Châu Văn Tiếp hay Chu Văn Tiếp (Mậu Ngọ 1738 - Giáp Thìn 1784) tên tộc
Châu Doãn Ngạnh, là danh tướng Việt Nam cuối thế kỷ 18 dưới thời Nguyễn
Phúc Ánh, được người đời xưng tụng là một trong “Gia Định tam hùng”.
Châu Văn Tiếp nguyên quán huyện Phù Ly, phủ Hoài Nhơn (nay là Phù Mỹ, - TP.Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) nhưng cư ngụ ở Vân Hòa, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Gia đình ông chuyên nghề buôn bán (chủ yếu là buôn ngựa), nhưng có học.
Ông Tiếp có người anh cả là Châu Đoan Chữ, hai em là Châu Đoan Chân, Châu Đoan Hãn và em gái Châu Thị Đậu (1).
Ông thông thạo tiếng Chân Lạp và Xiêm La. Vốn có sức mạnh, lại ham học võ nghệ nên ông còn có biệt tài sử dụng đại đao.
Châu Văn Tiếp theo nghề buôn bán ngựa, nên có dịp đi đó đây. Nhờ vậy, ông quen biết khá nhiều người mà sau này đều trở thành vương tướng của nhà Tây Sơn, như Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Võ Đình Tú... Song người ông thân thiết nhất là Lý Văn Bửu vì cùng nghề.
Lấy lý do chống lại sự áp bức của quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Nhạc cùng hai em là Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cất binh khởi nghĩa vào năm 1771.
Biết tài Châu Văn Tiếp, Nguyễn Nhạc có cho người đến mời tham gia, nhưng ông khéo từ chối. Để tạo cho mình một thế đứng trong việc mưu nghiệp lớn, bốn anh em Châu Văn Tiếp chiêu tập dân quân đến chiếm giữ núi Tà Lương (Phú Yên).
Nguyễn Nhạc cử người đến mời lần nữa. Châu Văn Tiếp bày tỏ chính kiến của mình là không muốn thay ngôi chúa Nguyễn, mà chỉ muốn tôn phù hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, muốn diệt trừ những tham quan, những quyền thần và Nguyễn Nhạc đã đồng ý.
Hứa hẹn vậy, nhưng khi kéo binh đến Qui Nhơn thì Châu Văn Tiếp mới hay Nguyễn Nhạc đã bội ước. Ông liền rút quân về núi cũ, dựng cờ khởi nghĩa, đề lên bốn chữ ''Lương Sơn tá quốc'' (quân giỏi ở núi rừng lo giúp nước), để đối đầu với quân Tây Sơn.
Khi ấy, lưu thủ dinh Long Hồ là Tống Phúc Hiệp (? - 1776) đang đóng quân ở Vân Phong (nay thuộc Khánh Hòa), khuyên ông nên qui thuận chúa Nguyễn và ông đã nghe theo.
Tháng 3 năm Đinh Dậu (1777), quân Tây Sơn vào đánh Gia Định, Tống Phúc Hiệp lui về tiếp cứu, giao ông giữ Phú Yên, Bình Thuận.
Tình hình Gia Định càng thêm nguy khổn, ông cùng Đỗ Thanh Nhơn đem quân đi kháng cự, nhưng do đối phương quá mạnh mà Lý Tài và Đỗ Thanh Nhân lại luôn hiềm khích, Châu Văn Tiếp buộc phải dẫn bộ hạ về lại núi Tà Lương. Đành để Thái Thượng vương (Nguyễn Phúc Thuần) và Tân Chánh vương (Nguyễn Phúc Dương) bị quân Tây Sơn truy đuổi rồi bị bắt giết.(2)
Sau cuộc đại bại ấy, trong dòng tộc chúa Nguyễn chỉ còn mỗi một chàng trai khoảng 17 tuổi tên Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát, cho nên sau khi Đỗ Thanh Nhơn lấy lại Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh được tướng sĩ rước về tôn làm Đại nguyên súy, Nhiếp quốc chính rồi xưng vương tại Sài Côn (Sài Gòn) vào năm Canh Tí 1780.
Năm Tân Sửu 1781, Châu Văn Tiếp liên kết với hai đạo quân khác để đánh Bình Khang. Nhưng đạo quân của Châu Văn Tiếp chưa kéo binh ra khỏi hậu cứ Phú Yên đã bị trấn thủ nơi này là Nguyễn Văn Lộc đánh cho tan tác, khiến ông lại phải trốn vào núi Tà Lương. Đạo quân do Tôn Thất Dụ từ Bình Thuận tiến ra, bị trấn thủ Lê Văn Hưng đem tượng binh trấn áp làm cho tan vỡ. Đạo thủy quân của Tống Phước Thiêm thì không thể xuất phát được, vì quân Đông Sơn đang khởi loạn ở Gia Định, do chủ tướng của họ là Đỗ Thanh Nhơn vừa bị Nguyễn Phúc Ánh mưu hại (1781).
Nhân cơ hội nội bộ nhà Nguyễn đang rạn nứt, tháng 3 năm Nhâm Dần 1782, Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Nhạc mang quân thủy bộ tiến vào Nam. Hai bên đụng độ dữ dội ở khu vực sông Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang) nơi cửa Cần Giờ. Cuối cùng, Nguyễn Phúc Ánh lại phải bỏ chạy ra đảo Phú Quốc, nay thuộc Kiên Giang.
Một lần nữa, đạo quân Lương Sơn của Châu Văn Tiếp vào tiếp cứu. Khi ấy, Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc đã rút quân về, nên quân Lương Sơn đánh đuổi được tướng Tây Sơn là Đỗ Nhàn Trập, lấy lại Sài Côn. Nhờ đại công này, ông được phong Ngoại tả Chưởng dinh.
Tháng 2 năm Quí Mão 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân vào Nam. Châu Văn Tiếp dùng hỏa công nhưng chẳng nay bị trở gió nên thua trận. Nguyễn vương phải chạy xuống Ba Giồng, còn Châu Văn Tiếp phải men theo đường núi qua Cao Miên rồi qua Xiêm cầu viện.
Nhờ tài năng và sự khôn khéo của ông, vua Xiêm chịu trợ giúp. Châu Văn Tiếp liền gởi mật thư báo tin cho Nguyễn Phúc Ánh. Sau khi hội đàm với tướng Xiêm tại Cà Mau, vào tháng giêng năm Giáp Thìn 1784, Nguyễn Vương sang Vọng Các hội kiến với vua Xiêm. Được tiếp đãi nồng hậu và nhận được sự hỗ trợ, Nguyễn vương tổ chức lại lực lượng gồm các quân tướng đi theo và nhóm người Việt lưu vong tại Xiêm, cả thảy trên dưới nghìn người, cử Châu Văn Tiếp làm đại đô đốc và Mạc Tử Sanh (con Mạc Thiên Tứ) làm tham tướng...
Tháng 6 năm ấy vua Xiêm La là Chất Tri (Chakri, Rama I) sai các tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương và Lục Cổn đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiếc thuyền sang giúp. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, nhưng thực ra là để chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn.
Năm Giáp Thìn 1784, Nguyễn vương đưa quân về đánh nhau với quân Tây Sơn, ông được làm Bình Tây đại đô đốc.
Ngày 13 tháng 10 cùng năm, Châu Văn Tiếp giáp chiến với bị tướng Tây Sơn là Chưởng Tiền Bảo ở sông Mang Thít thuộc địa phận Long Hồ (nay là Vĩnh Long). Bị quân Tây Sơn vây chặt, ông liều chết nhảy qua thuyền của đối phương đánh phá, bị phò mã Tây Sơn là Trương Văn Đa đâm chết, hưởng dương 46 tuổi.
Nhận được tin, Nguyễn vương tõ lời thương tiếc:
“Duyệt và Tiếp là hai cánh tay của ta. Hai người cùng ta, yên cùng yên, lo cùng lo, nay Tiếp giữa đường đành bỏ ta...”
Nguyễn vương dạy lấy ván thuyền ghép thành hòm, dùng nhung phục khấn liệm, rồi cho chôn tạm tại làng An Hội, Cồn Cái Nhum (Tam Bình, Vĩnh Long). Về sau, thâu phục được Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh cho cải táng tại xã Hắc Lăng, huyện Phước An, thuộc dinh Trấn Biên (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long, truy phong ông là Tả quân đô đốc, tước Quận công.
Năm Giáp Tí 1804, Châu Văn Tiếp được thờ nơi đền Hiển Trung (Sài Gòn). Đến năm Gia Long thứ 6 (1807), xét công lao các bề tôi qua Vọng Các (Xiêm), ông được liệt hàng ''Đệ nhất đẵng khai quốc công thần'' và được thờ tại Trung Hưng Công Thần miếu (Huế).
Đến đời vua Minh Mạng, ông lại được truy phong Lâm Thao Quận Công.
Về đời Tự Đức thứ ba (1850), vua cho lập đền thờ ông tại Hắc Lăng.
Châu Văn Tiếp mất không có con trai kế tự. Cháu ngoại là Nguyễn Văn Hóa, con của Châu Thị Đậu, nhận phần phụng tự.
Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn.
Long Xuyên, tháng 8 năm 2008.
Chú thích:
(1) Châu Thị Đậu (? - ?) tục gọi Châu Muội Nương. Bà là người giỏi võ nghệ. Khi Lê Văn Quân (còn có tên là Duân hay Câu, người Định Tường) ra phò tá Châu Văn Tiếp ở núi Tà Lương, bà và ông Quen nhau và trở thành vợ chồng. Vợ chồng bà giúp chúa Nguyễn rất tận lực. Riêng bà, những lúc xông pha ra chiến trận, chẳng kém gì trai. Những ngày theo nguyễn Phúc Ánh sang Vọng Các, chính bà đã hai lần cầm binh đánh thắng quân Miến Điện và Đồ Bà theo lời yêu cầu tiếp viện của vua Xiêm, khiến người Xiêm rất thán phục. Chồng bà tức Quận công Lê Văn Quân mất năm Tân Hợi 1791.
(2) Trong Sài Gòn năm xưa, Vương Hồng Sển dẫn lại lời của Trương Vĩnh Ký thì chúa Duệ Tông bị Tây Sơn bắt tại vùng Ba Thắc (thuộc Cà Mau) và chúa Mục Vương bị bắt tại Ba Vác (thuộc Bến Tre, gần Mỏ Cày). Cả hai đều bị hành quyết gần Chùa Kim Chương vào năm 1877.
Tài liệu:
(Để tham khảo và đối chiếu)
- Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992, tr. 86-87
-Từ điển bách khoa Việt Nam I, Hà Nội, 1995, tr. 493
-Huỳnh Minh, Gia Định xưa, Nxb Văn hóa Thông tin, 2006.
-Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển, quyển thượng, Sài Gòn]], năm 1966, tr. 133.
-Lương Văn Lựu, Biên Hòa sử lược toàn biên, Sài Gòn 1973, tr.147-150.
-Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo dục, 2005, tr.166-184.
Châu Văn Tiếp hay Chu Văn Tiếp (Mậu Ngọ 1738 - Giáp Thìn 1784) tên tộc Châu Doãn Ngạnh, là danh tướng Việt Nam cuối thế kỷ 18 dưới thời Nguyễn Phúc Ánh, được người đời xưng tụng là một trong “Gia Định tam hùng”.
Châu Văn Tiếp nguyên quán huyện Phù Ly, phủ Hoài Nhơn (nay là Phù Mỹ, - TP.Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) nhưng cư ngụ ở Vân Hòa, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Gia đình ông chuyên nghề buôn bán (chủ yếu là buôn ngựa), nhưng có học.
Ông Tiếp có người anh cả là Châu Đoan Chữ, hai em là Châu Đoan Chân, Châu Đoan Hãn và em gái Châu Thị Đậu (1).
Ông thông thạo tiếng Chân Lạp và Xiêm La. Vốn có sức mạnh, lại ham học võ nghệ nên ông còn có biệt tài sử dụng đại đao.
Châu Văn Tiếp theo nghề buôn bán ngựa, nên có dịp đi đó đây. Nhờ vậy, ông quen biết khá nhiều người mà sau này đều trở thành vương tướng của nhà Tây Sơn, như Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Võ Đình Tú... Song người ông thân thiết nhất là Lý Văn Bửu vì cùng nghề.
Lấy lý do chống lại sự áp bức của quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Nhạc cùng hai em là Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cất binh khởi nghĩa vào năm 1771.
Biết tài Châu Văn Tiếp, Nguyễn Nhạc có cho người đến mời tham gia, nhưng ông khéo từ chối. Để tạo cho mình một thế đứng trong việc mưu nghiệp lớn, bốn anh em Châu Văn Tiếp chiêu tập dân quân đến chiếm giữ núi Tà Lương (Phú Yên).
Nguyễn Nhạc cử người đến mời lần nữa. Châu Văn Tiếp bày tỏ chính kiến của mình là không muốn thay ngôi chúa Nguyễn, mà chỉ muốn tôn phù hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, muốn diệt trừ những tham quan, những quyền thần và Nguyễn Nhạc đã đồng ý.
Hứa hẹn vậy, nhưng khi kéo binh đến Qui Nhơn thì Châu Văn Tiếp mới hay Nguyễn Nhạc đã bội ước. Ông liền rút quân về núi cũ, dựng cờ khởi nghĩa, đề lên bốn chữ ''Lương Sơn tá quốc'' (quân giỏi ở núi rừng lo giúp nước), để đối đầu với quân Tây Sơn.
Khi ấy, lưu thủ dinh Long Hồ là Tống Phúc Hiệp (? - 1776) đang đóng quân ở Vân Phong (nay thuộc Khánh Hòa), khuyên ông nên qui thuận chúa Nguyễn và ông đã nghe theo.
Tháng 3 năm Đinh Dậu (1777), quân Tây Sơn vào đánh Gia Định, Tống Phúc Hiệp lui về tiếp cứu, giao ông giữ Phú Yên, Bình Thuận.
Tình hình Gia Định càng thêm nguy khổn, ông cùng Đỗ Thanh Nhơn đem quân đi kháng cự, nhưng do đối phương quá mạnh mà Lý Tài và Đỗ Thanh Nhân lại luôn hiềm khích, Châu Văn Tiếp buộc phải dẫn bộ hạ về lại núi Tà Lương. Đành để Thái Thượng vương (Nguyễn Phúc Thuần) và Tân Chánh vương (Nguyễn Phúc Dương) bị quân Tây Sơn truy đuổi rồi bị bắt giết.(2)
Sau cuộc đại bại ấy, trong dòng tộc chúa Nguyễn chỉ còn mỗi một chàng trai khoảng 17 tuổi tên Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát, cho nên sau khi Đỗ Thanh Nhơn lấy lại Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh được tướng sĩ rước về tôn làm Đại nguyên súy, Nhiếp quốc chính rồi xưng vương tại Sài Côn (Sài Gòn) vào năm Canh Tí 1780.
Năm Tân Sửu 1781, Châu Văn Tiếp liên kết với hai đạo quân khác để đánh Bình Khang. Nhưng đạo quân của Châu Văn Tiếp chưa kéo binh ra khỏi hậu cứ Phú Yên đã bị trấn thủ nơi này là Nguyễn Văn Lộc đánh cho tan tác, khiến ông lại phải trốn vào núi Tà Lương. Đạo quân do Tôn Thất Dụ từ Bình Thuận tiến ra, bị trấn thủ Lê Văn Hưng đem tượng binh trấn áp làm cho tan vỡ. Đạo thủy quân của Tống Phước Thiêm thì không thể xuất phát được, vì quân Đông Sơn đang khởi loạn ở Gia Định, do chủ tướng của họ là Đỗ Thanh Nhơn vừa bị Nguyễn Phúc Ánh mưu hại (1781).
Nhân cơ hội nội bộ nhà Nguyễn đang rạn nứt, tháng 3 năm Nhâm Dần 1782, Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Nhạc mang quân thủy bộ tiến vào Nam. Hai bên đụng độ dữ dội ở khu vực sông Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang) nơi cửa Cần Giờ. Cuối cùng, Nguyễn Phúc Ánh lại phải bỏ chạy ra đảo Phú Quốc, nay thuộc Kiên Giang.
Một lần nữa, đạo quân Lương Sơn của Châu Văn Tiếp vào tiếp cứu. Khi ấy, Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc đã rút quân về, nên quân Lương Sơn đánh đuổi được tướng Tây Sơn là Đỗ Nhàn Trập, lấy lại Sài Côn. Nhờ đại công này, ông được phong Ngoại tả Chưởng dinh.
Tháng 2 năm Quí Mão 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân vào Nam. Châu Văn Tiếp dùng hỏa công nhưng chẳng nay bị trở gió nên thua trận. Nguyễn vương phải chạy xuống Ba Giồng, còn Châu Văn Tiếp phải men theo đường núi qua Cao Miên rồi qua Xiêm cầu viện.
Nhờ tài năng và sự khôn khéo của ông, vua Xiêm chịu trợ giúp. Châu Văn Tiếp liền gởi mật thư báo tin cho Nguyễn Phúc Ánh. Sau khi hội đàm với tướng Xiêm tại Cà Mau, vào tháng giêng năm Giáp Thìn 1784, Nguyễn Vương sang Vọng Các hội kiến với vua Xiêm. Được tiếp đãi nồng hậu và nhận được sự hỗ trợ, Nguyễn vương tổ chức lại lực lượng gồm các quân tướng đi theo và nhóm người Việt lưu vong tại Xiêm, cả thảy trên dưới nghìn người, cử Châu Văn Tiếp làm đại đô đốc và Mạc Tử Sanh (con Mạc Thiên Tứ) làm tham tướng...
Tháng 6 năm ấy vua Xiêm La là Chất Tri (Chakri, Rama I) sai các tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương và Lục Cổn đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiếc thuyền sang giúp. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, nhưng thực ra là để chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn.
Năm Giáp Thìn 1784, Nguyễn vương đưa quân về đánh nhau với quân Tây Sơn, ông được làm Bình Tây đại đô đốc.
Ngày 13 tháng 10 cùng năm, Châu Văn Tiếp giáp chiến với bị tướng Tây Sơn là Chưởng Tiền Bảo ở sông Mang Thít thuộc địa phận Long Hồ (nay là Vĩnh Long). Bị quân Tây Sơn vây chặt, ông liều chết nhảy qua thuyền của đối phương đánh phá, bị phò mã Tây Sơn là Trương Văn Đa đâm chết, hưởng dương 46 tuổi.
Nhận được tin, Nguyễn vương tõ lời thương tiếc:
“Duyệt và Tiếp là hai cánh tay của ta. Hai người cùng ta, yên cùng yên, lo cùng lo, nay Tiếp giữa đường đành bỏ ta...”
Nguyễn vương dạy lấy ván thuyền ghép thành hòm, dùng nhung phục khấn liệm, rồi cho chôn tạm tại làng An Hội, Cồn Cái Nhum (Tam Bình, Vĩnh Long). Về sau, thâu phục được Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh cho cải táng tại xã Hắc Lăng, huyện Phước An, thuộc dinh Trấn Biên (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long, truy phong ông là Tả quân đô đốc, tước Quận công.
Năm Giáp Tí 1804, Châu Văn Tiếp được thờ nơi đền Hiển Trung (Sài Gòn). Đến năm Gia Long thứ 6 (1807), xét công lao các bề tôi qua Vọng Các (Xiêm), ông được liệt hàng ''Đệ nhất đẵng khai quốc công thần'' và được thờ tại Trung Hưng Công Thần miếu (Huế).
Đến đời vua Minh Mạng, ông lại được truy phong Lâm Thao Quận Công.
Về đời Tự Đức thứ ba (1850), vua cho lập đền thờ ông tại Hắc Lăng.
Châu Văn Tiếp mất không có con trai kế tự. Cháu ngoại là Nguyễn Văn Hóa, con của Châu Thị Đậu, nhận phần phụng tự.
Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn.
Long Xuyên, tháng 8 năm 2008.
Chú thích:
(1) Châu Thị Đậu (? - ?) tục gọi Châu Muội Nương. Bà là người giỏi võ nghệ. Khi Lê Văn Quân (còn có tên là Duân hay Câu, người Định Tường) ra phò tá Châu Văn Tiếp ở núi Tà Lương, bà và ông Quen nhau và trở thành vợ chồng. Vợ chồng bà giúp chúa Nguyễn rất tận lực. Riêng bà, những lúc xông pha ra chiến trận, chẳng kém gì trai. Những ngày theo nguyễn Phúc Ánh sang Vọng Các, chính bà đã hai lần cầm binh đánh thắng quân Miến Điện và Đồ Bà theo lời yêu cầu tiếp viện của vua Xiêm, khiến người Xiêm rất thán phục. Chồng bà tức Quận công Lê Văn Quân mất năm Tân Hợi 1791.
(2) Trong Sài Gòn năm xưa, Vương Hồng Sển dẫn lại lời của Trương Vĩnh Ký thì chúa Duệ Tông bị Tây Sơn bắt tại vùng Ba Thắc (thuộc Cà Mau) và chúa Mục Vương bị bắt tại Ba Vác (thuộc Bến Tre, gần Mỏ Cày). Cả hai đều bị hành quyết gần Chùa Kim Chương vào năm 1877.
Tài liệu:
(Để tham khảo và đối chiếu)
- Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992, tr. 86-87
-Từ điển bách khoa Việt Nam I, Hà Nội, 1995, tr. 493
-Huỳnh Minh, Gia Định xưa, Nxb Văn hóa Thông tin, 2006.
-Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển, quyển thượng, Sài Gòn]], năm 1966, tr. 133.
-Lương Văn Lựu, Biên Hòa sử lược toàn biên, Sài Gòn 1973, tr.147-150.
-Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo dục, 2005, tr.166-184.
Châu Văn Tiếp nguyên quán huyện Phù Ly, phủ Hoài Nhơn (nay là Phù Mỹ, - TP.Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) nhưng cư ngụ ở Vân Hòa, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Gia đình ông chuyên nghề buôn bán (chủ yếu là buôn ngựa), nhưng có học.
Ông Tiếp có người anh cả là Châu Đoan Chữ, hai em là Châu Đoan Chân, Châu Đoan Hãn và em gái Châu Thị Đậu (1).
Ông thông thạo tiếng Chân Lạp và Xiêm La. Vốn có sức mạnh, lại ham học võ nghệ nên ông còn có biệt tài sử dụng đại đao.
Châu Văn Tiếp theo nghề buôn bán ngựa, nên có dịp đi đó đây. Nhờ vậy, ông quen biết khá nhiều người mà sau này đều trở thành vương tướng của nhà Tây Sơn, như Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Võ Đình Tú... Song người ông thân thiết nhất là Lý Văn Bửu vì cùng nghề.
Lấy lý do chống lại sự áp bức của quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Nhạc cùng hai em là Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cất binh khởi nghĩa vào năm 1771.
Biết tài Châu Văn Tiếp, Nguyễn Nhạc có cho người đến mời tham gia, nhưng ông khéo từ chối. Để tạo cho mình một thế đứng trong việc mưu nghiệp lớn, bốn anh em Châu Văn Tiếp chiêu tập dân quân đến chiếm giữ núi Tà Lương (Phú Yên).
Nguyễn Nhạc cử người đến mời lần nữa. Châu Văn Tiếp bày tỏ chính kiến của mình là không muốn thay ngôi chúa Nguyễn, mà chỉ muốn tôn phù hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, muốn diệt trừ những tham quan, những quyền thần và Nguyễn Nhạc đã đồng ý.
Hứa hẹn vậy, nhưng khi kéo binh đến Qui Nhơn thì Châu Văn Tiếp mới hay Nguyễn Nhạc đã bội ước. Ông liền rút quân về núi cũ, dựng cờ khởi nghĩa, đề lên bốn chữ ''Lương Sơn tá quốc'' (quân giỏi ở núi rừng lo giúp nước), để đối đầu với quân Tây Sơn.
Khi ấy, lưu thủ dinh Long Hồ là Tống Phúc Hiệp (? - 1776) đang đóng quân ở Vân Phong (nay thuộc Khánh Hòa), khuyên ông nên qui thuận chúa Nguyễn và ông đã nghe theo.
Tháng 3 năm Đinh Dậu (1777), quân Tây Sơn vào đánh Gia Định, Tống Phúc Hiệp lui về tiếp cứu, giao ông giữ Phú Yên, Bình Thuận.
Tình hình Gia Định càng thêm nguy khổn, ông cùng Đỗ Thanh Nhơn đem quân đi kháng cự, nhưng do đối phương quá mạnh mà Lý Tài và Đỗ Thanh Nhân lại luôn hiềm khích, Châu Văn Tiếp buộc phải dẫn bộ hạ về lại núi Tà Lương. Đành để Thái Thượng vương (Nguyễn Phúc Thuần) và Tân Chánh vương (Nguyễn Phúc Dương) bị quân Tây Sơn truy đuổi rồi bị bắt giết.(2)
Sau cuộc đại bại ấy, trong dòng tộc chúa Nguyễn chỉ còn mỗi một chàng trai khoảng 17 tuổi tên Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát, cho nên sau khi Đỗ Thanh Nhơn lấy lại Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh được tướng sĩ rước về tôn làm Đại nguyên súy, Nhiếp quốc chính rồi xưng vương tại Sài Côn (Sài Gòn) vào năm Canh Tí 1780.
Năm Tân Sửu 1781, Châu Văn Tiếp liên kết với hai đạo quân khác để đánh Bình Khang. Nhưng đạo quân của Châu Văn Tiếp chưa kéo binh ra khỏi hậu cứ Phú Yên đã bị trấn thủ nơi này là Nguyễn Văn Lộc đánh cho tan tác, khiến ông lại phải trốn vào núi Tà Lương. Đạo quân do Tôn Thất Dụ từ Bình Thuận tiến ra, bị trấn thủ Lê Văn Hưng đem tượng binh trấn áp làm cho tan vỡ. Đạo thủy quân của Tống Phước Thiêm thì không thể xuất phát được, vì quân Đông Sơn đang khởi loạn ở Gia Định, do chủ tướng của họ là Đỗ Thanh Nhơn vừa bị Nguyễn Phúc Ánh mưu hại (1781).
Nhân cơ hội nội bộ nhà Nguyễn đang rạn nứt, tháng 3 năm Nhâm Dần 1782, Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Nhạc mang quân thủy bộ tiến vào Nam. Hai bên đụng độ dữ dội ở khu vực sông Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang) nơi cửa Cần Giờ. Cuối cùng, Nguyễn Phúc Ánh lại phải bỏ chạy ra đảo Phú Quốc, nay thuộc Kiên Giang.
Một lần nữa, đạo quân Lương Sơn của Châu Văn Tiếp vào tiếp cứu. Khi ấy, Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc đã rút quân về, nên quân Lương Sơn đánh đuổi được tướng Tây Sơn là Đỗ Nhàn Trập, lấy lại Sài Côn. Nhờ đại công này, ông được phong Ngoại tả Chưởng dinh.
Tháng 2 năm Quí Mão 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân vào Nam. Châu Văn Tiếp dùng hỏa công nhưng chẳng nay bị trở gió nên thua trận. Nguyễn vương phải chạy xuống Ba Giồng, còn Châu Văn Tiếp phải men theo đường núi qua Cao Miên rồi qua Xiêm cầu viện.
Nhờ tài năng và sự khôn khéo của ông, vua Xiêm chịu trợ giúp. Châu Văn Tiếp liền gởi mật thư báo tin cho Nguyễn Phúc Ánh. Sau khi hội đàm với tướng Xiêm tại Cà Mau, vào tháng giêng năm Giáp Thìn 1784, Nguyễn Vương sang Vọng Các hội kiến với vua Xiêm. Được tiếp đãi nồng hậu và nhận được sự hỗ trợ, Nguyễn vương tổ chức lại lực lượng gồm các quân tướng đi theo và nhóm người Việt lưu vong tại Xiêm, cả thảy trên dưới nghìn người, cử Châu Văn Tiếp làm đại đô đốc và Mạc Tử Sanh (con Mạc Thiên Tứ) làm tham tướng...
Tháng 6 năm ấy vua Xiêm La là Chất Tri (Chakri, Rama I) sai các tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương và Lục Cổn đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiếc thuyền sang giúp. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, nhưng thực ra là để chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn.
Năm Giáp Thìn 1784, Nguyễn vương đưa quân về đánh nhau với quân Tây Sơn, ông được làm Bình Tây đại đô đốc.
Ngày 13 tháng 10 cùng năm, Châu Văn Tiếp giáp chiến với bị tướng Tây Sơn là Chưởng Tiền Bảo ở sông Mang Thít thuộc địa phận Long Hồ (nay là Vĩnh Long). Bị quân Tây Sơn vây chặt, ông liều chết nhảy qua thuyền của đối phương đánh phá, bị phò mã Tây Sơn là Trương Văn Đa đâm chết, hưởng dương 46 tuổi.
Nhận được tin, Nguyễn vương tõ lời thương tiếc:
“Duyệt và Tiếp là hai cánh tay của ta. Hai người cùng ta, yên cùng yên, lo cùng lo, nay Tiếp giữa đường đành bỏ ta...”
Nguyễn vương dạy lấy ván thuyền ghép thành hòm, dùng nhung phục khấn liệm, rồi cho chôn tạm tại làng An Hội, Cồn Cái Nhum (Tam Bình, Vĩnh Long). Về sau, thâu phục được Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh cho cải táng tại xã Hắc Lăng, huyện Phước An, thuộc dinh Trấn Biên (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long, truy phong ông là Tả quân đô đốc, tước Quận công.
Năm Giáp Tí 1804, Châu Văn Tiếp được thờ nơi đền Hiển Trung (Sài Gòn). Đến năm Gia Long thứ 6 (1807), xét công lao các bề tôi qua Vọng Các (Xiêm), ông được liệt hàng ''Đệ nhất đẵng khai quốc công thần'' và được thờ tại Trung Hưng Công Thần miếu (Huế).
Đến đời vua Minh Mạng, ông lại được truy phong Lâm Thao Quận Công.
Về đời Tự Đức thứ ba (1850), vua cho lập đền thờ ông tại Hắc Lăng.
Châu Văn Tiếp mất không có con trai kế tự. Cháu ngoại là Nguyễn Văn Hóa, con của Châu Thị Đậu, nhận phần phụng tự.
Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn.
Long Xuyên, tháng 8 năm 2008.
Chú thích:
(1) Châu Thị Đậu (? - ?) tục gọi Châu Muội Nương. Bà là người giỏi võ nghệ. Khi Lê Văn Quân (còn có tên là Duân hay Câu, người Định Tường) ra phò tá Châu Văn Tiếp ở núi Tà Lương, bà và ông Quen nhau và trở thành vợ chồng. Vợ chồng bà giúp chúa Nguyễn rất tận lực. Riêng bà, những lúc xông pha ra chiến trận, chẳng kém gì trai. Những ngày theo nguyễn Phúc Ánh sang Vọng Các, chính bà đã hai lần cầm binh đánh thắng quân Miến Điện và Đồ Bà theo lời yêu cầu tiếp viện của vua Xiêm, khiến người Xiêm rất thán phục. Chồng bà tức Quận công Lê Văn Quân mất năm Tân Hợi 1791.
(2) Trong Sài Gòn năm xưa, Vương Hồng Sển dẫn lại lời của Trương Vĩnh Ký thì chúa Duệ Tông bị Tây Sơn bắt tại vùng Ba Thắc (thuộc Cà Mau) và chúa Mục Vương bị bắt tại Ba Vác (thuộc Bến Tre, gần Mỏ Cày). Cả hai đều bị hành quyết gần Chùa Kim Chương vào năm 1877.
Tài liệu:
(Để tham khảo và đối chiếu)
- Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992, tr. 86-87
-Từ điển bách khoa Việt Nam I, Hà Nội, 1995, tr. 493
-Huỳnh Minh, Gia Định xưa, Nxb Văn hóa Thông tin, 2006.
-Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển, quyển thượng, Sài Gòn]], năm 1966, tr. 133.
-Lương Văn Lựu, Biên Hòa sử lược toàn biên, Sài Gòn 1973, tr.147-150.
-Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo dục, 2005, tr.166-184.
Châu Văn Tiếp hay Chu Văn Tiếp (Mậu Ngọ 1738 - Giáp Thìn 1784) tên tộc Châu Doãn Ngạnh, là danh tướng Việt Nam cuối thế kỷ 18 dưới thời Nguyễn Phúc Ánh, được người đời xưng tụng là một trong “Gia Định tam hùng”.
Châu Văn Tiếp nguyên quán huyện Phù Ly, phủ Hoài Nhơn (nay là Phù Mỹ, - TP.Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) nhưng cư ngụ ở Vân Hòa, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Gia đình ông chuyên nghề buôn bán (chủ yếu là buôn ngựa), nhưng có học.
Ông Tiếp có người anh cả là Châu Đoan Chữ, hai em là Châu Đoan Chân, Châu Đoan Hãn và em gái Châu Thị Đậu (1).
Ông thông thạo tiếng Chân Lạp và Xiêm La. Vốn có sức mạnh, lại ham học võ nghệ nên ông còn có biệt tài sử dụng đại đao.
Châu Văn Tiếp theo nghề buôn bán ngựa, nên có dịp đi đó đây. Nhờ vậy, ông quen biết khá nhiều người mà sau này đều trở thành vương tướng của nhà Tây Sơn, như Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Võ Đình Tú... Song người ông thân thiết nhất là Lý Văn Bửu vì cùng nghề.
Lấy lý do chống lại sự áp bức của quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Nhạc cùng hai em là Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cất binh khởi nghĩa vào năm 1771.
Biết tài Châu Văn Tiếp, Nguyễn Nhạc có cho người đến mời tham gia, nhưng ông khéo từ chối. Để tạo cho mình một thế đứng trong việc mưu nghiệp lớn, bốn anh em Châu Văn Tiếp chiêu tập dân quân đến chiếm giữ núi Tà Lương (Phú Yên).
Nguyễn Nhạc cử người đến mời lần nữa. Châu Văn Tiếp bày tỏ chính kiến của mình là không muốn thay ngôi chúa Nguyễn, mà chỉ muốn tôn phù hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, muốn diệt trừ những tham quan, những quyền thần và Nguyễn Nhạc đã đồng ý.
Hứa hẹn vậy, nhưng khi kéo binh đến Qui Nhơn thì Châu Văn Tiếp mới hay Nguyễn Nhạc đã bội ước. Ông liền rút quân về núi cũ, dựng cờ khởi nghĩa, đề lên bốn chữ ''Lương Sơn tá quốc'' (quân giỏi ở núi rừng lo giúp nước), để đối đầu với quân Tây Sơn.
Khi ấy, lưu thủ dinh Long Hồ là Tống Phúc Hiệp (? - 1776) đang đóng quân ở Vân Phong (nay thuộc Khánh Hòa), khuyên ông nên qui thuận chúa Nguyễn và ông đã nghe theo.
Tháng 3 năm Đinh Dậu (1777), quân Tây Sơn vào đánh Gia Định, Tống Phúc Hiệp lui về tiếp cứu, giao ông giữ Phú Yên, Bình Thuận.
Tình hình Gia Định càng thêm nguy khổn, ông cùng Đỗ Thanh Nhơn đem quân đi kháng cự, nhưng do đối phương quá mạnh mà Lý Tài và Đỗ Thanh Nhân lại luôn hiềm khích, Châu Văn Tiếp buộc phải dẫn bộ hạ về lại núi Tà Lương. Đành để Thái Thượng vương (Nguyễn Phúc Thuần) và Tân Chánh vương (Nguyễn Phúc Dương) bị quân Tây Sơn truy đuổi rồi bị bắt giết.(2)
Sau cuộc đại bại ấy, trong dòng tộc chúa Nguyễn chỉ còn mỗi một chàng trai khoảng 17 tuổi tên Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát, cho nên sau khi Đỗ Thanh Nhơn lấy lại Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh được tướng sĩ rước về tôn làm Đại nguyên súy, Nhiếp quốc chính rồi xưng vương tại Sài Côn (Sài Gòn) vào năm Canh Tí 1780.
Năm Tân Sửu 1781, Châu Văn Tiếp liên kết với hai đạo quân khác để đánh Bình Khang. Nhưng đạo quân của Châu Văn Tiếp chưa kéo binh ra khỏi hậu cứ Phú Yên đã bị trấn thủ nơi này là Nguyễn Văn Lộc đánh cho tan tác, khiến ông lại phải trốn vào núi Tà Lương. Đạo quân do Tôn Thất Dụ từ Bình Thuận tiến ra, bị trấn thủ Lê Văn Hưng đem tượng binh trấn áp làm cho tan vỡ. Đạo thủy quân của Tống Phước Thiêm thì không thể xuất phát được, vì quân Đông Sơn đang khởi loạn ở Gia Định, do chủ tướng của họ là Đỗ Thanh Nhơn vừa bị Nguyễn Phúc Ánh mưu hại (1781).
Nhân cơ hội nội bộ nhà Nguyễn đang rạn nứt, tháng 3 năm Nhâm Dần 1782, Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Nhạc mang quân thủy bộ tiến vào Nam. Hai bên đụng độ dữ dội ở khu vực sông Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang) nơi cửa Cần Giờ. Cuối cùng, Nguyễn Phúc Ánh lại phải bỏ chạy ra đảo Phú Quốc, nay thuộc Kiên Giang.
Một lần nữa, đạo quân Lương Sơn của Châu Văn Tiếp vào tiếp cứu. Khi ấy, Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc đã rút quân về, nên quân Lương Sơn đánh đuổi được tướng Tây Sơn là Đỗ Nhàn Trập, lấy lại Sài Côn. Nhờ đại công này, ông được phong Ngoại tả Chưởng dinh.
Tháng 2 năm Quí Mão 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân vào Nam. Châu Văn Tiếp dùng hỏa công nhưng chẳng nay bị trở gió nên thua trận. Nguyễn vương phải chạy xuống Ba Giồng, còn Châu Văn Tiếp phải men theo đường núi qua Cao Miên rồi qua Xiêm cầu viện.
Nhờ tài năng và sự khôn khéo của ông, vua Xiêm chịu trợ giúp. Châu Văn Tiếp liền gởi mật thư báo tin cho Nguyễn Phúc Ánh. Sau khi hội đàm với tướng Xiêm tại Cà Mau, vào tháng giêng năm Giáp Thìn 1784, Nguyễn Vương sang Vọng Các hội kiến với vua Xiêm. Được tiếp đãi nồng hậu và nhận được sự hỗ trợ, Nguyễn vương tổ chức lại lực lượng gồm các quân tướng đi theo và nhóm người Việt lưu vong tại Xiêm, cả thảy trên dưới nghìn người, cử Châu Văn Tiếp làm đại đô đốc và Mạc Tử Sanh (con Mạc Thiên Tứ) làm tham tướng...
Tháng 6 năm ấy vua Xiêm La là Chất Tri (Chakri, Rama I) sai các tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương và Lục Cổn đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiếc thuyền sang giúp. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, nhưng thực ra là để chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn.
Năm Giáp Thìn 1784, Nguyễn vương đưa quân về đánh nhau với quân Tây Sơn, ông được làm Bình Tây đại đô đốc.
Ngày 13 tháng 10 cùng năm, Châu Văn Tiếp giáp chiến với bị tướng Tây Sơn là Chưởng Tiền Bảo ở sông Mang Thít thuộc địa phận Long Hồ (nay là Vĩnh Long). Bị quân Tây Sơn vây chặt, ông liều chết nhảy qua thuyền của đối phương đánh phá, bị phò mã Tây Sơn là Trương Văn Đa đâm chết, hưởng dương 46 tuổi.
Nhận được tin, Nguyễn vương tõ lời thương tiếc:
“Duyệt và Tiếp là hai cánh tay của ta. Hai người cùng ta, yên cùng yên, lo cùng lo, nay Tiếp giữa đường đành bỏ ta...”
Nguyễn vương dạy lấy ván thuyền ghép thành hòm, dùng nhung phục khấn liệm, rồi cho chôn tạm tại làng An Hội, Cồn Cái Nhum (Tam Bình, Vĩnh Long). Về sau, thâu phục được Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh cho cải táng tại xã Hắc Lăng, huyện Phước An, thuộc dinh Trấn Biên (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long, truy phong ông là Tả quân đô đốc, tước Quận công.
Năm Giáp Tí 1804, Châu Văn Tiếp được thờ nơi đền Hiển Trung (Sài Gòn). Đến năm Gia Long thứ 6 (1807), xét công lao các bề tôi qua Vọng Các (Xiêm), ông được liệt hàng ''Đệ nhất đẵng khai quốc công thần'' và được thờ tại Trung Hưng Công Thần miếu (Huế).
Đến đời vua Minh Mạng, ông lại được truy phong Lâm Thao Quận Công.
Về đời Tự Đức thứ ba (1850), vua cho lập đền thờ ông tại Hắc Lăng.
Châu Văn Tiếp mất không có con trai kế tự. Cháu ngoại là Nguyễn Văn Hóa, con của Châu Thị Đậu, nhận phần phụng tự.
Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn.
Long Xuyên, tháng 8 năm 2008.
Chú thích:
(1) Châu Thị Đậu (? - ?) tục gọi Châu Muội Nương. Bà là người giỏi võ nghệ. Khi Lê Văn Quân (còn có tên là Duân hay Câu, người Định Tường) ra phò tá Châu Văn Tiếp ở núi Tà Lương, bà và ông Quen nhau và trở thành vợ chồng. Vợ chồng bà giúp chúa Nguyễn rất tận lực. Riêng bà, những lúc xông pha ra chiến trận, chẳng kém gì trai. Những ngày theo nguyễn Phúc Ánh sang Vọng Các, chính bà đã hai lần cầm binh đánh thắng quân Miến Điện và Đồ Bà theo lời yêu cầu tiếp viện của vua Xiêm, khiến người Xiêm rất thán phục. Chồng bà tức Quận công Lê Văn Quân mất năm Tân Hợi 1791.
(2) Trong Sài Gòn năm xưa, Vương Hồng Sển dẫn lại lời của Trương Vĩnh Ký thì chúa Duệ Tông bị Tây Sơn bắt tại vùng Ba Thắc (thuộc Cà Mau) và chúa Mục Vương bị bắt tại Ba Vác (thuộc Bến Tre, gần Mỏ Cày). Cả hai đều bị hành quyết gần Chùa Kim Chương vào năm 1877.
Tài liệu:
(Để tham khảo và đối chiếu)
- Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992, tr. 86-87
-Từ điển bách khoa Việt Nam I, Hà Nội, 1995, tr. 493
-Huỳnh Minh, Gia Định xưa, Nxb Văn hóa Thông tin, 2006.
-Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển, quyển thượng, Sài Gòn]], năm 1966, tr. 133.
-Lương Văn Lựu, Biên Hòa sử lược toàn biên, Sài Gòn 1973, tr.147-150.
-Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo dục, 2005, tr.166-184.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét