Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 3

- Chuyện Phạm Hữu Đức như vầy: Nguyễn Bình tổ chức lễ Quốc tế lao động 1-5-47 tại Giồng Lớn. Nguyễn Bình khoái tổ chức chánh qui, ra lệnh làm mít tinh rầm rộ, huy động cả ngàn người tới dự. Cuộc mít tinh ngày Quốc tế lao động đó, sẵn có nhiều chi đội về hội nghị, Nguyễn Bình tính biểu dương lực lượng, chỉ định Hai Lung Chi đội 3 của mình làm tổng chỉ huy phó cuộc mít tinh. Nhờ ra trễ mà Hai Lung thoát nạn. Sáu chiếc máy bay, ba chiếc Phun lửa (Spitfire) với ba con cồng cộc (King Cobra) lên quần đảo, bỏ bom rồi bắn liên thanh cả tiếng đồng hồ. Cán bộ và đồng bào chết vô kể. Đèn măng sông thắp sáng choang, máy bay lên tắt không kịp, thành thử chúng cứ thả bom và bắn đúng mục tiêu. Nguyễn Bình đặt dấu hỏi “ai cho địch biết ngày giờ và địa điểm cuộc mít tinh?”. Chỉ có các chi đội trưởng các chi đội về Khu hội nghị mới biết tin này. Từ đó phăng ra Phạm Hữu Đức.
Đích thân Chính ủy Hai Trí đảm trách việc điều tra. Hai Trí nhận xét Chi đội 5 được đồng bào thành tiếp tế đầy đủ hơn các chi đội khác. Từ đó, ông ta phăng lần ra chánh văn phòng Chi đội 5 – ông Nhàn – có liên hệ mật thiết với bà con ở thành. Có thể ông Nhàn là đầu mối đưa gián điệp vô Khu, báo tin cho máy bay bắn đồng bào dự mít tinh. Tư Đức cũng bị Hai Trí “mời” về văn phòng Khu điều tra. Ông Nhàn và ông Đức bị “mời” riêng, nhưng tình cờ xui khiến hai đoàn gặp nhau tại bến đò. Ông Nhàn mới kêu lên “Anh Tư ơi, em bị bắt”.
Trong tình thế đó, Tư Đức buộc phải ra tay, “Hai Trí cho bắt Chánh văn phòng của mình thì chắc chắn bắt luôn mình”. Và trong cơn phẫn nộ, Tư Đức nổ súng bắn tiểu đoàn trưởng Kiều Mạnh Giá là người được Hai Trí chỉ định “mời” Chi đội trưởng Phạm Hữu Đức.
Tiểu đội trưởng Điền theo bảo vệ Kiều Mạnh Giá liền bắn Phạm Hữu Đức bị thương. Vệ sĩ Tư Đức bắn Điền chết tốt. Tự thấy mình đã gây ra hai cái chết cho Giá và Điền, Tư Đức tự kết liễu đời mình.
Mười Trí kết luận: “Do Hai Trí đa nghi như Tào mà trong một lúc ta mất ba cán bộ quân sự tài giỏi! Mình biết Tư Đức chết oan vì dòng họ Phạm của Tư Đức tham gia cuộc khởi nghĩa đánh dinh quan lớn Ca (Trần Tử Ca) chủ quận Hóc Môn. Đó là đời ông nội. Qua đời cha, than gia Hội kín bị đày đi Côn Đảo với Nguyễn An Ninh rồi chết ngoài đảo.
Còn Tư Đức thì sáng lập Đệ Tam Cộng Hòa với Nguyễn Hòa Hiệp. Khi Hiệp đầu Tây, Tư Đức ở lại được Nguyễn Bình giao Chi đội 5.
Bảy Viễn hỏi:
- Hai Lung có bị nghi ngờ?
- Bị chớ! Bởi Hai Lung là tổng chỉ huy phó cuộc mít tinh đó. Khi được mời lên văn phòng Bộ Tư Lệnh, Hai Lung đường hoàng xin gặp Chính ủy tức Hai Trí chứ không thèm tiếp chuyện với cán bộ điều tra tên Thơm. Hai Lung nói với Hai Trí:
- Chính ủy muốn hỏi Hai Lung có cách mạng triệt để không? Muốn biết điều này phải chịu khó theo dõi quá trình chiến đấu của Hai Lung. Kháng chiến gian khổ vô vàn, nhưng Hai Lung không bỏ cuộc. Mặc dù có nhiều cơ hội để trở lại cuộc sống nhung lụa, chính ủy dư biết anh rể Hai Lung là Maurice, tỉnh trưởng Gò Công đã nhiều lần gởi thư ân cần mời Hai Lung về để giao ghế phó tỉnh trưởng…
- Hai Lung không nên thắc mắc. Đây chỉ là thủ tục cần thiết. Không ai dám nghi ngờ lòng chung thủy với cách mạng của Hai Lung đâu. Thôi vậy là đủ rồi. Hai Lung có thể ra về…
Nghe chuyện của Phạm Hữu Đức, Bảy Viễn giật mình lẩm bẩm: “Giòi trong xương giòi ra”.Và tự nhiên hắn nghĩ ngay tới Tám Tâm. Từ ngày đầu quân vào Chi đội 9, Tám Tâm là thư ký văn phòng rất đắc lực, có tài viết diễn văn cho Bảy Viễn đọc. Nhưng chính cái tài viết văn này đã khiến Bảy Viễn sinh nghi. Câu kêu gọi anh em binh sĩ Bình Xuyên “nên đề phòng những kẻ bất lương sống phè phỡn trên xương máu đồng đội” đúng là Tám Tâm có ý chia rẽ cấp chỉ huy với binh sĩ. Năm Tài đã để ý Tám Tâm là rất sáng suốt, Bảy Viễn cũng cho người bí mật theo dõi hoạt động của Tám Tâm thì thấy rõ ràng Tám Tâm làm công việc của một chính trị viên mặc dầu hắn chỉ là thứ ký văn phòng chi đội. Nhiều bài thơ phổ biến trong các đơn vị tố cáo cấp chỉ huy ngu dốt, tham lam được truyền tay thưởng thức. Thấu tới tai Bảy Viễn mấy bài, hắn nghi Tám Tâm là tác giả:
… “Thằng hống hách, đứa thì thị uy,
Một phường xấc láo có ra chi.
Mở miệng chửi cha cùng mắng chú
Tánh tình hung tợn, luc ngu si”.
- Mở miệng chửi cha cùng mắng chú… Thằng Tám Tâm ám chỉ mình đây! – Bảy Viễn mở miệng là chửi thề. Điều đó cũng như ăn cơm, uống nước, khí trời để thở. Không thể mở miệng mà không chửi thề được!
Chẳng những làm thơ nói xấu các cấp bộ Bình Xuyên, Tám Tâm còn dám động tới Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ. Vài ngày sau khi Thầy Tư Hòa Hảo cùng đệ tử ruột là Năm Lửa rời Tổng hành dinh Bảy Viễn thì có bài thơ “Nhắn Giáo chủ” phổ biến trong các đơn vị.
… ‘Thầy tu mà chẳng phải thầy tu
Tu đặng bao lâu, mấy cửa chùa?
Máu chảy đầu rơi Thầy có biết?
Hỏi ai là bạn, rõ ai thù?”
- Rõ ràng Tám Tâm chửi xỏ chửi xiên Phật thầy Hòa Hảo, “thầy tu mà chẳng phải thầy tu” có nghĩa là “thầy tu mà chẳng phải thù Tây”. Nó chơi chữ thiệt là tài – Năm Tài giải thích cho Bảy Viễn biết là mình đã “nuôi ong tay áo”, “nuôi khỉ dòm nhà”.
Bảy Viễn giật mình:
- Đù.m… thằng Tám Tâm ăn cơm tao mà hại tui! Phải cho nó “mò tôm” mới được! Có vậy mới tránh được cái họ Phạm Hữu Đức.
Bảy Viễn cho gọi một vệ sĩ thân tín tới:
- Hội, mày là thằng Quốc dân đảng bị bắt, không có tao là mày “mò tôm” lâu rồi. Mày còn nhớ không?
Hội khúm núm:
- Em còn sống tới giờ này là nhờ hồng ân của Ngài Khu bộ phó, đời nào em quên cho được. Em sống để bụng, chết mang theo!
Bảy Viễn gật gù:
- Biết điều như vậy là tốt. Nay tao giao cho mày một nhiệm vụ: Mày thủ tiêu Tám Tâm cho tao!
- Thủ tiêu Tám Tâm! – Hội tái mặt kêu lên – Tám Tâm tội gì, thưa Ngài Khu bộ phó?
- Đ.m, nó là thằng Cộng sản, nó xâm nhập Bình Xuyên để chia rẽ chỉ huy với binh sĩ. Kể từ hôm nay, tao bố trí mày là trạo tam bản cho nó. Khi nào chèo tới khúc sống vắng, mày rút cột chèo đập nó cho tao. Làm được không?
Hội gật đầu nhưng không hăng hái lắm.
Mấy ngày sau, Hội đưa Tám Tâm đi xuống các đơn vị. Trời mưa to, hai thầy trò lên một chòi ruộng nghỉ tạm đụt mưa. Hội để Tám Tâm lên trước, lặng lẽ nhổ cột chèo bước lên sau.
- Hai tay chú làm sao run dữ vậy? – Tám Tâm dòm Hội chăm chú.
Hội càng thất sắc, mặt không còn hột máu. Hắn khựng lại như trời trồng. Tám Tâm càng ngạc nhiên:
- Mày làm gì vậy Hội?
Hội quăng cột chèo quỳ xuống:
- Thú thật với anh Tám là em nhận lịnh của Ngài Khu bộ phó phải thủ tiêu anh…
Đến lượt Tám Tâm toát mồ hôi lạnh. Anh chụp Hội lắc mạnh:
- Thật không? Đầu đuôi câu chuyện ra sao? Kể nghe!
Kể xong, Hội nói:
- Em không thể nào thủ tiêu một người như anh Tám được. Em không biết anh Tám có phải là Cộng sản hay không. Em chỉ biết anh Tám rất tốt với anh em. Làm trên văn phòng Ngài Khu bộ phó nhưng anh Tám ăn và ở chung với anh em binh sĩ. Trên văn phòng đèn điện sáng trưng nhưng anh Tám vui cảnh đèn dầu leo lét bên lán trại. Quần áo, thức ăn chị Tám từ trong thành tiếp tế, anh Tám không xài riêng mà chia xớt với anh em không liên lạc được gia đình. Anh Tám vui tánh, làm thơ ngâm vịnh cho anh em nghe. Anh em thích mấy câu ca ngợi chiến sĩ Bình Xuyên của anh:
… “Hễ là chiến sĩ Việt Nam
Không ham chức tước, chẳng ham bạc tiền
Đã là chiến sĩ Bình Xuyên
Không mê rượu thịt, chẳng thém gái xinh”.
Tám Tâm ôm đầu nghĩ ngợi: “Bọn Tài, Sang đã đánh hơi đựoc bài diễn văn mình viết cho Bảy Viễn đọc đêm mít tinh nhậm chức Khu bộ phó. Chúng đã ton hót với Bảy Viễn. Bảy Viễn nói là làm. May cho mình là thằng Hội này có cảm tình với mình. Gặp thằng khác là mình đã chết nhăn răng rồi. Bây giờ làm sao đây?”
Hội cũng nhìn Tám Tâm như chờ đợi. Tám Tâm nói:
- Bây giờ chú về báo cáo với Bảy Viễn như thế này: Giết thằng Tám Tâm chẳng khó gì. Nhưng cho nó sống thêm vài tháng nữa để bí mật phăng các đầu mối bắt trọn ổ. Thế nào Bảy Viễn cũng đồng ý.
Hội tươi tỉnh hẳn lên:
- Nhưng đó chỉ là tạm thời. Phải có cách nào bảo đảm lâu dài?
Tám Tâm gật:
- Tạm thời là như vậy đi. Rồi sẽ tính sau…
Không lâu sau khi Hội tiết lộ bí mật, Bảy Viễn gọi Tám Tâm lên văn phòng:
- Lê Duẩn vừa gởi biếu Chi đội 9 mấy thùng sách. Ở đây không ai ham đọc sách chính trị hơn anh. Vậy tôi phân công cho anh trông coi tủ sách của chi đội. Anh nên sắp xếp theo từng loại, vô sổ đàng hoàng. Ai mượn quyển gì cũng vô sổ để đúng kỳ hạn đòi nếu họ chưa trả. Sách ít nên phải quy định mỗi người chỉ mượn hai quyển, thời hạn mượn là hai tuần.
Tám Tâm nhận ba thùng sách. Sách xuất bản từ miền Bắc, sách xuất bản ở Nam Bộ, có cả sách của các Quân khu 7, 8, 9… Có những quyển anh nghe nói từ lâu mà tới nay mới được cầm trên tay. Như quyển “Trường kỳ kháng chiến nhất định thằng lợi” của Trường Chinh, “Tiểu sử Hồ Chủ Tịch” của nhiều tác giả. Danh từ chính trị của Trình Đình Trọng, Ván để chính đảng, Duy vật biện chứng pháp, Cách mạng du kích của Nam Tư… Tam Tấm sướng run, anh có cảm tưởng như mình vừa đào đựơc hủ vàng.
Năm Tài đứng nhìn Tám Tâm xếp loại mấy trăm quyển sách. Hắn nhìn chăm chú như con bạc “bắt nhãn” tay cái xổ đề “cu di”.
- Anh thích loại nào nhất?
Tám Tâm giật mình. Nãy giờ anh say mê với sách không biết thằng nguy hiểm đang rình rập. Với giọng thật tự nhiên anh trả lời:
- Tôi thích đọc sách. Điều này ai cũng biết. Nhưng tôi chỉ đọc tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ ca, kịch vui. Còn những thứ chính trị này thì khô khan như đất cục, nuốt làm sao vô! Nhất là sách nói về Đảng… Ngài Khu bộ phó giao thì tôi lãnh, nhưng dứt khoát là tôi không đọc. Tôi cũng không phổ biến những loại sách Cộng sản này xuống cho các đơn vị…
Năm Tài cười:
- Sách in ra là để đọc. Sao lại giấu cất? Anh cứ thảo một công văn cho biết văn phòng chi đội vừa nhận được mấy trăm quyển sách. Ai muốn đọc cứ đến văn phòng, gặp trực tiếp với Tám Tâm. Anh vô sổ đầy đủ như Ngài Khu bộ phó đã dặn. Mình còn phải báo cáo lên đồng chí Lê Duẩn về cách sử dụng sổ sách Xứ ủy tặng cho…
Năm Tài tưởng mình điểm nhưng Tám Tâm còn điếm hơn. Anh biết những lời lẽ ngọt ngào của Năm Tài là cái bẫy giăng bắt những người có cảm tình với chủ nghĩa Cộng sản để chúng bí mật thủ tiêu. Tám Tâm đã phát hiện nhiêu xác chết trôi sông trong những chuyến đi công tác xuống các đơn vị. Có lần anh thấy hai xác chết tấp vô bờ rạch. Anh cho tam bản rà lại gần. Đây là hai cán bộ người Bắc, một người tên Vũ Văn Hạp, đại đội trưởng, còn người thứ hai là Nguyễn Văn Mười, trung đội trưởng. Cả hai bị Tài, Sang cho người bắn lén từ phái sau tại mặt trận rồi đạp xuống sông.
Từ đó Tám Tâm mới nắm bằng cớ là Bảy Viễn cho ám sát các cán bộ người Bắc chiến đấu trong hàng ngũ Chi đội 9. Đây là do Tư Sang và Năm Tài ngày đêm xúc xiểm gây mâu thuẫn giữa Bảy Viễn và Nguyễn Bình. Hai tên này kích đầu óc anh hùng cá nhân của Bảy Viễn lên cao độ khiến Bảy Viễn không ưa Nguyễn Bình rồi từ đó ghét luôn những người Bắc. Trong Chi đội 9 có hai loại người Bắc, gọi là “Bắc kỳ cũ” và “Bắc kỳ mới”. Bắc kỳ cũ là những người, như Năm Bé, bỏ đất Hải Phòng lưu lạc vào Nam làm phu khuân vác ở Khánh Hội từ thuở mười tám đôi mươi tới nay đã tên dưới ba chục năm, nói tiếng Nam không còn chút gì giọng miền Bắc. Còn Bắc kỳ mới là những người mới vào Nam sau Cách mạng tháng Tám, như Nguyễn Bình. Bảy Viễn ghét Bắc kỳ mới mà tin tưởng và trọng dụng Bắc kỳ cũ. Năm Bé gia nhập bộ đội Bảy Viễn ngay từ đầu mặc dù Bảy Viễn ở Phú Thọ còn Năm Bé ở Xóm Chiếu. Lẽ ra thì Năm Bé gia nhập bộ đội Ba Dương cho tiện đường đất nhưng vì trước kia hai tay anh chị này đã từng chém lộn nhau tại bến đò Hàng Dệt trong một vụ tranh giành các bên ghe tàu trong Chợ Lớn. Vụ chém lộn này làm xôn xao cả vùng Tân Qui. Kết quả bất phân thắng bại, nhưng phe nào cũng nói mình đại thắng. Sẵn dịp vượt ngục chung với Bảy Viễn và kết bạn sống chết có nhau giữa cảnh trời đất bao la, Năm Bé chọn Bảy Viễn là chủ tướng. Moi việc quan trọng đã có Tài, Sang nắm trong ngoài, Năm Bé chỉ lãnh công tác món, làm xong việc này lãnh công việc khác. Dù vậy Năm Bé cũng hãnh diện được chung phòng với Ngài Khu bộ phó, có liên hoan lễ lạc được ngồi gần “đại ca”… Năm Bé thấy rõ càng lên cao, Bảy Viễn càng xa dần những người thân thiết cũ. Nhưng Năm Bé không thắc mắc bởi thói đời “giàu đổi bạn, sang đổi vợ”…
Tám Tâm lúc nào cũng thủ thế. Không biết lúc nào lươi gươm treo trên đầu sẽ rơi xuống cổ. Thủ nhưng vẫn công. Tám Tâm sưu tầm tất cả những tội ác của Bảy Viễn , một mặt bí mật gởi ra ngoài cho cấp trên biết, một mặt là thơ và phổ biến trong các đơn vị. Bài thơ “Cười” của anh có mấy câu ám chỉ Bảy Viễn phè phỡn trên xương máu đồng bào:

“Cười chi Tổ quốc lúc binh đao!
Cười thấy đồng bào sát hại nhau
Cười lũ tham ô khoe ái quốc
Cười phường gian ác gọi đồng bào”…
Vì những bài thơ đả kích đó mà Tám Tâm ngày càng bị Năm Tài xúc xiểm với Bảy Viễn. Số phận của Tám Tâm có lúc như sợi chỉ mành treo chuông.

CHƯƠNG 32

Bay Bay, Chín Mập và Năm Mười Ba đậu tam bản tại đầu Vàm Cá Đao bố trí trạm gác lưu động. Bộ ba này làm công tác bảo vệ văn phòng bộ chỉ huy Liên chi 2-3 đóng ở mấy cái tắt giữa Rừng Sác. Năm Mười Ba là tên ghép. Năm là chồng. Mười Ba là vợ. Đây là dân lục lâm thảo khấu trong nhóm Bảy Rô.
- Mở máy hát nghe chơi! - Ba Bay vừa mượn được một cái máy hát và bộ đĩa Trảm Trịnh Ân… Với Ba Bay, không có cái thú nào qua cái thú nằm tam bản nghe cải lương. Trời tối đen, nước sông ánh lên một màu sang sáng như có chất thủy ngân. Trên hàng bàn, bày đom đóm chớp tắt, chớp tắt như sân khấu đèn mỹ thuật. Tiếng hát từ đĩa nhựa vọng ra như tiếng hát người thật. Ba Bay hình dung trước mắt mình là pháp trường, Trịnh Ân bị trói đang chờ trảm thủ. Anh còn nghe tiếng Hàn Tố Mai cười đắc chí khi hãm hại được bậc trugn thần. Tiếng hát trong đía vọng ra: Ly thứ nhất… ly thứ hai… Đây là các bạn đến tống tửu kẻ săp về cõi chết. Trọn bộ chỉ có lúc này là hay nhất. Ba Bay đang để hết tâm hồn uống từng lời văn thì Chín Mập hét to:
- Ghe ai đó? Ghé vô đây trình giấy!
Có tiếng xấc láo từ đằng xa:
- Ghe của Việt gian đây, dám xét không?
Chín Mập nhất kim máy hát lên bảo Ba Bay:
- Đ.m thằng Búa lúc này lên “chưn” quá! Nó dựa hơi đám côm-măng-đô của Tư Thiên…
Ba Bây nỏi nóng, lên cò cây mi bá rút:
- Thằng nào mới nói gì đó, nói lại nghe coi!
Đúng là giọng oang oang của thằng Búa, liên lạc văn phòng Bảy Viễn:
- Ghe củaViệt gian đây, dám xét không?
Ba Bay không ưa đám côm-măng-đô. Bọn này sống phè phỡn trên thành, ăn no chỉ lo chọc gái. Xuống chiến khu cũng quen thói ngã ngớn o mèo, gặp gái móc sũng ru lô quay vòng vòng nưh tụi chăn bò trong phim Huê Kỳ. Anh chiếu đèn pin thấy lố nhố cả chục tên lính của Tư Thiên. Cơn nóng nổi lên, Ba Bay hét:
- Đ.m Việt gian thì bắn bỏ - Ba Bay lia hết bằng tômxông.
Bên kia ru lô nổ lẹt xẹt. Nhưng ru lô làm sao chơi lại tômxông? Cả bọn cuống cuồng rút lui vô trật tự.
Ba Bay tiếp tục nghe nốt đoạn tổng tửu Trịnh Ân, nhưng Chín Mập lo ngại, nhắc cây kim lên:
- Tao lo quá Ba Bay! Loạt mi của mày làm thịt ít nhất là nửa chuc côm-măng-đô. Chúng là con cưng của Ngài Khu bộ phó. Mình khó lòng với ổng.
- Sợ con c. gì mậy! Tụi nó xưng là Việt gian thì tao có quyền “giũ sổ” chúng nó. Nếu Ngài Khu bộ phó có hỏi thì tao sẽ nói như vậy – Nói xong Ba Bay tiếp tục hạ cây kim xuống, nghe lại từ ly rượu thứ nhất…
Chín Mập lo ngại rất đúng. Một ngày sau. Năm Hà nhận được công văn của văn phòng Khu bộ phó dạy giải Ba Bay qua để ông Bảy trị tội. Liên lạc còn cho biết ông Bảy còn la hét rầm rầm khi nghe thằng Búa báo về việc Ba Bay ngang nhiên nổ sung vào ghe côm-măng-đô mặc dầu nghe rõ tiếng của Búa. Ông Bảy ra lệnh cho Năm Tài bỏ hết mọi việc để thảo công văn bắt Ba Bay. Ông Bảy nói: “Đ.m ngưng đánh Tây để đánh Ba Bay”.
Ba Bay chết điếng khi nghe tin này. Hắn chỉ còn biết ông chân ông Năm Hà tìm cách cứu mạng:
- Ông Bảy là bạn của anh Ba, ông Bảy coi anh Năm như em ruột. Bây giờ chỉ có anh Năm mới cứu được Ba Bay…
Năm Hà suy nghĩ lung lắm. Giải quyết vụ này như thế nào cho ổn đây? Cố nhiên là không thể để Bảy Viễn giết Ba Bay. Nó là bộ hạ ruột của mình. Nhưng cứu Ba Bay bằng cách nào mà không mích lòng người lớn? Từ lâu, giữa Năm Hà và Bảy Viễn có một chút lấn cấn, bởi hai lần đầu Bộ Chỉ huy thống nhất Liên khu Bình Xuyên, anh em đều bầu Năm Hà, trong khi Bảy Viễn đinh ninh rằng mình xứng đáng thay Ba Dương nắm Bình Xuyên hơn ai hết. Nhưng không ai xem Bảy Viễn là dân Bình Xuyên chánh cống mà là dân hào mé muốn lợi dụng danh nghĩa Bình Xuyên để mưu chuyền riêng tư…
Nhình quanh quẩn. Năm Hà thấy Bảy Rô vừa từ dưới bến đi lên văn phòng. Từ ngày Ba Dương mất, Bảy Rô lãnh công tác binh vận. Năm Hà mừng rỡ nói:
- Bảy Rô, tay đang nghĩ tới mày thì mày lại dẫn xác tới.
- Có chi không anh Năm? Mí mắt trái giật giật, chắc có lộc ăn đây – Bảy Rô vừa nói vừa nheo mắt.
Năm Hà cười ha hả:
- Lộc ăn hả? Đây là khúc xương khó nuốt, tao nói trước cho mày chuẩn bị tinh thần. Mày hãy tức tốc mang thư của tao qua văn phòng Bảy Viễn xin Bảy Viễn tha chết cho Ba Bay.
Nghe hết mọi việc Bảy Rô đắn đo:
- Sao anh Năm không lựa người nào có khoa ăn nói, chớ Bảy Rô ăn tục nói phét…
Năm Hà khoát tay:
- Tao tin mầy thì tao mới nhờ. Mày đi với Chín Mập và Năm Mười Ba. Tụi nó là nhân chứng, còn mày là sứ giả của tao. Nếu coi thơ mà Bảy Viễn chưa chịu thì mày mới uốn lưỡi Tô Tần…
Vì nể Năm Hà mà cũng vì tình sanh tử có nhau với Ba Bay, Bảy Rô nhận trọng trách thuyết khách. Trên suốt chặn đường tới “Tổng hành chòi” của Bảy Viễn ở Tắt Ông Thọ, Bảy Rô la lắm. Bảy Viễn nóng như lửa. Nói là sao cho khéo, hớ một lời là có thể “bỏ mạng sa tràng” chớ đâu phải chơi! Nếu không nhớ lỡ ăn thề trong đình thần Tam Thôn Hiệp, Bảy Rô đã thoái thác.
Tới nơi, bộ ba cắm sào lên văn phòng. Bảy Viễn đi vắng. Bảy Rô quyết định ở lại chờ để giáp mặt ông Bảy. Thấy đi-văng gõ đặt ở góc, ba anh phủi chân leo lên nằm nghỉ lưng.
Bỗng Năm Tài bước vô chống nạnh chửi đổng:
- Đ.m, tụi bây ở đâu mà dám lên nằm trên bộ ván của Ngài Khu bộ phó? Xuống mau! Đi ra!
Ba mạng ngồi bật dậy như lò xo. Bảy Rô nóng mũi:
- Ngài Khu bộ phó chứ đâu phải là vua mà không ai dám động tới long sàng? Tụi này đâu phải hoạn quan thái giám mà sợ cả cái bóng của đấng Chí tôn!
Năm Tài tái mặt:
- Mày là ai?
Bảy Rô vỗ lên ngực áo:
- Sứ giả của Liên chi 2-3. Có thư của ông Năm Hà đây, chờ trao tận tay cho Ngài Khu bộ phó.
Đang trừng trợn nhìn nhau thì ghe Bảy Viễn về tới. Bảy Rô tự giới thiệu và trao thư Năm Hà.
Bảy Viễn thay đồ, chỉ mặc áo thun tơ và vận xà rông. Đọc lá thư, Bảy Viễn có vẻ suy nghĩ nhiều. Một lúc sau hắn hỏi:
- Tụi bay là em út của Năm Hà, sao hồi nãy không vô nhà mà đứng xớ rớ ngoài hàng ba?
Bảy Rô được dịp trả đũa Năm Tài:
- Hồi nãy tụi này không biết bộ ván này của Ngài Khu bộ phó nên nằm nghỉ lưng. Không biết thằng nào nhảy ra đuổi tụi này như đuổi tà… - Vừa nói, Bảy Rô liếc Năm Tài. Mặt tên này sượng ngắt.
Bảy Viễn nhìn xuống rạch:
- Về nói với Năm Hà là Bảy Viễn không giết Ba Bay, nhưng phải giải nó qua đây để nó xin lỗi tao. Vô cớ, mà nó giết chín mạng. Thằng Sáu Đầy gãy tay về tới đây cũng tắt thở… Thằng Búa báo cáo đầy đủ hết.
Bảy Rổ nhỏ nhẹ nói:
- Ông Năm Hà sợ thằng Búa báo cáo thêm bớt nên biểu tôi dẫn hai nhân chứng theo. Chín Mập và Năm Mười Ba ở trong tổ ba người mà Ba Bay làm tổ trưởng. Xin Ngài Khu bộ phó nhín chút thì giờ quý báu nghe Chín Mập kể lại đầu đuôi…
Bảy Viễn gật. Chín Mập kể hết mọi việc.
Nghe xong, Bảy Viễn im lặng, bắt qua chuyện khác:
- Bây giờ tụi bây ở lại ăn cơm với tao. Chờ nước lớn mới về được.
- Bảy Rô biết sứ mạng của mình đã hoàn thành tốt đẹp, lên tinh thần:
- Ăn cơm có rượu không, Ngài Khu bộ phó?
Bảy Viễn cười:
- Sao lại không! Tụi bay cứ gọi tao là anh Bảy. Đừng có bày đặt Ngài Khu bộ phó nữa!
Cơm dọn lên chỉ có bốn chén và bốn đôi đũa. Bảy Viễn là chủ, Bảy Rô cùng Chín Mập và Năm Mười Ba là khách. Tuyệt nhiên không thấy bóng dáng Năm Tài. Điều này thỏa mãn lòng tự ái của Bảy Rô và hai bạn. “Nịnh cho lắm rồi mày cũng là tên “chầu rìa”, đây được ăn nhậu chung măm với Bảy Viễn như tụi tao!...”.
Rượu vài tuần, Bảy Rô nhắc:
- Ngài Khu bộ phó… à quên, anh Bảy có còn giữ ý bắt Ba Bay qua đây xin lỗi không?
Bảy Viễn nốc cạn ly rượu:
- Thôi thôi! Lỗi tại thằng Búa… - Y cất tiếng kêu – Năm Tài đâu?
Năm Tài khúm núm chạy ra. Bảy Viễn ra lệnh:
- Soạn ngay cho tao công văn hủy bỏ lệnh truy ngã Ba Bay. Cho đánh máy ngay để Bảy Rô mang về cho Năm Hà.
Năm Tài vâng dạ rồi rít. Không bao lâu tiếng máy đánh chữ từ văn phòng vọng lên lạch cạch. Bảy Viễn vừa buông đũa là Năm Tài mang công văn tới trình hai tay. Bảy Viễn ký cái “rẹt”.
- Đóng dấu cẩn thận nghe không!
Năm Tài đóng dấu xong mang trở ra. Bảy Viễn trao cho Bảy Rô:
- Về nói với Năm Hà là vụ Ba Bay chỉ là một vụ bắn lầm mà lỗi tại thằng Búa nói chơi không đúng lúc. Chỉ có vậy thôi. Cho gởi một cặp Mạc-ten về Năm Hà. Rượu bà con trên thành tặng anh em Bình Xuyên đó.
Bảy Rô cùng hai bạn hớn hở cáo lui xuống tam bản chèo về. Trên suốt chặn về, cả ba tha hồ nghí ngố cho thỏa chí.
Chín Mập bắt tay Bảy Rô khen nức nở:
- Thằng Mười Nhỏ hồi còn sống thường nhắc tới cái tên Lỗ Đạt do thằng Ba Đầu Hình tặng cho mày lúc mày mới nhập bọn đi hát… Mày ngon lành thiệt! Không có mày là tao đá thấy mẹ thằng Năm Tài. Nhưng tao nghĩ cú đá của tao không đau bằng câu mày xỏ nó. Mày nhớ câu lịch sử đó không Năm Mười Ba?
- Nhớ chớ! – Năm Mười Ba dừng chèo, nói như trả bài – “Ngài Khu bộ phó chứ đâu phải là vua mà không ai dám động tới long sàng? Tụi này đâu phải hoạn quan thái giám mà sợ cả cái bóng của đấng Chí tôn”!
Chín Mập thích chí cười vang:
- Năm Tài đúng là thằng “thượng đội hạ đạp”. Nó làm tàng với mình bao nhiêu thì nó mọp sát đất trước ông Bảy bấy nhiêu. Nó không xứng đáng là dân Bình Xuyên tụi mình.
Bảy Rô cười lớn:
- Ai cho nó vô dân Bình Xuyên? Cái hạng chuyên môn xách giày có đáng gì cho mình nói tới!...
Về tới nhà đã thấy Năm Hà và Ba Bay chờ sẵn. Bảy Rô hồ hởi kể hết đầu đuôi, nheo mắt với Năm Hà:
- Anh Năm thấy thằng em anh nói đâu có đó chưa? Mí mắt trái giật giật là có ẩm thực. Thiệt đúng y chang! Bảy Viễn đãi ba đứa này một bữa ăn có uống rượu đàng hoàng. Mạc-ten hay Cô-nhắc gì đó, uống tới đâu khoái tới đó. Anh Bảy gởi anh Năm một cặp kia kìa.
Ba Bay nhảy tới ôm Bảy Rô hôn lấy hôn để:
- Mày đã cứu mạng tao!...
Bảy Rô cười thoải mái:
- Ơn nghĩa gì giữa tao với mày! Trái lại, tao phải cảm ơn mày. Nhờ mày mà tao được hân hạnh là thượng khách của Ngài Khu bộ phó. Đâu phải ai cũng may mắn được ăn một mâm, ngủ trên ván của ông Bảy…
Năm Hà gật gù:
- Bảy Viễn tướng tinh con cọp, gầm thét vang rừng nhưng ngủ một đêm tới sáng là quên hết. Mau nóng mà cũng mau nguội. Như vậy là vụ Ba Bay kể như em rồi. Bảy Viễn đã không bắt tội Ba Bay mà còn gởi rượu Tây tạng ta. Sứ giả Bảy Rô đáng được thưởng rượu lần nữa… Ba Bay đâu rồi? Chạy về nhà biểu vợ mày làm gà ăn mừng!... Ủa nó đâu rồi?
Ba Bay không đợi Năm Hà nhắc. Anh phóng về nhà hối vợ nấu nước còn mình thì nhảy xuống rạch bắt con vịt nhổ lông. Vợ Ba Bay rất giỏi, buôn bán chăn nuôi gì cũng xôm trò. Chị lạ có tài nấu nướng nhờ có chồng kén đồ nhậu.
Không mấy chốc mà hai đĩa thịt vịt luộc dọn lên, khói thơm nghi ngút. Thịt vịt chấm với nước mắm gừng vừa béo vừa ngọt, vừa thơm vừa cay…
Năm Hà mang hết hai chai Mạc-ten cổ lùn Bảy Viễn tặng ra uống mừng Ba Bay thoát nạn. Rượu vào lời ra, chuyện xưa chuyện nay kế tiếp không đầu không đuôi nổ như bắp rang. Có điều thích thú là không hẹn mà lại gặp đầy đủ: Năm Hà, Bảy Rô, Ba Bay, Chín Mập và Năm Mười Ba là năm người đã thề đồng sanh đồng tử trong đình thần Tam Thôn Hiệp trong đêm mưa gió sụt sùi tiếc thương Ba Dương tử trận ở Bến Tre…
Rượu được vài tuần, Năm Hà cầm chai rượu lên:
- Tụi bây có biết rượu này của ai cho Bảy Viễn?
- Của bà con trên thành – Bảy Rô “Sao y nguyên văn” lời Bảy Viễn…
- Bà con trên thành, nhưng là ai? Ông Ổi, bà Xoài… phải biết đích danh chớ…
Tất cả đều chịu thua. Năm Hà nói:
- Đây là rượu của hai thằng Lâm Ngọc Đường và Môrit Thiên. Tụi nó là cơ sở trên thành của Bảy Viễn. Tụi nó chứa bạc lấy xâu, hàng tháng đem xuống nạp vào quỹ nuôi quân… Rượu Tây ngon nhưng thằng Tây không ngon. Mình uống rượu Tây mà nhất quyết không theo Tây, phải không bây?
Tất cả đều cụng ly “côm cốp” sau một tiếng “Phải” thật ăn rập như một đội đồng ca.

CHƯƠNG 33

Bảy Viễn lập “Liên Quân A” đưa Hai Vĩnh lên quân khu “chất vấn” Nguyễn Bình, tiếng là yểm trợ Hai Vĩnh nhưng dã tâm của Bảy Viễn là dằn mặt Nguyễn Bình đồng thời tạo điều kiện như ra bản tin, viết thơ rơi để mượn tay Nguyễn Bình “khử” Hai Vĩnh. Nhưng khi Hai Vĩnh đưa Liên quân A lên khu thì Bảy Viễn lại lo ngại. Y sợ với tài ăn nói khéo léo và bản lĩnh chỉ huy, Hai Vĩnh sẽ nắm được Liên quân A thì kể như y “bù”. Liên quân A là lực lượng mạnh nhất trong Liên khu, không thể rơi vào tay đối thủ lợi hại. Nghĩ vậy, Bảy Viễn nhất định với giá nào cũng phải nắm cho được bộ chỉ huy Liên quân A. Đại đội trưởng Tươi là một thanh niên cao to, đẹp trai, Bảy Viễn nghĩ ngay tới y tá Dung, trẻ đẹp nhất trong số y tá từ thành phố xuống Rừng Sác tham gia kháng chiến trong Chi đội 9. Y định thả Dung ra để câu Tươi.
- Dung đi kháng chiến đã mấy mùa thu rồi mà vẫn chưa chọn được “Côn Dui” nào sao? – Bảy Viễn khéo gợi ý.
Dung dè dặt:
- Dạ, chưa.
Bảy Viễn cười:
- Không nghe thiên hạ hát rùm trời: “Ra đi, ra đi thề lấy chỉ huy” hay sao? Chuyện này cũng không có gì hổ thẹn hết. Ông bà mình có câu: “Trai khôn tìm vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân”, Nè, nếu như trong Chi đội 9 không có cây Côn Đui nào vừa ý thì “bỏ vòi” qua Chi đội 7. Bên đó có đại đội trưởng Tươi xem ra cũng “bô” trai lắm đó.
Bảy Viễn gợi ý cho y tá Dung, rồi vài hôm sau điện cho đại đội trưởng Tươi kéo liên quân về trạm xá “tẩm bổ đại đội” sau chuyến đi công tác ở Quân khu. Với các chiến lợi phẩm như đồng hồ, bút máy, bật lửa Bảy Viễn cung cấp, y tá Dung chinh phục Tươi không khó. Thoạt tiên Tươi khai bệnh, mỗi sáng tới trạm xá tiêm thuốc khỏe; dần dần chiều nào cũng tới trạm xá để giác hơi. Thế rồi Tươi ăn dầm, nằm dề bên trạm xá không thèm trở về đại đội.
Hai Vĩnh ở Quân khu về, không thấy Tươi, cho liên lạc đi tìm. Nhưng Tươi vẫn không chịu rời trạm xá, đeo y tá Dung như sam. Hai Vĩnh phải thi hành kỷ luật, xem như Tươi bỏ ngũ, một mặt báo với Quân khu, một mặt ra công văn bắt Tươi truy tố tòa án quân sự Quân Khu.
Nhưng đưa ra xử một cán bộ cấp đại đội đầy tương lại như Tươi, Hai Vĩnh thấy không đành. Chuyện trai gái là lẽ thường, huống chi lại là âm mưu thâm độc của Bảy Viễn. Hai Vĩnh bỏ ra một ngày giải thích mọi lẽ cho Tươi nghe. Khi thấu rõ sai lầm của mình. Tươi vô cùng hối hận, xin Hai Vĩnh cứu giúp để “đoái công chuộc tội”.
Đúng vào lúc ấy Hoàng Thọ đến xin đạn đề nghị liên quân đánh trận Đá Giăng. Hai Vĩnh đang thử lựu đạn do bình công Chi đội 7 sản xuất thì trạm giao liên bìa rừng báo có Hoàng Thọ tới.
Một người to lớn, râu quai nón, đội nón rộng vành, quân phục ka-ki gọn gàng xăm xăm đi tới:
- Anh Hai, khỏe mạnh chứ?
- Hoàng Thọ! Gió nào đưa anh tới đây?
- Đến vay anh một ít đạn và lựu đạn. Mượn đồ “lôcan” mà trả “ori-gin”. Chịu không?
Hai Vĩnh gật:
- Binh công xưởng Chi đội 7 cung cấp cho cả Quân khu, lẽ nào lại không cho bộ đội 303 của Hoàng Thọ?
Hoàng Thọ vui vẻ:
- Vậy là xong một việc. Việc thứ hai, đề nghị Chi đội 7 đánh liên quân với chúng tôi. Đánh trận này là “ăn chắc”.
Hai Vĩnh cười:
- Chưa săn được gấu đã tính gạ bán bộ da! Đánh ở đâu? Đã đi “điều nghiên” chưa?
Hoàng Thọ gật:
- Rồi. Mỗi tuần tụi Tây ở Bà Rịa đi tiếp tế cho tụi Long Hải. Đây là con đường độc đạo, một bên là dãy núi Đá Giăng, còn bên kia là đồng trống và rừng chồi. Sau khi đi điều nghiên, tôi bố trí như thế này: ta chôn địa lôi hai đầu, cách khoảng chừng hai cây số. Ở đầy trên, ta cho một trung liên đặt giữa lộ, bắn vỗ mặt vào đoàn xe vừa bị địa lôi khóa đuôi. Tụi trên xe GMC nhất định phải nhảy xuống chống cự. Chúng sẽ dạt qua bên đồng trống vì sợ quân ta phục kích từ sườn núi Đá Giăng. Nhưng chúng không ngờ liên quân đào hố cá nhân ngoài đồng trống. Thế là chúng nạp thịt cho chằn! Mình chỉ còn ào ra thu chiến lợi phẩm! Ngon xơi chưa?
Hai Vĩnh gật gù:
- Được! Về chiến thuật giao thông chiến thì đây là một phương án rất hay. Tôi sẵn sàng liên quân. Nhưng trước hết… mình phải thẳng thắn với nhau. Mích lòng trước mà được lòng sau…
- Hà hà! Chắc anh Hai đã nghe thiên hạ đồn Hoàng Thọ đánh giặc ẩu, hay thí quân chứ gì? Đánh giặc chứ có phải o mèo đầu mà sợ chết! Bản thân tôi xung phong trước nhất. Trong bất cứ trận nào, mìn vừa nổ là tôi xung phong ra đường “à-lát-xo” (1) ngay phút địch còn hoang mang. Có lần tôi rượt theo xe nồi đồng, leo lên mở nắp thả lựu đạn diệt con cha con nó bên trong. Nhờ trận đó mà Tây nghe Hoàng Thọ là “ xón đái” trong quần.
– Mỗi người một cách đánh, không ai giống ai. Lối đánh cảm tử của anh cũng có mặt hay của nó. Nhưng tôi muốn nói cách “chơi gác kèo trên” của ah trong các trận liên quân. Nhiều người than phiền anh bố trí lực lượng bạn ở chỗ hiểm, hứng trọn hỏa lực của địch, trong khi bộ đội 303 thì ung dung thu dọn chiến trường, ôm hết chiến lợi phẩm. Có vậy không?
Hoàng Thọ cười tinh ranh:
- Đánh giặc cũng như cờ bạc. Thằng điếm nhiều ăn thằng điếm ít. Đồng ý không nào? Đó là quy luật, không riếng đối với địch mà đối với ta cũng thế. Hay dỡ là lúc các cha tham mưu họ bàn kế hoạch tác chiến… Nhưng với ai chớ anh Hai thì thằng Hoàng Thọ này không đám chơi cái mững đó đâu!
Cả hai đồng ý liên quân đánh trận Đá Giăng. Vì lực lượng Tây ở Bà Rịa khá mạnh nên để chắc ăn, Hai Vĩnh đề nghị mời thêm Chi đội 16 và Quốc vệ đội của Huỳnh Công Vinh tham chiến.
Hợp đồng xong xuôi, Hoàng Thọ vui vẻkể chuyện “tiếu lâm” cho Hai Vĩnh nghe:
- Trở lại chuyện điếm, nói chuyện này cho anh Hai nghe để rút kinh nghiệm chỉ huy bộ đội. Trong 303, mìn có hai thằng “đệ tử” dám sống chết với chỉ huy. Cố nhiên là tôi tin yêu hai đứa nó vô cùng. Chúng muốn gì tôi cũng cho. Nhưng dần dần chúng trở nên quân phiệt còn hơn Hoàng Thọ. Đóng quân ở nhà nào có con gái đẹp là thế nào cũng “chớp” con gái của người ta. Chơi qua đường chứ không tính chuyện đàng hoàng. Dân chúng trong vùng oán hận chứ không dám kêu ca. Chúng là quá nên bộ đội cũng bất mãn. Có tin thấu tới tai tôi là nếu không trị tội hai “quỷ sứ” đó thì cả bộ đội sẽ trả súng bỏ ngũ. Rắc rối dữ, phải làm sau đây? Lập tòa án xử tội hai tên này thì mới giữ được bộ đồi đồng thời lấy lại lòng dân. Nhưng ai đành đoạn giết hai tên đệ tử ruột như vậy được? Tôi suy nghĩ mãi và nghĩ ra một cách vẹn toàn. Cũng lập tòa án, cũng đưa hai tên quỷ sứ đó ra bắn. Nhưng kết quả là đạn lép và hai tên tốt số kia được tòa án cho “đoái công chuộc tội”…
- Nhưng tại sao đạn lại lép?
Hoàng Thọ cười khoái trá:
- Chính chỗ đó mới là bản lĩnh của người chỉ huy. Đêm trước đó tôi đã bí mật luộc hai gắp đạn cho vào hai cây mút của tiểu đội hành quyết. Đạn bị luột cả đêm thì nổ làm sao được!
Hai Vĩnh lắc đầu:
- Ma giáo quá!
- Phải vậy chớ anh! Mà cũng hay là sau trò bi hài kịch đó, hai thằng đệ tử của tôi không đám tác oai tác quái nữa. Tôi nghĩ đó cũng là một cách giáo dục hữu hiệu nhất…


***


Trận Đá Giăng diễn ra đúng như Hoàng Thọ dự tính. Địch đã nhảy về phía đồng trống làm bia sống cho liên quân từ các hố cá nhân xung phong lên.
Đã phân định ngôi thứ “anh hùng giết giặc” trong liên quân bốn đơn vị tham chiến thách đó nhau xem ai cắm cờ chiến thắng lên xe tăng địch trước nhất. Mìn vừa nổ là bốn đơn vị ào ra xung phong. Đại đội trưởng Tươi quyết lập chiến công để tỏ ra xứng đáng với lòng tốt của Hai Vĩnh. Anh hạ quyết tâm cắm cờ Chi đội 7 lên xe tăng trước nhất.
Phía bên bộ đội Hoàng Thọ, đại đội trưởng Thành cũng quyết lập công đầu cho đơn vị mình, thế là chỉ trong vòng mấy phút liên quân đã làm chủ tình hình. Thành và Tươi đều lao nhanh về phía xe tăng chỉ huy địch, lá cờ đơn vị nắm chắc trong tay. Không ngờ trên xe tăng còn một thằng Tây sống sót. Nó ló đầu ra ném lựu đạn khiến cả Thành và Tươi chết tại trận.
Trước tổn thất quá lớn lao này, hai đơn vị xung phong bắt cho kỳ được thằng Tây sống sót kia mổ bụng lấy gan đem về nướng ăn trả thù. Hai Vĩnh phải can thiệp để anh em bỏ ý định đó.
Đại đội trưởng Tươi tử trận. Hai Vĩnh buồn mấy ngày. Anh đã xây dựng được một con người mới, hy vọng Tươi sẽ còn đi xa, dự định đưa Tươi lên nắm tiểu đoàn, nhưng… “mỗi người đều có số, nhân định không thể thắng thiên định được”. Đó là một cách an ủi trước những chuyện quá sức mình.
Đại đội trưởng Tươi tử trận cũng để lại một kỷ niệm buồn cho cô y tá trẻ đã từng sống những ngày đẹp nhất đời mình.

CHƯƠNG 34

Tháng ba năm 1947, Hai Vĩnh được thư của Việt Hồng mời qua tiểu đoàn 300 có việc cần. Tiểu đoàn 300 mới thành lập, lấy tên tiểu đoàn Dương Văn Dương, là cái khung huấn luyện sĩ quan lục quân, Việt Hồng là dân Phú Xuân, Nhà Bè, làm thầy ký hãng xăng Seo (Shell), tên thật là Huệ. Thầy ký Huệ sớm có ý thức cách mạng nên cùng anh Đinh Văn Nhị - thường được gọi là Hai Nhị - bí mật hoạt động trong giới thợ thuyền. Trong các cuộc diễn thuyết tại trụ sở xã Nhơn Đức, Hai Vĩnh có nhiệm vụ bảo vệ cho các diễn giả. Nhờ đó hai người quen nhau, Việt Hồng nắm Đoàn Thanh niên Cứu quốc Nhà Bè gồm cả trăm đoàn viên trong khi Hai Vĩnh nắm Thanh niên Tiền phong bên Chánh Hưng.
Sau ngày Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Việt Hồng chuyển Đoàn Thanh niên Cưu quốc thành đoàn dân quân cách mạng, tập quân sự, đại khái học các động tác cơ bản, đi đứng, quay bên trái, quay bên phải. Rồi học cầm súng, nhắm bia, rồi đâm lê… công việc học quân sự rất vất vả kiên trì và có nhiều người kém đến nổi không nhớ đưa chân nào trước khi nghe tiếng hô bước đều bước “ Một hai… một…”.
Công việc nuôi quân mới là vấn đề sống chết. Trong việc này, Việt Hồng nhờ anh Ba Xuân, cũng là công nhân hãng Seo. Ba Xuân có tài tháo vát nắm quản trị đoàn Dân quân cách mạng, sau lấy tên bộ đội Nhà Bè, đặt trụ sở tại ngã ba Sô-cô-ny. Trong cuộc biểu tình ngày Việt Minh cướp chánh quyền ở Sài Gòn, ngày 25-8 năm 1945, bộ đội Nhà Bè của Việt Hồng kéo hai lá cờ: Cờ búa liềm và Cờ đỏ sao vàng. Năm 46, Việt Hồng được chọn đi học trường võ bị Sơn Tây khóa 7 ở Quãng Ngãi, sau đó anh theo tiểu đoàn I Nam Tiến. Tiểu đoàn này kết hợp với Chi đội 13 của Tổng công đoàn trở thành Tiểu đoàn 300 để làm nòng cốt cho Liên khu Bình Xuyên. Việt Hồng là chánh trị viên của tiểu đoàn 300, Nguyễn Chí Sinh là tiểu đoàn trưởng.
Hai Vĩnh qua Tiều là nơi tiểu đoàn 300 đóng, thắc mắc về mấy chữ “có việc cần” như trong thư mời. Việt Hồng vỗ vai bảo:
- Chính ủy Hai Trí chỉ thị tụi này kết nạp Hai Vĩnh. Hai Vĩnh tính sao?
Hai Vĩnh hoàn toàn bất ngờ. Anh không hề nghĩ tới vấn đề này. Việt Hồng cười:
- Có tính xin hoãn lại như lần trước nữa không?
Hai Vĩnh suy nghĩ:
- Khi nghe nói kết nạp, điều suy nghĩ đầu tiên của tôi là “mình có xứng đáng không? Mình đã làm gì ích quốc lợi dân? Về đạo dức, mình có lột xác chưa?”. Chính câu hỏi sau cùng đã buộc tôi từ chối khi được hai anh Của và Quới giới thiệu hồi năm trước…
Việt Hồng gật gù:
- Biết suy nghĩ như vậy là đã tiến bộ nhiều rồi đó. Theo tôi thì anh rất xứng đáng. Vì hồi năm 40 anh đã tiếp xúc với Bảy Trân tại nhà ông Tám Mạnh và tham gia cuộc Nam Kỳ khởi nghĩa tại tổng Tân Phong Hạ. Trước Cách mạng tháng Tám, tôi với anh cũng đã họp mít tinh mừng Quốc tế Lao động tại ngã ba Nhớn Đức. Nhưng hiện tại mới là điều quan trọng. Mấy năm nay, anh nắm Chi đội 7 đảm bảo tốt công tác xây dựng và tác chiến. Như vậy là đủ tiêu chuẩn để vào Đảng.
Thế là Hai Vĩnh được kết nạp chính thức vào Đảng do Việt Hồng và Lê Hiền, chánh trị viên Chi đội 21 giới thiệu. Anh là một trong số ít dân Bình Xuyên đầu tiên được vinh dự kết nạp vào Đảng kể từ sau Cách mạng tháng Tám. Lễ kết nạp được tổ chức đúng nghi thức. Có Đảng kỳ, hát Quốc tế ca, đọc Điều lệ Đảng…
Trong thời gian ở Tiều, Hai Vĩnh hiểu về mảnh đất “địa linh nhơn kiệt” này bởi xưa nay, đã có nhiều đơn vị võ trang về đây đóng quân lập căn cứ. Tiều là một phần của xã Lý Nhơn, nằm dọc sông Soài Rạp và sông Vàm Sác, có rất nhiều rái, cá nược, và sấu. Các con sông rạch chảy quanh, nước mặn, chèo thuyền ban đêm mặt nước nổi sao. Cây cỏ vùng này là chà là, bần, rán, đước v.v…
Các cơ quan cất chòi trên rễ đước, đốn chà là làm sàn. Sống lâu ngày trên sàn chà là, chân cẳng rất thèm nước. Nuốc uống là cả một vấn đề, phải lên đất giồng gánh về. Chỉ cực nước, còn ăn thì gạo, thịt, cá ê hề. Thịt heo rừng ở Tiều ngọt đặc biệt vì heo rừng ăn đọt chà là. Thỉnh thoảng cung săn được nai. Chuyện là lạ vùng ngập nước này cũng có cọp. Đêm đêm chèo tam bản trên các rạch nhỏ, anh em phải đề phòng cọp vồ. Được cái cọp ở Tiều chưa quen ăn thịt người như Cọp Ba Móng ở Đất Cuốc, Đất Đạo trên chiến khu Đ. Nhưng sấu mới là đặc điểm của Tiều. Không đâu sấu nhiều như ở đây. Ít ai dám lội ra xa vì sợ sấu “gắp”. Anh Ba Kim phụ trách trại heo của tiểu đoàn kể chuyện sấu bắt heo nghe “lạnh mình”. Nửa đêm nghe heo kêu, Ba Kim sách súng chạy ra chuồng, đinh ninh có trộm. Nhưng trước mặt anh là một con “hạm” – loại sấu sống lâu năm, to và dài hơn chiếc xuồng ba lá – Sấu ta từ bờ rạch xăm xăm bò tới chuồng heo, khi thấy Ba Kim chạy tới, sấu đổi mục tiêu, nhắm ngay Ba Kim sấn tới, há rộng cái miệng đầy răng lởm chởm. Ba Kim hoảng kinh hồn vía lùi ra phía sau. Anh lùi mãi cho tới khi sụp lỗ trâu, quỵ xuống. Sấu ta lao tới gắp miếng mồi ngon. Đúng vào lúc ấy, Ba Kim tỉnh lại, chĩa súng bóp cò. Anh bắn liền ba phát, con “hạm” mới chịu chết. Hạ được con sấu rồi Ba Kim muốn xỉu luôn.
Anh Ba Ngưu cũng góp một chuyện sau tát để chứng minh sấu không “ngu” như nhiều nhà khoa học nhận định – Các nhà khoa học căn cứ vào bộ óc rất nhỏ, không cân xứng với thể xác để quyết cá sấu không có trí thông minh. Anh Ba Ngưu chứng mình ngược lại. Chính mắt anh trông thấy sấu tát cá bên lán trại của anh. Sấu xĩa mõm sát bờ rạch, cong mìn lại như chữ V dùng cái đuôi đập đập để gom cá vô vòng vây. Khi cái đuôi khép lại thành chữ O thì cái đầu chỉ việc gắp những con cá bị ép văng lên bờ.
Nhưng con người mới là đối tượng Hai Vĩnh chú ý tìm hiểu hơn hết. Dân địa phương ở Tiều không đông. Phần lớn là người Tiều chuyên sống về nghề trồng rẫy. Hàng bông ở Tiều chỉ có hành, kiệu, ớt… Trái cây chỉ có ổi và khóm. Ở đất này khá nhất là hai anh em Tiều Ba và Tiều Tư. Chuyện con gái Tiều Ba trai gái với ai có chửa là một thời sự nóng bỏng vào những năm đầu kháng Pháp. Tiều Ba cột cô con gái lại, quơ gậy khảo tra: “Mày lấy ai? Công an? Hành chánh?” Con gái thú nhận “bộ đội”. Tiều Ba càng làm dữ: “Bộ đội nào? Nếu mày không lấy Chi đội 21 thì mày lấy Chi đội 7”. Chuyện nhỏ mà có mòi xít ra to. Các Chi đội đóng trên đất Tiều gồm có Chi đội 7 của Hai Vĩnh. Chi đội 9 của Bảy Viễn và Chi đội 21 của Tư Hoạnh. Ba đơn vị này phải truy cho ra thủ phạm để tiến tới làm lễ tuyên bố, cứu vãn tình thế không hay cho cô gái, cho Tiều Ba và cho các cơ quan quân sự, hành chánh đóng nhờ nơi này. Tiền hung hậu kiết! Không cần phải điểm binh cho nạn nhân nhìn mặt, mà vào giờ chót, thủ phạm đã đứng ra nhận tội và xin bồi hoàn bằng cách… làm rể Tiều Ba. Vậy là vui cả làng!
Liền sau khi đươc kết nạp, Hai Vĩnh trở về xây dựng Chi đội 7 theo phương hướng của cấp trên đề ra để tiến tới chính quy hóa, - chi đội phiên chế thành trung đoàn – thống nhất các lực lượng võ trang trên toàn quốc thành Vệ quốc đoàn. Kỷ luật phải nắm vững. Hai Vĩnh buộc phải hy sinh hai binh sĩ có nhiều thành tích nhưng phạm nhiều tội nghiêm trọng.
Vụ thứ nhất là đội viên tên Ba Du, liên lạc của Chi đội, đã lợi dụng danh nghĩa bộ đội mượn tiền của Đạo Ông Trần ăn chơi phè phỡn. Tội thứ hai là dụ dỗ, cưỡng bức con gái rồi hắt hủi, nạn nhân lại là tín đồ của Đạo Ông Trần.
Vụ thứ hai là một binh sĩ Nhật theo Chi đội từ đầu. Hai Vĩnh đặt tên cho hắn là Đội Ba. Đội Ba lập nhiều chiến công trên chiến trường, lại biết sửa chữa súng máy, phục hồi khẩu đại liên Lơ-vít (Lewis)… Nhưng Đội Ba đã trở thành kiêu binh, công thần, ngang nhiên cướp chiến lợi phẩm cất trong kho, cuỗm chiếc cặp da đựng tiền lương của địch trong trận đánh giao thông trên đường Phước Hòa; dùng tiền và chiến lợi phẩm ấy dụ dỗ con gái trong vùng đóng quân. Ngoài ra Đội Ba còn lợi dụng lúc vào binh công xưởng sửa chữa súng, liên lạc với tay trong làm chỉ điểm cho máy bay lên bỏ bom nơi này.
Hai Vĩnh lập tòa án quân sự đưa hai tên Du và Đội Ba ra xử. Khi toàn tuyên án tử hình, binh sĩ Nhật trong Chi đội 7 được hỏi ý kiến. Số này rất đông, gần một trăm người. Tất cả đều nhìn nhận Đội Ba đáng tội chết. Hai Vĩnh dành cho Đội Ba một ân huệ cuối cùng là được tự do tâm sự trăn trối vói các bạn người Nhật sau khi anh chết, thì thi hài sẽ được tẩm liệm và mai táng theo phong tục người Nhật.
Để nắm số lính Nhật này, Hai Vĩnh đã nhờ bốn đội viên Trung, Tâm, Hiếu, Nghĩa mà anh đã tiếp xúc đầu tiên vào năm 46. Hay tin quân Nhật ở Bà Rịa có khẩu đại liên Lơ-vit, Hai Vĩnh tốc xuống Bà Rịa ngoại giao. Lúc đó Lê Văn Huề - cũng gọi là Phán Huề - làm chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh. Phán Huề cấp giấy giới thiệu Hai Vĩnh tiếp xúc với đơn vị Nhật đóng ở Bà Rịa. Khẩu La-vit này do bốn tên Nhật phụ trách. Hai Vĩnh trỗ tài ngoại giao thuyết phục lính Nhật giao súng. Kết quả mỹ mãn. Chẳng những chúng chịu giao súng mà còn tình nguyện gia nhập bộ đội Việt Nam chiến đấu tới cùng thay vì bó tay nạp mình cho đồng minh. Hai Vĩnh mừng rỡ làm tiệc đón nhận bốn chiến sĩ quốc tế này đồng thời long trọng đặt tên cho họ là Tâm, Trung, Hiếu, Nghĩa. Anh cũng giao cho họ phụ trách khẩu đại liên đó luôn. Ngoài lính Nhật còn có một số linh Âu, phần lớn là lê dương. Ông Bảy Trân đã phái Perrier (Pe-ri-ê) đến Chi đội 7 giúp Hai Vĩnh lãnh đạo đội quân quốc tế này, quân số trên một trăm năm mươi người.

CHƯƠNG 35

Tháng tư năm 1947, Lâm Ngọc Đường cấp tốc xuông Tắt Cây Mắm gặp Bảy Viễn báo cáo về cái chết đột ngột của giáo chủ Hòa Hảo. Chỉ có bốn người dự cuộc báo cáo đặc biệt này; thuyết trình viên là Lâm Ngọc Đường. Bảy Viễn và hai cận thần là Tư Sang và Năm Tài ngồi nghe với tất cả bàng hoàng vì mới tháng nào đây, Thầy Tư Hòa Hảo và đệ tử ruột là Năm Lửa còn đến thăm viếng xã giao Ngài Khu bộ phó. Cũng trong chuyến đi Miền Đông đó, Huỳnh Phú Sổ đã ghé thăm Năm Hà, và trên đường về, dừng lại Bình Hòa thăm Mười Trí. Trong lúc đàm đạo tại văn phòng Chi đội 4 thì mày bay địch bắn. Vùng này là vùng rìa Đồng Tháp Mười ít có cây cao nên phi cơ giặc Pháp tung hoành ngang dọc, sà sát đọt cây thả bom và bắn đại liên. Loại phun lửa mang hai quả bom dưới lườn, chúi xuống hai lần thả hai quả bom rồi tiếp tục quần đảo bắn phá cho tới khi hết đạn mới thôi. Không chỉ bộ đội mà dân chúng cũng biết tánh nết của chúng. Ngày ấy ba chiếc phun lửa lên quần trên vùng đóng quân của Chi đội 4. Huỳnh Phú Sổ, Năm Lửa cùng một số tín đồ Hòa Hảo hoang mang khi lọt vào vòng vây ngày càng thu hẹp lại của ba chiếc máy bay. Cả bọn chạy lăng xăng như bầy gà con thấy diều hâu. Mười Trí đã quen những vu oanh kích như thế, bình tĩnh bảo Huỳnh Phú Sổ “Thầy Tư ngồi đây với tôi. Đừng chạy bậy bạ. Ở đây tôi chắc chắn là an toàn”. Cả bọn, thầy tớ đề giao hết tinh thần lẫn thể xác cho Mười Trí. Ba chiếc máy bay thả đủ sáu quả bom rồi quần, bắn chung quanh đó. Bắn hết đạn chúng bay đi. Năm Lửa thờ phào, rút khăn lau mồ hôi trán cho Giáo chủ, lẩm bẩm: “Quân gì băn dai như trâu đái!”. Huỳnh Phú Sổ thoát nạn, cảm ơn Mười Trí rối rít. Trong lúc bốc đồng, Sổ chỉ Mười Trí nói to với đám Năm Lửa và tín đồ: “Đây là Sư Thúc của bây đó, say này thầy có qua đời, Sư Thúc bây lên nối nghiệp”. Câu nói ấy vô tình biến Mười Trí thành một nhân vật thiêng liêng đối với mấy triệu tín đồ Hòa Hảo.
Sau khi đi một vòng Miền Đông, Thầy Tư Hòa Hảo trở về Miền Tây. Trên đường về, Thầy Tư chết đột ngột.
Bảy Viễn hoang mang, Lâm Ngọc Đường đánh bồi thêm:
- Ý đồ diệt giáo phái của Việt Minh đã quá rõ. Cái chết của Huỳnh Phú Sổ là một bằng chứng hùng hồn. Ngài Khu bộ phó nên chọn trước một con đường đi, kẻo nước tới chân thì quá mưộn.
- Con đường nào? Theo Tây à? Hồ sơ của tôi cò Bazin còn giữ trong tủ sắt.
Lâm Ngọc Đường chồm tới ngó ngay mặt Bảy Viễn:
- Nếu kéo Ngài bỏ chiến khu về thành thì xoàng quá, đâu phải là tay có bản lãnh? Đại úy Savani đã nhất trí với thủ tướng Xuân là chỉ cần Ngài thỏa thuận “án binh bất động” là được rồi, hai bên ngấm ngầm thỏa thuận không ai tấn công ai, miễn là con đường Vũng Tàu vào Sài Gòn không bị phục kích để tàu bè nước ngoài yên chí lui tới buôn bán làm ăn”… Nếu Ngài đồng ý, thì Phòng Nhì sẽ đảm nhận tiếp tế lương thực đạn dược cho Bình Xuyên…
Đến đây cuộc họp tạp dừng để ăn cơm trưa. Buổi chiều hai anh em Sang, Tài bàn thêm về đề nghị của đại úy Savani mà Lâm Ngọc Đường chuyển tới Bảy Viễn.
- Mình nên chớp thời cơ, đừng bỏ lỡ dịp may hiếm có. Ta chỉ “án binh bất động” thôi mà được tiếp tế tiền bạc, lương thực, súng đạn. Vậy là vua rồi! Ngài Khu bộ phó vẫn ở đây, vẫn nắm Chi đội 9, không phải kéo quân về thành mang tiếng đầu Tây. Đại úy Savani, cò Bazin chẳng những không dám coi thường Ngài là tên tù vượt ngục như Ngài thường lo ngại, trái lại họ tôn trọng Ngài như bạn đồng minh. Nếu được Phòng Nhì tiếp tế, ta sẽ không phải thu thuế than củi, nước mắm, hột vịt làm quỹ nuôi quân. Chuyện đó rất thất nhân tâm… Mình giảm bớt thuế thì sẽ lấy được cảm tình của dân chúng qua lại trong vùng. Lợi nhiều lắm đó Ngài.
Sang nối lời Tài:
- Về quân sự thì súng ông của Chi đội 9 không bằng các Chi đội khác trong Liên khu Bình Xuyên. Tôi sẽ làm kế hoạch thay toàn bộ súng ống cho hiện đại. Đánh giặc hiện đại, súng phải cực nhanh. Ra trận phải nhanh tay, bắn chậm thì chết… Tôi bảo đảm với Ngài Khu bộ phó là trong thời gian một tháng. Chi đội 9 mình sẽ đứng đầu không phải chỉ Miền Đông mà đứng đầu cả nước…
Thấy Bảy Viễn đã xiêu, Lâm Ngọc Đường tươi cười bảo:
- Hai ông Sang và Tài cứ lên thống kê đi, cho biết quân số Chi đội 9 là bao nhiêu, cần bao nhiêu quân phục, bao nhiêu súng ống, loại gì nêu rõ, đạn được một năm xài bao nhiêu, thuốc men cần những thứ gì, rồi gạo, thịt, đường, đậu v.v… Cho tôi những con số đó, tôi đảm bảo trong vòng một tháng là tôi tiếp tế đầy đủ, không thiếu món gì – Hắn cười nói thêm – Còn cái khoản xa xỉ phẩm nữa. Sẽ có bơ, sữa, cà phê, rượu, thuốc thơm…
Tài, Sang tất bật tính toán, ghi chép. Bảy Viễn hỏi Lâm:
- Tiếp tế bằng cách nào cho các Chi đội khác không biết?
Lâm cười thật tươi:
- Chỉ cần Ngài đồng ý, mọi việc đã có chúng tôi lo.
Cuộc mật đàm tạm ngưng vì có Mười Trí tới. Mỗi lần Mười Trí về Rừng Sác là Bảy Viễn vừa mừng vừa lo. Mừng vì gặp lại bạn đồng sanh đồng tử, nhưng lo vì Mưới Trí là tay ăn ngay nói thẳng, dám phê bình, chỉ trích thằng thừng “Ngài Khu bộ phó”. Mưới Trí về Rừng Sác cũng giống như Thái sư Văn Trọng hồi trào giáng thập điều.
- Về chơi hay có việc gì? – Bảy Viễn hỏi Mưới Trí.
- Thời giặc giã, đâu có chuyện về chơi? Tao đánh hơi nghe có chuyện giải pháp Bảo Đại nên cấp tốc qua đây bàn chuyện cơ mật đây…
Bảy Viễn chột dạ:
- Mày định bàn chuyện gì?
Mưới Trí nghiêm nghị:
- Tao nghe phong phanh Phòng Nhì định lập chiến khu quốc gia giả hiệu để làm rùm beng ủng hộ Cựu hoàng Bảo Đại. Chúng nhắm vào bộ đội giáo phái để làm cái trò tráo bài ba lá này. Tao không biết chúng đã tiếp xúc với mày chưa nên tao qua đây khuyên mày nên thận trọng, đừng mắc mưu chúng…
Bảy Viễn có cảm tưởng như Mưới Trí biết rõ tim đen mình.
- Chuyện đại sự như vậy, tao đâu dám ẩu, có gì tao cũng hỏi ý mày… Mày qua đây chỉ có vậy thôi?
Mưới Trí phấn khởi nói tiếp:
- Đó là chuyện phòng xa cho mày. Còn mục đích chính của chuyến đi này là tao qua đây để nghiên cứu chiến trường đánh tàu giải quyết lương thực.
Bảy Viễn mừng rỡ:
- Hay quá! Tao với mày liên quân nghe. Chi đội 4 với Chi đội 9 mà liên quân đánh tàu giòng ghe là “ăn chắc”.
Mưới Trí cười:
- Mày muốn liên quân cũng tốt thôi. Thật ra thì một mình Chi đội 4 của tao cũng dư sức làm. Ban đầu chúng tao định đánh tàu cướp súng tại Vàm Phong Mỹ. Địch chỉ có tiểu đội nhưng có cây ca nông 20 ly. Sau suy nghĩ lại tao thấy tiếc cả chục ghe chài. Cho nên tao định chọn địa điểm “ăn hàng” trên địa phận của mày, “ngon xơi” hơn. Vừa lấy súng vừa lấy lương thực.
Bảy Viễn sợ mất phần:
- Dù sao liên quân cũng bảo đảm hơn.
- Đúng vậy. Cả chục chiếc chài, tao với mày ăn sao hết? Còn phải chia bớt cho các Chi đội khác trong Liên khu…
Bảy Viễn yên chí hỏi thêm:
- Kế hoạch đánh đấm ra sao? Chắc là cho người mình lên nằm trên tàu?
Mưới Trí gật:
- Thì cũng bổn cũ soạn lại thôi. Nhưng có cái hay là trong đội công tác thành của Hai Bạc có hai tín đồ Hòa Hảo chánh hiệu. Hai anh này trước đây thuộc trung đội tiếp tế của Huỳnh Phú Sổ. Sau khi Sổ lâm nạn, trung đội bị quản thúc ở Hội đồng Sầm. Tao đến lãnh nhưng họ chỉ giao có một bán đội vì ta đang cần lực lượng dân công để phá đường, đắp cản…
Bảy Viễn trợn trừng:
- Tại sao lại đưa Hòa Hảo trong công tác cướp tàu? Tụi nó “phản thùng” thì chết ráo!
Mưới Trí cười đầy tự tin:
- Tao muốn chứng tỏ cho mọi người biết đạo cũng như đời, có người tốt kẻ xấu, và lòng yêu nước không phải là độc quyền của nhóm nào. Hai anh Hòa Hảo này rất tốt, và vai trò của họ trong chuyến công tác này cũng không thể thiếu. Họ có nhiệm vụ tìm đường đưa đội công tác thành của Hai Bạc về ém quân tại Cù lao ông Hổ - một làng Hòa Hảo trăm phần trăm – để giả làm hành khách lên tàu ngay tại bến Long Xuyên…
Bảy Viễn gật gù:
- Tao thấy mày chơi chung với Huỳnh Phú Sổ và Phạm Công Tắc mà tao lo ngại cho mày…
Mưới Trí cười:
- Tao khác mày ở chỗ đó. Tao chủ trương thêm bạn bớt thù. Với ai tao cũng chơi. Nhưng khi chơi biết đánh giá, biết phân loại. Còn mày thì có vẻ giữ gìn ý tứ nhưng lại không biết đánh giá và phân loại. Nhưng đó là chuyện sẽ bàn sau. Bây giờ tao với mày đi điều nghiên cho vụ đánh tàu tới đây…

CHƯƠNG 36

Bảy Viễn được Mưới Trí nhận đứng chung liên quân lấy làm mừng rỡ, liền chỉ thị cho bộ tham mưu Chi đội 9 chuẩn bị sẵn sàng, coi chiến công đánh tàu Thanh Vân như thành tích riêng của Chi đội 9.
Tư Sang thảo công văn gởi các đơn vị trong Chi đội 9, dạy phải sẵn sàng tới địa điểm X chờ thu dọn chiến trường vào ngày N. Đích thân Lại Văn Sang chỉ huy trưởng Chi đội 9 điều khiển cuộc phục kích lớn lao này. Trong một cuộc họp tham mưu, Tư Sang cho các cán bộ trung đội biết là ban công tác thành của Chi đội 4 đã binh vận được tiểu đội lính Pháp có nhiệm vụ hộ tống tàu Thanh Vân và bí mật cho ta rõ ngày giờ xuất phát của tàu này. Tư Sang lạc quan cả quyết đánh là thắng. Vấn đề là huy động tất cả các lực lượng thu dọn chiến trường trước khi quân tiếp viện tới. Nhân viên văn phòng, ban nhạc cũng phải túc trực sẵn để thu chiến lới phẩm.
Đúng vào ngày N, tất cả Chi đội 9 đều phục kích tại bờ sông Vàm Sác, dài mấy cây số. Tư Sang ăn mặc gọn gàng, súng lục bên hông, ông dòm đeo cổ. Chốc chốc lại leo lên chạc ba cây bần “bỏ ống dòm” nghiên cứu trận địa. Cách đấy không xa, Bảy Viễn cũng nai nịt hẳn hoi, ngồi ghe mui ống đóng vai chủ soái. Kế bên có Năm Bé, Bảy Cao trong tư thế tướng cạnh.
Con “đầm già” từ xa xuất hiện, bay chầm chậm theo dòng sông quanh co uốn khúc. Tiếng rè rè của nó nghe uể oải như ru ngủ. Lịnh ban xuống: “Các đơn vị ngụy trang cẩn thận và chuyển bị xung phong!”. Qua ống dòm của Tư Sang, chiếc tàu Thanh Vân lù lù xuất hiện. Đây là loại tàu chở hành khách cỡ bự, có thể chở cả trăm người mà còn sức kéo cả chục ghe chài. Bỗng một loạt đạn mi ở trên mui tàu nổ vang đồng thời có tiếng reo to: “Ban công tác Chi đội 4 toàn thắng”. Thì ra tiểu đội công tác thành của Hai Bạc đã hoàn thành nhiệm vụ. Trước đống khói ám hiệu trên bờ Vàm Sác, tàu Thanh Vân từ từ tiến đến nơi Chi đội 9 phục kích. Lập tức các tam bản ào ra, binh sĩ nhảy lên đoàn ghe chài uy hiếp tài công, cắt đỏi, đưa ghe vô các con rạch sâu bên trong để tiện việc thu chiến lợi phẩm. Riêng chiếc tàu Thanh Vân thì có lệnh đưa các hành khách về căn cứ để tuyên truyền trước khi phóng thích.
Liên tiếp ba ngày ròng rã, hai Chi đội 4 và 9 tập trung làm công tác duy nhất là thu dọn chiến lợi phẩm. Bò heo không đủ chuồng trại phải giăng dây để ngoài đồng trống. Gạo chất đầy hội trường, đường đậu để chật văn phòng, vải vó, ka-ki đủ may cả ngàn bộ quân phục. Các thứ xa xỉ phẩm như Mạc-ten, Ách chuồn, đường cát, trà Ô Long kỹ chưỡng, chất đầy ghe… không kể la-ve chứa cả chục “cà dom”…
Để gây uy tín, Bảy Viễn cho đánh công văn mời các Chi đội bạn cho người đến nhận quà của Chi đội 9. Ngài Khu bộ phó cũng không quên đánh điện lên Quân khu loan tin chiến thắng rỡ ràng. Hắn tự hào chiến công đánh tàu Thanh Vân không kém trận La Ngà của Chi đội 10. Hắn muốn tỏ ra ngang hàng với Khu bộ phó Tám Nghệ…
Tiêc liên hoan tổ chức không dứt, tiệc này xong, tiệc khác tiếp, ăn nhậu toàn bò bảy món với rượu Tây. Trong đời lưu lạc giang hồ, Tám Tâm chưa thấy lúc nào huy hoàng như lúc này, y như trong truyện Tàu lúc Tào Tháo đãi Quan Công “tam nhật tiểu yến, thất nhật đại yến”. Cả ngày cứ ăn với nhậu.
Trong số hành khách trên tàu Thanh Vân, Tám Tâm thấy thằng bé trai sáu tuổi, mồ côi cha mẹ , sống trên tàu làm bồi bưng cơm cho hành khách. Thằng nhỏ trông thật dễ thương. Khi phóng thích, Tám Tâm hỏi “Mày về thành có bà con với ai không?” Thằng bé lắc đầu buồn bã. Tám Tâm bỗng thấy thương, muốn giữ làm con nuôi. Thằng bé mừng rỡ nhận lời ngay. Tên nó là Dương, anh cho nó họ của anh: Trần Văn Dương.
Không khí sôi nổi của kỳ công có một không hai lắng xuống. Tám Tâm nghĩ tới chiếc tàu Thanh Vân. Tàu lớn quá, Chi đội 9 không thể sử dụng được. Phải dùng mìn đánh chìm thôi. Nghĩ sao làm vậy, Tám Tâm cho chuyên viên mìn tới tìm cách đánh chim tàu. Tin này thấu tới Tư Sang, Tư Sang liền ngăn lại nhưng Tám Tâm không nghe. Tư Sang bảo Bảy Viễn. Bảy Viễn cho đòi Tám Tâm lên văn phòng:
- Ai cho phép anh gài mìn tàu Thanh Vân? Chuyện quan trọng như vậy sao không hỏi ý Tư Sang?
- Thưa Ngài tàu Thanh Vân quá lớn, ta không dùng được, để đây chỉ làm mục tiêu cho Tây càn quét. Thế nào chúng cũng mở cuộc hành quân chiếm lại tàu…
- Đó không phải là chuyện của anh! Tư Sang định biến nó thành binh công xưởng lưu động của Chi đội 9!
Bảy Viễn đuổi Tám Tâm ra. Một tuần sau Tây hành quân chiếm lại tàu Thanh Vân.

CHƯƠNG 37

Tàu Thanh Vân bị chiếm lại nguyên vẹn khiến Tám Tâm càng tin chắc chiến công vừa qua là một trận đánh “cuội”. Chưa có trận nào “xuôi chèo mát mái” như vậy. Trên bờ không nổ súng mà địch hộ tống trên tàu bó tay quy hàng. Và mãi tới một tuần sau địch mới mở cuộc hành quân thu hồi chiếc tàu Thanh Vân. Phải chăng địch muốn Bảy Viễn có đủ thì giờ chuyển chiến lợi phẩm ra khỏi khu vực hành quân?
Tiếp theo đó, trong một chuyến công tác xuống đơn vị, Tám Tâm còn thấy hai cái xác chết trôi sông, rà tam bản lại gần, thấy toàn người miền Bắc. Cả hai là thợ trong công xưởng tên Đinh Khắc Đang và Bùi Văn Hứa. Tám Tâm nhủ thầm: “Tình trạng này không thể kéo dài được nữa. Mình phải làm sao ngăn chặn bàn tay đẫm máu của Bảy Viễn lại!”
Nhưng Tám Tâm chưa làm gì thì Bảy Viễn đã cho đòi anh lên văn phòng:
- Anh Tám, cho tôi mượn câu Côn Đui của anh.
Tám Tâm móc súng đưa Bảy Viễn. Bảy Viễn ngắm một lúc rồi kéo hộc tủ bỏ vô cất:
- Cho tôi mượn vài hôm. Bây giờ thì anh xuống ghe đi công tác với tôi.
Tám Tâm sinh nghi: “Đi công tác mà không cho đeo súng nghĩa làm sao?”. Dù vậy, anh cũng bước xuống ghe hầu loại bốn chèo của Bảy Viễn. Trên ghe ngoài bốn tay chèo còn có nửa tiểu đội vệ sĩ võ trang đến tận răng, súng ru-lô bên hông và tôm-xông cầm tay.
Ghe hầu tách bến, Bảy Viễn không vô bên trong như thói quen mà đứng tựa trước cửa mui, mặt hầm hầm trợn trừng nhìn Tám Tâm:
- Tám Tâm, mày có biết tao đưa mày đi đâu không?
Đây là lần đầu tiên Bảy Viễn “mày tao” với Tám Tâm. Bởi Tám Tâm để râu dài trước ngực, ra vẻ đạo mạo và già trước tuổi.
Tám Tâm thất sắc: “chắc chắn là bọn Tài, Sang đã nắm được bằng chứng về các hoạt động bí mật của mình nên xúi Bảy Viễn thủ tiêu mình đây”. Anh tiếc không cảnh giác để Bảy Viễn tước súng. Nhưng anh cố bình tĩnh:
- Không, tôi không biết!
Bảy Viễn cười lạt:
- Tao đưa mày đi “mò tôm”. Đ.m mày là thằng Cộng sản chuyên môn xúi giục binh sĩ Bình Xuyên chống lại cấp chỉ huy. Mày làm thơ nhục mạ bọn tao. Mày phải chết!
Tám Tâm chết điếng mấy mươi giây. Nhưng dần dần anh nghĩ: “Thằng này là dân anh chị, mình phải nói thế nào cho nó nổi máu anh hùng cá nhân lên thì may ra thoát nạn… “. Anh nói một cách bình thản:
- Anh định cho tôi “mò tôm” thật sao anh Bảy? Nếu vậy thì trước khi chết, anh cho tôi được nói vài lời…
Bảy Viễn:
- Nói gì nói mau đi!
Tám Tâm nhìn thẳng vào mặt Bảy Viễn:
- Anh không phải là Quan Công mà tôi cũng không phải là Tào Tháo, những điều tôi nói ra đây không phải là để kể ơn đâu, nhưng chuyện đáng nói thì phải nói vậy thôi. Anh nhớ kỹ coi, tôi đâu phải là dân Bình Xuyên! Tôi là thợ nhà in. Sài Gòn biết bao nhiêu bộ đội, tại sao tôi lại đầu quân vào bộ đội Bảy Viễn? Tại vì Bảy Viễn là dân giang hồ nghĩa hiệp, trọng nghĩa khinh tài, anh hùng hảo hớn. Tôi mê cái tính khí hiên ngang của anh mà tôi không theo Chi đội 13 của Tổng công đòan là nơi tập trung nhiều cán bộ ưu tú như Từ Văn Ri, Tư Carê, Lý Chính Thắng. Vì mê thầy Tư Hoảnh Xăng mà tôi làm hết mọi việc, từ thư ký văn phòng đến liên lạc, kể cả nhân viên thu thuế. Tôi đã mạo hiểm vào tận vi-la Ba Huy bắt sống nó đem về cho anh lãnh tiền chuộc cả chục triệu bạc, trong khi đó không một tên bộ hạ nào của anh dám mảng tới vòng rào nhà nó. Trong các trận chống càn Phù Thọ, Gò Cát, Vườn Thơm, Hiệp Hòa, đâu đâu tôi cũng ở lại cản hậu để bảo đảm an toàn cho anh rút lui! Thử hỏi những lúc cận kề cái chết, những thằng Tư Sang, Năm Tài ở đâu chớ?... Người xưa nói đúng “cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán”. Tại tôi thôi! Tôi đã lầm bậc giang hồ hảo hớn với kẻ lưu manh đểu giả. Tôi chết cũng không ân hận, chỉ tiếc cho anh, từ một đấng anh hùng, vì nghe theo bọn xu nịnh mà trở thành…
Bảy Viễn nạt đùa:
- Thôi đủ rồi! Đừng nói nữa! – Hắn đưa cao cánh tay lên hô to: “Quay trở lại!”.
Nhờ mồm mép, Tám Tâm thoát chết, nhưng Bảy Viễn vẫn nghi ngờ, bí mật cho người theo dõi. Ngoài tên Hội, Bảy Viễn bố trí y tá Hạnh. Hạnh là cô gái tiểu tư sản thành thị, tâm hồn lãng mạn. Cô theo Bình Xuyên vì thích cuộc sống giang hồ, chọ trời khuấy nước. Hạnh có nhan sắc nên được các cấp chỉ huy săn đón, được mời dự các tiệc liên hoan. Cô nhận theo dõi những “phần tử nguy hiểm” một cách nhẹ dạ. Những “phần tử lừng khừng” thì cô tặng quà quý mang từ trên thành xuống như đồng hồ, viết máy v.v… Đại đội trưởng Ba Trứ cũng được Hạnh tặng một cặp viết Păcrker và còn kèm thêm những ánh mắt tình tứ. Nhưng Ba Trứ mê khẩu đại bác 75 ly hơn bông hồng biết nói.
Còn với Tám Tâm râu dài tới ngực. Hạnh không ban phát nụ cười, ánh mắt mà chỉ ngấm ngầm theo dõi…
Trước vụ cướp tàu Thanh Vân, Tư Sang, Năm Tài khuyên Bảy Viễn lập liên quân Bình Xuyên, mỗi chi đội phải đưa hai trung đội mạnh nhất vào Liên quân. Ý đồ của Tài, Sang là tạo một lực lượng trực tiếp dưới quyền chỉ huy của Bảy Viễn. Liên quân kéo cả đơn vị pháo binh của Ba Trứ, gồm khẩu 75 ly đặt trên sà lan. Do pháo binh đóng vai chính nên Ba Trứ được chỉ định chỉ huy trưởng Liên quân. Chỉ huy phó là Nguyễn Hoàng Vân, Chi đội 4; chính trị viên là Lưu Chí Thoái, chính trị viên đại đội, cũng Chi đội 4. Sau khi thành lập, Liên quân đánh một trận ra mắt tại đồn Bình Khánh. Ba Trứ đã cho các cổ đại bác của mình nổ thị uy khiến vùng Nhà Bè rung rinh. Ý đồ của Bảy Viễn là muốn nhổ đồn này để đưa Liên quân về đóng sát Sài Gòn. Nhưng Năm Hà và ông Tám Mạnh nằm trong Ban chỉ huy Liên khu Bình Xuyên thấy chủ trương này quá phiêu lưu nên cho rút ngay sau trận đánh.
Trong thời gian này, Bảy Viễn đặc biệt “o bế” Ba Trứ, cho y tá Hạnh bám sát, tặng quà đủ thứ. Nhưng cuộc tấn công tình cảm chưa đi tới đâu thì Năm Hà nhất trí với hai cho con ông Tám Mạnh – Hai Vĩnh cho giải thể Liên quân, đơn vị nào trở về đơn vị nấy. Đơn vị pháo binh của Ba Trứ trở về Chi đội 3 của Mười Lực và Hai Lung.
Đơn vị pháo binh lưu động của Ba Trứ rút khỏi Bình Khánh, bọn Tài, Sang lo lắng. Vì theo mật đàm của chúng với Savani, chúng phải bảo đảm an toàn cho tàu bè ngoại quốc vô ra Sài Gòn. Ba Trứ về vùng Bàu Bông – Vũng Gấm, độc lập tác chiến là một mối nguy cơ cho tàu bè đi lại trên sông Lòng Tàu. Theo yêu cầu của hai tên này, Bảy Viễn bí mật cho phục kích tại ngã ba An Thịt với ý đồ cướp lại chiếc sà lan gắn cỗ 75 ly. Do lực lượng nhỏ hơn, nên Ba Trứ đành lẩn tránh suốt bảy ngày trong rừng. Cả đơn vị anh gồm 45 người sống một tuần thiếu thốn, hết gạo phải luồn rừng bẻ đọt chà là ăn đỡ đói, hết nước ngọt sáng sớm liếm sương đọng trên lá. Đến khi vượt sông về tới Phước An, Ba Trứ báo cáo dã tâm cướp sà lan pháo binh, Năm Hà và Hai Vĩnh càng thêm cảnh giác về mưu mô khó hiểu của Bảy Viễn. Phải chẳng Bảy Viễn đưa Liên quân về Bình Khánh sát ngõ Sài Gòn là để Pháp mở cuộc hành quân hỗn hợp, trên máy bay, dưới tàu chiến “hốt trọn” chủ lực Bình Xuyên về Sài Gòn? Nhưng đây cũng chỉ là nghi vấn mà thôi. Và trong khi chờ đợi tình hình ngã ngũ thì “hồn ai nấy giữ”.
***
Trong khi đó, Savani ném một lá bài khác để hổ trợ nhóm Lâm Ngọc Đường, Tài, Sang và Bảy Viễn: đó là Lê Văn Huề nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Bà Rịa…
Đầu năm 46, tình hình Bà Rịa hết sức rối ren. Tây đã chiếm Biên Hòa và đang tiến chiếm Bà Rịa, Đảng bộ Bà Rịa chỉ có hai đồng chí: Dương Văn Xá (Giáo Xá), Nguyễn Văn Hải (Sáu Phải). Sáu Phải học trường Đông Phương Đại học đường Mát-xcơ-va về hoạt động tại tỉnh nhà, Xá học trường cao đẳng sư phạm Normale, tham gia đám tang Phan Châu Trinh, bị đuổi, bỏ nghề gõ đầu trẻ, nhảy ra viết bao lấy bút hiệu Nam Dương rồi đi theo cách mạng luôn. Ngày Bà Rịa cướp chính quyền, hai anh Xá, Phải nắm Ủy ban Nhân dân tỉnh. Vài tháng sau, thi hành chỉ thị của cấp trên, hai anh tìm một nhân sĩ đưa lên ghế Chủ tịch. Nhân sĩ này là Phán Huề. Huề là người Bà Rịa, thuộc gia đình nhà giáo, có tiếng ở xã Long Hương sát bên thị xã. Huề không dạy học mà làm thư ký hành chánh tại phủ Thống đốc Nam Kỳ trên Sài Gòn. Khi cách mạng bùng nổ, Huề về hưu tại xã Long Hương. Trong hôm họp đặc biệt tại nhà Phán Huề, tất cả đều nhất trí yêu cầu Phán Huề giữ chức chủ tịch. Huề từ chối không được, phải nhận. Sáu Phải trông coi về hành chính. Giáo Xá phục trách quân sự. Phán Huề giữ chức chủ tịch, nhưng mọi việc đều phó cho hai anh Xá và Phải. Ông theo đạo Cao Đài phái tu tiên, có chùa trên núi Dinh. Có thể nói, Huề thích ở trên núi hơn cuộc sống trần tục. Khi Tây sắp sửa tiến chiếm Bà Rịa, các cơ quan chuẩn bị rút về Phước Bửu lập chiến khu, Huề ngỏ ý không đi Phước Bửu, mà lên núi Dinh, ở ẩn trong chùa Cao Đài. Hai anh Xá, Phải thuyết phục không nổi, đành hài lòng với lời hứa danh dự của Phán Huề: “Tôi dứt khoát không hợp tác với Tây. Các anh đừng sợ”. Không bao lâu sau, khi xây dựng chiến khu Phước Bửu, hai anh Xá, Phải nghe tin Phán Huề bị bắt trên núi Dinh.
Họa vô đơn chí, Phán Huề bị Tây bắt chỉ là khúc nhạc mở đầu. Kế đến, là nạn nhân của quân phiệt nhũng nhiễu dân lành. Lực lượng quân sự, do Giáo Xá phụ trách, gồm khoảng 100 súng lấy của bọn bảo an GCL (Garde Civile Locale) cộng thêm một số súng săn của chủ đồn điền cao su, cà phê trong tỉnh. Đây là tiền thân của Vệ Quốc Đoàn sau này. Tình hình căng thẳng thi đội thân binh kéo về Bà Rịa. Đội Thân binh này lập ra một nhiệm vụ bảo vệ Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ. Khi Trần Văn Giàu được Trung ương điều ra Bắc giao công tác Việt kiều Thái Lan, đội thân bình cũng theo anh lên đường ra Bắc. Nhưng đường xá xa xôi, thời buổi khó khăn, tới Xuân Lộc, Trần Văn Giàu viết giấy gởi trung đội Thân binh lại cho hai anh Xá và Phải. Chỉ huy đội Thân binh là hai người tên Trịnh Ngọc Hiền và Phan Đình Tân. Thấy cả hai hăng hái, Giáo Xá liền giao cho họ trông coi luôn đại đội Vệ Quốc Đoàn của tỉnh để rảnh tay lo việc khác. Nhưng khi nắm lực lượng lớn trong tay, Hiền, Tân trở nên quân phiệt, nhũng nhiễu dân lành, chỉ lo ăn chơi chớ không chịu đánh giặc. Đầu năm 46, một tiểu đội Pháp đi tàu đổ bộ tại Hồ Tràm, xuyên rừng lên Đất Đỏ, Xuyên Mộc để giải thoát đám chủ đồn điền Pháp bị ta bắt làm tù binh. Lúc chúng tới Sở Bông tại Xuyên Mộc, củng cố công sự chiến đấu rồi, Hiền – Tân mới đánh. Kết quả là ta thảm bại, vừa chết vừa bị thương khoảng hai mươi người. Hai anh Xá và Phải liền mời Hiền, Tân tới văn phòng kiểm điểm. Không ngờ Hiền và Tân vây bắt hai anh Xá, Phải đem giam ở Bàu Lung với lý do: “Hai anh móc với Bình Xuyên phá rối công tác quân sự của chúng tôi”. Vụ rắc rối này tới tai Dương Bạch Mai, thanh tra chính trị Miền Đông. Ông Mai liền tới dàn xếp. Đồng thời phái đoàn bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đi ngang Bà Rịa, cũng tiếp tay hòa giải. Kết quả hai anh Xá, Phải chỉ bị giam có một đêm và sáng sớm được hai anh Trần Văn Nhượng và Lê Minh Châu xã Long Kiên giải thoát và hai anh Nguyễn Văn Tình và Võ Văn Ấn (Quốc gia Tự vệ cuộc Bà Rịa) đưa đi lánh bọn Hiền, Tân. Sau đó hai bên lại xô xát với nhau lần nữa. Hai Vĩnh xuống Long Điền, nơi Tân – Hiền đóng quân, hòa giải. Đến khi Pháp chiếm Bà Rịa, Tân, Hiền rút quân ra miền Trung, nhưng tới Quãng Ngãi thì bị tước khí giới.
***
Cuối 47, các Chi đội đã được tổ chức lại theo chánh quy, phiên thế thành trung đoàn. Với việc thành lập Vệ Quốc Đoàn lực lượng võ trang ở Nam Bộ đã trưởng thành, đủ sức bước vào giai đoạn cầm cự. Theo đề nghị của Xứ ủy, Trung ương phong Nguyễn bình trung tướng. Đây là vị trung tướng đầu tiên của Nam Bộ. Quyết định ký vào tháng 11 năm 47 nhưng mãi đến tháng Tư năm sau mới làm lễ thụ phong trung tướng Nguyễn Bình tại Giồng Lớn, Ba Thu. Một trong những nguyên nhân của sự chậm trễ là chờ mùa khô để tiện việc tổ chức. Lễ thụ phong tiến hành long trọng, có máy đèn, có diễn binh. Đây là một ngày trọng đại trong lịch sử Đồng Tháp Mười.

CHƯƠNG 38

Hai Vĩnh đang dự Hội nghị Quân khu ủy tại Bình Hòa bàn kế hoạch thành lập Vệ Quốc Đoàn (phiên chế các chi đội thành trung đoàn) thì được mật điện của chi đội phó Chi đội 7 là Trịnh Văn Tài báo tin bắt được Phán Huề. Khi Tây chiếm tỉnh lỵ, Phán Huề rút lên núi Dinh “trú ẩn” trên chùa Cào Đài. Tây lên núi bắt ông đưa về Sài Gòn. Nay không hiểu vì lý do gì, Phán Huề lại bí mật trở vô khu. Hai Vĩnh nghĩ ngay tới khả năng Pháp và Phán Huề móc nối với nhau.
Ngược lại, nguồn tin Công an Nam Bộ về một cuộc gặp gỡ gần đây giữa bọn 2B (do Lâm Ngọc Đường đại diện) với Bảy Viễn có Tư Sang và Năm Tài cặp kỳ, đã dẫn tới một thỏa thuận kỳ quặc là: “Bình Xuyên sẽ giữ thái độ an binh bất động trong khu Rừng Sác để đổi lấy sự tiếp tế về vũ khí và quân nhu của Pháp”… Nói cách khác là: Pháp đang dùng vũ khí và vật chất để biến dần khu Rừng Sác từ một căn cứ đề kháng thành một vùng đệm, để rồi nâng nó lên thành một chiến khu của chúng cắm sâu vào chúng ta!... Các đồng chí lãnh đạo ngành Công an phát hiện âm mưu thâm độc của địch gây dựng những chiến khu như vậy trong hậu phương ta, nuôi dưỡng chúng lơn mạnh, tạo điều kiện cho chúng mở rộng, liên hoàn được với nhau… Ở Bắc Bộ, chúng đã thực hiện thành công ở Phát Diệm, Bùi Chu… Ở Nam Bộ này, chúng đã dòm ngó vùng Cao Đài, gây men ở vùng Hòa Hảo và đang ráo riết xâm nhập Rừng Sác bằng mọi thủ đoạn thích hợp: tiền, gái, xa xỉ phẩm… và bây giờ là vũ khí, quân nhu….
Nguyễn Bình nhất trí với Hai Vĩnh phải hết sức bí mật và bất ngờ thì mới mong thành công vì hai người đều như đang đi vào hang cọp.
Vì vậy khi hay tin trung tướng Nguyễn Bình đi Bà Rịa, anh Ngọt và Việt Hồng mời Nguyễn Bình ghé Tiều thắm trung đoàn 300 thì Nguyễn Bình không ghé Tiều. Ông không muốn Bảy Viễn biết chuyện này. Biết đâu Bảy Viễn có liên hệ tới Phán Huề? Ngay khi được điện của Trịnh Văn Tài, Hai Vĩnh điện về dặn giữ Phán Huề tại văn phòng, đối xử tử tế chờ anh về.
Lúc thuyền cặp bến, chi đội phó Trịnh Văn Tài thấy Hai Vĩnh và Nguyễn Bình lên bờ luýnh quýnh hô “nghiêm”. Nhưng Hai Vĩnh khoát tay bảo:
- Không có gì! Cứ như bình thường! Đừng cho Phán Huề biết có trung tướng đi với tôi. Anh đưa trung tướng qua nhà khách. Đừng cho Phán Huề thấy…
Phán Huề trông thấy Hai Vĩnh reo lên:
- Chào ông chi đội trưởng. Ông mới về?
Hai Vĩnh bắt tay Phán Huề bảo:
- Ông ngồi đây đợi tôi một chút. Đi đường cả ngày bụi bặm quá. Xin phép xuống nhà dưới rửa mặt cho khỏe…
Hai Vĩnh hội ý chớp nhoáng với Nguyễn Bình, đề nghị để anh khai thác Phán Huề cách nào tùy ý, Nguyễn Bình giữ bí mật sự có mặt của mình, tuyệt đối không cho Phán Huề biết.
Hai Vĩnh tiếp chuyện riêng với Phán Huề suốt buổi chiều. Anh cho làm gà đãi Phán Huề và tiếp tục nói chuyện đến tối. Anh xin lỗi Phán Huề về cách đối xử của Trịnh Văn Tài trong thời gian anh đi hội nghị ở Quân khu và xin Phán Huề bỏ qua cho. Trước thái độ nhã nhặn, lịch sự của Hai Vĩnh, Phán Huề lên tinh thần. Sau khi nói xa nói gần, Phán Huề thú nhận là người của Thủ tướng Nam phần Việt Nam Nguyễn Văn Xuân về đây có nhiệm vụ lập “chiến khu quốc gia”. Ngoài ra Phán Huề còn muốn gặp Ngài khu bộ phó Lê Văn Viễn để trao bản kiến nghị do Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân soạn, nếu tán thành thì ký vào. Hai Vĩnh xin được xem bản kiến nghị. Phán Huề cho Hai Vĩnh xem. Đại khái Nguyễn Văn Xuân đề nghị Pháp ngừng bắn để Thủ tướng Xuân kêu gọi anh chiến binh sĩ quốc gia trở về thành. Hai Vĩnh mừng rỡ lấy giấy bút ra soạn thảo một bản kiến nghị theo mẫu Phán Huề đưa ra. Đại ý như sau:
Kính gửi ngài Thủ tướng Nam phần Việt Nam.
Tôi, Mai Văn Vĩnh chi đội trưởng Chi đội 7, trong Liên khu Bình Xuyên, đã nghiên cứu kỹ và hoàn toàn nhất trí với kiến nghị của Ngài do ông Lê Văn Huề chuyển tới. Dưới đây, xin góp một số ý kiến:
1. Cám ơn Ngài Thủ tướng đã lo cho anh em Bình Xuyên.
2. Đề nghị Ngài Thủ tướng bàn với Pháp dành một nơi bất khả xâm phạm để chúng tôi về đóng quân. Xin NgàiThủ tướng gởi cho một bản quy ước để chúng tôi nghiên cứu. Trân trọng kính chào Ngài Thủ tướng.
Ký tên, đóng dấu. Hai Vĩnh làm hai bản, một trao cho Phán Huề, một trao Nguyễn Bình ký vào, chứng nhận Hai Vĩnh soạn công văn trên với sự giám thị của mình.
Nắm được bức thư của Hai Vĩnh, Phán Huề vững bụng kể hết các cuộc hội nghị bí mật ở Chợ Lớn nhằm kêu gọi các phần tử quốc gia trong hàng ngũ kháng chiến bỏ Việt Minh trở về thành ủng hộ giải pháp Bảo Đại. Bảy Viễn đã ủy quyền cho Lại Hữu Tài dự các cuộc hội nghị này.
Kết quả hết sức mong đợi, Hai Vĩnh đề nghị Phán Huề ghi rõ ngày tháng các cuộc hội nghị nói trên để anh còn “thuyết phục các chi đội trưởng khác trong Liên khu Bình Xuyên”. Phán Huề vui vẻ ghi rõ hết tất cả. Hai Vĩnh và Phán Huề thức nói chuyện đến bốn giờ sáng mới đi ngủ.


*
* *

Trung tướng Nguyễn Bình cho tiến hành việc chấn chỉnh bộ máy hành chính và quân sự trong tỉnh Bà Rịa. Chi đội 7 và Chi đội 16 được phiên chế thành trung đoàn 307, làm lực lượng hộ công đắc lực cho các ngành hành chính, công an, quân sự trong tỉnh, Hứa Văn Yến đảm nhiệm chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, Nguyễn Đăng Khoa, chính trị viên Chi đội 7 làm Chủ tịch Vũng Tàu, Trịnh Văn Tài, Chi đội đội phó phụ trách tòa án nhân dân.
Hai Vĩnh được đề bạt lên trung đoàn trưởng Trung đoàn 307 kiêm ủy viên quân sự tỉnh.
Phấn khởi trước tình hình, nhiệm vụ mới, Hai Vĩnh đi lên sở cao su Cuốc-tơ nây (Courteney) – lúc này bọn chủ Tây bỏ chạy – lập thêm một công binh xưởng thứ hai cho tỉnh. Với máy móc đầy đủ, cơ sở này có thể chế súng lục, mìn, lựu đạn, địa lôi, ba-dô-ka, moóc-chê…
Còn binh công xưởng của Chi đội 7 ở Bà Trao, anh giao cho Quân khu. Đích thân Vũ Thùy Nhân tứ Kiều Đắc Thắng đến tiếp quản. Vũ Thùy Nhân không ngờ quy mô to lớn của binh công xưởng Chi đội 7. Nhưng điều làm họ Vũ không ngờ nhất là thiện chí của Hai Vĩnh. Tâm lý các chỉ huy trưởng là “nắm” chớ không “buông”. Đầu óc địa phương cục bộ những năm đầu kháng chiến là hiện tượng phổ biến.
Củng cố bộ mày hành chính tỉnh Bà Rịa xong, Nguyễn Bình cấp tốc về Quân khu điều tra thêm Phán Huề, để đánh gia lập trường quan điểm của Bảy Viễn, Hai Vĩnh lại lãnh nhiệm vụ đưa Nguyễn Bình về Quân khu. Cùng trong chuyến đi này, anh có trọng trách áp giải Phán Huề. Khi nghe nói lên Quân khu để tiếp xúc một số chỉ huy quân sự khác, Phán Huề phấn khởi hy vọng làm được một cú lớn ngon lành. Huề đề nghị để hắn vận động cho cả hai phái đoàn đi ngã công khai hợp pháp. Hắn xòe từ “lét-xê-pát-xê” (Laissez-passer) của Tây cấp cho khoe với Hai Vĩnh. Cố nhiên không ai để hắn đi ngã công khai.

CHƯƠNG 39

Bảy Viễn triệu tập các chi đội trưởng thân tín lại lên án Hai Vĩnh ngả theo Cộng sản phản lại Bình Xuyên. Y tố Hai Vĩnh tự ý tách ra Liên khu phối hợp với các Chi đội 16 lập trung đoàn 307 không thông báo cho ai biết. Bảy Viễn ra lệnh cho hai chi đội trưởng Năm Chảng và Mười Lực chỉ huy liên chi 2-3 đi bắt Hai Vĩnh – nếu chống cự thì được phép bắn chết – đồng thời ra lệnh bắt ba chính trị viên Lê Hiển (Chi đội 21), Lưu Quí Thoái (Chi đội 4), Thiết Sơn (Chi đội 25).
Năm Chảng là cậu vợ Hai Vĩnh. Trên đường đi bắt Hai Vĩnh, Năm Chảng dò ý Mười Lực:
- Vụ này tôi không được rành. Tại sao lại bắt Hai Vĩnh? Chủ trương chánh quy hóa bộ đội là của chính phủ. Ai cũng phải thi hành. Người trước kẽ sau, không ai cãi lịnh…
Mười Lực cười:
- Bảy Viễn muốn nắm bộ đội làm của riêng để xây dựng giang sơn, sống một đời đế vương. Từ lâu hai cha con Tám Mạnh, Hai Vĩnh là cái gai cần phải nhổ…
- Bấy giờ mình làm sao? Bắt hay không bắt?
Mười Lực lại cười:
- Mình cũng chỉ là chi đội trưởng như Hai Vĩnh, ai dám bắt nó? Qua bển, lớ ngớ nó bắt lại mình là mang họa.
Năm Chảng mừng rỡ:
- Tôi đang lấn cấn, gặp anh nói vậy tôi chịu liền. Một mặt mình bí mật báo tin cho Hai Vĩnh hay để nó đề phòng, còn mình thì trở về nói với Bảy Viễn “Ông là Khu bộ phó, chỉ có ông mới có quyền bắt Hai Vĩnh”. Vậy là “chìm xuồng”…
Việc bắt ba chính trị viên cũng gặp phản ứng dữ dội. Hai anh Nghiệp và Dư là đại đội trưởng và đại đội phó một đại đội trong Chi đội 21 của Tư Hoạnh liền kéo đại đội bỏ ra đi để phản đối hành động độc tài của Bảy Viễn.
Tin một đại đội bỏ ra đi làm cả Liên khu xôn xao. Bảy Viễn cấp tốc ra lệnh cho các Chi đội thân tín chặn bắt lại đại đội ly khai này. Nhưng hai anh Nghiệp và Dư đã đưa đại đội tới Biên Hòa gặp Quân khu phó Huỳnh Văn Nghệ báo cáo các bê bối của Bảy Viễn, Tám Nghệ giữ đại đội này lại Chi đội 10, gởi báo cáo về Nguyễn Bình và chính ủy Hai Trí ở Giồng Dinh.
Tại Quân khu, một cuộc họp cực kỳ quan trọng bàn về vấn đề Bảy Viễn. Đã có bằng chứng cụ thể cho thấy Bảy Viễn liên lạc với chính phủ Nam phần Việt Nam của Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, Phán Huề là nhân chứng quan trọng. Hai đại đội trưởng Nghiệp và Dư cũng là hai hân chứng quan trọng. Bảy Viễn ngấm ngầm liên lạc với địch, trong tổng hành dinh có hai tên Phòng Nhì là Tư Sang và Năm Tài. Chúng toa rập ám hại những người có cảm tình với Cộng sản, thủ tiêu những người Bắc và công khai bắt các chính trị viên…
Lúc còn ở văn phòng Chi đội 7, Nguyễn Bình đã chủ trương bắt Bảy Viễn đưa về Quân khu để xử tội với Phán Huề. Ông mời Nguyễn Đức Huy, Việt Hồng, Tám Nghệ, Hai Vĩnh bàn bạc và thành lập ban thanh trừng nội bộ Bình Xuyên. Ban thanh trừng gồm các chính trị viên các đơn vị có vấn đề như các Chi đội 9,21,25. Do đó Tám Tâm ở Chi đội 9, Vũ Văn Hiệp ở Chi đội 21 và Lưu Quí Thoái ở Chi đội 25 được chọn. Ba đơn vị này có nhiệm vụ bắt chỉ huy của mình.
Ngoài ra các Chi đội 2, 3, 7 làm đơn vị chủ công, giúp ba đơn vị kia hoàn thành nhiệm vụ.
Ban chỉ đạo chung gồm có Nguyễn Đức Huy, Việt Hồng, Lê Hiền và Mai Văn Vĩnh. Tại Quân khu ủy ở Giồng Dinh, vấn đề thanh trừng gây sóng gió dữ dội. Quan điểm của hai nhóm quân sự và chính trị hoàn toàn trái ngược nhau. Sau cùng, hội nghị tìm một giải pháp dung hòa. Huỳnh Văn Nghệ với tư cách là Khu bộ phó đề nghị:
- Anh Nguyễn Bình sắp lãnh chức ủy viên Quân sự Nam Bộ, tôi đề nghị đưa Bảy Viễn lên giữ chức Khu bộ trưởng của anh Nguyễn Bình. Nếu Bảy Viễn chấp nhận thì phải rời bỏ Rừng Sác để đóng tại Quân khu. Như vậy ta giải quyết tốt đẹp vấn đề. Ở Quân khu, Bảy Viễn sẽ không còn thao túng và ta cũng dễ kiểm soát hoạt động của bọn Phòng Nhì “cấy” bên cạnh Bảy Viễn.
Sáng kiến của Tám Nghệ được mọi người tán thưởng. Nhưng hội nghị cũng thấy khó khăn trước mắt: “Ai lãnh sứ mạng vào hang hùm thuyết phục Bảy Viễn bỏ sào huyệt đi lãnh chức Khu bộ trưởng? Kẻ đi sứ phải có cái dũng của Kinh Kha mà cũng phải có cái trí của Tô Tần. Ai lãnh trách nhiệm này?” Không ai xung phong. Hội nghị đành chỉ định Tám Nghệ:
- Anh là người có sáng kiến thì chính anh phải là người thực hiện sáng kiến đó đến thành công.
Tám Nghệ đang phân vân, Hai Vĩnh góp ý:
- Anh Tám xuống Rừng Sác thuyết phục Bảy Viễn là phải. Trước đây anh Tám cũng đã xuống dự lễ nhậm chức Khu bộ phó của Bảy Viễn…
Tám Nghệ lắc đầu:
- Trước khác, nay khác. Trước không có vấn đề gì. Còn nay thì nó biết ta đã nắm bằng chứng nó bí mật “đi đêm” với Tây. Vô đó không khéo bị nó thủ tiêu chớ chẳng chơi…
Hai Vĩnh nhận định:
- Tôi nghĩ là Bảy Viễn không dám động đến anh, bởi Chi đội 10 của anh công trận bằng mấy Chi đội 9 của y. Anh lại là Khu bộ phó có tài hơn y. Huống chi anh đang giữ chức đại đội chủ lực của Chi đội 21. Nếu y chịu đi thì anh sẽ trả lại đại đội ấy cho Tư Hoạnh. Nếu y cả gan chống anh thì y đã lòi mặt phản động… Nếu cần thì đem theo vài đơn vị…
Tám Nghệ lắc đầu:
- Đi rầm rộ như vậy Bảy Viễn sinh nghi. Không, tôi sẽ đi một mình…
Khi đã nhất định đi Rừng Sác, Tám Nghệ bàn kế hoạch cụ thể với Nguyễn Bình. Quân khu sẽ điện cho Bảy Viễn biết quyết định của Trung ương phong Bảy Viễn lên Khu bộ trưởng khu 7 và mời Bảy Viễn về Nam Bộ nhận chức. Cơ quan cấp Nam Bộ đóng ở xã Nhơn Hòa Lập, trên kinh Dương Văn Dương (trước là kinh Lagrange). Con kinh này chạy song song với kinh Nguyễn Văn Tiếp (trước là kinh Cậu Mười Hai). Kinh Nguyễn Văn Tiếp cắt ngang Đồng Tháp Mười, nối liền sông Vàm Cỏ Tây với sông Tiền. Kinh Dương Văn Dương ngắn hơn, chạy tới Gãy Cờ Đen thì đụng kinh Tháp Mười ăn thông với Nguyễn Văn Tiếp.
Đánh điện cho Bảy Viễn vài ngày, Tám Nghệ mới đi Rừng Sác. Trong khi đó Hai Vĩnh về Cần Đước chuẩn bị vận động tách các Chi đội khỏi ảnh hưởng của Bảy Viễn. Đó là cách “chia lửa” hữu hiệu nhất Hai Vĩnh dành cho Tám Nghệ. Khi mất các Chi đội mạnh, Bảy Viễn như cua gãy càng sẽ không còn hung hăn như trước.
Hai cho con ông Tám Manh, Hai Vĩnh cùng Năm Hà, Mười Lực và Năm Chảng họp bàn một đêm cơ mật, Hai Vĩnh đi thẳng vào đề:
- Tôi vừa đi họp trên Quân khu về. Quân khu quyết định bắt Bảy Viễn vì đã nắm được bằng chứng Phòng Nhì “mua” Bảy Viễn bằng tiền và gái. Năm Tài và Tư Sang là hai tay sai mà Lâm Ngọc Đường và Môrit Thiên “cấy” bên cạnh Bảy Viễn. Hàng tháng chúng đem tiền các sòng bạc xuống cho Bảy Viễn, lại cung cấp rượu và gái cho “Ngài Khu bộ phó” ăn chời phè phỡn. Chưa đủ, chúng còn tiếp tế cả mấy chài gạo, bải, heo, bò và cả súng nữa. Cái mà Bảy Viễn gọi là “chiến công của Tư Sang và Chi đội 9” thật ra là một trận đánh “cuội”, không qua mắt được ai.
Năm Hà gật gù:
- Tôi cũng nghĩ như vậy. Bây giờ mình tính sao?
Hai Vĩnh:
- Chúng ta đang ở ngã ba đường, tình thế vô cùng nguy hiểm. Chúng ta phải theo ai đây? Cụ Hồ tiếp tục đánh Pháp hay theo Bảy Viễn kéo quân về đầu Tây? Đặt câu hỏi như vậy nhưng tôi biết anh Năm không thể nào bỏ con đường mà anh Ba đã vạch ra cho bộ độ Bình Xuyên. Chỉ có đánh Tây, giới giang hồ chúng ta mới tạo được thanh danh và gây được cảm tình trong lòng dân. Chúng ta tách ra khỏi thế lực Bảy Viễn, các anh nghĩ sao?
Năm Hà, Năm Chảng và Mười Lực nhìn nhau gật đầu:
- Bây giờ ta nên thảo một bức thư vạch trần tất cả mưu mô của địch đưa tay sai Phòng Nhì vào mua chuộc cấp bộ Bình Xuyên, tạo điều kiện cho họ sống xa hoa, phè phỡn trên xương máu của anh em chiến sĩ. Chúng ta đề nghị Bảy Viễn trở lại con đường cách mạng, chống Pháp giành độc lập.
Năm Hà gật lia:
- Thầy Hai soạn đi, tụi này sẽ ký.
Năm Chảng thắc mắc:
- Nếu Bảy Viễn không nghe thì sao? Mà tôi chắc là Bảy Viễn không nghe. Nó đã quen nếp sống vua chúa rồi…
Mười Lực nhăn mặt:
- Thì đường ai nấy đi chớ có gì mà lo ngại?
Hai Vĩnh soạn ngay bức tâm thư gởi Bảy Viễn. Viết xong anh đọc cho tất cả nghe. Thư đầy đủ lý tình tuy vắn tắt. Tất cả ký tên vào.
Ông Tám Mạnh hỏi:
- Bắt đầu từ giờ phút này, khi bức tâm thư đã gửi đi, hai anh Năm Chảng và Mười Lực bí mật điều các đơn vị của liên chi 2-3 còn kẹt bên kia qua bên này. Đề phòng trước bao giờ cũng hơn…
Thảo xong bức thư thì trời đã hừng đông. Vậy là cuộc họp kéo dài cả đêm. Bức tâm thư tới tay Bảy Viễn một ngày sau. Y hốt hoảng cấp tốc cho người đi tìm Năm Hà và hai anh Năm Chảng, Mười Lực. Nhưng cả ba đã rời qua Ba Doi từ đêm qua. Lâu nay Bảy Viễn nghĩ rằng Năm Hà và hai cánh tay Năm Chảng, Mười Lực phải ngã theo mình. Bây giờ y mới ngã ngửa. Con cá sẩy bao giờ cũng là con cá lớn. Liên chi 2-3 giờ đây đúng là con cá kình mà Bảy Viễn đã để sẩy ra biển Đông. Y như điên như dại, hết đập bàn la hét đến than thở nhăn nhó. Trong bảy chi đội, y chỉ có Chi đội 9. Liên chi 2-3 và Chi đội 7 đã tách hẳn ra. Chi đội 4 của Mưới Trí thì đóng quá xa ở tận Bình Hòa, mà Mưới Trí thì nay vầy mai khác, không biết đâu mà lần. Mới ngày nào Mưới Trí còn đi dự hội nghị giáo phái chống Việt Minh; sau đó gặp Bảy Trấn, Mưới Trí đã trở cờ… Vả lại tính khí Mưới Trí thì Bảy Viễn có lạ gì! Mưới Trí thà đầu gà phụng. Chỉ còn Chi đội 21 của Tư Hoạnh và Chi đội 25 của Tư Tỵ. Tư Hoạnh có lúc theo Hai Vĩnh đóng ở Sơn Long, Bà Trao. Bảy Viễn phạm sai lầm bắt chính trị viên Lê Hiền khiến đại đội của Nghiệp và Dư kéo lên Quân khu thưa với Nguyễn Bình. Còn lại Chi đội 25 của Tư Tỵ. Nhưng Chi đội này không cứu vãn tình thế suy kém của Bảy Viễn.

CHƯƠNG 40

Tám Nghệ “đơn thương độc mã” xuống Tắt Cây Mắm là chuyện bất ngờ đối với hai tên Tư Sang, Năm Tài. Chúng biết lần này Tám Nghệ xuống không phải là để mừng Bảy Viễn lên Khu bộ trưởng mà để bàn tính một việc gì đó không có lợi cho chúng. Tài, Sang tổ chức ám sát Tám Nghệ. Ám sát thì quá dễ, nhưng chuyện tày trời này phải bàn trước với Bảy Viễn mà chưa chắc “Ngài khu bộ trưởng” đồng ý. Không phải ông ta kính trọng Tám Nghệ, mà sợ tai tiếng khi sợ Tám Nghệ chết trên giang sơn của mình. Giới giang hồ có tiếng là quý trọng tân khách. Tài, Sang lấn cấn một chút xíu đó, đội côm-măng-đô đã sẵn sàng, nhưng lịnh ám sát thì chưa dám hé môi. Còn chờ thái độ của Bảy Viễn. Năm Tài lãnh phần thuyết phục Bảy Viễn.
Tám Nghệ tới tổng hành dinh Bảy Viễn như một người bạn, thái độ rất tự nhiên, thoải mái. Ông bắt tay với tất cả mọi người, cười nói rổn rảng, vờ như không thấy tâm trạng bồn chồn của gia chủ:
- Tôi đinh ninh lần này sẽ được dự tiệc liên hoan còn linh đình hơn lần anh Bảy nhận chức Khu bộ phó. Nhưng sao êm ru thế này? Anh Bảy đã nhận được điện của Quân khu chưa?
Bảy Viễn gật:
- Được điện ba ngày nay, nhưng…
- Nhưng sao?
- Tôi định điện lên Quân khu nhường chức Khu bộ trưởng cho anh. Anh xứng đáng hơn tôi. Chi đội 10 của anh, nay là trung đoàn 310 lập nhiều thành tích, có nhiều chiến công hơn cả Liên khu Bình Xuyên chúng tôi…
Tám Nghệ khoát tay cười nói:
- Thôi đừng “gắp bỏ qua bỏ lại”. Chính tôi là người gợi ý Quân khu ủy đề nghị Trung ương phong chức Khu bộ trưởng cho anh. Dù anh có nhường lại, tôi cũng không nhận. Bởi vì tôi đã suy tính kỹ rồi: Chúng ta cần đưa các nhân sĩ tên tuổi để mở rộng đoàn kết toàn dân. Mà anh là người khét tiếng trong giới giang hồ, còn tôi chỉ là một chiến sĩ vô danh…
Bảy Viễn cười:
- Anh Tám chớ khiêm nhường quá mức như vậy. Tôi tự thấy không xứng đáng với chức đó. Nhưng anh Tám tới đây chắc là có mục đích…
- Đúng! Tôi làm gì cũng có mục đích.Tôi tới đây để cùng với anh Bảy về Nam Bộ. Nguyễn Bình đã lập văn phòng Ủy viên Quân sự Nam Bộ của ông ta tại xã Nhơn Hòa Lập, trên kinh Dương Văn Dương. Lễ bàn giao chức Khu bộ trưởng sẽ tổ chức ở đó. Làm long trọng lắm. Sẽ có đầy đủ các cấp lãnh đạo quân, dân, chính Nam Bộ tham dự… Tôi tới bàn với anh để cùng đi cho có bạn…
Bảy Viễn không hăng hái lắm:
- Tôi còn đang phân vân… Nếu nhận chức Khu bộ trưởng thì tôi phải dọn về Giồng Dinh mà tôi thì quen với cuộc sống ở đây…
Tám Nghệ cả cười:
- Thì ra vì yêu mến một khu rừng mà anh Bảy chê chức Khu trưởng! Tôi cũng đã có lần đắn đo như anh Bảy. Đó là khi được tin điện Trung ương phong chức Khu phó. Tôi cũng quen sống trong một khu rừng. Tôi là dân Tân Tịch, chỉ biết có khu rừng bao quanh các xã Tân Hòa, Mỹ Lộc, Thường Lang, Lạc An… trong quận Tân Uyên. Làm Khu phó coi cả mấy tỉnh miền Đông, mình thấy choáng ngợp, nhưng không lẽ từ chối, thiên hạ sẽ chê mình nặng óc địa phương… Cho nên tôi rất hiểu ý anh Bảy. – Với tất cả nghiêm nghị, ông nhấn mạnh – Đã tới lúc anh Bảy phải bước khỏi khu Rừng Sác này để đảm nhiệm trọng trách mà cách mạng đã tín nhiệm trao cho. Với tư cách là Khu phó, tôi hứa sẽ hết mình ủng hộ anh Bảy…
Tiệc rượu dọn lên, Bảy Viễn mới Tám Nghệ cụng ly:
- Anh Tám cũng biết “giang sơn nào anh hùng nấy”. Tôi sợ anh hùng các nơi khác không tùng phục mình…
Tám Nghệ cười:
- Hễ cọp ở rừng hay ở núi, thậm chí về đồng bằng, cọp vẫn là cọp. Không thể có chuyện cọp nằm trên rừng biến thành chồn khi xuống đồng bằng. Anh Bảy chớ lo ngại về chuyện đó.
Rượu ngà ngà Bảy Viễn chuếch choáng hỏi bâng quơ:
- Nhưng Nguyễn Bình có ý gì mà đề nghị Trung ương phong tôi làm Khu bộ trưởng? Có phải là hắn muốn “điệu hổ ly sơn” không?
Tám Nghệ kêu lên:
- Anh Bảy, anh nói gì kỳ vậy?
- Nguyễn Bình là người Bắc còn tụi mình là người Nam. Ai cho nó cái quyền chỉ huy tụi mình?
- Tới giờ này anh còn phân biệt Nam, Bắc sao? Không nên! Nước Việt Nam là một, dân ba kỳ có khác nhau về phong tục tập quán, nhưng đều chung một đất tổ, một tiếng nói, một nguyện vọng là độc lập. Không kể Nam hay Bắc, hễ có tài là cách mạng trọng dụng.
- Nhưng Nguyễn Bình tài ở chỗ nào? Anh chỉ cho tôi coi?
Tám Nghệ ôn tồn, giọng chậm rãi:
- Nguyễn Bình có tài chớ! Bằng chứng là ông ta dám nhận công tác thông nhất các lực lượng võ trang thuộc các phe phái… nói xin lỗi… vô tổ chức, vô chính phủ. Một người đơn độc từ Bắc vô Nam để đương đầu với bao nhiêu thử thách, bao nhiêu nguy hiểm. Đến nay chưa có vụ chống đối nào đáng kể. Như vậy ta phải khách quan nhìn nhận Nguyễn Bình có tài…
Bảy Viễn có phần khựng lại, bắt qua chuyện khác…
- Nhưng tại sao nó không trả lại tôi đại đội của thằng Nghiệp?
Tám Nghệ vỗ nhẹ lên cánh tay Bảy Viễn:
- Đại đội của hai anh Nghiệp và Dư đang ở Trung đoàn 310 của tôi. Đâu ai bắt giữ làm gì? Hai anh này kéo về Quân khu than phiền anh Bảy bắt chính trị viên của họ và chỉ chịu trở về khi nào anh chịu thả Lê Hiền ra… Nhưng tại sao anh bắt anh em chính trị viên?
Bảy Viễn lúng túng:
- Không hiểu chính trị viên ở Trung đoàn 310 của anh thế nào chớ ở đây mấy cha đó chia rẽ binh sĩ với cán bộ, gây khó khăn trong việc chỉ huy. Tôi không hiểu anh có phải là Cộng sản hay không, nhưng tôi thấy khó làm việc chung với mấy cha Cộng sản…
- Chính trị viên của tôi là bác sĩ Võ Cương, ngoài nhiệm vụ trông coi trạm quân y, Võ Cương còn phụ trách công tác chính trị, giải quyết mọi việc nội bộ. Nhờ vậy mà tôi mới rảnh tay cùng anh Ba Lung là trung đoàn trưởng đi nghiên cứu chiến trường đặt kế hoạch đánh những trận giao thông chiến kiểu như trận Là Ngà, Võ Cương là Cộng sản nhưng chúng tôi làm việc rất thoải mái…
Tiệc rượu kết thúc trong khi câu chuyện chưa đi tới đâu. Trời nóng bức, Tám Nghệ cởi quần áo xuống bến tắm.
Năm Tài ở phòng bên rình nghe, liền nói với Bảy Viễn:
- Tám Nghệ là thằng Cộng sản, Ngài Khu bộ phó chớ nghe nó. Nó xuống đây là vâng lịnh Nguyễn Bình, tính thi hành độc kế “điệu hổ ly sơn”. Ngài Khu bộ phó mà đi Nam Bộ với nó chẳng khác nào vô cửa tử đó…
Bảy Viễn phân vân:
- Tám Nghệ là Cộng sản sao?
Năm Tài cả quyết:
- Chớ sao! Tám Nghệ là tay lợi hại, nó là cánh tay mặt của Nguyễn Bình. Nhân dịp nó xuống đây, ta thủ tiêu nó cho rồi. đội côm-măng-đô đã sẵn sàng, chỉ cần Ngài Khu bộ phó ra lịnh.
Bảy Viễn trợn trừng:
- Không được! Tao không cho phép! Tám Nghệ là thượng khách của tao. Giới giang hồ không hèn mạt như vậy!
Năm Tài sượng sùng lui ra.
Tám Nghệ bình tĩnh xuống bến. Ông sắp sửa phóng xuống nước thì vệ sĩ chặn lại:
- Coi chừng sấu!
Tám Nghệ khựng lại:
- Ở đây có sấu à? Không đâu! Sấu chỉ ở ngoài sông cái.
Nói xong, ông lao xuống sông, bơi một hơi theo điệu sải. Hai chân ông đập đều làm nước bắn lên loang loáng mặt trời.
Cũng trong lúc đó, trên một chiếc ghe mui ống, ba tên côm-măng-đô hờm súng ngắm vào Tám Nghệ đang đùa giỡn với làn nước mát. Ba họng súng mi tựa trên thành cửa sổ ghe nhích lại khi Tư Sang nóng lòng chờ đợi ám hiệu của Năm Tài. Nhưng Năm Tài đã thất bại trong việc thuyết phục Bảy Viễn. Hắn lật đật thông báo để Tư Sang bảo ba tên lính:
- Vụ này “xù” rồi. Đừng nhắm nữa… Bỏ súng xuống!
Ba tên côm-măng-đô tiếc ngẩn tiếc ngơ. Con mồi đang ở trong tầm tay…
Tắm xong, Tám Nghệ nai nịt gọn gàng, cáo từ Bảy Viễn:
- Lễ tấn phong Khu bộ trưởng dự định vào ngày sinh nhật Hồ Chủ tịch. Đây tới đó còn một tuần. Anh Bảy nên suy nghĩ kỹ. Nguyễn Bình không có ý gì đâu. Nếu nghi nghại thì đem theo vài đại đội “cứng”. Theo tôi nghĩ thì đây là một dịp tốt để hai bên giải quyết những thắc mắc và hiểu lầm… Tôi cũng có mặt tại đó. Hy vọng sẽ gặp anh Bảy và chúng ta sẽ cung ly say mèm một bữa…
- Về sao anh Tám? Tôi muốn mời anh ở lại chơi vài ngày, nói chuyện cho thỏa tâm tình… Mình rất hạp “giơ” (jeu) với nhau. Anh không phải là giới giang hồ như chúng tôi nhưng anh rất hảo hớn… - Bảy Viễn cười – Nội việc một mình anh đơn phương độc mã tới đây đủ chứng tỏ điều đó. Lúc anh lội dưới sông…
Tám Nghệ cười:
- Anh sợ sấu gắp tôi chứ gì? Lội đứng thì sấu không tài nào gắp được…
Bảy Viễn cười:
- Con người mới đáng sợ hơn sấu! Nhưng mà thôi, đồ dơ, mình nên giặt trong nhà…
Tám Nghệ cười:
- Anh Bảy nói như người ta ra câu đố. Nhưng tôi cũng đủ thông minh để hiểu. Những chuyện ấy, tôi đã dự kiến trước rồi. Nhưng tôi tin giới giang hồ quý trọng nhất là danh dự. Tôi tin chắc rằng anh Bảy không đời nào để thủ hạ ám sát tôi ngay trên tổng hành dinh của mình! Thôi xin chào tạm biệt. Hẹn sẽ cụng ly trên dòng kinh Dương Văn Dương.
Tám Nghệ đi rồi, Bảy Viễn vẫn còn đăm chiêu suy nghĩ. Hắn giật mình “đùi đụi” khi nghĩ thần chết đã rình rập Tám Nghệ trong lúc anh ta ung dung lặn hụp dưới sông. Cũng may Năm Tài cẩn thận hỏi ý chủ soái. Nếu chúng làm càn thì giờ đây chắc phải có năm mạng ngã gục để tế Tám Nghệ.
Suy nghĩ hồi lâu, Bảy Viễn lấy giấy viết thư cho Năm Hà, than phiền em út không nghĩ tới khi hữu sự. “Các Chi đội trong Liên khu Bình Xuyên cần sát cánh lại để đối phó với Việt Minh đang cố tình diệt giáo phái để nắm độc quyền kháng chiến”. Khi ký tên, Bảy Viễn định đóng dấu, nhưng không muốn Năm Tài biết tâm sự của mình, Bảy Viễn không sai hắn đóng dấu là thư mà nguệch ngoạc viết thêm ba chữ “không con dấu”.
Lá thư Bảy Viễn tới Liên chi 2-3 không gây được một xúc động nào. Bộ ba Năm Hà, Mười Lực, Năm Chảng đã có thái độ dứt khoát. Đây là lực lượng mạnh nhất của Liên khu. Năm Hà tuy yếu nhưng được anh em thủ hạ kính mến nhờ đức độ. Năm Chảng và chỉ huy phó Chi đội 2 là Hai Soái vốn trung thành với Ba Dương nên Năm Hà không thể nghi ngại. Còn Mười Lực thì không nắm vững được Chi đội 3 bởi đơn vị này là đơn vị ghép: Sau khi Ba Trứ vượt biển từ Bình Đại tới Rừng Sác sáp nhập bộ đội Bình Xuyên. Mười Lực chỉ nắm được có hai người: hai đại đội trưởng Bảy Môn (đại đội 1) là Tư Huỳnh (đại đội 3). Còn chi đội phó Hai Lung, chính trị viên Ba Hậu và đại đội trưởng Ba Trứ (đại đội 2) thì không theo ai, chỉ mong về đóng tại Lý Nhơn để tiện bề hoạt động trên tỉnh nhà. Mười Lực, Bảy Môn là dân Thủ Thiêm, còn Tư Huỳnh là “em út” của Bảy Viễn ở Phú Nhuận. Do đó, người mà Năm Hà, Hai Vĩnh ngại nhất là Tư Huỳnh. Nếu không khéo thì Tư Huỳnh sẽ là tai mắt của Bảy Viễn nằm ngay trong nội bộ.
Cũng trong lúc đó, các cấp chỉ huy trong Liên chi 2-3 nhận được thiệp của Tư Huỳnh mời dự tiệc “ăn đầy tháng” đứa con đầu lòng. Đến dự tiệc có đầy đủ các cấp chỉ huy. Có người dẫn cả vợ theo yêu cầu của gia chủ. Đàn ông thì nhậu ở nhà trên, đàn bà thi ăn uống ở nhà dưới. Trên dưới gì cũng vui vẻ, náo nhiệt.
Chừng về nhà, chị Hai Lung nói nhỏ với chồng:
- Cùng thời là đi kháng chiến với nhau mà tôi thấy vợ chồng Tư Huỳnh sống “đế vương” quá!
Hai Lung cười:
- Đế vương là sao đâu, bà kể cho tôi nghe?
- Ông không vô trong buồn nên không thấy. Còn tôi thì được mời vô trong đó nên thấy hết. Ông biết không, khăn lông cho đứa nhỏ cao cả gang tay. Rồi còn xà bông thơm, dầu thơm, sữa hộp cả thùng. Dân ở thành chưa chắc đã sang như vậy.
Hai Lung gật gù:
- Tôi không vô buồng nhưng tôi cũng thấy như bà. Rượu toàn là Mạc-ten, Cô-nhắc… Nhưng bà đừng có bép xép, nghe không? Chuyện này thấu tới tai binh sĩ thì chẳng hay ho gì…
Trở lại cuộc họp của bộ chỉ huy Liên chi 2-3 khi được lá tâm thư của Bảy Viễn. Tất cả đều nhất trí không theo Bảy Viễn đi đầu Tây. Giữa hai bên không còn tình nghĩa anh em gì nữa.
Năm Chảng cầm lá thư đọc từng chữ. Bỗng anh kêu lên:
- Sao kỳ vậy? Lê Văn Viễn không còn đâu! Vậy là sao?
Mọi người chụp bức thư rồi cười ngất. Dưới ánh đền lù mù, Năm Chảng đọc “không con đấu” thành “không còn đâu”!
Trong khi Nguyễn Bình cử Tám Nghệ xuống Rừng Sác “khích tướng” Bảy Viễn thì Lê Duẩn cũng phái Mưới Trí cùng Bảy Trấn tới Tắt Cây Mắm thuyết phục lãnh chúa Rừng Sác về Nam Bộ nhận chức Khu trưởng Chiến khu 7.
Việc chọn hai sứ giả này rất hợp với tâm lý Bảy Viễn vì Mưới Trí là bạn kết nghĩa sinh tử có nhau khi cả hai đang còn là tù Côn Đảo. Còn Bảy Trấn là dân trí thức mà Mưới Trí và Bảy Viễn làm quen khi “chém vè” tại Bến Tranh (Dầu Tiếng) sau Nam Kỳ khởi nghĩa (11/1940).
Lê Duẩn sợ Bảy Viễn không hưởng ứng lời mời của Tám Nghệ vì ngại Tám Nghệ là người của Nguyễn Bình nên mới nhờ hai kiện tướng bạn chí cốt với Bảy Viễn.
Khi nghe Mưới Trí và Bảy Trấn mời về Nam Bộ nhận chức Khu trưởng Chiến khu 7, Bảy Viễn lắc đầu:
- Đó là kế “điệu hổ ly sơn”, làm sao lừa được Hắc Hổ tướng quân cáo già này!
Bảy Trấn nổi giận, cự nự:
- Nói bậy! Nếu đó là độc kế đưa Bảy Viễn vào tròng thì thằng Bảy Trấn này tội gì lặn lội từ Khu 9 lên đây? Anh Bảy nhớ lại coi. Trong bao nhiêu năm quen nhau, thằng Bảy Trấn này có bao giờ hại bạn? Đã nghi ngờ nhau thì còn kết bạn làm gì? Thôi mình về đây!
Bảy Viễn vội giữ Bảy Trấn lại:
- Thầy Bảy Dầu Tiếng này, tánh nào tật nấy. Hắc Hổ tướng quân nổi tiếng là nóng như lửa mà còn thua anh đó. Tôi không bao giờ coi thầy Bảy là phản bạn, nhưng tôi có quyền nghi các cha Cộng sản ở Nam Bộ chớ!
Mưới Trí vội can thiệp:
- Nếu nghi thì đem theo lực lượng chủ lực để đề phòng. Riêng tôi thì không tin đây là mưu mô gì đâu. Trái lại, đây là dịp để dân Bình Xuyên giải quyết những bất đồng.
Bảy Viễn bày tiệc, khui rượu Tây chiến lợi phẩm đãi bạn năm cũ. Rượu vào lời ra, không khí nghi kỵ buổi ban đầu tan biến.
Bảy Viễn cụng ly với Bảy Trấn, nói:
- Đáp tấm lòng của thầy Bảy từ Khu 9 lên đây, tôi đồng ý xuống Nam Bộ như đã hứa với Tám Nghệ, còn có nhận chức Khu trưởng hay không thì còn tùy…

CHƯƠNG 41

Sau chuyến viếng thăm của Huỳnh Văn Nghệ, của Mưới Trí và Bảy Trấn, Bảy Viễn họp tùy tướng lại bàn chuyện đi Nam Bộ. Cuộc họp này có cả Lâm Ngọc Đường và Môrit Thiên. Đa số đều nhất trí đây là độc kế “điệu hổ ly sơn” của Nguyễn Bình. Việt Minh toan kéo Bảy Viễn khỏi Rừng Sác để dễ kiểm soát. Lâm Ngọc Đường nắm chủ động.
- Khu vừa điện cho biết lễ tân phong Khu bộ trưởng sẽ tổ chức vào ngày sinh nhật Hồ Chí Minh, tức ngày 19 tháng 5 tới đây. Ý đồ của chúng thì mình đã biết rõ rồi. Nhưng bây giờ ta có nên đi hay không? Không đi thì kẹt mà đi cũng kẹt. Không đi thì ta sẽ bị chúng buộc tội là vô kỷ luật, vô chính phủ. Có khi chúng còn gán cho ta ý đồ phản loạn nữa là khác. Còn đi thì coi chừng! Chúng sẽ bố trí phục kích hoặc bắt giữ ngay trong cuộc họp vì lý do nào đó, chẳng hạn như ta thủ tiêu người Bắc trong bộ đội Bình Xuyên hoặc bắt bớ các chính trị viên.
Bảy Viễn lo lắng:
- Giữa hai cái kẹt, biết chọn cai nào?
Tôi đã suy tính kỹ rồi. Đi dự lễ tấn phong có nhiều cái lợi. Thứ nhất chứng tỏ cho chúng thấy ta đường đường chính chính, quang minh chính đại, không việc gì phải sợ. Thứ hai, ta biểu dương lực lượng cho chúng ngán, nếu có muốn trở mặt cũng không dám.
Bảy Viễn gật gù:
- Ta sẽ đưa một Liên quân chủ lực còn mạnh hơn Liên quân đã hộ tống Hai Vĩnh lên Quân khu trước đây cho chúng thấy ngán. Còn cái lợi gì nữa?
Lâm Ngọc Đường trình bày tiếp:
- Cái lợi thứ ba là tương kế, tựu kế, Ngài Khu bộ phó sẽ nhân danh là Khu trưởng chất vấn Nguyễn Bình về chủ trương tiêu diệt giáo phái, cụ thể là vụ bắt Phạm Hữu Đức Chi đội 5, Chín An Chi đội 4 là hai giáo hữu Cao Đài, rồi cái chết đột ngột của Giáo chủ Hòa Hảo. Gần đây chúng bắt ông phán Lê Văn Huề…, ông Huề cũng là giáo hữu Cao Đài, nguyên là Chủ tịch tỉnh Bà Rịa. Như vậy rõ ràng là Việt Minh diệt giáo phái, nắm độc quyền kháng chiến đánh Tây.
Bảy Viễn gật:
- Mình sẽ đòi lại đại đội thằng Nghiệp của Tư Hoạnh…
Hội nghị nhất trí cho Bảy Viễn đi Nam Bộ nhận chức Khu trưởng. Chuyến đi được xem như là một vụ “Hội môn hồng yến” đời này, cho nên ai nấy đều nôn nao muốn dự. Công việc trước tiên của Bảy Viễn là chọn các đơn vị mạnh đưa đi theo, trước để biểu dương lực lược, sau để tự vệ khi cần. Ai cũng giành đi, không ai chịu thủ trại. Bảy Viễn phải chỉ định Tư Tỵ và Chi đội 25 ở lại Rừng Sác phòng khi Việt Minh bất ngờ cướp “sơn trại”. Tư Tỵ còn do dự, Lâm Ngọc Đường nhấn mạnh:
- Đi hay ở cũng đều quan trọng như nhau. Đi là chiến đấu chớ không phải là đi chơi. Ở nhà là thủ trại, cũng là chiến đấu chớ không phải nằm không. Tôi tình nguyện nằm lại Rừng Sác trong suốt thời gian Ngài Khu bộ phó xuống Đồng Tháp Mười.
Bảy Viễn chọn trong mỗi chi đội thân tín của mình một trung đội chủ lực để lập liên quân đi phó hội Nam Bộ. Chi đội nòng cốt vẫn là Chi đội 9 do Tư Sang chỉ huy, ngoài ra có Chi đội 4 của Mười Trí, Chi đội 21 của Tư Hoạnh và Chi đội 25 của Tư Tỵ. Từ trong bốn Chi đội này, Bảy Viễn lập hai đại đội “cứng”, mỗi đại đội có một cây “luộc” trây đơ (13,2ly) hoặc đui-xết (12,7 ly). Trong bộ tham mưu gồm có hai anh em Tư Sang, Năm Tài và Bảy Cao, Năm Bé. Năm Bé đã từng vượt ngục từ Côn Đảo về đất liền trên xuồng ba lá với Bảy Viễn nên được xem là tâm phúc sống chết có nhau. Còn Bảy Cao cũng là dân anh chị ở Sài Gòn, về với Bảy Viễn ngay từ đầu, hiện là tham mưu trưởng Chi đội 25.
Ngày lên đường, Tư Sang cho hai đại đội chủ lực tập hợp để Ngài Khu bộ phó duyệt quân và hiệu triệu. Bảy Viễn rất hãnh diện trước một lực lượng hùng mạnh như vậy, phấn khởi ngõ lời:
- Các anh em! Thật là một vinh dự lớn lao cho tất cả chúng ta được mời xuống Đồng Tháp Mười dự lễ nhận chức Khu bộ trưởng Khu 7. Vinh dự nay cho riêng tôi nhưng thật ra là cho các anh em. Vì không có các anh em thì tôi cũng chẳng làm được gì. Cho nên hôm nay tôi tỏ lời khen ngợi công lao tất cả các anh em…
Tư Sang tiếp lời Bảy Viễn:
- Nhiệm vụ của chúng ta là bảo vệ Ngài Khu bộ trưởng trên đường đi cũng như trên đường về. Cho nên tuyệt đối phải giữ bí mật, không được nổ súng vô cớ. Đồng thời phải tỉnh táo để đánh trả mọi cuộc tấn công bất cứ từ đâu tới.
Đường đi từ Rừng Sác đến kinh Dương Văn Dương đã vạch sẵn, có chặn đi ghe, có chặn đi bộ. Trong ba ngày ròng rã, hai đại đội chủ lực hộ tống Bảy Viễn tới xã Nhớn Hòa Lập. Tất cả “dồn binh hạ trại” tại xóm Nhà Thờ, tức ấp trên, còn các cơ quan cấp Nam Bộ đóng rải rác từ xóm giữa cho tới xã lân cận là xã Hậu Thạnh. Lần đầu tiên các chiến sĩ Rừng Sác đến giữa rún Đồng Tháp Mười, ai nấy đều bỡ ngỡ và lo sợ. Đồng trống bao la, nhìn quanh bốn bề chỉ thấy biển cỏ xanh rì. Nhìn lên trời xanh lơ, họ cảm tưởng như một cái chảo khổng lồ úp xuống mặt đất. Con kinh mang tên vị chủ tướng sáng lập bộ đội Bình Xuyên như một lưỡi gươm đai rạch giữa đôi cánh đồng rộng bao la. Dòng nước trong xanh ngó thấy đáy đầy rong mịn, nếm thử thấy nước phèn chua chát như nước pha thuốc cảm át-pi-rin. Hai bên bờ kinh xáng, lác đác vài mái nhà tranh có hàng rao so đũa và gòn trổ bông. Thỉnh thoảng vài cây ô môi soi mình trên dòng nước, những chùm bông đỏ đong đưa theo gió tô điểm cho dòng kinh êm vắng. Làng Nhơn Hòa Lập chỉ có con kinh độc đạo chạy xuyên suốt, nhà cửa hai bên bờ kinh lưa thưa; từ trên cao nhìn xuống bạn sẽ có cảm tưởng đây là một nhánh chùm ruột đài ngoằng, trái to nhất chính là nhà thờ ở đầu xã. Nhà thờ nho nhỏ xinh xinh, vách tường, mái tôn, trống trước trống sau nhưng không kém vẻ tôn nghiêm. Sát bên nhà thờ có một chiếc cầu bắt ngang con mương nhỏ. Ngay sau khi hạ trại, hai đội bắt tay vào việc phô trương lực lượng. Các khẩu trung liên và đại liên đặt trước sân nhà họ tá túc. Nòng súng chỉa lên trời, đạn cả bằng dài, đỏ au chạy từ ổ đạn đến thùng đạn đặt dưới chân súng. Mấy cây súng lớn đó có sức hấp dẫn lạ lùng. Dân Đồng Tháp Mười cũng như bất cứ nơi nào đều khoái súng lơn. Không mấy chốc tin có bộ đội miền Đông xuống lan đi khắp xã, dân chúng rủ nhau đi xem súng đen cả xóm Nhà Thờ.
Tư Sang cho liên lạc tới tổng hành dinh Trung tướng Nguyễn Bình để bàn thảo về cuộc lễ tấn phong cũng như cuộc họp bàn giao nhiệm vụ Khu bộ trưởng.
Cách nơi Bảy Viễn đóng quân không bao xa, một cuộc họp mặt giữa cán bộ diễn ra vô cùng gay cấn. Trung tướng Nguyễn Bình nhân danh Ủy viên Quân sự Nam Bộ đề nghị bắt Bảy Viễn ngay tức khắc, khi hắn còn mệt mỏi vì đường xa và hai đại đội của hắn còn bỡ ngỡ với địa hình địa vật. Nguyễn Bình cũng đề nghị ập tòa án quân sự Nam Bộ xét xử Bảy Viễn cùng lúc với Phán Huề được giải về từ lâu. Nhưng đồng chí Lê Duẩn nhân danh Bí thư Xứ ủy bác bỏ đề nghị ấy:
- Chúng ta bắt Bảy Viễn để làm gì? Không khéo lại gây đổ máu cho cả đôi bên. Tôi đề nghị cứ làm lễ tấn phòng Khu trưởng cho Bảy Viễn và để hắn tự do ra về…
- Nó sẽ nhảy vào thành – Nguyễn Bình gằn giọng – Ai chịu trách nhiệm về việc Bảy Viễn công khai đi đầu Tây đây?
Giọng đồng chí Lê Duẩn vẫn ôn tồn:
- Nếu hắn dám đi đầu Tây thì đó là chính hắn tự vạch mặt phản dân hại nước, chính hắn tự ký bản án phản quốc; và chúng ta khỏi phải làm cái việc mà thiên hạ gọi là “nồi da xáo thịt”…
Có tiếng vỗ tay, nhưng Trung tướng Nguyễn Bình vẫn giữ vững lập trường:
- Tôi là quân nhân, tôi không phải là nhà chính trị. Tôi xử những tên phản quốc bằng súng đạn và xử ngay tại chỗ. Với tư cách là Ủy viên Quân sự Nam Bộ, tôi ra lệnh bắt và truy tố nó trước tòa án Quân sự Nam Bộ…
Không khí cuộc họp càng dữ dội. Đồng chí Lê Duẩn đề nghị giải quyết vấn đề bằng biểu quyết. Đa số tán thành ý kiến của anh Ba Duẩn.
Lễ tấn phong được tiến hành như đã dự định. Quyền Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Nam Bộ Phạm Ngọc Thuần đọc quyết định phong chức Khu bộ trưởng cho “đồng chí” Lê Văn Viễn, Nguyễn Bình làm lễ bàn giao với Bảy Viễn. Một tiệc liên hoan kết thúc lễ tấn phong. Nhưng bộ tham mưu của Bảy Viễn rất bén nhạy bà đã bắt mạch được mối xung đột giữa hai phe quân sự và chính trị.
Sau buổi tiệc, về nơi đóng quân, Năm Bé nhỏ to với Bảy Viễn>
- Anh Bảy có để ý thấy vẻ mặt lầm lỳ của Nguyễn Bình không?
- Nó mang kính râm, thấy đách gì?
- Nhưng thái độ lạnh lùng của nó, anh Bảy phải thấy chớ?
- Thấy. Nhưng tao nghĩ trời sanh nó ra như vậy.
Năm Bé cự nự:
- Anh Bảy nói ăn trét hết. Còn tôi thì thấy bộ tịch nó lầm lỳ, nó cô dằn xuống dữ lắm mà còn phì ra… Mình nên coi chừng, nó dám làm ẩu lắm đó anh Bảy.
- Đố nó dám! Hai đại đội của mình sẽ dẫm nát tổng hành dinh của nó nếu nó dám động tới một sợi lông chân của Bảy Viễn.
- Anh Bảy chủ quan quá sá! Cẩn tắc vô ưu, hay là anh Bảy để tôi hạ nó? Tôi mà “khẻ” một cái là nó theo ông theo bà liền.
Bảy Viễn trừng mắt:
- Không được! Tôi không cho phép! Mình đang là khách. Nó chưa trở mặt…
Đúng lúc ấy có thư mời đồng chí Khu bộ trưởng dự lễ khai mạc phòng triển lãm hội hoa mừng sinh nhật Hồ Chủ tịch. Một tam bản hai chèo của ban tổ chức chờ sẵn dưới bến.
Nằm Bé càng nghi ngại:
- Coi chừng mưu kế chi đây của Nguyễn Bình.
Bảy Viễn lặc đầu:
- Anh sao đa nghi như Tào Tháo – Bảy Viễn sửa soạn xuống tam bản – dù sao nó cũng biết tôn trọng luật giang hồ.
Năm Bé kêu lên:
- Anh đi một mình sao? Ít ra cũng đưa theo một bán đội vệ sĩ…
- Không! Mình phải chứng tỏ có bản lĩnh ngay từ đầu thì tụi nó mới nể. Tám Nghệ rất có lý khi nói “cọp ở đâu cũng là cọp”.
- Cho tôi đi theo. Có gì tôi báo động…
Bảy Viễn cười tự tin:
- Tôi đã nói với Tư Sang rồi. Hễ quá nửa đêm mà không thấy tôi về thì Tư Sang bao vây tổng hành dinh của nó.
Nói xong, Bảy Viễn bước xuống tam bản.
Năm Bé quay lại Bảy Cao, lắc đầu.

CHƯƠNG 42

Trời đã tối hẳn. Những bầy đom đóm đậu trên hàng cây dọc bờ kinh chớp tắt, tạp một thứ anh sáng huyền ảo như thực như hư. Người chèo cất tiếng ca trầm lắng:


“Bảy trăm ngàn mẫu đất
Xớt chia bốn tỉnh miền Đông
Khăng khít biên thùy Chùa Tháp
Nằm bên cánh trái Cửu Long.
Đồng Tháp Mười, Đồng Tháp Mười,
Mênh mông, bát ngát, đưng sậy lên hoang
Mùa nắng đất khô cỏ cháy
Mùa mưa nước ngập tràn lan
Cò trắng ngàn năm bay chẳng dứt,
Chân trời bốn phía rộng thênh thang…”


Bảy Viễn đang thả hồn theo lời thơ phổ nhạc ca ngợi cảnh đẹp của Đồng Tháp Mười thì đằng xa đã có ánh đền măng-sông chói lòa trên mặt kinh. Hai nhà “thủy tạ” từ từ lướt trên dòng nước. ảnh Hồ Chủ tịch họa to được kết hoa lá rực rỡ, hai bên có hai lá cờ phất phơ theo gió. Từ trong nhà thủy tạ, ban nhạc hòa tấu nhặt khoan. Các đội hợp sướng hát vang:


“Đúc gươm thiên vung cho nước nàh,
Cứu dân Việt Nam thoát ách xưa…


Chiếc thủy tạ thứ hai cũng không chịu thua. Tiếng đàn, tiếng hát cất lên cao vút:


“Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn các em nhi đồng…
Bác chúng em dáng thanh thanh, người cao cao…
Bác chúng em nước da nâu, râu hơi dài…


Bảy Viễn còn đang lắng nghe các cháu thiếu nhi thì tam bản cặp bến. Tiếng máy phát điện nghe rất gần. Ban tổ chức đã túc trực sẵn dưới bến, đưa đồng chí Khu trưởng vào khu vực triển lãm. Hai bên đường có treo đèn, con đường nhỏ đưa vô một khu rừng tràm, bên kia chiếc cầu bán nguyệt. Bảy Viễn hoa mắt trước công trình nghệ thuật tòan bằng tre, tràm và đệm bàng. Hỏi ra mới biết công trình này do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát thực hiện. Bảy Viễn cũng được nhắc sơ qua chính ông Phát đã xây cất Hội chợ triễn làm Đông Dương năm 1942 tài vườn Ông Thượng, sau đổi tên là vườn Tao Đàn, cũng bằng tre lá.
Quan khách bước sang phòng triễn của họa sĩ Diệp Minh Châu. Tất cả đều đổ về bức họa “Đánh Trận Giồng Dứa”. Đây là chiến công của học viên trường quân chính khu 8 tiêu diệt đoàn xe của phái đoàn chính phủ bù nhìn Lê Văn Hoạch. Trong số Việt gian đền tội có tên Trương Vĩnh Tống, Bộ trưởng bộ thông tin. Họa sĩ Diệp Minh Châu đã vẽ bức tranh nay ngay tại mặt trận. Ngoài ra còn rất nhiều bức tranh phản ảnh sinh hoạt kháng chiến như sản xuất nuôi quân, bình dân học vụ, bà mẹ chiến sĩ…
Bảy Viễn đang xem bỗng nhiên có người chạm nhẹ cánh tay.
Nguyễn Bình làm hiệu mời Bảy Viễn đến một góc vắng người:
- Tôi muốn nói chuyện riêng với anh vài vấn đề. Nói tại đây có tiện không?
- Tiện chớ! Vấn đề gì đó?
Nguyễn Bình đứng thẳng người, khoanh tay trước ngực, nhìn thằng vào mặt Bảy Viễn:
- Chúng tôi được tin là bọn Phòng Nhì đã chui vào hàng ngũ của anh. Chúng lại được anh trọng dụng…
- Chúng là ai vậy?
Nguyễn Bình cau mày:
- Anh thật tình không biết? Chúng là hai anh em Lại HữuTài và Lại Văn Sang. Hai tên này vô cùng lợi hại. Nhứt là Tài. Tôi muốn anh giao chúng nó cho tôi.
Bảy Viễn cười nhạt:
- Anh có bằng chứng? Tình báo của anh có chính xác?
Nguyễn Bình gật:
- Trước khi quyết định làm chuyện gì, chúng tôi phải nắm đủ bằng chứng. Tình báo của chúng tôi ít khi nào sai lầm. Thằng Tài đã nhiều lần tiếp xúc với các tổ chức phản động trên thành. Nếu tôi trưng đầy đủ bằng cớ, anh có giao nó cho tôi không?
Bảy Viễn nghiêm nghị:
- Tôi phải xem các bằng cớ đã… Còn vấn đề gì nữa?
Nguyễn Bình khoát tay:
- Vấn đề thứ hai không cấp bách bằng việc giao nạp thằng Tài. Đó là việc thu thuế trong bộ đội Bình Xuyên. Các Trung đoàn, các tỉnh đều tự túc để dân trong tỉnh được nhẹ gánh nuôi quân. Đó là con đường nên noi theo. Mình là bộ đội cách mạng mà lại dựa vào thuế sòng bạc, nhà chứa thì mất hết ý nghĩa. Nhưng vấn đề này tính sau. Cần giải quyết tên Tài sớm… Bao giờ anh có thể giao nó cho tôi?
Bảy Viễn lạnh lụng:
- Tôi vừa trả lời câu hỏi đó rồi! Tôi phải xem bằng cớ trước đã!
Nguyễn Bình cô ghìm cơn nóng:
- Ta tiếp tục đi xem tranh…
Trở về nới đóng quân, Bảy Viễn họp các gia tướng lại:
- Nguyễn Bình đòi tao giao hai anh em Tư Sang, Năm Tài cho nó, nhứt là Năm Tài. Nó quả quyết hai đưa bây là “Đơ dèm buyarô”.
Tài, Sang xám mặt:
- Ngài trả lời thế nào?
- Làm sao tao chịu giao hai đứa bây cho nó? Tao ậm ờ bảo nó trưng bằng cớ đã…
Tài lo lắng:
- Nó đoán mò hay nắm được bằng cớ rồi?
Bảy Viễn lắc đầu:
- Làm sao tao biết được! Có thể là nó đoán mò mà cũng có thể là nó nắm được bằng cớ - hắn vỗ trán thở ra – đấu trí với nó mệt óc quá.
- Bây giờ Ngài tính sao? – Năm Tài bám lấy chủ tướng.
- Đừng để nó đánh trước – Tư Sang góp ý.
Bảy Viễn cảm thấy nóng bức khó chịu. Y kéo áo thun tơ ra khỏi xà-rông, nhưng vẫn chưa thấy mát, cởi luôn ra, để lộ tấm lưng lực lưỡng, trước ngực có xâm hai con rồng chầu nguyệt, Năm Bé trao cho y một khăn lông ước tẩm nước hoa. Y lau mặt, cổ gáy, hai cánh tay, hai bàn tay rồi phe phẩy quạt:
- Dĩ nhiên là như vậy. Giao hai đứa bây thì dứt khoát là tao không giao. Mà không giao thì rắc rối lớn. Nó viện lẽ tao bao che cho bọn Phòng Nhì để làm ẩu. Đêm nay Tư Sang phải bố trí canh gác cẩn thận.
Năm Tài nói:
- Tình thế này phải tính trước mới được. Ông Lâm Ngọc Đường có căn dặn tôi như thế này: Nếu như ta thấy rõ Nguyễn Bình quyết tiêu diệt giáo phái thì tôt hơn hết là ta nên rút về thành. Người Pháp và Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân luôn luôn giang hai cánh tay đón tiếp các phần tử quốc gia trong hàng ngũ kháng chiến trở về với chính phủ Bảo Đại. Mình là người Quốc gia, tại sao lại đóng góp xương máu cho Cộng sản độc quyền yêu nước?
Năm Bé gật gù:
- Năm Tài nói đúng ý tôi. Mình là Quốc gia. Còn Việt Minh là Cộng sản. Không thể hợp tác được. Mình đi với chúng cũng trong một thời gian nào đó thôi. Chi bằng ngay bây giờ ta tách ra…
Bảy Viễn thở dài:
- Đầu Tây là điều tối kỵ. Theo kháng chiến, tao mới mở mặt mở mày. Ủy viên Quân sự, Tư lịnh Bình Xuyên, Khu bộ phó, Khu bộ trưởng. Vinh vang hết cỡ rồi. Với thằng Tây, tao chỉ là thằng ăn cướp, là tên tù vượt ngục…
Nằm Tài trổ tài thuyết khách:
- Ăn cướp cũng năm bảy đường ăn cướp. Ăn cướp của người giàu chia cho người nghèo là ăn cướp đáng tôn thờ, cũng như Tống Giang, Triệu Cái mà Ngài xem là thần tượng. Chống thực dân cũng là hảo hớn. Còn bây giờ thời thế đã thay đổi rồi. Nước nhà đã được độc lập, do tài tranh đấu ngoại giao của Cựu hoàng Bảo Đại. Những người có tài như Ngài sẽ được trọng dụng.
Bảy Viễn nghi ngờ:
- Có chắc không?
- Sao không chắc? Bây giờ đã đến lúc phải nói thật với Ngài: Hai anh em tôi là người của Phòng Nhì. Tình báo của Nguyễn Bình rất chính xác. Chỉ huy trực tiếp của hai anh em tôi là ông Lâm Ngọc Đường. Chúng tôi đã làm việc với đại úy Savani, giám đốc Phòng Nhì. Savani tuyên bố sẵn sàng tiếp đón bộ đội Bình Xuyên bất cứ lúc nào. Sẽ dành riêng môt khu vực cho Bình Xuyên đóng, lính Pháp không có quyền xen vào.
Bảy Viễn đăm chiêu:
- Mày nói nghe cũng hấp dẫn lắm! Nhưng người quân tử cũng chỉ có một con đường…
Năm Tài cười:
- Người ta nói “quân tử nhất ngôn là quân tử dại”. Đọc Thủy Hử, mình thấy cuối cùng đám Tống Giang, Triệu Cái cũng trở về với triều đình!... Theo tôi nghĩ, chúng ta lập một giang sơn riêng biệt ở Rừng Sác để chống Pháp là một chủ trương xuất chúng, vừa chống Pháp và vừa thủ thế, tự vệ, không cho Việt Minh xen và chi phối. Giai đoạn chống xâm lăng đã qua rồi. Bây giờ là giai đoạn kiến thiết xứ sở, hàn gắn những đổ vỡ mất mát. Nước nhà đã độc lập và đang cần những lực lượng võ trang như bộ đội Bình Xuyên để trừ gian diệt bạo, giừ gìn an ninh trật tự.
Bảy Viễn còn chống cằm suy nghĩ, Tư Sang bước vô, vẻ khẩn trương:
- Trinh sát của mình báo động! Dường như có thám báo đang rình rập chúng ta từ bên kia bờ kinh. Có thể Nguyễn Bình đã ra lịnh bao vây chúng ta làm áp lực buộc Ngài phải giao hai anh em tôi cho nó. Bây giờ Ngài tính sao?
Năm Tài sôi nổi:
- Ngài đã dứt khoát về chuyện ấy rồi. Bây giờ phải hành động thôi. Tôi sẽ bí mật về thành ngay đêm nay. Tôi sẽ chuẩn bị tất cả để đón rước Ngài cùng hai đại đội hộ tống. Trong khi chờ đợi, Ngài cứ dùng dằng với chúng. Hai ngày là tôi tới Sài Gòn, vận động một ngày nữa là ba. Ngài chỉ cần tranh thủ ba ngày, sau đó thì rút quân về thành. Đã có tôi đón tại vùng An Lạc, Phú Lâm.
Bảy Viễn thở dài thườn thượt:
- Tao không hề dự kiến được tình thế lạ lùng như thế này. Ngày ra đi theo kháng chiến, tao cũng đã hát bài Chính khí ca “một ra đi là không trở về”, bây giờ chưa đi tới đâu thì lại lò mò trở về, mặt mũi nào dòm ngó đồng bào Phú Thọ, Chợ Thiếc?
- Ngài về thành không phải là “hàng thần lơ láo, phận mình ra đi” đâu. Ngài bao giờ cũng vẫn là chiến sĩ quốc gia, Ngài đã làm xong nhiệm vụ chống xâm lăng, đuổi thực dân rồi, bây giờ Ngài trở về tái thiết xứ sở. Chỉ có vậy thôi – Năm Tài cố sức thuyết phục.
- Nhưng mình vẫn đóng trên khu vực thằng Tây…
Năm Bé xen vào:
- Mình chỉ tạm thời ở nhờ trên đất thằng Tây thôi. Vài năm nữa là quân đội Pháp rút về hết theo Hiệp định đã ký với Cựu hoàng Bảo Đại.
Bảy Viễn thiễu não:
- Về thành mang theo chỉ có hai đại đội thì yếu quá! Thằng Tây coi mình ra cái gì!
Năm Bé hăm hở:
- Chuyện đó anh Bảy không nên quan tâm. Anh Bảy muốn có bao nhiều cũng được. Tôi sẽ đi mộ lính cho anh Bảy. Em út của mình trên thành, muốn bao nhiêu chẳng có? Nhất là với tên tuổi anh Bảy nữa! Nhất hô bá ứng mà!
Bảy Viễn buồn bã phủi chân, khoát tay bảo Năm Tài:
- Đành vậy! Thôi đi đi! Ba ngày nữa tao sẽ rút quân theo mày.
Đêm ấy, Bảy Viễn trằn trọc thao thức không chợp mắt.

CHƯƠNG 43

Năm Tài bí mật về thành với một tiểu đội hộ tống. Bảy Viễn vẫn đóng quân tại Nhà Thờ như không có chuyện gì xảy ra. Nhưng Tư Sang được lệnh ngày đêm sẵn sàng đối phó. Nguyễn Bình cứ thúc giục Bảy Viễn giao nạp Năm Tài nhưng Bảy Viễn mời Nguyễn Bình tới nơi đóng quân và nhấn mạnh “nếu Trung tướng thấy có Năm Tài ở bên cạnh tôi thì xin Trung tướng cứ tự nhiên bắt giữ. Sự thật thì tôi đã để hắn ở lại thủ trại. Nếu Trung tướng không gấp lắm thì khi trở về Rừng Sác, tôi sẽ bắt giải nó về đây cho Trung tướng”.
Biết Bảy Viễn đã đánh xổng con mồi của mình, Nguyễn Bình điên tiết ra lệnh cho Chi đội 15 và Chi đội 5 bám sát hai đại đội hộ tống của Bảy Viễn. Nếu Bảy Viễn trở về Rừng Sác thì thôi, còn nếu hắn trốn ra thành thì nổ súng tiêu diệt.
Lật đật đã đủ ba ngày. Tin hỏa tốc từ Rừng Sác cho biết tổng hành dinh Chi đội 9 đã bị tảo thanh. Lập tức Bảy Viễn yêu cầu Nguyễn Bình ngưng ngay. Đồng chí Lê Duẩn cho Hai Trí và Nguyễn Đức Huy ra lệnh ngưng ngay cuộc tảo thanh.
Bảy Viễn biết mình mắc mưu “điệu hổ ly sơn” của Nguyễn Bình, hầm hầm ra lệnh rút quân. Con kinh Dương Văn Dương thẳng băng như kéo chỉ, đồng trống hai bên đưng lác xanh tận chân trời. Ban đầu các đơn vị có nhiệm vụ bám sát hai đại đội Bình Xuyên còn e dè, nhưng dần dần việc theo đuổi trở nên công khai. Bên này bờ kinh thấy rõ bên kia bờ kinh. Súng ống đủ loại ghìm nhau, chỉ chở lệnh là nổ ran. Trong những ngày này, liên lạc của văn phòng Trung tướng Nguyễn Bình và văn phòng Xứ ủy làm việc không hở tay. Tam bản phóng như bay trên dòng kinh, đuổi theo Chi đội 5 và 15. Lệnh của đồng chí Lê Duẩn là rút quân, không truy kích Bảy Viễn. Lệnh của Trung tướng Nguyễn Bình nhấn mạnh phải tiếp tục truy kích tận ổ. Tình hình căng thẳng đó kéo dài tới lúc bộ đội Bảy Viễn tới tổng hành dinh Chi đội 4 của Mười Trí. Sau khi nghe Bảy Viễn tâm tình, Mười Trí nói với Huỳnh Văn Một, chỉ huy Chi đội 15:
- Chi đội 15 không phải bám sát Bảy Viễn nữa, đã có Mười Trí đảm trách! Mười Trí sẽ dùng tình cảm lôi kéo Bảy Viễn trở lại, Mười Trí chịu trách nhiệm về việc này trước Trung tướng Nguyễn Bình và Ủy ban Khánh chiến Hành chánh Nam Bộ.
Lời cam kết của Mười Trí làm tình hình bớt căng thẳng. Hai Chi đội 5 và 15 được lệnh của Nguyễn Bình cho rút về vị trí cũ.
Đêm ấy, Bảy Viễn tâm tình với Mười Trí:
- Tao theo kháng chiến là theo mấy anh Trần Văn Giàu, Bảy Trân, Bảy Trấn. Mấy anh đó là Cộng sản nhưng mà “chơi được”. Còn thằng Nguyễn Bình “chơi không vô”. Mày thấy trước mắt đó. Trên đường về của tao, nó cho hai Chi đội 5 và 15 bám theo khít rim. Mày bảo lãnh, nó mới chịu cho lệnh rút…
Mười Trí gật gù:
- Ba thằng cha Cộng sản mà mày bảo “chơi được” đó, tao biết rất nhiều. Bảy Trấn thì khỏi nói: Ba đứa mình đã ẩn náu ở Bến Tranh, Dầu Tiếng một thời gian. Bảy Trấn cũng như tụi mình.
- Còn hai cha kia?
- Bảy Trân thì đạo mạo như thầy giáo, coi hiền lành nhưng khi cần thì cũng “ngon lành” cũng “chịu chơi” như ai. Tư Hoạnh cứ đòi “vặn cổ thằng quận Trân” nhưng khi giáp mặt, nghe Bảy Trân nói thì nó xụi lơ. Lạ thiệt!
- Còn Trần Văn Giàu?
- Tên này bản lĩnh lắm! Mày biết không, chính tao đã “nắn gân” nó rồi, kết quả cũng phải nhìn nhận là nó cũng là một tay hảo hơn như tụi mình.
- Nắn gân cách nào?
Mười Trí nốc cạn ly rượu thuốc, khề khà kể:
- Hồi mới độc lập, Huỳnh Phú Sổ đòi Thanh tra Chính trị Miền Tây là Nguyễn Văn Tây, trao mấy tỉnh có tín đồ Hòa Hảo như Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ cho Hòa Hảo cai trị. Nguyễn Văn Tây báo cáo với Trần Văn Giàu, Giàu cho bắt Huỳnh Phú Sổ, nhưng Hoàng Quốc Việt ra lệnh thả Sổ ra. Lúc đó tao có cảm tình với Huỳnh Phú Sổ nên che giấu Giáo chủ Hòa Hảo trong nhà. Một đêm, nghe tin Trần Văn Giàu đi công tác ngang qua, tao mời vô tổng hành dinh, coi có dám vô hay không. Nó vô mình không, bỏ đám vệ sĩ bên ngoài. Mày biết đám lâu la của tao, đứa nào cũng hầm hừ, lựu đạn đeo đầy mình. Một thằng tháo lựu đạn ra, thả lăn lông lốc trước mặt tao với nó. Nó liếc tao, thấy tao ngồi tỉnh bơ, nó cũng ngồi tỉnh bơ. Mày dư biết, lựu đạn của mình làm, cân lượng sơ sài, đụng mạnh là nổ ngay, nhiều người đã chết vì lựu đạn của cha con Tám Mạnh, Hai Vĩnh sản xuất… vậy mà thằng Giàu…
Bảy Viễn cười:
- Nó cũng chết điếng trong bụng…
- Nhưng ngoài mặt nó vẫn cứ cười nói tự nhiên. Cái đó mới là bản lĩnh. Từ đó tao chấp nhận nó là hảo hớn ngang với bọn mình – rót thêm ly nữa. Mười Trí mới hỏi – Nhưng tại sao Nguyễn Bình lại cho hai Chi đội 5 và 15 bám sát mày?
- Tại sao hả? Chuyện này chắc mày biết mà!... Nguyễn Bình đòi tao giao hai anh em Năm Tài, Tư Sang cho nó. Nó cả quyết hai tên này là Đơdèm…
- Mà có đúng không? Tao cũng nghi quá!
- Đúng! Trước đây tao cũng nghi ngờ. Mới đây thôi. Năm Tài thú nhận chúng là người của đại úy Savani.
Mười Trí kêu lên:
- Chết cha! Vậy mà mày không chịu giao?
- Làm sao giao được? Lâu nay tao khoán hết mọi việc cho hai đứa nó. Tư Sang lo quân sự, Năm Tài lo ngoại giao. Tao chỉ ngồi không ký tên… Không có hai đưa nó thì tao kể như cùi.
Mười Trí cừoi lớn:
- Trong Chi đội 9 của mày có thiếu gì nhân tài? Như thằng Tám Tâm.
- Tám Tâm là thằng Cộng sản – Bảy Viễn giẫy nãy.
Mười Trí cười:
- Làm như đĩa bị quết vôi vậy? Tao coi bộ mày “kỵ”Cộng sản dữ quá! Mà mày đâu dè ba thằng cha “chơi được” của mày lại là Cộng sản và có bằng cấp bên Tây, bên Nga…
- Chớ mày không “kỵ” à? – Bảy Viễn tò mò hỏi.
- Không! Tao không “kỵ” thứ gì hết. Cộng sản có cái gì mà “kỵ” chớ? Tao đã nói thằng cha Bảy Trấn chẳng khác gì tụi mình. Cũng đánh bài, cũng rượu chè, cũng này nọ… Nó cũng “ con c, con lõ” như tụi mình.
- Thiệt không đó mậy?
- Thiệt mà! Nó còn nói giới giang hồ tụi mình ăn nói lỗ mãng nhưng ăn ở với nhau rất có tình nghĩa, hơn xa mấy thằng cha trí thức ăn nói lịch sự, nhưng ăn ở với nhau không tình không nghĩa. Nó kể chuyện tiếu lâm cười bể bụng. Chuyện như vầy nè: Hai vợ chồng chị sui trai rất mến anh sui gái. Anh này góa vợ nên ăn uống kham khổ. Chị sui trai nuôi một con gà mái định để dành đãi anh sui một bữa. Nhưng có khách quý đến bất ngờ, kẹt quá anh sui trai đành làm con gà mai. Đến khi anh sui gái tới, chị sui trai mới trách chồng: “Tui biểu ông đừng làm thịt con gà mà ông không nghe, bây giờ lấy cái con c. gì đãi anh sui đây?”…
Bảy Viễn cười ngất, quên hẳn chuyện Nguyễn Bình bám sát như bóng với hình. Nghỉ ngơi một ngày, Bảy Viễn tiếp tục lên đường. Mười Trí cũng nai nịt đi theo:
- Để tao tiễn mày một khúc đường.
Bảy Viễn áy náy:
- Mày tiễn tao hay mày bám sát tao theo chỉ thị của Nguyễn Bình?
Mười Trí trợn mắt:
- Đẹp Nguyễn Bình qua một bên! Tao làm theo ý của tao, không phải làm theo chỉ thị hay mệnh lịnh nào! Đây là tình bạn đồng sinh đồng tử của tao với mày. Mày có nhớ chuyện uống nước đái giữa biển Đông thề nguyền sống chết có nhau? Giờ đây tao không thể để mày trở về đường xưa lối cũ. Mày chịu ảnh hưởng của bọn Lương Sơn Bạc nhiều quá. Cho nên mày hư!
- Còn mày? Mày không mê Thủy Hử à?
- Có. Tao có mê, nhưng đó là chuyện đời xưa, hồi trước cách mạng Tháng Tám, lúc đó chưa có Đảng. Chớ bây giờ tao hết mê rồi, mà còn chê nữa.
- Chê chỗ nào?
- Bọn Tống Giang thù ghét triều đình chạy ra Lương Sơn làm loạn. Nhưng chúng đã làm được gì? Toàn là cảnh giết người làm thịt bán trong các hắc điếm. Đọc tới đó thấy lạnh mình. Chúng không còn là người nữa. Mà là súc vật ăn thịt người!
- Rồi sao nữa?
- Bọn Tống Giang đả phá triều đình, nhưng chúng xây dựng được cái gì? Chúng cũng lập ra một triều đình cỡ nhỏ, cũng phe phái, cũng tranh giành địa vị. Phe Tống Giang ghìm phe Triều Cái. Triều Cái chết rồi thì ghìm phe Lưu Tuấn Nghĩa tức Ngọc Kỳ Lân. Cũng bởi rập khuông theo Tống Giang nên mày mới ghìm phe Ba Dương, Năm Hà, ghìm phe Tám Mạnh, Hai Vĩnh… đúng không?
Bảy Viễn nín lặng hồi lâu rồi chuyển qua chuyện khác.
Bỗng Tư Sang đến tìm Bảy Viễn, có vẻ hoảng hốt:
- Trong đêm nghỉ tại đây, đại đội 4 của thằng Xê trốn đi rồi!
Bảy Viễn đập bàn:
- Tao đã biểu canh phòng nghiêm ngặt, tại sao để cả đại đội trốn đi? Đã cho truy nã chúng chưa?
Tư Sang lúng túng:
- Chúng ta đang trên đường về thành. Không có đủ thì giờ…
Bảy Viễn chợt nhớ ra, thở dài:
- Thời đã hết nên mới xảy ra những chuyện bực mình… Về thành mà chỉ có một đại đội thì thằng Tây coi mình ra cái đách gì!
Năm Bé góp ý:
- Anh Bảy không nên quan tâm chuyện đó. Tôi hứa sẽ tuỷên mộ lính cho anh Bảy. Trong vòng một tuần là ta có vài ba tiểu đoàn. Điều cấp bách là ta nên rời nơi đây càng sớm càng tốt, ở đây ngán quá!
Bảy Viễn chỉ Mười Trí:
- Anh quên Mười Trí đây là bạn tù vượt ngục với mình sao?
- Biết chớ! Nhưng đêm qua tôi nghe binh sĩ của anh Mười Trí bàn tán với nhau. Không rõ ai xì ra mà chúng biết mình sắp nhảy vào thành. Chúng nói – Năm Bé bụm miệng nói nhỏ - xin lỗi anh Bảy: “Đ.m bộ đội Bảy Viễn đánh giặc như con c. Bây giờ lại tính đầu Tây! Mười Bảy Viễn tao cũng đánh thấy mẹ nữa! Cái thứ “sọc dưa” làm mất danh tiếng bộ đội Bình Xuyên, đem bắn bỏ là vừa!”…
Bảy Viễn hầm hầm cự Mười Trí:
- Mày để lính của mày chửi tao như vậy sao?
Mười Trí cười:
- Nếu tao mà đi đầu Tây thì chúng làm thịt chứ không chửi như vậy đâu! Lính cách mạng khác xa lâu la của sơn trại chủ, mày phải thấy điều đó chớ? Năm Bé nói đúng đó.
Trên ghe từ Bình Hòa về Lý Văn Mạnh, Bảy Viễn lại hỏi Mười Trí:
- Mày chê Thủy Hử là tại mày bị Bảy Trấn nhuộm rồi phải không?
- Mười Trí mà dễ gì nhuộm mậy! Buồn cười quá! Lúc tao đi dự đại hội giáo phải của Phạm Công Tắc có người bảo Mười Trí bị Cao Đài mua, cũng có lúc tao chứa Huỳnh Phú Sổ tại đây thì thiên hạ đồn Mười Trí bị Hòa Hảo kéo. Bây giờ mày nói tao bị Cộng sản nhuộm… Nhưng thành thật mà nói thì tao có cảm tỉnh với Cộng sản. Tại sao hả? Nếu không có mấy cha Cộng sản làm cách mạng tháng Tám cướp chính quyền thì tới giờ này tụi mình cũng chỉ là lục lâm thảo khấu, mày xưng Tống Giang, tao xưng Triều Cái, Hai Vĩnh xưng Ngọc Kỳ Lân… Thật ra thì tụi mình toàn là lũ treo đầu dê bán thịt chó. Mở miệng là rêu rao “Thế thiên hành đạo”, nhưng tụi mình có đạo đâu mà hành? Đạo của tụi mình là đạo “hốt bạc bỏ túi”. Nhiều quá xài không hết thì chia bớt cho lâu la. Chớ có bao giờ chia cho dân nghèo đồng xu cắc bạc nào! Mình là… nói xin lỗi… một bọn súc vật ăn thịt người như mấy thằng phổ-ki trong các hắc điếm. Cách mạng đã nâng chúng ta lên thành một con người có đủ nhân cách, nhân phẩm. Tao mến Cộng sản chỗ đó.
Bảy Viễn không nói gì, cứ im lặng, thỉnh thoảng thở ra. Đêm ấy đóng quân giữa đồng trống, gần cầu Bà Lạt, giữa cầu Xáng và Bà Hom, Mười Trí và Bảy Viễn lại thức thêm một đêm nữa để tâm tình. Nửa đêm Mười Trí nói:
- Người xưa có nói: “Dù đưa nhau trăm dặm cũng đến lúc phải chia tay”. Ta đưa mày tới đây cũng đã khá xa rồi. Ta đang ở sát quốc lộ 4 và đứng ở ngưỡng cửa Sài Gòn. Tao hỏi thật: Mày định đi đầu Tây?
Bảy Viễn thở ra:
- Mọi việc đã lỡ rồi. Năm Tài đã về thành ba ngày nay chuẩn bị mọi thứ. Giờ này có lẽ tụi nó đang chờ đón rước tao…
Mười Trí đổ quạu:
- Đ.m. uổng công tao thức mấy đêm thuýêt phục mày! Mày đã quyết định đi đầu Tây thì đường ai nấy đi! Thôi, tao về đây. Khỏi bắt tay con c. gì!
Mười Trí cùng tiểu đội hộ tống đi rồi, Bảy Viễn vẫn còn bùi ngùi. Trong giới giang hồ, Bảy Viễn mến và phục Mười Trí hơn ai hết. Mười Trí được cái thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, không rào đón, không vẽ vời. Và khi cần thì hành động chớ không phải chỉ nói suông.

CHƯƠNG 44

Bảy Viễn còn đắm hồn trong hồi tưởng thì Bảy Cao tới:
- Tư Sang ra lệnh cho tôi đi thám báo vùng này mà giao có một tiểu đội thì làm sao đủ.
Bảy Viễn nhìn chăm chăm tham mưu trưởng Chi đội 25:
- Anh muốn bao nhiêu?
- Ít nhất cũng phải hai tiểu…
Bảy Viễn khoát tay:
- Thì hai tiểu. nói Tư Sang là có sự đồng ý của tôi. Chuyện không đáng gì mà cứ làm rộn mãi!...
Bảy Cao đòi hai được hai tiểu đội cứng vì vùng này ném về vùng ngoại vi thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn. Tư Sang miễn cưỡng giao cho Bảy Cao hai tiểu đội, nhưng trong lòng đầy nghi ngại. Trong chuyến đi này, Bảy Cao có nhiều cử chỉ lạ lùng, khó hiểu, dường như tâm hồn anh ta trải qua một cuộc giành giật xo xát.
Bảy Cao dẫn hai tiểu đội tiến về cầu Bà Lát, cách nới Tư Sang đóng quân vài trăm thước. Anh ra lệnh cho anh em ngồi xuống thành một vòng tròn:
- Mấy ngày nay chắc anh em biết có những biến động dữ dội trong bộ đội Bình Xuyên chúng ta. Ngay trong hai đại đội hộ tống này cũng đã đi hết một đại đội trong đêm trước. Nguyên nhân nào mà rã đàn tan nghé? Chuyện rõ như ban ngày: Bảy Viễn quyết định đi đầu Tây. Mấy ngày trước đây, Năm Tài bí mật về thành liên lạc với Pháp chuẩn bị đón rước Bảy Viễn…
Hai tiểu đội xì xào sôi nổi. Bảy Cao tiếp:
Kháng chiến nay đầu Tây đó là quyền cá nhân của Bảy Viễn. Đó cũng là quyền cá nhân của từng anh em chúng ta. Không ai có quyền nhân danh bất cứ cái gì để bán rẽ xương máu và danh dự của chúng ta. Ai muốn đi đầu Tây thì theo Bảy Viễn, còn ai muốn tiếp tục kháng chiến giành độc lập thì đứng qua một bên.
Tấ cả đều đứng qua một bên. Bảy Cao nói:
- Hoan hô tinh thần sáng suốt của anh em. Bây giờ trước khi quay trở lại Đồng Tháp Mười, chúng ta hãy nổ một loạt súng gọi là “đưa linh” những chiến hữu lầm đường lạc lối…
Hai tiểu đội nổ một loạt súng giòn giã rồi biến mất trong bóng đêm.
Tư Sang vốn nghi ngờ Bảy Cao, nghe tiếng súng nổ giòn, vội cho trinh sát ra dò tình hình. Một lúc sau tin Bảy Cao dẫn hai tiểu đội trở về Đồng Tháp Mười tới tai Bảy Viễn.
Như võ sĩ bị thấm đòn bị một cú quai hàm vào hiệp cuối chót, Bảy Viễn xiễng liễng đứng ngồi không yên:
- Trời ơi, tới thằng Bảy Cao cũng bỏ tao nữa thì tao còn biết tin ai? Chỉ còn một đại đội mà nó nỡ cướp mất hai tiểu đội thì còn đách gì mà ra mắt Tây tà? Nhục ơi là nhục.
Có lẽ trong đời ngang dọc, Bảy Viễn chưa bao giờ biết nhục nhã ê chề như lúc này. Càng nhục, y càng nhận Mười Trí thông minh, sáng suốt; y thấy sai lầm nghiêm trọng nhất trong đời mình là không nghe lời Mười Trí mà lại chạy theo hai anh em Tư Sang, Năm Tài…

*
* *
Bảy Cao đưa hai tiểu đội ròng rã một đêm một ngày mới về đến Nhơn Hòa Lập. Việc trở về đột ngột của hai tiểu đội Bảy Cao giữa lúc quân khu được điện của Mười Trí báo tin Bảy Viễn đã chạy về thành làm mọi người bất ngờ nhưng thích thú.
Tám Nghệ thấy Bảy Cao đằng xa đã reo lên:
- Bảy Cao, mình tưởng…
Bảy Cao bắt tay Tám Nghệ hăm hở đề nghị:
- Anh Tám cho tôi gặp Trung tướng, có được không?
- Sao lại không? Theo mình!... Tám Nghệ giới thiệu với Nguyễn Bình:
- Anh Bảy Cao, tham mưu trưởng Chi đội 25 của Tư Tỵ…
Nguyễn Bình bắt tay:
- Câu chuyện trở về thành của Bảy Viễn như thế nào, anh hãy kể lại cho chúng tôi nghe. Anh là người ham hiểu tường tận nội tình Bình Xuyên vào những ngày này…
Bảy Cao nói một hơi:
- Tên tôi chỉ được ghi vào giờ chót trong danh sách những người theo Bảy Viễn xuống Đồng Tháp Mười nhận chức Khu bộ trưởng. Bảy Viễn chú ý tới tôi vào giờ chót là vì tôi thông thạo chiến trường Khu 8. Mấy năm trước đây, tôi và anh Quách xách Liên quân đánh lưu động ở các vùng Bình Hòa, Vàm Cỏ Đông… Riêng về phân tôi thì cũng muốn được dịp giáp mặt với Trung tướng để đánh tan mọi hiểu làm do kẻ ném đá giấu tay…
Nguyễn Bình gật:
- Việc anh trở về đây chứng minh anh là người trung kiên với cách mạng.
- Đi ba ngày ròng theo lộ trình sông Soài Rạp, Cần Giụôc, Phú Lâm, Hộ 17, Cây Da Xà, ấp Bình Hòa. Ghé lại Chi đội 4 thăm anh Mười một ngày, hôm sau thẳng tới Nhơn Hòa Lập. Trong ba tham mưu của Bảy Viễn có Tư Sang, Năm Tài, Năm Bé. Có cả thằng Paul, con Bảy Viễn nữa. Lại thêm hai thằng cháu là Tư Hiểu và Thái Hoàng Minh. Việc chỉ huy hai đại đội hộ tống, Bảy Viễn giao cho Tư Hiểu. Những ngày họp ở đây thì Trung tướng biết rồi. Ba ngày sau có liên lạc đặc biệt do hai thằng Hoằng và Cugn từ Rừng Sác báo tin hỏa tốc là tổng hành dinh của Chi đội 9 ở Tắt Cây Mắm đã bị thanh trừng. Bảy Viễn hoang mang chửi cách mạng không ghe tàu nào chở cho hết. Hắn đòi Nam Bộ phải ngưng ngay. Dù được Trung tướng và đồng chí Lê Duẩn hứa, Bảy Viễn không tin. Ngày đêm đó, Bảy Viễn quyết định trở về Rừng Sác. Tư Sang họp các cấp bộ lại hội ý trong bữa cơm “về Rừng Sác hay không về Rừng Sác?”. Không ai mạnh dạn trả lời. Vì ai cũng biết trước đó Bảy Viễn cho Năm Tài về thành chuẩn bị đón rước Bảy Viễn cũng lực lượng hộ tống. Mặt khác, đám vệ sĩ của Tư Sang mang súng mi đi khắp nơi lắng nghe dư luận. Phát biểu bậy bạ sẽ bị chúng “lặt” ngay tại trận. Cho nên không ai nói gì. Riêng tôi nói một câu ngắn gọn: “Về Rừng Sác thì chỉ có đánh nhau thôi”. Ý của tôi, nếu được tự do ăn nói, thì nói thế này: “Về Rừng Sác thì chỉ có đánh nhau hoặc đầu Tây”. Để chúng không nghi kỵ, tôi nói thêm: “Ta nên chờ Mười Trí. Còn anh em thì theo anh Bảy tới cùng. Bởi ngày xưa anh Bảy hứa với anh em là đánh Tây tới giọt máu cuối cùng, còn cái bâu áo cũng đánh tới tới”. Dù vậy, Tư Sang vẫn nghi ngờ nên truất chức tham mưu mà Bảy Viễn phong cho tôi trong chuyến đi này. Tới Bình Hòa, vừa qua sông Vàm Cỏ thi Xê xách đại đội 4 thuộc Chi đội 4 của Mười Trí rút trở lại Tắt Cây Dừa, Nam Bình Hòa. Đại đội này có cây ly 20 đã nổ một loạt súng chào mừng quan khách đêm đầu tiên Bảy Viễn xuống Nam Bộ. Mất đại đội này, Bảy Viễn mất tinh thần, cứ hỏi tôi: “Bây giờ làm sao hả anh Bảy?”. Đêm đóng ở giữa đồng Bàu Cò, Láng Le, có anh Bảy Trân là Chủ tịch Chợ Lớn tới thăm. Hai anh Bảy Trân và Mười Trí cố trấn tĩnh tinh thần Bảy Viễn nhưng vô ích. Vì Rừng Sác bị tảo thanh thì Bảy Viễn không còn đất dung thân ngòai vùng Chánh Hưng mà Năm Tài vận động Pháp cho Bảy Viễn tạm mượn. Khoảng chín giờ đêm, Tư Sang quyết định kéo đi. Tôi chủ động bảo Bảy Viễn: “Vùng này Tư Sang không rành bằng tôi. Phải để tôi đi trước dò đường. Cho tôi một trung đội”. Bảy Viễn đồng ý nhưng Tư Sang chỉ giao hai tiểu đội. Tôi đưa anh em đi vài trăm thước, giải thích cặn kẽ rồi yêu cầu anh em chọn đường. Tất cả theo tôi trở về Nam Bộ. Giữa lúc đó, Tư Sang sinh nghi cho lính chạy đi tìm tôi. Tai tôi nghe tiếng hắn gọi to trong đêm vắng “Bảy Cao ơi, Bảy Cao đâu?”…
Nghe xong, Nguyễn Bình vỗ vai Bảy Cao:
- Trước đây không biết, nay thì anh Bảy cứ an tâm ở lại đây…
Bảy Cao nhìn thằng Nguyễn Bình:
- Tôi theo kháng chiến với một trái tim trong sáng. Nếu Trung tướng muốn xem thì cứ mở ra xem – Bảy Cao vạch áo đưa ngực ra.
Nguyễn Bình cười:
- Tôi đã nói là tôi tin anh…
Hôm ấy, Nguyễn Bình làm tiệc đãi Bảy Cao. Cùng dự tiệc có Tám Nghệ, Huỳnh Văn Một và Truyện, chánh ủy trung đoàn 308 hỗn danh “Thầy Rùa Mắt Thau” (Thầy rùa là tham mưu, còn mắt thau là vì Truyện có đôi mắt to).
Đâu là khúc quanh lịch sử trong cuộc đời giang hồ của Bảy Cao. Do dòng đời đưa đẩy, anh gặp Tư Tỵ là tay anh chị Bình Đông. Khi Tư Tỵ có Chi đội 25 thì anh về làm tham mưu trưởng. Nhưng Bảy Cao chỉ nổi danh nhờ “vớt” hai tiểu đội của Bảy Viễn vào giờ chót…
Trong tiệc, Bảy Cao đề nghị:
- Trung tướng cho tôi đánh bồi một cú nữa là Bảy Viễn xụm luôn. Tôi đi rồi nhưng còn “cài” một thằng bạn chí thân, nó là Cử, đại đội trưởng. Tôi hú một tiếng là nó hưởng ứng ngay…
Nguyễn Bình cười:
- Thôi, bao nhiêu đó đủ rồi. Kéo quân đi đầu Tây là cuộc đời giang hồ của Bảy Viễn đã chấm dứt rồi. Đối với những người kháng chiến thì hắn đã lộ nguyên hình, “cốt khỉ hoàn cốt khỉ”. Mình đánh bồi thêm sẽ mang tiếng là tiểu nhân.

CHƯƠNG 45

Ngay khi Bảy Viễn rời Rừng Sác xuống Đồng Tháp Mười, bí thư phân khu Duyên Hải Nguyễn Đức Huy được điện của bí thư Khu 7 Hai Trí tiến hành tảo thanh, tóm bắt bọn tay sai của Bảy Viễn tại Chi đội 9, 21 và 25. Trung đoàn 300 và các Chi đội 2, 3, 7 được lệnh yểm trợ cuộc thanh trừng này. Nguyên tắc hành động là ban thanh trừng ở chi đội nào lo tóm bắt các tay phản động trong chi đội mình.
Từ lâu Tám Tâm đã “ghi sổ lòng” những tên “ác ôn” trong Chi đội 9 và những “chính khách xôi thịt” thường lui tới Bảy Viễn như Lâm Ngọc Đường, Môrit Thiên, giáo sư Lê Văn Hanh… Khi được lệnh, Tám Tâm cho họp các đơn vị lại diễn thuyết động viên anh em tiếp tay bắt cho kỳ được, không để sót một tên nào. Mục tiêu số một của anh là tên Lâm Ngọc Đường. Tên này nhanh chân chạy trốn, nhưng vẫn còn kẹt trong Rừng Sác. Tám Tâm huy động các ghe củi, nhờ đồng bào bắt cho được tên “Tây lai to cao, râu rậm, ăn mặc sang trọng”…
Tại Chi đội 25, mục tiêu số một của Lưu Quý Thoái là chi đội trưởng Tư Tỵ, tay chân thân tín của Bảy Viễn, có nhiệm vụ chăm sóc “sơn trại”…
Lệnh thanh trừng ban ra vào 4 giờ ngày 28-5 nhưng ngày 27 Tám Tâm đã nhận được tin Tư Tỵ đưa vợ con mới sinh về Sài Gòn. Tám Tâm hỏi ý kiến Lưu Quý Thoái:
- Trạm gác ở Tắt Cây Mắm thuộc đại đội nào?
- Đại đội của tao. – Lưu Quý Thoái đáp, giọng miên Trung nằng nặng…
- Đại đội mày có dám bắt Tư Tỵ?
- Đại đội này thường liên quân với Chi đội 25 của Tư Tỵ, tao sợ anh em không dám bắt hết.
- Vậy thì mày rút đại đội của mày đi, để tao đưa đại đội của tao tới. Thằng Trần Công Đức của tao chì lắm. Ai nó cũng dám bắt hết.
Đại đội của Trần Công Đức được đưa tới Tắt Cây Mắm trong đêm ấy. Đến nửa đêm, Tư Tỵ đưa vợ về thành rồi trở về tổng hành dinh. Lính gác trên trạm hỏi: “Tảo phải không?”, trên ghe đáp: “Thanh đây”.
Trần Công Đức hoang mang: “Vậy là Tư Tỵ đã biết mật lệnh của ban thanh trừng rồi. Làm sao đây?”. Anh bấm đèn pin rà theo tam bản, thấy Tư Tỵ ngồi trên đó “Phải ghe anh Tư Tỵ không?”
Tư Tỵ chửi ầm lên:
- Đ.m thằng nào dám kêu tên tao vậy?
Trần Công Đức dịu giọng:
- Xin lỗi anh Tỵ, em đây mà. Đại đội trưởng Trần Công Đức đây. Nãy giờ em canh anh về để đưa thư. Có thư gấp,và mật.
Tư Tỵ cho ghé lại, bước lên trạm. Lá thư chỉ có tờ giấy trắng, bỏ trong phong bì đề mấy chữ “Kính gửi Tư Tỵ”. Phía trên có ghi thêm bằng mực đỏ “Mật và gấp”.
Trần Công Đức bưng đèn con cóc cho Tư Tỵ xem. Bọn bảo vệ của Tư Tỵ muốn vô trong trạm nhưng lính gác không cho, giữ lại bên ngoài. Trong khi Tư Tỵ mở phong thư, Trần Công Đức nhanh tay tước súng sáu. Tám Tâm từ trong buồng nhảy ra hô to:
- Trói thằng này lại!
Tư tỵ bị bắt gọn bất ngờ. Hắn lồng lồn la hét:
- Tụi bây muốn đứt đầu hả? Tụi bây phản động hả?
Lưu Quý Thoái cũng từ trong buồng bước ra:
- Trung kiên hay phản động gì, sau này sẽ rõ.
Lúc Trần Công Đức tước súng Tư Tỵ thì lính bên ngoài cũng tước súng bọn vệ sĩ. Có tên chống cự bị đá văng xuống sông.
Sáng hôm sau Chi đội 25 nghe tin chủ tướng bị bắt toan nổi dậy, nhưng Tám Tâm đã cho mời đại diện cấp tiểu đoàn đến giải thích:
- Đây là thư của Tư Tỵ gởi cho các anh. Ông ta vẫn sống nhăn chứ có bị thủ tiêu đâu nào!
Bức thư ấy, đêm qua Tư Tỵ viết theo lệnh của Tám Tâm, nội dung như sau:
“Kính gởi ban chỉ huy Chi đội 25,
Tôi là Lâm Văn Đức, tức Tư Tỵ, xin cho ban chỉ huy biết là tôi vẫn bình yên và đang thảo luận với ban chỉ huy thanh trừng. Không ai động tới sợi lông chân của tôi được. Các anh hãy tin như thế.
Ký tên:
Lâm Văn Đức tức Tư Tỵ.
Tái bút:Ban chỉ huy Chi đội 25 phải nghiêm chỉnh thi hành mệnh lệnh của tôi, cho tập hợp gấp toàn bộ Chi đội, đả thông cho anh em bình tĩnh. Trước khi trở về đơn vị, anh em phải gom vũ khí để ta chuyển đi nơi khác. Sẽ có người hướng dẫn các anh”.Cuộc tảo thanh ở Chi đội 25 tiến hành không tốn một phát súng. Nhờ có mưu trí của Tám Tâm và lòng dũng cảm của Trần Công Đức.

*
* *


Tại Chi đội 21, hai anh Nghiệp và Dư kéo đại đội về bắt bọ phản động. Mục tiêu là Ký Huỳnh và Tư Hoạnh. Ký Huỳnh bị bắt gọn. Tư Hoạnh đi công tác, ai cũng nghĩ Tư Hoạnh số đỏ. Bất ngờ Tư Hoạnh nhận được điện của Xứ ủy, bảo ngừng cuộc tảo thành, vội vã về Rừng Sác, đinh ninh sẽ lập được kỳ công với Bảy Viễn. Về tới Phước An, ghé trạm gác thứ nhất. Ghe Tư Hoạnh võ trang FM cộng thêm hai tiểu đội hộ vệ. Theo kế hoạch của Tám Tâm, trạm gác 1 chỉ cho Tư Hoạnh và ba vệ sĩ vô, còn bao nhiêu ở lại trạm ngoài. Tại trạm 2, ba vệ sĩ bị giữ lại, Tư Hoạnh chỉ được chập nhận đi sâu vô “mình ên”. Trạm gác thứ ba đã có Tám Tâm. Anh ra lệnh tước súng và trói Tư Hoạnh lại. Không ai thèm đọc bức điện mà Tư Hoạnh cắc ca cắc củm mang theo như lá bùa hộ mệnh.
Nhưng Tám Tâm vẫn chưa hài lòng khi Lâm Ngọc Đường vẫn còn ngoài vòng bủa lưới. Đã bảy ngày qua, họ Lâm sống lang thang trong rừng, ăn đọt chà là, uống nước sương đọng trên lá. Đến ngày thứ tám. Đường thấy hai người đi ghe củi, lật đật cởi chiếc Omega vàng, cả dây đồng hồ cũng bàng vàng trao cho họ, nhờ đưa về Sài Gòn. Sợ dân quê không hiểu giá trị của đồng hồ quý nhất thế giới ấy, Đường móc bóp đưa thêm năm chục ngàn đồng cho chắc ăn. Hắn yêu cầu khi trở ra, họ nhớ mang theo cơm nguội vì cả tuần hắn không có hột cơm… nhất là nước uống…
Hai người đi ghe củi này – vô phúc cho Lâm Ngọc Đường – lập tức về báo tin. Vậy là họ Lâm cùng chung số phận với hai chi đội trường 21 và 25.
Mục tiêu số hai của Tám Tâm là giáo sư Lê Văn Hanh, một trí thức thường lui tới Bảy Viễn. Chỉ huy phó ban tảo thanh đại đội trường Vũ Văn Hiệp bắt được Hanh nhưng thả khi Hanh trình giấy tờ của Trung tướng Nguyễn Bình. Tám Tâm lật đật cho người chạy theo bắt lại. Xem kỹ giấy giới thiệu, thấy đã quá hạn một năm rồi. Vậy là “quan tha ma bắt”, Lê Văn Hanh nằm lại vĩnh viễn trong Rừng Sác, mang theo cả bí ẩn ý đồ lôi cuốn Bảy Viễn làm trò gì đó. Vở tuồng chưa kéo màn đã sớm vãn hát.


Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 1
Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 2
Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 4
Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 5

Không có nhận xét nào: