Lời giới thiệu
TRƯỚC KHI VÀO CHUYỆN
Cuối năm 1969, cả Sài Gòn xôn xao vì mới tìm ra một lưới
tình báo quân sự của Việt Cộng nằm ngay trong những cơ quan đầu não của chính
quyền Việt Nam cộng hòa.
Báo chí đưa tin bằng
những hàng tít lớn: “Vụ án gián điệp lớn nhất thời đại”[1], “Vụ án chính trị của
thế kỷ”[2]. Các bị cáo đều là những nhân vật quan yếu trong chính phủ Sài Gòn:
người là cố vấn đặc biệt của tổng thống, người là cấp bộ trưởng, người là tham
chánh văn phòng bộ chiêu hồi... Có nhà bình luận còn nói trong số những người bị
đưa ra xét xử, có người được coi là ứng cử viên tổng thống nhiệm kỳ sắp tới. Những
cơ quan thông tin đại chúng nước ngoài, đặc biệt là của Mỹ, đã đưa nhiều tin tức
về vụ án. Năm 1983 trong cuốn hồi ký của mình[3], Ralph McGehee, một nhân vật
CIA kỳ cựu, đã nhận chính CIA dã làm áp lực mạnh mẽ với tổng thống Thiệu để tiến
hành chiến dịch phá lưới gián điệp này. Vì nội vụ đề cập tới những nhân vật
quan yếu trong chính phủ, những nhà hoạt động chính trị xã hội có uy tín rộng
rãi trong quần chúng, nên người phúc trình tin tức đã được chính Dale Waites kiểm
tra bằng máy dò sự thật (Polygraph Tost).
Cuối cùng, ngày
28-11-1969, chính quyền Sài Gòn đã cho mở phiên tòa quân sự tại Sài Gòn để xét
xử những bị can. Trên một trăm ký giả trong và ngoài nước đã có mặt tại Nha
Quân pháp ở đại lộ Bạch Đằng chật ních người đến theo dõi vụ án.
Bản cáo trạng dài
23 trang, đọc hết một tiếng rưỡi đồng hồ. Theo tường thuật trên báo chí, “Vụ án
này rất căng thẳng và quan trọng, vì qua hồ sơ không có một đảng phái chính trị
nào, một nhân vật chính trị nào mà không có liên quan ít nhiều đến vụ án. Xếp hồ
sơ đó nặng gấp 200 lần so với bản cáo trạng đã đọc...”[4].
Sau ngày giải
phóng Sài Gòn, chúng ta đã tìm được toàn bộ những hồ sơ đó tại Nha Tổng giám đốc
Cảnh sát quốc gia của chính quyền Sài Gòn. Trong tập 1 của hồ sơ, có thể trích
ra vài nhận xét sau đây: “Từ trước đến nay, ngoại trừ những giai thoại giả tưởng
trong tiểu thuyết trinh thám, chưa bao giờ có những tổ điệp báo thành công đến
như thế. (...) Cụm A.22 hoạt động và phát triển đều đặn và đã thi thố nhiều thủ
đoạn mà chúng ta phải nhìn nhận là huyền diệu và xuất sắc... Cụm đã phát triển
một hệ thống diệp vụ vô cùng quan trọng và đã len lỏi vào được nhiều cơ quan đầu
não của Việt Nam cộng hòa (...) Những tin tức chiến lược mà Cảnh sát Quốc gia
biết họ đã cung cấp, đều có giá trị giúp cho Hà Nội có được những dữ kiện chắc
chắn khi ấn định chính sách của họ đối với cuộc chiến tranh hiện nay. (...) Các
dự án quốc gia đều được Cụm A.22 thu thập và phúc trình và nhờ cụm tình báo chiến
lược mà các cấp lãnh đạo Hà Nội biết nhiều điều cơ mật mà chính các Tổng Bộ trưởng
Sài Gòn không biết. (...) Họ đã tiếp xúc được với các yếu nhân Việt Nam và cũng
gặp gỡ đàm luận dễ dàng với các yếu nhân Mỹ như CONLON, HEAVNER, SMITH, COLBY,
BURGER...”[5].
Các báo chí Sài
Gòn đều ghi nhận “tất cả bị can đều có nét mặt tươi cười và rất tự nhiên”, “như
đi dự đám cưới”, “tất cả cũng vẫn có vẻ đẹp trai”... Hơn hai mươi luật sư biện
bộ, trong đó có những người danh tiếng nhất, đứng sau lưng họ.
Phiên tòa trở
thành diễn đàn vạch rõ những mâu thuẫn trầm trọng của chế độ Sài Gòn, giữa
chính quyền với các đảng phái, tôn giáo, đồng minh chiến lược Hoa Kỳ, giữa những
cá nhân trong những tổ chức nảy, với những bằng chứng cụ thể không thể bác bỏ,
và công khai tuyên truyền cho đường lối hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Một luật sư đã nói: “Là người biện hộ trong vụ án, tôi như ếch ngồi đáy giếng
mà miệng giếng đã bị tổng thống Thiệu đậy lại rồi...”.
Vũ Ngọc Nhạ, người
bị tố cáo cầm đầu lưới gián điệp, xuất
hiện trước tòa với bộ áo trắng, quần đen, cravat nâu, ung dung cầm một xấp
giấy trắng, miệng luôn luôn tươi cười. Riêng anh từ chối nhờ luật sư biện hộ
cho mình
và cũng không tự bào chữa. Anh tuyên bố những việc mình đã làm chỉ có lịch sử phán xét. Tất
cả những bị can không ai có một lời đề nghị được khoan hồng. Nhạ và hai đồng đội chính của anh đã bị án chung
thân khổ sai. “Lần đầu trong một vụ án quan trọng và trước những bản án nặng nề, người ta không hề ghi
nhận một tiếng khóc nào và chỉ thấy những gương mặt vui thân và nghe những tiếng
cười...”[6].
Trước rất đông
công chúng tụ tập ở cửa tòa án, vây quanh chiếc xe bịt bùng đưa những người vừa bị kết án về trại giam, Nhạ nói với
mọi người: “Các bạn cứ chờ xem, một trang sử mới sắp lật qua. Không còn bao lâu nữa đâu!”. Anh và các bạn hướng về
những máy ghi âm, ống kính truyền hình, máy ảnh của những ký giả nước ngoài chõ
về phía họ, nói bằng tiếng Pháp và tiếng Anh: “Cuộc đấu tranh chưa kết thúc, đến
đây chỉ mới tạm dừng. Chúng tôi ra đi nhưng nhất định chúng tôi sẽ trở về...”
Họ đã giữ đúng lời
hứa. Ba năm sau đó, họ lại xuất hiện ở Sài Gòn, tiếp tục cuộc chiến đấu trên mặt
trận thầm lặng cùng với bao nhiêu đồng chí khác, trong đó có nhiều người dã lập
nên những kỳ tích mà chúng ta còn chưa biết tới.
Vụ án trở thành một
vấn đề thời sự sôi nổi. Dư luận cho là nó còn chứa đựng nhiều nghi vấn. Theo
nguồn tin từ dinh Độc Lập, tổng thống Thiệu trong những cuộc trao đổi riêng tư
đã nói đây là một việc làm xấu xa của CIA nhằm bôi nhọ uy tín cá nhân mình. Sau
đó lại có tin tỉnh trưởng Côn Sơn (Côn Đảo) đã bị thay. Người ta nói tổng thống
đưa người của mình ra nắm quyền hành ở Côn Sơn, để chăm sóc ông cố vấn vừa ra
đó bắt đầu cuộc sống lưu đày. Giáo hoàng Paul VI cũng gửi tới Côn Sơn tặng ông
nguyên cố vấn huy chương “Vì Hòa bình” với một bức thư tỏ lòng ngưỡng mộ người
chiến sĩ Công giáo đã cống hiến nhiều cho hòa bình vì lý tưởng thiêng liêng của
Chúa.
Cho đến những ngày
cuối cùng của chế độ Sài Gòn tháng 4-1975, Nguyễn Văn Thiệu vẫn giữ quan hệ với
người cố vấn cũ của mình, coi đây là một mối quan hệ tốt đẹp trong suốt cuộc đời
chấp chính.
Tập hồ sơ sau đây
sẽ đưa ra ánh sáng những vấn đề đến nay còn
chưa rõ ràng chung quanh vụ nghi án. Nó được trình bày dưới dạng tiểu
thuyết để cho về hình thức đỡ khô khan. Tuy nhiên, điều mong mỏi chủ yếu của
tác giả là được chuyển tới bạn đọc những sự kiện, những chi tiết chân xác, với
những con người thật.
Bạn đọc có thể gặp
nhiều nhân vật của cuốn sách này đang tiếp tục cuộc sống bình dị của họ sau những
biến cố lịch sử ở nước ta, cũng như ở đâu đó một số nước ngoài. Nếu có những điều
sai sót về họ, tác giả rất mong sẽ được chính họ góp ý kiến để bổ cứu cho lần
in sau nếu cuốn sách có được may mắn đó.
HỮU MAI
---
[1] Báo Thời thế
ngày 1-12-1969.
[2] Báo Cấp tiến
ngày 29-11-1969.
[3] Sự lừa dối khủng
khiếp - Deadly deceits, New York 1983
[4] Báo Chính luận
ngày 29-11-1969.
[5] Hồ sơ mật về Cụm
tình báo chiến lược A .22 của Nha Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia, tập I, tr.
38, 40, 41, 42, 43.
[6] Báo Sài
Gòn mới, ngày 1-12-1969.
Chương 1
NGƯỜI BỊ BẮT
1.
Sài Gòn. Tháng
12-1958.
Một buổi sáng bình
thường.
Sắp tới giờ làm việc
ở những công sở. Trên đường phố còn ngái ngủ với nhiều tiệm hàng vẫn đóng kín,
mới có dòng người cần mẫn, những viên chức, thợ thuyền đi bộ hoặc đi xe đạp, xe
máy tới công sở. Họ đã tỉnh táo sau bữa điểm tâm một tô hủ tiếu bốc khói hoặc
gói xôi rắc dừa kèm ly cà phê ở những quán bên vỉa hè.
Mặt trời chưa lên
hẳn. Không khí trong trẻo, hơi lạnh. Thấp thoáng một vài bà đứng tuổi khoác áo
len dài tay. Người Sài Gòn chỉ có một số buổi sáng hiếm hoi thế này để dùng đến
chiếc áo len được cất giữ lâu ngày.
Hai chiếc
mô-bi-lét, mỗi xe chở hai người, tiếng máy nổ giòn tan, phóng qua cầu Thị Nghè
rồi dừng lại ở chân dốc. Hai người lực lưỡng khoác áo blu-dông đen, ngồi ở phía
sau xe nhảy xuống bước lên hè. Họ chặn đường một người bé nhỏ, tuổi khoảng ba mươi,
có dáng dấp một viên chức hay nhà giáo. Anh ngước cập mắt hiền lành nhìn người đang
cản đường mình rồi né sang bên định tiếp tục đi.
Một người mặc
blu-dông để râu mép, giơ tay trái ngăn lạ:
- Anh Hai Long, hỉ?
- Dạ...
Người được hỏi lộ
vẻ ngạc nhiên. Phía sau anh, một tên mặc áo blu-dông khác cũng đã đứng áp sát.
Vật cồm cộm ở nách áo hắn là một khẩu súng ngắn.
Cặp mắt lạnh lẽo của
bọn chúng báo hiệu chẳng lành.
Tên đứng trước Hai
Long chìa tay và gần như chộp lấy tay anh. Bàn tay hắn lạnh và cứng như chiếc
còng sắt:
- Gặp nhau, hay
quá! Mời anh vô đây trao đổi một chút.
Hắn choàng tay kia
vào lưng Hai Long, tiếp tục cử chỉ thân mật. Nhưng Hai Long cảm thấy cánh tay hắn
là một chiếc gông, và mình bị một sức mạnh đẩy vào chiếc tắc-xi đã đỗ xịch bên
vỉa hè, máy vẫn nổ.
Phút chốc Hai Long
đã bị ngồi kẹp giữa hai tên mặc áo blu-dông. Anh nhìn hai bên đường. Chỉ có một
tên lạ mặt đeo chiếc kính râm, chắc là đồng bọn, đứng ở cột đèn bên kia đường, đang
nhìn sang. Mọi người vẫn mải miết đi, không ai chú ý tới việc vừa xảy ra. Từ
nhiều tháng nay, ở thành phố diễn ra nhiều cuộc lùng ráp, bắt bớ. Tâm lý chung,
không ai muốn dây vào. Cũng có thể là chúng làm lẹ quá!...
Chiếc tắc-xi lao
nhanh trên đường phố.
Màn kịch tình cờ gặp
gỡ thân mật đã xong, bộ mặt chúng trở nên lạnh như tiền.
- Sao...? Các ông
dưa tôi đi đâu?
Đáp lại câu hói của
Hai Long là sự im lặng.
- Các ông là ai?
- Mời đi có chút
việc. Lát nữa sẽ rõ. - Tên để râu mép trà lời khô khan.
Hai Long chỉ còn
cách liếc mắt nhìn đường phố xem chúng dưa mình di đâu. Hy vọng có người quen
nhận ra anh không còn. Xe phóng rất nhanh.
Đến phố Vân Đồn,
xe chạy chậm lại. Tên lái xe nhấn hai tiếng còi nhỏ. Cánh cổng sắt một ngôi nhà
bên trái bỗng mở ra. Chiếc xe ngoặt lên hè, lao qua. Hai cánh cổng sắt đã khép
lại sau lưng như vừa nuốt chửng chiếc xe.
Bên trong là một
ngôi nhà kiến trúc kiểu Pháp đã cũ. Những cánh cửa chớp quay ra mặt đường, sơn
màu xanh lá cây, đều đóng kín.
Tên có râu dẫn Hai
Long vào một căn buồng nhỏ ở ngay sát bậc thềm ra vào. Tên cùng đi bắt đầu lục
soát khắp người anh. Hắn lần lượt thu tấm căn cước, chùm chìa khóa, chiếc khăn
tay, rồi mở khóa dây lưng da của anh, kéo tuột ra một cách thô bạo. Cuối cùng,
hắn rút nốt cây bút máy rẻ tiền cài ở nắp tủi ngực. Anh chỉ còn lại chiếc đồng
hồ đeo tay. Những thủ tục này được hoàn tất một cách lặng lẽ trước cặp mắt giám
sát của tên có râu.
- Mời sang buồng
khách! - Tên có râu nói như ra lệnh.
Buồng khách ở liền
căn phòng nhỏ.
Chiếc tủ chè và cỗ
xa-lông bằng gỗ mun đen bóng, chạm trổ tinh vi. Một bức tranh thuỷ mặc lớn, lồng
khung kính treo trên tường. Những chiếc đôn sứ... Tất cả nói lên đây là tư thất
của một gia đình khá giả, chủ nhân phải là người đã lớn tuổi.
- Anh ngồi một lát
chờ gặp ông Đoàn.
Tên có râu quay ra
để Hai Long ở lại một mình trong căn buồng.
Cặp mắt Hai Long bị
hút về những ô kính nhìn vào phía trong ngôi nhà. Trước mắt anh là một cái sân
rộng dẫn đến dãy nhà ngang nằm giáp tường phía sau khu biệt thự. Tường khá cao,
bên trên lại được gia cố thêm một tấm lưới thép cao không kém bức tường. Cửa ra
vào những phòng ở dãy nhà ngang đều khép kín. Một tên mặc sơ-mi trắng ngồi trên
chiếc ghế đẩu đặt ở hành lang. Anh nhận ngay ra dãy nhà này là nơi giam giữ những
người bị bắt như anh và tên mặc áo sơ-mi trắng đang làm nhiệm vụ canh gác.
“Ông Đoàn là
ai...?”, Hai Long tự hỏi.
2.
Một người bước
vào, lẳng lặng kéo ghế ngồi.
Người hắn khá cao,
nước da tối, cằm bạnh, đôi hàm răng nhỏ sin sít. Mái tóc cắt ngắn, cái nhìn lẩn
tránh, cách ăn mặc giản dị của người đã quen với sinh hoạt kháng chiến, nói lên
hắn là một tên đầu thú, một kẻ phản bội. Cùng một lúc, anh có hai cảm giác: sự
lợm giọng và sự nguy hiểm. Trong cuộc chiến đấu này, đối phó với kẻ thù ở phía
bên kia trận tuyến bao giờ cũng dễ hơn với kẻ đã từng đứng chung hàng ngũ.
Sau cái liếc mắt
nhìn Hai Long rất nhanh, hắn thong thả rót nước, bóc bao thuốc đã để trên bàn.
Trái với thái độ khi mới vào, hắn lịch sự đặt chén nước trước mặt Hai Long, mời
anh hút thuốc lá.
Hai Long rút một điếu
thuốc và nói:
- Cảm ơn ông.
Hắn không đáp lại,
cũng rút thuốc đánh diêm hút trước rồi mới đẩy bao diêm về phía anh. Những cử
chỉ xã giao tùy tiện khiến cho người đối thoại hiểu rằng, hắn tự cho mình quyền
làm bất cứ điều gì hắn muốn, và cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra theo chiều hướng ấy.
- Tôi ở Đoàn công
tác đặc biệt miền Trung của ông cố vấn Ngô Đình Cẩn...
Một cái nhìn sắc lẹm
phóng về phía Hai Long.
- Dạ...
Người bị bắt nào
cũng cảm thấy sự hiểm nghèo khi rơi vào nanh vuốt của Ngô Đình Cẩn. Cẩn là “cậu
Út” trong bảy anh chị em nhà họ Ngô. Y là người thất học nhất trong gia đình.
Bù lại, y vượt các anh chị về tính tình tàn bạo. Cẩn được trao nhiệm vụ làm cố
vấn chỉ đạo miền Trung, một chức vụ tưởng như vô danh vô thực. Nhưng trong thực
tể, “cậu Út” thâu tóm mọi quyền hành. Cẩn không chỉ là ông vua ở miền Trung, mà
còn với tay đến cả những tỉnh phía Nam, không trừ Sài Gòn là nơi hai anh của y,
Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đang chấp chính.
Mặt “ông Đoàn”
sáng lên. Đối phương hắn đang lạnh buốt sống lưng.
Hai Long vẫn thu
hai tay ngồi im, nhìn ông Đoàn bằng cặp mắt lo âu và chất phác. Hắn tránh đôi mắt
của Hai Long, quay mặt về phía cửa kính chuyển sang giọng tâm tình:
- Chúng mình... đều
là người kháng chiến cả, ta sẽ nói chuyện thẳng thắn với nhau. Tôi không cần giấu
anh, tôi là Dương Văn Hiếu, trưởng ty công an Thừa Thiên, trước dây là Ủy viên
Ban tư pháp của khu Ba.
- Dạ...
- Chắc anh đã hiểu
vì sao tôi mời anh đến?
- Tôi đang đi ở Thị
Nghè thì có người kêu lên xe đưa về đây.
Hai hàm răng sin
sít của Hiếu hơi nghiến lại. Đôi bắp thịt quai hàm nổi lên. Hắn thích được đối
phương đầu hàng ngay từ giây phút đầu tiên. Gần đây, hắn dã giành được một số
thắng lợi khá dễ dàng. Nhưng hắn vẫn tỏ ra tự kiềm chế:
- Đúng vậy. Tôi đã
cho người đi rước anh. Nếu anh chưa muốn hiểu thì tôi đi thẳng vào ngay vấn đề.
Các anh đến đây (Hiếu nhấn vào tiếng “các anh”) không có lệnh truy nã. Chúng
tôi không dùng luật pháp để bắt các anh... Không ai biết các anh đến với chúng
tôi. Vì chúng tôi muốn khi các anh đến cũng như khi ra về, không ai biết ngoài
chúng tôi. Chiều nay, ngày mai, anh vẫn đến nơi làm việc như thường. Anh sẽ nói
anh bị đau nên vắng mặt ở sở một buổi, một ngày... Nhưng anh cũng có thể ở lại đây
mãi mãi mà không ai biết. Sẽ không có luật pháp nào can thiệp. Đó là cách làm của
chúng tôi.
Không phải là cách
làm của hắn, mà của “ông Cậu”. Ông Cậu không xét xử theo luật pháp, dù là luật
pháp của “Việt Nam cộng hòa”. Vì luật pháp là một điều quá khó hiểu đối với
trình độ học vấn của ông Cậu, quá xa lạ với bản chất của y. Hiếu không chỉ đe dọa,
mà còn muốn nói rõ cho mình biết tình thế hiện tại, Hai Long nghĩ.
Hiếu vẫn chậm rãi:
- Ông cố vấn chỉ đạo
miền Trung đánh giá rất cao những người kháng chiến cũ. Ông cố vấn tin rằng, nếu
có sự hợp tác giữa người kháng chiến với người Quốc gia, sẽ thống nhất được đất
nước. Trong hàng ngũ Quốc gia không có sự kỳ thị. Tôi cũng là Việt Minh nòi nhưng
Quốc gia vẫn trao cho trọng trách. Anh có ý kiến gì khác?
- Nhưng... thưa
ông, tôi đâu phải là người phía bên kia!
Hiểu cười nhạt:
- Tôi muốn kêu gọi
thiện chí của anh, nhưng ít nhất là lúc này, anh đã làm tôi thất vọng. Anh chỉ
có hai sự lựa chọn: một là chân thành hợp tác với chúng tôi để trở về; hai là cứ
trung thành với lý tưởng để vùi xác ở đây, không cần xét xử.
Vẻ mặt Hiếu trở
nên ngạo mạn. Hai con chuột hai bên quai hàm nổi lên rất to. Tiếng nói của hắn
bỗng rít lên:
- Tôi đã từng đập
tan toàn bộ mạng lưới tình báo quân sự ở miền Trung, và đang làm tiếp ở Sài
Gòn...! Anh chưa tin?
Hiếu quắc mắt nhìn
Hai Long.
- Dạ... không phải
như vậy, tôi tin chớ? Nhưng ở trường hợp của tôi, tôi e có sự lầm lẫn.
Cặp mắt người đối
thoại mở to để lộ vẻ ngạc nhiên và chân thật đến mức làm cho Hiếu hơi sững lạt.
Nhưng rất nhanh, mặt hắn lại lạnh đi.
- Anh đừng ngây thơ
tưởng rằng chúng tôi biết về anh quá ít! Tôi đã có vài tháng theo dõi anh. Tôi
dành cho anh một thời gian lấy lại bình tĩnh và suy nghĩ... Đừng để chúng tôi
phải đợi lâu.
Hiếu vụt đứng dậy
bỏ ra ngoài.
3.
Tên nhân viên mật
vụ còn rất trẻ vừa dẫn Hai Long đi vừa huýt sáo. Hắn mặc anh lẽo đẽo theo sau.
Chắc hắn nghĩ: đã vào đây chỉ có mọc cánh bay bên trời mới ra khỏi.
Hai người đi qua một
khu vườn. Lá rụng đầy. Những chậu cây cảnh, hoa quý lâu ngày không được chăm
bón. Giữa vườn nổi lên một cái chuồng sắt đồ sộ. Chủ nhân ngày trước nuôi thú.
Bây giờ trong chuồng chứa đầy những phuy xăng. Nơi dự trữ nhiên liệu cho những
chiếc tắc-xi trá hình ngày ngày phóng đi lùng bắt cán bộ kháng chiến. Nhìn cái
chuồng thú, Hai Long chợt nhớ ra. Một lần đi ngang phố Vân Đồn, một người bạn đã
kể với anh, nhà Bảy Viễn ở quãng này, trong nhà có vườn nuôi thú. Bảy Viễn là
người cầm đầu lực lượng Bình Xuyên, đã được Bảo Đại phong cấp tướng. Sau khi
truất phế Bảo Đại, Diệm quay ra đàn áp Bình Xuyên. Tướng Lê Văn Viễn phải bỏ chạy
khỏi Sài Gòn.
Đúng như Hai Long đã
đoán trước, anh được đưa tới dãy nhà ngang.
Tên gác rời chiếc
ghế đẩu, dẫn Hai Long về một căn phòng ở gần cuối dãy. Hắn nói buông xõng:
- Vô!
Trong căn phòng trống
huếch, hôi xì, tường vôi loang lổ, chỉ có độc một chiếc ghế bố.
Hai Long lấy tay đập
bụi trên mặt vải, đẩy chiếc ghế vào sát tường, rồi nằm vắt tay lên trán.
Mấy ngày qua không
có gì báo hiệu tai biến sắp tới. Chúng đã đột ngột chộp bắt anh. Trung tâm đã
chuẩn bị cho anh rất chu đáo. Một lý lịch mới với đầy đủ những giấy tờ “gốc”. Một
quá trình làm việc thực sự với kẻ địch. Anh đã đi xa nửa vòng trái đất trước
khi trở về Sài Gòn. Ở đây, anh cũng đã có một “bình phong” khá tốt. Và nhất là,
anh vẫn đang ở thời kỳ ẩn nhẫn đợi thời, chưa có hoạt động nghiệp vụ nào khiến
kẻ địch phải chú ý. Anh đã cố gắng tránh mọi sự khinh suất, luôn luôn quan tâm đến
mọi dấu hiệu, dù nhỏ, có thể đe dọa an toàn của mình. Mọi nguyên tắc hoạt động
bí mật đều được giữ vững. Trừ đồng chí trực tiếp lãnh đạo lưới, không một ai biết
nhiệm vụ của anh. Vậy mà mình đã sa
bẫy...?
Hai Long nằm nhớ lại
từng lời của tên mật vụ. Anh bỏ qua những câu dụ dỗ, hăm dọa của hắn. Hắn vẫn
úp lá bài, chưa hề hé ra hắn đã bắt anh vì chuyện gì. Vẫn chỉ có một câu nói đó
thôi, câu nói đã làm anh suy nghĩ từ khi vừa buột khỏi miệng hắn: “Anh đừng tưởng
rằng chúng tôi biết quá ít về anh, chúng tôi đã có vài tháng để theo dõi anh”.
Mấy tháng qua anh không có một hoạt động nào đặc biệt. Hàng ngày, anh đi làm ở
sở, ra thư viện, chở hàng đến chợ giúp vợ, thỉnh thoảng xuống nhà thờ Bình
An... Hoàn toàn vẫn như trước đây. Bất chợt anh nhớ tới một ánh mắt... Cách đây
hơn 3 tháng, anh đã bắt gặp ánh mắt đó ở gần cầu Thị Nghè, không xa nơi bọn địch
vừa bắt anh. Bữa đó, anh cũng tới sở như sáng hôm nay. Anh linh cảm thấy có ai đang
nhìn mình. Ngó sang dãy nhà bên hè, anh đã không lầm. Một người ngồi trước cửa
một ngôi nhà, với tờ báo trong tay, đang chăm chú nhìn anh qua cặp kính mát Mặt
anh ta lộ vẻ căng thẳng tột độ. Người đó tưởng là giấu được cái nhìn sỗ sàng và
nham hiểm sau cặp kính mát sẫm màu, nên mắt y không rời anh. Y không biết Hai
Long có một đôi mắt rất tốt. Trong giây phút, anh đã ghi nhớ được trọn vẹn cái
nhìn, khuôn mặt dài và choắt với nước da đen xạm của anh ta. Hai Long nghĩ ngay
tới một tên “hồi chánh”, và hắn vừa nhận ra mình. Nhưng sau khi lục tìm trong
trí nhớ, trí nhớ của anh ít khi đánh lừa anh, anh nhận thấy mình không hề quen
biết con người này. Tuy vậy, anh vẫn cẩn thận rẽ qua một con đường khác, vào
quán uống một ly cà phê, quan sát thấy không có ai đi theo, bấy giờ anh mới tới
sở.
Anh không gặp lại
người này nữa. Mọi chuyện vẫn diễn ra bình thưởng. Mươi ngày sau, anh quên cái
ánh mắt khó chịu đó đi. Nhưng sự trùng bợp về thời gian đã làm anh nhớ lại một
lần nữa, con người mặt đen xạm và choắt với cái nhìn không lương thiện của y...
Anh vẫn thấy mình chưa bao giờ có quan hệ với một người như vậy. Nhưng trong cuộc
đời vẫn thường xảy ra trường hợp một người mình không hề quen biết, lại biết rất
rõ về mình...
Hai Long bỗng nghe
thấy những tiếng gõ cạch cạch nho nhỏ ở phía bên kia tường. Từng ba tiếng một đều
đều. Một người nào dó muốn ra ám hiệu cho anh ư? Người đó là ai? Người quen? Một
người cùng chung số phận? Hay một tên khiêu khích được cài sẵn ở phòng bên để
dò xét..? Cuối cùng, anh đập bàn tay hai lần vào tường. Tùy người đó muốn hiểu đây
là sự hưởng ứng tiếng gọi tìm bạn, hay một cách khước từ: hãy để cho tôi yên.
Một giọng Bắc vừa đủ
nghe, từ buồng bên vọng sang:
- Mới tới phải
không?
- Mới tới.
Mỗi căn phòng của
dãy nhà ngang chỉ cách nhau một bức tường lửng, không có trần, nên những người ở
gần nhau vẫn có thể chuyện trò trao đổi.
- Gặp ông Đoàn chưa?
- Rồi.
- Hai Long phải
không.
Sao người này lại
gọi đúng tên mình?
- Ai đó?
- Cũng bị bắt như
anh thôi! Sáng nay nghe các ông nhắc tên anh. Một lát thì anh tới.
Giọng nói tự
nhiên. Hai Long linh cảm đây là một người tốt. Lời thăm hỏi của người cùng cảnh
ngộ? Hay một cách báo tin tên phản bội tố cáo anh hiện có mặt ở đây..? Không thể
xét đoán vội vàng.
Câu chuyện dừng lại
ở đó.
Hai Long cảm thấy được
an ủi. Mình không biến mất tăm. Ít nhất ngoài bọn chúng, cũng còn một người nữa
biết mình bị bắt cóc vào đây...
4.
Hàng ngày, Hai
Long xin ra ngoài vài lần để rửa mặt hoặc đi cầu tiêu. Anh hy vọng bắt gặp một
người quen. Biết đâu đó lại chính là kẻ đã tố giác anh. Chỉ có phát hiện ra hắn,
anh mới có hướng chuẩn bị cụ thể để đối phó với tên Hiếu trong cuộc gặp tới. Nhưng
anh chỉ toàn thấy những bộ mặt lạ lẫm, lạnh như liền. Một lần anh nhìn thấy Hiếu
chắp tay sau lưng, lững thững đi quanh chuồng thú. Anh toan chào hắn để giữ đúng
thái độ của một người bị oan, đang chờ hắn xem xét lại. Hiếu giả tảng không
nhìn thấy anh.
Rất nhiều mối lo đến
với Hai Long. Điều tốt nhất đối với những người hoạt dộng bí mật, là không để kẻ
địch đánh hơi thấy. Khi chúng dã đánh hơi được, thì cơ may để tiếp tục công tác
chỉ còn rất ít. Con đường đưa bọn chó săn lao lới đích rất gần. Vì mọi sự bố
trí, che đậy, dù chu đáo đến mấy, vẫn có những kẽ hở. Chúng đã làm gì với gia đình
anh sau khi anh bị bắt? Vợ con anh sẽ đối phó thế nào trước những câu hỏi thâm độc,
trước sự tra khảo của chúng? Chúng có tổ chức rình rập ngay tại nhà anh không?
Cấp trên đã biết anh bị bắt chưa..? Anh tự thấy có nhiều thiếu sót trong sự chuẩn
bị cho gia đình đối với trường hợp này.
Anh đã rơi vào tình
huống xấu nhất của những người hoạt động trong lòng địch. Một tình huống hiểm
nghèo mà cấp trên cũng như bản thân người cán bộ, phải dự kiến kỹ càng để đối
phó khi nó chẳng may xảy ra. Đây là cuộc chiến dấu sinh tử, đôi bên đều tận dụng
mọi thủ đoạn. Nhưng với Hai Long lúc này chỉ có hai cách: một là, bảo vệ đến
cùng tấm nguỵ trang của mình, giữ vững thế hợp pháp để tiếp tục chiến đấu; hai
là, cam chịu tra tấn, tù đày, hy sinh mạng sống để bảo toàn khí tiết của một
chiến sĩ cách mạng.
Tên nhà bếp vào
thu bát ăn, thấy cả suất cơm với mấy miếng thịt mỡ còn nguyên. Hắn hỏi:
- Răng không mời?
- Tôi có đạo.
- Thứ sáu kiêng thịt
hử? Chiều lấy rau thôi hè.
Tên gác xăm xăm từ
phía đầu nhà đi lại:
- Chuẩn bị chiều
nay lên gặp ông Đoàn.
Hắn đã chọn đúng
lúc này, khi cái dạ dày của mình trống rỗng...
Dương Văn Hiếu ngồi
chờ Hai Long trong một căn buồng xép. Cửa sổ đóng kín. Giữa ban ngày, ngọn đèn điện
vẫn sáng. Trong phòng chỉ có một chiếc bàn và hai cái ghế tựa xoàng xĩnh. Rõ
ràng là một nơi hỏi cung.
- Chắc anh đã có đủ
thời giờ suy nghĩ về những điều tôi nói bữa trước? - Hiếu mở đầu với giọng ôn tồn.
- Dạ. Tôi nóng
lòng dược gặp ông vì thấy bị giữ lâu quá. Hôm trước thấy ông ở ngoài vườn, tôi đã
toan đề nghị...
Hai Long quyết làm
cho hắn phải bật ra cái lý do vì sao đã bắt mình.
Hiếu rút từ trong
ngăn kéo ra một xấp giấy, đặt trên bàn.
- Anh ngồi đây viết
bản tường trình lý lịch và quá trình hoạt động theo những đề mục đã ghi. Từ chiều
nay, mỗi ngày hai buổi, anh lên đây viết cho xong. Anh cần nhiều thời gian
không?
- Chắc cũng không
lâu.
- Tôi dành cho anh
một cơ hội để biểu lộ thiện chí.
Hiếu nở một nụ cười
thâm hiểm rồi quay ra.
Hai Long khai mình
xuất thân từ một gia đình Công giáo có ít nhiều ruộng đất ở miền Bắc, quê nội ở
Thái Bình, quê ngoại ở Phát Diệm. Thời thanh niên, học tại Hà Nội, kháng chiến
chống Pháp, vào bộ đội Việt Minh; bị kỳ thị vì gia đình là địa chủ và công giáo,
anh bỏ bộ đội về Phát Diệm sống với bên ngoại một thời gian, rồi quay vào Hà Nội
tiếp tục đi học. Khi được tin gia đình ở vùng Việt Minh bị đấu tố trong Cải
cách ruộng đất, anh bỏ học vào quân đội Pháp với ý định chiến đấu trả thù. Pháp
thất trận ở Điện Biên Phủ rút quân về nước, anh chán nản quyết định đi theo
quân đội Pháp, hy vọng có thể tiếp tục học ở phương Tây. Nhưng tới khi sang
Pháp, anh chỉ kiếm dược một công việc làm độ nhật tại một nông trang trồng nho.
Vợ và ba con anh sống ở Sài Gòn gặp nhiều khó khăn, yêu cầu anh trở về. Từ đó tới
nay gia đình anh sống cuộc đời của những người giáo dân di cư lương thiện, chăm
lo làm ăn kiếm sống, không đóng góp được gì nhiều nhưng không hề làm điều gì phương
hại cho Quốc gia. Anh không hiểu vì đâu mình bị bắt. Anh tin chắc đây là một sự
lầm lẫn, yêu cầu phải trả tự do cho mình, và thông báo ngay cho gia đình biết
anh đang bị cầm giữ ở đây.
Ba ngày sau khi
Hai Long nộp bản tường trình, Hiếu gọi anh lên. Hắn ngồi đợi ở bàn với vẻ mặt lạnh
lùng, chỉ hơi nhếch mép đáp lời chào của Hai Long.
- Tôi đã nói:
không phải vì vô cớ mà tôi cho bắt anh!
- Dạ... Tôi không
nói là như vậy.
- Nhưng với lời
khai báo thế này, thì có nghĩa là anh bị bắt oan?
- Những điều tôi
khai đều là sự thật, tôi sẽ xin nộp đủ giấy tờ đề các ông sưu tra.
- Chính là với tờ
khai này, anh đã tự tố cáo anh là một tên Việt Cộng nằm vùng.
- Tôi chưa hiểu ý
ông Đoàn?
Hiếu quay ra cửa
nói to:
- Mời ông Tá sang!
Hắn đã buộc phải bộc
lộ con bài, Hai Long nghĩ. Chắc đây là một nhân chứng. Hãy chờ xem.
Một người xuất hiện
trước cửa. Hai Long nhận ngay ra chính là tên mặt đen và choắt anh đã gặp ở gần
cầu Thi Nghè. Bữa nay, hắn không đeo kính mát. Hắn đứng ngay người, hai tay để
xuôi đúng nẹp quần, nói rắn rỏi:
- Tôi có mặt!
Một thói quen nhà
binh lâu năm.
Hắn bước vào
phòng, đàng hoàng kéo ghế ngồi. Hai Long đã hiểu vì sao bữa nay căn phòng này lại
có thêm một chiếc ghế thứ ba.
Hắn ngồi nhìn anh
trân trân, sỗ sàng, gần như uy hiếp. Hai Long vẫn giữ nguyên vẻ bình thản,
không né tránh cái nhìn của hắn. Với anh, hắn chỉ là một kẻ không quen biết.
Hiếu chăm chú theo
dõi, có vẻ như hơi ngạc nhiên vì cuộc đối chứng đã không đen lại hiệu quả tức
khắc. Chờ đợi một lát, hắn hỏi Hai Long:
- Anh có biết đây
là ai không?
Hai Long nhìn thêm
người ngồi trước mặt một chút, rồi đáp:
- Tôi chưa có hân
hạnh được biết ông đây.
Tên mặt den cười
nhạt:
- Nhưng tôi lại biết
quý anh rất rõ. Biết cả tính danh và chức vụ Đảng của anh khi ở miền Bắc. Anh
là Vũ Ngọc Nhạ?
- Dạ
- Tôi là Tá, Tá đen,
quân báo của trung đoàn 6, đại đoàn Đồng Bằng. Tôi đã được cùng làm việc với
anh không phải chỉ một lần, trong trận càn Mercure.
- Dạ...
Hai Long biết mình
đã rơi vào trường hợp không may của những người hoạt động bí mật tình cờ gặp phải
một tên hồi chánh hiểu rõ nguồn gốc của mình! Cần giành lại ngay chủ động, anh
thản nhiên nói tiếp:
- Vậy mà tôi không
nhận ra ông. Trí nhớ của tôi gần đây tệ quá! Hồi đó, tôi là thị ủy Thái Bình,
tôi mang bí danh để hoạt động cho Việt Minh ở vùng Pháp chiếm đóng. Tôi vẫn thường
đến làm việc với anh Sinh và anh Hằng ở ban Quân báo trung đoàn.
- Anh là cấp ủy Đảng
cao thì chỉ chú ý đến thủ trưởng chứ nhìn ngó gì đến cánh lính tráng chúng tôi
- Tá đen nói với giọng mỉa mai
- Hồi đó thường
làm việc ban đêm, đèn dầu tù mù, đâu có điện sáng choang như bây giờ. Nhưng tôi
nhận ra anh rồi, dạo ấy ta gặp nhau ở làng Cọi, Vũ Tiên phải không?
- Làng Cọi!
Tá đen cũng có vẻ
khoái khi ôn lại một thời oanh liệt của mình. Hiếu lộ vẻ khó chịu, vì thấy cuộc
đối chứng lại biến thành cuộc gặp gỡ ôn lại kỷ niệm của những người bạn chiến đấu
cũ. Tá đen đã nhận ra vẻ không hài lòng của cấp trên, hắn chuyển giọng:
- Tôi gặp anh luôn
mà anh không biết đấy thôi; tiếp quản thị xã Thái Bình, tôi còn gặp anh.
- Điều này thì chắc
chắn anh lầm! Sau trận càn Mercure, tôi về Khu chỉnh huấn Cách mạng Việt Nam,
biết mình không thể sống với Việt Minh, tôi trở về Phát Diệm luôn và sau đó vào
thành. Từ 1953, tôi đã ở trong quân đội Pháp.
Tá đen sừng sộ:
- Anh đừng có nói
tôi lầm! Không có cái gì qua mắt thằng quân báo. Tám, chín năm không gặp anh,
chỉ thoáng nhìn thấy anh ở cầu Thị Nghè, tôi nhận ra ngay.
Hai Long điềm đạm:
- Xin lỗi anh nếu
tôi lỡ lời. Anh có trí nhớ rất tốt về người. Tôi lại có trí nhớ tốt về thời
gian. Trận càn Mercure diễn ra ngày 26-3-1952, tới nay chưa đầy 7 năm. Nếu anh
nói anh không gặp tôi cách đây 8, 9 năm, thì chỉ có thể là từ trận càn Mercure
trở về trước. Tôi còn khá nhiều ảnh chụp hồi đầu 1953 với Đức Giám mục và các
sĩ quan Pháp.
Tá đen biết mình hớ,
ngồi im tính cách cãi lại. Hiếu cảm thấy bất lợi, nói:
- Chừng ấy đủ rồi?
Cảm ơn anh Tá. Anh trở về làm việc, để tôi nói chuyện tiếp với anh đây.
Tá đen đứng dậy di
ra, không giấu được vẻ hậm hực.
Hiếu chậm rãi châm
một điếu thuốc, nhả vài hơi khói rồi nghiêm mặt nhìn Hai Long:
- Anh đã để lỡ một
cơ bội chứng tỏ thiện chí của mình.
- Dạ...
- Chúng tôi biết
anh là người của phía bên kia, đã nói trước là chúng tôi không bao giờ bắt lầm,
nhưng anh vẫn cố tình giấu cái gốc cộng sản.
- Thưa đó là chuyện
quá khứ...
Hiếu phẩy tay kiên
quyết ngắt lời anh:
- Để cho tôi nói.
Nội vụ của anh rất phức tạp. Chúng tôi đã nắm được cả. Tôi dành cho anh một cơ
hội cuối cùng. Nếu anh không thú nhận hết, thì chính anh tự làm hại mình. Anh
làm lại bản tường trình.
Hiếu ra khỏi rồi,
Hai Long vẫn cố nén một tiếng thở dài nhẹ nhõm.
5.
Hai Long đã viết
xong bản tường trình lần thứ hai.
Anh nằm thêm suốt
một tháng tại trại giam Vân Đồn, không ai hỏi han tới.
Ông bạn hay nói
chuyện ở buồng bên đã biến mất. Nhiều người đã bị chúng chuyển đi nơi khác.
Thay thế vào chỗ họ, là một loạt người mới tới. Hai Long nhận ra sự thay đồi đó
qua lời dặn dò của tên gác, những câu hỏi và giọng nói của họ.
Hai Long lo ngại sắp
đến lượt mình. Hình như những người đã bị bắt vào đây không ai được trở về nhà.
Ngôi nhà Bảy Viễn ở phố Vân Đồn rõ ràng là một trại giam tạm thời. Chúng không
có bộ máy xét hỏi. Mình Dương Văn Hiếu không làm xuể việc này. Hiếu chỉ làm
công việc sơ thẩm. Số phận của những người bị bắt sẽ được quyết định ở một nơi
khác. Nơi đó là đâu?
Tới tuần bị giam
thứ sáu, Hiếu mới cho gọi Hai Long.
Hắn không có vẻ
gay gắt, đối địch như những lần gặp trước, nói với anh bằng một giọng bình
tĩnh:
- Tôi không thỏa
mãn với những điều anh đã viết.
- Dạ...
- Tôi không có
cách nào khác, đành phải gửi anh ra miền Trung để cứu xét thêm.
- Thưa ông, chẳng
lẽ những vấn đề của tôi lại không thể giải quyết ngay ở đây?
- Không thể được.
Vì toàn bộ hồ sơ về anh, những nhân chứng nằm cả ở ngoài đó.
Hai Long hiểu, đúng
như anh dự đoán, mọi việc không kết thúc ở đây. Hiếu chỉ làm một số việc trình
tự theo thủ tục, rồi đưa anh đi.
Hiếu chuyển sang
giọng an ủi vỗ về:
- Anh đừng lo ngại.
Anh sẽ tới dự một lớp cải huấn. Sau khi học tập, nếu anh chuyển hướng tốt, anh
sẽ được trở về gia đình.
- Tôi muốn đề nghị...,
- Hai Long ngập ngừng - ông cho phép tôi viết thư về gia đình. Tôi cần một số
quần áo thay đổi, đặc biệt là áo rét, vì ở ngoài đó đang mùa lạnh.
- Thôi được. Anh
viết thư rồi để ở đây. Anh biết nên viết thế nào thì thư sẽ được chuyển...
Anh không hy vọng
nhiều lá thư nhỏ về tới tay gia đình. Vì chúng thừa biết, qua lá thư, vợ con
anh và một số người nữa sẽ đoán được anh bị đoàn công tác đặc biệt của Ngô Đình
Cẩn bắt giữ và đưa ra miền Trung. Người anh gai lên khi nhìn thấy cái sắc vải
màu xanh quen thuộc dặt ở giữa bàn.
Hai Long ngước mắt
nhìn tên Hiếu đang đứng chắp tay sau lưng:
- Ông cho phép?
- Cứ tự nhiên.
Anh mở sắc ra, thấy
mấy bộ quần áo thường dùng đã được giặt ủi sạch sẽ, một chiếc áo len dài tay mới
nguyên, và cuốn Kinh thánh. Ở Sài Gòn nóng bức quanh năm, gia đình anh không ai
có áo rét. Món chi tiêu mới này sẽ ảnh hưởng không ít ngày tới bữa cơm của vợ
con anh. Nhưng vật cần nhất dối với anh trong hoàn cảnh hiện nay lại chính là
cuốn Kinh thánh. Trong cuốn kinh này có tấm ảnh anh chụp cùng cha Lê và giám mục
Pháp Jean Cassaigne.
Hai Long mở cuốn
kinh ra, vừa nhìn thấy tấm ảnh, anh liền đóng lại như không muốn để mọi người
chú ý tới nó. Anh thừa biết chúng đã kiểm tra kỹ lưỡng gói đồ trước khi gọi anh
tới nhận.
- Anh em nói không
thấy trong nhà anh treo ảnh Thánh? - Hiếu hỏi giọng thân mật.
- Nhà cửa quá chật
chội và không sạch sẽ. Tôi là catholique de cocur[1] mà...
Hiếu gật gù rồi
nói:
- Lớp cải huấn
ngoài đó ở gần nhà thờ Phan-xi-cô[2].
- Tôi rất đội ơn
ông nếu hàng tuần ông cho phép được tới làm bổn phận con chiên đối với Chúa.
Hiếu im lặng. Có
khi việc này không thuộc thẩm quyền của hắn. Hoặc là hắn không vội vàng. Và anh
thấy mình cũng không nên tỏ ra vội vâng.
- Anh ra đó sẽ có
cơ hội hiểu rõ chính sách Quốc gia. Tôi trông đợi sự chuyển hướng thực sự của
anh.
- Dạ...
Tấm hình và cuốn
Kinh thánh dường như đã có tác động một chút tới thái độ của chúng đối với
mình... Mình không bao giờ được có ảo tưởng. Nhưng cũng chớ bao giờ dập tắt đi
mọi hy vọng. Những ngày vừa qua mình còn hay có ý nghĩ đây là một sự kết thúc.
Mọi sự kết thúc đều kèm theo một mở đẩu. Mình có khả năng biến sự mở đầu không
may mắn này thành một cái gì khác không?
Đó là những ý nghĩ
trong đêm cuối cùng Hai Long ở trại giam Vân Đồn.
---
[1] công giáo tại
tâm
[2] Françisco.
<< Chương trước::Chương sau >>
Chương 2
TRẠI TÒA KHÂM
1.
Tòa nhà làm việc của
viên khâm sứ Trung Kỳ thời Pháp thuộc nằm ở bờ nam sông Hương xinh đẹp.
Ngôi nhà chính hai
tầng xây theo kiến trúc Pháp, vuông vức đường bệ và vững chắc, trong kháng chiến
đã bị bộ đội ta đánh sập một nửa. Những dãy nhà trệt vẫn còn nguyên vẹn. Tòa
Khâm cũ nay được dùng làm trại cải huấn cho những người kháng chiến bị bắt.
Vây quanh trại là
Ty công an Thừa Thiên, trại lính Phan Đình Phùng, khách sạn Morin. Trước cửa trại
là khu công viên nằm ở ven sông Hương, giáp với cầu Tràng Tiền in hình trên nền
trời những đường lượn thon thả. Chợ Đông Ba ở ngay bờ sông bên kia, nổi bật lên
với những mái nhà hình vòm.
Ngôi nhà lầu đã bị
đánh sập một nửa dành cho trại trưởng và các ban cải tạo, tuyên huấn, hậu cần.
Trại viên ở dãy nhà trệt, trong tòa nhà trước kia dùng làm Văn khố. Họ ở tập
trung trong căn phòng lớn, với những chiếc giường cá nhân kê thành hàng theo kiểu
trại lính. Những căn buồng nhỏ chung quanh phòng lớn, được ngăn thành nơi biệt
giam.
Trưởng trại là Lê
Văn Dư, một gã mặt mũi sáng sủa, có thể nói là điển trai, chơi bóng chuyền,
bóng bàn giỏi mặc dù dôi chân vòng kiềng. Tuy vậy, Dư lại là một kẻ thất học. Hắn
vốn là trung sĩ trong quân đội ngụy thời Pháp, được chọn làm trại trưởng vì có
họ gần với ông Cậu. Dư tỏ ra mặc cảm trước những cán bộ kháng chiến. Đối với họ,
hắn có phần vì nể, không đe nẹt, dọa dẫm. Ngược lại, hắn khinh ra mặt những tên
“chuyển hướng” đã trở thành tay sai, sẵn sàng hạch lạc bọn chúng ở bất cứ nơi
nào. Vì không biết gì về việc “cải huấn”, hắn giao toàn bộ cho Lê Vượng, trưởng
ban cải tạo của trại.
Những cán bộ kháng
chiến ở Thừa Thiên lâu năm đều biết Lê Vượng. Vượng hoạt động cách mạng từ trước
năm 1945, đã làm chánh văn phòng của tỉnh ủy Thừa Thiên. Một lần, Vượng bị bắt
cùng với đồng chí phó bí thư tỉnh ủy trong một cuộc địch lùng càn. Ít ngày, Vượng
trốn thoát. Nhưng rồi chẳng bao lâu, Vượng bị bắt lại cùng với khá đông cán bộ
nhiều ngành của tỉnh. Người ta nói Vượng đã đầu hàng địch từ lần bị bắt trước,
chúng ném Vượng về đánh phá cơ sở của ta. Ông Cậu rất tin dùng Vượng. Chính Vượng
đã bày cho ông Cậu làm trò “cải huấn”.
Cách đây không
lâu, Vượng đã móc nối được với Quý, cháu họ của y, đang công tác ở vùng tự do.
Quý thường xuyên thông báo cho địch nơi tỉnh ủy đóng căn cứ, con đường cán bộ đi
lấy gạo, nơi dân vẫn giấu gạo, thực phẩm để tiếp tế cho ta. Bọn công an Thừa
Thiên đã lấy thuốc độc trộn vào gạo và thực phẩm. Chúng tổ chức những cuộc vây
ráp, phục bắt cán bộ. Một lần Quý về, dẫn một toán công an địch đi vây bắt cơ
quan tỉnh ủy đóng ở đèo Phước Tượng. Khi chạm nhau, đôi bên cùng nổ súng. Một tỉnh
ủy viên của ta hy sinh. Nhưng chính tên Quý đã lại ta bắn chết. Bọn địch khiêng
xác Quý cùng với xác đồng chí tỉnh ủy viên về Huế. Vượng đề nghị ông Cậu tổ chức
lễ tế tên Quý, và truy tặng cháu hắn huân chương Bảo quốc để cổ vũ những người đã
quay về chiến đấu cho “chính nghĩa quốc gia”. Buổi lễ được tiến hành trọng thể.
Các quan chức trong tỉnh đều có mặt. Lê Vượng huy động cả trại Tòa Khâm tới dự
lễ. Bọn chúng chặt xác đồng chí tỉnh ủy viên thành nhiều khúc, trộn với mùn cưa.
Riêng cái đầu, chúng bọc giấy đỏ. Vượng bắt một trại viên bưng chiếc mâm, trên đặt
cái đầu lâu, mang lên bàn thờ. Anh này sợ chết khiếp, đánh rơi cái đầu xuống đất,
lăn cả vào chân quan khách. Lê Vượng thực sự bộc lộ bộ mặt từ đó.
Số phận những người
đã rơi vào đây đều nằm trong tay Lê Vượng.
Nhìn bề ngoài, trại
Tòa Khâm không có vẻ một nơi giam cầm. Bọn lính gác đều mặc thường phục, súng
ngắn giấu trong người. Trại viên vẫn mặc quần áo của mình, hàng ngày chào cờ, học
tập, đọc sách báo, chơi bóng bàn, bóng chuyền. Một số trại viên được phép ra phố.
Có cả những trại viên ban ngày tới trại học tập, ban đêm lại trở về với gia đình.
Đến trại những
ngày đầu, Hai Long cảm thấy không khí ở đây dễ chịu hơn nhiều so với trại biệt
giam Vân Đồn. Anh nhớ lại những lời Hiếu quảng cáo về trại cải huấn. Mùa mưa ở
Thừa Thiên sắp hết. Bầu trời đã sáng sủa. Cố đô Huế êm đềm, khác hẳn Sài Gòn
lúc nào cũng náo nhiệt, sôi động. Tiếng chim ríu rít trên cành đón chào mùa
xuân. Ngày xưa, thực dân Pháp đã đưa cụ Phan Bội Châu về đây an trí. Chẳng lẽ
mình lại có những ngày nghỉ ngơi bên bờ sông Hương này ư...
Những người mới tới
được xếp ở chung tại một khu riêng. Nhiều người quen biết nhau. Phần đông là cán
bộ của hai tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam. Hai Long không gặp ai quen, vì anh chưa
có dịp công tác ở miền Trung. Một đường dây vô hình đã gắn bó họ với nhau, vì họ
đều cùng chung số phận đang chờ xét xử. Qua những câu chuyện trao đổi rì rầm,
Hai Long bắt đầu hiểu những ngày sắp tới sẽ rất đen tối. Trại cải huấn chưa hẳn
là trại giam. Nhưng nó là nơi chuyển tiếp cuối cùng đến những trại giam thực sự:
Lao Thừa Phủ, Mang Cá, Chín Hầm.
Những người đến đây
nói tới Chín Hầm với vẻ e ngại. Theo họ, những chuồng cọp ở Côn Đảo so với Chín
Hầm còn là thiên đàng. Những hầm này đều nằm trong lòng đất ở một vùng đồi. Trừ
những tên canh gác, không ai biết Chín Hầm ở đâu. Những ngăn xà lim chỉ rộng hơn
chiếc áo quan một chút. Người bị giam trong xà lim không nhìn thấy ánh mặt trời.
Họ hít thở khí trời qua một lỗ thông hơi. Chuột ở Chín Hầm quen khoét mắt và ăn
thịt người chết. Ban đêm, chúng lao tới từng đàn, gặm chân những người ngủ
quên. Địch đưa ai vào Chín Hầm có nghĩa là chúng định chôn sồng người đó.
Hai Long dần dần mới
hiểu rõ con đường ra khỏi trại Tòa Khâm chỉ có thể là con đường phản bội, đầu
hàng.
2.
Một người hom hem,
nước da mai mái ngồi ở bên bàn; một chân gác trên ghế, miệng ngậm điếu thuốc lá
sâu kèn, ngoảnh mặt ra nhìn khi Hai Long bước vào.
Y khua chân tìm
chiếc dép dưới gầm bàn, rồi đứng dậy ra đón anh, mẩu thuốc lá sâu kèn trễ xuống
một bên môi. Hắn cao và gầy, người hắn như bơi trong bộ quần áo rộng thùng
thình không được sạch sẽ lắm. Hắn rít thêm một hơi rồi mới chịu vứt mẩu thuốc
lá ướt đẫm nước bọt, nhoẻn miệng cười, chìa tay bắt tay Hai Long:
- Khỏe chớ?
Hàm răng hắn vàng
khói thuốc.
Hai Long cầm bàn
tay gầy guộc của hắn, có cảm giác như mình đang chạm tay thần chết. Lê Vượng là
hắn, người đã nhân danh trưởng ban cải tạo mời anh sáng nay lên gặp.
Vượng đưa anh lại
bàn, tiếp tục giọng thân mật, bề trên:
- Ngồi xuống đó. Cứ
tự nhiên. Khỏe chớ? - Hán nhắc lại câu hỏi thăm chưa được trả lời.
- Cảm ơn ông, tôi
vẫn thường.
- Thuốc đó!
Hân đẩy bao Bastos
về phía anh, rồi rút từ túi áo ra một gói thuốc sợi màu nâu xỉn.
- Miềng quen thừ
ni. Bastos nhiều người kêu nặng nhưng với miềng thì quá nhẹ.
Vượng lại cho một
chân lên ghế, ngồi vê điếu thuốc lá sâu kèn. Người ta nói Vượng bắt chước ông Cậu,
mời khách thuốc lá ngoại còn mình chỉ hút thuốc Cẩm Lệ vấn tay.
Cử chỉ của Vượng
thân mật, xuề xòa. Hắn tiếp Hai Long như gặp một cán bộ dưới quyền đã công tác
lâu năm với nhau hồi còn ở rừng. Cặp lông mày của hắn thưa và gần như trụi hết.
Đôi hố mắt sâu thẳm, long lanh một cặp mắt tươi cười, thỉnh thoảng lại có một cái
nhìn như xoáy vào tâm can anh. Những con mắt ấy như muốn nói: biết nhau rồi, đừng
vờ vĩnh nữa!... Hai Long cảm thấy e ngại
- Miềng đã nghe
ông Hiếu nói về anh. Hồ sơ nằm đó rồi. Ông Hiếu chưa tin anh. Nhưng miềng thì
miềng tin. Anh em không tin nhau thì răng? Anh kém miềng mươi lăm tuổi nhưng
cũng cùng một lứa với nhau thôn! Mươi, mười lăm năm kháng chiến cả. Anh là chi ủy
viên, miềng là thường vụ tỉnh ủy, rứa cả...
Hai Long ngắt lời
hắn:
- Ông đã coi hồ sơ
của tôi. Tôi đã rời bỏ hàng ngũ Việt Minh từ năm 1952.
- Coi rồi! Coi rồi!
Nhưng vẫn phải nói chuyện nhiều với nhau. Miềng e rằng anh chưa hiểu hết chính
sách của ông Cậu. Nó hoàn toàn trái ngược với chính sách Việt cộng. Một đàng là
vô nhân đạo, một dàng là nhân đạo. Cha anh bị bắn trong cải cách ruộng đất phải
không?
- Cha tôi tự tử.
- Thì cũng rứa...
Miềng nói tiếp. Một đàng là đóng cửa, một đàng là mở cửa. Một đàng là hận thù.
Một đàng là hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù. Cộng sản dùng sông Bến Hải để chia
cắt đất nước. Quốc gia chủ trương lấp sông Bến Hải để thống nhất hai miền.
Không phân giai cấp, không phân giàu nghèo, bỏ qua quá khứ, đó là chính sách của
ông Cậu. Ông Cậu nói: “Chính sách đã mở cửa, đừng ai đóng lại, đóng lại là có tội.”
Hay lắm chớ! Vì có chính sách nhân đạo, khoan hòa như rứa, cán bộ kháng chiến mới
lũ lượt kéo về, phải mở thành trường, thành lớp. Người mô trở về với Quốc gia,
bên nớ chức chi, bên ni chức đó; là công chức cũ, trao chức vụ cũ; khả năng đến
mô, quyền cao đến nớ. Ông Cậu chỉ cần anh em có thiện chí, từ bỏ chủ nghĩa Cộng
sản, giúp Quốc gia mời tiếp những người lầm đường trở về ... Rứa thôi! Rứa là
anh em lại tự do. Anh coi trại thì biết, nằm giữa cố đô, “cải tạo” chi mà thoải
mái, vui chơi! Ông Cậu cố tránh không đụng tới thân xác anh em, không để ai phải
mất mát gì. Nhưng đối với những kẻ ngoan cố, nói mãi không nghe, thì cuối cùng
cũng phải chấp pháp. Khi nớ chớ trách!
- Thưa ông, tôi đã
rõ. Từ nhiều năm nay tôi đã sống bên phía Quốc gia.
Người trẻ tuổi này
đã mấy làn ngắt lời mình, hắn sẵng giọng :
- Rứa chưa đủ! Ăn
cơm Quốc gia đã phải mô là người quốc gia!... Bọn hắn sẽ nói chuyện với anh những
cái cụ thể. Bữa ni, miềng chỉ yêu cầu anh sau học tập, phải có thái độ rõ ràng.
Quốc gia mời về chứ không áp bức. Dân chủ, tùy anh em lựa: hoặc là chuyển hướng
hoặc cứ theo Cộng sản, hoặc về với dân tộc hoặc quay về miền bắc, anh em cứ thực
thà khai ra. Ai muốn tiếp tục theo Cộng sản, sẽ lập thành danh sách trả qua Bến
Hải mà về...
Giọng nói của Vượng
dần dần dịu lại. Hắn dã nhiều lần thành công với cách dỗ dành này. Đây mới chỉ
là bước động viên riêng. Hắn vẫn theo đúng những kinh nghiệm đã làm trong những
cuộc chỉnh huấn trước kia khi còn ở rừng.
- Thưa ông, ở
trong kia tôi đã trình bày với ông Hiếu, e rằng có sự hiểu lầm.
- Nhiều chuyện ông
Hiếu chưa biết mô! Tất cả các anh đều đã qua tay tui.
Hắn quay ra cửa,
quát rất to:
- Cho xuống!
Thái độ của Vượng đột
ngột thay đổi. Hai Long tự bảo phải chăng mình đã phạm sai lầm?.. Mình cần tự
kiềm chế hơn. Phải cố tránh đừng khiêu khích chúng.
3.
Những người mới tới
được đưa khỏi khu đặc biệt đến căn nhà dành cho trại viên. Ban cải huấn chia họ
thành từng tổ để bắt đầu học tập. Mỗi tổ do một tên đã “chuyển hướng” điều khiển.
Tên này ăn ở cùng với họ.
Nội dung học tập
khá đơn giản. Tên tổ trưởng nhai lại một bài về “chính nghĩa quốc gia”, “chính
sách khoan hồng, mở cửa” của chí sĩ Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Cẩn,
do ban cải huấn soạn thảo. Sau đó, hắn yêu cầu mọi người thảo luận, so sánh những
chủ trương, chính sách của Quốc gia với chủ trương chính sách của Cộng sản. Hắn
luôn luôn nhắc nhở học viên phải kể rõ tội ác của Cộng sản. Những lời phát biểu
đều được ghi vào biên bản nộp lên trên. Tên tổ trưởng không chịu để cho ai
không phát biểu ý kiến.
Sau giờ học tập buổi
chiều, học viên chơi bóng bàn, bóng chuyền hoặc đi dạo trên những con đường
trong khu trại.
Ba tỉnh Quảng Trị,
Thừa Thiên, Quảng Nam tiếp giáp với miền Bắc, thuộc quyền cai quản trực tiếp của
Ngô Đình Cẩn, là nơi địch đánh phá phong trào cách mạng quyết liệt nhất. Chúng
mở liên miên những chiến dịch “tố Cộng”, những cuộc vây ráp, truy lùng cán bộ
ta. Chúng áp dụng những biện pháp triệt để nhất. Những người vợ có chồng đi tập
kết hoặc hoạt động thoát ly buộc phải ký giấy ly hôn và lấy người phía “quốc
gia” để cắt đứt mọi mối liên quan với cách mạng. Chúng tra tấn những người bị
tình nghi là mưu sát Ngô Đình Diệm bằng cách treo họ trên đống lửa hồng...
Những người được đưa
về trại Tòa Khâm, đối với chúng, thuộc loại những phần tử nguy hiểm nhất, là kết
quả của những cuộc truy lùng thường là rất khó khăn. Khi bị bắt, họ chờ đợi những
cực hình ghê gớm. Nhưng rồi họ được đưa về đây, sống giữa một khung cảnh mà từ
lâu họ chỉ thấy trong những giấc mơ.
Không người Việt
Nam nào, dù chưa hề đặt chân tới Huế, mà lại không mang sẵn trong tâm hồn một
vài hình ảnh về cố đô. Những hình ảnh đó đã đi vào bài thơ, câu văn, điệu hò,
tiếng hát. Những hình ảnh đó giờ đây diễn ra hằng ngày, hàng giờ trước mặt họ.
Dòng sông Hương, thành cổ, Phu Văn Lâu, cầu Tràng Tiền, chợ Đông Ba, công viên
tĩnh mịch bên bờ sông, chiếc nón bài thơ trắng lóa gắn liền với tà áo tím, áo
trắng của những cô nữ sinh Huế, tiếng guốc khua giòn trên đường phố những lúc
tan trường... Nhiều cái rất Huế đều có thể nhìn được từ trại Tòa Khâm. Bầu
không khí này chứa đựng một thứ hương thầm mê hoặc. Cuộc dời bên trong và bên
ngoài chỉ cách nhau một hàng rào thưa. Hàng rào ngăn cách sẽ không còn nữa, nếu
họ chấp nhận cái được gọi bằng những từ không mấy xúc phạm: sự “chuyển hướng”.
Một buổi chiều
trong khi đi dạo, Hai Long nhìn thấy một thiếu phụ cùng với đứa con nhỏ đi trên
hè phố bên ngoài cổng trại. Người thiếu phụ có cặp mắt lo âu và dáng đi tất tưởi.
Thằng nhỏ đen đủi, gày gò, vừa chạy theo vừa níu cánh tay mẹ. Đây chính là hình
ảnh vợ con anh lúc này ở Sài Gòn! Trong lòng anh bỗng dội lên sự thương cảm.
Anh vội quay đi, nhưng hình ảnh đó không chịu buông rời anh.
Thời gian học tập
không kéo dài. Tiếp theo là bước phản tỉnh. Học viên, từng người, tới gặp ban cải
huấn để viết kiểm điểm và trả lời những câu hỏi.
Nếu như trong học
tập họ có thể phát biểu những lời chung chung cho qua đi, thì lần này họ phải
viết, phải trả lời những vấn đề rất cụ thể. Một lời khai, một câu trả lời không
ăn khớp với những điều chúng đã biết, sẽ làm chúng thay đổi ngay thái độ, trở
thành thù địch thực sự.
Không còn những
câu chuyện rôm rả quanh bàn báo, những tiếng cười trên sân bóng. Nét mặt người
nào cũng lộ vẻ đăm chiêu hoặc lo âu, căng thẳng. Cái mà chúng gọi là “chuyển hướng” đã được cụ thể hóa: phải
khai rõ tổ chức bí mật, những cơ sở của cách mạng, và cuối cùng, phải nhận lời
cộng tác với chúng để cùng đánh phá cách mạng. Đã tới lúc phải lựa chọn dứt
khoát giữa kiên trung và phản bội, giữa bất khuất và đầu hàng?
Bản phản tỉnh của
Hai Long đã hai lần bị tên nhân viên ban
cải huấn trả lại. Lần thứ hai, hắn bảo anh:
- Anh không biết điều!
Viết lại lần nữa, nếu vẫn toàn những chuyện dông dài, chúng tôi sẽ có biện
pháp. Tỉnh ủy, phó bí thư, rèn luyện như vậy mà vô đây còn chuyển, các anh sức mấy! Gặp Cầu Lửa rồi anh sẽ biết!
Có thể chúng còn nắm
được cái gì đó về hoạt động của anh? Chúng không bắt bẻ gì về những điều anh đã khai. Như vậy có nghĩa là, mặc dù có sự tố
giác của tên hồi chánh, anh vẫn chưa bị lộ hoàn toàn tung tích. Nhưng còn cái điều
chúng đã biết về anh, và đang buộc anh phải tự khai ra, là cái gì? Anh không được
phép đi xa hơn những điều đã khai.
Hai Long ngồi một
mình ở bàn đọc báo. Những chữ in nhảy múa trước mắt anh. Anh chưa biết viết gì
thêm trong lần kiểm điểm thứ ba vào ngày mai. Nếu lần này, chúng vẫn không chấp
nhận, anh sẽ bị coi là ngoan cố.
Một người lặng lẽ đi
vào như một cái bóng. Ông ta mái tóc đã hoa râm, vẻ mặt lành hiền, lúc nào cũng
tư lự. Anh đã nghe nói nhiều về người này. Đó là ông Đẩu, tỉnh ủy viên của Thừa
Thiên ngày trước. Ông cùng bị bắt với Lê Vượng. Chúng đã đưa ông về giam tại
Mang Cá. Gần đây, chúng đưa ông về trại Tòa Khâm. Trại viên xì xào: “Ông Đẩu
chuyển hướng rồi!”. Mọi người né tránh ông. Hàng ngày, ông lủi thủi đi từ nhà lầu
xuống khu biệt giam, rồi lại từ đó trở về nhà lầu. Nhìn con người này, đôi lúc
Hai Long cảm thấy thương hại.
Ông Đẩu lẳng lặng
ngồi xuống bên Hai Long, mở một tờ báo ra xem.
Ông Đẩu đưa mắt
nhìn quanh rồi hỏi Hai Long bằng một giọng điềm đạm:
- Chắc anh đã nghe
anh em nói nhiều về tôi?
- Anh em nói anh
là tỉnh ủy viên của Thừa Thiên.
Ông Đẩu thở dài, rồi
lại hỏi:
- Anh là thị ủy của
Thái Bình phải không?
- Tôi đã khai với
họ rồi.
- Họ đã nắm được một
số tài liệu về thời kỳ hoạt động sau này của anh. Anh nên khai thêm về những gì
họ đã biết, để tránh khỏi phải đưa vào biệt giam.
Qua cặp mắt của
ông, Hai Long tin là người này muốn giúp đỡ mình.
- Anh có thể cho
tôi biết cụ thể hơn không?
- Tôi không trực
tiếp làm việc của anh, nên chỉ nghe được như vậy... Anh đã hay tin anh Mười
cũng bị bắt chưa?
- Anh Mười bị bắt?
- Họ đưa anh Mười
về cách đây gần một tháng. Anh không chịu khai gì, nên họ chuyển sang ty Công
an để chấp pháp. Anh em ở đây thỉnh thoảng nhìn thấy anh ở bên ty.
Tin anh Mười bi bắt
khiến Hai Long bàng hoàng. Anh Mười chính là người trực tiếp chỉ đạo công tác của
Hai Long. Sau đợt làm việc lần cuối, Hai Long tưởng anh đã trở về căn cứ, không
ngờ anh lại sa vào tay chúng.
Ông Đẩu buông tờ
báo xuống bàn. Hai Long biết ông tới đây
chỉ cốt để thông báo cho mình mấy điều đó. Nhìn vẻ mặt rầu rĩ của ông, anh hỏi
với vẻ thông cảm:
- Anh buồn lắm phải
không?
- Không phải là buồn...
Tôi đã phạm một sai lầm không thể tha thứ được. Tưởng là khai báo cho xong, lợi
dụng chính sách của họ, có điều kiện lại tiếp tục hoạt động... Họ không dừng lại
cho mình lợi dụng đâu. Tôi đã thấy hết sức nhục nhã, ê chề. Hối bây giờ thì đã
muộn. Chỉ còn cái chết để đền bù...
Một tuần sau đó,
Hai Long bị đưa vào biệt giam.
4.
Những người bị
giam riêng là những người không thành khẩn khai báo, hoặc không công nhận chính
sách, tức là không chịu “chuyển hướng”.
Người ở biệt giam
hoàn toàn tách với những sinh hoạt tập thể của trại. Bữa ăn có người đưa cơm
riêng. Những lúc ra ngoài, họ không được quyền trao đổi với các trại viên khác.
Trong phòng biệt giam không có giường. Phải nằm trên cạnh cửa hoặc một miếng
ni-lông rải trên nền nhà.
Vào biệt giam rồi,
họ vẫn tiếp tục bị truy hỏi. Cuộc truy hỏi với
những người biệt giam ưu gay gắt
hơn. Bọn nhân viên cải huấn luân phiên
nhau quần tối ngày, không để cho đối tượng có thời giờ nghỉ ngơi, suy nghĩ. Xen
kẽ, chúng đưa những người đã chuyển hướng, có quen biết đối tượng, tới rỉ rả
khuyên giải, dỗ dành. Sau một thời gian truy ép, nếu không có kết quả, chúng sẽ
chuyển họ tới nhà lao Thừa Phủ, Mang Cá hoặc Chín Hầm tùy theo tội trạng.
Sự ngăn cách giữa
người biệt giam với trại viên chỉ nhằm làm rõ sự phân biệt đối xử giữa những người
chấp nhận và không chấp nhận chuyển hướng. Người biệt giam sáng sáng vẫn được
ra ngoài tập thể dục, nhưng phải tập riêng một mình. Trại viên vẫn có thể theo
dõi những cuộc đối thoại trong phòng biệt giam vọng ra qua những khe cửa chớp. Một anh ở phòng biệt giam
sáng nào cũng hát trọn hai bài Tiến quân ca và Chiến sĩ Việt Nam. Những việc
làm như vậy được lơ đi, không bị cấm đoán hoặc trừng trị.
Một người đưa cơm
làm Hai Long hết sức chú ý. Hai Long nhận ngay ra anh ta đã có lần làm nhiệm vụ
liên lạc giữa mình với anh Mười. Những người đưa cơm cho người biệt giam và người
đang bị tra hỏi bên ty Công an được bọn chúng chọn trong số trại viên đã qua học
tập. Sao chúng lại trao cho anh ta làm công việc này? Chúng đã biết về anh ta đến
đâu? Nếu do chúng sơ hở, thì đây là một cơ hội vô cùng may mắn giúp cho Hai
Long liên lạc với anh Mười. Hai Long rất cần nhận được ở anh những chỉ thị mới.
Nhưng nếu đây lại là một cái bẫy do chúng cài để làm bật ra mối quan hệ giữa
anh với anh Mười? Anh thấy cần hết sức nhận trọng. Gặp nhau, hai người vẫn làm
như hoàn toàn không quen biết.
Buồng của Hai Long
chỉ tiếp giáp với một buồng biệt giam khác. Chiếc cửa thông giữa hai căn buồng
nhỏ này trước đây, đã bị khóa lại. Hai Long đã làm quen ngay với người láng giềng.
Anh tên là Hoàng, một cán bộ tình báo
quân đội, phụ trách một lưới điệp báo ở Thừa Thiên, bị bắt cùng với cả lưới.
Qua những buổi truy ép của chúng, Hai Long nhận rõ, anh đang ra sức bảo vệ những
người cùng cộng tác với mình. Chúng hỏi anh nhiều lần về một người tên là Hòe.
Trước sau, Hoàng chỉ nói Hòe vô tình tiết lộ một số tin tức cho anh, chứ hoàn
toàn không biết anh là cán bộ tình báo. Hoàng kiên quyết từ chối trả lời ai là người trực tiếp
chỉ đạo mình, điện đài giấu ở đâu... Nhiều lần bọn chúng dọa sẽ đưa anh đi Chín
Hầm.
Hai Long và người
làng xóm thường trao đổi qua lỗ khóa. Những câu chuyện của Hoàng giống như những
lời trăn trối. Anh kể về gia cảnh, cho Hai Long biết địa chỉ của gia đình mình.
Anh chỉ nhờ Hai Long giúp cho một việc, nếu có may mắn thoát được nơi đây. Anh
giới thiệu Hòe, một nhân viên của sở tài chính Trung Việt, do một đồng chí của
ta giác ngộ và thử thách trong công tác, bàn giao lại cho anh. Gần đây, anh đã được
ủy nhiệm kết nạp Hòe vào Đảng. Khi bị bắt, Hòe rất kiên định. Anh đang tìm mọi
cách cứu Hòa. Nhưng nếu Hòe thoát khỏi đây mà không còn liên lạc với Đảng thì sẽ
là một sự thiệt thòi lớn cho anh. Hoàng
tha thiết mong Hai Long sẽ tạo điều kiện cho Hòe tìm về với Đảng để tiếp tục
công tác... Hai Long nhận lời Hoàng, không dám nói điều anh đang nghĩ: chắc gì
mình đã ra khỏi đây!
Người đưa cơm đẩy
cửa bước vào. Anh ta có một cử chỉ khác thường, là chạm nhẹ khuỷu tay cho cánh cửa khép lại. Anh ta ghé vào tai
Hai long thì thầm:
- Quần áo cũ còn tốt,
cố giữ mà mặc. Chú ý thời tiết nóng, lạnh thì khỏe thôi.
Hai Long nhận ra
ngay đó là những lời của anh Mười.
Người đưa cơm
ngoái đầu nhìn cánh cửa khép hờ, rồi lại ghé tai Hai Long nói tiếp:
- Sáng mai, giờ thể
dục, ra chỗ hàng rào kẽm gai...
Trước khi quay ra,
lần đầu, anh nhìn Hai Long mỉm cười.
Sáng hôm sau, trước
tiếng còi tập thể dục, Hai Long đã có mặt bên hàng rào kẽm gai nhìn sang ty
Công an. Anh đứng hít thở khí trời ban mai. Tiếng còi vừa dứt, từ phía nhà giam
ty công an, một người cầm chiếc xô đi ra. Anh nhận ngay ra anh Mười. Đôi mắt
anh đang
đăm đăm nhìn về
bên này.
Hai Long nắm tay
trái giơ lên mang tai làm dộng tác chào. Anh lại giơ nốt nắm tay phải lên mang
tai bên kia, vặn người sang hai bên như đang tập thể dục. Anh Mười quay người,
thủng thỉnh đi về phía vòi nước. Một tay anh bỗng vẫy nhẹ về phía sau, như để đáp
lại lời chào của Hai long, và cũng nhắc anh đừng có khinh suất.
Hai Long cảm thấy
vững dạ sau khi nhận được lời dặn dò của anh Mười, những chỉ thị chỉ riêng anh
mới hiểu...
Hai Long hơi ngạc
nhiên khi thấy mình vào biệt giam đã một tuần, vẫn chưa có người trên ban cải
huấn xuống, trong lúc ở buồng bên, hết người này ra lại người kia vào.
Đầu tuần thứ hai,
buổi sáng, cánh cửa buồng bật mở. Một người tầm thước, tóc cắt ngắn, mặt đỏ au
bước vào. Đôi mắt sáng, dữ dằn, đảo đi đảo lại rất nhanh. Y khép cánh cửa, ném
tập hồ sơ xuống nền nhà.
- Tôi là Cầu, ở
ban cải huấn, bữa nay xuống làm việc.
Hắn vừa nói vừa ngồi
xuống trước Hai Long.
Cầu Lửa đây, bữa
trước tên nhân viên cải huấn đã nhắc tên hắn như nhắc tới một hung thần.
Cất tiếng, y nạt nộ
ngay:
- Anh khai báo thế
này thì ai mà chịu được! Hồ sơ của anh cả một tập rề rề ra đây. Anh cho chúng
tôi là những thằng ngu chắc? Đừng hòng qua mắt chúng tôi. Những người ngoan cố
bằng mấy anh, chúng tôi còn trị được. Nhiều người nhẹ không ưa, ưa nặng; rốt cuộc,
cũng giống nhau tuốt. Mấy thằng đã có
gan chui vào Chín Hầm chờ mục xương! Anh được học, được nghe chính sách đủ rồi.
Anh khai báo tử tế thì cho anh ra khỏi đây, không thì sang an ninh...
Hắn như người lên
cơn điên, càng nói càng quát.
Hai Long ngồi thu
hai tay im lặng, chờ hắn hả hơi. Anh chăm chú lắng nghe xem may ra tên điên rồ
này có để lộ ra điều gì.
Cầu Lửa đảo mắt về
phía cửa, rồi rút nhanh từ tập hồ sơ ra một mẩu giấy, đẩy nhẹ tới trước mặt Hai
Long
Trong lúc Cầu Lửa
tiếp tục quát tháo, Hai Long tập trung tinh lực đọc mấy dòng chữ vắn tắt: “Bản
khai ở Vân Đồn sưu tra khớp rồi, cứ giữ nguyên. Khai thêm về quan hệ với Pháp,
với cánh Phát Diệm. Chuyển đi là chết đó!”.
Hai Long đẩy nhẹ mẩu
giấy trả lại Cầu với cái nhìn biết ơn.
Cầu vo viên mẩu giấy,
bỏ vào túi quần, miệng vẫn bô bô:
- Tôi cũng từ thằng
quân báo Liên khu V mà ra đây, cũng Cộng sản nòi, nhưng ngấy hết rồi. Còn cái mẹ
gì? Các ông ấy kéo tuốt ra miền Bắc, vứt mình lại xó rừng. Mình cũng phải sống
chớ...
Hai Long cảm thấy
nhẹ hẳn người khi Cầu đi ra hất cánh cửa đánh rầm. Thì ra chỗ mắc mứu của chúng
đối với anh, chính là ở chỗ anh từ Pháp về, ở mối quan hệ với các cha cố Phát
Diệm mà sau khi anh bị bắt, chắc chúg đã tiến hành điều tra. Nhưng cũng lại
chính vì mối quan hệ của anh với cha Lê và cha Hoàng, nên chúng có phần gượng
nhẹ. Không ngờ người giúp anh lối thoát
khỏi biệt giam lại là Cầu, một kẻ được chúng coi như hung thần!
Lại có những tiếng
cộc cộc ở cánh cửa.
Hai Long nhích người
áp tai vào ổ khóa.
- Thằng Cầu này trước
phá ta dữ lắm. Gần đây, có đỡ hơn. Bọn địch không tin hắn đâu.
- Thái độ y dữ dằn
quá. - Hai Long nói cho qua.
- Lúc nào nó cũng
vậy. Anh cố tìm cách mà thoát. Tôi thì chúng đưa tới nơi rồi.
Trong cuộc đấu
tranh sinh tử này, mỗi con người là một thế giới đầy bí mật.
Mươi ngày sau, Hai
Long được ra khỏi biệt giam.
Cũng sáng hôm đó,
một chiếc xe bịt bùng ghé vào trước thềm
nhà trại viên. Hai nhân viên an ninh nhảy xuống, mở cửa buồng Hoàng, bảo anh ra
xe.
Tiếng Hoàng bình
thản:
- Đi mô mà vội?
Cũng cho chuẩn bị một chút xíu chớ. Đi mô? Mang Cá hay Chín Hầm?
Tên an ninh sẵng
giọng:
- Đừng phách lối!
Mần cho lẹ đi!
Nhiều trại viên xô
ra cửa.
Hoàng giơ nắm tay
lên mang tai chào mọi người theo kiểu Việt Minh, và nói “Vĩnh biệt các đồng
chí!”.
5.
Một trại viên có
người nhà từ Sài Gòn ra thăm. Chị vợ dẫn theo đứa con gái nhỏ.
Trong trại nhiều
người biết Lựu, anh trại viên vừa có vợ ra thăm. Tên hướng dẫn học tập đã có vẻ
khó chịu vì tính nói ngang của anh. Có những lần, câu nói của anh làm cho hắn đứng
ngay cán tàng. Ai cũng tưởng chúng sẽ đưa anh vào biệt giam. Nhưng chúng vẫn để
anh nhởn nhơ. Người ta nói Lựu là giao thông viên của một nhân vật quan trọng ở
Sài Gòn, nên chúng cố dụ dỗ để tìm ra những cơ sở quan trọng của ta. Việc chúng
cho vợ con anh ra thăm cũng nằm trong âm mưu này. Lựu được nhiều người có cảm
tình vì anh nói hộ họ những điều họ không dám nói. Những ngày qua, mỗi lần lên
gặp ban cải huấn về, mặt Lựu đỏ dừ. Có những lúc người ta nghe tiếng Lựu cãi trả
nhân viên cải huấn từ trên gác vọng xuống.
Lựu bồng con, nét
mặt tươi rói, đi chào mọi người và phân phát những trái cây vợ đem từ Sài Gòn
ra. Người vợ tươi tỉnh sau khi gặp chồng và ngắm nhìn không khí của trại. Chắc
chị tin rằng mình được đặc cách đến thăm chồng thế này, thì không bao lâu nữa
anh sẽ được tha.
Những cặp mắt đổ dồn
về đôi vợ chồng trẻ và đứa bé, không giấu được vẻ thèm thuồng.
Nhiều người đứng
nhìn theo cạnh vợ chồng Lựu chia tay ở cổng trại. Họ bật cười khi thấy Lựu giơ
cao nắm tay trái chào vợ ngay trước mặt
tên lính gác.
- Thằng cha bao giờ
cũng ngang!
Hết giờ tập thể dục
sáng hôm sau, khi mọi người sắp giải tán, Lựu đứng ở giữa sân, tươi cười giơ
cao nắm tay trái khá lâu trước những cặp mắt ngơ ngác. Không ai cười vì không
muốn làm hại thêm anh với cái trò khiêu khích này.
Lúc 9 giờ sáng, từ
phía nhà lầu vang lên những tiếng kêu la thất thanh. Mọi người đổ xô ra cửa. Có
ai vừa lao từ cửa sồ căn phòng của ban cải huấn xuống đất. Lựu nằm trên mặt thềm,
đầu vỡ toác, óc lòi ra, người đã mềm nhũn. Khi đó, họ mới hiểu nắm tay giơ cao
của anh sáng nay là lời chào vĩnh biệt.
Ông Đẩu già sọm đi.
Một buổi tập thể dục,
có người nhắc đến chuyện Lựu. Một trại viên tỏ vẻ thương tiếc.
- Chưa tới 30 tuổi
đầu! Vợ con vừa mới ra thăm!
Một tên “chuyển hướng”
nói:
- Dại thì chết thiệt
thân!
- Đây không phải
là vấn đề khôn dại. - ông Đẩu lần đầu lên tiếng giữa đám đông.
Giọng nói của ông
nhỏ nhẹ, nhưng người ta cảm thấy trong ông đã có sự bùng nổ.
Tên “chuyển hướng”
ngạc nhiên nhìn ông, hắn không chịu thua:
- Có chính sách rồi,
chết như vậy tôi coi là ngu!.. Anh Đẩu đây, trước có công nhận chính sách đâu,
giờ cũng đã công nhận.
Ông Đẩu vẫn điềm đạm:
- Đó là sai lầm của
tôi. Tôi đã bị lừa dối. Tôi không có được dũng khí như đồng chí Lựu.
Mấy ngày sau, Lê Vượng
đưa ông Đẩu vào biệt giam. Ở đây, hàng ngày ông tiếp tục than vãn về sai lầm
không thể tha thứ được của mình. Chúng vội đưa ông Đẩu khỏi trại Tòa Khâm.
Lần này, chúng đưa
thẳng ông vào Chín Hầm.
6.
Qua tìm hiểu, Hai
Long đã biết Cầu Lửa trước đây đúng là quân báo của Liên khu V. Gặp nhau, Cầu đưa
mắt kín đáo nhìn Hai Long. Có lúc đã quay đi, Cầu mới se sẽ gật đầu. Hai Long
phân vân không hiểu trong trại có tổ chức của ta không, ít nhất là một tổ chức
của những người trung kiên..? Có nên liên hệ với tổ chức này không trong khi
nhiệm vụ của mình là phải náu thật kín, chờ dịp chui sâu và leo cao? Anh nghĩ sẽ
không bộc lộ gì với Cầu, nếu Cầu chỉ là một người tốt hoạt động đơn độc.
Từ ngày Hai Long
ra khỏi biệt giam, bọn cải huấn chưa hỏi han gì thêm.
Một buổi chiều,
anh từ phòng tập thể đi về phía nhà lầu, định dạo chơi một lát trên con đường
chạy dọc theo công viên. Có người rảo bước phía sau. Khi người đó đi ngang, anh
nhận ra Cầu. Cầu hơi gật đầu. Họ cùng sánh bước như tình cờ đi chung một đường.
Cầu nói rất nhanh:
- Biết nhau cả rồi.
Có muốn tếch không?
Nhiều lần nhìn dãy
Trường Sơn xanh ngắt in hình trên nền trời phía tây, Hai Long đã có ý nghĩ đó.
Từ đây lên núi không xa. Tới đó, thế nào cũng tìm được căn cứ của ta. Nhưng anh
đã gạt ý định bỏ trốn. Đã trốn đi thì không thể trở về hoạt động hợp pháp, là bỏ
nhiệm vụ giữa chừng, mặc dù anh đang ở vào một tình thế khó khăn.
Cầu tiếp tục nói:
- Chẳng có chính
sách hòa hợp mẹ gì đâu! Một là phải theo nó để hại dân phản nước, hai là ngồi
tù. Hồ sơ của anh có trôi, thì sau đây anh cũng bị tống vào Lao Thừa Phủ hay
Mang Cá. Chế độ này kị Pháp, kị cha cố di cư chẳng kém gì Việt cộng. Tới lúc
vào tù rồi, muốn chuồn không dễ! Mình đang chuẩn bị. Ta vào Đà Nẵng rồi tuốt
lên quân khu.
- Anh có giúp tôi
nhắn tin cho anh Mười được không?
- Gặp anh Mười rất
khó. Tôi chỉ là thằng cải huấn, bọn chúng chưa tin.
- Tôi phải ở lại.
Tôi không bao giở quên ơn anh.
- Ơn huệ cái mẹ
gì! Tôi chỉ lo anh chết rũ trong tù.
- Anh cần hết sức
cẩn thận...
Cầu đi vượt lên, rồi
rẽ vào ngôi nhà lầu.
Hai Long cảm thấy
Cầu xốc nổi và thiếu tiền trọng. Anh bắt đầu lo cho Cầu.
Ít ngày sau, Cầu
không còn xuất hiện ở trại Tòa Khâm. Có
tin Cầu bị bắt. Một vài người chuyển hướng nữa cũng
biến khỏi trại. Kế hoạch bỏ trốn của Cầu vỡ lở vì có người phản.
Chuyện Cầu tiếp tục
rì rầm trong trại. Nụ cười và dáng diệu thân mật, cởi mở giả tạo của Lê Vượng
biến mất. Dưới cặp lông mày trụi, đôi hố mắt hắn sâu thêm, tối sầm, nhộn nhạo
những vẩn đục thâm độc, giận dữ và lo lắng. Ngọn lửa phản kháng vẫn âm ỉ trong
khu biệt giam nằm giữa trại cải huấn, đôi lúc lại bùng lên với những người như
Lựu, như ông Đẩu. Nhưng lần này, nó lan tới hàng ngũ bọn chuyển hướng, đã được
Vượng coi như những tay chân đắc lực. Vụ Cầu Lửa đe dọa tiêu hủy thành tích của
hắn từ xưa tới nay, và đang làm hắn mất mặt với cấp trên.
Trại viên âm thầm
hỉ hả. Kế hoạch của Cầu tuy không thành nhưng cũng đã nói hộ họ một phần tâm tư,
họ chỉ là những người bề ngoài nhẫn nhục, chịu đựng sự đàn áp của bạo lực, chứ không
phải là những kẻ cam tâm đầu hàng, phản bội.
Hai Long rất xúc động
khi biết tin Cầu và các bạn bị bắt. Anh không thể không nhận rằng Cầu khá khôn
ngoan mới đánh lừa được một tên cáo già như Vượng. Ngoài anh ra, chắc Cầu còn
giúp đỡ được một số người khác. Nhưng anh càng nghĩ Cầu chỉ hành động một cách
tự phát. Phải tìm một con đường khác. Việc anh thoát khỏi đây sẽ trở thành vô nghĩa nếu anh không
còn điều kiện để tiếp tục công tác.
Suốt mấy ngày,
hình ảnh Cầu cứ lởn vởn trong đầu óc anh. Anh rất thương Cầu, và vẫn chưa nghĩ
ra cách làm sao thoát khỏi cuộc sống tù đày.
Đêm đó, Hai Long nằm
trằn trọc. Huế vốn ít ồn ào, đêm khuya lại càng yên tĩnh. Anh chợt nghe có tiếng
chân rón rén bên ngoài. Bọn canh gác đi tuần tra ban đêm không quan tâm gì tới
giấc ngủ của người bị giam giữ. Không ai dám đi lại ở đây vào giờ nây, trừ bọn
mật vụ. Nhưng tại sao chúng phải lén lút? Đây là nhà của chúng. Những tiếng
chân bước rất đáng ngờ.
Tiếng chân bỗng ngừng.
Hai Long không tin mình đã nghe lầm. Anh
tiếp tục lắng nghe. Từ khi có còi ngủ, gian phòng tập thể đã tắt điện tối om.
Tiếng ngáy của những người nằm chung quanh vang lên đều đều. Chỉ trong chốc
lát, anh lại nghe tiếng chân rón rén, lần này ở ngay phía cửa phòng, gần nơi
anh nằm. Anh thoáng nghe thấy cả đôi tiếng người xì xào. Trong trường hợp này, tốt nhất nên vờ như ngủ say, cũng giống
như mọi người, xem chúng làm trò gì.
Có tiếng vặn quả đấm
nhè nhẹ ở ổ khóa cửa ra vào. Ban đêm, cửa buồng chỉ khép để trại viên tiện xuống
khu nhà vệ sinh không phải gọi người gác. Kẻ địch rất chú ý làm cho trại Tòa
Khâm ít có vẻ là một nơi giam cầm.
Một luồng ánh sáng
mờ mờ từ ngoài hành lang lọt vào. Hai bóng đen nối nhau lẻn vào, qua cánh cửa vừa
được mở. Hai Long cố giữ nhịp thở đều đều. Đôi mắt anh giương to, theo dõi từng
cử chỉ của chúng. Bọn chúng mò vô đây làm gì?
Gian phòng trở lại
tối như bưng. Chúng đã khép cánh cửa lại. Tuy nhiên, anh không nghe tiếng động ở
ổ khóa. Chúng chỉ khép hờ cánh cửa, cốt để che ánh sáng. Hai Long vận dụng hết
tinh lực, nhưng anh không còn nhìn thấy
gì vì bọn chúng đều mặc quần áo sẫm màu.
Giờ thì anh chỉ
còn theo dõi chúng bằng đôi tai. Chắc bọn này định lấy trộm một đồ vật của trại
viên? Hai Long chỉ có vài bộ quần áo và cuốn Kinh thánh. Tất cả đều nằm trong
cái túi nhỏ, anh đang gối ở đầu giường.
Chúng di chuyển hết
sức êm nhẹ. Anh không nghe tiếng bước chân, mà chỉ mơ hồ cảm thấy chúng đang tới
gần mình, qua hơi thở của chúng. Hình như bọn chúng cũng đang hồi hộp.
Bất thần, một bàn
tay quờ vào ngực anh. Hai Long chưa kịp lên tiếng, thì hai bàn tay đã siết chặt
cổ anh. Đồng thời, hai chân anh cũng bị một người thứ hai giữ chân. Một ý nghĩ
lóe lên! Mình đang rơi vào một tình thế cực kỳ hiểm nghèo. Chỉ trong giây phút,
đôi bàn tay này sẽ là sợi dây thòng lọng kết thúc cuộc đời mình!
Cánh tay phải anh đã
bị một cái đầu gối đè chặt xuống giường. Chỉ còn cánh tay trái được chúng bỏ
quên. Anh dùng hết sức bình sinh, phóng một quả đấm vào đúng bộ mặt đang phả xuống
một luồng hơi nóng hổi. Anh sẽ thành công hoặc thất bại với đòn quật lại này.
Anh hy vọng, vì mình thuận tay trái. Một tiếng “rắc” khô khan vang lên. Đôi bàn
tay đang siết cổ anh bỗng lơi ra. Không bỏ qua giây phút quý báu, anh vặn người
phóng tiếp một quả đấm thứ hai vào sườn bóng đen. Hai Long ú ớ rồi gào lên hai
tiếng thật to:
- Có trộm!
Những đòn giáng trả
cộng với tiếng anh kêu, đã làm cho hai bóng đen hốt hoảng vùng chạy ra ngoài.
Hai Long bật người ngồi dậy. Anh còn kịp nhìn thấy một tên ôm bụng, người cong
như con tôm, lao qua cửa. Nhưng ánh sáng vụt tắt. Bọn chúng đã khép cửa lại như
cũ. Ngoài hai tên vừa rồi, chắc còn một tên thứ ba. Những bước chân xa dần bên
ngoài.
Hai Long thở dồn dập.
Mồ hôi vã ra đầy người. Những đốt xương ngón tay trái đau đớn, tê dại.
Một số người nằm
trong buồng chợt tỉnh, xôn xao:
- Trộm đâu?
- Bật đèn lên!
Có tiếng bật công
tắc. Nhưng căn phòng vẫn tối om.
- Tại sao điện lại
hỏng nhỉ?
- Ai vừa kêu đấy?
- Tôi... Hai Long đây.
- Hai Long đã trở lại bình thường, và chợt hiểu ra..., anh bình tĩnh nói tiếp -
Xin lỗi tôi làm các anh mất giấc ngủ. Vừa rồi tôi bị bóng đè...
- Mình nghe có tiếng
gì vỡ? - Một người hỏi.
- Không có gì đâu!
Mình nằm mơ thấy một con chó rất lớn lao lại cắn mình, mình thoi liền hai quả.
Có lẽ mình đấm vào tường, tay mình đau tê dại đi đây.
Có tiếng phì cười.
- Ở nhà ông có mơ
như thế không? - Một người hỏi - Nếu đêm nào ông cũng mơ như thế làm sao bà ấy
dám ngủ chung với ông...
Một số người vẫn
ngáy đều đều.
Hai Long biết
trong tình hình này sẽ phải thức hết đêm. Biết đâu những người khách không mời
nguy hiểm và dại dột kia sẽ còn quay trở lại? Thì ra chúng vẫn chưa bắt được hết
những người bạn của Cầu Lửa! Vừa rồi họ đã đến tìm anh để “trả thù”! Anh xoa những
đốt xương ngón tay, thấy chúng bắt đầu sưng lên. Anh nhè nhẹ thở dài. Có quá nhiều
chuyện mà anh không thể nào dự kiến trước sẽ còn xảy ra như việc trớ trêu vừa rồi...
Ngày hôm sau, Hai
Long bỏ dở bữa cơm chiều. Sáng nay, anh quan sát kỹ nhà ăn, thấy một bàn để trống
một ghế. Bữa chiều, bàn ăn này vẫn vắng một người. Anh quay về nhà.
Bước tới cửa, Hai
Long đã nhìn thấy ngay một người nằm ở góc phòng. Thoáng nhìn thấy anh, người đó
vội đưa tay lên che cằm, và trở mình quay mặt vào tường, bàn tay vẫn không rời
má bên phải.
Hai Long rảo bước đi
lại, ngồi xuống mép giường bên cạnh anh ta.
Hai Long nhẹ nhàng
hỏi:
- Anh bệnh à?
Người đỏ miễn cưỡng
quay lại. Mắt anh ta bạc đi. Hai Long nhận thấy môi bên phải anh ta sưng vều.
Anh ta thều thào trả lời:
- Tôi bị đau răng.
Hai Long nở một nụ
cười hiền lành hỏi tiếp:
- Anh đau lâu chưa?
Và làm như vô tình
đặt nhẹ bàn tay lên bụng anh ta. Cả người anh ta bỗng co rúm khiến Hai Long vội
rút tay lại.
- Tôi cũng đau đây.
Hai Long giơ bàn
tay trái tím bầm.
Anh ta liếc nhìn
bàn tay, rồi lại nhìn Hai Long chăm chăm, như cố để tìm hiểu xem người này muốn
gì. Mặt anh ta chỗ đỏ, chỗ tái. Thái độ không lộ vẻ gì thiếu thiện chí của Hai
Long dường như làm cho anh ta bớt lo lắng. Đôi mắt đỡ dại đi, nhưng vẻ mặt anh
ta vẫn có chiều hết sức phân vân.
Hai Long nói dịu
dàng:
- Nếu đêm qua tôi
không lanh trí thì các bạn phiền rồi! Đừng làm cho việc đã lỡ, càng rối thêm...
Tôi là người có đạo, không khi nào có bụng dạ làm điều ác. Kẻ ác rồi sẽ có ngày
bị Chúa trừng phạt.
Những người đi ăn
cơm từ nhà ăn lẻ tẻ kéo về. Hai Long nắm lấy bàn tay của anh ta, và nhận thấy
anh siết chặt tay mình.
- Chúc anh chóng
lành bệnh.
Hai Long buông tay
anh, đứng lên rời khỏi phòng.
THÁNG TÁM ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
1.
Tám tháng trôi qua
kể từ ngày Hai Long bị bắt.
Cuộc sống giam cầm
ở trại Tòa Khâm vẫn tiếp tục như ngày anh mới tới. Những buổi học tập. Những
ngày phản tỉnh. Những cuộc truy bức. Người mới đến. Người ra đi. Ở mặt trận có
thề nhận ngay ra người dũng cám, kẻ khiếp nhược. Trong cuộc đấu tranh ở đây, người
xấu, người tốt; cái giả, cái thật rất khó phân biệt. Người tự bộc lộ là kiên định
vững vàng có thể lại là một tên khiêu khích, tay sai của địch. Người tỏ ra cam
chịu, quy phục có thể lại dang nung nấu một tinh thần bất khuất, một ý chí phục
thù. Ở mỗi con người là sự biến động hàng ngày, hàng giờ. Hôm trước còn trung
thành, hôm sau trở thành phản bội. Hôm trước sa ngã, hôm sau đã hối hận, muốn
chuộc lại lỗi lầm. Bề ngoài, mọi người đều lặng lẽ. Nhưng bên trong đầy sóng
gió. Không ai tin ai. Giá của sự tin người nhiều khi quá đắt. Mỗi người tự tạo
cho mình một cái vỏ bọc. Càng kín càng hay. Không ai biết ngày mai ra sao. Và
tình trạng này còn kéo dài đến bao giờ.
Đối với Hai Long,
nhiều người tỏ ra dè dặt. Từ khi vào trại, anh vẫn dọc kinh mỗi ngày ba lần,
kiêng ăn thịt ngày thứ sáu. Anh dã đề nghị với trại trưởng Lê Văn Dư, và được hắn
chấp thuận, hàng tuần đi lễ ở nhà thờ một lần. Mỗi sáng chủ nhật, tên nhân viên
an ninh dẫn anh tới nhà thờ Françisco cách trại giam khoảng 1 km. Anh cắm đầu đi
không nhìn ngang nhìn ngửa. Vào đến nhà thờ, đôi mắt ít khi rời tượng Chúa, anh
lầm rầm cầu nguyện, có lúc đọc kinh khá to.
Những việc làm
kiên trì này dần dần tạo cho anh một cái thế mới: nhiều người không chú ý tới
anh nữa, coi anh là kẻ đã phó thác tâm hồn nơi Chúa, không màng tới việc đời. Cả
những tên nhân viên an ninh cũng lơ là với anh. Người ta nói với nhau mọi chuyện,
không bận tâm đến sự có mặt của anh. Bọn an ninh trả lời những câu hỏi ngây thơ
của anh, phần lớn dính đến việc đạo một cách không dè dặt. Hai Long đã tìm hiểu
được một số điều cần thiết. Linh mục Hồng ở nhà thờ Françisco hiện nay, vốn trước
đây là đệ tử của cha Lê. Ông Cậu là người ngoan đạo, nhưng không mấy khi đến
nhà thờ, vì có nhà nguyện riêng. Linh mục Hồng thường tới làm lễ một tuần ba lần,
tại nhà nguyện của gia đình họ Ngô. Linh mục là cha đỡ đầu của ông Cậu. Giáo
dân ở Huế kính trọng cha Hồng, ca ngợi cha là người chân tu. Ông Cậu tuy nổi tiếng
tham lam, tàn ác, nhưng lại là một đứa con hiếu thảo, chú ý chăm nom mẹ già,
khi vào vấn an mẹ bao giờ cũng mặc áo dài. Bà cụ cố đã ngoài 80, mặc dù không
thiếu thuốc thang gì, vẫn nằm ốm liệt giường nhiều năm nay.
Mỗi lần tới nhà thờ,
Hai Long cố tìm cách giáp mặt cha Hồng, cúi đầu chào cung kính rồi đi. Cha Hồng
bắt đầu chú ý đến anh khi nhận thấy người con chiên lạ mặt có một nhân viên an
ninh đi kèm. Như vậy, hắn là người có tội. Mà chắc không phải gì khác, ngoài tội
làm cộng sản, làm cách mạng. Được giáo dân kính trọng là điều khiến cha vui
lòng. Giờ lại được một giáo dân có liên quan đến cộng sản, đến cách mạng tỏ ra
rất mực kính trọng mình, cha càng vui hơn. Giờ đây, cha đã có thể nhận ra người
giáo dân nhỏ bé đó giữa đám đông, và bắt đầu nhìn anh với dôi mắt mang đầy tình
thương của Chúa.
Sau buổi lễ chủ nhật
đầu tiên của tháng 8, Hai Long tìm cha trợ tế, rụt rè nhờ cha chuyển lời đề nghị
xin gặp linh mực Hồng. Anh nói thêm trước đây mình là giáo dân Phát Diệm.
Khi được đưa tới gặp
cha Hồng, anh chắp tay chào cha rồi nói:
- Con là một con
chiên có trọng tội. Con muốn làm một việc để chuộc lại lỗi lầm. Ngày trinh nữ
Ma-ri-a[1] hồn và xác lên trời sắp tới, Giáo hoàng đã dạy các tín đồ mỗi người
phải làm một việc thiện, con xin cha gia ơn cho con gặp cha trước tòa giải tội,
để được cha là người thay mặt Chúa biết tới điều con nghĩ và việc con làm.
Vẻ mặt đau khổ của
Hai Long khiến cha Hồng mủi lòng. Cha cũng nghĩ người con chiên cộng sản này sẽ
nói với mình điều gì dó rất quan trọng. Cha chấp thuận lời thỉnh cầu và hẹn Hai
Long ngày đến xưng tội.
2.
Trước tòa giải tội,
Hai Long gục đầu khóc lóc, vật vã hồi lâu. Cha Hồng phái an ủi:
- Mọi việc đều do
ý Chúa, con hãy bình tâm, có điều gì hãy nói cho cha nghe.
Hai Long lấy khăn
tay quệt nước mắt, rồi sụt sùi trình với cha:
- Con là một giáo
dân nguyện suốt đời dốc lòng thờ Chúa, hiến mình cho giáo hội mà Chúa chẳng xét
công, Chúa chẳng cứu giúp, khiến con bị hàm oan. Vì quá đau khổ, con đã oán
Chúa; con đã quên cả bổn phận. Con biết oán Chúa là một trọng tội nên rất ăn năn,
càng ăn nàn con càng đau khổ...
Cha Hồng nghiêm khắc
nói:
- Con đã quên là
phải dốc lòng thờ Chúa trên hết mọi sự!
- Trình cha, con đã
quên. Xin cha hết lòng giải tội cho con.
Cha Hồng lầm rầm đọc
một hồi kinh xin Chúa tha tội cho dứa con chiên của Chúa đã phạm sai lầm. Rồi
cha nói:
- Oán Chúa là tội
rất trọng. Cha dã xin Chúa cho con, nhưng con phải đọc kinh ăn năn tội lỗi mỗi
ngày một lần trong một tuần thì mới được giải tội. Giờ con nói cho cha biết vì
sao con bị hàm oan?
- Trình cha, con
là con chiên gốc đạo. Con đã tham gia lực lượng Tổng bộ tự vệ Phát Diệm để hiến
thân bảo vệ giáo hội. Từ đó tới nay, con vẫn dốc lòng phò trợ Đức cha Lê, chăm
lo cho lực lượng của tự vệ Công giáo Phát Diệm. Theo sắc lệnh của đương kim tổng
thống Ngô Đình Diệm, thể theo ý kiến cầu hòa của tổng thống, tự vệ Công giáo đã
tìm về với Đức cha Lê đông tới hàng vạn để tăng cường thêm lực lượng giáo dân
chống Cộng, tăng cường thêm sức mạnh quốc gia. Bỗng dưng, con bị ông cố vấn Ngô
Đình Cẩn cho người vào Sài Gòn bắt về đây, giam cầm ở trại Tòa Khâm, vu cho con
là phần tử bị Cộng sản xúi giục. Con đã khai rõ tình đầu, nhưng người của ông cố
vấn vẫn tiếp tục giam cầm, quản thúc con! Tại sao con cũng như gia đình Ngô tổng
thống đều là con cái của Chúa, mà con lại phải chịu sự bất công này? Có khác
chi thực dân Pháp quản thúc ông Phan Bội Châu thời Pháp thuộc...?
Cha Hồng lắng nghe
lộ vẻ phân vân. Cha biết có sự bất hòa giữa gia đình họ Ngô với cha Lê, trong
khi đôi bên tranh chấp, việc bắt bớ như thế này dễ xảy ra. Cha vốn là đệ tử của
cha Lê, nhưng ngày nay đang làm việc với nhà họ Ngô, và dược ông Cậu rất tin yêu.
Có nên vì bênh vực cho người con chiên này mà khiến ông Út phải khó chịu? Và
cũng chưa biết rõ người đang ở trước mặt mình có đúng là giáo dân Phát Diệm hay
không? Cộng sản thiếu gì mưu kế...
Biết cha Hồng vẫn
còn nghi hoặc, Hai Long rút trong người ra cuốn Kinh thánh, dâng lên cha:
- Con có chút kỷ vật
quý này không tiện giữ tại nơi giam cầm, con nhờ cha giữ giúp con, ngày nào được
tự do, con sẽ lại đây xin cha.
Cha Hồng đỡ lấy cuốn
kinh. Thấy tấm hình kẹp trong đó, cha rút ra xem. Mặt cha tươi lên. Trong tấm
hình có người giáo dân dang ngồi trước mặt, đứng bên cha Lê, giám mục địa phận
Phát Diệm, và ông giám mục Pháp Cassaigne mà cha rất quen biết, ngoài ra còn bốn
sĩ quan Pháp chắc thuộc loại cao cấp. Cha ngó người giáo dân, anh ta có già hơn
trong ảnh, nhưng vầng trán cao, đôi mắt có đuôi, mũi nở, cái miệng rộng và vóc
người bé nhỏ này, không thề là ai ngoài người trong ảnh. Cha thong thả lật tờ
bìa cuốn Kinh thánh, và lại mở to mắt. Cuốn Kinh thánh này do chính giám mục
Cassaigne ký tặng anh ta. Như vậy anh ta không phải là một anh tự vệ tầm thường
trong Tổng bộ tự vệ Phát Diệm...
- Trước ngày bị bắt,
con có thường gặp Đức cha Lê không?
- Con là phụ tá của
Đức cha.
- Đức cha đã hay
tin con bị bắt chưa?
- Con bị các ông bắt
trên đường đi làm việc. Không ai biết hiện giờ con ở đâu! Con không được phép gửi
thư từ cho bất cứ ai.
- Con có cần cha
tin cho Đức cha hay không? – Cha Hồng hỏi với vẻ băn khoăn.
- Xin cha chớ làm,
con e chưa có lợi... Thực tình, con chỉ mong có sự hòa hợp trong tất cả giáo
dân, như vậy mới có lợi cho chính nghĩa quốc gia. Con chỉ xin cha giúp con cầu
nguyện Chúa phán xét công bằng.
Những đường dây thần
kinh giần giật trên má cha Hồng, cha vừa cảm động vừa thương hại người con
chiên ngoan đạo. Cha biết rõ việc đời không thề chỉ giải quyết bằng những lời cầu
nguyện. Lương tri của cha bị kích thích:
- Cha không e ngại
làm việc này.
- Con rất biết ơn
tấm lòng nhân hậu quên mình của cha. Nhưng con thấy chưa nên. Con chi mong cha
thăm dò thái độ ông Út đối với Đức cha Lê thế nào? Nếu tình thân giữa hai nhà
khi xưa chưa hết, thì là phúc lớn cho giáo hội... Khi nào thuận tiện có việc cần
đến, con sẽ xin cha giúp con.
Hai Long xin phép
lại viếng bàn thờ Chúa rồi ra về.
Cha Hồng tiễn Hai
Long ra đến tận cửa nhà Dòng Chúa cứu thế, và an ủi anh trước khi chia tay:
- Chúa thử thách đấy!
Con cứ cầu nguyện, chịu nhẫn nhục, chớ hờn giận Chúa, Chúa trông lại và thưởng
công cho gấp ngàn lần khi xưa...
3.
Trại trưởng Lê Văn
Dư năng đi lễ nhà thờ. Chính y đã tán đồng cho những trại viên có đạo hàng tuần
tới nhà thờ đề làm bổn phận của con chiên đối với Chúa.
Y kém hiểu biết về
chính trị và càng không hiểu tâm lý những người kháng chiến, cộng sản nên mọi
việc cải huấn đều trao cho Vượng. Đã nhiều lần Vượng được lên gặp ông Cậu để
trình bày những kế hoạch của hắn. Mặc dù Vượng rất khéo léo, luôn luôn báo cáo,
xin ý kiến, coi Dư là cấp trên, là người có quyền quyết định, nhưng Dư vẫn
không vui. Dư lo cứ đà này, một ngày kia Vượng sẽ vượt qua đầu mình.
Y không hiểu có
chuyện gì mà Hai Long lại cứ xin gặp mình, không chịu trình bày với Vượng. Hắn
cảm thấy mình trở nên quan trọng. Hắn đón tiếp Hai Long ở phòng khách với trà
ngon và thuốc lá thơm.
- Thưa ông trại trưởng
- Hai Long mở đầu – tôi thiết tha xin được gặp ông, vì lời thỉnh cầu của tôi bữa
nay chỉ có thể nói với ông mà không thể nói với người khác.
Mặt Dư đỏ lên.
- Các ông ấy là người
không có dạo, mà việc tôi sắp nói thì chỉ những người con chiên của Chúa mới biết.
- Tôi đã rõ anh là
người ngoan đạo.
- Nhân ngày Trinh
nữ Ma-ri-a hồn và xác lên Trời, tôi muốn làm một việc thiện cho giáo hội, cho
quốc gia, tôi đã xin ý kiến cha Hồng, cha nói rất nên, nhưng việc này muốn làm được,
phải có sự giúp đỡ trực tiếp của ông.
- Rứa là tốt...
Anh cần tôi giúp chi?
- Tôi có những điều
tâm huyết chưa hề nói với ai, vì có quan hệ tới vận mệnh quốc gia, chỉ có thề
trình với ông và nhờ ông chuyển tới ông Cậu. Chỉ với người tâm phúc, người
trong gia dình của ông Cậu như ông, tôi mới dám nhờ cậy.
- Không khó khăn
chi? Tôi ra vô nhà ông Út thường mà!
Mắt Dư sáng lên,
chờ đợi. Y đã đánh hơi thấy việc này có thể nâng cao uy tín của mình trước ông
Cậu.
Hai Long ngồi xoắn
những ngón tay vào nhau, vẻ phân vân.
- Với tinh thần “tử
vì đạo” tôi mới dám làm việc này. Tôi muốn trình với ông Cậu những điều hiện đang
gây bất lợi cho chế độ cộng hòa, những kẻ dang phá hoại chế độ cộng hòa...
- Tốt lắm chớ! - Dư
khuyến khích - Đừng lo chi. Ông Út đã có chính sách. Ông cầu người hiền như người
khát nước mà!
Dư có vẻ khoái chí
vì vừa nói được một câu hay.
Hai Long vẫn tiếp
tục xoắn những ngón tay.
- Tôi đã nung nấu
suốt mấy ngày nay mới trình bày với ông... Chúa vì nói sự thật mà bị bọn vua
quan He-rô-đê[2] bắt bớ, tra tấn cực hình, đóng đinh lên cây Thánh giá cùng với
bọn cướp của giết người!
- Ông Cậu rất biết
điều hay điều dở. Và còn có tôi, anh chớ lo... Nhân ngày Đức Bà lên Trời, mình
mần điều thiện thì tốt chớ? Mình là con chiên của Chúa mà!...
Dư như người ăn phải
bả, xoắn xít dùng những lời lẽ nghèo nàn và vụng về tiếp tục động viên, khuyến
khích Hai Long. Anh ngập ngừng rồi nói:
- Nghe lời ông,
tôi đã yên lòng. Trọn ngày mai, tôi sẽ ăn chay, đọc kinh, lần hạt rồi vào nhà
thờ, về sẽ bắt đầu viết đưa ông để chuyển lên ông Cậu...
- Tôi sẽ trình lên
ngay. Cầu Chúa phù hộ cho anh.
Dư cực kỳ vui vẻ,
siết chặt tay Hai Long như chỉ sợ cơ may tuột khỏi tay mình.
4.
Tờ trình cửa Hai
Long gồm một phần mở đầu vẽ lên tình hình tươi sáng của Việt Nam cộng hòa từ
sau ngày Ngô chí sĩ lên cầm quyền, và những viễn cảnh còn bội phần tốt đẹp hơn,
nếu như loại trừ dược những trở ngại trên con đường tiến lên của chế độ.
Phần sau, và là phần
chủ yếu, bắt đầu bằng câu: “Đáng tiếc thay là có những nguy cơ ở ngay trong
lòng chế độ, đe dọa những nhà lãnh đạo Việt Nam cộng hòa, cũng là đe dọa chế độ
mà Ngô tổng thống đã dày công vun đắp...”
Những nguy cơ đó được
trình bày thành 4 điểm chủ yếu:
Nguy cơ thứ nhất,
là những lực lượng thân Pháp còn nằm ngay trong quân đội quốc gia, trong guồng
máy hành chính, và nhất là trong các tôn giáo, đảng phái quốc gia.
Nguy cơ thứ hai,
do chính Mỹ tạo nên, gây áp lực với chính quyền bằng những con bài của Mỹ, như
bọn Phan Quang Đán và nhóm đối lập.
Nguy cơ thứ ba, là
những phần tử trong quân đội, trong quốc hội bất mãn với gia dình của Ngô tổng
thống, như bọn Trần Văn Lắm, Đỗ Mậu, Lê Văn Nghiêm, Nguyễn Văn Châu.
Nguy cơ thứ tư, là
thái độ lãnh đạm của Vatican, thái độ lạnh nhạt bất hợp tác của giám mục địa phận
Sài Gòn và giáo dân gốc Nam cũng như của Khâm sứ Tòa thánh Vatican ở Sài Gòn đối
với cá nhân Ngô tổng thống.
Tiếp theo là một đoạn
phân tích bốn nguy cơ này ngày càng lớn, đe dọa trực tiếp chế độ trong khi nguy
cơ thứ năm (sẽ trình bày kỹ khi có dịp) là Cộng sản hãy còn xa.
Tờ trình được kết
thúc với đoạn sau đây: “Những điều trình bày trên dựa vào những ý kiến mà tác
giả đã lĩnh hội được ở Đức cha Lê, và những cuộc tiếp xúc riêng của cá nhân tác
giả với khối Công giáo và một số phần tử đối lập bất mãn. Tình hình này nếư cứ để
phát triển chắc chắn sẽ dẫn tới nguy cơ của một cuộc chính biến vô cùng nguy hại
cho vận mệnh Quốc gia. Nhân ngày Trinh nữ Ma-ri-a hồn và xác lên Trời, với ý
nguyện của một con chiên của Chúa mong làm điều thiện, xin mạo muội trình lên
Ngài cố vấn chỉ đạo miền Trung Ngô Đình Cẩn. Kính bút”.
Sáng ngày 15-8,
Hai Long lên nhà lầu đưa cho Lê Văn Dư tờ trình. Buổi chiều, anh thấy Lê Văn Dư
tóc chải bóng mượt, lái chiếc xe du lịch Peugeot ra khỏi trại Tòa Khâm.
5.
Hai Long biết tình
trạng giam cầm kéo dài sẽ chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành.
Kẻ địch chưa đụng
tới anh, nhưng anh vẫn ở vào một tình thế rất chênh vênh. Những sự đối phó của
anh cho tới nay vẫn chỉ có tác dụng kéo dài thời gian. Địch sẽ không buông tha
anh chừng nào chúng chưa xác minh được toàn bộ những lời khai của anh.
Hệ thống ngụy
trang của anh được chuẩn bị khá chu đáo nhưng với sự xuất hiện của tên Tá đen
phản bội, đã tạo ra nhiều sự đe dọa. Anh có những giấy tờ hợp pháp là người ở
Hà Nội từ năm 1952. Tấm ảnh ố vàng có hình anh chụp chung với giám mục Lê và
giám mục Cassaigne, là một chứng minh hùng hồn mối quan hệ lâu ngày của anh với
cha Lê, nhưng thực ra tấm ảnh được chụp vào cuối năm 1954, khi anh cùng một đơn
vị lê dương[3] Pháp làm nhiệm vụ giúp đỡ giáo dân di cư ở Hải Phòng. Thời điểm
này dễ bị địch nghi, vì ta đã đưa nhiều cán bộ vào Nam công tác trong dịp đó.
Cha Lê cùng chụp ảnh với anh, nhưng chưa phải đã quen biết anh. Anh có giấy chứng
nhận là cựu chiến sĩ tự vệ Phát Diệm, nhưng anh chỉ mới về làm việc tại Tổng bộ
từ 2 năm nay. Cha Hoàng hoàn toàn không biết anh đã ở trong Quân đội Nhân dân
Việt Nam và đã tham gia Đảng Cộng sản. Bọn mật vụ của Ngô Đình Càn còn dùng dằng
chưa trực tiếp kiểm tra những vấn đề này vì mối quan hệ bất hòa giữa chính quyền
Ngô Đình Diệm với cha Lê, và nhất là cha Hoàng. Nhưng không phải chúng không thể
làm việc này. Chính quyền Diệm và khối Công giáo Phát Diệm có những mâu thuẫn
sâu sắc, nhưng lại rất thống nhất với nhau trong chủ trương triệt để chống Cộng.
Nếu chúng tới nhà thờ Bình An, mọi chuyện sẽ vỡ lở và đối với anh, sẽ là một kết
thúc bi thảm.
Dương Văn Hiếu vẫn
ở Sài Gòn, đặc biệt là Tá đen rất cay cú vì vụ này, chúng sẽ cố tìm ra sự thật.
Riêng tại đây, điều
Cầu đã nói với anh, nếu chúng không coi anh là Cộng sản, thì việc anh từ Pháp về,
lại quan hệ chặt chẽ với các linh mục Phát Diệm, cũng đủ trở thành một đối tượng
nguy hiểm buộc chúng phải trừng trị hoặc đề phòng. Không thiếu gì cha cố di cư đã
bị chính quyền Diệm bắt giam hoặc đầy đi những vùng hẻo lánh. Anh không dễ dàng
gì được chúng thả về. Riêng với Cầu, anh đã phạm một sai lầm không thể tha thứ,
anh đã hỏi Cầu về khả năng liên lạc với anh Mười. Sau khi buột miệng nói câu
này, anh hết sức hối hận. Đến lúc Cầu bị bắt thì điều này thực sự trở thành một
mối lo. Nếu Cầu không chịu được tra tấn, mối quan hệ giữa anh với anh Mười sẽ bại
lộ. Lại còn những người bạn của Cầu? Những người đã nghi anh tố giác kế hoạch bỏ
trốn của họ, và quyết định thủ tiêu anh để trừ “hậu họa”! Anh đã khéo léo giải
quyết vụ này. Họ đã hiểu và tỏ ra có cảm tình với anh. Nhưng như vậy cũng thêm
phức tạp khi anh đang cần phải giấu thật kín tung tích...
Điều cần làm bây
giờ là phải ngăn không để cho bọn chúng tới nhà thờ Bình An.
Nếu cha Lê lên tiếng,
anh là con cái của cha, thì sẽ giải tỏa được sự nghi ngờ của chúng, và chúng sẽ
thôi không làm việc đó. Nhưng khi tới làm việc với Tổng bộ Phát Diệm, anh thường
tiếp xúc với cha Hoàng ở Bình An, cha Lê còn chưa biết anh. Cha Hoàng rất yêu
anh. Nếu cho cha hay tin anh bị người của Cẩn bắt, chắc chắn sẽ đề nghị cha Lê
can thiệp. Anh em nhà họ Ngô rất e ngại nhưng vẫn phải trọng nể cha Lê. Nếu cha
Lê đứng ra xin, anh sẽ có nhiều khả năng được Cẩn thả. Nhưng cha Lê là người rất
cao ngạo, không chịu xin xỏ, quỵ lụy người khác, nhất là lại với anh em nhà họ
Ngô! Trước lời đề nghị khẩn thiết của cha Hoàng, cha Lê có thể sẽ viết vài lời
phản kháng người của Cẩn đã vô cớ bắt người của Phát Diệm. Vào trường hợp này,
bọn Hiếu, Vượng sẽ buộc phải trình bày lý do vì sao chúng đã bắt anh. Như vậy
khác gì “lạy ông tôi ở bụi này!”. Bọn Hiếu, Vượng sẽ nhanh chóng tìm ra sự thật,
không những lập công với Cẩn mà còn lập công cả với Phát Diệm!
Những lời dặn dò của
anh Mười bữa trước qua người đưa cơm đã vạch cho anh phương hướng đối phó trong
tình hình hiện nay Anh Mười đã nhắc anh, phải cố bảo vệ thế hợp pháp đã có (Quần
áo cũ còn tốt, cố giữ mà mặc). Anh Mười còn nói: phải cố tìm cách khai thác những
mâu thuẫn của kẻ địch mà tiến lên (Chú ý thời tiết nóng, lạnh thì khỏe thôi!).
Anh Mười thường bàn bạc với Hai Long về vấn đề thứ hai này, vì Hai Long được
trao nhiệm vụ “chui sâu, leo cao”. Nhưng thời gian qua, nhiệm vụ của anh vẫn
còn là ẩn nhẫn đợi thời. Trung tâm đã tiên liệu sẽ có ngày Mỹ phải sử dụng tới
những con bài chống Cộng triệt để này trong lực lượng Công giáo. Nhưng ngày đó
còn chưa tới. Bây giờ anh Mười lại nhắc vấn đề này. Với Hai Long, nó đã trở
thành một chỉ thị mới. Anh hiểu là mình không còn ở thời kỳ ẩn náu nữa, vì
trong thực tế anh đã rơi vào tay kẻ địch. Chỉ có tiến hành một cuộc dấu tranh hết
sức khôn khéo, anh mới có thể thoát khỏi tình thế hiểm nghèo. Anh sẽ không dừng
lại ở chỗ thoát hiềm, mà phải từ đó để đi lên.
Hai Long đã nghĩ đến
một lối thoát, theo anh là duy nhất trong tình hình này: phải lợi dụng sự bất
hòa giữa cha Lê với gia đình họ Ngô, tận dụng điều anh đã biết: họ Ngô đang rất
muốn cầu hòa với cha Lê. Chính quyền Ngô Đình Diệm ngày càng cô lập, đang cần
có sự ủng hộ của khối giáo dân di cư. Những người vốn trước đây chống đối chế độ
quyết liệt bây giờ quay lại, đổi với gia đình họ Ngô sẽ quý hơn vàng, vì họ sẽ
làm gương cho những kẻ khác. Ngược lại, phía Phát Diệm như anh hiểu, cũng không
phải không cần sự trọng nể của những người đang cầm quyền, đề phục hồi uy tín đã
sứt mẻ và thực hiện những mưu đồ riêng tư của họ. Cả đôi bên đang rất cần một
cây cầu để vượt qua con sông ngăn cách đã lâu ngày... Họ sẽ không bỏ qua mình nếu
thấy mình có khả năng đáp ứng sự mong đợi đó. Mình sẽ là người bắc cây cầu trên
con sông ngăn cách, và cũng sẽ giữ hai lực lượng đó ở hai đầu cầu. Nếu làm được
việc này, mình không chỉ thoát cảnh giam cầm mà còn hy vọng đi xa hơn nữa...
Sau nhiều đêm trăn
trở, Hai Long đã tính đến một nước cờ mạo hiềm. Nước cờ này sẽ phức tạp. Nó phải
bắt đầu từ Ngô Đình Cần, kẻ đang cầm giữ anh. Nhưng làm cách nào để tiếp cận được
Cẩn, trong lúc anh đang là một kẻ bị cầm tù? Những ngày ở trại Tòa Khâm đã giúp
anh hiểu thêm về cậu Út trong gia dình họ Ngô. Cẩn không chỉ là một tên thất học,
tàn bạo, tham lam. Hắn còn là một kẻ hiểm độc và nhiều tham vọng. Cẩn đã biết
xây hàng loạt những căn hầm bí mật chôn sống những người cách mạng trung kiên.
Nhưng hắn cũng biết dùng Dương Văn Hiếu, Lê Vượng..., biết bày trò “cải huấn” dụ
dỗ những người bị bắt thành những tên tay sai chống phá cách mạng rất nguy hiẩm.
Cần ắt cần phải biết đến những điều quan trọng có liên quan đến vận mệnh chế độ
gia đình trị của anh em hắn. Anh đã nhân ngày Đức Mẹ lên Trời, mượn tục lệ của
giáo dân, viết một tờ trình nhờ Lê Văn Dư chuyển cho Cẩn. Trong tờ trình này có
hai miếng mồi. Miếng mồi lớn, công khai được bày ra từ trang đầu đến trang cuối,
anh là một người rất am hiểu mọi mưu mô, ý đồ của những phe nhóm chống đối đang
de dọa lật chìm chế độ. Anh dã có một thời gian dài hoạt động trong các đoàn thể
tôn giáo và những phe nhóm đối lập, nên tin rằng không cứ gì Cẩn ở xa, mà ngay đến
Nhu ở Sài Gòn, với tác phong quan liêu và cách làm việc đơn độc của y, cũng
không nắm được những điều mà anh đã biết. Miếng mồi thứ hai, nhỏ hơn, được cài
thấp thoáng qua các kẽ dòng, đủ để Cẩn nhìn thấy, anh là một người thân tín của
cha Lê. Miếng mồi thứ hai này thực ra không kém phần quan trọng, và chính anh lại
đặt vào nó nhiều hy vọng.
Anh cũng thấy cần
lợi dụng cha Hồng, người có chút ân tình với cha Lê, đồng thời lại là người gần
gũi, đang có ảnh hưởng trực tiếp với Cẩn. Nhưng anh muốn cha Hồng sẽ xuất hiện đúng
lúc. Trước mắt, chỉ cần nhờ cha thăm dò thái độ của Cẩn đối với cha Lê. Ngay cả
với cha Lê, người anh đang mượn thế đề thu hút sự chú ý của Cẩn, anh thấy mình
cũng chưa nên vội vàng. Anh chỉ xúc tiến những liên lạc với cha Lê khi đã bám được
Cẩn, đã có một vị trí mới trong gia đình họ Ngô.
Những ngày đầu sau
khi gửi tờ trình, Hai Long khá thanh thản. Anh cho rằng Cẩn phải có thời gian
nghiên cứu những điều anh đã trình bày, hắn cũng phải tìm hiểu thêm về cá nhân
anh. Nhưng qua một tuần, anh bắt đầu phân vân. Cẩn không cần mất nhiều thời
gian đến thế cho những việc mà anh đã nghĩ. Hay là mình đã tính lầm..? Anh bớt
hào hứng và trở nên nghi ngại...
6.
Lê Vượng cho người
xuống mời Hai Long lên gặp.
Hai Long không
ngán hắn, nhưng anh những muốn giáp mặt hắn chút nào, khi anh đã gây được một
chút thiện cảm với Dư. Anh vừa đi vừa phân vân. Có chuyện gì mà Vượng lại cần gặp
mình. Nếu hắn biết Hai Long đã qua mặt hắn, đưa cho Dư tờ trình để chuyển lên Cẩn,
chắc chắn hắn sẽ khó chịu.
Lê Vượng đón Hai
Long với sự vồn vã và vui vẻ giả tạo.
Hắn nói:
- Vừa qua anh học
tập rứa là tốt. (Hắn lờ chuyện đưa anh vào biệt giam hơn hai tuần). Tui đã trao
đổi với ông Dư để anh được hưởng chế độ đi lại tự do. Ngoài giờ học tập, anh muốn
đi mô thì đi, chỉ cần báo qua tui, qua ông Dư hoặc trực phòng, không phải an
ninh đi kèm.
Hai Long hơi ngạc
nhiên, không hiểu vì sao lại có sự thay đổi này.
Thấy anh ngồi im,
Vượng hỏi:
- Anh có bà con ở
Thuận Hóa không?
- Tôi không quen
biết ai ở đây.
- Tưởng nếu có bà
con thì buổi tối, đôi khi anh có thể về nghỉ ở gia đình cho ấm cúng.
- Cảm ơn ông. Như
vậy thì phải chờ đến lúc tôi được trở lại Sài Gòn.
- Chuyện nớ phải
chờ thêm ý kiến của ông Hiếu và ông Duyệt. Bầy tui không muốn làm khó dễ với
anh mô?
Hắn nở một nụ cười
xuê xoa.
- Rứa thôi. Mời
anh về nghỉ.
Hai Long quyết
không dùng cái quyền ưu tiên Vượng đã dành cho mình, trừ những buổi sáng chủ nhật
phải tới nhà thờ.
Cha Hồng đã tự coi
mình là người chăm sóc phần hồn của Hai Long. Thỉnh thoảng cha lại an ủi, nhắc
nhở anh giữ vững lòng tin nơi Chúa. Cha cho anh mượn một số kinh bổn mà anh đang
cần đọc. Quan trọng hơn cả, ông đã thăm dò được thái độ của ông Cậu với cha Lê.
Cẩn đã nói với cha Hồng: gia đình họ Ngô chịu ơn giáo dân Phát Diệm và cha Lê rất
nhiều, chưa có dịp đền đáp, vẫn mong trả ơn. Nhưng cha Lê thường bất đồng với tổng
thống, Cẩn rất mong có sự hòa giải giữa Ngô tổng thống và cha, như vậy rất lợi
cho chính nghĩa quốc gia...
Hai Long tạm yên
tâm về điều này.
Từ bữa nhận đưa
giúp tờ trình, Lê Văn Dư hễ nhìn thấy anh đâu là gật đầu chào, đôi khi còn nhoẻn
miệng cười.
Một bữa, Hai Long
vừa ra khỏi nhà thờ thì một chú bé bán báo chạy tới hỏi:
- Thầy là thầy Hai
Long phải hôn?
Hai Long gật đầu.
Chú bé giúi vào
tay anh một tờ giấy:
- Có một ổng ở đàng
tê, biểu con đưa cho thầy.
Không để cho Hai
Long kịp hỏi lại, chú bé quay đầu chạy biến.
Hai Long mở tờ giấy
ra, chỉ thấy có hai câu thơ viết bằng bút chì:
Một đêm đàn lạnh
trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài
vạt áo xanh...
Hai Long gập tờ giấy
bỏ vào túi áo.
Về tới Tòa Khâm,
anh đi thẳng lên nhà lầu.
Vượng đang ngồi vê
thuốc lá nhìn ra, hỏi:
- Anh Hai đi lễ về
rồi hử? Đi mô đó?
- Tôi xin được gặp
ông hay ông Dư.
- Ông Dư bữa ni ở
nhà, còn gặp miềng thì vô đây.
Hai Long bước vào,
kéo ghế ngồi.
- Sáng nay, tôi vừa
ra khỏi nhà thờ, có một thằng nhỏ tới, giúi vào tay tôi mảnh giấy này rồi bỏ chạy.
Tôi có nhiệm vụ phải trình các ông.
Vượng cầm tờ giấy,
đeo kính lên đọc, rồi nói:
- Thơ thẩn chi rứa!
Lại có o nào muốn rủ cậu Hai xuống thuyền...
- Tôi nghĩ đây là
chuyện quan trọng.
- Anh cho là chuyện
chi?
- Tôi đã hoạt động
mấy năm cho Việt Minh ở hậu địch. Theo tôi hiểu thì đây là một hình thức bắt
liên lạc. Ông thử cho nhúng tờ giấy này vào nước hoặc hơ lên muội đèn xem! Có
thể có kẻ nào đó hẹn gặp tôi.
- Được, được... Để
mình sẽ cùng ông Dư nghiên cứu coi.
- Đề nghị ông bảo
nhân viên chuyên môn xử lý, có khi phải dùng chất hóa học. Rồi xin các ông cho
tôi biết kết quả.
- Tất nhiên rồi! Nếu
đúng là có Việt Cộng tới co kéo anh, thì bọn miềng phải bàn nhau sập bẫy...
Bọn chúng chưa biết
bao nhiêu về mình, Hai Long tự bảo. Chúng làm cái trò này ngu quá.
Hai ngày sau, Vượng
mời anh lên, làm ra vui vẻ:
- Anh báo cáo rứa
là rất tốt. Anh em thử mọi cách rồi, chẳng thấy chữ chi mô? Thằng nhỏ hắn rỡn
ông đạo thôi. Xứ Huế ni, dân theo đạo Phật nhiều. Thấy anh siêng vô nhà thờ, chắc
là lũ nhỏ rủ nhau rỡn chơi...
7.
Chuỗi ngày chờ đợi
đã sang tuần thứ tư.
Mới sáng sớm, Lê Văn
Dư đã phóng xe vào trại. Chỉ dăm phút sau, có người xuống mời Hai Long lên gặp
trại trưởng.
Vừa nhìn thấy anh,
Dư vội vàng nói:
- Ông Cậu chỉ thị
anh Duyệt, giám đốc Nha Công an, mời anh bữa ni lên tiếp kiến. Anh sẽ là khách
quý. Tôi đã nói với anh, Chúa sẽ không quên mà! Khi lên đó, ông Cậu có hỏi về
tình hình ăn ở và cách đối xử của tôi, anh lựa lời thưa dùm. Tôi thông cảm với
anh ra răng, anh đã rõ... Anh về phòng thay đồ mới, cạo râu, chải đầu thật
nhanh, tôi sẽ rước anh đi một đoạn...
Hai Long chưa bao
giờ tiếp xúc với một người nào trong bảy anh chị em họ Ngô đang chia nhau thống
trị miền Nam. Anh đã mất nhiều năm ở Sài Gòn để chuẩn bị cuộc gặp gỡ này. Anh đã
tìm nhiều con đường khác nhau, nhưng chỉ đến nửa chừng lại tắc nghẽn. Ngờ đâu
con đường đó lại bắt đầu từ trại giam Vân Đồn, nơi Dương Văn Hiếu chộp bắt anh
về. Lòng anh lâng lâng... Nhưng đây mới chỉ là vào hang cọp. Chặng đường đến
dinh Độc Lập hãy còn xa... Mình sẽ gặp tên hung thần này với tư thế người trợ
tá của cha Lê... Nước cờ nếu thành công có thể đưa mình đi xa hơn nhiều. Mình
tin là đã tính đúng. Trong trò chơi với lửa, nếu muốn đi tới thành công, không
có phương án tuyệt đối an toàn. Nếu gặp rủi ro thì phải sẵn sàng chấp nhận. Lần
này mình không hề có sự khinh suất. Đức Mẹ đồng trinh ơi, nếu Người có linh thiêng
thì hãy phù hộ cho con...
Lê Văn Dư nhìn Hai
Long từ phía nhà trệt quay lên tròn mắt hỏi:
- Răng anh chưa cạo
râu? Bữa ni anh là thượng khách mà.
- Tôi không còn lưỡi
dao bào nào.
Hai Long nói dối.
Anh không thể vừa thay quần áo sạch sẽ, lại còn cả cạo râu, chải đầu trước mặt
anh em khi sắp lên xe riêng của Dư do chính hắn cầm lái. Chỉ riêng việc lên xe đi
cùng hắn sáng nay, anh đã biết trước những đắng cay ghê gớm mình sẽ phải chịu đựng
trong những ngày sắp tới.
- Chừ phải đưa anh
qua tiệm hớt tóc, không thể để anh râu ria như ri.
Hắn vừa nhìn đồng
hồ vừa phóng xe rất nhanh đến một cửa hiệu cắt tóc, yêu cầu phải cạo râu, sửa
tóc cho Hai Long trong vòng mười phút. Rồi hắn kéo tay anh chạy ra xe, lao như
bay tới trước cửa tòa nhà của Nha công an Trung phần.
Lê Khắc Duyệt,
giám đốc Nha, mặc com-lê và đeo cravat đen, đã đứng chờ với bộ mặt sốt ruột bên
một chiếc xe du lịch đen bóng.
Hắn trịnh trọng
cúi đầu chào và bắt tay Hai Long.
- Mời ông lên gặp
ngài cố vấn chỉ đạo. Ngài đang chờ ông.
Hắn tự tay mở cửa
xe mời Hai Long bước vào. Đóng cửa xong, hắn mới quay vội lại phía Lê Văn Dư
nói lầm bầm:
- Ông nội ơi! Chậm
quá trời!
Duyệt ngồi vào tay
lái.
Hai Long quay về
phía sau vẫn thấy Dư đứng trông theo.
---
[1] Maria
[2] Hérodes
[3] Légion: đơn vị
lính người nước ngoài mang quốc tịch Pháp.
Chương 4
ÔNG CẬU
1.
Tên gia nhân đã đứng
chờ sẵn cúi đầu chào khách, rồi mở đôi cánh cổng nặng nề mời khách vào.
Hai Long nhìn thấy
trước mặt mình, cách một cái sân rộng là một ngôi nhà giống như một từ đường,
phía trong sâu thăm thẳm.
Đàn bồ câu đậu dày
đặc trên sân. Những con chim rất dạn người, quệt cả cánh vào chân khách.
Khi Hai Long bước
lên nhà tiền sảnh, tiếng chim yến ríu rít. Những con vẹt liến thoắng: “Chào
khách! Chào khách!”
Từ cỗ xa-lông chạm,
một người đứng dậy đi ra. Y mặc áo chùng thâm, quần trắng, mái tóc chải ngược,
hơi thấp và mập, thoáng nhìn hao hao giống Ngô Đình Diệm. Người ta nói Cẩn ở
nhà thưởng mặc áo cộc tay, quần lá tọa cháo lòng, đi guốc mộc... Đúng như lời Dư
nói ban nãy, bữa nay, Hai Long được coi là khách quý.
Hai Long cung kính
cúi đầu. Cẩn cũng cúi đầu đáp lễ. Y thong thả quay lại xa-lông, chìa tay về
phía khách:
- Mời anh ngồi.
Đôi mất y nhìn anh
sắc lẹm.
Hai Long vẫn đứng
chắp hai tay, đưa mắt nhìn ngọn đèn đỏ trong gian nhà thờ:
- Xin phép ông cố
vấn cho tôi viếng Chúa.
Cẩn rời chiếc ghế,
đưa Hai Long vào nhà trong đến trước bàn thờ. Hai Long làm dấu thánh giá rồi quỳ
xuống lâm râm cầu nguyện.
Khi anh đứng lên,
Cẩn toan dẫn anh quay ra.
- Tôi xin được viếng
cụ cố ông.
Cẩn lại dẫn anh đến
trước bàn thờ Ngô Đình Khả. Hai Long ngước nhìn bức ảnh vị đại thần triều Nguyễn
treo trên bàn thờ, rồi cung kính vái bốn vái.
Khi quay lại, anh
nhận thấy mặt ông Cậu lộ vẻ hài lòng.
- Giờ xin phép ông
cố vấn cho tôi được vấn an cụ cố bà.
Cẩn hơi sững lại.
Ông Cậu có bà mẹ già mắc bệnh bại liệt nằm bất động quanh năm như một thây ma.
Vì bà già nằm đã quá lâu sinh bẳn tính, con cháu, người hầu hạ trong nhà đều mệt
mỏi, ngại gần, chỉ mong cho cụ sớm về chầu Chúa. Cậu Út thương mẹ nhưng bận công
việc, bà cụ thường nằm thui thủi một mình.
Cẩn lưỡng lự rồi dẫn
Hai Long sang căn nhà bên. Một căn buồng cửa sổ đóng kín, không có ánh sáng mặt
trời. Bà già sợ nhiều ánh sáng nên chỉ cho thắp một ngọn đèn dầu nhỏ. Không khí
âm u, lạnh lẽo. Trên chiếc giường lớn trải nệm, hai cánh màn the ban ngày đã được
vén lên, một thân hình mỏng dính khuất dưới chiếc chăn đơn. Một cái sọ người lơ
thơ trên đầu ít sợi tóc bạc, đảo con ngươi trong hố mắt sâu trũng nhìn ra.
Hai Long chắp tay
vái ba vái rồi nói:
- Con sắp mình cầu
nguyện Đức Mẹ phù hộ cho cụ cố bà đặng bằng an trong Chúa.
Bà lão gật đầu.
Khuôn mặt già nua, u sầu như bừng sáng. Nguồn vui từ người mẹ già ốm đau dường
như lan truyền sang cậu con út. Cẩn lộ vẻ xúc động:
- Cụ cố tui bịnh
lâu ngày, không ra vô được, không ngồi dậy được, nói năng cũng khó khăn, tui
xin thay mặt thân mẫu đa tạ thịnh tình của anh.
Hai Long lại vái
chào bà cụ, rồi đi theo Cẩn quay trở về phòng khách.
Mấy con vẹt ở nhà
tiền sảnh lại đua nhau “Chào khách! Chào khách!”.
2.
Cẩn thong thả rót
nước trà vào chén tống rồi san qua chén quân, hai tay nâng chiếc chén nhỏ xíu mời
khách.
Y ngồi ngay ngắn
trên ghế, giữ đúng lễ với kẻ sĩ.
Cô hầu gái mang hộp
trầu và một hộp mây khảm đựng những điếu thuốc Cẩm Lệ đã vấn sẵn, vê hai đầu.
Người ta còn gọi Cẩn là “Cậu Út trầu”, vì Cẩn suốt ngày bỏm bẻm nhai trầu.
Cẩn mời Hai Long ăn
trầu. Miếng trầu là đầu câu chuyện. Hai Long rất tiếc phải từ chối nói mình
không biết ăn trầu. Cẩn lại mời Hai Long thuốc lá Cẩm Lệ. Anh lấy một điếu đánh
diêm châm thuốc hút, chờ xem thái độ của chủ nhân.
Cẩn nhanh chóng
nhai giập miếng trầu với đôi hàm răng chắc khỏe, cặp môi dày được nhuộm đỏ, cả
mặt y hồng lên. Mặt mũi y nhìn kỹ cũng phương phi. Y không có râu. Riêng đôi mắt
sâu của hắn làm Hai Long lo ngại. Đôi mắt có cặp đồng tử khi to khi nhỏ, luôn
luôn thay đổi, từng lúc lại lóe lên những ánh tàn nhẫn và hiểm độc.
Y nói từ tốn:
- Tui đã đọc tờ
trình của anh, và sau đó đã gửi vô Sài Gòn. Bữa ni, mời anh tới ta đàm luận
thêm. Tui chưa thiệt biết rõ anh... Cộng sản hay không Cộng sản, nhưng đã nghĩ
làm điều thiện mang lợi ích cho giáo hội thì đều là con chiên của Chúa phải
không anh?
Cái nhìn của y làm
anh ớn xương sống. Hai Long tự bảo mình phải trấn tĩnh. Anh nhấp một chút nước
trà đậm chát rồi đáp:
- Thưa ông cố vấn,
trước hết tôi xin cảm tạ ông cố vấn đã xếp đặt cho tôi buổi hạnh ngộ này. Đã
phó hồn xác trong tay Chúa, tôi chỉ biết làm đẹp lòng Chúa từ lời nói đến việc
làm. Hôm nay, được diện kiến ông cố vấn cũng là cơ duyên. Tôi mong làm đẹp lòng
ông cố vấn hơn nữa.
Cẩn ngồi nghe, cặp
mắt như mắt thú đang rình mồi, im lặng, với tay lấy một điếu thuốc.
Hai Long nói tiếp:
- Năm ngoái, Ban
sáng lập Hội Khổng học chúng tôi ra Cửa Thuận, mang theo báo cáo của Hội, cá
nhân tôi rất muốn xin yết kiến ông cố vấn để xin huấn thị về việc của Hội.
Ngoài ra, còn muốn trình bày với ông cố vấn một vài vấn đề không nằm trong phạm
vi văn hóa. Tiếc rằng tôi cùng đi với bốn anh em, không tiện tách riêng. Ngẫu
nhiên, nay lại được ra Huế và đến Phú Cam một cách đặc biệt..., tôi không biết
làm thế nào để hầu chuyện ông cố vấn được danh chính ngôn thuận...
Hai Long thẳng thắn
nhìn đôi mắt Cẩn với quyết tâm không để bị uy hiếp.
- Ờ... ờ. - Cẩn hơi
lúng túng - Bọn chúng chưa nói với anh răng? Bữa ni anh là khách quý của tui.
Có chi anh cứ nói.
Hai Long như cố
nén một tiếng thở dài:
- Chúa sắp đặt tất
cả? Như vậy là Chúa đã thưởng công cho tôi. Tôi dã có diễm phúc tới vùng địa
linh nhân kiệt này, nơi Ngô chí sĩ dựng nghiệp lớn. Tôi vừa được nhìn thấy nhà
thờ Phú Cam xưa nhất xứ Huế. Tôi lại vừa được chiêm bái cụ cố ông, một đấng
trung thần. Ai chẳng biết câu “Đày vua không Khả, đào mả không Bài!”. Tôi đã được
chiêm ngưỡng cụ cố bà là đức hiền mẫu của những vị đang “thừa thiên hành đạo”
và vinh hạnh cho tôi là được diện kiến ông cố vấn, đạo đời nhất quán, Đức cha
Lê vẫn thường nhắc...
Mặt Cẩn mỗi lúc một
nở nang:
- Anh có thường gặp
Đức cha Lê không? - Cẩn xen ngang.
- Dạ... thưa tôi
là phụ tá của Người. Trong tờ trình tôi đã viết nhiều ý kiến là do tôi tiếp thụ
của Đức cha.
- Đức cha có nói
gì về tui không?
- Có chứ ạ. Người
thường xuyên trao đổi với tôi về những nhà lãnh đạo Việt Nam cộng hòa, về ông cố
vấn, Ngô tổng thống và ông bà Nhu.
- Đức cha nói những
chi? - Cẩn tỏ vẻ sốt ruột.
- Xin ông cố vấn
cho phép tôi nói thật.
- Răng chi mà ngại!
Anh em trong nhà đóng cửa bảo nhau mà!
Hai Long vẫn ra vẻ
ngập ngừng. Cẩn thúc giục:
- Đã nói không ngại
chi mô! Hay dở cũng cứ nói!
- Đức cha nhận
xét: tổng thống thanh liêm, đạo đức, nhưng cố chấp, không chịu nghe lời khuyên
răn của bất cứ ai. Ông Nhu kiêu căng, coi trời bằng vung, chỉ nghe lời vợ. Mà
bà Nhu thì đi quá xa phạm vi gia đình, vượt sang lĩnh vực chính trị, quốc gia,
khiến thiên hạ dị nghị nhiều. Chỉ có ông Cẩn là người trực tính, thì lại ở xa.
Ngài nói ông cố vấn biết cầu hiền, trọng nghĩa theo lối xử thế của người quân tử.
Ngài chê ông Nhu không biết trọng hiền nên không tập hợp được lực lượng.
Cẩn bỏm bẻm nhai
trầu, những đường gân, bắp thịt bên quai hàm chuyển động. Mặt y càng đỏ hồng. Đôi
mắt y không chớp. Y lặng nghe như nuốt từng lời. Thấy Hai Long dừng lại, Cẩn hỏi:
- Đức cha còn nói
chi về tổng thống?
- Đức cha nói Ngô
chí sĩ là người có chí, có đức nhưng không thực việc, tất cả đều phó thác cho
ông Nhu, ông Út Cẩn thì chỉ lo việc miền Trung, nên hiện nay quốc sự có nhiều điều
dáng lo ngại.
Cặp mắt của Cẩn đã
dịu lại, không còn ánh lên những cái nhìn xoi mói, độc ác.
- Bây chừ tui nói
cho anh rõ vì sao có cuộc gặp gỡ ni. Thằng Hiếu bắt anh, thằng Dư nó giam anh,
tui có biết chi mô! Tới khi tui coi báo cáo của anh, tui mới giựt mình là thằng
Dư cũng coi báo cáo đó. Bọn hắn đâu là người được biết chuyện đại sự! Nếu coi
anh là cán bộ Cộng sản, thì tui cứ mặc cho thằng Hiếu, thằng Dư mần chi thì mần.
Nhưng tui đặc phái thằng Duyệt đến tận nơi, nhơn danh tui mời anh, thì không phải
chuyện bình thường. Cũng là kỳ ngộ. Bữa ni, ta sẽ bàn đại cuộc...
Cẩn ngừng nói khi
nhìn thấy cha Hồng từ ngoài đi vào. Cha thường lui tới nên bọn gia nhân canh
gác đã coi cha như người nhà.
Cẩn đứng dậy hơi
lúng túng.
Nhìn thấy Hai
Long, cha vừa ngạc nhiên vừa tỏ vẻ vui mừng. Cha tiến lại bắt tay, rồi ngồi xuống
cạnh anh.
Cha Hồng quay sang
phía Cẩn:
- Bữa nay tôi định
tới gặp ông cố vấn để nói chuyện về thầy phụ tá của Đức cha Lê, không ngờ lại gặp
cả thầy ở đây... Tôi nghĩ là chuyện này chắc đã được ông cố vấn biết và giải
quyết.
Cẩn vui vẻ:
- Thưa cha, con vừa
nói cho anh Hai hay, việc bọn hắn bắt bớ anh Hai con có biết chi mô! Rứa là đánh
nhau vỡ đầu mới nhận họ! Nhưng gặp được người của Đức cha Lê cũng là điều hay.
Con đang bàn với anh Hai về chuyện Đức cha. Khi mô mà gia đình họ Ngô quên công
ơn của Đức cha và giáo dân Phát Diệm.
- Thật là Chúa an
bài!
- Con không hiểu tại
sao lại có sự bất đồng kéo dài giữa tổng thống với Đức cha Lê? Cũng không hiểu
tại sao, Tòa thánh lại lạnh nhạt với Việt Nam cộng hòa?
- Về việc chính trị
thì ông cố vấn cứ bàn luận với thầy phụ tá của Đức cha, - Cha Hồng vui vẻ quay
về phía Hai Long - Sáng mai, thầy Hai tới xem lễ rồi ghé lại dùng bữa với chúng
tôi, mới có mấy ngày mà anh em cứ nhắc thầy Hai luôn.
Cha Hồng đứng dậy
cáo từ ra về.
Mọi việc dang diễn
ra như “Chúa đã an bài”, Hai Long thầm nghĩ.
3.
Cẩn đi ra chỗ tủ đứng,
mở cánh cửa lấy ra một bì thư lớn, đem lại đặt ở góc bàn. Y ngồi ngẫm nghĩ một
lát như để nhớ lại một điều gì, rồi hỏi Hai Long:
- Cha Lê có nhận định
tình hình đúng như bốn điều anh đã viết trong ni không?
Hai Long biết
trong bì thư có tờ trình của anh.
- Bản nhận định của
tôi là sự tổng hợp ý kiến của Đức cha Lê, cha Hoàng, và những điều tôi thu lượm
được khi Đức cha cử tôi làm đại diện tiếp xúc với các nhân vật và đoàn thể thuộc
nhiều khuynh hướng chính trị ở Việt Nam cộng hòa. Điều này tôi đã viết trong tờ
trình.
- Rứa theo anh, bốn
nguy cơ đã diễn biến đến đâu?
- Chế độ Việt Nam
cộng hòa đã được củng cố nhiều nhưng đang gặp những nguy cơ lớn đe dọa do có sự
rạn nứt ngay từ bên trong. Đức cha và tôi lo chế độ có thể lâm nguy, nhanh hay
chậm là do sự phát triển của những nguy cơ và những biện pháp giải nguy của tổng
thống.
- Anh trình bày rõ
thêm về từng nguy cơ.
- Nguy cơ thứ nhất
là lực lượng thân Pháp nằm ngay trong các giáo phái, các đảng quốc gia, trong
guồng máy hành chính và quân đội. Lực lượng này còn nằm im chờ thời cơ. Họ đang
muốn lôi kéo Đức cha đứng về phía họ. Đức cha hơi than phiền là tổng thống quá
mạnh tay đối với lực lượng này.
- Anh nói tiếp
nguy cơ thứ hai.
- Đó là lực lượng
của Mỹ đối lập với tổng thống. Khi thời cơ đến, họ sẽ đứng lên thay thế tổng thống.
Họ chính là những con bài của Mỹ. Tỷ dụ như Phan Quang Đán mà Mỹ đã đưa về nước
cùng tham chính với tổng thống, là một lá bài dự trữ của Mỹ. Đán đã từng liên lạc
với Đức cha từ năm 1945, và hiện nay Đán đang tìm sự hậu thuẫn của Đức cha và
khối Công giáo. Cha đã cử tôi tiếp xúc với Đán. Đán rất lạc quan, cho tôi biết
mối quan hệ chặt chẽ giữa Đán với đại sứ Durbrow ở Sài Gòn và nhiều nghị sĩ Mỹ đảng
Dân chủ như Mansfield, Fulbright. Người Mỹ bảo Đán cứ chuẩn bị sẵn sàng để thay
thế tổng thống. Cha Lê cho rằng, thế và lực của tổng thống hồi 1954 không lớn bằng
thế và lực của Đán hiện nay. Vậy mà năm 1954 Mỹ đã đưa Ngô chí sĩ về chấp chính
được, thì bây giờ nếu Mỹ dùng Đán, Đán sẽ nắm quyền được.
- Còn nguy cơ thứ
ba?
- Nhiều đoàn thể
quốc gia và những phần tử đã từng ủng hộ tổng thống tích cực ngay từ năm 1945,
và từ năm 1954 đến nay, ở trong quân đội và trong chính phủ cộng hòa, nhưng họ đã
bất mãn vì nhiều lẽ. Có người rút về sống ẩn dật. Nhiều người kết bè đảng với đám
thân Pháp và bọn đối lập thân Mỹ. Có người đã ngang nhiên tỏ ra chống tổng thống.
Những phần tử bất mãn này liên lạc với Đức cha và khối Công giáo...
- Họ là những ai?
- Cẩn xen ngang.
- Số này không ít.
Tạm kể nhóm Trần Văn Lắm, Nguyễn Văn Châu, Đỗ Mậu, v.v... Rất đáng tiếc một kẻ
như Đỗ Mậu, tài hèn, sức mọn, được tổng thống thương yêu tin cậy cho làm đến
giám đốc an ninh quân đội, mà đã không tri ân tổng thống lại còn bất mãn, âm mưu
liên minh với bọn đối lập, dựa vào Công giáo để chống chế độ... Đây là ba mối
lo ngại cho chế độ, mà Đức cha cho rằng ngày càng trầm trọng.
- Trong ba điều
này, - Cẩn lại hỏi - Đức cha coi điều nào là quan trọng nhất?
- Ngài e ngại nhất
là bọn đối lập được Mỹ yểm trợ. Mỹ dùng Đán khác nào gí mũi gươm vào sườn tổng
thống. Bọn bất mãn với tổng thống như được khích lệ. Vô hình chung Đán tập hợp được
lực lượng định chống đối lật đổ tổng thống. Cha Hoàng và tôi được Đức cha Lê
trao nhiệm vụ tiếp xúc với ba lực lượng ấy, nắm vững tình hình báo cáo với Đức
cha.
Cẩn ngồi thần người.
Y chợt nhận ra điếu thuốc sâu kèn chỉ còn dính ở môi dưới sắp tắt, phải bập bập
môi hai ba lần, chúm miệng hít mấy hơi dài lửa mới cháy đỏ.
Hai Long nói tiếp:
- Vẫn phải tính đến
nguy cơ thứ tư. Nói ra sự thật này thì đau xót lắm! Ai ngờ đâu một nguy cơ lớn đối
với chế độ lại xuất phát ngay từ giáo hội Công giáo ta. Xin ông cố vấn bình tâm
mà nhận xét mới thấu suốt được. Việt Nam cộng hòa đã được 50 quốc gia trên thế
giới công nhận và đặt ngoại giao trên hàng đại sứ, thế mà Tòa thánh La Mã chỉ đặt
quan hệ với nước ta ở cấp lãnh sự. Phải gắng vận động Tòa thánh nâng cấp lên
hàng đại sứ để tăng thêm thế lực ngoại giao của ta trên trường quốc tế. Tòa
thánh ủng hộ đưa cha Cassaigne, rồi cha Hiền làm giám mục địa phận Sài Gòn,
công khai chống đối tổng thống. Tòa thánh hậu thuẫn cho giáo phẩm Việt Nam chống
đối chính phủ kiểm soát Chủng viện Sài Gòn, và còn trực tiếp can thiệp với tổng
thống về việc này. Cha Vũ Đình Trác là cha di cư, chủ nhiệm báo Đường Sống,
dùng ngay phương tiện báo đó để hạ uy tín của tổng thống. Cha Hồ Văn Vui, là
cha trong Nam, công khai mạt sát chế độ và tổng thống ngay trên tòa giảng trong
buổi lẽ sáng chủ nhật ở nhà thờ Đức Bà trước dinh Độc Lập. Cha Vui lại là cha
có uy tín nhất đối với các linh mục và giáo dân ở miền Nam!
Cẩn ngừng nhai trầu,
đôi môi đỏ quét trầu mím lại. Những động mạch hai bên thái dương y giật giật.
Hai Long tiếp tục
nói với giọng rầu rĩ, than thở:
- Tòa thánh ngấm
ngầm chống ta, bên ngoài thì lạnh nhạt gần như muốn cô lập hóa ta, bên trong
thì phóng tay cho các đấng giám mục, linh mục và giáo dân Sài Gòn chống đối ta
bàng lời nói và hành động cụ thể. Một số giám mục, linh mục di cư tiêu biểu cho
Công giáo di cư cũng tỏ vẻ bất đồng với tổng thống. Giáo hội có thái độ như thế
thì người ta sẽ nghĩ ra sao trong khi mọi thông điệp của tổng thống đều kết
thúc bằng câu “Xin ơn trên phù hộ chúng ta!”.
Cẩn vuột ngược
tóc, bóp chặt hai bàn tay với nhau, buột miệng:
- Chà..! Dữ hỉ?
- Thái độ của giáo
hội Công giáo quả thật đã gây bất lợi cho ta về mặt nội chính và ngoại giao,
làm nội bộ nứt rạn, bạn bè nghi ngờ, làm tăng thế lực của kẻ thù. Cả ba lực lượng
chồng đối đều thăm dò, theo dõi thái độ của Tòa thánh La Mã, của giáo hội Công
giáo, nhất là Tòa giám mục Sài Gòn đối với tổng thống. Thậm chí họ còn liên lạc
và dựa vào Công giáo, cụ thể là Đức cha Lê để âm mưu lật đổ tổng thống. Đó cũng
là một nguy cơ rất trầm trọng.
Trán Cẩn lấm tấm mồ
hôi. Y lẩm bẩm:
- Đán nó được nhiều
phiếu nhất ở quận Nhì trong cuộc bầu cử quốc hội khóa V ở Sài Gòn vừa rồi. Phan
Khắc Sửu, Nguyễn Châu cũng được nhiều phiếu. Toàn những kẻ đối lập!
Bỗng Cẩn ngước
nhìn Hai Long, mắt lại lóe lên những tia độc ác:
- Còn Đức cha
Lê...! Chả lẽ cứ bất đồng mãi với tổng thống ư?
Già néo đứt dây,
Hai Long nghĩ. Chớ có dồn con thú đến đường cùng.
- Thưa ông cố vấn,
chính đây cũng là một điều tôi mong mỏi được trình bày trong cuộc diện kiến
này. Đây chính là chỗ hiểu lầm to lớn và tai hại nhất cho mối thân tình giữa Đức
cha và tổng thống. Là người luôn luôn gần gũi Đức cha, tôi biết rõ Đức cha bất đồng
với tổng thống chính vì muốn ủng hộ tổng thống. Đức cha sẽ ủng hộ tổng thống đến
cùng. Đức Cha vừa phải tuân theo đường lối của Tòa thánh La mã, phải chăm lo
quyền lợi lâu dài cho giáo hội Công giáo, vừa phải bảo vệ tổng thống là một chiến
sĩ Công giáo mà ngài ủng hộ từ năm 45 đến nay. Ngài nhìn xa thấy rộng, nhiều lần
khuyến cáo tổng thống nhưng tổng thống không quan tâm, nên ngài lo ngại và bất
bình. Thật cũng đáng tiếc là những bất đồng này làm cho Tòa thánh La Mã càng xa
cách tổng thống, giáo hội Việt Nam tách dần tổng thống...
Hai Long chắp hai
tay:
- Thưa ông cố vấn,
nhân tháng Đức Mẹ lên Trời, được thánh linh soi sáng, tôi cầu nguyện Chúa phù hộ
cho tôi nói lên sự thật, và tôi đã viết lên sự thật. Lời nói và việc làm của
tôi đã hoàn tất. Tôi xin cảm ơn Chúa, cảm ơn ông cố vấn về buổi hội ngộ này.
Cẩn vội giơ tay ngăn
không cho Hai Long đứng dậy:
- Không lẽ anh chỉ
vẽ cho tui thấy nguy cơ như trái núi trước mắt, rồi anh bình thản nói rằng đã
hoàn tất công việc của anh? Rứa coi sao được! Câu chuyện bữa ni mới được một nửa...
Bay đâu! Cho mang chè lên.
Dưới nhà, tiếng “dạ”
ran.
Một lát, người hầu
gái nhanh nhẹn bưng vào một khay chè đậu ván.
Cá đã cắn câu, Hai
Long nghĩ.
4.
Cách đấy gần một
tháng, Lê Vượng được lệnh mang theo toàn bộ hồ sơ của Hai Long lên gặp ông Cậu.
Mấy hôm trước bọn tay chân báo cho hắn biết, Hai Long đã nhiều lần chuyện trò
riêng với Dư.
Vụ Cầu Lửa tiếp đến
việc này khiến cho hắn khá lo lắng.
Ông Cậu nằm trên
chiếc ghế xích đu ở hàng hiên, bảo Vượng vào phòng khách, rồi quay đầu vào nhìn
tập hồ sơ đặt trên bàn, hỏi:
- Răng các thầy lại
bắt Vũ Đình Long?
- Trình ông Cậu, một
nhân viên của ông Hiếu bắt gặp Hai Long ở Sài Gòn, nhận đúng là y đã phục vụ
cho quân đội Bắc Việt, làm tới chức thị ủy trong Đảng. Không hiểu răng mà y lại
chui vô đây, trở thành nhân viên Sở Công chính của ta, nên ông Hiếu cho bắt để
tra hỏi. Chính Hai Long đã thú nhận tất cả. Theo lệnh của ông Cậu, bày tui có
mang hồ sơ vô.
- Hắn là con cái Đức
cha Lê mà lại là Cộng sản, lạ hỉ?
- Dạ... Khi ông Hiếu
cho bắt thì chưa nắm được điều đó. Lúc hắn trình bày giấy tờ, chứng minh thư,
giấy chứng nhận của Tổng bộ tự vệ Phát Diệm, ảnh chụp với Đức cha Lê..., qua sưu
tra, ông Hiếu mới rõ y có quan hệ mật thiết với cha Hoàng và Đức cha Lê. Bày
tui truy hỏi, thì y khai ngày trước theo Việt Minh kháng chiến mấy năm vì khi đó
còn thanh niên bồng bột. Tới chỉnh huấn 1952 thấy rõ vấn đề kỳ thị giai cấp, kỳ
thị tôn giáo, y bỏ Đảng, bỏ quân đội quay về Ninh Bình với Đức cha. Khi gia đình
y ở vùng Việt Minh bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, y vô Hà Nội rồi xung vô
quân đội Pháp.
- Đúng rứa thì có
chi mà phải đưa ra đây?
- Dạ... Vấn đề của
hắn khá phức tạp. Bày tui có nhờ ông Lê Quang Tung coi giùm cho ở nhà thờ Bình
An, thì biết Hai Long còn có tên là Hoàng Đức Nhã, tên này do cha Hoàng đặt. Y được
đưa từ Pháp về, có quan hệ với rất nhiều nhân vật, nhiều tổ chức đối lập với chế
độ. Y chuyên đi các nơi móc nối xây dựng lại lực lượng tự vệ cho Phát Diệm...
Những chuyện này y giấu nhẹm, mãi gần tới đây mới chịu khai ra. Nếu y không phải
là Việt Cộng nằm vùng, thì cũng có nhiều khả năng là “đơ Bê”[1] của Pháp đưa về
để cùng các cha phá chế độ. Bày tui dang tiếp tục điều tra.
Cẩn trầm ngâm rồi
hỏi:
- Y có đúng là
giáo dân không?
- Dạ, đúng giáo
dân. Ở Bình An, giáo giáo dân gọi y là thầy Bốn. Y tỏ vẻ ngoan đạo. Cũng còn những
điều phải gặp trực tiếp các cha hỏi mới rõ. Nhân viên của ông Hiếu thì nói giải
phóng thị xã Thái Bình vẫn còn thấy y ở vùng Việt Minh, nhưng y lại có đủ giấy
tờ, ảnh chụp chứng thực thời gian đó y đã ở trong quân đội Pháp. Chỉ có Đức cha
Lê mới xác nhận được chuyện ni.
- Đức cha đã biết
các thầy bắt người của Đức cha chưa?
- Dạ, chưa.
- Bắt mấy tháng rồi?
- Dạ, hơn chín
tháng.
Cẩn lúc lắc đầu, rồi
lại hỏi:
- Anh có biết
trong Công giáo, thầy Bốn là chức chi không?
- Dạ, chuyện đạo
bày tui không rành. - Vượng đáp với vẻ sượng sùng.
- Lên chức thầy
Sáu thì sẽ thành linh mục đó. Các anh không nói chuyện với Đức cha được mô!
Chuyện xin ý kiến Đức cha hãy để đó... Anh vẫn chưa tin Vũ Đình Long?
- Bày tui chưa thực
yên dạ nếu chưa hỏi rõ được mọi chuyện.
- Để hồ sơ hắn đó,
tui coi. Tạm thời cứ đối xử cho phải chăng. Thả lỏng y ra, theo dõi, thẩm
tra... hỉ?
- Dạ, dạ... Bày
tui hiểu ý ông Cậu...
Tờ trình của Hai
Long được Cẩn đặc biệt chú ý vì nó chứa đựng một số điều y không biết. Đọc
xong, Cẩn nảy ra ý định gửi vào Sài Gòn. Như vậy sẽ làm được cùng một lúc mấy
việc. Một là, báo cáo một văn bản quan trọng. Hai là, để trong đó xác định Hai
Long là người thế nào; bộ máy mật vụ của Ngô Đình Nhu theo dõi rất sát khối
giáo dân Phát Diệm. Ba là, mượn người khác làm hộ mình một việc mình chưa làm được.
Lâu nay, Cẩn muốn góp ý với hai anh một số vấn đề về lãnh đạo đất nước nhưng lần
nào cũng bị Nhu gạt đi, viện cớ Cẩn ở xa không nắm được tình hình. Nghĩ tới điều
này, Cẩn rất thích thú.
Khay chè đậu ván đã
được bưng đi. Cô hầu mang trà mới.
Hai Long lại vui vẻ
nhận điếu thuốc Cẩm Lệ từ tay ông Cậu. Mỗi lần hút một hơi, anh cảm thấy muốn nấc
lên, người nôn nao.
Cẩn nói:
- Tui phải cảm ơn
anh vì sự phò trợ của anh quý giá vô cùng. Không phải chỉ mình tôi nói rứa. Bản
nhận định của anh, tui đã trình vô Sài Gòn. Ông Cụ và ông cố vấn Ngô Đình Nhu
trong nớ cũng chú ý đặc biệt. Bây chừ ông Cụ và ông cố vấn cho người ra hỏi
thêm chi tiết, anh phải giúp tui nữa chớ? Anh và tui còn nhiều duyên nợ. Mời
anh qua bên ni, ngồi cạnh tui, tui chỉ cho anh coi.
Hai Long rời chiếc
ghế của mình đi sang ngồi sánh vai với Cẩn.
Cẩn mở bì thư, lấy
ra tờ trình của Hai Long, lật từng trang, ngón tay ngắn ngủi và bụ bẫm của y chỉ
những chữ, những vòng khuyên, những dấu hỏi viết bằng hai loại chì màu đen và
màu đỏ.
- Chữ màu đỏ là
bút phê của ông Cụ. Chữ màu đen là của ông cố vấn Ngô Đình Nhu... Anh cũng đừng
để tâm là ông cố vấn kiêu ngạo như lời trách của Đức cha.
Hai Long chăm chú
xem. Ngô Đình Diệm lo ngại bọn đối lập dựa vào Mỹ và những hoạt động của cánh
Phan Quang Đán. Ngô Đình Nhu muốn biết rõ nhiều điều. Y muốn nắm tình hình của
lực lượng thân Pháp và thái độ của Pháp đối với tổng thống Diệm, đối với Mỹ. Y
chú ý đến các cha cố Pháp dòng Thừa sai[2] và băn khoăn về thái độ của Tòa
thánh La Mã.
Diệm gạch một nét
chỉ đỏ dưới những chữ “bọn đối lập dựa vào Mỹ”, và hai nét đậm dưới tên Phan
Quang Đán kèm theo một dấu thập. Nhu khoanh ba vòng mấy chữ “Mỹ hóa giáo hội
Công giáo Việt Nam” và tên của Cassaigne. Y khuyên hai vòng mấy chữ “sĩ quan
thân Pháp nằm im chờ thời cơ”, đồng thời lại gạch dưới và
đánh thêm một dấu hỏi ở bên lề. Nhu đóng khung đoạn “thái độ lạnh nhạt của Tòa
thánh Vatican, chống đối của Tòa giám mục Sài Gòn, Đức cha Lê bất đồng với tổng
thống” và đánh ở bên lề ba dấu hỏi.
Cẩn nhắc Hai Long:
- Anh coi cho kỹ!
- Tôi đã nắm được
những điều tổng thống và ông cố vấn ngô Đình Nhu cần làm rõ thêm.
- Ông Cụ và ông cố
vấn biểu tui hỏi anh, rứa là trong nớ chú ý đặc biệt lắm đó? Bây chừ anh giúp
tui làm một bản khác thật đầy đủ, chi tiết như anh nói chuyện với tui từ sáng đến
chừ... Chừng nào anh sẽ giúp tui cho xong?
- Xin ông cố vấn 3
ngày.
- Rứa là tốt. Anh
sẽ mang vô đưa tận tay tui. Không cho đứa mô coi! Ông cố vấn Nhu chưa biết chi
về anh nên mới phê “hỏi thêm chi tiết”, rứa không phải ông kiêu ngạo mô!
- Đến Chúa cũng phải
đội mão gai nữa là...
Chợt nhận ra mình đang
vui nên lỡ lời, Cẩn có thể cho mình là kiêu ngạo hoặc hỗn xược, Hai Long vội
nói tiếp:
- Tôi tài sơ trí
thiển được ông cố vấn quan tâm đến, cho tôi đóng góp vào đại cục, Chúa còn phải
chịu cực hình vì quân Phi-la-tô[3] hung dữ để cứu rỗi loài người thì tôi dâu
dám từ nan.
Cẩn cười xòa:
- Răng mà thằng Hiếu
lại kiếm được anh, để rước về đây cho tui?
Câu nói của Càn vừa
giống như một lời tán thưởng lại vừa giống như một câu hỏi.
- Trình ông cố vấn,
lúc đầu tôi bị bắt vì tội kháng chiến, tội Cộng sản. Có người Việt Nam nào vào
ngày đó mà lại chịu khoanh tay, khi quân Pháp kéo vào đã cướp xong Sài Gờn lại
muốn giành luôn cả Hà Nội! Đức cha Lê còn nhận làm cố vấn cho Chính phủ Cụ Hồ!...
Còn bây giờ thì các ổng giữ tôi, vì tôi là con cái của Đức cha Lê và cha Tổng.
Tôi cứ nghĩ rằng, cái giá phải trả cho mấy năm đi với Việt Minh đã quá đủ rồi.
Không ngờ có ngày lại phải nhắc tới những chuyện quá đau lòng.
Mặt Hai Long trở
nên rầu rĩ.
Cẩn an ủi:
- Trong kháng chiến
chống Pháp, gia đình tui còn phải tiếp tế cho bộ đội, Đức cha Thục hồi ở Vĩnh
Long cũng phải ra thăm vùng Việt Minh. Những chuyện ngày đó bây chừ kể chi!
Nhân gặp đây thì nói một câu cho vui, chớ chuyện của anh tui biết cả rồi... Chừ
anh về gắng giúp tôi. Ba ngày nữa ta gặp lại nhau. Ông Cụ và ông Nhu đều rất
trông đó...
---
[1] 2e Bureau:
Phòng Nhì, cơ quan mật vụ quân đội Pháp
[2] MEP: mission
étrangère de Paris.
[3] Pilate
Chương 5
THÁNH PHÊ-RÔ
1.
Cuộc gặp Cẩn đã vượt
sự mong đợi cửa Hai Long. Tờ trình của anh không chỉ tới tay Cẩn mà còn tới cả
dinh Độc Lập. Sự biệt đãi Cẩn dành cho anh một phần là do những bút phê của Diệm
và Nhu. Nhưng thái độ Cẩn còn làm anh e ngại. Cẩn đã im lặng khá lâu sau khi nhận
được tờ trình. Chỉ tới lúc Diệm, Nhu cần hỏi lại, Cẩn mới gặp anh. Cẩn tuy có
việc cần anh nhưng chưa thật tin anh. Không hiểu bọn Hiếu, Vượng đã báo cáo về
anh với Cẩn như thế nào. Cha Hồng có đưa bức ảnh anh chụp chung với cha Lê và
cuốn Kinh thánh do Cassaigne đề tặng cho Cẩn xem không, đây là một điều mà anh
không tiện hỏi. Một người như Cẩn khó có thể tin vào những lời nói khi hắn chưa
nhìn thấy gì trên thực tế. Anh nghĩ đến vai trò của cha Lê trong những ngày sắp
tới. Nhưng trước mắt, cần có người tác động tốt cho mối quan hệ giữa anh và Cẩn,
người đó là cha Hồng. Ngày hôm sau, Hai Long đến nhà thờ Françisco theo lời dặn
của cha Hồng. Anh cảm ơn cha đã có tình thương cao cả đối với mình, mong giải
quyết tốt trưởng hợp của mình. Anh đề nghị riêng với cha cố gắng có mặt cùng với
anh trong cuộc gặp Cẩn sắp tới, để cho sự hợp tác giữa ông Cậu và anh tiến triền
thuận lợi. Cha Hồng sốt sắng nhận lời.
Đúng ngày đã hẹn với
Cẩn, Hai Long nhờ Lê Văn Dư đánh xe đưa mình đến Phú Cam. Anh rất vui khi thấy
cha Hồng đang nói chuyện với Cẩn.
Sau khi đưa bản bờ
sung tờ trình cho ông Cậu, Hai Long nói với cha Hồng:
- Thưa cha linh hưởng,
con xin chia sẻ niềm ước vọng của cha và chung lời cầu nguyện Chúa phù hộ cho sự
hợp tác giữa con cái của Chúa ở đây thành đạt kết quả tốt. Con đã được sự đón
tiếp ân cần của cha và ông cố vấn. Con xin cảm tạ Chúa đã tạo nên cơ hội cho
chúng con hợp tác với nhau trong tình thương yêu của Chúa. Sự hợp tác đó tuy mới
buổi ban đầu, nhưng rất đáng khích lệ. Cá nhân con rất mong đóng góp vào đại sự
quốc gia, tuy nhiên, không vượt ra ngoài mối quan hệ lâu năm giữa giáo khu Phát
Diệm - Bùi Chu và đương kim tổng thống
Anh quay sang phía
Cẩn:
- Với ông cố vấn,
tôi xin nhấn mạnh một điểm, tôi không dám nói “cứu nguy” mà chỉ làm một công việc
là “báo nguy” cho chế độ, vì hiện nay tôi đang sống trong một hoàn cảnh rất “đặc
biệt”...
Cha Hồng ngắt lời:
- Chúa sắp đặt tất
cả. Nếu thầy phụ tá vẫn ở Sài Gòn thì ông tổng thống và hai ông cố vấn làm sao
biết được thầy?
- Con muốn nói việc
hôm nay là như thế. Chúa đã phán: “Ngày mai có việc của ngày mai”.
Câu nói của cha Hồng
làm cho Hai Long đoán là trước đó cha đã trao đổi với Cẩn về chuyện của anh nhưng
mình cũng chưa vội vồ vập.
Cẩn xịu mặt, nói với
giọng trách móc:
- Khó khăn tựa
núi! Thầy phụ tá chỉ nhận báo nguy mà không cùng ra sức cứu nguy thì mần răng?
“Cứu bịnh như cứu hỏa” không thể chậm trễ. Mình không ra tay ngay không đặng
mô? Khoanh tay ngồi đợi chỉ có thua thôi. Rối ren trăm bề tính răng?
- Chúa an bài -
cha Hồng lặp lại câu nói thường ngày - Rồi đâu cũng vào đó. Tình hình sẽ êm ả
thôi.
Cẩn nhìn Hai Long
dằn giọng:
- Thầy phụ tá phải
giúp tui mới đặng!
- Lạy Chúa! - Cha
Hồng xuýt xoa - Xin Chúa phù hộ cho chúng con sống thương yêu bền vững bên
nhau.
Sau buổi gặp này,
Hai Long quyết định viết thư cho cha Lê. Trong bức thư tuy có nhắc qua đến hoàn
cảnh oan khuất, bị giam cầm, nhưng hoàn toàn không mang tính chất cầu xin sự
giúp đỡ. Anh tường thuật lại với cha những điểm chủ yếu trong tờ trình, những
cuộc tiếp xúc với Cẩn, và mong sự chỉ dẫn của cha đối với một đệ tử chẳng may
sa vào cảnh ngộ éo le. Anh đưa thư cho cha Hồng xem, và nhờ cha chuyển hộ. Anh
cũng gợi ý cha Hồng nên viết thư cho cha Lê, nhằm góp phần xây dựng lại hòa hiếu
giữa giáo khu Phát Diệm và gia đình họ Ngô. Cha Hồng nói là mình cũng đã có ý định
đó.
Lần này Hai Long
không phải chờ đợi lâu. Chỉ sau ít ngày, cha Hồng đã mời anh tới để chuyển lại
tờ thiếp phúc đáp của cha Lê. Trong thiếp, cha Lê viết: “Cầu nguyện Chúa phù hộ
cho thầy đủ sáng suốt làm nên việc cho giáo hội”. Mối lo lớn đã vơi đi. Hai
Long hiểu qua mấy lời ngắn ngủi, cha Lê không những đã công nhận mình là đệ tử
của ngài, mà còn nhắn khéo mình phải hết sức khôn lanh trong quan hệ với Cẩn để
nắm tình hình cho cha. Cha Hồng cũng khoe với Hai Long, cha Lê đã biên thư cho
mình, nhờ chăm sóc giúp người đệ tử chẳng may lâm nạn, và hẹn một ngày gần đây
sẽ ra thăm Thuận Hóa. Nhân dịp này, Hai Long thổ lộ với cha:
- Con thực lòng muốn
giúp đỡ ông Cậu, nhưng chỉ e ông Cậu chưa tin.
Cha Hồng ngạc
nhiên:
- Sao thầy lại có
ý nghĩ như vậy? Ông Út rất tin thầy mà?
- Có thể con hiểu
lầm ông Út. Con như con chim phải tên hễ thấy cây cong là sợ.
Cha Hồng nhìn anh
với đôi mắt thông cảm:
- Cha đã hiểu tâm
trạng của con. Những chuyện này cha sẽ nói lại với ông Út. Cha tin rằng mọi việc
rồi sẽ tốt đẹp.
Cha Hồng không muốn
nhúng tay vào việc đời để chuyên tâm lo việc đạo. Riêng với những việc làm nhằm
siết chặt tình thương giữa những người con chiên của Chúa thì cha không bao giờ
từ nan. Cha đã nói hộ Hai Long nhiều điều mà anh không thể hoặc không nên nói
trực tiếp với Út Cẩn. Hai Long nhận thấy rõ nhờ có vị linh mục chân tu này,
quan hệ giữa anh với Út Cẩn đã nhanh chóng chuyền biến theo chiều hướng có lợi.
Hai Long hiểu thêm
về con người Ngô Đình Cẩn. Trong con người mang dòng máu địa chủ, quan lại
phong kiến này, có nhiều cái rất trái ngược. Hiểm độc, xảo quyệt; nhưng lại nhiều
lúc nhẹ dạ, cả tin. Uống máu người không tanh, vô nhân vô luân như một bạo
chúa; nhưng lại có những lúc mềm yếu, nhu hòa dễ bảo, mau nước mắt. Sắc sảo, hoạt
bát, tự phụ, tự mãn; nhưng nhiều lúc lại rất mù mờ, ngờ nghệch, tự nhận cái
kém, cái dốt của mình. Luôn luôn kèn cựa với các linh mục nhưng lại rất vâng lời
cha linh hưởng. Thiển cận, chặt chẽ, so đo; nhưng lại nhiều tham vọng, có lúc
phóng tay, bốc rời. Cẩn say sưa với quyền lực và rất sợ mất quyền lực. Một nhược
điểm lớn của Cẩn là ưa tâng bốc, phỉnh nịnh. Cẩn rất thích được khen là hiếu đễ.
Khi Hai Long nói với y: “Hiếu đứng đầu trăm nét. Người hiếu là người có nhân,
có nghĩa, lễ, trí, tín”, anh thấy đôi mắt Cẩn rưng rưng.
Hai Long không còn
e sợ đôi mắt của Cẩn như lần gặp đầu tiên. Cẩn đã tâm sự với anh những điều gan
ruột. Y tỏ ra không thích người Mỹ. Cẩn chê người Mỹ không lịch sự, lễ phép bằng
người Pháp; Mỹ kiểm soát từng đồng xu viện trợ. “Mỹ muốn nắm tất cả mà xem ra
không thật lòng với ta”, khi nói điều này, Cẩn tỏ vẻ cay đắng, hai má xệ xuống,
mặt buồn thiu. Có lần Cẩn than thở với anh: “Tui dốt lắm vì không được ăn học đến
nơi đến chốn. Giả sử tui giỏi như ông Trường Chinh thì tui chẳng để cho vợ chồng
ông Nhu tác yêu tác quái bên cạnh tổng thống!”. Khi nghe Hai Long bàn về những
nguy cơ, Cẩn chỉ phụ họa theo hoặc tỏ vẻ bực tức hay lo lắng. Cẩn không tìm ra
biện pháp gì để giải quyết ngoài những lời hăm hở: “Phải trừng trị ngay những
tên chống đối”. Hai Long nói lại, bọn này thường có lực lượng, nhiều kẻ được sự
yểm trợ của Mỹ, nên không dễ trừng trị, thì Cẩm ngồi im. Cẩn muốn triệt ngay Đỗ
Mậu, y tin là mình thừa sức làm việc ấy. Hai Long lặng lẽ ghi nhận.
Bản bổ sung của
Hai Long đã được chuyển ngay về Sài Gòn. Khá lâu, vẫn không có hồi âm. Sự hào hứng
của anh khi đọc những lời bút phê cửa Diệm vả Nhu nguội dần. Anh nghĩ rằng, tờ
trình có lẽ chỉ cải thiện được vị trí hiện thời của anh ở Huế. Nó chưa đủ sức mạnh
để tác động đến dinh Độc Lập. Nó đã rơi vào sự quên lãng cùng chung với rất nhiều
những tờ trình, kiến nghị, báo cáo mà những kẻ cầm quyền nhận được hằng ngày.
Sự băn khoăn của
Hai Long hiện giờ là không hiểu tại sao Cẩn chưa trả lại tự do cho mình. Cẩn đã
có những bằng chứng rõ ràng về bọn tay sai của hắn đã bắt lầm người phụ tá của
cha Lê. Cẩn biết rõ không nên đổ thêm dầu vào lửa trong mối quan hệ từ lâu đã xấu
đi giữa gia đình họ Ngô với cha Lê. Hai Long vẫn không quên nhắc nhở với Cẩn về
hoàn cảnh “đặc biệt” của anh. Nhưng Cẩn đều tìm cách đánh trống lảng. Chỉ có một
lần, Cẩn ngỏ ý muốn chuyển anh về một nơi nào đó cùng mình làm việc, không thể
cứ ở mãi tại Tòa Khâm là nơi cải huấn những người bị bắt, không có điều kiện chăm
sóc anh về các mặt sinh hoạt. Hai Long đã từ chối, lấy cớ cứ ở trại để có thể
giúp ích cho Cẩn được nhiều hơn. Cẩn tin ngay và không đả động tới chuyện này nữa.
Lê Văn Dư và Lê Khắc
Duyệt trở thành những người lái xe cho Hai Long mỗi lần anh có việc đến nhà Cẩn.
Lê Vượng đã gặp anh để vừa thanh minh vừa kể công: “Khi ông Cậu gọi lên hỏi về
anh, tôi đã báo cáo rất kỹ về thái độ, tư cách của anh, và vì sao lại có sự lầm
lẫn...”. Bọn tay chân của chúng không dám gây phiền hà với anh, ngược lại còn
nhìn anh với cặp mắt nể sợ.
Nhưng anh đã phải
trả một giá rất đắt. Chung quanh bắt đầu xa lánh anh. Không ai tin rằng mỗi lần
anh rời trại Tòa Khâm trên chiếc xe của giám đốc Nha công an Trung phần mà lại
không có hại cho họ. Người nói bóng gió, người nhổ nước bọt khi nhìn thấy anh.
Một bữa anh ngồi đọc kinh, nghe có người nói ở phòng ngoài: “Miệng na mô, bụng
bồ dao găm”. Cổ họng anh muốn tắc.
Nhưng đáng sợ nhất
đối với anh vẫn là những câu nói vọng ra từ khu biệt giam. Lời khước từ sự dụ dỗ,
lời mắng nhiếc những tên chuyển hướng, phản bội, lời kêu gọi giữ vững khí tiết
của người cách mạng, chết vinh còn hơn sống nhục... Những cặp mắt liếc nhìn anh
với vẻ hả hê. Lòng anh như dao cắt.
Anh chưa được phép
chết lúc này. Vì anh chưa hoàn thành nhiệm vụ. Anh chỉ mới đi được nửa đường.
Anh sẽ không bao giờ chịu đầu hàng. Anh chưa hề thoái chí, vẫn đang cố gắng vượt
lên để đi tới đích. Anh vẫn nung nấu ý chí phục thù. Bao giờ thì những người
chung quanh đây sẽ hiểu anh? Có thể chẳng bao giờ? Anh thầm ước, giá mà mình có
một cái mặt nạ. Anh thương cho bộ mặt mình, bộ mặt do mẹ cha sinh thành. Bộ mặt
đó đang chuốc lấy bao sự phỉ nhổ. Anh đang đóng một vai kịch đáng kinh tởm nhất
bằng chính bộ mặt thực của mình. Trại Tòa Khâm không phải là sân khấu mà lại là
cuộc đời ở vào một giai đoạn sóng gió nhất, khi con người cần bộc lộ phẩm chất đích
thực, con người thực của mình!
Con người có thể
làm nên việc lớn vì nó sống giữa một quần thể. Nhiều khi nó không sống vì mình
mà sống vì người khác. Trong chiến tranh, trước bom đạn ác liệt, có những lúc
anh cảm thấy sợ, có lúc rất sợ. Nhưng khi nghĩ đến nhiệm vụ, đến những người
chung quanh, anh thường lấy lại được sự bình tĩnh vì biết là sự hy sinh của
mình sẽ không vô ích, sẽ được biết đến, dù nó chỉ diễn ra trước mắt một số người
xa lạ, thậm chí trước mắt kẻ thù. Nguồn động viên tinh thần đó nay không còn nữa.
Đoàn thể, những người chỉ huy trực tiếp, vợ con anh, những người chung quanh
anh không một ai biết đến nhưng toan tính của anh. Có thể anh phải mang nó xuống
mồ! Có những lúc anh cảm thấy ghê tởm ngay ở cả bản thân mình, vì anh nghĩ về
những hành vi của mình bằng ý nghĩ của những người đang theo dõi, phán xét anh.
Đây là những ngày
cô đơn, tủi nhục nhất trong suốt cuộc đời anh. Không phải chỉ có như vậy. Anh
còn phải bận tâm vì tính chất nguy hiểm của trò chơi hai mặt này. Sự việc xảy
ra đêm ấy vẫn còn ám ảnh anh. Biết đâu, một đêm nào đó, một cái chăn bất chợt
úp chụp xuống đầu anh, anh không kịp có một lời thanh minh, người ta sẽ đặt lên
xác anh một bản án phản bội! Không đêm nào anh yên giấc. Phải gắng sống đến
ngày ít nhất có một người biết rõ việc mình làm. Mình sẵn sàng hy sinh như một
chiến sĩ vô danh, nhưng không thể chết như một tên phản bội...
2.
Cha Hồng báo tin
cho Ngô Đình Cẩn biết, giám mục Lê vừa ra Huế, muốn được gặp người phụ tá của
mình.
Cẩn vội vã ra lệnh
cho Lê Văn Dư đánh xe đưa Hai Long đi gặp cha, và chở ngay Hai Long về Phú Cam
sau buổi hội kiến.
Giữa gia đình họ
Ngô và cha Lê vốn có một mối quan hệ khá đặc biệt.
Hồi đầu Tổng khởi
nghĩa Cách mạng tháng Tám, Ngô Đình Khôi, tổng đốc Quảng Nam thời Pháp thuộc, một
người có nhiều nợ máu với cách mạng, đã bị nhân dân kết án tử hình. Hai em của
Khôi là Diệm và Nhu rất sợ hãi, muốn trốn ra nước ngoài. Cha Lê khi đó là giám
mục địa phận Phát Diệm, đã đón Nhu về đây, giấu Nhu ở Nhà Chung một thời gian,
rồi cho người đưa trốn qua Lào.
Cho đến năm 1954,
giám mục Lê vẫn ủng hộ Diệm, rất tán thành cái công thức ban đầu được Mỹ và
Pháp lựa chọn sau khi Mỹ đưa Diệm về, là một chính quyền ở Nam Việt Nam với Bảo
Đại làm quốc trưởng, Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Cha Lê muốn có một người cầm đầu
chính quyền là Công giáo (Bảo Đại theo đạo Phật); hơn nữa, Diệm là ngươi có ân
tình với cha Lê. Mỹ lại âm mưu gạt Pháp và lật Bảo Đại để đưa Ngô Đình Diệm lên
thay. Cha Lê là người của Pháp, không tán thành chủ trương này. Nhưng Mỹ cứ
làm. Và Diệm không chỉ dừng lại ở đó. Sau khi hất cẳng Pháp, truất phế Bảo Đại,
Diệm ráo riết mở những đợt thanh trừng những lực lượng thân Pháp như Bình
Xuyên, các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo... Tổng bộ tự vệ Phát Diệm do cha Hoàng
chỉ huy cũng bị đập tan trong thời gian này.
Về mặt tôn giáo,
cha Lê cũng như giáo hội Việt Nam gắn liền với giáo hội Pháp và Tòa thánh
Vatican. Nhiều cha cố Pháp đã nói: “Giáo hội Pháp lả con cả của giáo hội La Mã,
là mẹ đẻ của giáo hội Việt Nam”. Cha Lê đúng là con đẻ của Pháp. Nhưng giám mục
Ngô Đình Thục, anh của Ngô Đình Diệm, lại gắn liền với Hồng y giáo chủ Mỹ
Spellman, tức là gắn liền với giáo hội Mỹ.
Khi đã lên cầm quyền,
Ngô Đình Diệm yêu cầu Vatican phải cử đại sứ tới Sài Gòn, đối xử với Việt Nam cộng
hòa bình đẳng như với những quốc gia độc lập khác. Vatican không chấp thuận, chỉ
đặt tòa lãnh sự và cử tới một khâm sứ. Diệm phật ý. Diệm kiên quyết đòi Vatican
không để một người Pháp, thuộc dòng Thừa sai Paris (MEP), là Jean Cassaigne làm
giám mục địa phận Sài Gòn, mà phải thay bằng một ngươi Việt. Vatican thấy phải.
Cha Lê rất muốn làm giám mục Sài Gòn, và được Vatican ủng hộ. Nhưng Diệm lại muốn
giành chức này cho anh mình là Ngô Đình Thục. Cuộc tranh chấp diễn ra giữa Diệm
và Vatican. Cuối cùng? Tòa thánh La Mã phải chọn một giải pháp thứ ba, thay
Cassaigne bằng giám mục Simon Hòa Hiền. Mối bất hòa giữa cha Lê và anh em họ
Ngô ngày càng sâu đậm.
Những giáo phái và
những người thân Pháp, trong đó có nhiều người trước đây đã ủng hộ Diệm, giờ bị
Diệm đàn áp, tụ lại chung quanh cha Lê, bàn cách chống Diệm và dần dần đi tới
âm mưu lật đổ Diệm. Trước sự đe dọa của phong trào cách mạng miền Nam, Mỹ muốn
mở rộng thành phần chính phủ Diệm để tăng cường sức mạnh chống Cộng. Nhưng Diệm,
đứng sau là Nhu, không nghe.
Diệm, Nhu dần dần
hiểu rằng nếu cứ tiếp tục chống cha Lê, không những sẽ mất đi sự ủng hộ của hơn
1 triệu giáo dân gốc Bắc, mà còn kéo theo rất nhiều người thuộc các phe phái đối
lập khác, bèn thay đổi thái độ, tìm cách ve vãn. Diệm đã ra sắc lệnh coi những
tự vệ Phát Diệm là những người có công chống Cộng, phải được đối xử như những cựu
chiến binh trong quân đội. Ván bài này, Diệm - Nhu mới chơi được nửa chừng. Cha
Lê chưa dễ nguôi giận ngay. Cha Lê tiếp tục xúi các cha cố gốc Bắc cũng như gốc
Nam chống Diệm độc tài, gia đình trị, kiêu ngạo, đòi bình đẳng với Vatican, coi
hồng y Spellman hơn cả giáo hoàng, âm mưu Mỹ hóa giáo hội Việt Nam... Tuy vậy,
cha Lê vẫn cần Diệm, vì Diệm là đương kim tổng thống thu tóm mọi quyền hành
trong tay. Cuộc sống của giáo dân Phát Diệm những năm qua gặp nhiều khó khăn, một
phần cũng vì sự mâu thuẫn của những người chăn dắt họ đối với chính quyền. Cha
Lê sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ nếu gia đình họ Ngô tỏ ra biết tôn trọng và chiều
chuộng họ.
Đôi bên đang đứng
nhìn nhau trên hai bờ của một con sông còn thiếu một cây cầu.
Sau khi nhận được
tấm thiếp của cha Lê, Hai Long có nhiều hy vọng cha Lê sẽ ra Thuận Hóa. Chỉ có
sự xuất hiện của cha Lê mới cải thiện được về cơ bản tình hình của anh ở đây.
Theo suy luận của anh thì bất cứ một người giáo dân Phát Diệm nào ở vào vị trí
hiện thời như anh, cũng xứng đáng được cha chăm sóc. Cha đang rất cần có một người
vừa là tai mắt, vừa là môi giới cho những cuộc mặc cả giữa cha với gia đình họ
Ngô đang cầm quyền.
Nhưng khi được tin
cha Lê tới, anh vẫn bị bất ngờ. Vì anh không ngờ sớm như vậy.
Đây là lần đầu anh
tiếp kiến chuyện trò với cha. Bức hình chụp với cha ở Hải Phòng, ít nhất cũng
nhắc nhở cha, người giáo dân Phát Diệm trong quân đội Pháp đã hết lòng phục vụ đồng
bào di cư và những cha cố có mặt tại đó. (Nhiều giáo dân hồi ấy vì muốn lấy
lòng một người đang giúp đỡ mình, đã gọi anh là “ông quan ba người Phát Diệm”).
Rất có thể cha cũng tưởng anh chính là người Phát Diệm. Cha có hàng chục vạn
con cái, làm sao ngài có thể nhớ mặt tất cả mọi người. Và một khi cha đã cất
công ra tận đây gặp anh, chắc ngài đã nghe cha Hoàng nói không ít những điều tốt
lành về anh.
Hai Long cảm thấy
hoàn toàn tự tin trên đường đến gặp cha Lê.
Cha Lê ngồi trong
căn phòng khách vắng vẻ của nhà dòng Chúa Cứu thế. Thoáng nhìn, anh thấy ngay
cha đang nóng ruột đợi mình.
Hai Long lao vội tới
quỳ thụp hôn tay cha, một bàn tay mặc dù đã nhăn nheo vì tuổi tác nhưng vẫn rắn
chắc và đỏ như son.
- Con khỏe chứ?
Cha Lê hỏi bằng một
giọng thân mật, ngọt ngào nhưng vẫn trang trọng.
- Trình Đức cha,
con khỏe - đôi mắt rớm lệ, Hai Long nói tiếp - chắc Đức cha vẫn chưa quên con.
Con không bao giờ quên những ngày ở thánh địa Phát Diệm với Đức cha.
- Quên sao được. -
Cha chăm chú nhìn Hai Long - So với ngày ấy thì anh thay đổi khá nhiều.
- Thưa Đức cha, đã
16 tháng, con sống trong cảnh giam cầm. Nếu không vì quyền lợi của giáo hội, của
giáo dân Phát Diệm - Bùi Chu, con đã không chịu được cảnh tù túng này.
Cặp mắt cha chốc
chốc lại nhìn anh chăm chú. Anh hiểu là cha đang ngầm so sánh người ngồi trước
mặt mình với người trong bức ảnh cùng chụp với cha. Chắc cha đã nhận thấy hai
người chỉ là một, vì 5 năm qua, về bề ngoài, anh chưa thay đổi nhiều.
Hai Long thuật lại
cho cha nghe một cách đầy dủ và gọn gàng, anh dang làm việc cho Tổng bộ tự vệ
thì bị người của ông Cẩn từ miền Trung vào bắt, họ vu cho anh là Việt Cộng nằm
vùng, là “đơ Bê”, nhưng không đưa ra được chứng cớ nào, anh nghĩ họ chỉ tìm một
cái cớ để điều tra tình hình lực lượng vũ trang Công giáo Phát Diệm, hoặc làm
việc gì đó mà anh chưa biết... Anh đã viết một tờ trình gửi ông Cẩn, và yêu cầu
được gặp. Khi gặp ông Cẩn, anh đã lựa lời nói cho ông hiểu, ông đã dựa vào mấy
tên hồi chánh để chúng làm điều xằng bậy, đánh vào người nhà. Con cháu cha Lê đều
tự hào là những chiến sĩ chống Cộng kiên quyết nhất từ năm 1946 tới nay (Hai
Long nhấn mạnh), điều này đã được chính tổng thống Diệm thừa nhận. Ông Cẩn đã
nhận lỗi để bọn tay chân sơ xuất bắt lầm anh, rất cảm ơn những ý kiến anh đã đóng
góp, và đã gửi tờ trình vào Sài Gòn để ông Diệm, ông Nhu cùng xem. Hai ông vội
cử người ra Huế, đề nghị anh nói rõ thêm một số điểm. Thái độ của ông Cẩn đối với
anh hiện giờ rất tốt. Ông Cẩn nói gia đình họ Ngô mang ơn Đức cha nhiều mà chưa
trả được, lại đang rất cần sự hỗ trợ của Đức cha... Nhưng anh không hiểu vì sao
ông chưa trả tự do cho anh, đề anh trở về tiếp tục giúp cha Hoàng làm công việc
Tổng bộ. Trong những ngày còn ở Thuận Hóa, anh có thể làm gì có ích cho giáo hội...
Bộ mặt uy nghiêm,
khắc khổ của cha dần dần tươi lên.
- Cha rất đẹp lòng
vì cách xử sự của anh. Rất xứng đáng là người chiến sĩ Công giáo Phát Diệm. Dù ở
trong hoàn cảnh nào không được để cho người ta khinh nhờn.
- Con luôn luôn
tâm niệm con là người của cha Hoàng và của Đức cha.
- Ông Út như vậy...
là cũng biết điều.
- Ông Út luôn luôn
ca ngợi Đức cha. Ông nói không có Đức cha thì gia đình họ Ngô làm sao được như
ngày nay. Ơn đó đã trả được đâu!
Cha Lê nhếch mép cười:
- Anh nói với ông
Út: “Người không phụ ta thì ta cũng không phụ người!”. Đều là con chiên của
Chúa cả. Nếu ông Út đang tin cậy, trọng nể anh, và cần có anh, thì sẽ để anh ở
lại đây thêm một thời gian. Anh là người am hiểu tình hình giáo hội, cha cũng
không phải dặn dò gì. Cứ nghĩ đến quyền lợi của giáo hội mà hành động. Khi có điều
gì cần, cha sẽ tin cho anh ngay.
Hai Long hiểu cuộc
viếng thăm của cha chỉ nhằm nắm tình hình. Anh nói:
- Thưa Đức cha,
con ở đây sống cảnh cá chậu chim lồng, không biết gì về tình hình trong đó từ
ngày ra đi. Có điều gì mới, Đức cha cho con rõ. Người ta coi con là người phụ
tá của Đức cha, nên ông Út thường mời con đến hỏi ý kiến.
Cha Lê trầm ngâm,
rồi nói:
- Cộng sản đã
tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Đài phát thanh Bắc Việt
đưa tin nhiều nhưng ở Sài Gòn báo chí chưa đả động gì...
Hai Long dỏng tai
nghe, nhưng cha không bình luận thêm mà nói tiếp:
- Bốn nguy cơ mà
anh trình bày bữa trước với ông Cẩn, đều đúng cả. Chỉ có điều là đến nay trầm
trọng hơn nhiều. Phe đối lập đang hoạt động mạnh, người Mỹ và cả người Pháp đứng
sau lưng họ. Biến cố chính trị sẽ xảy ra nay mai. Ông Diệm, ông Nhu phải khéo léo
lắm thì mới đứng vững được... Cha nói chừng ấy chắc anh đã hiểu. Cha Hoàng gửi
lời thăm anh.
- Đức cha cho rằng
sẽ có đảo chính?
Cha Lê im lặng
giây lát rồi hơi gật đầu.
- Con không bao giờ
quên ơn Đức cha, quên ơn cha Hoàng, không bao giờ quên mình là một giáo dân
Phát Diệm. Con rất lo cho sức khỏe của Đức cha. Đức cha cần giữ gìn mình vàng để
chăn dắt giáo dân Phát Diệm, không để chúng con phải bơ vơ.
- Cha rất khỏe...
Cầu Chúa phù hộ cho anh.
3.
Cậu Út với chiếc
áo cộc tay, cái quần lá tọa, chân đi guốc mộc đã đứng chờ trước cửa. Gần đây, cậu
không coi Hai Long như kẻ sĩ, mà coi như người nhà.
Chiếc ô-tô vừa dừng
lại, cậu mở cửa xe, lùa hẳn cánh tay trắng và mập vào trong, quàng lưng Hai
Long đón ra. Chưa bao giờ cậu chầu chực ngoài cổng để đón Hai Long như lần này.
Hai Long rảo bước đi
theo Cẩn vào nhà.
Cẩn vừa ngồi xuống
ghế, không kịp rót nước, mời thuốc như thường lệ, cũng không rào trước đón sau,
hỏi dồn dập.
Hai Long tự bảo
mình phải thận trọng nhưng miệng vẫn nói thao thao, tỏ ra anh mong thuật lại tất
cả những điều đã thu lượm được qua cuộc gặp cha Lê, làm như cha ra Huế chỉ cốt
gặp mình để trút hết bầu tâm sự.
Cuối cùng, anh làm
bộ mặt nghiêm trọng:
- Đức cha dự đoán
nay mai sẽ có chính biến. Tôi nói có phải là đang có âm mưu đảo chính không,
ngài gật đầu.
Cẩn sửng sốt:
- Đảo chánh?
- Dạ.
- Đứa mô dám đảo
chánh?
- Bọn đối lập dựa
vào Mỹ và cả vào Pháp.
- Nhưng thằng mô?
- Tôi gặng hỏi,
ngài không nói. Chắc ngài e trách nhiệm vì vách có tai! Nhưng ngài cho biết là
chúng đang chuẩn bị rất khẩn trương... Nếu tôi ở Sài Gòn thì có thể báo cáo
ngay với ông cố vấn đó là ai. Đức cha rất tiếc là tôi không có mặt trong đó.
Tôi vốn là người vẫn đi nắm tình hình cho Đức cha.
Cẩn tảng lờ như
không nghe thấy điều Hai Long vừa nhấn mạnh, y lầu bầu:
- Chỉ tại bà Lệ
Xuân mới sinh lắm chuyện. Rứa mà tổng thống vẫn dùng thằng Đỗ Mậu! Chính hắn
liên kết với nhiều người để chống lại vợ chồng ông Nhu chớ còn ai?
- Tôi đồng ý với
ông cố vấn,. phải chú ý ngay tới giới quân sự, những kẻ thân Mỹ, thân Pháp;
ngoài Đỗ Mậu ra, xem còn những ai nữa? Bọn có âm mưu đảo chính nhất định phải nắm
một lực lượng quân sự.
- Anh sang phòng
bên, mần ngay cho một bản báo cáo về tất cả những điều Đức cha đã nói với anh.
Anh viết gởi cho tui. Tui sẽ cho người vô ngay Sài Gòn.
Buổi chiều, Hai
Long làm xong việc đó. Bản báo cáo toát lên sự tin cậy của cha Lê với cá nhân
anh. “Cha Lê khẳng định sẽ có biến cố chính trị ở thủ đô Việt Nam cộng hòa
trong thời gian sắp tới”. Anh khuyên ông cố vấn nên thận trọng, chú ý đến bọn đối
lập thân Mỹ, thân Pháp, đặc biệt trong giới quân sự. Và anh “rất tiếc về thái độ
không rõ ràng của cha Lê đối với bọn đang âm mưu lật đổ chính quyền Việt Nam cộng
hòa”.
4.
Trưa 11-11-1960,
trưởng trại Tòa Khâm Lê Văn Dư cho Hai Long biết tin nhóm đảo chính quân sự đã
chiếm đài phát thanh Sài Gòn.
Ngoài đường, xe nhà
binh chạy ầm ầm. Nhiều nhà đóng kín cửa. Binh lính từng toán đi tuần rầm rập.
Xe tăng trấn giữ hai đầu cầu Tràng Tiền.
Một không khí hân
hoan lan truyền trong lòng người đang bị giam cầm. Họ đã sống qua những ngày
dài vô vọng. Ai cũng biết đây chỉ là cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ bọn
chúng. Nhưng biết đâu nó lại chẳng mang tới cho họ một cái gì. Hy vọng rất mỏng
manh, nhưng vẫn là hy vọng. Nhưng tia hy vọng vừa nhen nhóm này không kéo dài được
bao lâu. Ngay hôm sau đã có tin âm mưu đảo chính bị đập tan, bọn sĩ quan dù
Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông cầm đầu cuộc đảo chính đã trốn chạy sang Nam
Vang.
Hai Long khấp khởi
mừng thầm. Một sự thay thầy đổi chủ lúc này sẽ làm uổng phí tất cả những nước cờ
mở đầu mà anh đã phải đổ bao tâm huyết, và phải trả giá bằng những ngày vô cùng
đau đớn ở đây.
Ngay khi tình hình
vừa yên, Cẩn cho mời Hai Long đến nhà.
Cặp mắt rưng rưng,
ông Cậu cầm hai tay Hai Long rung rung hồi lâu:
- Chỉ có phép lạ rất
mầu nhiệm của Chúa mới cải nguy thành an cho tổng thống. Rất cảm phục thầy đã
nói trúng như Thánh tiên tri. Từ bây chừ, thầy là ân nhân của gia đình họ Ngô.
Hai Long khiêm tốn:
- Đó là hồng phúc
của tổng thống, của gia đình họ Ngô, và cũng là hồng phúc của quốc gia. Tôi có
làm được việc chi?
- Thầy quá khiêm
nhường. Báo cáo của thầy gửi tui, tui đã chuyển ngay tới ông Cụ và ông Nhu. Chắc
chắn tổng thống và ông cố vấn chính trị không bỏ qua, nên đã có phòng ngừa.
- Đó là ý kiến của
Đức cha Lê.
- Nhưng nếu không
có thầy hết lòng, bầy tui khi mô biết mà liệu trước? Từ bữa ni, gia đình tui
coi thầy thân thiết như người trong nhả.
- Ông cố vấn định
khi nào làm lễ tạ ơn?
- Cũng vì cả việc
nớ mà bữa ni mời thầy vô. Bầy tui sẽ làm lễ tạ ơn thật trọng thể tại nhà thờ của
họ Ngô. Tui có ý định nhờ thầy tổ chức giúp. Tui biết thầy thông thạo việc lễ.
- Tôi rất đội ơn
ông cố vấn đã dành cho vinh dự lớn, nhưng nếu nhận e không tiện. Công việc chủ
trì một lễ lớn tại gia đình cố vấn phải do một vị cao niên hoặc đạo đức thánh
thiện của gia đình đứng ra đảm nhiệm. Tôi có biết đôi chút kinh lễ, nhưng còn
nhỏ tuổi, lại không phải là người trong nhà...
- Thầy là người
trong nhà, - Cẩn dằn giọng – tui đã nói rồi. Đó là tấm lòng tui quý hóa thầy,
thầy đừng phụ lòng tui.
Biết đâu Cẩn cũng
muốn nhân đây thử mình có đúng là một giáo dân gốc đạo hay không, Hai Long nhận
lời. Cẩn rất mừng.
Uống cạn tuần trà,
Cẩn ngồi tư lự, rồi nói:
- Tui muốn hỏi thầy,
thực lực quân sự của Đức cha Lê hiện chừ ra răng? Tổng bộ tự vệ có bao nhiêu người?
- Hiện nay, chừng
hơn một vạn, khi cần huy động sẽ lên tới vài ba vạn. Số khá đông đã trực tiếp
chiến đấu chống Cộng hồi còn ở miền Bắc. Nếu được tổ chức lại và vũ trang đầy đủ,
sẽ là một lực lượng đáng kể. Nhưng Đức cha còn một chỗ mạnh hơn nhiều. Cha Lê
và cha Hoàng là một trung tâm thu hút những người có ý kiến bất đồng với tổng
thống, trong đó có nhiều sĩ quan cao cấp của quân đội. Họ tự tìm đến các cha để
giãi bày sự bất đồng với tổng thống...
Trong khi trả lời,
Hai Long chưa hiểu vì sao bữa nay Cẩn lại hỏi về lực lượng tự vệ của Tổng bộ
Phát Diệm với một vẻ cân nhắc khác thường.
Cẩn vẫn trầm ngâm,
rồi lại hỏi:
- Thầy nói Đức cha
có thiện chí với tui?
- Dạ. Không phải
chỉ lần này ra Thuận Hóa, Đức cha mới nói với tôi điều đó.
- Nghe những lời của
Đức Cha, tui rất ý hiệp tâm đầu. Nếu bây chừ Đức cha hiệp lực với lực lượng của
ta...
Hai Long chưa hiểu
Cẩn định nói đến lực lượng của Việt Nam cộng hòa nói chung, hay lực lượng của
riêng Cẩn ở miền Trung, anh lựa lời đưa đà:
- Được như vậy là
hồng phúc cho giáo hội, cho quốc gia.
Đôi mắt Cẩn mở to,
sáng lên:
- Thầy gắng giúp
tui được không?
- Từ lâu tôi đã
mong như vậy.
Cẩn thở phào như vừa
cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng.
- Quốc gia đang gặp
khó khăn, tổng thống bị áp lực tứ phía, nhiều khi tui có ý kiến muốn góp với
ông Cụ, nhưng ông bà Nhu không nghe, nhất là bà Nhu. Nếu bây chừ có thêm lực lượng
của Đức cha, mình nói chi ông Nhu sẽ không dám coi thường. Rứa mới mong củng cố
được sức mạnh của chế độ. Ông Nhu đã nhắc tui trả thầy về Sài Còn với Đức cha,
nhưng tui vẫn muốn lưu thầy lại Huế vì chuyện nớ. Thầy mần được là giúp tui lớn
lắm đó?
Cẩn đã để lộ lòng
ruột.
Đang đà thổ lộ, y
dốc nốt tâm sự:
- Bà Nhu rất lộng
hành... Ông Nhu lại là anh sợ vợ. Cứ đà này thì bà Nhu sẽ chi phối ông Nhu, đi đến
choán quyền của ông Cụ thì tai vạ cho cả nước và cả giáo hội. Mấy ngày qua, mấy
thằng lính dù dám làm việc tầy trời, là do ông Nhu nghe vợ cả? Thầy xem ở miền
Trung này có thằng mô dám nho nhoe? Bọn hắn mà nằm trong tay tui, tui đem đầu
chúng bón vô gốc cam tự lâu rồi!
- Ông Nhu là người
mưu lược nhưng hơi nhu nhược. Người làm tướng cần có ân, có uy. Ông Cậu nói rất
phải. Nhưng tình hình đang rối, trước mắt, ông cố vấn nên khoan dung, hòa giải
với vợ chồng ông Nhu. Phương ngôn có câu: “Thương em anh để trong lòng, việc
quan anh cứ phép công anh làm!”. Phải nghiêm khắc với những hành động có hại
cho quốc gia, cho giáo hội.
- Thầy là người
nhân nghĩa và sâu sắc lắm!
Vẫn còn bực dọc, Cẩn
lại nói tiếp:
- Ông Nhu nói “duy
linh” nhưng thiệt ra lả duy vật. Có khi mô thấy ông Nhu đọc kinh hay vô nhà thờ...!
5.
Hai Long chủ trì
những buổi lễ tạ ơn kéo dài suốt một tuần tại nhà thờ riêng của Ngô Đình Cẩn.
Nhân dịp này, anh
gợi ý với Cẩn nên tổ chức lễ Đồng tế để tạ ơn Chúa. Anh đã trao đổi với cha Hồng
về chuyện này trước khi nói với Cẩn. Cha Hồng mừng rỡ tán thành. Đồng tế là lễ
lớn nhất do Tổng giám mục đứng làm chủ lễ và nhiều linh mục làm phó lễ. Cẩn nói
cũng đã có ý định đó. Hai Long bàn nên nhờ cha Hồng tổ chức tại nhà thờ Phú
Cam. Cẩn rất tán thành
Con đường trở về
Sài Gòn đã được khai thông. Nhưng Hai Long lại bắt đầu lo vì Ngô Đình Cẩn mà
anh sẽ bị mắc kẹt thêm một thời gian dài nữa ở miền Trung.
Sau ngày lễ Đồng tế,
Cẩn lại cho Duyệt đến mời Hai Long vào gấp.
Nét mặt Cẩn lộ vẻ
rất băn khoăn:
- Ông Nhu vừa cho
người ra Huế nói tình hình ở Sài Gòn rất nghiêm trọng, phải trả ngay thầy về chỗ
Đức cha. Ông Nhu muốn gặp thầy trước khi thầy vô. Bây chừ giải quyết ra răng?
Đôi bên cùng ngồi
lặng một lát.
- Tôi thấy ông cố
vấn nên làm kế hoãn binh. Một mặt ông cố vấn nói đang chỉ thị cho tôi tiến hành
tổng hợp tình hình và dự thảo một kế hoạch chống đảo chính để ông cố vấn đệ
trình lên tổng thống. Như vậy trước mắt tôi vẫn ở lại. Đồng thời, ông cố vấn
làm giấy tiến cử tôi với Phủ tổng thống, coi việc tôi về Sài Gòn là chuyện sau
này. Trong trường hợp vì yêu cầu cấp bách của ông Nhu không thể trì hoãn, ông cố
vấn sẽ cùng tôi bàn bạc kỹ, khi về đó tôi tiếp tục làm những việc gì để giúp
ông cố vấn.
- Trước mắt, hãy
theo ý thầy.
Bộ mặt Cẩn vẫn rầu
rĩ, lo lắng.
Hai Long hỏi:
- Dường như ông cố
vấn còn băn khoăn điều chi?
Cân thở dài, rồi
tuôn ra một hơi:
- Bây chừ ông Nhu
mới kêu tình hình nghiêm trọng, tui e muộn. Tui biết thằng Mỹ từ lâu. Quân xảo
quyệt! Chó má! Gian hùng! Phản bạn! Trước mặt ủng hộ, sau lưng lật đổ... Ông Cụ
thì quá tin nên bị lừa. Ông Nhu làm cố vần chính trị không ra hồn. Công an, mật
vụ, an ninh quân đội... thằng Trần Kim Tuyến, thằng Đỗ Mậu... toàn những quân ăn
hại, đui mù, phản bội! Xây dựng bao nhiêu lâu rồi! Phá đổ mấy hồi? Xưa nay nghiệp
vương bá đều sụp đổ từ trong mà ra! Bọn hắn như rứa đó! Mỹ như rứa đó! Ta biết
lối nào mà đi!
Để làm nguôi cơn
giận của Cẩn, Hai Long giơ hai tay, vừa nói vừa cười:
- Cậu Út đi với
tui!
Một điều bất ngờ đối
với Hai Long... Đôi mắt Cẩn đang phóng ra những tia hiểm độc, đầy sát khí, bỗng
dịu hẳn xuống ngước nhìn anh, hiền lành, bé bỏng, chờ đợi như mắt trẻ thơ. Anh
hiểu là Cẩn thực sự bối rối, hoang mang, cần có một nơi bấu víu, chìa tay ra với
mình khi hắn đang rơi vào xoáy nước.
- Chúa đã cho tôi đi
với cậu Út đến ngày tận thế. Biết đi thì lối nào cũng thông, cậu Út chớ ngại
chi không có đường đi nước bước. Cậu Út và tôi cùng dốc lòng cầu Chúa ban cho bằng
an, cậu Út và tôi sẽ đi đến cửa Thiên đàng.
Hai Long đặt một
tay lên trái tim. Mặt Cẩn tái xanh. Hai Long cũng cảm thấy gai gai trên mặt. Sự
xúc động của Cẩn đã lan truyền sang anh, làm cho anh đang chủ động đóng vai kịch
bỗng cảm thấy mất thăng bằng. Tuy vậy không thể dừng lại nửa chừng.
- Cậu Út đã biết
tên thánh của tôi. Tôi là Pierre Vũ Đình Long. Cậu có nhớ hình ảnh Thánh
Phê-rô[1] tay cầm gậy chỉ đường, tay cầm chìa khóa mở cửa Thiên đàng không?...
Cậu Út tính kỹ chưa? Tôi sẵn sàng đi trước dò đường.
Cẩn lập bập:
- Mấy bữa ni tui
như người sống trong hỏa ngục, cực khổ muôn vàn. Tui trông cậy nơi anh...
---
[1] cũng là phiên
âm latin của Pierre
Chương 6
BỘ NÃO CỦA CHẾ ĐỘ
1.
Mùa mưa kéo dài
suốt những tháng cuối năm ở miền Trung. Lúc nào cũng nghe tiếng mưa rơi. Khi rỉ
rả, thầm thì. Khi ầm ầm, nạt nộ. Tiếng mưa rơi đều đều buồn rứt ruột. Không gian
chỉ còn là một tấm màn trắng đục. Mọi vật đều như tan thành nước. Mưa đem theo
cái lạnh về. Cuối năm trời càng rét.
Cái lạnh làm cho Hai Long nhiều lúc nhớ
miền Bắc da diết. Miền Bắc lúc này rất gần mà cũng rất xa. Đã 6 năm anh xa quê
hương, một làng quê tỉnh Thái Bình. Nhớ ngôi chùa mái ngói phủ rêu, nhớ cái
vọng, cái miễu ở đầu làng, nhớ cây đa cổ thụ mọc giữa cánh đồng. Nhớ những buồi
chăn trâu, thả diều ngày còn nhỏ. Dưới con mắt của những người ở quê hương, anh
đã trở thành một kẻ phản bội. Mọi người chỉ sẽ hiểu anh nếu anh có ngày chiến
thắng trở về. Ngày ấy có tới với anh không? Không ai dám nói chắc điều đó. Nhưng
anh bao giờ cũng có một niềm tin. Niềm tin đó bắt đầu từ ngài Hà Nội đang chìm
trong bóng đen của nạn đói và dịch bệnh, bỗng đỏ rực lên vì một biển cờ. Ngọn
lửa của Cách mạng tháng Tám đã xua tan bóng tối, xua tan chết chóc, mở ra một
cuộc đời mới, con người đứng lên làm chủ vận mệnh của mình. Cậu học sinh mới lớn
là anh, đã hòa ngay vào với cách mạng, với kháng chiến, và đã vượt qua những thử
thách trong những năm quê hương anh bị cày đi bừa lại bởi hàng chục trận càn.
Anh không bao giờ hoài nghi ở ngày mai chiến thắng. Vì cuộc cách mạng này có một
ngôi sao chói lọi chỉ đường, đó là Đảng với những tinh hoa kết tụ ở lãnh tụ Hồ
Chí Minh. Niềm tin đó ngày một thêm vững chắc qua những chiến thắng mỗi năm càng
lớn, qua sự trưởng thành nhanh chóng của quân đội, qua sự cuồng bạo trở dần
thành hốt hoảng của kẻ thù. Hình ảnh Bác Hồ trở thành thiêng liêng. Đó là ánh
hào quang bóc trần bộ mặt thực của những kẻ mượn màu cách mạng dân tộc ở đây.
Triều đình họ Ngô cùng với bộ máy cường quyền ghê gớm của nó, không sao sánh
được với Bác và cả một dân tộc đứng sau lưng Người. Người đang chỉ dạo cách mạng
miền Nam.
Cách mạng miền Nam có Người không thể nào không chiến thắng.
Cái nhớ về miền
Bắc xua đi những nỗi lo, xua đi cái buồn của tiếng mưa rơi rả rích những đêm dài
gặm nhấm tâm hồn. Ôi, ước gì lúc này lại được nghe tiếng nói từ Hà Nội, một bản
tin, một bài thơ, một câu hát... Từ ngày vào đây, anh dần mất đi nguồn tiếp sức
đó, đêm đêm áp chiếc máy thu thanh bán dẫn nhỏ vào tai lắng nghe những buổi phát
thanh của đài Tiếng nói Việt Nam. Nhiều năm nay, đối với anh, đó là một nguồn
dinh dưỡng về tinh thần. Thế hệ này do cách mạng tạo nên, với những con người đã
chiến thắng quân Pháp, đã làm nên những bài hát bài thơ như vậy, không thể nào
không tiếp tục chiến thắng. Những cảnh xa hoa, tráng lệ ở Paris, ở Sài Gòn, cảnh
thanh bình, êm đẹp ở đây, không thể nào đánh đổi được với những gì mà anh đã
có.
Từ khi mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời, cuộc đấu tranh của
nhân dân miền Nam rõ ràng đã chuyển qua
một thời kỳ mới. Mặc dù địch cố bưng bít, nhưng qua báo chí hàng ngày của chúng,
vẫn thấy được điều đó. Nội bộ ngụy quyền rối ren, lục đục là thời cơ thuận lợi
cho ta. Tình hình này đang thôi thúc anh tìm mọi cách đề trở về. Anh không thể
cứ nằm đây trong khi tiếng súng chiến đấu đã nổi dậy khắp toàn miền.
Cẩn đã
coi Hai Long là “Thánh Phê-rô” cùng đi cặp đôi với mình. Nhưng Huế và Phú Cam
không phải là mục tiêu của anh. Trong tình hình chính cuộc ở miền Nam, Cẩn tuy
nhiều tham vọng, nhưng chỉ giữ một vai trò hạn chế. Cẩn không có khả năng đi xa
hơn. Và ở đây, Hai Long rất khó liên hệ với tổ chức. Cơ quan chỉ đạo của anh ở
Sài Gòn. Chỉ về đó anh mới có thể tính đến việc bắt lại liên lạc. Cẩn rời Huế
sớm. Nhưng làm cách nào êm đẹp để thoát khỏi vòng tay của Cẩn đang cố níu lấy
anh? Anh đang chờ và đang tạo ra những áp lực mới từ phía Ngô Đình Nhu ở Sài
Gòn. Việc anh trở về Sài Gòn sẽ rất có ý nghĩa nếu đó là yêu cầu của chính Ngô
Đình Nhu.
Sau lễ Giáng sinh năm 1960 bỗng có mấy ngày tạnh ráo. Bầu trời nhẹ
nhõm hơn với những khoảng xanh thẫm và những đám mây chuyển động. Thời tiết khô
và lạnh.
Đột ngột có tin giám mục Lê ra Huế và muốn gặp Hai Long. Sao cha Lê
lại ra đi vào dịp này? Được cha tới thăm vào những ngày này là một ân sủng đặc
biệt của vị chủ chăn dành cho con chiên ngoan đạo. Hai Long cảm thấy quan hệ
giữa cha với mình đã chuyển qua một thời kỳ mới. Nhưng anh cũng nghĩ chắc có
chuyện gì gấp nên cha mới phải tới Huế trong lúc thời tiết đang lạnh giá.
Hai
Long hôn tay giám mục, và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc cha đã dành cho mình một
vinh dự hiếm có. Cha Lê nhìn anh bỗng cặp mắt lấp lánh chứa đựng những suy nghĩ
thâm trầm, nụ cười bao dung, thương mến nở trên môi.
Sau vài lời hàn huyên,
Hai Long báo cáo với cha Lê những diễn biến mới trong tâm tư Ngô Đình Cẩn từ
ngày xảy ra cuộc đảo chính. Cha ngồi lắng nghe, nét mặt không đổi, tỏ ra đã đoán
biết mọi chuyện. Chỉ tới lúc Hai Long nói Ngô Đình Cẩn muốn liên kết lực lượng
giáo khu Phát Diệm với lực lượng của Cẩn ở miền Trung, cha Lê mới đưa mắt nhìn
quanh, rồi nói:
- Bây giờ thuyền sắp đắm, ông Út mới nghĩ đến ta ư? Mới biết
rằng ta cũng có lực lượng ư?
- Thưa Đức cha, Đức cha tiên tri mọi việc,
những gì xảy ra, Đức cha đều nói trước, ông Út rất phục.
Với vẻ đắc chí, cha
Lê kể lại cho Hai Long nghe vụ đảo chính ngày 11 tháng 11 từ khi nhen nhóm tới
lúc nổ tung.
Hai Long hỏi:
- Thưa Đức cha, Mỹ đứng sau vụ này sao lại
chịu để cho đảo chính bị dập tắt quá nhanh chóng?
- Cha chưa nói hết với
anh. Tổng thống còn đứng được vì người Mỹ chưa chủ trương phế bỏ, họ chưa tìm
được con bài nào ra hồn nên phải tiếp tục dùng ông Diệm. CIA được chỉ thị làm
fausse manoeuvre[1], tổ chức đảo chính giả đề cảnh cáo ông Diệm, buộc ông phải
mở rộng thành phần chính phủ quốc gia cho phe đối lập. Họ muốn tăng cường sức
chống Cộng. Mới làm chừng ấy thôi. Người Mỹ chỉ cần trước mắt tách ông Nhu ra
khỏi Phủ tổng thống. Người Pháp và những người thân Pháp căm giận cả Mỹ lẫn ông
Diệm và ông Nhu, định nhân cơ hội này thúc đẩy quá trình đảo chính, lật luôn cả
hai người. Các đảng phái quốc gia cũng bám theo ông Phan Quang Đán toan tính
chuyện có lợi cho phe nhóm. Nhưng tất cả bọn họ đều không biết mọi việc do CIA
sắp đặt hết. Khi CIA lật ngược thế cờ thì cả cánh đảo chính bị dập ngay, trừ mấy
người trốn thoát sang Nam Vang, tất cả đều bị bắt. Đó là thực chất của vụ 11
tháng 11.
Vẻ mặt đắc chí của cha Lê chuyển thành đăm chiêu:
- Vụ này cũng
gây những chuyện phức tạp cho giáo hội. Cha Lộc và một số cha gốc Nam đã bị bắt.
Phía Phát Diệm ta, cha Hoàng và cha Lê Quang Oánh đang bị theo dõi.
- Con tin
rằng, ông Nhu chưa đụng đến Phát Diệm ta. Qua ông Cẩn, con biết cả gia đình họ
Ngô đều rất kính nể uy tín của Đức cha.
- Con nói đúng! - Cha Lê mỉm cười -
Họ đang muốn cầu hòa. Vừa rồi họ đã cử tướng Phạm Xuân Chiểu làm sứ giả mang
tặng vật quý của tổng thống đến chúc mừng cha nhân dịp lễ Giáng sinh. Trong tờ
thiếp tổng thống viết, đập tan chính biến vừa rồi là “một thắng lợi của Phát
Diệm ta”! Họ đã hiểu họ đang ngồi trên lửa. Ông Diệm và ông Nhu đều thực sự dao
dộng vì các cơ quan an ninh của ông Nhu không biết gì về cuộc đảo chính. Cả hai
người đều rất căm giận Mỹ. Các ông đang cho người chạy khắp nơi tìm sự ủng hộ.
Người ta đang gõ cửa Tòa thánh Vatican ở Sài Gòn... Nguy cơ thứ năm mà con chưa
trình bày trong tờ trình bữa trước, giờ đang nổi lên. Cộng sản đã hoạt động
nhiều từ mấy năm rồi. Đây chỉ là thời cơ để họ đưa Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam công khai xuất hiện. Biểu tình, chống đối lan tràn khắp nơi. Lực lượng
vũ trang cộng sản cũng hoạt động mạnh... Khó khăn tứ bề... Không chỉ Cẩn, mà
Nhu, Diệm lúc này, ông nào cũng cần đến ta. Ta có giá của ta! Không phải họ cứ
chìa tay ra là ta vội vàng nắm lấy.
Hai Long băn khoăn:
- Ông Cẩn càng tin
cậy, tha thiết giữ con lại Huế bao nhiêu, thì ông Nhu càng muốn lôi kéo con về
Sài Gòn bấy nhiêu. Con chưa biết xử trí cách nào cho phải phép?
“Phải phép”
là hai tiếng mà cha hay dùng.
Cha Lê xoa tay, nói rất ngọt:
- Phải làm
đẹp lòng người ta chứ! Mà làm hài lòng cả hai mới là thủy chung như nhất chớ!
Người ta ai cũng như ai, muốn điều gì thì chỉ thích được điều đấy.
Cha Lê
nhìn Hai Long với cặp mắt ý nhị và nụ cười nhếch môi.
- Con định cứ ở lại
Huế theo lời khuyến dụ của Đức cha lần trước? - Hai Long nói.
Cha Lê xua tay:
- Cũng tới lúc ta phải tính việc của ta chớ! Tình hình còn biến chuyển
nhiều. Ông Nhu sẽ chẳng yên đâu! Cũng phải liệu mà trở về Sài Gòn sơm sớm, mới
kịp tạo nên thời thế, chẳng lẽ chịu làm thầy dòng ở cố đô này sao? Cha Hoàng có
ý mong anh.
Hai Long hiểu rằng cha Lê không phải chỉ công nhận mình, mà những
ngày sắp tới còn ủy thác cho mình những việc quan trọng.
- Mình cứ nói là
mình có về Sài Gòn thì mới phò trợ cho “người ta” được hữu hiệu, kịp thời, hàng
tháng cứ cho tàu bay vào đón mình ra.
Hai Long cúi đầu tỏ ra đã hiểu ý.
-
Cha ra Huế chuyến này gặp anh chỉ có bấy nhiêu lời thôi.
- Ý cha là ý Chúa
Trời, con nguyện làm đẹp ý Chúa.
Bộ mặt khổ hạnh của cha Lê bỗng bừng lên
rạng rỡ.
2.
Hai Long ở nhà thờ Françisco về Tòa Khâm chờ cả buổi sáng
không thấy Cẩn gọi. Anh không hiểu vì sao lại có sự chậm trễ so với lần
trước.
Buổi chiều, Lê Khắc Duyệt mới phóng xe đến mời Hai Long sang gặp ông
cố vấn.
Tòa nhà của Cẩn ở Phú Cam được canh gác cẩn mật hơn mọi ngày. Cảnh
sát mặc thường phục, súng ngắn giấu trong người, mật vụ rải khắp chung quanh.
Hai Long đoán ở đây hẳn có một cuộc họp quan trọng.
Ông Cậu quần chùng áo dài
nghiêm chỉnh, lại đội thêm cả chiếc khăn xếp, đang đi dạo trong sân, vẻ mặt đăm
chiêu, thấy Hai Long y không vồ vập nôn nóng hỏi chuyện gặp cha như lần trước. Y
cùng đi với anh vào nhà và nói nhỏ:
- Ông Nhu mới ở Sài Gòn ra. Ông đòi gặp
anh ngay. Anh liệu kế hoãn binh để ở lại Huế. Ông Nhu đã gặp cha Lê ở sân bay
Phú Bài. Chuyện anh gặp cha, ta sẽ nói sau.
- Dạ... Việc tôi ở lại đây như
tôi đã bàn với cậu Út, cậu cũng sẽ nói như vậy.
Cẩn gật dầu nhưng mặt vẫn khó
đăm đăm. Chắc hắn ngại không nói.
- Anh ngồi một lát chờ ông Nhu. Ông vô vấn
an cụ cố.
Cẩn nói rồi quay ra.
Chỉ còn mình Hai Long ở lại phòng
khách.
Anh chọn chiếc ghế quay mặt về phía ngôi nhà cụ cố để có thể nhìn ngay
thấy Nhu khi y từ đó đi ra.
Hai Long cảm thấy bàng hoàng. Ngày Chúa hài đồng
ra đời trên máng cỏ năm nay là một ngày kỳ lạ! Cùng một lúc, anh đạt tới cả hai
mục tiêu. Mục tiêu sau còn bội phần quan trọng hơn mục tiêu trước. Đây là cái
đích mà anh đã nhắm nhiều năm nay, nhưng chưa lần nào đến được gần. Chính Nhu
chứ không phải Diệm, là người cấu trúc quyết định mọi đường lối, chính sách của
chính quyền ở miền Nam. Nhu là “bộ não của chế độ”. Y là cha đẻ của cái thuyết
hổ lốn “cần lao - nhân vị”. Nhu là lãnh tụ của đảng Cần lao - Nhân vị. Người ta
chê Nhu kiêu ngạo, sợ vợ. Nhưng cũng nhiều người khen Nhu có học, thông minh,
sắc sảo. Nhu còn nổi tiếng là người có bản lĩnh chiến lược, chuyên dùng những
đòn hiểm độc... Chạm trán với Cẩn là đụng đầu với hung thần. Nhưng chạm trán với
Nhu là đụng đầu với tử thần. Anh đã chế ngự được hung thần, nhưng với tử thần
thì sao? Anh cảm thấy mình đơn thương độc mã.
Gió chiều đông từ phía sông An
Cựu thổi về lùa vào ngôi nhà họ Ngô trầm lặng mênh mông như một âm cung. Hơi
lạnh thấm vào da thịt, Hai Long như người đã dốc hết sức lực leo lên một đỉnh
tháp cao, đến lúc dừng lại, nhìn xuống. Anh cảm thấy ngợp vì tình thế chênh vênh
của mình.
Tại sao Nhu lại phải ra tận Huế gặp mình? Cha Lê đã nói chế độ Diệm
đang lung lay, Diệm và Nhu đều dao động trước quá nhiều mâu thuẫn nan giải.
Riêng với Nhu càng gay gắt, âm mưu của Mỹ lúc này trực tiếp nhằm vào Nhu, chúng
muốn gạt Nhu để tách Nhu khỏi Diệm. Nhu muốn đi tìm ánh sáng trong đường hầm ư?
Nhu muốn tìm hiểu thêm về phía đối lập mà y cho rằng anh có nhiều nguồn tin? Nhu
muốn dùng Hai Long làm trung gian hòa giải với cha Lê ư? Nhu muốn sử dụng vai
trò của Hai Long trong cánh đối lập ư?... Hay là vì tất cả những lẽ đó...?
Gặp y vào thời điểm này rất có lợi cho mình. Mình đã tạo cho mình một cái
thế - mặc dù đây chỉ là thế mượn - để đối thoại với y. Mình hoàn toàn chủ động
vì đã có đủ thời giờ chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ. Còn Nhu đang ở thế kẻ phải đi
tìm mình, tâm thần y chắc vẫn còn chưa ổn định sau cuộc đảo chính, y sẽ dễ bộc
lộ những sơ hở... Nghĩ như vậy, đầu óc anh trở lại bình tĩnh và còn cảm thấy
phấn chấn.
Y kia rồi!... Một người từ căn nhà cụ cố đi ra. Khác hẳn với Diệm
và Cẩn, y có tầm vóc cao lớn. Y mặc một bộ đồ len sẫm màu, chiếc áo len cổ lọ
kéo lên tận mang tai. Nhu đi lao đầu về phía trước, hai bàn tay để giáp ngực,
những ngón tay đan vào nhau. Thoạt trông y như đang chống với cái lạnh từ luồng
gió ngoài sông thổi về. Nhưng anh lại thấy hai bàn tay Nhu rời nhau, bàn tay
phải nắm chắc lại, đập vào lòng bàn tay trái. Anh biết Nhu đang bận tâm suy nghĩ
và trong óc y vừa chợt nảy ra một điều gì.
Hai Long vội đứng lên trong khi
Nhu chưa kịp nhìn thấy anh. Anh cần phải chuẩn bị cho mình một tư thế trong
những giây phút tiếp xúc đầu tiên. Anh chắp hai tay sau lưng ung dung đi bách bộ
về phía cuối gian nhà. Anh tính toán khi Nhu tới cửa phòng khách thì chỉ trông
thấy phía lưng anh, mình đang khoan thai dạo bước như một người thân thuộc trong
gia đình. Khi Nhu bước vào phòng khách thì anh vừa đi đến cuối nhà quay lại. Anh
sẽ có thời giờ trực tiếp quan sát thái độ của Nhu. Mình cần phải rất tự nhiên,
ứng phó một cách bình tĩnh, linh hoạt như mọt người đại diện có thẩm quyền của
cha Lê.
Từ xa, Nhu đã nhìn thấy anh. Y rảo bước tiến lại như muốn nhanh chóng
thu ngắn khoảng cách. Vóc dáng cao lớn, lanh lẹn. Mái tóc đen dày làm che cái
đầu đã to càng to thêm. Bộ mặt vuông vức đã mang dấu nhiều nếp nhăn suy tư, hơi
bị bóp lại phía dưới vì cái cằm nhỏ và nhọn. Dưới cặp lông mày nằm ngang nổi lên
một cặp mắt rất sắc.
Cảm giác đầu tiên của anh, Nhu không có dáng dấp của một
nhà lãnh đạo quốc gia. Y giống như một tài tử nước ngoài, xuất hiện trên phim
ảnh với vai trò của một nhà quý tộc châu Âu ra đón người thân thuộc đẳng cấp của
mình. Và Hai Long cảm thấy với tầm vóc bé nhỏ, bộ quần áo sờn cũ, cái áo len bạc
màu, mình là một nhà quý tộc đã sa sút, đang cố làm sao để biểu lộ sự tự
trọng...
- Bonjour camarade![2]
Hai bên cầm tay nhau trao đổi
những câu thăm hỏi sức khỏe bằng tiếng Pháp. Hai Long nói:
- Xin chào ông cố
vấn chính trị, rất hân hạnh gặp lại người cựu chiến hữu của Phát Diệm chúng
tôi.
Nhu buông tay Hai Long, xoay mình nhẹ nhàng, quàng tay trái lên vai anh,
dìu nhẹ anh cùng sánh đôi đi thêm mấy bước. Động tác của Nhu giống hệt như khi
tên mật vụ của Dương Văn Hiếu đến bắt anh ở chân dốc cầu Thị Nghè. Chỉ khác là
bàn tay Nhu nắm tay anh nóng hổi, cánh tay Nhu đặt trên vai anh nhẹ nhàng như
không có sức nặng.
Nhu cùng anh đi suốt dọc ngôi nhà. Nhu hỏi ngay như một
người đã quen biết lâu ngày.
- Đức cha Lê có nói gì thêm với anh không?
-
Thưa ông cố vấn, sáng nay ông cũng đã gặp Đức cha?
- Có, tôi gặp Đức cha ít
phút ở sân bay Phú Bài, chỉ trao đổi đôi lời vấn an. Cha hồng hào khỏe mạnh
nhưng... hình như cha vẫn dè dặt...
Rõ ràng Nhu không hài lòng về cuộc gặp
gỡ.
- Thưa ông cố vấn, tôi nghĩ rằng câu chuyện sẽ khá dài. Những điều tôi
viết trong tờ trình là rất vắn tắt. Sáng nay cha có nói một đôi điều... (ngập
ngừng) tôi nghĩ là hệ trọng. Có thể nói gọn hết cả trong một vài câu. Nhưng e
chẳng giúp ích được gì cho ông cố vấn. Cần phải đi sâu vào từng vấn đề, từng con
người, từng chi tiết mới mong tránh khỏi sự ngộ nhận. Tôi hằng mong bộc bạch với
ông cố vấn nhiều điều chưa có dịp nói ra.
- Très bon![3] Vì vậy tôi mới cất
công ra đây. Tôi đã nói với cậu Út, chiều và đêm nay anh ở đây. Anh và tôi sẽ
trao đổi tới trước khi tôi ra máy bay. Chúng ta sẽ nói chuyện một cách thẳng
thắn... Cũng cần nói trước là tôi có những điểm không đồng tình với bản nhận
định của anh.
Cặp mắt đang nồng nhiệt của Nhu bỗng trở nên lạnh như băng và
đầy uy quyền.
- Thưa ông cố vấn, điều đó dễ hiểu, ông cố vấn và tôi đứng ở
những vị trí, hoàn cảnh rất khác nhau.
- Vì vậy mới cần trao đổi.
Bàn tay
Nhu nắm chặt lại.
Hai Long chưa hiểu y coi mình là bạn hay là kẻ đối
địch.
Như để tránh sớm sa vào tranh luận, Nhu vừa dẫn Hai Long đi vòng quanh
gian buồng vừa ôn lại những kỷ niệm cũ hồi cuối năm 1946 từ Hà Nội trốn vào Phát
Diệm, nương náu ở Nhà Chung, rồi được cha Lê cử Lê Quang Luật, Hoàng Bá Vinh,
những người ở Phong trào xã hội Công giáo, bố trí đưa qua Lào.
Đối lại, Hai
Long cũng thao thao kể về tình hình giáo khu Phát Diệm - Bùi Chu từ năm 1946 đến
nay, rõ ràng từng giai đoạn, từng sự kiện, từng nhân vật. Với số vốn liếng đã
thu thập được, anh biết mình thừa sức làm cho Nhu tin, vì y chỉ có mặt ở địa khu
này một thời gian rất ngắn.
Khi hai người ngồi vào bàn, Hai Long mới bắt đầu
thuật lại cuộc trao đổi sáng nay giữa anh với cha Lê.
- Cha lo ngại lắm! Ngài
nói rằng Việt Nam cộng hòa chẳng được yên đâu! Mỹ còn gây tiếp khó khăn cho tổng
thống. Mỹ sẽ làm áp lực cho kỳ được để đưa ông cố vấn ra khỏi Phủ tổng thống.
Tôi có hỏi ngài có bằng cớ chắc chắn không, thì ngài nói rằng, ngài là người
trong cuộc rồi. Ngài ca tụng Pháp khôn ngoan, vẫn bí mật nắm chắc lực lượng, đợi
cơ hội đến là lật đổ chế độ như ngày 11 tháng 11 vừa rồi. Tôi tỏ vẻ hoài nghi,
thì ngài bảo cứ về Sài Gòn sẽ rõ. Ngài lại khen Cộng sản đa mưu túc trí, thừa
dịp đục nước thả câu, lập ra Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam để phát động
chiến tranh cách mạng. Ngài lo ngại cho tổng thống tìm cách nào để đương đầu với
ba kẻ thù trong thời gian tới.
Nhu phảy tay, phản ứng rất nhanh:
- Tình
hình đâu có đáng lo ngại, bi quan như ý cha! Khó khăn lúc này đâu bằng năm 1954,
khi tổng thống mới về, chỉ có mấy chục vạn giáo dân di cư đồng lòng nhất trí
đứng sau lưng, tổng thống vẫn vãn hồi được an ninh trật tự, dẹp tan thù trong
giặc ngoài... Sao lúc đó chúng ta đoàn kết như vậy? Chỉ cần giáo dân, linh mục
ủng hộ tổng thống như hồi đó!.. Theo tôi, Mỹ cần phải có Việt Nam cộng hòa trong
chiến lược chống Cộng của họ. Có lãnh tụ chống Cộng nào ở Á châu sánh được với
tổng thống? Mỹ hiểu như vậy, ta không vội lo về phía Mỹ.
Thấy Hai Long ngước
mắt nhìn mình, Nhu hỏi:
- Chắc anh không đồng ý với tôi?
- Tôi vẫn lắng
nghe ý kiến ông cố vấn.
- Điều ta phải quan tâm trước hết - tôi khác ý kiến
cơ bản với anh về điểm này - là Cộng sản mới đổi chiến lược; họ đã phát động
chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam, trên lãnh thổ Việt Nam cộng hòa thực sự
bắt đầu có chiến tranh...
Nhu nhíu mày, đôi mắt sâu lại, nhìn Hai Long chằm
chằm, nhưng anh không thay đổi sắc mặt, tỏ ra vẫn chăm chú lắng nghe.
- Tôi
có chiến lược dập tắt cuộc chiến tranh ngay khi nó bắt đầu!... Phải đánh bại
chiến lược chiến tranh du kích bằng chiến lược chống chiến tranh du kích có kết
quả ở Mã Lai, rất bảo đảm, rất thành công.
Giọng nói của Nhu trở nên say sưa.
Cặp mắt Nhu nhíu lại như đang tập trung nhìn xoáy vào một mục tiêu nào ở phía
xa. Rồi Nhu ngoảnh lại trỏ thẳng ngón tay vào mắt Hai Long, miệng mỉm cười:
- Toi[4] cứ nhớ lại khu tự trị Công giáo Bùi Chu - Phát Diệm của Đức cha hồi
trước. Toi chịu khó, nếu óc giàu tưởng tượng của toi cho phép, hình dung ra
những làng xã ở nông thôn Việt Nam cộng hòa được tổ chức theo cách như vậy...
Cộng sản sẽ không có đất, không có dân, không thể nào mở rộng chiến tranh du
kích được nữa. Nơi nào có du kích cộng sản, cho khoanh tròn lại (ngón tay Nhu vẽ
một vòng tròn) tiêu diệt ngay! Giải quyết được vấn đề Cộng sản ở miền Nam, ta đã
có đủ yếu tố căn bản đối phó dễ dàng với mọi mưu toan của Pháp cũng như mọi thử
thách của Mỹ... Tôi hiện đang sử dụng một số chuyên viên Do Thái, Anh, Mã Lai có
kinh nghiệm về chiến tranh chống du kích cộng sản, nhưng xét đến cùng, muốn kế
hoạch có giá trị thực tế vẫn phải dựa vào những người đã từng xây dựng những khu
Công giáo tự trị, khu dinh điền, vùng đạo giáo, vùng dân tộc thiểu số... Tôi đã
cho nghiên cứu rút kinh nghiệm, đặc biệt về đại xã Đồng Quan và giáo khu Bùi Chu
- Phát Diệm...
Mặt Nhu bỗng lạnh đi, giọng nói trở nên gay gắt:
- Thế mà
các linh mục di cư cứ bới hết chuyện này đến chuyện khác! Công giáo Việt Nam
thật lắm chuyện! Không hiểu Đức cha Lê với cha Hoàng nghĩ sao? Các cha chống
Cộng, tổng thống và chúng tôi cũng chống Cộng. Không hiểu tại sao không gặp nhau
mà tính chuyện nội bộ trong nhà, lại cứ kình địch nhau? Trách gì bên ngoài, nào
Pháp dấy loạn, nào Mỹ gây áp lực, nào Cộng sản nổi lên khắp nơi! Nguyên nhân là
tại các cha hết, nên mới xảy ra vụ đảo chính 11 tháng 11 vừa rồi. Còn xảy ra vụ
nào khác cũng tại các cha!
Nhu trừng trừng mắt nhìn Hai Long:
- Anh cũng
thế! Các anh có trách nhiệm về tình hình hiện nay. Ở gần các cha hàng chục năm,
các anh cố lôi kéo các cha về phía các anh, bất chấp quyền lợi quốc gia dên tộc;
các anh chẳng bàn vào mà chỉ tán ra, làm cho từ giám mục đến linh mục đều nghi
kỵ tổng thống, quấy rầy tổng thống!
Hai Long chột dạ. Anh đã gặp Ngô Đình
Cẩn. Cẩn cũng đôi lúc giậm dọa nhưng hắn hầu như bị anh thuyết phục, thường chịu
chuyện và đồng tình với anh. Nhưng đối tượng hôm nay khác hẳn. Hắn bác bỏ mọi ý
kiến, lý lẽ của anh, và còn muốn dùng sức mạnh để áp đảo anh... Hay hắn đã đánh
hơi thấy điều gì sơ hở của mình trong âm mưu ly gián bọn chúng...?
Nhu hậm
hực dằn từng tiếng:
- Hồi nào tới giờ, tổng thống vẫn một lòng kính mến cha
Lê. Lê Quang Luật đã tách ra đi với Đại Việt. Nguyễn Văn Châu đi hàng hai hàng
ba. Cha Hoàng, cha Lộc cặp kè với bọn đối lập, đòi mở rộng thành phần chính phủ.
Đó toàn là người của cha Lê, của Phát Diệm, Bùi Chu... Ai mở rộng chính phủ cách
mạng cho bọn xôi thịt? Bọn chính khách xa-lông?
Nhìn thấy Cẩn đi vào, Nhu
chuyển sang nói bằng tiếng Pháp:
- Chính anh, tác giả của bản nhận định tình
hình, anh có dụng ý gì khi trao bản đó tới tay chúng tôi? Anh định áp đảo chế
độ, định gây áp lực với tổng thống chăng?
Cẩn bước lại, chắp hai tay:
-
Thưa anh, em mời anh và thầy phụ tá nghỉ công việc một lát. Cơm đã dọn dưới
nhà.
- Chú chờ chút nữa, chúng tôi đang dở câu chuyện.
Nhu quay lại phía
Hai Long, vẫn tiếp tục nói bằng tiếng Pháp:
- Anh nghĩ ra sao về những điều
tôi vừa nói?
Cẩn lui ra. Rõ ràng y cố nén sự bực dọc khi thấy ông anh không
muốn cho mình nghe cuộc đàm luận bằng cách dùng tiếng ngoại quốc.
Hai Long tự
chế ngự trước cặp mắt và những lời lẽ áp đảo của Nhu, trả lời bằng một giọng xúc
động của người bị hàm oan:
- Thưa ông cố vấn, tôi xin nhận lĩnh hết thảy
những điều ông cố vấn lên án Đức giám mục, các linh mục, những lời buộc tội anh
em Công giáo di cư, trong đó có cá nhân tôi. Tôi biết phận mình là con chim lạc
đàn, là một tù nhân không hiểu sao mình lại bị cầm tù, bên bờ Hương Giang. Tôi
an phận cam chịu, nhưng Đức cha vì thương xót con chim lạc bầy, nên đã viết thư,
nhắn lời và bỏ cả những ngày lễ trọng ra thăm tôi, chăm sóc phần hồn và phần xác
cho tôi. Tình thâm nghĩa trọng hoạt động với nhau hàng chục năm ròng, Người nỡ
bỏ rơi tôi sao! Tôi đã thưa với ông cố vấn, ở những cương vị khác nhau, những vị
trí khác nhau, khó mà có sự nhất trí, thông cảm với nhau... Tôi là một người
đang bị chế độ cầm tù, chẳng lẽ lại dại dột mưu toan gây áp lực với tổng thống,
với chế độ? Tôi biết rõ nếu làm việc đó, mình sẽ lãnh những hậu quả như thế nào!
Chỉ thương cho Đức cha! Ngài có chút ân tình với tổng thống, ngài lo ngại cho
tổng thống, cho ông cố vấn, cho vận mệnh quốc gia, nên ngài đã dùng tôi làm một
người “báo nguy” cho chế độ. Ngài đã làm theo lời dạy trong Kinh thánh: “Không
có tình thương yêu nào lớn bằng thương yêu bạn mà phó mạng sống của mình!”. Có
lẽ ngài biết rằng làm việc này, ngài cũng như đệ tử của ngài, đã chọn con đường
Thánh giá... Thưa ông cố vấn, tôi không hiểu Đức cha sẽ suy nghĩ gì khi biết
ngài, cũng như cả khối Công giáo di cư, bị kết án là có trách nhiệm chính về vụ
đảo chính vừa rồi, và tất cả những vụ khác xảy ra sau này; trong khi ngài lại
chính là người đã qua tôi, lưu ý tổng thống và ông cố vấn cần đề phòng những
hiểm họa sắp xảy ra? Và ngay lần ra thăm này, ngài cũng tiếp tục làm công việc
đó... Tôi xin ông cố vấn, với quyền lực của mình, hãy ra nghiêm lệnh cho Đức
cha, cũng như bất cứ ai, không được ra vào thăm viếng tôi, để những vị đó cũng
như tôi đặng yên phần xác, rỗi phần hồn...
Hai Long nói một hơi dài. Nhu xua
tay:
- Hãy khoan nào! Bình tĩnh lúc này là cần thiết cho đại sự. Tôi kêu gọi
ở anh một thái độ trầm tĩnh; giận dữ làm cho người ta mất trí khôn.
- Thưa
ông cố vấn, tôi đã nghĩ ra là nên biết an phận tù đày.
- Ai bắt anh tù? - Nhu
sẵng giọng hỏi lại – Anh còn nói chuyện tù đày thì khác nào anh phá kế hoạch của
tôi! Nếu anh là người bị tù đày, chắc chắn Đức cha không lui tới thăm anh, mà
tôi cũng không ra đây. Một số người Phát Diệm bị chính phủ bắt bỏ tù, có cha nào
đến thăm?... Tôi buồn phiền vì ông cố đạo Hoàng Lâm, nhóm Lê Quang Luật cùng phe
cánh làm nhiều điều xằng bậy, tổng thống sẽ trị tội họ. Còn anh, nếu tôi cũng
coi anh như họ, thì không có cuộc gặp gỡ chiều nay... Tôi gặp Đức cha sau khi
ngài vừa gặp anh. Tôi ướm hỏi chuyện ngài, ngài chẳng buồn nói... Theo anh, tại
sao cha lại có thái độ lạnh nhạt với tôi nếu cha vẫn nghĩ đến ân tình cũ với gia
dình họ Ngô?... Thôi, bây giờ ta nghỉ đi ăn cơm. Chiều nay, tôi đã nói nhiều
rồi. Buổi tối, sẽ dành cho toi...
Hai Long vừa dừng lại định cúi chào thì Ngô Đình Nhu đã
bước nhanh lại chìa tay ra, siết thật chặt, đôi mắt sáng ngời, cất tiếng chào
nồng nhiệt, cởi mở:
Cuối cùng, anh đã hiểu vì
sao Nhu rất vồn vã khi mới gặp anh, nhưng sau đó đã trở thành giận dữ. Đó là do
hậu quả của cuộc tiếp xúc lạnh nhạt giữa y và cha Lê sáng nay tại sân bay. Y đã
trút cả sự giận dữ không riêng với cha Lê mà cả với nhiều cha cố Phát Diệm xuống
đầu anh. Anh đã nhận thấy những nhược điểm của mình trong buồi đối đầu lần thứ
nhất với y. Anh còn chưa chế ngự được sự xúc động trong khi tiếp xúc. Những
chuyển biển quá mau lẹ trong suy nghĩ và trong thái độ của đối tượng có những
lúc khiến anh bối rối. Anh chưa kịp thời phát hiện được những nhược điểm của y,
tâm trạng của y, y đang cần gì?... Qua vài giờ trao đổi, có thể thấy Nhu là một
con người đã quá quen với quyền lực, và quyền lực đã tăng thêm sự tự tin của y.
Y có kiến thức, nhạy cảm và thông minh. Nhưng y cũng đã để lộ rõ nhược điểm về
sự am hiểu tình hình thực tế chính trị ở miền Nam, tình hình thực tiễn chiến
tranh ở Việt Nam (y chỉ hiểu qua sách vở và suy luận), và sự hiểu biết về con
người. Đó là những cái anh có thể khai thác trong cuộc gặp gỡ tối nay. Cũng thấy
rõ là y đang ở trong một trạng thái mất thăng bằng, y nổi nóng vì những chuyện
không quan trọng... Mình phải cố làm cho y không thất vọng về chuyến đi, mình có
thể đáp ứng một số yêu cầu hiện thời của y, y cần phải có mình. Nếu không là
thất bại...
Trên bàn trà thiếu hai vật quen thuộc: hộp thuốc lá Cẩm Lệ và hộp
khảm đựng trầu. Thế vào đó là một bao Camel và hai tách cà phê, nói lên cuộc
chuyện trò sẽ kéo dài tới khuya.
Nhu xé bao thuốc lá thơm mời khách rồi rút
trong túi ra một bao Bastos màu xanh. Nhu cười nói với Hai Long:
- Mình quen
dùng thứ nặng này. Ở nhà bà Lệ Xuân chỉ cho hút một ngày đúng bốn điếu, bữa nay
đã dùng hết nửa gói... Toi bật đầu đi. Thời giờ tối nay hoàn toàn thuộc về
toi.
Nhu nói rất nhanh. Thái độ của y lúc nào cũng khẩn trương.
Hai Long
giữ vẻ từ tốn vốn có của mình:
- Tôi xin trả lời những câu ông cố vấn đã nêu
ra ban chiều. Trước hết, về thái độ của Đức cha với ông cố vấn. Thoạt nghe, tôi
hơi ngỡ ngàng. Cha ra Huế với thiện chí đối với tổng thống với chế độ. Nhưng tại
sao khi gặp ông cố vấn, ngài vẫn tỏ ra lạnh nhạt? Thái độ này có liên quan đến
cá tính của cha. Ông cố vấn chắc hiểu cha từ ngày ở Phát Diệm, ngài đã quen được
những nhà lãnh đạo quốc gia đón mời. Ngài chờ Cụ Hồ cử người mời, mới tới Phủ
Chủ tịch. Ngài không bao giờ tới dinh quốc trưởng Bảo Đại cũng như cao ủy Pháp ở
Đông Dương. Chi có Bảo Đại, Pignon[5], De Lattre De Tassigny[6], Henri
Navarre[7] tới yết kiến cha ở Phát Diệm. Bởi vì tính ngài rất tự cao tự đại.
Ngài lo cho chế độ, ngài thương tổng thống nhưng không vào Phủ tổng thống là do
tính nết của ngài. Ngoài ra, còn do vị trí của ngài ở chính trường miền Nam.
Ngài mới nhắc: “Dù tổng thống ra thế nào, thì ngài và giáo hội vẫn còn!”. Gần
đây chắc tổng thống cũng nhận thấy điều đó, nên đã có một cử chỉ rất đẹp là gửi
thiệp và tặng vật quý đến chúc mừng Đức cha nhân lễ Giáng sinh. Trong thiệp,
tổng thống còn viết thắng lợi vừa qua là “thắng lợi của Phát Diệm ta”. Ngài rất
cảm dộng, chính ngài đã nói với tôi sáng nay.
Nhu gật gù, miệng cười nụ:
- Mình biết việc đó.
Hai Long thừa hiểu việc này do Nhu đạo diễn, nhưng
cũng nhân đây vạch cho y một sơ xuất:
- Kể ra tổng thống cử một người khác
đi gặp Đức cha thì hơn là tướng Phạm Xuân Chiểu. Ông Chiểu dù sao cũng gợi cho
cha nghĩ đến thất bại trong việc dùng người.
Tướng Chiểu trước kia là người
của cha Lê, sau khi lực lượng tự vệ Phát Diệm bị đàn áp, chạy sang quy thuận
Diệm – Nhu.
Nụ cười của Nhu trở thành gượng gạo. Hai Long làm như không biết,
thản nhiên nói tiếp:
- Cha ra Huế ngoài mục đích thăm tôi, còn muốn qua tôi
báo cho tổng thống và ông cố vấn một số vấn đề trọng đại và khẩn trương. Ở cương
vị của ngài, ngài luôn luôn phải thận trọng, tế nhị mới giành được sự tín nhiệm
của cả Mỹ và Pháp, nếu không thì khó biết rõ họ muốn gì, họ đang làm gì với đất
nước. Đối với vụ đảo chính vừa qua, cha quy trách nhiệm về phần tổng thống, vì
ngài dã thông báo trước mà không có biện pháp ngăn ngừa. Các cơ quan an ninh của
ta hoàn toàn không biết về việc Mỹ, Pháp sử dựng quân dù gây biến cố. Dân chúng
càng dao động khi thấy binh chủng nhảy dù, con cưng của tổng thống, đã quay mũi
súng chống tổng thống, họ sẽ đặt vấn đề tin tưởng đối với tổng thống...
Hai
Long ngừng nói, nhìn Nhu chờ xem phản ứng. Nhu khuyến khích:
- Anh cứ nói
tiếp, chớ có điều chi phải e ngại.
- Ông cố vấn có cái nhìn toàn cục chiến
lược đối với tình hình đất nước hiện nay. Tôi rất tán đồng chiến lược chống
chiến tranh du kích của ông cố vấn, đặc biệt là ông cố vấn đã rất coi trọng
những kinh nghiệm chiến đấu của bản thân giáo dân ta ở Phát Diệm - Bùi Chu.
Nhưng hiện nay, xét cho cùng thì nguy cơ cộng sản tuy là rất lớn, lớn nhất đó,
nhưng hãy còn xa. Vì Cộng sản chỉ mới làm chủ được rừng núi và vùng nông thôn
hẻo lánh, có phát triển lực lượng và chiếm đất theo chiến thuật “vết dầu loang”
nhanh cách nào, cũng phải vài ba năm mới đủ lực lượng tiến vào thành thị, lật đổ
chế độ cộng hòa ở Sài Gòn. Biến cố ấy không thể nào là biến cố bất ngờ! (Hai
Long nhấn mạnh)! Đức cha chưa bận tâm nhiều đến nguy cơ cộng sản, vì còn lâu mới
xảy ra, ta còn thời gian để lo liệu. Pháp và Mỹ chính là nguy cơ trước mắt. Vụ
đảo chính vừa qua đã chứng tỏ rõ, Vương Văn Đông được Pháp chuẩn bị từ lâu, đã
tổ chức lực lượng sẵn sàng, chờ Mỹ có hành động áp lực với tổng thống là “mượn
gió bẻ măng”, thừa cơ lật đổ tổng thống. Nếu Đông không nghe lời khuyến cáo của
cố vấn Mỹ ở tại chỗ, để đại tá Khiêm kịp đưa viện binh từ Mỹ Tho lên cứu nguy
cho tổng thống thì cục diện hôm nay sẽ ra thế nào?...
Nhu vẫn lặng thinh
ngồi nghe, mắt không nhìn Hai Long, tay mân mê bao thuốc lá.
Hai Long ung
dung nói tiếp:
- Còn về Mỹ thì sao? Theo ý Đức cha: Mỹ cần mảnh đất Nam Việt
Nam này hơn chế độ cộng hòa cùng với nhân vật lãnh đạo chế độ hiện nay! Mỹ đã
thật sự đưa Phan Quang Đán ra uy hiếp tổng thống. Mỹ đã có âm mưu muốn thay thế
tổng thống. Đán thường xuyên liên lạc với đại sứ Mỹ Durbrow ở Sài Gòn, trong khi
đó, em của Đán, Phan Huy Đức luôn luôn bám giám mục Nguyễn Văn Hiền. Biến cố 11
tháng 11 chứng minh rõ ràng chỉ trong khoảnh khắc, chế độ và tổng thống có thể
bị lật đổ do bàn tay của Mỹ và Pháp, với lực lượng quân sự, chính trị ở ngay thủ
đô Sài Gòn, nằm sẵn trong chế độ cộng hòa. Cộng sản với lực lượng quân sự nhỏ
yếu hiện nay, dù có muốn lợi dụng tình hình chính trị khó khăn của ta, cũng
không thể nhanh và kịp thời bằng Pháp được!
Nhu gật gù, xoa tay như sắp buột
ra một lời đánh giá, nhưng y đã kịp ghìm lại, chuyển qua chuyện khác.
- Tiện
đây, moi[8] trở lại bản tham luận của toi. Toi viết theo style acdémique[9]; nó
trang trọng, khúc chiết, nhưng nội dung khập khiễng vả thiếu phần thực dụng. Có
nhận định, suy luận còn phải có phần tổ chức, biện pháp nữa chứ? Tại sao toi
không đứng hẳn về phía cha Lê hay đứng vào vị trí những người cầm quyền mà đưa
ra ý kiến này, ý kiến khác ứng phó với tình hình? Nói nguy cơ trầm trọng mà
không chịu lộ biện pháp giải quyết, thì khác nào gây áp lực với tổng thống?
Nhu vung tay nói tiếp:
- Phải quét sạch bọn xôi thịt gây rối loạn, phải
chặn đứng Cộng sản, đề phòng Pháp, dè chừng Mỹ.
Hai Long gật đầu. Nhu tưởng
anh tán đồng, nói tiếp:
- Cha Lê có vị trí đặc biệt hiếm có ở miền Nam, Ngài
đi hàng hai, hàng ba, hàng tư. Ngài biết rộng, hiểu sâu nhiều vấn đề, nhiều
người, nhiều nước. Sự hiểu biết của ngài thật quý giá đối với tổng thống. Anh
làm cách nào hiểu hết được những suy nghĩ nhận xét của ngài rồi anh phân tích,
tổng hợp tất cả để giúp tôi hiểu được ngài như anh hiểu. Cha bàn cách giải quyết
thế nào, và riêng ý kiến anh ra sao, cũng thẳng thắn cho tôi biết để tôi rộng
đường nghiên cứu đối sách... Tôi công nhận anh là người có nhiều khả năng phân
tích... Anh hãy vận động, hối thúc cha lui với thăm tổng thống. Về phần tôi, sẽ
tạo điều kiện để tổng thống gần cha hơn. Chúng ta không thể để tình trạng lạnh
nhạt kéo dài giữa hai vị lãnh tụ. Người trong nhà ly tán, kẻ ngoài dòm ngó, xen
lẫn nội bộ ta, can thiệp vào công việc nội trị, ngoại giao của ta.
Cái đích
của buổi gặp gỡ đã đạt được.
Hai Long muốn nhân đây khoét thêm mâu thuẫn giữa
Mỹ và Diệm - Nhu, nhưng lại e vội vàng.
Đúng lúc ấy, Nhu hỏi:
- Anh xem
ý kiến Đức cha đối với Pháp, Mỹ hiện thời ra sao?
- Cha cho rằng Mỹ ủng hộ
hoặc gây áp lực với tổng thống đều vì đường lối, chính sách của Mỹ đối với Việt
Nam, vì quyền lợi của Mỹ, tuyệt nhiên không vì tổng thống. Nếu khi quyền lợi của
họ bị trở ngại, họ sẽ không từ điều gì không làm để phá bỏ trở ngại. Đức cha
thường căn dặn tôi: Người Mỹ theo chủ thuyết thực dụng, không theo thuyết “duy
linh”, nên họ coi trọng quyền lợi vật chất, xem nhẹ đạo đức tình nghĩa. Cái lý
của họ là lý của kẻ mạnh. Họ trở mặt ngay với bất kể bè bạn, đồng minh.
Roosevelt[10] dối với De Gaulle[11] là một ví dụ. De Gaulle đến nay vẫn còn mang
hận. Trái lại, Pháp trọng tình nghĩa, đạo đức hon, đối xử có thủy có chung với
những người đã hợp tác với họ. Họ vẫn không ngừng liên lạc và giúp đỡ Đức cha...
Gần cha từ lâu, tôi cứ đinh ninh cha thân Pháp, xử lý theo quan điểm của Pháp.
Nhưng biến cố 11 tháng 11 đã làm tôi tỉnh ngộ.
- Toi sửa soạn về Sài Gòn
ngay! Giữ bí mật để tránh mọi quấy phá và chuẩn bị đương đầu...
Mỗi lần cậu
Út đi ngang, Nhu lại chuyển sang nói bằng tiếng Pháp. Cậu Út đáp lại bằng những
bước đi nặng trịch.
Một lần cậu Út đi khỏi, Nhu nói thì thầm:
- Toi lưu
ý khi trao đổi với ông Cẩn, chỉ bàn bạc những vấn đề thuộc phạm vi địa phương
miền Trung. Phải nhớ điều đó, ông Cẩn đôi khi nông cạn... Về phần các cha thì
cha nào cũng ham chạp áp-phe. Toi nghiên cứu cho các ông ấy trúng một vài áp-phe
thì ta nhờ cậy việc gì cũng xong. Mình sẽ bàn với ới ông Cẩn đưa toi về Sài Gòn
sớm. Phải chạy đua với thời gian...
Hai Long hiểu thêm một lý do hối thúc Nhu
phải đưa anh về sớm Sài Gòn vì y e ngại quan hệ mật thiết giữa anh với cậu
Út.
- Ông Cẩn có nói cần toi ở lại đây để hoàn tất bản dự thảo kế hoạch chống
đảo chính. Việc đó không thể làm ở đây. Moi sẽ cùng bàn bạc với toi khi toi đã
về Sài Gòn.
3.
4.
Hai Long có khoảng nửa giờ sau
bữa cơm đi dạo quanh sân trước nhà từ đường của họ Ngô để suy nghĩ về cuộc trao
đổi ban chiều, và chuẩn bị cho cuộc gặp buổi tối.
Hai Long ngỡ ngàng
trước cảnh tượng này. Đêm qua anh còn nằm ở một góc nhà giam lạnh lẽo, trên tấm
phản gỗ với chiếc chăn chiên. Tối nay, anh đã ngủ trong nhà vị cố đại thần triều
Nguyễn, giường cao, chiếu sạch, chăn ấm, nệm êm. Giường bên kia là người nắm
trong tay vận mệnh của chế độ. Những người chiến sĩ tình báo phải giàu óc tưởng
tượng. Nhưng anh không thể nào nghĩ được có một đêm anh và Nhu lại ngủ trong
cùng một căn buồng! Nhu chính là kẻ đã thảo ra luật 10/59, đặt những người như
anh ra ngoài vòng pháp luật, cho kéo lê máy chém khắp miền Nam để chặt đầu Cộng
sản nằm vùng. Đêm nay, anh nằm cạnh tử thần. Nếu Nhu nhận ra anh qua một câu nói
trong cơn mê, đầu anh chắc chắn sẽ nằm dưới gốc cam trong vườn của Ngô Đình Cẩn!
Sự biệt đãi đó chứng tỏ Nhu đã coi anh như một “chiến hữu”, một kẻ tâm phúc của
mình. Điều này, Nhu đã kín đáo nói ra trong cuộc trao đổi buổi tối. Nhu đã trao
cho anh nhiệm vụ “theo dõi” Đức cha để báo cáo với Nhu. Nhu không cần hỏi anh có
ưng thuận hay không, vì Nhu tin ở quyền lực của mình, tin ở vị trí con người của
mình. Giữa Nhu và cha Lê, anh sẽ phải chọn Nhu. Nhưng Nhu không biết rằng chính
anh đang rất cần đến y. Anh đã phải vượt qua bao nhiêu con đường quanh co, hiểm
nghèo, phải trả giá bằng những tủi nhục quá sức chịu đựng của mình và nếu cần,
anh sẵn sàng hy sinh nhiều hơn thế nữa để được đến gần con người này vì lý tưởng
chiến đấu của mình.
Mục tiêu đã đạt được. Người anh lâng lâng bay
bổng.
Bên ngoài trăng sáng. Ánh trăng bát ngát trải trên vườn chè ướt át
sương đêm. Như có những ánh mắt lúng liếng của những cô thiếu nữ đang cười. Một
đêm trăng đẹp lạ lùng.
Nhu cũng đang nhìn ra vườn. Phải chăng y cũng đang
ngắm ánh trăng.
- Ông cố vấn ngày xưa có đọc thơ Nguyễn Bính không?
Trước
khi vào học tại trường Bác cổ[12] Paris, Nhu đã tốt nghiệp cử nhân Văn
chương.
Nhu đáp:
- Mình làm chính trị không còn thời giờ đến với thi ca.
Tại sao anh lại hỏi thế?
- Tôi vừa nhớ tới mấy câu thơ của ông ta:
Đêm
nay mới gọi là đêm
Ai đem trăng sáng đãi trên vườn chè.
Trăng đêm nay đẹp
quá!
- Anh bao nhiêu tuổi rồi?
- Tôi đã bước vào tuổi 32.
- Vẫn là
tuổi thanh niên, còn nhiều mơ mộng.
Nhu lại im lặng. Anh biết y nhìn ra vườn
nhưng không phải để ngắm ánh trăng. Đôi mắt y đang chìm đắm trong những suy tư.
Y không còn giây phút nào thảnh thơi. Cuộc trao đổi với anh ngày hôm nay chắc đã
đem lại cho y thêm nhiều lo lắng. Y đang tính toán. Lại một ý đồ, một mưu toan
nào đó đang hình thành trong đầu y. Bộ mặt trầm tư, kín đáo của y nhắc nhở anh,
mình vừa mất cảnh giác. Suýt nữa thì mình lột tuột bộ áo thầy dòng trước ước mắt
lão ta...
Anh bỗng thấy y rất cô đơn.
Y không sung sướng gì trong cương vị
hiện nay. Y ra đây với trăm ngàn nỗi lo vò xé. Y biết rõ mình đang sống giữa
những họng súng vô hình... Mình còn hạnh phúc hơn y rất nhiều.
Trước khi lên
giường ngủ, Nhu quay sang bảo Hai Long:
- Ménage ta monture![13]
Để xem
y vội vàng đến đâu, Hai Long làm như buột miệng đọc một câu ngạn ngữ của người
Ý:
- Chi va piano, va sano...[14]
Tốt nghiệp trường Bác cổ, Nhu rất giỏi
liếng Latin. Nhu nghiêm mặt nói:
- Le temps presse![15]
Suốt đêm, Hai
Long không ngủ. Quá lâu ngày anh mới uống một tách cà phê. Như vậy cũng hay. Anh
rất sợ giấc mơ của mình đêm nay. Ở giường bên kia, thỉnh thoảng Nhu lại trở
mình. Y cũng đang trằn trọc.
Cậu Út đích thân đứng coi người nhà trải đèn chăng
mùng, xếp chăn cho anh và khách. Nhu đã nói với Cẩn để hai người ngủ cùng một
phòng cho tiện trao đổi vì sớm hôm sau đã phải ra máy bay.
5.
---
[1] Động tác
giả.
[2] Chào bạn! (tiếng Pháp)
[3] Rất tốt! (tiếng Pháp)
[4] Anh
(tiếng Pháp)
[5] Léon Pignon: Cao ủy Pháp tại Đông Dương (1948-1950)
[6]
Jean De Lattre De Tassigny: Cao ủy Pháp kiêm Tổng chỉ huy quân Viễn chinh Pháp
tại Đông Dương (1950-1952).
[7] Henri Eugène Navarre: Tổng chỉ huy quân
Viễn chinh Pháp tại Đông Dương (1953-1954)
[8] Tôi (tiếng Pháp)
[9] thể
văn hàn lâm.
[10] Franklin Roosevelt: tổng thống Mỹ (1936-1945)
[11]
Charles A.J.M De Gaulle: thủ lĩnh chính phủ Lâm thời cộng hòa Pháp (1945), tổng
thống Pháp (1959-1969)
[12] Ecole des Chartes
[13] “Hãy chuẩn bị yên
cương!”. Nhu mượn cách nói trong một câu thơ của Jean Racin (1639 - 1699), nhà
thơ Pháp: Qui veut voyager loin, ménage sa monture. (Ai muốn đi xa, thì phải
chuẩn bị yên cương).
[14] Bước chậm, bước chắc...
[15] Thời giờ gấp
rồi!
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 2)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 3)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 4)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 2)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 3)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 4)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét