Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2012

Các giai thoại về triều đình nhà Nguyễn


Vua Gia Long ( 1802 - 1820 ) I Một Hiệp Ước Dựng Nên Vương Nghiệp
Sau nhiều phen chống chọi với Tây Sơn, bị đẩy vào thế cùng lực kiệt, Nguyễn Ánh đích thân đi cầu viện vua Xiêm giúp đỡ. 
Tháng 2 năm 1784 , 20.000 quân Xiêm cùng 300 chiến thuyền ồ ạt tấn công Nam Bộ. Vua Quang trung đem quân vào Gia Định, với mưư lược tuyệt vời, đánh tan đội quân hùng hậu này. 
Không còn hy vọng trông cậy vào người Xiêm, Nguyễn Ánh tìm cách cầu viện Hoà Lan, song Giám Mục Bá Đa Lộc, một cận thần người Pháp của Nguyễn Ánh, gợi ý ông tìm đến nước Pháp. Thế là Nguyễn Ánh bắt tay thực hiện kế hoạch đã đựợc vạch ra 
trong Biên bản một cuộc họp với quần thần tại đảo Phú Quốc trước đó, với những điều khoản cơ bản là: 
- Cần phải cầu viện nước Pháp giúp đở 
- Giao cho Bá Đa Lộc toàn quyền thương thuyết 
- Giao Hoàng tử Cảnh ( 1) cho Bá Đa Lộc đem theo làm tin 
- Xin Pháp giúp 1.500 lính và tàu bè, súng ống, vật dụng 
- Nhường cho Pháp cù lao Hàn 
- Nước Pháp có quyền sử dụng cửa biển Hàn 
- Chịu nhường cho nước Pháp đảo Côn Lôn 
- Cho nước Pháp độc quyền tự do buôn bán ở nước Nam 
Đoàn đại diện của Nguyễn Ánh đứng đầu là Giám Mục Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh lên đường đo cầu viện, mang theo cả một bức thư của Nguyễn Ánh gửi cho Hoàng Đế Pháp Louis XVI : 
- " Dầu đại quốc với tiểu quốc tình thế khác nhau, dầu đông tây cách mấy ngàn trùng, tôi dám chắc rằng Hoàng Đế sẽ tin lời tôi đã tin Giám Mục Bi Nhu ( 2) vậy. Nay tôi giao cho nông ấy Nguyễn Phúc Cảnh, con trưởng của tôi, một cái Kim bửu di truyền và một Biên bàn của Hội Đồng, đủ làm bằng chứng. Tôi chỉ mong ơn Hoàng Đế cho con tôi sớm trở về với binh thuyền..." 
Kết quả thương thuyền của Giám Mục Bá Đa Lộc là sự ra đời của Hiệp ước Versailles ký kết vào ngày 28/11/1787 giữa Bá tước De Montmorin, đạu diện Nguyễn Ánh. Đồng thời, ngay ngay trong ngày đó, Bá Đa Lộc được phong chức Đặc ủy viên của Hoàng Đế Pháp bên cạnh Nguyễn Ánh ( 3) 
Hiệp ước Versailles gồm 10 điều khoản, cơ bản giống với Biên bản mà Giám Mục Bá Đa Lộc mang theo để thương lượng. Nghĩa là bên cạnh việc Pháp hứa gởi quân cứu viện cho Nguyễn Ánh ( điểu khoản 1) Nguyễn Ánh chấp thuận để cho Pháp được riêng hưởng trọn vẹn quyền buôn bán trên khắp lãnh thổ nước Nam ( điều khoản 6), được quyền sở hưũ và chủ quyền thương cảng Hội An ( điều khoản 3) và đảo Côn Lôn ( điều khoản 5) 
Chúng ta biết rằng, năm 1792 vua Quang Trung lâm bệnh nặng rồi mất đột ngột, Quang Toản lên ngôi lúc mới 10 tuổi. Vương nghiệp triều Tây Sơn, do vậy, nhanh chóng rơi vào suy vong, Hiệp ước Versailles về sau không thực hiện được do nội bộ quan chức Pháp lục đục, song nó đã đe dọa nghiêm trọng sự tồn tại của triều Tây Sơn vốn đã yếu thế. Bởi lẽ, bên cạnh Nguyễn Ánh giờ đây đã có Đặc ủy viên Hoàng Đế Pháp Bá Đá Lộc đóng vai trò như một Bộ Trưởng chiến tranh kiêm cả Ngoại Giao, cùng nhiều tướng lĩnh người Pháp khác: 
Olivier Puymanel ( Tham mưu trưởng kiêm chỉ huy trưởng Pháo Binh), 
Phillipe Vannier ( Khâm Sai Chưởng Cơ), 
Jean Baptise Chaigneau ( Khâm Sai Cai Đội ), 
Despiaux ( Y sĩ riêng của Nguyễn Ánh) ..v..v... 
Vừa Gián tiếp vừa trực tiếp, những diễn biến ở Đàng trong sau Hiệp ước Versailles đã giúp đỡ đắc lực cho Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng Đế vào tháng 5/ 1802, lập nên Vương Triều Nguyễn, đồng thời cũng mở đường cho sự bảo hộ chính thức của thực dân Pháp ở Việt Nam sau này. 
chú thích 
1) Hoàng tử Cảnh: Con trai trưởng của Nguyễn Ánh 
2) Bi Nhu ( Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine): Tên của Giám Mục Bá Đá Lộc trước 1771 
3) Lúc bấy giờ, Pháp gọi Nguyễn Ánh là Quốc Vương Đàng Trong 

Vua Gia Long II Cuộc Đời Chinh Chiến Của Nguyễn Ánh
Trong cuộc chiến với Tây Sơn, Nguyễn Ánh từng trải qua lắm gian lao. Nhiều truyền thuyết, chuyện kể còn lưu truyền trong dân gian. Suốt 25 năm, Nguyễn Ánh chạy gần khắp nơi trong Nam, khi về Cà Mau, khi trốn ra đảo Phú Quốc, khi lại phiêu bạt sang Xiêm... 
Nhiều lúc không còn lương thực, Nguyễn Ánh phải ăn trái bần chua với mắm sống; tay bốc cơm nguội, tay xé mắm chứ không dùng đũa. Một hôm có con cá n hỏ tự dưng nhảy vào thuyền ông, báo tin đừng sớm ra khơi, cưú ông khỏi bị Tây Sơn chận ngoài biển. Vào tháng 4 năm Nhâm Dần thứ III ( 1782) Nguyễn Ánh vào Hà Tiên, đi thuyền nhỏ ra biển giữa đêm tối như mực bổng có vật gì như đội dưới đáy thutền, mờ sáng ông mới hay là một bày rắn . Bầy tôi ai cũng sợ hãi, Nguyễn Ánh giục thuyền chèo mau, một lúc sau bầy rắn đi hết, thuyền ra được đảo Phú Quốc. Cái tích " gặp rắn thì đi, gặp quy thì vể xuất hiện từ đó 
Có lần thuyền Nguyễn Ánh định ra khơi, bỗng có con kỳ đà lội qua sông chặn đường không cho thuyền ra biển, sau Nguyễn Ánh mới rõ nếu ra thì sẽ bị quân Tây Sơn chặn bắt. Tích " kỳ đà cản mũi " phát sinh từ chuyện này. 
Những chuyện thoát k hiểm của Nguyễn Ánh thật lắm ly kì. Năm Quý Mão thứ IV ( 1783) quân tây Sơn vào Nam đánh riết, Nguyễn Ánh cùng năm, sáu kẻ bầy tôi phải bỏ chạy tháo quân. Qua sông Lật, nước chảy mạnh quá lại không có đò, Nguyễn Ánh phải nhào xuống lội qua. Đến sông Đặng ( 1) có nhiều cá sấu, Nguyễn Ánh bí đường. Chợt có con trâu nằm trên bờ. Nguyễn Ánh cởi trâu mà qua, nhưng nước chảy xiết, nhấn chìm trâu. may thay có con cá sấu đỡ trâu lên, cứu ông thoát được lên bờ. 
Tháng 7 na/8m Quý Ma4o ( 1783), Nguyễn Hue65 nghe tin nguyễn Ánh ở Côn Lôn, đem hết lính thủy vây riết. Tự nhiên giông tố nổi lên, mây kéo tối rầm, sóng biển dâng to, thuyền Tây Sơn bị chìm quá nhiều, Nguyễn Ánh mới thoát được. 
Một lần, Nguyễn Ánh ra cửa biển Ma Ly thám thính tình thế Tây Sơn, gặp thuyền Tây Sơn hơn hai mươi chiếc vụt tới vây phủ. 
Ông liền kéo thuyền chạy về phía đông, lênh đênh ngoài cửa biển bảy ngày đêm. Thuyền hết nước, quân lính sắp chết khát, Nguyễn Ánh ngửa mặt lên trời khấn rằng: " Như tôi có mạng làm vua, xin cho thuyền ghé vào trong bờ để cứu tánh mạng mấy người trong thuyền ! Nếu không, thuyền chìm xuống biển, tôi cũng cam tâm ". Bỗng nhiên gió lặng sóng im, mặt chia ra dòng trắng, dòng đen, bọc lấy dòng trong ở giữa. Trong thuyền có người múc uống, nếm thấy ngọt, liền la to: " Nước ngọt, nước ngọt! ". Ánh mùng rỡ sai múc b vừa được 4, 5 chum thì nước lại mặn như trước. 
Trong cuộc chu iến với Tây Sơn, nhiều khi quân Nguyễn Ánh thắng là nhờ may mắn. Khi quân Nguyễn Ánh đến gần thành Qui Nhơn, Trần Quang Diệu, Vũ văn Dũng vừa đến Quãng Nghĩa. Nghe quân Nguyễn Ánh đã giữ lại xứ Tân Quan, hai tướng bèn bỏ thuyền lên bộ, kéo đi hơn 20.000 quân. Diệu ở ngoài đèo Bến Đá giả gây thanh thế, Dũng đem quân đến Chung Xá mưu đánh úp Nguyễn Ánh. Ban đêm đi qua khe, có một con nai trong rừng nhảy ra, quân tiền đạo của Dũng nhìn thấy la lên : "Nai ! Nai ". Quân hậu đạo cũng vội la lên : " Đồng Nai ". Quân Tây Sơn tưởng là quân Nguyễn ở Đồng Nai bất thần ập tới nên khiếp sợ bỏ chạy, sập xuống hầm hố khá nhiều. Tống Viết Phúc nhân cơ hội đó đem vài trăm quân ra đuổi ,làm quân tây Sơn thua to. Quan trấn thủ thành Qui Nhơn là Lê Văn Thanh mãi không thấy viện binh đến, mà luơng thực dự trữ đã hết sạch, nên đành phải mở cửa ra hàng. Nguyễn Ánh chiếm được thành, đổi Qui Nhơn là Bình Định 
( Theo Quốc triều chính biên và Tôi biết gì về Gia Long tẩu quốc của Vương Hồng Sến ) 
------------------------------------------------ 
1) Vương Hồng Sến gọi là sông Vàm Cỏ tên cổ là Vùng Gù 


Chân dung hoàng tử Cảnh 

Vua Gia Long III Gia Long và Các Công Thần
Gia Long Thành công được là nhờ các tướng tá hết lòng phò trợ, trong số đó có Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường. Nhưng cả hai đều bị giết hại trong khi Gia Long đang còn trị vì. 
Nguyễn Văn Thành là người Thừa Thiên, theo Nguyễn Ánh từ khi mới khởi binh đánh Tây Sơn, chịu bao đắng cay khổ sở; sau khi đánh Tây Sơn ở Qui Nhơn, lập được công lớn, đứng đầu hàng công thần. 
Khi ra lấy Bắc Hà, Gia Long triệu ông làm Tổng Trấn, giao cho xếp đặt mọi việc, chỉ mấy năm mà đất Bắc Hà được yên trị. 
Sau đó, ông về kinh làm chức Trung Quân. 
Nguyễn Văn Thành có người con trai là Nguyễn Văn Thuyên, thi đỗ cử nhân, thường hay làm thơ để giao du với những kẻ văn sĩ. Bấy giờ nghe Nguyễn văn Khuê và nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, Văn Thuyên bèn làm bài thơ sai tên Nguyễn Trương Hiệu cầm đi mời hai vị vào chơi. Bài thơ như sau: ( 1 ) 
Văn dạo Á Châu da tuấn kiệt 
Hư hoài trắc dục cầu ty. 
Vô tâm cửu bảo Kinh sơn phác, 
Thiện tướng phương tri Ký bắc kỳ. 
U cốc hữu hương thiên lý viễn. 
Cao cương minh phượng cửu thiên tri 
Thư hồi nhược đắc sơn trung tế 
Tá ngã kinh luân chuyển hoá ky. 
Dịch nôm là: 
Ái Châu nghe nói lắm người hay, 
Ao ước cầu hiền đã bấy nay. 
Ngọc phát Kinh Sơn tài sẵn đó 
Ngựa Kỳ kí bắc biết lâu thay. 
Mùi hương hang tối xa nghìn dặm 
Tiếng phượng gò d cao suốt chín mây 
Sơn tể phen này dù gặp gỡ 
Giúp nhau xoay đổi hội cơ này 
Tưởng bài thơ này là lời lẽ nói ngông mà thôi, không ngờ tên Hiệu đưa cho Nguyễn Hữu Nghi xem, Nguyễn Hữu Nghi là thuộc hạ của Nguyễn Văn Thành, một lần lỗi nhẹ mà bị Thành khiển trách, quở mắng rất nặng, chạy sang xin làm môn hạ cho tả quân Lê Văn Duyệt. Được trọng dụng, Nguyễn Hữu Nghi vẩn không quên âm mưu trả thù Nguyễn Văn Thành. Nhân bài thơ này,Nghi đem cho Lê Văn Duyệt xem. Lê Văn Duyệt lại có hiềm khích với Nguyễn Văn Thành nên nắm lấy cơ hội, vào tâu vua. Nhưng vua Gia Long cho là " Thuyên còn trẻ, ưa lối thơ nghông nghêng, chưa đủ căn cứ để kết án. 
Nguyễn Hữu Nghi xúi Nguyễn Trương Hiệu đưa bài thơ ra dọa Nguyễn Văn Thành. Thành liền bắt Hiệu và cả con mình giao cho các quan dinh Quảng Đức điều tra. Bị tra tấn mấy ngày đêm liền, Nguyễn văn Thuyên thú nhận là có mưu phản. Thế là các triền thần ủng hộ Lê Văn Duyệt thi nhau tố cáo Nguyễn Văn Thành xin nhà vua nghiêm trị. 
Uất ức quá, một hôm khi bãi triều, Nguyễn văn Thành chạy theo nắm lấy áo Gia Long mà khóc rằng: 
- Thần theo bệ hạ từ thuở nhỏ đến bây giờ, nay không có tội gì mà bị người ta cấu xé mà lại không cứu? 
Gia Long giật áo ra, bỏ vào cung, từ đó cấm Thành không được vào chầu và sai Lê Văn Duyệt đem Nguyễn Văn Thuyên ra tra hỏi một lần nữa. Nguyễn Văn Thuyên lại thú nhận tội của mình. 
Gia Long được tin, truyền bắt giam Nguyễn Văn Thành để chờ đình thần xét án. 
Thành và mấy người con bị bắt giam ở trong trại quân Thị Trung. Hôm đình thần tra án rồi, Thành ra nói với Thị Trung Thống Chế là Hoàng Công Lý rằng: 
- Án xong rồi, vua khiến tôi phải chết, nếu không chết thời không phải là tôi trung . 
Rồi uống thuốc chết ở trại quân. Có người đem bài biểu trần tình dâng lên Gia Long xem. Gia Long có vẻ thương tiếc, sai một Chánh Đội Trung Quân và 30 tên lính coi việc tang cho Thành, hoàn trả áo mão, lại ban cho 500 quan tiền, 3 cây gấm, 10 cây vải, 10 cây lụa, mấy người con bị giam đều được tha cả. 
Đặng Trần Thường người ở Chương Đức ( tức Huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông) có tài văn học, trốn Tây Sơn váo Gia Định, theo giúp Gia Long, làm đến Bình Lộ Thượng Thư. Một lần, vì làm gian Sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc làm tướng nhà Trịnh vào bậc phúc thần, triều đình kết án phải tội chém. Nhưng rồi Thường lại được tha. Đặng Trần Thường trước có hiềm khích với Lê Chất, nên Chất mới bới những việc sai phạm của Thường như khi ra coi tàu binh ở Bắc Thành, có giấu thuế đầm ao và dinh điền. Thường lại bị bắt giam. Trong ngục, Trần Thường tỏ ý mỉa mai, đến tai đình thần, nên khi kết án, đình thần xử tội giảo. 
Tương truyền Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài Hàn Vương Tôn Phú bằng quốc âm để ví mình như Hàn Tín đời Hán . 
( Theo Việt Nam sử lược và Quốc Triều Chỉnh Biên ) 
1) Nguyên tác và bản dịch của Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, quyển II, Trang 182- 183 


Vua Gia Long 

Vua Gia Long IV Các Bà Phi Của Gia Long
Gia Long có hai bà phi được phong làm Hoàng Hậu là Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu ( mẹ Hoàng tử Cảnh ) và Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu ( Mẹ Minh Mạng ); nhà vua còn sách phong cho bà Lê thị Ngọc Bình ( con vua Lê Hiển Tông, em Ngọc Hân Công Chúa ) làm Đệ Tam Cung. Bà này sinh được hai Hoàng Tử là Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương. 
Bà Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu họ Tống. Năm lên 18 tuổi, Nguyễn Ánh cưới bà đầy đủ nghi lễ truyền thống và tấn phong làm Nguyên Phi. Bởi tính tình cẩn trọng, cử chỉ đoan trang, nên bà được Nguyễn Ánh rất quý trọng. 
Mùa thu năm Quý Mão ( 1873) Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh, phải chạy ra đảo Phú Quốc, sau đó thấy tình hình nguy ngập, Nguyễn Ánh gửi Hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc ( Pigneau de Béhaine) qua Pháp xin cầu viện. Lúc ấy, Hoàng Tử Cảnh mới 4 tuổi. Bá Đa Lộc lạy xin thọ mạng. Nguyễn Ánh và bà Nguyên phi lau nước mắt đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp. Sau khi Hoàng Tử Cảnh đi rồi, Nguyễn Ánh lấy một thoi vàng chặt đôi ( một thoi 20 lượng ) trao cho bà , một nữa và căn dặn : 
- Con ta đi rồi, ta cũng sẽ đi sang Xiêm. Vậy Phi phải ở lại đây ( Phú Qiốc ) để cung phụng Quốc Mẫu ( tức bà Thiếu Khương , vợ của Nguyễn Phúc Luân ) chưa biết gặp nhau khi nào và ở chỗ nào, vậy lấy vàng này làm tin . 
Trong những ngày Nguyễn Ánh bôn tẩu, khi ở Xiêm, lúc ở Việt, bà vẫn một mình hầu hạ mẹ chồng. Ngoài việc hầu hạ mẹ chồng, bà còn thân hành may dệt nhung phục cho quân lính. Một lần, quân Nguyễn giao chiến với quân Tây Sơn, đến hồi quyết liệt, quân Nguyễn núng thế, muốn rút lui, bà tự tay nổi trống thúc quân, quân Nguyễn Ánh hăng hái trỏ lại, xông lên và cuối cùng thắng lợi . 
Sau ngày thu phục đất nước, Gia Long hỏi bà nửa thoi vàng năm xưa, bà đem vàng ra trình lên. Gia Long vô cùng cảm động, cầm lấy nửa thoi vàng và bảo rằng: 
- Vàng này mà còn giữ được, đó thật là ân trời đã giúp cho trong lúc gian nan, chẳng nên quên lãng. Vậy phải để dành về sau cho con cháu biết. 
Dứt lời, Gia Long lấy nửa thoi vàng của mình ráp với nửa thoi vàng của bà Nguyên Phi, rồi trao hết cho bà. 
Cuộc tình duyên của bà Tam Cung Lê thị Ngọc Bình với Gia Long cũng khá lạ kỳ. Sau khi thắng trận trở lại Phú Xuân, Nguyễn Ánh gặp bà vợ trẻ của Quan Toản là công chúa Ngọc Bình đang còn ở lại trong cung, không kịp chạy theo vua Tây Sơn. Say mê trước sắc đẹp của bà, Nguyễn Ánh quyết định lấy bà, sau đó đã phong làm Đệ tam Cung . 
Bà Ngọc Bình lấy hai đời chồng đều làm vua ( Cảnh Thịnh và Gia Long) nên trong dân gian có câu ca dao: 
Số đâu có số lạ lùng! 
Con vua mà lấy hai chồng làm vua. 
Cũng là một sự trớ trêu! Nguyễn Huệ Quang Trung chồng bà Ngọc Hân công chúa; Nguyễn Ánh Gia Long chồng bà Ngọc Bình, em Ngọc hân; hai kẻ cừu địch không đội trời chung ấy lại trở thành anh em " cột chèo " ! 
Đó là những bà phi đặc biệt và nổi tiếng. Còn các bà phi khác trong Hoàng Cung, những gần một trăm bà, lại xảy ra bao chuyện rắc rối. Bài báo của Michel Đức Chaigneau đăng trong tờ " Le monniteur de la Flotte xuất bản năm 1858 tường thuãt như sau: 
- " Khanh sẽ không ngờ rằng cái gì đợi Trẫm ở đây kia ( Ngài chỉ vào hậu cung của Ngài) khi Trẫm rời khỏi nơi đây, ở đây Trẫm được hài lòng vì Trẫm nói chuyện với những người xứng đáng, họ lắng nghe Trẫm, họ hiểu biết Trẫm, và khi cần họ vâng lệnh Trẫm răm rấp, còn ở 
đằng kia Trẫm gặp phải một lũ quỉ xứ thật sự . Chúng cãi vả nhau, n gược đãi nhau, phỉ báng nhau và sau đó tất cả cũng chạy đến cầu xin Trẫm phân xử. Nếu làm đúng thì Trẫm sẽ luôn luôn cầu xin Trẫm phân xử. Nếu làm đúng thì Trẫm sẽ luôn luôn khiển trách tấc cả. Vì Trẫm không biết ai sẽ nhương nhịn ai trong cơn giận dử " . 
Sau một lúc im lặng Ngài tiếp: " Chốc nữa trẫm sẽ ở giữa một đám yêu phụ làm Trẫm điếc tai, nhức óc " ( vừa giả giọng và điệu bộ của một người đàn bà trong cơn giận dữ; Ngài vừa thét): 
- Muôn tâu Bệ Hạ, Hoàng Bệ Hạ phân xử, bà đã sỉ nhục thần thiếp, người ta ngược đãi thần thiếp, thần thiếp xin phân xử ". 
Nhà vua phì cười, rồi nhìn vị đối thoại của Ngài như để gơi ý. Vị quan Pháp cũng cười ngất, nhất là bản kịch câm của nhà vua và những tiếng la hét của Ngài để bắt chước sự giận dữ của các cung phi. Ông tâu: " Việc đó rất dễ, Hoàng Thượng có thể giảm bớt mối sầu khổ của họ bằng cách hạn chế số Cung Phi " . 
Nhà vua ngắt lời: 
- Suỵt ! Hãy nói khẽ! Nói khẽ ! 
Ngài cho những lính vệ và những hộ vệ quân đã theo Ngài khắp nơi được phép lui ra và nói tiếp ; " Ồ ! Ông Chaingneau, nếu các quan đồng liêu của Khanh nghe được điều Khanh vừa mới nói ra đó, họ sẽ trẻ thành những kẻ thù vĩnh viễn của Khanh, Khanh không biết rằng các Cung Phi hầu hết đều là con gái của các quan ư ? Này, mặc dù số tuổi của Trẫm đã đáng kể, nhưng không bao lâu b nữa, một vị quan sẽ dâng hiến cho Trẫm con gái của ông ta. Trẫm không thể từ chối được, vì như thế, Trẫm sẽ chọc tức ông ta và cùng đau đớn. Ở đây chính là một vinh dự và một sự đắc ý đối với một ông quan có con gái được vào Hoàng Cung, và đối với Trẫm đó là một sự bảo đảm chắc chắn nhất về lòng trung thành của ông ta. Trẫm muốn sửa đổi lại cả thế giới, nha61t là đàn bà, vì họ đều đáng ghê sợ hơn đàn ông. Nếu Trẫm ghét bỏ mợt một trong các cung phi của Trẫm, thì nó sẽ than phiền với thân phụ nó ngay, và nếu không sỉ nhục to tiếng trước tuổi tác già nua của Trẫm, thì ông ta cũng khéo léo gieo rắc giữa các quan những sự đồn đại vụn vặt về Trẫm, sẽ làm cho Trẫm mang đầy sự lố bịch trước đôi mắt của thần dân". 
Hẳn đó là lời bộc bạch chân tình của một ông vua trước một người nước ngoài. Câu đánh giá của Gia Long về phụ nữ ở thế kỷ XIX thật thú vị: 
" Trẫm muốn sửa đổi lại cả thế giới, nhất là đàn bà, vì họ đều đáng ghê sợ hơn đàn ông". Đó là câu đánh giá của một ông vua thời phong kiến, theo chế độ đa thê. Còn bây giờ, ở những đất nước theo chế độ độc thê, không hiểu câu đó có còn đúng không? 


( Theo Đại Nam chính biên liệt truyện và Le moniteur de la Flotte của Michel Đức Chaigneau 

Vua Gia Long V Nơi Yên Nghỉ Cuối Cùng
Để chọn được nơi yên nghĩ cuối cùng, Gia Long đích thân duyệt định vị trí, quy hoạch và chỉ đạo, giám sát tiến bộ thi công. Công cuộc chuẩn bị khá chu đáo. Nhà vua muốn theo cách hiệp lăng của thời trước, nên tập trung nhiều lăng mộ trong hàng 
quyến thuộc ở khu vực Thiên Thọ Sơn. 
Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 ngọn núi lớn nhỏ, trong đó Ddại Thiên Thọ là ngọn lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng. 
Được giao nhiệm vụ xem xét núi non tìm phúc địa mai táng nhà c vua là đại thần Tống Phúc Lương Thượng Thư Bộ Binh Phạm như Đăng và thầy địa lý Lê Duy Thanh, con trai Lê Quý Đôn. Phải bói đến bảy lần, Lê Duy Thanh mới chọn được thế đất có long mạch tốt. Được tin , Gia Long thân hành cỡi voi đến nơi xem xét, nhưng không đồng ý, nên đã chọn nơi mai táng hiện nay. Gia Long nói với Lê Duy Thanh một cách nghiêm nghị: 
- Nếu người ta đề cập đến long mạch thì nơi đây thật chíng là nơi thích hợp cho một " lăng ". Thế có phải nhà ngươi muốn giữ chổ này để chôn cho nhà ngươi phải không? ". 
Duy Thanh van xin, Gia Long mới tha tội. 
Trước khi khởi công, nhà vua lại khiến Hoàng Tử thứ tư bói một lần nữa, được quẻ Dư, lời chiêm rằng: 
- Đại Cát Hanh 
Nghĩa là rất tốt và hanh thông. 
Trong những ngày thi công, khi Gia Long lên giám sát, một trận gió xoáy mạnh đột ngột làm sập ngôi nhà mà Gia Long đang trú. Gia Long nhảy vào một cái hố, bị thương ở trán và mí mắt, chân bị đập do một thanh xà nhà rơi trúng. Hai Hoàng tử thứ bảy và thứ tám là Tấn và Phổ bị trọng thương, nhiều người khác bị chết. Gia Long không trừng phạt các quan thí công, lại cấp tiến bạc, thuốc men chạy chữa và 500 tiêu chuẩn gạo cho dân làng Định Môn để giúp cho các nạn nhân bị tai nạn. 
Ngày nay, đến thăm lăng Gia Long, ta sẽ thấy một khung cảnh hoành tráng bao quanh lăng mộ nhà vua. Trước có ngọn Đại Thiên Thọ án, ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu án. Bên trái và bên phải, mỗi bên có 14 ngọn núi lập thế " Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ ". 
Nằn chính giữa trên một quả đồi bằng phẳng là hai ngôi mộ song song: Gia Long Và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu. 
Hai người đã cùng chia xẻ ngọt bùi, cay đắng qua bao nhiêu năm gian truân cho đến lúc thành công, lập nên Vương Triều nhà Nguyễn. 
( Theo Quốc Triều chính biên và Đại Nam thực lục )

Vua Minh Mạng ( 1820 - 1840) Giấc Mơ Của Hoàng Tử Đảm
Khoa Kỹ Mão năm Gia Long thứ 18 ( 1819 ), Minh Mạng, lúc ấy còn là Đông Cung Thái Tử, ra hồ Tĩnh Tâm chơi, tinh thần mệt mỏi, Thái Tử bèn nằm trên võng thiu thiu ngủ. 
Bỗng một người học trò, tự xưng là học giả Lam Sơn đến hầu. Thái Tử thấy người học trò, đầu đội mũ cỏ, tay cầm câi gậy nhọn xiên qua bên mặt trời; tự nhiên mặt trời đùn đùn lên một đám mây đen sì, rồi tối sằm lại. Người học trò giơ gậy lên vẫy thì đám mây đen tan ngay, trời sáng bừng lên. 
Thái Tử về cung đưa chuyện nằm mộng hỏi thị thần. 
Quan Thái bộc đoán : 
" Người học giả đầu đội nón cỏ là học trò, tên y có chử giả, thêm thảo dầu ( mũ cỏ ), là chữ Trứ. Chữ Trứ có nét phẩy cái sát qua chữ nhật, tức là cái gậy xiên qua mặt trời. Từ Lam Sơn lại, người ấy tất quê ở Nghệ An, Hà Tỉnh. Đám mây đen đùn lên ở mặt trời là điểm sau này biên thùy có lọan. Người ấy cầm gậy vẩy, mà đám mây đen tan, là điềm người ấy sau này sẻ dẹp tan giặc. Vậy xin Điện Hạ nghiệm xem khoa này có ai tên là Trứ ở vùng Nghệ An, Hà Tỉnh thi đổ không? 
Thái Tử nghe lời. Đến khi quan trường chấm xong đệ danh sách vào Bộ Duyệt, thấy tên Nguyễn Công Trứ đỗ Thủ Khoa, Thái Tử Đảm mừng là ứng vào điềm mộng, quốc gia để tuyển được nhân tài chân chính. Thế là khoa ấy các quan chấm trường đều được thuởng một cấp 
( Theo Dã Sử Hoài Sơn ) 

Vua Minh Mang

Vua Minh Mạng I Minh Mạng Với Việc Học Hành Của Các Hoàng Tử
Một buổi nọ, Minh Mạng cho vời quan phụ đạo các Hoàng Tử Trương Đăng q Quế vào lạy ra mắt. Ông truyền rằng: 
- Bấy nay ngươi phụ các Hoàng tử trưởng thành cho nên sai ngươi theo việc chính trị . 
Rồi Minh Mạng hỏi luôn: 
- Thiên tư học vấn của các Hoàng Tử thế nào? Những người chung quanh ngươi có ngăn cấm được không? 
Quế đáp rằng : 
- Phép nhà Hoàng Thượng vốn nghiêm, các Hoàng Tử gắng sức học tập không dám trễ nãi. Lại thêm sẵn tính ham học, thông minh, người thường không so được, không dám dẫn đến chỗ bất chính. 
Minh Mạng nói: 
- Dòng dõi đế vương thông minh cũng có, còn bảo là ham học thì ta chưa tin được. Ta lúc trước ở tiềm để ( 1 ) chỉ có việc coi hầu bữa ăn và thăm sức khỏe hoàng khảo mà thôi, đến như học vấn thì chưa biết để tâm nghiên cứu, bây giờ còn hối nữa, huống chi các Hoàng Tử . 
Thế là ông liền sắc rằng, từ nay các viên Tán Thiện, Bạn độc ở Tập Thiện Đường đều cho kiêm công việc các dực phủ thuộc. 
-------------------------- 
( Theo Đại Nam thực lục ) 
Tiếng Trống Chầu Trong Đại Nội. 
Vua minh Mạng khi đang làm việc hoặc đọc sách phải tuyệt đối im lặng để tập trung tư tưởng. Buổi đó, nhà vua đang đọc sách ở Thái Bình Lâu, trong đêm khuya, bỗng nghe có tiếng trống chầu vang dội. Không biết lý do gì, ông liền sắc hỏi. Thì ra đó là tiếng trống phát ra từ địa điểm các Hoàng Tử Miên Thẩm, Miên trinh đang ở. Các Hoàng Tử này họp nhau lại tổ chức diễn tuồng trong đêm mà không xin phép trước. 
Sáng hôm sau, Phủ Tôn Nhơn dâng phiến, Minh Mạng phê: 
- Khởi cổ ở trong thành mà không xin phép. Miên Thẩm phải phạt bổng hai năm, và phải đóng cửa 3 tháng luôn, không được dự triều hạ. 
Từ ngày đó, Miên Thẩm ( tức Tùng Thiện Vương sau này) không dám diễn tuồng nữa. Các bản tuồng sáng tác đều đem ra đốt hết. May mắn cho Miên Trinh, dù có tham dự trong tay trống chầu, nhưng khỏi bị phạt, vì trưởng ban tổ chức là Miên Thẩm . 
----------------------------- 
1) Tức là chưa xuất phủ ra ở riêng vào lúc 18 tuổi 
( Theo Tùng Thiện Vương - Ưng Trình và Bửu Dưỡng ) 

Vua Minh Mạng II Tinh Thần Làm Việc Của Minh Mạng
Vua ( se ) mình. Hoàng Tử trưởng, các Hoàng Tử túc trực ở Duyệt Thị Đường. Thái Y dâng thuốc. Trong thời gian uống thuốc, ông vẫn xem sớ tâu các nơi, phê phán không lúc nào nghỉ. Văn thư phòng là Nguyễn Hữu Khuê và Trương Phúc Cương dâng sớ nói: 
- Y gia có nói: 
-Uống thuốc tất phải bình tâm không lo nghỉ. Nay các sớ tâu trong ngoài đều do Hoàng thượng phê bảo, công việc đến hàng vạn, sao có thể không tổn tinh thần. Xin tỉnh dưỡng tinh thần thì thuốc men mới chóng có hiệu quả. 
Minh Mạng xem sớ, phán rằng: 
- Không ngờ lớp tôi đòi nhỏ mọn mà có lòng yêu lo đến thế . 
Ông bèn truyền các nhà cứ lấy ngày lễ dâng lục đầu bài ( 2 ), ngày chẵn thì thôi. Duy việc gì quan trọng thì cho tâu ngay.... 
Vừa khỏe, ông đã muốn ngự điện nghe việc các quan tâu lại. Gặp trời mưa to, bầy tôi sợ lạnh rét, can vua . Minh Mạng phê rằng: 
- Thế đủ biết lòng thành yêu mến, nhưng Trẫm vẫn khỏe, muốn gặp gặp các khanh để thỏa lòng các Khanh trông ngóng, mà lòng Trẫm cũng được thư thái, chẳng hơn ngày ngày chỉ thấy lũ đàn bà, quan thị không biết nói chuyện gì à. 
Thế là ông liền ngự lên diện Cần Chánh. Bầy tôi lạy mừng ở sân, áo mũ đểu bị ướt. Minh Mạng bèn vời lên trên điện để ngồi, ủy lạo hồi lâu, rồi ban cho tiền vàng , chuổi ngọc trai theo thứ bậc. 
Một hôm, ông vời Trịnh Hoài Đức và Nguyễn Hữu Thận hỏi rằng: 
- Gần đây triều tham tâu việc, so với ngày trước thế nào? 
Đức, Thận trả lời: 
- Trước kia thường ngày tâu việc, bọn thần lui triều thì đã mỏi mệt, cho nên công việc chức chất nhiều. Nay tâu việc có ngày thì ngày thường được chuyên tâm làm việc, cho nên việc Bộ hơi gọn. 
Ông nói: 
- Trẫm nay tuổi đang mạnh, có thể cố gắng xét đoán các việc, chỉ sợ sau này mỏi mệt, không thể được như ngày nay. Xem ra thì người bầy r tôi không dám lười biếng, là vì sợ, cái lòng trễ nãi dễ sinh. Vậy thì bể tôi nhớ khuyên răn vua cho được trước sau như một là việc hay đấy 


1) Se: Đau ốm 
2) Là " bài xanh dầu " để nghi tên người trực làm việc và công việc muốn tâu để dâng lên 
( Theo Đại Nam thực lục ) 

Luật Pháp Dưới Triều Minh Mạng 
Kinh thành nhiều lần có nạn trộm. Việc đần tai Minh Mạng, nhà vua sắc rằng quân dân hễ ai bắt được tên trộm thì hậu thưởng. Sắc vừa mới ban ra, gặp ngay có người bắt được kẻ cắp ngày. Ông bảo bầy tôi rằng: 
- Ăn cắp tuy là tội nhẹ, nhưng giữa ban ngày mà dám ăn cắp ở chốn Đại Đô là rất khinh miệt pháp luật. Bọn vô lại khinh phạm hiến chương như thế, tha thì rút cục cũng không chừa, cũng vô ích", 
Bèn sai chém để răn. Ông lại hạ lệnh cho Quảng Đức ( Tỉnh Thừa Thiên hiện nay- TTB chú) từ nay về sau ở đâu có trộm xảy ra, lân bang phải kíp đến cứu ứng, bắt giải lên quan, làm trái thì có tội. 
Về sau, có quan Tư Vụ Nội Vụ Nguyễn Đức Tuyên ăn bớt nhựa thông công quỷ, Minh Mạng ra lệnh chặt tay để răn dân chúng về tội tham nhũng. 
Để cho thần dân tránh cờ bạc, hút xách, Minh Mạng dụ rằng: 
- Thuốc phiện là thứ thuốc độc từ nước ngoài đem lại, những phường du côn, lêu lỏng lúc mới hút cho là phong lưu, rồi chuyển thành thói quen, thường thường nghiện mà không phể bỏ được. Quan thì bỏ cả chức vụ, dân thì bỏ hết sản nghiệp, thậm chí gày mòn thành tật, tổn thương cơ thể sinh mệnh, nên bàn để nghiêm cấm đi . 
Bấy giờ đình thần bèn tâu: 
- Không kể quan hay dân, ai dám hút thuốc phiện và cất dấu mà nấu nương, buôn bán thì xử tội đồ ( 1 ). Ai bắt được mà tố cáo thì thưởng 20 lạng bạc. Cha anh không ngăn cấm con em, xóm giềng biết mà không tố giác, đều bị xử trượng ( 2 ). 
Lời nghị tâu lên Minh Mạng sửa là quan chức có phạm thì phải cách chức, còn các điều khác thì theo lời bàn mà thi hành. 
( Theo Đại Nam Thực Lục ) 
1) Tội đồ: Bắt làm nô lệ. 
2) Tội trượng: Trượng là sợi mây to, kẻ bị xử trượng, chịu đánh từ 60 đến 100 roi. 

Vua Minh Mạng III Nhà Vua Với Các Vương Phi
Trong đời sống thường nhật, có lẽ vua Minh Mạng là người được hưởng nhiều vui thú nhất trong các vua Nguyễn ở chốn phòng the. Số phi tần trong cung vua chưa rõ bao nhiêu, chắc phải đến năm , sáu trăm người. Sách Minh Mạng chính yếu 
chép:" Năm Minh Mạng thứ sáu, mùa Xuân, tháng giêng, trong Kinh Kỳ ít mưa, nhà vua lấy làm lo, chỉ dụ cho quan Thuợng Bảo Khanh là ông Hoàng Quỳnh rằng: 
- Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghỉ tự đâu mà đến thế nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, hoặ là trong thâm cung, cung nữ nhiều âm khí uất tắc mà nên như vậy ư? Nay bớt đi, cho ra 100 người, ngõ hầu có thể giải trừ thiên tai vậy " 
Vua có nhiều vợ, phần lớn là nguời miền Nam. Như bà Hồ Thị Hoa ( Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu ) là người Biên Hoà, x con của Phước Quốc Công Hồ Văn Bôi. Hai Vương phi sủng ái nhất là bà Hiền Phi Ngô Thị Chính, con của Chưởng Cơ Ngô Văn Sở và bà Lệ Tân Nguyễn Gia Thị, con của Phó Vệ Úy Nguyễn Gia Quý. Hiền phi sinh được bốn Hoàng Tử và hai Công Chúa. Nguyễn Gia Thị sinh được bảy Hoàng Tử và ba Công Chúa . Hai bà này thường hay xung đột nhau, bà Ngô Thị Chính cậy mình được vua yêu mến thường đánh ghen các bà khác làm vua Minh mâng nhiều lúc cũng lâm vào tình trạng khó xử. 
Tương truyền bà Hiền Phi thường nói với những người thân cận rằng : 
- Dù vua có yêu thương tôi bao nhiêu đi nữa thì khi từ biệt cõi trần, tôi cũng ta đi hai tay không mà thôỉ. 
Minh mạng nghe được, đến khi bà mất đã thân hành đến tận chỗ bà nằm, đem theo hai nén vàng, bảo kẻ phục dịch mở hai bàn tay ra, nhà vua để hai nén vàng rồi ngặm ngùi nói : 
- Đây Trẫm cho Phi cái này để cho khỏi ra đi hai bàn tay không .

Vua Minh Mạng IV Chê Khéo Nhà Vua Câu Thơ Hoàng Bào Đối Đáp Giữa Minh Mạng Và Cao Bá Quát
Trong thời kỳ làm Cung Trung Giáo tập, bà Thanh Quan do tài làm thơ và đức độ dạy học, được Minh Mạng tin dùng, quí mến. Bà thường được nhà vua đàm luận thơ văn. 
Một lần có bộ chén kiểu của Trung Quốc mới đưa sang, chén vẽ sơn thủy Việt Nam và có đề thơ nôm cũng như một số đồ sứ kiểu thời đó, Minh Mạng đưa khoe với những người chung quanh. Mọi người yêu cầu bà Huyện Thanh Quan làm một bài thơ chữ Nôm. Bà làm ngay hai câu thơ rằng: 
- Như in thảo mộc trời Nam lại. 
Đem cả sơn hà đất Bắc sang. 
Vua Minh Mạng rất thích thú. 
Cùng hôm đó, nhà vua viết hai chữ Phúc Thọ rất lớn để " ban ơn " chúc mừng một đại thần nào đó. Ông hỏi bà Thanh Quan chữ viết như thế nào, bà khen: 
- Phúc tối hậu, 
Thọ tối trường 
Nghĩa là 
Phúc rất dày, 
Thọ rất dài 
Ban đầu Minh Mạng hơi ngơ ngác, sau nhìn kỹ lại ông mới hiểu ý, bèn mỉm cười và gật đầu. Thì ra Minh Mạng đã viết chữ Phúc béo phục phịch và chữ Thọ dài lêu đêu. 
Bà Huyện Thanh Quan tuy ngầm chê chữ viết của Minh Mạng, nhưng lời chê thật khéo léo và văn vẻ. 
( Theo Giai Thoại văn học Việt Nam Hoàng Ngọc Phách ) 
Câu thơ Hoàng Bào 
Lê Văn Duyệt trả thù được Nguyễn Văn Thành như đã thỏa nguyện. Ai ngờ sau khi Lê Văn Duyệt chết rồi ( 1831 ) thì đến năm ( 1835 ), mộ ông ta lại bị Minh Mạng cho san phẳng và sai dựng lên tại đó một hòn đá lớn khắc mấy chữ thật to; 
- Chổ này là nơi tên Hoạn Lê Văn Duyệt phục pháp. 
Nguyên do chính là vì Duyệt là bố nuôi của Lê Văn Khôi, người cầm đầu cuộc khởi nghỉa thành Phiên An, chiếm lỉnh toàn cỏi Nam Bộ từ 1833 đến 1835. Nhưng khi bắt tội Lê Văn Duyệt người ta đã gán cho Duyệt bảy tội đáng chém và hai tội đáng thắt cổ. Trong hai tội sau, có tội gọi là " câu thơ Hoàng Bào ".
Số là sau khi Gia Long chết ( và Nguyễn Văn Thành bị vu oan phải tử tự ) thì Lê Văn Duyệt là người oai quyền nhất nước, đến Minh Mạng cũng phải kiêng nể. Lúc bấy giờ, người ta đồn rằng Lê Văn Duyệt hay khoe chuyện với người chung quanh là ông ta có xin được một quẻ thánh cho, có bốn câu thơ như sau: 
Tá Hán tranh tiên chư Hán tướng. 
Phù Chu ninh hậu tập chu thần 
Tha niên tái ngộ trần Kiều sự 
Nhất đán hoàng bào bức thử thân 
Tạm dịch 
Giúp hán há thua gì tướng Hán 
Phò Chu nào kém bọn tôi Chu 
Trần Kiều ví gặp cơn nguy biến 
Ép mặc hoàng bào dễ chối ru 
Bài thơ ý nói:- Giả sử, nay mai lại xảy ra một vụ binh biến như vụ Trần Kiều, quân lính ép ta lên làm vua như đời xưa họ đã từng ép Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, thì có lẽ ta cũng đành lòng nghe theo họ, chứ không thể nào khác hơn. Sự việc thực hư như thế nào không biết, nhưng trong dịp hỏi tội Lê Văn Duyệt để xử ( mặc dầu đã chết rồi ) thì có người nhắc đến việc đó, và triều đình lên án thành một tội đáng để xử thắt cổ. 
( Theo Đại Nam chính biên liệt truyện ) 
Đối đáp giữa Minh Mạng và Cao Bá Quát 

Một hôm Cao Bá Quát từ Bắc ninh sang chơi Hà Nội. Bấy giờ Quát mới là một cậu học trò để chỏm. Quát thấy Hà Nội có vẻ rộn rịp khác thường, hỏi ra mới biết Minh Mạng ngự giá Bắc Thành đi thăm Hồ tây và các thắng cảnh khác. Chờ đúng giờ Đạo ngự đi đến Hồ tây, Quát giả vờ xăm xăm nhảy xuống hồ để tắm. Quan quân thấy vậy hoảng hốt, thét bắt trói lại. Càng bị trói , quát càng gào to và giảy giụa vùng chạy, gây ồn ào, hổn độn bên bờ hồ. Vừa lúc đó, kiệu vua đi qua, Minh Mạng truyền lệnh dẫn Quát đến hỏi. Quát kêu là học trò khó mới ở nhà quê lên, nên không biết gì. 
Minh Mạng nghe nói liền nảy ra một ý : nhân dưới hồ nước trong có nhiều đàn cá lội tung tăng đuổi bắt nhau, ông ra một câu vế đối: 
- Nước trong leo lẻo cá đớp cá 
Và hứa với Quát đối được sẽ tha. Quát không cần nghĩ ngợi, cũng tức cảnh việc mình bị trói , đối lại: 
Trời nắng chang chang, người trói người 
Minh Mạng tức giận trước câu đối ấy, nhưng vì không muốn mang tiếng với người Bắc Hà trong fdịp đầu tiên ra thăm Đất Bắc, nên Đành truyền lệnh cởi trói tha cho Cao Bá Quát 
( Theo Bá Bá Quát - Trúc Khê ) 

Vua Minh Mạng ( 1820 - 1840) V Với Khoa Học Kỹ Thuật Phương Tây Sự Cấm Đạo
Minh mạng trong những tiến bộ khoa học kỹ thuật phương Tây. Một lần viên quan Pháp Phillippe Vannier ( tên Việt là Nguyễn Văn Chấn ) dâng vua hai thước đồng Thái Tây tên là Đồng Nhật Khuy, chưa ai biết được phép dùng thế nào. 
Minh mạng thường khảo sát, tìm tòi sử dụng trong những lúc thong thả, khi đã hiểu được cách dùng mới bảo Phan Huy Thực và Nguyễn Danh Bi rằng: 
- Thước đồng này bằng, nghiêng,cao, thấp phân biệt độ số, gần thời đo được núi non, xa thời xem được trời đất, phép tài lắm . 
Nhân đó mới chỉ bảo rõ ràng, khiến sự suy nghiệm sách Quốc Triều Chính biên chép: 
- Tháng bốn Ngài ngự chơi cầu Bến Ngự, xem thí nghiệm tàu chạy máy hơi. Khi trước khiến Sở Võ Khố chế tạo tàu ấy, đem xe chở ra sông, giữa đường vỡ nồi nước, máy không chạy, người đốc công bị xiềng , quan bộ Công là Nguyeẽn Trung Mậu, Ngô Trung Lân vì cớ tâu không thật bị bỏ ngục. Bây giờ chế tạo lại, các máy vận động nhanh, thả xuống nước chạy mau. Ngài ban thưởng giám đốc là Hoàng Văn Lịch, Võ Huy Trinh mỗi người một cái nhẫn pha lê độ vàng, một đồng tiền vàng Phi Long hạng lớn, đốc công và binh tướng được thưởng chung 1000 quan tiền. Ngài truyền rằng: 
- Tàu này mua bên Tây cũng được, nhưng muốn cho công tượng nước ta tập quen máy móc cho khéo, vậy nên chẳng kể lao phí gì. 
Xem vậy, vua Minh Mạng có ý thức khuyến khích học hỏi kỹ thuật tiên tiến phương Tây, dù chỉ là những bắt chước vặt vãnh. 
Năm Đinh Dậu thứ 18 ( 1837 ) đã có loại xe máy dùng để cưa ván ( bắt chước theo cách Tây ) . Minh Mạng xem, truyền: 
- Xe này dùng trâu kéo, con trâu kéo quen thời dẫu gầy ốm mà kéo cũng mạnh, con trâu ở nể dầu to béo mà thở mệt kéo không nổi, cho nên ta thiệt ghét những người ở nể mà không làm việc . 
( Theo Quốc triều chính biên ) 
Sự cấm đạo 
Từ khi Minh Mạng lên ngôi, nhà vua đã có ý không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước. Đến năm Ất Dậu ( 1825 ) có chiếc tàu Thétis vào cửa Đà Nẳng, có một giáo sỉ tên là Rogerot đi giảng đạo các nơi, Minh Mạng lúc ấy mới có dụ cấm đạo. Trong dụ nói rằng: 
- Đạo phương Tây là tà đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo. 
Nhà vua sai tìm bao nhiêu giáo sỉ ở trong nước đem cả về Huế để dịch những sách Tây ra chữ Việt Nam, chủ ý không phải vì việc dịch sách, mà là để cho họ khỏi đi giảng đạo ở hương thôn. 
Tuy đã ngăn cấm nhưng vẫn có người đi giảng đạo, Minh Mạng lại ra dụ lần nữa, truyền cho dân bên giáo phải bỏ đạo, ai bắt được giáo sỉ thì được thưởng. Năm ấy, có một giáo sỉ bị xử giảo, nhiều nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo và cấm đạo. 
Năm 1835, khi thành Phiên An do Lê Văn Khôi tử thủ để chống quân triều đình bị dẹp tan, trong 6 thủ phạm phải đóng củi giải về Huế, có một linh mục người Pháp là Marchand ( cố Du ), một người khách tên là Mạch Tấn Giai và đứa con của Khôi mới lên 7 tuổi. 
Đến khi về Huế thì ông Marchand và 5 người kia đều phải tội lăng trí. 
Sự giết đạo càng dữ dội hơn sau vụ Lê Văn Khôi. Nhà vua một mặt cấm đạo, một mặt ban những huấn điều để khuyên dân giữ lấy đạo chính, nhưng vẫn không ngăn cấm được, chỉ khổ dân tình mà thôi. Các giáo sĩ bấy giờ cứ một niềm liều chết đi truyền đạo giáo cho được, có người phải đào hầm ờ dưới đất hàng mấy tháng để truyền đạo. 
( Theo Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim ) 

Thiệu Trị ( 1840 - 1847 ) Vườn Cơ Hạ
Vua Thiệu Trị là người thích làm thơ, đi đâu cũng có thơ ngự chế. Vườn Cơ hạ do ông xây dựng lại đã được nhà vua ngự chế để ca tụng cảnh sắc ở đây, gồm 14 bài thơ. Nguyên các vật liệu của vườn Cơ Hạ là từ vườn Thư Quang dưới triều Minh Mạng được dỡ đi làm lại. Vua sai Chưởng Vệ Tôn Thất Nghi, Thư Thống Chế Hoàng Văn Cưu, Hoàng văn Hậu quản lỉnh 1800 biền binh chọn ngày tốt khởi công làm. Đô Ngự Sử Viện Đô sát Hà Thúc Lương dâng sớ xin đình chỉ làm vườn Cơ Hạ cho đở tốn phí tổn. Vua truyền chỉ nghiêm quở. Lại sắc cho bộ Công Phàm những người làm việc đều ban thưởng chu đáo. Vườn làm xong đặt các tên : phía Nam gọi là Khâm Vân điện, phía Bắc gọi là Thưởng Thắng lâu, phía Đông gọi là Minh Lý thư trai, phía 
Tây gọi là Thận hiên, khoảng giửa gọi là Quang Biểu các, chung quanh gọi là Tứ Phương Ninh bật hồi lang, hồ gọi là Minh Hồ, cầu gọi là Kim Nghê Kiều, núi gọi là Tỉnh An Sơn, đổi hoành biển ở Thọ An Sơn môn gọi là Cơ Hạ Viên, Thượng Uyển môn , Qui mô rộng rãi hơn trước rất nhiều. 
Vua thường ngự đến chơi vườn Cơ Hạ, có khi gọi cả các quan đến để giải quyết công việc công việc , lại ngự chế các bài thơ về 14 cảnh: 
Điện Khai văn Yến ( mở tiệc văn ở trên diện ) 
Lầu thưởng Bồng Châu ( thưởng cảnh tiên ở trên lầu ) 
Các minh tứ chiếu ( gác soi sáng cả bốn mặt ) 
Lang tập quần phương ( hành lang có đủ các loài hoa) 
Hiên Sinh thi tứ ( hiên này tứ thơ) 
Trai tả thư hoài ( nhà trai toát ra tâm hoài văn thư ) 
Trì lưu liên phương ( thuyền hoa ven sen để ở hồ ) 
Sơn sực tùy đình ( Đình cây tùng đứng sững trên núi ) 
Thủy tạ phong quang ( Gió mát ở thủy tạ) 
Nghê kiều tế nguyệt ( Mặt trăng sáng chiếu vào chỗ cầu vồng ) 
Vũ giang điếu đỉnh ( Thuyền câu ở sông Vũ Giang ) 
Tiên Đông phương tung ( dấu thơm ở động tiên) 
Hồ tân liễu lăng ( sóng như lá liễu ở bên hồ ) 
Đảo thụ oanh thanh ( tiếng oanh kêu ở cây trên đảo ) 
Sau khi làm xong, Thiệu Trị đòi các quan văn ứng chế ( 1 ) 
Có lần ngự chơi vườn này, Thiệu Trị đòi các hoàng thân và quan văn vào chầu thưởng bông mẫu đơn, làm thơ tức cảnh. Ông ban rằng: 
- Nay làm thơ ứng chế, cả thảy 18 người, vừa đúng 18 học sĩ đời Đường được lên cõi DinhChâu ( 2 ) . Ban cho mỗi người một bút, giấy mực và nghiên. Vua tôi xướng họa, sáng tác thi ca trong vườn Cơ Hạ dưới ánh trăng trong . 
Mười tám người trong hội thơ dưới triều Thiệu Trị cho ta liên tưởng đến Tao Đàn nhị thập bát tú triều Lê Thánh Tông. Đây là một hội thơ có lẽ được thành lập ở cung đình triều Nguyễn đầu tiên. Sau đó là Mặc Văn thi xã do Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương sáng lập, rồi Hương Bình thi xã của cụ Ưng Bình Thúc Giạ và Thảo Am Nguyễn Khoà Vy. Những thi đàn tiêu biểu cho xứ Huế đẹp và thơ . 
( Theo Quốc triều chính biên và Đại Nam thực lục ) 
------------------------------------- 
1 ) Vâng mạng ( mệnh ) vua mà làm văn chương 
2 ) Nghĩa là cỏi tiên. Đời Đường có 18 quan văn được lựa vào chầu phủ Thiên Sách, người ta cho là vinh hiển cũng như lên cõi tiên vậy.

Không có nhận xét nào: