Thứ Hai, 8 tháng 10, 2012

Thủy quân nhà Nguyễn - Bất khả chiến bại


Thủy quân nhà Nguyễn -Một đội quân bất khả chiến bại


Nhà Nguyễn với những thành-tích vô-song
Các triều-đại phong-kiến không phải tất cả đều xấu xa. Vua Chúa Quan Chức nhà Nguyễn chẳng những đã không tầm-thường mà lại còn hoàn-thành được rất nhiều kỳ-công, mang lại cho dân-tộc và đất nước Việt-Nam những tài-sản về vật-chất và tinh-thần thật lớn lao. Với diện-tích lãnh-thổ mà nhà Nguyễn bành-trướng gấp đôi, thực-phẩm nuôi dân Việt-Nam đã tăng lên bội-phần. Đặc-biệt về hải-phận, nước ta vượt quá 3 lần lớn hơn trước kia.
Sau đây, chúng tôi chỉ xin dựa trên một khiá cạnh nhỏ bé về sinh-hoạt hàng-hải, điểm qua một số thành-tích vô-song về thủy-quân nhà Nguyễn.

Nghiệp Đế Xuất-phát Từ Lý-do Phòng-thủ Hải-biên
Khi Trịnh-Kiểm âm-mưu chiếm gọn binh-quyền, giết người anh của Ông là Nguyễn-Uông, Nguyễn-Hoàng tìm cách thoát-hiểm và trả thù họ Trịnh. Tính-toán mãi chưa biết nên làm gì, bèn sai người thỉnh-ý Trạng-Trình Nguyễn-Bỉnh-Khiêm, thì được khuyên một câu: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một dải núi Hoành-Sơn có thể dung thân muôn đời). Hoàng hiểu ra, nhờ chị gái là Ngọc-Bảo nói với Trịnh-Kiểm cho Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa với lý-do: "Đất ấy hiểm trở, xa xôi, khí hậu khắc-nghiệt, lại là mặt Nam đễ bị tập-kích, quân Mạc có thể dùng thuyền vượt biển đánh sau lưng bất cứ lúc nào".

Kiểm buộc lòng phải thuận theo vì biết chỉ có họ Nguyễn là giỏi thủy-chiến, đủ sức phòng-thủ hải-biên an-toàn cho phía Nam. Trịnh-Kiểm dâng biểu tâu vua trao quyền cho Nguyễn-Hoàng làm trấn thủ Thuận Hóa, toàn-quyền xử-lý mọi việc. Hoàng đem người nhà và nhóm quân bản bộ xuống chiến-thuyền vào Nam năm Mậu Ngọ (1558) khi 34 tuổi. Cùng đi với Ông, còn có số người nghĩa-dũng Tống-Sơn Thanh Hóa. Mấy ngàn người này, hầu hết có ít nhiều hiểu biết về thủy-quân, đã mở đầu ra một sự nghiệp rất dài 400 năm (cho đến 1954).
Năm 1572, sau khi đem quân đánh Thanh-Nghệ, tiến về Thuận-Hóa, Mạc-Kính-Điển dùng 60 chiến-thuyền do hải-đạo vào tiến chiếm làng Hồ-Xá và Lãng-Uyển, vượt qua sông Cửa Việt. Nguyễn-Hoàng lập mưu mỹ-nhân-kế. Tướng địch là Lập-Đạo trúng kế cầu hòa, bị bắn chết. Nguyễn-Hoàng đánh tan đạo quân này.

Sau khi việc trấn-thủ vùng Thuận-Quảng đã yên-ổn, năm 1593 Nguyễn-Hoàng lại đưa Hạm-đội ra giúp vua Lê dẹp nhà Mạc và gian-đảng gần 8 năm. Năm Canh Tý (1600) được lệnh vua Lê từ Thăng Long đem thủy-quân đi dẹp các tướng nổi loạn Phan-Ngạn, Ngô-Đình-Hàm và Bùi-Văn-Khuê ở vùng sông ngòi Nam-Định, Nguyễn-Hoàng cùng quân bản bộ kéo qua Cửa Đại-An, bất thần giương buồm thẳng ra Biển Đông vào ngay Thuận Hóa. Sau chuyến hải-hành quyết-tâm ra đi này, Hoàng lo việc lập-nghiệp tại duyên-hải phương Nam, không nghĩ việc quay về lại đất Bắc lần nữa.

Khởi-nghiệp bằng đoàn Thủy-quân nhỏ bé
Nói chung, hầu hết các triều-đại Việt-Nam thường thường khởi-nghiệp bằng những chiến-công diệt ngoại-xâm hay thống-nhất đất nước. Anh-hùng nước ta đã quy-tụ được những tấm lòng yêu nước thuộc mọi ngành nghề sinh-hoạt, đến từ khắp nơi trong nước, hợp-quần cùng nhau đứng lên giết giặc, dành độc-lập cho quê-hương.
Đặc-biệt sự-nghiệp họ Nguyễn lại có một chỗ đứng hoàn-toàn riêng rẽ. Thoạt tiên, đoàn quân của họ rất nhỏ bé chỉ mong được thoát hiểm, gồm các đồng-hương vùng Thanh-Hóa, tương-đối đồng-nhất về khả-năng và kinh-nghiệm chuyên-biệt về thủy-chiến. Nếu được kể là từ khi Nguyễn-Hoàng có quyết-tâm khởi-đầu cơ-nghiệp cho đến khi họ Nguyễn đủ thế-lực xưng Chúa, thành-phần nòng cốt của họ đã chiến-đấu sinh-hoạt cạnh nhau trong vòng nhiều chục năm trời. Nhóm quân lính đó đặt cứ-điểm trên Hạm-đội, thường qua lại khắp các vùng biển Quảng-Nam, Thuận-Hoá, Nghệ-An, Thanh-Hóa và ra vào các sông ngòi miền châu-thổ hai sông Hồng và Thái-Bình, Bắc Đại-Việt.

Truyền-thống thủy-chiến được con cháu họ Nguyễn chuyên-cần phát-triển và nuôi dưỡng suốt một chiều dài lịch-sử gần 350 năm, kéo theo con đường Nam-Tiến của họ từ Thanh-Hóa đến tận Phú-Quốc Hà-Tiên. Truyền-thống này theo một vài sử-gia chính là động-lực lớn nhất đưa Nhà Nguyễn đến sự thành công trong việc mở mang bờ cõi, thống-nhất giang-sơn và duy-trì được vương-quyền sau nhiều cơn sóng gió.

Hành lang Biển Đông
Đi từ một nhóm binh lính dân đinh năm, bảy ngàn người; bám chặt vào duyên-hải Miền Trung, chúa Nguyễn đã không bị nghiền nát bởi hàng chục vạn binh-sĩ của chúa Trịnh tấn công liên tục mọi mặt gần một thế-kỷ. Trái lại, Nguyễn-Hoàng và những người lãnh đạo tiếp theo đã đưa Việt Nam tiến những bước thật dài chưa từng có trong lịch sử.
Biển Đông biến thành hành-lang hữu-hiệu đưa đoàn thuyền Nam-tiến. Thủy-quân thường đi trước, làm nơi nương-tựa cho quân-dân lập-nghiệp trên bờ phối hợp cùng di-chuyển. Làng mạc định-cư cứ thế chuyển dần về Nam, chinh phục toàn bộ miền Trung và Nam Bộ. Các Chúa Nguyễn đã đưa đất nước vươn mình đến tận vịnh Thái Lan và tỏa ảnh hưởng văn-hoá trên toàn bán đảo Hoa-Ấn.
Đàng Trong đần dần trở thành một vương-quốc hùng mạnh, tự-trị với Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài (Bắc Hà). Các nhà truyền giáo ngoại-quốc trong giai-đoạn này đã hết sức ngạc-nhiên và khâm-phục trước lực-lượng quân-sự hùng mạnh, sức sống mãnh-liệt của nhân-dân cũng như trước mức độ văn-hóa và đạo-đức rất cao của đất nước Việt Nam Xứ Đàng Trong.

Hải-Chiến với Hải-tặc Nhật-Bản.
Cuối thế-kỷ 16, khi hoành-hành cướp-phá bờ biển Trung-Quốc, Hải-tặc Nhật-Bản cũng tràn qua cả nước ta. Chúng kéo nhau đến Cửa Việt vào năm 1585. Hoàng-Tử Nguyễn-Phước-Nguyên, con thứ sáu của Chúa Nguyễn-Hoàng đã điều-binh đánh chìm hai chiếc tầu Ngọa-khấu (giặc lùn - Kenki). Đây là sử-liệu đầu-tiên đề-cập đến mối liên-hệ giữa Nhật-Bản và ĐàngTrong. Năm 1599, một chiếc tàu Henki khác khi hải-hành bị mắc cạn tại Cửa biển Thuận-An cũng bị một tướng của Chúa Nguyễn-Hoàng chận bắt được. Đầy đủ trang-cụ bị tịch-thu, cả thủy-thủ-đoàn tàu cướp biển bị bắt. (xem Thuần Lục, trang web http://charm.ru/coins/vn/nagasaki.shtml).
Hai năm sau, 1601, Chúa Nguyễn-Hoàng gửỉ bức thư ngoại-giao chính-thức đầu tiên của nước ta đến Tướng-Quân Shogun Tokugawa. Hai xứ Việt-Nhật bắt đầu lập giao-thương đường biển. Thương-điếm vùng Hội-An được thành-lập với nhiều thương-nhân ngoại-quốc và đặc-biệt đông nhất là người Nhật-Bản, bắt đầu phát-triển mạnh mẽ.

Trận Hải-Chiến đầu tiên trong Việt-Sử
Đọc Việt-Sử ta thấy từ xa xưa, Tổ-tiên chúng ta từng sử-dụng thủy-quân nhiều lần. Tuy vậy nếu tò mò xem xét thì rõ ràng chưa bao giờ thực-sự có hải-chiến xảy ra. Các trận Chương-Dương, Hàm-Tử ... kể cả hai lần đại-thắng Bạch-Đằng của Ngô-Vương-Quyền và Trần-Hưng-Đạo đều là giang-chiến, diễn ra trong sông.
Vào năm 1585 ngoài cửa biển Lục-Thủy-Dương, thủy-quân Trần-Khánh-Dư đã ghi công thắng trận duyên-chiến đầu tiên. Cả trận Cửa Việt năm 1585 nói trên cũng thuộc loại này. Phải đợi đến cuối thời Chúa Nguyễn-Phước-Lan, ta mới thấy một anh-hùng hải-chiến thực-sự. Đó là Thế-tử Nguyễn-Phước-Tần, sau này trở thành Chúa Hiền. Sử chép rằng đội chiến-thuyền cảm-tử của Ông đã rượt đuổi và đánh tan hạm-đội chiến-thuyền Hòa-Lan (1648) ngoài khơi vùng biển từ Cù-Lao Chàm đến Cù-Lao Hàn. Hòa-Lan lúc đó đang là đế quốc có lực lượng hải-quân hùng-mạnh nhất thế giới.

Ưu-thế Thủy-Chiến và Binh-Thư
Có lẽ họ đã nói đúng nhưng hơi ... quá đáng chăng? Các giáo-sĩ Alexandre De Rhodes và Tisannier trong ký-sự, khen quân-lực của chúa Nguyễn hùng-hậu hơn cả Pháp và Bồ-Đào-Nha. Trong Chiến-tranh Trịnh - Nguyễn lần thứ nhất kéo dài đến 45 năm, nói chung họ Trịnh thường khởi thế công. Họ Nguyễn chuyên phòng-thủ. Trong tất cả các đợt tấn-công, họ Trịnh chủ-yếu dùng quân bộ, còn họ Nguyễn lưu-tâm điều-động thủy-quân với nhiều sự mềm dẻo trong việc điều-quân hầu bảo-toàn lãnh thổ của họ. Thoạt đầu khi đất đai còn nhỏ hẹp, Quân-lực Đàng Trong ít ỏi và yếu kém hơn Đàng Ngoài, nhà Nguyễn phải nghiên-cứu binh-pháp để làm sao được tồn-tại.
Mối quan-tâm về chiến-thuật điều-quân và đặc-biệt về thủy-chiến của nhà Nguyễn đã được chính vị Đại-quan Khai-Quốc Công-Thần Đào-Duy-Từ suy-luận và viết ra với rất nhiều chi-tiết. Trong cuốn sách Hổ Tướng Khu Cơ của Ông (1572-1634), chương Thủy-chiến rất là quan-trọng. Ngay đến tập Binh-Thư Yếu Lược của Trần-Hưng-Đạo mà ta thấy truyền-tụng ngày nay cũng đã có nhà quân-sự ghi thêm lẫn lộn nhiều đoạn của Hổ-Tướng Khu-Cơ. Ông Nguyễn-Ngọc-Tỉnh, khi phiên dịch cuốn sách Binh-Thư Yếu Lược của Trần-Hưng-Đạo (Paris, 1988, trang 267) đã ghi chú rằng: Sách Hổ Tướng Khu Cơ: Phép lấy nước uống trong biển (Trích cả một thiên Thủy-Chiến của sách Hổ Tướng Khu Cơ, gồm 9 chương, ở đây bỏ cả, xem ở sau...)
Ngày trước, nghệ-thuật thủy-chiến như được viết chi-tiết trong các cuốn sách Binh-thư thật là hiếm có.

Cải-tiến Hải-hành.
Như ta đã biết, hải-hành cần những hải-đồ và đồng-hồ chính-xác. Chúa Nguyễn-Phước-Chú cho đặt các đồng-hồ Tây-phương nơi các công-sở và đồn tàu dọc biển, sau đó Ông Nguyễn-Văn-Tú rồi tiếp theo những người khác nữa lại chế-tạo được đồng-hồ. Từ đó, sự điều động thủy-quân theo thời-gian được chính-xác hơn xưa.
Chúa Nguyễn nhờ cánh tay dài Thủy-Quân đã nối dài đất nước tới tận Hoàng-Sa và Trường-Sa. Sách sử Việt-Nam đã ghi-chép về quần-đảo Hoàng-Sa từ thế-kỷ XVII với chi-tiết địa-lý rõ ràng trong sách "Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư" (1630-1653) của Đỗ-Bá.
Sau cuốn sách này, ta có "Phủ-biên Tạp-lục" một tác-phẩm của Lê-Quý-Đôn mà trong đó ông tường-thuật những công-tác thi-hành chủ-quyền Việt-Nam trên Hoàng-Sa và Trường-Sa. Các đội Hoàng-Sa trách-nhiệm những đảo Cát Vàng và đội Bắc-Hải trách-nhiệm Trường-Sa, Phú-Quốc; tuân-hành theo lệnh Chúa Nguyễn.

Ít nhất đã khởi-sự vào cuối thế-kỷ XVII, sau những chuyến đi biển hàng năm thường dài tới 6,7 tháng, các đội Hoàng-Sa đã báo-cáo lại mọi diễn-biến trên hải-trình làm kinh-nghiệm cho những chuyến công-tác sau này. Từ đời chúa Nguyễn-phúc-Nguyên (1613-1615) hay có thể trước đó nữa, các đội Hoàng-Sa đã được thành-lập để thu-lượm hải-vật. Học-giả Lê-quý-Đôn (1726-1784) từng tham-khảo sổ biên của Cai-đội Thuyên-đức-Hầu (một chức-quyền Hải-Quân cao-cấp ngày trước) thấy năm 1702 đội Hoàng-Sa lấy được 30 thỏi bạc, năm 1704 được 5,100 cân thiếc, năm 1705 được 126 thỏi bạc... Vì không có tài-liệu ghi-nhận bất cứ một tai-nạn đắm tàu nào, ta thấy rằng khả-năng hải-hành lúc đó đã khá và việc nghiên-cứu đường biển trong thời các Chúa Nguyễn cũng khá đầy đủ.

Bước Đường Bôn-tẩu Trên Biển.
Khi đọc Sử, chúng ta thường ca-tụng Vua Quang-Trung trọng-dụng chữ Nôm, Tuy vậy, có một câu chuyện chữ Nôm về Nhà Nguyễn rất thích-thú và cảm-động sau đây.
Qua 9 đời Chúa, sau thời hưng-thịnh họ Nguyễn đến lúc suy-vong. Nguyễn-Ánh may mắn sống sót, trốn chạy bằng đường thủy, mưu-cầu phục-quốc. Nay thuyền Ông tấp vào bớ sông vắng, mai tàu Ông trôi dạt ra hòn đảo ngoài khơi. Trong khi bị truy-sát, sinh-mạng như chỉ mành treo chuông, chẳng có loại ngôn-ngũ nào hay hơn khi Nguyễn-Ánh muốn bộc-lộ lòng mình bằng những tiếng nôm na của mẹ cha ông bà của mình. Điều này khác xa với các văn-bản của Sử-Quán. Các Quan thường dùng chữ Hán và văn-chương biền-ngẫu, sau này còn tô vẽ thêm cho nhà Vua một thứ sơn lót chân-mạng đế-vương.

Linh-Mục Cadier là người đã đi tìm đọc thấy 14 bức thư chữ Nôm của Nguyễn-Ánh gửi các giáo-sĩ. Trong số đó có cả tờ lệnh ban cho Sĩ-quan Pháp thuộc Hải-quân của Ông.
Chúng ta vô cùng thương-cảm cho một Ông Hoàng đã mất hết uy-quyền, cải-trang thường-dân, lênh đênh góc biển chân trời, hải-đảo xa vắng, thốt lời chua-chát, than-thở cho số-phận đắng-cay, ray-rứt vì chưa làm tròn bổn-phận với Tổ-tiên. Bằng văn Nôm, Ông tự biểu-lộ là một người bạn thành-thực chí tình, một người cha thương nhớ đứa con mình xa cách nửa vòng trái đất...
Có lẽ nhà Vua đã viết nhiều tài-liệu tương-tự hay tác-phẩm nôm na như vậy, nhưng nay đã bị thất-lạc. Khi cần khích-động lòng quân-sĩ và đồng-bào Việt-Nam của mình, Ông cũng viết tiếng Việt-Nam. Đạo Dụ bằng quốc-văn trong cuộc duyệt-binh ngày 26 tháng 3 năm 1800, trước khi binh-đoàn khởi-hành hay xuống tàu đi cứu Võ Tánh, là một bằng-chứng vậy!

Giao-thương Khắp Nẻo.
Nối tiếp sự nghiệp các Chúa, Nguyễn-Ánh mở mang việc thương-mại với các nước láng giềng và thuyền buôn Tây-phương. Sau khi chiếm lại được Gia-Định lần chót từ tay Tây-Sơn, Nội-viện Trần Vũ Khách đưa tàu đi Giang Lư Ba (Batavia), Cai-đội Ô-li-vi, Đội-trưởng Ba-la-di đi Goa, Mã-la-Kha (Ba-la-kha - Malacca). Tài-liệu Tây-phương cho biết L. Barizy còn trương hiệu-kỳ của chúa Nguyễn buôn bán với thương-nhân Đan mạch, Hanop và Stevenson. Đứng trung-lập trong chiến-tranh Anh Pháp, họ làm đại-lý cho Ánh ở Tranquebar (Ấn-Độ). Các thương-cảng miền Nam bắt đầu hồi-sinh.
Trước nội-chiến, Tourane nườm nượp những ghe trọng-tải từ 40-150 tấn đến chở cau, đường. Mỗi chuyến riêng mỗi thứ mang đi hàng 40 ngàn tấn. Nhưng vào khoảng năm 1790, khi Âu-châu e ngại với Tây-Sơn, đường cát tuy có rất nhiều ở Quảng-Nam nhưng không trở thành món hàng xuất-cảng. Kết-quả của sự thiếu giao-thương là hiệu-năng vũ-khí của Tây-Sơn suy-kém hẳn đi. Trong Lịch Sử Nội-Chiến Ở Việt-Nam, Tạ Chí Đại Trường viết: Những khẩu súng nhồi bằng thuốc đạn Trung Hoa không bắn xa bằng thứ cùng loại ở Gia Định nhồi bằng thuốc đạn Tây Phương.

Thủy-chiến là Sở-trường của ta
Trở lại với thủy-chiến, ta thấy Liệt Truyện q.10, 6b chép rằng; Nguyễn-Ánh và các tướng của Ông thường lý-luận và tin-tưởng rằng: "Thủy-chiến là sở-trường của ta". Thủy-binh bao giờ cũng tiến nhanh và là mũi nhọn phóng sâu vào đất địch trước bộ-binh. Tư-thế chủ-động và tính-cách độc-lập của thủy-quân còn được Sử-gia Tạ Chí Đại Trường xác nhận là quân ngoài biển không những luôn luôn đi tiên-phong mà nhiều khi còn phải làm thế nương tựa cho quân bộ-chiến có khả-năng tiến lên nữa.
Nhận biết thủy-quân là quan-trọng, giá tiền thưởng khi bắt lính đào-ngũ có sự cách biệt rõ rệt: quân nào bắt được lính bộ thì thưởng 30 quan, còn được thủy-binh thì được hưởng tới 40 quan (thực lục quyển 4, 12a.
Nhà Nguyễn kiến-trúc nhiều chiến-hạm tân-tiến. Các Tây-dương dạng-thuyền như Thoại-Phụng của Barizy điều-khiển, Loan-phi của Chaigneau, Bằng-Phi của DeForcan, Phượng-Phi của Vannier đều có kỹ-thuật rất cao, với thủy-thủ-đoàn và quân đổ-bộ đông tới 300 người.

Đánh tan Hạm-đội thuyền Tề-ngôi Trung-Hoa.
Khi Vua Quang-Trung qua đời, lực-lượng quân-sự phía mặt biển suy-yếu thấy rõ. Tây-Sơn phải tìm cách bù đắp. Bọn cướp biển Tề-Ngôi người Trung-Hoa được bổ túc vào sự thiếu sót đó. Các thuyền Tề- Ngôi vừa giữ nhiệm-vụ tiếp-tế cho nội-địa vừa chính là một bộ-phận của thủy-quân Tây-Sơn để quân- bình sự yếu-kém vậy.
Ngoài Bắc-Hà, thuyền buôn không đến nhiều. Của cải trong nước hư-hao. Sử nhà Nguyễn chép: Cha con Nguyễn-Quang-Bình dùng binh cướp nước, sai hơn 100 chiếc Tàu ô, 12 viên Tổng-binh lấy tiếng là tìm mua quân lương, đi chiêu-tập nhiều tụi vong-mạng dọc bờ biển Trung-Quốc. Lấy quan tước làm mồi nhử, cấp cho thuyền và khí-giới, sai đưa đường cướp Mân, Việt, Giang, Chiết... (Lịch Sử Nội-Chiến Ở Việt-Nam, Tạ-Chí Đõi-Trường, trang 221).
Tuy số lượng tàu hải-tặc Trung-Hoa rất đông, nhưng chúng thường ô-hợp, nên dần dần bị Chúa Nguyễn đánh tan. Chủ-tướng của chúng là Đông-hải-Vương Mạc-Quần-Phù cùng các tướng bị bắt ngoài khơi Thị-Nại khoảng tháng 5 năm 1801. Thủy-Quân Gia-Định tung-hoành ra lấy Phú-Xuân, rồi Thăng-Long mà không sợ một lực-lượng lưu-động biển nào theo đuổi ngăn trở nưã.

Sự Chắc-chắn của các Chiến-Hạm Nam-Hà
Thực ra sau khi làm chìm chiếc tầu Macao tịch thu được của người Bồ bị bão dạt vào Quy Nhơn, Tây Sơn cũng cố gắng phát-triển thủy-quân. Nguyễn-Huệ đã cho đóng những chiếc đại-hiệu-thuyền có thể chở nổi các con voi trận. Có lẽ đó là những chiếc tàu mà người Anh đi lạc vào thành Quảng-Nam chuyến tháp-tùng phái-bộ MacCartney đã nhìn thấy và ước-lượng đến 150 tấn trọng-tải và chắc cũng là loại tàu Định-quốc mà Vũ Văn Dũng đem án ngữ ở cửa Thị-Nại trong trận thủy-chiến năm 1801.
Thế nhưng chúng ta hãy nghĩ tới những chiếc tàu chiến bọc vỏ đồng của Nguyễn-Ánh rõ là tân-tiến và có sức chịu đựng hơn nhiều.

Học-hỏi Kỹ-thuật Nhưng không Nệ Người Tây-Phương
Trình-độ xâm-nhập kỹ-thuật Tây-phương tăng-tiến trong những năm đầu chinh-chiến, nhưng ảnh-hưởng cá-nhân của bọn phiêu-lưu người Pháp sụt xuống rõ rệt về sau này. Nguyễn-Ánh dùng người Ngoại-Quốc làm Cố-Vấn nhưng Ông rất quyết-đoán, không để Nam-quân lệ-thuộc vào họ.
Năm 1792 trong cuộc thủy-chiến Thị-Nại lần đầu, Jean Marie Dayot và mấy Hạm-Trưởng người Pháp tham-dự việc tấn-công. Cũng tại nơi đó chỉ 9 năm sau, 1801, các Tướng-Lãnh người Việt là Nguyễn-Văn-Trương, Võ-Di-Nguy Lê-Văn-Duyệt ào ạt đốt thuyền địch. Trong khi đó, Chaigneau, Vannier, De Forcan đứng ở hậu đội.
Năm 1793, sử-quan nhắc tới bọn Tây-Dương-Binh theo quân ở Bình-Thuận, vây quanh Qui-Nhơn. Năm 1797, trong lực-lượng xuất-phát vào tháng 4-1797 có 447 chiến-thuyền và 42,000 chiến-binh, vẫn còn những thoại-hạm (fregate và corvette) do người Âu chỉ-huy. Thế mà chỉ đến năm 1801, Chaigneau, Vannier chỉ làm nhiệm-vụ lấy lương tiếp-tế cho Qui-Nhơn, Phú-Xuân mà thôi (Lịch Sử Nội-Chiến Ở Việt-Nam, Tạ Chí Đại Trường , trang 356).
Sau năm 1799, lúc J. Dayot đã đi thì Olivier cũng muốn từ-chức. Khi nhóm nho-sĩ đướng đằng sau Nguyễn-Vương tăng thêm thanh-thế, uy-tín Tây-phương hạ xuống rất nhanh (trang 306),

Phải nói thêm rằng: bọn phiêu-lưu người Pháp rất "ngán" Nguyễn-Ánh. Vào năm 1795, dù phải sửa soạn binh-thuyền đi cứu Diên-Khánh bị vây lần thứ hai, Ông đã tống giam Dayot vì tội làm chìm chiếc tàu được nhà Vua giao cho trông giữ. Sau đó ít lâu, Dayot bỏ đi và chết đuối khi thăm-dò thủy-đạo tại Vịnh Bắc-phần. Thời-gian gần cuối cuộc chiến, một Sĩ-Quan khác nữa là L. Barizy bị bỏ tù, khi có người tố-cáo Barizi đầu-độc một chủ tàu buôn.
Qua thế-kỷ 20, Việt-Nam Cộng-Hòa có lẽ đã quá nệ vào những người Hoa-Kỳ đến giúp đỡ cố-vấn và cung-cấp phương-tiện. Khi họ rút ra, Miền Nam mất nơi nương-tựa nên mới xảy ra tai-họa diệt-vong.

Số Thủy-binh trong Quân-đội
Vào đầu thập-niên 1800, Thủy-binh chuyên-nghiệp của Nguyên-Ánh gồm có:
Lính làm thuốc đạn xưởng đóng tàu 8,000
Thủy-binh trên các tàu trong cửa biển 8,000
Thủy-binh trên các tàu đóng kiểu Âu 1,200
Thủy-binh trên các ghe bầu 1,600
Thủy-binh trên các thuyền chiến có chèo 8,000
Tổng-số Thủy-quân là 26.800 người trong một quân-lực 139.800. (Lịch Sử Nội-Chiến Ở Việt-Nam, Tạ-Chí Đại-Trường, trang 230).
Lưu-ý rằng quân-đội Nguyễn Ánh bao gồm nhiều quân, binh-chủng như tượng-quân, công-binh, pháo-binh, tiếp-vận, truyền-tin ... Riêng về nhân-lực của Xưởng Đóng Tàu (8,000 người) cần một sự so-sánh với Hải-Quân Công-Xưởng Ba Son để được dễ hiểu. Trong thế-kỷ 20, thường thường chỉ có từ 2,000 đến 3,000 thợ mà thôi.

Hoàng-Đế Nguyễn-Ánh, một Biểu-tượng Hải-Quân
Những người lính thủy ngày nay cho dù có bất-đồng ý-kiến về bất cứ một vai trò lịch-sử nào của nhà Nguyễn, cũng phải công-nhận Hoàng-Đế Nguyễn-Ánh là một trong những biểu-tượng Hải-Quân vĩ-đại nhất trong dòng Sử Việt. Ông đã làm nức lòng quân-đội, nhất là Thủy-quân khi đích-thân nhận quyền Hạm-Trưởng một chiếc Thoại-hạm.
Vị Hoàng-đế này cũng là nhà chiến-lược hải-chiến tài-ba và rất có thể là vị tướng-lãnh Việt-Nam đầu tiên sử-dụng hải-pháo để mở đường tiến quân, phá-hủy mục-tiêu, đồng-thời dùng thủy-quân xung-phong, giúp cho bộ-binh chiếm-đóng đồn địch. Những hoạt-động quân-sự này chính là bước đi tiền-thân của các Hải-Đoàn Xung-Phong mà ta thấy sau này.

Trận Thủy-Chiến quyết-định: Đệ nhất Vũ-công
Trận Thủy-Chiến quyết-định mà Sử-quan Nhà Nguyễn ghi-nhận là Đệ nhất vũ-công đã diễn ra tại Thị-Nại. Khi đó Võ Tánh bị vây tại thành Qui-Nhơn khá lâu. Tháng giêng năm Canh Thân 1800, Tướng Tây-Sơn là Võ-Văn-Dũng đưa hai chiếc Định-quốc Đại-hiệu-thuyền, chở từ 50 đến 60 khẩu đại-bác chắn ngay cửa Thị-Nại. Dày đặc bên trong là 40 tàu lớn, 20 tàu nhỏ hơn với 100 ghe chiến đậu san sát đến cửa vào Đầm Nước Mặn. Triền núi, Dũng cho đặt đại-bác yểm-trợ đoàn tàu. Trên bộ, Dũng còn có hơn 50 voi trận và quân lính. Nguyễn-Vương cử đại-quân ra tiếp-viện bằng đường biển, sai Nguyễn-Văn-Thành và các tướng tiến qua Phú-Yên ra Bình-Định. Quân thủy và quân bộ của Vương không thông được với nhau và cũng vì vậy, không cứu-viện được Võ-Tánh. Tháng giêng năm Tân Dậu 1801, Ánh sai các tướng Nguyễn-Văn-Trương và Tống-Phúc-Lương đánh đồn thủy Tây-Sơn, trong khi đó Lê-Văn-Duyệt và Võ-Di-Nguy đem chiến-thuyền đánh thẳng vào cửa Thi-Nại. Dù biết Võ-Di-Nguy đã bị trúng đạn chết, nhưng Lê-Văn-Duyệt vẫn ra sức xông đột, đốt được cả tàu và thuyền của Tây-Sơn.
Vì Tây-Sơn đã dồn toàn-thể thủy-quân để chiến-đấu nên một khi bị tiêu-diệt, Tây-Sơn không còn uy-thế nào đáng kể trên mặt biển nữa. Quân Nam-Hà tiến dần-dần ra Phú-Xuân, rồi thẳng ra chiếm Bắc-Hà rất nhanh chóng.

Biển Đông đã Nối liền Gia-Định và Thăng-Long thành Đế-hiệu Gia-Long.
Bằng cách ngự-trị biển cả, từ một giấc mộng nhỏ bé của Nguyễn-Hoàng là mong-mỏi được một phần đất tự-trị "vạn-đại dung-thân" tiếp-tục trải qua đời 9 vị Chúa, sau cùng họ Nguyễn đã đi đến một thành-tích vĩ-đại là thống-nhất quốc-gia, đưa đất nước qua cảnh nhiễu-nhương chia ba, xẻ bảy. Năm 1802, hai miền thủ-phủ Gia-Định và Thăng-Long đã nối liền. Nguyễn-Ánh lên ngôi với đế-hiệu Gia-Long.

Đốt cháy Hạm-Đội Anh-Cát-Lợi.
Dù không còn phải dụng-binh nhiều sau năm 1802, Thủy-quân Nhà Nguyễn vẫn còn rất mạnh. Nước Anh đưa thư xin ngoại-giao thông-thương ba bốn lần đều bị khước từ. Năm 1803 khi một Hạm-đội của họ gồm 7 chiếc tàu tiến từ Biển Đông theo đường sông vào Hà-Nội, bị quân ta đốt cháy. Không thấy chính-phủ Anh-Cát-Lợi phản-đối.
Có lẽ vì Anh-Quốc biết rằng mình có lỗi khi xâm-nhập hải-phận và lãnh-thổ Việt-Nam một cách bất-hợp-pháp, nên mọi việc cũng êm. Tài-liệu hiếm này được Nhà Quân-Sử Phạm Văn Sơn ghi lại trong Việt-Sử Toàn-Thư, xuất-bản năm 1960, trang 591.

Truyền-thống Tàu Thuyền Ngàn Năm: Trống đồng và Cửu-đỉnh.
Sau Gia-Long, vị vua thứ hai triều Nguyễn là Minh-Mệnh. Ông Vua này đáng được kể là một nhà Văn-Hóa lớn khi chính Ông đã cho thực-hiện bộ Cửu-đỉnh gồm 9 cái đỉnh đồng rất lớn. Chúng tôi xin trình-bày nội-dung công-trình đó một cách ngắn gọn như sau:
Đồ Đồng Đông-Sơn được sản-xuất vào thiên-kỷ thứ nhất TTL. tiêu-biểu cho nền văn-hoá đặc-thù của dân-tộc Việt-Nam trong thời-kỳ mở nước và dựng nước các triều-đại Hùng-Vương.
Khi khảo-sát văn-hoá thời Đông-Sơn, nhiều học-giả, gồm cả Đông-phương lẫn Tây-phương như Chikamouri, Bezacier, Manuel, và nhất là Keith Weller Taylor (tác-giả "The Birth of Vietnam", University of California Press, California, 1983); đã đồng-ý rằng: "Các hình vẽ và trang-trí tàu thuyền trên trống đồng Đông-Sơn luôn luôn tạo nên ý-tưởng về những biểu-tượng của nghệ-thuật hàng-hải, đồng-thời minh-chứng một cách không thể lầm lẫn về tầm ảnh-hưởng của một thế-lực dựa trên căn-bản của biển cả." Khi hiểu như vậy, ta thấy tinh-thần tập-đoàn của thủy-thủ đã tạo thành gốc rễ cho sự đoàn-kết và phát-triển quốc-gia chúng ta suốt bốn ngàn năm lịch-sử.

Bẵng đi hơn 2,000 năm, Nhà Nguyễn nhận-thức được cái tinh-thần hàng-hải cao quý lâu đời đó cần phải được phát-huy trở lại. Theo Đại-Nam Nhất Thống Chí, Quyển Biểu Kinh Sư, trang 86 (Bản dịch: Nguyễn-Tạo, Saigòn 1960), năm 1836 nhà Vua cho đúc chín cái đỉnh. Trong những biểu-tượng quốc-gia chạm khắc trên đỉnh, người ta thấy xuất-hiện những hình-ảnh thuộc nhiều loại tàu thuyền như sau :
- Cao đỉnh: Đa tác thuyền 3 cột buồm, có nhiều giây
- Nhân đỉnh: Lâu thuyền tính từ hầm thuyền lên có 2 tầng lầu
- Chương đỉnh: Mông Đồng thuyền, thuyền chiến có 8 cặp chèo
- Nghị đỉnh: Hải Đạo Thuyền, thuyền chuyển-vận đường biển có 7 cặp chèo
- Thuần đỉnh: Đĩnh, thuyền đua hẹp ngang và dài có 9 cặp chèo
- Tuyên đỉnh: Lê Thuyền, ghe lê có 6 cặp chèo
- Du đỉnh: Ô Thuyền, ghe Ô có hai buồm
Đây là những kỷ-vật quý-giá vô-cùng, đồng-thời là những thành-tích văn-hóa sâu đậm dành cho hậu-thế muôn đời về mai sau.

Nước và Vua Duy Tân
Theo với vận nước suy-tàn, Nhà Nguyễn cũng còn được nối dõi bởi một nhà Vua trẻ và giỏi. Đó là Vua Duy-Tân, tuy sự nghiệp ngắn ngủi nhưng rất anh-hùng và yêu nước chân-thành. Trong khi người Pháp đang áp-đặt ách thống-trị lên dân ta, tinh-thần "Nước" với lòng yêu Nước, thương Dân của Vua Duy-Tân đáng được kể là rất sâu đậm ngay từ thuở thiếu-thời. Tương-truyền, có lần Nhà Vua chỉ mười mấy tuổi này đang ngự thuyền câu cá ở Cửa Tùng, tự-nhiên Ông than-thở rằng: Ngồi trên Nước mà không ngăn được Nước, buông câu ra đã lỡ phải lần...
Một hôm, Vua Duy-Tân ngồi chơi cát ngoài bãi biển, một cận-thần lấy nước cho Ngài rửa tay. Ngài hỏi một câu tương-tự cũng về "Nước" như sau: Tay nhớp lấy Nước rửa, thế nếu Nước nhớp lấy gì mà rửa. Ý của Ngài rất có thể là: Nếu Nước (Việt-Nam) nhơ-nhớp, chúng ta có thể dùng máu để rửa cho sạch chăng?
Sau Nhà Vua bị người Pháp đưa đi đày tại đảo Reunion, rồi tử-nạn máy bay khi phục-vụ trong quân-đội Đồng-Minh. Có lời thơ khen vua Duy-Tân như sau:
Một đời vì nước vì dân
Duy-Tân đứa trẻ không cần ngôi vua
Tù đày khổ nhục khi thua
Tử rồi khí phách Ông Vua muôn đời.

Không quên Thủy-chiến, nét độc-đáo Việt-Nam.
Không có một dân-tộc nào trên thế-giới có được những trang sử đấu-tranh đậm đà màu sắc thủy-chiến như của dân-tộc Việt-nam. Đa số các trận đánh lớn trong lịch-sử chiến-tranh của dân-tộc ta đều diễn ra trên chiến-trường sông biển... Trong quá-trình, một nền nghệ-thuật thủy-chiến đó đã hình-thành, mang những nét độc-đáo Việt-Nam.
Trong quá khứ, Ngô-Quyền mở nước bằng thủy-chiến Bạch Đằng. Khi Nhà Lý hùng-cường, Lý-Thường-Kiệt cầm thủy-quân đánh Tống bình Chiêm. Nhà Trần đuổi Mông-Cổ ra ngoài bờ cõi cũng bằng thủy-chiến Bạch-Đằng. Vua Gia-Long thống-nhất đất nước với kỳ-tài và nỗ-lực sử-dụng Thủy-quân.

Về tương-lai mối lo của dân ta cũng như bao giờ, sẽ lại đến từ mặt biển, từ Hoàng-Sa, Trường-Sa... Quân thủy vốn có khả-năng đặc-biệt là đánh nhanh, đánh bất ngờ, thọc sâu vào đất địch. Một chính-quyền tốt phải lo việc xây-dựng Hải-Quân, bảo-vệ đất và nước.
Chúng ta không bao giờ nên quên Thủy-chiến là nét độc-đáo Việt-Nam!

Không có nhận xét nào: