Hồi 11
Tây Sơn lại kéo vào thành chiếm giữ đất nước Chiêu thống ba phen tính chước khôi phục kinh đô
Lại nói, vua Lê thân hành tới xem
diễu võ ở núi Vạn Kiếp. Nhà vua ngự ở đền Trần Hưng Đạo, gọi Châu đến và hỏi:
- Có được mấy trăm quân?
Châu đáp:
- Trừ số người mới theo về, thủ hạ
tinh luyện của thần chỉ có trăm người mà thôi!
Vua nói:
- Tiếc rằng ít quá!
Châu đáp:
- Quân cần tinh nhuệ không cần
nhiều. Có trăm quân cảm tử, cũng đã đủ để hoành hành trong thiên hạ. Thần đã
từng thử, quân giặc có lúc kéo tới đầy cả đồng, thần chỉ sai vài chục người
xông đến trước trận, múa dao chém bừa, không lần nào giặc không tan vỡ.
Vua bảo:
- Đúng như lời ngươi nói, nhưng
đánh bất thình lình thì được, chứ đối trận mà đánh thì không được. Nay đang
khi trốn chạy tan tác, nhân tình dễ loạn, làm gì cũng phải cho chu đáo mới có
thể đứng vững để lo việc khôi phục. Vạn nhất bị vấp ngã thì không thể nào
nhóm họp lại được nữa. Vì thế, thời xưa có người chịu nương náu ở núi Cối Kê,
có người chịu nép mình ở đất Ba Thục (ở đây Chiêu-thống muốn nói đến chí phục
thù của các vua đời xưa ở Trung Quốc, như Việt vương Câu Tiễn thời Xuân-Thu
và Hán Cao Tổ cuối đời Tần. Câu Tiễn bị Ngô Phù Sai đánh bại và cho ở đất Cốt
Kê, nhưng vẫn nhẫn nhục chịu đựng mọi cay đắng, ngầm nuôi chí lớn, sau quả
nhiên trở lại diệt được nước Ngô. Hán Cao Tổ bị Sở Bá vương biếm phong vào
đất Ba Thục. Cao Tổ tạm thời chịu lép vế, rồi về sau đã thắng Sở), người ta
vẫn phải ẩn nhẫn mà giữ lấy lực lượng, không dám làm liều để rước lấy sự thất
bại. Ngày nay, việc nước nhà cũng giống như vậy, nên trước tiên phải kêu gọi
quân cần vương để thêm thanh thế, không nên lộ mặt ra vội. Trẫm đã sai các
quan chia đường đi chiêu mộ binh lính, ở Kinh Bắc có Phạm Đình Dư, Chu Doãn
Lệ, ở Sơn Nam có Trương Đăng Quỹ, Phạm Văn Lân, ít lâu nữa họ sẽ trở về phục
mệnh. Nhà ngươi nên đợi họ, bây giờ hãy đóng quân ở trong núi, luyện tập số
người mới theo, cho tất cả đều tinh nhuệ, để chờ sai khiến.
Vua lại sai Đình Giản qua miền
thượng du trấn Sơn Tây, kêu gọi nghĩa binh các trấn Tuyên Quang, Hưng Hoá,
hẹn ngày cùng đến. Còn tự mình thì đi tới vùng Hải Dương, truyền hịch chiêu
dụ.
Lúc vua đến huyện Chí Linh, quan
văn đi theo chỉ có ba người là Trần Danh án, Vũ Trinh và Ngô Thì Chí mà thôi.
Ngô Thì Chí có dâng vua bài
"Sách lược trung hưng" như sau:
"Thần trộm nghĩ, dẹp loạn
phải xem cơ, dùng võ phải có đất. Vua Thiếu Khang giữ Luân ấp mà sau mới dấy
được nghiệp trung hưng; Vua Chiêu Liệt chiếm ích Châu mà sau mới chống được
kẻ ngoại địch. Địa thế nước ta, Cao Bằng, Lạng Sơn nằm ở phía đông bắc, giáp
với đất Trung Hoa. Núi sông hiểm trở, đủ để giữ vững, binh mã hùng cường, đủ
để tiến đánh. Nay bệ hạ hãy ngự giá đến đó, sai một sứ thần sang báo với nhà
Thanh, xin họ đem quân đóng áp bờ cõi, để làm thanh viện cho ta; đồng thời
đưa mật chỉ cho hào kiệt bốn trấn, bảo họ hưởng ứng. Lòng người đã được khích
lệ, ai dám không theo? Trăm quan kẻ nào chưa theo kịp, ai dám không tới?
Ngoài tựa vào thế thượng quốc, trong nhóm họp quân cần vương, khiến cho thế
giặc mỗi ngày mỗi trơ trọi, thế ta mỗi ngày một lớn mạnh. Rồi đó, ta sắp đặt
phương lược, tiến lên khôi phục kinh thành, công nghiệp trung hưng hẳn có thể
hẹn ngày mà làm nên được!".
Vua vời Chí tới và bảo:
- Ngươi nói rất hợp ý ta. Mùa đông
năm ngoái, ta sai hoàng đệ và các hoàng thân hầu thái hậu lên Cao Bằng, có
đưa mật chỉ cho viên đốc đồng Nguyễn Huy Túc, dặn y dùng lời nghĩa khí khích
động lòng người, liên kết bọn phiên tướng, tụ tập quân biên cương, cũng là
sắp sẵn cho việc ấy. Nhưng còn Lạng Sơn thì ta chưa sai ai đi.
Chí tâu:
- Trước kia, khoảng năm Đinh Dậu
(1777), niên hiệu Cảnh Hưng, cha thần đã vâng chiếu lên làm trấn thủ xứ Lạng
Sơn, để tuyên bố uy đức của triều đình và chiêu tập những kẻ lưu vong. Nhân
dân bảy châu, đến nay vẫn còn mến yêu. Thần xin lên đó, vâng chỉ chiêu dụ,
nhân dịp báo tin cho Túc, tâu với thái hậu, hẹn ngày ra quân để đón xa giá.
Thế là một chuyến đi mà được cả hai việc.
Vua Lê khen là phải rồi cho Chí
đi. Chí mới đến huyện Phượng Nhãn thì phát bệnh, không thể đi tiếp, liền gửi
tờ biểu về xin nghỉ ít hôm để điều trị. Vua bèn cho mười nén bạc để chi về
việc thuốc thang.
Trong lời biểu của Chí gửi về tạ
ơn vua, có đoạn viết:
"Gặp cơn nguy biến, chí hợp
mà tâm đồng; nghĩa vua tôi ngàn năm mới gặp; trong đạo luân thường, phận ưa
mà tình nặng; tình cha con một nhà khác chi? Nay gặp buổi quốc gia còn lắm
nạn; chính là khi thần tử phải quên mình. Dám đâu vì việc riêng mà tiếc thân;
nguyện sẽ đeo bệnh tật để dấn bước".
Vua xem tờ biểu lấy làm cảm động.
Vừa lúc đó, bọn Đình Dư, Doãn Lệ
sai người đưa tờ mật biểu tới nói rằng: "Các vùng Đông Ngàn, Kim Hoa, Võ
Giàng, Quế Dương (nay đều thuộc Hà Bắc; riêng Kim Hoa sau đổi là Kim Anh nay
thuộc Vĩnh Phú và một phần nhập vào huyện Sóc Sơn thuộc Hà Nội), lòng người
đâu đâu cũng căm tức. Bọn thần đã tuyên lời chiếu dụ, các hào mục đều xin dấy
quân cần vương. Cúi xin xa giá trở về Kinh Bắc, để cho bọn họ được vào yết
kiến. Rồi nhân đó, bệ hạ ban lời dụ trước mặt họ cho họ về nói lại với nhau,
như vậy ai mà không theo? Khi đã phò giá về đóng ở đấy, thì người trong thiên
hạ đều được trông thấy mặt trời. Đình Giản trước đây đi Sơn Tây, Tôn Lân
trước đây đi Sơn Nam, cũng được xa nhờ tiếng tăm, uy linh của nhà vua mà đem
quân về họp. Hà tất phải lên Lạng Sơn, là nơi bờ cõi xa xôi cách trở? Bọn
thần e rằng cứ nấn ná ngày tháng sẽ làm lỡ mất cơ hội, rồi lại bỏ chỗ gần mà
lo chỗ xa, thì thật là thất sách!".
Vua Lê cho lời ấy là phải.
Vũ Trinh mời nhà vua về làng Xuân
Liên, huyện Lang Tài (nay sáp nhập với huyện Gia Bình thành huyện Gia Lương).
Cha Vũ Trinh là Vũ Chiêu làm tờ biểu xin dâng hai trăm lạng bạc để tiêu vào
việc quân. Vua nhận số bạc ấy, bèn dùng nhà Chiêu làm nơi hành tại.
Lại nói, khi Bắc bình vương sai Võ
Văn Nhậm ra đánh đất Bắc, vốn do mệnh lệnh đã định từ trước, nhưng trong bụng
cũng hơi nghi ngờ Nhậm, bèn sai bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân làm tham tán
quân vụ để chia bớt quyền của Nhậm. Bắc bình vương lại bảo riêng với Sở rằng:
"Nhậm là con rể vua anh. Nay
ta với vua anh có sự xích mích, lòng y chắc cũng không yên. Chuyến này y cầm
trọng binh vào nước người, sự biến không thể liệu trước được. Nay ta không lo
Bắc Hà mà chỉ lo về Nhậm mà thôi. Ngươi nên xem xét từng ly từng tý, hễ có gì
thì phải gấp rút báo cho ta biết. Ví như lửa cháy, dập tắt từ khi mới bén thì
dễ dàng hơn".
Lúc Nhậm thừa thắng kéo xe ra Bắc,
như vào làng bỏ trống, không một người nào dám chống cự. Nhậm có vẻ dương
dương tự đắc. Kịp khi bắt sống được Nguyễn Hữu Chỉnh, Nhậm tự cho là uy vũ
của mình đủ khiến người ta phải phục, khu xử việc Bắc Hà không có gì khó.
Khi nghe vua Lê chạy sang phía
bắc, nương tựa vào Nguyễn Trọng Linh, Nhậm liền tức tốc gửi thư bắt buộc LInh
phải đem vua Lê ra nộp. Nhậm lại cho đòi các người trong tôn thất và các quan
văn võ phải đến cửa quân chờ hầu; thường dùng cách hất hàm, đưa mắt, dùng bộ
điệu, khí sắc để sai khiến mọi người mà chẳng ai dám làm gì.
Thế nhưng, rốt cuộc Nguyễn Trọng
Linh vẫn không đến, các viên quan có thế lực cũng chẳng có ai tới. Trần Quang
Châu ở Kinh Bắc. Nguyễn Viết Tuyển ở Sơn Nam, Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương,
ai nấy cầm quân giữ đất và nói phao lên rằng, chẳng bao lâu, bốn phía sẽ nhòm
về kinh đô, cùng Nhậm quyết chiến. Rồi đó, hễ quân Tây Sơn có tên nào ra khỏi
thành là bị bọn thổ hào giết chết. Giặc cướp cũng nhân dịp nổi lên khắp nơi,
khói lửa liên tiếp. Lúc bấy giờ Nhậm mới có ý sợ, liền bắt hết nhân dân quanh
vùng kinh kỳ đắp lại thành Đại La. Ngày đêm đốc thúc, không cho nghỉ ngơi
chút nào, đến nỗi có người đang đội đất mà ngã sấp xuống. Làm lụng mệt nhọc,
đói khát, ai cũng ta oán. Khi ấy, có người đồn rằng: Trần Quang Châu đã lẻn
vào trong thành làm nội ứng, hẹn Nguyễn Viết Tuyển đem binh thuyền ngược dòng
sông Nhĩ Hà đi lên để làm ngoại ứng. Nhậm bèn hạ lệnh lùng khắp kinh sư,
những người ở trọ trong các phố phường đều đem chém chết.
Ngô Văn Sở nói:
- Mình cứ vững dạ, có lo gì họ?
Nếu mình tự bối rối trước, thì còn trấn áp được ai? Chi bằng tha họ cho yên
lòng dân.
Nhưng Nhậm không nghe. Vừa lúc ấy
có người ở làng Cơ Xá, huyện Gia Lâm, tự xưng là Trần Đình Khôi làm chức
thiêm sự của nhà Lê, xin vào yết kiến. Nhậm cho mời vào và hỏi:
- Nguyễn Hữu Chỉnh là kẻ vong
mạng, lấy trộm ngôi cao, tàn hại nhân dân, thiên hạ ai cũng căm giận. Người
Bắc Hà mưu đồ đánh hắn mà không được, trở lại bị hắn làm hại. Nay ta trừ hắn
đi cho, đáng lẽ ơn ta mới phải, sao ta vời mà không ai đến?
Khôi đáp:
- Ông có tài quyết thắng ở ngoài
ngàn dặm, lẽ nào lại không xét rõ tình người? Người Bắc Hà dù oán Chỉnh rất
sâu, mà lòng nhớ nhà Lê chưa nguôi. Họ thấy ông giết Chỉnh, xa gần cũng đã
mừng rỡ, nhưng vì ông chưa bàn gì đến việc phò Lê, nên người ta bàng hoàng
trông ngóng, chưa dám đến vội. Nay tự quân đã bỏ nước mà đi, không có lẽ còn
quay trở lại. Có Sùng nhượng công Lê Duy Cận, lúc tiên đế còn sống, đã chính
vị làm đông cung, sau gặp việc biến cố năm Nhâm dần (1782), mới bị kiêu binh
truất bỏ. Nếu ông khôi phục ngôi đó cho Sùng nhượng công để tạm coi việc
nước, rồi đem việc ấy bá cáo khắp trong ngoài, yết một mảnh giấy ở cửa Đại
Hưng, thì chẳng bao lâu các quan văn võ sẽ đến họp cả. Lúc bấy giờ việc thiên
hạ ai cũng phải nghe ông, ông xoay vần dễ như trở bàn tay, lo gì mà không
xong xuôi?
Nhậm gật đầu nói:
- Ông nói rất có lý. Ví như mổ
trâu, cắt đúng đường gân khớp xương thì các thớ thịt sẽ đứt cả, không khó
nhọc gì.
Rồi đó, Nhậm bèn sai mời Sùng
nhượng công vào phủ, lấy lễ thượng khách mà tiếp đãi và bảo rằng:
- Thiên hạ vốn là thiên hạ của nhà
Lê. Tự hoàng bỏ nước mà đi, trong nước không có ai làm chủ. Ông là thái tử
cũ, đã có mệnh vua từ trước. Bây giờ ở ngôi ấy, ngoài ông ra thì còn ai nữa?
Sùng nhượng công nói:
- Nước mọn này mất cả giường mối,
nhờ ơn thượng công (chỉ Nguyễn Huệ) đã gây dựng lại cho. Nhưng trời chưa thôi
vạ, tự hoàng thơ ấu, bị tên loạn thần làm lầm lỡ, phải chuốc lấy sự bại vong.
Nay chúa công (chỉ Võ Văn Nhậm) không nỡ bỏ, lại lo nối lại cái dòng đã đứt,
đó là điều may lớn cho nước mọn này. Chỉ hiềm tôi là người không có đức, nếu
được lạm giữ ngôi ấy, thì công việc chỉnh đốn phen này, cũng xin nhờ chúa
công giúp đỡ cho, may ra mới có thể tự lập được.
Nhậm cười mà rằng:
- Ông hãy cứ làm, không cần lo xa.
Có tôi ở đây, bọn gian hùng dù muốn hại ông, cũng quyết phải sợ mà không dám
hành động. Đợi khi thượng công ra đây, tôi xin nói giúp ông, ông sẽ được lên
ngôi vua thật sự.
Sùng nhượng công nghe nói, mừng
lắm, bèn sắm sửa lễ vật tới yết nhà Thái-miếu, rồi vào ở trong gian nhà phía
tả điện Cần-chính, và cho Khôi đi tìm tất cả các quan đến để bàn việc.
Trước hết, Khôi tới nhà Lê Phiên.
Phiên mắng rằng:
- Vua phải chạy đã không đi theo,
lại theo người ta mà lập vua khác. Lời nói ấy sao còn đến tai ta làm gì?
Rồi Phiên bỏ trốn lập tức.
Khôi lại tới nhà viên tham tụng là
Huy Bích. Bích từ chối không chịu gặp. Sùng nhượng công bèn thảo tờ dụ các
quan đại ý nói rằng:
"Năm xưa đã nhường ngôi, quả
không có lòng tham thiên hạ. Ngày nay tạm nắm quyền, chỉ mong giữ việc tế tự.
Những ai hiểu cho ý đó, thì nên tới họp tại triều".
Nhưng các quan văn, rốt cuộc chẳng
một ai tới. Khôi liệu công việc chắc là không thành, bèn bàn tính với một
người bạn. Người ấy trả lời:
- Anh nộp tiền để mua chút bằng
sắc, triều không ngồi, tiệc không dự, mất nước không phải tội lỗi của anh,
được nước không phải trách nhiệm của anh, chẳng qua anh muốn nhân lúc loạn
lạc mưu đồ phú quí mà thôi. Nhưng Sùng nhượng công không phải món hàng lạ có
thể buôn bán được, Văn Nhậm lại là kẻ dã tâm khó lòng tin cậy. Một mai Bắc
bình vương đến, tai vạ thật là khó lường; mà sau này vua Chiêu thống trở về,
anh cũng không có chỗ nào để dung thân nữa. Tục ngữ có câu: "ở yên chẳng
muốn, muốn chui đầu vào chum để mua vạ". Chính là nói hạng người như anh
đó!
Khôi sợ, bèn bỏ trốn.
Sùng nhượng công ngồi trơ trong
điện, chỉ có một vài hoàng thân và ba bốn tên võ biền, sớm tối ở chung với
nhau; còn mọi công việc đều không đến tay. Hàng ngày hắn ta đi bộ đến phủ
đường, chầu chực Văn Nhậm và hỏi cách xử trí, song Nhậm cũng chẳng biết xử
trí ra sao. Người kinh thành thấy vậy, đều gọi hắn ta là "giám quốc lại
mục" (viên thơ lại coi việc nước).
Lại nói, Ngô Văn Sở từ khi nhận
mật chỉ của Bắc bình vương và cùng Nhậm ra Bắc, lúc ở trong quân thường vẫn
dùng lời nói ngọt nhử Nhậm, để ngầm dò ý. Đến lúc này, Sở bèn bảo Nhậm rằng:
- Chúng tôi vâng mệnh theo ông
đánh dẹp, giặc Chỉnh đã bị giết, nhưng dư đảng của y ở vùng đông nam vẫn chưa
dẹp yên, vua Lê vẫn còn chạy trốn ở ngoài, mà các quan cũng đều lẩn tránh.
Nay ông cho Sùng nhượng công làm giám quốc, nhưng tôi xem lão ấy chỉ là
phường a dua không được tích sự gì, rốt cuộc chỉ là một cục thịt trong cái
túi da, làm sao mà sai khiến được kẻ khác? Từ khi có nước Nam tới nay, triều
đại thay đổi không biết là mấy lần rồi. Thiên hạ nào phải là của riêng ai.
Liệu có thể lấy được thì cứ lấy đi, rồi đặt quan, chia chức để xây dựng phên
giậu, làm cho tai mắt của mọi người đều được một phen đổi mới. Nếu có kẻ nào
lấy trộm danh nghĩa (ý nói những kẻ mượn tiếng phò Lê) thì cứ bảo là giặc,
rồi đem quân tới đánh, ai dám chống lại? Việc gì mà phải mượn đứa tôi đòi
ngoài chợ trông coi việc nước, để hắn sắm vai ông chủ "tượng đất"
trong vườn; còn mình thì cứ đóng mãi trong thành, làm tụi lính khách ở trọ
nước ngoài?
Nhậm nói:
- Bọn Nhưỡng, Tuyển chẳng qua hơi
tàn thoi thóp; nắm lấy cánh tay tự nhiên phải đến. Vả ta xem bọn bề tôi nhà
Lê chẳng có mặt nào như Điền Đan nước Tề, Vân Trường nhà Hán (Điền Đan là
người họ vua Tề đời Chiến quốc; Vân Trường tức tên tự của Quan Vũ, là bạn kết
nghĩa của Lưu Bị thời Tam Quốc. Hai người đều có tài trong việc đánh dẹp và
giúp nhà vua khôi phục đất nước); chẳng qua họ sợ binh oai của ta, nên sớm
chiều dùng dắng đó thôi. Nếu ta hạ một cái bảng, hẹn ngày phải tới cửa quân,
không tới thì chém, chắc là chúng sẽ cởi áo mang roi đến xin chịu tội. Điều
đó không phải là việc đáng lo. Chỉ vì lòng người đất Bắc còn nhớ họ Lê, không
thể không chiều theo lòng mong mỏi của mọi người. Mượn hắn ra làm pho tượng
gỗ, là cốt để chia rẽ đồ đảng của Chiêu thống, và ràng buộc lòng dân Bắc Hà
đó mà thôi. Chỗ đó không phải chỗ lũ các ông có thể biết được! Các ông khoẻ
sức đánh trận, ta sẽ giao cho các ông chia đường tiến đánh, rồi giữ lấy đất,
làm bức trường thành cho ta, há chẳng tốt ư? Đến lúc đó, cuộc thế xoay vần,
tự nhiên có nhiều việc hay, đường đường làm chủ không phải ta thì còn ai? Cần
gì mà phải làm khách?
Sở im lặng ra về, rồi bảo với Lân
rằng:
- Lão tiết chế thật khinh người
quá. Hắn có tài đức, trí lược gì mà dám coi bọn ta là tụi lính tráng? Xem hắn
từ khi vào thành đến nay, đã làm được việc gì? Thúc ép dân phải gấp rút đắp
luỹ và phò Lê Duy Cận làm giám quốc, đều là sắp sẵn cái mưu làm phản, để hòng
tranh giành với chủ ta. Đã không biết lấy giặc Chỉnh làm răn, trở lại muốn
bắt chước nó. Không muốn sống lại muốn chết, thì cứ cho hắn đi theo Chỉnh, để
răn những kẻ khác!
Sở bèn lượm lặt các việc làm của
Nhậm, cho là tội trạng làm phản, lấy Lân làm chứng, rồi ngầm sai người về Nam
báo với Bắc bình vương (theo Cương mục thì Nhậm có làm những
việc trái phép, như tự đúc ấn chương, chuyên quyền trong việc cất nhắc, xếp
đặt quan chức, v.v... Nhưng bên cạnh đó, Sở vốn có hiềm khích với Nhậm, nên
đã dâng mật thư vu oan cho Nhậm làm phản). Bắc bình vương nói:
- Thằng Võ Văn Nhậm đáng chết
thật! Ta vẫn biết hắn thế nào rồi cũng làm phản, quả nhiên không sai.
Tức thì Bắc bình vương hạ lệnh
tiến ra Bắc, đốc thúc các quân bộ và quân kỵ mã ngày đêm đi gấp. Chừng hơn
mười ngày, đến thành Thăng Long. Bấy giờ đồng hồ vừa nhỏ giọt xuống đến trống
canh tư, Nhậm đang ngủ say trong phủ. Sở được tin, liền dặn người do Bắc bình
vương sai đến phải giấu kín việc ấy, không được báo cho Nhậm biết; rồi sai
người ngấm ngầm ra ngoài thành đón Bắc bình vương. Người nhà và người xung
quanh Nhậm cũng đều không ai biết gì. Chốc lát, Bắc bình vương vào thành, đến
thẳng chỗ Nhậm nằm, Nhậm cũng vẫn chưa biết. Bắc bình vương liền sai võ sĩ là
Hoàng Văn Lợi đâm chết Nhậm rồi khênh xác ra sau phủ đường (cũng theo Cương
mục, lúc Nguyễn Huệ đến, Nhậm ra ngoài thành đón, Nguyễn Huệ liền nhường
ngựa đang cưỡi và lọng che cho Nhậm vào thành, lại an ủi vỗ về ôn tồn. Sau
đó, Nguyễn Huệ mới bắt Nhậm đem tra khảo và giết chết).
Mờ sáng, Bắc bình vương truyền
lệnh cho Sở làm chức đại tư mã, thống lĩnh quân đội thay Nhậm, lúc đó quân
lính mới biết.
Hôm ấy, Bắc bình vương cắt đặt lại
quan chức: Đô đốc nghĩa hoà hầu làm trấn thủ trấn Sơn Nam; Lôi quang hầu (có
bản chép Tuyết quang hầu) làm trấn thủ trấn Sơn Tây; Nguyệt quang hầu làm
trấn thủ trấn Kinh Bắc; Hám hổ hầu (có bản chép Hô hổ hầu) làm trấn thủ trấn
Hải Dương. Còn Giác hoà hầu coi giữ bộ Hình, chánh ngôn hầu coi bộ Hộ, Ước
thiện hầu coi bộ Lễ, Lộc tài hầu coi bộ Lại, và đều kiêm nhiệm chức hiệp
trấn. Bắc bình vương lại bảo họ tiến cử những người mà họ hiểu biết, chia ra
cho làm quan ở các huyện. Võ thì chia ra chức suất, chức nội; văn thì chia ra
chức tri, chức ngoại. Cả sáu trấn (theo Dụ am văn tập, dưới triều Tây Sơn,
các trấn ở Bắc Hà được chia lại thành 7 nội trấn và 6 ngoại trấn. Đây là 6
ngoại trấn: Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Yên
Quảng) đều do Sở tuỳ theo tài năng mà cắt đặt người, sau đó bẩm lên xin cấp
văn bằng, rồi cho ai nấy lĩnh quân bản bộ về trấn của mình. Bắc bình vương
lại hạ chỉ vẫn để con thứ tư của tiên hoàng nhà Lê là Lê Duy Cận làm giám
quốc, coi việc tế tự, và cho đòi hết thảy các quan văn võ phải tới cửa khuyết,
chực sẵn ở nhà bộ Lễ, rồi theo viên lễ quan là Võ Văn Ước vào yết kiến.
Bấy giờ viên quan văn là Ngô Thì
Nhậm vào yết kiến trước, Ước tưởng lầm là hoàng tử nhà Lê, liền mời cùng ngồi
với mình. Tiếp đó, bọn Lê Phiên đến, đều lạy ở dưới sân, Ngô Thì Nhậm trong
bụng rất áy náy, vội đứng dậy đi ra. Ước lấy làm lạ không biết là ai, bèn
hỏi:
- Người vừa ngồi đây là ai thế?
Có người trả lời:
- Văn ban Ngô Thì Nhậm đấy!
Ước giận mà rằng:
- Ta vâng mệnh cai quản tất cả,
sao lại được vô lễ như vậy?
Rồi Ước tức tốc sai người theo
bắt.
Ngô Thì Nhậm đã biết trước chuyện
đó, nên lúc ra, vội vàng trốn tránh ngay. Đến tối, Nhậm vào yết kiến viên
trung thư lệnh Kỷ lễ hầu là Trần Văn Kỷ.
Kỷ người Thuận Hoá, vốn có văn
học, là bậc danh sĩ ở Nam Hà. Năm Đinh dậu (1777) niên hiệu Cảnh hưng, Kỷ thi
ở trấn đậu giải nguyên. Năm Mậu tuất (1778), Kỷ tới kinh thi hội, sĩ phu ở
Bắc Hà, Kỷ có giao thiệp quen biết ít nhiều. Năm Bính ngọ (1786), Bắc bình
vương đánh lấy thành Phú Xuân, sai người tìm Kỷ hỏi việc Nam, Bắc. Kỷ đối đáp
rất nhanh và rất hợp ý, nên Bắc bình vương rất trọng, cho ở vào chỗ "màn
trướng" (nơi ở của bậc tướng soái), việc gì cũng bàn với Kỷ, lúc nào
cũng gần bên Kỷ, không mấy khi xa rời.
Lúc ấy Ngô Thì Nhậm tới gặp Kỷ,
nói rõ tình trạng mình xúc phạm tới Ước, sợ bị hãm hại nên không dám đến, chứ
không phải dám trốn tránh, rồi nhờ Kỷ giải cứu cho. Kỷ nói:
- Nghe ông là bậc kỳ tài, không
may bị tiếng gièm pha, trốn tránh hơn năm sáu năm, sự tích luỹ càng thêm tinh
tuý. Nay ra ứng dụng với đời, chính là hợp thời. Tôi đã đem tên ông trình với
chúa thượng khen tài ông có thể dùng làm việc lớn. May mắn nay được chúa
thượng rủ lòng yêu mến, đã sai tôi tìm ông, vậy không phải cần gì đến ông
Ước!
Tức thì Kỷ đưa Nhậm vào yết kiến
Bắc bình vương. Bắc bình vương nói:
Ngày trước, ngươi vì chúa Trịnh
không dung, một mình bỏ nước mà đi. Nếu ta không đến đây, ngươi làm sao được
thấy bóng mặt trời? Có nhẽ đó là ý trời muốn để dành người tài cho ta dùng.
Vậy ngươi hãy cố gắng mà lo việc báo đáp, thế là được.
Ngô Thì Nhậm rập đầu tạ ơn. Bắc
bình vương ngoảnh lại bảo Kỷ:
- Đây là người do ta gây dựng lại,
nên thảo ngay tờ chế phong làm chức tả thị lang bộ Lại, tước Tình phái hầu,
cùng với Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của nhà Lê.
Hôm sau các quan lục tục kéo đến,
lễ quan đưa vào lạy ở điện Chính trung. Bắc bình vương đòi hết lên sảnh đường
mà bảo:
- Vua Lê do ta lập lên, nhưng là
người tối tăm nhu nhược, không thể gánh nổi công việc. Sau khi ta về Nam,
liền bị Nguyễn Hữu Chỉnh sai khiến tự rước lấy bại vong, đất nước này dù ta
không lấy thì cũng bị người khác lấy mất. Nay ta để Sùng nhượng công làm giám
quốc, các ngươi hãy cố gắng ở lại giúp đỡ ông ta. Ta thật không muốn lấy Bắc
Hà để kiếm lợi, nay mai lại sắp về Nam. Nhưng vì sợ tự hoàng tranh giành cùng
giám quốc, thành ra ta làm ơn mà lại hoá ra gây loạn cho họ, nên ta phải để
viên đại tư mã là Ngô Văn Sở ở lại trông nom việc binh, chờ khi bốn cõi tạm
yên, ta sẽ gọi về.
Trăm quan từ giã lui ra, rồi nói
riêng với nhau:
- Bắc bình vương tạm dùng lời nói
ngọt để giá ngự chúng ta, chứ không phải thật bụng. Văn Sở cầm quân ở đây,
thì Sùng nhượng công làm gì mà có nước? Hễ cử động gì liền bị họ nắm lấy cánh
tay, ông ấy còn làm được chi? Ví như cây tầm gửi, bám vào cành cây khác, rễ
không bén đất, sống lâu dài làm sao được? Chúng ta, người nào có thể đi theo
vua lo việc khôi phục thì đi đi, nếu không thì nên ẩn xa cho sạch mình, chớ
để cho người ta lừa phỉnh mà rước lấy vạ.
Sùng nhượng công cũng biết như
thế, nên đã phải than rằng:
- Ta nay tiếng là làm giám quốc,
thật ra chỉ là một ông từ giữ đền. Nhưng vì miếu xã ở cả đây, bỏ đi thì đi
đâu? Thôi thì cũng đành cam lòng như thế, không hối hận gì nữa vậy!
Qua vài ngày, Bắc bình vương dẫn
quân về Nam. Trước khi lên đường, vương chọn năm sáu viên văn thần là bọn
Phan Huy ích, Nguyễn Thế Lịch, Ninh Tốn, Nguyễn Bá Lan..., phong cho quan
tước: ích làm chức tả thị lang bộ Hộ, tước Thuỵ nham hầu, được đưa về Nam
(bản chữ Hán chép cả Ngô Thì Nhậm cũng được đưa về Nam; đó là chép lầm). Còn
bọn Lịch, Tốn, Lan..., thì đều được phong chức hàn lâm trực học sĩ, theo đại
tư mã Sở ở lại đất Bắc. Nguyễn Hoàn và Phan Lê Phiên đều xin về dưỡng nhàn,
nhưng vẫn được Bắc bình vương cho giữ nguyên chức tước, và sai bộ Lễ cấp phát
giấy tờ cho họ trở về làng xóm. Tham tụng là Bùi Huy Bích, thiêm đô là Nguyễn
Huy Trạc đều có đến kinh, nhưng không chịu cho dẫn vào lạy chào. Rồi đang đêm
Bích trốn, còn Trạc thì tự tử ở đài Ngự-sử.
Những người trốn tránh không chịu
ra thì có phó đô ngự sử Nguyễn Đình Giản, tham tri chính sự Lê Duy Đản, Phạm
Đình Dư, đồng xu mật viện Nguyễn Duy Hạp, Phạm Trọng Huyến, thiêm sai công
phiên Phạm Quí Thích, đô cấp sự trung Nguyễn Đình Tứ, tất cả chỉ có bảy người
mà thôi (theo Cương mục, thì số người này gồm tám viên, mà có một
số tên khác hẳn đây).
Lại nói, bấy giờ vua Lê đang ở
huyện Lang Tài, lại dời đến huyện Chí Linh. Các quan biết chỗ vua ở, nhiều
người đến theo. Lê Ban ở Giáp Sơn (cũng gọi Hiệp Sơn, nay là đất huyện Kinh
Môn, Hải Dương (Hải Hưng)) đem một trăm người nghĩa dũng đến yết kiến. Vua
mừng lắm, phong cho làm chức ngự doanh sứ, tước trung nhạc hầu.
Ban nói kín với vua rằng:
- Trước đây, thần về Nghệ An, thấy
nhân tình rất là căm phẫn, ghét Tây Sơn như cừu thù, nhiều người đã nhóm họp
ở rừng núi để cùng lo việc khởi nghĩa. Các bậc phụ lão nghe tin thần ở Bắc
vào, đều lần lượt đến hỏi nhà vua ở đâu, muốn cho con em đi theo. Nhân thể,
thần mới cùng đi với họ. Dọc đường qua cửa biển, thần lấy điều nghĩa khuyên
dụ, nhiều người xin đem thuyền qua biển, hẹn nhau họp ở ngoài khơi phủ Kinh
Môn (địa bàn phủ Kinh Môn (Hải Dương) đời Lê rất rộng, gồm cả một số huyện
của Quảng Yên và Kiến An hiện nay). Gần đây, thần được tin báo rằng: hiện có
chừng hơn bảy chục chiếc thuyền và hơn ba trăm thuỷ thủ, khí giới lương thực
đầy đủ, ít hôm nữa sẽ đến. Vậy xin xa giá ngự ra Giáp Sơn, hạ chiếu cho Trần
Quang Châu đem quân bản bộ hộ vệ. Quân bộ do Châu thống lĩnh; mặt thuỷ thần
xin đảm đương. Hai cánh quân nương tựa lẫn nhau. Trước hãy khôi phục trấn Hải
Dương để làm nơi xa giá tạm nghỉ. Trấn ấy phía bắc có thể khống chế các huyện
Từ Sơn, Thuận Thành; phía nam thông với các phủ Thái Bình, Kiến Xương, theo
đường Yên Quảng có thể đến thẳng Cao Bằng, và kéo luôn sang vùng Lạng Sơn. Cơ
trung hưng không còn cách nào khác nữa.
Vua Lê nghe theo, bèn hạ chiếu cho
Châu làm chức đốc chiến ở đạo Kinh Bắc
Quân chưa kịp tiến, thì vừa gặp
lúc Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương dâng tờ biểu xin theo đi đánh trận. Mọi
người nghe tin, nói nhao lên rằng: "Nhưỡng là một thằng chẳng ra làm
sao. Bảo là có nghĩa ư? Trước đây hắn đã toan giúp nhà chúa để chống lại mệnh
lệnh nhà vua, lúc đầu phò quận Thuỵ, sau lại theo chúa án đô. Đến khi quận
Thuỵ làm không nên việc và án đô bị thất bại, hắn đều bỏ đi không nhìn. Bất
nghĩa đến thế là cùng! Bảo là có tài ư? Chính hắn đã hai lần cầm quân chống
giặc, thì một lần thua ở Kim Động, một lần thua ở Ngô Đồng, chỉ chạy thoát
được cái thân, không chết là may đấy thôi! Xem một đời hắn, toàn không có
nghĩa khí, lại không có tài chiến đấu, chỉ cậy thế con nhà tướng, quen dùng
khí thế đè nén người ta. Khi hắn mới về Hải Dương, thả bộ hạ cướp bóc trong
xứ. Người ta coi hắn là giống diều quạ gian giảo và gọi là giặc Nhưỡng. Hào
mục các huyện đã viết thư cho nhau kể tội các của hắn. Họ đã họp nhau trong
làng Lai Cách, huyện Cẩm Giàng, hẹn nhau đến đánh phá Hàm Giang. Nhưỡng phải
lui quân về huyện Bình Giang. Rồi nhân lúc ban đêm, kéo đến làng Lai Cách,
giết hại không biết bao nhiêu người mà kể, đến nỗi thây nằm ngổn ngang đầy
đồng. Sự tàn nhẫn của hắn như vậy, nên người Hải Dương ai cũng coi hắn là kẻ
thù. Nay dung nạp hắn, chẳng những vô ích mà còn mất lòng nhân dân Hải Dương;
thật là thất sách!".
Vua Lê cũng từng nghe tin: Nhưỡng
bị mọi người không dùng đã ngấm ngầm đưa thư xin hàng Tây Sơn, nên lúc này
cũng nghi ngờ không cho Nhưỡng theo đi đánh.
Các hào mục ở trấn Hải Dương nghe
tin vua sang xứ đông, đều dâng tờ biểu, quyết xin đánh Nhưỡng.
Vì thế, Nhưỡng bối rối quá, tính
không còn chỗ nào để dung thân liền phát cáu mà nói rằng:
- Vua đã không thương ta, ta còn
cần gì vị nể vua?
Rồi Nhưỡng sai tên đồ đảng của y
là Trần Liên đến Thăng Long ngấm ngầm tố cáo chỗ vua ở, và xin Văn Sở sai
quân đi bắt. Ban đầu, Liên nghe tin vua lén lút ở trong nhà dân, chỉ có sáu
bảy người theo, bèn báo cho Sở biết.
Sở hỏi cặn kẽ, Liên vẽ rõ đường đi
cùng chỗ ở của vua, rồi nói:
- Ví như vào chùa trói một lão
trọc lôi đi mà thôi!
Sở cười mà rằng:
- Nếu quả như lời ngươi nói, sao
ngươi không lôi cổ đến đây cho ta, còn xin quân làm gì?
Liên đáp:
- Lôi ông ta đi chẳng qua chỉ một
tên lính cũng đủ, nhưng chúng tôi còn sợ danh nghĩa, nên không dám làm. Việc
ấy cố nhiên là việc dễ, nhưng lại khó đối với người trong nước, xin ngài xét
cho chỗ đó!
Sở tin là thật, liền sai một trăm
tên lính cùng đi với Liên. Không ngờ lúc ấy, Trần Quang Châu và Lê Ban đã đến
chỗ vua ở, và quân lính bảo vệ cũng không ít. Đêm ấy nghe báo quân Tây Sơn
vượt núi mà đến, hai người bèn chia hai đường đánh dồn lại, và giết chết
sạch. Liên chạy trốn vào hang núi được thoát, rồi chạy về Thăng Long báo tin.
Văn Sở lập tức cho một đạo quân lớn đi đuổi vua Lê (theo Cương mục,
thì Đinh Tích Nhưỡng đã đến vây đánh vua Lê hơn một tháng. Sau có hai người ở
Hải Dương là Trần Đĩnh và Hoàng Xuân Tú đến cứu vua, chém giết hai người em
của Nhưỡng. Nhưỡng mới phải bỏ chạy). Vua mới đến Giáp Sơn, các đạo quân cần
vương còn chưa nhóm họp được hết. Chợt nghe tin quân địch sắp đến, Nhưỡng làm
hướng đạo. Mọi người đều run sợ nói nhao nhao lên rằng: "Nhưỡng mà thông
đồng với giặc thì Hải Dương không thể ở được". Châu xin vua lại về huyện
Chí Linh. Ban thì xin vua đi Yên Quảng. Mọi người đang bàn bạc phân vân chưa
quyết, thì vừa lúc Trương Đăng Quĩ và người con là Trương Đăng Thụ cưỡi chiếc
thuyền biển từ phủ Kiến Xương đến yết kiến vua. Thấy thế, Quĩ bèn nói:
- Chí Linh là nơi đồi núi gập
ghềnh, tắt ngang sang Gia Bình thì lại là đồng ruộng mênh mông. Ta quân ít
sức hèn, đánh hay giữ đều không tiện. Còn Yên Quảng thì lại giáp với Hải
Dương, đường sông, vũng biển, đều là cửa ngõ ra vào của Nhưỡng. Hắn đã ăn ở
hai lòng, thì đó cũng không phải chỗ yên lành có thể trú ngụ. Trấn Sơn Nam
đất tốt dân đông, đinh tráng có thể luyện làm quân lính, thóc gạo có thể
trưng làm lương thực, sông ngòi chằng chịt như mạng nhện, cưỡi một chiếc
thuyền, bỏ chỗ nọ đến chỗ kia, chẳng ai còn biết lối nào mà tìm. Bệ hạ đang
lúc như con rồng ẩn bóng, không đâu yên ổn bằng đấy.
Vua theo lời Quĩ, bèn quyết ý dời
về phía nam. Còn lời bàn của Châu và Ban thì vua đều không nghe. Rồi đó, vua
yên uỷ hai người, sai Châu dẫn quân về Bắc, Ban thì đem thuyền biển lui về
Biện Sơn (núi Biện Sơn ở vùng biển huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá), chờ lệnh trưng
phát. Thế là quân cần vương tan tác đi ra bốn phía, còn vua thì đi về phía
nam.
Lúc tới nơi, vua đóng ở huyện Chân
Định, dùng nhà Đăng Quĩ làm nơi hành tại. Quĩ đưa con em và người trong họ
tới lạy chào, vua đều ban cho quan tước, sai họ chia nhau đi các làng, các
huyện chiêu mộ quân nghĩa dũng. Xa gần nô nức hưởng ứng, đều xin họp quân cần
vương, hẹn ngày cùng đến, thuyền bè kể có hàng nghìn, quân lính có tới vài
vạn. Các tay hào mục đều đến, vua tự mình ra yên uỷ họ. Rồi sai Đăng Quĩ chia
quân làm năm đạo, trong từng đạo lại đặt ra các chức thống lệnh, đốc chiến,
tham quân, đốc hướng mỗi chức một viên, lập thành cơ đội, chờ ngày xuất phát.
Viên nội hàn là Lê Xuân Hạp bảo
Đăng Thụ rằng:
- Quân lữ là việc lớn, không thể
khinh suất. Trước hết nên điểm số quân, kén lấy người cường tráng sung làm
chiến sĩ, cứ năm chục người làm một đội, năm đội làm một cơ, năm cơ làm một
đạo, do viên thống đạo đốc suất. Những người còn lại thì để dùng vào việc
chuyên chở và sai khiến, chớ để quân lính không tinh nhuệ lẫn lộn vào, tiếng
là có số mà vô dụng. Nay nên kê rõ danh sách, dẫn vào bái mạng, để nhà vua
ban cho binh phù, trao cho quân luật. Viên thống đạo vâng mệnh lệnh triều
đình; các cơ đội thì chịu sự tiết chế của viên thống đạo. Người nào tuân theo
mệnh lệnh thì có trọng thưởng; người nào không nghe mệnh lệnh thì bị tội
chém. Sao cho quân lính đều hăng hái và biết khuôn phép, sau đó mới có thể
đưa ra trận mạc. Binh là việc dữ, chiến là việc nguy, không phải là trò trẻ
con.
Thụ nói:
- Ngày nay chính là lúc đang cần
gấp rút thu phục lòng người, mọi việc hãy tạm giản dị, chưa thể buộc ngay họ
vào khuôn phép được!
Hạp nói:
- Thu nạp được nhiều người mà dùng
không được chỉ sợ họ thấy giặc là chạy, rồi lại còn giày xéo lẫn nhau nữa,
thì dù nhiều cũng chẳng làm gì. Sao không nghĩ đến việc cụ lớn đại thần nhà
ta đã cố sức khuyên nhà vua qua sứ Sơn Nam, ông là con ngài, vâng mệnh cầm
quân, vạn nhất mà bị vấp ngã, tội ấy tại ai?
Thụ không nghe, chỉ gọi các hào
mục đến mà phân phái bằng miệng, tuyệt nhiên không có sổ sách gì để có thể
tra cứu. Bởi vậy, đến khi có việc cần sai khiến, Thụ đều lờ mờ không biết đâu
mà lần, đến nỗi phải chạy đi hỏi lăng xăng khắp nơi, trong quân ngũ chẳng còn
có kỷ luật gì nữa. Quĩ cũng không biết, gọi Thụ hỏi về việc quân thì Thụ
thưa:
- Các đạo nay đã tề tựu, quân số
rất nhiều, ai cũng hăng hái đánh giặc. Xin đánh một trận để lập công!
Quĩ cho là phải, tâu xin chọn ngày
xuất quân. Vua có ý ngần ngại mà rằng:
- Ta nghe những người giỏi về
chiến trận, trước hết phải lo đến việc thua, rồi sau mới thắng được người.
Nay ta xem thuyền bè thì đều là thuyền câu, thuyền chài, quân lính thì đều là
những kẻ chợ búa ô hợp, dùng quân ấy mà đánh, có chắc là không bị thua chăng?
Nghĩ đến cái cảnh sau lúc trốn chạy, cùng một và người bề tôi lo việc dựng
lại cơ nghiệp, thì trẫm dù không thể khôi phục được xă tắc cũng quyết chết
với xã tắc, thề đánh nhau với giặc đến cùng, chớ có sợ gì xuất quân? Nhưng
trẫm muốn làm việc gì cũng phải tính kế vạn toàn, ngõ hầu khỏi mang tiếng là
vì khinh suất, vội vàng mà chuốc lấy vạ bại vong.
Quĩ ngoảnh lại bảo Thụ:
- Thánh thượng bảo như vậy, con
nghĩ thế nào?
Thụ nói:
- Ngày nay, điều mà mình trông
cậy, ấy là lòng người. Mọi người ai cũng kính mến ơn đức của thánh thượng,
căm thù với giặc, nguyện xin đánh một trận lớn, giết cho hết giặc. Lòng người
như thế, đánh đâu không tan? Đẽo cây gậy có thể quật ngã được nước Sở, dựng
ngọn tre có thể làm mất nhà Tần (trong sách Mạnh tử, lời Mạnh tử
nói với Lương Huệ vương có câu: Chế đình khả dĩ thát Tần, Sở chi kiên
giáp lợi binh, nghĩa là đẽo cây gậy có thể đánh bạt giáp bền gươm sắc của
quân Tần, Sở. Theo Bắc sử,cuối đời Tần, Trần Thắng và Ngô Quảng
khởi binh, chỉ dùng cây cối làm gươm dáo, dựng ngọn tre lên làm cờ mà đánh
bại quân Tần); huống chi số quân này và số thuyền này, há không đủ giết chết
quân giặc hay sao? Nếu cứ muốn quân lính quen thạo trận mạc, thuyền bè phải
đủ lầu gác, thì trước đây quận Thạc, quận Nhưỡng đều là những viên tướng trải
qua trăm trận, lính thuỷ bộ các doanh mà họ thống lĩnh đều là quân tinh nhuệ,
hùng dũng, sao cũng không thể thành công mà lại phải tan vỡ? Vậy thần xin thả
thuyền ngược dòng mà lên, quyết chiến với giặc. Xe nhà vua tới sông, quân sĩ
hăng lên gấp trăm, chẳng qua năm ngày, có thể lấy lại kinh thành. Cơ hội này
không nên bỏ lỡ!
Vừa lúc ấy Nguyễn Viết Tuyển đưa
binh thuyền đến đón vua. Nhân thế, Đăng Quĩ khuyên nhà vua cho xuất quân.
Nguyên trước, Tuyển là người cùng
huyện với Hữu Chỉnh, làm bộ tướng của Chỉnh, cùng với Chỉnh vượt biển vào với
Tây Sơn, xông pha những nơi nguy hiểm, không hề rời bên cạnh Chỉnh. Đến lúc
Chỉnh về nước và đắc chí, liền tiến Tuyển với vua, nói là tài Tuyển có thể
đương nổi một mặt. Vua bèn hạ chiếu cho Tuyển làm trấn thủ trấn Sơn Nam,
thống lĩnh năm ngàn lính bộ và bảy chục chiến thuyền.
Tuyển giỏi về thuỷ chiến, nên khi
Chỉnh có hiềm khích với Tây Sơn, sợ Văn Nhậm lợi dụng lúc sơ hở mà đi đường
biển đến, Chỉnh bèn sai Tuyển đóng đồn ở cửa biển Đại Hoàng, đem quân đi tuần
ngoài biển để dò la tin địch. Đến lúc kinh sư tan vỡ, Chỉnh đưa vua chạy sang
Kinh Bắc, Tuyển không được biết. Sau đó tin báo đến nơi, Tuyển mới lật đật ở
biển rút về trấn, mưu đóng giữ đất ấy để chống với địch. Văn Nhậm đã có lần
đánh Tuyển, nhưng không hạ được. Đến khi Văn Sở lên thay Nhậm, muốn dỗ Tuyển
về hàng, bèn sai người vào Nghệ An, bắt cha và vợ Tuyển ra Thăng Long. Rồi
sai vợ Tuyển cầm thư cha Tuyển viết để dụ Tuyển, đồng thời lại đưa tin rằng:
"Nếu Tuyển không mau mau đầu hàng, thì sẽ giết cha!".
Tuyển lấy thư của cha, khóc và
nói:
- Đời người có ba đấng bề trên thì
hoàng thượng là vua ta, Bằng công là thầy ta; mệnh cha không dám không theo,
nhưng thù của vua và thầy không thể không trả. Giả sử đầu hàng mà được trọn
đạo nuôi cha, trở về quê hương họ hàng làm người nông dân huyện Chân Phúc cho
hết đời, thì dù được đằng nọ mất đằng kia, ta cũng cam lòng. Song chỉ sợ bị
lừa dối, rơi vào tay quân độc ác, cả mình ta cũng bị nó giết hại, thì trung
hiếu đều hỏng, để tiếng cười cho ngàn đời, làm kẻ ngu dại trong thiên hạ, như
thế rất là không nên.
Rồi đó, Tuyển dặn vợ trở về từ tạ
với cha. Cha Tuyển được tin, biết Tuyển không có ý cứu mình, bèn ngửa mặt lên
trời mà than rằng:
- Đã không có thể cầu sống với con
thì còn xin sống với người khác làm gì? Giả sử nó làm được như Vương Lăng
(đời Hán, Vương Lăng là một tướng giỏi của Hán Cao-tổ; khi Sở Hạng Vũ đánh
nhau với Hán, bắt mẹ Vương Lăng, rồi buộc phải viết thư dụ con về hàng, nhưng
bà không chịu, tự ấn cổ vào mũi gươm mà chết để cho con một lòng phò Hán),
thì dù có chết như bà mẹ Lăng, ta cũng không hối tiếc. Nhưng ta xem nó chỉ
như con lợn, con chó, khó lòng mà làm được như thế. Chết khi chính mắt trông
thấy nó thất bại, thà rằng chết trước còn hơn!
Sở biết ý ông ta, liền sai người
canh giữ rất nghiêm ngặt, và nói:
- Tuyển đã không có ý hàng, thì ta
cũng không thể nuôi giặc.
Rồi Sở tự đem quân đi đánh Tuyển,
đưa cả cha và vợ Tuyển đi theo. Sở sai đại đô đốc Nguyễn Văn Tuyết thống lĩnh
thuỷ quân, còn mình thì thân hành đem bộ binh cùng Phan Văn Lân chia làm hai
cánh tả hữu, men theo hai bờ sông cái, cùng tiến lên.
Đến bến Thanh Trì, Sở bắt được một
tên do thám của Tuyển, tra hỏi thì y nói:
- Tuyển chỉ có tám chục chiếc
chiến thuyền, đóng ở cửa ải Hàm Tử, mà không có quân bộ. Lương thực toàn lấy
của dân, năm ngày một kỳ, nhưng cũng không được đều đặn. Quân của Tuyển có
khi buộc thuyền ở ven bờ sông, rồi vào nhà dân cướp bóc, mọi người ai cũng
chán ghét, thế không thể nào đóng lâu ở đấy được. Gần đây, Tuyển lại sai đắp
luỹ đất ở sông Hoàng Giang, đốc thúc công dịch rất gấp. Nghe đâu ông ta sắp
lui về đấy để làm chước cố thủ.
Nhờ vậy, Sở biết rõ tình hình hư
thực của Tuyển, liền bảo với Lân rằng:
- Quân ta chuyến này bắt Tuyển như
bắt đứa trẻ con, không khó gì cả!
Sở bèn họp quân bộ, chia làm hai
đạo, nhân đêm tối tiến về phía nam, vòng ra sau quân Tuyển, phục kích ở hai
bên bờ sông, đợi khi thuỷ quân giao chiến với quân Tuyển và nghe thấy tiếng súng
nổ, thì lập tức giục trống, hò reo xông lên, hai cánh cùng nhắm thuyền quân
của Tuyển mà bắn.
Rồi đó, hai bên giao chiến ở vùng
huyện Kim Động, quân Tuyển bất lợi, phải theo nước xuôi chèo gấp về nam. Sở
thừa thế vẫy quân đuổi theo. Đến sông Hoàng Giang, quân Tuyển dựa vào luỹ đất
để giữ thế thủ, hai mặt thuỷ bộ nương tựa lẫn nhau để chống với quân Sở.
Lúc Tuyển thua ở Kim Động, sĩ dân
mạn xuôi đều chưa ai biết. Trông thấy thuyền bè đầy sông, cờ quạt rợp trời,
họ cho là quân Tuyển thế nào cũng thắng trận. Lại nghe vua Lê ở Chân Định,
Tuyển đã cho thuyền đi đón, xe vua sắp đến, nên ai cũng nô nức mừng rỡ, tranh
nhau đem đinh tráng, mở cờ gióng trống để đón quân vua. Tuyển thấy dân tình
như thế, nên mới dâng biểu tâu xin nhà vua ngự ra coi quân. Đăng Quĩ cũng hết
sức chủ trương việc nhà vua thân chinh. Vua Lê bất đắc dĩ phải gắng gỏi nghe
theo. Nhân dân vùng ven sông trông thấy tàn lọng nhà vua, đều xúm xít trên
bờ, chen chúc đứng xem chật như nêm cối. Ai nấy đều nói: "Vua ta đến
đấy!" Rồi bảo nhau vái lia lịa và tung hô "vạn tuế".
Xe vua đi sang hướng bắc, đến sông
Ngô Đồng, chợt thấy một người hớt hơ hớt hải chạy về phía nam. Quân lính liền
bắt lại, hỏi cớ sao mà chạy. Người ấy miệng run cầm cập, không thể nói được,
chỉ giơ ngón tay trỏ về một làng ở đằng xa, hồi lâu mới đáp:
- Giặc... đến... nơi... rồi!
Mọi người cùng lên trên cao mà
nhìn thì thấy thấp thoáng ở trong đám cây cối um tùm, có một toán quân đang
từ phía tây đi tới, cờ quạt khi mờ khi tỏ. Ai nấy đều nói: "Đúng là bộ
dạng quân Tây Sơn". Họ vội vàng xuống thuyền, tâu rõ với vua. Vua nói:
- Quân Tuyển đóng ở phía trước,
quân giặc sao lại vượt qua mà đến đây được?
Rồi nhà vua sai Xuân Hạp lên bờ,
dùng ống viễn kính để xem. Hạp xem đúng là quân Tây Sơn, nhưng sợ quân sĩ
kinh sợ, bèn trở lại tâu rằng:
- Bộ dạng toán quân ấy chưa được
rõ ràng, nhưng quân Tây Sơn xuất quỷ nhập thần, rất là khó lường. Đề phòng
việc bất trắc, đó là phép đời xưa. Vậy xin tạm dời thuyền ngự sang bờ bên
đông xem sao?
Vua cho là phải.
Thì ra lúc bắt đầu đi đánh Tuyển,
Sở đã dùng thuỷ quân thẳng theo dòng sông xuôi xuống làm chính binh; lại ngầm
sai đô đốc Nguyễn Văn Hoà lĩnh đạo khinh binh do đường Bình Lục, Thiên Thuỷ
vòng lại làm kỳ binh, để đánh úp phía sau. Nhưng Tuyển không hề biết.
Quân hai bên đánh nhau mới được
vài hiệp, Tuyển sai tướng sĩ đặt súng bảo long ở trên bờ sông, để bắn quân
địch. Chợt thấy quân địch trói cha và vợ Tuyển ở đầu thuyền, rồi chèo thuyền
vun vút xông lên phía trước. Tuyển trông thấy, khóc và nói:
- Con bắn cha là trái với đạo
trời!
Đoạn Tuyển vội vã thét quân sĩ
thôi bắn, và lui vào trong luỹ để cố thủ.
Bỗng nghe tiếng súng ầm ầm như
sấm, khói lửa ngút trời, quân lính hoảng sợ, đều nói nhao lên rằng:
"Giặc đã chặn mất đường về rồi".
Họ bèn bỏ chạy tan tác. Tuyển ngăn
không nổi, liền cùng bộ hạ hơn trăm người nhằm phía nam sông Hoàng Giang mà
chạy.
Thuyền vua Lê đóng ở bờ phía đông
hồi lâu, sau nghe tin quân Tuyển thua trận, quân Tây Sơn xông ra bốn phía,
chém giết rất giữ dội, thì mọi người đều mất hết hồn vía, bỏ cả thuyền bước
vội lên bờ, cướp đường mà chạy. Nhà vua thấy vậy, liền thuận theo dòng sông
buông thuyền chạy về phía nam. Khi tới một ngã ba sông, không biết đi về ngả
nào, vua bèn sai gọi gấp Đăng Quĩ để hỏi, nhưng đã không thấy Quĩ ở trên
thuyền nữa.
Lúc ấy gió bắc đang mạnh, vua sai
giương buồm thẳng ra biển mà đi. Bốn bề mênh mang, mù mịt, trời nước một màu,
theo gió cưỡi sóng, lênh đênh trong biển khơi, việc sống chết lúc ấy thật
không biết đâu mà lường. Vua Lê ngước mắt lên trời mà khấn rằng:
"Nếu trời không muốn bảo tồn
dòng dõi họ Lê, thì xin nguyện đi theo hải mã đến chỗ Quảng lợi vương ở biển
Nam Hải, không cần sống làm gì nữa".
Nói chưa dứt lời, chợt thấy có một
chòm núi, đột ngột hiện ra giữa những lớp sóng, sau núi có chừng vài chục
chiếc thuyền. Vua vội vàng hỏi người cầm lái, thì ra đã đến hải phận Biện
Sơn. Dần dần lại gần, thấy một người bận quần áo trận đứng ở đầu thuyền, nhìn
kỹ chính là Lê Ban.
Vua vừa mừng vừa thẹn, chưa biết
nói sao. Ban biết là thuyền vua, vội vàng đến bái yết. Vua ứa nước mắt mà
nói:
- Ta hối không dùng kế của nhà
ngươi, bị Trương Đăng Quĩ làm lỡ. Biết trước thế này, thà ở Giáp Sơn mà thua,
còn hơn là đến Chân Định mà thua, thêm một phen lặn lội, chỉ tổ cho người ta
chê cười. Nhưng thôi, cũng là việc đã rồi. Còn bây giờ thì nên làm như thế
nào?
Ban tâu:
- Thần nghe nói: "Có lắm nạn
mới dấy được nước, sự lo phiền mở rộng thánh đức". Xin bệ hạ chớ vì thế
mà nhụt chí. Thua được là việc thường của nhà binh. Ví như đánh cờ, thua ván
này bày ván khác, cố làm sao cho có nước cờ lạ hơn người, quy mô sắp sẵn rồi,
mới có thể ra mặt. Hiện nay thế giặc quá mạnh, ta chưa chiếm được một mảnh
đất nào, không thể đánh nhau với chúng. Thần xin bệ hạ lên đường vào Lam Sơn
là đất hưng vương của Thái tổ ngày xưa, lấy đó làm nơi bảo vệ xa giá, rồi sai
người truyền dụ các tù trưởng của dân mường mán. Họ đều là dòng dõi phiên
thần, ai mà chẳng hăng hái? Thêm vào đó, lại thu nhặt quân hai xứ Thanh,
Nghệ, họ đều là lính túc vệ thân cận xưa kia, ai là chẳng vui lòng đi theo?
Thế rồi theo đường ven núi, qua lại liên lạc với nhau. Quân ở ba trấn Sơn
Nam, Sơn Tây, Hưng Hoá xuôi dòng sông mà xuống, đột ngột từ trong núi kéo ra.
Một ngày kia cả ba đạo đồng thời nổi dậy, tiến thẳng đến đô thành. Cuộc trung
hưng của triều ta xưa kia, chính là dùng cách ấy.
Vua nghe lời, liền theo đường bộ
đi về vùng Lam Sơn, trấn Thanh Hoa. Rồi sai Ban qua đất Thiên Quan (tên phủ,
gồm đất các huyện Nho Quan, một phần huyện Gia Viễn (Ninh Bình) và một phần
huyện Lạc Sơn (Hoà Bình) ngày nay) dụ quận Thái; sai tôn thất Duy Lan tới đất
Phù Sùng dụ hai viên tù trưởng ở Tây Lĩnh.
Hai viên tù trưởng này vừa mới qua
lại hoà hảo với Tây Sơn, không dám trở mặt ngay, họ đều nói:
- Chúng tôi mấy đời nhờ ơn nặng
của nhà nước, há dám không hết lòng? Nhưng mà kinh doanh nghiệp lớn, ắt phải
tích luỹ lâu năm mới thành, không thể làm xong ngay trong khoảng mươi hôm.
Đời xưa Hán Cao-tổ, Đường Thái-tông còn phải khó nhọc đến năm sáu năm. Vậy
xin lượng thánh xét kỹ, hãy cứ lấy Lam Sơn làm nơi ẩn náu, thư thả để cho
chúng tôi luyện tập quân mã, sắm sửa khí giới, thu góp lương thực, sửa sang
đường sá, rồi mới có thể vâng mệnh nhà vua được. Nếu muốn làm gấp, e không
phải sức của chúng tôi có thể làm nổi.
Lan về nói với vua rằng:
- Chúng nó thật không có lòng mộ
nghĩa, nên tạm dùng lời thoái thác để cự tuyệt ta. Chỗ này sơn lam chướng khí
không thể ở lâu. Vậy xin bệ hạ sơm sớm lo liệu, đừng để mất thì giờ vô ích.
Vua cho là phải, bèn lập mưu thay
quần áo như người thường, trở về Kinh Bắc, tạm trọ ở phủ Lạng Giang, sau lại
dời ra phủ Từ Sơn, ở nhà viên tham tri là Đình Dư. Do đó, bọn Lê Đản, Doãn
Lệ, Danh án, Vũ Chiêu, Vũ Trinh, Xuân Hạp lại lần lượt lui tới chỗ vua ở. Vua
cùng họ bàn mưu tính kế; Đình Dư nói:
- Nay bề tôi nanh vuốt của nhà vua
chỉ có ba người là Ban, Tuyển và Châu. Tuyển từ sau khi thua ở Hoàng Giang,
chạy về Nghệ An, nay không biết ở đâu? (theo Cương mục, thì sau
đó Tuyển ra Thăng Long xin hàng Ngô Văn Sở, bị Sở giết chết) Châu bị Tây Sơn
lùng bắt, lẩn trốn vào hang núi, không còn thì giờ lo toan công việc. Ban
vâng chỉ đi chiêu dụ, còn ở Thanh Hoa, cũng chưa có tin tức gì. Hiện nay bệ
hạ nương náu ở nơi thôn ổ, lũ thần đi lại luôn, sợ lâu dần có người biết, sẽ
xảy ra tai biến bất trắc. Chi bằng bệ hạ hãy đi lên Cao Bằng, Huy Túc hiện
còn hầu thái hậu ở đó. Trong thì dùng các phiên thần hộ vệ, ngoài thì dựa vào
sự cứu viện của thiên triều, ngõ hầu mới có thể làm được việc.
Vua nói:
- Trước kia, ta đã sai Ngô Thì Chí
lên Cao Bằng (ở trên nói đi Lạng Sơn, đây lại nói đi Cao Bằng, có lẽ là chép
lầm) để sắp đặt sẵn mọi việc. Nghe đâu Chí bị ốm giữa đường, nay không biết
ra sao?
Danh án thưa:
- Chí bị bệnh nặng, không đi được,
phải cáng về huyện Gia Bình, rồi mất. Chúng thần nghe tin, nhưng chưa kịp
tâu.
Vua ứa nước mắt, nói:
- Mất một người bề tôi giỏi rồi
đấy! Tiếc thay!
Rồi vua bèn tự tay viết tờ chiếu,
truy tặng Chí làm chức hàn lâm thị chế, tước Dụ trạch bá, trao cho án và nói:
- Nhà ngươi cầm tờ chiếu này đưa
cho vợ con của ông ta, cho họ biết ý của trẫm.
Đản tiến lên nói:
- Hiện nay những kẻ thần dân theo
giặc, đem hết tình hình nước nhà nói với chúng, cho nên mình sắp mưu toan
việc gì, thế nào chúng cũng biết trước. Thậm chí có kẻ còn đưa giặc đến để
bức bách nhà vua. Biến tự trong sinh ra, không chỉ có giặc ngoài mà thôi. Vì
thế mà việc ở Chí Linh và Giáp Sơn, cả hai lần đều không làm nên chuyện; liền
đó, việc ở Sơn Nam cũng vậy. Ngày nay chỉ còn có cách là sai sứ sang cáo cấp
với nhà Thanh, xin họ dàn quân sát biên giới nước ta, để hỏi cái tội của quân
Tây Sơn gây việc binh đao và bọn người trong nước theo giặc; làm cho bọn giặc
không thể ở yên, mà lũ phản nghịch cũng có phần sợ. Như vậy, thì lòng mộ
nghĩa của người ta mới được bền vững mà mưu cơ khôi phục mới khỏi bị tiết lộ
và khỏi bị phá rối.
Vua cho là phải, bèn sai thảo bức
thư, đưa trước cho viên tổng đốc lưỡng Quảng (tức hai tỉnh Quảng Đông và
Quảng Tây (Trung Quốc)), đại lược nói rằng:
"Ba trăm năm nay, nước chúng
tôi nhờ đội oai đức của thiên triều, đời đời giữ chức phiên phong, trong nước
yên lặng. Chẳng may vận nước giữa chừng gặp buổi suy vi, vua trước qua đời.
Nguyễn Huệ Tây Sơn là rể nước tôi, quên ơn bội nghĩa, nhân khi nguy biến,
đánh người trong lúc có tang; lại chiếm cứ đất nước, để đến nỗi người cháu
nhà vua phải trốn chạy ra ngoài, chưa kịp sai sứ báo tang và xin phong, thể
lệ nhiều điều thiếu thốn. Nếu không tới cửa ải mà bày tỏ, e lại vì thế mà
mang tội. Vì vậy, nay xin bẩm rõ nguyên do, mong rằng quan lớn thương tình kẻ
ở xa, đề đạt giúp cho. Tôi đã có biểu trần tình, xin giao cho một người đem
đi, lại có chép một bản phụ, xin trình lên ngài xem. Vời trông thiên triều,
ví như trời che đất chở, xa gần không sót chỗ nào. Xét đến tấm lòng kính
thuận của các đời trước nhà tôi, và thương đến nỗi khổ yếu ớt, lang thang của
tôi; xin hãy truyền cho đem quân tới sát bờ cõi, đánh kẻ có tội, dẹp yên loạn
lạc, để gây dựng lại nước tôi. Muôn vàn lần nhờ ơn thiên triều, ơn đức của
đại hoàng đế không sao kể xiết, mà công giúp đỡ của quan lớn cũng sẽ cùng bền
vũng với núi sông của nước tôi vậy".
Thư thảo xong, vua sai Đản và án
sung chức chánh, phó sứ. Hai người đem vài kẻ thân tín cùng đi, chỉ đội nón
cũ, bận áo rách như người thường dân đi đường. Vua Lê tiễn hai người đến vùng
núi Bảo Lộc và dặn rằng:
- Đối đáp ở đất nước người là chức
trách của sứ thần. Chuyến đi này quan hệ đến sự mất, còn của nước nhà và sự
thành, bại của công việc. Các ngươi nên tuỳ cơ ứng biến, đem cái tài học chất
chứa lúc bình sinh mà thi thố ra việc làm. Tài kinh luân ở ba tấc lưỡi, việc
từ lệnh ấy không thể thiếu được. Các ngươi nên cố gắng, cho xứng đáng với tấm
lòng trông chờ của trẫm.
Hai người lạy tạ rồi đi. Đản nói
riêng với án rằng:
- Bọn ta tiếng là bồi thần, thật
ra chẳng khác gì kẻ vong mạng, ra đi lúi xùi chẳng có ai đưa đón, trên đường
thì nhiều sự cách trở, lại phải trèo leo vất vả trong chốn núi rừng. Nếu chưa
đến đất Trung Hoa mà đã bị quân giặc đuổi bắt, thì đó chính là sự dở dang rất
đáng lo ngại. Còn như đã tới được gần doanh của đốc bộ lưỡng Quảng thì ta
không còn lo gì nữa.
án nói:
- Nếu như lòng trời còn giúp xã
tắc, chắc sẽ không có việc ấy, cần gì mà phải lo xa? Có điều, từ khi nước ta
có nước đến nay, trong việc đi lại với Trung Hoa tuy rằng các đời sáng nghiệp
và trung hưng cũng đã từng gặp cảnh gieo neo không biết là bao nhiêu phen, nhưng
mà kẻ bồi thần đi sứ, chưa có ai lại như chúng ta ngày nay.
Nhân thế, án làm bài thơ, trong có
hai câu rằng:
"Ngàn thuở còn truyền câu
chuyện lạ:
Sứ thần áo rách, nón mê tàn
Rồi hai người theo con đường tắt
trong núi, qua cửa ải Lạng Sơn mà đi.
Thật là:
Rời nước một thân qua ải Hán
Đau lòng hai mắt khóc sân Tần *
Chưa biết hai người đi chuyến này
ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.
* Dịch ở hai câu chữ Hán như sau:
Thiên cổ do truyền kỳ tuyệt sự, Tệ soa tàn lạp sứ thần trang)!
Đời Xuân thu, nước Sở bị nước Ngô
chiếm đóng, quan đại phu nước Sở là Thân Bao Tư sang cầu cứu với nước Tần.
Vua Tần không nghe, Bao Tư cứ đứng khóc ở sân luôn bảy ngày đêm: sau đó vua
Tần phải cho quân sang cứu Sở-Đây mượn ý đó để nói việc bọn án sang cầu cứu
nhà Thanh cũng khó khăn như vậy.
|
Hồi
12
Lê
sứ thần qua đất Bắc xin quân
Tôn đốc bộ tới ải Nam truyền hịch.
Lại nói, viên tham tri chính sự Lê
Duy Đản và viên phó đô ngự sử Trần Danh án theo đường tắt trong núi đi đến
vùng Hoà Lạc (thuộc huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn), gặp lúc quân do thám của viên
đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Diệm đi tuần, xét hỏi rất ngặt, người nào không có
giấy tờ đều bị ngăn trở. Hai người bèn cải trang làm người lái buôn, nhập
theo bọn khách trú (tiếng đương thời, dùng để chỉ những người Hoa kiều ngụ cư
ở Việt Nam), men núi đi tắt sang Trung Hoa, rồi nhờ quân của viên quan giữ
cửa ải đưa đến doanh phủ Thái Bình (thuộc Quảng Tây).
Bọn Đản lạy rập dưới sân mà nói:
- Kinh thành của nước chúng tôi từ
năm Bính-ngọ (1786), bị giặc Tây Sơn là Nguyễn Huệ đánh phá, quốc vương qua
đời, cháu nối nghiệp do dòng chính thống lên làm chủ việc tế tự. Mùa đông năm
Đinh-vị (1787), Huệ lại sai tướng ra đánh. Tự quân phải chạy trốn ra ngoài,
các bề tôi lớn nhỏ đều phiêu bạt nơi sườn non góc biển. Người ở lại bị chúng
bắt bớ, người đi ra bị chúng ngăn chặn, hễ chúng bắt được là giết chết liền.
Trước đây, tự quân của chúng tôi chạy vào Sơn Nam cùng một vài người bề tôi
tập hợp quân dân, tính việc khôi phục, lại bị chúng đánh phá, phải chạy vào
trấn Thanh Hoa. Nay nhân khi dân mộ nghĩa còn mến chủ cũ, đều muốn tự quân
của chúng tôi lẻn về phía bắc sông Nhĩ Hà, đem tình hình báo với thiên triều,
ngước mong thương đến nước chúng tôi, đem quân cứu viện để cho tự quân của
chúng tôi có thể khởi sự ngay ở trong nước, rồi dựa vào uy thế của thiên
triều mà sai khiến các nghĩa sĩ. Như vậy thì việc khôi phục đất nước mới mong
có cơ hội. Hiện nay tự quân của chúng tôi đóng ở huyện Phượng Nhãn, sai chúng
tôi lẻn lút sang đây. Đường đi đến cửa ải, tính ra chỉ có bốn ngày nhưng vì
chúng tôi sợ giặc bắt, phải vượt suối trèo non, đi vòng theo đường quanh co,
nên hơn một tháng mới tới nơi. Cúi xin nghĩ lại: Nước nhỏ mọn chúng tôi làm
bề tôi của thiên triều đã hơn ba trăm năm, lo giữ chức phận và việc tiến cống
không bao giờ ngớt. Nay bỗng chốc bị giặc chiếm đoạt, xã tắc tàn hoang.
"Người ta đến lúc cùng thì quay về gốc", không thể không gọi ông
trời mà kêu. Đức đại hoàng đế cũng tức là vua nước nhỏ mọn chúng tôi, mà các
vị quan lớn lại là bậc quan lại giúp việc nhà trời. Muôn trông thương đến kẻ
ở nơi biên ải xa xôi, dựng lại nước đã mất, nối lại dòng đã dứt, để cho họ Lê
là người bề tôi tiến cống, được đội phúc lớn của trời.
Bọn Đản nói rất thảm thiết và đem
các tờ biểu, tờ bẩm trình lên. Viên phân phủ họ Vương ngờ rằng quân Tây Sơn
giảo quyệt, giả làm sứ thần của họ Lê để dò la tình hình Trung Quốc, bèn vờ
hỏi vặn rằng:
- Vua trước của nước Nam mất đi đã
hai năm nay. Nếu như trong nước có biến, tự tôn đáng lập mà không được lập,
sao lại không tới cửa ải bày tỏ sự tình ngay từ năm ấy? Vả chăng, trước đây
có tiếp được công văn đệ sang, chẳng qua chỉ nói về việc làm mất quốc ấn, xin
cấp cho chiếc khác mà thôi. Còn như duyên cớ tại sao không được lập, nguyên
do tại sao bị đuổi đi thì không hề nói tới một lời. Nay việc đã trải qua hai
năm, tự tôn nương náu ở đâu, quân giặc động tĩnh ra sao, người trong nước
theo ai phản ai như thế nào, tình hình đều chưa rõ rệt. Lại nữa, trong tờ
biểu này đứng tên tự tôn họ Lê, mà chưa có tờ biểu báo tang và cầu phong,
chưa được cấp lại quốc ấn thì sao được khinh suất dâng tờ biểu lên, và vội vã
sai sứ thần đến? Xét ra, những việc ấy đều là việc chưa hợp thể lệ. Cần phải
có tự tôn họ Lê tự mình đến đây khai báo, để ta giáp mặt mà hỏi rõ tình do.
Nếu chỉ bằng vào lời nói của người khác thì không được. Ta là bề tôi giữ đất,
việc ở ngoài bờ cõi là việc lớn, quyết không thể nhẹ dạ mà tin các ngươi.
Nhưng thôi được, các ngươi đã vì việc cáo cấp mà đến đây, nghĩ tình ta cũng
không nỡ đuổi đi. Hãy cho ở lại đây, để ta bẩm rõ với quan đốc bộ, phái người
ra ngoài bờ cõi, dò xét một phen cho đích xác, rồi mới có thể làm tờ biểu tâu
lên nhà vua mà chờ chỉ ý quyết định.
Đản và án nghe vậy, không biết nói
sao, đành phủ phục dưới sân mà gào khóc. Viên phân phủ họ Vương xét thấy thật
tình, bèn dỗ dành rằng:
- Xem ra lũ các ngươi trung thực
đáng khen, mà tình cảnh thật đáng thương! Thiên triều sẽ có cách phân xử,
không nên kêu mãi cho nhàm, cứ ra nhà trọ để chờ mệnh lệnh.
Hai người mừng rỡ, bái từ lui ra.
Bấy giờ là năm 53 niên hiệu Càn-long, tức là tháng chín mùa thu năm Mậu-thân
(1788).
Đản và án ở đó được ít lâu, viên
phân phủ họ Vương gọi vào mà bảo rằng:
- Việc bên ấy xin cứu viện, đã
được thấu đến triều đình. Hoàng đế thương đến các vua đời trước của nhà Lê
làm bề tôi tiến cống nhiều đời, đã hạ chỉ cho quan tổng đốc lưỡng Quảng là
Tôn đại nhân, hiệp đồng cùng quan tổng đốc Vân, Quý (Vân Nam, Quí Châu (Trung
Quốc)) là Phú đại nhân, điều động năm chục vạn lính dõng ở Điền Châu ra ngoài
biên thuỳ tìm kiếm tự tôn họ Lê, hộ tống về nơi kinh thành nước An Nam. Những
tình hình đó, từ cuối mùa đông năm Đinh-vị (1787), quốc mẫu bên ấy và viên
trấn mục ở Cao Bằng là Nguyễn Huy Túc đã qua cửa ải Đẩu áo sang bày tỏ rồi.
Nhưng chưa rõ hai anh em tự tôn thất lạc ở đâu. Còn tự tôn thì sau khi chạy
trốn, mẹ con cách trở, cũng không rõ tình trạng bên này nên lại sai các người
trèo đèo vượt suối sang đây (theo Cương mục, thì việc mẹ Chiêu
thống sang cầu cứu nhà Thanh như thế nào, Chiêu Thống đã được Lê Quýnh về báo
cáo rõ cả rồi, lúc này cử Đản và án sang chỉ là để đón quân Thanh mà thôi).
Các ngươi đã là người do tự tôn sai đi, mà tự tôn đang ở đất Phượng Nhãn, thế
thì tình hình ra sao, các ngươi hãy làm tờ cung khai, bẩm lên quan đốc bộ,
chờ khi đại quân xuất phát, ta sẽ dẫn các ngươi tới lạy chào và cung khai.
Bọn Đản, án được tin ấy, mừng lắm,
bèn xin để một người ở lại chờ hầu, một người về trước phí báo cho tự tôn rõ,
để nhóm họp những kẻ đồng chí, kêu gọi người trong nước, khiến cho xa gần đều
biết, và các nơi đều nổi dậy, chờ thời cơ hưởng ứng với thiên binh. Lại dựa
vào oai linh của thiên triều, các nơi sẽ nhắm những chỗ hiểm yếu mà đóng đồn
trại để ngăn chặn quân địch. Đó thật là một cơ hội rất tốt.
Viên phân phủ họ Vương bằng lòng
cho. Thế là án ở lại phủ Thái Bình, còn Đản thì theo đường cũ về nước.
Lại nói, từ khi kinh thành thất
thủ, vua Lê chạy sang phương bắc. Còn hoàng thái hậu cùng mấy người tôn thất
chạy trước lên Cao Bằng; viên đốc đồng Cao Bằng là Nguyễn Huy Túc đem phiên
binh đón rước mời về ở tạm tại một nhà dân bên cửa ải Đẩu áo, để mưu đồ sang
cầu cứu nhà Thanh.
Nguyên lúc Huy Túc mới đến Cao
Bằng, có người khách trú tự hiệu là Ngô-sơn tiều ẩn, vốn quen với Nguyễn Đình
Tố, thường vẫn hay đi lại nơi dinh trấn. Túc lần đầu được gặp và nói chuyện
với hắn ta, lấy làm lạ lắm. Đến lúc Tố mất, người khách đến viếng, Túc lấy lễ
thượng khách mà đối đãi, mời ở lại hơn mười ngày. Việc tang của Đình Tố đã
xong xuôi, người khách mới cáo từ ra về. Lúc sắp chia tay, người khách bảo
riêng với Túc rằng:
- Quí quốc từ nay sẽ có nhiều
việc, quan đốc thần trước cũng đã biết, không hiểu lúc gần mất ngài có nói
lại với các vị đồng liêu không?
Túc nói:
- Nước tôi, bên ngoài có giặc
mạnh, sau này chắc là không thể yên ổn, đó là việc mà người trong nước ai
cũng biết. Nhưng kết cục ra sao, không phải là điều Túc này có thể biết
trước. Quan đốc thần trước với Túc này đều lấy làm lo. Nay tôi làm quan ở
ngoài, đã không được dự vào nơi trọng yếu, thì dù có ý kiến nông cạn cũng
không làm được gì?
Người khách nói:
- Chính vì làm quan ở ngoài nên
mới không thể không đương lấy việc nước. Cứ như tài của ông, há chẳng có thể
làm được một phen kinh trời động đất, khiến người cả nước vội vàng chạy vạy
ư? Nhưng chẳng qua chỉ là một giấc chiêm bao mà thôi. Đó thật là khí số với
nhân sự có quan hệ với nhau; đáng cười mà cũng đáng tiếc vậy!
Túc nằn nì hỏi mãi, nhưng cuối
cùng người khách vẫn không chịu nói rõ, cáo từ mà đi.
Đến lúc Túc đưa thái hậu qua đất
Trung Hoa, tới Long Châu lại gặp người khách ấy giữa đường. Túc đem tình hình
trong nước nói với hắn ta không hề giấu giếm, và nói thêm:
- Việc gấp lắm rồi! Ông có cách gì
dạy cho tôi không?
Người khách nói:
- Khi ông ở trấn Cao Bằng, bắt đầu
nghe có tai biến nếu có thể cùng viên đốc đồng trấn Lạng Sơn, đồng một lòng
hợp sức giữ lấy đất hai trấn ấy, tụ tập phiên tướng phiên binh, chống nhau
với giặc, làm hùng bá ở một phương; rồi đưa thư sang các phủ Long Châu, Bằng
Tường (đều thuộc Quảng Tây, giáp liền với Cao Bằng, Lạng Sơn), hẹn khi có
việc nguy cấp thì họ cứu giúp, để nhờ cái tiếng viện trợ của họ. Ngày xưa họ
Mạc đã dùng kế ấy mà duy trì được 56 năm (theo Lịch triều hiến chương loại
chí thì sau khi vương triều nhà Mạc đổ, dư đảng họ Mạc chiếm giữ Cao Bằng còn
kéo dài được 96 năm nữa, kể từ Mạc Kính Cung (1592) đến Mạc Kính Vũ (1688)).
Nếu quả ông mà làm được như thế, há chẳng giữ được trọn đời của ông hay sao?
Sao lại bỏ chỗ ấy cho người ta? Đã bỏ lỡ mất cơ hội đó không làm, thì nay chỉ
có cách liên lạc với các xứ Long Châu, Bằng Tường, thiết tha xin với quan
tổng đốc, đem việc tâu lên nhà vua, trông vào điều may trời cho, để cầu xin
cứu viện mà thôi. Sau khi lấy lại được nước nhà, ông nên cố gắng "đào
giếng đắp núi", tự mình phải hết sức, đừng để làm cái trò cười cho đời
sau.
Túc nói:
- Đó là cái ý quan trọng xa xôi,
tôi xin kính vâng lời dạy, không dám lãng quên. Nay Túc tôi đưa quốc mẫu chạy
sang đây, cũng chính là ý như thế, song chỉ sợ tình của kẻ dưới, không thể
thấu lên đến bề trên. Nếu được nhờ ơn ngài chỉ đường vạch lối, đem việc này
thưa trước lên trên cho chúng tôi, thì xin đội ơn vạn lần, vạn lần!
Người khách nói:
- Đất lạ quen nhau, tôi dám đâu
không hết sức?
Người khách bèn cùng đi với Túc.
Viên đô ty Long Bằng (Long Châu, Bằng Tường) tên gọi Trần Hồng Thuận là bạn
quen của người khách. Khách bèn dẫn Túc đến đấy, nói là mẹ, vợ và thân thuộc
của tự tôn nước An Nam bị quân giặc Quảng Nam (chỉ quân Tây Sơn) đuổi giết,
trốn đến cửa ải, cúi đầu đợi mệnh...
Hồng Thuận lập tức hội đồng với
viên phó quan ở Long Châu là Trần Thốt đi tới nơi tra xét. Tất cả đàn ông đàn
bà gồm 64 người, Hồng Thuận tuỳ tiện cho ở bên cửa ải, rồi đem việc ấy nói rõ
với viên quản đạo Giang Tả thuộc tỉnh Quảng Tây là Thanh Hùng Nghiệp, để bẩm
lên quan tổng đốc lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị. Tiếp đó, Hồng Thuận lại cho sao
đơn khiếu nại của nước Nam đại ý nói rằng: "Quốc thành bị giặc đánh phá,
cướp bóc, không biết kêu xin với ai? Ai cũng căm thù giặc, thề không cùng
sống với chúng, nhiều người lẻn lút nấp ở trong núi, kết thành đồ đảng, chỉ
vì chưa có người đứng ra làm chủ, cho nên họ còn rời rạc khó bề hợp nhất. Nếu
được thiên binh sang cứu thì các nơi sẽ cùng hưởng ứng ngay, và có thể hẹn
ngày mà lấy lại quốc thành".
Sĩ Nghị thấy giấy báo tin ấy, liền
bảo bọn liêu thuộc rằng:
- Nước An Nam từ đời Hán, Đường,
là đất phụ thuộc vào nước ta; đến đời nhà Tống, họ Đinh quật cường, mới trở
thành nước tiến cống. Trải mấy đời nối theo nhau cho đến ngày nay, lại không
thể giữ được nước. Hoặc giả trời khiến nước ấy lại làm quận huyện của Trung
Quốc chăng?
Lập tức, Sĩ Nghị ruổi ngựa tới
vùng Long Bằng, dò xét tình hình biên giới, rồi họp bàn với viên tuần phủ là
Vĩnh Thanh.
Vĩnh Thanh nói:
- Mở mang bờ cõi là một việc lớn,
lợi hại không phải nhỏ. Quả như lời họ nói, thì nước ấy kể cũng đáng thương.
Nhưng thế lực của giặc, đoán chắc là không phải như vậy. Chúng ở ven biển nổi
lên, theo việc binh nhung từ khi đầu còn để chỏm, một lần khởi quân mà lấy
được cái nước đã ba trăm năm, nhất định không phải là yếu, và cũng nhất định
không đời nào chịu để cho người ta doạ dẫm, mới nghe tiếng đã phải đêm hôm
lẻn trốn đi. Trừ phi chúng có bị đánh cho giập gẫy một vài phen thì chúng mới
chịu rút lui và nghe theo. Trung Quốc ta thái bình đã hai trăm năm nay, dân
chúng không biết đến việc binh. Nay bỗng dồn họ tới chỗ nóng nực lam chướng,
dù thắng được cũng không phải là mạnh. Huống chi chưa chắc đã thắng, mà vạn
nhất vấp ngã thì tổn thất thật không nhỏ. Cụ lớn là vị đại thần của nước, nắm
quyền ở chốn biên thuỳ, cần phải giữ vững bờ cõi; há nên vừa mới nghe kêu nài
một tý đã vội gây hấn ở nơi biên ải? Cái gương của bọn Hoàng Phúc, Trương Phụ
ở đời Vĩnh-lạc, Tuyên-đức (Hoàng Phúc và Trương Phụ là tên các tướng nhà
Minh. Vĩnh-lạc là niên hiệu Minh Thành tổ, Tuyên-đức là niên hiệu Minh Tuyên
tông. Đây chỉ việc quân Minh sang xâm lược Việt Nam hồi đầu thế kỷ XV, sau bị
Lê Lợi đánh bại), cũng chưa phải xa xôi, xin nghĩ kỹ cho!
Nghị nói:
- Nước An Nam được phong, đời đời
lo giữ chức phận tiến cống. Tây Sơn là bọn giặc nhỏ, dám diệt nước họ. Nạn
của cống thần không thể không cứu, tội của cuồng tặc không thể không trị. Vì
nghĩa mà hành quân ai dám không theo? Nếu lấy cớ là mọi rợ mà bỏ ra ngoài,
ngồi nhìn bọn họ giết hại nhau mà không cứu thì tám xứ "man", chín
xứ "di" làm bề tôi Trung Quốc, còn trông cậy gì nữa?
Rồi Nghị gọi sáu người là bọn
Nguyễn Huy Túc, Lê Quýnh, Hoàng ích HIểu, Nguyễn Đình Quán, Nguyễn Quốc Đống
và Nguyễn Đình Mai đến cửa quan, để hỏi tình trạng.
Trước hết, Nghị hỏi tự tôn có mấy
anh em, sau khi chạy trốn, hiện nay ở đâu?
Bọn Túc khai là: Tự tôn có ba anh
em, rất yêu mến nhau. Anh trưởng là Lê Duy Kỳ, tức là người đáng được nối
ngôi, thứ hai là Tụ quận công Duy Tụ, thứ ba là Lan quận công Duy Chỉ. Hiện
nay, Duy Kỳ chạy xuống lộ Sơn Nam hạ (năm Lê Cảnh hưng thứ Qui Nhơn (1741),
chia xứ Sơn Nam làm 2 lộ: lộ Sơn Nam thượng (Vùng Hà Nam, Hưng Yên, Hà Đông
sau này) và lộ Sơn Nam hạ (vùng Nam Định, Thái Bình sau này)), để chiêu tập
nghĩa binh. Duy Tụ ở vùng Tuyên Quang, Hưng Hoá cũng đang nhóm họp các người
đồng chí, xa xa làm thanh viện cho nhau. Nghe nói họ nương tựa lẫn nhau, thần
dân thuận theo, quyết không đến nỗi tan tác. Nhưng không biết từ đấy về sau
có thể hăng hái làm nên việc hay không? Tới đây đã hơn bảy tám tháng, sự thế
đổi thay, họ có còn giữ được chỗ ấy nữa không, điều đó chúng tôi không được
biết.
Nghị lại hỏi tin tức của mẹ con tự
tôn nay ra sao?
Túc nói:
- Chúng tôi trước ở Cao Bằng, rồi
rước quốc mẫu sang nội địa (chỉ đất Trung Hoa). Tự tôn thì vẫn ở trong nước.
Quan san cách trở, tin tức không thông. Nay nếu được phép thì xin lẻn về báo
cho tự tôn biết tin của mẹ và gia quyến. Xin cho ba người chia đi hai ngả.
Đình Mai xin đi đường cửa ải núi Mông Tự. Quýnh và Đống xin theo đường Long
Môn mà vượt biển. Ngửa trông cụ lớn cho người dẫn đến biên giới, để chúng tôi
gấp đường chạy về; chừng trong một tháng, dò xem tin tức ra sao, sẽ xin bẩm
rõ.
Nghị lại hỏi lâu nay ở bên ấy mùa
màng ra sao?
Túc thưa:
- Nước chúng tôi luôn mấy năm bị
mất mùa, giá gạo rất đắt, một thưng gạo giá đến sáu trăm đồng tiền. Lộ Sơn
Nam hạ vốn được gọi là nơi giàu có, bây giờ dân gian cũng không có thóc lúa
để dành, các nhà đều trống rỗng như chiếc chuông treo. Tự tôn trước kia đóng
ở xứ ấy, vì lương thực không đủ, cho nên hễ làm việc gì cũng bị thất bại.
Chúng tôi khi ở nước nhà, chỉ nghe như thế, đó là việc thực.
Nghị quay sang hỏi Lê Quýnh, Quýnh
liền đáp:
- Họ Lê giữ nước hơn ba trăm năm,
dùng ân huệ buộc chặt lòng người, dùng lễ nghĩa vun trồng sĩ khí. Cho nên, dù
bọn phản nghịch tiếm quyền mà lòng người mến chúa cũ vẫn như xưa. Chỉ vì họ
Trịnh hiếp chế, lòng dân căm giận. Tây Sơn nhân lúc sơ hở ấy, mượn tiếng phò
Lê diệt Trịnh, nên người trong nước không ai chống cự. Chúng nhân thế đắc
chí, lại càng hung hăng, tự đặt niên hiệu, chiếm giữ kinh thành, đến nỗi tự
tôn họ Lê phải phiêu bạt ra ngoài. Do đó, dân cày và những kẻ lục lâm nổi lên
khắp nơi, không ai hẹn ai mà người nào cũng xưng là quân họ Lê. Nếu như
thượng quốc rủ lòng bao dung kẻ nhỏ mọn, giúp đỡ kẻ khốn cùng, sai một đạo quân
tới sát bờ cõi để làm thanh viện, thì người trong nước nghe tin, ai không
trỗi dậy, thề cùng phục thù? Mà như vậy, chắc cũng không hao tổn đến binh lực
của thiên triều nhiều lắm.
Nghị nghe được lời khai rõ ràng,
bèn đem một bức địa đồ nước Nam, bảo bọn Quýnh duyệt lại, và hỏi:
- Có đúng không? Không sai chứ?
Quýnh bẩm:
- Vị trí và phương hướng nhiều chỗ
sai lầm, ước chừng mười phần sai đến bốn năm.
Nghị nói:
- Cho phép các ngươi cứ thật mà
sửa lại.
Rồi Nghị sai gọi một người thợ vẽ
đến, theo chỗ Quýnh sửa đổi mà vẽ lại. Lại bảo Quýnh lưu ý xem những vùng nào
đã theo giặc, vùng nào chưa theo giặc, anh em vua Lê hiện đóng ở đâu, nhất
nhất đều ghi chú thật rõ ràng vào địa đồ.
Rồi nhân đó, Nghị gọi bọn Túc và
bảo:
- Chờ ta tâu lên triều đình, khi
nào được chỉ của nhà vua, tức khắc sẽ chiểu theo những điều kêu xin của bọn
ngươi mà làm cho thật tốt tất cả mọi việc. Chuyến này các ngươi về nước, phải
tìm cho được đích xác chỗ ở của tự tôn. Lại phải dò xem quân giặc động tĩnh
ra sao? Người trong nước có thể trỗi dậy được không? Hễ có dịp thuận tiện lập
tức phải phi báo cho ta biết, ta sẽ phúc tấu về triều, xin cho kéo quân ra
ải, thì công việc mới có thể mau xong.
Bọn Túc mừng lắm, cùng nhau ngoảnh
mặt về hướng bắc, trông vời cửa khuyết mà lạy và hô "vạn tuế" luôn
mấy lần.
Sau đó, Nghị sai viên quản đạo Tả
Giang, tỉnh Quảng Tây là Thanh Hùng Nghiệp hộ vệ quốc mẫu An Nam và các quyến
thuộc đến đất Nam Đôn, tuỳ nghi cấp cho các thứ lương thực, chăn áo, để ai
nấy đều được yên ổn.
Luôn thể, Nghị thảo tờ biểu tâu
rằng: "Cứ lời người trấn mục của nước An Nam là Nguyễn Huy Túc, chạy
sang nội địa cung khai: tháng sáu mùa hè năm thứ năm mươi mốt, niên hiệu Càn
long, em giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc là Nguyễn Văn Huệ đem quân xâm phạm
kinh thành nước ấy. Tiếp đến tháng tám, Văn Nhạc theo ra. Vừa gặp lúc các
trấn đều chỉnh đốn binh lính, voi ngựa đến cứu. Anh em Văn Nhạc sợ không dám
ở, ngay trong tháng ấy, đang đêm phải đem quân lẻn trốn. Quốc vương là Lê Duy
Đoan (tức Lê Hiển Tông) làm mất quốc ấn, liền đó bị bệnh mà mất. Vì con
trưởng chết sớm cháu đích tôn là Duy Kỳ, theo lệ được nối ngôi, có thảo văn
thư đệ sang, xin cấp cho quả ấn khác. Kế đó, tiếp được hịch của quan đốc bộ
đưa sang, nói rằng như thế không hợp thể lệ, mà phải sai bồi thần dâng biểu
báo tang rồi xin phong mới đúng. Không ngờ mùa đông năm sau, Văn Huệ lại sai
bộ tướng là Võ Văn Nhậm nhân khi nguy biến, đánh người giữa lúc có tang, đến
nỗi tự quân phải chạy trốn, chưa kịp sai sứ thần qua xin. Bọn Túc đưa quốc
mẫu của nước Nam chạy ra vùng Bắc Sơn thuộc huyện Võ Nhai, vua Lê thì chạy
trốn sang phủ Thiên Trường. Tướng giặc chiếm cứ quốc thành, sai người đi khắp
nơi lùng bắt. Lại có tên thổ dán trấn Lạng Sơn là Quyển Trâm, tên phiên mục
Cao Bằng là Bế Nguyễn Trù đầu hàng giặc, đem quân định cướp quốc mẫu để làm
con tin. Bọn Túc liền đưa quốc mẫu lên Cao Bằng. Tháng năm năm nay, đi tới
đầu xứ Bác Nậm (thuộc huyện Quảng Yên và Phú Hoà, tỉnh Cao Bằng), bị quân
giặc theo kịp, không còn kế gì để thoát thân, bọn Túc phải đứng cách sông kêu
xin thiên triều cứu giúp. Rồi họ liều mạng đưa được quốc mẫu và bọn quyến
thuộc lội nước sang bờ bên này, người nào không kịp sang sông đều bị giặc
giết chết. Nay bọn Túc rập đầu kêu van, xin được ở lại chịu tội với thiên
triều, không chịu mắc vào tay nhơ nhớp của giặc... Lại cứ lời bọn Túc nói thì
hiện nay quốc thành bị giặc chiếm đóng các nơi khác cũng đều nghe tiếng mà
tan rã tơi bời. Các địa phương tiếp liền với nội địa như Mục Mã (thuộc Cao
Bằng), Lạng Sơn, đều đã theo giặc. Riêng có vùng Diễn Châu ở Nghệ An, các hạt
Kinh Môn, Nam Sách ở Hải Dương... là còn có bọn thổ hào ứng nghĩa, ra vào các
nơi hang núi, lừa dịp đánh giết quân giặc, nên giặc cũng chưa thể đánh chiếm
được hết cả. Vả chăng tuy quân giặc từ khi chiếm được đất Tây Sơn, một mực
hung tợn, chỉ biết có việc tàn sát, nhưng cũng vẫn có những nơi không chịu
hàng giặc. Tự tôn lẩn trốn, chắc cũng ở những nơi ấy. Mẹ và vợ của tự tôn đã
chạy sang đất thiên triều, muôn lần trông được sự bao dung. Còn trong bọn bề
tôi chạy trốn cũng có được một vài kẻ có chút tài cán, họ tự xin về nước, tìm
kiếm tự tôn, để lại gắng sức lo toan một phen nữa. Nếu như sức chẳng chiều
lòng, thì họ xin làm cái chước bảo tồn lấy người con côi, tha thiết xin được
thiên triều thương xót... Các khoản tình do trên này, đều do tay tri phủ
Nguyễn Hữu Nhân (có bản chép Đào Hữu Nhân) viết thành câu hỏi, đầu mục nước
ấy lần lượt trả lời. Xét ra, họ cũng thật tình, lại có phần hăng hái, biết
được nghĩa lớn. Thần trộm nghĩ, cống thần họ Lê, theo lệ thì tự tôn của họ
được nối ngôi, chẳng may nước ấy bị diệt, mẹ và vợ đã tới cửa ải kêu van,
thực cũng nên thể tình mà chu cấp, để họ được yên chỗ, rồi chờ để xét rõ tin
tức của nước họ, sẽ quyết định việc cho đi hay cho ở lại. Chỉ nghĩ bọn họ khi
chạy đến ven sông, tức là đã thuộc về địa đầu bờ cõi của thiên triều; vậy mà
tụi giặc trông thấy quân lính thiên triều đóng đồn ở đấy, lại vẫn còn dám
hung hãn giết người, lòng giặc hiểm độc, không phải là không có ý dòm dỏ.
Thần đã mật thư cho viên đề đốc là Tam Đức sắp đủ chiến binh, chi đi đóng giữ
ở các cửa ải trong sáu xứ chung quanh Long Châu. Nếu chúng qua sông, tức thì
bốn mặt chặn đánh, không để cho chúng chạy thoát; luôn dịp cũng tỏ cho chúng
được biết binh uy của thiên triều, cho chúng hoảng sợ. Thần lại xin viết thư
mật cho các viên quan coi giữ miền Triều Châu và Long Châu, bảo phải gấp rút
đi tuần tra và dò xét kỹ càng ở các miền biên giới..., Nếu có tình hình gì
khác, thần xin tiếp tục viết biểu tâu lên, chờ vâng chỉ cho thi hành".
Vua Thanh xem tờ tâu ấy, liền bảo
viên đại học sĩ là Bá Hoà rằng:
- Lê Duy Kỳ ở An Nam, tuy chưa
được phong, nhưng y là người đáng được nối ngôi, cũng không khác gì quốc
vương. Nay mẹ và vợ cùng các quyến thuộc của y đều chạy sang đây, thế là toàn
cõi nước ấy đều đã mất cả. Việc dựng lại nước đã bị diệt, nối lại dòng đã bị
tuyệt, cần phải trù liệu sắp đặt mà rốt cuộc cũng phải hao phí rất nhiều binh
lực. Nay xét ra, Duy Kỳ còn ở lại trong nước để tự lo lấy việc khôi phục, dân
nước ấy theo giặc chẳng qua mới chỉ mấy xứ Mục Mã, Lạng Sơn, còn ở các vùng đông
bắc, tây nam thì lòng người mến chủ cũ vẫn có thể tin cậy. Nếu dựa vào đó để
lo nối lại ngôi vua ắt là có thể xong việc. Vậy truyền dụ cho Tôn Sĩ Nghị
biết rằng: "Họ Lê thờ phụng thiên triều rất là kính thuận. Duy Kỳ theo
lệ đáng được nối ngôi. Việc mất quốc ấn, ngày trước đã có dâng thư xin cấp ấn
khác, song vì chưa cho sứ sang báo tang, không hợp thể chế, cho nên việc cấp
ấn phải hoãn, đã có hịch dụ. Nay họ lại sai sứ thần tha thiết sang kêu xin,
vậy chuẩn y việc sắc phong và cấp ấn cho họ. Xét cho kỹ. Duy Kỳ sở dĩ bị giặc
đánh đuổi cũng chỉ là vì y không lo gắng sức trỗi dậy mà ra. Hiện giờ đất
nước của y còn nhiều chỗ chưa bị giặc chiếm, thần dân cũng còn biết kính mến;
Duy Kỳ nên nhân dịp ấy nhóm họp nghĩa quân, thu phục quốc thành, để cho
nghiệp cũ không đến nỗi bị sụp đổ. Mẹ và vợ y chạy sang nội địa, đã được sắp
đặt chỗ ở yên ổn, ăn mặc không thiếu, đất nước đã quen, y cũng không cần phải
lo nghĩ, có thể chuyên ý lo việc trong nước, chờ khi khôi phục được kinh
thành thì sẽ cho quân đưa mẹ và vợ y trở về. Lúc y sai sứ thần, thì lại nên
sai người đã thông tin lần này sang, để làm chứng cứ, ngõ hầu mới khỏi bị kẻ
gian lừa dối mưu hại. Đến như Nguyễn Huệ cậy mạnh cướp nước, phép không thể
tha, đã giáng chỉ điều động đại quân ở Quảng Tây, để chờ khi gọi đến. Nếu
giặc cứ hung hăng như trước, mà tự tôn họ Lê không thể phấn chấn để làm nên
việc, thần dân nước họ lại cam lòng theo giặc thì sẽ cho đem đại quân bốn mặt
họp lại mà đánh, cho sáng tỏ tội trạng của chúng. Như thế, trước tiên phải
đưa hịch phi báo cho thần dân nước ấy, khiến họ đều biết, để làm mạnh thêm
thế của họ Lê và làm cho bọn Tây Sơn mất vía kinh hồn, mà đối với việc giúp
đỡ cho sự thanh viện cũng là có ích. Những người đi theo như bọn Nguyễn Huy
Túc, tình nguyện về nước, tìm kiếm chỗ ở của tự tôn, để cùng giúp việc khôi
phục, chí ấy rất đáng khen, lẽ nên cho họ về sớm; sớm một ngày là tự tôn của
họ đỡ lo một ngày, và sau này trẫm cũng được nghe tin nước ấy mau hơn một
ngày. Tôn Sĩ Nghị vốn có tiếng nhanh nhẹn, sáng suốt, sao không liệu trước điều
đó, mà còn lo trẫm không ưng cho làm, để phải tâu đi tâu lại, không khỏi phạm
sai lầm về sự câu nệ. Nay Nghị cần phải sớm tới Long Châu, giáp mặt mà hiểu
dụ bọn sứ thần, giục họ lập tức lên đường; đem ý của trẫm truyền bảo cho họ
biết, để họ về nước báo tin với anh em Duy Kỳ; đồng thời phải sao các tờ hịch
thành nhiều bản, bảo họ đem về trong nước, ngõ hầu có thể truyền bá rộng rãi.
Ngoài ra, bọn họ lặn lội khó nhọc, hành lý sơ sài, vậy ở đường thuỷ và đường
bộ đều phải cấp phu trạm, hộ tống cho họ gấp đường mà đi; lại cấp cho mỗi
người mười lạng bạc để tiêu pha về việc ăn uống. Nói tóm lại, việc này, nếu
như cả nước An Nam bị mất, Duy Kỳ lại bị giết hại, thì nghĩ tình cống thần,
không thể bỏ qua mà không hỏi tới. Vả chăng bờ cõi nước Nam chưa đến nỗi hoàn
toàn mất hết, tự tôn tuy phải chạy trốn, nhưng thần dân vẫn còn mến phục. Như
vậy, ta chỉ cần làm thanh viện cho họ, để họ tự lo lấy công việc, bất tất
phải dấy quân làm to chuyện đem binh lực trong nước hao phí ở ngoài cõi nóng
nực, xa xôi. Đó mới là kế tuyệt hay. Tôn Sĩ Nghị phải theo chỉ dụ trước, tới
nơi biên thuỳ, trù tính cho kỹ, đốc thần (chỉ Tôn Sĩ Nghị) là người thạo
việc, chắc có thể hiểu được ý của trẫm. Việc kinh lý biên thuỳ ở đấy, cho
phép đốc thần được cùng viên phủ thần là Tôn Vĩnh Thanh họp bàn thoả đáng,
tuỳ tiện thi hành. Hãy kính theo chỉ dụ này!".
Lại nói, quan lại hai hạt Triều
Châu, Long Châu từ khi tiếp được thư mật của Nghị, lập tức đi tuần tra dò xét
miền biên giới và cho người đưa hịch sang bá cáo ở trấn Thái Nguyên.
Bấy giờ có hai họ Trương và Cát
quê ở hạt Triều Châu, chuyên sống về nghề khai mỏ lấy bạc, sang cư trú tại
làng Tống Tinh trong trấn Thái Nguyên. Họ vỗ về mọi người, làm kẻ tù trưởng
địa phương, đồ đảng có đến hơn vạn người, đều là các gia đình người Trung
Hoa. Hai họ ấy nghe được tờ hịch, liền tìm đến chỗ trọ của người đưa hịch mà
trình rằng:
- Chúng tôi chuyên sống về nghề mở
xưởng khai mỏ, đời đời ở nước Nam. Trước đây nghe tin kinh thành của nước An
Nam bị mất, trong nước loạn to, sợ rằng cháy thành vạ lây, nên đã cùng người
địa phương luyện tập súng, nỏ, làm chước giữ mình. Có lần, mấy trăm quân giặc
đến cướp, chúng tôi mới thử đánh một trận mà đã giết hết được tất cả. Nghĩ
rằng chúng tức giận, ắt lại đến nữa, chúng tôi bèn chia ra làm mười đoàn, mỗi
đoàn một nghìn người thề cùng liều chết chống giặc. Nay tiếp được hịch văn,
ai cũng nô nức nhảy nhót, xin làm tiên phong. Vả lại chúng tôi vốn là nhân
dân Triều Châu, nay cũng muốn xin được cùng ra sức một phen với quân nghĩa
dũng ở Điền Châu.
Người đưa hịch nghe họ nói như
vậy, liền lấy tờ khai và đem tình hình duyên do về bẩm.
Lại nói, vua Lê trước kia đã sai
bọn bồi thần sang trần tình và cầu cứu với nhà Thanh. Đến bây giờ, Lê Duy Đản
ở Thái Bình về, báo tin viên đốc bộ tỉnh Quảng Tây đem việc tâu lên, đã được
vua Thanh chuẩn y, chẳng bao lâu đại binh sẽ sang.
Rồi tiếp đó. Lê Quýnh lại từ Long
Châu về báo, nói là thái hậu và quyền thuộc hiện ở thành Nam Ninh, ăn ở yên
ổn. Vua mừng lắm bèn chắp tay lên trán mà rằng:
"Kẻ tiểu tử này, gặp lúc vận
nhà lắm nạn, nhờ được chín miếu thiêng liêng, đức đại hoàng đế rủ lòng
thương, bao bọc cho kẻ nhỏ mọn, trong nước lại được thấy bóng mặt trời, cơ
hội trung hưng phải chăng là ở lúc này?".
Rồi nhà vua sai thảo tờ biểu tạ ơn
và các thư từ trình bẩm, để cùng đưa sang một thể. Trong đó nói rõ:
"Giặc Tây Sơn tàn ngược, dân không chịu nổi. Hiện nay thần tuy chạy trốn
ở ngoài, nhưng may nhờ lòng người vẫn còn nhớ đến chủ cũ. Nhân đó thần cũng
đã cử sự được một vài phen, song đều bị thất bại. Gần đây tiếp được văn thư,
thần đã ngấm ngầm khuyến dụ hào kiệt trong nước, ai cũng hăng hái, thề giết
quân giặc, hằng ngày trông mong ở sự viện trợ của thượng quốc. Nhờ cậy oai
trời, việc chắc phải thành. Khi tiếp được hịch văn do viên sai quan mang về,
thần đã đem tuyên cáo với mọi người trong nước, ai nấy đều mừng rỡ, hớn hở
hơn là chết đi được sống lại; quân giặc cũng vì thế mà mất hết nhuệ khí. Hiện
nay, các nơi đều đã nhóm họp quân nghĩa dũng, chờ thiên binh qua cửa ải, thì
sẽ đến cửa quân lạy chào, và xin chịu kỷ luật làm quân đi tiên phong. Đảng
giặc chắc sẽ bị bắt và quốc đô chắc sẽ được khôi phục. Ơn tái tạo của đức đại
hoàng đế, cùng với đức gây dựng của cụ lớn, thật đáng ghi tạc dài lâu mãi mãi
như sông Lô non Tản vậy!".
Tôn Sĩ Nghị vừa tiếp được tờ bẩm
của Triều Châu lại được luôn tin ấy, liền hội đồng với viên tuần phủ, tâu xin
xuất quân. Trong tờ biểu đại khái nói rằng: "Vâng lời thượng dụ: Chỉ
nên làm thanh viện cho họ, để họ tự lo lấy không cần phải dấy quân làm to
chuyện. Kính tuân theo thánh chỉ ấy, thần đã tra xét kỹ càng các nơi đường
sá qua lại. Từ đài Chiêu-đức đến đô thành nước họ, quân đi chẳng qua chỉ mất
sáu ngày. ở Lạng Sơn hơi có lam chướng. Qua khỏi đó, thuỷ thổ đều tốt lành.
Đại quân tiến lên đóng ở La Thành (người Trung Quốc bấy giờ cũng thường gọi
Thăng Long là La Thành (một thành do Cao Biền đắp ở vùng Hà Nội từ thời thuộc
Đường)) vừa không nóng nực lại không có lam chướng. Vả lại cũng cần diễu võ
giương oai, phô trương thanh thế quân ta ở đấy, để cho giặc biết là không thể
địch nổi. Rồi sau mới sai phái các quân ứng nghĩa của nước họ tự đi đánh dẹp
lấy. Quân ta sẽ không đến nỗi phải vấy máu mũi gươm, mà quân giặc đều bị bắt
giết. Như vậy, công trạng hẳn chóng thành. Trộm nghĩ lần đi này thực đúng như
lời thánh thượng đã dạy. Lần trước cứ tâu đi tâu lại thần tự biết là đã phạm
cái sai lầm câu nệ, chậm trễ. Việc binh cần mau chóng, nếu gặp được cơ hội,
thần dám đâu không hết sức tính việc biên thuỳ để xứng đáng với sự giao phó
của bề trên? Đến như sau khi dẹp yên, các công việc cần phải xử trí ra sao,
thần sẽ xin kính cẩn viết tờ biểu tiếp tục tâu lên".
Rồi đó, Nghị hoả tốc tư cho bọn
đốc thần ở các tỉnh Vân Nam, Quí Châu, tuân theo như chỉ vua đã gửi trước từ
hai tỉnh ấy kéo quân theo đường Tuyên Quang mà đi, còn đại binh thì qua ải
Nam Quan, do đường Lạng Sơn tiến sang.
Thật là:
Vâng lệnh, nguyên nhung* coi hống hách,
Ra quân, đại tướng vẻ vênh vang.
Chưa rõ lần ấy thua được ra sao?
Hãy xem hồi sau phân giải.
* cũng như nguyên soái.
|
Hồi
13
Khiếp
thanh thế, giặc mạnh rút lui
Nhờ viện binh, vua xưa trở lại
Lại nói, lúc sắp xuất quân, Tôn Sĩ
Nghị lại dâng tiếp một tờ sớ, đại ý nói: "Thần nghe họ Lê ở nước An Nam
hèn yếu, sau này không chắc đã giữ được nước. Nay họ sang cầu cứu, bản triều theo
nghĩa phải cứu giúp. Vả chăng, An Nam vốn là đất cũ của Trung Quốc (chỉ nước
ta ở thời kỳ Bắc thuộc), nếu sau khi khôi phục họ Lê rồi, nhân đó lại cho
quân đóng giữ, thì như thế là bảo tồn họ Lê mà đồng thời lại chiếm giữ được
nước An Nam, một công mà hai việc vậy".
Tuần phủ là Tôn Vĩnh Thanh dâng sớ
chống lại lời bàn ấy của Nghị, đại để nói: "Triều đình mượn tiếng khôi
phục họ Lê, khi thấy họ Lê không thể giữ được nước, lại định sai quan chiếm
nước họ; ban đầu thì làm việc nghĩa, cuối cùng lại theo việc lợi, thần trộm
cho là không nên. Hiện nay họ Lê họ Nguyễn (họ Nguyễn đây là chỉ Tây Sơn)
đang đánh nhau, họ Lê thế nào cũng bị họ Nguyễn thôn tính. Chi bằng cứ đóng
quân yên lặng, rồi sau đó, nhân lúc cả hai bên đều kiệt quệ, bấy giờ ta sẽ
đánh lấy cũng chưa muộn gì".
Rốt cuộc, vua Thanh nghe theo lời
Nghị. Vì không hợp ý với Nghị, Vĩnh Thanh bèn cáo ốm không đi.
Nghị một mình vâng chiếu đem quân
bốn lộ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu, ra khỏi cửa ải, rồi chia làm
hai đạo: một đạo đi đường Lạng Sơn, do Nghị đốc suất; một đạo đi đường Tuyên
Quang, do viên tổng binh đốc suất. Cả hai đạo đều chịu dưới quyền tiết chế
của Nghị (theo Cương mục thì quân Thanh kéo sang gồm ba đạo:
một do tổng đốc lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy, theo
đường ải Nam Quan qua Lạng Sơn kéo xuống; một do đề tổng Vân Quí là Ô Đại
Kinh chỉ huy, do đường Mông Tự qua Tuyên Quang tràn sang; một do tri phủ Điền
Châu Sầm Nghi Đống điều khiển, từ Khâm Châu qua Cao Bằng đổ xuống).
Nghị họp các tướng sĩ, ban bố quân
luật gồm 8 điều như sau:
Điều thứ 1. - Đại binh ra
ải, vốn để dẹp giặc an dân. Hễ qua các nơi đều phải nghiêm chỉnh đội ngũ mà
đi, không được quấy nhiễu nhân dân, cướp bóc chợ búa.
Điều thứ 2. - Ngoài ải,
non cao rừng hiểm, miền ấy rất dễ mai phục, trước hết phải san bằng đá tảng,
phát hết bụi rậm, để cho trước mắt quang đãng, có thể vững lòng mà tiến lên.
Nếu gặp chỗ nào đất mới xốp bở, càng nên để ý xem xét, để đề phòng mưu gian
của giặc.
Điều thứ 3. - Hễ nơi nào
đại binh địch đóng thì trước hết phải xem xét địa phương, chọn lấy hình thế,
tìm nơi dễ lấy nước, lấy cỏ, chớ có đóng gần rừng rậm, bốn mặt phải đào hào
đắp luỹ và đốc suất binh lính đêm ngày tuần phòng, ngày đêm phải chia quân đi
dò xét ở ngoài mười dặm, không được ồn ào, dễ gây ra kinh sợ rối loạn.
Điều thứ 4. - Người Nam
đánh trận, hay dùng sức voi. Voi không phải là vật nội địa từng
tập quen, nên hễ gặp phải, trước tiên quân ta thế nào cũng tránh chạy. Không
biết rằng, sức voi tuy khoẻ, chung quy cũng là thân máu thịt, không thể đương
được với súng ống của ta. Nếu thấy voi ra trận, xa thì bắn súng, gần thì dùng
cung và lao, làm cho nó bị đau mà chạy trở lại, giày xéo lẫn nhau, quân ta
nhân cơ hội ấy mà tiến lên chém giết, thế nào cũng thắng trận, không còn nghi
ngờ gì nữa. Cần phải chỉ bảo cho nhau cùng được biết.
Điều thứ 5. - Quân Nam
không có sở trường gì khác, toàn dùng thứ ống phun lửa làm lợi khí, gọi là
"hoả hổ". Khi hai quân giáp nhau, trước hết họ dùng thứ đó đốt cháy
quần áo người ta, buộc người ta phải lui. Nhưng tài nghệ của họ cũng chỉ có
thế mà thôi, so với súng ống của ta thì còn kém rất xa. Hiện nay ta đã chế
sẵn vài trăm lá chắn bằng da trâu sống. Nếu gặp "hoả hổ" của người
Nam phun lửa, thì quân ta một tay cầm lá chắn đỡ lửa, một tay cầm dao chém
bừa, chắc rằng chúng sẽ phải bỏ chạy tan tác.
Điều thứ 6. - Đại binh đi
đường, nếu gặp khe suối dòng sông, chỗ nào nước sâu thì phải chặt lấy tre gỗ
bắc làm cầu phao, để binh mã vượt qua cho tiện, chỗ nào sông hẹp nước nông,
thì viên quan coi quân phải dò thử đích xác, rồi cho quân lính nối tiếp nhau
như xâu cá mà kéo đi. Lúc xuống nước, không được đem bùi nhùi, thuốc súng bạ
đâu vứt đấy để bị ẩm ướt.
Điều thứ 7. - Rau củi của
đại binh dùng hàng ngày, đã có tiền công cấp phát; chỉ được đổi chác với
người Nam bằng cách thuận tình, không được tự tiện chặt cây cối ở các làng
xóm, để sinh ra tranh giành. Nếu ở chỗ nào cách rừng núi độ một hai dặm, cần
sai quân lính bảo vệ cho kẻ đi kiếm củi, không được tự ý đi xa, để xảy ra
biến cố khác. Đến như việc lấy nước nấu cơm, cũng phải do viên quan coi quân
xét nghiệm rõ ràng, quả thật trong sạch không có độc mới cho múc
uống.
Điều thứ 8. - Những quân
lính bị thương hoặc bị ốm, viên quan coi quân phải tra xét tường tận, làm
giấy bẩm rõ, rồi cho đưa về doanh điều trị, để tỏ sự giúp đỡ, thương xót. Nếu
có bọn quân lính không tốt, giả làm bị thương hay đau ốm, hòng được về nhà,
một khi tra ra sẽ trị tội ngay tức khắc. Vả lại, lần này hành quân xa xôi qua
miền biên ải, triều đình thương đến binh lính, đã chu cấp rộng ra ngoài thể
lệ, mỗi người lính được cấp một tên phu. Các viên coi quân cần hiểu dụ trước
cho mọi người biết. Lính và phu cũng cần phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau,
không được tuỳ tiện sai khiến một cách tàn ngược. Đến như lúc hành quân, lính
đều phải lấy khí giới, không được tự mình buông tay đi không, vật gì cũng
giao cho phu dịch mang đội, để đến nỗi họ không thể chịu nổi, phải giữa đường
bỏ trốn. Ngoài ra, số phu quá nhiều, tra cứu rất khó, thậm chí có người ở
doanh trước lẫn vào doanh sau, người này người kia không quen biết nhau, dễ
sinh ra lộn xộn. Do đó, phải cấp cho mỗi tên phu một mảnh thẻ bài đeo ở lưng,
kê rõ tên họ, doanh hiệu, để tiện nhận xét phân biệt.
Các điều
quân luật trên đây, quân lính đều phải tuân theo một cách nghiêm túc. Kẻ nào
làm trái, nhất thiết xử theo quân pháp, không tha.
Rồi đó, trước tiên Nghị sai truyền
hịch sang dụ nước Nam, đại lược nói:
"Dấy nước đã diệt, nối dòng
đã tuyệt, việc đáng làm nào kể nơi man rợ, xa xôi; vớt người bị chìm, cứu kẻ
bị thiêu, đừng chẳng được phải dùng đến cung tên, binh lính. Nghĩ lại họ Lê ở
An Nam vốn là cống thần của thiên triều. Ba trăm năm vật sản tiến dâng, kính
theo chức phận; mười lăm lộ đất phong chia cắt, gồm có nước nhà. Thế mà
khoảng năm Càn-long, tù trưởng trong nước là bọn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, dấy
quân làm loạn, đánh phá La Thành: vua Lê trước vì lo sợ mà phải qua đời, tự
tôn là Duy Kỳ phiêu bạt ra ngoài. Bề tôi cũ là Nguyễn Huy Túc đem mẹ và vợ tự
tôn chạy sang nội địa, tha thiết xin quân cứu viện. Sau khi hỏi rõ bọn Túc,
thì tự tôn hiện nương náu ở vùng Kinh Bắc, Lạng Sơn, thần dân còn nhớ chủ cũ.
Nguyễn Nhạc là quân mọi rợ như giống trâu dê, quen thói hung tợn của loài
lang sói, đến đâu cướp bóc đó, trăm họ oán đến xương tuỷ. Từ một tên dân ở
nơi biên thuỳ nổi dậy, can phạm luân thường, làm trái nghĩa lý, đạo trời
không thể dung tha; lại dám hoành hành ở nơi nội địa, bạo ngược quần chúng,
tàn hại nhân dân, phép vua cũng cần phải đánh. Hiện đã đem việc này tâu lên,
vâng được đức đại hoàng đế thương xót đến họ Lê tan nát, không nỡ để Giao Châu
lầm than; đặc cách sai quan đốc phủ đeo ấn chinh Man (xưa bọn thống trị Trung
Quốc gọi các dân tộc ở phương nam là Man (man rợ chưa khai hoá);
"chinh Man" đây nghĩa là: đi đánh Việt Nam) đại tướng quân, điều
động năm mươi vạn quân, thẳng tới La Thành, trị tội bọn Nguyễn Văn Nhạc,
không để chúng trốn thoát hình phạt của trời. Dân nước Nam đời đời tôn đội
vua Lê, nhờ ơn nuôi dưỡng đã lâu, tri năng chưa mất, tình cảm đang còn, không
thể để mất lương tâm trời cho, bỏ vua theo giặc. Kẻ nào có thể xướng trước
tiếng nghĩa, dựa vào thiên triều làm nơi cứu viện, nhóm họp các người đồng
chí, ra sức trừ diệt quân thù, cửa ải hát khúc khải ca, mạc phủ (chỗ làm việc
ở nơi đóng quân của các tướng soái đời xưa) dâng lên công trạng, sẽ được cắt
đất chia phong, hưởng chung phúc lộc với họ Lê, như ông tổ họ Trịnh ngày
trước. Hịch văn đưa tới, quân lính đều nên hăng hái, mài giũa giáo mác của
các người mà chống lại quân thù của nhà vua. Đồng lòng chung sức, ắt có công
lao. Rồi sẽ ngửa trông ban thưởng ở cửa công, giữ mãi phúc chung ở trong
nước. Hãy cố gắng lên!".
Lúc đó, tướng Tây Sơn là Nguyễn
Văn Diễm và Phan Khải Đức đang đóng giữ Lạng Sơn, thấy tờ hịch đến đều run
sợ. Trong khoảng một ngày, thổ binh do họ chiêu tập được, bỏ trốn mất quá
nửa. Khải Đức trước hết bí mật sai lính đem thư sáp đến cửa ải xin hàng. Văn
Diễm tự liệu quân mình lẻ loi, thế không chống nổi; vả mình lại là người
Quảng Nam, nếu có hàng, chưa chắc đã được bao dung, bèn đang đêm rút quân bỏ
trốn về Kinh Bắc, cùng với viên lưu thủ ở đó là Nguyễn Văn Hoà hợp sức giữ
lấy trấn thành, rồi sai lính cưỡi ngựa đưa thư về Thăng Long cáo cấp.
Lại nói, Bắc bình vương Nguyễn Huệ
từ mùa hè năm ngoái ra Thăng Long giết viên chủ tướng tiết chế là Võ Văn
Nhậm, rồi thay đổi quan quân, chỉnh đốn công việc, chuyển giao cho các viên
đại tư mã Ngô Văn Sở, nội hầu Phan Văn Lân, chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, đô
đốc Nguyễn Văn Tuyết, thị lang bộ Hộ Trần Thuận Ngôn, thị lang bộ Lại Ngô Thì
Nhậm cùng giữ thành Thăng Long. Lúc sắp lên đường về Nam, Huệ mở tiệc họp
đông đủ mọi người, rồi nói:
Sở và Lân là nanh vuốt của ta;
Dụng và Ngôn là tâm phúc của ta; Tuyết là cháu của ta; còn Nhậm thì vừa là bề
tôi vừa là khách của ta, lại là dòng văn học Bắc Hà, thông thạo việc đời. Nay
ta giao cho các ngươi cả mười một trấn trong toàn hạt (thời Lê, Bắc Hà gồm 11
trấn. Về sau, Quang Trung có chia lại). Những việc quan trọng trong nước, đều
cho tuỳ tiện mà làm. Mọi việc cùng nhau họp bàn ổn thoả, chớ vì kẻ cũ người
mới xa cách nhau. Ai nấy phải đồng lòng hiệp sức, lo chung công việc để xứng
đáng với sự trông mong của ta. Các ngươi hãy cố gắng nữa lên!
Mọi người đều đứng dậy lạy tạ và
xin vâng mệnh.
Sau đó, Bắc bình vương chọn ngày
lên đường về Nam.
Từ khi ấy, trên rừng dưới biển hễ
có ai dám ngang ngạnh, Sở chỉ cần sai một viên tỳ tướng đi đánh là dẹp tan
được ngay. Các phủ huyện có đệ án kiện, giấy tờ lên thì Sở cứ theo việc mà
xử, không để ứ đọng. Trong những ngày rỗi, Sở thường cưỡi ngựa qua các đường
phố để mua vui, tự cho rằng ở Bắc Hà không còn việc gì khó.
Một hôm, mọi người cùng họp nhau
ăn uống ở nhà hiệp nghị, Sở bảo Lân và Tuyết rằng:
- Chúa công đem cả thành lớn giao
phó cho ta, cũng ví như sai người cắt áo gấm mà chưa thể tin là có biết cách
cầm kéo hay không. Các ông thấy việc đó ra sao? Giả sử có Tề thiên đại thánh
từ trên trời rơi xuống hay Diêm vương từ dưới đất lên, ta cũng chỉ quét một
lưới là hết. Huống chi cái lũ tẹp nhẹp, chẳng qua chỉ để người ta thử xem
gươm có sắc hay không, chứ làm được trò trống gì?
Rồi Sở ngoảnh lại bảo Ngô Thì Nhậm
rằng:
- Quan thị lang thật giỏi về nghề
văn học, còn việc cung kiếm có thông thạo gì không?
Nhậm nói:
- Có văn tất phải có võ, văn võ
không phải chia làm hai đường. Nhưng người xưa dùng binh, gặp việc thì lo sao
ngài lại lấy việc binh làm trò chơi mà coi thường như thế? Tôi trộm nghe bọn
người nước ta chạy sang bên Trung Hoa, trong đó có nhiều người định xúi họ,
mở mang bờ cõi, gây ra binh biến. Ngài chịu sự ký thác ở cõi ngoài, e rằng
không khỏi một phen bạc đầu vì lo lắng, đến lúc ấy ngài nên nhớ đến lời nói
của tôi.
Sở cười và nói:
- Lúc ấy sẽ phiền ông làm một bài
thơ để lui quân giặc. Nếu không làm được như thế, thì túi dao bao kiếm chính
là phận sự của kẻ võ thần, can gì phải quá lo?
Chẳng bao lâu, nghe tin báo ở
ngoài biên ải đưa về. Sở rất kinh sợ, tức thì hội họp các quan văn võ cũ của
nhà Lê, mượn tiếng Sùng nhượng công Duy Cận coi việc nước, làm một bức thư
đứng tên Duy Cận; lại giả danh các hào mục lập một tờ trạng suy tôn Duy Cận
làm giám quốc; rồi sai bọn quan văn là Nguyễn Quí Nha, Trần Bá Lãm, Võ Huy
Tấn, bọn quan võ là Nguyễn Đình Khoan, Lê Duy Chử, Nguyễn Đăng Đàn đem bức
thư và tờ bẩm tới cửa ải để xin hoãn binh. Một mặt, Sở họp với bọn Văn Lân
bàn việc đánh giữ. Chưởng phủ là Nguyễn Văn Dụng nói:
- Trộm nghe hồi cuối đời Trần,
người Minh sang lấn nước ta, có bọn Hoàng Phúc, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Liễu
Thăng đều là những tướng Kiệt hiệt của Trung Quốc. Bấy giờ vua Lê Thái Tổ
khởi nghĩa ở vùng Lam Sơn, thế lực không địch nổi họ. Nhưng hành binh theo
cách quỷ quyệt, lại hay dùng mưu mẹo khôn ngoan; rồi nhờ khéo dùng cách mai
phục, nhân lúc quân giặc không phòng bị mà đánh úp; cho nên có thể lấy ít
quân mà đánh được kẻ nhiều quân, vây Vương Thông ở bến Đông Bộ, giết Liễu
Thăng ở núi Mã Yên (Bến Đông Bộ tức bến Đông Tân ở khúc sông Nhĩ Hà, Hà Nội.
Núi Mã Yên ở xã Mai sao thuộc huyện Ôn Châu, Lạng Sơn) võ công tuyệt lạ, ngàn
thủa ngợi khen. Nay người Thanh ở xa đến đây, phải trèo đèo vượt suối, ta lấy
quân nghỉ ngơi mà đón đánh quân nhọc mệt, nhắm trước các nơi xung yếu, cho
quân nấp sẵn để chờ; cứ làm theo kế ấy, lo gì mà không thắng?
Thì Nhậm nói:
- Không phải thế! Ông chỉ biết một
mà chưa biết hai. Việc thiên hạ, tình tuy giống nhau mà thế có khác nhau, sự
đắc thất do đó cũng khác hẳn. Xưa kia, nước ta bị phụ thuộc vào Trung Quốc,
quân Minh buông tuồng làm điều tàn bạo. Người cả nước ai cũng muốn đuổi chúng
đi. Cho nên vua Lê Thái Tổ chỉ gọi một tiếng là xa gần hưởng ứng, hào kiệt
trong nước kéo đến như mây tụ. Mỗi lúc đánh nhau với giặc, người trong nước
chỉ lo quân mình bất lợi. Mỗi khi có tin thắng trận, ai nấy đều hết sức vui
mừng. Lòng người như thế, nên hễ chỗ nào có quân mình mai phục, thì người ta
đều giấu kín cho, khiến giặc không hề biết. Sở dĩ thắng được giặc, đều bởi cớ
ấy. Ngày nay, những người bề tôi trốn tránh của nhà Lê, đâu đâu cũng có nghe
tin quân Thanh sang cứu, họ đều nghển cổ mà trông. Sĩ dân cả nước, giành nhau
mà đón chúng. Quân ta mai phục ở đâu, địa thế hiểm hay không, số quân nhiều
hay ít, quân giặc chưa biết thì họ đã báo trước với chúng. Chúng sẽ nhân kế
của ta mà lập kế của chúng, rồi bốn mặt kéo đến vây bắt. Quân cơ đã bị tiết
lộ, tự nhiên mất hết điều tiện lợi. ấy là mình tự hãm mình vào chỗ chết. Còn
hòng đánh úp được ai?
Binh pháp có nói: "Khéo che
đậy không khi nào không thắng, vụng che đậy không khi nào không thua".
Được thua khác nhau là do ở chỗ xưa với nay khác nhau vậy!
Sở hỏi:
- Vậy thì nên làm thế nào?
Nhậm trả lời:
- Phép dụng binh chỉ có một đánh
một giữ mà thôi. Nay quân Thanh sang đây, tiếng tăm rất lớn. Những kẻ trong
nước làm nội ứng cho chúng, phần nhiều là phao tin đồn nhảm, làm cho thanh
thế của chúng to thêm, để cho lòng người sợ hãi lay động. Quân ta có ai được
sai phái đi đâu, vừa ra khỏi thành là đã bị bắt giết. Số người Bắc Hà thuộc
vào sổ quân của ta, hễ gặp dịp sơ hở là bỏ trốn liền. Đem đội quân ấy mà
đánh, không khác gì xua bầy dê đi chọi cọp dữ, không thua sao được? Đến như
việc đóng cửa thành mà cố thủ, thì lòng người đã không vững, ắt thế nào cũng
sinh ra mối lo ở bên trong. Dầu cho Tôn, Ngô (tức Tôn Võ, người nước Tề đời
Xuân Thu, và Ngô Khởi người nước Vệ đời Chiến quốc; hai nhà quân sự nổi tiếng
của Trung Quốc thời xưa) sống lại, cũng phải bó tay, không thể làm được gì.
Thật chẳng khác gì đem một con chạch bỏ giỏ cua. Xin nghĩ kỹ mà xem! Đánh đã
chẳng được, giữ cũng không vững. Vậy thì cả hai chước đánh và giữ đều không
phải là kế hay. Nghĩ cho cùng thì chỉ còn một cách này: sơm sớm truyền cho
thuỷ quân chở đầy các thuyền lương, thuận gió giương buồm, ra thẳng cửa biển,
đến vùng Biên Sơn mà đóng. Quân bộ thì sửa soạn khí giới, gióng trống lên
đường, lui về giữ núi Tam Điệp. Hai mặt thuỷ bộ liên lạc với nhau, giữ lấy
chỗ hiểm yếu, rồi cho người chạy giấy về bẩm với chúa công. Thử xem quân
Thanh đến thành, khu xử việc nhà Lê ra sao? Vua Chiêu thống sau khi phục
quốc, xếp đặt việc quân việc nước thế nào? Chờ chúa công ra, bấy giờ sẽ quyết
chiến một phen cũng chưa muộn gì.
Sở nói:
- Chúa công về Nam, đem thành này
giao phó cho ta. Giặc đến thì phải sống chết với giặc, còn mất với thành,
trên không thẹn là kẻ bề tôi giữ đất, dưới không phụ chức trách cầm quân. Nếu
mới thấy bóng giặc đã trốn, bỏ thành cho giặc, chẳng những mang tội với chúa
công mà người Bắc còn coi ta ra cái gì?
Nhậm nói:
- Tướng giỏi thời xưa, lường thế
giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tuỳ theo tình thế thay
đổi mà bày ra chước lạ. Giống như đánh cờ, trước thì chịu thua người một
nước, sau mới được người ta một nước; đừng có đem nước sau làm nước trước, đó
mới là tay cao cờ. Nay ta hãy bảo toàn lấy quân lực mà rút lui, không bỏ mất
một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi, cũng như ngọc bích
của nước Tấn đời xưa, vẫn nguyên lành chứ có mất gì. Nếu có vì thế mà mắc
lỗi, tôi sẽ xin bộc bạch với chúa công, thế nào cũng được chúa công lượng
xét, xin ông chớ nghi ngại.
Sở bèn nghe theo, rồi mật truyền
cho các viên trấn thủ ở Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn một mặt nói phao là
đem quân đắp luỹ ở sông Như Nguyệt, một mặt cất lẻn rút quân về. Lại tư cho
các viên trấn thủ ở Hải Dương, Sơn Tây, hẹn ngày họp quân ở thành Thăng Long.
Còn trấn Sơn Nam thì sắp sửa thuyền bè, chờ thuỷ quân đến sẽ cùng xuất phát.
Qua năm ngày, các đạo quân đều kéo
đến đầy đủ, cùng dự cuộc duyệt lớn ở bãi sông. Rồi đó, Sở hạ lệnh cho quân bộ
sắp sẵn lương khô để chờ sai phái. Trước hết, Sở cho thuộc tướng là Đặng Văn
Chân đốc suất lính thuỷ đi xuống phía đông. Cắt đặt vừa xong, thì trời sập
tối, chợt thấy bọn Nguyễn Quí Nha, Nguyễn Đình Khoan từ trên ải Nam Quan chạy
về nói rằng: khi họ đến Nam Quan, bị bọn lính canh cửa ải của nhà Thanh ngăn
chặn không cho sang; hiện nay quân Thanh đã qua Nam Quan, quân bộ và quân kỵ
của đội tiền phong đã tiến đến địa phận huyện Phượng Nhãn và đóng tại đó.
Sở liền họp các tướng, định rút
lui. Phan Văn Lân nói:
- Quân không cứ nhiều, nước không
cứ lớn. Nay ta làm tướng cầm quân ở ngoài, giặc đến chưa từng đón đánh, chỉ
mới nghe tiếng doạ hão đã vội rút lui, thì còn làm tướng làm gì nữa? Tôi xin
đem một ngàn quân tinh nhuệ, đến thẳng sông Như Nguyệt, đánh nhau với chúng
một trận, xem khí thế của chúng ra sao và người Nam với người Thanh ai khoẻ
hơn ai, để cho chúng biết rằng bọn ta cũng không phải là hèn nhát. Đó cũng là
sự tính toán tất thắng trước dùng thanh thế của mình để đè bẹp bên địch vậy!
Sở cũng cho là phải.
Lân bèn đem quân qua sông đi sang
phía bắc. Canh ba tới bờ phía nam sông Như Nguyệt, nghe tin quân của Tôn Sĩ
Nghị đã đóng ở núi Tam Tằng. Lúc ấy tiết trời giá rét, lân kéo quân qua sông
thách đánh. Tướng sĩ vốn sợ oai của Lân, phải liều với khí lạnh mà lội bừa
xuống nước. Ra đến giữa sông, những kẻ cóng quá không thể qua được, đều bị
chết đuối. Còn những kẻ vào tới được bờ cũng đều bị quân Thanh giết chết. Lân
liệu chừng không thể giao chiến được nữa, liền vẫy quân chạy lui. Đám quân
tan vỡ trốn vào các làng, đều bị dân chúng bắt nộp cho quân Thanh. Lân chỉ
trơ một mình một ngựa mà chạy về.
Sở sợ quá, giấu kín việc bại trận
không cho ai biết, rồi truyền lệnh cho các đạo quân nghiêm chỉnh đội ngũ mà
đi. Đúng giữa trưa, đi qua Phú Xuyên (thuộc Hà Đông (Hà Sơn Bình)), người ta
mới biết là Sở rút quân. Hôm sau tới huyện Yên Mô (thuộc Ninh Bình (Hà Nam
Ninh)), Sở sai chia quân đóng đồn dọc theo ven núi Tam Điệp, thẳng đến bờ
biển, hai mặt thuỷ bộ liên lạc với nhau để cố thủ.
Trước đó, vua Lê đang lẩn lút ở
vùng Kinh Bắc, Lạng Sơn, nghe tin Tôn Sĩ Nghị đưa hịch sang nước Nam và hẹn
ngày đến cửa ải, nhà vua bèn bí mật sai người đi gọi nghĩa sĩ bốn phương. Các
quan văn võ nghe tin, cũng đều khuyên bảo hào mục các địa phương, nhóm họp
hương binh để chờ đợi.
Rồi đó, vua sai Lê Duy Đản đem thư
lên cửa ải để yết kiến Tôn Sĩ Nghị, bẩm rõ tình hình trong nước với Nghị và
nói rằng: Tự quân vừa bị cảm hàn, không thể đi đường, xin chờ đón ở trấn
thành Lạng Sơn.
Đến khi nghe tin quân Tây Sơn rút
lui, vua mới truyền cho các đạo quân cần vương đều tới nơi hành tại; rồi kén
lấy hạng khoẻ mạnh một ngàn người sung làm quân túc vệ ở doanh vua; còn bao
nhiêu thì giao cho các tướng lập thành đội ngũ, ai đem bộ thuộc của người nấy
chia giữ các trấn. Trần Quang Châu lĩnh trấn Kinh Bắc. Nguyễn Đạo lĩnh trấn
Hải Dương. Hoàng Tố Nghĩa lĩnh trấn Sơn Nam. Hoàng Phùng Tứ lĩnh trấn Sơn
Tây. Mọi người đều vâng mệnh đi tới lỵ sở. Riêng Trần Quang Châu thì ở lại
hành doanh bảo vệ xa giá.
Châu xin dời xe vua về trấn Kinh
Bắc, sửa sang thành luỹ, xây dựng nhà cửa để chờ quân Thanh. Vua nghe lời.
Đoạn nhà vua lại sai bọn binh
chương Phạm Đình Dữ, tham tri Vũ Trinh đem thiếp thỉnh an lên đất Hoà Lạc gặp
Sĩ Nghị, nói rõ: Hiện nay đã phái quân chia đi kinh lược bốn trấn ở ngoài đô
thành, lùng bắt bọn giặc lẻn trốn ở các nơi. Xin đưa một số thổ sản nhỏ mọn
là mười con trâu, một trăm vò rượu, làm lễ khao quân, ngước trông thu nhận
cho.
Vua lại truyền phải sức cho các kỳ
lão và các xã dân mấy huyện ven đường, sửa soạn đón rước quân Thanh.
Đại quân của Sĩ Nghị đi sang
phương Nam, dọc đường đều thuận lợi thông suốt. Kịp khi tới núi Tam Tằng đóng
quân lại, đến đêm, tuy Phan Văn Lân định quấy rối, nhưng bị giá rét làm cho
thương tổn, nên Nghị chưa đánh mà quân Lân đã tan. Ngô Văn Sở nghe tin cũng
thu quân bỏ chạy cả đêm từ lâu rồi. Thế là trên đường tiến quân không còn ai
dám ngăn trở Nghị. Do đó, Nghị không hề lo sợ mà lại có vẻ kiêu căng. Mới
thấy Vũ Trinh, y liền hỏi:
- Lúc đại binh ra cửa ải, trước
hết đã có đưa hịch sang bá cáo, quân giặc sợ hãi đã ôm đầu chạy trốn. Nghĩ
rằng thần dân bên ấy, ai lại không phấn chấn nổi dậy? Dựa vào oai trời mà lo
giết giặc nước, chẳng mấy chốc sẽ có thể thành công, sao cứ một mực nhu
nhược, để chúng được chạy trốn một cách rảnh rang? Bây giờ đại binh đã đến
địa giới nước mình mà các người vẫn tuyệt nhiên không làm nên công trạng gì.
Như thế, còn gọi là nước có người được chăng?
Trinh nói:
- Nước nhỏ này tự mình không thể
làm được việc, mới đến nỗi phải gõ cửa ải cầu cứu. Nếu sức của chúng tôi có
thể chế ngự được chúng thì đâu dám phiền đến đại binh? Nay cụ lớn lấy điều đó
quở trách, tôi còn biết nói làm sao? Xin thưa về tình hình của giặc. Nguyễn
Nhạc sinh trưởng ở vùng Tây Sơn, có sào huyệt hiểm yếu để nương tựa. Nguyễn
Huệ là tay lão luyện về trận mạc, lại nắm giữ đội quân hùng mạnh. Từ khi kéo
quân về Nam, anh em chúng đánh lẫn nhau. Nhạc ở Tây Sơn, Huệ chiếm Thuận Hoá,
ai nấy tự xưng hùng, kẻ đế, người vương. Còn ở quốc thành của nước tôi, chỉ
có đồ đảng của chúng là bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân mà thôi. Được tin thiên
binh đến, bọn chúng chưa biết hư thực thế nào, nên hãy thu quân tạm lánh.
Nhưng nghe đâu bọn chúng đóng quân chặn ở núi Tam Điệp, ngăn hẳn từ đất Trường
Yên (tên phủ, thuộc Ninh Bình, giáp liền với Thanh Hoá) về Nam, mưu đồ lại
tiến ra đất Bắc lần nữa. Một tên tỳ tướng, còn kiệt hiệt như thế, huống chi
tên đại tù trưởng của chúng? Nếu không dùng đạo binh thật lớn mà đánh, làm
sao có thể bắt sống được chúng? Nước tôi sau khi loạn lạc tan tác, tướng ít
quân hèn, sợ rằng khó lòng làm xong việc. Nhờ oai linh lừng lẫy của cụ lớn,
tên tù trưởng mọi rợ sợ oai phải đến hàng, đó là điều mong mỏi của nước nhỏ
này.
Nghị cười mà rằng:
- Nước ngươi vì bị tàn ngược đã
lâu, mất cả tinh thần khí khái, nên động một tý là đem hùm sói doạ nhau. Theo
ta xem xét thì chúng chỉ như hạng trâu dê, sai một người đem thừng buộc lấy
cổ mà lôi về, hẳn cũng không khó gì. Đợi khi quân ta đến La Thành, nhổ bãi
nước bọt xoa tay là làm xong việc. Ngươi hãy chờ mà xem!
Lúc Nghị tới trấn Kinh Bắc, vua Lê
tự đem các quan đến chào, Nghị yên uỷ rằng:
- Quý tự ("Quý tự" là
người nối nghiệp tôn quý, đây trỏ Chiêu Thống) mắc phải nạn lớn đã nhiều năm,
nhờ đức đại hoàng đế thương xót, sai bản chức đem quân hộ tống mẹ và vợ ngài
về nước. Chuyến này sang đây, giúp việc kinh lý, trước hết cần bắt cho hết
đảng giặc, rồi sau chỉnh đốn quy mô, làm kế lâu dài. Bao giờ mọi việc đều
muôn ngàn lần ổn thoả rồi, bấy giờ mới rút quân, xin chớ lo gì về việc nước
nữa.
Vua Lê nói:
- Đội ơn đại hoàng đế, đức cả như
trời, không sao hình dung được cho hết. Lại nhờ cụ lớn hạ mình tới đây, khiến
cho nước chúng tôi được thấy ánh sáng của áo cừu, đai ngọc, được thoả lòng
ngửa trông sao Bắc Đẩu, núi Thái Sơn. Mối tình vui mừng, kính mến, không sao
kể xiết!
Rồi nhà vua mời Nghị vào dinh nghỉ
tạm. Nghị nói:
- Đây cách quốc thành không xa,
cần đi ngay, không nên dùng dằng.
Nghị liền sai bắn chín phát súng
và nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi.
Chập tối, đến bờ bắc sông Nhĩ Hà,
vua Lê xin qua sông vào kinh thành trước, rồi sai sắm sửa giường màn ở điện
Kính Thiên, mời Nghị vào ở, Nghị không ưng, nói:
- Chỗ ấy không phải là hành doanh
của đại tướng, đối với việc quân có nhiều điều bất tiện.
Đoạn Nghị truyền lệnh chia quân
đóng ở nơi quang đãng trong hai bãi cát phía bờ nam và bờ bắc sông Nhĩ Hà;
lại sai bắc cầu phao trên mặt sông để tiện đi lại. Hôm ấy nhằm ngày 11 tháng
11 năm Mậu thân (1788).
Hôm sau, vua thân hành đến chờ đón
ở doanh của Nghị.
Nghị sai người bày biện nghi
trượng rất long trọng ở điện Kính Thiên, rồi truyền cho trăm quan tới hầu.
Vua Lê đội mũ miện, mặc áo cổn quỳ ở giữa sân. Nghị dẫn bọn liêu thuộc đến,
rồi tuyên đọc tờ sắc của hoàng đế nhà Thanh phong cho vua Lê làm An Nam quốc
vương. Trong tờ chế phong vương, đại lược nói rằng:
"Chia ra cõi bờ mười ba đạo,
không phải tham gì đất đai này; đã lo chức cống ba trăm năm, há chẳng nghĩ
đến tổ tông trước?...".
Xong lễ thụ phong, vua bèn theo lệ
thảo tờ biểu tạ ơn, xa trông cửa khuyết mà lạy tạ, rồi nhờ Nghị cho đệ tờ
biểu đi.
Nghị nhận lời.
Tuy vua Lê đã được phong Vương,
nhưng giấy tờ đưa đi các nơi, đều dùng niên hiệu Càn-long. Vì có Nghị ở đấy
nên không dám dùng niên hiệu Chiêu thống. Ngày ngày sau buổi chầu, vua lại
tới chờ ở doanh của Nghị để nghe truyền việc quân, việc nước. Vua cưỡi ngựa
đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa đi sau, quân lính hộ vệ chỉ vài chục người.
Người trong kinh có kẻ không biết là vua. Hoặc có người biết, thì họ nói
riêng với nhau rằng:
"Nước Nam ta từ khi có đế, có
vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là
làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là Càn-long, việc gì cũng do viên tổng đốc,
có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc?".
Nghị cũng ngông nghênh tự cho mình
là tôn quý; có lúc vua tới yết kiến, y không buồn tiếp, chỉ cho người đứng ở
dưới linh các truyền bảo: "Hôm nay không có việc quân, việc nước gì. Hãy
về cung yên nghỉ!".
Lễ ý và sự thù tiếp của y đối với
nhà vua hết sức sơ sài như vậy. Còn đối với quân lính, thì y lại hay dung
túng cho chúng mặc sức làm điều phi pháp.
Trước kia, người Trung Hoa ngụ cư
ở các nơi như phường Hà Khẩu (khu vực phố Hàng Buồm, Hà Nội bây giờ) ở đô
thành, phố Cơ Xá ở trấn Kinh Bắc và phố Hiến Doanh (nay là Hưng Yên (Hải
Hưng)) ở trấn Sơn Nam có tới hơn vạn người. Đến lúc ấy, bọn họ đều đến bám
theo các đồn quân của Nghị, hoặc lập riêng ra điếm Liễu để. Bọn họ thông thạo
tiếng nước Nam, am hiểu phong tục tập quán nước Nam; do đó, họ liền nhân cơ
hội kiếm mọi cách vu hãm những người lương thiện, áp bức cướp bóc những nhà
giàu có, thậm chí giữa chợ, giữa đường cũng cướp giật của cải, hãm hiếp đàn
bà, không còn kiêng sợ gì cả. Nhân dân ở quanh kinh kỳ luôn luôn bị khổ sở
với bọn họ.
Vua Lê tuy biết sự tệ hại ấy,
nhưng đã trót mời quân Thanh sang, chỉ sợ vì việc đó mà làm mếch lòng chúng,
nên cũng khó ăn khó nói.
Nghị cũng không phải không biết
tình trạng như vậy, song cũng mặc cho bọn ấy tha hồ làm bậy, không hề ngăn
cấm gì hết.
Lại nói, từ khi vua Lê trở về kinh
thành, các quan văn võ trước kia phiêu bạt đều lục tục kéo đến lạy mừng. Vua
bèn ban thưởng cho những người đã từng theo đi trốn, hoặc những người có công
giúp đỡ. Phong cho Phạm Đình Dữ làm thượng thư bộ Lại, kiêm bình chương sự,
Nguyễn Huy Túc làm đồng bình chương sự, Lê Duy Đản, Vũ Trinh đều làm tham trí
chính sự, Nguyễn Đình Giản làm thượng thư bộ binh, kiêm tri xu mật viện sự,
Nguyễn Duy Hiệp, Chu Doãn Lệ làm đồng tri xu mật viện sự, Trần Danh án làm
phó đô ngự sử, Lê Huy Tấn, Phạm Quí Thích làm độ chi bộ Hộ, Lê Xuân Hạp, Ngô
Vi Quí làm đồng tri binh chính, Lê Quýnh làm quân trung uý đốc, tước quận
công, lĩnh quân cần vương theo Tôn Sĩ Nghị lo liệu và xử trí việc quân.
Ngoài ra, các quan liêu trong ngoài
đều về các dinh thự làm việc như cũ.
Viên phó hiến ở trấn Kinh Bắc là
Ngô Tưởng Đào lấy cớ già ốm, từ chối không nhận chức, và dâng sớ nói rằng:
"Vận trời đang lúc gian
truân, không ngờ lại được thấy bóng mặt trời, thật là cái phúc vô cùng của xã
tắc. Thần trộm nghĩ rằng: Việc binh cốt phải mau chóng. Nếu cơ hội có thể làm
được, hà tất việc gì cũng cứ giao phó cho quân nước ngoài để đến nỗi dềnh
dàng ngày tháng. Hiện nay quân cần vương các lộ, ai không muốn hết lòng hết
sức lập công ít nhiều? Nhân khi quân giặc vừa rút lui, ta nên lập tức đem đại
binh đuổi sát gót, như tiếng sét chớp nhoáng không kịp bịt tai, bọn ngông
cuồng giảo quyệt kia ắt chẳng còn thì giờ để mưu tính. Hai xứ Thanh, Nghệ
nghe tin, chắc cũng sẽ hưởng ứng. Nguyễn Huệ bị ngăn cách ở phía nam Hoành
Sơn. Sở và Lân chơ vơ ở đấy, hình thế cách trở, không liên lạc được với nhau;
không ngoài mười ngày ta có thể bắt được bọn chúng. Vây cánh của chúng đã bị
cắt đứt thì sào huyệt của chúng cũng có thể lần lượt bị san bằng. Thần ngu
dại cho rằng cái cơ trung hưng chính là ở lúc này, không thể bỏ qua".
Tờ sớ ấy đưa tới, vua trao cho bọn
Nguyễn Đình Giản xem, ai cũng cho là phải. Riêng Lê Quýnh chống lại mà rằng:
- Sức mình không địch nổi, mới
phải cầu cứu. Hành doanh quan đốc bộ còn ở đây, việc quân mình không bẩm
trước, lại tự tiện mà làm, việc xong thì thôi, vạn nhất bị vấp ngã, họ sẽ đổ
cho ta làm lỡ quân cơ, rồi rút quân về cửa ải, ngồi xem mình làm; như vậy
việc lớn sẽ hỏng mất. Chi bằng để thần đến trình bày trước, xin họ chỉ bảo
phương lược và hợp sức với mình, như thế là được cả hai việc.
Vua cho là phải. Quýnh bèn đến
dinh Nghị, nói về việc đó.
Nghị trả lời:
- Việc gì mà phải vội vã như vậy?
Ví như thò tay lấy đồ vật ở trong túi, đến sớm lấy sớm, đến muộn lấy muộn đó
mà thôi. Bây giờ đã sắp hết năm, đại quân xa xôi tới đây, cần phải nghỉ ngơi,
không nên đánh vội. Giặc gầy mà ta đang béo, hãy để chúng tự đến nộp thịt.
Nhưng, nếu nước ngươi đã có lời xin như thế, thì hãy nên tính tự đô thành về
nam chứng sáu chục dặm, chia làm ba nơi mà đóng quân; đó chính cũng là cách
canh gác từ xa để đề phòng bất trắc vậy. Còn đối với bọn giặc, thì các ngươi
cứ chờ đến đầu năm mới ta sẽ cho trẩy quân tiến đánh cũng chưa muộn!
Sau đó, Nghị sai đắp luỹ đất, một
ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết, huyện Thanh Liêm, một ở làng Nhật Tảo huyện Duy
Tiên, một ở làng Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì rồi chia quân ra mà đóng giữ.
Từ bấy giờ trở đi, vua Lê chỉ lấy
Nghị làm chỗ dựa vững chắc nhất. Còn các quan thì cũng không ai nói năng gì
đến chuyện xuất quân phục thù nữa.
Lê Quýnh suốt ngày say mê tửu sắc;
ân oán riêng dù bằng cái tơ, sợi tóc cũng đều đền báo không hề sót. Quýnh lại
còn xui vua rằng:
- Trước đây lúc nhà vua gặp nạn,
hoàng thân và bọn quan trong triều, nhiều kẻ lấy tai hoạ làm điều may mắn,
vui mừng, khai hết tình hình với giặc, cam tâm làm chó săn, chim mồi cho
chúng để mưu đồ giàu sang, ngược đạo lý, trái nhân nghĩa, không gì hơn thế. Thần
xin được trị tội bọn đó, để thiên hạ biết rằng danh phận cương thường không
thể rối loạn. Đó cũng là việc cần kíp, không nên dung túng bỏ qua, khiến cho
kẻ ác, người thiện không có gì phân biệt.
Vua cho là phải, bèn giao cho các
quan đình thần họp bàn.
Mọi người đều tâu, năm ngoái
thượng thư bộ Hình kiêm bình chương Trần Côn Xán đi xứ Tây Sơn, vì không chịu
khuất phục, bị địch giết hại, thật là đáng thương; xin cho quan về tế tại nhà
và thăm viếng các người con. Vua nghe lời, bèn tự tay thảo bài văn tế, trong
có câu: "Tiết lớn nghiêng non lật biển, cùng sương thu nắng lửa tranh
hơn; lòng son yêu nước trung vua, gặp đốt rắn rễ chùm càng tỏ". Lại bàn
sang đến tội của bọn phản nước theo Tây Sơn: Lúc vua đi trốn, trấn thủ Tuyên
Quang là Phạm Như toại bắt em vua là Duy Tụ đem nộp cho địch; phò mã uý
Nguyễn Bành dẫn quân địch đuổi tìm chỗ vua ở; theo luật phải tội chém ngang
lưng; Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích đem thân theo địch, lại nhận chức tước của
chúng, đều truất làm dân, về làng gánh vác sai dịch; Nguyễn Hoàn, Phan Lê
Phiên quì gối ở sân địch; Trương Đăng Quĩ đi theo xe vua, giữa đường bỏ dở,
đều bị giáng làm chức tư huấn; Nguyễn Quí Nha, Trần Bá Lãm, Vũ Huy Tấn, viết
thư mạo xưng là giám quốc Sùng nhượng công, để mong xin hoãn binh cho địch,
đều bị hạ ngục; Nguyễn Bá Khoan vì là kẻ võ biền, lại già nua, dốt nát không
biết gì, nên được miễn tội.
Bấy giờ Quýnh nghe nói Nha mới ở
Cao Bằng về, vàng bạc đầy xe, bèn sai người đòi lấy hai chục lạng vàng, rồi
nói rõ cho vua biết. Vua cười mà bảo rằng:
- Bớt chỗ nhiều để bù chỗ ít, mặc
ngươi làm chi thì làm, không hề gì!
Ngoài ra, có ba người chú vua liên
lạc với Tây Sơn, lại gả con gái cho họ, đều bị vua ngầm sai người bắt đem
chặt chân, rồi vất xuống cái giếng ở trong cung (theo Cương mục thì
Chiêu Thống còn sai mổ bụng cả một tôn nữ đang có mang, vì người con gái này
đã lấy viên tướng Tây Sơn. Do đó, lòng người dần dần ngờ vực, không nhất
trí).
Kịp khi ấy, thái hậu ở Cao Bằng
về, vừa tới kinh, thấy vua chỉ thích làm những việc báo ân báo oán trái với
phép thường như vậy, bèn nổi giận nói:
- Ta phải trèo đèo lội suối khó
nhọc vất vả, mới xin được quân sang đây... Phỏng chừng nhà nước chịu được mấy
phen ơn, thù phá hoại như thế? Nếu cứ cách ấy mà làm thì trị sao được thiên
hạ? Gái già này lại đến làm đứa lưu vong mất thôi!
Rồi thái hậu gào khóc, không chịu
vào cung.
Vua bèn ngầm sai Nguyễn Huy Túc
khuyên giải thái hậu. Túc vào thưa với thái hậu rằng:
- Ngước trông đức hiếu sinh của
thái hậu như là trời đất, cố nhiên phải lấy thế làm lạ. Nhưng hình phạt là
phép lớn của nước, cho nên Chu công phải giết Quản, Thái; nước Lỗ phải đánh
thuốc độc giết chết Thúc Nha (Quản Thúc, Thái Thúc là em Chu công, định giúp
Võ Canh là con vua Trụ nổi loạn. Chu công liền đem giết Quản Thúc và đày Thái
Thúc. Thúc Nha là bà con của vua nước Lỗ, có tội phải chạy ra nước ngoài, sau
định xin tha tội để trở về nước, nhưng người nước Lỗ không nghe, bắt uống
thuốc độc chết). Người xưa cũng không vì chỗ họ hàng hay quen biết mà bỏ pháp
luật. Mong rằng lượng trên khoan hồng, để cho hoàng thượng được làm việc nước
thì thật là vạn phúc!
Thái hậu nể Túc có công lớn theo
hầu khi mình đi trốn, không nỡ trái lời Túc, đành gắng gượng nghe theo, song
thật ra trong bụng vẫn không cho là phải. Thái hậu bèn vào cung.
Lúc bấy giờ là tháng mười hai, sắp
đến ngày tết Nguyên đán. Quan coi lễ tâu xin đến ngày 25 thì phong ấn cất đi
(cuối năm làm lễ cất ấn (hạp ấn) để nghỉ việc ăn tết). Các lễ trong miếu xã,
triều đình đều chiếu theo lệ thường mà làm. Riêng quan đại soái của thiên
triều ở xa xôi tới, thì về phần vật phẩm cung đốn, xin theo như lệ thết đãi
sứ thần sang phong vương mà thêm gấp lên một lần nữa. Các quan và quân lính
cũng đều cho phép nghỉ mười ngày, để cùng vui đón tiết xuân.
Thật là:
Én sẻ trên nhà còn hớn hở
Đà đồng trong bụi chẳng lo âu
Chưa biết việc tới ra sao? Chờ xem
hồi sau phân giải.
Sách Khổng tùng tử chép:
Chim én chim sẻ ở trên nóc nhà, mẹ mớm cho con ăn mà không biết rằng nhà sắp
cháy. Đời Tấn, có Sách Tĩnh thấy con lạc đà bằng đồng để ở cửa cung điện,
liền đe rằng: "Mày sắp phải vứt vào bụi gai". ý nói đời sắp loạn
lạc. Đây ám chỉ bọn Sĩ Nghị, Chiêu Thống như đang ngồi trên đống lửa, tai hoạ
sắp đến mà vẫn nhởn nhơ không biết gì cả.
|
Hồi 14
Đánh
Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài
Lại nói, Tôn Sĩ Nghị sau khi đem
quân ra cửa ải, xuyên rừng vượt núi, như giẫm đất bằng; ngày đi đêm nghỉ,
không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một
mũi tên, như vào chỗ không người. Từ xưa, các nhà cầm quân chưa có khi nào
được dễ dàng như thế. Cho nên y xem thường, cho là vô sự, không cần phải đề
phòng. Rồi đó, y lại càng thêm kiêu căng, buông tuồng, mặc cho quân lính các
đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỷ luật gì cả. Có
kẻ đi ra khỏi thành đến hơn mười dặm, để kiếm củi đun, có kẻ đi tới các chợ
búa dân gian để buôn bán, hàng ngày sớm đi tối về xem như việc bình thường.
Bọn tướng tá cũng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc
quân. Hễ ai nhắc đến tình hình giặc giã thì bọn họ đáp rằng: "Chúng nó
như cá chậu chim lồng, còn chút hơi thừa thoi thóp, không đáng nói đến. Vâng
lệnh của quan lớn đốc bộ, định đến ngày mùng 6 tháng giêng, nhân dịp đầu xuân
sẽ xuất quân kéo thẳng đến sào huyệt của quân Tây Sơn. Bọn giặc ấy nhất định
sẽ lần lượt bị bắt sống không một tên nào lọt lưới. Người Nam Hà sẽ đến mà
xem!".
Thế là người trong nước, kể cả các
viên quan đã từng trốn tránh hồi xưa mà bấy giờ đã được thấy lại bóng mặt
trời, ai nấy mới đều yên tâm vui mừng về cuộc sum họp trước mắt. Rồi họ dựa
vào tổng đốc họ Tôn làm bức trường thành, không còn nghĩ gì đến việc cung
khuyết bị tàn hoang, không còn lo gì đến việc kẻ địch đang ở nơi cửa ngõ; võ
lặng, văn im, thảy đều bệ trễ.
Vừa lúc ấy, có người cung nhân cũ
từ phủ Trường Yên tới, nói với thái hậu rằng:
- Xe vua trở về kinh thành, đã gần
một tháng. Hiệu lệnh ban ra, chẳng qua mới đến các vùng ứng Hoà, Thường Tín,
Từ Sơn, Thuận Thành, Quảng Oai, năm lộ mà thôi. Còn như từ Trường Yên về nam,
Thanh Hoa là đất căn bản, lăng tẩm tiền triều ở đó, Nghệ An cũng là quận chân
tay, quân cấm và quân túc trực đều lấy người ở đấy, thì nay vẫn bị mất về tay
giặc, tin tức không thông, đó thật là điều đáng lo rất lớn. Hiện nay, việc
nước hư thực thế nào, thế giặc mạnh yếu ra sao, những người đứng ngoài mà
xem, không ai không biết. Trước đây, hoàng thượng gặp nạn phải chạy, các quan
trèo đèo vượt suối, khó nhọc vất vả đã hơn một năm, bao nhiêu nhân tình chắc
đã từng trải hết rồi, sao vẫn điềm nhiên không lo nghĩ gì cả? Tổng đốc họ Tôn
từ thượng quốc tới đây, thế nước và tình hình của giặc chỉ biết đại khái. Đến
như các miền, cũng có nơi xung yếu, noi bình thường, chia đồn và mai phục,
cần phải trù tính kỹ càng. Việc binh có lúc nên đánh, lúc nên giữ, phải tuỳ
cơ ứng biến trong chốc lát. Tất cả những điều ấy, họ làm sao mà hiểu được rõ
ràng, đích xác? Vả chăng, khi trước Lê Quýnh khai báo ở bên ấy, nói rằng:
"Nhiều nơi trong nước ta không chịu theo giặc, người chuộng nghĩa còn nhiều,
lòng người cũng có thể trông cậy, nếu được đại binh sang làm thanh viện thì
công việc khôi phục có thể thành...". Đó chỉ là một cách nói, để tổng
đốc họ Tôn không cho việc ấy là khó. Quýnh vì muốn chóng được quân sang cứu,
cho nên mới bịa ra lời nói hão để lừa dối họ. Họ cũng tưởng là thật, hăng hái
tiến lên, không còn lo nghĩ gì về sau. Cứ xem lời lẽ trong bài hịch, thì
những điều họ bắt buộc mình phải đương lấy, rất là nặng nề; còn họ thì chỉ
lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để doạ dẫm mà thôi. Không biết
rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân.
Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỉ thần, không ai có thể lường biết. Hắn
bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một
người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt, là ai nấy đã
phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa, hắn lại trở
ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho
nổi? Họ chẳng qua chỉ là người khách, chuyến này sang cũng cốt xem sự thế khó
hay dễ để liệu bề tiến lui mà thôi. Nhưng còn nhà nước của ta thì sao? Thái
hậu có thể chạy sang đất Trung Hoa một chuyến nữa chăng?
Thái hậu giật mình nói:
- Đó chính là tâm sự của gái già
này, vẫn ngày đêm lo lắng mà chưa biết làm thế nào?
Rồi nhân tiện, thái hậu đem việc
đó nói lại với vua. Bấy giờ nhà vua mới hoảng sợ, liền cùng bọn Quýnh đến
doanh quân của Nghị tha thiết xin xuất quân. Nghị gọi Quýnh đến mà căn vặn
rằng:
- Người nước mày nay quả thật
không thể trông cậy được, thế thì lời cung khai của mày trước đây ra sao? Dám
lừa dối ta chăng?
Rồi Nghị ngoảnh sang bảo vua:
- Tự vương trẻ tuổi, chưa từng
trải công việc, trước đây tới đón chào ta ở Lạng Sơn, sao không nói cho rõ?
Bấy giờ, nhân khi ta thắng, đè bẹp ngay lúc chúng đang khốn đốn, há chẳng dễ
dàng hơn hay sao? Nay đã bỏ lỡ cơ hội ấy, để chúng có thì giờ thong thả mà
bày mưu đặt chước, cách trị chúng cần phải tính toán cho chu đáo, không thể
hấp tấp. Vả lại, đã định đến sang xuân, vào ngày mùng sáu thì sẽ xuất quân,
như vậy cũng không còn xa gì nữa. Nếu muốn đi gấp thì cho phép vua tôi nhà
ngươi đem một đạo quân đi trước cũng được.
Vua lui ra bảo với Quýnh rằng:
- Ngươi từng dốc lòng với ta, việc
nước cũng đã được quá nửa rồi. Vậy nay hãy cố gắng làm cho tròn công trạng
trước, đừng để người trong nước có thể bàn tán về ta, và thiên triều có chỗ
quở trách được ta.
Lại nói, Lê Quýnh là người làng
Đại Mão, huyện Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành, Hà Bắc) vốn là một tay
phong lưu công tử, con trai của tiến sĩ triều Lê là Lê Doãn Giản. Khi tuổi
trẻ, Quýnh chỉ biết uống rượu, đánh bạc, việc văn việc võ đều chưa hề luyện
tập qua. Trước kia vì là con nhà quí tộc thân cận, nên được vào làm gia thần
nhà vua. Đến khi quân Tây Sơn tới xâm lấn, kinh thành thất thủ. Quýnh vâng
mệnh vua theo hầu thái hậu lên Cao Bằng, rồi bị quân giặc đuổi bắt, phải chạy
sang Trung Quốc. Vì Quýnh hơi biết chữ nghĩa, cho nên khi chuyện trò với
người Thanh, thường bịa ra nhiều câu khoác lác. Tôn Sĩ Nghị cũng không xét
đến chỗ đó, đem lời tâu lên, vua Thanh ưng thuận. Thế rồi may được khôi phục
lại nước nhà. Quýnh tự cho là công lao của mình. Sau khi về thành Thăng Long,
Quýnh chỉ lo đền ơn trả oán và công nhiên ăn của đút lót. Những tay hào kiệt
trong nước đều không ưa Quýnh. Vua cho là Quýnh có công, giao cho cầm quân.
Nhưng Quýnh, mắt còn choáng lộn bóng tinh kỳ, tai chưa nghe quen tiếng chiêng
trống, nói gì đến chuyện sắp đặt việc binh bị? Quýnh bèn mượn cớ không muốn
xa rời cạnh vua, xin vua truyền cho viên trấn thủ Sơn Tây đem quân bản bộ
đóng trước ở Giản Khẩu, để chặn đường ra của quân Tây Sơn. Đó là Quýnh cốt
cho mình khỏi phải ra trận; còn việc chinh chiến được hay thua, nước nhà còn
hay mất, Quýnh chẳng cần biết đến làm gì.
Nhắc lại, Ngô Văn Sở sau khi đem
các đạo quân rút lui, tức tốc sai Nguyễn Văn Tuyết chạy trạm vào Nam cáo cấp.
Một mặt chặn ngang đất Trường Yên làm giới hạn, đóng thuỷ quân ở hải phận
Biện Sơn, quân bộ thì chia giữ vùng núi Tam Điệp, hai mặt thuỷ bộ liên lạc
với nhau, ngăn hẳn miền Nam với miền Bắc. Vì thế, việc ở bốn trấn đường ngoài
không hề thấu đến hai xứ Thanh, Nghệ. Vì vậy việc quân Thanh đến Thăng Long
và việc vua Lê thụ phong ngày 22 tháng 11, từ Thanh Hoa trở vào, không một
người nào được biết. Ngày 20 tháng ấy, Sở lui về Tam Điệp, thì ngày 24 Tuyết
đã vào đến thành Phú Xuân. Bắc bình vương tiếp được tin báo, giận lắm, liền
họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng các người đến họp
đều nói:
- Chúa công với vua Tây Sơn có sự
hiềm khích, đối với ngôi chí tôn, lòng tôn phò của mọi người chưa thật vững
bền, nay nghe quân Thanh sang đánh, càng dễ sinh ra ngờ vực hai lòng. Vậy xin
trước hết hãy chính vị hiệu, ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản
trắc và giữ lấy lòng người rồi sau sẽ cất quân ra đánh dẹp cõi Bắc cũng chưa
là muộn.
Bắc bình vương lấy làm phải, bèn
cho đắp đàn ở trên núi Bân (ở địa phận xã An Cựu, huyện Hương Trà, Thừa Thiên
(Bình Trị Thiên)), tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi; chế ra áo
cổn mũ miện, lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây
Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung. Lễ xong, hạ lệnh xuất
quân, hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu thân (1788).
Vua Quang Trung tự mình đốc suất
đại binh, cả thuỷ lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 đến Nghệ An, vua Quang Trung cho
vời người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp vào dinh và hỏi:
- Quân Thanh sang đánh, tôi sắp
đem binh ra chống cự. Mưu đánh và giữ, cơ được hay thua, tiên sinh nghĩ như
thế nào?
Thiếp nói:
- Bây giờ trong nước trống không,
lòng người tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không biết tình hình quân ta yếu
hay mạnh, không hiểu rõ thế nên đánh nên giữ ra sao. Chúa công đi ra chuyến
này, không quá mười ngày, giặc Thanh sẽ bị dẹp tan.
Vua Quang Trung mừng lắm, liền sai
đại tướng là Hám hổ hầu kén lính ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một
người, chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ. Rồi nhà vua cho mở
cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn, đem số thân quân ở Thuận Hoá, Quảng Nam
chia làm bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu, còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì
làm trung quân.
Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh
yên uỷ quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:
- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta,
hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao
ấy đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam phương Bắc (chỉ đất Trung Quốc) chia
nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt
khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại
nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi
chúng đi. Đời Hán có Trưng nữ vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại
Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ; các ngài không nỡ
ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều
chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. ở các thời ấy,
Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà
Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc
lợi, hại, được, mất ấy, đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước.
Nay người người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện,
không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải
kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương
năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen
theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay
tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!
Các quân lính đều nói: "Xin
vâng lệnh, không dám hai lòng!".
Hôm sau, vua Quang Trung hạ lệnh
tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Khi đến núi Tam Điệp, Sở
và Lân ra đón, đều mang gươm trên lưng mà xin chịu tội.
Vua Quang Trung nói:
- Các ngươi đem thân thờ ta, đã
làm đến chức tướng soái. Ta giao cho toàn hạt cả 11 thừa tuyên (từ thời Lê
Hồng Đức, các trấn ở Bắc Hà đều gọi là "thừa tuyên"), lại cho tuỳ
tiện làm việc. Vậy mà giặc đến không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy
trước. Binh pháp dạy rằng: "Quân thua chém tướng". Tội của các
ngươi đều đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng võ dũng,
chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tuỳ cơ ứng biến thì không có tài. Cho
nên, ta để Ngô Thì Nhậm ở lại đấy làm việc với các ngươi, chính là lo về điều
đó. Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục, Thăng Long lại là nơi bị đánh cả
bốn mặt, không có sông núi để nương tựa. Năm trước ta ra đánh đất ấy, chúa
Trịnh quả nhiên không thể chống nổi, đó là chứng cớ rõ ràng. Các ngươi đóng quân
trơ trọi ở đấy, quân Thanh kéo sang, người trong kinh kỳ làm nội ứng cho
chúng, thì các người làm sao mà cử động được? Các ngươi đã biết nín nhịn để
tránh mũi nhọn của chúng, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên trong thì
kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng, kế ấy là rất
đúng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán là do Ngô Thì Nhậm chủ mưu, sau hỏi Văn
Tuyết thì quả đúng như vậy...
Thì Nhậm bèn lạy hai lạy để tạ ơn.
Vua Quang Trung lại nói:
Lần này ta ra, thân hành cầm quân,
phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày, có thể đuổi được
người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua
một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không
bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy,
chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm
thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực
lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?
Bọn Sở, Lân đều lạy tạ và nói:
- Chúa thượng thật là lo xa, chúng
tôi ngu dại không thể nghĩ tới chỗ đó. Hiện nay phương lược tiến đánh ra sao,
xin chúa thượng nhất nhất chỉ rõ để chúng tôi tuân theo mà làm.
Vua Quang Trung bèn sai mở tiệc
khao quân, chia quân sĩ ra làm năm đạo, hôm đó là ngày 30 tháng chạp. Rồi nhà
vua bảo kín với các tướng rằng:
- Ta với các ngươi hãy tạm sửa lễ
cúng Tết trước đã. Đến tối 30 Tết lập tức lên đường, hẹn đến ngày mồng 7 năm
mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy, đừng cho là
ta nói khoác!
Sau đó nhà vua truyền lệnh: Các
viên tướng ở trung quân thuộc về doanh vua sai phái là đại tư mã Sở; nội hầu
Lân đốc suất tiền quân làm tiên phong; Hám hổ hầu đốc suất hậu quân làm đốc
chiến; đại đô đốc Lộc, đô đốc Tuyết đốc suất tả quân, trong đó gồm có thuỷ
quân vượt biển vào sông Lục Đầu; rồi Tuyết vẫn kinh lý vùng Hải Dương để tiếp
ứng với mặt đông; còn Lộc thì đi gấp lên các hạt Lạng Sơn, Phượng Nhãn, Yên
Thế để chặn đường về của quân Thanh; đại đô đốc Bảo, đô đốc Long đốc suất hữu
quân, trong đó gồm quân voi và quân kỵ mã; Long xuyên qua huyện Chương Đức,
theo đường đến thẳng làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì để đánh ngang vào đồn
quân Điền Châu; Bảo thì thống đốc quân voi ngựa do đường Sơn Minh ra làng Đại
áng huyện Thanh Trì để tiếp ứng cho cánh hữu.
Cả năm đạo quân đều lạy vâng mệnh
lệnh, đúng ngày, gióng trống lên đường ra Bắc (theo Cương mục thì
trước khi tiến quân ra Bắc, vua Quang Trung có viết thư cho Sĩ Nghị vờ xin
đầu hàng để khiêu gợi lòng kiêu căng, khinh địch của Nghị. Theo Lê
triều dã sử, khi tiến quân ra Thăng Long vua Quang Trung bày cho quân
lính cứ ba người một tốp thay phiên võng nhau đi, thành ra quân trẩy đi liên
miên không phải dừng mà ai nấy đều lần lượt được nghỉ. Do đó, quân Tây Sơn đã
hành binh cực kỳ thần tốc).
Khi quân ra đến sông Gián, nghĩa
binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước. Lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân
Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt. Vua Quang Trung
liền thúc quân đuổi theo, tới huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết, không để
tên nào trốn thoát. Bởi vậy, không hề có ai chạy về báo tin, nên những đạo
quân Thanh đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi (thuộc Thường Tín (nay thuộc tỉnh Hà Sơn
Bình) và Thanh Trì (nay thuộc thành phố Hà Nội)) đều không biết gì cả.
Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng,
năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, lặng
lẽ vây kín làng ấy, rồi bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau
dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc ấy mới
biết, ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị
quân Nam lấy hết.
Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu
chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ
kín, tất cả là hai mươi bức. Đoạn kén hạng lính khoẻ mạnh, cứ mười người
khênh một bức, lưng giắt dao ngắn; hai mươi người khác đều cầm binh khí theo
sau, dàn thành trận chữ "nhất"; vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc
thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi (theo Dã sử, thì lúc này vua
Quang Trung sai đốt hết lương thực và tự mình quấn khăn vàng vào cổ để tỏ ý
quyết chiến quyết thắng, không chịu lùi). Quân Thanh nổ súng bắn ra, chẳng
trúng người nào cả. Nhân có gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa
ra, khói toả mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối
loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân Thanh lại
tự làm hại mình.
Vua Quang Trung liền gấp rút sai
đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo của hai bên đã
chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa; những người
cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh.
Quân Thanh chống không nổi, bỏ
chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Điền Châu là Sầm Nghi
Đống tự thắt cổ chết (Cương mục ghi Sầm Nghi Đống thắt cổ chết ở
Loa Sơn (tục gọi gò Đống Đa). Theo Bang giao lục, trong chiến dịch mùa xuân
Kỷ Dậu, số quân Thanh bị chết là 27 vạn). Quân Tây Sơn thừa thế chém giết
lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.
Trước đó, vua Quang Trung đã sai
một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi
binh ở phía đông. Đến lúc ấy, quân Thanh chạy về trông thấy, càng thêm hoảng
sợ, bèn tìm lối tắt theo đường Vịnh Kiều mà trốn. Chợt lại thấy quân voi từ Đại
áng tới, quân Thanh đều hết hồn hết vía, vội trốn xuống đầm mực, làng Quỳnh
Đô (thuộc Thanh Trì, Hà Nội), quân Tây Sơn lùa voi giày đạp, chết đến hàng
vạn người.
Giữa trưa hôm ấy vua Quang Trung
tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành (có sách chép khi Quang Trung vào
Thăng Long, chiếc chiến bào màu đỏ đã bị nhuộm đen vì khói thuốc súng).
Nguyên trước đó, đô đốc Long đốc
suất hữu quân đã đem binh đến đóng ở làng Nhân Mục huyện Thanh Trì. Lúc vua
Quang Trung đang đánh với quân Thanh ở Ngọc Hồi, thì sáng hôm ấy Long đã đánh
tên thái thú Điền Châu ở trại Khương Thượng thuộc huyện Quảng Đức (trại
Khương Thượng tức làng Khương Thượng nay thuộc thành phố Hà Nội). Quân Thanh
tan vỡ bỏ chạy, Long liền tiến trước vào thành.
Lại nói, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở
thành Thăng Long, tuyệt nhiên không nghe tin cấp báo gì cả cho nên trong ngày
Tết mọi người chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến
việc bất trắc. Nào hay cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổi. Ngày mồng 4 bỗng
thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cáo cấp. Thật là: "Tướng ở trên trời
xuống, quân chui dưới đất lên". Bọn ấy lại nói:
- Quan quân ở đồn Hà Hồi đều bị
quân Tây Sơn đánh úp bắt hết cả. ở đây cách đồn Ngọc Hồi không xa, sớm chiều
thế nào cũng bị đánh tới.
Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt sợ hãi, lập
tức sai lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp dẫn viên hàng tướng Tây Sơn
là Phan Khải Đức đem nghĩa binh tới cứu; lại sai hai mươi lính kỵ mã ở dưới
trướng của mình cùng đi với Nghiệp, và dặn họ rằng:
- Trong khoảng chốc lát, phải tiếp
tục báo tin về ngay.
ý của Nghị chỉ lo có một mặt đó,
không ngờ lại có mặt khác ập tới. Canh tư đêm ấy, chợt nghe ở phía tây bắc
thành tiếng súng nổ đùng đùng không ngớt. Nghị vội sai người cưỡi ngựa ra
xem, thì nghe báo tin đồn quân Điền Châu tan vỡ, quân Tây Sơn đã vào cửa ô,
đốt giết lung tung, khói lửa bốc lên đầy trời rồi.
Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không
kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn
trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy. Quân sĩ các doanh nghe tin,
đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi
xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống
nước, đến nỗi nước sông Nhĩ Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa (có
sách chép, đạo quân Vân-Qui lúc này mới kéo sang đến Sơn Tây, nghe tin Nghị
thua chạy, nên cũng vội vàng tìm đường tháo lui về).
Vua Lê ở trong điện, nghe tin có
việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa thái hậu ra ngoài. Cả
bọn chạy đến bến sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè cũng không, bèn gấp
rút chạy đến Nghi Tàm thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy
rồi chèo sang bờ bắc. Trưa ngày mồng 6 vua Lê và những người tuỳ tòng chạy
đến núi Tam Tằng, nghe nói Tôn Sĩ Nghị đã đi khỏi đó. Bấy giờ quân Thanh chạy
về nước, trên đường đông nghịt như chợ, đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi.
Vua đưa thái hậu cùng đi với họ đến đồn Hoà Lạc thì gặp một người thổ hào.
Hồi trước vua Lê chạy ra ngoài, người ấy đã được biết mặt; lúc đó thấy vua,
người ấy bất giác lệ rơi, nhân tiện mời vua vào trại trong núi tạm nghỉ. Bấy
giờ, vua Lê và những người tuỳ tòng luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều đã mệt
lử. Người thổ hào kia liền giết gà làm cơm thết đãi. Vua sai bưng một mâm lên
mời thái hậu; còn mình thì cùng ăn với bọn Quýnh, Hiến ở mâm dưới.
Ăn vừa xong, chợt nghe tin quân
Tây Sơn đã đuổi theo đến nơi. Vua cuống quít bảo người thổ hào rằng:
- Muôn đội hậu tình, không có gì
để báo đáp, chỉ có trời cao đất dày chứng dám tấc lòng thành của ông mà ban
phúc cho thôi. Bây giờ quân giặc gần tới, trước mắt đây có con đường sống nào
có thể chạy gấp lên cửa ải, xin tính kế ngay cho.
Người thổ hào vội vã sai con đưa
đường, theo lối tắt trong núi mà đi. Trời nhá nhem tối thì nhà vua đến cửa
ải, theo kịp chỗ nghỉ của Tôn Sĩ Nghị. Một lát các viên quan khác cũng lục
tục theo đến, cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt. Tôn Sĩ Nghị
cũng lấy làm xấu hổ.
Nhân tiện, vua từ giã Sĩ Nghị và
nói:
- Cô (lối xưng nhún mình của các
vua chúa đời xưa) không có tài, chẳng giữ nổi xã tắc. Đội ơn tướng quân vâng
chỉ của hoàng đế sang cứu viện; nào ngờ lòng trời không giúp nước nhỏ, nay
ngài lại bỏ mà đi. Kính chúc tướng quân về triều được hai chữ "vạn
phúc", Cô xin ở lại đất nước, thu nhặt dân binh, để tính việc nổi lên
chuyến khác. Xa nhờ oai linh, may được nên việc, đều là ơn của tướng quân ban
cho. Nếu như sự thế không xong, lại xin sang hầu tướng quân, như thế cho
tiện.
Nghị nói:
- Nguyễn Quang Trung chưa diệt,
việc này còn chưa thôi. Nay hãy dâng biểu tâu lên xin quân, không đầy một
tháng, đại binh sẽ lại tới. Chỗ này gần kề đảng giặc, ở lại không tiện, hãy
tạm vào Nam Ninh nghỉ ngơi để chờ thánh chỉ cũng được.
Vua Lê nghe lời. Nghị bèn cùng bọn
tướng tá thu nhặt tàn quân kéo về.
Vua lại sai bọn Quýnh, Hiến ở lại
để ngầm chiêu dụ những người trung nghĩa ở trong nước. Còn vua thì cùng viên
phụ đạo (tên gọi chức tù trưởng ở ngoại phiên) Cao Bằng là Địch quận công
Hoàng ích Hiểu, viên trấn thủ Kinh Bắc người làng Nộn Liễu huyện Nam Đường là
Lê Hân, viên đề lĩnh bốn thành người huyện Thư Trì, trấn Sơn Nam là Phạm Như
Tùng viên phó đề lĩnh người làng Thanh Tuyền, huyện Nam Đường là Nguyễn Viết
Triệu, viên thư tri công lượng chính người làng Nghĩa Động, huyện Nam Đường
là Lê Văn Trương, viên hiệp lý quân vụ, người làng Quỳnh Côi, huyện Nam Đường
là Phạm Trần Thiệu, người bà con bên vợ ở làng Tỳ Bà, huyện Lang Tài là
Nguyễn Quốc Đống, viên chưởng tứ bảo người làng Đồng Bảng trấn Thanh Hoa là
Lê Quý Thích, cùng đưa thái hậu theo Nghị sang Trung Quốc.
Thực là:
Bờ cõi chưa xong bề tính liệu,
Nước non buồn nỗi lúc chia ly.
Chưa biết việc ấy ra sao! Hãy chờ
hồi sau phân giải.
|
Hồi
15
Dẹp
yên cõi Bắc, Nguyễn Huệ được phong
Đánh phá Cao Bằng, Duy Chỉ bị hại
Lại nói, khi Tôn Sĩ Nghị chạy trốn
về nước, trong lúc vội vàng, không kịp thu nhặt đồ đạc. Đến khi tới huyện
Phượng Nhãn lại nghe nói tướng Tây Sơn là Đắc lộc hầu đem quân từ mặt đông
kéo lên chặn đường, đã gần tới nơi, Nghị lại bị một phen khủng khiếp, các vật
cần thiết mang theo, đều phải vứt bừa ra giữa đường để mong chạy thoát lấy
thân mình. Cho nên những vật của vua Thanh ban cho như sắc thư, kỳ bài, quân
ấn đều bị quân Tây Sơn bắt được đem về.
Nguyên mùa đông năm ngoái, theo
lời xin của Nghị, vua Thanh đã truyền lệnh cho Nghị đem quân ra ngoài cửa ải
Nam Quan. Sau đó, vua Thanh lại có chỉ dụ bảo Nghị đi từ từ, chớ có vội; hãy
làm tờ hịch đưa sang trước làm thanh viện cho nhà Lê, rồi thả bọn bề tôi nhà
Lê về nước, tập hợp nghĩa binh, tìm tự tôn họ Lê, để cho ra mặt đối địch với
Nguyễn Quang Trung, thử xem sự thế ra sao? Nếu như lòng người An Nam còn mến
nhà Lê, lại được thiên binh kéo sang, thì ai chẳng hăng hái nổi lên, và như
vậy, Quang Trung ắt phải lui tránh. Bấy giờ sẽ bảo tự tôn họ Lê đi tiên phong
đuổi đánh còn Nghị thì đem đại binh tiếp theo, chắc là không khó nhọc gì mà
sẽ thành công. Đó là chước hay thứ nhất. Nếu như người trong nước, nửa theo
đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Quang Trung nhất định sẽ không chịu lui. Khi
ấy, cần phải viết thư nói rõ hoạ phúc, xem hắn đối phó ra sao? Rồi chờ cho
thuỷ quân các tỉnh Mân, Quảng (Phúc Kiến và Quảng Đông, Quảng Tây) của ta
vượt biển đánh trước vào Thuận Quảng (Thuận Hoá và Quảng Nam), bấy giờ sẽ
thúc quân tiến lên. Quang Trung mặt trước mặt sau đều bị đánh, tất phải hàng
phục. Ta nhân đó mà bảo tồn cho cả hai. Thuận, Quảng về nam cho Quang Trung
ở; Hoan, ái (Nghệ An, Thanh Hoá) về bắc, phong cho tự tôn họ Lê. Rồi đó, đóng
đại binh ở nước ấy, xa xa kiềm chế họ, sau này sẽ có cách xử trí khác.
Đến khi đại quân của Nghị ra khỏi
cửa ải Nam Quan nghe tin quân Tây Sơn đã lui chạy, tức thì Nghị sai chỉnh đốn
đội ngũ, kéo thẳng đến đóng ở thành Thăng Long, không còn lo lắng gì cả, vì
thế mới thua một trận tan tành.
Bấy giờ dân Thanh thái bình đã
lâu, không biết gì đến việc binh, thấy Nghị tất tả chạy về, nhân tình đều
nhốn nháo sợ hãi. Tiếp đó lại nghe tin quân Tây Sơn đuổi đến Lạng Sơn, nói
phao lên rằng: "Sẽ giết hết rợ Hung Nô". Do đó, ở đất Trung Quốc,
dân chúng lại càng nhốn nháo. Từ cửa ải Nam Quan trở về bắc, trai gái già
trẻ, bồng bế dắt díu nhau chạy trốn, suốt vài trăm dặm, lặng ngắt không còn
bóng người.
Vua Thanh được tin, giận lắm, lập
tức hạ chỉ, sai viên quan ở nội các là Phúc Khang An làm tổng đốc lưỡng
Quảng, đem binh mã chín tỉnh sang kinh lý việc An Nam và đòi Sĩ Nghị về kinh
chịu tội.
Lại nói, Nghị ở Thăng Long chạy
đi, nhằm đêm mồng 5 tháng giêng. Đến trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến quân
vào thành.
Sau khi đã hoàn toàn quét sạch
quân Thanh, vua Quang Trung bèn đóng quân tại thành Thăng Long, rồi hạ lệnh
chiêu an. Phàm những người Thanh trốn ở các nơi, đều bảo phải tới đầu thú,
dân gian không được chứa chấp. Trong khoảng mươi ngày, quân Thanh ra thú có
đến hơn vài vạn, đều được cấp phát lương ăn áo mặc.
Nhân bắt được chiếu thư và quân ấn
do Sĩ Nghị bỏ rơi, vua Quang Trung bèn đưa cho Ngô Thì Nhậm xem và bảo:
- Ta xem tờ chiếu của vua Thanh,
thì chẳng qua họ cũng chỉ cốt xem tình hình ta mạnh yếu ra sao để mà định bề
tiến lui, chớ còn việc nghĩa cử để dựng lại nhà Lê, không phải là bản tâm của
họ. Họ chỉ mượn tiếng để mưu đồ lợi riêng mà thôi. Nay họ đã bị ta đánh thua,
nhịn đi thì thẹn, báo thù thì khó. Vậy những tàn quân ta bắt được, đều nên
cấp lương và đưa hết lên cửa ải. Ngươi vốn giỏi về nghề văn từ đối đáp, nên
thảo ngay bức thư đưa sang cho họ, đại khái nói:
"Ta là nước nhỏ, một lòng
kính thuận, sợ mệnh trời, thờ nước lớn, sao dám có ý gì khác. Trước đã có
biển văn đệ sang, bị ngài tổng đốc họ Tôn dìm đi, không thấu đến bề trên
được. Gần đây, ta từ miền Nam tới, vốn là muốn biện bạch lòng thật thà với
ngài tổng đốc họ Tôn. Không ngờ đường sá đồn nhảm, làm to thanh thế của ta,
khiến cho mọi người nghi ngờ sợ hãi, bỏ đội ngũ mà chạy trước, để đến nỗi cầu
phao bị đứt, quân lính thiên triều phải chết đuối, những kẻ tranh đường chạy
trốn lại giày xéo lẫn nhau nhiều người bị thương bị chết. Đó thật là do ngài
tổng đốc họ Tôn gây nên, không phải là tội của nước nhỏ dám giao chiến. Hiện
nay đã thu góp được số tàn quân hơn một vạn người, lại đã tra rõ họ tên, quê
quán, cấp lương đầy đủ và đưa lên cửa ải; vậy xin kê sổ dâng nộp...".
Thì Nhậm vâng lệnh, lập tức theo ý
đó thảo một bức thư, rồi sai người phi ngựa giao cho viên đầu mục ở Lạng Sơn
đưa tới ải Nam Quan, nhờ chuyển đệ sang Trung Quốc.
Lại nói, viên tổng đốc lưỡng Quảng
mới là Phúc Khang An vốn là người Mãn, thuộc đội Cờ viền vàng (hộ khẩu của
dân Mãn chia theo binh chế, gồm có tám đội Cờ (bát kỳ): Cờ vàng, Cờ trắng, Cờ
đỏ, Cờ xanh, Cờ viền vàng, Cờ viền trắng, Cờ viền đỏ, Cờ viền xanh. Các đội
Cờ này lúc thường thì làm dân, lúc động thì làm lính. Về sau, khi người Mông,
người Hán qui phục nhà Thanh, vua Thanh Thái tông cũng tổ chức ra bát kỳ
người Mông và bát kỳ người Hán như vậy, để làm lực lượng nòng cốt trong việc
thống nhất Trung Quốc) do chân ấm sinh làm đến chức quan trong Nội các, vua
Thanh vốn rất tin dùng, nên mới giao cho kinh lý việc nước Nam.
Vừa mới thay Nghị làm chức tổng
đốc, Khang An đi trạm đến mạc phủ Quảng Tây, đã chính mắt thấy Nghị trơ trọi
một thân chạy về, rồi đó, tai lại được nghe thanh thế của vua Quang Trung,
nên trong bụng không khỏi rụt rè lo sợ. Đến khi tiếp được bức thư từ biên
cương đưa tới, Khang An quyết liền tự mình gánh vác lấy việc phương Nam, bèn
nói kín với viên phân phủ họ Vương ở phủ Thái Bình rằng:
- Nam Bắc thôi việc binh đao, đó
là phúc của sinh dân, mà thực là điều may lớn cho các quan ở ngoài bờ cõi. Ta
nghe nói có viên quan coi việc giấy tờ của nước Nam tên là Ngô Thì Nhậm, bao
nhiêu thư từ từ trước đến giờ đều do tay y mà ra. Vậy ông nên viết thư trả
lời, bảo y chuyên tâm chủ trương việc giảng hoà, gấp rút viết tờ biểu tạ tội
đưa sang, ta sẽ ở trong giúp đỡ cho, việc ấy thế nào cũng xong.
Phân phủ họ Vương lui ra, tức thì
viết thư cho Ngô Thì Nhậm. Nhậm đem việc ấy tâu với vua Quang Trung.
Bấy giờ, vua Quang Trung tuy đã
dẹp yên Bắc Hà, nhưng ở miền Nam, vẫn có cái lo bên trong, nên muốn gấp rút
về Nam, bèn họp các tướng sĩ lại mà bảo:
- Việc binh ở Bắc Hà, ta giao cho
Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân. Việc giao thiệp với Trung Quốc ta giao cho Ngô
Thì Nhậm và Phan Huy ích. Mọi việc đều cho phép các ngươi tuỳ tiện xử trí. Ta
hãy về Nam, nếu việc gì không quan hệ lắm thì bất tất phải qua lại bẩm báo
cho thêm phiền phức.
Rồi đó, vua Quang Trung dẫn quân
về Nam, để Văn Sở ở lại, coi giữ hết thảy việc quân, việc nước. Còn Ngô Thì
Nhậm thì làm chủ về việc giao thiệp với Trung Quốc, cùng với viên quan giữ
biên ải của nhà Thanh là phân phủ họ Vương hai bên liên lạc với nhau; ngoài
thì có Phúc Khang An đề đạt ý kiến, trong thì có Các thần Hoà Khôn chủ trương
mọi việc.
Hoà Khôn người Mãn Châu, thuộc đội
Cờ vàng, cũng do chân ấm sinh vào làm ở Nội các, cùng với Khang An quản lý
việc hộ.
Khang An gửi thư cho Thì Nhậm, bảo
Nhậm đưa vàng bạc đút lót Khôn. Khôn kiền tâu với vua Thanh xin bãi việc
binh, phong vương cho Quang Trung, và không nên gây hấn với nước ngoài, làm
hao phí cho Trung Quốc. Khôn lại nói: "Từ xưa đến nay, chưa có đời nào
làm nên công trạng ở cõi Nam. Nhà Tống rồi nhà Nguyên, nhà Minh, rốt cuộc đều
bị thua trận, gương ấy hãy còn rành rành".
Vua Thanh cho là phải, bèn quyết ý
giảng hoà. Bọn Hoà Khôn đón ý vua Thanh làm cho mọi việc đều ăn khớp, nên
không việc gì là không vừa lòng nhà vua. Bởi vậy, vua Thanh rất thích, thường
viết thư khen ngợi họ.
Khi ấy, Khang An liền báo tin cho
Thì Nhậm biết, giục Nhậm viết tờ biểu tạ ơn. Nhậm thảo một tờ biểu, trong đó
nói kèm thêm rằng: "Nước chúng tôi đã đến kỳ tiến cống, theo lệ phải
kính sai bồi thần đệ dâng lễ vật. Nhưng tiểu phiên (nước phiên thuộc nhỏ mọn,
ở đây là một cách nói nhún để chỉ vua Quang Trung) còn là tạm quyền việc
nước, không dám tự ý làm việc ấy, vì sợ chưa hợp lệ. Mà nếu điềm nhiên bỏ đi
lòng cũng không yên. Nay các vật phẩm tiến cống và các người bồi thần đều đã
kính cẩn đợi sẵn trên cửa ải. Vậy xin cúi mong bề trên quyết định, chúng tôi
khôn xiết run sợ chờ lệnh... ".
Khang An tiếp được tờ biểu tạ ơn
ấy, lập tức sai ngựa trạm đệ về Yên Kinh. Hoà Khôn liền đem biểu dâng lên.
Vua Thanh xem xong, thích lắm, bèn truyền cho các bồi thần nước Nam là bọn Võ
Huy Tấn, Ngô Vi Quý, Nguyễn Đình Cử được phép qua cửa ải, vào chờ ở thành Quế
Lâm; lại sai sứ thần sang phong cho vua Quang Trung làm An Nam quốc vương và
ban thưởng cho rất hậu. Còn các phẩm vật tiến cống đều chiếu lệ cũ mà thu
nhận. Liền đó, vua Thanh lại giáng chỉ vời vua An Nam sang chầu.
Ngô Thì Nhậm bèn kén viên quan võ
người làng Mạc Điền, huyện Nam Đường ở trấn Nghệ An, tên là Nguyễn Quang Thực
(Đại nam chính biên liệt truyện sơ tập lại chép là Phạm Công Trị,
cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu), dung mạo đoan trang, giả làm quốc vương; lấy
Văn Sở làm trọng thần hàng võ, Huy ích làm trọng thần hàng văn, đô đốc Nguyễn
Duật làm hộ vệ, Võ Huy Tấn làm bề tôi coi giấy tờ, cùng hầu "quốc
vương" sang yết kiến vua Thanh. Ngoài lễ dâng thường của địa phương lại
dâng thêm hai thớt voi đực. Dọc đường, người Thanh phải phục dịch chuyển vận
rất khó nhọc. Trong ngoài ai cũng biết là giả dối, mà không ai dám nói.
Khi "quốc vương" tới Yên
Kinh, vua Thanh mừng lắm, không hề biết đó là vua Quang Trung giả. Lúc
"quốc vương" vào yết kiến, vua Thanh cho cùng ăn yến với các vị
thân vương, lại ban ơn đặc biệt cho làm lễ ôm gối hệt như tình cha con trong
nhà. Lúc "quốc vương" lạy tạ về nước, vua Thanh sai thợ vẽ truyền
thần bức chân dung mà ban cho, ân lễ rất trọng hậu, thực là một cách đối đãi
khác thường từ ngàn xưa hiếm có.
Lại nói, vua Lê khi ở cửa ải Nam
Quan theo Sĩ Nghị vào đất Trung Quốc, trú ngụ ở thành Nam Ninh, thì vừa gặp
lúc Phúc Khang An đến thay Sĩ Nghị, và mưu đồ giảng hoà với Tây Sơn. Khang An
bèn đón vua Lê vào nghỉ ở thành phủ Quế Lâm. Hồi ấy những người nước Nam lần
lượt sang Trung Quốc theo vua Lê gồm có: Chú vua là Trung quận công Duy án,
đi đường Du Quan (ở hồi 9 đã chép Duy án đi cùng với phái bộ Trần Công Xán
vào Tây Sơn đòi đất Nghệ An, sau phái bộ bị dìm chết ở ngoài biển. Đây lại
thấy Duy án xuất hiện, không hiểu là chép lầm hay án còn sống sót mà người
viết không ghi rõ chăng?); Đinh Nhạ Hành và Đinh Lệnh Dận quê ở Hàm Giang, đi
đường Long Môn; nội hàn Trần Duy Lâm, quê ở Nam Chân; xuất nạp Lê Doãn, quản
cơ Hậu Kính Lê Dĩnh người ở Đồng Trạch và bọn Phan Khải Đức người Nghệ An đều
đi đường ải Nam Quan; bọn Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Doãn là phụ đạo ở Cao
Bằng đi đường Cao Bằng. Lúc họ vào ra mắt, Khang An tuỳ tiện sắp đặt chỗ ở và
cấp cho lương ăn áo mặc, rồi dùng Phan Khải Đức làm chức đô ty ở Liễu Châu,
Đinh Nhạ Hành làm chức thủ bị ở Toàn Châu, Bế Nguyễn Doãn làm chức bả tổng.
Còn Trung quận công cùng các người khác thì đều đưa vào ở chỗ vua Lê trong
phủ Quế Lâm.
Sau hơn một tháng, Khang An cũng
từ Nam Ninh về Quế Lâm, liền hạ lệnh bãi hết binh mã các tỉnh, rồi bày ra yến
tiệc và âm nhạc linh đình, rộn rã. Vua Lê lấy làm lạ hỏi, thì Khang An nói:
- Mùa hè nắng nực, không lợi cho
việc sang đánh miền Nam, cần chờ đến mùa thu mát mẻ, sẽ điều động một thể.
Tiếp đó, Khang An lại mời vua Lê
yến tiệc say sưa, rồi ung dung nói:
- Ngày xuất quân không còn xa,
vương nên tự mình đem tả hữu liêu thuộc làm quân dẫn đường đi trước. Nhưng
bây giờ nên gọt đầu gióc tóc (kiểu đầu của người Mãn Thanh: gọt tròn xung
quanh như cái nồi đất, rồi tết đuôi xam ở đằng sau), thay đổi quần áo giống
như người Trung Quốc, để khi về Nam quân giặc không thể phân biệt được, thì
công lớn mới có thể thành. Sau khi khôi phục nước nhà, bấy giờ sẽ lại theo
như tục cũ. "Việc binh không ngại dùng cách xảo trá" Vương nên nghĩ
tới chỗ đó.
Vua Lê cho là phải và đáp:
- Chúng tôi không giữ được nước
nhà, may nhờ thiên triều cứu viện, dù cả nước phải ăn mặc như người Trung
Quốc, cũng xin vâng lệnh. Việc ấy còn có tiếc gì?
Rồi vua Lê cùng các bề tôi đều
gióc tóc, thay đổi đồ mặc. Khang An thấy vậy, mừng lắm, liền cho một số tiền
bạc và tiếp đãi tử tế. Vua tôi nhà Lê đều không biết sự lừa dối của Khang An.
Nhân đó, Khang An bèn làm một tờ biểu kín tâu với vua Thanh, trong đó đại ý
nói: "Vua An Nam là Lê Duy Kỳ, không còn có ý xin cứu viện, vua tôi đều
đã gióc tóc đổi đồ mặc, xin ở lại yên ổn trong đất Trung Quốc. Vậy xin bãi bỏ
các đạo quân định đưa sang đánh dẹp phương Nam". Còn Hoà Khôn cũng luôn
dịp tâu xin phong vương cho vua Quang Trung. Thế là các lời xin ấy đều được
vua Thanh chuẩn y.
Một hôm, Khang An lại mời vua Lê
vào dinh. Giáo mác trang hoàng la liệt, quân hầu đứng khắp chung quanh, cung
mã, nghi trượng rất là nghiêm chỉnh, chính giữa dựng cây cờ lớn, có thêu sáu
chữ: "Đề đốc cửu tỉnh binh mã" (đề đốc binh mã chín tỉnh).
Sau khi uống trà và ăn hoa quả
xong, An im lặng không nói câu gì, vua Lê cũng không hiểu ý của An ra sao.
Lúc từ giã đi ra, thì thấy sứ giả Tây Sơn đã ở ngoài cửa. Vua Lê tức tối hồi
lâu, rồi đành phải về quán trọ yên nghỉ.
Trước kia Trường phái hầu là Lê
Quýnh vâng mệnh ở lại trong nước, chiêu dụ hào kiệt các địa phương để lo việc
khôi phục. Lúc này, Quýnh và bọn Trịnh Hiến, Lý Tạo, Lê Hợp (có bản chép là
Lý Nhu Đạo, Lê Doãn Thực) tất cả gồm vài chục người đều kéo sang đất Trung
Quốc. Khang An cho trát đòi bọn Quýnh đến bàn việc nước. Lúc họ tới nơi, An
chẳng hỏi han gì, chỉ bàn về việc gọt đầu gióc tóc và đổi đồ mặc mà thôi.
Quýnh biết An dối trá, giận lắm,
nói:
- Đòi ta đến ngỡ là để giáp mặt mà
bàn bạc, nay té ra lại chẳng bàn bạc gì, mà chỉ toàn bảo gọt đầu gióc tóc và
đổi đồ mặc. Chúng ta đây, đầu có thể chặt, tóc không thể cắt, da có thể lột,
đồ mặc không thể đổi!
Khang An biết là không thể ép buộc
được, bèn sai đem bọn họ an tri ở tỉnh Quảng Tây.
Hồi cuối mùa đông năm ấy là năm Kỷ
Dậu (1789), vua Thanh sau khi đã sai sứ phong cho vua Quang Trung làm An Nam
quốc vương và nhận các vật phẩm tiến cống, liền giáng chỉ đòi vua cũ của nước
An Nam phải đến Yên Kinh.
Nguyên lúc kinh thành Thăng Long
tan vỡ, vua Lê chạy sang bắc, em thứ ba của vua Lê là Lan quận công Duy Chi
đưa hoàng phi chạy ra, đến bến sông Nhĩ Hà thì gặp lúc cầu phao đã gãy, liền
theo bờ sông chạy về phía tây. Đến Tuyên Quang, Duy Chi bèn lén lút ở đấy,
rồi nhân dịp chiêu dụ các tay hào mục địa phương, để cùng nhau gắng sức lo
việc khôi phục. Về sau, Duy Chi dấy quân ở đất Bảo Lạc (nay thuộc Cao Bằng),
đắp đồn luỹ, trưng thu lương thực, chống nhau với quân Tây Sơn. Được vài
tháng, quân và lương không đủ, bị quân Tây Sơn đánh thua, Duy Chi và các
tướng tá đều bị bắt, đóng cũi đưa về Nam, rồi đều bị hại (theo Đại
nam chính biên liệt truyện và Bang giao lục thì Duy
Chi đánh phá cả các vùng Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên; sau lại liên kết
với Lào để định đánh úp Nghệ An. Vì thế, quân Tây Sơn phải đánh dẹp rất gay
go, kéo dài hàng năm (1789-1790) mới bắt được Chi). Quân dân cả nước, ai cũng
thương xót. Có người viếng bài thơ, trong có câu rằng:
Phú Xuân
có đất chôn hờn mới.
Bảo Lạc
không trời báo oán xưa.
Duy Chi đã chết, hoàng phi bèn
trốn về vùng Kinh Bắc, lẻn lút trong dân gian, quân Tây Sơn tìm bắt nhưng
không được.
Lúc bấy giờ, vua Lê ở Yên Kinh,
tin tức không thông, các hoàng thân đều bị quân Tây Sơn giết hại. Các bề tôi
trung nghĩa ngày xưa như bình chương Nguyễn Huy Túc, tham tri Phạm Đình Dữ,
thượng thư bộ Binh Nguyễn Đình Giản, thiêm thư xu mật viện sự Lê Ban, phó đô
ngự sử Trần Danh án, trấn thủ Kinh Bắc Trần Quang Châu đều phải trốn nấp ở
các nơi thôn ổ, quân Tây Sơn lùng bắt không được. Còn con cháu dòng dõi của
các nhà quyền quý phần nhiều cũng vẫn có cảm tình với chủ cũ. Nên chi, trong
chốn làng quê, tiếng trống thường nổi lên luôn luôn.
Nguyễn Đình Giản, từ khi vua Lê
chạy sang Trung Quốc, không kịp chạy theo, bèn ẩn ở huyện Lập Thạch thuộc
trấn Sơn Tây (nay thuộc Vĩnh Phú).
Vua Quang Trung cho người đến trấn
Thanh Hoa, bắt con gái yêu của Giản đưa vào hậu cung muốn để vời Giản ra làm
quan. Nhưng Giản nói:
- Con bé ấy không chết, làm nhục
nhà ta, ta không vì tình nhi nữ mà bỏ nghĩa vua tôi.
Quân Tây Sơn biết không thể đoạt
nổi chí hướng của Giản, bèn lập mưu bắt sống Giản về. Giản không chịu khuất,
rồi chết. Giản có làm bài thơ tự thuật như sau:
Vị thân
hay vị nước nhà,
Thân còn
nước mất biết là làm sao?
Đội non
khôn hoá thân ngao (sách Liệt
sử chép: ở biển Đông có năm hòn núi nổi lênh đênh trên mặt nước,
trời sai 15 con ngao đỡ cho núi đứng vững. Đây mượn ý để nói việc chống đỡ
quốc gia),
Dễ đem
mình cuốc khóc gào núi sông (xưa
vua Thục là Đỗ Vũ mất nước, sau khi chết hoá thành con cuốc, tiếng kêu ai
oán).
Giận
không Vương Xúc gươm trung (Vương
Xúc làm quan nước Tề đời Chiến Quốc, sau Tề vị nước Yên chiếm, Vương Xúc dùng
gươm tự tử),
Đọc ca
chính khí dãi lòng sắt đanh (Chính
khí ca của Văn Thiên Tường, một trung thần đời Tống, làm khi bị giam ở yên
kinh).
Ngoảnh
nhìn cung khuyết Long thành,
Thân này
với nước nhục vinh nỡ rời!
Lê Ban khôi ngô, hùng dũng, sức
khoẻ hơn người; mỗi bữa ăn gấp mấy chục người. Sau khi vua Lê bị nạn, Ban
thường quanh quẩn bên cạnh, không từ hiểm nghèo. Đến khi vua Lê chạy sang
Trung Quốc. Ban theo không kịp, bèn đi đường tắt về quê ở Nghệ An, cùng các
hào mục địa phương họp quân đánh nhau với Tây Sơn, bị thua mấy trận rồi bị
bắt. Ban giữ vững chí cũ, không chịu khuất phục. Quân Tây Sơn bèn thả cho về.
Sau Ban chết ở Thăng Long.
Trần Danh án lưu lạc ở miền rừng
núi, thôn quê trong xứ Bắc Giang. Vua Quang Trung sai Ngô Thì Nhậm viết thư
vời án. án cố từ, thề chết không chịu ra, lời lẽ phần nhiều gay gắt. Nhân
dịp, án lại làm bài thơ trả lời Nhậm như sau:
Gặp bác
đời nay dễ mấy lần,
Dung
nhan phảng phất mộng luôn gần.
Về ai
nước ấy thôi đành kệ,
Nương
trọ, đời nay chỉ biết thân.
Song bắc
giấu mình còn nhớ Tấn (điển Song
bắc trỏ Đào Tiềm người đời Tấn, vì khi Đào Tiềm cáo quan về nhà,
trong một lá thư gửi cho bạn, ông có viết câu "Bắc song cao
ngoạ..." (Nằm hóng mát dưới cửa sổ phía bắc) để nói về cái thú
ở ẩn. Đào Tiềm là tôi cũ của nhà Tấn, khi Tống cướp nước Tấn, Đào Tiềm viết
lách gì cũng vẫn đề niên hiệu của nhà Tấn để tỏ lòng trung nghĩa)
Biển
Đông thà chết chẳng theo Tần (điển
Biển Đông trỏ Lỗ Trọng Liên người nước Tề đời Chiến-quốc. Khi Lỗ Trọng Liên
sang chơi nước Triệu, gặp lúc nước Tần vây Triệu rất gấp; bấy giờ có sứ nước
Nguỵ sang Triệu bàn nên tôn Tần làm hoàng đế thì sẽ khỏi bị vây; Trọng Liên
nghe nói, không bằng lòng, gặp sứ Nguỵ bàn lẽ phải trái và nói; nếu Tần xưng
đế thì Liên này thà nhảy xuống biển Đông mà chết chứ không chịu làm tôi tớ
cho Tần... Lời nói khảng khái ấy của Trọng Liên, quả nhiên đã làm cho quân
Tần phải rút lui, không vây Triệu nữa).
Người
sau bên mộ giơ tay trỏ:
Tiến sĩ
đời Lê cũ, họ Trần.
Nhậm biết không thể khuất phục
được án, bèn ngầm sai người đem quân đến hăm doạ. Nhưng án vẫn ngồi làm thơ,
thần sắc như thường, trong có câu rằng:
Kiếp này
dẫu béo mồm hùm sói,
Thà chết
không làm bụng chó heo!
Quân Tây Sơn lại dỗ cho làm quan
to, cuối cùng án vẫn không theo, họ bèn thôi.
Trần Quang Châu cùng bọn bộ tướng,
nhóm quân đánh lại Tây Sơn, ngang dọc trong hai trấn Đông Bắc (Hải Dương và
Kinh Bắc). Khoảng trong bốn năm năm liền, luôn luôn phá vỡ đồn luỹ và giết
được rất nhiều tướng tá của Tây Sơn, khiến cho quân Tây Sơn cũng phải khiếp
sợ Châu. Sau mắc mưu gian, Châu bị quân Tây Sơn bắt sống. Châu cũng không
chịu khuất phục, rồi chết (theo các tài liệu lịch sử, thì những cuộc chống
đối của đám cựu thần nhà Lê bấy giờ còn có: Dương Đình Tuấn (Bắc Giang).
Nguyễn Phủ (Bắc Ninh), Phạm Đình Đạt (Bắc Ninh)... Nhưng cuối cùng cũng đều
bị Tây Sơn dẹp tan).
Từ đó trở đi, các trấn yên lặng,
không phải lo sợ về nạn binh hoả nữa.
Sau khi nhận sắc phong của vua
Thanh, vua Quang Trung bèn tự coi mình như hoàng đế, lập con cả là Quang Toản
làm thái tử, con thứ hai là Quang Thuỳ là Khang công, lĩnh chức tiết chế các
quân thuỷ bộ miền Bắc, con thứ ba là Quang Bàn làm Tuyên công lĩnh chức đốc
trấn Thanh Hoa, Tổng lý mọi việc quân, dân. Các trấn đều đặt một viên trấn
thủ, một viên hiệp trấn. Mỗi huyện đặt một viên phân tri và hai viên tả hữu
quản lý để trưng thu binh lương và xử lý việc kiện cáo. Lại lập ra binh chế,
chia ra các cấp quan võ; lấy đạo thống lĩnh làm cơ, lấy cơ thống lĩnh các
đội, để quản thúc và luyện tập cho quân lính.
Các trấn từ sông Gianh ra Bắc đều
phải kê khai sổ đinh, chiếu theo lệ cũ kén lính và thu các thứ thuế dung (tức
thuế thân, do Trịnh Cương đặt ra), thuế cước. Lập sổ ruộng, định lệ thóc
thuế. Chia ruộng công, ruộng tư ra làm ba bậc để thu thuế. Vua Quang Trung
cho rằng Nghệ An ở vào chính giữa nước, đường sá từ Nam ra từ Bắc vào đều vừa
bằng nhau, quê tổ tiên mình cũng ở đấy, bèn sai trưng dụng rất nhiều thợ
thuyền, chuyên chở gỗ, đá, gạch ngói, để xây dựng cung phủ, lâu đài. Đắp
thành đất chung quanh và sai các quân lính đào đá ong ở địa phương để xây
thành trong. Dựng toà lầu Rồng ba tầng cùng điện Thái-hoà hai dãy hành lang,
để phòng dùng đến trong những khi có lễ triều hạ (các quan vào chầu và chúc
mừng nhà vua). Thành này được gọi là Phượng Hoàng trung đô hoặc Trung kinh
Phượng Hoàng thành (thành này Quang Trung định lập làm nơi đóng đô nên mới
gọi là "trung đô" hoặc "trung kinh"; còn tên "Phượng
Hoàng" là gọi theo tên ngọn núi ở chỗ xây dựng thành, "tức rú Quyết
cạnh đường Bến Thuỷ bây giờ". Khi xây dựng "Phượng Hoàng trung
đô", Quang Trung có viết chiếu mời Nguyễn Thiếp ra xem đất. Trong tờ
chiếu, có đoạn viết như sau: "Nay kinh Phú Xuân thì hình thế cách trở. ở
xa trị Bắc Hà, sự thế rất khó khăn. Theo đình thần nghị rằng, chỉ đóng đô ở
Nghệ An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế được trong Nam ngoài Bắc,
và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện, tiện việc đi về" - Xem thêm
chi tiết trong La Sơn phu tử của Hoàng Xuân Hãn).
Năm Canh tuất (1790), nước Ai-lao
chưa chịu tiến cống. Vua Quang Trung bèn sai viên đốc trấn Nghệ An là Nguyễn
Quang Diệu (có sách chép Trần Quang Diệu. Việc Quang Trung đánh Lào, thực ra
không phải nhằm mục đích chiếm đất, mà chỉ cốt phá tan âm mưu cấu kết giữa
Duy Chi và vua Lào) làm chức đại tổng quản, viên đô đốc lĩnh tượng chính là
Lê Văn Trung làm chức đại tư lệ xuất quân tiến đánh.
Quân Tây Sơn tiến đến đô thành
nước Ai Lao, vua Ai Lao chống cự không nổi, đem quân chạy trốn. Bọn Diệu vào
thành, thu hết vàng bạc, châu báu, voi ngựa đem về.
Sau khi được vua Thanh phong
vương, vua Quang Trung càng thêm kiêu căng, có ý xem khinh Trung Quốc. Vừa
lúc ấy, có giặc Tàu ô (tên gọi chung bọn giặc biển người Trung Hoa bấy giờ,
thường đi tàu thuyền ở ven biển Việt Nam để ăn cướp) ở lưỡng Quảng cướp bóc
miền ven biển, quân Thanh đuổi đánh, bọn giặc liền chạy xuống vùng Nam Hải và
xin quy phục nước Nam. Vua Quang Trung bèn cho bọn đầu mục của chúng đều làm
chức thống binh, đồng thời lại sai chúng trở lại cướp bóc quấy nhiễu miền
duyên hải của Trung Quốc. Từ đấy các thuyền buôn bán không thể qua lại giá cả
hàng hoá cao vòn vọt. Vua Quang Trung lại dung nạp cả bọn giặc Tàu ô ở Tứ
Xuyên gọi là "Thiên địa hội" ("Thiên địa hội" không phải
là giặc Tàu ô, mà là một tổ chức bí mật của nhân dân Trung Quốc, nhằm lật đổ
triều đình Mãn Thanh, thành lập năm 1674, lúc đầu trung tâm ở vùng Phúc Kiến,
sau phát triển khắp nơi trong nước, thâm nhập cả vào các tầng lớp Hoa kiều ở
ngoài nước). Tổng đốc nhà Thanh bấy giờ sợ sức mạnh của nước Nam, nên cũng
không dám hỏi chi đến.
Qua những việc đó, vua Quang Trung
càng cho người Thanh là dễ đánh, bèn tính việc kén chọn quân lính, dành dụm
lương thực, đóng tàu biển thật lớn, có thể chở nổi voi, rồi cùng các quan văn
võ ngấm ngầm để ý dòm ngó Trung Quốc.
Thật là:
Cõi Bắc vừa xong trường chiến đấu,
ải Nam lại nẩy dạ anh hùng.
Chưa biết việc ấy ra sao? Chờ xem
hồi sau phân giải.
|
Hồi 16
Tế
Linh đường, sứ Thanh bị lừa
Chết Yên Kinh, vua Lê nuốt hận
Lại nói, vua Quang Trung toan lập
mưu đánh Trung Quốc, đêm ngày bàn bạc với các tướng tá, họ đều nói:
- Nên kê sổ dân cho đúng để kén
quân lính, đó là việc cần kíp ngày nay.
Vua Quang Trung lấy làm phải, bèn
hạ lệnh cho các trấn phải đốc thúc các xã sửa lại sổ đinh, phát "tín
bài" (thẻ làm tin) để thống kê dân chúng vào sổ, rồi cử người coi sóc
xét hỏi. Tổng trưởng các huyện có nhiều người vì cố tình giấu giếm mà bị
chém. Việc đi lại trên đường, nhân dân đều lấy làm khổ. Viên phân tri ở các
huyện nhóm họp số dân đã ghi trong sổ lại, chiếu sổ cấp cho mỗi người một cái
thẻ; giữa thẻ in bốn chữ triện "Thiên hạ đại tín" (niềm tin lớn của
thiên hạ), bốn mép chung quanh thì viết họ tên quê quán của những người có
thẻ và in dấu ngón tay trỏ bên trái để làm bằng cứ. Mọi người đều phải đeo
thẻ ấy, gặp khi xét hỏi thì đưa ra trình; đó gọi là "tín bài". Ai
không có thẻ, tức là dân lậu, sẽ bị bắt đem sung quân (bị đày đi các nơi biên
giới xa xôi để làm lính thú) và bắt tội các người tổng trưởng, xã trưởng của
họ.
Sổ đinh thành rồi, vẫn theo lệ ba
đinh bắt một người lính. Lại sai các viên phân quản đem quân đến các xã vây
bắt, tra xét. Vì thế, dân gian nhốn nháo, nhiều người lẩn trốn vào các khe
núi.
Có người ở làng Ngọc Điền, huyện
Thạch Hà, trấn Nghệ An, tên là Trần Phương Bính (nhiều sách chép là Trần Danh
Bính), nguyên là con viên tiến sĩ đời Lê xưa là Trần Danh Tố, không chịu đeo
thẻ. Trấn thủ Nguyễn Diệu khen và tha cho không bắt tội.
Bính là một người bản tính thông
minh nhanh nhẹn, lại sẵn có khí tiết, thường làm thơ để tỏ chí của mình, có
hai câu rằng:
Tim gan
chất chứa hờn trời đất,
Mặt mũi
đành trơ với tháng ngày.
Về sau, các cống sĩ và các hào mục
địa phương họp quân ở làng Nga Khê, huyện Thiên Lộc, định đánh úp thành Nghệ
An. Họ bèn suy tôn Bính làm quân sư. Bọn Bính kéo quân đến xã Bình Lãng, ven
núi Hồng Lĩnh để đánh nhau cùng quân Tây Sơn. Bị thua trận, Bính liền trèo
lên đỉnh núi cao nhất của núi Hồng Lĩnh, tự tay đề một bài thơ vào vách chùa
ở đó như sau:
Đền nước không còn chước,
Bên mình có mũi dao.
Ngoái cổ nhìn Hồng Lĩnh.
Chín mươi chín đỉnh cao.
Rồi Bính lấy dao đâm thọc vào bụng
mà chết; quân dân nghe tin, ai cũng thương xót.
Lại nói, vua Quang Trung, sau khi
quyết định việc đánh Trung Quốc, bèn sai bề tôi là Chiêu viễn Vũ Văn Dũng
sang nhà Thanh, dâng biểu cầu hôn và đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng
Tây. Điều đó không phải là bản tâm của vua Quang Trung, chẳng qua chỉ muốn
thử xem ý nhà Thanh ra sao mà thôi. Nhưng vừa lúc ấy thì vua Quang Trung bị
bệnh rồi mất. Hôm đó nhằm ngày mùa thu, tháng tám năm Nhâm Tý (về tháng vua
Quang Trung mất, có một vài tài liệu chép là tháng 9. Nhưng theo sự chứng minh
rất xác đáng của ông Hoàng Xuân Hãn (La Sơn phu tử, tr. 158-160), dựa vào
sách Đại Nam thực lục và tài liệu của các giáo sĩ phương Tây đã chép lúc
đương thời, thì vua Quang Trung đã mất vào ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý
(1792). Cũng theo ông Hoàng Xuân Hãn, thì việc Hoàng Lê nhất thống chí chép
mất vào tháng 8 như ở đây cũng không hẳn là sai; vì theo sách lịch Tây Sơn
đương thời, tháng 7 năm Nhâm tý là tháng thiếu, ngày 29 lại là ngày cuối
tháng, mà vua Quang Trung lại mất vào khoảng nửa đêm, như thế thì chép tháng
7 hay tháng 8 cũng chỉ chênh nhau chừng nửa giờ mà thôi), sau khi lên ngôi
hoàng đế được 5 năm. Trước đó, khi sứ nhà Thanh sang phong, vua Thanh có ban
cho vua Quang Trung chiếc áo màu, trong thêu bảy chữ bằng kim tuyến: Xa
tâm chiết trục đa điền thử (câu này nghĩa đen là: "Bụng xe gãy
trục, nhiều chuột đồng". Theo Hán văn, chữ xa với chữ tâm hợp
lại thành chữ Huệ tên vua Quang Trung. Chuột thuộc về tý. ý
nói năm tý vua Quang Trung chết). Bấy giờ không ai hiểu ra sao, thì ra đến
lúc này mới nghiệm.
Sau khi vua Quang Trung mất, việc
cầu hôn và việc đòi đất không thấu đến triều đình Trung Quốc, nên vua Thanh
cũng không biết (theo gia phả họ Vũ (Vũ Văn Dũng) thì tờ biểu đã đệ lên vua
Thanh, và đã được vua Thanh nhận lời gả công chúa cùng trả lại đất Quảng
Đông. Sau nghe tin vua Quang Trung chết nên việc đó mới đình chỉ).
Tháng ấy con trưởng vua Quang
Trung là Quang Toản theo di mệnh của vua cha, lên nối ngôi, đổi năm sau tức
là năm Quí Sửu (1793) làm năm đầu niên hiệu Cảnh thịnh, và truy tôn vua Quang
Trung làm Thái tổ Vũ hoàng đế. Rồi đó, Quang Toản sai sứ thần sang Trung Quốc
báo tang, đem dâng các sản vật địa phương và hai thớt voi đực; lại sắp xếp lễ
cống hàng năm và làm tờ biểu xin phong vương, để hai sứ bộ cùng đi một lúc.
Trong tờ biểu có nói: "Vâng lời dặn lại của vua cha, sau khi chết, không
đưa di hài về quê hương, mà chôn cất ở làng Linh Đường (thuộc huyện Thanh Trì
(Hà Nội)) phía ngoài kinh thành để tỏ lòng mến nhớ cửa khuyết...".
Vua Thanh khen ngợi, tức thì sai
sứ thần sang làm lễ tế. Quang Toản bèn làm ngôi mộ giả ở làng Linh Đường để
nhận lễ thăm viếng của nhà Thanh. Trong bài văn tế của nhà Thanh có câu:
"Chúc ngôi Nam cực, lòng trung đà tỏ trước sân triều; yên giấc Tây Hồ,
trọn đời vẫn không quên cửa khuết".
Vua Thanh lại ban cho thuỵ hiệu là
"Trung thuần" và ban tặng một bài thơ, bảo khắc vào đá, dựng bên
trái mồ vua Quang Trung để làm nổi rõ sự vinh hiển.
Rồi đó, vua Thanh phong cho Quang
Toản làm An Nam quốc vương.
Sau khi được phong, Quang Toản bãi
lệnh đeo "tín bài", triệt hồi các đạo quân đi bắt dân lậu, nghiêm
cấm việc quấy nhiễu nhân dân, dùng cậu ruột là Bùi Đắc Tuyên làm chức thái
sư, coi tất cả mọi việc chính sự của triều đình.
Vì thấy Quang Toản còn nhỏ, Đắc
Tuyên ra mặt chuyên quyền, tha hồ làm oai làm phúc, các quan văn võ đều nem
nép kiêng sợ, mầm mống tai hoạ bắt đầu từ đấy.
Lại nói, vua Lê từ mùa xuân năm Kỷ
Dậu (1789) chạy sang đất Trung Hoa, trọ ở thành Quế Lâm.
Mùa đông năm ấy, vua Thanh nghe
lời bàn của bọn Khang An, Hoà Khôn, phong vương cho Nguyễn Huệ, lại giáng chỉ
đòi vua Lê vào Yên Kinh. Mùa xuân năm Canh Tuất (1790), vua Lê bắt đầu lên
đường, tháng năm mùa hè năm ấy thì đến Yên Kinh. Các quan văn võ của nước ta
trước sau sang đất Trung Quốc đều được lần lượt đi theo.
Vừa khi ấy, vua Thanh đi tuần du,
gặp bọn Lê Quýnh ở tỉnh Sơn Đông, bèn sai người gọi vào ra mắt và dụ rằng:
- Chủ các ngươi đã xin yên ổn ở
lại Trung Quốc, lũ các ngươi giốc lòng cùng theo, thì nên lập tức gọt đầu
gióc tóc, đổi đồ mặc để chờ mệnh lệnh.
Bọn Quýnh tâu rằng:
- Lũ tiểu thần từ xa xôi muôn dặm
theo trốn sang đây, xin cho được dùng phong tục bản xứ để ra mắt quốc vương,
rồi sau sẽ xin vâng chỉ.
Vua Thanh khen ngượi hồi lâu, rồi
bảo họ đi thong thả lên Yên Kinh.
Lúc bấy giờ, vua Lê cùng thái hậu
và con đầu của vua trọ ở cửa Tây Định trong thành Yên Kinh, cạnh nhà Quốc tử
giám, trước cửa có biển đề: "Tây An Nam doanh" (Dinh An Nam phía
tây). Còn các bề tôi thì ở trong cửa Đông Trực, cạnh nhà Dương phố, ngoài cửa
có biển đề: "Đông An Nam doanh" (Dinh An Nam phía đông). Tất cả bọn
đều được nhà Thanh chiểu theo số người mà cấp phát cho lương ăn, và cho phép
tự do qua lại.
Một hôm, nghe tin vua Thanh sắp ra
Nhiệt Hà tránh nắng, mờ sáng ngày mai thì lên đường. Nhân dịp đó vua Lê liền
cùng các bề tôi thảo ra tờ biểu xin quân cứu viện, rồi nhờ vào viên đô thống
đội Cờ viền vàng tên là Kim Giản, để xin yết kiến vua Thanh.
Đến khi xe vua Thanh đi qua, vua
Lê cùng các bề tôi đều quỳ xuống yết kiến ở mép đường bên trái. Xe vua Thanh
dừng lại một chút, có viên thông ngôn báo rằng: "Hoàng đế có chỉ khen
thưởng". Rồi viên đó giục họ lạy tạ và trở về doanh. Lát sau, đã thấy
Kim Giản vâng chỉ vua Thanh phong cho vua Lê chức tá lãnh, đời đời nối chức
và được lĩnh áo mũ tam phẩm.
Vua Lê bất đắc dĩ phải nhận vậy.
Cách mấy hôm sau, lại thấy có viên quan ở nội phủ vâng chỉ vua Thanh đòi vua
Lê vào sân điện, ban cho bốn trăm lạng bạc và sai người sắp sẵn cho các thứ
đồ vật. Còn những bề tôi đi theo, đều được cấp mỗi người năm trăm đồng tiền.
Các lễ mừng, lễ điếu ở trong nước, đều chiểu theo như thể lệ đã định cho
những người thuộc tám hiệu cờ.
Năm ấy, vua Lê thấy người Thanh
không thể tin cậy được, bèn cùng bọn Phạm Như Tùng, Hoàng ích Hiểu, Lê Hân,
Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Văn Trưởng, Lê Quí Thích và Nguyễn
Đình Cẩm, người làng Hương Ngạnh, huyện Từ Liêm, Lê Tùng người làng Tây Đàm,
Lê Thức người làng Đáp Cầu, huyện Hoằng Hoá cùng nhau uống máu ăn thề, rồi
cùng thảo tờ biểu, xin quân cứu viện. Lại bàn nếu xin quân không được, thì sẽ
xin đất cũ là hai châu Tuyên Quang, Hưng Hoá để thờ tổ tiên, hoặc lẻn vào Gia
Định để mưu đồ việc khôi phục, nhỡ có gặp sự bất trắc thì sống chết cũng
liều.
Thảo xong tờ biểu, bọn họ đến báo
trước cho Kim Giản biết, Kim Giản không tiếp. Vua tôi nhà Lê cùng nhau rập
đầu xuống đất mà kêu thật to. Kim Giản bất đắc dĩ phải mời vào nhà, pha trà
thết đãi, rồi bảo:
- Vương hãy cứ về quán trọ mà chờ,
sẽ bàn bạc sau.
Được hơn một tháng, thấy có viên
quan nhà Thanh tên là Khoa Lan tới báo với vua Lê rằng: "Đã có chỉ
truyền tạm cho vương vùng đất Khâm Châu (thuộc Quảng Đông). Chờ đến năm sau
vào dịp mùa xuân hoa nở sẽ trở về nước cũng không muộn gì".
Vua tôi nhà Lê đều không tin.
Tháng ba, mùa xuân năm Tân hợi
(1791). Hoà Khôn lập mưu chia đám vua tôi nhà Lê ra mỗi người một nơi để họ
khỏi kêu ca, bèn sai Khoa Lan cưỡi ngựa tới nói dối rằng:
- Đã có chỉ truyền cho vương về ở
đất Tuyên Quang, vậy các bề tôi cần phải chỉnh đốn mũ áo để cho vương vào
triều tạ ơn.
Các bề tôi nhà Lê ở doanh Đông đều
tin là thật, bèn theo đến ấn phòng. Khôn sai người lấy khoá sắt khoá luôn
lại, rồi dùng xe trâu đưa họ đi ra ngoài ba trăm dặm, an trí Hoàng ích Hiểu ở
Y Lê, Lê Hân ở Phụng Thiên, Như Tùng ở Hắc Long Giang, Quốc Đống ở Cát Lâm,
Viết Triệu ở Trương Gia Khẩu thuộc Nhiệt Hà, chỉ để một mình Trần Thiện ở lại
hầu hạ quốc vương.
Vua Lê nghe tin ấy, lo giận bồn
chồn, đến sáng sớm cưỡi ngựa vào nhà Kim Giản, định kêu cho các bề tôi. Vừa
lúc ấy, Kim Giản đã vào chầu vua Thanh ở vườn Viên Minh. Vua Lê lập tức ruổi
ngựa đi thẳng tới cửa vườn, nhưng đến nơi thì bị lính canh cửa ngăn lại.
Người dắt ngựa của vua Lê là Nguyễn Văn Quyên, quê ở Bố Vệ, phục xuống đất
kêu ầm lên. Bọn người Thanh sợ tiếng kêu gào vang đến chỗ vua Thanh, bèn giật
lấy con ngựa của vua Lê, rồi vực luôn cả nhà vua lên xe bắt đến toà Thận Hình
giữ lại.
Văn Quyên bèn cất tiếng mắng to:
- Bọn chó Ngô vô lễ, dám làm nhục
vua ta!
Sau đó, Văn Quyên lập tức lấy gạch
ở sân ném bừa vào bọn chúng. Đám quân lính giữ vườn nổi giận, xúm lại đánh
Văn Quyên gần chết, đoạn cũng bắt đến giam ở toà Thận Hình đúng một tháng mới
tha cho về. Văn Quyên nhân thế bị bệnh mà chết.
Lúc bấy giờ, Nguyễn Huy Túc đang
lánh ở vùng núi Tản Viên (tức núi Ba Vì ở Sơn Tây (Hà Nội)), nghe thấy việc
ấy, cho Văn Quyên là có nghĩa, bèn làm bài "Tán" như sau:
"Trung thay mã đồng! Giỏi
thay mã đồng! (người hầu ngựa)
Mến chúa
lòng trung nghĩa, theo đuổi việc binh nhung.
Tấc dạ
như voi, khỉ (Đường
Huyền-tông thường tập cho voi quỳ lạy, lúc An Lộc Sơn cướp ngôi, cũng bắt voi
quỳ nhưng voi không nghe. Đường Chiêu Tông có con khỉ biết quỳ lạy; lúc Chu
Toàn Trung cướp ngôi, cũng bắt khỉ lạy, khỉ không chịu); một đức như kiến,
ong.
Mạnh mẽ
như loài gấu; thẳng thắn như chim hồng
Cắt đâm
chẳng lánh, hổ doạ cũng xông.
Ngựa
trời vung cẳng; hùm sói tranh phong.
Phì
nguyền da ngựa (theo
ý câu nói của Mã Viện nhà Hán: "Làm trai nên lấy da ngựa bọc thây".
Chỉ việc hăng hái hy sinh nơi chiến trận); để tiếng vô cùng.
Kìa ai
đó?
Xiêm bào
ngoài mặt; sâu mọt trong lòng.
Ruồi
xanh xu nịnh, hươu ngựa gian hùng (thơ
"Thương dăng" Kinh Thi ví bọn tiểu nhân như đàn
ruồi xanh. Triệu Cao, gian thần nhà Tần, chỉ con hươu mà nói với vua là con
ngựa).
Sao
chẳng bảo chúng:
Sung làm
hẩu ngựa; bắt muỗi giết trùng.
Vậy dám
đặt tên cho anh là Trung tráng công!"
Trong lúc vua Lê ở toà Thận Hình,
một hôm Hoà Khôn sai người đến doanh Tây, ép thái hậu bảo phải thảo tờ biểu
nói rằng: quốc vương tình nguyện ở lại đất Trung Quốc, việc xông vào cửa
khuyết và làm huyên náo là tại các người bề tôi gây ra...
Biểu đang thảo thì viên giám thần
là Nguyễn Trọng Đắc trông thấy, liền giật lấy bản nháp xé đi và nói:
- Bị người ta lừa dối mà đưa các
bề tôi đến chỗ chết thì làm thế nào?
Người Thanh lại bắt ép Trọng Đắc
về ở doanh Tây, rồi cấm hai doanh không được tự tiện đi lại với nhau.
Một hôm, con vua Thanh, tước vương
thứ sáu, nhân lúc lui triều thư thả, tới nhà Hoà Khôn nói chuyện, có bàn đến
việc nước An Nam. Vương nói:
- Vua tôi họ Lê gặp nạn chạy sang
nước ta, mà cầu cứu không được, cũng nên thương xót, giúp đỡ họ. Chắc các bề
tôi của họ cũng đều là người trung nghĩa. Nay họ không có tội gì mà bắt giam
ở đất xa, nước ngoài nghe thấy, họ sẽ bảo Trung Quốc ra sao?
Khôn nói:
- Hoàng thượng đã có chỉ truyền
như vậy, việc ấy đức vương không cần phải biết đến!
Vương nói:
- Hoàng thượng tuổi đã già, việc
nước đều đo quốc lão đây xử trí; mọi việc đúng hay sai, quan hệ không phải
nhỏ. Ta đây sao lại không cần biết!
Khôn vốn cậy thế vua Thanh yêu
mến, lại ăn nói vô lễ, khiến cho vương giận lắm, lập tức cầm chiếc bàn cờ
đánh Khôn. Cả bọn người ngồi đấy đều đứng dậy khuyên giải, can ngăn, Khôn mới
thoát nạn.
Hôm sau, Khôn hậm hực vào kêu với
vua Thanh. Vua Thanh tức thì nổi giận lôi đình, sai người đòi vương vào, định
tự tay đánh đòn. Viên quan nội các là A Lâm rập đầu xuống đất cố sức can, vua
Thanh mới chịu thôi, liền sai người đánh vương ở trước sân điện mười gậy.
Vương lui ra, tức quá thành bệnh.
Cách vài ngày, bệnh thêm nặng, vương bèn gọi các vương thứ tám, thứ mười một
và thứ mười bảy tới dặn rằng:
- Trong ba em, chưa biết sau này
hoàng thượng lập ai? Hễ ai nối ngôi thì phải trừ khử tên gian tướng ấy đi,
đừng có để mối lo lại cho xã tắc!
Ba người nghe lời, đều lạy hai lạy
xin vâng và lui ra. Sau đó, vương mất.
Từ đấy, vua Lê không còn dám nói
đến việc xin quân cứu viện nữa, nhưng trong lòng uất ức không bao giờ nguôi.
Tới mùa hè, năm Nhâm Tý (1792),
con đầu của vua Lê lên đậu rồi mất. Nhân thế, vua Lê lo buồn sinh bệnh, thoi
thóp nằm liệt không dậy được. Năm sau, bệnh nhà vua càng nguy kịch, các bề
tôi bị an trí ở những nơi khác đều dâng biểu về hỏi thăm.
Lúc đó, có người gia đồng của Lê
Như Tùng tên là Lê Huy Vượng, vì có công hầu hạ khó nhọc, vua Lê cho làm con
nuôi, đặt tên là Duy Khang, bảo giữ việc thờ tự hoàng khảo và hầu hạ thái
hậu.
Lúc hấp hối, vua Lê gọi các thị
thần tới nhận lời trăng trối, nhà vua nói:
- Trẫm gặp phải lúc vận nhà suy
kém, không thể giữ được xã tắc; phiêu bạt ở đất nước người để hòng tính việc
khôi phục, lại bị đứa quyền gian lường gạt; uất ức đến mãi bây giờ, phải ôm
hận mà chết, thật do lòng trời gây nên. Sau này nếu các ngươi được về nước,
thì nên đèo nắm xương tàn của trẫm cùng về, chôn ở cạnh lăng tẩm của các vị
thánh hoàng đời trước, để tỏ rõ chí hướng của trẫm. Các người nên ghi nhớ lấy
và nói cho mọi người đều biết.
Các bề tôi đều khóc lạy, xin vâng
lời.
Rồi đó vua Lê tắt thở, thọ 28
tuổi. Bấy giờ là ngày 16 tháng mười, mùa đông năm thứ 58 niên hiệu Càn-long
nhà Thanh (1792).
Vua Thanh sai dùng lễ quốc công an
táng vua Lê ở khu Quảng Lăng, ngoài cửa Tây Trực, đất rộng chừng ba mẫu, xung
quanh có giậu ngăn; lại bảo các bề tôi đi theo đều theo lễ mà chế đồ tang
trở. Sau đấy, vua Thanh bèn cho Duy Khang nối chức tá lãnh.
Nguyễn Viết Triệu ở Nhiệt Hà, tiếp
được tin buồn, liền đặt linh vị làm lễ thành phục, khóc lóc thảm thương, hôn
mê luôn mấy ngày, rồi phát bệnh mà chết.
Đến năm đầu niên hiệu Gia-khánh
nhà Thanh, tức là năm Bính Thìn (1796), hết trở vua Lê, Thái hậu thấy các bề
tôi đi theo, ở nơi đất khách cô đơn khổ sở, mà chưa biết đến ngày nào mới trở
về, bèn dâng tờ biểu xin cho các người theo trốn sang Trung Quốc đều được lấy
vợ.
Vua Thanh cho phép và ban cho mỗi
người tám lạng bạc, 35 đồng tiền lớn để làm lễ cưới, bảo họ ai ở chỗ nào, cứ
tuỳ tiện yên phận mà sinh cơ lập nghiệp ở chỗ ấy.
Lại nói, vua Tây Sơn (từ đây,
trong bản chữ Hán đều theo quan điểm của triều Nguyễn dùng chữ "Tây
nguỵ" để trỏ nhà Tây Sơn) là Quang Toản, tuổi trẻ nối ngôi, Đắc Tuyên
chuyên chính đã lâu, hình ngục phiền hà, trong ngoài chia lìa, Bắc, Nam nhốn
nháo, lòng người lung lay. Mặt khác, quân của triều Nguyễn (trong bản chữ
Hán, từ đây về sau đều dùng hai chữ "hoàng triều" để chỉ triều
Nguyễn (Gia-long)) từ năm Mậu thân (1788) đã lấy lại thành Gia Định; năm Canh
tuất (1790) lấy lại được hai phủ Bình Thuận và Duyên Khánh. Từ đó trở đi,
quân triều Nguyễn luôn luôn tiến đánh mặt bắc, thanh thế rất mạnh. Mười ba
thừa tuyên ở Bắc Hà cũng đều nghển cổ để chờ sự trung hưng của triều nhà
Nguyễn. Sự bại vong của nhà Tây Sơn, những kẻ am hiểu tình thế đều nhìn thấy
rõ ràng, nhưng riêng vua tôi nhà Tây Sơn thì vẫn không biết.
Thật là:
Gặp nước thuồng luồng đà hoạt bát,
ở nhà én sẻ vẫn im lìm
Chưa biết sự thể ra sao? Hãy xem
hồi sau phân giải.
Theo điển trong sách Khổng
tùng tử, én sẻ ở trên mái hiên, không biết rằng người nhà đã có lửa
cháy... ở đây ý nói nhà Nguyễn đã gặp thời cơ như thuồng luồng gặp nước;
Quang Toản sắp bị diệt mà vẫn không biết gì cả.
|
Hồi 17
Mất
thành Thăng Long, vua Cảnh Thịnh bị bắt
Táng lăng Bàn Thạch, Nguyễn Hoàng Phi chết theo
Lại nói, vào năm đầu khi vua Tây
Sơn Quang Toản mới lên nối ngôi tức là năm Quí sửu (1793), đại quân của nhà
Nguyễn (Nguyễn ánh) cả thuỷ lẫn bộ, từ Gia Định kéo ra đánh vua Tây Sơn
Nguyễn Nhạc ở thành Qui Nhơn. Tướng sĩ của Nhạc đánh mãi đã mệt nhọc, thế lực
dần dần cùng quẫn, Nhạc bèn sai người đến chỗ Quang Toản xin quân cứu viện.
Quang Toản hợp các tướng mà bảo rằng:
- Ta nghe nói "môi hở răng
lạnh, môi còn răng ấm", nay vua bác có nạn mà sức chống giữ kém cỏi,
không thể không cứu.
Rồi Toản cho đô đốc Nguyễn Diệu
làm chức đại tổng quản, dẫn quân vào Nam cứu Nhạc. Quân chúa Nguyễn lại rút
về.
Tháng 8 năm ấy, Nhạc mất, con cả
là Quang Thiệu lên nối ngôi. Nhân thế, Diệu chia quân giữ lấy thành. Tiếng là
cứu viện, nhưng thực ra là thôn tính ngấm ngầm.
Năm sau, tức là năm Giáp Dần
(1794), Quang Toản lại sai Đắc Trụ (có sách chép Đắc Thân, là con Đắc Tuyên)
làm chức tán nghị, đi vào Qui Nhơn cùng với Quang Thiệu trấn giữ thành ấy và
lấy Nguyễn Diệu làm thống suất, lĩnh đại quân tiến đánh thành Nha Trang. Từ
Lê Văn Trung trở xuống, tất cả bảy tướng đều được gia phong làm tước quận
công quản binh và nghe theo lệnh chỉ huy của Diệu. Diệu tiến sát thành Nha
Trang, mà quân tuần tiễu thì đã đến tận địa phận tỉnh Bình Thuận. Quân nhà
Nguyễn hết sức chống giữ khiến Diệu không thể thắng nổi. Hồi đó, quân Tây Sơn
luôn luôn đến xâm lấn miền Nam, hai bên chống chọi với nhau đến hàng năm.
Thình lình Diệu nghe tin cha con
Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở đều bị bọn tư đồ Dũng và thái bảo Hoá giết chết,
bèn vội vàng kéo quân về, họp bàn cùng bọn tướng tá, định dùng quân lực bắt
hiếp bọn Dũng.
Nguyên từ năm Quang Toản mới lên
ngôi tới khi ấy, Đắc Tuyên thì chuyên quyền, còn Văn Sở thì trấn giữ thành
Thăng Long, coi hết việc quân, dân, rồi được thăng chức đại tổng lý, tước
quận công. Năm ấy Quang Toản lại sai đại tư đồ Dũng ra coi binh mã bốn trấn ở
miền Bắc. Dũng đến nhà trạm Hoàng Giang, gặp trung thư lệnh là Trần Văn Kỷ
phạm tội bị đày ở đó. Dũng cùng ngủ đêm với Kỷ, Kỷ bèn nói với Dũng rằng:
- Quan thái sư (chỉ Đắc Tuyên)
chức vị đã cao tột bực, trong tay nắm quyền làm oai làm phúc, lại đẩy ông ra
ngoài, nếu có sự chẳng lợi cho nhà nước, các ông phỏng còn giữ được đầu
chăng? Bây giờ chẳng sớm liệu đi, sau này ăn năn sao kịp?
Dũng vốn tin và trọng Văn Kỷ, bèn
cho lời Kỷ là phải. Hôm sau, Dũng đem quân bản bộ gấp đường quay về, hợp mưu
với thái bảo Hoá, bắt phe đảng Đắc Tuyên bỏ ngục; lại sai người vào Qui Nhơn
bắt Đắc Trụ và sai đô đốc Hài ra thành Thăng Long lập mẹo bắt Ngô Văn Sở đưa
về, rồi thêu dệt thành tội trạng làm phản mà đem dìm xuống nước cho chết hết.
Quang Toản không thể ngăn chặn nổi,
đành chỉ khóc lóc mà thôi. Sau đó, Dũng lại sai Hoá vào giữ thành Qui Nhơn.
Chẳng mấy chốc, Diệu ở Nha Trang
nghe tin, đêm ngày lo nghĩ, chỉ sợ vạ lây đến mình, bèn bảo các tướng rằng:
- Chúa thượng không cương quyết,
đại thần giết lẫn nhau, tai biến không gì lớn hơn thế nữa. Nay hãy kéo về để
dẹp yên cuộc phiến loạn ở bên trong, rồi sau lại vào đánh giặc cũng được.
Các tướng đều nói:
- Xin theo mệnh lệnh!
Ngay hôm ấy Diệu giải vây cho
thành Nha Trang rồi kéo quân về thành Qui Nhơn. Hoá nghe tin, đến tạ tội
trước. Diệu lờ đi không hỏi. Về tới làng Yên Cựu (ở phía nam thành phố Huế,
trên bờ sông Hương (Bình Trị Thiên)), Diệu đóng quân ở bờ nam sông. Dũng cùng
bọn nội hầu Tứ thì đem bản bộ đóng ở bờ bắc sông, mượn mệnh lệnh của nhà vua
để chống lại với Diệu.
Quang Toản sợ lắm, phải sai bọn
trung sứ qua lại vỗ về, hoà giải, Diệu mới chịu đem bọn tả hữu vào yết kiến
Quang Toản và giảng hoà với bọn Dũng; kế đó Diệu lại xin gọi Hoá về và xin
cho Lê Văn Trung thay chân Hoá, trấn giữ thành Qui Nhơn.
Lúc đó, bọn người ở bên cạnh Quang
Toản ngày đêm gièm pha rằng, oai quyền của Diệu lớn quá, đang toan có mưu
khác. Toản tin là thật, liền rút hết binh quyền của Diệu, chỉ cho giữ một
chức quan vào hàng thị thần mà thôi. Bình sinh Diệu vốn tương đắc với Lê Văn
Trung, bèn gửi thư mật vào Qui Nhơn, hẹn Trung cất quân lập Quang Thiệu làm
vua mà bỏ Quang Toản. Trung theo lời, bèn kéo quân về, đồng thời xin Quang
Thiệu thân đem quân tiếp ứng phía sau.
Quân Trung về đến Quảng Nam, trong
ngoài nhốn nháo sợ hãi. Quang Toản họp các quan lại bàn bạc, mọi người đều
nói:
- Bảo Văn Trung lui quân, phi Diệu
không ai làm được!
Quang Toản liền sai Diệu đi. Văn
Trung không báo trước với Quang Thiệu mà một mình một ngựa theo Diệu về yết
kiến Quang Toản. Quang Thiệu nghi ngờ, sợ hãi, lập tức rút quân và voi về
thành Qui Nhơn, đóng chặt cửa thành để cố thủ.
Quang Toản sai tướng đến đánh liên
tiếp mấy tuần không hạ được, bèn tự mình làm tướng đem quân đi. Đến Lê Giang,
có viên thái phủ tên là Mân nói với Toản rằng:
- Cuộc biến loạn Quang Thiệu thực
do Văn Trung gây nên, tội không thể tha, xin giết ngay để răn kẻ khác.
Quang Toản cũng cho là phải, bèn
sai vời Trung vào dinh, bảo võ sĩ trói lại đem chém. Sau đó, Toản vỗ về tướng
sĩ, hạ lệnh tiến đánh Qui Nhơn, mười ngày hạ được thành, bắt sống được Quang
Thiệu. Toản bèn để Mân ở lại giữ thành Qui Nhơn, rồi cùm Quang Thiệu đưa về,
dùng thuốc độc giết chết.
Nhà Tây Sơn kể từ khi Văn Nhạc,
chiếm giữ Qui Nhơn vào năm Mậu Tuất (1778), tức là năm thứ 39 niên hiệu Cảnh
Hưng, thì tự xưng là thiên vương, đặt niên hiệu là Thái Đức; năm Canh Tý
(1780) lại xưng hoàng đế, lập Quang Thiệu làm thái tử. Năm Quý sửu (1793),
Nhạc mất, Thiệu lên nối ngôi, được năm năm, đến năm Mậu Ngọ (1798) thì mất
nước, tất cả là 21 năm.
Lại nói, sau khi Văn Trung bị
Quang Toản giết, con rể Trung là Chất nghi ngờ, sợ hãi, bèn phản Tây Sơn, vào
Nam đầu hàng chúa Nguyễn ở Gia Định. Chúa Nguyễn cho coi quân ngự lâm.
Nguyên lúc đầu, Chất thờ Quang
Toản, giỏi về tài đánh dẹp, làm đến chức đại đô đốc. Đến khi Văn Trung chết,
Chất bỏ quân lính chạy trốn. Thái phủ Mân sợ Chất làm loạn, liền lùng bắt rất
gấp. Chất có người đày tớ nghĩa hiệp hoá trang như hình dáng của Chất, rồi tự
tử ở khe núi, để cho Mân thôi, không lùng bắt Chất nữa. Chẳng bao lâu, Mân
biết là giả dối, bèn treo giải thưởng truy lùng Chất hết sức ráo riết. Chất
bất đắc dĩ phải ra thú ở cửa quan của Mân. Mân liền sai Chất coi toán quân
tiền phong, để chờ sai phái, và định bụng dùng quân luật mà giết chết. Chất
biết ý ấy, bèn dỗ bọn tướng tá của y, gồm sáu mươi người, đem quân và voi vào
Nam, dâng biểu xin hàng. Sau Chất vâng mệnh chúa Nguyễn đem quân đánh nhau
với Mân. Quân Mân thua to, Mân phải chạy vào núi rừng mà trốn; quân, voi, khí
giới đều bị Chất thu sạch.
Quang Toản nghe tin, lại sai đại
tư đồ Vũ Tuấn dẫn binh tới trấn, chiêu tập tàn quân để đóng giữ.
Đến năm Canh Thân (1800), quân
chúa Nguyễn vượt biển ra đánh, sức Tuấn chống không nổi, dâng thành xin hàng.
Chúa Nguyễn bèn đổi thành Qui Nhơn làm trấn Bình Định, sai quan coi hậu quân
là Tính quận công Võ Đình Tính (cũng thường gọi là Võ Tính) đem quân đóng
giữ, còn thượng thư bộ Lễ là Ngô Tòng Chu thì làm chức hiệp trấn.
Được vài tháng, Quang Toản sai
thống suất Diệu và tư đồ Dũng đốc suất các đạo quân thuỷ bộ vào đánh Qui
Nhơn. Diệu coi quân bộ, Dũng coi quân thuỷ, hai đạo hợp sức mà đánh. Quân
Nguyễn hết sức chống giữ bọn Diệu không thể đánh thắng. Dũng bèn dùng ba
chiếc tàu chiến lớn, chặn ngang cửa biển Qui Nhơn, trên tàu lập chòi gác, đặt
súng lớn; phía trong lại dàn quanh vài trăm chiếc chiến thuyền, đốc thúc quân
thuỷ canh giữ đề phòng quân cứu viện ở ngoài đến.
Năm sau, bị quân Nguyễn đánh tan,
tàu lớn và chiến thuyền đều bị thiêu huỷ. Dũng lên bộ, dẫn tàn quân mà chạy,
rồi hợp quân với Diệu.
Quân Tây Sơn đã mất đường thuỷ,
bèn đắp luỹ đất, ụ đất ở xung quanh thành Qui Nhơn, để đứng trên đó mà bắn
vào thành; lại lập nhiều đồn trại kiên cố, chứa chất quân lương, làm kế ở
lâu. Nhưng quân Nguyễn canh giữ rất cẩn mật, bọn Diệu không sao hạ được
thành. Quang Toản rất lấy làm lo.
Lúc ấy lại có bọn cha cố của đạo
Gia-tô tây dương (tiếng dùng để gọi các nước phương Tây nói chung) ở trong
nước Nam, đi khắp nơi dụ các đạo đồ làm loạn. Các nơi nổi lên như ong, Quang
Toản liền sai bắt bọn trùm trưởng của họ đem giết chết, rồi triệt hạ các nhà
giảng, phá huỷ các ảnh tượng và đốt các sách tây của họ. Hễ bắt được đồ đảng
của họ, lại bắt phải giẫm chân lên ảnh thì mới tha, ai không chịu thì bắt
sung quân nuôi voi, cắt cỏ cho voi ăn. Bởi thế, giáo dân tức giận, càng xui
giục lẫn nhau, đâu đâu cũng đều náo động.
Còn quân nhà Nguyễn thì hàng năm
ra đánh, thanh thế lừng lẫy. Mỗi khi gió nam nổi lên, thì nhân dân các trấn
lại nói với nhau: "Chúa cũ ra đấy!" (bấy giờ hàng năm cứ đến khoảng
tháng 4, tháng 5 khi gió nam thổi mạnh thì Nguyễn ánh đốc quân thuỷ bộ ra
đánh, đến lúc có gió mùa đông bắc thổi thì lại rút quân về. Người đương thời
thường gọi những đợt tấn công như vậy là những trận "giặc mùa". Bọn
sĩ phu phản động chống Tây Sơn và ngả theo Nguyễn ánh mới nhân đó, đặt ra câu
ca dao: Lạy trời cho chóng gió nồm, Cho thuyền chúa Nguyễn thuận buồm
trẩy ra).
Lúc đó, nhà Nguyễn cho rằng tướng
mạnh và quân tinh nhuệ của Tây Sơn đều tụ họp cả ở Qui Nhơn mà Quang Toản ở
thành Phú Xuân thì quân lính phòng giữ rất yếu ớt, bèn đốc suất hết thuỷ quân
và trên một ngàn chiến thuyền, hẹn ngày thuận theo gió nam vượt biển ra phía
bắc. Cờ quạt chói nắng, chiêng trống vang trời, xông thẳng vào đánh cửa Thuận
An. Tướng Tây Sơn là phò mã Trị đem hết quân lính chống giữ, địch không nổi,
phải tan vỡ. Quang Toản nghe tin, lại đốc hết tướng sĩ, tự mình cầm quân tới
đánh nhau với quân Nguyễn. Gần trưa, quân Toản đại bại, vỡ chạy tan tác. Quân
chúa Nguyễn bèn tiến lên, chiếm lại đô thành. Hôm đó nhằm vào ngày mùng 3
tháng năm, mùa hè năm Tân dậu (1801), tức là năm thứ 24, kể từ khi chúa
Nguyễn ánh quyền giữ việc nước.
Sau khi thua trận, Quang Toản rụng
rời hoảng hốt, liền thay đổi đồ mặc, cùng vài người quan hầu, cưỡi ngựa chạy
trạm, chạy ra miền Bắc. Đến Nghệ An ở lại vài ngày, rồi lại ra Thăng Long hộ
họp tướng sĩ, lo việc chống giữ. Tháng sáu mùa hè năm ấy, thình lình viên
trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Thận sai người báo tin lầu Rồng ba tầng ở đấy tự
dưng đổ sụp. Những người nghe tin đều cho là điềm chẳng lành.
Sang đầu mùa thu, quan nhà Nguyễn
là Tường quang hầu cùng Thuỵ ngọc hầu vâng chỉ đem quân theo hai đường Hương
Sơn và Trấn Ninh ra đánh, để quấy rối trấn Nghệ An. Nguyễn Thận sai tướng đón
đánh, quân của Thận luôn bị thua. Sau vài ngày, Tường quang hầu vì lũ lụt
không thể ở lâu, bèn đem thuyền cũ cắm ở cửa sông vùng Hương Sơn, đầu và đuôi
thuyền bện cỏ làm hình quân lính, cho mặc áo giáp cầm kích, trong thuyền đắp
vài đĩa đèn để cho quân Tây Sơn nghi ngờ, rồi nhân lúc đêm tối đem quân bản
bộ cưỡi thuyền nhẹ xuôi dòng xuống phía đông, ra cửa Nam Giới, vượt biển mà
về Nam. Đến khi quân Tây Sơn biết thì quân của Tường quang hầu đã đi được hai
ngày rồi. Thuỵ ngọc hầu cũng từ Trấn Ninh rút quân theo đường mạn ngược mà về
kinh sư.
Ngày tháng tám năm ấy (1801), Quang
Toản ở Thăng Long, xuống tờ dụ vỗ về quân dân các trấn, và đổi niên hiệu Cảnh
Thịnh làm năm đầu niên hiệu Bảo Hưng. Tháng mười một mùa đông năm ấy, Quang
Toản thân hành đem quân và voi của bốn trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh
Bắc và hai trấn Thanh Hoa, Nghệ An vào đánh, nhưng bị quân nhà Nguyễn đánh
thua, lại phải rút về.
Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1802),
quân nhà Nguyễn qua sông Gianh tiến đánh hạ được đồn Tâm Hiệu thuộc châu Bố
Chánh. Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung trong hạt Kỳ Anh. Tháng
năm mùa hè năm ấy (1802), chúa Nguyễn hạ chiếu đổi niên hiệu làm năm đầu niên
hiệu Gia Long, ban tờ dụ ra cho quân dân Nam Hà, Bắc Hà đều biết.
Nguyên từ năm 49 niên hiệu Cảnh
hưng, tức là từ năm Bính ngọ (1786) trở về sau, nhà Nguyễn vẫn dùng niên hiệu
cũ của nhà Lê.
Năm Nhâm Tuất (1802) này, lúc đầu
cũng vẫn còn gọi là năm Cảnh-hưng, đến bây giờ mới đổi ra niên hiệu mới.
Bấy giờ, trong thành Qui Nhơn hết
ăn, quan quân đều đói mệt. Viên tham tán là Ngô Tòng Chu uống thuốc độc chết
trước. Tính quận công cũng tự đốt mà chết. Tướng sĩ hơn vài vạn người đều ra
thành xin đầu hàng. Diệu bằng lòng nhận cho hàng.
Sau khi vào thành, Diệu lập tức
bàn với bọn tướng tá đem quân về đánh kinh thành (Phú Xuân (Huế-Bình Trị
Thiên)). Qua vài ngày, Diệu đem quân ra khỏi địa giới trấn Qui Nhơn thì bị
viên phó tướng của nhà Nguyễn là Đắc lộc hầu chặn lại. Nguyên từ năm ngoái,
sau khi nhà Nguyễn lấy lại kinh thành, liền sai Đắc lộc hầu tới đó lập đồn
cắm trại để ngăn chặn sự tiến công của quân Tây Sơn. Lúc ấy, Diệu đem quân về
qua đó, đánh phá hàng nửa ngày mà không thể hạ được. Quân Diệu bị quân nhà
Nguyễn bắn sang, người chết và người bị thương gối nhau mà nằm. Diệu chẳng
biết làm thế nào, bèn đem quân và voi dọn núi mở đường đi vào địa giới nước
Ai Lao, định ra Nghệ An. Chúa Nguyễn nghe tin, lập tức cắt đặt các tướng,
thống lĩnh các đạo quân thuỷ bộ, hẹn ngày kéo ra Bắc.
Ngày 28 tháng năm, quân thuỷ của
nhà Nguyễn đi tới cửa biển Đan Nhai thuộc trấn Nghệ An, tiến đánh và phá được
đồn Quần Mộc. Quân bộ cũng tiến đến phía nam sông Thanh Long, nổ ba tiếng
súng rồi vượt sang bờ phía Bắc. Hai mặt thuỷ bộ đều tiến công, quân Tây Sơn
kinh sợ, bỏ chạy tán loạn. Quân nhà Nguyễn bèn xông lên cướp kho thóc Kỳ Lân,
rồi kéo cờ phấp phới. Viên trấn thủ của Tây Sơn là Nguyễn Thận cùng với hiệp
trấn Nguyễn Triêm, thống lĩnh Đại, thiếu uý Đằng bỏ thành chạy ra miền Bắc.
Đến đồn Tiên Lý, Triêm tự thắt cổ; còn Thận chạy ra trấn Thanh Hoa. Thế là
quân nhà Nguyễn lấy được thành Nghệ An.
Diệu ở Qui Hợp xuống đến địa phận
Hương Sơn thì nghe tin Nghệ An đã tan vỡ, bèn đến Thanh Chương, qua sông
Thanh Long, do đường phía trên huyện Nam đường chạy ra trấn Thanh Hoa. Tướng
sĩ đi theo Diệu dần dần tản mát mỗi người một nơi. Quân nhà Nguyễn đuổi theo,
bắt sống được Diệu.
Ngày tháng sáu, quân nhà Nguyễn
tiến đánh thành Thanh Hoa. Em Quang Toản là đốc trấn Bàn cùng bọn Thận, Đằng
đều đầu hàng.
Ngày 18, vua Gia Long tiến ra
Thăng Long, truyền lệnh cho các quân đánh thành, quân Tây Sơn hoàn toàn tan
vỡ. Quang Toản bỏ thành cùng với em là Quang Thuỳ và bọn đô đốc Tú qua sông
Nhĩ Hà chạy về hướng bắc. Sau, Thuỳ và vợ chồng Tú đều tự thắt cổ. Còn Quang
Toản cùng các bề tôi thì đều bị thổ hào Kinh Bắc bắt được đóng cũi đưa đến
trước cửa quân. Bọn quan lại ở các trấn hoặc trốn, hoặc hàng, không một ai
dám chống lại. Quân Tây Sơn đến đấy là hoàn toàn bị dẹp tan.
Vua Gia Long ở lại thành Thăng
Long, hạ chiếu kêu gọi nhân dân yên ổn làm ăn, chia đặt quan văn, quan võ ở
các trấn: lại vời các quan văn, võ nhà Lê và các bậc kỳ lão, hỏi về công việc
ở Bắc Hà; tha bớt thuế khoá, phu phen, bãi bỏ mọi sự phiền hà, chiếu theo sổ
đinh cũ của nhà Tây Sơn cứ bảy suất đinh kén một người lính, rồi lập ra các
quân năm doanh và mười cơ.
Vài tháng sau, vua Gia Long về
kinh đô Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù, đem bọn vua tôi Quang Toản ra dùng
cực hình giết chết, rồi bố cáo cho khắp cả nước đều biết (theo Đại nam thực
lục chính biên, thì Quang Toản cùng những người con khác của anh em Nhạc, Huệ
đều bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác để giết chết. Còn Huệ, Nhạc
cũng bị trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài cốt bị giã nát vứt đi;
đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Nguyễn Huệ đều bị giam ở
nhà Đồ Ngoại, sau lại đưa vào cấm vố vĩnh viễn trong ngục thất). Từ đấy Nam,
Bắc yên vui, cõi bờ chung hiệp, cơ đồ sẽ thống nhất muôn đời vậy.
Lại nói, từ khi thái hậu nhà Lê
chạy sang Yên Kinh, ở tại "Tây An Nam doanh" được bốn năm thì cháu
đầu (tức con trai cả của Chiêu Thống) mất, năm năm thì vua Lê mất. Những
người đi theo đều bị Hoà Khôn đưa đi các nơi khác, chỉ còn thái hậu và Duy
Khang ở lại Yên Kinh mà thôi. Tấc lòng cố quốc tha hương, tơ sầu muôn mối;
mưa xuân sương thu, mấy độ thở than. Thái hậu với các thị thần thường muốn
dâng biểu xin về nước, nhưng vì đất nước đang bị Tây Sơn chiếm cứ, lại đành
phải ngậm sầu mà thôi.
Ngày 11 tháng mười, mùa đông năm
thứ tư, niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh, tức là năm Kỷ vị (1799), thái hậu lo
buồn thành bệnh, mất ở "Tây An Nam doanh". Vua Thanh giáng chỉ sai
quan bộ Lễ trông coi việc tang, và đem di hài quàn tạm ở cạnh lăng vua Chiêu
Thống.
Trước đó, từ năm ất Mão (1795),
tức năm thứ 60 niên hiệu Càn-long, vua Thanh đã truyền ngôi cho con thứ 11,
tức là vua Gia Khánh. Sau khi lên ngôi, vua Gia Khánh bèn tôn vua Càn Long
làm thái thượng hoàng. Bấy giờ vua Gia Khánh nghĩ lại lời dặn của anh, tức là
vương thứ sáu, định giết Hoà Khôn, nhưng vì Hoà Khôn là người được thượng
hoàng yêu mến, nên vẫn chưa dám hạ lệnh giết.
Đến mùa xuân năm ấy, thượng hoàng
mất, vua Gia Khánh liền sai bắt Hoà Khôn, ép buộc hắn phải tự tử, đồng thời
tịch thu hết thảy gia tài của hắn.
Sau khi giết Hoà Khôn, nhân tiện
bàn đến việc vua cũ của nước Nam, vua Thanh cũng tỏ vẻ thương hại, bèn vời
các bề tôi của nhà Lê bị an trí trước kia, cho vào ở trong xưởng Lam thần,
ban ơn rất hậu, đầu tóc, quần áo đều cho được tuỳ tiện.
Năm Quý Hợi (1803), năm thứ tám
niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh, tức là năm thứ hai niên hiệu Gia Long ở nước
ta; lúc đó đã dẹp yên xong quân Tây Sơn, nhà Nguyễn bèn sai sứ thần sang nhà
Thanh, dâng biểu trần tình và xin phong vương. Các bề tôi cũ của nhà Lê nghe
tin, liền làm tờ bẩm trình với quan nội các, xin đem linh cữu của vua cũ và
thái mẫu về nước an táng. Viên quan nội các đem việc ấy tâu lên.
Năm Giáp Tý (1804), vua Thanh
giáng chỉ cho đưa di hài của vua Chiêu Thống về táng ở quê nhà và cho các người
bề tôi trốn theo đều được về nước; lại truyền xuất tiền công cấp cho viên tá
lãnh mười lạng bạc, viên kiêu kỵ tám láng, còn từ lãnh viên trở xuống thì kể
cả đàn ông đàn bà, mỗi người lớn được năm lạng, mỗi người nhỏ được ba lạng;
đồng thời bảo các tỉnh dọc đường phải giúp đỡ và tiễn đưa họ ra cửa ải.
Tháng giêng năm ấy, các bề tôi mở
quan tài vua Lê Chiêu Thống thì thấy da thịt đã nát hết, chỉ có trái tim
không nát, mà sắc máu hầu như vẫn còn đỏ tươi. Tính từ khi quàn đến bây giờ
đã mười hai năm. Ai trông thấy cũng đều lấy làm lạ và than thở. Rồi đó, họ
lại lượm di hài của thái hậu và con đầu của vua. Cả di hài của Viết Triệu và
Văn Quyên cũng được đưa về theo.
Ngày 13 tháng 8 mùa thu năm ấy, di
hài vua Lê đưa về đến cửa ải. Hoàng phi là Nguyễn Thị Kim nghe tin, liền từ
Kinh Bắc lên cửa ải để đón linh cữu. Ngay từ hôm ấy, hoàng phi tuyệt thực,
mỗi ngày chỉ uống một chén hồ, vật vã bên linh cữu mà khóc lóc. Ngày 23 tháng
8 di hài đưa về đến Thăng Long, các quan dựng rạp tế ở nhà Diên tự công. Hằng
ngày hoàng phi chỉ nhấm vài đốt mía mà thôi.
Ngày 12 tháng 10, các quan thay
hài cốt vua Lê sang một chiếc tiểu khác, thấy trái tim vẫn còn y nguyên.
Tế xong, hoàng phi đến trước hương
án khóc lóc thảm thiết và nói với Diên tự công rằng:
- Ta nhẫn nhục vất vả đã mười lăm
mười sáu năm trời nay, trong những ngày ấy không phải là không dám chết, chỉ
vì thái hậu, vua ta, con ta vẫn ở bên Trung Quốc, âm tín không thông, còn mất
không rõ, nên ta còn chờ đợi một chút. Nay thái hậu cùng vua ta đều mất, con
ta cũng chết, linh cữu đã về đến nước nhà thế là việc của ta xong rồi, ta
phải chết theo để hầu bên lăng tẩm mới phải.
Rồi đó, hoàng phi liền uống thuốc
độc tự tử. Ai nghe tin ấy cũng đều thương xót. Sứ thần Trung Hoa bấy giờ đang
ở đấy cũng than thở, ngợi khen mãi.
Ngày 13, các quan lại sắm quan
khách khâm liệm cho haòng phi, rồi ngày 28 cùng rước xuống thuyền đưa về trấn
Thanh Hoa.
Ngày 24 tháng 11, các quan làm lễ
an táng vua Lê, thái hậu, hoàng phi, con vua ở cạnh lăng vua Hiển-tông, trên
núi Bàn Thạch (thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá). Hai quan tài của Nguyễn Viết
Triệu, Nguyễn Văn Quyên cũng táng theo ở gần đó.
Trước đây, khi di hài vua Lê đưa
về đến ải Nam Quan, Duy Khang bái biệt trước linh cữu rồi đi về nẻo Lạng Sơn.
Còn viên trấn thủ cũ của xứ Kinh Bắc là Lê Hân về đến Thanh Hoá thì bị bệnh
chết. Vợ Hân là người Trung Quốc đưa quan tài chồng về tại quê chồng ở làng
Nộn Hồ (tục gọi là làng Non Hồ), huyện Nam Đường, trấn Nghệ An, tìm họ hàng
nhà chồng để làm lễ an táng. Rồi nàng ở lại, không về Trung Quốc; lấy người
cháu trong họ chồng làm con kế tự giữ tiết trọn đời, đến 80 tuổi mới mất.
Các bề tôi theo vua Lê lúc đó đều
về quê quán. Chỉ có Trịnh Hiến lại ra làm quan với nhà Nguyễn; rồi sau về
làng, vì việc tài sắc bị kẻ thù giết chết.
Sau khi hoàng phi đã chết theo vua
Lê, người khắp cả nước ta và người Trung Quốc đều khen là bậc tiết nghĩa.
Có người làm bài "Tiêu cung
tuẫn tiết hành" (bài trường ca về người cung phi chết theo vua) để lưu
truyền đời sau, lời rằng:
"Đất
Thuận An cạnh sông Thiên Đức, (tức
sông Đuống)
Người
đời xưa gọi ấp Tỳ Bà.
Khúc tỳ
mượn ý đặt ra,
Trời
sinh người đẹp sánh hoa Đại-đề (tên
một khúc ca trong Cổ nhạc phủ, ca ngợi người con gái đẹp như hoa. ở đây mượn
tên đó để chỉ người con gái đẹp)
Khí tươi
tốt nhóm về khuê tú,
Năm Cảnh
hưng ất-dậu mừng sao,
Nhà sang
sinh bậc nữ hào,
Công,
dung, ngôn, hạnh vẻ nào kém đâu.
Tuổi
mười bảy kén vào cung khuyết,
Bính ngọ
liền sớm biết điềm hùng (điềm
con gấu; thơ "Tư can" Kinh Thi nói nằm mộng thấy
con bi con hùng (gấu) là điềm sinh con trai)
Ơn trên
cao cả muôn trùng,
Đượm
nhuần mưa móc phúc hồng chứa chan,
Năm đinh
vị Tây Sơn khởi biến.
Cảnh
phong trần chợt đến khôn lường.
Ngoài
thành giong ruổi xe hương,
Quân hầu
tan tác, bàng hoàng bên sông.
Vó ngựa
lạc Văn phong mấy độ,
Theo từ
vi (trỏ mẹ vua) đến Võ
Nhai sơn.
Quần
Hồng lận đận núi ngàn
Liễu bồ
phải chịu muôn vàn long đong,
Xa trông
đợi tin rồng vắng bặt,
Chốn
nhàn đình nước mắt chứa chan.
Bỗng đâu
tiếng trống nổi ran,
Tướng
Cao Bằng rước xe loan lên đường.
Tới Mục
Mã vội vàng nghỉ lại,
Thuyền
vua giong lên ải Phất Mê.
Địch
nghe tin, kíp đuổi kề,
Tên bay
đạn lạc bốn bề rối ren.
Bè một
mảng qua phen kinh hãi,
Bao hiểm
nghèo rồi lại bình yên.
Vin cây
giẫm đá trèo lên,
Mưa mù
lam chướng đầy trên một trời.
Dân sở
tại chào mời, đưa dắt,
Gập
ghềnh theo lối tắt đường ngang.
Hết
đường, tới núi, vào hang,
Giếng
thơm trong suốt, nước đang dạt dào.
Biết
động ấy thuở nào đào đục?
Mà hôm
nay hưởng phúc thần tiên!
Nước
ngàn rau núi cũng yên,
Chim
kêu, hoa rụng, nỗi buồn tạm khuây.
Trong
nội địa (chỉ Trung Quốc) tin
đâu bay đến,
Quan
trên liền sai khiến người sang.
Trước
sau căn vặn tỏ tường,
Long
Châu tạm đón dọc đường nghỉ chân.
Cấp phẩm
vật mọi phần tươm tất,
Lính đưa
đường cẩn mật, tận tình.
Rồi cho
đến ở Nam Ninh,
Cửa nhà
rộng rãi quán đình nghiêm trang.
Dù Nam,
Bắc, đôi đường chua xót,
Lễ nghi
thường chưa chút đơn sai,
Một niềm
từ huấn vâng lời,
Tiêu
phòng (phòng ở của cung phi có
trát hồ tiêu vào vách cho ấm; đây chỉ vợ vua) giữ lễ trong ngoài phân
minh.
Nhờ
thượng quốc đề binh cứu viện,
Muôn dặm
xa đưa đến tin vui,
Về Nam
cờ quạt rợp trời,
Vườn xưa
điện cũ sáng ngời vẻ xuân.
Tiếng
đàn, trống muôn phần rộn rã,
Cảnh cỏ
hoa thoả dạ lâu nay.
Nào ngờ
vạ gió tai bay,
Buồn vui
chốc lát đổi thay khôn lường
Trên ngự
giá vội vàng ra ải,
Từ vi và
cháu dại cùng đi.
Não lòng
thay lúc biệt ly,
Bỗng
dưng kẻ ở người đi rã rời.
Sang
phía tây tìm nơi lẩn tránh,
Cảnh chơ
vơ, cô quạnh, đau thương.
My, Ngu
xưa cũng một phường (Mỵ
Châu, vợ Trọng Thuỷ; Ngu Cơ, vợ Hạng Võ; cả hai người con gái đều chết trong
cảnh loạn lạc, rồi Mỵ Châu hoá thành viên ngọc, Ngu Cơ hoá thành cỏ thơm),
Ai làm
nên nỗi dặm đường gian truân.
Xưa nhà
Hạ có lần suy bại,
Một lữ,
thành dấy lại cơ đồ.
Giáo
gươm thượng quốc giùm cho,
Nằm gai
nếm mật vua lo đủ điều.
Ví xã
tắc có nhiều người giỏi,
Phận
thuyền quyên đâu phải gian nan.
Khoảng
năm quí sửu đồn sang,
"Chầu
trời" tin ấy bàng hoàng một phen (chỉ
vào tin Chiêu Thống chết).
Nghĩ vì
lẽ dân đen mong mỏi,
Nên Tây
Sơn kia nói sai ngoa,
Đến khi
vận mở nước nhà,
Sứ thần
sang, mới biết là không sai.
Ví ngọc
nát, về nơi chín suối,
Hương
hồn khôn bạn với tiên quân (hai
câu này ý nói, nếu hoàng phi chết trước di thì hương hồn không được làm bạn
với vua Lê, lúc đó thi hài còn ở Trung Quốc).
Mười sáu
năm, biết mấy lần,
Rắp theo
Tôn muội làm thân chết chìm (Tôn
muội tức em gái Tôn Quyền và là vợ Lưu Bị đời Tam quốc. Tôn muội bị anh bắt
về ở bên Giang Đông; lúc Lưu Bị đánh Giang Đông bị hại, có tin đồn Lưu Bị đã
chết, Tôn muội bèn nhảy xuống sông tự tử. - ở đây ý nói hoàn cảnh chưa cho
phép Lê Hoàng phi chết được như Tôn muội).
Khiến
gia thuộc dò tìm mấy độ,
Lên ải
quan hỏi rõ nguyên nhân.
Thề sang
tới mộ cố quân,
Quyết
liều tính mệnh với khăn lụa là.
Sống là
khó, xưa đà có biết,
Nào hay
đâu muốn chết cũng gay.
Cơ trời
sao khéo vần xoay,
Quan
trên đã lấy việc này tâu lên.
Cho về
nước, vua liền có chỉ,
Tiết
Trung thu, Giáp Tý vừa qua.
Vội vàng
lên đón linh xa,
Cháo cơm
biếng nuốt, mặt hoa võ vàng.
Thuyền
đủng đỉnh Lô Giang qua bến,
Kiệu
toàn che, rước đến từ đường.
Thần
liêu dâng chén quỳnh tương,
Trông
lên, trăm họ đôi hàng lệ sa.
Tình
khuê phụ thật là khó vẽ,
Rửa nước
thơm làm lễ gọi là.
Mở quan,
cúi mặt nhìn qua,
Chắp tay
vái lạy lệ nhoà hai mi.
Cầm
thuốc độc thầm thì từ tạ
Lui vào
màn uống cả một hơi,
Trẻ già
ai nấy rụng rời,
Triều
đình nghe tiếng bồi hồi tiếc thương.
Ban gấm
vóc bạc vàng phúng viếng,
Bao vần
thơ lên tiếng ngợi khen.
Khen
thay! một chết phỉ nguyền,
Thơm tho
muôn thuở con thuyền thanh danh,
Kìa khuê
các ngọc lành hiếm có,
Sá chi
luống mộ vũ triêu vân (mộ
vũ triêu vân: Chiều mưa sớm mây. Nguyên ở tích Sở Tương Vương đi chơi
Vân-mộng, nằm mơ thấy một thần nữ chung chăn gối với mình, khi từ biệt có nói
rằng: Nhà thiếp ở phía nam non Vu, sớm làm mây chiều làm mưa... Sau người ta
thường dùng chữ "mây mưa" để chỉ việc trai gái giao hoan. - ở đây ý
nói không thiết gì đến chuyện ái ân nữa).
Đai vàng
nọ đứa nịnh thần,
Một đời
ton hót làm thân gian tà.
Kịp đến
lúc sơn hà biến đổi,
Trước
quân thù quỳ gối, chắp tay.
Lạnh
lòng khi đọc thơ này,
Khác nào
roi quất, mặt dày mày ê.
Thân
khuê các giúp bề Tiết giáo,
Mặt phấn
son phụ đạo Cao hình (tiết
giáo, cao hình là việc giáo dục của ông Tiết và việc hình án của ông Cao Dao;
hai ông này đều là những danh thần mẫu mực đời vua Thuấn).
So thơ
Cù, Cát đã đành (thơ
"Cù mộc" và thơ "Cát đàm" trong Kinh Thi, nội
dung đều ca ngợi các bà hậu phi nhà Chu),
Trúc
Tương vằn đẹp lưu danh muôn đời (tương
truyền vua Thuấn chết ở núi Thương Ngô, hai vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đến
viếng, khóc lóc thê thảm, nước mắt thấm vào các khóm trúc ở xung quanh, thành
ra các cây trúc có vằn rất đẹp. Tục gọi là "trúc Tương phi" hoặc
"trúc Tương". Sau hai bà nhảy xuống sông Tương để chết theo chồng).
Người
xưa làm việc dễ rồi.
Nay làm
việc khó không người đó sao? (hai
câu này ý nói, chết ngay theo chồng như hai bà vợ vua Thuấn xưa đã làm, là
một việc dễ; còn chịu đựng đau khổ trong một thời gian dài rồi mới chết theo
chồng như bà Lê hoàng phi, là việc khó)
Bài này do bề tôi cũ nhà Lê là
đồng bình chương sự Tô phái hầu Nguyễn Huy Túc làm.
Tổng trấn Bắc Thành là Thành quận
công (tức Nguyễn Văn Thành) đem việc ấy đề đạt lên. Vua Gia Long bèn hạ chỉ
ban khen, sai lập đền ở quê hoàng phi, là xã Tỳ Bà thuộc huyện Lang Tài để
thờ; cấp ruộng tế và tha thuế khoá cho dân làng ấy để dùng vào việc đèn nhang
thờ cúng: lại sai dựng bia khắc chữ để nêu gương tiết hạnh.
Còn các bề tôi đi trốn theo vua Lê
thì đến mùa hè, năm Tự Đức thứ 14 (1860), các quan ở Bộ theo lời bàn kê rõ lý
lịch, vâng chỉ dụ của nhà vua cho lập đền thờ ở phía tây thành Thăng Long,
tại phường Thuỵ Chương, thuộc huyện Vĩnh Thuận. Thứ tự các bài vị đều sắp đặt
theo như lời bàn của Bộ. Chính giữa là linh vị của Trường phái hầu Lê Quýnh
đặt thuỵ hiệu là "Trung Nghị". Bên tả bày linh vị của mười một
người, gồm có đề lĩnh Nguyễn Viết Triệu, thượng thư Bút phong Đình Giản, Đinh
võ hầu Trần Quang Châu, Trần Danh Kệ, hữu thị lang Nguyễn Huy Diệu, trấn thủ
Lê Hân, chỉ huy Lê Doãn Trị, chưởng tứ bảo Lê Quí Thích, Nguyễn Hùng Trung,
Lê Tùng, tả tham chính Kinh Bắc, Bình vọng Lê Trọng Trường. Bên hữu bày linh
vị của mười một người, gồm có tĩnh nạn công thần Trần Danh án, thanh hình
hiến phó sứ Tuyên Quang Nguyễn Đình Viện, nội thị Nguyễn Quyên, Trần Đĩnh,
đốc đồng Nguyễn Quốc Đống, Địch quận công Hoàng ích Hiểu; Nguyễn Đình Miên,
Đoàn Thận Xưởng võ uý Nguyễn Trọng Du, Lê Thức, Cận quang hầu Phạm Như Tùng.
Tất cả hai mươi hai người ấy đều được đặt thuỵ hiệu là "Trung mẫn".
Ngoài ra, ở phía đông thờ năm
người là Nguyễn Ngọc Liễn, Vương Triệu, Vương Chấn Thiều, Tôn Hạp, Lê Diên
Định. ở nhà phía tây thờ năm người là Trần Lương, Trần Đăng, Vũ Trọng Dật,
Trần Dần, Trần Hạc.
Từ Lê Quýnh trở xuống cộng ba mươi
ba người, trên đầu đều đề là "Cố Lê tiết nghĩa thần" (các bầy tôi
tiết nghĩa đời Lê) và ngôi đền cũng đề là "Cố Lê tiết nghĩa từ"
(đền thờ các bậc tiết nghĩa đời Lê). Việc ấy nêu lên ý nghĩa giáo huấn của
triều đình, là muốn gạn đục khơi trong và bồi đắp phong tục, khiến cho người
sau xem đấy cũng biết rằng: Vì nước, người ta dù có phải chịu khốn khổ trong
một lúc mà vinh quang sẽ lưu truyền muôn thuở vậy.
Hoàng Lê nhất thống chí (Phần 1) Hoàng Lê nhất thống chí (Phần 2) |
Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012
Hoàng Lê nhất thống chí (Phần 3)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét