Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 1

CHƯƠNG 1

Con đường đất đỏ nối liền chợ Long Kiểng với bến đò (cũng mang tên Long Kiểng) phơi mình dưới nắng mai đẹp như một dải lụa dài màu gạch cua.
Hai bên đường nhà cửa lưa thưa, các cánh đồng xen lẽ bưng rạch xanh um. Đâu đó một con cu đất đậu trên nhanh bần cất tiếng gáy dõng dạc như khuấy động bầu không khí êm ả của đồng quê. Thỉnh thoảng một chiếc thổ mộ chạy lốc cốc suốt quãng đường dài. Đến cầu Rạch Đỉa, cuộc sống có phần nhộn nhịp hơn. Từ xa, khách đã nghe tiếng “xình xịch” của nhà máy xay lúa, một làn khói đen bốc lên, lơ lửng giữa vòm trời xanh lơ. Xe qua cầu, khách liếc nhìn nhà máy rõ hơn. Nhà máy nằm sát bờ rạch ngay ngã tư sông, tàu thuyền qua lại tấp nập. Gần chục xuồng tam bản chen chúc dưới bến, kẻ vác lúa lên, người khuân gạo xuống. Dưới bóng cây bần, chị bán “sương sâm, sương xáo” cùng đám nhỏ bán bánh cam, bánh còng tranh nhau mời mọc...
Sáng nay Hai Vĩnh ăn mặc tươm tất hơn mọi ngày, chiếc áo sơ mi kaki trắng có cầu vai- kiểu mới vừa tung ra vào đầu năm 40- đặt may tại tiệm lớn ở đường Lefèbive, dân đọc là Lơ-pheo bên chợ Cầu Ông Lãnh, giúp anh có phần bảnh trai hơn. Chị bán sương xâm nheo mắt tán một câu:
- Bữa nay, thầy Hai sáng trưng hè!
Đám trẻ bán bánh đảo mặt nhìn Hai Vĩnh, trầm trồ chiếc áo mới:
- Thầy Hai có áo sơ mi “chiếng” quá!- Hai Vĩnh là một thanh niên khoảng hăm lăm, to cao, mặt vuông, trán rộng, mắt sáng, nghiêm nghị, nói năng nhỏ nhẹ...
Hai Vĩnh vuốt áo, nói cho qua chuyện:
- Có cũ có mới chớ bà con!- Anh vui vẻ pha trò: Sách có câu “Không chùi để vậy lu ly, chùi ra tỏ rạng, thua gì... chúa ôn”!
Nói xong, anh đi thẳng lên nhà máy, sợ nán lại, thiên hạ sẽ biết vì sao hôm nay anh diện như vậy. Bí mật của anh chỉ có hai người biết mà thôi, đó là anh và người anh thầm yêu trộm nhớ: cô Tư Xóm Cỏ. Mỗi tháng, cô Tư Xóm Cỏ chỉ đi chà gạo có một lần, thường là ngày mười bảy “nước nhảy khỏi bờ”. Vào những ngày mười bảy ấy, tình cảm của Hai Vĩnh cùng tràn bờ như con nước rong Rạch Đỉa.
Cuộc đời làm công tối tăm, bụi bặm của anh có được một chút ánh sáng kể từ ngày ấy. Niềm vui khó tả đó chính là mối tình đầu. Anh nhớ mãi buổi gặp gỡ đầu tiên. Cũng trên bến này, vào một ngày nước lớn ngập cầu. Nước lớn bao giờ cũng gieo vào lòng người cảm giác tươi mát dễ chịu, nước lớn che những bãi bùn dơ bẩn hôi hám, nước lớn kéo theo làn gió làm ngả nghiêng các đọt bần, thổi sạch lớp bụi dày đóng trên nóc nhà máy. Anh đang ngồi trên bến nước, rửa mặt, rửa tay, nghe nước mát thấm vào da thịt mà liên tưởng tới những lu đầy nước mưa, những bồ đầy lúa, những khạp đầy gạo với những ví đầy tiền. Bỗng một cô gái thật đẹp, không rõ từ đâu tới hiện ra, bất ngờ như trong chuyện cổ tích. Cô nàng ghim mũi tam bản ngay về phía anh. Nước da cô trắng ngần, chiếc áo bà ba hàng màu tím hoa cà càng tôn sắc mơn mởn. Hai Vĩnh nhanh tay chụp mũi tam bản ghì lại, giúp cô gái cắm sào cập bến. Chợt thấy mình nhìn lom khom một cách khiếm nhã, anh cất tiếng chào:
- Cô không phải dân Tân Quy? Chắc cô ở bên kia Rạch Ong lớn.
Cô gái có vẻ ngạc nhiên thích thú:
- Làm như anh biết hết con gái ở đây!
- Cô nói đúng. Bởi trong xã Tân Quy chỉ có một cái nhà máy duy nhất này- Vừa nói, Hai Vĩnh vừa bê mấy bao cà-ròn lúa lên sân nhà máy.
- Cám ơn anh- Cô gái phe phẩy chiếc nón lá khiến mớ tóc tơ rung rinh trên gương mặt trái xoan.
- Ơn nghĩa gì!... Nhưng cô chưa trả lời câu hỏi của tôi- Hai Vĩnh tiếp tục ngắm cô gái. Mồ hôi dán chặt lưng áo cho thấy đôi vai tròn, bộ ngựa nở, eo lưng thon, cặp chân dài dưới lớp lãnh đen...
Cô gái cười để lộ lúm đồng tiền:
- Anh tò mò quá!
Hai Vĩnh hơi ngượng, tìm cách nói cho xuôi:
- Những người ở xa tới đây chà gạo, tôi có thể giúp cho chà trước để về cho kịp con nước.
Cô gái nửa tin nửa ngờ:
- Bà con tới trước có chịu nhường cho những người ở xa không?
- Chịu chớ! Bà con ở đây rất có tinh thần tương trợ. Truyền thống “dân lân dân ấp” của Bình Tây Đại Nguyên soái mà cô!
Hai mắt cô gái sáng rực lên:
- Bình Tây Đại nguyên soái! Tôi tưởng chỉ có ông già mới còn nhớ chuyện đời xưa chớ!
Hai Vĩnh ngồi lên bao cà-ròn đối diện cô gái:
- Vùng này ai chẳng là con cháu nghĩa quân Trương Định? Các tên xã nói rõ điều đó: Đây là Tân Quy, bên kia là Tân Thuận... Quy, Thuận! Phải chăng đợi tới lúc Gia Long rước quân Pháp sang giết được Quản Định tại Đám là tối trời, nghĩa dân vùng này mới chịu hạ giáo đợi thời cơ? Và cái tên Long Kiểng cũng là mối nhục của bà con vùng này. Lẽ ra phải là Long Cảnh, nhưng Gia Long buộc dân kiên cữ tên con hắn là hoàng tử Cảnh...
Chợt thấy mình lạc đề, Hai Vĩnh cười bảo:
- Bây giờ xin trở lại chuyện đời nay: Cô ở bên kia sông phải không?
Cô gái gật gật:
- Đúng, tôi ở Xóm Cỏ.
- Bên đó cũng có nhà máy mà...
- Phải. Nhưng mấy ngày nay máy móc trục trặc sao đó.
Hai Vĩnh nửa đùa, nửa thật:
- Vậy thì tôi vái cho nó mỗi tháng trục trặc một lần, đúng vào lúc nước rong như hôm nay.
Đã hứa lỡ, Hai Vĩnh vô nhà máy nói khéo cho bà con nhường cô gái chà trước để về sớm. Anh tiếp tay khuân mười giạ lúa vô trong:
- Nãy giờ quên hỏi cô thứ mấy?
- Tôi thứ tư.
- Từ nay tôi xin phép gọi cô là cô Tư Xóm Cỏ...
Một chuyện bất ngờ giúp Hai Vĩnh biết thêm cô gái mới quen. Trong khi tính sổ với cô chủ nhà máy trên gác, anh nghe dưới nhà có tiếng huyên náo khác thường. Anh vội vàng chạy xuống. Dân chúng đang bu quanh một góc sân. Vẹt đám người ra, anh thấy gã chạy máy nằm sãi trên đống trấu, hai tay hai chân quơ lịa mà chưa ngồi dậy được. Anh chạy tới kéo hắn đứng lên. Vừa phủi trấu trên mặt, gã điểm mặt cô gái: “Đàn bà con gái gì mà hung dữ quá trời!”.
Hai Vĩnh ngơ ngác quay lại:
- Chuyện gì vậy cô Tư?
Cô Tư vẫn thản nhiên cột túm các cà-ròn gạo:
- Anh nên hỏi nó- Cô hất hàm về phía gã chạy máy.
- Chuyện gì vậy Tám?
Gã chạy máy sượng sùng đi xuống bến rửa mặt rửa tay, một lúc lâu mới nói nhỏ vừa đủ cho một mình Hai Vĩnh nghe:
- Thấy con nhỏ đẹp, mình tính chọc ghẹo chơi. Mình không có văn nói nên mới giả bộ đóng thùng lại trong khi gạo đang chạy. Cô tay chạy lên gác kiểm tra, cự nự: “Gạo còn sao đóng máy?”. Cô ta đã bực mà mình lại đùa dai: “Ừa, đóng máy vậy đó, có sao không?”. Chưa dứt tiếng thì “bực” một cú đá như trời giáng khiến mình té văng mấy thước. Nếu không có đống trấu này thì không vẹo cổ cũng gãy tay! Gớm, đàn bà con gái gì mà hung dữ quá trời!
Tuy hắn nói nhỏ, đám đông cũng đoán được, xì xầm với nhau. Có tiếng cười khúc khích:
- Một lần cho tởn tới già!
- Cho bỏ tánh be he!
- Nhè con gái có nghề mà ló mòi.
Sau vụ đó, Hai Vĩnh mới biết cô Tư Xóm Cỏ là con gái của ông Tám Mạnh, thầy nghề võ nổi tiếng không những của xã Chánh Hưng mà cả thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, cả Mười tám thôn vườn trầu cũng biết danh ông. Ông Tám Mạnh không giàu, nhưng rất có thế lực vì môn đệ làm việc trong nhiều sở, có người làm trong ngành tòa án. Làng lính cò bót đều nể mặt.
Sau ngày ấy, cứ vào những ngày nước rong là Hai Vĩnh ăn mặc tươm tất, ngóng chờ cô Tư Xóm Cỏ. Anh thường lên gác, hướng về phía vàm Rạch Đỉa để tìm trong bức tranh thiên nhiên sông nước trời mây một điểm sáng: chiếc áo màu hoa cà. Từ xa anh đã nghe tiếng hò chơi vơi trên con rạch:
“Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”...
Mỗi lần nghe hò, Hai Vĩnh đều đăm chiêu tư lự: “Con rạch Ong lớn này chẳng khác con sông Nhà Bè, nó cũng chia hai, bên kia là Chánh Hưng, tổng Tân Phong Hạ, huyện Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn, còn bên này là Tân Quy, tổng Bình Trị Hạ, huyện Nhà Bè, tỉnh Gia Định. Nhưng con rạch Ong lớn không chia cắt đôi lứa vì mỗi tháng cô Tư đều sang đây chà gạo. Trở ngại không do sông rạch chia cắt mà “do lòng người ngại núi e sông”. Hai Vĩnh biết thân phận mình là con nhà nghèo, làm thuê ở mướn không đủ ăn, lại còn cha mẹ và một bầy em ở chợ Long Kiểng, làm sao dám mơ tới chuyện làm rể ông Tám Mạnh! Dù biết chỉ là ảo vọng, anh vẫn trông những ngày nước rong, vẫn ngóng chiếc áo bà ba màu hoa cà, vẫn lắng nghe tiếng hòa ngọt ngào trên sông nước.


***


“Bìm bịp kêu nước lớn ai ơi,
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê”.
Hai Vĩnh chạy lên gác ngóng về phía vàm, mắt sáng trưng. Giọng hò cũng ngọt như thuở nào, nhưng chấm sáng trên con rạch không phải là màu hoa cà mà là màu tím than tối sẫm. Chiếc thuyền mỗi lúc một gần, vẫn chiếc tam bản ấy nhưng người chèo không phải là “cố nhân”. Hai Vĩnh nhìn cô gái không chớp cho tới khi thuyền cập bến:
- Cô là em thứ mấy của cô Tư?
Cô gái ngạc nhiên:
- Cô Tư nào?
- Cô Tư Xóm Cỏ. Tháng nào, cô ấy cũng qua đây chà gạo, vào ngày mười bảy...
- Sao anh để ý quá vậy? Giọng cô gái hàm ý không muốn bắt chuyện với người không quen. Hai Vĩnh đang tìm cách làm quen thì cậu bé ngồi giữa các cà-ròn lúa vụt lên tiếng:
- Đúng rồi! Chị Tư rất thích đi chà gạo vào những ngày nước rong.
- Mày biết gì mà xía vô?- Cô gái trừng cậu em.
- Chị Sáu cứ chê hoài. Chê mà năn nỉ người ta đi theo!
Hai Vĩnh tìm được một “đồng minh” nơi cậu bé kháu khỉnh này.
Anh tiếp hai chị em khuân các bao lúa lên sân, khéo léo gạ chuyện:
- Cậu là em út phải không?
- Không. Em thứ mười- Cậu đưa hai ngón tay lên: - Còn hai mạng nữa.
Hai Vĩnh mua bánh cam mời hai chị em. Cô chị vẫn giữ vẻ xa cách, nhưng cậu em vui vẻ nhận chiếc bánh tươm mỡ tráng đường bóng loáng từ tay Hai Vĩnh. Vừa ăn, anh vừa “phăng lần”:
- Chị Tư bận gì mà không đi chà gạo?
Cậu bé liếc nhanh cô chị, ngần ngại mấy giây:
- Chị Tư em có bận gì đâu...
- Vậy sao chị Sáu đi thay?
- Bữa nay có người ta đi coi mắt!
- Hả?- Hai Vĩnh như mắc nghẹn. Nửa cái bánh cam dính cứng trong miệng, nuốt không vô mà nhả cũng chẳng ra. Sân gạch nhà máy quay tít khiến anh chóng mặt. Một lúc lâu, chừng cậu bé ăn xong chiếc bánh cam thứ hai, anh mới lấy lại bình tĩnh, gọi hai chén sương xâm:
- Ai đi coi mắt chị Tư vậy?
- Làm sao em biết được? Cậu bé lắc đầu, liếc chừng cô chị.
Hai Vĩnh thở dài:
- Chắc là giàu lắm?
- Em không biết! Nghe bà mai nói là thầy ký. Em thấy anh ấy mặc đồ Tây...
Hai Vĩnh chụp vai cậu bé:
- Chị Tư có ưng không?
Cậu bé ngơ ngác trước vẻ sôi nổi bất ngờ của Hai Vĩnh:
- Làm sao em biết được! Chuyện người lớn mà! Sao anh không hỏi chị Sáu em?
Một tiếng tằng hắng kèm theo một lời cảnh cáo:
- Nhiều chuyện chết đòn nghe mậy?
Cậu bé mất hứng húp hết chén sương xâm, xuống bến rửa miệng rồi rút dàn thun trong túi ngắm bầy chim đang đậu trên các nhánh bần ven rạch.
Hai Vĩnh không cần phải hỏi thêm. Bấy nhiêu đó cũng đủ rồi. Chuyện phải đến đã đến. Từ lâu anh chờ đợi nỗi bất hạnh này. Anh không trách người mình yêu vì chưa một lần anh dám ngỏ lời. Anh mơ tưởng cô Tư Xóm Cỏ như một người bộ hành ngắm ánh sao khuya, cùng đi mãi bên nhau nhưng không bao giờ với tới. Tin giờ chót này càng làm cho anh thấm thía ý nghĩa về cuộc đời mà anh đã suy gẫm từ lâu. Trên đời chỉ có hai hạng người: giàu và nghèo. Giàu là có đủ thứ còn nghèo thì chẳng có thứ gì. Từ lâu anh nghiền ngẫm quyển truyện Thủy Hử, anh mê cuộc sống hào hùng của 108 vị hảo hớn trên núi Lương Sơn Bạc. Anh thích nhất bài thơ đầy hào khí Tiếng hát thuyền câu của Tiểu Ngũ:
“Một đời ngang dọc chiếc thuyền câu
Danh lợi không màng vui chí cao
Giết sạch những phường quan lại ác
Lòng trung báo đáp Triệu gia sâu...”
Tư tưởng thế thiên hành đạo của Triệu Cái, Tống Giang bấy lâu tiềm tàng trong tâm hồn anh, nay gặp cơn gió lốc, dấy lên bừng bừng thôi thúc hành động. Ngay chiều ấy, Hai Vĩnh rủ Bảy Rô ra Chợ Cũ để “tìm một con đường đi”. Bảy Rô đánh xe thổ mộ, nhà ở bên này cầu Rạch Đỉa. Hai anh em thân nhau vì cùng một tuổi, cùng không ưa làng lính, cùng ưa chuyện Tàu, cùng mơ một cuộc sống chọc trời khuấy nước.
Chiều ấy, được Hai Vĩnh dặn trước, Bảy Rô nghỉ sớm, sửa soạn đi Chợ Cũ “ăn hút” với nhau cho thỏa chí.
Vào giờ tan sở, Hai Vĩnh và Bảy Rô kéo xuống Chợ Cũ. Lâu ngày chơi sang một bữa, cả hai vô Nghi Xuân Lầu là nơi hẹn hò của tao nhân mặc khách Sài Thành hoa lệ. Thường có mặt tại đây là những người trong giới anh chị, dân đá banh, xe đạp, đua ngựa, cải lương, Bảy Rô và Hai Vĩnh đi thẳng trên lầu, phía dưới là tiệm nước, trên lầu là tiệm cơm. Hai Vĩnh trao trọn quyền cho Bảy Rô chọn thực đơn:
- Đêm nay mình cần vô tiệm thuốc.
- Tương tư thất tình rồi phải không?- Bảy Rô nửa đùa nửa thật. Bảy Rô nhỏ thó, nhưng nhanh nhẹn, trán cao, mắt tinh ranh và miệng hay cười, tính tình nóng nảy và vui nhộn.
- Mình đang cần tìm một con đường. Hai Vĩnh trịnh trọng nói như nói với chính mình.
- Bồ nói sao giống mấy cha “pôlitic” (1) quá!
- Không! Mình không làm quốc sự. Mình sợ ở tù lắm. Mình chỉ bất bình cuộc sống đầy bất công: “Con vua thì lại làm vua, con sãi giữ chùa thì quét lá đa”.
Bảy Rô trao ly rượu cho Hai Vĩnh
- Mượn tửu bôi giải phá thành sầu. Nào, ta cụng ly!- Hai bạn cụng ly đánh “cốp” một tiếng, Bảy Rô nốc cạn, còn Hai Vĩnh chỉ uống một ngụm. Trong cung cách ăn nhậu, toát ra tâm tính con người. Bảy Rô ồ ạt, trực tính bao nhiêu thì Hai Vĩnh trầm tĩnh sâu sắc bấy nhiêu.
- Bồ muốn xóa bỏ bất công? Chuyện đó lớn lao quá sức mình. Hãy để cho mấy cha “pôlitic”. Còn tụi mình thì nên nghĩ cách làm giàu. Muốn giàu cho nhanh thì chỉ có một con đường: theo gương Sáu Ngọ. Cái nhà của va không thua dinh thống đốc Nam kỳ. Bồ đi giáp vòng hàng rào cũng đã rã giò.
Hai Vĩnh lắc đầu:
- Bao nhiêu người tán gia bại sản mới có được một Sáu Ngọ? Con đường của bồ nguy hiểm lắm! Không nhớ bài học thuộc lòng trong Quốc văn giáo khoa thư:
“Khôn nghề cờ bạc là khôn dại
Dại chốn văn chương ấy dại khôn...”
Bảy Rô khoát lia:
- Ôëi, sách nói một đằng, thầy làm một nẻo. Mình đã tính kỹ rồi, muốn bỏ cái nghề đánh xe ngựa ba cọc ba đồng thì chỉ có theo gương Sáo Ngọ mà thôi. Đêm nay, nếu “bà cậu” thương tình giúp vận thì ngày mai mình sẽ làm viên ngoại. Bồ nên đi với mình...
Hai Vĩnh lắc đầu:
- Không! Đêm nay mình cần vô tiệm thuốc.
- Thôi được! Đường ai nấy đi! Bồ chờ mình ở tiệm thuốc để mình cùng về.
Hai người ăn vài chén cơm thố với thịt xá xíu cho chắc bụng rồi chia tay. Hai Vĩnh xuống tiệm thuốc ở đường Lơ-pheo còn Bảy Rô lên xe kéo tới sòng bạc.
- Chúc bồ may mắn, Hai Vĩnh vẫy tay chào bạn.


***


Tiệm thuốc có một khuôn mặt riêng biệt, không giống nơi nào. Trước cửa không treo biển hiệu mà chỉ gắn một bảng trắng kẻ hai chữ RO (Régie Opium) tức là Công quản thuốc phiện.
Khi Hai Vĩnh đẩy cánh cửa gió gắn kính màu xanh lục bước vào trong tiệm, anh để lại sau lưng bao huyên náo, phiền muộn ngoài đời. Mùi thuốc phiện nướng bốc lên thơm phức như thúc giục bạn bước nhanh vào. Các bộ ván gõ bóng loáng với những chiếc gối sành mát lạnh như vẫy tay chào mời bạn ngả lưng.
Bàn đèn và dọc tẩu sẵn sàng đưa bạn phiêu diêu, từ bỏ cuộc đời đầy lo âu đến một thế giới thanh thản không chút ưu phiền.
- Cho một ngao xây- Hai Vĩnh cúi xuống tấm cửa nhỏ tí ti, vừa đủ thò bàn tay vào trao tiền và nhận thuốc phiện rót trong vỏ sò. Cửa nhỏ như cửa ghi-sê bưu điện bán tem. Xong anh đi thẳng vô trong, chọn chỗ nằm ưng ý. Anh cởi áo sơ mi mắc lên móc, cởi giày rồi nằm xuống ván, kê đầu trên gối sành phết men xanh. Trong buồng thuốc, một lão ốm tong teo lui cui rót vài giọt đen sệt vào vỏ sò, thận trọng như một chủ hiệu kim hoàn cân vàng trên cân tiểu ly- vì đây cũng là vàng. Một a xẩm mang vỏ sò vàng đen ấy đến tận nơi Hai Vĩnh nằm. Anh ra dấu bảo a xẩm làm thuốc cho mình. Với ngón tay điêu luyện, ả điều khiển các giọt đen sệt ấy trên ngọn đèn dầu như một nhà ảo thuật. Không mấy chốc, dọc tẩu đã nạp. Hai Vĩnh rít một hơi. Khói thơm từ mũi phả ra cuồn cuộn. Anh có cảm tưởng như thoát trần, thân xác nhẹ nhàng như bay bổng trên mây. Làm đủ một cặp, thấm thuốc anh nằm đê mê, nửa say nửa tỉnh. Bao nhiêu ưu phiền, nghèo túng, thất tình đều bay theo làn khói về chốn hư vô. Anh nằm như thế không biết bao lâu cho đến lúc đồng hồ Oét-min-tơ thong thả đổ chuông rồi gõ chín tiếng. Bỗng nhiên Hai Vĩnh thấy tỉnh táo, minh mẫn hơn bao giờ hết. Cuộc sống trần tục trở lại với anh: “Ngày mai mình sẽ tiếp tục kéo cày. Ôi chao, chán làm sao cái kiếp làm công trong cái nhà máy tối tăm bụi bặm! Và không còn gặp lại “cố nhân” mỗi tháng một lần vào ngày nước rong để an ủi kiếp sống cô đơn!”.
Hai Vĩnh mơ ước có được một cỗ xe ngựa như Bảy Rô để tự làm chủ lấy mình.
Nhưng éo le thay, Bảy Rô lại không ý thức được mình là kẻ có hạnh phúc mà còn “đứng núi này trông núi nọ”.
Phải làm gì đây? Bốn tiếng ấy như một điệp khúc cứ đáo đi đáo lại trong đầu. Đi theo con đường nào? Nhất định không thể phiêu lưu vào con đường đỏ đen như Bảy Rô. Cũng không thể đi theo mấy ông làm quốc sự. Bỗng một ý nghĩ lóe ra như tia chớp. Hai Vĩnh reo lên: “Phải rồi! Ta phải làm anh chị”. Cái nghề làm anh chị dễn đến cuộc sống lý tưởng, vừa hào hùng, vừa phong lưu. Tự nhiên Hai Vĩnh nghĩ tới Ba Dương, nhà ở bên này cầu Rạch Đỉa, cách nhà Bảy Rô chừng trăm thước. Trước đây Ba Dương cũng là tay làm hàm nhai, chuyên nghề chăn vịt, cái nghề mà có lần Hai Vĩnh đã đắn đo suy tính. Nghề này chỉ làm có ba tháng cuối năm mà có tiền đủ xài, quanh năm.
Đầu tháng mười, ta đi mua vịt con. Một người có thể chăn hai ba ngàn con. Ta chỉ tốn thức ăn một tháng đầu. Đến tháng mười một, vịt đã bằng bắp chân, đã mọc lông cánh. Lúc đó cũng là mùa gặt. Ta cứ thả vịt lên những cánh đồng đã gặt, còn mình thì chỉ cần một ngọn sào và mấy chiếc phên để đêm đêm quây cho vịt ngủ ngoài đồng. Cứ thế mà làm, hết cánh đồng này ta sang cánh đồng khác. Lùa vịt ăn rong như thế trong hai tháng. Đến ngày giờ đã định, tay quây đàn vịt sát bên đường đắp. Vợ gọi chủ vựa Chợ Lớn đem xe tới chở. Thế là vợ chồng đề huề lên xe về nhà chuẩn bị ăn Tết. Ba Dương nhờ nghề chăn vịt ấy mà đi khắp nơi, từ Nhà Bè qua Cần Giuộc, Cần Đước, Gò Công... Đến đâu, học võ tới đó. Bao nhiêu ngón nghề hay của các thầy võ nổi tiếng ở các nơi, Ba Dương đều quyết tâm học lấy. Và học tới đâu anh truyền lại cho đám em út. Nhờ vậy mà khi trụ bộ tại cầu Rạch Đỉa, Ba Dương đã nổi tiếng là tay giang hồ hảo hớn, dưới tay có cả trăm em út. Thiên hạ đua nhau tới học nghề. Đêm nào sân nhà Ba Dương cũng có nhiều người dượt võ thật sôi nổi hào hứng. Ba Dương không lấy học phí cao.
Cuộc sống phong lưu của anh nhờ vào mối khác. Đó là nghề anh chị.
Với tiếng tăm như cồn, anh trở thành một tay anh chị trong vùng. Các du đãng chuyên nghề trộm, cướp đều tôn anh lên hàng “đại ca”. Từ đó những ai bị cướp đều nhờ anh can thiệp. Thường là chỉ trong ngày ấy, khổ chủ đã được hoàn lại đầy đủ những món đã mất. Dần dần Ba Dương trở thành một sở bảo hiểm “tú rít” mà không phải xin “pa-tăng” (1), khỏi lập văn phòng với bộ máy nhân viên rườm rà tốn kém. Ghe chài chở gạo, chở heo từ lục tỉnh bị cướp trên đường về Chợ Lớn, thương lái cứ đến cầu Rạch Đỉa nhờ Ba Dương một tiếng là xong ngay...
Hai Vĩnh đã tìm được con đường. Anh nhất định bỏ nhà máy để đi giang hồ. Anh sẽ tìm thầy luyện thêm võ nghệ. Trước đây, anh đã từng bỏ nhà đi hoang: một ông bầu cải lương điên đầu vì nạn “cọp” và du đãng đã nhờ Hai Vĩnh làm “tiền đạo”. Gánh hát định tới làng xã nào thì Hai Vĩnh tới trước, lo thủ tục với làng lính để các đêm hát xướng được êm đẹp vui làng, vui tổng. Nhờ có khiếu ăn nói mềm mỏng và khi cần, không ngại dùng võ lực, Hai Vĩnh hạn chế được nạn “cọp” và ẩu đả xảy ra hàng đêm trước đó. Ba năm lưu lạc, ăn uống phủ phê, cà phê, thuốc lá, nhưng nghĩ tới cha mẹ nghèo khổ, đàn em nheo nhóc, anh đành trở về thú tội với cha mẹ và an phận với cuộc sống làm công nhà máy xay cho tới nay. Bây giờ thì Hai Vĩnh nhất định tái xuất giang hồ để tạo dựng tương lai...
Đúng vào lúc ấy, Bảy Rô tông cửa gió lao vào như một cơn lốc:
- Hai Vĩnh đâu?
Tiếng hét của Bảy Rô to quá khiến mấy ông khách đang mơ màng trong khói thuốc giật mình ngóc đầu dậy. Á xẩm lật đật chạy tới:
- Nho nhỏ vậy, xếnh xáng
Hai Vĩnh vội vàng xỏ giày, mặc áo:
- Thua hết rồi phải không?
Bảy Rô quạu đeo:
- Ăn thua là chuyện thường. Đằng này mình bị thằng Ba Tần đánh lận vét hết tiền mới đau chớ.
Hai Vĩnh kéo Bảy Rô ra ngoài:
- Có chắc là nó đánh lận không?
- Chắc chớ! Bài nó làm dấu hết mà mình không biết! Bộ bài mình mới mua trong tiệm, vậy mà nó làm dấu hồi nào mới tài chớ!
Hai Vĩnh lắc đầu:
- Không phải làm dấu đâu! Nó đánh kiếng đó, Ba Tần sở trường về môn này...
Cờ bạc mà con mắt không lang, hai tay không lẹ thì kể như đem thịt nạp cho chằn. Thôi bỏ qua đi bồ!
- Bỏ qua sao được! Đồng tiền mồ hôi nước mắt mà!... Thằng Tần phải trả bằng máu!
Hai Vĩnh nhìn Bảy Rô trân trân:
- Thiệt chơi? Ba Tần giỏi võ, từng thượng đài, lại khỏe hơn bồ!
Bảy Rô vỗ ngực:
- Thằng Rô này nói là làm! Nó giỏi võ, đánh không nổi thì chém được không?
- Đừng nóng chú Bảy!- Hai Vĩnh khẽ vỗ vai bạn. Nhưng Bảy Rô hất tay Hai Vĩnh ra:
- Chém nó rồi vô Khám Lớn chờ lãnh án chung thân cũng mát dạ!
Hai Vĩnh ngỡ Bảy Rô cháy túi đâm khùng, ngủ một đêm thế nào anh ta cũng sáng suốt hơn nên không nói gì thêm.
Cả hai về đến Rạch Đỉa thì đã quá nửa đêm.


***


Sáng sớm, Bảy Rô đã chờ sẵn tại cầu Rạch Đỉa. Anh biết Ba Tần sáng nào cũng đón xe ngựa ra bến đò uống cà phê. Anh thủ con dao nhỏ- loại dao con chó rất bén, lưỡi dài sáu phân, xếp vô mở ra dễ dàng nhanh chóng. Anh đi đi lại lại, ruột nóng như lửa đốt. Một lúc lâu Ba Tân xuất hiện. Thấy Bảy Rô, Ba Tần ngạc nhiên:
- Bữa nay không đánh xe sao anh Bảy?
Bảy Rô hầm hầm:
- Tiền tao mày đánh lận vét hết, tao đâu còn tinh thần đánh xe...
Ba Tần cười vui vẻ:
- Nói gì lạ vậy anh Bảy? Tôi đánh lận hồi nào? Đâu phải một mình tôi với anh? Sòng bạc cả chục người...
Bảy Rô nạt ngang:
- Tao biết mày đánh lận! Mày phải trả lại tao...
Ba Tần cười lớn:
- Làm gì có chuyện ăn rồi trả lại! Anh chơi bời cũng đã lâu, sao không biết luật giang hồ?
- Mày nhất định không trả hả? Ừ một tiếng nghe coi?
Ba Tần vừa ừ một tiếng, Bảy Rô mở con dao cái “rẹt”, lao tới như ánh chớp. Ba Tần lách ngang nhưng con dao đã đâm lút cán vào giữa ngực. Hắn chỉ kịp rú lên hai tiếng “chết tôi” rồi gục xuống. Bảy Rô rút dao ra, máu ngập tới cán. Từ vết thương, máu bắn ra ướt áo pyjama màu hột gà. Nhìn Ba Tần lăn lộn dưới đất, Bảy Rô điếng hồn. Cơn giận tan biến từ bao giờ, nhường lại cho nỗi lo sợ: lẽ ra mình chỉ nên để thẹo nó thôi. Bây giờ lỡ tay như thế này, Ba Tần mà chết thì mình cũng lãnh án chung thân khổ sai! Làm sao đây? Chỉ còn nước “dĩ đào vi thượng”. Miệng nói chân chạy. Thì giờ cấp bách, Bảy Rô không kịp về nhà cho vợ hay. Anh chạy như bị cọp rượt sau lưng. Tiếng người la ó phía sau càng khiến anh phi nhanh. Chừng hai chân đã mỏi, Bảy Rô vẫn tiếp tục rảo bước. Dần dần đầu óc anh tỉnh táo lại. Anh thấy rõ cuộc đời mình “quẹo cua thật gắt”. Đang là một người tự do, anh trở thành một kẻ sống ngoài vòng pháp luật. “Nay mai, khi làng lính được trát truy nã tên Nguyễn Văn Rô, tự Bảy Rô, nghề đánh xe thổ mộ, ngụ tại ấp Rạch Đỉa về tội cố sát tên Lê Văn Tần, tự Ba Tần, mình sẽ trốn chui trốn nhủi nơi nào đây? Có nên đến nhà làng nạp mình lãnh án hay tìm vào Hố Bần làm lục lâm thảo khấu?”. Ra tới bến đò, Bảy Rô lưỡng lự một lúc rồi rẽ trái, đi cặp bờ Kinh Tẻ hướng về phía cầu Rạch Ong. Anh có một người quen ở xóm khuân vác sát nách hãng đóng tàu của Nhật, hãng Nichinăn, Bảy Rô tính tạm tá túc nơi đây nghe ngóng tình hình.
Người quen của Bảy Rô tên Chơn, nghèo nhất vùng, nhưng cũng là tay ngang bướng nhất vùng. Thuế thân mỗi năm bốn đồng rưỡi, nếu quyết tâm thì Chơn cũng có thể đóng như mọi người. Anh chỉ cần nhịn ăn mười ngày công là có đủ năm đồng. Nhưng Chơn nghĩ rằng đóng thuế thân là nhục vị “ta là con người, không là con trâu, còn bò mà phải đóng thuế cho Tây”. Thế nên quanh năm suốt tháng, anh không có một tờ giấy lận lưng, chỉ loanh quanh trong vùng chớ không dám léo hánh đi xa. Ai mướn gì làm nấy, túng quá mượn xuồng bà con vô Hố Bần xắn đất đem bán cho nhà giàu lấp hào hố, xây nền nhà. Thời ấy đạo quân nghèo rớt mồng tơi “gặm đất cục mà sống đời” cũng khá đông. Không bao lâu vùng Kinh Cây Khô trở thành nê địa, đất lùi tới đâu, nước tràn tới đó; bần, mắm thi nhau mọc rậm rịt; do đó mà có tên Hố Bần. Nhờ địa thế hiểm trở, làng lính ít khi lui tới, Hố Bần trở nên giang sơn của những kẻ sống ngoài vòng pháp luật.
Đến tá túc với thằng Chơn, Bảy Rô biết sớm muộn gì mình cũng đi vào con đường cùng, nhưng giữa Hố Bần và Khám Lớn, anh biết phải chọn nơi nào.
Chú thích:
(1) Pôlitique (tiếng Pháp) chính trị

CHƯƠNG 2

Hai ngày sau, lịnh truy nã Bảy Rô về đến xã Tân Quy. Đâu đâu thiên hạ cũng bàn tán xôn xao. Tại các quán nước, người ta lo ngại cho Bảy Rô không biết đang nương náu nơi đâu. Không ai ngờ Bảy Rô tá túc nơi nhà thằng Chơn, ở sát cầu Rạch Ong.
Sáng sớm thằng Chơn ngồi uống cà phê tại quán Tư Lung thấy lính làng kéo tới, biết không xong, bèn rút êm, phóng nhanh về báo tin dữ. Lập tức kế hoạch rút lui qua Hố Bần được tiến hành. Bảy Rô giả làm bà giàu đau nặng, trùm mền quấn chiếu nằm xuồng cho thằng Chơn bơi qua sông hốt thuốc. Qua tới giữa sông là kể như thoát nạn. Rạch Ong lớn là ranh giới thiên nhiên giữa hai tỉnh Gia Định và Chợ Lớn. Kẻ gian từ bên này chạy qua bên kia thì làng lính cũng đành đứng bên bờ rạch mà hút gió.
Chưa tàn điếu thuốc, xuồng đã tới Hố Bần. Bảy Rô tốc mền cuốn chiếu chuẩn bị nhảy lên bờ. Bỗng từ bụi dừa nước, một tiếng hô dõng dạc:
- Bảy Rô, đưa tay lên!
Bảy Rô chới với: “mạng ta hết rồi!”. Anh riu ríu đưa hai tay lên.
Một chuỗi cười thích thú khiến Bảy Rô giật mình, nhìn dáo dác.
- Anh Bảy không nhận ra tôi sao?
Đứng trước mặt anh là một người nhỏ con, đẹp trai, mặc “soọc” ka-ki trắng ngả màu phèn, đầu đội nón boócsalino, vai đeo khẩu súng hai nòng. Bảy Rô kêu lên:
- Mười Nhỏ, mày làm tao hết hồn!- Mười Nhỏ là em Chín Mập, bạn của Bảy Rô.
Mười Nhỏ vui vẻ nói:
- Mấy ngày nay tôi có ý chờ đón anh.
Bảy Rô ngơ ngác:
- Chờ đón tao? Mày không biết tao đâm chết thằng Tần, bị làng lính tập nã?
Mười Nhỏ cười lớn:
- Biết chớ! Bởi biết nên mới chờ đón anh để làm tiệc thết đãi. Kể từ bây giờ, anh đã trở thành một tay anh chị đáng nể. Đâu phải ai cũng đâm chết được Ba Tần, một võ sĩ từng thượng đài khắp Nam kỳ lục tỉnh?
Bảy Rô lắc đầu lia lịa:
- Danh dự đó tao không ham chút nào. Ba Tần đánh lận vét hết tiền tao, tao tính để thẹo sơ thôi, không ngờ lỡ tay... Nhưng mày định thết tiệc tao để làm gì?
- Coi, thì để kết nghĩa anh em, để rồi mình cùng “đi hát”...
- Đi hát? Thôi, cho tao xin, tao không quen cái nghề bất nhân thất đức đó đâu!
- Có gì là bất nhân thất đức? Mình lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo mà.
Nhân đức lắm chớ anh Bảy? Vô đây! Mình làm một chầu rượu đào viên kết nghĩa, rồi nhân đêm ba mươi tối trời này, ta đi ăn hàng sốt dẻo.
Tại một chòi hoang, buổi tiệc đào viên diễn ra sôi nổi, gà xé phay với rượu đế. Rượu ngà ngà, Mười Nhỏ ra lệnh:
- Chó, lôi cổ thằng Ba Đầu Hình ra đây để tao xử tội! Vừa nói, Mười Nhỏ nạp đạn vào khẩu hai nòng.
Tên em út của Mười Nhỏ lôi một gã bị trói tay tới. Bảy Rô nhận ra tên du đãng này. Hắn xâm ba con đầm trên vai nên được gọi Ba Đầu Hình. Anh hỏi:
- Ba Đầu Hình tội gì?
Mười Nhỏ trợn trừng:
- Nó dám cả gan “chẩn” của tôi năm ngàn đồng trong vụ ăn hàng ở Cần Giuộc.
Bảy Rô đứng lên khoát tay:
- Cho tao xin! Nếu vì năm ngàn mà mày bắn bỏ Ba Đầu Hình thì sau này mày cũng sẽ bắn bỏ tụi tao. Năm ngàn là đồ bỏ! Tao đi một lát còn gấp mười lần năm ngàn đó!
Mười Nhỏ ngầm nghĩ một lát:
- Tội nó đáng chết nhưng vì nể anh nên tôi tạm tha cho nó với một điều kiện...
- Điều kiện gì?
- Anh Bảy phải đi với tôi.
- Đi đâu?
- Coi, thì “đi hát” chớ đi đâu!
Bảy Rô chấp tay xá:
- Tao còn một mẹ già. Mày thương tao...
Mười Nhỏ né qua một bên:
- Tôi thương anh lắm mới mời mọc anh, chớ biết bao thằng năn nỉ xin theo mà tôi chê... Anh hãy nghĩ kỹ đi: đánh xe thổ mộ thì biết đời thuở nào mở mặt, mở mày với thiên hạ? Mà bây giờ anh có muốn trở về cái nghề đó cũng không được, làng lính đang tập nã anh. Tốt hơn là anh nên nhập bọn tụi tôi. Đói no có nhau. Mà no nhiều hơn đói.
Bảy Rô do dự:
- Tao đã lỡ nhúng tay vô máu rồi. Tao không muốn đi sâu vô. Mình phải để đức lại cho con...
Mười Nhỏ gật lia:
- Chuyện đâm chém, bắn giết đã có tôi. Anh Bảy chỉ lãnh phần “ăn hàng” thôi. - Hắn ném cây búa bửa củi xuống chân Bảy Rô- Anh chỉ làm công việc nhẹ nhàng...
- Bửa tủ sắt mà mày bảo là nhẹ nhàng!- Bảy Rô bật cười.
Mười Nhỏ biết Bảy Rô đã xiêu lòng, vui vẻ ra lệnh:
- Chó đâu? Mở trói cho Ba Đầu Hình!
Tên em út chỉ chờ có bao nhiêu đó. Mười nhỏ trừng Ba Đầu Hình:
- Tới cám ơn anh Bảy đã cứu mạng mày đi. Từ rày chừa nghe chưa!
Ba Đầu Hình xoa bóp hai cườm tay còn hằn dấu trói, tới lí nhí mấy lời với Bảy Rô.
- Ngồi xuống đây nhậu với tụi tao- Mười Nhỏ trao đôi đũa của mình cho Ba Đầu Hình, cười với Bảy Rô:
- Công thưởng, tội trừng, phải vậy không anh Bảy?


***


Đêm ba mươi trời tối như mực: Khoảng chín giờ, cả bọn bắt đầu xuất quân. Tam bản hai chèo đã chuẩn bị sẵn sàng. Chơn chèo mũi. Chó chèo lái. Ba Đầu Hình ngồi trước, Bảy Rô ngồi sau.
Chính giữa là đầu đảng Mười Nhỏ, tay thủ súng hai nòng. Ba Đầu Hình cầm đèn bảy (loại đèn bấm bảy cục pin, sáng như đèn pha) và mấy cuộn dây luộc để trói tài gia.
- Nhớ đem theo cây búa nghe anh Bảy?- Thằng Chơn nhắc chừng.
Gần tới cầu Rạch Ong, ba người ngồi giữa nằm xuống, lấy chiếu đắp lên, để phòng kính gác cầu chặn lại hỏi xét. Qua khỏi cầu, tam bản cặp sát bờ, chèo thẳng ra cầu Tân Thuận. Không bao lâu đã đến chợ. Tất cả lên bờ, chỉ một mình thằng Chó ở lại coi chừng tam bản. Đã phân công trước, chuyện ai nấy làm. Xóm chợ Tân Thuận chìm trong giấc ngủ, nhà nào cũng treo đèn “hột vịt” trước hàng ba. Thằng Chơn có nhiệm vụ đập bể tất cả dàn đèn. Ba Đầu Hình đảo quanh trông chừng ngỏ ngách, Bảy Rô giả người già đến đập cửa tiệm chạp phô mua thuốc cho con đau:
- Cho mua một gói Thối nhiệt tán với một chai dầu Nhị thiên đường.
Chủ tiệm người Tiều hé cửa nhìn ra:
- Khuya rồi! Không bán! Sáng tới mua!
Bảy Rô cự nự:
- Không bán để thằng nhỏ chết sao? Mở cửa ra!
Bảy Rô đóng kịch vụng về, chủ tiệm sanh nghi toan đóng cửa, nhưng Mười Nhỏ nhanh chân nhảy tới chĩa họng súng ngay chỗ cửa hé, quát:
- Mở cửa mau. Không tao bắn chết cha!
Chủ tiệm chết điếng, nhìn họng súng trân trân. Mười Nhỏ giục:
- Mở mau! Ông cố nội mày đây chớ ai mà ngó châm bẩm vậy?
Chủ tiệm riu ríu mở cửa. Tức thì cả bọn nhào vô như nước vỡ bờ.
- Chìa khóa tủ tiền đâu?
Chủ tiệm thét lên khiến cả nhà giật mình nhốn nháo. Lập tức Ban Đầu Hình và thằng Chơn lùa tất cả vô góc, chủ tiệm chụp cây “song hồng” xốc tới làm dữ. Mười Nhỏ nổi nòng chĩa súng toan bóp cò. Bảy Rô đỡ nóng súng lên:
- Khoan! Đừng bắn! Để nó cho tao! Chừng nào tao đánh nó không ngã thì bắn cũng không muộn.
Bảy Rô nhảy tới chụp cây song hồng. Hai bên đánh tay đôi. Chủ tiệm cũng có chút võ nghệ nhưng không đánh lại Bảy Rô. Một cú đá trúng ngay ngực hất tung nạn nhân té nhào vô vách, Bảy Rô bước tới móc xâu chìa khóa trong túi tài gia. Chỉ trong nháy mắt, tất cả tiền bạc trong tủ sắt chạy vào túi áo Bảy Rô.
- Buồm!- Mười Nhỏ ra lệnh. Tất cả rút êm ra bờ sông. Trên đường về hắn gật gù khoái chí:
- Anh Bảy làm ăn coi được quá! Hồi nãy anh không can, tôi bắn một phát là hỏng việc lớn. Anh Bảy đúng là dân giang hồ hảo hớn.
Nhưng Bảy Rô ngồi lặng thinh. Qua những phút sôi nổi, lòng anh thấy ray rứt vô cùng. “Tự nhiên mình nhảy vô đánh người ta chết giấc, rồi vơ vét hết tiền bạc người ta. Tội này còn đáng giết hơn vụ thằng Tần đánh lận mình”. Suốt đường về, Bảy Rô chỉ lo tên Tiều tỉnh lại, thấy sự nghiệp mồ hôi nước mắt mình bị vơ vét sạch sẽ phẫu uất mà chết luôn.


***


Đêm sau, Mười Nhỏ quyết định đánh lớn. Mục tiêu là một dọc ghe thương hồ đậu gần cầu Rạch Bàng. Vẫn bổn cũ soạn lại, nhưng lần này cả bọn vững bụng hơn nhờ có “Lỗ Đạt” mới nhập bọn. Cái biệt hiệu Lỗ Đạt này, chính Bảy Rô tự gán cho mình. Sau chuyến ăn hàng tiệm chạp phô người Tiều, Bảy Rô thường lắc đầu thở dài: “Đọc Thủy Hử mình thương Lỗ Đạt lỡ giết chủ tiệm phải bỏ trốn, không ngờ định mạng lại run rủi đến Lương Sơn Bạc. Bây giờ đây, mình cũng chính là một Lỗ Đạt đời nay”... Ba Đầu Hình tình cờ nghe được, cứ gọi Bảy Rô là “Lỗ Đạt”.
Chiếc ghe thứ nhất là ghe bầu chở nước mắm Phan Thiết. Vừa thấy tam bả chở đầy mặt rằn võ trang súng ống, trên ghe la làng chói lói “ăn cướp, bớ người ta!”. Đám thanh niên trên ghe lập tức ném đá cục như mưa xuống tam bản. Mười Nhỏ bị trúng đá đổ quạu, nổ một phát súng vào ghe bầu. Cả bọn chống sào nhảy lên ghe, đụng ai đánh nấy, bạn chủ gì cũng bị đá văng xuống sông ráo. Chừng làm chủ tình hình thì trên ghe trống trơn. Bây giờ mới biết mình ngu, chủ ghe trốn mất rồi, lấy ai mà giật “hầu bao”?
Đánh chiếc ghe thứ hai. Chủ ghe đi chơi, chỉ còn bạn đang lật nóp ngủ trên mui. Một ông già chậm chạp chui ra. Thằng Chó hăng tiết đá một cú khiến ông lăn quay kêu trời như bọng. Bảy Rô bất bình đạp thằng Chó té văng xuống sông.
Nó cà hụp cà hụp đeo be ghe leo lên:
- Sao nhè tôi mà đá hả anh Bảy? Không biết lội thì tôi chết rồi!
Bảy Rô lạnh lùng:
- Chết bỏ! Những thằng tàn nhẫn như mày chết là vừa!
Đánh chiếc thứ ba. Đây là ghe hột vịt. Vừa thấy Bảy Rô nhảy lên ghe, ông chủ run rẩy như đớ lưỡi: “ông- cướp”. Chưa đợi tra khảo, ông ta dâng trọn cọc tiền mới vừa bán ghe hột vịt cho chủ vựa. Bảy Rô chớp tiền nhảy xuống tam bản. Đi chưa được mấy sào thì nghe ông chủ ghe kêu gào thảm thiết. Mười Nhỏ hét:
- Quay trở lại! Tao giết thằng cha già này mới được! Nó dám cả gan chửi mắng ông cố nội thì nó phải chết!
Bảy Rô bước nhanh tới trước mũi tam bản:
- Để tao trị thằng già này cho!- Anh chống sào nhảy lên ghe, ngắt đôi cọc tiền vừa cướp được, dúi một nửa vào ngực ông già đồng thời dậm chân lên ván ghe đánh “rầm” một tiếng, hét to lên:
- Giỏi la hả? Đánh cho mày chết để mày hết la?
Xong anh nhảy xuống tam bản giục thằng Chơn chèo đi. Trên đường về, anh thấy vui vui trong lòng. Đâu đó, trong sâu thẳm hồi ức, anh nghe vang vọng lời dạy của ông già anh, lúc còn sống. “Nhơn phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ”. Anh tính sẽ không nhận tiền chia phần trong hai vụ ăn hàng và sẽ nói thật khéo để Mười Nhỏ vui lòng cho anh giải nghệ. Nhưng định mệnh đã an bài mọi việc.


***


Sáng hôm sau, khi đang chia tiền trong nhà thằng Chơn, bỗng thằng Chó chạy vụt vào báo động: “Lính tới!”.
Thế là mạnh ai nấy chạy. Ba Đầu Hình, Chơn, Chó tông ngã sau phóng xuống sông lội sang bên kia bờ Chánh Hưng. Mười Nhỏ nhét bạc vô túi, xách khẩu hai nòng toan chạy, nhưng không kịp. Cửa trước cửa sau đều có lính:
- Mười Nhỏ! Bỏ súng xuống!
Chưa dứt lời, súng đã nổ. Mười Nhỏ bắn gục tên lính vừa ra lệnh. Tức thì súng nổ như mưa. Mười Nhỏ bị thương đổ máu nhưng vẫn xách súng chạy xuống mé sông. Cả bọn đuổi theo, la hét vang rền, náo động cả vùng.
Bảy Rô vẫn ngồi bất động. Anh rất tỉnh: “Mình đang muốn giải nghệ. Đây là dịp may. Ngồi tù Khám Lớn có lẽ hay hơn đi ăn cướp”. Và anh ngoan ngoãn đưa hai tay lên cho lính còng.
Vài giờ sau, khi bị áp giải về nhà làng Tân Quy, Bảy Rô được biết Mười Nhỏ may mắn chạy thoát. Hai anh em Chơn, Chó cũng bình yên vô sự, có lẽ giờ này đang cùng chánh đảng về tới Hố Bần. Riêng Ba Đầu Hình thì bị tóm trong khi đang lặn ngụp trên sông Rạch Ong. Hắn cũng được đưa về nhà làng Tân Quy để sau đó lên xe cây về Khám Lớn cho có bạn với Lỗ Đạt đời nay.
Thế là cuộc phiêu lưu của Bảy Rô tạm thời chấm dứt tại một tòa nhà có vòng rào kiên cố và rộng gấp mười biệt thự của vua cờ bạc Sáu Ngọ. Tòa nhà nổi tiếng này tọa lạc tại số 69 đường Lagrandière (La-răn-de) thường được gọi là Khám Lớn. Nó nằm giữa trung tâm thành phố Sài Gòn hoa lệ, sát bên pháp đình, nhà hình và dinh thống đốc Nam kỳ.
Bước chân vào ngôi nhà mới, Bảy Rô nhớ Hai Vĩnh hơn lúc nào hết. Nhớ bữa tiệc tại Nghi Xuân Lầu, nhớ lời khuyên rút từ bài học thuộc lòng sách Quốc văn giáo khoa thư. Anh lẩm bẩm ngâm:

“ Khôn nghề cờ bạc là khôn dại
Dại chốn văn chương ấy dại khôn...”

CHƯƠNG 3

Sau đêm nằm tiệm thuốc đường Lơ-pheo, Hai Vĩnh bỏ nhà máy xay lúa cất bước giang hồ, anh nghĩ bụng: “muốn làm anh chị, trước nhất phải làm chủ lấy mình, không thể làm tôi mọi thiên hạ”. Tin Bảy Rô “vô Khám Lớn” khiến anh buồn mấy ngày.
Anh thương Bảy Rô vì hai người cùng tuổi, cùng một ý chí muốn vươn lên thoát khỏi sự trói buộc của nghèo túng. Nhưng Bảy Rô đã đi sai đường. Giờ đây nằm khám, Bảy Rô có thì giờ suy gẫm và lời khuyên bảo của anh trong đêm ăn nhậu tại Nghi Xuân Lầu...
Hai Vĩnh đi khắp nơi, la cà các bến tàu, bến xe tìm hiểu cung cách làm ăn của các tay anh chị. Cái nghề đứng bến không có sách vở nào dạy, các tay anh chị cũng không tốt nghiệp trường nào. Đành phải học nơi trường đời thôi. Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, nơi nào cũng có người xưng hùng xưng bá, dưới tay có một số em út sẵn sàng đổ máu theo hiệu lệnh của đàn anh. Tay anh chị đầu tiên Hai Vĩnh tới làm quen là Ba Dương, nhà ở bên này cầu Rạch Đỉa, gần nhà Bảy Rô. Từ lâu nghe danh nhưng Hai Vĩnh chưa có dịp tiếp xúc. Lần gặp gỡ đầu tiên, Hai Vĩnh khám phá được nhiều điều bổ ích. Ba Dương lớn hơn anh chừng một con giáp, khoảng băm lăm, người tầm thước, tánh tình nghiêm nghị, ít nói. Anh em trong nhà ít khi nói chuyện với anh quá ba câu. Điều làm Hai Vĩnh ngạc nhiên hơn hết là thái độ lễ phép của Ba Dương. Luôn luôn anh “dạ, thưa” với mọi người cùng trang lứa. Thì ra muốn làm anh chị không nhất thiết phải “hét ra khói, nói ra lửa” như những tay đao búa ở các bến xe đò. Điều căn bản là tài đức phải đi đôi. Có tài mà không có đức thì tài đó sẽ không thọ. Tìm hiểu sâu hơn, Hai Vĩnh được biết Ba Dương là người lạc quan và kiên trì. Trong những năm đi chăn vịt khắp miền đồng ruộng Nhà Bè, Cần Guộc, Cần Đước, Gò Công, Ba Dương không hề ngán ngại gian khổ mà lấy làm vui thú trong cảnh điếm cỏ cầu sương, hòa lòng với tiếng hò trên sông nước. Tới đâu anh giao du tới đó và mỗi khu nghe ông thầy võ nào có ngón gia truyền là lùa vịt tới nơi làm quen. Nhờ vậy mà thầy của Ba Dương rất nhiều. Nổi tiếng nhất là ông Ba Thi ở Chợ Lớn, ông Sáu Lầu ở Bình Chánh, Nhà Bè và ông Bộ Dực ở Bến Tre. Hai ông trước giỏi quyền cước, ông sau cùng sở trường roi, siêu...
Người anh chị thứ hai mà Hai Vĩnh định tới học hỏi là ông Tám Mạnh ở Chánh Hưng. Từ Long Kiểng qua Chánh Hưng không xa mấy, nhưng anh cứ ngần ngại mãi vì... cô Tư Xóm Cỏ. Anh không muốn khơi lại vết thương lòng. “Có lẽ giờ này cô nàng đã nghiễm nhiên là cô thông, cô ký, chân dép, chân giày rồi”. Thế rồi một hôm, anh gặp Chín Phải tại một quán nước dưới dốc cầu Chữ Y. Chín Phải là thanh niên ở cầu Rạch Bàng, quen biết với anh qua vài lần đi chà gạo tại cầu Rạch Đỉa. Bảy Rô bị bắt không bao lâu thì Chín Phải cũng bị bắt về tội đánh tên điền chủ Tám Long.
- Ủa, Chín Phải, mãn tù hồi nào vậy chú?
Chín Phải kêu thêm một cái “hắc quảy” và vài điếu Cô-fát, vui vẻ kéo ghế mời Hai Vĩnh:
- Anh Hai, em chỉ bị có hai ngày tù thôi, nhưng phải bỏ làng vì sợ tụi nó ám hại...
- Đầu đuôi như thế nào?- Hai Vĩnh tò mò hỏi.
- Chuyện như thế này nè... Hôm đó trời mưa giông, chừng tạnh mưa, em ra ruộng kéo vô mấy nhánh chà bầu. Đi ngang qua nhà Tám Long, thấy nó sửa soạn đi đâu mà ăn diện dữ quá. Em men lại gần, thấy nó mặc áo long đoàn, quần xuyến trắng, khăn nhiễu đen, đi giày mã vĩ. Em vô tình đi quá gần nên nhánh chà quẹt một vết bùn lên ống quần của nó. Nó hét lên: “Đồ đui! Ông nội mày đứng đây, không thấy sao mà làm dơ quần?”. Bị chửi bất thình lình, em đứng nhìn nó trân trân. Nó tưởng em dám cự lại, càng làm dữ: “Mày còn nghinh nữa hả? Tao chửi tới thằng cha mày đây nè, thứ đồ quân bất lương, đẻ con không biết dạy!”. Sợ nó chửi um xùm, em kéo riết nhánh chà về nhà. Nhưng ông già em đã đứng chực trước sân. Ông bắt em kể đầu đuôi rồi nghiêm nghị bảo: “Vậy rồi mày làm thinh! Cha mày theo Thiên địa Hội, dám đòi Tây trả nước, thằng Tám Long bất quá là một thằng điền chủ, tại sao mày lại sợ nó? Tao đã từng dạy mày là “ninh thọ tử bất ninh thọ nhục”. Bây giờ mày phải trở lại trị nó.
Mau lên, nó hãy còn đứng đó”. Em cắm đầu chạy. Nghe tiếng bà già gọi giật ngược, em khựng lại nhưng ông già khoát tay biểu tiếp tục. Thằng Tám Long thấy bộ vó em hầm hừ, toan quay vô nhà nhưng không kịp. Em đã bay tới phóng một đá song phi khiến nó té văng xuống ruộng, la làng chói lói, em trở về nhà, ăn chưa xong bữa cơm thì làng lính tới còng tay đưa về nhà việc. Làng giải lên tổng. Cai tổng Thìn là anh ruột Tám Long. Vậy là nạp mạng cho chằn rồi! Má em lật đật làm đơn xin giải lên quận. Tám Long khăn đóng áo dài lên quận quyết ăn thua đủ. Nhưng em may mắn gặp một ông quận thanh liêm không ưa bọn cường háo ác bá. “Ai gọi chú?”, quan quận đuổi Tám Long ra, cho má em vào hầu trước. Sau khi nghe má em giải bày. Ổng phạt em hai ngày làm xâu. Nếu có tiền thì đóng bốn cắc. Em chịu ở lại làm xâu hai ngày vì nhà nghèo. Tám Long bí mật cho Cai Tược hai trăm đồng, dặn phải đánh em đúng hai trăm “ma-trắc”. Cai Tược ham tiền kiếm chuyện đánh đập em đủ hai trăm ma-trắc. Đủ hai ngày, nó còn chưa chịu thả, má em phải lên quận khiếu nại mới yên. Về nhà chỉ có một ngày, em ôm gói ra đi, đề phòng bọn tiểu nhân tìm cách tiếp tục ám hại.
- Lâu nay chú ở đâu? Làm gì?- Hai Vĩnh hỏi.
- Em học võ nơi ông Tám Mạnh.
- Vậy à?- Hai Vĩnh vô tình reo lên.
Chín Phải vui vẻ:
- Anh Hai có tới lò võ của ông tám chưa? Đông lắm! Vui ghê!… Nếu anh Hai muốn thì đi với em.
Không bỏ lỡ cơ hội tốt. Hai Vĩnh theo Chín Phải đến lò võ ông Tám.
- Lâu nay chú ở đâu? Làm gì?- Hai Vĩnh hỏi.
- Em học võ nơi ông Tám Mạnh.
- Vậy à?- Hai Vĩnh vô tình reo lên.
Chín Phải vui vẻ:
- Anh Hai có tới lò võ của ông Tám chưa? Đông lắm! Vui ghê!… Nếu anh Hai muốn thì đi với em.
Không bỏ lỡ cơ hội tốt. Hai Vĩnh theo Chín Phải đến lò võ ông Tám. Nhà ông Tám ở Xóm Cỏ gần bờ sông. Nhà ba căn, vách bổ kho, mái lợp lá. Nhưng ngôi nhà và khu vườn quá im vắng khiến Hai Vĩnh ngờ ngợ. Chín Phải giải thích:
- Đây là nhà tổ phụ. Ở đây chỉ có bà má ông Tám và cô Tám, con gái ông Tám. Còn tất cả thì ở trại ruộng bên kia sông thuộc xã Phước Lộc. Để tôi mượn xuồng đưa anh Hai qua bên đó.
Nói là trại ruộng nhưng gian nhà ông Tám bên Phước Lộc coi cũng khang trang. Cũng ba gian, thêm một chái để lo bếp núc. Nhà ở sát bờ rạch, với hàng bần xanh mát. Trước nhà là sân phơi lúa mà cũng là sân tập võ. Trên sân có khoảng chục thanh niên đang quây quần xem một cô gái biểu diễn một đường quyền thật đẹp mắt. Hai tay cô múa vun vút, thỉnh thoảng cô đá song phi, bàn chân phóng lên tới đầu người. Hai Vĩnh cập bến đúng lúc cô gái bái tổ giữa tiếng vỗ tay của đám võ sinh. Hai Vĩnh thấy cô gái có bộ vó quen quen. Chừng tới gần anh mới nhận ra cô ta chính là cô Tư Xóm Cỏ, không nén được vui mừng, anh reo lên:
- Cô Tư!
Cô gái cũng nhận ra Hai Vĩnh ngay, niềm vui lộ trong giọng nói:
- Anh Hai! Lâu nay anh đi đâu mà biệt tăm biệt dạng vậy? Tôi có qua Rạch Đỉa mấy lần, nhưng nghe nói anh đã bỏ nhà để đi giang hồ, phải vậy không?
Hai Vĩnh gật:
- Còn tôi thì tưởng cô Tư đã xuất giá, đã là cô ký, cô thông...
Cô Tư khẽ chau mày:
- Bộ anh tưởng tôi ham làm cô ký, cô thông lắm sao?... nhưng mà chuyện cũ hãy bỏ qua, mời anh vô nhà uống nước. Sáng nay ba tôi đi xóm, mấy anh em đây nhờ tôi đi một đường quyền cho anh em ôn lại những chỗ quên.
Hai Vĩnh theo cô Tư vô nhà:
- Nói vậy... cô Tư không ưng thầy ký nào đó?
Cô Tư rót nước rồi kéo ghế ngồi ngang Hai Vĩnh:
- Anh có thấy mặt thầy ký đó chưa mà nghĩ là tôi phải ưng anh ta?
Hai Vĩnh cười:
- Chưa thấy, nhưng tôi nghĩ là lấy chồng thầy ký, thầy thông khỏe thân hơn lấy chồng lao động; kế nữa làm cha mẹ, ai cũng chọn chỗ môn đăng hộ đối cho nở mày nở mặt với làng tổng.
Cô Tư nghiêm nghị:
- Anh đừng vơ đũa cả nắm! Anh chưa gặp ba tôi lần nào phải không? Chút nữa ổng về anh sẽ thấy. Ổng không như người ta đâu. Anh có biết tại sao gia đình chúng tôi ngày suy sụp hay không? Đó là vì lòng nhân ái. Ông nội tôi làm xã ba năm... gia đình mất trọn ba mẫu ruộng. Tại sao hả? Tại ổng thương những người nghèo không có tiền đóng thuế thân, ổng sợ họ bị bắt làm tù bố nên cứ đóng dấu phát bừa giấy thuế thân cho họ, đến chừng nào có tiền thì đem lại trả sau. Nhưng có ai trả lại cho ổng đâu! Tới chừng trên quận dạy nạp thuế, ổng phải cầm cố đất ruộng để đóng lên quận cho đủ. Năm trước mấy sào, năm sau một mẫu, cứ vậy mà sau ba năm làm làng, gia đình mất tiêu miếng đất hương hỏa. Đất này là ba tôi mướn của người ta đó. Cũng tại vậy mà ba tôi có học bao nhiêu, vừa biết đọc biết viết là phải tiếp tay với người lớn lo việc ruộng nương.
Hai Vĩnh nghe cô Tư nói, hai mắt sáng lên, tâm hồn phơi phới. Cô chịu khó trình bày như vậy có nghĩa là cô ngầm xúi anh “cứ tiến tới đi, không có trở ngại nào đâu. Đã có tôi ở trong nói vô thì chắc chắn sẽ kết quả”.
Bỗng bầy chó chạy ra sân cất tiếng sủa vang. Cô Tư bước ra hàng ba, bảo Hai Vĩnh:
- Ba tôi về đó!
Một ông già khoảng trên năm mươi, mập mạp, hồng hào, nét mặt vô cùng phúc hậu ung dung bước qua sân, ông nhìn các võ sinh đang tập, bước lại uốn nắn từng người, dịu dàng, thân ái. Cô Tư cũng bước vô nhà với ông để giới thiệu Hai Vĩnh:
- Đây là thầy Hai, trước đây trông coi nhà máy xay lúa Rạch Đỉa...
Ông Tám nhìn Hai Vĩnh gật gù:
- Thầy Hai tới đây có việc chi?
Hai Vĩnh lễ phép:
- Thưa ông Tám, lâu nay cháu nghe tiếng ông Tám, muốn được gặp nhưng chưa có dịp. Nay gặp Chín Phải là em út của cháu ở Tân Quy, cháu qua đây, trước để làm quen, sau để trau dồi...
Ông Tám gật đầu:
- Thầy Hai cứ tự nhiên. Lò võ của tôi cũng như cửa chùa, mở rộng cho khách thập phương. Ai thích thì tới. Ở đây có nhiều đẳng cấp, người học trước, kẻ học sau, thầy Hai cứ việc thử sức so tài. Dần dần rồi sẽ trau dồi thêm...
Hai Vĩnh vui mừng được ông Tám nhận làm môn sinh. Anh đang cần luyện thêm vài ngón độc đáo để có thể xưng danh anh chị sau này. Nhưng điều anh đang cần trước nhất là được dịp gần gũi “cố nhân” sau nửa năm xa cách. Nhờ cô Tư, Hai Vĩnh biết thêm về ông Tám Mạnh. Từ lúc thiếu thời, ông Tám cũng bỏ nhà đi giang hồ vì không chịu được cảnh làng lính hiếp đáp. Ông cần có nghề trước nhất để tự vệ, sau là để trừng trụ bọn sâu dân mọt nước. Thầy của ông Tám là các danh thủ khét tiếng như ông Bảy Khuyên ở Hóc Môn, ông Hai Ngàn ở Tân Khánh, ông Tư Thêm ở Vàm Láng.
Hai Vĩnh và Chín Phải dần dần trở nên thân thiết. Cả hai giống nhau ở một điểm, gắn bó với gia đình ông Tám. Hai Vĩnh quen cô Tư. Chín Phải mến cô Tám. Chín Phải thường la cà bên Xóm Cỏ hơn là thường trực bên Phước Lộc. Ông Tám dường như cũng biết những chuyện thầm kín đó, nhưng ông không nói gì, vẫn xem Hai Vĩnh và Chín Phải như con cháu trong nhà.
Sau một thời gian gần gũi nhau, Hai Vĩnh và cô Tư càng “mến tay mến chân”, Hai Vĩnh nhờ ông Chín Nhuần chính thức tới hỏi cô Tư. Ông Chín Nhuần là tay anh chị quen thân với ông Tám Mạnh. Tuy có tay trong tay ngoài, anh không ngớt lo sợ bất trắc. Trong thời gian chờ đợi kết quả, Hai Vĩnh nằm nhà ở Long Kiểng, chờ mong sứ giả tới báo tin vui.
Hai Vĩnh lo cũng đúng. Người không tán thành cuộc hôn nhân này là cô Chín, em ruột ông Tám. Cô Chín trước đây làm mai cô Tư cho thầy ký ở Chợ Lớn, nhưng cô Tư không ưng. Nay thấy cô Tư phải lòng Hai Vĩnh là một thằng “nghèo mạt, không có chân đứng, trên không chằng, dưới không rễ” cô cứ xách giỏ trầu nói tới nói lui, làm bà Tám phân vân. Có lúc bà ngả theo cô Chín. Đêm đêm cô Tư hồi hộp lắng nghe cha mẹ bàn bạc về chuyện chồng con của cô. Tiếng ông Tám ôn tồn chậm rãi: “Chọn rể cho con hay cho tôi với bà, nếu cho con thì phải để cho con được trọn quyền chọn lựa. Tôi với bà nên đứng ngoài, chỉ can thiệp khi nào thấy thằng rể quá tệ, chẳng hạn như nó cờ bạc, rượu chè, đĩ điếm, hút xách...”.
Kế nghe tiếng bà Tám cắt ngang: “ông đừng có bắc thang cho con nhỏ nó leo.
Thầy ký ăn trắng mặc trơn không chịu, lại ưng thằng lỡ thầy lỡ thợ, nghèo xơ nghèo xác…”. Giọng ông Tám cao thêm một chút: “Gả con chớ phân biệt giàu nghèo. Lấy chồng giàu chưa chắc đã có hạnh phúc. Có khi về làm mọi không công cho bên chồng. Còn lấy chồng nghèo, có một quan ăn một quan, có một đồng ăn một đồng, đói cùng đói, no cùng no, như vậy mới là có hạnh phúc... Bà Tám im lặng một lúc lâu: “Hai cha con ông một phe với nhau, nó nói già ông cũng nghe. Hai cha con tính sau thì tính. Sau này có gì đừng có than thở với tôi...”. Lại im lặng một lúc, kế ông Tám trở lại giọng bình thường, ôn tồn chậm rãi: “Mấy tháng nay tôi có để ý xem chừng tánh nết của thằng Vĩnh. Tôi thấy nó được lắm. Nó đúng là con nhà nghèo; rất có hiếu: làm bao nhiêu tiền để dành cho cha mẹ, cho đàn em mua giấy mực, sách vở. Sánh có chữ “Gia bần tri hiếu tử…” tôi chịu gả con cho những thằng nghèo mà biết hiếu thảo với cha mẹ, biết nhân nghĩa với bạn bè hơn là gả con cho những thằng công tử bột, suốt đời chỉ biết ỷ lại gia sản của cha mẹ và quen thói chỉ tay năm ngón, chồng chúa vợ tôi...”.
Cô Tư biết ông Tám đã thuyết phục được bà Tám cô mừng rỡ, mừng đến rơi nước mắt, cô muốn chạy ngay lại ông Tám, ôm lấy cha để cảm ơn những lời nhân ái, đầy sáng suốt. Những lời ấy giúp cô mạnh dạn bước tới trong việc chọn lựa người bạn đời.

CHƯƠNG 4

- Anh Hai!- Thằng Mười chưa tới cửa đã kêu lên:
Hai Vĩnh buông quyển Thủy Hử chạy ra mừng rỡ.
- Mười! Có tin vui hả em?
- Có! Ba em mời anh chiều nay qua nhà chơi.
Hai Vĩnh ngẩn ngơ:
- Ba em mời anh? Chớ không phải chị Tư em?... Có việc gì?
- Em không biết, nhưng quan trọng lắm. Ở nhà đang làm heo.
- Làm heo? Hay là đám cưới của...
Cậu bé lắc đầu:
- Không phải đám cưới đâu! Anh Hai qua thì biết ngay. Đi ngay bây giờ kẻo trễ...
Hai Vĩnh lật đật thay đồ. Trên đường anh không ngớt phân vân. Cậu bé đưa Hai Vĩnh đi ngã sau. Cảnh làm heo diễn ra nhộn nhịp. Kẻ cạo lông, người xả thịt. Tất cả các chị em con ông Tám đều có mặt. Lên nhà trên, Hai Vĩnh gặp các anh Ba Mãi, Năm Hồi, Bảy Hải là con trai của ông Tám. Ngoài ra còn có ba anh em Tư Phương, Chín Mập và Mười Nhỏ là em bà Tám. Năm Hồi đang bắt Mười Nhỏ kể lại vụ thằng Tây lại bót Ba-tít-ta ở cầu Chữ Y bao “săn chê” (1) Nhật, bắt bọn Mười Nhỏ. Mười Nhỏ bị bắn trúng vai nhưng vẫn lặn sông Rạch Ong lớn trốn thoát.
Anh kể chuyện chết sống hết sức thản nhiên như chuyện đùa giỡn không đáng quan tâm.
Ngoài số bà con còn trên chục người mặt rằn mày rện trông thật hầm hừ. Có người xách theo cả “xà búp” và giáo mác... Nhưng Hai Vĩnh đặc biệt để ý hai người ngồi trên trường kỷ đang uống trà nói chuyện với ông Tám. Thấy cách tiếp đãi đầy kính trọng của ông Tám, anh biết hai người lạ mặt ấy chính là thượng khách của bữa tiệc hôm nay. Một người mặc áo dài trắng, úp cái nón chóp trắng trên đầu gối, giống như một chức sắc Cao Đài. Người kia mặc bộ bà ba mốc cời, đầu trần, chân đi guốc mòn lẻm, có thể làm dao cạo được. Tóc ông hớt cao, kiểu “tiền văn minh, hậu sư cụ”. Tuy giống dân quê, nhưng ông có khuôn mặt thông minh và nhất là đôi mắt sáng như cặp đèn pha.
Khi tất cả đã đến đông đủ, ông Tám đứng lên vỗ tay làm hiệu cho mọi người ngồi xuống và giữa trật tự:
- Hôm nay gặp được quới nhơn, tao làm heo gọi tụi bây về đây chung vui. Tụi bây hãy nghe quới nhơn nói chuyện trước khi nhập tiệc.
Người hớt tóc cao đứng lên cúi đầu chào mọi người. Anh ta lớn hơn Hai Vĩnh một con giáp, mình dây, dong dỏng cao. Với giọng chậm rãi, anh bắt đầu nói:
- Ông Tám gọi tôi là “quới nhơn”. Quả tình tôi không dám nhận vinh dự lớn lao đó. Tôi chỉ là một người làm chính trị, cũng là người trong tổng Tân Phong Hạ này, cha tôi ở An Phú, còn mẹ tôi ở Đa Phước. Tôi tên Bảy Trân, chú Tư Ó trụ trì chùa Cao Đài Phú Lạc đây là em bạn dì ruột của tôi- anh chỉ người mặc áo dài trắng. Có tiếng xì xào trong đám đông. Chờ vài giây, Bảy Trân nói tiếp:
- Tôi kể lai lịch ra đây để anh em thấy rõ tôi là đồng hương với anh em. Tôi với anh em tuy hai mà một, bởi vì chúng ta lò mò ra xóm thì làng lính tóm ngay để đưa về Khám Lớn… thằng Tây rất sợ chúng ta, bởi chúng ta không nhìn nhận ách thống trị của chúng nó. Các anh bất bình trước bao nỗi bất công nên kéo lá cờ Thế Thiên Hành Đạo lên, đánh bọn nhà giàu, cứu giúp đám nhà nghèo.
Những người làm cách mạng chúng tôi cũng nhằm lật đổ ách thống trị ấy, nhưng bằng cách đánh Tây chớ không đi ăn cướp như các anh.
Có tiếng hỏi từ đám đông:
- Thằng Tây có súng, mình tay không, làm sao đánh?
Bảy Trân cười:
- Đánh Tây không khó lắm đâu! Chỉ cần quyết tâm và gan lì là được. Ta cứ kiên nhẫn rình rập, chờ làng lính bén mảng tới nơi vắng vẻ như vùng Hố Bần này là ta từ trong bụi nhảy ra đập đầu như đập đầu cá lóc rồi cướp súng. Xác chúng nó ta vùi xuống hố. Hễ ta có súng là bọn hương quản, cai tuần “xếp ve”, hết dám “cà xóc”. Làng tổng nào cũng đồng lòng như vậy thì thằng Tây hết dám tác oai, tác quái. Về việc này, các anh là thầy của chúng tôi nữa mà!
Có tiếng cười thích thú trong đám đông. Bảy Trân hứng chí nói tiếp:
- Sống trong thời buổi này, chúng ta chỉ còn ba con đường. Một là yếm thế đi tu như chú Tư Ó của tôi đây. Cả đời chú lo tụng kinh gõ mõ, khuyên dạy bổn đạo làm lành lánh dữ, nhưng ta càng tu tâm dưỡng tánh kiểu đó thì bọn cường hào ác bá càng mượn hơi Tây để hiếp đáp dân lành. Theo tôi nghĩ con đường đi tu không đưa đến đâu. Kế đến là con đường giang hồ, đánh cướp kẻ giàu giúp đỡ người nghèo. Đây là con đường các anh đang đi. Nhưng rồi con đường này sẽ đưa các anh đến đâu? Nếu không tử vong thì cũng nằm Khám Lớn hay đi đày Côn Lôn, Bà Rá... mà bọn thực dân Pháp vẫn vững như bàn thạch. Bây giờ còn con đường thứ ba: đi làm cách mạng như bọn tôi. Ông Tám đây cũng là một nhà cách mạng. Ông là thống lãnh binh Thiên địa hội tại vùng này. Dù là kèo xanh hay kèo vàng, Thiên Địa Hội vẫn là hội kín đòi Tây trả lại đất nước cho chúng ta.
Cũng như phong trào Cần Vương, Văn Thân, Thiên địa hội không làm suy suyển thằng Tây chút nào. Nhưng kể từ năm 30 đã có Đảng Cộng sản. Đảng sẽ lèo lái cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi đến nơi đến chốn- Bảy Trân ngưng vài giây rồi nhấn mạnh:
- Hôm nay, tôi được Xứ ủy phải đến đây để đề nghị với ông Tám và các anh em, kể từ giờ phút này, chúng ta bắt tay chuẩn bị khởi nghĩa, cướp chính quyền trong tổng Tân Phong Hạ này.
Như có một luồng điện xẹt ngang, không khí trong nhà bỗng nhiên im phăng phắc. Hai Vĩnh nghe được tiếng mấy con muỗi vo ve bên tai.
Có tiếng hỏi từ trong đám đông:
- Đánh Tây khó hơn đi ăn cướp nhiều. Sợ làm không kham!
Bảy Trân gật:
- Đúng là đánh Tây nguy hiểm hơn ăn cướp những kẻ tay không. Nhưng đối thủ nguy hiểm mà ta đánh thắng mới là anh hùng. Nói vậy chớ không phải là ta nhắm mắt nhắm mũi nhào vô đánh bừa. Đảng đã nhận định thật kỹ lưỡng: lúc này đúng là thời cơ đã đến. Pháp đang gặp khó khăn từ hai phía. Bên chánh quốc thì bị Đức lăm le xâm chiếm. Còn ở Đông Dương thì Nhật cũng thập thò toan nhảy vô. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở đó các anh.
Lại có người hỏi trống:
- Mấy anh làm cách mạng nói hay lắm, nhưng có gan ra trận hay ngồi tù như bọn này không?
Không khí bỗng trở nên ồn ào. Từng nhóm xì xào với nhau: Kế một người đứng lên xin nói. Hai Vĩnh đã để ý người này ngay từ đầu. Ông ta sồn sồn, có cặp mắt đỏ, bộ tướng hầm hừ, đi đâu cũng không quên cây “xà búp”:
- Tôi là Năm Chảng, vô ra Khám Lớn như đi chợ. Tôi nhớ có lần được nhốt chung với mấy ông “pôlitic” Hình như tôi đã gặp quới nhơn này tại “xoa- xăng- nớp La-răn-đe” (69 Lagrandière). Tôi nhìn nhận các ông “pôlitic” gan lì hơn anh em giang hồ mình. Tụi mình ở ngoài nói nghe ngon lành, chẳng hạn như: “chừng nào cầu sắt khai thì tụi tao mới khai”. Vậy mà vô trong đó, chịu mới được vài chập, tới màn đi tàu lặn hoặc đi máy bay là khai tới ông bà, ông vải… Còn tôi thấy một ông “pôlitic” bị đánh, đầu mềm như trái dưa vẫn nhất định không hé môi.
Chờ tất cả im lặng, ông Tám Mạnh đứng lên:
- Quới nhân đã tỏ bày mọi việc. Tụi bây nghĩ sao?
Ông Tám nhìn Tư Phương như hỏi ý. Mọi người hồi hộp chờ đợi. Tư Phương là tướng cướp khét tiếng từng chặn đường cướp cặp da đựng tiền lương của tên cò Ba-tai ở Nhà Bè.
Tư Phương gật gù:
- Anh sao thì tụi tui vậy!
Ông Tám vui mừng:
- Tao thấy tâm đồng ý hiệp. Tụi bây phải nghe tao.
Bà Tám đứng tựa cửa sau lắng nghe nãy giờ nói nhỏ với mấy người ngồi gần:
- Mấy ông làm quốc sự, có khiếu ăn nói, nghe hay quá! Các ông mà nói thì kiến trong hang cũng bò ra!
Ông Tám nghe vợ nói bật cười:
- Bà cũng khen nữa hả? Khen thì mau mau đem rượu ra đây để anh em thích huyết ăn thề.
Lập tức một thố rượu trắng được mang ra, ông Tám mở dao con chó khứa đầu ngón út, đổ vài giọt máu nhỏ xuống thố rồi trao dao cho Bảy Trân. Lần lượt tất cả đều góp vài giọt máu vào thố rượu. Hai Vĩnh cũng làm theo.
Ông Tám trịnh trọng thắp nhang khấn vái:
- Kính cáo cùng trời đất. Hôm qua chúng tôi làm lễ thích huyết ăn thề, sống chết có nhau, một lòng đánh Tây, giành lại đất nước. Ai sanh tâm làm phản, xin trời tru đất diệt!
Thố rượu pha huyết được chuyền tay, mỗi người uống một chung. Đi giáp vòng thì tiệc đã bày xong. Tất cả xúm lại cười nói vui vẻ. Bảy Trân được mọi người mời cụng ly. Anh kém tửu lượng, chỉ chịu nổi mấy chung đầu, về sau nhờ Tư Ó “vớt” giùm, viện cớ đau bao tử. Có chút rượu hâm nóng, Tư Ó vui vẻ nói:
- Thú thật với anh em, từ sáng tới giờ tôi như ngồi bàn chông, bây giờ mới dám thở mạnh. Khi Bảy Trân nhờ tôi đưa vô đây gặp ông Tám, tôi lo quá! Chỗ này đâu phải ai muốn vô cũng được? Biết bao nhiêu làng lính, “anh-đi-ca-tơ” (1), vô đây rồi mất tích luôn. Bảy Trân không phải là chó săn cho Tây, ảnh là cộng sản có bằng cấp, từng học ở Nga ba năm, nhưng lý tưởng cộng sản của Bảy Trân có điểm nào thích hợp với chí khí giang hồ của ông Tám và các anh hay không, tôi làm sao biết được? Chỉ sợ đưa Bảy Trân vào hang cọp. Nhưng Bảy Trân nói rất tỉnh: “mình có chánh nghĩa, nói phải là người ta nghe! Chú cứ đưa tôi đi…”. Tôi không ngờ đại sự lại kết quả tốt đẹp như vầy.
Bảy Trân hân hoan nói:
- Nay ta đã thích huyết ăn thề, xem nhau như anh em đồng sanh đồng tử, tôi đề nghị anh em kể từ giờ phút này tạm ngưng “đi hát” để thì giờ luyện tập võ nghệ, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa sắp tới. Bây giờ là tháng mười một. Có thể trong vòng một hai tuần nữa là đến ngày trọng đại. Hễ tôi cấp báo cho ông Tám thì anh em phải sẵn sàng ra tay. Anh em có đồng ý không? Ai có điều gì cần biết thêm, xin cứ hỏi.
Chín Mập đưa tay lên:
- Xin hỏi quới nhơn một câu: đi đâu chúng tôi cũng nghe bàn câu sấm của Trạng Trình “Chừng nào lúa mọc lên chì, voi đi trên giấy, còn gì thầy Tăng”. Ý gì vậy?
Bảy Trân cười lớn:
- Trước hết, đây không phải là sấm Trạng Trình, bởi hồi thời của ổng, cách đây trên ba trăm năm, người ta chưa biết “nói lái” thầy Tăng- thằng Tây…- Ông móc túi đưa ra một đồng hai cắc bảo chuyền tới Chín Mập, nói tiếp: Lúa mọc trên chì là hình bụi lúa đúc trên mặt đồng tiền. Còn voi đi trên giấy thì ai có tờ giấy “xăng” mới, hãy chuyền tay cho anh em xem. Một bên có in hình con voi, thay cho bộ lư trên tờ giấy “xăng” cũ.
Ông tám giục bà Tám mở tủ lấy tờ giấy một trăm đồng mới để mỗi người xem một chút. Chờ mọi người xem xong, Bảy Trân nói:
- Như vậy, các anh thấy rõ đây không phải là do ông Trạng Trình tức Nguyễn Bỉnh Khiêm làm. Mà đây là sấm giả do một tay nào đó muốn tuyên truyền hạ thằng Pháp xuống để đưa thằng Nhật lên.
Mọi người gật gù thỏa mãn với cách giải thích của Bảy Trân. Rượu được vài tuần, Bảy Trân nảy ra sáng kiến:
- Bấy lâu nghe danh ông Tám, nay được dịp gần gũi, tôi nghĩ nhân dịp này ông Tám nên ôn lại vài ngón sở trưởng để anh em lên tinh thần.
Tất cả vỗ tay tán thưởng. Ông Tám không tiện thoái thác, bảo bé Mười vô buồng lấy cây siêu cho ông. Mọi người bỏ chén đũa ra đứng trước hàng ba xem “sư phụ” biểu diễn. Đây là lần đầu tiên Hai Vĩnh được thấy ông nhạc tương lai của mình trổ tài. Anh nhận thấy khi ông Tám cầm cây siêu thì con người ông bỗng nhiên khác hẳn, ông già phúc hậu bỗng hóa thành võ tướng oai phong lẫm liệt.
Cây siêu khá nặng, nhưng trong tay ông, nó chỉ là một ngọn roi nhẹ bổng múa vùn vụt. Trong ánh hoàng hôn, lưỡi siêu sáng loáng phản chiếu một màu đỏ rực. Ông múa hết bài, trụ bộ bái tổ, mặt không hề đổi sắc. Tất cả vỗ tay nồng nhiệt.
Nhiều người ngứa tay ngứa chân nhảy ra biểu diễn đủ các thứ binh khí, roi, côn, kiếm…
Năm Chảng sôi nổi kể cho Bảy Trân về thành tích của ông Tám:
- Trước đây ông Tám để tóc dài: trong chuyến đi ghe lúa, bị hai tướng cướp Đại Mạnh Thường và Tiểu Nhạc Vân ở vàm Chà Là xã Phước Khánh chặn đánh. Một mình ông Tám đương cự hai tên này, thằng Thường có súng. Ông Tám phải dùng mưu.
- Phải mày không, Thường?
- Đúng!
- Nghe nói mày có súng. Bắn một phát coi súng thiệt hay giả?
Thường móc súng bóp cò thị oai. Nhưng nhanh như chớp, ông Tám phòng một đá cho hắn đo đất rồi quay lại đánh thằng Vân. Đang đánh, đầu tóc sút ra. Ông Tám chỉ đánh một tay, còn tay kia phải giữ đầu tóc. Đánh xong trận này, ông vô tiệm hớt tóc cắt bỏ cái củ nừng lượt bượt không chút thương xót.
Cuộc vui chơi kéo dài tới sẩm tối. Ông Tám biểu bầy trẻ thắp đèn măng xông tiếp tục chơi tới khuya, nhưng Bảy Trân cản:
- Không nên! Vui bấy nhiêu đủ rồi! Thực lực của ta không mạnh không nên vỗ ngực xưng tên như vậy. Sau này, khi thành công rồi, ta có thể vui chơi ba ngày ba đêm hay nhiều hơn nữa. Bây giờ chúng tôi xin kiếu ông Tám và các anh em.
Tất cả đứng lên tiễn Tư Ó và Bảy Trân ra về. Lúc quay trở vô, ông Tám vỗ tay gọi tất cả lại:
- Quới nhơn đã về rồi, bây giờ tao căn dặn tụi bây điều này: Chúng ta bắt tay với Đảng Cộng sản làm cuộc khởi nghĩa trong tổng Tân Phong Hạ này là việc vô cùng hệ trọng. Thành công thì không nói làm chi, lỡ thất bại thì thân bại danh liệt, nhà cửa tiêu tan, vợ con nheo nhóc. Bởi vậy tụi bây phải kín miệng, dù là vợ con, hay cha mẹ, anh em cũng không được hé môi. Nghe chưa?
Tất cả đều dạ răm rắp. Ông Tám nói tiếp:
- Bây giờ thì mỗi đứa xách một miếng thịt đem về cho vợ con để chung vui trong ngày đáng ghi nhớ này.
Hai Vĩnh cũng được một phần thịt về cho các em dù anh không chịu nhận.

CHƯƠNG 5

Hai Vĩnh không thể nào quên được ngày Nam kỳ khởi nghĩa. Ngày trọng đại này để lại một kỷ niệm đáng ghi nhớ nhất đời: anh đã tìm được một con đường đi. Kể từ ngày được nghe “quới nhơn” Bảy Trân đánh thức tinh thần yêu nước, Hai Vĩnh mới thấy chuyện đứng bến kiếm ăn trên mồ hôi nước mắt của dân lao động là thấp hèn. Con đường đi mà từ lâu anh suy gẫm tìm tòi chính là con đường “quới nhơn” Bảy Trân đang đi. Anh phải theo dấu chân người đi trước. Càng ngẫm nghĩ, Hai Vĩnh bật cười khi nhớ lại buổi sáng thằng Mười qua Long Kiểng báo tin vui: “Chuyện quốc gia đại sự mà mình lại tưởng chuyện tình duyên bé nhỏ của mình với cô Tư”.
Đã được thông báo trước, Hai Vĩnh qua Xóm Cỏ vào chiều ngày 22, ăn cơm và ngủ luôn tại đó để nửa đêm “xuống đường” cướp chánh quyền. Tại đây đã có đông đủ anh em, bà con và các môn đệ của ông Tám. Họ đàn ca hát xướng, cười nói thật vui vẻ. Trong số này chỉ có Năm Hồi và Mười Nhỏ là có súng. Cả hai đều hãnh diện với cây súng và túi da đựng đạn của mình. Năm Hồi nói với Mười Nhỏ:
- Từ nay, súng trong tay hai cậu cháu mình sẽ có ý nghĩa hơn. Thay vì đi ăn hàng, mình đánh tây với tụi mã tà chạy tét. Vậy mới đáng mặt anh hùng!
Hai cậu cháu cứ săm soi hai khẩu súng rồi kể lai lịch của chúng. Đây là loại súng săn Tây cấp cho các tay hương quản để uy hiếp dân làng. Cả hai thích chí cười bảo “bây giờ thì gậy ông đập lưng ông”.
Trong lúc đám đàn ông đàn ca, bà Tám chỉ huy các chị em cô Tư làm bếp. Chị Hai đảm trách một chảo cơm nếp to tướng, đủ cho ba chục người ăn. Cô Tư cùng cô Sáu làm gà kho sả ớt. Chưa tới mười một giờ, đâu đấy đã xong, mùi thơm của nếp rặc hòa với thịt gà kho bay lên nhà trên, ngào ngạt.
Ông Tám điểm binh xong, ra lệnh bà Tám dọn ăn.
- Tất cả ăn cho no! Ăn nó mới đánh khỏe!
Mọi người vừa ráp lại thì “quới nhơn” đạp xe tới. Vẫn bộ bà ba mốc cời và đôi guốc mòn lẻm. Ông Tám mời quới nhơn ngồi ở bộ trường kỷ. Vừa ăn, Bảy Trân hỏi:
- Công cuộc chuẩn bị như thế nào? Tinh thần anh em ra sao?
Ông Tám vui vẻ gật đầu:
- Anh em hăng lắm. Hễ nghe đập đầu Tây với làng lính là xáp vô làm liền! Lâu nay cá ăn kiến, bây giờ kiến ăn cá, không hăng sao được thầy Bảy! Từ ngày nghe thầy Bảy nói chuyện, anh em ngưng “đi hát” để thì giờ tập võ và o bế đồ binh khí.
Bảy Trân nắm tay ông Tám:
- Nhờ ông Tám nói với anh em là chúng tôi rất cảm ơn anh em đã hưởng ứng lời đề nghị của tôi. Bác Tám biết không, niềm vui của chúng tôi không sao kể xiết. Trước đây đêm nào ăn cướp cũng hoành hành, trống mõ khua vang như nhái kêu. Vậy mà hai tuần nay êm re. Vậy mới biết là tiếng nói của Đảng “linh” quá!
Ông Tám hãnh diện:
- Thầy Bảy yên tâm, em út của tôi coi hầm hừ vậy mà tôi nói sao nghe vậy. Tôi dạy học trò mấy chục năm nay, không có thằng nào phản.
- Các thứ đồ nghề để phá khám như búa tài xồi, cưa sắt, ông Tám lo đủ chứ?
- Đủ hết! Bỏ trong bao cà-ròn, giao cho Năm Hồi.
Bảy Trân yên tâm. Lúc uống trà, ông đứng lên:
- Tôi phải ra đường số 5 với anh em. Bộ tham mưu đặt tại gò mả An Phú, dưới xóm “các chú”.
Ông Tám ngạc nhiên:
- Ủa, tôi tưởng thầy ở lại đây với chúng tôi chớ?
Bảy Trân giải thích:
- Tôi chịu trách nhiệm trong toàn tổng Tân Phong Hạ. Tôi tổ chức được ba nhóm, ở đây là một, bên Bình Đăng là hai và ở Đa Phước, Phong Phú là ba. Cho nên Bộ tham mưu phải đặt ở giữa để tiện liên lạc và chỉ huy.
Ông Tám gật gù:
- Vậy cho tôi gửi một người làm liên lạc tiếp tay với thầy Bảy có tiện không?
Bảy Trân gật liền:
- Được lắm! Ông Tám chọn một người biết đi xe đạp để liên lạc cho mau, từ Gò Mả vô đây ít nhất cũng ba cây số.
Ông Tám ngoắc Bảy Hải đang đứng gần:
- Hải, mày lấy xe đạp chạy theo thầy Bảy. Mày làm liên lạc cho tao với thầy Bảy.
Bảy Hải thích chí gật lia lịa:
- Khoái quá!
Thằng Mười xớ rớ gần đó đòi theo:
- Cho con đi với! Con đạp xe còn nhanh hơn anh Bảy nữa đó!
Ông Tám nạt:
- Chuyện chết sống, con nít đi đâu!
Thằng Mười nắm tay Bảy Hải:
- Anh Bảy nói tiếp em một tiếng đi. Em đi theo giúp anh được nhiều việc lắm chớ.
Bảy Trân nhìn cậu bé, bảo ông Tám:
- Thằng bé này lanh lợi, nên cho nó đi. Tôi cần đôi ba người thay phiên nhau đạp xe ra Cầu Mới (1) lấy tin, cứ mười lăm phút ra đó thăm chừng- ông nói nhỏ, vẻ bí mật- Lệnh khởi nghĩa cho toàn Nam kỳ là 12 giờ đêm 22 rạng ngày 23-11-1940- Nếu miệt Sài Gòn mà không nổ súng thì mình rút êm. Chuyện khởi nghĩa phải làm đồng loạt nhiều nơi. Làm một mình, thằng Tây sẽ đập mình chết tươi. Bởi vậy tôi nhấn mạnh là mình phải tuyệt đối giữ bí mật nghe ông Tám!


***


Tại Gò Mả, cách đường số 5 chừng trăm thước, bảy người đang nôn nóng chờ đợi. Chừng thấy Bảy Trân đạp xe tới, tất cả reo lên:
- Sao, có tin tức gì không?
- Nhóm ông Tám đã sẵn sàng. Có hai cây súng săn của Mười Nhỏ và Năm Hồi. Khí thế rất hăng. Ông Tám cho hai người con ra đây giúp mình làm liên lạc.
Bảy người này nhìn Bảy Hải đang đèo thằng Mười trên xe đạp, một người nói:
- Tưởng ai chớ Bảy Hải thì tụi này biết. Còn chú em này tên gì, thứ mấy?
- Em tên Ngà, thứ mười.
Anh thanh niên vừa nhận biết Bảy Hải cười lớn:
- Voi quý chỉ có hai ngà, mà mày dám có tới mười ngày- Anh kéo cậu bé lại ngồi kề bên.
Một người khác nói:
- Mới bây lớn đã học lần với các chú các các, sau này sẽ ngon lành đó nghe.
Bảy người trong Bộ tham mưu của Bảy Trân không phải ai xa lạ mà là bà con anh em ruột thịt của ông. Ba anh em ruột là Tư Lưu, Sáu Thuận, Chín Báu. Ba anh em bạn dì là Ba Cưởng, Tư Ó, Sáu Bờ. Còn anh thanh niên vui tính là Năm Trừ, cháu gọi Bảy Trân là chú.
Bảy Trân bảo Bảy Hải:
- Cháu xách xe chạy ra Cầu Mới. Chạy vừa phải thôi, đừng phóng ẩu làm người ta để ý. Nhớ dòm ngó hai bên đường xem có làng lính gì không. Ra tới Cầu Mới, la cà các bến xe hỏi thăm xem phía Sài Gòn có rục rịch gì chưa; rồi trở về đây báo tin.
Bảy Hải vâng lệnh đi liền. Thằng Mười nôn nóng đòi đi, Bảy Trân vỗ đầu nó bảo:
- Mười lăm phút nữa là tới phiên mày. Hai anh em bây cứ thay nhau chạy lên chạy xuống lấy tin. Mày đừng có nôn nóng. Chỉ sợ mày không đủ sức mà thôi.
Gà gáy mấy lượt. Nhiều người xem đồng hồ, chốc chốc lại nhìn Bảy Trân như muốn hỏi: “Sao êm ru bà rù vậy anh Bảy?”.
Tư Ó vừa đập muỗi vừa hỏi:
- Vụ này chắc “xù” quá anh Bảy?
Bảy Trân thở ra:
- Tao không biết trả lời câu hỏi của mày như thế nào đây, bởi vì có thể có trục trặc vào giờ chót. Chẳng hạn như Trung ương không tán thành chủ trương của Xứ ủy, cho là bạo động non…
Mọi người giật mình:
- Có chuyện đó nữa sao?
- Sao lại không? Liên lạc từ Trung ương vô đây phải mất nhiều thì giờ. Nếu ngoài kia hoãn lại thì có nơi nhận được chỉ thị, có nơi không…
Ba Cường lo ngại:
- Nếu có lệnh hoãn lại thì sao? Mình có làm tới không?
Năm Trừ nói hớt:
- Làm tới chớ! Một lần chuẩn bị một lần khó. Phải không chú Bảy?
Bảy Trân lắc đầu:
- Đâu được mậy! Làm cách mạng đâu phải chuyện giỡn. So với cả nước thì tổng Tân Phong Hạ mình nhỏ như cái móng tay. Một mình làm thì thằng Tây tiêu diệt không còn một con đỏ. Không chỉ tụi mình chết mà chết lây hết dân trong năm xã, nhất là ba xã Chánh Hưng, Bình Đăng và Đa Phước.
Chín Báu hỏi:
- Giữa ba nơi, anh Bảy thấy nơi nào đáng tin cậy hơn hết?
- Cha con ông Tám Mạnh: Hầu hết là người nhà. Ông Tám bảo sao họ nghe vậy. Mấy tay em vợ toàn là dân ăn cướp có nhiều tiền án nhưng cũng nghe ổng răm rắp. Bên Bình Đăng có nhóm Hai Nhuận, Hai Đỏ cũng hăng hái. Còn ở Đa Phước mình nắm được hai anh em Hương quản Bảy, Bộ Huỳnh tình nguyện làm tay trong cho mình. Mấy ngày nay, cố Hoạnh cũng nghe lời kêu gọi của mình không “đi hát” để dành sức xuống đường đập đầu làng lính với mấy thằng hương chức hội tề.
Trời hửng sáng, vẫn không nghe tiếng súng miệt Sài Gòn. Bảy Trân thở dài nói:
- Chắc là có lệnh hoãn lại rồi. Như vậy là tao nhận định đúng khi đại diện Xứ ủy giao chỉ thị cho tao làm cuộc khởi nghĩa ở Tân Phong Hạ…
- Anh nhận định như thế nào hả anh Bảy? Mọi người tò mò hỏi.
- Đại diện Xứ ủy là đồng chí Hai Nữ, tên thiệt là Dương Công Nữ, thầy thuốc đông y, quê ở Trà Vinh. Đồng chí Nữ ra lệnh cho tao cướp chính quyền từ sông Sài Gòn chạy vô rạch cát giáp mí với đường số 5. Hễ nổ súng rồi, thì bắt hết hội tề, làng lính. Đó là bước thứ nhất. Bước thứ nhì là tiến ra phá cầu Chữ Y, đánh phá nhà đèn Chợ Quán, phá Khám Lớn Sài Gòn giải cứu tù nhân. Tao hỏi “Trung, Bắc có cùng nổi dậy với mình, hay chỉ có một mình Nam kỳ?”. Đồng chí nữ đáp: “Đây là chủ trương của Xứ ủy Nam kỳ”. Tao nghĩ tình hình chủ quan, khách quan chưa cho phép bạo động nên do dự “Coi chừng bạo động non thì nguy hiểm vô cùng”. Đồng chí Nữ không thuyết phục được tao nên nhân danh Xứ ủy, ra lệnh cho tao phải chấp hành. Trọng kỷ luật, tao chấp hành, nhưng với điều kiện là hễ Sài Gòn và các nơi khác trong nội thành không nổ súng thì cánh quân ở Tân Phong Hạ được phép rút lui êm.
Tất cả đều gật gù tán thành ý kiến của Bảy Trân.
Đến chín giờ, Bảy Trân cùng hai anh em Bảy Hải, Mười Ngà về Xóm Cỏ báo cáo tình hình để ông Tám cùng anh em đỡ sốt ruột.
Bà Tám hối hả dọn cơm cho Bảy Trân cùng hai anh em Bảy Hải, Mười Ngà. Bảy Trân trình bày tình hình cho anh Tám:
- Tới giờ phút này mà vẫn không nghe súng nổ ở phía Sài Gòn. Như vậy, chắc là có lệnh hoãn từ Trung ương mà mình chưa nhận được. Đề nghị ông Tám cho anh em giải tán. Nhớ giữ bí mật triệt để, kể như không có gì.
Nỗi thất vọng hiện rõ trên nét mặt ông Tám:
- Uổng quá! Lâu lâu mới có một lần!
Bảy Trân cảm động nói:
- Nhiệt tình đánh Tây của ông Tám làm cho chúng tôi lên tinh thần. Chúng ta còn có dịp gặp lại. Lần này chưa thuận tiện thì ta chờ dịp khác. Dù sao, ngày hôm nay cũng là một ngày đáng ghi nhớ. Ngày 23-11-1940 là ngày đào viên kết nghĩa giữa anh em giang hồ trong ấp Bình Xuyên này với anh em cộng sản trong tổng Tân Phong Hạ, cùng thích huyết ăn thề để bàn chuyện đánh Tây giành lại đất nước.
Ông Tám quyến luyến với Bảy Trân:
- Chúng tôi sẽ không bao giờ quên thầy Bảy. Thầy đã “khai quang điểm nhãn” cho anh em chúng tôi.
Năm Hồi lén đến gần Bảy Trân hỏi nhỏ:
- Chuyện lớn bất thành, chúng tôi tiếp tục “đi hát” được không thầy Bảy?
Bảy Trân khẽ gật, nói với ông Tám:
- Đêm nay ta chia tay nhau, đường ai nấy đi: chúng tôi làm công việc của chúng tôi, còn các anh thì làm công việc của các anh. Nhưng tôi chỉ xin các anh một điều. Khi “đi hát”, nên nhằm vào bọn gian thương “nhất bổn vạn lợi” và bọn sâu dân mọt nước, chớ không nên đánh vào dân làm ăn lương thiện.
Ông Tám trừng mắt cho Năm Hồi lui ra:
- Chuyện đi ăn hàng của chúng nó, thật tình tôi chẳng hề tham dự. Chúng nó có cho tôi biết đâu! Đến khi tôi biết thì chuyện đã lỡ. Tôi mở lò dạy võ đây là nhằm truyền lại vốn quý của tổ tiên cho con cháu, dân hùng thì nước mạnh. Tôi theo Thiên Địa Hội cũng là nhằm chuyện đòi Tây trả nước nhà mà chúng đã chiếm từ thời Gia Long, Minh Mạng.
Bảy Trân nắm tay ông Tám siết mạnh:
- Tôi rất hiểu ông Tám. Tôi kính trọng hoài bão của các vị tham gia hội kín như ông Tám. Còn chuyện con cháu bắt chước Tống Giang, Triệu Cái thì cũng là chuyện bình thường, bởi như tôi đã nói hôm trước là trong tình trạng mất nước, dân ta chỉ có ba con đường, đi tu, ăn cướp và làm cách mạng.
Ông Tám cùng đám gia tướng tiễn “quới nhơn” ra tận đường, bịn rịn như giã biệt một người thân.

Chú thích:
(1) Chantier (tiếng Pháp): công trường

CHƯƠNG 6

Sau ngày khởi nghĩa bất thành, Hai Vĩnh vẫn tiếp tục lui tới gia đình ông Tám Mạnh. Chuyện hôn nhân của anh kể như được gia đình nhà gái đồng ý tuy thỉnh thoảng có người bàn ra tán vào.
Đứng đầu nhóm này vẫn là cô Chín hãy còn cay cú vì vụ làm mai thất bại. “Thằng mạt từ đường đó làm sao bằng thằng thầy ký của tao? Để rồi bây coi, nó chẳng có tiền đâu mà sắm sanh lễ cưới”.
Một hôm, nhân lúc nhà vắng người, cô Tư lén nhét vào tay Hai Vĩnh một gói nhỏ:
- Anh cầm số tiền này sắm đôi bông…
- Tiền đâu vậy cô Tư?
- Tiền nuôi heo của tôi đó.
Hai Vĩnh trả lại:
- Không! Đôi bông cưới phải do tiền của tôi mua sắm. Tôi không phải là hạng “thực- lộc- chi- thê”…
- Nhưng biết chừng nào anh mới có tiền? Không lẽ mình ở vậy hoài? - Cô Tư nhét gói vào túi Hai Vĩnh nhưng anh vội vàng chặn lại:
- Tôi nói không là không. Nếu cô Tư thật lòng thương tôi thì xin vui lòng chờ một thời gian. Tôi hứa với cô Tư chậm nhất là một năm tôi sẽ có “chưn đứng” và sẽ xứng đáng là rể nhà này. Tôi không muốn vì cô Tư ưng tôi mà trong gia đình xào xáo. Cô Tư hãy cất số tiền này đi!
Từ giây phút ấy, ý nghĩ làm anh chị lại trở về với Hai Vĩnh. Không còn con đường nào khác. Cách mạng đang lúc thoái trào, Bảy Trân cùng các đồng chí của ông ta rút vào bí mật. Tin tức về những vụ đàn áp đẫm máu được bí mật truyền miệng. Tây xử tử Nguyễn Thị Minh Khai tại Hóc Môn. Tây bắt cả trăm người tình nghi nhốt đầy các khám. Tại Vĩnh Kim, Chợ Giữa, máy bay bỏ bom ngay lúc chợ đang nhóm, tàn sát cả trăm người. Tại Cà Mau, Tây xử bắn thầy giáo Ngọc Hiển và các đồng chí của ông đã cướp chính quyền tại Hòn Khoai, giết thằng Tây Oliviê (1). Có những hình phạt tàn bạo hơn thời trung cổ: dùng dây thép xỏ vào lòng bàn tay tội nhân cột cả xâu, đưa xuống sà lan nhận chìm ngoài biển khơi, xuất phát từ Nhà Bè.
Có điều Hai Vĩnh ngạc nhiên là thay vì gây khủng khiếp, định làm mất tinh thần những người yêu nước thì những biện pháp cực kỳ độc ác đó càng làm nung chí căm thù. Các đám giang hồ vùng ngoại thành Sài Gòn- Chợ Lớn trước đây ngưng hoạt động để dành sức đánh Tây nay tiếp tục “đi hát” và chĩa mũi nhọn vào đám làng xã, cai tổng, hội đồng. Đêm nào trống mõ cũng khua vang. Trong tổng Tân Phong Hạ, nhóm Năm Nhỏ đánh nhà đại hương cả Sảnh tại xã Bình Đăng. Nhà máy kín cổng cao tường, lại có bầy chó “bẹc giê” hung hăng như cọp dữ. Nhưng Năm Nhỏ chỉ cần bắn một phát “sơ-vơ-rô-tin” hạ con chó đầu đàn, đám còn lại cụp đuôi chạy hết. Cả Sảnh là cậu ruột Bảy Trân. Bên ngoại Bảy trân toàn dân giàu có, làm làng, làm tổng; ngoài cả Sảnh là cậu Năm, còn có hương trưởng Quyên ở Đa Phước là cậu Chín, cai tổng Quốc là cậu Mười.
Nhóm Ký Huỳnh ở xã Hưng Long, Cần Giuộc cũng đánh nhà Hội đồng Mùa. Tại đây, khi chống cự, Hội đồng Mùa bị bắn chết. Cũng cần giới thiệu sơ về tướng cướp Ký Huỳnh. Con nhà giàu, đậu Đíplôm (2), làm thư ký quận trong tỉnh Chợ Lớn, nhưng Ký Huỳnh thích sắm súng đi ăn cướp hơn là làm ký cóp. Bảy Trân cũng đã tranh thủ Ký Huỳnh tiếp tay trong cuộc khởi nghĩa vừa qua. Ký Huỳnh hướng ứng bằng cách “để lại” cho ông một khẩu súng sáu 7,65 ly với giá một trăm đồng. Cò súng đã gãy nhưng không hề gì, Bảy Trân nhờ một công nhân Ba Son bí mật sửa giùm.
Tướng cướp lừng danh Tư Hoạnh ở cầu Ông Thìn cũng hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Tư Hoạnh xưng là “cố”- chức cao nhất trong giới lục lâm: cha, ông nội, cố nội- nhưng lại xưng là cháu với Bảy Trân vì cha hắn là sui gia với người anh thứ hai của Bảy Trân. Sau vụ xuống đường bất thành, Tư Hoạnh “đi hát” trở lại.
Trong một tổng nhỏ chỉ có năm xã mà có ba nhóm giang hồ chia nhau “đi hát” và “ăn hàng”, làng lính nào chịu nổi! Các cuộc đi ruồng của bọn GCL, (chữ tắt của Garde Civile Locale)- mà dân làng gọi là bọn “chân xanh mắt ếch” vì chúng quấn xà cạp xanh nơi ống quyển- cũng chỉ tiến hành cho có lệ. Chúng không dám nhũng nhiễu, bắt hương chức hội tề đãi đằng rượu thịt như ở các nơi khác.
Bọn này tới đâu như bầy hung thần gieo tang tóc tù đày tới đó. Thường thì chúng đi từng trung đội, được trang bị xe đạp, mùng mền, ngoài súng trường, còn có một khẩu trung liên FM.
Nhờ Bảy Trân nhiều lần căn dặn, các nhóm tham gia khởi nghĩa giữ bí mật tuyệt đối nên làng lính trong tổng không hề hay biết. Cuộc sống vẫn tiếp diễn như trước. Bên ngoài, trại ruộng ông Tám Mạnh chỉ là nơi dạy võ, nhưng bên trong, đây là đầu não của các nhóm Tư Phương, Mười Nhỏ, Năm Hồi.


***


Hai Vĩnh quyết chí về Long Kiểng làm anh chị tại quê nhà. Với ý đồ đó, anh chấp nhận những vụ “thử lửa” để xác định ngôi thứ. Đúng vào lúc ấy, có ba tên du đãng từ xa tới tác oai tác quái. Chúng là Sáu Hóa, Bảy Huê, Bảy Tui, từng chém Năm Nhàn là anh chị nổi tiếng, chủ sòng bạc và trường gà ở Phú Lạc, rồi chạy sang các xã lân cận ẩn náu. Chúng kéo tới nhà Hai Thạnh chọc ghẹo các cô em gái một cách sỗ sàng. Ông già của Hai Thạnh bực mình đuổi đi thì chúng sanh sự. Hai Thạnh chạy tới nhờ Hai Vĩnh can thiệp. Từ lâu luyện tập võ nghệ, Hai Vĩnh chưa có dịp thi thố, nay nghe bạn cầu cứu, anh vui vẻ nhận lời. Anh áp dụng lời dạy của ông Tám “kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”.
Trận đánh diễn ra trong một quán nước tại ngã ba đường, sát nhà hội xã Nhơn Đức. Ba tay du đãng này vừa cướp tiền ông già của Hai Thạnh. Thức nhậu cùng chai la-ve (3) đầy bàn. Hai Vĩnh và Hai Thạnh bước vô quán, ngồi ở bàn đối diện. Hai Vĩnh đi ngay vô đề:
- Các anh chém Năm Nhàn ở cầu Xóm Rượu, Đa Phước, trốn qua Phú Lễ, lại cướp sòng bạc, trường gà rồi chạy qua đây. Bây giờ lại tái diễn trò ăn nhậu trên tiền của mồ hôi nước mắt của thiên hạ…
Sáu Hóa mặt đỏ gay, cất giọng sặc mùi rượu:
- Mày là ai? Đừng có xạo sự! Đi chỗ khác chơi!
Bảy Huê dằn mạnh ly rượu:
- Rồi sao, mày muốn gì?
Hai Vĩnh vẫn một giọng ôn tồn:
- Tôi muốn các anh trả tiền lại cho ông già anh bạn tôi đây- anh chỉ Hai Thạnh- rồi đi chỗ khác chơi.
Bảy Tui xô ghế đứng lên:
- Làng lính, cai tuần, hương quản sở tại còn không dám hó hé, mày là cái thá gì mà tới đây ọ ẹ?
Hai Vĩnh cũng đứng lên:
- Tôi đã nói chuyện tử tế, các anh không nghe lại toan sanh sự. Vậy thì đừng trách- Chưa dứt lời anh phóng một đá vào mặt Bảy Tui. Tên này nhanh mắt lách kịp chụp chai la-ve phang vô ngựa Hai Vĩnh. Hai Vĩnh xoay mình né, cái chai rơi xuống sàn gạch bể tan. Tức thì hai tên kia nhào ra vây lấy Hai Vĩnh và Hai Thạnh. Hai Thạnh cũng là tay có nghề nên cùng với Hai Vĩnh đương cự. Trong đám này, Bảy Tui hầm hừ hơn hết nên Hai Vĩnh quyết hạ cho được để dằn mặt hai tên kia. Một cú đá của anh tống Bảy Tui văng ba thước. Tức thì Sáu Hóa chụp cây “độc lá hẹ” xông tới đâm nhầu.
Hai Vĩnh cười lạt lùi ra xa:
- Màn tay không thua rồi, bây giờ tới màn võ khí! Được!- Anh đảo mắt nhìn quanh. Trong góc có một cán cuốc cùn. Anh với ngay và biến cán cuốc cùn thành ngọn roi lợi hại. Sáu Hóa chịu không nổi vác cây độc chạy dài. Bên kia, Bảy Huê đang xách dao chém Hai Thạnh, thấy Sáu Hóa bỏ chạy, cũng co giò chạy luôn. Hai Vĩnh và Hai Thạnh đuổi theo tới cầu Rạch Tôm, cách nhà hội Nhơn Đức khoảng một cây số, Hương quản Thể chặn Hai Vĩnh lại, năn nỉ:
- Cho tôi xin đi chú Hai. Như vậy là biết ai ai thắng ai bại rồi. Hôm nay là mùng ba Tết, không nên gây đổ máu…
Sau trận này, tên tuổi Hai Vĩnh bắt đầu lan khắp vùng. Các tay du đãng tôn anh lên hàng anh chị. Từ đó mỗi khi gặp khó khăn hiếp đáp, dân chúng đều nhờ “anh Hai” hay “chú Hai” giúp giùm. Các ghe thương hồ qua lại cũng nhờ “anh Hai” cho ám hiệu để các tay “thủy khẩu” trong vùng không “ăn hàng”.
Dần dần Hai Vĩnh trở thành một sở bảo hiểm đủ loại mà không cần đóng “pa-tăng”.
Nhưng vụ “thử lửa” sau đây mới đưa tên tuổi Hai Vĩnh tới cò bót trên tỉnh Gia Định và thành phố. Đó là vụ đấu giá hoa chi chợ Long Kiểng. Thằng Chà ở cầu Rạch Dơi, xã Long Hậu chuyên nghề “anh-đi-ca-tơ”- loại lính kín hạng bét- quyết đấu giá chợ Long Kiểng cho được để vợ bé hắn thu thuế hoa chi. Vợ bé hắn ở sát chợ này nên rất tiện trong việc thu thuế chợ. Để cho chắc ăn, hắn mua một số du đãng làm hậu thuẫn và bắn tiếng “với giá nào cũng chơi” nếu có ai “xâm mình” ra đấu thầu tranh giành với hắn. Hai Vĩnh không ưa lính kín, nhất là sau ngày được tiếp xúc với Bảy Trân. Cho nên khi có người tới nhờ giúp tranh với tên Chà, anh nhận lời ngay…
Địa điểm đấu thầu là tòa bố Gia Định. Ngày ấy tất cả những người đấu thầu đều tập trung tại mấy tiệm nước bên hông Lăng Ông, Bà Chiểu. Cũng tại đó, hai bên dàn trận, phô trương lực lượng. Không bên nào nhân nhượng bên nào. Dao con chó, bàn tay sắt đều thủ sẵn trong người. Trong lúc đó, Hai Vĩnh ngồi quán nước tại Chợ Cũ, chờ em út về báo cáo diễn tiến cuộc đấu giá tại Bà Chiểu. Hai Vĩnh đang ngồi quay lưng vô vách, mắt nhìn ra ngoài- đó là thế thủ anh thường dùng, không sợ kẻ thù tấn công từ phía sau- bỗng một người to cao xăm xăm bước vô, miệng hô “chém!”, tay quơ dao. Ngày ấy, cùng ngồi với Hai Vĩnh có bạn nối khố Bảy Rô. Hai Vĩnh chưa kịp phản ứng thì Bảy Rô nhanh tay hất tung mặt bàn lên. Lưỡi dao chặt “phụp” vào cạnh bàn, Hai Vĩnh nhảy trái mấy bước, nhận mặt kẻ hành hung:
- Ủa anh Bảy Môn! Tôi với anh có thù oán gì?
Người chém anh đúng là Bảy Môn, tay anh chị ở Thủ Thiêm.
Bảy Môn hầm hừ:
- Không thù oán gì, nhưng người ta nhờ tao…
Hai Vĩnh cười lạt:
- Bọn giang hồ mình đâu phải ai nhờ cũng giúp! Thằng Chà “anh-đi-ca-tơ” là thằng có nợ máu với nhiều người, tại sao anh giúp nó? Mình phải biết phân biệt chánh tà, phải trái.
Bảy Môn hơi ngượng, nạt ngang:
- Tao không biết!
Nhưng hai bên không có thì giờ đấu lý. Tên Chà đã bố trí mọi việc. Đúng lúc Bảy Môn vào quán sanh sự với Hai Vĩnh thì cảnh sát ập vào bắt Hai Vĩnh giải về bót Thương Khẩu ở bến sông Sài Gòn về tội du đãng.
Thằng cò Tây nhìn anh không chớp: trước mắt hắn không phải là một tên đâm thuê chém mướn mà là một thanh niên ăn mặc tươm tất, quần “tuýt-xo” áo lụa lèo, giày “béc-ca-na”, mũ phờ-rết-sê mười tám đồng một cái, bán tại hiệu Phan Bá, cửa hàng sang trọng nhất ở đường Đết-pan (d’Espagne).
- Theo đơn tố cáo, mày là du côn đứng bến…
Với tất cả bình tĩnh, Hai Vĩnh tranh thủ tên cò:
- Du côn đứng bến có nghĩa là mặt thẹo, mình xâm, mặc áo banh ngực, nói tục chửi thề. Nhưng ông thấy tôi đây, mặt không thẹo, mình không xâm- anh cởi áo sơ-mi vạch lưng, ngực cho tên cò xem rồi cài nút lại- ông cũng đã thấy cách ăn mặc, nói năng của tôi, bây giờ tùy ông phán đoán.
Thằng cò giải quyết thật gọn: chuyển đơn và người lên cấp trên. Hai Vĩnh được đưa về bót Catina (Catinat) gần nhà thờ Đức Bà. “Thế là lần đầu tiên mình được vào Lít-xê (4) Khám Lớn”, nói theo cách trào lộng của ông Bảy Trân. Hai Vĩnh nghĩ thầm như vậy khi nằm khám Catina. Nhưng tương lai không mù mịt như anh tưởng. Ngay khi anh bị giải về bót Thương Khẩu thì em út của anh đã phóng về cấp báo với ông Tám Mạnh. Lập tức ông Tám nhắn Huyện Bảo, chủ sự phòng tư pháp, vận động cho Hai Vĩnh sớm được trả tự do. Huyện Bảo từng học võ tại lò ông Tám. Nhờ Huyện Bảo chạy lo kịp thời, Hai Vĩnh chỉ nằm khám có bảy ngày rồi được thả về. Điều anh vui mừng hơn hết không phải là được tự do ra về, không lãnh án tiết gì hết- mà là hay tin thằng Chà rút lui vào giờ chót và người nhờ anh giúp đã đấu thầu được. Người này gởi đến anh một số tiền lớn gọi là đền bù sở phí 1 tuần lễ anh kẹt trong bót Catina. Đây là số tiền lớn nhất trong những ngày đầu Hai Vĩnh đứng ra làm anh chị. Với số tiền này, anh trích một ít gởi về giúp cha mẹ và bầy em, còn lại mua sắm đôi bông và chiếc nhẫn xoàn làm quà cưới cô Tư. Anh xem lịch cẩn thận và thấy mình giữa đúng lời hứa: chưa đầy 1 năm anh đã tạo được chân đứng và đủ sức sắm lễ vật bằng đồng tiền do mình tạo ra. Anh tự thấy xứng đáng với gia đình nhà vợ.
Ngày Hai Vĩnh mang lễ vật sang chính thức xin cưới cô Tư, người ngạc nhiên nhất cố nhiên là cô Chín. Nhìn những viên thạch xoàn năm ly, bảy ly, bà chóa cả mắt. Bà có hơi ngượng về những lời lẽ chê bai Hai Vĩnh trước kia, nhưng bà xoay trở cũng hay: “Nếu hồi đó mình dễ dãi với nó thì nó đâu được như ngày nay. Người xưa nói “Nhi nữ tạo anh hùng” là phải lắm”! Bà con xa gần đều khen cô Tư có mắt tinh đời, biết chấm Hai Vĩnh từ lúc anh còn hàn vi dưới lớp áo làm công trong nhà máy xay lúa của Sáu An tại ngã tư sông cầu Rạch Đỉa.
Người vui nhất là ông Tám Mạnh. Ông mến Hai Vĩnh ngay từ ngày Hai Vĩnh mới tới lò võ. Là thầy dạy võ, ông Tám có con mắt nhà nghề. Chỉ nhìn thoáng qua, ông biết người mới đến có đáng cho ông truyền nghề hay không và truyền hết bài bản hay giữ lại vài miếng đề phòng trường hợp trò phản thầy? Với Hai Vĩnh ông không hề bận tâm về những chuyện rắc rối ấy. Khi bắt tay vào dạy, ông Tám càng phấn khởi hơn. Cậu học trò mới này sáng dạ làm sao! Chỉ biểu diễn qua một lần là cậu ta đã “lấy nghề” dễ dàng, không cần phải ôn đi tập lại nhiều lượt. Đó là nhờ Hai Vĩnh biết kết hợp lý thuyết với thực hành, biết tập trung vào những cái chính và lướt qua những cái thứ yếu…
Tết năm 1943, Hai Vĩnh chính thức là rể ông Tám Mạnh.
Chú thích:
(1) Olivier: Phụ trách hải đăng tại Hòn Khoai
(2) Diplôme (Bằng thành chung - tốt nghiệp cấp 2)
(3) La-ve (Tiếng Pháp là bière) bia
(4) Lít-xê (Lycée) Trường trung học thời Tây

CHƯƠNG 7

Tết năm 1943, để mừng nhà được rể quí, ông Tám Mạnh lập đội lân vui chơi trong ba ngày xuân. Ông Tám có tất cả 12 người con, trong đó bốn trai. Bảy Hải được ông thương hơn hết vì giống ông về tánh tình, tư cách, đạo đức.
Đến khi có Hai Vĩnh, ông Tám coi chàng rể như người tâm phúc, phụ tá kiêm cố vấn. Những chuyện quan trọng, cha vợ chàng rể đều bàn bạc với nhau rất tâm đầu ý hiệp.
Năm Hồi vụt nẩy ra một sáng kiến:
- Mình phải làm 1 con lân khác hẳn thiên hạ. Mình làm một con lân râu bạc!
Hai Vĩnh can ngăn:
- Không được đâu, cậu Năm! Lân râu bạc là lân cha lân ông các con lân râu đen hay râu xám. Mình làm lân râu bạc chẳng khác nào tự xưng cha, xưng ông nội thiên hạ. Như vậy là mình thách thức mọi người.
Năm Hồi cười lớn:
- Ai muốn nghĩ sao tùy ý. Mình chơi trên đất của mình mà. Mình đâu có qua lãnh địa của người ta!
Một số võ sinh háo thắng tán thành ý Năm Hồi:
- Tụi bây là thứ “ngựa non háu đá”. Bày trò “vỗ ngực xưng tên” là tự chuốc lấy rắc rối cho mình đó!
Nhưng Năm Hồi vẫn nhất định làm lân râu bạc cho được mới nghe. Năm ấy, ông Tám xin phép cho đội lân hoạt động tại Chánh Hưng và xóm Cầu Dừa, đối diện cầu Ông Lãnh, lấy Cầu Dừa làm ranh. Bên kia cầu là vùng hoạt động của đội lân Ba Lại, một tay anh chị đứng bến cầu Ông Lãnh. Đúng như Năm Hồi nghĩ, con lân râu bạc đi đến đâu gây sôi nổi tới đó. Đây là một hiện tượng hiếm thấy; nhiều người nghĩ rằng thế nào cũng có một cuộc so tài giữa các nhóm giang hồ về sự thách thức táo bạo này. Khi con lân râu bạc xăm xăm đến gần Cầu Dừa, đàn em của Ba lại hấp tấp chạy về báo cáo:
- Có con lân râu bạc không biết của ai sắp qua lãnh thổ của mình.
Ba Lại đang ngà ngà, thét lớn:
- Hễ nó qua phần đất của mình là chém nát đầu nó cho tao, bất kể là của thằng nào!
Sáu tay võ sĩ ăn mặc gọn gàng chạy ra: đúng là lân râu bạc đang mon men gần cầu. Khi biết lân râu bạc của ông Tám Mạnh, vài người hơi ngại nhưng số háo thắng, xốc nổi cứ theo lệnh đại ca nhào tới chém nhầu, con lân đang múa may quay cuồng ngã quỵ xuống, máu tuôn đỏ đường nhựa. Ông địa khiếp vía vội vàng ném quạt, tháo nịt vừa chạy vừa la: “Tụi nó chém đầu lân, bớ Năm Hồi”!
Trong lúc hốt hoảng, ông địa quên cởi bỏ mặt nạ.
Năm Hồi ở phía sau, nghe báo động lật đật chạy lên thì đã muộn: con lân bị chém nát, Bảy Sến võ sĩ thủ đầu lân cùng với võ sĩ thủ đuôi lân đều bị chém gục. Năm Hồi cấp tốc huy động võ sĩ nhào ra ứng chiến, đồng thời cho thằng Mười chạy về gọi ông Tám ra ngay.
Ông Tám không theo đội lân ra Cầu Dừa mà ngồi uống trà tại nhà bạn ở bến đò. Tuy vậy, ông vẫn nai nịt gọn gàng theo thói quen: áo thun Đầu Nai dệt từ Trung Quốc, quần lãnh đen, dây nịt to bản, đi giày bố đế cao su nhựa, đội nón bành lông chiên. Hay tin dữ, ông hối hả chạy tới Cầu Dừa. Hai bên đang hỗn chiến ác liệt. Không mang binh khí theo, ông Tám nhổ đại cột chèo chiếc ghe bầu gần nhất, xông vào trận chiến. Ông ví sáu võ sĩ lợi hại nhất của Ba Lại vào một hẻm rồi bịt hai đầu để diệt gọn. Bọn này biết ý đồ đó, nỗ lực mở đường máu đánh bật ra đường cái, trước vựa nước mắm Hội đồng Khá. Với cột chèo ghe bầu, ông Tám đánh gục mấy mạng, đoạt đồ binh khí của địch đánh lại chúng. Càng đánh ông càng hăng, càng dẻo, đánh tên này gục, ông rượt tên khác. Có lúc một mình đương cự ba bốn tên. Năm Hồi vừa đánh vừa liếc chừng ông, tấm tắc khen: “Chẳng khác gì Triệu Tử Long tại Đương Dương trường bản”. Nhiều võ sĩ không cự nổi ném dao chạy chết. Chúng nhảy nhào xuống sông cầu Ông Lãnh. Nhằm lúc nước lớn, chúng bám dõi ghe bầu, trầm mình dưới nước, ngóc đầu lên theo dõi trận đánh ác liệt có 1 không 2 trong lịch sử thành phố Sài Gòn. Cả một khu phố bỗng nhiên trở nên náo động! Những người bị kẹt trong khu vực xung đột kinh hoàng đâm sầm vào cửa nhà gần nhất xin ẩn náu trong khi nhiều gia đình bạo dạn hé cửa thập thò nhìn. Lính cảnh sát bót “ Se-nho”(1) ở cầu Ông Lãnh chạy qua, nhưng chỉ dám đứng xa xa bắn chỉ thiên, thị oai cho hai bên ngưng chiến. Một giờ sau, trận xung đột mới kết thúc sau khi đã kéo dài ngót hai tiếng đồng hồ, ông Tám Mạnh đã đưa đội lân về nhà an toàn. Số võ sĩ còn kẹt trong khu vực Cầu Dừa bị hốt hết về bót “Se-nho”, còn ba mươi xác chết hay trọng thương được xe cứu thương chở về bệnh viện đô thành. Bên ông Tám có 6 người thiệt mạng. Không đợi ông Tám trừng mắt, Năm Hồi cũng biết lỗi về ai, mấy ngày liền không dám nhìn mặt ông Tám.
Huyện Bảo, chủ sự phòng tư pháp và Hai Trực, sếp bót “Se-nho” nhất trí với nhau trong việc làm biên bản cuộc xô xát đẫm máu này, cả hai nhấn mạnh lân râu bạc của ông Tám Mạnh chưa vượt Cầu Dừa, tức còn trong lãnh địa đã xin phép nhà cầm quyền. Như vậy phần lỗi về phía Ba Lại và đồng bọn. Sau khi điều tra cẩn thận, nội vụ được đưa ra tòa. Nhờ có tay trong là Huyện Bảo vận động, ông Tám Mạnh được tòa tha bổng. Ba Lại lãnh án chung thân khổ sai, bị đày ra Côn Đảo. Ra đó chưa được vài tuần, Ba Lại bị một em út của ông Tám bí mật thủ tiêu bằng cách cột đá vào khăn rằn, quất vào thái dương khiến Ba Lại té bất tỉnh rồi đạp luôn xuống suối lúc tù được đưa lên núi đốn củi. Thì ra luật giang hồ, dù trên đất liền hay ngoài hải đảo, cũng sắt máu như nhau.
Sau trận lân năm ấy, tên tuổi ông Tám Mạnh nổi như cồn. Có một nghệ sĩ vô danh nào đó hứng khởi làm bài vè cho những người mù hát dạo tại các bến xe buýt và nhà ga xe lửa, ca ngợi chiến công bất hủ trong giới giang hồ. Bài vè đó mang tên là “Tiền Tư Mắc, Hậu Tám Mạnh”.


***

Ông Tám Mạnh vừa được trắng án thì gia đình lại được một tin vui khác, lớn lao hơn. Cả nhà đang chăm chú nghe ông Tám kể lại những ngày bị tạm giam- các thầy chú và tù nhân đều có cảm tình với ông- thì có tiếng chó sủa ngoài sân. Nghe cách chó sủa, người nhà biết khách là người quen.
- Ai đó? - Năm Hồi lên tiếng hỏi.
- Quen mà!- Một người quê mùa xăm xăm bước tới. Chừng ông ta lột bỏ cái nón lá, ông Tám mới reo lên:
- Thầy Bảy! Lâu quá!…
Bảy Trân đây! Ông Tám nhớ dai ghê!
- Quới nhơn mà làm sao tôi quên cho được! Ông Tám kéo khách ngồi nơi trường kỷ, giục con làm gà, nấu cháo đậu xanh mừng ngày tái ngộ. Bà Tám đích thân rót trà mời Bảy Trân:
- Lâu nay thầy Bảy ở đâu?
Bảy Trân thoải mái như cá trong nước:
- Bốn năm nay tôi lặn vô bí mật, ở đâu cũng có nhưng chỉ ở một đôi ngày lại đi. Dù vậy tôi vẫn theo dõi những bước thăng trầm của các anh em trong giới giang hồ, nhất là trong việc gia đình ông Tám. Hôm nay tôi đến để chia vui về việc ông Tám được trắng án.
Cả nhà đều vui tươi trước tới chia vui đúng lúc của khách. Bảy Trân thấy Hai Vĩnh đứng gần, thân mật bắt tay:
- Tôi cũng xin chia vui “nguội” với chú em đây và cháu Tư… “Đất lành chim đậu”, chú em về làm rể nhà này là điều đáng khen.
Không bao lâu, tiệc rượu được dọn lên. Trong buổi tiệc, khách trình bày lý do trở lại Xóm Cỏ:
- Bốn năm trước, khi chia tay, tôi có hứa sẽ trở lại khi có dịp tốt. Dịp tốt đã có rồi đó ông Tám.
Mọi người nôn nóng đón nghe khách nói chuyện thời cuộc:
- Tình hình thế giới và tình hình trong nước biến chuyển thuận lợi cho ta. Trận giặc thế giới đang bước tới giai đoạn phản công của Đồng minh. Tháng hai vừa qua, Nga đã đẩy lùi được quân Đức tại thành phố Xít-ta-lin-grát. Đây là một thắng lợi có tính quyết định. Tại Đông Nam Á thằng Nhật coi ồ ạt vậy rồi cũng kẹt cứng tại Trung Hoa, Miến Điện, Ấn Độ… Thế nào phát xít Đức- Ý- Nhật cũng thua trước Đồng minh Anh- Mỹ- Pháp- Nga- Tàu. Thằng Tây tuy ở trong Đồng minh, nhưng là thứ Đồng minh yếu xịu, vì lực lượng kháng chiến của Đờ-gôn(2) chỉ là một nhóm nhỏ không đáng kể, còn phần lớn ngả theo bọn đầu hàng Pê-te (Pétain). Sớm muộn gì bọn Nhật cũng sẽ đảo chánh Pháp tại Đông Dương. Theo sự nhận định của Đảng, đó là cơ hội ngàn năm một thuở, ta phải chớp lấy thời cơ cướp chính quyền, chấm dứt cả trăm năm nô lệ. Trước đây ba năm, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã về nước sau ba mươi năm tìm đường cứu nước. Chiến khu Việt Bắc đã được thành lập và từ đó Đảng lãnh đạo cuộc chuẩn bị cướp chánh quyền. Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh- gọi tắt là Việt minh- đã được thành lập vào ngày 19-5-1941, tức là nửa năm sau ngày chúng ta bạo động non ở Nam kỳ. Ở miền Bắc, du kích Việt minh đã đánh các đồn nhỏ vùng rừng núi, phục kích cướp súng bọn làng lính, tạo lực lượng, mở rộng vùng giải phóng. Nghe mà nôn nao cả ruột gan.
Ông Tám sôi nổi:
- Bây giờ mình phải làm gì đây hả thầy Bảy?
Bảy Trân nghiêm trang nói:
- Tôi được Xứ ủy phái tới đây để báo cáo tình hình thuận lợi đó và gợi ý cho ông Tám chuẩn bị sẵn sàng, hễ thời cơ đến là nắm lấy. Lần này ta quyết tâm làm cho đúng bài bản, hễ ra quân là chắc ăn.
- Chuẩn bị như thế nào?
- Đó là điều tôi sẽ trình bày rõ ràng cho ông Tám và các em “gia tướng” của ông Tám… Sau cuộc khởi nghĩa bất thành tại tổng Tân Phong Hạ, tôi nghiệm thấy anh em giang hồ phần đông đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, ngưng “đi hát” để chuẩn bị đánh Tây cùng bọn làng lính tay sai. Trong cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền tới đây, tôi muốn vận động sao cho giới giang hồ tham gia đông đủ hơn nữa. Nhiều tay vỗ nên kêu. Tôi đã vận động được một ít. Nhưng công việc này ông Tám làm hay hơn tôi. Vì ông Tám là người trong giới, còn tôi là kẻ ngoại đạo. Liệu ông Tám có thể giúp tôi được điều đó không?
Ông Tám gật gù:
- Được! Tôi sẽ hết sức cố gắng!
Bảy Trân vui vẻ nói với Hai Vĩnh:
- Chú em cũng cố gắng giúp vào việc đại sự nghe. Bốn năm trước, chú em ngỏ lời muốn đi theo tôi tập làm cách mạng, ngặt vì lúc đó nhằm thoái trào. Bây giờ chính là lúc thuận tiện cho chú em thực hiện hoài bão to lớn của chú em đó.
Lúc ăn cháo gà, Bảy Trân và ông Tám trao đổi thêm về công tác tuyên truyền, vận động giới giang hồ đi theo cách mạng. Với giọng “ăn giỗ”, Bảy Trân gây hứng thú lạc quan cách mạng trong gia đình ông Tám:
- Thằng Tây ngu như trâu bò mà cứ tưởng khôn nhất trên đời. Nội một việc nó nhốt chung thường phạm với bọn này chứng tỏ nó ngu quá sức tưởng tượng. Thâm ý của nó là “lấy độc trị độc”, tức là mượn tay các cha ăn cướp giết người đánh đập hành hạ những người làm cách mạng.
Năm Hồi tía lia quen tánh:
- Nhưng kết quả trái ngược lại: chẳng những các cha thường phạm không hành hạ mà còn tôn mấy tay cách mạng lên làm “sư”…
Ông Tám trừng Năm Hồi:
- Cái thằng giỏi tài xía bậy!
Bảy Trân dễ dãi:
- Thằng Năm xía đúng chớ không bậy đâu ông Tám. Để tôi kể chuyện chí sĩ Nguyễn An Ninh với thằng cặp rằng Khám Lớn cho bà con nghe chơi: Lúc thấy chú giải ông Ninh vào khám 5, thằng cặp rằng bắt chúng tôi trình diện:
- Mấy người mới vô, lại đây trình diện tôi coi!
- Nó chỉ ông Ninh, hỏi:
- Mày tên gì? Làm nghề gì?
- Tôi là Nguyễn An Ninh, bán dầu cù là.
- Vậy hả? Ngồi xuống đấm lưng tao coi!
Ông Ninh ngồi xuống đấm lưng thật tự nhiên.
Thầy chú hoảng hồn kêu lên:
- Trời! Đúng là điếc không sợ súng! Bộ không biết ông Ninh là tiến sĩ luật sao mà bắt ông đấm lưng?
Tên cặp rằng ngóc đầu trừng trợn:
- Giả bộ hoài! Tiến sĩ luật mà đi bán dầu cù là! Tiến sĩ luật mà phải ngồi ghế tòa áo đỏ xét xử tụi này. Cha này là tiến sĩ giả!
Ông Ninh cười:
- Mấy ông tòa áo đen, áo đỏ xử phạt các anh mới là tiến sĩ giả đó. Bởi họ không còn là người Việt Nam mà là tay sai của thực dân.
Tiếng vỗ tay của cả khám làm tên cặp rằng bàng hoàng:
- Ông là tiến sĩ thật à? Tại sao ông không nói?
Ông Ninh thở dài:
- Khoe với anh để làm gì chớ?
Tên cặp rằng ngồi dậy thật gọn, chia chiếu bông cho ông Ninh nhưng ông Ninh không nhận.
Hôm sau, thấy hai người trong phòng có vẻ lo lắng, ông Ninh hỏi mới biết ngày kia họ ra tòa. Ông bảo họ kể đầu đuôi mọi việc, suy nghĩ một lúc rồi nói: “Anh này nhiều lắm là ba năm tù ở, còn anh kia thì trắng án. Có gì mà lo lắng?”. Tên cặp rằng bán tín bán nghi: “Thiệt chơi? Ai có giấy mực, ghi giùm tôi coi”! Hai ngày sau, tòa tuyên án, một anh ba năm và một anh tha bổng. Tên cặp rằng coi ông Ninh như ông thánh sống, có món gì ngon cũng đem ra mời ông tiến sĩ bán cù là.
Tất cả đều muốn nghe nữa, nhưng đêm đã khuya, Bảy Trân hẹn còn nhiều dịp khác.

Chú thích:
(1) Bót Senior giam bọn phạm pháp vị thành niên ở Cầu Muối, gần cầu Ông Lãnh
(2) De Gaulle

CHƯƠNG 8

Đại úy Sa-va-ni có thói quen sáng nào cũng thức sớm bắt đài “nước Pháp tự do” để nghe tin tức chiến sự. Sáng nay có một tin quan trọng khiến hắn vừa mừng, vừa lo. Nga đã đẩy lùi cuộc tấn công ồ ạt của Đức vào thành phố Sta-lin-grát và đã phản công. Đây là một khúc ngoặt quan trọng trong đệ nhị thế chiến. Phe Trục đã bắt đầu núng thế.
Sa-va-ni thiên về phe kháng chiến Đờ Gôn mặc dù vẫn giữ chức trưởng Phòng Nhì Nam kỳ của Chính phủ Visy (Vichy) do thống chế Pê-te cầm đầu. Tin quân Nga phản công làm đại úy vui mừng, nhưng cũng rất lo vì, “chó cùng cắn bậy”, bọn Nhật ở Đông Dương sẽ đảo chính bất cứ lúc nào chưa biết được. Sa-va-ni thay quần áo, sửa soạn tới sở. Trên đường đi, hắn đổi ý, gọi xích lô:
- Đến đầu đường Duranton. (nay là đường Bùi Thị Xuân)
Đường Duy-răn-tông là một trong những con đường đẹp của thành phố Sài Gòn.
Đường nhỏ và ngắn, hai bên có hai hàng cây dầu già vươn thẳng lên trời xanh, giao cành che rợp bóng mát mặt đường nhựa phẳng phiu. Các dãy phố lầu một tầng, trước có sân gạch, hàng rào, cửa sắt, trên có bao lơn xinh xinh. Đây là xóm tiểu tư sản thành thị, có nếp sống ổn định, có trình độ văn hóa trung bình.
Cho nên bước tới đây, khách sẽ thấy yên tĩnh, dễ chịu, không ồn ào, náo nhiệt như ở Ngã Sáu, cách đấy chừng trăm thước.
Sa-va-ni xuống xích lô ở đầu đường, lững thững đi bách bộ. Đến một căn nhà đầu dãy hắn nhận chuông. Một cô gái chạy ra đưa hắn vào.
Từ khung cửa, một thiếu phụ khoảng 30, vén bức màn tuyn bước ra bắt tay Sa-va-ni.
- Ngọn gió nào đưa đại úy tới đây?- Bộ đồ hàng màu hột gà tôn vẻ tươi tắn của thiếu phụ. Nàng có vẻ đẹp của cô gái lai Pháp, dáng thanh thanh, mặt trái xoan, mũi cao mắt sáng, mi dài và cong. Đôi môi trái tim cười thật hấp dẫn.
- Ngọn gió nào hả? Ngọn gió độc làm tôi nhức đầu quá nên sáng nay tới đây tìm chút “khói”…- Sa-va-ni nói tiếng Việt rành rõ như các tay thực dân cưới vợ Việt, ăn được mắm sống- cô Bảy làm cho tôi một cặp đi.
- Có ngay! Mời đại úy lên lầu!
Trên lầu có đi-văng gõ, trang bị đủ thứ cho khách “đi mây về gió” như gối sành, ống nhổ, bàn đèn dọc tẩu. Dọc tẩu bằng gỗ mun cẩn bạc, thật sang, Sa-va-ni cởi giày, ngả lưng xuống đi-văng trong khi cô Bảy làm thuốc:
- Bồi thẩm Ếch-teo (Estève) với tổng giám thị A-gốt-ti-ni (Agostini) có thường tới đây không?
- Cặp bài trùng có tuần nào không tới? Đại úy nằm đây một lát, là họ tới ngay đó!
Ếch-teo và A-gốt-ti-ni cũng như Sa-va-ni, không thích tới nhà “xẹc” (1) vì ở đó không có bàn đèn như ở đây. Ếch-teo và A-gốt-ti-ni gắn bó với nhau vì nghề nghiệp, một người chuyên nghề bỏ tù thiên hạ, còn một người là chúa ngục. Sáng nay Sa-va-ni tới đây cốt ý là để gặp hai nhân vật này.
Sau khi làm đủ một cặp, Sa-va-ni nằm nhắm mắt thả hồn bay về đảo Coóc (Corse) giữa muôn trùng sóng biếc Địa Trung Hải.
Dân đảo này có máu giang hồ, thích phiêu lưu, tình nguyện đi phục vụ tại các thuộc địa xa xôi, say mê những nghề nguy hiểm như làm chúa ngục hay đấu trí đấu lực với những đối thủ cao tay nhằm giành quyền khai thác thuộc địa.
Không bao lâu cặp bài trùng Ếch-teo và A-gốt-ti-ni tới. Sau màn nhả khói phun mây, cả ba tỉnh như sáo. Sa-va-ni đi thẳng vào đề:
- Ba đêm rồi tôi không ngủ được. Nếu Nhật đảo chính, mình phải làm sao đây?
Ếch-teo nhún vai:
- Khéo lo chuyện bao đồng! Đã có đô đốc Đờ-cu (1) đã có thống đốc Nam kỳ! Pa-giét (2) đi, thì Hốp-phen (3) tới!
- Sao không nói là đã có thống chế Pê-te (4)? Mấy ông cam phận quá!- Sa-va-ni lắc đầu tỏ vẻ thương hại.
- Chứ đại úy tính đánh à? Thôi, cho tôi xin! Đừng đi vào con đường tự sát!- A-gốt-ti-ni cười ranh mãnh.
- Tôi chiến đấu tới cùng! Còn nước còn tát- Để vài phút trôi qua, Sa-va-ni nói tiếp- Thằng Nhật không đáng sợ. Nó từ xa tới, không rành nơi đây như chúng mình. Tôi sợ nhất là mấy thằng tù trong tay ông đó. Chúng mà phá khám ra được thì đại loạn!
Ếch-teo hớp một ngụm trà ướp sen, gật gù:
- Như vậy mình sẽ lâm vào thế “lưỡng đầu thọ địch”, một đầu là mấy thằng phát xít lùn, một đầu là mấy thằng tù phá khám, nguy quá chớ!
- Càng nguy hơn nữa là Cộng sản nắm được đám đầu trộm đuôi cướp… Sa-va-ni như nói với chúng mình.
A-gốt-ti-ni kêu lên:
- Làm gì có chuyện đó! Với tư cách là chúa ngục, tôi am hiểu nhiều về mấy thằng tù của tôi. Cộng sản thì sống chết với lý tưởng viển vông của chúng. Còn đám ăn cướp thì rất thực tế, chỉ biết có tiền, rượu và gái… cũng y như bọn mình. Cộng sản không thể nào nắm được đám du đãng…
Sa-va-ni ngắt ngang:
- Đừng chủ quan!
A-gốt-ti-ni gằn giọng:
- Tôi không chủ quan! Cộng sản với du đãng là hai cực âm, dương, làm sao gặp nhau được!
Sa-va-ni nhấn mạnh:
- Đồng ý chúng là hai cực âm dương. Nhưng chính ông đã chập hai cực âm dương đó lại nó biến thành dòng điện xẹt lửa.
A-gốt-ti-ni ngơ ngác:
- Hồi nào?
- Ông đã nhốt chung mấy thằng “rô-li-tíc” với đám đầu trộm đuôi cướp. Ông đã giúp Cộng sản nhuộm đỏ bọn tù án. Ông đã tiếp tay với Cộng sản.
Ếch-teo nhảy dựng lên:
- Sao lạ vậy? Tôi đã ra lệnh giam riêng chúng nó mà, A-gốt-ti-ni?
A-gốt-ti-ni lúng túng:
- Trước đây thì nhốt riêng. Nhưng từ năm 40, sau vụ bạo động cuối tháng 11, ta bắt giam nhiều quá, không đủ khám nên bắt buộc phải nhốt chung- hắn cười gượng- Tôi nghĩ rằng như vậy cũng hay hay: Mình lấy độc trị độc, để bọn thường phạm trừng trị Cộng sản cứng đầu cứng cổ.
Ếch-teo kêu lên:
- Đúng là ngu như chúa ngục! Chút nữa, về nhốt riêng ra! Muộn còn hơn không, nghe chưa?
A-gốt-ti-ni sượng sùng như chó ăn vụng bột.
Sa-va-ni nói tiếp:
- Bọn trong tù chỉ cần xiết vô khuôn khổ, canh gác cẩn thận. Đáng ngại là đám còn ở bên ngoài. Đây là một lực lượng quan trọng, vì chúng rất đông, xóm nào cũng có, đặc biệt ở bến xe, cầu tàu, sòng bạc, trường gà, trường đua, rạp hát, cao lâu, vũ trường. Trong cuộc tranh chấp giữa chính quyền và bọn phản loạn, ai nắm được lực lượng này, người đó sẽ thắng. Điều này đã được chứng minh trong lịch sử Pháp. Na-pô-lê-ông đệ tam (Napoléon III) cũng đã nhờ đám du đãng Bô-hêm (Bohême) mà nhảy lên ngôi Hoàng đế.
Ếch-teo gật gù:
- Đúng. Nhưng đại úy đã nắm được tình hình du đãng trong đô thành Sài Gòn- Chợ Lớn chưa?
Sa-va-ni gật:
- Được chớ! Theo cuộc điều tra của Phòng Nhì sau cái gọi là Nam kỳ khởi nghĩa, du đãng ở thành phố này có nhiều biến đổi khác xa các tổ chức du đãng trên thế giới, như Ma-fia ở Ý hay bọn KKK ở Mỹ… Muốn hiểu du đãng ở Việt Nam phải đi ngược dòng lịch sử, từ ngày người Pháp mới tới đây dưới lớp áo những nhà truyền giáo như Cha cả Bá-đa-lộc và quân đội đánh thuê của Gác-niê (Garnier). Du đãng Việt Nam đã từng liên kết với giặc Cờ Đen và giặc Cờ Vàng, với phong trào Thiên Địa Hội, kèo xanh kèo vàng, đời Pháp trả lại đất nước. Du đãng trong Nam kỳ còn có màu sắc nghĩa hiệp, là một đặc tính của người dân “đàn trong” trọng danh dự và nhân nghĩa.
Ếch-teo sốt ruột:
- Tôi không lạ gì những điều đại úy vừa nói. Điều tôi muốn biết là du đãng có hưởng ứng cuộc bạo động vừa qua hay không? Chứ theo hồ sơ đến tay tôi thì chưa thấy gì về việc ấy.
Sa-va-ni trịnh trọng nói:
- Chính thức đưa ra tòa thì chưa có vụ nào, nhưng theo báo cáo của bọn mật báo viên thì Cộng sản đã nắm được một số du đãng. Bằng cớ là trước ngày 23-11-1940, tức ngày Cộng sản cướp chính quyền ở nhiều nơi như Chợ Giữa, Hóc Môn, Bà Điểm, Hòn Khoai… thì tại Sài Gòn này, đặc biệt là vùng ngoại ô chạy dài Nhà Bè tới Cần Giuộc, Cần Đước, Bình Chánh gần nửa tháng trời không hề có một vụ cướp nào đáng kể. Đó là một dấu hỏi lớn, bởi trước đó đêm nào cũng có trống mõ báo cướp. Chưa hết đâu! Đến đầu tháng 12 năm đó, tức là sau khi chúng ta thẳng tay đàn áp bọn cộng sản, thì các vụ đánh cướp lại tiếp diễn còn ồ ạt hơn trước nữa. Đó là dấu hỏi thứ hai. Ông bồi thẩm nghĩ gì về hai câu hỏi này?
Ếch-teo cười:
- Phòng Nhì tay nào cũng đeo kính màu, mà thường thì màu đen, màu đỏ, nên ngó đâu cũng toàn màu đen, ngó đâu cũng toàn Cộng sản.
Sa-va-ni nghiêm trọng:
- Lúc này không phải là lúc nói đùa nghe ông bồi thẩm! Tôi chính thức báo động đó.
Ếch-teo nhún vai:
- Nếu thế thì đại úy nên báo động thẳng với ông Hốp-phen.

CHƯƠNG 9

Bồi thẩm Ếch-teo suy nghĩ nhiều về lời báo động của Sa-va-ni: “Nếu Nhật đảo chính thì đám tù phá khám sẽ nguy hiểm hơn bọn giặc lùn”.
Hắn thấy Sa-va-ni có lý và bắt tay vào việc sửa sai do tổng giám thị A-gốt-ti-ni vô tình gây ra. Trước hết hắn chỉ thị tách tù chính trị ra khỏi các khám giam thường phạm, không cho các nhà cách mạng có dịp tuyên truyền chủ nghĩa Cộng sản trong đám tù án. Hắn biết các nhà trí thức yêu nước có tài hùng biện đám đăng đàn diễn thuyết cả mấy tiếng đồng hồ trong các cuộc mít-tinh tại rạp hát Thành Xương trong thời kỳ Mặt trận Bình Dân và Đông Dương Đại hội vào những năm 30. Hắn biết một số trí thức này được đào tạo tại Nga như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trân… có sở trường vận động quần chúng đi theo cách mạng. Càng nghĩ hắn càng bực sự ngu dốt của A-gốt-ti-ni “đã làm công không cho Cộng sản”.
Công việc cấp bách thứ hai của Ếch-teo là duyệt lại các hồ sơ để đưa ra Côn Đảo những phần tử nguy hiểm, giải tỏa các khám giam đã chật, đồng thời cũng phòng xa trường hợp phá khám ngày Nhật đảo chính.
Trước mặt Ếch-teo là một chồng hồ sơ cao ngất. Hắn với lấy hồ sơ đứng đầu. Ngoài bìa có kẻ chữ to: Lê Văn Viễn tức Bảy Viễn. Lật hồ sơ ra, Ếch-teo ngắm bức ảnh bán thân cỡ 4x6cm: một người khoảng ba mươi lăm, mặt vuông chữ điền, mày rậm, mắt dữ. Trước ngực là số đính bài dài sọc. Tiếp theo sau là lai lịch vắn tắt: “Lê Văn Viễn tức Bảy Viễn, sinh năm 1904 tại xã Phong Đước, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn, thuộc gia đình có điền đất. Cậu thứ năm Bảy Viễn là Lê Văn Xuân tức Năm Xuân làm xã nên cũng được gọi là Xã Xuân. Bảy Viễn học hết trường làng, lớp ba, thì bỏ nhà đi lưu lạc giang hồ.
Trong thời gian khoảng 10 năm này, Bảy Viễn học võ ở nhiều nơi. Sau đó Bảy Viễn xưng anh chị tại trường đua Phú Thọ, tập hợp được một số du đãng em út. Vùng hoạt động của nhóm Bảy Viễn bây giờ là Chợ Thiếc, An Bình, Cù lao Chánh Hưng và xóm Phạm Thế Hiển từ cầu Hiệp Ân đổ xuống cầu Chữ Y. Một đường dây liên lạc nối liền các địa điểm bí mật ở các xóm kể trên giúp hắn tẩu thoát mỗi khi có báo động. Xuồng, tam bản của hắn luôn luôn túc trực dưới bến giúp hắn vượt hai con Kinh Đôi và Kinh Tẻ trước khi cảnh sát tới. Với tiền đánh cướp ở các chợ vùng ngoại ô như Cần Giuộc, Nhà Bè, Giồng Ông Tố, Bảy Viễn sắm xe lô-ca-xông cho thuê. Đôi khi hắn dùng các xe này để đi ăn cướp. Bảy Viễn chịu ảnh hưởng nặng loại tiểu thuyết ăn cướp bắn súng lái xe đua như Bách-si-ma, Hoàng Ngọc Ẩn của nhà văn Phú Đức nổi tiếng thời bấy giờ. Hắn ăn mặc đúng thời trang, lái xe tới những tiệm vàng ở các chợ quận, mua cả bụm vàng rồi để lại một băng đạn trước khi lên xe vọt mất.
Năm 41, Bảy Viễn vị bắt với 17 tiền án ăn cướp có súng, bị kêu án 15 năm khổ sai, đày ra Côn Đảo. Mười lăm ngày sau, Bảy Viễn vượt ngục bằng bè và được thuyền đánh cá vớt. Một năm sau hắn lại bị bắt đưa ra Côn Đảo. Hai tháng sau hắn lại trốn về đất liền. Nhà tù Côn Đảo mở cuộc điều tra tìm hiểu vì sao Bảy Viễn trốn quá dễ dàng như vậy. Nguyên do là Bảy Viễn có tay em ngoài đảo sẵn sàng giúp đàn anh đóng bè làm buồm, tiếp tế cơm khô nước ngọt. Một số thầy chú cũng ngán Bảy Viễn nên cố tình nhắm mắt làm ngơ.
Sau hai lần đi Côn Đảo, Bảy Viễn thay tên đổi họ, lấy tên Tây là thầy Tư Hoảnh-xăng (Vincent) bỏ đất Sài Gòn lên tận Bến Tranh, một làng nhỏ cách quận Dầu Tiếng ba cây số, mua nhà sắm xe bò cho thuê. Ngày ngày hắn vận xà-rong đi đánh bài tứ sắc với dân cờ bạc trong vùng. Tại đây có ba tay cờ bạc hào hoa ăn tiêu rộng rãi. Đó là thầy Tư Hoảnh-xăng, ông Năm Mắm và thầy Bảy Dầu Tiếng. Ông Năm Mắm là Huỳnh Văn Trí tức Mười Trí, là tướng cướp lợi hại chuyên đánh xe đò, ghe hàng ở lục tỉnh. Y có vợ là lái mắm Châu Đốc, mở vựa mắm ở Bến Tranh để làm bình phong che mắt làng lính. Thầy Bảy Dầu Tiếng chính là tay Cộng sản Nguyễn Văn Trấn, quê ở Chợ Đệm, quận Bình Chánh, tỉnh Chợ Lớn, cũng được gọi là Bảy Trấn. Trong thời Mặt trận Bình Dân và Đông Dương Đại hội Bảy Trấn đã ra hoạt động công khai trong nhóm Le Peuple, (báo Dân chúng). Nhiều lần đăng đàn diễn thuyết, có lần bị bắt vô Khám Lớn. Cả ba tên này chạy về đây ẩn náu trong khi địa bàn hoạt động của chúng bị “bể”, nhưng vẫn tiếp tục làm ăn. Thỉnh thoảng em út của thầy Tư Hoảnh-xăng và ông Năm Mắm mang tiền lên cho hai đại ca “đậu chếnh”. Còn thầy Bảy Dầu Tiếng thì thường lén lút vào các làng cao su vận động anh em cạo mủ đoàn kết tranh đấu đòi tăng lương, bớt giờ làm, cải thiện đời sống.
Tại sao lại chọn Bến Tranh làm căn cứ an toàn? Vùng này có anh em Hội đồng Thì là dân có máu mặt. Hội đồng Thì là điền chủ lớn, em y là Xã Mỹ, một tay cờ bạc nổi tiếng. Vợ bé Xã Mỹ là chị vợ Bảy Viễn. Với sợi dây ràng buộc đó, Bảy Viễn và Mười Trí ung dung nghỉ xả hơi tại đây, hễ có làng lính về thì nhảy xuống xuồng bơi qua sông, tới nhà Hội đồng Thì lánh nạn thì kể như an toàn một trăm phần trăm.
Hệ thống mật báo viên của Pháp thật bén nhạy nên sau nhiều tháng trời theo dõi, mật thám đã bao vây Bến Tranh, bắt được hai tên cướp lợi hại này. Còn tên Cộng sản Bảy Trấn thì nhanh chân trốn trong các làng cao su.
Ếch-teo đọc xong bản lai lịch, cầm tấm ảnh 4x6 lên nhìn lần nữa, lẩm
bẩm: “Đúng là mặt ăn cướp”. Hắn lấy bút mực đỏ ghi trên đầu hồ sơ “Phần tử tối nguy hiểm, cần tống ngay ra Côn Đảo. Nhốt riêng trong cátsô”. Hắn gạch đích hai lần chữ “nhốt riêng trong cátsô” đến rách giấy.
Hồ sơ thứ hai ngoài bìa kẻ chữ Huỳnh Văn Trí, tức Mười Trí, Ếch-teo ngắm tấm ảnh bán thân 4x6 lẩm bẩm: “Thằng này có cặp mặt sáng quá. Chắc là thông minh”. Hắn nghiên cứu lai lịch: Huỳnh Văn Trí, tức Mười Trí, sinh năm 1903 tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định, học trường làng, đi giang hồ học võ một thời gian, trở về cư ngụ tại Bà Quẹo. Nhóm Mười Trí làm ăn kín đáo hơn các nhóm khác ở thành phố Sài Gòn. Thường Mười Trí tổ chức đánh xe đò miền Tây, đánh ghe chài từ Cà Mau lên, phục kích tại các nơi hẻo lánh, đánh chớp nhoáng, rút cũng chớp nhoáng, không để lại dấu vết gì giúp nhà cầm quyền truy tìm xuất xứ…
Vụ đánh cướp Chợ Nhỏ Trà Vinh của nhóm Mười Trí cho thấy là một thiên tài về chiến thuật đánh một mục tiêu xa cách sào huyệt hai trăm cây số. Tất cả đều được nghiên cứu cẩn thận, bố trí chính xác, các sông rạch chung quanh thị xã đều được bám sát để biết nước lớn nước ròng, giờ nào tiến vô, giờ nào rút ra. Khi tấn công, chiến lợi phẩm cũng được phân ra rành rẽ, thứ nào đem xuống ghe mang đi, thứ nào ném ra đường cho dân nghèo. Nếu Bảy Viễn là tướng cướp hào hoa nặng mùi kiếm hiệp thì Mười Trí là tướng cướp thiên về chiến thuật quân sự.
Mười Trí 4 lần bị đày Côn Đảo, 4 lần trốn về đất liền bằng bè. Với tiền cất giấu, y mua chuộc thầy chú ở Sở Củi nhắm mắt cho đám tù lên núi vô rừng bứt mây đan bè bện bao bố trét chai.
Mười Trí và Bảy Viễn quen biết nhau từ ngày Bảy Viễn tự xưng anh chị ở trường đua. Sau cùng, cả hai lại gặp nhau tại Bến Tranh, dưới lốt cờ bạc để đánh lạc hướng đội “rờ-sẹt” Sài Gòn. Trong cuộc “ráp” vừa qua, cả hai đều sa lưới. Đề nghị nên nhốt riêng vì hai tên cướp lợi hại này mà liên kết lại thì trở thành lực lượng đáng ngại…
Ếch-teo nhìn lại lần nữa bức ảnh Mười Trí, gật gù: “Thằng này có thể trở thành một nhà chiến thuật đây. Cần nhốt kỹ”. Chụp cây bút đỏ, hắn phê trên đầu hồ sơ: “Rất nguy hiểm. Đưa ra Côn Đảo, nhốt cátsô cẩn thận”.
Xem xong hai tập hồ sơ, Ếch-teo thấm mệt. Hắn bước ra cửa sổ. Từ pháp- đình Sài Gòn nhìn sang Khám Lớn chỉ cách một con đường La-răn-đie (Lagrandière). Bỗng hắn bật cười khan:
- Thằng cha nào thiết kế thành phố Sài Gòn này chơi xỏ nước Pháp! Ai lại xây Khám Lớn giữa trung tâm thành phố, sát bên dinh Toàn quyền và dinh Thống đốc Nam kỳ? Đúng là chửi cha nền văn minh Đại Pháp!”.

Chú thích:
(1) Cercle Sportif Saigonnais (CSS) nhà xẹc, Tây tới chơi thể thao - nay là Tao Đàn

CHƯƠNG 10

Tổng giám thị A-gốt-ti-ni bị Sa-va-ni và Ếch-teo “xát xà bông hối hả trở về hòn đảo ngục tù của lão giữa Sài Gòn hoa lệ điều tra xem hư thực thế nào. Từ lâu lão chủ ngục này đã thấm mệt vì khí hậu nhiệt đới. Vào mùa hè, từ trưa đến chiều, hắn cởi hết nút áo, bạch ngực mà vẫn không chịu nổi cái nóng nung người. Bao nhiêu công việc hắn đều khoán trắng cho thầy chú. Hắn chỉ lo dưỡng già với cảnh tối sâm-banh, sáng sữa bò và cà phê đá buổi trưa. Hôm nay hắn nhất định mở cuộc điều tra để xem Sa-va-ni nói có đúng không. Riêng hắn thì không đời nào tin Cộng sản và ăn cướp bắt tay nhau được.
Hôm ấy nhằm ngày thăm nuôi. Hắn đảo một vòng. Các khám nhộn nhịp hơn ngày thường. Tại cổng lớn, mấy chục người xếp hàng chờ đợi được đưa giỏ xách đồ ăn vào trong cho thân nhân trong các khám, đám tù nhân nôn nao chờ gọi tên để ra phòng ngoài nhận quà và trao đổi vài câu vắn tắt với cha mẹ hay vợ con. A-gốt-ti-ni vẫn chưa thấy có gì đáng báo động như Sa-va-ni lên tiếng hôm qua. Lão chịu khó đi sâu thêm một chút nữa. Đi sát một “xan” (salle), lão thấy một chiếc chiếu được trải gần cửa, một người lom khom sắp xếp các thức ăn mà các tù nhân đi lãnh về giao cho anh ta. Người này là “cặp-rằng”. Hắn xếp đồ ăn làm hai loại, loại ăn liền và loại có thể để dành hai ba ngày sau không thiu thối. Đến giờ cơm, các món tiếp tế ấy được chia đều, không phân biệt người được gia đình thăm nuôi với những kẻ “sinh vô gia cư, tử vô địa táng”.
- A, chuyện mới, chuyện lạ đây! - A-gốt-ti-ni khẽ kêu lên- Trước đây làm gì có chuyện này! Của ai nấy ăn, hồn ai nấy giữ! Những người được tiếp tế giữ khít rim cái giỏ xách không thích ai dòm ngó, soi bói; hạ lạnh lùng ăn lén ăn lút, mặc kệ các kẻ đồng cảnh đồng thuyền có được thăm nuôi hay không.
- Ê, cặp-rằng! Tên gì?
- Dạ, Bảy Rô, Nguyễn Văn Rô.
- Ba giờ chiều nay lên phòng tổng giám thị- Lão A-gốt-ti-ni cẩn thận ra lệnh thầy chú đưa Bảy Rô lên phòng lão vào giờ nói trên.
Có nhiên là Bảy Rô lo lắng, ăn không thấy ngon, ngủ cũng chẳng yên. Chỉ mong đến 3 giờ theo thầy chú lên gặp chúa ngục. Trong khi chờ đợi, anh quay lại khúc phim cuộc phiêu lưu của mình vào “đại học Khám Lớn”. Anh học được rất nhiều từ khi bước chân vào tòa biệt thự mang số 69 La-răn-đie. Nhà ngang, dãy dọc, nhà trệt, lầu một, lầu hai. Tầng dưới nhốt thường phạm, tầng trên nhốt tù chính trị. Lúc mới vô, Bảy Rô đinh ninh mình ở tầng trệt, nhưng không ngờ được dẫn tuốt lên lầu hai, ở một phòng mang cái tên rất lạ là “ca-ba-nông” (cabanon).
Đây là phòng giam mấy cha “pô-li-tic”. Bảy Rô nằng nặc đòi đổi khám giam vì anh là ăn cướp can án giết Ba Tần. Bảy Rô kêu nài mãi, thầy chú phải xem lại hồ sơ. Đúng Bảy Rô là ăn cướp, có giết người, nhưng lại ở trong nhóm Mười Nhỏ, mà Mười Nhỏ bị liệt vào loại phá rối trị an. Hồ sơ Bảy Rô gắn liền với hồ sơ Mười Nhỏ mà lai lịch như sau “Mười Nhỏ giật một súng đi săn calip 16 và một súng 6,35 của thằng Tây chủ sở cao su ở Phước Lý, chuyên đánh các tay hội tề có máu mặt, lấy của người giàu giúp cho người nghèo. Một trong những nạn nhân của Mười Nhỏ là hương quản Trong, xã Bình Đăng. Hương quảng Trong qua Chánh Hưng bắt ăn cướp, bị Mười Nhỏ hạ sát”. Chừng đó Bảy Rô mới yên tâm ngồi ca-ba-nông, không còn thấp thỏm sợ “lộn nhà”. Vì tính hay khiếu nại đó mà anh bị thầy chú ghét, tên Pôn (Paul) Hiền kiếm chuyện đánh Bảy Rô ba chục “ma-trắc”. Nhưng “cái nết đánh chết không chừa”. Vài ngày sau, Bảy Rô kêu gọi anh em đấu tranh đòi đủ cơm ăn và nhất là bỏ nạn cho tù ăn bằng miểng dừa” (sọ dừa khô cưa đôi làm chén đựng cơm). Để trị tội xúi giục đấu tranh, thầy chú giam chung Bảy Rô với đám tù mắc bệnh cùi. Tại đây, cặp-rằng cùi chia cơm, cố tình cho Bảy Rô ăn đói trong 3 ngày liền. Đến ngày thứ ba, Bảy Rô phản đối. Tên cặp rằng chửi thề “Đ.mẹ, không ăn thì thôi. Cho mày chết đói”. Không đợi hắn dứt lời, Bảy Rô chụp thùng cơm đánh hắn té nhào. Tức thì 9 tên khác nhào tới cứu bồ. Một mình Bảy Rô tả xung hữu đột, đánh túi bụi xà ngầu, hạ hết chín tên.
Thầy chú trả lại anh về ca-ba-nông I. Tại đây Bảy Rô làm quen với anh em Thắng và Châu, sinh viên từ miền Trung vào Sài Gòn, bị bắt về tội hoạt động chính trị trong giới học sinh. Bảy Rô rất thích Châu. Hai người nằm đêm thủ thỉ với nhau về dự tính tương lai. Châu thích đi dạy học môn văn, sử:
- Đi vào sử rất thích thú. Chẳng hạn như nhìn bảng tên đường, mình có thể hình dung được cuộc kháng chiến cách đây gần trăm năm, như tên La-răn-đie (Lagrandière) chính là thằng hải tặc đã kéo rốc pháo thuyền xuống Vĩnh Long buộc kinh lược Phan Thanh Giản ký hàng ước nạp nốt ba tỉnh miền Tây năm Đinh Mão 1867. Còn đại lộ Sạt-ne (Charner) thì lấy tên thằng hải tặc đã đánh thành Gia Định khiến tướng Nguyễn Tri Phương bị thương năm Tân Dậu 1861, gây cảnh tang tóc mà nhà thơ mù Đồ Chiểu làm mấy vần thơ để lại đời sau:
…Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây…
Bảy Rô cũng hứng lây, bàn chuyện văn chương chữ nghĩa:
- Anh thích dạy văn, để tôi nói về màu sắc của các loại ngựa. Không ai rành bằng tôi, bởi tôi là tay đánh xe ngựa cả chục năm. Ngựa có đến tám sắc; ngựa trắng bốn sắc và ngựa đen bốn sắc. Toàn trắng là bạch, chen lông đen là kim, đen pha chút đỏ là đạm, pha nhiều đỏ là hởi; toàn đen là ô, pha tí đỏ là khứu, đỏ tươi là vang, đỏ sậm là hồng. Tôi đố anh tìm thấy điều này trong sách vở- Rồi anh cười vang lên thích thú. Sống với giới trí thức cũng hay hay.
Khúc phim “chung sống với anh em chính trị phạm” trong mấy tháng qua như hiện ra trước mắt anh:
Năm 1944, trong một vụ “đi hát” bị tổ trác, hai tên Chơn, Chó xộ khám cùng với một gã hung hăng tên Thắm. Gặp lại Bảy Rô trong ca-ba-nông cả ba vui mừng như cá gặp nước. Các tay anh chị ở Hố Bần xưng danh Bình Xuyên, được thầy chú vị nể.
Tháng 6-1944, một nhóm chính trị bị đưa vào nhốt chung. Nhóm này gồm 9 người, đứng đầu là sinh viên Thắng (tên thật là Trần Văn Trà). Vừa ngồi xuống chưa nóng đít, Thắng được hai tên Chơn, Chó tới mời:
- Cặp-rằng Sáu Khải gọi anh hỏi chút việc.
Thắng tới đứng trước mặt Sáu Khải, cặp-rằng hỏi:
- Mấy anh làm gì mà vô khám?
- Bị tình nghi làm chính trị.
Sáu Khải cười gằn:
- Làm chính trị càng phải trọng tôn ti trật tự. Sao vào đây mà không ra mắt?
Thắng ôn tồn:
- Mới vô chưa biết gì. Chưa ở tù lần nào, chưa biết cách thức…
Thắng chưa dứt lời, tên Thắm nhào tới đấm vào quai hàm. Thắng đấm trả đũa ngay. Cả dãy tù nhao nhao lên, hai bên dàn trận. Thắng thấy rõ là cặp-rằng Sáu Khải đã nắm được anh em Bình Xuyên. Nhưng nhóm chính trị không lùi bước.
Hôm sau, anh Ngoạn trong nhóm anh Thắng bị địch tra tấn chết giấc. Xe đưa vô Chợ Quán thì chết. Dù vậy, anh em vẫn giữ vững tinh thần.
Vài tuần sau lại có thêm một nhóm sinh viên bị bắt. Tất cả 4 người trong đó có nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng và họa sĩ Nguyễn Hải Trừng. Nhóm này tặng Thắng một chiếc mùi soa để tỏ cảm tình.
Sau khi quan sát sinh hoạt của nhóm Thắng, Sáu Khải và các tay Bình Xuyên đổi thái độ. Thắng bàn cùng các bạn cố tranh thủ một số anh em Bình Xuyên tốt. Bước đầu kéo được hai người: Bảy Rô và Mười Một. Hai tay anh chị tiến bộ Trình Giảo Kim và Năm Tửu đóng vai trò quan trọng trong việc thu phục Bảy Rô. Bảy Rô rất mê súng. Năm Tửu hứa chia cho anh một cây 6,35 sau khi ra khám. Bảy Rô cũng mê truyện Tàu. Trình Giảo Kim là một kỳ tài về môn đọc truyện Tàu. Anh không biết một chữ “nhất một” vậy mà đêm đêm đọc “tuồng bụng” không sót một chữ. Anh đọc luôn cả câu “muốn biết đoạn tiếp ra sao, xin xem hồi sau phân giải”.
Nhờ kéo được Bảy Rô, nhóm tù chính trị biết được âm mưu ghê gớm của đám thường phạm. Chẳng hạn như tên Thắm mài một căm xe đạp nhọn hoắt, định thanh toán anh Thắng. Hay tin “động trời” này, nhóm chính trị thay phiên nhau canh gác ngày đêm không để xảy ra chuyện đáng tiếc.
Không riêng gì Bảy Rô, Mười Một mà đến các thầy chú, cặp-rằng cũng nể anh em chính trị. Tên Béc-na (Bernard) Tây lai bị án tử hình được giao coi các khám cũng có cảm tình với nhóm sinh viên hoạt động chính trị.
Từ ngày làm quen với hai anh em Thắng, Châu, Bảy Rô thấy mình học hỏi được nhiều điều bổ ích. Anh gật gù thú vị khi nhớ lại chuyện Tái ông mất ngựa: trong cái rủi có điều may. Điều may nhất của Bảy Rô là nhờ sinh viên Thắng vạch rõ chân tướng của mình.
Trong lúc trò chuyện, Thắng hỏi:
- Tại sao các anh đi hát?
Bảy Rô đáp thật tự nhiên:
- Tại cái nghèo.
Thắng kêu lên:
- Bậy! Nói như anh thì tất cả những người nghèo đều đi ăn cướp hết sao?
Bảy Rô ú ớ, Thắng nói tiếp:
- Theo tôi, nghèo không phải là yếu tố quyết định đẩy các anh đi vào con đường quấy.
- Vậy thì cái gì? Bảy Rô háo hức muốn biết.
- Yếu tố quyết định là chất lưu manh trong các anh. Do chất này mà các anh muốn làm cha thiên hạ, muốn không làm mà hưởng, muốn ngồi mát ăn bát vàng, muốn vui sướng trên mồ hôi nước mắt kẻ khác. Có đúng vậy không?
Bảy Rô im lặng suy nghĩ. Càng nghĩ anh càng thấm. Vài ngày sau, Thắng tiếp tục tranh thủ tình cảm Bảy Rô:
- Trong nhóm Bình Xuyên, tôi thấy anh là người tốt vì hoàn cảnh đưa đẩy mà lạc bước sa chân.
Bảy Rô thở dài:
- Anh nói đúng. Tôi là tay ăn cướp bất đắc dĩ. Nhưng mà đã lỡ rồi…
Thắng vỗ vai anh, giọng chân tình:
- Vẫn còn kịp. Nhà tù là lò luyện thép. Sắt vụn, sắt rỉ nung mãi cũng thành thép mới. Muốn trở thành người tốt, trước nhất phải thấy chân tướng mình. Anh phải lột xác bỏ chất lưu manh thì sẽ tiến bộ như mọi người.
Bảy Rô nhớ mãi lời khuyên chí tình này.

CHƯƠNG 11

Đêm không trăng nhưng nhiều sao. Đài khí tượng báo tin bão nên thầy chú và tù nhân đi ngủ sớm hơn thường lệ. Mới 20 giờ đêm mà đây đó vắng lặng. Bỗng từ Sở Lưới có bốn bóng đen khiêng một xuồng ba lá hối hả đi nhanh ra bãi biển.
Đây là người tù vượt ngục: Bảy Viễn, Mười Trí, Năm Bé và Sáu Nhị. Bảy Viễn và Mười Trí bị đưa ra đảo chừng một tháng thì liên lạc được với Năm Bé ra từ lâu. Năm Bé đã chuẩn bị kế hoạch vượt ngục bằng xuồng ba lá đánh cắp của Sở Lưới. Sẵn dịp này, cho hai bậc đàn anh “quá giang” về đất liền cho có bạn.
Vừa ra tới mé biển, cả bốn người đứng nhìn trời nhìn nước rồi lại nhìn nhau. Gió cấp 7, cấp 8, sóng cao như những dãy phố lầu. Bảy Viễn quyết định nhanh gọn:
- Đem xuồng trở vô. Để y chỗ cũ. Chôn hết đồ đạc. Chờ hết cơn bão sẽ tính.
Thế là chuyến đi bất thành. Phải trở về khám giam, xóa hết dấu vết, giữ bí mật hoàn toàn. Năm Bé bắt bồ với thầy chú ở Sở Lưới, đánh cắp chìa khóa kho, nhờ Ba Rùm ở Bản Chế làm một chìa giả để ăn cắp chiếc xuồng ba lá. Vượt biển trong mùa đầy giông bão bằng xuồng ba lá là một sự liều lĩnh ít ai dám làm, thầy chú không hề lo ngại về chuyện xuồng bị đánh cắp.
Bảy Viễn và Mười Trí được giam riêng theo lệnh của bồi thẩm Ếch-teo, nhưng cả hai đều là “dân Côn Đảo”, quen biết với tất cả thầy chú.
Dù không mang theo tiền, họ vẫn mua chuộc được thầy chú bằng những lời hứa hẹn “sẽ đền ơn trọng hậu nếu về tới đất liền”. Với những tướng cướp cỡ Bảy Viễn, Mười Trí lời hứa của họ được bảo đảm bằng vàng.
Ba ngày sau, bão tạm lắng dịu. Cuộc phiêu lưu lại tái diễn. Từ Hòn Lớn, họ đâm qua Hòn Bãi Cạnh, hướng sang Hòn Tre. Đi từ 7 giờ mà đến 9 giờ không tới Hòn Tre. Phải quay trở lại, đi ngang đảo chính là điều nguy hiểm. Sáu Nhị ém sát mé núi bên kia. Lúc vượt qua Mũi Đá Trắng, Sáu Nhị tái mặt rung tay: “Vùng này có cặp ngỗng thần từng nhận chìm thuyền bè qua lại”. Nhưng bốn anh em đang ở trong thế không thể lùi bước, phải cắn răng tiến tới thôi. Không bao lâu xuồng tới núi Chúa. Biển êm như mặt ruộng. Gió nhẹ, Bảy Viễn đem bàn cờ tướng ra rủ Mười Trí đánh:
- Đánh cờ giữa cảnh trời biển bao la mới là thần tiên, phải không mày?
- Chà, bàn cờ đâu mà đẹp vậy?- Mười Trí xem mấy con cờ tiện trên gỗ mun khắc chữ thật khéo.
Bảy Viễn hãnh diện:
- Của một người tù già. Ông ta để thì giờ nhàn rỗi làm món quà kỷ niệm định gởãi về cho con, nhưng nghe tao trở ra đảo, ông ta nhờ thầy chú chuyển tới tặng tao.
Hai tay giang hồ thượng thặng muốn mượn bàn cờ tướng để tìm hiểu nhau. Tài trí, tâm tính đều lộ ra trong nước cờ. Người sao thì cờ vậy. Bảy Viễn nóng nảy, hành động nhanh hơn suy tính nên đôi khi vi phạm nội quy “hạ thủ bất hườn”. Mười Trí trầm ngâm, tính toán, chậm mà chắc. Bảy Viễn thiên về công, ồ ạt và thích thí quân. Mười Trí thiên về thủ, rất quý cặp xe pháo. Mười Trí và Bảy Viễn rõ ràng tài trí ngang nhau nhưng tâm tánh trái ngược. Đánh được ba bàn, một thắng, một bại và bàn thứ ba bất phân thắng bại. Bảy Viễn đòi đánh tiếp nhưng Mười Trí cho các quân cờ vào hộp, cười:
- Để chiều tiếp tục. Đánh cờ chớ đâu phải nhậu mà làm khỉa cả chục ván?
- Để thay đổi không khí, Mười Trí gợi chuyện:
- Năm Bé, mày kể chuyện dấn bước giang hồ của mày nghe chơi.
Năm Bé không đợi mời lâu:
- Tôi xưng anh chị tại Xóm Chiếu, nhưng quê tận Bắc kỳ. Nghề của tôi là thợ nguội, làm cho thằng Bạch Thái Bưởi, chủ hãng tàu biển chạy đường Hải Phòng- Sài Gòn. Cuộc đời tên tư bản này rất ly kỳ. Hắn là phu kéo xe, kéo xe cho chủ Tây. Sau làm cặp rằng. Lúc đào nền xây móng, hắn vớ được hũ vàng, từ đó phất lên thật nhanh. Thiên hạ đồn cha hắn chết vừa chôn là mối đùn cao như gò… Từ nhỏ tôi đã mang máu giang hồ, muốn vào Nam mà không có tiền. Nhân dịp Pháp mộ lính không có nghề O.N.S đưa qua Pháp, tôi liền đăng lính, nhưng vô tới Sài Gòn là nhảy xuống bến ở lại. Tôi làm phu khuân vác tại bến tàu Khánh Hội. Thời gian sau, có vốn, tôi học võ, học gồng, học cả bùa ngãi rồi đi giang hồ xưng anh chị. Lúc làm anh chị, tiền vô như nước, tha hồ ăn xài. Các anh có biết ai dám mua một lúc 5 cáci nón Boóc-sa-li-nô, mỗi cáci 25 đồng, trong khi lương thầy ký một tháng chỉ vừa đủ mua một cái Boóc-sa-li-nô? Hồi đó lúa hai cắc bảy một giạ. Buồn cười hết sức: lúc tôi vô tiệm, thằng Tây chủ nhìn tôi lom lom, không biết thằng bận quần lãnh đen, áo bành tô xanh vô đây làm gì. Chừng tôi chỉ cái nón Boóc-sa-li-nô trong tủ kính, thằng bán không chịu lấy cho xem mà nói “Mắc lắm! Anh mua không nổi đâu!”. Tức máu anh hùng, tôi nạt: “Lấy cho tôi coi! Sao anh biết tôi mua không nổi?”. Coi rồi, tôi lấy mộåt cái đội lên đầu, biểu nó gói hết bốn cái còn lại trong tủ kiếng. Đây là một bài học tôi dạy mấy thằng Tây “làm phách chó”.
Bảy Viễn và Mười Trí cười thích thú. Mười Trí gật lịa:
- Như vậy tụi này nhận mày là dân Nam kỳ.
Bảy Viễn vui vẻ góp chuyện:
- Tao cũng đồng ý cho mày vô dân Nam kỳ. Dân Nam kỳ có nhiều chuyện lạ lùng như vậy đó. Chuyện mày đi mua nón Boóc-sa-li-nô giống hệt chuyện thằng cha Hội đồng Trạch ở Bạc Liêu đi mua xe Pho (Ford) tại Hãng Sac-ne (Charner). Lão ta còn để “củ nừng”, bọc tiền trong mo cau… Tụi Tây cũng nhìn lão lom lom khi lão đi vòng vòng chiếc xe bóng loáng rồi biểu mở cửa xe cho lão lên ngồi, biểu mở máy chạy một vòng cho lão xem xe chạy có ngon không. Chừng lão mở mo cau ra, mấy thằng Tây giật mình cái “đụi”, giấy bộ lư cả cọc, thấy mà ngợp!...
Nhưng chỉ vui vẻ được một ngày. Qua ngày sau, từ xa có đám mây khói đèn, càng lúc càng tới gần. Sáu Nhị chặc lưỡi than trời: “Giữa biển mà gặp rồng lấy nước thì chết như chơi! Tất cả đều ngó về hiện tượng mà Sáu Nhị gọi là rồng lấy nước. Một cột nước từ biển cuồn cuộn dâng lên trời, chung quanh mưa to gió lớn. Sáu Nhị vừâa điều khiển bánh lái thì nghe một tiếng “rắc”, bánh lái gãy đôi, xuồng quay như quả trứng trong nồi nước sôi. Sáu Nhị luýnh quýnh. Bảy Viễn bình tĩnh chụp giầm kêu lên:
- Thọc giầm xuống kềm xuồng cho chắc!
Nhưng bốn cây giầm cũng không chịu nổi những lượn sóng cồn. Một lượn sóng cao như núi xuất hiện đằng xa. Sáu Nhị cả kinh kêu lên: “Cặp ngỗng thần tới kìa!”. Hắn bụm mắt không dám ngó. Năm Bé cũng chết điếng, niệm Phật lia:
- Không lẽ trời Phật đưa chúng tôi tới đây để rồi vùi sâu đáy biển?
Mười Trí vịn chặt be thuyền, chờ đợt sóng thần ập đến. Trong khoảnh khắc trước thần chết, anh vẫn còn tỉnh trí để quan sát thái độ của Bảy Viễn như thế nào. Bảy Viễn cũng bám chặt be thuyền, chuẩn bị tinh thần chịu đựng. Thấy Mười Trí nhìn mình, Bảy Viễn bảo:
- Nắm chặt be xuồng! Có gì cũng đừng buông chiếc xuồng!
Mỗi một giây dài như một thế kỷ. Bốn người chờ đợi cặp ngỗng thần tới để đưa họ xuống vực sâu, nhưng chờ hoài không thấy. Chiếc xuồng bị xô mạnh, nhưng không đổ ụp mà như được đẩy lên một bộ ván bằng phẳng, vững vàng. Hồi lâu, Sáu Nhị kêu lên, giọng run run:
- Trời Phật đã độ trì! Có Nam Hải tướng quân đỡ xuồng mình!
Mười Trí nhìn xuống thì đúng là có một con cá ông đang cặp sát chiếc xuồng. Thì ra để tránh ngọn sóng to, cá ông đã nương vào chiếc xuồng gần nhất. Cả hai nương tựa vào nhau cho đến dứt cơn giông.
Không bao lâu trời quang mây tạnh. Mặt trời càng lúc càng gay gắt. Đến ngày thứ ba thì nước ngọt đã hết. Khát quá phải đái vô lon mà uống. Năm Bé nảy ra một ý độc đáo:
- Ngày xưa, ba anh em Lưu, Quan, Trương kết nghĩa trong vườn đào, họ thích huyết ăn thề, còn mình thì uống nước đái của nhau mà thề đồng sanh đồng tử. Hai anh có chịu không?
Bảy Viễn và Mười Trí gật đầu khen “hay”. Mười Trí lớn tuổi hơn hết nên được tôn làm anh. Kế đến Bảy Viễn, rồi Năm Bé, Sáu Nhị.
Năm Bé bảo Sáu Nhị trương buồm lên. Buồm làm bằng bao bố, chỉ có năm tấc mà gặp gió, xuồng lướt sóng như bay, chẳng khác con xích thố của Quan Vân Trường. Năm Bé cho chạy cấn mặt trời. Không bao lâu Bảy Viễn reo lên “Đất liền kia kìa!”. Anh đưa lên một chiếc lá trôi trên biển. Nhưng niềm vui đi đôi với nỗi lo. Mười Trí đứng trước mũi xuồng co mấy ngón tay lại làm ống dòm. Anh vừa phát hiện đọt “ăng-ten” của một chiếc tàu tuần. Với kinh nghiệm vượt ngục bằng bè, anh ra lệnh:
- Hạ buồm!
- Cứ yên tâm, mình thấy đọt nó nhưng nó không thấy mình đâu!
Dù nói cứng vậy, tất cả đều phập phồng hồi hộp. Tàu tuần mà thấy thuyền bè của tù vượt ngục là xả súng bắn nát mới thôi. Một tiếng đồng hồ sau, tàu tuần khuất dạng. Chừng đó mọi người mới tươi tỉnh. Bảy Viễn hân hoan tâm tình:
- Về đất liền kỳ này, tao nhất định không cho tụi nó bắt lại!
Mười Trí cười:
- Làm như quyền quyết định là ở nơi mình!
Bảy Viễn hậm hực:
- Kỳ rồi bị bắt là do tao với mày quá tin tưởng nơi hai anh em Hội đồng Thì với Xã Mỹ. Hai cha đó rất tốt, nhưng tụi chỉ điểm thì ở đâu chẳng có? Kỳ này tao sẽ “mần ăn lớn”!
Mười Trí tò mò:
- Nghĩa là sao?
- Sách có chữ “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Kỳ này nhất định chiếm một vùng làm sơn trại chủ. Lúc này mà không thực hiện giấc mộng Lương Sơn Bạc thì còn chờ lúc nào nữa? Nhật đang lăm le hất cẳng Pháp, cha con nó ghìm nhau, hơi sức đâu mà đối phó với mình?
Mười Trí gật gù:
- Hay! Mày định chiếm cứ vùng nào vậy?
- Tao đã chọn rồi. Tao là dân Cần Giuộc, tao sẽ chiếm vùng Cần Giuộc, Cần Đước, Nhà Bè, tức là yết hầu của thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn. Ghe thương hồ đều phải qua ngã Kinh Cây Khô để vô cầu Ông Lãnh. Tao tha hồ bắt chúng nạp tiền mãi lộ.
Năm Bé gật lịa:
- Ý đó hay lắm! Anh Bảy cho tôi làm lâu la đi!
Bảy Viễn cười:
- Được! Cho mày làm phó sơn trại. Mặt mày cũng có “ngầu” lắm đó!
Năm Bé:
- Còn anh Mười Trí, anh Bảy phong làm gì?
Mười Trí cười:
- Cọp nào rừng nấy. Tao thích làm đầu gà hơn đuôi phụng. Nếu muốn làm sơn trại chủ thì tao chọn vùng nông sâu nước ngọt hơn là miệt đồng chua nước mặn. Tao thích sông Vàm Cỏ nước ngọt quanh năm. Địa điểm lại tốt. Có gì rút vô Đồng Tháp Mười là “yên như bàn thạch”.
Bảy Viễn bắt tay Mười Trí:
- Vậy là hai ta rạch đôi sơn hà. Tao chiếm vùng Rừng Sác, mày chiếm Đồng Tháp Mười. Tao theo Trương Định, mày theo Đốc Binh Kiều. Mình tránh được cảnh tranh giành ảnh hưởng như Tống Giang, Triệu Cái.
Mười Trí cười:
- Chưa bắt bài lên đã tính vùa tiền! Nhưng mày cứ yên chí lớn. Tao với mày đã uống nước đái nhau ăn thề giữa biển là anh em, thì không đời nào tao phản lời thề đó.
Bảy Viễn phấn khởi nói tiếp:
- Mình nhất định phải chiếm một giang sơn riêng biệt. Chuyện đó đâu phải mới lạ gì? Trước mình đã có người làm rồi.
- Ai vậy?- Mười Trí tò mò hỏi.
- Phạm Công Tắc chớ ai! Cao Đài đã chiếm một vùng rộng lớn ở tỉnh Tây Ninh, lấy của bá tánh xây dựng tòa thánh nguy nga như cung điện nhà vua. Mầy có tới đó chưa? Đúng như cung điện vua chúa, cũng có ngai rồng chạm trổ tinh vi…
Mười Trí cười:
- Không phải là ngai rồng mà là ngai rắn. Ngai của Đức Hộ pháp có chạm bảy con rắn chàm quạp. Tao đã có lần ngồi trên ngai đó, tính đóng vai Hộ pháp chơi, không dè mấy cha chức sắc cự nự quá. Ngồi ẩu như vậy là phạm tội “khi quân”. Nhưng Phạm Công Tắc đâu có xa lạ gì với tao!
Bảy Viễn trở lại câu chuyện chiếm đất lập giang sơn riêng.
- Nối gót Cao Đài là Hòa Hảo. Thằng cha Huỳnh Phú Sổ cũng chiếm cứ một vùng rộng lớn ở Thất Sơn, truyền bá đạo mới gọi là Phật giáo Hòa Hảo rồi lấy xã Hòa Hảo làm thánh địa. Ban đầu thằng Tây đàn áp bắt bớ lung tung, nhưng về sau chúng đành khoanh tay bất lực trước một chuyện đã rồi.
Đất liền từ từ ló dạng, càng lúc càng gần. Một câu hỏi hiện ra trong đầu bốn người: “Đây là đâu? Còn là biển Đông hay họ đã bị bão đẩy qua vịnh Thái Lan?”. Vào xế chiều, xuồng vô đến bờ. Bãi biển vắng ngắt. Sáu Nhị đi cả cây số gặp một lão chài mới biết đây là Rạch Gốc, gần Mũi Cà Mau. Ông lão cũng cho biết làng lính đang lùng bắt cộng sản và tù vượt ngục trong vùng.
Sau khi bàn luận nát nước, bộ ba nhất trí nằm lại đây trong khi phái Sáu Nhị về Sài Gòn liên lạc với ông Tám Mạnh, nhờ ông Tám tìm cách đưa người có thế lực xuống rước về Sài Gòn…
- Tại sao lại nhờ ông Tám Mạnh?- Năm Bé hỏi.
Bảy Viễn giải thích:
- Trong giới giang hồ, không ai phục ai ra mặt, nhưng bên trong ta phải nhìn nhận ông Tám là người đức độ, có nhiều môn đệ, đáng kể nhất là có những học trò là công chức cao cấp, tùng sự tại các cơ quan có thẩm quyền, như Huyện Bảo là chủ sự phòng tư pháp tại pháp đình Sài Gòn, như Hai Trực, sếp bót “se-nho”. Cho nên nhờ ông Tám Mạnh là có lý lắm!

CHƯƠNG 12

Hai Vĩnh đã thỏa nguyện: anh vừa sắm một cỗ xe thổ mộ. Đây là loại xe lá liễu chở được sáu hành khách. Anh rất hài lòng về con ngựa hồng mới nài được của một tay nuôi ngựa đua ở Hóc Môn.
Con ngựa này chủ rất cưng vì bộ vó oai phong lẫm liệt, sắc lông đỏ sậm. Chủ đặt tên nó là Xích Thố, nhưng suốt mấy mùa liền, nó toàn chạy sau hứng bụi nên chủ gạt ra cho kéo xe cá- loại xe song mã thường dùng chở cá từ bến sông đến các chợ. Từ ngày về với Hai Vĩnh, con Xích Thố nghiễm nhiên chiếm chức vô địch trên truyến đường chợ Long Kiểng về bến đò. Bà con thích đi xe Hai Vĩnh vì Xích Thố chạy nhanh, kéo khỏe, mà cũng vì chủ xe là tay anh chị hào hoa, tóc để “bôm bê” kiểu Nguyễn An Ninh, đầu đội hững hờ nón Phờ-lết-sê màu ma-rông cho tiệp với màu bụi đỏ đường đất.
Từ anh chị trở thành anh đánh xe ngựa, Hai Vĩnh có cảm tưởng như mình “xuống chưn”. Nhưng giữa lúc làng lính Tây tà bắt bớ tất cả những kẻ gọi là phần tử nguy hiểm, anh cần phải có một bình phong. Giới anh chị bị Pháp xếp hạng nguy hiểm thứ ba, sau Cộng sản đứng đầu và các đảng phái chính trị đứng số hai. Với Hai Vĩnh, đánh xe ngựa là một cách “giả dại qua ải”. Nhưng càng đi sâu vô nghề, anh càng mến, càng gắn bó với nó. Nhờ lên xuống như con thoi mà anh thuộc lòng từng khúc đường, từng xóm nhà, từng chiếc cầu. Trên quãng đường dài 8 cây số có đến 8 chiếc cầu, đổ đồng mỗi cây số một chiếc. Trước nhất là cầu Gạch, kế là cầu Đồn, rồi cầu Tám Long, rồi cầu Rạch Đỉa- Đây là ranh xã Tân Quy- rồi đến cầu Miễu, cầu chị Hai Viễn, cầu Hai Cự và sau cùng là cầu Long Kiểng.
Yêu mến con đường, anh yêu mến luôn phong cảnh hai bên đường. Cảnh đẹp hai bên luôn luôn đổi mới, khi thì xanh biếc mượt mà những thửa mạ non, lúc ngả nghiêng đùa cợt với gió như một biển lúa, lúc vàng mơ óng ánh đong đưa những gié lúa. Lúc này là lúc vui nhất vì những đàn cu đồng đủ loại kéo về đây gáy vang báo hiệu xuân sang.
Đánh xe thổ mộ còn có những thú khác nữa, như thú ngồi quán nước uống một “hắc quảy” chờ khách. Quán nước ở bến đò là “đài phát thanh” hoạt động suốt ngày. Chỉ cần vô đó một lúc là biết hết tất cả tin tức thời sự thế giới, trong nước và ngay cả chuyện trong làng trong tổng. Lâu ngày thành thói quen không thể thiếu được. Ngày nào không tới quán, anh thấy bứt rứt khó chịu. Một hôm Hai Vĩnh gặp Năm Chảng trong quán. Năm Chảng kêu “thầy Hai” rồi ngoắt lia.
- Thầy bà gì mà đi đánh xe ngựa hả cậu Năm? Kêu tôi là thằng Hai cho rồi- Hai Vĩnh nửa đùa nửa thật.
Năm Chảng nhìn quanh, hạ giọng:
- Tôi biết thầy Hai đánh xe ngựa là để che mắt thiên hạ, cũng như tụi này vô làm hãng Nhật.
- Hãng nào vậy?
- Hãng đóng tàu Nichinăn ở sát cầu Rạch Ong lớn.
- Tụi này là những ai?
- Ôi, đủ mặt binh tôm tướng cá. Đứng đầu là anh Ba Dương, rồi anh Năm Hà, rồi tôi, rồi…
Hai Vĩnh chợt nhớ lời dặn của ông Bảy Trân: “Cần nắm các anh em giang hồ”.
- Hai anh Ba Dương, Năm Hà đều làm cho Nhật?
- Chớ sao? Thời buổi này phải có “chưn đứng” chớ thầy Hai? Ở “Cuki” dễ bị “chớp” lắm đó- Với giọng tâm tình, Năm Chảng nói tiếp- Lúc này Nhật sắp đảo chánh, Cao Đài cũng ngả theo Nhật. Đức kỳ ngoại hầu Cường Để là rể Nhật hoàng…
Những tin đó ngày nào Hai Vĩnh cũng nghe bàn tán. Điều anh muốn biết là hai anh em Ba Dương, Năm Hà làm cho Nhật.
- Ai giới thiệu vậy cậu Năm?
- Có ai giới thiệu gì đâu! Số là hãng đóng tàu cứ bị mất gỗ súc hoài. Mà toàn là gỗ tốt, trị giá bạc ngàn. Có người mách nước, chủ hãng mời anh Ba Dương trông coi bảo vệ hãng. Anh Ba đồng ý, kéo theo anh Năm Hà và tôi cùng một số em út. Anh Ba là sếp, còn anh Năm và tôi là “xuyếc-vây-yăng”! (1)
- Năm Hà có ngon lành như Ba Dương không cậu Năm?- Hai Vĩnh tò mò tìm hiểu về Năm Hà, cũng là một tay anh chị trong vùng.
- Năm Hà là em một cha khác mẹ với anh Ba Dương, Năm Hà không ngon lành bằng anh Ba. Anh Năm không “đi hát” như tụi này mà… chuyên môn làm cái nghề của Thời Thiên. Thầy Hai có biết?
Hai Vĩnh cười:
- Thời Thiên ăn trộm giáp của Từ Nịnh chớ gì! Truyện Thủy Hử tôi thuộc lòng!
Năm Chảng cười:
- Anh Năm là Thời Thiên tái thế đó nghe thầy Hai! Hễ anh Năm mà tính viếng nhà nào thì tường cao cổng kín tới đâu, chó dữ bậc nào, ảnh cũng vô được. Hai anh em Ba Dương, Năm Hà có những nét hay riêng, mỗi người một vẻ. Anh Ba thì nghiêm đến mình phát sợ, đáng mặt sơn trại chủ. Còn anh Năm thì vui vẻ hào hiệp có dáng dấp một Mạnh Thường Quân. Hai anh em này cộng lại chia hai thì ra ông Tám Mạnh của mình. Phải vậy không thầy Hai? À, mà thầy Hai có muốn vô làm hãng Nhật không?
Hai Vĩnh lắc đầu:
- Tôi nghe nói, Nhật cai trị dân Cao Ly- cũng gọi là Triều Tiên- rất khắc nghiệt. Ba nhà chỉ được phép dùng một con dao làm cá. Tôi không thích thay thầy đổi chủ. Cậu Năm có đọc “Cổ học tinh hoa” chưa?
- Chưa! Có chuyện gì hay?
- Có nhiều chuyện hay, nhưng chuyện hay nhất theo tôi là chuyện dân làng trên núi bị nạn cọp tàn sát, mà vẫn không chịu dời đi nơi khác. Hỏi ra, mới biết giữa cọp no và cọp đói, họ chọn cọp no, dễ sống hơn.
Năm Chảng thấm ý, bắt sang chuyện khác.

Chú thích:
(1) Surveilant tức Thầy gác

CHƯƠNG 13

Chiều đó, Hai Vĩnh qua nhà ông già vợ. Anh đến đúng lúc Tư Ó tới mời ông Tám Mạnh ra chùa Cao Đài Phú Lạc có việc cần.
- Có việc gì vậy chú Tư?
- Anh Bảy Trân đang chờ ông Tám ngoài đó.
Nghe nói Bảy Trân, ông Tám lật đật thay đồ ra đi. Tới chùa đã có Ba Cưởng và Bảy Trân chờ sẵn. Bảy Trân ôm ông Tám, vui vẻ:
- Hôm nay anh em làm lễ kết nạp ông Tám vào Đảng.
Ông Tám ngẩn ngơ một lúc:
- Chuyện quan trọng vậy mà không cho tôi hay trước để chuẩn bị. Tôi chưa dọn mình…
Bảy Trân cười:
- Nhưng tụi tui thấy ông Tám đã dọn mình từ ba, bốn năm nay rồi. Hôm nay đã tới lúc phải kết nạp ông Tám để củng cố đội ngũ trước thời cơ biến chuyển rất thuận lợi cho ta.
Tư Ó nói tiếp:
- Tôi nhớ mãi cái ngày tôi đưa anh Bảy Trân đến nhà ông Tám để mời ông Tám tham gia khởi nghĩa năm 1940. Ông Tám nghe được, làm heo mua rượu gọi tất cả em út, con cháu về đầy nhà làm lễ thích huyết ăn thề với Đảng, sống chết có nhau, đồng lòng đánh Tây. Rất tiếc cuộc khởi nghĩa bất thành, nhưng điều đó chứng tỏ ông Tám một lòng một dạ với cách mạng. Như vậy là ông Tám đã trải qua đủ thử thách và Đảng cũng đủ tin nơi ông Tám. Tôi với Ba Cưởng xin giới thiệu ông Tám vào Đảng.
Ba Cưởng đứng lên, đằng hắng trước khi nói:
- Tôi cũng đồng ý với Tư Ó và xin chịu trách nhiệm về việc giới thiệu này.
Bảy Trân nói với giọng phấn khởi:
- Nhân danh Liên chi ủy Tân Phong Hạ, tôi làm lễ kết nạp đồng chí Tám Mạnh. Kể từ giờ phút này, đồng chí Tám Mạnh là đảng viên chính thức, không phải trải qua thời kỳ dự bị vì đồng chí Tám Mạnh đã được thử thách trong cuộc khởi nghĩa đêm 22-11-1940 và nhất là trong những năm thoái trào, đồng chí không hề hoang mang chao đảo khi làng lính thẳng tay khủng bố… Trong hoàn cảnh bí mật, chúng ta làm lễ thật đơn giản, không có Đảng kỳ, cũng không hát quốc tế ca, nhưng tôi tin rằng đồng chí Tám Mạnh sẽ là một đảng viên xứng đáng với Liên chi bộ Tân Phong Hạ này. Xin đồng chí Tám Mạnh phát biểu cảm tưởng.
Sau một phút lúng túng, ông Tám Mạnh nói:
- Trước đây tôi căm thù Tây nhưng chưa hiểu rõ hết tội ác của Tây. Tôi thù Tây vì cha tôi thù Tây. Cha tôi vô Thiên Địa Hội, tôi cũng theo Thiên Địa Hội, tôi làm tới chức thống lãnh binh nhưng quên hẳn xuất xứ của Thiên Địa Hội là hội kín của người Tàu thuộc nhóm Phù Minh diệt Thanh. Nay tôi được anh Bảy Trân giải thích rành rẽ, nhờ đó mà được sáng tỏ. Được kết nạp vào Đảng Cộng sản, tôi nguyện sống chết với cách mạng. Là người trọng lời hứa, đã hứa thì tôi giữ lời cho tới chết.
Sau lễ kết nạp, Tư Ó mang trà bánh lên. Bảy Trân báo cáo tình hình thế giới và trong nước, điểm qua diễn biến cuộc thế chiến 2 cho đến những ngày cuối 1944 đầu 1945 này và phấn khởi nói tiếp:
- Hôm nay ông Tám đã là đồng chí của mình, tôi mới nói kỹ vậy để chúng ta cùng biết lối mà đi. Nguy cơ Nhật đảo chính càng ngày càng lộ rõ. Hiện Nhật đã công khai mộ lính lập đội “Heiho”, mình gọi là Hải Hồ. Đây là đội quân Nhật định dùng tại Đông Dương để chúng rảnh tay đánh Đồng minh. Mặt khác chúng cũng ngấm ngầm khuyến khích Cao Đài lập bộ đội, bí mật cho người huấn luyện quân sự cho Cao Đài. Chúng dùng nhãn hiệu “Kỳ ngoại hầu Cường Để, rể Nhật hoàng sẽ về nước” để kêu gọi dân chúng đứng vào hàng ngũ thân Nhật. Một số trí thức cũng đã chịu cộng tác với chúng… Nhưng những người thức thời không dễ bị mua chuộc. Thằng phát xít còn tàn bạo hơn thằng thực dân.
Đến đây giọng Bảy Trân trở nên hồ hởi:
- Trước đây có lần ông Tám hỏi tôi mấy năm nay đi đâu mà không thấy, lúc đó tôi chỉ cười cho qua, bây giờ mới nói thiệt. Tôi chẳng tài hơn ai, tôi cũng bị Tây bắt. Câu chuyện như sau: Sau ngày Nam kỳ khởi nghĩa, tôi lặn một hơi lên Đà Lạt, tá túc với thằng em cô cậu tên là Chung Văn Năm. Nó có tiệm cầm đồ trên đó.
Tưởng yên thân, ai dè anh em đều bị mật thám Đà Lạt bắt giam 15 ngày rồi giải về Catina. Vợ Năm có tiền mướn thầy kiện lo cho nó ngoại hầu tra, rồi được trắng án. Riêng tôi thì bị quản thúc tại quê là Đa Phước, không được đi ra khỏi xã và mỗi tháng phải trình diện một lần với chính quyền quận… Bây giờ tôi xin báo một tin mừng cho anh em lên tinh thần. Đồng chí Bí thư Xứ ủy Nam kỳ của mình đã vượt ngục Tà Lài, hiện giờ đang vận động chuẩn bị cướp chính quyền trong những tháng tới đây, khi Nhật đảo chính Pháp.
Ông Tám hỏi:
- Ai vậy?
- Trần Văn Giàu, tức Sáu Giàu. Chắc ông Tám chưa biết, để tôi giới thiệu vắng tắt. Sáu Giàu là người Tầm Vu, tỉnh Tân An. Anh trốn qua Pháp học, được giới thiệu vào Đảng Cộng sản Pháp, sau đó được đưa sang Nga học trường Đông Phương Đại học đường trong ba năm 1930, 1931, 1932. Trở về nước, Sáu Giàu hoạt động mạnh, mở rộng phong trào, phát huy khí thế, được anh em đồng chí tín nhiệm bầu giữ chức Bí thư Xứ ủy. Tháng 10-1939, Sáu Giàu bị bắt đày lên Tà Lài. Năm qua, chi bộ nhà tù bố trí cho một số đồng chí vượt ngục, trong số này có Sáu Giàu. Nhiệm vụ của các đồng chí này là liên lạc các nơi, củng cố lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa. Nhóm đi về phía Sài Gòn có ba anh bị bắt lại, còn hai anh Sáu Giàu và Châu Văn Giác trốn thoát nhờ đi ngược về phía Đà Lạt. Vụ vượt ngục trèo núi băng rừng rất dài dòng, tôi chỉ kể vắn tắt là người sau kẻ trước đã mò về tới nhà tôi và đã được tôi giấu trong nhà, tẩm bổ trong một tuần lễ cho lại sức rồi tìm nơi khác an toàn hơn. Chớ tôi đang bị quản thúc, tức là luôn luôn bị làng lính dòm ngó.
Ông Tám Mạnh nói đầy xúc động:
- Ở tù cũng năm ba đường ở tù. Như tôi vào Khám Lớn sau vụ lân râu bạc thì có thấm vào đâu với các đồng chí thầy Bảy vừa kể. Tôi nghe nói miệt Bà Rá, Tà Lài rừng sâu nước độc, cọp beo lển nghển, rắn chàm quạp như rễ mục, vậy mà các đồng chí mình cắt đường rừng ròng rã mấy tháng trời mới thoát nạn, thiệt là một thử thách quá lớn lao. Tôi sẽ cố gắng hơn nữa để xứng đáng là đồng chí của các bậc đàn anh đó…
Đêm ấy là một khúc quanh lịch sử trong đời giang hồ của ông thầy nghề võ vang danh xã Chánh Hưng.

CHƯƠNG 14

Bảy Trân đang đập lúa ngoài đồng bỗng có một người Pháp xăm xăm đi tới. Mọi người ngưng tay dòm ngó. Tây ra ruộng là điều hiếm thấy. Bảy Trân vẫn mải miết đập lúa không hay biết người kia đã tới sát một bên:
- Ê, Trân…
Bảy Trân quay lại, nét mặt ông chuyển từ ngạc nhiên tới lo ngại:
- Chào Brô-sê-riu (Brochériou)! Mày kiếm tao có việc gì? Lành hay dữ?
Brô-sê-riu là bạn học của Bảy Trân tại miền Nam nước Pháp. Bảy Trân được giới thiệu sang Nga học trường Đông Phương, rồi về nước hoạt động cách mạng, thì Brô-sê-riu cũng đi Đông Dương làm nghĩa vụ quân sự, sau đó tình nguyện ở lại thuộc địa làm công chức. Hắn được đổi về Sài Gòn làm việc tại sở mật thám Ca-ti-na, phụ trách văn khố lưu trữ hồ sơ các chính trị phạm. Khi Bảy Trân được giải về bót Ca-ti-na, Brô-sê-riu nhận ra người bạn học năm xưa. Hắn mời Bảy Trân lên văn phòng, nhắc chuyện cũ hồi học ở Pháp có lần Bảy Trân về nhà hắn chơi trong những ngày lễ. Thái độ của Brô-sê-riu chân tình cởi mở, nhưng Bảy Trân vẫn giữ vẻ lạnh lùng xa cách. Bởi ngày xưa là bạn nhưng giờ đây họ đang ở hai trận tuyến đối địch, kẻ theo cách mạng, người làm mật thám. Brô-sê-riu thì không nghĩ vậy, hắn là mật thám bất đắc dĩ, mà coi tình bạn là thiêng liêng. Hắn trao cho Bảy Trân một danh thiếp, dặn dò “Nhà tao ghi rõ trong đó. Mày đến chơi bất cứ lúc nào cũng được. Có ai làm khó dễ, hãy đưa danh thiếp này ra”.
Bảy Trân nhận cho Brô-sê-riu vui, nhưng cất kỹ không dùng đến, đồng thời về báo cáo đầy đủ mọi việc với chi bộ. “Hôm nay nó đến đây có việc gì?”.
- Việc lành. Ông sếp tao muốn gặp mày.
- Cò Ba-de (Bazin) muốn gặp tao?- Bảy Trân ngạc nhiên đến cùng cực.
- Phải. Mày về tắm rửa thay đồ. Xe tao đậu ngoài đường cái.
Suốt chặng đường từ Đa Phước tới Catina, Bảy Trân không ngớt thắc mắc. Brô-sê-riu đưa Bảy Trân tới phòng Ba-de rồi trở về phòng mình. Dưới cánh quạt quay tít, tên cáo già đang suy tính điều gì? Vừa thấy Bảy Trân, hắn niềm nở mời ngồi, bấm chuông gọi mang la-ve, chìa gói thuốc lá của Anh nhập cảng từ Hồng Kông.
Bảy Trân không nhận ly la-ve, viện cớ đau bao tử, móc bao thuốc rê vấn một điếu để đó. Ba-de đi ngay vô đề:
- Tôi mời ông đến đây để nhờ một việc. Chắc ông dư biết là chiến tranh thế giới đang tới giai đoạn quyết liệt. Đồng minh đang phản công trên khắp mặt trận phía đông và phía tây, phát xít đang trong thế lúng túng… Nhưng tại Đông Dương này, quân Nhật hãy còn hung hăng háo thắng. Người Pháp ở Đông Dương chúng tôi muốn liên kết với những người Cộng sản các ông chống phát xít. Trước đây những người cộng sản các ông đã đề nghị lập Mặt trận Bảo vệ Đông Dương, nhưng tiếc thay lúc đó người Pháp chúng tôi không nghe. Bây giờ chúng tôi mới thấy mình sai. Chúng tôi còn phạm một sai lầm khác lớn hơn là bắt bớ tù đày những người Cộng sản là những người cương quyết chống phát xít hơn ai hết. Bây giờ tôi xin thay mặt những người Pháp dân chủ ở Đông Dương chính thức đề nghị những người Cộng sản liên kết với chúng tôi lập lực lượng chống phát xít bảo vệ Đông Dương. Muốn làm được việc này, phải gặp Bí thư Xứ ủy Nam kỳ là Trần Văn Giàu. Ông có thể giúp chúng tôi tìm ông Giàu?
Bảy Trân chột dạ:
- Tôi không biết ông Giàu hiện giờ ở đâu. Mấy năm nay tôi bị “quản thúc tại gia”, tôi không còn hoạt động, không còn liên lạc…
Ba-de nhìn lên trần nhà, cười mũi:
- Bộ ông tưởng suốt ngày chúng tôi chỉ ngồi dưới quạt máy uống la-ve?
Bảy Trân hoang mang: “Chắc là nó biết mình che giấu Sáu Giàu” nhưng vẫn chối dài:
- Quả thật tôi không biết ông Giàu hiện giờ ở đâu. Nghe nói các ông đày ông Giàu ra Bà Rá, Tà Lài…
Ba-de nhận chuông, một thầy chú chạy vô:
- Đưa ông Giác vô đây!
Thầy chú dẫn Châu Văn Giác vô, áo quần bê bết máu me, người gầy như cò ma, mắt thụt sâu, râu dài, tóc rối. Ba-de nói:
- Hai ông ngồi đó mà nói chuyện với nhau, tôi sang bên kia một lúc. - Hắn bước ra ngoài, đóng cửa lại. Trong phòng chỉ còn hai người. Bảy Trân nghi có máy ghi âm bí mật gắn đâu đó nên nói những gì thật cần thiết mà thôi.
- Mày bị bắt bao giờ?
- Nửa tháng nay tao bị tụi “suya-rơ-tê” (1) Cà Mau bắt tại Xẻo Rô, giải về tỉnh rồi đưa về đây. Tụi nó đánh tao chết đi sống lại, chỉ hỏi có một câu “Trần Văn Giàu ở đâu?”. Rất may là Giàu đi một tuần trước khi tao bị bắt. Bị đòn đau quá, tao khai đại là: “Có lẽ Bảy Trân biết chỗ Giàu ở hiện nay”. Bây giờ mày liệu khai sao đó thì khai.
Một lúc sau, Ba-de trở qua. Châu văn Giác được đưa xuống phòng giam.
- Sao? Bây giờ ông chịu giúp chúng tôi chưa?
Bảy Trân miễn cưỡng:
- Tìm Trần Văn Giàu như thể tìm chim. Không biết có tìm được hay không. Kẹt một điều là tôi không đủ tiền xe cộ.
Ba-de mở tủ, đặt một xấp bạc trên bàn:
- Đây, ông cầm lấy 50 đồng này mà đi xe, cố tìm cho được Trần Văn Giàu, nói rằng bao nhiêu chi phí về giấy mực công in truyền đơn chống phát xít, chúng tôi chịu hết. Các ông cần gì, chúng tôi sẽ giúp. Chỉ cần nhớ rõ điều này là không được bạo động và tiết lộ vụ này với Nhật. Vì chúng nó sẽ giết các ông và cũng giết luôn chúng tôi.
Bảy Trân cầm 50 đồng ra về. Ông họp ngay Liên chi bộ Tân Phong Hạ báo cáo nội vụ. Ông ném xấp bạc lên chiếu:
- Lần đầu tiên tôi nhận tiền của mật thám. Về việc đi tìm đồng chí Bí thư Xứ ủy, các đồng chí có ý kiến gì?
Mọi người lần lượt góp ý. Đa số vui mừng vì thấy thằng Tây xuống nước, mời mọc Cộng sản chống phát xít. Cũng có người dè dặt, nghi tên cáo già Ba-de giở trò gì đây. Tuy nhiên đa số nhất trí là Pháp ở Đông Dương đang chìm tàu, muốn bám cái phao Cộng sản. Đây là cơ hội để mình lợi dụng mâu thuẫn giữa thực dân và phát xít mà hoạt động mạnh. Vấn đề là xem ai có bản lĩnh hơn ai. Sau cùng liên chi bộ quyết định cho Bảy Trân đi tìm Trần Văn Giàu và tùy đồng chí bí thư định đoạt thái độ.
Trần Văn Giàu thoát căng Tà Lài trốn về Đà Lạt, lại từ Đà Lạt ra Nha Trang với ý định đi xa hơn nữa nhưng không lọt. Giàu phải quay lại Đà Lạt nhờ Chung Văn Năm bố trí cho về Sài Gòn bằng xe của công sứ Đà Lạt mà tài xế là bà con của Năm. Sáu Giàu về ở nhà Bảy Trân một tuần. Bảy Trân bố trí một ghe ba thiên, giả đi làm mắm ở Rạch Giá để đưa Sáu Giàu xuống Xẻo Bần. Với tiền vợ cho, Sáu Giàu sắm mấy mẫu rẫy thơm sống nhàn nhã, không phải ẩn náu lén lút như trước… Một tuần trước khi Châu Văn Giác bị bắt, Sáu Giàu tới bảo: “Tụi mình làm cách mạng, không phải đi tìm cuộc sống hưởng lạc. Tình hình thế giới và trong nước biến chuyển rất thuận lợi cho ta. Vậy tôi phân công cho anh phụ trách từ Cần Thơ đổ xuống, Cần Thơ đổ lên đã có Ung Văn Khiêm. Còn tôi thì về Sài Gòn phụ trách đầu não…”.
Như vậy Trần Văn Giàu không còn ở Xẻo Bần nữa, Bảy Trân tốc xuống Mỹ Tho, tới Chợ Gạo, đến nhà Hương trưởng Hoài là gia đình cách mạng mà Sáu Giàu thường lui tới. Hương trưởng Hoài đã lên Sài Gòn, Bảy Trân lộn về Sài Gòn. Nhờ Hương trưởng Hoài, Bảy Trân tìm được nơi ẩn của Sáu Giàu. Đó là ngôi nhà của họa sĩ Nguyễn Phi Hoanh ở đường Sâm-pan (Champagne). Sau khi nghe Bảy Trân trình bày, Sáu Giàu suy nghĩ một lúc rồi bảo:
- Mày về triệu tập hội nghị Liên chi bộ Tân Phong Hạ lại, ba ngày sau tao sẽ tới bàn cách đối phó với thằng Ba-de. Mời họp tại nhà bà già mày có tiện không?
- Được! Chỗ đó an toàn.
- Mày để chiếc xe đạp của mày lại đây cho tao làm chân. Mày về bằng cách nào tùy ý.
Bảy Trân đón xe thổ mộ về, triệu tập các đồng chí liên chi bộ trong tổng tại nhà mẹ ruột ở ấp Tân Liêm, xã Đa Phước. Đúng ngày giờ đã định, Sáu Giàu đạp xe tới. Anh đọc bản nháp bức thư viết bằng tiếng Việt gởi cò Ba-de cho các đồng chí nghe để thảo luận góp ý thêm bớt. Đại ý bức thư như sau: “Trần Văn Giàu không thể gặp cò Ba-de được. Còn việc liên kết chống phát xít thì người Pháp ngừng bắt bớ Cộng sản và trả tự do các chính trị phạm rồi sẽ thấy những người Cộng sản chống phát xít như thế nào”. Sau khi hội nghị thông qua, Sáu Giàu chép sạch bức thư, hội nghị nhất trí cử Bảy Trân làm xứ giả mang thư. Bảy Trân cẩn thận đề nghị anh em cử thêm một đồng chí nữa để cùng đi với anh, vì đây là chuyện vô cùng quan trọng. Hội nghị cử anh Trần Vinh Hiển là con Hương trưởng Hoài, từng du học ở Pháp. Bảy Trân còn cẩn thận cuốn tròn bản nháp bức thư của Sáu Giàu cho vào ve chai đậy nút, đóng khằng đem chôn để sau này khi cần thì đào lên làm chứng liệu lịch sử.
Trần Vinh Hiển đóng khăn be áo dài, còn Bảy Trân mặc Tây. Cả hai được cò Ba-de ân cần đón tiếp. Khi biết Trần Văn Giàu không chịu gặp mình, Ba-de nói:
- Bức thư này sẽ giao cho thông ngôn dịch tra tiếng Pháp để cho sếp của tôi xem và có ý kiến sau. Bây giờ xin cảm ơn hai ông…
Bảy Trân và Trần Vinh Hiển ra về.
***
Tin Sáu Giàu vượt ngục Tà Lài cùng với tin Bảy Viễn, Mười Trí thoát khỏi Côn Đảo về tới đất liền khiến Đại úy Sa-va-ni, trưởng Phòng Nhì, hết sức lo ngại. Giữa thanh tra mật thám Ba-de và trưởng Phòng Nhì Sa-va-ni có một chút bất đồng ý kiến. Ba-de trước đây chuyên lo truy tầm, bắt bớ Cộng sản, bây giờ định biến Cộng sản thành đồng minh tạm thời trong giai đoạn Nhật sắp đảo chính. Sau này nếu dẹp xong phát xít, lão sẽ trở mặt bắt bớ tù đày anh em Cộng sản trở lại. Cho nên trước cũng như sau, mối bận tâm số một của con cáo già Ba-de vẫn là Cộng sản. Còn Sa-va-ni thì ngày đêm quan tâm có một vấn đề du đãng. Với hắn, du đãng là một lực lượng đáng nắm được du đãng, người đó có nhiều hy vọng chiến thắng. Sa-va-ni ngại nhất là du đãng rơi vào vòng ảnh hưởng của Cộng sản, hai nhóm này mà liên kết lại thì sẽ trở thành một địch thủ vô cùng lợi hại.
Hắn cấp tốc triệu tập hai cánh tay đắc lực lại để bàn kế hoạch. Cánh tay thứ nhất là Lâm Ngọc Đường. Tay này là công tử Bạc Liêu, con của Hương chủ Lâm Quang Sắc, điền chủ lớn ở xã Tân Hưng Đông, quận Cái Nước, giữa đường Cà Mau- Năm Căn. Dân ở miệt này gọi Đường là cậu Hai. Đường đi Pháp học, nhưng khi về nước chẳng mang bằng cấp nào ngoài tài ăn chơi, nhảy đầm. Hắn sắm tàu đưa hành khách từ Cái Nước ra Cà Mau và ngược lại, mỗi ngày một chuyến đi, một chuyến về. Tàu đặt tên là Kim Mã để đối với tên cúng cơm hắn là Ngọc Đường. Với danh nghĩa là công tử Bạc Liêu từng du học ở Pháp, Lâm Ngọc Đường tình nguyện làm nhân viên Phòng Nhì và được Sa-va-ni tín nhiệm, xem như cánh tay mặt, chuyên về các vấn đề chính trị.
Cánh tay thứ hai là một tay cờ bạc vô dân Tây tên là Mô-rit (Maurice) Thiên. Mô-rit Thiên là dân ghiền cá ngựa, nuôi ngựa đua và ăn chịu với đám nài để làm độ. Khi đầu quân vào Phòng Nhì, hắn được Sa-va-ni giao công tác trông coi các đội Con-măng-đô- cha đẻ của loại binh chủng biệt kích sau này.
Sa-va-ni trình bày tình hình về các nhóm du đãng ở Sài Gòn, Chợ Lớn rồi mời hai phụ tá góp ý. Lâm Ngọc Đường đã nghiên cứu vấn đề từ lâu nên thao thao bất tuyệt:
- Du đãng trong đô thành rất nhiều nhóm, nhưng theo tôi thì chỉ có ba nhóm đáng kể. Đó là nhóm Tám Mạnh ở Chánh Hưng và vùng cầu Chữ Y chạy dài vô cầu Mới (tức cầu Nhị Thiên Đường). Kế đó là nhóm của hai anh em Ba Dương, Năm Hà, nhóm này hùng cứ ở Tân Quy và vùng Nhà Bè. Nhóm thứ ba là nhóm Bảy Viễn- Mười Trí mà địa bàn hoạt động là trường đua Phú Thọ, chợ Thiếc, An Bình, Bà Quẹo. Hiện nay ba nhóm này có xu hướng chính trị khác nhau. Nhóm Ba Dương thì làm cho hãng đóng tàu Nhật, Hãng Nichinăn ở sát cầu Rạch Ong.
Ngoài chuyện làm “sếpsăn-chê” (chefchantier) để kiếm tiền sinh sống, chưa biết hai anh em Ba Dương, Năm Hà còn có ý gì nữa không?- Tôi muốn đặt dấu hỏi là nhóm này có thân Nhật như đạo Cao Đài hay không? Nhóm Tám Mạnh thì lâu nay “án binh bất động” nhưng xét vì tổng Tân Phong Hạ là cái nôi Cộng sản nên có thể đặt giả thuyết nhóm này chịu ít nhiều ảnh hưởng Cộng sản. Còn nhóm Bảy Viễn- Mười Trí thì chưa thấy có màu sắc chính trị gì. Đây là mảnh đất hoang, dễ cho chúng ta khai phá.
Mô-rit Thiên hăm hở tiếp lời:
- Tôi hoàn toàn đồng ý với anh Đường. Nhóm Bảy Viễn và Mười Trí xin cho tôi phụ trách, bởi chúng tôi có nhiều điểm giống nhau, mà trước hết là máu cá ngựa.

Chú thích:
(1) Sureté: Sở mật thám

CHƯƠNG 15

Cò Ba-de tạm ngưng bắt bớ Cộng sản, phóng thích một số chính trị phạm sau khi nhận được bức thư của Trần Văn Giàu. Trước thắng lợi đó, văn phòng Xứ ủy được đặt tại nhà Bảy Trân. Chọn địa điểm này vì Bảy Trân với Sáu Giàu, ngoài tình đồng chí còn là bạn tâm giao, cả hai cùng du học tại Pháp, cùng qua Nga học trường Đông Phương, cùng trở về nước hoạt động, sống chết có nhau. Nhà Bảy Trân luôn luôn mở rộng với các đồng chí “thất cơ lỡ vận” cả vợ lẫn chồng đều quý bạn, trọng khách… Bảy Trân tuy bị quản thúc tại gia nhưng làng lính đều kính nể vì thấy Tây tới nhà chơi hoặc đưa xe tới đón và một đôi khi Bảy Trân cũng tham gia các cuộc họp quan trọng, cũng đọc “đít-cua” (discours) cùng chủ tỉnh và chủ quận. Chẳng hạn như vụ gắn “mề-đay” cho Hương quản Trọng bị Mười Nhỏ bắn chết trong khi từ Bình Đăng nhảy qua Chánh Hưng truy nã ăn cướp. Chủ tỉnh Pháp và chủ quận là đốc phủ Chấn đến dự tang lễ. Hương cả Sảnh xã Bình Đăng nhờ Bảy Trân làm một bài diễn văn, nể tình cậu cháu, mà cũng nhân dịp này cũng để răn đe đám hội tề, Bảy Trân đọc “đít-cua” không đả động đến ăn cướp mà tô đậm nỗi đau xót của người vợ mất chồng, đám con mất cha… “không có mề-đay nào bù lại được mất mát lớn lao này”.
Bảy Trân cống hiến hết mình cho Đảng. Anh giao nhà mình cho Đảng lập văn phòng, biến vợ mình thành chị bếp. Còn anh thì vừa là chủ nhà, vừa là phụ tá, đôi khi cố vấn và lúc cần, làm liên lạc. Anh còn đưa em ruột là Chín Báu vô làm thư ký ấn loát. Chín Báu rất có hoa tay, nét chữ rất đẹp. Truyền đơn in thạch bản đều do Chín Báu viết. Anh cũng đưa cháu ruột tên là Biển, con của Tư Ó làm thư ký đánh máy. Biển có tài đánh máy nhanh như bay nhờ tốt nghiệp trường kế toán thương mại. Biển và cái máy đánh chữ loại xách tay hiệu Héc-mét (Hermes)- quà tặng của Chung Văn Năm- không lúc nào rời nhau. Chỉ khi nào mệt lắm, biển mới giao cho Lực là cháu Hương trưởng Hoài, cũng là tay đánh máy cừ.
Chưa bao giờ nhà Bảy Trân nhộn nhịp, phấn khởi như đầu năm 1945 ấy. Bồ lúa vơi đi trông thấy, đàn vịt gà cũng hao hụt, nhưng chẳng ai quan tâm tới ba cái lặt vặt đó. Ngày kia, giữa lúc mọi người đang bận rộn với công việc của mình thì có tiếng chày giã gạo vang lên ngoài đường đắp, đó là tiếng báo động có kẻ lạ tới. Lập tức mọi người gom giấy má, dọn dẹp mọi thứ, bước qua các nhà lân cận- cũng là nhà bà con cật ruột của Bảy Trân. Một lúc sau Brô-sê-riu lò mò tới. Bảy Trân hơi lo:
- Gì nữa đó ông bạn? Cò Ba-de lại muốn gặp tao?
Brô-sê-riu cười nhưng không được vui:
- Tao kiếm mày có chút việc. Đây là việc riêng của tao…
Bảy Trân rót trà nóng đặt trước mặt y:
- Việc riêng của mày? Chuyện gì vậy?
Brô-sê-riu xoay xoay tách trà nóng trong tay:
- Đồng minh sắp đánh Đông Dương. Nhật phải ra tay trước. Nó phải đảo chính vì không thể để Pháp làm “xanh-kem cô-lon” (2) đâm sau lưng nó. Trong trường hợp đó tao muốn nhờ mày một việc… Mày có thể giấu gia đình tao được không? Có bốn mạng tất cả, tao, vợ tao và hai đứa con.
Bảy Trân gật lịa:
- Yên chí lớn đi! Tao vui lòng, rất vui lòng! Tao hứa danh dự với mày- Ông bắt tay Brô-sê-riu siết thật chặt, thật lâu.- Trước đây tao lạnh nhạt, lẩn tránh mày là vì mày là mật thám mà tao theo cách mạng, gặp nhau không có lợi cho mày cũng như cho tao. Còn bây giờ thì mày là một kẻ chống phát xít xin tị nạn nơi một người Cộng sản, tao vui lòng giúp đỡ!
Brô-sê-riu xúc động mạnh:
- Tao thay mặt vợ tao cám ơn mày trước!
Bảy Trân chỉ bồ lúa, giọng đùa cợt:
- Bồ lúa tao đó, dư sức nuôi thêm 4 mạng! Nhưng tụi bây chớ đòi bơ sữa thì tao không chạy đâu cho ra!
Brô-sê-riu ở chơi một lúc rồi ra về. Khi Bảy Trân báo cáo mục đích cuộc viếng thăm của Brô-sê-riu, Sáu Giàu gật gù:
- Ngày giờ đen tối nhất của mấy thằng Tây ở Đông Dương sắp tới rồi đó. Mình phải tranh thủ thời gian mới nắm vững dịp may ngàn năm một thuở” này- Với giọng nghiêm chỉnh, ông hỏi: Mày nắm giới giang hồ tới đâu rồi?
Bảy Trân hồ hởi:
- Có một tin hay lắm mà tao quên cho mày biết. Bảy Viễn và Mười Trí đã về tới đất liền. Tụi nó vượt ngục bằng xuồng ba lá, tấp vô Rạch Gốc ở Cà Mau. Liên lạc của tụi nó mang thư về ông Tám Mạnh, nhờ tìm cách rước về Sài Gòn, ông Tám Mạnh mới hỏi ý tao.
- Rồi mày bảo sao?
- Tao bảo ông Tám nên giúp tụi nó. Đây là dịp tốt để sau này nắm hai tay giang hồ trứ danh này. Ông Tám đã nhờ Hai Trực là sếp bót “Se-nho” lấy xe CX (xe mang biển số Nhà nước) xuống Cà Mau rước tụi nó.
Sáu Giàu gật gù:
- Mày nắm được ông Tám Mạnh là một thuận lợi lớn. Từ đó phát huy thêm- Ông chọn một mớ tài liệu vừa đánh máy xong, bó lại cẩn thận:
- Bây giờ tao giao cho mày thêm một chức nữa, mày làm trưởng ban liên lạc với anh em trí thức. Mày đem tài liệu này trao tận tay bác sĩ Phạm Ngọc Thạch giùm tao. Bác sĩ Thạch có phòng mạch ở đường Chasseloup ngang Xẹc Tây. Mày bảo cô y tá “Tôi là bạn của ông Giàu”, cổ sẽ cho mày vô gặp bác sĩ ngay!
Bảy Trân dắt xe đạp ra đi. Sáu Giàu nói thêm:
- Thằng Nhật sẽ lập nội các bù nhìn ngay sau khi nó đảo chính. Mình phải nắm trước giới trí thức để khuyên họ không nên cộng tác với phát xít. Hoặc cao tay ấn hơn, thì cho họ ra giữ chức bộ trưởng hay thứ trưởng để rồi sau đó mình lái họ theo mình.
- Mày đã nắm được ai ngoài bác sĩ Thạch? - Bảy Trân hỏi.
- Nhiều! Đủ các giới. Giới bác sĩ, ta nắm Hồ Văn Nhựt, Đặng Văn Chung, Phạm Biểu Tâm… Giới luật sư ta tiếp xúc với Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Thái Văn Lung, Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần… Giới bác vật có Lưu Văn Lang, Nguyễn Xuân Bái; giới giáo sư có Phạm Thiều, Đặng Minh Trứ, Nguyễn Văn Chì; giới nhà băng có Mi-sen (Michel) Văn Vỹ… Ông khoác tay- Thôi đi đi kẻo trễ!
Bảy Trân đạp một mạch từ Đa Phước tới phòng mạch bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Thân chủ đầy phòng chờ. Anh nói nhỏ với cô y tá “tôi là bạn của ông Giàu”. Cô y tá vào trong rồi trở ra ngay. Theo sau cô là một bác sĩ hớt tóc cao kiểu bàn chải (brossant). Bác sĩ bắt tay Bảy Trân, đưa vào phòng khám, bảo ngồi chờ, ông đang bận khám một người nằm sấp trên giường trải “ra” trắng.
Bỗng cánh cửa phòng bên hông hé mở, một cô đầm khoảng 30 tới nói mấy câu, nhưng bác sĩ khoác tay bảo: “Chút nữa đi! Bây giờ đang bận”. Cô đầm rút lui ngay, bác sĩ đưa thân chủ ra, đóng cửa cài then lại, đến ngồi đối diện với Bảy Trân:
- Ông là bạn của ông Giàu?
Bảy Trân trao xấp tài liệu:
- Ông Giàu nhờ tôi trao tận tay bác sĩ.
Ông Thạch cất kỹ tài liệu trong ngăn tủ, khóa lại cẩn thận.
-Phải vậy đó. Cả bà đầm của tôi cũng không biết công việc làm của tôi. Lúc nãy bả cự nự tôi đi cả đêm không về. Mình đi họp, làm sao dám cho bả biết?... Ông Giàu vẫn mạnh khỏe chứ?
- Dạ khỏe mạnh- Bảy Trân đứng lên cáo từ. Ông Thạch siết tay thật chặt. Bàn tay thật ấm. Bảy Trân như được truyền nhiệt và trên đường về, suy nghĩ mãi về nhiệt tình yêu nước của những người trí thức tiến bộ.
Tiếng chày lại vang lên báo động. Lần này là một người quen biết cũ của Bảy Trân: Giáo hữu Non. Câu chuyện 15 năm xưa hiện về trong trí Bảy Trân, đậm nét như mới hôm nào. Hồi ấy là năm 1930, Bảy Trân mới về nước vào mùa lúa chín cuối năm.
Để tránh làng lính, anh không về nhà mẹ ở Đa Phước- anh mồ côi cha từ lúc lên 7- mà tấp vô chùa Cao Đài Phú Lạc của dì ruột, do Tư Ó là con của dì trụ trì. Anh mang theo tiền và hóa chất để viết thư mà người ngoài không đọc được- chờ liên lạc với Trung ương. Thời gian chờ đợi khá lâu, Bảy Trân nhờ Tư Ó đưa lên Tây Ninh xin làm thư ký cho giáo tông Cao Đài tại tòa thánh. Hội đồng Trung thấy Bảy Trân trẻ tuổi, đẹp trai, có văn hóa, biết đánh máy, nhận làm thư ký ngay.
Trong thời gian ở đây, Bảy Trân vào thư viện nghiên cứu giáo lý Cao Đài. Với một người được đào tạo tại trường Đông Dương Đại học đường, giáo lý Cao Đài thật là một mớ hổ lốn khó chấp nhận. Nhưng tòa thánh có một nhà in, la cà với thợ xếp chữ, ngấm ngầm tuyên truyền vận động và tổ chức. Giáo hữu Non là người được Hội đồng Trung giao trông coi nhà in. Y là người Cần Đước. Bảy Trân nhìn đồng hương với Giáo hữu Non: Cần Giuộc với Cần Đước như hai anh em sanh đôi dính liền xương sống. Dần dần Bảy Trân thuyết phục Giáo hữu Non. Trong một vụ đấu tranh đòi bãi thuế tại Cần Đước, Giáo hữu Non bị bắt. Ra tòa y khai là Giáo hữu Cao Đài nhưng vẫn bị tòa “đóng nhãn hiệu Cộng sản” và kêu ba năm tù, nhốt Khám Lớn Sài Gòn. Bấy giờ, Tây nghe nói dân Cần Đước, Cần Giuộc là thẳng tay kêu án, bởi chúng không thể quên được hai vụ phá Khám Lớn Sài Gòn xuất phát từ hai nơi này.
Ra đón Giáo hữu Non, Bảy Trân có phần chột dạ “Tay này tìm mình để làm gì đây? 15 năm rồi…”.
Giáo hữu Non đi ngay vô đề:
- Nhật sắp đảo chính. Trong nội các sắp công bố, Cao Đài được dành khá nhiều ghế. Tôi nghĩ ngay tới anh…
Bảy Trân giật mình:
- Trời đất! Tôi học hành tới đâu mà… Thôi cho tôi xin đi anh!
Giáo hữu Non ra sức thuyết phục:
- Tôi biết hết, anh đừng giấu. Anh đi học ở Pháp về, nói tiếng Tây giòn rụm như bẻ củi, nhưng anh có tinh thần chống Pháp. Anh đã từng kêu gọi anh em nhà in tòa thánh chúng tôi đứng lên giành độc lập. Bây giờ độc lập sắp về tay mình, anh không chịu đứng vô nội các của nước Việt Nam độc lập là nghĩa làm sao?
Bảy Trân tiếp tục thoái thác, giáo hữu Non say sưa nói:
- Nhật khác xa Pháp, Nhật cùng da vàng, mũi xẹp như mình. Mấy chục năm trước đây, Nhật đã giúp đỡ chứa chấp những nhà cách mạng của mình trong đó có đức kỳ ngoại hầu Cường Để. Ông này vốn dòng tôn thất không chịu ách nô lệ bí mật hẹn với hai ông Phan Sào Nam và Tăng Bạt Hổ đem ghe vào sông Hương rước ông ra Hải Phòng xuất dương qua Nhật. Ông cưới công chúa Nhật, làm rể Nhật hoàng. Rồi đây Nhật sẽ đưa ông về chấp chánh thay Bảo Đại.
Bảy Trân cười thầm “Cha này bị bỏ bùa mê thuốc lú của bọn phát xít. Làm sao giải bùa cho nó đây?”.
- Người ta đồn như vậy chứ chưa chắc có chuyện Nhật đưa Cường Để về. Mà dù Nhật có tính như vậy thì Cường Để cũng chưa chắc chịu về, bởi ai biết bài thơ xuất dương của ông với hai câu đầu như thế này:
“Vì nước cho nên phải xuất dương,
Há mang đồ bá với tranh vương…”
Giáo hữu Non không để Bảy Trân đọc hết bài:
- Cờ đến tay ai nấy phất. Hồi ra đi ổng nói như vậy, nhưng bây giờ thời thế đã đổi khác. Dù có ổng hay không có ổng, anh cũng phải ra gánh vác chuyện nước chuyện non. Tôi rất tín nhiệm anh nên lặn lội tới đây tìm anh. Anh mà từ chối thì tôi giận lắm đó.
Bảy Trân gọi vợ làm vịt, mua rượu đãi khách. Nhưng Giáo hữu Non hầm hầm đội mưa ra về khi thấy thái độ lạnh nhạt của Bảy Trân trước đề nghị đầy nhiệt tình nóng bỏng của y. Bảy Trân cũng giầm mưa chạy theo năn nỉ nhưng Giáo hữu Non bỏ đi một nước.
Bảy Trân trình bày mọi việc và đề nghị anh em nên dời đi một thời gian để xem phản ứng của Giáo hữu Non như thế nào.
Sáu Giàu vỗ vai Bảy Trân:
- Vậy là địch và ta đang chạy đua nước rút trong giai đoạn này. Mình đã đi trước chúng một bước, phải giữ khoảng cách đó, đừng cho nó bắt kịp. Ở xa Trung ương là một thất lợi lớn. Nhưng đó cũng là một điều kiện bắt buộc chúng ta phải vận dụng tất cả trí thông minh và tinh thần sáng tạo để “điều, nghiên, phân, tổng” nắm cho được tình hình, thấy cho hết khó khăn để có đường lối thích ứng với tình thế.
Văn phòng Xứ ủy có một máy thu thanh, mỗi ngày Sáu Giàu đều theo dõi tin tức thế giới và trong nước. Nhờ vậy anh biết rõ Đồng minh đang phản công ở khắp các mặt trận. Anh có thể kể vanh vách chiến sự tại châu Ââu, châu Phi và Đông Nam Á. Chiến trường anh chú ý nhất là Thái Bình Dương, tướng A-tuya (mac Arthur) chiếm được đảo Ma-ri-an (Mariannes) và từ đó cho không quân oanh tạc Đông Kinh nhiều lần trong ba tháng đầu năm 1945. Mỹ chiếm đảo Lu xông (Lucon) rồi chiếm Maní (Manille) ngày 24-2. Các tin tức này làm mọi người phấn khởi.

Chú thích:
(2) Cingcueme colonne: đạo quân thứ năm tức số người làm tai mắt cho địch


Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 2
Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 3
Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 4
Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 5

Không có nhận xét nào: