Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2013

Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo (Trương Bá Cần) - Phần 1

Tác giả: Trương Bá Cần
LỜI TỰA

600 trang đánh máy, khổ pelure dài, lối 300.000 chữ, trong đó 4/5 là di thảo của một con người sinh cách chúng ta 158 năm và mất cách chúng ta 117 năm1.

Tôi được vinh hạnh - có lẽ - là một trong những độc giả đầu tiên của công trình nghiên cứu lịch sử đồ sộ này của Trương Bá Cần, với tôi, một bè bạn, dù anh và tôi có một khác biệt, trên một nghĩa nào đó, khá lớn: anh là một linh mục, tất nhiên tin ở Chúa, còn tôi, một đảng viên Cộng sản, tất nhiên vô thần. Và, linh mục Trương Bá Cần muốn tôi viết tựa cho quyển sách của anh.

Chắc chắn tôi không viết nổi bài tựa cho một thành quả lao động tốn nhiều năm tháng của một Tiến sĩ sử học mà, hơn một mặt, tôi hiểu thái độ nghiêm túc của anh - không chỉ trong trường hợp đặt Nguyễn Trường Tộ dưới ánh sáng của hiện thực lịch sử.

Vả lại khi tôi đọc bản thảo, vụ “phong thánh” ít nhiều quấy rối tâm tư tôi. Theo ý riêng - hoàn toàn ý riêng của tôi - Nguyễn Trường Tộ đáng được hiển thánh theo cái nghĩa cả thế tục lẫn tôn giáo. Nếu quả con người có linh hồn và linh hồn vẫn tồn tại khi trái tim con người ngừng đập, thì Nguyễn Trường Tộ hiện đang ở cạnh Chúa, với vị trí cao, rất cao.

Tôi biết tiếng anh Trương Bá Cần trước lúc gặp anh - tôi chỉ gặp anh sau ngày 30-4-1975. Trong hoạt động bí luật, tôi đọc anh và khâm phục, nhưng tôi khâm phục các anh Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích, Nguyễn Hồng Giáo, Phan Khắc Từ, Nguyễn Nghị... Bài nghiên cứu của anh - tôi hoàn toàn thông cảm những hạn chế mà anh bắt buộc phải chấp nhận do điều kiện tồn tại của anh - về sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc sau 19542, gieo trong chúng tôi sự tôn trọng tính dũng cảm của một linh mục giữa muôn trùng hiểm nguy mà chiếc áo chùng thâm và cây thập giá không phải lúc nào cũng giữ vai trò hộ mệnh tuyệt đối.

Bây giờ, tôi đọc Nguyễn Trường Tộ của anh. Điều anh mang lại cho tôi là: Cần đánh giá công bằng cống hiến của mọi con người Việt Nam, dù theo tín ngưỡng nào, trong những bối cảnh vô cùng phức tạp.

Tôi thường nghĩ: thật dễ dàng nói về điều không hay của Giáo hội đạo Thiên Chúa ở Việt Nam suốt mấy trăm năm mà đạo Thiên Chúa “đổ bộ” lên miền đất này, nhưng điều đáng quý là tìm trong mớ hỗn độn ấy - có cái thuộc quy luật quá trình phát triển của thế giới, có cái do kẻ ngoài lợi dụng đạo Chúa, có cái từ trình độ ấu trĩ của vua quan ta… những tia sáng, nhỏ và lớn, để hiểu thêm chiều sâu của phẩm giá dân tộc Việt Nam.

Nếu Nguyễn Trường Tộ là một người lương, các “điều trần” của ông vẫn đặc biệt như Nguyễn Lộ Trạch, nhưng Nguyễn Trường Tộ là một tín đồ đạo Thiên Chúa, các “điều trần” của ông càng tôn vinh ông. Tôi không đi vào khía cạnh “đổi mới tư duy” mà ông kiên trì, tôi chỉ muốn nhấn mạnh những kiến nghị vì lợi ích của đất nước, mà với tư cách một tín đồ đạo Thiên Chúa đang bị Triều đình ngược đãi, dân chúng nghi kỵ, ông không ngần ngại trình bày, hy vọng nhà vua đảo ngược thế cờ, chuyển nguy thành an, chuyển yếu thành mạnh, chuyển lạc hậu thành tiên tiến cho cả quốc gia, bấy giờ, đứng trước khả năng sụp đổ không phải khó thấy.

Nguyễn Trường Tộ là một trí thức - theo nghĩa gần với hiện đại. Phân tích kỹ các “điều trần”, chúng ta dễ dàng phát hiện tính “không tưởng” ở một số chủ trương của Nguyễn Trường Tộ - Ông nóng vội và nhất là ông không biết cơ chế của triều Tự Đức không bao giờ cho phép suy nghĩ của ông trở thành hiện thực bởi chúng đụng đến bức tường lạc hậu kinh khủng về học vấn, về khoa học, sự mụ mẫm trong đầu các quan lại cao cấp, kể cả đấng chí tôn - nhưng ông vẫn không mệt mỏi. Tấm lòng yêu nước thúc đẩy ông. Ta quý Nguyễn Trường Tộ ở chỗ đó.

Nguyễn Trường Tộ được giới học giả Việt Nam nghiên cứu trước anh Trương Bá Cần khá lâu. Do những hạn chế về tư liệu, cũng không loại trừ hạn chế về quan điểm khi đem một tín đồ đạo Thiên Chúa ra phán xét, những công trình chỉ mới tiếp cận Nguyễn Trường Tộ. Anh Trương Bá Cần làm nốt phần dở dang cũ, với thái độ của một nhà khoa học. Anh cố gắng để Nguyễn Trường Tộ tự nói, tự giới thiệu, tự “điều trần”. Sẽ quá sớm nếu chúng ta cho rằng anh Trương Bá Cần đã hoàn thành ý định. Tư liệu tuy dồi dào song không thể coi như đầy đủ. Các nhà khoa học khác - hoặc chính anh Trương Bá Cần - sẽ bổ sung, để chúng ta có một gương mặt Nguyễn Trường Tộ, theo thời gian, hoàn chỉnh hơn.

Nguyễn Trường Tộ, qua Trương Bá Cần, “điều trần”. Thật may cho danh sĩ đất Nghệ Tĩnh, đọc “điều trần” của ông là chúng ta, những người đang sống cuối thế kỷ 20 và không phải là vua Tự Đức cùng các triều thần chẳng chấp nhận cái gì cả ngoài Tứ thư, Ngũ kinh...

Bây giờ, hãy để tác giả phụ - linh mục Trương Bá Cần - và tác giả chính - Nguyễn Trường Tộ - nói với người đọc.
Cuối tháng 6-1988
TRẦN BẠCH ĐẰNG

_________________________________________
1. Lời tựa viết năm 1988.
2. Bài “25 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc” của Linh mục Trương Bá Cần đăng trên ĐỐI DIỆN tháng 9, 10, 11-1970.

LỜI NÓI ĐẦU

NGUYỄN TRƯỜNG TỘ là một nhân vật lịch sử được nói đến tương đối nhiều trên các sách báo trong lấy chục năm gần đây, cụ thể là từ năm 1925 là năm mà Tạp chí NAM PHONG (số tháng 11-1925), lần đầu tiên, công bố một bài viết của Nguyễn Trường Tộ gởi lên Triều đình vua Tự Đức.

Thực ra, trước đó từ lâu, trong nhân dân, nhất là ở quê hương Nghệ Tĩnh, đã có truyền tụng về một ông “TRẠNG TỘ” học rộng, tài cao, chí lớn, trước vận nước nguy nan, đã hết lòng cung hiến nhiều ý kiến mới mẻ, nhiều kế sách cứu cấp. Ngày 14-6-1925, người ta đã lấy tên của Nguyễn Trường Tộ đặt cho lnột trường học ở Vinh...

Tuy nhiên, trước NAM PHONG chưa hề thấy sách báo nào ở Việt Nam nhắc đến tên Nguyễn Trường Tộ. Ngay “ĐẠI NAM THỰC LỤC” là bộ chính sử của nhà Nguyễn cũng chỉ nói đến Nguyễn Trường Tộ ở ba chỗ1 một cách rất sơ sài. Phan Bội Châu, trong “VIỆT NAM QUỐC SỬ KHẢO”, có nhắc đến tên Nguyễn Trường Tộ; nhưng cuốn sách này được viết bằng chữ Hán và xuất bản năm 1908 ở Nhật Bản và năm 1962 mới được dịch ra tiếng Việt ở Hà Nội2. Phải nói là từ năm 1925 trở đi, người ta mới chú ý sưu tầm và tìm hiểu rộng rãi về Nguyễn Trường Tộ.

Trước khi đi vào các phần chính của sách này, có một số điểm xin lần lượt giới thiệu như sau:

SÁCH BÁO VIẾT VỀ NGUYỄN TRƯỜNG TỘ TỪ NĂM 1925 ĐẾN NĂM 1945

Trong hai năm 1925 và 1926, NAM PHONG chí đăng hai bài về Nguyễn Trường Tộ như để thăm dò: số 100, tháng 11-1925, đăng bài “Nguyễn Trường Tộ điều trần thiên hạ đại thế luận nguyên tập”. Số 102, tháng 1-1926 đăng bài “Nguyễn Trường Tộ tiên sinh tiểu sử” của Lê Thước. Rồi trong 6 tháng liên tiếp (từ tháng 5 tới tháng 10-1927, tức từ số 117 cho đến 122) NAM PHONG giới thiệu bảy văn bản của Nguyễn Trường Tộ. Nếu cứ theo đà đó chỉ trong vài năm, NAM PHONG sẽ có thể giới thiệu toàn bộ tư liệu về Nguyễn Trường Tộ. Được vậy thì quý báu biết bao cho những người làm công tác nghiên cứu sau này!

Nhưng chủ đích của NAM PHONG, như chúng ta điều biết, là cổ vũ cho việc âu hóa, cho việc hợp tác với Pháp, chấp nhận ảnh hưởng của Pháp, chấp nhận sự bảo hộ của Pháp. Chính vì thế là tất cả những bài viết của Nguyễn Trường Tộ được đăng tải trong NAM PHONG cho tới tháng 10-1927 đều chỉ gồm những bài nội dung có chiều hướng chủ trương hợp tác với Pháp, canh tân đổi mới theo Tây phương. Các bài viết về Nguyễn Trường Tộ và các bài viết của Nguyễn Trường Tộ trong NAM PHONG cho tới tháng 10-1927 đều bằng chữ Hán, không có gì về Nguyễn Trường Tộ trong phần tiếng Việt (mỗi số NAM PHONG đều gồm một phần chữ Hán và một phần chữ Việt). Rõ ràng là NAM PHONG chỉ muốn nhằm vào tầng lớp nho sĩ còn chống Pháp, chống ảnh hưởng của Pháp.

Nhưng Nguyễn Trường Tộ, trong các bài viết của mình, chủ trương hòa hoãn với Pháp, chủ trương cải cách theo Tây phương là để làm cho dân giàu nước mạnh, rồi tìm cách thoát khỏi vòng kềm tỏa của Pháp. Chính vì thế mà NAM PHONG phải dừng lại ở số 122, tháng 10-1927. Ngay trong nhiều bài của các số trước, NAM PHONG đã tự ý cắt bỏ những đoạn bất lợi cho Pháp. Tháng 1-1933, trong số 180, NAM PHONG còn cho đăng một bài bằng tiếng Việt của Nguyễn Trọng Thuật, nhan đề “Nguyễn Trường Tộ trên lịch sử Việt Nam”. Đó là bài cuối cùng về Nguyễn Trường Tộ trong NAM PHONG.

Từ năm 1937 - 1938 trở đi, sau khi Mặt trận Bình dân ở Pháp tan rã, những nới rộng về tự do dân chủ ở Đông Dương cũng chấm dứt. Không còn đấu tranh công khai được cho tinh thần dân tộc, cho lòng yêu nước, nhằm giành lại độc lập cho xứ sở, nhiều nhà báo, nhà văn bắt đầu nói đến Nguyễn Trường Tộ như một niềm tự hào của dân tộc, như một tấm gương yêu nước của một con người đã dành cả cuộc đời vì nước vì dân. Và đỉnh cao của thời kỳ này là cuốn sách của ông Từ Ngọc Nguyễn Lân, nhan đề “Nguyễn Trường Tộ” do Viễn Đệ, Huế xuất bản năm 1941 và Mai Lĩnh, Hà Nội tái bản năm 1942. Sách khổ nhỏ, chỉ dày 145 trang. Đây là lần đầu tiên có một cuốn sách, tuy sơ lược nhưng trình bày tương đối đầy đủ, về con người và tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ. Tác giả đã nói rõ ý đồ của mình ngay trong “Mấy lời ngỏ trước” rằng: “Một người có cái kiến thức sâu rộng như tiên sinh, có lòng yêu nước trên hết như tiên sinh, ta có bổn phận phải luôn luôn nhắc nhở đến tên tuổi, để treo một gương sáng giữa các anh em thiếu niên ngày nay, và nhất là để bày trước mặt các bạn du học sinh tấm hoài bão thiết tha của nhà Tây học sớm nhất của đất nước”.

Một điều đáng chú ý nữa của thời kỳ này là Dương Quảng Hàm đã đem Nguyễn Trường Tộ và sự nghiệp của ông vào trong một quyển sách giáo khoa dạy văn dành cho chương trình Trung học Pháp - Việt thời bấy giờ, “VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ YẾU”. Tất cả các tác giả thuộc thời kỳ này đều có ít nhiều tham khảo các bài viết của Nguyễn Trường Tộ, ít nữa là những bài đã được đăng tải trên NAM PHONG.
______________________________________________
1. “Đại Nam Thực Lục, bản dịch của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội:
Tập 31, trang 33: 3 dòng.
Tập 31, trang 57: 3 dòng.
Tập 31, trang 59 - 70: 21 dòng.
2. “Việt Nam Quốc sử khảo” bản dịch tiếng Việt của Trương Thâu, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 1962: “Những năm cuối thời Tự Đức (...) đã có người xin cử người xuất dương học binh pháp của người Tây Âu (...) Thừa Thiên có Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ; Quảng Ngãi có Nguyễn Đức Thuấn (có lẽ là linh mục Đặng Đức Tuấn?); Nghệ An có Nguyễn Trường Tộ. Họ chính là những người đã giồng cái mầm khai hóa trước tiên” (trang 68-69).

SÁCH BÁO VIẾT VỀ NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
TRONG VÙNG “QUỐC GIA” TỪ 1946 ĐẾN 1975

Tháng 9-1945, Thực dân Pháp trở lại Việt Nam, núp dưới bóng quân đội Anh tới giải giáp quân đội Nhật. Từ đó, một vùng “quốc gia” dần dần được hình thành, bao gồm phần lớn các đô thị trên cả nước và sau Hiệp định Genève (21-7-1954) thu gọn lại ở Nam vĩ tuyến 17.

Trong vùng “quốc gia” này, luôn luôn có sự hiện diện của quân đội Pháp, rồi quân đội Mỹ. Nhưng thực dân Pháp, sau này, không hoàn toàn giống như thực dân Pháp trước Cách mạng tháng 8 (1945) và người Mỹ thì vốn khác với người Pháp vì theo chủ nghĩa thực dân mới. Chính vì vậy mà trong thời kỳ này, chủ trương canh tân để tự lực tự cường nhằm thoát nanh vuốt của ngoại bang, một chủ trương bàng bạc trong tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ, không còn đáng quản ngại. Người ta lại bắt đầu viết về Nguyễn Trường Tộ như một người yêu nước “sáng suốt” nhất của thế kỷ 19. Dĩ nhiên nội dung những bài viết về Nguyễn Trường Tộ trong thời kỳ này cũng như trong thời kỳ trước, phần lớn đều có chủ đích chính trị.

Chúng ta thấy trong suốt thời kỳ dưới chiêu bài của Bảo Đại (1946 - 1954), chỉ có một vài bài báo nói đến Nguyễn Trường Tộ. Nhưng từ khi Ngô Đình Diệm lên nắm quyền (1954 - 1963), Nguyễn Trường Tộ được nói đến nhiều và ông được trình bày như một chí sĩ, đàn anh của “chí sĩ” Ngô Đình Diệm.

Chắc chắc không phải vì mục đích thuần túy văn hóa mà Tạp chí VĂN HÓA Á CHÂU, do cơ quan Văn hóa Á châu (Asia Foundation) tài trợ, đã cho dịch đăng lại những bản văn bằng chữ Hán của Nguyễn Trường Tộ đã đăng trên NAM PHONG trước đây.

Tích cực hơn cả trong thời kỳ này là nhóm nhà văn nhà báo, những người thân tín của chế độ Ngô Đình Diệm, những người chủ trương tờ VĂN ĐÀN và TINH VIỆT văn đoàn.

Tháng 11-1961, nhân kỷ niệm 90 năm ngày mất của Nguyễn Trường Tộ, VĂN ĐÀN có một số đặc biệt về Nguyễn Trường Tộ. Số báo đặc biệt này của VĂN ĐÀN có nêu lên được một vài điểm mới trong việc nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ so với trước đó. Nhưng chủ đích của VĂN ĐÀN cũng là để cổ vũ cho một tinh thần “Quốc gia”. Trong bài “Người yêu nước sáng suốt”, Chủ bút tuần san VĂN ĐÀN đã nói rất rõ rằng: “Nguyễn Trường Tộ quả thực là sự hy sinh hiến dâng cho Tổ quốc! Giữa lúc “Tổ quốc lâm nguy” hiện nay, hơn bao giờ hết, tấm gương yêu nước sáng suốt của ông phải được treo cao cho toàn thể soi chung”.

Hoài bão của VĂN ĐÀN, được nói đến trong số đặc biệt này, là thành lập một “Ủy ban Nguyễn Trường Tộ”.

Ngày 22-11-1971, nhân kỷ niệm 100 năm ngày từ trần của Nguyễn Trường Tộ, TINH VIỆT văn đoàn lại tổ chức “Bách chu niên Nguyễn Trường Tộ”, để ra mặt “Ủy ban quốc gia Nguyễn Trường Tộ”, do một thượng nghị sĩ Công giáo, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của chế độ Sài Gòn lúc bấy giờ, làm chủ tịch, gồm các mục đích sau:

- Dựng tượng hay đài kỷ niệm Nguyễn Trường Tộ tại Sài Gòn và các tỉnh.

- Sưu tầm, phiên dịch, nghiên cứu và phổ biến các văn bản của Nguyễn Trường Tộ cùng các sách báo nói về Nguyễn Trường Tộ.

- Lập giải thưởng đặt tên “Giải thưởng Nguyễn Trường Tộ” để tưởng thưởng cá nhân, đoàn thể, tổ chức, tác phẩm hay công cuộc của người trong nước hay nước ngoài “có thể đóng góp vào cuộc phát triển quốc gia Việt Nam mà Nguyễn tiên sinh đã tiêu biểu một cách phong phú”.

Ít lâu sau, “Ủy ban quốc gia Nguyễn Trường Tộ” được đổi thành “Hội phát triển tinh thần Nguyễn Trường Tộ”.

Ngày 17-12-1972, “Giải thưởng Nguyễn Trường Tộ” đầu tiên được tặng cho Hội Văn hóa Bình dân, gồm một huy chương, một bản tuyên dương và một tấm ngân phiếu 100.000 đồng.

Trong suốt thời kỳ này, chỉ có thêm được một số bản dịch các bài viết của Nguyễn Trường Tộ. Ngoài ra, phần đông các tác giả chỉ lặp lại hoặc suy diễn trên những gì đã được viết về Nguyễn Trường Tộ trước đó mà thôi.

SÁCH BÁO VIẾT VỀ NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
DƯỚI CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TỪ NĂM 1954 CHO ĐẾN NAY

Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, trong những năm 1960-1961, trên tạp chí NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ, người ta thấy có chiến dịch đánh giá lại những nhân vật lịch sử. Hồ Quý Ly, Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ lần lượt cũng được đưa ra mổ xẻ...

Nói chung ai cũng nhìn nhận Nguyễn Trường Tộ là người có tài và có tâm huyết. Nhưng về các chủ trương và chính sách của ông, thì có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên phần đông các tác giả chỉ dựa trên những gì đã được viết về Nguyễn Trường Tộ để đánh giá Nguyễn Trường Tộ theo những tiêu chuẩn của xã hội mình.

Ngoài những bài viết có tính cách phong trào này, ở miền Bắc đã có một nỗ lực nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ rất nghiêm túc. Các văn bản bằng chữ Hán của Nguyễn Trường Tộ được thu thập, được dịch và được công bố một phần trong cuốn “NGUYỄN TRƯỜNG TỘ VÀ NHỮNG ĐỀ NGHỊ CẢI CÁCH CỦA ÔNG”, do Chương Thâu và Đặng Huy Vận soạn, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1961, 242 trang, khổ 13 × 19.

Đây lâ một cuốn sách cung cấp nhiều tư liệu nhất về Nguyễn Trường Tộ từ trước cho tới nay. Tuy nhiên các tài liệu chưa được sắp xếp và đối chiếu, vì thế giá trị sử dụng còn rất hạn chế.

Từ đó cho tới nay, thỉnh thoảng trên các chuyên san của miền Bắc như Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Triết học cũng thấy xuất hiện một vài bài viết về Nguyễn Trường Tộ của những tác giả quen thuộc, nhưng không có gì mới.

Nói tóm lại, qua các sách báo viết về Nguyễn Trường Tộ, từ trước cho tới nay, chúng ta thấy: Nguyễn Trường Tộ là người có trí thông minh, nhìn xa thấy rộng, có tài ứng dụng, nhưng không gặp thời, nên những đề nghị cải cách của ông không được đem ra sử dụng. Do đó, ông đã thực sự không đóng một vai trò nào trong lịch sử, ngoài vai trò làm chứng về tấm lòng của một con người, về vận hội của một đất nước.

Ngày nay, nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ, chúng ta không nhằm mục đích đánh giá Nguyễn Trường Tộ để đề cao hay hạ thấp, mà chỉ tìm hiểu một con người, một thời đại.

Con người của Nguyễn Trường Tộ sống cách xa chúng ta hàng trăm năm, nhưng vẫn là con người Việt Nam với dòng máu anh hùng được truyền từ Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Hồ Chí Minh...

Thời đại của Nguyễn Trường Tộ là thời đại phong kiến, nhưng cũng là một thời đại bao gồm những con người, về quan điểm giai cấp và về kiến thức khoa học, có khác với chúng ta ngày nay, nhưng về bản chất vẫn là những con người Việt Nam với những ưu điểm và nhược điểm như đã ăn sâu vào trong máu thịt.

Đọc thẳng vào các bài viết của Nguyễn Trường Tộ, hiểu được cuộc đời và tư tưởng của ông, chúng ta sẽ rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hiện tại cũng như tương lai.

SỰ HÌNH THÀNH CỦA MỘT ƯỚC VỌNC MỚI VỀ NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

Những năm 1942-1950, lúc còn học ở Tiểu Chủng viện Xã Đoài (thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An ngày nay), tôi đã được nghe nói về Nguyễn Trường Tộ. Bởi vì, đối diện với Tiểu Chủng viện Xã Đoài, ở bên kia bờ Kênh Gai, là làng Bùi Chu, quê quán của Nguyễn Trường Tộ. Ở đó, tôi đã có lần được tham quan ngôi nhà tương đối khang trang của gia đình Nguyễn Trường Tộ và ngôi mộ mới xây của ông do Từ Ngọc Nguyễn Lân và một số nhân sĩ ở Nghệ Tĩnh đóng góp; tôi lại được đọc cuốn “NGUYỄN TRƯỜNG TỘ” của Từ Ngọc Nguyễn Lân do Viễn Đệ - Huế xuất bản năm 1941. Đó là cuốn sách được coi như đầy đủ nhất về Nguyễn Trường Tộ lúc bấy giờ.

Năm 1960-1963, khi viết luận án về những cuộc thương thuyết giữa Pháp và triều đình vua Tự Đức trong thời kỳ 1862-1874, tôi đã phải nói về Nguyễn Trường Tộ. Để tìm tư liệu cho đề tài, tôi đã tìm đọc trong các thư viện và các kho lưu trữ ở Paris, nhưng cũng chỉ thấy những quyển sách và những bài báo viết về Nguyễn Trường Tộ trước đó mà thôi.

Kho lưu trữ của Hội Truyền giáo Nước ngoài của Paris (Missions Etrangères de Paris = M.E.P) là nơi, do những liên hệ giữa Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier, một thành viên của Hội, có thể có những dấu vết về Nguyễn Trường Tộ. Nhưng thời đó, kho lưu trữ của Hội Truyền giáo Nước ngoài của Paris, ở 128 rue du Bac, không mở cửa cho các nhà nghiên cứu; tôi chỉ được đọc qua ông Georges Taboulet, một nhà nghiên cứu về Đông Dương, đã chép được hầu như toàn bộ thư của các thừa sai của Hội ở Việt Nam thời đó và tôi cũng không thấy có tư liệu gì nhiều về Nguyễn Trường Tộ: Trong các thư của mình, Giám mục Gauthier thỉnh thoảng có nói đến Nguyễn Trường Tộ, nhưng không nêu tên, mà chỉ nêu biệt hiệu “Kiến trúc sư”. Sau này, người quản thủ kho lưu trữ của Hội Truyền giáo Nước ngoài của Paris, trong một văn thư đề ngày 1-12-1971, trả lời cho một người hỏi về Nguyễn Trường Tộ rằng: “Tôi không thấy có tên này trong kho lưu trữ của Hội. Tôi hoàn toàn biết rõ như vậy bởi vì tôi đã tìm khắp các giấy tờ có liên quan đến ông mà không thấy đâu cả”.1

Tôi đã có nhờ tìm trong thư viện của Triều đình Huế, lúc bấy giờ vừa mới được chuyển về Đà Lạt, nhưng cũng không thấy có văn bản nào của Nguyễn Trường Tộ.

Qua cuốn “NHỮNG ĐỀ NGHỊ CẢI CÁCH CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ” do Đặng Huy Vận và Chương Thâu xuất bản ở Hà Nội năm 1961, tôi biết là ở miền Bắc có nhiều tư liệu mới về Nguyễn Trường Tộ và tôi đã tìm cách liên lạc xin sao chụp, nhưng do tình hình đất nước bị chia cắt lúc bấy giờ, nên đã không có kết quả.

Sau này đất nước được thống nhất, tôi đã xin chụp được tất cả các bản văn bằng chữ Hán của Nguyễn Trường Tộ trong thư viện của Viện Sử học và Viện Hán Nôm ở Hà Nội.

Anh Chương Thâu, là người đã cùng với Kiều Hữu Hỹ và Trần Lê Hữu dịch các bản văn của Nguyễn Trường Tộ, có nhã ý chuyển cho tôi toàn bộ các bản dịch, trong đó phần lớn chưa được xuất bản. Anh Trần Văn Quyền, cán bộ của Viện Hán Nôm, với sự đồng ý của Viện, cũng đã vui lòng giao cho tôi các bản dịch của anh về Nguyễn Trường Tộ.

Với bốn tập của bộ HV 189 và bốn tập của bộ HV 634, hiện đang được lưu giữ tại thư viện Viện Sử học ở Hà Nội, chúng ta có gần như toàn bộ các văn bản của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta có thể có được. Dĩ nhiên đây chỉ là những bản sao chép lại. Bản gốc, gồm các văn bản chính thức được gởi cho Triều đình Huế và những bản thảo, bản sao được giữ trong gia đình Nguyễn Trường Tộ, theo ông Đào Duy Anh, thì đã bị chính ông làm thất lạc, không biết là có ai đó còn giữ được hay đã trở thành bùn đất2.

Sau khi nhận thấy là, trước mắt, không thể chờ đợi thêm ở một ngnồn tư liệu nào nữa, chúng tôi xin sơ khởi giới thiệu “Con người và Di thảo” của Nguyễn Trường Tộ, với nội dung gồm ba phần như sau:

I. NGUYỄN TRƯỜNG TỘ - CON NGƯỜI

II. NGUYỄN TRƯỜNG TỘ - DI THẢO

III. PHỤ LỤC

Để viết về “Con người của Nguyễn Trường Tộ” tôi đã dựa chủ yếu vào các bài viết của Nguyễn Trường Tộ và cũng đã sử dụng các tư liệu và các bài viết về Nguyễn Trường Tộ đã được đối chiếu và phối kiểm, nhằm khẳng định những gì có thể khẳng định được và những gì chưa khẳng định được thì cũng cố gắng vạch rõ ranh giới của vấn đề đang được đặt ra.

Để hoàn thiện các bản dịch, “Di thảo của Nguyễn Trường Tộ”, Tiến sĩ Lý Kim Hoa, cộng tác viên của Phòng tư liệu Tuần báo Công giáo và Dân tộc, đã đối chiếu các bản chép tay hiện có và đã tham khảo tất cả các bản dịch để đề nghị một bản dịch tiếng Việt, theo chủ qnan, là phù hợp hơn cả.

Những bản văn có liên quan tới Nguyễn Trường Tộ mà không phải là của Nguyễn Trường Tộ, được xếp vào phần “Phụ lục”.

Cuốn sách này muốn được xem như một bước phát triển mới trong việc nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ. Rất mong sự đóng góp và tiếp tục của các nhà nghiên cứu.
TRƯƠNG BÁ CẦN

_________________________________________
1. Xem C.V.P, Giáo phận Vinh, Nghệ-Tĩnh-Bình, tài liệu đánh máy, trang 259. Trong những năm 1996 và 1999, kho lưu trữ của Hội Truyền giáo Nước ngoài Paris đã được cho tham khảo, tôi đã đọc rất kỹ các thư từ và tài liệu thuộc giai đoạn này nhưng cũng đã không tìm thấy gì hơn.
2. Xin xem bài “Tôi đã mang tội để mất những tài liệu quý về Nguyễn Trường Tộ như thế nào?”. Tuần báo CÔNG GIÁO VÀ DÂN TộC số đề ngày 12-7.

NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
con người


Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1830, trong một gia đình theo Công giáo từ nhiều đời ở làng Bùi Chu (nay thuộc xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An) và mất ngày 22 tháng 11 năm 1871 tại Xã Đoài (nay thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An).

- Về năm sinh của Nguyễn Trường Tộ, thì theo Lê Thước, trong bài Nguyễn Trường Tộ tiên sinh tiểu sử, đăng trên NAM PHONG số 102, và hầu hết các tác giả, tiếp sau đó, đều nói: Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828, Minh Mạng năm thứ 9. Riêng Nguyễn Trường Cửu con trai của Nguyễn Trường Tộ, trong Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ, không nói năm sinh, nhưng nói: “mất ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức 24... thọ 41 tuổi”. Thực ra Lê Thước, ở cuối bài cũng nói “thọ 41 tuổi”1.

Hiện nay, chúng ta không có đủ tài liệu để xác định một cách chắc chắn về năm sinh của Nguyễn Trường Tộ. Nhưng nếu ông mất năm Tự Đức 24, tức năm 1871 và thọ 41 tuổi, thì năm sinh phải là 1830, chứ không thể 1828. Ngày mất và tuổi thọ của một con người thường được gia đình truyền đạt một cách chuẩn xác.

- Về quê quán của Nguyễn Trường Tộ, cũng có nhiều chỗ khác nhau: Lê Thước2 nói: Làng Bùi Chu (Bùi Chu thôn); Đinh Văn Chấp3 nói: người Bùi Ngõa (Bùi Ngõa nhân); Nguyễn Trường Cửu nói “Ông Tộ là người Đoài Giáp, người ta quen gọi là Xã Đoài4. Bùi Chu và Bùi Ngõa là hai làng kế cạnh nhau, nay cùng thuộc xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên. Còn Đoài Giáp là một địa danh nay không còn thấy ở đâu cả. Tuy nhiên, Hoàng Tá Viêm, trong thư mời Nguyễn Trường Tộ giúp đào Thiết cảng, ngày 19-6-1866, có nói là thư gởi “Nguyễn Trường Tộ ở Đoài Giáp, huyện Hưng Nguyên”. Riêng Xã Đoài, nay thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, là tên của một đơn vị Công giáo: Xứ và hạt Xã Đoài, và cũng là tên của trụ sở giáo phận Vinh: Nhà chung Xã Đoài.

Như thế Đoài Giáp hay Giáp Đoài là một địa danh của bên đạo hay bên đời nằm phía Tây kênh Sắt, thuộc huyện Hưng Nguyên, xưa kia bao trùm cả họ đạo Bùi Chu, ngày nay không còn nữa. Ở xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, phía Đông kênh Sắt, ngoài họ đạo Xã Đoài còn có một họ đạo nhỏ tên là Giáp Đông. Nguyễn Trường Cửu có thể dựa vào bức thư của Hoàng Tá Viêm (là tài liệu được cất giữ trong gia đình và được Lê Thước trích dẫn) để nói: “Ông Tộ là người Đoài Giáp” và dựa vào thực tế là Nguyễn Trường Tộ đã mất trong căn nhà ở Xã Đoài để cho rằng Đoài Giáp và Xã Đoài là một.
______________________________________
1, 2. Xem Lê Thước “Nguyễn Trường Tộ tiên sinh tiểu sử”, trong Nam Phong số 102 (Phụ lục II)
3. Đinh Văn Chấp, Phụ lục bị khảo (Phụ lục III).
4. Xem phụ lục I.

I. NHỮNG NĂM HỌC TẬP
(cho tới cuối năm 1860)

Nguyễn Trường Tộ học vỡ lòng về Hán học trong gia đình, với thân sinh là Nguyễn Quốc Thư làm nghề thầy thuốc, sau theo học với tú tài Giai ở Bùi Ngõa, Cống Hữu ở Kim Khê và quan huyện Địa Linh về hưu ở Tân Lộc.

Nguyễn Trường Tộ lúc nhỏ có tiếng là thông minh phi thường: Học tới đâu là nhớ tới đó, ít khi làm bài. Theo Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ của Nguyễn Trường Cửu thì có một lần thi kiểm tra, quan huyện Địa Linh bắt buộc lắm, Nguyễn Trường Tộ mới chịu làm bài. Sau khi thầy cho đề thi, Nguyễn Trường Tộ làm bài và nộp trước tiên: Được chấm ưu và được thầy khen hết lời. Có lẽ vì thế mà được truyền tụng là “Trạng Tộ”1.

Nguyễn Trường Tộ không thích lối học từ chương, mà thích cái học thực tiễn. Cứ xem các đề nghị cải cách về học thuật của Nguyễn Trường Tộ, sau này, cũng đủ thấy. Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ có thuật rằng: “Lần kia, thầy và các học trò đi dạo trên Tú Lò, các học trò thì nhẹ gót khắp mọi nơi, ông Tộ đứng trông xem, rồi hỏi người bạn có đạo (là Cả Thuần, người Tân Lộc) rằng anh ước từ Tú Lò cho đến Thuần Ngư xa nhau mấy tầm, Tú Lò cao mấy trượng, Thuần Ngư cao mấy tầm2.

Chúng ta không biết chắc là Nguyễn Trường Tộ học trong gia đình cho tới tuổi nào và học với mỗi thầy được mấy năm3. Nhưng chúng ta thấy rõ là ông có một vốn liếng về Hán học rất lớn, không thua các vị khoa bảng của Triều đình Huế lúc bấy giờ. Văn chương, cú pháp cũng như kiến thức về lịch sử và luật lệ Đông phương cũ, qua các bài viết của Nguyễn Trường Tộ gửi lên Triều đình vua Tự Đức, không ai chê vào chỗ nào được. Tuy nhiên Nguyễn Trường Tộ không đậu đạt gì, một phần có lẽ vì ông là người Công giáo nên không được đi thi, một phần có lẽ vì ông không muốn đi theo con đường khoa cử.

Sau khi thôi học, Nguyễn Trường Tộ đã có mở trường dạy chữ Hán tại nhà, rồi được mời dạy chữ Hán trong Nhà chung Xã Đoài4 và được Giám mục người Pháp tên là Gauthier (Ngô Gia Hậu), dạy cho học tiếng Pháp và giúp cho có một số hiểu biết về các khoa học thường thức của Tây phương.

Trong một bài viết tháng 5 năm Tự Đức thứ 17 (tức khoảng tháng 6-1864), Nguyễn Trường Tộ nói: “Từ 15 năm nay, tôi đã biết rõ tất phải có mối lo như ngày nay, nên tôi đã ra sức tìm tòi học hỏi trí khôn của mọi người để thêm sự hiểu biết cho mình, chứ không phải chỉ mới một ngày5. Rồi trong một bài viết ngày 16 tháng 2 năm Tự Đức 21 (tức 9-3-1867), ông lại nói: “Mấy chục năm nay, tôi bôn tẩu trong thiên hạ, thu thập những tình thế biến thiên xưa nay, đem những điều đã đọc trong sách nghiệm ra việc đời. Đã trao đổi với ai một lời nói, một câu chuyện, thâm tâm tôi cũng có ý muốn thu lấy sự hiểu biết của người làm của mình...6.

Như thế có nghĩa là Nguyễn Trường Tộ đã bắt đầu tiếp xúc với văn hóa Tây phương từ những năm 1848-1849 (theo như bài viết tháng 6-1864) và có thể đã đi ra nước ngoài từ những năm 1848-1849 hay chỉ từ 1859-1861.

Ông Đào Duy Anh, một trong những người được tiếp xúc nhiều với các tài liệu đầu tay về Nguyễn Trường Tộ, quả quyết rằng: “Mặc dầu là người Công giáo từ lúc sinh ra, tâm hồn tiên sinh đã bị lay động mạnh bởi tiếng bom nổ ở Đà Nẵng năm 1848 và, từ lúc đó, người thanh niên 20 tuổi (?) ấy quyết từ bỏ lối học cổ truyền để đi theo lối học thực dụng. Tiên sinh đã được Giám mục Gauthier, giáo phận Xã Đoài dạy cho tiếng Pháp, cung cấp cho các bản dịch chữ Hán của các sách Tây phương và cho đi du lịch ở Hong Kong và Singapore7.

Thực ra vào thời kỳ này, các giáo sĩ người nước ngoài ở Việt Nam thường dùng thuyền buồm để đi lại hoặc cho người qua lại Hong Kong, Singapore, Mã Lai (chủ yếu là Poulo Pinang, nơi có Chủng viện miền Đông Nam Á). Do đó việc Nguyễn Trường Tộ được các giáo sĩ người Pháp, đặc biệt là Giám mục Gauthier (về Xã Đoài nhận nhiệm vụ từ năm 1846), tạo điều kiện cho qua Hong Kong, Singapore, Poulo Pinang... là điều có thể có.

Điều chắc chắn là cuối năm 1858, Nguyễn Trường Tộ đã cùng với Giám mục Gauthier vào Đà Nẵng tránh nạn “phân tháp”8 rồi đầu năm 1859, sang Hong Kong...
______________________________________
1. Đinh Văn Chấp, tlđd, nói: “Lúc nhỏ Tộ cũng giỏi về lối học khoa cử, thời bấy giờ có tên là Trạng Tộ (tục danh Thầy Lân)”. Về tên Thầy Lân, một tên gọi khác của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta có thấy nói tới trong các thư của các thừa sai người Pháp thời Nguyễn Trường Tộ. Trong tờ tấu của Cơ mật viện đề ngày 14-5-1867, thấy nói: “Nguyễn Trường Tộ, tức tên Thầy Lân” (Xem phụ lục V).
2. Xem phụ lục I.
3. Lê Thước, tlđd, có nói cụ thể năm nào học thầy nào, nhưng không có cơ sở.
4. Lê Thước, tlđd, có nói là năm 1858, nhưng chỉ là ước đoán, không có cơ sở.
5. Di thảo số 5.
6. Di thảo số 30.
7. Xem Bulletin des Amis du Vieux Hue số 2 tháng 4-6 năm 1944 trang 135 và xem TRI TÂN số 7 ngày 18-7-1941 bài “Nguyễn Trường Tộ học ở đâu”.
8. Ngày 1-9-1858, quân Pháp bắt đầu đánh chiếm cảng Đà Nẵng. Để kiểm soát và ngăn chặn người Công giáo có thể tiếp tay với giặc, Triều đình vua Tự Đức cho bắt giam các giáo sĩ và trùm trưởng, đồng thời ra lệnh “phân tháp” giáo hữu, nghĩa là phân tán người Công giáo và tháp nhập hai ba gia đình Công giáo vào trong một làng không Công giáo, chứ không cho ở tập trung. “Phân tháp” là một biện pháp gây nhiều thiệt hại và đau khổ nhất cho đồng bào Công giáo lúc bấy giờ.

Hầu hết các tác giả, kể cả Nguyễn Trường Cửu, đều nói là từ Hong Kong, Giám mục Gauthier đã đem Nguyễn Trường Tộ sang Pháp, sang Roma vào chầu Đức Giáo chủ Pio IX. Nhưng nay thì chúng ta biết rõ rằng trong những năm 1859-1860, Giám mục Gauthier không về Pháp1. Ông Đào Duy Anh nói là “Giám mục Gauthier đưa Nguyễn Trường Tộ sang Hong Kong rồi để cho Nguyễn Trường Tộ một mình đi Pháp2.

Sự thực là với tài liệu hiện có, chúng ta không biết chắc được là trước năm 1861, Nguyễn Trường Tộ có đi sang các nước Tâu Âu để tìm tòi học hỏi hay chỉ quanh quẩn ở các nước Đông Nam Á như Hong Kong, Mã Lai... là những nơi có cơ sở hậu cần lớn của Hội Truyền giáo Nước ngoài của Paris...

Có lẽ như ông Đào Duy Anh nói, nếu Nguyễn Trường Tộ có đi châu Âu những năm 1859-1860, thì cũng do sự gởi gắm của Giám mục Gauthier và chủ yếu là với Hội Truyền giáo Nước ngoài của Paris. Thế nhưng trong thư từ của Giám mục Gauthier viết trong thời kỳ này được lưu trữ tương đối nhiều ở kho lưu trữ của Hội không thấy nói gì tới vấn đề này và cũng không có dấu vết gì về Nguyễn Trường Tộ tại đó. Hơn nữa, nếu Nguyễn Trường Tộ có đi Pháp thì sớm nhất là giữa năm 18593 mới tới nơi và khó có thể có mặt ở Hong Kong đầu năm 1861 để cùng Giám mục Gauthier trở về Sài Gòn, theo yêu cầu của Đô đốc Charner, viên chỉ huy được giao trách nhiệm gom quân để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài Gòn. Một điều đáng lưu ý nữa là trong các văn bản gởi Triều đình Huế trước năm 1867, tức trước chuyến đi công cán châu Âu với Giám mục Gauthier, Nguyễn Trường Tộ thường nói về nước Pháp và châu Âu một cách rất chung chung, không thấy có kỷ niệm hay nhận xét nào cụ thể. Trái lại, trong các văn bản được viết từ năm 1867, ông nói đến những người cụ thể ông đã gặp hay những nơi cụ thể ông đã tới.

Nói tóm lại là ngoài vốn liếng về Hán học, Nguyễn Trường Tộ đã sớm tiếp xúc với văn hóa Tây phương, trước tiên có thể là qua các giáo sĩ thừa sai người Pháp, chủ yếu là Giám mục Gauthier. Nguyễn Trường Tộ cũng đã có dịp đi ra nước ngoài, nếu không qua các nước Tâu Âu, thì cũng qua các nước Đông Nam Á, nơi đây ông đã được đọc các sách báo của Tây phương, bằng tiếng Pháp, tiếng Anh và nhất là đọc các sách báo Tây phương đã được dịch ra tiếng Trung Quốc. Theo ông Đào Duy Anh và những người đã tới tham khảo các tài liệu tại nhà của con cháu Nguyễn Trường Tộ ở làng Bùi Chu, thì trong tủ sách của Nguyễn Trường Tộ có rất nhiều quyển sách chữ Hán thuộc loại Tân thư. Nhờ đó mà vào đầu năm 1861, Nguyễn Trường Tộ đã có được một số kiến thức khá rộng lớn về khoa học kỹ thuật cũng như khoa học xã hội của Tây phương.

Trong bài Trần tình (7-5-1863), Nguyễn Trường Tộ nói là về việc học, thì không môn nào là không để ý, từ thiên văn, địa lý, luật lịch, binh quyền, tôn giáo, bách nghệ... cho tới thuật số; ông đặc biệt chú ý nghiên cứu về chính trị và ngoại giao4. Qua các văn bản gửi Triều đình Huế từ năm 1861 cho tới 1871, chúng ta thấy là Nguyễn Trường Tộ có một hiểu biết về tình hình thế giới và các khoa học kỹ thuật của Tây phương tương đối rộng lớn và chuẩn xác. Về chính trị, thì năm 1868, ông đã biết trước là chiến tranh giữa Pháp và Đức chỉ trong mấy năm nữa là thế nào cũng xảy ra và quả đã xảy ra tháng 7-1870. Riêng về cơ khí, thì trong một bài viết về mua và sửa chữa, chế tạo thuyền máy, năm 1865 ông dám nói: “Người Nam biết qua các loại máy tàu, không ai hơn tôi5. Về kiến trúc xây dựng, trong một bài viết ngày 19 tháng 6 năm 18716, ông nói là kỹ sư Pháp đã phải tham khảo ông và nhà cầm quyền Pháp ở Sài Gòn lúc bấy giờ muốn giao cho ông phụ trách về công chánh cho họ, mà ông không nhận.
______________________________________
1. Trong thư của người quản thủ Kho lưu trữ của M.E.P đề ngày 1-12-1971, có quả quyết là trong những năm 1859-1860, Giám mục Gauthier không về Pháp. (Xem C.V.P, tlđd, trang 259).
2. Đào Duy Anh, Bulletin des Amis du Vieux Hue số tháng 4-6 năm 1944 trang 135.
3. Theo lời khai của một lang y (người thôn Thuận An, tổng Thanh Vân, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) tên Trần Vinh, bị tàu Pháp bắt đem đi rồi sau trốn thoát được, kể lại thì ngày 10 tháng 9 (tức 16-10-1858), tàu Pháp (trên đó có Trần Vinh) đến đảo Nhãn Sơn, trước cửa Mành Sơn, để đón “Đức thầy Huy và Cố Lý” (tức Giám mục Gauthier và Linh mục Robert, cũng có tên là Hậu và Thuận) nhưng “hôm qua hai vị đã lấy thuyền Nhà Chung với 8 người đi rồi”. Khi tàu Pháp trở về Trà Sơn, Đà Nẵng, thì thấy thuyền Nhà Chung đã ở đó rồi. (Xem Châu bản Triều Nguyễn CBR 22/47). Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà Nẵng, đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài Gòn. Do đó, trước khi đem quân vào Sài Gòn, Đô đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hong Kong. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi sang Hong Kong trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859.
4. Xem di thảo số 3.
5. Xem di thảo số 6.
6. Xem di thảo số 50.

II. NHỮNG NĂM THÁNG CHỜ ĐỢI
(1861-1865)

Đầu năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Sài Gòn với một hoài bão lớn là đem những hiểu biết thu thập được của mình để giúp đất nước canh tân, tự cường, tự lực ngõ hầu tránh được họa mất nước.

Thực dân Pháp bắt đầu chiếm đóng Sài Gòn từ đầu tháng 2 năm 1859. Nhưng quân đội Pháp bị kẹt với chiến tranh ở Ý, rồi ở Trung Quốc, nên chỉ để lại Sài Gòn một nhóm nhỏ, khoảng 300 - 400 người. Do lực lượng của Pháp mỏng và sức kháng cự của quân lính Triều đình Huế còn tương đối mạnh, nên vùng chiếm đóng của Pháp ở Sài Gòn hết sức thu hẹp, binh lính Pháp hầu như bị bao vây trong các doanh trại.

Đầu tháng 2-1861, sau khi chiến tranh ở Ý và ở Trung Quốc kết thúc, Đô đốc Charner mới được lệnh gom quân ở Trung Quốc đem về Sài Gòn mở rộng vùng chiếm đóng. Với quyết tâm này, Charner đã thuyết phục được một số giáo sĩ Pháp đang lánh nạn ở Hong Hong, trong số đó có Giám mục Gauthier, cùng về Sài Gòn cộng tác với quân đội Pháp.

1. LÀM PHIÊN DỊCH CHO PHÁP

Nguyễn Trường Tộ đã cùng về Sài Gòn theo Giám mục Gauthier nhưng chắc chắn không phải với ý định làm tay sai cho Pháp. Bởi vì với hoài bão lớn là đem hết tâm lực ra giúp nước, làm sao Nguyễn Trường Tộ có thể nghĩ tới việc tiếp tay với giặc được? Trong bài Trần tình (7-5-1863), Nguyễn Trường Tộ phân trần rằng: lúc Pháp bắt đầu khởi hấn (đầu năm 1859), có được mời cộng tác, nhưng ông một mực từ chối; sau khi đại đồn Chí Hòa, tuyến phòng thủ được coi như là kỳ công nhất của quân đội Triều đình Huế, thất thủ (23-24 tháng 2 năm 1861), ông thấy rằng phải tạm hòa, theo đề nghị của Pháp, để dưỡng quân và củng cố lực lượng. Chính vì thế mà Nguyễn Trường Tộ đã nhận làm từ dịch (phiên dịch các tài liệu chữ Hán) cho Pháp để mong góp phần vào việc hòa đàm. Ông đã kể ra nhiều trường hợp cụ thể mà mình đã làm để cứu nguy tình thế cho người của Triều đình, với tên người và sự việc rõ ràng, mà lúc bấy giờ Triều đình có thể phối kiểm được. Nguyễn Trường Tộ đã gởi cho Triều đình Huế, giữa năm 1861, qua Nguyễn Bá Nghi, người được Triều đình phái vào mở các cuộc thương thuyết với Pháp, một văn bản mà tác giả gọi là “hòa từ”, nội dung gần giống như bài “Thiên hạ đại thế luận phân hợp”, đề nghị với Triều đình Huế là nên tạm hòa với Pháp để “dưỡng uy súc nhuệ1. Nhưng trong năm 1861, Triều đình Huế không quyết định được, mặc dầu các điều kiện của Charner còn tương đối nhẹ, chỉ đòi cho các giáo sĩ được tự do giảng đạo; kiều dân Pháp được tự do ra vào buôn bán; nước Pháp có một điểm tựa cho tàu bè qua lại.

Ngày 29-11-1861, Đô đốc Charner bàn giao quyền lài cho Đô đốc Bonard. Bonard mở rộng cuộc chiến: Ngày 16-12-1861, đánh chiếm tỉnh Biên Hòa; ngày 7-1-1862, đánh chiếm Bà Rịa... Trước thái độ hung hãn của Bonard, Nguyễn Trường Tộ không trông mong gì ở hòa cuộc nên xin thôi không làm từ dịch cho Pháp nữa, mặc dầu nhà cầm quyền Pháp dụ dỗ, nài nỉ. Thực sự một người vừa thông chữ Hán, vừa biết tiếng Pháp như Nguyễn Trường Tộ, thời đó là rất hiếm.
_____________________________________
1. Xem di thảo số 1.

2. NHỮNG VĂN BẢN ĐẦU TIÊN GỞI CHO TRIỀU ĐÌNH HUẾ

Thôi không làm việc cho Pháp, Nguyễn Trường Tộ đã dồn tâm trí vào việc thảo kế hoạch giúp nước. Cho tới đầu tháng 5 năm 1863, ông đã thảo sẵn xong ba văn bản, làm thành một kế hoạch hoàn chỉnh gởi lên Triều đình Huế là: Tế cấp luận, Giáo môn luận, và Thiên hạ phân hợp đại thế luận.

Bản văn quan trọng hơn cả và Nguyễn Trường Tộ chắc chắn đã dành nhiều thời giờ hơn cả để soạn thảo, nhất định là bài Tế cấp luận. Tế cấp luận, như đầu đề của nó, là bàn về các việc cần làm ngay để canh tân, tự lực, tự cường, phát triển đất nước. Đây là một bản văn mà trong các bài viết sau này Nguyễn Trường Tộ thường nhắc đến như là một tài liệu cơ bản nhất, đầy đủ nhất. Trong bài Lục lợi từ (tháng 5-1864), ông nói: “Tế cấp luận là thâu tóm trí khôn của thiên hạ 500 năm nay, đâu có phải chuyện một ngày mà có thể làm hết được1. Trong một bài viết tháng 8 năm Tự Đức 24, ông lại nói: “Bài Tế cấp luận của tôi, nếu đem ra thực hành hàng trăm năm cũng chưa hết2. Bản văn này cũng phải là rất dài, bởi vì ngay Tế cấp bát điều dài mấy chục ngàn chữ mà cũng chỉ mới là tóm lược một phần của Tế cấp luận3. Nhưng có điều đáng tiếc là bản văn này, cho tới nay, chưa tìm thấy ở đâu cả và chưa có ai được đọc cả4.

Để có thể phát triển đất nước, cần phải hòa hảo với bên ngoài và hòa hợp ở bên trong.

Về nội trị, Nguyễn Trường Tộ viết Giáo môn luận, dùng lý lẽ của trời đất và vạn vật cũng như những chứng cứ của lịch sử để kêu gọi Triều đình có chính sách bao dung đối với người Công giáo. Sau này, ông còn viết những văn bản đề nghị cải cách hành chính, cải cách học thuật, cải cách phong tục... Nhưng trước mắt, việc bách hại người Công giáo là một sai lầm cần chấm dứt ngay, bởi vì không nên tạo thêm thù trong, đương lúc đang có giặc ngoài.

Đối với giặc ngoài, Triều đình Huế đã ký Hòa ước 5-6-1862, nhưng không muốn thi hành hoặc muốn tìm cách sửa đổi. Nguyễn Trường Tộ không thấy có cách nào hơn là tạm hòa với Pháp, để rảnh tay mà chấn hưng xứ sở. Vì thế, ông đã viết Thiên hạ phân hợp đại thế luận. Bản văn này, hình như chỉ là bài “Bàn về việc hòa” (hòa từ) gởi Nguyễn Bá Nghi năm 1861 được sửa chữa và bổ sung mà thôi. Bởi vì để thuyết phục triều đình chấp nhận hòa hoãn với Pháp, những lý lẽ đưa ra năm 1861 vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên có điều đáng chú ý là vào thời điểm mà bài Thiên hạ phân hợp đại thế luận được viết ra, Triều đình Huế đã ký với Pháp và Tây Ban Nha Hòa ước 5-6-1862, thế mà trong văn bản này không nói gì tới Hòa ước đó cả. Có lẽ là Nguyễn Trường Tộ thừa biết rằng Triều đình Vua Tự Đức đặt bút ký vào bản Hòa ước này chẳng qua chỉ vì bị ép buộc mà thôi. Bằng chứng là sau khi làm lễ trao đổi văn kiện đã được phê chuẩn, tháng 4-1863, liền sau đó Vua Tự Đức đã cử ngay một phái bộ sang Pháp để xin chuộc lại phần đất đã nhượng. Thực ra trong văn bản này, Nguyễn Trường Tộ nhấn mạnh nhiều đến việc người Pháp đã đến là sẽ không đi, việc tạm nhượng cho họ một phần đất là điều không thể tránh.

Sau khi thảo xong ba văn bản quan trọng này, Nguyễn Trường Tộ còn thảo thêm bài Trần tình để phân trần về tâm tư và hoàn cảnh riêng của mình, sợ triều đình nghi ngờ vì mình đã từng đi với các giáo sĩ Pháp và đã làm việc cho người Pháp.

Bài Trần tình viết xong ngày 7-5-1863 và ở cuối bài nói: “Tôi kính dâng ba tập: Thiên hạ phân hợp đại thế luận, Tế cấp luận, Giáo môn luận”. Đinh Văn Chấp, trong Phụ lục bị khảo, có nói là “nhân dịp Phạm Phú Thứ vào Gia Định, Tộ dâng ba bản điều trần...5. Còn ông Đào Duy Anh lại nói là bản Trần tình và ba bản đính kèm được gởi cho Trần Tiễn Thành, lúc đó là Thượng Thư Bộ Binh và cũng là vị quan lại cao nhất ở Huế.
_______________________________________
1. Xem di thảo số 5.
2. Xem di thảo số 52.
3. Xem Tê cấp bát điều, di thảo số 27.
4. Cho tới nay chưa thấy tác giả nào trích dẫn Tế cấp luận. Riêng ồng Đào Duy Anh trong B.A.V.H, tlđd, trang 136, nói: “tập này không tìm thấy”.
5. Phụ lục III.

Chúng ta biết là Phạm Phú Thứ đến Sài Gòn vào giữa tháng 3-1863 để thảo luận về việc Bonard và Palanca tới Huế để trao đổi các văn kiện phê chuẩn Hòa ước 5-6-1862 và, sau đó, đã trở lại Sài Gòn ngày 1-6-1863 để cùng với phái bộ Phan Thanh Giản chờ tàu đi Pháp. Vậy có thể là Nguyễn Trường Tộ đã trao các văn bản nói trên cho Phạm Phú Thứ lúc ông này vào Sài Gòn theo phái bộ Phan Thanh Giản, để nhờ Phạm Phú Thứ chuyển cho Trần Tiễn Thành. Sở dĩ như thế có lẽ là vì Nguyễn Trường Tộ đã có quen với Phạm Phú Thứ lúc Phạm Phú Thứ tới Sài Gòn ký Hòa ước 5-6-1862, cũng như lúc Phạm Phú Thứ tới Sài Gòn để bàn bạc về lễ nghi trao đổi các văn kiện của Hòa ước đã được phê chuẩn, chứ Nguyễn Trường Tộ chưa hề biết Trần Tiễn Thành. Trong thời gian Phạm Phú Thứ ở Sài Gòn chờ tàu đi Pháp, Nguyễn Trường Tộ đã có đi lại với Phạm Phú Thứ và đã nhờ linh mục Croc (cố Hòa) viết thư cho những người quen biết của mình ở Pháp giúp thông tin cho Phạm Phú Thứ1. Hơn nữa đầu bản Thiên hạ đại thế luận (trong Hv 189/1 tờ 1) có ghi: “Bản này được gởi cho thần Phạm Phú Thứ” (Giá tập ký dữ thần Phạm Phú Thứ).

Những văn bản này được gởi đi mà không nhận được hồi âm. Đầu năm 1864, Nguyễn Trường Tộ lại gởi cho Trần Tiễn Thành một văn bản nữa để thuyết phục Triều đình Huế là phải tạm hòa với Pháp và mở rộng bang giao. Văn bản này hiện không tìm thấy ở đâu cả, chúng ta chỉ biết là Nguyễn Trường Tộ nhắc tới văn bản này trong thư gởi cho Phan Thanh Giản tháng 3-18642.

Trong thời gian phái bộ Phan Thanh Giản ở Pháp về Sài Gòn chờ tàu để đi Huế (từ 18 đến 24 tháng 3-1864), Nguyễn Trường Tộ đã có nhiều cuộc tiếp xúc với Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản là phó sứ và bồi sứ, cũng như với chính Phan Thanh Giản là chánh sứ, thảo luận nhiều vấn đề liên quan đến việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong di thảo số 4, Nguyễn Trường Tộ đã hầu như tóm lược lại các vấn đề được mọi người quan tâm. Sau đó, ông đã triển khai vấn đề một cách rộng rãi hơn trong một văn bản gọi là “Dụ tài tế cấp bẩm từ” hay “Lục lợi từ” (tháng 6-1864).

Theo ông Đào Duy Anh là người sử dụng nhiều tư liệu của gia đình Trần Tiễn Thành, thì “trong mùa đông năm 1865, Nguyễn Trường Tộ lại gởi cho Trần Tiễn Thành ba văn thư và cho Phạm Phú Thứ hai văn thư. Trong các văn thư gởi Thượng thư Bộ Binh, văn thư thứ nhất nói về việc mua vũ khí, văn thư thứ hai nói về việc gởi học sinh ra nước ngoài, và văn thứ ba, văn thư quan trọng hơn cả, lập lại các vấn đề đã được đề cập trong các văn bản của năm 1863, như việc khai thác các tiềm năng của đất nước và việc giao thiệp với các nước châu Âu…3.

Hai văn bản gởi cho Phạm Phú Thứ, thì hiện nay chúng ta không biết là nội dung như thế nào. Còn ba văn bản gởi cho Trần Tiễn Thành, thì có thể là bài góp ý về việc mua và đóng thuyền máy (Di thảo số 6), bài góp ý về việc đào tạo người điều khiển và sửa chữa thuyền máy (Di thảo số 7) và văn bản mà ông Đào Duy Anh nói rất quan trọng, có lẽ là bài Khai hoang từ, tháng 2 năm Tự Đức 18 - 18654.

Như thế là từ đầu năm 1861 cho tới đầu năm 1866, Nguyễn Trường Tộ, từ Sài Gòn, đã gởi cho Triều đình Huế 11 văn bản:

- Bàn về việc hòa (Hòa từ), gởi Nguyễn Bá Nghi thượng bán 1861 (có thể là bài đăng trong NAM PHONG số 100).

- Thiên hạ phân hợp đại thế luận (Bài Hòa từ được sửa chữa lại) Di thảo số 1.

- Tế cấp luận, tháng 3-4 năm 1863 (hiện chưa tìm thấy đâu cả).

- Giáo môn luận, 26-3-1863. Di thảo số 2.

- Trần tình, 7-5-1863. Di thảo số 3.

- Thư gởi Trần Tiễn Thành, đầu năm 1864 (hiện chưa tìm thấy ở đâu cả).

- Kế hoạch duy trì hòa ước mới, tháng 3-1864. Di thảo số 4.

- Dụ tài tế cấp bẩm từ hay Lục lợi từ, tháng 6-1864. Di thảo số 5.

- Góp ý về việc mua và đóng thuyền máy, cuối 1864. Di thảo số 6.

- Góp ý về việc đào tạo người điều khiển và sửa chữa thuyền máy. Tháng 2-1865, di thảo số 7.

- Khai hoang từ, tháng 2-1866, di thảo số 8.

Tất cả những văn bản này gởi đi mà không được phúc đáp. Nguyễn Trường Tộ vẫn chờ đợi một cách nhẫn nhục.
_______________________________________
1. Xem di thảo số 51.
2. Xem di thảo số 4.
3. Xem Đào Duy Anh, tlđd.
4. Xem di thảo số 8.

3. XÂY CẤT TU VIỆN DÒNG THÁNH PHAOLÔ Ở SÀI GÒN

Trong lúc chờ đợi, ở Sài Gòn, sau khi thôi làm phiên dịch cho Pháp, Nguyễn Trường Tộ đã giúp xây cất tu viện Dòng thánh Phaolô, số 4 Tôn Đức Thắng hiện nay1.

Công cuộc xây dựng được bắt đầu tháng 9-1862 và hoàn tất ngày 18-7-1864.

Theo ký sự của Nữ tu Benjamin, người phụ trách tu viện Thánh Phaolô ở Sài Gòn lúc bấy giờ, cũng như một bức thư của linh mục Le Mée, thừa sai người Pháp viết ngày 10-5-1876, thì công việc xây cất được giao cho “Thầy học” tên là Lân và nhờ các thư từ của Giám mục Gauthier, chúng ta biết chắc chắn rằng: “Thầy học” tên Lân, nói trên đây, chính là Nguyễn Trường Tộ2.

Ký sự của Dòng thánh Phaolô Sài Gòn viết: “Nữ tu phụ trách bàn tính công việc xây cất với Đức Giám mục Gauthier và linh mục Croc, các vị này đồng ý là khi trở về Bắc Kỳ sẽ để Thầy học ở lại điều khiển các công tác. Nhà dòng liền trao đồ án tu viện và nhà nguyện cho Kiến trúc sư trẻ tuổi, nhưng ông hăng hái quá độ, cứ làm theo nghệ thuật của mình chứ không chịu xem túi tiền của chúng tôi: ở nhà nguyện thay vì làm một cái vòm đơn sơ như vẽ trong đồ án, ông lại làm thêm cột; các trang trí, các bức họa đều do ông làm; cái tháp chuông cũng vậy, mặc dầu chúng tôi định hoãn việc làm tháp chuông, vì chi phí đã lên cao khá nhiều.

“Bên tu viện, ông lại trang trí thêm cho đẹp mắt và, dầu nói thế nào, ông cũng không chịu làm một cái kiểu đơn sơ như vẽ trong đồ án.

“Ông là một giáo hữu Bắc kỳ, không kể cái tính kiên quyết theo ý tưởng của mình, ông lại rất thông minh, linh hoạt và vô vị lợi đến mức tuyệt đối, vì ông không nhận một đồng lương nào, chỉ ăn cơm không và tiêu vặt chút đỉnh. Không có ông, chúng tôi không bao giờ có thể xây dựng được nào tu viện, nào nguyện đường, bởi vì thợ đã không quen việc, lại không có ai chỉ huy, đến nỗi chính phủ cũng không xây cất được tòa nhà nào. Chúng tôi sẽ đời đời ghi ơn người chủng sinh (sic) tận tụy ấy, cũng như Đức Giám mục Gauthier và linh mục Croc, những vị đại ân nhân của chúng tôi ở xứ Nam kỳ, sau Chúa quan phòng.

“Nhà nguyện được đổ nền vào tròng 9-1862, mấy tuần sau đến lượt tu viện và nhà mồ côi. Nhờ
Thầy học, công tác tiến hành rất mau chóng, đến ngày 18 tháng 7 năm 1864, chúng tôi đã có thể đến ở nhà đó với 150 em mồ côi.

Ngày 10 tháng 8 tiếp đó, Đức Giám mục Lefebvre chủ tọa lễ làm phép nhà nguyện. Du khách ngược dòng sông đến Sài Gòn, từ đàng xa, đã phải chú ý đến ngọn tháp nhọn với đường nét thanh tú nổi lên trên nhà nguyện của tu viện3.

Linh mục Le Mée, thừa sai Paris, trong một bức thư đăng trên tập san Missions Catholiques 1876, nói về công việc của Dòng Thánh Phaolô ở Sài Gòn và việc xây cất cơ sở của dòng như sau:

Đức Giám mục Gauthier và linh mục Croc đã đem theo một nho sĩ Bắc kỳ, tên là Lân, với trí thông minh hiếm có. Được gợi ý và được thúc đẩy bởi sự nhiệt tình và tận tụy của giám mục mình, nho sĩ Bắc kỳ này, vì tình yêu Thiên Chúa, đã nhận đứng ra đốc suất công việc. Trước kia, ông có ở Hong Kong ít lâu và trong thời gian ngắn ngủi tại thuộc địa này của người Anh, ông đã thấy được cách thức và thể loại kiến trúc của châu Âu. Thời đó ở Sài Gòn, chưa có một công trình nào làm kiểu mẫu. Với đề án của tu viện và nhà nguyện do Nữ tu Benjamin (Bề trên) cung cấp, ông ta đã phác họa được một họa đồ phối cảnh chung và thực hiện công trình nhờ sự cộng tác của các công nhân người Việt Nam. Chính ông đã phải vẽ sơ đồ của tháp chuông và tự mình trông nom công việc một cách rất cẩn thận; chính ông đã hoàn thành nhiều phần khác của công trình. Mỗi ngày người ta thấy ông có mặt ở công trường và để ý tới từng chi tiết. Phải thú nhận là nếu không có ông thì không thể thực hiện được một công trình như vậy vào một thời điểm mà ở Sài Gòn chưa có thợ cũng như chưa có nhà thầu (...).

“Hiện nay, Kiến trúc sư Lân của chúng ta đã từ trần mấy năm nay ở Bắc kỳ, tên của ông sẽ tồn tại mãi mãi ở viện mồ côi này của Sài Gòn và kỷ niệm của ông sẽ mãi mãi kết hợp với kỷ niệm của Giám mục Gauthier và linh mục Croc, là những ân nhân của cơ sở này.

“Ở đây không có gì sánh được với ngọn tháp duyên dáng và vươn cao này, tựa hồ như đem tới tận các tầng mây dấu hiệu cao cả của ơn Cứu rỗi của chúng ta. Đây là điều mà người ta trông thấy trước tiên sau khi rời Vũng Tàu để ngược dòng sông vô tận này...”.


Về công trình xây cất của Nguyễn Trường Tộ ở Sài Gòn, một chứng nhân của thời kỳ đó, trung úy hải quân Richard, trong bài viết về “Sài Gòn và phụ cận đầu năm 1866”, có nói như sau:

Chúng ta hãy rời đan viện này4 và thích thú đi thăm tu viện xinh xắn của Dòng Thánh Phaolô, với một ngôi nhà nguyện nhỏ, nhưng tuyệt diệu, trên cao là một ngọn tháp duyên dáng nổi bật giữa tất cả vùng này, như báo tin cho chúng ta biết thủ đô của nước Pháp ở Á Đông. Một thánh giá trên chóp đỉnh của công trình này, và bên cạnh là lá cờ của nước Pháp như là bảo trợ cho dấu hiệu linh thiêng này của văn minh. Tu viện giống lối kiến trúc của nước Ý, pha lẫn những trang trí tự tiện của người Việt Nam.

“Nhà nguyện được xây theo kiểu Gô-tíc và được trang trí bằng những bức vẽ với một sự thẩm mỹ đáng nghi ngờ, mà mưa gió và thời gian sẽ xóa nhòa đi? Tất cả là do công của một linh mục (?) Việt Nam, người Bắc Kỳ, là kiến trúc sư bất đắc dĩ, không học hành gì, nhưng đã phác thảo và thực hiện đồ án của công trình này...”
5.

Như thế, cơ sở của Dòng Thánh Phaolô do Nguyễn Trường Tộ xây cất nổi lên giữa Sài Gòn năm 1864 như một công trình kiên cố có tầm cỡ. Ngoại trừ ngôi nhà hai tầng của Hãng hàng hải dân dụng6, ở chỗ Bến Nhà Rồng hiện nay, tất cả, ở Sài Gòn vào thời điểm đó, đều là bằng gỗ, tạm bợ: Dinh Toàn quyền Pháp chỉ được đặt viên đá đầu tiên tháng 3-1888 và nhà thờ Đức Bà chỉ được hoàn tất vào năm 1880.

Công trình xây cất của Nguyễn Trường Tộ, ở số 4 Tôn Đức Thắng hiện nay, trong quá trình lịch sử, nhất là sau trận bom của Đồng Minh năm 1945 làm sập hầu như hoàn toàn ngôi nhà nguyện cổ kính, đã được sửa chữa và trùng tu nhiều lần. Nhưng nhìn từ bên ngoài nếu so sánh giữa bức ảnh chụp năm 1876 trên Missions Catholiques năm 1876 trang 493, với hiện trạng của hôm nay, chúng ta thấy là, tuy có thay đổi, nhưng quy mô cũ vẫn còn y nguyên và công trình xây cất này tương đối đồ sộ, chứng tỏ tài nghệ kiến trúc của Nguyễn Trường Tộ.
_______________________________________
1. Đường này thời Pháp gọi là Rue de la Citadelle, sau đổi thành Luro; sau năm 1955, đổi là Cường Đề.
2. Giám mục Gauthier, trong các thư gởi về Hội Truyền giáo Nước ngoài của Paris, luôn luôn gọi Nguyễn Trường Tộ bằng danh hiệu “Kiến trúc sư”.
Thư tháng 8-1866: Tôi đã đến Huế ngày 17-8 cùng với một linh mục bản xứ và một giáo hữu (Kiến trúc sư của tu viện Dòng Thánh Phaolô ở Sài Còn).
Thư 1-1-1870: “Người giáo hữu Việt Nam mà tôi đã đem theo tôi năm 1867 và người ta quen gọi là “Kiến trúc sư” vì ông ta đã xây ngôi nhà ba tầng của các nữ tu Sài Gòn, một nhà nguyện và một ngọn tháp cao nổi bật...”.
3. Có thể xem Văn Đàn, 30-11-1961, trang 15.
4. Đan viện Carmel, ở số 33 Tôn Đức Thắng hiện nay, đối diện với Dòng Thánh Phaolô 4 Tôn Đức Thắng.
5. Boudet, Documents pour servir à L’Histoire de Saigon de 1859 à 1865. Saigon 1927 trang 109-110.
6. Messageries Impériales sau đổi thành Messageries Maritimes.
  1. NHỮNG NGÀY THÊ LƯƠNG

    Sau khi xây cất xong cơ sở của Dòng Thánh Phaolô, Nguyễn Trường Tộ tưởng là sẽ có một chuyến đi sang Anh để tham dự một Hội nghị khoa học do một người Anh có tới Sài Gòn tiếp xúc với tiên sinh và mời tiên sinh tham dự Hội nghị. Chuyến đi này coi như đã chắc chắn. Trong một văn thư gửi cho Phan Thanh Giản, cuối tháng 3-1864, Nguyễn Trường Tộ nói: “Hiện nay tôi muốn qua kinh đô nước Anh. Nhân nước Anh có mở đại hội cách trí, họ thường sai người đi khắp các nước, đến các đầu phố phỏng vấn về tình hình người phương Tây giao tế với các nước khác như thế nào (Việc này có tương quan đến đại thế tung hoành, phân hợp của các nước). Người này đến Gia Định, phỏng vấn người Pháp gần đây thế nào, Đại Nam thế nào, nhưng quan Pháp không chịu nói sự thật, y nghe tiếng tôi, tự đến hỏi thăm. Thực tình có bụng muốn gặp nhau nên nhân y muốn mời tôi cùng đi, tôi mừng thầm cho đó là cơ hội tốt khiến tôi có thể đến tận nước Anh, để nói lên những sự thật ngay trong nước Anh, như trong tờ mật bẩm ngày trước tôi đã nói lý do cần đi nước ngoài là vì thế (...). Nếu có việc gì ở nước ngoài, cần dùng đến tôi, thì xin cho biết gấp, tôi xin đợi ở Gia Định, không thì tôi đi trước. Hoặc đi hoặc ở lại, xin theo ý định của đại nhân1.

    Nhưng rồi chuyến đi này không thực hiện được, có lẽ là do ai đó trong đám người Việt Nam giúp việc cho Pháp báo cáo nên người Pháp ngăn cản, không muốn cho Nguyễn Trường Tộ liên lạc với người Anh. Trong văn thư gởi cho Trần Tiễn Thành 19 tháng 3 năm 1866, Nguyễn Trường Tộ nói: “Tôi cũng định đi xa, một là để thỏa mãn điều nguyện ước trước kia, hai là mong được bình phục sức khỏe để sau này báo đáp ơn trên. Nhưng thời thế còn có điều trở ngại, do người đời còn ghen ghét kẻ có tài mà chặn tay lại...2.

    Ở Sài Gòn, trong thời gian này có lẽ Nguyễn Trường Tộ đã sống những ngày buồn tẻ, vì bệnh hoạn. Trong thư của Tổng đốc Nghệ An Hoàng Tá Viêm, ngày 19 tháng 6 năm 1866, mời Nguyễn Trường Tộ giúp đào Thiết Cảng có nói là “Vì chân của người chưa bình thường”, kèm theo một lời chú giải trong ngoặc đơn rằng: Khi ở Sài Gòn tiên sinh té lầu chân bị thương nhẹ3. Trong thư gởi Trần Tiễn Thành 19-3-1866, Nguyễn Trường Tộ nói: “Tôi trước đây bị ốm ở Gia Định, điều dưỡng đã gần hai năm, nay 10 phần đã giảm 5, 64.

    Ngoài ra, Nguyễn Trường Tộ còn bị bệnh tê thấp, một căn bệnh theo đuổi ông cho tới khi chết và đã hạn chế rất nhiều hoạt động của ông. Trong một văn thư gởi cho Trần Tiễn Thành cuối năm 1864 đầu năm 1865, ở cuối, Nguyễn Trường Tộ có nói: “Nhân vì chân tôi bị tê bại sắp thành kẻ phế nhân, nằm ngửa ra mà viết, tinh thần buồn bã rối loạn, tự biết nói năng không thứ tự5. Rồi trong một bài viết, ít lâu sau đó, vào khoảng tháng 2-1865, ông lại nói: “Tôi hiện nay bị tê thấp chưa khỏi”.

    Trong thời gian từ đầu năm 1861 cho đến đầu năm 1866, Nguyễn Trường Tộ, chủ yếu ở Sài Gòn, không về Nghệ An, ít đi Huế. Chúng ta biết là ngày 9-6-1863, từ Sài Gòn Giám mục Gauthier lên tàu Grenada đi Huế, để trở về giáo phận của mình, cùng với 8 người Việt Nam6. Nhưng chắc chắn trong số 8 người Việt Nam này, không có Nguyễn Trường Tộ, bởi vì vào giữa năm 1863, công việc xây cất của Dòng Thánh Phaolô ở Sài Gòn đang ở cao điểm, không cho phép ông vắng mặt. Hơn nữa, nếu Nguyễn Trường Tộ có đi theo Giám mục Gauthier, trong chuyến đi này, thì cũng không về Nghệ An được, bởi vì Giám mục Gauthier phải dừng lại Bố Chính, bên kia bờ sông Gianh, cho tới giữa năm 1866 mới về được tới Xã Đoài.

    Trong những ngày chờ đợi ở Sài Gòn, ngoài những liên hệ thư từ và tài liệu như đã nói ở trên, Nguyễn Trường Tộ chắc cũng đã tạo được một sự thân tình nào đó với Trần Tiễn Thành là ông quan đầu triều trong giai đoạn này, ở cuối văn thư đầu năm 1865, Nguyễn Trường Tộ có nói tới cái thiên hạ thời vụ biểu không chạy: “Nếu tiện xin gởi đến, tôi sẽ đích thân chỉnh lại sẽ tốt. Nếu tôi bệnh chưa khỏi, thì sẽ thuê thợ Tây chỉnh lại cũng tốt. Vì thợ Tây biết tôi cũng chỉnh được nên không dám làm cẩu thả7.

    Cái Thiên hạ thời vụ biểu này là do Trần Tiễn Thành mua hay do Nguyễn Trường Tộ biếu cho ông hoặc cho Triều đình, thì chúng ta không rõ. Nhưng điều này cho thấy là đã có một sự trao đổi, qua lại cụ thể. Rõ ràng hơn nữa, là cuối văn thư tháng 2-1865, Nguyễn Trường Tộ lại nói: “Tôi xin gởi kèm theo đây một cái hộp gỗ thô kính tặng quý công tử dùng đựng thuốc hút, mong đại nhân nhận cho. Tôi hiện nay bị bệnh tê thấp chưa khỏi. Xin quý công tử thương tình cho tôi 5 đồng cân quế Quỳ, sau này lành bệnh, tấm lòng khuyển mã chẳng dám quên ơn8.

    Để tạo nên được sự thân thiện đó, chắc Nguyễn Trường Tộ đã có lần tới Huế, gặp gỡ Trần Tiễn Thành. Với các tài liệu hiện có, trong thời kỳ này, chúng ta chỉ thấy Nguyễn Trường Tộ ở Huế, một lần, vào tháng 2-1865, có lẽ theo thuyền Pháp, cùng Nguyễn Hoằng đến để giúp Triều đình trong việc thương thuyết với phái viên của Tây soái là Chevalier và góp ý với Triều đình về việc đào tạo người điều khiển và sửa chữa thuyền máy. Trong một văn bản đề tháng 8- 1866, Nguyễn Trường Tộ có nói là “Ngày trước tôi có bệnh trở về chỉ vì ý đó” (Văn bản số 17). Trong một văn bản tháng 2-1865, Nguyễn Trường Tộ viết: “Hiện nay thuyền Tây đã đến Kinh, tôi đã ngầm hẹn với ông Hoằng cùng đi với tôi là có thâm ý riêng9.

    Chuyến đi Huế lần này hình như không đem lại kết quả cụ thể nào.
    _______________________________________
    1. Xem di thảo số 4.
    2. Xem di thảo số 11.
    3. Xem Lê Thước, tlđd.
    4. Xem di thảo số 8.
    5. Xem di thảo số 6.
    6. Xem thư của Giám mục Gauthier (Kho lưu trữ M.E.P).
    7, 9. Xem di thảo số 7.
    8. “Công tử” đây, chắc bà con của Trần Tiễn Thành. Trần Tiễn Thành sinh ngày 14-12-1813, đậu tiến sĩ năm 1838: lấy vợ thứ nhất năm 1835, vợ thứ hai năm 1844; vợ thứ ba năm 1849; và có rất nhiều con: 8 trai và 15 gái, nhưng 6 trai và 10 gái đã chết lúc còn nhỏ. Hiện nay chúng ta cũng không thể biết được “công tử” này là con thứ mấy, tên gì. Theo ông Đào Duy Anh (Bulletin des Amis du Vieux Huế tháng 4 và 6 năm 1944), thì Trần Tiễn Thành có hai người con trai sống tới khôn lớn và một trong hai người con trai đó là Trần Tiễn Hối, tổng đốc Nghệ An sau này. Nếu “công tử” mà Nguyễn Trường Tộ gởi biếu hộp đựng thuốc và xin quế là Trần Tiễn Hối, thì vào thời điểm này Trần Tiễn Hối cũng chỉ mới 15-16 tuổi. “Công tử” này càng chắc chắn không phải là Nguyễn Lộ Trạch, bởi vì Trần Tiễn Thành chỉ gả con gái của mình là Nguyễn Thị Nhạn cho Nguyễn Lộ Trạch một hai năm sau khi Nguyễn Trường Tộ mất, lúc Nguyễn Lộ Trạch mới khoảng 20 tuổi.

III. NHỮNG NĂM THÁNG ĐẦY TRIỂN VỌNG
(1866-1868)

Đầu năm 1866, Nguyễn Trường Tộ được mời về Huế. Trong văn thư đề ngày 19-3-1866, gởi Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trường Tộ nói: “Nay tôi nhân việc công về đây, chả mấy tháng bệnh cũ đã tăng lên, tuy được đại nhân chiếu cố cho thuyền đi lại mà cũng khó bề bôn tẩu vâng mệnh”1.

1. VỀ VỤ TÀU LONDON

“Việc công” đây chắc chắn là việc tàu London.

Về việc này, ĐẠI NAM THỰC LỤC chính biên (Bản dịch của Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1974, trang 35-36) có nói là Hoàng Văn Xưởng sang Hương Cảng mua tàu Mẫn Thỏa, có quen chủ hãng tàu là Phô Na (Bonan) và đặt mua chiếc tàu Long Đôn (London) của hãng ông: “Mùa thu trước (tức mùa thu năm Tự Đức 18), người nước Hồng Mao, chủ hãng Phô Na cũng cho Ô Xích Tôn2 theo Vĩ Sĩ Thao đi chiếc tàu Long Đôn tới cửa Thuận An để bán... trị giá bạc hơn 13 vạn đồng. Hỏi thì họ nói là sử dụng được 20 năm nữa, mới cần phải sửa chữa lại. Nhân sai bọn Hoàng Văn Xưởng đi chiếc tàu tới Hương Cảng, do lãnh sự Pháp lập tờ biên làm bằng, rồi đưa về Thuận An trả tiền. Không ngờ bị Phô Na lừa dối, tàu đã cũ nát, chưa đi tới Hương Cảng, nhân bị gió gãy nát tổn hại, bọn Thao và Tôn bèn chở về Gia Định sửa chữa, rồi đưa đến Thuận An bắt phải mua”.

Nguyễn Trường Tộ có lẽ đã tới Huế khoảng cuối tháng 1 đầu tháng 2-1866 và ở lại Huế cho tới 10-4-1866. Trong thời gian này ông đã có một văn bản về cách giải quyết tàu London nhưng không được sử dụng vào việc tàu London nên Nguyễn Trường Tộ có lẽ chán nản, viết thư cho Trần Tiễn Thành nói lên nỗi thất vọng của mình và xin về Nghệ An (Di thảo số 11).

Nguyễn Trường Tộ có lẽ đã được vua Tự Đức chú ý đến, lần đầu tiên, do bản Khai hoang từ, là một bản trình bày kế hoạch phát triển đất nước một cách tương đối rõ ràng và dễ thực hiện, làm cho nhà vua phải lưu tâm. Có lẽ vì thế mà, theo lệnh nhà vua, Nguyễn Trường Tộ đã được triệu về kinh để giúp giải quyết vấn đề tàu London. Theo phụ lục bị khảo3, trên một di thảo của Nguyễn Trường Tộ vua Tự Đức có châu phê: “Nguyễn Trường Tộ có thể dùng được Hay là cho quan chức để lấy lòng và dùng sau”. Nhưng theo tấu của Trần Tiễn Thành và Phạm Phú Thứ, thì Nguyễn Trường Tộ lấy lẽ đau yếu không nhận quan chức. Vua Tự Đức lại đã truyền lệnh thu thập các văn bản của Nguyễn Trường Tộ4 và Trần Tiễn Thành đã được lệnh gặp gỡ và hỏi han Nguyễn Trường Tộ nhiều lần5.

Qua hai tờ tấu của Trần Tiễn Thành (ngày 29-3 và 11 tháng 5 năm 1866), chúng ta thấy là vào lúc này vua Tự Đức nửa muốn sử dụng Nguyễn Trường Tộ, nửa muốn không.

Trước hết Nguyễn Trường Tộ được mời về Huế để giúp giải quyết vụ tàu London, chắc chắn là do lệnh vua Tự Đức chứ không phải do sáng kiến của Trần Tiễn Thành. Thế nhưng Triều đình không sử dụng Nguyễn Trường Tộ, vua Tự Đức cũng y theo6.

Thứ đến là vua Tự Đức đã ra lệnh thu thập các văn bản của Nguyễn Trường Tộ, nhưng vẫn dè dặt trong việc sử dụng. Nhà vua châu phê về các tờ bẩm của Nguyễn Trường Tộ như sau: “Hãy duyệt xét các khoản, nếu rõ ràng không có gì nghi vấn mới có thể toan tính được7.

Cuối cùng Nguyễn Trường Tộ thấy mình ở Huế cũng không có việc gì để làm nên đã xin đi ra Quảng Bình để về Nghệ An, vua Tự Đức lại khiển trách Trần Tiễn Thành tại sao để cho Nguyễn Trường Tộ bỏ đi8.
______________________________________
1. Xem di thảo số 11.
2. Ô Xích Tôn tức Byrnes, người Anh và Vĩ Sĩ Thao tức Lèques, người Pháp.
3. Phụ lục III.
4. Lệnh này được sao lại ở đầu Hv 189/1 tờ 1, như sau:
Vâng châu phê:
Hợp với Pháp, nước ngoài, âm mưu làm một việc phải không? Việc gì vậy? Khanh hãy sai thuộc hạ thân tín bí mật sao chép lại tất cả những tờ trình, bẩm của tên Tộ gửi cho khanh từ trước đến nay kể cả những thư từ phúc đáp, danh thích qua lại các khoản. Ghi rõ theo thứ tự năm tháng, đóng thành tập trình lên xem để rõ nguyên ủy, để thẩm tra căn cứ, không được sót lược. Nguyên bản các từ, phiến, đều phải giữ cẩn thận tra cứu đầy đủ.
Tờ phiến của Lê Đình Đức giao Viện Cơ mật và Đoàn Thọ duyệt rồi nạp luôn với các bản”.

Lệnh này được truyền cho Trần Tiễn Thành. Trong tờ tấu năm Tự Đức 19, ngày 12 tháng 2 (28-3-1866) có nói: “Còn các tờ bẩm của tên này sẽ đệ trình sau”. Trong lời châu phê của vua Tự Đức trên tờ tấu của Trần Tiễn Thành ngày 19-4 năm Tự Đức 19 (1-6-1866) có nói: “Hãy đệ nạp các bản, trong đó các khoản nên chăng như thế nào, khoản nào nên làm ngay, khoản nào nên đình lại, nhất nhất phải nói rõ. Phải phúc trình riêng cho biết có bao nhiêu nguyên bản xét kiểm sơ qua các khoản đệ trình xem”.
    Trong lệnh sưu tập, có nói đến:
    - Việc hợp tác với người Pháp và người nước ngoài để khai thác tài nguyên của đất nước như đã nói trong Khai hoang từ (Di thảo số 8 ).
    - Tờ phiến của Lê Đình Đức, người của Bộ Công, đứng đầu việc dàn xếp tàu London.
5. Nguyễn Trường Tộ đã trả lời bằng miệng và cũng đã có trả lời bằng viết. Nhưng bản viết trả lời hiện nay chúng ta không tìm thấy ở đâu cả. Chúng ta chỉ thấy ở đầu bản Hv 189/1 tờ 1, mấy lời sau đây của Nguyễn Trường Tộ:
    “Bệnh tê của tôi chưa khỏi, tinh thần mệt mỏi, xin miễn cưỡng trả lời. Trong lời lẽ có chỗ nào bất cẩn, không kiêng húy kỵ, hoặc dùng ngôn ngữ không thích hợp, hoặc chữ viết không ngay ngắn, xin chỗ nào đáng bỏ cứ bỏ, cho tôi khỏi phải tội lỡ lầm. Còn về văn tự, chỗ nào không được hài lòng là tại vì cứ theo sự thật mà trình bày, khó liên lạc nhau, không phải như văn chương có thể lấy ý mà uốn nắn, nhưng về đại ý cũng không đến nỗi gián đoạn lắm.
    “Xin thưa,
    “Ngày trước Nguyễn Hoằng lên kinh và có thuật lại đầy đủ những điều triều đình hỏi. Tôi rất lấy làm sung sướng vì nghĩ rằng triều đình đã có ý tự cường, như vậy sẽ dần dần có cơ sáng sủa và phát triển ngày sau cả nước đều được nhờ ơn. Như thế không những sẽ có ngày khôi phục, mà thanh danh nước ta nhờ đó cũng được tỏ rạng trong thiên hạ, thế lực nước ta nhờ đó mà cùng nhau đua đuổi với các nước lớn. Tôi xin theo những điều hỏi mà trình bày, nhưng trong đó có chỗ nói rõ có chỗ chỉ nói sơ lược. Không phải tôi không muốn nói hết, chỉ vì ngại thời thế mà thôi.
    Nguyễn Trường Tộ ký”.

    (Hv 189/1 tờ 1).
6, 7. Xem phụ lục IV. 1
8. Xem phụ lục IV. 2

2. NGUYỄN TRƯỜNG TỘ Ở NGHỆ AN

Nguyễn Trường Tộ đã cùng với linh mục Croc và Nguyễn Hoằng rời Huế ngày 10-4-1866 để đi Bố Chính, bên kia bờ sông Gianh, là nơi Giám mục Gauthier lưu lại từ tháng 8-1863 và có lẽ ở lại đó cho tới khoảng 9 hay 10 tháng 5 năm 1866, rồi cùng với Giám mục Gauthier đi về xã Đoài, Nghệ An1. Nguyễn Trường Tộ, lần này, chỉ ở lại quê khoảng ba tháng, bởi vì ngày 17-8-1866, ông đã cùng Giám mục Gauthier có mặt ở Huế để chuẩn bị lên đường đi Pháp2.

Sau mấy tháng ở Huế, Nguyễn Trường Tộ càng thấy bức xúc hơn việc canh tân, tự lực, tự cường của đất nước, nhưng ông cũng thấy rõ hơn những khó khăn trước mắt: Vua thì còn nghi ngờ Nguyễn Trường Tộ vì là người Công giáo; các quan trong triều thì cổ hủ, ít hiểu về cục diện của thế giới, lại tranh giành ganh tỵ với nhau, mưu đồ phế lập; các quan ở các địa phương thì hống hách... Trong lúc giặc Pháp thì có ý đồ thôn tính Việt Nam một cách rất cương quyết... Tất cả tâm sự nặng nề này, Nguyễn Trường Tộ đã bộc lộ trong một bức thư gởi Trần Tiễn Thành viết từ Nghệ An, đề ngày 15-6-1866 (Di thảo số 15).

Tuy nhiên, Nguyễn Trường Tộ vẫn không nản chí. Về tới Nghệ An, việc đầu tiên ông làm là viết thư cho Triều đình để báo tin về việc Giám mục Gauthier có thể nhận giúp đi Pháp thuê thợ thầy và mua máy móc để mở trường huấn luyện về nghề nghiệp (Di thảo số 12).

Sau đó, ông lại viết một văn bản dài nói về “Ngôi vua là quý, chức quan là trọng”, tháng 4 năm Tự Đức 19, tức khoảng từ 14-5 đến 12-6 năm 1866. (Di thảo số 13)

Ngày 4 tháng 6 năm 1866, ông lại viết một bản nữa để nói về tình hình xung đột giữa lương và giáo ở Nghệ An (Di thảo số 14).

Trần Tiễn Thành trong một bài tấu đề ngày 19-4 năm Tự Đức 19 (tức 1-6-1866) có nói là: “Tới đây thần có nhận được ba bức thư của Nguyễn Trường Tộ gởi cho thần, do từ Quảng Bình Nghệ An phát giao, cùng với một quyển Hàng Hải Kim Châm của dân đạo đệ nạp3.

Thế nhưng xét về ngày tháng, thì chỉ có hai văn bản số 12 và 13 là có thể được viết trước 1-6-1866, còn hai văn bản số 14 và 15 thì được viết sau. Vậy văn bản thứ ba được nói trong tờ tấu của Trần Tiễn Thành có thể là một văn bản mà ngày nay thất lạc không tìm thấy. Trong tờ tấu của Viện Cơ mật đề ngày 30 tháng 4 năm Tự Đức 19 (tức 12 tháng 6 năm 1866) có nói về việc duyệt xét một văn bản của Nguyễn Trường Tộ, liên quan đến việc Tây Ban Nha xin thiết lập lãnh sự quán ở Đà Nẵng, ta nên lập lãnh sự quán tại Sài Gòn... cũng như việc Nguyễn Trường Tộ đề nghị cho đo đạc đất đai ở các vùng cảng Đà Nẵng, Ba Lạt... và khai thác mỏ than ở Quỳnh Lưu giáp Thanh Hóa... Những nội dung này không thấy có trong các văn bản của Nguyễn Trường Tộ từ trước cho tới nay như chúng ta biết. Đây có phải là văn bản thứ ba được nói trong tờ tấu của Trần Tiễn Thành ngày 1-7-1866 mà chúng ta không tìm thấy ở chỗ nào cả hay không?

Theo ĐẠI NAM THỰC LỤC thì “tháng năm Bính Dần, Tự Đức 19 (tức từ khoảng 12-6 đến 11-7 năm 1866), sai Lang Trung Hồ Văn Long cùng với dân đi đạo là Nguyễn Trường Tộ đi từ Quảng Bình trở ra Bắc đến địa phận núi Hải Dương tìm mỏ than4. Nhưng Nguyễn Trường Tộ có lẽ chưa kịp đi, thì ngày 27 tháng 7 năm 1866 đã có văn thư của Bộ Lễ triệu tập Nguyễn Trường Tộ về Huế cùng với Giám mục Gauthier đi Pháp, “về khoản dò tìm mỏ than... thì có tên Lâu, tên Hoằng làm thay”5.
____________________________________
1. Theo tờ tấu của Trần Tiễn Thành (Xem phụ lục IV. 2), thì ngày 16-3 năm Tự Đức 19 (tức 30-4-1866), Giám mục Gauthier đã lên đường đi Nghệ An, nhưng có lẽ là Giám mục Gauthier chỉ đi thăm một xứ đạo (Bàn Thạch) ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Bởi vì trong báo cáo của linh mục Le Grand de la Lyraie ngày 18-5-1866, khi tàu Cosmao tới cửa sông Gianh ngày 6-5-1866, thì Giám mục Gauthier đang đi thăm một xứ đạo ở mạn Bắc có nhà thờ bị văn thân đốt phá; sáng ngày 8-5-1866, Giám mục Gauthier mới về tới Bố Chính, chiêu đãi chỉ huy tàu Cosmao buổi trưa và dự chiêu đãi trên tàu Cosmao buổi tối.
2. Theo thư của Giám mục Gauthier viết cho Hội Truyền giáo (Kho lưu trữ M. E. P).
3. Phụ lục IV. 3
4. Xem bản dịch của Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội 1974 tập 31, trang 33.
5. “Thự Tổng đốc An Tĩnh Hoàng Tá Viêm làm tờ chiếu hội như sau: Nay tiếp được tư văn của bộ Lễ nói rằng: (...) về khoản dò tìm mỏ của quý chức và của Nguyễn Trường Tộ thì đã có tên Lâu, tên Hoằng làm thay (...) Ngày nào quý chức lên đường xin tư cho biết trước. Nay hợp làm tờ Chiếu hội mong hãy tuân chiếu các sự lý của Bộ tư về mà sớm thi hành, vậy làm tờ chiếu hội này cho Giám mục Ngô (Ngô Gia Hậu = Gauthier) và quý chức tuân hành. Ngày 16 tháng 6 năm Tự Đức 19”.
    (Xem nguyên văn chữ Hán trong Nam Phong số 102).

Trong thời gian gần ba tháng ở Nghệ An, Nguyễn Trường Tộ hình như chỉ làm được một việc duy nhất là giúp hoàn thành được việc đào Thiết Cảng.

Sự tích ông Nguyễn Trướng Tộ viết: “Năm Tự Đức 19, Bính Dần, ngũ nguyệt, Bộ sai quan Tổng đốc Nghệ An là Hoàng Tá Viêm ra đào Kênh Sắt. Người được chỉ ra trọ nơi xã Kim Khê, thì người viết thư cậy ông Tộ đi khám xem hình đất, thế đất, chỉ lối cho mà đào. Vì trước ông Cao Biền là quan vua Đường bên Tàu sang làm quan Bộ Hộ úy nước Nam, lại vua Quý Ly nhà Hồ đã đào không xong, vì mắc nhiều đá cuội dưới đất. Ông Tộ đi xem nói rằng: Có một khúc vì có nhiều đá lớn, như bên Tây có cốt mìn thì phá đi, ta không có nên phải tránh, ông cắm nêu một hồi buổi sớm vừa xong, dân phu cứ thế mà đào thì kênh hoàn thành. Ông Tộ có làm bài thơ mừng Kênh Sắt1.

Kênh Sắt, nay gọi là Kênh Gai, nối liền sông Cấm cũng gọi là sông Cửa Lò với sông Vinh, một phụ lưu của sông Lam, theo tục truyền là được bắt đầu từ thời Cao Biền hay thời nhà Trần. Nhưng nói đến Cao Biền là nói đến cảng Thiên Uy hay Thiên Lôi bên Tàu. Nguyễn Trường Tộ, trong bài bạt mừng đào xong Thiết Cảng có nhắc đến sự tích Cao Biền để nói rằng cảng Thiên Uy là một phần do Trời, còn Thiết Cảng thì hoàn toàn do công người2.

Cũng trong bài “Hạ Thiết Cảng thành bạt”, Nguyễn Trường Tộ, sau khi nói về vai trò của con người trong việc bổ túc cho sự tạo thành, trong vũ trụ cũng như tại Việt Nam, đã có nói: “Đối với những kênh nào có thể đào vét được thì tiền nhân đã đào vét và hoàn thành cả rồi. Duy có một Thiết Cảng này Triều đình trước (tiên triều) đã tốn bao nhiêu tâm lực vẫn không làm xong. Đó cũng vì tiền bạc thì ít mà công việc thì quá khó, lại không lượng sức muốn cưỡng làm cái công việc mà tạo hóa có ý lưu chậm lại đến ngày nay, cho nên không thể xong việc được3.

Như thế có nghĩa là con Kênh Gai đã được khơi từ Diễn Châu vào và từ sông Vinh ra, rồi gặp phải một chỗ sắt đá không đào tiếp cho thông thương được; thuyền bè từ Diễn Châu vào và từ sông Vinh ra phải dừng lại bến cảng đó và bến cảng ấy gọi là Thiết Cảng.

Theo ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ, Thiết Cảng ở cách huyện lỵ Hưng Nguyên 15 dặm về phía Đông Bắc và cách sông Cấm khoảng 30 dặm ở phía Nam...

Theo ĐẠI NAM THỰC LỤC CHÍNH BIÊN, thì “tháng 5 (năm Tự Đức 19) đào sâu con đường cảng (...) ở tỉnh Nghệ từ chỗ nước trũng đến cái đập ngăn nước, trong đó có chỗ từ xã La Hoàng đến xã Thạch Dương, đều cong vòng và sỏi, đá, phải đổi khơi ở bên cạnh4.

Trong thư của Tổng đốc Nghệ An Hoàng Tá Viêm viết ngày 7 tháng 5 năm Tự Đức 19 (tức 19-6-1866) để mời Nguyễn Trường Tộ giúp cho việc đào kênh có nói: “Nhân được phê chuẩn rằng việc đào Thiết Cảng thật là tiện lợi công tư, nhưng tốn nhiều công của, làm việc này phải hết sức công phu mới được. Tôi ngày đêm suy nghĩ rằng phải có bực hiểu biết hơn người mới có thể giảm bớt tốn phí và thành công được. Hôm qua nghe hai vị Ngụy, Phan5 khen, thì tài năng của ngài chắc chắn có thể giúp cho công việc này được. Và đó cũng là thiện nguyện của ngài muốn tạo một phúc lợi lớn cho nhân dân tỉnh hạt. Nhưng vì chân của ngài chưa được bình thường6 khiến gần đây tôi không nhận được bản góp ý nào của ngài cả. Nay tay thợ đã sẵn sàng, như ngài có lòng vì dân vì nước, xin hãy đến nơi khám xét địa hình, chỉ vẽ những điều tiện lợi, khả dĩ bớt công, giảm phí giúp cho nhân dân đỡ được phần nào, mà cũng không phụ lòng mong mỏi của nhân dân vậy (...) Thư của Thự Tổng đốc An Tĩnh họ Hoàng quán sở Kim Khê kính gởi Nguyễn Trường Tộ ở Đoài Giáp, huyện Hưng Nguyên tri chiếu7.

Cũng theo Lê Thước, thì sau khi nhận được thư của Hoàng Tá Viêm, Nguyễn Trường Tộ liền ngồi lên cáng đến nơi khám xét, chỉ rõ tình thế, lấy tre cắm tiêu vài mươi dặm theo đường thẳng, chỉ có một đoạn hơi cong để tránh những tảng đá lớn... chỉ một tháng đào xong8.

Tuy nhiên ĐẠI NAM THỰC LỤC lại nói: “Tháng hai (Tự Đức 20), lại đào Thiết Cảng ở tỉnh Nghệ An (Năm ngoái khơi chưa xong, hoãn đến nay lại đào), phái biện lý bộ Công là Phạm Ý đi khám9.

Qua các văn bản trích dẫn trên đây, chúng ta thấy là Nguyễn Trường Tộ đã khai thông được con đường thủy từ Sông Cấm cho tới sông Vinh, xóa bỏ được Thiết Cảng (Cửa Sắt), để làm thành Kênh Sắt10, mà ngày nay chúng ta gọi là Kênh Gai hay kênh Nguyễn Trường Tộ. Công việc này đã có thể hoàn thành trong những ngày Nguyễn Trường Tộ còn ở Nghệ An giữa năm 1866 và ông làm bài bạt “mừng đào xong Thiết Cảng”. Đầu năm 1867, theo ĐẠI NAM THỰC LỤC, công việc còn được tiếp tục, nhưng có lẽ chỉ là nạo vét, đắp bờ cho hoàn chỉnh. Nguyễn Trường Tộ quả thực đã có công lớn là hoàn thành một công trình dở dang từ nhiều thế hệ trước, thế mà sử sách của nhà Nguyễn đã không nói gì tới sự nghiệp này của ông.
____________________________________
1. Xem phụ lục I.
2. Xem chú thích bài bạt mừng đào xong Thiết Cảng (Di thảo số 16).
3. Xem di thảo số 16.
4. Xem bản dịch của Nhà Xuất bản KHXH, năm 1974 tập 31 trang 31.
5. Ngụy Khắc Đản; Phan Huy Vịnh (?).
6. Có câu trong ngoặc đơn sau đây, có lẽ là chú thích của Lê Thước, người sao lại bản văn trong Nam Phong số 102: “Khi tiên sinh ở Sài Gòn té lầu chân bị thương nhẹ, người thường nói đùa rằng: Một lần sẩy chân, ngàn đời ôm hận.
7, 8. Xem Lê Thước, tlđd. Phụ lục II.
9. Bản dịch của Nhà Xuất bản KHXH tập 31 trang 110.
10. Theo một ghi nhận ở mục Diễn Đàn trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc tháng 10 - 2001, thì vị trí của Kênh Sắt là ở Cầu Cấm ra Diễn Châu thông với sông Bùng.

3. VỀ HUẾ ĐỂ CHUẨN BỊ ĐI PHÁP

Nhưng ở Huế, uy tín của Nguyễn Trường Tộ vào lúc này hình như đang ở mức cao.

Số là sau khi Nguyễn 'Trường Tộ rời Huế đi Quảng Bình vào đầu tháng 4-1866, mà vua Tự Đức không hay biết, Trần Tiễn Thành đã bị khiển trách là tại sao không giữ Nguyễn Trường Tộ được ở lại Kinh1. Rồi khi Trần Tiễn Thành, trong tờ tấu ngày 1-6-1866 tỏ ra hối hận là đã nhận được ba văn bản của Nguyễn Trường Tộ từ Nghệ An gởi vào, vua Tự Đức lại khiển trách thái độ giận dỗi của Trần Tiễn Thành: ở cuối tờ tấu, vua Tự Đức châu phê: “Đọc tờ trần tình thật không thể hiểu được... Than ôi, việc nước ta biết cùng ai mưu tính mà cùng chia sẻ nỗi gian truân này: Trường Tộ việc gì cũng đã nghi ngờ triều đình, mày cũng theo mà tạo nghi ngờ nữa, thì mọi việc mỗi ngày một hỏng không trông mong gì thành công được...”. Rồi vua dạy: “Nay hãy đệ nạp các bản, trong đó các khoản nên chăng như thế nào, khoản nào nên làm ngay, khoản nào nên đình lại, nhất nhất phải nói rõ (Phải phúc trình riêng cho biết có bao nguyên bản, sát kiểm sơ qua các khoản để tiện xem). Lại phải tiến trình các bản chưa đóng hãy đóng chung lại kẻo mất...2.
 
Theo đề xuất của Viện Cơ mật, ở cuối tờ tấu đề ngày 30-4 năm Tự Đức 19, nhà vua đã cử Nguyễn Trường Tộ cùng với Hồ Văn Long đi tìm mỏ từ Nghệ An ra Bắc... Nhưng sau, có lẽ do đọc kỹ các văn bản của Nguyễn Trường Tộ gởi từ Nghệ An, vua Tự Đức lại đổi ý, và cho triệu tập Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier vào Huế để giao trách nhiệm đi Pháp thuê mướn thầy thợ và mua sắm máy móc, thiết bị.

Ngày 17 tháng 8 năm 1866, Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier và linh mục Nguyễn Điều tới Huế theo hệ thống “trạm dịch”, nghĩa là có ngựa, có cáng, có lọng đưa đón như các quan lớn của triều đình. Tới Huế, Giám mục Gauthier đã được cấp phát 3 thoi bạc, 60 quan tiền và 20 đấu gạo trắng. Giám mục Gauthier đã được hội kiến ba lần với các quan lớn trong Cơ Mật viện3. Riêng Nguyễn Trường Tộ thì được vua Tự Đức cho tiếp kiến ở nhà Tả Vu và được hỏi han nhiều điều4.

Việc đầu tiên của Nguyễn Trường Tộ, lúc vừa tới Huế, là làm bản đề xuất về việc sử dụng Giám mục Gauthier và các linh mục Việt Nam trong chuyến đi sắp tới để triều đình có cơ sở bàn bạc với giám mục hầu tránh những sơ hở trong lúc trao đổi (Di thảo số 17).

Trước hết, Triều đình Huế muốn nhờ Giám mục Gauthier giúp lấy ba tỉnh đã nhượng cho Pháp theo Hòa ước 5-6-1862. Nhưng về việc này, thì trong văn thư gởi từ Nghệ An ngày 17 tháng 5 năm 1866, Nguyễn Trường Tộ đã nói là giám mục không thể làm được. Lần này Nguyễn Trường Tộ nhắc lại là Triều đình không nên đặt vấn đề đó với giám mục, mà một mực chỉ nói về tinh thần hòa hảo của Triều đình, muốn hợp tác lâu dài với Pháp, để vô hình trung, giám mục tuyên truyền cho lập trường của Việt Nam ở bên chính quốc. Còn việc vận động chống lại mưu đồ lấn chiếm của Tây Soái ở Sài Gòn, thì xin để Nguyễn Trường Tộ cùng Nguyễn Hoằng cùng làm, không nên để lộ cho giám mục biết.

Thứ đến là việc thuê thầy và thợ về mở trường, thì theo đề nghị của giám mục, nên cho một số giáo sĩ đã có biết ngoại ngữ sang Pháp học một năm để giúp dạy ứng dụng, Nguyễn Trường Tộ cũng cho là phải, nên giới thiệu Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Nguyễn Lâu...

Tất cả các đề xuất của Nguyễn Trường Tộ lần này, đều được Triều đình nghe theo.

Nguyễn Trường Tộ còn có một văn bản đề ngày 1-9-1866, về việc cải tổ học thuật và tổ chức học tập thực dụng trong nhân dân (Di thảo số 18 ).

Nhưng bản văn làm cho vua Tự Đức chú ý hơn cả và gây được tình cảm nơi nhà vua đối với Nguyễn Trường Tộ vào lúc này có lẽ là bài “Ngôi vua là quý, chức quan là trọng”, viết tại Nghệ An tháng 6 (5-6 năm 1866). Trong bản văn này, Nguyễn Trường Tộ đã dùng tất cả mọi lý lẽ của trời đất, của Đông Tây để chống lại mọi âm mưu phế lập. Phải chăng vì nghĩ rằng muốn canh tân, xây dựng đất nước cần phải có ổn định chính trị, mà Nguyễn Trường Tộ chủ trương phải duy trì trật tự xã hội hiện hữu.

Chúng ta biết vua Tự Đức là Hồng Nhậm, con thứ của vua Thiệu Trị được lập lên làm vua thay vì người anh cả là Hồng Bảo. Hồng Bảo đã nhiều lần tìm cách lật đổ vua em và cuối cùng bị bắt giam và thắt cổ chết trong ngục năm 1854. Từ đó vua Tự Đức sống trong một sự lo sợ triền miên. Trong đêm mồng 8 rạng mồng 9 tháng 8 năm Tự Đức 19, tức trong đêm 16 rạng 17 tháng 9-1866, quân nổi dậy của Đoàn Trưng và Đoàn Trực, những người ủng hộ con của Hồng Bảo là Đinh Đạo, đã vào cận nhà ở của vua Tự Đức, chỉ trong gang tấc là nhà vua đã bị hạ sát...

Nguyễn Trường Tộ chắc chắn là cũng đã từng biết rõ tình hình này5.

Đô đốc De Lagrandière, trong một bản báo cáo đề ngày 29-10-18666 có nói rằng: “Từ khi tôi trở lại Nam kỳ, tôi luôn luôn chú ý tới tình hình chính trị của vương quốc An Nam, thường bị xáo trộn bởi những cuộc tranh giành phe phái và về tình trạng an toàn ít có của quyền hành vua Tự Đức. Khi tôi vừa về tới Sài Gòn, thì những phái viên bí mật từ Huế vào hỏi là tôi sẽ xử trí như thế nào nếu có xảy ra một cuộc đảo chính ở Huế để thay thế vua Tự Đức bằng một người trong họ hàng nhà vua: Những người đi theo người anh của nhà vua rất đông và đang nghĩ tới việc đem dòng dõi ông lên làm vua. Tôi chỉ trả lời qua loa cố ý cho họ hiểu rằng các biến cố sẽ quyết định thái độ của tôi và không thể nói trước là tôi ủng hộ phe phái nào.

“Ít lâu sau người ta còn thăm dò tôi nhiều lần nữa và người ta còn hỏi tôi cụ thể nhân danh những người ủng hộ người cháu của vua để xem thái độ của chính phủ Pháp như thế nào nếu Tự Đức được thay thế bởi Long Hoàng Tôn...”.


De Lagrandière muốn lợi dụng tình hình rối ren và yếu kém của Triều đình Huế nên đã đề nghị với vua Tự Đức là ký kết với Pháp một hòa ước mới thay cho Hòa ước 5-6-1862, nhượng thêm cho Pháp ba tỉnh Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên để được sự bảo hộ và bảo trợ của Pháp, giữ vững ngai vàng của mình.

Nguyễn Trường Tộ hiểu rất rõ âm mưu của Pháp và hoàn cảnh khó khăn của Triều đình vua Tự Đức, nên điều trước tiên, theo ông, là phải tìm cách ngăn chặn ý đồ thôn tính của Tây soái, điều mà ông sẽ tích cực làm khi tới Sài Gòn và tới Pháp. Nhưng trước mắt, theo một văn thư gởi cho Lục bộ đại thần, ngày 3-9-1866, ông vẫn khuyên Triều đình là phải khôn khéo hòa hoãn với Pháp, tìm cách dựa vào Pháp mới mong tránh khỏi họa thù trong giặc ngoài (Di thảo số 19).
________________________________________
1. Xem phụ lục IV. 2 (Trích lời châu phê ở đầu bài).
2. Xem phụ lục IV. 3.
3. Theo một bức thư của Giám mục Gauthier viết cho Hội Truyền giáo Paris (Kho lưu trữ M.E.P).
4. Xem Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ, phụ lục I.
5. Theo cuốn tiểu thuyết lịch sử “BIẾN ĐỘNG” của Thái Vũ do Nhà xuất bản Thuận Hóa năm 1985, thì Đoàn Trưng, người cầm đầu cuộc nổi dậy mùa hè năm 1866, có gặp Nguyễn Trường Tộ. Điều này hiện không dựa trên một tài liệu lịch sử nào, có thể chỉ là do suy diễn hư cấu của người viết tiểu thuyết, nhưng không hẳn là hoàn toàn không thể xảy ra trong lịch sử.
6. Kho lưu trữ Bộ Hải quân Indochine BB 4, 876.

4. TRONG NHỮNG NGÀY CHỜ TÀU Ở SÀI GÒN 17-9-1866 - 10-1-1867

Ngày 15 tháng 9 năm 1866, Nguyễn Trường Tộ đã cùng với Giám mục Gauthier và đoàn tùy tùng đi tàu của nhà vua vào Sài Gòn và ở Sài Gòn chờ tàu cho tới ngày 10-1-1867 mới lên đường đi Pháp.

Trong thời gian ở Sài Gòn, Giám mục Gauthier đã có những cuộc tiếp xúc với đô đốc Lagrandière và lãnh sự Tây Ban Nha. Nguyễn Trường Tộ cũng đã có nhiều cuộc gặp gỡ để nắm tình hình theo yêu cầu của Triều đình.

Trong thời gian này, Nguyễn Trường Tộ đã có 6 bản báo cáo gởi về Huế:

- Văn bản ngày 27-10-1866 (Di thảo số 20)

- Văn bản ngày 27-10-1866 (Di thảo số 21)

- Văn bản ngày 3-11-1866 (Di thảo số 22)

- Văn bản ngày 3-11-1866 (Di thảo số 23)

- Văn bản ngày 24-12-1866 (Di thảo số 24)

- Văn bản (không đề ngày tháng) về các hội nước ngoài (Di thảo số 25)

Qua các văn bản này, Nguyễn Trường Tộ trình bày cho Triều đình thấy là có một cự ly giữa ý đồ của của Tây soái ở Sài Gòn và chính sách của chính phủ ở Pháp.

Tây soái, Đô đốc Lagrandière, thì muốn bằng mọi cách thôn tính hoàn toàn sáu tỉnh Nam kỳ và áp đặt trên phần đất còn lại của Việt Nam một hiệp ước bảo hộ. Cuối tháng 4-1866, Lagrandière đã phái chỉ huy tàu Cosmao, cùng với linh mục Legrand de la Lyraie làm thông dịch viên, tới Huế đặt thẳng vấn đề với Triều đình vua Tự Đức; tháng 9-1866, Paulin Vial cùng với linh mục Legrand de la Lyraie lại đi tàu Cosmao tới Huế. Nhưng ở đây vừa xảy ra cuộc nổi dậy của Đoàn Trưng và Đoàn Trực, nên không tổ chức được các cuộc thương thuyết. Tuy nhiên, Laglandière vẫn tỏ ra lạc quan trong báo cáo gởi về Bộ Hàng hải và Thuộc địa ngày 29-10-1866. Lagrandière viện dẫn các lời lẽ của Giám mục Gauthier để biện hộ cho sự lạc quan của mình. Ông viết:

Tôi đã trao đổi với giám mục về tình hình chính trị ở Kinh đô Huế. Giám mục Gauthier làm cho tôi tin tưởng hơn ở những nhận định và những nỗ lực kiên trì của tôi trong hơn một năm qua để đi tới đích. Theo giám mục thì những đề nghị trực tiếp, do tàu Cosmao đưa đến, đã làm cho Triều đình Huế phải suy nghĩ. Người ta có thể dễ dàng đi tới việc nhượng đất, nếu tôi có thể bảo đảm cho quyền bính và sự kế nghiệp của vua Tự Đức không bị vi phạm, nếu tôi hứa giúp tiễu trừ giặc biển.

“Giám mục Gauthier cũng nói rõ là ngài không có sứ mạng để nói về những vấn đề ấy, nhưng nếu ngài nói ra thì người ta cũng hoan nghênh thôi. Ngài cũng không giấu giếm tôi là vẫn có những khó khăn do một vài vị quan lại trong Triều đình. Phải có một sự phô trương lực lượng mới làm cho những người này chùn bước. Nhưng ngài xác tín là cứ tiến tới và hy vọng sẽ có một giải pháp tốt đẹp.

“Đã đến lúc phải hành động một cách có hiệu quả và tôi đã một lần nữa gởi tàu Cosmao đi Huế, tôi đã giao cho giám đốc Nội vụ cùng với linh mục Legrand de la Lyraie làm thông ngôn, đem hai bức thư của tôi gởi cho vua Tự Đức và Bộ trưởng Ngoại giao. Tôi đề nghị với Đức vua là nhượng cho chúng ta ba tỉnh và, ngược lại, chúng ta sẽ xóa một nửa số nợ bồi thường chiến tranh còn lại (nửa kia là phần phải trả cho Tây Ban Nha); tôi cũng cam kết là nước Pháp sẽ hỗ trợ cho nhà vua để đẩy lui tất cả mọi âm mưu tiếm vị và bảo đảm quyền uy cho người kế vị mà Đức vua lựa chọn; tôi cũng sẽ giúp tiễu trừ giặc biển và hứa là sẽ đón tiếp và khuyến khích các tàu buôn của nhà vua.

“Nhưng tiếc thay là các biến cố xảy ra đã không cho phép các giải pháp của tôi được đem ra thi hành, vì đã bùng nổ một cuộc nổi loạn, khi tàu Cosmao vừa tới Huế. Lần này cuộc nổi loạn là do âm mưu của các nhà sư, đứng đầu có nhiều vị quan và nhiều người trong hoàng tộc muốn đưa cháu của vua là Long Hoàng Tôn lên ngôi, như tôi đã nói trước đây...”
1.

Sự thực là, vào thời điểm này, Triều đình vua Tự Đức vẫn nuôi ảo tưởng chuộc lại ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường đã nhượng cho Pháp theo Hòa ước 5-6-1862 và lo sợ việc mất ba tỉnh còn lại của Nam Kỳ là Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên.

Nguyễn Trường Tộ, trong hai văn thư đề ngày 27-10-1866 (Di thảo số 20 và 21), cho rằng đây chỉ là do Laglandière cường điệu. Chứ tình hình không thuận lợi như vị Tây soái này tâu trình: ở Cao Mên, quân đội Pháp gặp rất nhiều khó khăn; ở Gia Định, thì các kiều dân Pháp than phiền bị thua lỗ; ở chính quốc, thì có nhiều dư luận chống đối các cuộc phiêu lưu quân sự ở các vùng đất xa xôi...

Nguyễn Trường Tộ đề nghị là phải vận động sự giúp đỡ của Tây Ban Nha, thông qua lãnh sự quán của nước ấy ở Sài Gòn, thông qua các giám mục Tây Ban Nha ở Bắc Kỳ và bằng cách gởi quốc thư và cử phái bộ sang Tây Ban Nha2.

Nguyễn Trường Tộ đặc biệt chú ý tới việc vận động dư luận và các chính khách của lưỡng viện tại Pháp. Ông đề nghị viết sẵn quốc thư cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp để giám mục Gauthier chuyển; tìm cách liên lạc với Aubaret và nhiều chính khách.

Nguyễn Trường Tộ cũng bàn đến kế hoạch gây khó khăn cho Tây soái bằng cách liên kết với anh vua Cao Mên đang chống Pháp; liên kết với Thái Lan và Anh làm cho Tây soái sợ rắc rối lớn phải thoái chí. Trong một văn bản đề ngày 24-12-1866, Nguyễn Trường Tộ viết:

“Khoảng tháng ba, tháng tư năm nay có một quan khâm sai người Tây đến thám sát Gia Định trở về tâu với vua Tây rằng: Sự thế ba tỉnh không có gì khả quan. Nay lại có người anh vua Cao Mên gây loạn, cậy có chỗ hiểm yếu chống lại Pháp, quân Pháp phải chạy tháo thân, nhuệ khí sút kém. Mọi người đều nói rằng Tây soái tất sẽ bị tội phải triệu về thôi”3.

Đặc biệt trong dịp này Nguyễn Trường Tộ liên lạc được với một người Pháp tên là Di Minh (Sic): “Nguyên xuất thân võ biền, năm trước anh ta đã học được tiếng ta, mười phần biết được sáu bảy, anh ta lại hơi biết tiếng quan thoại Trung Quốc nữa, xem được mặt chữ, gần đây khi thì anh ta làm thông ngôn, hoặc làm kinh doanh; anh ta sống chung với dân ta cũng rất được cảm tình. Trong cuộc sống, anh ta tuy không thật phải là người tốt, nhưng anh ta cũng không có ý gì tranh chấp thù hằn với người mình. Năm nay ở Tây Ninh anh ta hay ngấm ngầm qua lại với các quản đội đến nỗi Tây soái nghi và bắt giam lỏng anh ta ba tháng. Hiện nay anh ta sống chung một nhà với mấy người học tiếng Tây của ta. Anh ta nghe tin tôi từ kinh về, đã lén đến chỗ tôi bí mật trình bày mọi việc4.

Di Minh xin về Pháp vận động dư luận ở đó chống lại Tây soái, ủng hộ Việt Nam hoặc xin giả dạng về Anh chiêu mộ người Anh giúp Việt Nam. Di Minh xin được bí mật tới Huế trình bày kế hoạch.

Ngày 25-12-1866, Thương Bạc đã trả lời Nguyễn Trường Tộ là Di Minh lên Kinh chưa tiện, phải có người đem đi. Nhưng trước khi nhận được chiếu hội của Thương Bạc và trước lúc lên tàu đi Pháp, Nguyễn Trường Tộ đã viết thư giới thiệu cho Di Minh cầm đi Đà Nẵng. Các quan lại ở Quảng Nam tâu lên, ngày 14-5-1867, Viện Cơ mật xét và trình tâu là không nên sử dụng Di Minh, sợ Tây soái sinh nghi làm rắc rối, rồi giao cho quan lại ở Quảng Nam đem 20 lạng bạc, với gà vịt, đường gạo... tặng và phủ dụ Di Minh là nên về Gia Định chờ Nguyễn Trường Tộ đi Pháp về5.
________________________________________
1. Kho lưu trữ Bộ Hải quân Indochine BB 4, 876.
2. Di thảo số 22.
3. Di thảo số 24.
4. Di thảo số 23.
5. Phụ lục V. 1 (Châu bản triều Nguyễn)
    Cho tới nay, chúng ta vẫn chưa xác định được Di Minh là ai. Chúng ta biết là có một người Pháp, tên là Duval, đã tham gia đoàn quân viễn chinh ở Nam kỳ, với cấp bậc trung sĩ; một kẻ phiêu lưu, đầy tham vọng và giả dối: Đầu năm 1862 xin nghỉ phép sang Hong Kong, Ma Cao để tìm liên lạc xin chiến đấu dưới cờ của Lê Duy Phụng; công việc không thành, cuối năm 1863 trở về Pháp, được thăng cấp bậc thiếu úy, tham gia phái bộ của Aubaret tới Huế để thương thuyết về hòa ước mới thay thế Hòa ước 1862, trong hồi ký “Souvenirs militaires ét financiers”, Paris 1891, khoe khoang là chống Aubaret, nhưng theo các thư từ của Duval trong kho lưu trữ của Bộ quốc phòng Pháp, thì rất thất vọng vì hiệp ước Aubaret không được phê chuẩn... theo lý lịch, thì từ ngày 4-5-1864 đến 12-4-1967 ở Mêhicô và từ 4-5-1867 tới 8-6-1870 ở Phi châu; trong thực tế bị bóc lon nhiều lần; nhưng tháng 6-7-1867 vẫn ở Paris không việc làm, xin được làm lãnh sự của Pháp ở Ba Lạt hay Đà Nẵng mà không được. Cũng khó mà có khả năng Di Minh là Duval...

5. NGUYỄN TRƯỜNG TỘ Ở PHÁP

Ngày 10-1-1867, Nguyễn Trường Tộ đã cùng với Giám mục Gauthier, linh mục Nguyễn Điều, phó tế Nguyễn Hoằng và Joannes Vị với hai vị quan của Triều đình là Nguyễn Tăng Doãn (văn) và Trần Hiếu Đạo (võ), đáp tàu L’ORNE đi Pháp1.

Hiện chúng tôi không có tài liệu cho thấy là trong chuyến đi châu Âu lần này Giám mục Gauthier có ghé qua Rôma hay không. Chúng ta chỉ biết là trong một bức thư gởi cho Hội Truyền giáo Paris2, Giám mục Gauthier có cho biết là mình sẽ ghé qua Rôma trước khi tới Paris. Điều này xem ra cũng dễ hiểu. Bởi vì trước khi nhận một nhiệm vụ như nhiệm vụ của Triều đình vua Tự Đức giao phó, Giám mục Gauthier đáng lẽ đã phải xin ý kiến của Bộ Truyền giáo ở Rômaa. Trong hai văn thư gởi Triều đình Huế ngày 17-5-1866 và ngày 18-8-1866 (Di thảo số 14 và 17), Nguyễn Trường Tộ (có thể là theo yêu cầu của Giám mục Gauthier) có đề nghị với Triều đình là nên viết thư cho Giáo hoàng ở Rôma về việc Triều đình muốn nhờ Giám mục Gauthier giúp trong công cuộc canh tân đất nước. Nhưng Triều đình Huế đã không để ý tới yêu cầu này và đã triệu tập Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ về Huế rồi cử đi Pháp ngay. Do đó mà việc trước tiên giám mục phải làm khi tới châu Âu là qua Rôma để trình bày công việc sắp làm của mình với các bộ ở Rôma cũng như để xin sự giúp đỡ. Sau này chúng ta biết là Bộ Truyền giáo có trích quỹ 20.000 francs để giúp cho Giám mục Gauthier mở trường ở Huế3.

Nguyễn Trường Tộ có lẽ đã đi theo Giám mục Gauthier sang Rôma. Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ có viết:

Khi sang phương Tây qua biển Trung vào nước Ý Đại Lợi, có vào thành Rôma, được vào chầu Đức Giáo hoàng Piô IX. Ông Tộ được hôn đầu gối Người và Người ban cho một chữ tiền lớn hơn đồng bạc, một bên đúc chính hình tượng và tên Đức Giáo Hoàng, một bên đúc một tòa nhà sang trọng, chữ tiền ấy hãy còn”4.

Chúng ta hiện có rất ít tài liệu về hoạt động của Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier ở châu Âu trong chuyến đi này.

Chúng ta biết là cuối tháng 3-1867, Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier đã có mặt ở Paris5 và ngày 25-11-1867 Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier đã rời Pháp để lên đường trở về Việt Nam6.

Ở Pháp, Giám mục Gauthier đã tới Bộ Ngoại giao, Bộ Hàng hải và Thuộc địa để xin tài trợ cho các chương trình của mình. Giám mục cũng đã tiếp xúc với các thương gia và kỹ nghệ gia.
________________________________________
1. Báo cáo của La Grandière ngày 10-1-1867, Kho lưu trữ Bộ Hải quân BB 4-876.
2. Kho lưu trữ Hội truyền giáo M. E. P.
3. Thư của Giám mục Sohier (Bình) ở Huế gởi Hội Truyền giáo Paris 29-11-1869 tại kho lưu trữ M.E.P ở Paris.
4. Xem phụ lục I.
    Ở đây Nguyễn Trường Cửu muốn nói đến chuyến đi châu Âu của thân sinh mình năm 1859-1860. Nhưng theo chúng tôi, thì những năm 1859-1860, Nguyễn Trường Tộ không đi tới châu Âu. Do đó sự kiện được nói trong Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ ở đây là vào thời điểm này.
5. Trong Kho lưu trữ của Bộ Ngoại giao Pháp ASIE 29 bis có một phúc trình ngày 29-3-1867 nói là: “Giám mục Gauthier, đặc trách sự vụ của Triều đình Huế, xin gặp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao”.
6. Tạp chí Missions Catholiques 1868 trang 59 - 60 nói: “Giám mục Gauthier rời nước Pháp ngày 25-11-1867”.

Đầu tháng 5-1867, giám mục hình như đã đi tới thỏa thuận với một hội khai thác mỏ nào đó. Nguyễn Trường Tộ, ngày 17-5-1867, từ Pháp, đã gởi về cho Triều đình Huế một bản báo cáo nhận xét về sự hơn thiệt giữa các khoản cần phải thỏa thuận với các Hội khai thác mỏ1.

Giám mục Gauthier đã đặt mua một số sách và một số dụng cụ cần thiết cho các phòng thí nghiệm và việc giảng dạy trong trường chuyên nghiệp dự định thiết lập tại Huế2.

Bộ Hàng hải và Thuộc địa cũng cung cấp cho Triều đình Huế, theo yêu cầu của Giám mục Gauthier, một số dụng cụ xuất quỹ mua trị giá 3.950 francs và một số dụng cụ xuất kho, tất cả trị giá khoảng 10.000 francs (trích từ ngân sách địa phương của Nam kỳ về khoản các quà tặng)3.

Chuyên san “SEMAINE RELIGIEUSE DE PARIS” (Tuần tôn giáo địa phận Paris) ngày 27-7-1867, viết:

Giám mục Gauthier ở Paris. Trong lúc lưu lại Paris, giám mục cần thu thập các điều cần thiết cho việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp của vương quốc An Nam và người ta quả quyết là giám mục đã đặt mua ở Hội chợ hơn 100.000 francs hàng hóa vào mục đích này... Trong số những người phương Đông đi theo giám mục có một Kiến trúc sư công giáo với một trí nhớ phi thường. Chính con người có tài năng xuất chúng này đã xây dựng nhà thờ Chính tòa của chúng ta ở Sài Gòn”4.

Nguyễn Trường Tộ, trong thời gian ở Pháp, ngoài văn bản (số 26) nói trên đây, còn thảo Tế cấp bát điều, đề ngày 20-10 năm Tự Đức 20 (tức 15-11-1867). Trong văn bản này, chúng ta thấy là Nguyễn Trường Tộ hết sức xông xáo, gặp gỡ nhiều người, tham quan nhiều chỗ. Từ đó ông càng thấy rõ hơn những việc cần phải làm để đem đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu.

Nhưng tiếc thay, tháng 6-1867, người Pháp, ở Nam kỳ, phản bội Hòa ước 5-6-1862, ngang nhiên đem quân thôn tính ba tỉnh Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên. Triều đình Huế chỉ nghĩ tới việc tìm cách thu hồi lại đất đai bằng cách điều đình, thương thuyết, chứ không muốn nghĩ gì đến việc canh tân đất nước.

Sở Thương Bạc (làm công việc của Bộ Ngoại giao lúc bấy giờ), trong tháng 10-1867, liên tiếp gởi hai văn thư triệu phái bộ về: Không để các linh mục Việt Nam ở lại học, giảm bớt tối đa việc mua máy móc, việc thuê thầy, thuê thợ.

Chiếu hội của Sở Thương Bạc ngày 22 tháng 6 năm Tự Đức 20 (17-7-1867) viết:

Nay căn cứ hai bản tư văn của giám mục và một bản phúc trình của phái viên, một tập bẩm văn của giáo sĩ, bản chức và các vị chính khanh trong các bộ đồng duyệt đã rõ biết đầy đủ. Hơn nữa việc giám mục và giáo sĩ tự xin đi Pháp là vốn muốn ra sức giúp Triều đình chứ không phải chỉ để tìm người, tìm khí cụ dùng được cho việc công mà thôi, các vị còn muốn làm sao cho hai nước qua lại với nhau, hai bên cùng có lợi, đem tình hòa mục mà đối đãi với nhau. Như thế thực là ý tốt. Nhưng mới đây nguyên soái Gia Định đem binh ép lấy ba tỉnh Long, Giang, Hà, bản chức đem thành tín ra đối xử chứ không chống. Soái phủ nay đã không theo lời giao ước, như vậy là cái tình đối với nhau đã khác trước rồi. Lại nghĩ rằng giám mục và giáo sĩ đã phải đi xa cực nhọc mà nếu cái lòng tốt muốn giúp đỡ lúc ban đầu không được toại ý, thì thật lấy làm tiếc. Nay nói rõ hết.

“Còn việc mướn người khai hoang, nếu thấy có ai quả thật vì đời hiếu danh, dạy vẽ cho các phương pháp khai thác mỏ và chế tạo dụng cụ mà tiền thuê vừa phải, không yêu sách thái quá, thì liệu thuê một vài người thôi, không nên mang nhân công về cho tốn phí nhiều. Đồng thời người ấy phải là người đáng tin cậy, chắc chắn không có tình riêng tráo trở. Tương lai hoặc có mướn hay thôi không mướn nữa là do bản quốc lượng xét được hay không được, chứ không nên ồn ào gây rắc rối. Nay giám mục và giáo sĩ hãy xét liệu thuê mướn và phải bảo đảm sẽ không có gì trở ngại về sau mới được. Bằng không thì khoản này hãy đình chỉ.

“Còn về bàn máy in ảnh thì không cần thiết lắm, để thong thả sẽ sắm sau. Ngoài ra tất cả các máy móc, thứ nào có thực dụng mà cần thiết và giá rẻ như máy điện báo bảy, tám chục quan chẳng hạn, giám mục với giáo sĩ và phái viên xem xét chọn mua một hai cái. Các bộ sách Pháp nên giao giáo sĩ kiểm xem rõ ràng, sách nào thiết dụng mà chưa mua, nên lựa mua ít nhiều. Về giá thuê mướn, giá hàng hóa v.v... cũng nên lựa ra mà ghi rõ để tiện mua sau này. Như thế mới khỏi đi không rồi lại về không. Còn các thứ mua được nên tùy tiện thuê chở về để tiện thanh toán một lần luôn. Linh mục Điều cũng phải về cùng một thể. Không nên lưu lại chờ đợi làm gì. Về phần giáo sĩ khi về nước đi đường bộ để quan sát, thì đến Bình Thuận sẽ được cấp ngựa. Ngoài ra giám mục và các phái viên muốn đi đường thủy hay đường bộ tùy ý...”
5.

Ngày 20-9 năm Tự Đức 20 (17-10-1867), Thương Bạc lại gởi văn thư như sau:

Nay tiếp được một tờ phúc văn của giám mục, một tờ hóa đơn và bản sao hai tờ phúc văn lần trước, bản chức đã cùng các vị chính khanh trong các Bộ đã duyệt xong và đã rõ. Nhưng theo phúc văn nói là đã gởi hai lần phúc văn mà đã 5 tháng chưa được hồi âm, hơn nữa hai lần phúc văn đó: Một nói về khoản đã chọn được người làm việc mong trên quyết định, một nói về việc đã lựa mua các thứ máy móc. Bản chức đã xét rồi và theo thứ tự chiếu phúc gởi qua soái phủ Gia Định để chuyển lại. Nay chiếu theo hai bản sao phúc văn này, thì sự lý cũng như nhau thôi, không cần phải nói lại rườm rà. Duy trong đó có một tờ nói đã chọn được hai linh mục giỏi về hóa học, vật lý và các môn thiên văn, địa lý. Họ đều là thuộc hạ của giám mục đang chờ để cùng về kinh đô. Hơn nữa hai linh mục này đều là người trong đạo giáo rất đồng tâm đồng chí với giám mục, chứ không phải như người trong các hội khác. Nếu thế thì cứ giao cho họ theo nghề mà dạy tưởng cũng có ích cho thực dụng. Khi giám mục về nên đem hai linh mục cùng về thì tốt. Còn ba người về nghề binh bị, tơ sợi, đốt đèn, thì chưa cần thiết lắm, xin đừng mướn. Về khoản các sách vở, đồ vật đã mua xong, cứ như đơn mua nói cũng khá đủ dùng, thì hãy thuê chở về. Ngoài ra, không nên mua thứ gì thêm. Sau này nếu cần gì, thì nhờ giám mục gởi mua cũng được. Lại nữa trong phúc văn lần này, nói hai phái viên là Trần Văn Đạo v.v... không chịu được lạnh mùa đông nên bệnh. Giám mục nên thu xếp cho họ sớm về trước để khỏi bị lạnh gắt vào giữa mùa đông năm nay. Giám mục và giáo sĩ cũng nên sắp đặt xong mà về cho khỏe...”6.

Qua hai văn bản trên đây, chúng ta thấy là Triều đình Huế đã hạn chế mục tiêu chuyến công tác của Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier, một phần vì sợ tốn kém, một phần vì sợ phiêu lưu rắc rối.
________________________________________
1. Xem di thảo số 26.
2. Xem phụ lục VI: Bản kê khai các sách và dụng cụ do Giám mục Gauthier mua.
3. Theo báo cáo của Giám đốc các thuộc địa ngày 14-6-1867: Để giúp Triều đình Huế thiết lập một đài khí tượng tại Huế, ngoài những khí cụ và dụng cụ có trong Kho bản đồ và sơ đồ của Bộ, còn đề nghị mua thêm:
    Machine électrique 250 frs
    Machine pneumatrique grande avec accessoire 1000 frs
    Télégraphe autographe LeNoir 1000 frs
    Appareil à gaz éclairant 1000 frs
    Microscope solaire 300 frs
    Deux microscopres Composés 400 frs
                                               3950 frs.
4. Kiến trúc sư Công giáo nói đây chính là Nguyễn Trường Tộ. Nguyễn Trường Tộ xây nhà nguyện Dòng Thánh Phaolô ở số 4 Tôn Đức Thắng ngày nay. Nhà thờ Chính tòa, tức Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, được đặt viên đá đâu tiên tháng 10 năm 1877.
5, 6. Xem Lê Thước, tlđd. Phụ lục II.

6. KẾT QUẢ CHUYẾN ĐI PHÁP

Ngày 29-2-1868, Nguyễn Trường Tộ và phái đoàn Giám mục Gauthier về tới Huế. Trong một bức thư gởi về Pháp cho Hội Truyền bá Đức tin đề ngày 31-1-1868, Giám mục Gauthier viết:

Tôi hân hạnh báo tin cho các bạn biết là dự án thiết lập một trường học ở Huế, để dạy các khoa học, tiến triển tốt đẹp. Mấy ngày sau khi chúng tôi tới kinh đô vương quốc An Nam, ngày 29-2, nhà vua hỏi về chương trình của chúng tôi cũng như danh sách liệt kê các dụng cụ và máy móc đem về cho trường học. Trước hết nhà vua thích thú xem xét các thứ mà chúng tôi mua ở Pháp cho Triều đình; sau đó nhà vua muốn xem tận mắt các thứ mà Bộ Hàng hải tặng. Đồng thời nhà vua cũng quan tâm tới lương bổng của các giáo sư. Lương bổng thì cũng khiêm tốn thôi, nhưng tạm đủ. Sau hết nhà vua sẵn sàng chấp thuận cho phép Giám mục Sohier xây trường trên mảnh đất mà giám mục đề nghị, nằm giữa nhà thờ và tòa giám mục...

“Về phần tôi và những người đi theo tôi, chúng tôi chỉ có thể ca ngợi cách xử sự của nhà vua. Nhiều lần nhà vua hỏi thăm về sức khỏe của chúng tôi; nhà vua đã gởi cho chúng tôi các quà tặng và huy chương cao cấp cho các tân giáo sư”
1.

Theo một tờ tấu của Viện Cơ mật, ngày 4-3-1868, thì đề nghị tặng thưởng như sau:

* Cho Giám mục Gauthier được:

    - Một tấm “Ngũ phúc kim tiền”, nặng 5 đồng cân (có tua).

    - Một tấm “ngân tiền” (hạng Song long: đại, tiểu, mỗi thứ một tấm; hạng ngũ phúc, tam thọ, mỗi thứ một tấm), cộng lại nặng 3 lượng, 5 đồng cân, 5 phân.

    - Một số đoạn bằng 5 loại tơ màu đen để may áo dài chật tay (có một đoạn lụa bằng màu lục để lót tay).

    - Một xấp lương sa “Bửu lam nam hoa”.

    - Một xấp sa có vân “Nam tố tuyết bạch”.

    - Một xấp lụa “Tuyết bạch”.

* Nguyễn Trường Tộ được:

    - Một tấm “Tứ mỹ kim tiền” nặng 4 đồng cân (có tua).

    - Năm tấm “Ngân tiền” (Hạng sứ dân: Đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Ngũ phúc, tam thọ, mỗi thứ một tấm). Cộng lại một lượng, 5 đồng cân, 5 phân.

    - Một xấp lụa lương sa “Bửu lam nam hoa”.

    - Một cuộn tơ lông màu lam để may áo dài chật tay (có một đoạn lụa màu xanh để lót trong).

    - Một xấp lương sa “Bửu lam nam tố”.

    - Một xấp trừu “Tuyết bạch nam hoa”.

    - Một xấp lụa “Tuyết bạch”.

* Nguyễn Điều, Nguyễn Hoằng, Vị được mỗi người:

    - “Nhị thắng kim tiền”, mỗi người một tấm, nặng hai đồng cân (có tua).

    - “Ngân tiền” mỗi người bốn tấm (Hạng sứ dân: đại, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng ngũ phúc, hạng tam thọ mỗi thứ một tấm) mỗi phần công lại một lượng, ba đồng cân, năm phân.

    - “Nam tố lương sa” màu đen, mỗi người một xấp.

    - Tơ lông màu lam (Châu phê: hoặc màu đen huyền cũng được) mỗi người một đoạn (làm một cái áo tay chật, có một đoạn lụa xanh lót trong).

    - Lụa “Bạch tuyết” mỗi người một xấp.

    - Một xấp vải dày mịn “Bạch tuyết” hạng nhì (chia làm ba mỗi người một đoạn).

* Hai linh mục và giáo sĩ (người Pháp):

    - “Tam thọ kim tiền” mỗi người một tấm (Châu phê: Cấp cho Ca xanh ba tấm ngân tiền này; cấp cho ba người ngân tiền hạng sứ dân: đại trung, tiểu mỗi thứ một tấm), mỗi tấm nặng ba đồng cân (có tua).

    - “Long vân ngân tiền” hạng nhỏ, mỗi tấm nặng một đồng cân, cấp cho bốn người, mỗi người một tấm.
____________________________________
1. Tạp chí Missions Catholiques 1868 trang 59-60.

7. VỀ DỰ ÁN MỞ TRƯỜNG

Các sách và dụng cụ mà Giám mục Gauthier đem về, được kê khai trong một danh sách đệ nạp1, thì cũng chỉ dùng để mở trường dạy học mà thôi. Giám mục cũng đem về hai linh mục, một giáo sĩ và một người thợ máy, tất cả đều là người Pháp.

Theo một tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23-2-1868 ):

- “Linh mục Thông, (tức Montrouzies)2 biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi”. Nhưng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris3, thì linh mục Montrouzies trước khi gia nhập Hội Truyền giáo Paris ngày 1-5-1867, đã đậu cử nhân văn chương.

- “Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ”4. Nhưng cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì sau khi học xong chủng viện, linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền giáo Paris 14-10-1866 và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên đường sang Việt Nam.

- “Giáo sĩ (tức bác sĩ Hemaiz5 không phải là linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi là giáo sĩ, như Nguyễn Trường Tộ cũng được gọi là giáo sĩ), thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp linh mục Thông mà phân tích các tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc”. Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày, “giáo sĩ” này do bệnh cũ tái phát đã xin về Pháp trở lại”6.

- Còn Ca xanh (nguyên tên là Ca sa nhi) là một người thợ máy, trước đã giúp việc tàu Thuận Thiệp, có lẽ do giám mục gặp ở Sài Gòn đem về giới thiệu với Triều đình, nhưng Ca xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính ra tiền là một ngàn, bảy trăm sáu chục quan) và đòi hỏi nhiều điều kiện, nên không dùng7.

Triều đình dự tính lấy sứ quán làm cơ sở của trường học, nhưng Giám mục Gauthier và Giám mục Sohier cho rằng sứ quán quá ẩm thấp, không bảo quản được dụng cụ máy móc và cũng không tiện cho việc học tập nên đề nghị xây dựng cơ sở mới trên một khu đất rộng chừng hai mẫu ở xã Vạn Xuân, nằm giữa nhà thờ Kim Long và Tòa Giám mục Huế8. Theo như thư của Giám mục Gauthier viết ngày 31-3-1868, thì vua Tự Đức đã chấp thuận dự án này.
____________________________________
1. Xem phụ lục VI, 10.
2÷4. Mémorial de la Société des Missions Étrangères de Paris, mục: MONTROUZIES và RENAULD.
5. Xem thư của Giám mục Gauthier 30/11/1870 Annales de la Propagation de la Foi tập 43 trang 242 (chú thích).
6. Xem tờ trình của Giám mục Gauthier 25/3/1868 (Phụ lục VI. 11).
7. Xem phụ lục VI, 7.
8. Xem tờ trình của Giám mục Gauthier và Sohier, Phụ lục VI, 9.

8. HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

Việc mở trường, như được chuẩn bị trên đây, thực ra còn rất là khiêm tốn: Các giáo sư cũng chỉ mới hai, ba người và cũng không có ai là thực chuyên môn kinh tế, khoa học, kỹ thuật; sách thì cũng chỉ mấy quyển và cũng còn phải dịch ra tiếng Việt Nam, tiếng Hán cho người mình tiếp thu; cơ sở vật chất thì coi như chưa có.

Nguyễn Trường Tộ cũng thấy mặt hạn chế này của việc mở trường. Tuy nhiên ông vẫn tán thành, vẫn ủng hộ và đem hết sức mình để giúp đỡ. Trong văn bản đầu tiên, khi về tới Huế, đề ngày 12 tháng 12 năm Tự Đức 21 (5-3-1868 ), ông nói:

Còn như các khoản học tập, như đã nói trong tờ bẩm của giám mục, chẳng qua mới mở bước đầu, để khiến cho người nước ta sinh lòng ham muốn, cầu tiến dần vào thực dụng, mở dần con đường từ nhỏ đến lớn về sau, làm kế ném gạch ra để được ngọc mà thôi (...) Nếu học sinh gia tâm học tập, thì cũng phải một số năm mới biết được như chúng tôi ngày nay. Bây giờ nếu giáo sư mở lớp giảng dạy mà không có chúng tôi thay giáo sư giảng lại cho học sinh những chỗ khúc mắc chưa hiểu, thì cũng khó bề tiến ích”1.

Điều mà Nguyễn Trường Tộ thấy cấp bách hơn cả, có thể làm để có lợi ngay hơn cả, nhất là sau chuyến đi vừa rồi, là tìm cách khai thác các tài nguyên của quốc gia, để làm giàu cho dân cho nước. Về điểm này, thì chuyến đi lần này không đem lại được gì cụ thể cả. Vì thế, ông xin đi lần nữa, cùng với một phái viên và Nguyễn Hoằng làm thông ngôn, để tìm người, thuê thợ; nếu không tìm được người, không thuê được thợ, thì mình mua máy móc rồi tự làm lấy...

Nhưng Triều đình vua Tự Đức lúc bấy giờ chỉ quan tâm tới việc làm sao lấy lại được 6 tỉnh Nam kỳ đã mất vào tay Pháp. Sau những cuộc thương thuyết không thành công giữa Trần Tiễn Thành và Lagrandière tại Sài Gòn cuối tháng 1-1868, Triều đình vua Tự Đức nhất định cử một phái bộ sang Pháp để điều đình với chính phủ Pháp.

Nguyễn Trường Tộ sau khi đi Pháp về, trong thời gian từ cuối tháng 2 cho tới cuối tháng 4-1868, đã gởi cho Triều đình, ít nhất là 9 văn bản:

Di thảo số 28 (Đầu tháng 3-1868 )

Di thảo số 29 (5-3-1868 )

Di thảo số 30 (9-3-1868 )

Di thảo số 31 (12-3-1868 )

Di thảo số 32 (12-3-1868 )

Di thảo số 33 (13-3-1868 )

Di thảo số 34 (15-3-1868 )

Di thảo số 35 (15-3-1868 )

Di thảo số 36 (7-4-1868 )

Ngoài văn bản số 28, là văn bản đầu tiên, sau khi về tới Huế, còn nói về việc mở trường và phát triển đất nước, hầu hết các văn bản khác đều xoay chung quanh vấn đề sứ bộ đi Pháp. Quan điểm, trước sau như một, của Nguyễn Trường Tộ là phải tự lực tự cường để lấy lại phần đất đã mất, chứ không thể van xin nài nỉ. Nhưng có thể nói là cho tới 12-3-1868, Nguyễn Trường Tộ tỏ ra sẵn sàng đi theo sứ bộ và đã có những kiến nghị rất cụ thể và chi tiết để chuẩn bị cho sứ bộ lần này.

Khoảng giữa tháng 3-1868, Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Hoằng được cấp phát ngựa và chi phí về Nghệ Tĩnh thăm mẹ già trước lúc lên đường đi theo sứ bộ2.

Sau khi về thăm quê, trở lại Huế, Nguyễn Trường Tộ đổi ý, kiến nghị với Triều đình là không nên sai sứ bộ sang Pháp điều đình (Di thảo số 35) và chỉ nên gởi sứ bộ vào Sài Gòn thương thuyết (Di thảo số 36).

Việc đi Pháp được đình hoãn không thời hạn. Ngày 18 tháng 4-1868, Bộ Lễ lại cấp bằng cho Nguyễn Trường Tộ trở về Nghệ An3.

Trước đó, ngày 7-4-1868, Giám mục Gauthier, khi thấy việc mở trường không được nói tới, cũng đã lên đường trở về Xã Đoài4.
____________________________________
1. Di thảo số 29.
2. Ngày 19-2 năm Tự Đức 21 (tức 12-3-1868 ) Bộ Lễ lập bằng cấp như sau:
    “Nay căn cứ theo lời bẩm của giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ và thông ngôn Nguyễn Hoằng nói thì bọn họ phụng phải đi Pháp nhưng đều còn mẹ già xin cấp cho con ngựa và mỗi người một cái cáng, ngày mai về quê thăm một tuần nhật xong sẽ trở lại kinh đô hầu phái bộ. Bộ đã tâu và đã được phê chuẩn. Lại được châu phê: “ban cho mỗi người 10 lạng bạc để phụng dưỡng. Khâm thử.” Vậy khi được cấp bằng này và tiền của Bộ Ty đệ cấp mỗi người 10 lạng thì phải tuân phụng chiếu nhận. Lần này về thăm chỉ một tuần nhật vô kinh không được kéo dài. Nay lập bằng cấp trên đây cho Nguyễn Trường Tộ để chấp chiếu”. (Xem phụ lục II).
3. “Bộ Lễ làm bằng cấp về việc như sau: Nay giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ về kinh bệnh cũ tái phát. Khâm phụng cấp phí và ngựa trạm cho về Nghệ An điều trị. Cùng với bằng cấp này cho nhận lệ phí 5 lạng bạc về quê dưỡng bệnh. Nay lập bằng cấp cho Nguyễn Trường Tộ chấp chiếu. Ngày 26 tháng 3 năm Tự Đức 21”. (Xem phụ lục II)
4. Thư Giám mục Gauthier gởi cho Đô đốc Ohier ngày 20-6-1868. Xem Kho lưu trữ Bộ Pháp quốc hải ngoại Indochine A 20 (9) Carton 4.

9. TẠI SAO VIỆC MỞ TRƯỜNG Ở HUẾ BỊ BỎ DỞ?

Theo các thư từ của Giám mục Gauthier viết về Pháp, thì sở dĩ việc thực hiện dự án mở trường tại Huế không thành là do sự cản trở của Nguyễn Tri Phương và Võ Trọng Bình là hai vị quan có thế lực trong Triều đình. Trong một bức thư gởi Hội Truyền giáo Paris, đề ngày 31-3-1868, Giám mục Gauthier viết: “Công việc sẽ tiến triển nhanh hơn nếu không có việc cử sứ bộ đi Pháp và những sự chậm chạp của xứ này... Trong các quan thượng thư, có hai vị cựu trào tìm cách cản trở quyết tâm của nhà vua1.

Nhưng có lẽ không phải chỉ có Nguyễn Tri Phương hay Võ Trọng Bình, mà có cả một luồng dư luận khá rộng rãi, trong Triều đình cũng như ở các tỉnh, tỏ ra dè dặt, lo sợ trước ảnh hưởng của các giáo sĩ người Pháp: Một trường đào tạo nhân tài đầu tiên hoàn toàn do giáo sư người Pháp, đặt ngay bên cạnh Tòa Giám mục, dưới sự giám sát của Giám mục.

Chúng ta biết là trong những ngày từ tháng 4-1868, có một sự phản ứng rất dữ dội của các nho sĩ ở khắp nơi đối với người công giáo: Nhiều nhà thờ bị đốt phá - Giám mục Gauthier rời Huế đầu tháng 4-1868, nhưng cũng phải dừng lại ở Đan Sa, bên kia bờ sông Gianh, không về Nghệ Tĩnh được.

Linh mục Montrouzies, một trong những giáo sư do Giám mục Gauthier đem về để thiết lập trường Kỹ thuật tại Huế đã viết cho Hội Truyền Bá Đức Tin trong một thư đề ngày 16-6-1868 như sau:

Ở đây các biến cố xảy ra và diễn tiến một cách hết sức mau lẹ. (Giám mục Charbonnier - ở Bình Định - bị bắt; 30 làng ở Nam Định bị đốt phá). Chắc các bạn đã biết về những lời vu khống xấu xa và buồn cười, truyền đi khắp nước, chống lại người Công giáo và các thừa sai. Người ta nói khắp nơi rằng người Công giáo là những kẻ đi bỏ thuốc độc; Giám mục Sohier đã đem từ Pháp sang 400 cân độc dược để giết các quan lại và các nho sĩ... Người ta còn viết và gởi lên nhà vua một bức thư nặc danh, trong đó người ta tố cáo Giám mục Sohier muốn lên ngôi. Tự Đức chế diễu bức thư đó và chế diễu cả ông hoàng dâng lên vua bức thư đó. Nhưng nhà vua cũng càng ngày càng nghi ngại đối với người Công giáo. Từ khắp nơi người ta gây áp lực để nhà vua ra lệnh cấm đạo một lần nữa. Nhà vua thì tốt, nhưng nhu nhược và bị bao vây bởi những kẻ xấu. Họ dọa giết nhà vua, nếu nhà vua không nhượng bộ họ. Trong lúc chờ đợi một cuộc bách hại công khai, người ta cướp của, đốt nhà, bắt giam và hành hạ các giáo hữu khốn khổ của chúng ta.

“Các kẻ thù của chúng ta lại đang chĩa mũi dùi vào Kim Long, nơi ở của Giám mục Sohier. Linh mục Renauld và tôi cũng đến ở đó từ khi Giám mục Gauthier trở về Bắc kỳ. Các nho sĩ dự định tấn công nơi ở chúng tôi và giết chết tất cả những ai ở trong đó. Chính một sứ giả của nhà vua tới nói cho giám mục biết như vậy. Trong hai ngày và một đêm, lính gác các ngả đường dẫn tới Tòa Giám mục. Mấy ngày sau, nhiều người hiếu kỳ qua lại rất đông trước nhà thờ và trước Tòa Giám mục, tưởng là các cơ sở đó đã bị phá hủy. Nhưng cám ơn Chúa, nhà thờ và Tòa Giám mục vẫn đứng vững và chúng tôi vẫn an toàn.

“Sau những ngày náo động đó, bỗng nhiên yên tĩnh đã trở lại: Đe dọa, vu khống, bắt bớ, tất cả đều ngưng. Chỉ vì một tàu chiến Pháp đến Huế đem đến cho nhà vua huy chương do Triển lãm cấp và một vài tặng vật...”
2.
____________________________________
1. Kho lưu trữ MEP. Tonkin méridional. Trong một thư gởi Hội Truyền giáo Paris 30-11-1870, Giám mục Gauthier lại viết: “Chính phủ đã nói với một trong những linh mục của tôi là tôi sẽ góp ích cho xứ sở này, nếu tôi tìm được người có khả năng khai thác mỏ than và thiết lập các lò luyện thép như ở châu Âu. Điều mà tôi đã làm năm 1867, nhưng những người tôi đem từ Pháp về theo yêu cầu của nhà vua đã bị Võ Trọng Bình lúc đó đuổi về...” Annales de la Propngation de la Foi, tập 43, trang 242-243.
2. Missions Catholiques 1868.

IV. NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI
(20-4-1868 – 22-11-1871)


Nguyễn Trường Tộ về Nghệ An lần này, ở có tới hơn ba năm rồi từ trần.

1. XÂY CẤT CƠ SỞ NHÀ CHUNG XÃ ĐOÀI

Chính trong khoảng thời gian này, Nguyễn Trường Tộ đã giúp xây dựng các cơ sở của Nhà Chung Xã Đoài.

Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ viết:

Khi nghe lắng sáp rồi, thì Đức cha Hậu lại đem ông Tộ và các cụ về Nhà Chung Xã Đoài, ngoài dân sự, tan tành tả tơi, chẳng còn gì nữa, thì ông Tộ ra mẫu và coi sóc làm nhà phòng cho Đức cha Hậu ở (...) Lại làm nhà hai tầng cho Cố giữ việc ở, và làm nhà tràng Latinh ba tầng, hình chữ thập, gọi là nhà Tây, cho học trò Latinh ở và học, hãy còn đến rày, cùng làm Nhà thờ Đức Bà riêng cho học trò, theo mẫu nhà thờ Đức Bà hiện ra ở thành Lộ Đức, đẹp lắm và ở ngoài xây tường cài hoa lộng, giống các sắc hoa Tây, Nam rực rỡ xanh tươi vui mắt lắm, rầy hư rồi...”1. Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ, trong đoạn trích dẫn trên đây, có chỗ không chính xác. Như nói: “Khi nghe lắng sáp” tức sau khi được tha cấm đạo, vào khoảng năm 1862-1863, “Đức cha Hậu lại đem ông Tộ... về Nhà Chung Xã Đoài” là không đúng. Chúng ta biết chắc là Giám mục Gauthier tháng 6 năm 1863 đã về Huế, để tìm cách về Xã Đoài, nhưng chỉ tới được ở bên kia bờ sông Gianh, ở giáp ranh giới phía Nam của Giáo phận Vinh và ở lại đó cho tới đầu tháng 5 năm 1866 mới cùng Nguyễn Trường Tộ về tới Nghệ An. Hơn nữa, lần này Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier chỉ ở lại Nghệ An khoảng ba tháng, rồi phải trở về Huế để chuẩn bị đi Pháp, nên Nguyễn Trường Tộ có lẽ không đủ thời gian để làm bất cứ một công việc gì, ngoài việc giúp Hoàng Tá Viêm đào Thiết Cảng như chúng ta đã thấy trên đây.

Nhà Chung Xã Đoài, tức cơ sở của giáo phận Vinh, cho tới đầu năm 1868, còn ở tại Tràng Nứa hay Bùi Ngõa thuộc huyện Hưng Nguyên ngày nay, bên phía Tây bờ Kênh Gai, đối diện với Xã Đoài ở phía Đông Kênh Gai, thuộc huyện Nghi Lộc ngày nay.

Theo phúc trình của Giám mục Retord ngày 23-7-1839, thì ở Nghệ An (cũ) có 7 xứ đạo lớn: mỗi xứ đạo bao gồm nhiều họ đạo nhỏ trong một hay nhiều huyện. Trong 7 xứ đạo này có một xứ đạo tên là Làng hay Xã (Pagus) Đoài với 4.974 giáo hữu. Làng Đoài hay Xã Đoài bao gồm các họ đạo trong huyện Hưng Nguyên. Trong phúc trình của Giám mục Gauthier năm 1852, thì không nói xứ đạo Xã Đoài mà nói xứ đạo Hưng Nguyên với 5.197 giáo hữu và ba linh mục2.

Năm 1868, sau khi làm xong sứ mạng mà Triều đình Huế giao phó là đi Pháp mua máy móc và thuê thầy thợ trở về, với hào quang của một người được huy chương, được tặng thưởng của Triều đình, Giám mục Gauthier đã không những đấu tranh quyết liệt với những quan lại và nho sĩ bách hại công giáo3, mà còn tin tưởng ở tương lai, dám khởi công xây dựng những cơ sở nhà chung một cách kiên cố. Trước đây, trong thời kỳ đạo bị cấm, các cơ sở như nhà thờ, nhà ở của các giám mục, các thừa sai chỉ được xây dựng một cách lén lút, tạm bợ. Giám mục Gauthier đã đem cơ sở của nhà chung từ bên kia phía Tây bờ Kênh Gai thuộc huyện Hưng Nguyên, là nơi đông dân cư sang phía bên Đông bờ Kênh Gai thuộc huyện Chân Lộc, tức huyện Nghi Lộc ngày nay, ở vị trí của Xã Đoài hiện tại là vùng đất mới. Cái tên Làng Đoài hay Xã Đoài là tên của cơ sở nhà chung được đem từ bên Tràng Nứa, Bùi Ngõa, thuộc huyện Hưng Nguyên, sang bên này cho các cơ sở mới thuộc huyện Chân Lộc, ngày nay là Nghi Lộc4.

Theo Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ do Nguyễn Trường Cửu viết, thì Nguyễn Trường Tộ là người đứng ra điều khiển các công trình xây cất này. Giám mục Gauthier, trong một thư gởi cho Hội Truyền giáo Paris, có nói tới các xây cất nhưng không nói đến tên người xây cất, tuy nhiên không thể có ai khác để điều khiển các công việc xây cất này ngoài Nguyễn Trường Tộ là người mà Giám mục Gauthier luôn luôn gọi là “Kiến trúc sư”. Giám mục Gauthier viết trong thư đề ngày 7-12-1869:

Để cho cộng đoàn chúng tôi và cơ sở của Giáo hội không bị đe dọa bởi một luồng gió bất ngờ nào hay bởi những kẻ phá hoại nào, tôi đã cho xây một nhà bằng gạch, lợp ngói, gồm có một phòng cho giám mục và hai phòng cho các thừa sai, với một phòng chứa đồ. Đây có thể nói là Tòa Giám mục. Người ta cũng đang xây một nhà nguyện để có thể giữ Mình Thánh Chúa một cách trang trọng và an toàn.

“Thấy phần đông học sinh của chúng tôi hầu như luôn luôn bị bệnh hoạn, tôi cũng đã cho xây một nhà tầng, hy vọng là sức khỏe của học sinh không còn là cản trở như vẫn xảy ra cho tới nay cho những sự học tập nghiêm túc và liên tục, và cũng là làm cho người ta tin tưởng hơn ở tương lai tức là tin tưởng ở Chúa quan phòng: Chúng ta làm lên tinh thần cho những người giáo hữu khốn khổ đã bị ngã lòng mỗi khi nghĩ rằng luôn luôn có một tai họa sắp xảy đến (...).

“Chi phí xây dựng một nhà trường, một nhà nguyện và một Tòa Giám mục là 19.545 quan Pháp...”
5.

Trong số các công trình do Nguyễn Trường Tộ xây cất ở Xã Đoài, nay chỉ còn “nhà tràng Latinh ba tầng, hình chữ thập gọi là nhà Tây”, chứ nhà giám mục và các nhà phụ thuộc bị bom Mỹ đánh sập; nhà Cố giữ việc, toàn bằng gỗ, bị mối mọt, nên đã được tháo gỡ.

Nhà tràng Latinh, tức tiểu chủng viện, lúc bấy giờ được xây cất trong khu vực Nhà Chung, hình như cho dễ bảo vệ, sợ bị đánh phá. Sau này, khi Pháp đã chiếm trọn Bắc kỳ và Trung kỳ, thì Tiểu Chủng viện được xây cách khu Tòa Giám mục khoảng hai cây số... Ngôi nhà ba tầng hình chữ thập gọi là nhà Tây, có thể là vì xây cất theo lối Tây, có được sửa chữa ít nhiều, nhưng toàn bộ kết cấu sườn, mái còn nguyên kích thước, kiểu mẫu của người thiết kế.

Riêng ngôi nhà nguyện được Nguyễn Trường Tộ xây có thế khang trang, chứ không phải là đồ sộ, do kinh phí được cấp phát trong một hai năm không đủ cho ngần ấy xây cất Nhà thờ Chính tòa đồ sộ ở Xã Đoài được xây cất dưới thời Giám mục Croc (1877-1885).

Lê Thước, trong “Nguyễn Trường Tộ tiên sinh tiểu sử”, NAM PHONG số 102 có lẽ dựa trên truyền khẩu có nói rằng: “Sau tiên sinh dời đến ở phía ngoài cổng trước nhà thờ Xóm Mới (Tân ấp)..., Năm 1863 (Tự Đức thứ 16) vì làng Xuân Mỹ (Xuân Mỹ thôn) đất xấu, nhiều khí độc khiến dân ở đây hao mòn, tiên sinh mới đi tìm một nơi đất tốt khác đưa dân chúng di cư đến ở. Nơi dân dời đến rộng khoảng 40 mẫu, bốn mặt bên ngoài có mở đường lớn, bên trong có nhiều đường nhỏ nối liền ngang dọc thẳng như bàn cờ...”.

Chúng ta biết chắc chắn là Nguyễn Trường Tộ bỏ Nghệ An cuối năm 1858 và giữa năm 1866 mới lần đầu tiên trở về lại quê hương nhưng chỉ ở nhà khoảng ba tháng, nên có lẽ cũng chưa tính toán được gì. Do đó, việc Nguyễn Trường Tộ dời nhà tới ở trước Nhà chung Xã Đoài và việc Nguyễn Trường Tộ giúp thôn Xuân Mỹ dời dân có thể là vào khoảng 1868-1871.

Theo những người hiểu chuyện ở xứ đạo Xuân Mỹ, thuộc xã Nghi Đồng, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh ngày nay, thì mẹ của Nguyễn Trường Tộ là người Xuân Mỹ, thuộc cánh họ Vũ là một dòng họ tương đối lớn ở đây. Trước kia dân Xuân Mỹ ở vùng dưới chân đồi thấp, đất ruộng, cách chỗ ở hiện nay khoảng 400 thước về phía Tây. Nơi ấy gần khe suối, tới mùa mưa lụt thì lầy lội, bẩn thỉu. Nguyễn Trường Tộ đã khuyên dân dời cư lên triền đồi (chỗ ở hiện nay). Ông vẽ đường, chia ô cho các hộ. Dấu vết của một số đường sá còn thấy ngày nay.
__________________________________
1. Xem phụ lục I.
2. Xem C.V.P. tlđd. Trang 367.
3. Giám mục Gauthier đã trực tiếp tới gặp các quan đầu tỉnh Nghệ An, gặp khâm sai đại thần, gởi thư cho Triều đình khiếu nại và đòi bồi thường cho các nạn nhân. Trong một thư gởi về Hội Truyền giáo ở Paris, Giám mục Croc viết: “Đức Giám mục Gauthier quyết tâm trực chiến với các nho sĩ, chắc chắn là trong tất cả các giám mục thì ngài là người mà Triều đình sợ hơn cả và đánh giá cao hơn cả” (Kho lưu trữ M. E. P).
4. Trong một bị vong lục gởi cho Triều đình ngày 10-12-1874, Giám mục Gauthier có nói đến huyện Chân Lộc là nơi có trụ sở chính của Giáo hội chúng tôi. (Kho lưu trữ Bộ Pháp quốc hải ngoại Indochine A 30 (25) Carton 13)
5. Trong một thư đề ngày 4-1-1870, giám mục Gauthier nói: “Người ta đã xây một chủng viện ba tầng, kể cả tầng trệt” (Kho lưu trữ M.E.P Tonkin Méridional).
    Theo một bức thư của Giám mục Gauthier ngày 30-11-1870, thì trường học với hai tầng lầu và một tầng trệt đã được đưa vào sử dụng cho học sinh và làm cho mọi người phải tấm tắc khen ngợi “Annales de la Propagation de la Foi” tập 43 trang 245.
  1. NHỮNG LIÊN LẠC VỚI TRIỀU ĐÌNH HUẾ

    Trong khoảng thời gian từ 18-4-1868, là ngày được cấp bằng để về quê, cho tới 22-11-1871, là ngày từ trần, Nguyễn Trường Tộ đã gởi lên Triều đình Huế gần 20 văn bản, trong số đó có ba bản hiện chưa tìm thấy ở đâu cả1.

    - Tháng 8, năm Tự Đức 21 về việc bày trừ giặc bể (Di thảo số 38 ).

    - Ngày 12 tháng 12, năm Tự Đức 23, về kế hoạch nội công ngoại kích để thu hồi 6 tỉnh Nam Kỳ (Di thảo số 39).

    - Ngày 20 tháng 12, năm Tự Đức 23, bổ sung kế hoạch sai sứ đi Tây và đánh úp Gia Định (Di thảo số 40).

    - Ngày 10 tháng 2, năm Tự Đức 24, cho Pháp thông thương để đổi lấy 6 tỉnh (Di thảo số 41).

    - Ngày 16 tháng 2, năm Tự Đức 24, về việc giao tiếp với người nước ngoài (Di thảo số 42).

    - Ngày 18 tháng 2, năm Tự đức 24, kế hoạch thương nghị với Pháp và vận động giúp đỡ của các nước khác (Di thảo số 43).

    - Ngày 21 tháng 2, năm Tự Đức 24, kế hoạch vay tiền để dùng vào việc binh (Di thảo số 44).

    - Ngày 25 tháng 2, năm Tự Đức 24, về việc gởi học sinh sang Singapore học sinh ngữ (Di thảo số 46).

    - Ngày 10 tháng 3, năm Tự Đức 24, về việc dịch các văn bản ngoại giao (Di thảo số 46).

    - Ngày 10 tháng 3, năm Tự Đức 24, về việc nhờ Giám mục Hòa giúp lấy lại 6 tỉnh (Di thảo số 47).

    - 22 tháng 5, năm Tự Đức 24, về tình hình chính trị nước Pháp (Di thảo số 48 ).

    - Cuối tháng 3, năm Tự Đức 24, về việc cần nắm tình hình chính trị ở Pháp (Di thảo số 49).

    - Ngày 2 tháng 5, năm Tự Đức 24, về tu chỉnh võ bị (Di thảo số 50).

    - Cuối tháng 4 năm Tự Đức 24, về việc cần hiểu rõ tình hình chính trị của Pháp (Di thảo số 51).

    - Đầu tháng 8, năm Tự Đức 24, về việc cần canh tân, quảng giao để giữ nước (Di thảo số 52).

    - Ngày 20 tháng 8, năm Tự Đức 24, về nông chính (Di thảo số 53).

    - Tháng 9, năm Tự Đức 24, về việc cần phải gấp rút tiến hành các kế hoạch (Di thảo số 54).

    - Tháng 9, năm Tự Đức 24, nên giao thiệp chứ không nên nghi ngờ (Di thảo số 55).

    Chuyến đi Pháp của Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier không đưa đến kết quả cụ thể nào cả: Các sách vở và máy móc, tốn mấy chục ngàn quan Pháp, vẫn nằm trong kho.

    Tuy nhiên, vua Tự Đức, vẫn có một cảm tình và quan tâm nào đó đối với Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier.

    Chúng ta thấy là nhà vua vẫn ra lệnh điều tra và xử phạt các quan lại và nho sĩ bách hại người công giáo.

    Nguyễn Hoằng, người đi theo Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ đi Pháp năm 1867, được trao chức linh mục ngày 2 tháng 8 năm 1868, rồi được cử vào Huế dạy tiếng Pháp, theo yêu cầu của nhà vua...2.

    Tháng 1 năm Tự Đức 23 (tức tháng 2 năm 1870), nhà vua truyền hỏi các giới chức Nghệ An “Sao không nhân lúc bình thường hỏi bọn Tộ, Điều xem đạo của chúng có chỗ nào hay mà cố theo, có học thức mà cũng mê là vì sao vậy? Và sao không nhân lúc nhàn rỗi hỏi xem để tìm hiểu vấn đề Nam Kỳ như thế nào?3.

    Trong một bức thư gởi cho Hội Truyền giáo Paris, đề ngày 30-11-1870, giám mục Gauthier viết như sau:

    Quan Tổng đốc của chúng tôi đã mời tôi đến nhận một cách long trọng tại tòa tỉnh, năm đồng Kim khánh mà nhà vua sai ông trao tặng tôi vì đã phục vụ Triều đình và vì những gì tôi đã làm để giữ mối hòa hảo giữa lương và giáo. Tôi đã viết thư cám ơn nhà vua và nói là tôi sẽ dâng một thánh lễ cầu an cho ngọc thể.

    “Triều đình cũng đã nói với.một linh mục của tôi là tôi sẽ giúp ích nhiều cho Nhà nước, nếu tôi tìm được người giúp khai thác các mỏ than và thiết lập các xưởng máy luyện kim như ở châu Âu. Điều mà tôi đã làm năm 1867, nhưng Võ Trọng Bình, lúc đó ở Triều đình, đã cho đuổi những người mà theo yêu cầu của nhà vua tôi đã đem từ Pháp sang...”
    4.

    Về phần Nguyễn Trường Tộ, thì không biết là trong khoảng thời gian, từ khi trở về Nghệ An cho tới lúc từ trần, có giúp gì được cụ thể cho Triều đình và còn lui tới Huế nhiều hay ít. Nhưng có điều chắc chắn là Nguyễn Trường Tộ luôn luôn canh cánh bên lòng hoài bão muốn làm một cái gì đó để giúp nước.
    __________________________________
    1. Trong văn bản số 50 ngày 2-5 năm Tự Đức 24 có nói là: “Trước đây, khoảng năm Tự Đức 22 tôi có bẩm một tập về TÁI TU CHÍNH VÕ BỊ...”, nhưng bản này không thấy ở đâu cả.
        - Trong tờ tấu của Trần Tiễn Thành, ngày 9-11 năm Tự Đức 23 (Xem phụ lục VII, 4) có nó: “Ngày 6 tháng trước có tiếp trát... chuyển giao Cơ Mật viện một phong thư MẬT BẨM CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ... Nội dung xin đề nghị lập lãnh sự đại sứ tại kinh đô nước họ...” Văn bản này cũng không tìm thấy ở đâu cả.
        - Trong tờ tấu của Trần Tiễn Thành, ngày 30 tháng 11 năm Tự Đức 23, (Xem phụ lục VII 5) có nói: “Ngày 9 tháng này có tiếp một phong thư mật bẩm của Nguyễn Trường Tộ” về việc thám thính để đánh úp ở Gia Định và sai sứ đi Tây. Nhưng bản này cũng không tìm thấy ở đâu cả.
    2. Xem C.V.P sđd trang 313, trích tự thuật của Nguyễn Hoằng đăng trên tạp chí Sacerdos tháng 1-1936 trang 453-455 và tháng 2 trang 498-500.
    3. Xem tấu của Cơ mật viện ngày 28-2 năm 1870 (Phụ lục VII, 2) và tấu của các quan chức tỉnh Nghệ An ngày 26-4-1870 (Phụ lục VII, 3).
    4. Annales de la Propagation de la Foi tập 43 trang 242.



Sau khi gởi cho Triều đình hai văn bản với những đề nghị rất cụ thể về việc “tái tu võ bị” (năm 1869) và về việc “Tiễu trừ giặc bể” (tháng 9 năm 1868 ) mà không có hồi âm, Nguyễn Trường Tộ hình như im lặng đi một thời gian. Nhưng cuối năm 1870 đầu năm 1871, khi được tin là Pháp thất trận trong cuộc chiến tranh với Đức và vua Napoléon III đã bị truất phế (4-9-1870), Nguyễn Trường Tộ đã liên tiếp gửi thư cho Triều đình đề nghị là nên lập lãnh sự ở Gia Định và sứ quán ở Pháp để nắm tình hình (Tờ bẩm đầu tháng 10 năm Tự Đức 23) và xin được vào Gia Định tổ chức đánh úp thu hồi lại 6 tỉnh Nam Kỳ (đầu tháng 11 năm Tự đức 23).

Trần Tiễn Thành, khi nhận tờ bẩm thứ nhất, thì cho rằng: “Cái khoản này năm trước y cũng đã trình bày chưa tiện thực hành, nay lại đề cập, viện dẫn lý thế hiện tại và điển cố biện thuyết, chẳng qua chỉ là muốn tỏ ra có lòng vì mình mà thôi. Nhưng bác đi vì thời sự khó thực hành, đó là ý kiến đã được thương nghị cùng thần Nguyễn Tri Phương, thần Phạm Phú Thứ, tất cả đều đồng ý như vậy1. Nhưng khi nhận được tờ bẩm thứ hai, Trần Tiễn Thành tâu rằng: “Thần thấy nước Pháp có cơ hội này thật là khó được mà dễ mất, tuy phái y đi có thành công được việc gì hay không còn chưa biết được, nhưng bỏ qua thì thật không yên lòng, cho nên không dám vì sự ngu dốt thiển cận của mình mà làm thinh không nói. Vậy dám có lời phúc tâu hầu thánh thượng trù định”. Vua Tự Đức châu phê trên tờ tấu của Trần Tiễn Thành rằng: “Truyền Cơ Mật viện, Thương Bạc, với khanh cùng nhau bàn luận kỹ nên phải làm như thế nào cho chu đáo, phúc tâu đầy đủ đừng để mất thời cơ. Nếu có đường lối nào hay hơn càng tốt2.

Ngày 28-12-1870 Viện Cơ mật tâu: “Bọn thần tuân phụng xét duyệt các khoản mật trần của Nguyễn Trường Tộ thấy y cũng có lòng với ta và chính lúc này là lúc có thể thừa cơ hội được. Ý kiến của bọn thần cũng đồng với các lý lẽ của thần Trần Tiễn Thành tâu xin. Nhưng xét vì đây là việc quân quốc trọng sự cần phải bàn thảo kín đáo kỹ lưỡng mới bảo đảm không nguy hiểm trở ngại sau này. Nay bọn thần chưa giáp mặt y bàn tính mà đã nội giao cho y qua các nước thám sát những việc cần phải làm, lỡ ra có chỗ nào chưa được chu đáo, sợ sẽ sinh trở ngại. Vậy xin cho Bộ Lễ lấy lý do phái đem người qua Tây học tập, khẩn tư cho tỉnh thần Nghệ An lập tức cấp ngựa, sức y lên kinh ngay để bọn thần ở Viện Cơ mật và Thương Bạc đối diện hỏi bọn y xem suy tính cơ nghi như thế nào cho được chu thỏa. Bọn thần sẽ suy nghĩ chín chắn đôi ba lần và phúc tâu đầy đủ. Vậy dám xin có lời tâu bày, đợi chỉ tuân hành3.

Ngày 3 tháng 1 năm 1871, Tổng đốc Nghệ An, được lệnh hỏa tốc của Bộ Lễ, đã làm chiếu hội để Nguyễn Trường Tộ đi Huế, dĩ nhiên cũng nói là để đem học sinh đi du học4. Có lẽ chính vì vậy mà mọi người, kể cả Giám mục Gauthier và những người trong gia đình cũng như những người viết tiểu sử Nguyễn Trường Tộ sau này, đều nói là Nguyễn Trường Tộ được gọi về Huế lần này là để đem học sinh đi Pháp. Nhưng qua tờ tấu của Viện Cơ mật được trích dẫn trên đây, chúng ta thấy là mục đích của Nguyễn Trường Tộ về Huế là để bàn tính phương thức thực hiện kế hoạch quân sự và ngoại giao mà ông đã trình bày trong các văn bản gởi cho Triều đình cuối năm 1870.

Trong những ngày ở Huế, Nguyễn Trường Tộ có lẽ đã gặp gỡ và trao đổi nhiều với các quan chức của Triều đình và ông cũng đã để lại nhiều bản văn với nội dung thôi thúc Triều đình mở rộng bang giao, canh tân đất nước. Ông đã đề xuất các kế hoạch một cách rất cụ thể. Như nếu gởi sứ bộ đi châu Âu, thì nên đến nước nào trước, nước nào sau; ở mỗi nước nên đặt những vấn đề gì; nếu cho người vào Nam kỳ, tổ chức phản gián, tổ chức đánh úp, thì Nguyễn Trường Tộ xin đứng ra làm trong những điều kiện và theo phương thức nào; nếu gởi người đi học, thì nên tới nước nào...

Nhưng Triều đình Huế bàn đi tính lại mà không đi đến được một quyết định nào: Sứ bộ không được cử đi; kế hoạch đánh úp để thu hồi 6 tỉnh ở Nam Kỳ không được thực hiện...

Sau mấy tháng ở Huế, có thể là không thấy còn có việc gì để làm hoặc có thể vì bệnh cũ tái phát, Nguyễn Trường Tộ đã trở về Nghệ An. Chúng ta không biết chắc Nguyễn Trường Tộ rời Huế từ ngày nào. Nhưng trong một văn bản viết từ Nghệ An, đầu tháng 8 năm Tự Đức 24, Nguyễn Trường Tộ nói rằng: “Đúng như hồi tháng 5, khi ở kinh tôi đã bẩm... Tôi hiện đang đau, chưa khỏi. Hiện còn ba bốn tập trình bày sự việc, xin đợi tháng 6 sẽ gởi lên” (Di thảo số 51).

Như thế là Nguyễn Trường Tộ còn viết thêm ba văn bản nữa, văn bản 55 đang dở dang... và từ trần ngày 22-11-1871.
__________________________________
1. Tấu của Trần Tiễn Thành (2-12-1870). Xem phụ lục VII, 4.
2. Tấu của Trần Tiễn Thành (23-12-1870). Xem phụ lục VII. 5.
3. Xem phụ lục VII, 6.
4. Tờ chiếu của Tống đốc An Tĩnh như sau:
“Hôm nay vừa mới tiếp được tờ tư hỏa tốc của Bộ Lễ nói: Từ dịch quân ở kinh đô cần người thông dịch, xét nên phái người qua trước các nước phương Tây để học ngôn ngữ của họ. Xét giáo sĩ này là người mẫn cân, đã từng đi Tây quen thuộc phong tục các nước. Vậy hãy cấp ngựa trạm, sức gọi về kinh đô gấp hầu Bộ để sảa soạn dẫn học sinh qua Tây học tập. Đồng thời bảo sửa sang hành lý gấp vô tỉnh lãnh bằng để lên đường. Nhưng trước hết ngày nào có thể đi được phải biên giao cho người cầm trát này đem về phúc cho biết. Nay làm tờ sức hỏa tốc cho giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ chiếu thi hành. Giờ Ngọ ngày 11 tháng 12 năm Tự Đức 23” (Xem N.P. số 102)
  1. VỀ CÁI CHẾT CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

    Nguyễn Trường Cửu, trong Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ chỉ nói ngắn gọn rằng: “Qua năm sau, Tự Đức 24 (1871), ngày 10 tháng 10, ông Tộ làm một câu thơ rằng: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận, tái hồi đầu thị bách niên cơ1 đoạn thì qua đời. Thọ 41 tuổi”.

    Lê Thước, có lẽ cũng chỉ dựa trên lời kể của Nguyễn Trường Cửu và những người trong gia đình, nói: “Bệnh của tiên sinh, có người bảo là ung thư ruột, có người bảo là chứng tụ máu: trong bụng có một cục gì nho nhỏ chạy qua chạy lại. Sau khi tiên sinh mất, các bạn bè đến khóc, có người hiểu tâm sự của tiên sinh nhất đã than rằng: “Học thức như thế, hoài bão như thế mà chẳng thi thố được điều gì, để rồi cuối cùng mang bệnh mà chết, thương thay!” Rồi người nhà thấy trên chăn đắp có dấu máu rướm, mở ra xem thì đó là cái cục trong bụng đã vỡ phun ra máu2.

    Đinh Văn Chấp, cũng là người Nghệ An, có lẽ có dịp gần gũi với gia đình Nguyễn Trường Tộ, thì nói: “Nguyễn Trường Tộ khi chết thổ ra một cục máu3.

    Riêng Giám mục Gauthier, trong một thư đề ngày 1-11-1871, viết:

    Người Giáo hữu Việt Nam mà tôi đem theo năm 1867 và người ta gọi là Kiến trúc sư (...) đã là nạn nhân của một âm mưu đầu độc4.

    Do đó chúng ta không biết chắc Nguyễn Trường Tộ chết vì nguyên nhân nào, nhưng theo nhiều chứng từ, thì có triệu chứng xuất huyết bao tử.

    Đối với chúng ta ngày nay, Nguyễn Trường Tộ là một người yêu nước. Nhưng trước con mắt của những người đương thời, những người không hiểu được nỗi lòng của một con người thiết tha với dân với nước, được bộc lộ qua các văn bản gởi lên Triều đình Huế, - nhất là trước con mắt của nhân dân Nghệ Tĩnh, quê hương của phong trào “bình Tây sát Tả”, - Nguyễn Trường Tộ chỉ là một người công giáo đi lại gần gũi với các thừa sai Pháp, được coi như tay chân của thực dân cướp nước. Chúng ta biết là vào những năm 1862 - 1863, sau khi Triều đình vua Tự Đức ký hòa ước nhượng đất cho Pháp và ban hành sắc lệnh thôi cấm đạo Công giáo, các nho sĩ ở Nghệ Tĩnh đã phản ứng mãnh liệt. Từ giữa năm 1863, Giám mục Gauthier không thể vượt qua được biên giới đất Nghệ Tĩnh, mà phải lưu lại trên đất Quảng Bình, phía Bắc bờ sông Gianh, không phải vì Triều đình Huế không cho phép mà chính là vì tình hình lương giáo sôi sục ở Nghệ Tĩnh. Giữa năm 1866, Giám mục Gauthier, dựa vào tàu chiến Cosmao của Pháp, đậu trước cửa Hội, bắn những phát súng đại bác chào mừng, thị uy, mới về được Nghệ An. Nguyễn Trường Tộ cũng đã trở về quê hương trong bối cảnh đó. Rồi Nguyễn Trường Tộ đã cùng với Giám mục Gauthier, được Triều đình Huế tin dùng, trọng dụng, sai đi Pháp... Năm 1868, Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier, lại đã từ Pháp về với uy tín lớn, các nho sĩ lại phản ứng, phong trào Văn Thân ở Nghệ Tĩnh năm 1868, cũng như những năm sau đó quyết liệt hơn bất cứ nơi nào khác. Việc Giám mục Gauthier cho xây cất những ngôi nhà to lớn theo kiểu Tây phương tại Xã Đoài, một vùng nông thôn ở huyện Nghi Lộc, quả là một sự thách thức đối với các nho sĩ. Vì sự trấn áp của Triều đình, phong trào Văn Thân 1868 đã phải tạm ngừng hoạt động, nhưng vẫn âm ỉ.

    Đối với Nguyễn Trường Tộ, việc xây cất cơ sở của Nhà chung Xã Đoài những năm 1868 - 1870 cũng như việc xây cất cơ sở của dòng Thánh Phaolô là ở Sài Gòn, một vùng đất bị tạm chiếm thì không sao: còn cơ sở Nhà chung Xã Đoài ở ngay một vùng đất mà sự nghi kỵ đối với Công giáo đang ở cao độ, thì quả là một sự khó có thể được tha thứ.

    Chúng ta cũng không biết chắc Nguyễn Trường Tộ đã lập gia đình lúc nào. Có thể là sau tháng 4-1868, trong thời gian ông trở về Nghệ An, khi các dự án canh tân của ông gởi vua Tự Đức bị chống đối quyết liệt, bị bỏ dở. Trong bài Trần tình (Di thảo số 3, 13-5-1868 ), ông nói là “trong gia đình không hệ lụy vợ con”. Trong một văn bản đề ngày 15-3-1868 (Di thảo số 34) để biện bạch cho thực tâm gắn bó với đất nước của mình, ông lại nói: “Nếu tôi không có bụng ấy, thì chỉ có một bà mẹ già, khó gì chẳng cùng đem mẹ đi trốn được mà phải trở về”.

    Theo lời kể của những người trong gia đình, Nguyễn Trường Tộ khi mất, có để lại một người con gái và một người con trai. Người con gái lấy chồng ở một làng kế cận, có nhiều con và nhiều cháu nhưng không có thành tích đáng chú ý. Người con trai là Nguyễn Trường Cửu. Nguyễn Trường Cửu, lúc thân sinh mất mới được 18 tháng, có tư chất thông minh, được học hành, thường được gọi là “Đồ Cửu”. Ông mất vào khoảng năm 1942 và có ba người con trai là Nguyễn Trường Võ, Nguyễn Trường Văn và Nguyễn Trường Triều.

    Nguyễn Trường Võ cũng đã chết và chỉ còn hai người con gái, một người con trai chết lúc thiếu thời. Nguyễn Trường Văn, sau đổi tên là Nguyễn Trường Tín hiện là linh mục phụ trách xứ đạo Kẻ Gai, xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Nguyễn Trường Triều cũng là linh mục, hiện ở châu Âu.

    Nguyễn Trường Tộ sinh quán ở thôn Bùi Chu, thuộc huyện Hưng Nguyên. Nhưng năm 1868, khi Giám mục Gauthier dời trụ sở Nhà chung về Tân ấp (Xóm mới) tức Xã Đoài thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc ngày nay, Nguyễn Trường Tộ cũng đã làm nhà trước cổng Nhà chung để đốc suất công trình xây cất Nhà chung cho thuận tiện. Nguyễn Trường Tộ đã mất trong ngôi nhà này và được đem về chôn tại thôn Bùi Chu.

    Không ai còn nhớ là ngôi nhà của Nguyễn Trường Tộ làm trước cổng Nhà chung Xã Đoài được dời về làng Bùi Chu, bên kia bờ Kênh Gai từ hồi nào và ngôi nhà của con cháu Nguyễn Trường Tộ ở Bùi Chu, năm 1950, đã được xây cất lại, nhưng năm 1953, lúc cải cách ruộng đất, ngôi nhà này được phân cho một người khác dỡ đi, gia đình Nguyễn Trường Võ đã làm lại một căn nhà tranh vách đất trên nền cũ, ngày nay bà quả phụ Nguyễn Trường Võ đang ở.

    Trước mặt căn nhà tranh vách đất xơ xác này, cách khoảng 50 thước là ngôi mộ của Nguyễn Trường Tộ. Ngôi mộ này xưa kia là một nấm mộ đất lè tè. Năm 1943, với sự đóng góp của ông Từ Ngọc Nguyễn Lân và một số thân sĩ ở Nghệ Tĩnh, một ngôi mộ bằng đá cẩm thạch đã được dựng lên, hiện đang nằm chơ vơ, trên một gò đất cao, giữa đồng không mông quạnh, trâu bò hay người đều qua lại được…5.
    __________________________________
    1. Đào Duy Anh và nhiều tác giả nói: “thân”. Trên mộ của Nguyễn Trường Tộ ở làng Bùi Chu, xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, cũng ghi câu thơ này và cũng nói: “bách niên cơ”.
    2. Phụ lục II.
    3. Phụ lục III.
    4. Kho lưu trữ MEP.
    5. Xem “Ngôi mộ Nguyễn Trường Tộ”, bài và ảnh của Thọ Mai trên CÔNG GIÁO VÀ DÂN TỘC số 365-366 ngày 11-7-1982.


V. NHỮNG ĐỀ NGHỊ CẢI CÁCH CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

Nguyễn Trường Tộ có một cuộc đời tương đối ngắn ngủi: Ông sống chưa đầy 42 năm. Nhưng cả cuộc đời của ông là một nỗ lực học hỏi và tìm tòi.

Về nho học, như chúng ta đã thấy, ông được học khá bài bản. Còn về Tây học, thì ông quả có được các linh mục thừa sai và, đặc biệt, Giám mục Gauthier dạy cho tiếng Pháp và truyền đạt cho một số kiến thức khoa học, chỉ có thể là, rất phổ thông. Bởi vì các thừa sai thuộc Hội Truyền giáo Nước ngoài của Paris (M.E.P) tuyệt đại bộ phận chỉ học xong chương trình phổ thông, rồi vào các đại chủng viện học làm linh mục để được gởi đến các nước truyền đạo. Để có các kiến thức chuyên môn, Nguyễn Trường Tộ đã phải tự học, nghĩa là phải đọc sách đọc báo, phải biết quan sát để tiếp thu và vận dụng.

Đọc bài tựa sách Đàm Thiên (Di thảo số 58 ) chẳng hạn, chúng ta thấy là Nguyễn Trường Tộ có những hiểu biết sâu sắc về thiên văn, là một môn học mà không phải ai cũng chuyên. Đọc tất cả các văn bản của Nguyễn Trường Tộ gởi cho Triều đình Huế từ 1861 đến 1871, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ quả là uyên bác. Đúng như ông nói trong bài Trần tình (Di thảo số 3), rằng: “Về việc học thì không môn nào không để ý tới, cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào tôi không khảo cứu, nhất là, để ý nghiên cứu về sự thế dọc ngang tan hợp trong thiên hạ”.

Nguyễn Trường Tộ cũng là người của thực tiễn: Từ việc xây dựng nhà cửa, thành quách cũng như sửa chữa máy móc, và thăm dò mỏ quặng cho tới việc vẽ bản đồ, hướng dẫn học sinh thực tập về bách nghệ... ông nói là đều có biết. Những nhận định của ông về thế giới cũng như về Việt Nam, đất nước và con người, đều rất chuẩn xác.

Với một nhiệt tình và một tài năng như thế, Nguyễn Trường Tộ đã kiên trì gởi lên Triều đình vua Tự Đức nhiều đề nghị cải cách, canh tân và hiện đại hóa đất nước. Những đề nghị này có thể đã được trình bày một cách quy mô và đầy đủ trong bài Tế cấp luận, được gởi lên Triều đình Huế đầu năm 1863. Nhưng có lẽ những đề nghị đó quy mô quá, rộng lớn quá, nên vua Tự Đức có thể cho là viễn vông mà không quan tâm tới. Điều đáng tiếc, đối với chúng ta hiện nay, là bài Tế cấp luận không còn để có thể thấy những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ, ngay buổi đầu, cụ thể như thế nào. Tuy nhiên với các kế hoạch chi tiết được trình bày trong các bản văn kế tiếp chúng ta thấy là Nguyễn Trường Tộ có trong đầu óc cả một chương trình cải cách có hệ thống và toàn diện. Nghĩa là tất cả những gì cần thiết cho công cuộc hiện đại hóa đất nước, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao... đều đã được lần lượt đề cập tới như một đòi hỏi của quy luật phát triển hay như một yêu cầu bức thiết của thời cuộc.

1. VỀ CÔNG NGHIỆP

Đối với Nguyễn Trường Tộ, cũng như đối với quy luật của lịch sử và của xã hội, kinh tế là vấn đề hàng đầu. Ông nói: “Tôi thiết nghĩ trong ngũ phúc, phú đứng đầu, triệu dân trước tiên lo ăn” (Di thảo số 53). “Nếu bị cái nghèo đói thúc bách thì lo kế sống cũng không xong, còn hơi đâu mà bàn lễ nghĩa” (Di thảo số 18 ). Do đó, Nguyễn Trường Tộ luôn luôn quan tâm trước tiên đến việc làm cho dân giàu nước mạnh. Bởi vì dân có giàu, nước có mạnh mới cứu được nước và giữ được nước.

Trong bài Dụ tài tế cấp bẩm từ (Di thảo số 5), ông nói: “Cách làm cho nước mạnh là ở chỗ tạo được nhiều của. Của cải nhiều thì lương thực đủ, khí giới tinh, thành trì vững, quốc phí đầy, các việc lợi ích do đó mà ra, các việc tai hại do đấy mà giảm bớt. Một khi có biến cố lớn xảy ra, chỉ cần lấy của cải trong kho Nhà nước, khỏi phải phiền lụy đến dân. Sự lợi ích đó không thể kể xiết. Nay nước ta của công chỉ nhờ vào thuế, mà thuế đánh thì có hạn, chứ không có cách gì để làm cho của cải nhiều như phương Tây. Cái tôi gọi là làm cho có nhiều của cải ở đây không có nghĩa là nói bòn rút của dân để làm cho nước giàu, mà nhân nguồn lợi tự nhiên của trời đất để sinh ra của. Do đó nước giàu mà dân cũng giàu”.

Chúng ta không biết là Nguyễn Trường Tộ đã đề nghị những gì về kế hoạch phát triển kinh tế - tài chính trong bài Tế cấp luận (đầu năm 1863). Nhưng trong bài Dụ tài tế cấp bẩm từ (được viết vào giữa năm 1864), sau khi trình bày về phương pháp làm súng đạn và khai thác mỏ than là những điều Triều đình hỏi, Nguyễn Trường Tộ đề nghị một kế sách rất đơn giản, không cần nhiều trang thiết bị và không đòi hỏi kỹ thuật cao, điều mà chúng ta đang làm ngày nay, đó là tổ chức xuất khẩu nông, lâm, hải và khoáng sản. Và nông, lâm, hải sản là những nguồn hàng dồi dào và dễ khai thác nhất, nên Nguyễn Trường Tộ đề nghị Nhà nước mua và đóng tàu cũng như khuyến khích nhân dân mua tàu chở các hàng nông, lâm, hải sản đến cảng các nước bán, rồi mua các thứ hàng hóa trong nước cần dùng đem về.

Theo Nguyễn Trường Tộ, thì: “Đấy là một điều lợi lớn. Vì rằng những hàng hóa mình có, trừ số cần dùng ra, còn thì đem chở bán cho họ, họ lại bán cho nước khác, như thế thì họ không cần phải đến nước mình làm gì. Nếu như họ muốn đưa hàng hóa sản vật của họ sang, thì đã có tàu của nước mình chở về để trao đổi với người cùng quê hương xứ sở, chẳng dễ hơn là mua ở bên nước họ hay sao? Như thế thì tự nhiên họ không cần phải tìm đến nước mình nữa. Sở dĩ họ tìm đến cầu thông thương với mình là vì người mình không thể đi xa mà thôi” (Di thảo số 5).

Về tổ chức hàng hải, thì Nguyễn Trường Tộ có hai văn bản (Di thảo số 6 và số 7, vào cuối 1864 - đầu 1865), trong đó ông đề nghị với Triều đình là nên gởi người sang Anh, sang Pháp học về cách điều khiển và sửa chữa thuyền máy, trước khi mua tàu, bởi vì như thế mình mới chủ động và đỡ tốn kém hơn là thuê người nước ngoài: nếu có mua thuyền máy thì cũng chỉ mua một hai chiếc làm mẫu, rồi mình tự tổ chức đóng lấy.

Trong bài Khai hoang từ (Di thảo số 8, tháng 2-3 năm 1866), Nguyễn Trường Tộ đề nghị mở cửa cho các nước vào thông thương buôn bán và đầu tư khai thác tiềm năng của đất nước. Bởi vì, theo ông, người Tây phương, nhất là người Pháp đã thấy được là Việt Nam có nhiều tiềm năng: “Hiện nay các hội buôn của họ sang nước ta, có hội thì muốn xin mở đường xe lửa suốt cả Nam Bắc; có hội muốn xin khai mỏ dọc theo các núi; có hội muốn xin cho thuyền đi dọc theo biển để tiễu phỉ; có hội muốn thông đường buôn bán. Các người này một mặt xúi giục các quan của họ sớm làm cho thành chuyện, một mặt đánh tiếng xin dần để dò xem như thế nào. Vả lại vua quan của họ cũng có thâm ý riêng. Từ quan đến dân, không ai là không chú mục vào nước ta”.

Do đó Nguyễn Trường Tộ đề nghị là Triều đình nên chủ động chuẩn bị các điều kiện để khi họ xin thì mở cửa đón họ vào, để mình làm chủ, họ làm khách, chứ nếu không họ sẽ lập mưu chiếm hết, rồi họ làm chủ, mình là đầy tớ. Hơn nữa, thuyền bè họ qua lại, mình thu được thuế cho ngân sách và loại trừ được giặc biển là tai nạn lớn của thuyền bè nước ta. Về khoản khai thác các tiềm năng của đất nước, chúng ta lại thiếu vốn, thiếu chuyên viên kỹ thuật. Ông nói: “Ngày nay cái mà ta thiếu nhất là tiền của. Vì không có tiền của cho nên trăm việc gì cũng không làm được. Hơn nữa đồ khí dụng của ta chưa đủ, tài trí chưa vươn tới, lại chưa có tiền của để mua máy móc kỹ thuật. Nay nếu đem một nửa số nhân tài cả nước và một nửa của cải ra thực hành thì cũng phải đợi vài chục năm sau mới có hiệu quả. Huống chi trước khi chưa được lợi, sợ có một biến cố gì khác xảy ra thì tài lực của ta có khi lại bị họ dùng. Vả chăng dân tình yêu ghét chưa giống nhau, ý kiến còn chưa thống nhất, thì vị tất đã hiểu rõ được ý nghĩa tạm thời tổn phí để được yên ổn mãi mãi”. Ông lại nói cho Triều đình thấy rằng: “Nếu để cho người nước ngoài vào đầu tư khai thác, thì không những Nhà nước được thu lợi, mà nhân dân có việc làm, lại được học tập, làm quen với khoa học kỹ thuật Tây phương; dân là dân của ta, đất là đất của ta, họ có đem đi đâu được mà ta sợ?”.

Cuối cùng, nếu Triều đình còn nghi ngại chưa quyết định ngay được thì ông đề nghị: “Xin gấp rút mời vài người Tây có thể tin cậy được hậu đãi họ, tức tốc cùng vài người của ta thông hiểu sự việc, trước hết dọc theo ven núi ven biển tìm kiếm, chỉ định rồi sau chọn lấy những mỏ tốt nhất mà dễ lấy, dành lại về sau để tự khai thác. Trừ những mỏ nào mà ta đã khai thác, còn những mỏ nào mới tìm được mà khó lấy thì ta giao cho họ lấy, ta hưởng nửa phần lợi”.

Sau chuyến công cán ở Pháp năm 1867-1868 cùng với Giám mục Gauthier, Nguyễn Trường Tộ càng thấy rõ là có thể bắt tay ngay vào việc khai thác mỏ và thiết lập các nhà máy dệt vải, nấu đường, dập đinh và sản xuất các hàng tiêu dùng. Trong văn bản đề ngày 5-3-1868 (Di thảo số 29), viết sau khi đi Pháp về, Nguyễn Trường Tộ nhắc lại ba phương thức mà ông đã đề nghị (Di thảo số 8, số 25 và 26) là: Cho các công ty nước ngoài tự khai thác rồi ta thu lợi một phần; ta với họ liên doanh; ta tự làm lấy. Rồi ông đề nghị là, nếu Triều đình còn chưa muốn cho các công ty nước ngoài đầu tư, ta tự làm lấy. Ông nói: “Một mặt dần dần phân biệt đất mỏ. Một mặt có người đi Tây chọn mua một ít khí cụ, như những đồ đào mỏ, đúc sắt, luyện kim, dệt vải, nấu đường, đúc súng lớn, súng nhỏ, dập đinh, đúc hỏa mai theo lối Tây… và các đồ dùng thường ngày dễ làm và có thể dùng làm mẫu (...) đem về để dùng ngay vào việc khai thác nguồn lợi. Một mặt, nên đi thuê thợ để tìm công dụng lớn. Ba mặt ấy, hiện nay, đáng lẽ phải khởi hành ngay trong một lúc. Nếu không làm, thì một ngày lại một ngày, một năm lại một năm, người ta tiến mà mình lùi, quyết không thể đứng yên được”.

Thế nhưng Triều đình Huế hầu như không làm gì cả, ngoài việc mua được hai chiếc thuyền máy cũ kỹ chỉ dùng tạm được mấy năm. Trong một bài viết, hai tháng trước khi lìa trần (Di thảo số 52), Nguyễn Trường Tộ đã phải than phiền rằng: “Bài Tế cấp luận của tôi nếu đem ra thực hành, trăm năm cũng chưa hết. Thế mà bảy tám năm nay chưa thấy thực hành tý nào, chả lẽ đợi tới trăm năm sau mới thực hành được sao?”.


2. VỀ NÔNG NGHIỆP

Nông nghiệp, đối với một nước lúc bấy giờ 99% dân chúng sống bằng nghề nông, là một vấn đề quan trọng. Chính Nguyễn Trường Tộ cũng nhìn nhận rằng: “Nông nghiệp là gốc, ăn mặc và hàng trăm nhu cầu khác cho đời sống đều nhờ vào nông nghiệp” (Di thảo số 27).

Cuối bài Về nông chính (Di thảo số 53), Nguyễn Trường Tộ nói: “Những trang này là một điều trong bài Tế cấp luận”. Chúng ta không biết là Tế cấp luận còn nói gì thêm về nông nghiệp nữa chứ trong ba văn bản mà chúng ta hiện có nói về nông nghiệp (Di thảo số 18, 27 và 53), thì chủ yếu chỉ nói về cải tiến kỹ thuật mà thôi.

Trong văn bản viết ngày 1-9-1866 (Di thảo số 18 ), như đề xuất việc thu thập kinh nghiệm và phát huy sáng kiến về mọi mặt thuộc đời sống của nhân dân, Nguyễn Trường Tộ có xin:

1. Đặt ra khoa hải lợi, để xét và khen thưởng cho những ai có sáng kiến mới trong nghề làm muối, đánh cá, ướp cá, nuôi cá...

2. Đặt ra khoa sơn lợi, để xét khen thưởng cho những ai tìm ra cách phát hiện và khai thác mỏ, tìm ra phương pháp luyện kim, săn bắt thú quý, lấy được gỗ quý...

3. Đặt ra khoa địa lợi, để khen thưởng cho ai khai khẩn được đất hoang hóa, đầm lầy hoặc biết trồng trọt có năng suất cao...

4. Đặt ra khoa thủy lợi, để khen thưởng những ai biết đào kênh, đắp đập, tưới tiêu chống hạn, chống úng...

Trong Tế cấp bát điều, viết ngày 15-11-1867 (Di thảo số 27), khi nói về cải cách học thuật, môn học đầu tiên được đưa vào chương trình là khoa nông chính. Khoa nông chính này cũng chỉ là thu thập kinh nghiệm của nông dân khắp nơi để soạn ra sách “nông chính toàn thư” cho nhân dân học tập. Trong đoạn văn ngắn ngủi về nông nghiệp của Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị lập Bộ canh nông như ở các nước Tây phương. Bởi vì, ông nói: “Ngành trồng trọt chăn nuôi của nước ta đều phó mặc tự nhiên, không có quan viên bày vẽ, giáo dục, đốc suất...”. Nhất là trong nhân dân có nhiều tập tục mê tín dị đoan cản trở việc khai hoang phục hóa, tưới tiêu mà không có ai dám chủ xướng cải cách.

Trong văn bản “Về nông chính” (Di thảo số 53, viết ngày 4-10-1871) Nguyễn Trường Tộ đề nghị đặt nông quan để phụ trách vấn đề nông nghiệp ở mỗi huyện. Ở các nước Tây phương thì các nông quan đều xuất thân từ các trường lớp và qua sát hạch về các kiến thức cần thiết cho nghề nông. Còn ở nước ta, để bắt đầu, Nguyễn Trường Tộ xin chọn trong số các cử nhân, tú tài mỗi huyện một người, cho học “Nông chính toàn thư”, rồi vừa học vừa làm. “Tất cả mọi việc về nông chính là khai hoang, (nông quan) đều phải nắm chắc trong tay. Tất cả vườn ao, trang trại, núi đồi, gò nõng dần dần vẽ thành bản đồ. Dần dần từ bỏ các tệ đoan tồn tại trong dân từ trước, mỗi ngày đi tuần chỉ vẽ cho dân làm, y như mình là người chủ nông vậy. Nhưng chủ nông là người chỉ biết làm giàu cho gia đình mình, còn quan nông chính là người lo cho sự giàu có của toàn huyện”.

Quan nông chính không những phụ trách về nông nghiệp, mà còn phụ trách cả về thủy lâm. Trong Tế cấp bát điều (Di thảo số 27) và trong bài Về nông chính (Di thảo số 53) Nguyễn Trường Tộ có nhiều ý kiến về ích lợi của việc trồng cây gây rừng và việc bảo vệ muông thú...

Trong bài Về nông chính (4-10-1871) ông nói: “Đối với vườn tược trang trại, đất núi, đất rừng cũng vậy, phàm trồng cây gì dùng để lấy gỗ hay cây gì ăn được, đều nhất định phải theo phép quan mà làm. Quan nông chính sẽ thân hành cắm tiêu làm dấu phạm vi trồng, thích hợp trồng cây gì và chỉ vẽ các cách ươm trồng vun xới. Đến khi cây mọc tốt thì hằng năm vào mùa thu quan nông chính lại đi tuần xem chỉ vẽ cây nào nên cắt bỏ nhành nào, hướng nào. Khi cây đã đến kỳ dùng được hoặc cây nào bị trùng đục, cần phải chặt bỏ thì cho hạ xuống mà dùng rồi lại trồng một cây con bên cạnh. Nghiệp chủ tuyệt đối không dám cắt bỏ một nhánh con theo ý mình. Hãy xem phương Tây, ở đồng bằng mà người ta cũng đều trồng cây nơi bờ ruộng ngay hàng thẳng lối xanh mắt đẹp đẽ chứ không riêng gì ở núi rừng mà thôi. Làm như thế không phải chỉ đặc biệt để có của cải sử dụng mà còn quan hệ rất lớn (...) Hãy xem tỉnh Nghệ An về mùa hạ miền trên mưa nhiều, còn miền dưới núi thấp đồng trống, ví dụ như hai huyện Hưng Nguyên và Chân Lộc mưa rất ít. Nếu có mưa nhiều thì phần lớn đó là mưa từ miền trên di chuyển xuống, hoặc tự Hồng Lĩnh tản ra bốn phía. Đó là một chứng minh. Xem thế mới biết cái gì trời sinh ra là có lý rất nhiệm mầu. Không có đất đai nào không có cây cối đó là để tiếp hòa khí đất, thích hợp cho vật cho người, công dụng của nó rất lớn. Thế mà con người chẳng biết quí trọng, muốn chặt phá là chặt phá, bò dê ăn phá dẫm đạp. Thậm chí mùa khô, một đóm lửa cũng đủ cháy lan một dải núi lớn, tấc cỏ chẳng còn, nói gì đến cây cối nữa...

Cũng trong bài Về nông chính, Nguyễn Trường Tộ nói: “Trước thì phải tuân theo thời tiết, sau thì khuyến khích sức dân, sau nữa thì khai thác hết nguồn lợi đất đai. Như thế để dạy dỗ dân tất cả phải hết sức mình cho sinh kế. Những nơi đồi núi cheo leo, không trồng được lúa đậu, thì trồng cây, trồng tre (...) Theo phép ấy thì săn thú không săn thú bầy; không bắt thú con; bắt cá không tát cạn ao đầm; không đốt rừng để săn thú; sói chưa tế thú không được săn, rái chưa tế cá không được thả lưới; chim cắt chưa báo tin thì bẫy lưới không được chăng gài nơi khe suối, cây cỏ chưa rụng lá thợ rừng không được vào núi rừng chặt hái, côn trùng chưa đến kỳ sinh nở, không được đốt ruộng nương; không giết vật có thai, không phá tổ hốt trứng, không bắt cá chưa đủ thước tấc, không giết heo chưa đúng kỳ...

Vấn đề chủ yếu trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là phải phổ biến rộng rãi các kiến thức trong nhân dân. Thời Nguyễn Trường Tộ “nước ta đối với vấn đề nông nghiệp từ lâu đã phế bỏ không giảng dạy. Nay bỗng nhiên muốn thi hành, thì trên quan chẳng biết dạy cái gì, còn dưới dân thì nghĩ rằng cứ mặt trời mọc thì đi làm, mưa xuống thì vác cày ra cày, đợi gì phải dạy!”. (Di thảo số 53).

3. VỀ THƯƠNG NGHIỆP

Đối với thương nghiệp, Nguyễn Trường Tộ chỉ chủ trương giao lưu hàng hóa bằng ngoại thương cũng như nội thương.

Về ngoại thương, thì Hòa ước ngày 5-6-1862 ký kết giữa Triều đình vua Tự Đức với Pháp và Tây Ban Nha thì thương lái và thương thuyền của công dân hai nước này được tự do ra vào buôn bán ở cửa Hàn, cửa Ba Lạt và cửa Quảng Yên. Tuy nhiên có thể do nhà nước Việt Nam chưa muốn mở cửa cho người nước ngoài ra vào dòm ngó, nên đã không tổ chức ngoại thương, vì thế các hãng buôn của Pháp và Tây Ban Nha không thấy có gì để mua và không biết đem gì đến bán. Nguyễn Trường Tộ, trong nhiều văn bản gởi lên Triều đình Huế, luôn luôn nhấn mạnh đến nhu cầu mở rộng cửa biển cho tàu bè các nước vào buôn bán. Đó là một xu thế chung, một mình Việt Nam không thể cưỡng lại được.

Trong bài Dụ tài tế cấp bẩm từ (Di thảo số 5), ông nói: “Bọn hủ nho sao không biết thời thế biến chuyển; cứ câu nệ vào nghĩa lý sách vở, nói bừa bãi rằng: Triều đình mở cửa đón kẻ cướp vào? Sao không biết rằng lúc thời thế đã đến, thì không thể ngăn được, lúc thời thế đã lui thì không thể chặn được? (...) Cửa bể khắp các nước phương Đông… đã khai thông cả, thì tại sao một mình nước ta lại có thể đóng kín được?

Trong bài Khai hoang từ (Di thảo số 8 ), ông nói: “Ngày nay, nếu ta nhân có họ xin mà mở các cảng khẩu để thuyền bè các nước ra vào, ta ngồi mà thu thuế để tăng quốc dụng, như ở Trung Quốc. Có thuyền máy qua lại trên mặt biển thì bọn cướp biển dần dần sẽ tiêu”.

Trong một bản văn, có thể là bản văn cuối cùng trước khi từ trần, Nguyễn Trường Tộ sau khi điểm qua kinh nghiệm của Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan... đã phải chua chát nhìn nhận rằng: “Chỉ riêng một mình nước ta thi hành đường lối khác, cho nên thiên hạ cho ta là một nước kỳ dị đệ nhất. Triều đình ta trong khoảng từ Gia Long, đến thời Minh Mạng hợp tác với người phương Tây, thường phái thuyền du hành các nước trở về dần dần được hưng thịnh. Nếu không có lệnh đóng cửa đuổi khách bạn ra, mà theo đường lối ấy cho tới ngày nay thì ta cũng có thể sánh vai dong duỗi cùng thiên hạ và người Pháp cũng không thể tác oai tác quái với chúng ta được”. (Di thảo số 55).

Về nội thương thì mối băn khoăn lớn của Nguyễn Trường Tộ là đường giao thông, vận chuyển hàng hóa. Bởi vì nước ta là một nước có chiều dài và lúc bấy giờ vận chuyển từ Bắc - Trung - Nam chủ yếu bằng đường biển. Mà vận chuyển bằng đường biển thì có hai đe dọa lớn là gió bão và cướp biển. Đó là chưa nói đến, khi xảy ra biến cố, thì tàu địch có thể phong tỏa như Pháp đã làm năm 1862. Việc giao lưu hàng hóa từ Bắc vào Nam bị tắc nghẽn. Nguyễn Trường Tộ đã thấy rất rõ điều đó.

Trong cuốn Tế cấp bát điều (Di thảo số 27, 15-11-1867) ông đã nói rằng: “Như về việc vận chuyển lương thực, Triều đình đã hết sức lo liệu mà vẫn chưa ổn. Phần nhiều một thạch lương thực đến được kinh đô đã phải hao hụt dọc đường mất năm sáu đấu. Đó là chưa nói đến nhiều vụ chìm ghe, bị đánh cướp. Các sản vật khác cũng vậy. Còn ghe thuyền của dân chìm mỗi năm không biết bao nhiêu mà kể. Dân nghèo thì nước cũng nghèo. Cái hại lớn đó đều do đường biển gây ra”.

Cũng trong cuốn Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ đề nghị đào một con kênh từ Hải Dương đến Huế để tránh tai nạn của đường biển. Ông hứa là sẽ đảm nhận những chỗ khó đào. Ông nói: “Còn những chỗ trở ngại và cát đá khó đào xin cứ giao cho tôi. Tận dụng đủ cách thì núi cũng xuyên qua được, huống gì những nơi ứ tắc. Lúc trước tôi đã xem qua chỗ Nhà Hồ ở Quảng Trị thấy cũng có thể xuyên qua được. Chỉ có Hoành Sơn là tôi chưa xem kỹ. Nếu quan sát nghiên cứu kỹ hai nơi này mà thấy có thể đào được thì đào liền”.

Khoảng tháng 10 năm 1868, sau khi thấy triều đình không xét gì tới kế hoạch đào kênh của mình, Nguyễn Trường Tộ lại gởi lên Triều đình một văn bản nữa về việc “Tiễu trừ giặc biển” (Di thảo số 38 ). Ông lại nhận định rằng: “Sự tổn thất của công và của tư, kể có số vạn rồi, đường thương mại không thông, hóa vật ủng trệ, thật là một cái hại lớn cho sinh dân, năm này qua năm khác lại chẳng đã thiệt hại hàng ức triệu đó sao? Dân ven biển, những nhà buôn bán giàu sang là cửa bọng của cư dân thượng bạn hạ bạn thế mà mấy năm nay bị chúng cướp phá giết chóc không biết bao nhiêu nay đã trở thành nghèo túng...

Trong văn bản này, Nguyễn Trường Tộ vẫn cho rằng kế đào kênh là “Kế hay nhất”. Tuy nhiên để tiễu trừ giặc biển, ông đề nghị bốn biện pháp:

1. Thương lượng với người Pháp ở Sài Gòn để họ cho tàu tuần tiễu giúp dẹp dọn bọn cướp biển.

2. Đóng tiền cho hội bảo hiểm ở Sài Gòn để họ tiễu trừ giặc biển.

3. Mỗi tỉnh mua một hai thuyền máy để tự mình tiễu trừ giặc biển.

4. Bắt buộc các thuyền buôn của người Trung Quốc phải có giấy thông hành, để tránh nạn thuyền buôn thuyền giặc lẫn lộn.


4. VỀ TÀI CHÁNH

Tài chánh của Nhà nước phong kiến, thời Nguyễn Trường Tộ, chủ yếu nhờ vào thuế (thuế đinh và thuế điền).

Đối với Nguyễn Trường Tộ, thuế là nghĩa vụ của nhân dân đối với công việc chung của đất nước. Nhưng thuế phải công bằng và hợp lý.

Trong Tế cấp bát điều (Di thảo số 27, ngày 15-11-1867), ông nói: “Nước sở dĩ đứng vững được là nhờ binh lương. Binh để giữ nước, lương để nuôi binh. Thế mà trong dân gian còn nhiều người chưa hiểu lý lẽ ấy. Nếu có của cải mà không có quan binh bảo vệ thì quân giặc, kẻ trộm hoành hành, thân còn không giữ được, giữ sao được của cải. Dân đã không thể một mình bảo vệ được thân mạng, nhà cửa, của cải, thì bỏ ra một ít lương thuế nhờ lực lượng quốc gia bảo vệ sự nghiệp to lớn lâu dài của mình cho”.

Vì thế mà Nguyễn Trường Tộ, đề nghị đo đạc ruộng đất, kê khai dân số hàng năm để tránh thất thu và gian lận. Thất thu và gian lận đây không phải là do dân chúng mà chính là do lý hào.

Giải thích lý do tại sao phải đo đạc lại điền thổ, Nguyễn Trường Tộ nói: “Có nhiều nơi ruộng cao có thuế lại mất mùa không thu được gì cả, còn ruộng thấp không có thuế thì lại được mùa, thế mà chẳng bù sớt cho nhau tý nào (...) Lại có những bọn lý dịch lấy ruộng của dân tráo chỗ nọ đổi chỗ kia, để thu thuế của dân thì nhiều mà nộp lên quan thì ít (...) Như cậy là quá nửa số thuế lọt vào túi bọn lý dịch chẳng khác nào chúng có đất phong hầu để ăn lộc vậy. Lại có làng ở ven sông đất bị sông xói lở không cày cấy được, hoặc có nơi vốn đất bỏ hoang không khai khẩn được, thế mà vẫn bị bọn lý dịch chiếu lệ tăng thuế. Lại có nhiều ruộng lậu thuế không khám phá ra được bởi tài đắp vá quỷ quyệt của bọn lý dịch. Như vậy trong dân gian, kẻ giàu thì giàu thêm, người nghèo càng nghèo mạt...”.

Sở dĩ Nguyễn Trường Tộ đề nghị phải kê khai nhân khẩu hằng năm, một phần, là để tránh sự gian lận của bọn lý dịch kê khai thấp số dân trong xã để nộp lên cho Nhà nước ít, nhưng vẫn thu đủ của dân. Ông nói: “Bọn hương hào lý dịch ác ôn nhờ đó mà ăn cho no béo nên chúng mới gian dối đủ cách, chịu đánh đòn để mưu lợi riêng tư. Đến khi có người bất bình phát đơn kiện, bấy giờ quan mới trừng trị”.

Mỗi lần nêu chủ trương sửa sang lại biên cương, nắm rõ dân số, Nguyễn Trường Tộ đều nói rằng: “mục đích không phải để tăng thuế”.

Trong Tế cấp bát điều, điều thứ ba, Nguyễn Trường Tộ có đề nghị tăng thuế và đánh thuế thật nặng trên các sòng bạc, trên rượu, thuốc lá, các cuộc du ký vô bổ mang tính chất mê tín dị đoan, mục đích là để bài trừ các tệ nạn xã hội.

Ông cũng đề nghị đánh thuế nặng trên các hàng xa xỉ ngoại nhập, như trà tàu, tơ lụa nhập để bảo vệ hàng nội địa. Ông nói: “Nếu có thuyền Trung Quốc vào cảng thì phải đánh thuế trà riêng, còn các thứ tạp hóa khác đều theo thể lệ cũ, tuy vậy cũng phải tăng lên. Đối với các nước phương Tây, phàm hàng hóa nước ngoài, bất luận thứ hàng hóa gì đều phải phân biệt loại hàng qúy và hàng thường để thu thuế và phải thu cao hơn hàng trong nước. Còn những thứ không cần thiết cho đời sống, như đồ trang sức, xa xỉ thì phải đánh thuế gấp bội hơn nữa. Vậy xin ở các chợ tiệm nào có biển quan cho phép mới được bán trà. Như giá trà một quan phải nộp thuế một quan. Đã lấy thuế khi thuyền Trung Quốc vào cảng, lại còn lấy thuế khi bày bán ở chợ. Như thế cũng không quá đáng. Bởi vì uống trà tàu chỉ có hạng giàu có phong lưu mà thôi. Nước ta cũng có trà, uống cũng giải khát thanh tỳ được. Thế mà họ còn thừa tiền hoang phí thói phong lưu (…) Nước ta vốn có nhiều tơ lụa, thế mà nhiều người cho là không đẹp cứ tìm kiếm hàng Tàu, khiến dân ta không ra sức trồng dâu nuôi tằm, làm cho hàng tơ ngày một đắt giá (...) Tại sao hàng ta dù có tốt cũng xem thường, còn hàng Tàu dù có xấu cũng đua nhau khen đẹp? Tại sao lại khinh mình mà trọng người đến thế? (...) Nay xin cho các thứ vải vóc hàng may mặc trong nước đều xử lý theo lệ cũ. Còn tất cả các loại hàng Tàu hễ giá 10 quan thì đánh thuế 5 quan. Họ đã có tiền mua hàng đẹp thì cũng có tiền nạp 5 quan để dùng vào việc lợi ích quốc gia. Điều đó cũng không phải quá đáng”.

Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị là phải đánh thuế trên nhà giàu. Bởi vì nhà giàu chịu ơn Nhà nước hơn người nghèo, bởi vì “cướp cũng muốn cướp của nhà giàu, trộm cũng muốn trộm của nhà giàu”. Thế mà “trong sổ bộ trên quan một cùng đinh phải đóng thuế bao nhiêu, thì trong làng một tay đại phú cũng đóng từng đó thuế”. Về biện pháp, thì Nguyễn Trường Tộ “xin chia những người giàu làm ba hạng, nhà hạng nhất đóng thuế mỗi năm 100 quan, hạng nhì 50 quan, hạng ba 20 quan”.

Như thế đối với Nguyễn Trường Tộ, thuế cần được chấn chỉnh, nhưng đó chỉ là một nguồn thu có giới hạn nhất định mà thôi. Điều cần nhất là phải làm cho của cải thêm nhiều. Ông nói: “Có nhiều lối làm giàu, nếu đem ra thực hành trăm năm cũng chưa hết. Nhưng tôi chỉ đưa ra bốn cách cấp thiết trước tiên để cấp cứu trong nhất thời. Tạo vật để cho nước ta một địa lợi tốt để mà làm, thì Triều đình phải có người đứng ra xướng xuất cho dân theo”. Bốn cách làm giàu nói đây chính là cách khai thác bốn nguồn lợi nói trong Dụ tài tế cấp bẩm từ: Nguồn lợi về biển, nguồn lợi về rừng, nguồn lợi về đất đai, nguồn lợi về mỏ quặng.

Nhưng Triều đình đã không làm gì cả cho có của cải để chi dùng vào các chương trình phát triển đất nước. Có lúc Nguyễn Trường Tộ đề nghị là Triều đình vay tiền của nhân dân (như hình thức công trái của chúng ta ngày nay).

Để có tiền đào các con kênh cho thuyền bè qua lại, khỏi đi lòng vòng tốn kém, ông đề nghị: “Truyền rao cho các nhà giàu xuất tiền cho Nhà nước vay. Trước tiên tùy số tiền cho vay nhiều ít sẽ được ban khen. Sau đó tiền lời sẽ được trả khi kênh đào xong và lập trạm thuế. Mỗi năm, quan sở tại trả tiền lời cứ một vạn là một trăm quan. Khi nào số tiền lời được gấp đôi số tiền đã vay thì chấm dứt và không hoàn vốn lại” (Di thảo số 27).

Ông cũng đề nghị Triều đình vay tiền của các công ty nước ngoài để mua sắm khí giới, lập các nhà máy chế tạo súng đạn và hàng tiêu dùng. Ông nói: “Nước ta thời gian gần đây phải đánh Nam dẹp Bắc, của cải tích lũy đã cạn. Dân gian bị lụt lội, hạn hán, sâu rầy, làng xóm hư hao. Bên ngoài cướp biển hoành hành, đường buôn bán không thông. Bên trong sự cung đốn cho Nhà nước ngày một gia tăng, lòng dân rời rạc. Tất cả đều do nghèo thiếu của cải gây nên. Tôi thấy các nước phương Tây, nhiều nước vay tiền của các nhà buôn lớn để giải quyết các vấn đề cần gấp, sau đó sẽ từ từ hoàn lại. Nước càng lớn, nợ càng nhiều. Thế nhưng chưa ai bảo như vậy là yếu hèn hay sai lầm kế sách. Tôi xin có ý kiến là hãy sai người đến các đại thương gia ở Hương Cảng vay độ 8, 9 triệu quan (Tôi bảo đảm chắc chắn có thể vay được), mỗi năm ta sẽ trả tiền lời cho họ, hoặc giao ước ta sẽ trả hàng hóa cho họ rồi tính giá khấu trừ, hoặc cho họ lấy gỗ ở một hai khu rừng (Về lợi ích lâu dài của việc này, trước đây tôi đã bẩm ở trong bài “Khai hoang từ”), rồi hạn định mỗi năm trừ vào số tiền vốn là bao nhiêu. Khế ước sẽ được lập theo luật phương Tây, sau đó xin qua Anh ký chứng để bảo đảm vĩnh viễn khỏi lo ngại. Khi ta đã được một món tiền lớn đem về sẽ nhất tề bắt tay làm việc. Có vốn lớn chắc chắn sẽ có lợi lớn” (Di thảo số 44, ngày 10-4-1871).

5. VỀ CHÍNH TRỊ

Nguyễn Trường Tộ không phải là một nhà chính trị, hiểu theo nghĩa là người có một dự án chính trị cần được thực hiện bằng con đường chính quyền. Đọc các di thảo của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta thấy là ông chủ trương không nhận bất cứ một chức vụ nào trong chính quyền. Nguyễn Trường Tộ chỉ là một nhà cải cách, nói đúng hơn là một người có những tư tường cải cách và muốn thực hiện những cải cách đó thông qua những người có chức có quyền. Chính vì thế mà ông đã gởi những đề nghị cải cách của ông lên Triều đình Huế và chỉ gởi cho những người có chức có quyền trong Triều đình Huế.

Với một hướng đi như thế, Nguyễn Trường Tộ chủ trương tôn trọng chế độ vua quan hiện hữu. Đối với các cuộc nổi dậy chống chế độ như vụ Lê Văn Phụng là một người công giáo, được các thừa sai Pháp và Tây Ban Nha ủng hộ. Nguyễn Trường Tộ không những không theo, mà còn chống đối, coi đó là phản nghịch, là Thắng Quảng (Xem di thảo số 3 ).

Nguyễn Trường Tộ đã nói rõ hơn lập trường của mình trong bài “Vua là quý, quan là trọng” (Di thảo số 13, tháng 5-1866). Ông đã viện dẫn tất cả lý lẽ của Đông, Tây để cổ vũ cho việc duy trì và củng cố trật tự xã hội hiện hữu.

Có lúc ông có vẻ hơi cường điệu khi nói rằng: “Người xưa có nói dân là gốc của nước. Nói như vậy cũng chưa đúng. Tôi cho rằng vua quan là gốc của nước. Vì không có vua quan thì chẳng bao lâu dân sẽ loạn, tranh nhau làm trưởng, giành giật lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau, oán thù lẫn nhau. Cho nên nước dù có vua bạo ngược còn hơn không vua”.

Tuy nhiên cần đặt văn bản này trong bối cảnh lịch sử của nó. Nguyễn Trường Tộ là người biết tương đối rõ tình hình bất ổn của Triều đình. Trong bài Thiên hạ đại thế luận (Di thảo số 1, tháng 4-1863), ông đã nói: “Hiện nay tình hình trong nước rối loạn, Trời thì sanh tai biến để cảnh cáo, đất thì hạn hán tai ương, tiền của sức lực của dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi, trong Triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chận những bậc hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều; ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá, tác phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước, việc đó đã xảy ra từ lâu rồi. Những kẻ hận đời ghét kẻ gian tà, những kẻ thất chí vong mạng, phần nhiều ẩn núp nơi thảo dã, chính là lúc Thắng Quảng thừa cơ nổi dậy”. Vua Tự Đức lại là thứ lập, nên sau những âm mưu lật đổ của Hồng Bảo (1854) và Hồng Tập (1864), luôn luôn sống trong một tâm trạng sợ sệt; trong đêm 16 rạng 17 tháng 9-1866, quân nổi dậy của Đoàn Trưng và Đoàn Trực đã vào tới tận cửa Hoàng gia... Nguyễn Trường Tộ thấy rõ ràng chính tình trạng rối ren lo sợ đó đã làm tê liệt mọi sáng kiến của Triều đình. Theo ông thì: “Bậc làm vua biết rõ cái thế trường cửu đã có, không có bụng nghi ngờ bề tôi ở dưới: kẻ làm dân biết cái lợi hại của việc trị việc loạn nên không có cái chí phạm thượng. Trên dưới tự mình không nghi cũng không ngờ lẫn nhau. Mọi việc gì đều có phó thác rõ ràng, người nhận lãnh vui lòng, không có điều gì tối tăm, lo lắng, cho nên dễ đi đến chỗ đúng đắn, dễ bày tỏ, dễ cởi mở, dễ phân giải, tất cả đều do thật lòng tin tưởng nhau, cho nên dù có sự bất bình cũng tin nhau, không nỡ trách cứ hà khắc. Được như vậy là đều do không nghi kỵ gì nhau mà ra. Nếu đã nghi thì hại đến lòng tin. Không tin tưởng thì đa kỵ, đa kỵ thì lụy hại đến trí khôn; trí bị tổn hại thì dễ bị hỏng việc; việc hỏng thì sinh hại, hại sinh thì có lắm chuyện lo buồn; lo buồn nhiều thì tâm loạn rồi sinh ra lắm sự sợ hãi; sợ hãi nhiều thì khí chất kém đi mà sinh ra nhu nhược; nhu nhược thì mọi việc chần chừ do dự không dám quyết đoán...” (Di thảo số 13).

Do đó mà Nguyễn Trường Tộ mong có một sự ổn định về chính trị. Có lẽ Nguyễn Trường Tộ không đặt vấn đề lựa chọn chế độ chính trị, quân chủ hay dân chủ, dân chủ tư sản hay dân chủ nhân dân, như chúng ta quen nói ngày nay. Ông chỉ thấy là cần có một người nắm giềng mối quốc gia. Và người đứng đầu quốc gia đó phải phục vụ lợi ích của toàn dân: “Vua có bổn phận của vua, quan có bổn phận của quan, dân có bổn phận của dân. Người quý kẻ tiện không cướp đoạt của nhau (...) Nếu biết dựa vào nhau và nhờ vào thế của nhiều người, sao cho mọi người đều coi trọng việc công và lòng người đều tôn kính bề trên, như Giả Nghị nói: Gieo vào lòng người sự tôn kính, thì thiên hạ không có loạn. Vì rằng danh đã định, vị đã lập, lý đã chính, thế đã đồng, các nước đều như vậy cả, lẽ nào một nước ta lại có thể trái với các nước, đứng riêng một mình được sao?

Nói tóm lại là, về chính trị, Nguyễn Trường Tộ không đề nghị thay đổi gì cả. Ông chỉ muốn củng cố trật tự xã hội hiện hữu. Trong Tế cấp bát điều (Di thảo số 27, 15-11-1867), ông có đề nghị sát nhập một số tỉnh huyện để tinh giản biên chế và tăng lương cho các viên chức, như chúng ta nói ngày nay. Ông nói: “Hãy xem tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có thể lớn bằng một lần rưỡi nước ta. Hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây hợp lại có thể gấp đôi nước ta. Một huyện của Trung Quốc có thể tương đương một tỉnh nước ta. Trên thế giới có nhiều nước phân chia tỉnh huyện còn lớn hơn của Trung Quốc nữa (...) vậy xin gấp rút xét xem địa thế, hợp hai ba tỉnh làm một tỉnh, hoặc ba bốn huyện làm một huyện, lấy số lương dư ra cấp thêm cho các quan hiện chức. Họ đã được cấp lương tiền đầy đủ để giúp họ giữ được thanh liêm, bấy giờ nếu họ không thanh liêm mới có thể trách. Tôi tính lương tri huyện mỗi ngày không quá ba, bốn thạch (mỗi thạch khoảng 60 - 70 đồng tiền), như vậy nuôi một người còn không đủ huống chi nuôi một gia đình nhà quan. Đã biết rõ thiếu hụt mà cứ đem lời suông khuyên người ta thanh liêm, như thế là ngầm để cho người ta tham nhũng (...) Tôi thấy lương bổng một năm, tính hết tất cả các khoản của một Lục bộ đại thần nước ta không bằng hai ngày rưỡi lương của một nguyên soái nước Pháp. Một ngày lương của một Tổng đốc nước Anh tương đương một năm lương của một quan đại thần nước ta. Vì vậy người phương Tây có nói: “Các quan lại nước Nam, trừ những người quá tham ô không nói, còn bao nhiêu những người khác thường thường sau khi xong công việc họ nhận lãnh của biếu xén, tạ ơn, điều đó cũng không đáng trách” (...) Các nước ngoài nghe quan lại nước ta lương bổng ít ỏi như vậy họ rất chê cười và tựa hồ họ không thể hiểu nổi tại sao lại có thể như thế được. Vì vậy tôi xin đề nghị lấy những của cải phù phiếm xa hoa trong dân gian để thêm lương cho các quan binh. Đó là lý do hết sức chính đáng (các nước phương Tây cũng tăng thu bằng cách đó để cấp thêm cho quan binh). Nếu vậy mà họ còn tham ô, mới có thể trách được”.

Để quản lý quốc gia, Nguyễn Trường Tộ, trong Tế cấp bát điều, điều thứ 5 và 7, đề nghị vẽ bản đồ cương giới cũng như điều tra dân số và làm thống kê về tất cả mọi mặt sinh hoạt của đất nước. Ông nói: “Nay xin vẽ bản đồ tất cả các xứ trong nước. Về địa phận mỗi tỉnh, huyện, xã, thôn, phường, sách, động, trang phải đo đạc lại hết cho phù hợp bốn bên, xa gần, rộng hẹp, đồng thời mô tả tình thế mặt đất, như tôi đã nói ở trên, rồi ghi chú rõ ràng vào bản đồ cả nước. Trong bản đồ phải có thuyết minh để thấy rõ các mối liên lạc. Vẽ bản đồ phải thực hiện nhiều loại, có loại vẽ phân tích ra từng phần, có loại vẽ tổng hợp chung tất cả các phần vào một (như lối vẽ của Tây phương), nhưng nói chung các bản đồ đều phải lấy độ số bằng dặm vuông để dễ suy đoán (khoản nay tôi có biết ít nhiều).

(…)

“Nay xin lập sổ bộ thống kê lại đầy đủ không luận trai gái, già trẻ. Việc này giao trách nhiệm cho tri huyện và tổng lý phải ghi rõ ràng trình lên. Như chính quán bao nhiêu, ngụ cư bao nhiêu, người học chữ bao nhiêu, làm thợ bao nhiêu, buôn bán bao nhiêu, bao nhiêu người không có nghề nhất định, bao nhiêu người mồ côi cha mẹ, góa vợ góa chồng, bao nhiêu người tàn tật, bao nhiêu quan, binh, chức, sắc bao nhiêu người làm thầy thuốc, thầy bói số. Mỗi năm đều ghi rõ ở dưới là còn tiếp tục hành nghề cũ hay đã đổi nghề thác. Cũng phải ghi rõ mỗi nhà sinh được bao nhiêu trai gái, chết vì lý do gì
”.

Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị lập thêm bộ Nông nghiệp, bộ Ngoại giao (trước chỉ có 6 bộ: Bộ Binh, Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Hình, Bộ Hộ). Ông cũng đề nghị là Tòa án phải được độc lập: Nhà vua chỉ có quyền ân xá, chứ không có quyền kết án.

6. CẢI CÁCH GIÁO DỤC

Ở ngay đầu bài “Học tập thực dụng trong nhân dân” (Di thảo số 18, 1-9-1866), Nguyễn Trường Tộ nói: “Học tập bồi dưỡng nhân tài tức là con đường đưa đến giàu mạnh”.

Nhưng về lối học cũ, lối học từ chương, ông đã thấy ngay hồi còn nhỏ, là vô bổ, nên ông cũng đã sớm đi tìm lối học thực dụng.

Tuy nhiên trong bản văn đầu tiên mà chúng ta hiện có về việc học tập (Di thảo số 18), Nguyễn Trường Tộ chỉ đề cao lối học thực dụng, lối học lấy thiên nhiên làm đối tượng, chứ không trực tiếp đả phá lối học cũ. Ông nói: “Học những gì thực tế thì sẽ có thực dụng, học những cái vụn vặt thì chỉ được cái vụn vặt, trồng đậu, được đậu, đó là lẽ tự nhiên”.

Do đó trong bản văn này, ông đề nghị chủ yếu là phát động học tập kinh nghiệm phát huy sáng kiến trong nhân dân. Còn đối với các trường lớp và khoa cử đang hiện hành, ông chỉ đề nghị đem thêm vào một số môn học thực dụng.

Trước hết ông nói: “Xin cho các trường Quốc học, tỉnh học, các trường tư và các bài thi Hương thi Hội đều chú trọng vào tình hình hiện tại, như luật lịch, binh quyền, các chính sự về công hình lại lễ, tất cả đều được nói thẳng, không giấu giếm, có cái gì tệ hại, có cái gì hay ho, các gì nên để lại, cài gì cần thay đi, những cái cần thiết trước mắt, những cái có thể phân tích tỉ mỉ, xác đáng, hợp thời, thì được coi là trúng cách, còn những chuyện cũ chỉ là thứ yếu”.

Sau đó, ông mới đề nghị đem các đề tài về hải lợi, sơn lợi, địa lợi, thủy lợi, cách thức sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm, dược phẩm, cách thức tổ chức xuất nhập khẩu, xây cất nhà ở, xây cất cơ sở xã hội, tổ chức học ngoại ngữ... để cho nhân dân đóng góp kinh nghiệm, sáng kiến... nhằm phổ biến rộng rãi trong nhân dân.

Trong Tế cấp bát điều, điều thứ tư, nói về sửa đổi học thuật, Nguyễn Trường Tộ phê phán lối học cũ một cách gay gắt và đề nghị đem vào chương trình học những khoa học hiện đại. Bởi vì học, theo ông, “là học những gì chưa biết để biết mà đem ra thực hành. Thực hành những gì? Thực hành ở đâu? Đó là thực hành những gì thực tế trước mắt và còn để lại lợi ích cho đời sau nữa”.

Nhìn vào sự học của ta lúc bấy giờ, ông nói: “Ngày nay chúng ta lúc nhỏ thì học văn, từ, thơ, phú; lớn lên ra làm thì lại luật, lịch, binh, hình. Lúc nhỏ học nào Sơn Đông, Sơn Tây mắt chưa từng thấy; lớn lên ra làm thì đến Nam kỳ, Bắc kỳ. Lúc nhỏ học nào thiên văn, địa lý, chính trị, phong tục tận bên Tàu (mà nay họ đã sửa đổi khác hết rồi) lớn lên ra làm thì lại dùng đến địa lý, thiên văn, chính trị, phong tục của nước Nam, hoàn toàn khác hẳn. Lúc nhỏ học những lễ nhạc, cách ăn uống, cư xử chiến đấu, doanh trại từ xa xưa của Tàu, lớn lên ra làm thì phải dùng đến lễ nhạc, cách chiến đấu, phép ăn ở theo quan dân nước ta ngày nay. Còn biết bao nhiêu những việc tương tự như thế, mòn bút khô môi cũng không kể xiết. Xưa nay các nước trên thế giới chưa từng có nước nào có nền học thuật như vậy. Quả thật lạ đời! Tuy Nhật Bản, Cao Ly cũng đọc sách Tàu nhưng chỉ để làm vui (phải đọc sách của họ mới biết sự thật. Nếu xem sách Nho thì bao giờ cũng thấy nói khắp thiên hạ đều học theo phép Nho của mình cả. Đó chỉ là nói để khoe tốt, không đủ tin), còn ra làm thì đều theo sách của nước họ, công việc của nước họ, chưa bao giờ thấy họ học và dùng những gì mà mắt không trông thấy, chân không đặt đến như lối học của nước ta”.

(…)

“Nước ta ngày nay bốn bề bị ép, người ngoài sắp chiếm làm hang ổ, đó là cái mà chúng ta phải hiến dâng trí khôn, sức khỏe ra chống giữ để bảo vệ nước nhà. Nước ta có những vị danh thần trong các triều vua trước còn để lại danh thơm tiếng tốt, cũng như các danh thần và các quan chức trong Triều đình hiện nay mà việc làm của họ có thể làm khuôn phép cho đời, tại sao không đem ra truyền tụng cho mọi người được hứng khởi... mà cứ ngày đêm luôn miệng kêu réo những người từ bên Tàu, chết đã mấy ngàn năm, như Tiêu Hà, Hàn Tín! Phải chăng chúng ta ngày nay còn mang ơn họ? Phải chăng người thời nay không bì kịp người thời xưa? Hay muốn kêu cho họ sống lại? Như vậy mà cứ học cho đến bạc tóc, thật là quái gở không thể nào hiểu nổi!


Ông đề nghị đem vào chương trình học và thi cử các môn nông nghiệp, thiên văn, địa lý, bách khoa, luật học. Trước hết phải sưu tầm trong các sách cũ những gì trong các cuốn đó còn thích hợp, đem đối chiếu với các sách phương Tây mà ông đã mua ở từ bên Pháp về, để soạn ra những bộ sách cho học sinh dùng. Ông cũng đề nghị gởi học sinh sang các nước học ngoại ngữ, học các khoa học hiện đại (Xem di thảo số 7, số 45).

7. DÙNG QUỐC ÂM

Để cho nền giáo dục được phổ biến dễ dàng và rộng rãi trong nhân dân, Nguyễn Trường Tộ chủ trương phải có quốc âm, tức là chữ viết mà đọc lên ai cũng hiểu, dẫu không biết đọc cũng hiểu. Chứ chữ viết chính thức của nước ta lúc bấy giờ là chữ Nho, chữ Hán, mà “về phát âm đã không theo đúng giọng Trung Quốc, cũng không phải tiếng phổ thông của nước ta. Âm vận của chữ này chỉ có ai học mới biết, không học thì nghe cũng như vịt nghe sấm mà thôi”. Tuy nhiên để có chữ viết theo chữ quốc âm, ông đề nghị “cứ lấy chữ Hán chuyển đọc ra quốc âm, không cần học nghĩa... Thí dụ như chữ “thực phạn” thì đọc là “ăn cơm”...

Ông nói: “Nay lấy chữ Hán đọc ra quốc âm, thì khi đọc lên ai nghe cũng hiểu, có phải vừa dễ dàng vừa bớt được bao nhiêu phiền phức không? Tôi tính quốc âm ta ước chừng hơn một vạn tiếng, trong đó chỉ có lối ba ngàn tiếng không thể viết như chữ Hán. Trường hợp đó ta dùng những chữ Hán tương tự rồi thêm hiệp vần vào một bên mà thôi. Còn sáu, bảy ngàn tiếng đã viết được như chữ Hán thì cứ viết, chỉ đọc như quốc âm thôi. Đó gọi là “chữ Hán quốc âm” (…) Như vậy người học sau này chỉ học mặt chữ thôi, không phải tốn nhiều công phu học cái tiếng chẳng phải Hán, chẳng phải ta, có phải giải quyết được dễ dàng những việc khẩn cấp mà thu được lợi ích rất lớn không? Bởi vì sự học có công dụng lớn cho quốc dân. Khi sự học tập phải khó khăn rắc rối thì cả nước phải chịu sự khó khăn ấy đời nọ đến đời kia chứ đâu phải chuyện nhỏ”.

Ông cũng đề nghị là “gộp hết tiếng ta lại chia thành môn loại, làm tự điển, trước tiên ban hành trong các cơ quan chính quyền và trường học cho người học dễ dàng sử dụng. Khi nào chữ Hán đã được đọc thành âm tiếng ta rồi thì bất cứ ai biên chép việc công việc tư đều phải dùng thứ chữ đã ban hành, không được thay đổi. Còn các nhà văn, ai muốn dùng chữ Hán theo âm Nho tùy ý, nhưng trong công việc làm thì phải dùng thứ chữ Triều đình đã ban hành”.

Nguyễn Trường Tộ là người công giáo. Ông thừa biết rằng chữ quốc ngữ, theo mẫu tự La tinh, được sử dụng phổ biến trong giới công giáo từ thế kỷ 17-18, là một mẫu tự đơn giản và dễ học hơn “chữ Hán quốc âm” nhiều. Nhưng ông đã không đề nghị lấy chữ Quốc ngữ làm chữ viết cho cả nước. Có lẽ ông đã giải thích điều đó khi ông nói: “Chả lẽ nước ta không có ai giỏi có thể lập ra một thứ chữ viết tiếng ta hay sao? Vì ta dùng chữ Nho đã lâu nên không cần thay đổi tất cả, sợ làm cho người ta lạ tai lạ mắt”.

Nguyễn Trường Tộ cũng đã không nói gì đến chữ Nôm là một thứ Quốc âm được hình thành từ thời Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) thế kỷ thứ 8, và phát triển với Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu... Chữ Nôm cũng được sử dụng rộng rãi trong giới công giáo từ thế kỷ 17-18.... Chữ Nôm nói đúng ra cũng còn phức tạp. Bởi vì một chữ Nôm thường được cấu tạo bằng hai chữ Hán, một chữ lấy âm để chỉ cách đọc và một chữ lấy nghĩa. Thí dụ muốn đọc hay viết chữ Đá nghĩa là hòn đá phải biết chữ Đa (nghĩa là nhiều) và chữ Thạch (nghĩa là hòn đá). Chữ Nôm viết chữ Đá là hòn đá gồm hai phần: Một bên chữ Đa để chỉ cách phát âm, một bên chữ Thạch để nói nghĩa.

Trong việc sử dụng “chữ Hán quốc âm”, Nguyễn Trường Tộ đã tách biệt giữa âm và ngữ trong cách ghi nhận tiếng nói và Nguyễn Trường Tộ đã chọn cách ghi âm. Theo ông, hệ thống chữ viết không gì khác hơn là những ký hiệu ghi nhận âm thanh của tiếng nói, không cần mang dấu hiệu của ý nghĩa trong các ký hiệu đó. Ký hiệu chỉ cần giản dị và chỉ là phương tiện để ghi nhớ tiếng nói mà thôi.

Như chúng ta biết tiếng Trung Quốc cũng như tiếng ta trên cơ bản là tiếng đơn âm. Đơn âm đòi hỏi có dấu giọng. Trong khi tiếng Trung Quốc chỉ có 4 thanh: Bình, Thượng, Khứ, Nhập thì tiếng ta có lợi điểm đến 6 giọng: 0, \, /,.,?, ~, Nguyễn Trường Tộ đã biết lợi dụng thế mạnh đó của tiếng Việt để chủ trương dùng chữ viết theo lối ký âm mà không sợ trùng âm như trường hợp tiếng Trung Quốc. Chính vì thế mà Nguyễn Trường Tộ đã gọi là chữ Quốc âm. Chữ Quốc âm là thứ chữ ghi âm thanh tiếng nói của nước mình. Cũng do đủ âm mà chúng ta đã sử dụng được mẫu tự Latinh làm chữ quốc ngữ của nước ta, trong lúc Triều Tiên, Nhật Bản và Trung Quốc do thiếu âm mà qua nhiều thử nghiệm vẫn là ước mơ chưa thực hiện được.

8. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA

Nguyễn Trường Tộ đề nghị lập nhà in, xuất bản sách báo, để nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, nhưng đồng thời cũng phải kiểm soát, hạn chế, cấm đoán các loại sách nọc độc. Ông nói: “Xin đem các tập Ngự chế và các sách của Hàn Lâm, sách nào hợp với thời vụ ra ban hành. Còn kinh, sử, tử, truyện chỉ dùng để khảo nghiệm một vài việc mà thôi. Và cũng xin đặt lệ cho các hiệu sách trong nước, nếu muốn khắc bản in, phải theo qui định của Triều đình cho sách nào in trước, sách nào in sau. Ngoài ra cần ấn hành một tờ nhật báo đăng tải các chiếu, chỉ, sớ, dụ, những việc làm của những bậc có tiếng tăm, những công vụ quốc gia hiện thời, cho học sinh đọc để biết công việc trong nước. Đó cũng là một ích lợi lớn, (ích lợi ấy rộng rãi như mưa móc thấm nhuần, không thể chỉ ra từng cái được, làm sẽ thấy ngay).

“Còn như những tiểu thuyết, truyện hoang đường, bùa chú, sấm vĩ, những chuyện ngông láo không kiêng dè và những chuyện truyền miệng về đoán định cơ trời khí số, lưu truyền trong dân gian của Trạng Trình, Trạng Lượng, làm hư hỏng lòng người rất nhiều, gây dao động bất an trong dân chúng (tôi rất đau lòng nhức óc đụng chạm với người ta và phải vất vả với nhiều người về những chuyện này lắm). Những chuyện đó không được truyền thuật, đàm luận hoặc in ra xuất bản.

“Tôi thấy bên Trung Quốc có nhiều người thấy chuyện đó là bậy, bèn quyên tiền mua những sách ấy đốt đi. Ý nghĩ của họ tốt, nhưng việc làm của họ chỉ đáng một chén nước dập tắt sao nổi một xe củi, nào có bổ ích gì? Chỉ cấm ngặt họa may mới diệt được gốc mà khiến cho lòng người chú trọng vào cái học thiết thực cho những công việc hiện tại. Như thế mới có thể dần dần tiến tới chỗ tốt đẹp và ích lợi
” (Di thảo số 27).

Nguyễn Trường Tộ là một người có một óc quan sát rất sắc bén. Không có chuyện bất công, sai, trái, dầu nhỏ dầu lớn nào mà ông có thể bỏ qua. Có nhiều việc được coi như thông thường, đương nhiên nhưng ông đã vạch ra yêu cầu sửa đổi.

Như về “nhiêu sinh” là những người hễ đi học là được miễn thuế đinh, miễn xâu, miễn lính. Ông nói: “Chính tôi trông thấy có nhiều người khuyên nhau rằng: Hãy ráng học chữ nghĩa, dù không đỗ đạt làm quan cũng được miễn lính tráng, miễn xâu thuế, thong thả suốt đời như đàn bà (…). Theo thống kê tỉnh Nghệ An, số khóa sinh đến vài ba nghìn người mà số nhiêu sinh trong dân chúng còn gấp bội hơn nữa. Trong số đó những người sau này ra làm việc nước nhiều lắm vài ba trăm người là cùng, còn lại là khóa sinh, nhiêu sinh cho đến già. Một tỉnh mà đã có lắm người nhàn như thế, hợp cả nước con số sẽ đến một tỉnh nhỏ”. (Di thảo số 27).

Trong văn bản Về cải cách phong tục (Di thảo số 47, ngày 29- 4-1871) Nguyễn Trường Tộ đã lưu ý Triều đình về những việc rất nhỏ nhưng là những việc quan trọng đối với một dân tộc muốn có nếp sống văn hóa mới: Như vệ sinh chung quanh nhà quan cũng như nhà dân ở nơi đô thị, vệ sinh dọc đường sá, không đổ rác, không phóng uế bừa bãi. Ông cũng chống lại luật lệ không cho dân đi xe, đi giày.

9. CÔNG TÁC XÃ HỘI

Dưới triều phong kiến nhà Nguyễn, việc chăm lo cho những người bất hạnh trong xã hội, như nuôi trẻ mồ côi, giúp đỡ người tàn tật già yếu neo đơn, nghèo đói, nếu có cũng không có hiệu quả và không thành hệ thống. Nguyễn Trường Tộ nhận xét: “Tôi thấy hiện nay Triều đình có xuất công quỹ lập viện tế bần để nuôi người nghèo khổ. Nhưng vì người thừa hành không làm hết nhiệm vụ, nên chỉ có danh nghĩa mà thực tế những người nghèo khổ được hưởng sự cứu giúp chẳng bao nhiêu”. (Di thảo số 27).

Ở các nước phương Tây, cho tới cuối thế kỷ 19, các công tác xã hội thường do các giáo hội đảm trách. Người Pháp, ngay sau khi vừa mới thiết lập cơ sở ở Sài Gòn, đã xin mời các nữ tu dòng Thánh Phaolô tới lo lập viện mồ côi. Chính Nguyễn Trường Tộ đã góp phần xây dựng cơ sở của dòng Thánh Phaolô vào những năm 1862-1864, nên ông luôn luôn nghĩ tới việc nhờ Giáo hội Công giáo góp phần vào các công cuộc xã hội ở nước ta.

Trong cuối bài về Học tập thực dụng trong nhân dân (Di thảo số 18; 1-9-1866), ông đề nghị ở mỗi tỉnh lập một viện dục anh giao cho giám mục quản lý. Ông xin đứng ra thu xếp việc này. Ông nói: “Nước ta hiện nay đang bận nhiều việc lớn chưa thể thực hiện hết và cũng khó chọn được người đứng ra làm việc này. Nhưng thiết nghĩ bỏ phí mất một người tức phí mất một phần của đất nước”.

Trong Tế cấp bát điều, điều thứ 8, Nguyễn Trường Tộ lại đề nghị:

Nếu Triều đình cho rằng việc này nên làm thì sẽ nhờ các giám mục mời người đến, ở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ thấy kết quả ngay. Giả như các giám mục có giao ước trước một cách rõ ràng rằng: “Nếu các trẻ mồ côi lớn khôn sẽ được mang về Tây làm dân bên ấy , tôi nghĩ những trẻ mồ côi của ta không người nuôi nấng sớm muộn cũng chết thì để họ nuôi lấy cũng được. Huống chi nhà nuôi trẻ dù lập ở đâu, bọn trẻ con khi lớn khôn sẽ phân tán tại các nơi đó. Dân là dân của ta, có người bỏ tiền công ra nuôi dạy, xưa chúng là người bỏ rơi mà sau được nên người. Những người làm mẹ nuôi chúng nhiều người ở mãi đến già chết trên xứ ta. Như thế đủ chứng tỏ tấm lòng từ thiện của họ như thế nào!”.

Cũng trong Tế cấp bát điều, điều thứ 7, khi nói về điều tra dân số, kê khai hộ khẩu, Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị lọc ra những kẻ bất lương, để đem đi lao động cải tạo, bảo vệ trật tự an ninh xã hội. Ông nói:

Những bọn tù tội ăn của Nhà nước, thì phải làm việc, không nên để chúng ở không. Vì ăn ở không là gốc của mọi tội lỗi. Cứ xem những người thường phạm thì biết chúng đều là những kẻ ăn chơi biếng nhác, không muốn làm việc, hoặc đam mê hát xướng, hoặc không có chuyện gì cần thiết mà cứ bôn tẩu ngược xuôi, cho đến những bọn côn đồ đàn đúm nhau bài bạc rượu chè rồi sinh sự điêu ngoa bày mưu kiện tụng, cho đến những bọn bói khoa, xem phong thủy, bùa chú. Lại có những kẻ mượn cớ dạy học kiếm ăn thế mà lặn lội không sót một chỗ nào, lời nói và hành động của họ gây nhiều tai hại và rối loạn trong dân chúng.

“Vậy sau khi đã kiểm tra nhân số một cách rõ ràng chắc chắn rồi, hãy tầm nã rộng rãi những bọn này tập trung lại quản thúc gắt gao, tổ chức thành đội ngũ, cấp phát áo cơm, rồi sung vào làm việc binh dịch. Phải bắt chúng cực nhọc thể xác, khốn đốn tinh thần, chúng mới hồi đầu tỉnh ngộ. Hoặc dời cả gia đình chúng đến những bìa rừng xa xôi để khai phá đất đai, phá núi mở đường. Nếu làm được sẽ cho chúng được quyền hưởng dụng vĩnh viễn (...)

“Những chỗ sát biên giới phía Tây nước ta cũng nên dần dần chỉnh đốn lại. Những làng nào, xã nào có dân nghèo không kế sinh nhai thường bỏ đi làng khác và những bọn vô lại đầu gành xó chợ đều phải lùa đi hết ra khỏi làng. Tôi thấy trong dân có những hạng người làng xóm không ưa, do từ mặc cảm đó họ gây nhiều tội lỗi. Nếu những người này chết hoặc đi đâu cho khuất mắt thì ai cũng mừng. Lại có nhiều bọn ăn cắp móc túi. Phố chợ nào cũng có bọn này, bọn nào có địa phận ấy. Có bọn còn câu kết ăn chia với hương hào làm cho dân chợ khổ mà dân những chỗ buôn bán lại còn khổ hơn. Bọn người bất nhân này đã là giặc dã man đối với dân chúng, sao không dẹp yên đi, đưa hết bọn chúng ra ngoài biên giới cho hợp với ý muốn của dân! Hãy chọn trong bọn chúng những tay quá quắt nhất mà không nhà không cửa, tập trung quản thúc bắt đi làm các dịch vụ công cộng như đào kênh, vỡ đất, trồng cây, v.v... Đó là phương pháp hay nhất. Đối với bản thân chúng được lợi ích vì cải tạo tư tưởng hành động, dân chúng thì được yên ổn và quốc gia thì được lợi ích không thể kể hết”.


10. QUỐC PHÒNG

Nguyễn Trường Tộ có lẽ là người thấy rõ sự yếu kém của quân đội nước ta và sức mạnh về vũ khí của Pháp thời đó. Trong bài Bàn về việc hòa gởi Nguyễn Bá Nghi năm 1861 cũng như trong bài Thiên hạ đại thế luận gởi Triều đình năm 1863, Nguyễn Trường Tộ đã nhận định rằng:

Quân lính của ta chuyên dùng gươm đao gậy gộc, không thạo súng ống, dù phục binh gài bẫy, nhưng trận đồ như vậy chỉ hợp cho tình thế không khẩn cấp, chỉ đánh được gần chứ không đánh được xa. Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn suốt tới, thì quân ta chưa giáp trận mà gươm giáo đã tan tành” (Di thảo số 1).

Sở dĩ ông luôn luôn đề nghị tạm hòa với Pháp, tạm nhượng bộ Pháp, là để củng cố lại lực lượng, xiết chặt lại hàng ngũ. Vì thế mà ông luôn luôn quan tâm đến việc tu chỉnh võ bị.

Chúng ta hiện không biết trong bài Tế cấp luận (1863) vấn đề binh bị chiếm vị trí như thế nào. Chứ trong bài Tế cấp bát điều (1867), có tám điều, thì điều thứ nhất là “xin gấp rút sửa đổi việc võ bị”.

Trong bài này, trước tiên Nguyễn Trường Tộ chứng minh cho Triều đình hiểu là học về võ khó hơn học về văn. Làm việc binh ra trận khó hơn làm quan trong văn phòng. Ông đả kích việc trọng văn khinh võ. Ông nói:

Điều làm cho bọn giặc loạn sợ là uy vũ. Người xưa có nói: Kinh Xuân Thu san định xong làm cho bọn tôi loàn con nghịch khiếp sợ. Nay thử đem Kinh Xuân Thu treo trước cửa bọn ấy xem chúng có khiếp sợ không? (...) Người xưa bảo: Một lời nói hơn cả mười vạn quân. Nhưng nếu chúng ta không có uy danh làm cho địch nể sợ trước, mà chỉ ngâm một bài thơ, nói một câu chữ có thể đuổi được giặc ư? Cho nên khi quốc gia hữu sự, mà không có vũ công trấn áp thì cả quốc gia, quan quyền, sĩ dân, chính trị, pháp luật phải dâng hết vào tay địch. Chừng đó liệu bên văn có cai trị được không?”

Nên Nguyễn Trường Tộ đề nghị:

1. Soạn binh thư mới, dựa trên các sách binh thư cũ, xem có chỗ nào còn dùng được, chỗ nào cần bỏ đi, và cũng phải mua các sách binh pháp thủy bộ của phương Tây dịch ra để tham khảo học tập.

2. Mời những người phương Tây giỏi về quân sự phối hợp với sĩ quan ta huấn luyện binh sĩ mỗi ngày.

3. Bắt các quan võ từ cấp bực ngũ trưởng trở lên phải học chữ để đọc binh thư.

4. Gởi bài về cách đánh thành, giữ thành, vẽ địa đồ trận địa, cách lập đồn dựng trại... gởi về các trường võ bị cấp tỉnh, mỗi tháng một bài, để sát hạch.

5. Cử người giỏi về địa lý binh pháp đi khắp trong nước vẽ bản đồ quân sự từng nơi một, rõ ràng, chi tiết chứ không mơ hồ như trước đây.

6. Có chính sách và chế độ hợp lý đối với sĩ quan và binh lính; lương bổng đủ sống, có trợ cấp cho thương binh, có trợ cấp tử tuất cho vợ con, có lương hưu khi mãn hạn, binh lính phải có thời giờ tập luyện.

7. Phải bớt số binh lính già cho về làng sản xuất và làm dân quân, khi hữu sự thì đem ra sử dụng. Tuyển chọn binh lính trẻ, chưa có gia đình.

8. Giảm bớt sĩ quan: Sĩ quan cần giỏi chứ không cần đông. Nếu những sĩ quan không có khả năng, dù họ là con cháu công thần, con nhà tập ấm, hoặc do gặp may mà có công chứ không phải do thực tài, thì chỉ nên cho họ tước lộc ngồi không mà hưởng thôi, đừng để lạm quyền hành sự, di hại sẽ không ít.

9. Phải lần lượt xem xét các địa hình, chuẩn bị xây đồn đắp lũy để khống chế những chỗ quan yếu.

10 Phải chế tạo các loại vũ khí mới lạ, có thể đối phó được với giặc.

11. Phải chỉnh đốn lại nhà cửa ở Kinh thành và các đô thị, trồng cây nhiều để dễ phòng thủ...

12. Phải xây một thành lớn để phòng giữ ở phía Bắc, vùng Tứ Tuyên.

Nguyễn Trường Tộ kết luận:

Con người ta mặc dầu đã có tài trí tâm lực để đem thi thố mà hưởng dụng nhưng cũng phải có những khí cụ bên ngoài để bảo vệ, mới có thể an định tâm thần mà thi thố kỹ xảo được. Như bài nghị hòa năm trước tôi có nói: “Phải có kỹ xảo cao mới sinh dũng cảm”. Nếu tay không đánh cọp mà thắng, đó chỉ là điều may chứ không phải đường lối vẹn toàn. May rủi là điều không thể đem bất cứ việc gì phó thác được, huống nữa là việc quân sự hết sức quan trọng, huống nữa là kinh thành, sách lược vô cùng quan trọng”.

Trong bài về “Tiễu trừ giặc biển” (Di thảo số 38, 15-10-1868), Nguyễn Trường Tộ đề ra kế hoạch đào kênh, xây cảng, trang bị thuyền máy, một mặt là để đối phó với họa cướp biển, nhưng một mặt cũng là nhằm phòng thủ chống ngoại xâm và manh nha lập binh chủng hải quân.

Trong một văn bản đề ngày 10-4-1871 (Di thảo số 44), ông đề nghị.Triều đình đứng ra vay của các đại thương gia ở Hương Cảng 8, 9 triệu quan để mua súng ống và mua vài trăm con ngựa ở Manila và thuê người Manila đến lập và huấn luyện kỵ binh.

Trong một văn bản gọi là “Tái tu chỉnh võ bị”, năm Tự Đức 22 (tức 1869), mà hiện nay chúng ta chưa tìm thấy, Nguyễn Trường Tộ hình như cũng chỉ triển khai những đề nghị trong Tế cấp bát điều.

Ngày 19-6-1871, Nguyễn Trường Tộ lại có bài “Tu chỉnh võ bị” (Di thảo số 50). Nhưng trong bản văn này, Nguyễn Trường Tộ chỉ nhắc lại và nhấn mạnh một vài điều trong điều thứ nhất của Tế cấp bát điều.

Trong tập này, điều mà Nguyễn Trường Tộ tỏ ra buồn phiền là Triều đình vẫn theo binh pháp cũ. Ông nói: “Trước đây trong điều nói về “Tu võ bị” trong Tế cấp bát điều và sau này trong tập “Tái tu võ bị” cũng có những điều có thể áp dụng được nhưng vẫn chưa được đem ra thực hành”.

Nguyễn Trường Tộ là người đọc nhiều sách về binh pháp Đông và Tây. Ông rất để ý tới những gì liên quan đến quân sự. Năm 1866, khi vào Sài Gòn thấy có loại súng mới, một phút bắn được 100 phát, ông liền biên thư hỏi xem Triều đình có muốn mua một khẩu làm mẫu không. (Xem di thảo số 23): khi tới Pháp năm 1867, việc trước tiên của ông là đi tìm chỗ đúc súng để xin cho phái viên học (Xem cuối di thảo số 27). Khi ở Pháp ông đã đi xem các viện bảo tàng về quân sự, đi tham quan các thành lũy xưa hiện còn di tích... Cũng trong Tế cấp bát điều, ông nói: “Bởi vì tôi cũng đã có nghiên cứu binh pháp, nên phàm thấy cái gì tôi đều nhận xét kỹ lưỡng về hình thế bài trí của nó. Nhờ thế tôi thấy được cái mà người thác không trông thấy, chứ không như những người du lịch chỉ biết thưởng ngoạn”.

Nguyễn Trường Tộ có rất nhiều hiểu biết về quân sự. Trong các đề nghị của ông về tu chỉnh võ bị trong Tế cấp bát điều, hầu như điều gì ông cũng đều nói là có biết, có thể giúp làm được. Nhưng Triều đình Huế đã không mấy quan tâm về những đề nghị cải cách binh bị của ông. Trong bài “Tu chỉnh võ bị” (Di thảo số 50, ngày 19-6-1871), ông nói rằng:

Về khoản xin lập đồn ở ngoại thành, tuy có xuất phát từ phương pháp phương Tây, nhưng phép bố trí của tôi còn hay hơn một bậc. Điểm này quả thực tôi không dám nói phóng đại. Năm xưa khi ở Gia Định có người Tây đã từng khen rằng người như tôi việc gì chẳng làm được (người này đã từng xây dựng lớn và đã đến hỏi tôi một vài lần bởi biết tôi có tài này. Có điều là tôi cũng không để cho họ dùng cái tài ấy của tôi). Còn đối với ta, Triều đình chưa biết tài tôi bởi vì người ta xem thường mà cũng có chút ít nghi ngờ nên chưa dùng. Cho nên nếu y theo binh pháp của tôi rồi lại xem hết binh pháp phương Tây ngày nay, hơn nữa phải là người giỏi về địa lý binh pháp mới thấy được chỗ hay hơn trong binh pháp của tôi (...) Chỉ vì người ta khinh dể cho là lời nói làm bẩn tai, cho nên Triều đình chẳng thèm để ý. Nếu như Khổng Minh sống lại mà chép tập này, dù có một hai điều không đúng, người ta cũng không dám bàn. Bởi vì tên tuổi có thể bịt được miệng người. Cũng như các trạng nguyên, bảng nhãn, văn chương của họ đâu phải chữ nào chữ nấy đều là châu ngọc. Nếu có một hai câu không thông suốt lắm, bọn học hành thấp kém lại cho rằng mình chưa đủ trình độ để phê phán. Suy ra mọi việc ở đời cũng thế thôi. Điều mà tôi nói là phương pháp của tôi vượt trội hơn đó, nếu Triều đình đã biết sơ qua phương pháp của phương Tây, hoặc có một quan lớn nào đó cùng đi với tôi, tôi sẽ chỉ cho thấy phương pháp của phương Tây như thế này, như thế kia, đến khi về xem lại những điều tôi nói trong tập bẩm trước, mới thấy chỗ đặc biệt của phương pháp của tôi. Còn những chỗ khéo léo trong việc áp dụng thi hành thì nhiều lắm, một tập, một quyển không thể trình bày được. Nếu ngày nào tình thế có thể thi hành được, tôi sẽ đến ngay tại mỗi địa thế, trù liệu tính toán, chỉ rõ phương pháp xây cất, đồng thời chỉ rõ phương pháp ứng dụng phù hợp với địa thế trong trường hợp địch công ta thủ như thế nào, sau đó mới biết được cái hay của nó. Còn nếu cứ nói suông trên giấy, chẳng khác nào vẽ trăng, vẽ khéo đến đâu cũng không phải mặt trăng”.


11. NGOẠI GIAO

Vấn đề ngoại giao, chủ yếu là vấn đề đối phó với cuộc xâm lược của Pháp, vốn là mối bận tâm lớn và liên lỉ của Nguyễn Trường Tộ: Hầu như trong bản văn nào của ông gởi lên Triều đình Huế, từ 1861 cho đến năm 1871, cũng đều trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến vấn đề này. Bởi vì nếu thế ngoại giao không ổn và việc thu xếp với Pháp không xong, thì không thể nào tiến hành canh tân, phát triển đất nước được.

Đối với Nguyễn Trường Tộ vấn đề canh tân phát triển đất nước là vấn đề hàng đầu. Do đó Nguyễn Trường Tộ chủ trương mở rộng giao thương với các nước và tạm hòa với Pháp, tạm nhượng bộ Pháp.
TẠM NHƯỢNG BỘ PHÁP

Chủ trương này của Nguyễn Trường Tộ (tạm hòa với Pháp, tạm nhượng bộ Pháp), từ năm 1861 cho đến năm 1871 là nhất quán: Khi Pháp chỉ đòi nhượng cho chúng một cửa khẩu để tàu bè qua lại (năm 1861), ông khuyên Triều đình nên nhượng; khi Pháp đã chiếm ba tỉnh miền Đông với Hòa ước 5-6-1862, ông cũng khuyên Triều đình chấp nhận; sau khi Pháp chiếm trọn 6 tỉnh Nam kỳ (1863), ông cũng đề nghị với Triều đình Huế phải tạm chịu vậy.

Ngay trong văn bản đầu tiên, bài Nghị hòa (Hòa từ), gởi cho Nguyễn Bá Nghi năm 1861 cũng như trong bài Thiên hạ đại thế luận (Di thảo số 1) gởi Triều đình Huế năm 1863, Nguyễn Trường Tộ đã nói:

Nay có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi. Họ chỉ xin mình một miếng đất mà thôi. Nếu cứ kiên quyết không cho, họ sẽ lập mưu cướp hết, từ khách quay lại làm chủ, như thế là tiếc một mảnh đất mà đem cả nước trao cho họ. Nếu biết rõ, họ đã đến là không đi, họ ỷ thế vào những nước khác, thì đánh với họ tức là mất cái lớn không đáng mất mà còn tỏ ra mất đó là vì bất lực, không hợp tình, không kêu nài gì được, chi bằng hòa mà mất cái nhỏ không thể không mất mà còn tỏ ra mình ngoại giao biết điều và là việc hợp tình hợp lý có hơn không?

(…)

“Nhượng một tấc đất mà nhân dân được lợi vô cùng. Như thế chẳng phải là làm việc chung cho thiên hạ đó sao? Người xưa cũng làm như thế thôi. Không thể bỏ cách đó mà theo khác được. Thế là xoay chuyển một cái mà kẻ sống người chết đều chịu ơn, thật là sáng rõ, rõ như ánh sáng lửa rọi, chẳng còn hình tích gì đáng nghi nữa cả. Dân đã yên, sau sẽ khiến kẻ hiền tài vượt biển sang các nước lớn học cách đánh trận giữ thành, học tập trí xảo của thiên hạ, giao thiệp với họ lâu dài, mới biết lường sức đo tài, biết hết tình trạng của họ. Học cho tinh vi mới sinh kỹ xảo, rất mực kỹ xảo mới mạnh, bấy giờ sẽ dưỡng uy súc nhuệ, đợi thời hành động, mất ở phía Đông thì lấy ở phía Tây cũng chưa muộn gì”
. (Xem di thảo số 1).

Trong một văn bản viết giữa tháng 9-1871 (Di thảo số 52), ông lại nói:

Nay việc khẩn cấp nhất của ta là trước hết phải giữ cho được cái gì chưa mất, còn việc mưu thu hồi 6 tỉnh là việc sau. Muốn giữ cái chưa mất, thì phải gấp rút thừa cơ, mà canh tân chính là căn bản để mưu thu hồi và giữ gìn. Nếu không canh tân để tiến bộ, thì dù có tạm thu hồi được, vá hôm nay mai lại rách, rốt cuộc cũng không thể không có chuyện xảy ra. Nếu nhất luật canh tân để tiến bộ thì việc giữ không khó, mà việc mưu thu hồi không chóng thì chày cũng có thể hy vọng được”.

NHẬN ĐỊNH VỀ TÌNH HÌNH THẾ GIỚI, ĐỊCH VÀ TA

Khi đánh giá Nguyễn Trường Tộ, có người cho rằng chủ trương hòa với Pháp, nhượng bộ Pháp là sai lầm. Bởi vì thực dân Pháp chiếm nước ta là muốn biến thành thuộc địa của chúng. Âm mưu xâm lược của chúng đã có từ rất lâu, vì vậy chỉ có thể trên cơ sở đánh mạnh, khiến chúng phải khốn đốn, thì chúng mới chịu hòa, và trong điều kiện ấy, ta mới có thể hòa một cách có lợi.

Ngày nay, đọc toàn bộ các di thảo của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta hiện có, trong bối cảnh lịch sử của thế giới, của nước Pháp và nước ta trong những năm 50, 60 của thế kỷ 19, chúng ta có thế nói được rằng chủ trương đối ngoại của Nguyễn Trường Tộ là dựa trên một sự đánh giá rất đúng đắn về tình hình thế giới, về tình hình của địch và của ta.

Về tình hình thế giới thì đã rõ: Các nước phương Tây đổ xô nhau đi tìm thị trường và đã có mặt khắp các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh, đúng như Nguyễn Trường Tộ nói:

Ngày nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho tới Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương (Ả Rập), Thiên Trúc (Ấn Độ), Miến Điện, Xiêm La, Xu Ma Tra, Gia Va, Luyxông, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển kể cả Tây Châu, không đâu là không bị họ chẹn họng bám lưng (...) Đến như địa thế Trung Hoa chiếm một phần ba Đông Phương, nhân số đến 360 triệu, uy thế lẫy lừng, ai cũng phải thần phục họ cả. Thế mà từ thời Minh về sau, người Tây phương vượt biển sang Đông, hai bên đánh nhau, thây chết thành đống, sau phải giảng hòa không biết bao nhiêu lần. Còn như ta là một xứ nóng, gần kề Quế Hải, là trạm nghỉ chân của người Tây phương, trên đường sang Đông. Con giao long khi thấy đầm vực thì nghĩ cách đầm mình chứ không thế nào chịu bỏ mà đi” (Di thảo số 1).

Nguyễn Trường Tộ, trong nhiều văn bản, thường nói đến “hoãn và gấp” của các nước thực dân. Nghĩa là mục đích của các nước thực dân là chiếm thị trường, làm chủ thị trường và nếu cần, làm chủ cả đất nước người ta. Nhưng nước nào cũng muốn “hoãn”, chứ không muốn “gấp”. “Hoãn” là thi hành chính sách từ từ, từng bước một, bằng thương lượng, bằng trao đổi, như thế ít hao tốn, ít phiêu lưu. “Gấp” là dùng vũ lực, áp đặt, yêu sách: nhân dân các nước Tây phương, thường ngán ngẩm những cuộc chiến tranh thuộc địa, kéo dài, phiêu lưu ở những miền xa xôi, do đó mà các chính phủ thực dân thường muốn “hoãn” chứ không muốn “gấp”.

Nhân dân Pháp và Chính phủ Pháp thời Nguyễn Trường Tộ cũng thế thôi. Qua các di thảo của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta thấy là ông không hề mơ hồ về ý đồ của thực dân Pháp đối với đất nước ta.

Trong văn bản đã được trích dẫn trên đây, Nguyễn Trường Tộ nói rằng: “Người Pháp đến đây, một là hỏi ta vì sao giết hại giáo sĩ, hai là hỏi vì sao ta không chịu giao thiệp, ba là xin cắt cho một vài chỗ để làm đường giao thương như các nước thường làm. Lúc đầu họ không có ý đi cướp nước người. Nếu những yêu sách của họ được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn như đã ước định chứ đâu đến nỗi dây dưa lan rộng như thế...”.

Ngày nay, nếu đọc những chỉ thị của Chính phủ Pháp gởi cho đô đốc Rigault de Genouilly, người được giao trách nhiệm chỉ huy đội quân viễn chinh chiếm đóng Việt Nam ngày 25-11-1857, thì chúng ta thấy là tham vọng của Pháp là thiết lập nền bảo hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam hoặc ký kết một hiệp ước cho Pháp được tự do thông thương buôn bán và cho các giáo sĩ Pháp được tự do giảng đạo.

Sau này qua nhiều văn bản, Nguyễn Trường Tộ cho thấy ý đồ của Pháp là chiếm trọn 6 tỉnh của Nam kỳ (Di thảo số 41).

Tuy nhiên, một mục tiêu tối thiểu là ký hiệp ước cho công dân Pháp được tự giao thông buôn bán và các giáo sĩ Pháp được tự do giảng đạo, Rigault de Genouilly đã không đạt được. Sau này đô đốc Charner, sau khi chọc thủng phòng tuyến Chí Hòa (tháng 2-1861), mở rộng vùng chiếm đóng tới Tây Ninh và Mỹ Tho, đặt thêm điều kiện: Không những đòi cho thuyền bè được giao thông buôn bán và các giáo sĩ người Pháp và Tây Ban Nha được tự do giảng đạo, mà còn đòi nhượng trọn tỉnh Gia Định, thị trấn Mỹ Tho và thị trấn Thủ Dầu Một cùng với 4 triệu đồng bồi thường chiến tranh. Dĩ nhiên là Triều đình Huế đã không chấp nhận. Nhưng đô đốc Bonard đã ép buộc Triều đình Huế ký hòa ước 5-6-1862 nhượng hẳn cho Pháp ba tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và Côn Đảo. Tháng 6-1867, đô đốc Lagrandière chiếm luôn ba tỉnh Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên. Tháng 11-1873, đô đốc Dupré cho đánh chiếm Bắc kỳ nhưng buộc phải trả lại và vào những năm 1883-1885, Pháp mới chiếm trọn được Bắc kỳ và Trung kỳ.

Như thế có nghĩa là nếu Triều đình vua Tự Đức nghe theo lời Nguyễn Trường Tộ mà tạm nhượng bộ cho Pháp một phần đất ở Nam kỳ, thì Việt Nam cũng có một khoảng thời gian trên dưới 20 năm để canh tân và phát triển đất nước. Nguyễn Trường Tộ hiểu rõ ý đồ của Pháp là chẳng những không chịu bỏ Việt Nam mà còn muốn chiếm trọn Việt Nam, nhưng tình hình nhân dân Pháp ở chính quốc rất sợ phiêu lưu quân sự ở nước ngoài. Năm 1863-1864, nước Pháp đã có ý định trả lại cho Việt Nam ba tỉnh miền Đông mà chỉ giữ lại một vài thị trấn làm cơ sở buôn bán. Năm 1867, khi chiếm ba tỉnh miền Tây, đô đốc Lagrandière đã tự ý đặt chính phủ Pháp trước một sự việc đã rồi. Năm 1873, đô đốc Dupré đã cho quân tiến chiếm Bắc kỳ, nhưng khi thấy rắc rối đã phải cho lệnh rút quân ngay khỏi Bắc kỳ.

Biết rõ ý đồ của Pháp, biết rõ tình hình của nước Pháp, Nguyễn Trường Tộ thấy không có con đường nào khác là phải tạm thời thỏa hiệp với Pháp và tìm kế dài lâu để ngăn chặn Pháp và đánh đuổi Pháp. Chứ vào thời điểm những năm 60 của thế kỷ 19, thể theo nhận định của Nguyễn Trường Tộ, thì Việt Nam không đối đầu được với Pháp.

Trong bài Hòa từ năm 1861, ông đã nói:

Hiện nay quân Pháp đã chỉnh cư Gia Định và các phủ huyện, họ đào kinh đắp lũy trù kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển. Bây giờ như ta muốn cố thủ thành trì đợi cho họ tê liệt thì thật chẳng khác nào muốn quét sạch lá rừng, tát cạn nước biển. Không hòa mà chiến, khác nào cứu lửa đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy nhanh hơn nữa.

(…)

“Nước ta tựa núi kề biển, địa thế như một con rắn dài. Nếu họ dùng hỏa thuyền chia nhau đánh cắt các tỉnh dọc bờ biển, lại cho các tàu đậu ngoài cửa sông lớn để triệt sự vận chuyển đường biển của ta, lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chặn đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương, rồi lại đổ bộ tiến đánh các chỗ xung yếu, gấp rút truyền hịch khắp Nam Bắc, chiêu mộ bọn giặc cướp ẩn náu dùng làm bọn dẫn đường, thì thủy binh của ta sẽ thành vô dụng. Bộ binh thì đài lộ không thông. Chỉ còn đường Vạn Tượng, Ai Lao, Trấn Ninh và đất Cao Miên thì lại hiểm trở khó đi, mất nhiều ngày tháng, đầu đuôi không liên lạc được với nhau. Nếu họ đánh một trận thì ta đã bị cái thế chia năm xẻ bảy. Dù cho có trí dũng cũng không kịp ra mưu. Đại thế đã mất, lòng quân sĩ đã lìa thì còn ai đánh giặc nữa? Địa lợi như thế thì không thể trông cậy vào đâu được”
. (Xem di thảo số 1).

Qua một bức thư tâm sự gởi cho Trần Tiễn Thành, viết từ Nghệ An, ngày 15-6-1866 (Di thảo số 15), chúng ta thấy là Nguyễn Trường Tộ đánh giá rất đúng về tình hình nước ta lúc bấy giờ. Ông than phiền rằng: “Những tình thế đất nước như vậy ở các nước khác người ta đã lo liệu hàng trăm năm rồi, mà nước ta mới thấy một ngày. Các nước làm thực sự mà ta thì chỉ nói suông”.

Trong một bản văn viết trước lúc lên đường vào Sài Gòn, đi công cán ở Pháp (Di thảo số 19, ngày 3-9-1866), Nguyễn Trường Tộ nói: “Ngày nay, nước ta đang bị ở vào cái thế xung đột Đông Tây tranh đoạt lẫn nhau nên có hai cái lợi là ở Nam thì Gia Định, ở Bắc thì Tứ Tuyên; nhưng lại có ba cái hại là Bắc thì Vân Nam, Nam thì nước địch, Trung thì có bọn bất mãn chạy Đông chạy Tây rồi lại tụ tập về một chỗ là như thế. Hiện nay ta chưa vội dùng thuật tung hoành để lập cái thế con rết trăm chân được, nên phải tùy thời giao thiệp thân mật với người Tây để tạm mượn thế lực của họ, để chống lại ba cái hại trên, để thu cái lợi bên phía Tây để dần dần lo kế sau này hoặc là khi gặp việc gì thì có thể cứu độ”.

THIẾT LẬP BANG GIAO VỚI CÁC NƯỚC

Nguyễn Trường Tộ chủ trương tạm hòa với Pháp, tạm nhượng bộ Pháp, nhưng đồng thời cũng chủ trương phải mở rộng bang giao để không chỉ một mình đối đầu với Pháp.

Trong bài Trần tình (Di thảo số 3), Nguyễn Trường Tộ đã nói: “Tôi nghĩ rằng thời kỳ khôi phục nước nhà đã có xác chứng ở bốn bể dự tính được ở tương lai. Đi theo con đường nào mới được? Con đường phải theo không thể tìm ở trong nước, mà phải tìm ở trong thiên hạ. Như trong tờ bàn về việc hòa năm xưa, tôi đã mật trình với Nguyễn đại nhân rằng: Một là mình phải khéo léo ngăn chặn đừng để họ tìm cớ sinh sự làm lan rộng ra; hai là hãy thong thả sắp đặt đợi lúc họ sơ hở; ba là để dân thư thái củng cố sức lực”.

Đầu năm 1864, khi phái bộ Phan Thanh Giản đi sứ ở Pháp về mang theo dự thảo Hòa ước mới. Trong bản dự thảo này cũng như trong bản Hòa ước cũ (5-6-1862) có khoản nói rằng: “Nếu nước Việt Nam có ký kết một hiệp ước với một nước ngoài và trong hiệp ước đó có bao gồm việc nhượng đất đai, thì vua nước Pháp có đồng ý cho làm mới được làm (doãn hành tắc hành)”. Trong một bức thư gởi cho Phan Thanh Giản, tháng 3-1864 (Di thảo số 4), Nguyễn Trường Tộ cho đây là một điều khoản trói buộc Việt Nam, không khác gì áp đặt một hình thức bảo hộ. Sau này khi nói về thương thuyết một hòa ước mới với Pháp, ông đề nghị là phải xóa bỏ cho bằng được điều khoản này (Xem di thảo số 35, 36). Trong văn thư gởi cho Phan Thanh Giản nêu trên, ông đề nghị là “cần phải tìm người giúp, bủa lưới bốn mặt, để họ không được hoành hành, thì bản minh ước mới được lâu dài (...) Cứ bủa vây bốn mặt rồi chờ khi có tệ (tệ này tôi đã dự đoán không sai, 10 năm sau sẽ thấy) mới có thể mưu đồ được”. Trong văn bản này cũng như trong bài Lục lợi từ, một hai tháng sau đó, Nguyễn Trường Tộ đề nghị tìm cách khai thác mâu thuẫn giữa người Anh và người  Pháp để tìm cách giao dịch với người Anh, trông nhờ vào sự giúp đỡ của người Anh. Trong lúc vào Sài Gòn chờ tàu đi Pháp (cuối 1866), Nguyễn Trường Tộ đã tìm cách liên lạc với lãnh sự Tây Ban Nha và báo cáo với Triều đình là nên tìm cách mở quan hệ ngoại giao với Tây Ban Nha (Xem di thảo số 22). Sau này trong những lần Triều đình dự định cử sứ bộ sang Pháp (đầu năm 1868 và đầu năm 1871) để xin chuộc lại 6 tỉnh Nam kỳ, Nguyễn Trường Tộ đều đề nghị là phải tìm cách mở rộng bang giao với Anh, với Tây Ban Nha, với Nga... để rồi làm áp lực với Pháp, chứ không xin xỏ với Pháp. Đối với Nguyễn Trường Tộ, mở rộng bang giao với các nước quan trọng hơn việc đòi lại đất đai. Bởi vì không dễ gì mà Pháp trả lại đất đai cho mình, mà phải tạo thế bắt buộc chúng phải trả mà thôi (Xem di thảo số 36).

Nhưng Triều đình vua Tự Đức không quyết định được gì cả. Nguyễn Trường Tộ đã phải đau xót nhìn các nước chung quanh mà thương cho nước mình. Trong một văn bản có lẽ là một trong những văn bản cuối đời của mình, Nguyễn Trường Tộ nói:

Xem Nhật Ban xưa là một lũ người lùn, từ Trung Diệp nhà Minh mới bắt đầu giao hảo với Hà Lan, làm bạn với Bồ Đào Nha, kế đến mời Hợp Chủng Quốc giúp vào việc nước, mở mắt nhìn rộng ra thiên hạ mới có được chí hướng lớn như vậy. Từ đó, họ đóng tàu bè, luyện tập võ bị, ưu tiên phát triển thương nghiệp, công nghiệp đất nước mỗi ngày một mạnh, được khen với mỹ danh là Tiểu Tây và Trung Quốc khó bắt được Nhật Bản phải thần phục. Tuy gần đây, Anh, Pháp thường hay quấy nhiễu nhưng nhờ có nền nội trị ngoại giao vững vàng mà họ không chịu hạ mình. Như trước đây ba năm, Anh, Pháp đem binh thuyền đến toan đàn áp, nhưng nhờ có Hợp Chủng Quốc, Hà Lan phân giải mà việc đã không xảy ra. Đó không phải là công dụng của sự giúp đỡ của các nước hay sao? Còn như ngày nay nước ấy có những kế hoạch giao thiệp rộng rãi, những mưu cơ tân tiến thì đâu đâu người ta cũng đã nghe thấy rõ ràng, gương ấy không xa, không cần phải nêu ra nữa.

“Còn như đối diện với nước ta là Xiêm La. Nước ấy trước đây chẳng có thế lực hùng mạnh gì. Nhưng từ khi người phương Tây quấy động khiến họ chợt tỉnh thức, bèn lấy Anh, Pháp làm bạn, lấy Ý, Bồ làm khách, mời hết tất cả các nước trên thế giới tới buôn bán, du lịch, còn nước ấy thì nghiễm nhiên thành một ông chủ nhà lớn đàng hoàng (...) Hiện nay nước ấy nhờ ngoại giao mà được lợi ích, ngày một nhanh chóng trở nên giàu mạnh, nội loạn không sinh, kẻ địch bên ngoài không đến, thuyền buôn qua lại trên mặt biển như mắc cửi, quan chức phân bố khắp các nước, dần dần đã lập được cái thế con rết trăm chân. Họ giàu có thịnh vượng thì họ hưởng, hà tất phải bàn bạc làm gì? Nhưng nước ta có một nước mạnh như vậy ở bên cạnh cũng rất đáng lo!”
(Di thảo số 55).


NHỮNG KẾ HOẠCH CỤ THỂ

Chủ trương tạm hòa với Pháp, tạm nhượng bộ Pháp, nhưng Nguyễn Trường Tộ luôn luôn nghĩ đến cánh đánh đuổi Pháp.

Trong cuối bài Tế cấp bát điều và sau này trong di thảo số 52, Nguyễn Trường Tộ đã nhắc lại: “Khổng Minh trong những lúc nằm mơ chưa bao giờ không lập kế đánh địch. Tôi tuy thiếu tài ấy, nhưng thừa tâm huyết, không có bổn phận ấy, nhưng có chí ấy”.

Trong các kế hoạch như đào kinh, xây cảng nói là để giao thông, để trừ giặc biển, nhưng trong thâm ý của Nguyễn Trường Tộ vẫn là tổ chức phòng thủ để ngăn ngừa sự lấn chiếm của Pháp.

Trong các văn bản của mình, Nguyễn Trường Tộ thường nói đến thời thế, thời cơ. Ông biết chắc thế nào nước Pháp cũng có loạn, cũng sẽ gặp sự cố. Vì thế mà ông luôn luôn nghĩ tới việc chuẩn bị để chờ thời cơ.

Ở đoạn cuối về tu chỉnh võ bị trong Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ đề nghị: “Giờ đây trong số các quan viên văn võ, có vị nào quê ở Lục tỉnh Nam kỳ, Triều đình phải đặc biệt ưu ái họ. Cho họ thường xuyên về thăm anh em họ hàng. Phải đãi ngộ họ thân mật nồng nàn hơn trước, khuyên bà con họ hàng của họ không nên dời nhà cửa đi nơi khác, đừng lánh đi xa (...) Đoạn chót thứ bảy này rất quan hệ đến đại thế lâu dài của quốc gia. Trong đó còn có chỗ phải kiêng dè chưa tiện nói hết. Đợi khi nào có thể nói được hoặc tình thế có thể tiến hành được, tôi sẽ trình bày rõ”.

Ngày nay, chúng ta biết là Nguyễn Trường Tộ muốn nói gì trong sự việc còn kiêng dè nêu trên. Bởi vì khi biết là Pháp đã bị bại trận trong cuộc chiến tranh Pháp - Đức tháng 9-1870 và vua nước Pháp bị truất phế, Nguyễn Trường Tộ cho là thời cơ đã đến. Ông liền gởi lên Triều đình nhiều kế hoạch cụ thể thu hồi chủ quyền trên phần đất đã bị chiếm đóng.

1. Nguyễn Trường Tộ đề nghị thương lượng và làm áp lực với Pháp để họ gom quân đội lại một vài điểm để làm nơi qua lại buôn bán và trao trả phần đất còn lại cho Việt Nam.

2. Nguyễn Trường Tộ xin đứng ra tổ chức đánh úp để đánh đuổi Pháp ra khỏi Nam kỳ.

3. Nguyễn Trường Tộ đề nghị lập phái bộ sang Pháp và sang các nước châu Âu như Anh, Đức, Áo, Tây Ban Nha... để mở rộng quan hệ ngoại giao.

Trong mỗi kế hoạch, ông đều thảo ra những điểm rất cụ thể để Triều đình sử dụng. Sau đây là kế hoạch đánh úp được trình bày trong di thảo số 40, ngày 9-2-1871:

Nay xin Triều đình dùng kế đi Tây trước, nếu việc không xong; xin tạm giả vờ bổ tôi làm một chức quan lớn trong Bộ Công, nói rằng: Nay nước ta muốn thực hành canh tân, mà tôi là người đủ sức cáng đáng công việc đầu tiên. Nếu không đề bạt cho vượt bực thì không khuyến khích được người sau. Sau khi nhận chức, tôi liền xin về làng một hai tháng để yên ủi mẹ già rồi mới đi nhận việc. Khi tôi trở về, những người đồng đạo sẽ đến hỏi tôi sao lập trường trước sau bất nhất, sao lại ra làm quan? Tôi sẽ trả lời rằng tôi vốn không có lòng cầu đi làm quan, nhưng vì có làm quan thì mới dễ bề tâu thưa để giúp cho đạo giáo. Sau khi lên kinh làm việc, tôi sẽ tâu trình nhiều khoản về đạo giáo. Như thế những người đồng đạo của tôi chắc vui mừng mà khen ngợi ý tốt của tôi.

“Sau khi lên kinh, tôi sẽ tâu bày một tập, cố ý nói những điều không nên nói, mà còn can phạm đến phép nước nữa. Bấy giờ Bộ sẽ nghị bàn buộc cho tôi là mới nhận chức quan, chưa làm được gì đã nói càn trái phép, đáng lẽ phải nghiêm trị, nhưng nghĩ đến tình trước, nên cho đày đi Bình Thuận để trị tội. Lúc bấy giờ tôi mới ngầm viết thư cho Giám mục Hậu nói rằng: “Tôi vốn có lòng vì nước vì đạo, mới trình xin như thế, không ngờ lại bị trách phạt, tâm sự không làm sao bày tỏ được. Khi đến Bình Thuận, tôi sẽ đút tiền hối lộ cho quan coi tù rồi trốn vào Gia Định giúp Tây, để lo trả thù, mong giám mục bí mật viết thư ngay cho nguyên soái Gia Định biết thâm ý ấy. Trong thư nói rằng: “Nếu trọng dụng hắn, nước Tây sẽ được một tay giúp việc đắc lực vì hắn đã hiểu rõ tình thế nước Nam. Nguyên soái trước đã từng tìm hắn, nay may lại được Nam triều đuổi đến cho, giờ đây hắn mới dứt tình đất cũ, mà hết lòng giúp việc v.v...”

“Tây soái, được thư, thấy tôi đã là quan lớn của Triều đình, đã có danh vọng, có thể thu phục được lòng dân 6 tỉnh. Vả lại vì đạo mà bị tội mới đến đây thì một là y sẽ đem lòng thương xót, hai là sẽ trọng tư cách làm người của tôi mà tin lắm không nghi ngờ gì mà lại trọng dụng thêm. Tôi liền nói: “Nếu vội nhận chức quan to, sợ Triều đình ghét mà bắt tội anh em. Tôi hãy xin tạm ở ngoài giúp việc, đợi khi nào bí mật đem được người nhà vào Nam, sẽ nhận chức. Nay chỉ xin tạm nhận chức quan suông mà thôi, còn bổng lộc thì quyết chưa dám nhận (Nếu nhận bổng lộc của họ mà lại ôm kế độc đối với họ thì hại nghĩa tôi không yên lòng). Lúc bấy giờ tôi sẽ giúp việc cho họ đôi chút. Chẳng bao lâu, tôi sẽ mật báo với họ rằng: “Nghe nói nước Nam, việc ngoài Bắc đã yên, rất giận việc nước Tây không trả đất đai lại, muốn ngấm ngầm xúi dân làm loạn để phá rối ta, chưa biết có quả như thế không? Nhưng tình hình này không thể không có. Tôi xin đi khắp sáu tỉnh để bí mật thăm dò. Nếu có quan Nam triều ẩn núp, tôi tất biết và mật báo về. Tôi còn xin đi lại những nhà có thế lực và các lương dân chịu chức sắc của Tây, dò xem tình ý như thế nào để chuẩn bị. Tôi lại đem đạo giáo dụ họ, xem ý họ thế nào. Tôi lại lấy mưu làm loạn thử họ, mới biết được đích xác. Như nói rằng: Ta tuy bị Triều đình trách phạt, nhưng mối tình đất cũ khó quên. Vả lại với người Tây chỉ có thể chung hoạn nạn, chớ không thể chung hưởng yêu vui. Như các nước trên thế giới đã bị người Tây v.v... Nay tôi nghĩ, nếu được sáu tỉnh phản Tây, thì chẳng những ta chuộc được tội mà còn có công lớn. Các người cũng vậy, nếu quả không quên lòng trung nghĩa thì có thể cùng tôi mật định làm việc nghĩa. Nếu việc thành được Triều đình sẽ thưởng công to. Dụ dỗ như thế, nếu người nào quả có lòng tất đồng ý với tôi. Lúc đó tôi bí mật ghi hết, bẩm lên đại soái biết để phòng bị. Rồi kiếm cớ khác mà buộc tội chúng.

“Ở trước mặt Tây soái tôi đã mật mưu như thế, thì ngày sau tôi đi dụ dỗ khắp nơi, nếu có người biết mà mách lại sẽ bị Tây soái cười thầm. Như thế những người đồng lòng với tôi sẽ giữ được vô sự. Tôi đã họp được nhiều người, ở đâu chuẩn bị ở đó như các khoản đã nói trong các tờ bẩm trước. Lúc bấy giờ tôi lại nói với Tây soái rằng: “Tôi rất oán ghét nước Nam, ý muốn nhóm họp nhiều người đợi ngày nào nước Tây gây việc với nước Nam, sẽ xin ra giúp sức để hả cơn giận. Tôi đã dò được những người giỏi trong 6 tỉnh, phần nhiều có lòng bất bình với nước Nam, nhưng chỉ vì quan Tây nghi ngờ quá chừng mà không dùng họ giúp việc. Họ đã yên cư lạc nghiệp ở đây, cũng muốn có một phen bày tỏ tâm tình, để cởi mở lòng nghi mà chưa có cơ hội. Nay nghe tôi có sự bất bình với nước Nam, muốn đi chiêu tập báo thù, cho nên bọn họ cũng muốn hợp sức làm với tôi, để tỏ rõ là đã dứt tình với nước Nam rồi. Vả nếu tôi nhóm họp được bọn họ tại chỗ, bọn họ lại nhóm họp được thủ hạ tại chỗ rồi ghép thành đội ngũ, mượn lãnh khí giới, để tùy lúc mà luyện tập, còn tôi thì đi lại các nơi để đốc thúc công việc. Đến ngày ra đánh Bắc, có thể dùng họ làm quân tiên phong cho người Tây. Việc thành chẳng những tôi hả được cơn giận, mà bọn họ cũng tỏ ra được tâm tình. Lúc đó đại soái tùy theo tài năng cất dùng họ để trả công lao, như vậy người sáu tỉnh mới yêu mến quý soái.

“Như thế chúng tôi tập hợp người tại chỗ dể chuẩn bị mà người Tây không thể nghi ngờ gì cả. Tôi lại nói với Tây soái rằng: “Lúc trước tôi ở Bắc kỳ, tất cả những người có thầm ôm chí khác từ Quảng Nam trở ra Bắc, đều đi lại với tôi, những người có tài năng dùng được, ước chừng bốn, năm trăm người, trong đó có chừng 100 người rất là kiệt hiệu, đã từng nói với tôi là muốn vào Gia Định, nhờ thanh thế người Tây, để lo mưu Bắc tiến, nhưng chỉ ngại không người giới thiệu, sợ Tây không tin. Nay nghe tôi vào Gia Định làm việc giúp Tây, đầu đảng của họ có bí mật gửi thư vào, nhờ tôi giới thiệu để được cùng vào trong này làm việc với Tây, số này hơn người sáu tỉnh nhiều lắm. Đến khi lông cánh đã thành, sẽ xin ra Bắc gây việc. Nếu được họ xin hứa vĩnh viễn trung thành với quan Tây v.v... Nay xin đại soái viết cho một số mật hiệu, mỗi miếng giấy cắt vuông một tấc, có ám hiệu bằng chữ Tây, chừng 400 cái giao cho tôi, để tôi gởi ra cho đầu đảng, hễ ai lén vào Gia Định, trình xét mật hiệu, rồi tôi mới tùy chỗ, giao cho ở chung với những người đồng lòng với tôi ở sáu tỉnh.

“Còn các phủ huyện, nếu quan Tây muốn dùng chúng để sai khiến, thì cũng tùy theo đó mà phân bố. Cách sắp xếp đều y như lời đã nói trong tờ bẩm trước. Như thế chắc chắn người Tây không làm sao biết được, mà còn dễ cử sự hơn là cách đưa người Bắc vào, như tôi đã nói trong tờ bẩm trước.

“Còn mật hiệu của Tây tôi sẽ xin gởi ra, để cất giữ tại Bộ. Bấy giờ Triều đình, sẽ phái vào nhiều người dòng Tôn Thất, các quan võ và những người tình nguyện vào ngũ như tôi đã nói trong tờ bẩm trước, và sẽ trao mật hiệu của Tây cho họ.

“Ngoài ra lại xin sai một viên quan thân tín, giả làm đầu đảng vào trước, để trông coi việc ấy. Còn ngoài ra, có quan nào vào, tôi chỉ nói với nguyên soái rằng đấy là hạng kiệt hiệu. Còn những người tình nguyện vào ngũ có lén vào, tôi sẽ bảo đều là hạng thủ hạ của đảng ấy, có thể sai khiến được. Rồi sau mỗi phủ huyện dùng kế, cho năm sáu người được thân cận với họ, kết hợp với người sở tại Nam kỳ, như thế cũng đủ đánh úp được.

“Và trước gần ngày cử sự, tôi sẽ tìm một nhà người có đạo (phải người có đạo Pháp mới không nghi) ở huyện Tân Hòa, một nhà ở Gia Định, chuẩn bị thật chu đáo bí mật. Rồi quan Tổng binh đại thần giả làm người buôn đến ở huyện Tân Hòa, quan phó đại thần đến trú ở Gia Định để chỉ thị phương lược, bố trí vòng lưới. Còn tôi thì qua lại truyền báo cách bài trí.

“Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế (khoản này các tờ bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ, đều bị chìm hoặc bị vùi xuống dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết. Còn việc bố trí trên đường bộ, cũng giống như các tờ bẩm trước đã nói, nay không bẩm lại nữa.

Trong khi việc đã tạm định, Triều đình giả sai quan viên thường thường qua lại vấn an Tây soái, mà lại dùng lời nói ngọt khiến hắn thích ý hả lòng, rồi giả vờ đem tin đồn nghe được những việc hiện tại ra mà trách hắn chắc chắn sẽ đem việc đó báo với các quan mưu sự của ta.

“Lúc bấy giờ quan nào đã định phái cử sự ở Gia Định đều đến Gia Định, giả bí mật bàn tính với hắn kiếm cách che giấu Nam triều. Vả lại nói rằng cơ mưu đã tiết lộ, chúng ta cần phải gấp rút soạn sửa biến động, sợ để lâu ngày Nam triều sẽ chuẩn bị đầy đủ, những người cộng sự đều đã gọi về Gia Định cả rồi, xin nguyên soái nghiên cứu việc binh để quyết định xem có dùng được không? Nhân đấy để tiện khởi sự.

“Vả lại khi việc đã gần được phân nửa, tôi sẽ nói với hắn rằng: “Tất cả những người tiềm phục ở Bắc kỳ, một nửa đã vào Nam giúp việc cho Tây, như cọp mọc cánh. Nếu ngày sau Tây triều muốn hoành hành nước Nam, theo đà ấy cũng không khó, chỉ thiếu một điều là các quan võ nước Tây không khéo trị dân, vì thế mà ân đức chưa thấm vào lòng dân. Nếu được quan văn đến cai trị dân, như nước Tây thì rất tốt”. Như thế Tây soái tất sẽ đổi hết quan võ, rút hết lính chiến đấu về để làm công trạng cho mình, mà xin quan văn sang ngồi một chỗ mà cai trị, thì thế lực họ lại bị cô lập thêm.

“Tôi lại nói rằng (khoản này cũng ở lúc công việc đã làm được phân nửa): “Tất cả những người ở miền Bắc vào, đều mong chờ nước Nam có biến cố. Vả lại đợi thu thập được một nửa người Bắc kỳ để làm nội ứng, mới hành động. Nếu chưa có cơ hội, thì còn làm việc với Tây. Bọn họ đều đã mang tiếng bỏ nước, quyết không dám trở về làng xóm. Chỉ khi nào thành sự mới dám về. Nếu không thì chết già ở sáu tỉnh mà thôi”. Bọn họ lại giả xây dựng gia đình, để vững lòng Tây soái.

“Tôi lại nói rằng: “Bắc kỳ đất xấu dân nghèo, nếu quan Tây có lòng chiêu mộ, tôi xin viết thư mật gởi về cho những người quen, mời vào ăn ở, như thế thì phàm những người chuộng lạ đều không quản xa xôi mà vào. Đấy là: Trong cửa có người tốt thì ngoài cửa người tốt sẽ đến vậy. Lúc đó đại soái tùy nghi xếp đặt, khiến cho bọn họ yên ở hòa hợp với người miền Nam, thì tiến lên có thể lấy, lui về có thể giữ, không phiền phải phái nhiều lính Tây để tốn nhiều của công”.

“Như thế Tây soái mừng lắm, lại tin là tôi có lòng vì hắn, có thể tin dùng được như thế tôi mới thi hành được kế hoạch. Còn các kế hoạch khác bồi bổ cho kế này, tôi đã nói rõ trong các tờ bẩm trước.

“Làm được như thế, mới là mười phần ổn định và Tây soái phải tin phục, không mảy may nghi ngờ nữa.

“Còn tôi sau khi đã trốn vào được, Triều đình cũng nên sai một viên quan thân tín vào theo để cùng bàn bạc phải chăng với tôi, làm chỗ trông ngóng trước cho những người đồng lòng. Nhưng ở trước mặt quan Tây, tôi nhận làm người thân trong khi đi chơi nói chuyện với mọi người; tôi lại nói kín với quan Tây xin đem người ấy giả làm quan triều mang đủ ấn tín, khiến các nhà quyền quý được thấy, thì địa phương mới tin là thật. Như thế mà họ không theo, cự tuyệt không nhận, thì mới tin là thật lòng theo Tây. Như thế quan Tây sẽ cho là mưu kế tuyệt diệu, mà vị quan to ấy cũng được công nhiên không quan ngại gì nữa.

“Tôi lấy các sự lý trình bày trong tờ bẩm trước, mà suy ra kế trong tờ này, mới biết thật là vạn toàn. Nhưng kế này phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành. Phải đến dần dần Tây soái mới không nghi. Nếu đến một cách gấp rút đột ngột, không khỏi khiến họ ngạc nhiên, suy nghĩ. Vì thế mà phải hai năm. Nhưng cũng phải tìm người giúp ngoài thi hành song song với kế này, để ngăn chặn việc họ sẽ báo thù thì mới được hoàn toàn tốt đẹp. Mà tìm người giúp tay cũng phải nhân lúc họ có việc, mới dễ giao thiệp rộng rãi. Kế này dù khi việc nước họ bình yên rồi, dùng cũng vẫn được. Cho nên không cần vội vàng. Nếu Triều đình dùng kế đi Tây trước mà thành công được, thì đấy là ở ngay nơi miếu đường mà đánh được giặc. Nếu không xong thì làm kế này, mới hả lòng. Đến lúc đó, các quan lớn Triều đình sai đi cũng biết là lúc núi cùng sông hết rồi.

“Chỉ có một kế ấy mà thôi (kế ấy chỉ thi hành được một lần, không thể thi hành thêm lần thứ hai. Nếu sai trật quyết không thể làm lại lần nữa. Xin suy nghĩ cho kỹ), đều phải nuốt giận mà vào, thừa lúc họ đương buông lỏng không phòng bị mới có thể đuổi giết họ được.

“Nếu tôi có thể phục vụ được gì, nhất nhất tôi xin theo sự sai khiến của Triều đình, quyết không có sự gì ân hận về sau. Vì vốn đã sẵn có bụng ấy mới dám nói ra, chứ hối hận thì có ai ép buộc tôi phải nói ra đâu!

“Nhưng có một việc chưa an tâm, là sau khi tôi bị đày, mẹ già tôi tất là đau thương, khiến tôi trái với đạo hiếu. Việc đó thật không có kế gì gỡ ra được. Nhưng tôi đã nhận quan chức Triều đình, thì phải làm việc công mà quên việc riêng, không thể vẹn toàn cả hai được.

“Tôi lại có việc tâm sự xin trần tình một lời lên rằng: Nếu được Triều đình tin dùng thì trên đội đức Hoàng đế, uy quyền Triều đình, giữa nhờ các quan tổng binh chỉ vẽ phương lược, dưới nhờ tướng sĩ đồng lòng, may mà quét sạch quân thù, khi trở về, tôi xin từ chức về vườn ngay để phụng dưỡng mẹ già mà thôi. Khi nào Triều đình có việc cần đến, tôi lại vâng lệnh, việc xong lại xin về như trước, còn tước lộc quyết không dám nhận.

“Đấy là tâm sự của tôi, muốn trông Triều đình hứa trước cho, tôi mới dám nhận chức. Nếu không thì tôi xin mình trần cam chịu sai phái mà thôi. Tấc lòng mọn mạy, kính xin bày tỏ”.


Tất cả những kế hoạch cụ thể và khẩn cấp mà Nguyễn Trường Tộ trình bày trong các văn bản từ cuối năm 1870 cho tới tháng 9-10 năm 1871, đã được Triều đình vua Tự Đức bàn đi tính lại, nhưng cuối cùng vẫn không đem đến một quyết định nào cả. Trong một văn bản cũng có thể là một trong những văn bản cuối cùng của đời mình, Nguyễn Trường Tộ còn nói là mọi sự như chưa có gì được bắt đầu:

Nay xin gấp rút đi giao thông các nơi để tìm kế chống lại họ, một mặt hãy sang gấp nước họ ở lâu bên ấy dùng tình dùng lý để vãn hồi sáu tỉnh (nếu cơ hội có thế tiến hành đánh úp được, tôi quyết không phụ những lời tôi đã nói); một mặt làm rõ vật gì cũng đều có chủ và giữ đúng lễ chủ khách để ngăn chặn lòng tham của họ; một mặt gấp rút tìm người mở rộng việc khai thác nguồn lợi để giúp giải quyết các cấp bách lúc mới đầu; một mặt đem những nguồn lợi dư bán cho bọn họ để giúp giải quyết những tình trạng khẩn cấp, một mặt chấn chỉnh học thuật khiến dân chúng xu hướng theo đường thực dụng, dứt bỏ thói phù hu vô dụng. Đó là căn bản lớn, muôn sự từ đó mà thành. Một mặt chia nhau đi chấn chỉnh công việc trong nước trừ bỏ các tệ đoan làm hại dân để làm lợi cho nước; một mặt mở rộng đường thương mãi để giàu có của cải; một mặt cần người giúp đỡ để dẹp sạch những cái xấu nhỏ cho dân được yên vui để thi hành đường lối chính trị mới; một mặt tu chỉnh các hình thế trong nước cho phù hợp với địa lý binh pháp mà trước đây chưa chuẩn bị được để tạo thế thành trì vững chắc; một mặt chiêu dụ các dân tộc man mọi phía sau núi, khai phá các vùng đất hoang để mở rộng lợi ích trong nước để thu nguồn lợi phía Tây; một mặt gấp rút lưu tâm việc tơ tằm dệt vải cho dân đủ dùng; một mặt gấp rút mở hội chợ trưng bày đấu xảo cho dân hứng thú chuộng những việc làm cơ bản để cho đời sống phong phú; một mặt gấp rút mở thêm một Bộ Tân pháp quan chức và dùng một vị đại thần thông hiểu tình hình thế giới đứng đầu để trách nhiệm việc thành lập Bộ ấy; một mặt tháo gỡ những sự hạn chế để cho những người thừa hành nền chính trị mới triển khai thi thố ý kiến của mình, thì mới hy vọng thành tựu được; một mặt hãy làm tiêu tan hết những gì trước đây đã làm cho người ta nghi ngờ mình hẹp hòi không rộng rãi, để cho người ta thấy mình đã quyết định thay đổi đường lối, đua đuổi cùng thiên hạ, khó lòng dùng quỷ thuật gì gây rối ta được, như vậy lòng khinh khi của họ mới dần dần tiêu tan, ta mới được vô sự.

“Các khoản lớn trình bày trên đây hiện nay hết sức khẩn cấp, hãy đứng dậy nhảy xổ ra bắt tay thực hiện ngay. Thời đã đến rồi. Thời khó được mà dễ mất, chớ nên nói hãy để sang năm”
(Di thảo số 54).

VI. TẠI SAO NGUYỄN TRƯỜNG TỘ THẤT BẠI?

Nguyễn Trường Tộ là một người muốn hiến trọn cả cuộc đời cho đất nước. Ông đã nói lên tất cả tâm tư và ý nguyện của mình trong bài Trần tình (Di thảo số 3). Sau này trong những lần tâm sự với Trần Tiễn Thành (Di thảo số 11 và 15), ông cũng nói lên ý chí của ông là không màng công danh, chỉ mong làm được việc gì để giúp nước. Đối với ông, việc nước là trên hết.

Ông thường nói trong các văn bản là phải coi việc nước như việc nhà (Xem di thảo số 27); nhưng riêng bản thân ông thì luôn luôn coi việc nước trọng hơn việc nhà (Xem cuối di thảo 40).

Là người công giáo, dĩ nhiên ông không đồng tình với việc cấm đạo bởi vì như vậy là vơ đũa cả nắm: Coi mọi người công giáo đều là theo Tây, như vậy là xô đẩy người công giáo vào chân tường, bắt buộc họ phải trông chờ người ngoài cứu giúp (Xem đi thảo số 2). Nhưng ông hiểu được biện pháp “Phân tháp” là một biện pháp gây đau thương và mất mát nhất cho đồng bào công giáo lúc bấy giờ. Trong di thảo số 14 (4-6-1866), ông nói: “Trước đây, nhân chuyện người Tây đột nhiên đến, Triều đình chưa rõ vì ý gì, nên tiến hành việc phân tháp để tạm thời giải tỏa sự nghi ngờ. Nhưng việc làm của Triều đình là do ý muốn yên dân, chứ không như việc làm của bọn ngoại gian, lửa đổ thêm dầu, làm điều ác độc ngoài pháp luật”.

Có nhiều sự việc quan trọng, Nguyễn Trường Tộ báo cáo với Triều đình và xin là không nói cho Giám mục Gauthier biết (Xem di thảo số 17). Trong số các linh mục Việt Nam mà Nguyễn Trường Tộ tiến cử với Triều đình, ông chỉ tin một mình linh mục Nguyễn Hoằng trong nhưng sự việc cẩn mật.

Nguyễn Trường Tộ là một người nhìn xa thấy rộng, nhưng đồng thời cũng là người rất thực tế. Những đề nghị cải cách của ông trong mọi lãnh vực, không có gì là quá cao xa, đòi hỏi những điều kiện quá mức, mà trái lại tất cả đều có thể đem ra từng bước thực hiện, phần nhiều với những phương tiện trong tầm tay của chúng ta thời đó.

Thế nhưng tại sao nhiệt tình và tài năng của Nguyễn Trường Tộ đã không được sử dụng?
LÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO ĐÃ CỘNG TÁC VỚI PHÁP?

Nguyễn Trường Tộ rất ý thức về vấn đề này. Ông đã phân giải dài dòng trong bài Trần tình (Di thảo số 3), là sở dĩ ông nhận làm phiên dịch các tài liệu cho Pháp là để giúp vào việc hòa đàm. Chứ khi thấy việc hòa đàm giữa Charner và Nguyễn Bá Nghi không thành, ông liền xin thôi không làm cho Pháp nữa. Trước kia và sau này Pháp đã muốn mời ông hợp tác mà ông nhất định không nhận. Đọc tất cả các văn bản của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta cũng thấy được điều đó. Tuy nhiên, đối với Nguyễn Trường Tộ, việc làm phiên dịch cho Pháp, mặc dầu với dụng ý tốt, là một sai lầm lớn. Ông đã nói lên điều này rất nhiều lần trong các văn bản của ông.

Ông đã tìm đủ mọi cách để đánh tan sự nghi ngờ của nhà vua và Triều đình. Ở đầu bài “Vua là quý, quan là trọng” (Di thảo số 13), ông nói: “Tôi sở dĩ khinh bỏ danh lợi cốt để Triều đình tin nghe, vì thâm ý của tôi là đi sang các nước xin nắm tình hình, không những nôn nóng để chửng tỏ mình là người không có hại, có thể làm được những việc chính nghĩa cho vua, mà còn để trở thành một kẻ mưu trí gấp lo chống đỡ hoạn nạn cho nước nhà nữa”.

Theo “Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ” của Nguyễn Trường Cửu thì trước khi chết, Nguyễn Trường Tộ có làm một câu thơ rằng: “Nhất thất túc thành thiên cố hận” (một lần sa chân làm cho suốt đời phải ân hận), dĩ nhiên là để nói về sự cố đó.

Tuy nhiên, sự nghi ngờ của vua Tự Đức và một số quan đầu triều, đối với Nguyễn Trường Tộ là người công giáo, là người đã cộng tác với Pháp, nếu có thì cũng chỉ là trong những năm đầu. Chứ từ giữa năm 1866 trở đi, tức là từ lúc vua và Triều đình quyết định cử Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier đi Pháp để thuê thầy và mua dụng cụ máy móc về để mở trường bách nghệ tại Huế, thì sự nghi ngờ đó không còn là một trở ngại đáng kể nữa. Hơn nữa thái độ của vua Tự Đức, đối với người công giáo nói chung, từ những năm 1867-1868 trở đi cũng đã có khác. Chẳng vì thế mà Giám mục Sohier, giáo phận Huế, và Giám mục Gauthier, giáo phận Vinh đã long trọng cử hành thánh lễ trong nhà thờ để cầu nguyện cho sức khỏe của vua Tự Đức năm 1870, nhân lễ tứ tuần của nhà vua1.
_______________________________________
1. Xem thư của Giám thục Gauthier gởi Hội Truyền giáo, Annales de la Propagation de la Foi tập 43 trang 259.

THIẾU TÍNH GIAI CẤP?

Có người nói rằng những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ thiếu tính giai cấp, nghĩa là không đặt những vấn đề như: chia ruộng đất cho nông dân, giảm tô cho tá điền, miễn thuế cho người nghèo... nên không được nhân dân ủng hộ.

Sự thực thì Nguyễn Trường Tộ chỉ có một chủ trương là làm cho dân giàu, nước mạnh, bằng cách canh tân, hiện đại hóa đất nước. Dĩ nhiên là ông cũng mong muốn cho tất cả mọi người dân đều được giàu có và được ấm no hạnh phúc; ông cũng chống việc người giàu cứ giàu thêm và người nghèo cứ nghèo mạt. Trong vấn đề xã hội, ông cũng nghĩ tới những người xấu số trong nhân dân. Nhưng chắc chắn là ông đã không phân tích cấu trúc của xã hội và nguồn gốc của sự giàu nghèo. Ông chỉ là một nhà cải cách, chứ không phải là một nhà cách mạng. Tuy nhiên những đề nghị cải cách của ông có thể làm cho dân giàu nước mạnh, có thể được nhiều người đồng tình ủng hộ.

Nhưng có một điều chắc chắn là những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ chỉ được gởi lên Triều đình vua Tự Đức và chỉ có nhà vua với một số rất ít quan lại cao cấp mới được đọc. Chứ tuyệt đối nhân dân không ai được biết. Thời đó hình như chỉ có một người là Nguyễn Lộ Trạch, con rể của Trần Tiễn Thành, đã đọc được một số văn bản của Nguyễn Trường Tộ và đã hưởng ứng bằng cách cũng viết những đề nghị tiếp theo gởi lên Triều đình Huế, dẫu rằng kiến thức và quy mô cải cách của Nguyễn Lộ Trạch không sao so sánh được với kiến thức và quy mô cải cách của Nguyễn Trường Tộ.

Sau này, khi những di thảo của Nguyễn Trường Tộ được đóng tập và trưng bày ở Thư viện Bảo Đại trước năm 1945, thì những ai đã có dịp đọc, đều tiếc cho Tổ quốc Việt Nam là đã bỏ mất một cơ hội canh tân và hiện đại hóa như nước Nhật.
TRƯỜNG HỢP CỦA NHẬT BẢN

Có người muốn so sánh nước ta thời Tự Đức với nước Nhật thời Minh Trị. Nhưng Nhật Bản trước lúc cải cách canh tân có một chế độ chính trị hoàn toàn khác.

Thực vậy, từ thời lập quốc Tây lịch, nước Nhật chỉ có một dòng họ làm Thiên Hoàng (Mikađo). Từ thế kỷ 17, Thiên Hoàng vẫn đứng đầu quốc gia, nhưng chỉ làm vì; thực quyền nằm trong tay Mạc Phủ (Bakufu), đứng đầu là Tướng quân (Shogun). Tướng quân cai trị thông qua các lãnh chúa và các lãnh chúa có toàn quyền về sinh mạng và tài sản của dân chúng trong lãnh địa của mình.

Cũng từ đầu thế kỷ 17, do muốn tránh họa ngoại xâm, Mạc Phủ đã chủ trương bế quan tỏa cảng. Nhưng vào những năm 50, 60 của thế kỷ 19, do áp lực của các nước thực dân phương Tây muốn dòm ngó Nhật Bản, Mạc Phủ đã phải nhượng bộ, ký các hiệp ước bất bình đẳng - Một phong trào bài ngoại và đòi Mạc Phủ trả lại quyền hành cho Thiên Hoàng nổi lên rầm rộ. Cuối cùng Tướng quân Khánh Hỷ (Keiki) ngày 3-11-1867 đã viết biểu xin trả lại quyền hành cho Thiên Hoàng. Thiên Hoàng lúc đó là Mục Nhân (Mutsuhito), lên ngôi ngày 3-2-1867 lấy hiệu là Minh Trị (Meiji) mới 15 tuổi. Ngày 6-4-1868, Thiên Hoàng cùng với quần thần văn võ làm lễ tuyên thệ duy tân mở rộng dân chủ, (lập chế độ đại nghị, ban hành quyền bình đẳng trong nhân dân); mở rộng cửa bang giao; canh tân và phát triển đất nước.

Ngày 6-4-1868 quả đã mở ra cho Nhật Bản một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên Minh Trị, duy tân, đem đất nước lên ngang tầm với các cường quốc trên thế giới.

Công cuộc duy tân của nước Nhật rõ ràng không phải là sáng kiến của Minh trị Thiên Hoàng, một ông vua mới 15, 16 tuổi. Cũng không do một Nguyễn Trường Tộ mà do rất nhiều Nguyễn Trường Tộ. Bởi vì người Nhật tiếp xúc với người Tây phương rất sớm, từ thế kỷ 15, 16. Nhưng do sợ ảnh hưởng của người nước ngoài nhất là các giáo sĩ châu Âu, đầu thế kỷ 17, Mạc Phủ cho lệnh đóng cửa, không giao thiệp với bên ngoài. Tuy nhiên chính trong thời gian đóng cửa đó sách vở Tây phương vẫn được lén lút đưa vào và dịch ra tiếng Nhật; nhiều người Nhật vẫn tìm cách học tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức; chính Tướng quân và các lãnh chúa vẫn âm thầm cho sinh viên “trốn” sang châu Âu học tập; chính Tướng quân và các lãnh chúa vẫn có những cơ sở làm ăn với người nước ngoài. Từ những năm 1850, Tướng quân và các lãnh chúa đã có xưởng đúc súng bằng sắt thay cho những khẩu thần công lỗi thời; từ năm 1852, Tướng quân và các lãnh chúa đã có xưởng đóng tàu. Vào lúc Minh Trị tuyên thệ duy tân, ở Nhật đã có tất cả 138 tàu theo kiểu Tây phương, hoặc tự đóng lấy hoặc mua bên ngoài đem về; từ năm 1857, Tướng quân đã có nhà máy luyện kim do người Hà Lan điều khiển...

Nguyễn Trường Tộ vẫn quan tâm theo dõi Nhật Bản. Ông đã nói nhiều lần đến nước Nhật trong các văn bản của ông. Có người nói là đã có một cuộc gặp gỡ và bút đàm1 giữa Nguyễn Trường Tộ và Y Đằng Bác Văn (Ito Hirobumi). Nhưng đó có lẽ chỉ là một giả thuyết, chưa thấy có cơ sở nào cả. Bởi vì Nguyễn Trường Tộ, theo chỗ chúng tôi biết, chỉ đi ra nước ngoài hai lần vào những năm 1859-1860 và 1867-1868. Riêng Ito Hirobumi (1841-1909) thì được lãnh chúa Choshu gởi sang Anh học năm 1863 và cuối năm 1864 chúng ta đã thấy có mặt ông ở Nhật Bản để làm thông dịch cho Tướng quân thương thuyết với các nước đồng minh. Trong Tế cấp bát điều (Di thảo số 27, 15-11-1867), Nguyễn Trường Tộ nói là “hiện có 1 hoàng tử và 35 người cùng đi với một linh mục mới đến Ba Lê và đã thiết lập ở đó một đại học xá để phái người sang học”. Trong số những người Nhật mà Nguyễn Trường Tộ nói trên đây, có Ito Hirobumi hay không, thì chúng ta chưa xác minh được. Nhưng từ khoảng tháng 10-1871, Nguyễn Trường Tộ đã thấy rõ tương lai xán lạn của nước Nhật và cũng tỏ ra buồn cho nước ta (Xem di thảo số 55).
VIỆT NAM THỜI NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

Nước ta, thời Nguyễn Trường Tộ cũng có vua, có quan lại, có Triều đình. Nhưng tất cả quyền hành là ở trong tay vua, các quan lại chỉ là bầy tôi, hiểu theo đúng nghĩa đen của từ đó. Bởi vì vua muốn thăng ai, giáng ai thì đều trọn quyền và lắm lúc rất tự tiện. Đọc chính sử nhà Nguyễn, khi thấy những quan đại thần, đầu triều như Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành... mỗi lần đi thương thuyết xin đòi lại ba tỉnh, sáu tỉnh Nam kỳ không được đều bị giáng ba bốn cấp, ai mà chẳng buồn cười.

Trong một chế độ chính trị tập trung quyền hành như thế, nếu vua không quyết định làm, thì chẳng ai dám quyết định cả.

Vua Tự Đức, theo như nhiều tác giả bình luận, cũng là một con người thông minh, có thể hiểu được nhiều việc, mặc dầu bị đóng khung trong nội cấm. Từ đầu năm 1866, hình như nhà vua bắt đầu để ý đến Nguyễn Trường Tộ, giao cho Nguyễn Trường Tộ đi tìm mỏ than, rồi lại sai Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier đi Pháp thuê thầy và mua sắm dụng cụ mở trường kỹ thuật theo phương pháp Tây phương ở Huế. Đầu năm 1868, khi phái đoàn Nguyễn Trường Tộ và giám mục đem các dụng cụ máy móc và sách kỹ thuật về, nhà vua rất vui mừng và săn đón, việc mở trường coi như đã sắp hình thành. Nhưng do phản ứng của sĩ phu khắp nơi, sợ ảnh hưởng của Tây phương, sợ ảnh hưởng của công giáo, nhà vua lại chùn bước, việc mở trường bị bỏ dở, các sách vở và máy móc dụng cụ, tốn hàng chục ngàn quan Pháp mua về chỉ để chất đống trong kho cho tới hư hỏng. Vua Tự Đức là ông vua nhu nhược, sợ sự chống đối của sĩ phu, không bao giờ dám quyết định một điều gì nữa, chỉ để cho thời cuộc trôi qua, dẫn đưa đất nước từ thảm họa này tới thảm họa khác.

Sĩ phu nước ta lúc bấy giờ là những nhà nho chỉ biết nho học, chỉ biết Trung Quốc cũ, chứ không biết gì về thế giới bên ngoài, không biết gì về khoa học kỹ thuật Tây phương.

Các nhà nho ta đời bấy giờ, theo nhận định của cụ Cao Xuân Huy, nhìn cái hiện thực tư bản chủ nghĩa mới xuất hiện bằng những cái khung cố định, tức là những phạm trù phong kiến đã có hơn hai ngàn năm sinh mệnh... Do đó họ thấy trong cái hiện thực mới những hiện trạng phi chính thường và quái gở, nhất là họ có những nhận định rất sai lầm về văn minh khoa học kỹ thuật của Tây chương. Đó chính là môi trường tư tưởng trong đó sản sinh ra tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ. Trong khi chung quanh người ta nhìn hiện thực mới bằng những cái khung cũ kỹ, do đó nhìn sai, nhìn lệch, thì chỉ có Nguyễn Trường Tộ có đủ nhãn lực để nhìn đúng hiện thực ấy”2.

Điều không may cho Nguyễn Trường Tộ chính là đã ở vào một thời đại với một ông vua nhu nhược, với những quan lại vô trách nhiệm, với một tầng lớp sĩ phu lỗi thời, lạc hậu.
TRƯƠNG BÁ CẦN

______________________________________
1. Xem Đào Đăng Vỹ: “Nguyễn Trường Tộ và Y Đằng Bác Văn”. Văn Đàn số 30-11-1961 trang 11.
2. Cao Xuân Huy: “Tình hình xã hội và tư tưởng Việt Nam thời Tự Đức”, tài liệu giảng dạy ở Đại học Tổng hợp Hà Nội, chưa in.


NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
di thảo


DI THẢO của Nguyễn Trường Tộ, chủ yếu, là những văn bản, quen gọi là các điều trần, được gởi lên Triều đình vua Tự Đức từ 1861 đến 1871.

Hai chữ điều trần, để nói về các văn bản của Nguyễn Trường Tộ, có lẽ đã được sử dụng lần đầu tiên trong Tạp chí NAM PHONG số 100, số đăng tải văn bản đầu tiên của Nguyễn Trường Tộ với đầu đề: “Nguyễn Trường Tộ điều trần, thiên hạ đại thế nguyên tập”. Còn trong chính các văn bản của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta không bao giờ thấy có hai chữ điều trần.

Có thể là, theo thông lệ, khi viết các văn bản gởi lên Triều đình, Nguyễn Trường Tộ không đặt đầu đề cho chúng. Nhưng khi nhắc lại các văn bản cũ của mình, Nguyễn Trường Tộ dùng chữ luận cho ba văn bản đầu tiên của mình là: Thiên hạ phân hợp đến thế luận, Tế cấp luận, Giáo môn luận. Còn khi nói vc các văn bản này, Nguyễn Trường Tộ thường dùng chữ từ, như: Lục lợi từ, Khai hoang từ, hoặc nói chung “bẩm từ”, “trần từ”…

Hai chữ điều trần thực ra, theo đúng nghĩa của chúng, chỉ là: Trình bày rõ ràng theo từng điểm, từng việc. Nhưng hai chữ điều trần, do được sử dụng để nói về các văn bản của Nguyễn Trường Tộ, đã được thông dụng đến độ trở thành một thuật ngữ để chỉ các văn bản gởi lên nhà cầm quyền. Trong TỰ ĐIỂN TIẾNG VIỆT của Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967, điều trần có hai nghĩa. Một nghĩa thông thường và một nghĩa chuyên dùng. Theo nghĩa thứ hai này, thì điều trần là “Bản trình bày ý kiến đưa lên nhà cầm quyền (cũ): “Điều trần của Nguyễn Trường Tộ” (trang 374, cột 1).

Tuy nhiên, theo chúng tôi, điều trần như thế phải là một văn bản trình bày vấn đề một cách quy mô và có độ dày của nó. Còn như các văn bản của Nguyễn Trường Tộ gởi cho Triều đình Huế, thì có những bản là cả một bài luận văn dài như Thiên hạ đại thế luận, Dụ tài tế cấp bẩm từ, Khai hoang từ, Tế cấp bát điều... ; có bài vỏn vẹn chỉ một hai trang, trả lời hay góp ý cho một vấn đề nào đó, như mua thuyền máy, các vật dụng sứ bộ phải mang theo...
*

Tất cả các văn bản của Nguyễn Trường Tộ gởi lên Triều đình vua Tự Đức đều bằng chữ Hán: Có những văn bản chính thức được lưu giữ trong thư viện của Triều đình, có bản với lời châu phê (ghi bằng chữ đỏ) của nhà vua; có những văn bản chỉ là bản sao hoặc bản thảo được cất giữ trong gia đình của tiên sinh ở Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ Tĩnh.

Những văn bản lưu giữ ở Thư viện của Triều đình Huế trước đây đã được đóng thành tập và trước Cách mạng Tháng 8-1945, có nhiều người đã tới Thư viện Bảo Đại để tham khảo hoặc sao chép các văn bản đó.  

Theo ông Dào Duy Anh, trong một bài viết trên CÔNG GIÁO VÀ DÂN TỘC số đề ngày 12-7-1983 (Xem phụ lục số XI), thì vào khoảng năm 1938, ông có tới gia đình ông Nguyễn Trường Cửu là con trai Nguyễn Trường Tộ ở Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ Tĩnh và xin được các bản văn, bút tích của Nguyễn Trường Tộ, cùng với một quyển sổ tay của Nguyễn Trường Tộ ghi chép trong chuyến đi Pháp với Giám mục Gauthier năm 1867 – 1868 (sau ông Đào Duy Anh có cho chép lại các văn bản này để gởi lại cho gia đình ông Nguyễn Trường Cửu). Ông Đào Duy Anh cũng thuê người vào Thư viện Bảo Đại sao chép các văn bản chính thức của Nguyễn Trường Tộ, rồi đem đối chiếu với các bản sao hoặc bản thảo lưu giữ trong gia đình ông Nguyễn Trường Cửu, để làm thành bốn quyển; bốn quyển này, ông Đào Duy Anh đã đề tặng cho ông Tôn Quang Phiệt một bản và ông Lê Thọ Xuân, ở Sài Gòn một bản. Sau Cách mạng Tháng 8-1945, do việc di chuyển các tài liệu từ Thư viện Bảo Đại sang một nơi khác, một số tài liệu bằng chữ Hán đã bị mất cắp và đem bán ở chợ Đông Ba làm giấy cuốn thuốc lá, trong số đó có các bản văn chính thức của Nguyễn Trường Tộ, do ông Thân Trọng Bính mua được và đem tặng cho ông Đào Duy Anh: tất cả các sách vở và tài liệu của ông Đào Duy Anh, trong đó có những tài liệu quý về Nguyễn Trường Tộ, đều bị mất và có thể bị hủy hoại trên chuyến xe lửa cuối cùng từ ga Hàng Cỏ Hà Nội đi Vinh trước lúc cuộc toàn quốc kháng chiến bùng nổ ngày 19-12-1946; sau này ông Đào Duy Anh đã xin lại được 4 tập đã tặng cho ông Tôn Quang Phiệt để đem ra chiến khu Việt Bắc, cho Ban Sư Địa, sau này là Viện Sử học.

Như thế là, theo ông Đào Duy Anh, những văn bản chính thức của Nguyễn Trường Tộ gởi lên Triều đình vua Tự Đức, với châu phê của nhà vua, đã bị mất trên đường hỏa xa từ Hà Nội đi Vinh. Những tài liệu quý này, hoặc đã bị hư mất hoặc đã được cất giữ một nơi nào đó mà chúng ta chưa biết. Nhưng khả năng trở thành hư vô là rất lớn. Có một điều chắc chắn là tại kho Lưu trữ Khu vực II, ở thành phố Hồ Chí Minh, trong CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN, không thấy có một văn bản nào của Nguyễn Trường Tộ.

Những văn bản của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta có hiện nay đều là những bản đã được sao chép lại.

1. Ở Thư viện Viện Sử học, 38 phố Hàng Chuối, Hà Nội hiện có:

- Bốn quyển ký hiệu Hv 189 từ 1 đến 4, có thể là 4 quyển do ông Đào Duy Anh sao chép tổng hợp từ các văn bản lưu giữ ở Thư Viện Bảo Đại và trong gia đình ông Nguyễn Trường Cửu ở Bùi Chu, Nghệ Tĩnh. Bốn quyển này ông Đào Duy Anh sao tặng ông Tôn Quang Phiệt, sau giao lại cho Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa, tiền thân của Viện Sử học.

- Bốn quyển ký hiệu Hv 634 từ 1 đến 4, do Mặc Si Nguyễn Huy Nhu sao lại từ các bản chép tay mượn của ông Đào Đăng Vỹ.

- Một quyển mang ký hiệu Hv 135, gồm 9 văn bản. Trong số 9 văn bản này, có 8 văn bản đã được đăng tải trên tạp chí NAM PHONG. Tất cả 9 văn bản này đều có trong Hv 189 và Hv 634.

2. Ở Thư viện Hán Nôm, đường Lý Thường Kiệt, Hà Nội, hầu hết các văn bản về Nguyễn Trường Tộ mang ký hiệu VHv đều là sao chép lại từ các văn bản của Thư viện Viện Sử học, như:

VHv 2620/1-4 chép lại Hv 189/1-4
VHv 2620/5 chép lại Hv 135
VHv 1153 chép lại Hv 189/3
VHv 1431 chép lại Hv 189/2

Chỉ riêng VHv 170 gồm 5 văn bản không phải là sao chép y nguyên từ một bản nào của Viện Sử học, nhưng các văn bản này đều có cả trong Hv 189 và Hv 634. Nói tóm lại, là hầu như toàn bộ di thảo của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta hiện có được đều nằm trong hai bản Hv 189/1-4 và Hv 634/1-4. Duy chỉ có văn bản về “Cải cách phong tục” (Di thảo số 47), do XTT dịch, đăng trên báo TIẾNG DÂN từ số tháng 1-1940 là không có trong Hv 189 và Hv 634. Bản dịch này cũng như một số bản dịch của VĂN ĐÀN - Di thảo số 18, 44, 46 - chứng tỏ là còn có những bản sao chép về di thảo của Nguyễn Trường Tộ mà chúng tôi hiện chưa biết đang nằm ở đâu, khác với các bản sao chép mà Thư viện Viện Sử học và Thư viện Hán Nôm ở Hà Nội đang lưu giữ.


DI THẢO SỐ 1


Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ*

(Thiên hạ đại thế luận)

(Tháng 2-3 năm Tự Đức 16 tức tháng 3-4 năm 1863)

Tôi là Nguyễn Trường Tộ, bề tôi nước Đại Nam đã từng trốn ra nước ngoài xin đem những điều mà tôi đã biết và thấy một cách chính xác về sự thế trong thiên hạ, mạo tội kính bẩm.

Trộm nghĩ việc trong thiên hạ chỉ có “thế” mà thôi. Chữ “thế” là nói bao gồm cả thiên thời nhân sự. Cho nên người biết rõ “thế” thì không trái trời, không mất thời, không hại người, không hỏng việc.

Hãy nói về thiên đạo trước. Khí đất là từ Bắc đến Nam, vận trời từ Tây sang Đông, theo Hà đồ1 thì thủy ở về phương Bắc, hỏa ở về phương Nam, kim ở về phương Tây, mộc ở về phương Đông. Thủy thì diệt hỏa, kim diệt mộc, ấy là lẽ tự nhiên của trời đất luôn luôn như vậy.

Ngày nay các nước phương Tây, đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị họ chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở phía Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân tới, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ. Như thế, nếu đó không phải là ý trời định, địa thế xoay vần, thì sao không lấy số đông của bốn đại châu mà kháng cự lại người Tây phương? Huống hồ nước Việt ta là một nước bé nhỏ, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được?

Đến như địa thế Trung Hoa chiếm 1 phần 3 Đông phương2 nhân số đến 360 triệu, uy thế lẫy lừng, ai cũng phải thần phục họ cả, thế mà từ thời Minh về sau, người Tây phương vượt biển sang Đông, hai bên đánh nhau, thây chất thành đống, sau phải giảng hòa không biết bao nhiêu lần. Còn như ta là một xứ nóng, gần kề Quế Hải3, là trạm nghỉ chân của người Tây phương trên đường sang Đông. Con giao long khi thấy đầm vực thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể chịu bỏ mà đi.
______________________________________
* Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 34 - 45; Hv 634/1 tờ 40 - 58; Hv 135 tờ 38 - 50; NAM PHONG (N.P) số 100 trang 47 - 58.
    - Về nội dung, bản NAM PHONG, trong chi tiết, có những lời lẽ dài dòng và không chính xác bằng ba bản kia.
    - Về ngày tháng năm, thì chỉ có Hv 189/1 là ghi “Tự Đức thập lục niên, nguyệt..., nhật...); còn ba bản kia thì không ghi ngày tháng. Từ Ngọc Nguyễn Lân, sđd, có trích nhiều đoạn của Thiên hạ đại thế và nói: Không rõ ngày tháng.
    - Về đầu đề thì NAM PHONG ghi: “Nguyễn Trường Tộ điều trần thiên hạ đại thế nguyên tập (nguyên danh quốc tế thượng giao thông chi chính sách)”. Hv 634/1 ghi: “Điều trần thỉnh hứa đại Pháp quốc khai phụ thông thương”, còn Hv 189/1 và Hv 135 không có đầu đề. Chính Nguyễn Trường Tộ, trong Trần tình, nói: “Thiên hạ phân hợp đại thế luận” và trong các bài viết sau này, nhiều lần nói đến “Luận phân hợp”. Ông Nguyễn Lân nói: “Thiên hạ đại thế”; ông Đào Duy Anh nói: “Thiên hạ đại thế luận”.
    Từ những dữ kiện nêu trên, chúng ta có thể tạm kết luận là Nguyễn Trường Tộ đã viết, để thuyết phục Triều đình Huế phải hòa với Pháp, vào hai thời điểm khác nhau:
        a. Theo bài Trần tình, thì năm 1861, Nguyễn Trường Tộ đã có gởi cho Nguyễn Bá Nghi một bài Bàn về việc hòa (Hòa từ) và trong Trần tình có trích một đoạn của Hòa từ, lời lẽ hoàn toàn giống như trong bản N.P và các bản Hv. Bản văn đăng trong N. P có thể là bài Bàn về việc hòa của năm 1861. Bởi vì bản N. P so với các bản Hv, lời lẽ không chỉnh và không khúc chiết bằng. Hơn nữa bài Bàn về việc hòa hình như được viết để cho nhà vua đọc, nên tác giả nói: “Phục vọng chuẩn thần sở kiến”: kính mong các ý kiến của thần được chấp thuận, trong lúc các bản Hv nói: “đại nhân cụ đề chuyển tấu”: kính xin đại nhân tâu lại đầy đủ. Bản N.P lại có phụ đề: “Nguyên danh: Quốc tế thượng giao thông chi chính sách”.
        b. Cũng theo bài Trần tình, thì năm 1863, Nguyễn Trường Tộ còn có bài Thiên hạ phân hợp đại thế luận. Để viết bài này, Nguyễn Trường Tộ chỉ lấy bài Hòa từ sửa chữa lại cho chỉnh và gọn gàng. Lúc đầu, hình như Nguyễn Trường Tộ định viết như một thư văn có mào đầu, có niên hiệu; nhưng sau có thể đã sửa chữa để gởi kèm theo bài Trần tình như một bài nghị luận, nên không có mào đề, không có niên hiệu. Đây là bản đã được sao chép lại trong Hv 135 và Hv 634/1 mà các tác giả như Nguyễn Lân, Đào Đăng Vĩ đều đã tham khảo và nói là “không rõ ngày tháng”. Bản được sao chép trong Hv 189/1 có lẽ là bản thảo ban đầu được sao chép lại gởi cho Phạm Phú Thứ. Ở đầu bài có ghi: “Giá tập ký dữ thần Phạm Phú Thứ (Bản này gởi thần Phạm Phú Thứ”). Đây có thể là lời của Nội Các hay Viện Cơ Mật.
1. Hà đồ: Thời ông Phục Hy làm vua thiên hạ, có con Long mã đội bức “đồ” (tức là bức vẽ) hiện ra ở sông Hà, ông Phục Hy theo cái văn bản ở trong bức đồ ấy vạch ra 8 quẻ ứng với 5 điều thủy, hỏa, kim, mộc và thổ là ở giữa bức đồ.
2. NAM PHONG nói: 2/3 Á Đông, Nguyễn Lân sđd trang 129 cũng nói: “một phần ba Á đông”.
3. Nam Hải.

Mới đây, người Pháp thừa thế đánh xong tỉnh Quảng Đông, đã đưa quân tinh nhuệ xuống phía Nam, làm Đà Nẵng thất thủ. Khi ấy giả sử ta có 10 vạn quân, cũng không đánh nhau được với họ. Phàm việc binh cốt ở thần tốc, họ đã biết rõ rằng quân ta mới nghe thanh thế họ đã phách lạc hồn xiêu rồi, hơn nữa cảng Đà Nẵng cách các doanh trại1 ta chẳng bao xa thế tại sao họ không thừa thế chẻ tre, xua quân tinh nhuệ tiến tới mà lại thôi? Sao cứ thong dong nhàn hạ không cần lợi dụng thế tốc chiến? Hay vì họ nghĩ rằng ta phòng bị chưa kiên cố. Bởi lẽ ta càng phòng bị kiên cố chừng nào thì càng tỏ rõ được cái năng lực công phá của họ chừng ấy. Họ không cần thừa chỗ sơ hở mà đánh xuất kỳ bất ý như đối với nước địch có thế lực ngang ngửa với họ. Hơn nữa, người Pháp đến đây, một là hỏi ta vì sao giết hại giáo sĩ, hai là hỏi vì sao không chịu giao thiệp, ba là xin ta cắt cho một vài chỗ để làm đường giao thương như các nước thường làm. Lúc đầu họ không có ý đi cướp nước người. Nếu những yêu sách của họ được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn như đã ước định chứ đâu đến nỗi dây dưa lan rộng như thế. Cũng ví như nước lụt, người hiểu biết thì thuận theo thế nước mà cho chảy xuôi, để nước chảy về sông về biển thì hết, nếu ngăn đọng lại thì úng núi ngập gò, tắc lại thì trôi nhà trôi cửa. Cho nên người khéo trị lụt, thì việc làm hết sức đơn giản.

Hiện nay quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, họ đào kinh đắp lũy trù kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển. Bây giờ như ta muốn cố thủ thành trì đợi cho họ tê liệt thì thật chẳng khác nào muốn quét sạch lá rừng, tát cạn nước biển. Không hòa mà chiến, khác nào cứu lửa đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy nhanh hơn nữa.

Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà biết rằng hòa với Pháp là thượng sách. Hơn nữa ở châu Âu việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh nhất không thua ai cả. Họ lại có tính khẳng khái, hiếu chiến, với uy phong của một quân đội có xe sắt. Tuy dụng binh nhưng cũng biết trọng nghĩa giữ lời, không như các nước chỉ chuyên thủ lợi. Khi kéo quân đi đánh thì khí thế hiên ngang, thái độ hân hoan. Khi lâm trận thì xông pha tới trước, không chịu tụt lùi. Khi thắng trận thì cả nước hoan hô, dù tổn thất nghìn muôn người cũng chẳng tiếc, chỉ sao cho uy danh hùng tráng, quốc thể được bảo toàn làm trọng. Các tướng thì gan dạ, nhiều mưu trí, thạo binh pháp, thủy chiến, lục chiến đều rất giỏi. Thật đúng như sách DOANH HOÀN CHÍ LƯỢC đã chép vậy.

Nếu như ngày kia Pháp đưa quân đến thì việc vượt biển cũng như đi trên đất bằng, trèo non như đi trên đường bộ. Nước ta tựa núi kề biển, địa thế như một con rắn dài. Nếu họ dùng hỏa thuyền chia nhau đánh cắt các tỉnh dọc bờ biển, lại cho các tàu đậu ngoài cửa sông lớn để triệt sự vận tải đường biển của ta, lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chặn đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương, rồi lại đổ bộ tiến đánh các chỗ xung yếu, gấp rút truyền hịch khắp Nam Bắc, chiêu mộ bọn giặc cướp ẩn náu dùng làm bọn dẫn đường, thì thủy binh của ta sẽ trở thành vô dụng. Bộ binh thì đại lộ không thông. Chỉ còn đường Vạn Tượng, Ai Lao, Trấn Ninh, và đất Cao Miên thì lại hiểm trở khó đi mất nhiều ngày tháng đầu đuôi không liên lạc được với nhau. Nếu họ đánh một trận thì ta đã bị cái thế chia năm xẻ bảy2. Dù cho có trí dũng cũng không kịp ra mưu. Đại thế đã mất, lòng quân sĩ đã lìa thì còn ai đánh giặc nữa? Địa lợi như thế thì không thể trông cậy vào đâu được.

Quân lính của ta lại chuyên dùng gươm dao gậy gộc, không thạo súng ống, dù phục binh cài bẫy, nhưng trận đồ như vậy chỉ hợp cho những tình thế không cấp bách, chỉ đánh được gần chứ không đánh được xa. Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn suốt tới, thì quân ta chưa giáp trận mà gươm giáo đã tan tành. Khi họ đến gần thì dùng lưỡi lê xung phong một người đương được cả 100 người, xông lên như nước sông chảy xiết. Lúc ngừng lại thì như núi dựng, xông vào chẳng qua cũng như chuồn chuồn lay cột đá mà thôi.

Hơn nữa, họ đã lão luyện chiến trận những phương pháp của Đông phương như dụ địch, kiêu binh, địa lôi, hỏa công, sập hầm, thuốc độc họ đều biết cả, dù có người trí xảo đến mấy cũng không nhử được họ. Huống chi việc thắng bại lại do ở nhuệ khí. Họ từ xa đến, dấn thân vào chỗ chết với khí thế một ra đi là không trở về3. Còn quân lính ta xưa nay vốn nhát gan, lại chưa quen đánh trận với nước khác, một ngày kia gặp phải quân địch mạnh mẽ, tuy có lòng dũng cảm nhưng khí thế đã suy lại đánh đâu thua đó, vừa mới nghe bóng nghe gió đã mất hết hồn vía, tham sống sợ chết là lẽ thường tình. Chỉ trước khi ra trận mà có lòng quyết thắng địch thì mới khỏi chết. Nay đã biết họ có thể tất thắng, ta có cơ dễ thua, lại không biết phép ra quân của họ biến hóa như thế nào mà đem quân nhút nhát của mình ra đánh lại quân vô địch của họ thật chẳng khác nào như bắt muỗi đội núi, đem dê đấu hổ, rõ ràng là lối tấn công như vậy không dùng được nữa.
_____________________________________
1. NAM PHONG nói: “Đà Nẵng đi kinh đô” (Đà Nẵng khứ Kinh). Nhưng nói như vậy là lúc Nguyễn Trường Tộ đánh giá chưa đúng lý do tại sao quân Pháp đầu năm 1858 không tiến đánh Huế mà lại hướng vào Nam bộ.
2. Những chữ xiên không có trong Nam Phong.
3. Nguyên văn là Phá phủ trầm chu chi thế. Do tích: Ngày xưa Hạng Vũ đem quân đi đánh Tần, lúc đã đến gần chiến trường ông bắt đập vỡ hết cả nồi chảo nấu cơm, đánh đắm thuyền, chỉ mang lương thực vừa đủ ăn trong ba ngày, để tỏ ý cho quân sĩ biết rằng nhất định phải quyết chiến, nên ai nấy phải liều chết.

Theo binh pháp, muốn cố thủ phải có hai điều kiện: một là thành trì, hai là nhân tâm. Lúc địch mới đến thì phải gấp rút chặn những chỗ xung yếu mà đuổi nó đi. Nếu kẻ địch đã thọc sâu vào cứ điểm, thì phải có thành cao hào sâu để hãm kẻ dịch mệt mỏi. Đó là thượng sách. Ngày nay quân Pháp có hỏa thuyền để vận tải thì việc vượt muôn dặm cũng bằng chèo một mái chèo mà thôi. Nếu ta muốn ngăn bể để tuyệt lương của họ cũng không thể được. Họ muốn tăng thêm quân sang ta thì theo đường Biển Đỏ chỉ độ bốn, năm tuần là đến nơi. Nếu cần lắm thì gởi giấy xin quân Anh đóng ở Ấn Độ, Tức Lực, Hương Cảng, Thượng Hải... thì sớm chiều là có thể đến nơi để giúp. Lại có quân của Y Pha Nho ở Lữ Tống, đến dồn sức tấn công.

Quân Pháp đánh thành không cần dùng những phương pháp bắc thang đường hầm, xe kiếm, bao đất1, mà đại pháo bắn ra thì núi lở gò sập, thành đã vỡ, thì ta tuy có lương tiền nhiều, gươm giáo sắc và có phương pháp giữ thành cũng trở nên vô dụng. Hơn nữa, người Pháp đánh ta, trèo thành như lên đệm gối, sở dĩ lâu nay họ chưa dùng đến là vì cắt cổ gà cần gì phải dùng dao mổ trâu. Nếu gặp đối thủ thì như trận đánh ở Biển Đen năm trước, Tây Ba Sĩ Đa Bốc Lỗ là một thành kiên cố nhất thiên hạ, Nga là một nước cường địch bậc nhất trong thiên hạ có trăm vạn quân, đã giữ vững trong hai năm, thế mà rồi cũng bị hãm. Lấy ta so sánh với Nga cũng như lấy Đằng, Tiết mà so sánh với Tần, Sở2. Nga như thế mà chống không được còn bị đánh tan tành, ta đâu có đủ sự hiểm yếu nào có thể mong cậy được!

Hiện nay tình hình trong nước rối loạn. Trời thì sanh tai biến để cảnh cáo, đất thì hạn hán tai ương, tiền của sức lực của dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi, trong Triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn những bậc hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều; ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá tác phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước, việc đó đã xảy ra từ lâu rồi. Những kẻ hận đời ghét kẻ gian tà, những kẻ thất chí vong mạng, phần nhiều ẩn núp nơi thảo dã, chính là lúc Thắng, Quảng3 sẽ thừa cơ nổi dậy. Thế mà sao đối ngoại thì không có cách nào để động đến một mảy may lông của quân Pháp, cũng chẳng thuyết phục được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát dân mình, giận cá chém thớt, khiến cho dân bị cái hại “cháy nhà vạ lây”. Thật đúng như câu nói: “đào ao đuổi cá”, “nối giáo cho giặc”. Cây cối trước hết tự nó hủ mục sau mới bị sâu đục; nước mình trước hết không biết tự giữ thể diện thì người ta mới khinh mình; dân loạn bên trong, rồi kẻ địch mới nhân đó mà vào. Như thế loạn không phải chỉ từ bên ngoài mà ở ngay trong nước vậy.

Than ôi! Dân chúng phụng sự quan trên, đóng thuế nạp tô, để mong được sống yên thân, thế mà bây giờ lại lấy những thứ nuôi sống người đó để làm hại người, nỡ khiến dân chúng vấp phải họa binh đao, nỡ tranh giành cái nhỏ mà bỏ cái lớn, cũng như muốn bảo tồn cành lá mà lại đem đẵn cả cội gốc. Cho nên mới nói: không sợ thế giặc ngang tàng mà sợ lòng người rời rạc. Lòng người đã rời rạc, đã muốn chóng mất, thì dù có thành trì bằng kim loại, có ao nước sôi cũng phải bỏ mà chạy, ai ở đó chịu chết mà giữ cho!
_______________________________________
1. Xe kiếm: Là một loại xe đằng trước có mũi nhọn bằng sắt để húc cho thủng thành, bao đất; dịch chữ “thổ nang” tức là bao đựng đất để sắp đống mà trèo thành.
2. Đằng, Tiết là hai nước rất nhỏ. Tần, Sở là hai nước rất lớn thời Xuân Thu (Trung Quốc).
3. Thắng, Quảng: Trần Thắng, Ngô Quảng đã từng tụ tập nông dân, chống lại Tần Thủy Hoàng.


Sự thế hiện nay chỉ có hòa. Hòa thì trên không cưỡng lại ý trời, dưới có thể làm cho dân khỏi khổ, chấm dứt được sự dòm ngó của bọn gian nghịch, ngăn chặn được sự tranh giành của nước ngoài, thật là hay không thể kể xiết. Còn việc binh đao thì thật là tai họa nó làm cho vợ góa con côi, tổn thương hòa khí của trời đất, sinh ra hạn hán lụt lội. Thánh nhân bất đắc dĩ mới phải dụng binh dẹp loạn. Nếu không đánh mà khuất phục được binh lính người mới là đánh giỏi. Nay có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi. Họ chỉ xin mình miếng đất mà thôi, nếu cứ kiên quyết không cho, họ sẽ lập mưu cướp hết, từ khách quay lại làm chủ. Như thế là tiếc một hai mảnh đất mà đem cả nước trao cho họ. Nếu biết rõ, họ đã đến là không đi, họ ỷ thế vào những nước khác, thì đánh với họ tức là mất cái lớn không đáng mất mà còn tỏ ra mất đó là vì bất lực, không hợp tình, không kêu nài gì được; chi bằng hòa mà chịu mất cái nhỏ không thể không mất mà còn tỏ ra mình ngoại giao biết điều và là việc hợp tình hợp lý có hơn không? Nếu bảo quân ta mạnh, lúa gạo ta nhiều, chưa chi đã vội hòa sợ thiên hạ cười chê chăng? Nói như thế tức là không nhịn nhục việc nhỏ để hỏng việc lớn vậy1. Không thấy một nước Trung Hoa to lớn là thế mà còn phải cắt đất cầu hòa. Lại nữa, như Thái vương bỏ đất Mân2, Câu Tiễn thờ vua Ngô, việc hòa thân của Hán3, việc cống nạp của Tống4, tất cả đều lấy việc không đánh là hơn, mà còn trọng sinh mệnh nữa. Luận việc này có ai cho là thất sách đâu?

Hoặc giả có người nói đất đai tổ tiên để lại không được đưa gang tấc nào cho kẻ khác. Như vậy là quá câu chấp mà để hỏng việc nước. Sao không xem xưa nay có ai là chủ giang sơn mãi đâu. Nhà Tấn bị Hồ5 gây loạn, Tống mất vào tay Nguyên, Minh mất vào tay Thanh, họ này thay thế họ kia chẳng phải do số trời sắp đặt đó sao? (... ) Từ xưa, các bậc đế vương, mỗi khi thay họ đổi ngôi thì con cháu không có đất cắm dùi, đều do tiếc cái ít để mất cái nhiều.

Hơn nữa, thiên hạ là của chung của thiên hạ, các bậc đế vương dĩ nhiên không thể đem thiên hạ mà cho ai, chỉ có điều là biết không thể cho được rồi sau mới có thể cho được. Nếu không tùy thời liệu định, cho để mà giữ, chẳng may thế sự chuyển dần thì rõ ràng là phải đưa hết tất cả cho người ta. Thế nên, Câu Tiễn chịu nhẫn nhục để được còn nước Việt, vua Văn Hoàng mượn binh để lập cơ nghiệp, đều là muốn bảo toàn thiên hạ cả. Xưa nay, chưa có ai không ẩn nhẫn việc nhỏ mà làm nên việc lớn bao giờ.

Theo cách ngày nay thì nên để quân lính nghỉ ngơi, rồi làm theo chước Hán Cao Tổ cắt Quang Trung cho Hạng Võ ngày xưa để họ giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới. Thế nhượng một tấc đất mà nhân dân lợi vô cùng. Như thế chẳng phải là làm việc chung cho thiên hạ đó sao? Người xưa cũng làm như thế thôi, không thể bỏ cách đó mà theo mưu khác được. Thế là xoay chuyển một cái mà kẻ sống người chết đều chịu ơn, thật là sáng rõ, rõ như ánh lửa rọi chẳng còn hình tích gì đáng nghi nữa cả. Dân đã yên sau sẽ khiến kẻ hiền tài vượt biển, sang các nước lớn học cách đánh trận giữ thành, học tập trí xảo của thiên hạ, giao thiệp với họ lâu dài, mới biết lường sức đo tài, biết hết tình trạng của họ. Học cho tinh vi mới sinh kỹ xảo, rất mực kỹ xảo mới mạnh, bấy giờ sẽ dưỡng uy súc nhuệ, đợi thời hành động, mất ở phía Đông thì lấy lại ở phía Tây, cũng chưa muộn gì6.

Vả lại, những điều mà nước Pháp xin, chẳng qua là để mở bến tàu; lập phố xá, thông cửa bể để buôn bán, lập nhà thờ để giảng đạo mà thôi. Lẽ thường những nơi có buôn bán, thế tất không thể mở thương trường, lập cơ xưởng. Như người Trung Hoa ở nước ta cũng vậy. Lấy có đổi không, khiến Nam Bắc hòa hợp, của cải hàng hóa lưu thông, tiêu dùng tiện lợi, cuộc sống đầy đủ đều nhờ ở đó cả. Xưa nay chưa có ai buôn bán mà âm mưu chiếm nước người ta bao giờ. Còn như giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống lại gian tà, làm trách nhiệm, chẳng liên quan gì đến những việc tranh thành tranh đất cả. Sở dĩ họ xin bỏ việc cấm đạo chẳng qua là để cho sự truyền đạo được dễ dàng mà thôi. Nếu nói họ có âm mưu gì khác thì Đức Thế Tổ Cao hoàng đế7 đã ở với giáo sĩ lâu ngày tưởng cũng đã biết ít nhiều hành động của họ. Nếu quả như người ta nói, tại sao không đề phòng ngăn cấm trước để chi đến nay mới cấm, khiến người Pháp mượn cớ trách ta? Nếu nói họ dụ dỗ giáo dân trước rồi mới gây hấn với ta, thì sao họ không thừa cơ khi ta mới bắt đầu dựng cơ nghiệp mà đem quân cả nước đánh lấy cả Nam Bắc phải đợi đến hàng chục năm dài về sau mới tính mưu? Phải chăng vì họ chưa được thông thương cho nên chưa lập mưu lấy nước ta, thế thì ngày nay họ đã thông thương được với nước ta đâu mà có thể thắng được ta? Nếu họ quyết ý chiến thắng thì dễ như lấy vật trong túi đời nào lại chịu giảng hòa với ta. Những việc đó đã quá rõ, không đợi phải nói mới biết được. Còn ta nếu không chịu hòa, thì họ xưa nay vốn hiếu thắng, đời nào lại chịu thôi. Cho nên tôi nói hòa với họ là tiện lợi, là một việc rất tốt phù hợp với lẽ trời đất. Trời đất hòa mới có mưa móc tưới nhuần. Bốn mùa hòa vạn vật mới sinh nở. Hai nước hòa bờ cõi mới an ninh. Triều đình hòa trăm việc mới chỉnh đốn. Xưa nay chưa có khi nào bất hòa mà làm xong việc được.

Vậy kính xin đại nhân tâu lại đầy đủ8. Cho họ một miếng đất thì chẳng những các sĩ phu trong thiên hạ muốn làm quan ở Triều đình mình, người buôn trong thiên hạ đua nhau đến buôn bán trong nước mình, mà nước nhà sẽ được vững như bàn thạch, là dân sẽ tránh được khổ lầm than, để giữ vững cơ nghiệp.

Tôi ở nước ngoài đã lâu biết rõ sức của họ, tinh tường tình hình của họ. Xưa Hàn Dũ có nói: “Biết mà không nói là bất nhân; nói mà không nói hết là bất nghĩa”. Vì vậy, tôi tuy thân giang hồ mà lòng vẫn ở nơi đế khuyết. Thật không nỡ lòng thấy đất nước bị chia cắt, trăm họ bị lìa tan, cho nên không nghĩ mình ở địa vị thấp hèn, dám cả gan nói ra. Nếu như lời tôi nói là gian trá, hoặc có ai xui khiến tôi nói thì tôi xin nạp mình trước cửa đế đô, để làm chứng sau này9.

Tôi xin gởi kèm theo đây một bản đồ để chú giải rõ những điều nói trên đây.

Kính xin soi xét. Sau này nếu được yên, tôi xin đích thân đến để trình bày rõ nỗi lòng riêng bấy lâu ấp ủ của tôi.
Nay bái bẩm
Ngày tháng năm Tự Đức 16
Nguyễn Trường Tộ ký

_______________________________________
1. Ở đây bản NAM PHONG có một đoạn như sau: “Tôi trước đây ở Đại Thanh thấy nước Pháp ký hòa ước với Đại Thanh chỉ có 5 cửa biển mà thôi. Sau sự biến ở Quảng Đông, Pháp bèn cùng Anh chiếm Quảng Châu. Đại Thanh lại phải cho Pháp được tự ý từ Kinh Châu, Hán Khẩu xuống cửa sông Dương Tử chọn lấy một nơi tốt nhất. Đến năm Hàm Phong thứ 2, Tăng Vương hủy bỏ hòa ước và gây sự, Pháp liền bỏ Đà Nẵng hợp cùng với Anh đánh Thiên Tân, Tăng Vương thua chạy lên phía Bắc. Pháp tiến lên Thông Châu đánh thẳng vào Hậu Uyển. Hàm Phong chạy sang Nhiệt Hà sai Cung Thân Vương giảng hòa, chịu bồi thường 800 vạn lạng bạc, lại phải nhượng thêm Thiên Tân, cửa sông Đại Cô và Lai Châu thuộc tỉnh Sơn Đông, Quỳnh Châu, Đài Loan thuộc tỉnh Quảng Đông. Chuyện Trung Quốc thật đúng như câu nói: “Giống lừa không chở nặng không chịu đi” thật là thất sách”.
2. Mân: Tên cũ của một nước ở Trung Quốc, địa vực hoạt động đầu tiên của thời Chu nay là giáp tỉnh Thiểm Tây.
3. Hán hòa thân với Hung nô.
4. Nạp tiền và hàng hóa cho nước Liêu và nước Kim.
5. Loạn Ngũ Hồ.
6. Ở đây bản NAM PHONG có một đoạn như sau: “Việc ấy hiện có căn cứ sự thật. Tôi đã xét qua nhân tài các nước phương Đông thấy ít nước nào hơn nước mình. Người Pháp cũng phục người Nam có nhiều trí xảo. Tôi đã từng ở các nước xa về phía Tây nghe họ đều nói các môn Thiên văn, Địa lý, Cách vật, trí xảo, hỏa xa, hỏa thuyền, đồng hồ… người Nam học rất thông minh linh lợi. Nhưng cái bệnh của người mình là câu nệ thủ cựu, chuộng văn chương, không ra khỏi nước nên thấy, nghe chưa rộng, khiến họ chê cười. Nếu các danh nho cao sĩ của ta được qua lại giao thiệp với các nước thì không đầy 10 năm sẽ như Đỗ Mục nói:
    Giang Đông còn lắm người tài giỏi,
    Cuốn đất tràn về lại có phen!

7. Vua Gia Long.
8. NAM PHONG nói: Xin chấp nhận cho ý kiến của thần. (Chuẩn thần sở kiến).
9. Bản NAM PHONG chấm dứt ở đây.


DI THẢO SỐ 2

Bàn về tự do tôn giáo*

(Giáo môn luận)

(Ngày 11 tháng 2 năm Tự Đức 16 tức 29 tháng 3 năm 1863)

Trộm nghĩ rằng cái đức lớn của trời đất là sự sống. Sống là gì? Là làm cho muôn vật đều được bảo toàn thiên tính của nó. Vì vậy mà trên trời có sao sáng mây đẹp thì cũng có gió lớn mưa to; dưới đất có lúa tươi thóc tốt thì cũng có cỏ xấu sâu độc. Tuy tốt xấu khác nhau nhưng đều được sinh nở không cái nào bị hại. Như vậy mới sáng tỏ cái đại toàn của trời đất. Chứ cái gì đẹp thì tô bồi, cái gì xấu thì dẹp bỏ, cái gì hay thì che chở, cái gì dở thì hủy hoại thì không làm sao thấy được cái vĩ đại, cái kỳ diệu của tạo vật. Vì sao lại nói như vậy? Bởi vì nếu trên đời này có ngọt mà không có đắng, người ta sẽ không biết vị ngọt là đáng yêu; có ấm mà không có lạnh, người ta sẽ không biết được cái thích thú của sự ấm áp; có trắng mà không có đen, trắng không thể tự một mình phô bày cái đẹp được; có hoa mà không có gai, hoa cũng không thể một mình tốt tươi được. Cho nên trời đất không vì tốt xấu mà phân biệt mưa sương, không vì văn minh dã man mà phân biệt sự che chở. Muôn vật sống chung đụng với nhau nhưng mỗi vật đều thuận theo tính của nó, hợp với cái dụng của nó, theo đường hướng của nó, đều tự thích nghi, thành hoại thông với nhau, tán mạn đặc thù đều qui về một mối, không bỏ một vật nào cũng không riêng tác thành cho một vật nào cả. Sở dĩ trời đất vĩ đại là vì thế. Tại sao riêng loài người lại không như thế?

Vua đối với dân, xem bề ngoài tuy có tôn ty khác nhau, nhưng bề trong cũng cùng một lẽ sinh thành của tạo vật mà thôi. Tạo vật đối với muôn loài, các việc ăn nghỉ ham muốn đều được theo xu hướng của nó, không cưỡng ép phải làm khác đi cái điều nó yêu thích hay hòa đồng với cái điều nó không ưa. Vì vậy cho nên tuy sống chung lộn với nhau mà vẫn thành đại quan của vũ trụ, không có gì khác. Nếu như muôn loài phản lại cái đức hiếu sinh không chịu theo thiên tính tự nhiên mà đi tàn hại lẫn nhau, lấy lớn ngược đãi nhỏ, họp nhỏ chống lại lớn thì chẳng bao lâu sẽ bị tiêu diệt. Đó chẳng phải là điều tối kỵ của tạo vật hay sao?

Vua đối với dân, là người thay trời mà chăn dắt, theo ý trời mà hành động. Dân sinh ở trên đời, tuy tiếng nói khác nhau, sự yêu chuộng khác nhau, kẻ xứ lạnh người xứ nóng khác nhau, đến hay đi, nghịch hay thuận, miễn sao biết trung hiếu là được cần gì phải câu nệ hình tích bên ngoài mà không xét đến cái gốc ở trong tâm, cưỡng ép phải giống nhau để gây ra rối loạn? Vì thế các bậc thánh vương sửa đổi luật pháp mà không thay đổi tập tục, sắp đặt việc chính trị mà không thay đổi cái gì vốn đã thích nghi cuộc sống. Tuy chương Vương chế trong KINH LỄ có nói bắt tả đạo, sách LUẬN NGỮ có nói chống dị đoan. Thế mà thiên hạ không biết bao nhiêu người đã bỏ Phật theo Lão, thánh vương cũng không nỡ cự tuyệt. Bởi vì ghét người ta cho lắm chỉ gây thêm mối loạn mà thôi, vả lại thánh vương cũng không dám làm tổn thương đến cái to tát bao dung của trời đất.
_____________________________________
* Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 45-53; Hv 634/1 tờ 109-111; Hv 135 tờ 105-117; NAM PHONG số 118 trang 65-70.
Nội dung của cả 4 bản đều gần hoàn toàn giống nhau, chỉ trừ một vài chỗ do chép sai, chép sót. Bản Hv 189/1 có tiêu đề, có ngày tháng (11-2 năm Tự Đức 16) có thể là bản thảo ban đầu, được lưu giữ trong gia đình Nguyễn Trường Tộ.
Các bản Hv 634/1, Hv 135 và NAM PHONG số 118 có thể được sao chép từ một bản chính thức gởi kèm theo bài Trần tình, vì thế mà không có tiêu đề, không có ngày tháng năm. Từ Ngọc Nguyễn Lân, sđd tr. 123, có trích một đoạn của bài này, nhưng không nói xuất xứ, cũng không nói ngày tháng.
NAM PHONG số 117, ở cuối bài có ghi 23 tháng 7 năm Tự Đức 19, nhưng chắc là chép lầm, bởi vì vào thời điểm này, vua Tự Đức đã có dụ tha đạo, người công giáo có gặp khó khăn phải chăng là do địa phương.

Phàm con người sinh ra trong trời đất, trung hiếu vốn là bản tính chứ không phải cái gì giả tạo từ bên ngoài gán vào. Ví cũng như nước lửa thuận theo thế của nó thì nước chảy vào chỗ trũng, lửa cháy nơi khô. Nếu có cái thế khác làm rối loạn không cho lửa bốc lên, nước chảy xuống, thì đó chỉ là tạm thời mất sự bình thường mà thôi, còn bản tính của nó vẫn không bao giờ mất. Dữu dân1 cũng là người, ai lại không có lòng trung hiếu? Sở dĩ phải tránh đi xa mà mong nhờ cứu giúp, gọi người khác bằng cha, gọi người khác bằng mẹ là vì thời cùng thế bức, cực chẳng đã phải tạm trốn tránh chứ đâu phải trong lòng muốn như vậy! Không thấy như con đối với cha mẹ đó sao? Hễ bị đòn nhỏ thì chịu, đòn lớn thì bỏ chạy là vì lợi hại thiết thân, không thế không được. Vì vậy sự thuận mệnh cũng có khi không thể làm được.

Xét ra đạo Công giáo2 vào nước ta từ thời Lê. Trước tiên các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp, người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba đạo (Phật, Lão, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đãi nhau, năng lui tới với nhau không có gì hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm thì mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào vòng hình phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục, nếu ngừng thì chốc lát sẽ trong trở lại.

Giáo dân cũng là người trong nước, đều là người cả, cũng là dân của trời, sự ăn ở có liên quan nhau, vui buồn liên quan nhau. Lẽ nào bên này động mà bên kia lại yên được sao? Một nước ví như một thân thể. Một chỗ bị đau thì toàn thân cũng không yên. Một cục thịt thừa, một ngón tay đeo thật hết sức vô dụng thế mà cắt bỏ đi thì đau, huống chi là tay chân hữu dụng! Trời đất đối với các hành tinh, một nước đối với dân chúng, sự liên quan lệ thuộc duy trì cũng một lẽ như nhau. Nếu trên trời có một hành tinh bị động, các hành tinh khác cũng nhân đó mà có chút biến đổi, huống chi dân là gốc của một nước, dân bị tao động lẽ nào nước không sinh họa loạn? Không thấy thượng đế là chúa tể cai trị các nước cũng như vua là chúa tể trị vì một nước đó sao? Các nước khác nhau rất xa về ngôn ngữ, phong tục và sự ưa chuộng, nhưng thượng đế cũng lấy một lẽ mà đối chung cả vạn vật khiến tất cả đều thuận theo trật tự, đều thỏa ý nguyện, không bắt tất cả phải giống hệt nhau. Có thế mới sáng tỏ cái tài năng lớn, cái uy quyền trọng và cái độ lượng rộng rãi. Trong một nước, tuy nhân dân có phân chia nhà cửa khác nhau, nhưng vua cũng chỉ lấy một quyền mà thống trị dân chúng, lấy một trí mà liên kết muôn dân, khiến dân tình đều được yên ổn, hành động tuy khác nhau nhưng đều lương thiện, chí hướng khác nhau nhưng đều đáng quý cả. Như thế thì chẳng những không tổn hại về mặt chính trị mà còn cho thấy cái tài khéo trong việc trị nước nữa.
_______________________________________
1. Dữu là cỏ xấu phá hại cây lúa. Thời Công giáo bị ngược đãi, trong khoảng từ Minh Mạng đến gần cuối Tự Đức, người công giáo bị gọi là Dữu dân để phân biệt với lương dân.
2. Trong nguyên bản bằng Hán văn, Nguyễn Trường Tộ dùng từ “đạo giáo”, nhưng “đạo giáo” đây là tác giả muốn nói “Công giáo”.

Phàm có vạn thứ không giống nhau thì gọi là giàu, không cái gì không chứa đựng được hết gọi là lớn, chồng chất thành đống nhiều lớp mà không chống chọi nhau gọi là khéo, nhiều thế lực khác nhau, nhiều tính tình khác nhau mà hợp được làm một để sử dụng gọi là giỏi. Cho nên tạo vật nặn đúc ra không đồng một hình dạng, một khuôn khổ, một ngôi vị, một xứ sở mà sinh ra vô số hình thái khác nhau, phương hướng khác nhau để nhiếp trị. Thế mới thấy được cái giàu lớn khéo giỏi của tạo vật. Sở dĩ thượng đế chế trị đại địa cũng như con người ta lập các tôn giáo riêng, không bắt ép cái này phải nhập vào cái kia là vì có thâm ý trong đó.

Vua đảm đang công việc giúp thượng đế không phải là vua có thể biệt lập một trời đất mà một mình cầm quyền được, chẳng qua chỉ là nhân các dân vật đã được thượng đế tạo thành an bài đó mà thương yêu làm cho an ổn, để thông suốt cái chí của thiên hạ, để soi thấu cái tình của muôn vật mà thôi. Như thế sao lại muốn chấn hưng hay tiêu diệt được để trái lại trời hay sao?

Từ xưa đến nay trên mặt đất lớn lao này có nhiều đạo khác nhau đã được thành lập ở nhiều nơi. Đạo Công giáo khởi từ Tiểu Tây, Hồi giáo khởi từ Thiên Phương (Ả Rập), Phật giáo khởi từ Thiên Trúc (Ấn Độ), Tây Tạng có Lạt Ma tọa sàng, Trung Quốc có Nho, Mặc, Trang, Lão. Phàm nơi nào có dấu chân người đặt đến thì các tôn giáo cũng theo người mà truyền vào. Hễ nước nào có thanh danh văn vật, xứ nào có giao thông trù mật thì người theo đạo đông đúc. Nước càng thịnh vượng thì tôn giáo càng nhiều. Nước dã man thì tôn giáo ít. Lấy tôn giáo nhiều hay ít mà xem nước ấy có hưng thịnh hay không thì thấy tôn giáo nhiều, nước càng hưng thịnh.

Tuy vua các nước tùy theo mỗi đời có sự ưa thích khác nhau, nhưng đầu tiên đạo giáo do một người truyền bá ra, kế tiếp theo có hàng nghìn vạn ức người phụ họa theo, và cũng có vạn ức người bài bác lại. Nhưng chưa từng thấy đạo nào vì được phụ họa mà chấn hưng được hết cả, hay bị bài bác mà bị tiêu diệt hết cả. Ngoài ra còn có các ngoại đạo ở các nước nhỏ, và các xứ ven biên không kể hết được, nhưng cũng chưa nghe nước nào vì đạo giáo nhiều mà phải mất nước. Quay ngược về xưa mà xem thì giặc Khăn Vàng (Hoàng Cân) vốn vì theo Lão Tử, loạn Hồ vốn bởi theo Mâu Ni. Ngoài ra như Hoàng giáo, Bạch giáo và các đồ đảng Đại Thành, Từ Đoàn tụ tập quần chúng xướng loạn, mà cũng chưa từng nghe các triều đại ấy dùng hình pháp nghiêm khắc để tiêu diệt các tôn giáo ấy. Thực ra những tệ hại đó là do người làm ra mà thôi. Lý thuyết và lễ văn của các tôn giáo tuy có khác nhau, nhưng đem hết sách của các tôn giáo mà xem thì không tôn giáo nào không lấy trung hiếu làm gốc. Nếu không như thế thì người có lương tâm ai chịu tin theo.

Xưa nay, những loạn thần tặc tử ai là người không đọc sách, ai là người không phục lời của Khổng Mạnh. Cớ sao lại trộm lấy cái trí năng của thánh hiền mà làm thân đạo tặc? Như thế là lỗi tại ai? Tại người hay tại tôn giáo? Nếu cứ ai đồng với mình thì dù tệ cũng bỏ qua, còn ai khác với mình thì chỉ trích khắt khe mà đổ cho giáo pháp ấy không tốt, thứ hỏi công lý ở đâu?

Từ xưa đạo Công giáo đã phát hưng ở miền Tây phương Đông, miền Nam phương Bắc, miền Đông phương Tây, nhất thống toàn thịnh như Đại Tần (tức La Mã), tung hoành cát cứ như nước Mông Cổ và những nước rộng đến 5, 6 nghìn dặm la liệt như sao trên trời, bày bố khắp như quân cờ, vua tướng ở các nước ấy quyền quý, thông minh, hùng hổ đều nổi dậy mưu hại giáo đồ. Hơn 300 năm nay, số giáo dân bị giết hại, thống kê số người có tên họ bị chôn ở nhà đá có đến trên mười triệu người; còn những người vô danh khác bị vùi lấp như kiểu giáo dân ở Biên Hòa (của ta) thời không kể xiết. Lúc bấy giờ như ở hai nước Pháp, Y Pha Nho, số giáo dân bị độc hại cũng hằng hà sa số. Nhưng giết một người thì có nghìn người theo, giết mười người thì có vạn người theo thêm. Vua tướng các nước đã không tiêu diệt nổi đạo, mà trái lại được đạo cảm hóa. Vì sao vậy? Vì phàm vật gì có sức lớn mà lại có gốc nguồn thì càng bị quấy rối di động càng xuất hiện mãi mãi không cùng. Như nước và lửa, có ai có thể múc hết nước, dập tắt hết lửa?

Đạo Công giáo đã thịnh hành từ Đại Tây, Tiểu Tây rồi dần dần chuyên qua Đông Nam. Và đã 300 năm nay cũng bị các nước ở đấy ngăn trở sát hại như ở phương Tây trước kia. Thế mà người theo đạo ngày càng đông. Theo thống kê ở Trung Quốc thời Minh đạo đã có hơn 60 vạn. Còn như người nước ta, Nhật Bản, Cao Ly, Miến Điện, Thiên Trúc, Ba Tư, Tây Tạng, Hung Nô, Lữ Tống và các đảo ở ngoài bể thì không kể trong số này. Càng cấm mà người theo càng đông là vì sao vậy? Vì rằng tạo vật quý trọng sự sống vô cùng, thường hay phù trợ những người bị mưu hại. Nếu không phù trợ mà còn giúp kẻ có thế lực được thỏa lòng sát nhân thì thiên hạ sẽ bị kẻ lớn mạnh nuốt hết, mà kẻ nhỏ bé sẽ không còn nòi giống nữa. Huống chi các vua thường nghiêm cấm đạo mà người truyền đạo thì vẫn tiếp nối nhau đời này sang đời khác không thôi. Tuy hoặc có lúc hơi bị áp chế nên tạm ngừng, nhưng lúc ấy, chính là lúc củng cố vun bồi để sẽ phát sinh thêm nữa. Ví như suối ở trên núi, nguồn suối càng sâu càng dài, thì nước tuôn ra càng xa càng mạnh. Như thế là những cái gì mà trời dung thì người không thể tiêu diệt hết. Nếu như quả là trời dung mà người diệt thì lẽ nào tạo vật không có quyền lực để xử việc đó?

Giáo dân cũng do tạo vật sinh dưỡng và đạo giáo cũng do tạo vật bảo dưỡng, huống chi giáo dân cũng là một thành phần của nhân dân trong nước? Trong số đó nếu có kẻ bội nghịch chẳng qua cũng chỉ một phần nghìn phần trăm mà thôi, tại sao không minh xét mà cứ đổ riết cho tất cả là nghịch? Do đó mới coi những người theo đạo vô luận lớn bé trẻ già, trung nịnh trí ngu đều đáng xua đuổi sát hại như chim non chuột thối. Nếu làm như thế mà hợp với lòng của tạo vật, thì tạo vật vốn là bậc cha mẹ của muôn loài sao không sớm tiêu diệt đạo ấy đi còn để truyền lan làm gì cho khắp thế giới phải sa hầm mắc bẫy? Chắc chắn không phải như vậy...

Nói tóm lại, bất kỳ trong đạo giáo nào, hễ ai phản nghịch loạn thường đều là người đắc tội trong tôn giáo, cứ áp dụng hình pháp không tha để cho đạo giáo được trong sạch. Còn ai yên phận tuân theo pháp luật thì để cho họ tự nhiên có hại gì đâu? Đồng hành mà không nghịch nhau là được, cần gì bắt phải nhất tề những cái mà tạo vật không thể nhất tề, cũng không cần thiết phải nhất tề, để làm tổn thương hòa khí? Kính mong đại nhân ra sức hồi thiên1 đem lòng hiếu sinh bắc cầu cho kiến qua2 để được cùng với trời đất góp phần ích dụng. Nói một tiếng khiến giáo dân được mang ơn một phần. Đó cũng là hợp với câu “đại đức viết sinh”3 vậy. Xin dâng lời thô ngu, kính mong cao minh lượng xét.
Nguyễn Trường Tộ ký.

___________________________________________
1. Hồi thiên: Làm cho vua hồi tâm nghĩ lại. Tích Trương Huyền khuyên can Đường Thái Tôn bỏ việc tu bổ cung Lạc Dương. Người ta gọi Trương Huyền có sức hồi thiên. Đây có ý nói khuyên vua bỏ việc cấm đạo.
2. Bắc cầu cho kiến qua (biên kiều độ nghị) do tích Vương Tăng đời Tống bên Trung Quốc là một người đã từng đậu trạng nguyên làm Tể Tướng. Thuở nhỏ có hôm nhân đi qua một chỗ có nhiều tổ kiến bị nước ngập, ông bèn lấy cành tre bắt ngang làm cầu cho kiến bò qua khỏi chỗ nước chảy, khỏi bị ngập chết trôi. Tác giả dẫn tích này cốt nói trẻ nhỏ mà có lòng nhân đức biết quý trọng sự sống. Vì vậy mà về sau trở thành một vị danh thần. Ý nói cứu được nhiều sinh linh.
3. Câu “Thiên địa chi đại đức viết sinh” nghĩa là đức lớn của trời đất là sự sống.

DI THẢO SỐ 3

Bài trần tình*

(Ngày 26 tháng 3 năm Tự Đức 16, tức 13 tháng 5 năm 1863)

Tôi thuở bé không được dạy bảo, lớn lên lưu lạc nhiều nơi, nhưng những hoài bão và việc làm của tôi có chỗ khác hơn người.

Từ bé tôi đã thận trọng trong việc giao du, thích yên tĩnh, đối với tất cả những sự cầu danh, lấn lướt, giành công, tham lợi tôi đều coi như mây bay nước chảy. Vả lại, tôi không ham thích kinh doanh, không thích chuyện vợ con, đoạn tuyệt với hai cạm bẫy tài sắc. Người ta ở đời sở dĩ không được thanh thản tự do mà phải chìm đắm trong lưới trần tục, lạc theo phường phản nghịch, đều do hai cạm bẫy này mà ra cả. Tôi thoát khỏi vòng đó, cho nên việc làm của tôi có khác người, như những điều sau đây là những bằng chứng xác thực. Đấy là điều khác thứ nhất.
_____________________________________
* Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 53-64
    Hv 135 tờ 129-145
    Hv 634/1 tờ 85-103
    N.P số 117 trang 54-59.
    Bản Hv 189/1, so với ba bản sau, có nhiều câu, nhiều chữ chỉnh hơn. Đây có lẽ là bản mà Nguyễn Trường Tộ, khi sao chép lại để gởi cho một vị đại thần nào đó, có chấp bút thêm; ở đầu bài ghi: Tự Đức năm 17, trong lúc thực sự bài Trần Tình này, theo như ba bản kia và các tác giả khác như ông Nguyễn Lân và ông Đào Duy Anh nói: 26 tháng 3 năm Tự Đức 16.
    Bản chính thức gởi cho Trần Tiễn Thành được lưu giữ tại thư viện Bảo Đại; trước năm 1945 các ông Trần Mạnh Đàn, Đào Đăng Vỹ, Nguyễn Lân đều đã tham khảo. Điều đáng chú ý là ông Nguyễn Lân, trong sách đã dẫn ở trang 57 có trích một đoạn nằm trong số khoảng 428 chữ mà ba bản văn Hv 135, Hv 634/1 và N.P không có. Đoạn này liên quan đến thái độ lật lọng của Pháp có thể do N.P tự ý đục bỏ. Các bản văn Hv 135 và Hv 634/1 có lẽ đã được sao chép từ một bản gốc giống như bản được sao chép cho N.P. Còn bản chính thức lưu giữ lại Thư viện Bảo Đại cũng như bản Hv 189/1 lưu giữ trong gia đình Nguyễn Trường Tộ thì có đủ.
    Về đầu đề thì Hv 135 và N. P nói: Trần tình khải; Hv 634/1 Trần tình - Riêng Hv 189/1 thì không có đầu đề, nhưng có mào đầu: “Ti Nguyễn Trường Tộ trần tình khấu bẩm: Tôi Nguyễn Trường Tộ cúi đầu bày tỏ nỗi lòng”.

Đến lúc lớn lên tôi chu du các nước, những điều mắt thấy tai nghe góp lại thành một sự ích dụng lớn. Về việc học, không môn nào tôi không để ý tới: cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào tôi không khảo cứu, nhất là để ý nghiên cứu về sự thế dọc ngang, tan hợp trong thiên hạ. Thường những người học được như vậy hay dùng đó làm phương tiện để cầu vinh, để tiến thân, còn tôi thì dùng để đền đáp lại cái mà trời đã cho tôi học được, chứ không mong kiếm chác một đồng tiền nào. Đấy là điều khác thứ hai.

Đến lúc đạo sắp bị diệt, tôi qua sông vượt biển để giữ lấy cái chân lý. Tuy nhiên đến các nước ngoài, trước mặt những người quyền quý lời nói việc làm của tôi đều giữ thể diện cho nước mình. Nếu ai làm nhục đến các bậc công khanh nước ta, tôi đều biện bác ngay không chút sợ sệt. Như người khác ở địa vị tôi lúc ấy, tất hạ mình tôn xưng người, cúi đầu luồn lụy để được yên thân. Còn tôi thì tôi biện bác ngang nhiên, tỏ rõ tài năng của mình, tán dương rất mực những điều sở trường của nước mình và che đỡ những điều sở đoản. Tôi không có chức phận của người sứ giả ngoài bốn phương, mà làm được như thế. Đấy là điều khác thứ ba.

Kịp đến lúc người Pháp gây hấn với ta, tôi đã cực lực chối từ lời mời của họ. Nhưng sau nghĩ rằng tình thế nước ta hiện nay tạm hòa là thượng sách. Vì chưa đủ sức chống chọi được với họ, cho nên, phải uốn nắn mà theo họ. Như thế may ra góp được một phần nhỏ đối với việc bàn hòa. Nỗi khổ tâm của tôi phải uyển chuyển để được chu toàn thật không bút mực nào tả được. Nhưng ở lâu với nước Tề đâu phải là chí nguyện1. Tôi đã dự định trong lòng từ lâu, nếu như việc đó được thành công thì tôi lại bay bổng cao xa ngao du khắp bốn bể. Như trước kia tôi có đưa cho người bạn Trung Quốc câu thơ rằng: “Thành công tôi sẽ ngao du” (Công thành ngã diệc tầm hãn mạn). Đấy là nguyện vọng của cả đời tôi. Như thế thì tuy sống cảnh giang hồ mà lòng vẫn lo tưởng đến nơi lăng miếu Triều đình. Đấy là điều khác thứ tư.

Sau đó rồi đại đồn2 thất thủ, người Pháp giao cho tôi giữ việc giấy tờ. Tôi thật như mũi tên nằm trên lòng cung. Thế nhưng lời lẽ trong các giấy tờ, một bên tôi gọi là “quan binh”, một bên tôi gọi là “triều binh”. Hễ có những lời thô bỉ nhục mạ, tôi đều sửa lại cho được trang nhã nghiêm chỉnh, không khi nào dựa thế mà quên đại nghĩa. Người xưa ở trong hàng trận mà không thất lễ vua tôi. Chỉ chừng đó cũng đã được bề trên yêu quý. Còn tôi đang ở trong lòng địch, không quyền không thế, chúng tác uy tác phúc trên đầu mà giữ được lễ nghĩa như thế lẽ nào lại không hơn những người xưa đó hay sao? Hơn nữa tôi còn làm trung gian điều hòa hai bên, để giảm bớt sự hà khắc gay gắt của kẻ địch, để cứu giúp nhân dân khỏi vòng nước lửa. Đối với những người chịu sự giúp đỡ kín đáo đó, tôi cũng không lấy đó làm điều ơn đức. Mỗi khi thấy các quan của Triều đình bị nhục, tôi coi họ như cha mẹ mình mà âm thầm tỏ lòng cung kính, an ủi, tìm cách sắp xếp cách cư xử, để tránh sự ngược đãi của kẻ địch. Nhưng tôi cũng phải khéo léo không để lộ dấu tích, sợ kẻ địch sinh nghi. Việc này xin hỏi quan lãnh binh thì biết rõ. Nếu như người khác ở địa vị ấy sẽ hoạnh họe cầu lập công, thêm dầu thêm lửa, xui địch giết hại, để thỏa mãn thù hằn. Còn tôi, tôi vẫn nghĩ tới luân thường đạo lý, không dám ôm lòng phẫn nộ, để tổn thương danh phận. Đấy là điều khác thứ năm.
_____________________________________
1. Nguyên văn: Cửu Tề phi chí: trích lời của Mạnh Tử, có ý nói: ở lâu với nước Tề không phải là bản chí của Mạnh Tử, và ở lâu với nước Pháp không phải là bản chí của tác giả.
2. Tức là đồn Kỳ Hòa bị tràn ngập ngày 23-24 tháng 2-1861.

Sau đó khâm sai Nguyễn đại nhân1 đến bàn việc hòa hiếu. Tôi vui sướng không biết bao nhiêu mà kể. Thường khi gặp phái viên ở trên tàu, tôi giả vờ chỉ trời chỉ đất như nói những chuyện không đâu, mà thực ra ở trong có vô số những mật thuyết cơ mưu, mong phái viên nghe được mà đem về chuyển đạt. Tức như đảng giặc Quảng Yên lúc ấy tuy chưa phát lộ, mà tôi đã nói rõ với quan Phan2 để bẩm lên Triều đình biết mà đề phòng trước (Việc ấy là vào khoảng tháng ba năm Tự Đức 14). Đến lúc bọn giặc đó nổi lên, tôi lại hết sức nói với mọi người rằng: Bọn chúng không làm gì được. Ai mà theo chúng tất sẽ làm quỷ không đầu. Cũng có nhiều người nghe đến thế lực của chúng to lớn đã phụ họa theo, tôi lại cực lực ngăn cản và nói rằng: Nếu trời không có mắt, chúng nó mới hoành hành được. Tôi nói tôi sẽ lẻn về, họp những người oán ghét chúng, chết cũng quyết đánh, thề không chịu làm dân của chúng nó3. Những lời nói đó của tôi hiện những tín đồ trong bản đạo và người ngoài ai cũng biết. Ngày trước tôi cũng có đưa cho Phan đại nhân một câu thơ:

Quảng Yên cá chậu sống bao lâu,
Gia Định lừa
4 kêu kế đã cùng”.

Xin xem câu ấy thì biết ý tôi. Bấy giờ đường vận chuyển lương thực cho quân thứ ở Biên Hòa gặp khó khăn. Có một lần tàu Pháp tuần hành nhặt được một bó công văn. Quan Pháp dùng những chữ số 1, 2, 3, 4... viết lên trên mỗi trang rồi đưa về tàu giao tôi phiên dịch. Trong đó tôi đã chọn lấy một hai điều không liên quan đến việc quân sự đem dịch ra, số còn lại thì tôi dịch tráo trở lời văn làm cho họ không hiểu được. Trong đó có một khoản nói về kế hoạch bí mật vận chuyển lương thực. Tôi bèn lấy một tờ giấy khác đánh số rồi đem tráo vào đó, bí mật lấy tờ giấy kia giao cho tri phủ Phan Văn Khả mang về.
_____________________________________
1. Tức Nguyễn Bá Nghi được phái đến thương thuyết với Charner tháng 3 và 4-1861.
2. Nguyên văn là “Phan quý viên” tức một viên chức họ Phan, chứ không phải Phan Thanh Giản bởi vì trong đoạn sau khi nói tới Phan Thanh Giản, thì tác giả nói “Phan đại nhân”. Vả chăng Phan Thanh Giản chỉ tới Sài Gòn để ký hòa ước 5-6-1862 (Tự Đức 15). Quan Phan nói ở đây là Phan Văn Khả ở đoạn sau?
3. Đảng giặc “Quảng Yên” mà tác giả nói đến đây là đảng Lê Duy Minh, cũng có nơi gọi là Lê Duy Phụng hay Tạ Văn Phụng, tự xưng là dòng dõi họ Lê đứng lên chống lại nhà Nguyễn. Theo linh mục Le Grand de La Lyraie, thông dịch viên của quân đội Pháp (1858-1873), người có quen biết Lê Duy Minh là thầy giảng của linh mục Castex, thì Lê Duy Minh theo Ba Khuất hoạt động tại vùng Quảng Yên từ năm 1851 nhưng thất bại sang ở với các thừa sai Pháp tại Hồng Kông (đổi tên là Phụng), và năm 1858 theo Le Grand de la Lyraie về Đà Nẵng làm thông dịch cho Pháp, tìm cách làm áp lực để Tướng Pháp đánh thẳng lên Huế, nên bị trả về Hồng Kông, đầu năm 1861, được Charner đem về Sài Gòn để manh nha lập đồ đảng quấy phá ở Bắc bộ (điều mà Nguyễn Trường Tộ đã phát hiện và phản ánh với “Phan quý viên”) năm 1862 là lúc Lê Duy Phụng được Pháp hỗ trợ mạnh để làm áp lực bắt Triều đình Huế phải ký hòa ước 1862. Lúc này là lúc Nguyễn Trường Tộ trao cho Phan Thanh Giản câu thơ “Giặc ở Quảng Yên như cá ở trong chậu” tức không sống được lâu, sang năm Tự Đức 19 (1866) thì đảng của Lê Duy Phụng bị tiêu diệt hoàn toàn và Lê Duy Phụng bị bắt và xử tử.
4. “Lừa kêu”: Trích truyện của Liễu Tông Nguyên, nhà văn thời Đường, có kể là ở đất Kiếm vốn không có lừa, nhưng một người đã đem một con lừa từ nơi khác đến thả trong rừng. Hổ thấy lừa to lớn, thì tưởng là vị thần, nghe lừa hí thì sợ, nhưng rồi dần dần nghe quen, nên lại gần, lừa tức giận tung vó đá hổ. Hổ sấn tới nhảy lên cắn cổ lừa ăn thịt. Do đó câu thơ “Gia Định lừa kêu kế đã cùng” có nghĩa là bọn Pháp ở Gia Định cũng giống như con lừa ở đất Kiếm đã hí lên rồi thì tài năng cũng đã để lộ ra hết rồi, không có gì đáng sợ nữa.

Lại có một lần nữa, người Pháp bắt được bản ghi tên các nhà bá hộ ở Phước Lộc, Tân Hòa bấy lâu lén lút chở lúa gạo lương thực đến Phước Tuy như Phạm Cự Chung v.v... Tôi cũng đưa thay đổi cất giấu, nếu không thì mấy người này cũng không có đất mà ẩn náu nữa!

Còn như các hòa ước của hai bên trao đổi hàng chục lần thì trong chữ Pháp có chỗ nào nhục mạ không khiêm tốn, tôi đều bỏ hết không dám viết ra. Còn những công văn có lý thẳng lời hay có ích cho việc nước tôi đều dịch rất rõ ràng đầy đủ. Lúc ấy hòa ước tuy chưa thành nhưng tướng Charner cũng đã dần dần có thái độ hòa dịu, đã chịu bớt cho số bạc bồi thường và giảm số đất phải nhượng. Chẳng may, có một bận tôi có việc phải đi xa, quan Pháp vớ được một đạo công văn giao cho viên giám đốc người Pháp nhờ một người Hoa phiên dịch, trong có mấy khoản nói về việc treo giải thưởng cho những người chém được quân và quan Pháp. Tướng Pháp thấy thế, liền cho là Triều đình giả hòa. Tôi tuy đã nhiều lần giải thích, nhưng trong giấy lại có ghi ngày tháng làm căn cứ nên không thể làm sao được, trong lòng lấy làm lo ngại. Do đấy tướng Charner chán nản thất vọng thu xếp về nước.

Tôi lại gởi cho Nguyễn đại nhân một bức thư. Khi ấy tôi đã dò biết tướng Bonard sắp sang. Ba tỉnh sắp mất. Phía trong phong bì bức thư đó, tôi lấy bút chì mật viết mấy hàng: “Xin đại nhân phái gấp một người lanh lợi có trí nhớ tốt, đến chỗ ở của tôi, tôi có vài điều bí mật cần nói để người đó về trình lại, xin điều đình ngay để kịp cứu vãn tình thế”. Ở phía ngoài, mặt sau phong bì tôi có viết mấy chữ “Xin xem bên trong phong bì”. Nếu phong bì ấy còn đến ngày nay, thì hiện dấu chữ của tôi đủ làm bằng chứng. Không biết vì sao không thấy Nguyễn đại nhân phái người đến hỏi. Tôi mong đợi đến mấy ngày. Rồi tướng Charner xuống tàu về nước, để lỡ mất cơ hội ấy. Tôi đành ngậm ngùi than thở mà tự nghĩ rằng: Phải chăng ý Trời khiến thế? Người dẫu có cao mưu tài trí cũng không thể cưỡng được1. Đứng trước tình thế khó khăn ấy, nếu quả tôi là kẻ có lòng phản bội Tổ quốc thì sao tôi lại có thể cẩn thận suy nghĩ, bí mật lo liệu được như vậy? Kế đó tướng Bonard sang. Tôi thấy ông ta có những hành động nghịch lại việc bàn hòa. Tình thế đã khó lại khó thêm, tôi mới quyết ý xin thôi không làm việc nữa. Họ không chịu xét2. Tôi nhất định từ, không nhận bổng lộc. Ai cũng chê cười tôi là ngu. Mặc dầu họ có sai người đến cố nài ép trao cho tôi, tôi cũng bỏ đi lánh mặt. Thấy lòng tôi quyết định, chí tôi vững chắc họ lại đem quan chức ra dụ tôi. Tôi nói: Nhận quan chức thì được bổng lộc, không nhận thì dù bần cùng đến phải làm đứa ăn xin cũng thà làm đứa ăn xin chứ không chịu theo mà phụng sự cho họ. Câu nói này hiện có cố Hòa3 và những người lúc bấy giờ cùng nghe. Xem thế thì thấy tôi đã cương trực đến như thế nào. Hơn nữa, mỗi khi nói chuyện với những bậc trí thức, tôi đều nói đến những hành vi và chính sách hà khắc của họ. Tuy nhiên cũng còn giữ lễ của kẻ trượng phu nên chịu dám nặng lời, và ngay đối với hạng ngu phu nô dịch tôi cũng dùng lời lẽ nhẹ nhàng. Nhưng về sau đến lúc quá quắt không chịu được nữa (ở đây tôi đã dùng rất nhiều lời lẽ để nói), đã ví họ như người đàn bà mới về làm dâu, thói xấu tật hư chưa manh nha lộ dạng. Đối với hạng ưa chuộng quyền thế lợi lộc thì tôi bảo như thế là vì “miếng ăn mà không nghĩ gì đến tư cách của mình”. Đối với hạng người cho chúng là lớn mạnh mà sợ thì tôi giận ra mặt vào bảo như thế là “làm tăng trưởng nhuệ khí người ta, mà tự diệt uy phong của mình”. Đối với hạng người cho chúng là giàu có thì tôi mắng nhiếc rằng: “thứ ăn mày đến cửa nhà ai cũng chúc tụng”. Đối với hạng người cho rằng chúng có thế lực vững, có nhiều lợi thế hơn có thể chịu đựng lâu dài thì tôi bảo rằng “chuyện hưng thịnh suy vong là điều vô thường”. Tôi lại đem những lợi hại của phương Tây xa xôi ra so sánh để thấy rằng chúng mạnh chỉ là tạm thời mà dễ yếu, còn ta tuy yếu mà dễ mạnh được lâu dài. Đó là điều tôi thường đem ra tranh luận mãi không thôi. Xin hỏi những người chung quanh sẽ biết tôi nói có đúng không. Vì vậy, ngày trước tôi có đưa cho Phan đại nhân một câu thơ rằng:

Khói lửa trời Nam rồi sẽ dứt,
Phương Tây binh giáp tạm hùng thôi”
4
_____________________________________
1. Đoạn chữ xiên “Đứng trước tình thế khó khăn... Xin hỏi những người chung quanh sẽ biết tôi nói có đúng không. Vì vậy” không có trong NAM PHONG và Hv 135.
2. Đoạn chữ xiên “Tôi nhất định từ... mà phụng sự cho họ” lại có trong Từ Ngọc Nguyễn Lân sđd trang 27.
3. Tức linh mục Croc, có tên Việt là cố Hòa, sau này là Giám mục giáo phận Vinh.
4. Nguyên văn hai câu thơ có chữ Ly hỏa và Đoài kim.
Ly hỏa: Ly ở phương Nam thuộc hỏa, ám chỉ việc binh đao ở nước ta có ngày sẽ khắc phục được; Đoài kim: Đoài phương Tây thuộc kim, ám chỉ nước Pháp tạm thời xưng hùng.

Tôi nghĩ rằng thời kỳ khôi phục nước nhà đã có xác chứng ở bốn bể, dự tính được ở tương lai. Đi theo con đường nào mới được? Con đường phải theo không thể tìm ở trong nước mà phải tìm ở trong thiên hạ. Như trong tờ bàn về việc nên hòa năm xưa1, tôi đã mật trình với Nguyễn đại nhân rằng: một là mình phải khéo léo ngăn chặn đừng để họ tìm cớ sinh sự làm lan rộng ra; hai là hãy thong thả sắp đặt đợi lúc họ sơ hở; ba là để dân thư thái củng cố sức lực. Như đoạn cuối trong bài có nói: Dân đã yên rồi thì sau sẽ đưa những người tài hiền đi ra bốn bể để học tập các nước lớn những phương pháp tấn công, phòng thủ, phân tán, tập hợp. Ở chung với họ lâu ngày thì mới đo lường các đức tính, các lực lượng mà biết tình trạng của họ. Học được tinh thông rồi mới có kỹ xảo. Kỹ xảo giỏi thì mới mạnh, dưỡng uy súc nhuệ đợi thời mà hành động. Như thế thì tuy mất miền Đông mà lấy được miền Tây2 cũng chưa lấy gì làm muộn.

Còn như những điều mà Triều đình thâm mưu mật nghị cố nhiên không phải là những điều mà kẻ thảo dã này dám bàn luận ước lượng đến. Nhưng tình thế lớn trong thiên hạ biến đổi vô cùng, thường thường có những cái mà con người không tính trước được. Dù là thánh nhân cũng không thể không học mà hay. Huống chi ta với họ phương Đông và phương Tây, đường đất xa nhau, mắt chưa thấy tai chưa nghe, tình cảm chưa thông hiểu, sự cơ chưa rõ hình. Chưa ra khỏi nhà nửa bước, thì làm sao biết được họ? Cho nên, Mục công3 đời Tần tuy có Bách Lý Hề, Thúc Kiến, Mạnh Minh là những người hiền nhưng xảy đến sự thế Tây Nhung cũng phải đợi Dư Do báo tin rồi mới biết. Lẽ nào ở trong triều có ba hiền lương như bọn Lý Hề, Thúc Kiến, Mạnh Minh mà lại không bằng một Dư Do sao? Rõ thực con người dầu là trí tuệ cũng có chỗ không đủ, dù là thông minh cũng có chỗ không biết. Đến như Hán Cao Tổ không phải không thông minh, thế mà việc để tang Nghĩa Đế phải đợi Đổng Công nói rồi mới phát tang. Khổng Tử không phải là không có trí tuệ cao vượt, thế mà bị người dân quê bắt mất ngựa cũng phải đợi người giữ ngựa nói hộ rồi mới được trả lại. Đó là vì việc lớn trong thiên hạ không phải một mình có thể biết hết. Tính tình con người mỗi nơi mỗi khác, nếu không phải cùng nòi giống, không thể hiểu rõ được. Tôi tuy phận thấp hèn nhưng tình thế lớn dọc ngang trong thiên hạ, tình trạng lợi hại của những nước ngoài cũng đều biết sơ qua một vài điều. Từ lâu ôm ấp trong lòng chưa được nói ra! Cho nên trước kia tôi có đưa cho Phan đại nhân một bài thơ rằng:

Dệt mướn thôn Tây chẳng phải nghèo
Khung cửi nhà người sẵn đấy theo
Gấm vóc cung Đông như hỏi đến
Kim vàng trân trọng nắn đường thêu”
4.
_____________________________________
1. Lời bàn về việc nên hòa (Hòa từ) là một bản văn của Nguyễn Trường Tộ đã gởi cho Nguyễn Bá Nghi tháng 3-4/1861. Đây có thể là bản “Thiên hạ đại thế nguyên tập” đăng trên NAM PHONG số 100 tháng 11-1925.
2. Nguyên văn: “Thất chi Đông ngung, thu chi tang du” câu trong HẬU HÁN THƯ, Phùng Dị truyện. Ý nói mất miền Đông (mặt trời mọc) mà lấy lại miền Tây (mặt trời lặn).
3. Mục Công, vua nước Tần đời Xuân Thu.
4. Bài thơ này ngụ ý nói rằng: Cũng như những cô gái đi dệt thuê ở thôn Tây không phải vì nghèo mà vì muốn học nghề để có thể dạy cho đồng hương nếu cần, Nguyễn Trường Tộ đi với Tây cũng không phải vì nghèo mà vì muốn học hỏi để giúp Triều đình nếu Triều đình cần đến.

Tôi lại đưa cho Phan đại nhân mấy câu:

Mặt trời cho dẫu không soi đến
Hướng Dương xin vẫn nếp hoa quỳ”
1

Xem đấy cũng đủ thấy tấm lòng nhiệt huyết của tôi.

Trước kia cũng có một lần Hiệp lãnh Phạm đại nhân2 đến chỗ ở của Giám mục Hậu3 tôi thấy đại nhân có lòng lo cho việc nước bảo vệ công lý, hỏi han ân cần chu đáo. Thấy vậy tôi mừng thầm và xin hẹn với ngài hôm nào cải trang ăn mặc thường đến chỗ tôi ở để tiện việc mật trình. Nhưng lúc bấy giờ vì quan Pháp nghi ngại Phạm đại nhân quá lắm, đề phòng rất kỹ càng. Tôi sợ việc lộ ra sẽ lụy đến đại nhân nên phải có thái độ giấu đầu che đuôi. Rồi không biết Phạm đại nhân nghi ngờ làm sao đã không đến chỗ tôi ở. Tôi thất vọng vô cùng.
_____________________________________
1. Có ý nói rằng: Tuy Triều đình không dùng, nhưng lòng tác giả vẫn luôn hướng về Triều đình, lo toan đến quốc sự.
2. Tức Phạm Phú Thứ.
3. Tức Giám mục Gauthier, có tên Việt là Hậu.

Xem mấy việc trên đủ biết dụng tâm sâu kín của tôi như thế nào. Nay ở Gia Định, những người ở trong tình cảnh đáng lo sợ, trừ các thuộc quan nhỏ của Triều đình ra, chỉ có mình tôi mà thôi. Vì lúc trước tôi có đi với người Pháp, bất đắc dĩ phải làm cái việc thân ở Hán tâm ở Hàn. Về tình tuy không thẹn, nhưng ai thấu rõ nguồn cơn? Xưa nay những người sa chân lỡ bước lưu lạc tha hương cũng nhiều. Tuy sống ở đất khách nhưng người nào chả có gốc, ai lại vong tình cố quốc được. Về sau cũng có người nhân đấy lập công, cũng có người suốt đời sống lưu lạc, nhưng cả hai đều không tránh được công luận để án lại nghìn thu. Tôi mỗi lần đọc thư trả lời của Lý Lăng1 gởi Tô Vũ không lúc nào không rơi lệ rởn tóc. Thật là một lần sa chân lỡ bước mà nuốt hận suốt đời. Những lúc gặp phải cảnh trái ngược như thế thật là khó xử trí. Bởi vì trong danh giáo hạng người biết xét rõ nguồn cơn để rộng lượng khoan hồng, biết đặt pháp luật ra ngoài mà xét theo tình để không hà khắc, biết viện những lý lẽ trong pháp luật ra mà bênh vực kẻ cùng đường lỡ bước, chẳng qua chỉ được một hai người. Còn những kẻ chỉ biết nhìn và coi trọng việc trước mắt thì có đến hàng nghìn hàng vạn. Cho nên, hễ hợp nhau thì tuy nói là sơ nhưng lại càng thân, còn việc đã nghịch nhau rồi thì dù nói thật cũng nghi. Thế thường nhân tình là vậy. Bởi thế những kẻ sĩ khi gặp cảnh trái ngang, thường thường thân bại danh liệt, lưu lạc không về, luống đem khí uất ức lâm ly mà vùi chôn nơi cát vàng cỏ úa mà thôi. Đấy chính là sự thế của tôi ngày nay. Cảnh ngộ tuy có khác nhưng bản lĩnh của tôi không vì hoàn cảnh mà đổi dời. Nương thân nơi cửa người nhưng thề quyết không bày mưu cho họ. Như năm trước tôi có gởi cho người bạn Trung Quốc một câu thơ rằng:

Ngụy Tào sống gởi: Từ Nguyên Trực
Tần Lã không thờ: Lỗ Trọng Liên”
2.

Cũng có lúc nghĩa khí ở trong lòng vì sự tức giận mà bộc lộ ra. Anh em bạn của tôi cho rằng, đã có cái chí khí như vậy sao không bí mật làm nội ứng? Ý ấy trước kia tri phủ họ Phan cũng đã nói đến. Tôi đã lấy câu hỏi của Dự Nhượng3 rằng: “Không muốn làm việc dễ mà làm việc khó” để trả lời và xin đợi đến ngày sau sẽ biết. Xem thế đủ thấy thâm ý của tôi là giữ lấy cái chính không dám làm điều sai lầm. Nhưng điều dụng tâm kín đáo khó khăn của tôi bị nhùng nhằng trở ngại, lại càng gay go hơn thế nữa.
_____________________________________
1. Lý Lăng, một viên tướng thời Vũ đế nhà Hán, cầm quân đánh nhau với Hung Nô, nhưng vì thế yếu lại không nhận được viện binh nên buộc phải tạm đầu hàng. Vũ đế được tin Lý Lăng đầu hàng đã giết vợ con họ hàng Lý Lăng. Sau Tô Vũ đi sứ sang Hung Nô, Lý Lăng viết thư cho Tô Vũ kể hết nỗi lòng.
2. Nguyên văn:
    Ký thân Tào thị, Từ Nguyên Trực
    Bất đế Dinh Tần, Lỗ Trọng Liên.

    Đời Tam Quốc, Từ Nguyên Trực theo Lưu Bị, bị Tào Tháo bắt mất mẹ, nên phải về theo họ Tào, nhưng nhất định không bày mưu cho họ Tào.
    Đời Chiến Quốc, Lỗ Trọng Liên cho nước Tần là man rợ, nên không chịu tôn Tần Thuỷ Hoàng làm Hoàng đế. Ông nói: Thà nhảy xuống sông mà chết chứ không chịu làm dân nhà Tần.
3. Dự Nhượng, người nước Tần, thời Chiến Quốc, đồ đệ của Trí Bá, Trí Bá bị Triệu Trong Tử gỉết, Dự Nhượng làm đủ cánh để cải trang nhằm giết cho được Triệu Trương Tử.

Từ lúc tôi lớn lên, bước chân ra xứ khác, chẳng được Triều đình biết đến, thế mà không sợ phạm tội, quên mình là kẻ hèn mọn dám nói đến việc cao xa, chẳng tránh hiềm nghi dám trình bày lợi hại. Như thế thật là ngạo mạn. Đó là tội thứ nhất.

Ở Triều đình tôi không có địa vị, yến tiệc tôi không dự. Những việc trọng đại tôi không có liên quan gì, thế mà không biết giữ mình sống bấp bênh theo chúng là hơn. Huống chi ở trong vòng của quân địch mà lại ôm chí khác. May ra dẫu thành công cũng không tránh khỏi sự chê bai. Như trường hợp vợ cũ của Mãi Thần quay đầu trở về xin chịu tội1. Cho dù lượng bể bao dung cũng chưa chắc không khỏi có điều lo ngại về sau. Lỡ ra lòng người khó chắc, sa cơ bại lộ thì thân chịu một mình, nào ai biết đến. Thế thì tội gì mà làm như vậy? Đó là tội thứ hai.

Xưa nay những kẻ trung thần nghĩa sĩ, ai chẳng muốn đem tài ra giúp nước. Nhưng một mai việc không thành bị dèm chê thì thân danh bại hoại sự nghiệp tiêu tan. Huống gì tôi ở vào hoàn cảnh khó biện bạch, dễ bị nghi kỵ, mà lại làm việc vượt ngoài phạm vi của mình, không biết giấu tên che dạng để cầu toàn thân lại còn đem thân hèn mọn hiến dâng ý kiến. Một giọt nước bổ ích gì cho núi sông? Sao mà ngu vậy. Đó là tội thứ ba.

Vì tôi là kẻ tự biết rõ mình, thấy mình một cách chính xác, bao nhiêu những việc thế tình nham hiểm, hoạn hải ba đào không việc gì không biết, nên mới cam tâm chịu ba tội ấy. Chuốc lấy mối lo không phải thuộc phận sự của mình, ôm lấy những việc khó làm, chí đó mới có thể giữ được. Người xưa xét người không xét ở thành bại mà xét ở chỗ có hay không có tấm lòng. Có lòng mà gặp thời đắc dụng là điều may. Có lòng mà gặp phải trắc trở luân lạc, là điều không may. Có lòng mà gặp thời không tốt, đến phải cô quạnh không chốn nương thân lại còn mắc tội, là điều rất không may. Nhưng nếu lấy điều khoan dung nhân hậu mà xét, thì nhìn vào lầm lỗi của một người có thể biết được lòng nhân hậu của người đó. Huống chi tôi nay như con cá voi ở giữa bể, trong gia đình không hệ lụy vợ con, ngoài xã hội không lo bị kìm chế, thế mà biết nhớ về cố đô, căm giận quân thù. Cho dầu một ngày kia may mà thành sự, tôi vẫn biết khó tránh khỏi lời dị nghị mà yên thân được. Hơn nữa tôi cũng biết rõ rằng tội trước khó chuộc và kẻ có tài thì dễ rước lấy tai ương. Tôi vốn là người hiểu sâu đạo giáo. Việc đời được mất vinh nhục tôi đều xem như ngoại vật, chỉ cần bảo toàn lấy cái điều rất quý ở nơi mình là đủ rồi, nhưng thấy người có việc bất bình cũng phải tuốt gươm cứu giúp, mà bản tâm không mong người đó báo ơn. Chỉ khi nào không mong người báo đáp người ta mới làm được những việc phi thường, khẳng khái. Hơn nữa, tôi còn thấy một cái gì cao thượng hơn sự so đo đền ơn trả nghĩa theo cách thường tình ở đời. Như trước kia tôi đã thiêu hủy cả một tập văn thư có ghi tên Phạm Cự Chung đó là một chứng cứ. Ngoài ra những việc làm như minh oan cứu người, nói những lời lợi cho nước thì không thể kể hết. Tôi vốn không có trách nhiệm về việc công, không mong khen thưởng, không mong báo đáp sau này, mà làm được như thế, không phải là khác hơn người đó sao?

Xưa, Đông Phương Sóc dâng thư tự tiến cử mình, toàn khoe khoang những tài năng bản lĩnh của mình không hề giấu giếm tý nào. Tôi tuy khôi hài hoạt kê không bằng Phương Sóc nhưng thâm hiểu nhân tình thế thái, biết rõ điều lợi hại, những đạo lý cao xa, những điều bí ẩn tinh vi, so với Phương Sóc còn có phần hơn, cho nên không sợ ghen ghét nghi ngờ cứ nói ra hết thảy, để thấy rằng kẻ sĩ trong thiên hạ không bị ràng buộc thì cách cư xử của họ thường vượt ra ngoài khuôn sáo. Thế thì không nên lấy cái luận đoán thường tình mà câu thúc họ, để rồi khiến cho họ cũng sẽ chết già trên mặt biển, cũng buồn thảm như những người xưa mà thôi.

Cúi xin đại nhân lấy quan niệm cao cả rộng lượng mà vượt ra ngoài những xét đoán hẹp hòi, thương kẻ vong thân bất hạnh này, bỏ qua những hình tích bề ngoài mà xét thấu tấm lòng thành của tôi. Nếu như đại nhân vui lòng nhận những lời lẽ vụn vặt này, tôi kính xin dâng mấy bài Thiên hạ phân hợp đại thế luận, Tế cấp luận, Giáo môn luận,... để cho ngụm nước nơi vũng chân trâu nhờ sông ngòi có thể chảy thấu ra biển cả. Được thế thì nước đó qua trăm dặm may ra có thể giúp được ít nhiều. Như thế, tôi dẫu chết vùi nơi chốn mường mọi cũng tỏ được tấm lòng không quên nguồn gốc.                                                                       

Muôn nhờ ơn. Kính bái.
_____________________________________
1. Chu Mãi Thần, đời Hán, nghèo bị vợ bỏ. Sau ông được làm quan, vợ xưa trở lại, ông lấy bát nước đầy đổ xuống đất và bảo vợ nếu múc lại đổ đầy được, ông chịu tái hợp.

DI THẢO SỐ 4

Kế hoạch duy trì hòa ước mới *

(Khoảng 11-17 tháng 2 năm Tự Đức 17 tức khoảng 18-24 tháng 3 năm 1864)

Tôi là Nguyễn Trường Tộ xin kính bẩm,

Sự thế hiện nay rất khó xử, cần phải tìm người giúp, bủa lưới bốn mặt, để họ không được hoành hành, thì bản minh ước1 mới lâu dài được, phải lấy kinh nghiệm các nước khác đã bị trúng ám kế của họ để làm gương, và bắt chước những mưu mô mà các nước khác đã chế ngự được họ. Hai lối ấy là việc rất gấp cho tình thế hiện nay. Tôi đã trình bày sơ lược với hai vị phó sứ và bồi sứ2 rằng việc ấy mười phần chắc chắn không nghi ngờ gì nữa. Vì họ nghĩ rằng nước ta từ trước chưa bao giờ giao thiệp với nước ngoài, chưa hiểu rõ các mánh khóe nên họ mới dùng những kế đã thi thố ở các nước khác ra thi thố với ta. Nếu đại nhân3 đã có mưu kế riêng rồi, thì tôi không dám bàn nữa. Còn nếu muốn mưu tính việc thiên hạ, khiến những bọn ghét nhau tự xâu xé lẫn nhau, để ta được nhân đó mà hưởng lợi, như xưa kia Anh mất Hợp Chủng Quốc là vì có nước Pháp xen vào; Khang Hy được chia bờ cõi với người Nga vì bị Hà Lan dụ dỗ; Nhã Điển khỏi bị thần phục Thổ Nhĩ Kỳ vì có Anh, Pháp giúp đỡ. Các nước Nhật Nhĩ Man4 khỏi bị thôn tính là nhờ có các nước lớn giữ cho. Lý do vì sao được như thế, trong tờ trình bày tháng trước tôi đã bẩm qua rồi. Cúi xin đại nhân soi xét tấm lòng thành đem việc chuyển tâu lên. Nếu ngày kia có việc5, tôi xin được phụ giúp, tôi cũng có thể trình bày một vài ý kiến để chuộc tội trước.
______________________________________
* Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/13 tờ 63-71 và Hv 634/3 tờ 34-46.
    Hai bản hoàn toàn giống nhau, chỉ khác một vài chỗ sai sót của người chép.
    Về niên hiệu thì chỉ có Hv 634/3 ghi “Tự Đức 23 với đầu đề “Điều trần hiện tình” Nhưng qua nội dung, chúng ta có thể đoán chắc rằng bài này được viết gởi Phan Thanh Giản vào khoảng giữa tháng 2 năm Tự Đức 17 tức hạ tuần tháng 3-1864.
    Thực vậy, chúng ta biết là Phan Thanh Giản, cùng với hai phó sứ và bồi sứ, Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản, đi sứ ở Pháp về, mang theo một bản dự thảo Hòa ước, thay thế cho Hòa ước 5-6-1862. Theo dự thảo Hòa ước mới: Pháp trả lại cho Việt Nam ba tỉnh phía Đông và chỉ giữ lại một vài địa điểm làm nơi buôn bán. Ngược lại, Triều đình Huế phải trả cho Pháp một khoán tiền bồi thường rất lớn hằng năm. Phái bộ Phan Thanh Giản, phải lưu lại Sài Gòn từ 11 đến 17 tháng 2 năm Tự Đức 17 tức từ 18 đến 24 tháng 3 năm 1864, trong lúc chờ tàu trở về Huế.
1. Bản minh ước: Tức bản dự thảo Hòa ước mới được thương thuyết tại Paris giữa phái bộ Phan Thanh Giản và Aubaret cuối năm 1863.
2. Phó sứ và bồi sứ: Tức Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản.
3. Đại nhân: Tức Phan Thanh Giản, Chánh sứ.
4. Nhật Nhĩ Man: Tức liên minh các nước Đức (Confédération du Rhin).
5. Việc: Đây là việc đi giao thiệp, thương thuyết hay đi ra nước ngoài theo như kế hoạch được trình bày trong bài văn này.

Hiện nay tôi muốn đi qua kinh đô nước Anh. Nhân nước Anh có mở đại hội cách trí, họ thường sai người đi khắp các nước đến các đầu phố phỏng vấn về tình hình người phương Tây giao tế với các nước khác như thế nào (Việc này có tương quan đến đại thế tung hoành, phân hợp của các nước). Người này đến Gia Định, phỏng vấn người Pháp gần đây thế nào, Đại Nam thế nào, nhưng người Pháp không chịu nói sự thật. Y nghe tiếng tôi, tự đến hỏi thăm. Thật tình có bụng muốn gặp nhau nên nhân y muốn mời tôi cùng đi, tôi mừng thầm cho đó là cơ hội tốt khiến tôi có thể đến tận nước Anh, như trong tờ mật bẩm ngày trước tôi đã nói lý do cần đi nước ngoài là vì thế.

Vậy cúi xin đại nhân cho tôi mượn bộ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ (tại sao lại cần dùng bộ sánh ấy, tôi đã nhờ hai vị phó sứ, bồi sứ chuyển trình rồi). Nếu được đại nhân cho mượn, thì xin giao cho người thông ngôn của hỏa thuyền (Ngoài bì nhớ đề: cố Hòa1 ở nhà Phước nhận) cầm về cho tôi. Khi nào xong việc, xin trả lại tử tế. Muôn đội ơn đại nhân.

Nếu có việc gì ở nước ngoài, cần dùng đến tôi, thì xin cho biết gấp, tôi xin đợi ở Gia Định. Không thì tôi xin đi trước. Hoặc đi hoặc ở lại, xin theo ý định của đại nhân.

Tháng trước, tôi đã bẩm lên quan Thượng thư bộ Binh biết rằng: Họ muốn làm kế bưng tai ăn trộm chuông, cho nên gấp rút phái thuyền đến Kinh xin hoàn thành công việc2. Đấy là mưu kế độc ác. Có hai lẽ (Hai lẽ ấy tôi đã bẩm rõ rồi). Vả lại trong tờ hòa ước họ có buộc một điều kiện là: “Có thuận cho thi hành mới được thi hành” 3, chính là mưu ngăn chặn người khác chia lợi với mình sau này vậy. Vì gần đây các nước ký hòa ước chung với phương Tây, phần nhiều đều có các nước cùng chứng vào, nên khó bề tự ý muốn làm gì thì làm. Chỉ có lần này họ đem kế ấy thi hành ở nước ta. Họ biết chắc chắn thế nào ta cũng sẽ vi phạm trước. Ý họ muốn mượn cớ đấy để phía Nam lấy Cao Miên, phía Bắc thông lên Vân Nam (Họ nghe nói tơ Vân Nam tốt nhất thiên hạ, lại nghe Hải Dương có mỏ than) chứ không phải chỉ vì ba tỉnh mà thôi.
______________________________________
1. Cố Hòa: Tức linh mục Croc, lúc đó làm thông ngôn cho Pháp và linh hướng cho các bà dòng Thánh Phaolô (Nhà phước, phúc gia).
2. Xin hoàn thành công việc: (Cầu thành giả) Tức việc phái bộ Bonard đến Huế tháng 4-1863 để làm lễ trao đổi bản Hòa ước đã được vua nước Pháp và vua Tự Đức phê chuẩn.
3. Thuận cho thi hành mới được thi hành: (Doãn hành tắc hành): Đây là điều 4 của Hòa ước 5-6-1862, trong đó có quy định rằng: Khi vua nước Nam có ký hòa ước, trong đó có vấn đề xét nhượng đất cho một nước khác, thì vua nước Pháp có đồng ý mời được ký kết, không cho ký kết thì không được ký kết. (Đại Phú Lăng Sa Hoàng thượng doãn hành tắc hành, bất doãn hành tắt bất hành).

May phen này (Người Anh nghe họ thông thương với Cao Miên rất giận) Triều đình ta cương quyết sai sứ sang Tây, họ tưởng là ta đã khám phá được âm mưu của họ rồi (Vì nước họ có hai đảng: Một là Viện Công Hầu, một là Viện Thứ Dân; Viện Công Hầu thì hay bợ đỡ ý vua, còn Viện Thứ Dân thì cho việc ấy là bức hiếp người ta, vì nước ta chưa có sai lỗi gì lớn, mà làm như thế là chưa hợp nghĩa; vả lại Viện này nhiều người có thiện cảm với đạo giáo, cho là nếu gây sự càn bậy, sợ thiên hạ chê cười, cho nên dư luận xôn xao không thuận. Nay ta muốn mưu việc cũng phải ngầm thông với Viện này mới được; nếu cần ngầm thông, cũng phải tốn nhiều công sức, biết nhiều ngõ ngách, nay chưa bàn đến kịp). Cho nên họ làm kế tạm cho lại (Kế này 200 năm trước, người Anh đã thi hành ở 5 xứ Ấn Độ, người Anh thấy lòng dân chưa phục, nếu hiếp chế phải tốn kém nhiều sức binh lính, cho nên giả vờ không tham mà trả lại, chỉ dùng thổ quan thay họ cai trị. Sau đó họ hết sức dụ dỗ, và lấy của tốt mua lòng. Lúc đầu, thấy thổ quan còn có lòng vì nước, họ cũng giả làm không nghe biết. Rồi lâu ngày sinh tệ, vì tính con người ta chưa thoát khỏi niềm tục, ít người không bị của cải mua chuộc; vả lại dần dần đút lót đưa vào cũng vì nể nang, mà dễ xiêu người; lâu ngày về sau, phân nửa bọn thổ quan, đã bị họ lợi dụng. Huống hồ họ lại đã am hiểu phong thổ, nên sau chỉ cần đánh một trận là tiêu diệt; trong đó cũng có bọn muốn làm Hoàng Sào1 chống lại, nhưng khi sức họ đã đủ bao trùm hết, thì dù có Hoàng Sào cũng nuốt luôn).

Họ trả lại cho ta một là vì danh nghĩa ép buộc (Điều này ngày trước tôi cũng đã bẩm lên quan bộ Binh biết rõ. Xin đợi đến khi về Kinh xem lại kỹ càng).

Hai là để lấy lòng (Điều này chưa dám nói rõ).

Ba là tạm mua hư danh, rồi sẽ thong thả thực hiện ý đồ (Tôi đã từng dò biết được chắc chắn không sai, họ cũng bàn bạc với nhau rằng: Sứ bộ nước Nam đã sang, mà ta cứ giữ khư khư không cho, sợ sinh sự không tốt đẹp, như mấy việc tôi đã nói ở trên. Vả lại họ giữ chưa được vững, sợ người khác giúp ta, âm thầm chẹn họng họ. Chi bằng bề ngoài giả tiếng là cho chuộc mà nâng cao giá lên. Nếu ta chịu hết điều kiện, thì hiện nay họ được lợi. Ngày sau ta không khỏi trái ước. Lúc ấy hai mối lợi họ đều được, mà ta thì không có lời lẽ gì để bộc bạch với thiên hạ, họ mới có thể giữ được bền vững lâu dài, như việc người nước Anh trước kia. Hoặc là muốn ta cho sự thề ước quá nặng, lại tưởng ta không biết đường lối, khó tìm được người giúp đỡ, chỉ cứ lúng túng lấy nặng nhẹ làm điều, kéo dài ngày tháng. Hoặc ta nghi ngờ mà không chịu, hay chịu mà không theo đúng lời họ yêu cầu thì họ sẽ có lời lẽ với thiên hạ, mà cái cớ để lấy lại càng thêm vững chắc. Điều ấy trong ý họ tính được bảy phần. Trước đây, những điều ta chịu hết, trong ý họ chỉ có ba phần. Hai điều ấy, ta rất khó xử trí. Các nước đã từng bị kế độc ác ấy của phương Tây. Nếu nói rằng họ đã mệt mỏi mà trả đất lại cho ta, thì hiện nay chưa có khả năng như thế).

Nhưng mà muốn nên việc lớn, phải tranh giành hàng trăm năm, chứ không phải chỉ tranh giành một lúc mà được. Họ dòm ngó đất ta, cầu thành công sau vài mươi năm, thì ta muốn trấn áp được họ, cũng phải cầu hiệu quả sau vài mươi năm, chứ không thể một lúc mà được. Họ đã lấy được Gia Định, tự cho là nơi thiên nhiên hiểm trở, có thể đua đuổi với người Anh. Có điều là ta phải biết xử khéo đừng để cho lan rộng ra.

Vậy một là phải tìm được ngoại viện để phá mưu của họ (Điều này có nhiều chỗ cơ yếu, khó nói vắn tắt được).

Hai là phải tìm những tụi du côn của nước nào có giao hiếu với họ, âm thầm đến nước ta (Tuy bọn chúng cũng có nhiều người muốn theo ta nhưng ta chưa biết tìm đường đấy thôi. Còn như bọn vô lại các nước, ở tản mác khắp nơi, cũng có nhiều người rất là mạnh khỏe gan dạ. Nếu ta biết khéo dùng thường thường được chúng ra sức liều chết. Tôi đã biết hạng người ấy mang tội phiêu lưu, không cần gì ở trên đời này cả. Chỉ cần được no ấm khoái lạc thì dù có chết cũng không từ. Nếu ta dùng được thì có lợi rất lớn) để gieo lòng nghi hoặc cho họ.

Ba là phải học hết các món khôn khéo của họ, mà trong khi qua lại giao tế, phải nhượng cho họ ba phần. Đại phàm đem chuyện phi lý mà buộc cho người, tất nhiên phải có dựa vào một lý lẽ nào đó. Nếu ta không có điều gì để họ có thể chấp lý được thì chắc chắn họ phải im không dám hành động gì. Cứ bủa vây bốn mặt rồi chờ khi có tệ (Tệ này tôi đã dự đoán không sai, 10 năm sau sẽ thấy) mới có thể mưu đồ được.
______________________________________
1. Hoàng sào: Người đất Oan Cú, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc nổi lên đánh đuổi vua Hy Tây, nhà Đường (862-877) lên làm vua.

Tôi xem qua các nước từ 500 năm lại đây, sở dĩ chế ngự được họ, không ngoài ba điều trên và ít nhất cũng phải dùng đến hai điều. Nếu không có ba điều ấy, từ trước đến nay, tôi chưa thấy có mưu chước gì được cả. Nhưng thời khác, thế khác. Hiện nay bí quyết chống giặc của Triều đình đã có những bậc tài trí như thánh nghĩ ra, đâu phải hạng hèn mọn như tôi có thể suy đoán được. Nhưng đại nhân có lòng hạ cố, nên tôi tự nghĩ, nói mà được việc, thì dù có tội cũng cam lòng. Mong sao những dòng nước nhỏ được chảy xuống bể, dầu không bổ ích gì, nhưng cũng được có chỗ để hướng về.

Tôi xin đem hiệu quả có thể thu được ở điều thứ nhất mà tính để mừng trước. Còn như đi đường ngõ nào, thì trên Triều đình đã có sẵn kế hoạch, tôi đâu dám vượt phận mà nói càn.

Xưa vua Đạo Quang nhà Thanh đã từng nói: Chước chống rợ giặc, hay nhất chỉ có một đường là “dùng rợ đánh lại rợ”. Nhưng vì họ lại lấy việc tự hạ mình làm xấu, cho nên chưa thấy công hiệu lớn của chước ấy. Có điều thấy rõ là người Nga sở dĩ không dám ở yên đất Mông Cổ, vì nhờ nước Hà Lan; Nhật Bản bị đuổi ra ngoài bể cũng bởi Bồ Đào Nha. Còn các nước khác đã được hiệu quả như vậy, không thể kể hết.

Tôi xét thấy sự thế hiện nay chỉ người Anh có thể cộng tác được với ta. Vì Anh và Pháp có mối thù truyền kiếp. Nay người bác của vua Pháp bị người Anh đày ở ngoài một đảo xa xôi, người Pháp lấy làm xấu hổ.

Người Anh mất Hợp Chủng Quốc do Pháp hất cẳng; người Pháp sở dĩ tạm thời hợp tác với người Anh vì người Anh giỏi về đường biển. Nay nếu có đánh nhau thì người Pháp chỉ giỏi về đường bộ, không thể biến hóa được (Khoản này có nhiều điều lợi hại, nhưng không quan thiết đến ta, nên không nói kỹ làm gì). Vả lại, người Anh hiện đã làm chủ được tình thế phương Đông, hơn gấp 10 Pháp, cho nên Pháp phải miễn cưỡng hòa thuận với Anh. Nhưng tính người Pháp hay kiêu điệu, lại hay nghe dèm pha, nên càng dễ ly gián. Người Anh tuy giữ được nhiều nơi, nhưng chưa chỗ nào hiểm trở bằng Gia Định. Nay nếu Pháp lấy được Gia Định thì sẽ bất lợi cho mình. Nên nếu có cơ hội thuận tiện, lẽ nào người Anh bỏ qua. Nay nếu ta tỏ ý cầu viện người Anh, thì cũng dễ nói. Đấy là một điều lợi.

Vả lại nước Pháp vài năm sau tất sẽ có nội loạn, mà thuộc địa Anh lại nhiều chỗ gần thuộc địa Pháp. Gia Định đã là nơi thiên nhiên hiểm trở, mà từ lâu người Anh hận người Pháp đã chiếm được, thì sự muốn cướp giật lại càng sâu sắc. Sợ một ngày kia, Pháp bị nội loạn, không quan cố được nơi xa, rồi đem chỗ này đổi lấy chỗ kia, thì liệu ta có khỏi cái nạn đuổi hùm cửa trước, rước sói cửa sau không? Cho nên người quân tử lo mưu phải nghĩ lâu dài đến con cháu về sau. Nay nếu ta thông hiếu với người Anh, thì ngày trước họ đã mưu với thiên hạ để ngăn trở người Pháp, để tỏ việc họ làm là giúp người hoạn nạn, gỡ việc rối ren, mai sau chẳng may sự thế đổi thay, thì họ làm sao bưng được hết mắt thiên hạ, ngồi ỳ ra mà thuận chịu đổi chác với người Pháp? Thiên hạ lẽ nào lại không có người như người Anh đứng chực đằng sau hay sao? Ngăn trước, phòng xa, đấy là hai điều lợi.

Hiện nay người Pháp muốn làm giúp ta với ý đồ mờ ám (điều này không cần nói rõ cũng hiểu) như năm trước họ đã thi kế ấy với nước Rôma1. Nếu xong việc thì được hưởng nửa phần lợi. Nếu việc không thành thì vạ có người khác chịu. Nay nếu ta ngầm nhờ người Anh dò xét, chẳng may việc có bại lộ ra, thì người Anh với ta đã có lý lẽ để nói với thiên hạ. Rồi sau lấy việc đó mà trách người Pháp, sự trái đã có nơi chịu. Nhờ người giúp ta, đó là việc ngay thẳng mà dễ nói (Điều này sẽ dẫn đến nhiều việc quan trọng, nhưng chưa thể trình bày). Được thế thì chẳng những miền Bắc yên, mà miền Nam cũng có thể khơi dậy được. Đấy là ba điều lợi.
______________________________________
1. Với nước Rôma: Tức việc Napôlêông (Napoleon) III đem quân sang giúp Giáo hoàng giữ đất Rôma của Tòa Thánh.

Người Pháp với ta, sự việc chưa biết đến đâu là cùng. Gần đây, nhiều khi người Pháp cũng mời người Anh cùng đi đôi với họ. Nếu nay ta không gấp rút thông hiếu với người Anh trước, vạn nhất ngày sau lại sinh chuyện, mà Pháp với Anh đã đi đôi với nhau rồi, thì ta chịu sao nổi? Nay nếu ta biết liệu trước sẽ có thể giao hảo được với người Anh, thế thì dù sau này có xảy ra việc gì ắt họ sẽ một là sợ danh nghĩa, hai là vì cảm tình mà hòa hoãn. Đấy là bốn điều lợi.

Người Pháp tuy tự khoe khoang giàu mạnh, nhưng so lực lượng cũng đã chịu nhường người Anh. Nay nghe ta thân thiện với người Anh, ắt biết ta sẽ lập mưu ngăn cản họ. Nay nếu người Pháp đem nhiều lời ly gián, thì lại sợ người Anh thấy rõ tâm địa mà chê cười. Tuy người Anh chưa công khai giúp ta, nhưng người Pháp cũng đã biết, nếu có hành động gì, chắc người Anh cũng sẽ ngầm báo tin cho ta. Và mối thù ngày trước, to như núi; lúc nào người Pháp cũng lo ngay ngáy sợ người Anh kết hợp với ta. Lần trước Pháp giao kết với Nga toan để ngầm chống Anh, nhưng nay đã sinh hiềm khích và tự biết bị cô lập. Lúc bấy giờ nếu muốn được họ chuyển nặng sang nhẹ cho ta, thì cơ hội cũng dễ. Đấy là năm điều lợi.

Trước đây vào khoảng năm Gia Khánh nhà Thanh, bác vua Pháp bấy giờ gọi là Napôlêông, xuất thân từ trong binh lính nổi lên, giam Y Pha Nho, hãm Áo Đại Lợi, đốt Nga La Tư, phá Hà Lan, hiếp Ý Đại Lợi, đánh Ách Nhật Đa, cướp Nhật Nhĩ Man, xâm lăng Anh Cát Lợi. Các nước phương Tây không nước nào không bị độc hại. Đến nay các nước vẫn còn tức giận. Vả lại, người Anh tuy nói cộng tác với Pháp, nhưng chỉ vì lợi ích mà hợp tác thì làm sao lâu dài được? Gần đây, nước Anh lại sắm sửa binh thuyền, gấp ba người Pháp trong ý luôn luôn muốn trả mối thù mất Hợp Chủng Quốc. Giả sử thời cơ đã đến mà có ta ở trong đó nói ra nói vào, khéo điều đình khêu gợi, vạn nhất nổ chuyện ra thì Anh Cát Lợi chận đường thủy, Mặc Địa Lợi áp đảo đường bộ, Y Pha Nho bọc phía Nam, để trả cái giận làm chung mà chiếm lợi riêng một mình. Hà Lan, Bỉ Lợi Thì đón phía Bắc, Nga La Tư theo sau tiếp ứng. Ở phương Đông người Anh đem binh lính Ấn Độ chẹn đường về, còn ta thì ngồi mà hưởng lợi. Đấy là một mối lợi rất to.

Sáu món lợi1 kể trên là tôi hãy tạm lấy cái dễ thấy, cái công dụng lớn mà nói, còn như nhân việc mà xoay dần, tùy cơ mà chuyển bắt, thường thường nhân nhỏ mà được lớn, như các việc đã qua ở các nước Tân Thế Giới, khó có thể kể hết. Còn như sự sắp đặt của Triều đình, vốn không phải người ngoài thấy được.

Nhưng làm được sáu điều lợi trên, dĩ nhiên còn có nhiều đường lối tùy sự thế mà xoay chuyển, không thể bàn nhất định trước được, sợ vướng vào gàn dở, không dám dài dòng.
Nay kính bẩm.


______________________________________
1. Sáu điều lợi: Trong bài Lục lợi từ (Di thảo số 5), sau này Nguyễn Trường Tộ sẽ triển khai rộng hơn 6 điều lợi này.

DI THẢO SỐ 5

Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh

(Dụ tài tế cấp bẩm từ = Lục lợi từ) *

(Tháng 5 Tự Đức 17 khoảng 20-6 - 18-7 năm 1864)

Trộm nghĩ, trong nước có nhiều việc, dân chúng phải lo gấp việc sinh sống mà ý trời giúp người lại ngoài ý muốn của người. Cho nên Mạnh Tử có thuyết: “Địch quốc ngoại hoạn” 1; tiên nho có câu: “Thiên tâm nhân ái” 2. Do từ việc người mà xem, các nước trong bầu trời, chưa nước nào không do có nhiều biến cố mà vượt lên xa được; từ đạo trời mà xem, lại càng kỳ diệu hơn. Tạo vật ban phúc cho con người, cái phúc đó cũng chỉ được dần dần, lớn dần dần, phải lâu ngày mới thấy. Người biết rõ lẽ trời sẽ không vì những điều lo buồn trước mắt mà oán trách trời. Vì rằng, tạo vật sinh ra muôn vật để cho con người sử dụng mà không tiếc một thứ gì. Chỉ vì con người phần đông chỉ thích nhàn không chịu ra sức sưu tầm phát hiện những của cải ẩn giấu, nên những thứ quý giá của rừng núi, biển cả, dưới đất, trên trời chưa được sử dụng hết.

Kể từ khi có loài người, loài vật đến nay đã gần 7.000 năm, thống kê số lợi hưởng trên mặt đất của cả thiên hạ chưa đầy 4/10. Vả lại, tạo vật sinh ra loài người đều do cùng một nguồn gốc như nhau cả. Thế mà ngày nay trên địa cầu, người văn minh thì ít người dã man thì nhiều, chẳng lẽ tạo vật lại có hậu đãi, bạc đãi khác nhau? Đó chẳng qua chưa đến thời mà thôi. Ví dụ như cha mẹ đối với con cái, đứa lớn thì bảo lập nghiệp làm ăn sinh sống, đứa bé thì phải dạy cho biết số mục, ứng đối... cứ tuần tự như vậy. Do đó suy ngược lại thì mọi ý định sắp xếp của tạo vật không có cái gì là không để tâm đến. Đấy chính vì muốn cho con người được mở rộng thêm trí thức, làm sáng tỏ thêm cái tinh anh của trời đất, tức là phú cho loài người một nguyện vọng không cùng, khiến loài người phải tìm kiếm những điều mới lạ hay ho. Tạo vật lại sợ con người yên phận thủ thường không chịu qua lại với nhau, nên về đất đai mới sinh ra có thổ nghi khác nhau, tốt xấu khác nhau để nhân đó giao thông qua lại với nhau, để người biết trước bày kẻ biết sau, để dã man biến thành văn minh, để giúp vào những việc mà tạo hóa chưa kịp làm, để nêu rõ cái công dụng kỳ diệu của linh tính loài người.

Nếu để cái thấy, nghe, ăn, nghỉ của con người, chỉ biết tuân theo tự nhiên như loài vật không có linh tri linh giác mà không giao cho con người quyền điều khiển vận hành thì làm sao phân biệt được con người linh hơn muôn vật? Vì vậy ở trên lục địa năm châu lại có biển lớn bao bọc bốn phía, có các sông lớn thông suốt trong các châu, nối liền các đồng bằng để xe thuyền đi lại, nhưng cũng có những hang núi cản đường, đèo ải chắn lối, khiến con người phải tự khai đường để thông đến những chỗ đất đai có của báu. Ở trên mặt đất, sự sắp xếp kỳ diệu của tạo vật như vậy rất nhiều không thể kể xiết.
____________________________________
* Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 2-23.
    Hv 634/4 tờ 78-127
    Hv 135 tờ 75-103.
    N. P số 119 trang 3-11
    Nếu so sánh các bản văn, chúng ta thấy:
    - Hv 189/1 và Hv 634/4 giống nhau hầu như hoàn toàn: Cả hai cùng chép sót một đoạn khoảng 237 chữ; cả hai cùng có đầu đề Dụ tài tế cấp bẩm từ, cả hai ghi ở đầu bài “11 tháng 2 năm Tự Đức 16”
    Có lẽ người chép Hv 189/1 và 634/4 tưởng lầm bản văn này là Tế cấp luận, là bản văn được gởi cùng với Giáo môn luận (11 tháng 2 Tự Đức 16). Nhưng bản văn này không phải là Tế cấp luận, bởi vì có trích dẫn Tế cấp luận. Nói “11 tháng 2 - Tự Đức 16” là quá sớm, bởi vì trong bài có nhắc đến bài Trần tình năm trước.
    - Hv 135 và N. P cũng rất giống nhau, chỉ có vài chỗ do chép sót, sắp chữ sai hoặc do nhà báo tự ý sửa chữa hay cắt bỏ: Cả hai cùng có đầu đề Lục lợi từ, nhưng lại không có phần cuối nói về sáu điều lợi; cả hai cùng ghi ở cuối bài: “Ngày 23 tháng 7 năm Tự Đức 19”, có thể là do người sao lục chép lầm, bởi vì nói 23 tháng 7 năm Tự đức 19 là quá muộn, bởi vì trong Khai hoang từ (tháng 1 năm Tự Đức 19) đã có nhắc tới Lục lợi từ năm trước.
    Ông Từ Ngọc Nguyễn Lân, sđd, có nhiều trích đoạn của “Lục lợi từ tháng 5 năm Tự Đức 17” ông Đào Duy Anh và Đào Đăng Vỹ cũng có nói tới “Lục lợi từ năm Tự Đức 17”.
    Nguyễn Trường Tộ, trong nhiều bản văn sau này, có nói nhiều đến Lục lợi từ, mà không hề nói tới Dụ tài tế cấp bẩm từ. Tuy nhiên bản văn mà chúng ta có trong Hv 189/1 và Hv 634/4 là một bản văn rất hoàn chỉnh gồm một lời mở đầu triển khai một phần bài Phân hợp đại thế luận nói về lẽ mất còn và hưng thịnh của một quốc gia, cùng với ba phần rõ rệt:
    - Phần một: Trả lời những điều các vị trong Triều đình hỏi về đúc súng và chất nổ.
    - Phần hai: Nói về những kế hoạch làm cho đất nước giàu mạnh (Dụ tài).
    - Phần ba: Nói về sáu điều lợi (Lục lợi) trong kế hoạch ngoại giao chống Pháp.
    Bài này có thể triển khai rộng những điều đã nói trong di thảo số 4. Trong bản văn này có nói: “Hôm trước tôi đã có bẩm với hai đại nhân Phạm, Ngụy” (Xem chú thích văn bản số 4).
1. Địch quốc ngoại hoạn: Nước thù địch, hoạn nạn từ bên ngoài. Mạnh Tử nói: Nước ta không có địch quốc ngoại hoạn thì thường dễ bị mất.
2. Đổng Trọng Thư nói rằng: Lòng trời thương yêu người nên sinh ra nhiều chuyện bắt người phải suy nghĩ, tính toán.

Nói tóm lại, loài người chúng ta có chung một trời che, chung một đất chở, chung một mặt trời chiếu, chung một mặt trăng soi, một không khí đầy tràn, một hơi nóng ấm áp, một thứ nước thấm nhuần, một ngọn gió mát mẻ, do một lý chi phối tất cả, do một tính chất đồng như nhau tất cả... buổi đầu do một mà sinh ra, cuối cùng lại hợp lại làm một mới thành tựu cái công dụng to lớn của cả trời đất. Xem đấy thì chúa tạo vật không nỡ để cái lý lẽ lớn lao của trời đất cuối cùng phải đến chỗ bế tắc, cũng không nỡ để cho cái dùng hằng ngày của loài người cuối cùng không phát triển được, nên đã bày ra nhiều cách để mở mang trí tuệ, dìu dắt nhau tiến lên con đường đại đồng... Trước đây 3.500 năm, phương Đông là nơi đầu tiên đã khai phá được cái phong khí thô sơ thuần phác, mà làm được hàng trăm công việc, cho đến thời trung cổ thì càng ngày càng thịnh. Lúc bấy giờ, phương Tây đang còn ở trong giai đoạn mông muội dã man, cho nên các rợ miền Tây Bắc phương Đông thường hay đến xâm chiếm các nước phương Tây. Do đó phương Tây đã tiêm nhiễm được văn hóa phương Đông. Rồi nhân nạn binh đao xảy ra mà hai bên có sự qua lại, do thám tình hình của nhau. Những cái gì bên này chưa có thì nghĩ cách trèo non vượt biển để cướp về, còn bên kia bị kém thua thì cũng lo học cái phương pháp mà họ đã dùng để thắng mình để đối địch lại.

Xem như nước ta xưa bị Trung Quốc xâm chiếm tàn phá. Việc đó tưởng như tạo vật gieo họa nhưng chính cũng là làm phúc. Vì nhân đó mà nước ta trở thành một nước văn hiến. Ở miền Nam Hải có ba nước: nước ta, Miến Điện và Xiêm La. Nhưng hai nước kia còn trong tình trạng kém cỏi, còn lâu mới đuổi kịp nước ta. Thế chẳng phải do những cớ đã nói trên đó sao? Thời nhà Chu, nho sĩ nước Phất Lâm đã qua Trung Quốc, đến thời Vũ Đế nhà Hán đã từ nước Thân Độc thông sang Đại Hạ, thời Nam Bắc triều, rợ Bắc đã chiếm sang cả phương Tây. Đến thời Thế Tổ nhà Nguyên trong lúc chưa cướp đoạt xong nước Kim Nguyên mà đã lo khai thông miền Tây Bắc, miền Tây Nam của phương Đông, miền Đông Bắc của phương Tây và miền Bắc của phương Nam. Hễ nơi nào có hình thế đẹp đẽ đất đai màu mỡ, là không khỏi bị chúng tiến chiếm, làm sao cho đường bộ hai bên Đông Tây thông làm một với nhau. Đến cuối đời Nguyên, có vị phò mã Tát Mã Nhi Tứ Thiên của nước Cáp Liệt uy danh lan khắp Tây Vực, có người phương Tây đầu quân vào hàng ngũ của ông ta, nhân đấy họ đã đem theo về thuốc súng và các thứ đồ vật kỳ lạ khác. Người Tây vì loạn lạc đã lâu nay muốn trị yên nên đã bắt chước phương pháp đó chế súng điểu thương, để chống lại, và những thứ kỳ xảo khác đều lấy phương Đông làm kiểu mẫu. Về sau, việc học thuật, việc chế tạo những khí cụ ngày càng được tinh vi. Học thuật được tinh vi thì sinh ra kỹ xảo. Kỹ xảo đến cực điểm thì trở nên mạnh và đã làm thay đổi hẳn cái hèn kém mông muội trước kia. Cho đến thời Minh bước tiến Âu Tây ngày một lên cao vùn vụt, đến nỗi không có chỗ để thử cái tài dũng của họ nữa. Do đó, họ chuyển dần về phía Tây, và bỗng nhiên tìm được Tây Châu (tức Tân Thế Giới) và chiếm lấy làm đất của mình, khai thác vùng đất đai mấy ngàn năm hoang vu, cải tiến phong tục tập quán mấy ngàn năm hủ lậu. Lúc đầu người dân bản xứ còn xem họ như thù địch, dần dần đã chịu gần gũi và ngày càng trở nên thân thiết, những người dân ở đây đã học được hết những cái kỹ xảo của người phương Tây, cho nên không đầy 100 năm sau đã đuổi được người phương Tây ra khỏi đất mình. Những nước phụ thuộc phương Tây xưa kia, nay trở thành những nước thân phương Tây. Các nước ấy đã nhờ phương Tây mà thay đổi những tập quán cũ để trở thành giàu mạnh, người phương Tây cũng nhờ vào nguồn lợi ở đó để chu cấp cho mình. Xưa thì nghiến răng căm thù, nay đã thành tình nghĩa anh em tốt đẹp bền bỉ.

Từ khi quyền lợi của người phương Tây ở các nước này giảm bớt, nhưng vì lòng tham không chấm dứt, họ bèn quay tàu trở súng hướng về các nước phương Đông. Các nước phương Đông tuy là ông tổ của trăm nghề, nhưng bản tính lại mải mê sự an nhàn vui thú không thích đổi mới. Vả lại ngày xưa đã từng xưng hùng xưng bá trong thiên hạ, tự mãn tự túc, nghĩ rằng thiên hạ không ai hơn mình. Cho nên chuyên chuộng hư văn phù phiếm, học lối xu phụ nịnh bợ để được cái phú quý mỏng manh trước mắt. Việc này đến buổi mạt vận thì lại càng quá lắm (đây là chỉ chung các nước). Khi có kẻ địch bên ngoài thoạt đến, thì coi họ như là đồ kỳ dị, trí xảo lạ đời, mà không biết rằng những cái khôn khéo của người phương Tây ngày nay chính là lượm lặt được cái dư thừa của phương Đông mình ngày xưa đó. Chúa tạo vật trước kia đã giúp ta cho ta thứ đó, mà ta chưa dùng hết cái hay thì tạo vật đem cái ta gây họa cho họ để giúp họ. Họ được cái dư thừa của ta thì họ rất trân trọng mỗi ngày mỗi trau chuốt ngày một đẹp thêm rồi lại đem bán cho ta để thu lợi lớn. (Nhưng muôn vật hễ đến cùng cực thì sẽ ngược trở lại, xưa kia không có cái thuật gì là không bị phá mà dù có cái thuật riêng đi nữa thì cũng có ngày phải hết. Không ngoài mấy trăm năm rồi các nước phương Đông cũng sẽ nhờ đấy mà đánh bại phương Tây. Hiện nay năm miền Ấn Độ đã gần có dấu hiệu bắt đầu rồi đấy. Cho nên tôi nói rằng người phương Tây là kẻ bán cái trí cái dũng, nếu ai biết khéo mua thì chẳng bao lâu các thứ họ có sẽ trở thành của mình. Lấy cái lợi vô cùng chưa dùng của sông núi chúng ta mà đổi lấy cái trí của họ, thì họ là kẻ vỡ hoang mà ta thì hưởng cái thành quả như các nước ở Tây Châu vậy. Vì rằng, ta đã học hết cái thuật của họ, như Bàng Mông 1 ngày xưa, rồi sau lấy cái trí tuệ vốn có sẵn của chúng ta thêm vào cái trí tuệ ta mua được của họ. Đất là đất của ta, mượn cái trí xảo của họ càng ngày càng già nua còn cái trí xảo của ta thì mới mẻ trẻ trung, đem hai trí mà địch lại một trí, lẽ nào không thắng được? Như trường hợp Tây Châu là một chứng cớ vậy) 2.
____________________________________
1. Một nhân vật truyền thuyết, một người giỏi nghề bắn.
2. Đoạn giữa hai ngoặc đơn chữ xiên (“Nhưng muôn vật...chứng cớ vậy”) không có trong NAM PHONG, có thể do nhà báo cắt.



Thiết nghĩ, tạo vật sinh ra đất đai là cốt để cho cả loài người hưởng dụng chứ không phải để cho một người chiếm lấy làm của riêng. Cho nên lúc đầu cây cỏ bụi bờ chưa khai phá thì cho loài người phân tán cư trú rải rác khắp địa cầu, ở đâu thì khai thác phát triển mà hùng cứ ở đấy. Đến lúc núi sông đã thông, hiểm trở đã hết thì lại khiến có trao đổi buôn bán, nơi có đổi cho nơi không, để việc sử dụng được thuận lợi, việc sinh sống được đầy đủ, để suy xét lai lịch mà dần dần nhận ra rằng nguyên xưa vốn là anh em, cùng chung một gốc mà biết thương yêu nhau, lấy chỗ dư thừa mà bù vào chỗ chưa đủ, thông công đổi việc, giúp đỡ lẫn nhau, rồi sau hợp cả thiên hạ làm một nhà để hưởng hết cái diệu dụng của trời đất. Nếu không như vậy thì người miền núi thiếu cá, thiếu muối, người miền biển thiếu thú, thiếu gỗ, nước ta thiếu thuốc, Trung Quốc thiếu gạo. Tạo vật là đấng nhân ái công bằng, coi mọi người như con, tại sao không để cho nước nào tự túc lấy đồ dùng của nước ấy không cần đến nước khác, người nào tự túc lấy đồ dùng của người ấy, không cần nhờ người khác giúp đỡ để khỏi qua lại cho thêm phiền phức?

Nhưng nhân tình trước trái sau hợp, thì sự hợp ấy mới càng thân. Việc đời trước gặp khó khăn mà sau thành công, thì sự thành công đó mới bền vững. Cho nên lúc sắp hợp sắp thành tất nhiên phải có cái hại của sự nghi hoặc và khốn đốn, rồi mới có cái lợi của sự yên ổn lâu dài. Vì đã có sự nghi hoặc thì cần phải được sáng tỏ, có khốn đốn vất vả mới nghĩ đến sự nghỉ ngơi. Cho nên lúc hiểu ra được thì mới biết đó là do sự sắp xếp cất đặt của tạo vật không được làm trái khác đi. Cho nên, theo lý lẽ ở phần trên mà nói ở phần dưới thì các vật đều giúp đỡ lẫn nhau để làm đồng đều những điều mong muốn cho nhau. Nếu không như thế, thì loài người là con của tạo vật, nếu cứ để cho người lớn mạnh chuyên được phần lợi mãi, mà không giúp cho người nhỏ yếu trong đó được sống còn mãi mãi, được hưởng lợi ích to lớn lâu dài để bù vào sự thiệt hại trước, thì sao gọi là chí công được?

Những điều nghị luận trên đây là một điều trong bài Thiên hạ phân hợp đại thế luận. Đó là những sự thật, lý thực của trời đất. Từ thuở khai thiên lập địa đến lúc cáo chung cũng chỉ có thế mà thôi. Dù có người giỏi biện bác đến đâu cũng chỉ bài bác được tạm thời, chứ không thể bài bác mãi mãi được.

Nay tôi trích ra trình bày như trên, là vì các học giả nước ta ngày nay phần nhiều cứ viện xưa chống nay, nói quấy quá làm rối loạn việc chính trị, đàm luận xì xào, để chia bè lập đảng mà bài báng Triều đình. Họ có biết đâu thời thế đổi thay, có nhiều cái của đời xưa không thể áp dụng cho đời nay được1. * Cho nên bậc tiên hiền đã từng nói: Người tuấn kiệt là người biết việc đời nay, chứ không phải là người biết việc đời xưa. Bởi vì việc còn, mất, yên, loạn nếu không trí tuệ không thể nào biết được. Còn như việc ngợi khen người xưa thì dù ngu cũng biết thừa. Cho nên kẻ trí bàn việc đời cần phải thể hiện ở việc làm, cân nhắc sự việc mà lập ra mưu trí, tùy thời thay đổi để cho lòng người hợp với ý trời. Như ngày nay các vị đại nhân đem các điều ra hỏi kẻ thảo dã mà không câu nệ thường tình chính là vì vậy.

Nay tôi xin đem những điều các vị hỏi nói sơ qua vài nét trước và cuối cùng xin phụ thêm một đoạn của bài Tế cấp luận, sau đó sẽ nói rõ sự lý của năm sáu điều lợi lớn. Đó là những điều cấp thiết hiện nay, mong rằng không nên xem qua rồi thôi2.
____________________________________
1. Đoạn giữa hai dấu * từ “Cho nên bậc tiên hiền”... cho tới “chỉ biết lý thuyết” bản Hv 189/1 chép sót.
2. Từ đây trở xuống, tác giả sẽ nói đến ba phần như trong câu này tác giả đã giới thiệu.

I- XIN KÊ RA CÁC PHƯƠNG PHÁP LÀM HỘT NỔ VÀ ĐÚC SÚNG, ĐÚC KIM LOẠI CÙNG CÁC MÔN QUANG HỌC, CƠ HỌC, HÓA HỌC, KHAI THÁC MỎ THAN1:

Điều cốt yếu để thực hiện các phương pháp trên, trước hết phải có khí cụ. Các môn ấy phải được thi hành thực sự. Việc học lý thuyết thực ra không khó, mà thực hành thì khó, hơn nữa phí tổn rất nhiều, nhưng thu lợi cũng rất lớn.

Việc học tập và sắm khí cụ phải thực hiện đồng thời, không thể thiếu một. Nếu đã được học qua loa như tôi mà không có khí cụ khi gặp khó khăn lại không có người chỉ vẽ thì cũng chỉ biết lý thuyết* 2 và công dụng mà thôi, và cũng còn khó đem ra thực hành được. Nếu đem ra thực hành cũng phải qua nhiều lần dùng thử, để loại bỏ những cái trở ngại mới tận dụng được chỗ tinh diệu. Vả chăng việc sáng tác dùng thử cũng có cái dễ thành, có cái khó thành, mà cái khó thành nhiều lúc lại xảy ra tai hại bất trắc. Nếu hiểu được lý thuyết sẽ làm được công dụng lớn, nhưng nếu bất cẩn sơ ý, máy móc nổ vỡ thì nghìn vàng dễ được chứ người giỏi khó tìm, trăm thanh gươm báu không bằng một người thợ đúc giỏi. Những điều lợi hại là như thế đấy. Việc trong thiên hạ có cái lợi lớn, tất có cái hại lớn, nếu không tuân theo thứ tự của nó, thì chẳng những lợi bất cập hại mà còn làm hỏng cả công việc nữa.

Nay trước hết tôi xin hãy làm cho nước nhà giàu có (như trình bày ở đoạn cuối này) để chi dụng chi phí cho việc học tập và mua sắm khí cụ. Khi mua sắm được khí cụ rồi sẽ cùng thực hành với việc học tập lý thuyết. Như thế thì sự sử dụng máy móc lẽ nào lại không thành công, tài khéo lẽ nào lại không tiến lên được?

Nói tổng quát thì phương pháp đúc súng đạn và chế hột nổ cần nhất ở cơ học, và có cả quang học giúp vào. Còn phép đúc kim loại và khai thác mỏ than thì cần nhất về cơ học và có hóa học giúp vào. Về phép lái tàu thì cốt ở quang học và có trắc lượng học, toán học giúp vào.

Cơ học là nghiên cứu tất cả những gì dùng sức gia thêm vào thể chất để sinh ra động lực, mà không làm biến đổi bản chất. Đó gọi là cơ học. Cơ học có hai loại khí cụ chính: khí cụ đơn giản và khí cụ phức tạp. Hai loại đó lại chia làm ba: nặng, sức và điểm tựa. Tất cả những khí cụ đều là phép tinh xảo để tạo nên trợ lực. Có khi dùng phương pháp khiến các khí cụ phát ra sức kỹ xảo, tựa hồ như chính tự nó có một sức sống.

Khí cụ của trợ lực có ba thứ: đòn bẩy, trục quay và mặt nghiêng. Đó là những vật dụng cơ bản. Ngoài ra lại có ba thứ nữa: bánh xe, máy cắt, đinh ốc. Đó là những vật dụng thứ yếu. Tất cả mọi công dụng thực sự của cơ học đều quy về mấy điều kể trên. Nhưng việc học cũng phức tạp khó khăn, nếu không tinh thông vật lý không thể xem xét phân biệt được mà không xem xét phân biệt được thì khi sử dụng các loại máy móc đó thường gặp tai nạn nguy hiểm. Tất cả mặt trăng, mặt trời, các hành tinh, sự động đất và những chất lưu động nhẹ, những chất lưu động nặng, những chất cố định cùng với những việc do sức người làm ra với tất cả những sức năng động, sức nặng đều thuộc về môn học này, cho nên phân biệt cho rõ ràng là điều rất khó.

Còn quang học thì dùng để quan sát những chỗ cao chỗ sâu. Phàm tất cả những vật ở trên đời, trên mặt đất, dưới mặt đất, những quang sai, thị sai, phân vi và các động vật, thực vật mắt thấy được hoặc không thấy được và cả những bản đồ, địa mạch, sản vật, cái thật cái giả lẫn lộn... đều phân biệt được, đó là nhờ quang học.

Hóa học thì có thể làm cho các thể chất biến hóa. Khác với cơ học, hóa học được dùng để quan sát kim loại và chất nặng, chất nhẹ, chất cố định, điện khí, nam châm.... để phân biệt những tính khác nhau của chúng, để thích hợp với công dụng của chúng, khiến cho các chất rắn, mềm, giúp nhau để làm thăng bằng sự vận động. Các ngành khai thác mỏ, thuyền máy, máy hơi nước đều thuộc về môn này.
____________________________________
1. Phần I, tác giả trình bày sơ lược các phương pháp làm hột nổ v.v... để trả lời những điều được hỏi đến.
2. Đoạn giữa hai dấu * từ “Cho nên bậc tiên hiền”... cho tới “chỉ biết lý thuyết” bản Hv 189/1 chép sót.


Còn phép làm hột nổ thì cũng như phép đúc súng, tuy có phần dễ hơn, nhưng điều cốt yếu là ở khí cụ để đúc. Vì rằng người thợ muốn cho công việc làm được tốt trước hết phải có khí cụ tốt, nếu không có khí cụ thì lấy gì mà làm?

Nói tóm lại, những điều trên đây, những lý thuyết của nó đều không ngoài sức tự nhiên. Nếu trước hết không biết rõ cái sức đó là cơ sở thì dù học suốt đời, cũng vẫn mù mờ không lần ra mối. Tuy cũng có thể dùng được một đôi cái nhưng chẳng qua là làm theo khuôn có sẵn mà thôi, chứ không biết biến hóa để nhân cái này biết cái kia, để làm được tinh xảo hơn. Cho nên sức tự nhiên là điểm đầu tiên phải học, không thể không hiểu trước hết. Các điều nói trên đã có sách chuyên môn chép rõ. Việc đó không thể chép trong một lúc hết được, hơn nữa, mắt chưa nhìn thấy công dụng của nó, lại không có người đứng bên cạnh để ví dụ, giảng giải, thời cũng khó hiểu hết được nghĩa chữ, câu văn. Cho nên ở đây tôi chỉ đưa ra những điều đại cương mà thôi.

Còn phương pháp khai thác mỏ than, trước hết phải biết rõ địa mạch, biết rõ các loại kim khoáng và các cách chuyển động của vỏ quả đất. Nếu bây giờ cho vài người như tôi đi khắp nước sưu tầm thám nghiệm khoảng 3, 4 năm mới có thể biết. Đó là vì mỏ than ở sâu hơn các mỏ khác, mà phần nhiều lại hay có ở miền đồng bằng, ít có ở nơi núi hang và nơi nước chảy. Nếu mỏ than lộ thiên thì than không tốt mà lấy cũng chóng hết. Vả lại mỏ than thường có ở xứ lạnh, ít có ở xứ nóng. Nhưng ngày nay ở xứ nóng cũng đã tìm thấy một vài chỗ có mỏ than thì tôi tưởng rằng ở nước ta cũng có. Mỏ than lại hay có nhiều ở chỗ gần mỏ sắt. Đó là do cái cách sắp xếp vận dụng rất hay của tạo hóa. Lại có những nơi đất bùn, nơi rừng núi xưa kia hình như cũng có mỏ than, nhưng than ở đây chỉ dùng để đun bếp, chứ chạy máy tàu thì không đủ sức nóng. Nghe người ta đồn ở tỉnh Hải Dương có mỏ than, tôi nghĩ đấy cũng là rừng núi xưa kia mà thôi. Tôi tuy chưa đến đó, không dám nói quả quyết, nhưng miền Hải Dương quá nửa là chỗ có tầng nước chảy. Đấy cũng là một chứng cớ để nói rằng không có mỏ than. Phương pháp tìm mỏ than có nhiều cái ẩn tích không thể nói hết được. Nhưng việc tìm mỏ không khó, chỉ có việc khai thác than mới khó, lúc đầu đang còn cạn thì dùng sức người cũng có thể lấy được, đến lúc xuống sâu mà lại phải đào xiên một hai nghìn thước nếu không dùng máy móc rút hết nước thì không thể lấy được than. Lại nữa, trong đất thường xông lên các khí độc nếu gặp lửa đèn sẽ nổ bùng làm người chết ngay. Vì vậy, phải có phương pháp khéo léo và phương pháp làm thông gió như của người Tây Âu mới tránh khỏi tai nạn. Vả lại đào xiên vào rất sâu hay dễ bị sập, nên phải làm sàn bắc ngang để đề phòng.

Phương pháp lấy than đá nói trên đây phải dụng công rất khó, nhưng lợi lớn gấp mười mỏ bạc, mỏ vàng, cho nên phải nghĩ hết mọi cách để lấy.

Cách làm cho nước mạnh là ở chỗ tạo được nhiều của. Của cải nhiều thì lương thực đủ, khí giới tinh, thành trì vững, công quỹ dồi dào, các việc lợi ích do đấy sinh ra, các việc tai hại do đấy giảm bớt. Một khi có biến cố lớn xảy ra, chỉ cần lấy của cải trong kho nhà nước, khỏi phải phiền lụy đến dân. Lợi ích đó không thể kể xiết.

Nay nước ta, của công chỉ nhờ vào thuế, mà thuế đánh có hạn, chứ không có cách gì để làm cho của cải được nhiều như phương Tây. Cái tôi gọi là làm cho có nhiều của ở đây không có nghĩa là nói bòn rút của dân để làm cho nước giàu, mà là nhân nguồn lợi tự nhiên của trời đất để sinh ra của. Do đó nước giàu mà dân cũng giàu.

Nước ta một bề giáp bể, một bề tựa vào núi, giữa là một giải đồng bằng, lại có nhiều sông chảy ngang qua, từ bờ biển đến tận cùng rừng núi mất 5, 6 ngày mà thôi, không như các nước khác xa biển xa núi, hoặc biển ít núi nhiều, hoặc núi nhiều sông ít, hoặc nhiều cồn cát sa mạc, hoặc nhiều đất khô cằn, thật là một nơi địa thế tốt nhất trên quả địa cầu. Người các nước đã từng ngợi khen, chính cũng vì núi sông gần nhau, cận nhau, mối lợi của nó rất lớn. Hơn nữa, người nước ta tầm vóc vừa phải, đã nhiều tài trí, lại khéo bắt chước tài kỹ xảo của người khác. Người nước ta có cái tính biết học tập cái hay cái tốt của người khác, không tự kiêu tự mãn như người Trung Quốc. Cho nên các nhà thông thái các nước khi bàn về đại thế trong thiên hạ đều cho rằng nước ta đã có địa thế tốt lại có nhân tính tốt ngày sau ắt sẽ phồn vinh vô cùng. Nhưng chỉ tiếc là người mình còn chấp nê tập tục cũ, bị lối học từ chương bó buộc, nên chưa thể tung hoành nơi bốn biển (Tôi sẽ viết dâng lên một bài về địa thế nước ta vài mươi trang. Xem sẽ thấy phấn khởi).

Ngày nay nếu ta biết dần dần chỉnh đốn những thói cũ, nghĩ cách làm lợi cho công, làm lợi cho tư để ta có được phương pháp hay của mình lại có được cả những phương pháp hay trên thế giới mới sáng tạo ra nữa, hai cái cùng thực hành song song với nhau không trái ngược nhau (Những phương pháp hay này chưa kịp trình bày được). Như thế thì những cái thiên hạ mới có, ta cũng đồng thời có. Còn những cái ta vốn có thì thiên hạ không có. Như thế ai còn dám khinh nước mình nữa?


II- SAU ĐÂY TÔI XIN ĐƯA RA MỘT KHOẢN VỀ VIỆC LÀM SAO CHO NUỚC NHÀ GIÀU CÓ ĐỂ CỨU GIÚP LÚC KHẨN CẤP:

Một là nguồn lợi về biển. Về biển thì không có nguồn lợi nào lớn bằng cá với muối.

Hai là nguồn lợi về rừng. Rừng thì không có gì lớn bằng gỗ.

Ba là nguồi lợi về đất đai. Đất đai thì không có gì lớn bằng tơ gai.

Bốn là nguồn lợi về mỏ. Về mỏ thì không có gì lớn bằng đồng và thiếc.

Bốn nguồn lợi ấy, ngoài việc tùy theo thổ nghi mà thu thuế ra, còn phải nghĩ những phương pháp hay như của Tây Âu để thu nhiều sản vật. Sau đó cho tàu bè nhà nước chở ra bán cho các nước, rồi lại chở về nước mình những hàng cần dùng mà nước mình không có. Cái lợi bán mua qua lại như thế thường được gấp ba. Trừ than đá ra, như đồng, thiếc giá ở Bắc kỳ một quan nếu đem ra nước ngoài bán có thể được tới tám quan. Ngoài ra các thứ tơ, gai, cá, muối cũng thế. Vả lại, Bắc kỳ nối liền Vân Nam, mà tơ của Vân Nam là tốt nhất thế giới. Người Pháp sở dĩ muốn từ Bắc kỳ thông thương Lương Giang, từ Nam kỳ thông đường Tiền Giang là vì thế. Việc ấy trước đây tôi đã nói rõ, nay xin thôi không nói nữa.

Phàm thế vận càng suy thì thiên hạ không ai là không đuổi theo của cải mà tranh giành. Người đã giành lợi của ta, lẽ nào ta lại không biết lấy lợi của người? Đó là luật vay trả tự nhiên không thể tránh được. Hoặc có kẻ nói rằng bậc vua chúa cứ việc thi hành nhân nghĩa thì tự nhiên có lợi, cần gì phải khơi cái lòng ham lợi để cạnh tranh với dân! Sao không biết rằng nói như vậy là rất sai lầm về chính trị? Bậc tiên hiền có nói câu ấy thực, cốt ý để cứu vãn cái tệ hại thời bấy giờ, vì sợ rằng chỉ biết lo làm lợi mà không nghĩ đến nhân nghĩa. Những nho gia sau này vì không suy nguyên cái ý ấy nên bày đặt ra bàn luận những điều thể diện quá cao. Nhưng xem việc làm của họ thì thường thường lại vì điều lợi hại mà không giữ được tiết tháo trong sạch. Cho nên người ta đã bảo những kẻ ấy là lời nói đã đê tiện mà việc làm lại hèn hạ. Hãy xem Yến Vương nước Từ vì nghĩa mà bị diệt, Tử Khoái nước Yên học bắt chước vua Nghiêu mà bị mất, Ai Công nước Lỗ ham đạo Nho mà bị suy nhược, vua nước Đại ham theo đạo Mặc mà bị tàn tạ! Học theo xưa không phải là luôn luôn không hay, nhưng chỉ có bốn ông ấy bị quốc phá thân vong là vì gặp lúc thời thế đã khác xưa rồi. Ăn trộm thì không gì lớn bằng trộm nước. Thế mà thành công thì làm vua, bao nhiêu nghĩa sĩ chen chân nơi cửa chư hầu. Cho nên dùng gặp thời tức là nhân nghĩa, thất thời tức là bạo ngược. Những nhà nho câu nệ không khéo biến hóa, thường hay uốn lưỡi múa mồm, sau khi sự thành bại đã rõ như gương chiếu rồi mới bàn luận anh hùng. Giả thử bản thân họ ở vào cảnh ngộ bấy giờ thì chẳng những mơ màng không biết tính toán ra sao mà điều nhân nghĩa, việc phải chăng cũng không phân biệt được. Vì sao vậy? Chẳng qua vì họ chưa làm đến địa vị ấy, mà luận bàn đến những điều cao xa ngoài sự tưởng tượng của người ta để tự tán dương lẫn nhau, để cốt cho những người có quyền lực đương thời để ý đến mà thôi. Như thế chẳng khác gì người thích vẽ ma quỷ mà ghét vẽ chó ngựa1.

Đại phàm sự tình trong thiên hạ mượn tiếng tốt để làm việc xấu là người ngu; chịu tiếng xấu để làm việc tốt là người khôn. Trong thiên hạ khéo biết dùng thì được tiếng hay, không khéo dùng thì mang tiếng dở. Khéo dùng hay không khéo dùng đó là gì? Chính là cái tài lợi. Về tài lợi nếu như biết khéo thu nhập thì được nhiều mà không ai trách oán, đã thu nhập được mà không ai oán trách lại biết khéo sử dụng của thu nhập ấy, đó là nền tảng của nhân nghĩa. Cho nên tạo vật khi chưa sinh ra người đã sinh ra muôn vật trong thiên hạ trước để làm nguồn của cải. Như Kinh Dịch nói: “Có trời đất muôn vật sau mới sinh ra trai gái”. Chứng cớ về việc đó rất rõ ràng.
____________________________________
1. Nguyên văn: “Háo họa ly mỵ nhi tắng họa cẩu mã”, câu của Hàn Phi Tử. Nghĩa là thích vẽ ma quỷ vì ma quỷ không có chân dung, không có thực hình, muốn vẽ thế nào cũng được, ai biết đúng sai đâu mà nói. Còn ghét vẽ chó ngựa vì có hình dung cụ thể, nếu vẽ sai là người ta biết ngay.


Thời thượng cổ khi loài người bắt đầu phồn thịnh thì buổi trưa đã có họp chợ để tiện việc trao đổi những thức cần dùng, rồi sau việc giáo hóa mới dần dần hưng thịnh lên. Bởi vì tạo vật yêu người nên thầm dạy những việc cấp thiết trước, việc chưa cấp thiết thì dạy sau.

Tất cả những cái cần thường dùng thường làm hàng ngày của con người từ thượng cổ, trung cổ đến tận thế không có cái gì là không do tạo vật bày ra. Những cái mà tạo vật bày ra đó đều khiến vua nắm quyền để mở mang sắp đặt. Vua đã thay quyền tạo vật để chăn dân, làm lợi cho dân, thì những việc lợi ích nên làm trong dân gian lẽ nào vua không tự mình ra gánh vác lấy, tự mình xướng xuất ra? Thời trung cổ người ta chưa hiểu được lý ấy nên mới bậy bạ cho như thế là tranh lợi với nhân dân, nên mới có chuyện xưa kia đã làm đến quan đại phu thì không cho vợ dệt cửi nữa. Như thế là không biết rằng, có nước mà cứ để mặc cho của công tư bị thiếu hụt, đến phải yếu nhược không chấn hưng lên được, chính là vì cớ đó. Sao không suy xét xem vua muốn làm giàu có phải để cho riêng một mình không? Nếu không thế thì một mình tiêu xài cũng có hạn, dù xa hoa phung phí cùng cực cũng không hết được. Vậy của đó để làm gì nếu không phải để cho dân cho nước? Ví như cha mẹ làm ăn khó nhọc để có của cải, là muốn để lại cho con cháu. Người không biết thì cười chê cha mẹ, cho rằng làm những việc vất vả khó nhọc ấy là đê tiện, thế chẳng phải là trái với lòng thương của cha mẹ lắm sao?

Nay nói về việc nước, khi đã có đủ của cải rồi thì lệnh trưng thu của cải trong dân chúng để cung ứng cho việc nước sẽ ngày càng giảm bớt mà sự nghiệp củng cố cho nước mạnh sẽ ngày càng tăng. Một khi nếu xảy ra giặc giã cần phải đánh dẹp để yên bờ cõi an ninh xóm làng, quân đi đánh dẹp mỗi ngày tiêu phí hàng ngàn vàng thì lấy của công mà dùng để bảo vệ tài sản của dân chúng. Như vậy là không có nhân nghĩa ơn huệ nào lớn hơn thế nữa. Chỉ nói một việc này các việc cũng như thế thôi. Như thế mà còn có người đưa ra thuyết cùng dân tranh lợi để ngăn trở phá hoại việc nước, để cho bậc quân phụ mang tiếng này nọ, thế có phải là trung không? Thuở xưa Thái Công được phong làm vua nước Tề, chọn kẻ tài năng chuộng người có công và giết cao sĩ Đông Hải1 là vì thế.

Nay tôi xin hãy làm cho của cải nhiều thêm. Có nhiều lối làm giàu, nếu đem ra thực hành trăm năm cũng chưa hết. Nhưng tôi chỉ đưa ra 4 cách cấp thiết trước tiên để cấp cứu trong nhất thời. Tạo vật đã cho nước ta một địa lợi tốt để mà làm thì Triều đình phải có người đứng ra xướng xuất cho dân theo. Còn như những phương pháp nào hay ho thì Triều đình đã có ý định sắp đặt rồi tôi không dám bàn đến nữa. Nếu làm được như thế thì thật là vì chấn hưng lợi ích cho dân chứ không phải lấy của nhân dân. Ngày nay các nước trong thiên hạ đều theo phương pháp đó để làm giàu mạnh. Thiên hạ làm trước, mình làm theo sau, ai dám chê trách?

Lại xin để cho những nhà giàu ở gần cửa bể có thể mua tàu lớn vượt bể để chở những đồ vật nước mình dư không dùng đến đem bán ở các nước, rồi lại chở về những thứ thiết dụng cho nước mình và đánh thuế xuất nhập để tăng thêm những thứ cần dùng trong nước. Nếu người nào mua về được nhiều thứ có lợi cho nước thì cân nhắc mà ban thưởng để khuyến khích họ cố gắng thêm. Đấy là một điều lợi lớn. Vì rằng, những hàng hóa mình có, trừ số cần dùng ra, còn thừa đem chở bán cho họ, họ lại bán cho nước khác, như thế họ không cần phải đến nước mình làm gì. Nếu họ muốn đưa hàng hóa sản vật của họ sang thì đã có tàu của nước mình đem về để mua bán trao đổi với người cùng quê hương xứ sở, chẳng dễ làm hơn mua ở bên nước họ hay sao? Như thế tự nhiên họ không cần phải tìm đến mình nữa. Sở dĩ họ tìm đến cầu thông thương với mình là vì người mình không thể đi xa mà thôi.
____________________________________
1. Đông Hải cao sĩ: Người có học có danh tiếng ẩn cư ở Đông Hái, không chịu làm việc mà chỉ nói suông, thường bày ra những luận điệu cao kỳ làm trở ngại việc nước. Thái Công nghĩ rằng để ông ta không có gì lợi mà có hại, nên đem giết đi.


Có người nước ngoài nói rằng kế ấy rất độc. Nếu làm được thì không ngoài vài năm người Tây tự nhiên bỏ đất mà đi không cần phải đánh chác gì nữa. Vả lại họ đã dựa vào việc ta không ra khỏi cửa, nên dùng thế lực cướp lợi của ta, nay ta theo công lý để ngăn lòng tham của họ, lấy lợi của họ thì chắc rằng trong khoảng u u minh minh ấy trời sẽ thầm lặng giúp ta vậy1. Vì rằng, tạo vật quí trọng sự sống vô cùng, đã cho ta địa lợi tốt, lại cho ta nhân vật tốt, ắt sẽ giúp ta thịnh vượng để hợp thành ra sự đẹp tốt lớn trong vũ trụ. Vậy ta nên thuận theo chúa tạo vật đã mở đường chỉ lối mà biết lo lắng để chuyển tai họa thành phúc, chuyển thất bại thành thành công, đem hết cái trí khôn trời cho để khai thông mọi cái bí mật trên trời dưới đất. Kẻ hủ nho sao không biết thời thế biến chuyển, cứ câu nệ vào nghĩa lý sách vở, nói bừa bãi rằng: Triều đình mở cửa ngõ đón kẻ cướp vào. Sao không biết rằng: Lúc thời thế đã đến, không thể ngăn được, lúc thời thế đã đi, không thể chặn được. Tạo vật đã sắp đặt như vậy sao ta không biết liệu cách tạm thời lưu thông với họ, để tự phấn đấu cho hợp với ý của tạo vật? Cửa bể của khắp các nước phương Đông tạo vật đã khai thông cả thì tại sao một mình nước ta lại có thể đóng kín được? Huống chi, việc lợi ích của một nước, quyền lực hành vi do vua nắm, và cùng với quốc dân chia sẻ mọi sự vui buồn. Mà trên đã có tạo vật thầm sai khiến, vua chỉ cần theo ý trời để làm mọi việc. Những việc lớn như lấy đi hay là cấp cho, biết đâu chẳng phải do tạo vật ngấm ngầm sắp đặt. Tạo vật đã nhân ái đối với vua để từ đó mở rộng đến muôn dân. Thế mà trước mắt, hơi thấy việc bất bình thì kẻ hủ nho biết gì mà dám chê bai trách cứ? Tôi nói như vậy không phải để hùa với địch mà chính vì sợ bọn hủ nho không biết ý trời việc người. Trước đây bọn họ đã có những ý nghĩ sai trái, làm hỏng công việc, nay thời thế đã đến thế lại còn không biết giúp đỡ Triều đình, hợp lực đồng tâm để lo việc nước khiến Triều đình đã lo ở ngoài lại phải lo cả bên trong, thử hỏi như thế thì còn lòng dạ nào? Thử xem 5 xứ Ấn Độ năm Càn Long thứ 17 vì không chịu cho nước Anh một thành mà sau phải mất trọn cả nước, Miến Điện năm Đạo Quang thứ 4 vì không chịu cho Anh một mảnh mà sau phải mất nửa nước. Tất cả đều vì không biết người biết mình nên đến nỗi hỏng việc nước như thế. Sở dĩ, năm xưa tôi đã không sợ tội mà dâng lời bàn hòa, chính là vì cớ ấy.


III- Hiện nay cục diện chưa biết sẽ diễn biến đến đâu, tôi xin kính dâng điều khẩn cấp nhất trong bài Tế cấp luận, là tìm sự trợ giúp, có sự trợ giúp sẽ được sáu điều lợi lớn. Tôn Tử nói: Dư sức đánh thì giữ, dư sức đánh mà lại có người giúp thì đã có sức mạnh. Huống chi nước ta nay đã không đủ sức đánh lẽ nào lại không cần sự giúp đỡ sao?2.
____________________________________
1. Đoạn chữ xiên “Có người nước ngoài” đến “giúp ta vậy” không có trong NAM PHONG, có thế do nhà báo cắt.
2. Bản NAM PHONG chấm dứt ở đây với câu: Ngày 23 tháng 7 năm Tự Đức 19. Đây là phần III tác giả nói về sự lý của sáu điều lợi lớn. Đó là điều khẩn cấp nhất trong bài Tế cấp luận của tác giả.


Trong tờ bẩm năm ngoái, tôi đã trình bày rõ ràng tình hình các nước phương Tây hiện nay giống như thời Chiến Quốc. Đó là một điều trong bài Phân hợp luận. Vua Đạo Quang nhà Thanh có nói: “Cái kế hay nhất để đánh địch không gì bằng lấy địch đánh địch”. Theo tôi, nhìn chung các nước trong thiên hạ từ ba trăm năm trở lại đây tuy có nhiều cách có thể làm cho kẻ địch lâm nguy, nhưng cái cách bắn một phát trúng ngay, thì phải là lấy địch đuổi địch. Đó là lý do mà trong tờ Trần tình năm trước tôi nói việc khôi phục không phải tìm ở trong nước mà phải tìm ở ngoài thiên hạ. Bởi vì từ 15 năm nay tôi đã biết rõ chắc chắn phải có mối lo như ngày hôm nay, nên tôi đã ra sức tìm tòi học hỏi trí khôn của mọi người để thêm sự hiểu biết cho mình, chứ không phải chỉ mới một ngày.

Tóm lại, nói gộp trong một lời mà đủ ý tức là: Chỉ có lấy cái việc thiên hạ đã bị trúng quỷ kế của địch làm điều răn, để phòng địch, rồi lại lấy cái phương pháp mà địch đã bị trúng quỷ kế của thiên hạ để mà đuổi địch, thì không thể không thắng lợi. Vì rằng kẻ địch đã từng đi khắp thiên hạ, đã đem cái kế đó thi hành ở nước này mà trúng, thì lại đưa ứng dụng sang nước khác nữa. Nhưng thường thường cái kế của địch rốt cuộc rồi cũng làm hại địch. Người hay lặn dưới nước tất phải có ngày chết chìm, đó là lý đương nhiên. Tạo vật là cha mẹ của tất cả các nước, thì không nỡ để một đứa con nào đến phải chịu khốn khó1. Nay tôi xin đem sáu điều lợi lớn trình bày như sau:

Thứ nhất là nhờ kẻ khác để ngăn chặn họ. Anh và Pháp xưa nay vốn thù hằn nhau. Trước đây hai bên đã đánh nhau hàng trăm năm mãi không thôi. Cho đến nay hai bên vẫn chê cười khích bác nhau, cả nước đều như thế cả. Hiện nay vua Pháp đang ngấm ngầm tìm kế độc để báo thù việc vua Anh trước đây đã bắt đày vua bác của họ ra tận đảo xa xôi2. Người Anh lẽ nào không biết việc đó? Nhưng họ vẫn ẩn nhẫn cộng sự với người Pháp, vì họ còn e ngại nước Nga chực sẵn sàng sau đó. Hai con trâu không húc nhau ở bên cạnh con hổ, vì cái thế còn ngại hổ. Lại vào cuối đời Càn Long, nước Anh đánh nhau với Hợp Chủng Quốc, người Pháp đã dồn cả binh lực vượt biển sang giúp Hợp Chủng Quốc. Do đó người Anh đã không giữ được phải bỏ. Mối thù đó đã khắc thấu xương chưa tiêu. Vì vậy năm trước khi Pháp lẻn vào Quảng Nam, Anh hay tin, cả nước xôn xao kêu ầm rằng Pháp uy hiếp ta, cho như vậy là không đúng. Hơn nữa, ta từ xưa đã từng đi lại ân nghĩa với người Anh, sao không nhân đấy thông tin tức cho họ, rồi nhờ họ thông báo đến nước Nga, nước Áo nhờ các nước giải quyết giúp ta? Tuy nhất thời chưa chắc các nước làm ngay được, nhưng cũng nhân đó có thể ngấm ngầm tìm cách giúp ta hại Pháp. Pháp hại thì ta lợi. Đó là điều lợi thứ nhất.

Thứ hai là xui kẻ khác gây sự với họ. Ở phương Tây thế lực hai nước Anh Pháp đại khái tương đương nhau. Pháp lợi về đường bộ, Anh lợi về đường thủy, không bên nào chịu nhường bên nào. Anh từ khi mất vùng đất Hợp Chủng Quốc, thì lại may mắn được nguồn lợi ở Ấn Độ. Nhân đó chiếm được 5 cảng của Trung Quốc, nửa nước Miến Điện và các thương cảng lớn ở biển Đông3, tự nghĩ có thể dùng thế lực đó trấn áp được Pháp. Duy có nước ta là hòa mục với Anh. Anh không có cớ để cướp nước ta. Pháp hận vì những miếng béo bở đã bị Anh phỗng trước nên nhân lúc Ấn Độ chưa hoàn toàn thuộc Anh, người bỏ thì mình lấy, cũng đã kiếm chác được 5 thương cảng nhỏ. Nhưng những nơi đó không phải là hang rồng ngách hổ nên cũng khó đứng vững. Một mai có việc gì xảy ra ở phương Đông thì cũng khó thắng nổi Anh. Do đó, Pháp đã bất chấp danh nghĩa, đột nhiên chiếm Gia Định và tự cho là tìm con rồng mà được ngọc. Hơn nữa, Gia Định vốn là nơi thiên nhiên hiểm trở, suốt một dải bờ biển đều là bưng biền rậm rạp, hiểm trở hơn nhiều so với các chỗ khác ở phương Đông, chiếm được chỗ này là đủ sức khống chế thiên hạ. Tóm lại, nguồn lợi ở phương Đông, đều đã nằm trong tay người Anh, chỉ vì đi sai một nước cờ mà thế lực bị phân tán. Điều đó chưa bao giờ người Anh quên được!

Nước ta phải dùng lời lẽ thật từ tốn và tiền bạc thật hậu sang nước Anh, nói hết những điều sai trái của Pháp, như trong bài bẩm trước đây tôi đã nói rõ. Lại phải dùng những lời ngọt ngào viện dẫn các lý lẽ cứu nhược phù suy để tán dương thế lớn mạnh của Anh xem ý hướng họ thế nào. Nếu những lời nói đó được họ nghe thì sẽ nói tiếp rằng: Người Pháp không nói lời lẽ gì minh bạch trước mà tự nhiên đột nhập lén đánh chúng tôi một cách bất ngờ. Nay người Anh đến giúp chúng tôi một tay khôi phục lại, chúng tôi sẽ vui lòng nhường quý quốc một thương cảng lớn, ký thác vĩnh viễn và sống như anh em với nhau, như Trung Quốc với Bồ Đào Nha trước đây vậy. May mà trời cho gặp cơ hội, Anh sẽ nhân lúc Pháp chân đứng chưa vững, đem những lý lẽ phải trái tuyên truyền sâu rộng khắp các nước làm chứng cớ, thì sẽ mau chóng ép buộc được Pháp. Thế của Anh thì mạnh, mà thế của Pháp thì yếu. May ra việc thành ta và Anh đều có lợi, còn không thành thì họa đã có chỗ chịu. Nếu bảo rằng cái kế đó cũng chỉ là cách rước sói vào cửa sau mà thôi, như thế tức không biết rằng ở đời nếu phải tai họa thì hãy chọn cái họa nhỏ. Mất dê mà được trâu thì ai không thích cái mất ấy? Người Anh tuy thích vùng vẫy xâm lược phương xa, nhưng cũng thường giữ lễ nghĩa, chứ không hay phản phúc bất thường như người Pháp. Vả lại khi họ đuổi được Pháp rồi họ cũng khỏi lo bị chèn ép nữa. Dù không được thương cảng nào họ cũng vui lòng, huống chi ta cam kết giữ lời hứa, lẽ nào họ lại được thế hại ta? Mà giả sử điều đó xảy ra thì biết đâu pháp sẽ chẳng tụ họp các nước để đánh lại Anh? Như thế, Anh sẽ phải theo lời giao ước mà dừng lại, chẳng phải chỉ vì lý mà còn vì cả chính họ nữa. Hơn nữa tâm địa người Anh rộng rãi, không biết chừng còn trả lại cho ta mà không cần lấy đất nhượng, để được tiếng thơm trong thiên hạ. Như năm xưa họ đã từng làm 5, 6 việc giống như vậy. Tuy đến nay họ còn hết sức bảo hộ là vì không bỏ người ta nửa đường. Anh đã đối xử với các nước như vậy, lẽ nào lại không đối xử được với nước ta? Nhưng điều đó cũng còn tùy thái độ nước ta đối với họ như thế nào trước đã. Nếu việc này thành công, đó là điều lợi thứ hai.
____________________________________
1. Bản Hv 135 chấm dứt với câu ghi: Ngày 23 tháng 7 năm Tự Đức 19.
2. Napoléon I bị Anh đày ra đảo Elbe rồi lại đày ra đảo Saint Helène.
3. Tức Thái Bình Dương, chứ không phải là Đông Dương, Nam Dương ngày nay. Nguyên văn nói: “Đông Dương”, nhưng Đông Dương là biển đông, “Nam Dương”.


Thứ ba là nhờ người khác để ly gián họ. Anh và Pháp xưa nay vẫn ghen ghét nghi ngờ nhau, tuy tạm thời cộng tác với nhau, nhưng Anh vẫn giành phần hơn: về các phép dùng binh, trị dân và bất kỳ các việc lớn nhỏ hai nước đều xung khắc nhau. Hễ vì lợi mà hợp nhau thì khi lợi hết ắt phải lìa nhau. Cứ mỗi khi Pháp có mưu đồ gì khác thì Anh tìm cách ly gián (Có nhiều việc không thể kể hết). Anh lại khéo giao thiệp, còn Pháp thì ít chơi thân với ai. Ít chơi thân thì đa nghi, đó là lý tất nhiên. Nay nếu ta năng đi lại với người Anh hoặc thăm viếng, hoặc mua bán, hoặc học tập những văn hóa lễ nghi với người Anh một cách nhiệt tình thân thiết hơn đối với người Pháp thì người Anh cũng sẽ đối xử với ta một cách xứng đáng. Cái kế của ta đó chưa chắc người Anh đã nhất nhất giúp ta hoàn thành, vì còn tùy cơ hội khó hay dễ. Nhưng dù sao người Pháp thấy ắt sinh nghi, cho rằng người Anh đã đem hết những mưu mô quỷ quyệt, những việc làm ác độc của họ nói cho ta biết rồi và còn bày vẽ cho ta những kế thâm độc (Có hai kế phương Tây đã lập minh ước với nhau là không bày vẽ cho người khác) để làm hại họ, để hả lòng căm thù. Họ còn lo sợ người Anh sẽ nhân đó dụ ta đem mối lợi của họ chia cho người Anh vì họ biết rõ người Anh khéo thu phục nhân tình họ khó bì kịp. Đó chính là lý do khiến trong tờ hòa ước năm trước có một điều nói rằng: Có bằng lòng cho cắt đất mới được cắt đất1. Nhưng cái kế ấy của người Pháp là quá tham lam và có chỗ không thể thi hành được. Bởi vì ở phương Tây không có cái luật ấy, không có lý gì chưa lấy hết được đất mà đã có quyền như vậy. Nay nếu ta đem điều ấy nói với người Anh chắc người Anh sẽ giúp ta phân giải. Như thế, người Pháp lại tưởng rằng ta đã đem những việc làm sai trái của họ nói hết với người Anh, như việc năm trước họ đã lái tàu vượt biên giới bắt Quản Tiến đày ra ngoài đảo xa. Quan của họ đã từng nói đó là việc làm rất sai trái, nếu nước Nam đem chuyện này nói với người Anh, người Anh sẽ không tha thứ đâu. Như nay ta đã giao thiệp mật thiết với người Anh, tuy người Anh chưa hẳn đã táo bạo gây khó cho Pháp, nhưng cái thế rồi dần dần cũng sẽ đến. Như vậy người Pháp biết ta đã có người giúp tay, lại có trinh thám dò xét mọi động tĩnh của họ; lại bị ta dùng kế bủa lưới bao vây bốn phía (Có nhiều điều, nay chưa kịp nói); lại biết lực lượng của ta dần dần đủ để chống lại họ; lại biết ta đã phá vỡ mưu kế của họ; lại biết ta phải mà họ trái thì phải sợ mà chùn không dám hành động nữa. Sau đó sẽ nhân cái tệ của họ mà ta thực hiện mưu kế thì cũng dễ dàng thôi. Nếu không thì như bài bẩm năm trước tôi đã nói đến hai con đường phía Nam thông Cao Miên, phía Bắc thông Vân Nam. Hiện nay ba tỉnh ngoài họ đã không trả 2 ba tỉnh trong lại lăm le muốn lấy, rồi tương lai sẽ gây biến động gì nữa, cứ suy việc trước ắt biết. Nay nếu thực hành cái kế đó người Pháp sẽ nghi ngờ mà xa lìa người Anh. Ta sẽ lợi dụng tình trạng đó mà xoay trở công việc. Đó là điều lợi thứ ba.

Thứ tư là nhờ nước khác lấy danh nghĩa mà áp chế họ. Cái kế mưu sinh lớn của các nước phương Tây quá nửa là do lấy từ nước ngoài. Bồ Đào Nha là nước khởi đầu việc đó, rồi các nước khác tiếp theo sau. Phàm trên thế giới, tất cả những chỗ nào có nhiều lợi lộc chúng đều trố mắt vén tay chực mưu tính cả. Mối lợi nào chưa vào tay thì sợ người khác phỗng, khi đã lọt vào tay rồi thì sợ người đến sau giật lấy. Mình có thì không muốn người khác cũng có như mình. Mình không có thì không muốn người khác có. Vì sợ rằng bên này lợi thì bên kia hại, bên này thịnh thì bên kia suy, cho nên cái mưu kế tung hoành không hẹn mà gặp. Phàm nước nào hiếp ức người vô lý thì các nước sẽ hiệp lực với nhau để đánh lại. Trước hết lấy danh nghĩa ra mà trách, nếu biết trái mà dẹp thì thôi. Hiện nay các nước nhỏ ở phương Tây và các nước khác trên thế giới đã từng bị phương Tây xâm lăng ngược đãi, không nước nào không dùng kế này để cầu an. Thường thường các nước lớn hay đánh lẫn nhau mà các nước nhỏ thì ngồi xem thành bại, không hề mất một mũi tên. Những chứng cớ như thế rất nhiều không thể kể hết. Ngày nay, nếu ta biết qua lại giao thiệp với các nước lớn phương Tây, gây được mối tình cảm, rồi dùng cái xảo kế để ly nước này, hợp với nước kia. Người Pháp dù muốn thừa cơ hội nhưng nếu các nước chịu tuyên bố giúp ta một lời thì người Pháp cũng sẽ lo sợ không dám làm càn, sợ động đến sự phẫn nộ của các nước, họ còn sợ các nước sẽ nghĩ đến việc báo thù vua bác của họ trước đây đã tiến binh chinh phạt (Ông vua này đã diệt Hà Lan, phế Y Pha Nho, lấy Bồ Đào Nha, thôn tính Ý Đại Lợi, Thụy Sĩ, các nước Nhật Nhĩ Man (Germanie), quá nửa Phổ Lỗ Sĩ, lấy các nước Áo Đại Lợi, Ách Nhật Đa (?), Đan Mạch và xâm nhập thủ đô của người Nga. Những việc này xảy ra năm Gia Khánh thứ 10). Nếu người Pháp vì quá tham mà không nhả thì các nước sẽ dồn lực để thực hiện lời tuyên bố trên. Tiếng là làm việc nghĩa nhưng thực ra là để báo oán đấy. Rồi ta lại qua nước La Mã thông hiếu với Giáo hoàng. Giáo hoàng tuy không dùng binh quyền nhưng thực ra là người chiết trung mọi việc tranh chấp của các nước và vốn được các nước khâm phục chiêm ngưỡng. Nếu Giáo hoàng cũng cho việc giúp ta là phải, thì mọi người đều vui lòng thực hiện, ta không lo người Pháp không nghe. Nếu kế đó thi hành được, thì sớm muộn ta cũng thoát khỏi sự ràng buộc của người Pháp như các nước vậy. Đó là điều lợi thứ tư.
____________________________________
1. Hòa ước 5-5-1862 điều 4.
2. Khoảng tháng 6, 7-1864, tuy Aubaret tới Huế thương lượng về hòa ước mới thay cho hòa ước 5-6-1862, nhưng trong lúc Aubaret trên đường về Sài Gòn, thì Chính phủ Pháp đã điện cho Lagrandière không trả lại ba tỉnh. Ba tỉnh trong (nội tam tỉnh) tức ba tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và ba tỉnh ngoài (ngoại tam tỉnh) tức ba tỉnh Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên.


Thứ năm là nhờ các nước để đề phòng các nước. Kế này rất là lâu dài, cũng rất thượng sách. Không đầy 10 năm sau ta lại có mối lo khác, cho nên nếu ngày nay sớm biết đề phòng, thì ngày sau mới có công việc. Bởi vì người phương Tây thường hay nhân lúc người ta có nội loạn mà cướp đoạt mối lợi ở ngoài của người ta. Cũng có khi vì xa không trông coi được mà dùng cách lấy xa đổi gần. Nhưng quyền lợi ở phương Đông hiện nay 10 phần đã thuộc về nước Anh đến 6, 7 rồi. Duy có Y Pha Nho chỉ còn Lữ Tống, Hà Lan chỉ còn Trảo Oa và linh tinh một số nhỏ nữa mà thôi. Còn người Nga thì đã bao chiếm tất cả miền Bắc của phương Đông. Nhưng sự thông thương sang phương Đông của người Nga phải theo đường bộ, nên chậm, còn người Anh thì theo đường biển nên nhanh. Hiện nay Đại Thanh đã cho người Nga phân nửa đất đai phía Bắc Cát Lâm. Các vùng thuộc Hồi giáo ở Tây Vực cũng đã nhập vào bản đồ nước Nga hết cả rồi. Ý đồ của người Nga sẽ còn muốn dòm ngó cả Ấn Độ nữa. Nói về lực lượng thì người Anh không bằng người Nga, nhưng nói về kỹ thuật thì người Nga không bằng người Anh, mà sau người Anh là đến người Pháp. Việc chiếm đoạt phương Đông, Anh Nga đến trước, Pháp đến sau. Hơn nữa, hiện nay vua Pháp đang âm mưu làm một việc mà cả phương Tây rất ghét và tạo vật cũng rất kỵ. Ở phương Tây từ trước đến nay chưa nước nào phạm việc đó, mà không bị bại loạn cả. Vì vậy hôm trước tôi đã bẩm với Phạm, Ngụy 1. hai đại nhân nên lấy kỳ hạn 10 năm để khôi phục chính là vì lẽ đó. Nhưng ta với Pháp thì xa mà Anh với Pháp thì gần, nếu xảy ra việc gì chỉ trong một ngày có thể biết ngay. Đem binh lính hùng cường của phương Đông dồn hết lực lượng ra tranh hùng với người Pháp để bù lại sự thua thiệt trước kia, đó vốn là cái ngón thường dùng của người Anh. Tất cả những nước Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Y Pha Nho, Đại Ni Á (?) có những thương cảng ở phương Đông và phương Nam xưa kia, nay đã thuộc về Anh đến 8, 9 phần 10 rồi. Ấy là do lấy cái này đổi cái kia, hoặc nhân lúc suy yếu mà nhường đất cho Anh để mong ngày sau sẽ chuộc lại, hoặc thấy người Anh có ý vậy nên không đánh nữa mà tự rút lui để giữ nhân tình. Ba trăm năm nay giữa các nước những chuyện trao cái nọ đổi cái kia, cướp đi giật lại, có khi một thị trường nhỏ mà thay đi đổi lại như thế đến mấy chục lần. Người Anh tuy thường giữ lễ nghĩa nhưng trong bụng vẫn thèm muốn cái thiên nhiên hiểm yếu Gia Định của ta, ý đó chẳng phải mới một ngày đâu. Một mai, nếu người Pháp có việc gì người Anh sẽ lấy một thương cảng nào đó ở Tây Châu gần thuộc địa của Pháp để đổi cho Pháp. Nếu không, xem ra cái thế có thể cướp được thì cướp đoạt luôn để bao chiếm hết cả những chỗ quan trọng của phương Đông. Thế nghĩa là cả miền đất đai ấy không người này chiếm thì người kia chiếm. Nếu ngày nay ta biết giao hảo với người Anh trước để đề phòng đường biển, sau sẽ thông thương với nước Nga để đề phòng đường bộ. Cho dẫu sau này thời thế biến đổi thì trước kia người Anh đã lấy cái việc người Pháp tìm cớ cướp nước ta cho là trái lẽ, mà nay lại thủ tiêu tình bạn bè để cướp nước ta mà cho là phải hay sao? Vả lại, trước kia người Anh đã có cảm tình nồng hậu đối với ta mà hết lời tán dương chính nghĩa của ta để giải thoát cho ta. Việc đó cả thiên hạ đều nghe thấy. Thế mà nay lại thấy lợi quên nghĩa. Thế thì trước kia người Nga cũng đã từng có cảm tình với ta, nay thấy việc bất bình như vậy biết đâu chẳng vì ta mà từ Tây Vực choàng ngay vào sào huyệt của Anh? Nếu sớm dùng kế này thì không những tính trước được lâu dài mà cũng do đây đạt được cái lợi gần như nói trong 4 điều trên. Nếu không, cứ sợ đuổi Tần này lại sinh một Tần khác2, cứ nghĩ rằng một lần ngã còn được, ngã lần nữa thì bị thương. Đó mới thật là mối hại lớn. Mưu trí của người quân tử để lại chẳng riêng cho bản thân mình mà cốt để cho con cháu. Huống chi đây là việc nước vô cùng trọng đại lẽ nào không sớm lo liệu hay sao? Đó là điều lợi thứ năm.
____________________________________
1. Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản trong thời gian phái bộ Phan Thanh Giản ở Sài Gòn chờ tàu đi Huế (từ 18 đến 24-3-1864).
2. Mất Tần Thủy Hoàng thì lại vấp phải Hạng Võ. Câu trên ý nói Hạng Võ thì cũng ác không kém Tần Thủy Hoàng.


Thứ sáu là dùng người khác để đánh họ. Ta đã thực hành năm cách trên đây để cầu giúp từ bên ngoài, như con rết một trăm chân không ngã là do có nhiều chân vậy. Sau đó mới nhờ người ngoài để giúp đỡ bên trong. Nay nhìn sang phương Tây thì dù đứa bé con cũng hiểu được cái tâm lý là hai nước mạnh không chịu thua nhau, chứ không phải chỉ riêng Pháp mới như thế. Nếu ta đi lại với Anh, biết rõ tính tình của họ rồi chiêu mộ những người Anh sống lưu vong ở hải ngoại, cho họ tiền của, cư xử tốt để được lòng họ, rồi nhờ họ huấn luyện binh lính quân ngũ cho ta (Binh pháp của người Anh rất giỏi). Những người này không suy nghĩ gì viển vông cả, hễ được thỏa thích là họ xông lên, không như quân ta sợ trước ngó sau. Huống chi đây lại đối đầu với kẻ mà họ ghét, xuống tay với kẻ tương tranh. Cho nên trước đây khi Pháp nghe đồn nước ta thu nuôi người Anh, họ rất lo ngại. Vì họ vốn có bụng sợ quân Bắc kỳ một vài phần, nếu có người Anh đốc suất điều khiển nữa thì họ càng thêm nao núng. Bởi vì họ đã biết rõ những người này có thể liều chết vì người khác, lại giỏi dụng binh, giữ thành. Các nước sở dĩ chống được với phương Tây cũng đều dùng kế đó. Như trong thời Càn Long, người Anh đã lấn dần như tằm ăn cả 4 miền Đông, Trung, Tây, Nam của Ấn Độ, duy chỉ có miền Shikhs bắc Ấn Độ dùng người Pháp làm tướng, cho nên người Anh thu giáo về bàn chuyện hòa hiếu, chưa dám manh tâm. Đợi đến khi viên tướng Pháp kia chết người Anh mới đem quân xâm nhập cắt chiếm hơn nửa phần đất. Lại như các nước Tây Châu giải thoát được bàn tay độc của phương Tây phần nhiều cũng dùng kế đó. Vả lại ngày nay ta dùng kế đó là cốt để tự cường bên trong. Con mãnh hổ có mặt trên núi thì bầy cáo không dám ngấp nghé. Nhờ đó việc dẹp giặc loạn bên trong không khó mà đề phòng hoạn nạn bên ngoài cũng dễ. Vì rằng người Pháp biết ta đủ sức phục thù tất sẽ tụ hợp các nước khác để ứng viện. Nhưng ta đã được sự đồng tình của các nước rồi, thế tất các nước cũng nhân đó mà ngăn chặn lại. Nếu người Pháp thấy phải mà không chịu nghe cứ muốn cướp nước ta, thì sẽ bị cô thế không ai chi viện, còn lực lượng của ta thì đã được củng cố, như thế cũng chẳng đáng sợ. Huống hồ người Anh đã ở với ta thì chính phủ Anh tất phải theo giúp, nếu để thua sẽ tổn hại uy danh. Hiện nay Pháp đem thêm quân lính sang và tương lai những binh thuyền sở thuộc ở phương Đông cũng sẽ dần dần tập trung về Gia Định để làm cái thế chiếm đóng chỗ trọng yếu. Thêm vào đó Y Pha Nho ngày nay đã mất hết quyền ở các nước thuộc địa Tây Châu, chỉ còn đảo Lữ Tống ở phương Đông mà thôi, đảo này lại ở gần Bắc kỳ ta. Y pha Nho là một nước rất sùng mộ đạo giáo1, gần đây nghe tin ở miền Bắc việc giết giáo dân chưa yên, cũng sẽ nhân cớ đó mà trách ta không giữ đúng lời hứa, để rồi sẽ giúp nghịch đảng chống ta. Còn người Pháp nhân nay nghe tin quân Bắc vào Bình Thuận, mai nghe quân Bắc vào Gia Định (Tin đồn này do các thương thuyền phía Nam Quảng Nam vào Gia Định tung ra) thì tất cả những ông quan muốn lập công ở hải ngoại sẽ tâu lên loạn xạ để chứng minh cho lập trường của họ. Ngoài ra còn có bọn giặc ở phía Bắc luôn luôn qua lại hai nước, dùng lời xảo quyệt để thực hiện mưu đồ của chúng. Vậy nay ta phải xử sự cho khéo, bình tĩnh đề phòng đừng để hai nước tìm được chỗ hở nào của ta cả. Lại phải thông hiếu gấp đừng để chúng kết hợp lại với nhau, phải gấp rút chiêu mộ những tay vong mệnh để áp đảo khí thế của họ, trước hãy làm cách không thể thắng để chuẩn bị thắng địch. Đó là điều lợi thứ sáu.

Đã thực hiện được sáu điều lợi rồi, dần dần có cơ hội, tôi xin đem các điều ngấm ngầm làm tổn hại địch trong bài Tế cấp luận ra thực hiện dần dần thì sẽ như lấy trăm kim mà chích làm cho họ nằm ngồi không yên. Sau đó bồi luôn cho một nhát dao thì thế nào cũng chết. Huống chi Tế cấp luận là thâu tóm trí khôn của thiên hạ 500 năm nay, đâu phải chuyện một ngày có thể làm được hết. Một nước dùng kế trong một nước cũng đủ chả cần phải mượn tài ở nước ngoài. Nhưng muốn chế ngự thiên hạ thì cũng phải dùng mưu trí của thiên hạ mới được việc. Bởi vì đại thế trong thiên hạ thường cứ 6, 7 trăm năm có một lần biến đổi lớn, thì cái trí thuật cũng theo thời thế mà tăng, việc làm cũng phải tùy theo thời mà định liệu. Nếu lợi cho dân thì không cứ phải theo xưa, nếu thích hợp thì không cứ phải chạy theo cũ, nếu học điều khôn thì không cứ là của địch hay của ta. Kinh Dịch có nói: Khi con rồng đang nằm ẩn náu thì không nên dùng nó. Câu ấy có nghĩa là không nên trái thời.

Những điều trên đây là trình bày đại thể, nói chung là trước thuận theo sự đặt định của tạo vật, sau ra sức thực hiện để cứu vãn tình thế. Vậy muốn áp dụng kế này phải gấp rút khai thác các nguồn lợi và phải nhờ người khác giúp sức. Các mưu kế đó nếu được gấp rút ứng dụng thì dần dần sẽ thấy kết quả. Nếu chậm ứng dụng thì dù chậm đến đâu cũng không thể nào bỏ qua không dùng những kế đó, mà có thể chống lại được với địch. Còn như tự Triều đình thấy mưu kế chước thuật gì hay hơn, điều đó tôi không dám biết. Nhưng theo kiến thức của tôi thu thập được trong thiên hạ, thì nếu bỏ kế đó sẽ không có kế sách nào khác nữa. Hơn nữa dùng kế này không những chống được Pháp, mà còn đề phòng được thiên hạ. Nếu cho rằng kế này quá phiền phức mà chậm, tức không biết rằng muốn thành việc lớn phải đấu tranh hàng trăm năm, chứ đâu phải một hơi mà được. Nhà Đường mất Lưỡng Hoài2 phải đến hàng ba chục năm mới khôi phục được huống chi đây là một kẻ địch hùng mạnh. Cho nên bắt chim, đâu phải chỉ có một mắt lưới mà được. Nay dùng một mắt lưới mà muốn bắt được chim thì làm sao được? Bờ đê có hàng vạn lỗ hang chỉ chận một lỗ mà muốn bắt được cá thì làm sao được? Trên thế giới có nhiều nước nhỏ đã thực hiện được, sao ta lại không làm được?

Trong bài có nói về các khoản khai thác nguồn lợi dù kẻ địch có biết cũng không hại gì. Còn như các điều khoản nói về người giúp đỡ, nếu tiết lộ ra khiến họ tìm cách ngăn chặn ta sẽ khó thực hiện được ý muốn, cho nên phải hết sức cẩn thận. Còn như sẽ làm theo đường lối nào và sử dụng ngôn ngữ gì thì tôi sẽ cùng với ông Nguyễn Hoằng xin hết sức làm để giúp muôn một.
Nay kính bẩm.


____________________________________
1. Chỉ cho đạo Công giáo.
2. Tức Hoài Bắc và Hoài Nam. Đời Đường gọi các miền đất phía Bắc và phía Nam sông Hoài là đạo Hoài Bắc, đạo Hoài Nam.


DI THẢO SỐ 6

Về việc mua và đóng thuyền máy*

(Cuối năm 1864 - Đầu năm 1865)

Tôi nghe Triều đình muốn mua hỏa thuyền. Điều này rất tốt và cũng chẳng cần xin phép họ, chỉ thông báo cho họ biết mà thôi. Nước Pháp xưa nay không dám có hành động cấm cản người ta tu chỉnh việc võ bị. Nhưng họ cũng có bụng hẹp hòi. Nếu ta đến họ yêu cầu chỉ vẽ đường lối, chưa chắc họ đã tận tâm giúp ta. Chỉ người Anh là có tâm lượng rộng rãi, giúp việc cho ai cũng đều có ân có hậu. Hơn nữa việc mua máy móc cũng có nhiều chỗ khó khăn đáng quan ngại. Tôi xin trình bày sơ lược một hai điều xem liệu có dùng được điều nào chăng.

Về máy móc, nó vốn chỉ là vật cố định, nhờ khéo léo điều khiển mà thành vật chuyển động, khi thành vật chuyển động mà gặp trở ngại nếu không có người giỏi, cứ chỉnh sửa bậy bạ thì sẽ thành đồ bỏ. Cũng như thân thể con người khi gặp bệnh nếu người không giỏi mạch lạc mà cứ châm cắt bừa bãi thì sẽ thành phế nhân. Hiện nay nước ta chưa có tay lành nghề, nếu vội mua về không khỏi phải mướn thủy thủ của họ. Tốn phí rất lớn mà cũng có nhiều chỗ đáng ngại. Còn không mướn họ, để hỏa thuyền một tháng không sử dụng cho máy chạy, máy sẽ bị cáu rỉ sau khó chỉnh lại cho tốt. Xưa nước Lạc Mã muốn đối địch với nước Phi Ni Tây ngầm sai những tay thợ khéo nước mình lẻn sang nước địch làm công rồi ngầm học cách lái tàu hơn một năm, khi lái giỏi mới có thể đối trận lập công được. Hiện nay Nga La Tư cũng sai người sang Anh Cát Lợi làm công, học các thao tác. Cách thao tác rất khó. Họ đã tích lũy nhiều năm mới giỏi dược như vậy. Hiện nay ở phương Tây về cách thao tác thuyền bè không có ai là đối thủ của người Anh cả. Cho nên nhiều người đến đó học. Nay ta chưa thao tác điều khiển được mà muốn sửa chữa thì làm sao khỏi bị hư hỏng. Tôi thiết nghĩ hiện nay ta chưa có nhiều người thông thạo tiếng nước họ, đó là một điều khó. Nếu muốn sang học người Anh, họ cũng chẳng hẹp hòi, nhưng một là phải chọn được nhiều người thật tâm vì nước không ngại đi xa mới được, hai là phải dùng nhiều thông ngôn, gấp rút như thế khó tìm được, đó là hai điều khó. Còn một bên sang học một bên thuê mướn thì so ra việc sang học tốn phí còn gấp đôi việc thuê mướn (Lý do vì sao, việc này tôi chưa kịp trình bày rõ).

Về máy móc có loại máy cao và máy thấp khác nhau. Máy cao thì dụng công giản dị nhưng dễ bị hư hại. Máy thấp thì dụng công phiền phức nhưng tiện. Phải có người hiểu rõ lý thuyết mới khỏi mua lầm. Ngoài ra có loại 200 sức ngựa, 300 sức ngựa cho đến 1000 sức ngựa khác nhau. Nếu không biết công suất áp lực, không tính được sức ngựa nhiều ít. Giá rẻ thì dễ mua lầm. Nói chung, máy cao sức ngựa ít, giá rẻ, máy thấp sức ngựa nhiều, giá đắt. Đó là điều phải phân biệt cho rõ.

Về khoản thứ ba nói về định vật như máy móc chẳng hạn thì theo nguyên lý từ mới đến cũ, không phải như sinh vật từ nhỏ rồi đến lớn. Cho nên tất cả các định vật do người vận chuyển dần dần sẽ hao mòn hư hoại, dù có tu bổ cũng không thể đổi cũ thành mới lại được. Do đó thuyền chở khách hoặc thuyền buôn bị hư họ muốn đem bán thì họ sửa chữa lại. Cũng như đồng hồ vậy, nếu người mua không biết cách sử dụng, không quan sát cho tinh vi thì vào tay không bao lâu sẽ hỏng ngay. Phàm thuyền cũ hoặc thuyền sử dụng đã lâu rất khó quan sát nhận xét. Tốt hơn chi bằng đến thẳng xưởng đóng thuyền chọn mua cái mới. Nhưng như thế cũng gặp phải một nhược điểm là thuyền chưa chạy thử. Vì vậy nên mua thuyền nào đã chạy một vài lần mới tốt. Thống kê về hỏa thuyền trên thế giới thì thuyền tốt nhất mà giá rẻ nhất chỉ có Hoa Kỳ, nhiều xưởng đóng thuyền nhất chỉ có Anh Cát Lợi. Quá nửa hỏa thuyền của Pháp đều mua từ nước Anh và các nước phương Tây phần nhiều cũng đều mua thuyền của Anh. Bởi vì cách đóng thuyền của các nước đều theo phương pháp của Anh Cát Lợi. Nay đi mua thuyền phải theo đường lối như vậy, lại phải chọn được người mình có biết qua các loại máy móc để biết lựa chọn cái xấu cái tốt mới được. Nếu cứ theo lời họ nói thì thế nào họ cũng che giấu cái xấu cái tệ. Theo tôi thiết nghĩ hiện nay người Nam ta biết qua các loại máy tàu và các lý thuyết điều chỉnh tu sửa, không ai hơn được tôi, từ nay về sau thế nào thì không dám nói. Nhưng giao dịch với nước ngoài, phần nhiều có lệ phải đóng khoản tiền đầu (Điều này có nhiều chi tiết chưa kịp trình bày rõ), phải đến trước mặt quan họ xin dùng công ấn đóng vào mới khỏi tệ này.

Khoản thứ tư, nếu đã mua được mấy chiếc thì phải mua máy điều chỉnh, các máy móc có hư tổn thì lượng thế tu chỉnh, sức ít công nhiều. Nếu không, thuê thợ của họ tiền công rất cao. Hơn nữa cứ mỗi lần hư cái gì lại phải mời họ điều chỉnh cũng phiền phức.

Khoản thứ năm thuyền nước họ giá mua và tiền công rất đắt, khi bán sang cho ta lại phải giá lợi gấp 3, 4 lần mới chịu bán. Nếu mua được vài mươi chiếc thì phí tổn đã không ít mà sử dụng cũng có hạn. Tôi thiết nghĩ trước tiên nên mua vài chiếc để đáp ứng những việc cần dùng khẩn thiết. Sau đó mua một bộ các loại máy nấu đúc và các máy vận dụng tạo tác (Danh mục các loại máy này rất nhiều chưa kịp trình bày đầy đủ. Tuy nói trong danh mục nhưng mắt chưa trông thấy cũng khó hiểu rõ). Những loại máy này, có thứ thợ mình có thể làm được thì không cần mua, còn những thứ thợ mình không làm được (Có máy nặng đến một vạn cân không thể vận chuyển bằng tay được, phải nhờ máy nấu đúc hoặc các loại máy công cụ mới làm thành được) thì mua hết đem về thiết lập một xưởng để thực hiện việc nấu đúc. Ban đầu tuy chưa tinh xảo, nhưng từ vụng rồi sẽ đến khéo, từ thô sơ rồi mới đến tinh xảo, lâu ngày tự mình có thể thông hiểu nguyên lý của nó. Họ là người gì? Mới đầu bất quá cũng vậy thôi. Khi đã có máy làm khuôn rồi, từ đó chế biến ra bao nhiêu loại kỹ thuật khác như bánh xe nước, máy cày, máy dệt, đồ dùng hằng ngày, binh khí, v.v... cũng đều ứng dụng từ một nguyên lý mà ra (Đó là sức tự nhiên). Mỗi ngày một canh tân, canh tân thêm nữa, cũng chẳng phải là việc khó. Nhưng trong các loại cơ khí, duy công lực của hỏa thuyền là phiền phức hơn cả. Nếu mình không hiểu sâu đại số, hóa học, trọng lực học v.v… thì cũng khó thành tựu. Tuy nhiên nói vậy không có nghĩa là mình không thể làm được. Chỉ có điều là bề trên phải có tâm sức, làm mà không hạn chế, làm lâu mới thấy hiệu quả. Nếu cho rằng tạo tác không đúng pháp, quyết không thành công, tôi xin làm một so sánh như sau. Vật liệu và giá nhân công của ta rất rẻ. Nếu đem số tiền mua được mười chiếc của họ mà ta tự chế tạo thì sẽ được 30 chiếc. Cho dầu sơ khởi tạo 2, 3 chiếc chưa được tinh xảo, nhưng đến lần thứ tư thứ năm sẽ tinh xảo. Như vậy dù trước có mua của họ 2, 3 lần nhưng số tiền đó cũng chưa đầy một phần ba số tiền hoàn toàn mua của họ. Nhưng ta chế tạo thì dần dần mỗi ngày một tinh xảo sẽ được lợi vô cùng, đó là một, thành tựu được nhân tài là hai, cho họ biết nước ta cũng có người là ba.

Năm khoản trên đây tôi chỉ mới nói đại lược, còn các chi tiết chưa kịp trình bày rõ. Nhân vì chân tôi bị tê bại sắp thành kẻ phế nhân, nằm ngửa ra mà viết, tinh thần buồn bực rối loạn, tự biết nói năng không thứ tự. Nhưng tất cả đó là sự thật, muôn trông ba vị đại nhân thương tấm lòng nhiệt thành của tôi mà lượng thứ cho.
Nay kính bẩm.


(Tôi nghe cái đồng hồ không chạy. Nếu tiện xin gởi đến, tôi sẽ đích thân chỉnh lại sẽ tốt. Nếu tôi bệnh chưa khỏi, tôi sẽ thuê thợ Tây chỉnh lại cũng tốt. Vì thợ Tây biết tôi cũng chỉnh được nên không dám làm cẩu thả. Còn các loại đồng hồ chuông tôi đều hiểu rõ hết, không những chỉnh được, dù loại mới cũng được. Có điều là tôi chưa mua được máy chỉnh).
____________________________________
* Nguyên văn chữ Hán chỉ có trong Hv 634/4 tờ 185-192
    Bản văn này không có ghi ngày tháng năm. Nhưng nội dung bản văn chưa cho thấy là trước đó đã có việc mua bán gì cụ thể, mua cụ thể thì tháng 8 năm Tự Đức 18 (tức tháng 9-1865), Triều đình mới mua thuyền máy đầu tiên là thuyền Mẫn Thỏa (Xem ĐẠI NAM THỰC LỤC, bản dịch Nxb Khoa học Xã hội, tập 30 trang 168). Hơn nữa di thảo số 7 (khoảng tháng 2-1865) đã có nhắc tới tờ bẩm trước về việc mua thuyền máy. Do đó văn bản này có thể được viết từ Sài Gòn (Nguyễn Trường Tộ nói là mình đang bị tê bại, nằm ngửa mà viết) vào khoảng cuối 1864 - đầu 1865.


DI THẢO SỐ 7

Về việc đào tạo người điều khiển và sửa chữa thuyền máy*

(Tháng 2 năm 1865)

Tôi là Nguyễn Trường Tộ xin dâng lên đại nhân soi xét.

Hiện nay thuyền của Tây đã đến Kinh, tôi đã ngầm hẹn với ông Hoằng cùng đi với tôi là có thâm ý riêng:

Một là, lần này thuyền Tây đến trả lời thẳng là không trả 3 tỉnh, mà còn tin cho biết sẽ đòi tiền bồi thường hằng năm. Tôi nghĩ có lẽ Triều đình đã có lời bàn riêng với họ, nhưng viên thông ngôn đã bị họ sai khiến, nên hễ có lời nói nào không hợp với họ, thì hắn ta bênh che không dám nói hết lời. Như thế thì thật hỏng việc. Như việc phiên dịch của Trung Quốc đối với các nước ngoài trước kia, vì do những sự thêm bớt sự việc mà đến hỏng việc nước. Cho nên tôi đã thầm hẹn với ông Hoằng cùng nhau đến đấy. Nếu Triều đình có những việc gì cần nói cứng hoặc cần đấu dịu cứ việc nói thẳng không ngại gì.

Hai là, trước đây phái viên tung tin ra rằng Phan đại nhân và Phạm đại nhân có sai người đến hỏi ông Hoằng về việc hỏa thuyền. Lúc bấy giờ chưa thể trình bày rõ, nay nếu cần hỏi tỉ mỉ rõ ràng thì có ông Hoằng ở đây. Nếu có điều gì ông chưa hiểu thấu thì tôi sẽ cùng ông ta bàn bạc rồi sẽ bẩm rõ. Vả chăng vì việc đại thuyền và cơ khí thì trước đây tôi đã trình bày sơ lược rồi. Nếu muốn mua những thứ đã có sẵn thì phải theo cách đó mới được (trước đây đã trình bày rõ). Hoặc muốn sang nước họ học tập chế tạo những thứ đó, theo tôi phải có những người khéo tay chọn lấy khoảng ba bốn mươi người từ ba mươi tuổi trở lên, đi học chế tạo, lại cần có những người thông minh chọn lấy mười người từ hai mươi lăm tuổi trở lên, đi học đại số, vi phân cùng các môn trọng lực học, hóa học, quang học, v.v... Hai khoản này nếu thiếu một không thể thành việc. Lại phải sang kinh thành nước Pháp hoặc kinh đô nước Anh học khoảng 8, 9 năm mới biết được đại khái. Vì rằng sang học tại nơi đô thị của họ, thì một là kiến văn rộng rãi việc học dễ thành đạt; hai là ở lâu với người nước họ, thông hiểu được ngôn ngữ, phong tục của họ, sau này có việc gì sai phái đi về cũng dễ. Còn như ở Sài Gòn, các loại máy móc hiện có chế tạo từ bên Pháp chở qua đây chẳng qua là những loại xấu, hư hỏng mà thôi, không có gì đáng học.

Nếu Triều đình muốn thực hiện hai thứ vừa kể trên tôi và ông Hoằng xin tình nguyện ra sức cùng sang Tây với hai lớp người nói trên, thông dịch ngôn ngữ, giải thuyết những điều họ chưa hiểu rõ, phụ giúp cho những chỗ họ không theo kịp thì không ngoài mười năm, việc học sẽ thành đạt. Bởi vì đối với lý thuyết của hai khoản này tôi đã biết được những điều quan yếu. Lại thêm ông Hoằng là người rất giỏi tiếng Pháp, giải thích, phiên dịch được rõ ràng, nếu cùng đi với những người này thì sẽ trực tiếp và dễ dàng hơn. Hiện nay Nhật Bản, Miến Điện cũng đã phái người đến kinh đô nước Pháp học kỹ nghệ. Đến như nước Nga ở phương Tây mà cũng cho người đến nước Anh nước Pháp học tập. Tuy phải dụng công lâu dài, chi phí rất lớn, nhưng cũng thu hoạch được nhiều. Vì rằng muốn thành đại sự phải mất hàng trăm năm chứ đâu phải một ngày là được. Cho nên người quân tử lo toan mọi việc chẳng những ở đời mình mà còn cho con cháu nữa. Như nước Nga 100 năm nay vẫn thường cử người đến Bắc Kinh học tập Hán văn, cứ 10 năm lại đổi một loạt người khác, lại cho người đến Thiên Trúc học tập âm ngữ1. Ý của họ là xin lửa thì chi bằng lấy cái gỗ kéo lửa, xin nước thì chi bằng đào giếng uống. Hiện nay cuộc diện chưa biết sẽ đến đâu. Họ đã không trả cho ta ba tỉnh ngoài, mà ba tỉnh trong cũng đã nằm trong ý định của họ rồi (Trong tờ trình trước đã nói tới). Mà Y Pha Nho cũng đến miền Bắc, nếu không đến nhờ người giúp để khiến cho họ yên đi không dám động (Trước đây khi ở Sài Gòn tôi đã có tờ trình rõ với hai vị phó sứ bồi sứ, nay không nói tới nữa), lấy cái mưu mà các nước bị mắc với họ để đánh lại họ, lại lấy cái họ đã từng thi hành ở các nước để đè bẹp họ. Vì hiện nay ở thế tung hoành nếu không như vậy thì chưa thấy kế hoạch gì khác có thể trấn áp được họ (Trong tờ trình năm ngoái tôi cũng đã nói tới). Đại nhân mang trọng trách của Nhà nước xin sớm liệu định, e rằng nếu để chậm thì đã khó lại càng thêm khó. Tôi ở xa nhưng vẫn là dưới quyền của đại nhân, không có cái gì biết mà tôi không nói, nếu có gì không hợp với sự kiêng kỵ về thời sự, xin đại nhân tha thứ cho. Lại xin đại nhân nếu có bản chép về quốc sử từ Lê đến Tây Sơn nếu có thể cho xem xin gửi cho một bản, nhờ đó tôi có nhiều giải thuyết để chống lại những phù thuyết của giặc. Tôi lại xin gởi kèm theo đây một cái hộp gỗ thô kính tặng quí công tử dùng đựng thuốc hút, mong đại nhân nhận cho. (Tôi hiện nay bị bịnh tê thấp chưa khỏi. Xin quí công tử thương tình cho tôi 5 đồng cân quế quỳ. Sau này lành bệnh tấm lòng khuyển mã chẳng dám quên ơn).

Đêm khuya bối rối nhiều việc thời sự chưa kịp trình bày tường tận. Một lần nữa kính chúc hai phó bồi sứ đại nhân vạn phúc.
Nay kính bẩm.
_____________________________________
* Nguyên văn chữ hán: Hv 189/1 tờ 65-66 và Hv 634/4 tờ 73-77.
    Bản văn này cũng không có ghi ngày tháng năm, nhưng chắc chắn là được viết vào khoảng giữa tháng 2-1865 tại Huế. Bởi vì trong bản văn có nói tới việc tàu Pháp đã đến kinh. Đây là tàu đo trung úy hải quân Chavalier tới Huế (Từ 10 đến 17 tháng 2-1865) để chính thức báo tin là chính phủ Pháp vẫn giữ nguyên hòa ước 5-6-1862 và đòi Triều đình Tự Đức trả tiền bồi thường chiến tranh hàng năm như đã quy định.
1. Tiếng Phạn

DI THẢO SỐ 8

Kế hoạch khai thác tài nguyên đất nước

(Khai hoang từ)*

Ngày tháng giêng năm Tự Đức 19 (15-2 - 17-3-1866)

Kính dâng mấy lời trình bày những điều mắt thấy tai nghe về đường lối cố hữu trong việc khai hoang của người phương Tây. Nước ta phải gấp rút tính liệu mưu kế trước để chiếm ưu thế, để mưu đồ lợi ích vĩnh viễn, để giảm bớt những bức thiết hiện nay.

Nguyên phương Tây 500 năm nay, tất cả những nơi nào họ đã vững chân và không có gì trở ngại thì trước hết họ dùng lời mềm dẻo cầu xin. Những sự tình trong lời xin của họ tôi đã nói rõ trong tờ bẩm trước. Nếu việc xin của họ gặp khó khăn trở ngại họ cũng không cưỡng ép mà cứ dần dần thi hành các âm mưu quỷ quyệt để mưu chiếm lấy hết. Nhiều nước đã bị như vậy rồi.

Hiện nay họ đã sai người đi theo Tiền Giang dọc thẳng lên các đường đến tận Vân Nam. Những nước nhỏ ở phía Tây ven sông thuộc Xiêm La thường bị họ dùng kế ly gián để dễ bề sai khiến. Họ còn lên tiếng xin nước ta cho họ sai người dọc theo đường núi từ Bình Thuận ra Bắc đến Tuyên Quang để dò đường trước, rồi sẽ sai binh thuyền dọc theo ven biển từ Bình Thuận đến Quảng Yên qua các cảng khẩu và mặt biển, để dò nông sâu, vẽ vào bản đồ. Sở dĩ họ cần làm như thế là không những chỉ mưu lợi mà còn dụng ý rất thâm, tôi đã mật bẩm rồi, nay không dám nói rõ nữa.

Nhìn chung các nước trong thiên hạ phàm nước nào chiếm được ưu thế thì một là do có người giúp hai là do phân rõ chủ khách. Nếu ta tính toán trước công việc để trấn áp họ thì không những hiện tại có thể được hưởng lợi 7, 8 phần 10 mà về sau có thể được cái lợi vĩnh viễn vô cùng như Hợp Chủng Quốc ở Tây Châu. Cho nên gần đây các bậc có trí trong thiên hạ bàn về lý và thế nói rằng: Thà làm khách làm chủ chớ không làm tôi làm tớ. Câu nói đó thật là đúng. Thường tình con người ta khi làm khách làm chủ với nhau thì mạo diện tất phải cung kính, ý tình phải nồng hậu. Giả sử có lời lẽ phân trần cảnh cáo để lấy việc trước cảnh giác việc sau thì chẳng qua là lấy tình bè bạn giúp nhau mà thôi, chứ không phải như phận học trò phải bỏ sức ra phục dịch thầy. Nếu trong khi giao thiệp có điều gì xích mích trái ý thì vì thể diện hai bên sẽ dần dần tìm cách giải quyết. Còn như thầy trò thì có nhiều điều bị xử ức phi lý lắm chứ không phải một mà thôi đâu. Hiện nay các hội buôn của họ sang nước ta có hội muốn xin mở đường xe lửa suốt cả Nam Bắc; có hội muốn xin khai thác mở dọc theo các núi, có hội muốn xin cho thuyền đi dọc theo biển để tiễu phỉ, có hội muốn thông đường buôn bán. Các người này một mặt xúi giục các quan của họ, sớm làm cho thành chuyện, một mặt đánh tiếng xin dần để dò xem như thế nào. Vả lại vua quan của họ cũng có thâm ý riêng. Từ quan đến dân không ai không có chú mục vào nước ta. Tôi đã biết rõ tình hình này, cho nên trong các tờ trình trước tôi đã nhiều lần đề cập một cách tế nhị, nhưng vì là những việc hiềm nghi húy kị nên chưa nói rõ hết được mà thôi. Năm trước tôi đã nói với họ rằng những phần đất phía Đông từ Tiền Giang thẳng đến Vân Nam xưa nay đã thuộc về ta, dân ở đây hoặc nạp cống, hoặc nạp thuế. Bản ý của tôi là muốn ngầm cho họ biết trước để sau này không thể không để cho ta cùng hưởng lợi. Rồi sau dần dần dùng kế dụ dỗ dân ở đây theo về ta theo lối nước Nga đã dùng kế lấy các bộ ở Tây Bá Lợi Á.
_____________________________________
* Bài này chỉ có ở Hv 189/1 trang 67 - 79
    Nguyễn Trường Tộ, trong nhiều bài điều trần sau này, thường nhắc đến bài này dưới tiêu đề “Khai hoang từ” và ngay ở câu đầu của bài này có nói tới hai chữ “Khai hoang” (Cẩn thượng ngôn vi tương chân tri chước kiến Tây phương tuân hành khai hoang cựu lệ).
    Nhưng khai hoang đây không có nghĩa hẹp là khai phá đất hoang, mà là có một kế hoạch khai thác tiềm năng của quốc gia bằng cách thu hút sự đầu tư của người nước ngoài.

Tuy chưa thực hiện, nhưng thâm tâm mật kế tôi đã dự định đường đi nước bước như thế rồi. Cho nên tờ bàn hòa năm trước tôi có nói: “Mất bên Đông thu lại bên Tây” là đã ngầm phục sẵn sự việc ngày nay vậy. Nay nếu biết đề phòng trước có thể được lợi lớn sau này. Vậy xin trình bày mấy điểm sau đây:

1. Nước ta có một dải núi chạy dài từ Bắc xuống Nam lại thoải dần về phía Đông. Đó là một thế núi tốt nhất trên địa cầu. Nền của nó rất cổ, do đó chứa nhiều kim loại đá quặng cùng các ngọc báu, các vật hiếm lạ. Những nhà địa lý các nước đã từng khen ngợi. Nhưng ta chưa hề khai quật, nỡ để điều mà tạo vật ban phúc cho ta thành ra vô dụng. Nay ta chưa tài khai khẩn, lại chưa có đủ phí tổn nhu dụng thế là ôm của báu mà chịu nghèo mãi, lẽ nào không biết thẹn mà còn đem cái lợi bày đường mách nước cho người ta? Nếu không biết khởi phát trước để chế ngự họ, không để cho họ thừa thế, thì sẽ cam chịu cho họ sai khiến để được một phần lợi, như trường hợp một vài nước nhỏ ở Tây Châu. Hơn nữa, ven núi phía Tây theo họa đồ của họ đều thuộc về ta. Như tôi đã lấy những người mình từng đi lại nhiều biết rõ phong tục tình lý ngôn ngữ của thổ dân ra làm chứng. Ngày nay nếu ta đưa ra những chứng cớ có thực đó bảo họ trở lại cầu ta giúp đỡ, nếu ta thành thực giúp họ để chia nhau nguồn lợi phía Tây, nhờ uy để chiêu dụ những dân man mọi thì họ càng sung sướng vì hợp với thâm ý của họ.Ta cũng để lộ cho họ biết nếu họ bị lộ chuyện gì ta sẽ ngầm giúp họ một tay. Như thế họ sẽ vui thích và hết sức giúp ta, để mong ta giúp họ sau này. Nếu thực hiện kế đó thì từ ven núi ra phía Đông, họ nỡ nào chiếm đoạt? Còn từ ven núi phía Tây ta với họ cùng có lợi tuy có mất mát phần ít cũng chẳng qua là lấy của ngoài đường để mua cái tình người đấy thôi, ta có tổn hại gì đâu? Vả lại, họ lấy kế để cần ta thì ta cũng tựu kế mà chọi lại họ không được sao? Nhưng kế đó rất khó, phải khéo điều đình mới được, hãy đợi tôi từ từ dò xem họ, biết rõ chân tướng sự cơ của họ rồi mới làm.

2. Người Pháp xưa nay từng coi ngôi vua là quý, chức quan là trọng, và việc làm của họ thì cốt lợi cho dân. Nếu thấy nước nào còn theo tập tục cũ, đem lòng nghi kỵ đối với người khác không chịu thông hiếu với nhau, thì họ sẽ lấy câu “lợi mình là để lợi người” mà suy diễn ra cho rằng tạo vật sinh ra đất đai vốn để cho cả nhân loại hưởng dụng, chứ đâu phải để cho một nước, một vua nào chiếm lấy làm của riêng? Lẽ đó ở đoạn đầu trong bài Lục lợi từ tôi đã nói rõ. Nếu hai bên không lưu thông trao đổi để cùng có điều hay, chung điều lợi thì ta bỏ người lấy không được sao? Nay nếu biết mở cửa buôn bán với nhau, họ không ngăn cản ta qua, ta không ngăn cản họ lại hòa hợp với nhau, đúng như thánh thượng đã minh dụ rằng: “Các nước bốn phương hiện nay đã liên kết giao thông với nhau”. Như vậy là để liệu trước sự việc sẽ xảy ra, đón kịp thời thế khiến họ phải là khách mà ta là chủ. Như thế họ sẽ cho rằng ta biết rõ thời thế, nên đến đâu cũng sẽ yên phận giữ lời ước, giữ danh nghĩa, không dám có ý đồ khác mà cũng không cần có ý đồ khác làm gì nữa. Thường tình con người ta, cầu lợi mà không được lợi mới không kể gì nghĩa lý mà liều với tiếng xấu. Nhưng người ta cũng có nhiều cách che đậy để mong tránh tiếng tham ô xấu xa. Nay đã được cái lợi như ý, lại tránh được tiếng xấu nữa, mà còn mưu cái lợi khác để liều chịu tiếng nhơ, lẽ nào có tình đời như vậy? Tôi đã xem xét hết các nước hễ ở đâu có người của họ cư trú mà nước đó ăn ở tận tình với họ, thì không những tránh được họa bên ngoài mà mối lo bên trong cũng hết dần. Vì rằng mối họa khốc liệt thảm hại nhất không gì bằng họa binh đao. Nếu họ đã ăn ở cùng ta thì khi có họa bên ngoài xảy tới họ cũng sợ bị vạ lây, buôn bán không thông, khi có hoạn nạn bên trong họ cũng sợ lụy đến thân gia đình khó bảo toàn. Vì vậy, hai trường hợp đó ta không cần giúp tự nhiên họ cũng sẽ giúp. Nhìn ra các nước ở phương Tây và Tây Châu, vua các nước thường giao việc nước cho các đại thần mà chu du các nước để mở rộng kiến văn, không phải lo việc bên trong nữa, vì đã có nhiều người lo giữ cho rồi. Sỡ dĩ được thế vì danh nghĩa đã lập, ngôi vị đã định, lý chính, thế đồng, phải trái thiên hạ đều biết, xử sự hợp với công luận, tung hoành liên kết nước lớn nước nhỏ, hòa hiếu hợp với các nước, một người làm trái thì cả đám gỡ cho. Ngày nay việc cai trị được lâu dài yên ổn đều do ở sự biết kết hợp, khác với thời xưa lấy bùn mà trát kín cửa để tự bảo vệ là thế.

3. Ngày nay cái mà ta thiếu thốn nhất là tiền của. Vì không có tiền của cho nên trăm việc, việc gì cũng không làm được. Hơn nữa, đồ dùng khí cụ của ta chưa đủ, tài trí chưa vươn tới, lại chưa có tiền của để mua máy móc kỹ thuật. Nay nếu đem một nửa số nhân tài cả nước và một nửa của cải ra thực hành cũng phải đợi vài chục năm sau mới có hiệu quả. Huống khi trước khi chưa được lợi đã sợ có một biến cố gì khác xảy ra thì tài lực của ta có khi lại bị người khác dùng. Hơn nữa dân tình yêu ghét chưa giống nhau, ý kiến còn chưa thống nhất, thì vị tất đã hiểu rõ được ý nghĩa tạm thời tổn phí để được yên ổn mãi mãi. Phàm việc gì chỉ tính đến cái lợi nhỏ trước mặt, thì vị tất đã tính toán kịp được cái lợi lớn đến con cháu. Cho nên, ai lo phận nấy, nhà ai biết nấy, thì vị tất đã hợp được công tư với nhau như dân các nước phương Tây. Tục ngữ có câu: “Muôn việc khó ở bước đầu”. Hễ thấy việc lớn mà không có lợi ngay thì tâm thần ý chí mệt mỏi rã rời không chịu làm xong việc. Đại để trong một nước phàm việc dân như việc hưng lợi, tuy do người trên xướng lên, có khuyến khích hướng đạo rõ ràng, nhưng do cả nước ở dưới làm. Nếu như ở trên việc gì cũng cứ tự làm lấy cả thì sự phiền phức thật không kể xiết. Việc làm đó ban đầu thì lợi quy về dân mà cuối cùng là quy về nước như các hội ở phương Tây. Nhưng dù trước hay sau cũng đều có lợi chung giữa công và tư. Vấn đề này có nhiều chi tiết chưa kể hết ra đây. Nay ta nếu biết cân nhắc sự cấp thiết đó mà mời họ khai nguồn lợi cho, thì dân thấy việc làm của họ có lợi, sẽ hùa nhau mà theo. Đó là lẽ thứ nhất.


Phàm việc thuê mướn nhân công, trước hết họ phải thuê dân ta, những người nghèo khó không có kế sinh nhai thấy được lợi nhiều sẽ rủ nhau ra làm, như thế sẽ tránh được cái thói du thủ du thực trộm cướp, như người Tàu đổ xô đến Cựu Kim Sơn và Tân Kim Sơn1 trước kia vậy. Đó là lẽ thứ hai.

Phàm những điều lợi mà họ được tất phải qua dân ta trước, rồi mới đến nước khác. Phàm những đồ cần dùng mà họ xuất ra như các loại đồ uống, thức ăn, khí cụ tất từ nước khác chuyên chở tới. Họ có những đồ cần dùng mà ta thiếu và cần thiết, thì cũng nhân họ có mà ta có. Đó là lẽ thứ ba.

Trừ các điều lợi đã giao ước, ngoài mấy phần thuộc về nước ta, còn họ được mấy phần thì dân ta cũng được nhờ, như nào là việc buôn bán các đồ tạp dụng cho đến mọi sự kinh doanh nhỏ khác linh tinh rất nhiều không thể kể hết. Rồi lại có công nhân các nước kéo đến đông đảo thế tất phải mướn đất ta dựng nhà, người thuê nhà đông thì thuế nhà cũng nhiều, ta lại được cái lợi như người Anh ở Hạ Châu2, không đánh thuế thuyền buôn mà chỉ thu thuế nhà mà thôi, ấy là cốt ở chỗ người đông. Cho nên nước nào khai mỏ thì dân cư ở đấy giàu có đông đảo, như Tây Châu là chứng cớ rõ nhất. Đó là lẽ thứ tư.

Phàm chỗ nào họ đi đến thì họ đều dùng đủ mọi cách gây tình cảm để được lòng vua và tôi, để dễ bề thuê mướn nhân công và để được các sự bảo hộ trong khi ăn ở, sự phí tổn không thể kể xiết. Như thế không những ta được cái lợi thường tình để làm ích cho nước, mà dân chúng cũng được của cải lưu thông để tự cấp. Đó là lẽ thứ năm.

Nhân sự cần mẫn của họ làm phấn chấn sự ủy mị của dân ta; nhân cái sức lực đã thành thuộc của họ giúp cho cái sức lực đang nuôi dưỡng của ta; nhân cái lợi đã hiện có của họ giúp cho cái mới bắt đầu của ta; nhân sự qua lại các nước của họ mà mở mang các đường giao thông của ta. Đó là lẽ thứ sáu.

Phàm chỗ nào có họ đến, hơi yên dằm là họ đã lập các hội như nhà thương, viện dục anh, viện tế bần, viện bố thí, trường học miễn phí, dân ta sẽ được nhờ. Đó là lẽ thứ bảy.

Bảy điều trên đây đều có thể giúp ta bước đầu giải quyết nạn thiếu tiền của.

4. Hiện nay cái ta thiếu là sự học tập tài nghệ. Nay ta mời họ đến, phàm chỗ nào có khai quật, thì có quan quân của ta ngồi thu thuế. Do sự đi lại nói năng và mắt thấy những điều có thể dùng được ta đều học lấy. Dân ta với họ cùng nhau làm việc, nơi ở gần nhau, ăn mặc giống nhau, trong khoảng mười năm thì tài nghệ trong dân gian chẳng gì khác họ nữa. Như thế nhà nước không mất một đồng tiền nào mà việc học của nhân dân vẫn thành đạt. Ta lại có nhiều cách để khen ngợi nhân dân, thì dân sẽ đua nhau theo học những cái thực dụng ấy. Trong khi học tập lại có tiền công của họ để tự nuôi mình. Sau khi học thành tài sẽ nghĩ đến kinh doanh việc khác để góp công với nước nhà. Như thế ai không hết sức, không tận tình? Vả chăng việc mà họ giúp được cho dân ta cũng chỉ là lúc mới đầu công việc chưa biết, kỹ xảo chưa tường, nói năng đối đáp chưa lanh, tính tình chưa hợp mà thôi. Đến khi mọi việc đã thông hiểu, đủ để tự lập rồi, thì ta sẽ rời bỏ họ mà trở về với ta, tất sẽ nghĩ đến chuyện cũ Bàng Mông3. Dân là dân ta, họ không thể cưỡng ép đi theo họ được. Thế là lúc đầu họ dạy ta, chỉ vẽ cho ta những cái khó, mà cuối cùng là ta được hưởng cái thành tựu, ta tự điều khiển dễ dàng. Tôi thấy khắp các nước cũng như tình người đâu cũng vậy, khi thiếu thì phải dựa vào người, khi đủ rồi thì trở về với mình. Đó là lý thế đương nhiên, không đợi bày dặt mới biết. Cho nên nói rằng ngồi mà hưởng lợi là vậy.
_____________________________________
1. Cựu Kim Sơn: San Francisco. Tân Kim Sơn: Melbourne.
2. Hạ Châu: Singapore.
3. Bàng Mông học được chước hay của Hậu Nghệ rồi thì giết chết Hậu Nghệ luôn.



5. Ngày nay cái khó của ta là ở chỗ bắt đầu. Nếu chần chừ không biết nắm lấy cơ hội trước, thì việc họ thèm thuồng nhỏ dãi không phải chỉ một ngày, thế tất họ sẽ dùng trăm cách cố làm sao nắm lấy cho được. Ví như trong nhà có một chỗ bí mật không hề mở cho ai thấy ắt sẽ khiến người ta sinh nghi. Bọn cướp không phải trên trời xuống, tất cũng là người trên đất này, chúng sẽ lấy kỳ được những thứ cất giấu đó mới thôi. Nay nếu ta mở toang các cửa, để cho họ thấy rõ mọi vật đều có chủ, thì không thể thừa cơ gây hấn, chỉ có dùng lối mềm dẻo để xin mà thôi. Khi đó quyền định đoạt thuộc về ta. Ngày nay nếu ta nhân có họ xin mà mở các cảng khẩu để thuyền bè các nước ra vào, ta ngồi mà thu thuế để tăng quốc dụng, như ở Trung Quốc. Có thuyền máy qua lại trên mặt biển thì bọn cướp biển dần dần sẽ tiêu. Sự sinh sống của dân ta sẽ dần dần thịnh vượng. Hai con đường đó sẽ giúp ta chi phí một vài chỗ trong lúc đầu. Phàm họ đi tới đâu, mọi việc làm tất phải tự xuất tiền để mà lập nơi cư trú đồn trại và cầu cống đường sá, v.v... hoặc đào mương, hoặc xẻ núi để vận chuyển hàng hóa, lại còn phải thiết lập các thứ khí cụ dể làm việc. Tất cả những xây cất tạo dựng đó đều ở trên đất của ta. Đến khi họ vừa lòng mãn ý rồi thì chán, hoặc vứt bỏ mà về, hoặc bán rẻ. Như thế là ta không khó nhọc gì mà được hưởng chiếm, không ra khỏi nhà mà mua được. Thật là nhất cử lưỡng tiện. Hơn nữa, họ xây dựng nhà cửa ở nước ta, thì những nơi trù mật đông đúc, hưng vượng thịnh lợi đâu phải chỉ riêng họ có? Kìa, nguồn lợi vô cùng của núi biển chưa dùng hết, và các loại cây cỏ lúa má trên mặt đất sinh sản mãi mãi, hễ chỗ nào có dấu chân họ đến là họ khai thông đường sá cho mãn hạn rồi thì vật sẽ trở về với chủ, họ không thể cuốn hết núi, biển, đất đai của ta mà mang đi. Thế tức là họ vỡ hoang mà ta hưởng thành quả, như các nước Tây Châu là một chứng cớ. Chứng cớ đó rất mới, cả thiên hạ cũng không thể bài bác. Đó là vì lý mà cũng ví cái thế nữa. Vì rằng tạo vật đã định sẵn mà nguyên tổ loài người cũng đã sắp xếp trước. Tuy họ tạm thời được hưởng nửa phần lợi, nhưng cuối cùng cũng không thể nào đổi khách thành chủ được. Chẳng qua là tạo vật dùng họ để chấn hưng các nước. Xét đến cùng cũng không khác gì làm thuê cho người khác mà thôi. Ngày nay nếu ta biết đề phòng trước các ngõ ngách, lời nói phải nghiêm nghĩa lý phải chỉnh, để đợi họ đến xin, như thế rõ ràng là ta làm chủ. Đợi khi họ xin, thì ta ưng thuận ngay để chặn mối hiềm khích. Dần dần ta cho họ một vài chỗ; lúc bấy giờ sẽ có nhiều thương nghị giao ước, nay chưa nói đến. Nay xin gấp rút mời vài người Tây có thể tin cậy được, hậu đãi họ, tức tốc cùng vài người của ta thông hiểu sự việc trước hết dọc theo ven núi biển tìm kiếm, chỉ định rồi sau chọn lấy những mỏ tốt nhất mà dễ lấy, dành lại về sau để tự khai thác. Trừ những mỏ nào mà ta đã khai thác, còn những mỏ nào mới tìm được mà khó lấy thì ta giao cho họ lấy, ta hưởng nửa phần lợi. Một mặt cầu ngoại bang giúp đỡ để trấn thủ 3 tỉnh, bên trong thì khai nguồn lợi để chặn sự gây hấn, đề phòng họ lấy ngầm, để phòng giúp khi loạn, để chặn đường bọn người rình mò xúi bẫy, để tương lai thu lại các lợi khác. Mặt khác, đặt lãnh sự để củng cố hòa nghị, thông thương thuyền bè để khỏi tranh chấp. Một mặt phải gấp rút chấn hưng những món lợi gần để giải cứu những bức thiết nhất thời; mặt khác phải gấp rút nói rõ cho các nước biết cái đại thế kiên cố để tiêu trừ những ý nghĩ của bọn Thắng, Quảng1, để thuận theo bụng muốn lập công của tướng Tây, mà cái ý muốn lấy ba tỉnh trong cũng nguôi dần. Vì tạo được sự thông hiếu với ta cũng đã là một công lớn rồi, mà còn không thể gây hiềm khích gì được nữa. Như trong tờ trình trước tôi đã nói: “Bốn phía vây bủa khiến cho họ không dám động tĩnh” là như thế.

Nay xem Triều đình của họ đã có mật nghị, muốn lấy trọn sáu tỉnh hợp với toàn xứ Cao Miên để làm cửa ngõ lấy vùng đất hai bên sông Cửu Long dọc lên tận Vân Nam làm nhà chính, phía trên lấy Vân Nam làm vườn sau, và lấy nước ta làm bờ giậu phía Đông, để chống giữ mặt biển. Những ý đồ đó đều nằm trong dự định của Triều đình họ như con thỏ đào ba lỗ hang là như thế. Các tướng Tây gần đây dự định trong vòng ba năm hoặc sẽ lấy toàn bộ sáu tỉnh hoặc chiếm cả Cao Miên, hoặc khai phá đường phía sau để thông Vân Nam; hoặc sẽ thông thương chung lợi với ta để mở mang rào phía Đông. Ba việc đó thế nào cũng phải thực hiện được một. Nay nếu ta khéo đắp đê để nước róc về phía Tây, lấy Cao Miên và phía Tây làm chỗ trũng để họ chuyên ý vào đó. Ta lại làm cái cách đứng bên cạnh bồi vào, như ở đoạn trên tôi đã nói thì mới có thể làm dãn được tình trạng căng thẳng của ta. Còn ở ba tỉnh trong cứ để họ qua lại tự nhiên đừng đề phòng hạn chế gì cả xem như mình cùng với họ sống chung. Thế là tuy họ không lấy ba tỉnh trong, mà vẫn được thuận lợi cũng như lấy rồi. Có như vậy mới duy trì được ba tỉnh trong để làm kế sau này. Điều đó trong binh pháp nói: Tạo được tình hình thì địch phải theo.

Nếu Triều đình không nghi ngại gì mà thực hiện dần dần các kế đó thì đại sự sẽ không xảy ra. Nhưng điều tôi nói có thể có một vài cái không nghiệm, nhưng nếu không gấp rút lo liệu thì chẳng những tờ trình này mà các tờ trình khác trước đây cũng đủ chứng rằng lời tôi nói không sai. Điều mong muốn thiết tha của tôi là lời nói của tôi không nghiệm chứ không muốn để thấy rằng lời nói của tôi là không sai. Bởi vì biết đề phòng trước khi sự việc xảy ra, thì lời nói của tôi dù có chỗ không nghiệm cũng là điều phúc cho nước nhà, mà còn phúc cho cả anh em tôi. Còn bảo đó là vì công hay vì tư thì sau này sẽ có ngày hiểu rõ, không cần phải biện bạch.
Vậy kính dâng.

Ngày tháng giêng năm Tự Đức 19.
_____________________________________
1. Trần Thắng, Ngô Quảng là những lãnh tụ nông dân nổi lên chống lại Tần Thủy Hoàng.

DI THẢO SỐ 9

Về việc mua tàu London*

(Khoảng tháng 2 hoặc 3 năm 1866)

Nguyễn Trường Tộ kính bẩm.

Cái hỏa thuyền này nếu quả không có giấy tờ của phái viên thì cũng không quan ngại gì, nhưng trước hết xin hãy nói rõ nguyên do và đệ trình gấp cho Tây soái biết, thì dù họ không chịu rút lui mà lái về Hương Cảng để cầu viện quan họ, Tây soái cũng sẽ dàn xếp cho ta. Vì theo hòa ước thì nước nào muốn sinh sự với nước ta cũng phải có quan Tây tham dự để xem xét phải trái. Một mặt ta phải tư cho Hiệp biện đại nhân đem đầu đuôi sự việc nhờ Nguyễn Đức Hậu viết rõ ra bằng chữ Tây và kèm theo bản dịch ra chữ Hán một bên.

Hôm trước Hiệp biện đại nhân đã giao giấy cho ông ta làm gấp gửi hỏa thuyền nhật trình đệ về Hương Cảng giao cho viên lãnh sự Pháp biết rõ để viên lãnh sự phân giải với quân Anh cho ta. Hơn nữa, hôm trước ở Gia Định đã có nhật trình nói rõ rằng: “Thuyền này là thuyền của người Anh, nước Nam chưa mua xong”, đó cũng là một chứng cớ. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ thì dù họ không thể bắt ép ta mua nhưng trước đây ta đã giao hẹn và lần này họ đến Gia Định ta lại không kịp nói gấp với họ để họ tiện việc khiến đến nay họ phải qua lại tốn kém, thì khoản tổn phí đó ta phải bù cho họ mới tránh cái tiếng xử sự không phải với thiên hạ. Hoặc là nói với họ rằng mua thì cần mua nhưng phải đổi cho chiếc khác mà phải đúng là binh thuyền mới được. Rồi theo lẽ công bằng ta nhờ người xem xét và định giá cho. Khi đó, nếu họ đòi giá cao mà ta trả giá hạ, nếu họ bán thì ta mua được cái tốt, thế cũng chằng sao. Nếu họ không bán, thì họ tự chịu lấy và khó bắt ta trả tiền phí tổn. Như thế mới khỏi mang tiếng không tốt. Tuy nhiên cũng phải tốn nhiều vận động lắm mới xong được việc. Một đằng là không mua mà phải trả phí tổn, một đằng là đổi rồi mới mua để tránh tiếng. Tóm lại chỉ có hai con đường đó mà thôi xin đại nhân tham khảo.
_____________________________________
* Nguyên văn chữ hán: Hv 189/4 tờ 3.
Không ghi ngày tháng năm, nhưng chắc vào khoảng tháng 2 hoặc 3 năm 1866, bởi vì trong văn bản Nguyễn Trường Tộ có đề nghị là nên tư cho Phan Thanh Giản ở Vĩnh Long tới Sài Gòn xin Tây soái can thiệp và theo báo cáo của La Grandière ngày 30-1-1866 (Kho lưu trữ Bộ Pháp Quốc hải ngoại Indochine A 30 (9) Centre II), thì hôm 22-1-1866, Phan Thanh Giản trên đường từ Huế đi Vĩnh Long có ghé Sài Gòn mà không nói gì tới việc này. Hơn nữa chúng ta được biết là theo báo cáo của Trần Tiễn Thành, (xem phụ lục số IV, I) thì ngày 25-3-1866, Nguyễn Trường Tộ đã rời Huế đi Quảng Bình. Trong thư gửi Trần Tiên Thành ngày 19-3-1866 (Văn bản số 10), Nguyễn Trường Tộ có nói rằng: “Tôi nhân công việc về đây, chẳng mấy tháng mà bệnh cũ đã tăng lên”. Như thế là Nguyễn Trường Tộ phải có mặt ở Huế từ cuối tháng 1-1866 cho tới 1-4-1866. Di thảo này phải được viết trong thời gian Nguyễn Trường Tộ ở Huế.


DI THẢO SỐ 10

Thảo thư gửi Tây soái*

(Nguyễn Trường Tộ soạn)

Trước đây chỉ vì bản triều chưa hiểu rõ sự thế phương Tây, mà quý soái trước kia (khi ở Đà Nẵng) lại đến đột ngột, không nói rõ ràng làm cho bản triều không hiểu, đến nỗi bất đắc dĩ phải đem binh tồi ra chống đỡ. Đó cũng là do tình thế bắt buộc. Mong quý quốc cũng không vì thế mà trách giận lâu dài. Kế đến khi gác giáo bàn việc giảng hòa quý quốc đòi phải tạm cắt đất bồi thường chiến phí, bản triều đã lập tức nghe theo, chính vì muốn giương cao uy danh của quý quốc mà cũng vì tin tưởng sau này quý quốc cũng sẽ hiểu rõ tình hình giao hảo của bản triều mà cho thương thuyết châm chước trở lại. Xưa kia, vua Anh Cát Lợi có nói: “Ta chưa lên giường ngủ thì chưa dám cởi áo” Chúng tôi nghĩ rằng quý quốc vì thấy bản triều hiện tại chưa rõ sự thế, nên tạm thời bắt phải cắt đất bồi thường để đợi khi nào bản triều hiểu rõ đại thế quý quốc, cùng nhau liên hợp lâu dài, cho nhân dân hai nước chung hưởng hạnh phúc hòa bình, thì quý quốc khi đó sẽ lấy tình mà cư xử, để bản triều và các nước thấy rõ tấm lòng quý quốc là đợi lúc “có thể cởi áo thì cởi” chứ vị tất đã có thâm ý mặc mãi chiếc áo đó. Nếu không, lẽ nào quý quốc chưa bao giờ mới đến xứ nào đã đối xử nghiêm khắc ngay với xứ ấy mà lại riêng đối xử với bản triều sao? Có lẽ tình không phải vậy mà thế phải làm như vậy. Hiện nay tình giao hảo của bản triều đối với quý quốc thật giả ra sao, dân sự nhân cái cớ đó mà bất an như thế nào, quốc kế chắp vá hao hụt như thế nào quý soái cũng đã rõ. Ba tỉnh thuộc quý hạt, dân chúng chưa đồng lòng, khó bề sai khiến. Tuy với thế lực của quý quốc, kinh doanh tốn kém lâu rồi mà còn như thế, thì tình hình ba tỉnh trong như thế nào cũng có thể suy ra mà biết được. Dân thuộc quý hạt đã am hiểu phong tục luật lệ bản triều nay bỗng chốc thay cũ đổi mới tất sẽ cho là chướng tai gai mắt. Hơn nữa lại có những kẻ dựa thế hại người, nay thì phao tin nói quý quốc sắp thi hành những chính sách tàn bạo hại dân, mai lại nói bản triều sắp tiến hành khôi phục để giết dân, khiến đến nỗi dân tình Nam Bắc nghi ngờ sợ hãi. Phàm những chuyện đồn đại như thế không phải ít gì, tưởng quý soái cũng đã biết rõ. Như thế thì chẳng những quý quốc khó bề quản trị, mà bản triều cũng bị hại lây. Dân ở quý hạt và bốn phía xung quanh đã từng được quý quốc dạy dỗ dẫn dắt lâu mà còn như thế thì những nơi xa xôi và những miền man mọi sẽ như thế nào. Roi dài vẫn không vươn tới được, đó là việc dĩ nhiên. Tuy quý quốc gấp rút việc đua đuổi nơi xa ngự trị lâu dài để cầu đạt sự mong muốn lớn, tuy bản triều gấp rút xóa bỏ những lời gièm pha, mở lòng thành thật với quý quốc để cùng chung hưởng điều lợi, nhưng hai bên vần còn một đường ngăn cách. Không có cách giải quyết khéo léo để xóa bỏ đường ngăn cách ấy thì làm sao liên hợp với nhau được? Bản triều thiết nghĩ quý quốc phàm đến nước nào cũng trước dùng uy rồi sau thi ân, trước nắm lý rồi sau cư xử bằng tình. Uy và lý là tạm thời, ân và tình là trường cửu. Uy và lý là để mở cửa cho ân và tình. Khi đã vào khỏi cửa rồi thì như một nhà sum hợp vui vẻ cùng nhau, thế là lấy cái ân tình trường cửu mà bù lại cái uy lý bất đắc dĩ trước kia. Đâu có chuyện vì những lời đồn đại vu vơ mà nỡ bỏ cái lòng chân thành thiện đạo vốn có của quý quốc? Bản triều thật đã thấy rõ như vậy, nên ngày đêm suy nghĩ mong sao mối quan hệ với quý quốc đã thân lại càng thêm thân, để chặt đứt đường ngăn cách ấy đi, và trong bụng cũng thành thật tin tưởng quý soái sẽ rộng lượng không vì những lời phao đồn mà mất tình hữu nghị. Thật như thế thì từ nay về sau, hai bên có thể lấy quyền lực của vua mà điều hòa sắp đặt hóa khó thành dễ, biến dị thành đồng, nơi có bù nơi không, nhân dân tương trợ lẫn nhau, bản triều với quý quốc tuy hai mà như một. Thế lực của bản triều là thế lực của quý quốc. Sự cường thịnh của quý quốc tức là sự cường thịnh của bản triều. Con rết trăm chân thì không ngã. Như thế thì có nước nào dám khinh miệt được? Vì rằng người bình thường muốn giao đính với nhau phải dựa vào tình bạn mới thành. Nếu cứ thù nhau mãn đời thì người ta phải tìm người bạn khác để làm kẻ thân thiết để giúp đỡ lẫn nhau, chứ có ai sống cô lập không cần sự giúp đỡ mà thành được việc đâu. Bản triều thiết nghĩ hiện nay các nước phương Tây đại loại đều như thế, cho nên thiết tha muốn được ít nhiều “gần đèn thì sáng” ngõ hầu mãi mãi nhờ thanh thế của quý quốc mà mở mày mở mặt trong thiên hạ, và quý quốc cũng có thể nương cậy lâu dài vào bản triều như là phên giậu che chở cho quý quốc, để gây ảnh hưởng rộng lớn ở phương Đông. Hai nước liên hợp với nhau lâu dài, chung nhau điều hay, món lợi, thì những điều sở cầu của quý quốc mới hợp với lương tâm, và giữ gìn được bụng ăn ở tốt với bản triều, để cho thiên hạ biết rõ quý quốc không phải lấy thế lực đàn áp người như các nước khác. Như thế thì bản triều sẽ tránh được cái tiếng xử sự hẹp hòi, khỏi phải chờ đợi gì nữa. Việc đó cũng do tự ý quý quốc thi hành ra trước đã. Bản triều lại thấy rõ người phương Tây phàm đến xứ nào thì trước hết dù có dựa vào thế lực của mình để chiếm cứ thị trường, nhưng cuối cùng cũng phải dựa vào quyền lực của xứ đó để kinh doanh khai thác, chứ chưa hề thấy dồn người cả nước mình đến đấy, bỏ cái gốc mà lo cái ngọn bao giờ. Giả sử vua xứ ấy không hiểu lẽ tương thông cứ dấy binh chống mãi thì cuộc tương tranh cũng không chấm dứt được. Cái thay vì để nuôi người giờ trở thành cái làm hại người. Cho dẫu có quyết đánh lấy người ta cho được thì cũng chỉ tạm một thời mà thôi và cái được cũng bù vào cái mất, người bị hại nhưng đâu phải ta chỉ có lợi mà không có hại? Cuối cùng vật gì quá cực độ của nó thì nó sẽ phản ngược trở lại. Đâu có thể nào an nhiên tọa hưởng mãi trên đất xứ người ta? Như các nước ở Tây Châu là những bằng chứng cho điều này vậy. Bản triều đã hiểu rõ lý lẽ ấy cho nên không chịu để mất cả hai, bản triều chẳng những muốn mình vẹn toàn mà còn muốn cho người vẹn toàn nữa, vì thế cho nên có đoạn tâm tình trên đây. Mong quý soái hiểu cho lòng thành thật của bản triều. Vì rằng những sự thế này không thể đem miệng lưỡi giả dối ra mà nói được. Cách ngôn nói: “Biết trước đã rồi sau mới muốn”. Bản triều đã biết rồi, nên mới muốn như vậy. Thiết tha mong quý soái đừng vì việc đã qua mà nghi ngờ việc sau này, để tăng thêm sự điều đình hơn nữa để bản triều giữ được vẹn toàn nghĩa liên hợp lâu dài, và quý quốc cũng mãi mãi tránh được cái tiếng lấy thế lực chèn ép người. Như thế thì hai triều đình sẽ cố kết thông đồng, và đại hoàng đế quý quốc với đại hoàng đế bản triều mãi mãi giữ được tiếng thơm trong thiên hạ, nhân dân hai nước lấy tình thân ái lễ nghĩa đối đãi với nhau, chung nhau mối lợi cũng như sự vui buồn, như người trong một nhà. Như thế là tốt đẹp, quý soái có nghĩ như vậy chăng?
Nay kính

Ngày tháng 2 năm Tự Đức 19.

(17-3 - 14-4-1866)

Châu phê: Bài này lý lẽ rất mềm dẻo, không chống, không theo, cũng rất nghiêm chỉnh và trang nhã khiến cho họ biết rõ có thế cũng không ỷ thế được, thật là không thèm dạy mà dạy cho họ vậy.
_____________________________________
* Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/4 tờ 17-20.
    Cuối bài đề tháng 2 năm Tự Đức 19 tức khoảng từ 17-3 đến 26-3-1866 là ngày Nguyễn Trường Tộ rời Huế đi Quảng Bình. Nguyễn Trường Tộ đã thảo thư này trong lúc ở Huế vào đầu năm 1866, để trả lời một văn thư nào đó của Tây soái phiền trách việc quấy phá của nghĩa quân trong ba tỉnh đã nhường cho Pháp.


DI THẢO SỐ 11

Tâm sự với Trần Tiễn Thành*

(Ngày mùng 3 tháng 2 năm Tự Đức 19, tức 19-3-1866)

Tôi là Nguyễn Trường Tộ xin kính bẩm.

Tôi trước đây bị ốm nằm ở Gia Định điều dưỡng đã gần hai năm nay mười phần đã giảm 5, 6. Tôi cũng định đi xa, một là để thỏa điều nguyện ước trước kia, hai là mong được bình phục sức khỏe để sau này báo đáp ơn trên. Nhưng thời thế còn có điều trở ngại, do người đời còn ghét kẻ có tài mà chặn tay lại, ngay đến người có quyền lực như đại nhân mà còn gặp khó khăn, huống chi tôi là người thân hèn tài mọn mong dựa vào đại nhân để hành sự thì cũng chưa thể được. Không có cớ gì mà việc lớn cứ ngấm ngầm nảy sinh ra nên tôi không thể không trở về để tâu bẩm rõ ràng, ngõ hầu có thể đề phòng được sự việc trước lúc phát sinh. Tôi nghĩ rằng lòng của tôi đã không muốn vào tay người khác để họ sai khiến, mà lại có cách để tránh được tai họa, tưởng mọi người cũng có cái lòng như tôi, cho nên không dám tiếc tấm thân hèn sắp chết này mà không trở về Kinh để nói rõ cái ý chí của thiên hạ như vậy. Sở dĩ tôi trở về tâu bẩm chính là ý đó.

Những điều trình bày trong các tờ bẩm trước không phải là những điều thấy nghe nhất thời mà tôi viết ra. Đó là những điều tôi đã ôm ấp hàng năm, cho nên muốn thổ lộ chân tình, trút hết tâm huyết, mục đích không phải cầu cho lời nói của một mình tôi là thực mà chỉ muốn khắp thiên hạ chứng minh cho sự thực. Hơn nữa, tôi đang ở trong hoàn cảnh bị hiềm khích, chưa chắc ai đã tin ngay lời tôi nói, nên phải kiên nhẫn đợi chờ, không dám đuổi theo tài lợi, đành cam chịu cuộc sống nghèo khó đạm bạc, để cốt chứng minh cho lời nói của tôi là không vì một cái gì, không mong được một cái gì, không bị ai sai khiến, không có một ý đồ gì khác mà thật là vượt ra ngoài lẽ thường tình. Theo lẽ thường mà nói, thì những việc làm của tôi như vậy thật là khó hiểu, bấy lâu nay vì tôi không gánh vác gia đình không thiết tha tài lợi, cả Tây Nam cũng đều thấy, như thế cốt để gạn lọc ý chí, đào luyện tính tình mà bảo dưỡng việc học tập của mình. Tất cả những điều đó vốn là để đợi thời hành sự, để mong làm được một vài điều lòng hằng ôm ấp, để trọn ơn trên, để tròn thế sự, chứ đâu phải cam chịu chôn mình trong cảnh tối tăm tịch mịch? Trung và hiếu vốn là hai điều khó giữ vẹn. Nhưng nếu chỉ nói suông không ngồi vào, không dự vào chỉ biết thân mình, nhà mình, theo thường tình, còn việc an nguy của quốc gia thì coi như chuyện của nước Sở nước Việt; không hết lòng báo đáp ơn nước nhà, một mai bốn phương xảy ra nhiều việc thì thân thích của mình cũng sẽ cùng số phận với việc mất còn của đất nước. Trung không thành thì hiếu chưa hẳn đã giữ được. Tôi đã thấy rõ ràng như vậy nên muốn vun đắp báo bổ cho tương lai, chớ không muốn làm gượng ép một cách tạm thời để đến lúc phải than thở ôm tài mà chết. Xin đại nhân xét lại những hành trạng của tôi xem tại sao tôi không chịu làm điều danh lợi cho mình trong lúc còn tuổi trẻ và trong những ngày có nhiều thuận lợi ấy, mà lại còn có cái ý khác trong lúc bệnh hoạn trói buộc, muộn màng gian nan? Nếu thấy được những lý do đó thì biết được lập tâm của tôi như thế nào. Nay tôi nhân việc công về đây, chả mấy tháng bệnh cũ đã tăng lên, tuy được đại nhân chiếu cố cho thuyền đi lại mà cũng khó bề bôn tẩu vâng mệnh. Nhưng lòng tôi yên sao được mà dám yên nhiên như thế? Cái tình ấy thật khó nói. Cúi xin đại nhân gia công tài bồi cho chậm lại ít lâu để tôi được khỏe lại mới có thể ứng mệnh. Ngày báo đáp của tôi với Triều đình và đại nhân còn nhiều, trừ phi tôi chết mới thôi, chứ quyết không dám thay đổi chí hướng để mất đi cái kiên nhẫn của mấy năm trước kia là không cận nhân tình không mưu danh lợi. Kính mong đại nhân xét cho tấm lòng của tôi. Sau khi tôi trở về, nếu bệnh khỏi không đợi gọi tôi cũng đến, nhưng nếu chưa bớt thì dù có lệnh gọi tôi cũng xin đại nhân lượng thứ cho. Nếu có việc gì có thể sai phái như mua sách, hoặc trình bày việc này việc khác với họ, giúp đỡ lãnh sự để lấp mối hiềm nghi. v.v... Những việc như thế tôi có thể giúp trong muôn một. Còn những việc có tác dụng lớn khác thì thế chưa thể làm được, sợ bệnh tái phát thì khó xong việc. Nếu đại nhân truyền gọi điều gì, xin hỏi nơi Giám mục Hậu, và xin nói cho biết rõ việc gì, đi đâu, đi lâu hay đi chóng hoặc tạm về rồi đi nữa, hoặc đi xa, hoặc ở Kinh để tôi dự bị mang theo những đồ dùng cần thiết phòng bệnh và ít nhiều tiền chi dụng khỏi phiền lụy đến người khác.

Rất mong
Nay kính bẩm.

_____________________________________
* Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 80-82.
    Bài này được viết lúc Nguyễn Trường Tộ đang ở Huế, để giúp vào việc tàu London. Lần này Nguyễn Trường Tộ tuy có được hỏi han, nhưng không được sử dụng trong cuộc thương thuyết về tàu London, nên có vẻ ê chề, chán nản nên mới xin về Nghệ An.

DI THẢO SỐ 12

Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp*

(4 tháng 4 năm Tự Đức 19, tức 17 tháng 5 năm 1865)

Tôi là Nguyễn Trường Tộ xin bẩm rõ những điều Giám mục Hậu muốn giúp Triều đình mà xét thấy có thể làm được:

Năm trước châu phê: “Liệu có giúp được việc gì không” 1.

Về việc Triều đình muốn xin trả lại ba tỉnh thì theo tôi đó là việc quân việc nước vô cùng quan trọng một giáo sĩ không thể làm được. Về lý và thế đều còn có chỗ trở ngại, thiết tưởng Triều đình cũng đã rõ không cần phải nói nữa.

Nay Triều đình muốn nhờ giám mục mời các kỹ sư đến để học tập, đó là điều cấp thiết hiện nay. Nhưng các kỹ sư này đều là những người có tài lực trí xảo họ không muốn xa quê hương. Hơn nữa thấy Triều dình chưa mở hết cửa để thỏa nguyện kẻ ở xa muốn đến giúp Triều đình, khiến họ chùn bước không tiến tới được. Nếu là bọn lạc phách du dân việc gì cũng lấy tài lợi làm trọng, tâm địa không ra gì, thì không thế nào so sánh được với những người chỉ có lòng muốn làm hay làm tốt cho ta. Nay muốn thay đổi tình thế mà không cẩn thận trong việc tìm người hợp tác thì thường sẽ bị người xúc xiểm, bòn rút. Mới đầu khởi sự, chưa thấy lợi mà đã thấy hại, tất sẽ như tình trạng vì nghẹn họng mà bỏ ăn, rút lui không tiến, thế thì làm sao thành việc được? Xe đã đổ2, tôi rất lấy làm lo buồn. Năm trước linh mục Hòa ở Gia Định đã có tờ trình bày3. Lần ấy tôi cũng có hai tờ trình bày về việc mua bán và học tập4. Giám mục cũng đồng ý trước với tôi như vậy. Bởi vì điều khẩn thiết nhất trong đạo giáo là yêu người như yêu mình. Cho nên giáo sĩ đến đâu cũng quan tâm đến việc vui buồn của nước ấy. Hễ nước nào có nền chính trị tốt không làm trở ngại đạo giáo người đều ra sức giúp đỡ. Chỉ có điều chưa thấy bề trên suy lòng để dạ như thế nào mà thôi. Còn cái tình ngay thật trong lòng này, sau nhất định sẽ có ngày Triều đình hiểu rõ. Thế mới biết chỗ kỳ diệu của đạo giáo, không như thường tình thù hằn đến chín đời là vậy. Trước kia khi ở Kinh, nhân lúc đại nhân căn dặn linh mục Hòa5 tôi đã mấy lần thấy việc giám mục giúp cho một tay là cần thiết. Khi trở về tôi trình bày lại kỹ càng, giám mục vô cùng hân hạnh cho rằng Triều đình đã muốn yên trị tự cường thế tất sau này cả nước và giáo dân đều được ban ơn như các nước trên thế giới vậy. Do đó giám mục tuy ở xa nhưng hiểu được ý tốt của Triều đình. Vậy xin đem những điều có thể giúp được mà không trở ngại gì về mặt giáo lý của đạo giáo trình bày sơ lược vài điều sau đây.

Nếu muốn sang thông hiếu hoặc chọn người sang phương Tây học tập quan sát các cơ xưởng kỹ xảo như thế nào, các phép thiên văn, địa lý, lái thuyền hàng hải như thế nào, những cách phân biệt các thứ kim loại đá quặng và thảo mộc như thế nào, các phép tìm kiếm khai quật các mỏ như thế nào, cách làm các khí cụ thường dùng hằng ngày như thế nào, các binh cơ khí giới như thế nào, các mưu lược tung hoành như thế nào cùng là các lễ pháp ngoại giao như thế nào, mua các máy móc to nhỏ hoặc xem cách sử dụng hoặc lấy mẫu như thế nào, cách chọn những người dạy kỹ xảo như thế nào, tìm người trung tín có thể nhờ vả để tìm những nguồn lợi trong nước ta như thế nào, các phương pháp mới để phát triển kinh tế, chọn ra cái nào nên làm trước cái nào nên làm sau và ứng dụng ở nước ta như thế nào, nhất nhất phải nhận cho rõ ràng mà làm, lợi hại hoãn gấp ra sao... đều phải đồng lòng hợp sức để mọi sự được thỏa đáng. Trừ những cái bất ngờ ngoài sự trù tính của mình ra, còn thì sau này mọi người cứ thế mà làm.

Các việc trên đây, trừ những khoản phí tổn về việc đi lại của Triều đình ra, còn các khoản phí tổn do giám mục sai phái các linh mục hoặc giáo đồ qua lại để giúp đỡ công việc đều do giám mục tự đài thọ, không phiền Triều đình phải lo, mà các việc đó giám mục đều giao cho Nguyễn Trường Tộ tham dự từ đầu đến cuối. Những dự định giúp đỡ ấy là lời thật tình thật của giám mục chứ không phải nói quá sự thực đâu. Về thứ tự làm cái nào trước cái nào sau sẽ do Triều đình quyết định. Khi bắt tay vào việc sẽ có nhiều điều phải bàn chung nữa, giấy bút không thể kể hết được. Nếu như có việc gì lớn lao rắc rối mà người của giám mục không làm được thì giám mục sẽ thân hành ra làm, không nề khó nhọc, như trước kia Bá Đa Lộc đã đi cùng tiên hoàng vậy. Nhưng khi nào bắt đầu thì Triều đình phải gửi thư đến Giáo hoàng trước để thỉnh mệnh mới được.

Mấy điều trên đây, dám xin bày tỏ nỗi lòng dù Triều đình có nghi hay không nghi cũng vậy. Vì rằng sự thế rồi tất có ngày thấy lợi hại của sự nghi ngờ hay không nghi ngờ. Đại nhân là kẻ liên quan đến sự khinh trọng của nước nhà, xin đem tấm lòng thành này của tôi tâu giúp lên cho hoàng thượng rõ thấu, tôi thật vô cùng cảm kích.
Kính bẩm.


Các điều trong tờ trình bày đều đúng với lời của giám mục nên giám mục đóng dấu vào đây để làm bằng.

______________________________________
* Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 95-98
    Hv 634/4 tờ 9-14.
    Bài này được viết từ Nghệ An.
1. Châu phê trên Văn thư của linh mục Hòa như nói trong bài này. (Xem chú thích về tờ trình của linh mục Hòa dưới đây)
2. Xe trước đã đổ (Tiền xa ký phúc): Phải chăng là Nguyễn Trường Tộ muốn nói đến chuyện lường gạt về chiếc tàu London?
3. Tờ trình của linh mục Hòa năm trước: Văn bản này hiện không tìm thấy ở đâu có.
4. Tức văn bản số 6 và 7 của Nguyễn Trường Tộ trước đây.
5. Linh mục Hòa cũng đã được mời về giúp giải quyết vụ tàu London cùng với Nguyễn Hoằng oà Nguyễn Trường Tộ. (Xem phụ lục 4.2)


DI THẢO SỐ 13

Ngôi vua là quí; chức quan là trọng*

(Tháng 4 năm Tự Đức 19, tức cuối tháng 5 năm 1866)

Kính thưa,

Trong bài Khai hoang từ trước đây, ở điều thứ hai tôi có nói: Người Pháp xưa nay lấy ngôi vua làm quí, chức quan làm trọng. Trong phần cuối điều đó cũng nói: Vua các nước thường giao việc nước cho các quan đại thần để chu du các nước, mở rộng kiến văn, mà không phải bận tâm việc trong nước nữa. Vì việc yên trị lâu dài là do liên kết giao thiệp với các nước, khác với thời xưa chỉ biết lấy bùn trét cửa để tự giữ là thế... Trong bài ấy, có 5 điều, nhưng điều này là căn bản. Các việc phúc lợi trong nước đều do đó mà ra.

Tôi sở dĩ khinh bỏ danh lợi cốt để Triều đình tin nghe, vì thâm ý của tôi là sang các nước xem nắm tình hình, không những nôn nóng chứng tỏ mình là người không có hại, có thể làm được những việc chính nghĩa cho vua mà còn để trở thành một kẻ mưu trí gấp lo chống đỡ hoạn nạn cho nước nhà nữa. Cho nên bây giờ lại bộc bạch tâm huyết một lần nữa cho hết từ đầu đến cuối. Sau này dù có ngàn vạn lần nữa cũng không có gì thêm.

Người xưa có nói: “Dân là gốc của nước”. Nói như vậy cũng chưa đúng. Tôi cho rằng vua quan là gốc của nước. Vì không có vua quan thì chẳng bao lâu dân sẽ loạn, tranh nhau làm trưởng, giành giật lẫn nhau, án sát lẫn nhau, oán thù lẫn nhau. Cho nên nước dù có vua bạo ngược còn hơn không vua. Trong kinh thánh xưa của đạo giáo có nói: Tuy vua bạo ngược dân cũng không thể hai lòng. Vì nếu dân dấy loạn thì chưa tổn hại đến vua mà trước hết là hại dân.

Ngũ luân thì vua quan đứng đầu. Đạo giáo coi vua hơn cha, cho nên gọi trung phụ là để cho đạo vua được tôn nghiêm hơn. Vì nếu không có đạo vua thì không thành thế gian. Phương Tây gần đây không có ai phạm tội giết vua, không có hành vi khinh thị quý tộc. Tuy những xứ man mọi như Trâu, Cử1 cũng không khinh lờn, vì đã hiểu rõ ý chỉ của kinh thánh. Trong kinh xưa còn nói: Tạo vật đã từng vì tội của vua quan mà trừng phạt dân ở đời này. Lại nói: Vua tuy vô đạo cũng không được gọi bằng thằng, và sát hại bừa bãi. Bởi vì phạt dân thì trong nước chỉ hại nhỏ, còn phạt vua trong nước thì sẽ bị hại lớn; mà thường khi hại dân có tội, Chúa cũng đặc biệt mượn vua quan làm roi vọt để thay Chúa mà trách phạt. Cho nên giết vua chẳng khác gì giết Chúa. Vua được coi trọng đến như vậy. Cái lý này xưa nay các sách Nho chưa từng nói rõ.

Như Mạnh Tử có nói: “Dân là quý, rồi mới đến vua”. Câu nói này đã từng mở đường cho vô số bọn hủ nho sau này lấy cớ mượn việc công để làm điều tư. Thành Thang giết Kiệt. Võ Vương giết Trụ. Thang, Võ đã từng là bề tôi của Kiệt, Trụ thế mà lại giết Kiệt, Trụ. Nếu để cho người khác giết rồi sau cướp lấy thiên hạ trong tay người đó thì mới không hại danh nghĩa. Nếu bảo đó là nguyện vọng của nhân dân thì giả sử dân bảo làm điều bất nghĩa cũng làm hay sao? Phàm nhân thì phải thuần hậu, nghĩa thì phải cho trọn vẹn. Trong lúc giao phong phải cứu người vô tội. Như thế là giết người mà cứu người. Nếu mạo danh giết vua để được cái nghĩa cứu dân thì cái nghĩa đó càng chưa trọn vẹn. Thế mà xưa nay các bậc thánh hiền đều ngợi khen Thang Võ là hết sức nhân nghĩa.

Đến như Khổng Phu Tử mà cũng không chỉ rõ điều sai đó để làm sáng tỏ cái nghĩa vua tôi, để cho Thang Võ không có chỗ trốn tránh trong khoảng trời đất này nữa. Nay Thang Võ đã có chỗ trốn tránh rồi. Mối ấy một khi đã khơi ra khiến thiên hạ đời sau dòm ngó ngôi vua, rồi thêm nhiều tiếng ác cho bậc quân phụ để che giấu cái xấu của mình. Cho nên trong bài Lục lợi từ, tôi có nói: Mọi quyền lợi hành vi trong một nước phải do vua nắm, và cùng với quốc dân chia sẻ nỗi vui buồn. Ngoài quy luật này ra đều là tội cả. Tôi xem khắp các nước trong thiên hạ, hễ nước nào có một họ được bề tôi đời đời giúp rập thì tuy có đôi khi suy vi nhưng trong nước cũng không đến nỗi có loạn lớn. Như Nhật Bản đã mấy nghìn năm, Thổ Nhĩ Kỳ đã nghìn năm, các nước phương Tây đều như thế cả, ở Nam Tây Châu cũng vậy. Sở dĩ dân ở đấy phần nhiều chỉ có loạn nhỏ mà không có loạn lớn là vì danh nghĩa đã xác lập ngôi vị ổn định, nghe thấy đã quen ít xảy ra việc thoán đoạt làm loạn. Bởi vì nếu tục lệ dễ dãi lơi lỏng, thì nhân dân một khi thấy có điều không như ý, không biết tự hối lại nói bừa là vua quan không xứng đáng, rồi chê trách lung tung, bàn chuyện thị phi, mưu đồ họ khác lên thay, hoặc hy vọng có một sự thay đổi nào đó, đứng núi này cho núi kia là cao hơn,... nhân tình đại để như vậy. Từ đó bịa ra đủ thứ những câu sấm, bảo là có điềm ứng hiện để gây phiến động trong dân chúng. Do đó dễ sinh ra họa loạn. Các nước phương Tây đã hiểu rõ cái lý đó.
______________________________________
*. Bản Hán văn: 189/1 tờ 83-94.
Ở đầu bài ghi là “Tháng 4 năm Tự Đức 19” tức từ 14-5 đến 12-6 năm 1866. Nhưng theo bài tấu của Trần Tiễn Thành ngày 19-4 năm Tự Đức 19 tức 1-6-1866, thì có nhận của Nguyễn Trường Tộ gởi từ Nghệ An ba bản, chắc trong đó có bản “Ngôi vua là quý, chức quan là trọng”, nên bài chắc phải được viết trước 1-6-1866 tức vào cuối tháng 5-1865.
1. Trâu, Cử: Những nước nhỏ đời Xuân Thu (Trung Quốc).


Kẻ làm vua biết rõ cái điều trời phó thác cho mình là nặng nề, mọi phúc họa điều do trách nhiệm ở vua, cho nên tự hạ mình ghép vào vòng pháp luật. Người làm dân biết rõ ngôi tôn quý đã định rồi, quyền hành đã có người nắm rồi, phận sự đã được đặt để rồi, cái thế đã có người giữ, cho nên quy tiếng đẹp lên trên. Mỗi người tự lo lấy danh nghĩa của mình không dám manh tâm gây chuyện họa loạn. Họ biết rõ mình có nhiều tội ác, Chúa dùng nhiều tai biến để răn đe, nên mới có những sự chênh lệch không đồng đều, chứ không phải do vua quan gây ra nên không dám oán giận bề trên. Những điều hay đẹp này là do tình vua với dân hợp nhau hoặc xuất phát từ tình cảm đó mà ra.

Kẻ làm dân chỉ cố một điều giúp đỡ vua, kính trọng quan mà thôi. Vua quan nếu có điều sai thất, thì cả nước đều đau đớn khổ sở. Vì thế mà thành thói quen, họ đều lấy việc giương cao uy tín của nước, bảo vệ thế lực của nước làm trọng, chạy ngược chạy xuôi chống giặc như sợ không kịp, lăn vào những nơi nước sôi lửa bỏng như đi vào nơi bình thường, cả nước có một tiếng xấu thì coi như do tự mình mà ra. (Những điều tốt đẹp trên đây là nói về toàn thể, là chỉ về đại dụng, tuy nhiên trong đó cũng có vài điều nhỏ nhặt không phải vậy).

Đối với những điều này, là sĩ phu bé phải học, lớn phải làm. Là người thôn dã, trong nhà ngoài xóm phải bàn luận khuyên bảo nhau. Nhờ đó dần dần trở thành truyền thống, thuần phong mỹ tục được lưu truyền. Ví dầu ai có lòng dạ nào khác, cũng không thể không theo đại thế, không thể không theo cái chung. Bởi vì trí xảo con người ta do tập tành mà được, thiện ác bắt nguồn từ học thuật và phong hóa cũng do từ học thuật sinh ra. Trong sách dạy như thế nào, thầy giáo chỉ vẽ như thế nào thì người học phải làm sao cho hơn những gì sách đã dạy thầy đã chỉ. Trong nước ai ai cũng phải có thái độ học tập như thế, và hành vi như thế. Bất kỳ Đông Tây, đó là cái lý lẽ chân xác không bao giờ thay đổi. Bởi vì:

1. Các nước đã có thuần phong mỹ tục rồi mà các vua quan lại biết khéo nhân thời lập thế, biết rõ phép tung hoành để kiềm chế lấy nhau, để dựa vào nhau, các nước đều liên hợp với nhau, mở toang các lớp cửa thì ta và người đều biết rõ mọi vật đều có chủ.

2. Đi lại giao hảo thân tình với nhau, tính kế ăn ở lâu dài với nhau, không chịu giúp họ khác lên thay ngôi vua mà mình chưa biết tình ý họ ấy như thế nào.

3. Bề trên lo giữ pháp độ, lo việc nước thì chỉ dùng người hiền, đã theo công lý giữ pháp luật thì trên sẽ hợp điển chế không ai dị nghị, sự nghiệp không suy đốn.

4. Kẻ làm dân thấy thiên hạ ca tụng vua mình, so sánh người và ta, thì hết lòng làm sao cho thiên hạ kính trọng vua mình hơn.

5. Các bè đảng biết rõ danh phận của vua quan đã định, thì vị tất trong một lúc mà các nước đều giúp cho mình làm bậy.

6. Các nước Tần Tấn Tề Sở sức lực đều mạnh ngang nhau không chịu để cho ai lợi mà mình hại.

7. Người ở thế lực trọng yếu biết rõ nhân tâm đã có chỗ chuyên hướng, những người đồng liêu đã liên kết ngoại giao, thì làm sao có thể thuyết phục hết người này đến người khác, cần gì phải ngấm ngầm kết bè phái đảng riêng nữa, bởi vì chỉ sự tổn hại cho mình mà không được lợi gì cả.

8. Nếu lập một họ khác thay ngôi thì phải có một sự thay đổi lớn, may mà được người khác giúp cho toại ý riêng, thì như thế là làm hại cho những người an phận thủ nghiệp, lợi riêng thì ít mà hại người thì nhiều, e rằng mọi người sẽ oán giận khó mà làm được.

9. Các nước đều bắt chước nhau, tranh mạnh lẫn nhau, tự phấn đấu cho tài xảo ngày càng thịnh.

10. Chỗ có và chỗ không giao thông trao đổi với nhau, chung nhau cái hay, đồng nhau cái lợi, bắt chước lẫn nhau để cho đạo đức phong tục được đồng nhất.

11. Điều thẳng lẽ cong đều công bố ra cho thiên hạ, việc sai đúng phải cho mọi người bàn luận, không dám tự mình che giấu bào chữa cho cái xấu.

12. Vua có bổn phận của vua, quan có bổn phận của quan, dân có bổn phận của dân. Danh phận mỗi người đều có cái quý trọng riêng. Người quý kẻ tiện không cướp đoạt ngôi thứ nhau. Cho nên người nối nghiệp, từ nhỏ đã không dám làm sai bổn phận của mình, lớn lên thi hành phận sự tất phải tinh thuần, cũng không dám vượt qua phận sự mà cải đổi sự nghiệp, vì e rằng trong bụng không có cái chí báo phục, thì một khi có việc gì cấp thiết sẽ khó bề chống đỡ. Hơn nữa, mỗi bổn phận có một cái cao quý riêng, không được có ý tưởng được voi đòi tiên.

13. Mỗi người đều được đặt để một vị trí. Khả năng nào thì vào nghề ấy. Trách nhiệm nhỏ thì dễ đền bù. Chức vụ nhỏ thì dễ giữ. Nghề tinh thì không sai. Dùng chuyên thì không bị xâm lấn. Việc bình thường thì không đến nỗi bỏ phế.

14. Mỗi người tinh một nghề. Mỗi nghề có cái kỳ diệu đáng quý của nó, đều có tiếng hay tiếng tốt đáng khen của nó, không có sự so bì bên khinh bên trọng. Như cái áo, có cái rộng cái hẹp, cái dài cái ngắn khác nhau để thích dụng cho hình vóc từng người. Người thấp thì không ghét áo dài, người nhỏ thì không chê đai rộng. Mọi việc có cái quý trọng riêng của nó, khi thành công thì đều giá trị như nhau. Như tay chân trong thân thể người ta, tuy có cao hạ quý tiện khác nhau nhưng cũng không vì thế mà ghét bỏ làm tổn thương lẫn nhau. Cho nên một người có cái kỹ xảo thì mọi người đều thêm vinh, một người có tài thì cả nước được tăng phần kính trọng. Mọi người tài giỏi đều cảm thông nhau thì không có cái hận ta hơn người thua, không có tình trạng ta mạnh người yếu. Cho nên trên dưới đều hết lòng với việc làm của mình, không có cái bệnh ghen ghét kẻ tài hiền.

Trên đây là mười mấy điều đại cương rút trong cái thuật tung hoành mà ra. Ngoài ra trong nhân dân còn có những sự liên kết với nhau để phụ giúp lẫn nhau như là kẻ đứng bên cạnh giúp vào, để giúp thêm vào mười mấy điều kia thì không thể nào kể hết được. (Còn như có những đường lối chính trị như thế nào đúng với tình cảm và lý lẽ này mà hợp với chính trị nước ta thì càng không thể kể hết, không cần phải nói rõ ở đây).

Đó là những điều mà sách kinh đời xưa đã ghi chép như vậy, các bậc hiền triết đã làm khuôn phép như vậy, những người khai sáng đã tạo lập quy mô như vậy, phong tục đã kết thành như vậy, các nước đã noi theo trật tự như vậy, mà một mai có người muốn lập lại một cái gì khác, thật cũng khó có thể làm được. Cho nên, bậc làm vua biết rõ cái thế trường cửu đã có, không có bụng nghi ngờ bề tôi ở dưới, kẻ làm dân biết rõ cái lợi hại của việc trị việc loạn nên không có cái chí phạm thượng. Trên dưới tự mình không nghi cũng không ngờ lẫn nhau. Mọi việc gì đều có sự phó thác rõ ràng, người nhận lãnh vui lòng, không có điều gì tối tăm, lo lắng, cho nên dễ đi đến chỗ đúng đắn, dễ bày tỏ, dễ cởi mở, dễ phân giải, tất cả đều là do thật lòng tin tưởng nhau, cho nên dù có sự bất bình cũng tin nhau, không nỡ trách cứ hà khắc. Được như vậy là đều do không nghi kỵ gì nhau mà ra. Nếu đã nghi thì hại đến lòng tin. Không tin tưởng thì đa kỵ, đa kỵ thì hại đến trí khôn, trí bị tổn hại thì dễ bị hỏng việc, việc hỏng thì sinh hại, hại sinh thì có lắm điều lo buồn, lo buồn nhiều thì tâm loạn rồi sinh ra lắm sự sợ hãi, sợ hãi nhiều thì khí chất kém đi mà sinh ra nhu nhược, nhu nhược thì mọi việc chần chừ do dự không dám quyết đoán. Nếu trong bụng không có định kiến chủ trì thì khi có ngoại hoạn nổi lên tấn công ta, ta sẽ không có cái gì đối phó lại, tất sẽ tán loạn tan tành, đại thế sẽ ngày càng giảm. Những cái đó đều do chỗ ta với người nghi ngờ nhau mà sinh ra cả.


Tôi nhìn chung thấy cái thế các nước trong thiên hạ xưa nay, các nước phương Đông phần nhiều cái hoạn ấy do tích tụ lâu ngày thành thói quen. Nhưng về học thuật thì cũng có cái giống nhau cái khác nhau. Nhưng hùng biện hay mà làm cho rối rắm điều phải trái khiến người ta có cái ý bỏ đây theo kia. Đó là do cái tệ quá đề cao hoặc quá hạ thấp mà ra. Có phú quý rồi mới thấy có tật; vinh nhục đã định rồi mới thấy điều tranh chấp, nhân tình là như thế đấy. Nghệ Tổ có nói rằng: “Ở địa vị như thế thì ai mà chả muốn làm”. Cho nên khi được gia ân lớn thì chiếm giữ lấy chỗ quan trọng để rồi họa hoạn sinh ra từ trong tay áo. Đã có trị tất có loạn, đó là lẽ thường tình. Người hay sinh chuyện thì lại mượn cớ người ta nói vua thất đức, trời sinh tai biến làm thực chứng, để ôm lấy cái ước vọng sai lầm của mình. Làm quan khi có điều gì sai thất, thì người ta sẽ nhân lúc bề trên nghi ngờ mà dèm pha vu khống, khiến người ta bắt chước làm con trượng mã, sợ nó hý lên một tiếng thì có người bị đuổi. Người nào cũng lo giữ lấy mình, không dám có phát minh sáng kiến gì. Người thợ không tinh kỹ xảo, người học trò không lo học để mãi sau ra làm quan. Hễ có nhiều những chuyện trục xuất, giáng chức, đổi chức, điều dộng, thì những mối lo được lo mất luôn luôn hiện ra trước mắt. Những tuồng đẩy người ta để tiến mình lên, rình mò sau lưng, đương chức mà như là ngồi trên đệm có kim chích, làm việc thì lo như là bị gai đâm, không được thung dung để phát triển điều hay.

Kẻ đắc thời biết có con đường có thể tiến thân, có thể thừa cơ được cho nên cứ muốn vượt người ta mà ngoi lên. Như người xưa nói: “Thà làm đứa chăn trâu đầu đàn, chứ không làm ông quan lớn hạng nhì trong triều”. Biết có chỗ phục thù, bọn người đắc chí, cứ hớn hở mà đi để quyết hả cái hận “được làm vua thua làm giặc”, như người xưa nói: “ Không lưu tiếng thơm muôn thuở, thì để tiếng xấu vạn năm”. Lại có một loại người, động một tý là mượn thánh hiền, hễ có việc bất bình thì vội đòi phế lập.

Có cái chí như Y Doãn cũng nên. Sao không biết rằng người đâu phải ai cũng là Nghiêu Thuấn cả mà việc gì cũng làm được hay được tất cả. Theo lẽ thường tình mà nói, thì vua quan đều có phận sự riêng, ai chẳng muốn ở cho yên hưởng cho lâu. Cho nên ra làm điều gì thì muốn việc cho được, công cho thành, đó là bản chí của mọi người. Nếu có làm điều gì sai lầm ngoài ý muốn, hoặc cơ hội lầm lẫn thì lo thay đổi gấp để cho người ta không sửa đổi kịp. Như thế là giáo dưỡng người rất khó mà vứt bỏ người thì quá dễ. Đường tài đức xét ra không cùng dẫu muốn đoạt lấy hết tài đức trong thiên hạ cũng không lấy hết được. Như uống nước sông, tùy lượng chứa của mình rộng hẹp, nhưng tất cả đều được no đủ, không cần phải đoạt lấy của người để làm dồi dào cho mình.

Hơn nữa, hiền tài là sinh lực của quốc gia, sinh lực con người ta mà mạnh thì mọi gân cốt trong người đều mạnh. Thế thì tại sao không nghĩ đến lợi ích chung, không lo đến hạnh phúc chung? Mình đã không tốt lại còn muốn người khác xấu để chia cái xấu với mình. Như ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Kéo người ta xuống vũng nước dơ mong cùng lấm như mình”. Mình đã không có tài thì không muốn cho người có tài để khỏi lộ cái dở mả của mình ra, rồi làm đủ cách để chôn vùi người ta đi. Như người ta thường nói: Tài là hay đi với cái hoạ, thật là cái họa của sự có tài vậy. Kẻ sĩ bất kỳ có tài giỏi hay không, cứ vào triều là sinh tệ cả. Thế thì nước nhà còn mong gì mà dành tài được? Sĩ phu tội gì mà ôm tài hại thân? Lại có một loại tệ hơn, tiếng là đào tạo tài, nhưng thực ra vứt bỏ tài. Sở dĩ được thành tài phần nhiều là do tích lũy thuận đạo, như người ta thường nói: Con nhà tướng ra cửa nhà tướng.

Nay hễ nghe khen thì mời về, nghe chê thì đuổi đi. Việc chứa giữ tài nguồn gốc của nó thật sâu xa, mà việc dùng hay bỏ tài thì lại bỗng chốc tạm bợ. Như vậy chẳng những cô phụ việc cầu tài của trên mà kẻ có tài cũng vô dụng; khiến đến nỗi kẻ có tài sau này bế tắc không đường thăng tiến; khiến kẻ có tài mà không gặp hội phải vất bỏ hết bao công lao trước kia mà thay đổi nghề nghiệp như Hứa Hành, thật là chua cay, khiến đến nỗi sau này có cái hận làm điều thiện mà không được báo đáp, như người xưa có câu than thở “giận mình đã lầm lỡ làm kiếp nhà Nho”. Cho nên nhiều người tức tối thất vọng, thất chí không có nơi nương tựa để phải mắc vào nhiều tội ác. Người ta đâu phải gỗ đá trơ trơ, ai không muốn sửa chữa tội lỗi trở thành người hiền lành. Dù có kẻ ngu ngốc không đổi nết thì cũng nên nghĩ đến công lao trước kia của người ta, để khuyến khích kẻ hậu tiến, để bù đắp cho hậu đạo, ai lại nỡ để mình làm quan đại thần mà con cái đi ăn xin. Đến nỗi khiến người xưa có câu: “Có thể làm quan thanh liêm được, nhưng không thể làm”. Con cháu của Thang Võ cũng không có đất cắm dùi.

Như thế thì hiện nay ai chịu bỏ sự hưởng dụng cả một đời để đổi lấy cái cơ cầu ngày sau chưa chắc chắn ấy? Cho nên người xưa có câu: “Cười chê chửi mắng mặc thây, Quan to lộc hậu thì đây cứ làm”. Những cái đó đều do biết rõ cái thế không được lâu dài, hưng vong chưa ổn định, thịnh suy không biết lúc nào, phải trái không đích xác, được mất bất thường, thực hư không phân biệt, thưởng phạt không lâu dài, ra làm quan hay ở nhà không định trước, tiến thoái không tính liệu, như nước trong ống xe đạp nước, như sóng nơi trường giang, như tiếng sáo diều, như hình mây cầu vồng. Kẻ thất phu lên làm vua thì không kể gì thế hệ. Vua xuống làm dân quê thì tính chi đến chuyện cao thấp. Từ trên xuống dưới không ai là không ôm cái quái thai ấy. Cho nên phải giải quyết cái căn bản là phải thấy được cái gì làm cho lòng người dao động.

Các nước lớn ở phương Đông, xưa nay lên xuống đại loại đều như thế cả. Là vì không tinh thuần đạo học, không đồng nhất tâm thuật, không có cái thế liên hợp, không coi trọng danh vị mà gây ra cả.

Còn như các nước Đại Tây, Tiểu Tây cùng các nước Nam Tây Châu thì trái lại, đúng như đầu mỗi bài kinh đã ghi, tuy có sớm muộn khác nhau, nhưng đến nay đều đã dần dần biến đổi cả rồi. Khi chưa biến đổi, các nước ấy còn tệ hơn ở phương Đông, điều đó sử cũ đều có ghi chép, chỉ nhìn qua cũng thấy rõ. Nhưng những việc đó đã thuộc về dĩ vãng không nói làm gì, bây giờ chỉ nhìn vào sự tân tiến của họ cũng đủ chứng tỏ sự xưa và nay khác nhau rất xa. Người ta ai cũng lo gấp phòng bị hoạn nạn, mà không biết cách làm sao cho hoạn nạn đừng sinh ra, không biết làm sao cho hết hoạn nạn, mà chỉ lo sắm những cộng cụ phòng bị hoạn nạn. Như thế thì dù có xua hết thiên hạ ra làm cũng không đủ. Nếu biết dựa vào sức và nhờ vào thế của nhiều người, sao cho mọi người đều quan trọng việc công và lòng người đều tôn kính bề trên, như Giả Nghị nói: “Gieo vào lòng người sự tôn kính” thì thiên hạ không có loạn. Vì rằng danh đã định, vị đã lập, lý đã chính, thế đã đồng, các nước đều như vậy cả; lẽ nào một nước lại có thể trái với các nước mà đứng riêng một mình một cõi được sao?

Tôi đã hiểu rõ cái chính lý của đạo trung ái trong kinh, biết rõ danh vị là lợi ích cho nhân dân, thấy thiên hạ có sự yên trị lâu dài, lợi ích to lớn là do chỗ một họ cầm quyền, do chỗ đời đời truyền nối. Mà chế ngự được nhân tâm là do trị lý về kinh tế, và duy trì được đời đời dài lâu là nhờ ngoại giao. Cho nên tôi thiết tha muốn cho nước nhà cũng được hạnh phúc tốt lành như thế.
Kính bẩm


DI THẢO SỐ 14

Tình hình lương giáo ở Nghệ An*

(22 tháng 4 năm Tự Đức 19 tức 4 tháng 6 năm 1866)

Nguyễn Trường Tộ kính bẩm.

Tôi sau khi từ Kinh về đến Xã Đoài tỉnh Nghệ An, những điều mắt thấy quả đúng với những gì đã nghe được mà còn hơn thế nữa là khác. Cứ theo cái đà này thì sự việc sẽ lan ra mãi chưa biết khi nào dứt. Đầu mối của sự việc là do sĩ phu, nhưng cái gốc của nó cũng do những người có quyền lực xướng xuất ra nữa. Cho nên tôi cứ nói ra không sợ oán trách; dù sau này có vì nói những điều này ra mà phải chết tôi cũng không quản. Đấy là nguyện vọng thiết tha của tâm tình, vì hai vị đại nhân mà nói. Bởi vì đã dùng quyền lực mà sinh sự thì muốn yên việc cũng phải dùng đến quyền lực mới được.

Trước đây, nhân chuyện người Tây đột nhiên đến, Triều đình chưa rõ vì ý gì, nên tiến hành việc phân tháp1 để tạm thời giải tỏa sự nghi ngờ. Nhưng việc làm của Triều đình là do ý muốn yên dân, chứ không như việc làm của bọn ngoại gian, lửa đổ thêm dầu, làm điều ác độc ngoài pháp luật, rắp tâm muốn giết cho hết mới thôi! Ôi người xưa khóc kẻ có tội, làm tỉnh ngộ người trong ngục, tội nghi thì xử nhẹ, ăn ở có tình người ai lại không vui? Thậm chí, có người còn không muốn làm quan ở miếu đường, mà xin làm viên quản ngục, chính vì để được thương người đồng loại.

Cái đức lớn là quý trọng sự sống. Điều đáng ghét là tội ác, điều đáng yêu là tình người. Tuy dưới dân phạm luật đáng giết, nhưng đối với quan trên, phải chém người cũng là điều đáng khóc thương. Nhờ thế mà hòa khí tích tụ ở dưới, điều tốt lành ứng ở trên; lúc bình thường bao nhiêu việc tốt lành liên tiếp đến, khi có biến những việc quái dị cũng sẽ tiêu tan. Như thế cũng khéo tránh được, khiến người phạm tội tự nhận tội, mà không làm điều gì hại đến hòa khí. Bởi vì khi con người ta đã mang tội với pháp luật dương gian, mà mình còn đổ cho người ta bao nhiêu tiếng ác nữa, thì mình cũng có tội nơi u đồ2, cả hai đều có tội như nhau.
____________________________________
*. Bản Hán văn Hv 189/1 tờ 98 - 103.
    Bài này được viết từ Xã Đoài, Nghệ An, đề ngày 22-4 năm Tự Đức 19 (tức 4-6-1866).
1. Phân tháp: Phân là chia tách ra; tháp là cấy vào. Chính sách thời Tự Đức chia tách các cộng đồng giáo dân rồi cưỡng bức đưa đi ở rải rác những vùng xa xôi không có đạo để cô lập và quản thúc họ.
2. U đồ hoặc minh đồ đều chỉ địa ngục, nơi tối tăm u ám mà người có tội phải chịu hình phạt sau khi chết.


Những người có lòng nhân ái đời xưa không những lấy điều thiện của người khác coi như điều thiện của mình, hơn nữa còn nhân điều ác của người khác mà đem lòng thương xót, để sâu dày đạo đức. Bởi vì người có tội, có khi đáng tội, nhưng cũng có khi lầm đường, chưa thể biết được. Tuy đã phải chịu luật pháp của vua, nhưng cuối cùng phải do sự phán quyết của đạo trời, hoặc có khi còn được cải án là đàng khác. Nếu mình ghen ghét đố kỵ người ta, tuy bề ngoài đã hoặc chưa giở những thủ đoạn ác độc, nhưng trong lòng cái ác ấy đã kết thành, do đó trong thầm kín đã có thần linh tru phạt, vĩnh viễn không bao giờ cải cái án ấy được. Không những thế mà thôi, phàm các loài đã được sinh ra trong thế gian, không loài nào tạo vật không muốn cho nó sinh trưởng nhiều thêm. Tuy có lúc ngửa nghiêng, có khi bị dịch lệ mà tiêu hao ít nhiều, nhưng không trở ngại gì đến việc sinh sống. Thế sao có người lại muốn cắt đứt thiên căn, lập bằng địa đạo1, không chịu ở chung với nhau, cùng sinh cùng dưỡng.

Hiện nay ở tỉnh Nghệ hai bên lương giáo lòng đang sôi sục. Một bên nói không thể nào chung sống, phải giết cho hết tiệt mới thôi. Một bên nói con thú mà bị khốn quẫn còn cắn càn huống chi là con người? Nếu bên kia không để cho cùng sinh cùng dưỡng, thì bên này cũng không để bó tay chịu trói... Nhà nào ngõ nào cũng xôn xao bàn tán chuyện đó. Tôi lấy làm lo ngại mà không có cách nào giải quyết. Bởi vì sĩ phu trong tỉnh hạt có nhiều ý kiến khác nhau. Đã nói ra khó với lại được. Hơn nữa sự thù hằn này đã sâu sắc, việc làm ác độc này đã kéo dài, lòng không sao yên được. Cho nên không ai chịu tự giải thích cho mình, cũng không chịu giải thích cho người khác.

Đúng như đạo dụ của Thánh thượng trước đây có nói “Giáo dân tỉnh Nghệ hơn tám vạn, trong đó có nhiều tay không vừa, trừ phi có chiếu chỉ rõ ràng của Triều đình mới không dám kháng cự. Còn giữa dân với dân thì như nhau cả, nếu bức bách họ làm sao họ chịu yên được?”

Ở phương Tây trước kia đã có lần đại loạn gọi là chiến tranh tôn giáo. Đó là cái gương cho chúng ta soi. Vả lại, hai chữ “ lương, dữu” chẳng có quan hệ gì đến sự thế quốc gia cả. Thế mà khắp cả tỉnh người người đều luôn mồm lấy hai chữ đó nhục mạ nhau. Một lời nói mà không chịu là xách dao đến chém nhau. Đó là điều tệ mà Triều đình đã cấm. Nhưng trong làng xóm người ta còn cậy thế lực hào lý áp chế nhau, còn dựa vào tục lệ mà tích oán thành họa. Lại còn một tệ đoan nữa là trong bình dân2 có nhiều người quyền quý và những người có thế lực quan trọng liên kết với nhau nên dễ bề bày đặt khiến mọi người nghe theo. Ngay như trước đây khi Triều đình phân tháp họ đã làm những điều ác độc phi pháp, khắp nước chưa có đâu như tỉnh Nghệ. Ý họ muốn giết cho hết không sót một ai, như thế họ ăn nuốt mới trôi! Bởi vậy khi nghe có ân chiếu của vua, họ liền nói: “Triều đình hành sự như trẻ con”. Thủ đoạn ác độc đó thật quá lắm vậy. Nay sợ giáo dân kiện quan, bắt bồi thường những của cải mà trước kia họ đã lấy càn của giáo dân, nên họ nói đủ những lời đe dọa. Nay thì nói Triều đình sắp phá hòa ước sẽ giết chúng bay. Mai lại nói chúng tao sắp cùng nhau giết chúng mày. Triều đình có chiếu lệnh điều hòa lương giáo thì các phủ huyện giữ kín không chịu thông tri ra. Giáo dân chỉ nghe phong thanh mà thôi. Như việc lần trước Triều đình miễn thuế cho những người giáo dân sau khi bị phân tháp mới trở về, thế mà dân chẳng ai biết. Vì vậy nhiều làng bị lý dịch vẫn cứ trưng thu đủ số. Tuy có đại ân mà cùng dân chẳng được hưởng tí gì. Việc lớn còn vậy thì biết việc nhỏ như thế nào.

Lại có một loại người bịa ra rằng ta đây vốn biết thâm ý của Triều đình: Ngoài thì hòa nhưng trong thì sợ. Như trước kia có lần đã bắt kê khai hết giáo dân nạp lên quan, có lần truy hỏi mỗi xứ có mấy linh mục. Hai việc ấy họ giải thích xuyên tạc rằng: Quan lớn này nói: “Dần dần sẽ tính”, quan lớn kia nói: “Phải ngấm ngầm đề phòng bọn đạo”, quan lớn khác lại nói: “Bọn đạo không biết dao kề sau cổ, như chim én ở trong nhà, chẳng lâu lắc gì nữa đâu!” Vị quyền quý này nói: “ Triều đình đã ngấm ngầm cầu viện, đã định ngày nổi lên giết Tây. Lúc đó bọn chúng tao sẽ đồng thời giết chúng mày. Không tin cứ xem trong bình dân nhiều người đã rèn khí giới rồi đó. Nếu chẳng phải Triều đình ngầm cho như thế hỏi người ta dám làm hay sao?”. Những lời bày đặt dọa nạt như vậy đi đâu cũng nghe nói. Cho nên, giáo dân một mặt thì sợ, một mặt thì hiểu lầm, người nọ bảo người kia, sự sợ hãi ngày một gia tăng. Thậm chí có người không thiết làm ăn, sợ thân như cá trong chậu. Thậm chí có người không làm việc gì nữa, chỉ lo trối trăn vĩnh quyết. Thậm chí có người chạy chọt đến những người bình dân ở xa, mua chuộc cảm tình để lo trước chỗ ẩn thân.

Dân tình thế đấy hỏi làm sao yên ổn lâu dài được? Xét cho cùng cũng bởi một là do ơn trên chưa được rộng khắp, hai là do sai lầm trước chưa giải thích được, ba là do bọn ăn không ngồi rồi bịa đặt mà gây liên lụy, bốn là do bọn cường hào tác uy tác phúc ngoài pháp luật, năm là do bọn quyền quý mượn uy thế dọa nạt người, sáu là do dân đạo không yên tâm phải luôn luôn ngó trước nhìn sau. Những điều ẩn khuất như vậy, ở đây mười điều tôi chỉ mới nói một mà thôi. Bởi vì chuyện đời thường ở trong thì nhỏ mà ngoài xé ra to. Huống chi những việc bình dân dọa nạt đâu phải mới một ngày một bữa, lâu rồi phải khiến người ta tin mà sợ3.

Đại nhân là người quan hệ đến việc khinh trọng của nước nhà, nên tôi dám đem trình bày rõ việc trên. Nguyên trước đại nhân đã xá cho tôi cái tội biết mà không thể không nói. Riêng tôi cũng tự tin rằng tôi không nói dối. Đại nhân ở chốn xa xôi ngàn dặm, nếu như tôi kiêng dè không nói ra, thì những điều ẩn khuất làm sao thấu đến đại nhân được?
Nay kính bẩm.

____________________________________
1. Thiên căn: Cái gốc của trời. Địa đạo: Đạo đức của đất.
    Ý nói trời che đất chở, đức lớn bao dung.
2. Chỉ bên lương.
3. Nguyên văn: “Đầu trữ nhi khởi” nghĩa là ném con thoi mà đứng dậy. Tích mẹ Tăng Sâm đang dệt cửi, có người đến bảo cho bà biết “Tăng Sâm giết người” Bà cũng không tin, vì con bà là người hiền, nên cứ tiếp tục ngồi dệt vải. Lại có người đến nói “Tăng sâm giết người”. Bà cũng không tin. Sau nhiều người đến nói như vậy quá, cuối cùng bà ném con thoi đứng dậy mà xem. Thì ra đó là Tăng Sâm trùng tên chứ không phải con bà. Chuyện không đúng mà nói nhiều quá, khiến người ta cũng phải tin.


DI THẢO SỐ 15

Lại tâm sự với Trần Tiễn Thành*

(Ngày 3 tháng 5 năm Tự Đức 19, tức ngày 15 tháng 6 năm 1866)

Tôi là Nguyễn Trường Tộ xin kính bẩm.

Trước đây khi ở Kinh đô tôi đã thấy được nỗi lo âu về việc nước của các vị đại thần, lòng nhiệt huyết của các vị phải nghĩ đến nhiều việc một lúc mà chồng chất trước mắt rất nhiều. Tôi đã thấy rõ đại thế trong thiên hạ có cái cơ có thể thịnh có thể suy, thấy rõ tình hình nước ta gặp lúc cả nghi ngờ, khó khăn lớn, thấy rõ cái ẩn ý chứa chất trong lòng dân các tỉnh trong nước, thấy rõ các quan địa phương làm việc công, việc tư như thế nào; thấy rõ bọn Thắng, Quảng gốc rễ chưa dứt, còn nhiều thế lực ngầm giúp, còn nhiều cớ gây sự; biết rõ bình dân và giáo dân còn nhiều mâu thuẫn tất sẽ có một bên bị tổn thương, mà khó bề xử trí; biết rõ giáo dân có nhiều ngách ngõ, có nhiều tài trí, đủ sức làm việc chung, cũng đủ sức tự vệ; biết rõ bình dân trước kia ỷ thế chất chứa thù hằn, làm những điều phi pháp hại người, để đến nỗi làm cho lòng người không yên; biết rõ người Tây còn như hổ rình mồi, sức ta chưa đủ, nếu không khéo điều đình sẽ ngã theo bánh xe trước; biết rõ nước ta có nhiều khiếm khuyết, những phương pháp cũ đã hoàn toàn vô dụng mà còn câu nệ ngăn trở công việc, còn nhiều chỗ nghi nan chưa tiêu tan, ý kiến chưa đồng nhất, chứng bệnh tích tụ lại chưa tiêu trừ, những yếu nhược tích tụ lại chưa phấn chấn, đường hiền tài còn bế tắc, trí học chưa mở mang, những tệ hại đó còn chất đầy, những tai họa còn dồn đến chưa chỉnh đốn hết được; biết rõ những phương pháp mới nên làm, tập tục cũ nên đổi, ôm của báu mà chịu nghèo đói sợ người khác cười chê, chỉ cho người món lợi sợ họ tranh phân, của cải hao hụt khó bề khởi sự, thành trì tổn hại khó bề chống đỡ, nguồn lợi đầy đất mà khó khai thác, tung hoành chưa được, chưa ai giúp đỡ, không làm thì không xong việc, mà làm thì lại không có người. Những tình thế đất nước như vậy ở các nước khác người ta lo liệu hàng trăm năm rồi, mà nước ta mới thấy một ngày. Các nước làm thực sự mà ta thì chỉ nói suông. Cho nên Triều đình sớm chiều nhọc mệt, xoay xở không kịp, chưa biết tính sao, nghĩ tình cảnh cũng khó lắm vậy.

Những điều ấy trước đây khi ở Kinh, tôi đã mắt thấy tai nghe. Thế nhưng ở nước ta vẫn có nhiều người chưa hiểu thấu tình cảnh ấy của Triều đình và cũng chưa biết làm cách nào. Tôi biết rõ đại nhân cũng cùng nỗi khổ ấy, mà tri âm thì chẳng mấy ai. Tôi là người đã trải biết nhiều người nhưng thật khó mà có được một người để bày tỏ lòng những chứa chất khó chịu, cho nên dám đem những điều này nói với đại nhân. Vì đại nhân là người tài lực như vậy, cũng đủ chia sẻ mối lo với Triều đình mà giúp cho việc lựa chọn người, biết đâu sẽ chẳng như trường hợp theo Khổng Tử thì có trọng Do, môn hạ Mạnh Thường Quân chỉ có Phùng Hoan là người sau cùng giữ được khí tiết. Kính mong đại nhân xét kỹ, không nên vì hiện tại chưa rõ sự thế, không nên vì mới một ngày chưa để lộ tài năng1 mà nghi ngờ kẻ sĩ trong thiên hạ.

____________________________________
*. Bản Hán văn 189/1 tờ 103-104.
    Bài này được viết từ Nghệ An, không biết có được gởi đi hay không được gởi và được cất giữ trong gia đình Trần Tiễn Thành, chứ không thấy được lưu trữ trong Thư viện của Triều đình, bởi vì hầu như không ai được đọc bản văn này. Bản văn chúng ta hiện có trong Hv 189/1 có lẽ là bản thảo được cất giữ trong gia đình Nguyễn Trường Tộ, do ông Đào Duy Anh sao lại được.
1. Nguyên văn: “Vị đắc thoát chùy” nghĩa là: “Mũi kim chưa được ló đầu ra”, lấy câu nói của Mao Toại thời Chiến quốc. Mao Toại là môn khách của Bình Nguyên Quân. Khi nước Tần đánh nước Triệu, vua Triệu sai Bình Nguyên Quân chọn 20 môn khách gồm đủ văn võ đi theo, nhưng chỉ chọn được 19 người. Toại xin đi theo cho đủ số. Bình Nguyên Quân có ý ngờ tài năng của Toại, Toại nói: “Tôi bây giờ mới như cây kim còn cất trong bọc, được dùng mới lòi mũi ra”. Quả vậy, sang nước Sở, Toại đã dùng ba tấc lưỡi thuyết phục được vua Sở cho quân đi cứu nước Triệu.


DI THẢO SỐ 16

Bài bạt mừng đào xong thiết cảng*

Từng nghe:

Đấng tạo vật lập nên trời đất, mở sông ngòi để làm mạch lạc, dựng núi non để làm xương cốt. Hai cái này giúp nhau mà làm việc. Nếu xương cốt có chỗ gẫy gập thì mạch lạc cũng đứt không thể thông thấu nhau được. Đó cũng là cái bệnh ứ tắc của đất. Khôn khéo như tạo vật mà còn để lại khuyết điểm này cho đất phải có điều đáng tiếc. Đó không phải do vụng về mà ý tạo hóa muốn vậy!

Thợ tạo còn sinh ra muôn vật trên mặt đất để làm cái công cụ to lớn đẹp đẽ của đất, mà tất cả đều nhờ vào những giòng nước để lưu thông hòa hợp. Nếu có chỗ nào giòng nước không đạt đến thì muôn vật trên mặt đất cũng bị chia lìa cách trở không thể tô điểm cho mặt đất hoàn toàn đẹp đẽ được. Đó cũng là cái bệnh bất túc của đất. Như ở biển thiếu gỗ, ở núi thiếu cá. Khéo sắp xếp để nên việc như tạo vật mà còn thiếu sót cho đất, không được đồng đều nhau. Đó không phải do vụng về mà ý tạo hóa muốn vậy!

Ý muốn như thế nào? Giả như trời đất chỉ có một vật không có linh giác mà không có con người thông minh trí tuệ sống ở trong đó để nuôi nấng điều động, giúp cho tạo hóa những chỗ thiếu sót thì cái công dụng tạo thành trời đất tạo thành vật loại cũng chưa hoàn toàn và cũng chưa làm tỏ rõ được chỗ kỳ diệu của tạo vật. Giả như sự bài trí trên mặt đất này mà không có chỗ cách trở thì con người chúng ta cứ tự nhiên hưởng dụng chẳng góp phần gì vào việc đó, chỉ làm theo tự nhiên mà chẳng tự biết gì cả, thế có khác gì loài vật không linh giác, mà loài người cũng chả có gì là đáng quý.

Trong tam tài1 con người ở vào giữa có thể sai khiến mọi vật, phàm ở trên đất có cái gì không đồng đều, đều có thể thông đồng hòa hợp, hình thế trên mặt đất có chỗ nào chưa được hoàn toàn, đều có thể chữa trị bổ khuyết để phụ vào cái kỳ diệu của tạo hóa đã sinh ra con người chúng ta. Như thế là tạo hóa cố làm ra những chỗ chưa hoàn toàn này để dành cho chúng ta bổ túc, mà do đó mới có con người sinh ra ở giữa trời đất này. Có thể bổ túc được công việc của tạo hóa thì cũng đồng với tạo hóa. Cho nên phải có con người siêu việt mới có thể có cái linh giác to lớn mở được nguồn mạch mà chữa cái bệnh bế tắc của địa hình.

Nay xin kể sự thực của nước ta để chứng minh. Từ khi có trời đất đến nay, sông núi nước ta vẫn y như cũ. Phàm có chỗ nào đường nước chưa thông thì trời sinh người thế hệ nào đủ giải quyết công việc thế hệ đó. Đối với những kênh nào có thể đào vét được thì tiền nhân đã đào vét và hoàn thành cả rồi. Duy có một Thiết Cảng này Triều đình trước đã tốn không biết bao nhiêu tâm lực vẫn không làm xong. Đó cũng vì tiền bạc thì ít mà công việc thì quá khó, lại không lượng sức muốn cưỡng làm cái công việc mà tạo hóa có ý lưu chậm lại đến ngày nay, cho nên không thể xong việc được. Nếu có thợ trời thầm giúp như Cao Biền với kênh Thiên Lôi chẳng hạn thì đã trợ giúp cho Triều đình trước rồi. Kênh kia tuy hoàn thành nhưng trời đã chia công một nửa khiến con người không được làm trọn vẹn cái đẹp của riêng mình. Và như thế cũng chưa đủ làm tỏ rõ cái kỳ diệu của đạo trời vậy2.

Phàm việc gì nhiều đời muốn, nhiều người cầu mà không được, cái đó mới vĩ đại mới quý báu, thế mà một sớm đã được rồi để hoàn thành cái chỗ thiếu sót của đất. Việc đó bậc chí nhân đâu có kể công, mà bút mực lời lẽ cũng không thể nào kể hết được.

Nay đại nhân vừa gặp đúng lúc trên làm tỏ rõ cái bí mật của trời mà lại thừa kế tiền nhân hoàn thành được cái sở dục sở cầu, thế là không những người sống chịu ơn mà kẻ chết cũng ôm lòng cảm kích, hơn nữa đã không phụ cái ý trời đã lưu chậm lại để đợi ngày nay vậy. Đại nhân quả thật đã bổ túc được chỗ thiếu sót của trời đất và trọn vẹn được cái địa vị mà ý trời dành cho con người xuất chúng.

Còn nói về cái lợi vô cùng đối với đất nước mà riêng tỉnh Nghệ được thừa hưởng nhiều hơn thì từ nay về sau con người sinh mãi sinh mãi không cùng, công nghiệp ấy cũng dài lâu không hết. Đã có bia miệng ngàn đời không mòn không mất không đổ không hư, khiến tên của đại nhân cùng lưu truyền với con kênh này cũng đã đủ, cần gì phải bắt chước người xưa uổng công xây dựng bia đá khắc văn chương cho mưa dập gió vùi rêu phong cỏ lấp ư? Nếu muốn nói sự lợi ích rộng lớn của con kênh này thì chỉ có hai chữ “vô cùng” mới nói hết được và đã có những người chịu ơn vô cùng thuật lại cho, đâu phải kẻ tiểu tử này trong một lúc nói mấy lời trên một trang giấy mà thuật hết được. Vậy xin dừng bút chẳng dám nhiều lời.

Nay kính dâng lời bạt này để chúc mừng.
____________________________________
*. Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/4 tờ 21-24.
1. Tam tài là trời, đất và người.
2. Ở đây Nguyễn Trường Tộ nhắc đến sự tích về cảng Thiên Uy mà Nguyễn Trường Tộ gọi là cảng Thiên Lôi, theo Nguyên sử chép rằng: Cao Biền đi tuần dương ở Dương Châu, thấy lòng sông lắm đá, thuyền bè đi lại không tiện, bèn sai Lâm Phùng và Dư Tồn Cổ đưa quân đi khơi vét, gặp một chỗ có hòn đá lớn lắm, đứng trơ trơ giữa dòng, quân lính không làm thế nào mà phá tan được. Một hôm trời mưa to gió lớn có chừng hai trăm tiếng sét đánh luôn vào, làm cho hòn đá ấy vỡ tan ra, từ đó dòng sông mới thông. Vì có uy của trời sấm sét, cái kênh ấy mới thành, cho nên đặt tên là “Thiên Uy Cảng” (Xem bài của Nguyễn Đức Tánh: “Các nơi cổ tích đất Nghệ Tĩnh”, Nam Phong số 138, tháng 5 năm 1929, trang 247.)


DI THẢO SỐ 17

Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân* 

(Khoảng 17-18 tháng 8 năm 1866)

Kính bẩm,

Nay giám mục lên Kinh đô, những điều trước đây tôi đã bẩm điều gì hoãn điều gì gấp giám mục có thể trình bày rõ được. Còn việc sắp đặt và sai phái như thế nào sẽ do Triều đình quyết định.

Trước đây giám mục đã từng bàn bạc với tôi rằng nếu Triều đình muốn lần lượt canh cải để làm theo phương pháp mới thì người rất vui mừng ủng hộ. Chỉ vì nay ta chưa có người. Nếu thật tâm tin nhau khẩn khoản yêu cầu, giám mục sẽ đưa các linh mục và đạo đồ, một số có khả năng am hiểu tiếng Tây, học qua một vài phương pháp của phương Tây như Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Nguyễn Lâu1 chẳng hạn sang Tây trước, học gấp các kỹ thuật mới mỗi thứ một năm rồi về sớm giúp vào việc áp dụng thi hành. Bởi vì bọn họ học sơ qua gấp rút trong một năm vẫn còn kết quả hơn là Triều đình mở trường mời người Tây đến dạy học trong mười năm. Đó là những điều giám mục nói riêng với tôi như vậy. Về phần tôi, tôi chỉ dùng lời khéo léo dẫn dụ giám mục và các người ấy để họ vui vẻ cầu tiến mà thôi, chứ tôi không có quyền sai sử. Nếu Triều đình muốn gấp rút thực hành để tạm thời ứng dụng thì chỉ nên bắt đầu một hai người và trong khi thương nghị cùng giám mục nên nêu rõ tên những người Triều đình muốn khẩn phái sang Tây học tập. Giám mục sẽ không từ chối được. Nhưng không nên nói cho giám mục biết đó là những điều tôi đã góp ý trước với Triều đình.

Còn như việc ba tỉnh trong, hiện nay đó là vấn đề khẩn cấp. Trước đây ở Kinh đô tôi đã có bài bẩm nói rõ các cách đối phó để chống lại sự lập công của Tây soái. Các cách tuy có hoãn gấp khác nhau, nếu sớm áp dụng mới có thể chống được. Bằng không, một khi đã rơi vào tay họ, chắc chắn khó móc ra được. Nay trong khi hội kiến cùng giám mục, nhất thiết chớ nên cho vấn đề này là khẩn yếu mà xin giám mục giúp đỡ. Chắc chắn giám mục sẽ không dám nhận lời. Chỉ cần yêu cầu giám mục vào Gia Định sớm, độ mấy hôm thì đi Tây ngay. Trong khi tiếp xúc nói chuyện cùng các quan Tây cần phải trưng dẫn giải thích khúc chiết và dụng ý khéo léo.

Thí dụ như nói rõ rằng hiện nay ta thật tình muốn hòa hiếu và giữ lễ hết sức cẩn thận. Mặc dầu có tiếng đồn đại qua lại, đó chẳng qua do bọn chất chứa oán thù muốn mượn việc bịa ra chứ chẳng liên quan gì đến đại thế quốc gia cả. Nói rõ rằng Triều đình rất tin tưởng giám mục, phó thác cho giám mục sang Tây tìm kiếm các phương pháp mới. Nói rõ rằng Triều đình muốn giám mục đến La Mã đạo đạt lên Giáo hoàng về ý muốn giao hảo. Nói rõ rằng Triều đình rnuốn sai người sang Tây học tập và mời người Tây sang nước ta mở trường dạy dỗ. Nói rõ rằng Triều đình muốn cùng chia sẻ điều hay điều lợi với người Tây. Nói rõ rằng những việc làm của bọn quân đội thất nghiệp ở Nam kỳ không phải do Triều đình ngầm ủng hộ. Nói rõ rằng tất cả những thỉnh cầu của người Tây mà không quan ngại đến thể diện nước Nam đều được Triều đình vui vẻ đáp ứng.

Cứ thong thả đem các sự tình ấy truyền rộng ra để cho nguyên soái và các đại học sĩ, các nhà quyền quý, các giám mục bên nước ấy đều biết rằng Triều đình hiện đang làm như vậy không phải muốn hợp nhất với Tây là gì? Đó là cách ta xen vào bên trong mà tuyên truyền rỉ tai vậy. Tôi thiết tưởng giám mục chỉ có thể giúp đỡ được như thế. Còn nếu cứ yêu cầu đích thân giám mục trực tiếp chỉ việc nói rõ với Tây soái, chắc chắn giám mục sẽ không dám nhận lời. Hơn nữa làm thế sẽ có nhiều quan ngại. Bởi vì nếu Tây soái biết giám mục làm thuyết khách thì lời giám mục sẽ khó lọt vào tai. Ngày sau nếu có chuyện gì khác, sẽ không có ai dọ tin tức cho. Phàm sự đời lời nói chính thức không hiệu quả bằng lời giải thích phụ, đánh gấp không bằng đánh lén.

Vả lại việc dùng người cũng tùy sở năng, cây gỗ lớn có thể dùng để đánh thành nhưng không thể dùng để đào hang chuột. Nếu sai sẩy thì bao công lao cũng trở thành không. Còn về phần tôi cũng nhất trí dùng cái lý lẽ từ ngoài nói phụ vào, như thế cũng có thể ngầm giúp được một đôi điều. Hơn nữa nếu tôi đến Gia Định tìm kiếm các quan Tây ngày trước chống đối Tây soái ngầm hỏi họ xem theo tình hình nước Tây như vậy có cách nào để cứu vãn tình thế của ta không, việc này xin cho Nguyễn Hoằng cùng đi với tôi mới được. Bởi vì trước đây khi ở Gia Định tôi có quen bốn, năm quan Tây chống lại việc lập công của nguyên soái. Những người này muốn hợp với tôi gây trở ngại bên trong. Nay nếu tôi gặp họ cũng có thể đem vấn đề quan trọng báo cáo cho họ biết, nhờ họ viết thư gửi cho các đại học sĩ ở Tây triều xin dư luận ủng hộ, cương quyết không can thiệp vào nước ta.

Hơn nữa tôi rất am tường việc này, tôi sẽ có lý lẽ xác đáng thương lượng với họ đúng với kế hoạch của mình. Đồng thời cũng nói với họ rằng nếu họ gây trở ngại được đối với các Tây soái, ngày sau Nam triều cũng sẽ có gì đền đáp họ. Mặc dầu họ chẳng trông đợi gì ở chuyện đó, nhưng họ được hài lòng là làm cho nguyên soái hỏng mất ý đồ, thế họ cũng sung sướng lắm rồi. Nếu Triều đình dùng kế này, xin sớm gọi Nguyễn Hoằng về kinh gấp để cùng tôi gấp rút đi trước.

Xin chớ nói cho giám mục biết rằng tôi và Nguyễn Hoằng đang thực hiện một công việc riêng như vậy. Giám mục sẽ sợ nếu sự việc bất thành để lộ dấu vết sẽ bị nguyên soái trách. Riêng tôi chỉ muốn giúp đỡ cho công việc đôi chút, dù bị trách cũng chẳng hề gì. Việc này rất nghịch chống Tây soái, xin hết sức giữ bí mật. Đó là kế sách tôi dự bị trong lòng như vậy, nên xin bẩm rõ trước. Sự tình ba tỉnh hết sức khẩn trương như vậy. Ngày trước tôi cớ bệnh trở về chỉ vì ý đó thôi. Nếu không sớm thực hiện kế bủa lưới bốn mặt như tôi đã nói trong bài Lục lợi từ để thực nghiệm lời nói của tôi thì không biết sự thế sẽ ra như thế nào. Còn như khi đi Tây, Triều đình nếu muốn mua các thứ máy móc, lựa thứ giá rẻ mà dùng được thì tôi sẽ làm tên mọi Ba Tư đi theo chủ là phái viên, như vậy cũng nhất cử lưỡng tiện. Một lần nữa xin trong lúc thương nghị bàn bạc cùng giám mục, nhất thiết chớ cho các dạo đồ cùng đến dự nghe, sợ có những trở ngại khác.

Nay kính bẩm.
____________________________________
*. Nguyên văn chữ Hán: Hv 634/4 tờ 14-20.
    Bản văn chỉ ghi Tự Đức năm thứ 19, nhưng chắc là được viết lúc Nguyễn Trường Tộ mới cùng giám mục tới Huế (17-8-1866).
1. Theo Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ, thì năm 1858. Giám mục Gauthier có đem theo vào Đà Nẵng “cụ Khang, cụ Điền (người An Phú), cụ Huấn (người Trung Hậu) khi ấy cả ba ông chưa chịu chức thầy cả”.
    Sau này chúng ta chỉ thấy Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Joannes Vị cùng đi Pháp với giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ (1867-1868). Còn Nguyễn Lâu thì có thấy nói tới trong chiếu hội sai đi tìm mỏ với Hồ Văn Long thay Nguyễn Trường Tộ.


DI THẢO SỐ 18

Về việc học thực dụng*

(23 tháng 7 năm Tự Đức 19, tức 1 tháng 9-1866).

Nguyễn Trường Tộ kính bẩm.

Tôi trộm thấy mấy lâu nay Triều đình lo gấp về việc tự cường, mở rộng đường ngôn luận, đặt ra đề mục mới, khiến cho trong nước, tài nghệ gì cũng không bỏ, một điều hay gì cũng không để sót. Dụng tâm đó của Triều đình chẳng những là cần yếu mà còn thiết thực nữa. Tuy nhiên ngoài việc khoa cử thường lệ chưa thấy có ngành nào khác hưởng ứng để đáp lại lòng mong muốn của Triều đình. Chính là vì việc bồi dưỡng nhân tài chưa được liệu trước.

Tháng trước, tôi đã có một tập trình bày về “Ngôi vua là quý, chức quan là trọng”. Đó là những cái rất căn bản. Những điều phúc lợi trong nước đều do đó mà ra. Thực là một cái mấu chốt quan trọng của sự thăng trầm xưa nay, của sự thịnh suy giữa ta và người. Bản lĩnh học thuật của tôi là nắm cho được cái đó.

Nay tôi xin đệ thêm một tập nói rõ về việc học tập bồi dưỡng nhân tài tức con đường rộng lớn để đi đến giàu mạnh. Những điều tôi nói trong đây tựa hồ như bỏ cũ theo mới, tôn người hạ mình. Nhưng “Mắng Phật tức yêu Phật”, vậy xin thấu cho nỗi khổ tâm của tôi ở đây mà rộng lòng tha thứ.

Trộm nghĩ, nhân nghĩa đạo đức là bản tính của con người, dù người dã man cũng không thể bỏ những tính đó mà giữ được nước, dù giặc cướp cũng không thể bỏ ngoài trí hiểu biết sáng suốt ấy mà khuất phục được đồng bọn. Thế nhưng bàn về nhân nghĩa thường thường thấy rằng người ta hay bị cái lợi làm cho trí não hôn mê, đó là vì không có tài nghệ để tự bồi dưỡng cái sở học. Cho nên mới thấy lợi quên nghĩa. Lòng ham muốn mà thắng thì bỏ mất đạo lý. Người xưa nói: “Kho lẫm đầy rồi mới biết lễ tiết. Cơm áo đủ rồi mới biết vinh nhục”. Nếu bị cái nghèo đói thúc bách thì lo kế sống cũng không xong, còn hơi đâu mà bàn lễ nghĩa. Cho nên Mạnh Tử nói: Nhân là phải dựa vào của cải. Khổng Tử nói: Tín thì trước hết phải đủ ăn. Xét thâm ý ấy thì trước hết phải giàu có rồi mới nói đến giáo dục. Có tài nghệ mới thành công. Vì rằng có giỏi tài nghệ mới hiểu thấu lý lẽ của người và vật để bồi dưỡng cái căn bản đạo đức. Cho nên chính cái “thành chính tu tề” 1 chỉ thành tựu được sau khi đã cách vật trí tri2 mà công phu cách trí ấy là do học tập.
______________________________________
*. Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 108-111
    Hv 634/1 tờ 171 - 190
    Hv 135 tờ 55- 74
    N.P 122 trang 45-50
    Về niên hiệu, thì Hv 634/1 chỉ ghi “Tự Đức 19, trong lúc Hv 189/1 ghi rõ hơn: 23 tháng 7 năm Tự Đức 19. Còn Hv 135 và N.P 122 ghi “Tháng 9 năm Tự Đức 24”.
    Theo chúng tôi, bản văn này được viết ngày 23 tháng 7 năm Tự Đức 19 (Tức 1-9-1866) như vậy Hv 189/1 ghi nhận là phù hợp với thực tế. Bởi vì ở đầu bài có nói: “Tháng trước (tiền nguyệt) tôi đã có một tập về Ngôi vua là quý”, và bài “ Ngôi vua là quý” đề tháng 4 năm Tự Đức 19.
    Bản Hv 135 và Nam Phong 122 có thể đã được chép từ một bản được sao lại tháng 9 năm Tự Đức 24. Ở đầu bài này, thay vì nói “tháng trước” (tiền nguyệt), thì đã nói “ngày trước” (tiền nhật).
1. “Thành chính tu tề”: thành: thành ý, ý phải thành thực; chính: chính tâm, lòng phải ngay thẳng; tu: tu thân, sửa mình cho tốt; tề: tề gia, sắp xếp việc nhà cho tốt.
2. Cách vật trí tri: Cũng nói là cách trí, tức là nghiên cứu suy cho đến cùng, hiểu thấu mọi lý lẽ của sự vật.


Người xưa nói: Một “vật” gì mà không biết thì nho sĩ lấy làm xấu hổ, chứ không nói một “chữ” mà không biết. Là vì thực ra trời đất người và ta đều là vật cả. Người xưa biết rõ phép cầu đạo thì nói: Gần thì cầu lấy ở bản thân, xa thì cầu lấy ở vật. Như vậy học tập ở bản thân, học ở vạn vật, học cái tài nghệ tức có thể sáng tỏ đạo lý.

Người ta sinh ra ở đời, nền móng của đức nghiệp phải xây dựng từ khi còn ít tuổi. Vì vậy, đời xưa khi mới bắt đầu dạy học thì dạy cho sáu nghề1. Tức là khi đã có đức có nhân để làm chỗ y cứ rồi mới dạy cho học. Cũng gọi là “du nghệ” bởi vì nói nghề tức là có thủy có chung. Đời xưa sở dĩ gọi là đại thánh, là vì người đó biết mở mang các vật để phục vụ nhân sinh. Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế sáng chế dụng cụ, đến Nghiêu Thuấn thì biết sắp đặt các nghề thợ, sửa sang nhà cửa, Đại Vũ trị thủy phân chia nước vào ruộng, Thang Vũ đánh dẹp mở mang cơ nghiệp, Chu Công2 thu góp những cái hay của đời trước đặt ra điển lễ, Thái Công3 biết đặt ra chín phủ4. Thời ấy chưa ai nói đến chữ “văn chương” cả. Từ Tam Đại5 về sau làm vua thì như Ngũ Bá6 và đến Tần, Hán, Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh những nhà sáng nghiệp mở mang cũng chưa từng thấy dùng kẻ văn học ra làm quan làm tướng. Còn như Quản Trọng7 giỏi nội chính, Tiên Chẩn8 có tài dùng binh. Tô, Trương9 thông thạo thuật tung hoành. Tiêu, Tào10 ít chữ nghĩa, cho đến Trương Lương, Đặng Vũ11, Khổng Minh12, Phòng, Đỗ, Quánh Tử Nghi13 v.v... cũng chưa có ai nhờ câu văn chương chữ nghĩa mà nên danh cả. Đời Chu có Hiểm Doãn, Hán có Hung Nô, Đường có Đột Quyết đều là những Bắc dịch14, Tây nhung15 cả. Lúc bấy giờ những nước đó cường thịnh mà ở sát Trung Quốc nhưng vẫn không thể xâm lấn chia cắt lâu được. Bởi vì lúc bấy giờ có nhiều người tài giỏi nghề hay để sử dụng.
______________________________________
1. Sáu nghề (lục nghệ): lễ: lễ nghi; nhạc: âm nhạc; xạ: bắn cung; ngự: tập cỡi ngựa; thư: tập học đọc, viết sách, bài; số: toán học.
2. Chu Công: Chu Công Đán.
3. Thái Công tức Thái Công Vọng tên là Khương Thượng đời Chu.
4. Cửu phủ: Chín kho của cải tiền tệ của nhà nước do chín chức quan coi, là những Thái phủ, Ngọc phủ, Nội phủ, Ngoại phủ, Tuyền phủ, Thiên phủ, Chức nội, Chức kim, Chức tề.
5. Tam đại: Hạ, Thương, Chu.
6. Ngũ bá: Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tấn, Tương Công nước Tống, Trang Công nước Sở, Mục Công nước Tần.
7. Quản Trọng (Tề).
8. Tiên Chẩn (Xuân Thu).
9. Tô: Tô Tần (đời Chiến Quốc). Trương: Trương Nghi (đời Chiến Quốc).
10. Tiêu: Tiêu Hà (Hán). Tào: Tào Tham (Hán).
11. Trương Lương (Hán). Đặng Vũ (Hán).
12. Khổng Minh (Tam Quốc).
13. Phòng Huyền Linh (Đường). Đỗ Như Hối (Đường). Quách Tử Nghi (Đường).
14. Bắc địch: Bắc chỉ giống người man rợ ở phía Bắc Trung Quốc, theo quan niệm của phong kiến Trung Quốc.
15. Tây nhung: chỉ giống người chưa khai hóa ở phía Tây Trung Quốc.

Nay xem các sách binh thư, luật dịch, phương dược khí nghệ1 đều từ trước đời Đường và sau Ngũ Đế2 truyền lại thì đủ biết chuyên môn thời ấy như thế nào. Về sau, Tống, Minh lại chuyên về ăn học làm thế nước yếu kém để đến phải mất cho Nguyên, Thanh. Tuy có thể do vận hội xui nên nhưng cũng do thiếu người tài giỏi giúp đỡ. Ở phương Tây cũng vậy, đồng thời với Đường, Hán, Tống thì La Mã là một triều thất thống, vũ công vang lừng bốn bể, uy linh rung chuyển ba phương, họ có nhiều chế tác kỳ dị lưu truyền mãi đến nay. Nhưng từ trung thế kỷ về sau vì những người cầm vận mệnh chỉ lo yến hội mua vui làm trọng, kẻ làm quan thì lấy văn từ làm bậc thang tiến thân. Đã một thời bao nhiêu quân tử ra đời đều chuyên chuộng chữ nghĩa văn chương, viết sách làm luận để tự cao lập dị dần dần bỏ mất cái học thực dụng, đến nỗi nước Tây Bắc tràn qua đánh phá mà tan thành từng nước nhỏ. Đến nay người phương Tây vẫn lấy đó làm răn. Cho nên khi chọn quan họ không hề đặt ra một khoa văn chương nào cả. Trừ Trung Quốc, Nhật Bản, Cao Ly và nước ta ra, không có nước nào lấy văn chương để chọn nhân tài. Đó cũng vì thơ phú không đuổi được giặc, nghìn lời không được một kế sách, cho nên thay đổi đi mà lấy những điều tạo hóa hành sự làm cái học thực dụng, vì tạo vật là bậc thầy vĩ đại của muôn dân. Phàm những việc làm của tạo vật đều là thực dụng, như bốn mùa thay đổi muôn vật hóa sinh, khí bốc lên, nước rơi xuống, mặt trời, mặt trăng, sao ở trên trời, gió, mây, mưa, mù ở trong khoảng không, loài chim, loài cá, động vật, thực vật ở trên mặt đất, sự vận động, sự kinh doanh của loài người... tất cả mọi cái sinh sinh hóa hóa mà ta thấy đều là sự vật thực tế cả. Chúng ta là những người của tạo vật, mà lại không theo những hiện tượng tự nhiên đã dạy bày, không tập những hình dạng cụ thể đó, không học những quyền lực kỹ xảo đó, không nghiên cứu độ số vận động của hành tinh, không biết khai thác kho tàng quý báu trên núi, dưới biển, không dùng những đức tính quý báu dồi dào mà trời đã ban cho. Tất cả những khí lực tài chất của tạo vật sinh ra, những cơ nghiệp lâu dài tạo vật để lại, lại đem gởi cả vào những văn từ suông rỗng vô dụng mà không nghĩ đến cách tác thành những gì tạo vật đã để lại, không biết khéo dùng những gì tạo vật đã ban cho. Đến khi sự thế cấp bách xảy đến thì lại than trời rằng: Sao trời làm cho ta bần cùng khốn khổ. Thế chẳng hóa ra làm nhục tạo vật đó sao! Vì vậy cho nên học tập tài nghệ là bắt chước theo các cách thức của tạo vật, như người đời xưa thấy hoa bòng bong xoay tròn mà bắt chước chế ra xe, thấy mặt trăng khuyết mà bắt chước chế ra cung, lấy hình dạng của các vật nà chế ra chữ viết, nghe gió thổi mà đặt ra âm nhạc, bắt chước hình ngôi sao mà chế ra đồ dùng, xét địa thế xây dựng nhà cửa, mọi khuôn mẫu chế tác đều như thế cả. Hiện nay các nước phương Tây tất cả những khí cụ kỳ lạ, không có một cái gì là không dựa vào sức tự nhiên của trời đất để làm. Do đó nhà cơ học có nói rằng: Sự tinh xảo của những máy móc lớn nhất cũng giống như người dã man lấy que gỗ dùi đất gieo hạt. Có điều người ta không xét thì không biết đó thôi. Cho nên phàm những việc học tập đều là học những cái mà tạo hóa dạy cho, phàm những tri thức đều là sức hiểu biết những cái mà tạo hóa hình thành, phàm những công việc làm đều là nhân những cái mà tạo vật đã tạo ra, phàm những cái có được đều là hưởng những cái tạo hóa đã để lại. Thế mới gọi là con người hoàn thành công việc của trời vậy. Từ xưa đến nay mọi việc trong thiên hạ không có cái gì không suy nghĩ mà biết, không học mà hay cả, dù thánh nhân cũng học không biết chán, huống hồ người thường. Học những gì thực tế thì sẽ có thực dụng, học những cái vụn vặt thì chỉ được cái vụn vặt, trồng đậu được đậu, đó là lẽ tự nhiên, không ai có thể làm trái với đạo lý đó được. Cho nên nếu chúng ta muốn lấy cái học tự kỷ3 mà cho là vẻ vang thì cũng chỉ được những sự vẻ vang như lễ nhượng đầu môi chót lưỡi mà cũng cho là đẹp. Còn những cái ăn mặc, thú vui tiêu khiển là tất cả chữ nghĩa văn chương thì làm sao chúng ta có thể tận dụng được cái kỳ diệu của trời đất?
______________________________________
1. Binh thư: sách quân sự; luật lịch: sách thiên văn; phương dược: sách thuốc; khí nghệ: khí cụ, kỹ nghệ.
2. Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn.
3. Cái học tự kỷ là cái học cục bộ, chủ quan xoay quanh bản thân con người, lấy con người làm trung tâm mà đo lường vũ trụ. Người xưa nói: “Nhân thân tiểu thiên địa”. Nghĩa là con người là một vũ trụ nhỏ, cứ suy từ con người thì biết hết.


Người phương Tây cũng là người, họ đâu có thể vượt ra ngoài trời đất mà học, thế sao cái học của họ được công hiệu. Như tôi đã bẩm trong bài nói về: “Ngôi vua, chức quan” là do họ biết lấy những thực tế của tạo vật ra mà học. Cho nên trong âm thầm họ được mặc khải để làm nên cái diệu dụng của trời đất, để giúp tạo hóa những cái mà tạo hóa chưa kịp làm. Người nước ta không phải con dân của tạo vật đó sao, thế mà bây giờ lại thấp hèn làm vậy! Những điều tôi trình bày ở đây không phải là muốn bỏ hết cái cũ mà mưu cầu cái mới. Nhưng phải lấy cái hay của mình có sẵn, còn phải gồm cả những cái hay của thiên hạ mới sáng tạo ra. Như thế những cái mới thiên hạ có mình cũng có và những cái mình sẵn có thì thiên hạ không có. Lấy hai điều biết mà địch lại một điều biết như ở đoạn giữa của bài Lục lợi từ tôi đã trình bày. Như thế ai dám khinh rẻ nước mình?

Nay xin Triều đình đặt ra nhiều đề mục giao về cho các quan địa phương truyền hỏi bất kỳ người nào, bất luận lương hay giáo, ai tìm được thực lý, thực sự thì theo đầu đề viết thành bài nạp lên. Hàng tháng các quyển ấy được đưa về Kinh một lần để khảo duyệt. Bất kỳ quyển nào giúp ích cho việc cần gấp thì được ban thưởng và khuyến khích, rồi sức cho người ấy y theo quyển mà thi hành. Nếu việc làm phù hợp với lời nói và có ích cho việc công của nước nhà thì chiếu theo khoa mà bổ dụng. Nếu như có ích cho việc tư trong dân gian thì được cấp bằng để tự chế tạo ra mà phát hành. Nếu như quan địa phương có ý kỳ thị người nào mà giấu bài đi thi thì người ấy được phép lên tận Kinh tố cáo. Những đề mục đó xin kê ra như sau.

1. Xin cho các trường quốc học, tỉnh học, các trường tư và các bài thi Hương thi Hội đều chú trọng vào tình hình hiện tại, như luật lịch1, binh quyền, các chính sự về công hình lại lễ2 tất cả đều được nói thẳng, không giấu giếm, có cái gì tệ hại, có cái gì hay ho, cái gì nên để lại, cái gì cần thay đi, những cái cần thiết trước mắt, những cái có thể phân tích tỉ mỉ xác đúng hợp thời, thì được coi là trúng cách3, còn những chuyện cũ thì chỉ là thứ yếu.

2. Xin đặt các khoa hải lợi. Những người biết làm muối theo cách thức mới, tìm ra các phương pháp chài lưới ghe thuyền đăng đó đánh cá, nuôi cá, ướp cá, v.v...hay hơn các phương pháp cũ thì sẽ xét mà ban thưởng.


3. Xin đặt ra khoa sơn lợi. Ai tìm được khoáng sản mới như những mỏ kim loại và ai nghĩ ra phương pháp dò tìm như thế nào, phương pháp luyện kim như thế nào, phương pháp khai quật như thế nào, lại nghĩ ra những cách hay để săn bắt tê giác, voi, để tìm của quý, để lấy gỗ rừng và các nguồn lợi của núi rừng hoặc căn cứ vào địa phương gần chỗ mình ở vẽ được đầy đủ hình thế những hang sâu rừng thẳm cao nguyên... đo đạc được xa gần, rộng, hẹp, cao, sâu hiểm yếu ghi chú rõ ràng từng khoản một, rồi đệ nạp lên trên, trên sẽ tùy mức độ xét lợi ích lớn nhỏ để ban thưởng.

4. Xin đặt ra khoa địa lợi. Phàm những nơi có đất hoang, không kỳ ở rừng núi, hoặc ở bãi biển, hoặc ở doi sông cát bồi, hoặc ở ao hồ lầy lội một mặt có ai nghĩ ra phương pháp hay để khai phá bồi đắp đề phòng được hậu hoạn, một mặt có ai xét thổ nghi ở đấy trồng thử các giống cây như dâu, đay, lúa, đậu mà được tốt tươi khác thường thì cũng tùy theo lợi ích mà ban thưởng.

5. Xin đặt ra khoa thủy lợi. Khoa này ích lợi rất lớn. Có ai nghĩ được phương pháp mới như về đào kênh, đắp đập, hoặc giữ nước để phòng hạn, hoặc tiêu nước để chống úng, hoặc dẫn nước từ xa về tưới ruộng, hoặc tìm được mạch nước sâu để lấy nước uống, nếu dùng thử thấy kết quả, phương pháp đó có thể truyền bá thì ban thưởng nhiều để đền bù công lao (như ở Tứ Tuyên4 thường bị thủy tai. Nếu ai nghĩ cách trừ diệt được mối họa đó, thì nên dùng gấp để làm lợi cho dân).

6. Xin cho làm những đồ khí mãnh thường dùng hàng ngày xem có ai nghĩ ra cách chế tạo, dựa theo cái cũ mà chế ra cái mới, vừa tiện lợi mà giá không cao hơn vật phẩm thường.

7. Xin nghĩ đến các thức ăn uống xem có ai với vật thường dùng nghĩ ra cách làm cho nhiều thêm hoặc để lâu không hư hỏng mà mùi vị lại thơm ngon hơn trước, hoặc là tìm được những vật nào xưa nay chưa từng dùng để ăn mà lại có thể ăn được như các loại thức ăn cứu đói,
______________________________________
1. Luật lịch: thuộc về thiên văn, khí tượng, lịch.
2. Công hình đại lễ: thuộc về bộ máy thống trị bộ Công, bộ Hình, bộ Lại, bộ Lễ của Triều đình phong kiến người ngày xưa.
3. Trúng cách: thi đỗ.
4. Tứ Tuyên: 4 thừa tuyên ở miền Bắc. Thừa tuyên tương đương một tỉnh.



8. Xin nghĩ đến các vị thuốc có nhiều ở nước ta. Hơn nữa khí chất của nó thích hợp với tính chất của người nước ta. Nếu ai lấy được vị thuốc nào giống như của Trung Quốc, nghĩ cách tinh chế ra giống như vị thuốc Bắc, và nếu ai lấy được các vị thuốc tục truyền cũng như các vị thuốc mà các dân tộc thiểu số thường dùng, tìm cách trồng và bào chế được thì không kỳ nhiều ít đưa ra xét nghiệm thấy xác đúng sẽ cho biên vào bản thảo để ban hành.

Ba khoản nói trên là đồ khí mãnh, thức ăn uống và vị thuốc đều nên phân biệt thưởng cấp, cho phép người tìm chế ra được hưởng lợi để thù lao cho họ.

9. Xin cho những ai đi ra nước ngoài mà lấy được các thứ thổ sản, chọn những thứ thích hợp thổ nghi nước ta, đưa về trồng trọt xét thấy quả thực có sinh lợi thì cũng thưởng như người tìm ra vị thuốc.

10. Xin cho những nhà buôn trong dân gian biết góp vốn lập hãng buôn mà tiền vốn đến 100 vạn, hiện có xác thực thì ban thưởng cho họ. Do góp vốn hay là vốn riêng của một nhà đóng được thuyền lớn hay là mua được thuyền thì bất luận kiểu loại gì mà có thể đi sang Đại Thanh1 hoặc ra nước ngoài buôn bán cũng ban thưởng cho họ.

11. Xin cho trong dân gian những ai lập các hội cứu tế như các loại hội cứu hỏa, hội bảo hiểm thuyền buôn, hội khơi cảng thu thuế, hội thay nhà nước sửa chữa xây dựng cầu cống đường sá nhà cửa, hoặc xuất tiền cho nhà nước vay để hàng năm lấy lợi, hoặc quyên tiền cho nhà nước để lập ra các nhà nuôi trẻ mồ côi, nuôi người nghèo khổ bệnh tật, và tự nguyện đứng ra quản lý những việc ấy, hoặc khi nhà nước có việc khẩn cấp có thể cho vay tiền từ một vạn trở lên, đều xét theo công lao sự việc lớn nhỏ mà phân biệt ban tước phẩm, hoặc tặng cờ biển để khen ngợi.

12. Xin không kể người nào hễ biết tiếng nước ngoài như Y Pha Nho, Anh Cát Lợi thì xếp vào hạng 2, tiếng Trảo Oa, Trung Quốc thì xếp vào hạng 3, tiếng những nước gần biên giới phía Tây nước ta như nước Miên, Lào, thì xếp vào hạng 4, biết tiếng Pháp thì xếp vào hạng nhất. Nếu qua khảo hạch được đúng thì lấy danh hiệu là Hành nhân2, Tú tài mà châm chước miễn nhiêu dịch cho họ hoặc vài năm hoặc trọn đời. Nếu ai tinh thông các sách về máy móc kỹ thuật của phương Tây có ích cho việc thực dụng thì dịch ra, theo bản đồ vẽ lại hoặc một bộ, hai bộ, ba bộ không hạn chế, những sách dịch ra lấy 1.000 trang làm tiêu chuẩn, đệ nạp lên Bộ rồi cùng với Tây soái duyệt xét không sai thì ban cho là Cử nhân tại gia.

13. Xin cho các chỗ đất công ở trong ngoài Kinh thành nếu có nhà giàu nào xuất tiền nhà ra xây nhà ngói cho thuê, còn nhà tranh thì dỡ hết đi, thì sẽ tùy theo nhiều hay ít mà ban thưởng. Còn tiền cho thuê thì trích 2/10 cho vào công ích. Khoản này có nhiều trở ngại lớn, có nhiều lợi hại, Triều đình cũng đã hiểu rõ, tôi không dám nói thêm.

14. Xin cho lập viện dục anh, viện dạy trẻ, đây là một ngành hoạt động trong đạo giáo, các nước phương Tây chỗ nào cũng có. Nay nếu nước ta thiết lập được thì viết thư cho nước Tây cho phép các hội bên ấy được đến làm công tác cứu tế. Xưa, chính sách nhân hậu của Văn Vương3 lấy việc này làm đầu. Nước ta hiện nay đang bận nhiều việc lớn chưa thể thực hiện hết, và cũng khó chọn được những người chịu ra làm việc này. Nhưng thiết nghĩ, nếu bỏ phí mất một người tức phí mất một phần của đất nước. Nay nếu có chỗ nuôi dạy khiến chúng được sống còn và nên đức tính tốt, còn hơn xây mấy đợt phù đồ4. Như vậy viện dục anh vừa dạy chữ Tây nghề Tây, vừa dạy chữ Nam, nghề Nam, song song cả hai, nam nữ đều học cho đến tuổi trưởng thành. Các hội khác cũng làm như thế. Triều đình là cha mẹ của muôn dân. Đã là cha mẹ thì thấy cái gì có ích cho con cái, mà thế có thể làm được thì không kỳ xa gần đây kia đều phải nghĩ cách lấy về nhà. Như vậy, nếu được chuẩn y thì mỗi tỉnh lập một viện và lấy các giám mục làm quản lý. Việc đó tôi xin lo liệu. Viện dục anh có ích cho trẻ con rất nhiều.

Các điều kể trên là tôi chỉ chọn những điều tầm thường dễ làm để dẫn tới nhiều tác dụng to lớn sau này. Đó chỉ là toát yếu mấy đề cương lớn mà thôi. Còn các đề mục nhỏ trong đó không thể nói hết từng cái một (Dùng năm sáu trăm trang giấy cũng chưa thể viết hết). Nếu Triều đình muốn đưa ra vấn đề nào, tôi xin lần lượt trình bày rõ từng điều một. Ngay như khoản tình hình chính sự hiện tại cũng đã rất nhiều, mà cũng có thể thay đổi dần dần. Điều này thật là cần gấp, thật là trọng yếu. Còn như các công trình to lớn, các máy móc tinh xảo, sau này cũng sẽ dần dần làm một vài cái để xướng suất cho dân. Đại phàm sự yêu hay ghét, theo hay bỏ của kẻ dưới đều do sự khuyến khích thưởng phạt của bề trên chứ không phải vì Đông Tây mà khác tính nhau. Hễ bề trên quý trọng chỗ nào thì dưới dân tranh nhau hướng đến chỗ đó. Ngày nay, cái mà nước mình quý trọng đó là Nho. Mà Nho thì quý trọng ở chỗ nhiều văn chương chữ nghĩa. Nếu như lấy cái công phu bền bỉ dùi mài chữ nghĩa văn chương mà học cả cái phong phú vô vàn của tạo vật thì sẽ được biết bao nhiêu điều quý báu. Bởi vì, vạn vật chia ra nhiều môn loại, môn loại nào cũng có cái kỳ diệu đáng quý của nó. Cho nên người ta bảo rằng mỗi vật đều có một thái cực. Nếu chia ra từng môn, từng loại mà học thì trong một nước có nhiều cái đáng quý, như thế chẳng hơn là chỉ quý có một cái độc nhất sao? Vả lại tính tình người ta không giống nhau, mỗi người có một sở trường để thích ứng với sự vật. Nay ta chỉ dùng một loại sở trường thì những người có những sở trường khác còn hy vọng gì nữa mà đem hết sức ra làm?

Nhìn chung lại người phương Tây họ tùy theo tính chất của con người mà bắt chước nhiều sự thực của tạo hóa, lấy chỗ sở đắc để di dưỡng tính tình, mà quy về đạo đức. Cho nên người dân cũng được nhiều thành tựu để đáp ứng trăm công việc. Nước ta thì chỉ quý trọng Nho sĩ, cho nên dân cũng chỉ biết theo con đường học Nho mà thôi. Nay nếu cho dân biết rõ rằng Triều đình cũng quý cả nhiều nghề khác, thì sẽ không mấy năm, dân chúng cũng sẽ cống hiến được nhiều nghề cho Triều đình.

Nay kính bẩm.

Lục bộ thượng thư, liệt vị đại nhân soi xét.
 ______________________________________
1. Trung Quốc đời nhà Thanh.
2. Hành nhân: người biết tiếng nước ngoài và phiên dịch được cho các đoàn sứ bộ.
3. Văn Vương: Tức là Chu Văn Vương thời Tam Đại Trung Quốc.
4. Phù đồ: tháp thờ Phật. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Dầu xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người”.


DI THẢO SỐ 19

Phải tạm thời dựa vào Pháp*

(25 tháng 7 năm Tự Đức 19, tức 3 tháng 9 năm 1866)

Kính bẩm.

Trộm nghĩ người mà khéo lo toan biết được thời cơ sẽ đến mà không thể dừng được, thì thuận theo thế mà khai thông, để tránh cái hại xảy ra, như việc Hán Cao Tổ chịu phong ở Ba Thục vậy. Biết cái thế không thể giữ được cả thì đành bỏ chỗ tầm thường để giữ lấy chỗ quan trọng, như việc Lâm Hồi bỏ số vải đáng giá nghìn vàng vậy. Thấy nước không thể giữ vẹn được thì bỏ nơi biên cương mà giữ nơi cơ bản, như Thạch Tấn bỏ Lư Long, Bình Vương bỏ Kỳ Phong vậy. Cũng có cái phải để đó mà không vội tranh, nhờ vào đó mà chống loạn, như Tống nhờ để lại nước Liêu mà dẹp yên được các nước vậy. Cho nên người hiểu biết thấy thời cơ sắp đến, biết sự thế sắp thành thì đoán trước từ ngoài xa vạn dặm không cho nó vào trong phạm vi nước mình, đẩy lùi nó đến tận mấy đời sau để nó khỏi ngăn trở mưu cơ của mình. Chia tách ra bắt nó phải thuận đi theo bên trái để ta được chuyên tâm mưu tính theo đường phải, dẫn dắt khiến nó vướng mắc kẻ địch ở ngoài để ta được thung dung lo tính việc bên trong.

Cho nên nói rằng người hiểu biết là phải biết xoay chuyển, chứ không cố định một chỗ. Bởi vậy người hiểu biết là phải xem việc đời xưa mà mưu việc đời nay, không dùng những mưu đã dùng mà dùng những gì có thể lập ra mưu, không theo những khuôn phép đã thành mà theo những gì mình có thể lập ra khuôn phép. Cho nên gặp được nhiều cơ hội, đổi chỗ mà thành công chứ không chấp chặt ở một chỗ. Xưa Khổng Minh không tranh đất Kinh Châu chuyên hòa với nước Ngô để lo đánh Bắc Ngụy. Nếu như đánh được Hán thì không chỉ riêng gì Kinh Châu là của mình mà thôi. Nam Tống nếu không hòa với Kim thì nghiệp vua cũng khó mà yên được. Nếu như chịu bồi dưỡng sức lực cho lính và cho dân, biết như thế là đủ rồi để tự bảo vệ, không cần phải đánh dẹp để đến nỗi suy nhược thì giòng Trường Giang hiểm trở kia cũng đủ để hòa với Nguyên rồi. Người bình luận trách Khổng Minh không báo thù chủ trước, Nam Tống không rửa thẹn cho tiền nhân. Như thế là chưa biết hết nỗi khổ tâm của người đương thời. Võ Đế mở đường cho Tây Nam đi là để chặt đứt cánh tay Hung Nô ý cho rằng nếu Bắc Địch không chết thì Hán triều không yên, lo xa đến thế.

Thế mà người bình luận lại đi trách Võ Đế, thật cũng đáng cười vậy thay! Bình Vương bỏ Kỳ Phong cho Tần, để Tần phải đương đầu với Tây Nhung, như thế mới có thể kéo dài triều Đông Chu đến 400 năm. Anh Cát Lợi bỏ Hợp Chủng Quốc cho Tây phương cùng được lợi ở Tây Châu, như thế mới thoát khỏi sự vướng mắc để một mình báo chiếm Ấn Độ. Nếu Bình Vương cứ tranh mãi cố dô thì cương vực nhà Chu chưa chắc đã giữ được; người Anh nếu không chịu bỏ hầm vàng đó để dụ người khác vào tranh nhau lấy thì Ấn Độ là nơi ngọc lụa khó một mình chiếm trọn được. Xưa Y Pha Nho (tức là nước Tây Ban Nha) bị Hồi Hồi chiếm đóng 180 năm, tộc này cường thịnh có đến vài mươi vạn người, đến khi Y Pha Nho vùng dậy phục quốc, đuổi người Hồi về tận duyên hải miền Nam, nay ở đấy thành sào huyệt của bọn trộm cướp mà Y Pha Nho cũng nhân đó suy yếu một cách nhanh chóng. Nước Áo Đại Lợi xưa bị nước Hung Gia Lợi chiếm cứ một nửa, dân Áo cùng sống chung lẫn với dân Hung, cho nên sau này Hung biến thành Áo và hợp thành một, nước Áo nhân đó ngày càng lớn mạnh.

Hai đằng lợi hại đều có chứng cớ ở sự đuổi hay không đuổi. Sự thế trong thiên hạ thay đổi không ngừng, được mất bất thường, nhưng nhìn chung lại chỉ ở hai chỗ: Một là, nếu mình đủ sức rồi thì hãy tự củng cố, không gây sự với người khác để tổn thất lực lượng; hai là sức mình chưa đủ tự vệ thì nên khéo mượn sức của người khác để dùng cho mình. Cho nên, thuyền lớn thì phải dùng mái chèo 7 thước mới có thể qua được hồ vượt được biển, lấy nước làm chỗ dựa. Thánh vương sở dĩ có tài là biết dựa vào cái thế thiên hạ để làm thế. Ngày nay nước ta đang bị ở vào cái thế xung đột, Đông Tây tranh đoạt lẫn nhau, nên có hai cái lợi1 là ở Nam thì Gia Định, ở Bắc thì Tứ Tuyên; nhưng lại có ba cái hại2 là Bắc thì Vân Nam, Nam thì nước địch, Trung thì có bọn bất mãn chạy Đông chạy Tây rồi lại tụ tập về lại một chỗ là như thế. Hiện nay ta chưa vội dùng thuật tung hoành để lập cái thế con rết trăm chân được nên phải tùy thời giao thiệp thân mật với người Tây để tạm mượn thế lực của họ, để chống lại ba cái hại trên, để thu cái lợi bên phía Tây để dần dần lo kế sau này hoặc là khi gặp việc gì thì có thể cứu đỡ.
______________________________________
*. Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 119-121.
Bài này được viết lúc Nguyễn Trường Tộ đang ở Huế.
1. Hai cái lợi: Nam thì Gia Định, Bắc thì Tứ Tuyên. Gia Định và bốn tỉnh phía Bắc là vùng đất giàu có.
2. Ba cái hại: ở Bắc Vân Nam (Trung Quốc, Tàu phỉ), ở Nam địch quốc (Pháp xâm lược); ở Trung, những kẻ mưu phế lập.



DI THẢO SỐ 20

Về việc lấy lại ba tỉnh miền Đông*

(19 tháng 9 năm Tự Đức 19, tức 27 tháng 10 năm 1866)

Tôi là Nguyễn Trường Tộ kính bẩm:

Hôm trước ở Kinh nhân Hiệp biện đại nhân1 và Hộ bộ đại nhân2 nhiều lần bí mật hỏi tôi rằng ba tỉnh ngoài3 có thể còn có cơ hội nào khác nữa không? Tôi đã đến Gia Định dò thám kỹ sự thế hiện tại, thì thấy cũng có phân nửa giống như những ý kiến đêm hôm ấy tôi đã bẩm. Hiện nay, người Tây có một người tên là Di Minh nguyên xuất thân võ biền, năm trước anh ta đã học được tiếng ta, mười phần biết được sáu bảy; anh ta lại hơi biết tiếng quan thoại Trung Quốc nữa, xem được mặt chữ, gần đây khi thì anh ta làm thông ngôn, hoặc làm kinh doanh. Anh ta sống với dân mình cũng rất được cảm tình. Trong cuộc sống, anh ta tuy không thật phải là người tốt, nhưng anh ta cũng không có ý gì tranh chấp thù hằn với người mình. Năm nay ở Tây Ninh anh ta hay ngấm ngầm qua lại với các quản đội đến nỗi Tây soái sinh nghi và bắt giam lỏng anh ta ba tháng. Hiện nay anh ta ở chung một nhà với mấy người học trò học tiếng Tây của ta. Anh ta nghe tin tôi từ Kinh về, đã lén đến chỗ tôi bí mật trình bày mọi việc.

Theo anh ta nói thì hiện nay Tây soái tuy rất để ý mặt phía Nam nhưng thế cũng còn trở ngại.

Một là năm trước Tây soái đã ký với vua Miên tờ ước bảo hộ, nhưng nay thì người anh của vua Miên4 rất hận người Tây không chịu dâng nước cho y, đã ngầm theo cái kế của Dị Nhân đời Tần bỏ chạy ra ngoài rồi tụ binh đem về đánh nhau với Tây giết quan quân Tây hơn ba bốn chục người. Hơn nữa, dân Miên cũng nổi lên theo ông ta, vua Miên và lính Tây đánh nhau với quân của anh vua Miên ở thượng du Nam Vang bị thua phải bỏ chạy. Hiện nay Tây soái dần dần đưa quân lên Nam Vang, chưa biết sự thế sau này sẽ ra thế nào. Nhưng nếu phía Miên mà họ đồng mưu với nhau thì phía bảo hộ cũng không lẽ bỏ người giữa đường. Làm cái việc như Thành Hình đời Xuân Thu, người Tây sẽ không khỏi tốn thời gian, còn rảnh đâu mà mưu đồ việc khác? Thêm vào đó người Tây sang đây buôn bán không được, mắc nợ phải bỏ về, những người này sẽ đem những điều đó báo cáo với vua nước họ rằng: ở Gia Định mọi việc đều bế tắc, quan Tây chỉ lo lập công ở nước ngoài, trăm phương nghìn kế để làm sao tâng công cho được mà thôi đến nỗi khiến dân Tây bên này phải thất nghiệp không biết dựa vào đâu. Còn dân Nam thì bị bức bách mà sinh loạn. Nay xin vua Tây một là theo y lời của Hà Ba Lý5 trước đây hoặc có thể đổi hoặc miễn. Nếu không thì xin trả lại cho người Tây số tiền mà họ đã mua tậu đất vườn ở Gia Định. Tất cả dân Tây ở đây đều có viết thư về Tây nói giống nhau cả. Và các quan lính Tây chống với Tây soái cũng đều cho lời nói của dân Tây là đúng.
______________________________________
*. Nguyên văn chữ Hán bài này: Hv 189/1 tờ 122-127
Hv 634/4 tờ 1-9.
1. Hiệp biện đại nhân tức Trần Tiễn Thành.
2. Hộ bộ đại nhân tức Phạm Phú Thứ.
3. Ngoại tam tỉnh, tức 3 tỉnh Miền Đồng, gồm Gia Định, Định Tường và Biên Hòa.
4. Anh vua Cao Miên Cầm Bô (Poulo Kombo).
5. Hà Ba Lý tức Aubaret.



Hiện nay Tây triều lại có thuyết rằng: Nguyên trước tiên hoàng làm tờ giao ước vừa gặp lúc nước Tây đại loạn không có vua nên không đủ làm căn cứ. Thế thì việc vịn theo lời giao ước đó mà lấy ba tỉnh vốn không phải bản ý của vua họ. Chỉ vì sự thế đã lỡ rồi, không thể không theo, nhưng xét theo lẽ công bằng thì cũng hơi hối hận vì sự không đủ căn cứ ấy. Bức thư này do một thân nhân của anh ta làm quan ở Tây gởi cho anh ta. Hiện bức thư còn trong cặp của anh ta. Vả lại theo sự bàn luận của mọi người thì cũng phù hợp như vậy. Ở đây khó nói cặn kẽ tóc tơ được. Nay Triều đình nếu muốn nhân cơ hội này thì cho anh ta lên Kinh bẩm rõ đầu đuôi xem cái gì có thể làm được thì làm. Nhưng khi đến Kinh, anh ta chỉ nói là nghe Triều đình nhờ giám mục về Tây thuê người, anh ta nhân đây lên Kinh để xin công ăn việc làm. Đến đây mới có thể trình bày hết sự cơ phải trái. Nếu Triều đình ưng chuẩn, anh ta sẽ trở về Gia Định ngay, nói giả vờ rằng chưa có việc làm nào vừa ý. Bấy giờ hoặc anh ta sẽ trở về Tây. Hoặc sẽ viết thư cho bạn hữu, đợi đến lúc việc đã mười phần thỏa đáng, anh ta sẽ lên lại Kinh đô cùng với sứ giả của Triều đình sang Tây làm thông ngôn. Tiếng là nói về thăm, thực ra là đến đấy để xem mọi việc cho rõ ràng chân xác, nếu phù hợp như lời nói của anh ta, thì sẽ đem việc đó mà xin vua họ. Khi sự việc đã nhất định rồi thì Tây soái cũng không làm gì được nữa. Đó là anh ta theo điều sở nguyện của những người đồng hương của anh ta là làm phúc cho nước khác, chứ không phải chỉ nhằm chống Tây soái. Sau khi xong việc, dù có thù lao ít ỏi anh ta cũng vui lòng. Nhưng khi chưa xong việc thì không dám xin gì cả chỉ cấp cho anh ta ăn uống mà thôi. Từ dầu đến cuối, khi làm việc phải giữ hết sức bí mật.

Trên đây là những điều anh ta nói ra, tôi chỉ trình bày sơ qua mà thôi. Theo thiển kiến của tôi thì tất cả những lời dài dòng đó cũng đồng một đường lối như đêm trước tôi đã bẩm với đại nhân.

Tôi lại có hỏi Nguyễn Hoằng về tình thế những điều nghe thấy bên ngoài thì ông ta nói cũng gần giống như vậy. Tuy Tây soái có ý khác nhưng dân buôn bán ở Gia Định thì xôn xao không ngớt. Hơn nữa việc quan Tây và Tây soái ghen công lẫn nhau cũng đã thấu tận Tây triều và phát thành dư luận, khiến anh ta nghe biết được. Hơn nữa anh ta đã từng ngấm ngầm trái chống với Tây soái. Cho nên nếu anh ta lên Kinh thì dù Triều đình ưng hay không ưng cũng cần giữ cho anh ta khỏi bị nghi ngờ. Anh ta cũng khá thông hiểu binh pháp súng đạn và một vài nghề vặt. Nếu như dùng được việc gì thì cũng dễ sai khiến. Chắc chắn anh ta không dám phản nghịch lại ta vì sợ lộ ẩn tình của anh ta. Hơn nữa anh ta lại thông thạo tiếng ta thì việc gì cũng dễ hiểu khỏi cần thông ngôn nữa. Như thế rất dễ dùng hơn người khác.

Tôi thiết nghĩ, hiện nay ba tỉnh đã như ngọc chìm vực thẳm không có cách gì mò lên được, mà lại có người tự mình xin làm việc ấy, ta chẳng phải tốn kém nhiều thì hãy thử một lần nữa xem sao. Đó cũng là chuyện thường tình vậy. Việc này tôi chưa dám bảo đảm sẽ thành, nhưng biết mà không lẽ không nói. Chỉ mong Triều đình tự chọn, tôi đâu dám vì thấy việc khó làm mà không bẩm lên trên. Vì tâm lý con người ta, đối với việc muốn làm tuy còn ngại chưa chắc thành công hay không, nhưng thấy có mối manh có thể lần ra được thì cũng mừng thầm không nỡ bỏ qua. Huống chi đây là việc vì nước vì dân? Nếu như ưng chuẩn cho anh ta lên Kinh, nếu khi ấy tôi đã đi Tây rồi thì xin tư sức cho quan tỉnh Vĩnh Long ngầm sai hai học sinh biết nói tiếng Tây đến mật báo cho anh ta biết và nếu tiện thì đến ngay Vĩnh Long xuống tàu, khỏi cần phải qua Bình Thuận lãnh bằng đi đường bộ cũng được. Nhưng phải báo trước cho các quan ở Vĩnh Long, Bình Thuận biết. Anh ta còn nói rằng nếu như tư cho anh ta ra Bắc thì xin trong tờ tư hãy nói việc khác, nhất thiết không được nói rõ cho các quan khác biết được sự thực. Lại nữa những điều anh ta nói với tôi đầu đuôi mọi việc đều thấy có thể tin được cả. Khi mới đầu anh ta giả vờ như vô tình mà nói, tôi cũng làm như vô tình mà tiếp chuyện, nhưng dần dần vào tròng rồi, tôi mới nói: “Anh có thể làm việc ấy để thành người tốt, làm phúc cho anh em tôi được không?” Anh ta nói: “Cơ hội và đường lối là như thế”. Nếu Triều đình cho phép anh ta được gặp mặt bẩm rõ, xem có thể làm thì làm, không thì thôi. Còn như nghi là có ai xúc xiểm để thử bụng ta như thế nào thì tôi dám chắc là không có điều đó.

Lại như Nguyễn Đức Hậu bẩm thì hiện nay ông ta đã tìm được hai người Tây cũng khá, một người coi việc lái tàu bè thì mỗi tháng phải 300 bạc, một người coi về máy nổ thì mỗi tháng 200 bạc, họ tình nguyện hết lòng chỉ bảo. Nếu việc thuê mướn người của tàu Mẫn Thỏa đã mãn hạn, mà thấy có thể đáp ứng yêu cầu của anh ta thì nhân lúc có tàu cập bến Vĩnh Long hãy báo cho anh ta biết để anh ta cho người đến làm giao kèo, rồi lấy giấy chứng của Tây soái. Như thế không biết có được hay không cũng xin bẩm luôn.
Nay kính bẩm.

DI THẢO SỐ 21

Kế hoạch vận động ở Pháp để giữ ba tỉnh miền Tây*

(19 tháng 9 năm Tự Đức 19, tức 27 tháng 10 năm 1866)

Tôi là Nguyễn Trường Tộ kính bẩm.

Sau khi thuyền Tây từ Kinh về nghe Tây soái trình bày với giám mục rằng: “Triều đình trả lời như vậy. Tuy chưa giải quyết được nhưng sự việc đã có manh mối, cũng nên đợi xem như thế nào”. Còn các quan Tây muốn cầu công thì cho rằng: “Ý của Triều đình hình như chưa dứt khoát, bởi vì nếu rõ ràng thuận theo thỉnh nguyện thì sợ người trong nước bàn tán xôn xao. Nếu ta nhân cơ hội đó mà lấy quách thì rồi Triều đình cũng thuận theo ta thôi và có thể che mắt bịt tai thiên hạ không can ngại gì”. Bọn họ lại nói rằng: “Theo hòa ước Triều đình phải triệt thoái hết các quan viên tiềm tàng trong ba tỉnh ngoài thì ta mới giao trả Vĩnh Long lại. Nay Tây soái đã bắt được bằng chứng rằng các quan viên ở ba tỉnh trong1 đã ngấm ngầm thông đồng với các quản đội, hiện có chứng từ chính xác, rõ ràng là ngấm ngầm vi phạm hòa ước, như thế thì ta lấy lại Vĩnh Long cũng là lẽ đương nhiên vậy!”. Không biết họ nắm được bằng chứng ở đâu mà nói như vậy?

Theo thiển kiến của tôi nhận xét thì ba tỉnh trong vốn nằm trong ý đồ của họ rồi, nhưng hiện tình trước mắt thì cũng chưa chắc đã nhanh chóng rơi vào tay họ được. Vì rằng:

- Một là Cao Miên vốn là một nước nhỏ yếu, khắp nơi có rừng rậm chướng khí, mà quân của anh vua Miên lại xuất nhập bất thường, nếu quân Pháp không ra chống đỡ thì không giữ trọn lời ước bảo hộ để tổn uy vũ đối với thiên hạ. Ví dầu muốn đuổi thú đến cùng rừng thì chẳng khác nào dùng đạn quý bắn chim sẻ, dao mổ trâu cắt cổ gà kể cũng trái lẽ. Nhưng cái thế khó nửa chừng bỏ dở, mà muốn cày quét cho bằng những chỗ gồ ghề thì việc tốn kém không thể kể xiết. Một tên giặc quèn ấy khó mà bù được chỗ đó, một tên giặc bé nhỏ ấy mà khạc chẳng ra nuốt chẳng vào. Nếu như Triều đình họ biết được sự việc đó thì tất cả những lời nói của quan dân lính trước đây đã quay mặt phản đối sẽ có chứng cớ thêm. Như thế chẳng những việc cầu công không thành mà bị lại lộ những điều tâng công trước đây. Có chỗ dùng dằng không xuôi như vậy cho nên tuy trong bụng có ý đồ riêng, cũng phải giật mình vì phải cái sai lầm là vốn lời đều mất.


- Hai là, Triều đình họ đã muốn y theo lời nói của Hà Ba Lý trước đây, lại có tiếng kêu bất bình của dân họ, lại có cái tình của Triều đình ta là phàm việc gì cũng nhường họ một bước, rõ ràng ai cũng nghe thấy, lại có số nửa các quan của họ không muốn nhọc sức làm thân một con chó lập công, lại có giám mục trình bày cái ý muốn hòa của Triều đình ta. Những việc đó Tây soái đều nghe thấy hết cả, trong lòng cũng lấy làm lo ngại đấy, nhưng nếu làm càn tất sẽ có ngày cùng đường mà bỏ bễ cũng nên. Tôi còn thấy lúc giám mục mới đến Tây soái đối đãi rất thân thiết nhiệt tình. Nay thì dần dần lạnh nhạt, có lẽ vì Tây soái nghe được những điều các quan nói, giám mục nói, về sự giao hảo thành thật của Triều đình ta, tựa hồ có căn cứ. Tuy là nói vô tình nhưng trong bụng vẫn mang ẩn ý, chưa chắc sẽ không đang tâm gây chuyện. Thế nhưng cũng khó mở miệng nói với ai, đành ngậm đắng nuốt cay mà thôi. Cho nên xem có vẻ không ưa gì giám mục và tôi. Nhưng cũng bắt buộc phải theo hai đường (một là hòa, hai là lấy) làm việc phiêu lưu cầu may để hãm vua vào cái thế “sự đã rồi tất phải theo” để được công đầu, sau sẽ trút cái gánh khó giữ cho người mới đến để về nhàn du nơi thôn dã. Dầu một ngày kia có vì danh nghĩa ép buộc, mà vua họ đã có lệnh “cho họ về nhà” họ cũng chẳng kể gì. Chuyện đó cũng chưa biết. Đây những ý kiến đoán chừng của tôi không biết có đúng hay không.

Nay tôi muốn nhân lúc giám mục đi Tây xin Triều đình nên viết một bức thư cho Đại học sĩ của Triều đình bên ấy nói rõ ràng tất cả sự lý và duyên do chuyến đi Tây lần này của giám mục để tỏ rõ lòng chân thành của Triều đình ta. Trong thư còn viết thêm một hai điều về những tình trạng khó khăn nan giải như dân tình ba tỉnh ngoài, sự thế ba tỉnh trong và Triều đình ta cũng đã trừng trị những quan đi theo quản đội, để lấy lòng họ. Lại thêm một hai đoạn để tỏ ý như ta muốn thông đồng với họ nhưng vì trong nước còn nhiều chuyện, chưa kịp sắp xếp được. Bức thư này không nên dịch trước ra tiếng Tây, chỉ nhờ giám mục đề bì bằng chữ Tây gửi cho Tây triều mà thôi. Đợi đến bên ấy, tất họ sẽ nhờ giám mục dịch ra, thì thế nào những chỗ mập mờ họ sẽ sinh nghi mà hỏi kỹ, hỏi nhiều thì giám mục cũng trả lời nhiều, như thế ta mới nói hết sự tình được.

Lại xin viết một bức thư nữa giao cho tôi để bí mật gởi cho Hà Ba Lý, trong đó nhắc lại cái tình cảm nồng hậu mà ta đã đối đãi với ông ngày trước, và nói cái tình cảm tốt đối với nhau ấy vẫn còn cho đến mai sau. Như nói trước đây ông thật có lòng muốn trả ba tỉnh, tuy việc không thành là do tình thế, nhưng tấm lòng tất đó vẫn còn mãi. Lại nói, ông là người vốn am hiểu sự thế Nam triều, nay Nam triều như vậy như vậy... nếu ông có cách gì hay giúp cho Tây Nam vĩnh viễn hòa hảo thì xin ông chỉ giáo cho. Đồng thời gởi biếu ông ta một ít món đồ chơi để tỏ tình thân ái. Nhận được thư ấy ông ta sẽ nghĩ lại rằng: “Lòng tốt của Triều đình nước Nam thủy chung như vậy, không vì việc trước kia không xong mà bất bình; trước đây ta có nói qua thế mà được Triều đình ấy hậu đãi, chỉ vì lý do riêng nên việc không thành khiến ta cũng mất mặt. Nay lại nghe lời bàn bạc của Tây triều cũng giống như những ý kiến của ta trước đây, sao ta không nhân cơ hội này mà phụ hoạ vào để thực hiện lời nói của ta trước đây để hả cái hận đã bị khuynh loát trước kia”.

Tôi cũng lấy cái tình thân thiện bí mật viết cho ông ta một bức thư nói sơ cho ông ta biết nỗi khổ tâm của Triều đình ta và hình như có ý muốn đem việc quan trọng nhờ ông ta, nhưng còn sợ trở ngại nên giấu kín không nói ra. Ông ta vốn đã hận Tây soái lại đọc thư tôi nghe kể sự thế hiện nay ở Gia Định như vậy tất sẽ bất bình nghĩ cách đối phó với Tây soái và sẽ không làm lộ chuyện của ta mà ta thì ngấm ngầm được lợi.

Trên đây là ý kiến thô thiển của tôi, không biết có nên hay không. Nếu thấy dùng được xin trả lời gấp, để sớm lo liệu.
Nay kính bẩm.


Hai tập này không dám đưa cho Tây soái sợ chuyện tiết lộ. Vì vậy xin phái quý viên thân hành mang đến Vĩnh Long để gởi gấp.
Nguyễn Trường Tộ ký


________________________________________
*. Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 127-131
    Hv 534/4 tờ 20-27
    Bài này được viết tại Sài Gòn và gởi cùng lúc với văn bản số 20.
1. Nội tam tỉnh, tức 3 tỉnh Miền Tây, gồm Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.

DI THẢO SỐ 22

Báo cáo về việc gặp viên lãnh sự Tây Ban Nha*

(26 tháng 9 năm Tự Đức 19, tức 3 tháng 11 năm 1866).

Tôi Nguyễn Trường Tộ kính bẩm.

Tôi và Nguyễn Hoằng được Hiệp biện đại nhân bí mật dặn dò đã cùng phái viên lẻn đến gặp viên lãnh sự Y Pha Nho. Lúc đầu, chúng tôi chỉ nói chuyện tình thế hiện nay. Thấy ông tỏ ra bất bình về việc người Tây mượn cớ phá điều ước cũ, chúng tôi khi ấy mới đem những mật ý của đại nhân nói rõ với ông ta. Chúng tôi nói: “Triều đình chúng tôi trước đây có chỗ thiếu sót đối với quý quốc, đó chẳng qua là do tình thế khác gây nên, chứ không phải bản ý của Triều đình chúng tôi. Hiện nay Triều đình chúng tôi vô cớ bị quan Tây đòi hỏi quá đáng, không biết lấy gì đáp ứng nổi. Lại nghĩ đến hòa ước trước kia vốn do nước Tây và quý triều lập nên, nhưng đại tướng của quý Triều đình đã không đòi chia đất, mà còn có thư nói “Được đất thì mất anh em”, mới thấy ý kiến của quý triều và người Tây ngược nhau như thế nào. Nay quan Tây lại muốn sinh sự nữa rõ ràng là khinh nhờn quý triều, tựa như coi điều ước của đồng minh trước đây là không đủ căn cứ. Vì thế Triều đình chúng tôi lấy làm lạ dám đem việc bí mật này đến thưa hỏi chứ không như thói thường là có chuyện mới đến cầu cứu, xong chuyện thì thôi1”.

Ông ta liền nói: “Tây soái việc gì cũng tự ý chuyên quyền, mà Tây triều thì chỉ bằng vào một phía ý kiến của Tây soái mà thôi chứ không đối chất gì, không có ai bên cạnh để giúp Nam triều cả. Đại phàm con người ta giữa đường thấy sự bất bình lòng còn căm tức rút gươm thay. Nay bản chức tuy hèn mọn chưa đủ quyền sức để giúp đỡ Nam triều, mà bản triều với Tây triều thì sức lực ngang nhau lại là nước thông gia với nhau, nếu Nam triều tin tưởng thì hãy viết một bức mật thư giao cho bản chức, bản chức sẽ chuyển đệ về bản triều nhờ tìm giải pháp. Bản chức cũng sẽ viết một bức thư riêng nói rõ Nam triều khiêm cẩn như thế nào, ba tỉnh ngoài sinh loạn như thế nào, cũng những lý lẽ mà Tây soái vin vào đều chưa chân xác. Ta đồng minh với Nam triều, mà nay có thư đến trình bày sự việc như vậy lẽ nào ngồi nhìn mà không nói một lời? Dù có nói mà Tây triều nghe hay không nghe mặc họ ta cũng tránh được tiếng xấu. Nhưng nếu Nam triều không nói một lời để làm chứng thì tựa hồ đặt bản triều ra ngoài cuộc, mà bản triều lại vội lắm lời đến việc không liên can gì mình thế cũng không hay. Nay nếu Nam triều thấy có thể nói được điều đó với bản chức thì nên bí mật gửi gấp cho bản chức một bức thư. Một mặt bản chức lấy bức thư của quý triều kèm theo bức thư của bản chức nữa đệ về, một mặt tin cho lãnh sự ở Tích Lan (ở Đông Nam Ấn Độ, nay đã có đường dây điện tín đặt tới nước Anh) nhờ đánh điện tín cho bản triều biết trước. Vả lại năm ngoái có một số người ngoài Tây triều cũng tỏ ý muốn theo lời Hà Ba Lý, nay tuy đã muộn rồi, nhưng nếu có bản triều bàn vào tưởng họ cũng sẽ hồi tâm. Như thế không những có thể duy trì ba tỉnh trong mà còn thuận tiện cho việc đề cập đến ba tỉnh ngoài”.

Đó là lời nói của viên lãnh sự. Xem sắc mặt và khẩu khí của ông ta thấy tỏ ra thành thật chứ không có gì xảo trá. Ông ta lại nói: “Những việc làm của người Tây thấy cũng đáng hoan nghênh, chỉ vì Triều đình không biết đường lối nên Tây soái mới có những manh tâm khác lạ”. Ông ta cũng đã từng nói chuyện với giám mục. Xem lời nói của ông ta thì quả thật là nghĩ sao nói vậy chứ không có ẩn ý muốn thử lòng ta. Tôi thiết nghĩ, hiện nay tình hình ba tỉnh rất khẩn cấp mà các lý lẽ viên lãnh sự trình bày cũng rất đúng. Vậy chi bằng nhân đây khéo đãi ngộ hắn để mượn hắn dùng vào việc của ta. Xét sự thế trước sau, thì việc ấy kể cũng nên làm, chẳng can ngại gì. Bởi vì: Một là vì trước kia nước Y Pha Nho cũng dự vào việc ký điều ước. Nay người Tây tự ý một mình bội ước, nếu Y triều không có một lời với thiên hạ thì rõ ràng là họ cũng đồng lòng. Hai là, theo cái thế tung hoành của họ, như trong Lục lợi từ trước kia tôi đã nói, thì nước Y với nước Tây vốn ở gần sát nhau, mà nước này dần dần lớn mạnh lên thì cũng chẳng lời gì cho nước kia. Nếu một khi xảy ra việc đánh chác với ai thì nước Y là nước đầu tiên bị họ kéo quân qua. Nay đã có cơ hội có thể dùng để chế ngự nhau thì dù được hay chưa được cũng phải làm để khỏi hối hận đã bỏ mất cơ hội. Ba là, viên lãnh sự này có chỗ không ưng Tây soái mà lại muốn thông tình với ta để được tiếng với Triều đình rằng ông ta là một người khéo ngoại giao. Nếu việc thành thì cũng đủ rạng danh là người có sức làm được việc khó. Với ba lý lẽ đó, nếu nay ta đem ra làm thì đó cũng chính là điều mong muốn thiết tha của ông ta.

Nay ba tỉnh trong của ta đã bức bách như thế, mà muốn tìm đường giải tỏa thì phải nói cho nước Y biết. Đó cũng là lý đương nhiên mà còn hợp với thế tung hoành nữa. Dù sau này Tây soái biết được cũng khó tranh chấp với ta. Nếu lấy việc đó mà trách ta, thì rõ ràng là giận cá chém thớt, khinh miệt nước Y Pha Nho, ngăn cản không muốn họ thân thiết giao hảo với ta. Nước Y tuy hơi yếu nhưng là một nước lớn ở phương Tây, vốn có cái thế tung hoành liên hợp mà lại không biện bác nổi với một quan Tây thì còn gì là quốc thể nữa? Nay nếu ta dùng lời khéo léo gởi đến họ, đợi đến khi sự việc đã tỏ rõ thì dùng cách khích họ để mời họ. Đó là cái kế của Triệu xu Ngày, không biết như thế có được không?

Lại có một kế nữa là, nước Y rất trọng đạo giáo. Giám mục của họ cũng có quyền lớn. Năm trước họ hưởng ứng chính sách của người Tây là vì ta giết hại giáo sĩ của họ. Nay nếu một mặt viết thư cho các giám mục người Y ở miền Bắc nói rõ nước Y với ta có tình giao hảo với nhau. Nay người Tây khinh thị nước Y, đem lòng bội ước. Trước đây nước Y đã giao hẹn với bản quốc là chuyên lấy đạo giáo làm trọng, không làm điều chia cắt chiếm cứ. Đó chính là điều nước Y mong muốn. Còn người Tây thì lại muốn ngấm ngầm phản bội. Nay Triều đình nghe được các giám mục cùng với nước họ có thể đương đầu được. Vậy nếu được thì gửi thư cho tổng đốc Lữ Tống nói rõ lý do tại sao lại như thế để xem có cách gì có thể giúp đỡ cho một vài phần không, như thế thì đạo giáo lại được cái lợi lớn mà sau này tấm tình kiêm ái của Triều đình cũng tăng thêm. Nay theo cái kế ấy một mặt thì dọa dẫm họ, một mặt câu nhử họ tưởng cũng có thể giúp được ít nhiều.
_________________________________________
*. Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 139-144
    Hv 634/4 tờ 37-51
    Tờ này được viết lúc Nguyễn Trường Tộ ở Sài Gòn chờ tàu đi Pháp.
1. Nguyên văn dùng câu tục ngữ “Cấp lai bão Phật”, nghĩa là khi có việc gấp rút ngặt nghèo không biết làm sao thì đến ôm Phật mà cầu cứu.



Lại có một kế nữa, nguyên trước đây Tây soái thâm tâm muốn lấy miền Nam lắm, nhưng chưa có chứng cứ rõ ràng. Nay họ đã cho thuyền lên Kinh dùng các lý lẽ yêu sách như vậy là có chứng thực rõ ràng rồi. Nay hoặc Triều đình nhân lúc bên Tây có lệ đấu xảo, sai một viên sứ mang nhiều mặt hàng hiếm lạ sang giả nói rằng: Nay Tây Nam đã hòa hảo rồi thì Nam triều có gì Tây triều cũng thơm lây, do đó sai sứ sang Tây dự đấu xảo và vấn an Tây triều luôn, để tỏ tình tương hợp với nhau. Lại viết một bức quốc thư giấu kỹ, đợi sang bên đó dò được rõ ràng ý lừng chừng của Triều đình họ như trước đây tôi đã bẩm, cũng như Di Minh đã nói và Hà Ba Lý nói, cũng như những nghị luận của quan Tây dân Tây, cùng là những lời bàn của giám mục, lại thêm sự biện giải của Y triều, khi ấy mới đem thư ra trình bày như thế, như thế. Viên sứ của ta một mặt lại đem thư cho Y triều, và cũng nhân trên đường đi mà thăm hỏi Y triều luôn. Lại cũng nên đi qua nước Anh, nước Nga du lịch để mở rộng kiến văn. Triều đình họ thấy ta biết được cái kế của họ như thế và những việc làm của họ đều là vô cớ hiếp đáp khinh thị ta thì tất cả sẽ hồi tâm suy nghĩ. Hơn nữa, năm trước Triều đình họ tuy có bí mật bàn việc muốn thông con đường phía sau sông Cửu Long, nhưng họ đã sai người sang thám hiểm hai lần thì thấy ở đấy hiểm trở khó thông mà dân Cao Miên thì lại mọi rợ ngu đần khó chiêu mộ sai khiến. Cho nên họ muốn lấy sáu tỉnh của ta để làm cửa trước mở “ba hang” như tôi đã bẩm ở đoạn cuối bài Khai hoang từ. Tôi nghĩ rằng Triều đình họ ngày nay cũng đã chán nản phần nào, lại thêm hiện nay họ đứng chưa vững, nếu cứ tham đi theo con đường khó đi, để nửa đường hỏng mất cái công sắp thành, hoặc giả sau này Nam triều thấy được nhân tâm mà dùng cái thuật tung hoành thì sẽ xử trí như thế nào? Hơn nữa, mấy lâu họ đã lo sợ thế lực lớn mạnh của người Anh ở phương Đông, khó mà giữ được người Anh không tìm cách mưu lật mình, tất họ phải sợ già néo thì đứt dây mà xảy đến những việc không ngờ. Đại phàm càng lão luyện trong chiến trận thì càng rõ cái lý thế đó. Đừng bảo Triều đình họ không có người nghĩ đến điều đó. Hơn nữa con đường Vân Nam Tây Tạng họ vẫn chưa quên, nay vì đường phía Tây hiểm trở khó qua, nên cũng có thể họ sẽ thuận tình với Nam triều để mong có thể thực hiện cái kế mượn đường phía Đông. Dù họ chưa cam tâm, nhưng ta chỉ cần được thư giãn phen này để mưu đồ kế sau. Vậy thì nhân lúc hiện nay họ còn ở tâm trạng do dự chưa dứt khoát nhất định, mà làm cái kế hoãn binh chắc cũng dễ. Tuy Tây soái nghi ta sang dự đấu xảo không thể không có ý đồ gì khác, nhưng làm sao ngăn cản được việc ta đi vấn an nước bạn? Tự hắn sẽ nghĩ bụng: “Nếu không thong thả chờ xem nên chăng thế nào vạn nhất Triều đình ta có ý kiến gì mới hoặc Nam Triều tìm được một thế lực nào khác, thì khó mà chạy chối cái tội giả dối để cầu công và ngăn cản những ý kiến chính đáng, khiến bao nhiêu công lao của ta ngày trước chẳng hóa ra công dã tràng sao?”.

Lại có một kế nữa là, nay những sự việc họ yêu sách đã rõ ràng rồi, nên ta có thể gửi trát cho các gia đình có danh vọng cùng lập một tờ ký tên tất cả vào nói rằng: “Nghe tin Tây soái tìm cớ bức hiếp bắt nhường ba tỉnh trong, tuy Triều đình bị đại thế bức bách không dám nói ra, nhưng dân tình không thể nào chịu được. Năm trước nhân dân ba tỉnh ngoài đã có ý góp tiền xin chuộc lại, không phải vì họ không ưa đường lối chính trị nhân đức của Tây, nhưng vì bị Tây soái ỷ thế làm điều phi pháp như thế. Cho nên nhân dân thất nghiệp không biết nương náu vào đâu, phải tụ tập mà sinh ra trộm đạo. Thế mà Tây soái đã không biết lỗi mình lại đổ điều oán cho Triều đình để bắt ép lấy ba tỉnh. Nếu quả như thế thì dù Triều đình không có cách gì chống đỡ nhưng chúng tôi sẽ tìm cách cầu cứu. Chẳng nghe chuyện Hòa Tri Lan người Hà Lan đã trục xuất người Y Pha Nho đó sao? Nhân dân chẳng ai phục thì làm sao có thể giết hết tất cả được? Nếu không được thì chúng tôi thà nhảy xuống biển Đông làm thần sóng cho rồi chứ không nỡ nhìn thấy cảnh lũ chuột hại người như vậy”.

Một mặt viết thư cho Đại học sĩ Triều đình họ nói rõ việc sáu tỉnh của Triều đình ta là chỗ nương tựa của Bắc kỳ. Từ khi thuận nhượng, dân ở Bắc mất chỗ nương tựa oán trách Triều đình. Cho nên mấy lâu dân tình sôi sục không yên. Họ muốn quyết một phen thắng phụ với quý quốc (nhân họ có bụng sợ dân Bắc kỳ một vài phần) dầu họ không biết lượng sức cũng cứ đưa tay không ra mà chống xe. Bốn năm năm nay bản triều đã tốn nhiều công sức vẫn chưa giải dụ xong, xếp đặt chưa ổn. Đó là do lòng oán giận của mọi người mà gây tai họa cả, chứ bản triều rất tha thiết ở sự thành thật giao thiệp, sợ mất tình thân đối với quý quốc. Thế mà người ta cứ trách móc thật lấy làm khổ tâm lắm! Nay quý soái lại có ý định khác, dân miền Bắc nghe tin ai nấy đều xôn xao bàn tán. Nếu họ lại trái mệnh làm nghịch như quản đội trong Nam sẽ tổn thương đến thể diện quý quốc. Nếu quý soái không soi xét rõ ràng thì bản triều đã khổ lại càng khổ thêm. Vả lại, bản ý của quý quốc là muốn thông thương giao hảo với bản quốc. Nếu cứ để kéo dài sự xôn xao như thế, chẳng những khó xử cho bản triều mà cũng chẳng có lợi gì cho quý quốc cả.

Thư này kèm với thư của dân tỉnh trong gửi sang Tây triều. Có chừng ấy cách may ra có thể cứu vãn được sự thế.

Tóm lại, hiện nay sự thế ba tỉnh trong đã khá bức bách. Sự thế ba tỉnh ngoài cũng gần có cơ rồi, mà Tây triều thì còn đang ở cái thế lưỡng lự. Nay Triều đình ta phải nhanh chóng kiếm kế duy trì, nếu đem hết sức người ra mà yên được ít nhiều cũng là phúc cho sinh linh, nhưng nếu hết sức rồi mà không được là do trời thôi. Như thế cũng có thể đem tấm tình này mà tạ cùng thiên hạ và lưu lại ngày sau lòng luyến nhớ việc cũ, để ngõ hầu thu phục giang sơn sau này. Nếu nói sợ việc không thành mà vội hiềm nghi, thì ta nay có điều gì đáng hiềm nghi mà chịu để cho họ yêu sách ta sao? Chẳng qua là do lòng tham xui khiến họ mà thôi. Nếu cứ theo cái lòng tham ấy thì dù có cớ hay không có cớ, chỉ cần có cái thế có thể lấy được nước ta là kiếm cớ trách ta thôi. Như thế việc gì ta cũng làm vui lòng họ được sao?

Nay ta đã đem hết sức làm để thực hiện kế duy trì thì không kể gì tốn kém, tất cả là vì lòng yêu dân mà thôi. Nhưng họ lại lấy cái việc ta mưu tính vì dân, cho đó là cái cớ để gây sự thì đạo trời lẽ đâu không có ngày soi sáng cho cái án này? Thế thì nếu vì tỵ hiềm mà cuối cùng để cho mất thì chi bằng cứ mặc cho hiềm nghi mà làm được việc có hơn không? Vì rằng nếu không có một lần làm cho minh bạch thì cái kế tâng công của Tây soái sẽ ngày càng sâu đến nỗi ta không hơi sức đâu mà đối phó nhiều rắc rối nữa chứ không chỉ có thế mà thôi đâu.

Tôi có mấy ý kiến thô thiển như vậy, không biết có được haykhông. Nếu cần thương thuyết với lãnh sự thì xin tin cho biết gấp (khoảng trong vòng 20 ngày) sợ chậm sẽ không kịp.
Xin kính bẩm.


Lục bộ liệt vị đại nhân soi xét.

Nguyễn Trường Tộ ký.

Châu phê:

Bài này sự lý uẩn khúc rắc rối, nếu không hiểu sâu những sự lý từ trước đến nay giữa hai bên Tây và Nam thì không thể hiểu được mạch lạc.


DI THẢO SỐ 23

Báo cáo về một số việc cần làm*

(25 tháng 9 năm Tự Đức 19, tức 3 tháng 11 năm 1866)

Tôi Nguyễn Trường Tộ kính bẩm.

Hiện nay người Tây mới chế ra loại súng điểu thương mỗi phút (một giờ 60 phút) bắn được 100 phát. Không biết Triều đình có ưng mua một khẩu về làm mẫu chăng?

Lại có di Minh bẩm rằng, nếu thuận lời xin của anh ta, anh ta đã có nhiều anh em về Tây làm kế phản gián. Anh ta xin tự cải thành người Anh, trở về nước Anh phao tin khắp nơi để làm xao động Tây triều. Sau khi xong việc anh ta sẽ về nước ta trở lại cư trú và lấy vợ người mình (Người Tây vốn có cái lệ đó, cho nên anh ta làm được không trở ngại gì).

Trước đây có hai vị quan Tây, một là quan hai lục quân, một nữa là quan ba thủy quân đều đã từng nói với Nguyễn Hoằng, muốn Nguyễn Hoằng xin cho họ được lên Kinh làm người giúp việc. Đó là tình thật. Vì tính tình của người Tây thường thường như thế, tôi đã biết rõ, chứ không phải có ai khác xui khiến mà làm như vậy đâu. Xem thế thì điều “Tìm người để giúp bên trong” mà tôi đã bẩm trong Lục lợi từ trước đây đã có cơ hội rồi đấy.

Lại xin Triều đình đề phòng ở biên giới phía Bắc. Hiện nay nghịch đảng đã tụ tập ở Hương Cảng, cũng đã có người qua lại Gia Định để chiêu mộ người theo.

Lại bẩm nếu như Triều đình sai sứ đi Tây thì xin cho tôi được đi cùng để có thể cùng với phái bộ biện bác với Tây triều, vì nếu không có tên thì họ sẽ không coi ra gì. Việc xin này là vì công hay tư ngày sau Triều đình sẽ biết rõ. Về thông ngôn thì dùng Nguyễn Hoằng suốt từ đầu chí cuối mới được. Còn giám mục thì nhờ nói giúp cho một hai lời, như thế mới được việc. Nếu muốn thi hành kế gấp này thì xin khởi hành ngay mới được.

Tôi hễ biết thì nói, nếu không hợp sự lý xin Triều đình lượng thứ cho cái tội ngu muội không phải ấy.
Kính bẩm.
_______________________________________
*. Bản chữ Hán: Hv 189/1 tờ 122-123. Viết tại Sài Gòn trong lúc chờ tàu đi Pháp.


DI THẢO SỐ 24

Kế ly gián giữa Anh và Pháp*

(18 tháng 11 năm Tự Đức 19 tức 24 tháng 12 năm 1866).

Nguyễn Trường Tộ kính bẩm.

Năm trước trong bài Lục lợi từ ở đoạn thứ năm tôi có nói: Nếu vạn nhất xảy ra việc gì, thì thế lực của người Anh ở phương Đông mạnh mẽ sẽ tranh hùng với người Pháp để bù lại chỗ thua thiệt trước kia. Việc đó sẽ xảy ra khi nào nước Pháp có nội loạn, bấy giờ họ sẽ cướp lấy mối lợi bên ngoài của Pháp. Hiện nay nước Pháp chia làm ba đảng.

Một đảng nói: Ba, bốn năm nay, vô cớ đi đánh nhau với quân Mặc Tây Ca1 ở Tây Châu tiêu phí vô kể mà chẳng được cái gì cả để đến nỗi phí công vô ích. Đó là do lòng tham hay gây chuyện đánh nhau mà ra cả. Nay lại đóng thuyền hạm2 toan muốn đi theo vết chân cũ vua bác3 trước, khiến nước nào cũng rất ghét. Nếu cứ theo cái đà này thì nhà vua ắt sẽ bị mối họa đại loạn không thể lường được.

Một đảng khác cho rằng nhà vua làm nhiều việc độc đoán, không công bố các lẽ phải trái cho mọi người trong nước được biết, hơn nữa còn dần dần làm cho người trong nước mất tự do, bị nhiều điều bó buộc, không hợp với thể lệ của các nước phương Tây. Chi bằng phế bỏ mà đi theo phép lập Tổng thống như ở Hợp Chủng Quốc. Vì nước Pháp trước kia cũng đã có lệ ấy rồi.

Một đảng nữa cho rằng Giáo hoàng La Mã là cha chung của các nước. Đối với các nước phương Tây, nước Pháp được coi như là con cả của Giáo hoàng. Trong các công việc của Giáo hội, nước Pháp xưa nay vẫn đứng đầu. Năm trước ở La Mã có loạn, vua Pháp đã đem quân sang đánh giữ, nay không biết vì cớ gì lại rút về làm cho nước Pháp mất mặt với thiên hạ, không xứng với danh hiệu con cả.

Cả ba đảng này đều mưu việc phế lập, nhưng ý kiến bất đồng tất sinh mối loạn.

Lại 50 năm trước đây dòng nhà vua có người chạy sang nước Anh, hiện nay đang còn bên ấy. Người Anh cũng theo giúp đỡ để lấy tiếng là nước rộng rãi biết thu nạp người ngoài, điều đó cũng chưa biết được.
_______________________________________
*. Bản văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 133a-138
    Hv 634/4 tờ 27-37.
    Viết tại Sài Gòn trước lúc lên tàu đi Pháp.
1. Mặc Tây Ca tức Mêhicô, ý muốn nói đến cuộc chiến tranh tốn kém và vô ích do Napoléon III chủ trương ở Mêhicô (từ tháng 1-1862 đến tháng 3-1867).
2. Thuyền hạm: Năm 1859, Napoléon III cho đóng chiến hạm thiết giáp đầu tiên, trước cả Anh nữa, làm cho hải quân Pháp trở nên hùng mạnh.
3. Vua bác: tức Napoléon Bonaparte, ý nói chủ trương bành trướng gây chiến tranh khắp nơi như Napoléon Bonaparte. Napoléon III là con cả của Louis Bonaparte, em ruột của Napoléon I.


Mới đây Phổ Lỗ Sĩ đánh nhau với nước Áo Đại Lợi1 mà người Nga lại đem quân đến đóng ở biên cảnh phía Bắc Thổ Nhĩ Kỳ toan muốn đánh hùa. Người Pháp thì lại muốn lập một người phương Tây làm vua Mặc Tây Ca2, nếu việc không thành bị mọi người cười chê. Theo tình hình hiện nay như thế thì sự việc sau này chưa biết sẽ kết cuộc ra sao.

Tôi cho rằng nước họ tất có một phen đại loạn, mới phù hợp với lời bẩm trước kia của tôi rằng 10 năm có một kỳ khôi phục. Nếu có loạn thì không tránh khỏi việc họ lấy Gia Định đổi cho người Anh, bằng không người Anh cũng sẽ chiếm chỗ của Pháp, đúng như trong Lục lợi từ đã nói, mất Tần này thì lại sinh Tần khác. Vậy mong Triều đình sớm phòng trước để đợi sự biến xảy ra.

Khoảng tháng ba, tháng tư năm nay có một quan khâm sai người Tây đến thám sát ở Gia Định trở về tâu với vua Tây rằng: Sự thế ba tỉnh không có gì khả quan. Nay lại có người anh của vua Miên3 gây loạn, cậy có chỗ hiểm yếu chống lại Pháp, quân Pháp phải chạy tháo thân, nhuệ khí sút kém. Mọi người đều nói rằng Tây soái tất sẽ bị tội phải triệu về thôi!

Nay có một kế rất hợp với sự thế nhưng phải có người khéo ứng đối mới làm được. Năm trước Tây soái có viết thư nói với vua Xiêm La rằng tất cả những thuộc quốc của Xiêm La ở miền thượng du sông Khung4 không được bắt họ cống nạp nữa, hãy để họ tự trị. Cũng như năm trước họ đã bắt ta không được nhận Cao Miên làm nước thuộc hạ. Người Xiêm đã biết cái kế môi hở răng lạnh. Nay tuy người Pháp và người Anh cùng ở trên đất Xiêm, nhưng người Xiêm có cảm tình nồng hậu với người Anh hơn. Nay nếu ta cho người đi đường tắt đến nói với vua Xiêm rằng: Ta và họ vốn là đồng bệnh. Nay người anh của vua Miên đang làm cho Pháp khốn đốn. Sao ta không ngầm giúp vào để cho người Pháp nguy khốn thêm? Thế mới có lợi cho cả họ và ta. Lại khéo dùng lời lẽ bảo vua Xiêm nói với quan người Anh rằng, nước Miên vốn là nước thuộc hạ của ta, lại có lợi lớn của biển hồ. Từ khi người Pháp chiếm cứ đến nay, họ đã làm cho nước Miên hao tốn rất nhiều. Ta vì nghĩa mà muốn cứu, nhưng thế lực người Pháp to lớn, nếu không có người Anh giúp sức thì Miên không thể chi trì nổi mà cuối cùng sẽ rơi vào tay người Pháp mất. Người Pháp đã có thiên nhiên hiểm yếu của Gia Định, nếu đề họ chiếm trọn cả Cao Miên nữa thì chẳng lợi gì cho Anh. Nay nếu Anh nhân lúc người anh vua Miên đang thắng mà ngầm cùng ta giúp Miên, sau khi thành sự lợi sẽ chia đôi. Vả lại, người Anh đã có quân lính người Đồ Bà cùng một chủng tộc với người Miên, nếu cho lẫn trộn với lính Miên người Pháp cũng không thể phân biệt được. Như thế không có gì trở ngại. Lại nói: Người Pháp tham lam vô độ, sau này sẽ sinh bụng này khác. Nay nếu vua Xiêm làm cho Anh Pháp tách ra khỏi nhau thì đó cũng là một lợi lớn cho Xiêm. Nếu kế này được thi hành thì người Anh một là sẽ cùng người Xiêm chia nhau phần đất; hai là đóng căn cứ ở miền thượng du đợi lúc nào sơ hở thì tràn xuống phía Đông đánh chiếm sào huyệt Gia Định để bù lại chỗ thua thiệt ngày trước. Như vậy ắt người Anh sẽ nghe theo. Rồi sau đó ta cho người đến mật báo với người anh vua Miên (Phải dùng lời lẽ khéo léo xúi người anh vua Miên) rằng Anh Pháp vốn có thù với nhau lâu đời. Nếu mượn kế làm cho Anh Pháp hiềm khích nhau thì mới hả cái hận người Pháp đã bảo hộ vua Miên. (...). Người Pháp bấy lâu đã có bụng nghi, không biết người nào ngầm giúp anh vua Miên mà dám hung hăng như vậy. Nay nghe tin này họ chắc chắn sẽ gây chuyện với người Anh. Hơn nữa người Pháp được biết người anh vua Miên muốn lấy lại sáu tỉnh thì sẽ không nghi ta ngầm giúp cho người anh vua Miên. Vì rằng người Pháp đã từng bị người anh vua Miên làm khốn đốn, bị tốn uy vũ rất nhiều, không biết tìm lối nào để lấp liếm cái sở đoản và chữa thẹn cho mình. Nay nghe có người Anh giúp sức, tuy có vài ba phần chưa tin nhưng họ cũng vội vàng ra đương đầu để biểu dương với thiên hạ bảo vệ tiếng tăm cho mình. Nếu người Anh có đồng mưu thì sẽ nhận không chối và người Pháp sẽ gây hấn lớn với người Anh. Còn nếu người Anh không có đồng mưu thì sẽ mạnh bạo biện bác với Pháp. Người Pháp đã lỡ nói cũng sẽ không chịu nhận sai, thế tất sẽ có sinh sự xảy ra.

Hoặc là nói với người anh vua Miên rằng: “Người Pháp rất sợ người Anh, nay nếu nghe nói là người Anh ngầm giúp, một mặt thì mua khí giới của người Anh và bí mật mượn một người giỏi Anh văn làm các loại nhật ký hành sự và sắm các thức ăn dùng của người Anh. Có dấu chữ của người Anh rồi giả cách làm như thua chạy vứt bỏ vương vãi ra để cho người Pháp lượm được, hoặc thả cho trôi từ các thượng lưu sông về để Pháp lượm được thì tất họ sẽ nghi trong lính Miên có người Anh, họ sẽ không dám hành quân đi sâu. Nếu không sớm dùng kế này thì dù có nhờ vào sự kiên cố mà thắng được thì cũng chỉ tạm thời thôi, vì người Pháp quá xấu hổ thành ra giận mà nuôi chí phục thù không thôi, sau này khó giữ được khỏi hoạn nạn”. Nếu người anh vua Miên dùng kế sách này làm cho Anh Pháp tách rời nhau thì ở đây công của Tây soái không thành tất sẽ phải về triều chịu tội. Và cái kế “Con thỏ có ba hang” trước đây cũng không thi thố được. Vả lại ở phương Tây, thì người Anh hoặc sẽ nhân lúc nước Pháp có biến cố mà ra tay khống chế trước. Đó là cái lý thế tung hoành phải làm như vậy. Nhưng ta phải khéo biết cách ly hợp mới được. Ở nước Xiêm đã có nhiều người dân ta bên đó. Ở đấy họ rất được vua Xiêm tin dùng. Tôi cũng có quen biết, nếu muốn sang họ thì phải cải trang mà đi, giả làm người buôn bán, trước là thông ngõ ngách, dò xem ý họ thế nào, sau mới bí mật thổ lộ với vua Xiêm như thế, như thế thì Xiêm cũng như ta cùng một mối hận, tất sẽ cùng chung rửa hận. Nếu thấy khó thừa cơ hội được thì lặng lẽ trở về chỉ để một mình người anh vua Miên làm kế đó cũng được. Như việc đó mà không được thì cũng nên cùng với người Pháp đắp đê trút nước về bên Miên, để tránh hoạn nạn cho ta để trả thù vua Miên trước đây phụ ơn mà bỏ ta. Và nhân đó mượn uy chiêu dụ các dân ở thượng du sông Khung, như trong bài Khai hoang từ tôi đã bẩm để đợi khi nước Pháp có biến thì thừa thế mà lấy toàn bộ Cao Miên để làm sào huyệt phía Nam, vì khi ta hợp tác với người Pháp thì ta cũng đã có căn bản ở bên Miên rồi. Hai con đường như vậy không biết có được không?

Kính xin lục bộ đại thần soi xét.
_____________________________________
1. Chiến tranh Phổ - Áo xảy ra khoảng tháng 7-1866. Nga ủng hộ Phổ, Pháp thì lo ngại Phổ lớn mạnh bao trùm tất cả các dân tộc Đức, không muốn cho Phổ thắng Áo, nhưng Phổ đã đè bẹp Áo ngay trong trận đầu, Pháp muốn ra tay giúp Áo, nhưng bận ở Mêhicô.
2. Vua Mặc Tây Ca: Pháp đã giúp cho Đại Quận Công (Gard duc) Maximilien, người Áo lên làm vua ở Mêhicô từ 12-6-1864. Maximilien chỉ giữ được ngai vàng là nhờ sự hiện diện của quân đội Pháp. Tháng 3-1867, Pháp rút hết quân đội khỏi Mêhicô, Maximilien bị bắt và bị hành quyết tháng 5-1867.
3. Anh vua Cao Miên là Poukombo bắt đầu khởi nghĩa từ tháng 5-1866 và đánh cho Pháp thua nhiều trận liểng xiểng. Tháng 7-1867, Pháp xua đại quân và đẩy lùi được Poukombo. Tháng 12-1867 Poukombo bị bắt và bị hành quyết.
4. Sông Khung: Khung giang tức sông Cửu Long.

Không có nhận xét nào: