Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 2

CHƯƠNG 16

Cuối cùng việc phải đến đã đến.
Đêm 8 rạng ngày 9-3-1945, đồng loạt trên khắp ba nước Việt- Miên- Lào, Nhật đảo chính Pháp. Trừ một số ít, trong đó có tướng A-lét-xăn-đri (Alessandri) chỉ huy một đơn vị nhỏ trốn được sang Trung Quốc, còn lại tất cả quân đội Pháp đều nhục nhã đầu hàng. Tại Sài Gòn có vài nơi nổ súng chống cự lẹt đẹt rồi cũng bó tay chịu trói. Nhục nhã nhất là cò Ba-de. Cách làm nhục quân địch mà bọn Nhật thích áp dụng nhất là bắt quỳ gối, cúi đầu. Một tên lính đưa cao thanh gươm lên toan chặt nhưng một, hai, ba… lưỡi gươm vẫn chưa hạ xuống. Nạn nhân chờ đợi đến đứng tim, nhưng thay vì được giải thoát khỏi kiếp chiến bại, họ lại nghe một chuỗi cười dài. Kẻã chiến thắng đã cười cợt trên nỗi lo sợ của kẻ chiến bại. Cò Ba-de cũng nếm mùi cay đắng ấy. Thay vì chặt đầu, bọn Kem-pê-tai chỉ cạo đầu khô lão thôi. Nhục quá, nhưng tên cáo già tự an ủi là kẻ thù còn cho hắn tạm giữ cái thủ cấp. Hắn cố nuốt hận để chờ ngày ân oán giang hồ. Hắn tin ngày ấy không còn xa.
Bộ máy tuyên truyền đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ chờ đảo chính là bấm nút. Bích chương in nguyên trang giấy báo khổ 65 x 100cm dán khắp đường ca ngợi “khối thịnh vượng chung đại Đông Á”. Hành lang Ê-đen- nơi hẹn hò của tao nhân mặc khách được sung công để biến thành một phòng thông tin. Các tranh ảnh quảng cáo sức mạnh của quân đội Thiên Hoàng được trưng bày ở đây. Ngay cửa ra vào hai bên đường Ca-ti-na và Bô-na có dán tấm pa-nô quảng cáo phim chiến sự “Nos ailes en Birmanie” (không quân Nhật tại Miến Điện) như mời mọc thiên hạ vào rạp xem chiếu công của các đội thần Phong tung hoành trên bầu trời Miến Điện.
Đài phát thanh ra rả suốt ngày những bản nhạc kích động tinh thần bài Âu với những điệp khúc “tàn sát quân trời Âu”. Chưa bao giờ thành phố Sài Gòn có một bản nhạc được phổ biến rộng khắp như bài “Tăng-gô si-noa”, tức bài Hà nhật quân tái tai. Đi đâu cũng nghe con nít nghêu ngao nhại: “Tóc em dài sao em không uốn? Tốn bao nhiêu anh trả tiền cho…”. Một bản khác cũng được mến mộ đó là bài “Mùa thu trên đảo Kinh Châu” mà trẻ con cũng đổi lời “đành lặt lìa cái tay, đành lặt lìa cái chân”, có lẽ để chế nhạo bọn Pháp thất thế mất hết tay chân bộ hạ.
Báo chí thân Nhật dành một góc trang tư đăng bài học chữ Nhật “để bạn đọc có thể cắt và đóng thành tập”.
Tại chợ Bến Thành, dãy dưới đồng hồ, bạn hàng bán giày dép người nào cũng có một quyển sách loại bỏ túi dạy tiếng Nhật. Đầu này một cô học đếm: I chi, ni, xăn, xư… đầu kia một ông học xã giao buôn bán: “Nippon takuxăn yôtô (Nhật Bổn tốt lắm).
Trong khi đó thì tại trại Ông Dèm (11 ème RIC tức Trung đoàn 11 bộ binh thuộc địa), trại lính tập (5 ème RTA tức Trung đoàn 5 pháo thủ Annam) bọn sĩ quan cùng binh sĩ Pháp bị giam như là tù binh.
Nhưng lá bài quan trọng của phát xít Nhật chính là nội các Trần Trọng Kim. Danh sách nội các được báo chí, đài phát thanh công bố và giới thiệu thành phần các bộ trưởng và thứ trưởng. Toàn là trí thức và nhân sĩ tên tuổi trong nước. Đây là một loại Chính phủ quân chủ lập hiến vì trên chóp bu là Bảo Đại. Trong số trí thức và nhân sĩ hợp tác với Nhật có một ít đã được những người làm cách mạng liên lạc trước. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch nắm chức thủ lãnh Thanh niên Tiền phong. Đây là một thắng lợi quan trọng của Xứ ủy Nam kỳ. Nhật muốn có một đoàn thể thanh niên hùng mạnh làm hậu thuẫn, nhưng chúng chưa làm được Sáu Giàu đề nghị bác sĩ Thạch xung phong lãnh trọng trách này. Bác sĩ Thạch có người bạn Nhật là nhân sĩ I-da, I-da mắc chứng nan y là bại liệt quả thận, trị nhiều nơi không hết, bác sĩ Thạch chữa ông ta hết bệnh. Từ chỗ mang ơn, I-da trở thành bạn thân của bác sĩ. Khi nghe bác sĩ ngỏ ý muốn cộng tác với Chính phủ Trần Trọng Kim, I-da vui mừng “nói vô” với thống đốc Mi-nô-đa (thay Hốp-phen đang bị nhốt ở trại Ông Dèm). Sau khi hội kiến với bác sĩ Thạch, Mi-nô-đa bổ nhiệm bác sĩ Thạch làm thủ lãnh Thanh niên Tiền phong. Không bao lâu từ Sài Gòn đến lục tỉnh, từ thành thị đến thôn quê, đâu đâu cũng có các đoàn thanh niên áo sơ-mi trắng, quần “soóc” xanh, đội nón rơm to vành tay xách tầm vông, ngày ngày tập đều bước, tập cứu thương, tập đánh “móc kiểu lính Hải quân”.
Những ngày này, ngoài việc làm phụ tá kiêm liên lạc, Bảy Trân trở lại nhiệm vụ quan trọng đã được giao phó từ đầu: nắm chắc anh em trong giới giang hồ. Cố nhiên ông không buông ông Tám Mạnh nay đã trở thành đồng chí. Theo chỉ thị của ông, ông Tám Mạnh lãnh chức Đoàn trưởng Thanh niên Tiền phong xã Chánh Hưng. Ông Tám đem hết gia tướng của mình nắm từng tiểu đội, trung đội và đại đội để sau này biến thành bộ đội khi có lệnh.
Hai Vĩnh giao xe thổ mộ cho mấy đứa em, sang Chánh Hưng giúp ông nhạc nắm vững đoàn thể Thanh niên Tiền phong. Được giao một đơn vị, Hai Vĩnh rất phấn khởi. Sống với lứa tuổi 20 đầy nhiệt tình trong sáng, Hai Vĩnh cũng thấy mình trẻ lại. Năm ấy anh tròn 30. “Tam thập nhi lập” người xưa nói thế và Hai Vĩnh cũng tin như thế. Anh tin rằng thời cơ đã đến với anh. Giấc mơ làm tướng của anh đã lờ mờ ẩn hiện. Anh đem hết tin thần ra dạy đàn em, cố sao cho đơn vị mình phụ trách trội hơn các đơn vị khác. Anh mong tới ngày “thân sâu hóa bướm”, biến đội Thanh niên Tiền phong thành Thanh niên Cứu quốc như ông Bảy Trân trình bày cho ông Tám và gia tướng trong một cuộc họp mặt. Ngoài những nghi thức như đi đứng, quay trái, quay phải, thắt các loại nút kiểu “bồi xi cút” (boy scout). Hai Vĩnh chú trọng dạy võ cho đội viên; võ tay không, rồi đến võ tầm vông, cách đánh dao găm… Theo ý Bảy Trân, Hai Vĩnh biến đội Thanh niên Tiền phong thành lực lượng bán quân sự để chờ ngày N.
Ngày N, mà Hai Vĩnh cùng gia tướng ông Tám Mạnh chờ đợi mỗi ngày càng tiến lại gần. Tin chiến sự ngày càng phấn khởi.
Trước nhất là tên Hít-le tự sát ngày 30-4-1945. Tin ghê gớm này làm nội các Trần Trọng Kim rung rinh, nhiều người lo sợ mình ngồi trên ghế ba chân. Hai ngày sau, Hồng quân Liên Xô tiến chiếm thủ đô Béc-lin. Những trận đánh ác liệt trên đường phố diễn ra đến ngày 5-5. Béc-lin treo cờ hàng. Ngày 8-5 Đức quốc xã ký hàng ước. Thế là sau 12 năm, nạn phát xít đã bị đập tan. Dẹp được kẻ thù phía Tây, Đồng minh tập trung lực lượng đánh Nhật. Ngày 8-8, Nga tuyên chiến với Nhật, tiến chiếm Mãn Châu. Ngày 12-8, Nhật đầu hàng và một tuần sau, Nhật hoàng ra lệnh cho các lực lượng chiếm đóng ở Đông Nam Á hạ súng.
Thời cơ ngàn năm một thuở đã đến. Xứ ủy ra lệnh cho các nơi nổi lên cướp chính quyền. Ngày 25-8, đồng bào hưởng ứng lời kêu gọi của Xứ ủy, từ các vùng ngoại thành kéo về Sài Gòn biểu tình đông nghẹt đường phố. Đủ cả các nơi: Bình Chánh, Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức, Nhà Bè, Cần Giuộc, Cần Đước, tất cả đều có mặt trong ngày biểu dương lực lượng. Khẩu hiệu vẽ đầy đường, treo khắp phố, cờ xí rợp trời. Khẩu hiệu đập mạnh vào mắt mọi người là “Độc lập hay là chết” đủ ba thứ tiếng Việt, Pháp, Anh. Đây là một ngày hừng hực khí thế chưa từng có suốt 80 năm nô lệ.
I-da chứng kiến cuộc xuống đường biểu dương lực luợng này ước lượng khoảng 1 triệu rưỡi người tham dự. Ông ta khen ngợi thành công lớn của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch trong việc chuyển hóa lực lượng Thanh niên Tiền phong thành lực lượng Việt minh. Ngay chiều hôm ấy, có thư mời bác sĩ tới Bộ Chỉ huy quân đội Nhật đóng tại nhà chú Hỏa, đầu đường Acmăng Rútxô (Armand Rousseau nay là Hùng Vương) đối diện với trường trung học Pê-truýt Ký. Bác sĩ Thạch mang thư đến hỏi ý Xứ ủy. Ông Giàu khuyên bác sĩ nên đi, nếu tối không thấy về thì Xứ ủy sẽ tổ chức biểu tình buộc Nhật phải thả bác sĩ về. Thượng tướng Têrausi (Tera- Usi) tư lệnh quân đội Nhật ở Thái Bình Dương, sau vài thủ đoạn hù dọa không thành công đành thú thật với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch: “Quân Đồng minh sắp vào Đông Dương, họ sẽ trả thù người Nhật chúng tôi không chút chùn tay… Các ông có cách nào giúp chúng tôi?
Bác sĩ Thạch mừng rỡ. Từ kẻ mạnh, Tê-ra U-si đã xuống nước.
- Chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ những người thất thế. Chúng tôi có thể giúp các ông trốn vào vùng rừng núi hiểm trở và bảo đảm tiếp tế đầy đủ…
Tê-ra U-si như chết chìm vớ được phao:
- Thật chớ? Các ông có đưa ra điều kiện gì không?
Bác sĩ Thạch ra sức thuyết phục:
- Chúng tôi chỉ yêu cầu người Nhật các ông hai điều thôi: Một là không được can thiệp vào công cuộc giành độc lập của chúng tôi. Hai là các ông giao vũ khí cho chúng tôi thay vì để quân đội Anh- Ấn giải giới.
Tê-ra U-si suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Điều một thì dễ thôi. Nhật không can thiệp vào cuộc giành độc lập của các ông. Còn điều hai thì khó… chúng tôi không thể công khai cho súng, nhưng nếu ta tổ chức những vụ tấn công giật súng thì hợp lý hợp tình hơn.
Bác sĩ Thạch vui mừng siết tay Tê-ra U-si.
- Như thế là đôi bên cùng có lợi. Tôi sẽ báo cáo mọi việc với cấp lãnh đạo, chắc chắn mọi việc sẽ tốt đẹp. Các ông hãy tin tưởng nơi chúng tôi.
Tê-ra U-si cởi thanh kiếm lệnh mạ vàng trao bác sĩ:
- Xin tặng bác sĩ thanh kiếm này làm kỷ niệm. Đây là truyền thống võ sĩ đạo của tổ phụ tôi để lại.
Bác sĩ Thạch đưa hai tay đón lấy.
- Xin cảm ơn thượng tướng.
Tê-ra U-si lại rút khẩu súng lục bá cẩm thạch:
- Bác sĩ cầm nốt khẩu súng thân yêu này nữa. Tôi không muốn nó lọt vào tay những kẻ thù của tôi.
Trời tối đã lâu mà không thấy bác sĩ về, ai nấy đều lo lắng. Sinh viên Huỳnh Văn Tiểng, một cán bộ lãnh đạo thanh niên và sinh viên, nguyên Phó trưởng trại suối Lồ Ồ, ngồi đứng không yên. Bỗng anh nghe tiếng cười nói vang rền từ ngoài đường. Bác sĩ Thạch đã về bình yên vô sự. Ông đưa cao thanh gươm lệnh mạ vàng của tư lệnh Nhật ở Thái Bình Dương nói to lên cho mọi người nghe:
- Thắng lợi lớn rồi anh em ơi! Ta đã trung lập hóa quân đội Nhật!
Ngày 2-9, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, thì Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam bộ (gọi tắt là Lâm ủy Hành chính) cũng tổ chức biểu tình mừng độc lập. Thành phố Sài Gòn một lần nữa rực rỡ cờ bay và tràn ngập dưới những dòng thác người háo hức đón mừng bình minh của dân tộc.
CHƯƠNG 17
Cách mạng Tháng 8 mở toang cánh cửa Khám Lớn, trả tự do cho tất cả thường phạm lẫn chính trị phạm. Cùng với các bạn tù thoát cũi xổ lồng, Bảy Rô bước hư bay ra khỏi vòng thành tòa nhà gớm ghiếc mang số 69, La-răn-đie. Ánh nắng chói chang cùng gió heo may khiến anh có cảm tưởng như ngây ngất. Dù vậy, anh vẫn nhớ nắm tay Năm Tửu, Bà Quẹo:
- Mày hứa cho tao cây xít-trăng-xanh (6,35).
- Thì đi với tao về nhà cho biết luôn thể! Tao có tới hai cây, chia cho mày một cây làm kỷ niệm thời gian cùng nằm học tại “đại học Khám Lớn”…
Bảy Rô được khẩu “xít-trăng-xanh” lấy làm thích chí, bươn bả về Tân Quy. Vừa bước lên bến đò Long Kiểng đã có người quen tay bắt mặt mừng:
- Bảy Rô! Về hồi nào?- Một người tướng tá giống người Mười Nhỏ bước xấn tới bắt tay Bảy Rô. Đây là Chín Mập, cũng từng “đi hát” và “ăn hàng”.
- Chín Mập! Tao mới ra khỏi “xoa xăng-nớp La-răn-đie” (1) mày không thấy tao còn bận bộ đồ xanh này sao?
Chín Mập nhìn Bảy Rô, bỗng đổi sắc buồn:
- Mày hay tin Mười Nhỏ chết chưa?
Bảy Rô gật:
- Có nghe. Hình như khoảng 1943 thì phải?
- Phải, năm 1943. Thằng cò Ba-tit-ta ở cầu Chữ Y quyết tìm bắt cho được Mười Nhỏ. Nó bắt vuột một lần, sau đó cứ cho lính kín bám sát cho tới kỳ đó nó biết Mười Nhỏ ở trên một ghe đi trên con kinh Tẻ. Nó bố trí chặn bắt… Mười Nhỏ nổ súng mở đường máu. Nhưng trong cuộc đọ súng, nó bị bắn thủng ruột. Một tay xách súng, một tay nhét ruột, Mười Nhỏ nhảy lên bờ lủi vô xóm. Nhưng trốn không thoát, bị bắt đưa về nhà thương Chợ Quán là nơi tội phạm được chở tới điều trị. Mười Nhỏ tháo băng, bứt ruột tự sát, thà chết hơn để bọn chó săn tra tấn lập hồ sơ.
Bảy Rô buồn mấy phút. Anh đã từng chia bớt cay đắng ngọt bùi với Mười Nhỏ. Đoạn đời ngắn ngủi của Mười Nhỏ như khúc phim phóng qua trước mắt anh. Mười Nhỏ vốn nóng tánh nhưng chưa đến mức giết người. Nhưng hoàn cảnh đưa con người vào bước đường cùng. Trong đám giỗ tại nhà, Mười Nhỏ gây lộn với chú ruột về một chuyện không đâu. Hai người ngồi ở hai sòng bài, một dưới đất, một trên ván. Mười Nhỏ nổi nóng cầm dao hăm he, người chú cũng đổ quạu nhảy xuống. Không ngờ nhảy ngay mũi dao, trúng ngay chỗ nhược, chết không kịp trối. Vậy là Mười Nhỏ can tội ngộ sát. Ngộ sát hay là cố sát gì cũng là giết người. Mà mạng người thời bình rất quý, giết người dễ nổi danh. Ai cũng sợ kẻ sát nhân. Mười Nhỏ đâm liều làm tới. Hắn xưng là “cố Mười”, coi thiên hạ như cỏ rác. Tới xã Tân Thuận, thấy con gái ông cả Mười xinh đẹp, hắn đòi ông cả phải gả cho hắn. Nhưng ai có con lại gả cho ăn cướp? Mười Nhỏ chém chết cả Mười, cưỡng hiếp con gái nạn nhân tại trận. Thế là thêm một án mạng thứ hai. Từ đó thì giết người trở nên một việc hết sức bình thường đối với Mười Nhỏ. Sau khi nghe Bảy Trân nói chuyện tại nhà anh rể là ông Tám Mạnh, Mười Nhỏ nhắm vào đám hương chức hội tề nhiều hơn. Nếu không có Bảy Rô thì Hương quản Núi cũng đã chết vì mũi súng hai nòng của Mười Nhỏ. Hương quản Núi là tay hống hách trong vùng Long Kiểng- Tân Quy. Hắn hút xì gà, coi dân chẳng ra gì. Giới đánh xe ngựa không ưa hắn. Nhưng khi gặp Mười Nhỏ, hắn run rẩy quỳ mọp xin tha chết. Không hiểu sao Bảy Rô lại nổi máu quân tử Tàu, khuyên Mười Nhỏ tha cho hắn. Mười Nhỏ nể Bảy Rô là bạn của Chín Mập, nên chỉ bạt tay đá đít Hương quản Núi mấy cái rồi cho hắn chạy thoát.
Tiếng Chín Mập kéo Bảy Rô trở về hiện tại:
- Lúc này Tân Quy mình ngon lành lắm. Anh Ba Dương lập ra Thanh niên Cảm Tử Đoàn, toàn là dân anh chị không hà. Mày về thật là đúng lúc. Trụ sở đặt tại chợ Tân Quy… Nhưng bây giờ mày phải theo tao.
- Đi đâu? Tao chưa gặp vợ con với bà già…
Chín Mập phẩy tay:
- Thì sau sẽ gặp! Bây giờ mình phải làm ngay kẻo tụi nó phỏng tay trên.
- Mà làm cái gì chớ? Tụi nó là ai mà sợ phỏng tay trên?
- Có mấy chiếc sà-lan xăng của Nhật đậu kia kìa, mình kéo về tổng hành dinh ở cầu Rạch Đìa làm vốn. Tao sợ chậm tay, tụi khác chớp thì bơ mỏ. Bây giờ thì hỗn quân hỗn quan, mạnh ai nấy quơ. Thằng Ba Bay cũng đã cướp một chiếc sà-lan Nhật, kéo cờ Bình Xuyên chạy lên chạy xuống từ bến đò này vô cầu Hiệp Ân, vui thật là vui!
- Bình Xuyên cũng có cờ nữa à? Cờ ra làm sao?
- Tao cũng không nhớ rõ. Chắc là màu đỏ, với hàng chữ gì đó chẳng hạn như là Thanh niên Cảm Tử Đoàn, hoặc là Hải quân Bình Xuyên.
Hai bên còn “dangca”, Năm Chảng xăm xăm đi tới:
- Đi cướp sà-lan xăng của Nhật chớ tụi bây? Xăng là máu đó nghen. Một giọt xăng là một giọt máu.
Thế là cả ba hùng hổ tiến tới mấy chiếc sà-lan đậu gần đó. Bọn Nhật và đám “Heiho” (Hải Hồ) cự nự không chịu giao sà lan. Bảy Rô có dịp khoe cây “xít-trăng xanh”, quà của Năm Tửu Bà Quẹo. Trước họng súng ngắn, bọn Nhật và “Heiho” chịu lép. Năm Chảng kiếm một tàu kéo, đưa sà-lan xăng về cầu Rạch Đìa, vừa chạy sát bờ vừa bắn mấy phát báo tin chiến thắng.
Chín Mập mê cây súng của Bảy Rô:
- Ê Bảy Rô, tối nay mình “đi hát” nghe. Làm vài vụ kiếm tiền làm vốn…
Bảy Rô trợn mắt:
- Bây giờ mà mày còn tính chuyện “đi hát” nữa sao?
Cách mạng rồi mà…
Chín Mập:
- Cách mạng thì cách mạng chớ! Làm cách mạng cũng cần tiền mua súng đạn, nuôi quân lính. Không tiền thì cách mạng gì!
Bảy Rô nhấn mạnh:
- Vậy là mày chưa biết gì hết. Hồi trước, mình dân nô lệ, không phục Tây tà, làng lính mình mới đi làm ăn cướp. Còn bây giờ, nước nhà đã tuyên bố độc lập, mình phải là người công dân lương thiện như mọi người…
Chín Mập “quê” nạt ngang:
- Thôi thôi! Không đi thì thôi, đừng có “làm tàng” dạy đời! Mày cho tao mượn cây “xít-trăng-xanh”, chút về tao chia cho mà xài. Mày mới ở tù về, nghèo rớt mồng tơi…
Bảy Rô cười nhạt:
- Đâu có chuyện đó mậy! Khẩu súng này, Năm Tửu Bà Quẹo cho tao, dặn kỹ: “Súng này là để trừ gian diệt bạo”. Nếu mày “đi hát” thì nó sẽ “khử” mày trước.
Chín Mập lắc đầu:
- Bảy Rô bây giờ khác Bảy Rô trước quá!
Bảy Rô cười lớn:
- Phải khác chớ mậy! Bốn năm ở đại học Khám Lớn, ngày đêm kề cận các tay làm quốc sự, cũng “bỏ bụng” được chút đỉnh chớ bộ!
Nhóm Ba Dương bỏ hãng đóng tàu Ni-chi-năn để về Tân Quy lo “chiêu mộ binh mã”. Chủ hãng Nhật đã bỏ đi mất khi hay tin Nhật hoàng đầu hàng. Cũng “ngộ” là lúc ấy, không ai nghĩ tới chuyện ăn cắp gỗ súc như trước. Mối bận tâm duy nhất của các nhóm giang hồ là cướp súng Nhật để phô trương lực lượng. Chín Mập lẻn vô hãng dệt bên kia bến đò ăn cắp ba mươi súng Mút chở đầy tam bản về cầu Rạch Đỉa. Nhà Ba Dương lúc đó biến thành tổng hành dinh bộ đội Ba Dương.
Nhóm Tám Mạnh chiếm hãng A-ta-ka của Nhật cướp súng. Hãng này ở kế Sở Thùng, dựa bờ Rạch Ong chứa súng đạn cho hải quân. Một đêm đi chơi về khuya. Chín Phải trông thấy một xe nhà binh Nhật tuôn hàng xuống sông, dưới dạ cầu Rạch Ong, gần cổng hãng Ni-chi-năn. Anh nghi Nhật lén giấu võ khí thay vì nạp cho Đồng minh. Theo lời kể lại của anh, ông Tám cho thợ lặn tới mò. Thợ lặn Năm Cần Thơ trổ tài trong hai tiếng đồng hồ, từ ba giờ khuya tới năm giờ sáng, đem về cho bộ đội Tám Mạnh 11 súng Mút, một Mi, một FM và một súng lục.
Nhóm Mười Lực, Bảy Môn ở Thủ Thiêm cũng mướn thợ lặn mò súng. Soái hạm La-mốt Pic-kê (Lamotte-Picquet) bị máy bay Đồng minh đánh chìm trên sông Cát Lái là một kho súng không thể bỏ qua được. Rồi chiếc máy bay hai lườn B.28 “Libêrato” của Anh bị phòng không Nhật hạ tại cống Thủ Thiêm đêm 5-5-1944 cũng rất hấp dẫn với bốn khẩu đại liên “Trây-dơ” (13 ly 2).
Nhờ thợ lặn kiêm luôn thợ đúc tài giỏi, nhóm Mười Lực, Bảy Môn làm chuyện hi hữu là tự võä trang hai đại liên 13 ly 2 và hai anh được mỗi người một cây Côn Đui (Colt 12 ly). Đó là chiến lợi phẩm thu “nguội” trên xác chiếc Libêrato. Còn soái hạm của Pháp thì “dâng” cho bộ đội Thủ Thiêm 40 súng Mút.
Bảy Môn còn dùng kế mỹ nhân mua rượu thịt nhờ chị em trong xóm mang tới nơi đóng quân của Nhật, dụ chúng giao súng cho bộ đội Thủ Thiêm đóng ngoài đình. Nhờ vậy mà kiếm thiêm được một cây “luộc” (lourde), loại đại liên bắn đạn nồi (7 ly 7).
Với tư cách đàn anh trong vùng, Ba Dương tiếp xúc với các đơn vị bộ đội lận cận và nhanh chóng thống nhất lực lượng lại thành một khối. Vấn đề đặt tên cho lực lượng này thật là gay go. Trước kia, người lập bộ đội thường lấy tên của mình đặt cho lực lượng trong vùng, như bộ đội Tân Quy cũng được gọi là bộ đội Dương Văn Dương, hay gọn hơn là bộ đội Ba Dương. Bộ đội Nhà Bè mang tên bộ đội Hai nhị, Hai Soái… Ba Dương không muốn lấy tên mình đặt cho bốn đơn vị Tân Quy, Tân Thuận, Nhà Bè, Thủ Thiêm nhập lại. Anh tìm một cái tên tiêu biểu và không đụng tới đầu óc địa phương. Trong vùng ven đô này có rất nhiều địa danh khét tiếng chống Pháp. Xã Tân Thuận có vùng Dừa Sụp là nơi quy tụ các tay “chọc trời khuấy nước”, dân vô gia cư, vô nghề nghiệp, dân trộm cướp, tù vượt ngục, có cả các nhà làm quốc sự đang bị truy tầm. Không xa Dừa Sụp có hàng Mù U, thuộc xã Phú Mỹ, cũng được xem là một giang sơn riêng biệt của các tay giang hồ tứ chiếng. Nhưng nổi bật nhất là Xóm Cỏ, cũng gọi là Hố Bần. Từ ngày nhóm Tư Phương, Mười Nhỏ chọn nơi đây làm sào huyệt thì làng lính không đời nào dám léo hánh tới. Sau khi bàn bạc, tất cả đều nhất trí lấy Xóm Cỏ, Hố Bần đặt tên cho bộ đội mới thống nhất dưới quyền chỉ huy của Ba Dương. Nhưng hai tiếng Xóm Cỏ, Hố Bần nghe không hay, Ba Dương tìm thấy tên vùng này trên bản đồ thành phố Sài Gòn- chợ Lớn là ấp Bình Xuyên thuộc làng Chánh Hưng.
Cái tên Bình Xuyên nghe hay hay. Vùng chi chít sông rạch, chữ Xuyên rất thích hợp. Còn chữ Bình gợi chiến công đánh chiếm và bình định. Thế là bộ đội Ba Dương lấy tên bộ đội Bình Xuyên từ ngày ấy.


***


Bảy Viễn và Mười Trí về Sài Gòn đúng vào những ngày sôi nổi ấy.
Lập tức cả hai trở về “giang sơn” của mình gây lại lực lượng. Bảy Viễn đóng đô ở trường đua Phú Thọ, Mười Trí xưng hùng tại Bà Quẹo. Vốn là tay anh chị khét tiếng, mỗi lần vượt ngục từ Côn Đảo về là thêm một chiến công hiển hách, cho nên “nhất hô bá ứng”, đám du đãng từ lâu như rắn mất đầu, nay trở về tụ tập dưới “trướng” hai tay giang hồ vừa vượt trùng dương về đất liền. Bảy Viễn đánh các bót lân cận cướp súng. Y lấy xâu các sòng bạc tạo quỹ nuôi quân.
Mười Trí cũng làm “kinh tế mạo hiểm” để mua súng và mộ lính. Ngoài ra, ông còn được một số chủ ngựa đua lạc quyên đóng góp để được tiếng Mạnh Thường Quân trong vùng Hóc Môn- Bà Điểm.
Tất cả các nhóm giang hồ đều thi nhau xây dựng bộ đội trong những ngày lịch sử này.

Chú thích:
(1) 69 Lagrandière = Khám Lớn Sài Gòn
CHƯƠNG 18
Thực dân Pháp không ngồi yên trước phong trào giành độc lập của nhân dân Việt Nam. Sau bốn năm mất nước về tay Đức quốc xã, chúng dựa thế Đồng minh trở lại chiếm thuộc địa Đông Dương đã lọt về tay phát xít Nhật. Liền sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng, Pháp đã phái hai sĩ quan cấp tá bí mật tới Việt Nam chuẩn bị tái lập ách thống trị lần nữa.
Trong một đêm tối trời cuối tháng tám, dân chúng vùng Tây Ninh nghe tiếng máy bay lướt nhẹ trên bầu trời. Đó là một chiếc phi cơ vận tải C-47, cũng được gọi là Đacôta. Trên phi cơ có đại tá Xê-đi (Cédille) và hai sĩ quan cấp úy. Cả ba người đều nai nịt như ra trận, trên lưng mang dù cẩn thận. Phi cơ đảo một vòng, đèn trong ca-bin bật sáng. Một sĩ quan Anh từ buồng lái bước ra bắt tay đại tá Xê-đi, chúc may mắn. Cánh cửa hông mở ra, Xê-đi làm dấu thánh giá rồi bước ra cửa, cắm đầu nhảy xuống. Dù bọc gió mở tròn như một tai nấm khổng lồ, hãm đà rơi lại. Hai sĩ quan cũng rời phi cơ với động tác thuần thục.
Khi bộ ba cuốn dù lại thì chiếc phi cơ đã biến mất. Xê-đi bảo hai tùy viên:
- Giờ này ở miền Bắc Việt Nam cũng có một Đacôta thả dù ba sứ giả như chúng ta. Đó là ông Pierre Messmer và hai sĩ quan cấp úy như hai ông. Không biết họ có được may mắn như chúng ta không?
Xê-đi chưa dứt lời thì một toán dân quân vũ trang tầm vông giáo mác xông tới bao vây. Xê-đi hất hàm làm hiệu cho một sĩ quan người Việt lên tiếng. Sĩ quan này là trung úy René- Lê Văn Đức, con của Jacques- Lê Văn Đức, điền chủ dân Tây tại Mỹ Tho. Rờ-nê học ở Pháp, nhập ngũ theo lực lượng lưu vong của tướng Đờ-gôn, nay lãnh sứ mạng cùng về Nam kỳ với đại tá Xê-đi.
- Chúng tôi là phái bộ Đồng minh tới đây giải giới Nhật.
Một người đứng tuổi trong đám dân quân nói:
Phái bộ Đồng minh gì mà tới vào nửa đêm nửa hôm như đi ăn trộm vậy? Y ra lệnh- Trói ba kẻ gian lại!
Rờ-nê kêu lên:
- Không phải là kẻ gian đâu! Đây là đại tá Xê-đi, Ủy viên Cộng hòa Pháp! Đại tá sẽ là người cầm quyền cao nhất ở Nam kỳ…
Người chỉ huy dân quân cười lạt:
- Nghe giọng nói đã biết mày là Việt gian làm tay sai cho Tây! Bây giờ không ai gọi Nam kỳ mà là Nam bộ. Nước nhà đã độc lập rồi, Ủy viên Cộng hòa Pháp tới đây để làm gì?
Rờ-nê còn lải nhải gì nữa đó, nhưng chỉ huy dân quân nói:
- Chúng tôi giao mấy người cho quân đội Nhật. Muốn gì thì nói với họ.
Đây là điều ba sĩ quan Pháp lo sợ nhất. Rờ-nê ra sức năn nỉ nhưng vẫn bị giải tới toán lính Nhật ở gần nhất. Bọn Nhật đang buồn, không có gì giải trí, vớ được ba tên Pháp, hăm hở bày trò chơi ưa thích. Chúng bắt ba tên Pháp quỳ gối cúi đầu xuống. Một tên tuốt gươm trần đưa lên. Thằng chỉ huy đếm chậm rãi: Ichi…ni…xăn… Rồi chúng cười rộ lên. Tên đao phủ lấy mũi gươm nâng mặt ba tên Pháp lên. Cả ba đều tái xanh, không còn giọt máu. Họ không ngờ đây chỉ là trò chơi thôi.
Bọn Nhật đưa cả ba lên xe, giải về thượng cấp ở Sài Gòn. Xê-đi thoát một cái chết rùng rợn, nhưng vẫn chưa hết lo sợ “Bọn Nhật còn giở trò gì nữa đây?”.
Rờ-nê cũng chết điếng. Hắn không ngờ được đón tiếp ghê gớm như vậy khi trở về quê hương trong bộ quân phục chiến thắng của Đồng minh.
Thì ra, vì không nắm được tình hình ở miền Nam nên chúng nhảy dù quá sớm mà cũng là quá trễ. Quá sớm vì quân Anh- Ấn chưa tới Sài Gòn để giải giới quân Nhật như Đồng minh đã quy định. Và quá trễ vì Việt minh đã cướp chính quyền ngay khi Nhật đầu hàng.
CHƯƠNG 19
Có niềm vui nào hơn được sống trong những tháng ngày đất nước vùng lên giành độc lập sau cả trăm năm nô lệ? Có hạnh phúc nào hơn được thấy tuổi xuân của mình hòa nhịp với trái tim của cả nước, ngất ngây trước những trang sử vẻ vang mà chính mình đang góp sức tô điểm?
Hai Vĩnh cảm thấy được điều đó và lao vào cuộc sống hào hùng mỗi ngày càng sôi nổi, càng hấp dẫn. Anh đem hết tâm hồn dìu dắt đội Thanh niên Tiền phong mà ông Tám Mạnh giao cho.
Từ trung tuần tháng tám đến đầu tháng chín, chỉ trong vòng 10 ngày mà có đến ba cuộc xuống đường biểu dương lực lượng. Đầu tiên là cuộc biểu tình ngày 21-8 của nhóm Cao Đài, Hòa Hảo và các tổ chức thân Nhật làm lễ ra mắt Mặt trận Quốc gia Thống nhất. Có khoảng vài trăm ngàn người kéo tới đại lộ No-ro-đom (nay là đại lộ Lê Duẩn). Chưa rành không khí chính trị, Hai Vĩnh náo nức muốn tham gia mọi cuộc xuống đường để giới thiệu với mọi người đội ngũ Thanh niên Tiền phong của anh. Nhưng ông Bảy Trân kịp thời giải thích cho anh em trong nhóm ông Tám Mạnh biết “Mặt trận Quốc gia Thống nhất” là tổ chức thân Nhật mà Nhật đã là kẻ chiến bại sắp bị đưa ra tòa án quốc tế xét xử, các tổ chức Cao Đài, Hòa Hảo chỉ là những cây tầm gởi không còn sống khi cây cổ thụ phát xít Nhật đã trốc gốc…
Bốn ngày sau, ngày 25-8, Xứ ủy tổ chức cuộc biểu dương lực lượng tại vườn Bồ-rô (2). Thanh niên Tiền phong của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là một lực lượng đáng kể bên cạnh đội ngũ công nhân, lao động và nông dân ngoại thành. Trong cuộc biểu tình, Lâm ủy Hành chính Nam bộ ra mắt đồng bào. Trong Lâm ủy có các ông Trần Văn Giàu, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Phi Hoanh, Huỳnh Văn Tiểng…
Nhưng không ai quên được cuộc biểu tình ngày 2-9, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình giữa thủ đô Hà Nội. Tại Sài Gòn, có khoảng hai triệu người xuống đường chào mừng độc lập, tự do mà biết bao thế hệ cha ông đã hy sinh xương trắng máu đào để dân tộc có được ngày chiến thắng huy hoàng rực rỡ hôm nay. Ngoài các lực lượng công nhân, nông dân, lao động, có một đội ngũ được đặc biệt chú ý đến bên cạnh Thanh niên Tiền phong. Đó là anh em giang hồ tứ chiếng mà thiên hạ gọi là “Bình Xuyên”.
Dân anh chị đi biểu tình cố nhiên là phải khác thiên hạ! Ba Nhỏ là dân Thị Nghè cưỡi ngựa mang gươm, đầu bịt khăn rằn, theo sau “có một vài thằng con con”. Sáu Đối, dân Tân Thuận, đầu quân trong nhóm Ba Dương- Năm Hà, cầm cờ vàng sao đỏ có đuôi như sao chổi và hàng chữ “Tẩy uế quan trường” chẳng hiểu rút từ sách vở nào. Lâm Ngọc Đường cũng cưỡi ngựa, ăn mặc bảnh bao, như một chủ nông trại ở… Pháp. Nhóm ông Tám Mạnh, ngoài các đội Thanh niên Tiền phong của Hai Vĩnh, còn có đội lân của Năm Hồi- với dư âm trận lân râu bạc ở Cầu Dừa năm xưa. Nhóm Bảy Viễn, Mười Trí cũng có mặt, mỗi người một vẻ, nhưng cùng chung một niềm hân hoan: đất nước đã độc lập.
Dân Sài Gòn đổ xô xuống đường, không ai nằm nhà mà chịu nổi trước sức hút của phố phường rực rỡ cờ bay và tiếng chiêng tiếng trống. Dân ngoại thành tràn về như thác. Cờ, băng-rôn, khẩu hiệu, hành khúc. Đằng này hát “Nào anh em ta”, đằng kia ca “Việt Nam mến yêu!”, “Lên đàng” chen vai với “Khúc khải hoàn”. Bỗng mọi người lắng tai nghe một khúc ca đặc biệt làm rung động tâm hồn “Một ra đi là không trở về”.
Khí thế cao ngất trời, dù những người biểu tình chỉ mang vũ khí thô sơ, phần lớn là tầm vông vạt nhọn.
Để tránh khiêu khích, Ban tổ chức kêu gọi các đoàn thể siết chặt hàng ngũ, không để kẻ lạ chen vào. Nắng đã lên, cuộc diễu hành bắt đầu. Xuất phát từ đại lộ Norodom (1), đoàn người tiến về nhà thờ Đức Bà để quẹo xuống đường Catinat2 vừa đổi là Ba-lê công xã. Các đồng chí trong Lâm ủy Hành chính Nam bộ đi đầu. Đến Hãng Giăng Công (Jeen Comte), bỗng từ trên lầu có tiếng súng bắn xuống. Tức thì đoàn biểu tình dừng lại. Bọn Pháp ở đây đã đưa mấy con đầm trẻ đẹp dụ dỗ đám lính Anh, xúi giục chúng khiêu khích, phá rối cuộc biểu tình. Lập tức các đội cảm tử nhào lên truy tìm kẻ bắn lén. Trên gác chuông nhà thờ cũng có tiếng súng nổ. Cảm tử ta xông lên. Thầy dòng Tri-coa (Tricoire) trúng đạn gục bên khung cửa sổ.
Ban tổ chức lập tức ra lệnh: 1. Không được đổ máu. Phải bắt sống. 2. Phải bảo vệ đàn bà, trẻ con.
Bạn khiêu khích đã đánh gãy răng hai phụ nữ Pháp đi trong hàng ngũ những người biểu tình. Đó là bà Phạm Ngọc Thạch và bà Vũ Văn Huyền. Trong cuộc xô xát có bốn người Pháp chết và một số bị thương. Hai Vĩnh có dịp sử dụng nghề võ của mình. Anh đá bay một thằng Pháp to gấp đôi anh. Tất cả những tên Pháp gây rối đều được bắt giải về Khám Lớn. Hai anh Dương Bạch Mai và Huỳnh Văn Tiểng được giao nhiệm vụ theo sát những người Pháp bị ta giam giữ. Đến chiều, một bức điện từ Hà Nội đánh vào ra lệnh thả bọn Pháp để tránh rắc rối: quân Anh có thể mượn cớ này để can thiệp vào nội bộ của ta. Khi Dương Bạch Mai và Huỳnh Văn Tiểng tới các trạm gác thì bọn đầm quỳ lạy khóc lóc như mưa. Hai anh giải thích cho chúng biết những người cách mạng Việt Nam chỉ chống thực dân Pháp chớ không hề bài Pháp. Hai anh nhắc cuộc cách mạng tư sản dân quyền của Pháp năm 1789 đã mở đường tranh đấu cho tự do, bình đẳng, bác ái… và khuyên họ bình tĩnh, tin tưởng nơi những người cách mạng Việt Nam.
Đêm ấy, kiểm điểm cuộc biểu tình, Ban tổ chức rất phấn khởi mà cũng rất lo âu. Phấn khởi vì mặc dù bọn Pháp cố tình khiêu khích đồng bào vẫn giữ được bình tĩnh, nghe lời kêu gọi của Lâm ủy Hành chánh. Lo âu vì nhận định thực dân Pháp sẽ còn giở nhiều trò lôi kéo quân Anh đứng về phía chúng phá rối cách mạng. Nhưng thắng lợi to lớn của cuộc biểu tình làm mọi giới lên tinh thần. Không có giờ phút nào trang nghiêm cho bằng lúc hai triệu người đứng im chờ Hồ Chủ tịch đọc Tuyên ngôn Độc lập qua làn sóng điện phát từ Hà Nội. Rất tiếc Ban tổ chức bắt không được vì trục trặc kỹ thuật. Lời tuyên bố lịch sử này bay ra năm châu bốn biển. Phái bộ Pháp tại Can-cut-ta (Caleutta) bàng hoàng khi nghe Sài Gòn biểu tình mừng độc lập có đến hai triệu người tham dự. Bọn chúng muốn bay sang ngay nhưng không có phi cơ, phải bóp bụng chờ tháp tùng chuyến bay của phái đoàn Bộ chỉ huy quân Gur-kha (cũng gọi là quân Chà chóp hay quân Anh- Ấn) từ thủ đô Răn-gun (Rangoon) của Miến Điện sang Sài Gòn ngày 12-9. Ngay ngày hôm sau, tướng Gra-xi (Gracey) Tư lệnh quân Anh- Ấn, đáp phi cơ riêng tới Sài Gòn chánh thức thi hành nhiệm vụ giải giới quân Nhật. Lâm ủy Hành chánh tổ chức đón tiếp tướng Gra-xi thật long trọng. Cờ xí, băng-rôn, bích chương. Ngoài ra còn có nhiều đoàn nữ sinh chọn trong giới sinh viên biết tiếng Anh để tặng hoa tại sân bay Tân Sơn Nhất. Khẩu hiệu viết bằng ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp hoan nghênh phái đoàn Đồng minh đồng thời nhấn mạnh “Việt Nam của người Việt Nam”, “Độc lập hay là chết”. Ta treo cờ các nước trong khối Đồng minh: Mỹ, Anh, Nga, Tàu và Việt minh (kể từ ngày 2-9 đã trở thành Quốc kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Tuyệt đối không có một lá cờ ba sắc. Thái độ đầu tiên của tướng Gra-xi làm ta thất vọng. Hắn đã đi quá nhiệm vụ và quyền hạn của hắn. Đồng minh đã nói rõ trong một câu ngắn gọn khi giao nhiệm vụ cho Gra-xi, nguyên văn tiếng Anh như sau: “sole mission: disarm the Japanese; do not get involved in keeping order” (nhiệm vụ duy nhất: giải giới quân Nhật, đừng dính líu trong việc giữ gìn trật tự). Nhưng Gra-xi đã không bắt tay ngay vào việc giải giới quân Nhật mà tuyên bố quân Anh- Ấn không đủ sức giữ trật tự, cần có sự tiếp tay của quân Nhật. Thâm tâm của hắn là kéo dài thời gian để trong vòng 10 ngày nữa quân đội anh và Pháp tới Sài Gòn. Trong khi chờ đợi, hắn tự quyền phóng thích tù binh Đồng minh từ vĩ tuyến 16 đổ xuống, hầu hết là người Pháp. Trong 10 ngày, từ ngày 13 đến 23-9, tình hình biến chuyển cực kỳ nghiêm trọng. Luật sư Phạm Văn Bạch vừa lãnh chức Chủ tịch UBND Nam bộ đã lên tiếng kêu gọi các nhân sĩ tiến bộ Pháp như nhà văn Man-rô (Andrée Malraux), nữ sĩ Vi-ô-lít (Andrée Viollis) và các trí thức cánh tả Pháp ủng hộ cuộc chiến đấu giành độc lập của Việt Nam.
Nhưng tướng Gra-xi theo đúng âm mưu của Pháp vẫn ngoan cố đi sâu can thiệp vào nội tình Việt Nam. Hắn tuyến bố thiết quân luật, giới nghiêm, cấm báo chí (hầu hết đều tranh đấu cho độc lập, tự do), cấm biểu tình, cấm mang vũ khí. Ngày 22, vào sáng sớm, quân Anh chiếm Khám Lớn Sài Gòn, trại Ông-dèm, chọn 1.000 lính Pháp khỏe mạnh cấp súng để “tiếp tay giữ gìn trật tự”. Sáng hôm sau, số lính này nhập với 500 quân Pháp tư Mác-xây (Marseille) tới, chiếm các công sở quan trọng. Đây là lúc bọn Pháp “lên chân” dám đánh người Việt trên đường Catinat. Tình hình căng thẳng đến mức đại tá Xê-đi (Cédile), ủy viên Cộng hòa phải lái xe đi khắp nơi khuyên người Pháp nên ôn hòa.
Nhưng Xứ ủy và UBND đã tranh thế chủ động. Nắm được chân tướng tên thực dân Gra-xi, ta đã cho phần lớn lực lượng quân sự ra ngoại thành bao vây thành phố khi quân Anh đòi giải giới quân đội Việt Nam. Ngày 19-9, Ủy ban đã ra lời hịch kêu gọi “đồng bào nên sẵn sàng tổng đình công và kháng chiến ngay khi phát tờ hịch này”. Bấy giờ lực lượng bảo vệ thành phố Sài Gòn là các đội cảm tử. Ta có đến 350 đội, ngày đêm sẵn sàng “một ra đi là không trở về” như bài hát mang tên “Chính khí ca” rất được phổ biến trong giới tuổi trẻ.
Trước thái độ lật lọng của bọn Anh- Pháp, lực lượng quân sự ta siết chặt vòng vây bên ngoài, bên trong thực hiện tổng đình công, tổng bãi thị. Ngày 23 là ngày chính thức Nam bộ kháng chiến và một ngày sau, bọn Pháp trong thành sống trong cảnh kinh hoàng: Không nước, không điện. Đàn bà, trẻ nít tập trung tại nhà hàng Công-ti-năng-tan (Continental), ăn ngủ cả ngoài hành lang để dễ được bảo vệ. Ban ngày còn đỡ, ban đêm không đèn là một thảm cảnh đối với bọn chúng: các đội cảm tử ẩn hiện bất ngờ khiến chúng mất ăn mất ngủ. Tìm cái ăn không phải dễ, chợ Bến Thành, cầu Ông Lãnh, cầu Kho đã bị đốt. Ta áp dụng tiêu thổ kháng chiến, không cho địch có cái ăn, có chỗ ngủ.
Thành phố trong những ngày ấy, chia ra làm nhiều khu do các lực lượng lính Chà chóp, lính Nhật và lính Pháp canh gác. Đêm 25 xảy ra một vụ thảm sát tại khu vực Tân Định, do bọn Nhật giữ trật tự. Đây là một cư xá đa số là người Pháp lấy tên là Cité Hérault (Xi-tê Êrô). Nửa đêm, một đám người đột nhập cư xá tàn sát hết tất cả, không phân biệt đàn bà, con trẻ. Trong số này có những người Pháp dân chủ tiến bộ như phi công Xô-tơ-rây (Sauterey) đã giải ngũ và tham gia cánh tả Đảng Xã hội SFIO. Anh này ủng hộ lập trường kháng chiến của ta. Anh biết phân biệt những người Pháp mới ở bên Pháp với bọn Pháp thực dân ở thuộc địa. Xô-tơ-rây đã từng tâm sự với sinh viên Huỳnh Văn Tiểng: “Nếu xảy ra cảnh đánh nhau thì các anh cho tôi cây súng, tôi sẽ chiến đấu bên cạnh các anh”. Vậy mà đêm ấy, cả gia đình anh sáu người: hai vợ chồng và bốn đứa con bị tàn sát.
Sáng hôm sau, khi hay tin này, báo “kèn gọi lính” của Trần Bửu Kiếm đã đăng lời chia buồn, đồng thời UBND mở cuộc điều tra. Có dấu hiệu cho thấy hành động bừa bãi này là do Ba Nhỏ, tay anh chị vùng Thị Nghè, cầm đầu. Ba Nhỏ chịu trách nhiệm khu vực Bà Chiểu, cách nơi thảm sát có một con rạch nhỏ, không xa Cầu Bông bao nhiêu, Ủy ban phái cán bộ tới tận nơi điều tra, nhưng bị bọn thực dân ngăn cản.
Ngày 26, một biến cố nữa làm thế giới chú ý đến thời cuộc Sài Gòn. Đại tá Đơ-vi (Peter Dewey), Giám đốc tình báo Hoa Kỳ, bị dân quân bắn chết ở Phú Nhuận, khi hắn lái chiếc xe Jeep có gắn cờ Mỹ từ Tân Sơn Nhất về Sài Gòn. Trước khi chết, hắn còn kêu to lên 1 câu tiếng Pháp “Je suis Américain” (Tôi là người Mỹ). Đây là người Mỹ đầu tiên chết về súng đạn tại Việt Nam.
Cũng trong ngày này, soái hạm Ri-sơ-liơ (Richelieu) tới Vũng Tàu và chiến hạm Tri-om-phăng (Triomphant) đưa quân Pháp vào Sài Gòn. Bọn Pháp càng thêm đắc chí xúi Gra-xi buộc Nhật đảm trách nhiệm vụ giải giới bộ đội Việt Nam. Nhưng ta khéo tuyên truyền đường lối chủ trương kháng chiến nên Nhật không nhận trách nhiệm đó, viện lẽ họ chỉ có việc giao khí giới cho Đồng minh để xuống tàu về nước. Tướng Gra-xi dọa xử tướng Numata là tội phạm không tuân lệnh hắn. Túng thế, Numata nhận là trung gian giữa hai bên Anh- Pháp và Việt minh.
Tình hình căng thẳng kéo dài đến đầu tháng 10, tướng Lơcơle (Leclerc) tới Sài Gòn. Tên háo thắng này chủ trương đánh nhanh thắng lẹ, huênh hoang tuyên bố đánh một tháng là xong ngay. Từ đó chiến tranh tăng cường độ và cháy lan thật nhanh khắp nơi.

Chú thích:
(1) Nay là đại lộ Lê Duẩn
(2) Công viên Tao Đàn
CHƯƠNG 20
Về Tân Quy trong những ngày sôi nổi này, Bảy Rô cảm thấy ngứa tay, ngứa chân. Bọn lính Chà chóp (vấn khăn có cái gù trên đầu) cùng bọn Nhật tỏ vẻ xấc láo đối với dân chúng Việt Nam. Cây “xít-trăng-xanh” của anh chỉ dùng để khử Việt gian chớ không thể dùng đánh giặc. Phải có súng trường. Bảy Rô rủ Chín Mập và Ba Bay đi Phú Xuân giật súng Nhật. Tại đó, bọn Nhật thường đi chợ từng cặp. Bảy Rô cùng hai bạn chờ chúng đi qua nơi vắng, nhảy ra tấn công giật súng, chỉ trong một vụ “đi hát” kiểu mới như thế, ba anh mang về 6 khẩu súng Nhật. Đây là chiến thắng đầu tiên của Bảy Rô. 6 khẩu súng này đủ trang bị cho một tiểu đội dân quân, 6 người không có súng được lãnh lựu đạn.
Xóm cầu Rạch Đỉa trở thành tổng hành dinh bộ đội, Ba Dương ngày đêm không ngớt luyện tập quân sự. Một ngày kia bọn Chà chóp hành quân tuần tiễu, bộ đội tản vô Rạch Miễu, ở lại chỉ còn bộ ba Bảy Rô, Chín Mập và Ba Bay. Ba Bay cũng là tay anh chị, quê ở Ba Tri, Bến Tre lên Chánh Hưng làm thợ sơn nhưng khoái “đi hát” hơn phết vôi lên vách tường. Ba Bay hợp tánh tình với Bảy Rô nên kết bạn giang hồ. Bộ ba thủ ba cây súng mút, thập thò trong mí vườn, chờ bọn Chà chóp tới. Bảy Rô nói:
- Mình đánh một trận cho tụi Chà này chạy về tới xứ cũng còn kinh hồn.
Ba Bay tưởng Bảy Rô nói phét:
- Nó chạy hay mình chạy đó cha nội?
Bảy Rô chỉ tổ ong vò vẽ ngay chân giữa cầu Rạch Đỉa:
- Tao cho đội quân cảm tử vò vẽ xuất trận khi tụi nó tới đây. Hai đứa bây chạy lên trên gió coi tao điều quân khiển tướng.
Ba Bay, Chín Mập đi trước, bỏ lại Bảy Rô một mình. Chừng bọn Chà chóp tới gần giữa cầu, Bảy Rô bắn vào tổ ong ba phát rồi sách súng chạy theo hai bạn. Tổ ong vò vẽ vỡ tan, bầy ong bay túa ra đen kịt, đụng ai đánh nấy. Bọn Chà chóp lọt vào giữa đạo quân vò vẽ, bị đánh sưng mặt, chạy tán loạn. Có đứa hoảng quá vứt súng chạy cho nhanh, có đứa lọt tủm xuống sông.
Sau trận này, tên tuổi bộ ba Bảy Rô, Chín Mập, Ba Bay nổi như cồn ở Tân Quy, lan tận Long Kiểng. Nhưng nói chung bộ đội Ba Dương chưa có nhiều súng lớn. Ba Dương bảo Năm Hà:
- Trong giới giang hồ, chỉ bộ đội Bảy Môn, Mười Lực là có nhiều súng lớn. Nhưng tới nay chưa đánh đấm gì bên Thủ Thiêm. Chú qua bên đó, cố gắng kéo họ theo mình đánh vài trận lớn tạo thanh thế.
Ba Dương ít nói, mà nói là ra lệnh. Năm Hà bấy giờ được cử làm cò, bảo Bảy Rô cùng đi với mình. (Bộ ba Bảy Rô, Chín Mập, Ba Bay luôn đi sát hai anh em Ba Dương và Năm Hà).
Bộ đội Bảy Môn, Mười Lực đóng trong đình, cách chợ Thủ Thiêm vài chục thước, Năm Hà vô đề ngay với Mười Lực.
- Bộ đội Thủ Thiêm có mấy cây súng lớn thấy mà mê. Cho tôi xem súng đi chú Mười.
Mười Lực không đợi yêu cầu lần nữa: Súng lớn là niềm kêu hãnh của người chỉ huy:
- Tụi tôi có 4 cây Trây-đơ. Súng này lấy từ chiếc máy bay hai lườn của không quân Hoàng gia Anh, loại B28, bị Nhật bắn rơi ở chùa Cô Tư ngày 5-5-1944. Nó chúi xuống sình chỉ ló cái đuôi lên…
- Sao còn có ba cây hà?
- Chia cho bộ đội Đồng Nai một cây. Tại vì mình hợp tác với họ mò súng, tháo gỡ, lau chùi, lắp ráp, công phu lắm…
Xem xong súng ống, Năm Hà đánh vào chỗ yếu của Mười Lực:
- Súng ống như thế này, sao lâu nay án binh bất động? Có phải vì yếu kém tài chánh?
Mười Lực thở ra:
- Tụi tôi hết sạch tiền rồi! Tiền của tôi và tiền của Bảy Môn hai đứa hùn lại có cả trăm ngàn, nuôi quân chưa đầy một tháng mà muốn bứt. Như vậy, anh Năm đủ biết bộ đội của tụi tôi đông cỡ nào… vùng này lại không có hãng xưởng gì để sung công như bên hai anh…
- Chắc là anh em ở đây ăn uống kham khổ lắm?
- Phải, ăn ròng khô tra với canh bí rợ. Ăn thét phát ngán.
Năm Hà tung ra đề nghị:
- Vậy tôi mời hai chú liên quân với tụi tôi. Bên tôi ít lính mà nhiều tiền. Bên hai chú thì ngược lại.
Mười Lực mắt sáng rỡ:
- Thiệt chơi anh Năm?
- Thiệt mà! Đây là ý của anh Ba tôi. Đâu chú hỏi ý Bảy Môn xem?
- Bảy Môn với Mười Lực là một. Tôi chịu là Bảy Môn chịu- Mười Lực nói tới đó thì một người to lớn, ăn mặc chải chuốt bước vào đình:
- Hai người nói xấu gì Bảy Môn đó?
- Năm Hà kêu lên:
- May quá sẵn có Bảy Môn đây, chú Mười hỏi ý chú Bảy đi.
Sau khi nghe Mười Lực nói, Bảy Môn gật lia:
- Được! Tôi chịu! Tụi tôi đang cạn túi thì có “quới nhơn” tới. Bộ đội Mười Lực, Bảy Môn là liên quân với bộ đội Ba Dương, Năm Hà thì vô địch! Hơn hẳn bộ đội Tám Mạnh- Hai Vĩnh.
Năm Hà phấn khởi:
- Hơn xa! Bộ đội Bảy Viễn cũng không bằng. Hôm biểu tình 2-9, Bảy Viễn rất nổi với bộ đồ quân sự màu xanh mới may mang khẩu súng lục to như cái đùi heo xệ bên hông, mà lính tráng chẳng thấy bao nhiêu.
Bộ đội Thủ Thiêm sát nhập với lực lượng Ba Dương bắt đầu từ đó


***


Cũng trong những ngày cướp chánh quyền ấy, Hai Vĩnh bàn với ông Tám Mạnh:
- Trong các nhóm giang hồ, lực lượng Thanh niên Tiền phong của xã Chánh Hưng mình đông hơn hết. Nhưng về súng ống thì ta có phần kém.
- Phải. Ba cũng thấy như vậy. Mình phải cướp súng của Nhật mà võ trang cho bộ đội mình. Thầy Bảy Trân đã nhiều lần nhắc nhở mình điều đó.
- Con suy nghĩ kỹ rồi. Nay bàn với ba về một chuyện quan trọng. Đánh giặc trên đường phố thì chọi lựu đạn hữu hiệu hơn hết. Mình rất cần có thật nhiều lựu đạn. Toàn thành có tới 350 đội cảm tử, ít nhất cũng phải một ngàn trái. Con thấy trong Hãng Ataka ở Sở Thùng có bộ phận sản xuất lựu đạn.
Ông Tám Mạnh mừng rỡ:
- Vậy hả? Để ba biểu tụi nó tháo gỡ mấy cái máy đó đem xuống ghe. Có gì mình chống đi, làm binh công xưởng lưu động.
- Phải là một chiếc ghe chài mới chứa hết các bộ phận…
- Chài thì chài, thiếu gì dưới bến? Con muốn chọn chiếc nào tùy ý. Chủ là Ba Tàu đã ôm bạc chạy chốn từ lâu rồi.
Nhờ sáng kiến của Hai Vĩnh, nhóm Tám Mạnh có một binh công xưởng lưu động sớm nhất, các nhóm khác trông thấy mà thèm, dù lực lượng của ông Tám chỉ một trung đội, đặt tên là Trung đội 2. Ông Tám giao trung đội này cho Hai Vĩnh chỉ huy. Từ đó Hai Vĩnh chính thức được phong “Chỉ huy trưởng Trung đội số 2”.
Có bộ đội thì phải đánh giặc. Đó là chuyện tất nhiên, Hai Vĩnh vận động được một lính Nhật dạy quân sự cho Trung đội 2. Anh chọn kỹ thuật tác chiến Nhật vì đánh Pháp phải đánh theo cách mới lạ, để chúng không thể đoán được mà đề phòng. Thành thật mà nói thì Hai Vĩnh vẫn còn mê cách đánh cảm tử kiểu Kamikazê lái máy bay đâm thẳng xuống tàu địch để rồi hy sinh luôn trong chiến thắng- như trong trận đánh Trân Châu Cảng mà anh đã được xem phim trước đó vài tháng. Trận đánh đầu tiên của Trung đội 2 là trận đánh tụi Nhật canh gác nhà đèn Chợ Quán. Trong trận này, khi vượt qua cầu Chữ Y, một chiến sĩ hy sinh liền được Hai Vĩnh tổ chức ngay lễ truy điệu, càng nung sôi bầu máu nóng của anh em thanh niên đang nô nức xin tòng quân. Tại Cầu Ván giáp ranh xã Bình Đăng, mười Thanh niên Tiền phong tự chặt chót ngón tay út gởi lên UBND xin được vào bộ đội. Bảy Trân đem mười ngón tay ngâm trong lọ cồn 90 độ giao Ủy ban theo yêu cầu của đám thanh niên ấy. Trong cuộc hợp tại Chợ Đệm sau khi báo cáo tình hình trong tổng Tân Phong Hạ, anh đưa lọ ấy ra cho mọi người chuyền tay nhau xem bằng chứng của lòng yêu nước trong vùng anh.
Bảy Trấn- sau mấy năm lặn vào bí mật nay trở về chiến đấu ngay trên mảnh đất quê hương của mình là Chợ Đệm- trách Bảy Trân:
- Anh báo cáo miệng được rồi. Mang lọ này tới hội nghị làm gì. Trông mấy ngón tay trắng phếu, xanh lè, thấy mà ghê!
Nhưng một lúc sau Bảy Trấn lại phát biểu khác:
- Nhìn cái lọ của anh Bảy Trân, tôi nhớ tới tổ tiên mình. Khoảng 8- 9, 10 năm trước, người dân Cần Guộc, Chợ Đệm đã đứng lên chống giặc như chúng ta ngày nay. Nhà thơ mù Đồ Chiểu đã vẽ lại hào khí Đồng Nai trong bài văn tế, tôi còn nhớ mấy câu thơ:
“Nhớ linh xưa.
Côi cút làm ăn, lo toan nghèo khó, chẳng quen cung ngựa, chưa tới trường nhung, chỉ biết ruộng dâu, ở cùng làng hộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm.
Tập lao, tập giáo, tập súng, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Nào phải ai đòi, ai bắt, phen này làm ra sức đoạn kình.
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, phen này quyết ra tay bộ hổ…”.
Nhờ binh vận, Trung đội 2 có được một số súng máy, hùng mạnh như quân chính quy. Hai Vĩnh quyết định ra quân lần thứ hai, đánh cầu Nhị Thiên Đường ở Xóm Củi. Đây là nơi bọn Pháp làm bàn đạp đánh ra vùng hai bên con đường số 5 từ Xóm Củi tới cầu Ông Thìn, dẫn tới quận Cần Giuộc. Muốn đánh tụi Tây ở đây, phải kéo quân đi qua một hàng rào phòng thủ do tụi Nhật đóng. Hai Vĩnh ngoại giao nhiều lần để Nhật nhắm mắt cho ta đi qua mà không kết quả. Anh quyết định đánh luôn bọn này. Chúng nó không yêng hùng như trong phim Kamikazê chút nào. Ngay loạt FM đầu, chúng đã bò càng. Sau đó Nhật đồn rùm: “Bình Xuyên có ông quan An Nam dữ lắm”. Từ đó, chúng chịu nhắm mắt cho ta đi ngang qua để đánh Tây ở cầu Nhị Thiên Đường. Trận này có tiến bộ hơn trận Nhà đèn Chợ Quán một chút, nhưng vẫn chưa gây được tiếng tăm gì. Hai Vĩnh quyết định đánh trận thứ ba: đón đánh tàu cá trên kinh Cây Khô. Tàu này thường kéo một đoàn ghe chài chở gạo, heo từ lục tỉnh về. Trung đội số 2 chưa đủ sức đánh, Hai Vĩnh nghĩ tới chuyện liên quân với bộ đội Ba Dương. Đề nghị này tới rất đúng lúc Ba Dương cũng muốn đánh một trận gây thanh thế. Bộ tham mưu liên quân họp bàn kế hoạch. Bộ đội Ba Dương chặn đánh khúc trên, bộ đội Hai Vĩnh đánh khúc dưới.
Bảy Rô và Hai Vĩnh gặp nhau tay bắt mặt mừng nhưng không có thì giờ để hàn huyên tâm sự vì chiếc tàu cá đã lù lù xuất hiện. Nó kéo theo một chiếc xà lan bọc sắt dùng làm lô cốt cố thủ. Phía sau là đoàn ghe chài bốn chiếc. Bên bộ đội Ba Dương có khẩu Trây-dơ do Chín Hiệp chỉ huy. Đơn vị này phục kích từ đầu hôm tới nửa đêm mới thấy tàu cá lù lù tiến tới. Tư Tình nhắm bắn phát đầu tiên. Không trúng. Tây trên sà lan phản giáo. Tư Tình trúng đạn hy sinh tại trận. Bảy Rô nóng lòng nói với Năm Hà:
- Cho tôi lãnh cây Trây-dơ. Tôi bắn nó không chìm, tôi chịu đứt đầu!
Năm Hà chưa gật, Bảy Rô đã cùng Chín Mập, Ba Bay khiêng khẩu súng đặt tại đám lá nhà Bà Kỳ. Phát thứ nhì trúng đích. Tàu cá lủi vô bờ. Trên sà-lan, tám thằng Tây xả súng chống cự. Đánh mãi tới 10 giờ sáng mới bắt được bốn thằng Tây. Tức thì hai cánh quân chèo tam bản, xông ra thu chiến lợi phẩm. Hai Vĩnh giải bốn thằng Tây đi trước. Bốn ghe chài chở đầy gạo, heo, khô, cá… hai bên tha hồ thu. Trên tàu cá có một tủ sắt, Hai Vĩnh cho khiêng xuống tam bản đưa về ông Tám Mạnh. Giữa chiến trận không tiện bửa tủ sắt ra chia, vụ này về sau là mối bất hòa giữa hai nhóm. Ba Dương trách Hai Vĩnh giữ riêng số tiền trong tủ sắt.
Vài ngày sau, các nhóm bộ đội nhận được thư mời họp tại Chợ Đệm để lập Mặt trận số 4 chạy dài từ Thủ Thiêm đến Cầu Sập phía Tây Nam. Đến dự hội nghị có đủ mặt Ba Dương, Năm Hà, Tám Mạnh, Hai Vĩnh… Trần Văn Giàu trình bày vắn tắt nội dung hội nghị là lập Mặt trận số 4:
- Tại sao lại lấy tên là số 4? Theo kế hoạch các chiến bảo vệ thành phố, ta lập 5 mặt trận: số 1 là Thị Nghè- Bà Chiểu, số 2 là Gò Vấp, số 3 Phú Thọ, số 4 là vùng của các anh và số 5 là nội thành. Tôi cũng xin giới thiệu với các anh: anh Bảy Trân đây sẽ là Ủy trưởng quân sự mặt trận số 4. Ủy ban chọn anh Bảy Trân vì nhiều lý do: Trước hết anh là người địa phương. Bên nội lẫn bên ngoại của anh đều ở An Phú, Đa Phước. Thứ hai, anh Bảy từng phụ trách vùng này trong thời gian 15 năm qua từ năm 30 đến nay… Thứ ba là anh Bảy đã sát cánh với ông Tám Mạnh trong vụ Nam kỳ khởi nghĩa năm 40. Các anh có đồng ý về việc chỉ định anh Bảy Trân làm Ủy trưởng quân sự của các anh không?
Mọi người đồng ý. Trần Văn Giàu nói tiếp:
- Bây giờ anh em bầu một người chỉ huy…
Không ai mạnh dạn giới thiệu, Bảy Trân nói:
- Theo tôi thấy thì bộ đội anh Ba Dương đông và có nhiều súng đạn hơn hết, còn bộ đội ông Tám Mạnh thì ít, nhưng được có kỷ luật tương đối. Về tuổi tác, ông Tám Mạnh là người cao niên hơn hết, tánh tình điềm đạm, đạo đức. Tôi đề nghị ta nên chọn ông Tám…
Hội nghị nhất trí bầu ông Tám Mạnh.
CHƯƠNG 21
Sau khi thoát chết đêm nhảy dù xuống vùng Củ Chi, Xê-đi được đưa về Bộ Chỉ huy quân Nhật tại Sài Gòn. Ngày tướng Grayxi đến Sài Gòn thì Xê-đi được giải thoát, ra giữ chức Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam kỳ. Công việc của Xê-đi bề bộn mà việc cấp bách nhất là tìm cho được hai tay trùm mật thám và Phòng Nhì, thanh tra Ba-de (Bazin) và đại úy Savani. Hai tên này đều được nhốt trong thành ông-dèm, sau ngày 9-3-1945, khi quân Anh- Ấn chiếm trại ông-dèm thả một người Pháp ra thì hai người được ra trước là Savani và Bazin.
Vừa thoát cũi xổ lồng, Savani cho tìm hai cánh tay đắc lực là Lâm Ngọc Đường và Môrit Thiên. Trong cuộc họp tối mật, Lâm Ngọc Đường báo cáo tình hình các nhóm giang hồ cho “sếp” nghe để bố trí kế hoạch tái chiếm thành phố Sài Gòn.
- Tôi tham gia tất cả ba cuộc biểu tình lớn tại Sài Gòn. Đầu tiên là cuộc biểu tình ngày 21-8 của Mặt trận Quốc gia Thống nhất. Rồi đến cuộc biểu tình của Việt minh, tổ chức bốn ngày sau, tức là ngày 25-8. Đông hơn, trật tự hơn. Khoảng một triệu rưỡi người tham gia. Nhưng dễ sợ nhất là cuộc biểu tình mừng Ngày Độc lập 2-9.
Savani sốt ruột cắt ngang:
- Biết rồi! Đám giang hồ có tham gia biểu tình không?
- Có đủ. Mạnh nhất là đám Ba Dương, Năm Hà. Đem theo cả súng máy lấy của chiếc Libêrato bị hạ tại Thủ Thiêm.
- Còn Bảy Viễn?
- Bảy Viễn cũng có mặt nhưng lực lượng yếu kém về người cũng như về súng. Sau đám Ba Dương, Năm Hà có nhóm Tám Mạnh, Hai Vĩnh…
- Hai Vĩnh là thằng nào?
- Tên này là rể của Tám Mạnh. Trước đây là dân anh chị ở chợ Long Kiểng. Hiện giờ chính nó nắm bộ đội Chánh Hưng chớ không phải ông già vợ.
- Bộ đội Chánh Hưng có đặc điểm gì?
- Người đông nhưng súng ít. Đông nhờ Tám Mạnh làm đoàn trưởng Thanh niên Tiền phong Chánh Hưng. Khi Việt minh lên, ông ta úp trọn bộ. Súng ít nhưng có binh công xưởng sản xuất lựu đạn lấy của Hãng Ataka ở Sở Thùng…
- Còn chi tiết nào đáng quan tâm?
- Hiện nay cả ba nhóm đều đáng quan tâm. Ba Dương, Tám Mạnh, tôi đã trình bày rồi. Riêng nhóm Bảy Viễn, theo tôi, mới là đáng chú ý. Bởi Bảy Viễn quy tụ được một số du đãng đáng kể như Mười Trí, Năm Bé, Sáu Đối, Sáu Tùng, Tư Tỵ, Tư Hoạnh…
- Nói rõ thêm nghe- Savani tỏ ra chăm chú.
- Mười Trí và Năm Bé cùng vượt ngục với Bảy Viễn bằng bè, đại úy biết rồi. Sáu Đối và Sáu Thơ- cũng gọi là xã Thơ- là dân anh chị ở Tân Thuận, từng đứng bến cảng Khánh Hội. Sáu Tùng là anh chị Xóm Chiếu và là cai thầu ở cảng Sài Gòn. Tư Tỵ là anh chị ở Cầu Bót trong Chợ Lớn, Tư Hoạnh, tự xưng là cố Hoạnh, ở cầu Ông Thìn. Những tay này từng “đi hát” với Bảy Viễn.
Savani gật gù:
- Trước đây ta đã đồng ý là phải bám sát Bảy Viễn. Ông thi hành quyết định đó tới đâu rồi?
Lâm Ngọc Đường phấn khởi:
- Tôi có hai thằng đệ tử rất được. Tụi nó là hai anh em ruột, mỗi thằng có một biệt tài.
Thằng anh tên Sang giỏi về quân sự- đúng hơn là về tình báo- còn thằng em tên Tài, học giỏi hơn anh nó. Tư Sang chỉ có đíp-lôm, còn Năm Tài đậu tú tài…
- Đừng trưng bằng cấp với tôi. Tôi chỉ trọng dụng những tay làm được việc.
- Đúng vậy. Thằng Năm Tài làm được mọi việc, thảo công văn, đánh máy, đảm trách văn phòng. Đặc biệt là sáng trí, lắm mưu nhiều kế. Tóm lại, tôi định “cấy” hai anh em họ Lại này vô bộ đội Bảy Viễn. Đại úy thấy thế nào?
- Cứ đưa hai đứa nó tới đây tôi xem mắt đã. Làm mau lên! Ta đang chạy đua với thời gian đó. Chiều nay được không?
Ngay chiều đó, Lại Hữu Tài và Lại Văn Sang đến văn phòng đại úy Savani.
- Ông Đường bảo là hai anh có thể “thâm nhập” bộ đội Bảy Viễn. Kế hoạch hai anh như thế nào, trình bày nghe?
Đây là một lối trắc nghiệm bản lãnh của những kẻ đến xin việc. Chỉ nghe qua vài câu,
Savani biết trình độ văn hóa, xu hướng chính trị, ngón nghề chuyên môn.
Hai anh em họ Lại đã vượt qua cuộc trắc nghiệm. Đúng như Lâm Ngọc Đường giới thiệu. Tài bén hơn Sang, có thể trở thành một “mưu sĩ” trong bộ đội Bảy Viễn. Bản hợp đồng được ký ngay. Savani thích lối làm việc “chớp nhoáng” như vậy.
Cũng trong ngày ấy, Savani tiếp Mô-rit Thiên và giao nhiệm vụ:
- Ông cấp tốc thành lập cho tôi một trung đội côm-măng-đô. Chọn trong giới thanh niên từ 25- 30 tuổi. Ưu tiên cho cựu quân nhân. Phải cao to, lực lưỡng, biết võ, nhất là nhu đạo. Cho tập thuần thục cách đánh cận chiến, đánh dao găm, ném lựu đạn. Làm mau lên. Ta với Việt minh sắp đánh nhau rồi đó.
Mô-rit:
- Xin đại úy một tháng...
- Không được! Nửa tháng đã là quá chậm. Làm được tới đâu, báo cáo tôi biết tới đó.
CHƯƠNG 22
Sau vụ thảm sát Cité Hérault, Bảy Trân thấy được cái nguy hiểm của việc sử dụng du đãng trong công tác cách mạng. Không nói chuyện giết người cướp của, nội chuyện bắn súng rầm rầm làm kinh động cả xóm làng cũng là bậy rồi. Ông chỉ thị cho các chủ tịch UBND xã phải nghiêm trị những người vô cớ nổ súng.
Bây giờ ông Bảy Nhơn, anh ông Tám Mạnh được bầu chủ tịch xã Chánh Hưng. Mặc dầu đã cảnh giác cao về tánh vô chính phủ của anh em du đãng, Bảy Trân cũng đã để xảy ra một vụ đáng tiếc nữa.
Đang làm việc trong văn phòng xã Bình Đăng, nghe tiếng huyên náo khác thường, ông nhìn ra thì thấy dân quân áp giải một người Pháp. Người Pháp bị trói hai tay, chân đi cà nhắc vì đi chân không, chỉ còn đôi vớ rách. Lập tức ông cùng Ba Bang chạy ra hỏi:
- Tại sao bắt người này?
Đám dân quân ngơ ngác trước câu hỏi đó. Một người nói:
- Nó là Tây, mình phải bắt.
Bảy Trân hỏi người Pháp:
- Ông là ai? Đi đâu mà bị bắt?
Người Pháp tươi tỉnh khi nghe Bảy Trân hỏi tiếng Pháp:
- Tôi là bác sĩ. Có người rước tôi đi chữa bệnh. Tôi lái xe nhà cùng người đó qua đây. Chưa tới nơi thì bị lính của ông bắt. Xe tôi bỏ ngoài đường cái. Họ trói tôi lại, không cho đi giày.
Bảy Trân đang xem giấy tờ bác sĩ Pháp thì một đám đông du đãng kéo tới, mang theo đủ loại võ khí. Một người lên đạn khẩu Mút, bộ tướng hầm hừ. Bảy Trân khoát tay:
- Các anh lui ra. Tôi đang xem giấy tờ của người này.
Trước đám đông hung hăng, người Pháp lo âu, nói với Bảy Trân:
- Xin ông giải về thành phố. Ở đó người ta biết tôi.
- Bảy Trân trả giấy tờ lại, ôn tồn bảo:
- Bác sĩ yên tâm. Tôi sẽ cho người đưa bác sĩ lên Ủy ban thành phố.
Nhưng đám đông kéo lại bao vây người Pháp:
- Bắt được Tây là phải giết! Không đưa đi đâu hết!
Bảy Trân và Ba Bang bước tới choàng vai người Pháp, nói:
- Anh em không được làm ẩu. Đây là bác sĩ, vì lòng nhân đạo mà chữa bệnh xa...
Ông nói chưa dứt thì người cầm khẩu súng Mút đã chĩa súng dưới cánh tay ông, dí vô lưng người Pháp bóp cò. Một tiếng “đùng” chát chúa. Bác sĩ Pháp ngã lăn ra chết.
- Tôi đã bảo không được bắn, sao anh dám cãi lệnh? Ông lật sổ tay ghi tên họ kẻ giết người, đồng thời chỉ thị cho khiêng nạn nhân trở ra xe đưa về tận nhà.
Ngay đêm đó, Bảy Trân đến gặp Trần Văn Giàu báo cáo tình trạng vô chính phủ trong bộ đội mà nòng cốt là du đãng.
Ông nói:
- Dùng Bình Xuyên như dao hai lưỡi. Không khéo có ngày nó thọc huyết mình đó. Tao ớn quá rồi. Mày cho tao từ chức Ủy trưởng Mặt trận số 4.
Sáu Giàu lắc đầu:
- Mới đụng một vụ đã co đầu rút cổ sao?
Bảy Trân nhăn nhó:
- Đây phải lần đầu? Mà nhiều vô số kể. Đây là vụ giết người tao thấy tận mắt, còn rất nhiều vụ “tiền trảm hậu tấu”, như bên cầu Rạch Đỉa, tụi nó cho biết bao nhiêu người “mò tôm”. Rồi vụ đánh Nhà đèn Chợ Quán. Bố trí đâu đó xong rồi, tới giờ nổ súng, kẻ đánh, người rút, lọt chọt chẳng ra gì hết. Một số lợi dụng súng trong tay đi ăn cướp. Đúng là ngựa quen đường cũ!
- Làm cách mạng đâu phải là lái xe hơi trên đường tráng nhựa!- Trần Văn Giàu vỗ vai Bảy Trân. Suy nghĩ một lúc Giàu nói tiếp: - Được rồi! Tao sẽ phái một số cán bộ Tổng công đoàn tới các nhóm bộ đội giữ chức chánh trị viên. Vai trò của họ là giúp Bộ chỉ huy nắm chắc binh lính, tránh những chuyên độc tài quân phiệt như bên Bình Đăng của mày. Còn riêng về mày thì tao cho một cố vấn quốc tế…
- Ai vậy? Bảy Trân nửa tin nửa ngờ.
- Mày có biệt Periê (Perrier) không? Periê là đảng viên Cộng sản Pháp, được quốc tế cộng sản cử phụ trách Viễn Đông, trụ sở tại Thượng Hải. Ông bị bọn phản cách mạng Tàu bắt giao cho Pháp tại Đông Dương, Pháp nhốt ông tại Khám Lớn Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám mở toang cửa khám, Periê thoát cũi sổ lồng, hiện đang ở với tao. Tao chưa biết giao ông ta cho ai thì mày tới. Periê sẽ làm cố vấn cho mày. Về quân sự ông ta không chuyên, nhưng về chính trị thì ông ta là thầy tụi mình.
Trở về Bình Đăng, Bảy Trân dẫn theo một người Pháp trung niên, cao lớn, râu rậm. Periê rất mến người bạn mới. Lý do thứ nhất là Bảy Trân nói tiếng Pháp như người Pháp. Thứ hai Bảy Trân cởi mở, vui tính, chân thật. Periê rất chịu tính chân thật của người miền Nam. Ông hoạt động bí mật ở miền Nam khá lâu nên hiểu vì sao dân miền Nam chân thật và buộc kẻ khác cũng phải chân thật với mình. Đó là nhờ họ sống sát thiên nhiên. Mà thiên nhiên là chân thật như nước ròng nước lớn, như mùa mưa mùa nắng, đâu đó đều có quy luật. Đất đai phì nhiêu, trên cơm dưới cá, họ sống sung túc, hào phóng và hiếu khách. Từ đó, Periê bám sát Bảy Trân như hình với bóng, ăn chung, ngủ chung, làm chung.
Một số cán bộ của Tổng công đoàn được tăng cường về các bộ đội Bình Xuyên.
Nguyễn Văn Tư, tự Tư Ca-rê về bộ đội Bảy Viễn, Từ Văn Ri về bộ đội Ba Dương, Nguyễn Xuân Thanh về bộ đội Hai Vĩnh, Lê Hiền về bộ đội Tư Hoạnh.
Vai trò chính trị viên trong các bộ đội Bình Xuyên rất nặng nề và nguy hiểm. Thời bình không ai dám phát súng cho ăn cướp. Nhưng gặp thời loạn, phải chọn giữa cái hại nhỏ với cái hại lớn. Đánh giặc xâm lăng là nhiệm vụ cấp bách như cứu hỏa. Nạn ăn cướp sẽ trừ sau. Bộ đội Bình Xuyên đánh giặc cũng có mà “đi hát” cũng có. Hình thức “đi hát” lúc đó là sung công tài sản thiên hạ, bắt cóc những tay “có máu mặt” cho chuộc lấy tiền gọi là “để nuôi quân”. Vì vậy, chánh trị viên được các tay anh chị xem là chướng ngại nếu không nói là kẻ thù địch, chỉ chờ dịp là thủ tiêu.
CHƯƠNG 23
Ngày 23-9, trong một cuộc họp liên tịch Xứ ủy và UBND Nam bộ tại một số địa điểm trên đường Cây Mai dưới sự chủ trì của đồng chí Hoàng Quốc Việt, hội nghị quyết định kháng chiến và thành lập Ủy ban Kháng chiến Nam bộ do đồng chí Trần Văn Giàu làm chủ tịch. Hội nghị cũng quyết định ban hành lệnh kháng chiến.
Giữa lúc Sài Gòn đang chuẩn bị bảo vệ nền độc lập mới giành được thì từ chiến khu Đông Triều, Khu trưởng Nguyễn Bình được lệnh của Bộ Tổng vào Nam thống nhất các lực lượng võ trang. Nguyễn Bình đã cùng với Trần Cung lập căn cứ Đông Triều từ năm 1944, lấy chùa Bắc Mã làm nơi trú ẩn và hoạt động. Trong vùng nhiều người thuộc bài thơ ở chùa của Hỏa Mai, bút hiệu của Trần Cung:

Tránh Tây ta phải giả thầy chùa
Xúng xính nâu sồng bộ pháp sư
Không đạo, đóng vai người mến đạo
Chẳng tu, làm bộ kẻ chân tu
Hai mươi thu trải năm nhà ngục
Bốn chục xuân qua năm độ tù
Chiến sĩ mấy phen nương bóng Phật
Tụng kinh Mác xít, niệm nam mô.

Một mình một ngựa vô Nam, lại làm nhiệm vụ thống nhất các lực lượng võ trang của mấy chục nhóm, công việc không phải dễ, nhưng Nguyễn Bình hăng hái ra đi vì tin tưởng nơi “ông Cụ” biết dùng người đúng chỗ. Phải là một tay hảo hớn mới quy tụ được các bậc giang hồ mã thượng trong Nam. Nguyễn Bình tin tưởng mình làm nên nghiệp lớn vì thuở thiếu thời đã lưu lạc vào Sài Gòn, đã giao du với các tay anh chị và đã bị Pháp đày ra Côn Đảo cùng với nhóm Quốc dân Đảng từ năm 30 đến năm 35...
Tình hình chiến sự ngày càng gay go, Pháp quyết tâm chiếm lại Nam bộ, Sài Gòn như chảo dầu sôi. Nguyễn Bình càng hối hả vượt đường thiên lý vào chiến trường đã định. Trên đường đi, ông cố thu thập tin tức và rất mừng rỡ khi biết Bình Xuyên là một lực lượng đáng kể trong số các lực lượng ở miền Đông. Ông có nghe tiếng Ba Dương từ trước và tính ngay tới việc liên kết với Ba Dương để có thế lực ngay bước đầu.
***
Trong khi đó, quân đội Anh- Ấn của tướng Gracey không theo đúng chỉ thị giải giới quân Nhật của Đồng minh mà trắng trợn sử dụng quân Nhật kiềm hãm các hoạt động của dân quân, giúp bọn Pháp ngóc đầu dậy. Quân Nhật được bố trí đóng ở các vị trí ngoại thành. Bên vùng Chánh Hưng chúng đóng các đầu cầu quan trọng như cầu Nhị Thiên Đường, cầu Chữ Y, cầu Rạch Ong. Bộ đội Ba Dương đóng ở hãng Nichinăn phải cấp tốc dời vô cầu Rạch Đỉa. Không thể vác súng đi ngờ ngờ trước mắt bọn Nhật, anh em phải rút tay không còn súng thì cho xuống ghe, xuồng nhờ chị Năm Hà chở vô Rạch Đỉa.
Sau khi tập hợp các lực lượng tại đây, Ba Dương vạch kế hoạch đánh chớp nhoáng vào nội thành gây tiếng vang. Đội chủ lực đánh bót “xít dèm” trên đường Fonk và bót thương khẩu trước mặt Cảng. Cánh Tân Quy đánh nhà đèn Chợ Quán và nhà máy Nguyễn Thanh Liêm ở Sở Rác, cánh Tân Thuận và Thủ Thiêm thọc sâu vô xã Tây (tức Tòa đô chính), bót Catinat, dinh khâm sai Nguyễn Văn Sâm (nay là bảo tàng thành phố).
Những trận đánh này hiệp cùng các trận khuấy rối của các cánh quân khác đã làm cho các tướng lãnh đầy tự cao tự đại Pháp thấy rõ dân Sài Gòn không bó tay để chúng ngang nhiên cướp nước lần thứ hai.

***

Giữa tháng mười, sau cuộc hưu chiến mười ngày, tướng Leclere bắt đầu đánh lớn, Cần Giuộc là một trong những mục tiêu đầu tiên của địch. Bộ đội Hai Vĩnh phối hợp cùng bộ đội Ba Bang chống cự dọc phòng tuyến đào cặp con lộ số 5 gần cầu Ông Thìn. Nhưng chỉ đánh một đêm rồi rút.
Vài ngay sau, kéo quân qua Long Kiểng. Hai Vĩnh gặp Ba Bang bị trói ngồi dưới đất trong văn phòng xã, còn Ba Bay đang nhậu ở bàn ngoài. Ngạc nhiên trước chuyện bất ngờ, Hai Vĩnh hỏi:
- Ba Bay, anh Ba Bang bị bắt về vụ gì?
- Anh Hai nên hỏi anh Ba, còn tôi chỉ là thiên lôi...
Hai Vĩnh nhìn quanh, tình cờ thấy Tư Hoạnh đi trờ tới:
- Tư Hoạnh, anh Ba Bang bị tội gì?
Tư Hoạnh lắc đầu:
- Tao không biết! Mày hỏi anh Ba!
Hai Vĩnh mở “sắc cốt” lấy giấy ra:
- Tư Hoạnh, mày chờ tao viết thư rồi mang qua tổng hành dinh ở cầu Rạch Đỉa cho anh Ba xem, ngồi chờ ảnh trả lời. Thư đại khái như sau: Anh Ba Bang là người của Đảng giao giữ chức Chủ tịch huyện Cần Giuộc, mình không nên tự quyền bắt bớ. Có việc gì, nên giao cho cấp trên giải quyết.
Hai Vĩnh cũng cho liên lạc báo động với Tám Mạnh và ông Bảy Trân, đề nghị kéo quân làm áp lực với Ba Dương.
Tư Hoạnh đi rồi, Hai Vĩnh bảo Ba Bay:
- Mày vô mở trói và mời anh Ba ra đây uống trà với tao.
Ba Bay miễn cưỡng tuân lệnh.
Được Hai Vĩnh can thiệp, Ba Bang mừng rỡ ôm chầm lấy Hai Vĩnh:
- Thật may cho tôi được gặp chú Hai. Không có chú Hai thì thằng này - chỉ Ba Bay - cho tôi “mò tôm” rồi.
- Anh Ba Dương bắt anh về tội gì?
- Về tội để mất quận Cần Giuộc.
Hai Vĩnh kêu lên:
- Trời đất! Ảnh có giỏi thì qua đó mà giữ! Đánh Tây đâu phải chuyện dễ!...
- Vậy mà Ba Dương cho bộ đội tới tước khí giới và tịch thu hết tiền bạc của Ủy ban huyện.
Hai người uống chưa hết bình trà, Tư Hoạnh về cho biết anh Ba chịu tha cho Ba Bang. Sau vụ này, Bảy Trân càng thấy rõ vai trò chính trị viên trong bộ đội Bình Xuyên là điều tối cần thiết.
Vào tháng mười một, Bảy Trân nhận được thư mời lên An Phú xã (Thủ Dầu Một) dự hội nghị quân sự do Khu trưởng Nguyễn Bình chủ tọa.
Dự hội nghị có chỉ huy các bộ đội tên tuổi như Huỳnh Kim Trương, Tô Ký, Huỳnh Văn Một, Huỳnh Văn Nghệ, Huỳnh Văn Trí, Bảy Viễn...
Khu trưởng Nguyễn Bình bố trí lại thứ tự các chi đội. Bộ đội Bình Xuyên có 7 chi đội, theo thứ tự: Chi đội 2 do Từ Văn Ri chỉ huy, chi đội 3 do Mười Lực, chi đội 4 do Mười Trí, chi đội 7 do Mai Văn Vĩnh, chi đội 9 do Bảy Viễn, chi đội 21 do Tư Hoạnh và chi đội 25 do Tư Tỵ chỉ huy. Bảy Trân xin từ chức Ủy trưởng Mặt trận số 4 với Nguyễn Bình:
- Tôi có máu xâm, hễ thấy máu là xỉu. Từ nhỏ tới lớn không dám xem thọc huyết heo bao giờ.
Nguyễn Bình nói:
- Đồng chí về họp từ đại đội trở lên, tuyên bố xin rút lui để họ tự bầu cử.
Đầu tháng 11-1945, Ban cán sự Đảng Mặt trận số 4 được thành lập gồm ba đồng chí: Trịnh Đình Trọng, Nguyễn Văn Trân và Nguyễn Mạnh Hoan. Trong hội nghị họp tại nhà Hội đồng Đống, ấp Phước Cơ, xã Đa Phước, huyện Cần Giuộc, Ban cán sự cử Ba Dương làm chỉ huy trưởng các lực lượng Nhà Bè, Tân Thuận, Bình Đông. Ba Dương dời tổng hành dinh ở Rạch Ong về Rạch Đỉa. Ông cho kẻ chữ thật to lên tàu xung công của Pháp: “Bộ đội Bình Xuyên, thủy quân đội”. Tên bộ đội Bình Xuyên nổi danh nhờ mấy trận đánh táo bạo vào nội thành. Địch đánh mạnh, tung hết lực lượng quyết chiếm Sài Gòn và vùng phụ cận. Ba Dương họp các chỉ huy lại, ra lệnh:
- Thế giặc mạnh, mình phải rút ra ngoài. Tất cả đơn vị phải kéo về Phước An, Long Thành để chấn chỉnh lực lượng.
Đại đội trưởng bộ đội Tân Thuận là Sáu Thơ theo đạo Thiên chúa bàn:
- Hôm nay nhằm hăm ba, không nên xuất quân.
Vì mê tín dị đoan mà đơn vị bị Tây đánh úp, mất một số vũ khí cất giấu ở chùa Phật.
Ngày thường vốn nghiêm nghị, đụng chuyện, Ba Dương càng giữ vững kỷ luật nhà binh. Em ruột là Sáu Làm tịch thu một ghe thuốc bắc, định bán xài riêng, bị Ba Dương rút súng bắn. Rất may là đạn nổ không trúng.
Bộ đội Bình Xuyên tập trung về Phước An được đồng bào làm heo tiếp tế linh đình. Ai nấy đều trông chờ Tây tới để xem bộ đội Bình Xuyên đánh giặc.
Ở Phước An vài ngày. Năm Hà ra lệnh rút ra Rừng Sác để tránh mũi nhọn của quân đội viễn chinh Pháp. Ba Dương bận họp với Khu trưởng Nguyễn Bình mấy ngày. Chừng về Phước An thì bộ đội đã rút đi rồi. Lập tức Ba Dương tìm Năm Hà rầy một dữ dội:
- Bà con Phước An đã nuôi bộ đội Bình Xuyên như con cưng, ngày ăn ba bữa, heo, bò, gà, vịt, không thiếu thứ gì. Vậy mà Tây chưa tới, tụi bây đã chạy trước, bỏ đồng bào bơ vơ. Như vậy coi sao được?
Năm Hà và các cấp chỉ huy lặng thinh nhìn nhận khuyết điểm.
Tại Ba Doi, Ba Dương thống nhất các đơn vị, gồm có:
1. Bộ đội Thủ Thiêm khoảng 60 tay súng do các anh Mười Lực, Bảy Môn và Tám Hoe chỉ huy.
2. Bộ đội Tân Thuận gồm 110 tay súng do Sáu Đối chỉ huy.
3. Bộ đội Nhà Bè khoảng 50 tay súng do Chín Soái, Hai Nhị chỉ huy.
4. Bộ đội Phú Nhuận-Tân Bình khoảng 30 tay súng do Tư Huỳnh chỉ huy.
CHƯƠNG 24
Hội nghị quân sự tại nhà Hội đồng Đống đem lại một kết quả hết sức bất ngờ cho mọi người. Trong hội nghị này, Bảy Viễn không quan tâm đến chuyện bầu cử, vì Chi đội 9 của hắn nằm ngoài Mặt trận số 4. Hắn chỉ quan tâm có một người: con gái Hội đồng Đống. Lúc cô mang trà thuốc lên mời khách. Bảy Viễn ngó lom lom. Cô nàng đẹp khác thường cái đẹp của một phụ nữ nửa thành thị, nửa nông thôn. Nhất là con gái nhà giàu suốt ngày ở trong nhà, trắng da dài tóc. Đã có ba bà vợ rồi, nhưng vốn là “hạm”, Bảy Viễn không hề bỏ qua một con mồi béo tốt nào.
Vài ngày sau, Hội đồng Đống nhận được món quà đặc biệt: một hộp “bít-qui” gói giấy kiếng đỏ, thắt nơ vàng. Mở ra thấy một khẩu súng sáu mới toanh và một bức thư cầu hôn ký tên Lê Văn Viễn, Ủy viên quân sự.
Hội đồng Đống ngạc nhiên khá lâu. Đây là quà cưới có một không hai. Ai lại tặng quà khẩu súng sáu? Phải chăng chàng rể biết ông già vợ thích súng sáu để làm oai với dân làng? Hay là chàng rể cảnh cáo ông già vợ: “Gả con cho tôi, hay là ông lãnh một viên kẹo đồng?”.
Hội đồng Đống hỏi con gái cưng:
- Lúa, con ưng Bảy Viễn không?
Cô con gái cưng đỏ mặt không đáp.
Hội đồng Đống hiểu ý, im lặng tức là đồng ý.
- Con không biết Bảy Viễn là tướng cướp…
- Ư hử, bây giờ ông ta là Ủy viên quân sự mà… theo cách mạng thì người ta đổi tánh đổi nết đi chớ…
- Chưa chắc! Sách có chữ “ngựa quen đường cũ”. Nhưng mà con đã đồng ý thì ba gả. Như vậy cũng hay. Vì nếu con từ chối thì kẹt cho ba - Ông chỉ khẩu súng đặt trên bàn.
Thế là “bất chiến tự nhiên thành”. Bảy Viễn có thêm một chiến công hiển hách trong chuỗi chiến công dài sọc của y. Lễ cưới được tổ chức rình rang và có mặt hầu hết các tay anh chị nay là chỉ huy trưởng bộ đội này, tư lệnh lực lượng kia. Tuy biết “quan nhất thời, dân vạn đại” nhưng nhà gái vẫn bị thoái rởm đời làm cho chóa mắt: “Làm vua hồi nào vuốt râu hồi ấy”.


***


Làm tiền luôn luôn là mối bận tâm của Bảy Viễn từ khi trở về thành phố. Thời cuộc đổi mới bắt buộc Bảy Viễn thay đổi cách thức “đi hát”. Với danh nghĩa là chỉ huy trưởng bộ đội Phú Thọ, sau đổi là Chi đội 9, Bảy Viễn làm tiền dễ dàng hơn trước nhiều bằng cách sung công tiệm này, bắt bớ người nọ rồi cho chuộc dưới hình thức “cúng vô quỹ nuôi quân”. Một trong những mục tiêu của Bảy Viễn là Ba Qui cũng gọi là “Hắc công tử” để phân biệt với “Bạch công tử” Phước Geoges là ông bầu gánh hát cải lương. Ba Qui có tên cúng cơm là Trần Trinh Qui, sau đổi Qui thành Huy, con của Hội đồng Trần Trinh Trạch khét tiếng ở Bạc Liêu. Hội đồng Trạch là chủ điền “cò bay thẳng cánh” và cũng là chủ ruộng muối, “chó chạy cong đuôi”. Ba Huy là công tử Bạc Liêu đi Pháp học, về nước không đỗ đạt gì ngoài cái bằng lái xe hơi và “nhảy đầm”. “Bạc Liêu là đất quê mùa, dưới sông cá chốt, trên bờ Tiều châu” Ba Huy đóng đô ở Sài Gòn, chỉ về thăm cha vào dịp Tết và cũng là để chia lúa ruộng đem lên Sài Gòn xài phá. Ba Huy nổi tiếng chơi “ngông” nhưng không ngon bằng Phước Georges. Một trong giai thoại thường được truyền miệng là Bạch công tử đốt tờ giấy “hoảnh” (vingt- tức giấy 20 chục đồng) giúp Hắc công tử tìm tờ giấy “con công” (giấy 5 đồng) rớt dưới ghế trong rạp Moderne ở đường Đết-pan (1).
Nhà của Ba Huy là một biệt thự, kín cổng cao tường, ngoài bầy chó “béc-giê” còn có năm ba tên vệ sĩ toàn là tay võ nghệ cao cường. Trước kia, võ sĩ Chà Kid Sôcôla, từng thượng đài đấu với Sáu Cường, ăn ở luôn trong nhà Ba Huy. Về sau, Sôcôla già yếu bệnh hoạn như con “chó có lát” (chơi chữ “Chocolat”) Ba Huy nuôi tên Kid Aman, một võ sĩ đang lên.
Bảy Viễn định bắt cóc Ba Huy nhưng chưa tìm được người đủ dũng cảm và mưu trí. Một hôm, tài xế Tư Sạch của ông ta giới thiệu một thanh niên trạc 30, người lùn như vạm vỡ như một võ sĩ.
- Tôi là Tám Tâm, có thể bắt Ba Huy về cho ông.
Bảy Viễn nhìn Tám Tâm không chớp:
- Anh làm cách nào lọt vô trong nhà nó được? Vô lọt rồi, anh làm sao đương cự nổi đám “gạc-đờ-co” của nó? Có thằng Kid Aman, vô địch quyền anh hạng lông…
- Tôi bắn súng được hai tay và bắn chính xác.
Bảy Viễn bảo gia tướng trao súng cho Tám Tâm. Trên tường có treo tấm lịch vẽ hình cô gái đẹp. Tám Tâm chỉ bức ảnh nói:
- Tay mặt, tôi lấy con mắt mặt, tay trái tôi lấy con mắt trái!- Nói xong anh nổ hai phát liên tiếp. Giai nhân trên tường trở thành cô gái mù.
Hai Hoành thấy Bảy Viễn có vẻ nể khách lạ, xấc láo hỏi:
- Còn nghề võ thế nào?
- Cũng tạm xài được!
Hai Hoành liền nhảy nhót, giọng khiêu khích:
- Xin mời!
Tám Tâm nhìn Bảy Viễn:
- Ông cho phép?
Bảy Viễn gật. Tám Tâm bước tới. Chờ Hoành nhảy nhót một lúc, bất ngờ lao tới đấm mạnh. Hoành nhảy tránh nhưng quả đấm bất ngờ ấy trúng ngay hàm hạ khiến hắn trẹo hàm. Hoành đổ quạu nhưng Bảy Viễn cho ngưng trận đấu.
- Đủ rồi!- Đưa Tám Tâm về văn phòng, y hỏi- Anh có cách nào lọt vô nhà Ba Huy?
- Ông cho tôi ba bộ đồ lớn, may thật “síc”, một cây can cán bịt vàng và một ngàn đồng bạc. Tôi sẽ bắt cóc Ba Huy về đây cho ông. Ngày nào tôi bắt về, tôi sẽ cho ông hay để ông cho mượn một chiếc xe Huê Kỳ và cả tài xế.
Một tuần sau, Tám Tâm đóng vai khách làng chơi tới nhà Tuyết Lan, đường Chasseloup nay là Nguyễn Thị Minh Khai. Đây là sòng bạc loại sang mang tên chủ là Nguyễn Thị Tuyết Lan, vợ bé của Ba Huy. Thua hay được gì, Tám Tâm cũng ăn tiêu rộng rãi, rất mực hào hoa. Đến ngày thứ ba, Tám Tâm ngỏ lời cùng bà chủ, muốn đến chơi tại nhà cậu Ba Huy cho “xứng đào, xứng kép”. Tuyết Lan thấy Tám Tâm là khách “xộp” vui vẻ nói chuyện và hẹn ngày giờ. Đúng vào ngày giờ đã định. Tám Tâm đi xe Huê Kỳ tới, tài xế nhấn kèn theo ám hiệu. Tức thì cánh cửa sắt mở toang cho xe vô. Đám bảo vệ chỉ thấy một mình Tám Tâm trên xe, ăn mặc sang trọng, yên chí lớn, đưa tận thềm, Tám Tâm ung dung trình giấy mời của Lê Văn Viễn gởi cho Ba Huy “về việc sẽ cho biết sau”...
Vừa thấy chữ ký dưới tên Lê Văn Viễn, Ủy viên quân sự, Ba Huy tái sắc. Hắn toan điện thoại báo động thì Tám Tâm nhanh tay chặn lại, vỗ khẩu súng giấu bên hông.
- Ông báo động là ông chết ngay tại đây. Tốt hơn là ông nên thay đồ đi theo tôi đến gặp ông Ủy viên quân sự.
Ba Huy mở tủ sắt, hốt bạc đầy hai tay đặt lên bàn:
- Các ông muốn bao nhiêu, xin cứ tự tiện. Và xin cho tôi được yên thân.
Tám Tâm thấy trong tủ sắt đầy ắp bạc, vàng, hột xoàn, anh khoát tay bảo:
- Ông cất vô hết đi! Chúng tôi không phải ăn cướp. Nếu muốn, chúng tôi đánh ngân hàng, còn nhiều gấp trăm ngàn lần tủ sắt của ông. Tôi chỉ lãnh nhiệm vụ đi mời ông thôi. Một lần nữa, yêu cầu ông thay đồ đi theo tôi. Xin nói trước là tánh mạng ông được bảo đảm an toàn.
Ba Huy riu ríu thay đồ lên xe đi với Tám Tâm. Bị kè súng, Ba Huy không dám làm ám hiệu với đám bảo vệ, chiếc xe từ từ ra khỏi cổng, phóng nhanh về tổng hành dinh Bảy Viễn đặt lại biệt thự Song Tùng ở Phú Thọ Hòa.
Tám Tâm đã hoàn thành xuất sắc công tác đầu tiên để được nhận vào Chi đội 9.
Anh đã tiếp tay làm “kinh tế mạo hiểm” cho Bảy Viễn, nhưng đây là một chuyện bất đắc dĩ. Phải “tạo thành tích để lọt vào hang hùm”. Anh được tổ chức bố trí thâm nhập bộ đội Bảy Viễn để thay thế đồng chí Nguyễn Văn Tư, tự Tư Ca-rê, vừa lãnh nhiệm vụ chính trị viên Chi đội 9 không được bao lâu thì bị Tây bắt trong cuộc tấn công vào Tổng hành dinh Bảy Viễn tại Phú Thọ. Anh Tư Ca-rê bị Tây xử bắn ngay ngày ấy, ngày 6-1-1946 tại trường đua Phú Thọ. Có nghi vấn cho rằng bọn Lâm Ngọc Đường, Mô-rit Thiên dàn cảnh cuộc tấn công này với mục đích thủ tiêu người chánh trị viên ưu tú ấy. Lúc bấy giờ, nhận nhiệm vụ chánh trị viên trong các bộ đội Bình xuyên là chấp nhận một số phận cực kỳ mỏng manh, cái chết thảm khốc có thể đến bất cứ vào lúc nào...
Tám Tâm là tay thích mạo hiểm và phiêu lưu. Anh xuất thân con nhà nghèo, học chưa hết cấp một đã phải đi làm để kiếm sống. Thoạt tiên anh đi kéo dây điện trong thành phố, bị Tây bạt tai đá đít, căm, tức bỏ đi bán báo. Được cán bộ cách mạng giáo dục, anh xuống tàu Pháp lấy báo Cộng sản như Nhân đạo (L’Humanité), Người cùng khổ (Le Paria)... cho vào xấp báo Pháp xuất bản tại Sài Gòn, công khai đi phát báo bí mật cho các đồng chí hoạt động trong thành phố. Lớn lên, anh được các đồng chí giới thiệu học nghề sắp chữ và làm nhà in. Đây là nghề Tám Tâm thích nhất vì trong số các loại công nhân, thợ sắp chữ nhà in tương đối tiến bộ nhất vì được kề cận với văn nhân ký giả. Anh hãnh diện khi biết Bí thư Quốc tế Cộng sản là đồng chí Đi-mi-trốp người Bun-ga-ri, cũng xuất thân là công nhân nhà in.
Nhiệm vụ của Tám Tâm trong Chi đội 9 là nắm cho được văn phòng, bí mật theo dõi công văn giấy tờ và các mối giao du của Bảy Viễn, mặt khác đi sát đội viên mà đa số là dân lao động để giáo dục họ biết vì dân mà chiến đấu chứ không phải sẵn súng đạn mà đi ăn cướp...

Chú thích:
(1) D'Espagne nay là Lê Thánh Tôn
CHƯƠNG 25
Tây cố sức đánh bật vòng đai bộ đội đóng ở ngoại thành.
Hai Vĩnh bàn với ông Tám:
- Tây mà chiếm lại Chánh Hưng thì nó lột da mấy cha con mình đóng giày. Mình chỉ có nước đánh tơi tới thôi.
Ông Tám cũng thấy trước như vậy nên đã chuẩn bị đâu đó xong hết, chỉ hô một tiếng là tất cả xuống ghe chống vô Rừng Sác. Tiếng hô đó là trận đánh đồn Ông Vĩnh, xã Chánh Hưng. Hai quận Nhà Bè và Cần Giuộc đều bị chiếm, không thể đóng quân trong xã Chánh Hưng được nữa. Thế là tất cả rút lui có trật tự. Sông Soài Rạp dập dìu tàu tuần, băng qua sông là chuyện “giảm kỷ”, nếu không cũng là chuyện “bạc đầu”. Chiếc chài binh công xưởng đành phải bỏ lại sau khi gỡ máy từng bộ phận đưa xuống các ghe nhỏ qua sông theo kiểu du kích, tàu tuần vừa khuất dạng là cắm đầu chèo một mạch như chạy đua với tử thần.
Đầu năm 1946, bộ đội Bình Xuyên lần lượt rút khỏi Sài Gòn, theo sông Lòng Tàu hoặc Soài Rạp vô Rừng Sác. Nhóm Ba Dương, Năm Hà đóng vùng Phước An, Phước Thọ, Vũng Gấm thuộc huyện Long Thành; còn Hai Vĩnh và gia đình bên vợ đóng đô ở núi Nứa, Bà Trau, một cù lao nằm giữa Bà Rịa và Vũng Tàu. Công việc đầu tiên của Hai Vĩnh là đắp nền cất trại chuyển máy từ dưới ghe lên lập binh công xưởng sản xuất lựu đạn. Vùng núi Nứa dân chúng hầu hết theo đạo ông Trần. Đây là một nhánh của Phật giáo nhưng biến dạng, với những đặc điểm là đàn ông cũng để tóc dài như đàn bà, khó phân biệt nam nữ nếu ta chỉ nhìn sau lưng. Có lần Tây nhảy dù xuống đây, thấy toàn đàn bà, bọn lê dương khoái chí ra sức đuổi bắt. Đến chừng tóm được một đầu tóc, thì mới thấy giai nhân hóa thành “đực rựa”. Ngoài chuyện để tóc, ngôn ngữ ở đây cũng có nhiều biến dạng, đường gọi là mật, cau gọi là lọn.
Đền thờ ông Trần, kiến trúc trang nghiêm. Ông Trần tên thật là Lê Văn Mưu, quê Châu Đốc, tới khai phá đảo Long Sơn thời Chúa Nguyễn. Ông Trần sống đúng theo câu “đầu đội trời, chân đạp đất”, suốt đời không đội nón, mang giày và mặc áo. Khi chết cũng chôn Trần, cắm bốn cọc, tượng trưng cho mồ mả. Ông ăn toàn đậu xanh thay cơm. Cháu đích tôn của ông Trần là Hai Dần và Ba Em. Hai Dần lo thờ phượng, tánh tình hiền lành, còn Ba Em thì ngang bướng chơi bời. Với tư cách là chỉ huy trưởng Trung đội số 2, Hai Vĩnh đến thăm xã giao những người giữ đền, Hai Dần mời Hai Vĩnh vào Nhà Lớn. Nhà thờ có treo quạt lông công cán dài, kiểu triều đình. Các gối dựa vuông có thêu rồng phụng…
Nhận thấy đạo ông Trần có nhiều người theo, Hai Vĩnh quyết tranh thủ hai anh em Hai Dần và Ba Em. Cách hay nhất là nêu cao kỷ luật, bộ đội không động tới trái ớt, trái cà của dân, đóng nhà nào tiếp tay giúp việc nhà ấy. Sau một thời gian bộ đội Hai Vĩnh gây được cảm tình với nhân dân núi Nứa. Hai Vĩnh thấy bộ đội của Tư Hoạnh chưa có nơi ổn định, kéo Tư Hoạnh về đóng trên Sơn Long, cũng trên cù lao Bà Trau. Từ ngôi chùa trên núi Nứa, mắt trần có thể trông thấy bãi trước Vũng Tàu.
Một hôm, Hai Vĩnh nhận được thư của khu trưởng Nguyễn Bình mời tới Bà Rịa có việc cần. Đến nơi thì biết đây là vụ bắt Ba Nhỏ. Ba Nhỏ là dân anh chị lưu lạc giang hồ đầu tiên ở Xóm Củi, sau qua vùng Thị Nghè, Bà Chiểu. Vụ thảm sát Cité Hérault ở Tân Định, có dấu hiệu cho biết đây là “thành tích” của Ba Nhỏ. Trong những ngày ta phong tỏa thành phố Sài Gòn, Ba Nhỏ cưỡi ngựa mang gươm tuần tiễu dọc sông Cầu Bông. Một hôm hắn thấy dân quân ở bến đò bắt một người đàn bà giấu một ký thịt trong giỏ xách, toan qua Tân Định. Người này thú nhận có con gái và hai đứa cháu ngoại kẹt trong thành. Bà sợ cháu ngoại đói. Đúng vào lúc đó, Ba Nhỏ cưỡi ngựa đi ngang qua. Chưa nghe hết đầu đuôi, Ba Nhỏ nhảy xuống ngựa rút gươm xô người đàn bà kia quỳ xuống chặt đầu.
Cảnh tượng thương tâm ấy làm cho dân càng oán hận bọn cầm quyền quân phiệt. Nạn nhân tên là bà Fondeau ở Bà Chiểu.
Ba Nhỏ rút quân ra Bà Rịa sau khi Mặt trận Thị Nghè, Bà Chiểu bể. Đi tới đâu, Ba Nhỏ nhũng nhiễu tới đó, bắt chánh quyền phải nạp tiền nuôi quân; đóng nhà nào có gái đẹp, hắn cưỡng hiếp thô bạo. Thư các nơi gởi thưa Ba Nhỏ rất nhiều, trong đó có cả đơn của UBND tỉnh Bà Rịa. Khu trưởng Nguyễn Bình quyết xử Ba Nhỏ để làm gương. Trong công văn quyết định bắt xử Ba Nhỏ, Nguyễn Bình viết: “Tôi được Trung ương cử vào Nam để thống nhất các lực lượng võ trang và nêu cao kỷ luật quân đội cách mạng. Cha mẹ hay anh em tôi mà phạm tội, nếu là tội đáng tử hình, chính tôi đây là đao phủ”.
Khu trưởng Nguyễn Bình ra lệnh cho Huỳnh Công Vinh, Trưởng ty Công an Bà Rịa bắt, nhưng Vinh không bắt được vì Ba Nhỏ có lực lượng vũ trang mạnh. Được biết Ba Nhỏ là dân giang hồ, chỉ nể các tay anh chị, Vinh đề nghị giao công tác này cho Hai Vĩnh.
Lúc Hai Vĩnh tới Bà Rịa thì Ba Nhỏ đang tìm bắt Dương Bạch Mai là người ký giấy bắt Ba Nhỏ. Hai Vĩnh cùng một bảo vệ tên Cách, một tay bắn mi-trai-đết cừ khôi, đến thánh thất Cao Đài gặp Ba Nhỏ. Thấy Hai Vĩnh, Ba Nhỏ trao cây mi cho tên vệ sĩ, bước tới chào:
- Anh Hai, đ.m, không biết tại sao Ủy viên thanh tra miền Đông Dương Bạch Mai ký giấy bắt tôi? Anh Hai đi đâu đây? Đi bắt tôi phải không?
Hai Vĩnh ôn tồn:
- Bắt Ba Nhỏ đâu phải là chuyện dễ? Tôi đến đây để làm nhịp cầu thông cảm giữa Khu trưởng Nguyễn Bình và Ba Nhỏ.
- Nhịp cầu thông cảm? Anh nói gì vậy?
- Anh hùng tử chớ khí hùng nào tử! Tôi nghĩ rằng anh Ba nên theo tôi đi gặp Khu trưởng Nguyễn Bình để trình bày mọi việc hơn là tránh né thế này. Thái độ ngang bướng của anh Ba càng làm người ta ngộ nhận là anh Ba tính đi theo con đường của Phan Tấn Đạt…
Ba Nhỏ ngẫm nghĩ im lặng. Hai Vĩnh nói tiếp:
- Đi với tôi anh Ba! Trắng đen thế nào tôi không biết, nhưng tôi hứa danh dự với anh Ba là không ai động tới anh Ba khi có tôi bên cạnh.
Ba Nhỏ nghe theo, đi với Hai Vĩnh gặp Huỳnh Công Vinh, Vinh trình giấy bắt cho Ba Nhỏ xem, Ba Nhỏ cau mày nhìn Hai Vĩnh, Hai Vĩnh khuyên:
- Anh Ba nên tôn trọng kỷ luật. Anh nên giao súng. Chuyện đâu còn có đó. Tôi đã đề nghị với anh Vinh là phải đối xử với anh Ba khác thiên hạ. Đây là một tay giang hồ có cỡ.
Nghe lời Hai Vĩnh, Ba Nhỏ trao súng cho Huỳnh Công Vinh, bó mình chịu tội.
Phiên xử Ba Nhỏ được tổ chức tại chùa Phước Lai, gần Chợ Mới, Long Thành. Hai Vĩnh bận công tác không dự được. Nhưng ông Tám Mạnh có mặt và kể lại cho Hai Vĩnh nghe giờ cuối cùng của Ba Nhỏ:
- Thật xứng đáng là một tay anh chị.
Thành phần tòa án gồm có Khu trưởng Nguyễn Bình, Ba Dương, Tám Mạnh. Trước phiên xử, ba đồng chí này đã nhất trí với bản án tử hình để làm gương trong ba quân. Không biết do đâu là tin này lọt ra ngoài, một số tay anh chị làm kiến nghị xin giảm án để Ba Nhỏ “đoái công chuộc tội”. Mười Lực yêu cầu ký tên trước nhất vì anh em nghĩ rằng tên tuổi Mười Lực có uy với ba ông đang ngồi xử. Mười Lực nghĩ là nếu phải xử tử để làm gương thì không chỉ một mình Ba Nhỏ mà trong số các tay anh chị có mặt tại đây cũng có kẻ đáng tội tử hình hơn Ba Nhỏ nữa kia. Nghĩ vậy, Mười Lực mạnh dạn ký. Một lúc sau bản kiến nghị được trình lên Khu trưởng Nguyễn Bình. Sau khi đọc xong, Nguyễn Bình nói nhỏ với Ba Dương một lúc, kế Ba Dương xuống tìm Mười Lực kéo ra xa.
- Khu trưởng yêu cầu anh rút lại chữ ký…
- Vì lý do gì? - Mười Lực hỏi như gây.
- Bộ đội cách mạng là của dân, vì dân, do dân. Quân với dân như cá với nước. Mình phải ở sao cho dân thương thì dân mới nuôi nấng, giúp đỡ mình đánh Tây thắng lợi. Đằng này Ba Nhỏ coi dân không ra gì, tới đâu cướp bóc, hãm hiếp tới đó, khu trưởng và chúng tôi quyết định xử tử Ba Nhỏ để làm gương. Dù cho các anh ký mười bản kiến nghị cũng vô ích. Tốt hơn là anh nên xóa tên trước khi tòa tuyên án, kẻo mất uy tín…
Mười Lực nghe được, vội xóa tên trong bản kiến nghị.
Ba phát súng báo hiệu phiên toà bắt đầu. Ba Nhỏ được đưa ra trước vành móng ngựa. Hắn rất bình tĩnh nhìn thẳng những người ngồi xử mình. Thừa phát lại đọc bản tội trạng dài sọc. Công tố viên buộc tội rồi biện hộ sư xin tòa giảm án. Sau mười lăm phút nghị án, Khu trưởng Nguyễn Bình nhân danh chánh án tuyên án “Ba Nhỏ đáng tội tử hình và bản án được thi hành ngay tại chỗ”.
Ba Nhỏ không một chút xúc động:
- Cám ơn anh Ba đã chỉ rõ những sai lầm của tôi. Tội tôi làm tôi chịu. Xin tòa cho một ân huệ cuối cùng: để tôi tự xử lấy. Anh Ba, cho mượn cây súng của anh.
Nguyễn Bình tháo súng, đưa cho Ba Nhỏ. Tay mặt cầm súng, tay trái chỉ ngực, Ba Nhỏ hỏi như đùa:
- Chỗ này chết không? - Ngón trỏ hắn dịch xuống bụng; chỗ này chết không?
- Rồi hắn bóp cò. “Cạch!”. Tiếng cò vang lên trong không khí im lặng như tờ. Không một ai dám thở mạnh. Ba Nhỏ cười vang:
- Đến giờ phút này mà anh Ba vẫn còn chưa tin tôi. Anh Ba, cho xin gấp đạn khác!
Lần này thì đạn nổ thật và Ba Nhỏ đã đền tội.
Nghe ông Tám Mạnh kể lại cái chết của Ba Nhỏ, Hai Vĩnh rất tiếc là mình không có mặt tại phiên xử, biện hộ cho Ba Nhỏ. Thái độ tự ý nạp mình của Ba Nhỏ đáng được hưởng đặc ân giảm khinh để lập công chuộc tội.
Sau hội nghị An Phú xã, Nguyễn Bình điểm qua các bộ đội ở miền Đông Nam bộ.
Đúng như ông nhận định trước đó, bộ đội Bình Xuyên của Ba Dương tương đối hùng hậu hơn hết. Để tạo cho mình uy thế, Nguyễn Bình nhất định liên kết với Ba Dương để nắm Bình Xuyên. Cách liên kết hữu hiệu nhất là nâng Ba Dương lên chức khu bộ phó. Nghĩ sao làm vậy, Nguyễn Bình xuống Phước An là nơi Ba Dương đóng quân. Vào đầu tháng 12-1945, ông lấy giấy trong sắc- cốt ra viết liền một mạch:


Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc




GIẤY BỔ NHẬM


Nguyễn Bình, Khu bộ trưởng khu thứ 7 nước Việt Nam bổ nhậm đồng chí Dương Văn Dương là khu bộ phó.
Ký tên chữ Bình ở trên, nguyên chữ Nguyễn Bình ở dưới.
Chỉ vỏn vẹn có một câu, cũng chẳng có đóng dấu. Nhưng đây là một quyết định quan trọng đối với Ba Dương và bộ đội Bình Xuyên. Nó động viên tinh thần tất cả mọi người. Nhưng nhiệm vụ Nguyễn Bình giao cho Ba Dương còn quan trọng hơn. Ông nói:
- Tình hình ở đây tương đối ổn. Nhưng còn Khu 8 và Khu 9. Tôi đóng ở Thủ Dầu Một còn anh đi xuống dưới, vừa đi vừa đánh, thu nhận các nhóm lẻ tẻ. Anh đi một vòng rồi về đây. Chắc chắn là tình hình sẽ dễ chịu hơn. Ngay từ bây giờ, anh hãy chuẩn bị sẵn sàng chuyến viễn chinh này.
CHƯƠNG 26
Đầu năm 1946, Ba Dương triệu tập hội nghị tại Rạch Su trình bày việc đưa quân xuống tăng cường chiến khu Bến Tre, tiếp cứu mặt trận An Hóa – Giao Hòa bị Tây uy hiếp nặng.
Theo lệnh Khu trưởng Nguyễn Bình, Ba Dương chỉ thị cho các bộ đội chọn đơn vị có thành tích lập liên quân đi Bến Tre. Đích thân ông chỉ huy đại đội Tân Thuận trong chuyến đi này.
Năm Hà được giao trọng trách thủ trại.
Bây nhờ nhằm cuối tháng chạp, Tết cũng gần kề. Nhiều người ngại đánh giặc trong mấy ngày giáp Tết, nhưng không ai dám nói ra.
Tại Nhà Tròn, xã An Thới Đông, các cánh quân Nhà Bè, Tân Thuận, Tân Quy, Thủ Thiêm tổ chức ăn Tết trước đồng bào ba ngày. Đây là một cái Tết khó quên giữa sông cái mênh mông và rừng xanh chằn chịt. Khung cảnh giống hệt vùng Lương Sơn Bạc.
Tám giờ đêm 30 Tết, tất cả vượt sông Soài Rạp, theo vàm Bao Ngược tới đóng quân ở xã Tân Dân trước bốn giờ sáng mùng một Tết Bính Tuất. Vừa đi vừa đánh tạo khí thế. Cánh Nhà Bè đánh Cần Giuộc, cánh Tân Thuận đánh Cần Đước, cánh Tân Quy đánh Chợ Trạm. Ngày hôm sau, các cánh tới Bình Phục Nhứt trong quận Chợ Gạo. Dù mệt nhoài anh em vẫn đào công sự phục kích địch trước khi hành quân vô tỉnh Bến Tre. Nhưng đến bờ Nam Cửa Tiểu thì được tin mặt trận An Hóa Giao Hòa đã mất. Bộ chỉ huy quyết định kéo qua xã Châu Bình đánh đoàn tàu ghe thực phẩm. Ba Dương đích thân chỉ huy cánh quân Tân Thuận phục kích tại ngã ba Giồng Trôm, sau đó rút về xã Bình Khương. Mối quan tâm của Ba Dương là lập liên quân.
Khi kéo đại bộ phận xuống Gò Công gặp bọ đội Hai Lung, Ba Dương đề nghị thống nhất lực lượng. Hai Lung là con nhà giàu làm nghề lưới biển bị phá sản. Đang học ban tú tài, anh xin qua học trường Bá nghệ để sớm đi làm kiếm sống. Tốt nghiệp, anh bị bắt đi hạ sĩ quan trong đại đội 7 lính thợ pháp thuộc địa (ème Compagnie d’Ouvriers d’Artillerie Coloniale – COAC). Đến lúc Nhật đảo chánh Pháp, Hai Lung trốn về Gò Công và được giao chỉ huy quân đội Cộng hòa tự vệ, lực lượng trên ba trăm quân. Anh rể Hai Lung là Maurice nhắn Hai Lung về giữ chức phó tỉnh trường, nhưng Hai Lung viết thư nói rõ mỗi người một mặt trận. Đất ai nấy giữ. Đơn vị của Hai Lung có điểm đặc biệt là bộ ba chỉ huy đều là cựu học sinh trường máy do Tây đào tạo, đó là trường Kỹ nghệ thực hành. Hai chỉ huy phó của Hai Lung là Ba Trứ và Ba Hậu.
Tới Bình Đại, Ba Dương triệu tập hội nghị bàn về phối hợp lực lượng giải giới Đệ tam sư đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp đã có hành động quân phiệt làm nhân dân ta thán. Đến dự có Hai Lung, Trương Văn Giàu, Bùi Sĩ Hùng. Trương Văn Giàu là chỉ huy Cộng hòa Vệ binh, Bùi Sĩ Hùng là sinh viên y khoa. Đang hội nghị tại Giao Hòa thì nghe tin Tây sắp tấn công. Hai Lung dàn quân nghênh chiến, còn Ba Dương rút qua sông Ba Lai đóng tại Châu Phú theo kế hoạch đã định.
Hai chiếc Xpít-phai (Spitfire) lên bắn phá dọn đường cho bộ binh. Trong lúc chưa đào phòng tuyến, Ba Dương chạy ra cây rơm sau nhà trú quân. Ông xoay quanh cây rơm vừa tránh đạn vừa ra lệnh cho đơn vị tản khai. Không may trúng đạn tử thương. Cái chết bất ngờ của Ba Dương khiến lực lượng Bình Xuyên trên đường hành quân xa phải quay trở về.
Ăn Tết được vài ngày, Năm Hà đang ở Tam Thôn Hiệp thì trình sát thuộc đại đội 2 chi đội 3, tốc xuồng về báo tin buồn: “Anh Ba Dương tử trận ở Bến Tre rồi anh Năm ơi!”. Tin như sét đanh bên tai khiến mọi người bàn hoàng. Năm Hà nhớ lại ngày ra đi, anh Ba dặn riêng: “Chú phải giữ kỹ anh em, đừng để chúng xách súng đi lung tung. Bây giờ mình là bộ đội cách mạng rồi”. Càng suy ngẫm, càng thương tiếc không nguôi…


*
* *


Cũng trong khoảng thời gian đó, Chi đội 2 mất vị chỉ huy. Trong cuộc càn tại Rạch Mới, Từ Văn Ri trúng đạn khi băng qua rạch. Năm Chảng lên năm quyền chỉ huy.
Lúc này cũng là lúc Pháp đang cho các giang đỉnh càn quét. Năm Hà và đội chỉ huy của Bảy Rô rút vô Tam Thôn Hiệp. Trời mưa dầm dai dẳng, gió rít từng cơn, dưới sông Lòng Tàu nước cuộn sóng, xa xa nghe tiếng máy màu tuần xình xịch lúc xa lúc gần. Năm Hà cùng anh em rút vô ngôi đình gần bờ sông cái, lòng buồn không thể tả. Trong đời giang hồ của Bảy Rô, chưa lúc nào thấy bi quan như lúc này. Chủ tướng tử trận, lực lượng phân tán, địch càn mạnh, trời như thông cảm tâm trạng của những kẻ thất cơ, sụt sùi mưa gió.
Một lúc sau, tiếng “xình xịch” tàu tuần nhỏ dần rồi im bặt. Tàu đã đi xa rồi nhưng cơn mưa vẫn còn rả rích lê thê. Bảy Rô vốn tánh hiếu động, nhìn quanh thấy ông từ đang nấu nước pha trà. Anh đến gạ chuyện:
- Bác năm nay được mấy mươi? Trụ trì tại đình này từ bao giờ? Đình này thờ thần nào vậy?
Ông từ nhìn Bảy Rô rồi thong thả trả lời:
- Năm nay tôi đúng lục tuần, già rồi nên xin vô đình trông nom nhanh khói để dưỡng già. Vô đây cũng được năm sáu năm. Còn đình thờ ai thì thú thật tôi không rõ, vì ít ai dám mở sắc thần ra xem. À, cách đấy mấy năm, có nhà khảo cổ xin phép mở sắc thần. Theo ông ta, thì đình này thờ các chiến sĩ trận vong của vua Tây Sơn đã đánh cháy thuyền của tên Mạn Hòe. Tên hải tặc này là người Pháp, đánh giặc thuê cho vua Gia Long lúc còn mang tên Nguyễn Ánh. Trận đánh này diễn ra từ nữa Cần Giờ đến Ngã Bảy, trước đây trên một trăm năm mươi năm…
Năm Hà cùng đám Ba Ray, Chín Mập đều xúm lại ngồi quanh nghe chuyện đời xưa. Năm Hà vừa nhắm trà vừa hỏi:
- Ông có phải là người vùng này không?
Ông từ gật:
- Tôi sanh ra tại đây, lớn lên làm nghề chài tại đây và – ông cười hiền lành – chừng chết cũng chôn tại đây…
Năm Hà liền hỏi:
- Từ lâu tôi muốn gặp người địa phương để hỏi về miền đất này. Tại sao lại gọi là Rừng Sác? Có người viết Sác với chữ T, có người viết Sác với chữ C. Cái nào trúng, cái nào sai?
Ông từ lắc đầu:
- Về chữ nghĩa thì tôi không rành. T hay C, tôi không được rõ. Nhưng vùng này thì tôi biết nhiều hơn ai hết vì tôi chuyên nghề chài lưới trên sông. Tôi nghe ông bà cắt nghĩa như thế này: Rừng Sác là rừng nước mặn trên bãi sình lầy. Bởi vậy cho nên có cây Sác, mướp Sác. Vùng này sông rạch lớn nhỏ chằn chịt, nhưng lớn nhất là hai con sông Lòng Tàu, Soài Rạp. Ở đây có rất nhiều tắt tức là những con rạch ngắn nối hai khúc sông rạch khác. Tắt Chàng Hảng nối liền hai sông Lòng Tàu và sông Soài Rạp. Chỗ nước xoáy, nguy hiểm cho ghe thuyền đi lại. Có nhiều tên lạ như Ăn Thịt; sau này người ta đọc trẹo là An Thịt, nhưng thật ra là Ăn Thịt. Nơi đây có nhiều cọp, khách thương hồ chết về nạn cọp vồ nên mới có cái tên như vậy. Có nơi mang tên dễ sợ như ngã ba Chó Tru. Chỉ rõ nơi này hoang vắng đến nỗi chó cũng phát sợ… Đi ngược về miệt Long Thành, có nơi cảnh đẹp mang tên là Vũng Gấm. Trời nước long lanh như gấm vóc, nhưng tới đó phải coi chừng… sấu lên như củi mục…
Cả bọn giật mình lè lưỡi vì trước đây, khi chạy Tây, họ đã từng đóng quân tại Bàu Bông, Vũng Gấm, thuộc xã Phước An.
- Tại sao Vũng Gấm có nhiều sấu hơn nơi khác?
Ông từ suy nghĩ một lúc. Mắt ông nhìn đăm đăm bếp lửa như cố tìm hồi ức trong đống tro tàn:
- Ông thân tôi kể chuyện như thế này: Dân Nam Kỳ thích ăn thịt sấu, mà sông cái miệt mình rất hiếm sấu. Có một thằng Tây mãn lính xoay nghề đi buôn. Hắn ta sắm ghê lên Biển Hồ mua sấu chở về Sài Gòn bán. Đi hai ghe nhưng tới miệt Vũng Gấm thì sấu quậy chìm một ghe. Sấu ngày nay có lẽ là sấu chắt của mấy trăm con sấu nói trên.
Năm Hà cười:
- Tôi thì nghe người ta kể khác ông anh. Sông Bến Nghé rất nhiều sấu. Nghé là tiếng kêu của sấu chứ không phải của trâu. Bến Nghé là bến sấu.
Ông từ say sưa nói tiếp:
- Đó là thời xưa. Nhưng khi Tây tới, tàu bè đi lại trên sông tấp nập, sấu hoảng sợ rủ nhau tìm nơi vắng vẻ. Còn cọp thì lúc Tây chưa tới, cọp lền nghển miệt Cần Giuộc. Giữa ban ngày, Tết năm nào tôi quên mất rồi, cọp về tới chợ Tân Kiểng gây náo động. Có một nhà sư tên Tăng An ra tay đánh hổ như Võ Tòng trong Thủy Hử. Hạ được cọp rồi Tăng An cũng chết. Một nhà sư khác tên Tăng Ngộ cũng được bà con Cần Giuộc nhắc nhở về tại võ nghệ tuyệt trần đánh chết cọp.
Ông từ càng nói càng thêm hứng thú. Lâu ngày mới có nguời chịu nghe vốn sống của ông:
- Miệt Lý Nhơn có nhiều chuyện hay. Gần đó có một nơi gọi là Đá Hàn. Tàu lớn đên đây thường bị đụng đá hàn. Nghe nói là Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định đã ra lệnh cho nghĩa quân lên miệt Biên Hòa bắn đá dùng bè đưa về nhận chìm ở đó để ngăn tàu giặc. Mấy ông bà già ưa kể chuyện ngoài Quản Định đã đóng quân ở Lý Nhơn trước khi rút qua Đám Lá Tối Trời.
Đến đây, ông từ vụt cười xòa:
- Còn một chuyện này nữa: Vùng Rừng Sác ăn thông với miệt Chợ Đệm, nơi đây có xóm Ba Cụm chuyên nghề bối đại tài. Thuyền ghe đi qua đầy đều bị bối. Day qua day lại thì nồi cơm bắc trên cà-ràng đỏ lửa biến mất. Bọn bối ở đây lọi dưới nước giỏi như rái cá. Tôi có qua đó mấy lần. Lần nào cũng bị bối. Nhưng mình không hiểu tại sao dân Rừng Sác lại thích nghề lục lâm thảo khấu như vậy.
Ông từ vô tình đặt câu hỏi trước đám lục lâm thảo khấu chánh cống. Mọi người cười rộ. Nhưng sau cái cười vô ý thức đó, một chút đắng cay chua chát làm tê đầu lưỡi. Lão giữ đình đã khêu gợi vết thương lòng. Cả quãng đời cơ cực, tủi nhục hiện ra trước mắt họ. Sanh ra với hai bà tay trắng, họ phải bán sức lực để đổi láy bát cơm. Làm tá điền thì bị chủ đất coi như toi mọi.
Bảy Rô không thể nào quên những lời thủ thỉ của vợ mới về nhà chồng. Vợ anh đã kể lại chuyện đi Tết nhà tên chủ đất lúc chị mới lên mười. Nhà nghèo, cô bé phải mượn ái dài đi mừng tuổi chủ đất. Ba má phải mượn tiền trả góp để mua một ký hồng tươi, một cặp rượu chát cho con xách qua cúng ông bà tên chủ đất. Mới mười tuổi, nhưng cũng đã sơm biết căm tức, cô bé muốn bóp nát những trái hồng tươi, muốn đập tan hai chai rượu quý thay vì đem nạp cho vợ chồng tên ác độc khốn khiếp. Điều làm cô bé bất bình nhất là sau khi dâng quà Tết, phải lên nhà thờ lạy đủ hai mươi bốn bà thờ không sót một cái rồi mới đến chúc thọ ông bà chủ đất. Lòng căm thù ấy đã lây qua Bảy Rô; khi theo Mười Nhỏ, hễ nghe nói “đi hát” “ăn hàng” bọn điền chủ, là Bảy Rô tán thành ngay…
Đó là số phận của những người theo nghề nông. Còn những kẻ ra thành thị làm phu khuân vác thì bị nạn cặp rằn, cai thầu, đứng bên chuyên ăn chặn, ăn xới, ăn bớt trên mồ hôi nước mắt người lao động. Đó là chưa kể đến quán nhậu, tiệm thuốc, sòng bạc và nhà thổ. Không đủ tiền đóng thuế thân, họ phải sống theo kiểu “dân lậu”, như thằng Chơn, thằng Chó ơ xóm “săn-chê” – Đã là dân lậu thì không được vào hương chức hội tề, không được dự tiệc đình làng, không được kiện cáo bất cứ ai, dù kẻ đó hà hiếp, áp bức mình. Trong hòan cảnh đó, không làm nghề lục lâm thì làm nghề gì để sống cuộc đời đáng sống?
Bảy Rô toan trả lời, nhưng ông từ đã đi lấy nước mưa cho bình trà thứ hai. Để thay đổi không khí, Bảy Rô đề nghị Năm Hà kể chuyện “đi hát”:
- Có vụ nào làm cho làng lính Tây tà khiếp vía không anh Năm?
Năm Hà mỉm cười:
- “Đi hát” không phải là nghề của tao… Tuy vậy tao cũng biết chút đỉnh. Vùng Rừng Sác này rất thuận tiện cho giới lục lâm làm ăn. Đây là yết hầu của thành phố. Tàu buôn nước ngoài theo ngã Lòng Tàu vô Sài Gòn. Ghe thuyền từ Nam Vang hay lục tỉnh theo ngã sông Soài Rạp vô Chợ Lớn, cho nên các con kinh Cây Khô, Rạch Đỉa, Rạch Bàng ngày đêm tấp nập thuyền bè. Có những đoàn ghe chài hàng chục chiếc chở gạo, heo, bò, do tàu kéo chạy qua miễu Ông, rúc còi liên hồi nghe thật vui tai. Miễu Ông đây là miễu thờ Cá Ông, chứ không phải là thờ Ổng Bổn…
- Ông Bổn là ai vậy anh năm? – Chín Mập hỏi.
- Vùng này rất nhiều người Tàu, phần lớn là người Tiều. Họ qua đây trong nhóm mấy nghìn người “phù Minh diệt Thanh”. Ông Bổn là nhà hàng hải Trịnh Hòa, chỉ huy đoàn thương thuyền trên 200 chiếc. Trịnh Hòa được thờ như vị phúc thần gọi là Tảm Bảo Công, Bổn Đầu Công, gọi tắt là ông Bổn. Sống ở đây, người Tàu vẫn quên lề thối cũ là lập hội kín, mà nổi tiếng nhất là Thiên Địa Hội. Có hai nhóm, Nghĩa Hưng – gọi là Kèo xanh và Nghĩa Hòa gọi là Kèo vàng. Nghĩa Hưng là của người Phước Kiến, còn Nghĩa Hòa là của người Triều Châu (Tiều). Có chuyện buồn cười là dân mình cũng vô Thiên Đại Hội của người Tàu. Không ai đâu xa chính ông thân của tao đây. Ông ở nhóm Nghĩa Hòa “Kèo vàng”. Hồi đó tao còn nhỏ nhưng nghe lỏm các cuộc họp kín, còn nhơ tới bây giờ. Khách tới nhà luôn luôn xách dù. Dù không chỉ che nắng che mưa mà còn để làm ám hiệu. Móc dù ở cán vô trong là có người theo dõi. Đội nón cũng để làm ám hiệu. Nón úp thì ở lâu, nón ngửa thì đi liền. Nếu đi ghe thì chiếc gàu úp trên cần bánh lái là ám chỉ chủ ghe là người trong hội. Về sau tụi lính kín biết các mật hiệu, giả dạng hội viên để thâm nhập bắt bớ. Đằng mình cũng rút kinh nghiệm, hễ thấy khả nghi là truy tới cùng. Có nhiều cách truy. Chẳng hạn như quẹt một lúc năm ba que diêm cho lửa cháy phừng phừng lên, nếu là hội viên thứ thiệt thì khách sẽ đọc mấy câu thơ:


Hòn núi Diệm Sơn rất nêu cao,
Trực nhìn thấy ngọn lửa hỏa hào
Liều mình bước đại qua ngọn núi
Được gặp hiền lương kết nghĩa hào.

Ba Bay liền hỏi:
- Nếu gặp thứ giả thì sao hả anh Năm?
Năm Hà làm dấu chém gió. Ba Bay cười lớn:
- Cho “mò tôm” hả anh Năm? Hay quá!
Nhưng Bảy Rô nhắc lại đề nghị của mình:
- Anh Năm nói lòng dòng mà chưa kể chuyện “đi hát”…
Năm Hà cười:
- Không đi lạc đâu. Đi lòng vòng rồi cũng tới đó. Ông bà mình biết Thiên Địa Hội là của người Tàu, nhưng cũng vô để lần lần lái mục tiêu đấu tranh về phía mình là đòi Tây trả lại đất nước mà chúng đã chiếm từ thời Gia Long, Minh Mạng… Hồi nãy mày hỏi có trận “đi hát” làm làng lính Tây khiếp vía, tao trả lời đây nè. Có chớ! Có tới hai vụ chớ không phải một. Không phải đánh bọn nhà giàu mà đánh ngay thằng Tây. Đó là chuyện đời xưa do ông thân tao kể lại. Vụ thứ thứ nhất là vụ Phan Xích Long phá Khám Lớn năm 1913 và vụ thứ hai là vụ Tư Mắc phá Khám Lớn năm 1916. Hai tay này chịu ảnh hưởng Thiên Địa Hội, huy động nông dân các vùng ngoại thành, xuất phát từ Cần Giuộc, Cần Đước và các quận lân cận, nổi lên cướp chính quyền xưng bá đồ vương. Có đến năm sáu trăm người mặc áo đen quần trắng, đeo bùa, xuống đường với võ khí thô sơ. Tây thằng tay đàn áp và sau đó xử bắn một lúc năm mươi mốt người để khủng bố tinh thần dân chúng. Nhưng trái với sự tính toán của Tây, chúng càng khủng bố dân càng căm thù càng làm tới. Dân Bình Xuyên mình mang ít nhiều dòng máu của Phan Xích Long và Tư Mắc.
Bảy Rô nhắc lại câu hỏi:
- Đó là chuyện đời xưa… tụi tôi muốn nghe những vụ đánh cướp ác liệt nhất gần đây…
Cả bọn hưởng ứng:
- Phải đó. Kể đi anh Năm.
Năm Hà gật gù:
- Theo tao thì vụ đánh cướp đáng kể ở Sài Gòn, Chợ lớn là vụ đánh cướp sòng bạc của Sáu Ngọ. Cách đây mười nằm, Sài Gòn Chợ Lớn có hai tay chứa cờ bạc nổi tiếng, đó là Sáu Nhiều và Sáu Ngọ. Sáu Ngọ là tay giao thiệp rộng, vô dân Tây, lấy tên là Paul Daron, bỏ tiền ra mua hết lính ở Sài Gòn, làm ăn suôn sẻ, dân cờ bạn an tâm lui tới sát phạt. Chỉ có một lần tên chưởng lý mới đổi tên là Lafrique quyết tâm dẹp sòng bạc ngày càng thách thức chính quyền, không coi luật pháp ra sao hết. Muốn đóng cửa sòng bạc Sáu Ngọ, tên chương lý phải vận động đưa lính từ Mỹ Tho về, vì lính ở Sài Gòn đều “ngậm xôi chùa” của chủ sòng bạc. Đó là về mặt cò bót lính tráng, còn về mặt du đãng, ăn cướp, Sáu Ngọ nuôi một tiểu độii “mặt rằn mặt rện” từng can án đâm thuê chém mướn để trị bọn lưu manh trà trộn vào sòng bạc giở trò giật dọc…
Vậy mà Bảy Viễn đánh được sòng bạc này mới hay. Bảy Viễn giả làm tay cờ bạc, nhiều lần lui tới để nghiên cứu đường đi lối về. Sòng bạc Sáu Ngọ là một vi-la bánh ếch, chung quanh có rào sắt cao khỏi đầu. Tại cổng ra vào duy nhất có nhà gác do bọn bảo vệ canh giữ. Ở dãy nhà sau dành bồi bếp, luôn luôn có một đám vệ sĩ, sẵn sàng chạy lên can thiệp khi có báo động. Tụi này võ trang dao bảy và dao găm. Thời đó Tây cấm ngặt sắm súng. Sòng bạc của Sáu Ngọ gồm đủ các tầng lớp xã hội, giới sang có bác sĩ, kỹ sư, phủ huyện, giới trung lưu có thầy thông, thầy ký, giáo viên, giới hạ lưu cũng có cai thầu dắt mối… Có nhiều thứ chơi nhưng phần đông chỉ “mặn” món me. Chỉ có bốn cửa, yêu, lượng, tam, túc mà thiên hạ mê tới bán vợ bán con, gia đình tan nát. Sau khi nghiên cứu xong, Bảy Viễn chọn ngày lành tháng tốt ra quân. Ngày lành là ngày thiên hạ lãnh lương, bóp phơi no nóc. Cùng đi với Bảy Viễn có ba đệ tử ruột, một ngồi ngoài xe, đến giờ hành động là rồ máy chờ sẵn. Lúc đó Bảy Viễn có nhiều xe hơi cho thuê, gọi là xe “lôcaxông”. Còn các tên kia thì tới trước Bảy Viễn, mỗi tên thủ sẵn trong túi môt bao vải. Bảy Viễn ăn mặc sang trọng, áo ba túi ngắn tay, miệng ngậm xì-gà, đi xe bóng loáng. Bọn vệ sĩ trông thấy là mở banh cửa sắt, chào hỏi tử tế.
Bảy Viễn chọn một chỗ tốt trong sòng me. Ở chỗ này anh ta có thể làm chủ tình hình phía trước mặt, còn phía sau lưng đã có hai thằng đệ tử bảo vệ. Khi mọi người hoàn toàn chăm chú vào tên “phá hỏa” đang cầm chiếc đưa gạt các hột me từng chùm bốn hột, thì Bảy Viễn nhanh tay quơ hết tất cả các xấp tiền gom lại thành đống, đạp dưới chân, đồng thời móc súng đuổi tất cả lùi về phía trước, tấn vô vách. Tức thì hai tên đệ tử nhào tới hốt tiền tuôn vào bao đầy nhóc rồi chạy ra xe. Lúc bây giờ bọn vệ sĩ đã được báo động chạy túa lên nhà trên, nhưng Bảy Viễn nhanh chân rút lui, súng vẫn chỉa vào đám đông, chân đi thụt lùi về phía cửa. Lúc này hai tên đệ tử đã vứt hai bao tiền vô xe và chạy trở vô yểm trợ cho Bảy Viễn rút lui an toàn. Xe đã nổ máy chờ sẵn. Cả ba vừa nhảy lên là vọt nhanh, tiếng bánh xe rít trên đường tráng nhựa nghe đến ê răng. Bọn vệ sĩ chạy túa theo chỉ kịp hít bụi và khói.
Bảy Rô kêu lên:
- Đúng là ăn cướp kiểu Bách Sa Mi, Hoàng Ngọc Ẩn…
Năm Hà gật gù:
- Đúng vậy. Người ta nói Bảy Viễn là ăn cướp chợ còn Mười Trí là ăn cướp vườn, nghĩa là vẽ mặt mầy rằn rện để dọa thiên hạ…
Ba Bay tham lam:
- Anh Năm kể vài vụ cướp của Mười Trí đi..
Năm Hà khoát tay:
- Để bữa khác! Chuyện của Mười Trí thì phải kể dài dòng, nếu có ai chịu khó ghi chép thì cũng thành một cuốn sách dầy mấy trăm trang, đọc hòai không thấy chán…
CHƯƠNG 27
Hai Lung và Ba Trứ đem bộ đội Gò Công cùng hai chi đội của Ba Dương vượt biển tới Vàm Láng, ngược sông Soài Rạp về đóng tại Lý Nhơn để từ đó trở về chiến đấu trong tỉnh Gò Công.
Lý Nhơn là xã nằm trong Rừng Sác, địa thế hiểm trở, là yết hầu của thành phố Sài Gòn- Chợ Lớn, dùng làm bàn đạp để bám lấy tỉnh nhà rất thuận lợi. Khi quyết định về Lý Nhơn. Hai Lung hăng hái đưa cả vợ con theo. Anh muốn con cái lớn lên trên mảnh đất “địa linh nhơn kiệt” từng in dấu chân Trương Định.
Ba Trứ có hơi ngại khi liên kết với bộ đội Bình Xuyên, vì từ lâu anh đã nghe danh những tay lục lâm thảo khấu này. Tuy không hẳn là trí thức, nhưng Ba Trứ thấy giữa mình với các tay anh chị này có một khoảng cách khó san bằng. Anh Tâm sự với Hai Lung vì anh xem như anh cả. Hai Lung mỉm cười bảo:
- Trong lịch sử mình chưa thấy thời nào đẹp cho bằng thời đại chúng ta. Tất cả các tầng lớp đều một lòng một dạ đánh Tây giành độc lập. Bạn có thấy bác sĩ, luật sư bỏ hết nhà cao cửa rộng, từ biệt cuộc sống gấm hoa để chen vai thích cánh với dân quê dốt nát? Thế thì tại sao bạn lại không thể xáp lại gần anh em Bình Xuyên? Theo mình, số giang hồ chỉ là một chấm nhỏ không thấm vào đâu so với phần đông là anh em lao động thành thị và ngoại ô.
Một đoàn ghe cửa đồng loạt giương buồm tách bến Bình Đại. Suốt đời có lẽ Hai Lung và Ba Trứ không thể quên được chuyến vượt biển từ Bình Đại về núi Eo Ông, Bà Rịa. Bà con Bình Đại bịn rịn không nỡ chia tay. Hai đơn vị của Hai Lung và Ba Trứ được củng cố lại, chỉ giữ một đại đội, còn hai đại đội thì giải ngũ nhập vào dân quân địa phương. Đại đội ra đi chia làm ba trung, mỗi trung đi một ghe cửa loại lớn. Đồng bào mang tặng đủ thứ, gạo, mắm, tôm khô, chuối, dừa… Đoàn ghe hướng theo ánh đèn pha của Vũng Tàu mà đi. Dự định đi một đêm là tới miền Đông. Nhưng trời sáng hẳn mà vẫn còn lênh đênh trên mặt biển. Hai chiếc máy bay săn giặc đến, ba chiếc ghe cửa vội vàng hạ buồm, tấp vô cồn. Hết máy bay mới tiếp tục. Mất hai ngày hai đêm mới tới Eo Ông. Cuộc sống ở rừng miền Đông vô cùng vất vả với bộ đội Gò Công. Nhưng với quyết tâm cao, họ vượt qua mọi gian lao


***


Ba Trứ rất hài lòng về cơ ngơi mới xây dựng ở Eo Ông, núi ông Trịnh, giữa Long Thành và Bà Rịa, dọc con lộ 15 Sài Gòn- Vũng Tàu. Vùng này chuối rừng nhiều vô kể. Ba Trứ cùng anh em trong đơn vị đốn chuối, tách bẹ, lợp trại, xinh xắn như những gian hàng chợ Tết. Nhưng niềm vui của Ba Trứ như phù du sớm nở tối tàn vì qua ngày sau, dưới nắng hè gay gắt, bẹ chuối teo lại nhăn nhúm và mưa đổ ụp xuống thì trong nhà cũng như ngoài sân. Nhưng vấn đề gạo mới là chuyện sống chết. Muốn mua gạo, phải băng qua con lộ 15. Hồi đầu kháng chiến, ta đã đào hầm đắp mô, nhưng địch bắt dân hai bên đường sửa chữa để xe nồi đồng đi tuần tiễu. Qua lộ 15 phải bố trí tác chiến hẳn hoi. Quân đội Anh- Ấn từ Bà Rịa đi càn, ta chặn đánh bắt được ba đứa. Ba Trứ cho anh Tấn, sinh viên Sài Gòn biết tiếng Anh, tuyên truyền giải thích nửa tiếng rồi thả.
Trong thời gian trú quân tại núi Eo Ông, Hai Lung và Ba Trứ củng cố Chi đội 3 trong Liên chi Bình Xuyên. Sau khi anh Ba Dương tử trận, anh Năm Hà được đưa lên làm chỉ huy trưởng. Chi đội 2 do Năm Chảng nắm sau khi Từ Văn Ri tử trận. Hai Soái làm chi đội phó, Nguyễn Lộc chính trị viên. Chi đội 3 do Mười Lực nắm, Hai Lung chi đội phó, Ba Hậu chính trị viên, Chi đội 3 có 3 đại đội, Bảy Môn nắm đại đội 1. Ba Trứ nắm đại đội 2 và Tư Huỳnh nắm đại đội 3. Ba đại đội trưởng này mỗi người một vẻ. Bảy Môn là dân anh chị Thủ Thiêm, ngang với Mười Lực, nên lúc nào cũng xử sự như một Mạnh Thường Quân, Ba Trứ là “công nhân quý tộc” được đào tạo từ nhà trường Pháp. Tuy là “công nhân áo trắng”, anh sống gần gũi đội viên vì đa số là dân lao động thành thị. Tư Huỳnh là dân giang hồ, chịu anh hưởng của “Từ Hải chết đứng chớ không chết quỳ”, khi lâm trận, đứng thẳng người mà chỉ huy. Tư Huỳnh chỉ phục có một người và người đó là Bảy Viễn. Tư Huỳnh đã có lần thích huyết ăn thề kết nghĩa anh em với Bảy Viễn. Lễ thích huyết đó là kỷ niệm sống mãi với anh.
Trong ba đại đội này, nổi bật nhất là đại đội 2 của Ba Trứ. Nổi bật ở Ban chỉ huy. Ba người đều là công nhân. Đại đội phó là Nguyễn Huỳnh Ngân, công nhân ngành mộc ở Gò Công. Chính trị viên là Huỳnh Văn Được, cùng tốt nghiệp trường Bá nghệ như Ba Trứ và Hai Lung. Vì cùng chung một thành phần giai cấp, một trình độ văn hóa nên Ban chỉ huy đại đội 2 sát cánh với nhau và gần chi đội phó Hai Lung hơn là Mười Lực. Trong khi đó, hai đại đội kia, nhất là đại đội của Bảy Môn gần Mười Lực hơn Hai Lung. Vấn đề tình cảm rất quan trọng. Vì nhóm Hai Lung, Ba Trứ không phải là Bình Xuyên và lúc nào họ cũng nặng tình quê hương là Gò Công. Nguyện vọng của họ là đóng ở Lý Nhơn dọc sông Soài Rạp để được nghe hơi hớm của tỉnh nhà ở bên kia bờ sông. Nguyện vọng ấy vài tháng sau đã được mãn nguyện. Sau thời gian rèn cán chỉnh quân, Chi đội 3 “xuống núi”; đại đội 1 và 3 đóng ở Phước An, còn đại đội 2 của Ba Trứ đóng tại Lý Nhơn. Công tác đáng nhớ của Ba Trứ là liên lạc với Ba Son, đưa thợ rành nghề ra khu. Nhờ có anh Ngô ở hãng FACI mang máy móc ra Lý Nhơn mà đại đội Ba Trứ có công binh xưởng sửa chữa súng và sản xuất lựu đạn. Bình công xưởng này được dựng lên ở các gò núi đất mà một số bô lão quả quyết ngày xưa có lúc Trương Định đã đóng quân ở đó trước khi hy sinh tại Đám Lá Tối Trời bên Gò Công. Gần một trăm năm sau, mảnh đất Lý Nhơn vẫn còn là căn cứ của con cháu Trương Định: tiểu đoàn 5, bộ đội chủ lực của Gò Công cũng đóng ở Lý Nhơn. Nơi đây có lúa gạo tôm cá, than củi, bộ đội có thể tự túc, bồi dưỡng giữa hai trận chiến đấu.
Sau khi Ba Dương tử trận, Pháp đánh mạnh vào Rừng Sác, Năm Hà hợp các gia tướng đề nghị đánh một trận lấy uy thế. Mười Lực nắm Chi đội 3 mạnh nhất, hiệp cùng Chi đội 2 của Năm Chảng, bàn kế hoạch đánh tàu trên sông Lòng Tàu. Mười Lực làm chỉ huy trưởng, Năm Chảng chỉ huy phó. Địa điểm được chọn là Thiềng Liềng ngã sông dập dìu tàu biển từ Vũng Tàu vô Sài Gòn. Kế hoạch tác chiến phạm một sơ sót lớn: đánh xong rút quân vào lúc nước cạn. Máy bay săn giặc lên bắn kinh hồn. Dù vậy, ta vẫn cướp được tàu chở quân làm lễ truy điệu Dương Văn Dương tại Đèn Xanh, Cần Giờ.
Ba Dương tử trận ngày 16-1-1946, vài tuần sau Liên chi 2- 3 tổ chức lễ truy điệu cố khu bộ phó Dương Văn Dương tại Phước An. Anh Năm Hà viết thư mời Bảy Viễn tới dự. Trong lễ này, anh em Bình Xuyên phấn khởi được nghe đọc quyết định của Trung ương truy phong đồng chí Dương Văn Dương thiếu tướng, đồng thời cải danh con kinh Lagrange chạy từ kinh 12 tới gẫy Cờ Đen là kinh Dương Văn Dương.
Anh em Bình Xuyên cũng lên tinh thần khi anh Năm Hà đọc thư của Hồ Chủ tịch chia buồn cùng gia đình đồng chí Dương Văn Dương đã anh dũng hy sinh trên chiến trường Nam bộ.
Ba Dương tử trận đánh thức tham vọng trong lòng Bảy Viễn. Giấc mơ sơn trại chủ mà hắn đã tiết lộ với Mười Trí trong chuyến vượt ngục Côn Đảo bằng xuồng ba lá có cơ thực hiện. Ba Dương chết rồi, Năm Hà lên thay là một chuyện tạm bợ. Bởi Năm Hà không phải là tay anh chị có vai vế. Tư Hoạnh đã công khai tuyên bố không phục Năm Hà. Người có thể thay thế Ba Dương là ông Tám Mạnh, nhưng ông Tám đã già, không có hoạt động gì nổi tiếng. Hai Vĩnh tuy được việc nhưng vẫn phải dựa vào uy thế của ông già vợ. Cho nên người nắm Bình Xuyên phải là Bảy Viễn. Trong ngày đầu kháng chiến, bộ đội Bảy Viễn đã chiến đấu nhiều trận chống càn nổi tiếng như ở Phú Thọ, Gò Cát, Hiệp Hòa và Bàu Cò Láng Le. Trận nào cũng rút chạy; nhưng Bảy Viễn muốn chứng tỏ mình là tướng trước ba quân, anh rút lui sau cùng. Nhờ tác phong anh chị đó mà tạo được tiếng vang trong bộ đội xuất thân từ giới giang hồ. Riêng cá nhân Bảy Viễn được đề cao, nhưng Chi đội 9 thì không hãnh diện chút nào, nhất là trận Cầu Xáng, Hiệp Hòa. Chi đội 9 thiệt hại nặng, phải chôn súng mà chạy xuống bưng “chém vè”. Sau trận này, Bảy Viễn giao cho Tám Tâm công tác “thu dọn chiến trường”, tìm lại vũ khí chôn giấu. Vùng này nhằm lãnh địa đóng quân của Mười Trí. Gặp
Tám Tâm, Mười Trí chửi nhắn:
- Bộ đội Bảy Viễn đánh giặc như con c! Đồ sọc dưa!
Tám Tâm cũng ngạc nhiên trước sự thay đổi đột ngột này. Anh chú ý từ ngày có hai anh em Lại Văn Sang, Lại Hữu Tài gia nhập, thì chi đội 9 “sọc dưa”, đúng như Mười Trí chửi. Trường hợp hai anh em họ Lại gia nhập Chi đội 9 cũng đáng nghi ngờ. Tám Tâm đang làm thư ký văn phòng chi đội, thì được Bảy Viễn giao công tác thu tiền nuôi quân ở nhiều nơi. Công tác này mất trọn một tuần và khi trở về, anh mất chức thư ký văn phòng. Bảy Viễn giới thiệu Năm Tài:
- Từ nay Năm Tài đảm trách thư ký văn phòng cho tôi. Năm Tài có tú tài, viết công văn tiếng Pháp cũng ngon lành như tiếng Việt. Anh Tám Tâm làm phụ tá cho Năm Tài, chịu không?
Tám Tâm gật:
- Làm công tác việc gì ích quốc lợi dân là tôi vui lòng, không đợi chức trưởng hay phó…
Bắt đầu từ đó, Tám Tâm bí mật dòm ngó hai anh em họå Lại. Thỉnh thoảng anh thấy chúng liên lạc với Mô-rit Thiên. Dường như trước đó Mô-rit Thiên đã làm trung gian cho Bảy Viễn phóng thích Ba Huy sau khi công tử Bạc Liêu “cúng” vào quỹ nuôi quân một số tiền kếch sù cả chục triệu.
Liền đó Bảy Viễn xuống Liên chi 2- 3, kéo theo 11 tay súng và 20 người nữa: - Anh Năm tiếp tế tụi tôi một ít đạn…
Lúc đó Năm Hà giữ kho đạn của Bình Xuyên.
- Được! Anh Bảy cần bao nhiêu, cứ lấy.
Nhưng mục đích của Bảy Viễn không phải xin đạn, mà dọ tình hình, muốn thay Ba Dương, Bảy Viễn ngỏ ý khéo, Năm Hà cũng trả lời khéo:
- Anh Ba Dương được Khu trưởng Nguyễn Bình phong khu bộ phó, muốn thay ảnh phải do Chính phủ…
Bộ tham mưu của Năm Hà lập tức họp bầu anh Năm lên thay chủ tướng để chặn trước tham vọng của Bảy Viễn. Một bức thư được gởi lên Khu trưởng Nguyễn Bình báo cáo về việc bầu cử đó, đồng thời hỏi ý về việc mượn tiền của dân để nuôi quân. Ngày 12-4-1946, Nguyễn Bình viết thư trả lời, nguyên văn như sau:
VNDCCH
Vệ quốc Đoàn
Số 713/KB
TỔNG HÀNH DINH
Ngày 12-4-1946
Nguyễn Bình, Khu bộ trưởng Khu thứ 7 nước Việt Nam.
Kính gửi đồng chí Dương Văn Hà, Tư lệnh Vệ quốc đoàn Bình Xuyên. Về việc đồng chí được cử thay đồng chí Dương, tôi rất tán thành. Mong đồng chí đừng phụ lòng mong mỏi ký thác của anh em chiến sĩ Bình Xuyên, của tôi, của đồng chí Dương Văn Dương đã quá cố, nhất là giữ tiếng tăm cho đồng chí Dương là người lỗi lạc, khác hẳn với Đệ Tam, Đệ Tứ sư đoàn phản động và chỉ lôi kéo bè phái. Có được như vậy mới thật là xứng đáng với anh linh đồng chí Dương Văn Dương, người đã hy sinh oanh liệt cho Tổ quốc. Ngoài ra, tôi không đồng ý việc mượn tiền dân. Bộ đội nên tăng gia sản xuất để dân được nhẹ phần đóng góp.
Mặt khác, tôi không cho phép vợ con theo bộ đội, tránh tình trạng ô hợp như Đệ Tam, Đệ Tứ sư đoàn, HT 29…” (1)
Chú thích:
(1) HT 29 là bộ đội Hồng Tảo. 29 là 29 tay súng
CHƯƠNG 28
Biết Năm Hà đã được Nguyễn Bình công nhận là người thay Ba Dương nắm Bình Xuyên, Bảy Viễn vẫn không bỏ mộng tiếm quyền từ lâu hằng mơ ước.
Để chuẩn bị cho kế hoạch thay thế Ba Dương, Bảy Viễn gửi thư mời các chi đội trưởng Bình Xuyên về hội nghị bầu ban chỉ huy thống nhất, Bảy Viễn cũng đề nghị chia vùng đóng quân: Hai Vĩnh ở Phước Thọ, Trương Văn Giàu ở cầu Lò Rèn, Phước Long; Bảy Viễn ở Phước An.
Bảy Viễn tin tưởng sẽ được bộ hạ bầu mình làm tham mưu trưởng Liên khu Bình Xuyên. Nhưng Bảy Viễn không biết đa số Bình Xuyên xem hắn là kẻ tiếm quyền. Hai Vĩnh một mặt đề nghị chỉ có cấp đại đội trở lên mới được dự hội nghị, mặt khác vạch rõ cho anh em thấy Bảy Viễn không có công trận gì trong bộ đội Bình Xuyên mà chỉ liên kết với các tay cờ bạc như Lâm Ngọc Đường, Mô-rit Thiên, chuyên môn chứa bạc lấy xâu.
Hội nghị bầu ban chỉ huy thống nhất lực lượng Bình Xuyên thất bại, Bảy Viễn kéo bộ đội về Eo Ông, còn Hai Vĩnh trở về Phú Mỹ. Pháp tấn công, Bảy Viễn rút ra Tắt Cây Mắm, Năm Hà vô Rạch Su. Vùng Hai Vĩnh đóng trở nên quan trọng vì là điểm tập kết của quân Nhật trên đường xuống tàu về nước. Hai Vĩnh tức tốc địch vận bọn sĩ quan Nhật để lại súng ống, thuốc men cho bộ đội Việt Nam đánh Pháp thay vì đem về nước. Nhờ khéo tuyên truyền, Hai Vĩnh lấy được ba xe bò thuốc men, riêng thuốc ký-ninh bộ đội dư dùng, cấp cho dân chúng lân cận. Nhật giấu 15 máy bay trong rừng Phú Mỹ, Hai Vĩnh cho thợ vô tháo gỡ lấy nhôm và máy móc phụ tùng, tha hồ sản xuất súng đạn.
Pháp quyết tâm chiếm lại con đường 15 để dân Sài Gòn có thể đi Vũng Tàu vào cuối tuần. Chúng nhằm vào mục đích tuyên truyền với những chánh khách từ Pháp qua, cho rằng cuộc sống đã trở lại bình thường. Cố nhiên mục đích quân sự vẫn là nhắm dồn bộ đội Bình Xuyên xuống Rừng Sác. Hai Vĩnh tạm thời rút quân qua chiến khu Hắc Dịch để thỉnh thoảng đánh giao thông chiến trên đường 15, tiêu hao sinh lực địch. Điểm phục kích thuận tiện nhất là xã Phước Hòa. Bà con vùng này rất tốt, một chủ nhà dám giấu Hai Vĩnh trong buồn khi Hai Vĩnh đi nghiên cứu chiến trường bất ngờ bị đoàn xe nổi đồng lên. Dân chúng các xã quanh đó cũng nuôi vài anh bộ đội bị sốt rét rừng vì vùng suối Cây Chanh trong chiến khu Hắc Dịch rất độc; ngủ trưa thế nào cũng ớn lạnh, xây xẩm mặt mày.
Vào tháng 10-1946, đoàn thanh tra Quân khu 7 xuống, Phan Đình Công quyết định nâng Trung đội số 2 của Mai Văn Vĩnh lên Đại đội số 2. Cũng trong thời gian này, đồng chí Hai Của, Chủ tịch quận Nhà Bè đến Hắc Dịch tìm Hai Vĩnh than thở về nạn Bình Xuyên thu thuế bừa bãi khiến thương nhân rất khổ sở, Ty Thuế vụ Nhà Bè không nỡ thu thuế họ nữa, thành thử bộ đội Nhà Bè không hoạt động được vì không tiền nuôi quân. Hai Của đề nghị Hai Vĩnh đưa Trung đội số 2 về Nhà Bè hoạt động. Nặng tình quê hương, Hai Vĩnh để hai phần ba lực lượng ở lại Bà Rịa còn một phần ba về hoạt động vùng Nhà Bè. Đơn vị này đóng ở An Thới Đông, Tắt Từ Miêu, ngang Tiều.
Vấn đề thu thuế là một bất hòa giữa bộ đội Bảy Viễn và Trung đội số 2 của Hai Vĩnh. Từ lâu, Bảy Viễn sống khỏe nhờ thu thuế các ghe thương hồ trên các ngả đường về Sài Gòn- Chợ Lớn. Bộ phận thuế vụ Bảy Viễn giao trọn cho Sáu Tuấn. Sáu Tuấn là con Hội đồng Thì mà trước kia Bảy Viễn đã tá túc khi bị mật thám truy nã. Sáu Tuấn đang chuẩn bị thi tú tài thì gặp Cách mạng Tháng Tám. Chưa biết đi theo bộ đội nào cha khuyên “nên theo thầy Tư Vincent là người ba quen thân”. Thế mà Sáu Tuấn trở thành người thân tín của Bảy Viễn và do đó giữ trọn quỹ “nuôi quân” của Bình Xuyên.
Hai Vĩnh gặp Sáu Tuấn, trình bày về nạn vô chính phủ trong vấn đề thu thuế và cần có sự thống nhất có lợi cho giới thương hồ mà cũng có lợi cho các cơ quan cần có thuế để nuôi quân. Sáu Tuấn là thanh niên có học thức nên sẵn sàng nghe điều phải. Anh nhận thấy các nhân viên thu thuế của mình đôi khi quá quyền hạn. Nhờ vậy mà việc thu thuế không giẫm chân nhau. Huyện Nhà Bè không còn “thất thu” nữa. Chủ tịch Hai Của thấy Hai Vĩnh giúp huyện đắc lực như vậy, liền bàn với Phó Chủ tịch Quới nên kết nạp Hai Vĩnh vào Đảng. Cả hai hỏi ý kiến Bảy Trân và được Bảy Trân đồng ý. Nhưng chuyện bất ngờ xảy ra: Chính Hai Vĩnh xin hoãn lại ngày kết nạp vì anh tự thấy chưa xứng đáng. Anh chưa khắc phục được khuyết điểm tự do cá nhân, sợ vào Đảng sẽ phạm tội vô kỷ luật.
Đầu năm 1947, quân khu chánh thức quyết định nâng Đại đội số 2 của Hai Vĩnh lên thành Chi đội 7. Trước đây, Chi đội 7 là chi đội của nhóm Cao Đài Tây Ninh do Thảo chỉ huy. Chi đội này có hành động vô chính phủ và bị giải thể. Hai Vĩnh được bổ nhiệm chi đội trưởng. Chi đội không có chính trị viên vì Nguyễn Xuân Thanh (trước đây do Bảy Trân giới thiệu với ông Tám Mạnh và Hai Vĩnh) đã bỏ về khu sau khi bất hòa với Hai Vĩnh. Nguyên nhân sâu xa là hầu hết các chỉ huy Bình Xuyên không muốn chia quyền với kẻ xa lạ không chuyên về đánh giặc mà chỉ giỏi về lý thuyết chính trị. Các chính trị viên trong Chi đội 9 của Bảy Viễn đều lần lượt biến mất. Nguyễn Văn Tư tự Tư Ca-rê đã bị Tây xử bắn tại Trường đua Phú Thọ đúng vào ngày bầu cử Quốc hội đầu tiên- ngày 6-1-1946. Sau đó là Nguyễn Văn Hườn cũng biến mất. Chi đội 9 không có chính trị viên. Đó là một trong hai điều cấm kỵ trong bộ đội Bảy Viễn: “Không có dân Bắc kỳ và không có chính trị viên trong bộ đội của tao”. Tám Tâm đã báo cáo về cấp trên, cho biết ảnh hưởng đầu tiên của hai anh em Lại Văn Sang và Lại Hữu Tài trong Chi đội 9 và lời tuyên bố “xanh dờn” của Bảy Viễn.
Hai Vĩnh hợp đồng với Bảy Viễn đánh ba trận để gây uy thế cho Bình Xuyên vào ngày 1-5-1946. Một trận tại Bà Rịa, hai trận tại Nhà Bè, Hai Vĩnh giao cho Thanh chỉ huy trận đánh ở Bà Rịa, khoảng núi Ông Trịnh. Còn anh thì chỉ huy hai trận ở Nhà Bè. Chi đội 7 quyết tâm đánh một trận cho Bảy Viễn “nể mặt”. Nhưng trận đánh ở Bà Rịa không đạt kết quả như ý. Hai Vĩnh kiểm điểm Thanh. Tranh luận chưa ngã ngũ thì Hai Vĩnh được thư Bảy Viễn mời hội nghị. Hai Vĩnh bảo Thanh ở nhà “chờ anh về sẽ hay”. Thanh thấy không thể làm việc với Hai Vĩnh ở Chi đội 7, bỏ về khu. Từ đó Chi đội 7 không có chính trị viên.


***


Hai Vĩnh được thư Bảy Viễn mời họp tại Ba Giồng. Nội dung: nghe Mười Trí báo cáo về cuộc họp các giáo phái do Hộ pháp Phạm Công Tắc triệu tập tại Tòa thánh Tây Ninh.
Hai Vĩnh và Tám Mạnh tới Ba Giồng. Tại đây có đủ mặt các chi đội trưởng và phó. Hội trường được trang hoàng rực rỡ, có cả cờ Đảng. Bảy Viễn bắt đầu hội nghị bằng một phút mặc niệm Dương Văn Dương. Kế Bảy Viễn trịnh trọng mời Mười Trí báo cáo trước đại hội về cuộc họp giáo phái tại Tòa thánh Tây Ninh do Hộ pháp Phạm Công Tắc triệu tập.
Mười Trí báo cáo gần một tiếng đồng hồ về cuộc họp ở Tây Ninh. Hai Vĩnh nghe một cách lơ là, nhưng anh đặc biệt chú ý một chi tiết; Mười Trí suýt bị Việt minh bắt trên đường từ căn cứ Chi đội 4 ở Đức Hòa đến Tây Ninh. Bận về cũng bị truy kích.
Bảy Viễn nói tiếp khi Mười Trí báo cáo xong:
- Như vậy ta thấy rõ là Nguyễn Bình và Chánh ủy Khu 7 là Hai Trí muốn tiêu diệt giáo phái, mà trước tiên là Cao Đài, rồi tới Hòa Hảo, Bình Xuyên. Chúng ta là những người bạn chiến đấu của anh Ba Dương. Chúng ta cương quyết phất cao ngọn cờ Bình Xuyên do Ba Dương để lại. Chúng ta không để cho một đảng phái nào bức hiếp.
Ông Tám Mạnh và Hai Vĩnh toát mồ hôi ướt áo. Hai Vĩnh làm hiệu cho ông già vợ bình tĩnh. Riêng anh thì suy nghĩ về những điều nghe thấy. Anh thấy có nhiều điều vô lý. Phạm Công Trắc trước đây đã bị Pháp đưa đi đày tại Madagascar vì lúc đó Cao Đài ra mặt thân Nhật. Bây giờ Pháp lại đưa Phạm Công Tắc về với ý đồ gì? Phải chăng Pháp muốn nắm Cao Đài theo Pháp chống Việt minh? Vấn đề vô lý thứ hai là Mười Trí lấy tư cách gì đi dự hội nghị này?
Ai cử Mười Trí đi?
- Những cái vô lý đó Hai Vĩnh thấy nhưng không biết phải giải quyết như thế nào. Anh đành dụng kế “dục hoãn cầu mưu”:
- Đây là chúng ta nghe một tiếng chuông của anh Mười Trí mà thôi. Không phải chúng ta không tin anh Mười. Nhưng vì đây là chuyện sống chết của Bình Xuyên nên tôi đề nghị chúng ta phải thận trọng. Để cho vấn đề thêm sáng tỏ, tôi tình nguyện lên quân khu chất vấn các anh Nguyễn Bình và Hai Trí.
Bảy Viễn cắt ngang:
- Không được! Đi lên trên đó chẳng khác gì anh tự ký bản án tử hình!
- Dù có chết tôi cũng cam tâm! Tôi phải đến tận nơi để gạn đục khơi trong. Bình Xuyên chúng ta có rất nhiều công trạng trong công cuộc kháng Pháp, lẽ nào người ta lại tính chuyện đó? Xin hội nghị quyết định xem tôi có nên đi quân khu hay không?
Với sự vận động của ông Tám Mạnh, đa số bỏ thăm tán thành. Với hai phần ba phiếu ủng hộ, chuyến đi quân khu của Hai Vĩnh được đại hội thông qua. Bảy Viễn tỏ ý lo ngại:
- Ta phải cho một đại đội chủ lực theo hộ tống anh Hai Vĩnh, mỗi chi đội phải rút hai tiểu đội cứng để thành lập ngay.
Hai Vĩnh khéo léo từ chối:


***


- Đường từ đây lên quân khu rất xa xôi cách trở, phải băng qua sông qua lộ. Nếu đi rầm rộ như vậy, địch hay chặn đánh, biết bao giờ mới tới? Tôi muốn đi một mình dễ xoay trở.
- Đâu được! Rừng nào cọp nấy. Hai Vĩnh là hùm xám của Bình Xuyên, nhưng về quân khu mà không có lực lượng thì nói ai nghe?
Cực chẳng đã, Hai Vĩnh phải nhận một đại đội “cứng” gồm 14 tiểu đội với 14 trung liên Brenn. Việc bầu ban chỉ huy cũng khó bởi 7 chi đội đưa 7 đại đội trưởng thuộc hạng cừ.
Cũng trong đại hội này, Bảy Viễn trở lại vấn đề bầu ban chỉ huy thống nhất bộ đội Bình Xuyên lúc bấy giờ lấy tên Liên khu Bình Xuyên. Đã được cha con Tám Mạnh vận động, các chi đội trưởng và phó bầu Năm Hà tư lệnh liên khu, Sáu Đối, phó tư lệnh và Nguyễn Đức Huy chánh ủy. Đây là một cuộc bầu quan trọng, Bảy Viễn không nắm được liên khu như dự tính, nhưng hắn đã đưa Sáu Đối vô nắm phó tư lệnh. Sáu Đối là “em út” của Bảy Viễn, vốn là dân anh chị ở Khánh Hội. Nhưng nhân vật nắm chức chánh ủy là người hoàn toàn mới đối với Hai Vĩnh; Nguyễn Đức Huy lấy tên Hai Đại vì người to lớn, khoảng trên thước bảy, ký tên chữ “Đại” như người ta viết chữ nho, tức một gạch ngang và một chữ nhân. Đặc điểm của Hai Đại là bộ râu mép rất dày, tỉa xén cẩn thận, do đó có thêm biệt hiệu “ông già râu kẽm”. Hai Vĩnh không nắm được lai lịch của Hai Đại, chỉ nghe nói “đây là người thân tín của chính ủy khu 7- tức Hai Trí- đưa tới để nắm Bình Xuyên”. Không biết lai lịch, Hai Vĩnh và các đồng chí căn cứ vào hành động mà đánh giá chánh ủy của mình. Với tướng mạo và nhất là với bộ râu, cộng thêm chức chánh ủy, Hai Đại đã có một vài sáng kiến nhằm cải thiện đời sống binh sĩ. Sáng kiến thứ nhất là các đơn vị phải tự túc, nói theo danh từ lúc đó là “tự lực cánh sinh”. Rừng Sác có nhiều cá tôm, cây củi, chỉ cần quyết tâm là có ăn. Riêng anh em ở văn phòng phải trồng rau muống, rau dền, cải xanh, bầu bí để có chất tươi rất cần cho cuộc sống trong rừng. Chính Hai Đại nêu gương lao động buổi sáng cho mọi người. Ông thức dậy sớm, tập thể dục chừng chục phút rồi cuốc đất lên lếp trồng rau muống. Ông có kinh nghiệm, trồng rau cải phân tán để máy bay trinh sát địch không phát hiện mà bỏ bom hoặc nhảy dù xuống “chụp” cơ quan. Sáng kiến thứ hai của Hai Đại là quyết tâm trị cho được chứng ghẻ lở của binh sĩ. Ông nhờ đồng bào trong khu chở than củi tự túc ra thành bán rồi mua vải xiêm và xà bông cho anh em tắm giặt. Đã là binh sĩ Bình Xuyên, không ai quên được cảnh ghẻ lở xuống sông tắm nước mặn, rát không chịu nổi, lại thêm nạn cá chốt theo rỉa các mụn ghẻ, đau thấu xương.
Nhờ hai sáng kiến trên mà Hai Đại tức “ông già râu kẽm” rất có uy tín, không những với binh sĩ Bình Xuyên mà còn với các đơn vị khác đóng trong vùng.


***


Từ ngày theo Chi đội 7 về núi Nứa, cô Tư Xóm Cỏ vẫn tiếp tục làm nội trợ trông nom nhà cửa, chồng con. Trước ngày Hai Vĩnh đi Đồng Tháp Mười, cô Tư thấy nét ưu tư của chồng:
- Có việc gì mà coi anh lo nghĩ quá vậy?
Hai Vĩnh:
- Pháp đang cố kéo giáo phái chống kháng chiến. Pháp cũng đang cố nắm lấy Bảy Viễn để kéo Bình Xuyên. Anh phải gặp Khu trưởng Nguyễn Bình để tường trình mọiviệc.
Cô Tư lo lắng:
- Chừng nào anh đi?
- Ngày mai.
- Em có thể giúp anh được gì không?
Hai Vĩnh cảm động ôm vai vợ:
- Chuyện quân sự, em biết gì mà giúp… Nhưng em có thể giúp anh về việc này…
Cô Tư hăm hở:
- Việc gì đó anh?
- Trong chi đội mình có nạn ghẻ lở đang lan rộng, coi bộ các cô y tá không trị nổi…
Cô Tư thở dài:
- Em cũng thấy như vậy. Các cô y tá có cho em biết là các cô rất ngại đến các tiểu đội.
- Tại sao?
- Anh không biết à? Tại vì các anh chiến sĩ của mình chỉ có bộ đồ dính da. Khi tắm giặt thì…
Hai Vĩnh chợt hiểu:
- Vải xi-ta xấu quá, đã mau mục mà lại dễ chứa rận… Mình cố kiếm vải Xiêm may quần áo cho anh em. Nhưng trước mắt phải làm sao trị cho dứt chứng ghẻ lở. Em có cách nào không?
Cô Tư suy nghĩ một lúc:
- Các cô y tá phần lớn là nữ sinh hay mắc cỡ. Nếu có chồng con rồi thì việc đó… cũng là chuyện bình thường.
Hai Vĩnh khuyến khích:
- Hay là em cùng đi với các cô y tá tới các đơn vị. Mình sẽ đánh kẻng cho anh em mặc quần cẩn thận trước khi các cô y tá đến rửa ghẻ và xức thuốc. Tính vậy được không em?
Cô Tư gật đầu:
- Anh ra thông tư trước đi. Ngày mai chị em chúng tôi bắt đầu.


***

Từ đó, mỗi sáng đều có kẻng báo giờ rửa ghẻ. Anh em có đủ thì giờ xỏ quần vô để nghinh tiếp các nàng tiên y tá. Dù vậy cũng có nhiều “trục trặc kỹ thuật” vì những mụn ghẻ trớ trêu cứ chọn các nơi hiểm yếu như kẽ háng hay xương khu mà mọc.
Ban đầu các cô nữ sinh còn ngại ngùng, nhưng với sự động viên của cô Tư, dần dần họ bạo dạn. Có cô tinh nghịch bảo: “Của mấy ông thì mấy ông giữ, còn công việc của chị em tôi thì chị em tôi làm”.
CHƯƠNG 29
Trước ngày đi Quân khu 7 ở Giồng Dinh, Hai Vĩnh giao Chi đội 7 cho ông Tám Mạnh và các đồng chí. Trong dịp này, anh em nhận định về thái độ gần đây của Bảy Viễn. Tình báo cho biết vùng Tiều, Lý Nhơn có nhiều thay đổi từ khi bộ đội Bảy Viễn đến đóng. Hàng quán mọc lên như nấm. Chiều chiều cán bộ các cơ quan ra đó ăn hủ tiếu, uống la-ve. Đây là một hiện tượng hiếm trong khung cảnh kháng chiến. Lại còn có vài cô áo xanh áo đỏ, tóc uốn quăn kiểu thành thị xuất hiện. Tin này khiến các tay ghiền cảnh thành phố bắt thèm. Mặt khác, tình báo cũng thấy lui tới tổng hành dinh của Bảy Viễn có các tay lạ mặt như Lãm Ngọc Đường, Môrit Thiên với đám “com măng đô” mang toàn súng “ru lô” mới toanh. Chính mắt Hai Vĩnh trông thấy Phạm Công Tắc tới Tắc Cây Mắm gặp Bảy Viễn. Theo tình báo thì thầy Tư Hòa Hảo, tức Huỳnh Phú Sổ, cùng đi với Năm Lửa cũng có tới gặp Bảy Viễn bàn tính chuyện quốc sự.
Với những tin thu thập được, Hai Vĩnh nghiệm thấy Bảy Viễn muốn nắm Liên khu Bình Xuyên để tạo uy thế với các đảng phái khác như Cao Đài, Hòa Hảo. Cánh tay mặt của Bảy Viễn là Mười Trí, người đã được hắn ủy nhiệm “đại diện Bình Xuyên” dự hội nghị giáo phái tại Tòa thánh Tây Ninh. Hai Vĩnh bàn với ông Tám Mạnh:
- Đi chuyến này, con phải gặp cho được Khu trưởng Nguyễn Bình, trình bày nội tình Bình Xuyên cho quân khu biết để đối phó. Con thấy giáo phái và bọn cơ hội đã xen vô Chi đội 9 của Bảy Viễn...
Ông Tám gật gù:
- Ba cũng thắc mắc về chuyện Việt minh diệt giáo phái mà Mười Trí báo cáo trước hội nghị. Thằng Chín An, Chi đội phó Chi đội 4 của Mười Trí, bị Việt minh bắt là vì hành động quân phiệt chứ đâu phải là vì lý do chính trị?... Ba thấy Bảy Viễn không muốn cho con đi lên quân khu. Hắn đưa hai đại đội chủ lực, tiếng là theo hộ tống con, nhưng dụng ý là gây chia rẽ con với Khu trưởng Nguyễn Bình. Bởi vậy con đi phải cẩn thận...
Hai Vĩnh gật:
- Ngay từ đầu con đã thấy ý đồ đó, con đã từ chối nhưng không được. Vào giờ chót. Bảy Viễn đưa Ký Huỳnh đi với con. Ký Huỳnh là tay tâm phúc của nó, đi theo con chắc chắn nó sẽ dòm ngó để về báo cáo lại mọi việc.
Tám Mạnh thở dài:
- Chuyến đi của con nguy hiểm từ nhiều phía. Con phải cẩn thận...
Tuy đã phòng trước các khó khăn, Hai Vĩnh vẫn còn gặp nhiều nguy hiểm bất ngờ trên đường đi. Đây là thủ đoạn thâm độc của hai anh em Tài, Sang. Chẳng hạn đi được vài ngày, Hai Vĩnh bắt được một bản tin đánh máy, in giấy sáp của Chi đội 9, loan tin “Bộ đội Bình Xuyên cử Hùm xám Mai Văn Vĩnh lên Quân khu 7 chất vấn Bộ Tư lệnh”. Đến căn cứ Chi đội 4 ở Bình Hòa, Hai Vĩnh được Mười Trí mời ở lại ăn uống, rồi khuyên bỏ ý định gặp Nguyễn Bình “e khi họa hổ bất thành, khi không mình lại đưa mình vào hang”. Hai Vĩnh nghĩ rằng Mười Trí hành động theo ý đồ của Bảy Viễn, đem việc chết chóc ra hù dọa anh. Ngoài các trở ngại trong nội bộ, Hai Vĩnh gặp các chướng ngại như tới Kinh Xáng, thì gặp tàu lên chặn đường, quân đội Pháp nhảy dù tấn công ngoài rìa Đồng Tháp Mười. Anh họp Ban chỉ huy lại, phổ biến rõ chủ trương không nổ súng, trừ trường hợp thật bất đắc dĩ.
Một tuần ròng rã, Hai Vĩnh mới tới Giồng Dinh. Nhưng anh gặp phải một sự từ chối hết sức phũ phàng: Võ Bá Nhạc, Chánh văn phòng Bộ Tư lệnh quân khu, báo tin Khu trưởng Nguyễn Bình đau mắt, bác sĩ không cho phép làm việc trong thời gian điều trị.
Ký Huỳnh cười lạt bảo Hai Vĩnh:
- Đây là cái cớ để người ta không tiếp mình. Mình về đi thôi!
Hai Vĩnh nghĩ thầm: “Mình đã vượt gian nguy tới đây, không lẽ lại trở về tay không? Khu trưởng Nguyễn Bình không tiếp ta, có lẽ là do bản tin gieo chia rẽ của bọn Tài, Sang, Minh phải ở nán lại tìm cách gặp cho được Khu trưởng Nguyễn Bình, mà phải gặp riêng, không cho Ký Huỳnh dự”.
Bộ Tư lệnh quân khu tiếp đón bộ đội Bình Xuyên rất chu đáo nhưng Võ Bá Nhạc vẫn không cho Hai Vĩnh gặp khu trưởng. Ký Huỳnh một hai đòi về. Qua mấy đêm không ngủ. Hai Vĩnh đã nghĩ một mưu chước nhỏ...


***


Sáng sớm hôm sau, Hai Vĩnh ra ao cá vồ, cẩn thận bỏ trong túi một tờ giấy trắng và một bao thư. Trong khi làm công việc “coi cá”, anh bí mật viết vội bức thư cho Khu trưởng Nguyễn Bình, đề nghị được khu trưởng cho gặp mặt một mình để báo cáo tình hình nội bộ Bình Xuyên. Còn Ký Huỳnh là người của Bảy Viễn, nếu thấy cần thì khu trưởng gặp sau. Anh cho lá thư vào phong bì, cất kỹ trong túi bên phải. Một lúc sau, anh gặp Ký Huỳnh, đề nghị hai người nên viết thư cho Nguyễn Bình xin được tiếp, nếu không thì cả hai bỏ về. Ký Huỳnh đồng ý, Hai Vĩnh viết thư ngay và cho Ký Huỳnh xem. Ký Huỳnh gật gù bảo “được”. Hai Vĩnh bỏ vào túi áo trái. Cả hai tới gặp Võ Bá Nhạc nhờ chuyển lá thư lên khu trưởng. Hai Vĩnh trao bức thư cất trong túi áo mặt. Vì phong bì giống nhau nhau nên Ký Huỳnh không nhận ra việc tráo thư này. Một lúc sau, Võ Bá Nhạc ra bảo:
- Khu trưởng hãy còn đau mắt, chỉ có thể tiếp từng người một. Buổi sáng tiếp đồng chí Hai Vĩnh, còn đồng chí Ký Huỳnh thì hẹn gặp vào buổi chiều.
Hai Vĩnh thở một hơi nhẹ nhõm. Anh đã chặt được cái đuôi Ký Huỳnh. Anh theo một trung úy đến nơi gặp Nguyễn Bình.
Sau khi nghe Hai Vĩnh báo cáo tình hình nội bộ Bình Xuyên, Nguyễn Bình phấn khởi nói:
- Bộ Tư lệnh cũng nhận được một số báo cáo giống như những việc anh vừa báo. Nhưng nay nhờ anh nói có đầu đuôi mạch lạc mà tôi nắm được tình hình rõ hơn.
Nguyễn Bình cho biết rằng những biến động của Bình Xuyên vẫn được Công an Nam bộ và Sài Gòn- Gia Định theo dõi sát, không chỉ ở vùng ta mà cả tại cơ quan đầu não của địch tại Sài Gòn.
Theo tài liệu công an thì vấn đề Bình Xuyên không bó hẹp trong những chuyện về phẩm chất, tính khí của người này, người khác, hay chuyện tranh giành quyền lực giữa nhóm này, nhóm khác!... Xứ ủy và quân khu nhất trí với nhận định của các đồng chí lãnh đạo công an đánh giá vấn đề Bình Xuyên có ý nghĩa to lớn hơn nhiều.
Đối với Pháp, vì phải tập trung quân viễn chinh cho chiến trường chính ở miền Bắc nên không còn cách nào khác là phải dựa vào các giáo phái chống cộng để bình định Nam bộ. Phạm Công Tắc được thả về vùng Cao Đài Tây Ninh. Huỳnh Phú Sổ đang đòi quyền tự trị ở mấy tỉnh theo đạo Hòa Hảo. Tên Tây lai Léon Leroy gây dựng các binh đoàn bảo vệ đạo Cơ đốc ở vùng Bến Tre... tất cả những hiện tượng ấy đều là những mắt xích trong chuỗi âm mưu dài của Pháp ở Nam bộ... Thế mà cái mắt xích quan trọng nhất, có quan hệ đến sự sống còn của Sài Gòn, thì chúng chưa nắm được. Đó là vùng Rừng Sác bao la, bí hiểm đang kiểm soát con sông Lòng Tàu mở cửa cho Sài Gòn thông với biển Đông và thế giới; vùng Rừng Sác khống chế mạng lưới đường sông, đường bộ nối liền Sài Gòn với vựa lương thực thực phẩm các tỉnh miền Tây...
Nhưng Rừng Sác là một căn cứ kháng chiến hùng mạnh trực thuộc Liên khu Bình Xuyên; mà Bình Xuyên lại là một lực lượng chống Pháp quyết liệt, có tổ chức, có lý tưởng, có bộ đội vũ trang và nhiều vị chỉ huy yêu nước, giác ngộ cách mạng chứ không phải là một tôn giáo để cho Pháp chỉ cần mua được người cầm đầu là nắm xong hạ tầng cơ sở...
Mặt khác, Bình Xuyên cũng là một hiện tượng đặc biệt mà Pháp hiểu rõ từ lâu. Nó bao gồm nhiều con người chọc trời khuấy nước rất khác nhau về cá tính nhưng vẫn ràng buộc với nhau bằng mối quan hệ vô hình của một tập quán và tâm lý lâu năm hình thành như một thứ luật giang hồ... Tâm lý và tập quán ấy đã tạo ra những nhược điểm khiến cho họ đi theo cách mạng một cách khá vất vả ở số đông; còn ở một số ít, thì nó biến thành những vết thương độc khó tiếp nhận các liều thuốc đắng của cách mạng... Pháp hiểu rất rõ rằng muốn nắm được Bình Xuyên, phải đi từ những con người như vậy. Trong số ấy, Bảy Viễn là hình tượng nhiều gai góc nhất... Vì vậy, vấn đề Bảy Viễn không còn là vấn đề cá nhân ông ta! Giải quyết vấn đề Bảy Viễn lúc này đã trở thành chuyện đối phó với âm mưu giặc Pháp đối với Bình Xuyên nói riêng, hay là vấn đề chiến thuật chiến lược giữa ta với Pháp chung quanh mặt trận Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam bộ nói chung...
Nghe Nguyễn Bình phân tích, Hai Vĩnh tỉnh người! Lúc ra đi cũng chỉ mong được báo cáo một số hành động khả nghi của Bảy Viễn để trên cho ý kiến xử lý. Không dè câu chuyện nó khó khăn đến thế... Thật là may cho mình chưa kịp tỏ thái độ gì rõ rệt đối với Bảy Viễn... Cuộc đấu tranh với hắn ta còn dài...
Nghĩ vậy, Hai Vĩnh thấy yên tâm hơn và anh vui vẻ tuân phục khi chia tay, Nguyễn Bình nhắc riêng anh về tới Liên khu Bình Xuyên, hãy tiếp tục làm tai mắt cho Bộ Tư lệnh, báo cáo kịp thời để tránh được những việc không hay.
Trưa đó, Nguyễn Bình bảo cô Thanh làm gì đãi anh em Bình Xuyên. Ký Huỳnh rất hãnh diện được cụng lý với Tư lệnh quân khu!
Chuyến đi của Hai Vĩnh mang lại một kết quả bất ngờ cho Bảy Viễn: Trung ương điện vào quyết định phong Bảy Viễn chức Khu bộ phó Khu 7.
Bảy Viễn tập hợp đám thân tín lại báo tin vui đồng thời tổ chức làm gà, làm vịt ăn mừng.
Đêm ấy, ăn nhậu say mèm, thức tới khuya để nghe đàn ca hát xướng; quá nửa đêm Bảy Viễ mới xuống ghe với cô vợ bé, đào chánh của gánh hát bội Bầu Xá.


***


“Gạo Cần Đươc, nước Đông Nai”, vùng đóng quân của Bình Xuyên phì nhiêu nổi tiếng từ xưa, nhưng trong những năm kháng chiến, các đơn vị đóng quân ở Rừng Sác bị giặc phong tỏa cắt đường tiếp tế, thiếu gạo, thiếu nước ngọt, thiếu nước ngọt có khi kéo dài đến đôi ba ngày.
Lúc Hai Vĩnh đi Đông Tháp Mười gặp Khu trưởng Nguyễn Bình, binh công xưởng Chi đội 7 đóng ở Núi Bà Trau bị tàu lồng cu bao vây nên thiếu gạo. Liên lạc tốc qua Rạch Chanh báo tin khẩn cấp cho ông Tám Mạnh. “Cứu đói như cứu hỏa”, ông Tám sai cô Tư mang tiền, qua xóm Ông Kèo, xã Phước Lý mua gạo chở về Bà Trau tiếp tế cho “thằng Thức với đám thợ Ba son của nó”.
Ông Tám rất mến đồng chí Thức, anh này là thợ giỏi của Ba son. Anh kéo theo một số lượng công nhân đầu quân bộ đội Chánh hưng như Năm Dương, Tám Xích ngay từ đầu. Anh Thức là người Bắc vô Nam từ lâu, tính tình vui vẻ, cởi mở. Tuổi của anh Thức cùng một lứa với cô Tư nên ông Tám xem như con cháu. Tay nghề của Thức rất giỏi nên ngay từ đầu anh đã giữ chức giám đốc binh công xưởng, Năm Dương phó giám đốc.
Cô Tư nhét bạc đầy hai túi áo đi mua gạo. Đoàn ghe chở gạo gồm ba xuồng và một ghe nhỏ có sức chở hai chục giạ. Cô Tư đi ghe ở phía sau, ba xuồng nhẹ nhàng lướt nhanh đi trước. Bất ngờ dọc đường đoàn ghe bị phục kích. Súng nổ vang, đạn bay vèo trên đầu. Tất cả bỏ xuồng nhảy xuống sông. Cô Tư ở sau nhưng lội theo kịp mấy anh ở trước cùng nhay lủi rừng về tới Bàu Bông. Chừng ngớt tiếng súng mới thấy đói. Nhờ dân để lại vài lon gạo nấu cơm ăn, nhưng dân cũng đang khan gạo, ăn cháo thay cơm. Dù vậy, khi biết cô Tư và các bạn là quân nhu Chi đội 7, bà chủ nhà vét hủ gạo nấu cơm để “mấy cháu có sức đi công tác”. Tiền ướt căng hai túi, cô Tư móc ra phơi và trước khi tiếp tục lên đường, cô xin trả tiền gạo, bà già nhất định không lấy. Cô Tư nhét tiền vào túi đứa cháu nhỏ, bà già cũng chạy theo, “một bữa cơm mà nhiều nhỏi gì!”
Có gạo rồi, anh Thức lên tinh thần, nửa đùa nửa thật:
- Chị Hai có tài đổ bánh bò, nghe đồn mà chưa dịp thưởng thức…
Cô Tư biết anh em trong rừng thèm nên tổ chức xay bột, nạo dừa làm bánh bò thật ngọt, thật béo. Mỗi người được một bánh to bằng chén ăn cơm, nhưng xem ra ai cũng còn thèm thuồng…
Mỗi lần được ông tám giao cho công tác như vậy, cô Tư rất vui. Cô muốn bước ra ngoài phạm vi nhỏ hẹp của gia đình. Nhờ những công việc nho nhỏ, vừa với sức mình, cô gắn bó gia đình với tập thể, đúng theo lý tưởng của ông Tám là “tứ hải giai huynh đệ”.
CHƯƠNG 30
Để đánh dấu ngày nhậm chức, khu bộ phó Bảy Viễn ra lệnh cho các đơn trong Liên khu Bình Xuyên tổ chức liên hoan tưng bừng, náo nhiệt. Các tổ đi săn càn rừng lướt bụi tìm cho được nai, cheo, heo rừng phục vụ quan khách từ các nơi tơi, kể cả khách trên thành. Tiệc liên hoan phải có dàn nhạc đủ cả tân lẫn cổ. Còn mít tinh thì tổ chức ngoài trời, mời hết tất cả các cơ quan đóng trong vùng và mở rộng cho dân chúng. Một bài diễn văn được soạn thảo cho ngài bộ phó đọc trước ba quân. Cũng trong dịp này, ngài Khu bộ phó phải mặc bộ đồ mới, rước thợ may từ trên thành xuống đo, cắt và máy cấp tốc. Tiếng “ngài” đặt trước chức tước Khu bộ phó là sáng tác của Năm Tài. Ban đầu Bảy Viễn vẫn còn lạ tai, nhưng về sau quen đi.
Suốt một tuần, cả văn phòng Khu bộ phó rộn rịp chạy đua với thời gian. Họa sĩ ở các đơn vị được tập trung lại, kẻ lo hội trường, người chạy sân khấu. Liên lạc thành ba chân bốn cẳng chạy đi tìm thợ may, nhạc sĩ. Nhân viên văn phòng lo bài diễn văn. Chánh văn phòng Năm Tài bảo Tam Tâm:
- Lâu nay nghe ngài Khu bộ phó khen anh Tám có tài thảo diễn văn, đây là dịp để anh Tám múa bút đó.
Tám Tâm thoái thác:
- Lúc đó chưa có thầy Năm. Bây giờ có thầy Năm, tôi đâu dám vẽ bùa trước cửa Lỗ Ban?
Năm Tài cười thích thú:
- Viết tiếng Pháp thì tôi ngoáy một chút là xong, nhưng viết tiếng Việt thì tôi chịu! Lại nữa… không quen nói láo.
Tám Tâm ngạc nhiên:
- Thầy Năm nói gì là vậy? Soạn diễn văn là nói láo sao?
Năm Tài gật lịa:
- Chớ sao! Qui dit politique dit mensonge (kẻ nói chính trị là kẻ nói dối). Anh Tám làm dùm tôi đi. Tôi còn lo viết thư mời quan khách trên thành xuống.
Tám Tâm không thể chối từ vì Năm Tài là thân tín của Bảy Viễn. Hắn nói sao, Bảy Viễn nghe vậy. Năm Tài cũng là “sếp” của anh, ra lệnh là phải tuân theo. Vả lại Tám Tâm cũng muốn nhân dịp này, khéo léo nhắn nhủ cùng binh sĩ Bình Xuyên cần cảnh giác đối với những người chỉ huy mình. Từ lâu Tám Tâm thấy rõ Bảy Viễn giao lưu với nhiều phần tử nguy hiểm qua trung gian của hai anh em Tài, Sang. Có lần Hộ pháp Phạm Công Tắc cùng Mười Trí xuống Tắt Cây Mắm gặp Bảy Viễn bàn việc cơ mật. Ngày ấy Năm Tài không cho Tám Tâm vào văn phòng dù anh là phó văn phòng. Thầy Tư Hòa Hảo tức Huỳnh Phú Sổ, cũng tới Tắt Cây Mắm cùng với đệ tử ruột là Năm Lửa to nhỏ với Bảy Viễn. Có chuyện nực cười là lúc ăn nhậu, Bảy Viễn và Huỳnh Phú Sổ ngồi mâm trên, dọn trên đi-văng gõ, còn Năm Lửa thì ngồi mâm dưới, dọn trên chiếu trải trên sàn chà là. Tám Tâm trông thấy Năm Lửa nhấp nha nhấp nhỏm, ăn không yên, chốc chốc lại ngóc đầu lên mâm trên, chờ Giáo chủ nhểu nhảo để lật đật khúm núm rút khăn trong tui áo Hùynh Phú Sổ lau miệng cho “Phật thầy”.
Như vậy là hai đạo lớn Cao Đài và Hòa Hảo đều có tới lui to nhỏ với Bảy Viễn vào lúc Bảy Viễn được phong chức Khu bộ phó. Tám Tâm còn thấy các “chính khách xa long” như giáo sư Lê Văn Hanh và các tay Lâm Ngọc Đường, Tư Thiên tự Morit Thiên bí mật vô ra. Theo hai tên này có cả đám vệ sĩ ăn mặc theo kiểu lính côm măng đô mang súng colt 12 ly mới toanh.
Tám Tâm để ba ngày soạn thảo bài diễn văn nhậm chức Khu bộ phó của Bảy Viễn. Nếu là bài diễn văn thông thường thì chỉ một buổi là xong, nhưng đây là bài diễn văn đặc biệt. Tám Tâm muốn “lồng” vô đó một câu nhắn nhủ anh em đội viên cảnh giác, nhưng không biết nhét vào chỗ nào. Bởi bài diễn văn này phải do Năm Tài kiểm duyệt trước khi trình lên ngài Khu bộ phó. Và sau cùng, anh đã tìm được một mưu chước nhỏ…
Bài diễn văn được Năm Tài khen hay và trình lên Bảy Viễn không thêm bớt chút nào. Trước ngày lễ, Tám Tâm bí mật đánh tráo một bản khác cũng đánh máy y như vậy nhưng có nhét vô một câu “động trời” như sau:
“… Anh em binh sĩ Bình Xuyên nên đề phòng những kẻ bất lương sông phè phỡn trên xương máu đồng đội”
Đêm mít tinh tại Tiều, thuộc xã Lý Nhơn, Ngài Khu bộ phó ngồi trên ghế “phô tơi” đặt trên khán đài cao, chủ tọa buổi lễ. Khi xướng ngôn viên kính mời Ngài Khu bộ phó đọc diễn văn, Tám Tâm hồi hộp chờ đợi… Bảy Viễn đọc câu động trời của anh một cách thản nhiên, không chút ngờ ngợ. Tiếng vỗ tay như sấm khiến hắn bất ngờ thích chí. Nhưng Năm Tài đứng ngồi không yên, hắn nhấp nha nhấp nhổm như đứng trên ổ kiến lửa, miệng lẩm bẩm:
- Làm gì có câu đó trong bài diễn văn? Mình đã kiểm duyệt kỹ mà! Sao lại vậy?
Chờ Bảy Viễn đọc xong, Năm Tài đến xin mượn bài diễn văn. Bảy Viễn càng thêm phấn khởi:
- Đ.m thằng Tám Tâm viết diễn văn hay thiệt! Khán giả vỗ tay như pháo Tết làm mình phát nôn!
Năm Tài rút viết păcke (parker) gạch đít câu động trời của Tám Tâm:
- Ai thêm vô câu này? Hồi kiểm duyệt không có! Tôi quả quyết là có ai thêm vô.
Bảy Viễn nhìn sơ qua, khoát tay:
- Chính câu đó mới “ăn tiền” đó mầy! Tao nhớ rõ trước đó khán giả nín khe làm tao mất hứng. Nhưng tới câu đó thiên hạ vỗ tay điếc con ráy… mà làm sao thêm vô cho được? Bài diễn văn đánh máy hẳn hoi, nhét vô chỗ nào?
Dù vậy Năm Tài cũng tìm Tám Tâm cự nự. Tám Tâm lật hồ sơ đưa ra một bản thứ hai cũng như vậy.
- Thầy Năm đã kiểm duỵêt rồi, ai dám thêm bớt chữ nào?
Năm Tài đành ngậm miệng, nhưng từ đó ngấm ngầm theo dõi Tám Tâm không một chút lơi lỏng.
Công việc rước dàn nhạc thành phố công phu hơn. Tư Sang chịu trách nhiệm về công tác này. Trong văn phòng Bảy Viễn có nhạc sĩ Ngọc Thới – là cháu vợ Bảy Viễn. Ngọc Thới quê xã Phước Lâm, Cần Giuộc, bà con với hội đồng Đống ở Đa Phước. Năm 45, Ngọc Thới cũng “nớp với giáo mang ngang vai”, chưa biết theo bộ đội nào thì gặp “dượng Bảy” bắt theo Chi đội 9. Ngọc Thới được dượng Bảy yêu cầu lập ban nhạc. Trong Chi đội 9 chỉ có Hai Dậu và Paul Thìn, không đủ, phải về thành rủ thêm. Đích thân Ngọc Thới về Sài Gòn, tới vũ trường Tabarin mời hai bạn thân là Lê Yên và Chí Minh. Chín Minh là nhạc sĩ tài hoa nhất Sài Gòn, chơi được nhiều nhạc cụ, vĩ cầm cũng như Tây ban cầm, dương cầm cũng như đàn gió. Nhưng lắm tài nhiều tật, Chín Minh ghiền rượu đến mức thượng thừa. Không có rượu thì dứt khoát không đàn được. Rượu càng nhiều thì tiếng đàn càng “thần sau quỷ khóc”. Ngọc Thới không dám nói thật mà chỉ “rủ chí Chín đi chơi”. Lê Yên cũng là dân thành thị, nếu biết Ngọc Thới đưa vô khu thì nhất định từ chối. Đến khi xuồng chèo khỏi Nhà Bè, Ngọc Thới mới dám nói thật. Chín Minh và Lê Yên bật ngửa ra, nhưng chuyện đã lỡ cùng đành nhắm mắt đưa chân.
Nhờ có ban nhạc thượng thặng từ Sài Gòn xuống, cuộc mít tinh và đêm liên hoan tưng bừng nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Quan khách trên thành xuống lúc đầu cứ ngỡ Rừng Sác là nới “chó ăn đá, gà ăn muối”, không ngờ được gặp một thành phố mới dựng lên trên vùng hoang dã. Máy đền thắp sáng choang, dàn nhạc Chín Minh chẳng kém bất cứ dàn nhạc nào của đám Phi-lip-pin ở Sài gòn. Nước đá, la-ve, cà phê, hủ tiếp đầy đủ; cháo gà, chè đậu ở đâu cũng có. Riêng trên bàn thượng khách có cả Cô-nhắc, Mac-ten… Và thêm một chi tiết này mới “lé mắt thiên hạ”: có cả chục bông hoa biết nói vốn là “cave” trẻ đẹp thơm như múi mít, trên thành xuống chung vui với Ngài Khu bộ phó.
Bên cạnh dàn nhạc cổ cũng không chịu lép. Dàn nhạc cổ có Hai Dậu, Paul Thìn, Mười Nguyên, Mười Một. Các danh ca như Năm Cần Thơ, Ba Bến Tre cũng được mời xuống giúp vui. Bảy Viễn rất khoái ca cổ, càng về khuya càng rỉ rả sau câu vọng cổ mới “mùi”. Còn tân nhạc thì cũng cần để gây không khi tưng bừng của ngày vui lớn.
Những khuôn mặt không thể thiếu được đều tề tựu đầy đủ trong đêm liên hoan. Phạm Công Tắc, Huỳnh Phú Sổ, Lâm Ngọc Đường, Môrit Thiên, các Chi đội trường Chi đội phó bảy chi đội trong Liên khu Bình Xuyên tay bắt mặt mừng, rượu vào lời ra…
Tám Tâm thấy rõ vai trò quan trọng của hai anh em họ Lại trong đêm liên hoan này, nhất là Năm Tài. Hắn bặt thiệp, xã giao, khi thì đến bàn Lâm Ngọc Đường, Môrit Thiên nói mấy câu tiếng Tây thật giòn, lúc tới bên Phạm Công Tắc, Huỳnh Phú Sổ tán tỉnh vào lời rồi gật gù cười híp mắt với nhau.
Tiệc đang tưng bừng bỗng một loạt trây-đơ nổ vang rền khiến mấy em cave giật mình nhảy tới ôm cổ các quan khách. Tư Sang lập tức chạy ra ngoài – hắn chịu trách nhiệm về an ninh trật tự. Năm Tài bình tĩnh trấn an mọi người:
- Xin quý vị an tâm. Tiếng súng vừa rồi là anh em binh sĩ đón chào một vị quan khách tới trễ.
Đúng vào lúc đó Tư Sang trịnh trọng đưa Huỳnh Văn Nghệ, Khu bộ phó khu 7vào, Tám Nghệ đúng là một võ tướng, vạm vỡ, gọn gàng trong bộ quân phục ka-ki vàng. Sự xuất hiện bất ngờ của Tám Nghệ nhưng một ngọn sóng thần làm cả hội trường lặng trang. Bảy Viễn lật đật bước tới bắt tay:
- Chào Anh Tám! Tưởng anh Tám không tới được chớ! Thật là một vinh dự to lớn cho tôi được tiếp anh Tám đúng vào đêm nhận chức Khu bộ phó của tôi… Anh Tám ngồi đây – y trịnh trọng chỉ một ghế “phô-tơi” tên vệ sĩ vừa đặt kế bên “phô-tơi” của mình. Nhận thấy anh Tám Nghệ đang đứng đảo mắt nhìn quanh như tướng lãnh quan sát trận địa, Bảy Viễn vội vàng giới thiệu:
- Trong số quan khách hôm nay có Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc và Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, còn đây là ông Lâm Ngọc Đường và Tư Thiên là cơ sở của Bình Xuyên trong thành. Ngoài ra là các chỉ huy chi đội trong Liên khu Bình Xuyên mà anh tám biết rồi…
Tám Nghệ đi bắt tay từng người.
Bảy Viên giới thiệu tiếp:
- Anh Tám Nghệ đây là Khu bộ phó Khu 7 kiêm luôn chi đội trường Chi đội 10 đóng ở chiến khu Đ. Chắc quý vị đều nghe trận vang dội như Đồng Xoài, Bàu Cát… Đó là chiến công của anh Tám đây…
Tám Nghệ đứng lên cúi chào mọi người, khiêm tốn:
- Đó là chiến công chung của cả chi đội chớ đâu phải của riêng tôi…
Tiệc liên hoan lại tiếp tục. Hai Lung đứng lên có ý kiến:
- Tôi được xem tập Thơ Đồng Nai của anh Tám vừa được xuất bản trên giấy vàng nghệ, trình bày thật mỹ thuật. Trong đơn vị tôi ai cũng khoái. Ước chi được tác giả cho anh em thưởng thức vài câu!
Tám Nghệ đứng lên tươi cười:
- “Đến đây không hát thì hò, không phải con cò ngóng cổ mà nghe”. Anh Hai Lung đã yêu cầu thì tôi xin ngâm một bài. Bài này cùng nằm trong tập Thơ Đồng Nai. Đó là bài Bến Cũ, có lẽ hợp với không khí ở đây:


… Đây bến cũ, chốn muôn thuyền đợi sóng.
Buồm phập phồng như phổi nhịp bên hông,
Neo buông sâu như những sợi tơ lòng,
Thuyền lớn nhỏ đều chứa đầy hy vọng.
*
Thuyền lớn nhỏ đều chứa đầy hy vọng
Thuyền ra đi bến đã động lòng thương,
Ai phăng neo vội vã để đoạn trường
Nhưng gió mới căng buồm thuyền chuyển động.

Về đây thôi, hỡi những thuyền hy vọng.
Chở về đây những mộng đẹp xa xôi
Lưu luyến chi bến lạ chốn quê người
Kẻo bến cũ ngỡ thuyền xưa đà lạc lối…

Tiếng vỗ tay vang cả hội trường, Tám Tâm thích thú vì bài thơ có ý nghĩa cảnh tỉnh Bảy Viễn.
Sau đêm liên hoan nhậm chức Khu bộ phó, khach khứa ra về, cuộc sống trở lại nhịp điệu bình thường, Năm Tài giở giọng mỹ nhân ngư kéo Bảy Viễn trở về thực tế:
- Em út nói điều này, sợ Ngài Khu bộ phó không vui, nhưng vì nhiệm vụ không thể bỏ qua…
- Điều gì mà tao không vui? Nói mau đi!
- Ngài Khu bộ phó hứa nghe rồi bỏ qua thì em út mới dám nói.
Bảy Viễn tánh nóng như lửa:
- Nói mẹ nó ra đi, cứ rào đón hoài!
Năm Tài nói nhỏ:
- Nguyễn Bình vừa cho Ngài Khu bộ phó một cái bánh vẽ… Em muốn nói cái chức Khu bộ phó đó mà.
Bảy Viễn trợn trừng:
- Nói bậy! Bánh vẽ cái gì! Tám Nghệ đánh giặc rầm rầm, biết bao nhiêu chiến công nó mới leo lên tới chức Khu bộ phó, còn tao đánh đấm gì mà cũng ngang hàng với nó? Mày còn nói vô nói ra chỗ nào?
Năm Tài cười lạt:
- Tám Nghệ khác, Ngài bộ phó khác. Tám Nghệ đâu phải là tay giang hồ hảo hớn như Ngài bộ phó? Cho nên hắn phục Nguyễn Bình là phải. Còn Ngài không không thể hạ mình làm phó cho Nguyễn Bình. Nguyễn Bình là người Bắc, trôi sông lạc chợ vô đây, chưa thấy công trận gì đã tự xưng là Khu bộ trưởng, xem mọi người như kẻ dưới tay. Mình đâu có dại gì làm cho hắn hưởng?
Bảy Viễn cau mày suy nghĩ> Năm Tài nói tiếp:
- Bây giờ em út nói về cái chức Khu bộ phó – hắn đưa ra từ công văn – Đấy, nói có sách, mách có chứng, đây là quyết định phong chức Khu bộ phó đồng thời quy định về quyền hạn và nhiệm vụ hẳn hoi. Theo đây thì Bộ tư lệnh Khu muốn ra chỉ thị gì cũng phải mang hai chữ ký, một chữ ký không có giá trị. Như vậy, Ngài Khu bộ phó muốn ra chỉ thị phải cho người mang xuống Giồng Dinh để lấy chữ ký của Nguyễn Bình hay của chính ủy Hai Trí, hoặc lên chiến khu Đ để Tám Nghệ ký. Rõ ràng cái chức Khu bộ phó của ngài là cái bánh vẽ không hơn không kém.
Bảy Viễn như bị một gáo nước lạnh tạt vào mặt. Hắn khoát tay:
- Im đi! Để tao suy nghĩ đã! Đ.m. mày nói nhiều quá, tay nghe không kịp.
Năm Tài biết mình đã đạt được mục tiêu rồi, lặng lẽ bỏ đi để Bảy Viễn một mình ngồi suy nghĩ về cái chức Khu bộ phó. Không rõ ông ta có đồng ý với những lời lẽ của Năm Tài hay không, chỉ thấy ông ta xuống ghe mui ống đậu dưới bến tổng hành dinh.
Ghe mui ống là nét đặc trưng của cuộc sống bồng bềnh trên sông nước của chốn Lương Sơn Bạc kiểu Bình Xuyên. Nếu dân du mục trên sa mạc lấy lạc đà làm phương tiện di chuyển, thì dân Bình Xuyên xê dịch bằng ghe xuồng. Các chỉ huy đều có ghe, lớn nhỏ tùy theo chức tước. Cấp từ trung đội trở lên đi ghe lườn mui ống ghọn đẹp. Riêng Bảy Viễn có rất nhiều ghe mui ống, loại hai chèo thông thường và một chiếc bốn chèo để dùng trong những trường hợp khẩn cấp. Loại này lướt sóng nhanh như gió, dùng để vượt sông Lòng Tàu hay sông Soài Rạp trong những lúc giang đỉnh tuần tiễu lên xuống như thoi đưa. Trước mũi có đặt một “con gà cồ” – tiếng lóng để chỉ FM đầu bạc. Khi hữu sự thì con gà cồ sẽ “gáy” nguyên băng để giải vây. Trong ghe của Bảy Viễn có đầy đủ mọi thứ tiêu khiển. Máy hát với cả chồng đĩa “tròng vàng tròng bạc” của hãng ASIA, với những bản vọng cổ lâm ly như “Viếng mồ bạn” do nghệ sĩ Năm Nghĩa ca, hoặc những tuồng Huệ Dung, San Hậu v.v… Rượu đủ loại chất đầy khoang, toàn thứ đắt tiền như Mạc-ten, Cô-nhắc, sâm-banh, và không vài “cái tuốt” thuốc “Ách chuồn” hoặc “con mèo Craven A”… la ve, nước ngọt, cà phê, trà, sữa là thứ phải có mặt thường trực.
Bảy Viễn có rất nhiều vợ. Bà Vợ thứ nhất ở Cần Đước, sinh hai con gái tên Tính và định. Bà hai là má thắng Paul quê Chợ Đệm. Bà ba là má thằng Hoảnh (Vincent) quê ở Gò Dầu (Tây Ninh) cũng là dân lao động.
Bà Tư là cô đào hát bội của gánh Bầu Xá. Bảy Viễn lúc còn xưng anh chị ở Phú Thọ đêm đêm rất thích đi dạo mát và khi cao hứng vô các rạp hát xem cải lương và hát bội. Cách xem hát của anh chị cũng khác thường. sau khi nhậu lai rai ở các tửu lầu, bốc đồng lên xe kéo tới rạp hát, thấy gánh nào hấp dẫn thì xuống xe nhào vô xem. Một hôm Bảy Viễn gặp bầu Phước Georges chủ gánh “Huỳnh Kỳ tái sanh” đứng trước cửa rạp. (Trước đó, gánh Huỳnh Kỳ từ Pháp về bị chìm tàu ở Biển Đỏ, nay lập lại và ra mắt khán giả Sài Gòn). Bảy Viễn xuống xe tới bắt tay Georges, hỏi thăm xã giao. Ông bầu Huỳnh Kỳ móc túi trao một cọc thiệp mời nhưng Bảy Viễn cười thật tươi:
- Dân anh chị đi coi hát đâu cần thiệp, ông bầu – Rồi ung dung bước thẳng vô cửa, đám nhân viên soát vé dạt ra nhường lối cho y vào. Bảy Viễn tới hàng ghế đặc biệt dành cho khách quý. Ghế phải ngay giữa sân khấu, vào hàng thứ ba để khách quý không phải ngóc đầu lên mỏi cổ như hai hàng ghế đầu. Ghế danh dự cũng phải gần quạt máy nhưng không được ngay dưới quạt máy để tránh nạn lạnh “mỏ ác”…
Nhưng dù ghế có tốt đến đâu và tuồng có hay đến mấy, Bảy Viễn cũng không ngồi lâu. Hắn đi chơi chứ không phải đi coi hát. Coi vài màn rồi đi ra, qua rạp bầu Xá coi hát bội. Và đêm ấy, Bảy Viễn gặp cô đào hạp nhãn. Cô này là đào chánh của gánh bầu Xá. Hắn ngõ lời cưới cô đào chánh làm vợ bé. Cô đào đồng ý, bầu Xá chới với nhưng đành “bợ” xấp bạc của Bảy Viễn để kiếm cô đào chánh khác.
Bà Năm là cô Lúa, con gái hội đồng Đống xã Đa Phước. Bảy Viễn lạm dụng danh nghĩa ủy viên quân sự buộc Hội đồng Đống gả con gái cho hắn. Hồi đầu kháng chiến, cô Lúa ở trên một ghe mui ống đầy đủ tiện nghi cũng như bà Tư.
Ghe đậu trước tồng hành dinh ngài Khu bộ phó hôm đó thuộc quyền sở hữu của một cô vợ mới cưới của Bảy Viễn, không rõ là thứ mấy. Cô này vốn là một “tắc xi-gượt”, nói theo kiểu Hồng Kông (taxi-girl), dân làng chơi gọi là “ca ve” hay gái nhảy. Nàng ca ve này có kỹ thuật quyến rũ đàn ông nên những lúc “đau đầu” Bảy Viễn xuống ghe để được giải trí…
Dù là Năm Tài chê chức Khu bộ phó của Bảy Viễn là bánh vẽ, Bảy Viễn cũng thành lập đủ ban bệ, rườm rà, nổi đình nổi đám.
Ngoài các lán trại cho ban nhạc vừa mới “tậu”, hắn còn cho cất nhà khách để dân trên thành phố xuống có chỗ nghỉ ngơi tươm tất.
Nhà khách vừa cất xong, nàng ca ve bỏ ghe bầu lên chiếm ngụ làm của riêng. Đêm đêm nàng bắt dàn nhạc của Ngọc Thới và ông Chín Minh tới biểu diễn. Biết tánh Chín Minh chỉ chơi hay khi có rượu, nàng đãi ông mỗi đêm vài chầu. Tức thì mắt người nhạc sĩ tài hoa sáng hẳn lên, ông độc tấu vĩ cầm toàn những bài “cổ chiến” như dòng sông Danube (Đanuýp). Khu rừng Vienne (Viên) v.v… Đôi khi cao hứng, nàng ca ve mời Ngài Khu bộ phó “nhảy với em một bản”… Ở rừng sâu mà nàng ca ve vẫn đài các như ở thành, mặc kimônô áo ngủ bằng hàng mỏng – như khiêu khích, như mời mọc. Chính Ngài Khu bộ phó cũng xốn mắt ra lệnh dựng vách làm hàng rào để lính văn phòng không được chiêm ngưỡng vẻ đẹp nóng bỏng của cô vợ mới cưới của ông Bảy.
Một hôm, Mười Trí từ Bình Hòa xuống tổng hành dinh Bảy Viễn bàn chuyện cơ mật. Ngày ấy Bảy Viễn có việc đi đâu đó, Mười Trí đi vòng vòng ngắm giang sơn Ngài Khu bộ phó. Bước lạc qua nhà khách, thấy nàng ca ve ăn mặc hở hang lạ đời, Mười Trí nhìn sững. Nàng ca ve xác láo hất hàm hỏi:
- Mày là ai? Ở đâu tới? Vô đây có việc gì?
Mười Trí nóng mặt:
- Tao là tao, còn mày là con nào?
Nàng ca ve cười ngạo nghễ:
- Tao là bà Khu bộ phó biết chưa, đồ nhà quê!
Mười Trí giận rụn:
- Mày là con đĩ chó chứ bà Khu bộ phó gì! Thằng Bảy Viễn không biết dạy vợ thì dạy dùm nó vậy – Mười Trí móc súng nổ một phát vỡ sọ nàng ca ve. Bắn xong, ông ung dung đi tìm Bảy Viễn. Không bao lâu thì Bảy Viễn về.
Mười Trí đưa khẩu súng còn bốc khói ra trước mặt Bảy Viễn:
- Vợ mới cưới của mày hỗn láo, tao vừa trị tôi, bây giờ mày tính sao với tao cũng được.
Bảy Viễn tái mặt, chạy qua nhà khách. Nàng ca ve nằm sõng sượt, tim đã ngừng đập. Bảy Viễn giận run, mặt hầm hầm, đi tới đi lui, mắt trừng trừng nhìn Mười Trí. Mười Trí vẫn ngồi khoanh tay trước ngực, khẩu súng sáu đặt trên bàn như chờ đợi.
Một lúc sau, Bảy Viễn nguội lại, ra lệnh cho nhân viên tẩm liệm người xấu số đưa đi chôn. Đêm ấy Bảy Viễn uống rượu say mèm. Hắn tiếc một bóng sắc kiều diễm hiếm có.
Qua ngày sau, chờ khi Bảy Viễn đã tỉnh hẳn, Mười Trí nhỏ to:
- Đàn ông thằng nào cũng háo sắc. Chỉ có mấy thằng liệt dương mới dửng dưng với gái đẹp. Nhưng mày đã đi quá trớn. Mày để con đĩ chó đó lộng hành quá. Tao là bạn nối khố với mày mà nó dám vô lễ với tao. Nó đúng là quỷ nhền nhện hiện hình để hại mày. Nên nhớ binh sĩ Bình Xuyên có ý thức chính trị chớ không phải đám lâu la dốt nát của mình thời xa cưa đâu. Chúng nó chiến đấu, sống chết không phải để cho bọn chỉ huy như mày ngày đêm đú đởn với mấy con quỷ cái trên thành xuống.
Bảy Viễn thở ra:
- Thôi, mày đừng nói nữa. Tao hiểu rồi. Nhưng mày làm mạnh tay quá!
Mười Trí cười:
- Mày còn tiếc rẻ phải không? Bạn sống chết như tao với mày mới khó kiếm chớ mấy con quỷ cái đó thì muốn bao nhiêu chẳng có? Hai thằng Lâm Ngọc Đường với Môrit Thiên sẵn sàng cung phụng cho mày mà! Nhưng tao khuyên mày, từ nay nên chơi bời kỹ, đừng để binh sĩ thấy. Ghe mui ống của mày thiếu gì, chèo vô chỗ khuất rồi thì làm chay hát bội gì đó tùy ý.
Mười Trí đổi sắc nghiêm nghị:
- Mày vừa bảo tao mạnh tay quá! Nhưng trường hợp gặp gián điệp của Phòng Nhì, phải mạnh tay mới được.
Bảy Viễn kêu lên:
- Con nhỏ đó là gián điệp à?
Mười Trí gật:
- Nó là gián điệp chánh hiệu. Từ ngày có nó về đây, Chi đội 9 của mày bị máy bay bắn mấy lần, mày có nhớ không? Mà lần nào cũng bắn trúng bộ chỉ huy. Vậy thì còn nghi ngờ gì nữa?
Bảy Viễn ngẩn ngơ khá lâu. Khi đã lấy lại bình tĩnh, Bảy Viễn hỏi:
- Mày xuống gặp tao có việc gì?
- Bảy Trấn vừa ghé thăm tao trên đường đi dự ĐẠi hội Nam Bộ. Nó làm lớn lắm: Chánh ủy khu 9. Mày nhớ hồi ba đứa “chém vè” ở Bến Tranh, ngày tối cứ thả rểu đánh bài tứ sắc không? Vậy mà bây giờ tao làm chi đội trưởng, mày làm Khu bộ phó, còn Bảy Trấn thì làm Chánh ủy khu 9! Tụi mình toàn là số đỏ cả!
Bảy Viễn tò mò hỏi:
- Rồi sao? Có gì hay?
- Bảy Trấn cự tao quá trời. Cự về vụ tao tự động đi dự đại hội giáo phái do Phạm Công Tắc triệu tập tại Tòa thánh Tây Ninh.
- Cự cái gì? Nó có phải cha mình đâu!
- Ấy, đừng nóng! Để tao nói cho mà nghe. Tụi mình phải coi chừng hai cha Phạm Công Tắc với Huỳnh Phú Sổ lợi dụng. Hai cha đó muốn nhảy theo Pháp nhưng hai đạo Cao Đài và Hòa Hảo tuy đông dân số mà chẳng làm đách gì được! Muốn lấy tiền của Tây thì phải có lực lượng quân sự hùng hậu. Bởi vậy hai cha đó mới “dụ khị” mình đứng chung trong Mặt trận Quốc gia chống Việt Minh.
Bảy Viễn ôm đầu suy nghĩ, Mưới Trí nói tiếp:
- Bảy Trân “xưng dựng” tao với mày thật nhẹ nhàng. Nó nói như giả ngộ mà rất thấm. Chẳng hạn nó nhắc hồi nhỏ đi học, thầy giáo kể chuyện con mèo thò tay vô lửa khều mấy trái ma-rông để con khỉ ngồi ngoài bốc ăn tỉnh bơ. Tụi mình là con mèo, còn hai cha Phạm Công Tắc và Huỳnh Phú Sổ là con khỉ đó. Mày nghĩ coi có đúng không?
Một lúc sau, Bảy Viễn hỏi:
- Bây giờ mày tính sao?
- Còn tính sao nữa! Tụi mình không nên để mấy cha buôn thần bán thánh chơi gác kèo trên. Chỉ có vậy thôi.
Bảy Viễn lại suy nghĩ:
- Giữa Tây với Việt Minh, phải chọn bên nào đây?
Mười Trí cười lớn:
- Làm tới Khu bộ phó mà còn hỏi lẩm cẩm như vậy sao? Theo Việt Minh tụi mình mới được như ngày nay, tao chi đội trưởng Chi đội 4, mày chi đội trưởng chi đội 9 rồi lại nhảy lên làm Khu bộ phó. Còn với thằng Tây như cò Bazin, đại úy Savani, thằng chúa ngục A-gốt-ti-ni thì tao với mày chỉ là thằng tù lợi hại cần nhốt cátsô vì đã nhiều lần vượt ngục Côn Đảo…
- Nhưng mới hôm trước đây mày nói Việt Minh tiêu diệt giáo phái, bây giờ mày trở cờ lẹ vậy?
- Đâu phải trở cờ! Hôm trước tao nghe tiếng chuông của Phạm Công Tắc, Huỳnh Phú Sổ, nghe sao về báo cáo lại cho mày, báo cáo y nguyên văn, không thêm bớt. Kế tao lại nghe tiếng chuông thứ hai của Bảy Trấn. Nó là thằng trí thức, học cao hiểu rộng hơn bọn mình. Nó nói có căn cơ bài bản hơn hai cho nội kia. Tây đưa Phạm Công Tắc về là để làm tay sai, chúng muốn nắm Cao Đài chống lại Việt Minh. Chúng cũng mua luôn Huỳnh Phú Sổ. Tao chưa biết Việt Minh có tính tiêu diệt giáo phái hay không, nhưng nếu mày là Việt Minh mà hai cha Phạm Công Tắc và Huỳnh Phú Sổ đầu Tây thì mày có cho tụi nó đi “mò tôm” hay không? Mày trả lời câu hỏi đó nghe coi?
- Vậy là mày theo Việt Minh mặc dầu tụi nó bắt vuột mày?
Mười Trí cười:
- Bắt là phải! Bởi tụi nó sợ tao nhảy ra đầu Tây như đám chỉ huy Chi đội 5. Tụi nó đâu biết tao đi dự đại hội giáo phái là do tánh tò mò?...
- Vụ Chi đội 5 ra sao, kể nghe coi?


Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 1
Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 3
Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 4
Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 5

Không có nhận xét nào: