là ở nha Bình định rồi, nhưng có thể nằm trong tay Hoàn. Nếu Hoàn giữ thì Chương mượn của Hoàn cũng không khó.
- Còn bản đồ, liệu ở đó có không?
- Chính tôi đã nhìn thấy loại bản đồ này ở nhà Bửu Chương mà! Nhưng nếu muốn lấy suốt từ vĩ tuyến 17 trở vô thì phải khoảng tới 200 bản.
Hái Long suy nghĩ rồi nói:
- Nếu không tìm ra lý do nào hay hơn, thì anh thử nói với Chương, có một tổ chức chính trị Công giáo sắp ra nắm chính quyền, họ cần tìm hiểu mọi mặt tình hình đất nước, muốn xem những tài liệu này. Biết đâu người của Công giáo sắp tới lại không thay chính Nguyẫn Tôn Hoàn phụ trách công tác bình định. Anh cũng có thể nói Khiêm đang tới xin người của Công giáo ra làm tư lệnh địa phương quân... Riêng bản đồ, anh nhờ Bửu Chương kiếm giúp hoặc mua giúp.
- Phải xin thôi anh Hai à! Cách mạng nghèo, kiếm đâu ra tiền để mua hết từng ấy bản?
Hai Long nhìn người đồng chí nở một nụ cười thương mến:
- Xin được thì còn gì hơn! Nhưng nếu cần mua thì cũng phải đề nghị Trung tâm cho tiền mua. Mua được đã là quá tốt!
Không đầy một tuần sau, Hòe đưa tới cho Hai Long những cuốn phim chụp bản kế hoạch bình định toàn miền Nam, cùng một số tài liệu mật khác liên quan trực tiếp tới công tác bình định. Tất cả những tài liệu này đều lấy từ tay Nguyễn Tôn Hoàn.
Hòe nói:
- Toàn bộ bản đồ đã nằm ở nhà Bửu Chương rồi. Hai trăm bản! Làm sao chuyển đi?
- Phải đưa vào nhà thờ, rồi chờ Trung tâm có kế hoạch chuyển ra vùng giải phóng. Bửu Chương có nghi ngờ gì không?
Hòe cười rất tươi:
- Y chỉ nói, nếu sau này quan bác lên chức phó thủ tướng thì đừng có quên thằng Chương!
Hòe vui như đứa trẻ nhỏ, nhất định mời Hai Long ghé qua nhìn để cụng ly mừng chiến công đầu tiên của anh từ ngày được trở về với cách mạng.

3.
Ngày 7 tháng 9 diễn ra cuộc thỏa hiệp tạm thời giữa “tam đầu chế” đang nắm quyền hành ở Nam Việt Nam. Nguyễn Khánh buộc phải rút khỏi các chức: chủ tịch Hội đồng quân sự cách mạng, thủ tướng và Tổng tư lệnh quân đội. Một ủy ban quốc gia tạm thời thành lập gồm ba người, vẫn la Minh Lớn, Khánh và Khiêm.
Cuộc chỉnh lý đã đưa Khánh bỗng chốc trở thành người nắm hầu hết quyền lực ở Việt
Nam cộng hòa. Nhưng sự tham lam quá đáng cùng với năng lực rất hạn chế trong việc điều hành guồng máy chính quyền, quân đội, và tư cách cá nhân của Khánh đã không cho phép Khánh củng cố được vây cánh. Ai cũng ngại Khánh lật lọng, tráo trở. Minh Lớn tuy là quốc trưởng bù nhìn, nhưng còn ở vị trí này, đối với Khánh vẫn là người bề trên. Cá nhân Minh lại được một số người trọng nể, nên bị Khánh coi như cái gai nhức nhối cần phải nhổ mà chưa nhổ được. Địch thủ chủ yếu của Khánh lúc này lại là Khiêm. Khánh đã tìm mọi cách hạn chế Khiêm, không trao cho Khiêm chức vụ gì quan trọng, và gạt hầu hết những người thân với Khiêm trong Hội đồng quân sự. Nhưng Khiêm vẫn làm Khánh phải e ngại, vì Khiêm được nhiều tướng trẻ có cảm tình. Những tướng này có quân trong tay. Khiêm lại thâm hiểm hơn Khánh, và không phải không được Mỹ chú ý. Đưa Khánh lên vị trí số 1 của chế độ ngụy, Mỹ đã phạm một sai lầm là thổi bùng ngọn lửa tham vọng trong đám tướng trẻ ở miền Nam. Nhiều kẻ thấy mình còn xứng đáng hơn Khánh nhiều, nếu được đặt vào vị trí đó.
Chưa đầy một tuần sau cuộc thỏa thuận giữa “tam đầu chế”, ngày 13 tháng 9, một cuộc đảo chính mới lại nổ ra ở Sài Gòn. Lâm Văn Phát, bộ trưởng bộ Nội vụ, cùng với Dương Văn Đức, trung tướng tư lệnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, cầm đầu cuộc đảo chính.
Hôm đó là chủ nhật, Khánh đi nghỉ cùng với gia đình tại Đà Lạt. Trong buổi sáng, quân của Đức đã chiếm Bộ Tổng tham mưu, Đài phát thanh và kiểm soát hầu hết những vị trí quan trọng tại Sài Gòn.
Buổi trưa, Lâm Văn Phát công bố trên Đài phát thanh Sài Gòn lý do phải tiến hành lật đổ chính quyền quân sự thối nát của Khánh.
Ở Đà Lạt khi được tin, Khánh rất hốt hoảng. Khánh không hiểu có những tướng nào và những đơn vị nào đã làm đảo chính. Khánh gọi điện thoại cho Dương Văn Minh, hỏi tình hình, và đề nghị Minh nắm lại quyền kiểm soát thành phố. Minh từ chối, nói Khánh nên về Sài Gòn, tự mình làm lấy việc đó. Khánh lo Nguyễn Cao Kỳ đã tham gia lực lượng đảo chính và Kỳ râu, với tác phong ngổ ngáo của y, có thể tự lái máy bay tới Đà Lạt, oanh tạc vào dinh 2, là nơi Khánh đang ở. Khánh vội vã cho cho gia đình di tản sang biệt thự của Cao Văn Viên, đồng thời điều lực lượng cao xạ phòng không tới bố trí chung quanh nơi mình ở.
Cũng buổi sáng hôm đó, Kỳ đưa người vợ trẻ chưa cưới đi chơi ngày chủ nhật. Tới Biên Hòa, Kỳ được tin Sài Gòn có đảo chính. Kỳ lấy một chiếc trực thăng ở Biên Hòa, quay về ngôi nhà mình tại căn cứ sân bay Tân Sơn Nhất. Quân đảo chính của Dương Văn Đức đã chiếm Bộ Tổng tham mưu ở gần đó, nhưng chưa chiếm sân bay. Buổi trưa, Kỳ nghe Phát tuyên bố trên đài. Phát hết lời mạt sát Khánh. Trong lời lẽ của Phát có hơi hướng những triết thuyết của Diệm trước đây mà Kỳ vốn không ưa. Kỳ cầm máy gọi điện thoại cho Dương Văn Đức ở Bộ Tổng tham mưu:
- Trung tướng đã hành động theo một kiểu cách mà tôi không thể nào ủng hộ được! Giải pháp khôn ngoan nhất là trung tướng nên quay về đồng bằng sông Cửu Long.
Đức tức giận, điều xe tăng tới bao vây sân bay Tân Sơn Nhất. Kỳ dọa nếu xe tăng tiến vào sâu nữa, Kỳ sẽ lệnh cho máy bay ném bom. Xe tăng của Đức phải dừng lại bên ngoài sân bay.
Sáng hôm sau, Kỳ lại gọi điện thoại cho Đức:
- Đã tới lúc trung tướng nên từ bỏ ý định của mình. Đây là lời nói cuối cùng của tôi. Nếu trung tướng không rút lui, tôi sẽ ném bom xuống bộ chỉ huy của trung tướng.
Phát và Đức đã nhận thấy Tòa đại sứ Mỹ không muốn đẩy cuộc đảo chính đi tới cùng. Họ chỉ cần một đòn cảnh cáo, buộc Khánh phải chấp thuận cải tổ bộ máy chính quyền miền
Nam, chứ chưa muốn loại bỏ Khánh. Có thêm lời đe dọa của Kỳ, Phát và Đức đành bỏ cuộc đảo chính.
Kỳ gọi điện thoại cho Khánh, yêu cầu trở về giải quyết những công việc ở Sài Gòn. Vốn tính đa nghi, sợ bị đánh lừa, Khánh ở lỳ tại Đà Lạt. Chỉ tới khi Tòa đại sứ Mỹ cử hai nhân viên lên Đà Lạt thuyết phục, Khánh mới chịu quay về Sài Gòn. Maxwell Taylor tới Việt Nam được một tháng đã nhìn thấy những nhược điểm của Khánh, nhưng chưa thể bỏ rơi ngay con bài của bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, người đã được các giới chức ở Sài Gòn gọi là “con nuôi của McNamara”.
Ngày 26 tháng 9, trước áp lực của Taylor, Khánh buộc phải chấp thuận việc thành lập Thượng hội đồng quốc gia để soạn thảo hiến pháp mới, coi như một bước tiến tới chế độ dân sự.
Khánh thấy mình đang trở nên cô độc, lại chạy tới nhà thờ Bình An nối lại quan hệ với cha Hoàng. Có lúc y cử Albert Nguyễn Cao vào mời cả cha Hoảng và Hai Long cùng tới dinh Gia Long thương nghị. Trong những lần gặp gỡ, Khánh tập trung vào vấn đề nhân sự. Khi thì Khánh hỏi nên đưa thêm ai vào Thượng hội đồng, mà Khánh cho rằng phần lớn là những người thuộc phe cánh của Minh. Khi thì Khánh hỏi nên chọn ai làm thủ tướng chính phủ sắp thành lập. Khánh làm ra vẻ tự tin, luôn luôn khoe là mặc dù Maxwell Taylor mới sang, nhưng đã thông cảm với y, làm việc với Taylor còn dễ hơn làm việc với Cabot Lodge vì Taylor là tướng quân sự. Khánh tiếp tục dèm pha Khiêm, nói là Khiêm sắp mất quyền kiểm soát về quân sự.
Ngược lại, phe cánh của Khiêm tung tin, sự tồn tại của Khánh chỉ còn tính từng ngày.
Một tháng sau khi thành lập Thượng hội đồng, Taylor lựa chọn xong một chính phủ mới với những nhân vật dân sự. Phan Khắc Sửu, một ông già gần 90 tuổi, được chỉ định làm quốc trưởng. Dương Văn Minh mất chức, xin sang Thái Lan sống lưu vong. Chức thủ tướng từ tay Nguyễn Khánh chuyển sang Trần Văn Hương, một cựu đô trưởng của Sài Gòn, cũng đã ngoài 60. Khánh và những tướng trẻ đều bất mãn với phương án này. Dưới sự đạo diễn của Taylor, Khánh được các tướng trẻ bầu làm tổng tư lệnh quân đội.
Cách làm độc đoán của
Taylor đã dồn những tướng trẻ vào một cục để chống lại Thượng hội đồng. Họ thường gặp nhau ở nhà Nguyễn Cao Kỳ, cũng có lúc tại nhà Nguyễn Chánh Thi hay nhà Nguyễn Hữu Có. Khánh luôn luôn có mặt với vai trò người lãnh xướng.
Trung tuần tháng 10, trong một buổi tối, tụ tập ở nhà Nguyễn Cao Kỳ, Khánh chọc giận những tướng trẻ:
- Mấy ông già Thượng hội đồng vẫn chưa thỏa mãn! Các ổng đang âm mưu thu tóm tất cả mọi quyền hành, gạt ráo anh em mình.
Nguyễn Chánh Thi nổi sung:
- Mấy ổng tưởng mình là cái chi?
Một người hét to:
- Hốt tất cả đi là xong!
Mọi người đều giơ cao tay tán đồng.
Nguyễn Hữu Có nhìn đồng hồ rồi nói:
- Muộn rồi! Đã tới lúc lùa bò, gà vô chuồng!...
Cuộc đảo chính giải tán Thượng hội đồng nổ ra vào ngày 20 tháng Chạp. Tất cả những ủy viên của Thượng hội đồng đều bị lính quân cảnh, do những sĩ quan trẻ chỉ huy, tới nhà bắt vào lúc nửa đêm. Họ bị đưa về doanh trại của Bộ Tổng tham mưu, nơi các tướng trẻ cùng với Khánh đã tập trung ngồi chờ đợi kết quả. Khánh quyết định, ngay ngày hôm sau, Nguyễn Cao Kỳ sẽ đích thân lái máy bay đưa tất cả những bô lão lên Pleiku quản thúc bí mật tại đó.
Vừa lúc ấy, tiếng chuông điện thoại réo. Khánh cầm máy nghe. Mặt Khánh tím dần lại, Khánh hầu như không nói năng gì, chỉ lặp đi lặp lại mấy tiếng “Yes[1]” hoặc “No[2]”gọn lỏn.
Khánh buông máy nói với mọi người:
- Đại sứ
Taylor yêu cầu gặp tất cả chúng ta ngay bây giờ tại đại sứ quán. Tôi sẽ không đi. Trong các vị, có ai đại diện cho tôi không?
Tất cả đều im lặng. Không ai muốn gặp ông thầy mà họ đều biết là nóng tính và thô bạo.
Khánh ngoảnh về phía Kỳ:
- Anh Kỳ, anh là người lãnh đạo nhóm tướng trẻ, anh nên đi!
- Được thôi.
Kỳ trả lời với vẻ nghênh ngang.
Ba tướng trẻ khác tình nguyện đi với Kỳ. Đó là Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Chánh Thi và Chung Tấn Cang.

4.
Taylor chờ các tướng trẻ ở tòa đại sứ với bộ thường phục màu trắng, nét mặt giận dữ.
Khi họ vừa ngồi vào bàn,
Taylor lập tức hỏi bằng giọng rất xẵng:
- Tất cả các ông đều nói được tiếng Anh đấy chứ?
Cả bọn, trừ Nguyễn Cao Kỳ, đều kém về tiếng Anh. Họ biết là Taylor nói tiếng Pháp rất thạo. Khi thấy một đôi người rụt rè gật đầu, Taylor nói tiếp luôn:
- Được rồi! Trong bữa ăn tối ở nhà ông Westmoreland, tôi đã nói với các vị, người Mỹ chán ngấy những cuộc đảo chính rồi. Quả thật tôi đã phí lời vô ích!
Cách đây chừng một tháng, William C. Westmoreland, người mới sang thay tướng Paul Harkin phụ trách Bộ tư lệnh yểm trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam, mở một cuộc chiêu đãi thịnh soạn nhiều vị tướng của Việt Nam cộng hòa. Đại sứ Mỹ Taylor bữa đó cũng có mặt. Những lời hăm dọa sẽ đảo chính lật đổ Thượng bội đồng của Nguyễn Khánh đã tới tai ông ta. Taylor không bỏ qua dịp này, lên lớp một hồi cho các tướng, là cần phải hiểu về nhiệm vụ của quân đội đối với chính trị, không được phép liên tiếp tổ chức những cuộc đảo chính làm rối loạn tình hình chính trị ở Nam Việt Nam v.v... Nhiều câu nói của Taylor rõ ràng là nhằm vào Khánh.
Taylor tin vào sức mạnh của những lời cảnh cáo đó. Nhưng Taylor chưa biết khi chạm tới quyền lợi và sự tự ái của Khánh thì y cũng không phải là một ké dễ bảo. Và trong thực tế, Khánh đã bất chấp lời dạy của Taylor.
Kỳ làm ra vẻ ngây ngô:
- Nhưng bữa ăn đó thật là tuyệt mà!
Taylor sửng sốt nhìn Kỳ, rồi lờ đi, lặp lại:
- Tôi nói với các ông là chúng tôi đã chán ngấy những cuộc đảo chính. Tôi đã phí lời vô ích. Bữa đó tôi nói bằng tiếng Pháp một cách rành lắm mà, nhưng các vị vẫn không hiểu. Tôi nghĩ rằng tôi đã trình bày rõ tất cả mọi kế hoạch quân sự của chúng ta đều tùy thuộc vào sự ổn định của chính phủ. Bây giờ quý vị đã làm nát bét hết cả rồi. Tôi không thể nào yểm trợ quý vị mãi được, nếu các vị cứ làm ăn kiểu này!... Người nào đại diện cho nhóm này đây?... Các vị có một người phát ngôn không?
Kỳ rồi Thiệu cố gắng giải thích vì sao các tướng trẻ buộc phải có hành động như vừa rồi.
Taylor vẫn tiếp tục nói như nói với những kẻ thuộc cấp có lỗi và cứng đầu:
- Các vị đã đập vỡ quá nhiều đĩa rồi, bây giờ chúng tôi phải làm cách nào để sắp xếp lại tình trạng hỗn độn này đây?
Cuộc gặp kết thúc trong một tình trạng gần như đổ vỡ.
Khi ra xe, Thiệu nổi cáu:
- Phải triệu tập ngay gay một cuộc họp báo. Nói cho thế giới biết một ông đại sứ Mỹ đã đối xử với những tướng lãnh cao cấp Việt
Nam như là những đứa bé đần độn!
- Không nên làm như vậy! Sẽ chẳng đi tới đâu hết, chẳng có lợi gì cả! - Kỳ khuyên Thiệu.
Ngày hôm sau, dường như sợ các tướng trẻ về không truyền đạt được với Khánh tinh thần những lời nói của mình, Taylor lại gọi điện trực tiếp cho Khánh.
Viên đại sứ mở đầu câu chuyện giống như đêm hôm trước:
- Ngài hiểu tiếng Anh đấy chứ? Bữa tối đó tại nhà Westmoreland, tôi đã nói với các ngài rằng, nước Mỹ không còn muốn tha thứ cho bất kỳ một ý đồ nào làm cho tình hình mất sự ổn định nữa...
Khánh vờ nói:
- Thưa ngài đại sứ, tôi chuưa nghe rõ, đề nghị ngài nhắc lại cho.
Cùng lúc, Khánh bấm nút thu máy ghi âm.
Toàn bộ câu chuyện giữa Khánh với vị đại sứ Mỹ trong lúc nóng giận, được ghi trọn trong một cuốn băng.
Khánh đã hậm hực với Taylor từ khi thấy vị đại sứ mới dùng Khiêm và những tướng trẻ làm sức ép, buộc mình phải từ bỏ mọi chức tước, chỉ còn là một trong số ba người trorng Ủy ban lãnh đạo quốc gia. Tiếp đến Lâm Văn Phát và DươngVăn Đức tổ chức cuộc đảo chính nửa vời, rồi viên đại sứ Mỹ cho người lên Đà Lạt gọi Khánh về, yêu cầu phải chấp nhận việc thành lập Thượng hội đồng, đặt Sửu, Hương vào vị trí những người đứng đầu chính phủ. Khánh biết mình đã thực sự bị gạt ra ngoài chính quyền. Khánh quyết định đánh trả lại Taylor khi mình còn nắm được một số tướng trẻ.
Taylor đang tái diễn cái trò này trước đây các vị đại sứ Mỹ đã chơi với Diệm – Nhu. Khánh thấy mình không thể lùi bước.
Cuốn băng ghi âm cuộc nói chuyện qua máy điện thoại lập tức trở thành một vũ khí lợi hại trong chiến dịch tuyên truyền trên đài phát thanh và báo chí, tố cáo, lên án đại sứ Mỹ đã can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của đồng mình Việt
Nam cộng hòa.
Ngài đại sứ, một viên tướng Mỹ có hạng, đã từng lập nên chiến tích trong Thế chiến thứ hai ở châu Âu và những năm qua tại Triều Tiên, lần đầu làm công tác ngoại giao, đã bị Khánh cho một vố đau. Nhưng Khánh cũng biết rằng mình sẽ không bao giờ được
Taylor tha thứ.

5.
Tuy vậy, trước phản ứng gay gắt của Taylor, Khánh phải tạm lùi một bước, chỉ gạt bỏ các ủy viên trong Thượng hội đồng, vẫn để Phan Khắc Sửu và Trần Văn Hương ở ghế quốc trưởng và thủ tướng.
Trung tuần tháng 1-1965, để mở đầu cho một năm mới, Khánh dàn xếp với Sửu, Hương cùng mình ra một bàn thông cáo chung, tuyên bố những mối bất hòa giữa giới quân sự và dân sự đã được giải quyết thỏa đáng. Nhân địp này, Khánh đưa thêm vào chính phủ 4 tướng trẻ đã từng gắn bó với mình, trong đó có Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ.
Ngày 28 tháng Giêng, nhân dịp Taylor đi Viêng Chăn, Khánh cầm đầu nhóm tướng trẻ làm một cuộc đảo chính mới, loại trừ Trần Văn Hương và lật luôn cả nội các của Hương. Khi trở về, Taylor đứng trước một việc đã rồi.
Ngày 12 tháng 2, Khánh giật dây việc thành lập chính phủ mới do Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng, Phan Huy Quát làm thủ tướng. Khánh đã thay Hương bằng một người của Đại Việt. Khánh vẫn là tổng tư lệnh quân đội. Trong quá trình Khánh trao đổi với cha Hoàng chọn người làm thủ tướng, cha Hoàng lúc đầu không đồng ý Quát, vì ông vốn ghét Đại Việt. Nhưng sau đó, ông tạm chấp nhận khi Khánh chịu đưa vào chính nhủ mới 4 người của Công giáo.
Với những thay đổi về tổ chức, lực lượng của Khánh được củng cố. Khánh cho rằng mình đã xoa dịu
Taylor với việc giữ nguyên bộ mặt dân sự cho chính quyền. Nhưng Taylor đã coi Khánh là một kẻ bất trị.
Tai họa đang chờ giáng xuống đầu Khánh.
Một tuần sau khi thành lập chính phủ mới, Lâm Văn Phát lại làm một cuộc đảo chính thứ 2. Lần này, Phát không chờ Khánh đi vắng, mà chọn đúng lúc Khánh có mặt ở Sài Gòn. Mục tiêu chủ yếu của quân đảo chính là lùng bắt cho được Khánh.
Lúc 11 giờ 30 ngày 19 tháng 2, Khánh đang ở Bộ Tổng tham mưu, được tin Phát đưa xe tăng tới nhà riêng tìm bắt mình. Đồng thời một số nơi báo cáo về, có rất nhiều xe tăng đang đi chuyển trong thành phố. Khánh vội gọi điện thoại cho Kỳ, báo tin lại có đảo chính, giục Kỳ ra nhanh sân bay. Khánh nhảy lên chiếc xe Mercedes có cắm cờ lệnh, chuồn khỏi Bộ Tổng tham mưu.
Tới cổng sân bay Tân Sơn Nhất, chiếc Mercedes phải dừng lại vì hàng chục chiến xa đang tiến vào sạn bay. Khánh chợt nhìn thấy Kỳ đứng phía trong cổng, bên một chiếc xe Jeep.
Kỳ cũng đã nhận ra chiếc xe mang cờ lệnh của Khánh, giơ tay ra hiệu cho Khánh bỏ xe, vào với mình. Khánh đành nhảy xuống, đi liều vượt qua những xe tăng đang án ngữ trước mặt. Cũng may, Khánh không bị ai ngăn lại.
Tới được chỗ Kỳ, Khánh nói:
- Phát hầu như làm chủ đô thành, anh có cách nào đưa tôi đi khỏi Sài Gòn?
- Khó lắm! Xe tăng đã ở trong sân bay, không phi công nào tới được chỗ để máy bay. Trung tướng muốn đi đâu?
- Bất cứ đi dâu, miễn là rời khỏi đây.
- Thôi được, nếu cần thì phải đi mau.
Kỳ đã rất chán Khánh. Cách đây ít ngày, nhân lúc Khánh đi kinh lý đồng bằng sông Cửu Long, Kỳ bàn với một số tướng trẻ lật Khánh luôn, nhưng họ thấy chưa nên làm. Vào giờ phút này, Kỳ nghĩ tới chuyện cứu Khánh vì tưởng rằng cuộc đảo chính do Nguyễn Chánh Thi cầm đầu, một người không ăn cách với Kỳ.
Khánh theo Kỳ nhảy vội lên chiếc xe Jeep. Kỳ lái xe chạy vòng lối sau, tới gian nhà để chiếc DC-3 dành riêng dùng trong trường hợp khẩn cấp. Kỳ giục Khánh lên máy bay rồi cho nổ máy lăn ra vị trí cất cánh. Cuối đường băng, đã có khoảng 20 chiếc xe tăng đang tiến vào. Kỳ mở hết tốc lực của máy bay, cất cánh lướt trên đầu tháp pháo của những chiếc xe tăng.
Chiếc máy bay rời khỏi bầu trời Sài Gòn an toàn. Khánh thở phào nhẹ nhõm. Nhưng Khánh chưa thực sự yên tâm vì số phận đang nằm trong tay Kỳ. Kỳ vẫn có thể đưa Khánh trở về trả cho quân đảo chính. Khánh đề nghị với Kỳ:
- Có lẽ tôi muốn anh đưa tôi lên Đà Lạt. Tôi không biết làm gì bây giờ. Đưa tôi tới đó rồi anh trở về tự do hành động theo ý của anh.
Kỳ im lặng. Khánh lại nói:
- Tôi dành cho anh toàn quyền giải quyết vụ này.
Kỳ thả Khánh xuống sân bay Đà Lạ, rồi bay trở về hướng nam, hạ cánh xuống sân bay Biên Hòa. Tại đây, Kỳ triệu tập một cuộc họp nội các và Hội đồng quân lực. Kỳ không ngờ có tới hơn 40 người kéo đến theo sự triệu tập của mình. Số đông tỏ ra lo lắng nếu còn để Khánh tiếp tục cầm quyền. Kỳ ra lệnh đưa một chiếc máy bay lên Đà Lạt đón Khánh về Biên Hòa. Vừa tới nơi, thấy không khí cuộc họp, biết số phận của mình đã được quyết định, Khánh lấy khăn tay chấm nước mắt năn nỉ:
- Cho tôi trở về Đà Lạt. Xin để anh Kỳ và tất cả các vị quyết định điều chi cần phải làm, các vị ủng hộ Phát hay tôi, hay bất kỳ người nào khác cũng được.
Không ai mời Khánh ở lại. Khánh vội vã rời phòng họp. Kỳ tiễn Khánh ra máy bay. Khánh rầu rĩ nói:
Nếu anh muốn làm chuyện chi, tôi không thể cản anh. Nhưng anh cũng đừng quá hấp tấp, và cũng đừng quên chúng ta là bạn, đừng quên những lúc chúng ta đã sống bên nhau.
Khánh quay về Đà Lạt với bộ mặt thiểu não của kẻ cam chịu thất thế. Khánh gặp lại Trần Văn Đôn, tác giả của cuộc đả chính Diệm, nguời đã bị Khánh bắt và quản thúc suốt gần một năm qua. Gần đây, Khánh đã giao cho Đôn tham gia vào nhóm dự thảo một số quy chế về nhân sự mới cho quân đội, trong đó có một điểm do Khánh nêu: “cho về hưu tất cả những tướng lãnh đã phục vụ tại ngũ 25 năm.”. Với việc áp dụng quy chế mới này, những người như Minh Lớn, Đôn, Kim, Xuân đều sẽ phải ra khỏi quân đội. Khánh muốn quy chế này phải do chính tay họ thảo.
Khánh bỗng trở nên một người thực thà. Y kể lại những chuyện đã diễn ra mấy tháng qua, đặc biệt thích thú với những đòn chơi lại Taylor, nhưng cũng thú nhận tất cả thất bại của mình. Y tỏ vẻ ăn năn vì đã gieo rắc tội lỗi trên khắp đất nước này. Y ngỏ lời xin lỗi Đôn vì những đau khổ mà mình đã đem lại cho Đôn và các bạn. Cuối cùng, Khánh nói:
- Mình muốn về Sai Gòn, nhưng không thể đi máy bay, vì không muốn bị phát hiện. Các tướng trẻ đều đã chống lại mình, kể cả tướng Kỳ là người đã cứu mình.
- Vậy ông định đi bằng cách nào? – Đôn hỏi.
- Có thể đi bằng xe ca.
Đôn nhìn bộ mặt sầu não và hài hước của Khánh, mỉm cười:
- Nếu muốn vậy thì tốt nhất là nên cắt bộ râu dê đi!
Lúc bấy giờ mới thấy Khánh cười. Chắc Khánh cũng vừa nhớ lại cảnh Tào Tháo bị quân Thục đuổi đánh, phải quăng mũ và cắt râu chạy trốn.
Sau khi Khánh rời khỏi Biên Hòa, các tướng trẻ đã quyết định gạt Khánh khỏi chức chủ tịch Hội đồng quân lực. Cũng như lần trước, cuộc đảo chính của Phát phải dừng lại nửa chừng.
Taylor đã đạt được mục đích loại bỏ Khánh.
Mỹ đã rút kinh nghiệm không để tái diễn cảnh Diệm, Nhu năm trước. Khánh được cử làm đại sứ lưu động ở nước ngoài, và phải đi ngay lập tức. Ngày 25 tháng 2, một lễ tống tiễn Khánh diễn ra tại sân bay Tân Sơn Nhất. Khánh kết thúc vai hề trên sân khấu chính trị miền Nam một cách khá đạt khi cúi xuống bóc một nắm đất cạnh đường băng bỏ vào túi áo rồi lên máy bay. Kỳ tiễn Khánh vào tận khoang máy bay. Khánh rời khỏi Sài Gòn và không bao giờ trở lại.
---
[1] Có
[2] Không

Chương 5
BẮC LẠI NHỊP CẦU
1.
Hai Long biết rằng vào cuộc chơi mới, mình chỉ còn trong tay những phương tiện hạn chế và ít ỏi. Chỗ dựa duy nhất của anh để tiếp tục cuộc chơi là cha Hoàng.
Vốn liếng của cha Hoàng chỉ là một quá khứ chống Cộng đã khá xa xôi. Ông không có được uy tín và sự hiểu biết sâu sắc như cha Lê. Ông thuộc thế hệ linh mục của Vatican thập niên 1940, khi Tòa thánh La Mã nằm dưới quyền của giáo chủ Pierre XII, một người kịch liệt chống vô thần. Vatican đã ra sắc lệnh chống Cộng sản, rút phép thông công của những tín đồ Thiên chúa giáo theo Cộng sản hoặc thân Cộng. Pierre XII làm giáo chủ ở Vatican từ năm 1939 tới năm 1958 là thời kỳ Thiên chúa giáo chống vô thần mạnh nhất. Cha Hoàng là người gắn bó với giáo hội Pháp. Quân đội Pháp thua trận rút khỏi Việt
Nam. Người cầm đầu chính quyền miền Nam lại là con đẻ giáo hội Mỹ. Cha Hoàng không những đã bị thất thế mà còn bị đàn áp. Ông cũng tự thấy mình đã hết thời, về nương náu những ngày tàn tại nhà thờ Bình An. Ông chỉ còn là một cha chánh xứ già nua ở một xứ đạo nghèo, nhu hòa, thương yêu giáo dân.
Góp phần xây dựng lại uy thế cho giáo dân Phát Diệm đối với giới cầm quyền, Hai Long đã làm sống lại tính hiếu động của cha Hoàng. Anh đưa ông vào cuộc, giúp ông thành đạt những ý đồ của mình. Nhưng ông đã bộc lộ một số nhược điểm lớn trong cuộc chơi này. Vì thực ra ông vẫn chỉ là một linh mục chống Cộng cuồng tín, lỗi thời ngay cả về mặt tôn giáo trước những yêu cầu đổi mới của Vatican từ khi Paul VI lên làm giáo chủ. Với tính gia trưởng, ông chỉ cần được mọi người trọng nể, dành cho giáo dân xứ đạo của ông một số quyền lợi vật chất, như vậy là ông thỏa mãn. Ông cũng tự nhận thấy mình lạc hậu, nên chỉ yêu cầu chừng ấy. Có lần ông nói với Hai Long: “Mình có thế, mình cậy thế mà nói mạnh, nói tam toạng vậy thôi, lớn tiếng để át lý lẽ của người ta đi, chứ làm chính trị thời nay chẳng phải như thời ở Phát Diệm, nay nói phải có sách, mách phải có chứng, người ta bắt bẻ từng chữ, từng lời. Mình chỉ quen việc rao giảng Kinh thánh với bổn đạo, còn đối với kẻ ngoại thì mình nói chưa thông, viết chưa thạo. Những việc này thầy phải đỡ mình”. Ông ngại trao đổi về những vấn đề mình thiếu hiểu biết, những vấn đề phức tạp. Ông không thích tiếp xúc với người Mỹ, kể cả cha cố; ông ghét Mỹ vì Mỹ hất cẳng Pháp.
Hai Long ra sức xây dựng lại uy thế cho nhà thờ Bình An, cho cha Hoàng không phải chỉ để có một nơi nương náu tốt cho mình. Anh muốn tác động vào chính quyền, quân đội một cách có lợi cho cách mạng. Như vậy, anh phải thúc đẩy cha Hoàng mở rộng quan hệ không những với chính quyền, quân đội ngụy, mà còn cả với người Mỹ.
Thời gian qua, anh khuyên cha Hoàng nên phục hồi uy tín của Thiên chúa giáo bằng cách tác động vào chính quyền buộc họ phải đưa những người của Thiên chúa giáo vào trong thành phần chính phủ. Cha Hoàng vốn ghét những tướng trẻ, coi họ là những kẻ võ biền, hoạt đầu, có nhiều tham vọng, nhưng đã nghe lời anh. Ông làm công việc này có kết quả. Phan Khắc Sửu và Trần Văn Hương đều cảm ơn ông đã giúp họ giải quyết những xích mích xung quanh vấn đề sắp xếp bộ máy chính quyền, kể cả những va chạm về cá tính giữa hai người. Những tướng trẻ ngại Hương ương bướng và cố chấp. Vì vậy, họ rất phục cha Hoàng khi ông ép được Sửu và Hương đưa bốn tướng trẻ là Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Minh (Minh Con), Linh Quang Viên vào bộ máy chính phủ. Việc làm của ông ngày càng gây nhiều ấn tượng trong lúc
Taylor vừa lớn tiếng đả kích những tướng trẻ. Cha Hoàng không chịu dừng lại. Nhân cuộc đảo chính ngày 12 tháng 2, ông lại đưa thêm được 4 người của Thiên chúa giáo vào chính phủ mới. Thực ra, những kết quả này không phải là do tài thuyết phục của ông. Ông chỉ lấy Liên minh tôn giáo và đảo chính ra đe dọa những nhân vật đang cầm quyền.
Số người chạy đến cầu cạnh cha Hoàng khá đông. Nhiều người nhờ Hai Long giới thiệu để được gặp ông. Người mời ông đi dự chiêu đãi, người đề nghị ông tới nhà riêng. Họ xin được cùng quay phim chụp ảnh với ông. Họ cần có những thước phim, tấm ảnh mang đi phô trương ở nơi khác. Cha Hoàng bắt đầu bộc lộ tư tưởng, giọng nói của một thủ lãnh, bề trên, coi thường những người tới cầu cạnh, át giọng họ bằng những câu nói lớn tiếng. Và họ, khi đã cần ông, cũng không còn chú ý giữ thể diện.
Uy tín của cha Hoàng được nâng cao là một điều Hai Long rất mong muốn. Nhưng thời gian gần đây, ông chỉ còn ham mê gặp Phan Khắc Sửu và Thích Tâm Châu bàn chuyện chính trị, phe phái, phân phối người vào ghế này, ghế kia, ưa tiếp đón những kẻ tới cầu cạnh, nịnh bợ, xin đề cử vào chính phủ, vào Thượng hội đồng, vào Hội đồng quân lực… Ông không còn chú ý tới những chuyện khác.
Hai Long phải khéo léo mới lựa lời hướng cha Hoàng vào vấn đề quân sự mà mình đang cần:
- Mỹ chủ trương đưa quân đội vào Việt Nam để đánh Cộng sản, nên mới dùng phe quân sự lật đổ Diệm là người phe dân sự. Cha là tổng chỉ huy tự vệ Phát Diệm, có nhiều kinh nghiệm về cả quân sự và chính trị, thì trong việc hợp tác với chính quyền, cha nên giúp đỡ họ về cả chính trị và quân sự nữa. Có thế các tướng tá mới cần nhờ sự ủng hộ của cha Tổng, nếu không thì họ chỉ chạy tới xin cha cho một ghế này hay ghế khác rồi thôi…
Nhưng Hai Long đã sớm nhận ra muốn khai thác những gì đã có ở cha Hoàng thì dễ, còn nhờ ông khai thác giúp những vấn đề mình cần trong các quan hệ của ông thì không gì khó khăn bằng. Trong khi trao đổi, ông rất hay sa đà vào những chuyện vụn vặt không đâu, quên mất những điều đã cùng anh bàn bạc. Và việc ông chuyên lo hết ghế này tới ghế khác cho những người tới cầu cạnh ông, đang ảnh hưởng rất xấu tới uy tín của ông. Có kẻ đã gọi vụng ông bằng một cái tên mới: “điếm chính trị”.
Anh lại khuyên cha Hoàng:
- Những người hàng ngày, đặc biệt là những tướng trẻ tới cầu cạnh cha quá đông, làm cha mất nhiều thời giờ, khi thỏa mãn được họ thì chớ, khi không thỏa mãn được lại dễ có điều oán trách, tai tiếng. Vậy từ nay, có những tướng tá nào mà cha không ưa, cha cứ chỉ sang con, con sẽ lựa lời nói để không phiền đến cha.
- Sợ làm bận thầy, chớ loại đó thì thiếu giống!
- Những việc có liên quan tới uy tín của cha, con đâu có ngại.
Nhờ đó, Hai Long có thêm được một số quan hệ mới mà anh đang cần.

2.
Ngày 20 tháng 5, Phạm Ngọc Thảo[1] tổ chức một cuộc đảo chính mới. Nguyễn Cao Kỳ và Phan Huy Quát phát giác sớm vụ này. Năm mươi người tham gia đảo chính bị bắt.
Thời vận của những tướng trẻ đã tới. Washington đã bắt đầu nhận ra sai lầm nếu cứ tiếp tục đả kích những tướng trẻ, và không biết dựa vào họ để thực hiện những ý đồ Mỹ đã dự định. CIA mất nhiều công tìm kiếm vẫn không thấy một nhân vật nào trong phái dân sự đủ sức thay thế những người đã bị loại bỏ là Diệm và Nhu.
Taylor bật đèn xanh cho các tướng trẻ làm một cuộc đảo chính quân sự mới.
Hai mươi ngày sau cuộc đảo chính thất bại của Phạm Ngọc Thảo, Hội đồng quân lực gồm những tướng trẻ đã hạ Phan Huy Quát với toàn bộ nội các của ông ta một cách dễ dàng vì Quát không có một lực lượng nào bảo vệ. Lần này, quyền thành lập chính phủ mới không được trao cho Phan Khắc Sửu là Quốc trưởng mà trao thẳng cho Hội đồng quân lực.
Các tướng trẻ ở Sài Gòn họp đại hội cử ra Hội đồng quân lực mới, Ủy ban lãnh đạo quốc gia, Ủy ban hành pháp trung ương và Hội đồng kinh tế xã hội, Hội đồng thẩm phán… và chia nhau nắm trọn quyền hành. Ủy ban lãnh đạo quốc gia do Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch, Phạm Xuân Chiểu làm tổng thư ký, Ủy ban hành pháp trung ương tức là nội các chiến tranh cho Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch. Như vậy trong bộ máy chính quyền mới, Thiệu làm nhiệm vụ Quốc trưởng, còn Kỳ là nhiệm vụ Thủ tướng.
Cha Hoàng rất bực bội sau khi thấy các tướng trẻ không phải chỉ lật Quát như đã thỏa thuận với mình mà lật luôn toàn bộ chính phủ dân sự trong đó có 4 người của Thiên chúa giáo mà ông đã tốn nhiều công sức mới đưa được vào. Ông càng khó chịu khi thấy trong bộ máy chính quyền mới chỉ toàn là tướng tá, không có một người nào thuộc phái dân sự.
Ông than thở với Hai Long:
- Trước kia, Trần Văn Hương bội ước với Phật giáo, Phan Huy Quát không giữ được cam kết với Công giáo. Giờ đây, Phan Khắc Sửu quá mềm yếu không giữ được chính phủ cho phe dân sự, để cánh quân sự lừa gạt, giành toàn bộ chính quyền vào tay họ!
- Thưa cha, không riêng gì ông Sửu mà bất cứ ai cũng không thể đương đầu được với vụ này. Cũng chưa chắc các tướng trẻ đã muốn thất ước với cha, mà họ buộc phải thực hiện một ý đồ mới của Mỹ. Mỹ cần có một chính quyền quân sự, một nội các chiến tranh để thực thi đường lối chiến tranh mới ở Việt Nam.
- Nguyễn Cao Kỳ là một anh nhẹ dạ, bốc đồng, không có kinh nghiệm về chính trị, ngoại giao, lại dốt nát về cai trị làm sao đảm đương được chức thủ tướng? Nguyễn Văn Thiệu cũng có chút ít thủ đoạn chính trị nhưng là dân Đại Việt, là anh “đạo theo”[2]!
- Thưa cha, lần này tướng Phạm Xuân Chiểu của Phát Diệm ta giành được một vị trí khá quan trọng.
Cha Hoàng ngồi im, nét mặt nặng trình trịch.
Hai Long tiếp tục động viên:
- Mất chính phủ dân sự là không hay, nhưng khó tránh nếu Mỹ đã muốn như vậy. Nhưng trong chính phủ mới lần này cũng có cái hay…
- Cái chi hay?
- Trong chính phủ trước, Thiên chúa giáo được một vài ghế những không có vị trí nào quan trọng. Lần này, cả quốc trưởng và thủ tướng đều coi như người của ta! Tướng Thiệu và tướng Kỳ không thể quên cha đã đưa hai người vào chính phủ trước đây.
Cha Hoàng gật đầu:
- Nếu hai anh này chưa có sẵn chân trong chính phủ, chưa chắc đã được Mỹ chú ý như vậy.
- Con tin rằng cả Thiệu và Kỳ đều sẽ phải dựa vào Thiên chúa giáo chứ không đi hàng hai như Khánh. Thiệu dù sao vẫn là một con chiên mà giáo hội phải có trách nhiệm. Cha nên chúc mừng họ và hứa sẽ ủng hộ họ. Ta sẽ hướng họ làm những việc có ích cho giáo hội. Nếu chính quyền mới vì nể ta, thì Mỹ không dám coi thường ta.
Câu chuyện giữa hai người trở nên vui vẻ hơn. Cuối cùng, cha Hoàng cũng đồng ý để Hai Long thảo một tờ thiếp chúc mừng Thiệu và Kỳ theo ý anh đã đề nghị.
Chỉ mấy ngày sau, Phạm Xuân Chiểu đã tới Bình An, nhân danh tổng thư ký Ủy ban lãnh đạo quốc gia, chuyển lời của chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia Nguyễn Văn Thiệu đề nghị với cha Hoàng đã thương thì thương cho trót, mong cha hết lòng ủng hộ Hội đồng, Hội đồng sẽ không quên ơn và riêng cá nhân chủ tịch hội đồng xin hứa làm tròn nhiệm vụ của một con chiên ngoan đạo đối với giáo hội.
Cha Hoàng ngồi nghe có vẻ hởi lòng hởi dạ.
Ông nói:
- Giáo hội đưa các ông lên, không hết lòng ủng hộ các ông thì còn ủng hộ ai?
Cuộc chuyện trò giữa cha Hoàng và Chiểu diễn ra rất vui vẻ.
Tuy nhiên, lúc ra về, Chiểu nói riêng với Hai Long:
- Gần đây, tính cha Tổng hay thất thường, không hiểu sao cha ngày càng khó tính! Nhiều lúc cũng muốn gặp cha để trình bày điều hơn lẽ thiệt nhưng chỉ lo lỡ có điều gì không vừa ý cha là cha cứ quạt bừa đi, chẳng còn biết ất giáp, chẳng còn nể nang ai! Đề nghị anh giáo ở gần cha, cố giúp cho việc siết chặt mối quan hệ giữa chính quyền với cha. Bà con xứ đạo nói, chỉ có thầy Bốn nói gì cha cũng nghe.
- Tôi gần cha Tổng làm việc với cha nhiều, nên hiểu được tính của cha. Qua buổi gặp anh hôm nay, thì thấy cha rất vừa lòng vì cách ứng xử của chủ tịch Nguyễn Văn Thiệu, và chắc chắn sẽ hết lòng ủng hộ Hội đồng, chỉ mong Hội đồng giữ liên lạc chặt với Bình An, có việc chi thì thông báo kịp thời. Nếu có chuyện chi anh cảm thấy có khó khăn, xin anh cứ trao đổi trước với tôi, tôi sẽ lựa lời trình với cha Tổng cho mọi việc được ổn thỏa.
Chiểu vui vẻ cảm ơn anh. Từ đó, Chiểu thường xuyên qua lại với anh. Chỉ khi nào bận, Chiểu mới cử người đi thay mình.
Cha Hoàng giữ được quan hệ hòa dịu với các tướng lãnh trong Hội đồng quân lực do Thiệu cầm đầu. Theo lời khuyên của Hai Long, thỉnh thoảng ông vào dinh Gia Long thăm Thiệu, được Thiệu đón tiếp rất long trọng. Anh đã nói việc ông đôi lúc xuất hiện ở dinh Gia Long chính là để khẳng định uy tín của giáo hội đối với chính quyền, như thời trước đây, các cha thường hay ra vào dinh Gia Long khi còn tổng thống Diệm.

3
Hai Long rất yêu những con đường hẻm ở Sài Gòn, nhất là những hẻm cụt. Chỉ qua một đoạn đường ngắn, anh cảm thấy như mình đã đặt chân lên một hòn đảo yên tĩnh, cách biệt hẳn thế giới phồn hoa. Ở đây không còn bị chóng mặt, nhức óc, ngột ngạt vì những dòng xe hơi, xe máy luôn chảy xiết, gầm rú, nhả khói xăng. Không còn phải chen chúc giữa những đám người đông nhung nhúc trên hè phố chật chội, đấu tranh giành miếng ăn, giành cuộc sống một cách quyết liệt. Ở đây không còn những tiệm buôn, những quầy hàng với những ô kính sáng choang, với trăm ngàn màu sắc hấp dẫn nhìn anh bằng con mắt lạnh lùng kênh kiệu, nhắc anh đang đi lạc vào vương quốc của đồng tiền.
Trong hẻm thường chỉ có những ngôi nhà nhỏ, nhà trệt hoặc một lầu, cửa luôn đóng kín. Nhiều nhà để một khoảng chống phía trước, trồng những cây hoa dây leo cho bóng mát, bày những chậu cây cảnh hoa xứ hay hoa lan. Không khí vắng vẻ, tĩnh lặng. Nó gợi cho anh một cảm giác thư thái, làm cho đầu óc anh phút chốc trở nên thanh thản. Anh đã từng thầm ước, một ngày kia khi cuộc chiến đấu đã kết thúc, mình sẽ được sống ở một ngôi nhà trong một hẻm nhỏ như thế này.
Hai Long cố hạn chế đi lại với những mối “quan hệ”. Nhưng anh vẫn phải tới cái hẻm gần đường Hai Bà Trưng. Mỗi lần tới đây, anh lại có được những tin tức, đôi lúc rất quý, kèm theo những giờ phút nhẹ nhàng.
Gia đình Dương ở ngôi nhà cuối cùng trong hẻm. Chiếc cổng sắt và hàng rào được ghép thêm những tấm tôn, tạo cho nó một vẻ ẩn dật. Cây đào ở trong sân tỏa tán lá xanh ra ngoài, trĩu trịt những trái tươi hồng, giống như những chùm hoa. Mỗi lần anh bấm chuông, sau khi người hầu gái còn nhiều dáng dấp nông thôn mở cổng, ngôi nhà mới hiện ra, sâu thẳm, mát mẻ và yên tĩnh như một ngôi chùa. Anh đi qua cái sân nhỏ để những đôn hoa sứ và hai chiếc xe máy của vợ chồng Dương, qua gian nhà ngoài bày chiếc tủ chè và một tấm sập gụ, vào căn phòng lớn bên trong dành làm nơi tiếp khách. Vợ chồng Dương và đứa con gái nhỏ ở trên lầu. Phòng tiếp khách để chừa một khoảng trống trên mái, giáp tường, lấy ánh sáng mặt trời đón mưa và sương đêm làm dịu mát cho nó và cũng để nuôi sống cái thiên nhiên nhỏ xíu gồm những chậu hoa, những con cá cảnh lượn lờ trong chiếc bể kính có núi non bộ, đặt ngay bên dưới. Gian phòng có vẻ trang nhã và hơi cổ kính với những đồ đạc kiểu Á Đông, màu cánh gián, và bức tranh của Tề Bạch Thạch lồng kính treo trên tường.
Hai Long biết Dương trong một dịp anh tới định nhờ vả cha Hoàng. Anh thuộc loại người mà ông đẩy sang cho Hai Long. Qua buổi nói chuyện với Dương, Hai Long nhận thấy mình vừa gặp may. Dương là một giáo dân, quê ở Đà Nẵng. Anh là giáo sư nhưng gần một năm nay, anh bỏ nghề dạy học vào làm việc ở Tòa đại sứ Mỹ, vì thu nhập hàng tháng tăng gấp đôi. Anh giúp việc cho phó đại sứ Mỹ Alexis Johnson. Qua Dương, anh biết những điều khá bất ngờ. Trước đó, Hai Long vẫn nghĩ đại sứ Mỹ Maxwell Taylor là người tổng thống Mỹ Johnson dùng để thực hiện ý đồ đưa quân Mỹ ồ ạt vào Việt Nam. Nhưng theo Dương thì đây chính là mâu thuẫn lớn giữa Taylor và Johnson. Taylor tán thành oanh kích mạnh mẽ miền Bắc Việt
Nam nhưng không đồng ý đưa các đơn vị chiến đấu trên bộ của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Mỹ còn chưa đưa quân lớn vào một phần do miền Nam thiếu một chính quyền ổn định, một phần vấp phải sự chống đối của những người như Taylor. Anh nghĩ ngay tới việc sử dụng Dương thành một người cung cấp tin tức ở tòa đại sứ Mỹ cho mình, một mục tiêu quan trọng mà anh chưa có “quan hệ”
Dương mang đầy đủ tính chất của một viên chức nhỏ. Anh không quan tâm mấy tới chính trị, chỉ mong sống cuộc đời an nhàn bên cạnh vợ con, giữa bốn bức tường. Nhưng gần đây, anh lại muốn có chút tiếng tăm. Do làm việc ở Tòa đại sứ Mỹ, anh biết Mỹ sẽ phải tạo cho chính quyền miền Nam một bộ mặt chính trị hợp pháp, bằng một cuộc tổng tuyển cử. Anh nghĩ ngay tới một ghế dân biểu trong quốc hội tương lai. Điều đó thúc đẩy anh tới Bình An gặp cha Hoàng. Hai Long nói với Dương, Công giáo đã có ý định đưa người của mình tham gia nhiều ngành trong chính quyền và hứa hẹn sẽ giúp Dương đạt được nguyện vọng. Anh cũng đề nghị Dương tìm hiểu những ý định của Mỹ đối với Việt Nam cộng hòa và Bắc Việt, thông báo kịp thời cho mình, coi đây là những đóng góp quý báu của Dương đối với khối Công giáo trong quá trình chuẩn bị tham gia chấp chính. Dương nhận lời ngay.
Thỉnh thoảng, Hai Long tới nhà Dương, hướng dẫn cho anh tiếp cách tiếp cận phó đại sứ Mỹ, nội dung trao đổi và những điều cần khai thác. Dương nhanh chóng thu lượm được một số thông tin mà ta đang cần. Dương có triển vọng trở thành một trong những nguồn khai thác quan trọng của anh.
Vợ Dương là một phụ nữ xinh xắn, khỏe mạnh, rất khó đoán tuổi. Có thể đoán chị từ 20 đến 30 tuổi. Khi xuất hiện trước khách bao giờ chị cũng trang điểm cẩn thận. Chị thường mặc một cái áo kimono màu xanh rất hợp với dáng người dong dỏng cao và nước da trắng của chị. Chị khéo chiều chồng và các bạn của chồng. Nét hấp dẫn ở chị là nụ cười e thẹn trên môi như thầm muốn nói một điều gì, và bộ mặt lúc nào cũng có vẻ như vừa có lỗi với khách. Chị tự tay pha những tách cà phê thơm sánh đưa ra, hái những trái mận tươi chín mời anh thưởng thức trái cây vườn nhà. Chị không quên món ăn nhẹ buổi tối khi cuộc nói chuyện giữa khách và chồng kéo dài.
Hai Long tìm thấy ở nhà Dương một không khí ấm cúng, dịu dàng.
Dương càng ngày càng chiếm được cảm tình của A. Johnson. Vợ Dương bắt đầu khoe với anh, ngài phó đại sứ Mỹ đến thăm nhà mình, gửi quà tặng nhân ngày sinh của chị và thỉnh thoảng còn mời cả hai vợ chồng vào sứ quán dự chiêu đãi. Anh cảm thấy như chị gián tiếp cảm ơn mình vì chỉ từ sau ngày anh thường qua lại đây, chồng chị mới được ngài phó đại sứ Mỹ trọng đãi như vậy.
Hai Long cố gắng giữ gìn để không xảy ra trường hợp Dương vì công việc mà liên lụy.
Suốt cả tháng qua, không thấy Dương vào Bình An, Hai Long bấm ba hồi chuông ngắn, hiệu chuông mỗi lần anh tới. Anh liếc mắt nhìn những trái đào đỏ hồng còn lác đác trên cây, nghĩ tới những ngón tay thon dài, móng đánh kem màu sen, bưng đĩa đào ra cho mình.
Cánh cổng sắt mở ra. Chị giúp việc mặc bộ quần áo bà ba đen, khác hẳn mọi lần, đứng nhìn anh bằng cặp mắt mở to sợ sệt. Tất cả những cửa sổ đều đóng kín. Ngôi nhà sâu thẳm, tối om như hang động. Nụ cười tắt trên môi anh. Anh linh cảm thấy một tai biến vừa xảy ra tại đây.
- Ông bà giáo có nhà không?
- Dạ, không...
- Chừng nào thì ông giáo về?
- Dạ.. con lại nghĩ là ông tới báo tin về ông giáo con. Ông chưa hay chuyện ông bà con ư?
- Có chuyện chi?... - Hai Long chột dạ.
- Mời ông vô nhà một lát cho con thưa chuyện.
Chị giúp việc đưa Hai Long vào nhà và mở mấy cánh cửa chớp để lấy ánh sáng. Anh ngồi trên tấm phản ở phòng ngoài. Trên tấm phản, những đồ đạc trong buồng đều phủ một lớp bụi mờ, chứng tỏ người chủ vắng nhà đã hơi lâu.
Chị giúp việc kéo vội chiếc ghế đẩu tới ngồi gần anh.
- Thưa ông, bà con bỏ nhà đi với ông phó đại sứ Mỹ ba tuần nay...
- Đi đâu? – Hai Long giật giọng hỏi
- Thưa... nghe nói qua Nhật. Ông phó đại sứ chuyển qua bên đó làm việc.
- Còn ông Dương đâu?
- Ông con như điên như cuồng. Ông chửi bới, khóc lóc, bỏ không tới sở Mỹ nữa. Ông bảo con trông nhà, đưa cô nhỏ ra Đà Nẵng vài ngày, nhưng tới nay hơn muời ngày vẫn không thấy ông vô. Vừa rồi, nghe chuông reo con mừng qua, tưởng ổng về, hoặc cho người vô báo tin. Con lo mất bả thì ổng không sống nổi...
Anh đã mất đi một nguồn tin tức quý giá. Trong lòng anh đồng thời dội lên một nỗi buồn...

4
Từ đầu năm 1965 cho tới hết tháng 4, Mỹ đưa quân vào Nam Việt Nam với mức độ nhỏ giọt, bốn tiểu đoàn thủy quân lục chiến tới cách quãng, một số đơn vị không quân, tên lửa phòng không, xe tăng, xe lội nước và pháo binh.
Tháng 5, lữ dù đầu tiên của Mỹ tới Biên Hòa. Johnson làm việc này bất chấp đề nghị hoãn lại của
Taylor. Hai ngày sau, một trung đoàn thủy quân lục chiến nữa tiếp tục đổ bộ vào Chu Lai.
Tháng 7,
Taylor mất chức đại sứ Mỹ, người sang thay Taylor lại là Cabot Lodge.
Tháng 8, thủy quân lục chiến Mỹ bắt đầu trực tiếp tham gia chiến đấu ở Lệ Mỹ và Vạn Tường.
Giữa tháng 8, Phạm Xuân Chiểu đeo lon trung tướng đi một chiếc xe du lịch tới Bình An. Thái độ Chiểu vừa trịnh trọng, vừa vui vẻ.
Chiểu hồ hởi bắt tay Hai Long. Anh tươi cười nói:
- Có chuyện chi mà Ủy ban bữa nay phải xuất cả “đại tướng” tới Bình An vây?
- Việc này thì tôi phải thân chinh, không thể giao cho người khác được.
Chiểu quàng tay bá vai Hai Long cùng đi vào văn phòng. Chiểu như cố kìm vẻ phấn chấn nói:
- Tòa đại sứ Mỹ vừa đề nghị với Ủy ban lãnh đạo quốc gia, mời một đoàn đại biểu của Công giáo ta, chừng ba chục người qua thăm thiện chí Hoa Thịnh Đốn. Tôi đã bàn với chủ tịch Nguyễn Văn Thiệu, thỉnh cha Tổng giúp cho thôi. Trưởng đoàn không thể là ai ngoài cha. Nếu cha Tổng nhận lời thì xin anh cùng đi với đoàn.
- Ông Cabot Lodge chỉ sính Phật giáo, sao lần này lại ưu ái Công giáo vậy? Liệu ông Lodge có tán thành cha Tổng làm trưởng đoàn không?
- Không tán thành thì làm sao tôi dám tới đây đề nghị với cha? Cha nhận lời mà việc không xong thì tôi chỉ có nước bán xới khỏi Bình An. Coi đây là một chút công nhỏ của tôi với Phát Diệm. Nhờ anh trình giúp với cha Tổng. Tôi nghĩ rằng người Mỹ trong đó có ông Cabot Lodge bắt đầu nhìn thấy vai trò của Công giáo trên chính trường miền Nam. Tôi biết cha Tổng chỉ hợp với Pháp, không ưa Mỹ. Cánh trẻ chúng mình cần thức thời. Pháp thua Cộng sản rồi. Bây giờ và lâu dài sau này, vẫn phải làm việc với Mỹ. Không dựa vào Mỹ thì lấy chi mà chống Cộng? ... Anh thấy sao?
- Thành phần ba chục người trong đoàn do đâu quyết định? Tôi hiểu tính của cha Tổng, nếu đã mời cha làm trưởng đoàn thì cha không chịu làm việc với tính cách danh nghĩa!
- Thành phần đoàn do cha tự sắp xếp... Tất nhiên, sau đó cha cũng trao đổi với Ủy ban, thì cũng chỉ là tướng Thiệu, tướng Kỳ và tôi. Và cuối cùng, cũng phải đưa người Mỹ vì họ là người mời.
- Những thủ tục đó thì phải có rồi.
- Cả tòa đại sứ Mỹ và ông Thiệu đều mong cha Tổng nhận lời.
Hai Long làm ra vẻ cân nhắc rồi nói:
- Tôi rất đồng ý với anh, một đoàn đại biểu giáo dân cho cha Tổng dẫn đầu sang thăm Hoa Kỳ, thì rất tốt cho giáo hội trong tình hình hiện nay. Tôi sẽ gắng thuyết phục cha Tổng, nếu cha còn phân vân thì tôi sẽ đề nghị Khâm sứ tác động thêm...
Hai Long đoán Mỹ muốn tìm cách xoa dịu dư luận sau cái chết của anh em Diệm, và phong trào đấu tranh chống Mỹ vừa qua đã làm cho Johnson và Lodge phải nghĩ lại. Không thể bỏ qua lực lượng Thiên chúa giáo ở Nam Việt Nam.
Cha Hoàng ngồi nghe Hai Long thuật lại, mặt đỏ hồng, như đang nở từng khúc ruột. Tuy vậy, cha vẫn hỏi Hai Long:
- Thầy thấy thế nào? Có nên nhận lợi không?
- Công sức giáo dân đấu tranh vừa qua, như vậy là không uổng. Ta đuổi nó, mà nó phải mời đích danh ta! Tùy cha cân nhắc nhưng con thấy có thể nhận lời. Mình nhận lời là vì quyền lợi của giáo hội. Mỹ đã biết ta rồi, nhưng mấy anh tướng trẻ trong chính quyền nhìn thấy đó, càng phải nể ta.
Cha Hoàng nói rành rọt:
- Nhận lời! Nhưng với điều kiện thành phần đoàn sẽ do trưởng đoàn sắp xếp, đa phần là người Công giáo, nhưng cũng có một số người đại diện cho Phật giáo và một số tôn giáo khác như Hòa Hảo, Cao Đài. Và giáo sư Hoàng Đức Nhã, nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào Công giáo là cố vấn của đoàn. Thiếu một điều kiện là không đi...
Ủy ban lãnh đạo quốc gia và sứ quán Mỹ chấp nhận mọi ý kiến của cha Hoàng. Danh sách của phái đoàn được nhanh chóng gửi sang Washington. Hai Long báo cáo với Trung tâm, xin chỉ thị xem mình có nên tham gia phái đoàn này hay không. Anh nhận thấy chuyến đi sẽ tạo điều kiện cho mình xây dựng mối quan hệ với chính giới Mỹ, những nhà hoạt động tôn giáo Mỹ, tìm hiểu thêm về những ý đồ chiến lược của Mỹ và nâng cao uy tín của mình với tư cách là một người hoạt động tích cực của phong trào Công giáo.
Trong khi chờ đợi quyết định của Trung tâm, Hai Long tới tòa Khâm sứ báo tin và xin chỉ thị.
Anh nói:
- Đây là một đề nghị thiết tha của phía Hoa Kỳ cũng như của chính quyền quân sự Việt Nam cộng hòa với sự chấp nhận toàn bộ những yêu cầu của giáo hội đề ra, nhưng chuyến đi sẽ lập tức bị hủy bỏ nếu không được sự chấp nhận của Tòa Khâm sứ cũng như Tòa Thánh Vatican.
Khâm sứ vui mừng:
- Việc này rất tốt cho giáo hội. Tòa Khâm hết sức tán đồng, và Vatican chắc cũng sẽ như vậy. Tòa Khâm sứ sẽ báo cáo ngay về Roma, và đề nghị Giáo hoàng Paul VI tiếp thầy khi thầy từ Hoa Kỳ trở về. Giáo hoàng rất muốn trực tiếp nghe ý kiến giáo dân Việt Nam, và Người chắc sẽ có những chỉ thị.
Ủy ban lãnh đạo quốc gia tiếp tục lo thủ tục và giấy tờ. Những người có tên trong phái đoàn tấp nập chuẩn bị. Một bác sĩ và một đầu bếp giỏi đã được chỉ định đi theo phục vụ phái đoàn.
Đầu tháng 9, Hai Long nhận được chỉ thị của Trung tâm: nên khéo léo từ chối không tham gia vào chuyến đi này vì cuộc tiến công mùa khô của địch sắp bắt đầu.
Hai Long gặp cha Hoàng nói gần đây mình hay bị những cơn choáng bất thần, áp huyết đôi lúc đột ngột lên cao, sợ không chịu nổi một chuyến bay đường dài. Và trong lúc cha đi vắng cũng cần có người ở nhà để đối phó với những chuyện bất thường, nên anh đề nghị xin ở lại. Vài ngày sau, cha Hoàng cũng lấy cớ sức khỏe không tốt, thoái thác chức trưởng đoàn, đề nghị trao lại cho một người khác. Chuyến đi vì vậy bị hủy bỏ. Rõ ràng nhân vật Mỹ cần có mặt trong cuộc viếng thăm này chính là cha Hoàng.
Việc cha Hoàng khước từ chuyến đi lại đề cao thêm giá trị của cha trước mắt người Mỹ. Riêng Hai Long thì bị một số kẻ biết chuyện bực bội. Họ cho là anh đã phá ngang, làm hỏng cả những “áp phe” chính trị và kinh tế mà họ đã mất nhiều công sức để chuẩn bị.

5
Những tháng cuối năm, nhiều phái đoàn Mỹ tới Sài Gòn ngỏ ý muốn gặp cha Hoàng. Cha được người Mỹ biết tới như là một linh mục hiếu động, hiếu chiến nhất, có uy tín trong giáo hội trên chính trường miền Nam, và không dễ mua chuộc. Tất cả những lời đề nghị này đều bị cha tìm cớ thoái thác. Thái độ này của cha ảnh hưởng đến công tác của Hai Long trong lúc anh đang cần mở rộng quan hệ với các giới chức Mỹ để thu thập tin tức.
Nhân lễ Noel năm 1965 và ngày đầu năm dương lịch năm 1966, lần đầu tiên, cha Hoàng nhận được thiệp mời tới dự tiệc cùng với những linh mục tuyên úy trong quân đội Mỹ, và những cha cố Mỹ đang có mặt ở Sài Gòn.
Cha nhìn những tờ thiệp đặt trên bàn, nói với Hai Long:
- Đi làm chi! Ngồi tiệc tùng với mấy ông cha của Spellman thì vui thú nỗi gì! Ở nhà làm ly rượu lễ với thầy còn vui thú hơn nhiều.
Nhân dịp này, Hai Long nói:
- Cha Tổng không ưa cha cố Mỹ, nhưng khi họ đã tỏ ra tôn kính mình, thì mình cũng nên có cử chỉ đáp lại.
- Nhưng ngồi với họ biết nói chuyện chi, họ có nghĩ như mình đâu?
- Thưa cha, tất nhiên là đã không đồng tư tưởng thì trong buổi sơ giao, mình nên lựa lời để giữ hòa khí, nhưng rồi dần dần mình cũng cần làm cho họ hiểu mình và đồng tình với mình. Các thánh của Chúa Giê-xu đều khuyến cáo các tông đồ phải đến với kẻ ngoại đạo để rao giảng đạo Chúa, truyền đạo từ trong ra ngoài, từ người này sang người khác, từ nơi nọ sang nơi kia, thậm chí với những kẻ không chịu nghe, đuổi hoặc bắt chém giết tông đồ, vẫn phải lăn xả vào mà mở rộng đạo Chúa. Chả lẽ giáo hội Mỹ tìm đến ta, ta ngoảnh đi sao? Thời gian qua, giáo hội Mỹ đã có sai lầm với giáo dân miền Nam, ai sẽ là người làm cho họ hiểu điều đó? Con nghĩ chẳng có ai ngoài cha Tổng. Cha sẵn có quá trình chống Cộng với uy tín không ai có thể chối cãi được, giờ có cơ hội, cha chẳng nên từ nan.
Cha Hoàng ngồi nghe không phẩn đối nhưng vẫn lặng thinh. Hai Long tạm chuyển sang vấn đề khác:
- Gần đây, ông Thiệu nhờ tướng Chiểu tới muốn nói xin Phát Diệm ta cử người tới dinh Gia Long để ông có người kề cận, thường xuyên trao đổi công việc. Con thấy ông Thiệu thực lòng muốn dựa hẳn vào Công giáo. Ông Thiệu tuy là đạo theo nhưng cũng là kẻ có đạo, là con chiên tìm đến đấng chăn dắt, chả lẽ ta lại hẹp lượng sao?
- Chiểu đã nói với mình. Thầy tính đưa ai vô đó?
- Con thấy cha Trần Ngọc Nhuận tính tình thuần hậu, có thể mời cha vô đó giúp ông Thiệu. Và nếu ta cử người vô giúp ông Thiệu thì cũng nghĩ luôn tới người giúp ông Kỳ vì ổng cũng có đề nghị. Người vô chỗ ông Kỳ nên là cha Nguyễn Quang Lãm.
- Hai cha đâu có biết chi về chính trị, bàn tính sao được những chuyện đại sự?
- Thưa cha, chỉ cần có bóng áo choàng đen kề cận cho mấy ổng yên lòng, còn khi có chuyện chi thì các cha về thưa lại để cha định liệu. Cha Nhuận và cha Lãm không phải là cố vấn của ông Thiệu và ông Kỳ, mà chỉ là trung gian liên lạc giữa mấy ổng và cha Tổng.
- Nếu vậy thầy phải thường xuyên góp ý kiến với hai cha... Còn việc gặp các cha cố Mỹ thì mình vẫn chưa muốn. Cứ để cho họ đứng xa mà nhìn, có khi họ lại coi trọng mình hơn.
- Từ xưa tới giờ, người Mỹ vẫn xa lánh ta, và ta cũng xa lánh người Mỹ. Điều đó, cả đôi bên đều đã rõ. Đức cha Lê được toàn giáo dân trọng vọng, quốc tế cũng vì nể, nhưng có bao giờ được người Mỹ mời chào? Nhưng bây giờ, họ mời cha Tổng qua Mỹ, cha Tổng lấy lý do sức khỏe để từ chối, họ lại mời cha tới dự lễ Giáng sinh với những đồng đạo ở ngay tại Sài Gòn mà cha Tổng vẫn khước từ, họ có thể hiểu là mình cố tình bất hợp tác. Mọi chuyện đều có giới hạn của nó. Con nghĩ sẽ thành chuyện không hay.
Cha Hoàng ngần ngừ rồi hỏi:
- Gặp họ nói chuyện chi? Không rao giảng đạo Chúa với họ được đâu!
- Thưa cha, họ mời mình, tất nhiên họ phải tìm một tiếng nói chung. Trong quá khứ, họ đã có sai lầm nên mới dẫn đến cái chết của hai anh em ông Diệm. Bây giờ hai giáo hội cần có sự tiếp xúc để hiểu biết nhau hơn, trong mục đích phục vụ cho quyền lợi chung của cả hai giáo hội, cũng như cả hai dân tộc. Đức Khâm sứ cũng đã nói mình phải biết điều họ là đúng để ủng hộ họ, cũng như phải biết điều họ làm sai để khuyến cáo, ngăn ngừa họ. Giáo hội không dính líu vào chính trị, không có nghĩa là không cần biết chính trị, nhất là đối với những vấn đề có liên quan tới đời sống lâu dài của giáo hội... cũng như cần thưa với cha Tổng, con được Đức Khâm sứ thương yêu, vì nể cách riêng, chính là vừa qua, con đã trình thưa với Khâm sứ được nhiều vấn đề chính trị, như tình hình chế độ Diệm, những mưu tính của Mỹ đối với Việt Nam cộng hòa, cũng như tình hình các tướng lãnh ở Sài Gòn hiện nay. Đức Khâm sứ rất hài lòng. Người thường dặn con phải làm tốt hơn nữa. Con nghĩ rằng khi cha Tổng gặp Người, Người cũng sẽ hỏi cha Tổng những chuyện đó, cha Tổng nên có sự chuẩn bị để trả lời. Khi cha Tổng cần, con cũng có thể làm đỡ cha Tổng một đôi việc hợp với sức mình...
Cuối cùng thì cha Hoàng cũng đồng ý với Hai Long tới dự lễ Giáng sinh vào ngày đầu năm với các cha cố Mỹ. Ở các nơi, cha đều được đón tiếp với thái độ trọng thị, khi trở về, cha tỏ vẻ vui. Cha nói với Hai Long:
- Có nhiều người hỏi thăm thầy.
- Thưa cha, từ trước tới giờ, con vẫn nấp bóng Đức cha Lê và cha, làm sao họ lại biết con?
Cha Hoàng mỉm cười:
- Tên thầy cũng như tên mình, nằm trong danh sách phái đoàn gủi qua Hoa Thịnh Đốn. Chính là việc mình không qua Mỹ lại khiến họ trọng nể mình hơn... Có những người muốn được gặp thầy.
- Xin cha Tổng tìm cách khước từ giùm con, con chỉ muốn làm mọi việc đứng đằng sau cha Tổng. Và con cũng chẳng có danh nghĩa gì để quan hệ với họ.
- Sao lại không có danh nghĩa? Khi họ hỏi về thầy, mình đã giới thiệu, thầy là một sèminariste[3], một magnifique leader[4] của phong trào Công giáo. Thầy phải gặp họ thôi, vì mình đã lỡ giới thiệu với họ rồi...
---
[1] Phạm Ngọc Thảo cũng là một tình báo viên cao cấp, sau được nhà nước Việt Nam truy phong Đại tá liệt sĩ. (Xem “Ván bài lật ngửa” của Nguyễn Trương Thiên Lý)
[2] tức lớn rồi mới theo đạo.
[3] sinh đồ chủng viện
[4] nhà lãnh đạo cừ khôi

Chương 6
ĐẶC PHÁI VIÊN
1.
Cuối năm 1965, trên đường phố Sài Gòn xuất hiện nhan nhản những sĩ quan và binh lính Mỹ, có cả những sĩ quan và binh lính Úc, Nam Triều Tiên. Tiếng bom B.52 từ Bến Cát vọng về lần đầu hồi giữa tháng 6, một vùng chân trời như bị xô lệch vì những tiếng nổ khủng khiếp trở thành quen thuộc với dân Sài Gòn. Mỹ đã có tại miền Nam Việt
Nam 18 vạn quân. Những cuộc chiến đấu ác liệt nổ ra giữa bộ đội ta và quân Mỹ tại khắp miền Nam, ở Núi Thành, Ba Gia, Đồng Xoài, Vạn Tường, Plây Me, Đất Cuốc, Bầu Bàng, Dầu Tiếng… Chiến tranh đã lan ra cả miền Bắc với những trận oanh kích dữ dội của máy bay Mỹ, được báo tin hàng ngày trên các đài phát thanh.
Nhiều lúc, Hai Long cảm thấy sốt ruột. Trong năm qua, anh đã nối lại được nhịp cầu đã đứt với dinh Độc Lập. Thiệu và Kỳ đã chuyển từ dinh Gia Long về tòa lâu đài tráng lệ mới được xây dựng trên nền đất cũ của dinh Norodom bị bom làm hư hại từ thời Diệm. Hàng tuần, cha Nhuận và cha Lãm từ dinh Độc Lập về nhà thờ Bình An báo cáo những chuyện đã xảy ra trong dinh. Cha Hoàng ngồi nghe nhiều lúc với vẻ lơ đãng. Điều ông trước đây hay quan tâm và hăng hái đóng góp ý kiến là đưa ai vào, ai ra trong bộ máy chính quyền. Những chuyện đó lúc này không còn. Đôi khi, cha Nhuận hoặc cha Lãm cũng nêu lên một vài chuyện khúc mắc của Thiệu, Kỳ, định bàn bạc với cha Hoàng nhưng ông gạt ngay đi:
- Các cha nghe chuyện chi thì cứ nói lại là đủ, khi nào có ý kiến tôi sẽ nói chứ các cha đâu biết những việc này mà bàn với bạc!
Từ đó, có những chuyện Thiệu hoặc Kỳ muốn lấy ý kiến gấp, hai cha đều đem trao đổi với Hai Long. Nhưng những vấn đề các cha nêu ra thường không mấy liên quan đến những điều anh đang cần tìm hiểu. Vốn là những nhà tu hành thuần túy, các cha không am tường những vấn để chính trị, quân sự như cha Hoàng đã nói. Hay đây chính là trình độ của tập đoàn quân sự cầm quyền hiện nay, bỗng nhiên có quyền lực trong tay, họ chưa biết làm gì và chỉ ngồi chờ thực thi những lệnh của Mỹ? Mỹ đã bắt đầu thay đổi chiến lược chiến tranh. Trung tâm rất cần biết Mỹ muốn gì và đang định làm gì. Nhưng anh vẫn chưa nắm được.
Đầu tháng 3 năm 1966, cha Hoàng nói với Hai Long:
- Có một cha tuyên úy Hải quân Mỹ đề nghị gặp thầy nhiều lần, không tiện bỏ qua mãi, bữa nay mời thầy đi cùng tôi gặp ông ấy chốc lát.
- Thưa cha, cha tuyên úy mà con sẽ gặp là người như thế nào?
- Thầy sẽ không phải thất vọng. Đây là người Mỹ mà mình thích nhất. Một pho từ điển sống, tính tình rất cởi mở, vui vẻ. Tên ông ta là O’Connor.
Cha Hoàng chấm tay vào ly nước viết ra mặt bàn mấy chữ “O’Connor”.
- Thưa cha, ông O’Connor có nhiệm vụ gì ở Việt Nam?
- Rồi thầy sẽ trực tiếp hỏi ông ta. Nhưng mình đã nói là gặp ông ta rất thú vị, rất bổ ích.
Hai Long vẫn muốn biết rõ hơn về người Mỹ mình sẽ gặp:
- Gặp ông ta, con nên nói những chuyện gì?
Nhưng cha Hoàng không hiểu ý anh, cười xòa đáp:
- Thời gian qua, mình đã có dịp nắn gân cốt nhiều người Mỹ, chẳng có gì ghê gớm đâu! Cứ nói chuyện với họ như ta vẫn nói chuyện với nhau ở nhà, thì cũng chẳng có gì thua kém họ.
Cha Hoàng lái xe cùng Hai Long tới Nha Tuyên úy của Bộ tư lệnh Hải quân Mỹ.
Một người Mỹ trong số mấy người đang ngồi trong nhà chạy ra tươi cười bắt tay cha Hoàng và Hai Long. Ông ta người cao lớn, tóc màu ghi nhạt, cặp mắt xanh thông minh, giản dị với chiếc quần xanh và cái áo trắng cổ cao, có gắn huy hiệu tuyên úy. Ông ta nhanh nhảu giới thiệu một cách nhũn nhặn:
- Tôi là O’Connor, tuyên úy của Hải quân Mỹ, có quan tâm đến việc nghiên cứu đạo đức học và thần học.
Cha Hoàng giới thiệu Hai Long bằng những lời bất ngờ:
- Đây là giáo sư Hoàng Đức Nhã, một lãnh tụ của phong trào Công giáo, và là người đỡ đầu tướng Thiệu và tướng Kỳ.
Đôi mắt xanh của O’Connor nhấp nhánh nhìn anh:
- Nghe danh giáo sư từ lâu, bữa nay mới có may mắn được gặp. Tôi mong sẽ là người bạn lâu dài đối với giáo sư. Tôi có khá nhiều vấn đề muốn trao đổi và xin ý kiến giáo sư với tư cách là một trí thức Công giáo, một lãnh tụ của giáo dân.
Hình như đã có hẹn trước, cha Hoàng để anh lại một mình với O’Connor, hẹn sau hai giờ sẽ quay lại đón. Những người bạn của O’Connor cáo từ ra về.
O’Connor vào chuyện ngay một cách cởi mở:
- Cha Hoàng đã nõi chuyện với tôi rất nhiều về giáo sư. Để chúng ta có thể trao đổi thẳng thắn với nhau, tôi xin nói về công vụ của mình ở Việt Nam, điều mà tôi chưa hề nói với người Việt
Nam nào, kể cả cha Hoàng. Tôi là đặc phái viên của Đức Hồng y giáo chủ Spellman. Khi tôi được phái sang đây, tổng thống Johnson có nhờ tôi tìm hiểu một số vấn đề tại chỗ để giúp ngài có những quyết định đúng đắn.
- Rất hân hạnh…
- Với những quyết định của tổng thống Johnson trong năm 1965, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa đã bước qua một thời kỳ mới, thời kỳ quân đội Việt Nam và quân đội Mỹ cùng đứng bên nhau trên chiến hào chống Cộng. Những quyết định của tổng thống không phải không vấp phải những sự bất đồng ngay từ Nhà Trắng. Hàng ngày, tổng thống tiếp nhận được quá nhiều ý kiến rất khác nhau của những nhà quân sự, dân sự ở hai viện tại quốc nội và cả ở quốc ngoại. Trong đó, không phải không có những điều dối trá. Vì vậy, tổng thống rất cần những ý kiến trung thực. Tôi được Đức Hồng y Spellman cũng như tổng thống trao nhiệm vụ thu thập những ý kiến đó. Tôi là một người độc lập, ngoài nhiệm vụ do tổng thống và Đức Hồng y trao, chỉ chịu trách nhiệm với chính mình. Tôi rất mong được sự cộng tác của giáo sư. Tôi cần có sự cộng tác của giáo sư trong công vụ khó khăn này, vì tôi biết giáo sư không phải là một nhà lãnh đạo Công giáo bình thường, giáo sư đã có quan hệ mật thiết với chính quyền Việt Nam cộng hòa trong quá khứ cũng như hiện tại. Còn hơn thế, giáo sư đang là người đỡ đầu cho những nhà lãnh đạo chủ yếu của Việt
Nam cộng hòa.
- Thưa cha tuyên úy, tôi xin chân thành cảm ơn cha đã có những lời đánh giá quá cao và sự tin cậy đối với cá nhân tôi. Tôi xin hứa sẽ cố gắng không phụ sự tin cậy đó. Cha tuyên úy đã nhắc tới tính trung thực trong công vụ nặng nề mà cha đang chịu trách nhiệm, xin cha cho phép tôi trong buổi tiếp kiến đầu tiên này được bày tỏ những ý nghĩ trung thực của mình. Tôi vẫn chưa giải thoát được khỏi những ý nghĩ đau buồn trong sự cộng tác với người Mỹ. Tư tưởng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi hồn ma của anh em ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn. Nếu tôi nghĩ không sai thì cùng với chính quyền Hoa Kỳ, giáo hội Mỹ cũng có phần trách nhiệm đối với thảm họa mà ông Diệm với tư cách vừa là tổng thống, vừa là một giáo dân ngoan đạo phải gánh chịu. Trong quá khứ, cuộc đời tôi gắn liền với cái chết của một tổng thống, trong hiện tại, số mệnh lại buộc tôi vào một tổng thống đương nhiệm… Mong cha thông cảm cho tâm trạng của tôi lúc này.
Nét mặt O’Connor đang tươi tỉnh trở thành buồn rầu:
- Tôi thành thật chia sẻ những tâm tư và tình cảm của giáo sư đối với những chuyện không may đã xảy ra với gia đình cố tổng thống Diệm. Đức Hồng y Spellman rất ân hận về chuyện này. Và tổng thống Johnson cũng đã rút kinh nghiệm. Cũng xin nói để giáo sư yên tâm, lần này tổng thống đã thành lập một ủy ban đặc trách về Việt
Nam với sự tham gia của đích thân Đức Hồng y Spellman.
- Nhưng ông Cabot Lodge vừa trở lại Việt Nam! Ông Cabot Lodge đã mặc áo gấm dài và đội nón Việt Nam khi về nước, có người đã phong cho ông là “công dân số 1 của Việt Nam cộng hòa” nhưng giáo dân Việt Nam lại nghĩ khác về ông Lodge!
- Ông Cabot Lodge trở lại Việt Nam với những chỉ thị mới.
- Tôi đã chứng kiến những việc ông Lốt làm cách đây hơn hai năm. Cha có cam kết với Công giáo Việt Nam chúng tôi là những chỉ thị của tổng thống Johnson cho ông Lodge khác với những chỉ thị của tổng thống Kennedy trước đây không?
- Giáo sư có thể thấy sai lầm cũ đã bắt đầu được sửa chữa và đang được tiếp tục sửa chữa…
Hai Long im lặng. Anh không tiếp tục nói về vấn đề này nữa, tỏ ra mình đã lắng nghe, nhưng không phải đã hết thắc mắc. Anh không ngờ mình lại gặp một người Hoa Kỳ đang lãnh một sứ vụ quan trọng mà lại có vẻ cởi mở như ông linh mục này. Hai Long bắt đầu nêu một số câu hỏi liên quan tới phong trào Công giáo để trao đổi với O’Connor, như thái độ của Công giáo trước hiện tình thế giới, trước nạn nghèo đói, trước tình hình phát triển của khoa học kỹ thuật, trước vấn đề chiến tranh và hòa bình… giáo hội Việt Nam, giáo hội Mỹ, hoặc châu Phi… phải dấn thân như thế nào, hoặc làm cách nào để tồn tại. Anh dựa vào tinh thần của Cộng đồng Vatican II trao đổi với O’Connor. Anh muốn tìm hiểu quan điểm tôn giáo của ông linh mục, muốn phân biệt mình và cha Hoàng trước mắt của O’Connor. Đây chỉ là những câu hỏi khơi mào mở đầu cho những câu hỏi tiếp theo.
Câu chuyện vui vẻ sôi nổi giữa hai người phải tạm ngừng khi cha Hoàng đánh xe quay lại đón Hai Long. Ông linh mục hẹn sẽ tới Bình An trong một ngày rất gần.

2.
Hai Long tự hỏi vì sao O’Connor đã chủ động tìm gặp và đặt quan hệ với mình? Có thể Mỹ đã nhận ra sai lầm đối với Thiên chúa giáo ở Nam Việt Nam. Qua tiếp xúc với cha Hoàng, ông linh mục Mỹ đã sớm nhìn thấy những nhược điểm của nhân vật chống Cộng cuồng tín này, ông ta nổi lên như một lãnh tụ Công giáo hàng đầu ở Nam Việt
Nam là nhờ có một người đứng sau, bộ não của ông ta. Người đó là Hai Long, người có tên trong danh sách phái đoàn sang thăm Mỹ với tư cách là cố vấn. Để làm cho đẹp mặt mình, như là cách cha Hoàng vẫn thường làm, ông hẳn đã giới thiệu với O’Connor trước đây Hai Long là cố vấn của Ngô Đình Nhu, và tố thêm anh là người đỡ đầu của Thiệu và Kỳ. Ông linh mục Mỹ đã đánh giá anh là một nhân vật mình không thể thiếu trong nhiệm vụ làm tai mắt cho tổng thống và giáo hội Mỹ ở Nam Việt Nam. Dựa vào anh, ông ta sẽ nắm được tình hình tôn giáo, chính trị, và đặc biệt là tình hình ngụy quyền ở Nam Việt Nam, hơn thế, hướng giáo hội Thiên chúa giáo Nam Việt Nam và ngụy quyền thực hiện những ý đồ của Mỹ… Nếu vậy, anh cần tìm mọi cách củng cố sự đánh giá đó, “đáp ứng” những gì ông ta cần ở mình, đánh đổi lấy những gì mình đang cần ở ông ta. Nhưng anh còn phải kiểm tra giả thuyết này. O’Connor có đúng là một người “độc lập” như ông ta nói không? Mối quan hệ giữa ông ta với CIA như thế nào? Hơn thế, ông ta có đúng là linh mục tuyên úy của Hải quân Mỹ không?
O’Connor trở thành người khách năng lui tới nhà thờ Bình An. Cha tuyên úy Mỹ đã thực sự chiếm được cảm tình của cha Hoàng. Ông đã bỏ nhiều cuộc đàm đạo vô bổ với những nhà buôn chính trị bằng nước bọt như Trần Văn Tuyên, Hà Thúc Kỳ, mà trước đó Hai Long thường can ngăn không được, ngồi với cha tuyên úy hết buổi này sang buổi khác.
Hai Long đã tạo cho căn buồng giản dị mà cha Hoàng dùng làm văn phòng thành một nơi hấp dẫn với O’Connor. O’Connor là người ham hiểu biết lại rất thông minh không chịu được những câu chuyện lặp đi lặp lại cũng như cách nói khách sáo. Anh bàn với cha Hoàng những chuyện nên trao đổi với O’Connor, để khẳng định vị trí làm cho ông tuyên úy phải trọng nể. Cha Hoàng bắt đầu khoe tài dùng binh của mình. Ông kể về cuộc chiến đấu chống Cộng hồi còn làm tổng chỉ huy tự vệ ở đồng bằng Bắc Bộ. Ông trình bày thế trận Système solaire[1], một cái tên rất kêu do ông đặt ra, với việc bố trí những đồn bốt của tự vệ Công giáo, những nhà thờ có vũ trang chung quanh căn cứ của quân đội liên hiệp Pháp để tự bảo về với sự yểm trợ và chi viện nhanh bằng pháo binh và bộ binh Pháp. Ông nói về sự phân bố những đại đội thành những tổ nhỏ chia về những đồn, tháp canh những nhà thờ lẻ để chuẩn bị chiến trường cho quân Pháp càn quét, hay bám sát những hoạt động xâm nhập đồng bằng Bắc Bộ của sư đoàn 320... O’Connor nghe rất say mê. Ông hết lời ca ngợi tài bài binh bố trận của cha Hoàng. Những lời khen không phải là khách sáo. Cha Hoàng đã làm việc nhiều tháng với những chuyên gia chống chiến tranh du kích Anh và Do Thái nên có nhiều ý kiến sắc sảo về đề tài này.
Hai Long tiếp tục trao đổi với cha tuyên úy những chuyện về đạo giáo và chính trị. Anh thường tỏ ra cương nghị, nghiêm trang nhưng cũng thức thời, không bị lệ thuộc và những tư tưởng chống Cộng quá cứng nhắc như cha Hoàng. Đôi khi anh tranh cãi sôi nổi với O’Connor, kết hợp giữa lý và tình, kích động ông linh mục nói lên sự thật. Có lúc anh cũng tham gia vào những câu chuyện quân sự của cha Hoàng. Anh thường đề cập tới sự thất bại của quân đội viễn chinh Pháp. Anh “thú nhận” mình ít hiểu về những chiến thuật, kỹ thuật quân sự cụ thể và lạc hậu về loại chiến tranh hiện đại mà quân Mỹ đang tiến hành. Anh tỏ ra là một người biết nhìn và trông rộng nhưng khiêm tốn và ham học hỏi, tôn trọng sự thật, sẵn sàng từ bỏ những định kiến sai lầm. Để cho cuộc trao đổi thêm sinh động, Hai Long thường xen kẽ thuật lại những chuyện về thời kỳ Diệm cầm quyền, chế độ gia đình trị và nguyên nhân đẻ ra nó, những cá tính đặc biệt và những tham vọng của anh em họ Ngô, điều mà nhiều người Mỹ chưa biết đến, nên đã dẫn tới sai lầm trong việc giải quyết chế độ Diệm.
Ông tuyên úy thú nhận những điều nghe được từ Hai Long và cha Hoàng đã làm thay đổi nhiều quan niệm mà ông thu lượm sau một quá trình nghiên cứu về xã hội và con người Việt
Nam.
Hàng tuần, O’Connor có mặt hai lần ở nhà thờ Bình An. Cuộc chuyện trò tâm đắc giữa ba người thường diễn ra tới hết buổi. O’Connor thích dùng rượu lễ Hai Long đưa từ Tòa Khâm sứ về, nhấm nháp với đậu phộng rang của cha Hoàng, hoặc thỏi chocolate mà ông thường mang theo làm quà. Ông không thích hút thuốc lá, nhưng lại ham tập hút thuốc lào bằng điếu cày bắt chước cha Hoàng. Tới bữa, ông dùng cơm ta với cha Hoàng và Hai Long. Chỉ sau một vài bữa, ông đã sử dụng đũa thành thạo. Có những lần, để thay đổi không khí, ông đánh xe xuống Bình An đón cha Hoàng và Hai Long về Nha Tuyên úy Hải quân Mỹ , rủ thêm một vài người bạn thân tới cùng đàm đạo rồi ăn uống tại đây.
Qua tìm hiểu, Hai Long biết O’Connor có những quan hệ rất rộng rãi với nhiều giới chức Mỹ ở Việt Nam cũng như ở chính quốc. Về giới quân sự, O’Connor giao du mật thiết với Adrew J. Goodpaster, phó tổng tư lệnh Mỹ ở Việt Nam, Lewis W. Walt, tư lệnh thủy quân lục chiến Mỹ ở Việt Nam, James W. Kelly, phó đô độc bộ tư lệnh Hải quân Mỹ. Về chính trị, O’Connor có quan hệ với những nghị sĩ, chính khách Mỹ thuộc cả hai phe Bồ câu và Diều hâu, như Morse, Jackson, Mansfield, Funbright... Ông có quan hệ với nhiều tờ báo Công giáo như tờ Christian Century[2], Christian Science Monitor[3], The Catholic World[4].
O’Connor có một vốn kiến thức khá uyên bác trên nhiều lãnh vực thần học, chính trị, kinh tế, và cả về quân sự. Ông say mê tìm hiểu sự thật. Có thể nói, trừ lòng tin vào Chúa là đấng sáng tạo muôn loài và một số quan điểm chính trị do ý thức tôn giáo chi phối, ông ta có tự do tư tưởng trên mọi vấn đề tranh luận. Ông thường trình bày ý kiến của mình một cách thẳng thắn, và nói có sách mách có chứng. Khi gặp điều gì mình không nhớ chắc chắn, dù đó chỉ là những chi tiết, ông xin khất lại để về tra cứu hẹn sẽ trả lời sau. Ông đã hứa là làm, không chỉ nói cho qua chuyện. Ngoài cá tính vui tươi, hồn nhiên, cởi mở, ông tỏ ra dễ tin người và thích giúp đỡ người khác.
Hai Long học được ở ông linh mục tác phong nghiêm cứu nghiêm túc, và cảm thấy mình không đủ hiểu biết để khai thác cái vốn tri thức dồi dào của ông ta.
Anh lấy tư cách một người hoạt động tích cực cho phong trào Công giáo, yêu cầu giáo hội Mỹ mà O’Connor là người thay mặt giúp đỡ mình sáng suốt, khôn ngoan, vun đắp cho mình vững vàng để phục vụ giáo hội. Anh than phiền là tình hình chính trị hiện thời rất phức tạp, mình cần hiểu đường lối của giáo hội Mỹ, dựa theo đó mà liệu cách hướng dẫn giáo dân miền Nam cho phù hợp. Vậy Công giáo Mỹ chủ trương ra sao, về quân sự Mỹ tính như thế nào, anh cần phải làm gì, làm như thế nào, v.v... Anh cũng nhân danh là người bạn, là tham mưu của Thiệu, vì Thiệu dựa vào Công giáo và tin cậy ở anh, anh “sẵn sàng hi sinh mạng sống cho bạn”[5], hỏi O’Connor mình phải làm gì, làm như thế nào để phò trợ Thiệu đảm đương nhiệm vụ với đất nước, với đồng minh? Anh yêu cầu và nhờ cậy giáo hội Mỹ giúp mình bảo vệ Thiệu tránh khỏi thảm họa của Diệm trước đây. Với tư cách là người được giáo hội cử ra giúp đỡ Thiệu, anh cam kết sẽ hướng Thiệu thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Mỹ, chỉ cần người Mỹ thành thật trao đổi với mình về đường lối, chủ trương để mình khỏi có sự ngộ nhận. O’Connor tỏ vẻ cảm kích trước những yêu cầu này.
Một bữa, cha Hoàng nói với anh:
- Cha tuyên úy O’Connor rất quý thầy, tới Bình An câu đầu tiên là hỏi: “Thầy Nhã có nhà không?”. Ông nhận xét thầy hiểu biết vững đạo Chúa, có quan điểm tiến bộ về thần học, phân tích giỏi, biết nhìn xa, có lối suy nghĩ và hành động khoa học, xứng đáng là một bộ óc của giáo hội Việt Nam. Thầy cũng có những suy nghĩ sâu sắc về quân sự, nếu được giúp đỡ thêm, có thể phò trợ tốt cho Thiệu về mặt này.
Với ý định giúp đỡ Hai Long về mặt quân sự, mà anh đã thú nhận sự hiểu biết của mình còn hạn chế, O’Connor nói cho anh nghe những quan điểm khác nhau, những ý kiến đang còn tranh luận đối với việc tiến hành chiến tranh ở Việt Nam, Hai Long tỏ ra là người hiếu học, ham tìm hiểu cặn kẽ, để có được lập luận vững vàng khi cần thuyết phục Thiệu. O’Connor kể lại sự mâu thuẫn gữa Walt và Westmoreland trong vấn đề đưa thủy quân lục chiến Mỹ lên bố phòng ở bờ biển vùng I, vùng II chiến thuật, về những cuộc hành quân hỗn hợp tại phía nam vĩ tuyến 17 ngay từ tháng 3 năm 1965, v.v... Ông phân tích những điểm cơ bản về chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh hiện nay, thời kỳ bản lề của chiến lược này, và mang tới cho anh mượn cả những tài liệu nguyên bản để anh có thể tự nghiên cứu thêm. Ông muốn củng cố ở anh lòng tin vào đường lối tiến hành chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam dựa trên khoa học quân sự hiện đại và những phương tiện chiến tranh hiện đại của quân đội Mỹ.

3.
Qua một năm, tình hình chính quyền ở miền Nam cực kỳ rối loạn với 7 cuộc đảo chính liên tiếp, đế quốc Mỹ đã nhận ra không còn cách nào hơn là trao quyền hành cho đám tướng trẻ đang nắm lực lượng trong tay. Tất cả những tướng lớn tuổi có năng lực, nòng cốt của cuộc đảo chính lật đổ chế độ Diệm, đều bị gạt ra ngoài. Nhưng quyền hành không thể chia đều cho tất cả những kẻ có tham vọng. Có những người không thỏa mãn, mầm mống của đảo chính vẫn còn.
Nguyễn Chánh Thi, người đã tổ chức cuộc đảo chính Diệm bất thành, người đã tích cực góp phần gạt nhóm Đôn, Kim, Xuân, đưa Khánh lên cầm quyền nhưng cũng hăng hái hoạt động lật đổ Khánh, được điều khỏi Sài Gòn đi làm tư lệnh vùng I chiến thuật. Thi rất bất bình, vì thấy mình xứng đáng với một vị trí cao hơn. Thi âm thầm tổ chức lực lượng chống lại Thiệu, Kỳ. Thi đã kết thân được với Phật giáo miền Trung do nhà sư hiếu động Thích Trí Quang cầm đầu. Phật giáo miền Trung, nơi đã châm ngòi cho cuộc đảo chính lật đổ Diệm năm trước, thấy mình hoàn toàn bị bỏ quên, những chiếc áo choàng đen sau một thời gian vắng bóng lại tiếp tục xuất hiện trong dinh Độc Lập. Họ không thể ủng hộ chính quyền Thiệu, Kỳ. Điều quan trọng nữa, Thi đã tranh thủ được cảm tình của Walt, tư lệnh thủy quân lục chiến Mỹ đang đóng quân ở miền Trung. Cabot Lodge trở lại Sài Gòn là một sự khích lệ đối với Phật giáo miền Trung. Nhà sư Thích Trí Quang đã nương náu cả tháng ở tòa đại sứ Mỹ trong những ngày bị Nhu đàn áp, được Cabot Lodge đón tiếp nồng hậu.
Sự chống đối của Thi bắt đầu bằng việc phớt lờ những chỉ thị, mệnh lệnh của chính quyền trung ương Thiệu Kỳ. Sau nhiều lần nhắc nhở không hiệu quả, Thiệu, Kỳ ra quyết định cách chức tư lệnh vùng I chiến thuật của Thi. Những cuộc biểu tình do Phật giáo khởi xướng nổ ra tại Huế và Đà Nẵng chống lại quyết định này. Đông đảo binh lính quân đoàn I của Thi có mặt trong hàng ngũ biểu tình. Huế trở thành trái tim của phong trào Phật giáo đấu tranh chống lại chính quyền Sài Gòn. Phật tử chiếm Đài phát thanh Huế, Đà Nẵng, Hội An. Những cuộc biểu tình của Phật giáo lan ra nhiều thành phố lớn ở miền Nam. Nguyễn Chánh Thi thấy mình có thể trở thành lãnh chúa ở Bắc phần Việt Nam cộng hòa, cho quân đoàn I tuyên bố ly khai với chính quyền Sài Gòn. Walt ủng hộ Thi bằng cách đưa quân Mỹ rút ra ngoài thành phố Đà Nẵng, dùng máy bay gọi loa tuyên bố “không can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam”. Từ tháng 4 năm 1965, Đà Nẵng tách khỏi chính quyền Sài Gòn.
Nhiều lần cha Nhuận, cha Lãm từ dinh Độc Lập về Bình An, nói Thiệu và Kỳ rất hoang mang vì những vụ rối loạn ở miền Trung, muốn xin ý kiến cha Hoàng. Cha Hoàng dọa thêm:
- Bảo ông Thiệu, ông Kỳ coi chừng Cabot Lodge đó!
Kỳ muốn đem quân ra dẹp Thi nhưng chưa dám hành động vì không rõ ý đồ của Mỹ trong vụ này ra sao. Nguyễn Chánh Thi và Thích Trí Quang đã có quan hệ với CIA từ lâu. Nội bộ quân ngụy rối ren là một điều rất có lợi cho ta trong lúc quân Mỹ bắt đầu tham chiến ở miền Nam. Trước những lời gặng hỏi của cha Nhuận và cha Lãm, Hai Long chỉ nói mình đang tiếp tục thăm dò và tìm hiểu.
Đầu tháng 5, cha Nhuận và cha Lãm cùng kéo nhau vào, gặp cả cha Hoàng và Hai Long. Cha Lãm nói:
- Ông Kỳ cho biết tình hình Đà Nẵng rất nguy ngập, Nguyễn Chánh Thi quyết tâm làm phản, ổng sẽ đưa quân ra hỏi tội Thi.
Hai Long thấy cần nhân dịp này xác định vai trò của mình với Thiệu, Kỳ:
- Quân đội Việt Nam cộng hòa đánh lộn nhau trong lúc này không lợi. Nhưng nếu thuyết phục Thi không được thì cũng phải dùng biện pháp mạnh thôi! Hai cha nói với ông Thiệu, ông Kỳ cứ yên tâm lo chuyện nội bộ, còn về phía Mỹ đã có con. Người của Đức Hồng y Spellman, của tổng thống Johnson kề cận hàng ngày ở Bình An với cha Tổng chớ ở đâu! Hai cha nói với mấy ổng, Công giáo sẽ không bao giờ để Mỹ lặp lại một vụ Phật giáo thứ hai.
Cha Hoàng nói:
- Biết dựa vào Bình An thì việc gì cũng xong, bảo tướng Kỳ lúc đánh nhau thì phải nhìn lên núi, Việt Cộng đang ngồi chóc ngóc trên đầu mình đó.
Ngày 11 tháng 5, Kỳ huy động lực lượng lính dù, lính thủy đánh bộ và xe tăng, với sự yểm trợ của không đoàn máy bay khu trục và máy bay ném bom, từ sáng sớm bất thần ập xuống Đà Nẵng. Những lực lượng của Thi không kịp phản ứng.
Thi cầu cứu bộ tư lệnh thủy quân lục chiến Mỹ. Tướng Walt đánh điện cho Kỳ, dọa:
- Ngài phải cho dừng ngay cuộc hành quân, nếu không những máy bay của Hoa Kỳ sẽ cất cánh bắn rơi những máy bay của ngài.
Kỳ gọi điện thoại cho Cabot Lodge, thuật lại những lời Walt, và nói:
- Tôi sẽ lên máy bay ra Đà Nẵng ngay bây giờ điều khiển cuộc hành quân, để xem quân đội Hoa Kỳ có bắn rớt thủ tướng của Việt Nam cộng hòa hay không?
Lodge xoa dịu:
- Tôi không được biết đã xảy ra một chuyện như vậy. Tôi sẽ dàn xếp ngay vụ này. Xin thủ tướng cứ yên tâm.
Buổi trưa, Kỳ bay ra Đà Nẵng, Kỳ hung hăng ra lệnh hướng tất cả những nòng pháo lớn vào căn cứ thủy quân lục chiến của Mỹ, nếu máy bay của Việt Nam cộng hòa bị bắn rơi thì lập tức nhả đạn tiêu diệt căn cứ này.
Tướng Walt gọi điện cho Kỳ, yêu cầu tới gặp, Kỳ tự ái trả lời mình không có thời giờ. Kỳ biết Walt đã nhận được một thông điệp của Cabot Lodge. Walt đành xử nhũn, xin tới gặp Kỳ. Kỳ được thể vẫn từ chối, lấy cớ đang rất bận. Cuối cùng, Kỳ nói, chỉ có thể gặp Walt trong 5 phút.
Gặp Kỳ, Walt nói:
- Tôi là cố vấn của bộ tư lệnh quân đoàn I nhưng không hề biết gì về cuộc hành quân của ngài ở Đà Nẵng. Tình hình trong khu vực rất yên tĩnh. Quân Mỹ vẫn có thể vào uống rượu trong quán ở thành phố.
- Điều đó là tốt. Nhưng tôi phải tái lập quyền lực của chính phủ trung ương đối với một đơn vị quân đội đã chống lại quyền chỉ huy của chúng tôi. Đó là công việc nội bộ của chế độ.
- Ngài có đưa quân đánh ra Huế không?
- Không cần thiết. Huế sẽ được giải quyết cách khác.
Kỳ lập lại quyền kiểm soát của Sài Gòn tại Đà Nẵng. Thích Trí Quang bị bắt ở Huế đưa về Sài Gòn. Phong trào đấu tranh của Phật giáo ở Huế lắng xuống. Thích Trí Quang bị giữ tại một bệnh viện. Ông tuyên bố tuyệt thực. Các cố vấn Mỹ luôn luôn hỏi Kỳ về sức khỏe của nhà sư. Có người hỏi:
- Khi nào Trí Quang sẽ chết?
Kỳ đáp:
- Nếu Trí Quang chỉ là một nhà sư thì ông ta sẽ chết. Nhưng vì còn là một nhà chính trị nên ông ta sẽ không chết. Ông ta đang được cho ăn một cách kín đáo để sống và tiếp tục làm chính trị.

4.
Dinh Độc lập, Tòa Khâm sứ, và O’Connor đã tạo ra cho Bình An và Hai Long một khu “tam giác vàng”. Anh không vội quan hệ trực tiếp với Thiệu, Kỳ vì chính quyền miền Nam còn chưa ổn định. Anh gợi ý cho cha Nhuận và cha Lãm tìm hiểu thêm về những vấn đề mình cần biết trong dinh Độc lập. Anh bắt đầu giao du rất mật thiết với những cha cố tuyên úy Mỹ. Anh báo cáo thường xuyên với Khâm sứ về tình hình ngụy quyền và những vấn đề O’Connor đã trao đổi với mình. O’Connor hoạt động một cách rất kín đáo. Ông không muốn tiếp xúc với Thiệu, Kỳ vì ông cho rằng chỉ cần biết về họ qua người đỡ đầu mà ông ngày càng tin cậy. Hai Long và O’Connor đã trở nên thân thiết. Ông năng gặp anh hơn gặp cha Hoàng, vì thích những cuộc trao đổi tranh cãi, thích những vấn đề mỗi ngày mỗi mới do Hai Long nêu lên buộc mình phải suy nghĩ.
Một bữa, O’Connor bỗng nói với Hai Long:
- Tôi muốn nhờ thầy giới thiệu với Đức Khâm sứ Tòa Thánh Angelo Palmas. Cha Hoàng nói với tôi, thầy được Đức Khâm sứ rất thương mến và trọng nể.
- Việc này hoàn toàn không khó khăn gì. Có lẽ cha là vị linh mục Mỹ đầu tiên mà Khâm sứ sẽ tiếp. Cha định khi nào tới đó? Có thể báo trước hoặc không báo trước với Khâm sứ, tùy ý cha.
- Bước đầu tôi chỉ muốn nhờ thầy chuyển tới Khâm sứ một tờ thiếp và một chút quà nhỏ. Còn chuyện tới gặp Khâm sứ, xin để một dịp khác.
- Thiếp và quà của cha sẽ được chuyển tới tận tay Khâm sứ một cách nhanh chóng.
Ngày hôm sau, O’Connor đưa anh một tấm thiếp và gói quà. Liếc nhìn tấm thiếp xong, Hai Long vội góp ý kiến:
- Thiếp gửi Đức Khâm sứ, cha nên dùng danh hiệu linh mục hơn là dùng tước hiệu tuyên úy Hải quân Mỹ, như vậy tiện cho Khâm sứ hơn.
O’Connor ngần ngừ rồi nói
- Đã trót viết rồi, phiền thầy cứ chuyển giúp, tôi nghĩ viết thế này cũng được.
Khâm sứ nhân được thiếp, tỏ vẻ rất mừng rỡ, hỏi Hai Long:
- Mình nên đáp lễ với linh mục sao cho phải?
Hai Long nói:
- Linh mục O’Connor muốn thăm hỏi và gửi lễ vật tới Đức Khâm sứ Tòa Thánh thì nên lấy chức vụ, thứ bậc của giáo hội là một linh mục khiêm nhường mà thăm hỏi Đức Tổng giám mục là bề trên khả kính của mình, việc gì phải dùng tới tước hiệu trong Hải quân Mỹ để Đức Khâm sứ phải khó xử! Có lẽ linh mục biết con là kẻ hèn mọn được Khâm sứ thương mến cách riêng, mới nhờ con dâng lễ vật lên. Con vị tình mà làm chứ về lý thì thấy mình có tội. Vậy con đề nghị Đức Khâm sứ viết thư cảm ơn linh mục O’Connor, nhưng không đề tước hiệu trong Hải quân Mỹ của linh mục, và không nhận lễ vật, rồi con liệu cách xử cho đẹp lòng linh mục.
Khâm sứ nghe lời Hai Long, viết thư trả lời O’Connor, và cẩn thận viết cả một thư cho cha Hoàng, nhờ cha liệu lời giải thích tấm lòng cảm mến của Khâm sứ đối với linh mục.
Hai Long đem thư của Khâm sứ kèm theo gói tặng phẩm trả lại O’Connor, và cũng đưa luôn lá thư Khâm sứ gửi cha Hoàng cho O’Connor xem. O’Connor rất mừng rỡ, vui vẻ cảm ơn anh. Anh nhẹ nhàng nói:
- Nếu cha nghe lời khuyên của tôi thì còn tốt đẹp hơn. Tôi đã biết Đức Khâm sứ sẵn sàng tiếp đón linh mục O’Connor tới thăm Người, nhưng ngài ngại tiếp nhận một món quà vật chất của một nhân vật Hải quân Mỹ.
O’Connor mỉm cười:
- Tôi lần đầu giao dịch với các cha bề trên của Tòa Thánh Roma, quả không biết điều này. Tiếc là tôi quá đơn giản. Từ lần sau, phải chú ý hơn tới những lời khuyến cáo của thầy. Tôi không ngờ thầy còn trẻ mà lại tích lũy được nhiều kinh nghiêm trong cuộc sống...
---
[1] Thái Dương hệ
[2] Kỷ nguyên Cơ đốc
[3] Người hướng dẫn khoa học Thiên chúa giáo
[4] Thế giới Công giáo
[5] lời trong Kinh thánh

Chương 7
HỒNG Y SPELLMAN
1.
O’Connor đi lại như một con thoi giữa Sài Gòn và
Washington. Mỗi lần từ Mỹ sang, ông lại tới Bình An với những tin tức mới.
Kết quả đợt phản công lần thứ nhất trong chiến lược “lùng và diệt” của Westmoreland làm cho ông ta có vẻ lo âu. Những cuộc hành quân then chốt của quân Mỹ và quân ngụy với lực lượng hàng chục tiểu đoàn vào những vùng Củ Chi, Bến Cát quanh Sài Gòn và nhiều nơi khác như Phú Yên, Quảng Ngãi, Bình Định đã không đạt được mục đích đánh bại quân chủ lực của ta, hỗ trợ cho công việc bình định, củng cố ngụy quyền.
Tháng Tám năm 1966, O’Connor từ Washington trở lại Sài Gòn với thái độ vui vẻ.
Hai Long hỏi:
-
Washington lượng định thế nào về công việc của tướng Westmoreland trong nửa năm qua?
- Như Westmoreland đã tự nhận xét: hết thua rồi nhưng chưa bắt đầu thắng.
- Phải chăng đó là một nhận xét bi quan?
- Không bi quan đâu nếu so với nhận xét của một số người khác. Cabot Lodge còn báo cáo về
Washington những điều bi đát hơn. Ông ta đánh giá hơn 400 cuộc hành quân của Mỹ và đồng minh nửa năm qua đã không diệt được đơn vị chính quy lớn nào của Việt Cộng, mà du kích vẫn phát triển. Chất lượng quân đội Sài Gòn giảm sút nhanh. Lực lựợng Mỹ tăng cường bổ sung không kịp.
- Còn nhận định của tổng thống Johnson?
O’Connor trầm ngâm rồi nói:
- Tổng thống cho rằng chưa bao giờ binh sĩ Mỹ gặp một cuộc chiến tranh kỳ lạ gay go như ở đây, đối thủ của họ rất thiện chiến, ngoan cường. Mỹ lại phải đối phó với nhiều khó khăn ở ngay chính quốc. Ba công dân Mỹ đã tự thiêu để phản đối nhà cầm quyền đưa quân sang Việt Nam. Trong lịch sử Mỹ chưa từng có chuyện đó. Những người ở chiến trường như Westmoreland, Sharp[1], Walt đều đòi tăng quân nhanh, đòi tăng cường sức ép quân sự đối với miền Bắc Việt Nam đề giành chiến thắng. Nhưng ở ngay bộ Quốc phòng và Hội đồng an ninh quốc gia cũng không ít những nhân vật quan trọng có ý kiến ngược lại.
- Họ là những ai mà lại có ý kiến kỳ lạ như vậy?
- Chẳng hạn như George Bundy[2] và McNamara.
- Cả bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara? – Hai Long làm ra vẻ ngạc nhiên.
- Và còn có thêm cả những người khác nữa!
- Như vậy tình hình sẽ dẫn tới đâu?
- Tổng thống vẫn lạc quan. Một số nhân vật quân sự lượng định, muốn thắng cuộc chiến tranh này, Mỹ phải đưa sang Việt Nam 60 vạn quân. McNamara muốn dừng lại ở con số tối đa là 45 vạn. Nhưng tổng thống được một người ủng hộ rất quan trọng, đó chính là đối thủ chủ yếu của tổng thống trong cuộc tranh cử sắp tới. Nixon đã nêu lên chính sách về Việt Nam của đảng Cộng hòa trong cuộc tranh cử tổng thống là: dùng sức mạnh quân sự tối đa để kết thúc chiến tranh càng sớm càng tốt! Tổng thống tin rằng mặc dù những sức ép ở quốc hội và trên quốc tế, ông vẫn có thể đưa tiếp quân sang Việt Nam, ông còn đủ thời gian để giành chiến thắng.
- Nhưng..., như điều cha vừa nói, tình hình quân sự ở Việt Nam cộng hòa vẫn tiếp tục xấu đi, ta sẽ làm gì khi ông Westmoreland không có được đủ số quân tăng viện mà ông yêu cầu.
- Giáo sư không phải lo lắng nhiều... - O’Connor nhìn anh mỉm cười – Lầu Năm Góc đã rút được kinh nghiệm về tính kém hữu hiệu của những cuộc hành quân vừa rồi, tướng Westmoreland sẽ tiến hành đợt phản công thứ hai một cách có hiệu quả hơn... Tôi cần cảm ơn cha Tổng và thầy về những cuộc nói chuyện rất bổ ích. Rất tiếc là người Mỹ đã làm hỏng cả chương trình “ấp chiến lược” mà cha Tổng và thầy đã giúp cho ông Nhu xây dựng. Cha Tổng là một nhà chiến lược quân sự tài năng và giáo sư, thầy có thể kế tục một cách xuất sắc sự nghiệp của cha. Tôi nhận thấy thầy cũng có nhiều năng khiếu về quân sự... Chúng ta không thể chỉ ngồi nuối tiếc những sai lầm trong quá khứ. Người Mỹ sẽ sửa chữa những sai lầm của mình nay mai.
- Cha muốn nói là sẽ tiếp tục xây dựng lại những ấp chiến lược? Tôi nghĩ rằng làm việc đó trong tình hình mới sẽ tốn rất nhiều thời gian, không phù hợp với chiến lược cần thắng nhanh của Mỹ cũng như ý nguyện của dân chúng Việt Nam cộng hòa.
- Người Mỹ sẽ sửa chữa sai lầm theo cách của mình, với những phương tiện quân sự hiện đại của mình. Maquis dans maquis![3]
Ông linh mục nói một câu tiếng Pháp rồi im lặng.
- Tôi chưa hiểu...
- Chúng ta sẽ có dịp trở lại chuyện này. Nói bây giờ e quá sớm!
O’Connor lảng nhanh sang chuyện khác:
- Vừa rồi về Hòa Kỳ, tôi được làm việc rất nhiều và rất bổ ích với Đức Hồng y Spellman. Đó là điều tôi định nói với thầy hôm nay. Tôi đã giới thiệu thầy với Đức cha. Đức cha hứa trong năm nay sẽ qua Việt Nam.
- Ngài sẽ qua Việt Nam ư?... – Hai Long hỏi lại với vẻ mặt mừng rỡ.
Đôi mắt xanh của O’Connor lấp lánh nở một nụ cười, như chia sẻ niềm vui của anh.
- Chắc chắn như vậy. Và ngài sẽ gặp thầy...
“Maquis dans maquis”, “Khu du kích trong khu du kích” là thế nào, một câu hỏi mới bắt đầu nhức nhối trong đầu anh. Anh thấy mình không thể gặng hỏi ngay O’Connor khi ông linh mục đã nói “chưa tới lúc”. Có nhiều khả năng là một chiến thuật mới của địch? Anh cần phải hiểu rõ trước khi nó xuất hiện trên chiến trường. Theo tinh thần câu chuyện vừa trao đổi với O’Connor, nó rất quan trọng. Nó sẽ là lá bài quyết định thắng lợi trong đợt phải công lần thứ hai của Westmoreland. Nhưng anh chưa thể biết nó ngay lúc này. Anh đã đánh giá O’Connor là một ông thầy tu, một học giả. Nhưng anh không được phép chỉ nghĩ như vậy. Và nếu chỉ là một thầy tu thì đây là một thầy tu rất thông minh.
Câu chuyện giữa hai người đã nhanh chóng chuyển sang những “băn khoăn” đã có từ lâu của Hai Long đối với giáo hội Mỹ. Anh cần có O’Connor giúp mình hiểu rõ hơn vì anh sắp được gặp Hồng y giáo chủ Mỹ Spellman.

2.
Khâm sứ Tòa thánh Vatican ở Sài Gòn tỏ thái độ chăm chú đặc biệt khi Hai Long báo tin Hồng y Spellman sắp sang Việt Nam.
Mối quan hệ mật thiết giữa Hai Long với linh mục O’Connor đặc phái viên của tổng thống Mỹ đã mang them nhiều tin tức quan trọng và nâng cao thêm giá trị của Hai Long tại Tòa khâm sứ, nhưng đồng thời cũng làm cho Khâm sứ e ngại. Hai Long nhận thấy điều này qua sự quan tâm nhiều hơn của Khâm sứ trong việc bồi dưỡng cho anh về giáo lý để củng cố đức tin và thông hiểu hơn về đường lối của Vatican để tránh khỏi bị lung lạc.
Nhưng vị giám mục áo đỏ tới Sài Gòn ít lâu sau đó chưa phải là Spellman mà lại là Hồng y Pignedoli của Vatican. Pignedoli thuộc thánh bộ truyền giáo La Mã, được Giáo hoàng Paul VI cử cầm đầu một phái đoàn sang thăm Việt Nam vào cuối tháng 9.
Pignedoli triệu tập các giám mục ở Nam Việt Nam họp suốt một tuần. Ông công khai kêu gọi giáo dân Việt Nam và tất cả mọi người cùng góp sức tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho Việt Nam.
Cha Hoàng không những được dự những cuộc họp chung với các giám mục mà còn được dự vào cả những cuộc gặp riêng giữa Hồng y với Khâm sứ Palmas và Tổng giám mục địa phận Sài Gòn.
Pignedoli đã chuyển cho các giám mục lời khuyến cáo của Giáo hoàng Paul VI, là giáo hội Thiên chúa giáo ở miền Nam phải có gắng thích nghi với tình hình, phải tìm cách thoát khỏi con đường bế tắc của Mỹ và chế độ Sài Gòn, Pignedoli không tán thành những cuộc biểu tình có tính kỳ thị tôn giáo của một xứ đạo di cư quá gắn bó với chế độ Diệm. Giáo hội Việt Nam phải cổ vũ cho hòa bình, hòa giải theo đường lối của Cộng đồng Vatican II, nhất là ủng hộ cuộc vận động hòa bình của Giáo hoàng Paul VI, thay vì gây thêm hận thù trong lòng dân tộc và tuyên truyền cho chiến tranh.
Trong cuộc gặp riêng Khâm sứ Palmas, Tổng giám mục đia phận và cha Hoàng, Hồng y nói thêm:
- Giáo hoàng Paul VI nhìn nhận có hai bên ở Nam Việt Nam, và Mặt trận giải phóng miền Nam là một thực tế đang tham chiến ở Nam Việt Nam.
Rồi Pignedoli hỏi Khâm sứ Palmas:
- Giáo hội Việt Nam sẽ lãnh đạo giáo dân cách nào để thực hiện đường lối hòa bình của Giáo hoàng Paul VI?
Khâm sứ đáp:
- Tôi đề cử cha Bình và cha Hoàng là hai giáo sĩ sẽ nhận lãnh đạo giáo hội đứng phía sau ủng hộ cho một số giáo dân hoạt động chính trị công khai, tránh cho giáo hội khỏi bị kẹt như hồi Diệm vừa qua.
- Nhưng giáo dân đó là ai? Chỉ nên giao cho một người làm việc này.
Khâm sứ quay lại nhìn Đức cha Bình và cha Hoàng tỏ ý muốn nhường cho hai người nói trước.
Tổng giám mục địa phận nói:
- Tôi đề cử luật sư Nguyễn Văn Huyền.
Cha Hoàng nói:
- Tôi đề cử giáo sư Nhã.
Khâm sứ nói tiếp ngay:
- Tôi đồng ý chọn thầy Nhã. Luật sư Huyền hiền lành đức độ nhưng chậm chạp, để làm việc hành chính thì tốt hơn. Giáo sư Nhã khôn lanh, hoạt bát, nhiệt tình, đặc biệt là rất nghe lời đấng bề trên và nhiệt tâm làm theo đường lối của Cộng đồng Vatican II...
Cha Hoàng thuật lại chuyện này một cách rất thích thú, vì đây là thắng lợi lớn nhất cha đạt được từ ngày phái đoàn của Vatican tới Sài Gòn. Rồi cha bảo Hai Long:
- Đức Hồng y muốn gặp thầy vào sớm mai để dặn dò thêm.
Sáng hôm sau, Hai Long dùng xe của cha Hoàng tới Tòa khâm sứ.
Khâm sứ đón anh rồi đưa anh vào gặp Hồng y Pignedoli. Hai Long tiến lại quỳ hôn nhẫn.
Khâm sứ giới thiệu:
- Như đã thưa với Đức cha, giáo sư Hoàng Đức Nhã là một người con hiếu thảo của giáo hội, đã trải qua nhiều thử thách. Thầy Nhã làm việc nhiều năm với ông Diệm, ông Nhu ma không bị quyền hành làm say mê, làm việc nhiều năm với người Mỹ mà không bị chủ nghĩa vật chất cám dỗ, đức tin Thiên chúa giáo không hề bị xói mòn, và trái lại, ngày càng trở thành con chiên ngoan của Giáo hoàng Paul VI. Nếu được đấng bề trên trao nhiệm vụ, tin rằng không bao lâu nữa, thầy Nhã sẽ xứng đáng với danh hiệu Vaticaniste[4].
Hồng y phủ dụ đôi lời, rồi nêu lên một loạt câu hỏi về thái độ của Phật giáo, của chính quyền quân sự đối với Thiên chúa giáo, về tình hình giáo hội với những tổ chức như Khối công dân Công giáo đại đoàn kết của cha Hoàng, Hội đồng tôn giáo của linh mục Hồ Văn Vui...
Rồi Hồng y nói:
- Thầy hiện nay giữ một vai trò quan trọng trong tình hình quốc trưởng là một tín đồ Thiên chúa giáo dựa vào giáo hội, lại có quan hệ tốt với cả quốc trưởng và Mỹ. Vai trò của thầy càng quan trọng đối với một giáo hội đang được sự thử thách của Chúa!
- Trình Đức cha, con xin được phép hỏi, Đức Thánh cha có truyền phán cho giáo hội Việt Nam phải làm gì và làm như thế nào cho hợp ý, đẹp lòng Ngài? Con vẫn hằng nguyện là đày tớ trung thành của Ngài, là một vệ sĩ của giáo hội.
Hồng y Pignedoli nhìn anh với cặp mắt trìu mến:
- Đức Thánh cha cũng đã được nghe Đức Khâm sứ tâu trình về thầy. Sang đây, tôi mới hiểu rõ thầy hơn. Vì thầy là người sẽ lãnh đạo giáo dân thực hiện ý nguyện của Đức Thánh cha, nên tôi cần nói riêng thầy rõ, Đức Thánh cha chủ trường đứng trên, đứng ngoài cuộc chiến tranh Việt Nam, để hòa giải đôi bên tham chiến với cơ sở tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Đức Thánh cha muốn rằng hòa bình sẽ phải đến với dân tộc Việt Nam, phải gắn liền cuộc tìm kiếm hòa bình này với cuộc vận động hòa bình mà Giáo hoàng đang tiến hành, và giáo hội Việt Nam cần phải tồn tại trong lòng dân tộc Việt Nam đau khổ và anh dũng này. Giáo hội đã trao cho thầy một gánh nặng là làm theo lời phán của Chúa: “Bình an cho trần thế!”. Đức Khâm sứ Palmas và cha Hoàng có sứ mạng dìu dắt thầy thực hiện ý của Giáo hoàng... Nhân danh Đức Giáo hoàng, chúc lành thầy...
Hai Long một lần nữa quỳ tới hôn nhẫn. Anh giữ nguyên tư thế “quỳ lạy và thần phục” để bày tỏ sự ngoan ngoãn vâng theo lời đấng bề trên.
Hồng y làm dấu thánh rồi đỡ Hai Long đứng dậy:
- Thầy ráng cứng lòng với quỷ dữ cám dỗ là “quyền lực và tiền bạc”
- Con xin hứa giữ lòng trong sạch không để tiền bạc của Mỹ cám dỗ và quyền hành của Thiệu lung lạc.
Pignedoli lại làm dấu thánh giá rồi trao cho anh một cuốn Kinh thánh bằng chữ Latin và một tấm ảnh của Giáo hoàng Paul VI.
Cha Hoàng khoe ngay với O’Connor cuộc gặp giữa Hồng y Pignedoli, trưởng phái đoàn Tòa thánh La Mã với Hai Long. Cha không đả động gì tới những khuyến cáo của Paul VI. Ông thừa biết vị linh mục Mỹ đang đi tìm chiến thắng quân sự cho Johnson không khoái gì cuộc vận động hòa bình của
Vatican. Cha cũng báo tin ngay cho cha Nhuận và cha Lãm để kể lại với Thiệu. Hai cha nhân dịp này tranh thủ đề cao uy tín của người Phát Diệm, coi đây là một vinh dự lớn cho cả khối Công giáo di cư, và trong khối này, Hai Long được đánh giá cao hơn những người khác.
Trung tâm rất chú ý tới những ý kiến của Pignedoli. Những chỉ chị của Giáo hoàng Paul VI phù hợp với chủ trương của ta, tạo những điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Hai Long.
Anh lại có thêm những tên mới: Vaticaniste, Pauliste[5].

3.
Ngày 24 tháng 10, Mỹ triệu tập Hội nghị thượng đỉnh Mỹ, Úc, Philipin, Thái lan, New Zealand, Nam Triều Tiên và Nam Việt Nam ở Manila, bàn về “hòa bình và tiến bộ ở châu Á và Thái Bình Dương”. Ngày 26 tháng 10, tổng thống Mỹ Johnson tới Cam Ranh trên đường trở về Mỹ, hứa hẹn sẽ viện trợ đầy đủ cho Việt Nam cộng hòa để giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh chống Cộng.
O’Connor đã nói lại cho Hai Long biểt trước mục đích của Hội nghị Manila là nhằm thống nhất tư tưởng và huy động khả năng đóng góp của những nước đồng minh với Mỹ tại châu Á vào cuộc chiến tranh Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam.
Cuối tháng 10, O’Connor gặp Hai Long. Ông linh mục hỏi:
- Tướng Thiệu có ý kiến gì về Hội nghị Manila và cuộc gặp gỡ Johnson ở Cam Ranh?
- Quyết tâm chống Cộng của ông Thiệu được củng cố rất nhiều. Ông ta đánh giá đây là một tiến bộ dài so với Hội nghị Honolulu hồi tháng 2. Việt Nam cộng hòa không còn phải chiến đấu đơn độc.
O’Connor đột ngột hỏi tiếp:
- Ông Thiệu nghĩ gì về những ý kiến của Hồng y Pignedoli?
Hai Long hiểu là mặc dù cả cha Hoàng và anh đều không để lộ những điều Pignedoli đã nói, nhưng O’Connor vẫn nắm được một phần qua những con đường khác. Anh cần phải tỏ với O’Connor mình không có gì giấu giếm:
- Tôi không truyền đạt với ông Thiệu tất cả những điều Đức Hồng y Pignedoli chỉ nói với một vài người đứng đầu giáo hội Việt Nam. Giáo hội có những nhiệm vụ vì mục đích cao cả của mình, nhưng ông Thiệu cũng có nhiệm vụ riêng quan trọng của ông, ông ta đang phải tiến hành cuộc chiến tranh chống Cộng.
O’Connor gật gù tỏ vẻ đồng tình, rồi nói:
- Giáo hoàng Paul VI là người tôi rất sùng kính. Cuộc vận động hòa bình của ngài đã thu hút hàng ngàn triệu con tim trên trái đất. Nhưng đó là nhìn chung. Còn Việt
Nam đang có những vấn đề riêng của nó. Mưu tìm hòa bình ở Việt Nam khó khăn hơn nhiều. Với lương tâm của một giáo sĩ, tôi có thể nói tổng thống Johnson không phải là con người hiếu chiến. Ông và Giáo chủ Spellman đều không ngừng mưu kiếm hòa bình cho Việt Nam. Nhưng mọi con đường ông tìm kiếm với Hà nội tới nay đều bế tắc. Nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến tranh tàn khốc này là Cộng sản muốn thôn tính Việt Nam cộng hòa bằng vũ lực. Việt Nam cộng hòa không đủ sức để tự bảo vệ nên các quốc gia tự do, đứng đầu là Mỹ phải có trách nhiệm trước hiểm họa của một dân tộc tự do. Vấn đề hiện nay là phải đánh bại ý chí xâm lược của Bắc Việt Nam trước khi tìm kiếm hòa bình.
- Là một con chiên của Chúa, tôi không dám phán xét những lời truyền phán của Đức Thánh cha, nhưng tôi chia sẻ những lo lắng của cha Tuyên úy. Tôi cũng nhận thấy nếu sớm đánh bại được ý chí xâm lược của Cộng sản thì tìm kiếm hòa bình không khó khăn. Đức Thánh cha không muốn gì hơn người dân Việt Nam có được một nền hòa bình trong tự do. Nhưng Ngài rất lo ngại một cuộc chiến tranh kéo dài, làm tổn hại tới sinh linh của hàng triệu con người. Quả thực đó cũng là lo ngại của nhiều giáo dân hiện nay, sau gần một năm Mỹ đưa quân trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Sức mạnh quân sự ghê gớm của quân đội Mỹ chưa hề làm giảm sút ý chí của đối phương, mà trái lại, còn kích thích thêm tinh thần chiến đấu của họ. Cha tuyên úy biết Chính phủ Hà Nội đã ra lệnh động viên cục bộ hồi tháng 7 với lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Tôi chưa hiểu quân Mỹ có thể làm gì với cuộc phản công lần thứ hai? Cha tuyên úy nói người Mỹ đã rút được kinh nghiệm, nhưng hoạt động của Việt Cộng rộ lên ở đường số 9 và nhiều nơi gần đây, khiến cho nhiều người rất lo lắng.
Vẻ mặt “thực sự” lo âu của Hai Long khiến cho O’Connor thấy mình không thể không tìm cách đưa anh ra khỏi cơn dao động.
- Cuộc phản công lần thứ hai của quân Mỹ chưa bắt đầu. Chúng ta đã gặp một địch thủ rất ghê gớm. Nhưng nước Mỹ và cả thế giới tự do đã đặt danh dự vào cuộc chiến tranh này. Nước Mỹ không thể thua vì ta có thể tin vào sức mạnh của Mỹ, vào những bộ óc điện tử của Tòa Bạch Ốc và Ngũ Giác Đài. Thất bại của quân Mỹ trong cuộc phản công lần thứ nhất là do tổng thống Mỹ còn quá tự kiềm chế và Westmoreland không đánh trúng những nơi cần phải đánh. Lần này, họ phải rút kinh nghiệm.
Hai Long nói:
- Hồi tháng 9 vừa qua, ông Thiệu đã có ý kiến muốn chiến tranh nhanh chóng chấm dứt thì phải có quân đổ bộ lên Bắc Việt Nam như kiểu người Mỹ đã làm ở Bắc Hàn.
- Ông Thiệu thiếu cái nhìn chung đối với tình hình thế giới những năm 1960. Không quân và hải quân Mỹ có thể làm thêm được một số chuyện đối với Bắc Việt Nam. Ta có thể hủy diệt nền công nghiệp nhỏ bé ở miền Bắc, cô lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bằng cách đánh vào vài sân bay của họ và thả mìn cảng Hải Phòng. Nhưng cuộc chiến tranh chủ yếu vấn phải kết thúc ở Nam phần Việt Nam. Chúng ta biến đường số 9 thành một phòng tuyến ngăn đôi Nam Bắc Việt Nam, chặn đứng sự xâm nhập của người và phương tiện chiến tranh của Cộng sản. Chúng ta đang dùng những chất hóa học làm trụi lá cây, hủy diệt tất cả những chỗ ẩn náu của Việt Cộng. Chúng ta sẽ đánh thẳng vào những vùng đất thánh của Việt Cộng ở Campuchia và Lào. Khi Cộng quân ở Nam Việt Nam bị cô lập rồi, thì điều quan trọng là phải có một đòn quyết định đánh trúng vào cơ quan đầu não của cuộc chiến tranh ở ngay tại đây. Tất cả những biện pháp này sẽ được đồng thời tiến hành.
- Và sẽ không còn gặp trở ngại?
- Những trở ngại lúc nào cũng vẫn còn, nhưng tổng thống đã quyết tâm và có thể vượt qua.
- Tôi vẫn chưa hiểu lời cha nói bữa trước: “Maquis dans maquis”? Có phải là chúng ta sẽ xây dựng những khu du kích ngay trong lòng những vùng căn cứ của đối phương không?
O’Connor mỉm cười:
- Gần đúng như vây.
- Nhưng kinh nghiệm cho biết làm việc này quá khó?
- Ta sẽ có cách làm...
Hai Long mở một nụ cười hoài nghi.
Ông linh mục không chịu được cái nhìn và nụ cười của Hai Long. Ông buộc phải giảng giải:
- Không phải là cách Việt Cộng thường làm... Ta sẽ dùng sức mạnh và những phương tiện quân sự hiện đại đột nhập thật sâu vào một vùng căn cứ của đối phương, thiết lập căn cứ của ta ở đây, rồi tiếp tục mở rộng ra chung quanh như kiểu vết dầu loang. Cái khác là vết dầu loang này sẽ bất thần xuất hiện và phát triển rất nhanh ở giữa vùng căn cứ quan trọng và rộng lớn của đối phương.
Hai Long gật gù:
- Đó mới là một cách làm mới.
- Rồi thầy sẽ thấy sự lợi hại của nó. Tôi sẽ nói thêm khi nó được tiến hành cụ thể... Còn bây giờ thì báo với thầy một tin: Hồng y giáo chủ Spellman sẽ thăm Việt Nam vào dịp lễ Giáng sinh năm nay.
- Chắc Ngài cũng biết là giáo dân Việt Nam mong đợi.
- Ngài là Tổng tuyên úy của quân đội Mỹ, nên hàng năm đều dự lễ Noel với quân đội theo truyền thống. Năm nay, Ngài dành vinh dự đó cho những chiến binh đang chiến đấu ở Việt Nam.

4.
Chương trình làm việc của Spellman ở Sài Gòn rất sít sao. O’Connor tới báo tin cho Hai Long, Hồng y sẽ gặp riêng cha Hoàng và anh vào bữa cocktail hẹp sau lễ Giáng sinh, và cũng sẽ dành thời gian viếng thăm xã giao chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia trước khi rời Sài Gòn.
Hai Long thấy cần khai thác tối đa mối quan hệ giữa anh với Spellman. Tòa thánh Vatican chỉ có quyền uy với Thiệu về mặt tinh thần. Giáo hội Mỹ mới là nơi quyết định bước đường công danh của Thiệu. Hai Long nhờ cha Nhuận chuyển lời của mình cho Thiệu, là Trung ương Khối công dân Công giáo đã xếp đặt vào chương trình Hồng y Spellman sẽ tới thăm Thiệu, vậy Thiệu nên chuẩn bị đón tiếp cho nồng hậu. Thiệu được tin rất mừng rỡ, nhờ cha Nhuận hết sức cảm ơn Hai Long. Sau lễ Giáng sinh, bữa tiệc rượu được tổ chức tại Nha Tuyên úy Hải quân Mỹ, chỉ có bốn người được dự là Spellman, O’Connor, cha Hoàng và Hai Long, rõ ràng mang một không khí thân tình.
Spellman cao lớn, đường bệ, rực rỡ với chiếc áo choàng đỏ và cây thánh giá vàng. Da mặt ông hồng hào. Chiếc mũ tròn nhỏ chụp lên đầu để lộ mái tóc bạc trắng. Sau những lời chúc phước ngắn gọn, không kiểu cách, ông vào chuyện ngay một cách vừa thân mật vừa đầy uy quyền. Những lời của ông chứng tỏ ông biết rõ mình đang nói chuyện với ai và ông hoàn toàn tin vào báo cáo của người đặc phái viên, không cần kiểm tra trực tiếp lại với đương sự. Spellman thú nhận là ông thực sự ân hận về cái chết của anh em Diệm mặc dù trước đó, ông đã chân thành và thẳng thắn cảnh cáo anh em Diệm không phải một lần.
Ông nói với cha Hoàng:
- Cha O’Connor hết lời ca ngợi tài dùng binh của cha Tổng, tôi rất mừng được thấy cha còn khỏe mạnh, mong cha sẽ không ngừng sự nghiệp chiến đấu của mình – Juif avec les Juifs[6]. Đó là ý Chúa. Những kinh nghiệm chiến đấu của cha đã được giới quân sự Hoa Kỳ rất coi trọng.
Rồi ông quay sang Hai Long, thân mật hỏi:
- Giáo sư là người đỡ đầu cho quốc trưởng Nguyễn Văn Thiệu?
- Trình Đức cha, con đang lãnh một trách nhiệm rất khó khăn do giáo hội trao, và cũng như con đã có lần bảy tỏ với cha O’Connor, con không ngừng lo lắng với trách nhiệm nặng nề của mình.
Spellman đặt bàn tay to lớn lên vai Hai Long, như để an ủi rồi nói:
- Trong quãng đời còn lại của mình, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để tránh một chuyện tương tự xảy ra lần thứ hai ở Việt Nam đối với một tổng thống là tín đồ Thiên chúa giáo. Giáo sư có thể yên tâm coi đây là một lời cam kết...
- Để tránh được những tai ương, điều quan trọng hơn cả theo con nghĩ, cha Hoàng và con cần phải biết kịp thời đường lối chủ trương của giáo hội Mỹ.
Spellman chìa tay về phía O’Connor:
- Giáo hội Mỹ đã có một sứ giả luôn ở bên các vị.
O’Connor chỉ hơi nghiêng đầu để hưởng ứng lời nói của bề trên, vẫn giữ im lặng như không muốn làm phí khoảng thời gian ngắn ngủi Hồng y đã dành cho những vị khách quý.
Kết thúc tiệc rượu, O’Connor đưa Hồng y mộtgói giấy, Spellman cầm lấy rồi nói:
- Để đánh dấu buổi gặp gỡ này, tôi có một chút kỷ niệm nhỏ tặng các cha và ông giáo sư.
Ông mở cái gói, trao cho O’Connor, cha Hoàng và Hai Long mỗi người một cái lập lắc bằng vàng, có chạm hình thánh Michel, thánh bổn mạng của giáo chủ và dòng chữ “Pray for us!”[7].
Spellman đưa thêm cho Hai Long một chuỗi tràng hạt bằng đá quý. Sau giây lát suy nghĩ, ông tháo chiếc đồng hồ ở cổ tay mình, đeo vào tay Hai Long rồi nói:
- Bây giờ chỉ có thời gian là đáng kể. Chúng ta phải chạy nước rút trên vận động trường, phải tính từng phút, từng giây!
Ông nói tiếp với tất cả mọi người:
- Hãy cùng nhau cầu nguyện cho chúng ta vượt thời gian tới đích trước Cộng sản!
Trước khi Hai Long lên xe đi về, O’Connor gặp riêng Hai Long, nhờ anh báo với Thiệu thời gian Spellman sẽ tới thăm. Rồi O’Connor nói:
- Đức Hồng y bảo tôi trao đổi với thầy, sớm muộn cũng phải tổ chức tổng tuyển cử ỏ Việt Nam cộng hòa trong năm tới, nếu đưa Thiệu ra tranh cử, liệu có thắng không?
- Nếu đây là sự lựa chọn và ý muốn của Đức Hồng y, thì giáo hội Việt Nam sẽ đảm bảo cho Thiệu đắc cử.
- Chờ tới sau cuộc gặp gỡ của Đức cha với Thiệu, sẽ trao đổi thêm với thầy.
Sáng hôm sau, Hai Long tới nhà thờ Phát Diệm, gặp cha Nhuận báo thời gian Hồng y Spellman sẽ tới thăm Thiệu, đồng thời đưa ông cái lập lắc vàng và chuỗi hạt đá quý:
- Những bảo vật này, Đức Hồng y mới tặng con đêm qua, con xin tặng lại cho ông Thiệu. Cha nói giùm hộ con với ông là: “Hãy yên lòng vững dạ, những lá bùa hộ mệnh này sẽ bảo vệ quốc trưởng bình an đi tới đích”.
Anh chỉ giữ lại chiếc đồng hồ Boulevard mạ vàng mà khi nhận, anh phải đeo lên tận bắp tay cho khỏi tuột.
Ra khỏi nhà thờ Phát Diệm, Hai Long phóng xe đi tìm Hòe. Anh thấy đây là cơ hội tốt nhất để đưa Hòe tới gặp Thiệu. Anh kể lại cho Hòe nghe những điều O’Connor đã trao đổi riêng với mình tối hôm trước. Anh bảo Hòe sẽ thuật lại với Thiệu và nhắc Thiệu gắng làm đẹp lòng Đức Hồng y tạo điều kiện tốt cho Trung ương khối công dân Công giáo tiến hành tốt những bước tiếp theo. Anh viết thư cho cha Nhuận, giới thiệu Hòe là người của Trung ương Công giáo đại đoàn kết, có việc gấp, đề nghị cha đưa vào gặp Thiệu ngay.
Hòe tới dinh Độc Lập, phải chờ mãi mới gặp được cha Nhuận. Đọc thư Hai Long xong, cha Nhuận vội vã cầm thư lên trình Thiệu. Nhưng giờ hẹn với Spellman đã tới. Thiệu cho một sĩ quan tùy viên ra gặp Hòe, chuyển lời xin lỗi, và mời Hòe về dinh quốc khánh tại đường Tú Xương chờ mình.
Một giờ sau, Thiệu đi trên chiếc xe số 1 cắm cờ quốc trưởng, có sáu xe mô tô và hai xe hộ tống đi kèm, từ dinh Độc Lập tới dinh quốc khánh. Thiệu vẫn mặc nguyên bộ lễ phục trung tướng khi tiếp Spellman, hấp tấp đi vào gặp Hòe.
Thiệu kéo Hòe lên phòng riêng, xin lỗi về việc tiếp Hòe chậm, tự tay pha trà mời Hòe.
Hòe thuật lại những lời dặn của Hai Long, tỏ ý tiếc là lúc này đã muộn. Nhưng Thiệu rất phấn chấn, vui vẻ nói rằng không hề chi, vì cuộc viếng thăm của Đức Hồng y đã diễn ra hết sức tốt đẹp. Hòe ngạc nhiên khi thấy Thiệu coi mình như một người quen biết từ lâu, ý hợp tâm đầu, kể lại toàn bộ cuộc trao đổi giữa mình với Spellman, và nhờ Hòe thuật lại với Hai Long kèm với lời tri ơn nồng nhiệt về những việc Hai Long đã giúp đỡ và sẽ còn tiếp tục giúp đỡ mình.
Hai Long biết Thiệu đang cực kỳ phấn khởi, thời gian qua, mọi quyền hành đều nằm trong tay Kỳ, vì Kỳ là chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương, tức là thủ tướng chính phủ chiến tranh. Thiệu làm chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia, ở cương vị một quốc trưởng, nhưng trong thực tế là “ngồi chơi xơi nước”. Thiệu rất mờ nhạt trong khi Kỳ nổi lên với những hành động ngổ ngáo như trực tiếp lái máy bay ngụy ra đánh phá Vĩnh Linh, Quảng Bình, trực tiếp ra Đà Nẵng giải quyết vụ Nguyễn Chánh Thi. Thiệu tưởng Mỹ đã loại mình ra ngoài cuộc tranh cử sắp tới. Những tin tức Hai Long vừa đem tới đã nhen lên trong lòng Thiệu nhiều hy vọng.
Hai Long thấy chưa nên dừng lại ở đây. Anh lại cử Hòe tới dinh Độc Lập một lần nữa. lần này, anh bảo Thiệu nên gửi thiếp và quà đáp lễ Spellman đã tới thăm mình. Anh nhận chuyển giúp Thiệu tới Spellman. Anh gợi ý luôn cả cách viết thiếp. Trên tờ thiếp sẽ có cả chữ Việt và chữ Anh. Bên trên, nên là dòng chữ bằng tiếng Anh “Lieutenant General Nguyễn Văn Thiệu, Chairman of the National Leadership Committee”[8]. Tiếp đến dòng chữ Việt: “Xin Đức cha cầu nguyện cho Việt Nam”. Thiệu ký tên bên dưới. Anh cũng gợi ý là tặng phẩm nên gói bằng giấy in con dấu Hội đồng quân lực và Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia, kèm theo một tấm ảnh của Thiệu. Anh giải thích cách làm như vậy mang nhiều ý nghĩa, vừa chính trị, vừa tôn giáo, vừa ngoại giao, vừa tình cảm, nâng cao giá trị cả người gửi và người nhận.
Thiệu lập tức đồng tình và làm theo toàn bộ lời khuyên của anh.
Hai Long viết một lá thư ngắn, ký tên thánh bổn mạng, đặt kèm gói quà, rồi tới gặp O’Connor. Hai Long kể lại cho O’Connor nghe toàn bộ câu chuyện trao đổi giữa Spellman và Thiệu. Rồi đưa gói quà của Thiệu, nhờ O’Connor chuyển cho Spellman.
Cả Spellman và O’Connor đều đã có đầy đủ ấn tượng Hai Long và Thiệu chỉ là một.
Trước khi rời Sài Gòn, Spellman gặp lại Hai Long, Hồng y tươi tỉnh nói:
- Tôi muốn hỏi ý kiến giáo sư về những người đứng đầu nay mai của chính quyền Việt Nam cộng hòa.
Spellman lấy hai tờ giấy dày, có dòng kẻ, đưa Hai Long một tờ:
- Ta cùng viết xem ý nghĩ có gặp nhau không? Chỉ cần ghi hai tên.
Hai Long không ngờ mình lại rơi vào thử thách này. Anh mỉm cười đón tờ giấy. Sau giây lát cân nhắc, anh ghi rất nhanh:
N.V.T
N.C.K
Thái độ của Mỹ thời gian qua nói chung và thái độ của Spellman mấy ngày gần đây nói riêng cho anh thấy đây là hai nhân vật đang được đặc biệt chú ý. Nếu không trúng ý của Spellman, anh cũng không có gì phải ân hận, vì anh đã được “giáo hội trao nhiệm vụ đỡ đầu Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ”.
Hai Long cài bút lên nắp túi, bình tĩnh ngồi chờ. Spellman viết rất nhanh và viết khá lâu. Anh không hiểu Hồng y viết gì mà nhiều như vậy trong khi ông đã quy định chỉ ghi hai tên.
Spellman viết xong, ngửng đầu nhìn Hai Long, tỏ vẻ ngạc nhiên, dường như thấy anh chẳng cần cân nhắc trước câu đố hóc búa của mình. Hồng y đặt chiếc bút xuống bàn rồi giơ tờ giấy của mình cho Hai Long xem. Đó là một bản sơ đồ chằng chịt những mối quan hệ giữa ngụy quyền miền Nam với các tổ chức của Mỹ. Ngón tay to lớn của Hồng y đặt vào chỗ đỉnh chóp của bộ máy ngụy quyền, được ký hiệu bằng hai ngôi sao ở trên và ba ngôi sao ở dưới, cấp bậc của Kỳ và Thiệu. Spellman đặt Kỳ trên Thiệu[9].
Hai Long cũng giơ mảnh giấy của mình. Hồng y chăm chú nhìn rồi cười rất to:
- Những tư tưởng lớn gặp nhau!
- Xin lưu ý Đức Hồng y, người cầm đầu Việt Nam cộng hòa nên là một người Thiên chúa giáo.
Spellman gật đầu rồi lấy một tấm danh thiếp đưa anh.
- Trong ngày hôm nay, tôi phải rời Sài Gòn, có cần gì, giáo sư trực tiếp gửi thư cho tôi.
Hai Long hướng về tờ giấy có bút tích của Spellman:
- Xin Đức Hồng y cho con được giữ lại kỷ vật này. Đây là một thánh chỉ của bề trên mà con phải thực hiện.
Spellman đưa tờ giấy cho anh:
- Giữ lấy nếu thầy muốn. Đó cũng chính là ý của thầy.
Có tờ giấy này, anh đã nắm được linh hồn của cả Thiệu và Kỳ.
Nhân dịp Tết dương lịch 1967, Hai Long lại bảo Hòe vào gặp Thiệu, mang theo một danh sách những cha cố Mỹ mà mình cần củng cố mối quan hệ, đề nghị Thiệu nên viết thiếp chúc mừng để tranh thủ cảm tình của giáo hội Mỹ, theo cách đã làm với Spellman. Thiệu vui vẻ làm theo ngay, nhờ Hòe chuyển lời hết sức cảm ơn và tha thiết mời anh tới dinh Độc Lập để cùng trực tiếp đàm đạo. Hai Long trả lời đa tạ thịnh tình của Thiệu, hẹn khi nào có việc thật cần, anh sẽ tới dinh, còn hiện thời, Thiệu và anh chỉ nên giữ chặt liên lạc qua trung gian của cha Nhuận và Hòe, tránh sự chú ý của một số nhân vật đối lập với chính quyền quân sự mà theo chỉ thị của giáo hội anh đang còn phải giữ mối quan hệ.
---
[1] Oley Sharp, đô đốc, tổng tư lệnh Hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương
[2] George Bundy, cố vấn an ninh quốc gia của Johnson.
[3] Khu du kích trong khu du kích
[4] người của Vatican
[5] người của Giáo hoàng Paul VI.
[6] Do Thái với những người Do Thái
[7] Hãy cầu nguyện cho chúng tôi
[8] Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia
[9] Kỳ là thiếu tướng (2 sao), Thiệu là trung tướng (3 sao)

Chương 8
ĐÒN TỐI HẬU CỦA WESTMORELAND
1.
Chiếc xe đò chạy về phía Củ Chi như bị cuốn theo cơn lốc của những đoàn xe nhà binh Mỹ, đa số là những xe vận tải lớn phóng hết tốc độ.
Ra khỏi nội thành Sài Gòn không bao xa, Hai Long đã nhìn thấy quang cảnh mới, khốc liệt của chiến tranh. Cánh đồng lỗ chỗ đạn pháo bầy. Cây cối bị đạn đại bác chém gục nằm ngổn ngang, lá cây khô quắt như bị thiêu cháy, tạo nên những vết thương chưa được băng bó giữa những rừng cây trái xanh tốt quanh năm. Nhiều thôn ấp gần đường quốc lộ bị bom đạn hủy diệt, chỉ còn là những đống đổ nát không hồn. Những chiếc xe nằm lật ngiêng hoặc chổng bốn bánh bên vệ đường. Nhiều doanh trại của quân Mỹ mọc lên dọc quốc lộ với những chiếc lều bạt, những mái nhà vòm bằng tôn, những đường hào và rừng dây kẽm gai lù mù vây quanh.
Đôi mắt Hai Long lúc nào cũng cảm thấy gai gai nhức nhối vì sắt thép của chiến tranh, những chiến xa, những khẩu đại bác, những chiếc máy bay hình thù quái dị đang gieo chết chóc ở phía chân trời, đùn lên những đụn khói màu xám, màu vàng tiếp theo những tiếng nổ âm âm nặng nề.
Xuống xe, rời khỏi thị trấn Củ Chi một quãng, cảnh vật trước mắt làm anh nao lòng. Âm thanh của những trận mưa bom B.52 làm nát ruột anh khi ở Sài Gòn, lúc này đã hiện ra sức tàn phá ghê gớm của nó. Những cánh đồng xanh phì nhiêu và những thôn ấp trù phú của Củ Chi, trước mắt anh chỉ còn là những hố sâu rợn người, những gò đống do bom Mỹ đùn lên, qua mỗi quãng đường càng thêm dày đặc. Đây là cái mà Mỹ gọi là “giải tỏa những áp lực đang hướng vào đô thành”! Chúng đã tạo nên những đợt sóng thần bằng mưa bom B.52 xua đuổi ta ra xa, biến nơi này thành một vùng đất chết. Anh cảm thấy trách nhiệm nặng nề của mình, mình chưa làm được bao nhiêu để giảm bớt những tai ương mà những đồng chí, đồng bào của mình đang phải gánh chịu.
Chuyến ra cứ lần này vất vả hơn nhiều so với mùa xuân năm trước, nhưng anh không cảm thấy điều đó. Những mệt nhọc thể xác của anh đã trở nên vô nghĩa so với những nguy hiểm mà mọi người đang phải chịu đựng thường xuyên ở đây. Đồng chí dẫn đường tỏ vẻ ngạc nhiên trước sự chịu đựng dẻo dai của anh, một cán bộ sống quanh năm ở nội thành. Họ băng qua cánh đồng trên con đường nhỏ luôn luôn bị những hố bom đạn địch cắt quãng, qua những con mương, con lạch, những khi rừng xác xơ. Mặc dù đi không nghỉ, nhưng tới nửa đêm hôm đó, Hai Long mới tới căn cứ.
Một chiến sĩ mang cho anh chiếc can nhựa đựng đầy nước lạnh để rửa chân tay. Anh ăn một bát mỳ nóng, rồi lăn ra ngủ trong hầm hào kiên cố dành cho khách. Thỉnh thoảng anh lại giật mình tỉnh giấc vì tiếng bom hay đại bác nổ gần nhưng rồi lại tiếp tục ngủ. Đêm hôm đó, anh mơ thấy mình trở về với bộ đội, cùng hành quân với các chiến sĩ đi phục kích quân Mỹ, luôn luôn bị ám ảnh bởi một ý nghĩ, phải tỏ ra mình vẫn là một cán bộ gương mẫu chịu đựng gian khổ như ngày xưa.

2.
Hai Long thức dậy vì có người vỗ nhẹ vào vai.
- Dậy đi thôi! Đêm qua về muộn lắm hả?...
Anh mở mắt thấy ánh sáng đã lùa vào khắp căn hầm. Một người mặc bộ quân phục còn mới, ngồi bên đang nhìn anh chăm chú. Cặp mắt nheo nheo rất quen. Nhưng còn mái tóc điểm sương và nước da đỏ au này? Khi người đó nhoẻn miệng cười thì anh reo lên:
- Anh Vân...! Anh vô khi nào?
- Tới cứ mới ba hôm. Mình bảo Năm Sang để mình sang đánh thức cậu xem cậu có nhận ra không... Tóc cậu bắt đầu thưa rồi! Mình vẫn chờ gặp lại một anh chàng có cặp mắt sáng và mái tóc rất dày.
Từ ngày rời miền Bắc, đây là lần đầu, Hai Long gặp lại Ba Vân. Anh công tác ở Trung tâm, đã vào
Nam vài lần nhưng đều không trúng những dịp Hai Long ra căn cứ.
Sự ngẫu nhiên giữ một vai trò kỳ diệu trong đời sống con người. Chính là qua những ngẫu nhiên mà những quy luật được khẳng định, lịch sử xã hội của con người phát triển. Nhưng với từng dân tộc, với từng con người thì nhiều khi nó rất mù quáng. Phải chăng chính vì nó mà người ta tin vào số mệnh? Nếu không có buổi sáng mùa hè năm ấy thì chưa biết cuộc đời anh sẽ rẽ theo hường nào và chắc chắn giờ này anh không ở đây.
Sau ngày đảo chính mồng 9-3-1945, cuộc sống của cậu giáo ở Hà Nội không có gì thay đổi. Anh vẫn ở nhà Tú Uyên, tiếp tục kèm cặp cho cậu em cô gái chẳng quan tâm tói chuyện học hành hơn chút nào. Sáng hôm đó, như thường lệ, anh dậy sớm, chạy một vòng quanh mấy phố Duvignaud, Lê Lợi. Một tờ báo dán trên bức tường quét vôi vàng bao quanh nhà máy Diêm đập vào mắt anh. Gần đây anh thường nghe người ta nói Việt Minh hay dán báo và rải truyền đơn ở những nơi công cộng. Đây chăng? Anh tò mò muốn biết Việt Minh nói gì. Anh bỏ dở buổi tập thể dục.
Lần đầu anh được biết muốn giành được độc lập thì phải đồng thời đánh Pháp và đuổi Nhật. Việt Minh tố cáo chính sách bòn rút thóc lúa của cả Pháp và Nhật đã dẫn đến nạn đói của hàng triệu đồng bào hiện nay. Việt Minh hô hào phá các kho thóc, lấy thóc chia cho người nghèo. Từ cuối năm trước, gia đình anh ở Thái Bình đã gửi thư lên nói quê anh có rất nhiều người chết đói. Lúc này anh mới hiểu nạn đói do đâu. Và chỉ có Việt Minh mới thực sự chú ý tới số phận những con người làm nên thóc gạo, nhiều tháng nay từ những vùng thôn quê kéo ra vật vờ như những bóng ma trên đường phố, nhặt từng chiếc lá bánh, từng hạt cơm rơi vẫn không khỏi chết gục vì đói. Mỗi dòng chữ đều khiến người anh gai lên. Những tình cảm xót thương, phẫn nộ mỗi lúc càng nung nấu trong đầu. Anh chăm chú đọc hết tờ báo không để ý đến nhiều người đã đứng vây quanh anh.
Trên đường về nhà, anh như bừng tỉnh giấc khi nghe có tiếng gọi. Một thanh niên mặc bộ quần áo xanh đứng bên cổng một ngôi nhà ở xế cửa, chăm chú nhìn anh, hỏi:
- Cái gì ở đó thế cậu?
- Báo Cứu quốc của Việt Minh.
- Trong báo nói gì?
- Nhiều cái hay lắm, anh tới ngay mà coi, kẻo lát nữa họ xé mất!
Người mặc bộ đồ xanh đó chính là Vân. Họ thân nhau rất nhanh. Anh biết Vân học ở trường kỹ nghệ thực hành. Vân đưa anh đọc điều lệ của Việt Minh. Rồi trao cho anh nhiệm vụ đi dán báo và rải truyền đơn.
Một bữa, Vân bỗng hỏi:
- Sao trước đây cậu lại học ở trường Dòng?
- Nhà tôi có đạo mà. Mẹ tôi là người Phát Diệm. Bố tôi ở Thái Bình cũng là người có đạo.
- Bạn bè trong trường có ai biết cậu liên lạc với Việt Minh không?
- Anh nói phải giữ bí mật!
- Giữ bí mật nhưng vẫn phải làm công tác vận động, tuyên truyền.
- Tôi tin rằng nếu được đọc điều lệ Việt Minh thì nhiều người sẽ theo.
- Cậu cần chú ý có một số người theo đạo Thiên chúa hiểu lầm Việt Minh là Cộng sản. Thực ra trong Việt Minh, có những đảng viên Cộng sản nhưng số rất đông chỉ là những người yêu nước. Mục đích của Việt Minh là chiến đấu giành độc lập cho Tổ quốc.
Họ cùng chiến đấu với nhau tại mặt trận Hà Nội. Khi bộ đội rút khỏi đây, anh xin trở về quê nội ở Thái Bình. Vân viết cho anh một giấy giới thiệu về quá trình hoạt động để đem về địa phương. Cũng vì vậy, anh được tỉnh trao nhiệm vụ làm công tác vận động đồng bào Công giáo kháng chiến ở vùng địch hậu. Vân theo bộ đội lên Việt Bắc. Từ đó họ xa nhau. Cũng sẽ không có ngày hôm nay nếu không tiếp đến một chuyện tình cờ thứ hai.
Vào giữa năm 1953, Trung tâm cử người về Liên khu III xin một cán bộ Công giáo vận. Anh nằm trong số người được đồng chí Đỗ Mười[1], Bí thư liên khu ủy giới thiệu và được lựa chọn.
Mấy năm sau đó, Vân cũng được điều về công tác ở Trung tâm. Anh được phân công theo dõi những lưới làm nhiệm vụ chiến lược. Khi nghiên cứu hồ sơ cán bộ, anh nhận ngay ra Nhạ, người thanh niên Công giáo đã được mình giác ngộ cách mạng trước ngày Tổng khởi nghĩa. Giữa họ có những quan hệ mật thiết về công tác và những tình cảm gắn bó. Nhưng họ chỉ gặp nhau gián cách qua đường dây liên lạc bí mật.
Ba Vân nói:
- Khi biết anh Mười Hương[2] về Thái Bình xin người cho Trung tâm đã chọn đúng cậu, mình sướng vô cùng. Ngờ đâu chỉ vì có tờ báo Cứu quốc bữa đó mà hai đứa chúng mình lại có quan hệ công tác lâu dài với nhau!
- Như vậy là khi khởi đầu cũng như khi kết thúc đều được làm việc trực tiếp với anh!
- Trước khi vào, mình có về Thái Bình...
Ba Vân đưa cho anh mấy tấm ảnh. Một tấm ảnh có hình bố anh. Ông cụ cầm cây gậy trúc đứng trước ngôi nhà nhỏ, dáng điệu vẫn quắc thước như xưa, nhưng mái tóc đã bạc trắng, đôi má hõm sâu. Trong một bức ảnh kháclà gia đình chú Ba. Chú đã trở thành một trung niên với thân hình mảnh dẻ, vẻ mặt tư lự, ngồi cùng vợ và bốn đứa con trai, gái lớn, nhỏ trong ngôi nhà đồ đạc vẫn như ngày anh ra đi. Lần đầu, anh được biết những tin tức gần nhất và cụ thể nhất về những người thân thiết của mình. Bố mẹ đôi bên nội ngoại, những người em dâu, em rể mới, những đứa cháu mà anh chưa hề biết mặt, ngôi nhà của gia đình anh ở làng quê với cây nhãn, khóm ngâu vẫn đứng vững sau những trận mưa bom trên miền Bắc... Anh không ngờ ra cứ lần này lại được nhận một món quà vô giá dành cho riêng mình...
Kể qua mọi chuyện về gia đình xong, đồng chí Ba Vân nói:
- Vẫn phải hết sức đề phòng địch kiểm chứng nguồn gốc gia đình cậu ở miền Bắc sau khi Tá Đen phát hiện. Có thể chúng đã làm rồi, nhưng biết đâu sau đây chúng còn tiếp tục làm nữa!
Lòng anh chợt se lại. Anh đã hiểu vì sự an toàn của mình, tổ chức vẫn chưa cho gia đình anh biết vợ chồng anh đã vào Nam vì công tác. Đối với những người ruột thịt và xóm giềng, anh vẫn chỉ là một cán bộ kháng chiến đào tẩu chạy theo quân địch! Ngày mới ra đi, anh không bận tâm về chuyện này. Nhưng sau những năm tháng kéo dài, điều đó đôi lúc trở nên day dứt. Biết tới ngày nào mọi người mới biết vợ chồng anh đã vì việc nước ra đi...?
Ba Vân như đọc được những ý nghĩ đó của anh:
- Ráng lên, cho mau thống nhất rồi về.
Hai Long cố xua đi nỗi buồn vừa nhói lên trong lòng.
- Anh Ba còn nhớ Tú Uyên, cô học trò của tôi ở phố Duvignaud không?
- Khá nhớ. Suýt nữa thì cậu thành rể của gia đình ông phán.
- Năm trước tôi gặp lại cô ấy ở Đà Lạt.
- Có chuyện gì xảy ra không? – Ba Vân mỉm cười.
- Tất nhiên là không. Cô ấy đã có chồng và hai con. Một người em của cô ấy vẫn công tác ở miền Bắc.
- Mình biết cậu này...
Ba Vân giục:
- Những chuyện khác dành buổi tối. Cậu đi rửa mặt và ăn sáng rồi làm việc với bọn mình.

3.
Làm việc với Hai Long lần này ở Miền, ngoài cụm trưởng Năm Sang còn có Ba Vân.
Hai Long báo cáo trọn một ngày. Hai người đều đánh giá trong năm qua, anh đã cung cấp được những tin tức quan trọng, kịp thời và đã tạo cho mình thêm nhiều quan hệ mới, một cái thế rất tốt để tiếp tục đi xa hơn.
Ba Vân hỏi:
- Từ những công việc của đồng chí mấy năm qua, đồng chí đã rút được những kinh nghiệm gì lớn?
- Tôi mới thấy được hai điều chính. Điều thứ nhất, phải xây dựng được thế và lực. Lúc đầu chỉ là thế và lực mượn của những kẻ có thế, có lực. Nhưng rồi sớm muộn cũng phải tạo thế và lực của riêng mình. Làm điều này cần rất chủ động và không được bỏ qua những cơ hội nhỏ nhặt nhất.
Ba Vân mỉm cười:
- Một nhà văn, nếu mình không lầm là Lev Tolstoi, đã nói một ý tương tự: khi có quan hệ với những kẻ có quyền lực thì tự nhiên mình cũng trở thành có quyền lực!... Còn điều thứ hai?
Hai Long cân nhắc rồi nói:
- Phải có lòng nhân anh ạ... Tư tưởng này đã chi phối mọi hành động của tôi trong những năm qua. Tôi nghĩ rằng nhờ có nó mà tôi còn tồn tại tới ngày hôm nay. Nói cho cùng thì dù có công tác giữa lòng địch, chúng ta cũng vẫn sống giữa những con người... Không hiểu tôi nghĩ vậy có sai không?
- Hoàn toàn không sai. Công tác của chúng mình về thực chất là một bộ phận của công cuộc vận động cách mạng. Dù phải đấu tranh sinh tử nhưng vẫn nhằm xây dựng con người, cứu vớt con người.
Họ quyết định nghỉ buổi tối, sáng hôm sau làm tiếp.
Sau bữa cơm chiều, Ba Vân tới hầm Hai Long. Anh móc trong túi ra bao thuốc lá Thủ Đô và gói trà Thanh Hương:
- Ở Sài Gòn không thiếu những thứ ngon hơn, nhưng đây là đem tới cho cậu một chút hương vị miền Bắc. Tôi đi đường biển bằng phương tiện nhanh nên mới mang được những thứ này. Lúc đầu tưởng phải đi đường bộ, ba lô trên vai vượt Trường Sơn, chiếc bàn chải đánh răng cũng phải cắt bỏ nửa cái cán để giảm trọng lượng.
Hai Long cảm động đón món quà từ tay đồng chí phái viên. Hơn hai chục năm rồi anh mới được cầm trong tay những thứ này của miền Bắc. Ước gì được mang về trong kia cùng chia sẻ với Hòe. Nhưng làm như vậy rất dễ nguy hiểm. Anh bóc gói thuốc để gần mũi, hít mãi mùi thơm rồi hai người mới cùng hút.
Anh chiến sĩ đưa tới một phích nước sôi, một cái ca có nắp và hai chiếc chén để họ uống trà.
Hai Long nhấp từng ngụm nhỏ, thưởng thức vị trà đậm và thơm, khác hẳn thứ trà Lâm Đồng anh vẫn thường uống với cha Hoàng. Khi anh đi, còn chưa có loại trà và thứ thuốc lá này. Những sản phẩm của nền công nghiệp non trẻ ở miền Bắc. Anh nghĩ tới những trái bom Mỹ đang trút xuống những thành phố ở ngoài đó
- Tối nay anh cho tôi nghe chuyện miền Bắc. Rất hiếm khi gặp người mới từ ngoài vô.
- Miền Bắc chưa bao giờ có một không khí rộn ràng như những ngày này. Sau khi Bác Hồ ra lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước, một không khí toàn dân chiến đấu, thanh niên trẻ nô nức lên đường đi đánh Mỹ để giải phóng miền Nam. Mọi người đều đứng ngồi không yên. Thằng con trai mình, mới 17 tuổi, rất mê không quân, đi tuyển không được, vừa rồi trốn nhà theo bộ đội cao xạ. Chẳng cứ bọn trẻ, đủ tiêu chuẩn sức khỏe, ở Bộ Tổng tư lệnh, cánh đứng tuổi như chúng mình cũng tranh nhau đi miền Nam. Khối anh định giành chuyến đi này của mình nhưng mình quyết không nhường.
- Sức khỏe của Bác gần đây ra sao?
- Bác khỏe. Cụ vẫn rất sáng suốt.
- Đầu năm nghe tiếng nói của Bác trên đài, chúng tôi rất mừng vì giọng Bác còn khỏe.
- Bác đã nói từ lâu: “Miền Nam ở trong trái tim tôi”. Nguyện vọng tha thiết nhất của Bác là miền Nam sớm giành được thắng lợi cuối cùng để Bác vào thăm đồng bào, đồng chí trong này. Anh em mình, bà con mình phải ráng lên!
- Nếu thời cơ tới thì tôi nghĩ không ai tiếc sức mình.
- Trước khi vào, mình được gặp anh Tô[3]. Anh Tô gửi lời thăm cậu và nhắc: “Vatican đã có những quan điểm rất tiến bộ đối với chiến tranh Việt Nam. Tòa thánh La Mã đã trút bỏ một số quan niệm lỗi thời đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Giáo dân Việt Nam phải vừa kính Chúa vừa yêu nước. Trách nhiệm của những giáo dân tiến bộ là phải vận động con chiên làm theo lời của Giáo hoàng Paul VI đấu tranh cho hòa bình, hòa giải, hòa hợp dân tộc”. Hôm nhận nhiệm vụ ở Bộ trước khi vào chiến trường, anh Văn[4] dặn: “Phải triệt để giữ nguyên tắc hoạt động bí mật, duy trì tốt vị trí hiện thời để công tác lâu dài, đón đợi thời cơ lớn. Coi trọng đạo đức của một người dẫn dắt giáo dân cũng như phẩm chất của một chiến sĩ cách mạng”.
Hai Long bỗng thấy nghẹn ngào. Ba Vân nhìn anh nói tiếp:
- Ngày hôm nay, nghe đồng chí báo cáo, tôi suy nghĩ nhiều về khả năng đưa người mình vào bộ máy chính quyền ngụy theo chỉ thị của trên nhân dịp chúng tiến hành tổng tuyển cử.
- Tôi nghĩ rằng chúng ta đang có khả năng đó.
- Nhưng ở cương vị nào? Thủ tướng có được không?
- Nếu ta đã có sẵn người thì thủ tướng cũng không phải là khó lắm. Ở cấp bộ trưởng thì dễ hơn.
- Người thì phải do các đồng chí lựa chọn... - Ba Vân nhoẻn miệng cười – nhưng không nên là đồng chí. Đồng chí đang có điều kiện thuận lợi, nhưng cần chờ thật đúng lúc mới xuất đầu lộ diện khi có chỉ thị của trên. Có khả năng đưa Hòe vào trong chính quyền ngụy không?
- Có khả năng. Tôi đang tích cực chuẩn bị cho đồng chí Hòe. Anh Hòe đã cho ra tờ báo Vừng Đông, một tiến sĩ kinh tế, chuyên gia của chính phủ Mỹ cũng tham gia viết bài. Vấn đề lý lịch của anh Hòe đã được giải quyết.
- Ở cương vị nào?
- Một chân công cán ủy viên Phủ tổng thống chẳng hạn.
- Cao hơn nữa có được không?
- Hơi khó, anh Hòe đã bị chúng đưa ra trại Tòa Khâm vì bị tình nghi.
- Rất cần có một người ở cương vị Thủ tướng hoặc Quốc vụ khanh.
- Quan trọng là có sẵn người tại chỗ. Nếu chưa có đồng chí của ta, thì lựa người thuộc diện cảm tình, rồi gắn bó họ với mình... Người như vậy dễ tìm hơn.
- Ngày mai ta sẽ trao đổi tiếp vấn đề này.
Mấy tiếng đồng hồ còn lại tối hôm đó đối với Hai Long là một khoảng thời gian tuyệt vời. họ không nói gì về công việc. Ba Vân sẵn sàng trả lời cho anh tất cả những câu hỏi về miền Bắc. Chưa bao giờ anh được gặp một người vừa xa Hà Nội có đúng mười ngày. Chuyện tàu phóng lôi của ta tiến công chiến hạm Mỹ. Chuyện các chiến sỹ lái máy bay của ta bắn rơi những tên phi công Mỹ sừng sỏ có hơn họ mười lần số giờ bay. Chuyện đồng bào Vĩnh Linh, Quảng Bình phá nhà của mình, lấy cột kèo lát đường chống lầy cho xe chuyển bộ đội và vũ khí vào Nam. Chuyện những ngôi trường nửa nổi nửa chìm, những em nhỏ đội mũ rơm chống bom bi cắp sách tới trường... Những chuyện đó cùng với hơi thuốc lá, nước trà hương chiêu từng ngụm nhỏ, như tiếp sức cho anh trong đoàn quân sau một thời gian nghỉ ngơi, được bồi dưỡng sức khỏe, lại tiếp tục lên đường.
Ngày làm việc tiếp theo chỉ có Ba Vân và Hai Long. Ba Vân cho biết Năm Sang phải đi kiểm tra lại đường dây liên lạc.
Ba Vân nói:
- Trung tâm đánh giá cao những báo cáo của đồng chí. Qua thực tiễn diễn biến trên chiến trường chứng tỏ những tin tức của đồng chí đều chính xác, kịp thời, phục vụ cho sự lãnh đạo và chỉ đạo của trên. Đồng chí cứ thế mà tiếp tục. Tuy nhiên, đối với nhiệm vụ phục vụ các chiến dịch lớn thì yêu cầu đồng chí cố gắng nhiều hơn. Cường độ chiến tranh từ khi quân Mỹ vào đã tăng dần lên, và trong một, hai năm tới sẽ còn tăng thêm. Tuy nhiên, chúng ta dự kiến Mỹ không thể kéo dài cường độ này do chúng đã vấp phải sức chống cự mãnh liệt của quân và dân cả nước ta. Chúng đã liên tiếp thất bại. Và sẽ càng gặp nhiều khó khăn ở quốc nội và trên thế giới. Nhiệm vụ của chúng ta do đó sẽ rất nặng nề và khẩn trương... Phải tranh thủ từng ngày! Chúng ta phải trụ cho thật vững, và phải đồng thời biết tích lũy lực lượng. Bọn mình còn phải vượt qua một vài mùa khô nữa để tiến tới ngày trọng đại đó, cái ngày đón Bác vô Nam như tôi nói với đồng chí tối hôm qua. Tôi đã xin Trung tâm cho tôi vô, cùng cộng tác với đồng chí. Nghe đồng chí báo cáo, tôi rất mừng nhưng trước mắt vẫn rất lo...
Hai Long chăm chú lắng nghe. Ba Vân nhăn vừng trán rồi nói tiếp:
- Chúng ta đã biết trong mùa khô này, Westmoreland vẫn tiếp tục chiến dịch “lùng và diệt”, chúng sẽ đánh sâu vào vùng căn cứ của ta, nhằn vào những cơ quan đầu não, nhưng chúng ta còn chưa xác định được điểm của đợt phản công thứ hai này.
- Tôi đã báo kịp thời với Trung tâm hai cuộc hành quân Attelboro và Cedar Falls.
- Những việc đồng chí đã làm được là tốt. Nhưng Attelboro và Cedar Falls chưa phải là đòn chủ yếu của địch trong mùa khô này. Đòn quan trọng của địch còn chưa diễn ra. Ta cần nắm được nó ngay từ trong trứng.
Họ ngồi im lặng một lát.
- Đồng chí có nghĩ như chúng tôi không? – Ba Vân thận trọng hỏi lại.
- Tôi cũng cảm thấy như vậy.
- Đồng chí dự kiến nó sẽ nhắm vào đâu?
- Qua O’Connor, địch rất ngại những áp lực của ta ở vùng quanh Sài Gòn.
- Có nhắc gì đến quân khu I và quân khu II không?
- O’Connor không nhắc gì tới những nơi đó.
- Chúng ta không có nhiều lực lượng rải ra đề phòng ở tất cả mọi nơi. So với các chiến trường thì miền Đông và Tây Nam Bộ là khó khăn hơn vì xa tiếp tế của hậu phương miền Bắc. Nếu ta biết trước địch nhắm vào đâu thì không phải ta chỉ tìm cách tránh né mà sẽ giáng trả địch những đòn thật đau, bẻ gãy từng cánh của chúng. Vừa qua, ta đối phó với Attelboro và Cedar Falls tốt vì ta chủ động.
- Tôi đã hiểu tầm quan trọng của vấn đề anh vừa nêu.
- Giờ ta quay lại chuyện hôm qua. Đồng chí nói có khả năng đưa người vào một vị trí cao trong chính quyền ngụy nhân chúng tổ chức tổng tuyển cử?
- Tôi nghĩ là như vậy.
- Người đó phải có điều kiện như thế nào?
- Đầu tiên là phải có một lý lịch “trong sạch”, không dính líu gì với ta, và phải có một chút “tên tuổi”, như là đã giữ một chức vụ cao trong chế độ cũ. Nếu là người theo đạo Thiên chúa thì càng thuận lợi.
- Trong số những cơ sở của ta, có nhân vật nào như thế không?
- Hiện thời thì chưa. Tôi sẽ cố gắng tìm.
- Chúng tôi cũng sẽ giới thiệu một người có những điều kiện gần như vây....

4.
Sang ngày làm việc thứ ba ở căn cứ.
Ba Vân nói:
- Có người của ta cũng mới từ Sài Gòn ra, chúng tôi quyết định để hai đồng chí gặp nhau, bàn cụ thể về nhân vật sẽ được nhắm cho ghế thủ tướng của ngụy quyền.
Năm Sang bước vào với một người mặc bộ quần áo bà ba nông dân, không hợp với vẻ mặt thư sinh và dáng người mảnh dẻ của anh.
Năm Sang giới thiệu:
- Đây là đồng chí A.25 – Anh chìa tay về phía Hai Long nói tiếp – Còn đây là đồng chí A.22, đều là người trong cụm ta, các đồng chí làm quen với nhau đi!
Hai người nhìn nhau rồi cùng mỉm cười. Họ siết chặt tay nhau.
Hai Long nói:
- Chúng tôi đã làm quen với nhau từ trước rồi.
A.25 nói:
- Xin báo cáo hai đồng chí, tôi tới tìm anh Hai đây nhiều lần nhờ anh Hai “giúp đỡ” cho một số tài liệu mà Cụm yêu cầu, nhưng anh Hai đã từ chối.
A.25 chính là Thắng, bí thư của Đỗ Mậu, nhà ký giả với bút danh Nhị Hà[5] mà Hai Long đã gặp ở Trung tâm văn hóa Pháp.
Năm Sang vui vẻ:
- Như vậy là các đồng chí có cơ duyên với nhau. Các đồng chí sẽ có những công tác cần phối hợp chặt chẽ trong thời gian tới. Bây giờ ta trao đổi về dự kiến “đánh” người vào bộ máy chính quyền ngụy. Đồng chí Thắng hãy báo cáo về người của mình.
Thắng nhìn Hai Long và hai đồng chí cấp trên của mình với vẻ băn khoăn. Rồi anh nói bằng giọng nhỏ nhẹ:
- Tôi đã rất hăng hái tiến cử người của mình, nhưng bây giờ tôi muốn rút lui... Tại sao người Trung tâm lựa chọn lại không phải là anh Hai đây?
Thấy mọi người mỉm cười, tưởng họ chưa hiểu ý mình, Thắng vội thuyết minh:
- Tôi biết anh Hai rất có uy tín trong giáo dân, anh Hai đã làm cố vấn chính trị cho chế độ Diệm, anh Hai đang đỡ đầu chi Thiệu và Kỳ, anh Hai lại có quan hệ tốt với Vatican và giáo hội Mỹ! Người của tôi tiến cử không thể so sánh với anh Hai.
Ba Vân nói:
- Không phải Trung tâm không biết những điều đó. Đồng chí Hai Long chưa thể tham gia vào cái trò phù vân này. Đồng chí cứ yên tâm giới thiệu ứng cử viên của mình đi!
Thắng bắt đầu trình bày với một vẻ thiếu tự tin:
- Người tôi định giới thiệu với các đồng chí là anh Huỳnh Văn Trọng. Anh Trọng sinh tại Đà Nẵng, hồi nhỏ học trường dòng Đa Minh[6], sau bỏ tu, ra học luật và cưới vợ. Tốt nghiệp cử nhân luật, anh vào làm dự thẩm ở tòa án Huế, rồi tòa án Đà Nẵng. Năm 1950, anh Trọng làm bộ trưởng Phủ thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ Nội vụ của chính phủ ngụy quyền Nguyễn Phan Long. Long đổ, anh tham gia đảng Xã hội một thời gian, rồi trở về Huế. Thời Diệm, anh Trọng vào Sài Gòn, quan hệ với Hòa Hảo, làm đổng lý văn phòng cho Huỳnh Văn Nhiệm, hồi Nhiệm làm bộ trưởng bộ Nội vụ trong chính phủ liên hiệp của Diệm[7]. Khi Diệm đàn áp những giáo phái, anh Trọng trở thành một đối tượng bị truy nã. Anh phải trốn vào nhà Dòng Chúa Cứu thế Sài Gòn. Tòa đại sứ Mỹ biết anh, mời anh về dạy tiếng Pháp và tiếng Việt cho nhân viên. Anh thoát được sự đe dọa của chế độ Diệm. Vốn ghét Diệm, trong phong trào đấu tranh lật đổ Diệm, anh đi với Phật giáo, giúp đỡ các thầy. Diệm đổ, mối đe dọa với anh không còn, anh bỏ dạy học ở Tòa Đại sứ Mỹ và nhận làm kế toán cho hãng phim Kodak để kiếm sống. Vì sĩ diện, anh không nói với ai về công việc mới này. Hiện nay, anh Trọng sống như một người ở ẩn nhưng rất đông người trong chính giới miền Nam biết và còn nhớ anh.
Năm Sang lẩm bẩm:
- Anh chàng này có vẻ là một tay hoạt đầu!
Ba Vân nói:
- Về lý lịch như vậy là được điểm “trong sạch” mà đồng chí Hai Long yêu cầu. Bây giờ đồng chí nói tiếp về tư tưởng và quan hệ với Cách mạng.
Thắng ngập ngừng rồi nói:
- Tôi biết anh Trọng từ thời tôi còn là sinh viên Văn khoa tại Hà Nội. Hồi đó, Đảng cử tôi vào Hà Nội đi học, hoàn cảnh rất thiếu thốn, vợ chồng anh Trọng thương một sinh viên nghèo, có chí học tập, đưa về cưu mang. Anh Trọng đang tham gia chính phủ Nguyễn Phan Long nên ở nhà anh an toàn hơn những nơi khác. Tôi cũng nhận thấy anh Trọng thiếu chính kiến rõ rệt, hiếu danh. Nhưng anh Trọng có một bà chị ruột tham gia Việt Minh từ sớm, đối với bà chị này, anh tỏ ra quý trọng. Những lúc gặp chuyện gì bất mãn với chính quyền ngụy, anh thường nói: “Biết vậy ngày trước theo quách Việt Minh cho xong!”. Đây là một điểm lúc cần có thể cảm hóa anh. Khi Trung tâm cử tôi vào Nam, trao nhiệm vụ bám sát những tên phản động trong tôn giáo, tôi đã tìm tới anh Trọng. Nhờ anh, tôi được nhận vào làm công cán ủy viên bộ Nội vụ. Thời gian anh Trọng phải trốn tránh chính quyền Diệm, tôi cũng bị địch bắt nên đôi bên ít gặp nhau. Mấy năm gần đây gặp lại gia đình anh Trọng sa sút nhiều. Tính tình anh thay đổi, trở nên cáu bẳn. Chị Trọng giận chồng, bỏ ra Đà Nẵng. Anh Trọng còn lại một mình ở Sài Gòn với hai đứa con nhỏ. Vợ chồng tôi đã đưa hai cháu về nhà trông nom. Anh Trọng rất cảm động. Khi chuyện trò, anh thường tỏ ý chán đời. Anh nói không ai hiểu hơn mình về mặt trái của Pháp, Mỹ, của các triều đại chế độ ngụy. Anh rỗi rãi và lại thông thạo cả tiếng Anh, tiếng Pháp, nên thường nhờ tôi mượn giúp sách báo về đọc. Tôi tìm những sách báo tiến bộ đưa cho anh. Anh rất đồng tình với những lời bình luận nhất định người Mỹ sẽ thất bại ở Nam Việt Nam. Anh cho rằng Pháp biết Việt Nam hơn Mỹ nên đã sớm nhận thấy sai lầm, kiên quyết rút khỏi Việt Nam sau hiệp định Genève. Đôi lúc, anh than phiền mình lỡ làm hư cả cuộc đời, sẽ không còn mặt mũi nào mà nhìn lại bà chị nếu nay mai Giải phóng chiến thắng. Trong tòa Đại sứ Mỹ, có nhiều người trước đây là học viên của anh. Tôi tính qua anh để khai thác tin tức của Mỹ. Tôi khuyên anh nên nối lại quan hệ với Tòa đại sứ Mỹ, coi họ có giúp đỡ gì cho mình về bước đường công danh. Anh tỏ vẻ chán nản, không chịu làm. Sau đó tôi thử đưa anh xem Cương lĩnh Mặt trận giải phóng. Thấy anh rất tán thành, tôi bèn nói với anh: “Có người ở Mặt trận đang cần một số tin tức ở Tòa đại sứ Mỹ, liệu anh có thể giúp đỡ được không?” Anh sốt sắng nhận lời... Một nửa số tin tức về Mỹ tôi báo cáo về trung tâm gần đây là do anh Trọng cung cấp.
Ba Vân hỏi:
- Anh Trọng có biết người cần những tin tức này chính là đồng chí không?
- Không bao giờ anh hỏi tôi chuyện đó. Người tôi nghĩ, ít nhất anh cũng cho tôi là một người có quan hệ chặt chẽ với Mặt trận.
Ba Vân quay lại phía Hai Long:
- Đồng chí có ý kiến gì về nhân vật này?
Hai Long đáp:
- Một trường hợp đáng được chú ý. Trong xã hội đô thị miền Nam có những con người như anh Trọng, nếu ta biết và sử dụng được sẽ trở nên rất có ích.
Hai Long hỏi Thắng:
- Tình cảm của anh Trọng đối với vợ thế nào mà lại cứ để chị ấy mãi ngoài Đà Nẵng?
- Đây là nỗi khổ tâm lớn nhất của anh. Không mấy người yêu vợ như anh. Nhưng anh vẫn chưa có công ăn việc làm, với cảnh nhà túng quẫn, chị trở về lại khó tránh khỏi va chạm.
- Nếu bây giờ ta giúp cho anh có một vị trí kha khá trong xã hội, cuộc sống vật chất tạm ổn định, vợ chồng con cái lại sum họp như xưa, chắc chắn anh Trọng phải gắn bó với ta hơn?
- Như vậy là cải tử hoàn sinh cho cả gia đình anh! – Thắng nói như reo lên – Nếu được như vậy, tôi nghĩ, dù có chết anh cũng không rời Cách mạng.
Năm Sang nhận xét:
- Theo tôi thì điều cơ bản nhất vẫn là giáo dục, giác ngộ lý tưởng Cách mạng.
Hai Long mỉm cười:
- Cuối cùng phải là như vậy. Nhưng có những lúc phải đi những con đường quanh co hơn.
Ba Vân nói:
- Chúng tôi tôn trọng ý kiến của những người tại chỗ, vì việc này sẽ do các đồng chí làm và chịu trách nhiệm với Trung tâm. Chúng ta đồng ý coi Huỳnh Văn Trọng là một ứng cử viên có triển vọng chứ?
- Cũng còn cả một chặng đường dài. – Hai Long nói – Nếu các anh đã quyết định như vậy, đồng chí Thắng và tôi sẽ tiếp tục bàn với nhau thêm...

5.
O’Connor tới Bình An với một chiếc cặp tài liệu. Hai Long từ trong trường đi ra. Ông khoác lưng anh rảo bước về văn phòng:
- Tôi có cái muốn cho thầy xem...
Mấy lần gặp vừa qua, Hai Long đều bày tỏ nỗi lo âu trước tình hình tiến triển chậm chạp của đợt phản công mùa khô lần thứ hai. Anh phê phán sự kém hiệu quả của hai cuộc hành quân Attelboro và Cedar Falls hồi đầu năm, tiếp theo là những cuộc hành quân Gadsden và Tucson còn kém cỏi hơn. Anh nói mình vẫn chưa nhìn thấy dấu hiệu những nhà chiến lược quân sự Mỹ như lời O’Connor nói, đã rút ra được bài học kinh nghiệm sau đợt phản công lần thứ nhất. sức mạnh quân sự Mỹ đã được sử dụng giống như dùng một chiếc búa lớn để đập ruồi, khi chiếc búa vung xuống thì đàn ruồi đã bay lên, toàn bộ sức mạnh của nó giáng lõm cả đất, sau đó cả đàn ruồi lại bu trở lại. Mỹ quá ỷ vào khả năng cơ động của mình, nhưng dù cơ động nhanh tới đâu cũng không bằng những người ở ngay tại chỗ. Hình như giới quân sự Mỹ vẫn chưa tìm ra được chiến thuật hữu hiệu để đánh bại Quân Giải phóng đang phát triển ngày một nhanh.
O’Connor rút từ trong cặp ra một tấm bản đồ.
- Tôi muốn giải đáp cụ thể điều thắc mắc từ lâu của thầy. Tôi đã nói với thầy hơi sớm. Nhưng bây giờ thì cái gì phải đến sẽ đến. Một cuộc hành quân quan trọng phải trải qua một quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng. Mấy cuộc hành quân hồi tháng 2 vừa rồi đã làm thầy thất vọng, lại chính là những đòn thăm dò cần thiết chuẩn bị cho đòn quyết định này. Tôi cho thầy biết kế hoạch và những mục tiêu cụ thể. Thầy sẽ đem kết quả mà nó sẽ đạt được đối chiếu với mục tiêu đề ra lúc ban đầu.
O’Connor trải tấm bản đồ ra bàn, rồi nói về cuộc hành quân mang mật danh Jucntion City huy động nhiều lữ đoàn Mỹ và chiến đoàn ngụy, nhằm vào căn cứ Dương Minh Châu của ta nằm ở phía bắc Sài Gòn, giáp với biên giới Campuchia.
O’Connor nói:
- Đây là một đòn tối hậu đánh vào căn cứ đầu não của Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam. Biên giới Campuchia – Việt nam ở khu vực này sẽ bị bịt kín ngay từ đầu cuộc hành quân, cắt đứt mọi đường rút chạy của những người ở trong khu vực. Vòng vây sẽ được từ từ siết lại trong khi đó những mũi đột kích rất mạnh sẽ đánh thẳng vào những điểm mà chúng ra đã biết đó là những cơ quan đầu não. Sau khi mục đích của cuộc hành quân đã đạt được, một lực lượng quân sự quan trọng sẽ đồn trú tại đây, mở rộng khu vực chiếm đóng ra những vùng chung quanh. Đó chính là cái mà tôi đã nói với thầy bữa trước: “Maquis dans maquis”.
Hai Long gật gù vẻ thán phục. Sau khi đã nhập tâm những điều quan trọng, anh thốt lên những lời tán thưởng:
- Tôi nghĩ là cuộc hành quân lần này sẽ đạt được mục đích của nó.
Nhưng tới lúc này, ông linh mục bỗng trở nên dè dặt:
- Phải chờ xem! Chúng ta đang gặp phải một địch thủ lạ lùng. Số phận Westmoreland sẽ được định đoạt với cuộc hành quân lần này. Cầu Chúa phù hộ cho ông ta.
Cả tối hôm đó, trong căn phòng riêng bé nhỏ ở nhà Hòe, Hai Long ngồi trước một tấm bản đồ, dùng mực hóa học viết báo cáo về kế hoạch cuộc hành quân mà Westmoreland đang đặt tất cả hy vọng. Nội nhật ngày hôm sau, những tài liệu này sẽ về tới Trung tâm.

6.
Cuộc hành quân Junction City mở đầu ngày 21-2 và kết thúc vào ngày 19-4. Suốt thời gian này, O’Connor không bao giờ tỏ ra vui vẻ khi Hai Long sốt sắng hỏi thăm tin tức về cuộc hành quân.
Đôi mắt xanh của ông linh mục mất đi những ánh tươi vui, trở nên sâu thẳm. Ông nói những tin tức không lấy gì làm khích lệ, trận đánh vẫn tiếp tục dằng dai và gay go, hình như quân Mỹ đang bị sa lầy.
Cuối tháng 3, O’Connor nói:
- Thật kỳ lạ, những đơn vị quân Mỹ và Việt Nam cộng hòa bị đánh ở khắp những nơi mà họ tới. Cứ như là họ rơi vào những trận địa đã bày sẵn.
- Tôi đã có dịp nói với cha, Mỹ có những phương tiện cơ động nhanh nhưng không thể nhanh hơn những người tại chỗ!
- Không hoàn toàn chỉ có như vậy. Lực lượng của Việt Cộng như chúng ta đã biết, không thể mạnh ở tất cả những nơi mà quân Mỹ bất ngờ ập tới!
- Tôi nghĩ là chính những cuộc hành quân trước đó đã báo động cho họ tập trung lực lượng phòng bị. Quân Mỹ đã mất thế bất ngờ trong cuộc hành quân này.
- Mỹ cùng chiến đấu với đồng minh nên rất khó giữ bí mật. Nhưng chúng ta chưa có cơ sở để kết luận về điều này.
Trung tuần tháng 4, O’Connor tới Bình An với thái độ buồn bã. Ông nói với Hai Long:
- Junction City đã thất bại. Số thiệt hại của quân Mỹ và Việt Nam cộng hòa khá nặng. Westmoreland phải kết thúc cuộc hành quân để khỏi bị sa lầy. Có nhiều triệu chứng Việt Cộng sắp làm một cái gì trên đường số 9. Đã tới lúc Westmoreland phải xem lại chiến lược “lùng và diệt” của mình!
---
[1] Sau là Tổng bí thư Đảng CSVN
[2] Tức Trần Quốc Hương, người được mệnh danh là “bậc thầy của các nhà tình báo chiến lược”
[3] tức Thủ tướng Phạm Văn Đồng
[4] tức Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp
[5] tức Lê Hữu Thúy, sau được nhà nước Việt Nam phong Đại tá, Anh hùng LLVT
[6] Dominicain
[7] Xem “Điệp viên giữa sa mạc lửa” của Nhị Hồ.

Chương 9
THIỆU – KỲ
1.
Quân Mỹ và quân chư hầu như những cơn bão, hết đợt này qua đợt khác từ biển Đông đi vào các thành phố Nam Việt Nam, kéo theo những cơn lốc quay cuồng.
Sài Gòn, một thành phố xây dựng thời Pháp thuộc, với những ngôi nhà kiến trúc kiểu Pháp, núp dưới lùm cây xanh chống nóng nhiệt đới, những đường phố vắng vẻ, những đại lộ yên tĩnh, giờ đây thay đổi hẳn. Xe vận tải nhà binh với những tên lĩnh Mỹ mặt cháy nắng. Khách sạn, hộp đêm, tiệm nhảy, phòng trà, nhà tắm hơi có con gái xoa bóp xuất hiện nhan nhản. Đường Tự Do, đường Nguyễn Huệ, những phố chung quanh chợ Bến Thành đầy ngập binh lính Mỹ. Bám vào đội quân viễn chinh như những ký sinh trùng là những tên cò mồi, chạy áp phe, và đông nhất là đám “bụi đời”. Cùng với những cô gái ăn chơi, nhiều thiếu nữ con cái những sĩ quan, công chức ngụy bắt đầu bỏ tà áo dài thướt tha, duyên dáng, thay bằng những chiếc áo ngắn tay, chiếc váy ngắn cũn cỡn. Đồ quân dụng và thực phẩm của binh lính Mỹ đầy ngập các chợ và tràn ra cả trên lề đường. Đồng bào ta ở nông thôn bị bom đạn Mỹ xô đuổi, đổ vào thành phố, sống trên vỉa hè, bổ sung cho đội quân khất thực trước đó đã khá đông đảo. Cùng với tiếng gầm rú của xe hơi, xe máy, tiếng nhạc giật gân, là tiếng máy bay phản lực rít trên bầu trời và những loạt bom và đại bác ngày đêm từ xung quanh Sài Gòn dội về nhiều lúc làm rung cả những ô kính các ngôi nhà cao tầng trong thành phố.
Hai Long thấy rõ dân tộc đang đứng trước một thử thách mới gay gắt, và nhiệm vụ của mình trở nên rất nặng nề.
Trung tuần tháng 6-1967, chính quyền Sài Gòn công bố luật bầu cử tổng thống và thượng nghị viện.
Sài Gòn lại ồn ào thêm vì những hoạt động tuyên truyền vận động. Các tổ chức chính trị phe phái đều đưa người ra tranh cử. Ứng cử vào chức vụ tổng thống và phó tổng thống có 11 liên danh. Trong số này nổi lên những liên danh của Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương và Trương Đình Dzu. Mười một liên danh này đều cử người tới nhà thờ Bình An tranh thủ sự ủng hộ của khối Công giáo.
Cha Hoàng bàn với Hai Long chia nhau tiếp và làm việc với những liên danh chính. Hai Long nhận tiếp hai liên danh: Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương. Anh cũng khéo léo giới thiệu Nguyễn Gia Hiến, Chủ tịch lực lượng Công giáo di cư, làm việc với Nguyễn Cao Kỳ, và Nhị Hà (Thắng) làm việc với Phan Khắc Sửu để giữ quan hệ tốt với 2 liên danh này.
Cuộc tổng tuyển cử tạo nên sự rạn nứt trong quan hệ vốn đã lỏng lẻo giữa Thiệu và Kỳ. Kỳ nổi lên như một nhân vật có nhiều triển vọng. Có dư luận Johnson đã coi Kỳ là người đối thoại chính trong cuộc gặp gỡ tại Honolulu. Cùng đi với Kỳ có cả Thiệu và Nguyễn Hữu Có, bộ trưởng Quốc phòng. Nhưng họ chỉ là hai người ngồi bên Kỳ trong suốt cuộc đối thoại. Tính chịu chơi và ngang tàng của Kỳ tranh thủ được nhiều cảm tình của những tướng trẻ, so với Thiệu, bị coi là thâm trầm và thủ đoạn. Một số tướng trẻ đã xúi Kỳ ứng cử. Kỳ cũng tin mình sẽ đắc cử, nên liên danh cùng Nguyễn Văn Lộc ra tranh ghế tổng thống và phó tổng thống. Thiệu vội vã tổ chức liên danh với Trịnh Quốc Khánh. Trong cuộc họp hội đồng quân lực, những tướng trẻ cùng phe với Kỳ, mấy lần khuyên Thiệu nên rút khỏi quân đội, tránh trường hợp có hai quân nhân cùng tranh cử. Thiệu biết nếu ra ngoài quân đội thì càng ít hy vọng trúng cử, một mực trả lời, không ai buộc được mình phải rời quân đội. Mối quan hệ giữa hai viên tướng trở nên rất căng thẳng.
Nhân dịp này, Hai Long bàn với Hòe đệ đơn ứng cử vào thượng nghị viện. Anh rất ít hi vọng trúng cử, vì không có tiền tổ chức vận động. Sau khi đã làm chủ nhiệm báo kinh tế Vừng Đông, anh ra ứng cử chỉ nhằm một lần nữa khẳng định vị trí cao trong xã hội của mình. Hòe vẫn giữ vai trò liên lạc đặc biệt giữa Hai Long và Thiệu. Khi anh tới dinh Độc Lập, khi tới dinh Quốc khách ở đường Tú Xương, khi tới Bộ Tổng tham mưu gặp Thiệu để truyền đạt những ý kiến của Hai Long.
Hòe nhận xét Thiệu là con người gian hùng, xảo quyệt, đa nghi, đồng thời lại hiếu danh, hiếu thắng. Thiệu thích khoe khoang vai trò quyết định của mình trong hai cuộc lật đổ Ngô Đình Diệm và Dương Văn Minh. Nhưng Thiệu cũng thú thật với Hòe, mình e ngại thế lực của Kỳ, và lúc nào cũng băn khoăn, lo lắng không biết Mỹ còn tin dùng mình nữa hay không. Thiệu lại ngỏ ý tha thiết muốn gặp Hai Long để bàn biện pháp đối phó với tình hình.
Hai Long vẫn thấy mình chưa nên gặp Thiệu vội. Anh bảo Hòe nói với Thiệu, anh cần tiếp tục giữ quan hệ gián cách tạm thời, mới giúp Thiệu được hiệu quả, và Thiệu có thể cử người thật thân tín đến nhà thờ Bình An cùng anh bàn bạc.
Chỉ một ngày sau, Thiệu cử Nguyễn Văn Hướng tới Bình An. Hướng là tổng thư ký Liên minh dân tộc cách mạng dân chủ xã hội, một lực lượng hậu thuẫn trực tiếp về chính trị cho Thiệu. Hiện Hướng vừa là cố vấn của Thiệu, vừa là người đại diện cho liên danh vận động tranh cử của Thiệu.
Hai Long nói với Hướng:
- Ông cần đánh giá so sánh lực lượng giữa liên danh của chủ tịch Nguyễn Văn Thiệu với những liên danh khác để ta cùng tìm cách giải quyết.
Hướng trình bày một cách khách quan tình hình các liên danh, rồi nói:
- Quốc trưởng và chúng tôi đều rất lo lắng, vì nếu không tạo được một sự ủng hộ mới thật hiệu quả, thì liên danh của quốc trưởng ít có hy vọng đắc cử. Dân Bắc di cư sẽ tập trung phiếu cho thủ tướng Kỳ. Dân Nam sẽ ủng hộ liên danh Phan Khắc Sửu – Phan Quang Đán. Những người không ưa Sửu và Kỳ sẽ bỏ phiếu cho Trương Đình Dzu.
Hai Long nói:
- Cách đánh giá như vậy là đúng tình hình thực tế.
Hướng năn nỉ:
- Từ trước tới nay, vì sự ổn định của chính quyền, cha Tổng và ông giáo vẫn ủng hộ cho cả quốc trưởng và thủ tướng Kỳ. Nhưng nay vào tranh cử, thủ tướng Kỳ đã tách thành liên danh riêng, quốc trưởng rất mong với tư cách một con chiên ngoan đạo, sẽ được sự ủng hộ tập trung của đông đảo giáo dân. Liên danh của thủ tướng Kỳ là mối lo ngại lớn nhất của quốc trưởng. Nếu quốc trưởng một lần nữa thành đạt, quốc trưởng hứa sẽ luôn nghe theo lời khuyến cáo của các cha. Và chắc chắn với cương vị của một tổng thống hợp hiến, quốc trưởng nhất định thực hiện được những khuyễn cáo của các cha nhiều hơn thời gian qua, khi quyền hành thực tế còn nằm trong tay thủ tướng Kỳ là người ngoại đạo.
- Với tư cách là một con chiên, quốc trưởng đã có những lời cam kết với giáo hội như vậy là rất tốt. Giáo hội không có lý do gì để không ủng hộ một con chiên ngoan đạo mà lại đi ủng hộ người bên ngoài. Chúng tôi có thể đảm bảo là giáo dân sẽ đứng về phía quốc trưởng. Tuy nhiên, vẫn phải nói, người giữ vai trò quyết định trong cuộc tranh cử này là Tòa đại sứ Mỹ. Quốc trưởng cũng nên tìm sự ủng hộ tại đó.
- Dạ, nhưng chính đó lại là mối lo của quốc trưởng. Quốc trưởng nhận thấy ông Kỳ có thế lực rất mạnh ở Tòa đại sứ. Quốc trưởng nói với tôi, lần này tới tha thiết cầu mong các cha và ông giáo lo giùm cho cả phía Tòa đại sứ.
Hai Long tỏ vẻ đắn đo. Mãi tới trước lúc Hướng ra về, anh mới nói mình nhận lời đề nghị này, và sẽ báo lại kế hoạch tiếp xúc với Tòa đại sứ Mỹ.

2.
Hai Long nghĩ tới Huỳnh Văn Trọng trong công việc mà anh đang dự định.
Qua những năm công tác trong lòng địch, anh đã nhận thấy cái xã hội thực dân mới này chỉ khác xã hội thực dân cũ ở cái vỏ bề ngoài, cong bên trong nó vẫn chứa đựng vô vàn mâu thuẫn, xấu xa, dồn nén con người, đẩy người ta đến với cách mạng. không khó tìm người đồng tình với mục tiêu đấu tranh của cách mạng, và cũng không khó huy động họ và cuộc đấu tranh. Chỉ có điều phải nghiên cứu kỹ từng trường hợp cụ thể. Cái khó là phải tìm ra công việc phù hợp với từng người, đánh giá đúng khả năng chịu đựng của người đó trước những thử thách của mỗi giai đoạn cách mạng, và phải luôn luôn bồi dưỡng, tiếp sức cho họ.
Anh đã nhiều lần làm việc thêm với Thắng về trường hợp của Trọng.
Trọng đích thực là một đứa con hư của chế độ thực dân phong kiến, đã từng được nó nuông chiều, nhưng nay bị nó ruồng bỏ, và bắt đầu chống lại nó. Trọng vẫn tiếp tục nhận và làm tốt những việc người em kết nghĩa trao cho mình. Anh thừa biết sự nguy hiểm mà mình có thể phải gánh chịu. Hai Long bàn với Thắng thử thách Trọng ở một mức cao hơn. Thắng nhờ Trọng mượn xe ô tô, đưa một người quen của mình ra khỏi Sài Gòn, tới một vùng tranh chấp. Trọng nhận lời ngay, không ngần ngại. Trọng đã tiến hành công việc một cách khéo léo, chu đáo, và không hề hỏi lại từ khi nhận việc tới lúc làm xong.
Thắng khuyên Trọng nên cộng tác với một liên danh có triển vọng trong cuộc tranh cử lần này. Trọng nói mình đã xa rời quan trường từ lâu, không nắm được tình hình chính trường miền Nam. Thắng đưa Trọng tới giới thiệu với liên danh Phan Khắc Sửu – Phan Quang Đán. Sửu và Đán vui mừng tiếp đón Trọng, thiết tha mời Trọng tham gia vận động cho liên danh mình, và hứa sẽ dành cho Trọng một vị trí xứng đáng trong chính quyền nếu họ đắc cử. Thắng nhận thấy Trọng phấn chấn hẳn lên.
Một vài nhân vật quan trọng trong Tòa đại sứ Mỹ đã hứa nếu cơ hội tới sẽ giúp Trọng giành được một vị trí trong chính quyền. Thắng bảo Trọng tới đó thăm dò khả năng đắc cử của liên danh Sửu – Đán. Hai Long cũng muốn kiểm tra lại điều Spellman đã bàn với mình, về ý đồ của Mỹ đối với nhân vật cầm đầu ngụy quyền miền Nam trong cuộc bầu bán sắp tới.
Thắng tìm gặp Hai Long với vẻ mặt không vui:
- Mình tính trật rồi anh Hai à. Anh Trọng đã tới Tòa đại sứ Mỹ. Liên danh Sửu – Đán ít có hy vọng đắc cử.
- Anh Trọng trao đổi với ai ở đó?
- Với Francis Conlon, đệ nhất tham vụ sứ quán. Đúng như kế hoạch đã bàn, anh nhắc lại lời hứa của Conlon hồi trước, rồi nói, mình đang giúp vận động tranh cử cho liên danh Sửu – Đán, tới xin Conlon một lời khuyên. Conlon cân nhắc mãi, mới nói: “Việt Nam cộng hòa đang có chiến tranh, sắp tới còn cần những nhân vật quân sự”.
- Thái độ của anh Trọng thế nào?
- Tất nhiên là buồn. Tôi cũng buồn. như vậy khó có khả năng đưa anh vào bộ máy chính quyền. Anh mong có công ăn việc làm ổn định để đón chị Trọng từ Đà Nẵng về. Tôi cũng rất mong như vậy.
- Mình tính không trật đâu! Anh nói với anh Trọng cứ yên tâm. Khả năng đưa anh Trọng vào bộ máy chính quyền vẫn còn đó. Và nhờ anh mời anh Trọng tới gặp tôi. Anh chỉ cần giới thiệu tôi là một người trong Trung ương khối công dân Công giáo đại đoàn kết, muốn giúp anh trong cuộc vận động tranh cử sắp tới.
- Mình xoay lại còn kịp không anh Hai?
- Mình không phải xoay lại, vì mọi việc vẫn tiến triển đúng hướng. Ta đã nắm chắc được kết qủa của canh bạc này, giờ chỉ cần làm sao khai thác được thắng lợi tối đa...
Hai Long gặp Trọng ở nhà Thắng.
Trước mắt anh là một người cao lớn, mái tóc hoa râm, đeo cặp kính gọng vàng, chững chạc trong bộ đồ lớn. Trọng có cái đẹp kiểu Bảo Đại, với khuôn mặt phương phi, cân đối, một Bảo Đại đã nhuốm màu phong trần, bắt đầu có những suy tư, lo âu về cuộc sống. Bề ngoài của Trọng hoàn toàn phù hợp với vai trò mà anh dự kiến trong công viêc trước mắt và cả sau này.
- Thưa quý anh, - Trọng nói – chú Thắng có biểu tôi tới gặp quý anh.
Hai Long xiết chặt tay Trọng:
- Tôi đang mong anh.
Trọng có những cử chỉ mực thước, chững chạc của người đã quen với lễ nghi giao tế. Hai Long nói tiếp:
- Anh Thắng giới thiệu với tôi, anh là người trong gia đình, có ý định tham chính kỳ này. Tôi nghĩ rằng, vì anh là người có đạo, khối Công giáo có thể giúp anh một đôi việc.
- Thú thiệt với quý anh, tôi đã quá ngán cảnh quan trường, nhưng vì cuộc sống xô đẩy, gần đây theo lời khuyên của chú Thắng, tôi nhận lời giúp cho ông Sửu và ông Đán trong cuộc vận động tranh cử, nhưng vẫn cảm thấy mình lạc lõng. Chú Thắng bảo tôi tới xin quý anh vài lời chỉ giáo.
- Liên danh Sửu – Đán không có hy vọng đắc cử!
- Tôi cũng mới nhận thấy điều đó.
- Anh cần giúp cho một nhân vật quân sự. Tôi nghĩ là liên danh của ông Thiệu.
- Tôi không hề có quan hệ với mấy vị tướng trẻ mới lên cầm quyền.
- Việc này tôi hoàn toàn có thể giúp anh.
- Tôi có nghe chú Thắng nói, quý anh là người đỡ đầu cho tướng Thiệu và tướng Kỳ.
- Nhưng để tạo tư thế cần thiết trong công việc, ta cần phải tiến hành một vài biện pháp kỹ thuật nhỏ. Tôi không muốn anh là người đến xin việc, mà tướng Thiệu cần sự giúp đỡ của anh, thì sẽ phải cử người xin gặp anh, để đưa ra lời đề nghị của mình.
Vẻ phân vân, e ngại vụt biến trong mắt Trọng. Con người này còn mang nặng những mặc cảm về sĩ diện. Trọng tươi cười nói:
- Quý anh đã hiểu rõ tình thế và tâm trạng của tôi, lo cho như vậy thiệt quá sức chu đáo.
- Tôi muốn anh sẽ gặp lại Conlon, nói với y sau cuộc trao đổi bữa trước mình đã nghĩ lại, không giúp cho liên danh Sửu – Đán nữa. Rồi anh nói với y, chủ tịch Nguyễn Văn Thiệu nhờ mình làm trung gian tổ chức một cuộc gặp gỡ giữa đại diện của Thiệu với một số nhân viên Tòa đại sứ Mỹ, để tìm kiếm sự ủng hộ đối với liên danh của Thiệu, mong y nhận lời... Tôi tin rằng Conlon cũng đang mong có một cuộc gặp gỡ như vậy vì Tòa đại sứ Mỹ đã hướng về Thiệu trong cuộc tranh cử này.
- Việc quý anh mới nói không khó mà còn nâng thêm giá trị của tôi ở Tòa đại sứ. Tôi vẫn thường qua lại đó với tư cách một giáo viên dạy tiếng Pháp, làm một số việc chú Thắng yêu cầu. Tôi rất mong còn có thể giúp những công việc khác quý anh có lòng tin trao cho.
Hai Long hiểu Trọng đã đoán biết phần nào mối quan hệ giữa mình và Thắng, nên muốn bày tỏ nguyện vọng. Anh nói:
- Anh Thắng và tôi là đôi bạn rất thận. Chúng tôi đã trao đổi với nhau nhiều về hoàn cảnh của anh. Chúng tôi đều muốn trước mắt, anh cần có một công việc ổn định để đón chị từ Đà Nẵng về trong này. Giờ chúng ta hãy tập trung làm chuyện đó.
- Dạ... - Trọng lộ vẻ cảm động
- Nếu Conlon nhận lời, thì anh sẽ gặp người của tướng Thiệu với tư cách là người đại diện cho phía Mỹ. người của ông Thiệu sẽ phải đón anh như một vị khách quý mà họ trông đợi từ lâu. Anh sẽ tới dinh Độc Lập với tư thế đó.
Trọng siết chặt tay Hai Long trước khi ra về.
Chiều hôm sau, Trọng gặp lại Hai Long, tươi cười nói lại cuộc tiếp xúc với Conlon đã diễn ra rất thuận lợi, người đại diện của chủ tịch Nguyễn Văn Thiệu sẽ được nhân viên Tòa đại sứ Mỹ đón tiếp như những người bạn quý. Trọng cũng nói thêm, cái nhìn của đệ nhất tham vụ sứ quán Mỹ đối với mình đã có sự thay đổi.

3.
Hướng được tin vội phóng xe sang ngay Bình An.
- Nghe ông Hòe nói, ông Thiệu quá mừng, thúc tôi đi gặp ông giáo ngay. Đâu ngờ mới bàn với nhau đó, mà ông giáo đã giúp cho nhanh như vậy.
- Ngoài những việc mà các cha với tôi đã trực tiếp làm với người đại diện cho giáo chủ Spellman tại Sài Gòn, tôi đã tìm được một người có quan hệ mật thiết với đệ nhất tham vụ đại sứ quán Mỹ, tiến hành vận động cho ông Thiệu. Tình hình khá khả quan. Tôi đã mời người đó tới gặp anh trong một ngày gần đây. Người đó sẽ là trung gian tổ chức những cuộc tiếp xúc giữa đại diện của chủ tịch Nguyễn Văn Thiệu với nhân viên Tòa đại sứ Mỹ.
- Đề nghị anh giáo cho biết, tôi cần nói những gì trong cuộc gặp vị đại diện của Tòa đại sứ Mỹ?
- Người này là đại diện của Tòa đại sứ Mỹ, nhưng đồng thời cũng là một giáo dân tin cẩn, được giáo hội trao nhiệm vụ giúp đỡ ông Thiệu. Vì thế, tôi nghĩ, ta nên có thái độ vừa trọng thị, vừa chân tình. Anh nên trình bày với vị đại diện những cái mạnh, cái yếu của liên danh so với các liên danh khác. Cần để cho vị đại diện biết rõ những khó khăn mới bàn bạc được với nhau cách khắc phục.
- Anh giáo có thể cho biêt danh tính của vị đại diện không?
- Chắc chắn là được, vì chỉ nay mai anh sẽ gặp. Đó là Bernard Huỳnh Văn Trọng.
- Ủa, ông Bernard Trọng! Tôi có nghe danh từ lâu. Ông Trọng là bộ trưởng bộ Nội vụ dưới thời quốc trưởng Bảo Đại.
- Cụ thể hơn là thời chính phủ Nguyễn Phan Long. Thời ông Diệm, ông Trọng phải chạy vào ẩn náu trong Tòa đại sứ Mỹ nhiều năm. Đa số nhân viên Tòa đại sứ đều là học trò tiếng Pháp và tiếng Việt của ông Trọng. Cũng không hiểu sao ông Sửu và ông Đán nắm được mối quan hệ gắn bó giữa ông Trọng với Tòa đại sứ Mỹ rất sớm. Họ đã mời ông tới cộng tác với liên danh, hứa sẽ dành cho ông một chức vụ xứng đáng trong chính quyền nếu vận động được Tòa đại sứ Mỹ ủng hộ cho họ. Tôi đã kịp kéo ông Trọng ra khỏi bàn tay của họ. Người Công giáo thì phải vận động cho ứng cử viên là Công giáo, chứ đâu lại đi vận động cho người ngoại đạo! Và giúp được cho ông Thiệu thì lo chi bị thiệt thòi!
- Dạ, đúng như vậy, ông Thiệu đã nói nhiều lần, nếu ông đắc cử thì mọi công việc anh em ta chia nhau gánh vác chớ còn ai vô đây! Ông Thiệu không thể quên ơn Bình An, quên ơn anh giáo.
Hai Long mỉm cười:
- Các cha và cá nhân tôi, chỉ có thể là người đứng sau ủng hộ tân tổng thống. Vì chúng tôi còn nhiệm vụ hàng ngày với giáo hội. Những người mà tân tổng thống phải nghĩ tới đầu tiên, tôi nghĩ chính là anh.
- Dạ, dạ, rất tri ơn anh về ý nghĩ đó. Nhưng tôi tài sơ trí thiển, có giúp được ông Thiệu được chi!
- Anh quá khiêm tốn, với cương vị cố vấn hiện nay của quốc trưởng, anh rất xứng đáng với ghế thủ tướng trong chính phủ mới.
- Rất tri ơn anh giáo, tôi e mình chưa xứng đáng với cương vị đó.
Hai Long muốn làm cho Hướng yên tâm là trong số những người đang giúp Thiệu hiện nay, không có ai nhăm nhe cái ghế thủ tướng mà Hướng đã mặc cả với Thiệu sẽ giành cho mình. Hướng cố giấu vẻ hài lòng nhưng sắc mặt y bỗng tươi nhuận hẳn lên.
Những cuộc tiếp xúc diễn ra đúng như Hai Long mong đợi.
Hướng đón Trọng tại Văn phòng cố vấn của chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia, đồng thời là trụ sở của bộ tham mưu ủy ban vận động tranh cử của liên danh Nguyễn Văn Thiệu.
Trọng thủ đúng vai người đại diện của Tòa đại sứ Mỹ, cử chỉ chững chạc, đàng hoàng, nói ít, nghe nhiều, nghiêm trang với tư thế quan thầy Mỹ, nhưng đồng thời cũng tỏ ra hào hiệp, sốt sắng vì tình nghĩa của một giáo dân hết lòng giúp đỡ đồng đạo. Hướng trân trọng giãi bầy mọi khó khăn và sự kỳ vọng vào người đại diện tin cẩn của Tòa đại sứ Mỹ, vừa là người được Trung ương Công giáo cử ra giúp đỡ Thiệu trong cuộc tranh cử.
Sau khi hỏi Hướng tỉ mỉ mọi mặt tình hình, Trọng hứa sẽ quyết tâm giành được sự ủng hộ Thiệu của Tòa đại sứ Mỹ, sẽ đưa Hướng tới gặp những nhân viên của Tòa đại sứ trong một ngày rất gần, và cuộc gặp này sẽ chỉ là kết thúc của một quá trình vận động mà Trọng đã giải quyết thắng lợi tại sứ quán Mỹ. Hướng hết lời cảm ơn và không quên chuyển lời của chủ tịch Nguyễn Văn Thiệu hứa sẽ đền ơn xứng đáng đối với Trọng.
Hướng tiễn Trọng ra tới ngoài cổng dinh, cung kính cúi chào, chờ Trọng lên xe rồi mới quay vào.
Đúng ngày hẹn, Trọng đưa Hướng tới Tòa đại sứ Mỹ.
Cuộc tiếp xúc diễn ra một cách thân tình quanh bàn tiệc nhỏ tại câu lạc bộ Tòa đại sứ. Phía Mỹ, ngoài Conlon, bí thư thứ nhất, còn có thêm cả Calhoun, phụ tá đặc biệt của đại sứ Ellsworth Bunker, người đã sang thay Cabot Lodge.
Trọng đóng vai người lĩnh xướng, giới thiệu cả chủ và khách.
Đôi bên cùng trao đổi danh thiếp có ghi địa chỉ và số điện thoại để tiếp tục mối quan hệ tốt đẹp sau này.
Hướng nhân danh cố vấn của chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia, cảm ơn sự tiếp đón chân tình với lòng mến khách của Tòa đại sứ Mỹ, và bày tỏ sự mong muốn được nước Mỹ và đặc biệt là Tòa đại sứ, hết lòng ủng hộ Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc tranh cử. Hướng không quên cảm ơn Bernard Huỳnh Văn Trọng là người có công trong việc thu xếp cuộc gặp gỡ này. Conlon và Calhoun đều cảm ơn Hướng và Trọng đã dành cho nhân viên Tòa đại sứ cuộc tiếp xúc thân tình và tin cậy, đồng thời hứa hẹn sẽ cố gắng ủng hộ Thiệu giành thắng lợi trong cuộc tranh cử.
Thiệu chuyển lời qua cha Nhuận, nhiệt liệt cảm ơn Hai Long về sự giúp đỡ rất hiệu quả trong thời gian qua.
Trọng trở thành một nhân vật mới thường xuyên ra vào dinh Độc Lập, được Hướng và cả ủy ban vận động tranh cử cho Thiệu vì nể... Theo lời giới thiệu của Conlon trong buổi gặp, Trọng đã giữ mối dây quan hệ giữa ủy ban vận động tranh cử của Thiệu với Tòa đại sứ. Hướng năn nỉ xin địa chỉ và số điện thoại ở nhà riêng của Trọng. Anh một mực chối từ, chỉ nói khi cần liên lạc gấp với mình thì nhắn qua Hai Long. Hướng tưởng đây là cung cách làm việc của những nhân vật quan trọng có quan hệ với Tòa đại sứ Mỹ. Thực ra trong lúc này, Trọng vẫn phải đi ở nhờ, nay nhà này, mai nhà khác.

4.
Sau khi được Tòa đại sứ Mỹ tỏ quyết tâm ủng hộ mình, Thiệu lập tức gạt Trịnh Quốc Khánh, người đứng cùng liên danh, công bố liên danh mới: Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Văn Hướng. Về uy tín cá nhân, Khánh không hơn gì Hướng. Thiệu chọn Hướng vì Hướng là người thân tín, đồng thời cũng muốn động viên Hướng tích cực hơn nữa trong cuộc vận động.
Hai Long tạm yên tâm về Trọng. Anh thấy cần tiếp tục lo cho Hòe. Anh thường xuyên tạo cơ hội cho Hòe tới gặp Thiệu.
Một buổi, Hòe từ dinh Độc Lập về cho biết, mặc dù đã được Tòa đại sứ Mỹ ủng hộ, nhưng Thiệu vẫn không tin liên danh của mình sẽ giành thắng lợi. Thiệu rất ngại có sự phân tán phiếu giữa mình và Kỳ, trong trượng hợp đó, Sửu và Đán sẽ có nhiều khả năng đắc cử. Thiệu nhờ Hòe nói với Hai Long lo giúp cho trường hợp này.
Hai Long trao đổi với Hòe, thấy sự lo ngại của Thiệu có lý.
Anh mang chuyện này bàn với O’Connor:
- Thiệu đánh giá đúng tình hình, vì hai tướng cùng ra tranh cử nên nhiều khả năng chức tổng thống sẽ rơi vào phe dân sự.
- Nếu vậy, tốt nhất là cả Thiệu và Kỳ cùng đứng chung một liên danh. Trước đây ra cũng dự kiến như vậy.
- Đó là giải pháp duy nhất, nhưng Kỳ khó chấp nhận, nếu Kỳ đứng dưới Thiệu.
- Hồng y Spellman muốn có một tổng thống là người Thiên chúa giáo.
- Giáo hội Việt Nam cũng muốn như vậy nên đã đổ nhiều công sức vào việc này.
- Nhất định phải như vậy. Tôi sẽ trao đổi lại với Bunker. Ông ta có khả năng giải quyết những trường hợp phức tạp.
Mấy ngày sau, O’Connor nói lại với Hai Long đã gặp Bunker, đại sứ Mỹ nói cũng đã nhìn thấy vấn đề và đang cố gắng thu xếp.
Hai Long bảo Hòe nói lại cho Thiệu yên tâm. Nhưng Thiệu vẫn tiếp tục lo lắng.
Cuộc vận động hậu trường của Bunker đã dẫn tới một phiên họp của Hội đồng quân lực với trên bốn chục người tham dự. Vấn đề hai ứng cử viên quân nhân đối với một ghế tổng thống lại được nêu ra.
Cuộc tranh cãi tiếp tục.
- Dân chúng sẽ hiểu đây là dấu hiệu rạn nứt của quân đội!
- Tướng Thiệu nên rút khỏi quân đội, tranh cử với tư cách dân sự!
- Tại sao người rút lui khỏi quân đội là tướng Thiệu mà không phải là tướng Kỳ?
- Nếu hai tướng cùng tranh cử, số phiếu xẻ đôi, ghế tổng thống sẽ trở lại với ông già Phan Khắc Sửu!
Băn khoăn này được nhiều người chia sẻ.
Tướng Kỳ nóng mặt:
- Ông Thiệu muốn là ứng cử viên của quân đội thì để ông làm. Tôi sẽ trở về với nhiệm vụ của tôi trong không quân.
Lời nói của Kỳ không phải không bao hàm một ý đe dọa. Một người lên tiếng:
- Ông Thiệu ra tranh cử một mình chưa chắc đã thắng phe dân sự. Nếu như vì tinh thần đoàn kết của quân đội, sao hai ông không đứng chung trong môt liên danh?
Nhiều người vỗ tay hoan hô.
Kỳ cay đắng chấp nhận đứng liên danh với Thiệu trong cuộc tranh cử. Nhưng một số tướng trẻ lo ngại khi Thiệu ngồi được vào ghế tổng thống sẽ thâu tóm mọi quyền hành. Họ đề nghị ra một nghị quyết, nếu liên danh Thiệu – Kỳ đắc cử thì tổng thống sẽ phải tuân theo ý kiến của quân đội mà đại diện sẽ là một tổ chức mới được đặt tên là “quân ủy hội” gồm các tướng lĩnh và sĩ quan cao cấp trong đó có cả tổng thống, phó tổng thống và bộ trưởng Quốc phòng. Đa số thông qua nghị quyết này. Đây là một điều không có trong hiến pháp.
Ý đồ của Spellman đã được thực hiện.
Tuy nhiên, Thiệu vẫn chưa hết hẳn lo lắng. Thiệu nhờ Hòe đi vận động một vài liên danh có khả năng đắc cử, trong trường hợp Thiệu bị thất bại, thì sẽ giành cho y chức bộ trưởng Quốc phòng.
Sự lo lắng của Thiệu không phải là không quá đáng. Liên danh Thiệu – Kỳ chỉ giành thắng lợi với 33% tổng số phiếu trong cuộc bầu cử ngày 3-9. Vì có quá nhiều liên danh ra tranh cử nên số phiếu rất phân tán.
Ngay sau khi trúng cử, anh ruột của Thiệu là Nguyễn Văn Kiểu có Hướng đi cùng sang nhà thờ Bình An chuyển lời cảm ơn của Thiệu tới cha Hoàng, Hai Long và khối Công giáo đã tận tình ủng hộ trong cuộc tranh cử. Thiệu nhờ riêng Hai Long cảm ơn giùm những người bạn Mỹ.
Trước ngày nhậm chức, qua cha Nhuận, Thiệu nhắc với cha Hoàng là sau Thánh lễ, như lời Thiệu đã đề nghị trước đây, khối Thiên chúa giáo sẽ có một người làm phụ tá cho Thiệu cùng gánh vác việc chung.
Vì Thiệu kết hợp với Kỳ, Hướng bị gạt khỏi liên danh với Thiệu. Thiệu cũng không giữ được lời hứa sẽ đưa Hướng làm thủ tướng sau khi đắc cử. Thiệu phải dành ghế này cho Nguyễn Văn Lộc, người của Kỳ để xoa dịu Kỳ. Hướng đành phải nhận chức Tổng thư ký Phủ tổng thống.
Hòe không trúng cử vào thượng nghị viện, nhưng anh nhanh chóng được mời vào làm công cán ủy viên Phòng Tổng thư ký Phủ tổng thống, trực tiếp giúp việc cho Hướng.

Chương 10
PHỦ ĐẦU RỒNG
1.
Trong năm 1967, cường độ chiến tranh đã tăng lên một cách ghê gớm. Lực lượng quân địch vào thời gian này là 109 vạn người, trong đó có một nửa là quân Mỹ và quân chư hầu. Mỹ đã đưa sang Việt
Nam 40% số sư đoàn chiến đấu, một nửa lực lượng không quân chiến thuật, một phần ba lực lượng hải quân Mỹ. Số phi xuất máy bay chiến lược B.52 tăng lên 800 lần mỗi tháng. Bộ Quốc phòng Mỹ đã ký hợp đồng với 8 công ty, mua 60 triệu dollar chất độc hóa học để rải xuống Nam Việt Nam. Tuy vậy, những cuộc hành quân “lùng và diệt” của Mỹ, nhìn chung đều thất bại.
Hai Long đã nhanh chóng thực hiện việc đưa người vào bộ máy chính quyền.
Thiệu không quên lời hứa với Trọng trước đây. Một bữa Trọng nói với anh, Hướng chuyển ý kiến của Thiệu muốn mời Trọng vào làm phụ tá cho mình ở phủ tổng thống, đặc trách về chính trị ngoại giao. Trọng nhận thấy Hướng có thái độ không vui. Trọng đã trở thành ân nhân của Thiệu trong cuộc bầy cử vừa qua. Trọng đang có một thế mạnh đối với Thiệu, vì anh đã làm sợi dây, giao nối giữa phủ tổng thống với Tòa đại sứ Mỹ. Thiệu rất cần có anh ở khâu quan trọng này. Nhưng anh cũng trở nên một mối đe dọa đối với địa vị của Hướng. Hướng là người thân cận với Thiệu, đã bỏ nhiều công sức phò trợ Thiệu, đã từng được Thiệu đưa vào đứng chung liên danh tranh cử tổng thống, nhưng khi Thiệu toại nguyện thì Hướng không được gì. Nếu Hướng đã ngồi vào ghế thủ tướng, chắc Hướng sẽ vui vẻ khi Trọng được cử làm phụ tá của tổng thống. Nhưng ở cương vị hiện nay, sự xuất hiện của Trọng bên cạnh tổng thống trở thành mối lo lớn cho Hướng... Hai Long bàn với Trong nói là mình rất cảm ơn Thiệu, xin cho mình đứng ngoài tiếp tục giúp Thtiệu như trước đây, không nhất thiết hải vào là phụ tá trong Phủ tổng thống. Hướng trở nên rất vui vẻ. Không hiểu Hướng nói lại với Thiệu thế nào, sau đó chuyện này được lờ đi.
Hai Long nói với Trọng, trong khi chờ đợi, cứ sử dụng danh nghĩa cũ, giữ quan hệ chặt chẽ với Tòa đại sứ Mỹ.
Hòe được bổ nhiệm làm công cán ủy viên Phòng tổng thư ký Phủ tổng thống. Nhưng tình hình tại đây cũng khiến anh phải cân nhắc. Từ lâu, Hướng đã có một người giúp việc là Mai Quốc Đống, với chức vụ đổng lý văn phòng. Đống là sĩ quan biệt phái, đã được huấn luyện tại trường chống chiến tranh du kích ở Mã Lai, là đảng viên Việt Quốc, có trình độ nghiên cứu, viết lách khá, được Hướng rất tin dùng. Đống quản lý hồ sơ mật, phụ trách việc liên lạc hằng ngày giữa Hướng và Thiệu, thao túng cả văn phòng. Đống có thể hiểu lầm Hòe vào đó là muốn nhòm ngó cái ghế của mình. Hai Long bàn với Hòe, nên cứ đứng chân trorng chân ngoài. Hòe nhận việc ở Phủ tổng thống, nhưng vẫn tiếp tục làm việc tại Tổng đoàn Công kỹ nghệ, và còn là chủ nhiệm tập san kinh tế Vừng Đông, mới ra những số đầu đã có tiếng vang. Cách làm việc nửa trong nửa ngoài như vậy khiến cho Đống yên tâm. Đống chỉ coi Hòe là người của Thiên chúa giáo, được Thiệu tin cậy, vào đây kết hợp công việc giúp đỡ thêm cho Hướng.
Với chức vụ mới, Hòe khai thác cái thế là người thân tín của Phủ tổng thống để mở rộng quan hệ với các cơ quan, các bộ quan trọng và quốc hội, những nhân vật tai mắt trong Phủ tổng thống và trong lưỡng viện. Hòe cũng nhanh chóng gây được cảm tình và sự tin cậy của Đống. Anh gợi ý Đống, để nắm được bao quát tình hình hằng ngày giúp cho tổng thống, nên lập một phòng bản đồ, liên lạc thường xuyên với Bộ Tổng tham mưu, Tổng nha cảnh sát, Anh ninh quân đội, cập nhật trên bản đồ những nét chính về tình hình quân sự, an ninh trong nước, đặc biệt là tại biệt khu thủ đô. Đống thấy hay, làm theo ngay. Đống trao đổi với Hòe một cách cởi mở những việc xảy ra ở dinh Độc Lập, thu thập những bản tin mật có giá trị cao, đưa Hòe đọc để cùng nhận định, đánh giá tình hình. Ngoài những tài liệu về kinh tế, tài chính trước đây Hòe vẫn thu thập với tư cách là chánh sự vụ của một hiệp hội Công kỹ nghệ gia miền Nam, Hòe bắt đầu có điều kiện tiếp xúc với các tài liệu về quân sự, chính trị, ngoại giao của chế độ.
Hệ thống tuyên úy Công giáo trorng quân đội đã được phục hồi từ năm 1965, với nhiều linh mục được đào tạo từ Hamilton đang làm nhiệm vụ lãnh đạo tinh thần hơn 20 vạn binh lính Công giáo. Với danh nghĩa cố vấn của cha Hoàng, người của Spellman, Hai Long nắm khá chắc Nha Tuyên úy Công giáo. Cũng nhân dịp này, anh bố trí một loạt những sĩ quan Công giáo vào giúp việc tại nhiều cơ quan của Bộ Tổng tham mưu, ở Nha giám đốc tuyên úy Công giáo. Họ có nhiệm vụ liên lạc với Phủ tổng thống, báo cáo kịp thời với cha Hoàng và anh về tình hình quân đội, mâu thuẫn giữa các tướng lãnh, tinh thần binh lính Mỹ sau mỗi cuộc hành quân...
Trần Thiện, nguyên phó tổng chỉ huy lực lượng tự vệ Phát Diệm, vẫn cảm thấy khó sống gần cha Hoàng, nhờ Hai Long kiếm cho một việc làm ở nơi khác lấy kế sinh nhai. Hai Long bàn với O’Connor, xin cho Thiện mở bar, quán ăn, nhà tắm hơi và thầu giặt quân trang ngay trong căn cứ Lai Khê, nơi sư đoàn bộ binh 25 Mỹ đóng quân. Thiện rất cảm ơn Hai Long vì vừa có tiền vừa được sống xa cha Hoàng, hứa sẽ cung cấp mọi tình hình của quân Mỹ mà Ủy ban trung ương Công giáo cũng như Tòa khâm sứ cần biết.
Khu “tam giác vàng” của Hai Long ngày càng được củng cố và mở rộng. Anh vẫn tiếp tục đi về với xứ đạo Bình An khuất nẻo, nghèo nàn.

2.
Hai Long đang ngồi đọc báo ở nhà thì có người đi vào. Ngoảnh đầu ra nhìn, anh giật mình khi thấy đó là Năm Sang, đồng chí Cụm trưởng. Năm Sang mang kính mát, mặc sơ-mi trắng, đi giầy ba-ta, giống như một người dân trung lưu ở Sài Gòn. Nhưng mọi thứ trên người anh đều mới từ đầu tới chân, cộng thêm nước da mai mái của người sống lâu ngày ở rừng, khiến Hai Long lo lắng. Anh không bao giờ tiếp những đồng chí của mình ở gia đình. Cụm trưởng chắc mới ở ngoài vào, đã tới nhà anh một cách khinh xuất.
Năm Sang biết anh bị bất ngờ, vui vẻ nói:
- Sẵn đi ngang, tạt vô thăm anh Hai chút xíu!
- Trời, mấy tuần rồi mới gặp lại anh Năm. Chị và các cháu có mạnh giỏi không?
- Cám ơn anh Hai, bả và các cháu vẫn bình thường...
Hai Long lấy thêm một chiếc ghế, đặt cạnh chiếc bàn làm việc nhỏ, mời Năm Sang ngồi.
Cụm trưởng đưa mắt nhìn quanh, hơi ngỡ ngàng trước cảnh nhà nghèo nàn của Hai Long. Anh định tới đây trú chân tạm một đêm, trong khi chờ Hai Long tìm cho mình một cơ sở ở nội thành, nhưng anh đã nhận thấy không ổn. Nhà Hai Long chỉ có một phòng, liền bên ngoài lại là chỗ bán hàng của một gia đình khác ở chung.
Hai Long ra cửa hàng bác Kỳ mua hai chai bia. Trong lúc chờ bác lấy ly, đập đá, anh phóng cặp mắt quan sát xem có kẻ nào đã theo chân Năm Sang tới nhà mình không. Không thấy dấu hiệu khả nghi, anh yên tâm quay vào. Năm Sang nói nhỏ mình cần một nơi ở tạm rồi sẽ trao đổi công việc sau.
Mấy ly bia đã mang lại màu đỏ trên bộ mặt Năm Sang. Anh quyết định dùng xe máy đèo đồng chí Cụm trưởng tới một quán cà phê vắng vẻ, để anh ngồi chờ đó, rồi đi tìm Thắng. Một giờ sau, hai người đã kiếm cho Năm Sang chỗ ở tại tầng trệt nhà một luật sư người Pháp. Ông này đã về nước nhưng vẫn giữ lại ngôi biệt thự ở Sài Gòn, trao cho một người làm công cũ của mình trông nom.
Năm Sang cho biết anh được Trung tâm phái vào nội thành trực tiếp chỉ đạo lưới, chuẩn bị cho nhiệm vụ sắp tới. Cụm trưởng quy định cách liên lạc và nền nếp kiểm điểm công tác. Anh mang tới cho Hai Long niềm hy vọng mới, ngày thắng lợi đang tới gần.
Đầu tháng 10, Hai Long tới gặp Cụm trưởng báo cáo công việc hàng tuần. Năm Sang bỗng hỏi:
- Khả năng đồng chí hiện nay vào công tác trực tiếp với Thiệu ở trong dinh Độc Lập ra sao?
- Gần đây, Thiệu vẫn nhờ cha Nhuận đánh tiếng xin cha Hoàng cử thêm người vào Phủ tổng thống trực tiếp giúp đỡ y.
- Hắn có nhắm ai cụ thể không?
- Tôi nghĩ có thể hắn muốn xin tôi.
- Nếu vậy thì quá tốt! – Năm Sang tỏ vẻ mừng rỡ - Để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới, trên quyết định trao thêm cho chúng ta một số nhiệm vụ. Ngoài nhiệm vụ như hiện nay, cụm ta còn phải làm thêm hai nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, và trực tiếp chiến đấu. Như vậy, có nghĩa là phải làm những công tác cụ thể như: chuẩn bị chiến trường, trinh sát mục tiêu, theo dõi diễn biến trong nội đô, kể cả việc bắt cóc, tiêu diệt bọn đầu sỏ cao cấp của Mỹ - ngụy... Để làm cùng một lúc cả ba nhiệm vụ, lưới phải mở rộng, vừa phục vụ, vừa tin tức, vừa hoạt động chiến đấu. Tổ chức giao thông cũng trở nên rất cồng kềnh. Có thể chúng ta sẽ phải trực tiếp là công việc vận chuyển vũ khí, đạn dược từ ngoài vào nội đô...
Hai Long cảm thấy rạo rực với ý nghĩ mình sắp được trở về cùng đồng đội, sôi nổi lao vào những trận đánh hào hùng, mặt đối mặt với kẻ thù, nhưng anh lại có một băn khoăn:
- Tôi nghĩ đó là nhiệm vụ chung của cả lưới, nhưng cũng có người phải làm những nhiệm vụ thật riêng biệt?
Năm Sang lúc lắc đầu:
- Tôi hiểu là chúng ta đều phải làm cả ba nhiệm vụ đó đồng thời. Tôi biết đồng chí không thiếu tinh thần dũng cảm, chỉ lo những việc này sẽ ảnh hưởng tới nhiệm vụ lâu dài của đồng chí. Nhưng có điều cả tôi và đồng chí bây giờ mới biết: Trận đánh sắp tới là trận đánh quyết định! Chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả vì trận đánh này! Đây chính là yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn sắp tới
Năm Sang chăm chú nhìn anh, Hai Long nói:
- Vấn đề đã rõ.
Năm Sang nói tiếp:
- Dựa vào nhiệm vụ của trên đã trao, riêng lưới đồng chí sẽ đặc trách hai công việc quan trọng. Thứ nhất là nắm tình hình ba mục tiêu: dinh Độc Lập, Tòa đại sứ Mỹ, Tổng nha Cảnh sát, vẽ sơ đồ từng vị trí, điều tra tình hình công sự và lực lượng bố phòng. Thứ hai là bám sát hai tên đầu sỏ là Thiệu và Bunker... Đồng chí thấy sao?
- Nhiệm vụ điều tra 3 mục tiêu, tôi sẽ cố gắng hoàn thành. Còn nhiệm vụ bám sát cùng một lúc cả hai tên đầu sỏ, tôi xin nghiên cứu xem khả năng của lưới có thể làm tới đâu.
- Tôi thấy đồng chí cần ở sát Thiệu trong thời gian sắp tới. Đồng chí nên nhận vô làm việc trực tiếp với Thiệu. Tôi sẽ báo cáo ngay vấn đề này với trên. Trước nhiệm vụ mới, chắc trên sẽ đồng ý.
Hai Long có những tình cảm lẫn lộn khi ra về. Trong lòng anh rộn lên một niềm vui khó tả khi nghĩ tới mình sắp được tham gia vào trận đánh quyết định. Nếu phải hy sinh cho trận đánh này thì cũng là một vinh dự lớn lao. Nhưng anh lại bâng khuâng với một câu hỏi: Nếu trận đánh này chẳng may không giành được thắng lợi như dự tính? Tất nhiên lại phải tiếp tục công cuộc chiến đấu lâu dài. Cụm trưởng không hề đề cập tới trường hợp đó. Có thể vì là cách suy nghĩ đơn giản của anh... Nhưng mình là một người lính! Khi đã nhận lệnh, mình phải hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu bằng mọi giá...

3.
Hai Long xuống xe trước của nhà thờ, ông gác chạy ra nói:
- Cha chánh xứ dặn, nếu ông giáo tới, mời ông giáo vô ngay văn phòng.
Thấy anh đi vào, cha Hoàng bỏ chiếc điếu cày xuống:
- Thầy sắp có khách, mình phải trao đổi trước, không rồi lại trống đánh xuôi, kèn thổi ngược!
- Thưa cha, khách nào đấy ạ?
- Chiều qua, Thiệu vừa lại bảo Kiểu, anh ruột của nó vào đây, ngồi lằng nhằng mãi về cái chuyện cha Nhuận đã nói bữa trước.
- Thưa cha, chuyện xin người vô Phủ tổng thống?
Cha Hoàng rít vội hơi thuốc lào, nhả khói mù căn phòng, rồi thủng thỉnh:
- Mình bảo, Công giáo đã cử bao nhiêu người vô Phủ tổng thống, lớn bé đủ loại, cũng còn phải làm việc khác cho giáo hội nữa chớ, người đâu mà xin! Kiểu nói, lần này không dám xin phụ tá nữa, phụ trá như vậy là tạm đủ rồi, Thiệu muốn xin một người có trọng lượng hơn, công khai chính thức phò giúp tổng thống. Cụ thể là nó muốn xin một người vô làm cố vấn cho tổng thống.
Hai Long chỉ nhếch mép cười lặng thinh
Cha Hoàng lại nói tiếp:
- Mình biết tận ruột Thiệu. Nó đã ngồi vào ghế nhưng vẫn thấy chưa yên. Nó rất ngán Kỳ râu kẽm. Ghế thủ tướng lại do người của Kỳ nắm. Nó bị ép cả hai bên. Nó cần có người Công giáo vô, mà lại muốn là người gốc Bắc di cư ngồi bên, là để có cái thế nạt lại Kỳ. Mình thấy chưa tới lúc phải “xuất tướng” cho nó!
- Thưa cha, mình cứ trả lời như với cha Nhuận bữa trước: Công giáo hết lòng ủng hộ tổng thống, nhưng chưa tìm được người như yêu cầu của tổng thống, chờ một thời gian nữa, khi có người ta sẽ giải quyết.
- Mình đã trả lời vậy rồi, nhưng Kiểu nói, tổng thống đề nghị cụ thể là “muốn xin ông giáo”. Mình từ chối, nó cứ năn nỉ, cuối cùng mình phải bảo: “Muốn xin thầy Nhã, thì phải hỏi chính thầy Nhã!” Nó nói: “Trình thiệt với cha, tình hình Phủ tổng thống nhiều khó khăn lắm, con e chú Thiệu không có người phò trợ vững, chưa chắc trụ nổi. Nếu con mời được ông giáo, mong cha cho ông giáo vô”. Vì vậy, bữa nay, phải bàn trước với thầy.
Thời gian qua, Hai Long phải xuất đầu lộ diện nhiều hơn trước, nhưng với cương vị một thầy Bốn, một giáo viên trung học ở một xứ đạo nghèo, anh chưa trở thành đối tượng chú ý, ghen tỵ của nhiều người. Nhiệm vụ chiến đấu mà Cụm trưởng nói phổ biến đang buộc anh phải tạm rời khỏi Bình An. Trước mắt anh là một cơ hội tốt. Nhưng anh chưa nắm được ý nghĩ thực của cha Hoàng. Cha muốn giữ anh kề cận bên mình? Hay cha muốn người của Bình An vào làm cố vấn của tổng thống để tăng thêm danh giá, nhưng cha đang thử thách con quỷ cám dỗ địa vị, tiền tài trong người anh, và cả lòng chung thủy đối với cha?...
- Cha là bề trên, chỉ cần trả lời Kiểu như vậy. Khi con gặp Kiểu, con sẽ tìm được cách khước từ mà không làm cho Thiệu tự ái.
Cha Hoàng đứng dậy, ra tủ cầm chai rượu lễ, đem lại rót đầy hai ly. Lời nói của anh chắc đã làm đẹp lòng cha.
Cạn ly với ông xong, anh xin phép ra trường. Anh vừa bước đi thì cha giữ lại:
- Bàn thêm chút nữa. Thầy vô chân cố vấn của tổng thống thì chắc là Tòa thánh rất hài lòng, mà Phát Diệm ta cũng được thêm cái tiếng. Mình vẫn không ưa Thiệu là anh “đạo theo”, Đại Việt, tính tình lại xảo quyệt. Hay bây giờ ta thử tính hai công thức này: Lập một Polit Bureau cho Thiệu, gồm ba người Thiệu – Kiểu – Nhã. Và lập một Polit Bureau chung, có tính bán chính thức gồm: Nhã – Hướng – Kiểu, hình thức bề ngoài là cố vấn đặc biệt của tổng thống. Như vậy chắc Thiệu cũng hài lòng, mà ta thì vẫn chân trong chân ngoài... Thầy thấy sao?
- Thực ra thì từ trước tới nay, ta chưa cử người làm cố vấn cho Thiệu, nhưng khi Thiệu cần nhờ cậy bất cứ việc chi, ta đều hết lòng, Thiệu cần người vô trực tiếp trong đó, đúng như cha nói, là cần có cái danh nghĩa chính thức của Phát Diệm!... Con thấy giải quyết như ý cha là thỏa đáng.
Cha Hoàng tươi cười:
- Thầy đã nhất trí như vậy thì cứ theo đó mà làm.
- Con sẽ nói với Kiểu đó là ý kiến của cha, con chỉ là người thừa hành.

4.
Giữa buổi sáng, Kiểu tới.
Hai Long đã biết Kiểu từ ngày Kiểu thay mặt Thiệu tới Bình An cảm ơn.
Kiểu nói:
- Tổng thống và mấy anh em chúng tôi quý trọng ông giáo từ lâu, không phải tới bây giờ mới có ý định này, nhưng qua nhiều lần nhờ cha Nhuận, cha Lãm, thấy cha Tổng chưa ưng, nên tổng thống biểu tôi xuống trực tiếp thỉnh cầu. Chiều qua, ngồi rất lâu với cha Tổng, cuối cùng cha đã xuôi, nhưng cha nói phải xin ý kiến trực tiếp ông giáo. Trước khi đi, tổng thống nhờ tôi nói là tổng thống không thể thiếu sự giúp đỡ trực tiếp hàng ngày của ông giáo. Ông giáo hiểu rất rõ nội tình, khó khăn của đất nước, lại còn nhiều khó khăn ở ngay trong Phủ tổng thống. Mong ông giáo vui lòng tiếp tay cho. Anh em chúng tôi đều hết sức tri ơn.
Hai Long nhắc lại những ý kiến của cha Hoàng.
Kiểu rất mừng rỡ:
- Lý ra sáng nay tôi xuống sớm hơn, nhưng tổng thống chọn đúng giờ tốt mới cho xuất hành. Linh nghiệm thiệt! Rõ ràng là đi gặp may. Cha Tổng đã có quyết định, xin mời ông giáo vô sớm để bàn bạc công việc cho tổng thống yên lòng.
Kiểu ngần ngừ rồi nói thêm:
- Còn về ý cha Tổng muốn lập hai Polit Bureau... Thôi thì trước mắt, ta cứ lãnh ý cha, nhưng tôi nghĩ khi vô thực tế công việc rồi thì vẫn chỉ có một mình ông giáo với tổng thống. Nhiều việc quân cơ không thể đem ra bàn bạc đông người. Việc chi có thể bàn chung, tổng thống đã đưa ra nội các, ra quân ủy hội. Còn những việc cần bàn riêng, tổng thống tin ai sẽ hỏi người đó. Nếu tổng thống không hỏi thì biết việc gì mà bàn, và bàn với ai! Đây là tôi nói riêng với ông giáo, mong ông chớ nói lại với cha. Đối với cha Tổng, cứ coi như là ta chấp hành tất cả những ý kiến của cha.
- Tôi nghĩ cha Tổng có ý kiến như vậy, là cha đánh giá rất cao ông và ông tổng thư ký.
- Cá nhân tôi rất đội ơn cha, nhưng rồi thực tế sẽ diễn ra như tôi vừa nói. Chú Thiệu là em tôi, tôi biết rõ tánh nết chú Thiệu. Riêng tôi, chắc trong thời gian tới, cũng sẽ không có mặt thường xuyên ở Phủ tổng thống...
Kiểu bỏ qua chuyện đó, lại hỏi Hai Long:
- Chừng nào thì ông giáo có thể vô dinh để tôi về nói lại với chú Thiệu cho chú khỏi mong. Cũng phải chuẩn bị nơi làm việc cho ông giáo. Dinh Độc Lập mới làm lại, khang trang, rộng rãi, không lúi xùi như dinh Gia Long. Phòng lớn, phòng nhỏ không thiếu, nhưng cái khó là phải có nơi êm tịnh cho ông giáo, đặc biệt là một nơi kề cận với tổng thống để tiện trao đổi công việc hàng ngày.
- Tôi sẽ cố gắng thu xếp vô sớm để tổng thống khỏi trông. Ngày nào vô được, tôi sẽ nhờ cha Nhuận báo lại với tổng thống...
Cơ hội tới quá nhanh. Anh còn phải báo cáo lại với Năm Sang và chờ quyết định của Trung tâm.

5.
Hai Long dùng xe của cha Hoàng tới dinh Độc Lập. Anh không muốn ai chú ý tới mình, nhưng dù sao cũng phải giữ thế trong buổi đầu tiếp xúc với Thiệu.
Đã 3 năm, anh mới trở lại chốn này. Lần đầu, anh tới đây với tư cách là phụ tá của Đức cha Lê. Ngày đó, anh chưa được gặp Diệm, và còn băn khoăn về thái độ Nhu sẽ tiếp đón mình ra sao. Lần này, anh trở lại là do lời khẩn cầu tha thiết của chính tổng thống. Chỉ cần một thái độ không thỏa đáng của Thiệu, anh sẽ không tới đây nữa, và Thiệu sẽ lại mất công sức chào mời anh trở lại. Lúc này, người cần là Thiệu, chứ không phải là anh.
Nhiều năm nay, anh đã mơ ước được chứng kiến giờ phút Sài Gòn giải phóng, thở hít bầu không khí tự do. Chỉ cần sống một ngày như vậy là anh đã mãn nguyện. Lúc nào anh cũng cảm thấy ngày đó còn rất xa, có thể nó chỉ nằm trong mơ ước của anh thôi, vì anh không tin mình sẽ đi tới đích. Vậy mà bây giờ nó đang tới gần. Chưa bao giờ anh có một cái thế vững chãi như lúc này. Số phận đã quá nuông chiều mình. Bao nhiều đồng bào, đồng đội của mình đã không kịp nhìn thấy ngày đó. Cái ngày vô cùng tươi đẹp đang tới.
Ngồi trong xe, Hai Long có cảm giác mình đang đi tới cái đích cuối cùng. Mình sẽ cố bám trụ ở đây cho tới lúc lá cờ của Tổ quốc kéo cao trên nóc dinh Độc Lập trong sự hân hoan của hàng ngàn triệu người đang nhìn về dải đất Đông Nan châu Á này với cặp mắt lo âu. Anh tạm xua đi sự hoài nghi vốn là nếp nghĩ quen thuộc ở những người chiến sỹ tình báo, để giữ cho mình những phút vui trọn vẹn.
Kiểu và Hướng đã ngồi chờ anh tại ngôi nhà hai tầng quét vôi màu xanh nằm bên trái khuôn viên, một kiến trúc duy nhất của dinh toàn quyền Pháp cũ còn sót lại sau ngày dinh Độc Lập được xây dựng mới hoàn toàn. Anh đã làm việc với Nhu nhiều lần ở đây. Hai Long nói với Kiểu, anh muốn vào dinh một cách thật im lặng. Nhưng nhiều nhân viên đã bỏ dở công việc, chăm chú nhìn anh. Không mấy khi cả tổng thư ký và anh ruột của tổng thống cùng ngồi chờ đợi đón khách. Một số người đã nhận ra anh. Họ là những nhân viên đã làm việc từ thời còn Diệm, Nhu.
Hướng vồn vã bắt tay Hai Long, nói những lời chào mừng, chúc tụng rồi rút lui để Kiểu đưa anh lên gặp Thiệu.
Sau ngày dinh Độc Lập bị ném bom, Diệm, Nhu đã quyết định xây lại trên nền đất cũ, một phủ tổng thống mới to lớn tráng lệ bậc nhất ở Đông Nam Á. Dinh Độc Lập mới với bồn tầng lầu, đồ sộ không kém Nhà Trắng ở thủ đô Mỹ. Hiểu ý của những người chủ, nhà kiến trúc đã thiết kế một công trình theo kiểu hiện đại mà vẫn mang một số vẻ Á Đông. Phía ngoài là những hàng cột trắng hình gióng trúc, biểu tượng của người quân tử. Trên cao có một lầu đón gió, được gọi là Tĩnh Tâm Lâu, với một sân bay lên thẳng nằm kề cận. Những gian phòng lớn nhỏ bên trong đều được ngăn cách bằng những phiến kính trắng, dày trong suốt, có những rèm vải màu, để dùng điều hòa nhiệt độ. Diệm, Nhu đã không kịp thấy công trình cự kỳ tốn kém này hoàn thành.
Kiểu không dùng thang máy, đưa Hai Long vào cửa chính, lên gác theo đường cầu thang bằng đá, rải thảm đỏ. Hai Long đi ngang những căn phòng kính choáng lộn, đồ đạc bên trong sang trọng, mỗi phòng, bài trí theo một kiểu với màu sắc khác nhau. Kiểu như ngầm nói với anh: “Ông coi tòa nhà này khác với cái nhà thờ mái tôn, ván vách ở Bình An ra sao, vậy mà ông cứ để anh em chúng tôi phải chào mời miết!”. Đáp lại, Hai Long làm như không chú ý đến xung quanh, thản nhiên đi theo Kiểu.
Thiệu đang ngồi tại phòng riêng trên lầu ba, với bộ quân phục đeo lon trung tướng. Cả Thiệu và Kỳ, tuy đã trở thành nguyên thủ quốc gia, vẫn thường mặc quân phục như không muốn người ta quên mình là quân nhân. Nhác thấy Hai Long, Thiệu đứng bật dậy, rời ghế xa-lông, ra cửa đón anh.
Thiệu có bộ mặt tròn căng, trán rộng và dô, cái miệng nhỏ với cặp môi ướt át như môi con gái. Nếu không có đám tóc sớm bạc phía sau gáy và cái bụng bắt đầu to, thì y trẻ hơn tuổi 46. Mới gặp lần đầu, chắc ít người nghĩ y thâm hiểm, thủ đoạn. Y mang nhiều dáng vẻ của một sỹ quan tùy viên linh lợi hơn là một tổng thống ngụy quyền.
Thiệu tươi cười siết tay Hai Long, rồi thân mật khoác lưng anh đưa vào phòng.
Thiệu vào chuyện cởi mở bằng giọng nói cực Nam Trung Bộ hơi nặng:
- Từ bữa anh Kiểu về nói ông giáo nhận lời vô giúp, tôi rất mừng. Tôi vô chấp chính kỳ này, công ông giáo rất lớn. Bữa nay, một lần nữa xin trực tiếp có lời cảm ơn ông giáo. Về việc quốc gia bây giờ, anh em mình phải chia nhau gánh vác chớ còn trao cho ai! Cha Hoàng đã cử nhiều người vô giúp, nhưng thực ra vấn đề lớn thì vẫn chưa có người bàn. Ông giáo vô là để giúp cho những việc trọng đại. Có những việc mà ngay người ruột thịt trong nhà cũng không thể nói ra, vì có nói họ đâu biết chi mà tham gia vô. Về danh nghĩa, để tiện cho công việc đối nội và đối ngoại, ông giáo là cố vấn đặc biệt của tổng thống. Nhưng về thực chất, ông giáo với tôi là anh em trong nhà. Mọi việc lớn có quan hệ tới vận mạng quốc gia, tôi sẽ cùng bàn với ông giáo. Chúng ta coi nhau như ruột thịt, chị ngã em nâng, phải không ông giáo? Đó là về phía ông giáo giúp tôi. Còn về phần tôi, ông giáo cần bất cứ thứ chi về tinh thần, vật chất, tôi có trách nhiệm chu toàn. Ông giáo cần chi, xin ông giáo cứ cho biết. Đã là anh em trong nhà, không có điều chi phải ngại.
- Tổng thống đã lấy sự chân tình đối xử, lẽ nào tôi không lấy chân tình đáp lại. Từ trước tới nay, tôi đã ráng làm được đôi việc do tổng thống ủy thác, đó không phải là cá nhân tôi tài giỏi mà còn do uy tín của tổng thống và hồng phúc của gia đình ta. Về tinh thần, tổng thống trao cho làm cố vấn trực tiếp, đối với tôi, đã là một phần thưởng lớn, còn về vật chất, tôi đã quen cuộc sống thanh đạm, không có đòi hỏi chi. Tôi xin ghi nhận sự quan tâm của tổng thống, nếu khi nào thực sự có yêu cầu, đã là người trong nhà, lẽ nào lại không nói! Bữa nay gặp tổng thống, tôi muốn bàn ngay vô conng việc, có những vấn đề chi đang làm tổng thống bận tâm, xin tổng thống cứ cho biết để tôi suy tính định liệu dần.
Thiệu chăm chú nhìn Hai Long rồi nói:
- Ông cố vấn đã lãnh trách nhiệm trong Phủ tổng thống, tôi phải tạo đủ điều kiện để ông cố vấn hoàn thành công vụ. Về chỗ làm việc, ông Hướng đã bố trí cho ông cố vấn một căn phòng kế bên phòng làm việc của tôi, để ta tiện thường xuyên bàn bạc. Còn tiền phụ cấp hàng tháng cho công việc, phương tiện đi lại, chỗ ở của gia đình, chúng tôi sẽ chu tất.
- Những lời tôi vừa nói là hết sức chân thành. Hiện nay, tôi chỉ cần một nơi làm việc ở đây là đủ. Còn mọi thứ khác, khi cần tôi sẽ đề nghị không ngần ngại. Cũng nói để tổng thống biết thêm cha Hoàng muốn tôi trong khi giúp việc cho tổng thống, vẫn không xao lãng công việc của Bình An, của giáo hội. Tôi đã lĩnh ý cha. Vì cũng chỉ có như vậy, mới giúp tổng thống được hữu hiệu. Tôi tuy đã vào Phủ tổng thống nhưng về bề ngoài, vẫn muốn lặng lẽ giúp tổng thống như trước đây, Như vậy có lợi cho công việc hơn. Nếu bây giờ lại nhận phụ cấp, nhận xe, nhận nhà e không tiện mà cũng trái với ý kiến của cha Tổng. Những việc nhỏ đó, ta sẽ tính sau. Giờ xin tổng thống nói cho rõ công việc lớn của quốc gia.
Một thiếu phụ mặc áo dài xanh, tóc vấn trần, cổ đeo dây chuyền vàng đính những hạt kim cương óng ánh, bưng một chiếc khay lớn bước vào nhoẻn miệng cười.
Hai Long đứng dậy vì biết đó là vợ Thiệu.
Thiệu cũng đứng lên nói:
- Đây là bà Sáu nhà tôi. Bà hay bữa nay ông giáo tới nên muốn tự mình xẹc-via.[1]
Vợ Thiệu đặt chiếc khay đựng đầy rượu, cà phê, bánh trái xuống bàn rồi chắp tay cúi đầu chào Hai Long một cách nền nã.
- Cha Nhuận và ông Thiệu nhà tôi nói bữa nay đón ông giáo vô. Ở nhà này nhắc tới ông giáo từ lâu, không biết ông giáo có nóng ruột không?
- Thưa bà, vô sớm hay vô muộn là do ý bề trên, nhưng tấm lòng khi nào cũng ở bên tổng thống.
Hai vợ chồng Thiệu cười vui vẻ.
- Ông giáo vô đây làm việc rồi, tôi còn có dịp gặp luôn.
Vợ Thiệu ý tứ lui ra.
Thiệu rót rượu Cognac đầy hai ly rồi cùng anh cụng ly. Thiệu làm một hơi cạn ly. Hai Long chỉ uống được một phần đã thấy hơi men bốc lên mặt.
Thiệu nhìn anh:
- Ủa, sao ông giáo không cạn ly?
- Tôi ở nhà thờ quanh năm với các cha, chỉ thỉnh thoảng mới cùng cha nhấp chút rượu lễ. Thứ này quá ngon, trước sau xin sẽ cố gắng uống hết để mừng ngày hạnh ngộ.
- Một ly nhỏ có chi phải cố gắng. Tôi nghĩ là cạn chai này, ta sẽ lấy thêm chai nữa. Nếu sợ say, ông giáo có thể dùng thêm bánh trái.
Hồi lâu, Thiệu mới vào việc:
- Hiện thời có hai vấn đề, nhờ ông giáo lo giùm. Một là nhờ ông giáo nắm chắc cho phía người Mỹ, tôi cần phải làm gì để được Mỹ tính nhiệm hơn. Đó là điều quan tâm thứ nhất của tôi. Thứ hai, ông giáo lo giùm tôi vấn đề nội bộ Phủ tổng thống. Tướng Kỳ là người ngoại đạo và đang trở thành mối lo lớn cho chính quyền hợp hiến. Các cha chưa biết điều này nên vẫn ủng hộ cả tướng Kỳ. Chắc các cha tưởng lầm, làm như vậy cũng là để ủng hộ tôi! Nhờ ông giáo nói cho các cha hiểu. Còn về phía tôi, bao giờ cũng sẵn sàng nghe theo lời khuyến cáo của các cha.
Hai Long chờ xem Thiệu còn nói gì tiếp, nhưng Thiệu đã dừng lại ở đó. Giúp được y hai vấn đề đó cũng không phải là nhỏ. Y sẽ còn cần gì ở mình nữa không? Chẳng lẽ một tổng thống ngụy, vào lúc này, chỉ quan tâm đến chừng ấy vấn đề thôi ư?... Cũng chưa nên đánh giá vội vàng. Hai Long thử gợi chuyện:
- Vậy tại sao ông lại đưa ông Lộc làm thủ tướng? Tôi đã nghĩ chiếc ghế đó nên dành cho ông Hướng.
- Tôi buộc phải tạm nhân nhượng với tướng Kỳ... Ông giáo có hiểu tại sao, một lần mời tướng Kỳ ra ở tư dinh của thủ tướng, một lần mời vô đây, dinh Độc Lập có chỗ dành cho gia đình phó tổng thống, nhưng ổng đều không chịu đi?
- Tướng Kỳ thích ở sân bay Tân Sơn Nhất! – Hai Long nói một câu lửng lơ.
Thiệu nhìn xéo anh rồi nói tiếp:
- Ai cũng biết ông Kỳ rất chiều bà vợ trẻ chỉ đáng tuổi con ông, mà bà Kỳ thì muốn rời sân bay Tân Sơn Nhất cho thiên hạ quên dần bả xuất thân từ một cô chiêu đãi viên trên máy bay. Nhưng riêng điều này, ông Kỳ không chiều bà... Ông Kỳ phải ở lại đó, nắm mấy cái máy bay để hù dọa chính phủ và các tướng! Khi có dịp ông lại làm đảo chính. Tôi ớn ổng vì cái tính khí thất thường và hay làm ẩu!
- Ta đã có nhiều bài học về đảo chính và phản đảo chính, nên cần hết sức cảnh giác. Trước mắt, theo tôi chưa có chi đáng lo. Tổng thống biết rõ nếu không có cây gậy chỉ huy của Bunker thì tướng Kỳ không đời nào chịu đứng lên liên danh với ông. Tướng Kỳ chưa dám dùng máy bay làm áp lực với chính quyền trong lúc còn máy bay Mỹ nằm kè ở bên.
- Đó, chính vì vậy tôi mới nói việc quan trọng nhất hiện thời là phải nhờ ông giáo tiếp tục siết chặt mối quan hệ giữa tôi với Mỹ.
- Việc này tổng thống không nói, chúng tôi vẫn phải lo. Ta có chỗ dựa khá vững chắc là giáo hội Mỹ và ông đặc phải viên của tổng thống Johnson.
Thiệu cầm chai Cognac rót tiếp vào ly rượu mới vơi chút ít của Hai Long, và rót đầy ly cho mình, vui vẻ:
- Bữa nay, mời ông giáo dùng cơm trưa với chúng tôi. Bà Sáu đang chuẩn bị rồi. Về công khai, ông giáo muốn giữ kín đáo để tiện công việc, nhưng trong nhà, ông Kiểu và vợ chồng tôi cũng phải có chén rượu mừng nhân dịp ông giáo vô nhậm chức.
Hai Long mỉm cười đáp lại lời mời của Thiệu.
Thiệu làm một hơi ly rượu màu vàng óng ánh như hổ phách rồi nói:
- Có mấy việc cụ thể nhờ ông giáo lo dần. Tôi còn hai ông anh là ông Nguyễn Văn Hiếu và ông Nguyễn Văn Kiểu, cũng phải sẵn dịp này lo cho các ổng. Ta nhất thiết phải có người làm tai mắt ở Roma. Tôi muốn đưa ông Hiếu làm đại sứ tại Italia. Nhờ ông giáo nói cho một tiếng với bên Vatican. Cũng tiện đây, xin có lời mừng ông giáo và gia đình vừa nhận đặc ơn lớn của Giáo hoàng Paul VI.
Ngày 30-9 vừa qua, đúng một năm sau ngày Hai Long gặp Hồng y Pignedoli, Giáo hoàng Paul VI đã “ban phép lành Tòa thánh và bảo đảm muôn ơn trên Trời cho ông bà Phê-rô An-na Vũ Ngọc Nhạ và các con”. Đây là một đặc ơn lớn của Vatican ban cho những gia đình hoàn hảo và toàn thiện. Chắc cha Nhuận đã báo tin này với Thiệu.
Hai Long hỏi:
- Còn ông Kiểu, tổng thống định bố trí vô đâu?
- Tôi muốn đưa ổng làm đại sứ lưu động, chủ yếu là giữ quan hệ với Mỹ, việc này lại phải nhờ ông giáo nói giùm với đặc phái viên của Tổng thống Johnson.
- Cả hai trường hợp này đêu không khó, tôi xin nhận lời với tổng thống. Còn một vài vị trí quan trọng mà tôi muốn lưu tâm tổng thống, là chức tổng giám đốc Tổng Nha Cảnh sát, và chức đặc ủy trưởng Trung ương tình báo, những vị trí này đều phải trao cho những người ruột thịt, không để người xa lạ xía vô. Ông Nhu và ông Khánh đều bị khó khăn vì những khâu này.
Thiệu gật gù:
- Ông giáo nói rất đúng. Tôi sẽ phải tính.
Thiệu không đả động gì tới tình hình quân sự. Những chuyện cần gấp đối với Thiệu hiện nay là củng cố địa vị cho mình và những người trong gia đình. Hai Long thấy trong cuộc gặp đầu tiên, mình cũng chỉ nên dừng lại ở đó.

6.
Việc Hai Long vào làm cố vấn đặc biệt trong Phủ tổng thống tuy được tiến hành kín đáo nhưng vẫn nhanh chóng có tiếng vang mạnh mẽ trong giới Công giáo.
Người được nhắc tới nhiều là cha Hoàng. Nhiều giáo dân, đặc biệt là giáo dân di cư, ca ngợi ông là người khôn ngoan, sáng suốt, đã nhanh chóng phục hồi uy tín Thiên chúa giáo bị sứt mẻ sau vụ Diệm Nhu, với việc đưa một tín đồ Công giáo vào kề cận giúp đỡ đương kim tổng thống.
O’Connor rất mừng rỡ khi gặp Hai Long, vì đã có sự kết hợp hài hòa giữa Thiên chúa giáo với chính quyền Việt Nam cộng hòa, có sự cộng tác chặt chẽ giữa một nhân vật Thiên chúa giáo thân Mỹ với một tổng thống do Mỹ dựng nên.
Ngoài những cha cố di cư, giám mục Nguyễn Văn Thuận, bà con với Diệm, tỏ vẻ rất hoan hỉ. Ông ngỏ lời cám ơn cha Hoàng, cha Nhuận đã rửa mặt cho mình. Ông tin là những phần tử “Cần lao” thân tín với Diệm, Nhu lại sẽ có dịp ngẩng cao đầu. Dưới mắt giám mục Thuận, Hai Long là một “Cần lao gộc lọt lưới”.
Phong trào đấu tranh của Phật giáo ở miền Trung đã lắng xuống với việc Nguyễn Chánh Thi bị bắt, Thích Trí Quang bị đưa về Sài Gòn cầm giữ trong một nhà thương. Trong lúc những Phật tử xuống thế thì những giáo dân Thiên chúa giáo thấy mình lại được nước như xưa.
Nhưng hài lòng hơn cả, có lẽ là Khâm sứ Palmas và Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, những người lâu nay vẫn âm thầm rầu rĩ, lo lắng vì con thuyền Công giáo nghiêng ngửa giữa cơn phong ba sau ngày Diệm đổ, bỗng nhiên thấy biển lặng, sóng êm. Cả Khâm sứ và Tổng giám mục đều bàn với Hai Long phải có trong dinh Độc Lập một nhà nguyện riêng cho Thiệu và gia đình, cùng với sự khuyến cáo Thiệu về chính trị, anh sẽ phải giáo huấn Thiệu về đức tin Công giáo. Các cha ở trong dinh cần nhắc nhở Thiệu và vợ con hàng ngày đọc kinh lễ, mỗi tuần dự Thánh lễ ít ra là hai lần. Riêng Thiệu phải sốt sắng dọn mình, đọc kinh, lần hạt mỗi mùa, mỗi tuần thánh để trở thành con chiên ngoan đạo, sống gần Chúa hơn. Hễ có dịp ngồi riêng, Khâm sứ đều nhắc nhở Hai Long phải khéo lèo lái, thuyết phục Thiệu và Kỳ đi theo đường lối vận động cho hòa bình của Giáo hoàng Paul VI. Hai Long đã báo cáo với Khâm sứ, giáo hội Mỹ thông qua O’Connor, lại muốn mình nắm vững Thiệu để đạt những ý đồ của Mỹ đối với chiến tranh ở Việt Nam. Khâm sứ động viên:
- Thực hiện được công cuộc vận động hòa bình của Giáo hoàng Paul VI ở Việt Nam, công lớn là ở nơi thầy.
Trong những lời đồn đại, người ta nói là Hai Long có những thế lực thần bí. Nhiều người xin gặp nói chuyện, hoặc viết thư cho anh, mở đầu bằng những câu tâng bốc, và sau đó là lời cầu xin anh đề cử với Thiệu cất nhắc họ vào những chức vụ then chốt như thủ tưởng, tổng trưởng, tư lệnh vùng, tỉnh trưởng, đại sứ...
Anh cảm thấy lo nhiều hơn vui.
---
[1] servir: phục vụ

Chương 11
CHUẨN BỊ
1.
Trên tầng thượng của dinh Độc Lập có một căn phòng đón gió. Người ta đã đặt cho nó cái tên bằng chữ Hán: “Thiên phương tĩnh tâm lâu”. Khác với tất cả những căn phòng trong dinh đều bịt kín bằng kính dày để dùng điều hòa nhiệt độ, lầu Tĩnh Tâm chỉ có những hàng cột nhỏ ở chung quanh. Đứng tại đây, có thể nhìn ra bốn phía, thấy một khu vực khá rộng lớn của Sài Gòn, trải ra với những đường phố dài rộng, những dãy nhà ẩn dưới lùm cây xanh tốt quanh năm, những building lố nhố chọc thủng chân trời.
Ý đồ của nhà kiến trúc là muốn cho những nhà lãnh đạo quốc gia sau những giờ mệt nhọc vì việc nước sẽ lên đây tìm giây phút thư thái khi phóng tầm mắt ra bốn phương trời, trong bầu không khí trên cao tĩnh lặng. Nhưng những viên tướng trẻ mới lên cầm quyền, tính tình còn hiếu động, ưa giải trí sau giờ làm việc quanh bàn mạt chược hay bàn bi-a, hơn là đứng trầm tư ở một nơi chỉ có mình giữa trời với đất. Họ đã biến căn lầu rộng thoáng này thành một sàn nhảy, dành cho những buổi vũ hội trong dinh. Cũng may, những buổi vũ hội như vậy không diễn ra thường xuyên nên căn lầu hầu hết thời gian vẫn giữ được sự trống vắng, yên tĩnh của nó.
Hai Long đã sớm tạo cho chung quanh hiểu rằng mình thích lên lầu thượng tìm nơi yên tĩnh, suy nghĩ về công việc.
Đây là một vị trí khá tốt để quan sát toàn cảnh sự bố phòng trong dinh, chuẩn bị cho trận đánh sắp tới. Từ đây nhìn rõ sự kiểm soát của những lưới lửa phòng vệ trên các con đường dẫn tới mục tiêu. Và cũng có thể quan sát được những địa điểm quân sự ở chung quanh có nhiệm vụ bảo vệ dinh, như trại lính Cộng hòa, Sở thú, nhà Bưu điện...
Dựa vào văn phòng tổng thư ký của Hướng, Hòe đã khéo léo lấy được bản đồ của dinh Độc Lập và Tòa đại sứ Mỹ. Anh đã điểu tra được quân số và trang bị vũ khí của đơn vị bảo vệ trực tiếp những nơi này. Riêng ở Tòa đại sứ Mỹ, anh còn lấy thêm được bản kế hoạch di tản trong trường hợp khẩn cấp.
Để chuẩn bị cho trận đánh, Năm Sang đã mở rộng các lưới trong phạm vi cụm. Sau khi không làm việc với Đỗ Mậu nữa, Thắng trở thành chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo Thám Tử. Thắng vẫn là một ký giả, có thẻ của bộ Thông tin. Hàng tuần, Thắng và Hai Long găp nhau tại buổi hội ý kiểm điểm công tác với Cụm trưởng. Họ có quan hệ chặt chẽ trong việc chuẩn bị cho trận đánh. Lưới của Hai Long được bổ sung thêm một đồng chí mới. Đó là Vũ Hữu Ruật. Hai Long đã có quan hệ với Ruật từ năm 1953 tại Hà Nội. Ruật là người của ta hoạt động trong tổ chức đảng phái phản động. Ruật cũng bị bắt như Hai Long và bị giam ở trại Tòa Khâm. Ruật thoát khỏi nhà giam sau cuộc đảo chính Diệm. Khi ra ngoài, anh lại tìm cách chui vào lực lượng Tự do dân chủ của Nguyễn Văn Hướng. Anh hiện giữ chức tổng ủy viên Tuyên – Nghiên – Huấn của tổ chức này. Mấy tuần qua, cả hai lưới đã chuyển vận vũ khí, đạn dược, chất nổ từ căn cứ vào nội thành để trang bị chiến đấu cho lưới. Những người tham gia vào công tác mới mẻ và mạo hiểm này tỏ ra rất hào hứng. Hai Long chỉ thật nhẹ nhõm khi công việc đã hoàn tất. Chỉ cần một khẩu súng, một cân thuốc nổ lọt vào mắt bọn cảnh sát hay dân vệ, bao nhiêu công trình anh đã xây dựng được có thể tan thành mây khói. Họ đã chuẩn bị một kế hoạch thật tỉ mỉ, tính toán dự kiến những tình huống có thể xảy ra. Họ biết mình chưa dự kiến được hết những bất ngờ, và cũng đã thấy trước trong một số trường hợp họ không còn cách đối phó. Cũng may, tất cả đã trôi lọt.
Sau nhiều buổi bàn bạc, Cụm trưởng nhận thấy lưới Hai Long không thể nào thực hiện yêu cầu bám sát Bunker. Những người có quan hệ với Tòa đại sứ Mỹ đều chưa tiếp cận được Bunker. Nhiệm vụ này trao lại bộ phận khác. Hai Long nhận bám sát Thiệu. Công việc này coi như anh đặc trách.
Họ đã cùng nghiên cứu chung với nhau cách sử dụng những vũ khí và chất nổ mới nhận được, để khi cần, sẽ trực tiếp chiến đấu như một người chiến sĩ thực sự.
Đứng trên lầu Tĩnh Tâm sáng nay, một lần nữa, Hai Long lại thấy mình chưa thể hình dung ra trận đánh trong những ngày sắp tới.
Sài Gòn được quân Mỹ và quân ngụy bảo vệ rất cẩn mật. Mắt anh nhìn thấy hàng ngày những phương tiện chiến tranh ghê gớm của chúng. Ngay ở Sài Gòn và vùng ven, địch đã có hàng chục vạn quân. Giữa lúc này, tiếng bom và tiếng đại bác địch vẫn dồn dập từ xa vọng về. Những đường phố dài rộng của Sài Gòn với những dòng xe cộ ngược xuôi như mắc cửi trước mắt anh, nói lên mục tiêu của trận đánh sắp tới khá lớn. Ta sẽ huy động bao nhiêu lực lượng vào nhiệm vụ? Họ có thể vượt qua vành đai thép của quân Mỹ ở chung quanh Sài Gòn để tiến vào nội thành được không? Anh nghĩ tới cái lúc tất cả những vật đang di dộng nhanh trên đường phố kia sẽ dừng lại, những dòng người trên hè phố cũng biến đi, nhường chỗ cho những anh lính mặc quân phục màu xanh rêu, đội mũ tai bèo, mang tiểu liên AK cùng với những người dân vùng lên cầm vũ khí chiến đấu với xe tăng, xe bọc thép, máy bay phóng pháo, trực thăng vũ trang của địch... Kết quả cuối cùng sẽ ra sao...?
Dinh Độc Lập nằm sâu trong nội thành, không có những công sự chiến đấu phòng thủ, nhưng với hai lần rào sắt, một hàng rào cơ động bên ngoài, một hàng rào cố định vững chắc bên trong, và những tòa nhà rất kiên cố sẽ trở thành những pháo đài khó công phá khi trận đánh nổ ra, là một mục tiêu quá rắn và quá lớn với những chiến sĩ bộ binh chỉ có trong tay những vũ khí nhẹ. Nhìn chiếc máy bay trực thăng của Nguyễn Cao Kỳ nằm trên bãi đáp ở tầng thượng, kế bên lầu Tĩnh Tâm, Hai Long chợt nghĩ phải viết thêm báo cáo bổ sung, cần đề phòng địch dùng sân bay này để đưa quân cứu viện tới.
Những ý nghĩ hân hoan của anh đối với viễn ảnh của trận đánh quyết định bỗng chốc vợi đi. Không riêng anh, mà tất cả các đồng đội của anh đều náo nức, mong chờ, sẵn sàng hy sinh vì nó. Anh sẽ không giội gáo nước lạnh vào ngọn lửa hào hứng đang bùng cháy ở mỗi người. Họ cần có nó để vượt qua những khó khăn rất lớn, chuẩn bị cho trận đánh. Nhưng anh cần nhắc họ không được sơ khoáng bộc lộ tung tích của mình, đề phòng trường hợp còn phải tiếp tục chiến đấu lâu dài.

2.
Trung tâm nhắc lại, cần đặc biệt chú ý tìm hiểu sự phán đoán của địch về ý đồ tiến công của ta trong mùa khô 1967 – 1968. Hai Long chợt hiểu điều này có liên quan đến đòn chiến lược quyết định mà ta sẽ giáng vào đầu Mỹ - ngụy trong mùa khô tới. Sự thành công của nó gắn liền với việc ta có hoàn toàn giữ được bất ngờ hay không.
Thiệu rất hài lòng sau khi Hiếu được chấp nhận làm đại sứ ở Ý và Kiểu trở thành đại sứ lưu động. Nhân đó, Hai Long hỏi Thiệu:
- Tổng thống đã trù liệu những biện pháp gì về chiến tranh quân sự đối phó với tình hình chiến tranh hiện nay?
- Từ hai năm nay, chiến lược chiến tranh ở Việt Nam cộng hòa do Mỹ hoạch định. Tôi đã có những lần khuyến cáo họ, nhưng họ không nghe. Tin tức tình báo quân sự họ đều nắm; vì họ mới đủ tiền chi cho hàng vạn cộng tác viên của CIA. Ai làm việc cho họ, mình không biết. Họ nắm được gì cũng không cho ta hay vì sợ rò rỉ. Chừng nào chuẩn bị xong xuôi, sắp tiến hành, họ mới nói với mình. Tôi rất ớn cách làm ăn này, nhưng bất lực. Quân lực Việt Nam cộng hòa không thể có những cuộc hành quân độc lập, vì lệ thuộc vào hỏa lực yểm trợ của Mỹ.
- Họ đã bàn bạc với tổng thống về cuộc tiến công mùa khô này chưa? Cần nắm được Việt Cộng trù tính gì về mặt quân sự, và quân Mỹ định làm gì. Mùa khô tới rồi. Ta cần phải biết trước kế hoạch của họ để chủ động tính toán việc của ta. Tổng thống phải nắm chắc vấn đề quân sự với cương vị tổng tư lệnh, chứ không thể ủy thác cho ông bộ trưởng Quốc phòng cùng ông Tổng tham mưu trưởng. Những nhà lãnh đạo Mỹ cần một tướng lãnh làm tổng thống ở Việt Nam cộng hòa, chính là cần điều đó. Tôi nghĩ ông Westmoreland không làm đúng phận sự của mình trong quan hệ với đồng minh.
- Westmoreland nói với tôi, sẽ tiến hành đợt phản công lần thứ ba để xúc tiến chiến lược “lùng và diệt”.
- Ông ta có nói phương hướng sẽ nhắm vào đâu không?
Thiệu nhè nhẹ lắc đầu:
- Chỉ khi gần triển khai, họ mới nói với mình. Tôi cho rằng họ còn đang tiếp tục nghiên cứu, điều tra mục tiêu.
- Kết quả rất hạn chế của hai đợt tiến công trước là do Westmoreland không chịu bàn bạc với ta! Người Mỹ quá ỷ vào sức mạnh vũ khí nên họ bị thất bại. Họ tưởng hễ có sức mạnh áp đảo trong tay là đánh đâu thắng đó. Thực tế không đúng như vậy. Tôi đã nhiều lần trao đổi với những người Mỹ am hiểu chiến lược quân sự, không phải họ đều tán thành những hành động của Westmoreland. Ý kiến của giới quân sự Mỹ về chiến tranh Việt Nam khá phân tán.
Thiệu bỗng trở nên sôi nổi:
- Tôi đã nói với họ, muốn chiến tranh chóng kết thúc, thì phải làm như họ đã làm ở Đại Hàn. Phải đưa quân Mỹ đánh ra miền Bắc, giải quyết vấn đề tận gốc. Địa dư Việt Nam và Đại Hàn không khác chi nhau. Cũng là một dải đất dài ven biển Thái Bình Dương. Hải quân Mỹ làm chủ vùng biển. Muốn cắt đôi Việt Nam còn dễ hơn Đại Hàn. Vùng cán xoong Việt Nam có đoạn chỉ rộng năm chục ki-lô-mét! Chí ít, ta cũng có thể chiếm một vùng đất ở Bắc vĩ tuyến 17, lập căn cứ tại đó như Bắc Việt đã làm ở Nam Việt Nam. Tôi tin rằng Bắc Việt sẽ phải ngừng xâm lăng, đánh đổi lấy phần bị ta chiếm đóng. Chiến tranh chưa chấm dứt, vì ta chưa đánh thẳng vào nguồn gốc của nó...
Cần lái Thiệu vào điểm chính của câu chuyện, Hai Long nói:
- Tổng thống cũng biết chính phủ Mỹ chịu rất nhiều áp lực khác nhau về mặt chính trị đối với việc tiến hành chiến tranh. Dư luận không thuận lợi ngày càng mạnh.
- Đó là chính sách leo thang, Mỹ đưa quân sang nhỏ giọt, đã giết chết những bất ngờ cần phải có về mặt quân sự. Nếu Mỹ kết thúc chiến tranh trong vòng một năm thì làm chi có phản đối chiến tranh!
- Tình hình chính trị thế giới những năm 60 không giống những năm 50, và Johnson không phải là Eisenhower!
- Đúng!... Johnson không phải là Eisenhower!
- Ta hãy tạm đặt sang bên những gì ta chưa có. Tôi vẫn nghĩ, với một nửa lực lượng lục quân, không quân, hải quân được trang bị cực mạnh của Mỹ đã đưa sang Việt Nam, cộng với hơn nửa triệu quân Việt Nam cộng hòa và những đồng minh khác, không phải là ta không có khả năng giành chiến thắng. Ta chưa làm được, chính là vì ta không nắm được ý đồ quân sự của Việt Cộng. Điểm này cần được khắc phục. Người Mỹ có lực lượng CIA đông nhưng họ làm việc lại rất tồi. Tổng thống cũng cần có chủ kiến để khi trao đổi họ không thể coi thường ta.
- Nhưng đặc ủy trung ương tình báo của ta còn tồi hơn nhiều! Tôi sẽ phải củng cố lại. Trước mắt, ông giáo giúp tôi thăm dò xem người Mỹ đã nắm được Việt Cộng có ý đồ chi trong mùa khô này. Mình biết trước được những ý kiến của họ thì khi trao đổi mình cũng có thế.
Thiệu mỉm cười nhìn anh.
Cuộc trao đổi chỉ giúp anh khẳng định thêm Thiệu hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ. Thiệu không giấu diếm mình là một tên tay sai chỉ tính sao làm vừa lòng chủ.
Anh cảm thấy ngán ngẩm. Khi đã lọt vào mục tiêu chủ yếu rồi, với một cương vị rất thuận lợi, anh vẫn chưa biết được gì nhiều hơn về những điều anh đang cần biết.

3.
Buổi nói chuyện với O’Connor mang lại cho Hai Long một vài thông tin mới.
Cặp mắt xanh thông minh của ông linh mục lộ vẻ trầm tư khi nghe câu hỏi của anh. Sau ít phút suy nghĩ, ông nói:
- Tôi đã gủi cho tổng thống một bản nhận định về cuộc hành quân Junction City. Tôi nghĩ đã tới lúc Mỹ phải thay đổi chiến lược. Mỹ không thể chờ đợi gì hơn với cách điều hành chiến tranh của Westmoreland.
- Tổng thống vẫn lạc quan. Ông ta cho rằng hai đợt phản công mùa khô vừa rồi tuy chưa hạ đo ván Việt Cộng, nhưng cũng đã làm cho họ mất máu nhiêu, chưa gượng lại được trong mùa khô này. Tổng thống đang trông đợi ở kết quả đợt phản công thứ ba.
- Tình hình không đáng lạc quan đến như vậy. Theo chỗ tôi biết, Việt Cộng vẫn tích lũy lực lượng chiến đấu và Bắc Việt đang tập trung nhiều đơn vị chủ lực thiện chiến của họ ở phía Bắc Việt Nam cộng hòa. Như họ nói với một số cán binh Việt Cộng mà ta bắt được gần đây, họ không có tham vọng đánh bại hoàn toàn quân đội viễn chinh Mỹ, nhưng họ sẽ “đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ”! Tôi dự liệu họ đang hết sức cố gắng gây nên một sự kiện vang dội, một trò ngoạn mục trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ.
Ông linh mục này thật đáng sợ.
- Họ có khả năng làm gì ở Nam phần Việt Nam cộng hòa không? – Hai Long tỏ vẻ lo lắng.
- Ở Nam phần, tôi chia sẻ một phần trách nhiệm với tổng thống Thiệu. Dù sao, ta cũng đã gây cho họ những thiệt hại, họ khó làm lớn vì ở quá xa hậu phương. Nhưng hầu như chắc chắn, họ sẽ làm một cái gì đó trên đường số 9 ở Bắc phần. Có thể là một Điện Biên Phủ nhỏ với quân Mỹ. Ông Johnson đã chỉ thị cho Westmoreland tuyệt đối không để xảy ra một trường hợp như vậy
- Thưa cha, theo ý muốn của Đức Hồng y Spellman và của cha, một lần nữa tôi lại gắn mình với một tổng thống, tôi đã trở thành cố vấn của Thiệu, tôi cần khuyến cáo ông ta điều gì về mặt quân sự lúc này?
Vị linh mục có tinh thần trách nhiệm, không tự cho phép mình trả lời một cách dễ dãi. Cân nhắc một hồi, ông nói:
- Tôi rất tiếc, cuộc đảo chính năm 1963 đã làm hư toàn bộ công trình ấp chiến lược. Căn cứ vào tính chất chiến tranh ở Việt Nam, không thể có một kế hoạch quân sự nào hay hơn kế hoạch đó. Cần phải làm lại từ đầu...
O’Connor trầm ngâm, rồi bỗng hỏi:
- Thầy đánh giá tướng Thiệu ra sao về mặt tinh thần chiến đấu chống Cộng?
- Không ai nghi ngờ ý thức triệt để chiến đấu chông Cộng của ông Thiệu, nhưng tôi cảm thấy ông ta quá ỷ lại vào quân đội Mỹ.
- Đó chính là điều đáng lo. Không phải ngay lúc này, giáo sư cần làm cho ông Thiệu dần dần hiểu vấn đề nội bộ Việt Nam, rút cuộc vẫn phải do người Việt Nam giải quyết. Quân đội Mỹ không thể ở lại Việt Nam vô thời hạn.
Hai người ngồi im lặng hồi lâu. Ông linh mục muốn dừng lại ở đó. Hai Long tỏ vẻ suy tư về cái điều ông mới nói ra lần đầu.
- Thưa cha, còn một câu hỏi cuối cùng trong bữa nay. Sự lượng định về ý đồ chiến lược của Việt Cộng trong mùa khô tới là của riêng cha, hay là của chung những người chỉ huy có trách nhiệm với chiển tranh Việt Nam?
O’Connor liếc nhìn anh, rồi mỉm cười:
- Tôi hiểu giáo sư lo trách nhiệm của mình với tư cách là cố vấn của tổng thống. Giáo sư có thể nói, đó là ý kiến của khá đông những chuyên gia quân sự về Việt Nam, dựa trên những yếu tố đã xuất hiện cho tới lúc này. Nhưng vẫn không có nghĩa là sự lượng định của chúng tôi nhất định phải đúng.

4.
Cuối năm 1967, một số trận đánh rộ lên trên chiến trường miền Nam. Tháng 11, bộ đội ta tiến công sư đoàn 1 bộ binh Mỹ và sư đoàn 5 bộ binh ngụy tại Lộc Ninh, Đông Nam Bộ, gây nhiều thiệt hại cho hai sư đoàn này. Trên chiến trường Tây Nguyên, diễn ra trận Đắc Tô, bộ đội ta bắn rơi nhiều máy bay, đánh thiệt hại nặng một lữ đoàn dù Mỹ, gây tổn thất cho một lữ đoàn Mỹ khác và một chiến đoàn ngụy. Nhưng trong tháng 12, và tháng Giêng năm 1968, tình hình các chiến trường, đặc biệt là vùng đồng bằng Nam Bộ đều êm ả. Trên tấm bản đồ cập nhật trong phòng họp của Tổng thống, không xuất hiện sự kiện quân sự chính trị nào lớn trừ cuộc biểu tình chống Mỹ - Thiệu của 4 vạn đồng bào quận Trà Cú thuộc tỉnh Trà Vinh.
Hai Long đã nói lại với Thiệu sự lượng định về hoạt động quân sự của đối phương trong mùa khô 1967 – 1968 của những nhà quân sự Mỹ, qua lời đặc phái viên của Hồng y Spellman. Thiệu tỏ vẻ mừng trước tình hình chiến sự chung. Mọi việc diễn tiến đúng như những nhà quân sự Mỹ dự đoán. Áp lực quân sự của đối phương đang nhằm vào Bắc phần Việt Nam cộng hòa, cụ thể hơn là cụm cứ điểm Khe Sanh, Tà Cơn trên đường số 9, do thủy quân lục chiến quân Mỹ chiếm đóng. Địa hình rừng núi ở vùng này rất giống với một Điện Biên Phủ thu nhỏ. Các nguồn tin tình báo đều ghi nhận đối phương đang dồn về đây những sư đoàn chủ lực mạnh nhất, những sư đoàn đã từng giành chiến thắng trong trận Điện Biên Phủ năm xưa. Một trận đánh bằng trận địa chiến hào lại sắp diễn ra. Không biết số quân Mỹ đồn trú ở đây có thoát được số phận của quân viễn chinh Pháp ngày trước ở Điện Biên Phủ không? Đối với Thiệu, tình hình quân sự ở Bắc phần do bộ chỉ huy quân sự Mỹ phải tự lo. Thiệu càng yên tâm vào cuối tháng 12, khi Westmoreland mở đợt phản công lần thứ ba bằng cuộc hành quân “Hòn đá vàng”, đưa nhiều đơn vị quân Mỹ tiến về phía biên giới Campuchia, tiếp tục đẩy xa những áp lực của Quân giải phóng nhắm vào Sài Gòn.
Thiệu cho rằng đã có một thời gian yên ổn để củng cố thêm vị trí. Thiệu phàn nàn với Hai Long, mình vừa chọn được một người bà con là Ngô Khắc Tỉnh, định đưa làm đặc ủy trung ương tình báo, và đang lựa người để nắm Tổng nha Công an Cảnh sát, thì CIA ép phải bổ nhiệm Nguyễn Khắc Bình làm đặc ủy trưởng trung ương tình báo, và Trần Văn Hai là tổng giám đốc Công an – Cảnh sát.
Cuôc chiến tranh lạnh diễn ra giữa Thiệu và Kỳ. Kỳ biết rõ Thiệu đang lặng lẽ thu tóm hết quyền lực, chặt dần những vây cánh của mình, biến mình thành một anh “ngồi chơi xơi nước”. Nhưng thế Thiệu lúc này đã mạnh, Kỳ đành phải âm thầm chịu đựng đợi cơ hội. Nơi làm việc của tổng thống và phó tổng thống đều ở lầu ba. Từ ngoài đi vào, Thiệu ở bên phải, Kỳ ở bên trái cầu thang trải thảm đỏ. Trên tâm thảm đã xuất hiện một ranh giới vô hình ngăn cách giữa hai người. Thiệu bao giờ cũng đi ở bên phải, và Kỳ đi bên trái. Không khi nào hai người đi ở giữa và càng không bao giờ đặt chân sang phần bên kia.
Hai Long đóng vai người có thiện chí hòa giải mối hiềm khích giữa hai vị “nguyên thủ quốc gia”.
Lần đấu tới nơi làm việc của phó tổng thống thăm Kỳ, anh được Kỳ mở sâm banh ra mời, rồi trút bầu tâm sự.
- Tôi không phải là con chiên, nhưng cũng không phải là con Phật. Thái độ tôi đối với sư sãi ra sao, ai cũng rành. Tôi dựa vào Công giáo vì Công giáo đã ủng hộ tôi. Anh giáo được giáo hội cử vô giúp ông Thiệu, cũng là giúp cho cả tôi. Anh nhắc giùm với ông Thiệu, theo nghị quyết của Hội đồng quân lực khi hai người ra tranh cử, muốn quyết định chi phải tham khảo ý kiến của Hội đồng, và phải làm theo quyết nghị của Hội đồng. Ổng phải chia sẻ quyền lực với tôi là phó tổng thống, chớ hòng biến tôi thành bù nhìn. Từ ngày ngồi vô ghế tổng thống, ổng đâu có bàn bạc với tôi, và làm lơ cả quân ủy hội! Như vậy không được đâu! Anh coi, hồi truất phế ông Hương, chính tôi năm lần bảy lượt mời ông Thiệu làm thủ tướng, ổng đều từ chối. Đâu có tướng nào dám nhận nên Kỳ này phải nhẩy vô! Ông Khánh phá rối tam phen tứ phen, cũng một tay Kỳ này giải quyết. Bãi miễn ông Khánh, đưa ông Khánh ra nước ngoài, là Kỳ này chớ ai! Nguyễn Chánh Thi cùng với Phật giáo dựa vào Mỹ, ly khai ở miền Trung, cũng thằng Kỳ này ra tận nơi dẹp loạn! Bao nhiêu cái khó khăn, mình tôi lãnh đủ. Làm việc với ông Johnson ở Honolulu về chính trị, quân sự, lo từ cái đài truyền hình cho dân, được tổng thống Mỹ cảm phục, cũng vẫn là Kỳ! Ông Johnson mời tôi tới phòng riêng tặng hình cho tôi, chớ đâu có tặng cho ông Thiệu! Bây giờ mọi việc xong xuôi, ông Thiệu hốt ráo cả! Nhờ anh khuyên ông Sáu giúp. Ổng tiếp tục chơi kiểu này là không xong!
Kỳ say mê máy bay, đi đâu cũng thích dùng máy bay do tự tay mình lái. Hàng ngày, Kỳ thích dùng máy bay trực thăng từ sân bay Tân Sơn Nhất tới dinh Độc Lập làm việc. Sáng nào, Kỳ cũng cho máy bay lượn một vòng, giơ tay vẫy chào mọi người, rồi mới đáp xuống bãi cỏ trước dinh. Gần đây, không hiểu nghĩ sao, Kỳ cho máy bay hạ xuống ngay nóc dinh Độc Lập. Sân bay lại nằm ngay trên phòng ngủ của vợ chồng Thiệu. Thiệu rất bực, nhưng vẫn cố nhịn để tránh va chạm với Kỳ.
Vợ Thiệu than phiền với Hai Long:
- Cả nhà tôi không ăn không ngủ được vì cái máy bay của ông Kỳ. Có thủ tướng, phó tổng thống nào mà lại tự mình lái máy bay đưa vợ, đưa bồ đi chơi, lái máy bay đi làm việc hàng ngày! Ông nhà tôi, đêm nào cũng phải làm việc khuya, sáng thường ngủ trễ, đang ngon giấc thì máy bay của ông Kỳ tới ầm ầm ngay trên đầu. Tôi cũng sắp mắc bịnh thần kinh vì ổng! Trong khuôn viên thiếu chi chỗ hạ máy bay, mà lại cứ nhằm ngay xuống đầu người ta!
- Bà nên bảo ông Hướng nói với ông Kỳ một câu.
- Ông Hướng ngán ông Kỳ, cả ông nhà tôi cũng sợ hiểu lầm sinh chuyện.
- Vậy thì bà nên trực tiếp nói thẳng với ông Kỳ. Tôi có thể nhờ cha Lãm nói với ông Kỳ, nhưng việc nhỏ qua nhiều người, ông Kỳ lại có cớ trách ta.
Mấy ngày sau, Hai Long tới dinh Độc Lập, thấy chiếc trực thăng của Kỳ đỗ trên bãi cỏ trước dinh. Vợ Thiệu gặp anh với nụ cười đắc thắng:
- Nhà tôi thoát nạn rồi! Chiều qua tôi nói với ông Kỳ, tôi định trồng mấy cây bông trên sân thượng, để những khi làm việc mệt, ông Thiệu lên đó ngắm cảnh, nhưng cái trực thăng quạt gió quá chừng, hư hết bông. Ổng nói: “Tôi sơ ý, sao ông Thiệu không nói sớm với tôi một câu?”. Và bữa nay, ổng cho máy bay đậu xuống bãi cỏ rồi.
Hai Long đem những lời nói bữa trước, thuật lại với Thiệu, Thiệu vằn mắt:
- Tôi là tổng thống, tôi làm việc theo đúng hiến pháp. Hiến pháp có ghi tổng thống làm việc chi cũng phải hỏi ý kiến quân ủy đâu? Quân ủy là cái chi, tôi cũng chưa biết trong đó có những ai! Nhờ ông giáo cứ nắm chắc cho phía người Mỹ, tôi gạt xong ông Lộc thì ông Kỳ chẳng còn chi đáng lo.
Hai Long tiếp tục ru ngủ Thiệu bằng những tin tức ngày càng nhiều về mối hiểm họa đối với quân Mỹ trong mùa khô này trên đường số 9. Anh rỉ rả góp phần khuyên can, “dàn xếp” mối bất hòa ngày càng trở nên sâu sắc giữa Thiệu và Kỳ. Câu chuyện về đề tài này chiếm nhiều buổi anh vào làm việc trong dinh. Vợ Thiệu tham gia một cách hăng hái, theo kiểu hoàn toàn phụ nữ của bà ta, nhưng không phải là không có ảnh hưởng đáng kể tới Thiệu. Những lời khuyên can của anh với cả hai bên nhiều lúc càng như lửa đổ thêm dầu.

5.
Những ngày đầu năm 1968 trôi qua một cách vô cùng chậm chạp.
Sài Gòn ngày càng chìm đám trong cơn lốc cuồng nhiệt của những chuyện buôn bán, tranh chấp, lừa đảo, chợ đen, làm giầu. Cùng với dollar đỏ[1], dollar xanh, hàng PX[2], hàng siêu thị, bạch phiến... mọi thứ đều trở thành thương phẩm. Nhân phẩm con người bị hạ tới giá thấp nhất. Gái điếm, ma cô, du đãng, khất thực, những nạn nhân của chiến tranh, xuất hiện ngày càng nhiều. Làn sóng của những người dân tị nạn tiếp tục từ các vùng nông thôn đổ vào, làm cho Sài Gòn trở nên ngột ngạt.
Trung tuần tháng Giêng, Trần Thiện, từ căn cứ sư đoàn bộ binh Mỹ ở Lai Khê về, cho Hai Long biết không hiểu sao một số tiểu đoàn tham gia cuộc hành quân “Hòn đá vàng” ở biên giới Campuchia, bỗng được lệnh rút về vị trí cũ ở chung quanh Sài Gòn. Hai Long hết sức lo lắng. Anh vội đến tìm O’Connor ở Nha Tuyên úy Hải quân Mỹ.
- Thưa cha, vì sao Westmoreland lại bỏ dở cuộc hành quân ở biên giới Campuchia?
- Theo tôi biết, cuộc hành quân vẫn tiếp tục. Chưa có cuộc đụng độ nào lớn. Tại sao thầy lai hỏi như vậy?
- Tình báo của Thiệu cho biết nhiều tiểu đoàn đã được rút về. Thiệu lo lắng vì không được bộ chỉ huy Mỹ thông báo về việc này.
- Tin đó không đúng sự thật. Đúng ra là thế này, Weyand, tư lệnh các lực lượng dã chiến Mỹ ở vùng III chiến thuật, phát hiện những hiện tượng chuyển quân của địch ở chung quanh Sài Gòn, nên có đề nghị với Westmoreland cho rút quân Mỹ từ biên giới về những vùng đông dân, phòng ngừa một hành động gì đó của Việt Cộng trước hoặc sau dịp Tết âm lịch. Nhưng liệu ta có nên tin vào một vài hiện tượng như thế không? Chúng ta đã biết đối phương rất giỏi nghi binh. Nếu vội kết thúc cuộc hành quân, mình có thể bị mắc lừa. Chưa hề có một quyết định như vây. Nếu Westmoreland rút về một số tiểu đoàn thì tôi nghĩ là để đưa lên đường 9.
- Thưa cha, như vậy là chưa có thay đổi gì lớn?
- Đến lúc này thì chưa. Riêng tình hình Khe Sanh căng thẳng hơn. Trận đánh lớn có lẽ sắp nổ ra tại đó.
Hai Long lặp lại với Thiệu những lời của người Mỹ, tình hình đường 9 hết sức căng thẳng. Westmoreland phải rút một số tiểu đoàn ở biên giới Campuchia về tăng cường cho khu vực này, trận đánh lớn sắp nổ ra tại Khe Sanh. Anh giấu kín những tư tưởng hoài nghi, lo âu đối với triển vọng cuộc chiến tranh bắt đầu xuất hiện ở ông linh mục. Thiệu không chia sẻ những lo lắng của người Mỹ đối với mặt trận đường 9. Đây là trách nhiệm của Westmoreland và Walt. Y chỉ cần Sài Gòn và những tỉnh chung quanh yên tĩnh trong mùa xuân này. Nam phần Việt Nam cộng hòa đang mỗi ngày một thêm lắng dịu.
Gần Tết, Westmoreland tới gặp Thiệu bàn về cuộc ngừng bắn đã thành lệ hàng năm nhân dịp đầu xuân. Westmoreland nói:
- Chúng tôi đã nhận được tin Bắc Việt sẽ có những cố gắng rất lớn về quân sự tại Việt Nam cộng hòa vào trước hoặc sau Tết, đề nghị tổng thống cho hủy bỏ lệnh ngừng bắn hàng năm vào dịp này.
Thiệu trả lời một cách rất tự tin:
- Tôi nghĩ rằng những hoạt động của quân đội đồng minh và quân lực Việt Nam cộng hòa trong năm qua đã làm cho Bắc Việt và Việt Cộng mất máu khá nhiều. Tình hình chiến sự đã được cải thiện một cách rõ rệt. Nếu tôi hủy bỏ lệnh ngừng bắn, sẽ làm ảnh hưởng tới tinh thần phấn khởi của sĩ quan và binh lính, và cũng sẽ tạo cái cớ cho Việt Cộng tuyên truyền là mình hiếu chiến, không tôn trọng ngày Tết cổ truyền của dân tộc! Tôi đã dự kiến cho 50% quân nhân nghỉ phép nhân dịp Tết. Đó sẽ là phần thưởng đối với sự nỗ lực chiến đấu của họ trong năm qua.
- Nhưng tổng thống chắc hẳn đã nhận được những tin tức chính xác, nhiều sư đoàn chính quy tinh nhuệ của Bắc Việt đang kéo về đường 9 với cả chiến xa?
- Tôi biết Cộng quân đang tập trung về phía Tây đường 9. Các vùng chiến thuật khác nhìn chung khá yên tĩnh. Ngài hiểu cho ngày Tết cổ truyền đối với dân tộc Việt Nam có một ý nghĩa rất thiêng liêng.
- Tôi hiểu điều đó. Nhưng riêng năm nay, Bắc Việt sẽ triệt để lợi dụng 48 giờ ngừng bắn để chuyển binh lính và đạn pháo tới trút xuống đầu quân dội Mỹ, người Mỹ sẽ phải đổ nhiều máu!
Trước thái độ gay gắt của Westmoreland, Thiệu nhượng bộ:
- Sẽ không có lệnh ngừng bắn trong dịp Tết tại toàn bộ vùng chiến thuật I. Mong tướng quân đồng ý với tôi như vậy.
- Còn thời gian ngừng bắn ở những nơi khác sẽ là bao lâu?
- ... Từ 48 tiếng rút xuống còn 36 tiếng. Lệnh này sẽ lập tức bị hủy bỏ nếu đối phương có hoạt động vi phạm.
Cho tới lúc ra về Westmoreland không đả động gì tới những hiện tượng khả nghi mà Weyand đã phát hiện ở vùng chung quanh Sài Gòn.
Thiệu kể lại cho Hai Long nghe với vẻ tự hào vì đã không chịu để Westmoreland ép mình phải hủy bỏ lệnh ngừng bắn vào dịp Tết. Anh tỏ thái độ tán thưởng.
Không khí làm việc tại Phủ tổng thống những ngày cuối năm có phần uể oải. Mọi người hỏi thăm nay Tết này sẽ đi đâu, đã mua sắm được những gì. Mỗi sáng vào dinh, Hai Long lại cảm thấy mừng vì thêm một ngày trôi đi êm ả.
Cuộc chuẩn bị chiến đấu tiến hành rất bí mật. Từng bộ phận, từng người chỉ biết phần việc của mình. Năm Sang cho Hai Long hay, công tác chuẩn bị gần hoàn tất. Vũ khí đạn dược, thuốc nổ đã được vận chuyển bằng nhiều cách vào nội thành. Nhiều lực lượng bộ đội được ém vô các cơ sở trót lọt.
Trong những ngày này, anh lại nhận thấy rõ sức mạnh tiềm ẩn của cách mạng. Những tiếng nổ suốt ngày đêm của B.52, pháo bầy từ những vùng chung quanh dội về, nhiều lúc mang lại cho anh ý nghĩ: Ở những nơi đó, có lẽ tất cả phải tan thành cát bụi! Lực lượng ta đã không hề bị hủy hoại, mà còn đang vươn lên giành thắng lợi mới. Trận đánh chưa diễn ra, nhưng anh đã nhìn thấy vẻ kỳ diệu của nó. Ít ra cũng phải có hàng chục vạn người đã tham gia vào công cuộc chuẩn bị cho nó trong suốt mấy tháng nay. Vậy mà bộ máy chiến tranh của kẻ thù với hàng vạn nhân viên CIA, hàng chục vạn tên cảnh sát, mật vụ, hàng triệu binh lính, dân vệ cùng với gia đình của chúng rải trên khắp miền Nam, cho tới lúc này vẫn không hề biết, chưa hề mảy may nghi ngờ. Điều đó lạ lùng biết bao!
Trong dòng người ào ạt như nước lũ trên đường phố Sài Gòn, anh luôn luôn bắt gặp những ánh mắt như thầm nói, chỉ vài ngày nữa đây, chúng ta sẽ đứng chiến đấu bên nhau. Họ là những người đã ở thành phố này nhiều năm như anh, và lâu hơn anh. Họ là những người mới từ ngoài vào. Họ kín đáo chia sẻ với anh niềm hạnh phúc dồn nén trong lòng. Anh tự bảo mình lầm. Nhưng rồi anh lại nghĩ mình không lầm. Nếu anh gặp một số người bạn chiến đấu trên đường phố Sài Gòn, thì đâu có gì là lạ! Anh luôn nhắc mình phải chế ngự niềm hưng phấn. Nhưng so với nỗi buồn, niềm vui thật khó chế ngự.
Hai Long còn phải hoàn tất một công việc chuẩn bị cho riêng mình. Làm cách nào để anh có thể đi lại ở Sài Gòn khi trận đánh đã bùng nổ? Anh dễ dàng lấy một thứ giấy tờ nào đó ở dinh Độc Lập. Nhưng nó lại trở thành nguy hiểm nếu nơi anh đi qua đã trở thành vùng của ta. Anh cần tìm một thứ bảo đảm cho phép mình xuất hiện ở tất cả những nơi có chiến sự. Sau nhiều lần suy nghĩ, anh nhớ tới tổ chức viện trợ Công giáo quốc tế CARITAS mà từ lâu anh đã là một ủy viên. Anh tới đó lấy một tờ giấy chứng nhận mình là người của tổ chức này, và xin một lá cờ Chữ Thập Đỏ phòng khi dùng tới.

6.
Thiệu cho người tới mời Hai Long lên gặp ở gia đình trước khi ra về.
Hai vợ chồng Thiệu ngồi chờ anh trước một cành đào với tấm thiếp chúc Tết.
Thiệu nói:
- Có người ở Hồng Công vừa gửi về một cành đào, của hiếm hoi, vợ chồng tôi nghĩ trong dịp Tết này phải đem tặng ông giáo.
Vợ Thiệu tiếp lời chồng:
- Ông giáo giúp nhà tôi bao việc lớn mà chẳng nhận chi, ngày Tết chỉ có một cành bông mong ông giáo nhận cho. Gia đình ông giáo sinh trưởng ở miền Bắc, chắc nhớ bông đào mỗi dịp xuân về.
Cành đào khá lớn, đầy nụ, mới chỉ có ít bông hàm tiếu, chắc sẽ nở rộ vào đúng ngày Tết. Hôm qua, một dân biểu gửi tặng anh một phong pháo lớn, anh đã nhờ cha Nhuận đưa về Bình An biếu cha Hoàng. Anh làm ra vẻ vui mừng cảm ơn vợ chồng Thiệu, tuy biết ở nhà mình không có bình và không có cả chỗ cho cành bông này.
Hòe đứng chờ anh ở cổng dinh, xuýt xoa:
- Trời! Bao năm rồi lại mới nhìn thấy cành đào!
Hai Long cười:
- Tôi lấy về tặng anh đây.
- Phải để ở nhà đón xuân chớ! Cành đào quý như rứa!
- Anh biết nhà tôi rộng bao nhiêu mét vuông rồi. Nếu anh không nhận, tôi phải đem trả lại cho vợ chồng anh Thiệu.
- Vậy thì năm nay ta hên nhiều. Báo anh tin mới: Đã có thông tri cho 50% quân nhân di phép trong dịp Tết Nguyên đán. Thông tri nằm chỗ ông Hướng rồi.
- Lạy Chúa!
- Nhưng trừ vùng I chiến thuật anh à.
- Bà con ta ở Bắc phần lại phải nghe đại bác thay pháo đón xuân!
Hai Long ngồi sau xe máy để Hòe đèo về nhà. Từ khi hai người cùng vào Phủ tổng thống, sự quan hệ giữa họ đỡ phải giữ gìn hơn. Cành đào trong tay Hai Long thu hút cặp mắt những người đi trên đường.
Tới chỗ vắng người Hòe thủ thỉ:
- Bà Hòe tra hỏi tôi: “Dạo này có việc chi mà cứ đi suốt ngày, thình thoảng lại thấy cười một mình? Hay là lại bồ bịch chi rồi!”
- Anh trả lời sao? – Hai Long mỉm cười hỏi lại.
- Tôi trả lời quấy quá, bả không tin. Sau tôi phải nói: “Ông Hướng đang tính cho mình mần một chức to”. Bả trợn mắt bảo: “Chức tước thì đừng dính vô, tôi hết muốn mang cơm, mang thuốc vô Tòa Khâm rồi!”
- Giỏi đó!
Hòe say sưa nói:
- Được dự vô kỳ này có chết cũng sướng, anh Hai a.
- Chết sao được!
- Tối 30 này, mời anh vô tôi, ta cụng ly, ngắm bông đào chuẩn bị đón ngày vui.
- Không được đâu! Lỡ trúng bữa đó bận thì sao?
- Ờ, tôi không nghĩ ra.
- Từ giờ phút này, coi như phải sẵn sàng.
- Những gia đình cơ sở của ta tốt lắm. Họ chỉ lo mừng hụt. Tất cả đã sẵn sàng.
- Công việc chuẩn bị của chúng ta chưa xong. Ta còn phải bàn tới trường hợp nếu trận này chưa giành toàn thắng, chúng mình lại phải tiếp tục chiến đấu lâu dài.
Đưa cành đào vào nhà xong, Hòe quay ra định đưa Hai Long về Thị Nghè. Nhưng Hai Long nói:
- Cho mình ra bến xe đi Bình Chiểu.
- Để tôi chở anh tới đó luôn.
- Bọn mình không nên cặp kè nhau.
Trung tâm vừa tăng cường cho lưới một điện đài. Anh cần phải báo cáo gấp: “Đã có lệnh ngừng bắn nhân dịp Tết, kéo dài 36 tiếng tại miền
Nam, trừ vùng I chiến thuật. 50% quân nhân sẽ được đi phép”.
---
[1] tiền được cấp riêng cho quân đội Mỹ, có mệnh giá như dollar xanh (dollar thường), chỉ dùng lưu hành nội bộ.
[2] hàng được Chính phủ Mỹ trợ giá

Chương 12
TẾT MẬU THÂN
1.
Năm đó, âm lịch ở miền
Nam và miền Bắc chênh nhau một ngày. Mùa xuân ở miền Nam tới trước. Từ 30 Tết, Hai Long luôn ở trong tình trạng chờ đợi căng thẳng. Anh sẽ được báo giờ nổ súng trước mười hai tiếng. Nhiệm vụ chiến đấu của anh là phải bám sát Thiệu. Anh có khả năng thực hiện nhiệm vụ nếu trận đánh diễn ra ban ngày. Anh sẽ chọn giờ đó tới chúc Tết gia đình Thiệu. Nhưng trận đánh của ta thông thường khởi đầu vào ban đêm. Anh sẽ lấy lý do gì để tới dinh Độc Lập nếu lúc đó là đêm khuya? Gần đây, Hai Long thường ngủ đêm tại dinh Độc Lập, tạo dần cho mọi người một thói quen. Nhưng trong những ngày nghỉ Tết, anh không có lý do gì để ngủ lại. Tới đúng khi súng đã nổ thì có thể được. Cố vấn cần có mặt bên tổng thống trong những giờ phút khẩn trương. Nhưng lúc đó, rất khó lọt vào dinh. Cuối cùng, Hai Long đành chọn giải pháp sẽ tới chúc Tết vợ chồng Thiệu vào một giờ hơi muộn, tìm cách kéo dài cuộc chuyện trò tới khuya, rồi lấy cớ xe máy hỏng, từ chối dùng xe của Thiệu để trở về nhà, và ngủ lại trong dinh.
Nửa đêm 30 Tết, tiếng bom đạn vừa dứt theo lệnh ngừng bắn, cả Sài Gòn rộn ràng trong tiếng pháo đón xuân. Năm nay, người dân Sài Gòn đốt pháo nhiều hơn mọi năm.
Tiếng pháo tiếp tục nổ ran suốt ngày mồng Một Tết. Buổi sáng Hòe tới chúc Tết báo tin Westmoreland đã điều phần lớn những tiểu đoàn đang hành quân ở biên giới Campuchia về vùng chung quanh Sài Gòn, và đưa một số tiểu đoàn lên phía Bắc tăng cường cho căn cứ Khe Sanh. Chờ đến hết buổi chiều vẫn chưa có lệnh. Như vậy là trận đánh sẽ chưa nổ ra đêm nay. Trưa ngày mai, lệnh ngừng bắn sẽ hết hiệu lực. Sự chậm trễ này cùng với tin của Hòe ban sáng khiến anh bồn chồn.
Nửa đêm, anh nhét chiếc núm nghe vào tai, mở chiếc máy thu thanh bán dẫn nhỏ, tìm làn sóng của đài Tiếng nói Việt Nam. Vừa lúc đó, tiếng pháo đón xuân vang lên từ Hà Nội. Những tiếng lạch tạch đùng khi khoan khi nhặt, nổ giòn, làm hiện lên trước mắt anh tràng pháo màu hồng, nhấp nháy ánh lửa, tỏa khói mùi thơm. Dứt tràng pháo, anh nín thở chờ đón cái mà những người con xa Hà Nội như anh, mỗi năm một lần mong đợi, tiếng nói chúc Tết đầu xuân của Bác Hồ. Anh đã thuộc lòng bài thơ xuân 1968 của Bác, được phát thanh trên đài từ đầu năm dương lịch.
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà.
Nam – Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.
Sau đó là phần ca nhạc. Những bài thơ xuân năm trước và năm nay được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc vang lên nhiều lần. Buổi phát thanh đêm giao thừa trên miền Bắc như nhắc nhở anh chớ vội nóng lòng, cái điều khác lạ nhất định sẽ tới trong mùa xuân này, và nó đang tới.
Trưa mồng hai Tết, đài Sài Gòn báo tin đêm trước, Việt Cộng đã mở một loạt trận tiến công vào một số thị trấn ở miền Trung và Cao nguyên, trong đó có thành phố Đà Nẵng, và tổng thống Thiệu đã quyết định bãi bỏ lệnh ngừng bắn trên toàn lãnh thổ Việt Nam cộng hòa. Hai Long nửa mừng nửa lo, Như vậy là cuộc tiến công đã khởi đầu. Nhưng những trận đánh nổ ra ở miền Trung trước có ảnh hưởng gì tới các nơi khác không? Anh cảm thấy hơi yên tâm khi nhận thấy những tin thông báo chiến sự ở miền Trung bị chìm đi trong tiếng pháo Tết. Mặc dù Thiệu hủy bỏ lệnh ngừng bắn và toàn bộ quân Mỹ đã được đặt trong tình trạng báo động cao nhất, pháo vẫn tiếp tục nổ rền suốt ngày đêm. Xác pháo ngập trên hè phố. Tất cả những con đường vẫn nườm nượp những dòng người xuôi ngược đón xuân với cảnh thanh bình trong lúc cuộc chiến diễn ra ở những vùng không xa nó. Lần này, cuộc tiến công đã nổ ra ở tận Trung phần.
Lúc 2 giờ chiều, bác Bảy Lai ghé chiếc xích lô trước nhà. Bác vào chúc Tết gia đình anh. Khi ra về, bác bỏ quên một hộp quẹt. Giờ nổ súng là 3 giờ đêm nay. Hai Long phóng xe tới báo tin cho Hòe và Ruật. Anh xiết chặt tay những người đồng chí trước lúc ra về. Hai Long hoàn toàn yên tâm. Những trận đánh nổ ra tại miền Trung đã mang lại cho anh một cái cớ chính đáng để ở lại với Thiệu đêm nay.
Sau bữa cơm chiều, Hai Long mặc bộ đồ lớn, đeo cà vạt, nhét khẩu Browning nhỏ đã được lắp sẵn 6 viên đạn ở thắt lưng, lên xe phóng thẳng vào dinh Độc Lập.
Sự canh phòng chung quanh và bên trong dinh không có gì khác thường. Anh không dùng thang máy, đi dọc hành lang, nhìn những phòng làm việc cửa đều đóng kín, rồi thong thả theo cầu thang lên chỗ ở của gia đình Thiệu trên lầu bốn. Anh rất mừng khi nhận thấy trừ bộ phận bảo vệ dinh, những nhân vật của Phủ tổng thống không ai có mặt.
Tới lầu ba, anh gặp viên sĩ quan thường trực. Viên trung úy đỏm dáng trong bộ lễ phục, giơ tay lên vành mũ chào anh, tươi cười nói:
- Năm mới, chúc ông cố vấn và gia đình vạn sự an khang.
- Xin chúc trung úy và gia đình gặp mọi điều may mắn, riêng trung úy đầu năm sẽ nhận thêm một bông mai mới. Tổng thống và phu nhân có nhà chớ?
- Dạ, tổng thống và phu nhân vừa đi Mỹ Tho chiều nay. Hai ông bà về quê ngoại.
- Ủa! Tình hình đang găng mà tổng thống lại về quê ư?
Viên trung úy mỉm cười:
- Đài phát thanh của Việt Cộng vừa tuyên bố, họ đánh Đà Nẵng và mấy nơi để trừng trị quân Mỹ không tôn trọng tục lệ cổ truyền của nhân dân Việt Nam trong dịp Tết.
- Tổng thống có dặn lại chi không?
- Dạ, không có dặn dò chi.
- Mình nghe tổng thống bãi bỏ lệnh ngừng bắn, quân Mỹ cấm trại 100%, vội chạy vô tính ở lại cùng tổng thống đêm nay lỡ có điều chi cần bàn bạc.
- Dạ, phía Nam thì vẫn yên, Tết năm nay, ở Sài Gòn dân đốt pháo nhiều quá xá!
Anh định quay về?
Nhưng dù Thiệu có đi vắng thì đơn vị được giao nhiệm vụ đêm nay vẫn cứ phải đánh vào dinh tổng thống, và phải cố chiếm mục tiêu. Mình phải hỗ trợ cho họ.
- Ông Hướng có tới không?
- Dạ, không.
- Tình hình này mà Phủ tổng thống lại không có một ai! Thiếu tướng chỉ huy lực lượng bảo vệ dinh có ở đây chớ?
- Dạ, thiếu tướng nghỉ phép, chỉ có ông đại tá ở lại.
Hai Long làm vẻ mặt lo lắng rồi nói:
- Nếu vậy, đêm nay mình phải ở lại, đề phòng có chuyện chi khi vắng mặt tổng thống.
- Dạ, có ông cố vấn ở lại thì tốt quá! Con biểu chuẩn bị cà phê và bánh trái để ông cố vấn dùng buổi tối.
- Cảm ơn. Từ giờ tới nửa đêm, cứ hai tiếng một lần, anh phôn vô Tổng tham mưu hỏi tình hình chiến sự, rồi báo cho tôi biết.
- Thưa rõ.
Hai Long đi về phòng làm việc của mình, mở rộng cửa, bật đèn, mở quạt máy, ngồi nhìn qua ô kính. Hào hứng đối với nhiệm vụ đêm nay của anh giảm đi rất nhiều. Điều may mắn lớn là tới giờ phút này, ngụy quyền vẫn chưa hay biết gì. Thiệu chỉ tuyên bố bãi bỏ lệnh ngừng bắn một cách chiếu lệ rồi bỏ đi. Nhưng Thiệu có thoát khỏi tai họa chỉ còn ít giờ nữa sẽ ập xuống đầu hắn không? Giờ này, chắc những đơn vị mũi nhọn của ta đã rời khỏi nơi ẩn náu, vượt qua vành đai, tiến vào Sài Gòn. Những chiến sĩ biệt động ở nội thành chắc đang cố chợp mắt một vài tiếng để chuẩn bị cho trận đánh đầy mạo hiểm. Ở các mục tiêu, họ đều phải chiến đấu với những kẻ địch đông hơn mình nhiều lần. Họ sẽ phải cầm giữ những mục tiêu này cho tới khi lực lượng từ ngoài tới tăng viện… Không còn cách nào báo tin cho bộ đội Thiệu đã về quê ngoại tại Mỹ Tho!
Khuôn viên dinh Độc Lập với những vòm cây có những mảng lá xanh rực lên bởi ánh đèn, hoàn toàn vắng vẻ và yên tĩnh. Số binh lính bảo vệ dinh đã đi phép một nửa, nhưng chắc vẫn đông hơn nhiều lần lực lượng tiến công đêm nay. Họ chỉ có thể giành thắng lợi nếu giữ được hoàn toàn bất ngờ… Đường phố chung quanh dinh Độc Lập với hai hàng đèn thủy ngân xanh biếc, nườm nượp xe du kịch, xe hon-đa ngược xuôi chở theo khách du xuân. Xa hơn một chút, Sài Gòn rực rỡ ánh đèn ngày hội và những tấm biển quảng cáo với những dòng điện luôn đổi màu.
Đến 11 giờ đêm, Hai Long nói với viên trung úy:
- Yên tĩnh thế này, chắc không có chuyện chi đâu. Trung úy không phải báo cáo tình hình chiến sự nữa, và có thể đi ngủ.
Anh ngả mình nằm dài trên chiếc xa-lông. Ly cà phê đặc sẽ làm anh tỉnh táo suốt đêm nay. Tiếng pháo vẫn nổ ran khắp nơi. Anh nhìn đồng hồ. Còn gần 4 giờ nữa…

2.
Một tiếng nổ lớn phia Tòa đại sứ Mỹ làm Hai Long chú ý. Kim lân tinh trên đồng hồ chỉ kém 15 phút đầy ba giờ. Bắt đầu rồi ư? Nhưng sau đó vẫn chỉ là những tràng pháo lẹt đẹt của những người chưa chịu đi ngủ vì còn tiếc đêm xuân.
Năm phút, rồi mười phút trôi qua. Vẫn chỉ là những tiếng pháo thanh bình của ngày Tết. Kim đồng hồ chậm chạp nhích tới chấm 3 giờ.
Bất thần, những tiếng nổ rất lớn từ bốn phía cùng ập tới. Xen giữa những tiếng trầm trầm và nặng của đại bác và những kho đạn bị nổ tung, là tiếng nổ đanh của lựu đạn và tiếng nổ giòn và đều của những loại súng liên thanh. Cả thành phố sôi réo lên vì những làn sóng âm thanh.
Viên trung úy chạy xô vào buồng Hai Long:
- Ông cố vấn! Việt Cộng tấn công!
Hai Long làm vẻ mặt ngái ngủ:
- Tấn công ở đâu?
- Nhiều nơi trong thành phố có tiếng súng nổ và những đám cháy. Trước cổng ngách của dinh đang có nhiều tiếng súng và lựu đạn.
- Bình tĩnh hỏi Tổng tham mưu, Tổng nha Cảnh sát xem Việt Cộng tấn công những đâu. Sau đó, báo cáo phó tổng thống Kỳ. Nói rõ tổng thống hiện không có mặt ở dinh.
Chờ viên trung úy đi khỏi, Hai Long rời phòng làm việc, theo cầu thang gác lên lầu thượng. Anh chăm chú nhìn về phía cổng phụ của dinh Độc Lập, nơi đang diễn ra cuộc chạm súng, chờ sự xuất hiện của ba ánh chớp đèn pin quy ước. Sao mãi vẫn chưa thấy? Những tiếng còi rít lên phía dưới sân. Bọn lính bảo về dinh í ới gọi nhau chạy ra vị trí chiến đấu. Anh nhìn thấy chúng khóa các cổng dinh. Giờ phút quý báu nhất đã qua mất rồi! Bây giờ các chiến sỹ biệt động chỉ còn dùng sức mạnh mới có thể lọt vào dinh. Tiếng súng và tiếng lựu đạn thưa dần bên ngoài cổng phụ. Anh có ý nghĩ chưa phải là họ. Vì những chiến sĩ biệt động bao giờ cũng mở đầu trận đánh bằng những đòn sấm sét.
Hai Long bắt đầu đưa mắt nhìn xung quanh. Người anh vẫn còn ơn ớn lạnh. Cái lạnh từ những năm xa xưa khi giờ G tới trong những trận công đồn. Lâu lắm rồi, anh mới lại tham gia vào một cuộc chiến đấu trực tiếp bằng súng đạn. Màu xanh của ánh đèn cao áp thủy nhân đã nhạt đi vì những đám cháy, màu đỏ khè của những đuôi lửa đạn rocket, những viên đạn vạch đường, và những màu xanh, đỏ chói sáng của rất nhiều hỏa châu. Phía Long Bình có một đám cháy rất lớn, đỏ lựng cả góc trời. Từ đó, tiếp tục vọng về những tiếng nổ dậy đất. Phía Tân Sơn Nhất, tiếng đại bác và súng nhỏ dồn dập. Một số khu vực trong thành phố mất điện.
Khi Hai Long quay xuống lầu ba thì viên trung úy đang đi tìm anh. Y hớt hải báo cáo:
- Bộ Tổng tham mưu cũng đang bị tấn công mạnh. Ông bộ trưởng Quốc phòng và ông Tổng tham mưu trưởng đều không có mặt. Trực ban cho biết Tòa đại sứ Mỹ, Đài phát thanh, Tổng nha Cảnh sát, nhiều quận ở nội đô và ven đô đều bị tấn công. Nhiều tỉnh thành báo cáo về, họ bị Cộng quân tràn ngập. Phó tổng thống Kỳ nói ông chưa nắm được tình hình ra sao, Việt Cộng đã lọt vô trong sân bay, đơn vị bảo vệ đang hối ông di tản cùng với gia đình.
Hai Long trầm ngâm rồi nói:
- Xuống dưới nhà coi tình hình chiến đấu chung quanh dinh ra sao. Nói với đại tá, tôi sẽ trực tiếp xuống kiểm tra.
Lát sau, viên đại tá chỉ huy lực lượng bảo vệ dinh đi cùng viên trung úy lên gặp Hai Long. Y mặc bộ áo giáp, bộ mắt xám ngoét vì lo lắng:
- Trình ông cố vấn, tôi đã cho bố trí binh lực xong, dùng hàng rào sắt ngăn tất cả những con đường tới dinh, khóa chặt các cổng và cho binh lính vô vị trí ẩn nấp để chiến đấu khi Việt Cộng tiếp tục tiến công.
- Đạn dược ra sao nếu chiến đấu lâu dài?
- Thưa, đạn dược tạm đủ, nhưng lực lượng chiến đấu thì quá mỏng. Đáng lẽ vô lúc này phải có gấp đôi, gấp ba lúc thường, nhưng cả sĩ quan và binh lính đã đi phép một nửa. Đề nghị ông cố vấn cho điều thêm lực lượng tăng cường.
- Trước mắt chưa có lực lượng tăng cường, vì những nơi khác đều bị tiến công, không riêng Sài Gòn mà trên toàn quốc. Tình hình nhiều nơi nguy ngập. Phải tính chuyện cố thủ với lực lượng hiện có.
Viên đại tá ngồi thừ mặt.
Hai Long nói thêm:
- Chuẩn bị võ khí cho tôi. Tôi sẽ cùng chiến đấu bên cạnh anh em binh sĩ.
Anh cầm chai rượu trên bàn, rót đầy ba ly:
- Chúng ta cụng ly mừng xuân mới và đón nhận nhiệm vụ khó khăn. Phải vượt qua cơn sóng gió này.
Hai viên sĩ quan được sự động viên rất tâm lý của ông cố vấn, vui vẻ cạn ly.
Hai Long chỉ nhấp một chút, rồi lại rót đầy ly cho hai người:
- Mình quen dùng rượu lễ, không xài được thứ mạnh này vì lo cho cái bao tử. Các ông cạn đủ ba ly để đón nhiệm vụ.
Họ không từ chối, lần lượt nốc cạn những ly rượu mà anh rót tiếp.
Viên đại tá bắt đầu đỏ mặt, tươi tỉnh hoạt bát hẳn lên:
- Đa tạ ông cố vấn. Ông cho ba ly này, sức lực chiến đấu của tụi tui sẽ tăng tiến gấp ba.
- Nếu vậy làm tiếp hai ly nữa cho tăng lên gấp năm!
Cả hai viên sĩ quan cười vang.
Hai Long hỏi:
- Trong dinh dự trữ nhiều rượu không?
Viên trung úy mỉm cười:
- Thứ đó trong dinh đâu có thiếu! Chỉ cần ông cố vấn cho lệnh.
Hai Long nói với giọng đĩnh đạc:
- Mở kho lấy rượu cho anh em uống! Việt Minh ngày xưa rất nghèo, nhưng theo lời người Pháp, trước khi xung phong, lính xung kích của họ đều được uống thoải mái. Đêm nay là đêm lịch sử, tổng thống vắng mặt, tôi tạm thay tổng thống chúc mừng chiến binh. Sáng mai tổng thống về, chiến đấu thắng lợi, tôi sẽ đề nghị tổng thống khen thưởng anh em thật hậu. Chớ để ai uống quá say.
- Dạ, dạ…
- Chuẩn bị trang bị chiến đấu cho mình.
Hai viên sĩ quan hào hứng bước ra. Từ trước tới nay chưa có ai được đụng tới kho rượu quý của Thiệu.
Một giờ trôi qua, Hai Long vô cùng sốt ruột. Tiếng súng từ khắp nơi thôi thúc dội về, nhưng riêng tại đây vẫn chưa thấy bộ đôi chủ lực xuất hiện.
Viêm trung úy tới phòng anh, ôm theo một chiếc áo giáp, một cái nón sắt và một khẩu Colt. Giọng y đã ngà ngà:
- Anh em binh sĩ rất đội ơn ông cố vấn. Rượu đã được phân phát ba người một chai. Xin ông cố vấn nhận cho trang bị chiến đấu. Cái áo giáp có hơi nặng nhưng phải dùng nó mới đảm bảo an toàn.
- Bao nhiêu ký?
- Dạ, mười bốn.
- Chà, chà! Thôi cứ để đó cho mình.
- Thưa có tin từ bộ tư lệnh Biệt khu thủ đô, bộ tư lệnh Hải quân cũng bị tấn công. Huế, Biên Hòa, Bình Dương, Hậu Nghĩa, Long An vừa báo cáo về tình hình đang nguy ngập.
- Việt Cộng phen này làm dữ quá!
- Dạ chưa bao giờ. Không hiểu sao phía quân Mỹ chưa phản ứng?
- Họ đang còn phải lo thân họ.

3.
Bầu trời đêm nhạt dần. Ánh lửa hồng của những đám cháy đã thu nhỏ lại, nhường chỗ cho những đám khói lớn. Bình minh đang tới. Như vậy là trận đánh bên trong dinh Độc Lập đã không diễn ra. Với anh sáng ban ngày, tiếng súng càng rộ lên. Có nhiều tiếng súng lớn. Tiếng động cơ xe tăng từ đâu đó vọng lại. Địcu bắt đầu phản ứng mạnh.
Hai Long quyết định mặc chiếc áo giáp, đeo khẩu Colt vào thắt lưng, đội mũ sắt lên đầu, đi xuống tầng trệt.
Anh đảo một vòng quanh dinh, gặp những sĩ quan và binh lính mặt tím nhợt, bơ phờ vì uống rượu nhiều và thức đêm. Họ đều chào anh, ông cố vấn tốt bụng, đã cho họ lần đầu được nếm những chai rượu quý của tổng thống.
Một viên hạ sĩ nói:
- Việt Cộng sợ uy ông cố vấn nên đêm qua không dám tới!
Một tên lính mặt đỏ dừ, lè nhè:
- Nó sợ uy của ông cố vấn hay sợ rượu của ông cố vấn?
Nói xong hắn cười khà khà. Hắn vẫn đang say.
Hai Long nghiêm nghị bảo viên hạ sĩ:
- Tôi đã bảo đại tá lấy rượu cho anh em uống cho ấm người, nhưng có những anh em hơi quá chén đó.
- Dạ thưa ông cố vấn, có rượu vào thì mới hăng máu lên. Ông cố vấn rất tâm lý. Nếu đêm qua Việt Cộng mà tới, tất cả anh em sẽ tử thủ vì ông cố vấn.
- Ông đại tá đâu?
Viên hạ sĩ trỏ cho anh một căn phòng ở tầng hầm.
Hai Long đi vào thấy viên đại tá đang ngồi gà gật ngủ. Chiếc gạt tàn đặt trên bàn đầy ắp tàn thuốc, bên cạnh là chai rượu cạn khô. Anh đập nhẹ tay vào cửa, thấy có tiếng động, y mở choàng mắt, cố làm ra vẻ tỉnh táo.
- Tòa đại sứ Mỹ, Đài phát thanh đều để Việt Cộng lọt vô, nhưng ở đây ta đã chặn đứng được chúng từ bên ngoài dinh.
- Chờ trời sáng chút nữa, nếu Việt Cộng không tiến công ông cho binh sĩ lần lượt đi ngủ lấy sức chuẩn bị chiến đấu đêm nay. Tôi thấy anh em quá mệt mỏi rồi đó!
- Dạ, dạ…
Những việc làm của Hai Long đã đủ để gây ấn tượng với bọn chúng, anh quay về phòng trút bỏ chiếc áo giáp và cái mũ sắt quá nặng.
Công việc của mình ở đây dường như đã xong, với kết quả là con số không. Anh cần ra ngoài xem có chỉ thị gì mới của Trung tâm. Không ai có thể liên lạc với anh khi anh còn ở đây. Nhưng chưa nên vội vã đi ngay. Chờ tới lúc Thiệu về thì tốt hơn. Hay ít nhất cũng có một người khác tới làm tiếp công việc Kỳ đã trao cho mình đêm qua.
Những tin tức viên trung úy thu thập từng lúc, góp lại đã giúp anh hình dung một phần cuộc tổng tiến công bắt đầu 3 giờ sáng hôm nay. Bộ đội ta đánh vào trên một trăm mặt trận lớn nhỏ. Năm trong 6 thành phố lớn ở miền Nam bị tiến công. Có tin ta đã chiếm phần lớn thành phố Huế và cắm cờ Mặt trận giải phóng trên thành nội. Rất nhiều kho tàng và phương tiện chiến tranh bị phá hủy. Tại Sài Gòn, cuộc tiến công đã nhằm vào hầu hết những cơ quan đầu não, những vị trí quan trọng. Bộ đội ta đã chiếm Đài phát thanh, đột nhập Tòa đại sứ Mỹ, sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu. Ở khắp nơi, cuộc tiến công vẫn tiếp diễn ác liệt. Riêng tại đây, địch đã đề phòng nên lực lượng biệt động bị chặn lại ở bên ngoài dinh. Bộ đội và nhân dân ta đã lập chiến lũy ở nhiều khu phố.
Một không khí hoảng loạn tràn lan. Suốt buổi sáng, theo lệnh của Hai Long, viên trung úy đã gọi điện thoại cho bộ trưởng bộ Nội vụ, tổng thư ký Phủ tổng thống mời tới dinh làm việc, nhưng đều không nhận được trả lời. Cũng không có một bộ trưởng nào tự ý tới dinh. Chắc tất cả các vị đã tìm nơi kín đáo ẩn náu. Cả Thiệu cũng mất hút.
Buổi trưa, Nguyễn Cao Kỳ gọi điện thoại cho biết, quân đội Mỹ đã chốt chặt mọi ngả đường dẫn vào thành phố, không cho Việt Cộng tăng thêm quân vào nội đô. Quân lực Việt Nam cộng hòa phải tự đảm nhiệm việc chiến đấu với những đơn vị Việt Cộng đã lọt vào trong thành phố. Lát sau, lại có tin lực lượng Mỹ tăng viện được trực thăng vận, đã chiếm lại Tòa đại sứ Mỹ rơi vào tay Việt Cộng từ đêm qua.
Hai Long thấy phải tìm cách báo ngay cho Trung tâm biết những tin mới này. Anh bảo viên trung úy mời viên đại tá tới.
Anh nói:
- Quân Mỹ đã can thiệp. Tướng Kỳ đang cố gắng khôi phục trật tự trong thành phố. Giờ phút nguy hiểm nhất với Phủ tổng thống đã qua. Phải tiếp tục phôn hoặc cho người đi tìm ông Nguyễn Văn Hướng hay ông Mai Quốc Đống tới ngay phủ tổng thống. Trong lúc khó khăn này mà không một vị cán bộ cao cấp nào tới dinh thì cũng lạ! Giờ tôi phải đi tìm cha Hoàng. Việt Cộng chắc đã tràn ngập xứ đạo của cha từ đêm hôm qua. Lỡ có điều chi không may xảy ra với cha là tôi mang tội nặng với Tòa thánh, với giáo hội.
Viên đại tá tỏ vẻ lo lắng:
- Việt Cộng đang chiếm nhiều nơi trong thành phố ông cố vấn ra đi lúc này rất không an toàn!
- Việc đi cần phải đi! Ở đây từ đêm qua tới giờ, nếu Việt Cộng đánh vô thì đâu có an toàn!
Anh trả lại áo giáp, nón sắt và khẩu súng ngắn.
Viên đại tái nói:
- Ông cố vấn nên giữ lại khẩu Colt, giắt trong người để phòng thân.
Hai Long mỉm cười:
- Tôi là người lãnh sứ mệnh hòa bình của Giáo Hoàng Paul VI. Đêm qua, tôi nhận những thứ này để cổ võ tinh thần anh em thôi! Tôi không biết bắn, và nếu có biết, khi Việt Cộng vô, tôi cũng chỉ bắn lên trời. Giết người đối với giáo dân là một tội rất nặng.

4.
Đường phố vắng tanh, ngột ngạt mùi thuốc súng. Cả bốn phía đều có tiếng nổ rát. Hai Long biết mình rất dễ bị những âm thanh này đánh lừa vì nó vấp phải nhiều vật cản trong thành phố. Anh có thể đi ngang qua những nơi có tiếng nổ nếu còn một dãy nhà che chắn cho mình. Chỉ cần phải vừa đi vừa quan sát.
Anh phóng xe về phía Tân Định. Anh cần báo cho Cụm trưởng những tin tức vừa thu lượm được trong dinh, đặc biệt là tin quân Mỹ bắt đầu can thiệp, chúng đã bịt chặt những con đường dẫn vào Sài Gòn. Lúc này, mọi người trong cụm đều ở vị trí chiến đấu. Tuy vậy, vẫn còn một hộp thư để liên lạc với Năm Sang trong trường hợp khẩn cấp.
Tời đầu đường Hai Bà Trưng, anh thấy mình không thể đi tiếp. Quân cảnh địch canh gác các ngả đường vào. Bọn mật vụ chắc đã lảng vảng quanh đây.
Hai Long đành phóng xe ra bờ sông, trở về nhà.
Dọc đường Thị Nghè, anh gặp đồng bào, kẻ chạy ngược, người chạy xuôi. Đêm trước, bộ đội ta chiến đấu ở ngã từ Hàng Xanh phía xa lộ, từ Cầu Sơn đánh lên Thị Nghè. Nhiều nhà cửa đóng kín, khóa bên ngoài.
Vợ con anh đang ở nhà, đều reo lên. Chị Hai nói:
- Chờ mãi không thấy ba nó về, mẹ con bỏ cả cơm.
- Gia đình bác Kỳ đâu cả rồi?
- Hai bác và các con chạy sang bên kia cầu từ sáng sớm. Mình thì chạy đi đâu! Giải phóng vô là theo luôn.
Nhận thấy vẻ băn khoăn của chồng, chị Hai hỏi:
- Phen này liệu có xong không?
Thấy chồng không trả lời, chị Hai lại hỏi:
- Ba nó có điều chi mà suy nghĩ vậy?
Anh ngập ngừng rồi nói:
- Có một cái thư cần chuyển mà không đi nổi, quân cảnh gác hết lối vô rồi!
- Ở đâu?
- Sau chợ Tân Định.
- Đưa thư em đi cho. Người từ Thị Nghè chạy vô ầm ầm, mình đi đâu mà chẳng được!
- Em vô đó không lợi, lỡ có người nhận ra, khó khăn về sau, anh đã tính rồi.
- Ba đưa cho con, không ai chú ý tới con.
Hai người quay lại. Bé Liên đã đứng sau từ lúc nào. Cô bé đã lắng nghe ba má trao đổi. Liên mười bốn tuổi. Vóc dáng bé nhỏ của em khiến nhiều người tưởng em ít hơn tuổi đó.
- Hay là để con đi? – Chị Hai nói.
Hai Long nhìn con rồi hỏi:
- Con có biết đường Đặng Dung không?
- Bạn con ở đó. Có ai hỏi, con nói nhà con ở đường đó, ai mà cấm con về nhà!
Không còn cách nào lựa chọn, Hai Long dặn dò con cẩn thận rồi lấy lá thư viết bằng mực hóa học, bọc một nhúm hạt dưa, bỏ vào túi con.
- Ba chờ con ở nhà lâu nhất là hai tiếng, nếu con chưa về, ba má phải đi kiếm con đó!
- Một tiếng rưỡi mà con chưa về, thì ba má đi tìm. Từ đây vô đó, cả đi, về không tới một tiếng đâu!
Liên nhoẻn miệng cười, rồi nhảy lên chiếc xe đạp, phóng đi rất nhanh. Lòng anh se thắt lại. Đứa con nhỏ ra đời năm kháng chiến chống Pháp cuối cùng, nằm trên lưng vợ anh khi họ xuống tàu vào Nam, đang khuất dần về phía cuối đường đề lao vào vùng gió xoáy của lửa đạn.
Một giờ qua, không thấy bé Liên trở về. Anh hết đi ra lại đi vào. Anh nghĩ tới mọi chuyện không hay có thể đến với con. Công việc này là của người lớn. Người lớn cũng còn những sơ xuất, lầm lẫn trong nhiều trường hợp. Bé Liên tuy thông minh, nhưng vẫn là một đứa trẻ dại dột đối với loại việc này. Nếu bé Liên không trở về thì anh sẽ làm gì? Còn bao nhiêu chuyện quan trọng đang chờ anh…
Chị Hai bảo chồng:
- Ba nó sốt ruột làm chi! Một lát nữa là con về. Đường phố nhốn nháo, thấy lạ, nó la cà nên về chậm thôi!
Chị đã quen lo lắng trước những hiểm nguy thường xuyên đe dọa chồng mình. Còn hơn thế, lúc này chị đang vui. Đứa con đã chia sẻ được một chút cái gánh nặng mà từ nhiều năm nay, ba nó phải gánh chịu một mình. Ở tuổi bé Liên, chị đã đi làm liên lạc cho du kích. Bé Liên ngày nay còn tinh nhanh hơn chị hồi đó nhiều.
Hai Long nhìn đồng hồ. Đã quá 15 phút. Như lời bé Liên dặn, đã tới lúc phải đi tìm con. Anh lại ra cửa nhìn về phía cầu Thị Nghè. Mặt anh tươi hẳn lên. Anh đã nhận ra con qua đôi vai nhỏ bé và cái đầu cúi gằm trên xe đạp, phóng qua mặt tất cả những người cùng đi lao về nhà.
Bé Liên dắt xe vào, hai má đỏ hồng, chiếc áo ướt đẫm mồ hôi.
- Có gặp được không con?
- Dạ có. Con hỏi thăm, cô ấy trả lời đúng như ba dặn, con mới trao thư.
Bấy giờ Hai Long mới hỏi:
- Tại sao con về chậm để ba má lo?
- Lúc hẹn ba, con chưa nghĩ tới là khi vô đi một đường, khi ra phải đi đường khác thì quân cảnh mới khỏi nghi. Trên đường về, con gặp mấy chỗ Giải phóng và lính Cộng hòa đang bắn nhau, con lại phải vòng qua lối khác. Con sợ trễ, ba má đổ đi tìm, ráng đạp hết sức mà giờ mới về tới đây.
Hai Long nhìn con với cặp mắt đầy thương yêu. Nó đã khôn lớn nhiều hơn mình tưởng. Nay mai nó có thể còn giúp được những việc khác cho mình.
Anh quay lại bảo vợ:
- Cho anh ăn cơm sớm, anh phải đi ngay.
- Tối nay ba nó có về không?
- Chắc không về kịp. Có thể phải trưa hay chiều mai.
Anh thường đi không hẹn lúc về, nếu có nói cũng ít khi đúng hẹn. Đã có lần anh ra đi không nói gì mà ba năm sau mới quay trở lại.
Nhận thấy vẻ lo âu của chị, anh nhoẻn miệng cười rất tươi:
- Tết ngày là Tết Quang Trung, chờ im tiếng súng, nhà mình sẽ ăn Tết đàng hoàng.
Nụ cười của anh làm chị thêm lo. Vừa rồi, bé Liên chỉ về chậm có 15 phút mà anh ấy đứng ngồi không yên. Khi đó, anh là một con người khác. Bây giờ, anh đã quay trở về với con người hằng ngày của anh. Lúc bình thường, hoặc khi vui, anh thường giữ vẻ kín đáo, trầm lặng. Nhưng khi anh làm ra tươi tỉnh, vui vẻ thế này, là có những khó khăn, nguy hiểm đang chờ đợi.
Hai Long không biết là vợ đã rút ra quy luật đó qua cách sống của mình.

Chương 13
TIẾP TỤC TRÒ CHƠI
1.
Anh đã hình dung cái giờ phút sau khi không còn cách nào thuyết phục, phải tỏ cho bọn chúng biết mình là ai. Điều đó nhất định phải xảy ra đêm qua, nếu bộ đội ta tiến vào dinh Độc Lập, như họ đã đột nhập Đài phát thanh và Tòa đại sứ Mỹ. Đó cũng là lúc anh phải kết thúc trò chơi của mình. Anh cũng đã nghĩ tới trường hợp bộ đội ta chiếm được dinh Độc Lập, bắt được cả Thiệu nhưng cuộc tiến công lần này vẫn chưa giành được thắng lợi. Khi đó thật trớ trêu. Tình huống này sẽ vô cùng khó khăn đối với anh, vì nó loại anh ra ngoài trong khi cuộc chiến đấu vẫn tiếp diễn. Anh đã không có điều kiện để thực hiện nhiệm vụ được trao. Nhưng anh còn giữ được vị trí của mình để tiếp tục cuộc chiến đấu. Trận đánh nổ ra như một tiếng sét giữa trời quang trên suốt dải đất miền
Nam, đã mang lại cho kẻ địch nỗi kinh hoàng. Nhưng qua những diễn biến đến trưa hôm nay, anh linh cảm thấy đây chưa phải là trận đánh cuối cùng. Anh còn phải hết sức khéo léo giữ vững vai trò của mình để tiếp tục cuộc chơi.
Với lá cờ Chữ Thập Đỏ bay phấp phới đầu chiếc mô-bi-lét xanh, Hai Long phóng về phía Chợ Lớn.
Những người Hoa đã nhanh chóng tách khỏi cuộc chiến. Nhiều nhà ở Chợ Lớn treo cờ hoặc dán những mảnh giấy in cờ Trung Hoa dân quốc trước cửa để chứng tỏ mình là ngoại kiều. Một số nhà hàng vẫn mở cửa. Dân chúng ở đây đa số là người Hoa, có vẻ bình tĩnh hơn.
Hai Long dừng xe trước cầu Nhị Thiên Đường. Quân Mỹ đóng kín bên kia Kinh Đôi. Trên cầu, không một bóng người. Đầu cầu bên kia, lính Mỹ đội mũ sắt, mặc áo giáp, lăm lăm khẩu tiểu liên cực nhanh trong tay. Chúng đã dùng bao cát làm công sự trên những mái nhà vòm, bố trí hỏa lực, kiểm soát từ xa. Nếu qua cầu, chúng giữ lại xét hỏi, ít nhất cũng phiền phức và mất thời giờ.
Hai Long cho xe vòng lại, tìm một con đường ra bờ sông ở phía dưới, một nơi khá xa chỗ Mỹ đóng quân. Hồi lâu, anh mới tìm được một con đò ngang. Anh đưa xe xuống đò, qua sông.
Bình An ở phía trước. Mặt trời sắp lặn, nhưng những chiếc trực thăng vũ trang vẫn quần đảo trên đầu. Chúng vãi đạn xuống cánh đồng. Từ phía dưới, từng loạt đạn bắn lên. Rõ ràng là bộ đội ta ở đó. Có thể họ đã vào Bình An. Lòng anh rộn lên những tình cảm thân thiết. Mười lăm năm qua, lúc nào họ cũng vẫn ở bên anh, nhưng bây giờ anh sắp sửa lại nhìn thấy họ. Anh không biết những tin tức của mình đã được chuyển về Trung tâm hay chưa. Sau khi súng nổ, liên lạc khó giữ được như cũ. Ít nhất cũng phải báo cho đơn vị bộ đội này biết các con đường vào thành phố đã bị quân Mỹ chốt chặn.
Đường đi Bình An vắng ngắt. Lá cờ Chữ Thập Đỏ ở đầu xe đã giúp Hai Long tới Bình An trôi lọt. Gần tới đầu đường, anh nhìn thấy những chiến sĩ mặc quân phục, màu xanh lá cây, đội mũ tai bèo. Xem lẫn với họ có cả những thanh niên đầu trần, mặc sơ mi kẻ ô vuông và quần bò. Họ trang bị súng trường, tiểu liên, trung liên và cả súng chống tăng. Một số bộ đội ở rải rác trên cánh đồng chung quanh, đang chiến đấu với trực thăng Mỹ. Bộ đội ta đang bố trí đề phòng địch từ phía Chợ Lớn tiến ra. Trực thăng địch đã tránh không nã đạn vào khu vực nhà thờ.
Hai Long đoán đơn vị bộ đội này chờ khi trời tối để tiến vào Sài Gòn. Rất nhiều chiến sĩ còn trẻ măng. Nước da phần đông xanh xao. Nhiều người đã vượt suốt dọc Trường Sơn đầy bom đạn tới đây. Họ nhìn anh với cặp mắt tò mò. Mọi vật ở đây đều mới lạ đối với họ. Anh muốn ôm lấy họ như đã ôm lấy bé Liên khi thấy con trở về. Nhưng anh phải kìm lại đề phòng cặp mắt của giáo dân ở những ngôi nhà quanh đó.
Một anh Giải phóng đứng tuổi, nhô lên bên cạnh đường, giơ tay ra hiệu cho Hai Long dừng xe.
Anh xuống xe nói:
- Tôi ở Ủy ban Công giáo quốc tế cứu trợ nạn nhân chiến tranh, tới xứ đạo Bình An.
Anh móc túi định lấy giấy tờ, nhưng anh Giải phóng chắc hẳn là một cán bộ xua tay:
- Tất cả đồng bào đều đi ra tự do. Tôi muốn hỏi ông từ Sài Gòn hay Chợ Lớn tới đây?
- Từ Sài Gòn.
- Tình hình trong đó thế nào?
- Vô cùng lộn xộn. Cảnh sát, công an trên đường phố hầu như biến hết. Giải phóng đã chiếm được nhiều khu phố. Các nhà đều đóng cửa. Trên đường chỉ có dân tị nạn chạy từ phố này sang phố kia. Nhưng tôi được nghe chắc chắn, Mỹ đã đưa quân đóng chốt tất cả những con đường vào Sài Gòn, ngăn không cho quân Giải phóng tiến vô hoặc đi ra.
- Từ Sài Gòn đi ra, ông thấy Mỹ đóng quân ở những đâu?
- Họ chỉ đóng bên này cầu Nhị Thiên Đường, ngăn không cho bất cứ ai qua lại. Từ bên kia cầu vào tới nội thành, không thấy có quân Mỹ và quân Cộng hòa. Nếu các anh muốn vào nội đô, không thể đi qua cầu Nhị Thiên Đường, mà nên dùng đò ngang đi qua Kinh Đôi. Tôi cũng vừa qua sông bằng đò.
- Trời tối có đò không?
- Các anh nên nhờ người ở địa phương đi mướn trước thì tốt hơn.
- Mỗi chuyến đò chở được bao nhiêu người?
- Tôi nghĩ chừng ba chục.
- Cảm ơn anh. Mời anh đi.
Đường phố Bình An vắng ngắt. Những ngôi nhà hai bên đường đều đóng kín cửa. Bộ đội ta không ở trong đó.
Nhà thờ chật ních giáo dân tới trú ẩn. Họ ngồi cả trong cung thánh. Không thấy cha Hoàng. Chả lẽ cha đã kịp thời chạy vào nội thành? Những người anh hỏi thăm đều không biết cha ở đâu.
Trời bắt đầu tối. Đêm nay không thể trở về Sài Gòn. Anh dắt xe ra đường, tìm nhà bà Năm, một người thân tín của cha, không thấy có mặt trong nhà thờ.
Bác Năm gái hé cửa, nhận ra anh, kêu lên:
- Thầy Bốn làm cách nào tới được đây?
- Cha đâu? Sao không thấy cha ở nhà thờ?
- Cha sợ, bảo nhà con đưa đi lánh. Nửa đêm qua, Giải phóng tới bắt giáo dân tập họp ở trường học, gọi tên từng người tự vệ, rồi bảo bà con ở đâu cứ ở đó, đừng hoang mang, không ai được có hành động chống lại Giải phóng. Giải phóng tôn trọng chính sách đoàn kết tôn giáo của Mặt trận.
- Tôi muốn gặp cha ngay.
- Thầy cứ đi vô mấy nhà ở phía sau nhà thờ, chắc cha nghỉ tại đó chớ không đi đâu xa.
- Bác cho tôi gửi chiếc xe máy.
- Thầy đưa vô nhà cho con.
Bác Năm mở rộng cửa cho Hai Long dắt chiếc xe vào nhà.

2.
Trời tối đen như mực. Hai Long lần mò đi từng bước về khu nhà giáo dân ở sau nhà thờ. Anh khá quen khu này, nhưng trời tối, không nhà nào có để đèn, mọi vật đều như lạ hẳn đi. Hai Long hiểu là việc bộ đội ta đọc tên từng người tự vệ của xứ đạo Bình An, đã làm cho cha hoảng hồn, phải trốn khỏi nhà thờ, vì quá khứ chống Cộng khét tiếng của cha trước đây.
Chợt anh nghe tiếng lách cách của một khẩu súng lên đạn. Những tiếng hỏi nhỏ nhưng giật giọng:
- Ai?
- Ai...?
Tiếng hỏi sau lơ lớ không phải giọng người Việt, khiến anh lo lắng. Từ trong bóng tối đang có những họng súng chĩa vào mình. Hai Long ôn tồn trả lời:
- Thầy Bốn đây! Ai đó?
- Thầy Bốn nào?
- Ông giáo! Tôi là Nhã đây mà.
- Đúng tiếng thầy Bốn rồi!
Một thanh niên cầm khẩu Garant[1] tiến ra khỏi lùm cây.
- Sao thầy Bốn không cho người dẫn mà đi lò mò thế này? Con không nhanh tay ngăn thì ông Voòng nổ súng rồi!
Hai Long lạnh người. Voòng là một viên tướng Quốc dân đảng Đài Loan, ngụ tại Bình An. Không hiểu tại sao trong giờ phút này, y lại có mặt ở đây?
- Mình vừa từ Sài Gòn ra tìm cha. Cha đâu?
- Thầy Bốn đi theo con.
Tên tự vệ dẫn Hai Long vào một ngôi nhà gần ngay đó. Cha Hoàng đang ngồi bó gối trong một gian nhà nhỏ với ngọn đèn dầu lù mù, lật đật đứng dậy, ôm lấy anh:
- Từ sáng tới giờ, mình vẫn cầu nguyện cho thầy! Đêm qua ở đâu?
- Con ở trong Phủ tổng thống từ tối hôm qua tới chiều nay thì ra đây.
- Ông Thiệu có bình an không?
- Dạ, không can chi. Giải phóng tiến công nhiều nơi nhưng không đánh vô dinh Độc Lập. Tại sao cha lại ở đây? Không khi nào họ đánh vô nhà thờ đâu!
- Mình hiểu chính sách của họ. Nhưng lỡ binh lính có anh làm bậy! Lính của họ còn trẻ lắm.
Rồi ông ghé vào tai anh thầm thì:
- Mình ngán mấy anh Việt Minh già, họ có thể biết mình.
- Thưa cha, con nghĩ ở lại nhà thờ vẫn an toàn hơn. Ở đó, nhiều giáo dân, nếu lỡ có những người biết cha, họ cũng không dám đụng tới, vì họ cũng đang cần tỏ ra tôn trọng tín ngưỡng. Từ Sài Gòn vô đây, con chỉ có mỗi lá cờ nhỏ của CARITAS, mà đi trót lọt không hề hấn gì!
Cha Hoàng ngồi im.
Hai Long hỏi:
- Cha khuyến cáo bà con giáo dân đối phó với tình hình này như thế nào?
- Tự vệ có đủ súng đạn rồi, nhưng mình chưa cho lệnh nổ súng.
- Cha cần ra lệnh tuyệt đối không được nổ súng. Bà con ta sức mấy chống chọi nổi với Việt Cộng! Tòa đại sứ Mỹ, Bộ Tổng tham mưu đầy rẫy quân lính, súng đạn mà họ vẫn nhảy vô được, đối phó mãi không xong! Ta phải để cho họ thấy mình là con chiên ngoan đạo, đứng ngoài chuyện đời, mới giữ được an toàn cho giáo dân. Tòa thánh vẫn thường nhắc tránh bạo động.
- Mình cũng đã nghĩ như vậy.
- Cha cho lệnh tự vệ không để Quân giải phóng nhìn thấy mình có vũ khí. Súng đạn nổ tứ phía, mình có súng trong tay, không bắn họ cũng nghĩ là mình bắn họ.
Cha Hoàng gật đầu:
- Lát nữa mình sẽ bảo, tạm cất hết vũ khí.
- Cả trong trường hợp, Giải phóng có làm điều gì sai trái, ta cũng chỉ đề nghị với Tòa khâm sứ đấu tranh với họ theo con đường ngoại giao, chứ không dùng vũ trang, vì làm như vậy chỉ đổ máu thêm mà chẳng ích gì. Tòa thánh biết lại thêm phiền cho cha!
Cha Hoàng gật đầu liền mấy cái.
Hai Long thủ thỉ:
- Con ở Sài Gòn rất lo cho cha. Bình An trống trải, đã trở thành bãi chiến trường, nhiều tên bay đạn lạc. Con liền ra đây rước cha vô trong đó một vài hôm, đợi yên, cha sẽ trở về.
- Việt Cộng chỉ cho người đi ra, cấm ngặt người đi vô, mình vô sao được?
- Ta không qua cầu, mà qua sông bằng đò. Con cũng vừa qua bằng đò.
- Lúc nào đi?
- Sớm mai. Bây giờ cần một giáo dân chuẩn bị đò trước.
Cha Hoàng cho tìm đội trưởng đội tự vệ tới, ra lệnh cất giấu tất cả vũ khí, không được nổ súng vì bất cứ lý do nào và chẩn bị một chiếc đò nhỏ sáng mai đưa ông qua sông.
Lát sau, cha Hoàng bằng lòng cùng anh trở về ngủ ở nhà thờ. Anh biết tình nghĩa của ông đối với mình càng sâu đậm hơn nhiều.
Đêm nay, có nhiều tiếng súng lớn hơn. Pháo địch nổ dữ dội hơn đêm trước. Sài Gòn ửng lên một vùng sáng hồng như lúc mặt trời mọc. Bầu trời từng lúc lại rực sáng vì những ánh chớp của lửa đạn.
Cha Hoàng thỉnh thoảng giật mình vì tiếng súng nổ gần. Ông hỏi Hai Long:
- Thái độ quân tướng ông Thiệu đối với trận này ra sao?
- Con khó trả lời với cha. Ông Thiệu về quê vợ ở Mỹ Tho. Cả ngày hôm nay chưa thấy ông trở về. Các vị bộ trưởng, các tướng không một vị nào ló mặt ở dinh tổng thống!
- Trốn biệt cả rồi!
- Không biết là trốn hay đi phép không về kịp?
- Trốn! – cha Hoàng dằn giọng - Ở đây cũng vậy. Con chiên, tự vệ ngày thường đầy đàn, đầy đống, nhưng sau lúc súng nổ thì còn được mấy người! Cái anh tướng Tàu ở tận đâu đâu lại tình nghĩa, tìm tới xin bảo vệ cha... Việt Minh phen này định giải phóng miền Nam ư?
- Con chưa rõ. Nhưng cũng có thể đây là một đòn cảnh cáo Johnson phải ngừng ném bom để ngồi vào thương lượng.
Cha Hoàng trút một hơi thở dài não nề:
- Đúng như một cơn ác mộng!
Ông im lặng một lúc, rồi rì rầm nói tiếp:
- Suốt ngày nghe chúc tụng, năm mới tốt lành, nửa đêm tỉnh giấc, mở mắt ra thì cơn hồng thủy đã tràn ngập khắp nơi... Thầy có nhìn thấy chúng nó không?
- Dạ, con gặp nhiều, ở Sài Gòn cũng như trên đường vào đây.
- Mình thấy rất lạ... Hơn hai chục năm mới lại nhìn thấy bọn chúng, mà chúng vẫn hệt như hồi xưa! Cũng nét mặt ấy, bộ quần áo ấy, cách ăn nói ấy! Chả lẽ chúng cứ trẻ mãi? Đây đúng là bọn con cái của những tên Việt Minh ngày đó!
- Thưa cha chỉ khác cái mũ, ngày xưa họ đội mũ lá, còn bây giờ họ đội mũ tai bèo, và vũ khí của họ thì tốt hơn xưa nhiều.
- Chúng có đưa xe tăng vô không? Ở đường 9, chúng dùng cả xe tăng.
- Con chưa nhìn thấy, chỉ nghe nhiều tiếng pháo lớn của họ.
- Cha Lê thật là người biết nhìn xa!
Để làm dịu bớt những lo lắng của ông, Hai Long chuyển sang bàn những việc ngày mai hai người sẽ làm khi vào Sài Gòn. Ông hơi vui lên, vì những hoạt động đó, nếu cơn nước lửa này qua đi, thì uy tín của ông một lần nữa lại được thêm củng cố.
Gần về sáng, có tiếng động cơ xe tăng phía Chợ Lớn. Mặt đất mỗi lúc một rung chuyển mạnh. Rồi nghe rõ tiếng bánh xích lạo xạo trên mặt đường.
Cha Hoàng dùng cùi tay chạm nhẹ vào người anh:
- Thoát rồi! Xe tăng Mỹ đã kéo ra.
- Nếu quân Mỹ kéo ra, ngày mai cha có thể dùng xe du lịch vô Sài Gòn.
Những chiếc xe tăng Mỹ đi vượt qua Bình An.
Trời sáng. Không một bóng áo xanh nào quanh phố Bình An cũng như trên cánh đồng. Đêm hôm qua, chắc họ đã vượt Kinh Đôi để vào thành phố. Hình ảnh những anh chiến sĩ trẻ măng, nước da xanh xao, cặp mắt tò mò, vẫn cứ luẩn quẩn trong đầu Hai Long.

3.
Cha Hoàng bỏ chiếc xe Peugeot ở Chợ Rẫy, rồi ngồi vào sau xe máy để Hai Long đèo vào dinh Độc Lập. Anh cần nắm những diễn biến chiến sự mới để báo cáo với Cụm trưởng.
Trên đường phố thấp thoáng xuất hiện đồng phục của những tên cảnh sát. Một số con đường bị chặn lại bằng hàng rào kẽm gai cơ động. Tiếng súng vẫn tiếp tục nổ. Nhưng Hai Long có cảm giác địch đã qua cơn hoảng loạn, bắt đầu đối phó, và cuộc sống chiến đấu chỉ còn tập trung vào một số khu vực trong thành phố.
Trong dinh, vẫn chưa có ai ngoài số binh lính bảo vệ và mấy viên sĩ quan nội thất.
Hai Long hỏi viến thiếu tá trực:
- Tổng thống chưa về ư?
- Thưa ngài cố vấn, tổng thống hiện đang ở Bộ Tổng tham mưu.
- Tổng thống về bằng cách nào?
- Dạ, tướng Weyand cho trực thăng tới Mỹ Tho rước tổng thống về thẳng Tổng tham mưu chiều qua.
- Cha Tổng từ Bình An ra thăm. Có nói chuyện bằng điện thoại với tổng thống được không?
- Dạ được.
Viên thiếu tá quay máy điện thoại, rồi trao ống nghe cho Hai Long.
Từ đầu dây đằng kia, tiếng Thiệu mừng rỡ:
- Ô chà! Ông cố vấn! Anh đang ở đâu vậy?
- Tôi và cha Tổng đang ở trong dinh.
- Làm sao cha vô đây được?
- Tôi ở trong dinh tới chiều qua, sốt ruột quá, phải sang Bình An rước cha ra.
- Tình hình bên đó ra sao?
- Giải phóng tràn ngập khắp nơi. Quân Mỹ đã chốt bên kia cầu Nhị Thiên Đường.
- Làm sao anh lọt qua được?
- Tôi phải cắm một lá cờ Hồng thập tự của CARITAS ở đầu xe máy. Anh cho cha và tôi biết tình hình chiến sự hiện nay ra sao?
- Cộng quân tiến công trên một trăm nơi. Nhiều nơi bối rối, vì thiếu mặt người chỉ huy chính nên tình hình chưa rõ. Chỗ tôi hiện giờ cũng đang tiếp tục bị tiến công.Tôi đang cố gắng vãn hồi lại trật tự. Anh lo giúp cho việc phòng vệ Phủ tổng thống. Ông Hướng đã tới đó chưa?
- Tôi sẽ cho người đi tìm ông Hướng. Tại sao người Mỹ vẫn chưa phản ứng?
- Họ còn lo giữ thân họ!
- Tôi đưa cha qua Tòa Khâm và Tòa Tổng giám mục rồi sẽ quay về dinh.
- Anh đưa cha đi cẩn thận. Việt Cộng đang bắn pháo đó! Tạm biệt.
- Đề nghị anh nói chuyện với cha.
Hai Long chuyển máy cho cha Hoàng, rồi quay sang yêu cầu viên thiếu tá cho mình biết tình hình chiến sự ở Sài Gòn. Viên thiếu tá nói được thêm một số điều cụ thể. Cuộc tiến công vào Tòa đại sứ Mỹ, Đài phát thanh, bộ tư lệnh Hải quân đã bị đẩy lui. Chiến sự còn tiếp diễn tại khu vực sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu, tại quận 3, quận 6, quận 7, quận 8, Nhà Bè, phường Bến Đá, phường Bàn Cờ, khu vực Bình Hưng Hòa, Hàng Xanh, và nhiều nơi khác chung quanh Sài Gòn. Nơi giao tranh ác liệt nhất là khu vực Bộ Tổng tham mưu và sân bay Tân Sơn Nhất. Quân Mỹ tham gia chiến đấu ở đây. Cao Văn Viên đã điều hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến từ đồng bằng sông Cửu Long về tăng cường. Cũng theo lời y, thì Thiệu, Kỳ cùng nhiều tướng lĩnh và một số bộ trưởng đang tập trung tại trung tâm hành quân của Cao Văn Viên, một ngôi nhà màu vàng nằm ở phía nam sân bay.
Anh bảo viên thiếu tá phải cho người đi tìm ngay Nguyễn Văn Hướng, và nói mình đưa cha Hoàng đi một số nơi, chiều tối nay hoặc sáng mai sẽ quay trở lại.
Hai người ra tới cổng thì gặp Hòe đi vào. Anh xin lỗi cha Hoàng rồi rảo bước tới gặp Hòe.
- Tình hình đến đâu rồi anh Hai? Tôi nghe đài Hà Nội, người cứ nóng ran.
- Chiến sự đang diễn biến khá phức tạp. Nhất cử nhất động của ta đều phải đề phòng địch theo dõi. Hướng vẫn chưa tới làm việc. Phòng Tổng thư ký không có ai. Anh vào hỏi qua tình hình rồi ra, không nên ở đây lâu. Nhưng khi Hướng và Đống có mặt thì anh phải bám sát ngay. Cần nắm chắc những diễn biến chiến sự và đặc biệt là những chủ trương đối phó của địch.
Hai Long đưa cha Hoàng tới Tòa khâm sứ và Tòa Tổng giám mục. Khâm sứ và Tổng giám mục đều mừng rỡ hỏi thăm tình hình chiến sự, rồi cảm ơn hai người đã không quản bom đạn tới thăm. Họ đi tiếp tới Ủy ban Công giáo bảo trợ nạn nhân chiến tranh bàn việc cứu trợ cho những tín đồ Công giáo sau khi chiến sự đã chấm dứt. Đêm qua, cha Hoàng đã khen anh sớm nghĩ tới chuyện này.
Hai Long đưa cha Hoàng trở về Chợ Rẫy.
Anh nói:
- Cha nán ở lại đây vài ngày.
- Mình phải quay về Bình An ngay hôm nay. Thầy ở Sài Gòn, thấy súng nổ còn tới tìm mình, mình bỏ con chiên đi lúc này sao tiện!
- Con sợ tên bay đạn lạc.
- Phó thác hồn xác nơi Chúa rồi, có ngại chi!
Hai Long biết không thể ngăn ông:
- Ngày mai, xong việc ở Phủ tổng thống, con sẽ xuống.
- Thầy cứ lo công việc, không phải quan tâm tới mình nhiều.
Hai Long đã tạo được sự hiện diện ở những nơi cần thiết. Anh phải quay về để giải quyết việc riêng của mình.

4.
Một hàng rào xe tăng và xe bọc thép vây quanh dinh Độc Lập. Khá đông nhân viên Phủ tổng thống đã trở lại làm việc. Binh lính xét giấy tờ những người ra vào rất nghiêm ngặt. Tiếng súng vẫn tiếp tục nổ trong thành phố. Máy bay trực thăng vũ trang quần đảo từng khu vực nhỏ, nã đạn rocket làm bốc lên những đám cháy, khói mù mịt.
Thiệu đã trở về dinh.
Hai Long đi qua buồng Thiệu thấy y đang ngồi làm việc với Cao Văn Viên. Thiệu nói rất to. Nhìn thấy Hai Long đi qua. Thiệu gật đầu chào. Hai Long cũng tươi cười cúi đầu rồi đi thẳng về phòng mình.
Lát sau, Thiệu hấp tấp bước vào phòng, ôm lấy Hai Long. Y kéo anh sang phòng của mình.
- Hết sức cảm ơn anh đã lo cho mọi chuyện xảy ra sau khi tôi vừa đi khỏi nhà.
- Tôi được tin Weyand rút quân từ biên giới về, đặt toàn bộ quân Mỹ trong trạng thái báo động cao, lại nghe anh thông báo trên đài hủy bỏ lện ngừng bắn, nên tôi vội vô dinh ngay.
- Nếu đêm đó biết anh ở trong dinh tôi đỡ lo hơn nhiều. Tòa đại sứ Mỹ bị chiếm mà dinh Độc Lập vẫn yên hàn, Mỹ cũng nể mặt mình chớ!
- Tôi phải nhận lỗi đã làm vơi một phần kho rượu dự trữ của anh.
Thiệu cười:
- Nếu ở nhà mấy ngày đó, tôi đã cho anh em uống hết.
- Anh cho biết tình hình chiến sự tới đâu rồi?
- Trừ thành phố Huế, Việt Cộng còn hơi đông, ở Sài Gòn và những nơi khác chỉ còn là những hoạt động tảo thanh. Tôi ra lệnh cho Cao Văn Viên, trong vòng một hai ngày, phải quét hết khoảng một hai ngàn tên Việt Cộng bị mắc kẹt ở Sài Gòn. Quân Mỹ bủa vây chặt ở vòng ngoài. Ở Bắc phần, thủy quân lục chiến Mỹ sẽ phối hợp với quân đội Cộng hòa tiêu diệt địch tại thành phố Huế.
- Đã bắt đầu thấy sáng sủa! – Hai Long đưa đà.
- Quan trọng nhất sau đây, là quét sạch bằng hết những tên Việt Cộng nằm vùng. Lời anh góp với tôi bữa trước rất đúng, phải có người nắm chắc cái Đặc ủy Trung ương tình báo và cái Tổng nha cảnh sát. Ông Nhu, ông Cẩn ngày trước rất giỏi những việc này. Mình làm ăn bây giờ quá tệ!
Thiệu rút từ trong túi ra một cây bút, rồi nói tiếp:
- Tôi đã nghĩ tới món quà kỷ niệm cho mấy ngày lịch sử vừa qua. Đây là cây viết được dành để ký những văn bản quan trọng của Nhà nước, có khắc tên và chức vụ của tôi, tôi xin tặng ông cố vấn.
- Xin đa tạ thịnh tình của tổng thống. Đã là anh em trong nhà, khi gặp khó khăn thì phải cùng nhau gánh vác, tổng thống chớ phải bận tâm.
Thiệu cười nụ, rồi ngồi trầm ngâm. Y đột ngột hỏi Hai Long:
- Anh có cho rằng Mỹ đã biết trước cuộc tiến công này hay không?
- Tôi cũng đang đặt cho mình câu hỏi đó!
- Anh thấy có hiện tượng chi?
- Thì tôi đã nói với anh, tôi vào dinh tìm anh vì được tin Wayend kéo quân về quanh Sài Gòn, từ đêm 30 Tết, tòa bộ quân Mỹ đã bị cấm trại... Khi gặp anh, tôi mới biết anh không hề được thông báo gì về những quyết định này!
Thiệu lẩm bẩm như nói một mình:
- Westmoreland có khuyên mình nên hủy lệnh ngừng bắn. Mình chỉ đồng ý bỏ lệnh ngừng bắn ở vùng I chiến thuật, ổng cũng thôi. Như vậy là ổng chỉ lo cho cái Khe Sanh! Mình công bố lệnh ngừng bắn thì ổng kéo quân Mỹ từ biên giới Campuchia về quanh Sài Gòn. Mình cho binh lính nghỉ phép thì ổng cấm trại toàn bộ binh lính! Ổng không hề nói với mình một câu? Tối 30, quân Mỹ báo động, đêm mồng 1, Việt Cộng đánh các tỉnh miền Trung. Sáng mồng 2, Bunker ra thăm hạm đội 7 thì tối mồng 2, Việt Cộng đánh Tòa đại sứ Mỹ! Tổng tiến công của Việt Cộng chỉ nhằm vào quân đôi Cộng hòa. Suốt mấy ngày đầu, quân Mỹ làm chi? Họ chỉ điều quân tới giải tỏa Tòa đại sứ Mỹ và sân bay Tân Sơn Nhất, dè chừng Việt Cộng làm tới... Vậy đó! Anh thử nghĩ, nếu không thỏa thuận ngầm với Mỹ liệu Việt Cộng có dám đưa quân vô đánh Sài Gòn không? Làm như vậy khác chi tự sát?
- Tôi chưa tự trả lời được vì sao Mỹ lại có thái độ như vậy?
- Johnson muốn ép Việt Nam cộng hòa phải chấp nhận thương thuyết với Việt Cộng trước cuộc bầu cử tại Mỹ.
- Ai cũng biết Mỹ gần đây có liên hệ với Bắc Việt để hối thúc Bắc Việt tới bàn đàm phán, nhưng điều anh vừa nói thì cần thu thập thêm những dữ kiện.
- Tôi nhờ anh đặc biệt lưu tâm cho vấn đề này.
- Đối với người Mỹ, mọi chuyện đều có thể xảy ra. Ông Nhu trước khi chết nói với tôi là không đánh giá hết người Mỹ! Nếu chuyện này có thật thì do ai chủ trương? Giới quân sự Mỹ cũng như chính giới Mỹ rất ít khi thống nhất. Nếu biết cụ thể, không phải ra không có cách gỡ. Tổng thống đừng quên ta còn có sự ủng hộ rất đáng kể của giáo hội Mỹ...
Buổi chiều, một chiếc trực thăng Mỹ lượn quanh dinh Độc Lập, rồi hạ cánh xuống bãi đáp trên nóc dinh. Hai Long nhìn thấy Bunker từ trên máy bay bước xuống. Viên đại sứ vào gặp Thiệu một lúc rồi ra về. Hai Long nấn ná ở lại xem Thiệu có sang bàn bạc gì với mình. Nhưng anh chỉ thấy Thiệu goi Hướng lên.
Ngày hôm sau, Hòe báo tin đã lấy được nguyên bản kế hoạch 7 điểm của Mỹ nhằm đối phó với cuộc Tổng tiến công, trong buổi giao ban ở Phòng Tổng thư ký.
Chiều hôm trước, Bunker trực tiếp mang tới cho Thiệu kế hoạch này.
Hai Long lại có thêm những tài liệu cần chuyển gấp về Trung tâm.

5.
Út Dẻo làm nghề bán bánh tráng ở Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi. Bánh tráng ở đây nổi tiếng khắp Sài Gòn. Hàng ngày Út Dẻo đưa bánh vô thành phố bán. Từ mấy ngày nay, cô phải ở nhà. Chính quyền đã ra lệnh cấm triệt để việc ra vào thành phố. Con đường quốc lộ từ Củ Chi về Sài Gòn vắng ngắt. Không một chiếc xe đò, một bóng người.
Anh cán bộ từ phòng điệp báo của Bộ tư lệnh Miền ra trực tiếp gặp Út Dẻo.
- Có nhiệm vụ giao thông đặc biệt trao cho đồng chí.
Sự có mặt của anh chỉ nhằm nhấn mạnh tính chất quan trọng của công vụ. Anh chưa nghĩ ra cách gì vạch kế hoạch cho cô giao liên vượt qua những trạm kiểm soát nghiêm ngặt của địch suốt từ đây vào Sài Gòn.
“Làm sao đi vô lúc này!” – Cô gái lẩm bẩm. Út Dẻo đứng bần thần. Nhưng điều cô vừa nói chưa hẳn là câu trả lời. Anh không thể nói cho cô, đã ba ngày liền, mất liên lạc với những lưới quan trọng ở trong thành. Liên lạc bằng vô tuyến điện cũng đã bị cắt đứt sau khi điện báo viêc đánh tín hiệu di chuyển địa điểm.
- Bộ đội mình đang chiến đấu ở trỏng, làm sao chỉ huy nếu không nắm được tin tức!
- Thôi được... Anh trao tài liệu cho em. Em sẽ kiếm cách.
Người cán bộ dặn dò Út Dẻo những ký hiệu, mật hiệu liên lạc khẩn cấp, phương pháp bảo vệ tài liệu an toàn và yêu cầu về thời gian.
Má Bảy đang ngồi quết trầu thì thấy đứa con gái út của mình đi vò, vẻ mặt băn khoăn.
- Má à, con phải vô Sài Gòn ngay bây giờ.
Má hôt hoảng:
- Ai cho mi đi vô? Hắn cấm đường mấy ngày rồi.
- Má đi với con... Có má con sẽ đi lọt.
Má Bảy ngẩn người nhìn con. Lâu nay, má đoán chừng Út Dẻo có làm một việc gì đó nhưng giấu mình. Má tin con đã khôn lớn, nên không hỏi han, tìm hiểu. Bây giờ giữa lúc Sài Gòn súng nổ ầm ầm, hắn lại đòi vô? Việc này chắc phải là rất hệ trọng đối với hắn, không đi không được...
- Con muốn má đi thì má cùng đi với con.
Lát sau, từ nhà má Bảy vang lên những tiếng rên la. Bà con lối xóm đổ xô tới. Mọi người thấy má quằn quại, kêu đau ở vùng bụng dưới, mồ hôi vã ra đầy người. Ai chạm vào người má, má cũng kêu đau. Nghe tiếng kêu rên của má, không thể cầm lòng. Một người nói má bị đau ruột thừa, phải đưa vào Sài Gòn cấp cứu ngay, nếu chậm sẽ nguy tới tính mạng.
Chiếc võng của má Bảy do Út Dẻo và ba bác lớn tuổi luân phiên nhau khiêng, ra tới ngã ba đường quốc lộ thì bị giữ lại.
Viên thiếu tá cảnh sát quát lớn:
- Không ai ra vô thành phố lúc này! Trái lệnh bắn bỏ!
Út Dẻo và một bác hàng xóm xáp tới níu lấy viên thiếu tá. Cô gái nước mắt lưng tròng:
- Ông thiếu tá cứu giúp gia đình em. Ông coi giùm nếu không kịp đưa vô nhà thương thì má em chết mất!
Bác hàng xóm cũng nói:
- Bả đau ruột thừa, kêu là suốt mấy giờ, nếu không vô nhà thương mổ sớm thì cứu sao nổi! Con bả đi lính Cộng hòa đang chiến đấu với Việt Cộng, mai mốt hắn về, bà con chúng tôi biết nói sao!
Tiếng rên la thảm thiết của má Bảy vọng lại.
Viên thiếu tá hất cằm cho viên thượng sĩ. Hắn đi về phía cáng. Út Dẻo lật đật chạy theo, vén tấp đắp:
- Ông coi kỹ bệnh tình của má em, rồi ông thưa giùm với ông thiếu tá. Gia đình em không bao giờ quên ơn ông.
Dầu Nhị Thiên Đường làm má Bảy chảy nước mắt tràn trề. Trời nắng gắt, tấm đắp bọc kín người, cộng với hàng giờ gào la rên rỉ, đã khiến cho quần áo má ướt đẫm mồ hôi. Út Dẻo cũng tưởng như mẹ mình bắt đầu bịnh nặng.
Viên thượng sĩ ngắm nghía một lát rồi quay lại nói với viên thiếu tá:
- Bà già sắp chết!
Viên thiếu tá ngần ngừ, tới lật tấm đắp tự mình kiểm tra rồi quyết định:
- Cho hai người khiêng võng và cô gái đi thôi, một người phải quay về. Ở đây tôi cho đi, nhưng vô trỏng, họ đuổi ra thì ráng chịu!
Họ còn phải qua thêm nhiều trạm kiểm soát trên dọc đường. Trước khi vào nội thành, chúng kiểm soát từng người rất gắt gao. Má Bảy được đưa vào một nhà thương tư ở Chợ Lớn.

6.
Điều khiến Hai Long lúc này lo lắng nhiều hơn cả, là Cụm đã mất liên lạc với Trung tâm. Sau một ngày chiến đấu, điện đài không thể tiếp tục hoạt động vì nằm lọt giữa vùng chiến sự. Địch lại bịt chặt những con đường ra vào Sài Gòn nên mọi đường dây liên lạc đều bị cắt đứt. Anh đã thu thập được nhiều tin tức mà anh đánh giá là khá quan trọng, nhưng không có cách nào chuyển ra.
Mỗi lần từ nhà đi hay trở về nhà, Hai Long đều chú ý tìm dấu hiệu bắt liên lạc ở những nơi quy định. Nhưng nó vẫn chưa xuất hiện. Thêm một lần, anh lại nhìn thấy những của quý mình có trong tay, đang nhanh chóng mất giá.
Là người hoạt động nằm sâu trong lòng địch, về nguyên tắc, anh không được phổ biến những chủ trương chiến lược. Anh chỉ có thể phỏng đoán phần nào ý đồ của trên qua nhiệm vụ thu thập tin tức. Đợt tiến công này kéo dài tới bao giờ? Nó kết thúc ở đây hay còn những đợt tiếp theo? Anh không rõ. Nhưng anh biết chắc chắn trên đang rất mong đợi những tin tức mới, vì đó chính là cơ sở để quyết định những chủ trương mới, Vậy mà tất cả những thứ đó còn nằm nguyên tại đây trong khi cuộc chiến đấu vấn đang tiếp diễn!
Mồng 6 Tết. Hai Long trở lại nhà thờ Bình An.
Anh nhận thấy cuộc tiến công của ta ở Sài Gòn đang đi vào màn chót. Từng đơn vị quân ngụy di chuyển bằng cơ giới trong thành phố. Xe tăng và xe bọc thép án ngữ nhiều ngả đường. Bọn cảnh sát lại xuất hiện nhan nhản. Hai Long phải xuất trình giấy phép đặc biệt của Phủ tổng thống mới qua được các trạm gác. Nhiều đường phố trở lại yên tĩnh. Có những tiệm buôn bán mở cửa lại, lác đác khách ra vào.
Từ cầu Nhị Thiên Đường trở ra, chỉ gặp toàn lính Mỹ. Vừa bước vào phòng riêng của cha Hoàng, anh mới dứt lời chào thì cha đã chụp hỏi:
- Tình hình trong đó ra sao rồi? Vẫn nghe súng nổ nhiều.
- Ông Thiệu đã trở về dinh. Theo ông thì Việt Cộng còn khoảng một, hai nghìn quân ở Sài Gòn. Ông sẽ cố gắng giải quyết trong vòng một hai ngày.
- Không xong đâu! Một hai ngàn Việt Minh là một hai ngàn con sư tử. Sáng hôm nay, ngay ở đây, trên trời là máy bay, bên dưới là xe tăng, quân Mỹ dàn ra tứ phía, chỉ có mấy nhóm Việt Cộng núp ở bãi cỏ lác mà đánh mãi không xong. Giáo dân kể lại, có 3 tên Việt Cộng hết đạn, chúng dành lại mỗi tên một viên, chĩa nòng súng vào đầu nhau, đếm một. hai. Ba... rồi cùng bóp cò! Des fanatiques![2] Mình quan sát thấy Việt Cộng tiến công vào Sài Gòn không đông.
- Con cũng thấy như vậy, hầu hết là đặc công, biệt động và bộ đội địa phương. Quân Mỹ sở dĩ không phản ứng ngay, vì họ thấy những đơn vị chủ lực của Việt Cộng còn nằm im ở phía ngoài.
- Huế ra sao rồi?
- Việt Cộng vẫn còn chiếm hai phần ba cố đô Huế.
Cha Hoàng trầm ngâm rồi nói:
- Chắc vẫn còn những toán Việt Cộng lẩn quẩn quanh đây.
- Con cũng định bàn chuyện đó với cha. Việt Cộng sắp rút lui. Nhưng mình phải nghĩ tới lúc họ quay trở lại. Con nghĩ cần nói với tất cả bà con xứ đạo, nếu gặp thương binh của bất cứ phía nào, ta cũng đối xử nhân đạo, rồi trao trả lại cho chính quyền hoặc phía bên kia.
Cha Hoàng cho cách giải quyết như vậy là khôn ngoan.
Trên đường về nhà, Hai Long nhận thấy tín hiệu liên lạc khẩn cấp ở một điểm hẹn. Đường dây giữa anh với Trung tâm đã được nối lại. Anh thở phào nhẹ nhõm.

7.
Hai Long vừa dừng xe trước của một nhà thương tư ở Chợ Lớn thì một cô gái từ trong bước ra. Anh không ngờ, người liên lạc lại chính là Út Dẻo.
- Tôi đang tính vô tìm má Bảy.
- Đó là má của em.
- Ủa! Má điều trị ở đây từ bao giờ?
- Má đau từ trưa hôm qua. Em phải nhờ bà con lối xóm đưa má vô đây cấp cứu. Má đã hết đau. Giờ em lại chuẩn bị đưa má về. Dọc đường, mấy ổng kiểm soát ngặt quá chừng!
Hai Long hiểu Út Dẻo tới được đây bằng cách nào. Anh đã dự kiến tình hình khó khăn khi đi lại. Đêm qua, anh và Hòe đã thu nhỏ bản sao kế hoạch 7 điểm đối phó với cuộc Tổng tiến công của Bunker và báo cáo của mình. Khối lượng tài liệu chỉ còn bằng chiếc kẹo. Anh muốn vào thăm má Bảy, nhưng cô gái gạt đi. Nhà thương khá đông người, và trong đó còn có hai người làng của cô.
Út Dẻo lộ vẻ mừng rỡ khi nhận tài liệu:
- Chỉ có bây nhiêu thôi à?
- Chừng nấy thôi. Cô có thể nuốt vô trong bụng.
- Chẳng cần đâu. Em sẽ có cách giấu hết sảy.
Người giúp họ nối lại đường dây trong tình thế khó khăn này, lại là một bà má mà trước đây họ chưa hề biết tới! Ở miền
Nam này có biết bao nhiêu bà má như vậy. Hai Long tự hỏi khi ra về.
---
[1] một loại súng tiểu liên
[2] Những kẻ cuồng tín!

Chương 14
JOHNSON TÌM KIẾM HÒA BÌNH
1.
Lầu Năm Góc phương Đông đã nói mình không hoàn toàn bị bất ngờ trước cuộc tiến công ngày 31 tháng Giêng năm 1968.
Từ đầu hạ tuần tháng Chạp 1967, Westmoreland điện cho Washington: “Cộng sản đã có quyết định tối quan trọng liên quan tới cách tiến hành cuộc chiến tranh (...) tức là quyết định thực hiện một cố gắng lớn trong phạm vi toàn quốc, có lẽ là một cố gắng tối đa, trong một thời gian tương đối ngắn”. Đây là lời tiên đoán tài tình về đòn tiến công chiến lược của ta. Chỉ có một điều khó hiểu là cùng lúc báo cáo với chính phủ mình như vậy, Westmoreland lại tung phần lớn những tiểu đoàn chiến đấu ở chung quanh Sài Gòn về phía biên giới Camphuchia, tiến hành cuộc hành quân “Hòn đá vàng”. Nó không nhằm cản trở cuộc tiến công của ta mà trái lại, còn tạo điều kiện cho quân ra tiến về Sài Gòn khi vành đai bảo vệ của quân Mỹ không còn dày đặc.
Về thời điểm nổ ra cuôc tiến công, người Mỹ cũng đã tiên đoán khá sít sao. Ngày 15-1, tại Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, trong cuộc họp báo cáo với một phái đoàn từ Mỹ sang, cả Westmoreland và phó tổng tham mưu trưởng phụ trách tình báo, Phillip E. Davidson đều dự đoán cuộc tiến công sẽ nổ ra vào dịp Tết Mậu Thân. Giữa hai người chỉ có một sự khác nhau nhỏ. Theo Westmoreland, nó sẽ nổ ra trước Tết, còn Davidson thì cho là sau Tết. Cũng vì vậy nên trước Tết, Westmoreland đã quyết đinh rút 27 trong số 49 tiểu đoàn cơ động Mỹ đang hành quân ở biên giới Campuchia về chung quanh Sài Gòn. Y cũng ra lệnh cấm trại 100% quân Mỹ trong dịp Tết và đặt chúng trong trạng thái báo động. Tài tình hơn nữa là Frederich Weyand, tư lệnh các lực lượng dã chiến Mỹ ở vùng III chiến thuật còn ra lệnh cho viên đại tá sĩ quan tác chiến Fuller để chuông báo thức đúng 3 giờ sáng ngày 31 tháng Giêng, không sai một phút so với giờ G của ta!
Hồi chuông báo thức đã trở thành không cần thiết. Đúng vào giây phút đó, đạn rocket của ta nã dồn dập vào sở chỉ huy trung tâm hành quân chiến thuật của Weyand, thuốc nổ của ta thổi bay bốn kho đạn, đều ở trong khu Long Bình. Weyand mặc áo giáp, đội mũ sắt đi từ tấm bản đồ này sang tấm bản đồ khác, được soi sáng bằng ánh đèn măng-sông run rẩy trong sở chỉ huy, ra những mệnh lệnh ngắn gọn đối phó với cuộc tiến công. Mọi cố gắng của y chỉ còn tập trung bảo vệ ba mục tiêu mà y cho là quan trọng: căn cứ quân sự Mỹ ở Long Bình, sân bay Tân Sơn Nhất và sân bay Biên Hòa.
Westmoreland đóng đại bản doanh ở Sài Gòn thì lại nhận thấy “ưu tiên số 1” phải dành cho việc đánh bật Việt Cộng ra khỏi Tòa đại sứ Mỹ. Tiểu đoàn quân cảnh Mỹ số 716 không làm được nhiệm vụ này. Weyand phải điều toàn bộ sư dù 101 tới đổ quân xuống nóc Tòa đại sứ Mỹ. Chiếc trực thăng đưa toán quân này tới buộc phải quay về vì đạn ở phía dưới bắn lên quá mạnh. Weyand đành cho lệnh hủy bỏ cuộc thả quân liều lĩnh ban đêm, không tính đến chuyện cứu nguy Tòa đại sứ Mỹ trước khi trời sáng.
Vì sao đã tiên đoán được cuộc tiến công một cách ‘chính xác” đến như vậy, nhưng khi lâm trận, những người chỉ huy Mỹ đã tỏ ra hết sức bối rối?
Cuôc tiến công chiến lược của ta đã không hoàn toàn giữ được bí mật. Trong quá trình chuẩn bị, một vài chiến sĩ đã lọt vào tay quân địch. Gần ngày nổ súng, địch lại phát hiện những cuộc chuyển quân của ta ở vùng chung quanh Sài Gòn. Vì vậy chúng đã đề phòng. Nhưng các tướng lĩnh Mỹ hoàn toàn không ngờ trước sự bùng nổ cùng một lúc, những cuộc tiến công của ta tại hơn một trăm thành phố, thị trấn, quận lỵ ở khắp miền
Nam! Lo lắng chủ yếu của Lầu Năm Góc, kể cả Nhà Trắng, trong mùa xuân này là tiền đồn Khe Sanh, nơi một số đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đang bị những đơn vị chủ lực của ta bao vây. Bóng ma của một trận Điện Biên Phủ mới đe dọa họ.
Tổng thống Mỹ đã cho đắp một sa bàn Khe Sanh ngay tại tòa Nhà Trắng. Binh lính Mỹ ở Khe Sanh được động viên, Johnson và Rostow luôn ở bên chiến hào với họ! Người Mỹ chỉ ước đoán trong dịp Tết này sẽ có một cuộc tiến công mạnh mẽ và rộng lớn nhằm vào họ, nó sẽ diễn ra ở Khe Sanh và một số nơi nào đó mà họ còn chưa biết, nên mọi biện pháp đề phòng của họ đều là lo cho thân mình. Họ không mảy may quan tâm tới đồng minh là quân ngụy. Giữa lúc đó, cuộc tiến công đã nổ ra với hàng trăm trận đánh nhỏ, nhưng nhằm trúng vào những yếu huyệt của ngụy quyền và ngụy quân ở miền Nam, kéo dài suốt 800 dặm ở Nam Việt Nam. Điều này đã vượt quá xa sự tính toán của họ. Sau này, một chuyên gia phân tích của tình báo Mỹ đã nói: “Nếu như lấy được toàn bộ kế hoạch của trận đánh thì cũng không ai tin vào kế hoạch đó”! Chính Westmoreland cũng đã thú nhận: “Chúng tôi không hề nghĩ rằng quân địch lại có thể dám tiến hành những trận tiến công có tính chất tự sát như vậy trước sức mạnh của chúng tôi”.
Choáng váng trước những đòn đánh quá bất ngờ của ta, trong nhiều giờ đầu, Mỹ không kịp phản ứng và cũng chưa dám phản ứng. Weyand không thể cứu nguy cho Sài Gòn trong khi ba sư đoàn quân chủ lực của Quân giải phóng vẫn còn đứng ngoài cuộc chiến đấu, trực tiếp đe dọa sở chỉ huy của y ở Long Bình và sân bay Biên Hòa, một sân bay có số phi xuất cao nhất thế giới năm vừa qua. Ở vùng I chiến thuật, Walt, tư lệnh thủy quân lục chiến Mỹ cũng chưa dám tính chuyện cứu nguy cho Huế đã bị Quân giải phóng tràn ngập, vì một số sư đoàn thiện chiến của Bắc Việt còn nằm quanh Khe Sanh. Quân Mỹ chỉ phản ứng khi thấy rõ bị lừa, trước mắt, chưa có cuộc tiến công lớn nào nhằm vào Mỹ!
Sau bảy ngày đêm chiến đấu, các lực lượng của ta lần lượt rút ra khỏi nội thành Sài Gòn. Ở nhiều nơi, đã diễn ra cuộc chiến đấu sống còn của từng tổ ba người, từng chiến sĩ bị mất liên lạc, không nhận được lệnh rút lui. Họ đã bắn tới viên đạn cuối cùng trước khi chịu bị bắt hoặc dành lại một viên đạn để tự kết liễu đời mình. Trận đánh ở cố đô Huế kéo dài lâu hơn. Bộ đội ta chỉ rút khỏi đây sau 25 ngày đêm chiến đấu ác liệt.
Theo lời những nhà bình luận nước ngoài, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân đã mang lại cho Mỹ sự kinh hoàng giống như vụ Trân Châu Cảng trước đây.
Từ ngày 5-2, Thiệu mở chiến dịch Trần Hưng Đạo để giải tỏa nội đô Sài Gòn. Nhịp sống của những người dân thành phố đã trở lại bình thường, với tiếng ồn ào không ngớt từ sớm tới khuya của những dòng xe hơi, xe vận tải, xe lam, xe hon-da vừa nhả khỏi vừa nổ ầm ĩ phóng như bay trên đường phố. Thiệu đã ra lệnh tổng động viên. Trên nóc nhà cao tầng của những công sở và tư nhân xuất hiện những ụ súng chiến đấu, thường xuyên đặt trong tình trạng báo động, đề phòng những cuộc tiến công bất ngờ.
Hai Long tìm gặp O’Connor yêu cầu ông đánh giá cuộc tiến công Tết Mậu Thân và những hệ quả của nó.
Ông linh mục Mỹ không giấu vẻ buồn rầu:
- Tôi có thể đưa thầy coi bản tường trình mà tôi sắp gửi về cho tổng thống Johnson. Tôi phải nói toàn bộ sự thật vì tổng thống bị lừa dối quá nhiều. Tôi cũng có thể đưa thầy xem một lá thư mà tôi sẽ gửi cho một người bạn đồng đạo, cũng quan tâm nhiều tới vấn đề Việt Nam như tôi. Bức thư không đầy đủ bằng bản tường trình nhưng trong đó chứa đựng những điều thực chất một cách ngắn gọn. Thầy có thể tìm thấy trong hai tài liệu đó những nhận định tóm tắt như thế này: “Việt Cộng đã bị thiệt hại khá nặng qua cuộc Tổng tiến công vừa rồi, nhưng họ đã tính trước cái giá phải trả cho mục đích của họ. Đây là một trận tiến công chiến lược bất ngờ đối với Mỹ, làm đảo lộn kế hoạch quân sự của Mỹ, có lẽ sẽ buộc Mỹ phả thay đổi chiến lược. Từ sau thất bại của cuộc hành quân Junction City, tôi đã đánh giá với tổng thống Mỹ là quân Mỹ sẽ bị một đòn nặng về quân sự và nhất là về chính trí, sẽ khó lấy lại khí thế, trách nhiệm đó thuộc về Bộ tư lệnh quân đội Mỹ ở Việt Nam. Kết quả cuộc Tổng tiến công này sẽ là sự ra đi dứt khoát của McNamara và Westmoreland, có thể thêm cả Sharp. Trong thư gửi cho ông bạn, tôi đã viết: “Đường hẩm rồi sẽ có lối thoát và theo tôi thì ta sẽ thoát ra theo kiểu quân đội Anh ở Dunkerque trong Thế chiến thứ II. Việt Cộng đã đạt được mục đích của họ trong cuộc tiến công, là làm cho người Mỹ không còn tin vào khả năng chiến thắng”.
Cuối buổi nói chuyện, O’Connor để lại cho Hai Long hai tài liệu như ông đã hứa, và hẹn anh trao trả vào sáng hôm sau. Anh đưa Thiệu xem bức thư trước khi trả lại cho O’Connor. Anh cần gieo rắc vào đầu Thiệu sự hoài nghi đối với triển vọng của cuộc chiến.
Thiệu hỏi Hai Long:
- Những nhận định của ông linh mục tuyên úy này có quá bi quan không?
- Tôi cũng tự đặt cho mình câu hỏi đó. Lần đầu, ông ta có những nhận xét như vậy. Ta còn phải tiếp tục nghe thêm ý kiến của những nhân vật Mỹ khác.

2.
Hai Long cảm thấy lưới của mình chưa bị uy hiếp sau biến cố Tết Mậu Thân và những cuộc lùng ráp giải tỏa của địch trong nội thành. Nhưng một dấu hiệu đáng lo lắng đã xuất hiện ở lưới Thắng. Một bác hàng xóm của Thắng kể lại với vợ anh, gần đây có một người lạ mặt mà chị ngờ là mật vụ tới hỏi chị rất nhiều về lai lịch của vợ chồng Thắng.
Hai Long bàn với Thắng, phán đoán thời gian qua, Thắng được trao nhiệm vụ tổ chức một số tổ chiến đấu ở nội thành, anh xuất hiện nhiều tại những vùng có chiến sự, có thể bọn mật vụ đã nhìn thấy, nên chúng đánh dấu hỏi. Họ cần theo dõi chặt chẽ, nếu có người trong những tổ chiến đấu do Thắng phụ trách bị bắt, an toàn của Thắng sẽ bị đe dọa trực tiếp. Nếu chưa có ai bị bắt, thì Thắng vẫn không ngại sự có mặt của mình ở những nơi có chiến sự, vì anh là một ký giả. Để hợp thức hóa những hoạt động của mình, Thắng viết một số bài về cuộc tiến công Tết Mậu Thân ở Sài Gòn, đăng trên mấy tờ báo.
Hai Long nghĩ tới chuyện sắp xếp công việc cho Huỳnh Văn Trọng. Trọng vẫn tiếp tục đi lại Tòa đại sứ Mỹ. trong mối quan hệ với những nhân viên Tòa đại sứ, anh đã có một tư thế mới. Nhưng để chuẩn bị vào Phủ tổng thống, mấy tháng qua, anh tạm gác việc qua lại với Thắng. Trọng và các con mất một chỗ dựa trong sinh hoạt hàng ngày. Anh phải đưa hai con nhỏ gửi đi nơi khác. Anh vẫn chưa có cuộc sống ổn định. Nay ở với người bạn này, mai ở với người bạn khác. Trọng rất thiết tha đón vợ từ Đà Nẵng vô để củng cố lại cuộc sống gia đình.
Hai Long bàn với Thiệu:
- Mối quan hệ của ta với Tòa đại sứ Mỹ từ trước tới nay, vẫn dựa vào chỗ Bernard Trọng, nhưng vì ông Trọng không làm việc ở Phủ tổng thống nên vẫn là người của Tòa đại sứ hơn là người của ta!
- Tôi đã mấy lần bảo ông Hướng mời ông Trọng vô làm phụ tá cho tôi, đặc trách về chính trị và ngoại giao nhưng ông Trọng không nhận lời. Bernard Trọng thuộc lớp người trước, đã từng làm bộ trưởng Nội vụ, chắc ông muốn một địa vị cao hơn, mình chưa thể xếp ngay được.
- Tôi không nghĩ là Bernard Trọng chê chức vụ phụ tá tổng thống, chức vụ này đâu có kém so với chức bộ trưởng! Theo tôi biết, anh là người khí khái, thoái thác không nhận lời mời vào Phủ tổng thống vì sợ mọi người hiểu lầm anh giúp tổng thống để mong được trả công.
- Đâu phải chỉ có chuyện đền ơn trả nghĩa, mình đưa ảnh vô đây là còn vì công việc. Tôi đã nhắm trao cho ảnh nhiệm vụ đặc trách quan hệ giữa Phủ tổng thống và Tòa đại sứ Mỹ. Việc này ai có thể làm hơn ảnh.
- Trời! Ý kiến đó quá hay. Sao anh không trao đổi với tôi để ta bàn cách giải quyết sớm? Giáo hội đã trao nhiệm vụ cho ảnh giúp anh trong cuộc vận động tranh cử thì cũng có thể yêu cầu tiếp tục giúp đỡ khi anh đã chấp chính.
- Tôi chưa nói điều đó với anh vì tôi nghĩ Bernard Trọng không muốn nhận chức vụ này.
- Tôi đề nghị một cách giải quyết nhanh chóng. Anh cứ ra sắc lệnh bổ nhiệm Bernard Trọng như đã dự kiến. Nếu có chi trục trặc, tôi sẽ có cách thuyết phục. Sắc lệnh này sẽ do giáo hội chuyển cho anh Trọng. Như vậy được cả đôi đàng. Giáo hội càng thấy tổng thống là người thủy chung, trọng tín nghĩa.
Đầu tháng 3, Nguyễn Văn Hướng đưa Hai Long bản sắc lệnh do Thiệu ký, quyết định bổ nhiệm Huỳnh Văn Trọng làm phụ tá tổng thống, chức vụ tương đương bộ trưởng.
Hai Long tìm gặp Trọng. Anh đưa Trọng tờ sắc lệnh:
- Đây là sứ mạng trao cho anh, mong anh cố gắng hoàn thành.
Trọng cầm tờ giấy, đọc xong, ngỡ ngàng như người trong mơ.
- Tôi nghĩ đã tới lúc anh ra Đà Nẵng rước chị vô với các cháu.
Trọng nói bằng một giọng có phần nghẹn ngào:
- Tôi xin lãnh sứ mạng này, và cam kết với anh, sẽ hoàn tất những công việc anh trao...
Trọng ngập ngừng rồi nói tiếp:
- Tôi xin cam kết làm tròn nhiệm vụ mà dân tộc trao phó.
Trọng được cấp phát ngay một ngôi nhà và một chiếc xe du lịch theo tiêu chuẩn bộ trưởng.
Lần đầu khi tới nhà Trọng, Hai Long cảm thấy vui với không khí ấm cúng trong gia đình. Vợ Trọng, một thiếu phụ còn trẻ, có nhan sắc, rất mừng rỡ khi gặp ân nhân. Nhìn nét mặt chị tươi cười, đứng giữa hai đứa con nhỏ khôi ngô, rất giống Trọng, anh chợt nảy ra ý nghĩ không biết mình là người mang hạnh phúc hay tai họa tới cho gia đình này.

3.
Trọng mang liên tiếp từ Tòa đại sứ Mỹ về những tin thay đổi nhân sự có liên quan tới chiến tranh Việt
Nam. Westmoreland rồi Sharp bị cách chức. Tiếp đó là tin Johnson đã quyết định đưa McNamara ra khỏi Lầu Năm Góc. Ông bộ trưởng Quốc phòng Mỹ chỉ còn chờ người tới bàn giao. Những tin tức khiến Thiệu rất lo âu. Thiệu luôn bị ám ảnh bơi ý nghĩ: Mỹ đang mật đàm với miền Bắc và có thể bỏ rơi Việt Nam cộng hòa
Thái độ O’Connor bắt đầu chuyển biến rõ rệt sau cuộc Tổng tiến công. Hai Long cảm thấy ông linh mục trước đây là người đứng giữa hai phe Bồ câu và Diều hâu, nay đã ngả hẳn sang phía Bồ câu. Có thể nhìn thấy rõ điều đó qua những nhân vật mới từ Mỹ sang mà O’Connor giới thiệu tiếp xúc với Hai Long. Trước kia, anh thường gặp những người thuộc cả hai phe này. Nhưng gần đây, O’Connor chỉ đưa tới những nhân vật có xu hướng chống chiến tranh Việt Nam. Có những lần, ông linh mục còn giới thiệu với khách, Hai Long là một đệ tử thương yêu của Paul VI.
Hai Long kể lại với O’Connor những lo lắng của Thiệu, và bày tỏ sự băn khoăn đối với hiện tình đất nước.
Ông linh mục nói:
- Tổng thống Johnson không còn thời gian đạt tới mục tiêu đề ra lúc đầu cho cuộc chiến đấu chống Cộng ở Việt Nam. Tháng Sáu tới, cuộc vận động bầu cử tổng thống Mỹ sẽ bắt đầu. Trong tình hình chính trị ở Mỹ hiện nay, không có ứng cử viên khôn ngoan nào lại hy vọng thắng cử với một đề án tiếp tục chiến tranh trong nhiệm kỳ tổng thống của mình. Ông Johnson buộc phải thay đổi chiến lược, là tìm một giải pháp chính trị để chấm dứt chiến tranh.
- Nhưng tổng thống Mỹ vừa quyết định tăng quân Mỹ ở Việt Nam lên 55 vạn, và động viên lực lượng dự bị?
- Đó là để khỏi thua chớ không phải để thắng! Trước cuộc tiến công Tết Mậu Thân, CIA báo cáo với tổng thống, Việt Cộng chỉ có ở Nam Việt Nam 30 vạn quân, gần đây, họ lại báo cáo là 60 vạn.
- Với một triệu rưỡi quân Việt Nam cộng hòa, và quân đồng minh, tôi nghĩ là chúng ta cũng phải thử vận may của mình để giành một chiến thắng lớn về quân sự?
- Sẽ có những thay đổi về chiến thuật hữu hiệu hơn chứ không phải là những cuộc hành quân lớn. Không thể tìm một giải pháp chính trị nếu Mỹ tiếp tục leo thang chiến tranh! Chiến lược của Mỹ trước đây là tiến công, nay đã chuyển qua phòng ngự.
- Ta sẽ khoanh tay đầu hàng Việt Cộng ư?
- Không phải như vậy, quân Mỹ sẽ ở lại Việt Nam cộng hòa cùng chiến đấu cho tới khi nào quân đội Việt Nam cộng hòa dủ sức tự mình đảm nhận mọi trách nhiệm đối với cuộc chiến. Quân Mỹ chỉ rút nếu Bắc Việt cũng đồng ý rút lực lượng chính quy của họ khỏi miền Nam Việt Nam. Những vấn đề còn lại sẽ do người Việt
Nam giải quyết với nhau... Tôi nghĩ là Giáo hoàng Paul VI đã sớm nhìn thấy vấn đề này.
Cuối tháng 3, O’Connor đưa tới giới thiệu với Hai Long một linh mục mới sang. Ông này là tiến sĩ, giám đốc một viện thần học, bạn thân của O’Connor. Hai Long đã được xem bức thư của O’Connor gửi cho ông linh mục này bữa trước. Qua buổi nói chuyện, anh nảy ra ý nghĩ nên đưa ông linh mục này tiếp xúc với Thiệu.
Thiệu đang nóng lòng tìm hiểu tình hình ở Mỹ, yêu cầu Hai Long thu xếp cho mình gặp ngay vị linh mục mới được Johnson phái sang Việt Nam. Thiệu như chỉ chờ cơ hội này để dốc mọi băn khoăn, và đón đợi những lời giải đáp cho yên lòng.
Ông linh mục tính tình bộc trực, chưa quen tiếp xúc với nhiều người Việt Nam, nói thẳng thừng:
- Mỹ không bao giờ bỏ rơi Việt Nam cộng hòa, nhưng chiến thắng quân sự có được là phải trông vào quân lực Việt Nam cộng hòa, chứ không thể trông chờ ở quân đội Mỹ! Muốn có chiến thắng, Việt Nam cộng hòa phải có một chính quyền mạnh và trong sạch để lãnh đạo hữu hiệu cuộc chiến tranh.
Thiệu sửng sốt, cầm chén rượu định đưa lên môi lại đặt xuống bàn.
Ông linh mục giải thích thêm:
- Tôi xin nêu một ví dụ, Việt Nam cộng hòa lúc này giống như người đang sa xuống giếng sâu, Mỹ là người đứng trên bờ giếng, đưa tay ra cứu người bị nạn. Người dưới giếng phải cố vươn mình lên, nắm cho được bàn tay người định cứu mình, chứ không thể bắt người tới cứu cúi xuống quá thấp! Mỹ không thể nhào xuống để cùng chết chìm dưới đáy giếng!
Sau cuộc gặp ông linh mục, Thiệu càng bi quan. Để tự an ủi, Thiệu nói với Hai Long, có lẽ đây là quan điểm cá nhân của ông linh mục chứ không phải của tổng thống và giáo hội Mỹ. Hai Long chỉ nói: “Những người tôi đưa tới gặp tổng thống đều là người tin cậy của ông Johnson và giáo hội Mỹ”.
Hai Long cảm thấy người bạn của O’Connor sang Việt Nam có liên quan tới một chủ trương mới của Johnson, một bước ngoặt đối với chiến tranh Việt Nam. Nhưng anh cẩn thận trong việc khai thác, để không tạo nên sự nghi ngờ. Từ trước tới nay, dưới con mắt của các linh mục Mỹ, anh vừa là người cộng tác thân thiết của cha Hoàng, một linh mục triệt để chống Cộng, bảo thủ, vừa là một tín đồ sung kính Paul VI, vị Giáo hoàng đang triển khai cuộc vận động hòa bình cho Việt Nam. Là người thân thiết của cha Hoàng, anh đã khai thác được ở O’Connor những chủ trương, kế hoạch dùng sức mạnh quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Bây giờ phải có một thời gian chuyển tiếp. Anh cần giữ thái độ phù hợp với tâm trạng của nhân vật mà mình đang thủ vai. Rõ ràng O’Connor đang chuẩn bị tư tưởng cho anh, và cũng là cho Thiệu, để đi vào bước ngoặt mới. Ông linh mục không vội vàng. Anh cần có sớm những tin tức để báo cáo với Trung tâm. Nhưng trước khi tỏ ra mình là một kẻ thức thời, không bảo thủ, để có thể bàn bạc thoải mái về chủ trương chấm dứt chiến tranh, anh đã giữ một vẻ ưu tư, lặng lẽ giống như người đang tìm cách tự kiềm chế trước một biến cố bất ngờ, trái với sự mong muốn của mình.
Qua cuộc nói chuyện giữa ông linh mục với Thiệu, anh càng tin chắc Johnson đã quyết định chuyển sang tìm cách thương lượng. Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân nổ ra trước khi vận đông tuyển cử ở Mỹ, đã làm tiêu tan hy vọng giành chiến thắng quân sự của ông ta.

4.
Ngày 31-3-1968, chỉ ba ngày sau khi ông linh mục gặp Thiệu, phát ngôn viên của Nhà Trắng thông báo tổng thống Mỹ sẽ xuất hiện trên vô tuyến truyền hình và công bố những quyết định mới quan trọng.
Vợ chồng Thiệu cùng với cha Nhuận và Hai Long ngồi trong phòng làm việc của Thiệu, chờ nghe buổi phát tin của đài BBC, Thiệu không giấu được vẻ lo lắng, bồn chồn.
Johnson tuyên bố ngừng oanh tạc miền Bắc Việt Nam vô điều kiện ngoại trừ khu vực gần vùng phi quân sự từ vĩ tuyến 19 trở vào, và sẽ ngừng hẳn ném bom miền Bắc nếu Hà Nội tỏ ra có thiện chí muốn tìm một giải pháp chính trị. Đồng thời, Johnson tuyên bố không nhận sự đề cử của đảng Dân chủ, không ra ứng cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tới, và sẵn sàng cử hai đại sứ Harriman và Thompson tham gia cuộc thương thuyết cho một giải pháp chính trị đối với cuộc chiến tranh Việt Nam.
Thiệu ngồi bang hoàng hồi lâu. Không khí căn phòng lặng đi như có đám tang.
Thiệu quay về phía Hai Long:
- Tại sao ông Johnson quyết định ngừng ném bom miền Bắc mà không trao đổi với mình? Mình là tổng thống nước đồng minh đang trực tiếp chiến đấu với Cộng sản mà không được tham khảo ý kiến, cũng không được thông báo trước, ngồi đây chờ nghe tin như tất cả mọi người! Bắc Việt không phải đối phó với máy bay và pháo hạm, rảnh rang kéo tuốt vô đây thì ta tính sao?
- Quyết định ngừng ném bom gắn liền với quyết định không ra tranh cử, chắc là chỉ ngã ngũ vào phút chót. Nhưng tinh thần của những quyết định mới này thì chính vị phái viên của ông ta đã nói với anh bữa trước. Johnson muốn Việt Nam cộng hòa phải tự mình đảm đương lấy cuộc chiến cho quân Mỹ rút lui dần.
- Bây giờ tính sao đây?
- Mình không thể để cho một ông tổng thống săp hết nhiệm kỳ dễ dàng phủi tay! Mặt khác, mình cũng phải lo liệu trước công việc của mình.
Thiệu thở dài não ruột.
Vợ Thiệu hết ngó Hai Long, lại nhìn cha Nhuận:
- Con không muốn làm góa phụ như bà Trần Lệ Xuân, chồng con không muốn như ông Diệm, ông Nhu... Ảnh có mệnh hệ như thế nào thì ông giáo phải chịu trách nhiệm đó!
Cha Nhuận lo âu:
- Người Mỹ thật khó hiểu!
Hai Long nói:
- Xin chị cứ bình tâm. Đức Hồng y Spellman cũng như phái viên của tổng thống Johnson đã cam kết với tôi, không bao giờ để tái diễn cảnh ông Diệm, ông Nhu. Trước mắt, anh Thiệu chưa nên công khai tỏ thái độ bất bình với Johnson, vì chừng nào còn ngồi ở Nhà Trắng, thì ông ta vẫn còn đầy đủ quyền hành.
Hai Long mang thắc mắc của Thiệu nói với hai ông linh mục. Anh không bình luận gì thêm, tỏ ra mình phần nào chia sẻ những băn khoăn của Thiệu trước tình hình.
Hai ông linh mục ra sức giải thích. O’Connor thuật lại những phản ứng của bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara đối với nhóm tướng lĩnh thuộc phe Diều hâu, về sự phân hóa chưa từng có trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ vì cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Hai người đều nói tổng thống Mỹ sẽ buộc phải xuống thang chiến tranh, trong thời gian sắp tới quân Mỹ không mở những cuộc hành quân lớn mà chỉ tiến hành những hoạt động chống chiến tranh du kích để tạo điều kiện thuận lợi tìm một giải pháp chính trị. Họ khuyên anh cần trấn an Thiệu, giải thích cho Thiệu hiểu những khó khăn ở Mỹ, và đồng tình với chiến lược mới của Johnson.
Thiệu ngồi ngẩn ngơ một lúc sau khi nghe Hai Long thuật lại cuộc trao đổi với hai vị linh mục, rồi hỏi:
- Ông Johnson tuyên bố tìm kiếm “hòa bình trong danh dự” có nghĩa là sao?
- Tôi hiểu tinh thần của nó là, Mỹ muốn rút quân ra khỏi chiến tranh mà không mất mặt, không phải là vì Mỹ thua trận, và cũng không bị mang tiếng là bán đứng đồng minh. Chỉ có cụ thể hóa điều này mới khó. Ta còn chưa biết cái giá phải trả mà Mỹ sẽ chấp nhận trong cuộc tìm kiếm này!
- McNamara đã nói cụ thể hơn: “Sự cam kết của Mỹ chỉ bảo đảm cho dân Việt Nam có thể định đoạt tương lai của họ, không phải là bảo đảm cho việc nắm quyền của một cá nhân hay một nhóm người”! Định quay về với hiệp định Genève năm 1954 hay sao? Đâu phải ổng nói với Việt Cộng mà nói với chính mình! Không phải là bán đứng đồng minh đó sao?
- Ta không cần quan tâm nhiều đến lời McNamara, coi như ổng đã ra đi.
- Nhưng người còn ngồi ở Nhà Trắng cũng không nói điều gì tốt lành hơn! Herman Kann, cố vấn của Johnson, cũng vừa tuyên bố: “Người Việt Nam cần phải làm cái phần của họ trong khế ước song phương Mỹ - Việt, nếu họ không làm thì chúng ta có thể nói chúng ta không có nghĩa vụ gì với họ”. Còn ông khách quý tới đây bữa trước thì nói, Mỹ không vì cứu ta mà phải cùng chết chìm với ta! Cả cố vấn và phái viên của tổng thống đều nói giống nhau!
Hai Long hiểu là Thiệu dành thời giờ nghiên cứu kỹ những lời tuyên bố của các nhân vật Nhà Trắng thời gian gần đây.
- Những điều anh vừa nhắc, đều đáng phải lưu tâm. Ta đã biết Mỹ cần Việt Nam cộng hòa sớm muộn phải tự đảm đương lấy cuộc chiến để Mỹ rút quân ra.
- Nhưng họ chỉ đòi hỏi ở ta mà không nhắc nhở gì tới những cam kết của chính phủ Mỹ với Việt Nam cộng hòa trước đây! Họ đang muốn cái chi? Và theo anh, mình có khả năng làm những chi?
- Đòi hỏi trước mắt của họ, như chính ông linh mục bữa trước nói rõ, Việt Nam cộng hòa phải có một chính phủ mạnh. Điều này tôi nghĩ ta có thể làm được, mà chính đó cũng là việc anh đang dự định tiếp tục làm.
Thiệu ngồi lặng thinh. Thấy Thiệu chịu chuyện, Hai Long nói tiếp:
- Đòi hỏi thứ hai của họ, các ông phái viên đều nhắc tôi về trình lại với tổng thống, là anh cần ủng hộ công cuộc tìm kiếm hòa bình của Johnson.
- Nếu tôi không ủng hộ thì chắc người ta sẽ đối xử với tôi như với ông Diệm, ông Nhu?
- Chúng ta đều hiểu người Mỹ. Như tôi đã nói nhiều lần với anh, mình phải đấu tranh, và cũng phải khôn khéo không để cho những khả năng xấu xảy ra.
- Ủng hộ Johnson tìm kiếm hòa bình, có nghĩa là bây giờ ta tán thành Mỹ ngừng ném bom từ vĩ tuyến 19 trở ra, vài ngày nữa, tán thành tiếp Mỹ ngừng ném bom toàn miền Bắc. Chưa hết, nay mai họ còn yêu cầu ta ngồi đàm phán với Mặt trận giải phóng để tìm một giải pháp chính trị, trong khi đó họ rút quân về nước. Thế là xong đời Việt Nam cộng hòa! Chỉ cần Mỹ ném bom hạn chế ở miền Bắc là quân chính quy Bắc Việt sẽ kéo vô như nước vỡ bờ với cả pháo 130 ly và xe tăng T.34 cho coi!
- Đó là những vấn đề thực tế mà chúng ta sẽ phải bàn, phải đối phó từng bước, không để cho Mỹ bán đứng Việt Nam cộng hòa.
- Trước khi bán đứng Việt Nam cộng hòa, họ sẽ bán rẻ mình trước!
Mặt Thiệu tím lại, đôi mắt đỏ ngầu.
Thiệu gọi sĩ quan hầu cận lấy rượu.
Hai Long nhận thấy chưa thể nói gì thêm với Thiệu lúc này.

5.
Thiệu bàn với Kỳ dựa vào điều 4 của hiến pháp Việt Nam cộng hòa, biểu lộ sự phản ứng của ngụy quyền đối với hội nghị sắp được tổ chức giữa Mỹ và Việt Nam dân chủ cộng hòa để bàn về chiến tranh Việt Nam. Thiệu vừa phản ứng vừa lo. Y nói với Hai Long: “Anh theo dõi Mỹ thật sát, không khéo mình lại bị Mỹ đập chết chớ không phải chết vì tay Cộng sản!”
Tuy vậy, ngày 3-5, ta và Mỹ đều công bố đã thỏa thuận, chọn Paris, thủ đô nước Pháp làm nơi gặp gỡ.
Lần này, Thiệu chưa kịp phản ứng. Ngày hôm sau, đêm mồng 4-5, một đợt tiến công mới của ta lại vùng nổ trên toàn miền Nam.
Cuộc tiến công diễn ra tại 30 thành phố, thị xã, 76 thị trấn, quận lỵ, chi khu, hàng chục căn cứ quân sự địch và rất nhiều sân bay, kho tàng.
Tại Sài Gòn, bộ đội ta mở cuộc tiến công đồng loạt vào Tổng nha cảnh sát, Tòa thị chính, Nha cảnh sát đô thành, Dinh thủ tướng, Đài phát thanh và Đài vô tuyến truyền hình. Dân chúng Sài Gòn lại náo động. Chiến sự nổ ra ngay tại khu vực Thị Nghè, Hai Long phải chuyển gia đình vào nhà Hòe ở nội thành rồi vào dinh Độc Lập.
Thiệu tới Bộ Tổng tham mưu để đối phó với cuộc tiến công. Vợ Thiệu ở dưới tầng hầm dinh Độc Lập, mặt tái mét vì thức đêm và lo lắng. Hai Long và Hòe ở trong dinh thu thập tin tức. Thỉnh thoảng anh lại kiếm cớ chạy về nhà, giúi cho bé Liên một mẩu giấy nhỏ để chuyển tới hộp thư. Anh đã quyết định đưa con vào công việc. Bé Liên linh lợi, gan góc, và còn nhỏ nên đi lại các nơi ít bị nghi ngờ.
Sau ba ngày, cuộc tiến công của ta chỉ còn diễn ra ở cầu chữ Y. Theo nguồn tin của Phủ tổng thống, có khoảng một tiểu đoàn quân chính quy của ta tại đây, bất chấp mọi áp lực của bom đạn, không chịu rút lui.
Đợt tiến công thứ hai này đã trả lời những luận điệu tuyên truyền của địch suốt thời gian qua, là Việt Cộng không thể gượng lại sau thất bại nặng nề của cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân. Nó tạo ra một cái thế cho phải đoàn ta trước khi ngồi vào bàn bạc với Mỹ ở Paris.
Sau đợt tiến công, sự nghi ngờ của Thiệu đối với Mỹ càng tăng. Thiệu than thở với Hai Long:
- Không phải tôi đa nghi, nhưng anh coi, Việt Cộng làm sao dám làm tiếp vụ này nếu không có mật ước với Mỹ? Rõ ràng là Mỹ đồng ý cho Việt Cộng tiến công Sài Gòn lần nữa, làm áp lực buộc ta phải chạy theo họ trong cuộc tọa đàm. Họ làm quá trắng trợn! Vừa công bố sẽ gặp Bắc Việt ở Paris hôm trước, công bố cả người đại diện, thì tối sau Việt Cộng đánh luôn!
Lại có thêm những dấu hiệu đáng lo ngại về phía Thắng. Thắng được giao nhiệm vụ tiếp tục tham gia chiến đấu trong đợt hai. Một lần anh đi cùng với Năm Sang thì nhận thấy có một cái đuôi bám theo. Họ phải rất khéo léo mới cắt được cái đuôi này. Một lần khác, Thắng bị công an giữ ở Thị Nghè là nơi đang có chiến sự. Người xét hỏi Thắng lại chính là tên Tôn Thất Viễn, trước đây đã bắt giữ Thắng ở trại Tòa Khâm. Thắng xuất trình chứng minh thư là tham chánh văn phòng bộ Chiêu hồi và thẻ ký giả. Tên Viễn vẫn giữ Thắng suốt hai tiếng đồng hồ cùng một số đồng bào khác, rồi mới chịu thả anh ra.
Những dấu hiệu đe dọa an toàn lần này khiến Hai Long bận tâm hơn nhiều.



Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 1)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 2)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 4)

Không có nhận xét nào: