Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012

Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi



BẢN PHIÊN ÂM CHỮ NÔM

Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:

Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,

Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.

Duy ngã Đại Việt chi quốc,

Thực vi văn hiến chi bang.

Sơn xuyên chi phong vực ký thù,

Nam bắc chi phong tục diệc dị.

Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,

Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.

Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,

Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,

Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.

Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,

Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.

Kê chư vãng cổ,

Quyết hữu minh trưng.

Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,

Trí sử nhân tâm chi oán bạn.

Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;

Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.

Hân thương sinh ư ngược diệm,

Hãm xích tử ư họa khanh.

Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;

Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.

Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;

Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.

Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,

Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.

Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,

Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.

Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,

Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.

Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;

Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.

Châu lý chi chinh dao trọng khốn,

Lư diêm chi trữ trục giai không.

Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,

Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.

Thần dân chi sở cộng phẫn,

Thiên địa chi sở bất dung.

Dư:

Phấn tích Lam Sơn,

Thê thân hoang dã.

Niệm thế thù khởi khả cộng đái,

Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.

Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,

Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.

Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,

Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.

Đồ hồi chi chí

Ngộ mị bất vong.

Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,

Chính tặc thế phương trương chi nhật.

Nại dĩ:

Nhân tài thu diệp,

Tuấn kiệt thần tinh.

Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,

Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.

Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;

Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

Nhiên kỳ:

Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,

Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.

Phẫn hung đồ chi vị diệt,

Niệm quốc bộ chi tao truân.

Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,

Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.

Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,

Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.

Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;

Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.

Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;

Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

Tốt năng:

Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,

Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.

Bồ Đằng chi đình khu điện xế,

Trà Lân chi trúc phá khôi phi.

Sĩ khí dĩ chi ích tăng,

Quân thanh dĩ chi đại chấn.

Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,

Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.

Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;

Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.

Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;

Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.

Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;

Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.

Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,

Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.

Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;

Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.

Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,

Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.

Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,

Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.

Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;

Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.

Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,

Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.

Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,

Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.

Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;

Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.

Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,

Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

Ngã toại nghênh nhận nhi giải,

Bỉ tự đảo qua tương công.

Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,

Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.

Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,

Thân mệnh trảo nha chi thần.

Ẩm tượng nhi hà thủy càn,

Ma đao nhi sơn thạch khuyết.

Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,

Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.

Quyết hội nghĩ ư băng đê,

Chấn cương phong ư cảo diệp.

Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,

Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.

Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,

Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.

Phong vân vị chi biến sắc,

Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;

Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.

Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;

Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.

Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,

Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.

Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;

Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.

Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;

Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.

Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;

Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.

Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,

Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.

Xã tắc dĩ chi điện an,

Sơn xuyên dĩ chi cải quán.

Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,

Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.

Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,

Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.

Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.

Ô hô!

Nhất nhung đại định, ngật thành vô cạnh chi công;

Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.

Bá cáo hà nhĩ,

Hàm sử văn tri.

BẢN DỊCH CỦA NGÔ TẤT TỐ

hay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.

Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau

Song hào kiệt thời nào cũng có.

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét,

Chứng cứ còn ghi.

Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?

Nặng nề những nổi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi !

Lẽ nào trời đất dung tha?

Ai bảo thần dân chịu được?

Ta đây:

Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu,

Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,

Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,

Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,

Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:

Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.

Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.

Phần vì giận quân thù ngang dọc,

Phần vì lo vận nước khó khăn,

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Lúc Khôi Huyện quân không một đội.

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan.

Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.

Sĩ khí đã hăng

Quân thanh càng mạnh.

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.

Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu

Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.

Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy

Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.

Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.

Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ

Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.

Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,

Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng

Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy

Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại

Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong

Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong

Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá

Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau

Lại thêm quân bốn mặt vây thành

Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc

Sĩ tốt kén người hùng hổ

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông.

Cơn gió to trút sạch lá khô,

Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước

Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ

Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!

Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.

Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc

Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng

Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh

Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Chẳng những mưu kế kì diệu

Cũng là chưa thấy xưa nay

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu

Muôn thuở nền thái bình vững chắc

Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi!

Một cỗ nhung y chiến thắng,

Nên công oanh liệt ngàn năm

Bốn phương biển cả thanh bình,

Ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,

Ai nấy đều hay.

BẢN DỊCH CỦA MẠC BẢO THẦN

Thay Trời giáo-hóa, Hoàng-thượng truyền rằng:

Làm việc trọng nhân vì nghĩa, cốt là yêu đám lương-dân.

Cất quân hỏi tội, cứu đời, trước phải trừ loài tàn-bạo!

Thử xét nước nhà: Đại Việt.

Vốn là xứ-sở văn-minh.

Cõi bờ của sông, núi đã chia.

Phong-tục của Bắc, Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, đã dựng thành một nước;

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, đều làm chúa một phương.

Dù mạnh yếu có lúc không đều;

Nhưng hào-kiệt chưa đời nào thiếu!

Cho nên: Triệu Tiết thích lớn mà mau mất!

Lưu Cung tham công mà hóa thua!

Mã Nhi đã chết ở bể Bạch-đằng!

Toa Đô lại tù ở ải Hàm-tử!

Xét về đời trước,

Gương đã rõ ràng!

Gần đây vì họ Hồ phép ngặt, lệnh phiền;

Đến nỗi khiến dân nước lòng lìa, dạ oán.

Giặc Minh dòm-dỏ, bèn mượn thế tàn dân!

Lũ nịnh gian-tham, nỡ cam lòng bán nước!

Đẩy con đỏ xuống hang tối!

Thui dân đen bằng lửa nồng!

Dối trời, lừa người, mẹo bày ra có nghìn muôn cách!

Tràn quân, gây chuyện, ác chứa lại ngót hai mươi năm!

Trái nghĩa, hại nhân, lẽ Trời Đất tưởng chừng tắt hẳn!

Thu nhiều, lấy nặng, lợi núi, chầm, vét chẳng sót đâu!

Kẻ khai mỏ vàng thì đào non, đãi cát, mà nước độc dám nài.

Người lấy ngọc trai thì lặn biển dấn thân mà rồng thiêng chẳng quản.

Giết-hại vật thì dệt ra lưới bắt chim trả!

Quấy rối dân thì đặt ra bẫy bắt hươu đen!

Bọn long-đong côi-cút, đều không tìm được chỗ nương thân!

Dù sâu, bọ, cỏ, cây, cũng không biết có ngày vui sống!

Béo nanh, miệng, bao phường kiệt-kiệt, rút-bòn máu-mủ sinh-linh!

Đẹp đền-đài khắp ngã công, tư, hoài-phí công trình xây-dựng.

Nơi châu-quận, thuế-sưu nặng lắm!

Miền nhà quê khung-cửi sạch không!

Tháo biển Đông cho cạn sông, không đủ để gột hết dơ!

Chặt núi Nam cho trụi tre, không đủ để chép hết tội!

Thần, Dân đều phải căm giận!

Trời, Đất, lẽ nào cớ đúng!

Ta, cất bước núi Lam:

Nương thân nội cỏ.

Nghĩ thù nước, Trời không chung đội!

Thề giặc ngoài, thế chẳng sống đôi!

Vò đầu, nát ruột, kể đã hơn mười năm!

Nếm mật, nằm chông, nào phải mới một sớm!

Quên bữa chỉ vì lòng tức-bực, sách lược-thao thường vẫn đọc, bàn.

Theo xưa mà nghiệm việc đời nay, lẽ hưng-phế kỹ-càng suy-xét.

Tấm lòng khôi-phục.

Thức, ngủ không quên!

Quân nghĩa ta mới nổi lúc đầu,

Thế giặc nó chính đương còn mạnh.

Khốn nổi: tuấn-kiệt như sao buổi sớm!

Nhân-tài như lá mùa thu!

Bên mình thua, chạy, đã thiếu tay sai;

Trong trướng tính-toan lại ít người giúp.

Nhưng sốt ruột cứu bầy dân-chúng, thường bồn-chồn muốn đánh sang Đông;

Nên sắp xe đợi bậc hiền-tài, vẫn thành-kính bỏ không phía Tả.

Thế nhưng: mờ-mịt như trông ra bể, người có thấy ai!

Vội vàng hơn vớt đắm đò, ta nào nản dạ!

Giận lũ giặc chưa đến ngày tuyệt diệt!

Thương nước-nhà còn đương bước long-đong!

Cơm Linh-sơn chịu thiếu hàng tuần!

Quân Côi-huyện không còn thành đội!

Chắc trời muốn thử người để giao cho công-việc;

Nên Ta càng gắng chí, để vượt khỏi gian-nan!

Vỉ bẻ làm cờ, dân cầy-cuốc nổi theo tứ phía!

Rượu hòa thêm nước, quân cha-con vốn dốc một lòng!

Đánh người hoặc nhân lúc hở cơ, yếu đè được mạnh!

Bày kế thường đặt quân mai phục, ít địch nổi nhiều.

Rút lại: lấy đại-nghĩa mà diệt lũ hung-tàn;

Lấy chí-nhân mà thay được phường cường-bạo.

Quân Đồ-bằng sấm vang, chớp nhoáng!

Giặc Trà-lạn nứa chẻ, tro bay!

Hăng-hái vì thế tăng thêm;

Tiếng-tăm từ đó lừng-lẫy!

Lũ Trần Trí, Sơn Thọ, vía tan theo gió!

Bọn Lý An, Phương Chính, sống tạm từng hơi!

Thừa thắng đuổi dà, chiếm-cứ được thành Tây-kinh trước.

Kén tài tiến đánh, thu phục hết đất Đông-đô xưa!

Ninh-kiều máu chảy thành sông, tanh lây muôn dặm!

Tốt-động thây nằm đầy nội, để thối nghìn thu!

Lý Lương là sâu mọt dân, ta đã đem phanh xác!

Trần Hiệp là tay chân quân giặc, cũng bị bêu đầu!

Vương Thông dẹp loạn mà nơi cháy lại cháy thêm.

Mã Ánh gỡ đòn mà kẻ giận càng giận dữ!

Trí đã cùn, sức đã kiệt, chúng bó tay đợi chết biết sao!

Phá bằng mưu, công bằng lòng, ta không đánh mà được là thế.

Tưởng chúng tất biết nghĩ và đổi bụng-dạ.

Nào ngờ còn gây chuyện để thêm tội-tình.

Gieo tai-vạ cho kẻ khác, chỉ chấp theo ý-kiến riêng mình.

Làm trò cười cho người đời, bởi tham được thành công chốc lát.

Xui-khiến thằng nhãi ranh Tuyên đức, không chán dụng binh!

Bèn sai phường tướng khổ Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy!

Tháng chín Đinh-mùi Liễu Thăng tự dẫn quân do Ôn-khâu tiến đánh.

Tháng mười năm ấy, Mộc Thạnh cũng chia ngả từ Vân-nam kéo sang.

Ta: Trước đã kén quân phục nấp nơi hiểm-yếu, đánh cho tan đội tiên-phong.

Sau lại cho kỳ-binh chẹn lối đi về, cắt cho đứt đường lương-thực.

Ngày mười-tám, mắc mưu ở ải Chi-lăng, Liễu Thăng đã bị ta đánh bại!

Ngày hai-mươi, thua trận ở núi Yên-ngựa, Liễu Thăng lại bị ta chém đầu!

Ngay hai mươi lăm, Bảo-định-bá là Lương Minh, trận vỡ phải liều mình.

Ngày hai mươi tám, Thượng thư Tào là Lý Khánh kế cùn tự đâm cổ!

Ta đã tiến đâu được đấy!

Nó liền giở giáo đánh nhau,

Kế đó thêm quân bốn mặt để bao vây!

Hẹn đến trung tuần tháng mười là diệt hết!

Bèn sai các tướng nanh-vuốt,

Đem theo những lính hùm-beo,

Voi uống mà cạn nước sông!

Dao mà đủ lở đá núi!

Một trận mà băm kình, chém ngạc!

Hai trận mà xẩy nghé, tan đàn!

Tưới tổ kiến bằng thế nước tràn!

Rung lá khô bằng làn gió mạnh.

Đô-đốc Thôi Tụ quỳ gối mà đưa lễ;

Thượng-thư Hoàng Phúc, trơ mặt mà nộp mình!

Xác chết đầy cả đường Lạng-sơn, Lạng-giang!

Máu chảy đỏ cả nước Bình-than, Xương-thủy!

Muôn dặm gió, mây, đổi màu ảm-đạm!

Hai vầng nhật, nguyệt, ánh-sáng lu mờ!

Quân Vân-nam bị ta chẹn lối ở Lê-quan, tự ngờ sợ, bàng-hoàng, mà vỡ cả mật!

Bọn Mộc Thạnh bị ta đánh bại ở Cần-trạm, tự giầy xéo, tan vỡ, chỉ thoát được thân!

Lãnh-câu máu chảy trôi chầy, nước sông khóc thảm!

Đan-xá thây chồng bằng núi, cỏ nội đẫm hồng!

Quân cứu hai đường, chưa kịp quanh chân đã vỡ!

Giặc tàn các ngả, cùng nhau cởi giáp xin hàng!

Tướng giặc bị tù, thú sa bẫy đã vẫy đuôi xin mạng!

Oai thần không giết, Trời chí công nên mở lượng hiếu sinh!

Bọn Tham-tướng Phương Chính, Nội-quan Mã Kỳ, cấp trước cho hơn năm trăm thuyền, vượt bể rồi mà vẫn hồn xiêu, vía lạc.

Bọn Tổng-binh Vương Thông, Tham-chính Mã Ánh, về nước rồi mà còn lòng khiếp người run!

Nó đã tham sống, sợ chết, mà thực bụng giảng hòa.

Ta lấy toàn quân là hơn, để cho dân nghỉ sức.

Chẳng những mưu-kế thực sâu-xa tột bực!

Mà cũng xưa nay chưa nghe thấy bao giờ!

Non sông rày đã khác xưa!

Xã-tắc từ đây yên vững!

Ánh Ác, Thỏ tối rồi lại sáng!

Lẽ Kiền-khôn cùng mãi phải thông!

Để gây-dựng nền thái-bình cho muôn đời!

Để gội-rửa nhục vô-cùng cho cả nước!

Cũng là nhờ Trời, Đất, Tổ-tông linh-thiêng, đã ngấm-ngầm phù-hộ mà được như thế này!

Than ôi! Mảng giáp dẹp yên hết cả, gây được nên công-nghiệp phi thường.

Bốn phương phẳng-lặng từ nay, bảo cho biết cuộc đời đổi mới.

Bá cáo thiên-hạ,

Đâu đấy đều hay!

BẢN DỊCH CỦA BÙI KỶ

Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu-phạt chỉ vì khử bạo,

Như nước Việt ta từ trước,

Vốn xưng văn-hiến đã lâu,

Sơn-hà cương-vực đã chia,

Phong-tục bắc nam cũng khác.

Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương,

Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,

Song hào-kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên

Lưu Cung sợ uy mất vía,

Triệu Tiết nghe tiếng giật mình,

Cửa Hàm-tử giết tươi Toa Đô,

Sông Bạch-đằng bắt sống Ô Mã,

Xét xem cổ-tích,

Đã có minh-trưng,

Vừa rồi

Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà,

Để trong nước nhân-dân oán bạn,

Quân cường Minh đã thừa-cơ tứ ngược,

Bọn gian-tà còn bán nước cầu vinh,

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung-tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ.

Chước dối đủ muôn nghìn khoé,

Ác chứa ngót hai mươi năm.

Bại nhân-nghĩa nát cả càn-khôn,

Nặng khóa-liễm vét không sơn-trạch

Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu,

Nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả,

Tàn-hại cả côn-trùng thảo-mộc,

Nheo-nhóc thay! quan quả diên liên

Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy! no-nê chưa chán,

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa,

Nặng-nề về những nỗi phu-phen,

Bắt-bớ mất cả nghề canh-cửi.

Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,

Dơ-bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi,

Lẽ nào trời đất tha cho,

Ai bảo thần-nhân nhịn được.

Ta đây:

Núi Lam-sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang-dã nương mình,

Ngắm non sông căm nổi thế thù,

Thề sống chết cùng quân nghịch-tặc,

Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa,

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối,

Quên ăn vì giận, sách lược-thao suy-xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ.

Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị,

Chỉ băn-khoăn một nỗi đồ hồi.

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang thịnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn-kiệt như sao buổi sớm,

Nhân-tài như lá mùa thu,

Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần,

Nơi duy ác hiếm người bàn-bạc.

Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục đông

Mấy thủa đợi chờ, luống đằng-đẵng cỗ xe hư-tả,

Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt-mù như kẻ vọng dương,

Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội-vã như khi chửng nịch,

Phần thì giận hung-đồ ngang-dọc,

Phần thì lo quốc-bộ khó-khăn,

Khi Linh-sơn lương hết mấy tuần,

Khi Khôi-huyện quân không một đội,

Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma,

Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.

Múa đầu gậy ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi đan hồ,

Mở tiệc quân chén rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ một lòng phụ-tử.

Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi,

Quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.

Dọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn,

Lấy chí nhân mà thay cường-bạo.

Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy,

Miền Trà-lân trúc phá tro bay,

Sĩ-khí đã hăng,

Quân-thanh càng mạnh,

Trần Trí, Sơn Thọ, mất vía chạy tan.

Phương Chính, Quý An tìm đường trốn-tránh.

Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc.

Lấy Đông-đô thu lại cõi xưa,

Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông,

Bến Tụy-động xác đầy ngoài nội.

Trần Hiệp đã thiệt mạng,

Lý Lương lại phơi thây.

Vương Thông hết cấp lo-lường,

Mã Anh khôn đường cứu-đỡ

Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao,

Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất.

Tưởng nó đã thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui,

Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội-nghiệt.

Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người,

Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dở-duốc.

Đến nỗi đứa trẻ con như Tuyên-đức, nhàm võ không thôi.

Lại sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng đem đầu chữa cháy.

Năm Đinh-mùi tháng chín,

Liễu Thăng tự Khâu-ôn tiến sang,

Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo đến.

Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc-quân,

Ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương-đạo.

Mười-tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng,

Hai-mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên,

Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong,

Hai-mươi-tám, Lý Khánh tự vẫn,

Lưỡi dao ta đang sắc,

Ngọn giáo giặc phải lùi,

Lại thêm quân bốn mặt vây thành

Hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.

Sĩ-tốt ra oai tì-hổ,

Thần-thứ đủ mặt trảo nha.

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận sạch không kinh-ngạc.

Đánh hai trận tan-tác chim-muông.

Cơn gió to trút sạch lá khô,

Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.

Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi,

Hoàng Phúc tự trói để hàng.

Lạng-giang, Lạng-sơn, thây chất đầy đồng,

Xương-giang, Bình-than, máu trôi đỏ nước.

Ghê-gớm thay! sắc phong-vân phải đổi,

Thảm-đạm thay! sáng nhật-nguyệt phải mờ.

Binh Vân-nam nghẻn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật.

Quân Mộc Thạnh tan chưng Cần-trạm, chạy để thoát thân,

Suối máu Lãnh-câu, nước sông rền-rĩ,

Thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa.

Hai mặt cứu-binh, cắm đầu trốn chạy,

Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.

Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội,

Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.

Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực,

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi.

Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú-phục,

Ta muốn toàn quân làm cốt, cả nước nghỉ-ngơi.

Thế mới là mưu-kế thật khôn,

Vả lại suốt xưa nay chưa có.

Giang-san từ đây mở mặt,

Xã-tắc từ đây vững-bền.

Nhất-nguyệt hối mà lại minh,

Kiền-khôn bĩ mà lại thái.

Nền vạn thế xây nên chăn-chắn.

Thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu.

Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng giúp-đỡ cho nước ta vậy.

Than ôi!

Vẫy vùng một mảnh nhung-y, nên công đại định.

Phẳng-lặng bốn bề thái-vũ, mở hội vĩnh-thanh,

Bá cáo xa gần,

Ngỏ cùng nghe biết.

Không có nhận xét nào: