Phần V
Cận Kim Thời Đại
CHƯƠNG XII
Nguyễn Vương Nhất Thống Nước Nam
11. Nguyễn Vương Ánh ở Tiêm La 12.
Nguyễn Vương về lấy Gia Định 13. Nguyễn Vương sửa sang mọi việc ở Gia Định 14.
Việc khai khẩn điền thổ 15. Việc buôn bán 16. Ông Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh ở
Pháp về 17. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ nhất 18. Thế lực Tây Sơn 19.
Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ hai 20. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ
nhất 21. Quân Tây Sơn vây thành Bình Định 22. Nguyễn Vương thu phục Phú Xuân
23. Võ Tính tử tiết 24. Nguyễn Vương lên ngôi tôn 25. Quân Nam ra lấy bắc hà
1. Nguyễn Vương Ánh ở Tiêm La.
Tháng tư năm ất tị (1785), ông
Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La ở Mỹ tho, Nguyễn Vương thế cô, lại phải sang nương
nhờ nước Tiêm. Đến khi các tướng sĩ đã biết ngài ở Tiêm La, đều lục tục kéo
sang bái yết, bấy giờ có quan cũ là Lê Văn Câu (còn gọi Quân hay Duân) đem 600
người sang theo giúp. Vua nước Tiêm để cho người Việt Nam ở riêng một chỗ gọi
là Long Kỳ, ở ngoài thành Vọng Các (Bangkok) 133 .
Nguyễn Vương bèn phân trí mọi người
đi làm các việc: người thì đi làm ruộng để lấy thóc gạo nuôi quân, người thì đi
ra các đảo làm sẵng chiến
133
Nay ở Bangkok có một chỗ gọi là làng
Gia Long tức là chỗ Nguyễn Vương ở ngày trước. thuyền, người thì đi lẻn về Gia
Định, chiêu tập những kẻ nghĩ dũng để đợi ngày khôi phục.
Lúc bấy giờ nhân có quân Diến Điện
sang đánh Tiêm La, Nguyễn Vương cùng với bọn Lê Văn Câu, Nguyễn Văn Thành đem
quân bản bộ đi đánh giúp nước Tiêm. Nguyễn Vương lại có công trừ được những
giặc Mã Lai thường vẫn hay đến quấy nhiễu ở mặt bể. Bởi vậy cho nên nước Tiêm
lại càng trọng đãi vua tôi nhà Nguyễn.
2. Nguyễn Vương Về Lấy Gia Định.
Trong khi Nguyễn Vương còn phải
nương náu ở đất Tiêm La, ông Nguyễn Huệ tiến binh ra Bắc Hà giết Trịnh Khải,
tôn vua Lê, rồi về được phong là Bắc Bình Vương, đóng ở Phú Xuân. Ông Nguyễn
Nhạc xưng là Trung Ương Hoàng Đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương vào giữ
đất Gia Định.
Nhưng chẳng được bao lâu, Nguyễn
Nhạc và Nguyễn Huệ không hòa với nhau. Nguyễn Nhạc đem quân Phú Xuân vào vây
thành Quy Nhơn nguy cấp lắm. Nguyễn Nhạc phải vời đô đốc Đặng Văn Chân đem quân
ở Gia Định ra cứu.
Từ đó quân thế của Tây Sơn ở Gia
Định đã kém, ở các nơi lại có nhiều đảng theo về chúa Nguyễn, rồi nổi lên đánh
phá, làm cho quân Tây Sơn càng ngày càng khó giữ. Vả trong mấy anh em Tây Sơn
chỉ có Nguyễn Huệ là anh hùng kiệt hiệt hơn cả, mà đã ra chuyên giữ mặt bắc,
thì công việc mặt nam phó mặc Nguyễn Lữ là người tầm thương, cho nên thế Tây
Sơn ở mặt ấy thành ra suy nhược.
Lúc bấy giờ Nguyễn Vương ở Tiêm La
vẫn có người đi về tin tức, biết có cơ hội lấy được đất Gia Định, mà cũng biết
rằng người Tiêm La vẫn không giúp được cho mình lại còn có bụng ghen ghét: như
năm đinh mùi (1787) có người Bồ Đào Nha đưa quốc thư cho Nguyễn Vương xin đem
binh và thuyền ở thành Goa 134
lại giúp. Vua Tiêm La biết việc ấy
làm không bằng lòng, Nguyễn Vương phải từ chối và tạ ơn người Bồ Đào Nha.
Đến khi được tin rằng đất Gia Định
có thể lấy được, Vương bèn để thư lại từ tạ vua Tiêm La, rồi nửa đêm đem vương
mẫu và cung quyến xuống thuyền về nước. Bấy giờ là tháng bảy năm đinh mùi
(1787).
Nguyễn Vương đi qua đảo Cổ cốt có
người nhà Thanh tên là Hà Hỉ Văn thuộc về Thiên Địa Hội đem mấy người đến xin
theo giúp. Vương về
134
Đất thuộc địa của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ
đến Hà Tiên cho người đưa vương mẫu và cung quyến ra ở Phú Quốc, rồi cùng mọi
người về đóng ở Long Xuyên.
Lúc bấy giờ Nguyễn Vương đi đến đâu,
những người hào kiệt ra theo rất nhiều lại có tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn
Trương đem 300 quân, 15 chiếc thuyền ra hàng. Qua tháng 6, vương vào cửa Cần
Giờ, quân thế to lắm, Đông Định Vương Nguyễn Lữ khiếp sợ để quan thái phó Phạm
Văn Tham ở lại giữ thành Sài Gòn rồi lui về đóng ở Lạng Phụ, thuộc Biên Hòa.
Nguyễn Vương sai người trá làm một
cái thư của Nguyễn Nhạc gửI cho Nguyễn Lữ, trong thư bảo phải giết Phạm Văn
Tham đi, rồi vương sai người giả tảng đưa lầm cho Phạm Văn Tham, Phạm Văn Tham
bắt được cái thơ ấy sợ hãi, lập tức về Lạng Phụ để phân giải tình oan với
Nguyễn Lữ, nhưng Nguyễn Lữ thấy tự nhiên Phạm Văn Tham kéo quân đến, lại có cờ
trắng đi trước, tưởng là Văn Tham đã hàng nhà Nguyễn rồi, vội vàng bỏ thành
chạy về Quy Nhơn, được ít lâu thì mất.
Phạm Văn Tham trở về giữ thành Gia
Định đánh phá được quân nhà Nguyễn. Nguyễn Vương phải rút quân về miền Mỹ Tho,
chỉ còn được 300 quân và vài mươi chiếc thuyền, thế lực đã núng lắm. Nhưng nhờ
có mộ thêm được mấy nghìn quân Cao Miên và lại có mấy toán quân Tây Sơn về hàng,
cho nên quân thế mới hơi vững.
Bấy giờ lại nhờ có Võ Tính là tướng
giỏi ra giúp, cho nên Nguyễn Vương lại tiến lên đánh Nước Xoáy, Phạm Văn Tham
lùi về đóng ở Ba Thắc.
Võ Tính là người ở Biên Hòa, có
người anh tên là Võ Nhân làm thuộc tướng Đỗ Thanh Nhân. Sau Đỗ Thanh Nhân bị
giết, Võ Nhân tụ quân Đông Sơn làm phản, đánh lại chúa Nguyễn, nhưng chẳng bao
lâu cũng bị bắt, phải giết. Võ Tính mới đem dư đảng Đông Sơn của anh về giữ
Vườn Trầu (thuộc Gia Định), rồi sau lại về đóng ở Gò Công, xưng là Tổng Nhung,
thủ hạ có mấy vạn người, quân Tây Sơn đã bị đánh phá nhiều lần, thường nói
rằng: "Trong bọn tam hùng đất Gia Định, Võ Tính là anh hùng bậc nhất,
không nên phạm đến". Khi Nguyễn Vương ở Tiêm La về có sai Nguyễn Đức Xuyên
đến dụ Võ Tính về giúp. Đến khi Nguyễn Vương về đóng ở Nước Xoáy, Võ Tính đem
bộ hạ đi đuổi đánh Phạm Văn Tham, rồi đến tháng tư năm mậu thân (1788) mới đem
Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô, Trần Văn Tín đến hành tại bái kiến
Nguyễn Vương. Nguyễn Vương mừng rỡ, phong cho làm Tiền Phong Dinh Chưởng Cơ và
lại gả cho bà Ngọc Du Công Chúa là em gái. Bọn Võ Văn Lượng đều được phong làm
cai cơ.
Qua tháng 7 năm ấy (1788) Nguyễn
Vương đem quân về đóng ở Ba Giồng, rồi sai Tôn Thất Hội và Võ Tính đem binh vào
đánh quan đốc chiến Tây Sơn là Lê Văn Minh ở đồn Ngũ Kiều, đốt phá cả đồn trại,
bắt được tướng sĩ rất nhiều. Lại có tướng là Nguyễn Văn Nghĩa phá được quân Tây
Sơn ở Lộc Dã (tức là Đồng Nai). Tháng tám thì Nguyễn Vương vào thành Gia Định,
chiêu yên trăm họ, sửa sang phép tắc và phong thưởng cho các tướng sĩ.
Bấy giờ quan thái bảo Tây Sơn là
Phạm Văn Tham vẫn đóng ở Ba Thắc; vương sai giữ các cửa bể không cho quân Tây
Sơn chạy thoát, rồi sai Nguyễn Văn Nhàn sang Tiêm La báo tiệp; sai Nguyễn Văn
Nhân và Trương Phúc Giáo ra Phú Quốc đón vương mẫu và cung quyến về Gia Định.
Sang năm kỷ dậu (1789) Phạm Văn Tham
ở Ba Thắc đem binh xuống thuyền định ra bể về Quy Nhơn, nhưng Nguyễn Vương đã
sai Lê Văn Câu (còn gọi Duân), Tôn Thất Hội, Võ Tính, Nguyễn Văn Trương hợp
binh lại đánh ở Hỗ Châu, quân Phạm Văn Tham không phá được vây, lại phải lui về
Ba Thắc. Văn Tham chờ không thấy viện binh, liệu thế giữ không nổi, bèn đem
binh ra hàng, được ít lâu bị tội phải giết.
Từ đó toàn đất Gia Định thuộc về
chúa Nguyễn cả.
3. Nguyễn Vương Sửa Sang Mọi Việc ở
Gia Định.
Nguyễn Vương thu phục được đất Gia
Định rồi, lập ra luật pháp, khôNg cho dân gian đánh cờ bạc, lại nghiêm cấm phù
thủy và đồng bóng để giữ phong tục cho khỏi sự mê hoặc.
Trước hết vương lo chỉnh đốn những
việc thuế khóa, việc canh nông, để lấy lương tiền nuôi tướng sĩ và tu bổ việc
vũ bị. Lại đặt ra các sở công đồng để các quan văn võ hội nghị mọi việc quốc
quân, và lo sự tiến binh đánh Tây Sơn.
4. Việc Khai Khẩn Điền Thổ.
Đất Gia Định lúc bấy giờ chi ra làm
4 doanh là: Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, và Trấn Định, nhưng vì phải loạn
lạc mãi, dân sự đói khổ, ruộng đất bỏ hoang, lương thực không đủ. Nguyễn Vương
bèn sai văn thần là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Chu, Hoàng Minh
Khánh cả thảy là 12 người làm điền tuấn quan để khuyên nhủ quân dân cố sức làm
ruộng. Từ lính phủ binh cho đến người cùng cố đều bắt phải làm ruộng cả. Hễ ai
không chịu thì bắt phải làm lính để thay cho phủ binh.
Đến mùa lúa chín, thì cứ mỗi người
cày ruộng đồng bằng phải nộp 100 cơ 135 , mà ai cày ruộng núi thì phải nộp 60
cơ trở lên. Ai nộp đủ lệ ấy, như phủ binh thì được miễn cho một năm không phải
đi đánh giặc, mà dân đinh thì được miễn cho một năm giao dịch. Ai không nộp đủ
thì không được dự vào lệ miễn ấy.
Lại mộ những dân ở các nơi đến làm
ruộng, gọi là điền tốt. Quan điền tuấn lấy ruộng đất bỏ hoang cấp cho để cày
cấy. Ai không có đủ trâu bò mà cày bừa, thì quan cũng cấp cho, rồi đến mùa phải
trả bằng thóc.
Nguyễn Vương lại phát trâu bò và
điền khí cho quân dân, bắt đi khai khẩn những nơi rừng núi để làm ruộng gọi là
đồn điền, rồi đến mùa lấy thóc để vào kho, gọi là đồn điền khố.
Các quan văn võ đều phải mộ người
lập thành đội, gọi là đồn điền đội, mỗi năm mỗi người phải nộp 6 hộc thóc. Còn
dân mà ai mộ được 10 người trở lên, thì cho làm cai trại và được trừ sưu tịch.
Cách Nguyễn Vương khai khẩn đất Gia
Định thật là khôn khéo, khiến cho đất Nam Việt trước là một chỗ đất bỏ hoang,
không có người ở, mà sau thành ra một nơi rất đông người và rất trù phú trong
nước Nam ta. Ấy cũng là một cái công lớn của ông Nguyễn Phúc Ánh vậy.
5. Việc Buôn Bán.
Nguyễn Vương lập lệ: phàm những
thuyền của khác mà có chỡ những đồ gang, sắt, kẽm và lưu hoàng, thì quan mua để
làm binh khí, và cho cứ theo số hàng nhiều ít, được chở thóc gạo về nước. Bởi
vậy những khách buôn bán cũng vui lòng đem đồ hàng đến bán. Vương lại sai quan
ở doanh Trấn Biên cứ theo giá chợ mà mua lấy đường cát để đổi cho những người
Tây Dương mà lấy đồ binh khí.
6. Ông Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh ở
Pháp về.
Từ mùa đông năm giáp thìn (1784),
ông Bá Đa Lộc đem Hoàng Tử Cảnh cùng với Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Khiêm xuống
tàu sang Tây; đi qua Ấn Độ Dương và thành Phong ti thê ri (Pondichéry) đất Ấn
Độ, ở lại gần 20 tháng, rồi đến mùa xuân năm đinh mùi (1787), thì chiếc tàu chở
ông Bá Đa Lộc mới vào cửa Lorient ở phía tây nước Pháp Lan Tây.
Ông Bá Đa Lộc đưa Hoàng Tử Cảnh vào
yết kiến Pháp Hoàng Louis XVI. Pháp Hoàng lấy vương lễ tiếp đãi Hoàng Tử, và
giao cho thượng thư
135
Mỗi một cơ là 42 bát. ngoại giao bộ
là De Montmorin Bá Tước, thương nghị với ông Bá Đa Lộc việc sang giúp Nguyễn
Vương.
Đến ngày 28 tháng 11 năm 1787 thì
ông Bá Đa Lộc và De Montmorin bá tước ký tờ giao ước, đại lược nói rằng:
1. Vua nước Pháp thuận giúp cho
Nguyễn Vương 4 chiếc tàu chiến và một đạo binh: 1.200 lục quân, 200 pháo binh,
250 hắc binh ở Phi Châu (Cafres) và đủ các thứ súng ống thuốc đạn. 2. Vì vua
nước Pháp có lòng giúp như thế, Nguyễn Vương phải nhường đứt cho nước Pháp cửa
Hội An (Faifo) và đảo Côn Lôn (Poulo-Condore). 3. Nguyễn Vương phải để cho
người nước Pháp ra vào buôn bán tự do ở trong nước, ngoại giả không cho người
nước nào ở Âu Châu sang buôn bán ở nước Nam nữa. 4. Khi nào nước Pháp có cần
đến lính thủy, lính bộ, lương thực, tàu bè ở phương đông, thì Nguyễn Vương phải
ứng biện cho đủ giúp nước Pháp. 5. Khi Nguyễn Vương đã khôi phục được nước rồi,
thì phải cứ mỗi năm làm một chiếc tàu, y như tàu của nước Phám đã cho sang
giúp, để đem sang trả cho Pháp Hoàng 136 .
Tờ giao ước ký xong rồi, Pháp Hoàng
xuống chiếu giao cho quan tổng trấn thành Pondichéry ở đất Ấn Độ, tên là De
Conway bá tước, kinh lý việc sang giúp Nguyễn Vương.
Ngày mồng 8 tháng chạp tây, năm
1787, ông Bá Đa Lộc vào bái tạ Pháp Hoàng Louis XVI, rồi đem Hoàng Tử Cảnh
xuống tàu về nước Nam. Nhưng đến khi sang tới thành Pondichéry, vì De Conway bá
tước có chuyện bất hòa với ông Bá Đa Lộc, cho nên bá tước mới tìm cách ngăn trở
việc giúp Nguyễn Vương, rồi làm sớ về tâu Pháp Hoàng xin bãi việc ấy đi, lấy cớ
rằng sự đem binh sang cứu viện Nguyễn Vương là việc rất khó mà không có lợi gì.
Pháp Đình thấy sớ của De Conway bá
tước nói như vậy cũng lấy làm nản; vả lại lúc bấy giờ chính phủ còn đang bối
rối về việc trong nước dân cách mệnh đã rục rịch cả mọi nơi, cho nên bỏ việc ấy
không nói đến nữa.
Ấy cũng vì có De Conway bá tước, cho
nên việc sang cứu viện Nguyễn Vương không thành, bởi vậy sau ông Faure chép
truyện ông Bá Đa
136
Tờ giao ước này hiện còn ở Ngoại
Giao Bộ ở Paris, và đã biên rõ ở sách ông Gosselin. 163 Lộc,
có tiếc rằng: "Ví bằng lúc bấy giờ chính phủ nước Phám mà sẵn lòng giúp
ông Bá Đa Lộc, thì có lẽ ông ấy đã lập nên cho nước Pháp thành cuộc bảo hộ ở An
Nam ngay từ cuối đời thập bát thế kỷ, khiến cho về sau khỏi phải dùng đến sự
chiến tranh mới xong công việc".
Ông Bá Đa Lộc thấy De Conway bá tước
không chịu xuất binh thuyền, bèn đứng lên đi mộ người, mua tàu và súng ống khí
giới để đem sang giúp Nguyễn Vương.
Đến tháng 6 năm kỷ dậu (1789), ông
Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh đi chiếc tàu chiến Méduse về đến Gia Định. Các tàu
buôn chở súng ống thuốc đạn cũng lục tục sang sau.
Bấy giờ những người Pháp tên là
Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng), túc là chúa tàu Long, Vannnier, (Nguyễn Văn
Chấn), tức là chúa tàu Phụng, De Forcant (Lê Văn Lăng), Victor Ollivier (ông
Tín), Dayot v.v... cả thảy đến non 20 người theo ông Bá Đa Lộc sang giúp Nguyễn
Vương; vương phong quan tước cho cả mọi người để luyện tập quân sĩ, làm tàu,
đúc súng, và chỉnh đốn mọi việc vũ bị.
Từ đó, thế lực của Nguyễn Vương mỗi
ngày một mạnh, tướng tá mỗi ngày một đông, lương thực nhiều, quân sĩ giỏi, việc
đánh phá Tây Sơn đã chắc lắm rồi.
Tháng tư năm tân hợi (1791), bà thứ
phi sinh ra hoàng tử thứ tư lên là Đảm, tức là vua Thánh Tổ ở làng Tân Lộc, gần
Sài Gòn bây giờ. Đến tháng ba năm quý sửu (1793), thì vương lập hoàng tử Cảnh
làm Đông Cung, phong chức nguyên súy, lĩnh tả quân doanh.
7. Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần
Thứ Nhất.
Nguyễn Vượng đã khôi phục được đất
Gia Định rồi, nghỉ ngơi hơn một năm để chỉnh đốn mọi việc. Đến tháng tư năm
canh tuấn (1790) mới sai quan chưởng tiền quân là Lê Văn Câu đem 5.000 quân
thủy và quân bộ ra đánh lấy Bình Thuận, sai Võ Tính và Nguyễn Văn Thành đem
quân đi làm tiên phong. Chẳng bao lâu nhà Nguyễn lấy được đất Phan Rí và hạ
được thành Bình Thuận. Nhưng vì Lê Văn Câu và Võ Tính hai người không chịu
nhau, Nguyễn Vương bèn lưu Lê Văn Câu ở lại giữ Phan Rí, triệu Võ Tính và
Nguyễn Văn Thành về Gia Định. Lê Văn Câu đem quân ra đóng ở Phan Rang bị quân
Tây Sơn đến vây đánh, phải cho người đi gọi Võ Tính và Nguyễn Văn Thành trở lại
cứu, nhưng Võ Tính không chịu trở lại, chỉ có Nguyễn Văn Thành đưa binh đến
đánh giải vây rồi cùng Lê Văn Câu về giữ Phan Rí.
Lê Văn Câu lấy điều bại binh ấy làm
thẹn, xưng bệnh không ra coi việc binh nữa. Đến khi về Gia Định nghị tội phải
cách hết chức tước, Lê Văn Câu uống thuốc độc tự tử 137 .
Quân nhà Nguyễn ra đánh Tây Sơn lần
ấy không lợi; vả bấy giờ là mùa tháng 7, gió bắc thổi mạnh, cho nên Nguyễn
Vương truyền rút quân về Gia Định để đợi mùa gió thuận thì mới đem quân đi đánh
nhau, cho nên người đời bấy giờ gọi là giặc mùa.
Năm nhâm tí (1792) tháng ba, nhân
khi mùa gió nam thổi mạnh, Nguyễn Vương sai tướng là Nguyễn Văn Trương cùng với
Nguyễn Văn Thành, Dayot và Vannier (Nguyễn Văn Chấn) đem chiến thuyền từ cửa
Cần Giờ ra đốt phá thủy trại của Tây Sơn ở cửa Thị Nại (cửa Quy Nhơn) rồi lại
về.
Tháng ba năm quý sửu (1793) Nguyễn
Vương để Đông Cung ở lại giữ đất Gia Định, sai Tôn Thất Hội cùng Nguyễn Huỳnh
Đức và Nguyễn Văn Thành đem bộ binh ra đánh Phan Rí. Nguyễn Vương cùng với
Nguyễn Văn Trương và Võ Tính đem thủy sư đi đánh mặt bể. Đến tháng năm thì
chiến thuyền của Nguyễn Vương vào cửa bể Nha Trang rồi lên đánh lấy phủ Diên
Khánh và phủ Bình Khang, sau lại ra đánh lấy phủ Phú Yên.
Mặt thủy, Nguyễn Vương được toàn
thắng, còn mặt bộ, thì Tôn Thất Hội chỉ lấy được phủ Bình Thuận mà thôi. Vương
bèn sai người đưa thư giục Tôn Thất Hội phải kíp tiến binh lên hội với thủy sư,
để hai mặt cùng ra đánh Quy Nhơn.
Khi quân của Nguyễn Vương vào cửa
Thị Nại, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sai thái tử là Nguyễn Bải, đem binh ra
chống giữ. Nguyễn Vương bèn mật sai Võ Tính đem binh lẻn đi hội với toán quân
Tôn Thất Hội và Nguyễn Văn Thành để đánh tập hậu. Quân của Nguyễn Bảo bị hai
mặt đánh lại, chống không nổi, phải bỏ chạy về Quy Nhơn. Từ đó quân thủy và
quân bộ của Nguyễn Vương tương thông được với nhau. Vương bèn sai Tôn Thất Hội,
Võ Tính, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành đem binh tiến lên đánh thành Quy
Nhơn.
Nguyễn Nhạc phải sai người ra cầu
cứu ở Phú Xuân.
Bấy giờ vua Quang Trung đã mất rồi,
vua Cảnh Thịnh, tức là Nguyễn Quang Toản, sai quan thái úy là Phạm Công Hưng,
quan hộ giá là Nguyễn
137
Lê Văn Câu là một người công thần đã
theo phò Nguyễn chủ trong lúc gian nan, nay cũng bất đắc kỳ tử. 164
Văn Huấn, quan đại tư lệ là Lê Trung và quan đại tự mã là Ngô Văn Sở đem 17.000
bộ binh và 80 con voi đi đường bộ, và sai quan đại thống lĩnh là Đặng Văn Chân
đem hơn 30 chiếc thuyền đi đường bể, cả hai đạo cùng tiến vào cứu Quy Nhơn.
Nguyễn Vương thấy viện binh đã đến,
liệu thế chống không nổi, rút quân về Diên Khánh (tức là Khánh Hòa bây giờ) rồi
về Gia Định. Để Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên Khánh, Nguyễn Huỳnh Đức ở lại
giữ Bình Thuận.
Đến tháng 11, Nguyễn Vương lại sai
Đông Cung Cảnh và ông Bá Đa Lộc, Phạm Văn Nhân, Tống Phúc Khê ra giữ thành Diên
Khánh.
8. Thế Lực Tây Sơn.
Bọn Phạm Công Hưng giải được vây
rồi, kéo quân vào thành Quy Nhơn, chiếm giữ lấy thành trì và tịch biên cả các
kho tàng.
Nguyễn Nhạc thấy vậy, tức giận đến
nỗI thổ huyết ra mà chết. Ông làm vua được 16 năm.
Vua Cảnh Thịnh ở Phú Xuân thấy
Nguyễn Nhạc mất rồi, phong cho Nguyễn Bảo làm Hiến Công, cho ăn lộc một huyện,
gọi là tiểu triều rồi để Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại giữ thành Quy Nhơn.
Từ đó các tướng Tây Sơn mới hoạt
động hơn trước. Tháng ba năm giáp dần (1794) Nguyễn Văn Hưng đem bộ binh vào
đánh Phú Yên, và Trần Quang Diệu vào vây thành Diên Khánh.
Đông Cung Cảnh cho người về Gia Định
cầu viện, NguyễN Vương bèn đem đại binh đến đánh giải vây. Trần Quang Diệu rút
quân về.
Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn còn
mạnh và lại đến mùa gió bắc, cho nên vương đem Đông Cung về Gia Định; để Võ
Tính ở lại giữ thành Diên Khánh.
Tháng giêng năm ất mão (1795) Trần
Quang Diệu lại đem quân vào đánh Diên Khánh, Võ Tính hết sức chống giữ, Quang
Diệu đánh mãi không được. Đến tháng hai, Nguyễn Vương để Đông Cung ở lại giữ
Gia Định, đem thủy sư ra cứu Diên Khánh.
Trong khi hai bên còn đang chống giữ
nhau ở đất Diên Khánh, thì ở Phú Xuân các quan đại thần nhà Tây Sơn giết hại
lẫn nhau, gây thành mối loạn.
Nguyên từ khi vua Quang Trung mất
rồi, vua Cảnh Thịnh lên ngôi, nhưng quyền về cả Thái sư Bùi Đắc Tuyên, các quan
có nhiều người oán giận. Năm ất mão (1795) Bùi Đắc Tuyên sai Ngô Văn Sở ra Bắc
hà thay cho Vũ Văn Dũng. Văn Dũng về Phú Xuân, đi đến trạm Hoàng Giang 138
gặp quan trung thư lệnh là Trần Văn
Kỷ phải tội đày ra ở đấy. Văn Kỷ nhân đang căm tức Bùi Đắc Tuyên, bèn xui Vũ
Văn Dũng rằng: "Thái sư ngôi trùm cả nhân thần, cho ai sống được sống, bắt
ai chết phải chết; nếu mà không sớm trừ đi, thì rồi có chuyện bất lợi cho nhà
nước. Ông nên liệu sớm đi".
Vũ Văn Dũng xưa nay vẫn tin trọng
Văn Kỷ, nay thấy nói như vậy, bèn nghe lời ấy, về mưu với Phạm Công Hưng và
Nguyễn Văn Huấn, lừa đến đêm đem quân vây nhà Bùi Đắc Tuyên bắt bỏ ngục, rồi
sai Nguyễn Văn Huấn vào Quy Nhơn bắt con Đắc Tuyên là Bùi Đắc Trụ, và cho người
đưa thư ra Bắc Hà truyền cho quan tiết chết là Nguyễn Quang Thùy (em Nguyễn
Quang Toản) bắt giải Ngô Văn Sở về Phú Xuân.
Bọn Vũ Văn Dũng bèn đặt chuyện ra vu
cho nhữNg người ấy làm phản, đem dìm xuống sông giết đi. Vua Cảnh Thịnh không
sao ngăn giữ được, chỉ gạt nước mắt khóc thầm mà thôi.
Lúc bấy giờ Trần Quang Diệu đang vây
thành Diên Khánh, nghe tin ấy, thất kinh, nói với các tướng rằng: "Chúa
thượng không phải là người cứng cỏi, để cho đại thần giết lẫn nhau. Nếu trong
mà không yên, thì ngoài đánh người ta thế nào được?"
Quang Diệu bèn giải vây rút quân về.
Khi về đến Quy Nhơn, Nguyễn Văn Huấn đến tạ tội trước. Trần Quang Diệu không
hỏi đến, rồi dẫn quân về đến làng An cựu đóng bên bờ sông mé nam.
Vũ Văn Dũng cùng với nội hậu Tứ cũng
đem quân bản bộ ra đóng ở mé bắc bờ sông, ỷ mệnh vua ra cự nhau với Trần Quang
Diệu.
Vua Cảnh Thịnh sợ hãi sai quan ra
khuyên giải cả hai bên, Trần Quang Diệu mới đem các tướng vào chầu, rồi với bọn
Vũ Văn Dũng giảng hòa.
Từ đó Trần Quang Diệu làm thiếu phó,
Nguyễn Văn Huấn làm thiếu bảo, Vũ Văn Dũng làm đại tư đồ, Nguyễn Văn Danh (hay
là Nguyễn Văn Tứ) làm đại tư mã, gọi là tứ trụ đại thần. Nhưng chẳng được bao
lâu có người
138
Có nơi chép là trạm Hán Xuyên 165 gièm pha, Trần Quang Diệu bị thu hết cả binh quyền, chỉ được giữ
chức tại trièu mà thôi. Thế lực Tây Sơn từ đấy về sau mỗi ngày một kém: trên
vua thì còn nhỏ dại, không có đủ uy quyền để sai khiến các quan, dưới tướng tá
thì vì lòng ghen ghét rồi cứ tìm cách mà giết hại lẫn nhau. Bởi vậy cho nên đến
khi quân Nguyễn Vương ở Nam ra đánh, chẳng phải mất bao nhiêu công phu mà lập
nên công lớn vậy.
9. Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần
Thứ Hai.
Từ khi quân của Trần Quang Diệu giải
vây Diên Khánh về Phú Xuân rồi, Nguyễn Vương cũng rút quân về Gia Định sửa soạn
việc quân lương, và sai người đi do thám mọi nơi để chiêu mộ người về đánh Tây
Sơn.
Đến năm đinh tị (1797) Nguyễn Vương
để Tôn Thất Hội ở lại giữ Gia Định, rồi cùng Đông Cung Cảnh đem binh thuyền ra
đánh Quy Nhơn. Lại sai Nguyễn Văn Thành và Võ Tính ra đánh Phú Yên.
Quân thủy của Nguyễn Vương ra đến
Quy Nhơn, thấy Tây Sơn đã phòng bị, liệu đánh không đổ được, Nguyễn Vương bèn
ra đánh Quảng Nam. Được vài tháng quân nhu không đủ, lại phải đem quân về Gia
Định, sai Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường ở lại giữ thành Diên Khánh.
10. Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần
Thứ Ba.
Nguyễn Vương về Gia Định rồi, một
mặt sai Nguyễn Văn Thụy sang Tiêm La xin với quốc vương nước ấy đem quân đi
đường Vạn Tượng, hoặc sang đánh Thuận Hóa, hoặc sang đánh Nghệ An, để chận
đường quân ở Bắc hà vào. Một mặt sai quan binh bộ tham tri là Ngô Nhân Tĩnh
sang sứ nhà Thanh, để do thám mọi việc.
Năm mậu ngọ (1798) Tiểu triều là
Nguyễn Bảo căm tức vua Cảnh Thịnh là Nguyễn Quang Toản chiếm giữ mất đất Quy
Nhơn, bèn định bỏ về hàng Nguyễn Triều. Vua Cảnh Thịnh biết mưu ấy, sai tướng
vào bắt Nguyễn Bảo đưa về dìm xuống sông giết đi.
Lại có người nói gièm rằng việc Tiểu
Triều làm phản là tại quan trấn thủ Lê Trung. Vua Cảnh Thịnh triệu Lê Trung về
Phú Xuân, sai võ sĩ bắt chém đi. Được ít lâu quan thiếu phó Nguyễn Văn Huấn
cũng bị giết. Từ đó quân Tây Sơn ai cũng nản lòng, có nhiều người bỏ theo về
Nguyễn Vương.
Bấy giờ có người con rễ Lê Trung là
Lê Chất vốn là người đánh trận giỏi có tiếng, quan làm đến chức đại đô đốc; đến
khi thấy vua Tây Sơn hay nghi kỵ mà giết hại các công thần như vậy, bèn bỏ trốn
sang hàng nhà Nguyễn. Nguyễn Vương trọng dụng cho làm chức Tướng Quân.
Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn đã suy
nhược, đến tháng ba năm kỷ mùi (1799) bèn củ đại binh ra đánh Quy Nhơn. Đến
tháng tư thủy quân của Nguyễn Vương vào cửa Thị Nại, rồi Nguyễn Vương sai quan
hậu quân Võ Tính, hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức đem quân lên bộ đóng ở Trúc Khê.
Ngay lúc bấy giờ quan Khâm sai tiền quân chưởng cơ Nguyễn Văn Thành đem bộ binh
ra đánh lấy Phú Yên, rồi tiến quân lên tiếp ứng cho toán quân Võ Tính.
Đến tháng năm, thì quân của Nguyễn
Vương đến vây thành Quy Nhơn. Ở Phú Xuân sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đm
binh vào cứu. Nhưng mà vào đến Quảng Nghĩa gặp quân của Nguyễn Văn Thành giữ ở
Thạch Tân, cho nên không cứu được Quy Nhơn.
Sử chép rằng khi đạo quân của Vũ Văn
Dũng vào đến Chung Xá, đóng lại ở đấy, đến đêm có con nai ở trong rừng chạy ra,
có người trông thấy kêu to lên rằng: Con nai! Quân Tây Sơn nghe lầm là quân
Đồng Nai! Mọi người luống cuống bỏ chạy. Các quân đội Tây Sơn tưởng là quân nhà
Nguyễn đã vây đánh, đều vỡ tan cả. Quân nhà Nguyễn thừa thế đánh đuổi, thành ra
quân Tây Sơn thua to.
Quan trấn thủ Quy Nhơn là Lê Văn
Thanh không thấy viện binh đến, mà lương thực ở trong thành thì hết cả, bèn
cùng các tướng mở cửa ra hàng. Nguyễn Vương đem quân vào thành rồi đổi tên Quy
Nhơn gọi là Bình Định.
Vua Tây Sơn được tin Quy Nhơn thất
thủ, liền cử đại binh vào đóng ở Trà Khúc (thuộc Quảng Nghĩa) để đốc các tướng
tiến binh đánh quân nhà Nguyễn. Nhưng vì phải độ trái mùa gió, thủy chiến không
tiện, cho nên các quan đều can xin rút quân về. Vua Cảnh Thịnh bèn sai Nguyễn
Văn Giáp ở lại giữ Trà Khúc, sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng giữ Quảng Nam.
Nguyễn Vương cũng đem quân về Gia
Định, để Võ Tính và Ngô Tòng Chu ở lại giữ thành Bình Định. Năm ấy (1899) ông
Bá Đa Lộc đi tòng chinh, mất ở cửa Thị Nại. Nguyễn Vương đem về hậu táng ở Gia
Định, tặng phong làm Thái Tử Thái Phó Bi Nhu Quận Công.
11. Quân Tây Sơn Vây Thành Bình
Định.
Khi quân nhà Nguyễn ra vây đánh
thành Quy Nhơn, vua Tây Sơn sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem binh vào
cứu, nhưng vì quân cuả Văn Dũng không đánh 166 mà tan, đến
nỗi bại binh. Việc ấy là tội Văn Dũng, nhưng nhờ có Quang Diệu giấu đi, cho nên
không ai biết. Văn Dũng cảm ơn ấy, cho nên mới kết nghĩa sinh tử với Quang
Diệu.
Bấy giờ ở Phú Xuân có nhiều người
ghét Quang Diệu, nhân dịp ấy mà đổ tội cho Quang Diệu, bèn tâu vua xin sai
người đưa mật thư ra cho Vũ Văn Dũng để giết Quang Diệu. Vũ Văn Dũng tiếp được
thư ấy đưa cho Trần Quang Diệu xem. Trần Quang Diệu sợ hãi, lập tức đem quân về
Phú Xuân, đóng ở mé nam sông Hương Giang, nói rằng về bắt những người loạn
thần. Vua Tây Sơn sai người ra giảng hòa. Không ai dám đi, sau phải bắt mấy
người nộp cho Quang Diệu. Quang Diệu mới vào chầu. Vua Cảnh Thịnh cũng tìm lời
giảng dụ, khuyên phải hết sức giúp đỡ nhà nước.
Quang Diệu khóc lạy rồi xin cùng Văn
Dũng đem thủy bộ quân vào lấy lại thành Quy Nhơn.
Đến tháng giêng năm canh thân
(1800), quân của Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng tiến đến gần thành Quy Nhơn. Võ
Tính giữ vững, không ra đánh. Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành và chia
quân ra vây bốn mặt. Văn Dũng thì đem hai chiếc tàu lớn và hơn 100 chiến thuyền
ra đóng giữ cửa Thị Nại, xây đồn và đặt súng đại bác ở hai bên cửa bể, để phòng
ngự thủy quân nhà Nguyễn.
Nguyễn Vương được tin quân Tây Sơn
ra vây thành Bình Định, liền cử đại binh ra cứu viện, sai Nguyễn Văn Thành đem
Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương Tiến Bảo, chia ra làm ba đạo ra đánh lấy đồn
Hội An ở Phú Yên, rồi kéo ra đánh ở Thị Dã (thuộc Bình Định). Nguyễn Vương đem
thủy binh ra đến Quy Nhơn đóng thuyền ở ngoài cửa Thị Nại. Bấy giờ quân bộ của
Nguyễn Văn Thành và quân thủy của Nguyễn Vương không thông được với nhau, cho
nên sự cứu viện không có công hiệu gì cả.
Đến tháng giêng năm tân dậu (1801),
Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương đem quân tiền đạo đến đánh
đồn thủy của Tây Sơn, và sai Lê Văn Duyệt, Vũ Di Nguy đem thủy quân vào đánh
cửa Thị Nại. Vũ Di Nguy trúng đạn chết, còn Lê Văn Duyệt ra sức xông đột, đốt
được cả tàu và thuyền của Tây Sơn.
Tướng Tây Sơn là Vũ Văn Dũng phải bỏ
cửa Thị Nại đem binh về hợp với Trần Quang Diệu để phòng giữ mọi nơi.
Nguyễn Vương lấy được cửa Thị Nại
rồi, cho người đưa tin về Gia Định báo cho tướng sĩ các nơi đều biết.
Năm ấy Đông Cung Cảnh lên đậu, mất ở
Gia Định, thọ được 22 tuổi. Được một tháng hoàng tử thứ hai tên là Hi cũng mất
ở Diên Khánh, đem về táng ở Gia Định.
12. Nguyễn Vương Thu Phục Phú Xuân.
Nguyễn Vương đánh được trận thủy ở
Thị Nại rồi, bèn sai Nguyễn Văn Trương đem thủy quân ra đánh Quảng Nam, Quảng
Nghĩa, và lại thấy quân Tây Sơn vây thành Quy Nhơn một cách cẩn mật lắm, đánh
phá không được. Vương cho người lẻn vào thành bảo Võ Tính và Ngô Tòng Chu bỏ
thành mà ra. Nhưng Võ Tính phúc thư lại rằng: quân tinh binh của Tây Sơn ở cả
Quy Nhơn, vậy xin đừng lo việc giải vây vội, hãy nên kíp ra đánh lấy Phú Xuân
thì hơn.
Nguyễn Vương bèn để Nguyễn Văn Thành
ở lại chống giữ với Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, rồi đem đại quân ra đánh
Phú Xuân.
Bấy giờ nhà Tây Sơn cũng bối rối
lắm: ở Nghệ An thì có tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phúc Tường đem
quân Vạn Tượng sang đánh phá; ở Thanh Hóa thì có phiên thần là Hà Công Thái
khởi binh giúp nhà Nguyễn; ở Hưng Hóa thì có thổ ti là Phan Bá Phụng nổi lên
quấy nhiễu. Còn các trấn ở Bắc Hà thì rối vì những việc tông giáo; các đạo
trưởng và đạo đồ đạo Thiên Chúa cũng nổi lên, có ý giúp nhà Nguyễn; dân tình
thì bị quan quân nhũng lạm hà hiếp, ai ai cũng có lòng oán giận. Ở Phú Xuân,
vua thì hèn, các quan đại thần thì cứ ghen ghét nhau rồi tìm kế giết hại lẫn
nhau, việc chính trị không sửa sang gì cả. Bởi vậy nhân dân đều mong mỏi chúa
Nguyễn, cho nên có câu hát rằng: "Lạy trời cho chóng gió nồm, để cho chúa
Nguyễn giong buồm thẳng ra".
Nguyễn Vương thấy lòng người đã
không theo Tây Sơn nữa, bèn đem binh ra đánh Phú Xuân, đến tháng năm (1801),
thủy sư vào cửa Tư Dung. Tướng Tây Sơn là phò mã Nguyễn Văn Trị đem quân ra lập
đồn giữ ở núi Quy Sơn. Tiền quân nhà Nguyễn đánh không được. Nguyễn Vương sai
Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem thủy binh ra đánh tập hậu. Nguyễn Văn Trị bỏ đồn mà
chạy. Quân Nguyễn Vương vào cửa Nguyễn Hải (cửa Thuận An) rồi kéo lên đánh
thành Phú Xuân. Vua Tây Sơn phải ngự giá đem quân ra chống giữ, hai bên đánh
nhau đến giữa trưa, thì quân Tây Sơn vỡ tan. Quân Nguyễn Vương tiến lên đuổi
đánh, thu phục được đô thành. Bấy giờ là ngày mồng 3 tháng 5 năm tân dậu
(1801).
Nguyễn Vương vào thành Phú Xuân treo
biển yên dân, rồi sai Lê Chất đem bộ binh đuổi đánh quân Tây Sơn, sai Nguyễn
Văn Trương đem thủy binh ra chặn ở Linh Giang, để đánh quân Tây Sơn chạy ra
Bắc. Lại sai Phạm Văn Nhân ra giữ cửa Nguyễn Hải, sai Lưu Phúc Tường đem quân
đi 167 đường Cam Lộ sang Vạn Tượng truyền bảo các Mường giữ
đường yếu lộ không cho quân Tây Sơn chạy tràn sang.
13. Võ Tính Tử Tiết.
Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đang
vây đánh thành Quy Nhơn, được tin Phú Xuân thất thủ, liền sai tướng đem quân ra
cứu, nhưng ra đến Quảng Nam, gặp quân của Lê Văn Duyệt kéo vào đánh chặn đường,
quân Tây Sơn phải lùi trở lại. Từ đó Trần Quang Diệu ngày đêm hết sức đốc quân
đánh thành. Quân Nguyễn Vương ở trong thành hết cả lương thực, không thể chống
giữ được nữa, quan trấn thủ là Võ Tính bèn viết thư sai người đưa ra cho Trần
Quang Diệu nói rằng: "Phận sự ta làm chủ tướng, thì đành liều chết ở dưới
cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì, không nên giết hại".
Đoạn rồi sai người lấy rơm cỏ chất ở
dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào tự đốt mà chết. Quan hiệp trấn là Ngô Tùng
Chu cũng uống thuốc độc tự tử.
Trần Quang Diệu vào thành Quy Nhơn
tha cho cả bọn tướng sĩ và sai làm lễ liệm táng Võ Tính và Ngô Tòng Chu, rồi
sai đại đô đốc Trương Phúc Thượng và tư khấu Định, đem binh đi đường thượng đạo
ra đánh Phú Xuân. Đi được nửa đường thì quân hết lương. Trương Phúc Thượng về
hàng nhà Nguyễn, còn tư khấu Định thì đánh thua chạy vào chết ở trong Mường.
Trần Quang Diệu lại sai Lê Văn Điềm vào đánh Phú Yên, cũng không được.
Bấy giờ Trần Quang Diệu tuy đã lấy
được thành Quy Nhơn, nhưng một mặt thì có quân của Lê Văn Duyệt và Lê Chất ở
Quảng Nam, Quảng Nghĩa đánh vào, một mặt thì quân của Nguyễn Văn Thành ở cửa
Thị Nại đánh lên, còn ở phía nam, lại có quân của Tống Viết Phúc và Nguyễn Văn
Tính ở Phú Yên đánh ra. Ba mặt thụ địch, quân Tây Sơn phải hết sức chống giữ,
để chờ quân ở Bắc Hà vào cứu viện.
11. Trận Trấn Ninh.
Từ khi thất thủ Phú Xuân, vua Cảnh
Thịnh ngày đêm kíp ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng và truyền hịch đi các
trấn để lấy viện binh rồi sai em là Nguyễn Quang Thùy đem binh mã vào giữ Nghệ
An. Đến tháng 11, vua Tây Sơn đem quân 4 trấn ở xứ Bắc và quân Thanh Hóa, Nghệ
An, cả thảy được non 3 vạn người, sang sông Linh Giang. Lại sai tướng đem hơn
100 chiếc chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ. Bấy giờ có vợ Trần Quang Diệu là
Bùi Thị Xuân cũng đem 5.000 thủ hạ đi tòng chinh.
Quan Chưởng Trung Quân Bình Tây Đại
Tướng Quân Nguyễn Văn Trương, cùng với Tống Phúc Lương, Đặng Trần Thương giữ ở
Linh Giang, thấy quân Tây Sơn thế mạnh phải lui về giữ Đồng Hới. Nguyễn Vương
được tin ấy, liền thân chinh đem đại binh ra tiếp ứng, sai Phạm Văn Nhân và
Đặng Trần Thường đem quân ra giữ mặt bộ, sai Nguyễn Văn Trương ra giữ mặt bể.
Tháng giêng năm nhâm tuất (1802),
vua Tây Sơn sai Nguyễn Quang Thùy tiến quân lên đánh lũy Trấn Ninh; đánh mãi
không đổ. Vua Tây Sơn đã toan rút quân về, nhưng Bùi Thị Xuân không chịu, xin
cho ra đốc quân đánh trận. Đánh từ sáng sớm đến chiều tối, chưa bên nào được
thua. Bỗng có tin rằng thủy quân của Tây Sơn ở cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới) đã bị
Nguyễn Văn Trương phá tan cả. Quân Tây Sơn khiếp sợ bỏ chạy, tướng là Nguyễn
Văn Kiên về hàng nhà Nguyễn.
Vua Tây Sơn đem tàn quân chạy về
Bắc, để Nguyễn Văn Thận ở lại giữ Nghệ An.
Nguyễn Vương phá được quân Tây Sơn ở
thành Trấn Ninh rồi đem quân về Phú Xuân, để trung quân Nguyễn Văn Trương giữ
Đồng Hới, để Tống Phúc Lương và Đặng Trần Thường giữ Linh Giang.
Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng ở Quy
Nhơn được tin quân Tây Sơn thua ở Trấn Ninh, liệu chống không nổi, bèn đến
tháng 3 năm nhâm tuất (1802) bỏ thành Quy Nhơn, đem binh tượng đi đường thượng
đạo qua Ai Lao ra Nghệ An, để hội với vua Tây Sơn mà lo sự chống giữ.
15. Nguyễn Vương Lên Ngôi Tôn.
Nguyễn Vương từ khi khởi binh ở Gia
Định tuy đã xưng vương, nhưng vẫn theo các chúa đời trước không đặt niên hiệu.
Đến nay khôi phục được Phú Xuân, thanh thế lừng lẫy, bắc phá đại quân của Tây
Sơn, nam lấy lại thành Quy Nhơn; đất An Nam bấy giờ từ sông Linh Giang vào đến
Gia Định lại thuộc về nhà Nguyễn như trước. Các quan thân thuộc đều xin Nguyễn
Vương đặt niên hiệu và lên ngôi tôn.
Tháng 5 năm nhâm tuất (1802) ngài
lập đàn tế cáo trời đất, rồi thiết triều để các quan chầu mừng, và đặt niên
hiệu là Gia Long nguyên niên.
16. Quân Nam Ra Lấy Bắc Hà.
Nguyễn Vương đã lên ngôi làm vua
rồi, sai Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tĩnh đem các đồ phẩm vật và những ấn sách
của nhà Thanh phong cho Tây Sơn sang nộp cho Thanh Triều và xin phong. Ngài lại
định ngự giá đi đánh Bắc Hà, bèn sai Nguyễn Văn 168 Trương
lĩnh thủy binh, Lê Văn Duyệt và Lê Chất lĩnh bộ binh, hai mặt thủy bộ cùng
tiến.
Tháng 6, thì quân bộ sang sông Linh
Giang tiến lên đóng ở Hà Trung, quân thủy vào cửa Hội Thống rồi lên đánh phá
các đồn lũy của Tây Sơn. Quan Trấn Thủ Nghệ An là Nguyễn Văn Thận bỏ thành chạy
ra giữ đồn Tiền Lý ở Diễn Châu.
Bấy giờ Trần Quang Diệu đi đường Ai
Lao ra đến châu Quý Hợp, xuống huyện Hương Sơn thấy quân nhà Nguyễn đã lấy được
Nghệ An rồi, bèn cùng với Bùi Thị Xuân về huyện Thanh Chương, bao nhiêu quân sĩ
đều bỏ cả, được mấy hôm hai vợ chồng cùng bị bắt. Còn Vũ Văn Dũng chạy ra đến
Nông Cống cũng bị dân bắt được đem nộp.
Quân Nguyễn Triều kéo tràn ra lấy
Thanh Hóa, đi đến đâu quân Tây Sơn chưa đánh đã tan, chỉ trong một tháng đã ra
đến Thăng Long.
Vua Tây Sơn thấy thế mình không
chống giữ được nữa, bèn cùng với các em là Nguyễn Quang Thùy, Nguyễn Quang
Thiệu, và mấy người bề tôi là bọn đô đốc Tú, và Nguyễn Văn Tứ sang sông Nhị Hà
chạy về phía Bắc, nhưng lên đến địa hạt Phượng Nhỡn, bị dân ở đấy bắt được.
Nguyễn Quang Thùy tự tử, đô đốc Tú và vợ cũng tự vẫn. Còn vua tôi nhà Tây Sơn
mấy người đều bị đóng cũi đem về nộp ở Thăng Long.
Nhà Tây Sơn khởi đầu từ năm mậu tuất
(1778), Nguyễn Nhạc xưng đế ở Quy Nhơn, đến năm Nhâm Tuất (1802), cả thảy được
24 năm. Nhưng Nguyễn Nhạc chỉ làm vua từ đất Quảng Nam, Quảng Nghĩa trở vào mà
thôi, còn từ Phú Xuân trở ra, thì thuộc về nhà Lê. Đến năm mậu thân (1788), vua
Quang Trung xưng đế hiệu, rồi ra đánh giặc Thanh, lấy lại đất Bắc Hà, sửa đổi
việc chính trị. Từ đó nước Nam mới thuộc về nhà Nguyễn Tây Sơn.
Vậy kể từ năm mậu thân (1788) đến
năm nhâm tuất (1802) thì nhà Tây Sơn chỉ làm vua được có 14 năm mà thôi.
Trong bấy nhiêu năm phải đánh nam
dẹp bắc luôn, không mấy lúc nghỉ việc chiến tranh, cho nên nhà Tây Sơn không
sửa sang được việc gì. Vả sau khi vua Quang Trung mất rồi, vua thì hèn, quan
thì nhũng, chính trị bỏ nát, lòng người oán giận, ai cũng mong mỏi được thời
thịnh trị để yên nghiệp mà làm ăn. Bởi vậy cho nên khi vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà
Nguyễn cất quân ra Bắc, lòng người theo phục, chỉ một tháng trời mà bình được
đất Bắc Hà, đem giang sơn về một mối, nam bắc một nhà, làm cho nước ta thành
một nước lớn ở phương nam vậy.
PHẦN V
Cận Kim Thời-Đại
Nhà Nguyễn (1802-1945)
CHƯƠNG I
Thế Tổ (1802-1819) Niên hiệu: Gia
Long
26. Thế Tổ xưng đế hiệu 27. Việc
triều chính 28. Binh chế 29. Việc tài chánh 30. Công vụ 31. Pháp luật 32. Việc
học hành 33. Việc giao thiệp với nước Tàu 34. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp
và nước Tiêm La 35. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao 36. Việc giao thiệp với
nước Pháp Lang Tây 37. Sự giết hại công thần 38. Xét công việc của vua Thái Tổ
1. Thế Tổ xưng đế hiệu.
Thế tổ khởi binh chống nhau với Tây
Sơn ở đất Gia Định từ năm mậu tuất (1778), kể vừa 24 năm, mới dứt được nhà Tây
Sơn, thu phục được giang sơn cũ của chúa Nguyễn khi xưa và họp cả nam bắc lại
làm một mối. Khi việc đánh dẹp xong rồi, ngài xưng đế hiệu, đặt quốc hiệu là
Việt Nam, đóng Kinh đô ở Phú Xuân, tức là thành Huế bây giờ.
Khi vua Thế Tổ lấy được đất Bắc Hà
rồi, ngài xuống chỉ tha cho dân một vụ thuế, và thăng thưởng cho các tướng sĩ.
Ngài lại phong tước cho con 170 cháu nhà Lê, nhà Trịnh, cấp
cho ruộng đất và trừ phong dịch cho dòng dõi hai họ ấy để giữ việc thờ phụng tổ
tiên.
Đoạn rồi, ngài đổi Bắc Hà là Bắc
Thành, đặt quan tổng trấn, triệu Nguyễn Văn Thành ở Quy Nhơn ra sung chức ấy,
để coi mọi việc. Lại đặt ra tam tào là tào Hộ, tào Binh, tào Hình, sai Nguyễn
Văn Khiêm, Đặng Trần Thường, và Phạm Văn Đăng ra coi các tào ấy, để giúp Nguyễn
Văn Thành.
Đến tháng bảy năm nhâm tuất (1802),
Thế Tổ về Kinh, đem vua tôi nhà Tây Sơn về làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi
đem ra tận pháp trường xử trị. Lại sai quật mả vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và vua
Thái Tổ Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi, còn đầu thì đem bỏ giam ở trong ngục
tối.
Những bọn văn thần nhà Tây Sơn như
Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích ra hàng, đem nọc ra đánh ở trước văn miếu, rồi tha
cho về. Lúc bấy giờ có Ngô Thì Nhiệm vì trước có hiềm với Đặng Trần Thường, cho
nên đến khi đánh ở văn miếu, Đặng Trần Thường sai người đánh chết.
Vua Thế Tổ định tội, thưởng công
xong rồi, lo sửa sang mọi việc; làm đền Cần Chính để lập thường triều, đền Thái
Hòa để lập đại triều; lại sai quân dân xây thành Kinh Đô và Hoàng Thành cùng
các thành trì ở ngoài các doanh trấn.
Tuy rằng ngài đã đặt niên hiệu, lên
ngôi từ năm nhâm tuất (1802), nhưng mà đến năm giáp tí (1804), tức là Gia Long
tam niên, vua nhà Thanh mới sai sứ sang phong vương, và đến năm bính dần
(1806), ngài mới làm lễ xưng đế hiệu ở đền Thái Hòa. Định triều nghi, cứ ngày
rằm và ngày mồng một thiết đại triều; ngày mồng 5, mồng 10, 20 và 25 thì thiết
tiểu triều.
Lúc ngài đánh xong Tây Sơn, thì
chính trị trong nước đổ nát, phong tục hủy hoại, việc gì cũng cần sửa sang lại.
Bởi vậy ở trong thì ngài chỉnh đốn pháp luật, và mọi việc cai trị cùng là sửa
sang phong tục, cấm dân gian không cho lấy việc thần phật mà bày ra rượu chè ăn
uống, nghiêm dụ quan lại không được sinh sự nhiễu dân. Ở ngoài thì ngài lo sự
giao hiếu với nước Tàu, nước Tiêm, nước Chân Lạp, khiến cho nước Việt Nam lúc
bấy giờ trong ngoài đều được yên trị.
2. Việc Triều Chính.
Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi
hoàng hậu, chỉ có ngôi hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, thì tự quân
lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.
Quan lại trong Triều đại khái theo
chế độ nhà Lê, nhưng bỏ chức Tham Tụng và Bồi Tụng tức là chức tể tướng đời
xưa. Mọi việc đều do Lục Bộ chủ trương hết cả. Mỗi bộ có quan Thượng Thư làm
đầu, quan tả hữu tham tri, tả hữu thị lang, cùng các thuộc viên như là lang
trung, viên ngoại lang, chủ sự và bát cửu phẩm thơ lại, v.v.....
Bộ Lại: coi việc thuyên bổ quan văn,
ban thưởng phẩm cấp, khảo xét công trạng, phong tặng tước ấm, thảo những tờ
chiếu sắc cáo mệnh và làm những sổ các hàng quan lại v.v....
Bộ Hộ: coi việc đinh điền thuế má,
tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa chất, hóa vật đắt rẻ v.v...
Bộ Lễ: coi việc triều hộ, khánh hạ,
tế tự, tôn phong, cùng là cách thức học hành thi cử, tinh biểu cho người sống
lâu, người có tiết nghĩa, phong thụy cho các thần nhân v.v.....
Bộ Binh: coi việc thuyên bổ võ chức,
giảng duyệt quân lính, sai khiến quân đi thú hoặc đi đánh dẹp, kén chọn binh
đinh, xét người có công người có lỗi về việc binh.
Bộ Hình: coi việc hình danh pháp
luật, tra nghĩ dâng tấu, duyệt lại những tội nặng án ngờ, xét kỹ những tù giam
ngục cấm.
Bộ Công: coi việc làm cung điện,
dinh thự, xây thành, đào hào, tu tạo tàu bè, đặt làm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền,
mua vật liệu v.v....
Ngoài lục bộ lại có Đô Sát Viện để
giữ việc can gián vua, và đàn hạch các quan. Cấp sự trung các khoa và giám sát
ngự sử các đạo, đều thống thuộc về viện ấy. Trong viện có tả hữu đô ngự sử và
tả hữu phó đô ngự sử đứng đầu.
Bấy giờ vua Thế Tổ lại đặt ra Tào
Chính để coi việc vận tải cùng là thuế má tàu bè. Có quan Tào Chính Sứ và Tào
Phó Sứ làm đầu.
Các địa phương thì lúc bấy giờ từ
nam chí bắc chia ra làm 23 trấn và 4 doanh. Từ Thanh Hóa ngoại (tức là Ninh
bình bây giờ) trở ra, gọi là Bắc Thành, thống cả 11 trấn, chia ra làm 5 nội
trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, và Hải Dương; 6 ngoại
trấn: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên. Từ
Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định Thành, thống cả 5 trấn: Phiên An (địa hạt
Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường và
Hà Tiên. 171
Còn ở quãng giữa nước, thì đặt Thanh
Hóa Trấn (gồm cả Thanh Hóa nội, Thanh Hóa ngoại), Nghệ An trấn, Quảng Nghĩa
trấn, Bình Định trấn, Phú Yên trấn, Bình Hòa trấn (tức là Khánh hòa) và Bình
Thuận trấn. Đất kinh kỳ thống bốn doanh là: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức là
Thừa Thiên bây giờ), Quảng Trị doanh, Quảng bình doanh, Quảng Nam doanh.
Ở Bắc Thành và Gia Định Thành đều
đặt chức tổng trấn, và phó tổng trấn, để coi mọi việc. Ở các trấn thì đặt quan
lưu trấn hay là quan trấn thủ, quan cai bạ và quan ký lục để coi việc cai trị
trong trấn.
Trấn lại chia ra phủ, huyện, châu,
đặt chức tri phủ, tri huyện, tri châu để coi việc cai trị.
Những trấn ở Nghệ An, Thanh Hóa và 5
nội trấn ở Bắc Thành, thì dùng những quan cựu thần nhà Lê làm quan cai trị. Còn
6 ngoại trấn ở Bắc Thành, thì giao quyền cai trị cho những thổ hào sở tại.
3. Binh Chế.
Khi vua Thế Tổ đánh được Tây Sơn
rồi, ngài ban thưởng cho các tướng sĩ, tặng phong và làm đền thờ những người tử
trận. Còn những quân lính già nua thì cho về quê quán. Đặt ra phép giản binh:
lệ định các trấn, tự Quảng Bình vào đến Bình Thuận thì cứ ba tên đinh kén lấy
một tên lính; tự Biên Hòa trở vào thì cứ 5 tên đinh kén lấy một tên lính; tự Hà
Tịnh trở ra đến 5 nội trấn ở Bắc Thành thì cứ 7 tên đinh kén lấy một tên lính.
Còn 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên,
Quảng Yên thì cứ 10 tên đinh kén lấy một tên lính.
Ở chỗ Kinh thành thì đặt ra thân binh,
cấm binh, tinh binh. Lính thân binh mỗi vệ có 500 người và có 50 người tập quân
nhạc. Ở các trấn thì đặt ra lính cơ, lính mộ. Lại đặt biền binh ban lệ, nghĩa
là các binh lính chia ra làm 3 phiên, 2 phiên về quán, còn một phiên ở tại ban
luân lưu thay đổi cho nhau.
Những binh khí thì dùng gươm giáo,
mã tấu, và lại có súng lớn bằng đồng gọi là súng đại bác, súng nhỏ gọi là súng
thạch cơ điểu thương, nghĩa là bắn thì mổ bằng máy đá lửa. Ở chỗ kinh thành lập
ra ba sở xạ trường để quân lính tập bắn.
Ở các cửa bể đều làm đồn đặt súng để
phòng giữ và để xem xét những tàu bè ngoại quốc đi lại.
Nước Việt Nam ta có nhiều bể cần
phải giữ gìn, bởi vậy vua Thế Tổ lưu tâm về việc chỉnh đốn binh thuyền: lấy
người ở gần bể về doanh Quảng Đức và doanh Quảng Nam làm 6 vệ thủy quân đóng
tại Kinh Thành. Còn ở các hải khẩu, mỗi nơi có một cơ lính thủy coi giữ. Nhà
vua lại làm một thứ thuyền lớn ngoài bọc đồng, để đi lại tuần phòng ở miền bể.
4. Việc Tài Chính.
Thuế đinh, thuế điền đều định lại
cả. Thuế điền thì chia ra làm 3 hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp thóc
20 thăng; nhị đẳng điền 15 thăng; tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa
đồng niên phải nộp 10 thăng.
Thuế đinh thì lệ định: từ Nghệ An ra
đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu:
Thuế thân 1 quan 2 tiền
Mân tiền 1 tiền
Cước mễ 2 bát
5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng
Thiên 139 , mỗi suất đinh đồng niên phải chịu:
Thuế thân 1 quan 2 tiền
Mân tiền 1 tiền
Điệu tiền (tạp dịch) 6 tiền
Cước mễ 2 bát
6 ngoại trấn Bắc Thành, mỗi suất
đinh đồng niên phải chịu:
Thuế thân 6 tiền
Mân tiền 1 tiền
Điệu tiền 3 tiền
Cước mễ 1 bát
Lệ giảm thuế: Thuế lệ tuy định như
vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như là bị hoàng trùng, đại hạn hay là nước
lụt, v.v... thì nhà nước chiếu theo sự thiệt hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân.
Lúa 10 phần thiệt hại tới 4 phần thì khoan giảm cho hai phần thuết; thiệt hại 5
phần thì giảm cho 3; thiệt hại 6 phần thì giảm cho 4; thiệt hại 7 phần thì giảm
cho 5; thiệt hại 8 phần thì giảm cho 6; thiệt hại 9 phần thì giảm cho 7; thiệt
hại hết cả thì giảm cả. Hoặc nhà nước có lấy dân đinh đi làm đường, đào sông,
xây thành v.v... thì cũng được giảm thuế.
139
Vụ thuế: Nhà vua lại tùy từng địa
phương mà định vụ thuế. Từ Quảng Bình đến Bình Thuận cứ mỗi năm một vụ thu
thuế, khởi đầu từ tháng 4 đến tháng 7 thì hết. Từ Nghệ An ra đến Thanh Hóa
ngoại, cùng các trấn ở Bắc thành mỗI năm thu thuế 2 vụ: mùa hạ thì khởi tự
tháng 4 đến tháng 6 thì hết; mùa đông thì khởi sự tự tháng 10 đến tháng 11 thì
hết.
Đinh bạ: Lệ định 5 năm một lần làm
sổ đinh, trong làng từ chức sắc cho đến quân dân, đều phải vào sổ. Kể từ 18
tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải khai vào sổ.
Điền bạ: Các làng, hoặc ruộng mùa,
hoặc ruộng chiêm, hoặc ruộng hai mùa, hoặc có đất hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào,
thước, tấc, tọa lạc tại đâu, đông tây tứ chí phải chua cho rõ ràng. Mỗi làng
phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm làm một lần đệ vào bộ đóng dấu kiềm, rồi một bản
lưu lại bộ, để phòng khi xét đến; còn hai bản giao về tỉnh, tỉnh để một bản lưu
chiểu, còn một bản gia trả dân xã lưu thủ.
Cấm bán ruộng công điền: Từ khi nhà
Lê mất ngôi, dân xã có nơi thì đem công điền đổi ra tư điền, có nơi thì đem cố
bán đi, bởi vậy năm Gia Long thứ hai (1803) nhà vua lập lệ cấm dân xã không
được mua bán công điền công thổ, chỉ trừ lúc nào xã thôn có công dụng điều gì,
thì mới được phép cho điển cố, hạn hết 3 năm lại phải trả lại. Ai giữ quán hạn
ấy thì phải tội.
Thuế các sản vật: Năm Gia Long thứ
hai (1803), định lệ các quế hộ ở Nghệ An, đồng niên phải nộp các hạng quế 120
cân. Ở Thanh Hóa phải nộp 70 cân, và đều được miễn trừ thuế thân cả. Những
người tìm được cây quế, phải trình quan để cấp cho văn bằng mới được đẵn. Đẵn
xong rồi một nửa nộp quan, một nửa cho người tìm được.
Năm Gia long thứ tư (1805), định lệ
những người đi lấy yến sào ở các đảo về hạt Quảng Nam, mỗi người đồng niên phải
nộp thuế yến 8 lạng, và được tha việc binh lính.
Còn những thuế hương, thuế sâm, thuế
chiếu, thuế gỗ, đều có lệ riêng, định cho nộp bằng tiền hay là bằng sản vật.
Vua Thế Tổ lại định lệ đánh thuế
những thuyền các nước vào buôn bán, cứ do thuyền lớn nhỏ mà định số thuế phải
nộp.
Những mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm,
cũng cho người Tàu khai để đánh thuế.
Đúc tiền: Năm Gia Long thứ hai
(1803), mở sở đúc tiền ở Bắc Thành, để đúc tiền đồng và tiền kẽm; lại đúc ra
nén vàng, nén bạc, lượng vàng, lượng bạc, để cho tiện sự giao thông buôn bán
trong nước.
Mỗi đồng tiền kẽm nặng 7 phân, một
mặt in chữ "Gia Long Thông Bảo", một mặt in chữ "thất
phân", mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng.
Giá vàng ở Bắc Thành thì định cứ một
lượng vàng đổi lấy 10 lượng bạc.
Về sau mở thêm lò đúc tiền ở Gia
Định Thành và ở các trấn.
Thước đo: Vua Thế Tổ chế tạo ra kiểu
thước đồng đo ruộng, một mặt khắc 7 chữ "Gia Long cửu niên thu bát
nguyệt", một mặt khác 10 chữ "ban hành đạc điền xích, công bộ đường
kính tạo". Chuẩn định lại các thước vuông đo ruộng khi trước, chế tạo ra
thước đồng, một mặt khắc 7 chữ "Gia Long Cửu Niên Thu Bát Nguyệt",
một mặt khắc 12 chữ "ban hành đạc điền cựu kinh xích, công bộ đường khâm tạo".
Phép cân: Năm Gia Long thứ 12
(1813), chế tạo ra cân thiên bình, cấp cho các doanh các trấn, để cân đồng,
sắt, chì, thiếc và các sản vật. Còn vàng và bạc thì dùng cân trung bình.
5. Công Vụ.
Vua Thế Tổ lại sửa sang những đường
sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của dân gian
được tiện lợi.
Đường Quan Lộ: Đường sá trong nưóc
là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên vua Thế Tổ mới định lệ sai quan ở
các doanh, các trấn phải sửa sang đường quan lộ: bắt dân sở tại phải đắp đường
làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo.
Lại từ cửa Nam quan (thuộc Lạng Sơn)
vào đến Bình Thuận, cứ độ 4.000 trượng phải làm một cái nhà trạm ở cạnh đường
quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ ngơi. Cả thảy 98 trạm.
Còn từ Bình Thuận trở vào phía nam
đến Hà Tiên thì đi đường thủy.
Sông ngòi và đê điều: Những sông
ngòi và đê điều, đều là sự khẩn yếu cho việc canh nông, bởi vậy vua Thế Tổ
truyền cho quan ở các trấn phải xoi đào sông ngòi và các cửa bể, và nhất là ở
Bắc thành phải giữ gìn đê điều cho cẩn thận: chỗ nào không có thì đắp thêm, chỗ
nào hư hỏng thì phải sửa 173 lại. Ở các trấn lại đặt ra kho
chứa thóc gạo, để phòng khi mất mùa đói kém thì lấy mà phát cho dân.
6. Pháp Luật.
Nguyên khi trước vẫn theo luật nhà
Lê, nhưng nay nhà Nguyễn đã nhất thống cả nam bắc, vua Thế Tổ bèn truyền cho
đình thần lập ra pháp luật rõ ràng, để cho tiện sự cai trị. Năm tân mùi (1811)
sai Nguyễn Văn Thành làm tổng tài, coi việc soạn ra sách luật; lấy luật cũ của
đời Hồng Đức nhà Lê, mà tham chước với luật nhà Thanh làm thành một bộ, cả thảy
22 quyển, có 398 điều.
Đến năm ất hợi (1815), thì in sách
luật ấy phát ra mọi nơi. Bộ luật ấy tuy nói theo luật Hồng Đức nhưng kỳ thực là
chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều mà thôi.
7. Việc Học Hành.
Thời bấy giờ nhờ có võ công mới dựng
nên cơ nghiệp, cho nên lúc ấy các quan đầu triều là quan ngũ quân đô thống, và
quan tổng trấn Nam Bắc hai thành đều là quan võ cả. Nhưng vua Thế Tổ cũng biết
rằng sự trị nước cần phải có võ có văn, bởi vậy đêm ngày ngày lưu ý về việc học
hành thi cử trong nước.
Ngài lập nhà Văn Miếu ở các doanh
các trấn, thờ đức Khổng tử, để tỏ lòng trọng Nho học. Đặt Quốc Tử Giám ở Kinh
đô, để dạy con các quan và các sĩ tử. Mở khoa thi Hương để kén lấy những người
có học hành ra là quan.
Đặt thêm chức đốc học ở các trấn, và
dùng những người có khoa mục ở đời nhà Lê, để coi việc dạy dỗ.
Vua Thế Tổ lo cả đến địa dư và quốc
sử, bởi vậy ngày sai quan Binh Bộ Thượng Thư là Lê Quang Định kê cứu ở trong
các trấn các doanh, tự Lạng Sơn đến Hà Tiên, xem sơn xuyên hiểm trở, đưòng sá
xa gần, sông bể, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ sản, có những gì làm thành
sách "Nhất Thống Địa Dư Chí" để dâng lên. Đến năm bính dần (1806), bộ
sách ấy làm xong cả thảy được 10 quyển.
Năm tân mùi (1811), ngài sai quan
tìm những sách dã sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn để sửa lại quốc
sử.
Thời bấy giờ văn quốc âm cũng thịnh
lắm. Một đôi khi nhà vua cũng dùng chữ nôm mà làm văn tế. Bài văn tế tướng sĩ
khi quan Tiền quân Nguyễn Văn Thành, tổng trấn Bắc Thành ra chủ tế không rõ ai
làm, nhưng thật là một bài văn chương đại bút. Lại có những chuyện như
"Hoa Tiên" của ông Nguyễn Huy Tự, "Truyện Thúy Kiều" của
quan Hữu Tham tri bộ Lễ là ông Nguyễn Du 140 , cũng phát hiện ra thời bấy giờ.
"Truyện Thúy Kiều" là một
tập văn chương rất hay, diễn được đủ cả nhân tình thế cố, tả được cả mọi cảnh
trong đời, mà chỗ nào văn chương cũng tao nhã, lời lẽ cũng lý thú. Nói theo
tiếng đời nay thì "Truyện Thúy Kiều" thật là một tập văn chương đại
trước tác của nước ta vậy.
8. Việc Giao Thiệp Với Nước Tàu.
Khi vua Thế Tổ dứt được nhà Nguyễn
Tây Sơn và lấy được đất Bắc Hà rồi, sai quan thượng thư Binh Bộ là Lê Quang
Định làm chánh sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt, lấy lẽ
rằng Nam là An Nam và Việt là Việt Thường. Nhưng vì đất Nam Việt đời nhà Triệu
ngày trước gồm cả đất Lưỡng Quảng, cho nên Thanh Triều mới đổi chữ Việt lên
trên, gọi là Việt Nam để cho khỏi lầm với tên cũ.
Đến năm giáp tí (1804) Thanh Triều
sai quan án sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang tuyên phong. Đoạn rồi, vua
sai Lê Bá Phẩm làm chánh sứ đem đồ cống sang tạ và từ đó cứ chiếu lệ ba năm một
lần sang cống.
Đồ cống phẩm là:
Vàng
200 lượng
Bạc
1000 lượng
Lụa và cấp mỗi thứ 100 cây
Sừng tê giác
2 bộ
Ngà voi và quế mỗi thứ 100 cân
9. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp
và nước Tiêm La.
Nguyên lúc còn Lê Triều thì chúa
Nguyễn vẫn giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp. Sau vua nước ấy là Nặc Ông Tôn 141
bị anh em hiếp chế, phải chia quyền
ra làm ba, để cho Nặc Ông Vinh làm vua đầu, mình làm vua thứ hai, em là Nặc Ông
Thâm làm vua thứ ba. Được ít lâu Nặc Ông Vinh giết cả Nặc Ông Tôn và Nặc Ông
Thâm giữ lấy quyền làm vua một mình.
Lúc bấy giờ Nguyễn Vương còn ở Gia
Định mới sai Đỗ Thanh Nhân sang đánh Nặc Ông Vinh và lập con Nặc Ông Tôn là Nặc
Ông Ấn lên làm vua. Nặc Ông Ấn bấy giờ mới có 8 tuổi. Nguyễn Vương sai Hồ Văn
Lân ở lại
140
Ông Nguyễn Du người làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh 141
Xem ở chương VI 174
bảo hộ. Nhưng đến khi đất Gia Định thất thủ quyền bảo hộ nước Chân Lạp thuộc về
nước Tiêm La.
Năm bính thìn (1796), Nặc Ông Ấn
mất, truyền nôi lại cho con là Nặc Ông Chân. Vua Tiêm La sai sứ sang phong, như
thế là vua Chân Lạp phải thần phục vua Tiêm La.
Đến năm đinh mão (1807) Nặc Ông Chân
lại bỏ Tiêm La mà xin về thần phục vua Việt Nam ta, theo lệ cống tiến, cứ ba
năm một lần.
Đồ cống vật là:
Voi đực cao 5 thước 2 con
Sừng tê giác
2 chiếc
Ngà voi
2 cái
Hột sa nhân
50 cân
Đậu khấu 50 cân
Hoàng lạp 50 cân
Cánh kiến 50 cân
Sơn đen 20 lọ
Nặc Ông Chân có ba người em tên là
Nặc Ông Nguyên, Nặc Ông Lem, Nặc Ông Đôn, muốn tranh quyền của anh, mới sang
cầu cứu nước Tiêm La. Tiêm La bắt Nặc Ông Chân phải chia đất cho các em. Nặc
Ông Chân không chịu, quân Tiêm La bèn sang đánh thành La Bích. Nặc Ông Chân
chạy sang Tân Châu, rồi dâng biểu cầu cứu. Quan tổng trấn Gia Định thành bấy
giờ là Nguyễn Văn Nhân mới đem việc ấy tâu về Triều đình.
Năm tân mùi (1811), vua Thế Tổ cho
sứ đưa thư sang trách nước Tiêm La sinh sự. Năm sau, vua Tiêm La sai sứ sang
phúc thư lại rằng: việc ấy là muốn giảng hòa cho anh em Nặc Ông Chân, chứ không
có ý gì cả. Vậy xin để Việt Nam xử trí thế nào, Tiêm La 142
cũng xin thuận.
Qua năm quý dậu (1813) vua Thế Tổ
sai quan tổng trấn Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt đem hơn 10.000 quân, hội đồng
với sứ nước Tiêm La, đưa Nặc Ông Chân về nước.
Nước Tiêm La tuy không dám kháng cự,
nhưng vẫn lưu quân ở lại giữ tỉnh Bắc tầm bon (Battambang), nói rằng để đất ấy
phong cho các em Nặc Ông Chân. Lê Văn Duyệt mới viết thư sang trách nước Tiêm
La về điều ấy, quân Tiêm mới rút về.
142
Tức là Thái Lan ngày nay
Lê Văn Duyệt dâng sớ xin xây thành
Nam Vang (Phnompenh) và thành La-lêm. Khi những thành ấy xây xong, thì vua Thế
Tổ sai Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân ở lại bảo hộ nước Chân Lạp. Từ đó quyền
bảo hộ Chân Lạp lại về nước ta.
10. Việc giao thiệp với nước Hồng
Mao.
Năm quý hợi (1803), nước Hồng Mao
(tức là Anh Cát Lợi) sai sứ là ông Robert đem đồ phương vật sang dân và xin cho
vào mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Thế Tổ không nhận đồ,
và cũng không cho mở cửa hàng. Sau người Hồng Mao còn đưa thư sang hai ba lần
nữa, nhưng ngày vẫn một niềm từ chối không chịu.
11. Việc giao thiệp với nước Pháp
Lan Tây.
Đối với nước Pháp thì vua Thế Tổ có
biệt nhỡn hơn, là vì khi ngài còn gian truân, ngài có nhờ ông Bá Đa Lộc có đem
mấy người sang giúp ngày. Đến khi xong việc đánh dẹp rồi, còn có Chaigneau,
Vannier và Despiau làm quan tại triều, mà vua Thế Tổ cũng có lòng trọng đãi,
cho mỗi người 50 lính hầu, và đến buổi chầu thì không bắt lạy.
Vả trong khi vua Thế Tổ làm vua ở
nước Việt Nam, thì Nã Phá Luân đệ nhất (Napoleon I) làm vua bên nước Pháp, đang
còn phải đánh nhau với các nước, cho nên tàu Pháp cũng không hay đi lại ở phía
Viễn Đông này. Đến khi Nã Phá Luân thất thế, dòng dõi nhà vua cũ lại trung hưng
lên, bấy giờ sự chiến tranh đã yên, thì mới có tàu sang buôn bán ở phương Á
đông. Năm đinh sửu (1817), có chiếc tàu "La Paix" của hiệu Balguerie,
Sarget et Cie chở đồ hàng sang bán, nhưng mà những đồ hàng ấy, người Việt Nam
ta không dùng được, lại phải chở về. Vua Thế Tổ tha không đánh thuế. Qua tháng sáu
năm ấy, chiếc tàu binh tên là Cybèle của nước Pháp vào cử Đà Nẵng. Quan thuyền
trưởng là De Kergarion bá tước nói rằng Pháp Hoàng Louis XVIII sai sang xin thi
hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo
Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước
đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa.
Năm kỷ mão (1819), có chiếc tàu buôn
ba cột tên là "Rose" và "Le Henri" vào cửa Đà Nẵng. Lần này
hàng hóa đem sang bán được, lại chở chè và lụa về. Năm ấy Chaigneau xin nghỉ ba
năm, đem vợ con xuống tàu "Le Henri" về Pháp.
Những người công thần như Nguyễn Văn
Thành và Đặng Trần Thường đều bị giết hại trong khi vua Thế Tổ còn đang trị vì.
Nguyễn Văn Thành, nguyên là người ở
Thừa Thiên, nhưng vào ở Gia Định đã hai ba đời. Theo vua Thế Tổ từ khi ngài mới
khởi binh đánh Tây Sơn, chịu hết mọi đường khổ sở. Sau ra đánh Tây Sơn ở Quy
Nhơn, lập được công lớn, đứng đầu hàng công thần.
Khi vua Thế Tổ ra lấy bắc hà, triệu
ông ra làm tổng trấn, giao cho xếp đặt mọi việc, chỉ có mấy năm mà đất Bắc Hà
được yên trị. Sau về Kinh làm chức trung quân.
Ông có học thức, cho nên triều đình
cử làm tổng tài việc làm sách luật và quốc sử.
Nguyễn Văn Thành có người con tên là
Nguyễn Văn Thuyên thi đậu cử nhân, thường hay làm thơ để giao du với những kẻ
văn sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận
có tiếng hay chữ, Văn Thuyên làm bài thơ sai tên Nguyễn Trương Hiệu cầm đi mời
vào chơi.
Bài thơ rằng:
Văn đạo Ái châu đa tuấn kiệt
Hư hoài trắc tịch dục cầu ty
Vô tâm cửu bảo Kinh sơn phác
Thiện tường phương tri Ký bắc kỳ
U cốc hữu hương thiên lý viễn
Cao cương minh phượng cửu thiên tri
Thư hồi nhược đắc sơn trung tể
Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky
Dịch nôm là:
Ái châu nghe nói lắm người hay
Ao ước cầu hiền đã bấy nay
Ngọc phác Kinh sơn tài sẵn đó
Ngựa kỳ Ký bắc biết lâu thay
Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây
Sơn tể phen này dù gặp gỡ
Giúp nhau xoay đổi hội cơ này
Tưởng bài thơ này chẳng qua là lời lẽ
của người thiếu niên nói ngông mà thôi, không ngờ tên Hiệu đưa cho Nguyễn Hữu
Nghi xem, Hữu Nghi xui tên Hiệu đi cáo với Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt vốn ghét
Nguyễn Văn Thành, nay thấy bài thơ này, nắm lấy đem vào tâu vua, vua sai bắt
Nguyễn Văn Thuyên đem bỏ ngục. Bấy giờ triều thần có nhiều người bẻ tội ông
Thành. Một hôm bãi triều rồi, ông Thành chạy theo nắm lấy áo vua mà kêu khóc
rằng: "Thần theo Bệ Hạ từ thủa nhỏ đến bây giờ, nay không có tội gì mà bị
người ta cấu xé, Bệ Hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn để người ta giết thần mà không
cứu?". Vua Thế Tổ giật áo ra đi vào cung, rồi từ đó cấm không co ông Thành
vào chầu nữa, và sai Lê Văn Duyệt đem con Nguyễn Văn Thành ra tra hỏi, bắt phải
nhận tội. Nguyễn Văn Thành sợ tội, uống thuốc độc mà chết, còn Nguyễn Thuyên
thì phải chém.
Đặng Trần Thường người ở Chương Đức
(tức là huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông bây giờ) có tài văn học, trốn Tây Sơn vào
Gia Định theo giúp vua Thế Tổ làm đến Binh Bộ Thượng Thư. Sau vì làm gian sắc
phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc là tướng nhà Trịnh vào bậc phúc thần, triều đình
làm án phải tội chém. Nhưng rồi lại được tha. Đặng Trần Thường vốn có hiềm với
Lê Chất, cho nên Lê Chất mới bới những việc như là khi ra coi tào binh ở Bắc
Thành, có chiếm giữ đầm ao và ẩn lậu đinh điền, v.v.... Lại bị bắt bỏ ngục và
xử phải tội giảo.
Tương truyền rằng Đặng Trần Thường ở
trong ngục có làm bài "Hàn Vương Tôn Phú" bằng quốc âm để ví mình như
Hàn Tín đời Hán.
13. Xét công việc của vua Thế Tổ.
Vua Thể tổ là ông vua có tài trí,
rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống nhau với Tây Sơn, trải bao nhiêu lần
hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngã lòng, cứ một niềm lo sợ khôi phục. Ngài lại
có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn
người mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức lòng mà theo giúp. Bởi
vậy cho nên không những là ngài khôi phục được nghiệp cũ, mà lại thống nhất
được sơn hà, và sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy giờ thành một
nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy.
Công nghiệp của ngài thì to thật,
tài trí của ngài thì cao thật, nhưng chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong
rồi, ngài không bảo toàn cho những công thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt
đem giết hại những người có công với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những
chuyện ấy, cũng nhớ đến vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những
người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa.
Vua Thế Tổ mất năm kỷ mão (1819),
trị vì được 18 năm, thọ 59 tuổi, miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế. 176
CHƯƠNG I
Thánh Tổ (1820-1840) Niên hiệu: Minh
Mệnh
1. Đức độ vua Thánh Tổ 2. Việc chính
trị trong nước 3. Nội các 4. Cơ mật viện 5. Tôn nhân phủ 6. Quan chế 7. Đặt
tổng đốc, tuần phủ ở các tỉnh 8. Lương bổng của các quan 9. Tiền dưỡng liêm 10.
Sự học hành thi cử 11. Sách vở 12. Việc sửa sang phong tục 13. Nhà dưỡng tế 14.
Việc dinh điền và thuế má 15. Việc võ bị
1. Đức Độ Vua Thánh Tổ.
Tháng giêng năm canh thìn (1820),
Hoàng Thái Tử húy là Đảm lên ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mệnh.
Vua Thánh Tổ là một ông vua có tư
chất minh mẫn, có tính hiếu học và lại hay làm; phàm có việc gì, ngài cũng xem
xét đến, và có châu phê rồi mới được thi hành.
Ngài tinh thâm Nho học, sùng đạo
Khổng Mạnh, cho nên không ưa đạo mới, cho là một tả đạo lấy trời thánh ra mà
làm mê hoặc lòng dân. Bởi vậy, ngài mới nghiêm cấm và trừng trị những người
theo đạo Gia Tô.
Về sau có nhiều nhà làm sử, vì ý
riêng mà cho ngài là bạo quân, thì thiết tưởng điều ấy không hợp với lẽ công
bằng.
Phải biết rằng nước ta từ xưa đến
nay, điều gì cũng theo Nho Giáo, lấy tam cương ngũ thường làm căn bản cho sự ăn
ở. Vua tôi, cha con, vợ chồng, ấy là cái khóa luân lý củ xã hội mình. Ai tháo
cái khóa ấy ra thì cho là không phải loài người nữa. Vậy con phải theo cha, tôi
phải theo vua, ai trái với cái đạo ấy ra phải tội nặng, đáng chém giết.
Lúc trong nước mình từ vua quan cho
chí dân sự, ai ai cũng lấy cái lý tưởng ấy làm phải, làm hay hơn cả, mà lại
thấy có người bỏ đi theo đạo khác, nói những chuyện mà lúc bấy giờ lại không
mấy người hiểu rõ ra thế nào thì tất cho là theo tả đạo làm hư hỏng cái phong
tục hay của mình. Bởi vậy cho nên nhà vua mới cấm, không cho người trong nước
đi theo đạo mới.
Một ông vua nghiêm khắc như Thánh Tổ
mà cấm không được, thì tất là phải giết. Trong khi cấm và giết như vậy, là vẫn
tưởng mình làm bổn phận làm vua của mình, chớ có biết đâu là mình làm sự thiệt
hại cho dân cho nước.
Vả, bao giờ cũng vậy, hễ người ta đã
sùng tín một tông giáo nào, thì tất cho cái tông giáo của mình là hay hơn, và
cho người theo tông giáo khác là thù nghịch với mình, rồi hễ có quyền thế là
làm thế nào cũng dùng cách ấy mà hà hiếp người khác đạo với mình. Cũng vì lẽ
ấy, cho nên ngày trước Vua Phillippe II nước I Pha Nho, vua Louis XIV nước Pháp
Lan Tây giết hại bao nhiêu người trong nước. Mà chắc rằng lúc bấy giờ các ông
ấy cũng tưởng là mình làm điều phải, chớ có biết đâu là mình làm điều trái lẽ.
Vẫn biết rằng sự giết đạo là sự
không lành, nhưng phải hiểu cái trí não người Việt Nam ta lúc bấy giờ, không rõ
cái tông chỉ đạo Thiên Chúa ra thế nào, cho nên dẫu không phải là vua Thánh Tổ
nữa, thì ông vua khác cũng không chắc đã tránh khỏi cái lỗi giết đạo ấy.
Nhà làm sử lại đổ cho vua Thánh Tổ
giết Nguyễn Văn Thành, song xét trong các truyện như sách Thực Lục Chính Biên
và sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện thì chỉ thấy chép rằng Nguyễn Văn Thành
bị tội phải uống thuốc độc mà tự tử năm Gia Long thứ 15 mà thôi. Còn như vụ án
Lê Văn Duyệt và Lê Chất thì có hẹp hòi thật, nhưng khi các ông ấy đã mất rồi,
và lại vì có tên Khôi khởi loạn cho nên mới truy tội hai ông ấy mà làm án, chứ
lúc hai ông ấy còn sống, thì vua Thánh Tổ, tuy có bụng nghi ngờ, nhưng vẫn
không bạc đãi.
Việc ngài giết chị dâu là bà vợ
Hoàng Tử Cảnh và các cháu, thì không thấy sách nào chép cả, chỉ thấy một đôi
người truyền ngôn như thế mà thôi. Vậy việc ấy thực hư thế nào không rõ.
Còn việc không biết giao thiệp với
các nước ngoại dương, thì không phải là cái lỗi riêng một mình ngài. Lúc bấy
giờ người mình ai cũng chỉ biết có nước Tàu là văn minh hơn, còn thì cho là man
di cả. Phỏng sử có ai là người biết mà nói ở thiên hạ còn có nhiều nước văn
minh hơn nữa cũng không ai tin. Bởi thế, hễ thấy người ngoại quốc vào nước
mình, thì không những là sợ có sự phản trắc và sợ đem đạo mới vào nước mà thôi,
lại còn sợ lây phải cái phong tục dã man nữa, cho nên không muốn giao thông với
ngoại quốc làm gì. Như thế thì có nên riêng trách một mình ai không ?
Cái nghĩa vụ làm sử, tưởng nên kê
cứu cho tường tận, rồi cứ sự thực mà nói, chứ không nên lấy lòng yêu ghét của
mình mà xét đoán. Dẫu người mình ghét mà có làm điều phải, mình cũng phải khen;
người mình yêu mà có làm điều trái, mình cũng phải chê. Vua Thánh Tổ là một ông
vua chuyên chế, tất thế nào cũng có nhiều điều sai lầm và có nhiều điều tàn ác,
nhưng xét cho kỹ, thì thật ngài cũng có lòng vì nước lắm. Trong, lo sửa sang
mọi việc, làm thành ra nền nếp chỉnh tề, ngoài, đánh Tiêm dẹp Lào, làm cho nước
không đến nỗi kém hèn.
Vậy cứ bình tình mà xét, thì dẫu
ngài không được là ông anh quân nữa, thì cũng không phải là ông vua tầm thường;
cứ xem công việc của ngài làm thì hiểu rõ.
2. Việc Chính Trị Trong Nước.
Vua Thánh Tổ đã 30 tuổi mới lên ngôi
vua, cho nên việc triều chính ngài đã am hiểu lắm. Việc gì ngài cũng muốn biết.
Có khi xong buổi chầu rồi, ngài đòi một vài quan đại thần lên bàn mọi việc kinh
lý và hỏi những sự tích đời xưa, những nhân vật và phong tục ở các nước xa lạ.
Ngài chăm xem xét mọi việc, có khi đêm thắp đèn xem chương, sớ, đến trống hai,
trống ba mới thôi. Thường thường ngài nói với các quan rằng: Lòng người ai cũng
muốn ở yên, mà không muốn sinh sự ra để thay đổi luôn, nhưng lúc trẻ mạnh mà
không sửa sang mọi việc, thì rồi đến lúc già yếu, mỏi mệt còn làm gì được. Bởi
vậy cho nên trẫm không dám lười biếng lúc nào 143 .
Ở trong triều, thì ngài đặt thêm ra
các tự và các viện. Bấy giờ có Nội Các và Cơ Mật Viện là quan trọng hơn cả.
3. Nội Các.
Đời vua Thế Tổ đã đặt Thị Thư Viện
làm chốn cơ yếu trong điện, để có điều gì thì vua hỏi han và làm các việc như
biểu, sách, chế, cáo,
143
Minh Mệnh Chính Yếu, quyển Cần
Chính. 178 chương, tấu, sắc, mệnh, v.v.... Đại khái cũng tự
hồ phòng bí thư của vua vậy.
Năm canh thìn (1820) là năm Minh
Mệnh nguyên niên, vua Thánh Tổ cải làm Văn Thư Phòng; đến năm Minh Mệnh thứ
mười (1829), đổi làm Nội Các, lấy quan tam tứ phẩm ở các bộ, viện, vào quản
lĩnh mọi việc.
4. Cơ Mật Viện.
Năm giáp ngọ (1834) là năm Minh Mệnh
thứ 15, nhân vì việc quân quốc cơ yếu là việc rất quan trọng, vua Thánh Tổ mới
theo như Khu Mật Viện nhà Tống và Quân Cơ xứ nhà Thanh mà châm chước đặt ra Cơ
Mật Viện, cho có trách nhiệm riêng. Các quan đại thần sung chức trong viện ấy
thì dùng 4 viên, văn võ từ tam phẩm trở lên, phụng chỉ kén dùng. Thuộc viên thì
có viên ngoại lang, chủ sự, tư vụ, biên tu, đều kén ở trong các bộ viện ra sung
bổ. Các quan đại thần ở Cơ Mật Viện có đặc chỉ cho đem kim bài để phân biệt với
các quan khác. Kim bài khởi đầu có từ đấy.
5. Tôn Nhân Phủ.
Năm bính thân (1836) là năm Minh
Mệnh thứ 17, vua Thánh Tổ đặt ra Tôn Nhân Phủ và đặt quan chức để coi mọi việc
ở trong họ nhà vua.
Nhà vua thờ tiên tổ có 7 miếu: những
miếu phía tả gọi là chiêu, những miếu phía hữu gọi là mục. Con cháu các dòng
chiêu hay là mục phải phân biệt chi nào ra chi ấy.
Đặt tôn nhân lệnh một người, tả hữu
tôn chính hai người, tả hữu tôn nhân hai người, để coi việc hoàng tộc và việc
phân biệt tự hàng chiêu hàng mục, ghi chép hàng lượt người thân người sơ, việc
nuôi nấng và cấp tước lộc cho mọi người trong hoàng tộc; lại đặt ra hữu tôn
khanh hai người, tả hữu tá lý hai người, để coi thứ trật mọi người tôn thất và
việc cấp dưỡng cho kẻ cô ấu, giúp đỡ những việc tang hôn v.v....
6. Quan Chế.
Vua Thánh Tổ lại đặt các phẩm cấp
quan chế, từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mổi phẩm chia ra làm chánh và tòng hai
bậc.
Văn Võ Chánh Nhất Phẩm Cần chính
điện đại học sĩ, Văn Minh điện đại học sĩ, Võ hiển điện đại học sĩ, Đông các
đại học sĩ. Ngũ quân Đô Thống phủ đô thống chưởng phủ sự. Tòng Nhất Phẩm Hiệp
biện đại học sĩ. Ngũ quân Đô Thống phủ đô thống. Chánh Nhị Phẩm Thượng thư,
tổng đốc, tả hữu đô ngự sử. Thống chế, đề đốc. Tòng Nhị Phẩm Tham tri, tuần
phủ, tả hữu phó đô ngự sử. Chưởng vệ, khinh xa đô úy,đô chỉ huy sứ,phó đề đốc.
Chánh Tam Phẩm Chưởng viện học sĩ, thị lang, đại lý tự khanh, thái thường tự
khanh, bố chính sứ, trực học sứ, thông chính sứ, thiêm sự, phủ doãn. Nhất đẳng
thị vệ, chỉ huy sứ, thân cấm binh vệ úy, lãnh binh. Tòng Tam Phẩm Quang Lộc tự
khanh, thái bộc tự khanh, thông chính phó sứ. Binh mã sứ, tinh binh vệ úy, thâm
cấm binh phó vệ úy, phó lãnh binh, kiêu kỵ đô úy, phò mã đô úy. Chánh Tứ Phẩm
Hồng lô tự khanh, đại lý tự thiếu khanh, thái thường tự thiếu khanh, tế tửu,
lang trung, thị độc học sĩ, thiếu thiêm sự, thái y viện sứ, tào chính sử, phủ
thừa, án sát sứ. Quản cơ, nhị đẳng thị vệ, binh mã phó sứ, tinh binh phó vệ úy,
thành thủ úy. Tòng Tứ Phẩm Quang Lộc tự thiếu khanh, thái bộc tự thiếu khanh
chưởng ấn, cấp sự trung, thị giảng học sĩ, kinh kỳ đạo ngự sử, tư nghiệp, từ tế
sứ, quản đạo. Phó quản cơ, tuyên úy sứ, kị đô úy. Chánh Ngũ Phẩm Hồng lô tự
thiếu khanh, giám sát ngự sử, hàn lâm viện thị độc, viên ngoại lang, trưởng sử,
từ tế phó sứ,ngự y, giám chánh, tào chánh phó sứ,đốc học,phó quản đạo. Tam đẳng
thị vệ, thân cấm binh chánh đội trưởng, phòng thủ úy. Tòng Ngũ Phẩm Hàn lâm
viện thị giảng, hàn lâm viện thừa chỉ, miếu lang, giám phó, phó trưởng sử, phó
ngự y, tri phủ. Tinh binh chánh đội, tứ đẳng thị vệ, thân cấm binh chánh đội trưởng
suất đội, tuyên phó sứ, phi kị úy. Chánh Lục Phẩm Hàn lâm việc trước tác, chủ
sự, đồng tri phủ, kinh huyện, tri huyện, y tả viện phán, ngũ quan chánh. Ngũ
đẳng, thị vệ, cẩm y hiệu úy, tinh binh chánh đội trưởng suất đội, thổ binh
chánh đội, trợ quốc lang. Tòng Lục Phẩm Hàn Lâm Viện tu soạn, tri huyện, tri
châu, miếu thừa, Thân cấm binh chánh đội trưởng, ân kị úy, thổ binh 179 học chánh, thông phán, thổ tri phủ, y hữu viện phán. chánh đội
trưởng suất đội. Chánh Thất Phẩm Hàn lâm viện biên tu, tư vụ, lục sự, giám
thừa, giám linh đài lang, giáo thụ, kinh lịch. Thân cấm binh chánh đội trưởng,
ân kị úy, thổ binh chánh đội trưởng suất đội. Tòng Thất Phẩm Hàn lâm viện kiểm
thảo, y chánh, tinh linh đài lang, thổ tri huyện, tri châu. Tinh binh đội
trưởng, phụng ân úy, dịch thừa, tòng thất phẩm thiên hộ, nội tạo phó tư tượng.
Chánh Bát Phẩm Hàn lâm viện điển tịch, huấn đạo, chánh bát phẩm thơ lại. Chánh
bát phẩm đội trưởng, chánh bát phẩm bá hộ, dịch mục, chánh bát phẩm chánh tư
tượng. Tòng Bát Phẩm Hàn lâm viện điển bạ, y phó, tòng bát phẩm thơ lại. Tòng
bát phẩm đội trưởng, tòng bát phẩm bá hộ, thừa ân úy, tòng bát phẩm phó tư
tượng. Chánh Cửu Phẩm Hàn lâm viện cung phụng, chánh cửu phẩm thơ lại, thái y y
chánh, tự thừa, phủ lại mục. Chánh cửu phẩm đội trưởng, phủ lệ mục, chánh cửu
phẩm bá hộ, chánh cửu phẩm tượng mục. Tòng Cửu Phẩm Hàn lâm viện đãi chiếu,
tòng cửu phẩm thơ lại, tỉnh y sinh, huyện lại mục, chánh tổng. Tòng cửu phẩm
đội trưởng, tòng cửu phẩm bá hộ, huyện lệ mục, tòng cửu phẩm tượng mục. 7. Đặt
Tổng Đốc, Tuần Phủ ở các tỉnh.
Nguyên trước nước Nam ta chia ra làm
từng trấn, có quan Trấn Thủ, hay là quan Lưu Trấn để coi việc trong trấn. Từ
đời Gia Long trở đi, ở Bắc Thành và Gia Định Thành đặt quan Tổng Trấn và quan
Hiệp Trấn, để coi việc quân và việc dân trong cả toàn xứ.
Đến năm tân mão (1831) là năm Minh
Mệnh thứ 12, vua Thánh Tổ mới theo lối nhà Thanh, đổi trấn làm tỉnh và đặt chức
tổng đốc, tuần phủ, bố chính sứ, án sát sứ và lĩnh binh.
Tổng đốc thì coi việc quân, việc
dân, khảo hạch quan lại, sửa sang bờ cõi ở trong hạt; tuần phủ thì coi việc
chính trị, giáo dục và giữ gìn phong tục; bố chính sứ thì coi việc thuế má,
đinh điền, lính tráng và triều đình có ân trạch hay là cấm lệnh điều gì, thì
phải tuyên cho mọi nơi biết; án sát sứ thì coi việc hình luật và kiêm cả việc
trạm dịch bưu chính; lĩnh binh thì chuyên coi binh lính.
Từ tuần phủ trở xuống đều phải theo
lệnh quan tổng đốc. Thường thì tỉnh nào lớn, có lắm việc quan trọng mới đặt
tổng đốc để quản trị cả hai ba tỉnh. Còn những tỉnh nhỏ thì chỉ đặt tuần phủ là
quan đầu tỉnh 144 .
8. Lương bổng của các quan viên.
Năm kỷ hợi (1839) là năm Minh Mệnh
thứ 20, vua Thánh Tổ định lương bổng đồng niên và tiền xuân phục của các quan
viên.
Chánh nhất phẩm:tiền 400 quan, gạo
300 phương, tiền xuân phục 70 quan. Tòng nhất phẩm: tiền 300 quan, gạo 250
phương, tiền xuân phục 60 quan. Chánh nhị phẩm:tiền 250 quan, gạo 200 phương,
tiền xuân phục 50 quan. Tòng nhị phẩm: tiền 180 quan, gạo 150 phương, tiền xuân
phục 30 quan. Chánh tam phẩm:tiền 150 quan, gạo 120 phương, tiền xuân phục 20
quan. Tòng tam phẩm: tiền 120 quan, gạo 90 phương, tiền xuân phục 16 quan.
Chánh tứ phẩm:tiền 80 quan, gạo 60 phương, tiền xuân phục 14 quan. Tòng tứ
phẩm: tiền 60 quan, gạo 50 phương, tiền xuân phục 10 quan. Chánh ngũ phẩm:tiền
40 quan, gạo 43 phương, tiền xuân phục 9 quan. Tòng ngũ phẩm: tiền 35 quan, gạo
30 phương, tiền xuân phục 8 quan. Chánh lục phẩm:tiền 30 quan, gạo 25 phương,
tiền xuân phục 7 quan. Tòng lục phẩm: tiền 300 quan, gạo 22 phương, tiền xuân
phục 6 quan. Chánh thất phẩm:tiền 25 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5
quan. Tòng thất phẩm: tiền 22 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan. Chánh
bát phẩm:tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 5 quan. Tòng bát phẩm:
tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 4 quan. Chánh cửu phẩm:tiền 18
quan, gạo 16 phương, tiền xuân phục 4 quan. Tòng cửu phẩm: tiền 18 quan, gạo 16
phương, tiền xuân phục 4 quan.
Lại dịch binh tượng: mỗi tháng tiền
một quan, gạo một phương. Hậu bổ: mỗi tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương.
Từ nhất phẩm đến tam phẩm, mỗi năm
hai kỳ trình giấy lĩnh bỗng; tự tứ phẩm đến thất phẩm, mỗi năm 4 lần, đến tháng
cuối mùa xuân, hạ, thu, đông, trình giấy lĩnh bỗng; tự bát cửu phẩm trở xuống,
thì cứ mỗi tháng đến lĩnh một kỳ.
Tiền lương bổng của các quan viên
lúc bấy giờ mà so sánh với bây giờ, thì thật là ít ỏi quá. Nhưng mà chắc là sự
ăn tiêu thủa trước rẻ rúng không hết bao nhiêu. Nhà vua lại sợ những phủ huyện
thiếu thốn mà nhũng lạm của dân, cho nên mỗi năm lại phát thêm tiền dưỡng liêm.
144
Đời vua Thế Tổ nước Nam ta có 27
trấn, đến đời vua Thánh Tổ đặt thêm 4 tỉnh nữa là Hưng Yên, Ninh Bình, Hà tĩnh
và An Giang, cả thảy thành ra 31 tỉnh. 180
9. Tiền Dưỡng Liêm.
Tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan,
yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.
Đồng tri phủ: tối yếu khuyết cho 50
quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.
Tri huyện, tri châu: tối yếu khuyết
cho 40 quan, yếu khuyết 30 quan, trung khuyết 25 quan, giản khuyết 20 quan.
10. Sự Học Hành Thi Cử.
Việc trị nước cần phải có văn học,
cho nên từ đời vua Thế Tổ cũng đã lưu ý về việc mở mang sự học hành. Đến đời
vua Thánh Tổ thì ngài lại trọng sự văn học lắm, ngài thường nói với các quan
rằng: Đạo trị nước thì trước hết cần phải gây lấy nhân tài. Bởi vậy ngài có
lòng yêu dùng những người có văn học, cho các hương cống vào làm hành tẩu ở
trong lục bộ, để học tập việc chính trị. Mở Quốc Tử Giám cho các giám sinh được
lương bổng ở ăn học.
Đời vua Thế Tổ thì chỉ có thi Hương
mà thôi, đến năm nhâm ngọ (1822) là năm Minh Mệnh thứ 3, mới mở khoa thi Hội,
thi Đình để lấy tiến sĩ, đến năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) nhà vua lại cho những
người trúng cách, nhưng không cập phân, được đỗ phó bảng. Phó bảng khởi đầu có
từ đấy.
Nguyên trước cứ 6 năm một khoa thi,
nay đổi lại làm 3 năm một khoa, cứ năm tí, ngọ, mão, dậu, thi Hương; năm thìn,
tuất, sửu, mùi, thi Hội, thi Đình.
Phép thi thì vẫn theo như đời Gia
Long, nghĩa là kỳ đệ nhất: kinh nghĩa; kỳ đệ nhị: tứ lục; kỳ đệ tam: thi phú; kỳ
đệ tứ: văn sách. Trước ai đỗ tam trường, gọi là sinh đồi, ai đỗ tứ trường gọi
là hương cống, nay đổi sinh đồ là tú tài, hương cống là cử nhân.
Vua Thánh Tổ là ông vua thông minh,
ngài vẫn biết sự học của nước ta sai lầm, những sĩ phu trong nước chỉ học theo
lối cử nghiệp, nghĩa là cốt học lấy thi đỗ, chứ không mấy người có thực học.
Thường ngài nói chuyện với các quan rằng: "Lâu nay khoa cử làm cho người
ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chương vốn không có qui củ nhất định, mà nay những
văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hủ sáo, khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà
một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó, khoa tráng lấy hay bỏ cũng do tự đó.
Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục
đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại". Vua Thánh Tổ
thật là biết rõ cái tật của những người đi học ở trong nước ta, nhưng chỉ vì
thói quen lâu ngày khó bỏ. Vả lại dẫu có muốn đổi, thì dễ thường cũng không
biết đổi ra thế nào cho hay hơn được, cho nên sự học của mình vẫn nguyên như
cũ.
11. Sách Vở.
Vua Thánh Tổ mới lên ngôi, đã lo
việc làm sách vỡ; ngài đặt Quốc Sử Quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử.
Ngài lại lưu ý về việc tưởng lệ cho những người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài
xuống chiếu: hễ ai tìm được sách cũ, hay làm ra sách mới, thì được ban thưởng.
Tự đó ông Trịnh Hoài Đức dâng sách: Gia Định Thành Thông Chí và sách Minh Bột
Di Hoán Văn Thảo; ông Hoàng Công Tài dâng một bản Bản Triều Ngọc Phả, 2 bản Kỷ
Sự; ông Cung Văn Hi, người ở Quảng Đức dâng 7 quyển Khai Quốc Công Nghiệp Diễn
Chí; ông Nguyễn Đình Chính người Thanh Hóa dâng 34 quyển Minh Lương Khải Cáo
Lục; ông Vũ Văn Tiêu, người Quảng Nghĩa, dâng một quyển Cố Sự Biên Lục.
Vua Thánh Tổ lại sai quan soạn xong
bộ Liệt Thánh Thực Lục Tiền Biên, bộ Khâm Định Tiễu Binh Lưỡng Kỳ Phỉ Khấu
Phương Lược, còn sách của ngài soạn ra có hai bộ là Ngự Chế Tiễu Bình Nam Kỳ
Tặc Khấu Thi Tập và Ngự Chế Thi Tập.
12. Việc Sửa Sang Phong Tục.
Mấy năm về cuối đời vua Thánh Tổ
trong nước lắm giặc giã, phong tục thành ra kiêu bạc, dân sự lắm người cờ bạc
rượu chè và hay mê hoặc những tà giáo. Nhà vua lấy sự ấy làm lo, bèn soạn ra 10
điều huấn dụ, ban ra mọi nơi, để dạy bảo ngu dân. 1. Đô Nhân Luân: trọng tam
cương ngũ thường. 2. Chính Tâm Thuật: làm việc gì cũng cốt phải giữ bụng dạ cho
chính đính trong sạch. 3. Vụ Bản Nghiệp: giữ bổn phận chăm nghề nghiệp của
mình. 4. Thượng Tiết Kiệm: chuộng đường tiết kiệm. 5. Hậu Phong Tục: giữ phong
tục cho thuần hậu. 6. Huấn Tử Đệ: phải dạy bảo con em. 7. Sùng Chính Học:
chuộng học đạo chính. 8. Giới Dâm Thắc: răn giữ những điều gian tà dâm dục. 9.
Thận Pháp Thủ: cẩn thận mà giữ pháp luật. 10. Quảng Thiện Hạnh: rộng sự làm
lành.
Năm bính thân (1836) là năm Minh
Mệnh thứ 17, có quan giám sát ngự sử là Bùi Mậu Tiên dâng sớ tâu rằng:
"Các làng ở ngoài Bắc Thành nhiều kẻ hào cường trái phép, mà dân thì biếng
nhác chỉ cờ bạc rượu chè; việc tế lễ quỷ thần thì hay dùng cách xa xỉ, việc
táng tế thì chuộng đường xa hoa, 181 thậm chí có kẻ bán
sạch cửa nhà cơ nghiệp để đền nợ miệng, thực là trái với nghĩa tương bảo tương
lân".
Vua Thánh Tổ bèn xuống chiếu trách
cứ các quan địa phương phải đem những điều huấn dụ đã ban ra trước mà khuyên
bảo dân sự, và phải chuyển sức cho tổng lý: hễ thấy ai biếng nhác rong chơi cờ
bạc rượu chè, thì phải cấm chỉ đi. Những kẻ hào cường trong làng mà ỷ thế hống
hách điêu toa kiện tụng, chống cưỡng với quan trên, dậm dọa kẻ bình dân, thì
phải theo phép mà trừng trị. Còn những lệ thờ thần và lễ tang tế thì Lễ Bộ đã
định ra phép tắc, hễ ai không tuân theo thì phải tội.
13. Nhà Dưỡng Tế.
Không những là vua Thánh Tổ chỉ lo
việc dạy dân mà thôi, ngài lại thương đến những kẻ nghèo khổ, vậy nên ngài
truyền cho các quan ở các trấn ngoài Bắc Thành được quyền lấy tiền kho mà lập
một sở dưỡng tế: hễ những kẻ quan quả, cô độc, và kẻ tàn tật không có nơi nương
nhờ, phải đến ở đó, thì mỗi ngày cấp cho mỗi tên 20 đồng tiền và nửa bát quan
đồng gạo.
14. Việc Đinh Điền và Thuế Má.
Thuế đinh và thuế điền thì đại khái
cũng theo như đời vua Thế Tổ đã định. Chỉ có năm bính thân (1836) là năm Minh
Mệnh thứ 17, đất Nam kỳ đạc điền xong, tính ra được hơn 630.075 mẫu và định lại
các thứ thuế điền thổ ở miền ấy. Còn như số dân đinh và điền thổ trong nước,
thì cứ theo sổ bộ tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và 4.063.892 mẫu ruộng
và đất.
Những dân Tàu sang thành lập hương
ấp ở nước Nam ta gọi là Minh Hương, thì có lệnh mỗi người đồng niên phải nộp
hai lạng bạc và được trừ giao dịch. Những người lão hạng và tàn tật thì phải
chịu một nửa.
Còn những người nhà Thanh sang buôn
bán ở nước Nam, phàm người nào mà có vật lực thì đồng niên phải đóng 6 quan năm
tiền; ai không có vật lực thì phải nộp một nửa, hạn cho 3 năm, thì chiếu lệ thu
cả thuế.
Nhà vua lại đặt lệ đánh thuế muối.
Cứ mỗi ruộng muối đồng niên phải nộp bằng muối từ 6 phương cho đến 10 phương.
Mỗi phương nộp bằng tiền thì phải từ
3 tiền cho đến 4 tiền 30 đồng.
Còn các thứ thuế mỏ, thuế sản vật,
v.v... thì đại khái cũng theo lệ đời vua Thế Tổ đã định, chứ không thay đổi mấy
đi.
15. Việc Võ Bị.
Khi vua Thánh Tổ lên nối nghiệp làm
vua, thì trong nước đã được yên trị, nhưng ngài vẫn biết việc trị nước cần phải
có võ bị, cho nên thường thường ngài vẫn có dụ truyền bảo các quan phải luyện
tập binh mã để phòng khi hữu sự.
Ở những nơi hiểm yếu thì lập đồn ải,
ở các cửa bể và các đảo thì lập pháo đài. Và lại làm tàu đồng, tập thủy quân để
phòng giữ mặt bể.
Binh chế thì có bộ binh, thủy binh,
tượng binh, kị binh và pháo thủ binh.
Bộ binh thì có kinh binh và cơ binh.
Kinh binh chia ra làm doanh, vệ, đội, hoặc để đóng giữ ở Kinh thành, hoặc sai
đi đóng giữ các tỉnh. Mỗi doanh có 5 vệ, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 người,
có suất đội và đội trưởng cai quản.
Những binh khí của mỗi vệ, thì có
hai khẩu súng thần công, 200 khẩu điểu thương và 21 ngọn cờ.
Cơ binh là lính riêng của từng tỉnh,
cũng chia ra làm cơ, làm đội. Cơ thì có quản cơ, mà đội thì có suất đội cai
quản.
Tượng quân chia ra thành đội, mỗi
đội là 40 con voi. Số voi ở Kinh thành 150 con, ở Bắc thành 110 con, ở Gia Định
thành 75 con, ở Quảng Nam 35 con, ở Bình Định 30 con, ở Nghệ An 21 con, ở Quảng
Bình, Quảng Nghĩa, Thanh Hóa mỗi nơi 15 con, Quảng Trị, Phú Yên, Bình Thuận,
Ninh Bình mỗi nơi 7 con.
Thủy quân có 15 vệ, chia ra làm 3
doanh, mỗi doanh có quan chưởng vệ quản lĩnh, và có quan đô thống coi cả 3
doanh.
Vua Thánh Tổ vẫn biết rằng nước ở
dọc bờ bể, thủy binh là việc rất yếu trọng cho sự phòng bị. Thường ngài bắt
quan đem binh thuyền ra để luyện tập.
Đại khái việc binh cơ, ngài không bỏ
trễ chút nào. Ngài lập toán giáo dưỡng binh, để cho con các quan võ, từ suất
đội trở lên ai muốn tình nguyện vào học, thì cho lương bổng, và cử quan đại
thần ra dạy võ nghệ.
Còn như khi nào có quân lính đi đâu,
thì nhà vua đặt lệ sai mấy người y sinh đi theo để điều hộ.
Tuy nhà vua muốn lưu ý về việc binh
lính, nhưng người mình lúc bấy giờ ai cũng trọng văn khinh võ, bình nhật không
có ai lo gì đến việc quân lính khí giới. Hễ có lâm sự thì mới rối lên. Dẫu rằng
nhà vua nay có chỉ dụ ra tập binh, mai có chỉ dụ ra tập trận mặc lòng, các quan
chỉ làm cho xong việc, rồi lại bỏ mặc bọn quản đội làm thế nào thì làm. Thành
ra quân số ở trong sổ sách thì nhiều, mà thế lực thì vẫn không đủ: ấy là đời
vua Thánh Tổ mà còn thế, huống chi đến những đời sau, lại còn suy nhược hơn
nữa.
CHƯƠNG III
Thánh Tổ (1820-1840) (tiếp theo)
1. Sự giặc giã 2. Giặc ở Bắc kỳ 3.
Phan Bá Vành 4. Lê Duy Lương 5. Nông Văn Vân 6. Giặc ở Nam Kỳ 7. Án Lê Văn
Duyệt và Lê Chất 8. Giặc Tiêm La 9. Việc Ai Lao 10. Việc Chân Lạp 11. Việc giao
thiệp với những nước ngoại dương 12. Sự cấm đạo 13. Vua Thánh Tổ mất
1. Sự Giặc Giã.
Vua Thánh Tổ thật là hết lòng lo
việc chính trị, điều gì ngài cũng xem xét đến, việc gì ngài cũng sửa sang lại,
có ý muốn cho nước thịnh dân giàu, nhưng phải mấy năm về sau, trong nước có lắm
giặc giã, quan quân phải chinh nam phạt bắc, phải đánh Tiêm, dẹp Lào, thành ra
dân sự không được yên nghiệp mà làm
Xét sự giặc giã về đời vua Thánh Tổ
là do ở ba lẽ cốt yếu:
Một là khi nhà Nguyễn thất thế ở
Nam, quân họ Trịnh thua ở Bắc, nhà Nguyễn Tây Sơn còn phải lo việc trong nước,
lúc bấy giờ nước Tiêm La nhân lấy dịp ấy mà giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp và hiếp
thế các nước ở đất Lào. Đến khi vua Thế Tổ nhất thống nam bắc, thanh thế lừng
lẫy, nước Chân Lạp lại xin về thần phục nước Nam, và các nước Ai Lao, Vạn
Tượng, đều sang triều cống nhà Nguyễn. Từ đó nước Tiêm La đối với nước Nam, bề
ngoài tuy không ra mặt cừu địch, nhưng bề trong chỉ tìm cách mà sinh sự để cướp
lại cái quyền bảo hộ ở Chân Lạp và ở các nước Lào. Bởi vậy cho nên 183 về phía tây và phía nam bao giờ cũng có giặc Tiêm và giặc Lào
quấy nhiễu mãi.
Hai là ở Bắc Kỳ tuy đã là thống
thuộc về nhà Nguyễn rồi, nhưng còn có người mong nhớ nhà Lê, thỉnh thoảng lại
có nơi nổi lên, hoặc muốn khôi phục cho nhà Lê, hoặc để chống cự với quan nhà
Nguyễn, bởi thế cho nên ở đất Bắc cứ phải loạn lạc luôn.
Ba là quan lại cứ hay nhũng nhiễu,
làm cho lòng người không được thỏa thuận, và trong đám quan trường thường hay
có thói bới móc nhau để tâng công tâng cán. Nhà vua lại có tính hẹp hòi, không
bao dong cho những kẻ công thần, hay tìm chuyện làm uất ức mọi người, mà ở với
thần dân thì nghiêm khắc quá, cho nên mới thành ra nhiều sự rối loạn.
Bởi những lẽ ấy, cho nên ở ngoài thì
có giặc Tiêm đánh phá, ở trong thì có ngụy Khôi dấy loạn ở phía nam. Lê Duy
Lương và Nông văn Vân dấy binh ở phía bắc. Lúc bấy giờ cũng nhờ có tôi hiền
tướng giỏi như Trương Minh Giảng, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ
v.v.... đều ra công đánh dẹp, cho nên không những là giặc trong nước dẹp yên,
mà lại thêm được bờ cõi rộng rãi hơn cả những đời trước.
2. Giặc ở Bắc Kỳ.
Sự giặc giã ở đất Bắc thì từ năm
Minh Mệnh thứ hai (1822) trở đi, thỉnh thoảng ở các trấn vẫn có những giặc cỏ
quấy nhiễu ở các châu huyện. Còn những giặc có thanh thế to mà quan quân phải
đánh dẹp khó nhọc, thì có Phan Bá Vành khởi ở Nam Định, Lê Duy Lương khởi ở
Ninh Bình và Nông Văn Vân khởi ở Tuyên Quang.
3. Phan Bá Vành.
Năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), ở Nam
Định có Võ Đức Cát cùng với Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh khởi binh đánh phủ Trà
Lý và Lân Hải, giết quan thủ ngự là Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn. Quan
trấn thủ ở Nam Định là Lê Mậu Cúc đem quân xuống đánh, cũng bị giặc giết mất.
Quan quân ở các trấn phải về tiễu trừ, bắt được tên Võ Đức Cát. Còn tên Vành và
dư đảng thì chạy tan cả. Nhưng đến tháng chạp năm ấy, Phan Bá Vành và Nguyễn
Hạnh lại thông với đảng giặc Khánh đi cướp ở ngoài bể, rồi lại đem quân về đánh
phá ở huyện Tiên Minh và huyện Nghi Dương ở Hải Dương.
Nhà vua thấy thế giặc to lắm, bèn
sai quan Tham biện Thanh Hóa là Nguyễn Công Trứ, quan Tham biện Nghệ An là
Nguyễn Đức Nhuận đem binh thuyền ở Thanh, Nghệ ra cùng với quan Hiệp trấn Bắc
thành là Nguyễn Hữu Thận đi đánh giặc.
Tháng giêng năm đinh hợi (1827) là
năm Minh Mệnh thứ 8, Vành lại về đánh lấy phủ Thiên Trường và phủ Kiến Xương,
sau lại về vây quan quân ở chợ Quán. Phạm Văn Lý và Nguyễn Công Trứ đem quân
đến đánh giải vây, Vành thua chạy về giữ Trà Lũ. Quan quân vây đánh, bắt được
Vành và cả đảng hơn 765 người.
4. Lê Duy Lương.
Khi dẹp xong giặc Vành thì trong xứ
yên được một độ, nhưng còn có dòng dõi nhà Lê muốn khôi phục nghiệp cũ, bởi vậy
đến tháng ba năm quý tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, ở Ninh Bình có Lê Duy
Lương, là con cháu nhà Lê nổi lên, xưng là Đại Lê Hoàng Tôn, cùng với bọn thổ
ti là Quách Tất Công, Quách tất Tế, Đinh Thế Đức, Đinh Công Trịnh, đem binh đi
đánh phá các phủ huyện và chiếm giữ được 3 châu huyện là Lạc Thổ, Phụng Hóa và
Yên Hóa. Lê Duy Lương lại sai quân đến vây đánh thành Hưng Hóa nguy cấp lắm.
Vua Thánh Tổ sai quan tổng đốc Nghệ
Tĩnh là Tạ Quang Cự đem quân ra Ninh Bình cùng với Tổng đốc Thanh hóa là Nguyễn
Văn Trọng đi đánh Lê Duy Lương.
Lê Duy Lương ở Ninh Bình thế cô lắm,
chống không nổi mấy đạo quan quân, chỉ đương được vài ba tháng thì bị bắt, đóng
cũi giải về Kinh trị tội. Còn bọn Quách Tất Công, Quách Tất Tế thì chẳng được
bao lâu mà tan.
Vì có chuyện Lê Duy Lương dấy binh,
cho nên nhà vua truyền bắt dòng dõi nhà Lê đem đày vào ở Quảng Nam, Quảng
Nghĩa, Bình Định, cứ chia cho 15 người ở một huyện và phát cho 10 quan tiền và
2 mẫu ruộng để làm ăn.
5. Nông Văn Vân.
Ở Bắc còn đang dẹp loạn Lê Duy Lương
chưa xong, thì ở Nam Lê Văn Khôi làm phản, chiếm giữ thành Gia Định. Nguyên tên
Khôi là người Bắc, có họ hàng bà con mạn Tuyên Quang, Cao Bằng, bởi vậy nhà vua
sai quan tìm bắt anh em của tên Khôi đem về Kinh làm tội. Bấy giờ ở Tuyên Quang
có người anh vợ tên Khôi là Nông Văn Vân bị quan bắt bớ, bèn nổi lên đánh phá trong
hạt Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn. Giặc Nông khởi từ tháng 7
năm quý tị (1833) cho đến tháng 3 năm ất mùi (1835) dai dẳng trong non hai năm
trời, làm cho quan quân thật là vất vả.
Nông Văn Vân làm Tri châu châu Bảo
Lạc. Nhân thấy quan quân tìm bắt họ hàng Lê Văn Khôi, bèn nổi lên tự xưng là
Tiết Chế Thượng Tướng 184 Quân, và bắt viên tỉnh phái thích
chữ vào mặt rằng: "Quan tỉnh hay ăn tiền của dân", rồi đuổi về.
Nông Văn Vân chia quân ra đánh phá
các tỉnh, quan sở tại chống không nổi, phải xin quân cứu viện. Vua Thánh Tổ
được tin ấy, bèn sai Sơn Hưng Tuyên Tổng Đốc là Lê Văn Đức làm Tam Tuyên Tổng
Đốc Quân Vụ, và sai Hải An thự tổng đốc là Nguyễn Công Trứ làm tham tán, đem
quân hội với Ninh Thái Tổng Đốc là Nguyễn Đình Phổ đi tiễu trừ giặc Nông.
Quân giặc vây đánh Cao Bằng và Lạng
Sơn ngặt quá, nhà vua lại sai An Tĩnh tổng đốc là Tạ Quang Cự làm tổng thống
đại thần, lên đánh ở mạn Cao Bằng và Lạng Sơn.
Nông Văn Vân nhận được chỗ mường mán
lắm núi nhiều rừng, bèn chia quân đi tản ra mọi nơi, tìm chỗ hiểm yếu mà ẩn
nấp, hễ có quan quân đến, đánh được thì tiến, không đánh được thì lui, cứ ra
vào bất trắc, lui tới không nhất định. Quan quân đi đánh thật là khó nhọc và
lại hao binh tổn tướng rất nhiều.
Tháng chạp năm quý tị (1833) đạo
quân của Tạ Quang Cự giải được vây tỉnh Lạng Sơn và lấy lại được thành Cao
bằng. Đạo quân của Lê Văn Đức và Nguyễn Công Trứ vào đến Vân Trung (tức là Bảo
Lạc) là chỗ sào huyệt của giặc. Nông Văn Vân phải chạy trốn sang Tàu.
Nhưng mà khi quan quân rút về, thì
Nông Văn Vân lại về rủ đảng đánh phá như cũ. Nhà vua lại sai các đạo quân tiến
lên phòng giữ các tỉnh mạn ngược.
Đến tháng 9 năm giáp ngọ (1834) Lê
Văn Đức và Phạm Văn Điển đi từ Sơn Tây lên Tuyên Quang; Tạ Quang Cự, Nguyễn
Tiến Lâm, và Hồ Hữu đi từ Cao bằng; Nguyễn Đình Phổ và Nguyễn Công Trứ đi từ
Thái Nguyên, ba mặt quân cùng tiến lên hội tiễu. Quan quân đi đường sá khó
khăn, lương thực vận tải không tiện, nhưng mà quân sĩ đều cố hết sức, đi đến
đâu quân giặc tan đến đấy. Tháng chạp năm ấy, cả ba đạo cùng đến hội ở Vân
Trung, rồi sai người đưa thư sang nói với quan nhà Thanh phòng giữ, đừng cho
quân giặc chạy sang bên ấy. Quả nhiên Nông Văn Vân lại chạy sang Tàu, bị quân
Tàu đuổi bắt, lại phải trở về Tuyên Quang.
Tháng 3 năm ất mùi (1835), Phạm Văn
Điển được tin biết chỗ tên Văn Vân ở, liền đem quân đi đuổi. Văn Vân chạy ẩn
vào trong rừng, Phạm Văn Điển bèn vây 4 mặt, rồi phóng hỏa đốt rừng. Văn Vân bị
chết cháy. Quan quân chém lấy đầu đem về Kinh báo tiệp.
6. Giặc ở Nam Kỳ.
Đất Nam Kỳ là đất của nhà Nguyễn khai
sáng ra, và cũng bởi đấy mà vua Thế Tổ lập nên cơ nghiệp bản triều bây giờ, thế
mà lại có sự phản nghịch là tại làm sao? Có phần là tại vua Thánh Tổ không dong
thứ cho những kẻ cựu thần, có phần là tại những người gian nịnh muốn chiều ý
vua để lấy công, làm ức hiếp người ta, cho nên mới thành ra sự loạn lớn ấy.
Nguyên mấy năm trước, Lê Văn Duyệt
làm tổng trấn ở Gia định thành, có uy quyền lắm, mà lòng người ai cũng kính
phục. Chỉ vì ông ấy là quan võ, tính khí nóng nảy, lắm khi ở chỗ triều đường
tấu đối không được hợp thể, vua Thánh Tổ lấy làm không bằng lòng, nhưng ông ấy
là bậc khai quốc công thần, cho nên ngài cũng làm ngơ đi. Đến khi ông ấy mất,
thì vua Thánh Tổ bãi chức Tổng Trấn thành Gia Định và đặt chức tổng đốc, tuần
phủ, bố chính, án sát, lĩnh binh, như các tỉnh ở ngoài Bắc.
Tỉnh Phiên An (tức là tỉnh Gia Định)
có Nguyễn Văn Quế làm tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm bố chính, Nguyễn Chương
Đạt làm án sát. Nhưng Bạch Xuân Nguyên vốn là người tham lam tàn ác; khi đến
làm bố chính ở Phiên an, nói rằng phục mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn
Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi tớ của ông Duyệt ngày trước.
Trong bọn ấy có Lê Văn Khôi. Nguyên
trước tên ấy gọi là Nguyễn Hữu Khôi, người ở Cao Bằng, nhân cớ khởi binh làm
loạn, bị quan quân đuổi đánh, mới chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt làm kinh
lược ở đấy, nó xin ra thú. Ông Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là
Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến chức Phó Vệ Úy.
Bấy giờ Lê Văn Khôi bị bắt giam,
phần thì tức giận, phần thì sợ tội, bèn mưu với mấy người đảng của nó để dấy
loạn; ở Gia Định lại có những người có tội ở Bắc Kỳ đem đày vào, hoặc cho làm
ăn với dân sự, hoặc bắt làm lính gọi là hồi lương; những lính ấy đều theo tên
Khôi cả.
Đến đêm ngày 18 tháng năm, năm quý tị
(1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, Khôi cùng với 27 người lính hồi lương vào dinh
quan Bố, giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên, rồi ra gặp quan tổng đốc là Nguyễn Văn
Quế đem người đến cứu, chúng cũng giết nốt. Còn quan Án và quan Lãnh thì chạy
thoát được.
Bấy giờ những quân kinh đóng ở Phiên
An phần nhiều theo về Lê Văn Khôi. Lê Văn Khôi bèn tự xưng làm Đại Nguyên Súy,
phong cho đảng mình là bọn Thái Công Triều và Lê Đắc Lực quản trung quân,
Nguyễn Văn 185 Đà và Nguyễn Văn Tông quản tiền quân, Võ
Vĩnh Tiền và Võ Vĩnh Tài quản hữu quân, Võ Vĩnh Lộc và Nguyễn Văn Bột quản hậu
quân, Lưu Tín và Trần Văn Tha quản thủy quân, Nguyễn Văn Tâm và Nguyễn Văn Chân
quản tượng quân, v.v.... Lại đặt các quan chức như một triều đình riêng vậy.
Đoạn rồi Lê Văn Khôi sai bọn Thái Công Triều đem quân đi lấy các tỉnh thành,
chỉ trong một tháng mà 6 tỉnh Gia Định thuộc về giặc cả.
Triều đình được tin ấy, liền sai
Tống Phúc Lương làm Thảo Nghịch tả tướng quân và Nguyễn Xuân làm tham tán, sai
Phan Văn Thúy làm Thảo nghịch hữu tướng quân, Trương Minh Giảng làm tham tán,
cùng với Bình Khấu tướng quân là Trần Văn Năng đem thủy bộ binh tượng vào đánh
Lê Văn Khôi.
Khi quan quân vào đến Gia Định không
biết tại cớ gì, mà trung quân của ngụy là Thái Công Triều xin về đái tội lập
công. Nguyên Thái Công Triều là người ở Thừa Thiên, trước làm quan vệ úy, coi
vệ biền binh đóng ở Gia Định, sau theo tên Khôi làm phản. Nay lại trở về với
triều đình, đem quân đi đánh Lê Văn Khôi lấy lại các tỉnh.
Lê Văn Khôi biết thế không chống
nổi, vào thành Phiên An đóng cửa lại, rồi chia quân ra chống giữ, và lại sai
người đi sang Tiêm La cầu cứu. Quân Tiêm nhân dịp ấy, chia làm mấy đạo sang
đánh nước Nam. Việc ấy sẽ nói ở mục sau.
Quan quân một mặt thì đánh đuổi quân
Tiêm, một mặt thì vây đánh thành Phiên An, Lê Văn Khôi hết sức chống giữ, nhưng
đến tháng chạp năm ấy thì phải bệnh chết. Tuy vậy, quân ngụy ở trong thành cứ
chống giữ mãi, non ba năm trời quan quân mới hạ được thành.
Thành Phiên An là thành của ông Lê
Văn Duyệt xây xong năm Minh Mệnh thứ 11 (1830). Xây toàn bằng đá ong, thành cao
và rộng, hào sâu, ở trong thành lại có đủ cả lương thực khí giới, cho nên quan
quân đánh thành lần nào cũng bị chết hại nhiều người, mà không lấy được. Mãi
đến tháng 7 năm ất tị (1835), quân ngụy ở trong thành đã mỏi mệt lắm rồi, tướng
quân là Nguyễn Xuân, và Nguyễn Văn Trọng mới hạ được thành và vào bắt giết quân
giặc cả thảy đến 1.831 người, đem chôn vào một chỗ, nay gọi là "mả
ngụy". Còn những người thủ phạm thì đóng cũi đem về Kinh trị tội.
Ông J. Silvestre chép truyện Lê Văn Khôi
khởi loạn ở Gia Định 145
nói rằng trong 6 người thủ phạm phải
đóng cũi giải về Huế, có một ông linh mục
145
Xem tập tạp chí "Revue
Indochinoise" số 7-8 năm 1915 và quyển An Nam Sử Lược "Abrégé de
l'histoire d'Annam" của ông A. Schreiner. người nước Pháp tên là Marchand
(bấy giờ gọi là cố Du), một người khách tên là Mạch Tấn Gia, và một đứa con của
Khôi, mới lên 7 tuổi.
Việc ông cố Marchand thì đã nhiều
người bàn đi bàn lại: người thì bảo ông ấy có ý muốn làm như ông Bá Đa Lộc, để
giúp Lê Văn Khôi lập nên một nước theo đạo Thiên Chúa ở Gia Định, người thì bảo
ông ấy bị Lê Văn Khôi bắt vào trong thành. Việc ấy vẫn phân vân không rõ hẳn ra
thế nào.
Đến khi về đến Huế thì ông Marchand
và 5 người kia đều phải tội lăng trì. Thiết tưởng dẫu thế nào mặc lòng, đem một
đứa con vô tội và 2 người ngoại quốc ra làm cái tội thảm hình ấy, thì thật gớm
ghê quá. Tục Á Đông ta trước hay dùng những nhục hình như là tội lăng trì, tội
ngựa xé, tội voi dày v.v... thì thật là dã man vô cùng, ngày nay ai nghĩ đến
cũng phải ghê mình.
7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất: - Lê
Văn Duyệt.
Quan quân bình xong giặc Lê Văn Khôi
rồi vua Thánh Tổ sai phá thành Phiên An đi, xây lại chỗ khác và ngài xuống
chiếu định truy tội Lê Văn Duyệt và tội Lê Chất.
Cứ bình tỉnh mà xét, thì chẳng qua
là vua Thánh Tổ vốn có ý không ưa hai ông ấy, rồi đình thần lại nhân đó mà bới
việc ra để chiều ý ngài, cho nên thành ra hai cái án thật là không đáng.
Nay cứ theo trong sách "Đại Nam
Chính Biên Liệt Truyện" mà chép ra, để mọi người đều được lấy lẽ công bằng
mà phán đoán.
Từ khi tên Khôi khởi loạn, vua Thánh
Tổ thường ban trách Lê Văn Duyệt che chở quân phỉ đảng, để gây nên hoạn loạn.
Năm ất mùi (1835), ở Đô Sát Viện có
Phan Bá Đạt dâng sớ nói rằng: Lê Văn Duyệt trước ở Gia Định, lấy bọn nghịch
Khôi, nghịch Nhã, làm trảo nha, lấy binh Bắc Thuận, Hồi Lương 146
làm tâm phúc. Bọn ấy vốn là quân
hung ác, không phải là người lương thiện, cho nên Duyệt mất chưa bao lâu mà bọn
nghịch Khôi, nghịch Nhã, đã đem quân Hồi Lương, Bắc thuận cùng với bọn thủ hạ
giữ thành làm phản; lại làm phiến hoặc nhân tâm, để vạ lây đến các tỉnh Nam Kỳ,
mà khó nhọc đến đại đội quan quân phải tiến tiễu. Năm tỉnh nay dẫu thu phục
rồi, song thành Phiên An tặc đảng vẫn còn thiết cứ, quan quân tiến tiễu, lắm
người thương vong, cái vạ ấy nói sao cho xiết. Nay Duyệt mất rồi, sự trạng dẫu
không có thể tường cứu được, nhưng cứ xem con nuôi là Lê Văn Hán trước đây vào
ra trong thành, nhập đảng với
146
Bắc Thuận, Hồi Lương là những người
ở Bắc Kỳ bị tội phải đày vào làm lính ở Nam Kỳ. 186 nghịch
Khôi, và đem Bạch Xuân Nguyên làm đuốc để tế từ đường, thì tâm tích của Duyệt
tưởng không phải xét cũng đã rõ. Nếu không bắt tội e không làm gương được cho
đời sau. Vậy xin truy đoạt quan chức của Duyệt, còn vợ con thì giao về Hình Bộ
tra minh nghiêm nghị, để tỏ phép nước".
Vua dụ Nội Các rằng: "Lê Văn
Duyệt xuất tha6n từ kẻ yêm hoạn, vốn là một đứa đầy tớ trong nhà. Xảy gặp hồi
trung hưng, rồng mây gặp gỡ, đánh dẹp Tây Sơn, cũng dự có phần công lao. Đức
hoàng khảo ta nghĩ tới nó thủa nhỏ sai khiến ở trong cung, mới đem lòng tin
cậy, nhiều lần cho nó cầm quyền đại tướng. Không ngờ bọn ấy phần nhiều là quân
bất lương, mỗi ngày sinh ra kiêu căng, manh tâm phản nghịch, sinh chí làm càn,
ăn nói hỗn xược. Vì nó còn e Hoàng Khảo ta thánh minh, cho nên dẫu có lòng gian
mà chưa dám lộ. Mà hoàng khảo ta đến vãn niên cũng đã biết rõ. Nhưng lại nghĩ
hắn dẫu có lòng gian, song thiên hạ đã yên rồi, thần dân ai còn theo kẻ thị
hoạn đó, thì chắc hắn cũng chẳng làm gì được. Đến khi trẫm lên ngôi, cựu thần
không còn mấy, vả lại nghĩ nó tuổi đã già, cho nên cũng tạm khoan dung, hoặc là
hắn biết nghĩ mà chừa đi, để cho toàn vẹn công danh, thì cũng là việc hay.
Không ngờ kẻ kia lòng như rắn rết, tính tựa sài lang, càng ngày càng sinh kiêu
ngạo, dám nói xấu triều đình trước mặt chúng nhân, mà khoe cái tài riêng của
mình. Năm trước các quân tù phạm xứ Thanh, Nghệ cùng là những kẻ hung ác, hắn
đều chiêu dụ ra thú, tâu xin ghép vào trướng hạ để làm nanh vuốt. Lê Văn Khôi
là quân vô lại, thì tiến cử đến chức vệ úy, theo dưới cờ hắn, để làm phúc tâm.
Thổ hào như bọn Dương Văn Nhã, Đặng Vĩnh Ưng thì hắn ngấm ngầm vời dùng; nhân
thích như bọn Võ Vĩnh Tiền, Võ Vĩnh Lộc thì hắn âm thầm lập đảng. Những kẻ tù
phạm Bắc Kỳ phát phối vào đó, hắn cho ở trong thành, rồi tha cho làm lính; lại
kén lấy những voi khỏe đem ra nơi đồn trú; vét lấy những thuyền bè khí giới
trong 6 tỉnh Nam Kỳ chứa vào thành Phiên An; rồi lại nghe tên Trần Nhật Vĩnh mà
hút hết cao huyết của dân Nam Kỳ. Đắp thành Phiên An, tiếm bằng Kinh thành, hào
thì đào sâu hơn. Nếu bảo thành cao hào sâu để phòng giặc Tiêm, thì đường bể
phải phòng ở Hà Tiên, đường bộ phải phòng ở Chân Lạp, có lẽ nào bỏ bốn tỉnh An,
Hà, Long, Tường không giữ, mà lại giữ ở Phiên An hay sao? Thế là rõ rằng phòng
Triều đình, chứ không phải phòng ngoại hoạn. Cứ suy điều đó, thì ruột gan hắn,
dẫu người đi đường cũng biết, ai không căm tức, chỉ giận vì ai không chịu nói
rõ cho Triều đình biết sớm mà thôi. Đến nỗi ngày nay như nuôi cái nhọt bọc để
nên đau, mỗi ngày mầm vạ một lớn, cho nên kẻ quyền yêm dẫu chịu tội minh tru, mà
bọn nhỏ nhặt còn dám giữ thành làm phản. Ví dù quan cai trị không hèn đốn như
Nguyễn Văn Quế, tham tàn như Bạch Xuân Nguyên, thì chúng nó có ngày làm phản
chứ không sao khỏI được. Vì bọn tiêu hạ hắn toàn là quân hung đồ, quen làm
những việc bất thiện. Chúng nó đã quen thấy hắn dối chúa, lấn trên, đều bắt
chước hắn. Thậm chí hắn nói với người tra rằng hắn vào trấn Gia Định, vốn là
phong vương để giữ lấy đất, chứ không phải như các tổng trấn tầm thường khác.
Mả của cha hắn, em hắn, cũng tiếm gọi là lăng; hoặc dám đối với người ta, tự
xưng là Cô, để cho bộ hạ tập quen thành thói, chỉ biết có Lê Văn Duyệt mà không
biết đến triều đình. Thầy Hữu tử nói rằng: "Không ưa phạm người trên mà ưa
làm loạn, chứ có lẽ ấy bao giờ". Vậy thì ưa phạm người trên và không ưa làm
loạn, cũng chưa có lẽ thế bao giờ. Mối vạ gây nên đã lâu, lẽ nào mà muốn cho
bọn tiêu hạ không làm phản được? Vậy nên hắn chết chưa bao lâu, mà bọn Lê Văn
Khôi đã khởi loạn, cháu hắn cũng đồng tình tạo phản, để cho cả bọn bộ khúc của
hắn đều theo giặc cả, không một tên nào trốn đi, rồi nó kết tử đảng, cậy có
thành cao, hào sâu, lương thực như núi, khí giới tinh nhuệ, đồ đảng lại nhiều,
kháng cự lại vương sư, chầy đến 3 năm trời, nhiều lần mở đường sống cho nó, mà
chúng nó không biết hối tội đầu thành, đến nỗi binh dân gan óc lầy đường, nói
ra đau xót đến gốc nguồn thì tội hắn kể từng cái tóc cũng không xuể. Nay hãY
đem những công việc của hắn làm, rõ ràng ở tai mắt người ta, để gây nên hoạn
loạn, hiểu thị cho ai nấy đều biết. Còn như Lê Văn Duyệt và con cháu hắn nên xử
tội thế nào, thì giao cho đình thần nghị xử".
Vài hôm sau, nội các là Hà Quyền,
Nguyễn Tri Phương, Hoàng Quýnh tâu rằng: Duyệt che chở cho quân phỉ loạn, gây
nên sự biến, cái tai vạ tích lại đã lâu. Nay xét những giấy má của y ngày
trước, rõ ra hình tích bội nghịch, có 6 điều: 1) Năm Minh Mệnh thứ 4, y tự tiện
sai người riêng là bọn Phan Đạt giả danh đi thám, đi thuyền sang nước Diến
Điện. Trong thư ấy chắc có giao thông. Cứ lấy nghĩa "làm tôi không có phép
được giao thông với nước ngoài", thì tâm sự của y đã rõ, ấy là một tội. 2)
Đến khi sứ thần nước Diến điện đến thành, mới tâu vào Triều Đình. Đã có chỉ dụ
nói việc đó quan hệ đến đại nghĩa, không nên khinh thường, nghe lời ngoài mà bỏ
tình hòa hiếu, gây việc cừu thù. Vậy mà y cố xin dung nạp. May mà triều đình
trả đồ cống vật cho sứ Diến Điện về nước, thì danh nghĩa nước lớn ta mới tỏ
giải ra thiên hạ. Thế là y chẳng những mưu việc nước không ra gì, mà lại cố giữ
lấy ý riêng để che điều lỗi, ấy là hai tội. 3) Năm Minh Mệnh thứ 7, tàu bạt phong
nước Anh Cát Lợi đậu vào cửa Bình Thuận, đã có chỉ sai sở tại hộ tống, mà y cố
xin đưa vào Gia Định, và nói rằng: "Quan trấn kiềm thúc, không bằng thần
có quyền, khiến cho kẻ kia sợ tướng lệnh và biết binh oai". Hai chữ
"có quyền" từ xưa vẫn lấy làm răn, mà y dám ngất ngưởng tự nhận, kiêu
tứ dường nào, ấy là ba tội. 4) Năm Minh Mệnh thứ 4, thị vệ là Trần Văn Tình
nhân việc công sai ở Gia Định về, có tâu việc Trần Nhật Vĩnh làm riêng phố
ngói, 187 mua trộm các món. Y nghe chuyện làm vậy, năm sau
vào chầu, cố xin bắt Trần Văn Tình giao cho y để y chém, nếu không giao thì y
xin trả chức Tổng Trấn; rồi y xin từ chức thực. Có ý trêu quân như vậy, tội gì
còn to bằng tội ấy. Vả y xin giết một Trần Văn Tình, thế là bắt người ta phải
khóa lưỡi, không ai dám nói nữa, rất là dụng tâm nham hiểm, ấy là bốn tội. 5)
Trần Nhật Vĩnh đã có chỉ bổ thụ ký lục Vĩnh Thanh, mà y cố xin lưu ở lại trong
thành. Lê Đại Cương có chỉ tuyên triệu, mà y cố xin lưu lại làm việc phủ Lạc
Hóa, đều là có ý vi chiếu. Trong tập tâu của y lại nói rằng: "Chuẩn cho
thần cầu xin việc ấy, thì hầu có ích cho việc ngoài biên cương"; lại ở
trong tập tâu xin chi bổng cho bọn thơ lại, cơ, đội, các vệ, có câu rằng:
"Lão thần xa ở ngoài biên khổn, chỉ e triều đình tin dùng không được vững bền".
Trong lời lẽ ấy đều là không kính, ấy là 5 tội. 6) Năm Minh Mệnh thứ 6, y tâu
xin tăng thọ cho Lê Chất, có nói rằng: "Ấy là vị thánh dược khởi tử hồi
sinh, tiếc gì mà không làm". Y là chức biên khổn dám kết đảng tư tình như
thế, rất trái với đạo làm tôi, ấy là 6 tội. Vả lại nghe y bình nhật thường khoe
chuyện với người ta rằng: y xin được quẻ thẻ có 4 câu thơ:
Tá Hán tranh tiên chư Hán tướng Phù
Chu ninh hậu thập Chu thần Tha niên tái ngộ Trần kiều sự Nhất đán hoàng báo bức
thử thân
Dịch Nôm Giúp Hán há thua cùng tướng
Hán Phò Chu nào kém bọn tôi Chu Trần kiều nếu gặp cơn binh biến Mảnh áo hoàng
bào để ép nhau!
Giá y không phải là người sẵn có
bụng bất trung, thì không khi nào dám khoe bài ấy với người ta. Bởi vậy bọn
tiêu hạ tập quen thành thói, cho nên thây y chưa lạnh mà đã có việc này. Vậy
xin giao cả lời tâu này cho đình thần kết án để chính tội. Vua ưng cho.
Đến khi nghị án xong, trích ra các
lời nói, việc làm, bội nghịch, có 7 tội nên trảm: 1. Sai người đi riêng sang
Diến Điện, âm kết ngoại giao. 2. Xin giao tàu Anh Cát Lợi đến thành, để tỏ có
quyền. 3. Xin giết thị vệ là Trần Văn Tình, để khóa miệng người ta. 4. Kháng sớ
xin lưu quan viên bổ đi chỗ khác. 5. Lập đảng mà xin tăng thọ cho Lê Chất. 6.
Giấu chứa giấy ngự bảo. 7. Mộ cha, tiếm gọi là lăng, đối với người ta, tự xưng
là Cô.
Có 2 tội nên giảo: 1. Cố xin dung
nạp Diến Điện để che chở cái lỗi của mình. 2. Nói chuyện với người ta xin được
quẻ thẻ có câu thơ hoàng báo.
Một tội nên phát quân: 1. Tự tiện
sai biền binh tu tạo tàu thuyền.
Sự biến Phiên An, y thực là đầu vạ
nên chiếu theo luật mưu phản, khép vào tội lăng tri; song y đã chịu minh tru,
vậy xin truy đoạt cáo sắc, bỏ quan quách giết thây, để tỏ gương răn cho người
khác. Còn như tằng tổ, tổ phụ của y được phong tặng cáo sắc, thì xin truy đoạt
cả; tiên phần có tiếm dụng trái phép nào thì tước hủy đi; con, cháu, vợ cả, vợ
lẽ, đều phân biệt nghị tội; tài sản thì tịch biên hết.
Án ấy đệ lên. Những tội nguyên nghị
trảm quyết đổi làm giam hậu, con cháu từ 15 tuổi trở xuống, tạm hãy nghiêm cấm;
trẻ thơ ấu chưa biết gì thì tha không bắt; ba họ phải phát nô cũng đều tha;
nguyên nghĩ lục thì cũng thôi.
Lại sai Hình bộ sao bản văn án phát
cho tổng đốc, tuần phủ các tỉnh, cho cứ ý kiến riêng mà tâu về. Hộ phủ Lạng
Bình là Trần Huy Phác xin điều phép tội trảm quyết. Hộ phủ Quảng Yên là Lê Dục
Đức xin người nào từ 16 tuổi trở lên đều chém, còn thì đều y như đình nghị.
Tổng đốc Bình Phú là Võ Xuân Cẩn, Tổng đốc Ninh Thái là Hoàng Văn Trạm cũng đều
xin y đình nghị. Lại nói kèm một cầu rằng: hoặc nên lấy công bù tội châm chước
ít nhiều thì tự Thiên Ân.
Dụ rằng: "Xem vậy thì đủ biết
lẽ Trời không sai, mà công đạo ở lòng người không ai giấu được. Kẻ quyền gian
kia gây vạ, thiên hạ ai cũng căm tức luôn, muôn miệng cùng lời, đủ tỏ cái án
sắt nghìn xưa. Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra
đau lòng, dù có bổ quan quách mà giết thây, cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn
chết đã lâu, và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mã, không bõ gia hình.
Vậy cho tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn, san làm đất phẳng và khắc đá dựng bia
ở trên viết to những chữ "Chỗ này là nơi quyền yêm Lê Văn Duyệt phục
pháp", để chính tội danh cho kẻ đã chết, mà tỏ phép nước về đời sau, làm
gương cho kẻ quyền gian muôn đời.
188
Không những Lê Văn Duyệt là họa thủ tội khôi, mà tên cháu y là Lê Văn Hán cũng
giao thông với giặc, thì thân thuộc phải tội, trong luật đã có điều nói rõ rồi.
Song nghĩ nó chẳng qua cuồng dại một lúc, qua lại với giặc mà thôi, sánh với kẻ
trước sau theo giặc kháng cự quan quân, hơi có khác nhau. Và đã xử cực hình, cũng
đủ tỏ phép nước rồi. Những kẻ thân thuộc khác, khép tội trảm giam hậu, cũng đủ
cho nó phục tội. Lời dụ này chuẩn lục tống phát cho mỗi tỉnh một đạo, để cho ai
nấy đều biết Triều Đình xử rất công, rõ ràng cái cân ba thước mà nghiêm như rìu
búa nghìn thu".
Án Lê Chất: Án Lê Văn Duyệt phát ra
năm trước thì năm sau có quan Lại bộ tả thị lang là Lê Bá Tú truy tham những
tội bất thần của Lê Chất, có 6 tội nên chết: 1. Chất cùng Duyệt toan mưu làm
việc Y, Hoắc (phế lập), bị hai đứa ở nói hở ra ngoài, bèn giết chúng nó để buộc
miệng, là một tội. 2. Mấy lần cố xin thưởng cho hoàng tử để làm con nuôi, muốn
bắt chước lối cũ của Dương Kiên, là hai tội. 3. Muốn cho con gái chính vị trong
cung, không được thỏa chi, nói ra những lời oán vọng, là ba tội. 4. Thường nói chuyện
với Lê Văn Duyệt rằng: "Người ta thường nói trời, vua và cha mẹ, người làm
con, làm tôi dù có điều bất bình, cũng không dám giận, mà một mình tôi dám
giận" là bốn tội. 5. Lại nói rằng: "Vua cậy có Trịnh Hoài Đức, Nguyễn
Hữu Thuận phúc tâm, chỉ đem độ vài trăm người vào chầu, quát to một tiếng, bọn
ấy cũng phải phục xuống đất, rồi ta muốn làm gì ta làm" là năm tội. 6. Lại
nói rằng quốc tính đổi làm tôn thất, đều là bọn Hoài Đức a dua xui giục, nên
đem chém ở trước cửa miếu để chính tội, là sáu tội.
Lại có 10 tội tiếm loạn: 1. Khi y ở
Bắc thành, đầu năm điểm binh, dám lên lầu Ngũ môn ngồi chính giữa. 2. Đệ niên
thuyền tải ngoài bể, y lấy của riêng mà tải vào thuyền công. 3. Cùng với Lê Văn
Duyệt dâng biểu từ chức để bắt bí nhà vua. 4. Việc sinh sát dữ đoạt, hay tự
tiện. 5. Trái phép, ăn lễ, giàu đến nghìn vạn. 6. Tấu sớ không hợp phép, có chỉ
không cho, mà cứ nhất định nộp lại, có Lê Văn Duyệt ngăn đi mới thôi. 7. Nuôi
những cung nữ tiên triều, không biết kiêng nể gì. 8. Nơi công sảnh tiếm làm gác
chuông, gác trống. 9. Tội án Lê Duy Thanh đã thành, lại còn cùng với Lê Văn
Duyệt cố xin nghị lại. 10. Điều bổ cơ binh, phủ binh, xin lấy chức quan văn mà
thi hành.
Vậy xin giao cho đình nghị, để chính
tội danh làm gương cho kẻ gian trăm đời.
Vua dụ rằng: "Chất, tính vốn
sài lang, nết như ma quỷ, làm tôi thì bất trung, bất chính, xử việc thì đại ác
đại gian, việc nào cũng càn rỡ, ai là chẳng tức giận, chẳng những là 16 tội mà
thôi đâu. Trước kia trẫm nghĩ hắn cùng với Lê Văn Duyệt, dẫu mang lòng bất
thần, nhưng người ta không chịu theo, thì chắc không dám gây sự. Vả hắn là nhất
phẩm đại thần; dù có mưu gian mà thần dân chưa cáo tố, thì không nỡ bắt tội. Kể
đến hắn lại chịu tội minh tru rồi thì lưới trời tưởng cũng không thoát, cho nên
cũng chẳng kể làm gì nữa. Nay đã có người tham hạch, vậy thì phải trái công, đã
có triều đình pháp luật. Chuẩn cho đình thần đem 16 điều tội của hắn mà định rõ
tội danh, vợ con cũng án luật mà nghị xử, duy con gái nào đã xuất giá, cùng là
cháu trai còn nhỏ thì tha".
Đình thần nghị rằng: Chất, bất pháp
bất trung, đại gian đại ác, có 6 tội nên lăng trì, 8 tội nên trảm, 2 tội nên
giảo. Những tội phạm phận, âm mưu điều bất quỷ, thì khép vào tội bạn nghịch mà
xử lăng trì. Song y đã chịu tội minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bổ áo
quan, lục thây, khiêu thủ để thị giới. Còn cáo sắc phong cho cha mẹ y, cũng xin
truy đoạt; vợ là Lê Thị Sai từng đồng mưu bạn với chồng, nghĩ trảm lập quyết.
Lại phát cho các tổng đốc, tuần phủ, mỗi nơi một đạo văn án, để cho đem ý riêng
bày tỏ tâu về, cho công lòng chúng. Các địa phương tâu về, đều xin y đình nghị.
Ngài dụ rằng: "Như vậy đủ rõ lẽ
trời ở tại lòng người, công luận không bao giờ mất. Kẻ gian thần chứa vạ, muôn
miệng cùng một lời, đủ làm án sắt thiên cổ. Vả Lê Chất cùng với Lê Văn Duyệt,
dựa nhau làm gian, tội ác đầy chứa, nhổ từng cái tóc mà tính cũng không hết,
giá thử bổ áo quan giết thây, cũng không là quá. Song lại nghĩ Chất tội cũng
như Duyệt, trước kia Duyệt đã không bổ áo quan giết thây, thì nắm xương khô của
Chất nay cũng chẳng màng bắt tội. Vậy cho tổng đốc Bình Phú Võ Xuân Cẩn san
phẳng mộ của hắn, khắc bia dựng lên trên đề to mấy chữ: "Chỗ nầy là nơi Lê
Chất phục pháp" để làm gương cho kẻ gian tặc muôn đời. Còn vợ hắn là Lê
Thị Sai cùng ở một nhà, dự biết mưu bạn nghịch, xử vào cực hình, cũng là phải,
song kẻ đàn bà chẳng cần vội vàng chính pháp. Vậy Lê Thị Sai cùng con là Lê
Cẩn, Lê Trương, Lê Thường, Lê Kỵ, đều cải làm trảm giam hậu. Lại tịch biên gia
sản, được hơn 12.000 quan tiền, giao tỉnh chứa cả vào kho 147 .
147
Đến năm Tự đức nguyên niên (1847)
quan đông các đại học sĩ là Võ Xuân Cẩn làm sớ tâu xin gia ân cho con cháu
Nguyễn Văn Thành. Trong bài sớ có lắm câu thảm thiết. Có chỗ nói rằng:
"Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất đều có lòng theo mây đợi gió,
xông pha chỗ mũi tên hòn đạn, thân làm đại tướng, tước đến quận công, sau hoặc
vì con dại, hoặc vì cậy công mà làm thành tội ..... Dù bọn Nguyễn Văn Thành có
tội, thì tội đã trị rồi, mà công thì không hỏi đến, 189
8. Giặc Tiêm La.
Nước Tiêm La tự khi mất quyền bảo hộ
ở Chân Lạp, vẫn có ý muốn sinh sự với nước Nam, nhưng còn sợ thế lực Nguyễn
Triều chưa dám làm gì, chỉ thỉnh thoảng sang sinh sự với những nước ở Lào. Hễ
khi nào Tiêm và Lào đánh nhau, thì nhà vua sai quan quân phòng giữ những chỗ
biên thùy, và sang cứu viện những nước bị người Tiêm bắt nạt. Như năm đinh hợi
(1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, nước Tiêm đánh lấy nước Vạn Tượng (Vientiane),
quốc trưởng nước ấy là A Nỗ chạy sang cầu cứu, vua Thánh Tổ sai quan thống chế
là Phan Văn Thúy làm kinh lược biên vụ đại thần đem binh tượng sang cứu A Nỗ.
Tháng chín năm ấy, bọn Lê Đức Lộc,
Nguyễn Công Tiến đem binh ở Nghệ An chia làm hai đạo đi đường Quy Hợp và đường
Lạc Phàm qua Trấn Ninh sang cứu A Nỗ. Đi đến đâu vẽ những sông núi hình thế
hiểm trở rồi gửi về Kinh.
A Nỗ mất nước không lấy lại được,
phải theo quân An Nam về Nghệ An, đợi thu xếp quân sĩ để về đánh báo thù. Đến
năm mậu tí (1828), A Nỗ nói rằng quân Lào tụ hợp được đủ rồi, xin cho quan quân
đưa về nước. Vua Thánh Tổ sai Phan Văn Thúy làm kinh lược đại thần, Nguyễn Văn
Xuân làm phó, Nguyễn Khoa Hào làm tham tán, đem 3.000 quân và 24 con voi, đưa A
Nỗ về Trấn Ninh.
Đến Trấn Ninh, A Nỗ xin đem quân Lào
về Vạn Tượng (Vientiane). Phan Văn Thúy cho hai đội quân Thần Sách đi hộ tống.
Về đến Vạn Tượng, A Nỗ đem quân đi đánh quân Tiêm, quân sĩ chết hại rất nhiều,
rồi lại sai người sang Nghệ An xin viện binh.
Vua Thánh Tổ thấy A Nỗ hay sinh sự
đánh nhau mà không được việc gì, bèn không cho quân sang cứu, chỉ xuống lệnh
truyền cho các hạt ở Lào phải phòng giữ những chỗ biên thùy. A Nỗ không có quân
cứu viện, bị quân Tiêm đến đánh, lại phải bỏ thành mà chạy sang Trấn Ninh. Được
ít lâu, Chiêu Nội là thủ lĩnh Trấn Ninh bắt A Nỗ đem nộp cho Tiêm La.
Quân Tiêm La phá được Vạn Tượng rồi,
lại xâm vào đến các châu phụ thuộc về nước Nam, ở mạn gần Quảng Trị. Vua Thánh
Tổ sai thống chế Phạm Văn Điển, kinh lý mọi việc ở Cam Lộ, sai Lê Đăng Doanh
làm tham tán quân vụ, cùng với quân các đạo ở Lào đi tiễu trừ.
chẳng hóa ra đem cái công lao bách
chiến mà để đến nỗi cái tàn hồn phải bơ vơ như ma trơi ngoài đồng, khác nào quỷ
Mạc Ngao không ai thờ cúng không?" Vua Dực Tông xem bài sớ ấy lấy làm cảm
động bèn truy phong cho bọn Nguyễn Văn Thành, và cấp phẩm hàm cho các con cháu.
Phạm Văn Điển, một mặt thì cho người
đem thư sang trách nước Tiêm La sinh sự, một mặt thì chia quân, làm ba đạo tiến
lên đánh.
Tướng Tiêm la viết thư trả lời một
cách khiêm nhường lắm, rồi rút quân về. Từ đó nước Tiêm bề ngoài vẫn thông sứ
đi lại để giữ sự hòa hiếu, nhưng ngấm ngầm cứ tìm cách quấy nhiễu nước Nam. Ở
phía tây nam, người Tiêm vẫn dung túng những người phản nghịch nước Chân Lạp,
mà ở phía tây bắc thì vẫn cứ hà hiếp Vạn Tượng và các nước nhỏ khác. Dù thế mặc
lòng, vua Thánh Tổ không muốn gây việc binh đao, cứ dùng lời nói ngọt mà trang
trải mọi việc.
Đến cuối năm quý tị (1833) nhân có
ngụy Khôi khởi loạn ở đất Gia Định và tên Khôi lại cho người sang cầu cứu vua
Tiêm La bèn sai quân thủy bộ chia ra làm 5 đạo sang đánh Việt Nam.
Đạo thứ nhất thủy quân đem hơn 100
chiếc thuyền vào đánh lấy Hà Tiên; đạo thứ nhì bộ quân sang đánh Nam Vang
(Phnon-penh), rồi tiến lên đánh lấy Châu Đốc và An Giang; đạo thứ ba đánh lấy
mặt Cam Lộ; đạo thứ tư đánh Cam Cát, Cam Môn, đạo thứ năm đánh Trấn Ninh.
Tuy rằng quân nghịch năm đạo cùng
tiến, nhưng chủ đích của Tiêm La là cốt đánh Chân Lạp và Nam Kỳ, còn các đạo
khác là để phân quân lực của nước Nam mà thôi.
Vua Thánh Tổ được tin báo cấp, liền
xuống chiếu sai quan quân phòng ngự các nơi. Phía tây nam thì sai quân thứ ở
Gia Định, chia quân cho Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đi tiến tiễu ở mặt An
Giang. Phía tây bắc thì sai Lê Văn Thụy giữ mặt Cam Lộ, thuộc Quảng Trị, Phạm
Văn Điển giữ mặt Nghệ An. Lại sai Nguyễn Văn Xuân 148
làm kinh lược đại sứ đi tiễu trừ
quân Tiêm và quân Lào ở Trấn Ninh.
Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đại
phá quân Tiêm La ở sông Cổ cắng. Quân Tiêm La ở Chân Lạp cũng bị người bản xứ
đánh phá. Chỗ nào quân nghịch cũng thua to chết hại rất nhiều; chỉ trong một
tháng mà quan quân lấy lại Hà Tiên và Châu Đốc, đuổi quân Tiêm ra khỏi bờ cõi,
rồi tiến lên đánh lấy thành Nam Vang và đưa vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân về
nước.
148
Nguyễn Xuân thì làm tham tán đại
thần theo Trương Minh Giảng, Nguyễn Văn Xuân thì làm hữu quân lĩnh An tĩnh tổng
đốc đi đánh mặt Trấn Ninh. 190
Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân từ
Nam Vang tiến lên đánh quân Tiêm, liền phá mấy trận, chém tướng bắt binh lấy
được súng ống khí giới không biết ngần nào mà kể. Tướng Tiêm La là Phi Nhã Chất
Tri đem bại binh chạy về nước, quan quân đuổi đánh lấy thành Phú Túc (Pursat)
rồi cho người Chân Lạp ở lại giữ các nơi: chỗ nào hiểm yếu thì làm đồn đắp lũy,
để phòng ngự quân giặc.
Những đạo quân Tiêm và quân Lào sang
đánh ở mặt Quảng Trị, Nghệ An và Trấn Ninh, đều bị tướng quân là Nguyễn Văn
Xuân, Phạm Văn Điển và Lê Văn Thụy đánh đuổi, chỗ nào quan quân cũng được toàn
thắng, giữ được bờ cõi nguyên như chỗ cũ cả.
Quân Tiêm sang đánh từ tháng giêng
năm giáp ngọ (1834), đến tháng năm năm ấy, thì quan quân đã bình xong cả mọi
nơi. Vua Thánh Tổ mừng rỡ, ban thưởng cho các tướng sĩ và bố cáo ra cho mọi nơi
đều biết.
9. Việc Ai Lao.
Nước Nam ta về đời vua Thánh Tổ thì
to rộng hơn cả, là vì quân Tiêm La cứ hay sang quấy nhiễu cho nên các xứ ở Lào
đều xin về nội thuộc nước ta.
Năm đinh hợi (1827), người Nam
chưởng (Luan Prabang) thông với Tiêm La, rồi cứ đem quân xuống quấy nhiễu đất
Trấn Ninh. Tù trưởng là Chiêu Nội xin đem đất Trấn Ninh về nội thuộc Việt Nam.
Vua Thánh Tổ phong cho Chiêu Nội làm Trấn Ninh phòng ngự sứ cai quản cả 7
huyện, lại phong cho những thổ mục làm thổ tri huyện và thổ huyện thừa. Chiêu
Nội dâng sổ dân đinh và điền thổ, cả thảy được 3.000 suất đinh và 28 sở ruộng.
Lại có đất Tam động và Lạc Phàn (
trước thuộcvề Vạn Tượng) cũng xin nội thuộc. Triều đình chia những đất ấy ra
làm hai phủ là Trấn Tĩnh phủ và Lạc biên phủ. Năm ấy lại có xứ Xa hổ (?), Sầm
Tộ (Sam teu), Mường soạn (?), Mang Lan (Mường Lam), Trình Cố (Xiêng-khô), Sầm
nứa (Sam- neua), Mương Duy (?) và ở Ngọc Ma có Cám cát (Kham-keut), Cam Môn và
Cam Linh (?) đều xin về nội thuộc. Vua Thánh Tổ chia những đất ấy ra làm ba phủ
là Trấn Biên, Trấn Định và Trấn Man.
Phủ Trấn biên có bốn huyện là Xa hổ,
Sầm tộ, Mang soạn, Mang lan; phủ Trấn định 149
có 3 huyện là Cam cát, Cam môn, và
Cam linh. Hai phủ ấy đều thuộc về Nghệ An. Còn phủ Trấn Nam có 3 huyện là Trình
Cố, Sầm nứa, Man Duy thì thuộc về Thanh Hóa.
149
Ở gần địa hạt Hà tĩnh bây giờ.
Ở miền Cam Lộ thuộc Quảng Trị lại có
những mường Mang vang (?), Ná bi (?), Thượng kế (?), Tả bang (?), Xương thịnh
(?), Tầm bồn (?), Ba lan (?), Mang bổng (?), Lang thời (?), xin về nội thuộc,
chia ra làm 9 châu, cho chiếu lệ triều cống.
Đại khái là đất Sầm nứa, đất Trấn
Ninh, đất Cam môn và đất Savannakhet bây giờ, thủa ấy thuộc về Việt Nam ta cả.
10. Việc Chân Lạp.
Ở nước Chân Lạp thì từ khi quan quân
phá được giặc Tiêm rồi, Tướng quân là Trương minh Giảng và tham tán là Lê Đại
Cương lập đồn An Nam ở gần Nam vang để bảo hộ Chân Lạp.
Cuối năm giáp ngọ (1834), vua nước
Chân Lạp là Nặc Ông Chân mất, không có con trai, quyền cai trị trong nước về cả
mấy người phiên liêu là bọn Trà Long và La Kiên. Những người này đều là người
Chân Lạp mà lại nhận quan chức Việt Nam. Đến năm ất mùi (1835), Trương Minh
Giảng xin lập người con gái của Nặc Ông Chân tên là Angmey lên làm quận chúa,
gọi là Ngọc Vân công chúa, rồi đổi nước Chân Lạp ra làm Trấn tây thành, chia ra
làm 32 phủ và 2 huyện. Đặt một tướng quân, một tham tán đại thần, một đề đốc,
một hiệp tán, và 4 chánh phó lĩnh binh, để coi mọi việc quân dân. Ở các chỗ yếu
hại, lại đặt chức tuyên phủ, an phủ để phòng ngự.
Năm canh tí (1840), nhà vua sai Lê
Văn Đức làm khâm sai đại thần, Doãn Uẩn làm phó và cùng với Trương Minh Giảng
để kinh lý mọi việc ở Trấn Tây Thành, khám xét việc buôn bán, đo ruộng đất,
định thuế đinh, thuế thuyền bè buôn bán dưới sông.
Nhưng vì quan lại Việt Nam ta sang
làm nhiều điều trái lẽ, nhũng nhiễu dân sự, lại bắt Ngọc Vân công chúa đem về
để ở Gia Định, bắt bọn Trà Long và Lê Kiên đày ra Bắc Kỳ, dân Chân Lạp ai cũng
oán giận, chỗ nào cũng có giặc giã nổi lên đánh phá. Lại có em Nặc Ông Chân là
Nặc Ông Đôn khởi nghĩa, có người Tiêm La giúp đỡ, thành ra quan quân đánh mãi
không được. Về sau khi vua Thánh Tổ mất rồi, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây
mà rút về An Giang.
Ấy cũng là vì người mình không biết
bênh vực kẻ hèn yếu, chỉ đem lòng tham tàn mà ức hiếp người ta, cho nên thành
ra hao tổn binh lương, nhọc mệt tướng sĩ, mà lại phải sự bại hoại, thật là
thiệt hại cho nước mình.
11. Việc giao thiệp với những nước
ngoại dương.
Việc giao thiệp của nước Nam ta với
các nước ngoại dương mà ngăn trở là bởi có 191 hai lẽ: một
là vì sự cấm giảng đạo thiên chúa; hai là vì người nước mình lúc bấy giờ không
hiểu thời thế, cứ tự đắc mình là văn minh hơn người, không chịu học tập như
người ta mà theo đường tiến bộ.
Nước ta từ đời thập thất thế kỷ, về
nhà Hậu Lê đã có người Âu-la-ba ra vào buôn bán, hoặc ở Phố Hiến (Hưng Yên),
hoặc ở cửa Hội An (Faifo), đều không có việc gì ngăn trở cả. Chỉ có sự giảng
đạo Thiên chúa ở trong nước là hay bị sự ngăn cấm. Ngày trước chúa Trịnh và
chúa Nguyễn đã có dụ nghiêm cấm. Đến đời Nguyễn Tây Sơn thì trong nước rối
loạn, còn phải lo việc chiến tranh, cho nên không nói đến việc cấm đạo. Về sau,
khi vua Thế Tổ nhất thống cả nam bắc, thì ngài nhớ ơn bên đạo có công giúp rập
trong lúc gian truân, vẫn để các giáo sĩ được phép đi giảng đạo mọi nơi. Mãi
đến đời vua Thánh Tổ thì việc nước đã yên, nhà vua lưu ý về sự giáo hóa, lấy
Nho đạo làm chính đạo và cho các tôn giáo khác làm tả đạo, bắt dân gian phải bỏ
tà theo chính. Sự cấm đạo lại khởi đầu phát ra nữa.
Mà cũng vì sự cấm đạo, cho nên sự
buôn bán của những người ngoại dương ở nước ta, thành ra ngăn trở. Bởi vì Triều
đình thấy thỉnh thoảng có chiếc tàu buôn lại, thì có một vài người giáo sĩ vào
giảng đạo, ngăn cấm thế nào cũng không được, tưởng là có ý do thám gì chăng,
cho nên lại càng nghi ngờ lắm.
Vả lại về đời nhà Nguyễn lúc bấy
giờ, ở trong nước cũng không có người ngoại quốc ra vào buôn bán, chỉ có người
Pháp Lan Tây trước đã theo giúp vua Thế Tổ, rồi ở lại làm quan tại triều là
Chaigneau và Vannier. Khi vua Thế Tổ hãy còn, thì Chaigneau có xin về nước Pháp
nghỉ ba năm, đến năm đinh mùi (1821), ông ấy trở sang thì lại nhận chức lãnh sự
và chức khâm sai của vua Louis XVIII, đem đồ phẩm vật và tờ quốc thư sang điều
đình việc thông thương với nước Nam. Chaigneau sang đến nơi, thì vua Thế Tổ mất
rồi, vua Thánh Tổ tiếp đãi Chaigneau cũng tử tế, và ngày sai quan trả lời cho
Pháp Hoàng rằng nước Nam và nước Pháp không việc gì mà phải làm điều ước về
việc thương mại. Việc vào buôn bán ở nước Nam, thì cứ theo luật nước Nam, không
điều gì ngăn trở cả.
Năm nhâm ngọ (1822) có chiếc tàu
chiến của Pháp tên là Cléopâtre vào cửa Đà nẵng, người quản tàu tên là Courson
de La Ville Héllio nhờ Chaigneau xin phép cho vào yết kiến vua Thánh Tổ; ngài
không cho. Tháng 7 năm ấy, có tàu Anh Cát Lợi vào Đà nẵng xin thông thương, nhà
vua cũng không cho.
Chaigneau thấy nhà vua càng ngày
càng nhạt nhẽo với mình, và cũng không làm được công việc gì có ích, bèn cùng
với Vannier xin từ chức, rồi đến cuối năm giáp thân (1824), hai người xuống tàu
đi qua Gia Định về Pháp.
Tháng giêng năm ất dậu (1825), lại
có thủy quân đại tá nước Pháp là ông Bougainville đem hai chiếc tàu chiến là
Thétis và Espérance vào cửa Đà Nẵng, đem đồ phẩm vật và quốc thư, xin vào yết
kiến vua Thánh Tổ. Ngài nói rằng nước Pháp và nước Anh là hai nước cừu địch, mà
nước ta trước đã không tiếp sứ Anh Cát Lợi, lẽ nào nay lại tiếp sứ nước Pháp.
Vả lúc bấy giờ Chaigneau và Vannier đã về cả rồi, ngài bèn sai quan đem đồ vật
ra ban thưởng cho sứ nước Pháp và nói rằng ở trong triều không có ai biết tiếng
Pháp, cho nên không thể tiếp được.
Qua năm sau (1826) chính phủ Pháp
lại sai cháu ông Chaigneau sang làm lĩnh sự thay cho chú, nhưng sang đến nơi,
Triều đình nước ta không nhận, đến năm kỷ sửu (1829) lại phải trở về.
Từ đó cho đến 10 năm về sau nước
Pháp tuyệt giao với nước Nam ta. Mà lúc bấy giờ chỉ trừ mấy người giáo sĩ đi
giảng đạo ở chỗ thôn dã ra, thì trong nước cũng không có người ngoại dương nào
ở nữa.
12. Sự Cấm Đạo.
Từ khi vua Thánh Tổ lên ngôi, ngài
đã có ý không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước. Đến năm ất dậu
(1825), khi chiếc tàu Thétis vào cửa Đà Nẵng, có một người giáo sĩ tên là
Rogerot ở lại đi giảng đạo các nơi, vua Thánh Tổ nhân dịp ấy mới có dụ cấm đạo,
và truyền cho các quan phải khám xét các tàu bè của ngoại quốc ra vào cửa bể.
Trong dụ nói rằng: "Đạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và
hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính
đạo".
Ngài lại sai tìm bao nhiêu những
giáo sĩ ở trong nước đem cả về Huế để dịch những sách Tây ra chữ Việt Nam, chủ
ý là không phải vì việc dịch sách, nhưng là để cho khỏi đi giảng đạo ở chốn
hương thôn.
Lúc bấy giờ không phải là một mình
vua Thánh Tổ ghét đạo mà thôi, phần nhiều những quan lại cũng đều một ý cả, cho
nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cấm thế nào mặc lòng, trong
nước vẫn có người đi giảng đạo, nhà vua lấy điều đó làm trái phép, lại có dụ ra
lần nữa truyền cho dân bên giáo phải bỏ đạo, và ai bắt được giáo sĩ đem nộp thì
được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử giảo, và ở các nơi cũng
rối loạn vì sự bắt đạo và giết đạo.
Từ đó trở đi, trong Nam ngoài Bắc,
chỗ nào cũng có giặc giã nổi lên, nhà vua ngờ cho dân bên đạo theo giúp quân
giặc, lại càng cấm nghiệt: từ năm giáp ngọ (1834) cho đến năm mậu tuất (1838),
có nhiều giáo sĩ và đạo đồ bị giết, nhất là từ khi bắt được cố Du (P. Marchand)
ở Gia Định rồi, sự giết đạo lại dữ hơn trước nữa.
Nhà vua một mặt thì cấm đạo, một mặt
thì ban những huấn điều ra đê/ khuyên dân giữ lấy đạo chính. Nhưng nhà vua mà
dùng uy quyền để giết hại bao nhiêu, thì dân sự lại khổ sở bấy nhiêu, chứ lòng
tin tưởng của người ta không sao ngăn cấm được. Vả lại đạo Thiên chúa cũng là
một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy lòng nhân ái, việc gì mà làm khổ dân sự
như thế? Các giáo sĩ bấy giờ cứ một niềm liều sống chết đi truyền giáo cho
được, có người phải đào hầm mà ở dưới đất hàng mấy tháng để dạy đạo. Những
người có chí bền chặt như vậy, thì hình phạt cũng vô ích mà thôi. Năm mậu tuất
(1838), vua Thánh Tổ thấy cấm thế nào cũng không được những người đi giảng đạo
trong nước, ngài bèn sai sứ sang nước Pháp để điều đình với chính phủ Pháp về
việc ấy. Song khi sứ thần Việt Nam sang đến nơi, thì hội Ngoại Quốc Truyền Đạo
xin Pháp Hoàng là vua Louis Philippe đừng tiếp 150 . Sứ thần ta phải trở về
không; khi về đến Huế thì vua Thánh Tổ đã mất rồi.
Về sau việc cấm đạo cứ dai dẳng mãi đến
khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi.
13. Vua Thánh Tổ Mất.
Vua Thánh Tổ mất năm canh tí (1840),
thọ được 50 tuổi, và trị vì được 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.
Trong đời vua Thánh Tổ làm vua, pháp
luật, chế độ, điều gì cũng sửa sang lại cả, làm thành một nước có cương kỷ.
Nhưng chỉ vì ngài nghiêm khắc quá, cứ một mực theo cổ, chứ không tùy thời mà
biến hóa phong tục; lại không biết khoan dung cho sự sùng tín, đem giết hại
những người theo đạo, và lại tuyệt giao với ngoại quốc làm thành ra nước Nam ta
ở lẻ loi một mình.
Đã hay rằng những điều lầm lỗi ấy là
trách nhiệm chung cả triều đình và cả bọn sĩ phu nước ta lúc bấy giờ, chứ không
riêng chi một mình ngài, nhưng ngài là ông vua chuyên chế một nước, việc trong
nước hay dỡ thế nào, ngài cũng có một phần trách nhiệm rất to, không sao chối
từ được. Vậy cứ bình tình mà xét, thì chính trị của ngài tuy có nhiều điều hay,
nhưng cũng có nhiều điều dở; ngài biết cương mà không biết nhu, ngài có uy
quyền
150
Sách Histore de la Cochinchine
Francaise của ông Cultru. mà ít độ lượng, ngài biết có dân có nước mà không
biết thời thế tiến hóa. Bởi vậy cho nên nói rằng ngài là một ông anh quân thì
khí quá, mà nói rằng ngài là ông bạo quân thì không công bằng. Dẫu thế nào mặc
lòng, ngài là một ông vua thông minh, có quả cảm, hết lòng lo việc nước, tưởng
về bản triều nhà Nguyễn chưa có ông vua nào làm được nhiều công việc hơn ngài
vậy.
Hiến Tổ (1841-1847) Niên hiệu: Thiệu
Trị
1. Đức độ vua Hiến Tổ 2. Việc Chân
Lạp 3. Việc Tiêm La 4. Việc giao thiệp với nước Pháp
1. Đức Độ Vua Hiến Tổ.
Tháng giêng năm tân sửu (1841) Hoàng
Thái Tử húy là Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hòa đặt niên hiệu là Thiệu Trị.
Tính vua Hiến Tổ thuần hòa, không
hay bày ra nhiều việc và cũng không được quả cảm như Thánh Tổ. Trong đời Ngài
làm vua, học hiệu, chế độ, thuế mà, điều gì cũng theo như triều vua Thánh Tổ
cả. Bầy tôi lúc bấy giờ có Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Võ Văn Giải,
Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Tiếp trong ngoài ra sức giúp rập. Nhưng mà đất Nam
Kỳ có giặc giã, dân Chân Lạp nổi loạn, quân Tiêm La sang đánh phá, nhà vua phải
dùng binh đánh dẹp mãi mới xong.
2. Việc Chân Lạp.
Nguyên từ cuối đời đức Thánh Tổ, đất
Nam Kỳ và đất Chân Lạp đã có giặc giã, các ông Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến
Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ cứ phải đem quân đi tiễu trừ mãi, đánh được
chỗ này thì chỗ kia nổi lên. Sau ở Nam Kỳ lại có Lâm Sâm cùng với bọn thầy chùa
làm loạn ở Trà Vinh; ở Chân Lạp thì những người bản xứ cùng với người Tiêm La
đánh phá. Quan quân chống không nổi. Triều đình lấy việc ấy làm lo phiền. Năm
Thiệu Trị nguyên niên (1841), ở trong Triều, ông Tạ Quang Cự tâu xin bỏ đất
Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang. Vua nghe lời ấy, xuống chiếu truyền cho
tướng quân là Trương Minh Giảng rút quân về. Trương Minh Giảng về đến An Giang
thì mất. Bởi vì việc kinh lý đất Chân Lạp là ở tay ông cả, nay vì có biến loạn,
quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà, ông nghĩ xấu hổ và buồn bực đến nỗi thành
bệnh mà chết.
3. Việc Tiêm La.
Khi quân của Nguyễn Tiến Lâm và
Nguyễn Công Trứ dẹp xong giặc Lâm Sâm ở Nam Kỳ, thì quân Tiêm La lại đem binh
thuyền sang cùng với quân giặc để đánh phá. Vua bèn sai Lê Văn Đức làm tổng
thống đem binh tướng đi tiễu trừ. Sai Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhân giữ
mặt Vĩnh Tế, Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang. Ba mặt cùng
tiến binh lên đánh, quân Tiêm và quân giặc thua to, phải rút về giữ Trấn Tây.
Quan quân đuổi được quân Tiêm La ra ngoài bờ cõi rồi, đặt quân giữ các nơi hiểm
yếu để đợi ngày tiến tiễu.
Nguyên là Nặc Ông Đôn 151
đem quân Tiêm La về cứu viện để đánh
lấy lại nước. Nhưng khi đến Việt Nam rút về rồi, quân Tiêm La tàn bạo, người
Chân Lạp lại không phục, có người sang cầu cứu ở Nam Kỳ, vua bèn sai Võ Văn
Giải sang kinh lý việc Chân Lạp.
Tháng sáu năm ất tị (1845), là năm
Thiệu Trị thứ năm, Võ Văn Giải vào đến Gia Định, cùng với Nguyễn Tri Phương,
Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị, tiến binh sang đánh Chân Lạp, phá được đồn Dây Sắt,
lấy lại thành Nam Vang, người Chân Lạp về hàng kể hơn 23.000 người.
Đoạn rồi, Nguyễn Tri Phương và Doãn
Uẩn đem binh đuổi đánh quân Tiêm La và quân Chân Lạp, vây Nặc Ông Đôn và tướng
Tiêm La là Chất Tri ở Ô-Đông (Oudon).
Tháng chín năm ấy, Chất Tri sai
người sang xin hòa. Qua tháng mười thì Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn và Chất Tri
ký tờ hòa ước ở nhà hội quán, hai nước đều giải binh. Nguyễn Tri Phương rút
quân về đóng ở Trấn Tây, đợi quân Tiêm thi hành những điều ước đã định.
Tháng chạp năm bính ngọ (1846), Nặc
Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống.
Tháng hai năm đinh mùi (1847) là năm
Thiệu Trị thứ bảy, Triều đình phong cho Nặc Ông Đôn làm Cao Miên Quốc Vương và
phong cho Mỹ Lâm Quận Chúa làm Cao Miên Quận Chúa. Lại xuống chiếu truyền cho
quân thứ ở Trấn Tây rút về An Giang.
Từ đó nước Chân Lạp lại có vua, và
việc ở phía nam mới được yên vậy.
151
Nặc Ông Đôn là em Nặc Ông Chân, chú
nàng Ang-mey là Ngọc Vân quận chúa. 194 4. Việc Giao Thiệp
với nước Pháp.
Từ khi vua Hiến Tổ lên trị vì, thì
sự cấm đạo hơi nguôi đi được một ít. Nhưng mà triều đình vẫn ghét đạo, mà những
giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn giam cả ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước
Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroine. Ông Favin Lévêque đem tàu vào Đà
Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha.
Qua năm ất tị (1845) là năm Thiệu
Trị thứ năm có một giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Bấy giờ có người quản
tàu Mỹ Lợi Kiên ở Đà Nẵng xin mãi không được, mới báo tin cho hải quân thiếu
tướng nước Pháp là Cécile biết. Thiếu tướng sai quân đem chiếc tàu Alemène vào
Đà Nẵng lĩnh giám mục ra.
Năm đinh mùi (1847) quan nước Pháp
được tin rằng ở Huế không còn giáo sĩ phải giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre
và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ
những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới.
Lúc hai bên còn đang thương nghị về
việc ấy, thì quan nước Pháp thấy thuyền của ta ra đóng ở gần tàu của Pháp và ở
trên bờ lại thấy có quân ta sắp sửa đồn lũy, mới nghi có sự phản trắc gì chăng,
bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.
Vua Hiến Tổ thấy sự trạng như thế,
tức giận vô cùng, lại có dụ ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo, và trị tội
những người trong nước đi theo đạo.
Việc tàu nước Pháp vào bắn ở Đà nẵng
xong được mấy ngày tháng, thì vua Hiến Tổ phải bệnh mất. Bấy giờ là tháng chín
năm đinh mùi (1847), năm Thiệu Trị thứ bảy. Ngài làm vua được bảy năm, thọ 37
tuổi, miếu hiệu là Hiến tổ Chương Hoàng Đế.
CHƯƠNG V
Dực Tông (1847-1883) Niên hiệu: Tự
Đức
1. Đức độ vua Dực Tông 2. Đình thần
3. Việc ngoại giao 4. Việc cấm đạo 5. Việc thuế má 6. Việc văn học 7. Việc binh
chế
1. Đức độ vua Dực Tông.
Vua Hiến Tổ mất, truyền ngôi lại cho
hoàng tử thứ hai húy là Hồng Nhậm. Bấy giờ hoàng tử mới có 19 tuổi, nhưng học
hành đã thông thái. Đến tháng 10 năm đinh mùi (1847), thì ngài lên ngôi hoàng
đế ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Tự Đức, lấy năm sau là năm Mậu Thân làm Tự
Đức nguyên niên.
Vua Dực Tông đối với vận hội nước
Nam ta thật là quan hệ, vì là đến đời ngài thì nước Pháp sang bảo hộ, đổi xã
hội mình ra một cảnh tượng khác. Bởi vậy cho nên ta cần phải biết rõ ngài là
người thế nào, để xét đoán những công việc thời bấy giờ cho khỏi sai lầm. Quan
tổng đốc Thân Trọng Huề đã được trông thấy dung nhan của ngài và đã tả rõ chân
tượng của ngài ra như sau này: "Ngài hình dung như một người nho sĩ, không
cao, không thấp, trạc người bậc trung, không gầy không béo, có một phần hơi gầy
một tí. Da không trắng không đen. Mặt hơi dài; cằm hơi nhỏ, trán rộng mà thẳng,
mũi cao mà tròn, hai con mắt tinh mà lành.
Ngài hay chít cái khăn vàng mà nhỏ,
và mặc áo vàng, khi ngài có tuổi thì hay mặc quần vàng đi giày hàng vàng của
nội vụ đóng. Ngài không ưa trang sức mà cũng không cho các bà nội cung đeo đồ
nữ trang, chỉ cốt lấy sự ăn mặc sạch sẽ làm đẹp.
Tính ngài thật là hiền lành. Những
người được hầu gần ngài nói chuyện rằng: một hôm ngài ngự triều tại điện Văn
Minh, ngài cầm cái hoa 195 mai 152
sắp hút thuốc, tên thái giám đứng
quạt hầu, vô ý quạt mạnh quá, lửa hoa mai bay vào tay ngài. Tên thái giám sợ
xanh mặt lại, mà ngài chỉ xoa tay, chứ không nói gì cả.
Ngài thờ đức Từ Dụ rất có hiếu. Lệ
thường cứ ngày chẵn thì chầu cung, ngày lẽ thì ngự triều: trong một tháng chầu
cung 15 lần, ngự triều 15 lần, trừ khi đi vắng và khi se yếu 153 . Trong 36
năm, thường vẫn như thế, không sai chút nào.
Khi ngài chầu cung thì ngài tâu
chuyện này chuyện kia, việc nhà việc nước, việc xưa việc nay. Đức Từ Dụ thuộc
sử sách đã nhiều mà biết việc đời cũng rộng. Khi Đức Từ Dụ ban câu chi hay, thì
ngài biên ngay vào một quyển giấy gọi là Từ Huấn Lục.
Một hôm rảnh việc nước, ngài ngự bắn
tại rừng Thuận Trực 154
gặp phải khi nướt lụt. Còn hai ngày
nữa thì có kị đức Hiến Tổ, mà ngài chưa ngự về. Đức Từ Dụ nóng ruột, sai quan
đại thần là Nguyễn Tri Phương đi rước. Nguyễn Tri Phương đi được nữa đường, vừa
gặp thuyền ngự đương chèo lên, mà nước thì chảy mạnh, thuyền không đi mau được.
Gần tối thuyền ngự mới tới bến. Khi ấy trời đang mưa, mà ngài vội vàng lên kiệu
trần đi thẳng sang cung, lạy xin chịu tội. Đức Từ Dụ ngồi xoay mặt vào màn,
chẳng nói chẳng rằng chi cả. Ngày lấy một cây roi mây, dâng lên để trên ghế trát
kỷ rồi ngài nằm xuống xin chịu đòn. Cách một hồi lâu, đức Từ Dụ xoay mặt ra lấy
tay hất cái roi mà ban rằng:
- Thôi, tha cho! Đi chơi để cho quan
quân cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầu kị.
Ngài lạy tạ lui về, nội đêm đó ngài
phê thưởng cho các quan quân đi hầu ngự. Quan thì mỗi người được một đồng tiền
bạc, lớn nhỏ tùy theo phẩm, còn lính thì mỗi tên được một quan tiền kẽm. Đến
sáng ngài ngự ra điện Long An lạy kị. Xem cách ngài thờ mẹ như thế, thì tự xưa
đến nay ít có.
Tính ngài siêng năng, sáng chừng năm
giờ, ngài đã ngự tánh, nghĩa là thức dậy, chừng sáu giờ, ngài đã ra triều. Cho
nên các quan ở Kinh buổi ấy cũng phải dậy sớm để mà đi chầu. Thường thấy các
quan thắp đèn ăn cháo để vào triều cho sớm.
152
Hoa mai là một sợi dây làm bằng chỉ
để thắp lửa mà hút thuốc. 153
Se yếu là đau yếu. Tiếng se ở Huế
nói cách tôn kính, như vua đau thì nói vua se mình. 154
Cách Kinh thành chừng độ 15 cây số,
ở bên bờ sông Lợi Giang, có một cái rừng cấm gọi là Thuận Trực. Chỗ ấy nhiều
chim, đức Dực Tông thường ngự đến bắn ở đấy.
Thường ngài ngự triều tại điện Văn
Minh, ở bên tả điện cần chính. Các quan đến sớm, quan văn thì ngồi chực tại tả
vu, quan võ tại hữu vu. Khi ngài đã ngự ra, thì thái giám tuyên triệu các quan
vào chầu. Các quan đều mặc áo rộng xanh, đeo thẻ bài đi vào, quan văn bên hữu,
quan võ bên tả 155 .
Khi các quan theo thứ tự đứng yên
rồi, quan bộ Lại hay là quan hộ Binh tâu xin cho mấy ông quan mới được thăng
thuyên bái mạng. Các quan bái mạng thì phải chực ở ngoài, đợi bộ Lại hay là bộ
Binh tâu xong mới được vào. Quan văn thuộc bộ Lại, quan võ thì thuộc bộ binh.
Bái mạng thì phải mặc áo đại trào.
Các ông bái mạng xong rồi, bộ nào có
việc gì tâu thì đến chỗ tấu sự quỳ tâu. Như bộ nào có tâu việc gì thì các quan
ấn quan trong bộ ấy đều quỳ chỗ tấu sự, rồi ông nào tâu, thì đọc bài diện tấu.
Một bên các quan tấu sự lại có một ông quan nội các và một ông ngự sử đều quỳ.
Quan nội các để biên lời ngài ban; quan ngự sử để đàn hạch các quan phạm phép.
Đức Dực Tông đã thuộc việc mà lại
chăm cho nên nhiều bữa ngài ban việc đến chín mười giờ mới ngự vào nội.
Ngài thường làm việc ở chái đông
điện Cần Chánh. Trong chái ấy lót ván đánh bóng. Gần cửa kính có mấy chiếc
chiếu, trên trải một chiếu cạp bằng hàng vàng, để một cái yên với nghiên bút,
một trái dựa (cái gối dựa), chứ không bày bàn ghế gì cả. Cách một khoảng có để
một cái đầu hồ với thẻ. Ngày làm việc mỏi thì đứng dậy đánh đầu hồ, hay là đi
bách bộ. Ngài ngồi làm việc một mình, vài tên thị nữ đứng hầu để mài son, thắp
thuốc hay là đi truyền việc.
Lệ nước ta xưa nay các quan không
được vào chỗ ngài ngự tọa làm giúp việc cho vua, cho nên việc lớn việc nhỏ,
ngài phải xem cả.
Phiến sớ ác nơi đều gởi về nội các.
Nội các đề trong tráp tấu sự, đưa cho giám, giám đưa cho nữ quan dâng lên ngài.
Ngài xem rồi giao nội các. Nội các giữ bản chính có châu điểm, châu phê, lục
bản phó ra cho các bộ nha.
155
Khi ngài ngự điện Thái Hòa hay là
điện Cần Chính, hay là đi hành lễ điện Phụng Tiên, thì quan văn lại đứng bên
tả, quan võ bên hữu, duy ở điện Văn Minh thì quan võ bên tả, quan văn bên hữu,
không biết tại làm sao? 196
Nay xem các nguyên bản trong Các,
thì thấy có nhiều tờ phiến ngài phê dài hơn của các quan tâu. Chữ đã tốt mà văn
lại hay, ai cũng kinh cái tài của ngài.
Ngài vốn là người hiếu học. Đêm nào
ngài cũng xem sách đến khuya. Có ba tập Ngự Chế Thi Văn của ngài đã in thành
bản. Ngài lại làm sách chữ nôm để dạy dân cho dễ hiểu, như là sách Thập Điều,
Tự Học Diễn Ca, Luận Ngữ Diễn Ca, v.v..."
Xem cái chân tượng của vua Dực Tông
như thế, thì ngài không phải là người to béo vạm vỡ 156 , mà cũng không phải là
ông vua tàn ác bạo ngược như người ta thường nói. Chỉ vì ngài làm vua về một
thời đại khó khăn, trong nước lắm việc, mà những người phò tá thì tuy có người
thanh liêm như ông Trương Đăng Quế, ông Vũ Trọng Bình, trung liệt như ông Phan
Thanh Giản, ông Nguyễn Tri Phương, ông Hoàng Diệu, v.v.... nhưng mà các ông ấy
đều là người cũ, không am hiểu thời thế mới. Vả lại các thế lực lúc bấy giờ kém
hèn quá, dẫu có muốn cải cách duy tân, cũng không kịp nữa, cho nên mọi việc đều
hỏng cả.
2. Đình Thần.
Đình thần là các quan ở trong Triều
giúp vua để lo việc nước. Nhưng lúc bấy giờ tình thế đã nguy ngập lắm, vì từ
đầu thập cửu thế kỷ trở đi, sự sinh hoạt và học thuật của thiên hạ đã tiến bộ
nhiều mà sự cạnh tranh của các nước cũng kịch liệt hơn trước. Thế mà những
người giữ cái trách nhiệm chính trị nước mình, chỉ chăm việc văn chương, khéo
nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự thì phi Nghiêu, Thuấn lại Hạ, Thương, Chu,
việc mấy nghìn năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại, rồi cứ nghễu nghện
tự xưng mình hơn người, cho thiên hạ là dã man. Ấy, các đình thần lúc bấy giờ
phần nhiều là những người như thế cả. Tuy có một vài người đã đi ra ngoài,
trông thấy cảnh tượng thiên hạ, về nói lại, thì các cụ ở nhà cho là nói bậy, làm
hủy hoại mất kỷ cương! Thành ra người không biết thì cứ một niềm tự đắc, người
biết thì phải làm câm làm điếc, không thở ra với ai được, phải ngồi khoanh tay
mà chịu.
Xem như mấy năm về sau, nhà vua
thường có hỏi đến việc phú quốc cường binh, các quan bàn hết lẽ nọ lẽ kia, nào
chiến, nào thủ, mà chẳng thấy làm được việc gì ra trò. Vả thời bấy giờ, cũng đã
có người hiểu rõ thời thế, chịu đi du học và muốn thay đổi chính trị. Như năm
bính dần (1866) là
156
Ta thường trông thấy có cái tranh vẽ
một người to lớn vạm vỡ, mặt mũi dữ tợn mà mặc áo đội mũ không ra lối lăng gì
cả, ở dưới cái tranh có chữ đề là vua Tự Đức. Cái tranh ấy chắc là của một
người nào tưởng tượng mà vẽ ra chứ không phải là chân dung của ngài. Vì là thủa
trước chỉ trừ những quan đại thần và những người được vào hầu cận, vua ta không
cho ai trông thấy mặt, mà cũng không bao giờ có hình ảnh gì cả. năm Tự Đức thứ
19, có mấy người ở Nghệ An là Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều đi
du học phương tây. Sau Nguyễn Trường Tộ về làm mấy bài điều trần, kể hết cái
tình thế nước mình, và cái cảnh tượng các nước, rồi xin nhà vua phải mau mau
cải cách mọi việc, không thì mất nước. Vua giao những tờ điều trần ấy cho các
quan duyệt nghị. Đình thần đều lấy làm sự nói càn, không ai chịu nghe.
Năm mậu thìn (1868) là năm Tự Đức
thứ 21, có người ở Ninh Bình tên là Đinh Văn Điền dâng tờ điều trần nói nên đặt
doanh điền, khai mỏ vàng, làm tàu hỏa, cho người các nước phương tây vào buôn
bán, luyện tập sĩ tốt để phòng khi chiến thủ, thêm lương thực cho quan quân,
bớt sưu dịch cho dân sự, thưởng cho những người có công, nuôi nấng những người
bị thương, tàn tật, v.v.... Đại để là những điều ích quốc lợi dân cả, thế mà
đình thần cho là không hợp với thời thế, rồi bỏ không dùng.
Các quan đi sứ các nơi về tâu bày mọi
sư, vua hỏi đến đình thần thì mọi người đều bác đi, cái gì cũng cho là không
hợp thời. Năm kỷ mão (1879) là năm Tự Đức thứ 32, Nguyễn Hiệp đi sứ Tiêm La về
nói rằng khi người nước Anh Cát Lợi mới sang xin thông thương, thì nước Tiê m
La lập điều ước cho ngay, thành ra người Anh không có cớ gì mà sinh sự để lấy
đất, rồi Tiêm La lại cho nước Pháp, nước Phổ, nước Ý, nước Mỹ v.v... đặt lĩnh
sự để coi việc buôn bán. Như thế mọi người đều có quyền lợi không ai hiếp chế
được mình. Năm tân tị (1881) là năm Tự Đức thứ 34, có Lê Đĩnh đi sứ ở Hương
Cảng về, tâu rằng: các nước Thái Tây mà phú cường là chỉ cốt ở việc binh và
việc buôn bán. Lấy binh lính mà bênh vực việc buôn bán, lấy việc buôn bán mà
nuôi binh lính.
Gần đây Nhật Bản theo các nước Thái
Tây cho người đi buôn bán khắp cả mọi nơi. Nước Tàu cũng bắt chước cho người
ngoại quốc ra vào buôn bán. Nước ta, người khôn ngoan, lại có lắm sản vật, nên
theo người ta mà làm thì cũng có thể giữ được quyền độc lập của nước nhà.
Năm ấy lại có quan hàn lâm viện tu
soạn là Phan Liêm làm sớ mật tâu việc mở sự buôn bán, sự chung vốn lập hội, và
xin cho người đi học nghề khai mỏ. Giao cho đình thần xét, các quan đều bàn
rằng việc buôn bán không tiện, còn việc khác thì xin đòi hỏi các tỉnh xem thể
nào, rồi sẽ xét lại. Ấy cũng là một cách làm cho trôi chuyện, chứ không ai muốn
thay đổi thói cũ chút gì cả. Nhân việc đó vua Dực Tông khuyên rằng các quan xét
việc thì nên cẩn thận và suy nghĩ cho chín, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến
bộ, chứ không tiến, thì tức là thoái vậy.
Xem lời ấy thì không phải là vua
không muốn thay đổi. Chỉ vì vua ở trong cung điện, việc đời không biết rõ, phải
lấy các quan làm tai làm mắt, mà các quan thì lại số người biết thì ít, số
người không biết thì nhiều. Những người có quyền tước thì lắm người trông không
rõ, nghe không thấy, chỉ một niềm giữ thói cũ cho tiện việc mình. Lại có lắm
người tự nghĩ rằng mình đã quyền cả ngôi cao, thì tất là tài giỏi hơn người,
chứ không hiểu rằng cái tài giỏi không cần phải nhiều tuổi, sự khôn ngoan không
phải làm quan to hay là quan nhỏ. Cái phẩm giá con người ta cốt ở tư tưởng, học
thức, chứ không phải ở tiền của hay là ở quyền tước.
Đến khi nước Pháp đã sang lấy đất
Nam Kỳ, đã ra đánh Bắc Kỳ, tình thế nguy cấp đến nơi rồi, thế mà cứ khư khư giữ
lấy thói cổ, hễ ai nói đến sự gì hơi mới một tí, thì bác đi. Như thế thì làm
thế nào mà không hỏng việc được.
Đã hay rằng vua có trách nhiệm vua,
quan có trách nhiệm quan, dẫu thế nào vua Dực Tông cũng không tránh khỏi cái
lỗi với nước nhà, nhưng mà xét cho xác ly, thì cái lỗi của đình thần lúc bấy
giờ cũng không nhỏ vậy.
3. Việc Ngoại Giao.
Việc chính trị đời Dực Tông là nhất
thiết không cho người ngoại quốc vào buôn bán. Như năm canh tuất (1850) là năm
Tự Đức thứ 3, có tàu Mỹ Lợi Liên vào cửa Đà Nẵng, đem thư sang xin thông
thương, nhà vua không tiếp thư.
Từ năm ất mão (1855) cho đến năm
đinh sửu (1877) tàu Anh Cát Lợi ra vào mấy lần ở cửa Đà Nẵng, cửa Thị Nại (Bình
Định) và ở Quảng Yên, để xin buôn bán, cũng không được. Người I Pha Nho và nước
Pháp Lan Tây xin thông thương cũng không được.
Về sau đất Gia Định đã mất rồi, việc
ngoại giao một ngày một khó, nhà vua mới đặt Bình Chuẩn Ti để coi việc buôn
bán, và Thương Bạc Viện để coi việc giao thiệp với người ngoại dương. Tuy vậy
nhưng cũng không thấy ai là người hiểu việc buôn bán và biết cách giao thiệp
cả.
4. Việc Cấm Đạo.
Việc cấm đạo thì từ năm mậu thân
(1848) là năm Tự Đức nguyên niên, vua Dực Tông mới lên ngôi, đã có dụ cấm đạo.
Lần ấy trong dụ nói rằng những người ngoại quốc vào giảng đạo, thì phải tội
chết, những người đạo trưởng ở trong nước mà không chịu bỏ đạo, thì phải khắc
chữ vào mặt, rồi phải đày đi ở chỗ nước độc. Còn những ngu dân thì các quan
phải ngăn cấm, đừng để cho đi theo đạo mà bỏ sự thờ cúng cha ông, chứ đừng có
giết hại v.v....
Đến năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức
thứ 4, lại có dụ ra cấm đạo. Lần này, cấm nghiệt hơn lần trước, và có mấy người
giáo sĩ ngoại quốc phải giết.
Sức đã không đủ giữ nước mà lại cứ
làm điều tàn ác. Đã không cho người ngoại quốc vào buôn bán, lại đem làm tội
những người đi giảng đạo, bởi thế cho nên nước Pháp và nước I Pha Nho mới nhân
cớ ấy mà đánh nước ta vậy.
5. Việc Thuế Má.
Thuế má trong nước đời bấy giờ, thì
đại khái cũng như đời vua Thánh Tổ và Hiến Tổ, duy chỉ từ khi nước Pháp và nước
I Pha Nho vào đánh lấy mấy tỉnh Nam Kỳ rồi, lại phải bồi tiền binh phí mất 4
triệu nguyên, nhà nước mới tìm cách lấy tiền, bèn cho người khách tên là Hầu
Lợi Trịnh trưng thuế bán thuốc nha phiến từ Quảng Bình ra đến Bắc Kỳ. Sử chép
rằng đồng niên nhà vua thu được có 302.200 quan tiền thuế nha phiến.
Nhà vua lại định lệ cho quyên từ
1.000 quan trở lên thì được hàm cửu phẩm, lên đến 10.000 quan thì được hàm lục
phẩm, nghĩ là phải dùng lối đời trước bán quan để lấy tiền.
6. Việc Văn Học.
Vua Dực Tông là một ông vua hay chữ
nhất đời nhà Nguyễn, cho nên ngài trọng sự nho học lắm. Ngài chăm về việc khoa
giáp, sửa sang việc thi cử đặt ra Nhã Sĩ Khoa và Cát Sĩ Khoa, để chọn lấy người
văn học ra làm quan.
Ngài lại đặt Tập Hiền Viện và Khai
Kinh Diên để ngài ngự ra cùng với các quan bàn sách vở, làm thơ phú hoặc nói
chuyện chính trị. Lại sai quan soạn bộ Khâm Định Việt Sử , từ đời thượng cổ cho
đến hết đời nhà Hậu Lê.
7. Việc Binh Chế.
Đời vua Dực Tông lắm giặc giã, nhà
vua cần đến việc võ, nên chỉ năm tân dậu (1861) là năm Tự Đức thứ 14 mới truyền
cho các tỉnh chọn lấy những người khỏe mạnh để làm lính võ sinh. Đến năm ất sửu
(1865) là Tự Đức thứ 18 lại mở ra khoa thi võ tiến sĩ.
Tuy rằng lúc bấy giờ nước mình có
lính võ sinh, có quan võ tiến sĩ, nhưng mà thời đại đã khác đi rồi, người ta
đánh nhau bằng súng đạn nạp hậu, bằng đạn trái phá chứ không bằng gươm bằng
giáo như trước nữa. Mà quân lính của mình mỗi đội có 50 người thì chỉ có 5
người cầm súng điểu thương cũ, phải châm ngòi mới bắn được, mà lại không luyện
tập, cả năm 198 chỉ có một lần tập bắn. Mỗi người chỉ được
bắn có 6 phát đạn mà thôi, hễ ai bắn quá số ấy thì phải bồi thường.
Quân lính như thế, binh khí như thế,
mà quan thì lại cho lính về phòng, mỗi đội chỉ để độ chừng 20 tên tại ngũ mà
thôi. Vậy nên đến khi có sự, không lấy gì mà chống giữ được.
CHƯƠNG VI
Chế độ và tình thế nước Việt Nam đến
cuối đời Tự Đức
1. Cách tổ chức chính trị và xã hội.
2. Bốn hạng dân 3. Sự sinh hoạt của người trong nước.
1. Cách Tổ Chức Chính Trị và Xã Hội.
Nước Việt Nam tuy nói là một nước
quân chủ chuyên chế 157 , nhưng theo cái tinh thần và cách tổ chức của xã hội
thì có nhiều chỗ rất hợp với cái tinh thần dân chủ. Nguyên Nho Giáo là cái học
căn bản của nước ta khi xưa, mà về đường thực tế, thì cái học ấy rất chú trọng
ở sự trị nước. Trị nước thì phải lấy dân làm gốc, nghĩa là phải lo cho dân được
sung túc, phải dạy dỗ dân cho biết đạo lý và mở mang trí tuệ của dân. Những
việc quan trọng như thế không phải bất cứ ai cũng làm được, tất là phải có
những người có đủ đức hạnh, tài năng và uy quyền mới có thể đảm đang được. Bởi
vậy cho nên mới cần có vua có quan.
Vua: Theo cái lý thuyết của Nho
Giáo, thì khi đã có quần chúng, là phải có quân. Quân là một đơn vị giữ cái chủ
quyền để chịu hết thảy các trách nhiệm về sự sinh hoạt và tính mệnh của toàn
dân trong nước. Cái đơn vị ấy gọi là đế hay là vương, được giữ cái chủ quyền cả
nước. Cái chủ quyền ấy người ta còn gọi là cái thần khí, nghĩa là một vật
thiêng liêng do trời cho, tức là dân thuận mới được giữ. Nói rằng những người
làm những điều gian ác bạo ngược mà cướp lấy chủ quyền thì sao ? Đó là sự tiếm
đoạt chứ không phải là chính nghĩa. Ngay những người đã làm đế làm vương mà lạm
dụng chủ quyền để làm những điều tàn bạo, thì cũng chỉ là người tàn tặc mà
thôi, chứ không phải là thật bậc đế bậc vương nữa.
157
Ta thường hiểu mấy chữ quân chủ
chuyên chế theo cái nghĩa của các nước Âu Tây ngày nay, chứ không biết mấy chữ
ấy theo cái học nho giáo có nhiều chỗ khác nhau. 199 Triều
đình: Sở dĩ đời xưa quần chúng công nhận một ông vua giữ cái chủ quyền cả nước,
là muốn cho có mối thống nhất để khỏi sự tranh dành và cuộc biến loạn. Song
việc trị nước là việc chung cả nước, cho nên có vua là phải có triều đình.
Triều đình không phải là một nhóm cận thần để hầu hạ và làm việc riêng cho nhà
vua, chính là một hội nghị chung cả nước, do sự kén chọn những người xứng đáng
bằng cách thi cử mà đặt ra. Cách thi cử không phân biệt sang hèn giàu nghèo gì
cả, miễn là ai có học, có hạnh và có đũ tài năng thì được ra ứng thí. Người nào
đã đỗ rồi và đã ra làm quan là người ấy có chân ở trong triều đình.
Lệ nhà vua, mỗi tháng phải mấy lần
thiết đại triều, các quan tại kinh đều phải đến đủ mặt và theo phẩm trật mà
đứng để tâu bày mọi việc. Bởi vì khi có việc gì quan trọng, thì vua hạ đình
nghị, nghĩa là giao cho đình thần bàn xét. Các quan bất kỳ lớn bé đều được đem
ý kiến của mình mà trình bày. Việc gì đã quyết định, đem dâng lên để vua chuẩn
y, rồi mới thi hành.
Vua tuy có quyền lớn thật, nhưng
không được làm điều gì trái phép thường. Khi vua có làm điều gì lầm lỗi, thì
các quan Giám Sát Ngự Sử phải tâu bày mà can ngăn vua. Trừ những ông vua bạo
ngược không kể, thường là vua phải nghe lời can ngăn của các quan.
Hễ triều đình có những người ngay
chính và sáng suốt, thì việc nước được yên trị; nếu có những người gian nịnh mờ
tối, thì việc nước hư hỏng. Đó là lệ chung từ xưa đến nay như vậy.
Quan tư: mệnh lệnh của triều đình đã
phát ra, thì quan tư ở các quận huyện phải theo mà thi hành. Các quan coi các
quận huyện có nhiệm vụ dạy dỗ dân, đừng để dân làm những điều trái luân thường
đạo lý hay những việc phản loạn. Ngoài ra quan phải để cho dân được yên nghiệp
làm ăn, không nên bày việc ra để nhiễu dân. Bởi vậy đời xưa ông quan nào cai
trị một hạt mà dân hạt ấy được yên trị là ông quan giỏi.
Quyền Tự Trị của dân làng: Quan của
triều đình bổ ra chỉ có đến phủ huyện, còn từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự
trị của dân. Dân tự chọn lấy người của mình mà cử ra coi mọi việc trong hạt.
Tổng là một khu gồm có mấy làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do hội
đồng kỳ dịch các làng cử ra coi việc thuế khóa, đê điều và mọi việc trị an
trong tổng.
Làng hay xã là phần tử cốt yết của
dân. Phong tục, lệ luật của làng nào hay làng ấy, triều đình không can thiệp
đến, cho nên tục ngữ có câu: "Phép vua thua lệ làng". Làng có hội
đồng kỳ dịch do dân cử ra để trông coi hết cả mọi việc. Hội đồng ấy có người
tiên chỉ và thứ chỉ đứng đầu, rồi có lý trưởng và phó lý do hội đồng kỳ dịch cử
ra để thay mặt làng mà giao thiệp với quan tư, có tuần đinh chuyên coi việc
cảnh sát trong làng. Khi một người nào can phạm việc gì thì quan trách cứ ở
làng, cho nên ai đi đâu hay làm việc gì cũng phải lấy làng làm gốc.
Ngày xưa các làng không có sổ khai
sinh tử và giá thú, nhưng tục lệ của làng, cứ con trai đến 12 tuổi thì phải vào
làng, tức là vào sổ đinh của làng, con gái thì không có lệ ấy. Lại vì sự thờ
cúng tổ tiên và sự tin số, tướng, v.v... cho nên nhà nào đẻ con ra, bất kỳ trai
hay gái, cha mẹ phải nhớ cho đúng giờ, ngày tháng và năm sinh của đứa con ấy.
Bởi vậy người nào cũng biết rõ ngày tháng sinh của con mình.
Việc giá thú là việc quan hệ về gia
tộc, phải làm đúng lệ thường, nhưng đối với làng, thì tục lệ bắt người chồng
khi cưới vợ, phải trình làng và nộp cho làng một số mấy quan tiền, gọi là nộp
tiền cheo. Như thế, thành ra theo tục lệ, tuy không có sổ khai sinh tử giá thú,
mà mọi điều cũng đủ như là có vậy.
2. Bốn Hạng Dân.
Người trong nước chia ra làm bốn
hạng là: sĩ, nông, công, thương.
Công: Công là hạng người làm thợ
hoặc làm một công nghệ gì để lấy lợi. Nhưng vì nước ta khi xưa chỉ có những
tiểu công nghê, như quây tơ, dệt vải, dệt lụa, làm chài lưới, làm mắm muối
v.v.... chứ không có đại công nghệ làm giàu như các nước khác. Đại công nghệ đã
không có thì những người làm thợ, ai chuyên tập nghề gì thì lập thành phường,
như thợ mộc, thợ nề, thợ rèn, thợ đúc, thợ gốm v.v.... mỗi phường có thợ cả,
thợ phó và thợ, và phường nào có tục lệ của phường ấy. Những người làm thợ
thường là người ít học, quanh năm ngày tháng đi làm thuê làm mướn chỉ được đủ
ăn mà thôi.
Thương: Thương là hạng người làm
nghề buôn bán. Song việc buôn bán của ta ngày xưa kém cỏi lắm. Người thiên hạ
đi buôn nước này, bán nước nọ, xuất cảng, nhập cảng, kinh doanh những công cuộc
to lớn kể hàng ức hàng triệu. Người mình cả đời không đi đến đâu, chỉ quanh
quẩn ở trong nước, buôn bán những hàng hóa lặt vặt, thành ra bao nhiêu mối lợi
lớn về tay người ngoài mất. Thỉnh thoảng có một ít người có mươi lăm chiếc
thuyền mành chở hàng từ xứ nọ đến xứ kia, nhưng vốn độ năm bảy vạn quan tiền,
thì đã cho là hạng cự phú.
Công nghệ như thế, buôn bán như thế,
bảo nước mình phú cường làm sao được? Rút cục lại, chỉ có nghề nông và nghề sĩ
là trọng yếu hơn cả. 200
Nông: Nông là hạng người chuyên nghề
làm ruộng. Dân Việt Nam ta thường thì ai cũng có ít ra là vài ba sào ruộng để
cày cấy, nghĩa là nghề làm ruộng là nghề gốc của người mình. Nhưng trừ những
nơi ruộng nhiều người ít và đất lại phì nhiêu như đất ở Nam Việt, còn thì đất
xấu và lại vì khí hậu không điều hòa, nắng mưa thất thường, việc cày cấy gặp
nhiều nỗi khó khăn. Dân ở nhà quê, phần nhiều ăn nhờ về ruộng nương, hễ năm nào
mưa hòa gió thuận, mùa màng tốt thì năm ấy dân được no ấm, nhưng năm nào mưa
lụt hay hạn hán, mùa màng mất hết, thì dân đói khổ.
Sĩ: Sĩ là hạng người chuyên nghề đi
học, hoặc để thi đỗ ra làm quan, hoặc để đi dạy học, làm thầy thuốc, thầy địa
lý, thầy bói, thầy tướng, thầy số v.v.... là những nghề phong lưu nhàn hạ.
Sự học của nước ta ngày trước có bộ
Lễ coi việc giáo hóa của toàn nước. Ở tỉnh có quan Đốc Học, ở phủ có quan Giáo
Thụ, ở huyện và ở châu thì có quan Huấn Đạo, là những người có khoa mục, triều
đình bổ ra coi việc giáo dục ở các hạt, và mỗi người coi một trường công ở
trong hạt. Những sĩ tử học ở các trường tư thục đã khá khá đều được đến học tập
ở các trường công của quan Đốc, quan Giáo hay quan Huấn, đợi đến khi có khoa
thi Hương, thì ra ứng thí. Năm nào có khoa thi, thì các quan huấn đạo, giáo thụ
và đốc học mở cuộc khảo học trò để lựa chọ những người có đủ sức mới cho ra ứng
thí.
Lệ nhà vua cứ ba năm mở khoa thi
Hương ở các địa phương. Những người đỗ cao ở khoa thi Hương gọi là cử nhân,
những người đỗ thấp gọi là Tú Tài. Năm sau ở Kinh đô mở khoa thi Hội tại bộ Lễ,
những người đỗ Cử Nhân năm trước vào ứng thí, ai trúng cách thì được vào thi
Đình ở trong điện nhà vua để lấy các bậc Tiến Sĩ, là những bậc đại khoa, người
trong nước rất lấy làm quý trọng.
Mỗi khi có khoa thi Hương, các quan
ở kinh ra chấm thi có cái biển đề bốn chữ: Phụng Chỉ Cầu Hiền, nghĩa là: vâng
chỉ vua ra tìm người giỏi. Vậy sự thi cử ngày trước có cái ý nghĩa khác sự thi
cử ngày nay.
Đó là nói cách tổ chức việc giáo hóa
của triều đình. Còn ở chỗ dân gian, thì sự học tập rất tự do. Bất kỳ người nào
có học lực kha khá cũng có thể mở trường tư thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba
trường tư thục, hoặc ở nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi thầy cho con học
và cho con các nhà lân cận đến học. Người Việt Nam ta vốn chuộng sự học, cho
nên người đi học cũng nhiều.
Nguyên sự học ngày xưa có cái mục
đích chân chính là học cho hiểu đạo lý, biết phải trái, và luyện tâm tính cho
thành người có tiết tháo và có phẩm cách cao quý, để gặp thời thì ra giúp nước
giúp dân, nếu không, thì làm người ngay chính trong xã hội. Sau dần dần vì sự
sanh hoạt ở đời, sự học thành ra cái học chuyên về mặt cử nghiệp, nghĩa là học
chỉ cốt lấy đỗ để ra làm quan. Người đi học đã đỗ đạt rồi, tự tin mình là tài
giỏi, chỉ vụ lấy cái hoa mỹ bề ngoài để lòe người, chứ không thiết gì đến sự
thực học. Tựu trung cũng có người muốn thi đỗ để lấy chút danh phận rồi về ở
nhà học thêm hay dạy học. Nhưng đại đa số chỉ mong đỗ để làm quan vì làm quan
là có địa vị tôn quý, ngoài ra không có gì hơn nữa.
Chương trình sự học cử nghiệp có
những gì ? Bao nhiêu công phu của người đi học chú trọng vào sự học cho nhớ
những sách Tứ Thư, Ngũ Kinh cùng những lời thể chú của tiền nho trong những
sách ấy và học thêm mấy bộ sử nước Tàu. Còn sự luyện tập hàng ngày, thì cốt tập
cho thạo thuộc các lề lối ở chỗ khoa trường là: kinh nghĩa, tứ lục, thi phú,
văn sách. Ấy là dùng hư văn mà xét tài thực dụng, đem sự hoa mỹ làm mực thước
đo tài kinh luân. Bởi vậy ai hay kinh nghĩa đã nghĩ mình hơn người, ai tài thi
phú đã tưởng mình giỏi nghề trị nước. Việc đời thì tối tăm mờ mịt mà lại tự phụ
và kiêu căng, cho thiên hạ như rơm rác, coi mình như thần thánh.
Sự học của mình đã hư hỏng như thế,
những hủ tục lại ăn sâu vào trí não, thành ra một thứ cố tật không sao chữa
được. May nhờ cái tinh thần học cũ, người đi học, kiến thức tuy không có cái gì
mấy, nhưng thường có khí tiết, biết liêm sĩ và nhờ có cái thanh nghị của bọn sĩ
phu ràng buộc, ngăn ngừa sự hành động bấ chính. Song chỉ có thế mà thôi, vẫn
không đủ để sinh tồn trong cái thời đại quyền lợi cạnh tranh, quyền mưu quỷ
quyệt, trí thuật gian trá. Cho nên trong khi người tiến thì ta thoái, người
thịnh thì ta suy.
Đại khái, cái trình độ của bọn sĩ
phu ở nước ta lúc bấy giờ là thế, cho nên vận nước suy đến nơi mà hồn người vẫn
mê muội ở chỗ mơ màng mộng mị. Bọn sĩ phu là người có học, làm tai làm mắt cho
mọi người mà còn kém cõI như thế, thì bảo dân gian khôn ngoan làm sao được.
3. Sự Sinh Hoạt của người trong
nước.
Tình thế trong nước như đã nói trên,
công nghệ không có, buôn bán không ra gì, trừ việc cày cấy làm ruộng ra thì
người nghèo đói không có nghề nghiệp gì mà làm ăn cả, cho nên thủa ấy tuy một
tiền được bốn bát gạo, mà vẫn có người chết đói, vì rằng giá gạo thì rẻ, nhưng
kiếm được đồng tiền thật là khó. Người đi làm thuê khôn khéo, thì mới được một
ngày một tiền, không thì chỉ được 18 hay 30 đồng tiền mà thôi. Sự làm ăn ở chỗ
thôn quê đã vất vã mà lại thường bị nhiều sự hà lạm, ai có đồng tiền ở trong
nhà thì lo sợ đủ mọi đường: nào sợ 201 kẻ gian phi trộm
cắp, nào sợ giặc đêm giặc ngày cướp phá, cho nên phải chôn phải giấu cho kín.
Nhà cửa phần nhiều là nhà tranh nhà
lá, ít khi có nhà ngói nhà gạch. Kiểu nhà làm cũng phải theo kiểu thường mà
làm, chứ không được làm nhà lầu và nhà kiểu chữ công hay kiểu chữ môn. Ai làm
nhà cữa mà không theo đúng phép, thì cho là lộng hành, phải tội.
Cách ăn mặc thì chỉ có đồ vải đồ
nâu, người nghèo khổ chỉ có manh áo cánh và thường thì đóng cái khố, có đi đâu
mới mặc cái quần vải dài đến đầu gối. Người sung túc mới có vài cái áo nâu đen
và vài cái quần hoặc nhuộm nâu hoặc để trắng, chứ không được mặc đồ gấm đồ vóc
và đi giày. Nhà vua cấm như thế, là cũng có ý muốn cho dân không quen thói xa
hoa hoang phí, chỉ trừ những người làm quan làm tư mới có cái đặc ân được ăn mặc
hơn người. Cũng vì thế cho nên người trong nước ai cũng mong được đi làm quan
cho hiển đạt cái thân hình và cho rỡ ràng mẹ cha, chứ không lo nghĩ làm việc gì
khác nữa. Hễ ai đi học mà vì lẽ gì thi không đỗ, làm quan không được, thì bức
chí quay ra làm giặc để tìm cách hiển vinh, thành ra trong nước hay có giặc
giã.
Nước nghèo, dân khổ, lại phải lúc có
nhiều tai biến, người ngoài vào xâm lược, triều đình ngơ ngác không biết xoay
xở ra thế nào, lòng người ly tán, phân ra bè nọ đảng kia, giết hại lẫn nhau. Ấy
là cái tình thế nước Việt Nam ta và cuối đời Tự Đức là thế, cho nên sự nguy
vong mới xảy ra vậy.
CHƯƠNG VII
Nước Pháp lấy đất Nam Kỳ
1. Nước Pháp đánh Đà Nẵng. 2. Quân
Pháp hạ thành Gia Định. 3. Mất tỉnh Định Tường. 4. Mất tỉnh Biên Hòa và tỉnh
Vĩnh Long 5. Hòa ước năm nhâm tuất (1862) 6. Sứ Việt Nam ta sang Tây 7. Việc
bảo hộ Cao Miên 8. Nước Pháp lấy ba tỉnh phía tây đất Nam Kỳ
1. Quân Pháp Đánh Đà Nẵng.
Trong thời đại khó khăn như đời vua
Dực Tông, mà vua quan cứ khư khư giữ lấy thói cũ, không biết theo thời mà mở
nước cho người ta vào buôn bán, không biết nhân dịp mà khai hóa dân trí, lại vì
sự sùng tín mà đem giết hại người trong nước, và đem làm tội những người đi
giảng đạo. Bởi những sự lầm lỗi ấy, cho nên nước Pháp mới dùng binh lực để báo
thù cho những người giáo sĩ bị hại.
Nguyên từ năm tân hợi (1851) là năm
Tự Đức thứ 4 về sau, nghĩa là từ khi có tờ dụ cấm đạo lần thứ hai, ở Bắc Kỳ có
mấy người giáo sĩ là ông Bonard, ông Charbonnier, ông Matheron và ông giám mục
I Pha Nho tên là Diaz bị giết. Còn những giáo sĩ khác thì phải đào hầm đào hố
mà ở, hoặc phải trốn tránh ở trong rừng trong núi để giảng đạo. Những tin ấy về
đến bên Tây, các báo chí ngày ngày kể những thảm trạng của các người giáo sĩ đi
truyền đạo ở nước ta, lòng người náo động cả lên.
Chính phủ nước Pháp bèn sai ông
Leheur de Ville-sur-Arc, đem chiếc chiến thuyền "Catinat" vào cửa Đà
Nẵng rồi cho người đem thư lên trách Triều Đình Việt Nam về việc giết đạo. Sau
thấy quan ta lôi thôi không trả lời, quân nước Pháp bèn bắn phá các đồn lũy ở Đà
Nẵng, rồi bỏ đi. Bấy giờ là tháng 8 năm bính thìn (1856) là năm Tự Đức thứ 9.
Được 4 tháng sau thì sứ thần nước
Pháp là ông Montigny ở nước Tiêm La sang, để điều đình mọi việc. Chiếc tàu của
ông Montigny đi vào đóng ở cửa Đà nẵng, rồi cho người đưa thư lên nói xin cho
người nước Pháp 202 được tự do vào thông thương, đặt lĩnh
sự ở Huế, mở cửa hàng buôn bán ở Đà Nẵng, và cho giáo sĩ được tự do đi giảng
đạo. Trong bấy nhiêu điều, triều đình nước ta không chịu điều nào cả.
Bấy giờ bên nước Pháp đã lập lại đế hiệu,
cháu ông Nã Phá Luân đệ nhất là Nã Phá Luân đệ tam lên làm vua. Triều chính lúc
bấy giờ thì thuận đạo, lại có bà hoàng hậu Eugénie cũng sùng tín. Vả chăng khi
chiếc tàu "Catinat" vào cửa Đà nẵng, có ông giám mục Pellerin trốn
được xuống tàu rồi về bệ kiến Pháp Hoàng, kể rõ tình cảnh các người giảng đạo ở
Việt Nam.
Ông P. Cultru chép ở trong sách Nam
Kỳ Sử Ký (Histore de la Cochinchine) rằng: lúc bấy giờ có nhiều người quyền thế
như ông chủ giáo thành Rouen là Mgr de Bonnechose và có lẽ cả bà hoàng hậu cũng
có nói giúp cho ông giám mục Pellerin. Bởi vậy Pháp hoàng mới quyết ý sai quan
đem binh thuyền sang đánh nước ta. Lại nhân vì những giáo sĩ nước I Pha Nho
cũng bị giết, cho nên chính phủ hai nước mới cùng nhau trù tính việc sang đánh
nước Việt Nam. Ấy cũng tại vì vua quan mình làm điều trái đạo, giết hại những
người theo đạo Gia Tô cho nên mới có tai biến như vậy.
Tháng 7 năm mậu ngọ (1858) là năm Tự
Đức thứ 11, hải quân Trung Tướng nước Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp
và tàu I Pha Nho cả thảy 14 chiếc, chở hơn 3.000 quân của hai nước vào cửa Đà
nẵng, bắn phá các đồn lũy, rồi lên hạ thành An Hải và thành Tôn Hải.
Triều đình được tin ấy liền sai ông
Đào Trí ra cùng với quan tổng đốc Nam Nghĩa là Trần Hoằng tiễu ngự. Ông Đào Trí
ra đến nơi thì hai cái hải thành đã mất rồi. Triều đình lại sai quan hữu quân
Lê Đình Lý làm tổng thống đem 2.000 cấm binh vào án ngự.
Ông Lê Đình Lý vào đánh với quân
Pháp một trận ở xã Cẩm Lệ bị đạn, về được mấy hôm thì mất.
Vua Dực Tông lại sai quan Kinh Lược
Sứ là ông Nguyễn Tri Phương vào làm tổng thống, ông Chu Phúc Minh làm đề đốc
cùng với ông Đào Trí chống giữ với quân Pháp và quân I Pha Nho.
Ông Nguyễn Tri Phương lập đồn Liên
Trì và đắp lũy dài từ Hải Châu cho đến Phúc Ninh, rồi chia quân ra phòng giữ.
Cứ như sách Nam Kỳ Sử của ông Cultru thì ý quan trung tướng Rigault de
Genouilly định lấy Đà Nẵng xong rồi, lên đánh Huê, nhưng mà đến lúc bấy giờ
thấy quan quân phòng giữ cũng rát, và lại có người đem tin cho trung tướng biết
rằng có hơn 10.000 quân ở Huế sắp kéo xuống. Trung tướng không biết rõ tình thế
ra làm sao, mà đường xá lại không thuộc, cho nên cũng không dám tiến quân lên.
Nhân vì khi trước các giáo sĩ đều
nói rằng hễ quân Pháp sang đánh, thì dân bên đạo tức khắc nổi lên đánh giúp,
đến nay không thấy tin tức gì, mà quân lính của trung tướng thì tiến lên không
được. Ở Đà Nẵng thì chỗ ăn chỗ ở không có, lại phải bệnh dịch tả chết hại mất
nhiều người, bởi vậy trung tướng lấy làm phiền lắm. Bấy giờ có ông giám mục
Pellerin cũng đi theo sang ở dưới tàu Ménésis, trung tướng cứ trách ông giám
mục đánh lừa mình, giám mục cũng tức giận bỏ về ở nhà tu dạy đạo tại thành
Pénang ở bên Mã Lai.
Được mấy tháng, trung tướng liệu thế
đánh Huế chưa được, bèn định kế vào đánh Gia Định là một nơi dễ lấy, và lại là
một nơi trù phú của nước Nam ta.
2. Quân Pháp vào đánh Gia Định.
Trước đó đã có người bàn với trung
tướng Rigault de Genouilly ra đánh Bắc Kỳ, nói rằng ở Bắc Kỳ có hơn 40 vạn
người đi đạo, và lại có đảng theo nhà Lê, có thể giúp cho quân Pháp được thành
công. Trung tướng cho đi do thám biết rằng đất Nam Kỳ dễ lấy hơn, và lại là đất
giàu có, nhiều thóc gạo. Đến tháng giêng năm kỷ mùi (1859) là năm Tự Đức tháng
12, Trung tướng giao quyền lại cho đại tá Toyon ở lại giữ các đồn tại Đà Nẵng,
rồi còn bao nhiêu binh thuyền đem vào Nam Kỳ. Quân Pháp vào cửa Cần Giờ, bắn
phá các pháo đài ở hai bên bờ sông Đồng Nai, rồi tiến lên đánh thành Gia Định.
Ở Gia Định, bấy giờ tuy có nhiều
binh khí, nhưng quân lính không luyện tập, việc võ bị bỏ trễ nải, cho nên khi
quân Pháp ở cửa Cần Giờ tiến lên, quan hộ đốc là Vũ Duy Ninh vội vàng tư đi các
tỉnh lấy binh về cứu viện; nhưng chỉ trong hai ngày thì thành vỡ. Vũ Duy Ninh
tự tận. Quân nước Pháp và nước I Pha Nho vào thành, lấy được 200 khẩu súng đại
bác, 8 vạn rưỡi kilos thuốc súng và độ chừng 18 vạn phật lăng (francs) cả tiền
lẫn bạc, còn các binh khí và thóc gạo thì không biết bao nhiêu mà kể.
Trung tướng Rigault de Genouilly lấy
được thành Gia Định rồi, đốt cả thóc gạo và san phẳng thành trì làm bình địa,
chỉ để một cái đồn ở phía nam, sai thủy quân trung tá Jauréguiberry đem một đạo
quân ở lại chống giữ với quân của ông Tôn Thất Hợp đóng ở đất Biên Hòa.
Trung tướng lại đem quân trở ra Đà
Nẵng, rồi tiến lên đánh một trận ở đồn Phúc Ninh. Quân ông Nguyễn Tri Phương
thua phải lui về giữ đồn Nại Hiên và đồn Liên Trì. 203
Trung tướng muốn nhân dịp đó mà định
việc giảng hòa, nhưng mà Triều đình cứ để lôi thôi mãi, người thì bàn hòa, kẻ
thì bàn đánh, thành ra không xong việc gì cả 158 . Mà quân Pháp lúc bấy giờ ở
Đà Nẵng khổ sở lắm, nhiều người có bệnh tật; trung tướng Rigault de Genouilly
cũng đau, phải xin về nghỉ.
Chính phủ Pháp sai hải quân thiếu
tướng Page (Ba-du) sang thay cho trung tướng Rigault de Genouilly và nhân thể
để chủ việc giảng hòa cho xong. Đến tháng 10 năm kỷ mùi (1859) thì thiếu tướng
sang đến nơi, và cho người đưa thư bàn việc hòa, chỉ cốt xin đừng cấm đạo, để
cho các giáo sĩ được tự do đi giảng đạo, đặt lĩnh sự coi việc buôn bán ở các
cửa bể và đặt sứ thần ở Huế. Đại để thì cũng như những điều của ông Montigny đã
bàn năm trước. Nhưng chẳng may lúc bấy giờ ở trong Triều không ai hiểu chính
sách ngoại giao mà chủ trương việc ấy, hóa ra làm mất cái dịp hay cả cho hai
nước.
Thiếu tướng thấy cuộc hòa không xong
bèn tiến binh lên đánh, trận ấy bên quân Pháp chết mất một viên lục quân trung
tá là Dupré Déroulède.
Khi quân Pháp và quân I Pha Nho sang
đánh nước ta ở Đà Nẵng và Gia Định, thì quân nước Anh và quân nước Pháp đang
đánh nước Tàu ở mạn Hoàng Hải. Đến bấy giờ quân Pháp cần phải tiếp sang bên
Tàu, chính phủ nước Pháp mới truyền cho thiếu tướng Page phải rút quân ở Đà
Nẵng về, và chỉ để quân giữ lấy Gia Định, còn bao nhiêu binh thuyền phải đem
sang theo hải quân trung tướng Charner đi đánh Tàu. Bởi vậy đến tháng ba năm
canh thân (1860) quân Pháp đốt cả dinh trại ở Trà Sơn rồi xuống tàu. Về đến Gia
Định, thiếu tướng Page để hải quân đại tá d'Ariès ở lại giữ Gia Định, còn bao
nhiêu binh thuyền đem lên phía bắc hội với binh thuyền của nước Anh để đánh
nước Tàu.
Triều đình ở Huế thấy quân Pháp bỏ
Đà nẵng đi, bèn sai Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển vào Nam Kỳ, để cùng với
ông Tôn Thất Hợp sung Gia Định quân thứ.
Đến tháng 7 năm canh thân (1860) ông
Nguyễn Tri Phương khởi hành. Lúc gần đi, ông ấy có tâu bày mấy lẽ về việc giữ
nước và nói rằng việc đánh nhau với nước Pháp bây giờ khó gắp năm gấp bảy lúc
trước,
158
Chỗ này sách tây có quyển chép rằng
khi hai bên đang bàn việc hòa, thì vua Tự Đức sai ông Nguyễn Tri Phương đánh
quân Pháp ở Gia Định. Vả xem sử ta lúc bấy giờ thì ông Nguyễn Tri Phương đang
còn ở Quảng Nam mãI đến tháng 5 năm canh thân (1860), ông ấy mới vào Nam Kỳ.
Vậy việc đánh ở Gia Định là ông Tôn Thất Hợp, chứ không phải là ông Nguyễn Tri
Phương. nhưng ông ấy xin cố hết sức để đền ơn nước, còn ở mặt Quảng Nam mà có
việc gì, thì ông Phan Thanh Giản và ông Nguyễn Bá Nghi có thể cáng đáng được.
Quân Pháp và quân I Pha Nho ở Sài
gòn lúc bấy giờ chỉ có độ 1.000 người mà quân của Việt Nam ta thì có đến hơn
một vạn người. Nhưng mà quân ta đã không luyện tập, lại không có súng ống như
quân Tây. Mình chỉ có mấy khẩu súng cổ, bắn bằng đá lửa, đi xa độ 250 hay là
300 thước tây là cùng; còn súng đại bác thì toàn là súng nạp tiền mà bắn mười
phát không đậu một. Lấy những quân lính ấy, những khí giới ấy mà đối địch với
quân đã lập theo lối mới, thì đánh làm sao được. Bởi vậy cho nên xem trận đồ
của Việt Nam ta từ đầu cho đến cuối, chỉ có cách đào hầm đào hố để làm thế thủ,
chứ không bao giờ có thế công, mà người Tây thì lợi cả công lẫn thủ. Tuy vậy
ông Nguyễn Tri Phương cùng với quan tham tán đại thần Phạm Thế Hiển vào xếp đặt
ở Gia Định một cách rất có quy cũ, đắp dãy đồn Kỳ Hòa (người Pháp gọi là dãy
đồn Chí Hóa) cũng hợp quy thức, để chống nhau với quân của đại tá d'Ariès. Hai
bên đã từng đánh nhau hai ba trận, đều bị thiệt hại cả.
Đến tháng 9 năm canh thân (1860),
thì nhà Thanh bên Tàu ký tờ hòa ước với nước Anh và nước Pháp, hai bên bãi sự
chiến tranh. Chính phủ nước Pháp sai hải quân trung tướng Charner đem binh
thuyền về chủ trương việc lấy Nam Kỳ.
Tháng giêng năm tân dậu (1861) trung
tướng Charner đem cả thảy 70 chiếc tàu và 3.500 quân bộ về đến Gia Định 159 .
Được 20 ngày thì trung tướng truyền lệnh tiến quân lên đánh lấy đồn Kỳ Hòa. Hai
bên đánh nhau rất dữ trong hai ngày. Quân Pháp chết hơn 300 người, nhưng mà
súng Tây bắn hăng quá, quân ta địch không nổi, phải thu bỏ đồn chạy về Biên
Hòa.
Trận ấy bên Tây thì có lục quân
thiếu tướng Vassoigne, đại tá I Pha Nho Palanca và mấy người nữa bị thương, mà
bên ta thì ông Nguyễn Tri Phương bị thương, em ngài là Nguyễn Duy tử trận, quan
tham tán là Phạm Thế Hiển về đến Biên Hòa được mấy hôm thì mất, còn quân sĩ thì
chết hại rất nhiều.
3. Mất Tỉnh Định Tường.
Phá được đồn Kỳ Hòa rồi, trung tướng
Charner truyền cho quân thủy bộ tiến lên đuổi đánh, quan quân vỡ tan cả.
159
Sử ta chép rằng quân Pháp lúc bấy
giờ có hơn 1 vạn người, mà các sách chép việc lấy Nam Kỳ thì chỉ nói có 3.500
người thôi và trong số ấy lại có mấy đội lính mộ An Nam nữa. Thiết tưởng số
3.500 có lẽ thật hơn. 204 Tàu thủy của Pháp lên lấy Thủ Dầu
Một và Tây Ninh. Trung tướng lại sai người đưa thư sang cho vua Cao Miên là
Norodom (Nặc Ông Lân), đại lược nói rằng: chủ ý của Pháp định lấy đất Gia Định
làm thuộc địa, và nay mai sẽ đánh lấy Mỹ Tho (Định Tường) để cho tiện đường lưu
thông với nước Cao Miên.
Bấy giờ bại quân của Nguyễn Tri
Phương rút về đóng ở Biên Hòa, còn đang rối loạn, chưa dám làm gì, quân Pháp
bèn quay về phía tây đánh tỉnh Định Tường. Trước trung tướng đã cho tàu đi dò
các ngọn sông xem đi đường nào tiện, đến cuối tháng 2 năm tân dậu (1861), một
mặt trung tướng sai trung tá Bourdais đem tàu đi đường sông, tiến lên đánh các
đồn, một mặt thì sai thiếu tướng Page đi đường bể, theo cửa sông Mê-kong vào,
hai mặt cùng tiến lên đánh lấy thành Mỹ tho. Quan hộ đốc là Nguyễn Công Nhàn
phải bỏ thành chạy.
Từ khi hạ xong thành Mỹ Tho rồi,
trung tướng đặt đồn lũy ở các nơi hiểm yếu, và có ý hoãn việc binh để sửa sang
việc cai trị trong địa hạt đã lấy được, cho nên cũng không đánh các tỉnh khác.
Triều đình ở Huế được tin quan quân
thất thủ đại đồn Kỳ Hòa, và thành Mỹ Tho cũng thất thủ rồi, sai quan thượng thư
Hộ bộ là Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần vào kinh lý việc Nam kỳ. Nguyễn
Bá Nghi biết thế chống không nổi với quân Pháp, dâng sớ về xin giảng hòa. Nhưng
ở trong triều lúc bấy giờ có bọn Trương Đăng Quế không chịu, bắt phải tìm kế
chống giữ.
Có nhà chép sử trách Nguyễn Bá Nghi
rằng tuy ông ấy muốn giảng hòa, nhưng không chịu nhường đất, cứ lấy lý mà cãi,
chứ không biết rằng thời buổi cạnh tranh này, hễ cái sức đã không đủ, thì không
có cái lý gì là phải cả. Vả chăng quân nước Pháp đã sang đánh lấy mấy tỉnh ở
Nam Kỳ, là cốt để làm thuộc địa, lẽ nào tự nhiên lại đem trả lại. Bởi vậy sự
giảng hòa cứ lôi thôi mãi không xong. Mà ở trong địa hạt tỉnh Gia Định và tỉnh
Định Tường lúc ấy lại có mấy người như tri huyện Toại, phó quản cơ Trương Định,
Thiên hộ Dương rủ những người nghĩa dũng nổi lên đánh phá quân Pháp. Quân Pháp
cứ đánh dẹp mãi dân tình cũng bị lắm điều cực khổ.
Đến tháng 10 năm tân dậu (1861),
chính phủ Pháp sai hải quân thiếu tướng Bonard sang thay cho trung tướng
Charner về nghỉ.
4. Mất Tỉnh Biên Hòa và Tỉnh Vĩnh
Long.
Thiếu tướng Bonard thấy quan quân ta
cứ chống giữ mãi, bèn quyết ý đánh lấy tỉnh Biên Hòa và tỉnh Vĩnh Long. Đến
tháng 11 năm ấy, thì quân Pháp chia ra làm 3 đạo, cùng tiến lên đánh lấy thành
Biên Hòa, rồi lại tiến lên mặt đông nam đánh lấy đồn Bà Rịa. Qua tháng 3 năm
sau là năm nhâm tuất (1862), thiếu tướng Bonard lại đem 11 chiếc tàu và hơn
1.000 quân đi đánh Vĩnh Long. Tỉnh thần ở đấy chống giữ được 2 ngày thì thành
phá. Tổng đốc Trương Văn Uyển phải đem quân lui về phía tây sông Mê-kong.
5. Hòa Ước Năm Nhâm Tuất (1862).
Lúc bấy giờ ở ngoài Bắc Kỳ có tên
Phụng, tên Trường, đánh phá ở mặt Quảng Yên và Hải Dương ngặt lắm, lại có
Nguyễn Văn Thịnh, tục gọi là Cai Tổng Vàng, quấy nhiễu ở Bắc Ninh, mà trong Nam
Kỳ thì lại mất thêm hai tỉnh nữa. Triều đình lấy làm lo sợ lắm, bèn sai Phan
Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định giảng hòa.
Đến tháng 4 thì sứ thần nước ta theo
chiếc tàu Forbin 160
vào Sài gòn. Đến hôm 9 tháng 5 thì
thiếu tướng Bonard và sứ thần nước Nam ta là ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy
Tiếp ký tờ hòa ước.
Tờ hòa ước ấy có 12 khoản, nhưng cốt
có những khoản sau này là quan trọng hơn cả: 1. Nước Nam phải để cho giáo sĩ
nước Pháp và nước I Pha Nho được tự do vào giảng đạo, và để dân gian được tự do
theo Đạo. 2. Nước Nam phải nhường đứt cho nước Pháp tỉnh Biên Hòa, tỉnh Gia
Định và tỉnh Định Tường, và phải để cho chiến thuyền của Pháp được ra vào tự do
ở sông Mékong. 3. Nước Nam không được đem binh khí, thuốc đạn đi qua những tỉnh
đã nhường cho nước Pháp. 4. Hễ nước Nam có giao thiệp với nước nào khác thì
phải cho chính phủ Pháp biết, và khi nào muốn nhường đất cho nước nào, thì phải
tùy ý nước Pháp có thuận cho mới được. 5. Người nước Pháp và nước I Pha Nho
được ra vào buôn bán tự do ở cửa Đà Nẵng, cửa Ba Lạt và cửa bể ở Quảng Yên. 6.
Nước Nam phải trả tiền binh phí 4.000.000 nguyên, chia làm mười năm, mỗi năm 40
vạn nguyên. 7. Nước Pháp trả tỉnh Vĩnh Long lại cho nước Nam, nhưng quân Pháp
cứ đóng ở tỉnh lỵ cho đến khi dẹp yên giặc giã ở tỉnh Gia Định và tỉnh Định
Tường thì mới rút về.
160
Nguyên trước thiếu tướng Bonard có
sai trung tá Simon đem chiếc tàu Forbin vào cửa Thuận An để đợi xem triều đình
ở Huế có xin hòa không. Nay chiếc tàu ấy đem thuyền của sứ thần Việt Nam ta về
Gia Định. 205 Sự giảng hòa xong rồi thì triều đình sai ông
Phan Thanh Giản làm tổng đốc Vĩnh Long, ông Lâm Duy Tiếp làm tuần phủ Khánh
Thuận, để giao thiệp với quan nước Pháp ở Gia Định.
Bấy giờ nước I Pha Nho cũng nhường
quyền lấy đất làm thuộc địa cho nước Pháp, chỉ nhận tiền binh phí và quyền được
cho giáo sĩ đi giảng đạo thôi.
Tháng 2 năm quý hợi (1863) là năm Tự
Đức thứ 16, thiếu tướng Bonard và đại tá nước I Pha Nho là Palanca vào Huế
triều yết vua Dực Tông để công nhận sự giảng hòa của ba nước. Đoạn rồi thiếu
tướng Bonard về Pháp nghĩ. Hải quân thiếu tướng De la Grandière sang thay.
6. Sứ Việt Nam Sang Tây.
Vua Dực Tông tuy thế bất đắc dĩ phải
nhường đất ba tỉnh Nam Kỳ cho nước Pháp, nhưng trong bụng vẫn muốn cố hết sức
để chuộc lại, vì là đất Gia Định là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn và lại là
đất quê ngoại của ngài, nên chi hòa ước đã ký rồi, mà ngài vẫ sai quan thương
nghị với quan nước Pháp về việc ấy. Mà chủ ý người nước Pháp lúc bấy giờ thì
không những là chỉ giữ lấy ba tỉnh mà thôi, lại còn định mở rộng thêm ra nữa.
Vậy lẽ nào lại đem trả lại cho mình?
Vua Dực Tông thấy việc bên này bàn
không xong, bèn sai quan hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản, quan tả tham tri
lại bộ Phạm Phú Thứ và quan án sát sứ tỉnh Quảng Nam là Ngụy Khắc Đản đem phẩm
vật sang sứ nước Pháp và I Pha Nho. Còn việc giao thiệp ở trong Nam Kỳ thì giao
lại cho quan tổng đốc tỉnh Vĩnh Long là Trương Văn Uyển.
Tháng 6, các sứ thần xuống tàu
"Echo" vào Gia Định, rồi sang tàu "Européen" cùng với quan
nước Pháp và quan nước I Pha Nho sang Tây. Đến tháng 8 thì tàu
"Européen" về tới nước Pháp, sứ thần nước ta lên Paris, xin vào triều
yết Pháp Hoàng Nã Phá Luân đệ tam. Nhưng bấy giờ Pháp Hoàng sắp đi ngự mát, sứ
thần ta phải ở lại chờ đến hơn một tháng mới được yết kiến. Ông Phan Thanh Giản
tây bày mọi lẽ về việc xin chuộc ba tỉnh Nam Kỳ. Pháp Hoàng ban rằng việc đó để
đình nghị xem thế nào rồi sau sẽ trả lời cho Triều Đình Huế.
Mấy hôm sau, bọn ông Phan Thanh Giản
đi sang I Pha Nho, rồi đến cuối năm thì các sứ thần xuống tàu "Japon"
trở về.
7. Việc Bảo Hộ Cao Miên.
Trong khi sứ nước ta sang Tây lo
việc chuộc lại mấy tỉnh ở Nam Kỳ, thì ở bên này thiếu tướng De La Grandière một
mặt cứ đánh dẹp mọi nơi, xếp đặt cách cai trị, định thuế lệ và mở trường dạy
chữ Pháp và chữ quốc ngữ 161 , một mặt sai quan đi kinh doanh việc bảo hộ nước
Cao Miên (Chân Lạp).
Nguyền từ năm kỷ mùi (1859), vua
nước Cao Miên là An Dương (tức là Nặc Ông Tôn) mất rồi, người con trưởng tên là
Norodom (Ông Lân) lên nối ngôi. Đến năm tân dậu (1861), thì người em Norodom là
Si-Vattha nổi lên tranh ngôi của anh. Norodom phải chạy sang Tiêm La. Sang năm
nhâm tuất (1862) vua Tiêm La sai quân đem Norodom về nước, rồi đặt quan ở Ô-
đông để bảo hộ Cao Miên.
Lúc bấy giờ ở Cao Miên có ông giám
mục tên là Miche khuyên vua Norodom về với nước Pháp thì Tiêm La không dám bắt
nạt. Bên này thiếu tướng De La Grandière cũng sai đại úy Doudart de Lagrée sang
kinh doanh việc bảo hộ Cao Miên. Ông Doudart de Lagrée sang Cao Miên trong một
năm trời thu xếp mọi việc, đến năm giáp tí (1864) thì nước Tiêm La phải rút
quân về, nhường quyền bảo hộ cho nước Pháp.
8. Nước Pháp Lấy Ba Tỉnh Phía Tây
Đất Nam Kỳ.
Ở bên Pháp lúc bấy giờ chính phủ
cũng còn phân vân, chưa quyết hẳn lấy hay là trả đất Nam Kỳ, mà Pháp Hoàng thì
thấy đường xá xa xôi cũng ngại, bèn sai hải quân trung tá Aubaret (Ha-ba-lý)
sang điều đình với Triều đình ở Huế về việc cho chuộc ba tỉnh Nam Kỳ.
Vua Dực Tông lại sai quan Lại Bộ
thượng thư là ông Phan Thanh Giản ra sung chức toàn quyền cùng với Trần Tiễn
Thành và Phan Huy Vịnh để thương nghị với sứ thần nước Pháp.
Ông Aubaret đưa bản thảo tờ hòa ước,
đại lược nói rằng: Nước Pháp trả lại ba tỉnh Gia Định, Biên Hòa và Định Tường
cho nước Nam, chỉ giữ Sàigòn, Mỹ Tho và Thủ Dầu Một để đóng quân. Nhưng nước
Nam phải để nước Pháp được quyền bảo hộ cả 6 tỉnh Nam Kỳ. Nước Nam lại phải
chịu mỗi năm là 2.000.000 nguyên tiền thuế.
161
Nguyên người nuớc ta tự xưa tuy có
tiếng nói riêng mà không có chữ viết. Học hành, văn chương, án từ, việc gì cũng
làm bằng Hán tự cả. Từ đời nhà Trần về sau đã có người dùng Hán Tự mà đặt ra
chữ Nôm để viết tiếng Quốc Ngữ. Nhưng mà những nhà văn học không hay dùng đến
chữ nôm. Đến cuối đời nhà Lê có các giáo sĩ Bồ Đào Nha sang giảng đạo ở nước
ta, thấy hán tự khó học và không mấy người hiểu, mới mượn chữ La Tinh mà đặt ra
chữ quốc ngữ, để cho tiện sự giảng dạy. Ngày nay ta cũng nhờ có chữ quốc ngữ ấy
mà làm thành ra nước ta có một lối chữ riêng rất tiện. 206
Sứ hai nước cứ bàn đi bàn lại mãi
không xon, mà ở bên Pháp thì có nhiều người không muốn trả lại đất Nam Kỳ. Cuối
năm giáp tí (1864) quan thượng thư Hải quân bộ là hầu tước De Chasseloup Laubat
dâng sớ tâu với Pháp Hoàng nhất định xin không cho nước Nam chuộc ba tỉnh. Pháp
Hoàng nghe lời ấy bèn xuống chỉ truyền cứ chiếu tờ hòa ước năm nhâm tuất (1862)
mà thi hành.
Năm ất sửu (1865), quan thượng thư
De Chasseloup Laubat muốn biết rõ tình thế bên Việt Nam này, bèn gọi thiếu
tướng De La Grandière về hội nghị và sai hải quân thiếu tướng Roze sang thay.
Thiếu tướng De la Grandière về Pháp cả đi lẫn về mất 7 tháng, lại trở sang kinh
lý việc Nam Kỳ.
Lúc bấy giờ ở ba tỉnh của Pháp đã
thành nếp rồi, thiếu tướng De la Grandière ở Pháp sang đã quyết ý lấy nốt ba
tỉnh phía tây. Lại nhân từ khi trước nước Pháp sang lấy Nam Kỳ, người bản xứ
thỉnh thoảng vẫn nổi lên đánh phá, quân Pháp dẹp mãi không yên. Ở Cao Miên lại
có tên sư Pu kầm Bô xưng là cháu Nặc Ông Chân cũng nổi lên đánh vua Norodom.
Súy phủ ở Sài gòn đổ cho quan Việt Nam xui giục và giúp đỡ những người làm
loạn, bèn sửa soạn việc lấy tỉnh Vĩnh Long, tỉnh An Giang và tỉnh Hà Tiên.
Ở Huế tuy triều đình còn cứ mong
chuộc lại đất ba tỉnh, nhưng vẫn biết ý súy phủ ở Sài gòn rồi tất lấy cả ba
tỉnh phía tây, cho nên năm bính dần (1866), lại sai ông Phan Thanh Giản vào làm
kinh lược sứ để tìm kế chống giữ.
Ở bên Pháp, thì từ năm đinh mão
(1867), hải quân trung tướng Rigault de Genouilly lên làm thượng thư hải quân
bộ 162
ra sức giúp thiếu tướng De la
Grandière cho xong việc. Bởi vậy súy phủ ở Sài gòn chỉ đợi dịp để khởi sự.
Tháng 6 năm đinh mão (1867) là năm
Tự Đức thứ 20, thiếu tướng De la Grandière hội hơn 1.000 quân ở Mỹ Tho, rồi
định ngày kéo sang lấy Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ông Phan Thanh Giản biết
thế không chống nổi, bảo các quan đành chịu nộp thành trì cho khỏi sự tai hại,
rồi ông uống thuốc độc mà tự tận, dặn lại con cái phải cày ruộng mà ăn, chứ
không được nhận quan chức gì ở Nam Kỳ.
Bấy giờ ông đã già, đã ngoài 74
tuổi, làm quan thật là thanh liêm, nhưng chẳng may gặp phải khi nước có biến,
biết thế mình không làm gì
162
Lúc bấy giờ Hải quân bộ kiêm cả
Thuộc địa bộ được, đem tấm lòng son sắt mà báo đền ơn nước cho hết bổn phận
người làm tôi.
Từ đó đất Nam kỳ toàn cảnh thành ra
đất thuộc địa của Pháp, thuế má, luật lệ, điều gì cũng do súy phủ ở Sài gòn
quyết định cả.
CHƯƠNG VIII
Giặc giã ở trong nước
1. Việc rối-loạn trong
nước
2. Giặc Tam-đường
3. Giặc châu-chấu
4. Giặc tên Phụng
5. Sự phản-nghịch ở
Kinh-thành
6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ
1. Việc rối-loạn trong nước.
Vua Dực-tông vốn là ông
vua có lòng chăm-chỉ về việc trị dân, ngay từ năm canh-tuất (1850), là năm
Tự-đức thứ 3, ngài đã sai ông Nguyễn Tri Phương làm Kinh-lược đại-sứ 6 tỉnh
Nam- kỳ; ông Phan Thanh Giản làm Kinh-lược đại-sứ Bình-định, Phú-yên, Khánh-
hòa và Bình-thuận; Ông Nguyễn Đăng Giai làm Kinh-lược đại-sứ Hà tĩnh, Nghệ An
và Thanh-hóa. Các ông ấy đi khám-xét công việc các quan-lại và sự làm ăn của
dân gian, có điều gì hay dở phải sớ tâu về cho vua biết.
Tuy vậy mặc lòng, không
có đời nào lắm giặc giã bằng đời ngài làm vua. Chỉ được vài ba năm đầu thì còn
có hơi yên trị, còn từ năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 trở đi, thì càng
ngày càng nhiều giặc. Mà nhất là đất Bắc-kỳ là có nhiều giặc hơn cả, bởi vì đất
Bắc-kỳ là đất của nhà Lê cũ, dân tình cũng có nhiều người tưởng nhớ đến tiền
triều, nên chỉ những người muốn làm loạn, hoặc tự nhận là giòng dõi nhà Lê,
hoặc tìm một người nào giả nhận dòng dõi nhà Lê, rồi tôn lên làm minh chủ để
lấy cớ mà khởi sự.
Lại nhân lúc bấy giờ bên
Tàu có giặc Thái-bình nổi lên đánh nhà Thanh, đến khi giặc ấy tan thì dư đảng
chạy tràn sang nước ta cướp phá ở mạn thượng du. Nào giặc khách, nào giặc ta,
quan quân cứ phải đi đánh dẹp luôn. ở trong nước thì thỉnh thoảng lại có tai
biến, như nước lụt, đê vỡ, v. v. Ở Hưng-yên, đê Văn-giang vỡ 18 năm liền, cả
huyện Văn-giang thành bãi cát bỏ hoang, dân gian đói khổ, nghề nghiệp không có,
cho nên người đi làm giặc càng ngày càng nhiều vậy.
2. Giặc Tam-đường.
Năm Tân hợi (1851) là
năm Tự Đức thứ 4, có giặc khách là bọn Quảng nghĩa Đường, Lục thắng Đường, Đức
thắng đường, v. v... tục gọi là giặc Tam-đường, quấy nhiễu ở mặt Thái-nguyên,
vua sai ông Nguyễn đăng Giai ra kinh lược Bắc-kỳ. Ông ấy dùng cách khôn khéo dụ
được chúng nó về hàng. Bởi vậy trong hạt lại được yên một độ. Nhưng đến cuối
năm giáp dần (1854) là năm Tự Đức thứ 7, Nguyễn đăng Giai mất, đất Bắc-kỳ lại
có loạn.
3. Giặc châu-chấu.
Năm Tự Đức thứ 7 (1854),
ở tỉnh Sơn-tây có một bọn người đem Lê duy Cự là dòng dõi nhà Lê ra lập lên làm
minh chủ để khởi sự đánh nhà Nguyễn. Lúc bấy giờ có Cao bá Quát, người làng
Phú- thụy, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh, thi đỗ cử nhân, ra làm quan, được bổ
chức giáo-thụ phủ Quốc-oai (Sơn tây). Cao bá Quát có tiếng là người văn- học
giỏi ở Bắc-kỳ, mà cứ bị quan trên đè nén, cho nên bức chí, bỏ quan về đi dạy
học, rồi theo bọn ấy xưng là quốc sư để dấy loạn ở vùng Sơn-tây và Hà-nội.
Tháng chạp năm ấy quan phó Lĩnh-binh tỉnh Sơn-tây là Lê Thuận đi đánh bắt được
Cao bá Quát đem về chém tại làng.
Nhân vì mùa tháng năm ấy
ở vùng tỉnh Bắc-ninh và Sơn-tây có nhiều châu-chấu ra phá hại mất cả mùa màng,
rồi đến cuối năm lại có giặc ấy, cho nên người thời bấy giờ gọi là giặc
châu-chấu.
Cao bá Quát chết đi rồi,
Lê duy Cự còn quấy rối đến mấy năm sau mới dẹp yên được. Từ đó trở đi, không
năm nào là năm không có giặc, nhưng kiệt-hiệt hơn cả là có giặc tên Phụng và
giặc Khách ở mạn Thượng- du.
4. Giặc tên Phụng.
Năm tân dậu (1861), quân
nước Pháp và nước I- pha-nho sang đánh Quảng-nam, có mấy người ở Bắc-kỳ theo
vào làm lính mộ. Trong ấy có tên Tạ văn Phụng, trước đã theo giáo-sĩ ra
ngoại-quốc đi học đạo, sau lại theo trung tướng Charner về đánh Quảng-nam.
Đến tháng chạp thì tên
Phụng ra Bắc-kỳ, mạo xưng là Lê duy Minh dòng dõi nhà Lê, rồi tự xưng là
minh-chủ, cùng với một người đạo-trưởng tên là Trường làm mưu-chủ, và tên Ước,
tên Độ dấy binh ở Quảng-yên. Đảng tên Phụng đem quân giặc Khách ở ngoài bể vào
đánh lấy phủ Hải- ninh, rồi lại thông với giặc Khách và giặc ta ở các tỉnh, để
làm loạn ở Bắc-Kỳ.
Tháng ba năm nhâm-tuất
(1862), ở Bắc-ninh có tên cai-tổng Nguyễn văn Thịnh (tục gọi là cai tổng Vàng)
xưng làm nguyên-súy, lập tên Uẩn mạo xưng là con cháu nhà Lê, lên làm minh-chủ,
rồi nhập đảng với tên Phụng, đem binh đi đánh phủ Lạng-giang, huyện Yên-dũng,
và vây thành Bắc-ninh.
Bấy giờ quan bố chính ở
Hà-nội là Nguyễn khắc Thuật, quan bố- chính tỉnh Sơn-tây là Lê Dụ và quan phó
lĩnh-binh tỉnh Hưng-yên là Vũ Tảo đem quân ba tỉnh về đánh giải vây cho tỉnh
Bắc. Vũ Tảo đánh nhau với quân giặc hơn 10 trận mới phá được quân giặc.
Phía đông thì tên Phụng
vây thành Hải-dương, tỉnh-thần dâng sớ cáo-cấp. Triều đình bèn sai quan
Thượng-thư bộ Hình là Trương quốc Dụng ra làm tổng-thống Hải-an 163 quân-vụ,
cùng với Phan tam Tỉnh, Đặng Hạnh, Lê Xuân, đem quân Kinh và quân Than, Nghệ ra
tiến-tiễu. Lại sai Đào Trí làm tham-tán đại-thần, Nguyễn bá Nghi làm
Sơn-Hưng-Tuyên 164 tổng-đốc, để cùng với Trương quốc Dụng
đánh giặc ở Bắc-kỳ.
Lúc ấy, tỉnh Thái Nguyên
thì có giặc Nông và giặc Khách đánh phá, tỉnh Tuyên Quang thì có bọn tên Uẩn,
tên Nông hùng Thạc quấy nhiễu, tỉnh Cao-bằng thì bị tên Giặc Khách Lý hợp Thắng
vây đánh, tỉnh Bắc-ninh thì có cai tổng Vàng cướp phá, các quan to la rối cả
lên. Vua Dực-tông sai Nguyễn tri Phương ra làm tây-bắc-tổng-thống quân-vụ
đại-thần, cùng với Phan đình Tuyển và Tôn thất Tuệ ra đánh mặt Bắc-ninh,
Thái-nguyên và Tuyên-quang.
Tháng 3 năm quí-hợi
(1863) Vũ Tảo đánh lấy lại thành Tuyên-quang và bắt được tên Uẩn đóng củi giải
về trị tội. Qua tháng 4, Nguyễn tri Phương dẹp xong giặc ở Bắc-ninh, rồi đem
binh lấy lại thành Thái-nguyên, bắt được tên Thanh, tên Đắc, tên Vân và lại phá
được sào huyệt của giặc ở núi Ma-hiên, thuộc châu Bạch-thông.
Còn ở mặt Hải-dương và
Quảng-yên, thì tuy Trương quốc Dụng và Đào Trí đã giải được vây cho thành
hải-dương, nhưng thế quân giặc ở mặt bể còn mạnh lắm. Vua Dực-tông lại sai
Nguyễn tri Phương làm tổng-thống hải-an quân-vụ, Trương quốc Dụng làm
hiệp-thống đem quân ra đánh mặt ấy.
Lúc bấy giờ bọn tên
Phụng có sai người vào cầu viện quan thiếu- tướng Bonard ở trong Nam-kỳ, ước hễ
lấy được Bắc-kỳ thì xin để nước Pháp bảo-hộ. Nhưng vì trong Nam-kỳ còn lắm
việc, mà sự giảng hòa với Triều- đình ở Huế đã sắp xong, cho nên thiếu-tướng
không nhận. Đảng tên Phụng vẫn chiếm giữ đất Quảng-yên và những đảo ở ngoài bể,
để làm sào huyệt,
Cuối năm quí-hợi (1863)
là năm Tự-đức thứ 16, quân giặc họp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo Các-bà và ở núi
Đồ-sơn, có ý muốn đem quân vào đánh đất Kinh-kỳ, nhưng chẳng may phải bão,
thuyền đắm mất nhiều. Quan đề-đốc là Lê quang Tiến và quan bộ-phủ Bùi huy Phan
được tin ấy liền đem quân ra đánh, bị quân giặc tập hậu, quan quân bỏ chạy. Lê
quang Tiến và Bùi huy Phan phải nhảy xuống biển tự tận.
Đến tháng 6 năm giáp-tí
(1864) là năm Tự-đức thứ 17, quan hiệp- thống Trương quốc Dụng, quan tán-lý Văn
đức Khuê, quan tán-tương Trần huy Sách và quan chưởng-vệ Hồ Thiện đánh nhau với
giặc ở đất Quảng-yên, bị giặc giết cả. Trận ấy quan quân thua to, quân-sĩ thiệt
hại rất nhiều.
Tháng 4 năm ất-sửu
(1865), quân giặc đem 300 chiếc thuyền phân ra làm 3 đạo vào cướp ở mạn
Hải-dương. Nguyễn tri Phương sai Nguyễn văn VĨ đem quân ra đón đánh, bắt và
chém được rất nhiều. Từ đó quan đề-đốc Mai Thiện quan tán-lý Đặng trần Chuyên,
quan đốc-binh Ông ích Khiêm phá được quân giặc hơn 10 trận, quân giặc lui về
giữ mặt Hải-ninh.
Tháng 7 năm ấy, Nguyễn
tri Phương sai Đặng trần Chuyên, Ông ích Khiêm đem binh ra Quảng-yên, ước với
quan nhà Thanh ở Khâm-châu để đánh lấy lại thành Hải-ninh. Quân giặc thua to,
đem hơn 70 chiếc thuyền chạy ra bể. Quan quân đem binh thuyền ra đuổi đánh, tên
Phụng, tên Ước thì chạy vào mạn Quảng-bình, Quảng-trị, còn những đồ đảng, đứa
thì phải bắt, đưa thì chạy trốn được. Sau tên Phụng, tên Ước cũng bị bắt đem về
trị tội ở Huế.
Giặc Phụng khởi từ cuối
năm tân-dậu (1861) đến cuối năm ất-sửu (1865) mới dẹp xong, kể vừa 4 năm trời,
nhà nước tổn hại rất nhiều. Khi giặc Phụng ở Quảng-yên dẹp gần xong, thì ở mạn
Cao-bằng đã có giặc Khách đánh lấy tỉnh-thành. Quan kinh-lược Võ trọng Bình và
quan tuần-phủ Phạm chi Hương đem binh lên Lạng-sơn rồi chia quân đi đánh các
nơi, từ tháng 9 năm ất-sửu (1865) cho đến tháng 3 năm bính-dần (1866), thì
tướng giặc là Trương cận Bang mới xin về hàng, và mới thu phục lại được thành
Cao-bằng.
Nguyễn tri Phương và Võ
trọng Bình về Kinh coi việc triều-chính.
5. Sự phản-nghịch ở
Kinh-thành.
Việc ngoài Bắc mới hơi
nguôi-nguôi, thì Kinh-đô lại có việc làm cho náo động lòng người.
Nguyên vua Dực-tông là
con thứ mà được nối ngôi, là vì người anh ngài là Hồng Bảo phóng đãng, không
chịu học hành cho nên không được lập. Ông ấy lấy điều đó làm tức giận, bèn
đồ-mưu với một nước ngoại quốc để tranh ngôi vua. Chẳng may sự lộ ra, ông ấy
phải bỏ ngục, rồi uống thuốc độc mà chết. Còn con ông thì được tha mà phải đổi
tên là Đinh Đạo
Đến năm bính dần (1866)
là năm Tự-đức thứ 19, nhà vua đang xây Vạn-niên-cơ tức là Khiêm-lăng bây giờ,
quân-sĩ phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Bấy giờ ở Kinh có Đoàn
Trưng cùng vơi em là Đoàn hữu Ái, Đoàn tư Trực, và bọn Trương trọng Hòa, Phạm
Lương kết làm " Sơn- đông-thi-tửu-hộ" để mưu việc lập Đinh Đạo lên
làm vua. Bọn tên Trưng mới chiêu dụ những lính làm làm ở Vạn-niên-cơ và cùng
với qua hữu-quân Tôn thất Cúc làm nội ứng, định ngày khởi sự.
Đến đêm hôm mồng 8 tháng
8, bọn tên Trưng đem quân vào cửa tả-dịch, chực xông vào điện giết vua
Dực-tông. May nhờ có quan chưởng-vệ là Hồ Oai đóng được cửa điện lại, hô quân
bắt được tên Trưng, tên Trực và cả bọn đồng đảng.
Đinh Đạo phải tội giảo,
Tôn thất Cúc thì tự vẫn chết, còn các quan có trách nhiệm đều phải chiếu tội
nặng nhẹ, hoặc phải cách.
Lúc ấy ngoài thì có giặc
cướp phá, trong thì có nghịch-thần làm loạn. Ở mặt Quảng-nghĩa lại có giặc mọi
Đá-vách cứ hay xuống quấy nhiễu dân- gian, may nhờ có quan tiểu-phủ Nguyễn Tấn
ra sức đánh dẹp mới yên được. Việc giao thiệp với nước Pháp càng ngày càng khó.
Ở Bắc-kỳ thì có giặc Khách một ngày một mạnh, đến nỗi quan quân đánh không
được, phải nhờ quân Tàu sang dẹp hộ. Triều-đình cũng bối rối không biết tính ra
thế nào cho khỏi được sự biến loạn.
6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ.
Bên Tàu lúc bấy giờ cũng
loạn: ngoài thì đánh nhau với nước Anh-cát-lợi và nước Pháp-lan-tây. Triều đình
phải bỏ Kinh-đô mà chạy; trong thì có giặc Thái-bình nổi lên đánh phá, tí nữa
ngôi vua nhà Thanh cũng đổ nát.
Nguyên từ năm Đạo-quang
thứ 29, là năm kỷ-dậu (1849), tức là bên ta năm Tự-đức thứ 2, ở Quảng-tây có
tên Hồng tú Toàn cùng với bọn Dương tú Thanh, Tiêu triều Quí, Lý tú Thành, nổi
lên xưng là Thái-bình thiên-quốc, rồi chiếm cứ đất Kim-lăng và các tỉnh phía
nam sông Trường-giang. May nhờ có bọn Tăng quốc Phiên, Tả tôn Đường, Lý hồng
Chương, hết sức đánh dẹp, và lại có thế lực ngoại quốc tư giúp, cho đến năm
Đồng-trị thứ hai là năm quí-hợi (1863) tức là bên ta năm Tự-đức thứ 16, quan
nhà Thanh mới bắt được các tướng Thái-bình, Hồng tú Toàn phải uống thuốc độc tự
tử, triều đình nhà Thanh lại thu phục được các tỉnh phía nam nước Tàu.
Lúc ấy có dư đảng của
Hồng tú Toàn là bọn Ngô Côn chạy tràn sang nước ta, trước còn nói xin hàng, rồi
sau đem quân đi cướp phá các tỉnh, quan quân đánh mãi không được. Năm mậu-thìn
(1868) là năm Tự-đức thứ 21, Ngô Côn chiếm giữ tỉnh thành Cao-bằng. Triều-đình
sai quan tổng-đốc Phạm chi Hương viết thư sang cho quan nhà Thanh để xin quân
Tàu sang tiểu-trừ. Nhà Thanh sai phó-tướng Tạ kế Quí đem quân sang cùng với
quan tiểu-phủ Ông ích Khiêm và quan đề-đốc Nguyễn viết Thành, đánh phá quân của
Ngô Côn ở Thất-khê. Nhưng đến tháng 7 năm ấy, quân ta đánh thua ở Lạng-sơn,
quan tham-tán Nguyễn Lệ, quan phó đề-đốc Nguyễn viết Thành tử trận, quan
thống-đốc Phạm chi Hương bị bắt.
Triều-đình sai Võ trọng
Bình ra làm Hà-ninh tổng-đốc kiêm chức Tuyên-Thái-Lạng quân-thứ khâm-sai
đại-thần, để hội với quan đề-đốc tỉnh Quảng-tây là Phùng tử Tài mà đánh giặc
Ngô Côn.
Quân hai nước cùng đồng
sức đánh dẹp, đến tháng 5 năm kỷ-tị (1869) thì mới khôi phục lại được
tỉnh-thành Cao-bằng. Đến cuối năm canh- ngọ (1870), Ngô Côn đem quân vây đánh
tỉnh-thành Bắc-ninh, quan tiểu- phủ Ông ích Khiêm đánh một trận bắn chết Ngô
Côn và phá tan quân giặc.
Ngô Côn tuy chết, song
còn có những đồ-đảng là Hoàng sùng Anh, hiệu cờ vàng, Lưu vĩnh Phúc, hiệu cờ
đen, Bàn văn Nhị, Lương văn Lợi, hiệu cờ trắng, vẫn cứ quấy-nhiễu ở mạn
Tuyên-quang, Thái-nguyên, quan quân phải hết sức chống giữ thật là vất vả.
Triều-đình sai quan trung-quân Đoàn Thọ ra làm tổng-thống quân-vụ ở Bắc-kỳ.
Đoàn Thọ vừa mới ra, kéo
quân lên đóng ở tỉnh-thành Lạng-sơn, bọn giặc Khách là Tô Tứ nổi lên, nửa đêm
vào lấy thành, bắt ông ấy giết đi, còn Võ trọng Bình thì vượt thành chạy thoát
được.
Tin ấy vào đến Huế,
Triều-đình vội vàng sai Hoàng kế Viêm 165 ra làm
Lạng-Bình-Ninh-Thái thống-đốc quân-vụ đại thần, cùng với quan tán-tương Tôn
thất Thuyết đi dẹp giặc ở Bắc-kỳ. Qua tháng tư năm sau (1871), nhà vua lại sai
quan Hình-bộ thượng-thư là Lê Tuấn làm chức Khâm-sai thị-sự để cùng với ông
Hoàng kế Viêm lo việc đánh dẹp.
Tháng 11 năm tân-mùi
(1871), ở Quảng-yên lại có tên Hoàng Tề nổi lên, thông với giặc Tô Tứ và giặc
Tàu-ô ở ngoài bể, rồi đem binh thuyền đi cướp phá các nơi. Hoàng kế Viêm giữ
mạn Sơn-tây, Lê Tuấn ra cùng với tỉnh thần Hải-dương đem quân đi đánh giặc Tề.
Được ít lâu, quân thứ-tỉnh Hải-dương bắn chết tên Tề ở huyện Thanh-lâm, dư-đảng
giặc ấy đều tan cả. Ở mạn thượng-du thì đảng cờ đen là bọn Lưu vĩnh Phúc và
đảng cờ vàng là bọn Hoàng sùng Anh quấy-nhiễu ở đất Tuyên-quang. Bao nhiêu thuế
má ở mạn ấy, chúng thu cả, sau hai đảng ấy lại thù-khích nhau, đánh phá nhau
thật là tàn-hại, đảng cờ đen về hàng với quan ta, nhà vua bèn dùng Lưu vĩnh
Phúc cho đất ở Lao-kay, được thu cả quyền lợi ở chỗ ấy, để chống giữ với đảng
cờ vàng, đóng ở mạn Hà-giang.
Đất Bắc-kỳ cứ giặc-giã
mãi, quan quân đánh-dẹp thật là tổn-hại mà không yên được. Đến tháng 7 năm
nhâm-thân (1872), Triều-đình lại sai Nguyễn tri Phương làm Tuyên-sát đổng-sức
đại-thần ra thay mặt vua xem- xét việc đánh giặc ở Bắc-kỳ. Nhưng lúc bấy giờ
việc giặc ở trong nước chưa xong, thì sự giao-thiệp với nước Pháp đã sinh ra
lắm nỗi khó khăn, khiến việc nước lại rối thêm ra nữa.
Chương IX Quân Pháp Lấy
Bắc Kỳ Lần Thứ I
1. Người Pháp tìm đường
sang Tàu
2.
Đồ-phổ-Nghĩa
3.
Đại-úy Francis Garnier
ra Hà-nội
4. Hạ thành Hà-nội năm
quí-dậu (1873)
5. Lấy mấy tỉnh ở
Trung-châu
6.
Đại-úy Francis Garnier
chết
7. Ông Philastre ra
Hà-nội
8. Hòa-ước năm giáp-tuất
(1874)
1. Người Pháp tìm đường
sang Tàu.
Từ khi nước Pháp lấy
xong đất Nam-kỳ rồi, Súy-phủ ở Sài-gòn sửa-sang mọi việc, và cho người đi xem
xét tình thế và sông núi ở Trung-kỳ và Bắc-kỳ để mở mang sự giao- thông. Lại có
ý muốn tìm đường thông sang nước Tàu, bởi vậy tháng 5 năm bính-dần (1866),
thiếu-tướng De la Grandière sai trung-tá Doudart de Lagrée cùng với đại-úy
Francis Garnier (Ngạc-nhi) và mấy người Pháp nữa theo sông Mékong đi tìm đường
sang Tàu. Đến tháng 3 năm mậu-thìn (1868), non hai năm trời, ông Doudart de
Lagrée mới sang đến đất Vân-nam. Nhưng chẳng may ông ấy phải bệnh đau gan mà
chết. Ông Francis Garnier đem xác ông ấy đi qua nước Tàu, rồi xuống Tàu thủy về
Sài-gòn.
Đến năm canh-ngọ (1870)
là năm Tự-đức thứ 23, ở bên Tây, nước Pháp đánh nhau với nước Phổ; quân Pháp
thua, Pháp-hoàng là Nã-phá-luân đệ-tam bị bắt. Dân nước Pháp bỏ đế-quốc mà lập
Dân-chủ cộng-hòa. Tuy ở bên Pháp có sự chiến tranh, nhưng ở bên Viễn-đông này,
quân Pháp vẫn giữ vững đất Nam-kỳ. Vả Triều-đình ở Huế còn bận dẹp giặc Khách ở
Bắc-kỳ, cho nên cũng không sinh sự lôi-thôi gì cả.
2. Đồ Phổ Nghĩa (Jean
Dupuis).
Thuở ấy, có một người
Pháp tên là Jean Dupuis, ta gọi là Đồ-phổ-Nghĩa mấy năm trước đã đi du lịch ở
các tỉnh bên Tàu, để tìm cách buôn-bán, biết có sông Hồng-hà từ đất Vân- nam
chảy qua Bắc-kỳ ra bể, là một đường tiện lợi hơn, bèn nhận với quan nhà Thanh ở
Vân-nam để chở đồ binh-khí sang bán.
Đồ-phổ-Nghĩa về cùng với
một người Pháp nữa tên là Millot, buôn- bán ở Thượng-hải, trù-tính việc chở
binh khí sang Vân-nam, đoạn rồi về Pháp để mua hàng. Khi trở sang bên này,
Đồ-phổ-Nghĩa vào Sài-gòn xin Súy-phủ giúp thanh-thế cho để đi qua Bắc-kỳ. Viên
thống-đốc Nam-kỳ lúc bấy giờ là lục-quân thiếu-tướng d'Arhaud, có hứa với
Đồ-phổ-Nghĩa cho chiếc tàu Bourayne đi theo.
Đồ-phổ-Nghĩa sang
Hương-cảng để cùng với Millot đem ba chiếc tàu con là Hồng-giang, Lao-kay và
Sơn-tây chở đồ binh-khí và hàng-hóa vào Quảng-yên. Trong lúc ấy hải-quân
trung-tá Sénès đã đem tàu Bourayne ra Bắc-kỳ, rồi lên Hải-dương, Hà-nội,
Bắc-ninh đi xem các nơi.
Trung-tá ở Bắc-ninh nghe
tin bọn Đồ-phổ-Nghĩa đã đến Quảng-yên, liền trở ra để cùng bàn với quan
Khâm-sai Lê Tuấn về việc thông-thương ở sông Hồng-hà.
Ông Lê Tuấn không có
lệnh Triều-đình, không dám tự-tiện, nói xin đợi vài mươi hôm để có mệnh nhà vua
ra sẽ hay.
Đồ-phổ-Nghĩa và Millot
thấy đợi lâu, bèn cứ đem tàu lên đóng ở Hà- nội, rồi thuê thuyền chở đồ lên
Vân-nam. Bấy giờ là cuối năm nhâm-thân (1872), là năm Tự-đức thứ 25. Thuyền của
Đồ-phổ-Nghĩa đi qua những đồn của quan ta, của giặc cờ vàng và giặc cờ đen đều
vô sự cả. Khi lên dến Vân- nam, quan nhà Thanh cho chở đồ khoáng-vật xuống, đến
thánh tư năm quí- dậu (1873), thì Đồ-phổ-Nghĩa và Millot lại trở về đến Hà-nội,
đem một bọn lính cờ vàng về theo. Millot thì vào Sài-gòn cho Súy-phủ biết
tình-thế ở Bắc- kỳ, và nhân thể đem đồ khoáng-vật sang bán ở Hương-cảng. Còn
Đồ-phổ- Nghĩa thì ở lại Hà-nội, đóng ở phố Mới bây giờ, rồi cùng với mấy người
Khách là Bàng lợi Ký, Quan tá Đình mua gạo, mua muối chở lên Vân-nam.
Bấy giờ luật nước ta cấm
không cho chở muối sang Tàu, mà việc thông-thương ở sông Hồng-hà cũng chưa định
rõ thế nào, nhưng Đồ-phổ- Nghĩa tự xưng là có lệnh quan Tàu cho, thì không cần
phải theo luật nước Nam, vì nước Nam là một nước phải thần-phục nước Tàu.
Đồ-phổ-Nghĩa không hiểu
rõ sự giao-thiệp nước Tàu và nước ta ngày trước. Đối với Tàu thì bề ngoài nước
ta tuy xưng cống-thần, nhưng kỳ thực vẫn là độc-lập. Khi có việc gì, phải có sứ
hai nước sang thương-nghị rồi mới thi hành. Mà có khi sứ nước Tàu bàn sang điều
gì, nước ta không thuận cũng thôi, chứ không có phép tự-tiện mà làm được. Chỉ
trừ lúc nào nước Tàu ỷ thế mạnh mà bắt-nạt, như đời nhà Nguyên, nhà Minh, và
nhà Thanh, thì lại có ông Trần hưng Đạo, ông Lê thái Tổ và ông Nguyễn quang
Trung tỏ cho người Tàu biết rằng nước Nam vốn không phải đất thuộc-địa của Tàu.
Tuy vậy, quan ta phải nể
Đồ-phổ-Nghĩa là người nước Pháp, sợ có việc gì, thì thành ra bất-hòa với
Súy-phủ ở Sài-gòn, cho nên cứ dùng lời nói ngọt để can ông ấy đừng làm điều
trái với luật nước. Nhưng ông ấy cứ một niềm tự ý mình mà làm. Quan ta nhờ cả
Giám-mục Puginier là Kẻ-sở lên can cũng không được.
Sau quân ta có bắt mấy
tên Khách Bành lợi Ký và Quan tá Đình về sự đem thuyền chở muối và gạo lên
Vân-nam, thì Đồ-phổ-Nghĩa đem người đi bắt quan phòng-thành Hà-nội và quan
huyện Thọ-xương, đem xuống thuyền giam lại. Quan ta cũng ngơ ngác không biết ra
thế nào. Một bên thì cố tình sinh sự, một bên thì mệnh nhà vua ra không được
lôi thôi điều gì.
Bấy giờ Triều-đình sai
quan hữu-tham-tri bộ Binh là Phan đình Bình làm khâm-phái ra giao cho ông
Nguyễn tri Phương phải thu-xếp cho yên chuyện ấy. Ông Nguyễn tri Phương mới sai
quan bố-chính là Vũ Đường định ngày mời Đồ-phổ-Nghĩa đến hội-quán Quảng-đông,
để hội nghị. Khi hai bên đến hội-đồng, quan ta nói rằng sự giao-thiệp nước Pháp
với nước Nam đã có tờ hòa-ước năm nhâm-tuất (1862), và sự đem muối và gạo lên
bán ở Vân- nam là trái với tờ hòa-ước ấy, và lại trái với luật bản-quốc.
Đồ-phổ-Nghĩa cãi rằng ông ấy có lệnh quan Tàu cho là đủ, không cần phải xin
phép gì nữa, rồi đứng dậy ra về.
Triều-đình ở Huế thấy
việc lôi thôi mãi, sợ để lâu thành ra nhiễu sự, mới sai ông Lê Tuấn, ông Nguyễn
văn Tường và ông Nguyễn tăng Doãn vào sứ Sài-gòn, để thương-nghị về việc ba
tỉnh phía tây đất Nam-kỳ và nhân thể nhờ Súy-phủ phân xử việc Đồ-phổ-Nghĩa cho
xong.
3. Đại-úy Francis
Garnier (Ngạc Nhi) ra Hà-nội.
Viên Thống-đốc Nam-kỳ
bấy giờ là Hải-quân thiếu-tướng Dupré vốn đã lưu ý về việc Bắc-kỳ. Trước đã
viết thư về cho Thượng-thư thuộc-địa-bộ ở Paris nói rằng: " Đất Bắc-kỳ là
đất tiếp-giáp với những tỉnh tây-nam nước Tàu, ta nên chiếm giữ lấy thì sự
cai-trị của ta ở Viễn-đông này mới được chắc chắn " .
Nhưng bên Pháp bấy giờ
mới đang đánh nhau với nước Phổ vừa xong, không muốn gây chuyện khác, bèn điện
sang cho thiếu-tướng rằng: "Không được sinh sự ở Bắc-kỳ." Đến khi
Millot về Sài-gòn kể công việc ở Bắc-kỳ, thiếu-tướng lại điện về Paris nói
rằng: " Việc Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ đã thành công rồi. Cần phải lấy xứ
Bắc-kỳ và giữ lấy con đường thông sang Tàu. Không cần phải viện binh. Thành
công chắc lắm ". Ngay hôm ấy, thiếu-tướng lại viết thêm một cái thư về nói
rõ mọi lẽ, và quyết rằng xin chính-phủ để cho thiếu-tướng được tự tiện, hễ có
việc gì thì thiếu-tướng xin chịu lỗi166.
Đang lúc ấy thì
Triều-đình ở Huế sai bọn ông Lê Tuấn vào xin thiếu- tướng ra điều-đình việc
Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ.
Cứ như ý của thiếu-tướng
Dupré điện về cho chính-phủ Pháp thì thiếu-tướng chỉ mong có cái cơ-hội gì để
đem quân ra Bắc-kỳ. Nay thấy Triều-đình ta vào nhờ Súy-phủ ở Sài-gòn phân-xử
việc Đồ-phổ-Nghĩa, thật là gặp được cái dịp mình đang mong, thiếu-tướng liền
gọi quan hải-quân đại-úy Francis Garnier ở Thượng-hải về, rồi sai ra Hà-nội,
nói rằng ra phân-xử việc Đồ-phổ-Nghĩa167.
Đại-úy Francis Garnier
đem mấy chiếc tàu con và 170 người lính ra đến cửa Thuận, nghỉ lại mấy hôm để
đợi quan khâm-sai cùng ra Bắc-kỳ. Đến tháng 10 năm quí-dậu (1873), thì các quan
ra đến Hà-nội.
Bấy giờ ai cũng tưởng là
đại-úy Francis Garnier ra chuyến này thì mọi việc xong cả, cho nên đi đến đâu
quan ta cũng tiếp-đãi rất trọng-hậu. Nhưng xem những thư-từ của đại-úy lúc bấy
giờ, thì cốt ra có chủ ý khác. Khi ở Sài-gòn sắp đi, đại-úy viết thư về cho
người anh ở bên Pháp nói rằng: " Lệnh của Súy-phủ cho, là được tự tiện.
Việc gì hải-quân thiếu-tướng cũng ủy-thác cho tôi cả. Vậy vì nước Pháp mà tôi
phải cố sức." Đến khi ra đến Hải-dương, đại-úy vào ở Kẻ-sặt, rồi viết thư
sai người đem cho Đồ-phổ- Nghĩa, báo tin cho ông ấy biết cái chủ đích của mình,
và lại nói rằng trăm sự đại-úy trông-cậy vào ông ấy chỉ bảo cho, bởi vì ông ấy
đã quen biết mọi việc ở Bắc-kỳ.
Đồ-phổ-Nghĩa tiếp được
thư, liền đem chiếc tàu Man-hao đi đón đại- úy. Lên đến Hà-nội, đại-úy đem mấy
người đi thẳng vào thành ra mắt ông Nguyễn tri Phương, và đòi đem quân ra đóng
ở trong thành. Quân ta nói mãi, Đại-úy mới thuận ra đóng ở Trường-thi. Đoạn rồi
đại-úy viết thư mời giám-mục Puginier ở Kẻ-sở lên Hà-nội, để nhờ làm
thông-ngôn. Đại-úy lại làm tờ hiểu-dụ, cho dân biết, nói rằng: " Bản-chức
ra Bắc-kỳ cốt để dẹp cho yên giặc-giã, và để mở-mang sự buôn-bán.
4. Hạ thành Hà-nội năm
quí-dậu (1873).
Quan ta thấy đại- úy
không nói gì đến việc Đồ-phổ-Nghĩa, mà lại nói những việc dẹp-giặc và mở sự
buôn-bán, thì đều lấy làm phân-vân. Sau lại thấy tàu và quân ở Sài- gòn tiến ra,
quan ta lại càng lo lắm. Được mấy hôm, đại-úy không bàn hỏi gì đến quan ta,
tự-tiện làm tờ tuyên-bố sự mở sông Hồng-hà cho người nước Pháp, nước I-pha-nho
và nước Tàu được ra vào buôn-bán.
Quan ta lúc bấy giờ cũng
bối-rối quá. Việc giao-thiệp và việc buôn- bán với nước Pháp thì đã định rõ
trong tờ hòa-ước năm nhâm-tuất (1862), nay thấy đại-úy Francis Garnier đường
đột làm như thế, thì cũng thấy làm lo, cho nên cũng có kiếm cách phòng-bị. Mà
đại-úy cũng đã biết trước rằng thế nào quan ta cũng không chịu, cho nên đã định
kế đánh thành Hà-nội.
Đến đầu tháng 10, một
mặt đại-úy viết thư cho ông Nguyễn tri Phương, trách quan ta làm ngăn-trở việc
buôn-bán của Đồ-phổ-Nghĩa; vậy vì sự văn-minh và cái quyền-lợi của nước Pháp,
cho nên Súy-phủ ở Sài-gòn sai đại-úy ra mở sự buôn-bán ở Bắc-kỳ. Dẫu quan
Việt-nam có thuận hay không cũng mặc, đại-úy cứ theo lệnh của Súy-phủ mà
thi-hành. Một mặt đại-úy bàn-định với Đồ-phổ-Nghĩa định ngày đánh thành và bắt
ông Nguyễn tri Phương giải vào Sài-gòn.
Cứ như sách của
Đồ-phổ-Nghĩa, thì lúc bấy giờ có cả những người mạo xưng là đảng nhà Lê, cũng
xin theo đại-úy để vào thành làm nội-ứng.
Đến sáng hôm rằm tháng
10 năm quí-dậu (1873), thì quân Pháp phát súng bắn vào thành Hà-nội. Ông Nguyễn
tri Phương cùng với con là phò-mã Nguyễn Lâm hoảng-hốt lên thành giữ cửa Đông
và cửa Nam. Được non một giờ đồng hồ thì thành vỡ, phò-mã Lâm trúng đạn chết,
ông Nguyễn tri Phương thì bị thương nặng. Quân Pháp vào thành bắt được ông
Nguyễn tri Phương và quan khâm-phái Phan đình Bình đem xuống tàu.
Ông Nguyễn tri Phương
nghĩ mình là một bậc lão-thần thờ vua đã trải ba triều, đánh nam dẹp bắc đã qua
mấy phen, nay chẳng may vì việc nước mà bị thương, đến nỗi phải bị bắt, ông
quyết chí không chịu buộc thuốc và nhịn ăn mà chết.
Ông Nguyễn tri Phương là
người người ở Thừa-thiên, do lại-điển xuất thân, làm quan từ đời vua Thánh-tổ,
trải qua ba triều, mà nhà vẫn thanh-bạch, chỉ đem chí-lự mà lo việc nước, chứ
không thiết của-cải. Nhưng chẳng may phải khi quốc-bộ gian-nan, ông phải đem
thân hiến cho nước, thành ra cả nhà cha con, anh em đều mất vì việc nước. thật
là một nhà trung-liệt xưa nay ít có vậy.
5. Lấy mấy tỉnh ở
Trung-châu.
Thành Hà-nội thất thủ
rồi, quan ta thì trốn-tránh đi cả, giặc cướp lại nhân dịp nổi lên. Đại-úy
Francis Garnier lại cho những người theo với mình đi làm quan các nơi để chống
với quan triều, rồi lại sai người đi đánh lấy tỉnh Ninh-bình, Nam-định và
Hải-dương.
Quan ta ở các tỉnh đều
ngơ ngác không biết ra thế nào, hễ thấy người Tây đến là bỏ chạy. Bởi vậy, chỉ
có người Pháp tên là Hautefeuille và 7 người lính tây mà hạ được thành
Ninh-bình, và chỉ trong 20 ngày mà 4 tỉnh ở Trung-châu mất cả.
6. Đại-úy Francis
Garnier chết.
Triều-đình được tin biến
ở Bắc- kỳ, vội-vàng sai ông Trần đình Túc, ông Nguyễn trọng Hợp, ông Trương gia
Hội cùng với giám-mục Bình (Mgr Bohier) và linh-mục Đăng ( Dangelger) ra
Hà-nội, để điều đình mọi việc và sai ông Hoàng kế Viêm ở Sơn-tây làm tiết- chế
quân-vụ, để phòng giữ các nơi. Lại sai ông Lê Tuấn làm toàn-quyền, ông Nguyễn
văn Tường làm phó, vào thương-thuyết với Súy-phủ ở Sài-gòn về việc đại-úy
Francis Garnier đánh Bắc-kỳ.
Lúc bấy giờ ông Hoàng kế
Viêm đóng ở Sơn-tây, có đảng cờ đen là bọn Lưu vĩnh Phúc về giúp. Vua phong cho
Lưu vĩnh Phúc làm đề-đốc, để cùng với quan quân chống giữ quân Pháp. Lưu vĩnh
Phúc đem quân về đóng ở mạn phủ Hoài-đức. Khi ông Trần đình Túc và ông Nguyễn
trọng Hợp đang thương-thuyết với đại-úy Francis Garnier, thì quân cờ đen về
đánh Hà- nội. Đại-úy đem quân đi đuổi đánh, lên đến Cầu-giấy thì bị phục quân
giết chết.
7. Ông Philastre ra Hà-nội.
Nguyên khi thiếu-tướng
Dupré sai đại-úy Francis Garnier ra Bắc-kỳ là tự ý mình chứ chính-phủ nước Pháp
vẫn không thuận, bởi vậy khi được tin đại-úy đã khởi sự đánh Hà-nội, thiếu-
tướng liền sai hải-quân đại-úy, khiêm chức thống-soái việc hình-luật ở Nam- kỳ,
là ông Philastre (ta gọi là Hoắc-đạo-sinh) cùng với qua phó-sứ nước ta là ông
Nguyễn văn Tường ra điều-đình mọi việc ở Bắc-kỳ.
Đến Cửa-cấm thì ông
Philastre và ông Nguyễn văn Tường mới biết rằng đại-úy Francis Garnier đã bị
quân cờ đen giết mất rồi. Sử chép rằng khi được tin ấy, ông Philastre tức giận
vỗ bàn mà bảo ông Nguyễn văn Tường rằng: " Việc không xong rồi, phải trở
về đợi lệnh súy-phủ mới được. " Ông Nguyễn văn Tường sợ ông Philastre giận
quá mà nhỡ việc, mới ung-dung mà nói rằng: " Việc đánh lấy thành Hà-nội
súy-phủ bảo không phải là bản-ý, mà quân bản-quốc ở 4 tỉnh Bắc-kỳ cũng không
tranh dành gì cả. Vậy hai bên không có làm điều gì trái nhau. Nay đại-úy
Francis Garnier chết, hoặc là bị giết chết, hoặc là vì dân nổi lên làm loạn,
việc ấy ta chưa rõ. Huống chi trả thành lại để định hòa-ước cho xong, ấy là
lệnh của súy-phủ; mà thu lấy thành rồi mới nghị-hòa, ấy là mệnh của bản-quốc.
Còn như việc Hà-nội giết đại-úy Francis Garnier thì cũng như đại-úy Francis
Garnier giết ông Nguyễn tri Phương, việc đó xuất ư ý ngoại, chứ có phải lỗi
chúng ta đâu. Bây giờ chúng ta ra đây, mắt chưa trông thấy việc gì cả, mới nghe
thấy tin báo mà đã bỏ về, thế chẳng hóa ra mình đi uổng mất công hay sao ? chi
bằng ta cho người đưa thư lên Hà-nội bảo đem tàu xuống đón, chúng ta sẽ lên tới
nơi, hoặc là cứ theo mệnh lệnh mà làm, hoặc là xét rõ duyên-do tại sao mà
đại-úy Francis Garnier chết, rồi sẽ báo tin, thế chẳng ổn việc lắm hay sao ?
" Ông Philastre nghe lời ấy, bèn sai người đưa thư lên cho Hà-nội biết.
Ngay lúc ấy có tàu
" Decrès " còn đóng ở gần Đồ-sơn, ông Philastre muốn sang tàu ấy để
cho chiếc tàu mình đi là "D'Estrées " trở về báo tin cho Sài-gòn
biết. Nguyễn văn Tường ngăn đi rằng: "Tàu của mình đã vào cửa rồi lại trở
ra, nhỡ sĩ-dân biết, lại bắt chước Hà-nội mà làm bậy, thì làm thế nào mà ngăn
cấm được; sợ có việc tổn-hại, thì lấy lẽ gì mà bẩm với quí súy. Vậy nay xin sai
chiếc tàu "Decrès" ra bể, đuổi đánh những giặc Tàu-ô, còn cứ đem tàu
"D'Estrées" vào đến Hải-phòng, rồi ta lên Hải-dương, đem trả tỉnh-thành
lại cho bản-triều, để tỏ cái lòng tin cho sĩ-dân biết, sau ta lên Hà- nội, trả
nốt cả mấy thành kia, và tra-hỏi việc đại úy Francis Garnier chết ra thế nào sẽ
bẩm cho quí-súy biết " .
Ông Philastre vốn là một
người rất công bằng, lại thấy ông Nguyễn văn Tường nói hợp-lẽ, bèn thuận nghe,
và lên Hải-dương truyền trả thành lại cho quan ta, rồi lên Hà-nội làm tờ
giao-ước trả lại cả 4 thành cho quan ta coi giữ. Còn những tàu bè và quân lính
của Pháp ở các tỉnh thì thu cả về Hà- nội, rồi đinh ngày rút quân ra đóng ở
Hải-phòng đợi đến ngày ký tờ hòa-ước xong thì rút về. Bấy giờ là tháng giêng
năm giáp-tuất (1874), là năm Tự- đức thứ 27.
Đồ-phổ-Nghĩa thấy ông
Philastre phá mất cả những việc của mình đã làm với đại-úy Francis Garnier, bèn
vào Sài-gòn kêu với súy-phủ và đòi tiền phí-tổn non một triệu nguyên
8. Hòa-ước năm giáp-tuất
(1874).
Mọi việc ở Hà-nội
xếp-đặt xong rồi, súy-phủ ở Sài-gòn sai ông Rheinart (Lê Na) ra thay cho ông
Philastre cùng với ông Nguyễn văn Tường về Nam-kỳ, định sự hòa-ước cho kịp ngày
thiếu-tướng Dupré về Pháp.
Ngày 27 tháng giêng năm
giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, hải-quân thiếu-tướng Dupré và ông Lê
Tuấn, ông Nguyễn văn Tường ký tờ hòa-ước cả thảy 22 khoản, đại-lược có những
khoản này là quan trọng hơn cả.
Khoản II. Quan thống-lĩnh
nước Pháp nhận quyền độc-lập của vua nước Nam không phải thần phục nước nào
nữa, và khi nào vua nước Nam có cần đến việc gì để đánh dẹp giặc giã, thì nước
Pháp sẵn lòng giúp mà không yêu-cầu điều gì.
Khoản III. Vua nước Nam
phải đoan nhận y theo chính-lược ngoại-giao của nước Pháp, và chính-lược
ngoại-giao hiện lúc bấy giờ thế nào thì phải để nguyên như thế, không được đổi
khác đi
Quan thống-lĩnh nước
Pháp tặng vua nước Nam:
1. 5 chiếc tàu có đủ
máy-móc súng-ống
2. 100 khẩu súng
đại-bác, và mỗi khẩu có 200 viên đạn
3. 1000 khẩu súng tay và
5000 viên đạn
Khoản IV. Quan
thống-lĩnh nước Pháp hứa cho quan sang giúp vua nước Nam để dạy tập lính thủy,
lính bộ; cho những kỹ-sư sang dạy làm mọi việc, và cho những người giỏi việc
tài chính sang tổ-chức việc thuế-má và việc thương-chính v. v.
Khoản V. Vua nước Nam
phải thuận nhường đứt đất 6 tỉnh Nam-kỳ cho nước Pháp.
Khoản IX. Vua nước Nam
phải để cho giáo-sĩ được tự-do đi giảng-đạo, và cho dân trong nước được tự-do
theo đạo.
Khoản XI. Vua nước Nam
phải mở cửa Thị-nại ( Qui-nhơn ), của Ninh-hải ( Hải-phòng ), thành Hà-nội và
sông Hồng-hà, cho ngoại quốc vào buôn-bán.
Khoản XIII. Nước Pháp
được quyền đặt lĩnh-sự ở các cửa bể và các thành- thị đã mở ra cho ngoại quốc
vào buôn-bán.
Khoản XV. Người nước
Pháp hay là người ngoại quốc, hễ có giấy thông hành của quan lĩnh-sự Pháp và có
chữ quan Việt-nam phê nhận thì được phép đi xem các nơi ở trong nước.
Khoản XVI. Người nước
Pháp và người ngoại quốc có điều gì kiện tụng tại đất Việt-nam, thì do lĩnh-sự
Pháp phân-xử.
Khoản XX. Khi nào tờ
hòa-ước này ký xong, thì quan thống-lĩnh nước Pháp đặt sứ-thần ở Huế để chiếu
những điều đã giao-ước mà thi hành. Vua nước Nam cũng được quyền đặt sứ-thần ở
Paris và ở Sài-gòn.
Tờ hòa-ước ấy ký xong,
thì quan chánh-sứ Lê Tuấn mất, ông Nguyễn văn Tường về Huế. Thiếu-tướng Dupré
giao mọi việc ở Nam-kỳ cho hải-quân thiếu-tướng Krantz quyền lĩnh, rồi về Pháp.
Tháng 6, Triều-đình ở
Huế lại sai quan hình-bộ Thượng-thư là Nguyễn văn Tường và quan lại-bộ thị-lang
là Nguyễn tăng Doãn, vào Sài-gòn cùng với thiếu-tướng Krantz định các lệ về sự
buôn-bán ở nước Nam. Đến 20 tháng 7, thì tờ thương-ước lập xong.
CHƯƠNG X Tình thế nước
Nam từ năm Giáp Tuất về sau
1. Văn-thân nổi loạn ở
Nghệ-tỉnh
2. Giặc ở Bắc-kỳ
3. Sự giao-thiệp với Tàu
4. Tình-thế nước Tàu
5. Sự giao-thiệp với
nước Pháp
1. Văn-thân nổi loạn ở
Nghệ-tỉnh.
Nhờ có ông Philastre và
ông Nguyễn văn Tường thu xếp việc Bắc-kỳ vừa xong, thì ở mạn Nghệ-tĩnh có loạn.
Nguyên lúc bấy giờ dân
trong nước ta chia ra làm hai phái: bên lương, bên giáo; hai bên vẫn không ưa
nhau. Đến khi sảy ra việc đại-úy Francis Garnier lấy Hà-nội, bọn sĩ phu ở mạn
Nghệ-tĩnh thấy giáo-dân có nhiều người theo giúp ông ấy, thì lấy làm tức giận
lắm, bèn rủ nhau nổi lên đánh phá.
Tháng giêng năm
giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, đất Nghệ-an có hai người tú-tài là Trần
Tấn và Đặng như Mai hội-tập cả các văn- thân trong hạt, rồi làm một bài hịch
gọi là " Bình Tây sát tả ", đại lược nói rằng " Triều-đình dẫu
hòa với với Tây mặc lòng sĩ-phu nước Nam vẫn không chịu, vậy trước nhất xin
giết hết giáo-dân, rồi sau đánh đuổi người Tây cho hết, để giữ lại cái văn-hóa
của ta đã hơn 1000 năm nay, v. v..." Bọn Văn- thân cả thảy độ non hơn ba
nghìn người, kéo đi đốt phá những làng có đạo.
Nước ta mà không chịu
khai-hóa ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ-phu cứ giữ thói cũ, không chịu
theo thời thế mà thay đổi. Nay sự suy-nhược của mình đã sờ sờ ra đấy, thế mà
vẫn cứ không chịu mở mắt ra mà nhìn, lại vì sự tức giận một lúc mà việc
nông-nỗi càn-rỡ, để cho thiệt hại thêm, như thế thì cái tội trạng của bọn
sĩ-phu đối với nước nhà chẳng to lắm ru!
Lúc bấy giờ quan
tổng-đốc Nghệ-an là ông Tôn thất Triệt lại có ý dung-túng bọn Văn-thân, cho nên
họ càng đắc thế càng phá dữ. Triều-đình thấy vậy, mới truyền bắt quan quân phải
dẹp cho yên. Bọn Văn-thân thấy quan quân đuổi đánh, bèn cùng với bọn giặc Trần
quang Hoán, Trương quan Phủ, Nguyễn huy Điển đánh lấy thành Hà-tĩnh, rồi ra vây
phủ Diễn-châu.
Triều-đình thấy thế giặc
càng ngày càng to, bèn sai ông Nguyễn văn Tường ra làm khâm-sai và ông Lê bá
Thận làm tổng-thống, đem quân ra đánh dẹp, từ tháng 2 đến tháng 6 mới xong.
2. Giặc ở Bắc-kỳ.
Thuở ấy ở mạn Thượng-du
đất Bắc-kỳ lúc nào cũng có giặc, quan quân đánh mãi không được, phải nhờ quân
Tàu sang đánh giúp cũng không xong.
Mạn Hải-dương và Quảng-yên
thì vẫn có những người mạo xưng là con-cháu nhà Lê, cứ quấy-rỗi mãi. Khi
Francis Garnier ra lấy Hà-nội, những người ấy về xin theo đi đánh quân ta,
nhưng vì sau nước Pháp trả lại các tỉnh ở Bắc-kỳ, họ lại tản đi. và từ khi nước
ta và nước Pháp đã ký hòa-ước rồi, quan Pháp có đem binh-thuyền đi đánh giúp,
cho nên mới diệt được đảng ấy.
Còn ở mạn Tuyên-quang,
thì có giặc cờ vàng nhũng-nhiễu đã lâu. Quan quân phải đánh dẹp mãi không được.
Đến tháng 8 năm ất-hợi (1875), là năm Tự-đức thứ 28, tướng cờ vàng là Hoàng
sùng Anh đem quân về đóng ở làng Châu-thượng, thuộc phủ Vĩnh-tường. Bấy giờ
quan quân tán-dương quân-vụ tỉnh Sơn-tây là Tôn thất Thuyết về đánh một trận.
Giặc ấy từ đó tan dần.
Năm sau Tôn thất Thuyết
lại giết được tên giặc Trận ở làng Cổ-loa, và dẹp yên được ở mạn Sơn-tây. Nhưng
đến năm mậu-dần (1878), ở Lạng- sơn lại có tên giặc Khách là Lý dương Tài nổi
lên.
Lý dương Tài trước làm
quan hiệp-trấn ở Tầm-châu, thuộc tỉnh Quảng-tây, sau bị cách mới nổi lên làm
giặc và đem quân tràn sang đánh lấy tỉnh Lạng-sơn. Quan ta đem thư sang cho
quan Tàu biết. Quan đề-đốc Quảng-tây là Phùng tử Tài đem quân 26 doanh sang
cùng với quân ta hội- tiễu. Đến tháng 9 năm kỷ-mão (1879), quan quân mới bắt
được Lý dương Tài ở núi Nghiêm-hậu thuộc tỉnh Thái-nguyên đem giải sang Tàu.
Vì đất Bắc-kỳ cứ có giặc
giã luôn cho nên Triều-đình đặt ra chức Tĩnh-biên-sứ để giừ các nơi về đường
ngược. Năm canh-thìn (1880), đặt ra Lạng-giang-đạo và Đoan-hùng-đạo sai hai
viên Tĩnh-biên phó-sứ là Trương quang Đản đóng ở Lạng-giang và Nguyễn hữu Độ
đóng ở Đoan-hùng, lại phong cho Hoàng kế Viêm là Tĩnh-biên-sứ, kiêm cả hai đạo
.
3. Sự giao-thiệp với
Tàu.
Nước ta từ xưa đến nay
tuy là độc-lập, nhưng vẫ giữ lệ triều-cống nước Tàu, lấy cái nghĩa rằng nước
nhỏ phải tôn- kính nước lớn. cho nên khi chiến-tranh, dẫu ta có đánh được Tàu
đi nữa, thì rồi nhà nào lên làm vua cũng phải theo cái lệ ấy, mà đời nào cũng
lấy điều đó làm tự-nhiên vì rằng triều-cống cũng không tổn hại gì mấy, mà nước
vẫn độc-lập và lại không hay có việc lôi-thôi với một nước láng-diềng mạnh hơn
mình. Bởi vậy hễ vua nào lên ngôi, cũng chiếu lệ sai sứ sang Tàu cầu phong, và
cứ ba năm sai sứ sang cống một lần.
Các vua đời nhà Nguyễn
cũng theo lệ ấy, nhưng các đời vua trước thì vua phải ra Hà-nội mà tiếp sứ Tàu
và thụ phong cho. Đến đời vua Dực- tông thì sứ Tàu vào tại Huế phong vương cho
ngài.
Còn những cống phẩm thì
cứ theo lệ, mà thường chỉ đưa sang giao cho quan Tổng-đốc Lưỡng-Quảng để đệ về
Kinh, chứ không mấy khi sứ ta sang đến Yên-kinh. Trong đời vua Dực-tông thì sử
chép rằng năm mậu-thìn (1868), có ông Lê Tuấn, ông Nguyễn tư Giản và ông Hoàng
Tịnh sang sứ Tàu. Năm quí-dậu (1873), lại có các ông Phan sĩ Thục, ông Hà văn
Khai, và ông Nguyễn Tu sang sứ Tàu, để bày tỏ việc đánh giặc Khách ở Bắc-kỳ.
Từ năm giáp-tuất (1874)
trở đi, Triều-đình ở Huế đã ký tờ hòa-ước với Pháp, công nhận nước Nam độc-lập,
không thần-phục nước nào nữa, nhưng lúc bấy giờ vì thế bất-đắc-dĩ mà ký tờ
hòa-ước, cứ trong bụng vua Dực-tông vẫn không phục, cho nên ngài vẫn cứ theo lệ
cũ mà triều-cống nước Tàu, có ý mong khi hữu sự, nước Tàu sang giúp mình. Bởi
vậy năm bính-tí (1876), vua Dực-tông sai ông Bùi ân Niên tức là ông Bùi Dỵ, ông
Lâm Hoành và ông Lê Cát sang sứ nhà Thanh. Năm canh-thìn (1880), lại sai ông
Nguyễn Thuật, Trần Khánh Tiên, Nguyễn Hoang sang Yên-kinh dâng biểu xưng thần
và các đồ cống-phẩm. Năm sau, Triều-đình nhà Thanh sai Đường đình Canh sang Huế
bàn việc buôn-bán và lập cuộc chiêu thương, chủ ý là để thông tin cho chính phủ
Tàu biết mọi việc bên nước ta.
Một bên đã hòa với nước
Pháp, nhận theo chính-lược ngoại-giao của nước Pháp mà độc-lập 168 ,
một bên cứ triều-cống nước Tàu, có ý để cầu viện, bởi thế cho nên chính phủ
Pháp lấy điều đó mà trách Triều-đình ta vậy.
4. Tình-thế nước Tàu.
Xưa nay ta vẫn công nhận
nước Tàu là thượng-quốc và vẫn phải lệ triều-cống. Hễ khi nào trong nước có
việc biến- loạn và vẫn trông mong nước Tàu sang cứu-viện. Không ngờ từ thế-kỷ
thứ XIX trở đi, thế lực các nước bên Tây-âu mạnh lên, người phương Tây đi lược
địa rất nhiều, mà tình thế nước Tàu thì rất là suy-nhược. Năm Đạo-quang thứ 19
(1839) tức là năm Minh-mệnh thứ 20 bên ta, vì việc cấm thuốc nha- phiến ở
Quảng-đông thành ra có chiến-tranh với nước Anh-cát-lợi. Quân nước Anh đánh phá
thành Ninh-ba, Thương-hải, v. v. Vua Đạo Quang phải nhận những điều hòa-ước năm
nhâm-dần (1842) làm tại Nam-kinh, nhường đảo Hương-cảng cho nước Anh và mở
những thành Quảng-châu, Hạ-môn, Phúc-châu, Ninh-ba và Thương-hải ra cho ngoại
quốc vào buôn-bán.
Cuộc hòa-ước ở Nam-kinh
định xong, các nước ngoại-dương vào buôn-bán ở nước Tàu và đặt lĩnh-sự ở
Quảng-châu, Ninh-ba, Thương-hải, v. v. Đến năm Hàm-phong thứ 8 (1858), tức là
năm Tự-đức thứ 11, nước Anh và nước Pháp ký tờ hòa-ước với nước Tàu, đặt
sứ-thần ở Bắc-kinh. Đoạn nước Tàu có điều trái ước, gây thành việc chiến-tranh
với hai nước ấy. Quân nước Anh và nước Pháp đánh lấy hải-khẩu, rồi kéo lên đánh
lấy Bắc-kinh. Vua Hàm-phong phải nhận những điều hòa-ước năm canh-thân (1860)
làm tại Thiên-tân.
Từ đó nước Tàu bị các
nước khác sách-nhiễu mọi điều và bị đè nén nhiều cách. Lúc ấy nước Tàu chẳng
khác gì cái nhà lớn đã bị hẩm-nát sắp đổ, mà ta vẫn không tỉnh ngộ, cứ mê-mộng
là nước ấy còn cường thịnh, có thể giúp ta được trong khi nguy-hiểm. Bởi vậy
khi quân nước Pháp đã lấy Bắc-kỳ rồi, người mình còn trông cậy ở quân cứu-viện
của nước Tàu. Phương-ngôn ta có câu rằng " Chết đuối vớ phải bọt "
thật là đúng lắm. Nếu người Tàu có đủ thế lực cứu được ta, thì trước hết họ hãy
cứu lấy họ đã. Nhưng lúc bấy giờ từ vua quan cho chí bọn sĩ-phu trong nước ta,
ai là người hiểu rõ cái tình-thế ấy ? Cho nên không những là ta không chịu cải
cách chính thể của ta cho hợp thời mà lại còn làm những điều ngang-ngạnh để cho
chóng hỏng việc. Ấy cũng là cái vận nước chẳng may, song những người đương lộ
lúc ấy cũng không so tránh được cái lỗi của mình vậy.
5. Sự giao-thiệp với
nước Pháp.
Từ khi ông Philastre ra
điều- đình mọi việc ở Bắc-kỳ xong rồi, ông Rheinart ra thay ở Hà-nội, đợi cho
đến ngày ký hòa-ước thì chiếu mọi khoản mà thi hành. Ông Rheinart ở được mấy
tháng, rồi về lại Sài-gòn, giao quyền cho lục-quân thiếu-tá Dujardin (La-
Đăng). Thiếu-tá có đem binh-thuyền giúp quan ta đi đánh giặc ở mạn Hải- dương
và Quảng-yên.
Đến khi tờ hòa-ước và tờ
thương-ước đã ký xong thì Triều-đình sai ông Nguyễn tăng Doãn ra Bắc-kỳ để cùng
thiếu-tá Dujardin chọn đất ở Hà- nội và ở Ninh-hải (Hải-phòng) để làm dinh làm
trại cho quan quân nước Pháp đóng, và lại sai quan thượng-thư bộ Hộ là ông Phạm
phú Thứ ra làm Hải-an tổng-đốc sung chức tổng-lý thương-chánh đại-thần, cùng
với ông Nguyễn tăng Doãn và ông Trần hi Tăng bàn định việc thương-chánh ở Bắc-
Kỳ.
Tháng 6 năm ất-hợi
(1875) chính phủ nước Pháp sai ông Rheinart sang làm khâm-sứ ở Huế, ông Truc
làm lĩnh-sự ở Hải-phòng, và ông Kergaradec (Kê-la-đích) làm lĩnh-sự ở Hà-nội.
Triều-đình sai ông Nguyễn thành Ý vào làm lĩnh sự ở Sài-gòn.
Ông Rheinart ở Huế đến
tháng 10 năm bính-tí (1876), thì cáo bịnh xin về, ông Philastre ra thay.
Triều-đình lúc bấy giờ
cũng đã hiểu rằng hễ không theo tân-học thì không tiến-hóa được, cho nên mới
định cho người đi du học. Năm mậu-dần (1878), bên Pháp có mở hội vạn quốc
đấu-xảo ở Paris, vua sai ông Nguyễn thành Ý và ông Nguyễn tăng Doãn đem đồ đi
đấu-xảo và cho người sang học ở Toulon.
Nhưng vì năm tân-tị
(1881), Triều-đình lại sai quan Lễ-bộ thị-lang là Phạm Bính sang Hương-cảng,
đem 12 đứa trẻ con đi học ở trường Anh-cát- lợi, rồi lại sai sứ đi sang Tiêm-la
và sang Tàu mà không cho sứ-thần nước Pháp biết, bởi vậy chính-phủ Pháp lấy
những điều đó mà trách Triều-đình ở Huế không theo hòa-ước năm giáp-tuất
(1874).
Khi ông Philastre còn ở
Huế, vì ông ấy là một người công chính và lại có học chữ Nho, cho nên
Triều-đình ta trọng-đãi và có điều gì trang-trải cũng còn dễ. Từ năm kỷ-mão
(1879) về sau, ông ấy về Pháp rồi, sự giao- thiệp càng ngày càng khó thêm: phần
thì vì người mình không biết cách giao thiệp với ngoại-quốc, phần thì cái
quyền-lợi nước ta và nước Pháp lúc bấy giờ tương-phản với nhau, cho nên hai bên
không có lòng tin-cậy nhau, thành ra sự giao-thiệp không được thân-thiết lắm.
Vả về sau, sự cai-trị ở
Nam-kỳ đã thành nếp, giặc giã đã yên cả; ở bên Pháp thì thế lực đã mạnh, và đã
có nhiều người bàn đến việc bên Viễn- đông này và việc bảo-hộ ở Bắc-kỳ. Lại
nhân có những nước I-ta-ly. I-pha- nho, Anh-cát-lợi và Hoa-kỳ muốn sang
thông-thương với nước Nam, mà có ý không muốn chịu để quan nước Pháp phân-xử
những việc can-thiệp đến người những nước ấy. Bởi vậy nước Pháp muốn lập hẳn
cuộc bảo-hộ để cho khỏi mọi sự lôi thôi, bèn bỏ lệ đặt quan hải-quân khiêm lĩnh
chức thống-đốc ở Nam-kỳ, mà sai quan văn sang sung chức ấy để trù-tính mọi
việc.
Tháng 6 năm kỷ-mão
(1879), viên thống đốc mới là ông Le Myre de Vilers sang nhận chức ở Sài-gòn và
ông Rheinart lại sang làm khâm-sứ ở Huế để thay cho ông Philastre.
Bắc-kỳ thì người Pháp đã
ra vào buôn-bán, nhưng vì quan ta không biết lo sự khai hóa, việc thông thương
không được tiện-lợi, và ở mạn thượng-du thì có quân cờ đen tuy là mượn tiếng
theo lệnh quan ta, nhưng kỳ thực chúng nó làm gì cũng không ai ngăn cấm được.
Bởi vậy, chính-phủ Pháp mới lấy những điều đó mà trách quan ta và sai quan đem
quân ra Bắc- kỳ, lấy cớ nói ra mở mang sự buôn-bán, kỳ thực là ra kinh-doanh
việc ở vùng ấy.
CHƯƠNG XI
Quân Pháp Lấy Bắc Kỳ Lần
Thứ II
1. Đại tá Henri Rivière
ra Hà Nội
2. Hạ thành Hà Nội lần
thứ hai
3. Việc cầu cứu nước Tàu
4. Quân Pháp lấy Nam
Định
1. Đại tá Henri Rivière
ra Hà Nội.
- Cuối năm Tân Tỵ (1881)169,
nhân có hai người Pháp tên là Courtin và Villeroi được giấy thông hành đi lên
Vân Nam, nhưng lên đến gần Lào Kay, bị quân Khách làm ngăn trở, không đi được.
Viên thống đốc Le Myre de Vilers bèn gửi thư về Pháp, nói rằng nước Pháp nên
dùng binh lực mà cho dẹp cho yên đất Bắc Kỳ. Sang tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1882),
một mặt thống đốc sai hải quân đại tá Henri Rivière sắp sửa binh thuyền ra Hà
Nội; một mặt viết thư vào Huế, đại lược nói rằng : đất Bắc Kỳ loạn lạc, luật
nhà vua không ai theo. Người nước Pháp có giấy thông hành của quân An Nam cấp
cho mà đi đến đâu cũng bị quân Khách ngăn trở. Ở Huế thì quan Việt Nam thất lễ
với quan khâm sứ Rheinart. Vậy nên nước Pháp phải dùng cách để bênh vực quyền
lợi của người nước Pháp.
Được ít lâu, đại tá
Henri Rivière đem hai chiếc tàu và mấy trăm quân ra đến Hải Phòng, rồi đi tàu
nhỏ lên Hà Nội, đóng ở Đồn Thủy.
2. Hạ thành Hà-nội lần
thứ hai.
Quan tổng đốc Hà Nội bấy
giờ là ông Hoàng Diệu thấy binh thuyền nước Pháp tự nhiên ra Bắc Kỳ, lấy làm
nghi kỵ lắm, tuy có sai quan tuần phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp đãi tử tế, nhưng
trong bụng vẫn lo, cho nên mới sai sửa dọn thành trì để phòng bị. Đại tá Henri
Rivière vào thành thấy vậy có ý không bằng lòng, bèn quyết ý đánh thành.
Sáng 5 giờ ngày mồng 8
tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1882), quan tổng đốc tiếp được tờ tối hậu thư của đại tá
hạn cho đến 8 giờ phải giải binh, và các quan võ Việt Nam phải ra đợi lệnh ở
Đồn Thủy. Đúng 8 giờ thì quân Pháp khởi sự đánh thành, 11 giờ thì thành đổ. Ông
Hoàng Diệu trèo lên cây thắt cổ mà tự tận, còn các quan thì bỏ chạy cả.
Lúc tiếp được thư của
đại tá, thì ông Hoàng Diệu có sai Án sát sứ là Tôn Thất Bá ra thương thuyết.
Ông Tôn Thất Bá ở trên thành bỏ thang trèo xuống vừa xong, thì quân Pháp bắn
súng vào thành, ông ấy bỏ trốn mất. Đến khi hạ được thành rồi, đại tá sai tìm
ông Tôn Thất Bá về quyền lĩnh mọi việc 170.
Vua Dực Tông được tin
thành Hà Nội thất thủ, bèn xuống chiếu truyền cho quan kinh lược chánh phó sứ
là là ông Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên đem binh lui về mặt Mỹ Đức để cùng với
Hoàng Kế Viêm tìm cách chống giữ. Nhưng quan khâm sứ Rheinart sang thương
thuyết rằng việc đánh thành Hà Nội không phải là chủ ý của nước Pháp, và xin
sai quan ra giữ lấy thành trì. Triều đình bèn sai quan nguyên Hà Ninh tổng đốc
là Trần Đình Túc làm Khâm sai đại thần, quan Tĩnh biên phó sứ là Nguyễn Hữu Độ
làm phó khâm sai, ra Hà Nội để cùng với đại tá Henri Rivière thu xếp mọi việc.
Đại tá trả thành Hà Nội cho quan ta, nhưng vẫn đóng quân ở trong Hành cung. Hai
bên thương nghị mãi. Đại tá đòi 4 khoản :
1 - nước Nam phải nhận
nước Pháp bảo hộ
2 - phải nhường thành
thị Hà Nội cho nước Pháp
3 - đặt thương chánh ở
Bắc Kỳ
4 - sửa lại việc thương
chánh ở các nơi, và giao quyền
cho người Pháp cai quản.
Bọn ông Trần Đình Túc đệ
những khoản ấy về Kinh. Triều đình hội nghị, các quan có nhiều người nói rằng :
nước ta trong còn có Lưu Vĩnh Phúc, ngoài còn có nước Tàu, lẽ nào lại bó tay mà
chịu. Bèn trả lời không chịu.
Đến tháng 10 thì ông
Trần Đình Túc về Huế, ông Nguyễn Hữu Độ ở lại làm Hà Ninh tổng đốc.
3. Việc cầu-cứu nước
Tàu.
Triều đình ta bấy giờ
nghĩ nước Pháp cố ý chiếm đoạt, và lại tưởng rằng nước Tàu có thể bênh vực được
mình, cho nên mới sai ông Phạm Thận Duật sang Thiên Tân cầu cứu. Chẳng qua
là người mình có hay có
tính ỷ lại, cho nên mới đi kêu cầu người ta, chứ không biết rằng người Tàu giữ
nước Tàu không xong còn đi cứu ai được. Tuy vậy, không những người Tàu không
cứu được mình mà lại còn muốn nhân dịp để mượn tiếng sang lấy nước mình. Xem
như khi thành Hà nội thất thủ, quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh
làm mật sớ về tâu với vua nhà Thanh, đại lược nói rằng : "nước Nam và nước
Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ
được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ ở các tỉnh thượng
du. Đợi khi có biến thì ta chiếm lấy những tỉnh ở về phía bắc sông Hồng
Hà". Bởi vậy triều đình nhà Thanh mới sai Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng đem
quân sang đóng ở Bắc Ninh và ở Sơn Tây, sau lại sai quan bố chính Quảng Tây là
Từ Diên Húc đem quân sang tiếp ứng.
4. Quân Pháp lấy
Nam-định.
Chính phủ Pháp trước
cũng muốn thu xếp dần dần cho xong việc bảo hộ ở nước Nam, và cho khỏi sự chiến
tranh, nhưng sau thấy Triều đình ở Huế không chịu, lại thấy có quân Tàu sang
đóng ở các tỉnh, bèn một mặt sai ông Charles Thomson sang làm thống đốc Nam Kỳ,
để thay cho ông Le Myre de Vilers về Pháp; một mặt tiếp quân cho đại tá Henri
Rivière và triệu quan khâm sứ Rheinart ở Huế về.
Nguyên trước đại tá
Henri Rivière ở Hà Nội chỉ có 400 lính, sau lại tiếp được 750 người nữa, đại tá
bèn để đại úy Berthe de Villers với 400 quân ở lại giữ Hà Nội, còn bao nhiêu
đem đi đánh Nam Định. Ngày 28 tháng 2 năm Quý Mùi (1883), thì quân Pháp khởi sự
đánh thành. Đánh từ sáng dến trưa thì quân Pháp vào thành; quan tổng đốc Vũ
Trọng Bình bỏ chạy, quan đề đốc Lê Văn Điếm tử trận, quan án sát sứ Hồ Bá Ôn bị
thương.
5. Đại tá Henri Rivière
bị chết.
Quan ta thấy quân Pháp
tiến binh, và lại cậy có quân Tàu sang cứu, bèn quyết ý đổi thế hòa ra thế
công. Một mặt quan tổng đốc Bắc Ninh là Trương Quang Đản cùng với quan phó kinh
lược Bùi Ân Niên đem binh về đóng ở Giốc Gạch, thuộc huyện Gia Lâm chực sang
đánh Hà Nội. Đại úy Berthe de Villers đem quân ở Hà Nội sang đánh đuổi, quan
quân phải lui về phía Bắc Ninh. Một mặt quan tiết chế Hoàng Kế Viêm sai Lưu
Vĩnh Phúc làm tiên phong đem quân về đóng phủ Hoài Đức, để đánh quân Pháp.
Đại tá Henri Rivière lấy
xong Nam Định rồi về Hà Nội thấy quân ta và quân cờ đen sắp đến đánh, bèn
truyền lệnh tiến binh lên đánh mặt phủ Hoài Đức. Sáng hôm 13 tháng 4 thì đại tá
đem 500 quân ra đánh ở mạn Cầu Giấy, bị quân cờ đen phục ở chung quanh đổ ra
đánh, quân Pháp chết và bị thương đến non 100 người. Đại tá Henri Rivière tử
trận, đại úy Berthe de Villers bị thương nặng.
Sài Gòn được tin đại tá
Henri Rivière chết, viên thống đốc Thomson liền điện về cho chính phủ Pháp
biết. Lúc bấy giờ ở Paris hạ nghị viện còn đang do dự về việc đánh lấy Bắc Kỳ.
Khi tiếp được điện báo ở Sài Gòn về, nghị viện liền thuận cho chính phủ trích
ra 5 triệu rưỡi phật lăng để chi tiêu về việc binh phí, và lại thuận cho một
viên quan văn làm toàn quyền, sang kinh lý mọi việc ở Bắc Kỳ.
Chính phủ Pháp liền điện
sang truyền cho lục quân thiếu tướng Bouet ở Nam Kỳ ra thống đốc quân vụ ở Bắc
Kỳ, sai Hải quân thiếu tướng Courbet đem một đội chiến thuyền sang tiếp ứng và
lại cử ông Harmand là sứ thần Pháp ở Tiêm La ra làm toàn quyền.
Ngày mồng 3 tháng 5, thì
thiếu tướng Bouet đem 200 lính tây, 300 lính tập ra đến Hải Phòng. Lập tức
thiếu tướng sửa sang sự chống giữ ở Hà Nội và Nam Định, và lại cho Georges Vlavianos
(ông Kiều) là người theo Đồ Phổ Nghĩa ngày trước, được phép mộ lính cờ vàng đi
làm tiền quân.
Quan ta đem quân về đánh
quân Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng và ở Nam Định, nhưng chỗ nào cũng thất bại.
Quân ta bấy giờ không có
thống nhất, ai đứng lên mộ được năm ba trăm người cho mang gươm mang giáo đi
đánh, hễ phải độ vài ba phát đạn trái phá thì xô đẩy nhau mà chạy; còn quân của
nhà vua thì không có luyện tập, súng đại bác toàn là súng cổ, súng tay thì ít
và xấu. Như thế thì chống làm sao được với quân Pháp là quân đã quen đánh trận
và lại có đủ súng ống tinh nhuệ?
Bấy giờ cuộc hòa đổi ra
chiến, súy phủ ở Sài Gòn đuổi quan lĩnh sự Việt Nam là ông Nguyễn Thành Ý về
Huế. Trong khi việc nước đang rối cả lên như thế, thì vua Dực Tông mất.
Ngài mất ngày 16 tháng 6
năm Quý Mùi (1883), trị vì được 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Dực Tông Anh
Hoàng Đế.
CHƯƠNG XII
Cuộc Bảo Hộ Của Nước
Pháp
1. Sự phế lập ở Huế :
vua Hiệp Hòa.
2. Quân Pháp lấy cửa
Thuận An.
3. Hòa ước năm Quý Mùi
(1883).
4. Việc ở Bắc Kỳ.
5. Vua Hiệp Hòa bị giết.
6. Vua Kiến Phúc.
7. Sự đánh lấy các tỉnh
ở Bắc Kỳ.
8. Lấy tỉnh Sơn Tây.
9. Lấy thành Bắc Ninh.
10. Lấy Hưng Hóa.
11. Lấy Tuyên Quang.
12. Hòa ước Fournier.
13. Hòa ước Patenôtre
tháng 6 năm Giáp Thân.
14. Việc Triều chính ở
Huế.
15. Vua Hàm Nghi.
1. Sự phế lập tại Huế:
Vua Hiệp Hòa.
Bản triều nhà Nguyễn
truyền ngôi đến hết đời vua Dực Tông thì mất quyền tự chủ. Nước Nam từ đó thuộc
về nước Pháp bảo hộ. Nghĩa là ngôi nhà vua tuy vẫn còn, nhưng quyền chính trị
phải theo chính phủ Bảo Hộ xếp đặt.
Ấy cũng vì thời đại biến
đổi mà người mình không biết biến đổi, cho nên nước mình mới thành ra suy đồi.
Vả lúc ấy ở ngoài Bắc Kỳ thì rối loạn, ở trong Triều thì quyền thần chuyên chế,
bởi vậy cho nên lại sinh ra lắm việc khó khăn 171 .
Vua Dực Tông không có
con, nuôi 3 người cháu làm con nuôi : trưởng là ông Dục Đức 172,
phong Thụy quốc công, thứ là ông Chánh Mông, phong Kiên giang quận công, ba là
ông Dưỡng Thiện. Khi ngài sắp mất, có để di chiếu nói rằng : đức tính ông Dục
Đức không đáng làm vua, mà ý ngài muốn lập ông Dưỡng Thiện, nhưng vì ông ấy còn
bé, mà việc nước cần phải có vua lớn tuổi, cho nên phải lập con trưởng. Ngài
lại cho Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết làm phụ chính.
Được ba ngày thì Nguyễn
Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đổi tờ di chiếu, bỏ ông Dục Đức mà lập em vua Dực
Tông là Lạng quốc công lên làm vua. Triều thần ngơ ngác, không ai dám nói gì,
chỉ có quan ngự sử Phan Đình Phùng đứng dậy can rằng : "Tự quân chưa có
tội gì mà làm sự phế lập như thế thì sao phải lẽ". Nguyễn Văn Tường và Tôn
Thất Thuyết truyền đem bắt giam Phan Đình Phùng, rồi cách chức đuổi về.
Lạng quốc công, húy Hồng
Dật lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Hòa. Còn ông Dục Đức thì đem giam ở Dục
Đức giảng đường.
2. Quân Pháp lấy cửa
Thuận An.
Vua Hiệp Hòa vừa lập
xong, thì viên Toàn quyền mới là ông Harmand đến Hải Phòng, rồi hội hải quân
thiếu tướng Courbet và lục quân thiếu tướng Bouet, để bàn định mọi việc.
Định một mặt thì thiếu
tướng Bouet đem quân lên đánh lấy đồn phủ Hoài; một mặt thì thiếu tướng Courbet
đem tàu vào đánh lấy cửa Thuận An, để bắt triều đình phải nhận nước Pháp bảo
hộ.
Ngày 12 tháng 7, thiếu
tướng Bouet lên đánh quân Cờ Đen ở mạn làng Vòng. Hai bên đánh nhau non ba ngày
trời. Sau quân Cờ Đen phải lùi lên đóng ở Đồn Phùng. Nhưng vì lúc bấy giờ nước
lũ lên to, đê vỡ nên quân Pháp không tiến lên được.
Ngày 16, lục quân trung
tá Brionval ở Hải Phòng đem quân lên lấy thành Hải Dương.
Quân Pháp tuy thắng,
nhưng quân Cờ Đen còn mạnh, nên chi thiếu tướng Bouet phải điện về Paris xin
thêm quân tiếp ứng.
Trong khi lục quân thiếu
tướng Bouet tiến quân đánh tại Bắc Kỳ, thì hải quân thiếu tướng Courbet cùng
với viên toàn quyền Harmand đem tàu vào đánh cửa Thuận An, từ ngày 15 đến ngày
18 tháng bảy thì thành Trấn Hải vỡ. Quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận,
Lâm Hoành, Trần Thúc Nhân thì nhảy xuống sông tự tử.
3. Hòa ước năm quý-mùi
(1883).
Triều đình thấy sự nguy
cấp, liền sai quan ra xin hòa. Viên toàn quyền Harmand bắt quan ta phải giải
binh cả mọi nơi, rồi cùng với ông De Champeaux lên Huế để nghị hòa. Triều đình
sai quan Hiệp biện hưu trí là Trần Đình Túc làm khâm sai toàn quyền, và Nguyễn
Trọng Hợp làm phó, để cùng với quan Pháp hội nghị.
Ngày 23 tháng 7 thì tờ
hòa ước lập xong, có chữ ông Harmand, ông De Champeaux, ông Trần Đình Túc và
ông Nguyễn Trọng Hợp cùng ký.
Tờ Hòa ước có 27 khoản :
- Khoản thứ nhất nói rằng : Nước Nam chịu nhận nước Pháp bảo hộ, có việc gì
giao thiệp với ngoại quốc thì phải do nước Pháp chủ trương. - Khoản thứ hai :
Tỉnh Bình Thuận thuộc về Nam Kỳ. - Khoản thứ ba : Quân Pháp đóng giữ ở núi đèo
Ngang và ở Thuận An. - Khoản thứ sáu : Từ tỉnh Khánh Hòa ra đến đèo Ngang thì
quyền cai trị thuộc về Triều đình.
Những khoản sau nói rằng
viên khâm sứ ở Huế được quyền tự do ra vào yết kiến nhà vua. Còn đất Bắc Kỳ kể
từ đèo Ngang trở ra thì nước Pháp đặt công sứ 173 ở các
tỉnh để kiểm soát những công việc của quan Việt Nam. Nhưng người Pháp không dự
vào việc cai trị ở trong hạt.
Từ hòa ước ký xong, gửi
về Paris để chính phủ duyệt y, rồi mới hỗ giao, nghĩa là mới tuyên cáo cho thiên
hạ biết. Ông De Champeaux ở lại Huế làm khâm sứ, viên toàn quyền Harmand ra Bắc
Kỳ để kinh lý việc đánh dẹp.
4. Việc ở Bắc Kỳ.
Triều đình ở Huế nhận
hòa ước xong rồi, sai quan Lại bộ thượng thư Nguyễn Trọng Hợp làm Khâm sai đại
thần, quan Công bộ Thượng thư Trần Văn Chuẩn và quan Lại bộ tham tri Hồng Phi
làm phó khâm sai, ra Bắc Kỳ để cùng với viên Toàn quyền Harmand hiểu dụ nhân
dân và bãi quân thứ ở các nơi.
Bấy giờ ở Bắc Kỳ có quan
nhà Thanh là Dương Cảnh Tùng đóng ở Sơn Tây, Từ Diên Húc đóng ở Bắc Ninh, lại
có quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đóng ở đồn Phùng.
Triều đình tuy có chỉ ra
truyền cho quan ta phải rút quân về Huế, nhưng quan ta còn nhiều người muốn ỷ
nước Tàu mà chống giữ với quân Pháp, cho nên không ai phụng chỉ. Bởi vậy cuộc
chiến tranh ở Bắc Kỳ mãi không xong được.
5. Vua Hiệp Hòa bị giết.
Trong Huế thì vua Hiệp
Hòa cũng muốn nhận chính sách bảo hộ để cho yên ngôi vua, nhưng các quan có
nhiều người không chịu, và lại thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên
chế thái quá, muốn dùng kế mà trừ bỏ đi, bèn đổi Nguyễn Văn Tường sang làm Binh
bộ Thượng thư, Tôn Thất Thuyết làm Lại bộ Thượng thư, để bớt binh quyền của Tôn
Thất Thuyết.
Hai người thấy vua có
lòng nghi, sợ để lâu thành vạ, bèn vào tâu với bà Từ Dụ Thái hậu để lập ông
Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba vua Dực Tông, rồi bắt vua Hiệp Hòa đem ra phủ
ông Dục Đức cho uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Hòa làm vua được hơn 4 tháng, sử
gọi là Phế Đế.
Nguyễn Văn Tường và Tôn
Thất Thuyết đã giết vua Hiệp Hòa rồi, lại thấy quan Phụ chính Trần Tiễn Thành
không theo ý mình, cũng sai người giết nốt.
6. Vua Kiến Phúc.
Ngày mồng 7 tháng 10 năm
Quý Mùi (1883), ông Dưỡng Thiện, húy là Ưng Đăng lên ngôi làm vua, đặt niên
hiệu là Kiến Phúc. Bấy giờ ngài mới có 15 tuổi, việc gì cũng ở Nguyễn Văn Tường
và Tôn Thất Thuyết quyết định cả.
Bắc Kỳ thì Hoàng Kế Viêm
còn đóng tại Sơn Tây, Trương Quang Đản còn đóng tại Bắc Ninh, cùng với quân Tàu
chống giữ quân Pháp. Viên khâm sứ ở Huế lấy điều đó trách Triều đình. Triều
đình lại có dụ ra truyền cho Hoàng Kế Viêm và Trương Quang Đản phải về kinh.
Các quan bấy giờ cũng có
ông về, cũng có ông nạp ấn trả Triều đình, rồi hoặc đi chiêu mộ những người
nghĩa dũng, hoặc đi theo quan nhà Thanh, để chống nhau với quân Pháp. Bấy giờ
có quan đề đốc Nam Định là Tạ Hiện lĩnh chức đề đốc của Tàu, và quan án sát sứ
Phạm Vụ Mẫn và quan tri phủ Kiến Xương Hoàng Văn Hòe bỏ chức mà đi; quan tán
tương quân vụ ở Sơn Tây là Nguyễn Thiện Thuật bỏ về Hải Dương, đi mộ quân để
chống giữ với quân Pháp.
7. Sự đánh lấy các tỉnh
ở Bắc Kỳ.
Viên Toàn quyền Harmand
ra Bắc Kỳ sửa sang sự cai trị, lập ra những đội lính tuần cảnh, tục gọi là lính
khố xanh, để phòng giữ các nơi, và bãi lính cờ vàng của thiếu tướng Bouet đã
cho mộ được mấy trăm, vì những lính ấy hay cướp phá dân gian. Nhưng vì viên
Toàn quyền xâm vào quyền quan binh, cho nên thiếu tướng Bouet lấy làm bất bình.
Ngày mồng một tháng 8,
thiếu tướng đem quân lên đánh Cờ Đen ở đồn Phùng. Hai bên đánh nhau rất dữ.
Quân Cờ Đen tuy phải lui, nhưng chưa thực thua. Thiếu tướng thấy đánh giặc chưa
được và lại có ý bất hòa với viên Toàn quyền, bèn xin về Pháp, giao binh quyền
lại cho đại tá Bichot.
Được ít lâu, có quân
tiếp ở Sài Gòn ra, đại tá Bichot bèn vào lấy tỉnh Ninh Bình.
8. Lấy Sơn Tây.
Ngày 25 tháng 9, chính
phủ Pháp điện sang cho hải quân thiếu tướng Courbet làm thống đốc quân vụ, kiêm
chức Toàn quyền ở Bắc Kỳ. Viên nguyên Toàn Quyền Harmand xin về Pháp.
Từ đó việc binh nhung,
việc cai trị và việc giao thiệp, ở cả tay thiếu tướng Courbet. Trong khi thiếu
tướng còn phải sửa sang mọi việc và đợi quân tiếp ở Pháp sang thì quan ta đem
quân về đánh Hải Dương, đốt cả phố xá. Quan Pháp nghi tỉnh thần thông với văn
thân, bèn bắt đầy vào Côn Lôn.
Đến khi thiếu tướng tiếp
được quân ở bên Pháp sang, số quân Pháp ở Bắc Kỳ bấy giờ được hơn 9000 người,
thiếu tướng chia ra làm hai đạo, đem cả thủy bộ tiến lên đánh thành Sơn Tây.
Đánh từ sáng ngày 13 đến hết ngày 16 mới hạ được thành. Quân Cờ Đen chống giữ
hăng lắm, nhưng quân ta và quân Tàu thấy súng của Pháp bắn lên mạnh quá, đều bỏ
thành rút lên mạn ngược, quân Cờ Đen cũng phải chạy theo. Trận ấy quân Pháp bị
83 người tử trận và 319 người bị thương.
9. Lấy thành Bắc Ninh.
Quân Pháp tuy đã lấy
dược Sơn Tây, nhưng quân Tàu càng ngày càng sang đông, thiếu tướng phải chờ có
quân tiếp thêm mới đi đánh chỗ khác. Bên Pháp lại sai một lữ đoàn174 sang
Bắc Kỳ và sai lục quân trung tướng Millot sang làm thống đốc quân vụ thay cho
hải quân thiếu tướng Courbet.
Ngày 16 tháng giêng năm
Giáp Thân (1884), thống tướng Millot sang nhậm chức, thiếu tướng Courbet được
thăng lên hải quân trung tướng và lại ra coi hải quân để giữ mặt bể. Bấy giờ
quân Pháp cả thảy được hơn 1 vạn 6 nghìn người và 10 đội pháo thủ, chia làm 2
lữ đoàn. Một lữ đoàn ở bên hữu ngạn sông Hồng Hà thì đóng ở Hà Nội, có thiếu
tướng Brière de l'Isle coi; một lữ đoàn ở bên tả ngạn sông Hồng Hà, thì đóng ở
Hải Dương, có thiếu tướng De Négrier coi.
Bấy giờ con đường từ Hà
Nội sang Bắc Ninh, chỗ nào cũng có quân Tàu và quân ta đóng. Thống tướng Millot
bèn truyền lệnh cho thiếu tướng Brière de l'Isle đem quân qua sông Hồng Hà, rồi
theo sông Đuống (tức là sông Thiên Đức) đi về phía đông. Còn toán quân của
thiếu tướng De Négrier ở Hải Dương, đi tàu đến Phả Lại lên bộ, để tiếp vào với
toán quân của thiếu tướng Brière de l'Isle, rồi cả thủy bộ theo sông Cầu (sông
Nguyệt Đức) tiến lên đánh Bắc Ninh.
Hai bên khởi sự đánh
nhau từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 16, thì lấy được Đáp Cầu. Quân Tàu thấy quân
Pháp chặn mất đường lên Lạng Sơn, bèn bỏ Bắc Ninh rút lên mạn Thái Nguyên. Tối
ngày 16, thì quân Pháp vào thành Bắc Ninh. Trận ấy quân Pháp chỉ mất có 8 người
và 40 bị thương mà thôi.
Thiếu tướng Brière de
l'Isle đem quân lên đánh Yên Thế, rồi đến ngày 23 thì lên lấy thành Thái
Nguyên.
10. Lấy Hưng Hóa. Hạ
dược thành Bắc Ninh và thành Thái Nguyên rồi, quân Pháp quay về mạn sông Hồng
Hà để đánh lấy Hưng Hóa và Tuyên Quang. Thiếu tướng Brière de l'Isle đem lữ
đoàn thứ nhất theo con đường Sơn Tây lên Hưng Hóa, rồi dàn trận ở bên này sông
Đà Giang. Hai bên khởi sự đánh nhau từ sáng ngày rằm tháng 3, đến 2 giờ chiều
ngày hôm ấy thì quân Pháp sang sông ở chỗ gần địa hạt huyện Bất Bạt. Chín giờ
sáng ngày 16, thì thiếu tướng De Négrier đem lữ đoàn thứ nhì tiếp đến, cả hai
lữ đoàn cùng hợp lực tiến lên đánh. Quân Tàu và quân Cờ Đen thấy thế không
chống được, bèn đốt cả phố xá, rồi bỏ thành Hưng Hóa rút lên mạn ngược. Còn bọn
ông Hoàng Kế Viêm thì kéo lên mạn núi, rồi đi đường thượng đạo rút về Kinh.
Trưa ngày 17 thì quân Pháp vào thành Hưng Hóa. Lập tức thiếu tá Coronnat đem
một toán quân lên đánh phá đồn Vàng.
11. Lấy Tuyên Quang.
Lấy xong Hưng Hóa rồi,
chỉ còn có thành Tuyên Quang là chỗ quân Cờ Đen còn đóng giữ. Thống tướng
Millot bèn sai quân đem tàu đi dò xem sông Lô Giang tàu thủy lên được đến đâu.
Đoạn rồi sai trung tá Duchesne đem đạo quân ở Hưng Hóa và một đội năm chiếc tàu
binh lên đánh Tuyên Quang. Quân của trung tá Duchesne đóng ở Việt Trì khởi hành
từ hôm mồng 3 tháng 5 đến ngày mồng 8 thì đến Tuyên Quang. Chỉ đánh độ một giờ
đồng hồ thì quân Cờ Đen bỏ thành chạy.
12. Hòa ước Fournier.
Bấy giờ tuy các tỉnh ở
mạn trung châu đất Bắc Kỳ đều thuộc về quan Pháp cai quản cả, nhưng quân Tàu
còn đóng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và mạn Lào Kay. Bởi vậy chính phủ Pháp muốn dùng
cách giao thiệp mà trang trải với nước Tàu, để chính phủ Tàu nhận cuộc bảo hộ
của nước Pháp ở nước Nam cho xong. Lại nhân bấy giờ có hải quân trung tá Pháp
tên là Fournier quen một người nước Đức tên là Détring làm quan bên Tàu coi
việc thương chánh ở Quảng Đông. Détring vốn thân với quan tổng đốc Trực lệ là
Lý Hồng Chương. Một hôm Détring gặp trung tá Fournier nói chuyện việc hòa với nước
Tàu. Détring điện về cho Lý Hồng Chương biết. Hai bên đều có ý muốn hòa cho êm
chuyện.
Chính phủ Pháp bèn sai
trung tá Fournier lên Thiên Tân để cùng với Lý Hồng Chương nghị hòa. Đến ngày
18 tháng 4 năm Giáp Thân (1884), thì lập xong tờ hòa ước. Đại lược nói rằng
nước Tàu thuận rút quân đóng ở Bắc Kỳ về, và từ đấy về sau chính phủ Tàu thuận
nhận tờ giao ước của nước Pháp lập với nước Nam. Nghĩa là nước Tàu để cho nước
Pháp được tự do xếp đặt mọi việc ở đất Việt Nam.
13. Hòa ước Patenôtre
tháng 5 Giáp Thân (1884).
Tờ giao ước ký xong thì
trung tá Fournier điện cho thống tướng Millot ở Bắc Kỳ biết sự hòa ước đã xong,
mà quân Tàu ở Bắc Kỳ phải rút về.
Lúc bấy giờ công sứ nước
Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre ở bên Pháp sang, đi qua đến Sài Gòn, chính phủ
ở Paris điện sang sai ông ấy ra Huế sửa lại tờ hòa ước của ông Harmand đã ký
ngày 23 tháng 7 năm Quý Mùi (1883).
Ông Patenôtre và ông
Rheinart ra Huế cùng với Triều đình thương nghị mấy ngày, rồi đến ngày 13 tháng
5 năm Giáp Thân là ngày mồng 6 tháng sáu năm 1884, ông Patenôtre cùng với ông
Nguyễn Văn Tường, ông Phạm Thuận Duật và ông Tôn Thất Phan ký tờ hòa ước mới.
Cả thảy có 19 khoản, đại để thì cũng như tờ hòa ước của ông Harmand, chỉ đổi có
mấy khoản nói về tỉnh Bình Thuận và 3 tỉnh ở ngoài đèo Ngang là Hà Tĩnh, Nghệ
An, Thanh Hóa vẫn thuộc về Trung kỳ.
Tờ hòa ước ký xong, ông
Rheinart ở lại làm Khâm sứ ở Huế, và ông Patenôtre hội cả các quan, bắt đem cái
ấn của Tàu phong cho vua Việt Nam thụt, bễ nấu lên mà hủy đi, nghĩa là từ đó
nước Nam thuộc về nước Pháp bảo hộ, chứ không thần phục nước Tàu nữa.
Hòa ước ký năm Giáp Thân
là năm 1884, là hòa ước của Triều đình ở Huế ký với nước Pháp công nhận cuộc
bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm hai khu vực là Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tuy hai
kỳ cũng thuộc về quyền bảo hộ của nước Pháp, nhưng mỗi kỳ có một cách cai trị
khác. Về sau dần dần hòa ước năm 1884 cũng mất cả ý nghĩa, và thực quyền về
chính phủ bảo hộ hết cả. Triều đình ở Huế chỉ giữ cái hư vị mà thôi.
Nước Việt Nam trước kia,
từ Nam chí Bắc là một, có cái tính cách duy nhất hơn cả các nước khác. Văn hóa,
lịch sử, phong tục, ngôn ngữ đều là một cả, mà nay thành ra ba xứ : Nam Kỳ,
Trung Kỳ và Bắc Kỳ; mỗi kỳ có một chính sách riêng, luật lệ riêng như ba nước
vậy. Thậm chí lúc đầu người kỳ này đi sang kỳ kia phải xin giấy thông hành mới
đi được. Kỳ nghĩa là xứ, là khu trong một nước, chứ không có nghĩa là nước.
Một nước mà tam phân ngũ
liệt ra như thế, thật là một mối đau lòng cho người Việt Nam là dân một nước đã
có một lịch sử vẻ vang hàng mấy nghìn năm.
14. Việc Triều Chính ở
Huế.
Triều đình lúc bấy giờ
việc gì cũng do hai quan phụ chính là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết định
đoạt.
Tôn Thất Thuyết là người
tính nóng nảy, dữ dội, ai cũng khiếp sợ. Nhưng tài năng thì kém, mà lại nhát
gan, cho nên đa nghi và hay chém giết. Nguyễn Văn Tường là người ở Quảng Trị,
thi đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ 5, thật là một người có tài trí, giỏi nghề giao
thiệp, nhưng chỉ có tính tham lam và lại tàn nhẫn.
Hai ông ấy chuyên giữ
triều chính. Quan lại thì ở tay ông Tường, binh quyền thì ở tay ông Thuyết.
Nhưng mà thường việc gì cũng do ở ông Thuyết xui khiến cả. Trong Triều từ hoàng
thân quốc thích cho đến các quan, ai có điều gì trái ý hai ông ấy là bị giam ở
chấp hay là chém giết cả.
Ông Thuyết thì mộ quan
phản nghĩa để giữ mình, và thường hay tiếm dụng nghi vệ của vua; ông Tường thì
chịu tiền hối lộ của những người Khách, cho chúng nó đem tiền sềnh, là một thứ
tiền niên hiệu Tự Đức, mỏng và xấu, đúc ở bên Tàu đem sang, bắt dân phải tiêu.
Ai không tiêu thì phải tội. Vả lúc ấy vua hãy còn trẻ tuổi chưa biết gì, cho
nên hai ông ấy lại càng chuyên chế lắm nữa.
Vua Kiến Phúc lên ngôi
vừa được hơn 6 tháng, đến ngày mồng 6 tháng 4 năm Giáp Thân (1884) thì phải
bệnh mất 175, miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng Đế.
15. Vua Hàm Nghi.
Vua Kiến Phúc mất, đáng
lẽ ra con nuôi thứ hai của vua Dực Tông là ông Chánh Mông lên nối ngôi thì
phải. Nhưng Tường và Thuyết không muốn lập người lớn tuổi, sợ mình mất quyền,
bèn chọn người con ông Chánh Mông là ông Ưng Lịch, mới 12 tuổi, lập lên làm
vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi.
Viên Khâm sứ Rheinart
trước đã tư giấy sang cho Triều đình Huế rằng : Nam triều có lập ai làm vua,
thì phải xin phép nước Pháp mới được. Nhưng Tường và Thuyết cứ tự tiện lập vua,
không cho viên Khâm sứ biết.
Viên Khâm sứ thấy vậy,
viết thư ra Hà Nội. Thống tướng Millot bèn sai chức tham mưu là đại tá Guerrier
đem 600 quân và một đội pháo binh vào Huế, bắt Triều đình phải xin phép lập ông
Ưng Lịch lên làm vua. Tường và Thuyết làm tờ xin phép bằng chữ nôm gửi sang bên
Khâm sứ. Viên Khâm sứ không nghe, bắt phải làm bằng chữ nho. Đến ngày 27 tháng
6, đại tá và viên Khâm sứ đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm
Nghi. Xong rồi quan Pháp lại trở ra Hà Nội.
CHƯƠNG XIII Chiến Tranh
Với Nước Tàu
1. Trận Bắc Lệ.
2. Đánh Phúc Châu và vây
Đài Loan.
3. Trận đồn Chữ và đồn
Kép.
4. Trận Yên Bạc.
5. Lấy thành Lạng Sơn.
6. Thành Tuyên Quang bị
vây.
7. Mất thành Lạng Sơn.
8. Hòa ước Thiên Tân.
1. Trận Bắc Lệ.
Tại Bắc Kỳ thì quân Pháp
tưởng là việc hòa ước với nước Tàu đã xong, chỉ còn đợi ngày quân Tàu rút về,
thì lên thu nhận lấy thành Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Kay. Cứ theo tờ hòa ước
của trung tá Fournier ký ở Thiên Tân, thì vào chừng rằm tháng 5 quân Tàu ở Lạng
Sơn, Thất Khê và Cao Bằng phải rút về. Vậy đến cuối tháng 5, thì thống tướng
Millot sai trung tá Dugenne đem 1000 quân lên thu lại các thành ấy. Ngày mồng
một tháng 5 nhuận thì quân Pháp lên đến đồn Bắc Lệ. Khi quân Pháp sang sông
Thương, thì quân Tàu bắn vào quân Pháp, phải 3 người bị thương. Được một chốc
bên quân Tàu sai người đưa thư nói rằng đã biết có hòa ước, nhưng chưa được
lệnh rút quân về, vậy xin hoãn lại 6 ngày để đợi lệnh Bắc Kinh. Trung tá
Dugenne không chịu; đến quá trưa, trung tá cho người đưa thư sang bảo quân Tàu
rằng : trong một giờ nữa mà quân Tàu không rút về thì quân Pháp cứ việc tiến
lên. Đoạn rồi trung tá truyền lệnh tiến binh; đi được một lúc, thì quân Tàu
phục hai bên đường bắn ra. Quân Pháp dàn trận đánh nhau đến tối. Sáng ngày hôm
sau, quân Pháp thấy quân Tàu sắp vây cả bốn mặt, bèn rút quân về bên này sông
Thương, để đợi quân cứu viện ở Hà Nội lên. Trận ấy quân Pháp bị 28 người tử
trận, 46 người bị thương, còn những phu phen chết không biết bao nhiêu mà kể.
Thống tướng Millot tiếp
được tin quân Pháp thua ở Bắc Lệ, liền sai thiếu tướng De Négrier đem 2 đại đội
quân bộ, 2 đội pháo binh và một toán công binh đi đường Phủ Lạng Thương qua
làng Kép, lên tiếp ứng cho trung tá Dugenne. Khi tiếp được quân của trung tá
rồi, thiếu tướng Millot triệu thiếu tướng De Négrier về Hà Nội, để chờ lệnh và
quân ở bên Pháp sang.
2. Đánh Phúc Châu và vây
Đài Loan.
Chính phủ bên Pháp tiếp
được sự khai chiến ở Bắc Kỳ, liền điện truyền cho hải quân trung tướng Courbet
đem tàu sang đóng gần thành Phúc châu là tỉnh lị Phúc Kiến, và lại cho ông
Patenôtre là công sứ Pháp ở Bắc Kinh đòi nước Tàu phải trả 250 triệu tiền binh
phí về việc chiến tranh ở Bắc Kỳ. Chính phủ 2 nước thương thuyết mãi, đến ngày
29 tháng 6, thì chính phủ Pháp gửi tờ tối hậu thư đòi nước Tàu 80 triệu phật
lăng tiền binh phí, hạn cho trả làm 10 năm. Đến ngày mồng ba tháng 7 năm Giáp
Thân (1884), thì hải quân trung tướng được lệnh khởi sự đánh Phúc châu.
Trung tướng truyền lệnh
cho các chiến thuyền bắn lên các pháo đài và phá các xưởng làm binh khí ở Phúc
Châu, và lại đánh cả chiến thuyền của Tàu đóng ở trong sông Mân Giang. Trung
tướng bắn phá ở Phúc Châu rồi đem binh thuyền ra vây đánh đảo Đài Loan.
Hải quân của Pháp vây
Đài Loan và các cửa bể mãi đến tháng 6 năm Ất Dậu (1885), nước Tàu ký hòa ước
rồi, mới thôi.
3. Trận Đồn Chũ và Đồn
Kép.
Trong khi hải quân của
Pháp đánh phá ở mặt bể, quân Tàu ở quảng Đông, Quảng Tây kéo sang Bắc Kỳ càng
ngày càng nhiều, mà quân tiếp ứng của Pháp mãi không thấy sang, đến trung tuần
tháng 7, thống tướng Millot bèn cáo bệnh xin về, giao quyền lại cho thiếu tướng
Brière de l'Isle.
Được ít lâu, thiếu tướng
Brière de l'Isle tiếp được 6 nghìn quân ở Pháp sang, số quân bấy giờ cả thảy
được non 2 vạn người, thiếu tướng bèn chia ra làm 4 đạo để đi đánh quân Tàu và
quân ta; thiếu tá Servière đem một đạo quân lên mạn Đông Triều; trung tá
Donnier đem một đạo quân theo sông Lục Nam đến đánh đồn Chũ và đồn Đầm; trung
tá Defoy đem một đạo quân lên mạn sông Thương; thiếu tá Mibielle và thiếu tướng
De Négrier thì đóng đại đồn ở Lạng Thương. Ngày 20 tháng 8, quân Pháp tiến lên
đóng đồn Chũ, đồn Bảo Lạc và đồn Kép. Quân Tàu chống lại được một ngày, mà quân
hai bên đánh nhau ở đồn Kép hăng hơn cả. Quân Tàu chết có đến 2 000 người; còn
bên quân Pháp thì thiếu tướng De Négrier bị thương ở chân, 27 người tử trận và
100 người bị thương. Quân Tàu chết hại mất nhiều người, phải bỏ đồn Kép, đồn
Bảo Lạc và đồn Chũ chạy lui trở về.
Mạn đông bắc, quân Tàu
đã lui, thiếu tướng Brière de l'Isle bèn sai đại tá Duchesne đem 700 quân lên
đánh quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc ở mạn Tuyên Quang và lại sai trung tá Berger
đem quân lên giữ Thái Nguyên.
4. Trận Yên Bạc.
Quân Tàu tuy đã thua ở
đồn Chũ và đồn
Kép, nhưng vẫn còn đóng
ở địa hạt Lạng Sơn và Quảng Yên. Đến trung tuần tháng 11, quân Tàu lại về đóng
ở An Châu, thiếu tướng De Négrier đem quân bộ và quân pháo binh đi theo tả ngạn
sông Lục Nam lên đánh quân Tàu ở núi Bóp. Quân Tàu chết đến hơn 600 người, quân
Pháp thiệt hại mất 19 người tử trận và 65 người bị thương.
5. Lấy thành Lạng Sơn.
Đầu năm 1885 là quãng
tháng 11 năm Giáp Thân, thiếu tướng Brière de l'Isle được thăng chức trung tướng
và lại tiếp tục được hơn 1 000 quân ở bên Pháp sang. Qua tháng chạp ta, trung
tướng mộ non 7 000 phu để tải đồ và đem 7 500 quân, chia ra làm 2 đạo để đánh
Lạng Sơn. Đạo thứ nhất thì thuộc quyền thiếu tướng De Négrier, đạo thứ nhì thì
thuộc quyền đại tá Giovanninelle.
Con đường đi từ Kép đến
Lạng Sơn là đường hẻm trong núi, mà chỗ nào cũng có quân Tàu đóng, cho nên quân
Pháp mới dùng kế đánh ngang từ đồn Chũ đánh lại, để lấy đồn Tuần Muội 176.
Thiếu tướng De Négrier trước đã lên đồn Kép, dương thanh thế tiến binh, rồi lẻn
về đồn Chũ đem quân qua đèo Vân, lấy đồn Đồng Sơn tức là đồn Sung, rồi sang lấy
đồn Tuần Muội. Quân Tàu đang giữ ở mạn Bắc Lệ, thấy quân Pháp đã chặn mất đường
về, liền rút quân chạy. Thiếu tướng De Négrier đem quân đánh tràn lên đến Lạng
Sơn, trưa hôm 29 tháng chạp thì lấy được thành. Đánh từ ngày 25 đến 29 tháng
chạp, quân Pháp thiệt mất 40 người tử trận và 22 người bị thương.
Lấy xong thành Lạng Sơn,
quân Pháp nghỉ ngơi mấy ngày, rồi lại tiến lên đánh Đồng Đăng. Quân Tàu chạy
phân làm hai ngả : một ngả chạy lên Thất khê, một ngả chạy lên ải Nam Quan về
Tàu. Đến ngày mồng 8 tháng giêng năm Ất Dậu (1885), thì thiếu tướng De Négrier
lên đến cửa Nam Quan, truyền phá ải quan, rồi trở về giữ Lạng Sơn.
6. Thành Tuyên Quang bị
vây.
Khi quân Pháp đi đánh
mặt Lạng Sơn, thì quân Tàu và quân Cờ Đen ở mạn sông Hồng Hà và sông Lô Giang
lại kéo về đánh Tuyên Quang. Bấy giờ quân Pháp ở trong thành cả thảy độ hơn 600
người, thuộc quyền thiếu tá Dominé. Từ đầu tháng mười năm Giáp Thân (1884),
quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đã kéo về đóng ở gần phủ Yên Bình và phủ Đoan
Hùng. Đến tháng 11 thì quân Tàu giữ các chỗ hiểm yếu, để chặn đường không cho
quân Pháp ở trung châu lên tiếp ứng, rồi Lưu Vĩnh Phúc đem quân lên đánh thành
Tuyên Quang; đánh mãi đến 15 tháng chạp mới vây được thành. Quân Cờ Đen dùng đủ
kế dể phá thành, mà quân Pháp ở trong thành cũng cố hết sức để chống giữ.
Lúc ấy quân Pháp đã lấy
được thành Lạng Sơn rồi, trung tướng Brière de l'Isle liền để thiếu tướng De
Négrier ở lại giữ thành, đến ngày mồng 2 tết đem quân đi đường đồn Chũ về Hà
Nội, rồi lập tức lên cứu Tuyên Quang. Ngày 13 tháng giêng năm Ất Dậu thì lên
đến Đoan Hùng rồi sang sông Chảy. Quân Tàu và quân Pháp giao chiến từ đó cho
đến ngày 16, mới giải được vây. Trận ấy quân hai bên thiệt hại cũng nhiều,
nhưng quân Tàu không địch được quân Pháp, phải vội vàng giải vây mà rút lên mạn
ngược.
7. Mất thành Lạng Sơn.
Thành Tuyên Quang vừa
giải vây xong, thì ở Lạng Sơn lại khởi sự giao chiến. Quân Tàu tuy đã thua phải
bỏ thành Lạng Sơn, nhưng quan đề đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài vẫn đóng đại đồn
ở Long Châu, chực sang đánh lấy lại Lạng Sơn.
Ngày mồng 6 tháng 2 năm
Ất Dậu (1885), quân Tàu sang đánh Đồng Đăng, thiếu tướng De Négrier đem quân
lên cứu, rồi chực đánh sang Long Châu. Quân Pháp đánh trong 2 ngày, chết hại
mất non 200 người. Đến mồng 8, thiếu tướng rút quân về Lạng Sơn, còn những
người bị thương thì đem về đồn Chũ. Quân Pháp đóng ở Lạng Sơn bấy giờ có 35 000
người.
Ngày 13 thì quân Tàu
tràn sang đánh Kỳ Lừa, thiếu tướng De Négrier bị thương nặng, phải giao quyền
lại cho trung tá Herbinger để chống với quân địch. Nhưng bấy giờ quân Tàu sang
đông quá, trung tá phải bỏ thành Lạng Sơn rút về Tuần Muội, rồi về đồn Chũ và
đồn Kép.
Trung tướng Brière de
l'Isle tiếp được tin bại trận ở Lạng Sơn, liền điện cho chính phủ Pháp để xin
tiếp quân sang cứu viện, và lập tức đi tàu lên đồn Chũ để phòng sự chống giữ.
Quân Tàu lấy được Lạng
Sơn rồi chia quân giữ các chỗ hiểm yếu, chứ không dám đuổi xa. Còn ở mạn sông
Hồng Hà, thì quân Cờ Đen và quân của các quan cựu thần thì về đánh phá ở mạn
gần Hưng Hóa và Lâm Thao.
8. Hòa Ước Thiên Tân.
Bên Pháp tiếp được điện
tín của trung tướng Brière de l'Isle đánh về nói quân Pháp phải bỏ thành Lạng
Sơn, thì lòng người náo động cả lên. Thủ tướng Jules Ferry phải từ chức. Chính
phủ Pháp thấy sự chiến tranh không lợi bèn ký tờ giao ước đình chiến với nước
Tàu. Rồi một mặt thì truyền lệnh cho sứ thần nước Pháp ở Bắc Kinh là ông
Patenôtre lập tờ hòa ước với chính phủ Tàu; một mặt thì cho quân sang tiếp ứng
Bắc Kỳ và sai trung tướng Roussel de Courcy làm Thống đốc quân dân sự vụ, trung
tướng Warnel làm tham mưu tổng trưởng, cùng với thiếu tướng Jamont và thiếu
tướng Prudhomme đem hai sư đoàn sang Bắc Kỳ.
Chính phủ Tàu thấy chiến
tranh không có lợi, bèn thuận ký tờ hòa ước, và lập tức sai quan sang Hà Nội
truyền lệnh cho quân Tàu phải rút về. Ngày 27 tháng 4 năm Ất Dậu (1883) là năm
Quang Tự thứ 11, ông Patenôtre và ông Lý Hồng Chương ký tờ hòa ước, đại lược
nói rằng nước Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Việt Nam, và lại hòa
thuận buôn bán như cũ. Nước Pháp thì trả lại các chỗ mà hải quân đã chiếm giữ ở
mặt bể, và thuận bỏ cái khoản tiền binh phí không đòi nữa. Ngày hôm quan hai
nước ký tờ hòa ước ở Thiên Tân, thì hải quân trung tướng Courbet phải bệnh mất
ở gần đảo Đài Loan. Hải quân của Pháp cũng chiếu theo điều ước mà rút quân về.
CHƯƠNG IV Loạn ở Trung
Kỳ
1. Thống tướng De Courcy
vào Huế.
2. Triều đình chạy ra
Quảng Trị.
3. Nguyễn Văn Tường ra
thú.
4. Xa giá các bà Thái
hậu về Khiêm Lăng.
5. Quân Cần vương.
6. Vua Đồng Khánh.
7. Thống tướng De Courcy
phải triệt về.
8. Vua Hàm Nghi ở Quảng
Bình.
9. Ông Paul Bert.
10. Lập Tổng đốc Toàn
Quyền.
1. Thống Tướng De Courcy
vào Huế.
Việc đánh nhau với Tàu
xong, thì tức là cuộc bảo hộ ở nước Nam thành. Nhưng ở các nơi, những quan cũ
ta còn chống nhau với quân Pháp, mà ở Huế thì Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất
Thuyết chuyên chế đủ mọi đường.
Tháng 9 năm Giáp Thân
(1885), hai ông ấy đem ông Dục Đức giam vào nhà tối, không cho ăn uống để chết
đói, đổ tội cho là thông mưu với giặc. Hai ông ấy lại mộ quân tập lính và lập
đồn Tân Sở ở gần Cam Lộ thuộc tỉnh Quảng Trị, đem đồ báu ngọc vàng bạc ra đấy,
phòng khi có việc gì thì đem quân ra đó để chống nhau với quân Pháp. Cũng vì
các ông ấy có ý muốn kháng cự, cho nên quân Pháp đã chiếm giữ Mang Cá ở thành
Huế và lại bắt bỏ súng đại bác ở trên thành đi.
Ngày 18 tháng 4 năm Ất
Dậu (1885), thống tướng De Courcy sang tới Bắc kỳ. Bấy giờ sự hòa ước với Tàu
đã xong, bởi vậy thống tướng mới định vào Huế bắt Triều đình ta phải chịu quyền
bảo hộ. Thống tướng đến Hà Nội đã nói chuyện với các người Pháp và những người
Nam ra làm quan với Pháp, đã biết tình hình ở trong Huế là thế nào. Đến ngày 19
tháng 5 thì thống tướng đem non 500 quân đi tàu vào Huế. Triều đình cử hai quan
đại thần theo viên Khâm sứ Pháp là ông De Champeaux ra đón thống tướng ở cửa
Thuận An. Sáng hôm sau, thống tướng cho đòi hai quan phụ chính sang bên Khâm sứ
để định việc vào yết kiến vua Hàm Nghi.
Hai ông ấy lúc bấy giờ
còn đang lừng lẫy, việc Triều chính ở trong tay mình cả, mà thấy thống tướng
làm sự đường đột như thế, cũng đã tức giận lắm, lại cứ như lời mấy ông quan cựu
thần nói chuyện, thì ông Thuyết là quan văn làm tướng võ, nhưng hình dáng thì
không được thanh tú : đầu thì trọc, người thì béo mà đen, cách đi đứng thì
không được chững chạc, sự giao thiệp và đối đáp thì không sành. Xưa nay thì chỉ
lấy quyền thế mà đè nén người ta, hơi một tí thì lấy sự chém giết làm oai. Đến
khi phải ra theo lễ bang giao mà đối với một người tướng ngoại quốc như ông De
Courcy thì trong bụng khiếp sợ không biết ra thế nào.
Ông Tường thì là một tay
giao thiệp giỏi, lại có nhiều mưu cơ và tài nghề ứng biến, cho nên lúc ấy chỉ
có một mình ông Tường sang ra mắt quan thống tướng De Courcy mà thôi, còn ông
Thuyết thì cáo bệnh không sang. Thống tướng thấy vậy, bảo đau cũng phải khiêng
sang.
Tôn Thất Thuyết thấy
quan Pháp ra oai như thế, phần thì tức giận, phần thì sợ, lại nhân lúc bấy giờ
mới có điềm động đất, mới nghĩ bụng rằng đấy là điềm trời xuôi khiến bèn quyết
ý sửa soạn để đánh nhau.
Thống tướng De Courcy
định đến hôm vào điện yết kiến vua Hàm Nghi, thì phải mở cửa chính, không những
chỉ để quan nước Pháp đi mà thôi, nhưng lại phải để cả quân lính cùng đi vào
cửa ấy. Triều đình thấy điều ấy trái với quốc lễ, xin để thống tướng đi cửa
giữa, theo như sứ Tàu ngày trước, còn quân lính thì xin đi cửa hai bên, thống
tướng nhất định không chịu.
2. Triều đình chạy ra
Quảng Trị.
Trưa hôm 22 các quan ở
Cơ Mật Viện sang Khâm sứ xin vào bàn định cho xong việc đi cửa chính, cửa bên,
nhưng thống tướng De Courcy không tiếp. Bà Từ Dụ Thái Hậu sai quan đem đồ lễ
vật sang tặng thống tướng, thống tướng cũng khước đi không nhận.
Các quan thấy thống
tướng làm dữ dội như vậy, đều ngơ ngác không hiểu ra ý tứ gì mà khinh mạn Triều
đình đến như thế. Tôn Thất Thuyết càng thấy thế càng lấy làm tức giận, thôi thì
sống chết cũng liều một trận, họa may trời có giúp kẻ yếu hèn gì chăng? Ấy là
lúc tướng sĩ lúc bấy giờ ai cũng tưởng như thế, cho đến mới định đến nửa đêm
khởi sự phát súng bắn sang Khâm sứ và đánh trại lính của Pháp ở Mang Cá.
Chiều hôm ấy thống tướng
làm tiệc đãi các quan Pháp. Tiệc vừa tan xong, thì súng ở trong thành nổ ra
đùng đùng, rồi những nhà ở chung quanh dinh Khâm sứ cháy, lửa đỏ rực trời. Quân
Pháp thấy bất thình lình nửa đêm quân ta đánh phá như vậy, chưa biết ra thế
nào, chỉ yên lặng mà chống giữ. Đến sáng ngày 23 mới tiến lên đánh, thì quân ta
thua chạy177. Nguyễn Văn Tường cho người vào điện tâu xin rước vua
và các bà Thái Hậu tạm lánh lên Khiêm Lăng 178. Khi xa giá ra
gần đến cửa hữu thì gặp Nguyễn Văn Tường đã chực sẵn để đi hộ giá, nhưng lệnh
truyền cho Nguyễn Văn Tường ở lại để thu xếp mọi việc. Nguyễn Văn Tường vâng
lệnh trở lại. Xa giá đi qua làng Kim Long, lên đến chùa Thiên Mụ, thì Tôn Thất
Thuyết đem quân chạy đến truyền rước xa giá quay trở về Trường Thi 179.
Lúc bấy giờ vương tôn
công tử, người đi ngựa, kẻ đi chân, dân gian thì trẻ cõng già, đàn bà dắt trẻ
con, ai nấy chạy hốt hoảng tìm đường tránh cho khỏi chỗ binh đao.
Xa giá đến Trường Thi
vào nghỉ được một lát, thì Tôn Thất Thuyết lại giục lên đường, nói rằng quân
Pháp đã sắp đuổi tới. Tối ngày 23, xa giá vào nghỉ nhà một người bá hộ, sáng
ngày 24 ra đi, đến tối mới tới thành Quảng Trị. Quan tuần phủ Trương Quang Đản180 ra
rước xa giá vào Hành cung và đặt quân lính để phòng giữ.
Trận đánh nhau ở Huế,
quân Pháp mất 16 người và 80 người bị thương. Sách tây chép rằng quân ta chết
đến vài nghìn người, còn bao nhiêu khí giới lương thực và hơn một triệu tiền
của đều mất cả.
3. Nguyễn Văn Tường ra
thú.
Tại Huế, cả buổi sáng
hôm 23, quân Pháp chiếm lấy thành trì và giữ gìn các nơi. Còn quan ta, người
thì đi theo xa giá, người thì ẩn nấp một nơi, chưa biết thế nào, chưa ai dám
ra. Đến trưa hôm ấy, Nguyễn Văn Tường vào ăn cơm nhà ông giám mục Caspard, rồi
nhờ ông ấy đưa ra thú với thống tướng De Courcy. Thống tướng cho Nguyễn Văn
Tường ra ở Thương bạc viện, giao cho đại úy Schmitz và một toán lính Pháp phải
coi giữ, và hẹn cho trong hai tháng phải làm thế nào cho yên mọi việc.
4. Xa giá các bà thái
hậu về Khiêm Lăng.
Nguyễn Văn Tường viết sớ
ra Quảng Trị xin rước xa giá trở về Kinh để cho yên lòng người. Nhưng lúc ấy
vua Hàm Nghi và tam cung là bà Từ Dụ Thái hoàng thái hậu, mẹ đức Dực Tông, bà
Hoàng thái hậu là vợ đức Dực Tông và mẹ nuôi vua Dục Đức, bà Hoàng thái phi là
vợ thứ đức Dực Tông và mẹ nuôi vua Kiến Phúc, bị Tôn Thất Thuyết gìn giữ, sớ
của Nguyễn Văn Tường gửi ra vấn an, ông ấy đem giấu đi không cho vua biết. Ai
cũng muốn xin rước xa giá lên Tân Sở, để lo liệu sự khôi phục. Đức Từ Dụ và hai
bà Thái hậu nhất định không chịu đi.
Ngày 27, Tôn Thất Thuyết
nghe tin có tàu Pháp sắp đến, bèn xin tam cung ở lại Quảng Trị và xin rước vua
lên Tân Sở. Khi sắp đi, vua Hàm Nghi vào lạy ba bà Thái hậu : tình ly biệt, nỗi
sầu thảm, kể sao cho xiết ! Vua đi khỏi độ một giờ đồng hồ, thì bọn nội giám
đều trở lại nói rằng Tôn Thất Thuyết không cho đi. Đến ngày 28, thì tam cung
mới tiếp được tin của Nguyễn Văn Tường ra nói xin rước xa giá trở về Huế, mọi
việc đã thu xếp xong rồi. Bà Từ Dụ cho người đi rước vua trở lại để cùng về
Huế, nhưng tìm mãi không biết vua ở đâu, chỉ tiếp được thư của Tôn Thất Thuyết
gửi về nói Nguyễn Văn Tường phản trắc nọ kia, xin đừng có nghe. Nguời bàn đi,
kẻ bàn lại, ai nấy phân vân chưa biết ra thế nào. Ngày 30 lại tiếp được sớ của
Nguyễn Văn Tường ra giục xa giá trở về. Đức Từ Dụ mới quyết ý về Kinh, định
ngày mồng 4 thì lên đường, sai quan tuần phủ Trương Quang Đản đem quân đi hộ
giá. Đến chiều tối ngày mồng 5, xa giá các bà Thái hậu về đến Khiêm cung.
Nguyễn Văn Tường dâng sớ lên thỉnh an và kể tình mọi việc.
Trong khi vua còn đi
vắng, thống tướng De Courcy đặt ông Thọ Xuân lên làm giám quốc, giao quyền binh
bộ thượng thư cho viên Khâm sứ De Champeaux, để bãi việc binh lính của ta đi,
và gọi quan kinh lược ở Bắc kỳ là Nguyễn Hữu Độ và quan Tổng đốc Nam Định là
Phan Đình Bình về cùng với Nguyễn Văn Tường coi việc cơ mật. Vì hai ông ấy ở
Bắc Kỳ đã hiểu mọi việc và đã biết theo chính sách của bảo hộ, cho nên thống
tướng đem về để thu xếp mọi việc cho chóng xong. Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Hữu
Độ không hợp ý nhau, Nguyễn Hữu Độ lại trở ra Bắc Kỳ.
5. Quân Cần Vương.
Tôn Thất Thuyết ở Quảng
Bình làm hịch cần vương truyền đi các nơi, bởi vậy chỉ trừ những chỗ chung
quanh Kinh thành ra, còn tự Bình Thuận trở ra cho đến Nghệ An, Thanh Hóa, chỗ
nào sĩ dân cũng nổi lên, đổ cho dân bên đạo gây thành mối loạn, rồi đến đốt phá
những làng có đạo. Sách tây chép rằng từ đầu tháng 6 cho đến cuối tháng 8, dân
bên đạo phải 8 ông cố và hơn 2 vạn người bị giết.
Thống tướng De Courcy
thấy chỗ nào cũng có loạn cả, bèn trở ra Bắc Kỳ, hội các tướng lại để bàn sự
đánh dẹp. Thống tướng đỉnh sai đại tá Pernot đem 1 500 quân ở Huế ra đuổi Tôn
Thất Thuyết, lại sai thiếu tướng De Négrier đem một đạo quân đi từ Thanh Hóa
dánh vào. Nhưng chính phủ ở Paris điện sang không cho thống tướng khởi sự dùng
đại binh, và lại nhân lúc bấy giờ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có bệnh dịch tả, quân
Pháp chết hại đến ba bốn nghìn người, bởi vậy cho nên việc dùng binh phải đình
lại.
Tại Huế thì mãi không ai
biết vua Hàm Nghi ở đâu. Triều đình thì mỗi ngày một rối, việc lập vua mới thì
tuy rằng đã định rồi, nhưng còn lôi thôi chưa xong.
Đến ngày 27 tháng 7, vừa
hết hạn 2 tháng của thống tướng De Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường, vả bấy giờ
ở Bắc Kỳ lại có nhiều người ghét Nguyễn Văn Tường xin thống tướng đem trị tội.
Bởi vậy sang ngày 28 thống tướng bắt quan nguyên Phụ chính Nguyễn Văn Tường,
quan Hộ bộ thượng thư Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính là thân sinh ra Tôn Thất
Thuyết, đem đày ra Côn Lôn. Phạm Thận Duật đang đi tàu thì mất, phải ném xuống
bể. Nguyễn Văn Tường thì sau lại phải đày ra hải đảo Tahiti ở Thái Bình Dương,
được ít lâu cũng mất, cho đem xác về chôn ở quê nhà.
6. Vua Đồng Khánh.
Thống tướng De Courcy
đày bọn Nguyễn Văn Tường đi rồi, đem Nguyễn Hữu Độ về cùng với Phan Đình Bình
coi việc triều chính, sai Nguyễn Trọng Hợp ra quyền kinh lược ở Bắc Kỳ. Thống
tướng lại sai ông De Champeaux lên Khiêm cung yết kiến đức Từ Dụ xin lập ông
Chánh Mông là Kiên giang quận công lên làm vua.
Ngày mồng 6 tháng 8, ông
Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ làm lễ thụ phong, rồi làm lễ tấn
tôn, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
Vua Đồng Khánh tính hiền
lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được lòng người Pháp; đình thần
thì nhiều người đã biết theo chính sách của bảo hộ cho nên mọi việc trong Triều
đều được yên ổn. Nhưng vua Hàm Nghi còn ở mạn Quảng Bình, kéo cờ nghĩa để chống
nhau với quân Pháp, truyền hịch cần vương để mong đường khôi phục. Lúc bấy giờ,
lòng người còn tưởng nhớ chúa cũ, cho nên từ tỉnh Bình Thuận trở ra, chỗ nào
cũng có người nổi lên đánh phá để toan bề khôi phục.
Tại Quảng Nam thì bọn thân
hào lập ra Nghĩa hội có quan sơn phòng sứ là Trần Văn Dự làm chủ, rồi những
tỉnh Phú Yên, Bình Định, Bình Thuận đều noi theo mà nổi lên. Tại Quảng Trị có
các ông Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như, ở Quảng Bình có quan nguyên tri phủ là
Nguyễn Phạm Tuân, ở Hà Tĩnh có cậu ấm Lê Ninh 181; ở Nghệ An có
ông nghè Nguyễn Xuân Ôn và
quan sơn phòng sứ Lê
Doãn Nhạ; ở Thanh Hóa có Hà Văn Mao, v.v.. Những người ấy đều xướng lên việc
cần vương. đem quân đi hoặc chiếm giữ tỉnh thành, hoặc đánh lấy các phủ huyện,
và đốt phá những làng có đạo. Tại ngoài Bắc thì các quan cựu thần là quan đề
đốc Tạ hiện, quan tán tương Nguyễn Thiện Thuật tụ họp ở Bãi Sậy, rồi đi đánh
phá ở mạn trung châu, còn ở mạn thượng du, thì ở chỗ nào cũng có quân giặc Tàu
quấy nhiễu. Bởi vậy quân Pháp phải chia binh ra chống giữ các nơi.
7. Thống tướng De Cource
phải triệt về.
Thống tướng De Courcy
thấy ở ngoài Bắc có lắm việc, bên để thiếu tướng Prudhomme ở lại Huế, rồi ra Hà
Nội kinh lý mọi việc. Nhưng vì thống tướng tính khắc khổ và đa nghi, cho nên công
việc càng ngày càng khó thêm. Tại Pháp thì có nhiều người không muốn giữ đất
Bắc Kỳ, có ý muốn bãi binh. Bởi vậy đến cuối năm 1885 là năm Ất Dậu, thủ tướng
nước Pháp là ông Brisson xin nghị viện thuận cho lấy ra 75 triệu phật lăng để
chi tiêu về việc Bắc Kỳ. Nghị viện đặt hội đồng để xét việc ấy. Hội đồng định
rút quân về và chỉ cho 18 triệu phật lăng mà thôi. Đến khi đầu phiếu thì đảng
theo chính phủ được 274 phiếu, và đảng phản đối với chính phủ được 270, nghĩa
là đảng muốn giữ đất Bắc Kỳ chỉ hơn có 4 phiếu. Thủ tướng Brisson thấy trong
nghị viện có nhiều người không hợp ý mình bèn xin từ chức.
Ông Freycinet lên làm
thủ tướng, thấy thống tướng De Courcy ở bên nước Nam làm lắm việc lôi thôi, bèn
điện sang triệt về Pháp, giao binh quyền lại cho trung tướng Warnel, và sai ông
Paul Bert là quan văn sang sung chức thống đốc, để kinh lý mọi việc ở nước Nam.
8. Vua Hàm Nghi ở Quảng
Bình.
Bấy giờ tuy ở Huế đã lập
vua Đồng Khánh rồi, nhưng đảng cựu thần còn có nhiều người theo phò vua Hàm
Nghi, quyết chí chống lại với quân Pháp. Quan Pháp bèn sai đại tá Chaumont đem
quân ra đóng ở thành Quảng Bình, để chặn đường không cho đảng Tôn Thất Thuyết
thông với Bắc Kỳ. Nhưng ở mạn Thanh Hóa, Nghệ An, bọn văn thân đánh phá rất dữ.
Đại tá Chaumont bèn để đại tá Grégoire ở lại giữ thành Quảng Bình, rồi trở về
Đà Nẵng lấy thêm binh và tàu chiến đem ra đóng ở thành Nghệ An, chia quân đi
tuần tiễu các nơi.
Tôn Thất Thuyết thấy thế
không chống nổi quân Pháp bèn bỏ vua Hàm Nghi ở lại đồn Vé, thuộc huyện Tuyên
Hóa (tên cũ là Qui Hợp Châu) tỉnh Quảng Bình, rồi cùng với đề đốc Trần Xuân
Soạn đi đường thượng đạo, nói rằng sang cầu cứu bên Tàu 182.
Vua Hàm Nghi bấy giờ
phải ẩn nấp ở vùng huyện Tuyên Hóa có các con Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm
và Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân183,
hết sức giữ gìn và đem quân đi đánh phá ở mạn Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Tháng giêng năm Bính
Tuất (1886), trung tá Mignot đem quân ở Bắc kỳ vào Nghệ An, rồi chia làm hai
đạo : một đạo thì thiếu tá Pelletier đem lính tập theo sông Ngàn sâu vào mạn
Tuyên Hóa; một đạo thì trung tá Mignot tự đem quân đi đường quan lộ vào giữ
thành Hà Tĩnh, rồi vào đóng ở sông Gianh.
Tại Huế lại sai trung tá
Metzniger đem một toán quân ra tiếp ứng các đạo. Quân Pháp đóng ở chợ Đồn và ở
Minh Cầm, rồi trung tá Metzniger đem ông cố Tortuyaux đi làm hướng đạo để lên
lấy đồn Vé. Thế quân Pháp tiến lên mạnh lắm, quân văn thân chống lại không nổi,
phải tan cả.
Nhưng qua sang tháng
hai, ở ngoài Bắc Kỳ có việc, vả lại viên thống dốc Paul Bert đã sang đến nơi,
chính sách đổi lại cả, cho nên mới triệt các đạo quân về, chỉ đóng giữ ở Quảng
Khê, ở Roon và ở chợ Đồn mà thôi. Quân văn thân thấy quân Pháp rút về, lại trở
về đóng ở các đồn cũ.
9. Ông Paul Bert.
Ngày mồng 5 tháng 3 năm
Bính Tuất (1886), viên thống đốc Paul Bert sang đến Hà Nội. Lập tức đặt phủ
Thống sứ ở Bắc kỳ và sở kiểm soát về việc tài chính. Đến cuối tháng 3 thì thống
đốc vào yết kiến vua Đồng Khánh ở Huế, và xin lập nha Kinh lược ở Bắc Kỳ, cho
quan Kinh lược đại sứ được quyền cùng với phủ Thống sứ tự tiện làm mọi việc. Vì
rằng ở ngoài Bắc vào đến Huế đường xá xa xôi, có việc gì phải tâu bẩm vào Bộ
mất nhiều ngày giờ lắm, bởi vậy xin cho được tự tiện làm việc, rồi trong một
năm độ vài kỳ đem các việc tâu về vua biết.
Thống đốc Paul Bert ở
Huế đến cuối trung tuần tháng 4 lại ra Hà Nội, rồi một mặt thì lo đánh dẹp, một
mặt thì mở Pháp Việt học đường, lập Thương nghiệp cục, đặt lệ đồn điền. Chủ ý
của thống dốc là muốn khai hóa đất Bắc Kỳ cho chóng được thịnh lợi. Nhưng cũng
vì thống đốc phải lo nghĩ
Chính phủ Pháp sai ông
Bihourd sang lĩnh chức thống dốc Pháp thay ông Paul Bert.
10. Lập Tổng Đốc Toàn
Quyền Phủ.
Nước Pháp đã lấy đất Nam
Kỳ, lập bảo hộ ở nước Cao Miên, rồi lập bảo hộ ở đất Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ, mở
ra một cuộc thuộc địa lớn ở Viễn đông này; nhưng buổi đầu thì mỗi xứ có một
chức thủ hiến để coi riêng việc chính trị. Đến năm Đinh Hợi (1887), chính phủ
nước Pháp mới đặt phủ Tổng đốc toàn quyền để điều khiển việc chính trị cả mấy
xứ ở nước ta và nước Cao Miên. Tháng 10 năm Đinh Hợi (15 tháng 11 - 1887), thì
viên Tổng đốc toàn quyền mới, tức là viên Tổng đốc toàn quyền trước nhất, là
ông Constant sang nhận chức ở Sài Gòn.
Từ đó ở các nơi như Nam
Kỳ thì có viên Thống đốc, Trung Kỳ và Cao Miên thì mỗi nơi có viên Khâm sứ, Bắc
kỳ và Lào thì mỗi nơi có viên Thống sứ đứng đầu coi việc cai trị trong hạt;
những việc gì quan hệ đến chính sách cả toàn cảnh thì phải theo lệnh viên Tổng
đốc toàn quyền mà thi hành.
CHƯƠNG XV Việc Đánh Dẹp
ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ
1. Việc đánh dẹp ở các
nơi
2. Vua Đồng-khánh ra
Quảng-Bình
3. Hoàng kế Viêm ra quân
thử mạn Quảng-Bình
4. Lập đồn Minh-cầm
5. Vua Hàm-nghi bị bắt
6. Vua Thành-thái
7. Sự đánh dẹp ở Bắc-kỳ
8. Việc Phan đình Phùng
9. Lòng yêu nước của
người Việt-nam
1. Việc đánh dẹp ở các
nơi.
Trong khi thống-đốc Paul
Bert xếp- đặt mọi việc ở Bắc-kỳ, thì ở Trung-kỳ quân Cần-vương ở các tỉnh vẫn
đánh phá. Quân Pháp phải tìm cách mà đánh-dẹp cho yên. ở mạn Bình-thuận,
Phú-yên thì thiếu-tá De Lorme và viên Công-sứ Aymonier cùng với Trần bá Lộc đem
lính tây và lính ở Nam-kỳ ra đánh-dẹp. Trần bá Lộc dùng cách dữ- dội, chém giết
rất nhiều, bởi vậy đất Bình-thuận không bao lâu mà yên; rồi đem quân ra dẹp
đảng văn-thân ở Phú-yên và Bình-định, bắt được cử-nhân Mai xuân Thưởng, Bùi
Điền, Nguyễn đức Nhuận đem chém. Từ tháng 6 năm bính-tuất (1886) đến tháng 6
năm đinh-hợi (1887), thì những tỉnh ở phía nam đất Kinh-kỳ đã dẹp yên.
2. Vua Đồng Khánh ra
Quảng Bình . Đất Trung-kỳ từ Quảng-trị trở ra chưa được yên. Vua Đồng-khánh bèn
định ra tuần thú mặt bắc, để dụ vua Hàm-nghi và những quan đại thần về cho yên
việc đánh-dẹp. Quân Pháp sai đại-úy Henry Billet đi hộ-giá.
Ngày 16 tháng 5 năm
bính-tuất (1886), xa-gía ở Kinh đi ra, mãi đến cuối tháng 7 mới tới Quảng-bình.
Xa-gía đi đến đâu thì đảng cựu thần vẫn không phục, cứ đem quân đến chống-cự,
cho đến việc vua đi tuần-thú lần ấy, không có kết-qủa gì cả. Ra đến Quảng-bình
thì vua Đồng-khánh yếu, ở được vài mươi ngày rồi phải xuống tầu đi đường hải
đạo trở về Huế.
3. Hoàng Kế Viêm Ra Quân
Thử Mạn Quảng Bình. Vua Đồng-khánh về Huế được vô sự. Đến tháng 9 vua khai phục
nguyên hàm cho Hoàng kế Viêm và phong cho làm Hữu-trực-kỳ An-phủ kinh-lược
đại-sứ, được quyền tiện-nghi hành-sự, để ra Quảng-bình dụ vua Hàm-nghi và các
quan cựu thần về. Trong tờ dụ của vua Đồng-khánh ban cho Hoàng kế Viêm đại-lược
nói rằng: Nếu vua Hàm nghi mà thuận về, thì sẽ phong cho làm làm Tổng-trấn ba
tỉnh Thanh-hóa, Nghệ-an và Hà-tĩnh, và lại cấp cho bổng lộc theo tước vương.
Các quan cựu-thần như các ông Trương văn Ban, Nguyễn Trực, Nguyễn Chư, Lê mô
Khải, Nguyễn nguyên Thành, Phạm trọng Mưu, Nguyễn xuân Ôn, Lê doãn Nha, Ngô
xuân Quỳnh, ai về thú thì được phục nguyên chức, cho vào làm quan ở các tỉnh từ
Quảng-trị trở vào. Còn như các ông Trần xuân Soạn, Nguyễn phạm Tuân, Phan đình
Phùng mà có chịu về thì sẽ tha những điều lỗi trước, và sẽ phong cho làm chức
hàm khác. Những điều ấy đã bàn với viên Thống-đốc Paul Bert, hai bên đã thuận
cho như thế, quyết không sai lời.
Bấy giờ quân của quan
Đề-đốc Lê Trực đóng ở mạn Thanh-thủy , thuộc huyện Tuyên-chánh; quân của
Tôn-thất Đạm là con Tôn-thất Thuyết thì đóng ở ngàn Hà-tĩnh, về hạt Kỳ-anh và
Cẩm-xuyên. Còn Tôn-thất Thiệp và Nguyễn phạm Tuân thì phò vua Hàm-nghi ở mạn
huyện Thanh-hóa.
Ông Hoàng kế Viêm ra
Quảng-bình, sai người đi dụ ông Lê Trực về. Nhưng các ông ấy cứ nhất thiết
không chịu , chỉ có bọn thủ-hạ lác đác vài người ra thú mà thôi. Bởi vậy, việc
Hoàng kế Viêm ra kinh-lược cũng không thành công, cho nên đến tháng 5 năm
đinh-hợi (1887), lại phải triệt về.
4. Lập Đồn Minh Cầm.
Triều-đình ở Huế thấy
dùng cách phủ-dụ không được, bèn lấy quyền cho người Pháp tìm kế đánh-dẹp.
Người Pháp cũng biết là
thế-lực của đảng vua Hàm-nghi chẳng được bao nhiêu, cốt tìm đường mà chiếm dần
địa-thế và mua chuộc những đứa làm tay trong, thì tất thế nào rồi cũng trừ hết
được, bởi vậy cho nên không dùng đến đại binh.
Trước đại-úy Mouteaux ở
Quảng-bình đã cùng với ông cố Tortuyaux đem quân đi đánh lấy đồn của Lê Trực ở
Thanh-thủy, nhưng quân của ông ấy vẫn không tan, cứ đành phá mãi. Đến tháng
giêng năm đinh-hợi (1887), đại-úy Mouteaux đem quân lên lập đồn Minh-cầm đóng ở
mé trên Thanh- thủy. Đại-úy vẫn biết ông Lê Trực là người có nghĩa-khí, và
trong khi hai bên chống cự với nhau không bao giờ ông ấy làm điều tàn-ác, cho
nên đại- úy vẫn có ý trọng lắm. Trước đã cho người đưa thư lên dụ ông ấy về
thú. Ông ấy phúc thư lại rằng: "Tôi vì vua, vì nước, chết sống cũng một
lòng làm cho hết việc bổn-phận, chứ không dám tham sự sống mà quên việc
nghĩa".
Từ khi quân Pháp đóng
đồn ở Minh-cầm, các ông Lê Trực và Nguyễn phạm Tuân phải lui lên mé trên. Ông
Lê Trực thì ra mạn Hà-tĩnh, Ông Nguyễn phạm Tuân thì lên đóng ở làng Yên-lộc về
phía sông Gianh.
Qua tháng 3, nhờ có do
thám, biết chỗ ông Nguyễn phạm Tuân đóng, đại-úy Mouteaux bèn đem quân lên vây
làng Yên-lộc, bọn ông Nguyễn phạm Tuân, trong khi bất ý, đều bị bắt cả. Ông
Nguyễn phạm Tuân phải đạn bên cạnh sườn, sống được mấy ngày thì mất.
Quân Pháp tuy đã trừ
được ông Nguyễn phạm Tuân nhưng ông Lê Trực hãy còn, và vẫn chưa biết rõ vua
Hàm-nghi ở chỗ nào, sau có những người ra thú, mách rằng muốn bắt vua Hàm-nghi
thì mưu với tên Trương quang Ngọc. Tên ấy là người bản-xứ ở đấy và từ khi vua
ra ở vùng ấy nó được vào hầu cận, và lại là một đứa khí-độ tiểu-nhân, thì chắc
có lẽ mua chuộc nó được. Đại-úy định tìm cách để thông với tên Ngọc, cho người
đi do-thám, biết được tên Ngọc hiện đóng ở làng Chà-mạc, bèn đem quân lên vây
làng ấy. Nhưng khi lên đến nơi, tên Ngọc thấy động, chạy thoát được. Đại-úy sai
tìm trong làng chỉ thấy có một bà lão, đại-úy bèn đưa cái thư viết cho tên
Ngọc, nhờ bà lão ấy đưa cho nó, rồi rút quân về đồn Minh-cầm.
Được mấy hôm kỳ-dịch
những làng mé trên về thú ở đồn Minh-cầm, đại-úy đưa cho chánh-tổng những dân
ấy mấy lạng thuốc phiện và mấy bì gạo trắng để gửi cho tên Ngọc và nhờ bảo nó
dỗ vua Hàm-nghi về. Tên Ngọc nhận những đồ ấy và trả lời xin hết lòng giúp
người Pháp, nhưng cần phải để thong thả, sợ việc tiết-lộ ra thì không thành.
Từ đó việc bắt vua
Hàm-nghi chỉ trông-cậy vào tên Ngọc. Nhưng bấy giờ có người con thứ Tôn-thất
Thuyết là Tôn-thất Thiệp giữ-gìn vua Hàm- nghi một cách nghiêm-mật qúa. Tôn-thất
Thiệp thề sống chết không để cho quân Pháp bắt vua được. Bởi vậy, hễ ai nói đến
sự về thú thì bắt chém ngay, cho nên bọn tên Ngọc tuy đã nhị tâm, nhưng chưa
dám hạ thủ.
ở mé ngoài, thì các ông
Lê Trực và Tôn-thất Đạm, nay đánh chỗ này mai phá chỗ kia mà không sao bắt
được. Đại-úy Mouteaux đánh đuổi lâu ngày nhọc-mệt, bèn xin về Pháp nghỉ.
5. Vua Hàm Nghi Bị Bắt .
Qua tháng giêng năm mậu-tí (1888), viên đại-tá coi đạo quân ở Huế ra
Quảng-bình, rồi chia quân đi tuần-tiễu, để tìm vua Hàm-nghi và đuổi bắt ông Lê
Trực và ông Tôn-thất Đạm. Đến tháng 9 năm ấy, quân lính mỏi-mệt mà không thành
công được. Quân Pháp đã toan rút về giữ những đồn ở gần mạn bể, bỗng dưng có
tên suất-đội Nguyễn đình Tinh hầu cận vua Hàm-nghi ra thú ở đồn Mang-cả, phía
trên đồn Minh- cầm, và khai rõ tình-cảnh cùng chỗ vua đóng. Người Pháp bèn sai
tên Tinh đem thư lên dụ tên Ngọc về. Được mấy hôm tên Ngọc và tên Tinh về tình-
nguyện xin đi bắt vua Hàm-nghi.
Người Pháp truyền cho
bọn tên Ngọc phải làm thế nào bắt sống được vua Hàm-nghi, còn những người khác
hễ ai chống cự, thì cứ giết đi.
Ngày 26 tháng 9, tên
Ngọc và tên Tinh đem hơn 20 đứa thủ hạ, người ở làng Thanh-lang và Thanh-cuộc
lên vây làng Tả-bảo 184
là chỗ vua Hàm-nghi
đóng. Đến độ nửa đêm, khi chúng nó sông vào, thì Tôn-thất Thiệp còn đang ngủ,
hoảng hốt cầm gươm nhảy ra, thì chúng đâm chết. Vua Hàm-nghi trông thấy tên
Ngọc làm phản như vậy, cầm thanh gươm đưa cho nó và bảo rằng: "Mày giết
tao đi, còn hơn đưa tao về nộp cho Tây". Ngài vừa nói dứt lời, thì bọn
chúng nó có một đứa lẻn ra sau lưng ôm quàng lấy ngài rồi dựt thanh gươm ra. Từ
khi ngài bị bắt rồi, ngài không nói năng gì nữa.
Sáng ngày hôm sau, bọn
tên Ngọc võng ngài ra đến bến Ngã-hai, rồi đem xuống cái bè, đi mất hai ngày
mới về đến đồn Thanh-lang, nộp cho viên đại-úy coi đồn ấy là ông Boulangier.
Đại-úy lập tức đem ngài về đồn Thuận- bài đóng ở tả-ngạn sông Gianh, gần chợ
đồn.
Vua Hàm-nghi bấy giờ đã
18 tuổi, quan Pháp lấy vương- lễ mà tiếp- đãi. Tuy vậy ai hỏi gì, ngài cũng
không nói, chỉ nhất-thiết chối rằng mình không phải là vua.
Nhưng đến lúc vào trong
buồng ngồi một mình, thì hai hàng nước mắt chứa-chan, buồn vì nỗi nước đổ nhà
tan, thân mình phải nhiều nỗi gian- truân.
Người Pháp đem vua
Hàm-nghi xuống tầu về Thuận-an, rồi đem sang để ở bên xứ Algérie, là xứ thuộc-địa
của nước Pháp, ở phía bắc châu A- phi-ly-gia, mỗi năm cấp cho 2 vạn rưỡi
phật-lăng 185 .
Tên Trương quang Ngọc
được hưởng hàm lĩnh-binh, tên Nguyễn đình Tinh cũng được thưởng hàm quan võ.
Còn bọn thủ-hạ, đứa thì được thưởng hàm suất-đội, đứa thì được thưởng mấy đồng
bạc.
Tôn-thất Đạm ở ngàn
Hà-tĩnh, nghe tin vua Hàm-nghi bị bắt, bèn hội cả bọn tướng sĩ lại, truyền cho
ra thú để về làm ăn, rồi viết hai bức thư: một bức để dâng vua Hàm-nghi, xin
tha lỗi cho mình làm tôi không cứu được vua, và một bức gửi cho thiếu-tá Dabat,
đóng ở đồn Thuận-bài xin cho bọn thủ-hạ ra thú. Viết xong thư rồi, Tôn-thất Đạm
nói rằng: "Bây giờ người Pháp có muốn bắt ta thì vào tìm thấy mả ta ở
trong rừng!". Đoạn rồi thắt cổ mà tử-tận 186 .
Ông Tôn-thất Thuyết làm
đại-tướng mà cư-xử ra một cách rất hèn- nhát không đáng làm người trượng-phu
chút nào. Nhưng hai người con thì thật là bậc thiếu-niên anh-hùng, có thể che
được cái xấu cho cha vậy.
Quan đề-đốc Lê Trực cũng
đem hơn 100 quân ra thú ở đồn Thuận- bài. Triều-đình ở Huế xem cái tờ xin ra
thú, thấy lời-lẽ của quan đề-đốc cũ nói khảng-khái, không được khiêm-tốn, có ý
bắt tội, nhưng người Pháp thấy là một người trung-nghĩa, có lòng qúi-trọng, tha
cho về yên nghiệp ở nhà.
Ông Tôn-thất Đạm và ông
Lê Trực là người phản-đối với nước Pháp lúc bấy giờ, nhưng các ông ấy vì việc
nước mà hết lòng làm việc bổn-phận cho nên người Pháp cũng biết lượng tình mà
thương-tiếc. Sau ông Lê Trực về ở làng Thanh-thủy, thuộc huyện tuyên-hóa, tỉnh
Quảng-bình, người Pháp thường vẫn đi lại thăm-nom và có ý kính-trọng lắm. Người
bản-quốc thấy vậy, ai cũng lấy làm cảm phục.
6. Vua Thành Thái . Ngày
27 tháng chạp năm mậu-tí là ngày 28 tháng giêng năm 1888, vua Đồng-khánh phải
bệnh mất, thọ 25 tuổi, làm vua được 3 năm, miếu hiệu là Cảnh-tông
Thuần-hoàng-đế.
Bấy giờ ông Rheinard lại
sang làm Khâm-xứ ở Huế, thấy con vua Đồng-khánh còn nhỏ, và lại nhớ ông Dục-đức
ngày trước, khi vua Dực-tông hày còn, thường hay đi lại với người Pháp, bởi vậy
viêm Khâm-xứ nghĩ đến tình cũ mà truyền lập ông Bửu Lân là con ông Dục-dức lên
làm vua.
Ông Bửu Lân bấy giờ mới
lên mười tuổi, đang cùng với mẹ phải giam ở trong ngục. Triều-đình vào rước ra,
tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Thành-thái, cử ông Nguyễn trọng Hợp và ông
Trương quang Đản làm Phụ- chính.
7. Sự đánh dẹp ở Bắc Kỳ .
Khi nhà Thanh bên Tầu đã ký hòa-ước với nước Pháp ở Thiên-tân rồi, quân Tầu ở
nước ta rút về. Nhưng các cựu- thần như quan Tán-tương quân-vụ là Nguyễn thiện
Thuật và quan Đề-đốc Tạ Hiện còn giữ ở vùng Bãi-sậy thuộc Hải-dương cùng với
các thổ-hào như Đốc Tít ở vùng Đông-triều; Đề Kiều ở vùng Hưng-hóa; Cai Kinh,
Đốc Ngữ ở vùng Phủ-lạng-thương và Yên-thế; Lương tam Kỳ, dư đảng cờ đen, ở vùng
chợ Chui đều nổi lên tương ứng với nhau mà đánh phá. Lúc ấy quan quyền
kinh-lược-sứ là ông Nguyễn trọng Hợp cử quan quyền Tổng-đốc Hải-dương là Hoàng
cao Khải làm chức Tiểu-phủ-sứ đi đánh-dẹp ở vùng Bãi-sậy.
Hoàng cao Khải đem quân
đi đánh riết mấy mặt. Bọn văn-thân người thì tử trận, người thì bị bắt. Nguyễn
thiện Thuật chạy sang Tầu, sau mất ở Nam-ninh, thuộc quảng-tây. Đốc Tít ra
hàng, phải đầy sang ở thành Alger, bên Algérie. Đề Kiều và Lương tam Kỳ ra thú
được ở yên. Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng hoa Thám ở Yên-thế cũng ra
thú, được giữ ở vùng ấy, mãi đến năm 1909 mới bị đánh đuổi, đến năm 1912 mới bị
giết.
Hoàng cao Khải đi
đánh-dẹp có công, về được chính-phủ bảo-hộ cho lãnh chức Bắc-kỳ Kinh-lược-sứ.
8. Việc Phan Đình Phùng
. Từ năm kỷ-sửu (1889) là năm Thành- thái nguyên-niên cho đến năm qúy-tị (1893)
là năm Thành-thái ngũ-niên, đất Trung-kỳ không có việc gì quan-hệ lắm. Các quan
cựu-thần, người thì về thú, người thì ẩn-nấp ở chỗ sơn-lâm. Riêng ông Phan đình
Phùng thì về ở đồn điền ở Vũ-quang về phía bắc huyện Hương-khê, thuộc tỉnh
Nghệ-tĩnh, rồi cho người đi sang Tầu, sang Tiêm, học đúc súng đúc đạn, để đợi ngày
khởi sự.
Ông Phan đình Phùng
người tỉnh Hà-tĩnh, thi đỗ đình-nguyên về đời vua Dục-tông, quan làm đến chức
ngự-sử bị bọn quyền-thần là Nguyễn văn Tường và Tôn-thất Thuyết cách chức đuổi
về. Sau ông ấy đứng đầu đảng văn-thân để chống cự với quân Pháp. Ông không
những là một người có tài văn-chương mà thôi, mà lại là một nhà có thao-lược,
sửa-sang quân-lính có cơ-ngũ, luyện-tập tướng-sĩ có kỷ-luật, cho nên đại-úy
Gosselin làm quyển sách "Empire d Annam" có khen rằng: "Quan
Đình-nguyên Phan đình Phùng có tài kinh-doanh việc quân-binh, biết luyện-tập
sĩ-tốt theo phép Thái-tây, áo-quần mặc một lối, và đeo súng kiểu 1874, những
súng ấy là súng của người quan Đình-nguyên đúc ra thật nhiều mà máy-móc cũng
hệt như súng Pháp chỉ vì lòng súng không xẻ rãnh, cho nên đạn không đi xa
được".
Đến cuối trung-tuần
tháng 11 năm qúi-tị (1893), ông sai người đến vây nhà tên Trương quang Ngọc ở
làng Thanh-lang, huyện Tuyên-hóa, bắt tên Ngọc chém lấy đầu để báo-thù về việc
tên ấy làm sự phản-ác. Từ đó quân của quan Đình-nguyên vẫy-vùng ở mạn
Hương-khê, đảng văn-thân cũ lại về tụ họp ở đấy.
Bấy giờ người Pháp không
muốn dùng đại binh sợ náo-động lòng người ở bên Pháp, cho nên chỉ sai quan đem
lính tập đi đánh. Đánh từ cuối năm qúi-tị (1893) cho đến cuối năm ất-mùi (1895)
ngót 2 năm trời mà không dẹp yên được, quân-lính chết hại cũng nhiều. Bên
Bảo-hộ cũng đã tìm đủ mọi cách, như bảo Hoàng cao Khải viết thư dụ Phan đình
Phùng về hàng cho xong cũng không được. Sau cùng Triều-đình ở Huế thấy việc
dai- dẳng mãi không yên, mới xin chính-phủ Bảo-hộ để sai quan Tổng-đốc Bình-
định là Nguyễn Thân làm Khâm-mạng tiết-chế quân-vụ đem quân ra tiễu- trừ. Ông
Phan đình Phùng lúc bấy giờ tuổi đã già, mà thế-lực mỗi ngày một kém, lại phải
nay ẩn chỗ này, mai chạy chỗ kia, thật là lao-khổ vô cùng, bởi vậy khi Nguyễn
Thân đem quân ra đến Hà-tĩnh, thì ông đã phải bệnh mất rồi. Nguyễn Thân sai
người đuổi đánh tìm thấy mả, đào lấy xác đem về xin người Pháp cho đem đốt lấy
tro trộn với thuốc súng mà bắn đi. Có người nói rằng việc ấy tuy Nguyễn Thân trước
định thế, nhưng sau lại cho đem chôn, vì muốn để làm cái tang-chứng cho đảng
phản-đối với chính-phủ Bảo-hộ là quan Đình Nguyên đã mất rồi. Từ đó đảng
văn-thân tan-vỡ; ai trốn đi mất thì thôi, ai ra thú thì phải về Kinh chịu tội.
Nguyễn Thân về Kinh được
thăng làm Phụ-chính thay ông Nguyễn trọng Hợp về hưu.
9. Lòng yêu nước của
người Việt Nam.
Người Việt-nam vì
hoàn-cảnh, vì tình thế bắt-buộc phải im hơi lặng tiếng, nhưng lòng ái quốc mỗi
ngày một nồng-nàn, sự uất-ức đau-khổ mỗi ngày một tăng thêm. Cho nên cứ cách độ
năm bẩy năm lại có một cuộc phiến-động, như sau việc Phan đình Phùng rồi, có
việc Kỳ-đồng và việc Thiên-binh vào khoảng 1897-1898 ở vùng Thái-bình,
Hải-dương, Bắc-ninh v.v... Vào quãng năm 1907 ở Hà-nội có việc Đông-kinh
nghĩa-thục. Lúc ấy có những người chí sĩ như Phan bội Châu, Phan chu Trinh,
người thì không sợ tù tội, đứng lên tố-cáo sự tham- nhũng của bọn quan-lại,
người thì ra ngoại-quốc bôn-ba khắp nơi để tìm cách giải-phóng cho nước. Năm
1908, ở Trung-Việt vùng Nghệ-Tĩnh và Nam- Nghĩa có việc dân nổi lên kêu sưu. ở
Hà-nội thì có việc đầu-độc lính Pháp, rồi ở Thái-nguyên, Hoàng hoa Thám lại nổi
lên đánh phá .
Khi bên Âu-châu có cuộc
đại-chiến thì bên ta lại có việc đánh-phá ở Sơn-la và Sầm-nứa và việc vua
Duy-tân mưu sự độc-lập, bị bắt đầy sang ở đảo Réunion. Thế là nước Việt-nam bấy
giờ có ba ông vua bị đầy: vua Hàm- nghi đầy sang xứ Algérie, vua Thành-thái và
vua Duy-tân đầy sang ở đảo Réunion.
Sau cuộc chiến lần thứ
nhất, có toàn lính khố xanh nổi lên đánh Thái-nguyên do Đội Cấn và ông Lương
ngọc Quyến làm đầu. Năm 1927, ở vùng Nghệ-tĩnh có cuộc phiến-động gây ra bởi
đảng Cộng-sản do Nguyễn ái Quốc cầm đầu. Đến năm 1930, ở Bắc Việt có cuộc
cách-mệnh của Quốc- dân-dảng, có Nguyễn thái Học điều-khiển ở Yên-bái và các
nơi. Năm 1940, ở Nam-Việt có cuộc phiến-động ở vùng Gia-định, Hốc-môn v.v... Từ
khi có cuộc đại-chiến lần thứ hai, nước Pháp bại trận, bị nước Đức chiếm cứ,
quân Nhật-bản ở bên Tầu sang đánh Lạng-sơn rồi ký hiệp-ước với người Pháp cho
người Nhật được đóng quân ở Đông-pháp. Đến ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, quân
Nhật đánh quân Pháp và giao quyền nội-trị lại cho vua Bảo-đại. Được mấy tháng
thì quân Đồng-minh thắng trận, Nhật-bản đầu hàng. Đảng Việt-minh 187
dưới quyền lãnh đạo của
Nguyễn ái Quốc-đổi tên là Hồ chí Minh thừa cơ nổi lên cướp quyền, vua Bảo-đại
phải thoái-vị và nhường quyền cho đảng Việt-minh.
Đây chỉ mới nói qua cái
đại-lược một đoạn lịch-sử của nước Việt- nam, để dành về sau nhà làm sử sẽ tìm
đủ tài-liệu mà chép cho rõ-ràng và phê-bình cho chính-đáng.
CHƯƠNG XVI Công Việc Của
Người Pháp Tại Việt Nam
1.
Đà-nẵng, Hà-nội,
Hải-phòng
thành đất nhượng-địa
2. Việc kinh-doanh ở các
xứ bảo-hộ
1. Đà-nẵng, Hà-nội,
Hải-phòng thành đất nhượng-địa.
Từ khi sự đánh-dẹp các
nơi đã yên rồi, các viên Tổng-đốc toàn-quyền lần lượt sang kinh-doanh việc
Đông-pháp và lo mở mang về đường chính-trị, kinh-tế và xã-hội theo chính-sách
của nước Pháp.
Tháng 3 năm mậu-tí
(1888) tức là năm Thành-thái nguyên-niên, ông Richaud sang làm Tổng-đốc
toàn-quyền. Tháng tám năm ấy, Triều-đình ở Huế ký giấy nhượng hải-cảng Đà-nẵng,
thành-thị Hà-nội và Hải-phòng cho nước Pháp để làm đất nhượng địa nghĩa từ đó
là việc cai-trị và pháp-luật ở ba thành-thị ấy thuộc về nước Pháp, chứ không
thuộc về nước Nam nữa. Trừ ba thành-thị ấy ra, thì việc cai-trị ở các tỉnh trong
toàn hạt Bảo-hộ vẫn để quan-lại làm việc như cũ, nhưng phải do người Pháp
điều-khiển và kiểm- duyệt.
2. Việc kinh doanh ở các
xứ bảo hộ.
Cuộc Bảo-hộ đã lập xong,
người Việt-nam vì thế bất-đắc-dĩ phải chịu, nhưng phần nhiều người trong lòng
còn mong khôi-phục nước nhà, cho nên chính-phủ Bảo-hộ một mặt thì lo việc phòng
giữ, một mặt lo mở-mang các công-cuộc kiến-thiết để gây thêm mối lợi. Về đường
phòng-giữ, thì chính-phủ lập ra những đội binh bảo-an, lấy người bản-sứ làm
lính. Những lính ấy đội một thứ nón dẹt có giải xanh và múi thắt lưng xanh, cho
nên tục gọi là lính khố-xanh. Lính ấy do người Pháp cai-quản ở dưới quyền quan
cai-trị người Pháp, cho đi canh giữ các dinh-thự, các công-sở, và cho đi đóng
đồn ở các nơi trong vùng thôn-quê, để phòng-giữ trộm cướp. ở những nơi hiểm-yếu
thì có lính Pháp và lính khố đỏ đóng. Lính khố đỏ là một thứ bộ binh người
bản-xứ, cách ăn- mặc cũng như lính khố xanh, chỉ khác là quai nón đỏ mà múi
thắt lưng đỏ. Những lính ấy có cơ, có đội do sĩ-quan Pháp cai-quản ở dưới quyền
nhà binh Pháp. Khi có việc gì quan-hệ thì đem lính Pháp và lính ấy ra đánh-dẹp.
Về việc hành binh và
việc thương-mại, thì chính-phủ Bảo-hộ trước hết phải lo sửa-sang và mở-mang
thêm đường-sá cho tiện sự giao-thông. Vì rằng có đường thì khi hữu sự, việc đánh-dẹp
mới tiện-lợi và việc buôn-bán cũng nhân đó mà được dễ-dàng. Bởi vậy thoạt đầu
tiên chính-phủ mở thương-cục, lập xưởng làm tầu thủy chở hàng-hóa và hành-khách
đi trong các sông ở trong xứ.
Năm tân-mão (1891), ông
De Lanessan sang làm Tổng-đốc toàn- quyền, mở đường xe lửa từ Phủ-lạng-thương
lên đến Lõng-sơn, đến năm giáp-ngo (1894), con đường ấy mới xong. Chủ-đích là
để cho tiện sự phòng- giữ ở chỗ biên-thùy.
Chính-phủ Bảo-hộ lại lo
mở-mang thêm bờ-cõi về phía Lào. Nguyên đất Lào ngày trước vẫn thần-phục nước
Nam. Những nơi như Trấn-ninh, Cam-môn, Cam-cát, v.v. về đời vua Minh-mệnh đã
lập thành phủ huyện và đặt quan cai-trị cả. Nhưng về sau nước ta suy-nhược lại
có việc chiến-tranh với nước Pháp, cho nên nước Tiêm-la mới nhân dịp mà sang
chiến-giữ lấy. Sau có người Pháp tên là Pavie sang dự nước Lào nhận sự bảo-hộ
của nước Pháp, rồi đến đầu năm quí-tị (1893), quân Pháp sang lấy lại những đất
cũ thuộc về nước Nam ta trước. Bấy giờ quân Tiêm-la ở mạn Cam-môn giết mất một
người quan binh Pháp, người Pháp bèn sai hải-quân đem hai chiếc tầu chiến vào
sông Mê-nam, lên đậu ở gần thành Băng-cốc (Bangkok). Ngày 24 tháng 8 năm ấy,
nước Tiêm-la phải ký, hòa-ước, nhường những đất Lào cho nước Pháp bảo-hộ, hạn
trong một tháng phải rút quân đóng ở bên tả-ngạn sông Mékong về, lại phải bồi
thường 2 triệu phật-lăng, và phải trị tội những người dám chống-cự với người
Pháp.
Người Pháp lập phủ
Thống-sứ ở Vientiane để cai-trị các địa hạt bên Lào.
Năm ất-mùi (1895), viên
Tổng-đốc toàn-quyền Rousseau sang thay ông De Lanessan, thấy còn nhiều nơi chưa
yên bèn vay nước Pháp cho Bắc- kỳ 80 triệu phập-lăng , để chi-tiêu về việc
đánh-dẹp và mở-mang.
Năm đinh-dậu (1897), ông
Daumer sang làm Tổng-đốc toàn-quyền, chỉnh-đốn lại việc tài-chánh và việc
chính-trị. Lập ra sổ chi-thu chung cả toàn cảnh Đông-pháp, định các thứ thuế:
thuế đinh, thuế điền, thuế thổ, thuế xuất-cảng, nhập-cảng, v.v., và cho người
được độc-quyền lĩnh trưng thuế rượu, thuế muối, thuế nha-phiến. Bỏ nha
Kinh-lược ở Bắc-kỳ, giao quyền lại cho viên Thống-sứ (tháng 6 năm đinh-dậu
1897) 188 , vay nước Pháp 200 triệu phập-lăng, để mở đường
hỏa-xa trong xứ Đông-pháp và mở-mang thêm việc canh-nông và việc công-nghệ.
Năm nhâm-dần (1902) ông
Doumer về Pháp, ông Beau sang làm Tổng-đốc toàn-quyền. Ông Beau chủ việc
khai-hóa dân-trí, lo mở-mang sự học-hành và đặt ra Y-tế-cục, làm nhà bệnh-viện,
để cứu-giúp những kẻ yếu- đau nghèo-khổ. Ấy là những công-việc làm của
chính-phủ bảo-hộ vậy.
TỔNG KẾT
Sách Việt Nam Sử-Lược
này chép đến đây hãy tạm ngừng, để sau có tài-liệu đầy-đủ và các việc biến-đổi
ở nước Việt-Nam này được rõ-rệt hơn, sẽ làm tiếp thêm 189 .
Việc chép lịch-sử cũng
như việc dệt vải dệt lụa, dệt xong tấm nào mới biết tấm ấy tốt hay xấu, còn tấm
đang dệt, chưa biết thế nào mà nói được.
Ta chỉ biết rằng các dây
sợi dệt tấm Nam-sử này còn dài, người dệt tuy phải lúc đau yếu, bỏ ngừng
công-việc, nhưng còn mong có ngày khỏe- mạnh lại dệt thêm, có lẽ lại dệt được
tốt đẹp hơn, cũng chưa biết chừng.
Mặc dù nước Việt-nam
hiện nay được hoàn toàn độc-lập nhưng sự hay-dở tương-lai chưa biết ra thế nào?
Song người bản-quốc phải biết rằng phàm sự sinh-tồn tiến-hóa của một nước, là ở
cái chí-nguyện, sự nhẫn-nại và sự cố-gắng của người trong nước. Vậy ta phải hết
sức mà học-tập, mà giữ cái tâm-trí cho bền-vững thì chắc tương-lai còn nhiều hi-vọng.
Nước Việt-nam ta đã có cái văn-hóa chẳng thua-kém gì ai, và lại có một lịch-sử
vẻ- vang, nếu ta biết lợi-dụng cái tiềm-lực cố hữu và cái tính thông-minh hiếu
học của ta để theo thời mà tiến-hóa, thì sao ta lại không có ngày nối được cái
chí của ông cha mà dệt thêm một đoạn lịch-sử mỹ-lệ hơn trươc?
Có một điều thiết-tưởng
nên nhắc lại là ta nên giữ lấy những điều hay của ta đã có, bỏ những điều
hủ-bại đi, và bắt-chước lấy những điều hay của người, để gây lấy cái nhân-cách
đặt-biệt của dân-tộc ta và cùng tiến với người mà không lẫn với người. Muốn
được như thế, ta phải biết phân-biệt cái hay cái dở, không ham muốn những cái
huyền-hão bề ngoài, rồi đồng tân hiệp lực với nhau mà làm mọi việc cho thành
cái hiệu-qủa mỹ-mãn.
Nước nào cũng có lúc bĩ
lúc thái, đó là cái công-lệ tuần-hoàn của tạo-hóa trong thế-gian. Tự xưa chưa
thấy có nước nào cứ thịnh mãi hay cứ suy mãi. Khi lâm vào cảnh bĩ mà người
trong nước cứ vững lòng giữ được cái nghi-lực để sinh-tồn và tiến-hóa, thì rồi
thế nào cũng có ngày chấn-khởi lên được. Vậy chúng ta đây đều là một dòng-dõi
nhà Hồng-Lạc, nếu ta biết kiên tâm bền chí, thì há lại không có một ngày ta có
cái địa-vị vẻ-vang với
Những Sách Soạn Giả Dùng
Để Kê Cứu
A. Sách Chữ Nho Và Chữ
Quốc Ngữ:
1. Đại-Việt sử-ký, của
Ngô Sĩ-Liên
2. Khâm-định Việt-sử
Thông-giám cương-mục
3. Trần-triều thế-phổ
hành trạng
4. Bình Nguyên công-thần
thực lục
5. Hoàng Lê nhất thống
chí
6. Lịch-triều
hiến-chương, của Phan huy Chú
7. Đại Nam thực lục tiền
biên
8. Đại Nam thực lục
chính biên
9. Đại Nam thống chí
10. Đại Nam chính biên
liệt truyện
11. Đại Nam điển lễ
toát-yếu, của Đỗ văn Tâm
12. Minh-mệnh chính yếu
13. Quốc-triều sử
toát-yếu, của Cao xuân Dục
14. Thanh-triều sử-ký
15. Trung-quốc lịch-sử
16. Hạnh-Thục ca, của bà
Nguyễn nhược Thị
B. Sách Chữ Pháp :
1. Cours d'Histoire
Annamite, par Trương vĩnh Ký
2. Notion d'Histoire
d'Annam, par Maybon et Ruissier
3. Pays d'Annam, par E.
Luro
4. L'Empire d'Annam, par
Gosselin
5. Abrégé de l'Histoire
d'Annam, par Shreiner
6. Histoire de la
Cochinchine, par P.Cultru
7. Les Origines du
Tonkin, par J. Dupuis
8. Le Tonkin de 1872 à
1886, par J. Dupuis
9. La Vie de Monseigneur
Puginier, par E. Louvet
10. L'insurrection de
Gia-định, par J. Silvestre
(Revue Indochinoise -
Juillet-Aout 1915)
163 Hải Dương và Quảng
An
164 Sơn Tây, Hưng Hóa và
Tuyên Quang rồi cho binh thuyền đi cướp phá khắp nơi. Quan quân đi đánh, nhiều
người bị hại.
165 Có sách chép là
Hoàng Tá Viêm.
166 Sách "L'Empire
d'Annam" của capitaine Ch. Gosselin.
167 Đồ Phổ Nghĩa (Jean
Dupuis) có làm quyển sách "Le Tonkin de 1872 à 1886) kể những công việc
của ông ấy ở Bắc Việt, và nói rõ tình ý của các quan coi việc Súy Phủ ở Sài Gòn
lúc bấy giờ là thế nào. Ta cũng nhờ có sách ấy mà kê cứu ra được nhiều việc rất
là tường tận
168 Tờ hòa ước năm giáp
tuất 1874
169 Độc giả hiểu cho
rằng những ngày tháng chép trong sách này là theo ngày tháng Việt Nam chứ không
phải là theo ngày tháng Tây.
170 Về sau có bài Chính
Khí Ca nói về việc quan ta giữ thành Hà Nội lúc bấy giờ, và ai hay ai dở cũng
chép rõ ràng. Bài ca ấy không biết ai làm.
171 Những chuyện ở trong
Triều lúc bấy giờ, phần nhiều là lấy ở quyển "Hạnh Thục Ca", của Lễ
Tân Nguyễn Nhược thị. Bà ấy là một người cung phi của vua Dực Tông sau lại làm
thư ký cho bà Từ Dụ, cho nên những việc trong triều bà ấy biết rõ được rõ.
172 Dục Đức, Chánh Mông,
Dưỡng Thiện là tên nhà học của những ông Hoàng con nuôi vua Dực Tông gọi là Dục
Đức đường, Chánh Mông đường, v.v.... Lúc các ông Hoàng ấy chưa được phong thì
người ta cứ lấy tên nhà học mà gọi.
173 Résident tức là lưu
trú quan, nhưng lúc bấy giờ ta chưa quen dùng chữ ấy, và nhân có chữ consul cho
nên mới dùng chữ công sứ.
174 Mỗi một lữ đoàn
(brigade) có hai vệ quân, độ chừng bảy tám nghìn người, có chức thiếu tướng
coi. Hai lữ đoàn là một sư đoàn (division), có chức trung tướng coi.
175 Có chuyện nói rằng:
Khi vua Kiến Phúc se mình, nằm trong điện, đêm thấy Nguyễn Văn Tường vào trong
cung, ngài có quở mắng. Đến ngày hôm sau, thì ngài ngộ thuốc mà mất.
176 Tức là ải Chi Lăng
ngày trước.
177 Việc Tôn Thất Thuyết
đánh quân Pháp ở Huế, sử ta không nói rõ số quân ta là bao nhiêu. Mà sách Tây
có nơi chép là 2 vạn, có nơi chép là 3 vạn. Nhưng cứ những người biết việc ở
Huế lúc bấy giờ, thì quân ta cả thảy độ chừng non 2 vạn trở lại, chứ không hơn.
178 Khiêm Lăng là lăng
của vua Dực Tông, có khi gọi là Khiêm Cung cũng là đấy.
179 Trường Thi thủa ấy
bấy giờ ở làng Đa Chữ cách Kinh thành 10 cây số.
180 Trương Quang Đản
trước làm tổng đốc Bắc Ninh, chống nhau với quân Pháp, sau về Kinh phải giáng
xuống tuần phủ ra giữ thành Quảng Trị.
181 Người ở La Sơn, tỉnh
Hà Tĩnh, con quan nguyên bố chính Lê Kiên.
182 Tôn Thất Thuyết đi
đường thượng đạo ra vùng Hưng Hóa rồi theo thượng lưu sông Đà lên Lai Châu
nương tựa vào họ Điêu. Đến lúc nghe tiếng quân Pháp lên đánh, liền bỏ họ Điêu
mà trốn sang Tàu. Con cháu họ Điêu nói chuyện lại rằng: Khi Tôn Thất Thuyết lên
đến Lai Châu còn có mấy chục người đi theo. Lên đấy ở một đô, chém giết gần
hết. Xem như thế ông Thuyết là một người cuồng dại mà lại nhát gan. Một người
như thế mà làm đại tướng để giữ nước, thì tài gì mà nước không nguy được Về sau
chết già ở Thiều Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông.
183 Sách ông Gosselin
chép là Phạm Thuận. Nhưng xét trong sử nước thì không có ai làm Phạm Thuận, chỉ
có Nguyễn Phạm Tuân trước làm tri phủ, sau theo vua Hàm Nghi chống cự với quân
Phá, rồi bị đạng phải bắt. Vậy Phạm Thuận tức là Nguyễn Phạm Tuân. nhiều việc,
vả lại nay đi kinh lược chỗ này, mai đi kinh lược chỗ nọ, thành ra khí lược suy
nhược đi, cho nên mới cảm bệnh nặng, đến ngày rằm tháng 10 năm Bính Tuất (11
tháng 11 năm 1886) thì mất. Nhà nước đem linh cữu về Pháp mai táng.
184 Những chuyện nói về
việc bắt vua Hàm Nghi là phần nhiều lấy ở trong sách "Empire d'Annam"
của đại úy Gosselin, cho nên những tên làng tên đất nói ở đoạn này viết không
được đúng dấu. Nhưng đại để là những làng mường ở vùng sông Giai, thuộc huyện
Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
185 Hiện nay vua Hàm
Nghi còn ở Algérie, và đã lấy một người nước Pháp, được mấy đứa con.
186 Hai bức thư ấy dịch
ra chữ Pháp in ở trong sách "Empire d'Annam" của đại úy Gosselin. Lời
lẽ thì thật là cương nghị đáng bậc thiếu niên anh hùng. Nhưng vì thư đã dịch ra
chữ Pháp nếu nay lại theo chữ Pháp mà dịch ra chữ ta thì sợ không đúng với bản
chính, cho nên không đem vào đây.
187 Việt Minh là tên gọi
tắt một đảng cách mệnh gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh do đảng Cộng sản lập
ra khi còn ở bên Quảng Tây, bên Tàu, để tránh hai chữ Cộng sản cho người ta
khỏi ngờ
188 Có một điều rất kỳ,
là viên thống sứ Bắc Kỳ là người đại biểu chính phủ Bảo hộ mà lại kiêm chức
Kinh Lược Sứ là một chức quan của Triều Đình ở Huế.
189 Trước tôi đã dự bị
viết một quyển sách nối theo sách này. Tôi đã thu nhặt được rất nhiều tài liệu.
Chẳng may đến cuối năm bính tuất (1946) có cuộc chiến tranh ở Hà Nội, nhà tôi
bị đốt cháy, sách vỡ mất sạch, thành ra đành phải bỏ quyển sử ấy mà không làm
được nữa. thiên-hạ hay sao? Sự ước-ao mong-mỏi như thế là cái nghĩa vụ chung cả
chủng-loại Việt-nam ta vậy.
Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim (Phần 1)
Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim (Phần 2)
Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim (Phần 1)
Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim (Phần 2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét