DI
THẢO SỐ 44
-->
Kế hoạch vay tiền để dùng vào việc binh*
(21 tháng 2 năm Tự Đức 24, tức 10-4-1871)
Kính bẩm,
Ngô Khởi nói: Đạo dùng binh trước phải làm cho dồi dào của cải, sau mới dùng sức. Triệu Thố nói: lúa thóc nhiều, của cải dư, đủ sức công thì thủ, đủ sức thủ thì làm cho kiên cố thêm. Sách Luận Ngữ nói: Dân có đủ ăn mới giữ được chữ tín. Lại nói: Phải làm cho giàu có rồi mới giáo dục được. Như thế đủ thấy người làm việc nước trước phải làm cho nước giàu, sau nước mới mạnh. Nước ta thời gian gần đây phải đánh Nam dẹp Bắc, của cải tích lũy đã cạn. Dân gian bị lụt lội hạn hán sâu rầy, làng xóm hư hao. Bên ngoài cướp biển hoành hành, đường buôn bán không thông. Bên trong sự cung đốn cho nhà nước ngày một gia tăng, lòng dân rời rạc. Tất cả đều do nghèo thiếu của cải gây nên. Tôi thấy các nước phương Tây, nhiều nước vay tiền các nhà buôn lớn để giải quyết việc cần gấp, sau đó sẽ từ từ hoàn lại. Nước càng lớn nợ càng nhiều. Thế nhưng chưa ai bảo như vậy là yếu hèn hay sai lầm kế sách. Tôi xin có ý kiến là hãy sai người đến các đại thương gia ở Hương Cảng vay tạm 8, 9 triệu quan (Tôi bảo đảm chắc chắn có thể vay được). Mỗi năm ta sẽ trả tiền lời cho họ, hoặc giao ước ta sẽ trả hàng hóa cho họ rồi tính giá khấu trừ (Họ đến nhận hay ta đem giao cũng được), hoặc cho họ thông thương một hai cửa khẩu lấy thuế khấu trừ, hoặc cho họ lấy gỗ một hai khu rừng (Về lợi ích lâu dài của việc này, trước đây tôi đã bẩm rõ trong bài Khai hoang từ) rồi hạn định mỗi năm trừ vào số tiền vốn là bao nhiêu hòa ước sẽ được lập theo luật phương Tây, sau đó xin quan Anh ký chứng để bảo đảm vĩnh viễn khỏi lo ngại.
Khi ta đã được một món tiền lớn đem về sẽ nhất tề bắt tay làm việc. Có vốn lớn chắc chắn sẽ có lợi lớn. Đó là lẽ thường. Một mặt, trước hết sang Ma Ni Lai mua độ 4, 5 trăm con ngựa đã được luyện tập xong và mướn độ 100 người Ma Ni về tập luyện cho ta. Phong thổ khí hậu của họ cũng giống như ở nước ta. Vả lại giá ngựa ở đó cũng không đắt lắm. Những người giữ ngựa bên ấy nổi tiếng là những tay kỵ mã có tài. Dùng họ tập luyện cho ta chắc chắn ta sẽ tài giỏi. Việc ăn ở của họ cũng giống như ta nên việc nuôi dưỡng luyện tập không khó. Phải biết ngựa trận đối với nhà binh đắc lực vào bậc nhất. Hãy xem binh đội phương Tây bất luận đến đâu cũng đều kéo xe đem ngựa theo vì hết sức cần dùng đến nó. Ta đã tập được ngựa trận xong (Ngựa trận của họ rất giỏi và binh sĩ của họ rất thành thạo), tức cũng nhân chuyến đi này ta lại mua độ năm, sáu trăm súng mã pháo kiểu mới, độ 20 khẩu mẫu tử đại đồng pháo gồm đầy đủ thuốc súng và xe chở pháo. Bấy giờ ta dùng bộ binh và đại pháo đi giữa còn ngựa trận chia làm hai cánh hai bên. Từ đại lộ bằng phẳng cứ một mặt bắn vào đồn giặc. Đồn vỡ, giặc tan, bấy giờ dùng kỵ binh chia đường đuổi theo giết thì mới quét sạch được giặc. Ngựa trận có nhiều công dụng và cũng dễ thi thố, nhiều người biết không cần phải nói dông dài. Phàm việc binh chỉ nghe nói vụng mà nhanh chứ chưa nghe nói khéo mà chậm bao giờ. Nếu đánh chiếm nhanh, dù có tổn thất lớn nhưng cũng được lợi lớn còn hơn là kéo dài thời gian chiêu dụ để phải lo nuôi giặc, đề phòng giặc hay sao? Huống chi việc dùng ngựa trận không đến nỗi tốn kém nhiều. Hiện tại ta tạm dùng nó trong những việc cần gấp, mai sau dùng vào việc giao thông bằng ngựa, có công dụng cho quốc gia vô cùng. Thế có phải nhất cứ lưỡng lợi không? Một mặt dùng số tiền này mở thêm các quân khu, cấp bổng lộc cho sĩ quan binh lính để khuyên dụ lòng người. Khoản này tôi đã bẩm rõ ở điều nói về tu chỉnh võ bị trong bài Tế Cấp trước đây. Nay không phải nói nữa.
Một mặt dùng số tiền này mua sắm những thứ nhu cầu khẩn thiết lúc đầu để chế tạo và sửa chữa các thứ đồ dùng như sửa chữa cơ khí, đúc súng, đúc đạn, chế thuốc nổ và các thứ binh khí. Các thứ khí cụ này ta đều mua đem về rồi tạo riêng một xưởng cơ khí, mướn người Anh người Pháp mỗi nghề một người dạy tập cho thợ ta chế tạo các đồ ứng dụng. Đã có người phương Tây hợp tác cùng ta thì không chỉ hiện thời ta có thể chế tạo được đồ dùng mà không ngoài năm, sáu năm sau thợ ta sẽ dần dần khéo tay.
Đó cũng là nhất cử lưỡng tiện. Mấy năm trở lại đây, sở dĩ nước ta mỗi ngày một thêm nhiều nạn cướp biển là vì ở Trung Quốc hiện nay ngành mậu dịch mỗi ngày một thịnh. Họ đã tạo được nhiều tàu tuần dương chạy bằng máy và các tàu buôn, tàu nhà binh của phương Tây qua lại đường biển như mắc cửi. Người Pháp cũng tuần hành nghiêm ngặt suốt từ Bình Thuận đến Hà Tiên. Do đó thuyền phỉ khó bề phóng túng hoành hành ở hai mặt biển ấy được mà phải trốn sang tá túc nơi hải phận nước ta. Nay nếu ta mua được năm, sáu chiếc thuyền máy chắc chắn, mỗi thuyền có độ mười khẩu đại pháo lớn nhỏ. Rồi lại thuê người Anh người Pháp mỗi thuyền một người trông nom máy móc và bốn người tập bắn, hợp cùng lính của ta vừa đi tuần vừa tập luyện dàn thành chữ nhất đi từ Nam ra Bắc, từ Bắc vào Nam, gặp thuyền phỉ đều bắt hết đưa về xử trí còn thuyền thì sung công. Nếu giặc biển dồn tụ thành sào huyệt thì thuyền máy của ta hợp lại tiêu diệt, giặc sẽ tan vỡ, mất chỗ tụ tập khó có thể xâm nhập nội địa được. Giặc phía Bắc nước ta đã bị ngựa trâu phá diệt rồi, dân chúng được yên ổn làm ăn. Dân được nghỉ ngơi, quốc gia giảm bớt chi phí. Trên mặt biển giặc cướp đã biệt tích, đường thương mãi lưu thông, Nam Bắc đều lợi dụng. Tại Kinh thành việc chế tạo sửa chữa cơ khí được rèn luyện thành thạo, đồ dùng ngày một tinh xảo. Sau đó lại sai các tay thợ đã thành thạo phân chia đi dạy tập ở các tỉnh, một dạy thành mười.
Thực hiện đầy đủ ba việc lớn nói trên tức bắt đầu mở ra con đường tân tiến tự cường rồi vậy. Mà muốn nhất tề cử hành ba việc lớn ấy chắc chắn phải có một số tiền lớn mới làm được. Nếu cứ dựa vào thuế khóa trong nước thì sự chi xuất có hạn, chỉ đủ cung ứng các chi dùng hàng ngày, làm sao nổi việc lớn? Nếu tạo được khí cụ để dùng, học tập được cái nghề công nghệ thì sẽ dùng nó mà khai thác các nguồn lợi trong nước, làm ra của cải vật dụng. Lúc bấy giờ quốc gia vô sự, sản xuất nhiều, ăn tiêu ít, không những đủ trả nợ mà còn thừa nữa. Nếu không thực hành gấp đường lối mà thiên hạ thường làm để cứu vãn tình hình khó khăn khẩn cấp thì dù cho Khổng Minh sống lại, Lưu Án tái sanh cũng phải bó tay mà thôi. Tôn Tử nói: Sức kém, tiền thiếu người ta sẽ thừa cái tệ ấy mà nổi dậy, lúc bấy giờ dù là người có trí cũng không thể cứu vãn được. Tôi thành thật thấy ta có thể làm được, nên mới đem cái đường lối mà người có trí trong thiên hạ đã làm ra bẩm rõ. Chỉ vì nó hợp với sự thế nước ta, nhưng chưa biết có được hay chăng.
Xin kính bẩm.
_____________________________________
*. Bản văn chữ Hán 634/1 tờ 59-65.
Không ghi ngày tháng, nhưng bản dịch của Trần Hữu Huyên, trên Văn Đàn 30-11-1961 trang 12-13, ghi “21 tháng 2 năm Tự Đức 24”
DI
THẢO SỐ 45
Về việc gởi học sinh sang Singapore học sinh ngữ*
(Ngày 25 tháng 2 năm Tự Đức 24, tức ngày 14 tháng 4 năm 1871).
Kính bẩm,
Tôi thiết nghĩ ngôn ngữ các nước trên thế giới đều khác nhau, nhưng sở dĩ có thể hợp nhau trao đổi làm việc, đều do con đường thông dịch làm cơ sở. Phàm chiến tranh hay minh ước, cho đến những sự giao tế bình thường, đều dựa vào lời người thông ngôn. Nếu dịch sai lầm, thì sai một ly đi xa ngàn dặm. Cho nên các nước trên thế giới đều xem ngành học ngôn ngữ này là quan trọng và cấp thiết. Nước ta hiện nay, việc học tiếng Anh tiếng Pháp rất là khẩn cấp. Còn như muốn khai thác vùng ven núi về phía Tây để thu về nguồn lợi ở phía Tây ấy, kế tiếp công nghiệp mở rộng khai thác miền Nam của liệt thánh Triều đình ta, thì cũng không thể không gấp rút học các thổ âm các dân tộc vùng phía sau núi.
Nay theo thiển kiến của tôi, xin nên đưa tất cả học sinh của ta sang Hạ Châu (Hoặc trích để lại tại Bộ một vài người kha khá để dành sai phái công việc) tìm nơi có trường học tốt thuê nhà trọ thì việc học được nhiều tiện lợi. Bởi vì một là ở đó gạo cá thực phẩm rất rẻ, ít tốn kém. Hai là nước trong trẻo không khí trong sạch, ít bệnh tật nên mọi người đều khen đó là đất lành. Ba là nếu đột xuất Triều đình gởi thư gấp gọi về một số nào đó để sai phái công việc, chỉ vài ba tháng có thể về kịp. Bốn là nếu có người nào bị bệnh không khỏi, không thể tiếp tục học được nữa, hoặc có người nào có tư ý việc riêng buộc phải rút về thì có tàu là đi được ngay không phải chờ đợi mà hao tổn công quỹ. Năm là nơi đó gần nước ta, thư từ tin tức qua lại ăn ở thuận tiện, không đến nỗi buồn phiền mà sinh biếng trễ, việc học có thể thành công. Sáu là một nửa học sinh cho học tiếng Pháp, một nửa nữa học tiếng Anh, bình thường giao du thì nói tiếng Trảo Oa, tiếng Tàu, như vậy là học một mà biết được hai. Bảy là nếu người nào thông minh, ngôn ngữ chính của mình là học tiếng Pháp nhưng khi rảnh rang học thêm được tiếng Anh càng tốt. Đến khi mãn khóa có thể thi riêng môn Anh ngữ, nếu khá Triều đình sẽ có phần thưởng riêng, như thế ai nấy đều biết cố gắng, không uổng phí thì giờ học tập. Tám là nhiều người cùng học một trường, khi tật bệnh giúp nhau, phải quấy khuyên bảo nhau, để giúp ích cho nhau. Chín là trừ các chi phí về trường học và nhà trọ, tiền phí tổn đi về còn rẻ hơn đi Tây gấp mấy lần. Những tiện lợi ấy nếu đem so sánh với đi Tây thì trái hẳn. Nếu Triều đình thấy việc này có thể làm được, xin nói rõ cho học sinh biết trước mấy ngày để chuẩn bị. Trừ số tiền ăn do Triều đình cấp, còn tiền tiêu vặt linh tinh (Tôi biết chắc nhất định phải có khoản này) học sinh có thể xin cha mẹ, anh em để xài riêng. Những tiêu phí như vậy vụn vặt lắm, làm người không ai tránh khỏi, mà cũng không thể dự liệu trước là bao nhiêu, nhưng gom lại cũng thành một số tiền lớn, không thể không có được. Tất cả học sinh đi học nước ngoài dù học ở đâu cũng phải như vậy cả. Sự chi phí này không phải chỉ tiêu dùng khi đi đường mà kể cả những chi tiêu lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày.
Tôi có mấy ý kiến như thế, không biết có nên chăng.
Nay
kính bẩm.
___________________________________
*. Bản văn chữ Hán Hv 634/3 tờ 135-138.
Không ghi ngày tháng, nhưng Nguyễn Lân sđd trang 43, có nói về việc học tiếng Anh, Pháp, tiếng Mường như ở đầu bài này và nói là bài viết ngày 25 tháng 2 năm Tự Đức 24.
DI
THẢO SỐ 46
Việc dịch các văn kiện ngoại giao*
(Ngày 10 tháng 3 năm Tự Đức 24, tức ngày 29 tháng 4 năm 1871)
Kính bẩm,
Người lo việc cốt nhất phải chu đáo, thi hành mưu kế cũng phải sao cho được vạn toàn. Nếu lo việc hay lập mưu mà trong lòng còn một điểm nào bỏ cũng không xong làm cũng chẳng được, thế là tính toán chưa sạch nước. Nếu lần này đi Tây, tôi đã thưa bẩm rằng tất cả những gì có thể cải chính những chỗ thiếu sót trước đây và khai thông con đường lợi hại cho mai sau đều quan hệ ở chuyến đi này cả.
Nay tôi thiết nghĩ trong lời văn như quốc thư, văn bằng hoặc dự liệu đến bên ấy tìm được đường lối gì mà phải chép trước thành văn bản để đề đạt ý kiến của ta, những văn kiện ấy đều phải dịch ra tiếng Tây nghĩa lý đầy đủ, lời văn khéo léo, có thể cảm động được người đọc người nghe, đó là điều rất khó. Như Lục Chí đời Đường viết bài chiếu mà làm cho người xem cảm kích phấn khởi vậy. Cho nên sự lý chỉ có một, thế mà có người viết thì ý tứ nhạt nhẽo đọc lên phát chán. Nhưng nếu có người giỏi viết văn viết ra thì tinh thần bay bổng văn lý tuyệt vời, khiến người thưởng thức chẳng rời tay mà có thể lãnh hội đại khái cái ý vị thâm trầm. Dù cho sự lý cứng cỏi thẳng thắn mà lời văn uyển chuyển khéo léo cũng có thể che đậy được không làm cho người giận, có nói cũng không có tội. Những loại văn từ tuyệt diệu như vậy Đông Tây không nước nào không chuyên chuộng. Phương Tây người ta còn thiết lập một ngành học chuyên về loại này. Nay Nguyễn Hoằng nói: Nếu dịch đúng sự thật lời ý không sai thì dám vâng mệnh làm được. Còn muốn văn từ hay ho thì thật không dám. Tuy như người Tây trong trăm ngàn người còn khó có được một hai người huống chi y là người Nam mà học tiếng Tây. Các linh mục Tây đã ở phương Đông chỉ có một người (Tên là Đường tuổi đã già) hiện ở nhà dục anh ở Gia Định cũng khá giỏi.
Ngoài ra như Giám mục Hòa cũng có thể gọi là giỏi. Huống chi y mà dám làm văn chương từ lịnh sao? Nếu chỉ cần cho đúng sự thật thì được. Tôi thiết nghĩ văn tự nước ta chỉ dùng cổ văn. Lời văn ý văn cũng đã biến đổi một ít, so với lời văn của người Tàu hiện nay cũng đã khác đi. Như năm trước, khi tôi ở Quảng Đông ba tháng1 đã khám phá ra điều này. Cho nên năm trước Nguyễn Bá Nghi gởi văn kiện cho Tây soái, trong đó có một tập, Hà Ba Lý nhờ một thầy Tàu (Thầy này dạy Hà Ba Lý học chữ Hán) dịch ra. Ông ta chia một câu dài cắt ra làm đôi. Sau tôi đọc thấy mới bảo rằng: Theo ngữ ý của người Nam thì đây là một câu. Nếu chia làm hai thì đó là theo ngữ pháp hiện thời của người Tàu, không đúng với nghĩa lý cổ văn. Ông ta mới phục lời tôi nói.
Ngày nay tại Kinh đô nước Pháp có bốn người Tàu (đều là người Bắc Kinh). Đó là những người được người Pháp mời về để dịch sách Tàu. Tôi gặp họ thấy họ là những người rất tầm thường. Người Pháp có một nhân viên rất thâm nho nay đã chết. Nếu các văn kiện bằng quốc âm của ta gởi đến thì sẽ do bọn người này dịch. Nếu không rõ ngữ ý nước ta mà có một hai câu nghĩa lý không rõ ràng thì không khỏi họ đổ lỗi cho ta. Còn như việc tìm được đường lối, có viên chức nào trợ giúp cho ta thì họ cũng phải hiểu rõ hết sự tình lai lịch của nước ta mấy năm nay với họ như thế nào, rồi sau mới liều lượng sự phải trái để tìm lý lẽ mà giúp ta. Việc này đâu phải trong một lúc đàm luận mà rõ hết được. Bởi vì họ cũng có công việc của họ khó có thể cùng ta đi hết những chỗ ngoắt ngoéo lâu dài được. Nếu ta cứ qua lại chàng ràng hoài không những làm phiền họ mà còn khiến người ta sinh nghi. Cho nên muốn họ hiểu hết sự thế dài lâu của ta, chắc chắn phải viết ra văn tự rõ ràng, (Viết ra một bản quốc ngữ rồi sai dịch ra chép thành hai bản giống nhau như một để đại sứ của ta tự tay dán một bản lưu chiếu còn một bản cho vào phong bì cẩn thận ngay trước mặt mà gởi đi. Nếu có nghi ngờ điều gì thì đem bản này về đối chiếu với bản quốc ngữ của ta sẽ thấy ngay) gởi cho họ thong thả thì giờ đọc đi đọc lại. Nếu họ có nghi ngờ điều gì thì sẽ hỏi lại ta. Như vậy mới rõ ràng không sai. Còn như các đại học sĩ của họ thương nghị những việc quan trọng cũng vậy. Nếu có việc gì khó nói, hoặc nói chưa hết, hoặc ý tứ hàm súc, hoặc muốn biện minh cho rõ những điều mình đã nói tại cuộc họp thì cũng phải viết ra văn bản, dịch gởi cho họ để họ tự hiểu, có hiệu lực hơn so với việc gặp mặt nói miệng.
Những văn từ qua lại như vậy hết sức quan trọng mà rất quan hệ đến sự thế, không thể xem thường được. Người xưa một lời nói còn hơn mười vạn quân, một trang giấy còn hơn công việc của mười Bộ. Lối văn từ lịnh như vậy không thể truyền bằng miệng được, phải có một người Tây giúp việc cho mới có thể chu đáo ổn thỏa được. Tôi đối với việc nước đã lo lắng đến như thế, tức là đã coi công việc nước như chính công việc của mình, cho nên tất cả những điều bẩm thỉnh của tôi đều muốn sao cho được thành công. Nếu biết rõ có một chút gì có thể gây sai lầm thì không những không dám bẩm thỉnh mà nếu thế chẳng đặng đừng thì tôi cũng phải hết sức dùng kế thoát cho được. Nếu không thì tôi tội gì mà dẫn người để làm lầm lỡ cho mình?
Nay việc đi Tây hãy còn nhiều ngày, xin Triều đình hoặc có thể cho Giám mục Hòa lên kinh nghiên cứu tình thế để bàn bạc trù tính thêm kế hoạch, may ra giám mục có đường lối riêng nào có thể giúp cho chuyến đi này chăng, hoặc giám mục có viên quan lớn nào là bạn tốt xin giúp cho ta trước, và giao trách nhiệm cho giám mục dịch giúp các văn thư. Tất cả những tư liệu gì liên quan về tình thế trong nước Pháp, xin tiến hành dịch trước (Dịch ra thành hai bản chép giống như một, sứ bộ lấy một bản đem đi, còn một bản lưu chiếu). Nếu giám mục thấy chuyến đi này quả thật có thể thừa cơ hội mà làm được việc và trình bày mối manh rõ ràng có thể nghe được thì xin Triều đình yêu cầy ngay giám mục cùng đi luôn để giúp đỡ (Nếu vậy có thể thay được một thông ngôn, đã bớt chi phí mà giúp đỡ được rất nhiều) cũng được.
Nếu có nghi ngờ điều gì thì yêu cầu giám mục hãy hứa trước mặt rằng thủy chung công việc đều theo như ý của Bộ. Nếu giám mục hứa rõ thì không phải nghi ngờ gì nữa. Mà nếu khả nghi thì chính tôi phải nghi trước không phải đợi đến Triều đình. Nếu quả thật Triều đình hiểu cho rằng tôi tuy ở chung nhưng chí chẳng đồng thì Triều đình không còn nghi ngại gì nữa. Mà tôi cũng còn phải theo sát giám mục để thi hành kế phản gián nữa. Như binh pháp đã nói cái kế xen vào để lung lạc bên trong, chính ứng dụng vào lúc này. Hãy thử xem trong tờ bẩm năm ngoái tôi cũng đã nói rõ. Kế hoạch này nay không phải bẩm lại nữa. Hơn nữa đối với giám mục từ trước tới nay, tất cả những cuộc gặp gỡ với quan bố chánh Nghệ An, nhiều lần có đem vấn đề sáu tỉnh ra nói chuyện mà giám mục đều chỉ nói không có chỗ sơ hở nào có thể thừa cơ được. Thế mà nay lại xin viết thư cầu giúp thì trong lòng giám mục cũng đã cân nhắc như thế nào rồi. Về Giám mục Hậu cũng vậy. Trước đây giám mục đã bẩm với quan tỉnh rằng nếu Triều đình muốn làm việc lợi ích thì giám mục sẽ xin hết sức cầu giúp, còn vấn đề sáu tỉnh thì không dám. Thế mà nay giám mục lại đồng quan điểm với Giám mục Hòa như thế là có thể tìm ra đường lối giải quyết cho vấn đề sáu tỉnh. Có điều là cần phải giáp mặt bàn hỏi giám mục thì mới rõ hết được (Giám mục đã ở bên nước hai năm mới về và giao du rất rộng, có thể giám mục thấy được cơ hội tốt để hành động, không phải như Giám mục Bình chỉ biết việc đạo giáo ngoài ra chẳng biết việc gì khác). Hoặc nếu Triều đình không muốn giám mục đến, và việc đi Tây hãy còn thư thả thì xin cho tôi trở về gấp. Về một tháng cũng đủ để giáp mặt thương lượng với giám mục. Và nếu thấy có mối manh thì xin quan tỉnh giáp mặt thương lượng rồi cùng với giám mục về Kinh cũng tốt. Tôi có mấy ý kiến như thế, không biết có nên chăng.
Kính
bẩm.
(Nếu cho giám mục về Kinh thì khi đi xin cho tôi gởi một bức thư cho giám mục, kèm theo với công văn, để khuyên giám mục nên quyết định đi).
___________________________________
*. Bản văn chữ Hán Hv 634/4 tờ 143-150.
Không ghi ngày tháng. Nhưng bản dịch của Trần Hữu Huyên, trên Văn Đàn ngày 17-1-1963, trang 46-47, có ghi là “10 tháng 3 năm Tự Đức 24”.
1. Bản dịch của Văn Đàn ngày 17-1-1963, dựa vào bản văn chữ Hán khác nói “ba năm” (tam niên).
DI
THẢO SỐ 47
Về việc cải cách phong tục*
(Ngày 10 tháng 3 năm Tự Đức 24, tức 29-4-1871)
NƯỚC NHÀ KHÔNG NÊN KHINH SUẤT ĐIỀU NHỎ
Bẩm, tôi trộm nghe: Triều đình làm việc tươm tất đầy đủ. Lại nói “muôn điều mục đều trưng lên”. Nói “mục” tức là chỉ điều nhỏ (như là lưới, “cương” là cái diềng, mục là từng khoảng trong mặt lưới). Quan chánh đời Đường, Ngu nói đến thuật muông chim. Thầy Mạnh Tử nói đến Vương đạo mà trù đến việc nuôi heo, gà; Quản Trọng làm tướng nước Tề, có đặt nữ thương. Bính Cát tướng nhà Hán mà hỏi đến trâu, thỏ; Châu Lễ, vườn nào không trồng cây thì bị phạt; Nhà Tần, ai bỏ tro ngoài đường thì bị tội... Xem đó thì biết rằng làm việc quốc gia không nên khinh suất những việc nhỏ.
Việc Trung Quốc kể trên, còn là sơ lược. Đến như phương Tây thì càng tương tế hơn, như: tập lội có trường, lấy phân có phép, đổ rác có xe, quét đường có phu; phàm việc thường hành trong dân gian, không có việc gì là không đặt chức để coi sóc việc ấy. Thành muôn việc đều theo thứ lớp tiến hành. Vì công việc dầu nhỏ mà khắp nơi đều có, chứa lại thành việc lớn.
VIỆC NHỎ MÀ CẦN THIẾT VỚI NHÂN SINH
Tạo hóa sinh vật từ cái lớn không có bờ bến, cho đến cái nhỏ không nhìn thấy được trời vẫn sinh thành và chiếu cố đến cả. Tức như các đảo san hô ngoài biển, hợp lại rộng đến đôi ba ngàn dặm, có người và vật sống trên đảo ấy, mà nguyên chất đảo ấy là do xác trùng san hô tý tý chất chứa keo dính lại mà thành. Trên mặt đất về tính phì nhiêu ở trên, đều do cứt trùn cùng lá mục... chứa chất lâu đời, động trong núi, do xác cá, xác trùng nhưng kết lại mà thành (nhà địa học đã xét nghiệm, đó là việc thiệt, không phải nói lý), thành món đại hữu dụng cho đời (như xác nghêu, hến, chế ra vôi cùng các vị thuốc kim thạch v.v...) đều từ những cái nhỏ đó cả, mà lại có cơ màu nhiệm sinh hóa mãi mãi không đời nào dứt. Tuy là vật nhỏ mà loài giống không tiêu diệt thành vật đại quan trên đời. Đấy là toàn đức của trời của tạo vật...
Trong vật trời sinh, loài người khác hơn muôn vật, vì biết học theo đạo trời. Nếu chỉ có tánh tri giác vận động mà không có năng lực kinh dinh bố trí, thì sao gọi được là thiêng hơn loài vật? Bởi vậy đã có loài người, đầu tóc không thể để bùm xùm như đống cỏ, thì bịt khăn đội mũ; thân thể không lẽ để trần truồng, thì bận áo quần. Không thể sống trần trụi giữa đất trống không, thì làm ra nhà cửa; không thể ngồi nằm dưới đất được, thì sắm ra giường ghế; chân không đi trần được, thì sắm ra giày dép... Phàm những vật dụng người đời sắp đặt ra để hưởng dụng, khác với loài vật là tại chỗ ấy.
______________________________________
*. Bản dịch của X.T.T. đăng trong TIẾNG DÂN từ tháng 1-1940. Không thấy bản Hán văn ở đâu cả.
Nay nhân dân nước ta tuy đã biết dùng những cơ xảo để giúp sức người. Cơ xảo xứ ta còn nhiều khuyết điểm cái đó chưa nói, chỉ nói những điều nhỏ và dễ làm mà khuyết điểm còn chan chan. Xin lược kể như dưới:
NHỮNG KHUYẾT ĐIỂM VỀ VIỆC NHỎ (QUANH ĐÔ THÀNH HUẾ ) CÓ THỂ CẢI CÁCH ĐƯỢC
Kinh thành là một nơi tụ hội cả thanh danh văn vật và oai nghi lễ phép từ đó mà ra. Vậy mà trừ các nơi cung phủ ra, có lắm điều thô lỗ quê mùa không sao nói xiết. Thánh như Khổng Tử, từ cư xử, ăn uống, cử động, tới lui, việc nhỏ mọn ấy, học trò đều ghi chép để làm gương cho người sau. Vì xem người, xem điều nhỏ mà có thể biết được điều lớn.
Nói riêng về một sự ở. Nhà cách trí có nói: Người đời sinh bệnh nhưng bệnh đó từ lỗ mũi mà vào; những nơi uế độc, nhân khí nặng nề mà chưng lên, lẫn trong không khí, theo gió bay ra khắp nơi, nếu người nào hớp vào phổi thì khí độc ấy theo mạch máu mà đặt vào phủ tạng và chi thể mà sinh ra bệnh tật, đến huyết trong thân người hư hỏng mà chết. Đó là lý rất đích xác. Xem mùa nắng nhiều người cảm bệnh mà nhiễm bệnh ôn dịch thì rõ.
Nay trong Kinh thành, con đường lục bộ cho đến đường các nha thự chợ quán tường hào, vườn hoa và các bến sông chỗ nào cũng có uế khí, thậm chí có kẻ trước mặt công chúng mà đi tiểu đại không biết xấu hổ; các cầu dọc theo sông, không luận ngày đêm đàn ông, đàn bà cứ ra nơi ấy mà phóng uế, quen lấy làm thường. Người lo sửa mình đối với bóng đèn nệm gối, còn lấy làm hổ thẹn, xây lưng với người gọi là vô lễ, trần mình đối khách gọi là khinh mạn. Huống Kinh đó là nơi tôn nghiêm, trên các đường quan quân qua lại, sĩ thứ tới lui mà còn để có những chuyện “bất nhã” như trên sao? Ở phương Tây phàm những người nào bỏ rác làm nhơ đường đều bị phạt cả vì việc ấy bất nhã mà có mối hại chung. Ta cũng là người như họ, lại không biết xấu hổ sao?
Đến như gạch vỡ ngói hư, cây nhành khô lá rụng đổ rác và tro than các nhà loại ra người nước khác thu nhặt làm đồ vật hữu dụng, tăng tấn nguồn giàu cho nước... mà người mình thì vứt ra cùng đường, ném xuống ao vũng, hoặc đổ ra ngoài hào quanh thành, chất đầy cả bến sông, có nơi đến chất đống, người ta nhân đó có thể vượt hào sang bến được. Tôi từng thấy nhà người ta cứ mang đồ ra tới nơi lan can các hào cửa thành mà đổ xuống thường lắm.
Người Tây phàm đường sông quanh thành và thông vào thành nếu như có người nào bỏ vật gì xuống thì bắt phạt là phòng lâu ngày đường sông ấy bị chất chứa mà thành cạn. Nay hào sông quanh thành ta nước cạn không lút đầu gối, hai cảng Đông Ba, Bạch Hổ cát bồi gần lấp bờ. Lúc đầu tiên đào những hào và sông ấy là đặt nơi hiểm yếu, mà nay gần như đất bằng là vì sao? Hiện dọc hai bờ hào quanh thành bờ đã có những nơi gần đổ sụp những vôi cát đã hủng hỉu, thấy người ta thường vịn theo nơi hang bờ đá, ở dưới hào mà leo lên bờ, dưới hào lại cỏ tốt, sen lên dễ ẩn núp được... Những điều đó đều phạm đến kiêng kỵ của nhà binh.
QUAN THỰ
Dinh thự các quan, tường vách xiêu đổ; đến các quan giải, trống dưới dột trên, ngoài đường thì bùn lầy, vườn tược thì rác bẩn; trước sân quan nha thì cỏ mọc; trước cửa dinh quan nơi tụ ngõ mà đổ rác thành đống; ngoài hào thì nơi lồi nơi hủng, các nhà trong thành, hai bên đường gần nhà cứ quét dọn ra giữa đường như chia giới hạn vậy. Những đường bên vách tường đó, mùi hơi hôi thối, người đi qua phải che mũi đi mau... Cửa thành gọi là “quốc môn” lại gọi là “tượng khuyết” đời xưa phàm có truyền hiệu thì lệnh đều treo yết nơi cửa đô thành, người đi qua phải nghiêng lọng xuống ngựa để tỏ lòng tôn kính, mà nay lại công nhiên làm nhơ bẩn, như thế thì lòng tu ố ở đâu. Không phải là tiết mạn hay sao? Sao gọi là người nước biết giữ lễ nghĩa?
NHƠ BẨN CÓ HẠI ĐƯỜNG VỆ SINH
Những mối tệ như trên không sao kể xiết. Phàm những khí uế độc đều ở xứ này mà theo luồng gió lại bay sang xứ khác; huống chi là ở trong một đô thành. Tuy có một vài quan thự dọn dẹp sắp đặt cũng sạch sẽ chỉnh đốn; song nước gáo không thể cứu được lửa xe, cả đời đều đục mà trong riêng một mình thành ra nhiều người sinh bệnh, quân lính hay sinh lở chân... đã hại thân thể người và kém phần nhân đạo, như thế không cho là việc nhỏ được.
VIỆC ĂN Ở
Các dinh quan như sáu bộ đường, bốn phía thềm ủm thủm, chỗ lủng, chỗ sứt, trông nó so le, xiêu quẹo như hình rắn đi. Trong nhà mò tối cửa vách đen mò, khói bay mờ mắt, giường chõng mục rệu, cánh cửa lung gãy, có lẽ giống nhà ông Nguyễn Hiến thời xưa1. Đến đồ dùng trong nhà đều khí cụ thô vụng cũ rích đời nào, tưởng đâu các quan ta có tính ham đồ xưa. Ván kê sát đất không thông khí gió, trải qua ba mươi, bốn mươi năm loài rệp mối tụ họp thành ổ cắn người thành ghẻ, thán khí chất chứa không tan, cảm xúc là sinh bệnh. Thường nhà người trong buồng sâu phòng kín, không khí không thông, hễ một lần quét là thán khí bung ra, người vào đấy phải nhức đầu nghẹt mũi. Đó là thực chứng; huống rắn rết chuột muỗi dùng những nơi dưới hầm thấp buồng kín làm hang làm ổ truyền đời này sang đời kia, những đồ nhơ bẩn chung quanh đều dồn chứa vào đấy, cái khí độc thật không nói hết!
Tôi thường thấy quan viên ở dãy hai bên, và gia thuộc sai lính đi tìm thầy thuốc mà những quan và gia thuộc đó trông hình vóc ốm yếu như người ở trong rừng sâu, trọn ngày làm việc khó nhọc khí uất trí ngăn, thì làm sao cho mình được thanh sảng, chí khí được khỏe khoắn mà làm việc cho tinh tường được?
Thầy Mạnh Tử nói: “Sự ở thay đổi được chí khí, sự nuôi thay đổi được thân thể”. Thật thế, người không có ăn mặc thì đạo vua tôi cũng dứt. Đó là điều đích xác và nhân đạo. Tôi thấy phần nhiều quan viên ăn uống sơ sài không bằng nhà trung sản trong dân gian. Họ thì trả lời rằng không phải không biết đồ tư dưỡng nên phong hậu, chỉ khổ không có tiền chu cấp nên phải thế... Chính dưới nhà bếp không mấy khi có thịt thừa, cơm thừa. Đó là mắt tôi từng thấy mà không khi nào quên. Như thế là cố làm cái giả dối để câu cái dạng sao?
Năm trước sứ bộ ta sang Tây, người Tây thấy sự ăn uống của sứ bộ quá đơn giản, họ nói: “ăn uống như thế mà có sức để bổ vào phần trí dũng thật không sao hiểu được”. Đến trước mặt người nước ngoài mà không dám dọn bữa ăn cho sang không rõ là ý gì? Tôi rất lấy làm đau lòng, nên không thể không nói, sợ làm trò cười cho người ngoài không phải là việc không quan hệ.
Bộ đường là nơi nguồn gốc chính trị, nền tảng cường thịnh trong nước, quan hệ đến phong hóa và quốc thể, nhân dân chiêm ngưỡng, người nước ngoài trông vào mà sự ăn như đã thuật trên không những không biểu thị khí tượng hùng tráng của nước nhà, mà ở trong không khí ẩm thấp thì người càng mê mỏi, tâm trí còn có lúc nào khỏe khoắn mà làm việc gắng sức chịu nhọc với phận sự? Tôi ở nơi chái tây quan Hiệp biện đại thần mà sinh bệnh lười biếng mệt nhọc, không có việc gì mà còn thế, huống chi các đại nhân công việc nhiều thì sao?
Hiện nay có lệnh cấm “người nước ngoài không được vào trong thành” vẫn là theo thời thế. Song ngày sau cùng các nước giao thông mà bỏ lệ cấm trên, người nước ngoài vào thành bước chân vào các bộ đường mà so sánh với cách cư xử của họ thật không khác gì một trời một vực, nhục đến quốc thể biết bao! Mà đã nhục đến quốc thể tức là bày chỗ hèn yếu cho thế giới cùng nhìn thấy, không xem như là việc nhỏ được.
KHOẢN TIÊU DÙNG CỦA QUAN VIÊN
Về các khoản ăn dùng chi tiêu của các quan viên không bằng sự tiêu dùng của một nhà khá giả trong dân gian. Tôi hỏi vì sao, thì họ trả lời: “ăn tiêu như thế mà người ta gọi là quá xa xỉ rồi đó”. Có viên hàm Hàn lâm trước tác, ra chợ mua một xâu cá một xấp thuốc, mang về tự nấu lấy, hỏi thì họ nói: “Không có tiền thuê đứa nấu bếp” (!).
Chức phận dầu nhỏ cũng là quan của Triều đình, mà khổ nhục đến thế, thì dân bảo thế nào? (Đoạn này kể nhiều đến điều mắt thấy vào thời ấy, như nhà quan chức lớn mà ăn uống thô hèn, công tử mà bận áo rách v.v... xin lược).
Thường thấy nhiều vị quan viên tiêu dùng một quan tiền như nhà buôn giàu xài một trăm quan...
Những cách hiểu đó, chính là con ma nghèo đeo đuổi trìu mến mà không rời vậy. Sao không làm văn mà trục nó đi? (Quan há bấy giờ không tiền mà lương ít thì lấy đâu mà xài? Tiên sinh chỉ nói đến hiện tượng mà không xét đến nguyên nhân, nên lúc ấy dư luận không phục ).
Ở phương Tây một vị quan nhà nước, nếu làm không đúng cái thể quan, mà có đê hèn đôi chút đã bị cách chức vì đã làm vết xấu trên danh dự quan trường. Cho đến hạng dân nghèo không được đi đến nơi đó hội phồn hoa đều là để tôn trọng quốc thể vậy.
Còn như quan ta, nếu bảo rằng che giấu sự giàu mà biểu thị cái nghèo ra, thì cũng vô lý hết sức. Vì ăn dùng như vậy có người làm quan trọn đời mà cũng như vậy. Lại có ông quan thăng trật cải lỵ mà dân dám đón đường đòi nợ như đám dân nguyện lưu. Vậy để tiền làm gì? Giả dối đến thế là cùng. Phải chăng để dành tiền đặng dùng sau lúc mình chết? Tôi chính mắt thấy có ông quan già về hưu mà còn sống nhờ vay nợ, phải chăng để dành tiền bạc di chúc cho con cháu trả nợ cho mình được sạch tiếng chăng?
__________________________________________
1. Nguyễn Hiến: Bậc cao đệ của Khổng Tử có cảnh nhà trên dột, dưới thì ướt.
SAO GỌI LÀ LIÊM?
Gọi rằng “liêm” vẫn tiếng tốt, song tại lương tâm mình chứ không phải dùng vật. Nay có người giữ theo tính riêng của mình khác với mọi người, như người xưa có anh say mê người con gái một mắt, xem người đời đều thừa một con mắt, mà cho là người đời không có người hoàn toàn; hay thấy người nào dùng một vật gì tốt mà xúm tay chỉ trỏ, làm cho người kia mang tiếng này nọ. Lấy cái tính quyến giới trái thường của mình mà đạc chừng sự tham mạo của kẻ khác xem người đời như ruồi hút máu, mà đem cái nết con trùn để buộc vào tính người (loài giun ăn đất) để so sánh chỗ mình khác người, đó há phải người bình tình nên làm sao?
Tôi thấy quan viên phương Tây gặp có vị quan nào cùng túng thì bạn đồng nghiệp, đồng liêu quyên giúp đặng mua đồ khí dụng tinh hoa, trần thiết cho có vẻ đẹp. Nhà nước đối với quan viên ngoài bổng lộc lại có tiền phụ cấp, cho xứng với chức quan và thể diện quan. Vì một người có điều xấu hổ như lá đổ xuống nước mương rãnh và dạy quan học thói tham vậy.
Nhà nước vẫn cầu cho quan được giàu sang và ghét quan tham ô. Làm quan tham ô nhục đến thể diện, ăn của đút lót, hình luật có phạt. Song có bổng dưỡng liêm mà sau tránh phạt kẻ không liêm, mới mong tránh khỏi mối tệ nói trên. Nếu ngăn phòng sự tham ô mà lại ghét ganh kẻ giàu sang, nào có khác gì nhân nghẹn mà bỏ ăn?
Vậy, trừ việc “hiếp người trái phép mà lấy của” đáng bắt tội ra, ngoài ra, theo việc thông thường mà làm nên giàu không hại cho ai mà dân được nhờ, cũng lại là đáng khoan, lại giúp thêm việc thịnh lợi cho nước. Tức như thầy Mạnh đã nói: “Trị người thì được người nuôi”.
Vả chăng tài hóa cần phải lưu thông, có tụ lại thì có tan ra, là lẽ tự nhiên, không lấy gì làm phương hại, Tiên Triết có nói: “Quan tham mà có phần trung hậu, hại dân chưa lắm. Quan liêm mà quá ư thâm khắc, dân chịu cái hại ngấm ngầm không ít, mà hao tốn đến quốc mạch”. Vì đã cần cho được tiếng “liêm” thì việc gì cũng thẳng tay, không chịu xét theo nhân tình. Đạo trời cũng thế, nên chỉ thi hành cái lệnh “túc sái” mùa thu, tội gì cũng tuyệt trừ đi, thì người và vật có lẽ đến ngày nay không còn.
Đời Đường, ông Hàn Dũ làm việc tể tướng, thấy có ai bới lông tìm vết, chỉ vạch điều lỗi của kẻ khác, ông bảo: “Trên đời, vua thánh như trời mùa xuân, sanh trưởng muôn vật; thứ tốt loài xấu đều bao dung cả. Sao lại tìm móc điều lỗi nhỏ của kẻ khác để giam cầm người ta giữa đời thịnh trị?”
Trương Tuấn, tôi đời Tống, một ngày nọ bắt được một đảng ngụy chở ba mươi vạn quan tiền, muốn kết án tử hình. Triệu Khai xin lấy cái ấn “Tuyên vũ sứ” đóng lên trên số tiền ấy, kêu tội “kềnh” (chạm chữ vào trán) bắt bọn chúng làm công việc đúc tiền... chỉ xoay một cái đã được ba chục vạn tiền, lại thoát tội tử hình cho năm mươi người, đời sau khen Triệu Khai là tay “đại thủ đoạn kinh tế”.
Tào Tham, danh tướng đời Hán, ủy thác cho người thay chức mình nói không nên làm rối chợ ngục. Quản Trọng, danh tướng nước Tề nói Bảo Thúc Nha không thể làm chính trị vì thấy người nào có lỗi thì trọn đời không quên (Không có độ lượng làm tướng quốc v.v... )
Trên, nói “liêm cũng có hại” là vì thế. Bằng như nói kẻ giàu sang lại tham ô, thì sao không trị tội một cách minh bạch công nhiên, mà chỉ lấy lời nói làm phòng hại người cùng cách bó buộc ăn ở để phòng hại đến quốc thể?
(Bài này cốt châm mối tệ đời Tự Đức, nên cực lực bác cái đức “liêm” giả dối đó. Đời nay thì dầu người liêm giả dối cũng đỡ cho dân).
KHÔNG DÙNG ĐỒ TỐT ĐẸP KHÔNG PHẢI LÀ LIÊM
Âu Tây thì khác thế: Không luận là quan hay dân, đều cần cho được giàu thịnh, vì quan dân trong nước mà có được nhiều cái tốt đẹp đều có quan hệ với quốc gia Triều đình. Nghiệm ở Triều và ở thôn quê mà biết nhà vua tôn quý là thế nào. Vào một nhà nào mà thấy bọn đầy tớ ăn mặc chỉnh tề, thì biết chủ nhà là giàu sang; làm con cái mà lập được cơ nghiệp tốt đẹp, đó là lẽ đương nhiên. Nay ở nước ta lại cố ý làm cho thô vụng xấu xa và có tục ngăn cấm sự ham đồ tốt đẹp, như có nhà nào dùng một vài đồ ngoại quốc thì nghi là tư giao, ngấm ngầm kiếm cách để làm hại, cho đến người đời lấy sự “tốt đẹp” làm kỵ húy. Từ quan đến dân, đua nhau làm những nghề tinh xảo ngày một tiêu mòn, dùng những đồ vụng rồi thể thống càng hèn, người giàu cũng như người nghèo, kẻ sang cũng như kẻ hèn, có cái thế đáng ham muốn mà không có sự đáng kính, không có cái vinh hoa phô với người. Văn vật ngày càng suy, áo xiêm càng xấu, không có vẻ tốt đẹp. Như nói lấy lễ mà tiết chế kẻo sợ người nước tập thói xa xỉ thì trên thế giới các nước đều lấy sự giàu mạnh mà khoe với nhau là ngu dại cả hay sao?
Trời sinh ra những vật tốt đẹp cho người sử dụng, mà nay lại ném bỏ đi, ấy là bạo khí của trời. Như thế thì việc thông thương mại, khuyên trăm thợ, không cần nói đến, giàu nước đủ dân cũng là sự đáng chê, lợi dụng hậu sinh, không có nghĩa gì, mà đặt ra trường học và xưởng công nghệ, cũng là việc không cần cả. Đồ khí dụng tốt đẹp, tạo ra mà không được dùng, lại kiêng sự dùng, khinh rẻ kẻ dùng, ai dùng lại bị chê cười nữa, thì dùng đồ tốt đẹp đó trở thành làm nhơ kẻ hiền đạt, nhục đến thân danh, rước lấy điều ghen ghét lại bị dòm xét này nọ, thì có khác gì làm cái hầm trong nước cho người nước xỉa chân vào hay sao?
Thánh nhân đời xưa không quý chuộng vật lạ là những thứ vô ích vô dụng mà khêu lòng dâm đãng kia. Nay như cái đồng hồ, cây đèn cùng cả đồ tinh xảo thường dùng trong nhà, cần thiết với nhân sinh thì dùng lại càng tốt. Vậy mà tôi đã hỏi nhiều vị quan sao không mua đồ ấy mà dùng cho tiện lợi, thì thảy cả đều trả lời “chết! chết!”. Không rõ có cái gì cảm hóa mà ngấm ngầm khiến cho người ta làm theo, như là luật hình nghiêm khắc đối với giặc bí mật.
Theo thông tánh loài người, ai cũng có tính ưa thích cái đẹp; nếu trái với cái tính ấy thì trăm việc không việc gì nên, mà trái với tính trời đã phú cho người. Duy dùng có tiết độ, vừa phải, ấy tức là lễ chớ đâu phải buộc cả mỗi người đều trốn đời tu hành mới gọi là “liêm” hay sao? Liêm như ông Trần Trọng Tử ở Ô Lăng (không ăn của anh, ở riêng một mình) mà thấy Mạnh Tử mạt sát, Tề Oai Hậu cho là đem dân vào đường vô dụng mà đòi giết đi.
TRỊ ĐỜI PHẢI XÉT TÍNH NGƯỜI
Thánh nhân trị thiên hạ, phàm việc gì bất cận nhân tình như kẻ trốn đời, tuy có kính trọng, mà không thể đem khuôn kiểu ấy ra dạy người đời. Sáng mắt như Lý Lâu, thấy cây kim trong buồng tối, nhưng cũng phải dùng thước, cân, lượng mà chuẩn, vì không lấy cái “sáng” đó mà buộc cho người thường được.
Vua Hoàn Công nước Tề háo sắc, mà Quản Trọng cho là không hại gì nghiệp bá. Vua Tuyên Vương nước Tề háo hóa mà thầy Mạnh cho là nên suy ra thành vương chánh... Từ xưa những vị vua anh hùng khai cơ dựng nghiệp, đều lấy sự “bảo trợ giàu sang, chung cùng lợi lộc” thề với những truy tùy với mình. Nếu mỗi người đều thành như Bá Di, tín như Hiếu Kỷ thì cùng ai mà tóm thâu thiên hạ làm nên nghiệp vương được? Và như các vị công thần, bỏ nhà cửa, lìa bà con, trông ngày sau được phong tước hưởng lộc đó, đều cho là hạng người bất trung và tham tâm cả sao? Như chỉ hứa bằng miệng suông mà không có thực lợi giàu sang đi theo sau thì mục “cửu kinh” trong sách Trung dung, có hai chữ “trọng lộc” cũng nên cạo bỏ đi cả.
Phải biết hai chữ “danh lợi” cùng đi đôi với nhau. Nay đã gánh phần lo cho thiên hạ mà không được hưởng niềm vui trong thiên hạ, thì ai còn khổ gì mà phải làm quan? Xưa vợ Trần Trọng Tử can chồng nếu chịu lãnh tước lộc thì phải gánh việc nước, e có điều nguy đến tánh mạng... người đời cho là hiền, vì trọng tính mạng mà xem nhẹ tước lộc. Nay đã bắt lo toan việc nước là việc nặng mà lại không được hưởng cái nhẹ kia, thì làm sao mà bảo trọng được?
Đời xưa vua đãi với tôi, như vua Nghiêu sắm đủ kho đụn để phụng vua Thuấn, vua Chiêu Công định phong Thơ xã cho Khổng Tử, có phải là đem cái mồi giàu sang mà dụ người đâu?... (lược) Đã là quốc gia phàm việc gì cũng gốc theo nhân tình và thông tính trời phú cho người, dầu thánh hiền cũng không khỏi. Nay lại mất cả người trong thiên hạ mà làm cùng khốn quê hèn, không phải là trái với tính người sao? Như vậy thì trông mong cho nhà nước giàu mạnh thịnh lợi để dùng làm việc gì mà lo toan cho mệt nhọc?
VẬT CHẤT CÓ QUAN HỆ VỚI TINH THẦN
Người xưa đến một nước nào, vào trong nước mà trông thấy đô thành tráng lệ, lâu đài phố xá chỉnh tề sạch sẽ, đô thị có ngăn nắp, nhà cửa có hàng ngũ, đồ mặc đồ dùng có vẻ chỉnh sức, không khí trong sạch... thì biết là nước ấy có cái cảnh tượng hùng thịnh tấn tới, trái lại nếu trông thấy nhân vật quê mùa hèn hạ, phong cảnh u sầu, ăn ở tệ lậu, trông phong sắc có dạng buồn rầu cực khổ thì tương lai của cái vận nước ấy không đợi nói mà ai cũng hiểu được; điều quan hệ đó, đâu phải là việc quan hệ nhỏ (Thuyết này rất đúng, không rõ Triều Tự Đức có quan cảm thế nào?)
Nói riêng ở chỗ Kinh thành đây, cái ao trong ngoài thành để cỏ mọc um tùm, chung quanh thì làm nơi chứa những rác rến dơ bẩn chất thành từng đống, có nhiều hơi độc. Nhà cách trí có nói: Phàm những nơi ẩm thấp đồ dơ bẩn của người và vật, chấm ngấm trong bùn đất, đến mùa nắng khí độc xông lên, người ta gặp phải sinh tật bệnh cảm nhiễm đến chết. Xem hôm nào trời động trên mặt nước có cái sắc khác với ngày thường, đó là chứng thực rõ ràng. Bằng như nói sợ động đất không nên đụng chạm đến các ao đó, thì trước kia đào những ao đó làm gì? Mà đã vô dụng thì lấp bằng đi, sao lại để cao không cao, thấp không thấp, ao không phải ao, ruộng không thành ruộng, làm những khoảng đất trống vô dụng làm mối hại lâu dài ngấm ngầm cho người đời? Nay như nhận những cái cũ sẵn có đó mà chỉnh đốn cho thành mới, nuôi cá phải phép thì mỗi ao trong một năm có thể lợi được hai ba ngàn quan tiền, lại được những điều ích hơn là phong cảnh vui đẹp, có lợi dùng nước để tưới vào hoa quả và tuyệt khí độc sinh bệnh hoạn. Như thế vì cớ gì mà không làm được?
Tôi lại thấy các nước trên thế giới, phàm những dấu tích của các vị đế vương đời trước còn lưu lại, bất kỳ thứ gì có mồ hôi tay và miệng của tiên triều, không luận cái lớn hay nhỏ, đều bảo tồn một cách rất cẩn thận, cho đến lâu đài quan phủ cũ đều chăm sóc chỉnh đốn cho mới thêm, khiến cho người sau trông thấy huân nghiệp hùng vĩ, biết là cội gốc sâu xa mà sinh lòng yêu mến sùng bái cũng lâu dài. Điều quan hệ không phải nhỏ, chỉ xét về mặt trái thì biết. Song đó là điều kỵ húy không dám nói rõ.
ĐI XE VÀ ĐI GIẦY
Xa chính (trong nước dùng xe để đi và vận tải) có lẽ nước ta bỏ đã lâu mà không tu chỉnh lại. Trên thế giới từ nước hạng nhất đến nước hạng ba không nước nào không lấy xa chính làm việc trọng đại, vì giúp cho sức người rất nhiều công việc. Xưa nay trên sử sách nói về xa chính đều có minh chứng không đợi nói nhiều.
Trời sinh vật để giúp cho người dùng và thay sự khó nhọc cho người nữa, dùng trâu ngựa kéo xe chở đồ nặng, trên đời thường dùng ít mà thu công nhiều. Nếu dùng sức một, hai người mà mang gánh không phải phụ cái ý “trời sinh vật cho người dùng” hay sao? Đến xe cộ dùng vào việc binh, công dụng rất lớn, không nói hết được. Đã có xa chánh (có xe phải nuôi ngựa), mà nghề mục súc cần phải mở mang, không phải là việc lớn trong quốc chính sao?
Tôi thấy những người phu kéo xe và đẩy xe chở vật hạng trên đường cái quan, nếu có người nào quá nhọc mệt mà ngồi lên trên xe thì kẻ hạch hỏi và bắt phạt tội, không rõ có điều nghiêm cấm ấy không mà họ làm như thế? Nếu như nhận thứ xe làm đồ phẩm dụng quan dụng thì phân biệt bằng quy chế để chỉ rõ từng đẳng cấp (xe quan dùng, xe dân dùng, có dấu hiệu v..v...) không tiện sao? Sao lại không chỉ rõ đẳng cấp, mà cứ để mù mờ để hẳn một việc dùng lớn trong nước? (Trong dân không có xe). Có tiện lợi cho việc dùng mà sau dân được phong hậu, tức là ích cho nước. Các nước thế giới đều nhận việc xe cộ vận tải làm mối lợi giàu mạnh trong nước, quan hệ cả công tư, không phải là việc nhỏ. Việc dùng thế nào không đợi nói nhiều.
Thứ giày là việc hèn không đáng nói. Người sở dĩ khác với loài vật là biết ăn thịt nó, dùng da nó để giữ thân mình cho tròn vẹn, cha mẹ sinh thế nào thì bảo tồn thế ấy, không làm hại đến có vết tích, ấy gọi là hiếu. Nay người mình đem cái chân cha mẹ sinh thành mà không từ gai góc, không tránh sạn sỏi, nhơ bẩn và trùng độc, cứ đạp bừa mà đi. Vì thế người mình thường sinh bệnh lở chân, lở cẳng (ghẻ chùm bao và dạn v.v...) nhiều hơn nước ngoài.
Trời sinh loài thú ban cho nào nanh, nào móng, lại có da dày rất bền, đâm không thủng gai không đâm được. Nên loài vật không cần đi giày cũng có đồ tự vệ. Đến loài người da chân rất mỏng, có cái gì chạm là lủng, đã không có da dày như loài thú để giữ cái chân, lại không dám mang giày, người không giống người, vật không giống vật không phải một điều khổ sao?
Các nước thế giới không nước nào dùng thứ giày làm vật phẩm quan dụng (Quan dân có tiền thì sắm mà mang), vì nó là vật hèn. Như nước ta nhận lầm là vật phẩm dụng (Dùng để phân biệt với người có quan phẩm) thì trên đôi giầy mang một dấu hoa hay vẽ gì đó để phân biệt quan dân cũng được, cần chi phải cấm thứ “giày” hèn đó khiến cho dân gian không ai dám đi giầy để cho người ngoài cười mình là dân dã man? Chưa nói người mình cần giầy thì thêm được một nghề cho người có việc làm, đó là điều ích. Chứ như không mang giầy mà chân bị thương thì toàn thân đều không dung. Người xưa lúc ra trận bị đâm nhằm vật nhọn, bị té ngã mà toàn quân bị thua, chứng rằng “giày”, vật tuy hèn mà công dụng rất lớn vậy.
(Dân gian đi giày không có minh văn lệnh cấm đời nào. Song xem đời Nguyễn Trường Tộ tiên sinh thì đời Tự Đức có lẽ theo tục lệ, quan thấy dân đi giày thì quở phạt. Hiện nay một vài nơi phủ huyện học trò và dân đi giày, guốc có nơi bị quở đánh, thì tục lệ vẫn chưa dứt hẳn. Một điều lạ là phương Đông như nước Tàu mà mắng người thường dùng tiếng “lão không giầy” (vô lũ chi lão). Còn người Nhật toàn đi guốc cả nên có tiếng là nước guốc gỗ. Duy có nước ta dân gian không đi giầy, đến ngày nay dân quê còn thế, đó là cái chứng nghèo chăng?)
Trời sinh loài người khiến biết tạo các vật dụng để phân biệt với loài vật, để toàn đạo làm người, là vì lẽ gì? Nói nhường riêng một thứ giày đó để quan dùng cho trọng sự tôn kính, thì giày ở dưới chân vẫn là đồ khinh, còn áo mặc mới là trọng, sao không cấm thứ trọng để quan được mặc áo, hưởng sự quan trọng đó? Mà bắt dân gian làm “nước ở trần trụi” không được mặc áo, không cần trồng dâu để nuôi tằm, không dễ dàng hơn sao?
Thánh nhân chế lễ, gồm cả việc nghi văn để bày tỏ là có lễ có văn mới gọi là lễ; nếu như trần vai truồng mình thì gọi là khinh mạn. Nay ở trường ca xướng hát bội thì bọn hát được đội mũ đi giày, thì ra lấy trường hát bội làm trọng, mà khinh rẻ nhà công đường sao? Tôi không rõ từ đâu mà sinh ra cái tục đó, rất trái với bản ý lễ của thánh nhân.
MỘT VÀI TỤC XẤU CỦA PHỤ NỮ
Đến như phụ nữ ta, lại có lắm điều vô lễ; tôi thấy trên thế giới người đàn bà đã 50 tuổi mà không khi nào lộ nửa thân thể ở trần bao giờ. Tuy dân Mã Lai là dân bậc chót, đàn ông nửa mình trên đều ở trần, mà con gái thì bận kín. Đến người nước Tiểu Tây (Thổ Nhĩ Kỳ) thì con gái, đàn bà chỉ để lộ hai con mắt, mặt mũi đều che kín cả. Người ta làm thế là để phòng nhàn sự phi lễ.
Nay đàn bà xứ ta, thường thấy nửa thân trên ở trần (ở Kinh thành cũng có thế) mà trước mặt công chúng đông người xắn quần đến trên đầu gối, như đàn ông bận khố, trông như vị hòa thượng không mang một sợi tơ... Đời xưa nói “mẹ chín con” nay hẳn thấy thế, quê xấu biết bao? Sao không biết hổ đến thế. (Đoạn này nói ở trần đi tắm và giỡn cợt nhau... Xin lược).
CHỬI RỦA
Đến trong ngôn ngữ giao tế với nhau lại lắm điều không thể đặt tên được:
Nước ta những nơi thành phố chợ búa không luận đàn bà trẻ con ngu dốt không biết gì đến người có học có biết chữ mà mở miệng là nói tiếng mắng chửi và lời thô bỉ nói luôn đầu môi. Tập thành thói quen, những tiếng “mắng cha chửi mẹ” cùng tục tĩu, người nghe đến nhơ cả lỗ tai mà tự người nói lại lấy làm khoái, cho đến dạy câu mắng, học bài chửi, đọc ra có cung, có điều, nếu như người nào mắng chửi cả ngày mà không trùng lặp, thì người ta xem như Tô Tần, Trương Nghi trong khoa mắng chửi, chiếm giải quán quân vì miệng chửi như nước chảy không khi nào cản vậy!
Đến lúc diễn ra cái bộ dạng mắng chửi, tiếng như mõ rao, chân như múa hát, lên tay, xuống ngón, mặt như sơn đổ, tóc như tơ vò, nước miếng như bọt giải, tay cầm đất lia, chân đi cà xiểng không khác gì người điên... Những thói xấu đó thật là ba phần giống người bảy phần giống ma quỷ. Trước đây lúc người Tây mới đến Gia Định (Nam kỳ) một lần thấy hai người Nam đang mắng chửi nhau, lên tay xuống ngón, múa men v.v... họ xúm lại xem cho người Nam làm trò. Sau họ biết rõ hễ thấy đám mắng chửi nhau, thì dùng “ba toong” giải tán ngay.
Lại còn một điều xấu nữa, hễ có điều bất bình với ai thì phát thệ và nguyện rủa chúc dữ rất nặng. Thường ngày cùng giao du với nhau mà đến ghét bỏ nhau, chất chứa điều bất bình lâu thì khi yêu nhân đó mà sinh ra. Như cho là vô hại thì trong luật có điều “cấm nguyền rủa” làm gì? Đời Hán, Giả Nghị lấy gương nhà Tần làm răn, không phải là vô cớ. Vì đối với đồng bạn mà nguyền rủa minh bạch thì đối với người trên, há không nguyền rủa âm thầm hay sao?
(Có dẫn vài chuyện “rủa” làm chứng, xin lược).
“Không nên nói điều phi lễ” thánh nhân có dạy: “Mắng chửi bị án xuy mười roi”, luật có điều ấy rõ ràng. Nay thói ấy đầy cả thành thị mà cứ để như vậy thì còn dùng sách và vật làm gì? Việc nhỏ như thế mà không lấy lễ phép chỉnh tề sửa đổi lại, huống chi việc lớn. Ngoài ra như “đầy miệng điều láo, một ngày bán được ba gánh giả, đến đâu cũng dối, ba ngày không mua được một điều thiệt”. Thật là không còn chút lễ nghĩa liêm sỉ nào. Cái phong tục khiêu bạc đến thế là cùng! Thế giới chưa có nước nào như xứ mình. Phép nước mà không làm cho người nước đổi ngoài mặt thì còn nói đến chuyện hóa thành tục mỹ được?
Trên mấy khoản là tựa chỗ gần mà thường thấy, nên chỉ trực tự như thế mà không nói đến phương cải cách. Vì việc cải cách đó rất dễ...
DI
THẢO SỐ 48
Thương lượng với Giám mục Croc*
(22 tháng 5 năm Tự Đức 24, tức ngày 11-5-1871)
Kính bẩm,
Từ khi giám mục Hòa đến, tôi hằng đêm suy nghĩ kỹ tình thế hiện tại, biết rõ rằng hiện nay tình thế bên nước họ cũng chưa ổn định. Tuy muốn giao hảo trở lại với Phổ mà chấm dứt xung đột nhưng Phổ đòi giá quá cao nên họ không gánh nổi, một nửa cũng muốn sống mái một phen, một nửa lại muốn chịu nhục nộp tiền bồi thường. Cả hai đều chưa dứt khoát. Lại nữa nước họ một nửa những người có quyền muốn lập Cộng hòa chấp chính để giúp cho phe nhóm của mình. Còn những người mưu việc chính trị ở Viện Thứ Dân thì muốn lập dòng dõi của vua trước lên (là người chính thống từ xưa nay) để đổi mới nền chính trị. Những người đương cầm quyền thì hết 8, 9 phần 10 đều là người kiêu căng khoe khoang chuyên chế tính khí bất thường. Cho nên họ bàn việc thì phát ngôn bừa bãi chăng nghĩ gì đến việc lợi hại. Vì vậy giám mục có nói riêng với tôi rằng: Việc mà Triều đình muốn, nếu thương thuyết với đảng của họ thì có thể được một cách thình lình hoặc cũng có thể sinh sự một cách bất chợt, chưa thể nào chắc chắn. Bởi vì họ vui giận bất thường. Bọn họ là những người đem nghĩa lý cất kỹ trên gác cao. Những người chính nhân quân tử đều chán ghét họ lắm. Cho nên giám mục suy nghĩ kỹ việc này thấy không có manh mối gì cả thành thử không dám nói chắc (Đó là những ý mà giám mục bàn định riêng với tôi về việc được hay thất bại chứ không phải nói ở chỗ công sở). Nay đảng của họ lại muốn thu lấy nhiều của cải ở sáu tỉnh cho nên việc thông thương lợi ích họ còn rất trì hoãn không để ý.
Như tờ bẩm trước tôi đã nói thay đổi thời cuộc còn khó là vì vậy. Nay người con cháu nhà vua thật là người tốt, mà những người đứng đầu ủng hộ việc lập con cháu nhà vua cũng có nhiều hảo tâm. Còn người con cháu nhà vua, giám mục cũng có biết qua, những người đứng đầu chủ trương việc suy tôn nhiều người ở gần làng với giám mục và giám mục có quen biết một hai người. Nếu may ra người con cháu nhà vua được lập lên và sứ bộ đi Tây mà Triều đình chẳng chê bỏ kẻ hèn mọn thì giám mục vui lòng gắng sức làm công việc sai bảo này. Như vậy giám mục mới bằng lòng. Có điều là những người ấy phần nhiều là những người lương thiện, họ không theo bọn loạn nghịch nhưng mà cứng mạnh đối địch lại bọn kia thì cũng khó ra tay. Do đó việc rước người con cháu nhà vua để suy tôn cũng chưa rõ ràng. Ngày trước giám mục gặp vị nguyên soái trước (Vị này đã về Tây, nguyên soái nay đến thay, y không phải thuộc dòng dõi nhà vua, trước đây vì nghe lầm mà nói) nói rằng: Triều đình có gửi thư cho giám mục ý nói sơ lược về việc ký thác việc đất đai mà về. Nhưng phương lược chưa được sử dụng hết, cho nên giám mục chưa vội thương thuyết. Giám mục nói: Nếu như trong khoảng tháng 7 tháng 8 tháng 9 năm ngoái mà Triều đình tìm ra đường lối thì việc đổi đất gởi đất tưởng cũng dễ có cách. Nhưng nay thì khó nói rồi. Lại có một lần giám mục ngẫu nhiên nói với tôi (Đó là thốt nhiên lộ ra với tôi một câu thôi, nhưng ở trước mặt đại nhân thì chắc chắn không dám lộ ra) rằng: “Hai con cọp giành ăn, đó là cái kế thiên hạ cũng đã dùng nhiều. Có điều là nếu không giỏi về thuật tung hoành thì không thể làm được. Nước Nam cũng đang có cái thế ấy”. Giám mục nói đến đây chợt khựng lại. Thấy vậy tôi bèn nói lảng sang chuyện khác, không dám hỏi lại, coi như lời nói vô ý vậy thôi. Còn về khoản đổi đất, giám mục nói rằng: Quan bố chánh Ngụy đại nhân cũng có lộ cho biết, Giám mục cho rằng thế cũng tốt. Nhưng nghĩ rằng đảng của họ không cho là quan trọng vì không đem lại lợi ích cấp thiết cho dân họ.
Chung quy giám mục nói rằng: Việc đời biến hóa vô thường. Bủa lưới bắt chim hồng chẳng phải vì khó bắt được mà không làm. Tùy thời mưu sự, cùng đường thì kêu trời, đó cũng là thế gian thường tình, chẳng nên vì thành bại mà thở than. Giám mục bàn chuyện với tôi tựa hồ thật chẳng giấu giếm tránh né gì cả, nhưng trước mặt liệt vị đại nhân thì lời lẽ phần nhiều úp mở dè dặt vì sợ thêm nặng nề mà không cất nên nổi. Có điều là giám mục đối với nước ta cũng có được sáu, bảy phần tình cảm tốt đẹp chứ không thiên lệch bênh vực cho nước của người như những người khác. Còn tôi trong khi nói năng thì dùng lời lẽ khéo léo tách bạch ra, thăm dò những chỗ khúc mắc xem như thế nào chứ không dám lộ bày sự thật, mục đích để thử xem đối với thời cuộc như vậy thì giám mục tính toán ra làm sao. Cho nên sự thế ấy cũng chưa nói hết. Trước đấy khi giám mục ở tại Bộ Hình có nói câu “Dùng sức dùng mưu”. Khi về, tôi trách rằng: Triều đình muốn đem tình nghĩa thủy chung ra đối đãi nhau chứ nào có ý dùng sức dùng mưu chi đâu? Giám mục nói: Câu nói gởi đất mà về, tuy không rõ ràng là dùng sức, nhưng tận dụng mưu kế ấy tức là trong âm thầm dùng sức mà bức lấy. Điều đó thiên hạ đã làm nhiều rồi. Có điều là Triều đình thi hành muộn đấy thôi. Nói dùng sức không có nghĩa là nói Triều đình đem binh lực ra chống chọi lại.
Kính
bẩm.
(Giám mục nói: “Nghe nói Triều đình muốn sang nước Y. Tôi cũng không hỏi giám mục xem giám mục đã nghe ai nói thế. Tôi chỉ hỏi rằng: Nếu đi có ngại gì không? Giám mục nói: Nước Y xưa nay chỉ vì nước Pháp mà duy trì không dám vội gây sự gì khó khăn. Nay nước Pháp có việc, phải tự lo liệu không được rảnh rang. Nếu người Y tự gây hiềm khích mà đem binh ở Lữ Tống đến quấy nhiễu thì nước Nam lại sinh thêm một kẻ địch nữa. Nếu đi Tây mà yêu cầu nước Y nói khéo giùm cho, mới là khéo xử sự tình thế hiện tại. Những lời giám mục nói, đại lược cũng một vài điều tương tự với tờ bẩm trước của tôi).
______________________________________
*. Bản Hán văn Hv 634/4 tờ 155-160.
Không ghi ngày tháng. Nhưng di thảo số 48 nói tờ bẩm “22 tháng này”.
DI
THẢO SỐ 49
Tình hình chính trị nước Pháp với công xã Paris*
(Giữa tháng 5-1871)
Kính bẩm,
Nay vâng Cơ Mật Viện đại thần liệt vị đại nhân mật hỏi về việc những điều trước đây tôi đã trình bày về sự thế với những điều giám mục nói hôm nay có chỗ trái nghịch nhau là vì lý do gì? Tôi xin trả lời như sau.
Theo các tờ bẩm trước tôi đã trình bày là nên thừa cơ hội trong lúc việc chấp chính bên nước họ đang bấp bênh mà liệu định công việc của mình (Từ tháng mười năm ngoái trở về sau việc chấp chính hãy còn hợp nhất. Nếu tình hình còn kéo dài như thế thì cũng dễ liệu tính công việc. Đến tháng hai năm nay thì những người nắm quyền chấp chính có thể nhập vào đảng tôn vương, hoặc về vườn, hoặc hợp nhập với loạn đảng). Đó là tôi nghe được tình hình lúc mới khởi loạn mà tiên liệu tình thế như vậy. Nếu cuộc diện quả đúng như các tờ bẩm trước mà không xảy ra biến cố gì thì có thể tìm được mối manh (Như tờ bẩm trước tôi đã nói: Quốc trưởng bên nước họ mới tính việc lập đảng để củng cố nội bộ, như thế thì mười phần họ không để ý đến việc xâm lược phương xa). Nhưng sự thế thay đổi bất thường. Nay theo chỗ giám mục thấy thì đảng ấy quá rời rạc không có hệ thống gì cả khó đề đạt được gì. Đó là trên đường về giám mục nghe thấy thêm như vậy (Khi giám mục về Kinh đến Bình Chánh được nghe tình thế lại xảy có biến cố. Khi giám mục ở tại Bộ Hình, những điều giám mục nói là tình hình nghe được từ tháng giêng đến hạ tuần tháng ba năm nay, mà nói chung như vậy). Cũng như những sự lý tôi trình bày trong tờ bẩm ngày 22 tháng này cùng với các tờ bẩm trước hơi có chỗ bất đồng đó là căn cứ theo chỗ bí mật thương nghị giữa giám mục với tôi mà nói. Những điều nói ra không có gì tránh né ẩn giấu cả. Nếu trước mặt liệt vị đại nhân giám mục nói có vẻ sơ lược và không đi sâu. Đó là thể thống cách nói năng phải như vậy chứ không phải có ý thoái thác gì đâu. So với những gì tôi mới trình bày thì cũng thống nhất, chỉ hơi khác là nói cạn và nói sâu mà thôi.
Ngày nay tờ bẩm của tôi có nói: May mà nước họ chấm dứt kẻ địch bên ngoài thì nội loạn sẽ lại khởi lên. Bởi vì nước họ xưa nay truyền nhau theo hệ thống chứ không có phong tục thừa hưởng lâu dài theo lối tập nhượng như các nước. Cho nên khó tạm lập thủ lãnh và như thế chưa chắc sẽ không có sự gì xảy ra. Như năm trước, khi đông cung thái tử ở bên Tây, nước ấy sau đó có loạn lớn mấy năm cũng giống như tình hình hiện nay. Nay mới được tin báo chí nói rằng (Tin này từ Gia Định gởi đến Bộ Lễ trao cho giám mục mở xem. Sự thế bên nước họ từ trung tuần tháng ba trở lại do tin điện truyền đến Gia Định in vào báo tiếng Tây cho người Tây xem chứ không phải nói sơ lược như tờ Gia Định báo. Còn các tin tức do thuyền nhật trình thì chưa đến. Tin tức theo tin điện nói như sau): Hiện nay Phổ Pháp đã tạm nói chuyện hòa nhưng yêu sách chín khoản quá nặng nên chưa ký kết, trong khi dân Pháp phần đông xôn xao như muốn quyết một phen sống mái (Loạn đảng của họ cũng chủ trương không hòa với Phổ để mượn kế lôi kéo dân tâm về với họ mà chống lại các quan quân chủ hòa) như vậy hòa hay chiến tưởng cũng chưa quyết định. Lại nữa hiện nay trong nội thành Ba Lê Tư loạn đảng chiếm cứ, thành Mã Sai, thành Lê Ông và các thành khác phần nhiều có loạn đảng tiếp ứng nhau hoặc lén đến thành Ba Lê Tư hợp với loạn đảng, hoặc tiếp ứng ở ngoài quấy phá bốn mặt. Đảng quan quân hãy còn chống nhau với loạn chúng thắng hay bại chưa chắc. Tháng trước quan binh đã đánh một trận lớn với bọn loạn ở thành Ba Lê Tư, bọn loạn chết đến một vạn rưỡi, nhưng thế lực của chúng còn mạnh, chưa thể một sớm tiêu diệt sạch được. Vì thế tuy việc bàn lập vua đã thành nhưng chưa cử hành được là do loạn quân.
Nay quan quân có nhiều người tốt, trong đó có đại tướng Mạch Mã Hàn. Cho nên giám mục hy vọng việc lập vua có thể thành tựu được. Cứ theo sự cuộc này thì đúng thật không sai. Nếu quả vậy thì sứ bộ ta chắc chắn không thể đi được vì đường sá bế tắc mà loạn đảng thì muốn nắm quyền. Nếu ta chí cầu quan binh nhưng lỡ gặp loạn đảng thì chắc chắn sẽ bị nhục thêm là vì ta không đến cầu họ mà lại đến cầu quan binh. Tháng trước (Khi giám mục chưa đến) tôi cũng đã bẩm miệng với Phan đại nhân rằng: Nếu chỉ đến bàn với nước họ thôi thì nán lại một ít đợi nước họ lập vua xong hãy đi. Đó cũng là một kế sách. Bởi vì việc đi đứng như vậy rất quang minh chính đại và việc đi đứng của ta sẽ được nguyên soái của họ bảo hộ đưa tiễn trọng vọng. Bấy giờ ta đã khỏi tốn sở phí mà công việc cũng dễ nói. Nếu chờ sau một vài tháng có tin mới chắc sẽ biết rõ cuộc diện nước họ ra sao (Dù chưa bình định xong nhưng cũng đã biết đàng nào ra sao). Nếu quan binh thua nhiều thì chắc chắn nước họ sẽ loạn lâu, như 40 năm về trước. Bấy giờ Triều đình muốn quyết định lựa chọn như thế nào (Tức là đến nước họ dùng kế nhỏ nhẹ đấu dịu để thảo luận xin sáu tỉnh) mới có thể quyết định được. Còn nếu muốn đi khắp thiên hạ để thi hành mưu kế của ta thì đã có các tờ bẩm trước nói rõ rồi. Đó là tình hình mới nắm được từ sau hạ tuần tháng này như vậy. Tôi ngày nay tinh thần phiền loạn chưa dám nói nhiều sợ có điều lầm lẫn. Nhưng việc ấy hãy còn nhiều ngọn ngành, xin để trình bẩm sau.
Nay kính bẩm.
______________________________________
*. Bản hán văn 634/4 tờ 154-155.
Không ghi ngày tháng, có lẽ viết liền sau bản 22 tháng 3 năm Tự Đức 24, tức khoảng giữa tháng 5 năm 1871.
DI
THẢO SỐ 50
Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng*
(Tu võ bị)
(Ngày 2 tháng 5 năm Tự Đức 24, tức ngày 19 tháng 6 năm 1871)
Kính bẩm rõ về việc tu chỉnh võ bị.
Tôi xem phép chinh chiến xưa và nay thấy có chỗ bất đồng rất lớn. Việc khó nhất, quan trọng nhất không gì hơn việc binh. Đâu có thể nào cứ giữ như tình thế lúc bình thường mà đối phó được sự biến bất thường. Những vật dụng thời xưa, nay xem lại đã thấy thô sơ xấu xí không dùng được, huống chi là việc binh, ngày nay có thể áp dụng theo phép xưa được sao? Tôi đã xem nhiều nước phương Đông từ xưa đến nay, những điều mà tất cả những nhà binh pháp thi hành ứng dụng và các danh tướng bài binh bố trận, từ mưu lược cho đến trận pháp, thành đồn, khí giới, binh lính ra sao, tướng lãnh thế nào, làm sao mà thắng, vì sao phải bại, nhất nhất tôi đều lãnh hội vận dụng khéo léo, mới biết rằng binh thế biến đổi tùy theo mỗi thời, và đến nay hầu như đã thay đổi hẳn. Tôi cũng quan sát các nước phương Tây từ xưa đến nay, vấn đề phải biến đổi tùy theo thời cuộc, cũng giống như ta mà thôi. Tôi có xem viện bảo tàng ở phương Tây, trong đó trưng bày la liệt đủ thứ binh khí cổ, tôi cũng đi xem các thành lũy xưa hiện còn di tích, rồi đem so sánh với ngày nay, thì thật cách xa nhau như trời với vực. Các nước phương Đông, giỏi dùng binh nhất là Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật Bản (Tôi đã đọc nhiều sách Nhật Bản). Các nước Trung Quốc, Mông Cổ, Ấn Độ, Ba Tư đều chỉ theo chính sách tự vệ. Còn các nước hạng ba như nước ta, Cao Ly, Xiêm La, Miến Điện v.v… chỉ được xếp vào loại ngoài ngõ ngoài hè mà thôi. Nói về tài mưu lược, người thời nay cũng khá hơn so với thời xưa. Bởi vì vận đời càng sa sút thì mưu trí con người càng tăng, lòng dối trá cũng ngày một tinh xảo. Mọi việc đều như thế cả, không riêng gì một việc binh.
Người xưa chế tạo vật dụng để thích ứng với công việc. Họ tạo ra mô dạng như vậy là ứng dụng đúng vào thời thế lúc ấy. Làm sao lại có thể cứ giữ mãi một thứ khí cụ chế tạo từ thời thượng cổ đến nay mà không cải biến? Binh gia cũng vậy. Tất cả khí giới trận pháp, thành đồn, nếu sống ở thời buổi này mà cứ trở lại theo xưa, thì rõ ràng không ứng dụng hợp thời được. Như thế những gì tiền nhân chế tạo để lại, nay tùy thời canh cải, rõ không phải phản bội người xưa, mà để ứng dụng cho hợp thời thế mà thôi. Đâu có thể cứ dùng mãi một phương pháp nhất định đến hàng trăm năm được sao? Sở dĩ năm trước trong bài Tu võ bị tôi xin cho soạn lại binh thư và chế tạo lại những thứ khí giới không còn hiệu nghiệm, chính vì lý do đó. Hãy xem Kim thang tá trợ, cũng là sách mới đây, trong đó Đột môn là phương pháp hay nhất, thế mà nay cũng không dùng được, huống nữa là những thứ khác. Nước ta hiện nay, các phương pháp binh gia đều theo lối cổ, thế mà sự cư xử giữa tướng đối với binh, binh đối với tướng thì lại theo mới hết. Điều đáng dẹp bỏ lại để, điều đáng giữ lại dẹp bỏ. Như thế đâu phải là thay đổi trong binh gia? Phép dùng binh của phương Tây ngày nay, về trận pháp, thành đồn, khí giới đã hoàn toàn lột xác. Riêng về đạo làm tướng như các đức tính nhân, tín, dũng, nghiêm, cho đến yêu lính như con, thận trọng khi gặp việc, họ còn gìn giữ tốt hơn xưa. Như vậy mới thật là khéo biến hóa.
______________________________________
*. Bản văn chữ Hán 634/1 tờ 66 - 85
Không ghi ngày tháng, nhưng Trần Hữu Huyên trong bản dịch trên VĂN ĐÀN số 35, tháng 7-1962, nói: “Ngày 2 tháng 5 năm Tự Đức 24”
Trước đây, khoảng năm Tự Đức thứ 22, tôi có bẩm một tập về Tái tu võ bị trong đó tôi có nói đến trường hợp tỉnh Nghệ, từ thành nội đến thành ngoại, cho đến doanh trại đồn lũy chợ búa bốn chung quanh, phần nhiều phạm vào điểm kiêng kỵ của binh gia. Nói thế không phải dám chê người xưa là vì thời xưa bố trí được như thế đã khéo lắm rồi. Lấy hình thế binh pháp ngày nay mà quan sát, hơn nữa là người đã học cả pháp xưa lẫn pháp nay như tôi, mới biết như thế không còn thích nghi vớii binh pháp thời nay nữa. Trong tập, trừ các khoản đã đề cập, nay không bàn đến, còn như trồng cây, lập các đồn nhỏ ngoài thành là những khoản có công dụng rất lớn mà binh pháp xưa cũng đã nói nhiều. Về khoản xin lập đồn ở ngoại thành, tuy xuất phát từ phương pháp phương Tây nhưng phép bố trí của tôi còn hay hơn một bậc. Điểm này quả thật tôi không dám nói phóng đại. Năm xưa khi ở Gia Định có người Tây đã từng khen rằng người như tôi việc gì chẳng làm được (Người này đã từng xây dựng doanh trại lớn và đã đến hỏi tôi một vài lần bởi biết rõ tôi có tài này. Có điều là tôi cũng không để cho họ dùng cái tài của tôi ). Còn đối với ta, Triều đình chưa biết tài tôi, bởi người ta xem thường mà cũng có chút ít nghi ngờ nên chưa dùng. Cho nên nếu y theo binh pháp của tôi rồi lại xem hết các binh pháp phương Tây ngày nay, hơn nữa phải là người giỏi về địa lý binh pháp, mới thất được chỗ hay hơn của binh pháp của tôi.
Hãy xem trận chiến giữa Phổ Pháp, cũng có thể nghiệm được lời tôi nói. Có một lần quân Pháp đóng ở đồng bằng, quân Phổ đóng ở rừng cây, quân Pháp thua một trận lớn, tử vong rất nhiều là vì chỗ đóng quân của Pháp không có cây cối che đỡ. Sau có vị đại tướng Pháp xin chặt hết cây nhưng vua Pháp không nỡ cho chặt. Lại có một lần vua Pháp muốn tiến vào một thành nhỏ nhưng vị tướng Pháp cho rằng bốn bên chung quanh thành không có đồn để làm thế ỷ dốc, không thể cố thủ được, do đó không dám tiến đóng. Lại có một lần vua pháp bị hãm trong thành, tuy ngoài thành bốn mặt đều có đồi cao, đồn lũy, nhưng đã bị quân Phổ chiếm hết. Quân Phổ từ trên cao đổ xuống vững như tường dựng. Quân Phổ thắng nhờ chiếm được các đồn trên cao ở ngoài thành. Quân Pháp thua vì mất địa lợi. Binh như Tây binh mà một khi mất địa lợi còn không thể giữ được, đủ biết địa lợi đối với binh gia quan trọng đến bậc nào. Xem thế thì thấy lời nói của tôi nghiệm đúng. Chỉ vì người ta khinh rẻ cho là lời nói làm bẩn tai, cho nên triều đình chẳng thèm để ý.
Giá như Khổng Minh sống lại mà chép tập này, dù có một hai điều không đúng người ta cũng không dám bàn. Bởi vì tên tuổi có thể bịt được miệng người. Cũng như các trạng nguyên, bảng nhãn, văn chương của họ đâu phải chữ nào chữ nấy đều là châu ngọc? Nếu có một hai câu không thông suốt lắm bọn học hành thấp kém lại cho rằng mình chưa đủ trình độ để phê phán. Suy ra mọi việc ở đời cũng thế thôi. Điều mà tôi nói phương pháp của tôi vượt trội hơn đó, nếu Triều đình đã biết sơ qua phương pháp của phương Tây, hoặc có một quan lớn nào đó cùng đi với tôi tôi sẽ chỉ cho thấy phương pháp phương Tây như thế này, như thế kia, đến khi về xem lại những điều tôi nói trong tập bẩm trước, mới thấy chỗ đặc biệt của phương pháp của tôi. Còn những chỗ khéo léo trong việc áp dụng thi hành thì nhiều lắm, một tập một quyển không thể trình bày được. Nếu ngày nào tình thế có thể thi hành được, tôi sẽ đến ngay tại mỗi địa thế trù liệu tính toán, chỉ rõ phương pháp xây cất, đồng thời chỉ rõ phương pháp ứng dụng phù hợp với địa thế trong trường hợp địch công ta thủ như thế nào, sau đó mới biết được cái hay của nó. Còn nếu cứ nói suông trên giấy chẳng khác nào vẽ trăng, vẽ khéo đến đâu cũng không phải mặt trăng thật.
Lại như Kinh thành sự đặt định hợp với địa thế ra sao, đó là điều húy kỵ tôi không dám nói. Còn như đối với các tỉnh, tất cả những nơi nào tôi đã thấy đều đáng nói hết cả. Lẽ nào ngàn lời suy nghĩ không đúng được một hay sao? Trước đây trong điều nói về Tu võ bị tôi đã bẩm rằng con người đã có tài trí để giúp cho người vận dụng, lại còn phải có khí cụ tinh xảo để giúp cho con người bảo vệ lấy mình. Như vậy mới yên tâm vững chí thi hành kỹ năng của mình được. Nếu tay không đánh cọp, dầu thắng cũng chỉ là gặp may mà thôi. Huống chi địa hình giúp cho nhà binh, thành lũy là nơi lòng dân tin cậy, là chỗ hết sức hiểm yếu của quốc gia, là điểm mà kẻ địch cố đánh, là tính mạng của binh lính ta vậy. Quan trọng như thế mà cứ an nhiên dùng mãi phương pháp cũ kỹ hàng trăm năm, không chịu tùy thời học hỏi nghiên cứu được sao? Dựa vào chỗ hiểm yếu cố nhiên phải kiếm được người tài sức, mà lập được chỗ hiểm yếu thì phải biết dự liệu. Trong thiên hạ chưa bao giờ bởi vô tài hoặc vội vã mà được. Hơn nữa thành đồn lại không thể vội vã mà làm được.
Xưa Lý Doãn trồng nhiều loại cây gai góc, nhờ đó châu Thương thêm phần hiểm trở. Dư Giới lập thành Ngư Sơn, nhờ đó cửa khẩu đất Thục được liên lạc. Ngoài ra những việc tương tự như thế không thể kể xiết. Cho nên người làm việc nước, đối với việc binh phải dự bị ngay lúc bình thời, chắc chắn không thể đợi đến lúc binh đao gần kề và sự thắng bại đã thấy rõ ràng trước mắt. Trước đây trong điều nói về Tu võ bị trong tập Tế cấp bát điều và sau này trong tập Tái tu võ bị cũng có nhiều điều có thể áp dụng được, nhưng vẫn chưa thấy được đem ra thực hành. Người xưa nói: Việc sửa trị không phải nhiều lời, mà phải cố sức làm. Quả thật phương Tây đã học được ý nghĩa câu nói này. Cái sở học về binh gia của tôi không phải chỉ có chừng ấy, nhưng trước tiên tôi chỉ nêu những điều cấp bách mà thôi.
Nay tôi lại xin bàn đến khoản làm sao nâng cao tinh thần binh sĩ. Bởi vì nếu ngày nay không chịu cải cách thì không làm sao khơi dậy được tinh thần binh sĩ vốn đã lâu hèn yếu. Thường thường sau lúc binh thời thì quan và binh phân cách (Binh lính phương Tây không có sự phân cách này) không có sự thống thuộc lâu dài. Cho nên lúc bình thời quan chẳng làm được một cái ơn gì cho lính, thì khi lâm sự sẽ không có cái oai để điều khiển họ (Trừ khi xáp trận, quan không có quyền giết một tên lính). Làm quan không có ân dày đối với lính mà vội sử dụng oai quyền thì lính sẽ không thân, không quy phục. Không quen thân nhau lâu mà còn cách điệu thì khó được cảm tình. Hơn nữa quản đội, suất đội, phần nhiều xưa cũng là người cùng trong đội ngũ với lính. Con nhà tướng ra cửa nhà tướng mà thôi chứ không có biệt tài gì đáng trọng vọng để cho binh lính tâm phục. Sống lâu ra lão làng được chức lớn thì tâm lý binh lính sẽ nghĩ rằng sĩ quan cũng chỉ là người như bọn họ. Họ kính sợ chăng là kính sợ quyền chức, chứ đâu phải nhân phẩm người ấy. Đã từng có một hai lãnh binh, đề đốc chỉ biết viết hai chữ “tuân phụng” thế mà ở trên người ta, thì làm sao có thể chỉ huy điều khiển được ai? Tôi thấy người Tây chưa có ai không thông sách vở mà có thể cai quản một trăm người trở lên, huống chi làm đến chức quản lãnh. Vì vậy trong bài nói về Tu võ bị trước đây tôi đã đề nghị các võ quan cần phải biết chữ, phải thông thuộc các sách binh thư. (Các nước người ta đều lo tu chính biên soạn binh thư, còn nước ta chỉ biết lo dùi mài văn chương. Việc đáng làm gấp lại trễ nải). Nay sao ta không khiến các cử nhân, tú tài có sức lực hãy bỏ văn theo võ, đọc thuộc các sách binh thư, rồi cho làm các chức quản, đội trở xuống, cho học tập bổ túc về quân sự ba năm, sau đó đem ứng dụng, như thế còn tốt hơn là lính ở lâu năm được thăng lên quan. Sao lại cứ để họ rỗi rảnh ở nhà, xen vào việc dân cho thêm rắc rối. Xưa nay trong hàng danh tướng có phân nửa là người ít học, đó là do người ta không chuộng thứ hủ nho, chứ đâu đến nỗi như ngày nay, quản đội mà chỉ biết được có hai chữ. Đại phàm bản tính con người ta, nếu đem so sánh một con người chỉ dựa vào tư chất tốt của mình mà không có học thức, với một người bình thường mà học nhiều, thì sự hiểu biết của người sau hơn người trước rất xa. Huống chi làm tướng mà không học được sao? Binh lính quý ở dũng cảm, sĩ quan quý ở mưu cơ. Sĩ quan như mắt, binh lính như tay chân. Chưa có chuyện mắt mù mà sai khiến được tay chân bao giờ. Nay trong việc binh của ta phần nhiều giống như thế, cho nên binh lính bất bình, đó là một điều tối kỵ.
Binh lính có thể cả năm không dùng đến, nhưng không thể một ngày không tập luyện. Các quốc gia có tinh thần thượng võ lúc bình thời vẫn tuyển binh tập trận. Còn nước ta lúc bình thời tuyển binh để sai vặt. Công việc hàng ngày của một người lính ở nơi quan, không khác gì những việc hàng ngày ở nơi nhà. Thế thì nên gọi là người phục dịch không nên gọi là lính (Lính phục dịch nhà quan như kẻ qua đường với nhau, khi có việc, quan sẽ không có người tay chân giúp đỡ, vì không có tình cảm sâu nặng lâu ngày khiến họ có thể đồng sinh đồng tử với nhau được. Ngàn vàng dễ được, một tướng khó tìm. Làm quan mà không có người tâm phúc giúp đỡ là quốc gia đành mất kẻ có tài. Nếu đem số lượng của binh lính tạp dịch, xét phần mỗi quan cần được bao nhiêu lính hầu, rồi giao số lượng ấy cho quan được tự do tuyển chọn thủ hạ hoặc gia nhân, để giúp việc lúc bình thường cũng như khi khẩn cấp. Thường thường các phủ huyện viên, mỗi khi có việc gì bất trắc xảy ra, những thủ hạ tạp dịch của họ đã lo chạy trước, chỉ còn một mình quan mà thôi, cũng vì lý do đó). Lẽ nào có chuyện không biết nghề binh mà dám mạo nhận là binh, cũng như không biết bút nghiên mà gọi là kẻ sĩ được sao? Đại phàm con người ta có tập tành nghề gì mới có thể nuôi dưỡng tinh thần nghề nghiệp đó. Nay binh lính mà thường chẳng tập luyện thì làm sao nuôi dưỡng được dũng khí, đó là hai điều tối kỵ.
Ngô Khởi nói: Đạo dùng binh trước hết phải làm cho giàu có của cải sau mới dùng đến sức lực. Các nước dùng quan để nuôi dưỡng binh lính, còn ta thì dùng binh lính nuôi dưỡng quan. Quan cũng như ruột rà, binh lính như tay chân. Tay chân khỏe mạnh mới bảo vệ được ruột rà. Nay cắt tay chặt chân để nuôi dưỡng ruột rà thì liệu ruột rà có thể tự đi đứng được không? Lúc bình thường ăn ở với nhau thì ban ơn bằng roi vọt, nuôi dưỡng bằng khổ nhục, đến khi lâm trận thì bảo nhảy vào nước lửa để bảo vệ che chở cho mình. Thử hỏi có tên lính nào không phải là người hay sao mà phản tính tự nhiên chịu làm như vậy được? Do đó cho nên trên sổ bộ có đến trăm vạn mà chẳng có được một người hy sinh, hoặc có chăng cũng chỉ vì thất cơ mà chết chứ chẳng phải hy sinh vì việc nghĩa. Tinh thần binh sĩ đã từng sa sút như vậy, đó là ba điều tối kỵ.
Là binh lính, ngày thường không có lòng yêu mến sĩ quan, trong quân ngũ sĩ quan không có mệnh lệnh cứng rắn, không có quyền chuyên sát, đến khi ra trận tên nào quay đầu mới có quyền giết. Lúc bấy giờ binh lính chạy sĩ quan cũng chạy thôi có rảnh đâu mà ngoảnh lại thực thi quyền chuyên sát để giữ luật lệnh? Một mệnh lệnh cứng rắn, hơn ba ngàn tinh binh. Xưa Dương Tố mỗi khi ra trận trước tiên cho hai trăm quân lâm trận, nếu thoái lui thì giết sạch, rồi sai một đội sau, nếu thoái lui cũng giết sạch như cánh quân trước, làm thế sau không còn một tên quân nào dám rút lui bỏ chạy. Làm được như thế là chỉ khi nào có ơn nặng đối với binh sĩ trước, sau mới có thể ra oai một cách nhất luật được để tạo nên khí thế như vậy. Cũng là binh Tống mà khi Đồng Quán làm tướng thì yếu như gái góa, Nhạc Phi làm tướng thì đứng vững như núi Thái Sơn. Đó là mệnh lệnh cứng rắn mới quyết định được khí thế binh sĩ. Khí thế binh sĩ đâu phải lúc nào cũng như lúc nào, mà do ở chỗ có chiếu cố vận dụng được hay không mà thôi. Hiền từ thì không thể cầm quân, lời xưa đã nói như vậy. Lúc bình thường phải biết dưỡng quân bằng ơn huệ, khi lâm trận phải biết ra oai, phải như hai con người hoàn toàn khác hẳn nhau vậy. Binh lính mà không có lòng quyết tử thì làm sao đối chọi được với quân địch? Xưa nay người làm tướng có khả năng điều khiển binh, không phải là người cứ giết nhiều quân sĩ để thực hành nghiêm lệnh, mà chỉ làm cho tất cả quân sĩ đều biết rằng mình có cái oai dám giết. Sở dĩ quân sĩ biết rõ cái oai như thế, là vì rõ ràng họ đã thấy một người khó giết mà chủ tướng đã giết, thì biết rằng đối với bọn họ đứa nào chẳng có sẵn một bản án tử hình nếu trái lệnh. Người làm tướng thời nay có ai đã dám giết một người khó giết như xưa kia Lê Văn Duyệt đã từng làm để thi hành quân lệnh không? Hiền từ và nhu nhược là hai điều làm sa sút dũng khí của ba quân. Có ai đã làm được như Khuông Thừa Nghiệp bái nhận chức tể tướng mà chém quan tể tướng, như Sài Khắc Khoan làm chức khu mật mà chém quan khu mật? Nếu không được như vậy mà cứ để binh sĩ nhân lúc bình thời, ngày một trở nên hèn yếu, thì chưa bao giờ thấy binh tướng như thế có thể thắng được địch. Chính vì thế mà xưa nay trải qua thời gian thái bình lâu ngày, một khi có giặc nổi lên thường thường lúc đầu không thắng được giặc, phải đợi đến khi quá loạn binh lính dần dần mạnh lên mới dẹp được, đó là bốn điều tối kỵ.
Binh lính đối với quản đội, quản đội đối với tướng soái khác nào như cánh tay với ngón tay, cánh tay với thân thể, hợp làm một mới vận động được. Tay chân lười biếng thân thể làm sao linh hoạt được? Cho nên nói rằng quân đội có kỷ luật dù tướng không có tài năng, cũng không thể đánh bại được. Như binh lính Nhật, cá nhân đều có thể tự tác chiến, không phải đợi kết thành trận thế mới giết được địch. Tại sao họ được như thế? Còn ta thì ai đốc thúc được binh sĩ xông pha trước trận mạc, thế nhưng đến quan luận công thì tướng tá có công trước, bọn võ biền ở sau. Như thế ai chịu đem thân xông vào địch để lập công cho người khác? Nếu khéo nịnh bợ cấp trên, hành quân lâu ngày cũng được kể công, hà tất phải đem thân nhảy vào trận tuyến để khi về lại phải mất nhiều cách cầu cạnh nịnh bợ mới được kể công. Như thế kẻ hào kiệt lấy làm sỉ nhục.
Xưa Địch Thanh nói: Có tiền ngồi đó mua được một thủ cấp cũng được thưởng rồi. Thế thì sắm tiền mua công còn hơn xông pha nguy hiểm để giết địch. Thời Địch khu mật cũng đã có tệ này huống gì ngày nay. Lý Uyên nói: Nơi đầu tên mũi đạn, cái chết nào có phân biệt là quan hay lính. Thế thì khi phong thưởng sao lại phân chia kẻ quý người hèn? Nay thấy người ta đồn rằng có nhiều quan viên, trên giấy tờ nói là do có tài nên được chức vị, nhưng kỳ thật là do gặp may mà được công. Cho nên ngày nay người ta hay nói có phước tướng. Bởi vì nơi quân thứ cũng như chốn trường văn, phần nhiều do gặp may hay không gặp may mà thôi. Làm quản binh đã không do liều chết mà được công, còn kẻ làm lính thì phải hết lòng hết sức bảo vệ quản binh để mong được nhẹ nhàng quân lệnh. Như thế kẻ làm tướng chỉ có một tay không, có làm được gì đâu, không chạy cũng chết uổng mạng mà chẳng ích gì cho việc nước, đó là năm điều tối kỵ.
Hiện nay chính sách binh bị nước ta còn nhiều tồi tệ, nhưng cái làm cho binh lực ta suy yếu lâu ngày phần nhiều do bởi năm điều tối kỵ này. Trừ bốn điều kiện lớn như đạo làm tướng, trận pháp, thành đồn và khí giới. Nếu ta chấn chỉnh được năm điều tối kỵ trên thì khí thế binh sĩ ngày một cường tráng, biết được khả năng chiến đấu, mới gọi là thắng được một nửa, còn như làm sao cho lòng người chuộng việc nghĩa, được như Phổ, Pháp, nhà nào cũng có một khoản tiền đóng góp vào quân nhu, khi cất binh thì cả nước hân hoan nhảy nhót như điên, điều đó tùy thuộc vào việc học thuật và giáo hóa chứ không thể đem uy lực ra bắt buộc được. Như binh thư đã nói: Đường lối đúng đắn là làm sao cho trên quan dưới dân đều cùng một lòng. Vậy mới có thể cùng sống cùng chết chẳng sợ hiểm nguy. Lại nói: Trăm họ đều là dân của vua ta, nào phải dân nước làng giềng. Thử xem ngày nay khắp thiên hạ chỉ một số nước phương Tây có được binh pháp này mà thôi. Còn Trung Quốc, Hung Nô và các nước Hồi giáo làm gì nắm được binh pháp này. Có đánh nhau chẳng qua chỉ lấy số đông hay ít mà cho là mạnh hay yếu. Đâu có thể đề huề mọi người như một, binh sĩ thân nhau như tình cha con? Cho nên hết sức to lớn như cả thế giới mà không địch nổi hai nước Pháp, Anh, để cho họ đến đâu cứ như vào chỗ không người! Nay ta có muốn thực hành chính sách binh bị như vậy ư, xin hãy chiếu cố đến những điều tôi đã nói (Tôi thầm nghĩ rằng nếu đem sự hậu đãi đối với nhà quan mà đối đãi với tướng sĩ ta, lấy sở phí cung phụng cho nhà quan ấy mà nuôi dưỡng quân lính ta, được thế cũng đã khá rồi. Lẽ nào ta chẳng có được một dũng sĩ nào? Tại sao nước ta đông như vậy mà không được một người như họ Đào họ Lỗ? Mặt mũi họ như thế nào? Hay phải chăng vì uất ức như người chết đuối trên cạn mà chẳng chịu thử xuất đầu lộ diện cũng nên?) Tôi có một số ý kiến như thế chẳng biết nên hay không, kính bẩm Cơ Mật Viện đại thần cùng liệt vị đại nhân soi xét.
DI
THẢO SỐ 51
Cần nắm vững tình hình chính trị ở Pháp*
(Khoảng nửa cuối tháng 5 năm 1871)
Kính bẩm,
Nước ta hiện nay cần gấp phải đi Tây, một là để làm những việc trước nay chưa làm xong, hai là để sắp đặt cách thế làm sao sau này công hay thủ được tốt. Hai việc này đều phát sinh từ thời cơ hôm nay, như vậy không thể không nhanh chóng ra tay, thật đã đến lúc không thể đứng im được nữa. Tuy nhiên điều cốt yếu phải biết rõ tình trạng trị loạn của nước họ là tạm bợ hay lâu dài, rồi từ đó nghĩ đến việc nên dùng sức hay dùng mưu. Hai việc này quan hệ rất lớn, cần phải xem cho thật đích xác mới có thể buông cung bắn một phát trúng ngay, không thể bắn được phát thứ hai. Nếu cho rằng thời cuộc hiện nay đã thay đổi, Triều đình nên nán đợi một vài tháng cũng được. Bởi vì nhân trước đây vua nước họ bị cầm giữ, tứ phía bao vây cho nên các bậc công khanh đại phu nước họ đều oán hận. Còn đảng nghịch thì đang ngấp nghé, chưa dám công nhiên hành động. Nay quân Phổ đã sợ việc bình đao muốn tạm nghỉ vai, trong khi nước Pháp lở loét khắp nơi hết sức mong muốn nghỉ ngơi điều dưỡng. Vì vậy, đảng nghịch mới dám ló đầu ra.
Nếu không may quan binh nước họ thế bại, đảng nghịch được tạm nắm quyền, thì ta cũng có thể có chỗ lợi dụng vào mà được việc. Còn nếu hai bên thắng bại bất phân, vương bá chưa rõ sẽ thuộc bên nào thì sự phân loạn hãy còn kéo dài không thể lấy năm tháng mà chờ đợi được. Điều thứ nhất, nếu muốn tìm người giúp đỡ, dùng sức mà tranh thủ, thì cơ hội này cũng có thể tạo được. Điều thứ hai, giả sử đảng nghịch tiêu tan, việc lập vua có thể thành tựu thì ta chỉ đến thẳng với họ dùng mưu kế thu hồi. Việc này cũng phải chụp ngay lấy thời cơ không thể chậm trễ. Điều thứ ba, ta chỉ sợ việc nội chính họ đã yên mà chuyên vào việc xâm lược phương xa mà thôi (Giám mục Hòa chỉ chú ý đến vấn đề làm sao dùng cho được cơ hội. Giám mục cũng nghĩ rằng việc tìm đường lối để cầu giúp đỡ là đúng. Nhân năm trước, khi sứ bộ đi Tây xin trả ba tỉnh, tôi cũng đã nhờ Giám mục viết thư yêu cầu linh mục Định ngóng xem họ bàn mật với nhau như thể nào báo trước cho vị bồi sứ biết. Điều này tưởng khi Hộ bộ Phạm đại nhân ở Tây cũng có biết. Cho nên giám mục cũng nói phải hết sức tìm kiếm đường lối mới là đúng).
Những sự lý này độ trong vòng vài ba tháng mới có thể phân biệt được. Bấy giờ Triều đình phải bàn định gấp, trong khi bên nước họ hai bên chưa quyết định được bên nào sự thế hãy còn kéo dài, hoặc trong lúc đảng nghịch nắm được quyền, hai bên phải có một bên thắng. Nếu nay đang lúc đảng nghịch chiếm cứ, Triều đình họ còn lo toan chưa rảnh, thanh giáo và uy quyền Triều đình còn đang cách trở mà ta vội vã sang bên ấy thì trong khi sứ bộ ta còn đang trên đường đi ở bên nước họ, Triều đình họ khó bảo vệ cho sứ bộ ta được, lỡ gặp đảng nghịch, chúng giận cá chém thớt thì ta biết làm sao? Trước đây khi Phổ Pháp xung đột nhau, nếu sứ bộ ta sang Pháp đường đi ngang qua nước Phổ mà nếu Phổ minh bạch cho phép ta qua thì bảo đảm không có gì trở ngại còn nếu họ không nói cho phép một cách rõ ràng thì cũng chỉ coi ta như người đi đường thôi, không bắt lý làm nhục ta. Đó là thông lệ của phương Tây. Còn nếu là đảng nghịch thì chẳng kể gì luật lệ thông thường cả.
______________________________________
*. Bản chữ Hán: Hv 634/4 tờ 160 - 167.
Không ghi rõ ngày tháng, nhưng có lẽ nào cuối tháng 5 năm Tự Đức 24, lúc Giám mục Hòa sắp về trở lại Quảng Bình.
Sở dĩ tôi nói hay là hãy hoãn chờ một vài tháng là vì vậy. Nếu như ta muốn gấp thực hành kế liên hoành mà muốn đi sang nước khác thì lấy danh nghĩa đi thăm viếng phong cảnh các nước trước rồi thong thả chờ xem. Nếu thấy tình thế nước họ rơi vào một trong ba điều tôi đã nói ở trên thì có thể đến ngay nước họ mà mưu bàn công việc. Nếu thấy đích xác việc phân loạn bên nước họ còn kéo dài và ta định tìm người giúp đỡ thì sứ bộ của ta hiện đang ở phương Tây cũng dễ làm công việc ấy. Như nay ta hoặc có thể ở trong nước chờ đợi vài ba tháng, hoặc có thể khởi hành đi chu du các nước để chờ đợi tình thế bên ấy. Hai lối ấy nên dùng lối nào xin do Triều đình xét định (Nếu chưa được tin tức gì về cuộc nội loạn bên ấy mà sứ thần còn đang trên đường đi thì tư cho quan họ biết sứ bộ sẽ chuyển sang nước Y trước rồi sẽ đến nước họ sau cũng được. Đến nước Y nếu thấy có thể thừa cơ hội được thì như tờ bẩm trước tôi đã nói cũng phải làm gấp. Nếu Y không đủ sức thì chỉ làm việc với Y thôi. Xong việc ở nước Y mà loạn ở Pháp chưa yên thì lại tư cho quan họ biết sứ bộ ta hãy chuyển sang nước Anh hoặc các nước thăm viếng phong cảnh, đợi nước họ công việc bình yên mới đến chúc mừng cũng được. Việc phải làm như vậy là vì sứ bộ của ta đã đi khó trở về. Cho nên trước đến các nước rồi sau mới đến nước họ, điều đó cũng chẳng ngại gì. Nay ta chưa đi nhưng nếu được tin tức nội loạn thì nên chậm lại chờ đợi một tí, khi sự thế phân biệt rõ ràng thì tùy theo đó mà dùng mưu hay dùng sức cũng được. Nếu lấy cớ đi sang nước Y trước để giải quyết một vài sự bất bình, thì trên đường đi nghe ngóng tình hình tâu về đầy đủ. Nếu đến các nước mà thấy loạn bên ấy còn kéo dài, tìm được người giúp đỡ chắc chắn có thể dùng sức được thì tâu rõ gấp về Triều đình xin quyết định được hay không rồi cứ ở phương Tây chờ làm công việc cũng được. Nếu tình thế khó tiến hành việc dùng sức thì quyết định dùng kế sách giao thông cũng được. Khi thấy nước họ vừa tạm yên thì liền đến chúc mừng ngay cũng được. Những điều nói trên đều là những sự cơ có thể làm được cách này hay cách khác). Còn nếu đợi cho vua bên ấy được lập lên rồi lấy danh nghĩa sang chúc mừng mà đến, thì việc đi của ta chính đại quang minh, nguyên soái của họ chắc chắn phái hộ tống đi về, ta lại khỏi tiền phí tổn dọc đường.
Khoảng tháng 10 năm ngoái tôi có bẩm một tập về vấn đề biết trước tình hình địch để thi hành mưu kế thì chỉ ở nơi lãnh sự của họ mới có thể biết trước được. Nếu nay muốn biết tình thế của họ ra sao thì chỉ có cách là viện cớ khác sai Nguyễn Hoằng đi trước (Nguyên trước đây Giám mục Hậu có mua cho ta các hàng hóa, một nửa hãy còn gởi lại Gia Định chưa đưa về. Nay nghe tin các hàng hóa ấy thất lạc nên Nguyễn Hoằng tự đi vào gom lại nếu tiện sẽ đưa về). Khi vào Nguyễn Hoằng sẽ ở tại Viện Truyền Giáo, người Tây sẽ không nghi. Sau đó sẽ tìm người tâm phúc ngầm thăm dò việc bí mật. Nếu có tin điện từ phương Tây đến, y sẽ viết giấy báo về cho biết. Nếu có báo tin điện hoặc báo của thuyền nhật trình, y liền xin Tây soái cho phát về xem sẽ biết sự tình ngay. Nếu y không ở đó thì có khi ở Gia Định đã có tin mà đến khi nước ta hay thì đã trải qua ba, bốn tháng, tình thế thay đổi mất rồi. Nguyễn Hoằng đi chỉ lấy lý do là để làm việc đạo giáo. Nếu được tin mật thì bí mật viết ra bằng quốc ngữ cho vào phong bì đề gởi tên Giám mục Hậu. Nhưng tại Bộ thì định trước một ám hiệu là tất cả những phong bì nào trên chữ giám mục có một dấu hiệu nhỏ tức trong thư đó là tờ mật bẩm. Bộ cứ việc mở ra xem. Nếu phong bì nào không có ám hiệu, đó là thư riêng của giám mục, Bộ sẽ chuyển thư ấy cho giám mục. Chỉ có như vậy nguyên soái của họ mới chịu phát đi mà không nghi ngờ. Nếu sự thế ngoắt nghéo lắm nhưng cũng có thể phân biệt được, y sẽ về gấp bẩm rõ cũng được. Vả lại trong lúc nhàn rỗi, y sẽ đi khắp các xứ đạo mượn tiếng là viếng thăm các linh mục để bí mật nghe ngóng tình hình dân chúng sáu tỉnh ra sao hoặc có thể tình cờ nghe được gì hoặc đồn đãi như thế nào để có thể biết được dân tình, do đó có thể thi hành được mưu kế phản gián khiến Tây Nam nghi ngờ nhau, như tôi đã nói trong tờ bẩm trước. Về kế phản gián chắc chắn Nguyễn Hoằng không có khả năng làm điều đó, chỉ có thể biết qua dân tình như thế nào thôi. Dù y có hỏi han hay nói năng như thế nào Tây cũng không nghi. Nếu loạn của họ còn kéo dài thì bí mật xem quan của họ có mật nghị gì không. Những điều như thế báo chí không thể đăng tải mà tin điện cũng không báo, chỉ khéo thám thính mới biết mà thôi. Hơn nữa chỉ có thân với họ mới có thể biết được một hai điều mà thôi.
Theo những ý trên đây, nếu tôi cùng đi với y thì rất tốt. Có điều là hiện nay tôi còn đang điều dưỡng khó bề bôn tẩu trọ ngụ nơi này nơi khác, vậy chỉ sai y đi một mình cũng được (Điều này rất khẩn cấp) đến ở lâu tại Gia Định mới có thể thám thính được chính xác. Về phần Giám mục Hòa thì giám mục biết rõ ràng là Triều đình muốn lập vua (Thâm tâm giám mục cũng rất mong như vậy) để tiến hành gấp. Hơn nữa giám mục cũng muốn Nguyễn Hoằng đi. Còn ngoài ra có ý riêng gì không thì không biết, ngay Nguyễn Hoằng cũng không biết được. Nếu muốn thực hành điều này thì nên quyết định sai Nguyễn Hoằng vào Nam ngay khi giám mục chưa về để rõ không có ý gì riêng khác. Về việc học sinh nên nhờ gấp người khác dạy dỗ không nên gián đoạn (Nếu gián đoạn một hai tháng học lực sẽ sút rất nhiều. Tình trạng này tôi biết rõ chứ không phải như lối học Nho). Nhân vì tinh thần muốn học gấp rút để dùng làm thông ngôn mới khỏi bị người ta bàn xen kia nọ.
Tôi có một số ý kiến như thế không biết có nên chăng. Xin kính bẩm. (Từ chỗ biết dân tình như thế nào tức cũng có thể biết được ít nhiều những điều tôi đã bẩm trong hai tập trước. Tình thế bất đắc dĩ nên phải làm điều bất đắc dĩ. Nếu như đánh úp để mong vãn hồi cơ nghi thì chỉ có một chuyến đi Tây này mới có thể thấy rõ định cuộc được hay mất. Triều đình lao khổ mưu nghị cũng chỉ có một cơ hội này nữa mà thôi).
DI
THẢO SỐ 52
Canh tân và mở rộng quan hệ ngoại giao*
(Đầu tháng 8 năm Tự Đức 24, tức 15 - 20-9-1871)
Kính bẩm,
Cuối tháng 5 năm nay nước Pháp có tin truyền qua, trong đó nói rằng nước họ hãy còn chia làm hai đảng, đúng như hồi tháng 5 trước khi tôi ở Kinh đã bẩm. Lại còn nghe Nga La Tư mật nghị cùng Phổ Lỗ Sĩ chưa biết sẽ thi thố điều gì đây. Nhưng tôi đem sự thế phương Tây và binh gia cơ quyền mà suy nghiệm thì nhiều khi cũng đúng. Người Nga từ chiến cuộc ở Ngô Hải đến nay đã mười lăm năm dưỡng uy súc nhuệ, trong lòng họ chưa một ngày nào quên đất trung nguyên. Chỉ vì từ trước đến nay thế lực của Pháp còn mạnh, nước Anh thì hòa hiếu, Áo Phổ ở chen vào giữa, hai bên chưa hợp thì con đường của Nga hãy còn chưa suôn sẻ. Nay Pháp đã bại hoại, Áo mất minh chủ mà có cơ bị Phổ thôn tính dần dần, Anh thì bơ vơ, việc ngoại giao của Áo chưa thành. Nước lớn còn chưa dám làm gì trước, nói gì đến nước nhỏ. Ý Đại Lợi, Thổ Nhĩ Ký sắp có loạn, Y Hoa Nho, Liên Quốc1 thì chỉ lo tự vệ ngồi chờ xem. Như thế thì cái phép liên hoành để cân bằng thế lực sắp thay đổi. Người Nga nếu không lo thu vén binh pháp để bôn tẩu về phía Tây thì còn đợi lúc nào nữa? Tưởng họ cũng phải hợp sức với Phổ giúp Phổ phóng tay phía Tây Bắc còn bản thân thì dẫm vào mặt Tây Nam. Đến khi thế lực người Pháp đã phục hồi, hợp cùng với người Anh thì con đường khai thác lợi nhuận của họ đã khai thông rồi, Anh Pháp cũng chẳng làm gì được. Nếu quả như vậy thì nên thừa lúc tình thế Pháp đang bối rối mà mưu tính việc của ta, gấp rút sang các nước phương Tây tùy cơ tìm bạn để trấn phục.
Vả lại người Pháp một nửa cũng muốn lập vua mới, một nửa muốn lập Cộng hòa. Nếu đảng nào đang nắm quyền thì nguyên soái Gia Định cũng do đảng ấy chỉ lệnh. Nếu vậy mà ta biết khéo dùng lời lẽ thương lượng cùng y, xin y đổi đất mà về thì dù cuộc diện sau này có thay đổi họ muốn sửa đổi lại minh ước của đảng trước thì ta cứ thong thả qua lại viện dẫn những lý lẽ trước cũng dễ điều đình kéo dài để cầu người giúp. Nếu vậy thì việc đi Tây không nên chậm trễ trước khi tình thế bên ấy ổn định. Tôi vì tình thế khẩn cấp của quốc gia từ nay về sau mà hết sức suy nghĩ kỹ thì thấy cũng còn cơ may có thể lo liệu được. Bởi vì hiện nay thiên hạ bôn tẩu như điên chỉ gấp rút tranh thế mạnh yếu và lợi nhuận, đường lối xưa vĩnh viễn không còn thấy lại nữa. Khắp thế giới chỗ nào sinh sống được, chỗ nào canh tác được người Tây đã tìm kiếm hết rồi. Khắp các duyên hải đều có sở thuộc, có ranh giới giới hạn, có nơi tự giữ được, có nơi phải dựa vào người, có nơi bị lệ thuộc, hoặc không có lợi lớn, hoặc có nơi còn cộng tác khai thác, người Tây đều đã thấy rõ và đều đã chia nhau. Nếu người ta đã mưu đồ trước sau thì ta cũng khó lật lại được. Cho nên người Pháp người Y đều chuyên tâm nhắm vào ta mà thôi. Bởi chúng cho rằng ta chưa thể canh tân chưa thể giao thiệp rộng rãi thì chúng dễ gây sự mà vồ lấy. Đó là cái lý cái thế chắc chắn phải xảy đến như vậy.
Nay việc khẩn cấp nhất của ta là trước hết phải giữ cho được cái gì chưa mất còn việc mưu thu hồi sáu tỉnh là việc sau. Muốn giữ cái chưa mất thì phải gấp rút giao thiệp rộng, muốn mưu thu hồi sáu tỉnh thì phải gấp rút thừa cơ, mà canh tân chính là căn bản để mưu thu hồi và gìn giữ. Nếu không canh tân để tiến bộ thì dù có tạm thu hồi được, vá hôm nay ngày mai lại rách, rốt cuộc cũng không thể không có chuyện xảy ra. Nếu nhất luật canh tân để tiến bộ thì việc giữ không khó mà việc mưu thu hồi không chóng thì chầy cũng có thể hy vọng được. Cho nên về khoản đi Tây, phải làm như các nước Nhật Bản, Xiêm La vậy. Không nên chỉ chăm chăm vào một việc, cũng không nên lấy năm tháng làm kỳ hạn. Không được cái này thì được cái khác, bất luận việc trong ý định hay ngoài ý định hễ thấy có lợi thì cứ tiến tới. Muốn gìn giữ được thì một mặt phải dập tắt cái hy vọng của người Pháp người Y. Mà như thế thì chỉ có giao thiệp rộng mới dập tắt được. Muốn mưu đồ thu hồi nhưng nay hãy còn dài dòng chưa làm được việc thì phải chuyên lo cái phần căn bản, gấp rút vào việc canh tân tiến bộ còn sáu tỉnh thì hãy cứ gởi đó. Đó là cơ hội quyết định sự mạnh yếu tiến thoái. Nay là lúc gặp cơ hội có thể ra sức làm được, lẽ nào lại cứ an nhàn buông trôi theo ngày tháng mà xong việc được sao? Hãy xem vua Xiêm gởi nước mà đi châu du các nơi thông thương buôn bán ở vùng Đông Nam là ý muốn làm gì? Trung Quốc thì cộng tác với người phương Tây để hưởng lợi chung, nhờ đó mà tài nguyên khoáng sản phát đạt thịnh vượng, nơi nào cũng nổi như bông. Họ là người gì, ta là người gì? Cũng là nhân dân vùng đất đai này thôi mà ngày nay cái thuật làm cho giàu mạnh thấy rõ ràng như xem lòng bàn tay. Đó không phải do nói nhiều, do cố sức làm mà thôi.
Nếu cứ nói suông không làm thì ngày lại ngày qua, năm này sang năm khác, ta ngồi một chỗ còn người thì tiến nhanh, mọi người đều canh tân chỉ ta thủ cựu thì biết làm sao? Từ năm Tự Đức thứ 19 đến nay tôi tưởng đã một lần canh tân chứ không còn thủ cựu. Hãy xem phương Tây bất luận nước nào tuy gặp tao loạn hư hại lớn, nhưng không đầy mười năm sau giàu mạnh còn hơn xưa. Còn ta đất có đấy, dân có đấy mà y nhiên xưa sao nay vậy. Xưa Mạnh Tứ sở dĩ khuyên Tề Tuyên Vương thi hành việc chính trị vì nhà vua không thể chế ngự được. Còn ngày nay Triều đình ta cũng chẳng phải hiếu sắc ham chơi như Tề Tuyên thế mà lại hôn mê không tiến được? Theo tôi tính toán thì từ nay về sau trong khoảng hai mươi năm, nước ta chắc chắn có một kỳ thái bình thịnh trị (Đó là lý thế vận hội sinh ra như vậy. Lý do rất dài dòng khó có thể nói rõ. Không phải như thầy bói, trong bụng chẳng biết gì, chỉ cầu xu nịnh trước mặt mà nói láo chuyện họa phước). Cho nên tôi cực lực cầu làm thử để được một lần trông thấy đó là cái mưu kế suốt đời tôi, để đáp tạ những nỗi khổ phong trần của thời niên thiếu. Vì thế mà trong đoạn cuối bài Tế cấp bát điều trước đây tôi có nói: Khổng Minh trong những lúc nằm mơ chưa bao giờ không lập kế đánh Ngụy. Tôi tuy thiếu tài ấy nhưng thừa tâm huyết, không có bổn phận ấy nhưng có chí ấy.
Tất cả những điều mắt thấy đều còn có thể làm được. Cho nên không biết rằng những việc đó không phải phận sự của mình mà cứ liều lĩnh nói dài dòng. Chỉ vì từ trước đến nay chỉ thấy Triều đình cứ yên phận theo lối cũ nên tấm lòng của tôi cuối cùng phải mai một mà trước đây trong bài Lục lợi từ tôi có nói: Bài Tế cấp luận của tôi nếu đem ra thực hành trăm năm cũng chưa hết. Thế mà bảy tám năm nay chưa thấy thực hành tý nào, chả lẽ đợi đến trăm năm sau mới thực hành được sao? Nay có thể làm được rồi, thời đã đến, thế đã có, mở rộng giao thông để đem của cải thiên hạ đến, chấn hưng phương pháp mới để làm hưng thịnh nguồn lợi trong nước. Tiến hành cả hai thì mọi cái hỗ trợ cho nhau, lợi ích sẽ ùn ùn đưa đến. Tôi tính toán cái thời hạn hai mươi năm chỉ một ngày có thể hy vọng được. Nay kính bẩm.
(Tôi hiện đang bệnh chưa khỏi, hãy còn ba bốn tập xin đợi tháng sau sẽ bẩm lên).
______________________________________
*. Bản văn chữ Hán 634/4 tờ 167-174
Không ghi rõ ngày tháng, nhưng trong tờ tấu của Viện Cơ Mật ngày 10 tháng 8 năm Tự Đức 24 có nói là “Ngày 6 tháng này có tiếp được một tờ tấu của Nguyễn Trường Tộ, trong đó có nói: “Cuối tháng 5 có tin truyền qua...” (Xem phụ lục VIII)
1. Liên Quốc tức Đan Mạch.
DI
THẢO SỐ 53
Về chính sách nông nghiệp*
(Ngày 20 tháng 8 năm Tự Đức 24, tức ngày 4 tháng 10 năm 1871)
Tôi giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ kính bẩm.
Tôi thiết nghĩ trong ngũ phúc, phú đứng đầu, triệu dân trước tiên lo ăn. Sách Luận Ngữ nói: Làm cho giàu có rồi mới giáo dục. Kinh Thi nói: Làm cho giàu thóc lúa. Sách Đại Học bàn về việc làm cho sinh ra của cải. Cửu Kinh có nói đến việc làm cho sung túc của cải. Sách Mạnh Tử khi trình bày về đường lối chân chính có nói đến hằng sản hằng tâm. Sách Vương Chế nói về nước phải chứa của cải đủ dùng trong ba năm, chín năm. Trong chín sự dự trù thì sự dự trù lương thực hàng hóa đứng đầu. Chín phủ kho hàng vải đầy la liệt trong đó. Ngô Khởi nói về việc dùng binh bào trước phải làm cho dồi dào của cải rồi sau mới dùng sức. Triều Thố khi bàn về việc phòng bị biên cương nói rằng: Nhiều lúa thóc dư của cải thì làm việc gì chẳng thành. Đủ thấy những người nắm đường lối chính trị, không ai không sớm lo giàu có.
Trời sinh ra con người không phải chỉ sinh con người trơ trụi mà trước tiên sinh vạn vật để đủ cho con người sinh sống. Mở đầu sách Cựu ước của Đạo (Công) giáo có nói đến đoạn này. Như Kinh Dịch cũng nói: Có muôn vật rồi sau mới có nam nữ. Đó chính là điều khẩn thiết trước nhất đối với con người.
Trời còn sinh ra mặt trời để ấm áp, gió để mát mẻ, mưa để thấm ướt, đất để nuôi dưỡng, nước để tưới nhuần. Biết bao nhiêu đức tính trời đã sinh ra trùng trùng lớp lớp, tác động qua lại mà thành ra nguồn gốc ấm no cho thế gian. Đủ thấy rằng đạo trời cũng rất nhiều cách cốt làm ra của cải vật dụng cho con người.
Nhân dân đối với đất nước như con cái đối với cha mẹ. Mối tương quan hết sức gắn bó. Như trước đây, trong Tế cấp bát điều tôi đã nói: Một nước ví như một thân thể. Đó là cái lý thế liên lạc tương quan hết sức mật thiết mà đạo trời đã định ra như vậy, tuyệt không có một người nào đó có thể ở ngoài lý thế ấy (Người nào thấu hiểu sâu xa lý lẽ này thì sẽ thấy rằng tất cả những ai không trung với nước tức là không trung với chính mình. Muốn trình bày rõ lý lẽ này cũng phải viết đến một tập dày.)
Cha mẹ đối với con cái, trước tiên là sinh ra, nuôi lớn lên, tiếp đến là dạy dỗ nghề nghiệp để sinh sống, nên người, thì mới có thể trông mong lúc tuổi già. Đất nước là cha mẹ của muôn dân. Nếu không thể dạy tập cho dân giàu có mà chỉ lo thu thuế, không lo được cho dân ăn học mà chỉ thôi thúc cung đốn các khoản thì sao gọi là cha mẹ được?
_____________________________________
*. Bản Hán văn:
N.P số 121 trang 31-39
Hv 135 trang 1-29
Hv 634/1 trang 117-148
Mọi việc trên đời hễ việc gì có công dụng lớn thì rất khó làm. Công việc của con người không gì lớn hơn là làm cho ra của cải để nuôi sống. Vậy thì làm được việc ấy đâu phải dễ. Tây Môn Báo có nói: Vua cốt làm cho dân giàu. Sách Gia Ngữ nói: Làm chính trị phải gấp rút làm cho dân giàu. Những lời nói ấy đâu phải nói suông. Xưa Phục Hy làm vua mà dạy dân cày ruộng đánh lưới cá để mở mang mọi việc. Hậu Tắc dạy dân cày cấy lấy việc nông làm cho nước giàu. Thế mà bảo là nghề hèn mọn được sao? Kinh Thư nói về công tu phủ trị. Sách Chu Lễ nói thưởng nghệ phạt hoang. Vậy tu trị như Kinh Thư nói nghĩa là gì? Tức là trước thì tuân theo thời tiết, sau thì khuyến khích sức dân, sau nữa thì khai thác hết nguồn lợi đất đai. Như thế để dạy dỗ dân tất cả phải hết sức mình cho sinh kế. Những nơi đồi núi cheo leo không trồng được lúa đậu thì trồng cây trồng tre. Mùa xuân chặt tỉa cây khô mục, mùa hạ hái quả, mùa thu trồng rau ráng, mùa đông hái củi để điều tiết dân sinh. Theo phép ấy thì săn thú không săn thú bầy, không bắt thú con, bắt cá không tát cạn đầm ao, không đốt rừng để săn thú, sói chưa tế thú1 không được săn, rái chưa tế cá2 không được thả lưới, chim cắt chưa báo tin thì bẫy lưới không được chăng gài nơi khe suối, cây cỏ chưa rụng lá, thợ rừng không được vào núi rừng chặt hái, côn trùng chưa đến kỳ sinh nở không được đốt ruộng nương, không giết vật có thai, không phá tổ hốt trứng, không bắt cá chưa đủ thước tấc, không giết heo chưa đúng kỳ. Mây bốn bề kéo tới thì chỉnh đốn biên cương. Ếch kêu én liệng thì sửa sang đường sá. Nước đổ xuống suối thì lo sửa cầu cống. Còn rất nhiều việc nữa, phải theo thời tiết mà tu bổ sửa chữa, cốt tự người trên phải thân hành đốc suất. Như chủ nhà đối với người giúp việc. Sáng có công việc buổi sáng, chiều có công việc buổi chiều. Có việc thì có công, do đó người thời cố sống được nuôi dưỡng đầy đủ, chết chôn không có gì oán hận. Được như vậy rồi sau mới biết thế nào là lễ tiết vinh nhục mà sinh tấm lòng yêu chuộng việc nghĩa, sốt sắng việc chung. Còn nếu như cứ bị cái nghèo đeo đuổi thì đến cha con cũng không bao bọc nhau được còn hơi đâu nghĩ đến lễ nghĩa phong tục.
Phàm tình đời có dư mới nhượng, không đủ thì tranh. Nhượng là nền móng của sự thịnh trị. Tranh là đầu mối của loạn ly. Vì thế có đủ ăn mới giữ được chữ tín, cùng thì sinh gian dối. Xưa nay chưa từng nghe dân nghèo mà nước thịnh bao giờ cả.
Nay chẳng cần nhìn sự việc xa xôi của đời thượng cổ mấy ngàn năm làm gì, chỉ dẫn những việc trước mắt thời nay cũng thấy được là thiên hạ sở dĩ giàu mạnh là do chuyên về nghề thực dụng, với một phương thức đầy đủ hơn xưa bội phần. Hãy xem phương Tây và hai nước châu Mỹ, tất cả vua chúa đều đốc suất việc làm lợi làm giàu trước hết, còn sách vở luật lệ xử lý công việc thì để sau. Bởi vì Hình là để trừng trị dân sau khi đã có tội. Binh là để đối phó với dân sau khi đã sinh bạo loạn mới giết. Lễ là để lập ra các nghi tiết để trang sức cái vẻ mỹ quan trong thời bình. Công là để sửa sang vật dụng dụng cụ. Hộ là để kê tra tiền bạc của cải xuất nhập, nhân số nhiều ít mà thôi. Tất cả những công việc trên đây trước hết phải có sự thật vật thật, sau mới tùy theo đó mà gìn giữ sửa trị để làm cân bằng cái công dụng của nó. Tất cả đều xảy ra sau khi đã có sự vật mà khéo trù liệu xử trí để hưởng dụng chứ thực tế tất cả đó không thể sinh được lợi lộc gì cả. Nói trị nghĩa là dùng luật pháp duy trì trật tự. Và như vậy thì trước tiên phải có cái gì đó đã rồi mới có pháp luật. Như nấu canh thì phải có muối, mỡ, cá, thịt thì mới nấu được. Vì thế đối với các nước ấy, những người làm quan bất luận quan bộ nào, chức vụ gì, trong lúc ở công đường cũng như lúc tiệc tùng yến hội, bốn chữ làm lợi trừ hại không ngớt miệng nói, không dám buông lời nói chuyện gì khác sợ bạn đồng liêu chê là vô tâm đối với dân. Còn như phân xử những chuyện bất bình lặt vặt, mỗi ngày không quá bốn tiếng đồng hồ, chẳng cần thâm qua đêm, coi đó như thừa sức mà học văn chương vậy thôi. Tất cả trong dân hễ có nghề nghiệp gì làm ra của cải được thì đều đặt chức quan để huấn luyện dạy dỗ. Pháp lệnh được thi hành đều khắp từ thành thị đến rừng sâu. Hãy xem các đầu nguồn ở Gia Định, tất cả nơi nào có rừng ở mỗi công trường làm gỗ nếu chặt hạ bao nhiêu cây thì phải trồng một cây con bên cạnh, và dân chúng thi hành một cách tự nhiên như thành thói quen. Nước ta hai bên đường cái quan có trồng cây mà phần nhiều bị chặt phá (Đó là điều chính mắt tôi trông thấy). Trải từ thời Minh Mạng đến nay cứ ngã cây này trồng cây khác mà vẫn không thành công là vì sao? Chỉ một việc rất nhỏ nhặt, rất dễ dàng mà còn thế, huống gì là việc lớn?
_____________________________________
1. Sói chưa tế thú: Thiên Nguyệt Lệnh trang Kinh Lễ nói tháng cuối thu giống sói bắt được thú vật bày ra la liệt như cúng tế gọi là “tế thú “ - Ý nói khi chưa cuối thu, thú vật chưa sinh sôi nảy nở nhiều thì chưa cho phép săn bắt.
2. Rái chưa tế cá: Cũng Thiên Nguyệt Lệnh trong Kinh Lễ nói vào tháng đầu xuân giống rái bắt cá bày la liệt như cúng tế gọi là “tế ngư” - Ý nói chưa sang xuân ấm áp cá chưa sinh sản nhiều thì chưa cho phép đánh bắt.
Các nước người ta dạy dỗ dân thì như thiên văn, địa, lý, nông chính, hầm mỏ, khai thác nguồn lợi biển, nguồn lợi núi, nguồn lợi sông hồ, thủy cục, đường sá, cầu cống, thương mại, giao thông, toán pháp, y tế, cây trồng, cắt may, thực phẩm, nhà cửa, phố xá, cho đến nuôi dạy trẻ, không ngành nghề nào không có thức quan quản thủ, mà tất cả việc gì cũng đều hợp lòng người, không trái nguyện vọng của dân. Nếu muốn trình bày hết những cái hay đẹp phải đến một tập sách lớn cũng chưa thể nói hết được.
Nay hãy nêu một vấn đề căn bản hết sức trọng đại khẩn thiết đó là vấn đề nông chính mà nói để thấy rằng mọi vấn đề cũng đều như thế cả. Chỉ thưởng thức một miếng cũng đủ biết toàn thể mùi vị.
Đối với vấn đề nông nghiệp các nước chú trọng mở khoa thi để chọn người. Muốn thi đậu để ra làm quan nông chính, thí sinh trước hết phải học sơ qua về thiên văn để biết các lớp khí quyển khô ẩm của mặt đất. Đại khái có chín mục như sau:
1 - Khí nóng mặt trời tác động vào gió
2 - Khí nóng ở trong đất
3 - Độ cao thấp giữa mặt đất và mặt biển.
4 - Hình thái mặt đất.
5 - Hướng xiên của đất gò.
6 - Bề mặt bề lưng cách biển gần xa.
7 - Tính chất các lớp đất.
8 - Ruộng canh tác, ruộng hoang và mật độ dân số. (Vấn đề này cơ bản ở điểm đất có sinh khí hay không. Lý lẽ này rất sâu chứ không phải chỉ thống kê ít hay nhiều).
9 - Gió thường xuyên của bốn mùa.
Biết các hướng của các khí thì biết được sự thích nghi của động vật thực vật.
Tiếp đến phải học địa lý để phân biệt tính chất đất đai (Địa lý này khác với ngành địa lý tương đối với thiên văn mà nói, cũng không phải địa lý áp dụng trong ngành khoáng chất). Tất cả các loại ngũ cốc rau cỏ đều có thích nghi riêng đối với chất vị của đất, nếu hợp thì được nuôi dưỡng (Ngành học này rất phiền toái, tất cả đều quy về khoa thực vật học nhưng tách riêng ra một phân ngành để cho những người về ngành nông chính học sơ qua mà thôi) nếu không hợp thì không được tốt tươi. Điểm này do ở chỗ mặt đất cao thấp không đồng nhau mà ra. Như núi gò hồ ao đồng bằng, cao thấp một thước một tấc là có sự khác nhau rồi. Đất đai lại toàn có một sắc hoặc nhiều sắc xen lộn. Như sách Vũ Cống có nói đến năm loại đất, Quản Tứ cũng nói năm lớp đất, tức là lấy sắc đất mà phân biệt đất ấy tốt xấu chất vị khác nhau thế nào để biết thích nghi với loại cây trồng nào.
Tiếp đến phải học về tích chất của loại thực vật và cách gieo cấy trồng tỉa bảo quản chúng. Tất cả các loài ngũ cốc, hoa quả, rau khoai, cỏ cây, tự bên trong cũng như đối với môi trường bên ngoài, mỗi thứ đều có bản tính riêng có thể chia ra loại cay ngọt, đắng, chát, ôn hay mát, hàn hay nhiệt.
Sau đó phải học các loại điền thổ trong nước, cho đến ao vườn trang trại trong dân, năm được mùa thế nào năm mất mùa thế nào, để quyết định sự tăng giảm số thuế. Lại phải học về địa văn, thời tiết gió sấm, mây mưa sương móc băng tuyết, cho đến sự chênh lệch lạnh nóng giữa ngày đêm, gặp gió mưa nóng lạnh nơi nào nên cày nơi nào nên bừa, nơi nào nên gieo để phù hợp với khí trời đang phủ xuống, khí đất đang bốc lên. Về ruộng đất có loại mặt đất nào phù hợp với thời tiết gì đều sưu tập thành sách. Vấn đề khó nhất là gió mưa nhiều ít và sự vận khí mỗi năm đều có thay đổi chút ít. Dĩ nhiên đó là do ở trời, nhưng cũng phải biết tùy theo thời tiết mà đoán định. Rồi mau tham chiếu phối hợp với lịch pháp trong năm và theo dõi những trường hợp bất đồng trong mỗi lúc mà gia giảm để quyết định thời điểm canh tác sớm hoặc muộn.
Các khoản trên đây mới chỉ nêu sơ lược các tổng mục mà thôi. Về quan hệ thứ tự đối với người học còn rất nhiều phiền phức gấp bội sách vở kinh sử của học trò thi nước ta. Tôi thường nói với người ta rằng học nghề nông khó lắm và bị mọi người cho là nói khoác. Họ đâu biết rằng học nông như thế đâu phải dễ. Những người thi đậu sẽ được phân bổ mỗi huyện một người. Công việc của họ là đi xem xét ruộng nương còn quá hơn là người nông phu đi thăm ruộng. Lấy một xã ra mà nói thì thí dụ như một xã nào đó có bao nhiêu ruộng đất, ranh giới như thế nào cùng các nghiệp chủ có ruộng tọa lạc tại đâu nông quan sẽ căn cứ vào khí hậu thời tiết đám ruộng nào, tên gì, gởi trát đến cho lý trưởng truyền cho biết nghiệp chủ tên gì có ruộng tại đâu ngày nào vỡ đất, ngày nào xuống giống, dùng giống lúa gì, hàng gieo cấy cách nhau bao nhiêu, mấy lần cày, mấy lần bừa, bao giờ bừa cỏ, tưới tiêu như thế nào, nhất nhất phải làm đúng theo pháp tắc quan nông chính đã định. Nếu ai làm sai ngày giờ sẽ phạt không tha, như người bị tử tội vậy. Đã đi tuần lúc xuống gieo để quan sát cách canh tác lại còn căn cứ theo mỗi thời kỳ đi tuần xem từ khi lúa mọc đến vàng gié rồi biên rõ vào trong sách. Khi lúa chín phải đợi quan nông chính biên nghiệm xong mới được gặt. Đối với ruộng hạ đẳng, vốn lời tương đương nhau thì được trừ thuế. Ruộng trung đẳng và thượng đẳng cũng làm theo cách như vậy. Ví dụ như trừ ngoại mười quan tiền xuất vốn canh tác, rồi mới chiếu cứ mười quan lợi bao nhiêu thì phải nộp thuế bao nhiêu. Mỗi nghiệp chủ có bao nhiêu ruộng loại nào, tính chung số lợi thu đắc thuộc vào hạng nào, liệt kê trên là ruộng dưới là thuế, cộng chung phải nạp bao nhiêu quan. Đến khi mở điểm thu thuế trước hết gởi trát đến bộ thuế nơi lý trưởng hẹn ngày giờ nào quan viên sẽ thân hành đến cho lý trưởng ngồi thâu. Nếu chủ ruộng không đem nạp đúng thời hạn đã định, đến khi quan về nhà rồi mà cũng không đem đến nộp thì sẽ gởi trát lần thứ hai hối thúc một lần nữa, sau lần này sẽ phát mãi tài sản để trừ đủ số thuế, nhất định không sai như mặt trăng thay ánh sáng mặt trời vậy. Họ làm thế cho nên chưa bao giờ thuế bị trì hoãn hay thất thu như ở nước ta. Vì nhà nước chỉ thu thuế trên số lợi mà không hề xâm phạm đến số tiền vốn mà dân bỏ ra canh tác, nên không có nạn khai gian trốn thuế, tiền thuế phù hợp với lợi tức thu đắc, đúng đạo công bình tuyệt đối không tư vị, nhờ đó tránh dược cái tệ thủ lợi riêng, dân ai nấy đều được công bình. Đối với vườn tược trang trại đất núi đất rừng cũng vậy. Phàm trồng cây gì có thể dùng để lấy gỗ hay cây gì ăn được đều phải nhất định theo phép quan mà làm. Quan nông chính sẽ thân hành cắm tiêu làm dấu phạm vi trồng, thích hợp trồng cây gì và chỉ vẽ các cách ươm trồng vun xới. Đến khi cây mọc tốt thì hằng năm vào mùa thu quan nông chính lại đi tuần xem chỉ vẽ cây nào nên cắt bỏ nhánh nào hướng nào. Khi cây đã đúng kỳ dùng được hoặc cây nào bị trùng đục cần phải chặt bỏ thì cho hạ xuống mà dùng rồi lại trồng một cây con bên cạnh. Nghiệp chủ tuyệt đối không dám cắt bỏ một nhánh con theo ý mình. Hãy xem phương Tây, ở đồng bằng mà người ta cũng đều trồng cây nơi bờ ruộng ngay hàng thẳng lối xanh mát đẹp đẽ chứ không chỉ ở núi rừng mà thôi.
Làm như thế không phải chỉ đặc biệt để có của cải sử dụng mà còn quan hệ rất lớn.
Châu Mỹ ngày xưa hoang vu chưa khai thác, sầm uất cũng như Gia Định ta thời cổ: Sau đó người Anh, Pháp, Y Pha Nho, Hà Lan v.v… những người không nghề nghiệp đổ xô tới tha hồ khai phá chặt chém đạp hết xuống mà làm đồn điền nông trại. Khi họ mới đến, mưa gió thuận thời tiết. Nhưng sau khi bụi bờ gai góc đã chặt, đường sá đã nối liền, đồng ruộng bạt ngàn, lúa mè xanh tốt, thì lượng mưa giảm dần. Cho đến lúc đất đai được khai thác gần hết thì mưa ít hạn hán nhiều, chẳng biết vì sao. Mãi gần một trăm năm có một người giỏi về thời tiết khí hậu mới suy ra rằng cây cối hút khí ẩm trong đất khi mặt trời hun đốt thì nhả khí ấy ra tản mạn rồi bốc lên thành mây mưa xuống. Hãy xem ở núi cao nơi cây mọc rậm rạp, ở đó mưa nhiều gấp bội những nơi đồng trống. Đó là chứng minh. Từ đó người ta mới trồng cây khắp các bờ ruộng ở đồng bằng và các cồn cát, mới nhìn tưởng như rừng. Mười năm sau, gió mưa mới phục hồi lại như thời cổ. Cho nên đến nay người phương Tây quan tâm trồng cây ở đồng bằng cũng vì thế.
Hãy xem tỉnh Nghệ về mùa hạ miền trên mưa nhiều, còn miền dưới thì núi thấp đồng trống ví dụ như hai huyện Hưng Nguyên và Châu Lộc mưa rất ít. Nếu có mưa nhiều thì phần lớn đó là mưa từ trên di chuyển xuống, hoặc từ Hồng Lĩnh tản ra bốn phía. Đó là một chứng minh. Xem thế mới biết cái gì trời sinh ra là có lý rất nhiệm màu. Không có đất đai nào mà chẳng có cây cối, đó là để tiếp hòa khí đất, thích hợp cho vật cho người. Công dụng của nó rất lớn. Thế mà con người chẳng biết quý trọng, muốn chặt phá là chặt phá, bò dê phá dẫm đạp. Thậm chí mùa khô nắng, một đóm lửa cũng đủ cháy lan một giải núi lớn, tấc cỏ chẳng còn, nói gì đến cây cối nữa. Như miền dưới, núi Đại Quắc giáp giới Đông Thành, Hưng Nguyên, Lương Sơn, núi Đại Huệ ở Nam Đàn, núi Thiên Nhận ở Thanh Chương đã trơ trọc mất hẳn tính núi. Tôi đã từng hỏi dân chúng ở gần đó vì sao mà đốt phá tổn hại quá lớn như vậy? Người ta lấy làm quái lạ cho câu hỏi của tôi. Vì luật pháp có cấm đâu! Xem đấy, đối với dân không thể để cùng nhau tự lo như lúc sơ khai là thế. Bởi vì thiên hạ chỉ biết sợ pháp luật nhà nước chế tài họ. Có pháp luật mới răm rắp làm theo mà giữ gìn. Còn để tự nhiên thì ai cũng vậy, tội gì một mình mình giữ gìn cho thiên hạ xài? Do đó ở phương Tây hai bên ven rừng ven núi đều được phân giới hạn chia cho dân địa phương ở đó nhận phần làm nghiệp chủ mà giữ gìn. Nếu người ở đó không đủ sức thì cho dân nơi khác đến chiếu nhận giữ gìn hưởng hoa lợi, không để một nơi nào vô chủ mà phải trả về cho Triều đình. Vì vậy người ta nói giang sơn có chủ là vì thế.
Không như nước ta, bỏ mặc không hỏi đến. Trừ các núi lớn vùng thượng bạn không đủ sức kiểm soát không nói làm gì, còn các núi vùng hạ bạn như núi đệ nhị đẳng, núi đệ tam đẳng ở các huyện tuy giới cận hai bên phù hợp tiện lợi, thế mà ngàn đời vẫn bỏ hoang, muốn đốt phá lúc nào thì đốt phá nỡ làm cho tuyệt diệt. Đạo trời là cái đức lớn sinh thành vậy mà chặt chém đi làm mất cái nguồn nước mưa tưới nhuận cho đồng bằng, làm mất cái nguồn cung cấp củi than cây gỗ, làm mất nguồn nuôi sống. Lý do không có gì khác hơn là vì không có pháp luật để giữ gìn mà thôi. Xưa cấm vào rừng. Tại sao nay lại không làm được như thế? Trời sinh ra rừng rú có công dụng rất lớn, thế mà người khinh bỏ không biết coi trọng cho nên không đạt được cái dụng của nó cũng phải. Nếu biết rõ được nhiệm ý của tạo vật làm cho đất đội lên thành núi để tạo ra cái công dụng lớn cho loài người thì mới biết quý trọng, biết chăm sóc, không đến nỗi để cho anh linh núi rừng phải bị giễu cợt mỉa mai. Kìa, trời sinh thời tiết, đất sinh nguồn lợi, các nước phương Tây tuân theo thời tiết, khai thác nguồn lợi, chia ra xướng xuất để khuyên dân ra sức làm việc để khỏi cái thói biếng nhác ăn chơi, giúp cho việc tạo thành phong tục thuần phác.
Sở dĩ nhân dân các nước phương Tây được giàu có phần nhiều do nhờ ở nghề nông. Cho nên có đặt ra một Bộ do một vị đại quan cầm đầu coi sóc. Còn để giúp thêm vào việc khích lệ thì mở các cuộc hội chợ đấu xảo, từ đó dân mới biết trách nhiệm chú trọng đến điều căn bản. Cho nên ai cũng hết sức đeo đuổi. Vì lẽ nghề nông chẳng phải là nghề sang cả gì mà được ơn Triều đình khen thưởng hậu đãi. Tâm lý con người ta đã được lợi ích thiết thực cho mình, lại được Triều đình ban thưởng, khiến trong nước đều biết tên mình, vậy ai chẳng gắng sức. Bởi vì thí dụ như có một người nào đó suy nghĩ ra được một phương pháp mới rất hay, thí dụ như trồng được mía tốt hơn bình thường, nấu ra đường cũng nhiều hơn các mía khác. Quan nông chính liền thân hành đến nơi xét nghiệm và khen thưởng. Rồi sau đó khiến khai rõ phương pháp tài bồi như thế nào, đem phổ biến cho tất cả mọi người khiến mọi người bắt chước theo phương pháp đó, chẳng bao lâu mà tiếng tăm lan tràn khắp nước. Tất cả việc gì cũng thế. Hãy xem ở Gia Định mỗi năm đều có đấu xảo. Đó là họ mới thí nghiệm chính sách lúc đầu của họ. Thế mà biết đâu dưới dân đã có ít nhiều người trổi khá. Nước ta vấn đề ranh giới ruộng đất chưa được đúng, còn nhiều sơ sót, dân gian sinh nhiều tệ đoan, đất nước chưa được lợi một cách rõ ràng. Nguyên do của nó rối như tơ, giờ đây ra làm gặp muôn điều khó nói hết được. Trước đây trong điều “Tế cấp chính kinh giới” tôi đã nói đại lược các tệ hại, nhưng chưa nói đến những phương pháp bổ cứu làm cho tốt, bởi vì Triều đình lúc bấy giờ chưa để ý đến. Núi, sông, đồng ruộng, biên ải của một nước cũng giống như ruộng đất vườn ao của một gia đình. Nếu là chủ nhà mà không biết hết gia nghiệp của mình có những gì, bao nhiêu, thế là rất thiếu sót đối với gia đạo. Triều đình đối với nhà dân, quy mô còn tuyệt vời hơn nữa, thế thì sự sắp đặt càng phải rõ ràng sáng suốt hơn mới hợp thể thống.
Nay không biết hết được các điều khoản về địa diện địa chất trong nước, chỉ biết sơ sài đại lược, còn các điều cần phải biết gấp như tôi đã kê rõ trong “Tế cấp kinh giới điều” trước đây mà bỏ ngoài tai thì đối với quốc thể rất là thiếu sót. Bởi vì một khoản về nông quan chính là chính sách lớn trong công việc chính kinh giới đó. Xưa nay các nước đều tận lực thi hành khoản này. Xem Trung Quốc càng thấy rõ hơn. Thế giới ngày nay đều lưu tâm để ý còn gấp bội thời cổ, lẽ nào nước ta có một vũ trụ riêng khác với mọi người, không làm nông chính mà vẫn có thể làm giàu được sao? Nay một lần nữa tôi xin nêu ra một tệ đoan lớn. Tức như về khoản khai khẩn. Vì lập ra phép giác khẩn mà trong dân gian xảy ra vô số vụ kiện cáo khiến nhiều nơi bỏ đất hoang không ai dám báo khẩn, như ở xã Hải Thanh ở Hưng Nguyên có một khoảnh đất ước chừng hai trăm mẫu làm nhà cửa cho hàu hến ở. Năm trước có người hợp tác cùng bạn bè nâng đất bồi đắp, tổn phí hai ngàn quan tiền. Khi xuống gieo rất tốt chỉ vì báo khẩn thế nào chưa đầy đủ, bị dân phát giác tranh chiếm. Nguyên chủ rất giận bỏ đi để đất trở lại hoang phế như cũ.
Tôi đã qua đó trông thấy lấy làm tiếc lắm. Tất cả trong dân gian có chỗ địa lợi chưa khai khẩn hết, chính là vì lý do đó.
Xưa vùng Giang Nam có nhiều đồng lầy đất hoang mà dân không dám canh tác bởi vì nếu cày cấy sẽ bị kiện tụng liên miên không gỡ ra được, chỉ vì tranh nhau một miếng đất cắm dùi mà đến nỗi phải khuynh gia bại sản. Vua Thế tổ nhà Minh là người xuất thân từ con nhà nông, đã rõ thấu tệ này cho nên đã ra lệnh trừ đất nào đã chính thức thành ruộng rồi, nếu có đất hoang mà ai khai phá được thì giúp cho họ mở mang bất luận người ấy là dân địa phương hay dân ngoại tịch, bất luận có báo khẩn hay không báo khẩn, vật phải có chủ, ai chiếm trước người ấy được. Lệnh ban xuống chưa được mấy năm mà suốt từ vùng Giang Nam xuống phía Nam tất cả mặt đất đã trở thành ruộng lúa phì nhiêu. Sau đó mới sai quan sát nghiệm rõ ràng, chiếu trừ số tiền dân xuất vốn khai thác là bao nhiêu rồi lượng cấp số lượng cho dân. Dân chúng không ai nói không kham chịu, là nhờ sự tính toán thích hợp. Hiện tại đất đai của ta những chỗ để canh tác đã hết, còn đất hoang và những nơi khó bồi đắp hãy còn nhiều mà sức dân không thể làm một mình được; ắt phải có người có của cải hợp tác mới có thể khai khẩn được một khoảnh, sở phí về bồi đắp, báo khẩn, khám xét, đo đạc rất nhiều. Mặc dầu trong đó cũng còn sót lọt nhiều nhưng giả sử trong dân sót lọt bốn, năm mươi mẫu chỉ khởi canh được mười mẫu vẫn còn hơn chẳng được mẫu nào. Dân có ruộng để làm ăn chẳng hơn là bỏ hoang phế đất đai quý báu hay sao? Nay tốn công tốn của bốn, năm năm một mai bị người nhiều tiền đem kêu lên quan, được thưởng, còn mình thì bị tội, làm người ai mà chịu được như vậy?
Cho nên trong dân gian đã tương truyền với nhau rằng khai khẩn là một tội lớn. Mặc dầu trong lệ định thưởng mỗi mẫu ba quan tiền cho người phát giác, còn ruộng thì trả về cho nguyên chủ, thế mà trong dân gian cũng có một vài nơi người phát giác lại được ruộng còn người trước tiên khai khẩn lại bị mất ruộng. Cho nên người ta đã bảo nhau phải rất dè chừng chớ nên khai khẩn đất. Đã tốn công tốn của để khai khẩn thành ruộng rồi lại tốn của chịu khổ để xin ruộng, như thế chi bằng đem tiền tạo mãi ruộng có sẵn mà tọa hưởng có hơn là đa sự mà khổ thân không? Đến như hạng dân nghèo không ruộng không đất hoặc có khai khẩn được một sào nửa thước miếng đất rẻo thừa chẳng nên hình nên dáng gì mà còn bị người ta tố cáo là ruộng lậu rồi yêu sách điều nọ điều kia. Chỉ vì một chút đất cắm dùi mà phải cung phụng bọn hào lý đủ thứ thì chi bằng không nhà không của, đi làm mướn ăn có hơn không? Nếu làm như Thế Tổ nhà Minh, trừ những dân có ngạch thuế ra còn bao nhiêu những người khác đều cho họ được tự do khai khẩn, không ai được sinh sự. Đợi sau khi đất đai khai thác đã hết, bấy giờ mới sắp đặt châm chước lại cho được công bình. Như vậy thì trong mấy năm dân được hưởng quyền lợi lúc mới khai khẩn, dần dần được giàu có, điều đó có thiệt hại gì cho quốc gia đâu? Trái lại trước đây trong dân có ai khai khẩn chút đất hoang nào thì rắc rối nhiều chuyện mà đâu là phần công đâu là phần tư đều không rõ ràng, tệ lậu như tơ vò tóc rối không thể nêu hết được (Nếu ngày nào Triều đình muốn diệt trừ tệ đoan, tôi xin trình bày hết). Còn như những nét đại cương về việc điều chỉnh thì tôi đã đề cập sơ lược trong điều “Tế cấp kinh giới” trước đây rồi.
Nay tôi xin nói một khoản về thiết lập quan nông chính. Tất cả các cử nhân tú tài tại gia hãy chọn lựa cho học Nông chính toàn thư, đồng thời soạn thảo những gì thích nghi với phong tục thổ sản biên thành một bộ cho họ thực tập bổ túc, vừa học vừa làm. Tuy chưa được hoàn toàn như thiên hạ một cách nhanh chóng, nhưng cũng có thể lựa những người ưu tú lần lượt cử ra làm việc trước, mỗi huyện cử một người. Tất cả mọi việc về nông chính và khai hoang đều phải nắm chắc trong tay. Tất cả vườn ao trang trại núi đồi gò nông dần dần vẽ thành bản đồ. Dần dần trừ bỏ các tệ đoan tồn tại trong dân từ trước, mỗi ngày đi tuần chỉ vẽ cho dân làm, y như mình là người chủ nông vậy. Nhưng chủ nông là người chỉ biết lo làm giàu cho gia đình mình, còn quan nông chính là người lo cho sự giàu có của toàn huyện. Do đó quan nông chính phải có tâm sốt sắng và tháo vát mới làm tròn công việc được. Về cách cư xử đối với dân thì vừa phải theo như đạo xưa, đồng thời lại phải theo phong cách làm việc như các quan ở phương Tây thời nay. Không thế không thể làm việc được. Hãy xem ở Gia Định quan án giải quyết những việc kiện tụng lặt vặt, họ không nỡ câu lưu người ta để xét hỏi, sợ tổn hại công việc làm ăn của dân mà thường hẹn giờ rồi thân hành đến nhà dân. Một ngày như thế họ có thể giải quyết mấy chục vụ. Chỉ một người cỡi một con ngựa cặp một cái cặp sách mà thôi. Thanh liêm mà giỏi việc hành chính, ai bảo người thời nay không làm được? Còn nếu theo cách quan liêu hiện nay thì chẳng khác gì trường hợp như Liễu Tử Hậu, không những không làm lợi dân mà trái lại còn bị dân hại. Xưa Điền Tuấn rất vui, Toàn Nghĩa thấy lúa mạch thì cười, cho đến nuôi tằm trồng dâu mà được trừ tội. Để tâm săn sóc lo cho dân đến thế mà dân không phấn khởi được sao? Nếu Triều đình muốn thực hành thì trước hết nên định ra điều lệ, áp dụng làm thử một tỉnh trong vòng bốn năm năm, thấy có hiệu nghiệm rồi sau sẽ thi hành phổ biến. Còn nếu không hiệu nghiệm thì bỏ cũng chằng muộn gì (Nếu như tôi được đi theo đại phu thực hành thử một nơi nào mà không hiệu nghiệm, tôi xin cam chịu tội nói láo). Ngày trước Ngụy đại nhân cũng đã cùng tôi bàn luận việc này và muốn áp dụng thử ở tỉnh Nghệ trước, chỉ tiếc hồi đó chưa đủ người thừa hành công việc.
Xưa thánh Khổng làm chức Tư không ở nước Lỗ trước tiên phân biệt năm loại chất đất khắp núi rừng sông hồ gò nông đồng lầy... Do đó mà các loại thực vật đều được thích nghi. Tưởng thời xưa cũng có chuyên môn và sách vở, đến khi gặp nạn Tần mới bị đốt bỏ. Tử Lộ cai trị đất Bồ thay đổi lại hết chế độ ruộng nương, phá bỏ bụi bờ gai góc, đào ao vét mương, trồng cây cối sum sê, được thánh Khổng khen là bậc cung kính trung tín. Thời bấy giờ lời nói và việc làm của các môn đệ của Khổng đều chú trọng điều căn bản. Người xưa coi trọng hiếu đễ và sự lao động sản xuất giống nhau. Lưu Án cho rằng làm vua thương yêu người không phải ban cho người vật này vật nọ mà phải dạy người cày ruộng dệt vải. Thoát Thoát nhà Nguyên mộ dân phương Nam cày ruộng phương Bắc, mỗi năm thu hoạch thóc lúa hơn trăm vạn thạch, lại mộ dân đắp đê ngăn đập, cứ ngàn người làm một nông sự, làm giáp một năm mà được mùa to. Trương Như cai trị đất Bá, cứ một xóm lập một sổ bộ thống kê hết sổ hộ khẩu nam nữ lớn nhỏ, dụng cụ trồng lúa, trồng dâu, dệt cửi, số lượng heo gà, mỗi mỗi đều kiểm tra xem xét, khi rảnh thì xuống làng kiểm điểm thưởng phạt, chưa đầy hai năm dân chúng đã có của cải dồi dào, cuộc sống ngày một sung túc. Chuyện đó xưa người ta đã làm cả rồi. Ai bảo là khó như vượt biển? Lý do vì sao?
Nếu nhất định thi hành nông chính trở lại mà có người thực tâm làm việc, theo đúng pháp luật mà làm thì từ đó sẽ sinh ra nhiều lợi ích không thể kể xiết. Thứ nhất là vấn đề kinh giới nhờ đó được chính xác, chấm dứt mối tranh giành, dân chúng được yên ổn lâu dài. Thứ hai là khai thác hết địa lợi, thì dân được giàu có. Thứ ba là trong nước nơi nào trồng trọt được nơi nào người ở được có thể thấy rõ ràng như trong bàn tay, như gia chủ quản lý công việc nhà vậy. Thứ tư là các phép ngăn nước tháo nước, mở đường sá càng thêm khang trang càng thêm kiên cố (Đây là địa lý về binh pháp). Thứ năm là trồng cây xanh rộng rãi khắp nơi từ đồng bằng đến gò nông, lá khô rụng xuống đất hư mục, thấm khí thấm vào ruộng đất mỗi ngày một tốt, hơn nữa đồng trống thành rừng nhờ đó gió mưa điều hòa, đem sức người phục hồi tạo hóa. Thứ sáu là thuế thu ngày một tăng nhiều, không ai nợ không ai thiếu, chẳng nhọc quan phiền dân. Thứ bảy là chỗ dồi dào chỗ yếu kém bồi bổ cho nhau, lập kho lúa của xã, kho lúa tương trợ công ích, tùy lượng nhập tùy lượng xuất, phòng bị trường hợp mất mùa, lúa thóc quân bình đủ ăn. Thứ tám là có tổ chức hội chợ đấu xảo nên dân chúng đua nhau học các nghề thực dụng và các phương pháp trồng trọt khiến ngày một khéo léo làm lợi về mặt kinh tế. Thứ chín là quan dân thường gặp gỡ nhau ngày một thêm thân cận, quan bình dị gần gũi dân thì dân sẽ quy phục. Thứ mười là hình thế đất đai đều hiểu rõ thì từ đó nắm vững được địa lý về binh pháp.
Có được mười lợi ích to lớn này thì quốc thể càng thêm hùng hậu. Vậy không nên gấp rút thi hành sao? Quan viên ngày đêm thân hành vào thôn xóm dạy dỗ tập rèn dân mình như thầy trò cha con. Nhờ đó thay đổi được hết tình hình dưới dân khiến tất cả những gì u ẩn bí hiểm của muôn dặm đất nước thấy được rõ ràng như trong một gia đình, trên hô hào dưới hưởng ứng chẳng dễ dàng trong việc cai trị hay sao? Đấy chính là sự lợi ích vô cùng lớn lao. Nước ta đối với vấn đề nông nghiệp từ lâu đã phế bỏ không giảng dạy. Nay bỗng nhiên muốn thi hành thì trên quan chẳng biết dạy cái gì, còn dưới dân thì cứ nghĩ rằng mặt trời mọc thì đi làm, mưa xuống thì vác cày ra cày, đợi gì phải dạy. Nếu muốn được những lợi ích như đã nói trên, khắp thiên hạ ngày nay thi hành thì không thể nào không có thầy chỉ dạy. Hơn nữa nhà Nguyên mộ một ngàn nông sư đó do đâu mà có? Ngày nay trong thiên hạ sách vở ấy, người chuyên môn ấy hãy còn, mà sách Nho viết về nông nghiệp cũng nhiều, tại sao không sưu tầm rộng rãi mà chỉ lo mài dũa văn chương, thử hỏi khi đói có thể đem ba cái chữ nghĩa văn chương ấy ra nấu ăn được không? Có chính sách nào hay ho trong việc cứu đói không? Tôi từng để ý hỏi những người lão luyện về nghề làm nông làm vườn thì thấy họ cũng có được một vài phương pháp hay độc đáo, tiếc là không thể truyền bá rộng rãi. Nếu hiểu thị cho dân chúng khiến dân sở tại ai có ngành nghề gì hay thì trình bày dâng lên sẽ được ban thưởng, chắc không bao lâu những phương pháp dạy nghề sẽ được tập trung gởi dâng lên Triều đình. Sau đó tham chiếu với địa thế, khí hậu, thời tiết rồi phối hợp với các phương pháp mới trong thiên hạ soạn lại thành sách. Như vậy là có phương pháp có tư liệu để dạy dỗ rồi. Trên biết quý trọng thì dưới chắc chắn càng chăm hơn. Chẳng qua chỉ độ vài năm có thể sẽ từ thô sơ tiến tới tinh xảo mà tạo lập được cái căn bản lớn cho thiên hạ.
Những trang này là một điều trong bài Tế cấp luận của tôi trên đã được nghe rồi. Nay nếu Triều đình cho là việc đáng làm thì tôi cũng có thể đóng góp kiến thức hẹp hòi vào việc vạch định thể thức tiến hành cùng khảo hiệu thư tịch cho được phần nào kết quả.
Nay
kính bẩm.
DI
THẢO SỐ 54
Phải gấp rút thực hiện các kế hoạch*
(Khoảng tháng 9, tháng 10 năm Tự Đức 24, tức tháng 10, tháng 11-1871)
Kính bẩm,
Tháng 10 năm ngoái tôi có một bài nói rằng: Nếu bệnh họ thuyên giảm rồi, họ sẽ gấp rút kiếm ăn để bổ dưỡng chỗ thiếu hụt, mà đất của ta có nhiều thứ có thể ăn được, lẽ nào họ chịu để bụng đói ngồi trông ư? Từ năm trăm năm trở về trước khi cái thói cướp đoạt của phương Tây chưa thành thạo thì cũng có thể do loạn mà dần dần được thịnh trị. Như các nước phương Đông thời xưa còn đóng kín cửa vậy. Nhưng từ khi chúng đã thành thuộc đường đi rồi thì lo thu vét của cải lợi lộc của thiên hạ. Cho nên tuy trong nước dẫu bị tàn phá nhưng hễ vừa được rảnh tay thì túa ra bốn phương như ong, không chỗ chằm vá nào chẳng xé ra, không chỗ sơ hở nào chẳng xen vào, coi tài lợi của thiên hạ như của mình. Ví như người đã quen thuộc phương xa, nếu ở mình cùng khốn thì chuyển đi nơi khác, chụp bên Đông giật bên Tây chứ chẳng để đến nỗi tay không. Nếu đem so sánh với kẻ ôm cây đợi thỏ, không ra khỏi nhà nửa bước xem ai thư thả ai quẫn bách? Hơn nữa không phải chúng chỉ giỏi thu lấy của cải nơi người mà còn giỏi khai thác kinh doanh nơi mình nữa. Đem cái vốn sẵn có của mình mà thuê mướn đất đai của người, lẽ nào không giàu có sung túc nhanh chóng được? Nay sáu tỉnh là nguồn vốn căn bản của họ. Đất đai sau núi là ruộng đất của họ. Nước ta là nguồn tài trợ của họ. Trung Quốc là nơi họ thuê mướn. Còn nguồn lợi bốn phía phương Đông thì Đông ngã ăn heo Tây ngã ăn dê mà họ thì ăn đủ thứ. Chưa nói chi những chỗ khác, chỉ nội một Gia Định cũng đủ quấy rối ta không yên. May mà trời cho ngày nay họ còn bối rối, tuy ta có hơi thong thả, nhưng dần dần cũng không khỏi sinh nhiều chuyện. Đó là điều tôi đã lo xa như vậy. Nên trong lúc họ còn đang phân vân đứng giữa mà ta thì có thể cực lực bôn tẩu tiến mạnh. Họ dừng lại chờ xem còn ta thì đi tới tiến lên. Do đó cũng có thể hy vọng làm được việc lớn. Nếu không thì đó là nguyên do các nước bị trùng ăn cá nuốt là như vậy.
Cơ hội hưng suy thiên hạ xưa nay không giống nhau. Nhân việc đã qua suy việc sắp tới cũng có thể đoán biết được bọn chúng sở dĩ chuyên chú vào các nước là vì đối với họ đó là việc quan hệ tính mạng, còn đối với người thì có đường lối có thể xen vào được. Sở dĩ các nước không thể cự lại được họ là vì câu chấp chỗ hiểu biết của mình mà không chịu gấp rút theo thời thế. Nay hãy lấy một vài bằng chứng gần ta xem. Xưa năm xứ Ấn Độ với Bồ Đào Nha là trường hợp chuyện nhỏ để xảy ra to. Bấy giờ Bồ Đào Nha đã biết người Anh đã thôn tính Tây Châu như thế nào rồi. Người Bồ đại ghét người Anh muốn chận tay người Anh ở Ấn Độ, đã đem mách cho Ấn Độ biết cái ý của người Anh, thế mà Ấn Độ chỉ cười bỏ qua. Đến khi sự việc ở Mạnh Gia Lạp xảy ra thì tiếp đến các thành phố lớn lần lượt bị sụp đổ. Năm xứ Ấn Độ là nước đứng vào hàng nhì trên thế giới đâu có thể bảo là không người. Chỉ vì tâm lực không đồng mà buông mình chịu làm kẻ dưới. Miến Điện ngồi xem Ấn Độ, không nghĩ đến cái thế môi hở răng lạnh, tự cho rằng mình trong có núi ngoài có sông có thể cố thủ được mà không chịu sửa sang nền chính trị và bang giao với các nước láng giềng, thỏa mãn với cái điểm ưu thắng nhỏ nhoi ấy mà tự cao tự đại không nghĩ đến việc Anh sẽ gây trở ngại. Đến khi họ cuốn lấy hết nửa nước bấy giờ mới chậc lưỡi, tự hận thì không kịp nữa. Tấm gương không xa đó, người Xiêm đã thấy rõ. Nhưng nỗi giận khó nuốt mà muốn gắng gượng ra tay thì biết phận mình như chân bọ ngựa khó duỗi. Cho nên đã gấp rút mở toang cửa ngõ mời thiên hạ đến giúp. Nhờ thế mà đến nay phận chủ khách còn rõ ràng, còn hơn là trông thấy người ta xử sự với mình.
Nước ta hiện nay đối với cái kế thâm độc của họ và sự được mất trong thiên hạ, việc đã sáng tỏ như gương. Tại sao cứ chăm vào một việc đàm phán thương thuyết với họ? Tôi thấy liệt vị đại thần không ai chẳng lo xa nghĩ sâu thế mà bảy tám năm nay chưa thấy thi thố được một cái thuật nào khả dĩ cự lại họ. Ngày xưa, binh gia thường dùng kế hoãn binh để chỉnh đốn việc phòng thủ. Nay tình thế giữa họ và ta, dùng một kế hoãn binh là cơ hội tốt. Nếu không gấp rút chấn chỉnh để thời kỳ bối rối của họ đi qua thì còn làm chi được nữa? Tôi đã từng nói cái xấu dở nhỏ trong nước ta chẳng qua chỉ là một thứ mụt ghẻ ngoài da, tuy có đau ngứa nhưng chẳng hại gì lớn lắm. Còn tình thế của nước họ mới là bệnh trong ruột trong tim, mới thật đáng lo. Họ trước đây khi mới đến Gia Định, ngôn ngữ chưa thông, tính tình chưa thục, bị thông ngôn phá hoại khiến dân thất nghiệp không nơi nương tựa, nhân quẫn bách mà sinh loạn cho nên họ chưa dám mưu đồ gấp rút, chỉ chuyên chú kinh doanh nơi đây, tạo thành một vũ trụ riêng để nắm cái quyền cư trọng ngự khinh. Do đó họ đã gấp rút phái người đi Tây học tiếng Tây để chuẩn bị sau này dùng vào việc đua đuổi. Trước đây nguyên soái Gia Định phái được hơn ba mươi người đi Tây học tiếng đã thành thạo trở về Gia Định, còn quan Tây thì chuyên học tập phong tục luật lệ nước ta. Dụng tâm của họ như thế còn dụng tâm của ta như thế nào sao chẳng lo sợ?
May thay nước họ đang suy loạn còn phải ngồi xổm mà chờ, chưa kịp quan tâm đến ta, có thể nói là lúc ta đắc ý. Ta làm gì đây, hay cũng như người mà thôi? Thiên hạ bốn trăm năm nay đã có nhiều thuật bổ cứu giằng co với bọn chúng, đã có đủ phương pháp công chiến đường lối báo phục. Ngã xuống lại tiến lên, ngọn thương đâm trước mặt, mũi tên bắn ngầm sau lưng cũng là gian lao. Hòa rồi chiến, chiến rồi hòa đâu phải một lần. Thù giết không thôi, người thì ngày một manh mún, chúng thì ngày một tụ họp. Người lui một bước, chúng tiến một thước, đời đời kế tiếp, triền miên không thôi cũng đã lâu rồi. Cùng khắp thiên hạ cự lại một phương Tây nhỏ bé. Có phải của cải sức lực mưu trí không nhiều đâu. Thế mà càng chống cự chúng càng tiến tới, càng chiến đấu càng thua bại. Việc đã trở thành lớn rồi. Đến như Trung Quốc, hai trăm năm nay chưa bao giờ quên bọn chúng mà nay việc cũng đã xong rồi. Họ là người ta là quỷ, con đường lợi hại được mất đã thấy hết rồi. Nhưng rốt cuộc cũng không khỏi hai con đường là canh tân tiến bộ và mở rộng giao thiệp mới có thể bảo đảm không bị chúng vồ lấy. Như thế đó không phải là cái kế độc nhất vô nhị, đến chỗ tuyệt vọng mà được sống sao?
Tôi đã từng nói: Sau cùng còn một mình ta lâm vào tay họ, đó là phúc của ta. Khi họ mới phát, thiên hạ đã đem cái sở kiến cũ kỹ của riêng mình ra nghị luận để đối đãi với bọn họ, cũng giống như ta trước đây một thứ thôi. Có điều là người ta thì chưa được thấy vết xe trước đã đổ cho nên cực lực đánh lâu với bọn chúng cho đến khi kiệt sức không dậy nổi mới thôi. Do đó tổn thất rất lớn. Còn ta thì vì sao thiên hạ trúng phải kế quỷ quyệt của chúng và vì sao thiên hạ có thể quân bình lợi hại với chúng được, điều đã thấy rõ ràng. Thế mà còn không chịu làm là vì cớ gì? Lẽ nào suy nghĩ mà không rõ được lý do hay sao? Đã suy nghĩ ra lý do mà chỉ vì lý do đó nên đến nỗi không thể cất mình bay bổng lên được thì tại sao không một lần nêu rõ lý do ấy ra để trừ khử nó đi?
Xưa nay trong những thời suy chưa có thời nào không có người thấy biết, nhưng có người thấy thời vận không thể làm được nên giữ mình trong sạch mà bỏ đi, cũng có người không thể vong tình nên đem cái chết mà tạ đất nước, cũng có người ẩn dật trông đợi thời thế sáng sủa, cũng có kẻ biết mà không thể nói được phải dằn lòng nuốt hận hoặc nói mà không thấy áp dụng đến nỗi phải than dài như điên, hoặc ôm hận mà chết, tự hại không bổ ích gì cho đời, hoặc phát chí mạnh mẽ gan góc chống chọi để mưu đồ năm tháng. Có những người có tài như thế mà rốt cuộc không ích gì cho quốc gia là do ở cái thế không thể làm được chứ không phải họ không biết. Nước ta hiện nay cái thế đã rõ mà thế rất có thể làm được. Đó là hiện tượng của thái bình. Tôi biết chắc chắn rằng nước ta tuy nay gặp nhiều biến cố như thế nhưng căn bản đã vững chắc, càng nhiều việc thì càng khó lay chuyển. Sau vài năm hết khổ đến sướng mới thấy lời tôi nói không sai. Đó là chỗ tôi thấy chắc chắn như vậy chứ không phải như hạng thầy bói nói láo. Tuy nhiên có làm mới thấy thái bình. Trên thế gian lẽ nào có chuyện không làm mà tự trên trời rơi xuống cho đâu?
Đức thánh Khổng nói: Còn mất, họa phúc đều ở mình mà thôi, thiên tai địa yêu nhưng chẳng làm gì được. Nếu thế thì chỉ có một chữ cương quyết làm mà thôi. Nay xin gấp rút đi giao thông các nơi để tìm kế chống lại họ, một mặt hãy sang gấp nước họ ở lâu bên ấy dùng tình dùng lý để vãn hồi sáu tỉnh (Nếu thấy cơ hội có thể tiến hành đánh úp được, tôi quyết không phụ những lời tôi đã nói), một mặt làm rõ vật gì cũng đều có chủ và giữ đúng lễ chủ khách để ngăn chặn lòng tham của họ, một mặt gấp rút tìm người mở rộng việc khai thác nguồn lợi để giúp giải quyết các cấp bách lúc mới đầu, một mặt đem những lợi dư bán cho bọn họ để giúp giải quyết những tình trạng khẩn cấp, một mặt chấn chỉnh học thuật khiến dân chúng xu hướng theo đường thực dụng, dứt bỏ thói phù hư vô dụng. Đó là căn bản lớn, muôn sự từ đó mà thành, một mặt chia nhau đi chấn chỉnh công việc trong nước, trừ bỏ các tệ đoan làm hại dân để làm lợi cho nước, một mặt mở rộng đường thương mãi để giàu có của cải, một mặt cầu người giúp đỡ để dẹp sạch những cái xấu nhỏ cho dân được yên vui để thi hành đường lối chính trị mới, một mặt tiến hành tu chỉnh các tình thế trong nước cho hợp với địa lý binh pháp mà trước đây chưa chuẩn bị được để tạo thế thành trì vững chắc, một mặt chiêu dụ các dân tộc man mọi phía sau núi, khai phá các vùng đất hoang để mở rộng lợi ích trong nước, để thu nguồn lợi phía Tây, một mặt gấp rút lưu tâm việc tơ tằm dệt vải cho dân đủ dùng, một mặt gấp rút mở hội chợ trưng bày đấu xảo cho dân hứng thú chuộng những việc làm cơ bản để có đời sống phong phú, một mặt gấp rút mở thêm một bộ Tân pháp quan chức và dùng một vị đại thần nào thâm hiểu tình hình thế giới đứng đầu để trách nhiệm việc thành lập bộ ấy, một mặt hãy mở những sự hạn chế để cho những người thừa hành nền chính trị mới triển khai thi thố ý kiến của mình thì mới hy vọng thành tựu được, một mặt gấp rút hãy làm tiêu tan hết những gì trước đây đã làm cho người ta nghi ngờ mình hẹp hòi không rộng rãi, để cho người ta thấy mình đã quyết định thay đổi đường lối, đua đuổi cùng thiên hạ, khó lòng dùng quỷ thuật gì quấy rối ta được, như vậy lòng khinh khi của họ mới dần dần tiêu tan, ta mới được vô sự.
Các khoản lớn trình bày trên đây hiện nay hết sức khẩn cấp, hãy đứng dậy nhảy xổ ra bắt tay thực hiện ngay. Thời đã đến rồi. Thời khó được mà dễ mất, chớ nên nói hãy để sang năm.
Nay kính bẩm.
_______________________________________
*. Bản văn chữ Hán: Hv 634 /4 tờ 174-185
Không ghi rõ ngày tháng, nhưng có lẽ là một trong những bài viết cuối cùng của Nguyễn Trường Tộ, vào khoảng tháng 9 tháng 10 năm Tự Đức 24, Nguyễn Trường Tộ chỉ thôi thúc Triều đình thi hành các kế sách đã trình bày trước đây, chứ không có gì để nói thêm nữa.
DI
THẢO SỐ 55
Nên mở cửa chứ không nên khép kín*
(Tháng 9, tháng 10 năm Tự Đức 24)
Kính bẩm,
Tôi xem khắp thiên hạ từ xưa đến nay, các nước sở dĩ bảo tồn được dài lâu, không nước nào không do hai điều kiện là giàu và mạnh. Mà sở dĩ được giàu mạnh thì không thể không bắt đầu bằng việc mở rộng đất đai làm đông dân chúng, thông thương qua lại và giao du với các nước. Sau đó lấy nhân nghĩa công bằng mà qua lại với các nước làm cho mình và người cả hai đều được lợi, thì mới đạt được sở nguyện. Đó là đường lối thông thường mà tất cả các nước trên thế giới hiện nay đều tiến hành như thế, tập tành ham chuộng đường lối ấy, tìm cách thực hành đường lối ấy, mấy trăm năm càng ra làm càng có lợi mà không ai nghỉ tay, cũng vì bỏ đường lối này không còn phương sách nào khác.
Tôi xin nêu ra một vài nước trên thế giới đã thực hành đường lối này để thử luận xem. Trung Quốc xưa kia khai thác chưa rộng, đến đời Đường mới bắt đầu mở mang các nguồn lợi về chợ búa và thuyền bè, đến triều nhà Thanh trước hết mở mang việc giao thông bằng đường bộ. Kế đó vơ vét vùng Tây vực đem bán cho các nước Hồ, rồi phía Bắc mở thị trường chung với người Nga để nắm lấy nguồn lợi về trà tàu và da thú. Kế đó lại mở các cửa biển cho các quốc gia hải đảo khu vực Đông Nam dương đến buôn bán, ném một viên gạch mà dẫn đường cho phương Tây đến, sau đó các nước phương Đông phương Tây đều quy tụ về, nhờ thế mà quyền lợi thiên hạ, một nửa đã nắm được trong tay. Tuy có lúc nước Anh vì bất bình mà tranh nhưng nhờ có Nga Mỹ ở giữa nên không bị hại lớn. Tuy có bị nội loạn (Như loạn Thái Bình vương) chia cắt nhưng cũng nhờ người phương Tây ứng viện, cuối cùng dẹp tan được. Đến nay họ lại thuê mướn nhiều người phương Tây lập xưởng chế tạo khí cụ, đóng tàu. Họ còn thuê người Tây phương làm quan để đại diện họ mua khí cụ và làm đại sứ. Họ còn sai nhiều sứ thần giao thông với các nước lớn để bủa kế liên hoành. Tất cả những việc họ làm, người phương Tây trông thấy đều đã nguội lòng. Thử xem từ triều Minh trở về trước nước ấy hãy còn bế quan tỏa cảng mà nay được khí thế như vậy là đều nhờ lợi ích của việc ngoại giao cả. Chẳng biết do đâu mà triều đình nhà Thanh lại hết lòng tin dùng người phương Tây như thế. Sự thật không thể hiểu được. Nước ta xưa nay, mọi việc đều bắt chước Trung Quốc, mà chỉ có một kế hoạch lớn là giao thông với cường quốc là ta không nghe theo, có phải toan lập được một mưu kế kỳ diệu riêng hơn hẳn Trung Quốc một bậc chăng?
Lại xem Nhật Bản xưa vốn là lũ người lùn, từ trung diệp nhà Minh mới bắt đầu giao hảo với Hà Lan, làm bạn với Bồ Đào Nha, kế đến mời Hợp Chủng Quốc vào việc nước, mở mắt nhìn rộng rãi thiên hạ mới có được chí hướng lớn như vậy. Từ đó họ đóng tàu bè, luyện tập võ bị, ưu tiên phát triển thương nghiệp, công nghiệp, đất nước mỗi ngày một mạnh, được khen với mỹ danh là Tiểu Tây và Trung Quốc khó bắt được Nhật Bản phải thần phục. Tuy gần đây Anh Pháp thường hay quấy nhiễu nhưng nhờ có nền nội trị ngoại giao vững vàng mà họ không chịu hạ mình. Như trước đây ba năm Anh Pháp đem binh thuyền đến toan đàn áp, nhưng nhờ có Hợp Chủng Quốc, Hà Lan phân giải mà việc đã không xảy ra. Đó không phải là công dụng của sự giúp đỡ của các nước hay sao? Còn như ngày nay nước ấy có những kế hoạch giao thiệp rộng rãi, những mưu cơ tân tiến thì đâu đâu người ta cũng nghe thấy rõ ràng, gương ấy không xa, không cần phải nêu ra nữa.
Còn như đối diện với nước ta là Xiêm La. Nước ấy trước đây vốn chẳng có thế lực to lớn hùng mạnh gì. Nhưng từ khi người phương Tây quấy động khiến họ chợt thức tỉnh, bèn lấy Anh Pháp làm bạn, lấy Y, Bồ làm khách, mời hết các nước trên thế giới đến buôn bán, du lịch, còn nước ấy thì nghiễm nhiên làm một ông chủ nhà lớn đàng hoàng, khiến nước lớn thì làm khách nước nhỏ thì làm bạn, thiên hạ quây quần gọi là ông Đông, nói cười, giải vây, ứng đáp không ngại, chẳng cần đua đuổi cao xa mà cũng chia quyền lợi được với thiên hạ. Mặc dầu Anh Pháp muốn phân chia quyền lợi ở đó nhưng cũng không thể làm sao ỷ mạnh mà đánh kẻ tươi cười với mình, nên cũng phải phó mặc chẳng biết làm sao. Hiện nay nước ấy nhờ ngoại giao mà được lợi ích, ngày một nhanh chóng trở nên giàu mạnh, nội loạn không sinh, kẻ địch bên ngoài không đến, thuyền buôn qua lại trên mặt biển như mắc cửi, quan chức phân bố khắp các nước, dần dần đã lập được cái thế con rết trăm chân. Họ giàu có thịnh vượng thì họ hưởng, hà tất phải bàn bạc làm gì.
Nhưng nước ta có một nước mạnh như vậy ở bên cạnh cũng rất đáng lo. Còn các nước ở xa ta như Nga La Tư, Anh Cát Lợi, Phú Lãng Sa, Áo Đại Lợi, Phổ Lỗ Sĩ, cho đến các nước bao vây phía Nam phía Bắc Địa Trung Hải, ven phía Đông Xích Hải, cho đến các nước hẹp nhỏ thuộc Ấn Độ Dương, cho đến hai mươi nước thuộc Nam Mỹ, các nước ấy thủy chung sở dĩ được giàu mạnh không nước nào không do mềm dẻo mượn tài người, mời gọi khách du lịch người bán buôn, khuyến khích công nghiệp, siêng năng nông nghiệp, khai hoang khai mỏ tiếp xúc giao thiệp các nước, cùng điều hay chung điều lợi, trao đổi công việc.
Trước tiên do Bồ Đào Nha mở đầu rồi đến các phương Tây bắt chước làm theo, rồi đến các nước trên thế giới làm theo và đều được hiệu quả, ngày nay đều đã rực rỡ như sao trên trời mà chưa từng thấy có bậc kỳ tài nào nổi lên chống lại việc làm như thế cả. Tuy như các nước hải đảo nho nhỏ ở biển Đông biển Tây cũng đều nhờ đường lối ấy mà mở mang được phong khí đã mấy ngàn năm ngu muội, thay đổi được phong tục đã mấy ngàn năm quê mùa và dần dần xây dựng được bản chất làm người là nhờ thấm nhuận cái ảnh hưởng ngoại giao vậy. Như thế thì qua con đường ngoại giao, thế giới có thể hòa hợp nhau không phân biệt văn minh hay dã man, tất cả đều được thịnh lợi. Thế chẳng phải vận trời đã mở ra như vậy sao? Thế giới rất rộng lớn, chỉ con người rất phức tạp nhưng không nước nào không theo đường lối này. Như vậy kế sách này đã bao trùm khắp thế giới, vua tôi đều yên ổn ở trong đó, nào ai có kế sách gì khác có thể hơn được ư? Tôi xem khắp Đông Châu Tây Châu tất cả các nước ven biển từ nước hạng nhất đến nước hạng ba, không nước nào không tuân hành theo đường lối này.
Chỉ riêng một mình nước ta thi hành đường lối khác. Cho nên thiên hạ cho ta là một nước ly kỳ đệ nhất. Triều đình ta trong khoảng từ thời Gia Long đến thời Minh Mạng hợp tác với người phương Tây, thường phái du hành các nước trở về dần dần được hưng thịnh. Nếu không có lệnh đóng cửa đuổi khách bạn ra, mà theo đường lối ấy cho đến ngày nay thì ta cũng có thể sánh vai dong ruổi cùng thiên hạ, và người Pháp cũng không thể tha hồ tác oai tác phúc đối với ta được. Trong tờ bẩm trước tôi có nói: Đã không thể tân tiến và do quảng giao mà ra, nhưng nếu việc ngoại giao đã thành công, người vui lòng giúp ta thì chẳng những ngày nay có thể vãn hồi lục tỉnh mà tương lai còn được mối lợi phía Tây (Tức như các tờ bẩm trước tôi đã nói đến vùng đất ven núi về phía Tây và vùng đất hai bên sông Cửu Long) ngồi đó mà dần dần vẫn thu được.
_______________________________________
*. Bản Hán văn 634/3 tờ 173
Không ghi ngày tháng, nhưng có lẽ vào những ngày cuối đời của Nguyễn Trường Tộ vì Nguyễn Trường Tộ không nói gì thêm mà chỉ muốn Triều đình thi hành kế sách của mình, sở dĩ chưa thi hành là vì còn nghi ngờ, e ngại.
Hiện nay may mắn nước họ bị biến loạn lớn. Đó là ý trời khiến họ suy cho ta mạnh tiến để tạo nên cuộc diện cân bằng thế lực. Nếu không biết thừa lúc họ chưa kịp mưu đồ nước ta mà thi hành nhiều cải cách cho kịp thời cơ, đến khi họ ổn định được việc nước và toan muốn phóng tay, liệu ta có tránh khỏi không bị họ đánh tràn một trận hay không? Cơ hội ngày nay của ta là, đối nội thì xin đòi lại sáu tỉnh, đối ngoại thì phải gấp rút thi hành đường lối ngoại giao để tìm người giúp. Nếu tìm được người giúp rồi thì không những có thể bảo tồn cái chưa mất mà cái đã mất rồi cũng có thể hy vọng thu hồi về được. Còn như đường lối giao thiệp rộng để mở mang việc giao thông buôn bán thì tất cả những lợi ích lớn tôi bẩm rõ trong bài Khai hoang từ rồi. Nay không nói trở lại các lợi ích mà đặc biệt chỉ nêu các bằng chứng trên thế giới để giải tỏa sự nghi ngờ. Bởi vì lợi ích của sự quảng giao thông thương đã rõ như mặt trời giữa ban ngày cần chi phải nói. Sở dĩ Triều đình chậm chạp không tiến hành, có thể chỉ vì một chữ nghi mà thôi. Trong tập nói về ngôi vua chức quan tôi đã bẩm nói: “Đa nghi thì không tin ai cả. Không tin thì sinh ngờ vực không ưa. Không ưa thì sinh ra thiên lệch tổn hại trí xét đoán. Trí hại thì sinh ám muội, công việc dễ bị sai lầm. Việc sai lầm thì sinh tai hại. Tai hại thì sinh gây nhiều lo âu. Nhiều lo âu thì tâm loạn mà sinh nhiều sợ hãi. Nhiều sợ hãi thì không còn nhuệ khí mà sinh nhu nhược. Nhu nhược sinh thì mọi việc gặp việc gì cũng trông trước ngó sau do dự không quyết đoán”. Trong lòng không có ý kiến quyết định thì không phân biệt lợi hại, không biết nên lấy cái nào bỏ cái nào cho đúng. Như vậy thì khi bị hoạn nạn bên ngoài đến tấn công, ý kiến sẽ bất đồng, mình và người rời rạc, thế lực mỗi ngày một giảm sút, tất cả đều do căn bản từ sự nghi ngờ mà phát sinh ra cả.
Phải biết rằng hai khoản này nếu quả có chỗ khả nghi thì tại sao thiên hạ cũng đồng là người, tất cả đều thực hành mà không nghi ngờ gì cả, chỉ riêng một mình ta khám phá được chỗ khả nghi ấy hay sao? Lẽ nào trí tuệ khắp thiên hạ lại thua ta ư? Nay phải chăng thiên hạ sinh ra không có bẩm tính ấy mà chỉ riêng ta có thôi? Vả lại việc làm của đông đảo các nước đều rõ ràng như thanh thiên bạch nhật, kế sách lớn ấy chắc chắn dần dần sẽ đạt, tuần tự mà tiến tới, nhân việc này biết được việc kia, nhân việc đã qua suy ra việc sắp đến, dù trăm năm cũng có thể biết được, cần gì phải nghi ngờ. Nếu ta không biết cái thế của họ thì ta không thấy được âm mưu của họ, mà nếu cứ mỗi việc mỗi nghi ngờ, mỗi việc mỗi phòng bị thì như binh thư nói: Cái gì cũng phòng bị thì không cái gì phòng bị được chu đáo. Không chu đáo tức đem mình mà phòng bị cho người mà thôi. Nếu biết rõ họ chắc chắn do một con đường này mà tiến, và chỉ có một kế hoạch này có thể chống cự họ được thì phải quả quyết thi hành, cần gì phải nghi ngờ lúng túng cho tán loạn tâm trí? Phải biết rằng nghi là vì không định được sự thế, không tỏ tường sự lợi hại, cho nên trong lòng phải tính toán kế này kế khác, có thể do đó mà làm nhiều việc đề phòng.
Nay việc làm của bọn họ, cốt yếu đều quy về hai kế hoặc hoãn hoặc gấp (Trong các bài bẩm trước tôi đã nói rõ) mà đường lối chắc chắn có thể chống cự lại họ đều quy vào con đường cải cách canh tân và quảng giao các nước. Ngoài con đường này ra là ngoài sự hiểu biết của tôi. Nếu thực hành sớm sẽ phá tan được sự nghi ngờ. Nếu không thực hành thì họ càng nghi càng tiến. Cho đến khi mà họ tiến đến cũng như trường hợp năm xứ Ấn Độ, bấy giờ mới vẹt hết nghi ngờ như mây tạnh trời quang. Như vậy thì những gì nghi ngờ phòng bị xưa kia nay cũng tiêu, mà xét cho cùng cũng tại nghi ngờ cố chấp, để ngồi đợi cho đến lúc thấy tận mắt mới tin? Phải biết rằng ta một mực nghi ngờ người mà tìm cách chế ngự người thì người sợ bị ta chế ngự nên nghĩ cách chế ngự ta. Nếu đã xảy ra đề phòng chế ngự nhau thì phải xem thế lực ai mạnh ai yếu mà nghĩ đến thất bại một mất một còn, quyết không thể song song tồn tại thì chỉ có cách là chủ khách phân minh, khiến cho người biết rằng mỗi vật đều có chủ, khó vồ lấy được, họ mới dịu lời nguôi giận và không dám ỷ mạnh. Về việc thực hiện ra làm thì chỉ một bộ đại học thủy chung chuyên trách công việc như các nước trên thế giới thường làm, thực hành lâu mới biết rõ cái lợi cái hại của mình và người. Đã thấy rõ sự lợi hại thì thản nhiên không sợ sệt, không làm chúng giận thì mới không gì xảy ra cho mình.
Đối với người Tây bất luận quan dân tôi chẳng thấy ai đáng sợ cả. Không phải tôi có sức mạnh gì hơn họ, nhưng mà đã biết rõ tính tình mưu kế của họ, chỉ có bình tĩnh hiểu rõ lý lẽ, hai điều ấy có thể đối ứng với họ không cùng, chẳng có gì phải sợ cả. Hàn Dũ nói: Sợ dĩ người ta sợ ma quỷ là vì không ai thấy nó. Nếu người người đều thấy thì quỷ cũng chẳng có gì đáng sợ. Cũng như thiên hạ ngày nay đều ở chung lộn với người Tây. Nếu ai ai cũng thấy họ có cái gì đáng sợ và mỗi ngày một hoài nghi sợ sệt thì làm sao có thể giao tiếp lâu dài cùng nhau làm việc lợi được? Hơn nữa đối với vấn đề này có khi người kia áp dụng có lợi mà người này áp dụng lại sinh hại. Ví dụ thịt ngon thì rất tốt nhưng đối với người ăn không tiêu mà dùng vào sẽ có hại là vì sao? Bởi không tiêu hóa được. Có người ứng dụng thì bị bế tắc có người ứng dụng thì thông suốt cũng do khéo hay không khéo sử dụng mà thôi.
Sự lý trong thiên hạ có phải ai lúc nào cũng thắng mãi được đâu. Cho nên binh thư nói: Thắng có thể biết được nhưng không thể làm được. Khổng Minh nói: Khôn lanh hay đần độn không phải do thấy không đúng mà cũng còn do ở thời thế và ý trời như thế nào nữa. Khắp mọi nơi người làm điều có lợi lớn mà đến ta thử ra làm có thể không được như ý muốn, chính đó là điều mà nhà hiền triết Mạnh Tử bảo thế nào là làm, thế nào là nên làm, thế nào là thôi không làm, thế nào khuyên không nên làm. Hơn nữa việc đời thường thường chưa có việc gì hoàn toàn lợi mà không có hại, chỉ do con người biết tùy cơ ứng biến mà thôi. Trí lự không bao giờ cùng, trong lợi có hại, biết tùy theo đó mà cải chính nó mới là người khéo vận dụng tài trí. Nếu chỉ biết tính toán (...bài chưa hết)
DI
THẢO SỐ 56
Bài khải quyên tiền sửa cầu*
Từng nghe:
Có phép đè sóng đó là cái cầu. Xói đất thành sông, trời vốn lấy để lưu thông nước đọng. Lấp sông làm đường, người lấy đó để nối đoạn đường cùng. Hóa đôi bờ thành phố xá, thay đất trời chắp vá chỗ hư hao. Suốt một đường Nam Bắc lưu thông, cho người vật lại qua không trở ngại. Muốn dân không lặn lội nước nôi, ắt phải có thời cơ thuận lợi.
Làng ta đây: Giáp thông hai huyện, đất chiếm trung khu. Tây xuống mấy từng non, trăm việc ngược xuôi, dấu sương tiếng gà tiếp nối. Đông ôm ba mặt biển, tứ dân lên xuống, bụi xe chân ngựa liên miên. Cọc tre chụm lại, gầy dựng buổi đầu. Dây lạt buộc vào, sửa sang lúc tạm. Mấy độ gió mưa xiêu vẹo đội gánh đi qua, hằng lo nỗi sẩy chân xuống vực. Bao phen ngập tràn lụt lội, vén xăn không khỏi, luống hao hơi cánh bến gọi đò. Đã không ô thước bắc cầu, lại thiếu rùa linh đỡ bước.
Thiết nghĩ: Góp của thế gian giúp người thiên hạ, sáng chói thay hiếu nghĩa đồng bào. Có nhà hằng sản, có kẻ hằng tâm, chả lẽ vô tình không giúp đỡ. Muốn bắc cầu vồng qua bên ấy, một cây làm chẳng nên công. Nên phải nhờ chung sức góp tay, nhiều người mới xong được việc.
Cúi mong những người tài chủ lạc thiện hảo tâm: Vén tay núi ngọc, cùng nhau hợp sức giúp đời. Mở nắp hang vàng, nhiều ít đáp lời kêu gọi. Ngõ hầu tích thiểu thành đa, khỏe lâu mệt tạm. Rồi đây: Cột cầu san sát dựng qua, sông trong trẻo ngàn thu vững chãi. Treo lên vòng cầu bán nguyệt, đường ruổi dong muôn dặm yên hàn. Người người qua bến, kẻ kẻ nhớ ơn. Khách khách sang sông, lời lời khen ngợi. Có đâu chỉ đêm trăng thổi sáo chơi với khách tiên, hay bên cột đề thơ gửi lòng tài tử, để làm tăng thắng cảnh làng ta phong quang bản xứ mà thôi ư! Bộc bạch lời quê kính mong nghe tỏ.
Nay khải
_______________________________________
*. Bản chữ Hán: Hv 189/4 tờ 25
Không có ghi ngày tháng năm. Nhưng đây có lẽ là bài kêu gọi góp tiền làm cầu bắc qua kênh Gai, nối liền xã Nghi Diêm, huyện Nghi Lộc với xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An ngày nay. Nguyễn Trường Tộ có lẽ đã khởi xướng tu sửa chiếc cầu này trong khoảng thời gian từ 1868 đến 1871.
DI
THẢO SỐ 57
Phong vũ biểu*
Ngày xưa người ta thường dùng phong vũ biểu để tiên đoán sự hạn hán lụt lội, phân biệt khí hậu, là những công việc cần yếu của nhà nông. Ngày nay các nhà khoa học còn dùng để khảo sát thiên văn địa lý, đo đạc hình thế cao sâu, có công cụ lớn trong khoa học mà nhà binh cũng cần dùng để xem thời tiết khí hậu. Binh pháp nói: “Biết trời thì thắng tất cả”. Trông khí hậu tức biết trời, cho nên đó là điều khẩn thiết đối với việc hành binh. Nguyên lý của phong vũ biểu rất phức tạp mà cách sử dụng cũng rất khó, biến đổi tùy theo độ số của mặt đất.
Nay xin phân biệt trình bày về nguyên do phát minh, cách chế tác và sử dụng như sau:
Vào thời nhà Chu có nhà văn nước Hy Lạp suy rằng khí trời có sức nặng. Nhà văn này chỉ suy ra biết thế thôi chứ chưa có gì làm chứng cứ xác thực. Đến cuối nhà Minh năm Vạn Lịch 19 người La Mã là Già Li Lược1 mới bắt đầu nói rõ rằng trên mặt đất có một lớp không khí xanh mờ bao bọc. Khí ấy có hình, có thể trông thấy và có chất có thể cân được nặng nhẹ. Tất cả những gì sinh ra trên quả đất bất luận sinh chất2 hay định chất3 đều nhờ khí trời để sinh ra và nuôi lớn. Nguyên lý này rất phiền toái không cho phép nói chi tiết tỉ mỉ được. Vậy xin chỉ nói một điểm về không khí có sức nặng mà thôi.
Người ta đã dùng nước trong, thủy ngân, so sánh với không khí mà biết được sức nặng ép xuống, nơi đường tiếp giáp của mặt biển với khí trời. Giả thiết lấy một cột nước trong, hình vuông mỗi bề một tấc cao 34m thì sức nặng của cột nước ấy được chừng 12 cân, lấy một cột thủy ngân hình vuông mỗi bề một tấc, cao 30 tấc thì sức nặng của cột thủy ngân này cũng nặng 12 cân. Sức nặng của hai cột này cũng bằng sức nặng của một cột không khí vuông mỗi bề mặt một tấc, cao từ mặt đất đến chỗ tận cùng của lớp không khí bao bọc quả đất. Vì vậy người ta làm ra một khí cụ để đo lường sự nặng nhẹ của không khí. Khí cụ đó là phong vũ biểu.
Lúc mới đầu người ta làm một ống pha lê dài ba mươi hai tấc tây, một đầu kín một đầu trống, đựng đẩy thủy ngân tinh chất, lại dùng một cái chậu làm đáy, đựng thủy ngân đến lưng chừng chậu, rồi đem ống thủy ngân kia úp đầu trống xuống chậu. Thủy ngân trong ống tụt xuống, để lại phần trên của ống một khoảng chân không. Thủy ngân tụt xuống khi thấp nhất là hai mươi tám tấc và khi lên cao nhất là ba mươi mốt tấc. Ngoài ống người ta khắc chia độ để quan sát mức thủy ngân lên xuống. Khi trời u ám, khí trời ép xuống mặt chậu rất nặng, đẩy thủy ngân trong ống lên khoảng chân không nơi đầu ống. Khi trời có mưa, sức ép của khí trời xuống mặt chậu nhẹ, thủy ngân trong ống tụt xuống tràn ra ngoài chậu. Xem thủy ngân lên xuống thì biết trời sắp nắng hay mưa. Nếu nắng mưa thay đổi, không khí thác loạn không nhất định, thủy ngân cũng lên xuống không nhất định, nhưng mức lên xuống tương đối ngắn chứ không rất cao rất thấp như trường hợp nắng mưa. Nếu muốn biết không khí có sức ép nặng như thế nào, hãy thử xem phong vũ biểu đặt vào một cái ống, có thể hút không khí ra hay bơm không khí vào, xong dùng máy rút không khí ra thì thấy mực thủy ngân trong ống pha lê xuống thấp dần, sau đó bơm không khí vào thì thấy mực thủy ngân lên cao dần. Căn cứ vào đó thì biết không khí có sức ép đè nặng.
Ngày xưa người ta dùng phong vũ biểu như thế, nhưng thường lo ngại thủy ngân trong chậu bị nghiêng đổ, khó an toàn mỗi khi di chuyển mang xách đi đâu. Ngày nay người chế ra phong vũ biểu bằng kim loại. Cách làm là dùng một miếng đồng mỏng loại thật tốt làm một cái hộp hình tròn dẹp trong rỗng, mặt ngoài bằng phẳng, dùng máy rút hết không khí trong hộp ra rồi dùng thiếc hàn kín miệng hộp lại. Trên hộp đồng làm một kim chỉ độ dẫn ra ngoài mặt số có chia độ. Khi có sức ép nặng xuống mặt đồng thì hộp đồng xẹp vào liên động đến kim chỉ độ, kim sẽ theo đó xoay sang phía bên phải có những chữ nắng, hạn v.v... Nếu không khí nhẹ thì mặt hộp đồng phình ra lại, xoay kim sang phía bên trái có những chữ gió mạnh, mưa v.v... Xem kim chỉ bên trái bên phải cũng có thể đoán trước nắng mưa, hệt như sự lên xuống của phong vũ biểu thủy ngân như vậy, nhưng cách sử dụng thì dễ dàng tiện lợi hơn.
Tuy nhiên không khí trên khắp địa cầu không phải chỗ nào cũng giống nhau, cho nên sự lên xuống có khác nhau. Người quan sát giỏi phải nhân đó mà suy lường, mới có thể chuẩn xác được. Bởi vì trên mặt đất gần xích đạo thì khí nhẹ, do sức ly tâm của quả đất lớn mà thành ra nhẹ, gần hai cực thì khí nặng vì sức ly tâm ít nên nặng.
Nay các nước phương Tây ở từ vùng ôn đới trở về phía Bắc, không khí ở đó nặng cho nên người ta chế phong vũ biểu cũng dựa vào điều kiện không khí ở đó. Nay đem dùng ở ta, địa phương gần xích đạo, thì mức độ lên xuống không bằng ở các nước phương Tây. Cho nên hạn độ thay đổi lên xuống theo nắng mưa không được nhiều cần phải hết sức chú ý theo dõi ghi nhận mỗi ngày, để nghiệm sự thay đổi thời tiết, trong khoảng ba năm như vậy mới không sai. Còn như dùng để đoán định nắng hạn lâu, gió bão, mưa lụt thì đúng chắc chắn không sai. Nếu chỉ dùng có thế thì có thể đắc dụng lớn, nhưng sơ sót những công dụng nhỏ nhặt khác.
Ở những địa phương gần xích đạo, sự loạn động của không khí có nhiều nguyên do, khó kể hết được. Nay chỉ nói đến nguyên do lớn. Căn bản của nguyên do lớn là cái không khí nóng nung đốt bởi mặt trời trong mười hai tiếng đồng hồ đưa đến làm cảm động không khí ở mặt quả đất mỗi lúc một thay đổi, khiến từng lớp không khí bị dồn đuổi, trong khi đó khí lạnh khí nóng trôi nổi không nhất định làm cho sức dãn nở của không khí thoạt lớn thoạt nhỏ, mặt hộp đồng của phong vũ biểu bị sức ép tác động liên miên không kịp, cho nên kim chỉ một chỗ nhất định. Về nguyên nhân nhỏ thì vì mặt đất có cao thấp lồi lõm rừng đồng có sầm uất hoang trọc, bờ biển có vịnh đầm xiên lệch, núi non có chạy vòng hang hốc, cho nên không khí qua lại phần nhiều bị ngăn trở. Có khi cách nhau một dặm mà khí hậu hai nơi khác nhau rất xa. Cho nên xét nghiệm phong vũ biểu có khi cũng có chút ít sai khác. Người sử dụng giỏi phải thuộc hết những sự lưu hành của không khí, nhân sự khác nhau của không khí trên trời dưới đất, suy từ cái này ra cái kia, sáng suốt nhận định thì có thể tận dụng cái kỳ diệu của nó.
Gần đây người các nước sử dụng phong vũ biểu rất nhiều. Ở phương Tây gần như mỗi gia đình đều có vì rất cần đến nó. Còn phong vũ biểu mà các nhà trắc lượng học dùng để đo đạc cao sâu thì phức tạp hơn và nguyên lý của nó rất sâu, lại không quan hệ đến công dụng hàng ngày nên không nói đến.
_______________________________________
*. Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/4 trang 36-41.
1. Galileo, người Ý.
2. Chất hữu cơ.
3. Chất vô cơ.
DI
THẢO SỐ 58
Bài tựa sách ĐÀM THIÊN LUẬN*
(Đây cũng là bài tựa viết vào quyển đầu của Bộ sách Đàm Thiên dâng lên)
Phàm nhà khoa học thì phải bụng bao hết những việc xưa nay, mắt trông khắp trời đất, tinh thần chu du tận cõi xa xăm, tâm hồn thấu đến chỗ u huyền. Như vậy mới sáng suốt mà tâm đắc được những gì sách vở không thể truyền hết, ý hội được những gì người xưa không thể nói hết, mắt trông thấy hiện tượng mà tâm trí bao trùm sự hiểu biết ngoài hiện tượng đó nữa. Bởi vì trời tuy cao, đất tuy xa nhưng đều có sự thực chứ không chìm vào hư vô, không như khách văn chương chỉ dựa vào tưởng tượng. Tuy nói là sự thực nhưng nó cao dày thâm thúy vô cùng, thấy như gần nhưng thực là xa, thấy như nhỏ mà thực là lớn, thấy như tĩnh mà thực sự là động, thấy như nghịch mà thực sự là thuận, thấy như không có nguyên tắc mà thực sự là có nguyên tắc, thấy như là trừu tượng mà thực sự là cụ thể, không phải những chuyện tầm thường làm hằng ngày có thể đem so sách được.
Bởi vì nếu đem sự vật trước mắt ra mà cân đo, cứ cân từng lạng một thì đến thạch là sai rồi, cứ đo từng tấc một thì đến trượng là sai ngay. Huống chi to lớn như trời đất, bé nhỏ như muôn vật, nếu không phải là bậc thông minh khác thường trí tuệ sáng suốt chắc chắn không thể làm được.
Kẻ sĩ cao minh muốn nghiên cứu khoa học, trước hết phải hiểu rõ địa lý thiên văn để mở mối, thứ đến dùng quang học, cơ học, hóa học, thực vật học, đại số học, hình học cho được đầy đủ ứng dụng vào việc nghiên cứu. Rồi sau đem những sách của các nước xưa nghiên cứu về trời ra rỗng lòng khảo cứu, dẹp bỏ hết những thành kiến tập quán cũ, không phân biệt giới vực, chỉ tập trung vào đó, vận dụng hết thần trí, ôm vũ trụ vào lòng, nhắm mắt lại mà như thấy rõ ràng trước mắt. Được đến như vậy mới có thể nói về trời. Nếu cứ giữ theo nề nếp cũ, không thông phương pháp mới, hiểu biết nông cạn làm sao nói đến việc này được. Đây là bài tựa.
Mùa
Xuân năm Tự Đức 16.
_______________________________________
*. Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/4 trang 26-35.
Bài tiếp bài tựa sách ĐÀM THIÊN LUẬN
(Bài tựa này chép vào quyển đầu bộ sách Đàm Thiên dâng vua xem)
(Nguyễn Trường Tộ mới soạn)
Môn học thiên văn từ xưa Đông Tây đều đã có. Nhưng người xưa chuyên dùng số mà suy đoán ra đại thể, nên cái gần còn sai nhiều, nói gì đến những cái xa mắt chưa hề trông thấy? Gần đây người ta chuyên dùng các hiện tượng rồi lấy số tính toán cho nên có thể phù hợp chặt chẽ với những sự vận hành kỳ diệu của trời, có thể đưa con người lìa khỏi địa cầu mà ra tận ngoài không gian rất xa, có thể khiến thần trí con người bay bổng đến tận những chỗ không thể tưởng tượng được, có thể khiến con người phát minh được cái năng lực vô cùng cái kỳ diệu vô cùng của tạo vật.
Tất cả những gì trên thế gian thấy là thiếu sót, bất bình, khó hiểu người xưa đều đổ lỗi cho trời. Nhưng theo khoa học ngày nay mà quan sát thì đều có chỗ chí lý trong đó, có thể khiến người ta sực tỉnh những lầm lạc to lớn lưu truyền tự ngàn xưa, có thể khiến người ta biết rõ mọi vật trên quả đất, phương Bắc trời cho nhỏ bé chẳng khác một hạt bụi bay mà những thí dụ buồn cười trong thiên Thu thủy1 chẳng có gì kỳ lạ. Những việc này đều do học về trời mà biết được, mà căn bản là hoàn toàn dựa vào sự quan sát hiện tượng. Bởi vì trời đất đều là vật thực, ở trên trời là tượng, ở dưới đất là hình, nhưng tất cả đều là vật thực có thể trông thấy. Nếu nói số tức chẳng qua dùng để thí dụ. Đó là đại khái chỗ được thua hơn kém của môn học về trời xưa và nay vậy.
Phương Đông nói về trời đều lấy Trung Quốc, Ấn Độ, Ả Rập làm đầu, nhưng tất cả đều có chỗ sai lầm. Vì thế vua Khang Hy triều nhà Thanh đã đặc biệt dùng các giáo sĩ La Mã để sửa đổi phép làm lịch như Quang Lộc Đại Phu Thang Vọng2, Thái Thường Tự Khanh Nam Hoài Nhân3 v.v... khảo cứu sự sai lệch của năm tháng mà định lại thời tiết và nhất luật ban hành trong tất cả các xứ thuộc quyền thống trị của nhà Thanh. Những sách biên khảo trong thời kỳ này có Hồn thiên thuyết, Cổ kim giao thực viễn kính thuyết, Tinh đồ đại trắc, Giao thực lịch chỉ, Hằng tinh lịch chỉ, Bát tuyến biểu học lược tiểu biện, Trắc thiên ước thuyết, Tân lịch bổ chú giải hoặc, Vĩnh niên lịch pháp, Bất đắc dĩ biện binh giản nghi tổng tinh đồ v.v... đến mấy trăm bộ không thể hết. Tuy nhiên lúc bấy giờ những phương pháp mới hãy còn ít không cần nói chuyện. Nay lược thuật một vài phương pháp mới để thấy cái lớn trước còn những cái nhỏ nhặt xin miễn kể.
Ca Bạch Ni4 sinh ở nước Phổ, đọc sách đạo, làm linh mục. Ông có nhiều kiến thức độc đáo. Có thể nói khoa học phương Tây đạt đến chỗ tinh vi là do ông mở đầu mà ra. Ông viết sách nói về sự xoay quay quanh của các thiên thể, hoàn thành vào năm Gia Tĩnh thứ 9, ông lý luận lập ra phương pháp mới cho rằng quả đất là một hành tinh xoay quanh mặt trời, giáp một vòng thành một năm, và mỗi ngày nó tự xoay quanh, giáp một vòng chung quanh nó thành một ngày đêm, quỹ đạo của nó ở khoảng giữa sao Kim và sao Hỏa. Phàm những chòm sao mà ta thấy như đi chậm lại, đứng yên, đi ngược lại, biến mất, nhấp nháy đó là sự chuyển động của bản thân sao ấy và sự chuyển động của quả đất hai cái hợp lại mà sinh ra. Như trong một hình vẽ Thân là mặt trời, Giáp Ất Bính Đinh là quỹ đạo quả đất, Giáp Đinh Bính Ất là quỹ đạo các hành tinh ngoài, Dần Mẹo là bầu trời, quả đất tựa hồ như đi ngược lại theo chiều từ Mậu đến Kỷ. Những hành tinh khác cũng tương tự vậy. Quả đất và các hành tinh đều đi trong quỹ đạo của nó, cho nên thấy các ngôi sao như đứng yên rồi đi thuận, đi thuận rồi đi nghịch. Hiện tượng này cổ nhân đã nhiều đời suy nghĩ mà không giải thích được. Ca Bạch Ni bảo là do sự phối hội của hai chuyển động mà sinh ra. Chỉ nói một câu là đủ, không phải bàn luận phiền phức gì nữa. Nhưng lúc bấy giờ chưa chứng minh được. Sau độ Bạch Lạp Lý (?) đo được sự sai lệch về ánh sáng của các ngôi sao, Luật Đức (?) đo được sức hút ở xích đạo nhỏ hơn ở hai cực, Nại Đoan5 suy được nguyên lý vật rơi và chứng minh được sức hút, Khắc Bạch Nhĩ6 thì suy ra được ba nguyên tắc. Nhiên hậu cái thuyết quả đất xoay mới được rõ ràng như ban ngày không còn nghi ngờ gì nữa.
Nay đem một vài chứng minh nói sơ lược như sau:
Bạch Lạp Lý bảo rằng quả đất và ánh sáng đều đi thì sinh ra thị sai (Sự trông thấy sai lệch). Ý cho rằng quỹ đạo quả đất hết sức lớn khi ở hai điểm đối nhau mà nhìn một ngôi sao thì chắc chắn có góc sai. Nhân đó ông cùng với người bạn là Ma Lợi Ngưu (?) lấy ngôi sao thứ hai của sao Thiên Bổng cùng đo. Khởi sự đo vào năm Ung Chính thứ ba thì thường thấy sao Bắc có cái khuynh hướng nghiêng về phía Nam. Như trong hình vẽ quả đất ở tại Giáp thấy sao Ất như ở tại Bính. Giả như có góc sai thì quả đất tại Đinh phải thấy sao tại Mậu mà trái lại thì thấy tại Kỷ, tương phản với lý luận về góc sai. Do đó các ông mới nghi ngờ những dụng cụ dùng để đo đạc là không được chính xác, bèn kiểm tra chỉnh lại các dụng cụ rồi tiếp tục đo dạc, kết quả vẫn như trước. Từ tháng 11 đến tháng 3 sao sai về Tây Nam, từ tháng 3 đến tháng 11 sao lại sai về phía Bắc. Nếu đi vòng quanh một Tiểu Tùy Phụ, như hình vẽ Giáp là Bắc Cực, Ất là Thiên Tý tìm mãi không ra lý do. Một hôm tình cờ dạo thuyền đi chơi, cứ mỗi lần trở mái chèo gió nghiêng thì thấy lá cờ trên cột buồm lại hơi đổi phương hướng, đấy không phải là gió đổi phương hướng mà chính là thuyền đổi phương hướng, ông mới chợt hiểu rằng sự sai lệch Nam Bắc của ngôi sao là do sự biến đổi đường đi của quả đất hợp với sự chuyển động của ánh sáng mà sinh ra. Căn cứ lý lẽ này mà suy ra sự sai lệch của ngôi sao thì đều phù hợp với hình vẽ. Đường đi từ Giáp đến Ất trong khi đó ánh sáng đi từ Bính đến Ất. Hợp hai chuyển động lại cho nên ánh sáng từ Đinh đến Ất khi vào mắt ta thấy ngôi sao tại Bính như ở tại Đinh vậy. Cái phương hướng ánh sáng vào mắt ta tức là cái phương hướng mắt ta trông thấy ngôi sao. Cho nên trông thấy sao đều có góc sai vậy. Điều này chứng minh rõ ràng quả đất xoay quanh mặt trời. Đó là một vấn đề hết sức trọng yếu trong thiên văn học.
Vả lại sự truyền đi của ánh sáng do Lặc Mặc Nhĩ (?) đo sự chuyển đi của sao Mộc về phía mặt trăng lâu lắm mới biết được. Bởi vì sao Mộc khi nguyệt thực mới khuyết rồi sáng trở lại, với khi thực hiện đo đạc, thường hai kết quả không phù hợp nhau, có khi chậm vài phút, có khi sớm vài phút. Tìm nguyên nhân thì thấy rằng đó là do khoảng cách giữa quả đất và sao Mộc xa hay gần mà ra. Khi khoảng cách xa thấy chậm, khi khoảng cách gần thì sớm. Nhân đó hiểu ra lý truyền đi của ánh sáng. Như trong hình vẽ, Bính là quỹ đạo sao Mộc, Giáp Ất là quỹ đạo của quả đất. Khoảng cách hai bên ước chừng năm ức năm ngàn dặm. Khi quả đất đi đến điểm Giáp thì sẽ cách sao Mộc xa hơn khi nó ở điểm Ất. So sánh thì hơn ước chừng năm ức năm ngàn vạn dặm. Nếu giả thuyết ánh sáng không truyền đi thì quả đất dù ở Giáp hay ở Ất trông nguyệt thực đều như nhau không có thời sai (Sự sai lệch nhau về thời gian), thế mà thời sai đo được là 16 phút 1/4. Theo đó thì biết ánh sáng truyền đi rất nhanh, một truyền đi ước chừng ba ngàn ba trăm tám mươi lăm vạn dặm, một giây truyền đi được hơn năm mươi sáu vạn bốn ngàn dặm, 1/8 giây có thể đi giáp một vòng quả đất. Xem thế thì biết rằng ánh sáng cũng là một vật chất trong vũ trụ (Các sách có nói rõ).
____________________________________
1. Thiên Thu thủy trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử dùng nhiều hình ảnh thí dụ rất ngộ nghĩnh để nói về cái lẽ tương đối của vũ trụ xem trời đất nhỏ bé như hạt tấm hạt gạo, hạt bụi mảy lông.
2. Tức Joannes Adam Schall von Bell, giáo sĩ người Đức, được Khang Hy phong tước Quang Lộc Đại Phu.
3. Tức Ferdinandus Verbiest, giáo sĩ người Bỉ, được phong tước Thái Thường Tự Khanh.
4. Ca Bạch Ni tức Copernic.
5. Nại Đoan tức Isaac Newton.
6. Khắc Bạch Nhĩ tức Johanrn Kepler.
Năm Khang Hy thứ 5, Nại Đoan ngẫu nhiên ở trong vườn thấy một trái cây rơi xuống. Nhân đó ông suy nghĩ rằng mặt trăng chắc cũng vì sức hút của quả đất nên mới xoay quanh quả đất mà không đi thẳng vào không gian. Nếu quả mặt trăng như vậy thì các hành tinh xoay quanh mặt trời cũng theo lý lẽ như vậy. Từ đó về sau ông hằng suy nghĩ suốt mười sáu năm, trước hết ông tìm sức hút trên mặt quả đất, thứ đến ông tìm tỷ lệ xem cách mặt đất bao nhiêu thì sức hút nhỏ đi bao nhiêu. Được tỷ lệ này rồi, ông đem ra ứng dụng đo lường sự chuyển động của mặt trăng. Nhân đó biết rằng sức hút của quả đất tại một điểm tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách từ điểm đó đến trung tâm quả đất. Vì vậy sức hút của quả đất đối với mặt trăng nhỏ hơn 1/3.600 sức hút đối với mặt đất. Giả thiết mặt trăng đi từ Giáp đến Ất, có một vật rơi từ Giáp đến Mậu, cả hai ắt sẽ đến cùng một lúc. Đo đoạn thẳng cung Giáp Ất, nếu Mậu Giáp nhỏ hơn mặt đất sức hút của đoạn thẳng cung phải được 1/3.600, như thế là chứng minh được sức hút. Theo đó thì biết rằng đoạn thẳng của một vật trên đường đi vòng cung của mặt trăng trong thời gian một phút, tương đương với khoảng cách của một vật rơi đến mặt đất trong thời gian một giây. Do đó ông đã tìm được định luật về sức hút xa gần. Đây là định luật chung đối với các thiên thể vận hành, đem áp dụng với các hành tinh Sao Chổi đều phù hợp cả. Nguyên lý nói rằng: Nếu một vật gì từ quả đất ném ra không gian, không bị sức cản sẽ mãi mãi đi thẳng và giữ nguyên tốc độ. Nếu có một sức khác tác động vào thì sẽ đi lệch. Như hình vẽ giả thiết quả đất chỉ có một sức đẩy duy nhất làm cho nó chuyển động thì nó phải đi thẳng Giáp Ất. Nếu không có sức đẩy này mà chỉ có sức hút của mặt trời thì quả đất sẽ đi thẳng vào mặt trời.
Nhưng sức đẩy và sức hút của mặt trời cả hai đều tác động vào mãi không thôi cho nên cứ luôn luôn đi theo hình vòng cung không thay đổi, do đó mà thành ra quỹ đạo của quả đất. Quỹ đạo của các hành tinh cũng đều như thế, thường vẫn có tỷ lệ với sức hút lớn hay nhỏ, thể tích lớn hay nhỏ và khoảng cách xa hay gần đối với mặt trời. Sức hút cũng giống như ánh sáng, hễ phân tán thì nhỏ, tụ họp lại thì lớn. Cường lực của nó lớn hay nhỏ tỷ lệ nghịch với bình phương của khoảng cách xa hay gần. Giả thiết có một hành tinh cách mặt trời gấp đôi khoảng cách của quả đất đối với mặt trời thì sức hút của nó bằng bình phương 1/4 sức hút của quả đất. Vậy sức hút có hai nguyên lý: Một là tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách xa hay gần, hai là tỷ lệ thuận với thể tích lớn hay nhỏ. Nếu dùng sợi dây dài cột vào chân rồi múa, mặt trời là tay cho nên những hành tinh rất xa cũng đều thống thuộc vào mặt trời, mà các tinh cầu cũng đều có nguyên lý hút lẫn nhau. Sức hút ấy mạnh hay yếu do sự khác nhau bởi khoảng cách xa gần và thể tích lớn nhỏ. Nhưng khoảng cách giữa chúng với nhau không đồng đều nên sinh ra sự sai lệch không bằng nhau. Mặc dầu sự sai lệch ấy rất bé, tích lũy lâu cũng có thể suy ra con số được. Nhưng mà cái sai lệch sau lại bổ vào cái sai lệch trước, cái trước cái sau bổ đắp cho nhau thành ra có biến đổi mà vẫn không thấy biến đổi. Đó là chứng minh xác thực về sức hút. Thế nhưng nếu quả có một ngày nào đó các hành tinh tiêu diệt, điều đó chắc không phải vì sự vận hành của chúng sai lệnh ra ngoài quỹ đạo mà gây nên sự tan vỡ mà chỉ có tạo vật là làm chủ cái vận mệnh ấy mà thôi.
Lại nữa phàm một vật gì rơi xuống thì lúc bấy giờ có hai chuyển động: Một là rơi sinh ra bởi chuyển động hướng về tâm quả đất, hai là rơi theo vòng quanh tâm quả đất mà chuyển động đó vốn đã có trước khi vật chưa rơi. Thí dụ như thuyền đang đi, từ đỉnh cột buồm thả xuống một hòn đá chắc đá sẽ rơi xuống chân cột buồm nhưng hòn đá không cùng đi với chiếc thuyền nên không rơi kịp đến chân cột buồm. Phàm khi một vật gì rơi xuống thì sự chuyển động theo vòng quanh tâm quả đất làm cho vật ấy khi đạt đến mặt đất thì tự lăn vào. Như trong hình vẽ Tuất Tỵ là vòng xích đạo của mặt đất, Dậu là tháp đo, Bính là đường thẳng đứng của tháp với tâm quả đất, Dần là chót tháp, Thân tự xoay quanh một vòng theo quả đất do Mậu làm quỹ đạo. Giả thiết chân tháp là Ất đi đến Bính thì chót tháp phải đến Đinh. Vòng ở chót tháp lớn hơn vòng ở mặt đất cho nên đá đo chuyển động vòng quanh quả đất thành nhanh hơn. Vì quả đất xoay, mặt đất và tháp đều đi về phía Đông, đá từ chót tháp rơi xuống có tốc suất ở chót tháp nhanh hơn ở chân tháp, cho nên đá đến đất phải rơi tại phía Đông của Bính. Nại Đoan khi mới rõ nguyên lý này bèn đem thí nghiệm tại một hầm mỏ than sâu hai mươi sáu trượng, qua nhiều lần đều thấy lệch về phía Đông năm phân. Đó là chứng minh rất xác đáng về sự chuyển động của quả đất.
Ban đầu người xưa cho rằng các ngôi sao đều đi theo đường vòng tròn, trong đó quỹ đạo của sao Hỏa có hai tâm sai nhau rất lớn. Khắc Bạch Nhĩ, trong lúc sao Hỏa tiến thẳng về phía mặt trời thấy độ số đi của sao khác lạ mới nghĩ rằng phải chăng sao Hỏa đi theo đường bầu dục mà mặt trời là một trong hai tâm của đường bầu dục đó. Bèn đo đạc kỹ lưỡng thì thấy rõ ràng là các hành tinh đều đi theo hình bầu dục. Như hình vẽ, Giáp Bính Canh là quỹ đạo bầu dục của hành tinh Thân là tâm của mặt trời, vẽ hai đường Giáp Thân Ất Thân thì Ất Thân là một phần của diện tích hình bầu dục. Hành tinh đi từ Giáp đến Ất, thời gian và diện tích có tỉ lệ với nhau. Giả thiết thời gian đi qua là một tháng, rồi từ các điểm Bính Đinh Mậu Kỷ Canh của quỹ đạo hành tinh làm tâm vạch các đường thì thấy các diện tích giữa hai đường đều bằng nhau và hành tinh đi qua đều mất một tháng như nhau. Đó là một cách khám phá mới thứ nhất của Khắc Bạch Nhĩ. Quan sát từ đó mà biết được giao điểm về ngày giờ của Xuân phân, Thu phân, Hạ chí, Đông chí không đồng đều nhau là do quả đất đi theo hình bầu dục vậy. Nếu diện tích bằng nhau mà tốc độ của hành tinh chậm nhanh không bằng nhau thì một đoạn từ Giáp đến Ất là nhanh, các đoạn sau chậm dần. Cho nên hành tinh không phải luôn luôn đi với tốc độ bình thường. Đó là khám phá mới thứ hai của Khắc Bạch Nhĩ.
Người xưa đo thiên văn cũng biết rằng hành tinh không đi theo tốc độ bình thường nhưng không giải thích được. Đến Khắc Bạch Nhĩ mới có thể khảo cứu xác định dùng cách nào để phù hợp với tốc suất này. Có thể nói ông là người đã sửa đổi cách làm không nguyên tắc thành ra có nguyên tắc. Ông còn suy ra được các hành tinh cách mặt trời xa gần vì biết các hành tinh đều thống thuộc vào mặt trời. Bởi vì khi có hai hành tinh cùng vận hành thì tỷ lệ bình phương vận tốc của chúng có tỷ lệ với lập phương khoảng cách giữa chúng với mặt trời. Đây thực là một nguyên lý trọng yếu mở ra cho ngành thiên văn học. Lấy bốn suất tỷ lệ mà suy, đã biết khoảng cách của hai ngôi sao với mặt trời và thời gian một ngôi sao đi giáp một vòng thì sẽ biết được thời gian ngôi sao kia đi giáp một vòng là bao nhiêu. Xem thế thì biết rằng một hành tinh không phải thốt nhiên hiện ra, đi một cách vu vơ mà tất cả đều theo một nguyên lý hết sức chính xác. Lấy thí dụ như sao Hỏa cách mặt trời gấp bốn lần khoảng cách sao Thủy với mặt trời. Lập phương của bốn thành ra sáu mươi bốn, lấy khai phương của số này thì được tám, như thế vận tốc của sao Thủy gấp tám lần vận tốc sao Hỏa. Đường đi của ánh sáng ở quả đất cũng theo một nguyên lý này. Đấy là nguyên lý thứ ba của Khắc Bạch Nhĩ.
Những điều dẫn ra trên đây là để chứng minh cái thuyết quả đất chuyển động. Bộ sách Đàm Thiên này đều chủ trương nói về thuyết quả đất chuyển động và chuyển động theo hình bầu dục. Những điều trong bài tựa và trong sách này nói đến đều là những trưng dẫn chứ không phải do sáng kiến phát ra. Vì vậy trước tiên đưa các chứng minh ra để làm sáng tỏ. Nhưng nếu chỉ đọc lướt qua một cách sơ sài những chứng minh này, chắc chắn khó thông hiểu được. Trước hết phải đọc hết các bộ sách thiên văn từ trước đến nay, phân biệt chỗ hay dở đúng sai, rỗng lòng lý hội, như có đủ một thế giới mới riêng ở trong lòng, mài miệt nghiên cứu rõ ràng khúc chiết những thứ tự thuận nghịch của kinh vỹ thì mới có thể thấu triệt một cách minh bạch được. Những chứng minh này tuy chưa có chỗ sáng tỏ nhưng cần gì phải đợi có người vạch ra chỉ cho mới trông thấy. Nếu không thì xem mấy lời này nhiều người sẽ cho là viển vông bịa đặt.
Những ai có chí với dân tộc hãy nên tìm tòi nghiên cứu trong môn học này, do đó cũng có thể hiểu được đại cương những bí mật của trời đất. Nay nối thêm mấy điều để cống hiến những ai hâm mộ.
Mùa xuân năm Tự Đức 16.
PHỤ LỤC
PHỤ
LỤC 1
Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ1
NGUYỄN TRƯỜNG CỬU
Ông Tộ là người Đoài Giáp, người ta gọi là Xã Đoài2, sinh ra bởi cha mẹ đạo cũ, chịu phép Rửa tội, đặt tên thánh Bảo Lộc. Khi lớn lên học vỡ lòng trong gia đình, rồi học với thầy Tú Giai là người Bùi Ngõa3. Sau lại học với thầy Cống Sinh tên là Hựu, ở xã Kim Khê4, song chỉ tìm những điều thực học mà thôi, hỏi thầy một đôi điều, thầy cắt nghĩa không xuôi, rồi xuống học với quan huyện Địa Linh5 ở làng Tân Lộc6. Khi ở những tràng học ấy, không vào nhà trong bao giờ, khát nước thì gọi người ta múc cho, không mấy khi làm bài. Khi nghe sách rồi, chỉ dọn riêng một quyển sách mà xem. Một kỳ kia hạch bài chung, thầy ra một bài phú “Xa Giá Tây Đô Tràng An”. Ông Tộ làm liền, rồi cậy người đem nộp, thầy chấm phê ưu. Sau thầy nói với các học trò rằng: Người này đáng tài Khôi Thám. Lần kia thầy và các học trò đi dạo trên Tú Lò7, các học trò thì nhẹ gót khắp mọi nơi. Ông Tộ đứng trông xem, rồi hỏi người bạn có đạo (là cả Thuần, người Tân Lộc) rằng anh ước từ Tú Lò cho đến Thuần Ngư8 xa nhau mấy tầm, Tú Lò cao mấy trượng, Thuần Ngư cao mấy tầm. Hỏi vậy mà thôi, đoạn thầy trò về. Đến sau hỏi thầy hai điều, thầy giải không được rồi thì thôi học, có thiết trường dạy học ở nhà, rồi ngồi dạy học chữ Hán ở trong Nhà chung Xã Đoài9.
________________________________________
1. Nguyễn Trường Cửu viết tiểu sử của thân sinh mình sau những năm 1925-1926, nghĩa là sau “Nguyễn Trường Tộ tiên sinh tiểu sử” của Lê Thước, đăng trên Nam Phong số 102, tháng 1-1926: Lê Thước đã được Nguyễn Trường Cửu cung cấp cho nhiều tư liệu truyền khẩu cũng như tư liệu viết, nhưng Lê Thước đã không tỏ ra dấu gì là đã trực tiếp sử dụng “Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ” trong bài viết của mình. “Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ” được viết bằng chữ Nôm và chưa được công bố ở đâu cả. Ông Phạm Đình Khiêm, trong Văn Đàn, bộ III, số 4, 30-11-1961, nói là đầu năm 1946 “Được ông Nguyễn Trường Võ lấy cho xem tập “Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ” bằng chữ Nôm, viết tay trên giấy bản, do thân phụ ông là Nguyễn Trường Cửu biên soạn. Ông có nhã ý cho chúng tôi mượn đem về Nam Định sao chép lại để có tài liệu tham khảo. Sau đó, chúng tôi đã gởi trả lại bản chính và hiện nay chúng tôi còn giữ lại được bản sao nguyên văn”.
Bản chính hiện nay không biết ở đâu, chứ trong gia đình Nguyễn Trường Tộ ở Bùi Chu Hưng Nguyên, Nghệ An không còn cất giữ một tư liệu nào cả về Nguyễn Trường Tộ. Bản Việt ngữ của chúng tôi do ông Phạm Đình Khiêm cung cấp.
Để viết “Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ”, Nguyễn Trường Cửu đã dựa trên một số chứng từ truyền khẩu và một số tư liệu viết được cất giữ trong gia đình; nhưng tất cả các tư liệu không được phối kiểm, nên có nhiều chỗ không chính xác. Nhưng phải nhìn nhận rằng đây là một tài liệu quý về Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta hiện có được.
2. Về quê quán của Nguyễn Trường Tộ xin xem phần I.
3. Bùi Ngõa là làng bên cạnh Bùi Chu, nay cùng thuộc xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
4. Cống Hữu ở xã Kim Khê. Đinh Văn Chấp (Xem phụ lục III) nói. “Học với Đinh Trọng Thư (tức Cống Hữu)”.
Xã Kim Khê thuộc huyện Châu Lộc, tức huyện Nghi Lộc ngày nay.
5. Quan huyện Địa Linh: Lê Thước (Xem phụ lục II) và Đinh Văn Chấp nói rõ: Quan huyện Địa Linh về hưu (nguyên Địa Linh huyện; Địa Linh huyện do doãn hưu trí mỗ). Tuy nhiên, trong “Các tổng trấn xã bị lãm”, không thấy có tên huyện Địa Linh mà chỉ có tổng hay xã Địa Linh ở Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, hoặc xứ Lạng Sơn mà thôi.
6. Làng Tân Lộc: Trong “Các tổng trấn xã bị lãm” không thấy có thôn (làng) hay xã Tân Lộc. Tân Lộc ở đây có lẽ là tên của một họ đạo thuộc hạt Cửa Lò, huyện Châu Lộc, tức huyện Nghi Lộc ngày nay.
7. Tú Lò: Lê Thước và Đinh Văn Chấp nói: Núi Lô (Lô Sơn); Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 14, tỉnh Nghệ An, tập thượng, nói: Núi Lô ở xã Vạn Lộc, huyện Nghi Lộc.
8. Thuần Ngư: Lê Thước và Đinh Văn Chấp nói: đảo Song Ngư (Song Ngư đảo); Đại Nam nhất thống chí (tlđd) nói: Đảo Song Ngư ở ngoài biển cửa Hội, huyện Nghi Lộc.
9. Lê Thước nói: năm 1858 (?) Nhà thờ Xóm Mới (Tân ấp đạo đường) mời tiên sinh làm giáo sư dạy chữ Hán - Xem Phụ lục II.
Đức cha Ngô Gia Hậu (Gauthier, 6 februaio 1842, Phó giám mục, 27 Martio 1846, Chánh giám mục, 3 décembre 1877 qua đời) thấy ông thông minh thì người dạy cho chữ Pháp, tiếng Pháp, chữ Quốc ngữ, cùng các khoa kỹ nghệ. Ông dạy học và học được ít lâu, vừa bị cơn trích sáp1, nên Đức cha Hậu đưa ông Tộ, cụ Khang, cụ Điều (người An Phú, đang gọi là Sài Diên) cụ Huấn (người Trung Hậu, khi ấy ba ông chưa chịu chức Thầy Cả) sang Tây lánh sáp2. Đến tỉnh Quảng Đông có ở lại chờ tàu, thì đi chơi với người Ngô trên núi Quảng Đông làm bài thơ đăng sơn, rồi vào miếu Hạng Vũ làm câu đối đề vào tường rằng:
Tung hoành3 dụng vũ phi vô địa,
Chiến thủ thành công cái hữu thiên.
Bút tích hãy còn. Rồi vượt qua cửa biển hẹp, gọi là Tốn Tha Hải Hiệp (Cửa biển này tàu phương Tây sang phương Đông mà vào nước Xiêm La, nước Cao Miên, nước Việt Nam, nước Tàu, Nhật Bản, Cao Ly, tàu phương Đông sang phương Tây cũng qua đây) tức Détroit de la Sonde, có vào gò Gia Vải, vào chơi nhà Đông gia ông Vít Vồ đạo rối4 (Nhà Đông gia là nhà khi mùa Đông rét thì sang ở đó mà tránh rét cho được ấm). Ông Vít Vồ vợ chồng chào mừng, và thết đãi, nói chuyện rằng: Tôi sinh được con giai thì được thưởng nhiều hơn, vì được nối tôi mà làm Vít Vồ. Sinh con gái cũng được thưởng. Phô ông truyền dùng đí gì, hoặc vàng ngọc châu báu, sách vở, đồ vật gì, nơi đây không có thì tôi viết giấy đi các nơi mà liệu như ý phô ông, rồi thì xin gửi tới nơi, gọi là phô ông đã có lòng quá cố đến tôi. Song các ông chỉ xin mấy pho sách cần dùng thôi, thì ông Vít Vồ liệu giao cho đủ hết, đoạn thì giã nhau ra đi.
Khi vượt ra khơi bị quân cướp bể lấy hết.
Khi sang phương Tây qua biển Trung vào nước Y Đại Lợi Á (Italia) có vào thành Rôm (Rome) được vào chầu Đức Giáo Hoàng Pio IX5. Ông Tộ được hôn đầu gối Người, và Người ban cho một chữ tiền lớn hơn đồng bạc, một bên đúc chính hình tượng và tên Đức Giáo Hoàng, một bên đúc một tòa nhà sang trọng, chữ tiền ấy hãy còn6. Rồi sang nước Đại Pháp ở thành Balê (là kinh đô nước Đại Pháp - Paris), khi cùng đi du lịch xem chính trị học hành kỹ nghệ phong tục nước Đại Pháp.
________________________________________
1. Tức việc vua Tự Đức ra lệnh phân chia người Công giáo tháp nhập vào các làng không Công giáo, không cho sống tập trung, để dễ bề kiểm soát. Việc phân tháp có thể bắt đầu sau khi quân đội Pháp tấn công Đà Nẵng (tháng 9 - 1858). Có thể để tránh cho các thừa sai khỏi bị trả thù vì hành động xâm lược của Pháp và cũng có thể để thu nhập tin tức, Đô đốc Rigault de Genouilly, viên chỉ huy quân đội Pháp – Y đã cho tàu đi đón các thừa sai tới Đà Nẵng. Có thể là Giám mục Gauthier đã tới Đã Nẵng vào khoảng tháng 9-10-1858. (Xem phần I).
2. Sự thực là Giám mục Gauthier chỉ sang Hồng Kông và ở đó cho tới ngày trở lại Sài Gòn đầu năm 1861, chứ không về Pháp như nhiều tác giả xưa nay vẫn quả quyết (Xem phần I).
3. Nhiều bản chép là “anh hùng” thay vì “tung hoành”. Dịch nghĩa là:
Tung hoành không phải không có đất dụng võ
Thành công chiến thắng ắt do trời định đoạt.
4. Giám mục Anh giáo.
5. Vì Giám mục Gauthier không về Pháp, nên có thể là Nguyễn Trường Tộ cũng không sang châu Âu vào dịp này. Có thể là vào chuyến đi công vụ năm 1867, Nguyễn Trường Tộ mới cùng Giám mục Gauthier được Đức Pio IX tiếp kiến. Nếu Nguyễn Trường Tộ đi một mình thì không dễ gì được vào triều yết kiến (xem phần I).
6. Đầu năm 1946, tới thăm gia đình ông Nguyễn Trường Cửu, ông Phạm Đình Khiêm cũng đã thấy đồng tiền này (xem Văn Đàn, tldđ).
Khi nghe lặng sáp, rồi thì Đức Cha Hậu lại đem ông Tộ và các cụ về Nhà chung Xã Đoài mà ở1. Bấy giờ trong Nhà chung, ngoài dân sự, tan tành tả tơi, chẳng còn gì nữa, thì ông Tộ ra mẫu và coi sóc làm nhà phòng cho Đức Cha Hậu ở2, có làm cái vọng lầu đề câu đối rằng:
Tây quốc cơ đồ... ( thiếu ba chữ )
Nam thiên vũ lộ túc niêm nhu.
Lại làm nhà hai tầng cho Cố giữ việc ở, và làm nhà tràng Latinh ba tầng, hình chữ thập gọi là nhà Tây, cho học trò Latinh ở và học, hãy còn đến rày, cùng làm nhà thờ Đức Bà riêng cho học trò, theo mẫu nhà thờ Đức Bà hiện ra ở thành Lộ Đức (Lourdes) đẹp lắm, và ở ngoài xây tường cài hoa lộng, giống các sắc hoa Tây, Nam rặc rỡ xanh tươi vui mắt lắm, rầy hư rồi3.
Đoạn tậu vườn làm nhà ở phía Bắc Nhà chung, làm tờ để lại, cúng cả nhà và vườn cho Nhà chung. Rồi vào Gia Định làm sở nhà Bà Phước cho các người nhà mụ Tây ở đến khi nước Pháp đã lấy Gia Định4, rồi thì ông Tộ ở trong ấy, mà rò xem việc hòa ra thế nào, song xem ra không thành, ông thư đi từ lại, vì bộ thì ưng hòa ước, song xin giả ba tỉnh Giang, Long, Hà5 lại cho Việt Nam, mà nước pháp thì hòa và giữ ba tỉnh ấy nữa.
Ông thấy sự thế ngán ngay, thì về Kinh mà dâng sớ, tâu xin vua Tự Đức đổi bỏ sự học hành cũ, mà làm sự học hành mới như bên phương Tây, việc Đạo, việc Thiên văn, Địa lý, việc đồn điền khai hoang, việc trên rừng, việc dưới biển, việc khai các mỏ, việc các nghề nghiệp, việc cơ khí, việc võ phương Đông, việc võ phương Tây, cùng vẽ hình thành quách hào lũy, việc tình thế nước Việt Nam bấy giờ, việc thông thương buôn bán cùng khắp hoàn cầu, việc vào Hội với Vạn Quốc, việc cho các nước vào thông thương vào nước mình, việc giao thiệp, việc hòa ước, việc mua tàu bè, sách vở đồ đệ cùng hết mọi việc v.v… các sớ ấy nhiều lắm, hãy còn để trong dinh Cổ học Viện ở Huế6.
________________________________________
1. Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ về Sài Gòn đầu năm 1861. Giám mục Gauthier sau Hòa ước 5-6-1862, dự tính về Xã Đoài, nhưng giữa năm 1863 cũng chỉ về được tới bên kia bờ sông Gianh và ở đó cho tới giữa năm 1866 mới về Xã Đoài được.
2. Nguyễn Trường Tộ xây dựng các cơ sở cho Nhà chung Xã Đoài từ giữa năm 1868 trở đi, sau chuyến đi công cán tại Pháp với Giám mục Gauthier và việc mở trường ở Huế thất bại.
3. Nguyễn Trường Tộ xây cất cơ sở cho dòng Saint Paul, số 4 đường Cường Để, tức đường Tôn Đức Thắng hiện nay, vào khoảng năm 1862-1864.
4. Nguyễn Trường Tộ ở Gia Định từ đầu năm 1861 cho tới đầu năm 1866. Ông còn vào Gia Định để chờ tàu đi Pháp từ khoảng tháng 9-1866 cho tới 10-1-1867. Sau đó hình như không lúc nào ông vào Gia Định, hay ít nữa có vào cũng không ở lâu.
5. Pháp chiếm ba tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Hà Tiên, tháng 6-1867.
6. Đại ý nội dung các văn bản của Nguyễn Trường Tộ gởi lên Triều đình Huế.
Khi vua Tự Đức và Triều đình xem sớ đoạn thì vua Tự Đức vời ông Tộ vào nhà Tả Vu (Trong sân rồng có nhà Tả Vu là nhà các quan văn thần chầu vua, nhà Hữu Vu là nhà các vũ thần chầu vua) cho được bệ kiến (là để vua thấy mặt) và hỏi các điều các bậc, thì vua lấy làm ưng1. Đến năm Tự Đức 19 tháng 6, ngày 16, có chiếu hội quan Hoàng Tá Viêm, tiếp được từ trong Lễ bộ tư ra cho Đức cha Hậu, về việc ông Tộ đi thăm mỏ than2, thì đã cấp phái cho Nguyễn Long3, danh Lâu danh Hoằng, và phái tỉnh cùng đi nữa. Thì ông đã đi cùng phái viên thăm các hạng mỏ, và chỉ cho các phái viên làm máng sơn đen, để xúc cát và nước khe cùng vàng vào, để đãi cát đi mà lấy vàng cách lấy bạc và các bảo điểm, ông có đưa than mỏ về, cùng trong năm Tự Đức 19, tháng 10 ngày 124 thì ở trong Bộ có chiếu hội quan quản lý thương thuyền sự vụ đại thần Phan, phát ra cho ông Tộ về sự xin đi thăm mỏ các sơn phận Bắc Kỳ, vàng, bạc, đồng, v.v.. thì đi. Về sau nhưng đã lấy được than tỉnh Nghệ An và than tỉnh Hải Dương đều một cân, thì phong lại đem vào mà dâng xem, ông Tộ được chiếu hội thì đã đưa vào hai hạng than ấy và vàng lẫn với các đá tâu dâng.
Đoạn vua Tự Đức cho Đức cha Hậu và ông Tộ, cụ Nguyễn Hoằng cùng hai ông phái viên là ông Trần Văn Đạo, Nguyễn Tăng Doãn đi sứ bên nước Đại Pháp, và thuê người mua sách vở, tàu bè, vật liệu, v.v... Khi sang bên ấy, ông Tộ cũng đi các nước chung quanh đó hỏi han cho được biết việc, như qua sang nước Tây Ban Nha là nước Y Pha Nho (Espagne). Vào hỏi chính phủ, thì chính phủ giả nhời rằng sang cho được đòi nợ thôi.
Nguyên khi vua Gia Long phục quốc, thì Đức cha Phêrô5 coi sóc địa phận Gia Định giúp vua Gia Long khai quốc nên vua cậy Đức cha Phêrô đưa ông Đông cung Cảnh và các quan sang nước Đại Pháp sang đánh quân Tây Sơn cho được lấy nước lại, song việc không thành thì Đức cha Phêrô lại vay nước Y Pha Nho năm vạn bạc6 mua hai chiếc tàu hiệu là tàu Long và tàu Phượng, cùng mua súng ống thuốc đạn lương thực, và mọi người Tây có lòng giúp vua vào hai tàu ấy vượt sang nước Việt Nam. Bấy giờ vua, cùng Đức cha Phêrô và các người ấy đánh được Tây Sơn, giết được Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc7, lên làm vua cả nước Việt Nam là năm 1802, năm Nhâm Tuất, là Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế. Cho nên nước Y Pha Nho đòi năm vạn bạc ấy v.v...
________________________________________
1. Việc này xảy ra vào khoảng tháng 8-1866, trước lúc Nguyễn Trường Tộ cùng Giám mục Gauthier vào Sài Còn đi Pháp.
2. Theo Đại Nam Thực Lục thì tháng 5 Tự Đức 19 (tức tháng 6-1866) Triều đình có phái Hồ Văn Long cùng Nguyễn Trường Tộ đi tìm mỏ, nhưng có lẽ Nguyễn Trường Tộ chưa kịp đi, thì đã có chiếu gọi vào kinh để đi Pháp.
3. Hồ Văn Long chứ không phải là Nguyễn Long. Hồ Văn Long, người đã có mặt trong phái bộ Phan Thanh Giản đi Pháp năm 1863-1854.
4. Việc này chắc chắn không được thực hiện vào thời điểm này mà có thể ở vào khoảng sau tháng 4-1868, Nguyễn Trường Cửu có thể lẫn lộn, bởi vì vào lúc này Nguyễn Trường Tộ đang ở Sài Gòn chờ tàu đi Pháp.
5. Tức Giám mục Pierre (Phêrô) Pigneau de Béhaine, giám mục hiệu Tòa Adran, quen gọi là Giám mục Adran (Bá Đa Lộc).
6. Giám mục Bá Đa Lộc vay tiền của các thương gia người Pháp và người Anh(?)
7. Điều này cũng không đúng, Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc chết bệnh, trước khi quân của Nguyễn Ánh phản công.
Lại ông Tộ đã giao hỏi Hội Khai mỏ Ngoại quốc, mà hội ấy cốt yếu ban điều này: 1
- Một là sai người liệu làm giúp việc cho người ta, dạy tập nghề nghiệp làm ăn, khai cống, đào sông, đắp đường, xây thành đồn, hàn cửa bể, làm cơ xưởng, đóng thuyền tàu, các việc lớn lao.
- Hai là đưa sản vật nước này sang nước khác mà giồng, tơ tằm v.v…
- Ba là buôn bán, sai người đi khắp các cửa biển, các phụ đầu, thăm hỏi giá hàng cao hạ, hoặc bán của mình hoặc mua của kẻ khác, hay là bán hộ, hay là nhận lấy hóa vật đưa đi mà bán, trừ phí tổn rồi, được lợi chia nhau, lại cho người đi thăm hỏi tìm các thứ mỏ trong nước ta như ngũ kim bát thạch, giúp cho làm nên việc mỏ. Nhưng mà giao hai điều này:
- Một là mình có mỏ, lại mình chịu công của đồ đệ hết mọi sự, hội cho một vài người Công sư xem hộ, khi làm nên mỏ rồi, trừ tổn được lợi, thì lo phần kẻ có mỏ được chín phần, Hội được một.
- Hai là mình có mỏ mà hội chịu công của đồ đệ hết mọi sự khi làm thành mỏ rồi, trừ tổn được lợi thì mười phần hội được chín phần, kẻ có mỏ một phần. Còn sự phí tổn tìm mỏ được hay là không thì hội không bắt chịu.
Bằng không ưng thuận điều nào thì hội cũng ưng người giúp cho, song phải chịu mỗi tháng mỗi người là 2.500 phật lăng là quan tiền Tây (Franc) trong ngoài và phí tổn đi lại nữa. Nếu lỡ việc tại ai thì kẻ ấy phải bồi tổn lại.
Ấy là dịch chính trong tờ đã giao ước. Nay xin gởi về tâu mau xin Triều đình hồi phú.
Vừa năm Tự Đức 20 tháng 6 ngày 222, thì quan Phan Thanh Giản gởi tờ chiếu hội cho Đức cha và ông Tộ, liệu thuê một vài người có lòng công liêm, vị thế hiển danh, đừng có yêu sách thái quá, để khi Triều đình hoặc dùng hoặc không cũng được, không tiếng tăm gì.
Khi được chiếu hội này thì Đức cha và ông Tộ xin được hai vị Tây linh mục là Cố Thông, Cố Đồng3.
Khi Triều đình thấy sớ tâu về, đã xin được hai ông linh mục thông minh lắm, để mà giúp nước Nam, thì cũng trong năm ấy tháng 9 ngày 20, quan Phan Thanh Giản lại gởi chiếu hội sang, tư cho Đức cha và ông Tộ đem hai cố về và phái viên cùng đồ đệ về nữa.
Khi được tin ấy thì Đức cha đem mọi người cùng đồ đệ đều về, liền vào Kinh tâu lại mọi việc, và Đức cha đem hai Cố vào chầu vua nữa. Thì vua ban cho Đức cha cùng ông Tộ tiền vàng long văn và mấy chữ tiền bạc, hiệu nhất nguyên, hiệu nhị nguyên cùng ban thưởng mọi người4.
Đức cha, ông Tộ có làm sớ dâng lên tạ ơn vua. Song sau không dùng, thì Cố Đồng địa phận Huế xin đi, Đức cha đem cố Thông về Xã Đoài, người sói đầu, thông thiên văn địa lý, kỹ nghệ, mọi khoa học hành, cùng đem nhiều đồ đệ về, như nước khí sinh, vàng cường thủy (vàng cường thủy, siêu cường thủy, diêm cường thủy, ba thứ nước họp làm một gọi là Vương thủy) các đồ nấu khí, thử khí, như dưỡng khí, thán khí, khinh khí, đạm khí, nhiệt khí, điện khí v.v... La kinh, ống dòm, trắc ảnh, thước thiên nghi, quả địa cầu, các bản đồ, các thứ đo lường v.v... để đầy hai gian nhà Tây.
Người đi xem rừng rú sông biển đồn điền nhiều nơi, đem về các thứ sắt mỏ, biên chữ vào kể mấy rương, và vẽ một cái địa đồ từ Biện Sơn Thanh Hóa cho đến tỉnh Đông Hải Quảng Bình, gọi là bản đồ Cố Thông. Người chết và táng ở Xã Đoài.
Khi đi sứ sắp về thì Bộ tư cho ông Tộ được đi dịch, mà thăm tìm mỏ mọi nơi, đến năm Tự Đức 19 Bính Dần ngũ nguyệt, Bộ sai quan Tổng đốc Nghệ An là ông Hoàng Tá Viêm ra đào Kênh Sắt. Người được chỉ ra trọ nơi xã Kim Khê, thì người viết thơ cậy ông Tộ đi khám xem hình đất thế đất, chỉ lối cho mà đào. Vì trước ông Cao Biền là quan vua Đường bên Tàu, sang làm quan Đô hộ ủy nước Nam, lại vua Quý Ly nhà Hồ, đã đào không xong, vì mắc nhiều đá cuội dưới đất. Ông Tộ đi xem nói rằng: Có một khúc vì nhiều đá nhớn, như bên Tây có cốt mìn thì phá đi, ta không có nên phải tránh. Ông cắm nêu một hồi buổi sớm vừa xong, dân phu cứ thế mà đào thì kênh hoàn thành. Ông Tộ có làm bài thơ mừng Kênh Sắt5. Đoạn sang lấy đất ở cho làng Xuân Mỹ (ở huyện Nghi Lộc, tổng Vân Trình) 6. Vì làng ấy khi ở nơi thì độc khí độc nước ở không được, ông Tộ lấy đất nên vườn, bảo làng lên ở nơi đang ở bây giờ, thì khỏe mạnh đông đúc giàu có...
Đến năm Tự Đức 21 tháng 2, ngày 19, có bằng cấp Lễ Bộ đòi ông Tộ, cụ Hoằng đi Tây, và ban cho 10 lạng bạc, 10 cổ sâm cao ly, cho mẹ già dưỡng lão.
Trong năm ấy, tháng 3 ngày 25, ông Tộ bị đau bệnh ở Kinh, thì Lễ Bộ phát bằng cấp cho về nhà uống thuốc, và ban cho năm lạng bạc ăn đường.
Năm ấy, tháng 3 ngày 26, Binh Bộ phát bằng cấp cho đi dịch về uống thuốc. Khi bệnh vừa giảm, đến năm Tự Đức 23 tháng 12 ngày 11, truyền trát quan Hộ Lý An Tĩnh Tổng đốc quan phòng Tôn Thất vâng lời Bộ tư ra, đòi ông Tộ vào Kinh để đem học sinh Việt Nam sang Tây mà học tập. Ông vào đến Kinh thì bệnh phát lại, xin về uống thuốc không lành, một lâu một thêm nặng, qua năm sau là năm Tự Đức 24 (1871) tháng 10 ngày mồng 10, ông Tộ làm một câu thơ rằng:
Nhất thất túc thành thiên cổ hận,
Tái hồi đầu thị bách niên cơ7.
Đoạn thì qua đời. Thọ 41 tuổi, táng ở địa phận Bùi Chu.
Tới nay, ở tỉnh Nghệ An, trong thành phố, có làm hai sở nhà tràng, gọi là Kiêm bị tiểu học tràng, Groupe I, Groupe II, để cho học trò Pháp Việt học. Quan Đốc học là ông Lê Thước (người tỉnh Hà Tĩnh, Xã Lạc Thiện), quan Kiểm giáo là ông Nguyễn Hiệt Chi, bẩm xin quan thượng Nghệ An, là ông Tôn Thất Đàn, lấy tên ông Tộ mà đặt tên cho trường ấy. Bộ y cho, nên ngày 14 tháng Juin 1925 thì lính tráng cờ trống rước quan Công sứ, quan Thượng, quan đốc học Tây và các quan, cùng các sở công nghệ, quan Cẩm, lính tập, con cháu ông Tộ, các học trò nam nữ, cùng mọi người đông lắm, hội trong tràng ấy mà đặt tên trường. Có hai cái biển một biển đề Nguyễn Trường Tộ Kiêm Bị Tiểu Học Tràng. Quan Đốc Thước mặc áo sấc rộng đứng đọc một bài chúc mừng, đọc rồi vỗ tay reo mừng, pháo nổ hương xông, trống đánh, bát âm thổi, các sắc cờ bay bướm, rất là vui vẻ, rồi ban phần thưởng cho học trò, cùng đi xem sở Thủ Công học trò làm, rất được lời khen, rồi thì giải tán.
Vừa nhân tứ tuần vua Khải Định trong Bộ ban đệ ra tỉnh Nghệ An một đạo Cáo văn ban và truy thụ cho ông Tộ được chức Gia Nghị Đại Phu Hàn Lâm Viện Trực Học Sĩ. Quan Bố quyền Tổng đốc đã gọi con ông Tộ vào lĩnh về nhà rồi vậy.
________________________________________
1. Xem di thảo số 25, về Hội nước ngoài.
2. Lúc này Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier đang ở Pháp.
3. Cố Thông: Montrouzies. Cố Đồng: Renauld.
4. Xem phụ lục số VI.
5. Xem di thảo.
6. Làng Xuân Mỹ, tổng Văn Trình, huyện Nghi Lộc. Ngày nay thuộc xã Nghi Đồng, huyện Nghi Lộc (xem phần I).
7. Theo ông Phạm Đình Khiêm, thì vì chép không rõ, nên có người đọc Cơ, có người đọc Thân. Bản khắc trên mộ của Nguyễn Trường Tộ là bách niên Cơ, trong lúc ông Đào Duy Anh đọc trong một cuốn sổ tay của Nguyễn Trường Tộ là bách niên Thân.
PHỤ
LỤC II
Tiểu sử Nguyễn Trường Tộ tiên sinh*
NGHỆ AN - LÊ THƯỚC
Cách đây 98 năm nước Việt Nam ta xuất hiện một nhân vật đặc biệt tuyệt vời, người ấy ôm một học vấn lớn, kiến thức lớn, tư tưởng lớn, nghị luận lớn, thế mà đến đâu cũng không hợp, rốt cuộc phải uất ức mang theo chí hướng mà thác, đáng đau đáng giận biết chừng nào! Ôi người ấy là ai? Chính là tiên sinh Nguyễn Trường Tộ.
Tiên sinh sinh năm 1828 Tây lịch (tức năm Minh Mạng thứ 9) tại làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, còn bé đã thông minh dĩnh ngộ. Thân phụ là cụ Nguyễn Quốc Thư làm nghề thầy thuốc có tiếng. Mỗi khi thân phụ dạy đọc chữ gì, tiên sinh liền nhớ thuộc ngay. Làng Bùi Chu phía Đông có sông, phía Tây dựa lưng vào núi. Núi có mỏ sắt (Theo lệ xưa mỗi năm phải nộp 80 cân sắt ròng). Đây chính là trường học thiên nhiên khảo nghiệm khoáng học của tiên sinh thuở thiếu thời. Sau tiên sinh dời đến ở phía ngoài cổng trước nhà thờ Tân Ấp.
Đến năm 1846 (tức năm Thiệu Trị thứ 7) tiên sinh mới bắt đầu thụ nghiệp với một vị đỗ tú tài 5 khoa liền tên là Giai (không nhớ họ) ở làng Bùi Ngõa. Mỗi khi đọc một quyển sách nào, tiên sinh cũng suy cứu cùng cực, nghi điều gì là hỏi ngay, có nhiều chỗ thầy tú cũng không giải đáp được.
Năm 1852 (tức năm Tự Đức thứ 5), tiên sinh học với vị cống sinh tên Hựu (không nhớ họ) ở làng Kim Khê, ba năm rất khổ công chăm chỉ. Mỗi khi đi học về, tiên sinh thường ngồi yên một chỗ nghiền ngẫm nghĩa sách không đi đâu một bước. Thầy cống biết tiên sinh có tài lớn chí lớn nên khuyên đến thụ giáo với cựu tri huyện huyện Địa Linh (không nhớ họ tên).
Năm 1855 (tức năm Tự Đức thứ 8 ) quan huyện mở trường tại xã Tân Lộc. Tiên sinh đến học, mặc dầu bấy giờ tiên sinh đã chán lối học từ chương, muốn tìm chân lý. Lúc nào tiên sinh cũng có một quyển sách nhỏ bên mình mỗi khi suy tư điều gì, trông thấy điều gì đều ghi chép vào đó.
Một hôm quan huyện dắt học trò lên chơi núi Lô Sơn. Các học trò kẻ ngâm thơ người vịnh cảnh. Riêng một mình tiên sinh ngước nhìn lên cao, trầm ngâm nghĩ ngợi, chợt hỏi bạn rằng: “Núi này cao mấy thước, diện tích mấy tầm, cách Song Ngư mấy trượng?” Bạn không đáp được. Thụ học ba năm chỉ khảo thí một lần. Đề thi là làm bài phú nói về việc xe giá nhà vua đi Trường An, Tây Đô (Xa giá Tây Đô Trường An phú). Quan huyện bắt buộc lắm tiên sinh mới chịu làm. Đặt bút là thành bài ngay. Khi duyệt quyển, riêng bài của tiên sinh chiếm ưu hạng. Quan huyện khen lắm. Nhưng tiên sinh đã biết quá rõ cái học khoa cử không bổ ích gì cho thực dụng, nên tiên sinh chẳng bao giờ lưu tâm đến. Bấy giờ tiên sinh được 27 tuổi.
Năm 1858 (tức năm Tự Đức thứ 11) nhà thờ Tân Ấp mời tiên sinh làm giáo sư dạy chữ Hán. Giám mục Ngô Gia Hậu phục tiên sinh là người thông minh lanh lợi bèn dạy tiên sinh học tiếng Pháp, chữ Pháp và một vài môn khoa học phổ thông. Trong hai năm sức học tiến bộ rất nhiều.
Năm 1860 (tức năm Tự Đức thứ 13) vì có lệnh cấm dân theo đạo, Ngô Gia Hậu bèn đem tiên sinh đi Pháp, khi đi ngang qua Ý có đến yết kiến Giáo Hoàng La Mã, rồi đến Ba Lê lưu học. Trong vòng mấy năm, tiên sinh thu hoạch được rất nhiều, ngoài ra còn dùng thì giờ rảnh rỗi khảo cứu thêm chính trị, học thuật và kỹ nghệ nước Pháp. Sau đó tiên sinh lại về nước. Thuyền đến Hương Cảng, tiên sinh được gặp một giám mục người Anh. Hai bên ý tình khá hợp. Giám mục lưu tiên sinh ở lại mấy tháng. Lúc chia tay, giám mục tặng tiên sinh mấy trăm bộ sách nhưng trên đường về bị cướp biển cướp mất chỉ còn lại một vài quyển sách chữ Hán. Bấy giờ tiên sinh đã 33 tuổi.
Thời gian ở Hương Cảng tiên sinh có đề hai câu đối ở miếu thờ Hạng Võ như sau:
Anh hùng dụng võ phi vô địa,
Chiến thắng thành công tất hữu thiên.
Tạm dịch:
Anh hùng dụng võ hiềm không đất.
Chiến thắng thành công hẳn có trời.
Lại nhân cùng một người bạn, người Quảng Đông, lên núi dạo chơi, tiên sinh có làm một bài thơ nối vần như sau:
Thừa nhàn tỉ lý trực đăng sơn,
Túc hạ phong sinh chuyển giác hàn.
Hãn mạn dĩ cùng thương mãng ngoại,
Bồi hồi như tại bích vân đoan.
Tam hoàn thành thị phân minh khán,
Lưỡng Quảng giang sơn chỉ chưởng gian.
Vạn lý phù dao như khả tá,
Lăng không hồi quốc bất ưng nan.
Tạm dịch:
Nhân nhàn cất bước dạo non chơi,
Gió chuyển quanh chân lạnh toát người.
Đi khắp vùng xanh chừng thấm mệt,
Bàng hoàng như giữa đám mây trôi.
Ba vòng thành thị nào xa mấy,
Lưỡng Quảng trong bàn tay đấy thôi.
Muôn dạm mây trời như mượn được,
Ta về cố quốc khó gì đâu.
______________________________________________
*. Nguyên bản Hán văn trong Nam Phong số 102 trang 4-12.
Bản văn này đã được sao chép lại trong Hv 189/4 tờ 81-98 và 634/4 tờ 15-29, với nhiều sai sót và tự ý sửa chữa và sắp xếp lại.
Bản Nam Phong bắt đầu với mấy lời giới thiệu của Sở Cuồng (Lê Dư).
Năm 1863 (tức năm Tự Đức 16) vì làng Xuân Mỹ đất xấu, nhiều khí độc khiến dân ở đây hao mòn, tiên sinh bèn đi tìm một nơi đất tốt khác đưa dân chúng di cư đến ở. Xóm mới dời đến rộng chừng mấy mươi mẫu, bốn mặt ngoài có đường lớn, trong có nhiều đường nhỏ nối liền ngang dọc trông như bàn cờ, đặc biệt có tổ chức hàng quán theo phép tỉnh điền. Sau nhà thờ Tân Ấp mời tiên sinh làm đốc công cất nhà làm lễ, nhà ở cho giám mục và trường dạy tiếng Latinh gồm ba sở, tất cả đều xây cất theo phương Tây. Bởi vì ngoài các môn khoa học, tiên sinh còn chú tâm nghiên cứu rất nhiều về khoa học kiến trúc. Công trình xây cất ba sở này rất lớn, phải mất 18 tháng mới xong.
Năm 1864 (tức năm Tự Đức thứ 17), tiên sinh lại nhận lời mời của nhà thờ ở Sài Gòn. Vì sau khi xây dựng xong 3 sở ở Tân Ấp, tài năng và học thức của tiên sinh đã được các nhà truyền giáo biết đến. Khi Giáo hội trù tính xây cất một cơ sở làm nhà tu cho các nữ tu, họa đồ làm xong kỹ sư dự tính phải chi đến ba mươi vạn. Tiên sinh hoàn thành chỉ tốn có mười vạn (nay hãy còn), tục gọi là Nhà Trắng.
Năm 1866 (tức năm Tự Đức thứ 19), tổng đốc An Tĩnh Hoàng Tá Viêm viết thư nhờ tiên sinh về việc đào Thiết Cảng. Thư viết như sau:
“Nhân được phê chuẩn rằng: “Việc đào Thiết Cảng thật là công tư đều tiện lợi nhưng phải tốn nhiều công của. Người đảm đương việc này không thể nào không hết sức lưu tâm chú ý”.
“Tôi ngày đêm suy nghĩ rằng phải có kẻ trí thức hơn người mới có thể thành công mà giảm bớt phí tổn được. Trước đây theo hai vị Ngụy, Phan khen ngợi thì tài năng của ngài chắc chắn có thể giúp được việc. Vả đó cũng là ý nguyện tốt của ngài muốn tạo một phúc lợi cho nhân dân tỉnh hạt. Có điều chân ngài chưa được bình thường1 khiến gần đây tôi không được một bản góp ý nào của ngài cả. Nay tay thợ đã sẵn sàng, nếu ngài có lòng vì dân vì nước, xin hãy đến ngay tận nơi khám xét địa hình, chỉ bày những điều tiện lợi, để khả dĩ bớt công giảm phí, giúp nhân dân đỡ được phần nào và đồng thời cũng không phụ lòng mong mỏi của nhân dân.
“Niên hiệu Tự Đức, ngày 7 tháng 5 năm Bính Dần.
“Thư của Thự tổng đốc An Tĩnh họ Hoàng kính gởi Nguyễn Trường Tộ, quán sở Kim Khê, xã Đoài Giáp, huyện Hưng Nguyên.”
Được thư, tiên sinh liền ngồi cáng đến nơi khám xét, chỉ vẽ hình thế, dùng tre cắm tiêu vài mươi dặm đều theo đường thẳng. Chỉ có một đoạn hơi cong, tiên sinh nói: “Ở dưới có tảng đá lớn vài trăm thước. Gặp trường hợp này người Pháp sẽ dùng mìn phá. Ta không có máy móc thì tránh đi, cong cũng chẳng sao”. Tương truyền khi kênh này đào đến khoảng giữa Thiên Uy và Tây Yên thì gặp nhiều đá tảng lớn chắn lối khó đào vét vô cùng. Khi tiên sinh sửa tiêu cắm lại, đoạn đường này không đầy một tháng đã đào xong. Đó là vì khi đã giỏi về mỏ hẳn phải giỏi về địa chất.
Tháng 6 năm ấy, quan tỉnh cấp trạm dịch cho tiên sinh về Kinh và phái Nguyễn Long cùng tên Lâu tên Hoằng thay tiên sinh về việc tìm mỏ. Nguyên văn tờ chiếu hội của quan tỉnh như sau:
“Thự tổng đốc An Tĩnh họ Hoàng làm tờ chiếu hội.
“Nay tiếp văn thư của Bộ Lễ nói vâng phiến của Đình Thần đem phúc tư của tỉnh và kèm theo bẩm văn của quý chức và Nguyễn Trường Tộ về các khoản như sau:
“Về quý chức và Nguyễn Trường Tộ đã được phê chuẩn cho bản tỉnh cấp mười lượng bạc và trạm dịch về Kinh chờ ở Bộ Lễ.
“Trong phiến còn nói thêm rằng về khoản thăm dò mỏ than của Nguyễn Trường Tộ đã có tên Lâu tên Hoằng làm thay. Chỗ này có châu phê bên cạnh rằng: “Khoản này có Nguyễn Long chuyên trách cùng với hai tên do tỉnh phái người của tỉnh và chỉ sức thăm dò trong hạt mình mà thôi. Sự việc tiến hành ra sao phúc tâu rõ ràng. Khâm thử”. Nay trích tư cho biết để căn cứ theo đó mà thi hành. Ngày nào quý chức lên đường xin tư cho biết trước.
“Nay làm tờ chiếu hội chung, mong chiếu theo khoản Bộ tư mà thi hành sớm. Vậy làm tờ chiếu hội này cấp cho.
Quý chức Giám mục Ngô tuân hành.
Ngày 16 tháng 6 năm Tự Đức 19.”
Bấy giờ tiên sinh trên đường về Kinh qua Đèo Ngang có cảm đề bài thơ như sau:
Thử địa tích tằng Nam Bắc hận,
Hân kim nhất thống Bắc Nam bình.
Nguy quan túc tráng sơn hà sắc,
Tuyệt lãnh trung phân vũ trụ hình.
Chiến lũy dĩ tàn lưu cổ tích,
Ngự bi trường tại tác sơn linh.
Hành nhân mạc thán đăng lâm khổ,
Quá thử ưng tri cận đế thành.
Tạm dịch:
Này đất từng ghi Nam Bắc hận,
Mừng nay thống nhất cảnh thanh bình.
Nguy nga tráng lệ màu sông núi,
Tuyệt đỉnh chia đôi vũ trụ hình.
Chiến lũy đã tàn lưu cổ tích,
Ngự bia còn đó dấu uy linh.
Người đi xin chớ nề gian khổ,
Qua khỏi đây rồi thấy đế Kinh.
_______________________________________
1. Chú thích của Lê Thước.
Tương truyền vua Dực Tôn triệu tiên sinh vào hội kiến ở nhà Tả Vu, những điều tiên sinh trình bày vua rất đẹp ý và ban cho khánh vàng, tiền vàng (Trừ các sớ văn đã dâng lên vua, tiên sinh còn nhiều điều trần, đối đáp hiện còn lưu lại một tập dày tại Viện Cổ học ở Huế, hẹn sẽ tiếp tục biên chép vào).
Đến tháng 8, vua đặc biệt sai tiên sinh cùng Giám mục Ngô Gia Hậu và đạo trưởng Nguyễn Điều đi Pháp thuê chuyên viên, mua máy móc. Khi đi, vua đặc ân ban cho 10 lạng bạc, 10 nhánh sâm Cao Ly để tiên sinh nuôi dưỡng mẹ già.
Ngày 25 tháng 7 tiên sinh đã điều trần thời sự như sau:
Thiết nghĩ: Kẻ khéo lo toan, biết thời cơ sắp xảy đến không thể đừng được thì sẽ thuận theo tình thế mà khai mở để tránh xảy ra tai hại. Ví như Hán Cao Tổ đến chịu phong ở Ba Thục. Nếu thế nước không thể bảo toàn trọn vẹn được thì bỏ cái viền cái rẻo để giữ nơi căn bản. Ví như Thạch Tấn bỏ Lự Long, Bình Vương bỏ Kỳ Phong vậy… Cũng có khi cứ để vậy chẳng nên tranh giành vội, dùng nó để ngăn chận mối hoạn nạn. Ví như Tống cứ để nước Liêu tồn tại mà chiếm cứ và bình định được các nước khác.
Cho nên người có trí thấy cơ sắp xảy đến, thấy việc sắp hình thành thì đón chận được nó từ ngoài muôn dậm, không để nó vào cửa ngõ nước mình, đuổi nó đi xa, không cho làm rối loạn mưu tính của mình, chia rẽ nó khiến nó đi theo đường trái, để ta chuyên ý lo toan việc phải, lôi kéo nó khiến nó vướng mắc kẻ địch ở bên ngoài, để ta được thung dung mưu tính việc bên trong. Cho nên người xưa có nói: Người có trí như cái vòng xoay tròn, không thể lấy một cái gì làm cố định để mà luận việc cả.
Vì vậy, người có trí xem việc xưa mưu việc nay, không dùng một mưu chước đã định sẵn mà chỉ mưu tính những gì có thể mưu tính được. Không theo một phương pháp đã đặt để sẵn mà theo phương pháp nào có thể thiết lập được. Từ đó có thể biến đổi tùy thời, thay đổi vị trí mà thành công, không thể cứ bám trụ một chỗ.
Xưa Khổng Minh không cần giành Kinh Châu, chủ trương hòa với Ngô là cốt để chủ tâm vào việc đánh phía Bắc. Bởi vì nếu đẩy lùi được giặc của Hán thì đất đai sẽ vào tay đâu phải chỉ có một Kinh Châu mà thôi? Nếu Nam Tống không hòa với Kim thì vương nghiệp cũng khó giữ yên được. Giả sử cứ nuôi dưỡng sức lực binh dân cho hùng hậu, biết tri túc để tự bảo vệ, không cần đánh chác làm gì cho suy yếu thì dòng Trường Giang hiểm trở kia cũng đủ hòa được với Nguyên rồi.
Ấy thế mà có người bình luận trách Khổng Minh không báo thù chủ cũ, trách Nam Tống không rửa nhục người xưa. Những hạng người đó chưa đủ trí khôn để hiểu được nỗi khổ tâm của người đương thời. Vũ Đế mở đường cho bọn man di phía Tây Nam mới chặt được cánh tay phải của Hung Nô. Sở dĩ thế là vì nghĩ rằng nếu không diệt rợ phương Bắc thì Triều đình nhà Hán không thể nào yên được. Vũ Đế lo xa thế ấy mà còn bình luận chê bai, thứ hỏi có đáng chê cười hay không? Bình Vương bỏ đất Kỳ Phong cho Tần, khiến Tần một mặt phải đương đầu với Tây Nhung, nhờ thế mà nhà Đông Chu mới duy trì được thiên hạ đến bốn trăm năm. Anh Cát Lợi bỏ Hợp Chủng Quốc để cho các nước phương Tây đều có quyền lợi ở Tây Châu, do đó mới khỏi bị chúng thọc tay vào mà một mình ôm trọn được Ấn Độ. Nếu Bình Vương kéo dài cuộc tranh giành cố đô thì chưa chắc giềng mối nhà Chu đã giữ được. Nếu người Anh không chịu từ bỏ cái hầm vàng kia để dụ người vào đó giành giật thì ngọc lụa Ấn Độ làm sao một mình có thể hưởng trọn làm của riêng?
Xưa Y Pha Nho bị Hồi Hồi cắt đất chiếm cứ 180 năm. Đây là một dân tộc giàu có thịnh vượng, dân số đến mấy mươi vạn. Khi Y Pha Nho quật khởi phục quốc đuổi hết bọn chúng ra miệt duyên hải phương Nam, nay là hang ổ bị người chà đạp, thì Y Pha Nho cũng vì thế mà trở nên yếu hèn một cách nhanh chóng.
Xưa Áo bị Hung Nô chiếm cứ một nửa nước. Dân Áo cứ để mặc chúng sống chung lộn. Sau Hung Nô dần dần thành Áo mà hợp lại làm một nước. Nhờ đó Áo lớn mạnh. Hai trường hợp trên chứng minh cho thấy cái lợi hại của sự đuổi hay không đuổi.
Ôi, tình hình thế giới thay đổi chứ không nhất định, được mất vô thường. Nhưng nói chung cái điều ta có thể dùng được là ở trong hai điều kiện sau đây. Một là nếu mình đã đủ sức tự củng cố thì không nên khiêu khích người để tổn thương sức mình. Hai là nếu mình chưa đủ sức tự vệ thì phải khéo léo mượn sức người làm sức mình. Cho nên thuyền lớn phải dùng mái chèo 7 thước mới có thể vượt qua hồ qua biển. Đó là nhờ cây gỗ giúp sức. Thánh Vương đem cái tài của một mình cá nhân mình mà gánh vác được cả thiên hạ. Đó là nhờ cái thế của dân chúng. Nay nước ta đang ở vào giữa con đường tranh giành của Đông Tây. Điều đó có hai cái lợi là Gia Định trong Nam và Tứ Xuyên ngoài Bắc. Nhưng cũng có ba cái hại là Vân Nam ở phía Bắc, nước địch ở trong Nam, còn ở giữa thì có những bọn sống ngoài vòng pháp luật chạy ra Bắc chạy lên Tây ẩn nấp chốn bụi bờ. Nay ta chưa thể dùng ngay thuật tung hoành để tạo lập cái thế rít trăm chân thì tưởng cũng nên tạm thời giao ước ngầm với người Pháp, tạm mượn sức họ để ngăn chặn ba cái hại, thu lấy cái lợi phía Tây, để rồi thong thả mưu đồ những kế sách về sau. Như thế họa may giúp ích cho thời cuộc được chăng?
Tiên sinh còn xin bãi bỏ khoa cử để rộng đường thu dụng nhân tài nhưng những ý kiến của tiên sinh đều không thấy được đưa ra thực hành.
Tiên sinh đi Pháp, dọc đường có đề vịnh khá nhiều. Như ngày mùng 9 tháng 8 dạo chơi chùa núi Ngũ Hành có đề thơ như sau:
Mộc lan nhất trạo phiến phàm khai,
Trực thượng Tu Di tả khoáng hoài.
Thảo thụ kí kinh xuân đại tạ,
Phong loan nhưng thị cổ ai hoài
Môn đương hỏa thụ thừa loan hạnh,
Hải nhiễu kim viên tống thủy hồi.
Vị báo Thích Ca như luyến thổ,
Tùy ngô Tây khứ hựu trùng lai.
Tạm dịch:
Chèo lan một mái nhẹ ra khơi,
Lên thẳng Tu Di rộng mấy trời.
Cây cỏ bao lần thay sắc lá,
Non sông còn đó bụi trần ai!
Cửa chiền nghiêng bóng mừng xa giá,
Biển bọc quanh sân gởi nước về.
Nhắn bảo Thích Ca như luyến nước
Cùng ta đi Pháp lại về thôi.
và
Ngật nhĩ xanh Nam cực,
Vọng chi đắc thiên nhiên.
Thạch kỳ nghi thị Phật
Nhân tĩnh tức vi tiên.
Tự ngoại gian vô địa,
Hồ trung biệt hữu thiên.
Ngự bi minh lãnh thượng,
Trường dữ thử sơn truyền.
Tạm dịch:
Vòi vọi ngất trời Nam.
Ơ kìa cảnh thiên nhiên.
Đá trông chừng tượng phật.
Người lặng lẽ như tiên.
Ngoài chùa còn chi nữa,
Trong hồ có trời riêng.
Ngự bia trên đỉnh núi,
Mãi mãi vẫn lưu truyền.
*
ĐÊM ĐẬU THUYỀN Ở ĐÀ NẴNG
Vạn đại thiên trì thử phong cảnh,
Tây triều hà sự động binh đao.
Nhất triêu sát khí không lưu thủy,
Thiên cổ oan thanh thượng nộ đào
Giang tự Tây Nam song lệ hạ,
Môn khai Đông Bắc lưỡng sơn cao.
Như kim dĩ khánh kình ba tĩnh,
Phá lãng thừa phong khí tự hào.
Tạm dịch:
Thắng cảnh ao trời muôn thuở lưu,
Tây triều vô cớ động binh đao.
Một mai sát khí tràn sông nước,
Vạn đại hồn oan dậy sóng gào.
Hai nhánh Tây Nam sông đổ xuống,
Cửa nhìn Đông Bắc dựng non cao.
Mừng thay nếu thấy ba đào lặng,
Cỡi gió đè mây mới tự hào.
*
ĐÊM MƯA ĐI THUYỀN TRÊN BIỂN
Cửu long hà sự dạ tương tranh,
Giá vũ bài phong nhất trận hoành.
Thôn hợp hải thiên đô thị thủy,
Đích xao đào lãng bất phân thanh.
Thuyền khinh tự giác trào tam trượng.
Vân ám trường già nguyệt ngũ canh.
Hải diện cổ lai đa thị trứu,
Hiểu khan trang đắc lãng ngân bình.
Tạm dịch:
Chín rồng chi đến phải tương tranh,
Mưa gió đêm hôm nỗi bất bình,
Trời biển tiệp màu chung sắc nước,
Mưa rơi sóng vỗ khó phân minh.
Nhẹ thuyền sóng biếc cao ba trượng,
Mây ám vầng trăng suốt mấy canh.
Mặt biển xưa nay thường cau có,
Rạng ngày tươi đẹp một màu xanh.
*
NHÂN CHUYẾN ĐI THUYỀN,
TIỄN QUAN VIÊN NGOẠI BỘ LỄ VỀ DƯỠNG BỆNH
Ngẫu nhân công cán nhất phùng quân,
Ngã khứ quân hồi trịnh trọng phân.
Mạc đạo hải trình phong khí thậm,
Cố giao vi dạng đại đồng nhân
Tạm dịch:
Tình cờ công cán gặp người đây,
Người về quê cũ tiễn tôi đi.
Chớ bảo trùng dương nhiều gió chướng,
Se mình những tưởng đỡ người thay.
*
NGẪU ĐỀ NÚI ĐÁ BIA
Phong bất năng dao vũ bất tồi,
Bi truyền vạn cổ tự thôi ngôi.
Cô viên như tước bài sơn lãnh,
Trác lập vô song trấn thủy ôi.
Tưởng thị bổ thiên tằng luyện quá,
Phi quan điền hải bị khu lai.
Nhược di chích trợ thành song trợ,
Địa tác bàn xan hải tác bôi.
Tạm dịch:
Gió chẳng lung lay mưa chẳng rơi,
Nguy nga bia đá tự muôn đời.
Đỉnh tròn trơ chóp đầu như trọc,
Sừng sững oai hùng trấn một nơi.
Đội đá vá trời xưa đã luyện,
Dời non lấp biển há còn ai?
Giá thêm một chiếc thành đôi đũa,
Hải vị sơn hào đánh chén thôi
*
ĐI THUYỀN GẶP TIẾT TRUNG THU
Hải trung vọng nguyệt sử nhân bi
Vọng đáo Song Ngư lệ ám thùy.
Gia lý khứ thu song đối ảnh,
Chu trung thử dạ độc tương tùy.
Dinh khuy thiên thượng nguyên vô dị,
Bi hỉ nhân gian tự hữu kỳ
Ký ngữ Hằng nga như giải muộn,
Bất ưng kim dạ nguyệt hành trì.
Tạm dịch:
Trung thu trên biển chạnh lòng ai,
Mờ lệ Song Ngư dạ cảm hoài.
Thu trước nhà xưa cùng đối bóng,
Thu nay trăng nước một mình tôi.
Khuyết tròn cung quảng không chi khác,
Nhân thế buồn vui có mấy khi.
Người hỡi Hằng Nga như muốn tỏ.
Đêm nay vàng lụa hãy lên ngôi.
*
Đi thuyền cùng viên biện lý, làm theo lối thơ cổ:
TẠI CỬA BIỂN CẦN GIỜ
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền,
Bất kham hồi thủ tịch dương tiền.
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu,
Hựu cách giang sơn lộ kỷ thiên.
Tạm dịch:
Ghé bến Đông Ngô vạn dặm trường,
Quay đầu chẳng nỡ bóng tà dương.
Người ơi ly nữa cùng ta cạn,
Còn cách non sông mấy đoạn đường.
*
PHONG CẢNH CẦN GIỜ
Nhân gia lao lạc tạp Tây triền,
Nhất vọng bình lâm trấn hiểu yên.
Sơn khởi tam phong hồi hải ngạn,
Đăng cao nhất trụ dẫn dương thuyền.
Quan hà điện định nhưng y cựu,
Cảnh sắc thương mang dĩ bất tiền.
Như thử giang sơn thùy thị chủ?
Yếu tương tình sự vấn chi thiên.
Tạm dịch:
Nhà dân lác đác phía trời Tây,
Rừng thấp bạt ngàn tỏa khói mây.
Núi dựng ba tòa quanh bãi biển,
Đèn cao một ngọn dẫn tàu đi.
Nước non như cũ hồn sông núi,
Cảnh sắc rõ ràng đã đổi thay.
Đất nước sơn hà ai đấy chủ?
Biết đem tâm sự hỏi trời thôi!
*
Năm 1867 (Tức năm Tự Đức thứ 20), tháng 6, tiên sinh nhận được bản văn chiếu hội của Thương Bạc như sau:
Đại Nam quản lý Thương Bạc sự vụ đại thần Phan làm tờ chiếu hội như sau:
Nay tiếp hai bản tư văn của giám mục, một bản phúc trình của phái viên, một tập bẩm văn của giáo sĩ, bản chức và các vị chính khanh trong các Bộ đồng duyệt đã rõ biết đầy đủ.
Việc giám mục và các giáo sĩ tự xin đi Pháp là vốn muốn ra sức giúp Triều đình, chứ không phải để chỉ tìm người, tìm dụng cụ dùng cho việc công mà thôi. Các vị còn muốn làm sao cho hai nước qua lại với nhau, hai bên cùng có lợi, đem tình hòa mục đối đãi nhau. Như thế thật là ý tốt.
Nhưng mới đây nguyên soái Gia Định đem binh ép lấy ba tỉnh Long, Giang, Hà. Bản quốc đem thành tín ra đối xử chứ không tương tranh. Thế mà soái phủ nay đã không giữ lời giao ước. Như vậy là cái tình chiếu cố đã khác trước rồi.
Lại nghĩ chuyến đi này giám mục giáo sĩ đã cực nhọc mà nếu tấm lòng tốt ban đầu trở thành không toại nguyện thì thật lấy làm tiếc. Vì vậy nay vội thông đạt đầy đủ mong quý vị rõ và nên như thế nào xin quý vị tùy nghi trù liệu ngõ hầu mọi sự đều tốt đẹp. Bản chức rất mong mỏi.
Còn việc mướn người khai hoang, nếu thấy có người quả thật vì đời hiển danh, dạy vẽ cho các phương pháp khai thác mỏ và chế tạo dụng cụ mà tiền thuê vừa phải, không yêu sách thái quá, nên lượng thuê một vài người thôi, không nên mang nhân công theo về cho tổn phí nhiều. Đồng thời người ấy cũng phải là người đáng tin cậy, chắc chắn không có ý riêng tráo trở. Về sau hoặc mướn hoặc thôi không mướn nữa là do bản quốc quyết định có được chăng, không được sinh chuyện lôi thôi. Nay giám mục giáo sĩ nên tự liệu thuê mướn, bảo đảm không có gì đáng ngại mới được. Nếu không được như vậy, xin hãy đình hoãn khoản này.
Về bàn máy in ảnh thì không cần thiết lắm, để thong thả sẽ mua sau. Ngoài ra tất cả máy móc, thứ nào có thực dụng cần thiết mà giá rẻ như máy điện báo trị giá bảy, tám trăm quan chẳng hạn, giám mục giáo sĩ nên cùng phái viên xem xét chọn mua một hai cái. Các bộ sách Pháp nên giao giáo sĩ kiểm xem rõ ràng, sách nào thích dụng mà chưa mua, nên lựa mua ít nhiều.
Về giá thuê mướn, giá hàng hóa v.v... cũng nên đăng ký sơ lược để tiện cho những lần sau. Như vậy mới khỏi đi không rồi lại về không. Còn vật hạng mua được, nên tùy tiện thuê chở về để mau tiện thanh toán một lần luôn. Linh mục Điều cũng phải về cùng một thể, không nên lưu lại chờ đợi làm gì.
Về phần giáo sĩ, khi về nước đi đường bộ để quan sát các mạch núi thì đợi đến Bình Thuận sẽ cấp trạm dịch. Ngoài ra giám mục và các phái viên muốn đi đường thủy hay đường bộ tùy tiện.
Nay làm chiếu hội này cho giám mục Ngô, giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ, phái viên Trần Văn Đạo, Nguyễn Tăng Doãn đồng chiếu.
Ngày 22 tháng 6 năm Tự Đức thứ 20.
Tháng 9 năm ấy lại tiếp chiếu hội của Thương Bạc như sau:
Đại Nam quản lý Thương Bạc sự vụ đại thần làm tờ chiếu hội như sau:
Nay tiếp được một tờ phúc văn, một tờ hóa đơn và bản sao hai phúc văn kỳ trước, bản chức đã cùng các vị chính khanh trong các Bộ duyệt xong đã rõ.
Theo phúc văn nói đã gởi phúc văn hai lần và được gần năm tháng rồi chưa thấy hồi âm. Hai phúc văn đó, một nói về việc đã tìm được người làm việc mong trên quyết định, một nói về việc đã chọn mua các loại máy móc. Bản chức đã duyệt xét xong và theo thứ tự gởi phúc văn trả lời, gởi qua soái phủ Gia Định nhờ chuyển lại. Nay theo bản sao hai phúc văn này thì sự việc cũng giống nhau, nên không phải nói lại nữa. Duy trong đó có một tờ nói về việc đã chọn được hai linh mục giỏi về hóa học, vật lý và các môn thiên văn địa lý. Các vị này đều là người dưới quyền của giám mục đang chờ để cùng về Kinh đô. Hai linh mục này đều là người trong Giáo hội, rất đồng tâm đồng chí với giám mục, không phải như người trong các hội hè khác. Vậy cứ giao cho các vị ấy tùy theo nghề mà dạy, tưởng cũng có ích cho thực dụng. Khi giám mục về nên đem hai vị linh mục cùng về thì tốt. Còn ba người về binh bị, tơ sợi, đốt đèn, tưởng chưa cần thiết lắm, xin đừng mướn. Về khoản sách vở, dụng cụ đã mua xong, theo đơn mua nói cũng khá đủ dùng, vậy hãy thuê chở về, ngoài ra không nên mua thêm gì khác. Sau này nếu cần gì sẽ nhờ riêng giám mục gởi mua cũng tiện.
Lại nữa phúc văn lần này có nói hai phái viên là bọn Trần Văn Đạo không chịu được lạnh mùa đông nên bệnh. Giám mục nên thu xếp cho họ về trước để khỏi bị lạnh gắt vào giữa mùa đông năm nay. Về phần giám mục và giáo sĩ cũng nên sắp đặt xong mà về cho khỏe.
Nay làm tờ chiếu hội này gởi kèm cùng hai bản sao phúc đáp kỳ trước để được rõ và thi hành.
Chiếu hội này kính gởi Giám mục Ngô, giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ và phái viên Trần Văn Đạo, Nguyễn Tăng Doãn chiếu thi hành.
Ngày 20 tháng 9 năm Tự Đức thứ 20.
Năm 1868 (tức năm Tự Đức thứ 21), tháng 2, tiên sinh lại được phái đi Pháp công cán cùng với Nguyễn Hoằng. Mỗi người được đặc biệt cấp mười lạng bạc để về Nghệ An thăm nhà. Bộ Lễ làm bằng cấp như sau:
Nay làm bằng cấp:
Nay căn cứ theo lời bẩm của giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ và thông ngôn Nguyễn Hoằng nói lần này vâng phái đi Tây nhưng đều còn có mẹ già kính xin cấp cho trạm dịch và mỗi người một cái cáng, ngày mai cùng về quê thăm một tuần nhật xong sẽ trở lại Kinh đô chờ phái đi. Bộ đã tâu và được phê chuẩn. Lại được châu phê như sau: “Ban cho mỗi người mười lạng bạc để phụng dưỡng. Khâm thử”.
Vậy khi được cấp bằng này cùng với tiền do ty của Bộ đệ cấp mỗi người mười lạng thì phải tuân phụng chiếu nhận. Lần này về thăm chỉ một tuần nhật phải về Kinh ngay không được kéo dài.
Nay lập bằng cấp này cấp cho Nguyễn Trường Tộ để căn cứ.
Ngày 19 tháng 2 năm Tự Đức thứ 21.
Sau vì bệnh cũ tái phát, tiên sinh phải ở lại quê nhà điều trị. Bộ Lễ làm bằng cấp như sau:
Nay làm bằng cấp:
Nay giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ về Kinh đô, bệnh cũ lại tái phát. Khâm phụng cho cấp phí và trạm dịch về Nghệ An điều trị. Vậy nay làm bằng cấp này hãy nhận năm lạng bạc làm tiền lộ phí về quê dưỡng bệnh.
Nay lập bằng cấp này cấp cho Nguyễn Trường Tộ để căn cứ.
Ngày 26 tháng 3 năm Tự Đức thứ 21.
Năm 1870 (tức năm Tự Đức 23), quan tỉnh vâng lệnh Bộ Lễ sức tiên sinh về Kinh đô để dẫn học sinh qua Tây lưu học. Hộ lý tổng đốc quan phòng An Tĩnh Tôn Thất sao lục tờ sức như sau:
Nay sức hỏa tốc.
Hôm nay vừa tiếp được tư văn hỏa tốc của Bộ Lễ nói Tứ Dịch Quán ở Kinh đô cần người thông dịch, vậy nên phái người qua các nước phương Tây học ngôn ngữ. Xét giáo sĩ là người mẫn cán đã từng đi Tây, quen thuộc phong tục các nước, hãy cấp trạm dịch sức gọi về Kinh đô gấp chờ ở Bộ để chuẩn bị dẫn học sinh qua Tây lưu học. Đồng thời sức bảo sửa sang hành lý gấp về tỉnh lãnh bằng rồi lên đường. Nhưng ngày nào có thể đi được hãy biên giao cho người đưa trát này đem về phúc cho biết trước,
Nay làm tờ sức hỏa tốc này cấp báo cho Nguyễn Trường Tộ để căn cứ.
Giờ Ngọ ngày 11 tháng 12 năm Tự Đức thứ 23.
Sau vì bệnh cũ mỗi ngày một nặng, tiên sinh cố sức khước từ, Nguyễn Điều mới được phái đi thay.
Năm 1871 (tức năm Tự Đức thứ 24), bệnh của tiên sinh ngày một tăng đến ngày 10 tháng 10 âm lịch thì mất. Bấy giờ tiên sinh được 41 tuổi.
Tương truyền tiên sinh rất thích thịt dê. Trước đó bốn, năm ngày có người tặng tiên sinh một con dê non, liền sai làm thịt. Trước khi ăn, tiên sinh hỏi đã dọn dâng mẹ già chưa? Rồi nhân đó căn dặn học trò rằng: “Sự nghiệp con người ta trước hết phải có hiếu đễ. Tuy chuyện ăn uống nhỏ nhen cũng không được coi thường”.
Bệnh của tiên sinh có người bảo là ung thư ruột, có người bảo là chứng tụ máu. Trong bụng có một cục gì nho nhỏ chạy qua chạy lại. Sau khi tiên sinh mất, các bạn bè đến viếng, có người hiểu tâm sự của tiên sinh nhất đã than rằng: “Học thức như thế, hoài bão như thế, mà chẳng thi thố được một điều gì để rồi cuối cùng mang bệnh mà chết. Thương thay!” Rồi người nhà thấy trên tấm đắp có dấu máu rướm, mở ra xem, đó là khối trong bụng đã vỡ phun máu ra. Mộ tiên sinh được lập ở xứ Đá Mài làng Bùi Chu, tục gọi là mộ ông Tộ.
Than ôi! Tiên sinh là một nhà văn học, một nhà chính trị và cũng là một nhà tân học của nước ta thời cũ. Tư tưởng của người, học thức của người vượt quá xa người đương thời mấy vạn lần. Trong khi người cả nước say sưa lối học khoa cử, chỉ độc một mình tiên sinh xin bãi bỏ. Trong khi người cả nước như ngây như dại, đóng cửa tự hào, độc một mình tiên sinh lớn tiếng kêu gào, vạch trần tình hình thế giới. Tiên sinh còn điều trần bao nhiêu vấn đề về nội chính, ngoại giao, không thiếu mưu sâu chước giỏi, không phải không bằng mà còn hơn cả Fukuzawa và Gamayama của Nhật Bản nữa.
Tiếc thay lúc bấy giờ trong Triều đình vua thì mờ ám không biết dùng người, tôi thì ganh ghét những ai khác mình, khiến lời nói của tiên sinh không được nghe, kế sách của tiên sinh không được dùng đến. Tiên sinh đành phải ôm chí mà chết. Để rồi ngày nay cõi trần mịt mịt, nước cũ mờ mờ. Non sông vẫn vậy mà bờ cõi khác xưa. Khách có lòng mỗi khi đi ngang qua nhà cũ của tiên sinh, trông thấy bóng cau già ngày trước, cúi đầu trông đất, ngẩng mặt nhìn trời, mấy ai không trầm ngâm gạt lệ mà sinh lòng cảm khái.
PHỤ
LỤC III
Biên
khảo bổ túc vào tiểu sử của Nguyễn Trường Tộ1
ĐINH VĂN CHẤP
Nguyễn Trường Tộ người Bùi Ngõa, Nghệ An, sinh năm 1828 (Minh Mạng thứ 9) dòng dõi nho phong thanh bạch. Thân phụ là Nguyễn Quốc Thư làm nghề thầy thuốc theo đạo Da Tô.
Tộ lúc nhỏ theo học với tú tài Giai người trong xã, đọc sách biện luận nổi tiếng thần đồng. Khi lớn, Tộ theo học ba năm với Đinh Trọng Thư (Tức thầy Cống Hữu) ở Kim Khê, đọc sách gì cũng nghiền ngẫm nghĩa lý phân tích rõ ràng, rồi sau theo học quan huyện Địa Linh, mỗi khi làm văn đặt bút là xong bài ngay.
Một ngày nọ thầy trò đưa nhau lên núi Lô Sơn cùng nhau xướng họa. Tộ ngồi một mình điềm nhiên rồi chợt hỏi: “Núi này cao mấy thước, diện tích mấy thước, cách đảo Song Ngư mấy thước?” Mọi người đều im lặng không ai trả lời được. Tộ cười nói: “Đi chơi núi mà không biết núi cao bao nhiêu thì học cái gì?” Quan huyện rất nể trọng Tộ. Giám mục Ngô Gia Hậu nghe tiếng thông minh đem về nhà thờ dạy Tộ các môn khoa học. Lúc nhỏ, Tộ cũng giỏi về lối học khoa cử, thời bấy giờ có tên là trạng Tộ (tục danh thầy Lân) nhưng vì là giáo sĩ nên không được đi thi.
Năm Tự Đức thứ 13 (1860) lệnh cấm đạo quá nghiêm ngặt, Giám mục Hậu đưa Tộ sang Pháp, vào yết kiến hoàng đế Ý Đại Lợi là Phi Ô thứ 9 được vua tặng một trăm bộ sách. Sau Tộ đến Pháp lưu học ở thành Ba Lê mấy năm, khảo cứu chính trị, văn học, kỹ thuật nước Pháp thu nhập được rất nhiều. Tộ về nước gặp lúc Pháp Nam khai hấn, nguyên soái Pháp muốn dùng nhưng Tộ hết sức từ chối. Sau nghĩ vì tình thế nước ta hiện nay tạm hòa là hơn, vì thế Tộ đã uyển chuyển hợp tác với họ hy vọng có thể giúp cho hòa cuộc được thành.
Khi đại đồn thất thủ, soái Pháp giao cho Tộ lo việc văn thư giấy tờ. Tình thế chẳng khác nào mũi tên đã đặt lên cây cung rồi. Vậy mà lời lẽ của Tộ vẫn một điều xưng là triều quan, hai điều xưng là triều binh. Thấy quan lại Triều đình ta bị nhục thì xem như chính cha mẹ mình bị nhục vậy, âm thầm an ủi thu xếp. Lần ấy giấy tờ bàn hòa hai bên trao đổi qua lại đến vài mươi lần. Hễ thấy trong nguyên văn tiếng Pháp chỗ nào thiếu nhã nhặn, Tộ tước bỏ hết, còn chỗ nào có lý lẽ gì lợi ích cho nước thì dịch rõ ràng đầy đủ. Đến khi thấy hòa cuộc khó thành được, Tộ quyết định thôi việc, không nhận bổng lộc. Soái Pháp đem quan chức ra dụ thì lánh mặt bỏ đi, vì chí của Tộ đâu phải muốn làm việc lâu cho Pháp.
Nhân dịp phạm Phú Thứ vào Gia Định, Tộ dâng ba bản điều trần: Thiên hạ đại thế luận, Tế cấp luận và Giáo môn luận.
Từ năm Tự Đức thứ 15 trở về sau, Tộ làm rất nhiều bản điều trần có đến ngàn vạn câu, đại ý xin Triều đình giao thiệp với các nước châu Âu, lựa chọn học sinh cho đi các nước phương Tây học tập, mở trường dạy kỹ nghệ tại các tỉnh thay thế lối học từ chương khoa cử, lập ra chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán, xây cất lại Kinh thành và thành trì để phòng bị khi thường khi biến, khai mỏ than, mỏ kim loại, lập nhà nuôi trẻ, mở hội chợ, lập sổ bộ sinh tử giá thú, mở trường võ bị và cả đến nhiều điều khoản về chính sách đê điều, nông chính, tài chính, chính sách về muối, kiểm lâm, thuế xa xỉ, chính sách về thay đổi làng xã, trấn áp bọn cường hào, cấm các thuyết phong thủy, các sách sấm vĩ mà bút tích ngày nay hãy còn tàng trữ tại Quốc sử quán và Nội các ở Kinh đô.
Tháng 2 năm Tự Đức thứ 19, Tộ có dâng một tờ bẩm do quan tỉnh Nghệ An đệ lên. Vua phê: “Nguyễn Trường Tộ có thể dùng được. Hay là cho quan chức để lấy lòng và dùng sức”.
Tháng 8 năm ấy, Trần Tiễn Thành, Phạm Phú Thứ tâu vua rằng đã đến thăm Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Hoằng xem lời lẽ ý tứ họ thì thấy họ không phải là người vong bản. Nhưng theo Nguyễn Trường Tộ nói thì y thể chất yếu đuối khó kham nổi việc công không dám nhận liều quan chức, xin ở ngoài vậy. Nhưng nếu Triều đình cần sai biểu điều gì sẽ không dám sợ khó mà chối từ.
Tháng 5 vua chuẩn cho Tộ theo lang trung Hồ Văn Long đến Quảng Bình để dò tìm mỏ than.
Tháng 4, Thương Bạc thảo thư gởi Tây soái. Vua phê: “Giao Tộ nghiên cứu thảo dịch được không? Họa chăng có đề nghị nào khác”.
Tháng 8 năm ấy, Tộ được phái cùng Ngô Gia Hậu, Nguyễn Điều v v… đi Pháp mua sách và máy móc, gồm có một quyển sách nói về các lớp địa chất, một quyển hình vẽ về thiên văn, một quyển về mỏ than và châu ngọc đá quý, một quyển tự vựng địa đồ, sách hàng hải, điện báo, sách trắc lượng và một bộ bàn sách, một bộ máy ảnh và các bình hóa chất, hai bàn máy điện báo và các sách ngoài các khoản Ngô Gia Hậu đã mua. Khi về được vua ban cho năm lạng bạc, một tấm kim tiền, năm tấm ngân tiền, một xấp hàng tơ lông màu lam đủ may một cái áo dài chật tay, một xấp lương sa Bửu Lam Nam Tố, một xấp trừu Tuyết Bạch Nam Hoa. Sau đó Tộ còn được giao cho làm thử các phương pháp dò tìm mỏ than và đúc kim loại.
Tháng 2 năm Tự Đức 21, đình thần dâng phiến về việc cứ sứ bộ 17 người đi Pháp, vua lại chuẩn cho Nguyễn Trường Tộ cùng đi. Khi về Cơ Mật Viện tâu rằng: “Theo kê trình của Nguyễn Trường Tộ thì nói có đem theo về giáo sư kỹ nghệ và tên Ca Xanh để chế tạo máy móc kỹ nghệ hoặc để xem thiên văn hoặc để dò tìm nguồn lợi dưới đất. Vua phê: “Đã đem về thì phải tiến hành làm, khỏi phụ lòng người ta. Nay nên cất trường đại học bên cạnh sứ quán. Lại đem về mấy giáo sĩ biết nghề gì, mỗi tháng cấp phí bao nhiêu, cùng Tộ về nhất nhất phải hỏi cho rõ rồi mới làm, đừng để họ chờ đợi lâu mà cười chê người mình”. Nhưng khoản này Triều đình bàn rằng giáo sư hưởng mỗi tháng ba trăm đồng quá nhiều, không thể dùng được.
Tháng 10 năm Tự Đức thứ 23, nhân một phong thư mật của quan tỉnh Nghệ An Ngụy Khắc Đản, Tộ nói đại khái về việc xin mở Lãnh sự tại Kinh thành Pháp. Triều đình bàn rằng nếu làm vậy thì Pháp cũng xin lập lãnh sự tại nước ta, thế tất không thể từ chối được e không khỏi sẽ sinh chuyện. Tộ nhờ Thự tổng đốc Nghệ An là Tôn Thất Triệt mật bẩm xin đi sứ sang Pháp và qua các nước Áo, Phổ, Nga v.v... quan sát tình hình và đến các Viện Công Hầu, Viện Thứ Dân thương thuyết các lẽ. Vua truyền: “Phái đi như thế nào cho chu đáo phúc tâu đầy đủ chớ để mất thời cơ”. Cơ Mật Viện và Thương Bạc phúc tâu nói rằng việc nước việc quân là quan trọng, cần phải thương nghị chu đáo và bí mật. Nay vội giao phó cho y sang các nước phương Tây thám sát, lỡ có điều gì chưa được chu đáo, sợ sẽ xảy ra những điều đáng ngại khác. Rồi Tổng đốc Bình Định Thân Văn Tiếp, Tổng đốc Thuận Hóa Nguyễn Uy, Tổng đốc Nghệ An Hoàng Kế Viêm đều dâng mật phiến đưa nhiều ý kiến dị đồng, rồi việc ấy bị bỏ qua.
Tháng giêng năm thứ 24, Nghệ An cấp ngựa trạm sức Tộ về Kinh đô sai dẫn học sinh đi Pháp. Tộ đến Kinh đô bị bệnh xin về tĩnh dưỡng. Tháng 3 Tộ lại mật trần một bản. Vua phê: “Luận thuyết có nhiều chỗ có thể áp dụng được nhưng cũng có nhiều chỗ khả nghi”. Tháng 5, Tộ lại điều trần. Vua phê: “Tộ sợ Triều đình không dùng nên đưa ra nhiều phương sách khác”. Ngày sau Tộ lại mật bẩm lên Hộ đốc An Tĩnh trong đó sửa đổi các khoản, viết rất nhiều trang giấy. Vua phê: “Tộ cũng là người tự phụ đáo để, thay đổi phương pháp mà làm ắt cũng lần lượt làm được. Giữ các phương pháp ấy lại cũng đủ để sửa trị công việc, cần gì phải quấy động làm gì. Khâm thử”.
Tháng 11 năm ấy Trường Tộ mất, hưởng dương 43 tuổi, khi chết thổ ra một cục máu lớn. Con là Nguyễn Trường Cửu, cháu là Nguyễn Trường Văn, Nguyễn Trường Võ đều thông minh dĩnh ngộ, thông hiểu tiếng Latinh, tiếng Anh và nhiều tiếng các nước, trong đó sở trường nhất là chữ Hán và tiếng Pháp.
Tộ từ thuở bé đã thận trọng việc giao du, tuyệt đường tài sắc, không cần ai biết mình. Khi lớn chu du ra nước ngoài, khảo cứu các môn cách trí, Tộ lưu tâm nhất về sự thế tung hoành phân hợp trên thế giới, thường ngày kết nạp các chính khách Âu Mỹ mưu tính để dùng cho nước mình. Tộ thường dâng sớ tự tiến cử, nói rõ sức có thể chỉ huy muôn binh. Tộ sở trường làm thơ. Như bài gởi Phan Thanh Giản có câu (dịch nghĩa như sau):
Thứ cá chậu ở Quảng Yên nào có sống được bao lâu. (Câu này ám chỉ sự kiện năm Tự Đức thứ 14, Tộ nói với Phan Thanh Giản về đảng giặc ở Quảng Yên).
Lừa kêu ở Gia Định thế đã cùng rồi (Câu này ám chỉ vụ Trương Định ).
Tộ còn có bài thơ như sau (dịch nghĩa):
Đi dệt mướn ở thôn Tây không phải vì nghèo,
Vì muốn nhận thấy rõ cái cơ yếu bí quyết của nhà người.
Để sau này xóm Đông nếu muốn học hỏi nghề dệt lụa cho vua
Thì sẽ đem hết đường kim mũi chỉ tỏ bày rạch ròi tử tế.
Lại có bài thơ rằng: (dịch nghĩa)
Mặt trời tuy ngự trên cao cũng có chỗ không chiếu soi tới.
Tấm lòng hoa quỳ bao giờ cũng thầm hướng về mặt trời.
Người bạn là tri phủ họ Phan đã từng có ý khuyên làm nội ứng, Tộ lấy câu sau đây trả lời: “Tôi không chịu làm việc dễ mà chịu làm việc khó”. Tộ đọc thư của Lý Lăng trả lời Tô Vũ đã từng sởn tóc nhỏ lệ cho rằng chỉ một lần sa chân lỡ bước mà nuốt hận ngàn đời. “Kẻ sĩ kỳ tài mà không gặp thời, mãi mãi thân danh đều bại liệt, luống ôm cái khí uất ức lâm ly chôn vùi nơi cát vàng cỏ úa mà thôi”. Đó chính là lời của Tộ trong bản điều trần ngày 20 tháng 3 năm Tự Đức thứ 16. Tất cả các bản điều trần đều mong Dực Tôn Anh hoàng đế áp dụng, Tộ cũng chưa cho là không gặp. Chỉ vì thời đã khác, thế đã trái, lòng người nhiều nghi kỵ không làm sao thực hành những điều sở học được, tiếc thay.
Nay mỏ than Quảng Yên, Thiết Cảng Bùi Ngõa (Nghệ An) (Thiết Cảng đã lâu năm chưa đào được, nhiều lần nhờ chỉ vẽ điều khiển, Tổng đốc Hoàng Tá Viêm tự tay viết thư mời Tộ đến xem xét. Tộ nói: Khoảng giữa Thiên Uy và Tây Yên dưới có nhiều đá bàn lớn đến vài chục thước, phải tránh quanh đi. Nhân đó cải tiêu phóng lại không đầy tháng đã xong), nhà thờ xã Đoài (Nghệ An) (làm theo quy chế Tây Âu sau 18 tháng hoàn thành), Ni cô viện Sài Gòn (Kỹ sư dự trù ba mươi vạn đồng, Tộ đốc công chỉ tốn mười vạn làm xong, tục gọi nhà trắng), nền cột cờ thành Gia Định (Soái Pháp ở Gia Định khi kiến trúc thành này mời Tộ vẽ bản đồ, làm xong, nguyên soái muốn thu dụng, Tộ từ chối. Khi Tộ ở Sài Gòn té lầu bị tật ở chân) đều là di tích của Tộ còn để lại.
Tháng 2 năm Khải Định thứ 9, vua chuẩn y lời xin của trú sứ Nghệ An lấy tên Nguyễn Trường Tộ đặt tên trường học ở đó. Tháng 8 năm thứ 10 lại chuẩn đặc cách truy tặng Tộ là Hàn lâm viện Trực học sĩ để bày tỏ cái ý trọng hậu ghi nhớ chí khí của người vậy.
____________________________________
1. Bản Hán văn: Hv 189/4 tờ 98-104.
Chỉ là bản sao chép lại, bản chính không biết ở đâu, không ghi tác giả. Chương Thâu và Đặng Huy Vận (sđd trang 239) nói là của Đinh Văn Chấp.
Đinh Văn Chấp người xã Kim Khê, huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Sinh năm Quý Tỵ (1893). đậu cử nhân khoa Nhâm Tý (1912).
Tác giả đã chủ yếu dựa vào Lê Thước, nhưng có sử dụng nhiều tài liệu khác như bài Trần tình và các bài tấu của triều thần (Phụ lục IV, V, VI...) Tác giả đã bổ túc vào tiểu sử Nguyễn Trường Tộ nhiều chi tiết, nhờ quen biết ở địa phương cũng như nhờ các tài liệu được nêu trên.
PHỤ
LỤC IV
Những
bài tấu, tờ trình năm 1866
IV. 1. TẤU CỦA TRẦN TIỄN THÀNH1
(Ngày 12 tháng 2 năm Tự Đức 19, tức 28-3-1866)
Thần Trần Tiễn Thành tâu:
Gần đây thần vâng mệnh hỏi Nguyễn Trường Tộ các khoản trong tờ bẩm của y. Nhân đó thần thử hỏi những điều ấy y nghe thấy được, hay do ước đoán.
Theo y nói, hiện nay ở Gia Định có linh mục Du Cơ Đăng rất được tướng Pháp quan Pháp tin trọng, thường đem việc nọ việc kia thảo luận với linh mục này, linh mục này lại rất yêu mến y, do đó y nghe được đại khái các sự việc. Lại nữa y vốn không làm việc cho Pháp, mà tướng Pháp quan Pháp cũng xem y là người của nước ta, biết ít nhiều sự lý, nên có lúc cùng y trò chuyện. Y thấy người Pháp lập tâm kiên nhẫn mưu tính sâu xa. Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên là ba tỉnh có nguồn lợi về đất đai dồi dào họ thường ham thích và cố tâm chiếm đoạt. Như họ đã từng bí mật dò hỏi, muốn tung tiền bạc ra mua chuộc những tên xã tổng trong ba tỉnh, khoảng hơn một ngàn người, khiến bọn này lập tờ xin thuận theo Pháp. Để khỏi trở ngại, mỗi tờ bọn này đều ký tên và lăn dấu tay. Đó là cái kế để tóm lấy ba tỉnh này. Biết có làm được chăng? Người Pháp lại thường bảo rằng việc ta hòa với họ chẳng qua là giả dối, như có thể thấy đại khái việc làm lén lút của Thiên Hộ Dương và các khoản giặc cướp đều do Triều đình xúi giục. Mỗi mỗi y đều đem lý lẽ biện chiết với người Pháp.
Lại nữa Nguyễn Trường Tộ trước đây đã vâng mệnh đến dinh của thần để theo phái bộ, việc này đã báo cáo đầy đủ cho thần Nguyễn Chính biết. Chỉ vì thuyền này đã có người thông ngôn quen biết của thần Lê Đình Đức tên là A Hòe rồi, (Châu phê: Là ai? Có thực không?), tên này cũng có thể thông dịch được, cho nên thần Nguyễn Chính không đòi y đến. Thần và thần Phạm Phú Thứ chuyển sức Nguyễn Trường Tộ hãy trở về nhà trọ chờ quyết định. Nay vâng phê chuẩn: “Tên Tộ không cần đến. Các lẽ. Khâm thử”. Còn tên này trước có xin theo tên Hòa trở về Bình Chính, vậy xin cho hắn đi trước. Kính xin tâu luôn. Còn các tờ bẩm của tên này sẽ xin đệ trình sau. (Châu phê: Hãy duyệt xét các khoản, nếu rõ ràng không có gì nghi vấn mới có thể toan tính được. Các khoản này khanh có thể giải quyết được khỏi để lộ ra ngoài càng tốt. Bằng không, thì gọi thần Phạm Phú Thứ, cùng nhau thảo luận mới thành được!).
Thần Trần Tiễn Thành phụng thảo.
IV. 2. TẤU CỦA TRẦN TIỄN THÀNH2.
(Ngày 27 tháng 3 năm Tự Đức 19, tức 11-5-1866)
Trần Tiễn Thành tâu:
Nay vâng châu phê trong đó có một khoản “Trần Tiễn Thành không sai bảo được chúng, đó là tội to. Sự việc đã xảy ra như thế đâu phải đổ lỗi cho chúng được? Biết đâu là thấy không có gì đáng ngại nên để cho chúng đi? Khâm thử”.
Thần đọc xong khôn xiết run sợ toát mồ hôi. Vả tên Hậu gặp thần một lần tại cửa Thuận An, một lần tại sứ quán Đông Gia, mỗi lần chỉ vài ba khắc mà thôi. Theo thần quan sát thì tên này bên trong có chỗ cậy thế, bên ngoài có vẻ oán hận, nên thần cũng không dám đem nhân tình ra nói với hắn. Mà tên Tộ cũng nhiều lần dặn chớ để lộ cho tên Hậu biết những điều bàn bạc. Vì thế thần không gần gũi hắn. Từ khi hắn ở Quảng Bình đến nay đã ba năm cũng không có đồ đệ của hắn đi lại nói gì. Gần đây tên Hòa đến Kinh, nhân có tàu (London) Long Đông mới sai đồ đệ của y tên Hoằng làm thông ngôn. Thần và Thần Phạm Phú Thứ cũng lưu họ ở lại. Đến ngày 20 tháng trước tên Hòa phải về Quảng Bình. Thần đã cặn kẽ bảo hãy ở lại chờ giải quyết việc chiếc thuyền xong rồi đi cũng không muộn. Đến sáng ngày 28 thần cho gọi tên thông ngôn Hoằng đến, mới biết tên Hòa, tên Tộ và tên Hoằng đã đi từ hôm 25 rồi. Chiều ngày ấy thấy đồ đệ của tên Hòa là Lưu đến nơi tên Hòa gởi lời nói rằng ở lâu tốn kém. Mới đây tên Hậu có sai người ra gọi về nên không dám ở lâu, sai y đến báo cho biết. Hơn nữa thần cùng tên Hậu vốn không thân nhau. Đi Nghệ An lần này, có lẽ vì hắn ở Quảng Bình lâu đã ba bốn năm khiến trong lòng bứt rứt, nay vin vào Hòa ước quyết ý đi đến đó giảng đạo, hoặc cũng có lẽ vì sĩ phu Nghệ An đốt nhà thờ, đánh đập giáo dân, tình thế cấp bách phải mạo hiểm mà đi, không thể biết được. Trước đây thần Phan Thanh Giản lúc ra đi nói với thần rằng: Tướng Pháp hỏi về việc đi giảng đạo của tên Hậu, không biết lấy gì mà trả lời, ý muốn thần đem sự việc ấy tâu lên. Thần Phạm Phú Thứ, thần Nguyễn Văn Tường, thần Trần Thiện Chính cùng nhau bàn tính việc này đã lâu ngày, sợ hắn mượn cớ lôi thôi nên thường bảo thần hãy tâu xin cho hắn đi, thần đều không dám. Lại nữa theo luật của đạo giáo ấy, các linh mục chỉ theo mệnh lệnh của giám mục, không dám sai trái. Nhiều lần tên Hòa đến Kinh, thường đem chuyện không được đi giảng đạo ra nói. Thần đã an ủi rằng hãy ẩn nhẫn chờ xử trí xong rồi sẽ tiếp tục đi giảng đạo mới tiện. Nay chiếu theo tờ trình thì ngày 15 tên Hòa có đến chỗ tên Hậu, ngày 16 tên Hậu liền ra đi. Như thế là tên Hậu cố ý đi Nghệ An, tên Hòa không thể nào dám ngăn cản. Huống chi trước đây tên Hòa tưởng lầm rằng có thể giúp cho y được, tựa hồ y có vẻ tin như vậy. Đến sau nhiều lần đi giảng đạo không được thì lại nghi cho thần gây trở ngại. Gần đây thần có hỏi việc gì thì y cũng chỉ nói qua loa cho xong chuyện. Như thế làm sao tên Hậu lại được thư trả lời của thần? Lâu nay những giấy tờ lời lẽ giao thiệp nào có liên quan đến bọn họ, thần rất lấy làm lo lắng, mỗi mỗi đều trình lên, không dám giấu diếm chút nào. Nay việc tên Hậu đi Nghệ An, thực tình thần không biết, đâu dám thả lỏng cho hắn đi. Chỉ vì thần ngu muội nông cạn, không nghĩ tính trước được công việc, để tâu xin ngăn chặn hắn lại. Xin cam chịu tội. Vậy dám mạo muội phúc trình đầy đủ. Ngửa mong soi xét.
(Châu phê: Trẫm khoan nhân nhưng vì luật pháp không thể khoan nhân. Lời người ta nói, còn có thể bàn luận, cũng không phải sợ).
(Châu phê:
Trong tất cả những người được trẫm cất nhắc không theo thứ tự, chỉ có mày và Đoàn Thọ là hơn ai hết. Mày lại được ưu tiên nhất, bởi vì dùng được ghi chép được, nên mới ban cho danh vọng và quyền hành trọng yếu, mong cho mày gặp Trương Thái Bảo vậy. Tâm tính Trương Thái Bảo như thế nào chắc mày đã biết rõ. Tuy tài không bằng nhưng lòng dạ thuần hậu, nhờ đó bảo toàn được thủy chung. Nay mong mày bắt chước tâm tính nó mà gia công học tập, phát triển tài năng, để người trước không có độc quyền cái hay cái tốt. Miệt mài chăm chú đến thế thì lo gì mà không đủ? Những cái nhỏ nhặt tầm thường để cho người ta lấy hoặc cho người ta mà không ngăn cấm, đó cũng là tội lỗi không tha thứ được. Nói chi đến tất cả những việc thương liêm hại nghĩa, dối lòng lừa trí, dù cho không ai hay biết cũng không được làm. Không được làm là để giúp cho mày trở nên bề tôi lương thiện, còn trẫm thì không mất cái tiếng biết người, dùng kẻ hiền. Ngõ hầu cả hai đều được trọn vẹn. Phải luôn luôn ghi nhớ rằng: Quan càng cao tâm địa càng thấp hèn đó!)
________________________________________
1. Bản Hán Văn Hv 189/4 tờ 42-43.
2. Bản Hán Văn Hv 189/4 tờ 43-45.
IV. 3. TẤU CỦA TRẦN TIỄN THÀNH1
(Ngày 19 tháng 4 năm Tự Đức 19, tức 1-6-1866)
Trần Tiễn Thành tâu:
Mới đây thần có nhận được ba bức thư của Nguyễn Trường Tộ gởi cho thần, do từ Quảng Bình Nghệ An phát giao, cùng với một quyển Hàng hải kim châm của dân đạo đệ nạp. Sau khi tiếp nhận, thần vô cùng lo sợ. Nghĩ vì thần bẩm chất ngu muội hẹp hòi, không có kiến thức sâu xa, mới gây nên chuyện tình đời nghi kỵ. Vậy thì những nghi kỵ chê bai xảy ra đều do ở chỗ ngu muội hẹp hòi của thần mà gây nên cả. Gần đây hằng đêm thần nuốt lệ thương thân, ăn năn không kịp. Lúc ấy chúng đến Kinh, thần thấy cái thế không cự tuyệt được nên cũng nói một đôi lời để an lòng chúng, không ngờ lại có thư từ. Thần chỉ biết cúi đầu xin tội, vội dám mạo muội tâu trình kính mong soi xét.
Về sách Hàng hải kim châm có nên giao cho Bộ Lễ sức cục in sách lĩnh in ra mười quyển để đủ cấp phát, còn nguyên bản chờ in xong sẽ trả lại hay không? Kính xin tâu luôn, chờ chỉ vâng làm.
Thần Trần Tiễn Thành phụng thảo.
(Châu phê: In ngay hai quyển bằng giấy kỳ lân hoặc giấy tinh bạch dâng lên xem. Còn giấy thị hoặc giấy mệnh thì in mười quyển đủ cấp pháp. Làm xong gấp gửi trả nguyên bản).
(Châu phê: Đọc tờ trần tình thật không thể hiểu được, không biết ý gì mà lủng củng như vậy. Hay là bảo trẫm chưa hết sức tin dùng? Thế là tình cảm trên dưới chưa thỏa mãn, làm sao cáng đáng được công việc? Đó là do tư tâm của mày suy đoán, không yêu vua yêu nước nên mới nhạt nhẽo như thế. Không thế thì xưa nay đã ủy thác cho mày như thế nào? Và mày ủy thác bọn chúng ra làm sao, mà nay lại có những lời lẽ như vậy? Hèn chi bấy lâu nay mày chẳng xong được một việc gì cả, khiến trẫm sớm chiều trông ngóng bồn chồn không yên mà không hiểu vì lý do gì. Hơn nữa mày đã được ơn vua ưu đãi nồng hậu đến thế mà chưa chịu nghĩ báo đền, huống hồ những kẻ xa lạ thì còn sai bảo gì được? Than ôi việc nước ta biết cùng ai mưu tính mà cùng chia sẻ nỗi gian truân này ư? Trường Tộ việc gì cũng đã nghi ngờ Triều đình, mày lại còn theo mà tạo nghi ngờ nữa, thì mọi việc mỗi ngày một hỏng không trông mong gì thành công được. Vả lại việc làm của mày xưa nay trẫm đã rõ hết rồi. Lại ngày thường trong Triều đình trẫm đã hỏi rõ, bảo rõ, mọi người đều biết sự ủy thác tin dùng của trẫm đối với mày là công bằng chí thiết, không một mảy may thiếu sót. Mày cũng đã thấy rành rành ra đó là chưa có một việc gì thành công cả. Nay muốn nửa chừng bỏ dở hòng trút cho ai? Trẫm sợ rồi đây mày không khỏi phụ ơn, cũng không tránh khỏi điều chê trách. Thế thì những hạng như mày đều vô ích. Nay phải rửa sạch hiềm nghi quyết lòng lo báo, làm sao cho nước nhà được tôn, rợ Tây phải phục. Đó là mày báo đáp ơn dày nuôi dạy của tổ khảo ta chứ không phải chỉ rửa nhục cho một mình ta mà thôi. Sự tình lý thế chắc chắn còn dây dưa chưa dứt, không phải nói đi nói lại làm gì. Nếu xét thấy dùng bọn này rốt cục vẫn vô ích thì cứ chiếu sự thật mà trách phạt, rồi tìm kế sách hay khác mưu tính tự cường, không thể dung dưỡng được nữa. Nếu còn bê trễ không thành việc ắt cứ pháp giáng truất, chớ để trẫm phải nhắc lại. Nếu không thì phải dâng nhiều lên xem để cùng lo liệu, bình tâm xử sự, mở lòng thành, bày lẽ công, ta với mọi người không xa cách nhau thì ai dám chống báng, việc gì chẳng thành. Nay hãy đệ nạp các bản, trong đó các khoản nên chăng như thế nào, khoản nào nên làm ngay, khoản nào nên đình lại, nhất nhất phải nói rõ (phải phúc trình riêng cho biết có bao nhiêu văn bản, xét kiểm sơ qua các khoản để tiện xem). Lại phải tiến trình các bản chưa đóng hãy đóng chung lại kẻo mất. Còn như các tờ trần tình của lương và giáo xem xong so với tờ tâu của Nghệ An thấy hai bên bên nào cũng có lý lẽ riêng, trẫm thực chưa biết thật giả như thế nào. Nhưng những việc nhỏ nhặt cũng không để ý hết được. Mới làm tờ tâu lần đầu nên lời lẽ không rõ ràng đấy thôi, sau nhiều lần chúng sẽ ổn, không nên phiền nhiễu lắm).
___________________________________
1. Bản Hán Văn Hv 189/4 tờ 47-49.
IV. 4. TẤU CỦA CƠ MẬT VIỆN1
(Ngày 30 tháng 4 năm Tự Đức 19, tức ngày 12 tháng 6 năm 1866).
Bày tôi ở Cơ Mật Viện tâu:
Bầy tôi vâng mệnh (Châu phê: Như vậy là không được rõ ràng ai bảo rằng không được? Hà tất phải sợ tránh không đi?... ) giao các bản thư từ của Nguyễn Trường Tộ cho thần Trần Tiễn Thành hỏi tiến trình (Châu phê: Không thể hiểu làm sao cả, nay miễn... xin thêm làm sao chuẩn cho... đều không nên chuyển...) Vâng phê chỉ bày các lẽ, bầy tôi kính tuân hội đồng xét duyệt xong trình tiến, chờ vâng thi hành.
Một khoản nói từ tháng 10 năm ngoái, việc lãnh sự Y Pha Nho, y nói rằng Triều đình không chịu cho họ đặt lãnh sự tại Đà Nẵng, lại chỉ phúc thư cho tướng Pháp. Việc ấy rõ ràng là không theo hòa ước, không để ý đến thể diện nước bạn. Hiện y đã phúc thư cho viên Tổng đốc Lữ Tống biết. Chẳng bao lâu có tin lại nói rằng: Viên ấy rất tức tối muốn đem binh thuyền đến đánh ta. Người Pháp nghe tin này rất mừng cứ ngồi yên mà đợi cái thế “ngư ông đắc lợi”. Nhưng rồi Tổng đốc Lữ Tống cũng nguôi giận mà thương nghị, họ nghĩ rằng nước họ mới vừa có chuyện (tại nước Chi Lê ở Tây Châu), nếu binh thuyền đến mà nước Nam không nghe, ắt phải động chạm gươm súng. Hơn nữa lại có người Pháp ngồi đó xem thành bại, biết đâu họ lại chẳng dùng kế Khổng Minh đánh úp lấy Nam quận. Vả đây là việc quan trọng to lớn, ắt phải được Triều đình họ thuận cho mới dám. Việc này chắc chắn đúng như vậy không còn nghi ngờ gì cả, không biết Triều đình liệu trước thế nào để người Pháp khỏi vui mừng. Các lẽ...
Đã vâng được châu phê: Nghĩ xem sao? Khâm thử. Bầy tôi vâng mệnh xét rằng năm Tự Đức thứ 16 (Trong điều ước có nói đến việc lập lãnh sự không? Nếu không thì bác đi. Chờ khi nào có buôn bán nhiều mới được) nước Y Pha Nho từng cùng với nước Pháp gởi sứ bộ và một bản dự thảo định đến bàn bạc với nước ta về việc buôn bán. Sau đó Hà Ba Lý đến bàn việc buôn bán không xong, lúc ấy nước Y Pha Nho không cùng đến. Việc đã bỏ qua. Nay chính lãnh sự Y Pha Nho hiện trú tại Gia Định là Phê Đê Cô Ta Kê gửi thư xin đặt phó lãnh sự tại Đà Nẵng, qua trung gian do tướng Pháp chuyển đệ. Cho nên vâng mệnh chấp lý, trả lời cho tướng Pháp là đúng rồi. Chỉ có điều là việc thiên hạ tuy có lý cũng phải có thế mới được. Ngạn ngữ có câu: Thế yếu thì lý cũng khó mạnh. Đó cũng là một lẽ. Xét trong hòa ước có nói rằng: “Những dân buôn của hai nước Pháp và Y Pha Nho đến buôn bán làm ăn ở ba cửa khẩu Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên đều được yên ổn tùy tiện”. Nếu họ có đến ba cảng khẩu này, xin chiếu điều ước cho họ tùy tiện lập phố buôn bán. Tưởng hòa ước cũng đã định như thế rồi, chỉ tại thế ta khó cự tuyệt mà thôi. Khoản này xin tùy cơ ứng phó. Còn như lời tên Tộ chưa biết có đúng hay không. Duy cửa Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam thường có tàu bè ngoại quốc đến đậu, tưởng nên đặt ở đó một viên Tuần phủ hay Tổng đốc có tài thao lược (Nên theo cách lập viên Tuần phủ Nam Nghĩa trước đây nhưng lập Bố Chính, Lê Đình Đức hình như có khả năng làm được, hay Nguyễn Uy có được không?), trao cho quyền lớn để tiện giải quyết thỏa đáng khi có việc. Lại xin mật thư cho thần Kinh lược sứ Phan Thanh Giản biết nếu có lãnh sự Y Pha Nho trú tại Gia Định thì nên lui tới đem thư trả lời cho tướng Pháp trước đây nói lại cho rõ ràng, xem tình ý họ thế nào để tiện lo trước cách đối phó.
Một khoản xin lập Lãnh sự Gia Định. Kính vâng châu phê: “Ta lập Lãnh sự ở họ là tiện, thì việc họ lập lãnh sự ở nước ta khó ngăn được. Khâm thử”. Bầy tôi trộm nghĩ rằng người Pháp ở buôn bán tại nước nào đều có lập lãnh sự cả. Đó là thông lệ của phương Tây. Nếu ta lập lãnh sự ở Gia Định trước thì dù cho người tầm thường cũng đều nghi rằng ta mượn đó để âm thầm liên kết lòng dân, mà sau này khi người Pháp thi hành hòa ước đến ở nước ta buôn bán cũng sẽ xin lập lãnh sự, sĩ phu không khỏi mượn cớ đó để nói, thật là bất tiện. Duy Gia Định hiện nay người Pháp cho nhóm họp các nước ở buôn bán, mà từ Kinh đến ba tỉnh Long Giang các quan viên qua lại đều phải do đường này. Gặp khi có quan viên ở Kinh đến Gia Định công cán, hoặc sai người đến học tập đều không có chỗ trú ngụ, cho nên cũng cần phải tính trước có một chỗ. Xét rằng việc này nên do Cơ Mật Viện tư cho thần Kinh lược sứ Phan Thanh Giản để đem đầu đuôi sự tình trình bày với tướng Pháp xin cho lập một cửa hàng ở Chợ Lội, Bến Thành tại Sài Gòn, nhưng người quản lý điều hành cửa hàng này sẽ do tỉnh Vĩnh Long cắt cử phái đến. Hàng năm sản vật của các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên và Bình Thuận và các hàng hóa của thuyền nhà nước ở Kinh chở đến đều chứa vào cửa hàng này để tiện mà cùng nhau buôn bán, cùng đều có lợi. Nếu người Pháp thấy lợi hứa cho thì không những được thông tình ý, được thông các hàng hóa ứ đọng, những người sai phái có chỗ cư trú, dò biết được tình hình người Pháp, tình hình dân ta, tưởng cũng không phải vô ích. Còn như việc nên dùng người có đạo làm thông ngôn và nên lập cửa hàng, phái người điều hành, cho đến các chi tiết về buôn bán và chờ cho Pháp và ta hai bên quen thuộc nhau, nên cử người từ Kinh vào ở chung như thế nào v.v... xin chờ tướng Pháp trả lời ra sao, sẽ xin tùy nghi xét biện.
Một khoản xin gởi gấp công văn đi các tỉnh, hễ có đất hoang hai bên bờ các cảng khẩu sâu rộng, đều phải đo đạc lại hết, phân biệt giới hạn, sai những người có danh vọng trong dân xã lập văn khế viết lại niên hiệu, ghi chú rõ là đất tư, đề phòng khi người Pháp đến xin ở buôn bán, thì trừ phần chịu thuế buôn bán ra, họ phải mua giá cao, ta có thể được lợi lớn. Các lẽ.
Bầy tôi thiết nghĩ rằng với tâm mưu lợi của người Pháp, thế tất rồi họ cũng đến. Những điều trình bày của Nguyễn Trường Tộ tưởng cũng thi hành được không ngại gì. Nay xin tùy tình thế, kinh lý trước các nơi như: Cửa bể Đà Nẵng ở Quảng Nam, bãi biển và vùng núi Trà Sơn, cửa Ba Lạt ở Nam Định, các cửa khẩu thuộc huyện Nghiêu Phong tỉnh Quảng Yên. Nhưng phải do Cơ Mật Viện mật tư cho Bố, Án Quảng Nam là Lê Hữu Tá, Lê Điều, Lãnh đốc Nam Định Đào Trí, Quân thứ Hải An thần Nguyễn Tri Phương, Tuần phủ Quảng Yên thần Lê Hữu Thường, phải thân hành quan sát các cửa bể thuộc hạt của mình, xem nơi nào có thể lập phố buôn được, dùng lời lẽ khéo léo chuyển sức các dân xã sở tại, hoặc xã khác, hoặc xã kế cận, chia nhau làm đơn trưng khẩn, ra sức khai thác dần dần, giúp cho họ đều có phần, để nối đời thừa hưởng và chịu nộp thuế. Cuối đơn, nên viết lùi lại mười năm, để làm mất tăm tích. Quan các tỉnh ấy phải làm hết sức cẩn mật, khiến dân trong hạt chỉ nghe mà làm theo, chứ không biết y gì cả, như vậy mới là khéo léo.
Một khoản nói về ngọn núi cao ở sông Linh, tục gọi là xứ Tróc, quan sát kỹ mạch đất thì thấy có tầng lớp, sắt đá khá đen, tưởng chừng dưới ấy chắc có mỏ than. Lại nghe người ta đồn rằng, tại huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, nơi giáp ranh với Thanh Hóa, có hai quả núi có than đá, mà dân trong làng còn giấu chưa nói ra. Các lẽ…
Bầy tôi thiết nghĩ rằng than đá dầu mỏ là những thứ ta rất cần. Trước đây bọn thần đã từng đem phương pháp khai thác ra hỏi bọn Nguyễn Trường Tộ, xem có được trong sách Pháp, hoặc nghe người Pháp nói, chứ không phải phương pháp quen thuộc, mà người Pháp từng thân hành khai thác để so sánh. Bọn Nguyễn Trường Tộ đã có nói, vậy xin hãy áp dụng, để nghiệm xem sự thực như thế nào. Bọn thần đã cùng các thần ở Bộ Công làm tờ tâu riêng. Còn những nơi mà tên Tộ nói là có mỏ than, xin để bọn thần nói cùng phái viên Nguyễn Văn Long được biết.
Thần
Trần Tiễn Thành
Thần Phạm Phú Thứ
phụng thảo.
Thần Phạm Phú Thứ
phụng thảo.
___________________________________
1. Bản Hán Văn Hv 189/4 tờ 49-54.
IV. 5. TẤU CỦA TRẦN TIỄN THÀNH VÀ PHẠM PHÚ THỨ1
(Ngày 17 tháng 5 năm Tự Đức 19, tức 29-6-1866)
Thần Trần Tiễn Thành,
Thần Phạm Phú Thứ tâu:
Mới đây vâng phê bảo: Nhân thông hiếu với Anh để mở nguồn lợi và trả lời các giáo sĩ của họ để lấy lòng v.v... Khâm thử!
Bầy tôi vâng mệnh xét tình hình, trộm nghĩ rằng người Anh và người Pháp thế lực cân nhau, kết thân nhau chặt chẽ, chưa dễ khiến họ tạm thời chia rẽ được. Nếu chỉ thông hiếu với Anh thì thế đáng ngại mà sinh hiềm khích. Lâu nay người Pháp sở dĩ đề phòng ta chỉ vì việc ấy mà thôi. Trước đây bọn thần đã có tâu xin rằng, nếu muốn thông hiếu với Anh, thì phải thông hiếu với Pháp trước, qua lại nhiều lần, tình ý hợp nhau, sau mới biết rõ tình hình, hoặc đợi có cơ hội đã. Nay Bônan ở cảng buôn của Anh, được Anh dùng. Người Pháp từng nghi ta nhận những điều khoản yêu cầu của Anh, cho là hòa kết với người Anh. Như lời tên Trường thuật lại lời nói của vị tướng ấy thì biết. Lần này Bônan sai tên Kê Sinh đến có điều thỉnh cầu, mượn hắn để mở nguồn lợi. Nếu có ích thì cũng nên. Chỉ có điều chưa hiểu rõ lai lịch tính tình của hắn thì rất khó dùng: Đó là chưa nói ngày sau hắn muốn điều gì sợ ta khó đáp ứng, ta thì không nghĩ đề phòng trường hợp vì lợi mà thay lòng đổi dạ, rợ ngoài được cơ hội dòm ngó, sĩ phu phiền trách nhiều lời lại sinh lòng nghi kỵ, rồi tướng Pháp thấy ta có chỗ nghi kỵ nhau, mượn đó để tranh lợi, thật là đáng ngại. Hiện nay tự mình phàm việc gì cũng đều mới lần đầu tiên. Việc khai thác than đá đã ủy thác cho bọn Nguyễn Trường Tộ. Cái nghề khai thác than, đúc kim loại, gần đây lại có Tạ Quan Lan tự xin giúp việc. Tính tình thị hiếu của bọn chúng cũng dễ sai khiến. Xin hãy cho chúng làm thử, hậu đãi phủ dụ chúng để xem kết quả. Hoặc nhân vì chúng có thể dùng được, mà có thể rút tỉa những hiểu biết của chúng, ta rõ lai lịch chúng, chúng không nghi ngờ ta, sự việc mới thành được, thế là được cả đôi bên. Còn như Nguyễn Trường Tộ bảo thầy y là Ngô Gia Hậu muốn giúp các khoản, thì lâu nay giáo sĩ ấy vốn có lòng muốn giúp, chỉ vì sự xử trí chưa được ổn thỏa. Hiện nay sự tình rắc rối, ta mới nghĩ cách khuất phục hắn thì hắn lòng nào lại giúp ta. Cho dẫu có thư từ qua lại, thì cũng chỉ là lời nói suông, khó khiến hắn hài lòng. Không vui lòng mà mong sẵn sàng giúp, tình lý ấy xét thật khó thành. Trước đây Bộ Lễ có tư ủy cho giáo đồ của hắn là bọn Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Hoằng theo phái viên cùng đi, xin hãy cho làm thử mấy khoản trên. Chờ công việc xong xuôi, rồi có nên nhờ chúng mướn những người Pháp rành nghề đến giúp như thế nào, sẽ xin tư hỏi phúc tâu sau. Tưởng làm như thế mới khéo léo. Bọn thần có thiển nghĩ như vậy, kính phúc tâu đầy đủ, chờ chỉ.
Thần
Trần Tiễn Thành
Thần Phạm Phú Thứ
phụng thảo.
Thần Phạm Phú Thứ
phụng thảo.
Châu phê:
Đã như thế thì cũng nên trả lời sơ lược như thế nào để giao hảo kết tâm. Nếu bảo được, trình bày rõ ràng, rất mừng. Nhân đó hỏi: Nếu ta sẽ dùng thì người thừa hành và trù biện thứ tự như thế nào? Hãy xét kỹ mới dám tâu lên. Nên thì học, đến dạy. Nhưng sợ có điều nghi ngờ thì đã nói thường để tâm vào thứ tự mà làm cẩn thận, để xứng đáng với sự ủy thác, làm sao cho thế nước mạnh, gốc nước vững, ngõ hầu vui lòng trẫm.
___________________________________
1. Bản Hán Văn Hv 189/4 tờ 55-57.
PHỤ
LỤC V
Tấu
của Cơ mật viện năm 18671
(Ngày 11 tháng 4 năm Tự Đức 20, tức 14 tháng 5-1867)
Cơ Mật Viện Thương Bạc thần tâu:
Nay bọn thần đem tiến trình bản mật tư của tỉnh thần Quảng Nam Lê Hữu Tá và phái viên Trần Nhượng. Vâng phê thị, bọn thần tuân phụng xét duyệt điều ra lai lịch Di Minh.
Ngày 19 tháng 9 năm ngoái Nguyễn Trường Tộ đã có mật thư xin cho Di Minh lên Kinh mật bẩm tình hình Tây dương mà họp trình ký của bọn phái viên Nguyễn Tăng Doãn tháng đó cũng có nói rằng Di Minh có ý tình nguyện giúp đỡ v.v...
Nhưng y là người bị Tây soái nghi ngờ, nếu dùng y thì cũng phải có lời lẽ minh bạch. Kế đó ngày 19 tháng 11 (25/12/1866) Thương Bạc đã vâng làm chiếu hộ cho bọn họ đều có nói rõ rằng nếu Di Minh lên Kinh mà không có người giới thiệu thì tình ý khó thông vậy nên đợi sau sẽ tính. Thượng tuần tháng 12, một hai ngày trước khi lên thuyền bọn Ngô Gia Hậu đã tiếp được chiếu hội này rồi. Nay xét ra Nguyễn Trường Tộ giao cho Di Minh bản sao bẩm văn trong đó nói tưởng rằng ngày 15 tháng 11 (21/12/1866) bọn họ gần ngày đi Tây nên mới biên gởi, thế mà sau đó tiếp được chiếu hội lại không nói cho y biết, thật không hiểu vì sao. Nay theo Trần Nhượng nói thì Nguyễn Trường Tộ (tức tên thầy Lân) có viết hai phong thư, một tư về Bộ hiện nay không thấy đâu. Đối với khoản này vì trước sau tiếp nhận so le nên quên không dặn dò chu đáo, bọn thần xin cam chịu tội. Vả Di Minh trước đây theo phái viên nói thì y giữ chức quan thứ ba của Tam tòa mà theo Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Tăng Doãn trong tờ bẩm trước thì nói hoặc là xuất thân vũ biền hoặc nói là lính mãn hạn, hành tích vốn bị Tây soái nghi ngờ. Phong cương lãnh thổ là việc trọng đại, hai nước đã hòa hiếu thì việc gì cũng phải rõ ràng sau mới khỏi gặp rắc rối. Nay theo những điều y nói thì tuy tục lệ xứ y chẳng cấm đoán họ đến, dân họ cũng chẳng ưa thích đến ở buôn bán. Vậy mà nước họ đến chiếm cứ thế là không phải bản ý của dân họ. Nhân đó mà y có ý muốn giúp ta mưu đồ công việc, tưởng cũng là có cơ hội để làm. Tuy nhiên việc ra làm không khỏi có phần may rủi tưởng cũng khó thành. Huống chi tháng trước đã gửi thư Tây soái nói rằng giữ vững hòa ước cũ và sẽ xin chuộc lại ba tỉnh. Tây soái hiện có vẻ bằng lòng chưa thấy nói gì, mà phái viên đi Tây chuyến này cũng là để thăm dò ý hướng người Pháp đối với sáu tỉnh Nam kỳ ra sao để tùy cơ thong thả sắp đặt công việc sau này. Nay vội vã đưa Di Minh đến kinh, chưa nói đến chuyện thuyết của y có được thi hành hay chưa, một lọt tin ra ngoài cũng đủ làm trở ngại công việc hiện tại; làm Tây soái nghi kỵ thật là không tiện. Nhưng nếu y đã không từ khổ nhục mà đến thì sau này cũng có thể có cơ hội dùng được, cũng nên khéo phủ dụ để dùng sau này.
Nay xin giao cho Lê Hữu Tá và Trần Nhượng đến nói với y rằng: Những điều người nói hôm trước bản chức chúng tôi đã bẩm trình đầy đủ lên Thương Bạc đại thần để thẩm chiếu. Nay tiếp đại thần sức nói rằng Di Minh xưa nay vốn đã cho thấy một tấm thân tâm hậu tình; bản quốc tự nhường ba tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa cho Pháp cư trú ít năm, từ đó sĩ dân sẽ ôm lòng nhớ đất cũ luôn nghĩ rằng Triều đình sẽ tìm cách thu hồi, các nước phương Tây cũng biết rõ. Nhưng hai nước đã hòa hiếu với nhau thì việc gì cũng phải rõ ràng minh bạch mới khỏi có chuyện nói đi nói lại về sau. Gần đây chính ta cũng muốn sai sứ sang thăm viếng vấn an, nhân đó mà nói chuyện xin chuộc lại, ngặt vì không có người cáng đáng công việc nên cứ trì hoãn mãi. Nay gặp Di Minh chính là người làm được việc này lại có thư đáng tin cậy. Sau này nếu có đi Tây chắc sẽ giúp ích được thêm một phần. Tháng trước Tây soái có gửi thư hỏi về chuyện ba tỉnh, bản đại thần đã đáp là xin tình nguyện chuộc lại. Hiện soái ấy chưa cho biết ý kiến thế nào, mà hai sứ và thầy Lân là những người quen biết cũ của Di Minh, hiện nay đang ở Tây và còn đang đợi hồi âm chưa biết tin tức thế nào. Nếu nay cứ theo lý nói suông sợ ngày sau sự việc khác đi thì sẽ thất sách. Khoản gặp mặt thương thuyết lần này chưa biết ra sao tốt hơn nên chờ đợi một tý. Lại nữa gần đây đối với một chuyện mộ nghĩa, tất cả những ai qua lại Tây soái đều nghi cho bản đại thần. Nay Di Minh âm thầm đến mặc dầu đối với luật pháp Tây không ngại gì cả, nhưng một khi lên Kinh tin tức khó giữ kín, Tây soái không khỏi đem cái ý nghi ngờ sự qua lại giữa Tây Nam ngày trước nghi cho Di Minh, sợ cái lòng tốt mà Di Minh muốn đem thực thi lại vì thế mà bị trở ngại. Như năm trước chuyện Hà Ba Lý phụng sứ làm việc công, vậy mà soái ấy còn có thể dựng lời ly gián quấy rối sự thành công. Cơ mà không kín thì hại thành, xin hãy suy nghĩ kỹ. Vả lại như Di Minh đã từng nói: không còn lâu nữa đâu, khoảng tháng 4 tháng 5 năm nay hai sứ và thầy Lân sẽ về. Vậy nay tưởng Di Minh hãy nên tạm về Định Tường nghỉ ngơi một lúc đợi các phái viên đi Tây về, nếu có cơ hội như thế nào và Di Minh thấy nên trở lại giúp đỡ, lúc bấy giờ lấy cớ để tìm thợ, soái ấy dầu có nghi cũng chẳng nói vào đâu được, mà phái viên đi Tây về sự tình rõ ràng khúc chiết, nên thỏa liệu như thế nào sẽ thương lượng cùng Di Minh, tùy tình thế mà đầu cơ thì mới được việc. Việc này bản đại thần đôi ba lần suy nghĩ đã kỹ mong Di Minh tin cho. Như thế thì một là để giúp cho công việc của bản quốc và hai là chắc chắn Di Minh được thành danh, khiến việc làm có hiệu nghiệm không đến nỗi để lo về sau. Bản đại thần quả quyết không có lòng nghi ngờ mà làm cản trở gì cả, mong thẩm xét cho. Nay có một vài vật mọn gồm có hai mươi lượng bạch kim và gà vịt đường gạo các thứ thực dụng (Những món trên đều do tỉnh sắm) giao cho quan tỉnh phái người đặc tặng mong Di Minh thu nhận v.v... Đại khái những ý như vậy liệu từ từ giải thích khiến hắn không mất lòng hoan hỷ trong lòng lãnh về để dùng về sau, tưởng có thể dứt bặt tiếng tăm mà cũng không đến nỗi để mất người.
Còn những khoản bắt giặc phỉ, thần binh bộ sẽ phụng cứu phúc tâu sau. Bọn thần có những suy nghĩ thô thiển như vậy kính phúc hầu chỉ.
Thần Nguyễn Tri Phương, thần Vũ Trọng Bình, thần Trần Tiễn Thành, thần Phan Huy Vịnh, thần Phạm Phú Thứ phụng thảo duyệt.
__________________________________
1. Bản Hán văn: Châu bản Triều Tự Dực, quyển 164 tờ 13a-18b. Kho lưu trữ 2.
PHỤ
LỤC VI
Những
tờ tấu, tờ trình năm 1868
VI. 1. TẤU CỦA CƠ MẬT VIỆN1
(Ngày 11 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 4-3-1868).
Thần Nguyễn Tri Phương, thần Đoàn Thọ, thần Vũ Trọng Bình, thần Trần Tiễn Thành, thần Nguyễn Văn Phong, thần Phan Huy Vịnh, thần Phạm Phú Thứ tâu:
(Châu phê: Nay lại cấp trước cho năm mươi quan để chi dụng).
Ngày 8 tháng này, Bộ Lễ có dâng một tờ trình tấu, về việc bọn Ngô Gia Hậu, thừa phái sang Pháp đã về đến Gia Định, lại có mang tên Ca Xanh theo về. Kính vâng châu phê: Các đại thần hãy hỏi xem nó làm được việc gì để tiện xét, và thù lao như thế nào. Khâm thử! Bọn thần đã thương lượng giao trách nhiệm cho hai viên Lang trung, thuộc Bộ Lại và Bộ Lễ, đến sứ quán hiện trú, an ủi hỏi han trước. Bọn chúng đều vui mừng cảm tạ. Sự việc đã phúc tâu xong. Còn việc có mang theo về ba vị linh mục giáo sĩ, có biết nghề nghiệp gì không, thì Nguyễn Trường Tộ xin hẹn cho ba ngày, sẽ kê khai trình bày đầy đủ. Về tên Ca Xanh, thì nói biết làm cơ khí kỹ nghệ, xin chờ xem sự thực, nên dùng nên thưởng như thế nào, xin cho xét xong sẽ phúc tâu luôn.
Còn về khoản phân hạng cấp thù lao, bọn thần vâng lệnh phân biệt xét định các hạng phẩm vật số lượng, liệt kê rõ ràng, rồi sai biện lý Chu Đình Kế, sang truyền báo trước cho bọn giám mục Ngô Gia Hậu biết. Đại ý nói lần này vâng phái công du trở về, lại vượt trùng dương mang theo về ba vị linh mục giáo sĩ rất là khó nhọc. Kính vâng hoàng đế rất khen thưởng, đặc cách chuẩn cho Bộ Lễ soạn các vật hạng, ban cấp để an ủi. Vậy kính tâu lên, cùng với nguyên tờ phiếu liệt kê các hạng cấp thưởng, chờ chỉ tuân hành.
Kê khai:
* Xin xét cấp cho Ngô Gia Hậu các vật hạng như sau:
Một tấm “Ngũ phúc kim tiền”, nặng 5 đồng cân (có tua).
Mười tấm “Ngân tiền” (Hạng Song Long: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Triệu dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Ngũ phúc, Tam thọ mỗi thứ một tấm), cộng lại nặng ba lượng, năm đồng cân, năm phân.
Một cuộn tố đoạn bằng năm loại tơ màu đen để may áo dài chật tay (Có một đoạn lụa bóng màu lục để lót trong).
Một xấp huyền lương sa “Bửu lam nam hoa”.
Một xấp sa có vân “Nam tố tuyết bạch”.
Một xấp lụa “Tuyết bạch”.
* Xin xét cấp cho Nguyễn Trường Tộ các vật hạng như sau:
Một tấm “Tứ mỹ kim tiền”, nặng bốn đồng cân (có tua).
Năm tấm “Ngân tiền” (Hạng Sứ dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Ngũ phúc, hạng Tam thọ mỗi thứ một tấm), cộng lại nặng một lượng năm đồng cân năm phân.
Một cuộn tơ lông màu lam để may áo dài chật tay (Có một đoạn lụa màu xanh để lót trong).
Một xấp lương sa “Bửu lam nam tố”
Một xấp trừu “Tuyết bạch nam hoa”.
Một xấp lụa “Tuyết bạch”.
* Xin xét cấp cho ba tên: Đạo trường tên Điều, đạo đồ tên Hoằng và tên Vị như sau:
“Nhị thắng kim tiền”, mỗi tên một tấm, mỗi tấm nặng hai đồng cân (có tua).
“Ngân tiền” mỗi tên một tấm (hạng Sứ dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm, hạng Ngũ phúc, hạng Tam thọ mỗi thứ một tấm) mỗi phần cộng lại nặng một lượng ba đồng cân năm phân.
“Nam tố lương sa” màu đen, mỗi tên một xấp.
Tơ lông màu lam (Châu phê: Hoặc màu đen huyền cũng được) mỗi tên một đoạn (thành một cái áo chật, có một đoạn lụa xanh lót trong).
Lụa “Bạch tuyết” mỗi tên một xấp.
Một xấp vải tây dày mịn “Bạch tuyết” hạng nhì (chia làm ba mỗi tên một đoạn).
* Xin xét cấp cho ba tên linh mục giáo sĩ:
“Tam thọ kim tiền” mỗi tên một tấm (Châu phê: Cấp cho tên Ca Xanh ba tấm ngân tiền này. Châu phê: Cấp cho ba người ngân tiền hạng Sứ dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm) mỗi tấm nặng ba đồng cân (có tua).
* Xin xét cấp cho bọn tùy tùng Ngô Gia Hậu bốn tên, mỗi tên một tấm “Long văn ngân tiền” hạng nhỏ (mỗi tấm nặng ba đồng cân).
__________________________________
1. Bản Hán văn Hv 189/4 tờ 57-59.
VI. 2. TẤU CỦA CƠ MẬT VIỆN1
(Ngày 16 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 9-3-1868)
Thần Nguyễn Tri Phương, thần Vũ Trọng Bình, thần Nguyễn Văn Phong, thần Phan Huy Vịnh, thần Phạm Phú Thứ, thần Trần Tiễn Thành tâu:
Hôm qua có viên ty thuộc của Bộ Lễ ở sứ quán đệ nạp một bức thư của Nguyễn Trường Tộ gởi bẩm bầy tôi trong sáu Bộ. Kính xin mở thư tiến trình. Xin xét cho thần Nguyễn Văn Phong đến dinh Bộ Lễ, đòi tên này đến, hỏi những điều y muốn nói, ghi chép rõ ràng rồi phúc tâu. Vậy xin tâu trình chờ chỉ.
VI. 3. TẤU CỦA CƠ MẬT VIỆN2
(Ngày 21 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 13-3-1868)
Thần Nguyễn Tri Phương, thần Đoàn Thọ, thần Vũ Trọng Bình, thần Nguyễn Văn Phong, thần Phan Huy Vịnh, thần Phạm Phú Thứ, thần Trần Tiễn Thành tâu:
Lần này Nguyễn Trường Tộ trình bày các khoản, đã vâng xét các khoản được châu phê chỉ bày các lẽ. Khâm thử! Vâng mệnh hỏi rõ từng điều khoản của tên này và bầy tôi đã chép lại rõ ràng tiến trình. Lại vâng châu phê: Các khanh hãy xét kỹ xem sao, nên hỏi cặn kẽ và trù liệu, không để mất cơ hội. Khâm thử!
Thần Vũ Trọng Bình và thần Nguyễn Văn Phong đã hỏi lại tên này kỹ lưỡng. Theo y nói thì y có biết qua hiện tình giữa Pháp và ta. Thiết nghĩ hiện nay việc đi Pháp, tưởng nên làm như thế may ra có ít nhiều lợi ích. Còn nói việc ấy có thành hay không, thật không dám chắc v.v... Bọn thần cùng bàn với nhau thiết nghĩ rằng sự thế hiện nay giữa ta và Pháp, chưa thể nào dứt bỏ việc hòa hiếu một cách vội vàng được. Thế của ta lại còn yếu nên họ hay đòi hỏi chuyện này chuyện khác. Cho nên phải giao thiệp rộng để tìm sự trợ giúp đó là thế đương nhiên vậy. Những điều y nói quả thật đã khám phá ra được sự tình. Nhưng y vốn không phải người của ta, bấy lâu nay y với ta tình ý chưa tin nhau, nếu thi hành vội sợ chưa tiện. Nay đợi khi nào phụng sứ cùng phái viên đến cảng hãy bảo bọn sứ phái này đến nơi bí mật tìm đường lối, như tình thế có thể đầu cơ thì mưu tính từ từ đừng để lộ tiếng tăm ra ngoài mà hỏng việc. Vả lại nước ta và nước Pháp hai bên qua lại thăm hỏi nhau đã lâu, giữ tình giữ lễ đúng đắn mà viên tướng này thì có quyền chuyên chế lại ở gần ta, lòng dạ tham lam không thể đem nghĩa lý thuyết phục hắn được. Nếu lời lẽ có chỗ sơ hở thì hắn lại được dịp mượn cớ gây hấn. Về văn thư qua lại thì không khiêu khích hắn cũng không theo ý hắn, công việc gì cũng phải mềm dẻo thẳng thắn sao cho được ổn thỏa khiến hắn không bắt bẻ vào đâu được, tiện cho ta từ từ mưu đồ tự trị, tưởng cũng đã đắc sách. Vậy dám kính tâu đầy đủ chờ chỉ.
Châu phê: Hai bản này có những chỗ xóa, có thể lấy ra được không? Sao không nói rõ lại nói phớt qua, theo đâu mà thực hành?
*
VI. 4. TẤU CỦA CƠ MẬT VIỆN3
(Ngày 23 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 16-3-1868)
Thần Nguyễn Tri Phương, thần Đoàn Thọ, thần Vũ Trọng Bình, thần Nguyễn Văn Phong, thần Phan Huy Vịnh, thần Phạm Phú Thứ, thần Trần Tiễn Thành tâu:
Hôm trước bọn thần vâng đem hai bản nguyên bẩm của Nguyễn Trường Tộ trình lên. Kính vâng châu phê: Hai bản này có những chỗ xóa, có thể lấy ra được không? Sao không nói rõ lại nói phớt qua, theo đâu mà thực hành. Khâm thử. Thần Vũ Trọng Bình đã vâng mệnh đem những chỗ xóa xét từng khoản mà chất vấn. Nay tên này đã tuân phụng làm một bản phúc bẩm, đã sức viết lại tử tế trình lên. (Châu phê: Nói cũng hợp lý, nên làm tốt).
Nhưng xét sự lý trong tờ bẩm đều liên hệ về những việc phải làm cho thích hợp khi sứ bộ đến Gia Định và Kinh đô nước Pháp. Xin cho viện của thần mật chép lại chuyển cho các viên của sứ bộ mật xem để tùy cơ liệu làm. Dám xin phúc tâu, chờ chỉ.
__________________________________
1. Bản Hán văn Hv 189/4 tờ 60.
2. Bản Hán văn Hv 189/4 tờ 60-61.
3. Bản Hán văn Hv 189/4 tờ 62.
*
VI 5. TẤU CỦA BỘ LỄ1
(Ngày 22 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 15-3-1868)
Bộ Lễ tâu:
Hôm qua căn cứ tờ bẩm ba trang của Nguyễn Trường Tộ thì một nói về việc phái người sang thành Ba Lê học tập, hai nói về những việc cần phải làm khi đi Pháp. Bộ đã cho chép lại rõ ràng, tử tế trình lên, xin giao cho các đại thần duyệt xét rồi phúc tâu đầy đủ, chờ chỉ tuân làm.
Châu phê: Từ nay về sau các tờ bẩm đều do đại thần thu nhận, đem nguyên bản giao cho viện chuyên trách, không được chia giao nhiều người, không mật.
*
VI. 6. TẤU CỦA BỘ LỄ2
(Ngày 23 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 16-3-1868)
Bộ Lễ tâu:
Ngày 12 tháng này có tiếp được một tờ bẩm của Nguyễn Trường Tộ nói bọn y đi Pháp về lần này các phí khoản ăn uống, chuyên chở xe thuyền đều do chính giám mục và nước Pháp chi cấp và bọn y tự liệu, không có sổ sách, không dám kê khai. Xin thôi. Ngày 19 có tờ bẩm của Ngô Gia Hậu nói chi phí khứ hồi đi Pháp của y do y tự đài thọ, xin miễn kê khai v.v... Các khoản này xin giao các đại thần xét duyệt rõ ràng phúc tâu đầy đủ.
Châu phê: Đều phải xét hết, không thể làm ngơ được.
Lại Ngô Gia Hậu có kê biên các vật hạng mua về, nay đem nạp vào đâu? Nguyễn Trường Tộ nói có chọn mua các lớp đất quặng và các thứ kim loại các loại ngọc quý các màu v.v... Vả bọn chúng đi Pháp phải mua những sách gì, những vật hạng gì, bao nhiêu, đã có tờ bẩm đầy đủ tại Cơ Mật Viện. Khoản này xin để cho viện này cứu xét. Vậy đem các tờ bẩm, biên bản của chúng, sai chép lại rõ ràng rồi trình lên luôn. Còn nguyên bản xin để viện này thu trữ. Vậy dám tâu lên chờ chỉ.
Châu phê: Các vật hạng hiện nay đã mang về đều nạp ở Bộ Lễ. Viện của Bộ kiểm tra kỹ, giao qua thị vệ dâng lên xem, giao ra cho viện duyệt, hãy xét giao cho nha hào giữ cho ổn. Sau này còn tiếp tục đệ nạp nữa cũng làm như vậy, không phải chỉ bấy nhiêu. Còn những tên do tên ấy mang về, nay nên làm công việc gì, trả tiền công như thế nào, sao không hỏi rõ để tiện công việc làm và họ có thể ở lâu được. Trong số đó nghe có một tên đã bị đuổi về nay sao lại trở qua để làm gì?
__________________________________
1. Bản Hán văn Hv 189/4 tờ 62.
2. Bản Hán văn Hv 189/4 tờ 63.
*
VI. 7. TẤU CỦA CƠ MẬT VIỆN1
(Ngày 26 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 14-3-1868)
Thần Nguyễn Tri Phương, thần Đoàn Thọ, thần Vũ Trọng Bình, thần Nguyễn Văn Phong, thần Phan Huy Vịnh, thần Phạm Phú Thứ, thần Trần Tiễn Thành tâu:
Ngày 11 tháng này bọn thần đã dâng phiến xét cấp thưởng công lao cho bọn Ngô Gia Hậu. Lại trình bày về việc có mang theo về ba vị linh mục giáo sĩ có biết nghề chuyên môn thì Nguyễn Trường Tộ xin hẹn ba ngày sẽ trình đầy đủ, việc tên Ca Xanh xin chế tạo cơ khí kỹ nghệ, xin chờ xét thật nên dùng nên thưởng ngoài ra xin phúc tâu luôn khoản các linh mục giáo sĩ vừa mới mang về. Kính vâng châu phê: “Xét luôn. Khâm thử!”. Nay căn cứ Ngô Gia Hậu biên khai về khoản Thiên văn, Địa lý thì hiện đã mua được các sách và địa cầu đem về. Còn những khí cụ về Hóa học chưa đến. Y đã tự xuất tiền riêng ra mua hết hai ngàn quan để dùng vào việc dạy Hóa học lúc mới bắt đầu. Nếu dùng rộng rãi hơn phải mua khá nhiều dụng cụ nữa mới được. Về trí học cần học gấp ngành Điện tín. Về Cơ xảo chỉ cần những loại cơ khí tầm thường cũng có thể thiết trí được. Giáo sĩ tên Lý thông thạo về Hóa học, Địa lý, còn Y khoa thì chưa ứng dụng được mấy. Về các khoản khác nếu quả quyết muốn thực hiện thì nên mở trường học. Tùy theo sự tiến bộ của học sinh triển khai dần ra mà dạy. Nếu kết quả tốt thì mướn thêm người giỏi tay nghề dạy thực tập thay mới có hiệu dụng lớn. Còn như đặt điều kiện về thời gian phải hoàn thành trách nhiệm thì y không dám nhận v.v...
Tờ bẩm của Nguyễn Trường Tộ nói về nguồn lợi, có ba đường lối như sau: Một là xin đình chỉ kỳ hạn bán đồ vật, còn hai khoản về việc hai bên hợp tác làm việc và việc thuê mướn nhân công thì nên thương lượng mà tiến hành; hai là xin phân biệt các loại đất quặng, sang Pháp lựa mua dụng cụ và thuê thợ để sử dụng được rộng rãi; ba là việc trường học và nơi cư trú cho giáo sư xin tạm dùng sứ quán làm trường học v.v... Bọn thần phụng chiếu các khoản kê biên của Ngô Gia Hậu và Nguyễn Trường Tộ thấy liên hệ đến việc có thể xem thiên văn, hoặc có thể dò tìm nguồn lợi dưới đất hoặc có giúp vào việc sử dụng các khí cụ, đều không phải là không có lợi ích. Chỉ có điều học theo phương pháp ấy tất phải nhiều năm tháng, phải lựa chọn sinh viên thầy thợ, phải có lính tráng canh gác, lại phải đặt chuyên viên chuyên trách công việc mới có thể đạt được kết quả. Nhu phí tưởng không phải là ít. Còn như Ngô Gia Hậu bẩm nói các thứ khí cụ trị giá khoảng một vạn quan hoặc có thứ do y xuất tiền riêng ra mua hoặc có thứ do Triều đình Pháp tặng để dạy học. Nếu không dạy học, y cũng không dùng những thứ này làm gì. Nay có nên chiếu thu lấy hay trả lại. Kính xin tâu luôn chờ chỉ.
Còn việc tên Ca Xanh biết làm cơ khí, kính vâng giao Bộ Công xét kỹ. Thần Nguyễn Chính và thần Nguyễn Hữu Lập đã đến sứ quán xét hỏi trước. Cứ theo một tờ khai do y biên ra, mang về giao thông ngôn Huyên phiên dịch lại thì y biết về máy nổ, biết nấu sắt, nấu đồng, biết luyện thép làm lưỡi cưa để cưa cây xẻ ván. Nếu có các đồ nghề này, lại được những người đến học hiệp tâm hiệp ý, thì trong ba năm dạy được năm mươi người biết nghề máy, mỗi năm đóng được một chiếc thuyền máy cỡ nhỏ. Y còn làm được khá nhiều máy móc, như để lấy nước cứu hạn, sửa chữa máy thuyền. Những thứ máy móc nói chung, sẽ do y và những người học tập cùng làm, nhưng phải do y chỉ bảo sai khiến, phải cho y có quyền, có kỷ luật nghiêm, mới được. Nếu dùng y, y sẽ làm tờ giao kèo, rồi về Pháp lại để mua dụng cụ đồ nghề. Lại theo tờ biên kê tiếp theo, thì phải mua đao búa luyện thép và các thứ trục máy giá năm vạn quan, mua máy cưa một vạn quan, mua máy nhỏ để trau luyện các khí cụ sắt thép hai vạn năm ngàn quan, mua các thứ khí cụ khác để thợ thầy dùng bảy ngàn quan, mua các mẫu sắt, đồng, thép, một vạn năm ngàn quan, tiền thuê chở từ Đại Pháp đến Đà Nẵng một vạn hai ngàn quan. Tổng cộng mười một vạn chín ngàn quan. Lại theo tên Ca Xanh nói miệng rằng, nếu dùng hắn, xin trả công mỗi tháng ba trăm hai mươi đồng v.v...
Bọn thần trộm nghĩ, công phu kỹ nghệ của người Tây dương đều rắc rối khó khăn, nay cứ theo y, tiền mua sắm khí cụ và chuyên chở đến mười một vạn chín ngàn quan. Lại nói miệng rằng xin trả tiền công mỗi tháng 320 đồng (tính ra tiền là một ngàn bảy trăm sáu chục quan), đòi giá quá tham không thể tin dùng được. Huống nữa y lại phải về nước trước, mua sắm các thứ cần kíp, như thế chưa biết ngày nào trở qua. Nếu nay vội bảo y làm tờ giao kèo dạy tập kỹ nghệ, thì chi phí trả công quá nhiều, và sau này sẽ còn yêu sách đòi tăng tiền thuê, hoặc đòi hỏi chuyện này chuyện khác mãi. Vậy xin xét đình chỉ khoản mướn tên Ca Xanh dạy tập kỹ nghệ. Duy có điều, nay Ngô Gia Hậu đã mang về đây, thì cũng nên xét cấp đầy đủ cho Ngô Gia Hậu, để chi cho y các khoản ăn uống cần dùng. Ngày nào tên này trở về, xin cấp cho y ba tấm ngân tiền hạng Sứ dân và Phú Thọ (Đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm), một trăm quan tiền kẽm để làm tiền phí tổn, và an ủi nói rõ cho y biết. Còn y muốn chờ đáp hỏa thuyền hay xin đi theo thuyền buôn trở về Gia Định đều cho tùy tiện.
Vậy dám tâu lên, luôn thể tiến trình bốn bản biên khai của Ngô Gia Hậu, Nguyễn Trường Tộ, một tờ nguyên văn bằng chữ Tây của tên Ca Xanh biên, với một bản dịch của thông ngôn Huyên chờ chỉ tuân làm.
Lại trong tờ phiến của Bộ Lễ phụng châu phê một khoản: “Trong này có nghe một tên đã bị đuổi về nguyên quán, nay sao lại trở qua để làm gì? Khâm thử!” Vâng xét tên Ca Xanh (nguyên tên là Ca Sa Nhi) vốn được thuê làm thợ máy cho thuyền Thuận Tiệp đã hết hạn, trở về Gia Định. Lần này thần Trần Tiễn Thành nghe Ngô Gia Hậu nói rằng các linh mục giáo sĩ do y mang về chỉ biết chỉ vẽ phương pháp chế tạo mà thôi, còn công việc thực hiện chế tạo, thì tên Ca Xanh thông thạo hơn. Nay đã mang về đến nơi, nếu thuê mướn thì lưu lại xét, bằng không thì tên này tình nguyện trở về Gia Định, không có gì trở ngại. Xin kính tâu luôn.
Châu phê: Đã đem về há tổn phí vô ích. Như hắn đã khai tổn phí lớn, cũng chưa chắc. Có điều hắn thạo giỏi cơ khí, nên để hắn ở lại dạy tập các nghề cùng với các giáo sĩ. Trước hết cho làm các thứ dễ, xem kết quả ra sao, rồi sau đó mới bàn cho thích đáng, dạy tập nghề gì, chế tác thứ gì, tiền thuê bao nhiêu, mỗi người phải khai rõ để tiên liệu. Còn việc về Pháp mua nhiều khí vật quá tốn kém, chưa chắc. Hãy thong thả xem sao.
Hiện các công việc làm, cần dùng những khí cụ gì, tên ấy cũng phải theo đó mà chỉ vẽ, chế tác mà dùng mới được.
__________________________________
1. Bản Hán văn Hv 189/4 tờ 64-68.
*
VI. 8. TỜ TRÌNH CỦA GIÁM MỤC GAUTHIER1
(Ngày 30 tháng 2 Tự Đức 21, tức 23-3-1868)
Giám Mục Ngô Gia Hậu nêu các lý do về việc mở trường, theo từng điều khoản kê khai như sau:
Một khoản về việc: Lấy sứ quán tạm làm trường học được chăng?
- Hai linh mục và giáo sĩ nghĩ rằng ở sứ quán không tiện vì nơi này thấp khí ẩm. Các đồ nhất là cơ khí mau hư hỏng, lại không có ai thông ngôn cho. Vậy xin ở trên Kim Long mới tiện các lẽ, như đã có trong tờ đính hậu2
Một khoản về việc: Ba người giáo sĩ ai dạy nghề gì?
- Linh mục Thông biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim cho biết nó có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi. Linh mục Đồng biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng3, biết làm thu lôi trụ4. Giáo sĩ thì không dạy học trò được vì nặng tai, song cũng giúp linh mục Thông mà phân các tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc và xin Triều đình chỉ cho một nơi để lập một vườn, rồi đi các nơi kiếm có giống thảo mộc chi làm thuốc được thì đưa về trồng trong vườn ấy cho người ta biết mà dùng.
Một khoản về việc: Một tháng cấp phí mỗi người bao nhiêu?
- Các người ấy có ý giúp nhà nước mà thôi không có ý nào khác. Song xin nhà nước cấp cho vừa đủ thầy trò ăn mặc và tiêu dùng trong nhà. Vậy một tháng đầu hết thì xin mỗi người hai trăm quan, cho được sắm sửa các điều lệ tiêu dùng trong nhà. Còn sau thì xin mỗi tháng mỗi người một trăm quan để ăn mặc và thuê thày tớ. Nhà nước không phải cấp thêm chi nữa.
Một khoản về việc: Mỗi người dạy bao nhiêu học sinh?
- Khi học sinh đã hiểu biết ít nhiều thì cũng dạy được nhiều người một lần. Còn khi đầu thì khó dạy hơn, cho nên một thầy dạy mười người thì vừa.
Một khoản về việc: Học sinh phải lấy bao nhiêu tuổi?
- Học sinh muốn học tiếng Phú Lãng Sa thì phải chọn tự thập nhị chí nhị thập tuế5. Bằng học nghề khác thì tự nhị thập chí tam thập tuế6.
Một khoản về việc: Phí dụng của học sinh mỗi tháng tốn bao nhiêu?
- Việc ấy mặc lượng Triều đình. Song tôi nghĩ rằng nhà nước rộng cho người ta bao nhiêu thì người ta gắng ra sức học bấy nhiêu. Còn khi dạy về điện khí và phân ngũ kim thì tốn than củi lắm. Cho nên lúc ấy thầy dạy học sẽ xin dần dần.
Một khoản về việc: Dùng ai, bao nhiêu người để tiện thông ngôn?
- Khi lập trường học trên Kim Long thì ông Giám mục Bình sẽ cho một người là linh mục Thư thông ngôn cho. Còn danh Ca Xanh dù nhà nước có dùng nó cũng xin về Tây mà mua khí nghệ7 cho nhà nước, mà giá khí nghệ thì nhiều như tờ nó đã nói trước. Lại trong lúc nó về Tây mua đồ khí nghệ thì xin nhà nước phát cho mỗi tháng là nhất bách nguyên8 để mà chịu lộ phí tính từ khi nó ở Gia Định mà về Tây cho đến khi trở về đến Gia Định. Bao giờ về đến Gia Định mà ra Huế về sau thì mỗi tháng tam bách nguyên9. Lại xin đem qua thêm hai người nữa cho được giúp nó mà làm những điều đã nói trong tờ nó viết trước. Song hai người ấy thì mặc nó chịu, nhà nước không phải giúp chi hết. Nhà nước có ưng dùng nó thì xin giao cho xong. Bằng không dùng thì xin phát bằng cấp cho nó cho mau để nó tháp tùng hỏa thuyền mà về kẻo ở lại cũng vô ích. Ấy là lời nó xin.
Ngày nào tôi gần về Nghệ thì hai linh mục và giáo sĩ sẽ xin lên tạm trú trên Kim Long. Vì khi tôi đi rồi thì các người ấy ở lại để nhiều điều bất tiện.
Nay kính bẩm các đại nhân sáu Bộ xét.
__________________________________
1. Bản Hán văn Hv 189/4 tờ 68-71.
2. Giám mục nói tiếng Việt và nguyên văn chép bằng chữ Nôm, do đó ở đây phiên đúng theo ngôn từ của Giám mục. Những đoạn sau cũng vậy.
3. Dây truyền tin.
4. Thu lôi trụ.
5. Từ 12 đến 20 tuổi.
6. Từ 20 đến 30 tuổi.
7. Dụng cụ; đồ nghề.
8. Một trăm đồng.
9. Ba trăm đồng.
*
VI. 9. TỜ TRÌNH CỦA GIÁM GAUTHIER VÀ SOHIER1
(Ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 23-3-1868)
Giám mục Bình, Giám mục Hậu kính bẩm xin xét. Nay cứ theo linh mục Đồng, linh mục Thông và các giáo sĩ nói về khoản mở trường học thì công việc rất bề bộn, máy móc rất nhiều, nếu không có nhà cao ráo rộng rãi không thể mở trường dạy học được. Thiết tưởng ở xã Vạn Xuân tiếp liền nhà chúng tôi về phía Đông Nam có một khoảng đất trống ước chừng hai mẫu sáng sủa khả quan, địa thế có thể mở trường được, xin xuất công quỹ cất một ngôi trường làm trường quốc học lâu dài. Các người ấy tình nguyện chỉ vẽ cách thức xây dựng y như trường học bên nước Pháp, mới có thể mở dạy được. Họ lại xin được ở tạm nơi nhà chúng tôi để tiện làm thử. Khỏi mất thì giờ v.v...
Chúng tôi thiết tưởng các người ấy xin như vậy cũng có lý, nếu được chấp thuận không những họ được toại nguyện, mà tôi qua lại phiên dịch cũng rất tiện lợi. Nhưng việc này quan hệ đến quốc thể. Vậy dám trình bày đầy đủ. Cúi mong các quan lớn Bộ Công soi xét tâu trình lên, may được phê chuẩn, muôn đội ơn. Nay kính bẩm.
Trên đây chúng tôi chép lại lời Giám mục Bình nói.
Đồng ký tên: Giám mục Bình
Giám mục Hậu.
*
VI. 10. TỜ TRÌNH CỦA GIÁM MỤC GAUTHIER2
(Không ngày tháng - Nhưng chắc cuối tháng 3-1868)
Giám mục Ngô Gia Hậu xin kê khai các thứ đã mua và giao nạp như sau:
(Châu phê: Còn thiếu, lấy bản nào kiểm?)
- Sách nói về quặng sắt (Châu phê: Cái này đã mua, nên dùng thì nhận) (trong có các phép phân biệt quặng tốt quặng xấu) và đúc luyện thành sắt (trong có hình vẽ) (trong có các khuôn, các đồ dùng máy móc để nấu sắt chảy đúc thành các hình dạng): năm quyển lớn giá bảy mươi lăm quan.
- Sách nói về các tầng địa chất: một bộ hai quyển (có hình vẽ) giá hai mươi quan.
- Thước tam giác: một cái giá bốn quan.
- Sách nói về mỏ than (có hình vẽ) và cách lấy các thứ kim loại cùng các ngọc báu đá quý (trong có phân biệt các phương pháp khai thác): một quyển lớn, giá ba mươi quan.
- Sách nói về bách nghệ cơ xảo (Do tập hợp tất cả những nghề cơ xảo) của các nước phương Tây hiện có (Trong đó có hơn 3.500 hình vẽ): hai quyển lớn, giá năm mươi hai quan.
- Sách nói về quặng đồng: một quyển, sách nói về nồi tinh luyện kim loại: một quyển, sách nói về quặng chì: một quyển, giá chín quan.
- Bản đồ địa lý, dịa chất (6 trang) (do tôi đã trích ra một trang xét các tầng viết ra bằng chữ Hán rõ ràng đóng vào quyển sách địa lý quyển đầu); bản vẽ các dụng cụ máy móc (20 trang), giá bốn mươi bảy quan.
- Hai bộ thủy thủ (Trong có chân có thước), giá năm mươi quan.
- Một bộ kỷ hạn nghi (dùng để lấy kinh độ vĩ độ và làm địa đồ), giá hai trăm sáu mươi lăm quan.
- Thức bì, một trang, giá một quan.
- Một thước tích phân bằng đồng, giá bốn quan.
- Sách Chính sự nước Pháp: Hai quyển, giá 7,02 quan.
- Sách Thiên văn: một quyển, giá 3,02 quan.
- Đồ đóng sách (còn thêm năm lần nữa), giá 16,04 quan.
- Thước đo nhiệt độ: bốn cái, giá 17,02 quan.
- Bàn xoay đinh ốc: Ba cái, giá 31 quan.
- Các bàn dập đinh ốc (có cái lớn cái nhỏ và đồ cưa sắt, giá ba trăm chín mươi bảy quan).
- Tự điển tiếng Pháp thứ lớn: hai quyển, giá mười lăm quan.
- Tự điển tiếng Pháp thứ nhỏ: hai quyển giá năm quan.
- Sách Văn phạm tiếng Pháp: mười chín quyển, giá mười tám quan.
- Sách học tiếng Pháp: sáu quyển giá mười một quan.
- Các mẫu đất đá nung thành gạch để làm lò nấu sắt: giá năm quan.
- Các lớp đất quặng và các thứ kim loại, ngọc thạch (mua về làm mẫu): giá một trăm quan.
__________________________________
1. Bản Hán văn Hv 189/4 tờ 71-72.
2. Bản Hán văn Hv 189/4 tờ 72-79.
Nguyễn Trường Tộ lại mua thêm:
- Sách nói về các tầng địa chất: một bộ hai quyển, giá hai mươi quan.
- Sách Thiên văn: một quyển lớn (có nhiều hình vẽ), giá hai mươi hai quan.
- Sách nói về mỏ than và lấy kim loại cùng các thứ châu ngọc, ngọc thạch: một quyển lớn (Trong có phụ đính tám quyển, một bản đồ viết ra chữ Hán), giá ba mươi quan.
- Địa đồ tự vựng: một quyển, giá sáu quan.
(Tất cả các thứ trên đều đã mang về để tại sứ quán).
Tổng cộng: 1.266 quan
Còn các thứ đã mua xong, chưa kịp chở về, khi nào về đến sẽ xin bẩm nạp.
Các thứ ấy xin kê như sau:
- Bàn sắt có bánh xe: một bộ, giá một trăm bốn mươi quan.
- Điện khí thông tiêu: hai bàn, giá một trăm sáu mươi quan.
- Quang học tả chân: một bộ và các thứ bình đựng, giá bảy trăm hai mươi quan.
- Sách Trắc lượng: hai quyển, giá bốn quan.
- Sách Hàng hải: hai quyển, giá mười một quan.
- Sách điện khí thông tiêu: hai quyển, giá hai mươi quan.
Các thứ trên cộng lại là 1.055quan.
- Tiền thuê đóng thùng và chuyên chở bằng tàu lửa: bảy mươi tám quan.
Các khoản chi phí của hai phái viên lấy tiền nơi linh mục, kê như sau:
- Chuyến về, ba người ăn tại khách sạn Tu Long cộng chung là 473,518 quan (Mỗi người ở hai mươi ba ngày, thầy trò đều như nhau, nhờ người quen tìm khách sạn rẻ nhất).
- Tiền ăn ở tại nhà giảng đạo thành A Lịch Sơn nước Ai Cập một tháng bốn ngày, hai phái viên mỗi người 99,345 quan, tên Phú sáu mươi tám quan. Cộng ba người là 266,730 quan.
- Tiền ăn ở tại Viện Truyền Giáo thành Ba Lê Tư, mỗi người một trăm hai mươi lăm ngày. Phái viên mỗi người hết ba trăm bảy mươi lăm quan, tên Phú hai trăm năm mươi quan. Cộng chung ba người là một ngàn quan.
- Hai phái viên mượn tạm ở thành Ba Lê Tư một số tiền là 449,730 quan.
- Chuyến đi, ba người ăn ở tại khách sạn Tu Long, cộng chung là 19,20 (do nhờ người quen tìm ở khách sạn rẻ nhất).
- Khi đi, tại Tu Long thuê người khuân vác và đánh điện tín cho giám mục, ba người hết 14,10 quan.
- Tiền tàu lửa (hạng nhì) khứ hồi (từ Tu Long đi Ba Lê Tư, từ Ba Lê Tư về Tu Long) ba người hết 468,60 (còn các khoản tiền tàu lửa đi về ở nước Ai Cập, quan Pháp chưa tính).
- Chuyến về từ Tu Long đến Gia Định, tiền thuê bốc vác 99,230 quan (trong đó tiền bốc dỡ 17,230 quan, tiền khuân vác 12 quan). Còn các khoản đáp thuyền nhà nước đi về ăn uống, quan Pháp chưa tính.
Trên đây ba phái viên cộng chung hết 2.721,148. Lại thêm tiền đóng thùng tiền tàu lửa hết bảy mươi tám quan. Hai khoản cộng chung lại là 2.799,148 quan.
Tất cả các thứ đã mua về hiện để tại sứ quán, thưa phải nộp vào đâu xin chỉ rõ cho biết. Lại Nguyễn Trường Tộ bẩm rằng: “Các lớp đất quặng cùng các thứ kim loại ngọc quý, đó chính là do tự tay tôi chọn mua. Nếu như mua đủ các loại, mỗi loại một khối, số tiền sẽ lên đến một vạn quan, cho nên chỉ chọn mua ít thứ rất cần yếu mà thôi. Xem đó mới biết rằng trong đất đá có nhiều chất trông tựa hồ vàng bạc ngọc báu mà thực ra không phải. Nếu tìm được những đất đá có dạng khác lạ ở đâu mang lại so sánh tức phân biệt được thật giả. Số này nguyên mua được một trăm ba mươi lăm khối, trong đó tôi đã xét theo mỗi tầng lớp viết ra chữ Hán được năm mươi khối, số còn lại chưa có chữ Hán để viết. Tôi lại thân hành đến thành Kỳ Sơ Tô, nơi hầm khai quật mỏ than, nhặt được 20 khối đá, thuộc tầng trên của mỏ than; cũng xin phụ vào để làm mẫu. Kính bẩm nạp luôn”.
*
VI. 11. TỜ TRÌNH CỦA GIÁM MỤC GAUTHIER1
(Ngày 2 tháng 3 năm Tự Đức 21, tức 25-3-1868)
Giám mục Ngô Gia Hậu bẩm về việc xin đi theo thuyền nhà nước.
Bởi vì chuyến đi Pháp tôi có mang theo về hai linh mục và một giáo sĩ, trong đó, giáo sĩ này là người thông minh học rộng. Nhưng ông ta có bệnh cũ, trước nay ở phương Tây khí hậu lạnh lẽo chưa phát. Từ khi sang quý quốc, khí trời quá nóng, chứng bệnh phát dần, sợ lâu ngày lại sinh nhiều bất tiện. Ông ta xin tôi liệu biện làm sao giúp cho ông ta được trở về quê cũ là yên v.v...
Vậy khi nào sứ bộ lên đường, xin cho ông ta đi theo sứ thuyền hoặc đến Gia Định, hoặc đi Hương Cảng. Sau khi đến đó thì đã có đạo đồ Nguyễn Hoằng lo liệu cho ông ta về nước, không dám làm phiền Triều đình. Nay kính bẩm liệt vị đại nhân sáu Bộ soi xét.
*
VI. 12. TẤU CỦA CƠ MẬT VIỆN2
(Ngày 20 tháng 3 năm Tự Đức 21, tức 12-4-1868)
Thần Nguyễn Tri Phương, thần Vũ Trọng Bình, thần Phan Huy Vịnh, thần Trần Tiễn Thành tâu:
Nay cứ một tờ bẩm của Nguyễn Trường Tộ xin chép lại tiến trình.
Châu phê: Hãy giao cùng duyệt luôn.
Châu phê: Sứ ta đến đó? Cho dù tướng ấy muốn gây trở ngại cũng còn có nhiều người nước họ đem công lý ra chống lại. Hoặc cùng tướng cũ kết ân tình hay có thể tìm đường lối khác, không phải là không được, còn hơn ngồi nói suông.
__________________________________
1. Bản Hán văn Hv 189/4 tờ 79-80.
2. Bán Hán văn Hv 189/4 tờ 80.
VI. 13. VIẾT THAY GIÁM MỤC GAUTHIER1
(Ngày 11 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 4-3-1868)
Giám mục Ngô Gia Hậu xin đem các khoản học tập kê ra sau này:
1. Thiên văn. Như sự vận hành của mặt trời mặt trăng, sự thuận nghịch của năm hành tinh, độ số giằng kéo của tinh vân, sự tính toán sai lệch của các hành tinh và thời tiết để làm lịch, tất cả những hiện tượng trên trời dưới đất, đã được học đều đem ra dạy. Trong đó có nhiều phương pháp mới, chép đủ cả trong sách, hiện đã mua về, khó lòng kể hết trong một lúc. Còn trong thiên văn, đã có trí học ở trong đó đợi đến khi giảng dạy, sẽ dần dần phân biệt sau.
2. Địa lý. Địa văn như bốn mùa, tám tiết, đêm, ngày, độ nóng lạnh, cho đến các hiện tượng khác như động đất. Trong đó có nhiều phương pháp, đủ cả trong các sách Tây đã mua về, bẩm nạp. Còn địa toán như mạch lạc sông núi và hình tích các địa tầng, có kim loại có ngọc và đá quý ra sao, các mỏ chìm nổi như thế nào cũng tạm phân biệt được, nhưng cần phải có nhiều công phu nghiên cứu mới được. Hiện đã có mua về đủ các sách để dạy (còn trong khoản thiên văn, địa lý, lại có một khoản toán học, cũng nên học tập trước).
Một khoản địa lý gọi là địa chính, trong đó có các phép đo đạc độ số để vẽ địa đồ trong nước, và còn dạy cho biết tất cả những núi, sông, hồ, bể, thành trì, thổ sản, thổ nghi, phong tục, chính sự hình thể lớn nhỏ mạnh yếu nhân dân, quan quân, những thứ có ở trên mặt đất của các nước trên địa cầu, cùng những phép hàng hải...
3. Hóa học. Trong có các phương pháp phân biệt các thứ vàng, bạc, đồng, thiếc, kẽm, sắt v.v... và các phép luyện kim để biết có lợi hay mất vốn. Ngoài ra còn nấu được các thứ thuốc để phân biệt các vật như nước tiêu cường, nước khoáng cường, các loại hỏa mai của phương Tây. Nhưng các đồ khí cụ hóa học hiện nay chưa về. Tôi đã bỏ tiền riêng ra mua sắm hơn hai ngàn quan để làm đồ dùng lúc đầu, khi dạy hóa học, và một trăm cân tiểu cường, cũng đều đã gởi đi, nhưng vì đường đi sóng gió núi bể xa xôi nên chưa về đến. Những món mua riêng đó là để cho giáo sư dùng chút đỉnh trong việc dạy mà thôi. Nếu muốn ứng dụng nhiều thì phải mua nhiều khí cụ mới được.
4. Trí học. Như phân biệt những khí loại, cần nhất là điện khí thông tiêu, cũng nên lấy khoản điện khí thông tiêu ra dạy học, còn nữa chưa cần lắm.
5. Cơ xảo. Đã có chữ nghĩa bản đồ đủ ở trong sách, chỉ chọn người biết rõ lý thuyết và công dụng, là có thể giảng dạy được những cơ khí hiện có. Trừ máy tàu thủy, không thể chỉnh lý được, còn các máy móc tầm thường khác có thể sắp xếp, như tháo từng bộ phận hoặc ghép tiếp vào được. Có một giáo sĩ tên là Lý (Nguyên người Y Pha Nho) giỏi về hóa học, cũng biết địa lý, đã từng học qua các môn nội, ngoại khoa về thuốc, nhưng chưa đem ra ứng dụng bao nhiêu. Lại như Ca Xanh, y có thể làm được máy tàu thủy đi đường sông, lại biết xây lò đúc sắt, có thể đúc thép gang. Có thể xây được lò lớn, chứa đựng hàng vạn cân quặng. Còn các máy móc khác nếu có bản vẽ và có người chỉ, y cũng làm được.
Các khoản trên đây, trừ Ca Xanh ra không kể, còn trong các môn giảng dạy như: thiên văn, địa văn hiện nay đã có sách, có dụng cụ rồi, bất kỳ lúc nào, cũng có thể bắt đầu dạy được. Các môn địa chính, địa toán cũng vậy. Nhưng môn địa toán cần phải dựa vào môn hóa học. Hiện nay các khí cụ dạy hóa học chưa về đến, chỉ có một ít do giáo sư mang về có thể làm được một vài thí nghiệm mà thôi.
Lần này tôi đã hết lòng liệu lý mọi việc, trông cho nước Nam có lợi mà ít tốn.
Nếu Triều đình quyết ý thực hiện, thì một mặt mở trường dạy học, một mặt xem học sinh tiến bộ như thế nào, mà mua thêm đồ dùng. Lúc đầu do nhỏ mà đến lớn, do nông mà vào sâu. Lúc đó quả có đắc lực thì lại thuê thêm những người giỏi, mở rộng việc dạy dỗ, như ở phương Tây, mới được công dụng lớn.
Còn như lần này, chỉ mới mở đầu khơi ngòi, cho người Nam tiêm nhiễm dần dần với phương Tây mà thôi. Nhưng cũng phải xem học sinh siêng nhác và tính tình ham thích như thế nào đã. Cho nên chúng tôi chưa dám quyết định thế nào. Ở phương Tây, một người học một nghề, học lâu mới thông thạo. Vả lại bên ấy đã thành nề nếp rồi, từ nhỏ mắt thấy tai nghe, gặp đâu cũng là học cho nên tự nhiên dễ tiếp thu, dễ học hơn người Nam nhiều.
Nay nếu Triều đình bắt buộc phải ấn định thời gian, thì tôi không dám phụng mệnh. Vả nước Tây đã có nhiều cách khuyến khích, mới khiến cho người ta phấn khởi học hành như lối khoa cử ở nước Nam vậy. Xin Triều đình nghĩ kỹ các duyên cớ, thế có thể làm được thì làm, mới ổn.
Nay
kính bẩm
Nguyễn Trường Tộ ký
Nguyễn Trường Tộ ký
__________________________________
1. Bản Hán Văn Hv 189/3 tờ 13-15.
*
VI. 14. VIẾT THAY GIÁM MỤC GAUTHIER1.
(Ngày 12 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 5-3-1868)
Nay vâng Bộ đường đại nhân truyền bảo giám mục và chúng tôi đi về tổn phí bao nhiêu phải kê khai rõ ràng các khoản.
Tôi xin kê như sau này: Đi về lần này, tổn phí ăn uống của giám mục gấp đôi chúng tôi. Khoản tổn phí ăn uống của chúng tôi ở thành Á Lịch Sơn và ở thành Ba Lê cũng như tiền hỏa xa ở nước Pháp (trừ tiền hỏa xa ở Ai Cập đã có sứ quán Tây chi cấp), mỗi người chi phí cũng như các phái viên. Hai món tiền này, do Tổng Giám mục tự xuất tiền của giáo viện ra chi cấp. Còn Giám mục Hậu và chúng tôi đi thuyền quan và tiền hỏa xa ở nước Ai Cập đã có nước Tây chi cấp, chúng tôi không phải chịu gì hết. Còn như chúng tôi tiêu phí riêng như: áo quần, xe pháo, và quà bánh lặt vặt, đều do chúng tôi tự liệu, gặp đâu tiêu đấy, không có sổ sách gì. Vả lại trước đây chúng tôi đã được Triều đình cấp phát cho một số tiền túi để chi dụng, chúng tôi rất lấy làm xấu hổ và sợ hãi nhưng khó từ chối được, nếu nay lại cứ theo luật mà khai ra, thì ra điều nhỏ nhen quá, không đành lòng. Vì vậy không dám kê khai nữa, xin miễn cho điều đó.
Nay
kính bẩm.
*
VI. 15. VIẾT THAY GIÁM MỤC GAUTHIER2.
(Ngày 12 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 5-3-1868)
Về khoản trường học này, nếu học sinh ăn ở chung với giáo sư luôn, thì khi có quên, hoặc không hiểu điều gì có thể hỏi ngay, rất có lợi như thế thì phải có nhà cư trú cho học sinh. Nếu cứ theo thời khắc biểu mà đi về, thì không cần phải có nhà.
Còn như giáo sư, thì phải có nhà lớn, như nhà sứ quán. Trong có nhiều phòng để trữ riêng các khí cụ. Cũng phải có một vài chỗ để dạy riêng, nhưng dạy chung cũng nhiều, vì có nhiều lý sự quán xuyến nhau. Nếu dạy riêng mỗi nghề một nơi, thì thiếu thông ngôn. Vì các nghề ấy, lý sự nhiều khi sâu kín, nếu thông ngôn không hiểu chữ, hiểu nghĩa, thì nói ra có khi sai một ly đi một dặm. Cho nên thông ngôn cũng phải hiểu biết như các giáo sư thì thông dịch mới không sai.
Vả lại thông ngôn cũng đã hiểu qua sự lý các nghề, mới có thể nhân cái này biết cái kia, mà lấy những sự vật trước mắt mình thí dụ giải thích, thay cho giáo sư một phần, thì học sinh mới thông suốt dễ dàng. Những hạng thông ngôn được như thế rất khó kiếm, cho nên dạy riêng rất khó, mà phải có một ngôi nhà lớn. Tuy cũng có khi dạy riêng, nhưng phải ở gần nhau, qua lại xem xét, mới được dễ dàng tiện lợi. Lại như khoản thông ngôn, hiện nay rất là cần gấp, ắt phải phái người hết sức học tập, để dùng vào các việc qua lại thương thuyết sau này. Nếu muốn học tiếng Y Pha Nho, cũng có giáo sĩ dạy cho. Về các khoản dạy học này, chúng tôi cũng đều có dạy rồi cả. Nay học sinh đến học, thì phần nhiều học với chúng tôi, chứ không phải chuyên học với các giáo sư. Có điều là chúng tôi tuy giảng nói nhưng giáo sư thì có khí cụ. Có lời nói để giải thích, có khí cụ để chứng minh, thì sự hiểu biết mới trọn vẹn được. Nếu học sinh học hết những điều sở học của tôi, thì cũng đã tốn hết nhiều công phu rồi. Rồi từ đấy tiến lên, cũng không khó nữa.
Ngày nào bàn việc làm nhà, thì nên bàn với các giáo sư về cách sắp xếp các phòng trong nhà như thế nào mới được hoặc là kiểu nhà, có nhà lớn, hai bên có hai nhà nhỏ, để tiện cho học sinh ăn ở như kiểu nhà sứ quán cũng được. Hoặc tạm lấy sứ quán làm nhà học cũng có thể bớt phí tổn. Đợi sau thí nghiệm xem có thể mở rộng sự dạy dỗ, thì sẽ dựng một tòa nhà dạy học lớn, và mời thêm nhiều giáo sư nữa mới được.
Nay
kính bẩm.
__________________________________
1. Bản Hán văn Hv 189/3 tờ 16.
2. Bản Hán văn Hv 189/3 tờ 17.
1. Bản Hán văn Hv 189/3 tờ 16.
2. Bản Hán văn Hv 189/3 tờ 17.
*
VI. 16. VIẾT THAY GIÁM MỤC GAUTHIER1
(Ngày 19 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 12-3-1868 )
Giám mục Ngô Gia Hậu xin đem tình thật bẩm rõ như sau:
Nguyên năm trước ở Nghệ An, chúng tôi đã có tờ bẩm lên Bộ nói rằng: Nếu chúng tôi được phái đi Tây, thì tổn phí đi về, đều do chúng tôi tự chịu lấy.
Đến ngày lên Kinh, thầy trò chúng tôi lại được cấp cho một khoản tiền mang theo người, thế khó từ chối, chúng tôi thật vô cùng áy náy.
Nay Bộ lại truyền báo khai thật cho rõ ràng. Chúng tôi nghĩ lại lời nói trước đây thật khó mở miệng, vì thế mà chần chừ chưa quyết.
Xin cho đình chỉ việc bắt kê khai các khoản, chúng tôi rất cám ơn.
Nay kính bẩm lên Lễ Bộ đường đại nhân soi xét.
*
VI. 17. VIẾT THAY GIÁM MỤC GAUTHIER2
Giám mục Ngô Gia Hậu xin đem các dụng cụ, do Bộ trưởng Ngoại giao của Triều đình Pháp tặng cho trường học, liệt kê như sau:
(Châu phê: Hỏi xem những thứ này đã đem về sứ quán chưa? Nếu đem về rồi, khá trình xem để biết).
- Chính kỷ hạn nghi, một cái.
- Kính thiên văn, hai cái (Một cái lớn bề mặt ước năm tấc và một cái nhỏ), đều dùng để xem thiên văn.
- Quang học tả chân, một cái.
- Đồng hồ, hai cái thật tốt, dùng để đi biển.
- Phong vũ biểu, ba cái.
- Hàn thử xích, năm cái.
- Máy điện tín, một bộ, đầy đủ các dụng cụ bên trong. Giám mục còn xuất tiền riêng ra mua một số dụng cụ rời thêm vào (hai trăm năm mươi quan).
- Lượng thiên xích, một cái.
- Kính hiển vi, một cái.
- Ống rút khí, một cái.
- Máy phát điện, một cái.
- Tá địa chủ, một cái.
- Bản đồ đi biển, một cuộn lớn.
- Các dụng cụ trên đây đều do Triều đình Pháp tặng cho tôi để dùng vào việc dạy học. Nay giao tất cả cho các giáo sư để giúp cho học sinh tập sử dụng, nên làm tờ kê khai này. Về giá tiền các dụng cụ đó ước vào khoảng một vạn quan. Nếu không dạy học, tôi cũng không dùng nó làm gì.
Nay
bẩm.
Nguyễn Trường Tộ ký.
Nguyễn Trường Tộ ký.
(Châu phê: Nguyên tên Hậu đã nói rõ như thế, có nên bảo bọn tên Hương nạp tất cả chăng? Giá tiền hoàn lại bao nhiêu do Bộ hỏi tên Hậu rồi phúc trình ).
__________________________________
1. Bản Hán văn Hv 189/3 tờ 18.
2. Bản Hán văn Hv 189/3 tờ 19.
PHỤ
LỤC VII
Các tờ tấu tờ trình năm 1870
Các tờ tấu tờ trình năm 1870
VII. 1. TẤU CỦA CƠ MẬT VIỆN1
(Ngày 29 tháng 1 năm Tự Đức 23, tức 28-2-1870)
Cơ Mật Viện thần tâu:
Ngày 16 tháng này Viện thần tuân phụng phê thị đã tư cho Nghệ An mật hỏi tâm tích của Hậu, Tộ.
Nay đốc thần tỉnh này là Hoàng Tá Viêm đã gởi về một bản mật phúc xin tiến trình hầu được rõ thấu.
Thần Nguyễn Tri Phương, thần Trần Tiễn Thành, thần Phạm Phú Thứ phụng thảo duyệt.
Châu phê: Mật tư ba viên tỉnh này sao không nhân lúc bình thường hỏi thử bọn Tộ, Điền đạo của chúng có chỗ nào hay mà cố theo, có học thức mà cũng mê là vì sao vậy? Và sao không lưu ý nhân lúc nhàn đàm hỏi xem để tìm hiểu lý do vì sao mà ở Nam kỳ.
_______________________________________
1. Bản Hán văn: Châu bản Triều Tự Đức, quyển 212 tờ 59a (Kho lưu trữ 2).
*
VII. 2. TỜ TRÌNH CỦA TỈNH THẦN NGHỆ AN1
(Ngày 26 tháng 3 năm Tự Đức 23, tức 26-4-1870)
Thần Hoàng Tá Viêm, thần Ngụy Khắc Đản, thần Trần Nhượng tâu:
Ngày mồng 4 tháng trước tiếp Cơ Mật Viện thần mật lục, phụng châu phê: Mật tư ba viên tỉnh này sao không nhân lúc bình thường hỏi thử bọn Tộ, Điền đạo của chúng có chỗ nào hay mà cố theo, có học thức mà cũng mê là vì sao vậy? Vì sao không lưu ý nhân lúc nhàn đàm hỏi xem để tìm hiểu vấn đề Nam kỳ như thế nào? Khâm thử.
Thiết chiếu việc tả đạo mê hoặc người bọn thần đã nhiều lần xét hỏi. Nhưng đạo đồ chỉ nói: ông cha theo, con cháu không dám trái. Còn đạo trưởng và những người biết chữ đọc sách như bọn Nguyễn Trường Tộ thì đều tự cho là đạo của họ chỉ có cái khác là tế tự không dùng rượu thịt, không dùng vật tế mới sạch sẽ. Giám mục linh mục không lấy vợ vì cho rằng có vợ con sẽ yêu vợ con không thể giúp đỡ đạo đồ đến dốc hết lòng làm việc thiện để đưa mọi người về với đạo. Lại bảo tất cả các giám mục đều từ xa đến mà sống chung cùng đạo dân, ân ý còn hơn cha con. Đạo của họ tự hồ có chỗ thiết thực. Còn như chuyện mê lầm như thế bọn thần thường tìm hiểu, lấy lý suy xét cũng không rõ được. Vả lại ở trong hạt của thần các thân sĩ có ý chống ghét tả đạo gần đây còn chưa nguôi. Bọn họ ở trong tả dân, không khí hãy còn nặng nề, còn xem nhau ngăn cách không muốn tỏ ra hòa hiệp, lại ngại không tốt. Cho nên ngày thường bọn họ ít đến, nếu có chuyện đến chẳng qua một khắc vài câu không liên quan gì đến tả đạo. Hỏi họ họ cũng không thể trả lời được.
Về tình hình biên cương cơ mật thì trừ Nguyễn Trường Tộ ra thần chưa dám đem hỏi ai. Chỉ có thần Ngụy Khắc Đản nghĩ rằng bọn họ cũng là người đồng hạt gặp thì thăm hỏi hoặc cũng có khi họ nói đại để rằng đạo trưởng phần nhiều là những người chân thật ăn nói có ý tứ, cũng tìm hiểu ít nhiều sự lý và cũng có vẻ biết trọng cái gốc. Duy có Nguyễn Điều là hơn cả, xét lời lẽ ý khí của y tuy so ra không bằng đạo trưởng Lê Văn Trung tỉnh hạt Quảng Nam. Đạo đồ của y nghe y cũng không bằng đạo dân Quảng Nam đối với đạo trường của họ (Ngày cựu ước chưa định xong, thần nhân thay quyền Niết ty Quảng Nam, nghe Nguyễn Văn Vân nói: Sao không tính xin hết số tráng đinh dân đạo ra tòng chinh hoặc thay binh lực của dân lương. Sức hỏi dân ấy thì đều nói là rất muốn. Và cùng với lời của Văn Trung thì tự hồ thật có phấn khích. Gần đây nghe đạo dân hạt ấy chưa có đạo trường Tây. Nhưng năm thứ 21 Giám mục tên Trí có đến một lần, một tuần nhật rồi về lại Bình Định là nơi nguyên ngụ. Hỏi việc này thì đại khái Nguyễn Điều cũng nghe như vậy, hơn nữa còn nói rằng đó là vì do Văn Trung cho rằng hạt này đạo dân ít lại nghèo nên từ khước đó). Nhưng y thì đối với sự tình người Tây y nghe được điều gì đều không giấu, hơn nữa y còn lấy làm ngại việc nhượng giao và lập tân ước. Còn như phải xử trí ra làm sao thì y chưa nghĩ đến. Sau khi tiếp được mật lục, bọn thần nhiều lần bàn để cho thần Ngụy Khắc Đản mượn việc khác mời đến, nhân đó mật hỏi.
Những điều Nguyễn Trường Tộ nói đều đã có mật văn bẩm lên Binh bộ thần rồi. Nguyễn Điều nói: Năm ngoái nghe Ngô Gia Hậu thuật lại chuyện Tây soái gởi di văn cho Bình Thuận, khẩn cấp truy nã những nghĩa dân trốn tránh ở đó. Phủ thần Thuận Khánh liền lấy cớ trước đây bọn đào phạm trốn ở Gia Định Tây soái có bao giờ truy nã giao cho Triều đình đâu, rồi phúc thư từ khước, Tây soái phải chịu, các quan Tây đều khen (Nói lại theo thư báo Gia Định) rằng chấp lý như vậy rất đúng tự nhiên. Nhân đó mà suy, tân ước nếu không thể thay đổi được thì phải tìm lý lẽ tự nhiên công cộng mà nói, hoặc có thể quy cho công luận sĩ dân không thỏa mãn. Các nước phương Tây, tất cả những việc gì quan trọng mà chưa có định lệ họ đều đưa ra Thứ dân hội nghị quyết định. Đem tục lệ của người Tây đối phó lại với người Tây cũng có thể có lý khuất phục họ được.
Gần đây Gia Hậu hỏi y rằng việc Tây soái xin cải ước, công nghị ra sao đã được biết chưa? Y nói việc trọng đại y không được biết mà y cũng chưa nghe, nhưng xem nhân tình bề ngoài thì tựa hồ chưa được. Gia Hậu hỏi lý do. Y nói ước đã định rồi người Tây tự bội ước ép lấy ba tỉnh Long Giang Hà rồi lại đòi cải ước nhượng giao, chỉ biết lợi mình không biết gì đến tín nghĩa. Như thế là ỷ thuyền bè kiên cố súng ống hùng mạnh mà thôi. Còn trông cậy gì được vào hòa ước. Mỗi lần y gặp các thân hào, mọi người đều nói rằng thỏa ước không thể trông cậy gì được mà cũng sửa đổi. Lòng người đã nghi, làm sao có thể giải thích. Giả sử có vài bọn bất sính không theo khuôn phép, mượn cớ đó xướng lên rằng người Tây tham lam vô độ, rồi mượn tiếng là phải bảo vệ xúi giục nổi lên, thì hòa ước chưa chắc đã hòa được bọn này, nhọc công vô ích. Lúc đó người Tây có thể giúp gì được chăng? Như giúp được mà thuyền Tây không thể đến, súng Tây không thể tới thì khác nào người Tây chẳng làm gì được. Thế thì không theo cái đòi hỏi của Tây soái mối lo còn nhẹ, nếu theo mối lo còn nặng hơn. Cho nên y còn nghi là chưa thể được. Gia Hậu im lặng một lát rồi nói: Tính chuyện giảng hòa với Tây là tự nhiên, nói theo công cộng sự lý tức là không chống cũng không hạ thấp. Hơn nữa y trộm nghe chuyện ép lấy Long Giang Hà, các quan Tây phần nhiều đều chỉ trích cái quấy của soái trước.
Như vậy thì khoản này chưa chắc đã do bên nước ấy sai khiến và chuyện đòi nhượng giao biết đâu không phải là do soái này ham lập công đưa ý kiến ra. Nếu đến dự hội nghị cần phải chọn lựa kỹ người thông ngôn. Nếu không chọn được người xứng đáng, không những không xong việc mà còn tiết lộ công chuyện nữa.
Nếu chọn được người cứ việc thong thả họp bàn, nói ý cho anh ta biết rồi cung cấp tiền bạc khiến anh ta ngầm qua lại giao thiệp với các quan Tây, trong số đó thấy người nào có thể nói được thì tặng biếu giao kết với họ nhân đó đem chuyện dân tình xôn xao bên ngoài nói vào trong hội nghị, các quan Tây nghe được ắt sẽ báo lại soái của họ hoặc tin về bên nước họ, như thế cũng có ích phần nào. Thần hỏi: Ai là người làm được việc này? Y nói: Ở hạt khác y chưa biết còn trong hạt của thần thì có Lê Văn Điều (Tức trước đây viết lầm là Nguyễn Điều) là người thông hiểu tiếng Tây (Nguyễn Điều chỉ biết tiếng Latinh mà thôi) và biết chút ít về tình hình của Tây. Thần hỏi: Tình trạng các đạo dân Bắc kỳ gần đây thế nào? Đáp: Không có tin tức gì lạ. Nhưng mạn bên phải của sông Nhị (là vùng phân chia cho người Pháp giảng đạo) đã có năm linh mục người Pháp nhiều lần đến đòi chia ở nhưng đạo dân các nơi không chịu (Nói rằng có đạo trưởng bản xứ của Bắc kỳ cũng đủ rồi), hiện họ đang tụ lại ở đằng chỗ của giám mục (Giám mục rước tên Đông đã qua đời, tên Phúc thay thế, đều là người Pháp). Mạn bên trái của sông (Thuộc vùng phân chia giảng đạo của Y Pha Nho) thì có giám mục tên Hi (người Y Pha Nho) biết chữ Hán, đạo hạnh rất được đạo dân tin tưởng, lương dân cũng không giận ghét. Từ khi Tây soái bội ước thường nghe các đạo đồ Bắc kỳ nói tên Hi mắng nhiếc Pháp chuyện này lắm. Vả lại nói: Nếu như chuyện đòi nhượng giao là chẳng đặng đừng, thì cũng nên châm chước để được sự tương trợ của người Pháp có thể được lợi ích lớn, lấy danh nghĩa bổ định một vài điều để mà trao đổi còn hơn. Nhưng không nghe nói những lợi ích đó là lợi ích gì.
Sau khi về, Nguyễn Điều có hai lần gởi mật thư cho thần. Thư trước nói có nghe sứ Y Pha Nho muốn đến yêu cầu bồi thường tiền và lập phế, nhưng đó cũng là do soái Pháp xúc sử.
Thư sau nói có một hôm Gia Hậu hỏi y rằng thần gọi đến hỏi việc gì vậy? Y nói sắp đến kỳ lễ của đạo (ngày 17 tháng này) nên sức cho y việc tụ họp đạo đồ giảng đạo hành lễ phải giữ pháp luật, đừng làm bất hòa với dân lương. Gia Hậu nói: Chỉ đem chuyện hòa ra trách dân đạo mà không trách dân lương thì làm sao hòa được? Cũng chẳng khác nào nước Tây cầu hòa mà ta chưa chịu thì cũng chưa được thôi. Y nói: Đó là hiểu dụ người đạo, còn hiểu dụ người lương thì nói với người lương. Còn như việc hòa nghị giữa hai nước hình như còn có chỗ khó khăn là vì người Tây tráo trở đa đoan, nước tôi cần phải cân nhắc lợi hại. Hòa ước cũ mới định xong nay lại đòi sửa đổi. Hòa ước cũ do ba nước họp định, từ trước đến nay không nghe người Y Pha Nho đề cập gì đến chuyện bồi ngân lập phố cả. Soái trước cũng đã từng bảo đình chuyện bồi ngân, nói nếu người Y Pha Nho có hỏi sẽ tự chịu bồi hoàn. Nay soái mới vừa đến đã vội lật lọng. Vả lại chuyện nghe người Y Pha Nho xin đem việc này ra Triều đình họp nghị thì không được biết, nhưng xem tình hình bên ngoài thì mọi người đều nghi rằng người Tây muốn gấp rút cho xong việc này vì sợ không dễ lấy cớ lương đạo hiềm khích bất hòa mà cũng vì người ta đã nghi ngờ người Tây và nghi ngờ cả đạo của họ nữa nhiều lắm rồi. Gia Hậu cười nói: Chưa bàn đến chuyện hòa ước thành hay không thành, hội định tại Nam kỳ hay tại nước Pháp, vấn đề là ta phải lấy được lòng Tây soái. Không được lòng thì dẫu có hòa cũng chưa chắc sẽ không sinh sự. Bởi vì Tây soái thống trị sáu tỉnh này, có quyền hành giải quyết mọi công việc. Lại nói: Tên Trường biết khá nhiều tình thế nước ta, nay làm đệ nhất thông ngôn cho giám đốc Tây, chỉ vẽ mọi việc thông dịch sự lý trong các giấy tờ qua lại đều do cả. Hôm qua Nguyễn Điều lại đến (Trước đã có hẹn sau khi giáo lễ xong thỏa thiếp mọi sự không có gì trở ngại thì sẽ đến báo). Trong lúc nói chuyện thần lại hỏi về tin tức Gia Định nhân đó đề cập việc cải ước. Y nói: Gần đây chưa nghe tin tức gì còn việc cải ước thì theo ý kiến của y, cứ nên đổ riệt cho là sĩ dân không thuận để thong thả xem họ thế nào. Bởi vì các đạo trưởng Tây chia nhau giảng đạo nhiều nơi, tuy họ không dự vào việc công của Tây nhưng thường có thư từ qua lại với Tây soái, trong đó làm sao khỏi đem sự thế dân tình ra hỏi nhau (Nay chính Gia Hậu vừa mới thư cho Tây soái nhưng bọn y không được xem). Cải ước chưa định xong thì có cựu ước chẳng ngại gì cả. Cứ từ từ để cho cái tình trạng không được thỏa thiếp ngày một truyền bá ra khắp cả Nam kỳ cũng như phương Tây như là điều không hợp đạo lý công bình thì họ sẽ nghĩ lại. Thần hỏi: Gia Hậu đề cập tên Trường là người thế nào vậy? Đáp: Tên Trường trước là linh mục. Từ khi thuyền Tây đến Gia Định thì phần nhiều kém đạo hạnh, lệch lạch ra ngoài phạm vi đạo trưởng, năng lui tới Tây soái tìm vui. Gia Hậu nhân y nói người Tây tráo trở nên lấy câu này mà gọi người đa đoan đó là tên Trường. Lại nói: Y vốn đã theo tả đạo làm đạo trưởng, chẳng hiểu biết gì mà nghị bàn lếu láo đến việc công thật là không phải. Huống nữa chuyện của giám mục nói riêng mà y lại truyền bá ra nếu lọt tai trinh thám, thầy y là giám mục hay được không những đem đạo hạnh ra quở trách mà còn không khỏi nghi kỵ nữa nên xin thần hãy giữ kín, nếu có nghe gì nữa sẽ tư báo sau.
Bọn thần xét những lời lẽ ý tứ mà Ngô Gia Hậu nhiều lần nói với Nguyễn Điều thì thấy những hành động của Tây soái phần nhiều xuất phát nơi tự chuyên tự quyền mà ra và việc tân ước không nên vội nghe theo, hãy lấy cớ ân tình chưa thỏa thiếp mà từ chối, điều đó có vẻ có lý. Vậy dám xin phụng phiến mật trần hầu thánh thượng quyết định.
Thần
Hoàng Tá Viêm ký.
Thần Ngụy Khắc Đản ký.
Thần Trần Nhượng ký.
Thần Ngụy Khắc Đản ký.
Thần Trần Nhượng ký.
_______________________________________
1. Bản Hán văn: Châu bản Triều Tự Đức, quyển 212 tờ 274a-281b (Kho lưu trữ 2).
VII. 3. TẤU CỦA TRẦN TIỄN THÀNH1
(Ngày 9 tháng 11 năm Tự Đức 23, tức 2-12-1870)
Thần Trần Tiễn Thành tâu:
Ngày 6 tháng trước có tiếp được trát của tỉnh thần Nghệ An Ngụy Khắc Đản gởi qua Binh Bộ để chuyển giao Cơ Mật Viện một phong thư mật bẩm của Nguyễn Trường Tộ, trong đó đề do Lễ Bộ chuyển giao Cơ Mật Viện duyệt. Nội dung xin đề nghị lập lãnh sự đại sứ tại Kinh đô nước họ để rộng đường giao thiệp và liên kết với người Tây để giúp ta sau này đồng thời đề nghị phái người tâm huyết giả có việc vào Gia Định để tìm người Tây kết thân, thăm dò tình hình mà thừa cơ hội v.v...
Xét các khoản này năm trước y cũng đã trình bày nhưng chưa tiện thực hành, nay lại đề cập viện dẫn lý thế hiện tại và điển cố biện thuyết, chẳng qua chỉ là muốn tỏ ra có lòng vì mình mà thôi. Nhưng bác đi là vì thời sự khó thực hành. Đó là ý kiến đã được thương nghị cùng thần Nguyễn Tri Phương, thần Phạm Phú Thứ, tất cả đều đồng như vậy. Vậy dám tâu bày và đem nguyên bản tiến trình hầu thánh thượng thấu suốt.
Thần Trần Tiễn Thành phụng thảo duyệt.
*
VII. 4. TẤU CỦA TRẦN TIỄN THÀNH2
(Ngày 30 tháng 11 năm Tự Đức 23, tức 23-12-1870)
Thần Trần Tiễn Thành tâu:
Ngày 9 tháng này có tiếp một phong thư mật bẩm của Nguyễn Trường Tộ do Thự đốc thần Nghệ An Tôn Thất Triệt phát giao, trong đó đề là do Lễ Bộ chuyển giao Cơ Mật Viện thần khán duyệt.
Nội dung mật bẩm trần thỉnh hai kế, đại khái một là xin sớm sai người vào Gia Định thám thính, dùng kế với soái Pháp khiến trả lại sáu tỉnh cho ta mà kéo toàn quân về nước để bình nội loạn, công việc xong yên rồi qua ở buôn bán như kiểu người Anh đối với Trung Quốc vậy. Hai là phải gấp rút giao thiệp chặt chẽ với người Anh. Người Pháp có thấy ta tìm người Anh mới dễ hạ lòng thương chước với ta. Đồng thời sai người sớm qua Kinh đô nước Anh thám sát tùy nghi thi kế và dùng sức đánh thành, sự lý có thêm bớt đôi chút so với các khoản y đã trình bày năm trước về sáu điều lợi. Nhưng khoản trước thì mới rồi phụng phê thị các lẽ đã có nghĩ đến và Cơ Mật Viện Thương Bạc đã vâng rõ, đình thần duyệt sửa mật thư của Thương Bạc hỏi han và nhân đó đề cập đến khoản trả lại đất bồi hoàn tiền để mong muốn điều đình, nhưng soái ấy phúc thư dùng lời lẽ tránh né, hoàn toàn không mảy may đề cập đến khoản này. Rồi vâng chuẩn giao hỏi ý kiến các hoàng thân hoàng tử ở Tôn nhân phủ và đình thần. Tất cả phúc tâu đều cho rằng hiện nay việc miền Bắc như thế thì việc Tây chưa tiện hành động được, nói nữa sợ gợi sự nghi ngờ của họ. Còn khoản sau thì thật là khó phái người làm công việc này. Thần thiết nghĩ việc đời phải tùy thời mà làm. Thời chưa đến không thể nào cưỡng làm trước được. Còn thời đã đến có thể thừa cơ hội được thì càng không nên chậm trễ để lỡ mất cơ hội. Nước ta bảy tám năm trở lại đây, cương giới phía Nam vùi dập, thần dân không ai không đau giận. Nhưng phía ta không luận hữu sự hay vô sự, đều chưa tiện dùng biện pháp cứng rắn, cho nên từ trước đến nay ẩn nhẫn mà dùng biện pháp mềm dẻo, lấy hòa hiếu để chờ cơ hội. Cho dẫu chưa thi hành được ý chí nhưng không đến nỗi vì thế mà gây sự thêm ra, và ý chí ấy vẫn ôm ấp trong lòng không một ngày dám quên. Nay nghe vua nước họ bị Phổ bắt, nhân dân trong nước chia rẽ làm loạn. Đây có vẻ đã đến lúc có thể thừa cơ hội được. Nếu không nhân lúc này mà hành động sợ không khỏi hối tiếc đã đánh mất thời cơ. Có điều hiện người Pháp vừa mới nghi ngờ phòng bị, nếu phái quan ta đi thăm dò sẽ khiến chúng nghi, mà quan ta đều không thông ngôn ngữ, không quen biết nếu có phái đi tưởng cũng tốn kém vô ích mà thôi. Nhưng xét ra các khoản Nguyễn Trường Tộ đề nghị phái người đi thám thính tình hình, tùy nghi thi hành kế hoạch, nếu lấy lý mà bác, tuy chưa chắc đã đúng cả nhưng cũng không phải hoàn toàn sai, trong đó không phải không có một vài điều có thể áp dụng được. Hơn nữa muốn giải quyết việc đi ắt phải hiểu rõ tình hình đi như thế nào. Vì vậy nên ngay thời Minh Mạng là lúc quốc gia cường thịnh mà còn không kể tốn kém phái người đi thám sát rộng các nơi (Như việc nguyên Lại bộ thần là cố Tôn Thất Thường qua Đại Tây) để hiểu thấu tình hình những nơi xa. Huống chi nay ta đã cùng họ giao thiệp thì chuyện sai đi sứ qua lại hỏi han sai người làm gián điệp đâu có thể nào thiếu được?
Nguyễn Trường Tộ từ bé đến lớn ở với Tây có một kiến thức khá tự phụ, nhiều lần trần tình thuật tung hoành, thế liên hiệp và những phương sách giúp ta chống lại chúng có đến hơn mấy ngàn lời. Dĩ nhiên trong đó có ẩn giấu điều gì không, không thể nào biết được, nhưng xem rõ lời lẽ khẩu khí thì thấy có lúc khẳng khái và có lúc muốn đích thân xin ra làm việc, tựa hồ muốn biểu lộ tấm lòng ngoái lại cái gốc của mình để báo chút lòng trung trong muôn một. Như vậy tưởng cũng không nên vì con người mà bỏ lời nói của người ấy đi. Xưa Tần dùng Do Dư, Hán dùng Nhật Thiền đâu phải vì Tần, Hán không có người, nhưng vì họ là người am hiểu sự tình bên kia vậy. Huống chi y tuy theo tả đạo nhưng cũng là tôi con của Triều đình. Giả sử nói y là thuộc dân tả đạo tâm tính khả nghi, vậy nếu y quả có tha tâm ngầm thông tin tức thì trong khi y theo các đạo trưởng qua lại phương Tây y không làm được sao, cần gì phải đợi ủy giao công việc mới làm được? Thần lại thường được nghe tục lệ phương Tây trọng đạo giáo và mọi việc đều dựa vào Công hầu, Thứ dân hai viện. Đạo trưởng tuy không quan hệ việc nước, nhưng lời nói việc làm của họ được nhân dân trong nước tin tưởng. Như vậy tưởng cũng có thể tùy cơ ngấm ngầm mưu đồ được. Nay khâm chuẩn cho Nguyễn Hoằng qua Pháp trước gởi gắm người học tập, nhân đó sai tên này đi theo vào Gia Định trần thuyết lợi hại cùng các đạo trưởng Tây, nhờ họ nói với soái Pháp, rồi qua Pháp và qua lại các nước Anh, Nga, Áo, Phổ thăm dò tình hình, rồi lại đến hai Viện Công hầu, Thứ Dân ngầm nói thông đồng với họ, có sự thế gì, cơ hội như thế nào cần nắm cho chân xác lần lượt gởi về để tiện khi ta thương chước cùng họ không phải là vô ích, mà những người này qua lại học đạo đối với ta không có chứng tích gì thì đâu có hại. Đó là thần thấy nước Pháp có cơ hội này thật là khó được, mà dễ mất, tuy phái y đi có thành công được việc gì hay không còn chưa biết được, nhưng bỏ qua thì thật không yên lòng, cho nên không dám vì sự ngu dốt thiển cận của mình mà làm thinh không nói. Vậy dám có lời phúc tâu hầu thánh thượng tài định.
Thần Trần Tiễn Thành phụng thảo duyệt.
Châu phê: Đất nước có trông cậy việc gì là trông cậy có bề tôi có thể hiệp tâm đồng mưu để giúp việc lớn. Các khanh không nghĩ, không nói thì lấy ai nghĩ nói cho? Chỉ vì lòng trẫm và lòng của khanh cũng đều vì việc công. Việc quan trọng không mưu tính với số đông thì không thể làm được, nhưng không kín đáo lại hại cho sự thành công, chưa thể dự tính nhiều được. Truyền cho Cơ Mật Viện, Thương Bạc với khanh cùng nhau bàn luận kỹ nên phải làm như thế nào cho chu đáo, phúc tâu đầy đủ, đừng để mất thời cơ. Nếu có đường lối nào hay hơn càng tốt.
VII. 5. TẤU CỦA CƠ MẬT VIỆN3
(Ngày 5 tháng 12 năm Tự Đức 23, tức 28-12-1870)
Cơ Mật Viện Thương Bạc thần phúc,
Ngày 30 tháng trước vâng được trao một tờ phiếu của Trần Tiễn Thành trong đó nói Nguyễn Trường Tộ mật trần hai kế. Một là mau sai người đến Gia Định thám thính dùng kế với soái Pháp khiến y trả lại sáu tỉnh cho ta rồi rút toàn quân về nước Pháp để bình nội nạn, công việc xong trở sang ở buôn bán. Hai là gấp rút giao thiệp chặt chẽ với người Anh. Pháp thấy ta tìm người Anh thì mới dễ xuống lòng thương chước cùng ta. Đồng thời phái người sớm qua Kinh đô nước Anh thám sát, tùy nghi lập kế cho đến chuyện dùng sức đánh thành v.v... Thần Trần Tiễn Thành xin khâm chuẩn cho Nguyễn Hoằng qua nước Pháp trước để gởi gắm người học tập, nhân đó sai Trường Tộ theo vào Gia Định trình bày các lẽ lợi hại với các đạo trưởng Tây nhờ họ nói cho soái Pháp biết, rồi qua nước Pháp và qua lại các nước Anh, Nga, Áo, Phổ thám thính tình hình, rồi đến hai Viện Công Hầu, Thứ Dân ngầm thông đồng với họ, có sự thế gì, cơ hội thế nào nắm cho chính xác lần lượt gởi về để tiện khi cùng họ thương thuyết v.v... Khâm phụng châu phê: “Đất nước có trông cậy việc gì là trông cậy bề tôi có thể hiệp tâm đồng mưu để giúp cho việc lớn. Các khanh không nghĩ không nói thì lấy ai nghĩ nói cho? Chỉ vì lòng trẫm với lòng của khanh cùng đều vì việc công. Việc quan trọng không mưu tính với số đông thì không thể làm được nhưng không kín đáo lại có hại đến sự thành công, chưa thể dự tính nhiều được. Truyền cho Cơ Mật Viện, Thương Bạc cùng khanh cùng nhau bàn luận kỹ xem nên làm như thế nào cho được chu đáo, phúc tâu đầy đủ, chớ để mất thời cơ. Nếu có đường lối nào khác hay hơn càng tốt. Khâm thử.” Bọn thần tuân phụng xét duyệt các khoản mật trần của Nguyễn Trường Tộ thấy y cũng có lòng với ta mà chính nay là lúc có thể thừa cơ hội được. Ý kiến của bọn thần cũng đồng với các lý lẽ mà thần Trần Tiễn Thành đã tâu xin. Nhưng xét vì đây là việc quân quốc trọng sự cần phải bàn thảo kín đáo kỹ lưỡng mới bảo đảm không nguy hiểm trở ngại sau này. Nay bọn thần chưa giáp mặt y bàn tính mà đã vội xin giao cho y qua các nước thám sát những việc cần phải làm, lỡ ra có chỗ nào chưa được chu đáo sợ sẽ sinh trở ngại. Vậy xin do bộ Lễ lấy lý do phái người đem học sinh qua Tây học tập khẩn tư cho tỉnh thần Nghệ An lập tức cấp trạm dịch sức y lên Kinh ngay để bọn thần ở Cơ Mật Viện vô Thương Bạc đối diện hỏi bọn y xem suy tính cơ nghi như thế nào cho được chu thỏa. Bọn thần sẽ suy nghĩ chín chắn đôi ba lần và phúc tâu đầy đủ. Vậy dám xin có lời tâu bày đợi chỉ tuân hành.
Thần Nguyễn Tri Phương, thần Trần Tiễn Thành, thần Phạm Phú Thứ, thần Lê Tuấn phụng thảo duyệt.
_______________________________________
1. Bản Hán văn: Châu bản Triều Tự Đức, quyển 229 tờ 252a, b (Kho lưu trữ 2).
2, 3. Bản Hán văn: Châu bản Triều Tự Đức, quyển 233 (Kho lưu trữ 2).
PHỤ
LỤC VIII
Tấu của Cơ Mật Viện1
(Ngày 10 tháng 8 năm Tự Đức 24, tức 24-9-1871)
Bọn thần Cơ Mật Viện tâu:
Ngày mùng 6 tháng này có tiếp được một bản mật bẩm của Nguyễn Trường Tộ do Ty Thông Chính đệ giao. Trong đó nói rằng cuối tháng 5 nước Pháp có tin truyền qua nói nước ấy hãy còn chia làm hai đảng. Lại nghe Nga La Tư đang cùng Phổ Lỗ Sĩ mật nghị chưa biết sẽ thi thố ra sao. Y còn đoán xa sự thế phương Tây và thời cơ nước ta mật bẩm đầy đủ.
Bọn thần đã sức thuộc viên chép lại rõ ràng, kính xin tiến trình.
Châu phê:
Cũng như trước. Khanh liệu lấy
_______________________________________
1. Bản Hán văn Hv 189/4 tờ 80.
PHỤ
LỤC IX
Tôi đã mang tội để mất những tư liệu quý
về Nguyễn Trường Tộ như thế nào?
Tôi đã mang tội để mất những tư liệu quý
về Nguyễn Trường Tộ như thế nào?
Đào Duy Anh
Tôi đã có ý định nghiên cứu đề tài Nguyễn Trường Tộ những năm loài người đang sửa soạn bước vào cuộc đại chiến thế giới thứ hai bao khủng khiếp. Bấy giờ tôi đã soạn xong và cho xuất bản bộ Pháp Việt tự điển nên có thể chuyên tâm về các đề tài lịch sử. Thường mỗi năm đến những tháng nghỉ hè tôi hay rủ những bạn thân mà tôi có ở mối tỉnh khắp ba kỳ, nhất là Trung kỳ, làm người giúp đỡ và hướng dẫn trong công cuộc sưu tầm tài liệu trong mỗi địa phương. Mùa hè năm 1938, tôi đã để cả ba tháng hè (Ngày thường tôi phải dạy học ở trường tư: Trường Thuận Hóa và trường Phú Xuân), để đi sưu tầm tài liệu ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, ở đây tôi có được sự giúp đỡ và hướng dẫn của anh Hoàng Đức Thi là đồng chí cũ của tôi trong đảng Tân Việt bấy giờ cũng đương dạy học tư để kiếm sống tại trường Lễ Văn. Chúng tôi đã đi đến những địa điểm có ý nghĩa quan hệ với các đề tài nghiên cứu khá tham lam của tôi: Làng Tiên Điền và làng Uy Viễn thuộc huyện Nghi Xuân để tìm tài liệu về Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ, một làng gần đó mà hiện tôi quên tên để tìm tài liệu về Ngụy Khắc Đản, làng Quỳnh Lôi huyện Quỳnh Lưu để tìm tài liệu về họ Nguyễn Huy (Nguyễn Huy Oanh, Nguyễn Huy Tự), miền Xã Đoài để tìm tài liệu về Nguyễn Trường Tộ. Chúng tôi đã đến tận nhà ông Nguyễn Trường Cửu tại làng Bùi Chu ở gần giáo khu Xã Đoài. Do lòng tin cậy đối với tôi bấy giờ đã nổi tiếng trong dân gian khắp Trung kỳ là một nhà nghiên cứu nghiêm túc, ông Nguyễn Trường Cửu là cháu đích hệ của Nguyễn Trường Tộ đã cho phép tôi trèo lên gian gác nhỏ ngày trước đã từng làm chỗ nghỉ ngơi và làm việc của ông tổ mình, tha hồ tùy ý lục soạn các giấy tờ cũ một phần đã bị chuột gặm, gián nhấm. Tôi soạn được cả tập bản nháp các bài điều trần nổi tiếng của Nguyễn Trường Tộ với bút tích chân xác của Người cùng với cả quyển sổ tay của Người dùng để ghi chép trong thời gian đi theo Giám mục Hậu (Mgr Gauthier) sang Paris. Tôi đã được ông Nguyễn Trường Cửu cho xem tất cả giấy tờ ấy và được phép giữ luôn và chỉ cần trả lại cho ông để giữ làm kỷ niệm trong gia đình một tập sao chép mới của bản nháp điều trần, còn các bản mang tự tích của Người thì tôi được giữ làm tài liệu của mình. Về Vinh tôi đã thuê tạo lập một tập sao chép cẩn thận và nhờ anh Hoàng Đức Thi trở lại trao cho ông Nguyễn Trường Cửu. Những bản nháp và quyển sổ tay của Nguyễn Trường Tộ tôi được đem về nhà ở Huế, sau đó khoảng năm 1946 tôi đã từng cho viên Giám đốc Sở Lưu trữ Văn thư ở Huế lúc đó là Ngô Đình Nhu mượn để dùng trong một cuộc triển lãm văn thư cổ do viện ấy tổ chức sau Cách mạng tháng Tám tại Thư viện Bảo Đại, những tài liệu do tôi cho mượn đó đã được trả lại đầy đủ sau triển lãm. Sau đó ít lâu, Ngô Đình Nhu đã được chính phủ cách mạng ta triệu ra Hà Nội giao cho phụ trách Nha Thư viện và Lưu trữ Văn thư Trung ương. Tại Huế, Ủy viên kinh tế của Ủy ban hành chánh Trung bộ (bấy giờ là ông Đoàn Trọng Truyến) cần chỗ để đặt văn phòng cho mình bèn sai chở tất cả sách vở tài liệu của Sở Lưu trữ Văn thư trước đó sang xếp bỏ bừa bãi (vì không chuẩn bị được trường sở thích đáng) tại các phòng phụ thuộc của Thư viện Bảo Đại. Do sự kiện này tôi lại có cơ hội ngẫu nhiên thu thập được một tập tài liệu vô cùng quý giá về Nguyễn Trường Tộ. Tôi phải nhắc lại chuyện trước đó một thời gian:
Trong khoảng 1923-1926 tôi làm giáo học dạy học ở Đồng Hới. Nhân trong số học trò của tôi có anh Trần Trọng Diên là con ông Trần Mạnh Đàn quê ở làng Thuận Bài phủ Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình, đó là cơ hội khiến tôi được làm quen với ông Trần Mạnh Đàn bấy giờ đang làm một chức quan nhỏ tại Triều đình Huế, thỉnh thoảng về thăm quê ông có ghé lại Đồng Hới để gặp tôi và hỏi về tình hình học tập của cậu con. Ông Trần vốn là một người Nho học nhưng lại có nhiều thích thú đối với môn toán học Tây phương mà ông tự học qua các sách dịch của Trung Quốc. Ông được sự hướng dẫn thêm của người con trai cả làm cán sự công chính, nên đã nắm được khá vững những kiến thức về môn đại số học, ứng dụng những kiến thức mới ấy để nghiên cứu lịch pháp của ta, ông đã viết một bài nghiên cứu bằng chữ Hán để giải thích những sai biệt giữa phép tính năm nhuận tháng nhuận của dương lịch và âm lịch (đầu đề ông dùng là Tuế sai), tôi được đọc bài ấy trong phần chữ Hán của Tạp chí Nam Phong, do đó đã nảy sinh mối tình giao hữu vong niên giữa ông và tôi. Sau khi tôi đã từ chức giáo học để bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi ở Huế thì ông Trần Mạnh Đàn đã được chuyển về làm việc ở Thư Viện Bảo Đại bấy giờ do Phạm Quỳnh kiêm quản. Thuở ấy, thỉnh thoảng tôi vẫn vào Thư viện Bảo Đại để tra khảo các sách xưa đã được chuyển cả từ Tụ Khê thư viện của Nội các đời Minh Mệnh ra đây. Sau khi đã chú ý đến một bản sao chép gồm bốn tập những bài điều trần của Nguyễn Trường Tộ tôi đã được ông Trần Mạnh Đàn cho biết rằng ông đã dịch xong cả bốn tập điều trần của Nguyễn Trường Tộ ấy và cho đánh máy các bản dịch mà đóng làm một cuốn riêng. Tôi được biết rằng sau đó ông Nguyễn Lân đã dùng những bản dịch của ông Trần Mạnh Đàn để viết một quyển sách nhỏ về Nguyễn Trường Tộ đã được xuất bản và ông Đào Đăng Vỹ cũng đã dựa vào những bản dịch của ông Trần Mạnh Đàn để viết một loạt bài bằng chữ Pháp để đăng dần trong bộ La Patrie Annamite thời bấy giờ. Phần tôi, vì đã có ý định biên soạn một tác phẩm quan trọng về đề tài Nguyễn Trường Tộ, nên đã nhờ một ông đồ Nho hàng ngày vào làm việc ở Thư viện Bảo Đại để sao chép cả bốn tập điều trần Nguyễn Trường Tộ mà ông Trần Mạnh Đàn đã phiên dịch đó để đem đối chiếu với những bản nháp của Nguyễn Trường Tộ mà tôi đã xin được của ông Nguyễn Trường Cửu tại làng Bùi Chu như kể trên kia. Sau đấy, tôi còn nhờ ông đồ Nho nọ sao chép thêm vài ba bản nữa các bài điều trần, một bản cho người bạn đồng chí cũ hiện là bạn đồng nghiệp của tôi tại trường Thuận Hóa là ông Tôn Quang Phiệt, các bản khác cho mấy người bạn nghiên cứu sử học ở tại Sài Gòn là ông Lê Thọ Xuân và nhóm Phan Thanh Giản. Do lệnh di chuyển tài liệu của ông Đoàn Trọng Truyến như trên đã nhắc, những người phụ trách Thư viện Bảo Đại để cho kẻ gian ăn cắp lung tung nhất là những tập sách chữ Hán viết hoặc in trên giấy bản và giấy quyến, đem ra bày bán ở chợ Đông Ba cho người ta mua về làm giấy cuốn thuốc lá bấy giờ rất hiếm (Có người bà con của vợ tôi đem bán một Bội văn Vận phủ bằng giấy quyến cho người ta làm giấy hút thuốc mà được số tiền xấp năm lần số tiền tôi đã mua cả bộ sách ấy và bản sách dẫn do Thương vụ ấn thư quán tại Thượng Hải ấn hành). Một hôm lên làng Nguyệt Biều thăm bạn tôi là bác sĩ Thân Trọng Phước tôi gặp bác ruột anh Phước là ông Thân Trọng Bính đem khoe với tôi một tập sách chữ Hán mà ông nói đã mua được ở chợ Đông Ba trong khi tìm mua giấy thuốc lá, ông biết là sách quý định giữ để khoe với tôi (ông vốn biết tôi là người ham sách cũ). Tôi thấy đó chính là tập nguyên bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ có mang chính chữ phê bằng son của vua Tự Đức. Tôi đoán đó là bản “ngự lãm” mới được Phạm Quỳnh cho chuyển từ Nội các ra Thư viện Bảo Đại và mới bị đánh cắp trong những trường hợp tôi đã nhắc trên kia. Tôi mừng quá và lấy bản sao chép điều trần tôi đã thuê chép cho riêng mình đổi cho ông Thân Trọng Bính giữ đọc chơi để cho tôi giữ bản “ngự lãm” làm của quý. Không ngờ lọt vào tay tôi, của quý ấy lại đã gặp cái nghiệp chướng tiêu hủy biết bao nhiêu tài liệu quý khác của tôi trong cái tai họa chung cho cả đất nước bắt đầu từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vào tháng 12 năm 1946. Thế là những tài liệu quý có tính chất nguyên bản mà tôi tưởng có hạnh phúc kỳ diệu nắm được đã vì chính nghiệp chướng của tôi mà biến vào hư không. Vì có tham vọng quá lớn về đề tài Nguyễn Trường Tộ, tôi đã định đọc cả phần Đại Nam Thực Lục chính biên về triều Tự Đức để gắng đặt sự nghiệp của Nguyễn Trường Tộ vào bối cảnh lịch sử đương thời. Ngoài ra tôi còn nhờ một người bạn người Pháp là một kỹ sư điện học sau khi nước Pháp bị quân Quốc Xã Đức chiếm đóng được triệu về nước để bí mật hoạt động kháng chiến, người Pháp ấy đã sẵn sàng nhờ người quen của mình tại trụ sở Rue du Bac của Hội ở nước ngoài truyền giáo của Giáo Hội Thiên Chúa Pháp ghi chép bằng bản đánh máy cho tôi tất cả những bài báo cáo và những bài nhật báo và tạp chí có liên quan đến hoạt động của Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ trong năm 1867. Tập tư liệu ấy hiện nay tôi cũng không còn giữ được, song những bản duplicata chắc tại Thư viện của Hội Truyền giáo ở nước ngoài hãy còn, nếu có cách liên lạc được với họ sẽ có thể tìm lại được ngay.
Sau khi tôi được triệu ra Hà Nội để tham gia Ban Vận động triệu tập Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất cử hành vội vàng trước ngày toàn quốc kháng chiến, tôi đã quyết định di chuyển cả gia đình (vợ con) cùng với phần lớn tủ sách của tôi xếp vào hai chục thùng lớn nặng hơn một tấn, thuê cả một toa xe lửa chở hàng để chở ra Hà Nội cùng với nhiều dụng cụ gia đình.
Đến khi có lệnh toàn quốc kháng chiến, tôi vội vàng đem vợ con sơ tán vào sở đồn điền Lộc Yên của người quen tại miền Thượng du tỉnh Hà Tĩnh rồi một mình trở lại ngay Hà Nội để lo cứu tủ sách ra vùng an toàn. Tôi nhờ được vài người bạn thân còn ở lại Hà Nội để tham gia kháng chiến tại nội thành giúp tôi thu xếp sách vở và tài liệu vào trong các thùng đựng cũ, rồi một mình tôi thuê xe chở cả hai chục thùng dán nhãn hiệu Tài liệu của Đại hội Văn hóa toàn quốc (Mong làm thế thì được Sở xe lửa cho vận chuyển ưu tiên) đến nhà ga xe lửa Hàng Cỏ để gởi vào Vinh, rồi tôi cũng lên xe lửa vào Vinh nằm chờ. Chờ mãi chẳng thấy tin tức gì, tôi nhờ đánh điện tín hỏi khắp nơi cần thiết, cuối cùng được tin chắc chắn rằng các thùng sách của tôi đã được chở trên chuyến xe lửa cuối cùng rời ga Hà Nội vào Vinh, nhưng lại được biết rằng chuyến xe lửa ấy đi đến khoảng ga Cần Giuộc đã bị chận lại và xô đổ để làm chướng ngại vật không cho giặc Pháp có thể dùng đường xe lửa mà đánh vào vùng Thanh Nghệ. Khi đã biết chắc tin ấy, tôi liền nhân đường xe lửa chưa bị bóc hết một mình trở về Huế để mong cứu vớt số sách tôi còn để lại Huế tại nhà tôi ở đường Hương Mỹ bấy giờ đã lọt vào vòng bị quân giặc bao vây. Tôi đi xe lửa vào đến ga An Hòa rồi tìm cách liên lạc với Bộ Tư Lệnh của quân đội kháng chiến của ta còn đóng tại nội thành Huế, được phép nhờ các đồng chí du kích của khu quanh nhà tôi giúp đỡ cho trở về nhà và thu thập mọi sách vở và tài liệu còn lại nhưng bị quân giặc và bọn lưu manh lục ném bừa bãi, thuê thuyền chở cả về Minh Hương là làng quê của vợ tôi. Nhưng lúc ấy đường xe lửa đã bị bóc thêm từ Huế đến ga Tiên An và Sa Lung ở bờ Bắc sông Bến Hải. Sau khi bỏ tất cả vào bao bố lớn, tôi đã thuê chở tất cả về làng Đại Lược huyện Phong Điền để tạm trú tại nhà ông Trần Đình Cáo (cháu ông Hồ Tá Bang) là người mấy năm về trước đã giúp cho tôi phụ tiếp cả mấy thùng sách “tân thư” của ông Trần Lệ Chất là một sáng lập viên của công ty Liên Thành và của trường Dục Thanh ở thị xã Phan Thiết. Sau khi soạn xếp và bỏ lại những sách, đại khái là sách văn học bằng tiếng Pháp và tiếng Việt không cần thiết lắm cho việc nghiên cứu sử học của tôi, tôi lại thuê đò để “đuổi theo” xe lửa đến ga Tiên An, bốc được toàn bộ các bao sách lên xe lửa để chở về đồn điền Lộc Yên là nơi tạm trú của gia đình tôi. Ít lâu tôi quyết định cùng với gia đình trở ra Thanh Hóa là vùng tự do để tham gia hoạt động của Đoàn Văn Nghệ kháng chiến tập hợp toàn bộ các văn nghệ sĩ kháng chiến chưa có điều kiện rời Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc, hãy tạm hoạt động ở Thanh Hóa bên cạnh Ủy ban Hành chánh kháng chiến và quân khu của liên khu IV. Lại một lần nữa phải vất vả chở bao nhiêu thùng sách còn lại lên miền Di Linh Lạc Lâm trong ấy có những thẻ ghi chép của sách Đại Nam Thực Lục chính biên và những thẻ ghi chép của một số sách của người Pháp liên quan đến thời gian mà Nguyễn Trường Tộ sau khi từ Pháp trở về Sài Gòn vào mùa xuân năm 1861, nhận giúp việc cho chính quyền Pháp theo tư cách là ký lục với dụng ý, như ông đã khẳng định, tìm cách giúp ngầm Triều đình trong việc thương lượng hòa bình với chính quyền Pháp thời bấy giờ. Khoảng năm 1949, tôi được điều động ra chiến khu Việt Bắc để làm Trưởng ban Sử Địa của Vụ Văn học nghệ thuật tạm thời đặt dưới sự quản cố của Bộ quốc gia Giáo dục. Để xây dựng tủ sách cần thiết cho sự nghiên cứu của mình, tôi đã được sự ủy nhiệm của cơ quan để trở về liên khu IV qua đường rừng, vào Thanh Hóa lựa chọn những thứ cần thiết trong số sách riêng của tôi gởi cất tại mấy nhà quen thân ở Di Linh và Lạc Lâm và vào Nghệ An để đến làng Thịnh Mỹ phủ Diễn Châu lựa chọn mượn những sách cần thiết trong tủ sách nổi tiếng của cụ Cao Xuân Dục mà người chủ quản bấy giờ là bà quả phụ Cao Xuân Tảo mà tôi từng quen biết nhiều từ ngày tôi còn ở Huế hay đến mượn sách tại tủ sách của cụ Thân thần Tôn Thất Hân mà bà Tảo là con gái. Khi trở ra Thanh Hóa để chuẩn bị thuê người gánh sách ra Việt Bắc, tôi đến thăm bà Tôn Quang Phiệt bấy giờ tản cư tại làng Yên Lộ huyện Thiệu Hóa sau khi ông Tôn Quang Phiệt đã ra nhận công tác trong Quốc hội tại chiến khu nhận thấy bốn tập điều trần của Nguyễn Trường Tộ mà trước kia tôi đã thuê sao chép giùm cho ông Phiệt bấy giờ vẫn để ở nhà, tôi đã xin bà Phiệt cho tôi mượn đem ra Việt Bắc phòng có khi cần dùng đến. Thế rồi trong khi bị ốm thập tử nhất sinh ở Tuyên Quang trong năm, tôi đã đem cả tủ sách xây dựng cho Ban Sử Địa do tôi phụ trách biếu Ban Tuyên Huấn Trung ương, đến khi Ban Sử Địa được thành lập ở chiến khu Việt Bắc thì toàn bộ tủ sách của tôi biếu được chuyển làm tủ sách đầu tiên của Ban ấy, rồi sau khi kháng chiến thành công chúng ta trở về Hà Nội, Ban Sử Địa được chuyển làm Viện Sử học thì trong tủ sách của Viện Sử học, bốn tập điều trần Nguyễn Trường Tộ hiện còn ở đấy có lẽ là những bản duy nhất còn sót lại trên đời mà đó chính là bản trước kia tôi đã thuê sao chép giùm cho ông bạn Tôn Quang Phiệt và do chính tôi đã cứu vớt được khi đem nó ra Việt Bắc.
Đến như những văn thư của gia tộc nhà vợ tôi như gia phả, thi văn của Trần Tiễn Thành và của người con trai thứ ba là nhạc phụ của tôi, tôi đã dùng làm tư liệu để viết về quan hệ giữa Trần Tiễn Thành và Nguyễn Trường Tộ thì sau khi viết xong bài tiểu sử Trần Tiễn Thành đăng trong tập San Thân Cố đô Huế (Bulletin des Amis du Vieux Huế) năm 31 số 2 tháng 4 và 6 năm 1944 tôi đã trả lại cả cho cậu em trai của vợ tôi là ông Trần Tiễn Hỷ, hiện là một lương y có tiếng hiện ở thôn Minh Thanh thuộc ngoại thành Huế.
Theo yêu cầu của một số bạn bè, tôi xin nhắc lại vắn tắt những điều tôi còn thoáng nhớ được trên đây, để làm cơ sở cho những ai muốn nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ.
Hà
Nội 20-5-1981
(Bài đăng trên tuần báo Công giáo và Dân tộc số 313-315 ngày 12-7-1981)
Lời
bạt
Cách đây ba mươi năm, khi mới về công tác tại khoa Sử học trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, tôi được các giáo sư Trần Văn Giàu, Cao Xuân Huy hướng vào nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ - Nhà yêu nước, nhà cải cách lớn của lịch sử cận đại Việt Nam.
Bắt tay vào việc: sưu tầm, đọc, dịch văn bản, tìm hiểu con người và cuộc đời của Nguyễn Trường Tộ, tôi ngày càng bị hấp dẫn bởi hệ thống những tư tưởng cải cách tiến bộ, và trên hết cả là tấm lòng thiết tha vì nước vì dân của ông. Sau đó, để đánh dấu cho bước đầu nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ, vào năm 1961, tôi và anh Đặng Huy Vận (nay đã qua đời) đã cộng tác với nhau viết chuyên luận “NHỮNG ĐỀ NGHỊ CẢI CÁCH CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ CUỐI THẾ KỶ XIX” 1 nhằm bổ sung cho giáo trình lịch sử cận đại Việt Nam. Đề tài Nguyễn Trường Tộ cũng được đặt ra cho một số sinh viên khoa Sử làm “Khóa luận tốt nghiệp” trong một số năm học. Nhưng khi chiến tranh chống Mỹ xảy ra thì đề tài này bị gác lại, vì phải tinh giản chương trình.
Tuy vậy, vì tâm đắc với nhân vật này, tôi vẫn tiếp tục theo đuổi nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ. Tôi một mình mày mò, tìm kiếm thêm tư liệu về ông, kiên trì như một con ong thợ tìm hút nhụy hoa để gây mật. Thỉnh thoảng, nhân dịp kỷ niệm năm sinh, năm mất của Nguyễn Trường Tộ, tôi lại cho công bố một số luận văn viết về ông trên tạp chí Văn, Sử hay Triết học. Tôi mong đợi có một ngày nào đó trong những văn bản tác phẩm của Nguyễn Trường Tộ được công bố và những vấn đề về Nguyễn Trường Tộ sẽ được đặt lại để mọi người cùng xem xét.
Cách đây ba mươi năm, khi mới về công tác tại khoa Sử học trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, tôi được các giáo sư Trần Văn Giàu, Cao Xuân Huy hướng vào nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ - Nhà yêu nước, nhà cải cách lớn của lịch sử cận đại Việt Nam.
Bắt tay vào việc: sưu tầm, đọc, dịch văn bản, tìm hiểu con người và cuộc đời của Nguyễn Trường Tộ, tôi ngày càng bị hấp dẫn bởi hệ thống những tư tưởng cải cách tiến bộ, và trên hết cả là tấm lòng thiết tha vì nước vì dân của ông. Sau đó, để đánh dấu cho bước đầu nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ, vào năm 1961, tôi và anh Đặng Huy Vận (nay đã qua đời) đã cộng tác với nhau viết chuyên luận “NHỮNG ĐỀ NGHỊ CẢI CÁCH CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ CUỐI THẾ KỶ XIX” 1 nhằm bổ sung cho giáo trình lịch sử cận đại Việt Nam. Đề tài Nguyễn Trường Tộ cũng được đặt ra cho một số sinh viên khoa Sử làm “Khóa luận tốt nghiệp” trong một số năm học. Nhưng khi chiến tranh chống Mỹ xảy ra thì đề tài này bị gác lại, vì phải tinh giản chương trình.
Tuy vậy, vì tâm đắc với nhân vật này, tôi vẫn tiếp tục theo đuổi nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ. Tôi một mình mày mò, tìm kiếm thêm tư liệu về ông, kiên trì như một con ong thợ tìm hút nhụy hoa để gây mật. Thỉnh thoảng, nhân dịp kỷ niệm năm sinh, năm mất của Nguyễn Trường Tộ, tôi lại cho công bố một số luận văn viết về ông trên tạp chí Văn, Sử hay Triết học. Tôi mong đợi có một ngày nào đó trong những văn bản tác phẩm của Nguyễn Trường Tộ được công bố và những vấn đề về Nguyễn Trường Tộ sẽ được đặt lại để mọi người cùng xem xét.
*
Sau ngày giải phóng miền Nam (30-4-1975) thống nhất nước nhà, trong niềm vui chung của nhân dân đất nước, tôi có thêm một nguồn vui riêng: Vấn đề Nguyễn Trường Tộ có cơ may sẽ được nghiên cứu trên nhiều chiều kích chung hơn, rộng hơn.
Rồi một ngày đầu xuân năm 1976, tôi gặp anh Trương Bá Cần. Thật đúng là do cái “duyên kỳ ngộ”. Thuở còn đi học ở Pháp, năm 1962, anh đã gửi thư cho tôi theo địa chỉ của tác giả cuốn sách “NHỮNG ĐỀ NGHỊ CẢI CÁCH CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ CUỐI THẾ KỶ XIX” được lọt sang Paris hồi đó. Thư của anh hỏi tôi nhiều vấn đề tiên quan đến Nguyễn Trường Tộ. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh, tôi đã không đáp ứng được yêu cầu của anh.
Gặp anh Trương Bá Cần giữa thành phố Sài Gòn đã giải phóng, vui mừng khôn xiết. Tôi có thêm một người bạn là nhà Sử học để chia sẻ những nỗi niềm, những suy nghĩ về đề tài Nguyễn Trường Tộ mấy lâu nay hằng ôm ấp, nhưng ở hoàn cảnh tôi thật khó có thể tiếp tục triển khai. Theo tôi, chỉ có anh là người có đủ điều kiện nhất để hoàn thành “sứ mệnh” khoa học này.
Anh Trương Bá Cần là người từng theo dõi, tìm hiểu Nguyễn Trường Tộ trước tôi nhiều năm (từ năm 1942, khi anh còn học ở Chủng viện Xã Đoài, gần quê hương của Nguyễn Trường Tộ). Anh lại có điều kiện tiếp xúc với nhiều nguồn tài liệu. Anh vừa là một nhà khoa học, vừa là một linh mục đầy lòng ngưỡng mộ đối với người công giáo yêu nước Nguyễn Trường Tộ, nên về nhiều mặt, anh thuận lợi hơn so với tất cả những người nghiên cứu khác.
Thực tế đã chứng tỏ đúng như vậy. Những tài liệu về Nguyễn Trường Tộ và liên quan đến Nguyễn Trường Tộ mà anh tập hợp được từ nhiều nguồn, trong nhiều chục năm nay là hết sức phong phú: Từ các văn bản Hán Nôm của các Thư viện ở miền Bắc và ở miền Nam, - Từ các sách báo, tạp chí tiếng Việt và tiếng Pháp ở trong nước và ở nước ngoài, - Từ các tài liệu của các tủ sách và Thư viện các gia đình mà anh biết được... Anh đã bỏ ra không ít công phu để tra cứu, đối chiếu, phối kiểm để giới thiệu và chú thích một cách rất cẩn thận... Tóm lại anh đã giám định, khảo chứng và xử lý các văn bản một cách khoa học. Với tất cả công sức lao động bền bỉ và nghiêm túc trong nhiều năm tháng, cho đến nay anh đã cho ra mắt công chúng công trình khoa học:
“NGUYỄN TRƯỜNG TỘ - CON NGƯỜI VÀ DI THẢO”.
Đây là một “tập đại thành” về Nguyễn Trường Tộ của ba thế hệ nghiên cứu từ những năm 20 đến nay.
Từ nay chúng ta đã có thể yên tâm đi vào khai thác các “di thảo” của Nguyễn Trường Tộ như những tài liệu có “thẩm quyền” về khoa học. Công trình này chứa đựng trong đó những “di thảo” có sở cứ nhất, có thể được coi như là một “kho của báu” về Nguyễn Trường Tộ.
*
Như vậy là sau gần ba phần tư thế kỷ, kể từ năm 1925, khi vấn đề Nguyễn Trường Tộ bắt đầu được chú ý nhiều hơn, đến nay chúng ta mới có được một “chân dung” Nguyễn Trường Tộ tương đối trọn vẹn. Cái quý nhất là những “di thảo”, những “tư liệu thành văn” về ông đã được tập hợp tượng đối đầy đủ. Toàn tập “di thảo” này cũng tức là toàn bộ cuộc đời và tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ được lưu giữ lại cho chúng ta và cho con cháu mai sau.
Trước đây, trong những công trình nghiên cứu, giới thiệu về Nguyễn Trường Tộ, do nhiều lý do, trong đó có lý do là thiếu những văn bản chuẩn xác, nên chưa thể trình bày toàn diện về con người, cuộc đời và sự nghiệp của ông. Cũng do vậy, mọi người chưa thể hiểu biết Nguyễn Trường Tộ đầy đủ, đặng nhận định, đánh giá đúng đắn về ông. Qua toàn bộ văn bản “di thảo” lần này, đọc kỹ nó, chúng ta sẽ còn chưa hết ngạc nhiên về nhân vật lịch sử đặc biệt này. Mọi người sẽ tự hỏi: Tại sao ở thời đại đó, sống trong xã hội đó, lại có thể có được một con người kỳ tài như thế, có những tư tưởng tân tiến như thế và có một tấm lòng vì nước vì dân sâu nặng đến như thế?
Qua toàn bộ “di thảo” của Nguyễn Trường Tộ được công bố lần này, những người làm công tác nghiên cứu khoa học, nhất là các ngành khoa học xã hội như lịch sử, triết học, kinh tế học, xã hội học... sẽ có thể khai thác, lấy ra rất nhiều vấn đề để nghiên cứu. Bởi vì, có thể nói Nguyễn Trường Tộ đã đề cập đến hầu hết mọi vấn đề về xã hội, kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao... như là một hệ thống các vấn đề cần phải cải cách đổi mới ở xã hội đương thời. Đặc biệt về đường lối xây dựng phát triển kinh tế, làm cho dân giàu nước mạnh, đối với Nguyễn Trường Tộ, luôn luôn được coi là một vấn đề cốt tử nhất. Về đường lối chiến lược là khá toàn diện và sâu sắc. Về sách lược biện pháp thực hiện là cụ thể và rõ ràng, và về thái độ và tấm lòng thành của ông là vô cùng chân thành và cảm động. Ông đã kiên trì đề đạt những kiến nghị cải cách đó trong hơn mười năm ròng rã, đến mức độ khi bị bệnh phải nằm ngửa để viết tiếp các bản kiến nghị, ông vẫn không chán, không chùn. Vì như ông vẫn tự xác định: “Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không nói hết là bất nghĩa”.
Những vấn đề Nguyễn Trường Tộ đặt ra cách đây trên một trăm hai chục năm, đối với chúng ta ngày nay, trong thời điểm lịch sử của những ngày tháng sôi động trước phong trào đòi phải “đối mới tư duy” hiện nay, vẫn còn có một ý nghĩa thời sự, vẫn có những giá trị tham khảo nhất định.
Cách đây không lâu, tôi, có một anh bạn lớn tuổi, từng là cán bộ khoa học, có trình độ lý luận cao và đã có một quá trình công tác cách mạng lâu dài, sau khi tôi đưa cho mượn đọc một số “di thảo” của Nguyễn Trường Tộ, đọc xong, anh đã xúc động nói rằng:
- Quả tình càng đọc Nguyễn Trường Tộ, tôi càng thấy xót xa thương cảm ông, càng giận vua quan Triều đình nhà Nguyễn.
Và anh bạn này nói thêm:
- Giá như những “di thảo” của Nguyễn Trưởng Tộ, nhất là tập Tế cấp bát điều được công bố sớm hơn, trước Đại hội VI của Đảng ta chẳng hạn, thì nhân dân ta, các cán bộ lãnh đạo Đảng ta cũng tham khảo được một số ý kiến rất xác đáng của một nhà yêu nước sớm có tư duy đổi mới, sớm có một hệ thống những vấn đề cải cách xã hội và kinh tế xuất sắc, thật đáng cho mọi người kính phục,
Công trình nghiên cứu “NGUYỄN TRƯỜNG TỘ - CON NGUỜI VÀ DI THẢO” ra đời có thể là hơi muộn so với đòi hỏi của công chúng, nhưng giá trị khoa học của nó vẫn y nguyên. Tấm lòng của Nguyễn Trường Tộ đối với sự nghiệp canh tân đất nước, vẫn là như “hoa quỳ luôn hướng về mặt trời”. Chính vì vậy mà cách đây đúng 80 năm nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, khi viết cuốn “VIỆT NAM QUỐC SỬ KHẢO”, xuất bản tại Nhật Bản năm 1908 đã nhận định đáng giá rằng: “ông chính là người đã giồng cái mầm khai hóa trước tiên2 ở nước ta”. Và có lẽ cũng do có sự chỉ dẫn đó, nên người viết những dòng này sớm có duyên nợ với Nguyễn Trường Tộ, luôn dõi theo công trình nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ và hôm nay niềm vui của tôi thật sự được nâng lên với công trình nghiên cứu mới này.
Thành
phố Hồ Chí Minh, tháng 7-1988
CHƯƠNG THÂU
Phó tiến sĩ Sử học
CHƯƠNG THÂU
Phó tiến sĩ Sử học
_______________________________________
1. Chương Thâu - Đặng Huy Vận: Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Hà Nội -1961-242 trang 13X19.
2. Phan Bội Châu – Việt Nam quốc sử khảo. Chương Thâu dịch và chú thích, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Hội - 1962.
NGÔI
MỘ CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
Ngôi mộ của Nguyễn Trường Tộ hiện ở thôn Bùi Chu, xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, được xây xong năm 1943, do sự đóng góp của ông Từ Ngọc Nguyễn Lân và một số nhân sĩ Nghệ Tĩnh.
Ngôi mộ được làm bằng những tảng đá thanh, nằm giữa một cánh đồng trống trải, không cây cối, không hàng rào bao quanh, gồm hai phần: MỘ và BIA.
Hàng ngang trên đầu (từ phải sang trái): VIỆT NAM
Hàng dọc bên phải ở phía trên (từ trên xuống): BÀO LỖ NGUYỄN TRƯỜNG TỘ TIÊN SINH1
Hàng dọc bên trái ở phía trên (từ trên xuống): GIA NGHỊ ĐẠI PHU HÀN LÂM VIỆN TRỰC HỌC SĨ2
Hàng dọc giữa ở phía dưới (từ trên xuống): VĨNH ĐẠI AN CHI3
Hàng dọc bên phải ở phía dưới (từ trên xuống): NHẤT THẤT TÚC THÀNH THIÊN CỔ HẬN4
Hàng dọc bên trái ở phía dưới (từ trên xuống): TÁI HỒI ĐẦU THỊ BẠCH NIÊN CƠ5.
Bản văn bằng chữ Quốc ngữ ở chính giữa.
Phao Lô Nguyễn Trường Tộ
Quán thôn Bùi Chu, phủ Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Sinh năm Minh Mệnh thứ X. Ly trần năm Tự Đức thứ XXIV.
Tư chất thông minh, tài ba lỗi lạc, giỏi chữ Tàu thông tiếng Pháp.
Năm Tự Đức thứ XIII cùng Đức Giám mục Ngô Gia Hậu sang Tây. Ở Đại Pháp mấy năm, những lưu tâm quan sát về tất cả các khoa học hầu đem về giúp cho nước thịnh dân cường. Lúc về nước giúp Chung đường, giúp Chính phủ. Thiết tha mến nước yêu nòi; thảo nhiều phiến tấu xin Triều đình cải cựu canh tân về mọi phương diện; vui lòng hiến thân giúp việc khai hóa.
Tiếc thay! Quốc dân thì muộn nẩy lộc; tiên sinh lại sớm ly trần lúc mới 43 tuổi.
Được ân tứ:
Kim tiền Tòa Thánh (1860)
Kim tiền Đại Nam (1868)
Truy phong Gia Nghị Đại phu Hàn Lâm viện trực học sĩ (1924).
Để tỏ lòng kính kẻ sĩ hiền, những bậc vị vọng trong nước đã cộng tác xây lăng, dựng bia làm kỷ niệm. MCMXLIII
- Hai câu đối bằng chữ Nôm ở hai bên mặt bia. (từ trên xuống)
(1) KÍNH CHÚA YÊU NGƯỜI HẰNG TẠC DẠ
(2) TRUNG VUA MẾN NƯỚC VỐN GHI LÒNG
- Hai câu đối bằng chữ Hán ở hai bên thành bia.
(3) TRUNG QUÂN CHÍNH SÁCH QUANG TIỀN SỬ
(4) ÁI QUỐC TINH THẦN KHỞI HẬU NHÂN
Dịch nghĩa:
(3) Chính sách trung quân làm rạng rỡ trang sử trước.
(4) Tinh thần yêu nước khơi dậy cho người sau.
______________________________________
1. Đọc âm chữ Phaolô
2. Gia nghị Đại phu Hàn Lân Viện Trực học sĩ: Hàm vua Khải Định truy tặng Nguyễn Trường Tộ năm 1924.
3. Dịch nghĩa: An nghỉ đời đời.
4. Dịch nghĩa: Một lần sảy chân ngàn đời ôm hận.
5. Dịch nghĩa: Quay đầu trở lại là trăm năm cơ đồ.
BẢNG
LIỆT KÊ SÁCH, BÁO VIẾT VỀ NGUYỄN TRƯỜNG TỘ1
1. ĐẠI NAM THỰC LỤC CHÍNH BIÊN. Năm xuất bản: 1889
Bản chữ Việt NXB Khoa học Xã hội Hà Nội 1974-1975. Tập 31 trang 33 và 57. Tập 32 trang 59-60.
2. VIỆT NAM QUỐC SỬ KHẢO. Năm xuất bản: 1906
Bản chữ Hán xuất bản tại Tokyo - Nhật Bản 1906. Bản chữ Việt của Chương Thâu. NXB Giáo dục Hà Nội 1962. NXB Khoa học Xã hội tái bản năm 1982 trang 68 - 69.
Tác giả: Phan Bội Châu
3. Tạp chí NAM PHONG. Năm xuất bản: 1925
Số 100 (tháng 1-1925). Phần chữ Hán: “Nguyễn Trường Tộ điều trần thiên hạ đại thế nguyên tập” trang 47 - 58.
4. Tạp chí NAM PHONG.
Số 102 (tháng l-1926). Phần chữ Hán: “Nguyễn Trường Tộ tiên sinh tiểu sử” trang 4 - 12.
Tác giả: Lê Thước
5. Tạp chí NAM PHONG.
Số 117 (tháng 5-1927). Phần chữ Hán: “Trần tình khải” trang 54-59.
Số 118 (tháng 6-1927). Phần chữ Hán: “Giáo môn luận” trang 65-70.
Số 119 (tháng 7-1927). Phần chữ Hán: “Lục lợi từ” trang 3-11.
Số 120 (tháng 8-1927). Phần chữ Hán, hai nội dung:
- Tổ chức cho sứ bộ đi Pháp. (Di thảo số 32) trang 17-18
- Quan hệ với người nước ngoài. (Di thảo số 42) trang 18-21.
Số 121 (tháng 9-1927). Phần chữ Hán, nội dung về Chính sách nông nghiệp (Di thảo số 53) trang 31-39.
Số 122 (tháng 10-1927). Phần chữ Hán: “Học tập trữ tài” (Di thảo Số 18) trang 45-50.
6. Tạp chí NAM PHONG.
Số 180 (tháng l-1933). Phần chữ Việt: “Nguyễn Trường Tộ trên lịch sử Việt Nam”
Tác giả: Nguyễn Trọng Thuật
7. LA PATRIE ANNAMITE.
Từ số 221 (16-10-1937) cho tới số 282 (24-12-1938): “Nguyễn Trường Tộ et son temps”.
Tác giả: Đào Đăng Vỹ
8. HÀ THÀNH THỜI BÁO.
Tập mới số 1 (29-8-1938)? “Một danh nhân trong cuộc vận động duy tân Việt Nam, Nguyễn Trường Tộ”.
Tác giả: Hải Vân
9. Tuần báo TÂN VIỆT NAM.
Số 79 (3-9-1938): “Nguyễn Trường Tộ thành thực hợp tác với Pháp.
Tác giả: Phan Trần Chúc
Số 80 (10-9-1938): “Một nhà nho đã vượt ra ngoài khuôn khổ của Khổng Mạnh”.
Tác giả: Phan Trần Chúc
Số 81 (17-9-1938): “Trên tàu về Việt Nam Nguyễn Trường Tộ đã gặp Y Đằng Bác Văn”.
Tác giả: Phan Trần Chúc
Số 83 (1-10-1938): “Hoàng Cao Khải phê bình Nguyễn Trường Tộ”.
Tác giả: Phan Trần Chúc
Số 96 (7-1-1938): “Nguyễn Trường Tộ thi sĩ”
Tác giả: Lục Y Lang
10. Báo TIẾNG DÂN (21 tháng 12-1939).
“Đồng thời với Trương Vĩnh Ký, một nhà Tây học cũng sớm nhất, mà có cái đặc sắc nhất ở nước ta: bài trần tình của Nguyễn Trường Tộ”.
Tác giả: Sỹ Tử Bình
11. Báo TIẾNG DÂN (tháng l-1940).
“Về cải cách phong tục”.
Tác giả: X.X.T.
12. Báo TRI TÂN.
Số 7 (18-7-1941): “Nguyễn Trường Tộ học ở đâu?”
Tác giả: Đào Duy Anh
13. NGUYỄN TRƯỜNG TỘ.
Viễn Đệ Huế 1941, 149 trang.
Tác giả: Từ Ngọc Nguyễn Lân
14. VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ YẾU. Năm xuất bản: 1941
Chương thứ 14: “Việc mưu đồ canh tân, Nguyễn Trường Tộ và chương trình cải cách của ông”.
Tác giả: Dương Quảng Hàm
15. BULLETIN DES AMIS DU VIEUX HUẾ.
Số 2 (tháng 4-6-1944) “Les grandes familles d’Annam: S. Exc Trần Tiễn Thành-Partian des réformes. Les rapports avec Nguyễn Trường Tộ et Nguyễn Lộ Trạch” trang 134-143.
Tác giả: Đào Duy Anh
16. Nhật báo TIẾNG DỘI Sài Gòn.
(19 tháng 1-1950): Nguyễn Trường Tộ, Lương Khải Siêu Việt Nam”.
Tác giả: Phan Quân
______________________________________
1. BẢNG LIỆT KÊ sách báo này chắc có nhiều thiếu sót. Bởi vì sách báo xuất bản ở nước ta trước ngày đất nước thống nhất rất khó tìm và khó tra cứu.
17. Nhật báo THẦN CHUNG Sài Gòn. (19-4-1951).
“Đại chí sĩ Nguyễn Trường Tộ”.
Tác giả: Nguyễn Duy Hinh
18. Bán Nguyệt san SINH LỰC Sài Gòn (1-11-1956).
“Cụ Nguyễn Trường Tộ, nhà thơ bất đắc chí trước hiểm họa mất nước, vua yếu, quan hèn”.
Tác giả: Lê Công Tâm
19. NIÊN LỊCH KINH TẾ Sài Gòn 1957. “Danh nhân kinh tế nguyễn Trường Tộ với việc mưu đồ canh tân”.
20. VĂN HÓA Nguyệt san Sài Gòn.
Số 19 (tháng 2 và 3-1957): “Nguyễn Trường Tộ với vấn đề kinh tế. Tác giả: Đào Văn Hội
Số 26 (tháng 11-1957): “Nguyễn Trường Tộ”. Tác giả: Từ Nguyên
21. BIỂU NHẤT LÃM VĂN HỌC CẬN ĐẠI. Sài Gòn - 1958 chương II: “Nguyễn Trường Tộ “ trang 59 - 66. Tác giả: Thanh Lãng
22. BÁCH KHOA Sài Gòn. Số 71 (15-12-1959): “Những người Việt Nam có tinh thần cải cách duy tân: Nguyễn Trường Tộ” trang 23-25. Tác giả: Phan Khoang
23. PHỔ THÔNG Sài Gòn Số 11 (15-5-1959): “Nước Nhật cũng có một 1 Nguyễn Trường Tộ” trang 53-57. Tác giả: Tế Xương
24. LỊCH SỬ CẬN ĐẠI VIỆT NAM. Hà nội 1959. Tập I, trong tiểu mục “Cuộc đấu tranh tư tưởng thủ cựu và duy tân”, có trình bày về Tiểu sử và tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Tác giả: Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Sự
25. VĂN HÓA Á CHÂU - Sài Gòn.
Số 1 (tháng 4-1960) “Những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ” trang 72-77. Tác giả: Nông Sơn dịch
Số 2 (tháng 5-1960) “Bài Trần tình khải” trang 185-191. Tác giả: Nông Sơn dịch
Số 3 (tháng 6-1960) “Bàn về vấn đề tín ngưỡng” trang 279-283. Tác giả: Nông Sơn dịch
Số 4 (tháng 7-1960) “Điều trần về kinh tế quốc gia” trang 382-393. Tác giả: Nông Sơn dịch
26. PHỔ THÔNG Sài Gòn.
Số 31 (1 tháng 4-1960): “Chí sĩ Nguyễn Trường Tộ cảo đề: núi Thạch Bi và chính trị” trang 56-57. Tác giả: Nguyễn Bá Thế
Số 34 (1 tháng 5-1960) “Nguyễn Trường Tộ” trang 19-24. Tác giả: Võ Bá Hải
27. “HỆ THỐNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ”. Tài liệu giảng dạy tại Đại học Tổng hợp Hà Nội 1960 (Bản thảo). Tác giả: Cao Xuân Huy
28. VĂN HỌC Á CHÂU - Sài Gòn. Số 1 (tháng 1-1961): “Tập điều trần xin cho học tập để gây nhân tài” trang 29-45. Tác giả: Nông Sơn dịch
29. NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ Hà Nội.
Số 23 (tháng 2-1961 ): “Nguyễn Trường Tộ và những đề nghị cải cách của ông” trang 19-33. Tác giả: Văn Tân
Số 25 (tháng 4-1961): “Vài ý kiến nhỏ bàn góp thêm về những đề nghị cải cách của “Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ XIX) Ý kiến trao đổi với ông Văn Tân” trang 57-70. Tác giả: Đặng Huy Vận – Chương Thâu
Số 29 (tháng 8-1961): “Đánh giá vai trò Nguyễn Trường Tộ trong lịch sử cận đại Việt Nam” trang 34-40. Tác giả: Hoàng Nam
Số 31 (tháng 10-1961): “Góp thêm ý kiến về việc đánh giá Nguyễn Trường Tộ” trang 60- 62. Tác giả: Hồ Hữu Phước – Phạm Thị Minh Lệ
Số 33 (tháng 12-1961): “Sơ kết cuộc thảo luận về hai nhân vật Hồ Quý Ly và Nguyễn Trường Tộ”.
30. “NHỮNG ĐỀ NGHỊ CẢI CÁCH CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ CUỐI THẾ KỶ XIX” NXB Giáo dục Hà Nội 1961, 242 trang. Tác giả: Chương Thâu
31. Tuần san VĂN ĐÀN - Sài Gòn Bộ III.
Số 4 (23-30 tháng 11-1961) “Người ta đã viết gì về Nguyễn Trường Tộ”, trang 7. Tác giả: Hưng Bình
“Vịnh ông Nguyễn Trường Tộ” (thơ), trang 10. Tác giả: Á Nam Trần Tuấn Khải
Nhớ người yêu nước (thơ). Tác giả: Minh Đạo, Ngô Cảnh
“Tiểu sử chí sĩ Nguyễn Trường Tộ” trang 5-6. Tác giả: Nguyễn Bá Thế
“Tôi viếng mộ và gia đình Nguyễn Trường Tộ”, trang 8. Tác giả: Phạm Đình Khiêm
“Học tập đểdành gây nhân tài”, trang 18-19. “Kế hoạch vay tiền Hương Cảng”, trang 12-13. Tác giả: Trần Hữu Huyên dịch
Nguyễn Trường Tộ và Y Đằng Bác Văn, trang 11. Tác giả: Đào Đăng Vỹ
Mấy vần thơ của Nguyễn Trường Tộ trang 21. Tác giả: Thái Bạch dịch
Vài cảm tưởng về nghệ thuật kiến trúc của Nguyễn Trường Tộ trang 16-17. Tác giả: Ngô Viết Thụ
Nguyễn Trường Tộ kiến trúc sư tiên khởi của ngành kiến trúc mới Việt Nam. Tác giả: Phạm Đình Khiêm
Người yêu nước sáng suốt, Nguyễn Trường Tộ. Tác giả: Phạm ĐÌnh Tâm
32. Tuần san VĂN ĐÀN Sài Gòn Bộ III, Số 35 (tháng 4-1862). Điều trần về tu chỉnh võ bị trang 12-13. Tác giả: Trần Hữu Huyên dịch
33. HỢP TUYỂN THƠ VĂN VIỆT NAM. NXB Văn học Hà Nội 1962, tái bản năm 1984. Tập IV ( 1858-1930) có trích in của Nguyễn Trường Tộ, các bài:
- Đà Nẵng quá bạc
- Cần Giờ phong cảnh
- Quá Hoành Sơn quan hữu cảm
- Thiên hạ phân hợp đại thế luận
- Tế cấp bát điều.
34. Tuần san VĂN ĐÀN - Sài Gòn Bộ IV. Số 11-12 (ngày 17-1-1963). “Vấn đề dịch các văn bản ngoại giao”. Tác giả: Trần Hữu Huyên dịch
35. LƯỢC KHẢO CÁC TÊN PHỐ HÀ NỘI. NXB Sở Văn hóa Hà Nội 1964. “Nguyễn Trường Tộ”. Tác giả: Lê Thước – Vũ Tuấn San
36. LỊCH SỬ VIỆT NAM. Năm xuất bản: 1965
NXB Khoa học Xã hội Hà Nội 1985 trong tập II “Đề nghị cải cách đặc biệt là những điều trần của Nguyễn Trường Tộ” trang 61-63. Tác giả: Nguyễn Công Bình-Văn Tạo-Phạm Xuân Nam-Bùi ĐÌnh Thanh
37. NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ Hà Nội. Số 94 (tháng 1-1967): Tìm hiểu thêm về cuộc đấu tranh giữa phái chủ chiến những người phái chủ hòa trong cuộc kháng chiến nhằm chống Pháp ở thế kỷ XIX trang 29-40. Tác giả: Đặng Huy Vận
38. NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ Hà Nội.
Số 120 (tháng 3-1969): “Tìm hiểu thiên đạo quan của Triều đình và của các nhà nho trong thời Nguyễn” trang 3-22. Tác giả: Trần Văn Giàu
Số 125 (tháng 7-1969): Lịch sử quan của Triều đình và nho gia thời Nguyễn. Tác giả: Trần Văn Giàu
39. THỰC TRẠNG XÃ HỘI VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU TỰ ĐỨC 1847-1883. Tiểu luận Cao học sử học trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn 1970 (Roneo 262 trang) chương VI đoạn 3: “Những đề nghị cải cách quốc gia của Nguyễn Trường Tộ” trang 164-222. Tác giả: Trần Khôi Nguyên
40. THƠ VĂN YÊU NƯỚC NỬA SAU THẾ KỶ XIX (1858-1900). Năm xuất bản: 1971. NXB Văn học, tái bản 1976. Trích in hai văn bản của Nguyễn Trường Tộ “Bàn về cái thế lớn khi phân hợp trong thiên hạn”, “Tám điều cứu vớt”. Tác giả: Chu Thuận, Đặng Huy Vận, Nguyễn Bỉnh Khôi
41. Tạp chí TRÌNH BÀY Sài Gòn. Năm xuất bản: 1971. Số 33-35: “Nội dung các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ”. Tác giả: Nguyễn Khắc Ngữ
42. Tạp chí BÁCH KHOA Sài Gòn. Số 359 (15-12-1971): Bài học lịch sử nhân kỷ niệm 100 năm Nguyễn Trường Tộ... trang 39-46. Tác giả: Đào Đăng Vỹ
43. Nhật báo LÀM DÂN Sài Gòn Từ số 1 (15-9-1971): “Nguyễn Trường Tộ hay thân phận người trí thức giữa thế kỷ XIX”. Tác giả: Nguyễn Khắc Ngữ
44. BÁCH CHU NIÊN CỦA NGUYỂN TRƯỜNG TỘ 187-1971-Sài Gòn 32 trang khổ 13×19. Tác giả: Tinh Việt, Văn Đoàn
45. BULLETIN DES ETUDES INDOCHINOISES. Số 3, tam cá nguyệt 3-1972: “Nguyễn Trường Tộ, Patriote réformiste, poète et homme d’action” trang 489-502. Tác giả: Thái Văn Kiểm
46. TƯ TƯỞNG VIỆT NAM THẾ KỶ XIX. Năm xuất bản: 1973. Tài liệu Ronéo, trích bốn văn bản của Nguyễn Trường Tộ:
- Thiên hạ đại thế luận.
- Ngôi vua là quý, chức quan là trọng.
- Giáo môn luận.
- Tế cấp bát điều.
Tác giả: Chương Thâu biên tập
47. SONG MỸ KHAI NGUYÊN ĐẶC SAN. Sài Gòn 1973 “Chí sĩ Nguyễn Trường Tộ và quốc vận Việt Nam” trang 67-72. Tác giả: Nguyễn Quang Trứ
48. NGUYỄN TRƯỜNG TỘ VÀ THỜI ĐẠI CHÚNG TA, Sài Gòn Văn Đàn 1973.
- Nguyễn Trường Tộ và những điều kiến thiết cần kíp. Tác giả: Trần Văn Lắm
- Nguyễn Trường Tộ và vấn đề văn hóa. Tác giả: Mai Thọ Truyền
- Nguyễn Trường Tộ, một sinh lực sáng tạo tuyệt vời. Tác giả: Phạm Đình Tân
- Nguyễn Trường Tộ nhà ái quốc cô đơn (thơ). Tác giả: Trúc Sơn, Nguyễn Quý An
- Tế cấp bát điều. Tác giả: Nguyễn Nam Ninh dịch
49. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM (Từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám) NXB KHXH Hà Nội 1973. Tập I trang 381- 405. “Những đề nghị cách của Nguyễn Trường Tộ”. Tác giả: Trần Văn Giàu
50. ETUDES INTERDISCIPLINAIRES SUR LE VIỆT NAM. Sài Gòn 1974 Volume I: “Point de vue sur Nguyễn Trường Tộ et le réformisme Vietnamien au milieu du XIXe Siècle” trang 179-197. Tác giả: Philippe Langlet.
51. THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI. Tập III-1977. “Ý kiến của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề nông nghiệp của nước ta cuối thế kỷ XIX” trang 11- 15. Tác giả: Chương Thâu
52. NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ. Số 3 (180 tháng 5 và 6-1978). “Điều trần của Nguyễn Trường Tộ về nông nghiệp” trang 73-78. Tác giả: Chương Thâu
53. Tạp chí TRIẾT HỌC. Số 3 (32) tháng 9-1978. “Cuộc đấu tranh giữa tư tưởng bảo thủ và tư tưởng duy tân ở nước ta vào cuối thế kỷ 19”. trang 29-40. Tác giả: Chương Thâu
54. ĐƯỜNG PHỐ HÀ NỘI. NXB Hà Nội 1979. “Phố Nguyên Trường Tộ” . Tác giả: Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá
55. NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG THỜI CẬN ĐẠI. Có bài: Nguyễn Trường Tộ với những đề nghị cải cách nông thôn cuối thế kỷ XIX (Bản thảo). Tác giả: Chương Thâu
56. DANH NHÂN NGHỆ TĨNH. NXB Nghệ Tĩnh-Vinh 1984. “Nguyễn Trường Tộ”: trang 130-137. Tác giả: Đậu Xuân Mai
57. NGHÌN NĂM VĂN HIẾN. NXB Kim Đồng, Hà Nội 1984 tập IV: “Nguyễn Trường Tộ” trang 360-362. Tác giả: Trần Quang Vượng-Giang Hà Vị
58. Báo QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN số 13-2-1987. Trích Nguyễn Trường Tộ: “Việc võ là rất khó”. Tác giả: Thanh Đạm
59. Báo LAO ĐỘNG số 17-3-1987. “Tìm trong vốn cũ: Nguyễn Trường Tộ bàn về đời sống và lương bổng của quan lại và viên chức”. Tác giả: Thanh Đạm
60. Báo QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN số 7-6-1987. “Ý kiến của Nguyễn Trường Tộ về chỉ huy và binh sĩ”. Tác giả: Thanh Đạm
61. Báo TỔ QUỐC số 5-1987. “Trong bài “Đổi mới tư duy trong lịch sử: “Giữa thế kỷ 19, lịch sử Việt Nam ghi nhận một điển hình về đổi mới tư duy độc đáo: tư duy kiểu Nguyễn Trường Tộ” trang 43-44.
62. LỊCH SỬ DANH NHÂN THỜI CẬN ĐẠI. Có bài về: “Nguyễn Trường Tộ” (Bản thảo). Tác giả: Chương Thâu
Hết!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét