Hồ Quý Ly
Phần VIII- Chương -1 Trong vườn ngự uyển
Trần Nguyên Hàng, Trần Khát Chân đã tính sai. Cả bà cung nữ dày dạn kinh nghiệm kia cũng tính sai nốt. Trần Thuận Tôn, sau khi khỏi bệnh, bỗng biến đổi hoàn toàn, khác hẳn dự tính của mọi người. Ông vua con, như ta biết, vốn được hưởng một nền giáo dục rất nghiêm ngặt, rất khổng giáo. Chàng lại còn ham mê sách vở, là con người trầm tư. Về mặt thể tạng, Trần Ngung gầy gò ốm yếu, không phải sinh ra để đam mê những thú vui thể xác.
Căn bệnh hiểm nghèo đã làm chàng, trong một thời gian, quên mất địa vị, thân phận, sách vở và những lời nói vàng ngọc của các bậc thánh hiền cũng tan biến trong cơn rồ dại; những cử chỉ thanh nhã, tế nhị mà cuộc sống cung đình đã vun trồng tạo thành từ bao năm nay bỗng bị lãng quên, nhường chỗ cho những bản năng, những thèm khát như những con thú mơ màng ngủ lịm bỗng chồm thức dậy.
May mắn thay, những con thú đã được xổng xích. May mán thay, những cơn điên rồ đã làm chàng được sổ lồng. Những ràng buộc nghi thức và tinh thần được nới lỏng, làm chàng lạc vào miền lạc thú; và lạc thú đã cứu chàng khỏi bị tù hãm trong xứ hôn mê. Lạc thú đã làm thức dậy sự sống, nó xoa dịu, ru ngủ những đau buồn, thất bại. để đem lại một cân bằng; cuối cùng an hoà ngự trị...
Nhưng một khi tỉnh lại, Thuận Tôn bỗng trở lại như Thuận Tôn khi xưa. Điên rồ ra đi, lý trí trở về. Nó lập tức không cho phép chàng sống như những ngày rồ dại. Dư vị của những ngày ấy nay chỉ còn là những tiếng thở dài, một nỗi luyến tiếc mơ hồ ngọt ngào; có lúc, nó trở thành một niềm xấu hổ, nỗi sợ hãi của một kẻ đã phạm một điều cấm kị. Chắc chắn đó là nôi đày vò của một con người hiền lương - Cũng chắc chắn Thuận Tôn là một con người hiền lương. mà những dấu vết của đạo lý của sách vở, bao giờ cũng là những khuôn mẫu, những vết hàn in đậm trong tâm trí không thể mờ phai.
Chính vì vậy, Thuận Tôn lại lao đầu vào sách vở. Trước đây, Ngọc Kiểm và những đam mê đã cứu chàng, còn lúc này sách vở đã làm phai mờ hình bóng cô cung nữ. Nhưng có phải sách vở đã xoá hình bóng Ngọc Kiểm, hay còn do một nguyên nhân khác, hay còn do một thế lực nào đó đã cố tình xoá mờ hình bóng nàng đi. Cô cung nữ trẻ đã biến mất lúc nào chẳng hay, cứ như thể bốc hơi. Sau những buổi đọc sách, ông vua trẻ cảm thấy một nỗi bâng khuâng khó xác định. Cứ như thấy đánh mất một cái gì đó. Nhưng rồi sách vở lại cuốn hút chàng. Ông vua trẻ có cái tài đọc sách rất tập trung. Đêm hôm đó, Thuận Tôn đọc sách khuya lắm, sau đó chàng mơ một giấc mơ rất đẹp. Và dĩ nhiên chàng dậy muộn vì chân cứ còn muốn nấn ná trong giấc mơ huyền ảo. Lúc chàng tỉnh dậy. Cô cung nữ nhỏ bé xinh xinh đứng bên cạnh giường vội quỳ xuống mừng rỡ:
- Chúc hoàng thượng một giấc mơ đẹp lành.
- Sao ngươi biết ta có một giấc mơ lành và đẹp?
- Bẩm, thần thiếp biết vì... trong lúc ngủ, trên môi người luôn có nụ cười.
- Ừ. Lạ thật? Ta mơ thấy đến một ngôi nhà nhỏ xinh xắn trồng toàn những liễu...
Cô cung nữ nhỏ mủm mỉm cười.
- Sao ngươi lại cười?
- Bẩm, thấy liễu là có hỉ sự. Người xưa nói phận liễu bồ để chỉ người con gái. Chúc mừng bệ hạ sắp có hỉ sự. Lúc này Thuận Tôn mới để ý đến cô gái, liền hỏi:
- Ta chưa thấy ngươi bao giờ? Xem ra nàng rất lanh lợi.
- Tiện thiếp Uyển Nhi là cung nữ của hoàng hậu. Sớm nay có lệnh của thượng hoàng mời bệ hạ đến diện kiến. Hoàng hậu đến...
- Hoàng hậu tới thăm ta?...
- Tâu bệ hạ... Sáng nào hoàng hậu cũng đến thăm đức vua, và sáng nào đức vua cùng ngủ say... hoàng hậu không dám đánh thức, sợ làm kinh động long thể... Sáng nay... hoàng hậu cũng đến... nhưng phải về cung Hoàng Nguyên để chuẩn bị trang điểm... vào chầu...
- Nghĩa là hoàng hậu cũng đến thăm vua cha cùng với ta?
Cô cung nữ giục giã:
- Đã có trống gọi chầu bên cung Thượng hoàng...
Thần thiếp đã cho sắp sẵn nước thơm và quần áo... Xin bệ hạ chuẩn bị để mặc long bào kẻo đức thượng hoàng mong.
Cô cung nữ xinh xinh kia đoán gặp cây liễu tức là gặp hỉ sự, hoá ra lại đúng. Nghệ Hoàng triệu tập thái sư, Thuận Tôn và hoàng hậu Thánh Ngẫu đến nói:
- Ta rất vui vì con đã hoàn toàn khỏi bệnh. Cũng là lúc con đã tròn mười sáu tuổi. Nay, ta cho mở tiệc, ban yến cho bá quan. Triều đình sẽ làm lễ hợp cẩn cho hai con vì các con đã trưởng thành. Thứ nhất để yên bề xã tắc. Ta muốn các con mau chóng sinh hoàng tử. Thứ nhì để ta được vui tuổi già. Xem ra năm nay, ta thấy trong người đã yếu.
Sau bữa tiệc hợp cẩn, vua Thuận Tôn và hoàng hậu Thánh Ngẫu lên thuyền đến khu hành tại Bình Than hưởng tuần trăng mật. Bình Than có rừng núi, sông hồ. phong cảnh hữu tình, được đôi vợ chồng coi trọng như một vườn ngự uyển tự nhiên.
Con vượn trắng, từ khi Thuận Tôn bị ốm, cứ ủ rũ ngồi trên cây bưởi đầu nhà. Thuận Tôn điên rồ đuổi nó: Về đi! Về đi! Về rừng mà ở? Lâu đài cung điện có phải là nhà của ngươi đâu.
Khi Thuận Tôn đắm đuối với nàng Ngọc Kiểm, con vật thù ghét cô cung nữ ra mặt, mỗi lần thấy nàng đi qua, nó lại kêu la ồn ĩ, làm náo động cung vua, bọn lính mang cung tên ra bắn, nó sợ chạy biến vào vườn thượng uyển ẩn náu. Một buổi sáng, khi đã khỏi bệnh, ông vua con đang đứng ngắm hoa bỗng nghe tiếng kêu mừng rỡ của con vật. Thuận Tôn ngẩng đầu lên thấy con vượn trắng vẫn còn như rụt rè sợ hãi. Chàng vẫy vẫy tay:
- Thì ra là ngươi. Mấy hôm nay ta vẫn hỏi thăm. Bọn lính bảo ngươi đã bỏ đi rồi. Thường đêm, lúc ngủ, ta vẫn nghe thấy tiếng động ở đầu nhà. Hoá ra ngươi vẫn ngủ trên cây bưởi cạnh buồng ta. Ngươi vẫn chẳng bỏ ta khi ta điên dại...
Con vật nhẩy từ cây bưởi xuống. Thuận Tôn ôm lấy nó, vuốt ve và dồn dập hỏi nó như nói chuyện với một người bạn lâu ngày xa cách.
- Khổ thân? Ngươi gầy thế ư? Hàng ngày ngươi ăn gì? Ngươi ăn trộm hoa quả? Vườn thượng uyển làm gì có quả ở đó chỉ có cây cao và hoa bốn mùa. A? Ta hiểu rồi? Có phải ban đêm ngươi đã lẻn ra phố phường, tìm đến những ngôi chùa, những miếu hoang để ăn trộm đồ lễ. Ngươi ranh ma lắm. Mà ngươi có thay ta đến điện Hoàng Nguyên thăm bà hoàng Thánh Ngẫu không? Trông con mắt ngươi ta biết là có. Nàng cũng yêu quý ngươi lắm. Sao lúc ta ốm ngươi không ở bên cung của nàng - Thở dài - Ta biết ngươi không nỡ bỏ mặc ta - Và nàng nữa? Nàng vẫn hàng ngày đến thăm ta... chuyện ấy bây giờ ta mới biết... Và cả chuyện của ngươi nữa, bây giờ ta mới biết...
Ông vua con, con vượn, bà hoàng hậu trẻ ngồi trên thuyền rồng; và lòng Thuận Tôn cứ miên man nghĩ ngợi. Con thuyền đi trên dòng sông, hai bên bờ trải dài những xóm làng trù phú, những ruộng lúa, ngô xanh mướt rồi tiếp theo đến những đồi cây nhấp nhô, những khu rừng bát ngát.
Con vượn trông thấy rừng, bỗng nhẩy lên mui thuyền và hú lên tiếng hú dài man rợ. Trong cánh rừng, bỗng có tiếng hú đáp lại; rồi từ đỉnh những ngọn cây một đàn chim bay túa lên trời, tạo nên một khung cảnh rất thanh bình ngoạn mục.
Thuyền đến Bình Than, con vượn cuống quýt cầm tay đôi vợ chồng trẻ, quay đầu nhìn vào trong rừng. Thuận Tôn cười:
- Người đến thăm sư phụ trước đi chúng ta sẽ đến sau.
Đêm hôm đó mưa rào.
Xưa kia, Thuận Tôn thường tưởng tượng đêm đầu tiên giao kết của hai người phải là một đêm trăng sáng, nào có biết đâu đêm nay lại là đêm mưa. Mưa rừng, mưa sông!... Ở sau lưng toà đại diện là những đồi thông nối đuôi nhau dẫn tới khu rừng đại ngàn. Mưa không to lắm, nhưng dầm dề, tạo nên một nền âm thanh rì rào không dứt. Thỉnh thoảng, một trận gió lùa vào những tán lá đại thụ làm nước rơi lộp bộp. Nổi lên trên cái nền âm thanh thì thầm ấy là tiếng của muôn vàn loại côn trùng, tiếng con dế gáy ri ri, tiếng con ếch gọi bạn ộp oạp, rồi tiếng chẫu chuộc kêu inh ỏi, tiếng con cóc nghiến răng khó nhọc, tiếng con ễnh ương đều đều buồn tênh. Ở đâu đó, tít tận rừng sâu có tiếng con nai giác, tiếng con nai mừng mưa, hay tiếng mừng mùa cỏ mọc, hay tiếng tha thiết gọi bạn tình...
Thuận Tôn chợt nói khẽ:
- Thánh Ngẫu ơi! Nàng còn thức hay nàng đã ngủ?
- Thiếp vẫn nằm nghe.
- Ta cũng nằm nghe.
- Nghe thấy gì?
- Tiếng rừng hay thật!
- Tiếng mưa cũng hay.
- Tiếng dế, tiếng ếch nhái nghe cũng thích? Đủ giọng... to, nhỏ, bổng, trầm... Nàng thích nhất tiếng gì?
- Tiếng con dế gáy. Chàng có nghe thấy không? Con này gáy rất to. Ở sát đầu giường chúng ta, chắc nơi cửa sổ dưới bụi hoa hồng...
- Thánh Ngẫu ơi! Sao nàng lại cười?
- Thiếp chợt nhớ đến một chuyện lúc bệ hạ đang ôm...
- Chuyện gì? Kể cho ta nghe đi.
Những hôm đầu mới ốm, chàng không ngủ, suốt mấy đêm chỉ đi lang thang, nói lảm nhảm. Đêm đó, ông lang Điền cho uống thuốc ngủ. Nhưng trời mưa, lũ ếch nhái ở ao sen kêu suốt đêm làm chàng giật mình thức giấc. Cha thiếp phải sai một trăm cấm binh ngâm mình dưới ao, cầm roi liên tục vụt xuống nước, bắt lũ ếch nhái côn trùng phải lặng im. Nhờ cơn mưa mát, nhờ không có tiếng động. đêm đó chàng ngủ yên...
- Có chuyện đó thật sao?
- Thật chứ! Mà cũng hay! Cùng một tiếng ếch nhái kêu, đêm xưa sao mà ghét thế Bắt chúng phải im? Còn đêm nay, em cầu mong cho chúng kêu mãi mãi. Nghe tiếng côn trùng kêu mưa, đêm nay sao thiếp thấy hay đến như vậy.
- Ta cũng thấy tuyệt. Lần đầu tiên ta để ý đến chúng.
- Lần đầu tiên, thiếp được nghe cả tiếng nai lẫn vào đó.
- Lần đầu tiên, ta biết thế nào là dế gáy...
Cuộc giao kết đầu tiên của vua Thuận Tôn và bà hoàng Thánh Ngẫu xảy ra như thế đó. Thật khác hẳn cuộc ái ân sôi nổi của Ngọc Kiểm đã hiến dâng cho ông vua nhỏ. Nhưng cuộc ái ân nào chẳng có cái duyên riêng của nó. Có thể Thuận Tôn như kẻ đã được nếm vị ngọt nồng của trái mít, nay bỗng phát hiện được vị thơm mát dịu dàng của trải lê. Cũng có thể, ông vua con suốt ngày tháng vùi đầu vào triết lý vô dật, rồi sau đó ông đã đi ngược lại triết lý khắc kỷ ấy; và dù mới chỉ là một bước nhỏ thôi, cũng đã đủ làm ông áy náy trở về sám hối. Cũng còn có thể, vì thể tạng của Thuận Tôn mong manh, nên ông chỉ hợp với một cuộc tình thanh mảnh. Lại cũng có thể, vì bà hoàng Thánh Ngẫu là người con gái ông yêu quý nhất...
Sáng hôm sau, Thánh Ngẫu và Thuận Tôn theo lối mòn xưa đi đến thung hoa, men dòng suối có những cây sung đỏ ối quả. rồi theo hút đàn chim phường chèo vào rừng thẳm đến thạch am thăm vị đạo sĩ.
Con vượn trắng. từ lúc thuyền cập bến Bình Thanh đã trở về rừng, nay ra đón hai người. Nó cầm tay Thuận Tôn đi về phía động đá. Đạo sĩ đứng ở cửa hang quỳ rạp chào vua và hoàng hậu.
- Con bạch viên cho bần đạo biết hoàng thượng đến từ chiều hôm qua. Bần đạo, vì ốm đau, không xuống núi được để nghênh giá. Thật muôn phần có lỗi.
Nhà vua đỡ đạo sĩ đứng dậy. Sau khi đã phân ngôi chủ khách, Thuận Tôn nói:
- ít lâu nay, có nhiều chuyện xảy ra. lòng ta rất bối rối. Nay muốn đến tham vấn sư phụ.
Đạo sĩ Thanh Hư nhìn nét mặt nhà vua rồi nhắm mắt lại hồi lâu. sau đó bảo:
- Tâu bệ hạ, đúng là có nhiều điều phức tạp, dễ làm rối lòng người. Nếu giữ không cẩn thận sẽ đi tới mê cuồng.
- Sư phụ nói không sai. Vừa qua có lúc ta đã lâm bệnh, mắc chứng mê sảng.
Đạo sĩ già nhắm mắt lại, giọng ông đều đều:
- Đời người mờ mịt; thoắt đến thoắt đi, biết đâu là phúc, biết đâu là hoạ; biết đâu là thị, biết đâu là phi... Sao chẳng như hơi thở của đất trời, đã không nổi lên thì thôi, đã nổi lên sẽ ra muôn giọng. Gặp hang, gặp rừng rú: gào, gầm thét; gặp hốc, gặp bọng, gặp ao sâu, vũng cạn: nỉ non, rù rì; lúc buồn nức nở lúc thì hiu hiu... Sao chẳng khiến cho hình hài như cây khô, lòng như tro lạnh... Đời người mờ mịt. há phải riêng ai mờ mịt... Ôi thôi! Khó thay? Khó thay... Ai biết nẻo về?... Nẻo về giăng sương...
Thánh Ngẫu chẳng hiểu lời nói của đạo sĩ ra sao, nhưng Thuận Tôn tỏ ra xúc động. Ông đứng trước bàn thờ, thắp nén nhang, cúi lạy. Đạo sĩ lấy một tờ giấy bạch, viết tặng một bài thơ:
Tro lạnh dù tàn đốm lửa
Xin đừng ủ trấu, nhen rơm
Dưới tro nào ai có biết
Đâu là hạt, đâu mầm xanh
Cơ trời nhiệm màu khôn xiết
Thị phi cũng một chữ đồng.
Lại lấy từ bàn thờ xuống, một tảng đá. Nhìn kỹ, thấy giống hình một ông già râu dài, tay chống gậy trúc, đang ngồi trầm tư. Đạo sĩ nói:
- Một đêm, bần đạo nằm mơ gặp đức Thái thượng lão quân; hôm sau vào một hang núi, thấy tảng đá thiêng này. Nay, xin tặng bệ hạ, để cho trọn cái duyên hữu tình. Bệ hạ trở về, xin cẩn trọng. Một ngày gần đây sẽ gặp nhau.
Con vượn quyến luyến ông đạo sĩ già mãi không nỡ dứt. Ông vuốt ve nó:
- Bạch viên, hãy nghe lời ta. Cuộc vui nào chẳng có lúc tàn. Ngươi hãy hầu hạ đức vua, làm cho người khuây khoả. Hết kỳ hạn, thày trò ta khắc gặp nhau.
Thuận Tôn đem hòn đá thiêng về kinh. ngày ngày thắp hương, và không ngày nào quên đọc sách đạo. Ít lâu sau, hoàng hậu Thánh Ngẫu có tin mừng. Hai vợ chồng vội đi thuyền đến Bình Than, tìm đến Thanh Hư quán để tạ ơn đạo sĩ. Khi đến nơi không thấy bóng dáng ông già đâu cả. Động đá hương tàn khói lạnh. Cây cỏ đã mọc kín gần che lấp cửa hang. Giây leo đã bò lên cả bàn thờ thánh. Rêu xanh đã gần phủ mờ những chữ khắc trên vách đá. Gặp người tiều phu gánh củi, Thuận Tôn hỏi thăm mới biết ông đạo sĩ sau khi gặp đức vua đã bỏ hang đá, đi miết vào rừng sâu, về phía núi Bạch Vân, từ đó không ai gặp nữa.
Hồ Quý Ly
Chương 2 Tuần trăng mật Bình Than ấy
Tuần trăng mật Bình Than ấy đã đem lại niềm vui cho cả triều đình. Hoàng hậu Thánh Ngẫu mang thai. Lúc bà lâm bồn, Nghệ Hoàng đang ốm nặng. Khi được tin sinh thái tử An. Ông vua già nhẹ hẳn bệnh, tự ngồi dậy được. Ông sai khênh kiệu đưa ông đến thái miếu, để thắp hương lễ tạ tổ tiên. Ông nói với Thuận Tôn:
- Trời còn phù hộ nhà Trần. Thằng An bây giờ vừa là cháu ta, vừa là cháu Thái sư. Ta có thể yên tâm nhắm mắt được rồi.
Còn Thuận Tôn biết Thánh Ngẫu mang thai. Ông thấy lòng mình thanh thản, như đã trả được món nợ cho hoàng triều, cho dòng họ Trần. Nhưng từ khi ở Bình Than về, lòng ông luôn băn khoăn; có nhiều điều ông không tài nào giải thích được. Tại sao Thanh Hư chân nhân lại đột nhiên bỏ nơi tu hành, trốn vào rừng sâu mất tích. Cả câu thơ “Tro lạnh dù tàn đốm lửa. Xin đừng ủ trấu nhen rơm” nghĩa là thế nào? Ông buồn rầu hỏi con vượn trắng. Nhưng con vật chỉ thẫn thờ nhìn về phương trời xa tít.
Đức vua càng nghĩ càng thấy như hũ nút. Dần dần, Thuận Tôn trở nên tư lự. Triều thần lo lắng. sợ bệnh mê cuồng của nhà vua lại tái phát. Nguyễn Cẩn nói với Thái sư:
- Tại sao không để đức vua đi du ngoạn những nơi phong cảnh đẹp, những nơi non nước hữu tình? Tiểu thần thấy chí ngài ưa những nơi am thanh cảnh vắng.
Thái sư Quý Ly bèn khéo léo dò hỏi ý kiến, đức vua ưng thuận ngay. Từ đó, Thuận Tôn đi hết những danh sơn. Tìm đến núi Na ở Thanh Hoá, vì nghe nói ở đó có bậc chân nhân đã đắc đạo trong một am cỏ. Tìm đến Bạch Vân Sơn, bái yết tượng An Kỳ Sinh nằm trong mây trắng. Tìm đến cửa Thần Phù để dò hỏi dấu vết những vị tiên ngoài hải đảo. Ông không nói ra, nhưng chắc trong thâm tâm, ông muốn đi tìm Thanh Hư chân nhân, con người ông kính trọng ngay từ buổi gặp ban đầu. Nguyễn Cẩn tâu với nhà vua:
- Ở Bạch Hạc có quán Thông Thánh được xây dựng từ mấy trăm năm, nghe nói từ đời nhà Đường. Nghe nói hiện nay có bậc châu nhân tu ở đấy. Sao bệ hạ chẳng lên xem sao?
Thuận Tôn nghe lời, ngược dòng sông Nhĩ Hà đến nơi, quả nhiên quán Thông Thánh là nơi linh thiêng. Quán nằm trên đồi cao, nhìn ra dòng sông Lô hùng vĩ. Bậc chân nhân tu ở đó là đạo sĩ Nguyễn Khánh râu tóc bạc phơ, rõ ràng là bậc tiên phong đạo cốt. Nói chuyện, thấy Khánh tỏ ra thông hiểu lẽ huyền. Nhà vua ở quán ít lâu, lòng quyến luyến không nỡ rời chân.
Những đêm trăng, chân nhân và nhà vua, ngồi dưới rừng thông, nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy dưới chân, bàn về đạo. Nguyễn Khánh giảng giải cho vua nghe:
- Tâu bệ hạ, đạo Hoàng Lão đã xâm nhập nước ta khoảng hơn một nghìn năm rồi. Nghe nói từ thời thuộc Hán.
- Vậy là đạo Thần Tiên đã sang nước ta cùng thời với đạo Phật.
- Muôn tâu, đúng như vậy. Đạo Phật nước ta đã có nhiều cao tăng; còn đạo Thần Tiên ở nước ta cũng có những bậc đắc đạo không kém.
- Mong chân nhân hãy nói tỏ tường cho ta nghe, để mở rộng thêm tầm mắt.
Theo Sử ký của Tư Mã Thiên, Nhạc Thần Công dòng dõi Nhạc Nghị đã học đạo Hoàng Đế - Lão Tử. Bậc chân nhân đắc đạo dậy ông chính là Hà Thượng Trượng Nhân, bậc chân nhân nổi tiếng thời cổ. Hà Thượng Trượng Nhân dậy Yên Kỳ Sinh. Yên Kỳ Sinh dạy Mao Hấp Công. Mao Hấp Công dậy Nhạc Hà Công. Nhạc Hà Công dạy Nhạc Thần Công... Chính Yên Kỳ Sinh thời nhà Hán đã sang nước Nam ta làm lò luyện đan trên núi Yên Tử. Lúc đó chưa có bằng cớ gì để nói đạo Phật đã thịnh hành ở Đại Việt. Về sau đến thời Trần đạo Phật mới dấy mạnh lên nhất là thời đức Trần Nhân Tôn. Vậy, theo sử sách, đạo Thần Tiên còn đến nước ta trước cả đạo Phật.
- Hoá ra vậy - ông vua trẻ tần ngần, thở dài.
Đạo sĩ Nguyễn Khánh đã đoán ra tám chín phần tâm sự của nhà vua. Ông ta lựa lời:
- Cớ sao bệ hạ lại thở dài?
- Ta thở dài, vì tài hèn chí đoản, không theo gót được tổ tiên.
- Bệ hạ là người có căn cốt... Can chi phải nghĩ ngợi nhiều cho thêm hao tổn tinh thần. thần nghĩ có dăm bảy đường nối chí người xưa...
- Thế nào gọi là dăm bảy đường?
- Lập nên chiến công hiển hách rạng rỡ núi sông là nối chí người xưa... Văn đức rạng ngời, làm đất nước ngày càng văn hiến cũng là nối chí người xưa...
- Nhưng riêng ta... có làm được những điều khanh vừa nói đâu...
- Thần nghĩ vẫn còn một cách khác để nối chí tổ tiên... Thần trộm nghĩ, nay việc nước bệ hạ đã có thái sư quốc trượng tài kiêm văn võ đêm ngày phò tá, lo toan hết những đại sự thay cho bệ hạ. Nhà vua chỉ còn việc rủ tay áo, ngồi trên ngai vàng an hưởng thái bình. Tại sao bệ hạ lại chẳng biết tận đụng cái thời gian quý báu ấy.
- Tận dụng ra sao?
- Có một cách nối chí người xưa, nếu bệ hạ làm được. chắc chắn sẽ làm rạng rỡ cho vương triều nhiều lắm. Đó là việc gì?
- Về việc mở tông khai phái, đức Trần Nhân Tôn đã khai lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Cụ trở thành vị bồ tát, đệ nhất tổ. Công đức ấy to lớn lắm. Vậy tại sao bệ hạ vốn là người tướng mạo uy nghi, càn cốt thần tiên thanh tịnh, lại không khai sáng ra một tông phái đạo Thần Tiên. Các bậc tiền nhân khai tông lập phái cho đạo Phật. Còn bệ hạ thì khai tông lập phái cho đạo Hoàng Lão. Thiết tưởng việc đó cũng vẻ vang và tạo nhiều ân đức cho trăm họ lắm.
Gương mặt Thuận Tôn cứ theo lời nói của đạo sĩ mà tươi dần lên. Nguyễn Khánh củng cố thêm quyết tâm cho vua:
- Đạo Phật ngày nay đang suy. Còn đạo Hoàng Lão tuy có mặt ở nước ta đã ngót ngàn năm nhưng chưa có lúc nào cực thịnh. Thế lực vẫn còn nhỏ bé. Đây là cơ hội để bệ hạ thi ân. ý chỉ của đạo huyền chỉ còn chờ bệ hạ ra tay, ngõ hầu cái ánh sáng của Đạo mới tưới trải được đều khắp các hang cùng ngõ hẻm.
Điều lạ lùng, dù ông đạo sĩ Bạch Hạc uyên bác đến thế, đác đạo đến thế, nhưng riêng con vượn trắng lại rất ghét ông. Mới trông thấy mặt đạo sĩ ở xa, con vật đã kêu la ồn ĩ, nhảy nhót loạn xạ, gãi đầu gãi tai, tỏ vẻ tức giận. Thuận Tôn phải cho nó ở ngoài rừng thông, và chiều chiều ra thăm nó. Nhà vua vỗ về nói riêng với nó: Bạch Viên ơi! Ngươi cũng là kẻ tu hành. Cớ sao lại tức giận như vậy? Cái gì đã làm ngươi tức giận? Hay là ngươi ghen ghét, ngươi nhớ chủ ngươi, nhớ Thanh Hư chân nhân và không muốn ta học đạo với người khác. Thôi, ta xin ngươi... Hãy mở lòng...
Con vượn buồn rầu lặng lẽ. Nó không biết thổ lộ những ý nghĩ của nó bằng cách nào...
Thuận Tôn nghe lời đạo sĩ Nguyễn Khánh, ở lại quán Thông Thánh ít lâu để đạo sĩ trực truyền cho cách tĩnh tu, học phép trường sinh cửu thị.
Được ba tháng, đạo sĩ Bạch Hạc hỏi:
- Bệ hạ thấy ra sao?
- Bây giờ tai ta đã thấy dửng dưng với đàn ngọt, mắt ta đã hững hờ với sắc đẹp. Của ngon vật lạ ta nếm cũng chẳng khác chi cơm hẩm tương cà.
- Còn trong lòng thì sao?
- Đạo sĩ hỏi ý ta về lẽ hưng vong ư? thị phi ư?
- Hưng vong thì sao?
- Một chữ đồng Ta đã nhìn thấy phía sau cái sự mất còn.
- Bệ hạ nghĩ gì về lẽ ở - về? Về thôi! Về thôi! Ta đành về thôi! Ta về với Thiên quân.
Đạo sĩ Bạch Hạc hớn hở:
- Bệ hạ thật sáng láng phi thường. Cái mà bệ hạ đạt được sau một tháng, thì kẻ phàm phu phải mất hàng đời. Ngay cả như bần đạo cũng phải mất vài năm. Thời kỳ đầu này vô cùng khó khăn vì ta đang sống trong cõi tục, nó vốn đậm đà, nay phút chốc phải thay đổi chuyển ngược lại, làm sao cho lòng lạt lẽo... Điều đó trong đạo gọi là tâm trai, một điều vô cùng quan trọng cho bậc chân tu, mà cũng rất khó đạt...
- Ước gì ta được như thầy Liệt Ngự Khấu hoà đồng vào cùng trời đất...
- Khi lòng lạt lẽo thì tâm sẽ hư không. Hư không thì sẽ hoà đồng vạn vật. Ta là gỗ đá, mà gỗ đá cũng là ta. Ta là gió mây, mà gió mây cũng là ta. Lúc ấy còn lo gì thân ta chẳng như chiếc lông hồng... còn khó gì cái chuyện đi mây về gió...
Phải nói, vua Thuận Tôn dần dần như mê man đi lao đầu vào việc thấu hiểu Đạo. Cho đến lúc thượng hoàng Nghệ Tôn ốm nặng, nhà vua mới đành lòng rời bỏ quán Thông Thánh trở về kinh đô. Thái thượng hoàng nằm trên giường bệnh cầm tay con trai hỏi:
- Con nhất định theo đạo ư? Ông vua con cúi đầu nức nở.
- Con nhất định rời ngôi cửu ngũ, từ bỏ cơ nghiệp của nhà Trần chúng ta ư? Thái Thượng hoàng nói xong quay mặt vào tường. Nước mắt ông ứa chẩy, ứa chảy cho đến lúc không còn giọt nước nào để mà khóc. Từ lúc đó người không nói một lời nào nữa. Cũng từ lúc đó người đòi cởi bỏ bộ quần áo triều phục thêu rồng nặng tới vài cân, và chỉ mặc bộ quần áo lụa vàng nhẹ tênh. Người ta bảo lúc hoàng hậu Thánh Ngẫu mang thái tử An vào tiễn biệt đức thượng hoàng, ông già chỉ giơ tay xoa đầu cháu, và lần này ông lại khóc nhưng chỉ ra được hai giọt nước mắt đỏ như máu.
Khi thượng hoàng băng hà. Ông vua trẻ Thuận Tôn hầu như trao toàn bộ việc triều chút vào tay thái sư Quý Ly, để có thì giờ chuyên tâm vào việc tu đạo. Đạo sĩ Bạch Hạc tâu với nhà vua:
- Ở quán Thông Thánh có cung Thái Thanh có quả chuông quý. Quán Thông Thánh cung Thái Thanh dựng được nhờ Chiêu Văn Vuông Trần Nhật Duật và gia tướng của ông là Hứa Tông Đạo. Cả hai người có công đánh giặc Nguyên, và cũng đều là bậc chân nhân của đạo Hoàng Lão. Để nhớ ơn và noi gương tiền nhân, xin bệ hạ cũng cho dựng cung Thái Thanh ở trong vườn ngự uyển. Như vậy bệ hạ vẫn thoả được chí bình sinh học đạo, và luôn luôn ở bên triều đình lo việc cho muôn dân.
Thuận Tôn nghe theo, cho tu sửa lại ngôi quán trong vườn ngự uyển và gọi là cung Thái Thanh.
Hồ Quý Ly
Chương 3 Vườn ngự uyển nằm ở phía Bắc hoàng thành
Vườn ngự uyển nằm ở phía Bắc hoàng thành, trên một diện tích hàng trăm mẫu ruộng. Dựa trên địa thế tự nhiên, nó được ngăn cách với bên ngoài bằng một cái hồ dài ở phía đông, hai phía tây, bắc là những cánh rừng giới hạn bởi hào và luỹ tre, phía nam liền với hoàng thành. Bên kia hồ là những dinh thự, đình các của các vương hầu soi bóng vàng son nguy nga xuống mặt nước. Bên này hồ là những công trình nhằm phục vụ việc vui chơi giải trí, việc nghỉ ngơi hóng mát của hoàng gia.
Ở thời kỳ đầu nhà Trần, những vị vua anh minh như Trần Thái Tôn, Trần Thánh Tôn, Trần Nhân Tôn... vườn ngự uyển cũng giống như chủ của nó, có vẻ mộc mạc, trang nhã, u tịch. bởi vì các vị vua ấy đều theo đạo Phật không lấy sự xa hoa làm thích. Chỉ cho xây vài cung điện nhỏ làm nơi đọc sách hoặc hóng mát ngày hè, vài khu đình tạ làm nơi uống rượu thưởng tráng, hoặc cùng với những người thân đàm đạo. Điểm xuyết thêm vào, có một am nhỏ thờ Phật, xinh xắn nằm bên cạnh một vườn hoa. Đó là nơi vua Trần Thái Tôn hàng ngày vẫn tụng kinh dâng hương hoa buổi sáng và buổi tối, đó cũng là nơi vua Trần Nhân Tôn học đạo thiền cùng với Tuệ Trung thượng sĩ. Những khu đất còn lại, các vua cho trồng nhiều cánh rừng. Ngoài những cánh rừng hỗn hợp, còn có mấy khu rừng đạc biệt chuyên trồng một loại cây. Cạnh chùa có khu trúc lâm và tùng lâm. Cạnh hồ có khu liễu lâm và quế lâm. Ở rừng liễu thướt tha có dựng toà liễu đình để các nàng công chúa học đánh đàn và làm thơ...
Trứ danh nhất là rừng quế. Tương truyền những cây quế ở đây đã được trồng từ thời nhà Lý. Như vậy, đến lúc câu chuyện này xảy ra, đã có những cây quế được vài trăm năm tuổi, những cây đại thụ quế gốc to người ôm khôn xuể. Thực ra, rừng quế này được phát triển thịnh vượng nhất là vào thời trị vì của vua Trần Minh tôn. Hai bà ái phi họ Lê của Minh Tôn, cô của Quý Ly, vốn quê ở xứ Thanh, quê hương của thứ quế nổi tiếng, mà hàng năm ta vẫn phải cống cho phương Bắc. Khi hai bà được tiến cung, họ đã mang theo những cô cung nữ cùng quê. Những cô gái xứ Thanh này lúc ở nhà vốn làm nghề nông. Khi vào cung, nhiều thời giờ nhàn rỗi, họ bèn ra ngự uyển chăm bón và phát triển rừng quế. Ở quê hương Thanh Hoá, cây quế trồng sau năm năm đã được bóc vỏ thu hoạch, sau đó chặt cây đi. Nhưng ở ngự uyển, người ta không thu hoạch vỏ quế thành ra ngày càng có nhiều quế cổ thụ. Đó là những cây quế vô cùng quý giá, bởi vì quế càng lâu niên, vỏ quế càng giá trị.
Vì hai bà phi yêu thích rừng quế, nên vua Minh Tôn cũng lây thích cây quế. Nhà vua sai làm điện Thanh Thử bên cạnh hồ. trong rừng quế, để mùa hè ra tránh nắng. Quả thực, ngày hè được ở trong điện Thanh Thử thật dễ chịu. Rừng quế toả hương thơm ngan ngát. Gió từ hồ rộng hây hây thổi dễ làm tiêu tan đi những ưu tư cung đình.
Cũng chính tại cung điện Thanh Thử này đã đẻ ra giai thoại về mối tình của nàng công chúa Nhất Chi Mai xinh đẹp và Hồ Quý Ly, và đôi câu đối.
Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế
Quảng Hàn cung lý nhất chi mai.
Trong cuốn Trần sử, Sử Văn Hoa có ghi lại; mô tả lại khu vườn ngự uyển của Dụ Tôn:
“ Mùa đông, tháng 10, vua Dụ Tôn sai sửa sang đào đắp hồ ở vườn ngự. Bên hồ sai dân phu chở đá quý đá đẹp ở khắp nơi về xếp làm hòn núi cao. Quanh hồ cho khai ngòi làm suối nước chảy từ những hồ đầy nước tới. Cho xây cầu đá chạm trên ngòi. Bên bờ hồ có rừng tùng, rừng trúc và các vườn hoa thơm, cỏ lạ. Lại làm chuồng nuôi những chim quý, thú quý. Ở đó có con voi. trắng, và một con kiến khổng lồ mà vua Chiêm thành Chế Mỗ đem cống. Con Kiến đó dài 1 thước 9 tấc. Lại có những lồng lớn nuôi loài trĩ trắng, loài vẹt đỏ. Phía Đông núi đá nhân tạo, sai đào hồ con, bắt dân lộ Hải đông chở nước biển đổ vào để nuôi đồi mồi san hô cùng các loài cá lạ ngoài biển đông. Lại bắt dân châu Hoá làm một chiếc ao khác, mang cá sấu tận Hoá Châu về nuôi. Thấy khu điện Thanh Thử của vua cha Minh Tôn không vừa ý, Dụ Tôn phá đi cho xây điện Song Quế vì ở hai bên điện có hai cây quế cổ thụ. Sau xét thấy chữ Song Quế tầm thường, bèn đặt tên là điện Lạc Thanh (Tiếng của sự hoan lạc). Âu cũng là cái chí ở đời của nhà vua. Rồi cũng đặt tên luôn cho khu hồ lớn là hồ Lạc Thanh. Kể từ đó, trong khu hồ hoan lạc, đêm nào cũng có thuyền ngự treo đèn kết hoa bơi tung tăng, giữa tiếng đàn sáo du dương và tiếng cười giòn tan của đoàn mỹ nữ. Như thế vẫn chưa đủ, ở dưới chân quả núi nhân tạo còn cho xây lầu tố nữ nguy nga, tám mái, hai tầng, cột sơn son chạm rồng, ngói lưu ly mầu xanh. Riêng khu vườn ngự đó, để hoàn thành, phải dùng hơn vạn dân phu làm ròng rã trong ba năm”.
Đó là sơ lược kể về khu vườn ngự uyển thời Trần. Nó đã biến thiên qua nhiều mầu sắc, từ u mạc thanh tịnh thời Thái Tôn, Nhân Tôn, qua bất định lơ lửng thời Minh Tôn, rồi đến xa hoa đài các thời Dụ Tôn. Khi Dụ Tôn chết, Dương Nhật Lễ tiếm ngôi, rồi Nghệ tôn phục hưng nhà Trần, lúc này nhà Trần đã bước hẳn sang thời kỳ mạt vận.
Quân Chế Bồng Nga, nhân cơ hội, xâm chiếm Đại Việt đốt phá Thăng Long.
Dĩ nhiên, vườn ngự uyển cũng bị cướp phá. Cung điện Lạc thanh bị kéo đổ, lầu tố nữ bị bắt hết gái đẹp. Voi trắng đồ cống của Chế Mỗ bị cướp lại. Kiến khổng lồ bị chém làm nhiều khúc. Chim trĩ đem nướng chả. Rừng quế bị chặt ngả nghiêng. Vườn ngự uyển thật hoang sơ, tiêu điều chưa từng thấy.
Sau đó, năm Kỷ Tỵ, thày chùa Phạm Sư Ôn chiếm Thăng Long ba ngày. Vườn ngự uyển lại một lần nữa bị tàn phá. Vì là thày chùa, nên người lãnh tụ nông dân ấy không thể chịu nổi sự xa hoa, sự giam giữ kiểu cá chậu chim lồng. Bao nhiêu chuồng trại muông thú, ông ra lệnh dỡ bỏ hết. Chim, ông cho thả về trời. Đồi mồi, cá heo ông thả về biển. Hổ báo hươu nai, ông phóng thích về rừng...
Thời kỳ đó, Thăng Long hoàn toàn bị rơi vào tình trạng bỏ mặc. Chẳng ai còn bụng dạ nào để tái dựng vườn ngự uyển. Ông vua già Nghệ Hoàng thì rầu rĩ buông tay trước cơ đồ đang trong cơn lũ. Thuận Tôn thì nhỏ tuổi và như chiếc lông hồng trong cơn bão tố. Còn thái sư Hồ Quý Ly, ông lại có một ý đồ chiến lược khác. Đối thủ đáng lo ngại của ông, sau khi Chế Bồng Nga chết là nhà Minh phương Bắc, một đối thủ đang lên, bước vào thời kỳ thịnh vượng, sung mãn.
Ông phải lo lắng dành hết tâm lực vào việc xây dựng Tây Đô. Nước Đại Việt đang suy yếu. Nếu như trước kia, khi Chế Bồng Nga xâm chiếm Thăng Long, ông phải đem Nghệ Hoàng chạy sang Dông Ngàn, sau đó ra Bình Than, rồi mới tìm cách đánh lại; thì sau này nếu như nhà Minh tiến đánh Thăng Long, chắc chắn ông cũng phải rút lui về một căn cứ địa, mà nơi tốt nhất đối với ông, chẳng có chỗ nào hơn động An Tôn.
Có thể nói, lúc này Hồ Quý Ly đã bỏ lơ Thăng Long, mặc cho nó dần tự huỷ. Đến kinh đô còn như thế, huống hồ vườn ngự uyển. Khu đại hoa viên đẹp đẽ ấy, bây giờ xơ xác như một khu rừng hoang. Quan thái sư chỉ cho sửa sang tạm thời vài khu đình tạ nhỏ, trồng lại vài vườn hoa, phá bỏ những nhà cửa bị đổ nát, để trước mắt có chỗ hóng mát hoặc dạo chơi khi chưa rời Thăng Long.
Sau khi Nghệ Hoàng mất, Thuận Tôn suốt đêm ngày ở trong quán Ngọc Thanh thuộc vườn Ngự Uyển. Đức vua gắng sức tu tiên. Trước kia, qua chiếc cầu đá ngang con ngòi, từ hoàng cung vào vườn ngự uyển, người ta đã nhìn thấy ngay toà lầu Tố nữ vàng son chói lọi nằm ngay dưới chân hòn núi đá nhân tạo. Ngôi lầu ấy bị quân Chiêm đốt phá. Chính trên nền toà lầu, đạo sĩ Bạch Hạc đích thân đo đạc và chỉ đạo xây dựng quán Ngọc Thanh theo đúng kích thước của quán Thông Thánh. Tượng Thái thượng lão quân uy nghi trầm mặc. Cả quả chuông đồng từ thời chân nhân Trần Nhật Duật do đạo sĩ Hứa Tông Đạo đúc cũng được đem về, để cho tiếng chuồng tràn trề linh khí của người xưa được lan toả đêm ngày nơi kinh kỳ, giúp nhà vua mau thành chánh quả. Vua Thuận Tôn vẫn buồn rầu, ý không vui. Ông nói:
- Trẫm muốn xa hẳn nơi phồn hoa đô hội. ý trẫm muốn ra vùng Bình Than.
Đạo sĩ Nguyễn Khánh quỳ xuống tâu:
- Tu đạo cốt nhất ở lòng mình tĩnh lặng và ở một nơi tràn trề linh khí. Có nhiều linh khí, công quả sẽ chóng thành. Vùng Lục đầu giang, các núi thiêng đều rơi vào tay Phật giáo hết rồi. Nay thần đã xem xét kỹ lưỡng. Thăng Long chính là nơi hội tụ khí thiêng sông núi, nhất là vườn ngự uyển. Bệ hạ tu ở đây có cái lợi: đã gần đạo, lại gần đời.
Nghe đạo sĩ nói, Thuận Tôn chỉ im lặng.
Cô cung nữ Ngọc Kiểm, từ sau ngày hoàng hậu Thánh Ngẫu có mang lại được điều về hầu hạ Thuận Tôn.
Thuận Tôn đã trải qua chăn gối với nàng, nên rất tin nàng. Khi đạo sĩ đi khỏi, Ngọc Kiểm tâu với vua:
- Thần thiếp thấy đạo sĩ Bạch Hạc có điều khả nghi.
- Điều gì?
- Có người trông thấy đạo sĩ đi kiệu đến tư dinh của quan thái sư.
- Có việc đó sao?
- Quan Thái bảo Nguyên Hàng nói với thiếp: ý của thái sư muốn dùng Nguyễn Khánh để mê hoặc bệ hạ, dụ bệ hạ đắm say vào việc tu tiên. Nguyễn Khánh là tay chân của thái sư. Xin bệ hạ đề phòng.
- Đề phòng thế nào?
- Tương tựu kế. Kể ra đến Bình Than cũng có cái hay, ở đấy các quan trấn, phủ nhiều người là của ta. Nhưng thái sư chắc không nghe. Họ muốn bao vây dò xét bệ hạ. Tốt nhất bây giờ bệ hạ cứ giả ngây đi tu ngay tại Thăng Long... chờ đến thời cơ...
- Thời cơ ư? - Thuận Tôn chua chát mỉm cười - Thôi ta mệt lắm rồi. Nàng lui ra cho ta tĩnh toạ.
***
Mấy tháng sau, Thuận Tôn không ngồi trong quán Ngọc thanh bằng gạch ngói nữa. Ông sai làm một gian lều cỏ gần đó, và ngày đêm tu luyện trong am cỏ. Bàn ghế, giường ngủ xuềnh xoàng thô kệch như nhà của người nông phu. Bữa cơm của ông toàn gạo lức với tương cà, rau dưa.
Hoàng hậu Thánh Ngẫu hàng ngày mang thái tử An chưa đầy ba tuổi ra thăm chồng. Hoàng hậu nức nở:
- Thần thiếp cúi xin thánh thượng mau hồi cung. Cả triều đình. cả muôn dân đều mong như vậy.
Đức vua nhẹ nhàng khuyên nhủ:
- Nàng hãy nín đi. Nhìn nàng khóc, lòng ta không chịu nổi. Nhưng chí ta đã quyết. Hãy đừng làm rối cái chân tâm của ta.
- Bệ hạ không thương thần thiếp sao?
Cha mẹ ta đều chết cả rồi. Các anh ta đều chết cả rồi. Bây giờ, trên đời này chỉ có nàng là người thân thiết với ta nhất.
- Bệ hạ không thương đứa con bé bỏng của chúng ta sao?
Nhà vua đưa tay ra đón đứa trẻ mũm mĩm nhưng mắt buồn rười rượi. Thái tử An nép đầu vào ngực cha.
- Cha ơi? Cha về với con đi?
- Sao mặt con tôi ngơ ngác thế này?
- Con nó sợ!
- Con sợ gì?
- Nhà vắng. Đêm mẹ khóc.
- Vũ công công đâu? Sao con không chơi với bọn chúng.
- Con không thích các công công.
- Con sợ gì nữa?
- Sợ ông Hâu đen.
- Sao?
- Ông Râu đen bắt học.
- Trời ơi? Đứa bé hơn hai tuổi học làm gì? Còn sợ gì nữa không?
- Còn sợ ông ngoại bắt An tập làm vua.
- Tập làm vua?
Bà hoàng Thánh Ngẫu phải giải thích hộ thái từ An.
- Cha thiếp bảo nếu bệ hạ nhất quyết đi tu... Thì... một ngày đất nước không thể không có vua được... Thuận Tôn thở dài, ôm chặt đứa con vào lòng:
- Cha có lỗi... Cha có lỗi đã sinh ra con.
Thánh Ngẫu cũng nức nở:
- Thiếp xin bệ hạ... Xin bệ hạ đừng khóc nữa...
Nhà vua lau nước mắt cho hoàng hậu:
- Và cả nàng... Xin nàng cũng đừng khóc nữa. Thuận Tôn giang tay ra ôm cả hoàng hậu và cả con trai vào lòng. Ông tự hỏi mình:
- Làm vua?... Kiếp làm vua là thế này hay sao?
Thượng tướng Trần Khát Chân vào vườn ngự Uyển đến quán Ngọc Thanh, bắt gặp vua Thuận Tôn đang ngồi tĩnh toạ. Ông quỳ rạp xuống đất, chờ đến lúc đức vua cho phép đứng dậy. Ông rạp sát đất rất lâu, nghe ngóng mãi không thấy động tĩnh. Ông kiên nhẫn rạp đầu quyết không ngẩng nhìn trộm. Phải bằng quãng thời gian ăn hết một bừa cơm, mới nghe thấy tiếng thở dài. Rồi một giọng nói hiền từ cất lên:
- Ông ngồi dậy đi chứ.
Khát Chân ngồi trên chiếc nệm cỏ.
Nhà vua hỏi:
- Khanh đến thăm ta chắc có chuyện muốn nói?
Khát Chân mở đầu bằng câu chuyện xưa:
- Chác bệ hạ không quên chuyện cũ, lúc Trần triều ta mới mở nước. Đức vua Trần Thái Tôn bỏ Thăng Long một mình lên Yên Tử đi tu. Phù Vân quốc sư đã nói với đức Thái Tôn: “Phàm là bậc nhân quân. tất phải lấy ý muốn thiên hạ làm ý muốn của mình”. Nay muôn dân đều một lòng muốn đón bệ hạ trở lại triều đình, bệ hạ nỡ không về sao được.
Nhà vua lặng thinh, chỉ khẽ bảo:
- Ông nói nốt chuyện xưa đi.
- Thái sư Trần Thủ Độ đem cả triều đình đến hội tụ quanh chùa Vân Yên... đêm ngày cầu khẩn xin vua trở về.
Thuận Tôn ngắt lời:
- Này, khanh thử đem so sánh giữa ta và đức Trần Thái Tôn xem sao?
Khát Chân kính cẩn:
- Dạ, nhà vua không bằng.
- Còn chí khí của riêng ông so với thái sư Thủ Độ thì sao?
- Dạ, thần cũng không bằng.
Nhà vua hỏi tiếp thêm:
- Còn đạo sĩ Nguyễn Khánh với Phù Vân quốc sư?
- Cũng không bằng.
Nhà vua thở dài, chậm rãi nói.
- Thế đấy! Tình thế bây giờ, con người bây giờ khác với thời xưa một trời một vực.
- Như vậy tức là... - Trần Khát Chân chợt lúng túng, nhưng hình như có chút vui mừng.
- Nghĩ sao khanh cứ việc nói.
- Như vậy, tức là bệ hạ không tin gì ở đạo sĩ Bạch Hạc?
Thuận Tôn im lặng hồi lâu mới trả lời:
- Ta đã đọc qua nhiều kinh sách. lẽ nào đến nỗi ngu đần cả tin vào câu chuyện Trường sinh bất lão. Chúng ta làm sao có thể cướp được mệnh trời.
Trần Khát Chân dè dặt:
- Như vậy... việc bệ hạ bỏ ngôi báu tu tiên... phải chăng chỉ là...
Thuận Tôn lắc đầu:
- Khanh không hiểu ta rồi. Ta vẫn tu chứ. Ta vẫn tin tưởng chứ... Nhưng ta tin vào một điều mà khanh không hiểu được đâu.
- Bệ hạ chẳng nên mềm lòng yếu đuối. Nhà Trần chúng ta vẫn còn rất nhiều trung thần nghĩa sĩ. Họ sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn. Cơ nghiệp hiển hách của nhà Trần đang lung lay, nhưng muôn dân vẫn nhớ ơn nhà Trần. Chẳng lẽ bệ hạ lại nỡ rời bỏ ngôi báu, rời bỏ thần dân trăm họ...
Thuận Tôn lại thở dài:
- Ông cứ làm theo ý của riêng mình...
Khát Chân còn hùng biện rất lâu, rất dài. Nhưng Thuận Tôn vẫn như tượng đá lặng im, gương mặt không hề xúc động. Rồi pho tượng ấy từ từ nhắm mắt lại. Cuối cùng, Khát Chân hỏi ý kiến nhà vua về những điều ông mới trình bày. Nhà vua chỉ trả lời:
- Ta đã quên mất lời nói rồi.
- Bệ hạ nói sao? Khát Chân ngơ ngác.
- Ta đã quên mất tiếng nói của ta rồi.
Khát Chân đành ròng ròng nước mắt sụp xuống vái tạ rồi nín lặng quay về.
***
Hồ Nguyên Trừng đến vườn thượng uyển thăm Trần Thuận Tôn. Người ông nồng nạc mùi rượu. Ông quỳ xuống, lảo đảo cơ hồ muốn ngã. Nhà vua nhẹ nhàng trách:
- Khanh vẫn đêm ngày đắm mình trong rượu ư?
- Hạ thần thật bất kính. Mong bệ hạ tha tội. Nhưng kẻ tiểu thần này thật không thể không say được.
Thuận Tôn cười nhếch mép:
- Cũng như ta chứ sao? Ta thật không thể không đi tu được.
- Hạ thần xin rập đầu muôn cậy. Chính vì bệ hạ nhất quyết rời bỏ ngai vàng nên hạ thần đã cả gan đến xin bệ hạ hồi tâm nghĩ lại...
- Khanh muốn đến khuyên ta nghĩ đến cơ đồ, nghĩ đến giang san xã tắc?... Ôi xã tắc! Đã có biết bao nhiêu người lo lắng cho nó. Còn ta ư...
- Thần không dám vì đại nghĩa đến van xin bệ hạ. Thực ra... chỉ vì đứa em gái của thần thôi. Hôm qua, thần đến thăm hoàng hậu... Đứa em gái hiền hoà xinh đẹp của thần đã khóc ròng rã mấy hôm nay... Hoàng hậu đang ốm... không ăn không uống... Thần đến thăm... Thánh Ngẫu run rẩy không đứng lên nổi nữa... Hoàng hậu cầm lấy tay hạ thần và bảo: “Đại huynh ơi! Muội chết mất” Xin bệ hạ hãy rủ lòng thương cứu lấy Thánh Ngẫu... Cả thái tử An, đứa con xinh đẹp thông minh của bệ hạ nữa... thằng bé cũng khóc ròng.
Thuận Tôn thở dài:
- Sớm nay, nghe tin hoàng hậu ốm nặng, ta đành rời am cỏ tới thăm nàng. Khổ thân Thánh Ngẫu. Ta chẳng nói nhiều lời. Ta chỉ cầm tay nàng mà rằng: “Hoàn cảnh... Ta thật không thể không đi tu được”. Câu nói ấy ta cũng vừa nói với khanh. Ta chắc nàng cũng thể tất cho ta. Mà khanh nữa. Chắc khanh cũng hiểu ta... Sớm nay, sau khi ta đến, nàng đã bình tĩnh hơn... Ta nghe nói nàng đã chịu ăn bát yến. Thuận Tôn thở dài, rồi cầm lấy tay Nguyên Trừng: Trong triều đình, khanh là người thân tình hơn cả. ra tin ở khanh. Ta biết khanh có chút lòng thương ta. Ta muốn nhờ cậy một việc.
- Xin bệ hạ cứ giao phó.
- Khanh là một người mà nhiều người có thể tin cậy. Ngay cả thượng phụ cũng rất xem trọng ý kiến của khanh. Ta nhờ khanh... nói với thái sư... rằng ta đồng ý...
- Bệ hạ đồng ý điều gì?
- Ta bằng lòng nhường ngôi cho con ta là thái tử An.
- Nhường ngôi cho thái tử An... Thái tử An chưa đầy ba tuổi...
- Đúng vậy... Mà khanh cần gì lo lắng... Thái sư là người mưu lược... là vị lão thần... Ông ngoại phò ấu chúa... Ta hoàn toàn yên tâm... Ta chỉ có một yêu cầu... Để cho ta yên... Để cho ta được lên rừng tu hành... Làm bạn với rừng với suối, vui với cỏ cây hoa lá... Chí ta đã quyết khanh không cần phải bàn luận... Triều đình không cần dâng tấu biểu khuyên can... Thôi, khanh hãy lui ra... Ta mệt lả đi rồi... Ta cần yên tĩnh...
Con vượn trắng thấy Thuận Tôn ngước mắt nhìn ra phía cửa sổ; như chỉ chờ có vậy. Bạch Viên đang ngồi trên cành cây khô gần đó vội nhanh nhẹn chui qua ô trống. nhảy tới ngồi vào lòng nhà vua. Nó kêu khe khẽ, rồi gãi bụng, rồi phẩy tay như muốn thay mặt nhà vua tiễn khách.
Hồ Quý Ly
Chương 4 Vua Thuận Tôn ngồi tĩnh toạ dưới gốc cây
Vua Thuận Tôn ngồi tĩnh toạ dưới gốc cây. Cô cung nữ Uyển Nhi rón rén bưng mâm cơm đặt trên chiếc bàn gỗ gần đó, cô thấy nhà vua nhắm mắt, thở đều đều nên không dám làm kinh động. Con vượn trắng bám sát nhà vua như hình với bóng. Lúc này nó cũng lặng lẽ ngồi vắt vẻo trên cành cây sát cạnh. Thấy cô cung nữ còn ngần ngừ, con vật nhăn nhó, nhe răng làm mặt xấu Nó không muốn có ai bên nhà vua. Uyển Nhi lặng lẽ lui ra xa, ngồi ở chiếc cầu đá vắt qua con ngòi. Nhiệm vụ của cô là ngồi ở đấy.
Khi Thuận Tôn ra lập am tĩnh tu, nhà vua cho bọn thái giám, cung nữ trở về hết, và chỉ giữ lại một mình nàng Trần Ngọc Kiểm. Sau đó không hiểu sao Ngọc Kiểm phải đổi đi rồi bị giết, Uyển Nhi đang hầu hạ hoàng hậu lại được chuyển sang đây. Ông Nguyễn Cẩn nói với nàng:
- Nhà ngươi phải biết giữ mồm giữ miệng. Những chuyện ở đây phải biết giữ kín trong lòng, không được kể với ai ngay cả với người thân. Hàng ngày hầu hạ nhà vua. Có ai đến thăm vua, phải báo ngay cho ta.
Uyển Nhi chăm sóc Thuận Tôn rất chu đáo. Đáng lẽ ra thức ăn của nhà vua phải do bọn đầu bếp trong hoàng cung nấu, nhưng Thuận Tôn lại ưng những món ăn do tay nàng làm. Chao ôi. Nhà vua sao đổi thay đến thế. Không thèm làm vua, lại muốn đi tu. Không thèm gấm vóc lụa là, chỉ khoác lên người một bộ đồ trắng vải thô. Không thèm nem công, chả phượng, chẳng màng long tu, yến xào; mà chỉ đòi nàng nấu cho bát canh cua đồng, đĩa rau muống luộc xanh biếc với quả cà giòn tan...
Uyển Nhi thở dài. Chợt thấy thương ông vua trẻ. Số phận một cung nữ đã đáng thương, song số phận ông vua kia còn đáng thương hơn. Chẳng qua cũng là cá chậu chim lồng mà thôi.
Chợt cô ngẩng lên trời vì nghe thấy tiếng vỗ cánh của đôi chim lớn. Đó là đôi công. Hồi ông thày chùa Phạm Sư Ôn chiếm kinh thành, ông đã phá chuồng thả đôi công này vào rừng quế. Khu rừng quế bên hồ Lạc thanh bây giờ rậm rạp lắm. Trên mặt đất trống, những bụi sim, bụi dành dành, bụi lan cỏ tím, bụi cúc dại và lau sậy đã phủ kín. Những bụi cây leo bò cả lên vài cây quế mép hồ. tạo thành những tấm mành lá xanh đung đưa trong gió. Và đôi công xinh đẹp kia đã làm tổ, ẩn náu trong khu rừng đó. Thi thoảng, người ta lại bắt gặp con chim trống xòe đuôi múa quanh con mái trên bãi cỏ. Vừa múa vừa kêu lên những tiếng tố hộ trầm và đục. Hễ thoáng thấy bóng người, chúng đã lủi ngay vào khu rừng quế.
Chỉ riêng vua Thuận Tôn làm quen được với đôi công nhút nhát, kể từ ngày vua vào ngự uyển ẩn tu. Chiều chiều, khi ánh mặt trời đã nhạt, lúc nhà vua dùng bữa xong, ông nhẩn nha trèo lên ngọn núi đá nhân tạo, ngồi trên một tảng đá bằng phẳng hóng mát. đó là lúc đôi công xuất hiện. Đôi chim từ trên cây quế cao nhất cất tiếng như để chào đón ông vua đang ngẩn ngơ bên sườn núi. Từ trên cao, đôi chim to lớn vạch thành hai đường thẳng suốt từ rừng quế đến ngọn núi. Chúng bay là là, đôi cánh rộng nặng nề quạt phành phạch. Dọc đường, chúng đỗ lại trên cây liễu để lấy sức và thăm dò. Cuối cùng, khi đã nhận ra đúng là bóng nhà vua, chúng bay vòng quanh ngọn núi, cánh mở rộng hết cỡ để cho bộ lông sặc sỡ đón nhận ánh sáng biến thành long lanh muôn mầu. Vua Thuận Tôn lúc này chậm chạp từ trên núi bước xuống thảm cỏ xanh, nơi đôi công thường tình tự bằng những điệu múa. Vua bưng liễn cơm mà ông ăn không hết, tung ra bãi cỏ cho đôi công. Đàn chim sẻ, chim ri rừng đã phục kích từ lâu trên những ngọn liễu bên ngòi nước, lúc đó bất thình lình bay ùa xuống thảm cỏ để tranh ăn với đôi công. Cung nữ Uyển Nhi chiều nào cũng ngồi trên cầu đá để chờ xem cảnh tượng này mà cô vẫn gọi là cảnh chim chầu đức vua. Cả con vượn trắng hình như cũng thích cảnh này. Nó từ trên cây nhảy xuống thảm cỏ, đùa dỡn nhảy nhót. Nó chạy đến đâu lũ chim ri lại bay túa lên kêu xáo xác. Nhưng khi nó ra chỗ khác, đàn chim lại ùa xuống ngay. Biết nhà vua thích đàn chim, nên không đợi lệnh vua ban, Uyển Nhi ngày nào khi bưng cơm chiều đến cũng để sẵn một bát gạo to để nhà vua bố thí cho lũ chim trời. Chỉ có những phút ấy, Uyển Nhi mới thấy gương mặt rạng rỡ sung sướng của đức vua.
Uyển Nhi ước muốn cảnh nhà vua hạnh phúc cùng đàn chim cứ kéo dài vô tận. Nhưng bóng chiều nhá nhem đã đổ xuống. Đôi công luyến tiếc không muốn rời chân, nó lại lượn vòng quanh quả núi rồi bay vút vào rừng quế. Bóng của chúng dần dần hoà vào bóng hoàng hôn. Đàn chim sẻ, chim ri cũng rúc rích rủ nhau bay về tổ của chúng ở những ngôi đình, ngôi nhà hoang phế nằm rải rác trong vườn ngự uyển.
Thuận Tôn thở dài bước vào am cỏ. Uyển Nhi đã đốt sẵn một ngọn bạch lạp, sau đó cô lùi ra ngoài, lặng lẽ chui vào bóng tối của cái chái bên cạnh.
Thuận Tôn lại ngồi tĩnh toạ. Thông thường lúc bóng tối phủ hẳn xuống, lúc không gian khu vườn bao la hoàn toàn tịch mịch, cũng là lúc Thuận Tôn sợ hãi nhất, và ông phải vật lộn với chính mình nhiều nhất. Buổi tĩnh toạ ban ngày, nhà vua thấy làm trống rỗng lòng mình dễ hơn, có thể vì khi có ánh sáng chí khí trong lòng con người mạnh mẽ hơn. Còn ban đêm thì khác hẳn. Sự lặng lẽ quá đỗi, sự mịt mù quá đôi hình như dễ tạo chỗ ẩn náu cho những hình ảnh, những ý nghĩ, những màu sắc, những mùi vị; chúng nép mình ở một hốc, một ke nào đó trong bóng tối và trườn mình bò ra khỏi nơi lẩn trốn lúc nào chẳng hay. Thoạt đầu, chỉ là một nét, một chấm mờ nhạt trong tâm tưởng; cái chấm đó dần to ra, vụt lớn biến thành một hình ảnh, hoặc một tiếng nói. Lúc đó, có đè nó xuống, nó vẫn nổi bềnh lên trong tâm khảm, rồi rủ rê ta cùng đi lang thang vào một cuộc phiêu lưu kỳ lạ. Gọi nó là mộng mị chăng? Là giấc mơ chăng? Hay như đức vua Trần Thái Tôn gọi nó là một tà thiền? Hay như đạo Hoàng Lão gọi nó là một tà tĩnh toạ? Nó chẳng xui ta làm gì ác đâu. Chẳng qua, nó chỉ muốn rủ rê ta hãy tung hê tất cả để rong chơi vào một cuộc mộng du, ở đó chẳng còn trách nhiệm, chẳng còn ràng buộc. Vọng niệm đã dậy, và người tu hành phút đó bỗng lạc vào một tà đạo lúc nào. Chẳng hay, họ bỗng thành một kẻ phàm tục mà cứ tưởng mình không tục, họ đi tìm cái nhởn nhơ trong một cuộc lang thang tĩnh lặng. Cái đó cũng là một lạc thú chẳng kém một thứ lạc thú nào trên thế gian này, mà chỉ một số người mắc bệnh, hoặc không có bệnh nhưng được trời phú cho cái linh khiếu đó hưởng được, nó như một thứ ma tuý tinh thần.
Thuận Tôn mắc phải thứ ma tuý đó, nó vẫn rủ rê ông trốn việc đi chơi. Ông ngồi tĩnh toạ đấy, nhưng thực ra hồn ông đang rong ruổi tận đâu đâu; lúc thì lông bông với những ý tưởng buồn bã, lúc thì đụng đầu với một kẻ đối thoại vô hình rất thông minh và vô cùng ma quái. Nhiều đêm, ông đã nói chuyện với kẻ đối thoại ấy. Có lúc nó là một bóng đen không mặt. có lúc nó là một màn sương nhòe nhoà. Ông đồ chừng rằng chính nó vẫn thường hằng phục kích trong lòng ông, trong tâm hồn ông, để đêm đêm hiện ra hành hạ ông. Ông ngồi tĩnh toạ và cố xua đuổi nó bang những câu thần chú. Ông lẩm bẩm:
... Tắc kỳ đoài
Bế kỳ môn
Chung thân bất cần
Khai kỳ đoài
Tê kỳ sự
Chung thân bất cứu...
Đó là một câu nói của Lão Tử mà đạo Thần tiên đã biến thành một câu thần chú. Hãy ngậm miệng; hãy nhắm mắt, hãy làm đôi tai điếc đặc; hãy thở nhè nhẹ, nhè nhẹ thôi... Như vậy có nghĩa hãy cắt đứt hoàn toàn với cuộc sống trần thế, đừng để cho ngũ quan liên hệ với ngoại cảnh. Lúc đó riêng ta sẽ đối diện với ta; hay nói cho đúng hơn, cả bản thân ta cuối cùng cũng biến nốt, để cho ta đi đến một trạng thái hư không, phiêu diêu tự tại. chẳng phải là sống, cũng chẳng phải là chết... Trạng thái một thân xác lâng lâng, nhẹ như một sợi khói mong manh, loãng như làn nước trong... Và tâm hồn nhạt nhẽo, nhạt thếch, hết buồn, hết vui, trạng thái đó đối với Thuận Tôn thật dễ chịu, thật an ủi.
Nhưng đột nhiên trong màn mờ của tâm tưởng phiêu diêu cái chấm đó bỗng hiện lên. Đuổi nó đi. Cút đi! Đừng theo đuổi, bám lấy ta như vậy! Thuận Tôn tự nhủ. Ông lại cố tập trung lầm bầm câu thần chú. Cái chấm đó nhạt nhoà, sắp sửa tan loãng, nhưng rồi nó lại hiện ra như ma trơi. Cố gắng mãi, con ma trơi tâm tưởng ấy cuối cùng cũng biến đi. Thuận Tôn thở dài. Nhà vua hầu như đã thắng, nhưng không trụ lại trong trạng thái hư vô được nữa. Cũng có thể là ngược lại nỗi ám ảnh ma trơi đó đã thắng, bởi vì ông đã buộc phải quay về trần thế, phải mở đôi mắt ra để ngỡ ngàng nhìn vào đêm đen u tịch. Ông lẩm bẩm: Tịch mịch quá! - ông thở dài - Ta thèm... được như đêm suông. Gió hây hây. và cỏ cây rì rào. Ta thèm... được như cỏ cây hoa lá. Ước gì... cứ đêm mãi. Ta sợ ngày đến, bởi vì khi ngày đến, khi mặt trời mọc là muôn vật lại nhốn nháo. Con ngựa tranh nhau chuồng cỏ. Lũ gà sống tranh nhau tiếng gáy. Kỳ quặc cả đến tiếng gáy cũng tranh hơn. Rồi triều đình nữa? Ôi? Cái triều đình rồ dại? Thiên hạ như một bầy người điên. Họ tranh nhau từ màu áo cho đến lọng che, cho đến kiệu đi, ngựa cưỡi. Thèm áo đỏ, áo tía. Thèm nhiều tàn, nhiều lọng, thèm kẻ hầu người hạ, tì thiếp đông đúc...
Ôi! Còn cái áo hoàng bào của ta nữa đấy. Ngôi báu làm bao kẻ thèm khát. Thượng phụ ơi ông là thầy của ta là cha vợ của ta. Ông đã vất vả vì nó từ hơn hai chục năm nay. Ta biết chứ. Mà thiên hạ hỏi còn ai không biết? Thượng phụ ơi! Ta xin biếu người đấy. Nhưng than ôi! Ngôi báu tiếng là của ta nhưng có thực là của ta đâu. Bên ta, còn biết bao nhiều người giữ tay ta lại, bịt miệng ta lại, không cho phép ta trao nó cho ông. Họ bảo đó là việc làm rồ dại. Ông khôn ngoan nghĩ ra một kế, gợi ý cho ta truyền ngôi cho con trai. Thằng An chưa đầy ba tuổi, nó đi chưa vững, nói chưa thạo; nó đã hiểu ngai vàng là cái gì. Đối với nó có khi không bằng một thứ đồ chơi trẻ nít.
Thế là ta đã đồng ý để mọi việc triều chính rơi hết vào tay ông. Như vậy ông đã thoả chưa? Tại sao ông vẫn chẳng buông tha, trả ta về với sự bình an tịch mịch? Ôi... Đêm dịu hiền. Ta muốn hoà mình vào đêm. Ta khát khao tịch mịch.
Nhưng, có lúc nào ông muốn lỏng tay buông tha ta.
Cả đến những người gần gũi ta, có chút xót thương số kiếp của ta, ông cũng không tha. Số phận của nàng Ngọc Kiểm, ai mà chẳng rưng rưng giọt lệ. Ta đã chịu ơn dầy của người con gái nhẫn nhục, đầy đức hy sinh. Trong lúc ta điên rồ, nàng chẳng tiếc tấm thân ngọc ngà, để an ủi ta, ban phát tình yêu cho ta, nâng niu dìu ta khỏi vực thẳm điên rồ. Khi ta khỏi bệnh, các người lại bắt nàng đi, giam lỏng, buộc nàng phải ròng rã một tháng trời, uống thứ thuốc đắng ngắt, uống thứ thuốc thất đức, vì các người sợ sự trung thành dịu dàng của nàng sẽ đâm hoa kết trái. Ôi! nàng tiên tinh khiết của ta! Hãy tha lỗi cho ta, vị quân vương chẳng có quyền lực gì. Họ bảo với Ngọc Kiểm thuốc đó là thuốc bổ. Triều đình muốn cảm cái ơn cứu tử đã giúp ta lành bệnh. Kể với ta, nàng ròng ròng nước mắt. Nàng không nói, nhưng ta biết nàng đã khóc cho cái mầm tình yêu bị đốn chặt ngay từ lúc chưa hình thành, cái mầm sống mà nàng nâng niu và ta cũng ước ao. Mấy tháng sau, khi ta đã hoàn toàn tỉnh táo và nhớ lại chuyện xưa, ta đòi nàng về hầu hạ ta. Họ bắt buộc phải cho nàng về với ta, nhưng đêm đó nàng đã khóc nức lên:
- Bệ hạ ơi! Thiếp bây giờ chỉ là thứ cây khô.
- Nàng nói thế nghĩa là sao?
- Thiếp chẳng thể sinh con cho chàng được nữa.
Thế đấy. Nỗi đắng cay của nàng đến thế mà cũng không xong. Khi thượng phụ sai thượng thư Hà Đức Lân dỡ ngói lưu ly ở điện Thiên Chương. dùng thuyền chuyên chở vào động An Tôn, để cấp tốc xây dựng Tây Đô, Ngọc Kiểm nói với ta:
- Thái sư dời đô là sắp có chuyện cướp ngôi đó.
Lấy lý mà suy, chuyện dời đô có một mục đích như thế thật. Bởi vì tổ tiên nhà Trần ta đã tạo ra bao ân đức. Ba lần đánh thắng quân Nguyên, xây dựng nước Đại Việt trở nên văn hiến, hùng cường... những điều đó há chẳng ghi sâu vào tấm lòng người Việt sao, nhất là dân Thăng Long. Thượng phụ định dời đô tức là sợ dân Thăng Long, đã thấy cái yếu vì lòng dân chẳng ủng hộ mình. Tuy nhiên, bè đảng của ông quá mạnh, ông lại là người cứng cỏi... Chuyện dời đô, dân Thăng Long đang xì xầm khắp nơi. Ai chẳng nói giống Ngọc Kiểm. Chỉ có khác, Ngọc Kiểm đã dám thẳng thắn nói với ta... Ta thật sơ suất, ta thật ngây thơ, chỗ nào mà chẳng có tai mắt của thượng phụ; ta đã có lỗi với nàng vì đã để mình nàng gánh chịu hậu quả. Chỉ chờ có cớ, lập tức một vụ án đã xẩy ra. Đầu tiên, người bắt Ngọc Kỵ cô cung nữ em họ Ngọc Kiểm, hầu hạ ta ở ngoại phòng. Bị tra tấn khủng khiếp. Ngọc Kỵ khai ra Ngọc Kiểm. Ngọc Kiểm lại bị tra tấn ráo riết hơn. Họ muốn tìm ra những đại thần phía bên trên Ngọc Kiểm. Thượng phụ muốn nhân vụ án, khủng bố để dập tắt dư luận và tiến thêm một bước bẻ gãy phe chống đối. Ngọc Kiểm vẫn không một lời khai. Đến chết cô vẫn chỉ nói:
- Dời đô, tức là sắp cướp ngôi.
Hồ Quý Ly
Chương 5 Trong gian mật thất tại dinh quan thái Bảo
Trong gian mật thất tại dinh quan thái Bảo, hai mái đầu chụm gần nhau. Trần Nguyên Hàng lắc đầu:
- Thế là hỏng rồi. Đức vua đã hoàn toàn suy sụp.
Trần Khát Chân trầm ngâm:
- Sắp dời đô? Hiểm hoạ đang đến gần. Nàng Ngọc Kiểm đã hy sinh cả tính mạng để cảnh báo chúng ta. Chẳng lẽ chúng ta, những rường cột của nhà Trần, lại không bằng người đàn bà đó, lại không nghĩ ra được một điều gì để cứu vãn cơ đồ?
Thái bảo Trần Nguyên Hàng giọng lo lắng:
- Nghe nói hoàng thượng đang có ý định truyền ngôi cho thái tử An. Ván cờ đang ở thế kịch liệt. Hồ Quý Ly đang đi nước rút. Quý Ly sẽ làm nhiếp chính.
Thực ra dù hoàng thượng có bị mất quyền, có đi tu, hoặc xấu nhất có bị giết, thì chúng ta vẫn có cớ để nêu cờ chính nghĩa. Ngoài đức vua Thuận Tôn ra, Nghệ Hoàng hiện nay vẫn còn những người con các bà cung phi như Mẫn Vương Ngọc và Nam quận vương Trần Ngôi. Vấn đề chủ chốt vẫn là lực lượng phò Trần của chúng ta. Theo ý tôi, thế của phe Quý Ly đang rất mạnh, nhưng phe phò Trần thực ra cũng không yếu. Chỉ có điều bất lợi cho chúng ta là phe Hồ Quý Ly nắm được những địa vị chủ chốt, nắm được những quan lại cấp dưới. Còn các đại thần hầu như đều ngả theo ta. Hiện nay, tình thế đã hoàn toàn rõ ràng. Trước kia, Quý Ly chỉ lộng quyền. Chúng ta đã thất bại trong việc ngăn chặn sự lộng quyền. Quyền hành càng lớn tất nhiên sẽ đi đến tiếm ngôi. Tình hình cấp bách lắm rồi!
Trần Nguyên Hàng ngậm ngùi:
- Chúng ta đã hao tổn tâm trí sắp đặt bao mưu kế...
Trần Khát Chân giọng nghiêm trọng:
- Những mưu kế sắp tới cần phải quyết liệt hơn.
Nguyên Hàng ghé tai thì thầm:
- Bùi Bá Kỳ lại mới gặp tôi...
- Sao? Bá Kỳ ư?
- Phải... Ông ta vẫn muốn liên hệ với chúng ta.
Khát Chân:
- Trước khi gặp ông, Bá Kỳ đã đến nói chuyện với tôi
- Ông từ chối?
- Đúng vậy Tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Phải từ chối thôi. Tôi bảo với Kỳ: “Ông nghĩ kỹ mà xem, Thân Bao Tư nước Sở đã đứng trước cung vua Tần khóc ròng rã bảy ngày đêm; Tần đã cứu Sở. Nhưng kết quả cuối cùng là Tần thâu tóm toàn bộ các nước về tay mình, kể cả nước Sở Nay, nếu chúng ta cầu cứu nhà Minh... cái chung cục chắc ông đã rõ...”
Thái bảo Nguyên Hàng lắc đầu:
- Tôi lại nghĩ có hơi khác một chút. Tôi nghĩ: bọn loạn thần tặc tử ai cũng có thể giết được. Đó là vâng mệnh trời, việc đó ta không thể một ngày làm ngơ. Người trong nước giết không được, thì người nước láng giềng có thể giết. Người nước láng giềng không giết được, thì kẻ di địch, mọi rợ cũng có thể giết... Vì thế có thể nhờ người Minh giết.
Trần Khát Chân có vẻ buồn:
- Tôi không ngăn trở Bùi Bá Kỳ. Ông ta cứ làm theo cách nghĩ của ông ta. Nhưng còn về phần chúng ta, nếu như lòng dân có thể theo ta, điều đó chính vì chúng ta có đại nghĩa; mà một điều để chứng tỏ đại nghĩa là chúng ta không thể sơ suất thơ ngây, đem lòng tin vào kẻ ngoại bang. Họ không hào phóng cho không chúng ta đâu. Điều quan trọng trong cuộc mua bán này, chúng ta không thể dễ dàng đặt cọc nhân phẩm của riêng mình và non sông gấm vóc của tổ tiên.
Thái bảo Nguyên Hàng lặng đi, nhưng rồi ông cũng phải gật đầu:
- Huynh nghĩ như vậy là cặn kẽ. Vì nôn nóng nên tôi có phần nào sơ suất.
- Bá Kỳ cũng rất nôn nóng, nhưng phải nhận rằng ông ta là bậc trung thần. Tuy nhiên... mà thôi ta nên gác chuyện đó lại.
Nguyên Hàng hỏi:
- Vậy theo huynh, hiện nay ta có cách gì?
- Đệ nghĩ nên nắm lấy binh sĩ. Tôi là nhà võ nên biết có rất nhiều tướng sĩ của ta có lòng vì đại nghĩa. Ông thấy Đỗ Tử Mãn, Đặng Tất ra sao?
Trần Khát Chân lắc đầu.
- Còn Nguyễn Cảnh Chân, Trần Vấn?
Khát Chân lại lắc đầu.
- Còn xa kỵ tướng quân Phạm Khả Vĩnh? Ông này vô cùng kín đáo.
Khát Chân cười:
- Đúng ông ta thật kín đáo. Lắm lúc ta còn tưởng ông về hùa với Quý Ly... Tuy nhiên, ông ta có mối giao tình với tôi.
- Ông nói sao?
- Khả Vĩnh có mối giao tình với tôi kể từ ngày đánh Chế Bồng Nga. Ông Vĩnh và tôi đều được Nghệ Hoàng phong tước hầu và chức tướng quân. Nghệ Hoàng còn ban yến riêng cho hai người. Lúc ăn, Nghệ Hoàng nắm lấy tay hai chúng tôi đặt lên nhau. Người nói: “Các khanh đã cứu nguy cho nhà Trần thoát khỏi một phen đại nạn. Ta nay đã già rồi, cũng sắp trở về với tiên tổ. Nhà vua hãy còn ít tuổi. Các khanh là những người giỏi quân cơ. Khi ta đã đi xa rồi, tới lúc đó chắc còn nhiều việc xảy ra. Mong rằng các khanh sẽ là những cột trụ cho nước nhà. Ta rất trông cậy ở hai khanh”. Nói xong thượng hoàng rơm rớm nước mắt. Càng ngày thái sư càng lộng quyền. Phạm Khả Vĩnh đóng cửa ở nhà ít giao du với mọi người. Ra triều đình, ông ta ít nói. Tôi thở dài cho rằng ông ta đã đổi chí, hoặc sợ hãi, nên mũ ni che tai, an hưởng thái bình, sống chết mặc bay. Cháu Khả Vĩnh là Phạm Tổ Thu làm gia tướng của tôi. Tôi thăm dò thái độ. Thu bảo: “Bác Vĩnh tôi rất kín đáo ngay cả vợ con, bác cũng chẳng bao giờ hở ra điều gì về việc triều chính”. Tôi nói: “Ông Vĩnh từ xưa đến nay vốn trọng lễ nghĩa và nghiêm trang, linh cẩn”. Tổ Thu dè dặt: chính vì vậy, nên tiểu nhân mới mạnh dạn xin đức ông trực tiếp gặp gỡ bác. Tôi hỏi: “Tại sao anh khuyên tôi như vậy? “ Tổ Thu thưa: “Chính vì bác tôi là người trọng lễ nghĩa”. Nghe lời khuyên của Tổ Thu tôi đến gặp xa kỵ tướng quân Phạm Khả Vĩnh.
Nhận được danh thiếp của tôi, tướng quân ăn mặc tề chỉnh cùng gia thuộc ra đứng chờ đón ở thềm nhà tiền đường. Câu đầu tiên của ông ta là: “Nhờ ơn sáng đức vua, nhờ tài kinh bang tế thế của quan thái sư, anh em ta mới được an hưởng thời thái bình như hôm nay...”. Tôi như bị một gáo nước lạnh, đớ người ra. Sau đó, ông chuyện trò với tôi rất niềm nở. Tôi phải gượng gạo tiếp chuyện. Đang ở thế chủ động, tôi đâm ra bị động, mãi mới nhập được vai, làm cho câu chuyện bớt phần lúng túng. Sau đó, tôi định cáo từ ra về, nhưng Khả Vĩnh cứ ân cần mời tôi ở lại uống rượu, lấy cớ rằng bữa tiệc đại mai mà tôi mời ông đầu năm, ông không dự được vì ốm. Tôi lại đành gượng gạo ép mình vào tiệc, định nâng chén tiêu sầu mà lòng càng sầu thêm. Ông ta nhắc lại trận đánh Chế Bồng Nga ở Hoàng Giang. Ông kể chuyện, đôi mắt long lanh. Tôi hỏi: “Té ra quan huynh vẫn còn nhớ chuyện xưa?”. Ông ta cười hỏi lại: “Ông cũng còn nhớ chuyện xưa chứ?”. Lúc đó tôi cũng cười. Mấy đứa gia nhân chạy xuống bếp lấy thêm rượu và món nhắm. Đến bấy giờ, Vĩnh mới hỏi tôi: “Còn việc thượng hoàng ban yến sau đó. Ông có nhớ không “Quên sao được!”. “Hôm đó hoàng thượng khóc” - rồi dặn dò chúng ta...”. “rồi cầm hai tay chúng ta đặt lên nhau” - “tôi không quên?” - “Cả tôi cũng ghi sâu trong lòng?” Chúng tôi cầm tay nhau cười lên ha hả. Đúng lúc đó bọn gia nhân mang thêm thức nhắm và rượu lên.
Trần Nguyên Hàng trầm ngâm:
- Tôi hiểu ý bác. Ngoài Phạm Khả Vĩnh, trong triều còn nhiều người cùng chí hướng với chúng ta nhưng không dám bộc lộ ra.
Tôi chắc vậy. Còn vài người chủ chốt như trụ quốc Trần Nhật Đôn, hành khiển Lương Nguyên Bưu, thượng thư Hà Đức Lân...
Thái bảo Nguyên Hàng rất chú ý đến triều chính, nên việc nhân sự thuộc như lòng bàn tay:
- Trần Nhật Đôn là tôn thất, lại chơi thân với Sư Hiền, cứ nhờ Sư Hiền thăm dò là tốt hơn cả. Lương Nguyên Bưu và Hà Đức Lân từ trước đến nay chúng ta vẫn dè dạt không dám quan hệ, vì họ được Quý Ly kéo vào vây cánh. Chính Quý Ly, sau khi thượng hoàng băng, đã cất nhắc họ vào chức hành khiển, làm người thân tín bên cạnh Thái sư. Tuy nhiên. chừng hơn năm nay tình thế đã khác. Lương Nguyên Bưu vốn dòng dõi vinh hiển lâu đời, tổ tiên làm quan từ đời nhà Lý; cụ nội Bưu lại có công lớn trong trận đánh Toa Đô, được vua Trần Nhân Tôn phong tước hầu. Bưu là người tài, lúc đầu Bưu tâm phục Quý Ly, nhưng từ khi thái sư bắt dời đô vào Thanh Đô Trấn. Ông ta thay đổi hẳn. Việc Quý Ly bắt ông dỡ điện Thuỵ Chương và Đại An đem vào xây dựng Tây Đô, đã làm ông phẫn nộ. Có người thân cận với Bưu đã cho tôi biết tâm sự kín đáo của ông. Còn Hà Đức Lân năng nổ nên được Quý Ly tin cậy Nhưng gần đây, ông rất ưu tư. Nhất là chính sách hạn điền, bắt người có ruộng tự cung khai, cắm biển đề tên chủ ruộng, ai thừa số quy định thì sung công. Hành khiển Hà Đức Lân phản ứng, chỉ dám nói với người thân tín trong phủ: “Đặt ra phép này chỉ cốt để cướp ruộng của dân mà thôi”. Thế mà câu nói đó cũng đến tai Quý Ly. Thái sư giáng Lân từ chức hành khiển xuống thượng thư.
Thượng tướng Khát Chân vui vẻ:
- Việc chúng ta chỉ cốt nắm các đại thần. Cánh quan võ đã có tôi và tướng Khả Vĩnh. Còn cánh quan văn, xin ông lo liệu giúp. Việc cơ mật này chỉ vài người biết với nhau là đủ... Những ngày sắp tới, tôi lo thu xếp gia đình vào Tây Đô ngay kẻo Quý Ly ngờ vực. Trong lúc lộn xộn thế này, ta có nhiều cơ hội tiếp xúc với các vị đại thần... Tình thế khẩn trương lắm rồi, xin quan huynh cẩn trọng...
Hai người bái biệt chia tay. Nhà quan Thái bảo ở gần Quốc Tử Giám, sát Đại Hồ, chạy dài suốt từ phía Tây đến phía Nam Thăng Long, từ Quốc Tử Giám nối liền đến khu Trại Mai của Thượng tướng. Khát Chân mặc giả dân thường, Phạm Ngưu Tất đội nón lá làm người lái đò chèo thuyền cho tướng quân. Trong đêm lạnh, con thuyền của Khát Chân xào xạc đi trong bãi sậy. Những con vạc từ mặt hồ bay lên, kêu ngơ ngác trong cái mù mịt hơi nước được ánh trăng chiếu vào trông như khói đục. Những người đánh cá trên hồ gõ nhịp đuổi cá, tiếng thanh tre đều đều buồn man mác. Một người đàn bà nào đó cất tiếng hát. Hát rằng:
...Can qua... rồi lại can qua...
Cái cò lầm lũi ai mà xót thương
Đêm trường... rồi lại đêm trường
Co ro cánh vạc gió sương lạnh lùng...
Thượng tướng nghe tiếng hát thấy nao nao trong dạ. Giọt sương đêm hay giọt nước mắt chợt đọng lại và chảy dài trên gò má vị anh hùng... Ông giơ bàn tay to, lạnh ngắt của mình quệt ngang mặt.
Hồ Quý Ly
Phần IX- Chương -1 Một ngày của Thái sư (Minh đạo 1)
Thái sư Quý Ly choàng tỉnh giấc, mồ hôi vã ra như tắm. Lại một cơn ác mộng. Từ lúc đó mắt ông cứ chong ra, không ngủ lại được nữa. Mới đến canh ba. Ông nghĩ ngợi liên miên: “Ta lại gặp ông ấy, Thật quái quỷ...” Trong giấc mộng, thái sư đã gặp Nghệ Hoàng. Ông vua già đang nằm võng đọc sách. Gió hây hây. Ông già đặt cuốn sách lên chiếc đôn sứ ở phía đầu võng, rồi che chiếc quạt trầm hương lên mặt, thiu thiu ngủ. Thái sư bước vào; ông tò mò cầm cuốn sách lên, nhìn vào trang giấy Nghệ Hoàng đọc dở...”Cái lo của nhà vua là ở chỗ tin người. Mình tin người sẽ bị người kiềm chế... Gần đến như vợ, thân đến như con, còn không thể tin; cho nên không thể tin ai vậy...” Đó là phần đầu chương phòng bị bên trong” của Hàn Phi, cuốn sách mà ông hầu như đã thuộc lòng. Thái sư lặng lẽ đặt cuốn sách xuống, rồi chậm chạp ngồi trên ghế chờ Nghệ Hoàng thức dậy. Trong lòng ông, trăm ý nghĩ vấn vương. Ông vua già tỉnh giấc ngay sau đó. Ông nhìn thái sư và cười.
Quý Ly lật đật:
- Tâu Thượng Hoàng...
- Thôi, thôi! Chúng ta cứ xưng hô huynh đệ như thời còn trẻ, lúc ta chưa làm vua và đệ cũng chưa làm tể tướng - Nghệ Hoàng ngẫm nghĩ một lúc, rồi lại mỉm cười - Đệ biết không, ta có thể đoán những ý nghĩ của đệ lúc này.
- Huynh nói sao?
- Ông em yêu quý ạ, có phải đệ nghĩ rằng: ông già khờ khạo ấy cũng đọc Hàn Phi à? Đọc để làm gì?
Quý Ly tỏ ra vô cùng ngạc nhiên, nó hiện ra trên nét mặt. Ông lúng túng:
- Tâu Thượng Hoàng...
- Đã bảo rồi mà. Chúng ta cứ thân mật như xưa... Ta đã chết rồi... Anh hồn nay chỉ còn là phảng phất... Cần gì những lời khách sáo... Mà thôi. Để ta giải thích cho đệ nghe... Sách của Hàn Phi chính thực là sách viết cho vua chúa. Sách dạy làm vua, dạy giữ quyền hành, dạy cách điều khiển trăm quan... Sách dành cho vua chúa mà không đọc, có hoạ là khờ... Các bậc tri giả nói: “Vua hiền không nên đọc Hàn Phi, Bá đạo!” Người ta vẫn bảo ta hiền, nhưng ta không tin, và ta vẫn đọc sách bá đạo ấy. Và nhờ nó, ta hiểu đệ hơn.
- Thượng Hoàng hiểu thần ra sao?
Nghệ Hoàng bỗng thở dài:
- Ta nghe nói đệ hơn ta một bậc. Không những đọc mà thôi, đệ còn thuộc lòng sách đó.
- Quả thực, thần có xem kỹ Hàn Phi.
- Đệ thấy ra sao?
- Dạ, một cuốn sách sâu sắc
- Thôi Đệ đừng nhắc lại những lời sáo mòn mà bao nhiêu người đã nói. Ta muốn nghe ý riêng của đệ.
- Dạ, một cuốn sách rất hay. Thần cũng thấy đã làm vua thì phải đọc nó. Ở đấy dạy ta bao nhiêu cách để giữ gìn ngôi vua. Tuy nhiên... có một điều thần rất quan tâm, sách lại không nói...
- Điều gì? - ông vua già tỏ ra sốt ruột
- Ông ta không dạy được một điều, đó là: Khi đất nước đã trở nên thối nát, bị trăm lũ sâu mọt đục khoét; khi người nông phu chết đói đầy đường; khi dân hèn bị lũ cường hào bóp hầu bóp cổ, không chỗ kêu oan; khi nhân tài bỏ lên rừng ở ẩn; khi ngoại bang dòm ngó và giặc cướp tứ tung. thì lúc đó người quân tử phải làm gì?
- Đệ nói câu: “Lúc đó người quân tử phải làm gì?” tức là đệ thành thật đấy. Ông già Sư Hiền nói “Thời thiên tuý” thế mà hay? Thời buổi trời say. Ông trời là người cầm cân nẩy mực cho muôn vật đã say rồi thì làm gì mà chả được. Có kẻ trốn lên rừng, hay tu giữa chợ, mạc xác sự đời, cốt sao cho phỉ chí riêng mình là được Có kẻ giữ chữ trung trinh với vua cũ, bằng mọi cách để vẹn chữ trung; bằng mọi giá để diệt những kẻ Chống lại chữ trung; âu cũng là một cách sống. Nhưng có những kẻ vỗ tay ha hả, cho rằng thời cơ đã đến, tụ họp những phường yêu ma quỷ quái để tạo phản, hòng lập nên một vương triều mới.
Quý Ly cau mày:
- Một thời thế mới thì đúng hơn.
- Sao? Thời thế mới ư?
Quý Ly bỗng nhiên trở nên rất bình tĩnh. Ông muốn cố gắng tìm cách làm cho Nghệ Hoàng hiểu:
- Biết làm sao được! Đệ quý trọng và biết ơn huynh lắm chứ. Nhờ có sự tri âm của huynh nên đệ mới được như ngày nay. Nhưng khi mà cơ đồ đã rệu rã; khi mà toàn bộ quan lại chỉ là lũ sâu mọt; khi mà nhà Trần không có nổi một nhân tài tầm cỡ; khi mà tất cả phải cày xới lên để gieo giống mới, thì dù nhà Trần có công vĩ đại với Đại Việt cũng phải trải qua một nạn kiếp, muôn dân cũng phải trải qua một cuộc đổi đời... Đau thương đấy? Tàn nhẫn đấy? Nhưng đệ biết làm sao được Đành phải sai lời thề với huynh.
- Bây giờ, ngươi mới dám tự lật mặt nạ. Cả đến lời thề ngươi cũng dám vứt bỏ sao?
- Vứt đi!
- Cả đến tình nghĩa ngươi cũng dám vứt bỏ sao?
- Trái lại? Chính vì nhân nghĩa nên đệ vứt bỏ.
- Hỡi thiên hạ! Hãy đến mà xem một sự trơ trẽn! Hãy đến mà xem một loài rắn độc? Ta tin cậy ngươi, ta gây dựng cho ngươi, ta vun vén cho tài năng của ngươi, ta đem tình nghĩa trao tận tay ngươi. Để đền đáp lại, ngươi đã tráo trở... ngươi đã phản bội.
- Nghệ Vương? Ông hãy bình tĩnh lại đi! Hãy hiểu cho tôi... Hãy hiểu đến lẽ tuần hoàn...
- Ta không muốn hiểu? Ta không cần hiểu? Ta phải giết ngươi. Ta phải tự tay bóp chết cái mầm tráo trở, mà chính tay ta xưa kia đã vun trồng.
Nói đoạn, ông vua già chồm đến với tất cả sức mạnh thù hận. Những ngón tay khô gầy, dài ngoẵng như những vuốt sắt, bám chặt vào cổ Quý Ly, để cấu xé, để phanh toạc; ông muốn như loài bạch tuộc, rút kiệt thứ máu tanh hôi, phản trắc.
Hồ Quý Ly hét lên, cố giẫy giụa để thoát ra khỏi hai cánh tay gầy guộc, khỏi những nanh vuốt thù hận, độc địa, nhưng không tài nào thoát nổi. Không hiểu sao, tay ông lại có sẵn một con dao, ông cũng dùng hết sức đâm vào cái bóng ma già nua. gầy guộc của Nghệ Hoàng. Ông đâm liên hồi, còn những móng vuốt của Nghệ Tôn cũng siết chặt thêm, hình như một chiếc vuốt sắc móc cả vào tận trái tim ông. Máu của cả hai bên ồ ồ chảy ra, nhấn chìm cả Quý Ly và Nghệ Tôn xuống cái ao mầu đỏ. Quý Ly đau một cái đau khủng khiếp, điếng dại cả tâm hồn. Ông ú ớ, rồi thét lên, gào lên như muốn phá tan lồng ngực và cả khối óc nữa, cho cái đau tan loãng đi.”
Tiếng hét ấy làm ông tỉnh giấc. người lạnh toát, quần áo ướt sũng.
***
Cũng như những đêm mất ngủ khác, Quý Ly triền miên trôi theo những dòng suy nghĩ...
Năm Nhâm Thân (1392) thái sư hoàn thành cuốn sách Minh Đạo. Cái đạo sáng, đó là ước mơ cả đời của ông. Dù bận việc triều chính, hằng đêm, ông vẫn chong đèn nghiền ngẫm viết nên cuốn sách tâm huyết đó. Một cuốn sách táo tợn! Ông phê phán Khổng Tử đã đến yết kiến nàng Nam Tử, vợ vua Vệ Linh Công, một người đàn bà tà dâm. Ông chê sự kém minh mẫn của ngài, khi Công Sơn Phất Nhiễu. Công Sơn Phất Hất đều là những kẻ tầm thường, kém tư cách, thế mà Khổng Tử đã có lúc muốn thờ làm chúa. Rồi thái sư lại phê phán cả Chu, Trình hai bậc đại nho thời Tống, hai người dựng nên lý học. Họ là những con người viển vông, không nghĩ đến việc đời. Có thể họ giỏi đấy, học rộng đấy nhưng chẳng có lợi gì cho dân Đại Việt chúng ta cả. Ông ca ngợi vua Trần Minh Tông, khi hai nhà nho nổi tiếng là Lê Quát và Phạm Sư Mạnh khuyên vua sửa đổi việc nước theo khuôn mẫu lễ giáo của Trung Hoa. Vua Minh Tông bảo: “Nhà nước ta đã có phép tắc nhất định. Nam, Bắc khác nhau. Nếu theo kế của kẻ học trò mạt tráng cố tìm đường tiến thân thì sinh loạn to ngay”.
Lúc đó Thượng Hoàng Nghệ Tôn đọc xong cuốn Minh Đạo liền ban tờ chiếu khen ngợi:
- Ta trộm nghĩ: đúng là Nam Bắc mỗi phương một khác.
Như tiên ta khi xưa, đức Trần Nhân Tôn hai lần đánh tan giặc Nguyên, uy danh lừng lẫy; vậy mà vẫn không quên tục lệ xăm vẽ hình giao long trên người, giống như người Lạc Việt cổ, đến khi già lại lập nên thiều phái Trúc Lâm, làm bậc bồ tát riêng một cõi. Đến như Trần Hưng Dạo, đánh giặc cũng đánh theo kiểu sông kiểu nước, khiến cho phương Bắc đôi phen khiếp vía kinh hồn. Và cả đến cha ta; đức Minh Tông sáng suốt, cũng không hùa theo kẻ học trò mặt trắng để làm loạn nề nếp tổ tông.
Nay, ta đọc sách Minh Đạo của quan Bình Chương, thấy ngay được tinh thần riêng một cõi. Thánh hiền là người xa xưa, chúng ta là người bây giờ. Thánh hiền cư ngụ phương Bắc, chúng ta bờ cõi phía Nam. Không thể theo thời xưa để có hại cho thời nay. Không thể hoàn toàn theo Bắc để có hại cho lề thói nước ta. Thế mới biết, tài trí chẳng phân Nam Bắc.
Nay ta ban chiếu này, tỏ lời khen ngợi.
Khanh hãy khá hết lòng vì nước non gấm vóc, khá hết lòng vì ấu chúa dại thơ. Tài đấy! Trí đấy!
Hãy đem ra thi thố, sao cho Minh Đạo rạng ngời, hẻo phụ lòng ta mong đợi...
***
Đọc xong tờ chiếu, thái sư rưng rưng cảm động.
Đúng Nghệ Hoàng là tri kỷ của ông.
Chỉ ít lâu sau, cuốn Minh Đạo bỗng trở thành đề tài cho mọi người xì xào bàn tán.
Ông nhớ lại hồi ông mới viết xong cuốn sách. Những người ông cho xem đầu tiên là những người gần gũi ông nhất: Hồ Hán Thương, Nguyên Trừng, Nguyễn Cẩn... Ông muốn biết phản ứng của những người còn trẻ, còn nhiều nhiệt huyết. Bữa ấy, ông muốn đàm đạo với ba người trẻ tuổi đó về Minh Đạo. Phòng riêng của ông ở cạnh thư phòng nơi ông sẽ gặp họ. Ông còn đang đọc sách bỗng nghe thấy từ phòng bên ấy vang lên tiếng đàn nguyệt. Trừng đấy! Cậu con cả đấy. Nó lại đánh đàn ở thư phòng. Đánh đàn tức là nó vừa uống rượu xong. Trừng thường có thói quen như vậy. Trừng hát rằng:
Đàn ơi đàn hỡi, hề ta muôn điên say.
Thanh trầm thanh bổng, hề ta vui tối ngày
Mỹ nữ u buồn, hề anh hùng bảng lảng
Thiên hạ đại loạn, hề biết làm chi đây.
- Đêm nay thân phụ gọi ta đến. Người muốn giảng sách Minh Đạo. Đường sáng ư? Đạo sáng ư? Sao mắt ta chỉ thấy toàn một mầu xám xịt. Đường ở đâu? Đường ở đâu? Đêm qua, ta đốt bạch lạp đọc sách Minh Đạo suốt đêm. Thật dị kỳ? Ta bị thu hút, không rời khỏi được những trang sách lạ lùng. Những ý tưởng làm con người muốn cuồng nộ, muốn điên rồ, muốn đứng lên để xoay vần, đắp đổi lại núi sông này. Trước mắt ta thấy hàng đoàn những hồn ma đang khai sông phá đá. Tay ta run lên, đầu ta nhức buốt. Ngủ một ngày dài mà vẫn thấy những ngón tay ta lẩy bẩy. Hỡi nguyệt cầm dịu dàng! Hãy cất tiếng lên làm liều thuốc để êm dịu lòng ta.
Tiếng đàn lại cất lên thánh thót. Bên này buồng, thái sư cúi đầu suy ngẫm. Rồi ông đứng lên, đi đi lại lại. Tiếng đàn trầm bổng đó, hay những câu nói của Nguyên Trừng lúc nãy đã bắt ông suy nghĩ. Mắt ông chợt dừng lại trên tường, vào bức tranh núi yên Tử mà Trừng đã tặng. Trí óc ông chợt lạc vào những dòng thơ nôm của sư Huyền Quang được Nguyên Trừng viết như một đàn bướm trên bức hoạ:
Ngự sử mai hai hàng chầu rắp
Trượng phu tùng mấy chặng phò quanh.
Hình như cái sự đông đúc của cỏ cây ấy lại càng làm ông buồn thêm, ông buông tiếng thở dài. Chợt từ buồng bên một tiếng nói sôi nổi bỗng vang lên kéo ông trở về thực tại. Ông cười mỉm khi nhận ra tiếng nói của Hán Thương, cậu con trai thứ hai:
- Anh ạ, đêm qua em thắp một trăm ngọn bạch lạp. Ở khắp phòng, cả trên cao, cả dưới thấp, cả trên án thư, cả những xó xỉnh nơi cư ngụ của lũ gián, của bầy chuột bọ. ánh sáng bập bùng. Hãy cho ánh lửa rực rỡ thêm lên! Em bảo tên gia nhân và sai thắp thêm một trăm ngọn nữa... Những ngọn bạch lạp nối nhau, nắm tay nhau chạy quanh phòng ở. Và em đi giữa ánh sao sa ấy để đọc cuốn sách Minh Đạo của cha. Đường sáng! Đạo sáng! Ôi! Em cảm thấy cứ mỗi bước đi là chạm phải những mảnh sao sa nóng bỏng. ý tưởng của cha như những viên ngọc lấp lánh trước mặt. Em đi suốt đêm trong phòng dát đầy ánh sao, vừa đi vừa đọc to những lời tâm huyết của cha. Đọc liên tục, đọc mải miết đến nỗi trời sáng lúc nào chẳng rõ. Minh Đạo vạn tuế! Cám ơn người cha kỳ diệu đã cho em cuộc sống, lại còn cho nhìn rõ những ánh sao trên con đường mà em đang bước...
Quý Ly lặng im, nhắm mắt lại. Ông hiểu sự nhiệt tình của Hán Thương. Nó giống ta - ông thầm nghĩ - Còn Nguyên Trừng thì sao? - ông tự trả lời ngay sau đó - Nó cũng giống ta, nhưng... còn khác ta... Ông không kịp suy nghĩ tiếp vì một tiếng nói thứ ba cất lên, tiếng nói của Nguyễn Cẩn:.
- Minh Đạo là gì? Đó là đường đi của minh chủ. Tôi đã được sống gần minh chủ. Tôi hiểu tâm huyết của người...
Hai chữ minh chủ của Cẩn làm ông xúc động. Nó chứng tỏ Cẩn có nhiều suy nghĩ. Ở thời buổi đại loạn có bao người xứng được gọi là minh chủ. Những người lỗi lạc thường phải đắn đo suy ngẫm, bởi vì chỉ một bước chệch chân sẽ ôm hận ngàn năm. Đem tấm thân gửi gắm cho ai? Người hiền tài như cô gái đẹp, sao cho bõ công trang điểm má hồng. Ở thời thiên tuý giả hay thật quả là mù mờ hỗn độn. Một người nào đó đã nói: thà làm hoa hèn cỏ dại, chịu nát trong rừng sâu núi thẳm, còn hơn thờ một kẻ thất phu... Có người nói Phạm Sư Ôn xứng danh minh chủ. Nhà sư đó là kẻ thù của ông, nhưng thái sư vẫn trọng. Ông ta thật hào hùng, tiếc thay vẫn còn thiếu một cái gì đó mà nhà Phật gọi là đại trí. Ngẫm lại mình, ông đã xứng đáng một minh chủ hay chưa? Người đời vẫn gọi ông là một kẻ gian hùng. Ông thở dài... Thôi, cũng đành mặc miệng thế gian! Chỉ cốt ta thành công. Mà cả sự thành công nữa, ông cũng mong nó ở một tầm cao mà người đời không thể nhìn thấy... Còn Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hàng thì sao? Họ có khả năng trở thành minh chủ chăng? Ông không tin. Ở họ bốc lên mùi mốc meo cũ kỹ. Nhưng họ là những người trung thực, những người tài. Ông vật lộn với họ, nhưng vẫn tiếc, vẫn trọng...
Ông cứ nghĩ miên man như vậy và chợt hiểu ra một điều: ý định giảng giải Minh Đạo của ông đêm nay không cần thiết. Những người như Hán Thương, Nguyễn Cẩn, với ông vốn đồng thanh tương ứng. Họ chỉ cần đọc qua sách là hiểu; thậm chí chưa cần phải đọc, họ đã hiểu ông; bởi vì họ với ông là một, họ có thể cảm nhận được ông. bởi vì trong họ đang chảy một bầu máu nóng hoàn toàn mới mẻ. Ở những cuộc đổi đời nào cũng vậy, họ là những người làm nên sự đổi đời, họ sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, họ là những người anh hùng. Còn những người như Nguyên Trừng, những kẻ thông minh, có thừa nhiệt huyết để làm anh hùng mà chẳng chịu làm; mỗi bước họ đi đều suy ngẫm đắn đo, họ bị sự nghi ngờ vò xé. Chính những người như vậy ông rất thích; bởi vì họ có thể là lỗi lạc; bởi vì đấu tranh với họ, vật lộn với họ, đối thoại với họ, tức tự vật lộn, đối thoại với chính mình. Sự đấu tranh ấy, sẽ xua tan nốt đi những ngờ vực bản thân, mà những tư tưởng dù lớn thế nào vẫn có; sẽ bịt nốt những kẽ hở, thiếu sót, mà một bộ óc phi phàm đến đâu cũng có thể mắc phải.
Tối hôm ấy, Quý Ly bãi bỏ cuộc nói chuyện với ba người. Sáng hôm sau, ông gọi riêng Nguyên Trừng đến:
- Cha thấy không cần hỏi ý kiến Hán Thương và Nguyễn Cẩn, chỉ muốn hỏi ý riêng của con về cuốn Minh Đạo.
Nguyên Trừng nói:
- Con nghĩ cuốn sách hay là cuốn sách có nhiều điều đáng bàn. Minh Đạo của cha như vậy. Chính cha là người nước Nam đầu tiên đã dám xem xét lại đức Khổng Phu Tử. Đức Khổng là mặt trời đạo Nho. Mặt trời còn đem ra bàn luận, chắc sách của cha cũng nên đem ra bàn luận.
- Con nói rõ ý thực ra sao?
- Sách của cha chẳng qua là một biến pháp.
- Tốt hay xấu?
- Quản Trọng làm biến pháp. Tử Lộ, Tử Cống chê, nhưng đức Khổng Tử lại khen hết lời, bởi vì họ Quản đem lại văn hiến cho đời. Thương Ưởng, Lý Tư làm biến pháp cũng có phần thành công, nhưng thiên hạ đời sau nhiều người chê, vì đem lại cho dân lành nhiều điều ai oán.
- Ta khác họ Thương họ Lý chứ. Ta đâu có đốt sách chôn nho. Ta làm sách, khuyến hiền, đem việc học đến tận làng xã. Ta muốn làm văn hiến...
Nguyên Trừng tiếp:
- Minh Đạo của cha không câu nệ chữ Trung.
- Đúng. Quản Trọng không chết theo công tử Củ, trái lại còn thờ Tề Hoàn Công là kẻ thù của Củ làm minh chủ.
- Quyển sách của cha bàn về sự đổi thay, nhưng là sự đổi thay cực nhanh. Và điều đáng bàn chính ở chỗ đó.
Quý Ly nhíu mày:
- Sao lại đáng bàn?
- Đức phu tử muốn trong một nước, người nào lo việc người nấy. Dân lo việc của dân, quan lo việc của quan, vua lo việc của vua. Không được lạm bàn việc người trên. Nay, cha làm quan lại bàn việc của vua, thậm chí lại dám khen chê cả lời của Phu Tử. Vì muốn nhanh nên chẳng theo vết người xưa. Cha đã phạm chính danh. Chính vì vậy kẻ sĩ trong nước nhao nhao phản đối. Lại cũng vì muốn nhanh, nên chính sách thay đổi. Người dân đen chỉ muốn ăn no ngủ kỹ. Trong khi đó, lúc thì cha ban chiếu tiền giấy, lúc thì hạn nô, rồi hộ khẩu, chính sách liêm phóng... Kẻ thừa hành nhân cơ hội đục nước béo cò. Cha ơi cha? Xin hãy nghe con. Con xin dâng lời nói thẳng: Lòng dân không theo cha đâu.
- Nào, nào? Bình tĩnh lại đi Nguyên Trừng. Ta biết, nhiều điều con nói đúng. Nhưng con vẫn thiếu sót ở một điều cơ bản: đó là đất nước ta quá ư hỗn loạn, cần có một thay đổi, cần có một sự đảo lộn. Lẽ dĩ nhiên, tàn nhẫn đấy, đau thương đấy, nhưng ta sẽ cố gắng cho bớt đầu rơi máu chảy. Chỉ duy có một điều bất lợi cho ta: Nhà Minh đang lăm le nhòm ngó. và họ đã ổn định, đã hùng cường rồi. Trong khi đó công việc của nước ta còn đang bê bối. Việc chưa xong, lòng người lại khảng tảng. Ta chỉ cầu mong trời cho ta được hai chục năm nữa... Nguyên Trừng? Hãy tỉnh lại đi! Đừng uỷ mị thế, con... Chỉ cần hai mươi năm nữa thôi, ta sẽ đào tạo một lớp kẻ sĩ mới. Bọn hủ nho này lúc đó đã chết, lo gì lòng dân chả ngả về ta...
Hồ Quý Ly
Chương 2 Chỉ riêng Đoàn Xuân Lôi
Chỉ riêng Đoàn Xuân Lôi, trợ giáo Quốc Tử Giám, phản đối cuốn Minh Đạo của Hồ Quý Ly kịch liệt nhất. Ông viết hẳn một lá thư dài, dâng vua để phản đối cuốn sách đó.
Ông là người kiên trì đạo Khổng hiếm thấy. Từ trẻ đi học đã nổi tiếng liêm chính ngay thẳng, đói sạch rách thơm. Mọi thứ với ông đều phải hài hoà nghiêm chỉnh. Nhà ở thì cửa phải chính giữa không được sai một phân. Cửa sổ phải cân đối, đều đặn ở hai bên. Nhà lệch lạc không ở. Bát không sạch không ăn, áo bẩn không mặc. Nét mặt ông bao giờ cũng nghiêm trang, ăn nói từ tốn, chọn từng chữ để nói. Vua Nghệ Tôn có một người thày đàn rất giỏi, biết xử dụng mọi thứ nhạc cụ một cách tinh vi. Nghệ Hoàng rất yêu quý; người thầy đàn thường được gọi vào cung đánh đàn cho vua nghe. Một bận Đoàn được Nghệ Hoàng triệu tập. Ông vào cung Thánh Từ, lúc đi qua khu nhạc đường là nơi tập luyện ca múa của cung nữ. Ông chợt nghe thấy một điệu hát nỉ non ai oán. Nhìn vào thấy người thày đàn đang dạy các cô cung nữ múa hát một điệu Chiêm Thành. Ông bèn về viết bản tấu về lễ nhạc, quyết gìn giữ sự trong sạch của cung cấm, không cho phép thứ nhạc sầu thảm ấy được lọt vào tai thiên tử:
Thiên tử là bậc tôn quý. Cung vua là nơi ngự trị thái hoà. Bất cứ một điều gì làm hại đến sự hài hoà của nơi tôn nghiêm đều phải loại bỏ. Kìa, xem nhu trên nóc điện Đại Minh, rồng chầu còn phải có đôi mà vầng nhật nguyệt biểu tượng cho bậc thánh thiên tử thì phải nằm ngay chính giữa.
Thần trộm nghĩ: tiếng nhạc ai oán ấy là một điều xộc xệch. Xưa kia, Lý Cao Tông nghe gẩy đàn Bà Lỗ, nhạc Chiêm Thành mà nhà Lý mất ngôi. Gần đây Dương Nhật Lễ vì biến cung đình thành một chốn hát xuống nên đất nuộc ta phải trải qua một thời nghiêng ngả...
Nghệ Hoàng tiếc tài người thày đàn, không nỡ loại bỏ. Xuân Lôi dâng biểu ba lần, cuối cùng người thày đàn buộc phải trở về nơi quê cũ vùng núi Lạn Kha. Những năm vừa qua, giặc Chiêm Thành liên tục ra đánh phá Đại Việt, khi giặc đến, nhân dân chạy hết vào rừng núi, hoặc trú ẩn ở những đầm lau sậy. Quê ông cũng phải chạy giặc như vậy. Giặc tiến công mạnh quá, do đó một số người đầu hàng, theo giặc. Làng ông nằm trong vùng điền trang của hoàng thân Nguyên Diệu. Diệu đầu hàng Chế Bồng Nga nên một số dân làng cũng theo chủ hàng Chiêm. Sau khi Trần Khát Chân diệt được họ Chế, Lôi về làng và thề rằng: “Đất làng này theo giặc, ta thề suốt đời sẽ không bao giờ dẫm chân lên đất này nữa”. Quả nhiên, suốt đời ông giữ vũng lời thề ấy. Vì mồ mả tổ tiên Lôi đều ở làng quê nên người cháu trưởng của ông phải ở lại coi sóc mồ mả, khói hương ở nhà thờ họ. Do đó, tết Nguyên Đán, ngày giô tổ tiên, Lôi vẫn phải về quê. Đã thề không thèm đặt chân lên đất làng, nên ông phải giữ chữ tín. Ông bèn giải quyết bằng cách đi kiệu về làng. Kiệu vào thẳng trong nhà, sát chiếc giường ngủ; hạ kiệu ông lên giường ngay. Thậm chí, ra thăm ao thăm vườn, đi tảo mộ, ông cũng ngồi trên ghế kiệu, không hề dẫm chân xuống đất.
Người đời bảo ông là đồ gàn, nhưng vẫn phải nể trọng. Ông nói:
- Kẻ sĩ đâu chỉ nói thao thao những lời thánh hiền. Cái chính là việc làm. Việc gì đúng lời thánh hiền, chết cũng làm. Việc gì sai với lời thánh hiền, chết cũng không khuất phục.
Lá thư ông dâng Nghệ Hoàng để phản đối cuốn Minh Đạo có đoạn viết:
Đức Khổng Phu Tử là bậc thầy của ngàn đời. Hành vi của người là khuôn vàng thước ngọc cho hậu thế. Quan thái sư trách nhiệm điều hoà âm dương, ngày đêm ở bên cạnh thiên tử, việc ăn nói phải cân nhắc kỹ lưỡng; cớ sao dám khinh xuất bàn đến... Thật là không biết tự lượng sức mình.
Trong sách có thiên bàn về kế sách, Thái sư đưa ra những chính sách như ruộng đất, hộ khẩu, tiền tệ v.v... hoàn toàn trái ngược với kế sách của tổ tiên. Há chẳng nghe thấy câu chuyện đức Trần Minh Tông nói với bọn Lê Quát, Phạm Sư Mạnh hay sao: “Không thể tin nghe theo bọn học trò mặt trắng để làm loạn nề nếp tô tiên”. Nay, đất nước ta đang gặp cơn khó khăn, mất mùa, bão lụt. Nông dân đói khát nghe lời xúi dục của bọn phản loạn, rủ nhau kéo bè kéo đảng đi ăn cướp. Những kế sách của thái sư phải chăng như lửa đô thêm dầu, gây thêm mầm phản loạn. Trộm nghĩ: dục tốc bất đạt. Những ý kiến của thái sư chẳng hợp với đạo Trung Dung. Nay, thái sư xem xét lại tiên thánh, chê bai đức Phu Tử, phê phán các bậc đại nho Chu Trình, rồi đảo lộn nề nếp tổ tiên, có lẽ nào vì trong lòng quá ư nôn nóng. Nếu như vậy còn có điểm khả dĩ, có thể sửa mình. Còn nếu như chỉ là ngông cuồng, điếc không sợ sấm, lại bàn đền những điều quá u to tát, thì thần nghĩ việc đầu tiên phải huỷ cuốn sách, sau đó thiên tử phải ra tay sấm sét, quở trách, biếm chức, xử tội, để làm gương cho hậu thế...
Hồ Quý Ly được Nghệ Hoàng cho đọc lá thư. Đọc xong, ông vừa buồn, vừa tức giận. Buồn vì con mắt của bọn nho gia sao mà hạn hẹp. Đoàn Xuân Lôi đỗ Thái học sinh, được người đời khen là kẻ sĩ có tư cách. Cứng cỏi thật! Chính trực thật! Dám chống lại ta lúc này quả là có dũng khí. Chỉ đáng tiếc, tầm mắt ngắn quá. Kẻ sĩ đại phu mà như thế sao? Chẳng lẽ lại chỉ như thứ cuốc kêu ra rả, cúi đầu tầm chương trích cú người xưa? Bước ra khỏi nhà là sợ, bước ra khỏi sách là run rẩy. Than ôi? Sách là lầu vàng, nhưng sách cũng là tù ngục. Thế mới biết, Nghệ Hoàng có con mắt tinh đời. Cũng là một câu của Trần Minh Tông: “Đừng nghe theo bọn học trò mặt trang làm loạn nề nếp tổ tông”. Ông đã hiểu khác hẳn Xuân Lôi. Ta đổi thay nề nếp xưa, Nghệ Hoàng không cho là loạn, bởi vì ông hiểu thời thế đã xoay chuyển, chính sách phải thay đổi. Cũng bởi vì ông hiểu ta không muốn nước Đại Việt giống phương Bắc; nước non một cõi, văn hiến phải khác. Có lẽ kẻ đọc sách Minh Đạo, Nghệ Hoàng là người tri âm tri kỷ nhất của ta. Cũng chính vì vậy - Quý Ly thở dài - nên ta cứ dùng dằng... không nỡ...
Đưa cho Quý Ly đọc xong lá thư, Nghệ Hoàng bảo:
- ý nghĩ của Bình Chương khác người, táo bạo...
- Phàm cái gì mới lạ, người ta hay chống lại. Đó là lẽ thường tình. Xuân Lôi học rộng, có khí tiết, nhưng chưa thuần. Thái sư chỉ cần quở trách nhẹ nhàng là đủ. Quý Ly thấy phải, không trị tội nặng, chỉ biếm chuyển Đoàn Xuân Lôi ra châu gần. Lôi làm trợ giáo Quốc Tử Giám nên được cử đi trông coi việc học của Châu Vạn Ninh vùng Vân Đồn.
Quan thái sư rất quan tâm tới việc học. Ông thấy các lộ, phủ, châu việc học chưa vào nền nếp, ông bèn đặt ra chức học quan, đề bạt một loạt những nhà khoa bảng, đưa về các địa phương trông coi việc học hành của dân. Ông chú ý đến những người đỗ đạt có tài nhưng chưa được cất nhắc đúng mức. Vừa qua Trần Mộng Dữ, con rể ông và là con trai quan tư đồ Trần Nguyên Đán về Côn Sơn thăm gia đình. Ông viết riêng một lá thư gửi cho Nguyễn Ứng Long, anh rể của Dữ. Ứng Long lấy Trần Thị Thái con gái quan tư đồ Nguyên Đán. Ứng Long cũng đỗ Thái học sinh cùng khoa với Đoàn Xuân Lôi .
Vì Ứng Long là dân thường lại lấy con gái hoàng tộc, Nghệ Hoàng cho rằng như vậy là bất kính, nên bỏ đi không dùng. Nay, Nghệ Hoàng đã băng, thái sư thấy đã đến lúc nên chuẩn bị dùng Nguyễn Ứng Long.
Nhận được thư của thái sư, Ứng Long viết một lá thư hồi đáp:
- Kẻ hàn sĩ quê mùa này nhận được lá thư của ngài gửi lời lẽ vỗ về an ủi, lòng dạ chợt vô cùng cảm kích, biết ơn.
Tiểu nhân may mắn được đọc cuốn Minh Đạo của ngài, thấy từng dòng, từng chữ đều là những lời tâm huyết, mong cho nước mạnh dân giầu, mong cho cõi trời Nam ta sáng ngời văn hiến... Kẻ hàn sĩ xem Kinh Dịch thấy sau quẻ Tỉnh (giếng) đến quẻ Cách (thay đổi). Giếng để lâu ngày nước tù đọng, thiếu phần trong sạch. Nay phải thau nước cũ, để dòng mạch mới chảy vào... Trong thư, đại nhân có khuyên tiểu nhân nên dùng tình đồng khoa để khuyên nhủ giúp những người còn mê lầm (ám chỉ đến Đoàn Xuân Lôi).
Trộm nghĩ: lời thoán từ quẻ Cách có nói: “Cách, dĩ nhật nãi phu...”. Việc đổi thay, phải lâu ngày con nuôi mới hiểu được... Vậy nên, việc thay cũ đổi mới, ngược với thói quen cũ, con người, dù có được học hành, cũng dễ thủ cựu, cho là đa sư. Những kẻ như vậy chỉ là lẽ thường tình... chắc rằng chẳng chóng thì chày sẽ thay đổi... Xin đại nhân hãy rủ lòng kiên nhẫn... Việc đổi đời, làm thay sông đổi núi, công việc nhiều và nặng tựa thái sơn cần phải có nhiều người tài trí đồng lòng ra tay gánh vác.
Nay, đại nhân lấy việc nuôi dưỡng, khuyến khích kẻ hiền tài làm trọng... tiểu nhân trộm nghĩ tấm lòng âu lo ấy, tấm lòng đau đáu vì non sông ấy chắc chắn sẽ được thiên hạ ủng hộ, hưởng ứng...
Chỉ cúi xin đại nhân nghĩ tới câu: “Cổ lai thức tự đa ưu hoạn”. Từ xưa đến nay, kẻ sĩ bao giở cũng nhiều suy nghĩ lo lắng. Chúng tôi đi đâu, về đâu? Đó là câu hỏi của kẻ sĩ trong thời đại loạn. Cúi mong đại nhân thấu đến một câu nhân tình, mở rộng lượng bao dung chờ đợi. Được như vậy, loài ngựa ký ngựa kỳ hẳn không phải là thiếu. Kẻ sĩ như vậy cũng được nhờ, mà đất nước cũng có điều kiện bước vào thịnh hội...
Lá thư ấy, tối qua, thái sư vừa mới nhận được. Làm ông suy nghĩ mãi. Đến lúc này, trong giờ phút mất ngủ, ông lại liên miên nghĩ tới nó. Làm sao để thu phục được kẻ sĩ, một chiến lược lớn đã làm ông mất bao tâm huyết. Tại sao ông đã cố gắng hết sức chiều chuộng họ mà họ cứ mãi xa rời ông. Tại sao Hán Cao Tổ đã đái cả vào mũ của kẻ sĩ mà cuối cùng kẻ sĩ vẫn theo ông? Tại sao Trần Thủ Độ đã tuyệt diệt hoàng tộc nhà Lý, hành động tàn ác hơn cả loài cầm thú, mà cuối cùng nhà Trần cũng được trăm họ đồng lòng ủng hộ, ba lần phá tan được giặc Nguyên hung ác? Đó là câu hỏi lớn mà ông nhất quyết phải tìm cho ra.
Hồ Quý Ly cứ chong mắt ra, nghĩ mãi, nghĩ mãi... Chợt một tiếng gà gáy làm ông giật mình. Trong hoàng thành nuôi rất nhiều gà chọi. Đó là tiếng con đầu đàn vang lên lẫm liệt, uy nghi. Tiếng gà oai hùng ấy vang lên ba lần rồi ngừng bặt. Sau đó, đủ trăm giọng gáy nối tiếp theo... Giọng sang, giọng hèn, giọng vang vang, giọng cụt lủn, giọng dõng dạc, giọng nhỏ nhoi... thậm chí cả tiếng ọ ẹ của những chú trống choai...
Thái sư Quý Ly bỗng ước ao mình cũng có được những tiếng gáy đồng ca đủ màu sắc như vậy...
Hồ Quý Ly
Chương 3 Con gà chọi của quan cai ngục
Con gà chọi của quan cai ngục gáy dồn báo hiệu bình minh. Có lẽ con gà xoàng nhất trong lũ gà ở đây, bởi vì nó gáy muộn nhất. Tiếng gáy lại quê mùa, như tiếng ho sù sụ của một ông già, chẳng có khí thế gì hết. Nhưng nghe nói nó lại là con gà chọi hay... Thời nhà Trần, cái thú chơi gà chọi được mọi người ưa chuộng. Tại Thăng Long, từ nhà quan đến nhà dân, không mấy nhà không nuôi gà chọi. Gặp ngày lễ tết, ngoài chợ, ngoài chùa, dưới gốc đa đầu làng, đâu đâu cũng có đám chọi gà. Gặp buổi thanh bình, con gà chọi hay, có nhà giầu mua tới vài chục quan tiền. Sử Văn Hoa chợt thở dài: “Rõ thật lẩm cẩm! Sao lại nghĩ tới gà chọi. Mình có thời giờ đâu, mà cũng có tiền đâu, để nghĩ tới việc chơi gà,” Bỗng nghĩ miên man, bỗng nhớ tới người vợ già cô đơn ở cái làng heo hút phía nam kinh thành.
Ngày xưa, hồi trẻ, ông nghèo lắm. Cha mẹ mất sớm, một nhà sư ở vùng Hải Đông đem ông về nuôi. Thấy ông thông minh, Thiền sư Vân Tiên dạy ông học. Dạy đủ tao giáo, Nho, Phật, Lão. Sắp đến kỳ vua mở khoa thi, Sư Vân Tiên bảo:
- Số của con còn nhiều duyên nợ trần gian. Con phải đi thi để gánh hết duyên nghiệp của mình. Đạo là con thuyền lớn để mọi người cùng đi. Tăng và tục cũng chẳng khác gì nhau. Con nên nhớ câu: ở đâu có tâm tức là có đạo.
Văn Hoa lạy tạ thiền sư, khăn gói lên đường ra Thăng Long. Gần đến khoa thi, anh học trò nghèo Văn Hoa phải đến nghe giảng tại trường học của một bậc đại nho mở bên bờ sông Tô Lịch, phường Giang Khẩu.
Hàng ngày, Văn Hoa vẫn thường gặp một cô hàng bán rượu đến cửa trường bán cho các thày khoá. Thấy một anh học trò nghèo, quần áo rách, mặt mũi sáng sửa, không bao giờ mua rượu, cô lấy làm lạ, bèn lân la hỏi chuyện. Anh trả lời:
- Quê tôi miền Hải Đông, tiền bạc chẳng dư dật, lấy đâu ra để tiêu xài chè rượu. Vả lại, tôi ở chùa từ nhỏ... Nhà chùa có ngũ giới, trong đó cấm rượu là một...
- Thày ra Thăng Long có nơi nào ở trọ?
- Tôi trọ ở chùa Tiên.
Ngôi chùa này ở nam kinh đô, nằm cạnh Thái Hồ, trước có hoà thượng người Chiêm Thành trụ trì. Các sư thày cũng người Chiêm có nghề đục đá. Họ đục hình những con voi, con hươu, con trâu... đặt hai hàng từ cổng chùa đi vào và trong vườn chùa. Tượng hình khéo léo tinh xảo, tạo nên một nét riêng, không giống mọi ngôi chùa khác: Hoà thượng bị giết khi Chế Bồng Nga ra đốt phá Thăng Lon,. các sư thày sợ hãi nên cũng bỏ đi hết cả. Ngôi chùa Chiêm Thành biến thành ngôi chùa hoang, làm nơi trú ngụ cho những kẻ phiêu bạt vô gia cư và những thày khoá ở tỉnh xa về Thăng Long trọ học. Cô hàng rượu đến thăm, thấy cảnh đổ nát của ngôi chùa, và cảnh cơm niêu nước lọ của Văn Hoa nên động lòng thương, vẫn thường qua lại giúp đỡ.
Văn Hoa thi đỗ. Nhiều nhà tai mắt ở Thăng Long gọi đến gả con cho nhưng Văn Hoa không nhận. Ông đến làng Mơ hỏi cô bán rượu làm vợ. Nhà vợ nghèo, ông làm quan cũng thanh bạch, nên khi làm nhà viết sử danh tiếng, được vua đặt cho họ Sử, ông cũng chẳng biết hưởng thụ ăn chơi gì. Cũng bởi vậy nên ông mới thở dài khi nghe tiếng gà và nghĩ đến thú chơi gà chọi. Nói đúng sự thực, từ khi làm quan ông cũng có hưởng thụ một chút: đó là thú uống rượu. Ông đã phá một trong ngũ giới. Đặc biệt, ông chỉ uống rượu làng Mơ, do chính tay vợ nấu.
Hồi mới bị bắt, Sử Văn Hoa trằn trọc mấy ngày đêm không ngủ, suốt ngày đêm ngồi lặng im, mắt thao láo nhìn chòng chọc vào không trung, cứ như thể đôi mắt mở to ấy không hề biết chớp. Ngục quan vốn là người quen, liền mang một bình rượu Kẻ Mơ đến, rồi lén đem vào cho ông.
- Này, tiên sinh uống đi cho nó hạ cái uất xuống.
- Không uống?
- Rượu Kẻ Mơ đấy.
- Hả?
- Vợ ông mang đến đấy.
- Thế hả?
- Uống đi? Kẻo phụ lòng bà ấy.
- Ừ, thì uống...
Sử Văn Hoa bưng vò rượu lên uống ừng ực như tu nước lã. Đôi mắt ông vẫn chòng chọc như mất hồn. Lúc đó ngục quan mới tỉ tê.
- Ông có biết con gà chọi của tói không?
- Sao lại gà chọi hở?
- Trông nó như con gà gỗ ấy!
- Sao lại gà gỗ hử... à.. à... Nó đá hay hả...
- Lúc tôi mới mua về, nó hăng lắm. Nghe thấy tiếng gà lạ, là nó giương cổ gáy đáp lại. Tôi nghĩ nó vẫn còn hăng lắm, chưa đá được. Một tháng sau, trông thấy bóng gà lạ, nó vẫn còn sục sặc lồng lộn. Tôi lại nghĩ: nó vẫn còn hăng, Chưa được! Ba tháng sau, nó như con gà gỗ, nghe gà lạ, trông thấy gà lạ, nó cứ dửng dưng như không. Lúc đó tôi mới bảo: Được rồi đây... Từ đó con chọi của tôi đá rất hay, nổi tiếng khắp kinh thành...
Nghe ngục quan nói, đôi mắt Sử Văn Hoa như dần dần hồi tỉnh. Nét mặt bừng bừng nhìn vào không trung của ông dãn ra. Ông lặng lẽ ngồi rất lâu, rồi bỗng giật mình. Ông quay lại, lấy hai cái chén rót rượu và đưa cho ngục quan một chén.
- Kẻ tù tội này đã cả đời đèn sách mà không đạt đạo được như bác. Nhờ bác đem lời vàng ngọc của Nam Hoa Kinh ra chỉ dẫn, tôi mới giật mình tỉnh ngộ. Xin bác nhận cho một lạy này để tỏ lòng cảm tạ của tôi.
Sử Văn Hoa cúi xuống vái. Ngục quan đỡ dậy:
- Bác là người chép sử cả một thời. Điều ấy mấy ai làm được. Mong bác bình tĩnh giữ gìn. Chẳng nên để chuyện không may làm rối trí...
***
Cũng từ hôm đó, Sử thay đổi hẳn. Ông đã bình tĩnh trở lại. Và ở ngay trong ngục thất, ông đêm ngày suy ngẫm về cuốn sách mà cả đời ông ao ước viết. Lúc này đây, ông viết nó trong óc, viết nó trong tưởng tượng. Ông dàn ý, ông tính toán phần dài phần ngắn, ông xem xét lại các sự việc, các nhân vật, các chi tiết, ông luận bàn, ông đánh giá... Thật điên rồ. Trong một hoàn cảnh ngặt nghèo như thế này... Và mạng sống như treo đầu sợi tóc. Thế mà lại viết sách... Không giấy... Không bút... Thật hoang đường? Nhưng có lẽ nhờ sự hoang đường ấy nên ông còn bám vào cuộc sống. Có lẽ nhờ nó nên ông không tự vẫn, cái điều mà khi mới sa ngục thất ông vẫn hằng trông thấy ở cuối chân trời, nơi con mắt chòng chọc điên rồ của ông vẫn thường chằm chằm nhìn vào. Ông thở dài. Số phận thật kỳ lạ, tại sao ông sinh ra đời lại để làm một sử quan, người chép sử. Cả một đời ông mê man trong đống sách. Ông vui buồn, giận hờn, căm tức, bi ai, sống cùng số phận của biết bao nhân vật lịch sử từ xưa tới nay. Ông đã nhìn thấy trong đống giấy biết bao nhiêu cuộc hưng vong. Ông đã từng nghiên cứu về cuộc đời của biết bao nhân vật kiệt xuất. Chợt thấm thía nghĩ tới câu: “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu” .
Mưu sâu kế lạ ư? Tàn bạo giết chóc đến sởn gáy ư? Tư tưởng thâm trầm nhân nghĩa ư? Cứu dân độ thế ư?... Tất cả rút cuộc cũng chỉ có thể làm cho cái khí âm dương của đất trời ngơi nghỉ lại trong chốc lát, trong cái thế hoà hoãn. Cũng ví như kẻ du hành đi trên cánh đồng nắng chang chang bỗng gặp một gốc cổ thụ bên đường, anh ta dừng chân ngơi nghỉ, để rồi lại tiếp tục dấn thân vào con đường nắng chang chang trước mặt. Cánh đồng nắng là chủ yếu, gốc cây bên đường là chốc lát. Điều kỳ lạ: con người phải mất bao tâm huyết vật lộn để tìm bóng mát ấy, nhưng tại sao phút mát mẻ kia, cái bóng cây an dịu kia lại chỉ là thoảng qua, chỉ là ngắn ngủi.
Trong cuộc vật lộn lịch sử dài dàng dặc ấy, nhà chép sử chỉ là kẻ vật lộn trên đống giấy. Ông trói gà không chặt, ông chưa bao giờ biết đến trận mạc gươm đao, ông chưa bao giờ trải hiểm nguy. Ấy thế mà cái hiểm nguy trên đống giấy, nghĩ cho kỹ, lại còn gớm ghê hơn cả cái hiểm nguy chốn trận tiền. Sau khi thi đỗ ông được bổ làm một chức quan khiêm nhường, người chép sử. Văn Hoa là người nhẫn nại, tỉ mỉ, chăm chỉ đều đặn như một cỗ máy. Hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, ông cặm cụi ghi chép những sự việc xảy ra cả trên trời, cả dưới đất, không bỏ sót việc gì. Ngòi bút của ông có lúc là sâu bệnh, châu chấu, bão lụt, mất mùa; có lúc là náo động cung đình, tranh quyền cướp vị; có lúc là thắng giặc khải hoàn; có lúc ngòi bút ông run rẩy theo chân của Chế Bồng Nga vào điên đảo Thăng Long; có lúc nó ghi tội giết vua; nhưng nó cũng không quên những vụ án oan khuất kêu trời chẳng thấu...
Hồi Nghệ Hoàng ốm nặng cho vời Sử vào cung đoán mộng và giải bài thơ: “Con khỉ mõm đỏ, leo lên lầu gà trắng”. Hồi ấy, Hồ Quý Ly đã căm ông lắm. Bởi vì trong triều người ta đồn rằng Sử Văn Hoa đã tiết lộ tuổi của Quý Ly là tuổi khỉ và hé ra bằng cách bóng gió rằng Quý Ly định cướp ngôi nhà Trần. Nhưng Sử được Nghệ Hoàng che chở, vả lại nếu bắt Sử chẳng hoá ra có tật giật mình, do vậy bận ấy Sử Văn Hoa thoát nạn. Tuy nhiên, nhà chép sử vẫn luôn luôn nằm dưới con mắt theo dõi chặt chẽ của những người thân tín của thái sư. Nhưng đến khi Sử dâng tấu biểu can ngăn việc xây dựng Tây Đô thì Hồ Quý Ly không thể chịu đựng nổi ông ta nữa. Như ta đã biết, Sử viết: “Động An Tôn là nơi nhỏ hẹp, hẻo lánh, là chốn sơn cùng thuỷ tận, không thể định cư được. Trông cậy vào chốn hiểm trở phỏng có ích gì? Cổ nhân có câu: “Cốt ở đức, không cốt ở nơi hiểm trở”.
Thật hỗn xược? Hắn dám chê ta không có đức: Hắn muốn bóng gió đến chỗ lòng dân chẳng theo ta. Chưa ai nói, hắn đã nói. Việc chưa làm, hắn đã lu loa. Không thể để yên cho một kẻ dám ngang nhiên chê bai ta. Hồ Quý Ly sai bắt Sử Văn Hoa, tống giam vào ngục tối. Hồ Nguyên Trừng xin nhận xét xử vụ này. Khi điều tra, một số người muốn ngoắc vụ Văn Hoa vào vụ cô cung nữ Ngọc Kiểm, bởi vì gốc rễ cũng là chuyện dời đô. Có người còn định tạo chứng cứ giả, nhưng Nguyên Trừng không cho:
- Ông ta ngay thẳng, thấy không bằng lòng thì nói. Đừng làm chuyện ám muội, oan uổng. Ông ta là người viết sử. Giết oan ông ta sẽ để tiếng xấu ngàn thu đấy.
Chính vì vậy, Sử cứ bị giam hoài, dằng dai mãi vẫn chưa xử án được.
Cuốn sách mà cả đời Sử Văn Hoa ao ước viết, cuốn sách mà Sử đã ngày đêm suy ngẫm, sau khi được viên ngục quan giúp cho bình tĩnh trở lại, đó là một quyển quốc sử. Hoài bão của ông là phải viết một quyển quốc sử cho thật đàng hoàng, thật trung thực. Một đất nước mà thiếu sử sách cho hệ thống, rành mạch để nói lên sự nối tiếp quật cường và nền văn hiến của dân tộc thì sẽ khó trở thành một đất nước thực sự. Cụ lang Phạm, ông ngoại Nguyên Trừng, ưu ái nói rằng: Sử là cái kho trí nhớ của người nước Nam ta. Đến kẻ phản loạn như Phạm Sư Ôn cũng không nỡ giết ông vì ông là người chép sử. Cứ nhớ mãi hàm râu quai nón và giọng nói ồm ồm của ông ta: “Vì Sử Văn Hoa không biết nịnh nọt, cũng không quá khích đại ngôn, ta tha cho về. Để cho ông ta được sống làm người chép sử”. Còn bao nhiêu người dân bình thường khác trông thấy ông nghèo nàn, nhưng nghe nói ông là người chép sử, ai cũng quý mến, trọng vọng. Thế đấy! “Chép sử” hai chữ ấy nó thiêng liêng... Vậy làm sao ông có thể phụ những tấm lòng của những con người như vậy? Sử Văn Hoa bị tống ngục đã lâu vẫn chẳng hề thấy ai hỏi tới. Sử nghĩ: “Quái lạ! Hay người ta đã bỏ quên ta? Tại sao không thấy động tĩnh gì? Thực ra, không phải như vậy. Người ta sục sạo đi tìm chứng cứ, song chẳng tìm thấy gì. Người ta muốn đưa ra chứng cứ giả, song Nguyên Trừng không nghe. Thả cũng khó, mà giam lại cũng dở. Đình uý ty biết Sử Văn Hoa nguy hiểm, nhưng để buộc Hoa vào tội chết thì chứng cứ lại chưa đủ. Còn ý kiến thả Hoa ra cũng chẳng ai dám quyết, bởi vì bắt Hoa là lệnh của thái sư. Người ta cứ lần lửa, lần lữa mãi. Cuối cùng, có khi lần lữa cũng là một đối sách hay.
Còn Sử Văn Hoa, những ngày tù ngục đối với ông dần dần cũng quen đi. Mà cũng có thể nói cuộc sống tù ngục này đã rèn rũa làm cho ông đạt tới độ chín cũng được.
Còn nhớ khi mới bị giam, ông thất vọng và căm giận. Đôi mắt ông không chớp, đau đáu nhìn vào hư vô như để tra hỏi. Giá như lúc ấy, những tia mắt nóng của ông có thể thiêu trụi thế gian, ông cũng chẳng từ. Nhưng vị quan ngục đã tỉ tê vào tai ông câu chuyện về gà chọi của Trang Tử. Ông bàng hoàng vì đó là chuyện tu thân. Đối với kẻ sĩ, việc tu thân phải đặt hàng đầu. Ông không như chú gà chọi lúc đầu chỉ mới nghe tiếng gà lạ đã hăng lên gáy đáp lại. Nhưng xét câu chuyện, ông mới ở mức thứ hai, nghĩa là nghe thì chưa sao, nhưng mắt nhìn thấy, lòng còn xáo động. Còn bây giờ, qua ba tháng trầm luân, ông đã như con gà gỗ, lòng dửng dưng điềm tĩnh, nhưng khí lực lại tràn trề. Ông tự nhủ với mình: “Ước gì bút lực của ta cũng được như vậy. Trước kia, ta sôi nổi quá, để bút lực của ta nổi trôi trên trang giấy. Còn bây giờ, làm sao để ngòi bút ta phác ra được những nét trầm tĩnh, có thể nó kém bay bướm hơn xưa, nhưng khí lực của nó thì giàn giụa ẩn ngầm bên dưới...”
Trong buổi lấy cung đầu tiên, Hồ Nguyên Trừng bảo ông:
- Tôi biết ông là bậc chính nhân. Ông hiểu lẽ sống chết ở đời. Chỉ mong ông nói hoàn toàn đúng sự thật.
Sử là bạn vong niên với cụ lang Phạm. Ông gặp Nguyên Trừng từ lúc chàng còn nhỏ. Và chính ông đã đoán giấc mộng bay cho chàng. Quan chép sử hiểu Nguyên Trừng vốn ngay thẳng. Ông thầm cảm ơn số phận đã dun dủi cho ông gặp Trừng làm người hỏi cung. Sử Văn Hoa liền thành thật kể cho Trừng nghe chuyện mình đoán mộng cho đức Nghệ Hoàng ra sao, rồi chuyện ông dâng tấu biểu can ngăn việc dời đô...
- Cốt ở đức, không cốt ở nơi hiểm trở - Trừng thở dài nhắc lại câu nói.
Trừng hiểu mấu chốt vấn đề chính là ở đó ông biết không thể phút chốc có thể làm cho cha mình nguôi cơn giận, và cuối cùng ông cũng hiểu mình không thể đứng hẳn về phía quan thái sử, nếu biết Trừng ra mặt bênh Văn Hoa, Quý Ly sẽ không cho phép ông thụ lý vụ án nữa và sẽ trao nó cho người khác. Nếu thế, Sử Văn Hoa sẽ nắm chắc phần chết. Nguyên Trừng nói với Sử:
- Hiện nay điều cốt yếu phải biết nhẫn nại. Ông sẽ phải nhẫn nại trong tù ngục. Còn tôi, tôi sẽ tìm cách kéo dài sự nhẫn nại của cha tôi.
Lúc ấy, Sử đã được quan cai ngục cho uống rượu và kể chuyện con gà gỗ. Ông đã lấy lại được phong độ trầm tĩnh. đức ẩn nhẫn vốn là đức tính hàng đầu của người đạt giả. Nguyên Trừng một hôm nói với Quý Ly:
- Cha vẫn dậy con: lúc này việc quan trọng nhất của chúng ta là chiêu nạp kẻ hiền tài. Con nghĩ Sử Văn Hoa mới chỉ có những lời xấc xược, chứ chưa phải có âm mưu chống lại cha. Có người định làm chứng cứ giả để ghép ông ta vào tội âm mưu. Con sợ rằng giết ông ta sẽ làm cho kẻ sĩ trong thiên hạ không phục.
Quý Ly cười nụ. Thực bụng, ông chỉ chờ Nguyên Trừng nói ra câu đó. Nhưng Quý Ly không trả lời con trai ngay. Ông nghĩ rất lâu, rồi bảo:
- Thôi được. Hãy cứ để ông ta trong ngục thất. Việc đó xét sau.
Thế là vụ án được kéo dài. Và Sử Văn Hoa ngày đêm nằm trong tù, viết quyển sử của mình, viết trong tưởng tượng.
Cách đó mấy tháng, Nguyên Trừng vào ngục thăm quan Thái sử:
- Tôi nghe nói ông định viết một cuốn sách?
- Vâng, đúng ra một cuốn sử.
- Sử gì?
- Lê Văn Hưu, thầy tôi, mới chỉ viết lịch sử nước Đại Việt đến hết triều Lý...
- Cụ định...
- Tôi đang viết cuốn “Trần sử”
- Một cuốn sách về triều đại đương thời?
- Thật khó?
- Khó vì nó đụng chín đến nhiều người đang sống?
- Chỉ một phần nhỏ.
- Cái gì khó... lại lớn hơn.
Sử Văn Hoa chợt cười to:
- Còn gì nữa ư? Khó vì đầu tôi sắp lìa khỏi cổ - Giọng ông bỗng trở nên bi phẫn - Song giá như tôi được viết nó ra trước khi chết... Như vậy, chết cũng thoả, chết cũng chẳng ân hận gì...
Nguyên Trừng lặng lẽ ra khỏi ngục thất.
Hôm mới bị bắt, Sử Văn Hoa bị cùm chân tay, cổ bị đóng gông, mồm bị đóng hàm thiếc. Người ta sợ ông gào la chửi rủa hay sợ ông tự vẫn? Theo lệ xưa, tội càng nặng gông càng nặng. Sử Văn Hoa tội nặng nên phải đeo chiếc gông sáu chục cân. Sử Văn Hoa vừa già vừa yếu nên khi đeo gông hầu như ông không ngồi nổi dậy. Thành thử ông nằm cả ngày, chỉ có lúc ăn, mới được tháo gông ngồi dậy. Sau khi gặp Nguyên Trừng lần thứ nhất, ông được đổi chiếc gông nhẹ hơn, chỉ nặng hai chục cân. Sau lần gặp thứ hai, ông được tháo bỏ hẳn gông cùm. Phải mất nửa tháng những vết loét ở cổ chân, cổ tay do bị cùm mới lành trở lại. Cũng khi ấy, viên cai ngục hớn hở vào gặp ông:
- Xin có lời mừng tiên sinh. Tâm nguyện của tiên sinh sắp được thành tựu.
Sử nắm lấy tay viên cai ngục.
- Có chuyện gì vậy? Xin bác cho biết.
- Đức ông Nguyên Trừng sai đưa đến đủ cả giấy trắng, bút, nghiên và mực; Viên thư lại nói với tôi rằng gửi cho bác. Lại dặn bác cứ yên tâm viết cuốn sách cho xong. Đức ông nói: “Sách sử là của quý ngàn đời. Phải là người tâm huyết mới viết nổi sách trong tù ngục”. Đức ông còn dặn tôi phải chăm sóc cho bác ăn uống tử tế.
Từ hôm đó, Sử Văn Hoa bắt đầu viết cuốn Trần Sử, ông viết hối hả, cứ như thể những ngày cuối cùng của đời ông đã cận kề. Mỗi ngày, ông viết vài trang giấy. Ông làm việc như một kẻ ốp đồng. Cách làm việc của ông như sau: ban đêm suy nghĩ thật kỹ lưỡng, ban ngày viết ra giấy. Trong đêm tĩnh lạng, ông tìm tứ, dàn ý chọn chữ, chọn câu. Có đêm, chữ nghĩa của cả một đoạn văn hiện về trong giấc mơ. Điều kỳ lạ, lúc tỉnh dậy, ông vẫn còn nhớ như in có khi cả một đoạn văn dài; và ngày hôm sau, ông chỉ còn việc phóng bút chép nó lại trên giấy trắng. Lúc còn là khoá sinh. Ông nổi tiếng viết chữ đẹp. Nhưng trong những ngày viết sách lạ lùng ấy, ông không tài nào có thể viết nắn nót, những dòng chữ như run rẩy, hối hả, nóng lòng tuôn ra khỏi chiếc bút lông. Ông viết cả trong lúc ăn, viết cả trong lúc ngủ. Có đêm gặp được ý hay. Ông sợ nó biến mất, thế là vội vã nhỏm dậy, lần mò trong gian ngục tối om, tìm giấy, tìm bút, tìm mực và ghi các ý ấy lại bằng vài ba chữ nguệch ngoạc loằng ngoằng - Nhưng về sau để tiết kiệm những tờ giấy hiếm hoi, ông xin viên cai ngục những hòn than và viết chúng ra trên mặt đất, trong đêm đen.
Sử Văn Hoa quá hối hả, ông chạy đua với thời gian, vì sợ đời mình còn quá ngắn. Ông chẳng còn chú ý đến sức khỏe. Sự mải miết đêm ngày ấy biến ông chỉ còn là bộ xương. Viên cai ngục xót xa, xin với Nguyên Trừng cho vợ con Sử vào thăm, nhưng đức ông không nghe:
- Nhà ngươi nên hiểu, ta không ác với ông Sử đâu. Người như ông Sử đâu có nhiều. Hàng trăm năm mới có vài người. Hoàn cảnh lúc này xáo động, được ngồi tĩnh lạng mà viết một cuốn sách như ông Sử hiện nay đâu có phải lúc nào cũng có thời cơ. Hơn nữa, ông Sử đang phẫn chí, quyết chí... nhà ngươi nên biết chỉ trong những lúc như thế này, may ra mới nảy sinh những cuốn sách hay... mà lại cần cho Đại Việt. Ta nghĩ bổn phận của ta và của ngươi lúc này là phải giữ cho ngọn lửa đang nhen nhóm trong đầu óc ông Sử đừng bị tắt lụi nửa chừng...
Viên cai ngục vái tạ Nguyên Trừng, rồi lui ra. Ông đã tự biến mình thành một người đày tớ hầu hạ, mà ông chủ chính là viên tử tù Sử Văn Hoa chẳng hề hay biết. Ông đến nhà Sử, bảo vợ con ông ta tự tay nấu cho ông những vò rượu Mơ ngon nhất. Và cứ cách vài ngày, chờ lúc Sử viết xong vài chục trang giấy, ông lại mang rượu thịt vào đánh chén với người tử tù.
Hôm ấy, ông già viết sử có vẻ hứng thú đặc biệt. Đôi mắt sáng quắc của ông ta hình như được tiếp thêm lửa. Chúng long lanh roi rói như biết cười. Ông đi đi lại lại trong phòng giam, miệng đọc bài thơ “Dựng bia” (Lập bi) của Bạch Cư Dị:
Công đức đã sút kém
Văn chương cũng dần suy
Vẫn lấy đá trong núi
Bên đường dựng thành bia...
Khoe tài là Thái Công
Khoe đức là Khổng Ni
Càng nói nhiều càng đắt
Nghìn chữ vạn đồng thuê...
- Ha ha ha ha! Sử Văn Hoa chợt dừng đọc, cười khoái trá. Đúng lúc ấy, viên cai ngục mở cửa buồng giam, bước vào.
- Kìa quan bác! Sao đúng lúc thế? Thật là khéo! Đúng khi tôi thèm uống rượu, bác lại mang rượu vào.
Viên cai ngục:
- Hôm nay mua được chiếc vó bò. Thấy bác ngâm thơ, chắc là viết được một đoạn văn thú vị, nên đánh bạo mang rượu vào mừng bác. Món tương này bà vợ tôi làm đấy. Tương ngô ngọt lịm, hoà với nhánh gừng đập giập, ăn với vó bò thật tuyệt.
Hai ông già xếp bằng tròn trên nền nhà tù ngồi nhắm rượu. Sử tâm sự:
- Kẻ hàn sĩ thật khổ nhục. Tài đến như Bạch Cư Dị vẫn phải viết văn bia kiếm sống. Nhà quyền quý giầu có thuê ông viết kể lể công đức rồi đục đá thành bia để khoe với ngàn đời sau. Các nhà viết văn bia đều đế họ lên, rồi biến ông quan nào cũng đều có tài như Khương Tử Nha và có đức như Khổng Phu Tử. Đêm qua, tôi mơ thấy Bạch Cư Dị đến trong mộng, đọc cho tôi nghe bài thơ “Dựng bia”. Quái lạ! Nghe xong tôi giật mình tỉnh dậy và toát mồ hôi lạnh. Tôi sợ bác ạ...
- Làm sao bác sợ?
- Chắc bác hiểu đấy! Tôi sợ mình yếu lòng. Mà lòng ai chẳng yếu... Biết đâu đấy sẽ có lúc tôi cũng chỉ là một kẻ viết văn bia...
- Đấy là bác lo xa.
- Phải lo xa chứ bác. Người ta... ai chẳng có thê nhi.
- Tôi có là tôi nữa không khi người ta bắt nốt vợ con tôi... Tôi thử hỏi lúc đó tôi có trở thành kẻ đi viết văn bia kia không... Vì vậy cả đêm tôi đã nghĩ... Bác là người tri âm. Một lạy này, tôi xin nhờ cậy bác...
- Kìa, bác chớ làm thế... - Viên cai ngục đỡ lấy hai tay vái lạy của Sử Văn Hoa - Bác cứ yên lòng, tôi sẽ xin hết sức giúp bác.
- Có thể tôi sẽ chết. Nhưng tôi chỉ có thể yên tâm nhắm mạt khi vợ con tôi được yên lành. Ngày mai, nhờ bác đến gặp vợ con tôi bảo hãy trốn khỏi nhà - Hãy trốn lúc ban đêm... Trốn thật xa... Mai danh ẩn tích...
Tại sao Sử Văn Hoa lại hối hả như vậy? Tại sao Sử Văn Hoa lại lo lắng như vậy, thậm chí phải nghĩ đến cả kế vẹn toàn, mai danh ẩn tích cho vợ con sau này. Câu hỏi thứ nhất về sự hối hả như ta biết, do Sử nghĩ rằng thái sư sẽ chẳng tha ông; đã bao nhiêu cuộc thanh trừng xảy ra, chắc chắn ông phải hiểu số phận của mình. Vì hiểu số phận còn ngắn ngủi, nên ông phải tìm một cách viết thích hợp. Ông không thể viết theo trình tự thời gian, không thể tỉ mỉ gọt dũa câu văn. không thể chùng chình ở những câu chuyện trên trời dưới biển. Ông tổng kết, chọn lựa trong diễn biến lịch sử, tìm ra những vấn đề, những sự việc, những nhân vật mà ông coi là quan trọng, mấu chốt, rồi viết theo những chủ đề ấy. Có những ngày ông viết về một đời vua. Rồi ngày khác lại viết về một nhân vật. Có khi suốt vài chục trang giấy chỉ là ghi chép, thống kê về một năm nào đó. Ví dụ ghi chép chung quanh cái tết năm Canh Ngọ (1390), lúc Phạm Sư Ôn chiếm Thăng Long ba ngày, và Chế Bồng Nga đồng thời mang quân uy hiếp kinh đô, để rồi dẫn tới chiến công hiển hách của Trần Khát Chân.
Một đoạn viết đắc ý của ông là đoạn viết về vua Trần Nhân Tông. Ngọn bút lông của ông đã háo hức muốn viết về ông vua hiếm có ấy từ bao lâu nay. Một ngôi sao sáng nhất trong bầu trời lịch sử Đại Việt. Một ông vua văn võ kiêm toàn: võ - thì hai lần đánh tan giặc Nguyên; văn - thì làm văn hiến Đại Việt rực sáng, người tài mọc lên nhiều như sao sa, lại sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Người đời bảo rằng Trần Nhân Tôn là hoá thân của Phật tổ, đã đầu thai xuống trần đem lại cho dân Việt những giây phút hào hùng và một cuộc sống thịnh trị hoà mục. Một số nhà nho cạn nghĩ, vì bài bổ Phật giáo, vì cho rằng vua đi tu không phải một ông vua sáng; họ không dám dè bỉu vua, nhưng lại tìm hết cách để làm lu mờ cái ánh sáng hiền minh rực rỡ của đức Trần Nhân Tôn. Đó là một đức vua văn hiến; một nước Đại Việt có được tồn tại sánh vai được với thiên hạ hay không, ngoài chiến công hiển hách, còn phải có Văn hiến. Không Văn hiến, dân Nam ta sẽ chỉ còn là một bộ tộc dã man mông muội. Dưới thời đức Nhân Tôn, quyển sử Việt Nam đầu tiên được ra đời. Văn Hoa là người chép sử nên ông hiểu ý nghĩa của một quyển sử, nhất là quyển sử đầu tiên của nước nhà. Một khi quyển sử đầu tiên ra đời, tức là cái hồn của dân Việt đã được định hình rõ nét. Rồi còn sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm nữa, nó là thiền phái Đại Việt. Thật cạn nghĩ khi ghép hết cả chiến công đánh giặc cho Trần Hưng Đạo. Đánh giặc: công lớn nhất là của toàn dân. Có ông vua hiền, có hội nghị Diên Hồng và Bình Than thì mới được lòng dân. Vả lại, phải nhớ tới câu: vua nào tôi ấy. Phải nói vua Nhân Tôn là người đạo đức mới dám đủ gan dùng Trần Hưng Đạo, vốn là con Trần Liễu, kẻ kình địch với ông, cha mình, làm đại tướng thống lĩnh ba quân. Và cái tâm của Trần Nhân Tôn phải đại trí, đại từ, đại bi thế nào mới thu phục nổi cái tâm của Trần Hưng Đạo, vốn là một anh hùng kiệt hiệt một thời... Điều mà Sử Văn Hoa muốn nói lên nhiều nhất: đó là đức vua Nhân Tôn chính là người đã điều hoà được âm dương, vì người có tầm nhìn rộng lớn. Núi sông cũng có âm dương; một đất nước cũng có âm dương: Phật giáo và Nho giáo Phật giáo là phần âm của hồn dân Việt. Đạo Phật giữ phần linh thiêng, phần chìm, phần lặng lẽ và thâm thuý của núi sông. Đã bao đời nay, nó vẫn ngân nga trong tiếng chuông chùa làng, lẩn khuất trong đầu ngọn tre, dưới mái rạ, để xoa dịu, nâng đỡ hồn người dân quê trong những lúc nhiễu nhương loạn lạc, trong những năm lụt hạn đói khát, đem lại cho người dân ta sức chịu đựng dẻo dai để chờ đến buổi bình minh sẽ tới. Còn Nho giáo, phần dương của núi sông; đó là phép tắc, lễ giáo, đó là cương cường xông pha, đó là mở núi lấp biển, đó là vàng son vinh quang... Nhưng vinh quang mãi cũng có ngày tàn lụi - Vả lại chỉ có phần dương ấy con người sẽ trở nên cuồng nộ. Những lúc tàn lụi ấy, những lúc cuồng nộ đến mất trí ấy cái phần âm tĩnh lặng, u uẩn, linh thiêng sẽ giúp ta trở nên cân bằng, biết cắn răng mà chịu, biết nuốt nước mắt vào lòng, biết chấp nhận nhục nhã. để chờ một ngày nào đấy, có thể lại đứng dậy, lại lau sạch khuôn mặt, làm cho đất nước trở nên rạng rỡ.
Đức Trần Nhân Tôn hiểu rõ lẽ đó, nên ngài đã khuếch trương Thiền phái Trúc Lâm. Ở thời vua trị vì, Nho Phật hoà đồng, nhật nguyệt cân bằng, sáng tối luân phiên, đó là phút Thái hoà trời đất. Vẫn còn câu hỏi: Tại sao Sử Văn Hoa lại quá lo lắng, và nghĩ cả đến việc mai danh ẩn tích cho vợ con? Điều này cũng vì những trang sử, hoặc nói cho đúng hơn, một đoạn sử mà ông viết mới gần đây, đoạn sử có tên “Minh Đạo luận”. Trong thiên Thuyết nan, Hàn Phi Tử nói: “Rồng là giống vật có thể cợt đùa, thậm chí có thể cưỡi. Nhưng ở dưới cổ nó, có cái vảy ngược. Ai động đến vảy đó nó giết ngay”. Đoàn Xuân Lôi viết bài “Phản Minh Đạo” tức là đã chạm vào cái vảy ngược, lúc đó Trần Nghệ Tôn còn sống, nên chỉ bị lưu đày làm chức học quan bé nhỏ. Còn ông, lúc này Thượng Hoàng Nghệ Tôn đã băng, và quyền hành của quan thái sư đã sắp lên tới đỉnh chót vót, trong khi ông lại đang sa ngục thất vì tội can gián dời đô, nếu ông viết Minh Đạo luận, tức là ông đã mắc chồng thêm tội; vậy ông có nên viết đoạn văn đó hay không? Ông suy nghĩ, đắn đo, viết rồi lại xé, xé rồi lại thấy lòng như lửa đốt. Và ma đưa lối quỷ đưa đường hay sao, mà cây bút lông của ông lại viết đoạn văn đó lần thứ hai; lần này bão tố hơn, sắc sảo hơn, kiên quyết hơn. Viết xong Minh Đạo Luận, Sử Văn Hoa thấy nhẹ người... Ông như bà mẹ mang thai thấy đứa con mình ra đời khỏe mạnh, xinh xắn và giống mình như đúc. Lúc đang viết, ông nghĩ sẽ chỉ dành nó cho riêng mình...
Cứ nửa tuần trăng, viên thư lại của Hồ Nguyên Trừng lại tới cấp giấy bút cho Sử, và mang đi những trang giấy đã viết xong.
Và sáng hôm ấy, lại cũng như ma đưa lối quỷ đưa đường lần thứ hai. Sử Văn Hoa cũng không hiểu tại sao ông lại đưa cho viên thư lại thiên Minh Đạo Luận, mà đêm hôm trước ông vẫn cứ đinh ninh rằng đây chỉ là bản thảo mình viết riêng cho mình. Điều lạ lùng, khi giao đi, ông không hề hối hận. Thậm chí có lúc, ông thấy lòng mình sảng khoái, và tỉnh táo; bằng chứng: sáng hôm ấy ông đã ngỏ lời xin viên ngục quan giúp vợ con ông trốn khỏi làng rồi mai danh ẩn tích. Ông đã tính toán kỹ, nếu việc xảy ra cho vợ con ông, thì nhanh nhất phải mươi ngày, vì còn phải đọc, còn phải cân nhắc, bàn tính, rồi người ta mới xử tội ông, tiếp đó mới đến vợ con ông; và việc mới xảy ra ông đã nhờ viên ngục quan ngay.
Hai hôm sau, viên ngục quan rỉ tai ông rang đã lo việc cho ông xong xuôi.
Và thế là, lúc này đây, ông an tâm chờ đợi điều xấu xảy đến.
***
Và nó đã ập đến thật.
Sáng hôm nay, còn rất sớm đã thấy quan Kiểm pháp Nguyên Trừng đích thân vào gặp ông. Nguyên Trừng buồn rầu nói:
- Sáng nay, có lệnh cha tôi đòi gặp mặt ông.
Sử Văn Hoa rất bình tĩnh:
- Có thể lần này chúng ta gặp nhau lần cuối... vì vậy, tôi xin tỏ lòng cảm kích và biết ơn quan Kiểm pháp đã giúp tôi hoàn thành điều tâm nguyện lớn lao nhất của đời tôi.
Hồ Nguyên Trừng:
- Tôi đã đọc xong cuốn Trần Sử của ông. Tôi đã đọc kỹ phần cuối là Minh Đạo Luận. Tôi cứ suy đi tính lại, định bỏ phần đó, không đưa cho cha tôi. Nhưng rồi lại nghĩ: cuốn sách đó là cả đời tâm huyết của ông, nếu thiếu đoạn cuối cùng, cuốn sách sẽ khập khiễng, bất nhất. Và điều đó chắc ông chẳng bằng lòng...
Sử Văn Hoa tươi cười vái tạ:
- Xin cảm ơn quan Kiểm pháp, cảm ơn người tri kỷ đầu tiên của tôi. Xin chớ áy náy. Quyển sách này là của tôi. Tôi xin chịu trách nhiệm đến từng chữ một.
Hồ Quý Ly
Phần X- Chương -1 Một ngày của Thái sư (Minh đạo 2)
Từ khi Nghệ Hoàng mất, nghiễm nhiên Quý Ly trở thành thái thượng hoàng. Ông vào ở cung Thánh Từ ngay cạnh cung Quan Triều (nơi “quan gia” tức là vua ở) Theo tục lệ nhà Trần, Thái thượng hoàng phải thường xuyên ở bên cạnh vua để bảo ban, rèn cặp, cố vấn.
Cung Thánh Từ, nơi ở của Thái thượng hoàng, dĩ nhiên phải đẹp đẽ và tiện nghi, nhưng Quý Ly vẫn chưa ưng. Ông vẫn cảm thấy nó cũ kỹ và thấp bé. Ông sai thợ sửa chữa lại tí chút. Bảo là tí chút, vì ông để nguyên ba ngôi nhà hình chữ tam như cũ; chỉ cho sửa lại ngôi trung đường, đang bốn mái nâng lên thành tám mái, đang thấp nâng lên thành cao, đang ngói lưu ly mầu xanh, đổi thành ngói lưu ly màu vàng. Chỉ có tí chút thế thôi nhưng cung điện bỗng đường bệ hẳn lên, rực rỡ hẳn lên. Cái tên cung Thánh Từ cũ kỹ cũng phải thay đổi, ông đặt tên nó là cung Hoạ Lư. Quý Ly vốn thích hoạ, ông thay đổi hết đồ bầy biện trong nhà, thay đổi một loạt những bức tranh, bức chữ viết, bức hoành phi, câu đối.
Khu cung điện Hoạ Lư chia làm ba: nhà tiền đường dành cho các đại thần và thư lại đến làm việc; nhà hậu đường làm nơi thờ cúng; nhà trung đường, được sửa chữa lại nhiều, cao to đẹp đẽ nhất, là nơi ông làm việc, và có lúc ở.
Trước cung điện, thời Nghệ Tôn, có đôi rồng đá. Ông ngắm nghía, chê rằng đôi rồng ấy giống như đôi rắn, liền sai bỏ đi, gọi một phường thợ đá ở làng Nhồi Thanh Hoá ra. để đẽo tạc một đôi rồng đá mới” ông bảo.
- Các người hãy làm cho thật đẹp, ta sẽ ban thưởng.
Khi tạc xong đôi rồng, Quý Ly ra ngắm nghía, ông nắm lấy cái bờm rồng dựng đứng, vuốt ve cái thân rồng lượn cong dịu dàng, rồi âu yếm sờ vào những chiếc móng rồng ở đôi chân đang thu lên phía trước. Ông cười ha hả:
- Rồng ở tư thế sắp bay... Các ngươi khá lắm. Xứng đáng là thợ đá làng Nhồi. Mỗi người được thưởng hai mươi lạng bạc. Mấy hôm nữa, các ngươi sẽ vào ngay Tây Đô. Ở đó, các ngươi cũng tạc rồng cho ta nhưng đôi rồng to hơn. Phải tạc cho thật khá, thật uyển chuyển. Đôi rồng mới ấy phải cương mãnh, phải bay lên thực sự Các ngươi có hiểu ý ta không.
Cung điện Hoạ Lư, đầy chữ, đầy tranh, đầy điêu khắc ấy, làm trăm quan đều phải trầm trồ. Ngay cả Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hàng là những người khó tính nhất, phản đối Quý Ly nhiều nhất, cũng phải im lặng thán phục.
***
Đêm hôm ấy, giấc mơ gặp Nghệ Hoàng làm Hồ Quý Ly tỉnh giấc, và sau đó không tài nào ngủ lại được. Ông hầu như thức suốt đêm. Ông miên man nghĩ: nghĩ tới Thuận Tôn, ông vua con rể đang tu đạo trong vườn uyển; nghĩ tới Nguyên Trừng người con trai tài hoa với nhiều ý tưởng ngông cuồng lắm lúc ngược với ông nhưng không phải không có lý; nghĩ tới Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hàng, những con người đối địch với ông mà ông ra sức kéo níu, rồi cả tới Đoàn Xuân Lôi, Nguyễn Cẩn, Nguyễn Phi Khanh, Sử Văn Hoa... Đêm qua, ông vừa đọc xong thiên Minh Đạo Luận của Sử. Chao ôi? Minh Đạo? Một dàn nhạc khổng lồ mà những nhạc công vẫn còn tấu lên những điệu khúc theo cách của họ. Minh Đạo? Phải chăng nhiệm vụ của nó là làm cho những nhạc công ấy trở nên “người tấu cùng một điệu”.
Ông trằn trọc, ông thở dài, ông suy ngẫm, ông ngồi dậy đốt nến và viết, rồi đứng lên ra khu sân rộng trước cung, đứng cạnh đôi rồng đá, vuốt ve chúng, rồi đi lại ngắm sao trên trời. Người đời bảo ông táo bạo, cương nghị, sắc sảo, cả gan làm đất trời rung chuyển. Có kẻ chê ông tàn nhẫn, gian hùng, xảo quyệt và lắm tham vọng. Những kẻ thô thiển thì nói ông mưu cầu hạnh phúc cho mình. Ông chợt cười trong lòng: Hạnh phúc ư?
Ta sung sướng hay ta không sung sướng? Ông không nén được nụ cười thầm bật ra thành tiếng. Những tiếng cười giòn mà chỉ có mình ông nghe, chỉ có những ngôi sao tinh quái trên trời nghe. Tiếng cười làm lũ gà chọi, trong cung cấm đang bắt đầu gáy sáng cũng đột nhiên sợ hãi ngừng bặt. Tiếng cười thoả mãn, hay tiếng cười buồn, hay tiếng cười cô đơn? Có ai biết được? Hoạ chăng có mình ông biết, vì chỉ có riêng ông nghe thấy nó mà thôi. Lũ lính canh đêm đi vòng ngoài cung điện, vừa đi thỉnh thoảng lại gõ lên một tiếng mõ, cũng chỉ nghe thấy tiếng cười ấy một cách mơ hồ...
Cả đêm mất ngủ nhưng thái sư không mệt. Tham vọng đã đem lại sức lực cho ông, hay là những diễn biến dồn dập của thời cuộc đã bắt ông không có quyền mỏi mệt? Sáng sớm ông tàm nước nóng rồi ăn một bát canh gà hầm sâm, và cảm thấy hoàn toàn khỏe khoắn. Việc đầu tiên ông làm là sai khiêng kiệu đi đến điện Hoàng Nguyên thăm con gái, hoàng hậu Thánh Ngẫu. Ngồi trên kiệu, ông nghĩ tới chuyện đã xẩy ra hơn một tháng trước. Một bận, ông đến thăm con gái. Ở trước cửa điện Hoàng Nguyên ông đã nghe thấy tiếng cười giòn giã của thái tử An. Quý Ly rất yêu cháu ngoại; cứ vài hôm ông lại phải tới chơi với cháu một lần. Hôm ấy, thấy ông ngoại đến, thằng bé từ trong nhà chạy ra gian đại sảnh, ôm lấy cổ Quý Ly:
- Cháu chào ông ngoại.
Thấy chú bé mồ hôi lấm tấm trên trán, ông hỏi:
- Cháu đang chơi trò gì vậy?
- Cháu chơi trò “ông vua con” với các công công.
- Ông vua con?
- Vâng, nhũ mẫu cũng gọi cháu là ông vua con. Các công công làm ngựa cho ông vua con cưỡi.
Quan thái sư nghe xong, chợt phá lên cười. Cười rất lâu đến chảy nước mắt. Rồi đặt cháu xuống đất, thái sư im lặng lùi xa, đi lại ngắm nghía cậu bé. Cuối cùng ông bảo:
- Ngoại sẽ cho cháu làm vua thật sự, chứ cần gì phải chơi trò làm vua.
Mấy hôm sau, Quý Ly sai Nguyễn Cẩn đến điện Hoàng Nguyên. Cẩn quỳ lạy tâu:
- Thần được lệnh thái sư đến dâng lệnh bà một lá thư.
Hoàng hậu xem thư xong nhíu mày hỏi:
- Thái sư sai ngươi đến dạy thái tử học lễ?
- Bẩm vâng.
- Thái sư bảo phải học những lễ gì?
- Dạ, đầu tiên phải học đi đứng cho đúng quy cách. Rồi tiếp đó phải học lạy...
- Cái gì? Quy cách gì? Thái tử mới lên ba tuổi.
Dạ tâu lệnh bà. Xin lệnh bà đọc kỹ. Tất cả đã được viết trong thư.
Thánh Ngẫu lúc đầu mới đọc lướt, nay đọc kỹ mới thấy hết ý nghĩa của lá thư:
“Phải dạy ngay cho cháu ta biết đi đứng, ăn nói cho đường hoàng để xứng với bậc thiên tử. Nhất là phải nhanh chóng dạy cho thái tử An biết lạy theo đúng nghi lễ triều trung... Cha đang mắc việc hệ trọng, nay mai sẽ đến thăm con và cháu ngoại, ngay khi xong việc”
Thế là, cung Hoàng Nguyên suốt ngày trở nên một sân trò nhộn nhịp. Hơn một chục thị tì và thái giám phải đóng vai các đại thần đi theo hầu ông vua con. Chiếc ghế bành được đặt ở giữa đại đường để làm ngai vàng. Lũ người hầu xếp hàng hai bên. Chúng quỳ rạp và tung hô vạn tuế, khi chú bé đĩnh đạc đi giữa lối tiến lên ngồi vào chiếc ghế bành. Nguyễn Cẩn có bộ râu ba chòm đen nhánh rất đẹp. Cẩn gật đầu hài lòng, khi thấy ông vua con hào hứng đóng vai vua. Tập đi đứng được vài lần, chú bé An bỗng nói:
- Ông râu đen ơi? Đổi trò khác đi, ta chơi trò này chán lắm rồi.
Râu Đen chuyển sang tập quỳ lạy.
Một cái bàn được bày ra, trên có nến và lư hương. Tất cả dàn hàng ngang. Ông vua con một mình đứng trước hàng. Nguyễn Cẩn đứng đằng sau hô “Bái!”. Vua con cười sằng sặc vừa cười, vừa lạy. Nguyễn Cẩn nói:
- Nghi lễ này rất trang nghiêm. Bệ hạ không được cười.
Rồi ông làm động tác mẫu hai bàn tay đan nhau trước mặt. cúi đầu xuống, quỳ một chân, rồi cả hai chân, sau đó đầu rạp sát đất. Cậu bé tập một lần, rồi nhõng nhẽo không chịu làm nữa. Hoàng hậu bảo, thái tử cũng không chịu. Cuối cùng hoàng hậu nói:
- Thái tử còn bé, bảo dần dần thôi. Hôm nay thế là đủ cho nhà ngươi về nghỉ.
Nguyễn Cẩn lạy tạ lui ra.
Hôm sau, Nguyễn Cẩn lại đến, đưa cho hoàng hậu là thư của Thái sư ra lệnh rước thái tử An một mình đến cung Hoạ Lư gặp ông ngoại. Hoàng hậu định đi theo nhưng Nguyên Cẩn ngăn lại:
- Bẩm lệnh bà, thái sư dặn đi dặn lại chỉ có một mình thái từ đến cung Hoạ Lư học lễ, không cho bất cứ ai đi theo.
Kiệu rước thái tử đến cung Hoạ Lư. Ông ngoại dắt An leo bậc lên nhà tiền đường, qua nhà trung đường rồi đến nhà hậu đường. Ông ngoại dẫn An đến bàn thờ, trên đó có pho tượng một người đàn bà và nói:
- Bà ngoại con đó. Con lạy bà ngoại đi.
Thế là, bé An phải học lạy ở toà nhà hậu đường rộng thênh thang và vắng ngắt, ở đó suốt đêm ngày chỉ có khói trầm hương và chỉ có mặt ông râu đen nghiêm nghị. Vắng mẹ rồi. Biết lấy ai bênh vực cho đây. Chú bé len lét đành làm theo lời ông Râu đen. Buổi chiều, khi kiệu rồng về đến nhà, chú bé chạy sà vào ôm lấy cổ Thánh Ngẫu và oà khóc to:
- An đau chân lắm. An sợ lắm.
Hoàng hậu ôm lấy con, khóc theo.
- An nhớ mẹ lắm. An không đến cung ông ngoại nữa. An không chơi trò làm vua nữa đâu.
Hôm sau, thái tử An nhất định không đến cung Hoạ Lư nữa. Hoàng hậu Thánh Ngẫu cũng đồng lòng với con. Thái sư nghe tin, đang họp việc cơ mật cũng bỏ dở, lên kiệu tức tốc đến cung Hoàng Nguyên. Ông đùng đùng nổi giận, quát mắng con gái:
- Mẹ con nhà ngươi cho chuyện học làm vua là trò đùa sao?
- Ngoại ơi! An không chơi trò làm vua nữa đâu.
Quý Ly quắc mắt.
- Trò gì? Trò gì?...
- An không thích chơi làm vua nữa - Đứa bé run rẩy khóc.
Hoàng hậu quỳ xuống, đầm đìa nước mắt, van xin:
- Con lạy cha. Xin nguôi cơn giận. Cháu nó còn nhỏ dại.
Quý Ly tay cầm cái quạt cũng run lên. Ông ném cái quạt xuống đất, rồi bảo:
- Con hãy nghe ta đây. Đã sinh ra làm con cái vua chúa, tức là không có số phận riêng nữa. Tất cả phải vâng theo thiên mệnh. Dù đứa bé nhỏ xíu cũng vậy. Không thích cũng phải làm. Đây là việc hệ trọng. Con đã nghe ra chưa?
Quan thái sư bỏ về. Hoàng hậu Thánh Ngẫu lập tức lên cơn sốt. Quan thái y được phái đến đêm ngày túc trực chữa bệnh. Năm hôm sau, hoàng hậu khỏi bệnh. Bà trở nên một con người câm lặng. Ông Râu Đen Nguyễn Cẩn lại được phái đến, dạy thái tử học lễ. Lần này, thái tử không bị ép buộc gay gắt như trước. Thời gian học cũng ngắn hơn. Thái tử cũng biết nghe lời hơn. Nhưng bây giờ cung Hoàng Nguyên trở nên nghiêm trang, vắng lạng. Trò chơi làm vua hết những ngúng nguẩy, õng ẽo, hết những tiếng cười ngây thơ. Trò chơi đã tiến đến gần giống thật, hay nó càng ngày càng xa sự thật?
Hôm nay, Thái sư đến thăm con gái và cháu ngoại, mục đích để thông báo với hoàng hậu, rằng tất cả hoàng gia phải chuẩn bị chuyển vào Tây Đô. Kinh đô mới gần như đã hoàn thành. Thuận Tôn đã đồng ý rời bỏ ngai vàng đi tu tiên. Thái tử An.. đã sắp thực sự trở thành ông vua con. Trò chơi đã sắp là sự thật... Sở dĩ ông cho dạy An học dạy, là vì sắp đến ngày làm lễ đăng quang.
Thấy kiệu thái sư đến, bọn cung nữ lập tức vào báo cho hoàng hậu. Thánh Ngẫu cùng con trai bước ra ngoài đại đường. Hoàng hậu đến trước mặt cha, ngồi xuống sửa lại váy áo cho chỉnh tề, rồi rạp đầu xuống đất Thái tử An đứng sau mẹ, như một cái máy làm theo. Mẹ lạy một, con cũng lạy một. Mẹ lạy hai, con cũng lạy hai...
Quý Ly nhìn gương mặt trắng bệch buồn bã của con gái, nhìn bộ mặt vô hồn của cháu ngoại, ở đấy, hình như đã hết cả sự linh hoạt, và chỉ còn lại toàn sự ẩn nhẫn, cam chịu; tự nhiên trong lòng ông dâng lên một mềm xót thương vô hạn, nhưng ông không thể nói ra. Đáng lẽ, ông thông báo với Thánh Ngẫu chuyện sắp đi Tây Đô, nhưng ông hiểu mình không nên nói. Ông lặng lẽ đỡ con và cháu đứng dậy và hỏi:
- Con đã thấy trong người khỏe hẳn chưa?
Ông cúi xuống, ôm đứa cháu ngoại vào lòng, rồi bế nó lên đùi, ngồi vào chiếc ghế bành đặt giữa đại đường. Ông ôm cháu, nhưng chợt cảm thấy thiếu vắng một điều gì đó. Ông nghĩ mãi không ra. Chợt ông nhìn vào đôi mắt buồn bã của thằng bé, và ông rùng mình hiểu ngay. Thiếu vắng cái gì ư? Có lẽ đó là tiếng bi bô của thằng bé, có lẽ đó là hơi ấm da thịt, của đôi cánh tay mũm mĩm mà chú bé vẫn quàng vào cổ ông mỗi khi ông đến. Ông cảm thấy mất mát. Phải rồi, từ nay ông sẽ bị mất sự đầm ấm của đứa trẻ vẫn ban phát cho tuổi già, và thay thế vào đó là sự lạnh lẽo hờn giận của đôi mắt ngây thơ... Nhưng biết làm sao được! Số phận của các bậc vua chúa là thế ư?
Quan thái sư muốn an ủi con gái và cháu ngoại, nhưng ông thấy lúng túng; vả lại, lời nói lúc này là thừa. Ông chỉ còn biết dùng những tia mắt xót thương để nhìn Thánh Ngẫu, mong con gái hiểu được phần nào lòng mình. Ông trao cho hoàng hậu chiếc hộp ngà trong đó đựng những thỏi nhung hươu, thỏi cao hổ cốt:
- Đây là quà biếu của sứ thần Chiêm Thành. Họ bảo nấu từ xương con hổ đen đang sung sức, và nhung loài hươu trắng đang tuổi dậy thì. Con bảo cung nữ hàng ngày nấu cháo với cả hai thứ cao, cho chóng lại sức.
Trên đường về cung Hoạ Lư, Quý Ly thấy trong lòng dâng lên một nỗi buồn khó nguôi ngoai.
Hồ Quý Ly
Chương 2 Trước khi đi
Trước khi đi, viên quan coi ngục còn cho Sử Văn Hoa ăn cơm nắm muối vừng, rồi trao cho ông bộ quần áo nâu mới giặt thơm tho. Ông giơ hai tay nắm lấy tay Sử, dặn dò:
- Xin tiên sinh cẩn trọng?
Sử văn Hoa cảm động trước sự chân tình của ngục quan, tuy nhiên ông không khỏi nghĩ thầm chua chát: “Cứ như thể ta sáp lên đoạn đầu đài”. Mà cũng có thể lắm chứ. Khi quyết định đưa đoạn văn “Minh Đạo Luận” nộp lên trên, ông cũng đã nghĩ đến điều không may nhất. Song, ông không nghĩ tới việc Quý Ly muốn trực tiếp gặp ông. Ông đã gặp thái sư nhiều lần, chỉ có khác lần gặp này ông ở tư thế kẻ tử tội, còn Quý Ly ở địa vị ngươi phán xét tối hậu. Cứng rắn ư? Mềm dẻo ư? Chọn lựa thái độ nào? Ông không phải kẻ cuồng sĩ, không phải kẻ ngu trung, cũng không biết lựa theo chiều gió... Ông chỉ muốn mình vẫn là mình... Đó là sự dại khờ của ông, nỗi khổ đau của con người sống trong thời “thiên tuý”. Hay là, theo lời khuyên ông già ngục quan: hãy như con gà gỗ kia. Phải là bậc đại hiền và đại trí mới có thể được như con gà gỗ. Sử đã suy ngẫm kỹ về mình. Chẳng qua, trong lúc quẫn bí, ông mới chỉ chạm tới cải vỏ bề ngoài của triết lý ấy, để làm cho lòng mình bình tĩnh trở lại, để khỏi sa vào vực thẳm của sự mất trí. Chỉ thế thôi? Còn phần cốt lõi, tinh tuý của nó, mấy ai đã chạm tới được. Ta sống ở đời, ta chỉ là kẻ nửa vời. Nhưng nghĩ cho cùng, lúc này đây, lại sắp phải đối mặt với một tình cảnh căng thẳng, triết lý ấy há chẳng đem lại cho ta sự bình tĩnh, sự can đảm để dương đầu với số phận? Có lẽ đó là cái nghiệp, mà đã là nghiệp mấy ai tránh nổi?
Lần này, ông bị giải đi nhưng không phải đeo gông ở cổ - Đức ông Nguyên Trừng ra lệnh như vậy. Chỉ bị trói giật cánh khuỷu và được hai tên lính ngục áp giải trên con đường rộng, xum xuê những cây đại thụ, con đường dẫn tới nơi ở của thái sư Hồ Quý Ly.
Con đường dẫn thẳng tới cửa cung điện. Từ xa đã thấy vàng son chói loà. Càng đến gần, càng bị choáng ngợp hơn. Cái cổng đã là một công trình lớn, cao vút và nguy nga. Trên có tầng lầu đặt trống canh. Ngói mũi hài mầu xanh. Đỡ dàn mái là hàng cột gỗ lim đen nhánh. Cửa chính trên uốn cong, dưới có bánh xe gỗ. Hai cánh sơn son, trên vẽ rồng vàng bay trên những đám mây vàng. Hai cánh cửa lớn đóng im ỉm, hầu như chẳng bao giờ chúng được mở ra. Người ta đi lại ở hai cửa bên, cũng cuốn tò vò, cũng sơn đỏ. Vào một cửa, ra một cửa. Gần sát mái ngói xanh, là tấm hoành phi chạm trổ, tất cả dát vàng, và trên cái nền vàng chói lọi ấy là ba chữ đại tự sơn son: Hoạ Lư Cung.
Sau khi xem tờ lệnh gọi có dấu son của cung Hoạ Lư, tất cả còn phải chờ, một người lính đưa giấy tờ vào trình. Một lúc sau mới có lệnh giải tù vào. Bọn lính ngục bị gạt ra ngoài nhà chờ, áp giải tù ở trong do những lực sĩ nội vệ đảm nhiệm.
Sử Văn Hoa đi trên con đường đá xanh nằm giữa một cái sân lát gạch đỏ mênh mông. Song song với con đường đá phiến là hai dãy chậu đá khổng lồ to như những chiếc nong, bên trong đổ đất trồng những cây lạ và hoa quý hiếm.
Đôi rồng đá ngạo nghễ chầu hai bên chín bậc thềm đá để bước lên toà tiền điện. Đến đây. Sử văn Hoa lại phải khai trình đủ điều trước bàn một người thư lại. Tiếp đó, lại phải chờ. Viên thái sử đưa mắt nhìn khắp căn nhà. Ở hai bức tường đầu hồi treo những bức tranh, những bài châm, hoặc bằng mực nho vẽ trên lụa, hoặc bằng sơn vẽ trên vóc gỗ, hoặc bằng khắc chạm. Vì đứng xa, nên Sử không nhìn thấy viết gì, vẽ gì nhưng chắc chắn đó là những nét bút của những bậc đại nho và hoạ sĩ có tài. Và ấn tượng chung của tất cả những nét bút ấy đã làm cho ta kính phục, và nhắc nhở rằng ta đang ở một chốn văn nhã đúng thực như cái tên Hoạ Lư của nó. Nhưng đập vào mắt Sử nhất vẫn là hai bức đại hoành treo ở phía tường hậu. Hai cái bảng lớn hình chữ nhật, mỗi cái to chừng hai chiếc giường, được khắc nền bàng những hình kỷ hà, những hoa lá, những chim, những thú; toàn bộ nền ấy được thiếp vàng, ánh sáng chiếu vào những nét khắc chìm nổi của vàng đã trở thành long lanh, chỗ đậm, chỗ nhạt, nhiều sắc độ sáng tối. Và trên đó nổi lên những chữ sơn đen khỏe khoắn, vững chãi, đầy hứng khởi.
Một tấm viết bốn chữ “Vô dật, nãi dật” rút ra từ thiên Vô dật của Kinh Thư, một châm ngôn dành cho các bậc vua chúa đã được Quý Ly giảng ra quốc ngữ và dạy vua Thuận Tôn.
Tấm thứ hai có ba chữ: “Nhật nhật tân” rút từ câu: “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” (ngày mới, ngày ngày mới, lại ngày mới). Dòng chữ này trong sách Đại học, biểu lộ chí hướng của quan thái sư mà ai ai cũng biết.
Điều đáng chú ý: cả hai bức đại hoành ấy đều do chính tay Quý Ly tự viết. Cũng chính ông đã kiểm tra đám thợ khắc, thợ sơn; đôn đốc họ rồi bắt sửa chữa từng ly từng tí. Quý Ly muốn khoe chữ của mình; hay ông muốn dùng những nét chữ ấy để trấn áp, đồng thời trấn an mọi người trong triều đình, rằng ý chí cải cách của ông là bất biến, rằng ông là người có tài, có văn hiến, rằng cuộc cải cách không phải một việc làm mò, mà do một bộ óc chứa đầy kinh sử đã lo toan, tính toán kỹ lưỡng. Sử Văn Hoa thầm nghĩ: “Hãy gạt những ý nghĩ ấy sang một bên, chí ít hai bức đại hoành này cũng vẫn là hai tấm hoạ tự vô song, làm rung động mỗi ai vào đây”.
Sử chợt giạt mình, ngừng dòng suy nghĩ khi viên lực sĩ vào bẩm báo đã quay ra để dẫn ông đến gặp thái sư. Họ cởi trói cho người tù. Ông dùng bàn tay nọ bóp khuỷu tay kia; những khuỷu tay bị tê dại vì trói đã lâu. Rồi ông chỉnh từ quần áo, sắc mặt, và lặng lẽ khoan thai đi theo người lực sĩ từ toà tiền đường theo giải hành lang tiến về phía toà trung đường cao vút. Giải hành lang hai bên có lan can đá, phía ngoài lan can là vườn hoa đủ màu sắc. Hết hành lang dài đến một chiếc cầu đá năm nhịp bắc ngang một chiếc ao nhỏ, dưới ao những bông hoa súng mầu đỏ tía lô nhô mọc ở một góc, những con cá vàng, cá chép đỏ vẫn thường được Quý Ly ra đứng trên cầu thả xuống những bánh bỏng gạo cho ăn, nay nghe tiếng chân người tưởng là bước chân của chủ, chúng lao xao nổi lên mặt nước.
Toà nhà chính, điện Hoạ Lư với bộ mái vàng với những hàng cột và những cánh cửa sơn son, nguy nga, sừng sững trước mặt, chợt làm viên quan thái sử nhỏ bé thấy trái tim mình đập rộn ràng. Người lực sĩ dừng chân, và bắt Sử cũng phải dừng chân. Gương mặt lạnh tanh, hắn chằm chằm nhìn vào mặt viên quan chép sử; rồi hai bàn tay to của hắn rà soát lại một lần nữa khắp người Sử Văn Hoa. Rà soát xong, hắn ve vuốt, vỗ nhẹ lên bộ quần áo Sử, ý chừng để cho chúng được phẳng phiu, hết xộc xệch. Thậm chí, hắn còn bắt Sử chít lại chiếc khăn nhiễu tím và sửa sang lại những nếp gấp trên khăn.
Điện Hoạ Lư là một toà nhà năm gian, ba gian giữa được đội cao lên một tầng nữa; tầng gác trên gọi Tàng thư các, nơi Quý Ly đọc sách; tầng dưới là nơi làm việc. Ở hai bên tả hữu, lùi lại phía sau, là hai dãy nhà dành cho vệ sĩ và thị nữ.
Sau khi được lệnh, viên lực sĩ dẫn Sử Văn Hoa vào điện. Như được dặn từ trước, Sử đến cửa đã phải cúi đầu không được ngẩng lên, hai tay chắp trước mặt. Đi chừng mười lăm bước, người lực sĩ ở phía sau vỗ nhẹ vào lưng và Sử dừng lại, quỳ xuống vái lạy, đầu rạp xuống đất. Chờ một lát, mới thấy tiếng nói rất thản nhiên:
- Cho ông ta đứng lên? Và chờ đấy!
Sử Văn Hoa đứng dậy. Lúc này, ông mới được ngẩng mặt nhìn. Quan thái sư đang đọc một cái gì đó. Đứng sau lưng ông, sừng sững người lực sĩ lạnh lùng, khoanh tay trước ngực.
Sử đưa mắt nhìn quanh. Điều đập vào mắt ông trước tiên là bốn chiếc cột ngọc am. Bốn chiếc cột to hơn người ôm mầu đỏ sậm, hầu như ngả sang đen bóng nhẵn như sừng. Bốn chiếc cột chính của toà nhà, nằm ở khoang giữa. vươn lên tầng trên, có thể nói, làm vững chãi, chống đỡ cho toàn bộ ngôi điện. Quý Ly đã sai người vào dãy Yên Tử chọn lựa trong ngàn vạn cây tùng mới tìm được bốn cây xích tùng ngàn tuổi, to và cao đủ tầm hai tầng nhà. Gỗ của nó vừa cứng, vừa quánh, lại vừa thơm, vừa đẹp, nhân dân vẫn gọi là gỗ ngọc am. Thái sư Quý Ly hàng ngày vẫn ngồi làm việc giữa bốn cây gỗ trứ danh ấy, trên một chiếc ghế bành phủ da hổ. Bốn chiếc cột quý được bào nhẵn, mài và lau cho bóng lộn, soi gương được. Dưới ánh sáng của cây đại lạp mầu ngọc am đen lánh pha ánh đỏ. Nhìn vào một cây cột ta thấy hình ảnh của ngọn đại lạp được biến thành nhiều đốm sáng. Sau chiếc ghế bành là chiếc sập gụ. Sau chiếc sập gụ, trên tường là bức tranh “Núi Yên Tử” của Nguyên Trừng. Ở hai bên bức hoạ có đôi câu đối và Sử Văn Hoa nhận ngay ra nét chữ cứng cỏi sảng khoái của chính quan Thái sư. Đôi câu đối của Quý Ly và con trai cả:
Hòn đá bằng nắm tay này, có lúc làm mây, làm mưa, thấm nhuần thiên hạ.
Cây thông nhỏ ba tấc ấy, ngày sau làm rường, làm cột, chống đỡ nước non.
Sử thầm nghĩ: “Chí của cha con họ thật rõ ràng như vậy Một người thì muốn làm mây làm mưa để thấm nhuần cho toàn thiên hạ. Một người ngay từ lúc trẻ đã dự định làm rường cột cho nước non. Ông thở dài, nghĩ tới những dòng viết “Minh Đạo Luận” những dòng chữ ông đã thuộc lòng trước khi viết ra giấy:
Năm Nhân Thân (1392) thái sư Quý Ly viết mười bốn thiên Minh Đạo dâng lên Thái thượng hoàng. Nghệ Hoàng ban chiếu khen ngợi nhưng triều thần nhiều người phản đối. ý của thái sư là muôn duy tân đất nước, không chịu theo vết người xưa. Dù bậc tiên thánh, thấy không phải cũng đem ra bàn luận.
Thái sư là người thông hiểu đạo Dịch. Đạo của càn khôn là biến dịch. Có biến mới có thể hoá, có hoá mới có thể thông. Đất nước có thịnh cũng phải có suy. Suy rồi biết biến dịch, sẽ dần dần thịnh lại. Thiền sư Vạn Hạnh nói: “Nhậm vận thịnh suy vô bố uý”. Kẻ đại trí hiểu lẽ thịnh suy ở đời, nên chẳng có gì sợ hãi.
Xem như Đại Việt ta đã trải qua bao cuộc thịnh suy. Suy đến như nghìn năm nội thuộc Phương Bắc tưởng chẳng có mức nào suy hơn. Nhưng hồn nước vẫn còn. Các bậc tiền nhân như Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành đã đem bao xương máu tâm huyết, vẫy vùng, chống lại phương Bắc, mới dưng lại được hồn của núi sông.
Nhà Lý với chiến công hiển hách phá Tông bình Chiêm, nhưng cuối cùng cũng lại suy tàn.
Còn như nhà Trần, ba lần đại thắng giặc Nguyên, chiến công tưởng không có gì hiển hách hơn, thế mà nhà Trần nay đang rơi vào vận bĩ. Biến dịch là đúng, thay đổi là phải, vì thế thái sư viết ra mười bốn thiên Minh Đạo.
Nhung Minh Đạo có sáng ngời hay không, có thành công hay không, việc đó phải xem nó có đáp ứng được với hồn nước hay không? Hồn của núi sông tức là hồn Đại Việt. Hồn của núi sông tức là quyền tự chủ của nước non. Tức là sự an vui no ấm của người dân. Túc là rạng rỡ văn hiến. Tức là đem ánh sáng đến tận từng nhà, đem tự chủ đến tận từng người.
Tất cả những điều đó bàng bạc ẩn ngầm ở khắp mọi nơi, nên mới gọi là hồn sông núi.
Nay Thái sư biến dịch là đúng, duy tân là sáng suốt Nhưng tôi trộm nghĩ: thái sư bài bác đạo Phật, bắt sư tăng hoàn tục, bỏ hoang những ngôi chùa làng để đến nỗi gây nên sự phiến động của thầy chùa Phạm Sư Ôn nổi lên đột phá kinh đô, sự việc ấy khiến lòng người hoang mang.
Minh Đạo phải có âm dương điều hoà. Đạo Khổng là phần dương của hồn nước, đạo Phật chính là phần âm. Dân có được thuần phong mỹ tục, có được văn hiến sáng ngời, phần nào nhở vào đạo Phật.
Hồn nước ở ngôi chùa làng. Ngôi chùa làng giáo hoá, làm vơi nỗi khổ của người dân hèn. Nay nếu ta bỏ hoang ngôi chùa làng thì hồn nước biết trú ngụ nơi đâu và thái sư lấy ai làm người ủng hộ cho Minh Đạo
Thiển nghĩ, bọn Nho sĩ Lê Quát, Trương Hán Siêu bài bác đạo Phật, chỉ vì cạn nghĩ. Đã đành đạo Phật đến lúc suy cũng có nhiều điều dở. Nhưng chỉ nhìn vào cái dở nhỏ mà quên mất những cái hay lớn nằm ẩn ngầm ở ngôi chùa làng là điều chẳng nên. Thêm nữa, nếu Minh Đạo chỉ lấy đạo Nho làm nền tảng, e rằng sẽ bị thiên về phần dương của càn khôn. Dương cương là cứng, là nhanh, là thái quá.
Lòng cứng sẽ không không biết đến sự mềm mại khoan dung. Lòng cứng sẽ là bạn đường của những điều tàn nhẫn. Người ta sẽ chỉ biết tới máu và nước mắt. Dương cương và nhanh vội sẽ dẫn tới những điều suy vi.
Suy vi ít thì xao động, người trong nước chém giết lẫn nhau, đớn đau một thời gian rồi ổn định.
Suy vi nhiều thì đất nước điêu linh, miếng mồi ngon cho lũ ngoại bang lăm le nhòm ngó, chỉ chờ dịp là đem quân dày xéo non sông...
Ông đã phê phán Minh Đạo của thái sư như vậy đó, chả trách lúc này lòng ông chao động. Ông đã cặn kẽ bố trí chu toàn cho vợ con khi ông quyết định đưa bài viết, tức là ông đã cương quyết, chẳng lo đến bản thân mình, quyết kình trụ chống trời.
- Ông Sử Văn Hoa!
Tiếng nói trầm trầm của quan thái sư bỗng làm người tử tù sực tỉnh khỏi dòng suy nghĩ.
- Ông đang nghĩ gì vậy?
Khuôn mặt Quý Ly, với bộ râu dài đốm bạc, với mái tóc hầu như bạc trắng, với cái miệng ngang bằng không nhếch lên, cũng không trễ xuống, khuôn mặt của một con người luôn luôn trầm tĩnh. Chỉ có đôi mắt ông ta biểu hiện thôi. Đôi mắt to với đôi lông mày rậm cũng bạc trắng. Đôi mắt thông minh, đen láy, hình như cười cợt, hình như muốn bảo Sử rằng: Ta biết thừa điều ông đang suy nghĩ. Đôi mắt làm Sử lúng túng.
Điều ngạc nhiên, Sử mới nhận ra: người vệ sĩ đã rút khỏi lúc nào không hay. Lúc này, chỉ có mình ông đối diện với Quý Ly. Và ông cũng nhận ra ngay ở đay chỉ có một chiếc ghế bành, một cái bàn, một chồng sách, một cái đôn, và một cây nến. Cây nến cắm trên nhành hoa ở mỏ một con hạc tạc bàng đá quý. Hoá ra ở đây tất cả đều là số một. Ở đây thái sư chỉ có thể đối diện với một người. Không có mặt người thứ ba. Ông chợt vỡ lẽ; đây là gian mật thất. Ở đây thái sư sẽ hỏi, sẽ nghe, sẽ ra lệnh... thái sư không muốn người thứ ba được nghe, được biết những việc của ông.
Đôi mắt sắc sảo của Quý Ly, lúc này đã thôi diễu cợt Thái sư lại đưa ra một câu thứ ba.
- Ông có biết hôm nay ta cho mời ông đến làm gì không?
Sử Văn Hoa lại thêm lúng túng. Ông chưa biết nên trả lời thế nào. Thái sư đột nhiên tự trả lời:
- Chắc ông nghĩ rằng ta gọi ông đến để xét hỏi thẩm vấn? Cũng có thể ông nghĩ rằng ta muốn ra một quyết định trị tội ông vì... tờ sớ ngăn việc dời đô, hay vì đoạn văn luận bàn về Minh Đạo... có phải không?
Sử Văn Hoa đoán đối phương đang định giở trò gì; mãi vẫn chưa đoán ra. Chẳng lẽ đây chỉ là một trò mèo vờn chuột, một ngón đòn cân não, làm cho đối thủ hoang mang, rối loạn, lo sợ, hoảng hốt, mệt mỏi, rồi cuối cùng nhũn ra, hai tay buông xuôi.
Quý Ly nhìn nét mặt căng thẳng của Sử, bỗng cười to:
- Ông đoán sao được! Bởi vì, thực ra, hôm nay ta cũng chỉ muốn như mọi người bình thường mà thôi. Ông nổi tiếng về đoán mộng. Và ta muốn nhờ ông giải cho ta một giấc mộng.
Giải mộng ư? - Văn Hoa không nén nổi sự ngạc nhiên hiện ra trên nét mặt, rồi lẩm bẩm - Quan thái sư lại đi tìm lời giải mộng ở một tên tử tù sao? Đến lúc này, Quý Ly mới giơ tay ra phía chiếc cẩm đôn độc nhất bầy bên cạnh chiếc cột ngọc am bóng lộn:
- Bây giờ đã hiểu ý định của ta, mời ông an toạ để ta đàm đạo.
Và cũng đúng lúc khi cánh tay quan thái sư giơ ra, chiếc áo thụng tay giang rộng như lá cờ, Sử Văn Hoa mới nhận ra mầu vàng của nó. Không phải mầu vàng nguyên rực rỡ như các vua thường mặc, mà là mầu vàng sậm, ở sắc vàng có pha một chút nâu đỏ, cho mầu dịu đi. nhã nhặn hơn mà người ta vẫn gọi là mầu bồ hoàng. Xưa kia, Quý Ly vẫn mặc đồ tía, đúng với hàng nhất phẩm của thái sư. Nhưng, thực ra sự thay đổi mầu sắc ấy cũng chẳng làm Sử Văn Hoa ngạc nhiên. Ông đã biết sẽ như thế từ lâu rồi. Chỉ có khác, giá như trước kia nhìn thấy màu sắc đó, hẳn ông sẽ bừng bừng nổi giận, còn bây giờ, ông chỉ thấy thờ ơ... Đây là lần đầu tiên Sử thấy thái sư mặc màu vàng... chắc hẳn ông ta muốn trưng bày thẳng thắn ý của ông ra, có thể để thàm dò Sử. Thái sư mặt kín như bưng, bỗng vào đề bằng một câu hỏi:
- Ông có cho rằng mộng mị có ý nghĩa hay không? Có phải điềm triệu không? Hay chỉ là sự hão huyền?
- Dạ. Mộng là một phần của đời người. Đêm nào ta chẳng mộng, ta thường sống với mộng, nên nó là phần thâm sâu của đời ta. Chỉ có điều, mộng bao giờ cũng khó hiểu, nó giúp ta che kín một sự thật nào đó mà ta chẳng muốn nói ra. Do nó mập mờ, nên có nhiều cách giải. Nhưng, chắc chắn trong những cách giải, thế nào cũng có cách đoán đúng.
- Ông nói sự thật là thế nào? Ta rất quý sự thật.
- Ai cũng thích nghe nói nịnh. Sự thật trong mộng là điều người ta muốn che dấu. Vì vậy đoán mộng thực sự luôn khó nghe.
- Ta hiểu. Ông định nói với ta những lời khó nghe... Chắc vì thế ông sợ.
- Tôi không sợ.
- Vì sao?
- Xin Thái sư miễn cho câu trả lời.
Quý Ly cười:
- Ta hiểu. Bởi vì người quân tử không sợ sự thật. Còn kẻ tiểu nhân thì ngược lại và ông không trả lời vì không muốn nịnh ta, cũng không muốn làm ta nổi giận. Nhưng thôi... Bàn suông mãi thế để làm gì. Ta bắt đầu kể giấc mộng của ta cho ông nghe:
... Đêm qua, ta mất ngủ. Già rồi, nhiều đêm vẫn mất ngủ như vậy. Ta miên man nghĩ biết bao nhiêu chuyện. Rồi đứng trên cầu đá ngắm sao. ngắm đàn cá đớp trăng... Chán rồi, vào đọc sách. Mệt quá, ta thiếp đi trên chiếc bàn này, và mơ màng lạc vào giấc mộng. Ta mơ thấy mình đi ngang qua dưới lầu Đại Minh. Đứng từ xa, đã thấy một bóng người trên lầu. Quái lạ! Ta thầm nghĩ: kẻ nào mặc áo không màu sắc lại dám đứng trên đó? Chẳng phải tía, chẳng phải bồng, cũng chẳng xanh. Đại Minh cái là nơi dành riêng cho các bậc đại thần.
Tên thất phu thật láo xược. Ta lại gần và quát to: “Tên gian tặc là ai lại dám leo lên đó? Ngươi muốn mất đầu hay sao?” Tên thất phu vẫn điềm nhiên đi lại trên hành lang toà lầu, như không nghe thấy lời ta hỏi. Ta tức quá, đến gần toà lầu. Hắn đứng trên cao, ta đứng dưới đất, vậy nên để biết rõ mặt hắn, ta phải ngửa cổ lên nhìn. Nhưng ác hại, tên thất phu lại chắp tay sau đít, quay lưng về phía ta. Ta quát to thêm và nhủ thầm nhất định phải biết rõ mặt hắn. Vừa ngửa mặt, ta vừa hét: “Ta sẽ chặt đầu ngươi?” Chắc ta đã gào lên vì tức giận. Lúc đó hắn mới đủng đỉnh quay lại. Chao ôi! Bộ mặt hắn ta sao quái lạ! Cái bộ mặt quét vôi trắng xoá, với đôi môi đỏ chót, trông thật khiếp hãi. Bộ mặt bôi vôi ấy nhe răng ra để doạ. Trông hắn như loài yêu ma. Ta sợ hãi thét lên, tỉnh dậy; mồ hôi vã ra khắp người. Hỡi nhà đoán mộng tài ba? Kẻ bôi vôi mặt ấy là ai? Hắn định làm gì? Hắn âm mưu gì?...
Sử Văn Hoa lặng lẽ ngồi trên chiếc cẩm đôn độc nhất, cúi đầu suy nghĩ... Chuyện giải mộng này là thế nào đây? Một cái bẫy, hay lòng thành thật? Nỗi lo lắng của một con người đầy tham vọng cảm thấy mình cô độc hay đơn thuần chỉ một cuộc thăm dò? Một cách đảo lộn vai trò? Đang là người đoán mộng ta sẽ là kẻ nói ra giấc mộng của chính ta? Một giấc mộng bịa đặt ư? Tất cả chỉ là xếp sắp thôi ư? Cũng chẳng sao - ông chợt mỉm cười - Một giấc mộng giả cũng có thể ẩn chứa trong nó nhiều sự thật. Trong những lần giải mộng trước, ông đã gặp nhiều giấc mơ giả. Giấc mơ của Duệ Tôn vật lộn với Chế Bồng Nga là giấc mơ rút ra từ sách vở, giấc mơ nổi tiếng Sở Vương vật lộn với Tấn Vương, Nhưng cái sự thật Duệ Tôn muốn dấu đi vẫn bị Duệ Tôn buột miệng nói ra với chi tiết “bầu trời lúc đó đen kịt, sầm sịt”. Nhìn lên trời lại hoá ra nhìn xuống đất. Muốn được lại hoá thành thua. Sử Văn Hoa tự cười thầm với những ý nghĩ ngờ vực của mình - Và ông nhắm mắt lại, bấm đốt ngón tay, tập trung vào suy nghĩ những chi tiết và những diễn biến của giấc mộng Quý Ly, mà sau này người ta gọi là “giấc mộng kẻ bôi vôi mặt”.
Thực ra, giấc mộng là một câu đố hắc búa đối với Sử. Giải mộng thế nào đây? Quý Ly là người đa sát. Chẳng lẽ nói ra để rồi hứng chịu một hậu quả thảm khốc? Chịu chết để lấy một tiếng khen hậu thế ư? Ta đâu có cần. Điều ta cần là một cái gì ích lợi, hữu hiệu, làm thế nào bây giờ? May mắn thay, đúng lúc đó Quý Ly ra khỏi căn phòng. Ông ta để cho Sử Văn Hoa suy ngẫm. Sử vẫn nhắm mắt, thở nhè nhẹ, ý thủ đan điền... Dần dần ông quên đi những điều hệ luỵ, những sự vật chung quanh. Một giọng nói vô thanh khẽ nhủ thầm với ông: “Giấc mơ thật đấy. Hãy nói cho ông ta biết sự thật đi. Lúc này, ông ta cần biết nhiều sự thật nhất. Có thể một sự thật thô thiển sẽ làm cho ông ta bực bội, tức giận. Song cũng có thể những sự thật mờ ảo lại giúp ích hơn...”.
Quý Ly bước vào. Ông ta không ngồi trên chiếc ghế da hổ nữa, mà đứng cạnh án thư. Ông chắp tay sau lưng và nói:
- Nào, tôi xin nghe lời giải mộng của ông đây. Sử Văn Hoa, nhìn thẳng vào đôi mắt sáng quắc của Quý Ly, lúc này chúng có vẻ háo hức và xởi lởi, Sử chậm rãi nói, giọng trầm trầm:
- Trong giấc mộng của thái sư, có hai điều then chốt cần chú ý. Thứ nhất “khuôn mặt bôi vôi” đứng ở tầng lầu của Điện Đại Minh, nghĩa là khuôn mặt ấy ở trên cao, thứ hai “thái sư ngửa mặt lên” nghĩa là ngài đứng dưới đất. Giấc mộng có nhiều chi tiết nhưng chỉ là những đồ gia vị thêm thắt. Giải được hai điểm chính ấy ta sẽ biết được cái sự thật mà lương tâm ngài muốn che giấu với mọi người, và muốn che giấu với cả chính bản thân ngài nữa.
- Ta lại muốn che dấu cả với ta? Hay thật? Ông Sử ơi! Ông đã làm ta phải chú ý rồi đó.
Sử Văn Hoa vẫn nhìn thẳng vào đôi mắt Quý Ly:
- Tôi nói thái sư tự dấu mình, bởi vì giấc mộng cũng là ngài, ngài che dấu nên giấc mộng muốn chiều người cũng che dấu hộ cho. Ta hãy đoán giải điểm thứ nhất, “Khuôn mặt bôi vôi” ấy là ai? Hắn không mặc áo tía, áo đỏ áo xanh, vậy kẻ ấy chỉ là dân thường. Bộ mặt bôi vôi tức là kẻ mặt trắng. Kẻ mặt trắng, như người ta vẫn thường gọi “bạch diện thư sinh”, tức là kẻ sĩ. Còn điểm thứ hai: tại sao ngài lại ngửa mặt lên? Bởi vì thường ngày ngài vẫn từ trên cao hạ cố nhìn xuống kẻ sĩ; họ tầm thường quá, họ ngốc nghếch quá; thực sự thái sư đã coi thường họ, căm tức họ, thậm chí đối nghịch với họ. Giấc mộng muốn chỉnh đốn giúp ngài, nó bảo ngài hãy ngửa mặt lên nhìn kẻ sĩ, họ ở trên cao... Bẩm thái sư, lời nói của tôi thật thô thiển, khó nghe, ngài trọng sự thật nên tôi đành liều nói hết... Bẩm thái sư, tuy nhiên đó là giấc mộng vàng; khuyến hiền là điều vô cùng hệ trọng...
Thái sư đã ngồi trên chiếc ghế bành da hổ tự lúc nào không hay. Nét mặt đăm chiêu nhíu lại. Sử Văn Hoa dừng lại chốc lát để suy nghĩ, đắn đó, tìm lời rồi mới tiếp:
- Trong giấc mộng còn một điểm nhỏ đáng chú ý: “Kẻ mặt trắng chắp tay sau lưng”. Thái sư nhớ đến cái lưng của hắn tức là hắn quay lưng lại. Tại sao kẻ sĩ lại hiện về trong mộng, và lại quay lưng? Kẻ tiểu nhân xin đánh bạo trả lời. Vì ngài luôn luôn nghĩ đến chuyện kẻ sĩ, nghĩ nhiều đến họ tất nhiên họ phải về trong mơ; còn họ quay đi chắc chắn vì họ còn nhiều điều chưa tán đồng...
- Theo ý ông, ở Thăng Long có bao nhiêu kẻ sĩ không ủng hộ ta?
- Hầu hết kẻ sĩ ở Thăng Long đều bất mãn với thái sư.
- Vậy, ta nên thế nào?
- Xin liều chết trả lời: Mong thái sư hãy ngừng việc dời đô.
- Cái gì? Ngừng dời đô ư? Không được! Lại câu nói giả nhân giả nghĩa. “Cốt ở đức, không cốt ở nơi hiểm trở? “ Ta kiên trì cắm lại ở đây ư? ở cái chốn đầy rẫy những kẻ ngu trung, những kẻ ngoài miệng thơn thớt nói đến vương đạo, nhưng bên trong lại đầy tham nhũng, và âm mưu quỷ kế, để kéo dài sự thối nát đến ngàn đời nữa ư? Cả đến ông, kẻ mà người đời cho là người chép sử quân tử, kẻ âu lo cho hồn nước suy vong, mà cũng về hùa với họ ư?...
Quan thái sư đột ngột nổi giận. Ông ta thay đổi vô cùng nhanh chóng. Đang từ một con người trầm tĩnh đến mức lạnh ngắt, ông trở nên đùng đùng sát khí. Mắt long lanh, đôi mày xếch lên, Quý Ly quát to:
- Hãy trói hắn lại? Mang hắn đi! Hãy cho hắn nếm hết mùi tân khổ của sự ngu tối, trước khi chết!
Người lực sĩ xuất hiện, nhanh nhẹn xềnh xệch lôi Sử Văn Hoa ra khỏi gian đại điện.
Quý Ly ngửa người trên chiếc ghế da hổ, vẻ mặt buồn tênh. Ông nhắm mắt lại, để đầu óc dần dần trở về yên tĩnh. Ông cảm thấy bải hoải. Ông kêu lên trong lòng:
“Chao ôi! Sao ta mệt mỏi! Ta thèm giấc ngủ... giá như...”. Một tiếng nói âu yếm bỗng vang lên trong tâm tưởng: “Tướng công hãy thư giãn, hãy nới lỏng bàn tay, nới lỏng lòng mình... Hãy nghĩ đến một cánh hoa, một tiếng đàn, một dòng suối rót rách, hãy rũ sạch lòng mình... và giấc ngủ dịu dàng sẽ đến. Nào Ngủ đi! Ngủ đi...”
Giấc ngủ bồng bềnh ấy cũng chẳng kéo dài. Nhưng khi thái sư mở mắt ra đã thấy nhẹ nhõm hơn nhiều. và trước mặt ông, Nguyên Trừng đã ngồi sẵn chờ đợi Thị nữ dâng trà sâm. Ông lặng lẽ nhấp từng ngụm. Trong khi uống, ông đã cân nhắc từng lời nói và những quyết định:
- Thế nào? Lúc nãy, con đã nghe câu chuyện giữa Văn Hoa và ta rồi chứ?
- Vâng. Con đã nghe hết.
- Thế nào?
- Ông ta thành thật. Và người thành thật thì không có âm mưu.
- Đúng Sử không âm mưu. Nhưng hắn ta bướng bỉnh... đến mức xấc xược. Ta không chấp điều đó... Nhưng hắn là người ta không dùng được... Quan thái sư ngừng lại để tìm ý - Hắn khác bọn hủ nho, bọn phản đối ta nhưng ngu tối, chỉ biết dựa vào lời thánh hiền. Sử biết phải biến dịch thay đổi, nếu không non sông sẽ suy vong. Những điều hắn ta đề ra đều sắc sảo. Sử nghĩ tới hồn nước... Chính vì thế nên ta quyết định như thế này: Hãy giam hắn vào hầm xử chém, đeo gông cổ thật nặng, cùm chân tay, mồm đóng hàm thiếc, bỏ đói, bỏ rét... Sau đó, một sáng sớm, mang ra pháp trường. Hãy cho hắn sợ đến vãi cứt, vãi đái ra... Đến lúc đó, con hãy mang lệnh của ta đến, ân xá cho hắn, đuổi về thôn quê.
Hồ Nguyên Trừng nín thở mà nghe. Đến câu cuối cùng ông mới thở phào nhẹ nhõm.
Hồ Quý Ly
Chương 3 Buổi chiều, thái sư xem tấu biểu
Buổi chiều, thái sư xem tấu biểu. Từ lúc Trần Thuận Tôn bỏ hẳn triều chính đi tu tiên, thái sư phải hoàn toàn một mình gánh vác mọi việc.
Ngoài những cuộc thiết triều, việc xem bản tấu chiếm mất của ông khá nhiều thời gian. Ông lật giở từng tờ tấu và thư từ, tìm những việc quan trọng, và cấp thiết nhất, cần phải quyết định ngay. Đầu tiên là những công việc liên quan tới nhà Minh. Từ khi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương lên ngôi, nước Việt và nhà Minh đã quan hệ với nhau nhiều lần. Lúc đầu, khi mới dành được đất nước từ tay nhà Nguyên, đuổi quân Nguyên ra khỏi bờ cõi, Chu Nguyên Chương đối với ta rất mềm dẻo, vì ông còn bận củng cố quyền lực trong nước. Quý Ly biết Chu Nguyên Chương là người võ biền, nên ông có ý xem thường, nhất là khi vua Minh giết các công thần, rồi chia các vùng đất xa cho các con làm vua thì ông không còn lo. Bởi vì nước Trung Hoa rộng bao la vấn đề tập trung hay phân tán quyền là một vấn đề cực kỳ nan giải. Nhà Tần tập trung quyền nên bắt buộc phải cưỡng chế bạo tàn, nhà Tần bị cô lập, sụp đổ nhanh chóng. Nhà Hán lại đi vào thế phân tán, chia ra các nước nhỏ, dùng người thân tín cai trị để làm phên dậu cho trung ương; cuối cùng lại đẻ ra thế bảy nước, Trung Hoa lại suy yếu. Đường và Tống Nguyên lại đi vào thế tập trung, nhưng gặp khó khăn trong việc cai quản đất nước bao la. Nhà Minh lên ngôi lại bắt chước nhà Hán, chia đất cho các con cai quản. Chính vì thế, họ không đủ sức mạnh để nhòm ngó nước ta.
Khi Chế Bồng Nga xâm chiếm Đại Việt. Thế nước ngàn cân treo sợi tóc, nhưng nhà Minh vẫn chưa kịp thay đổi đối sách với ta cũng vì lẽ đó.
Nhưng gần đây, ông vua già Chu Nguyên Chương thấy đất nước họ đã vững chãi, họ bắt đầu thăm dò phương nam. Nhà Minh luôn luôn sai sứ thần sang ta đòi cống nạp người và của. Họ cho bọn hoạn quan người Việt về thăm nhà, tiếng là thế, nhưng thực ra để thăm thú tình hình nước ta. Bọn quan lại. sứ thần nhà Minh cũng là một tai hoạ. Chúng gây sự nhũng nhiễu đủ điều: đòi ăn đút lót, rồi chê bai bắt bẻ rằng ta tiếp đón không đúng nghi lễ.
Triều đình nhà Minh gửi cho ta bộ sách “Đại Minh Tập Lễ”, hoạnh họe, bắt ta phải thi hành nhiều nghi thức rườm rà mỗi khi sứ thần nhà Minh mang chiếu sắc vào Đại Việt. Minh sứ thần nói:
- Nghĩ rằng nước An Nam vốn là nước văn vật, thành tâm sợ mệnh trời thờ nước lớn, không việc gì thiếu chu đáo, riêng về lễ tiếp sứ thần vẫn còn có chỗ chưa ổn. Nay, tôi vâng mệnh thiên tử, xông pha muôn dặm đến ban cho sách về lễ. Về sau cứ thế mà làm. Đại để, sách đó quy định chặt chẽ sáu điều nghi thức:
1 - Khi sứ thần vào đến biên giới, phải tổ chức tiếp đón suốt dọc đường.
2 - Khi chiếu sắc đến gần Thăng Long, thì ở kinh đô trăm quan phải tập dượt đón tiếp trước. Sau đó vua phải đích thân sang bờ bắc sông Cái ngủ nơi trai sở. Các vị đại thần các nhà sư đạo cao đức trọng cũng đi theo đón tiếp.
3 - Chiếu sắc vào đến Thăng Long. Khắp kinh đô phải treo đèn kết hoa. Sắp sẵn long đình và hương án ở Ngọ Môn. Vua quan ăn mặc triều phục, kỳ lão tăng đạo chỉnh tề, rồi đến đồ nghi trượng, âm nhạc, chiêng trống rước chiếu đến điện Đại Minh.
4 - Quy định cách tuyên đọc: sứ quay mặt hướng Nam, vua ta quay mặt hướng Bắc... Yến tiệc đãi sứ giả cũng quy định hướng ngồi. Ngay cả nghi thức mời rượu cũng phải cho đúng.
5 - Đến ngày sứ sắp trở về, vua quan lại phải thết tiệc rồi làm thơ thù tạc với sứ giả.
6 - Cuối cùng là nghi thức tiễn sứ giả về nước.
Mỗi lần sứ nhà Minh sang, triều đình lại như gặp vạ. Họ trách cứ đủ thứ, họ moi móc đủ điều. Ông thở dài: “Phải chăng thời của bọn sứ thần ngạo nghễ kiểu Sài Thung lại tái xuất hiện? Làm thế nào để tiếng trống đồng Thăng Long lại một lần nữa làm bạc tóc kẻ đi sứ của phương Bắc?” .
Những lời chúc tụng sáo rỗng ấy làm Minh Huệ Đế đẹp lòng. Ông ta ban cho vua nước Nam Kim sách. Trong đoàn đi sứ sang kinh đô nhà Minh để dâng biểu mừng lên ngôi, thái sư Quý Ly bí mật đưa cả người sang thăm dò tình hình mới ở triều đình phương Bắc.
Lúc này đây, trước mặt Quý Ly là tờ tấu của quan trấn thủ Lạng Sơn báo cáo tình hình mới biết được từ kinh đô Trung Hoa. Minh Huệ Đế lên ngôi, vẫn thường lo về mối loạn phiên vương như loạn bảy nước đời nhà Hán, nên bàn với các địa thần thân tín, tìm cách tiêu diệt những phiên vương vốn là anh em của mình, một số người đã bị giết. Một trong số các người con của Chu Nguyên Chương tên là Lệ. Ông làm vua nước Yên tại Yên Kinh (Bắc Kinh sau này) lấy làm phẫn uất. Ông ta đang rắp tâm chống lại Huệ Đế. (Ông ta sau này sẽ là Minh Thành Tổ, một ông vua tài giỏi của nhà Minh, và chính ông đã xâm lấn Đại Việt).
Quý Ly mừng thầm: Trung Hoa lại sắp loạn rồi. lúc này, thời cơ của ta đây... phải nhanh chóng... Chẳng thể chần chừ được nữa...
Thái sư lại đọc tiếp đến lá thư của viên quan nhà Minh ở Liêm Châu, đòi ta phải nộp 10 nhà sư, 10 người trai trẻ tuấn tú, có học hành và phải thiến trước khi đưa sang. Thái sư cười mỉm phê sang bên cạnh:”Chuyển cho nội thị học sinh Nguyễn Cẩn. Thi hành nhanh chóng, theo như kế hoạch”. Hoạn quan là một thể chế tai hoạ của Trung Hoa. Nạn hoạn quan lũng loạn ở triều đại nào của phương Bắc cũng có. Minh Thái Tổ biết rõ. Để trừ hoạ, Chu Nguyên Chương hạn chế lượng hoạn quan và cấm họ không được dính dáng vào chính sự. Hoạn quan không có con cái nhưng vẫn còn có gia đình, anh em, họ hàng, nên danh và lợi vẫn còn. Họ vẫn muốn quyền hành và của cải dành cho vây cánh, gia đình. Vậy để cắt đứt nhiều nhất nguồn gốc tai hoạ, Minh Thái Tổ tăng cường dùng những hoạn quan người nước ngoài. Một hoạn quan Việt ở Trung Hoa chắc hẳn chẳng có giây mơ rễ má nào ở đó. Họ biết quan hệ với ai, họ vơ vét nhiều để làm gì... Và nếu họ chết đi, thì của cải của họ lại trở về tay nước Trung Hoa... Chính vì vậy, hàng năm ta vẫn phải cống một số người thiến cho nhà Minh. Vậy tại sao lại không dùng cách gậy ông đập lưng ông, cài người của ta vào ở ngay trong cung cấm của Trung Hoa.
Thái sư Quý Ly tự cười mỉm với mình lần nữa. Ông đọc tiếp tờ tấu của An Phủ sứ Hải Đông. Các trang trại của cháu chắt cụ Hưng Đạo Vương ở vùng đó vì chế độ hạn điều và hạn nô, nên không chiêu mộ quân lính nữa. Các đội quân riêng của các vương hầu nhà Trần bị giải tán. Những điền trang nô và tam bảo nô được giải phóng đã thành những đoàn người lang thang đi làm thuê ở khắp vùng. Và lắm kẻ tụ tập thành bè đảng đi ăn cướp, lắm kẻ được cấp đất cũng không chịu làm ruộng, bởi vì họ không quen làm chủ đất đai của mình, và cũng không có những kinh nghiệm làm ăn. Họ đã quen bị sai khiến, nay được thành người tự do cũng không biết xử dụng cái lợi thế ấy của mình. Rất nhiều người lâm vào cảnh còn khổ sở đói khát hơn lúc làm nô tì ở điền trang. Những tờ tấu ở trấn Tam Giang, Châu Hồng, Châu Khoái... cũng nói lên tình hình tương tự. Điều làm Quý Ly bực nhất, đó là những ẩn ý đằng sau những tờ tấu. Ví dụ có những câu như: “kẻ nông nô lầm than điêu linh” “lắm kẻ lại quay về điền trang cũ xin làm nô trở lại, nhưng không được nhận”... Nghĩa là bản thân các viên quan làm tấu sớ, trong thâm tâm cũng vẫn muốn phục hồi như cũ.
Thái sư thở dài. Ông hiểu rằng chế độ mới được thi hành, chắc chắn còn nhiều trục trặc. Đúng là ban đầu người dân có thể khổ hơn trước. Tuy nhiên, thái sư đang nghĩ ra những giải pháp. Ví dụ: Nguyễn Phi Khanh đã gợi ý cho ông nên thành lập đồn điền ở các vùng đất rộng, người thưa, đưa dân vào Hoá Châu, vùng Châu Ô, Châu Lý, nơi ấy cần thành lập những làng Việt mới. Việc đó có lợi vì người dân được no đủ và làm phên dậu của ta cũng được thêm vững chắc. Quý Ly cũng nghĩ tới việc đặt thêm các sở tuần thú ở các cửa sông, các nơi trọng yếu, để lùng bắt cướp, cho người dân được yên ổn.
Chợt nhớ tới chuyện thời Minh Tông, có người dâng sớ nói trong dân gian có nhiều kẻ lang thang du đãng, không có tên trong sổ, không chịu thuế dịch. Vua Minh Tông bảo: “Nếu không có kẻ lang thang sao thành được đời thái bình...”. Thái sư cười mỉm và tự nói với mình: “Còn ta, ta không muốn trong dân gian có kẻ lang thang. Sắp tới, ta sẽ cho làm sổ hộ khắp nước. Không một người dân nào được sót. Các xã trưởng sẽ phải trách nhiệm chú ý đến từng người dân, cấp đất cho họ làm ruộng, và nhất là phải ghi tên họ trong sổ hộ. Quản lý được từng người dân mới đích thực thời thái bình”.
Hồ Quý Ly
Chương 4 Thái sư Quý Ly còn đọc tấu biểu cho đến tận khuya
Thái sư Quý Ly còn đọc tấu biểu cho đến tận khuya. Thị nữ dâng canh sâm cầm hạt sen. Ăn xong, ông cho mọi người lui hết.
Giờ này chỉ còn mình ông trong cung điện mênh mông. Ông ra cầu đá thả bỏng xuống hồ nước, để nhìn lũ cá lao xao tranh ăn dưới ánh trăng. Rồi lững thững ra trước toà tiền điện ngắm đôi rồng đá, vuốt ve chúng, và thầm thì trong óc, tự bàn luận với bản thân về những ý tưởng tương lai. Tiếp đó, lại quay về toà chính điện toà lâu đài chạm trổ xinh đẹp, niềm tự hào của ông. Ông chợt nhớ tới lời của Nguyên Trừng.
- Ở Tây Đô, cung điện của cha căn bản cũng đã xong. Đó là bản sao của cung Hoạ Lư ở Đông Đô. Duy chỉ có một điểm khác: ở đây, gỗ là chủ yếu; còn ở Tây Đô, đá là chủ yếu. Toà chính điện có kích thước và kiểu dáng hệt như bản chính. Chỉ thay bốn cây cột ngọc am bằng bốn cây cột đá cẩm thạch. Đẹp vô song là chiếc long sàng. Chiếc sập chân quỳ tạc bằng đá toàn khối. Bọn thợ đá đục những phiến đá khổng lồ để xây thành, phát hiện ra một phiến đá quý rất to. Phải dùng một chiếc thuyền lớn mới chuyển được đá về An Tôn. Chính phường thợ tạc rồng đã làm chiếc sập. Khi hoàn thành, đánh bóng mặt sập, mới phát hiện ra đó là chiếc long sàng có một không hai. Những vân xanh đen bỗng xuất hiện trên mặt đá tạo thành năm mảng được bố trí cân xứng. Ở giữa phảng phất hình một con rồng đang bay, chung quanh là những đám mây vờn...
Quý Ly thầm nghĩ: một điềm tốt lành.
Cũng như mọi đêm, ông làm nốt việc cuối cùng: đến nhà hậu đường - nơi có bàn thờ của bà công chúa Huy Ninh mới mất, trước đây vài tháng. Quan thái sư có tình nghĩa sâu nặng với bà, ông rước vong linh của bà về nhà hậu đường; ông muốn bà luôn kề cận bên ông. Và hằng đêm, trước lúc ngủ, ông vẫn đến bàn thờ bà để thắp hương, để tâm sự... Ông làm việc đó đều đặn như một tín đồ. Nói thế cũng không ngoa, vì ông coi việc thắp hương cho Huy Ninh công chúa như một phần việc phải làm của đời ông.
Nhà hậu đường, nơi thờ bà Huy Ninh, giống như một ngôi chùa quê. Năm xưa, lúc thượng hoàng Nghệ Tôn ở đây, ngôi nhà này chưa có, khi đó nơi đây chỉ là khu vườn cổ thụ. Lúc vợ chồng Quý Ly đến, bà Huy Ninh bèn cho xây một ngôi nhà năm gian để ở cho yên tĩnh, và đó cũng là nơi bà thờ Phật. Ngôi nhà giữa, cung điện chính rực rỡ vàng son, nguy nga tráng lệ bao nhiêu, thì toà hậu đường quê mùa và khiêm nhường, ẩn dật bấy nhiêu. Trước nhà có hai cây đại to, mà những cành lá nhô cao như những bàn tay xòe ngón vươn lên trời để hứng móc mưa, phật lộ. Những bông hoa đại trắng ngà. thơm ngọt rải rắc trên sân rêu tạo thành một tấm thảm màu nâu cài hoa xanh trắng.
Vào trong nhà, gian giữa thờ Phật A Di Đà. Trên bàn thờ chỉ có pho tượng mầu cánh gián, pho tượng dưới dạng người phụ nữ ngồi kiết già, hai tay đặt trước bụng, vẻ trầm tư, phảng phất một nét buồn nhân thế. Trước mặt tượng Phật đặt một bình hoa, một lư hương. Thái sư không thích đạo Phật, nhưng hàng năm, ông vẫn vào đây thăm vợ, nên dần dần pho tượng trở nên quen, rồi thân thiết với ông. Cứ nghĩ rằng pho tượng ấy như một người mẹ, đã chứng kiến, an ủi, xoa dịu những nôi đau khổ của bà Huy Ninh trong những ngày cuối cuộc đời, nên mặc dù công kích đạo Phật, ông vẫn để nguyên trạng gian thờ sau khi phu nhân mất. Cứ coi đó là một kỷ niệm của vợ ông, mà kỷ niệm bao giờ chả linh thiêng. Ngay cả đến những kỷ vật nhỏ nhoi nhất như cái mõ, cái chuông, chiếc dùi gỗ, ông cũng bảo quản trân trọng.
Bên trái bàn thờ Phật có chiếc giường xưa bà nằm, bên phải chính là nơi thờ cúng bà, ở đó có bức tượng của công chúa Huy Ninh tạc bằng đá trắng. Bà ở tư thế ngồi trên ghế, hai chân thõng xuống, hai bàn tay giơ ra, đẩy ra phía trước, như thể muốn can ngăn, muốn chối bỏ. Những ngón tay thon thả khum khum trắng ngần tạo thành hai đoá hoa ngọc ngà. Thái sư nhẹ nhàng nắm lấy hai bàn tay đá lạnh ngắt ấy. Đầu pho tượng trắng hơi cúi, ông ngồi xuống chân pho tượng để được ngắm khuôn mặt thánh thiện, thân quen của bà, khuôn mặt mà ông thuộc từng đường cong dịu dàng, khuôn mặt mà ông đã được ngắm nhìn từ thủa ấu thơ, khuôn mặt mà sự u buồn thấm vào từng đường, từng nét. Ông chợt thở dài...
Thủa bé, Quý Ly vẫn thích chơi với lửa. Người họ Hồ truyền lại rằng lúc còn tí xíu, lắm bận đang đêm Quý Ly cứ khóc ngằn ngặt, dỗ bằng cách nào cũng không nín, lúc đó nếu thắp lên một ngọn bạch lạp, cậu bé sẽ ngừng khóc ngay, và tròn đôi mắt nhìn vào ngọn nến lung linh. Chẳng hiểu sao, ngọn lửa lung linh đó cứ ám ảnh ông suốt đời.
Ông bố Quý Ly là quan kinh lược sứ Lê Quốc Kỳ thấy vậy nói với vợ:
- Thằng bé này thích lửa, sau này sẽ là người có chí khí.
Quả nhiên, Quý Ly lớn lên rất thông minh dĩnh ngộ. Đặc biệt rất có ý chí, đã làm gì là quyết làm cho bằng được Kinh lược sử cũng dày công đào tạo con trai. Ông tìm những thầy giỏi nhất kinh đô, cả văn lẫn võ, để đào tạo con trở nên văn võ song toàn.
Thủa bé, Quý Ly thích chơi với lửa - Câu nói ấy lúc đầu mang nhiều nghĩa đen. Lúc Quý Ly còn nhỏ, đó là lúc ngọn lửa cây nến. Lớn lên chút nữa, khi biết chạy nhẩy, ngọn lửa ấy ở trong khu vườn gia đình.
Thủa ấy những ngôi nhà dân Thăng Long đều là những ngôi nhà vườn.
Nhà nghèo, vườn nhỏ; càng giầu sang khu vườn càng to rộng thêm. Trong khu vườn nhà họ Hồ có một hòn giả sơn nằm trong một khu vực cây cối um tùm; trên cao bao trùm cả vùng đất là một cây đa lớn, tán xòe ra che kín chừng mẫu ruộng. Quý Ly thường chơi ở đó. Lúc tám tuổi, cậu bé bỗng nảy ra ý nghĩ phải nhen một ngọn lửa, tự mình nhen lấy. Hương tàn sẽ tắt; ngọn lửa của cây bạch lạp, của một ngọn đèn hễ hết đêm rồi cũng tắt; ngay như ngọn lửa của vầng mặt trời rực rỡ đến bao nhiêu, mà lúc hoàng hôn cũng phải chìm dần. Riêng Quý Ly, cậu bé muốn một ngọn cửa không khi nào tắt. Có thể đó chỉ là một trò nghịch ngợm của tuổi ấu thơ; nhưng cũng có thể đó là một bản năng khát khao thầm kín của con người muốn giữ một ngọn lửa đời đời
Quý Ly nuôi ngọn lửa tí xíu ấy trong một hốc đá, cạnh cây đa xum xuê. Cậu bé tiếp sống cho nó bằng những cành khô, lá khô, nhất là thứ lá ngải, mầu xám xanh, thứ lá tùng chết mầu nâu, và những bụi cúc rạc nắng, đó là những loài cây cho ta mùi hương ngan ngát khi thành khói bốc lên.
Quý Ly suốt ngày phải học, và phải thơ thẩn chơi một mình, vì vậy khi nào bà Minh Từ dẫn cô công chúa Huy Ninh về nhà ngoại, ngày đó đối với Quý Ly là một ngày hội. Chắc chắn đối với cô công chúa xinh xinh kia. mềm vui hôm đó cũng không phải nhỏ. Hai đứa bé dắt tay nhau, lang thang trong khu vườn rộng, khu vườn hoang dại ấy đi theo tâm trí của cả hai suốt đời người.
Ngọn lửa tí xíu trong vườn, ở hốc đá vốn là của riêng Quý Ly. Đó là bí mật mà cậu bé thề sẽ chẳng cho ai biết. Cậu không hiểu tại sao, nhưng cậu đã bảo vệ sự bí mật ấy đối với tất cả mọi người, ngay cả những người thân nhất. Cậu cứ mường tượng như ai nhìn thấy nó tức là đã nhìn thấu ruột gan mình, tức là ta đã bị trần truồng trước người khác...
Ấy thế mà khi gập cô bé Huy Ninh, ý định giữ bí mật ngọn lửa thiêng ấy đã bị lung lay. Huy Ninh là một sinh vật trắng ngần, dịu dàng, mềm yếu, vô hại. Điều đặc biệt Quý Ly cảm thấy tin cậy, khi đi cạnh cô, cậu như thấy được an lành; sự an lành ấy toả ra từ dáng điệu, giọng nói, ánh mắt, thậm chí từ mùi hương của mớ tóc đen nhánh. Và cậu bé đã hỏi Huy Ninh.
- Em có thích lửa không?
- Em thích đốt nến. Có đêm, em đốt một cây nến và nhìn nó cháy cho đến hết. Ngọn nến chẩy ròng ròng như người khóc. Giọt nến giống như giọt nước mắt.
Cậu bé ngẫm nghĩ:
- Em cũng giống anh đấy.
- Mẹ em bảo anh cũng thích nến? Có đúng không?
- Lúc mới đẻ anh hay khóc, cứ đốt nến lên là anh nín. Có đúng thế không?
Thế là cậu bé gật đầu và quyết định chia xẻ ngọn lửa bí mật ấy với Huy Ninh. Cậu cho phép Huy Ninh được biết nơi dấu ngọn lửa trong vườn. Cho phép cô gái được đi nhặt những bụi cúc khô và giúp giữ gìn ngọn lửa. Quý Ly lại dạy cô cách tết vấn những nùn rơm bằng các loại cỏ dại cho thật chặt để rấm lửa, kéo dài ngọn lửa từ ngày này sang ngày khác trong hốc đá. Cậu bảo: “Nhóm lửa không khó, nhưng rấm lửa mãi mãi mới là chuyện khó”.
Quý Ly còn khuyến khích Huy Ninh nhóm một ngọn lửa bí mật cho riêng cô. Tiếc thay, công chúa lại không chịu làm việc đó...
Huy Ninh càng lớn càng xinh đẹp. Cô mảnh mai yếu đuối như một bông hoa, đẹp như một chiếc bình ngọc quý mong manh, trong vắt, tưởng như bất cứ một thứ gì thô kệch nặng nề đều có thể xâm hại. Vua Minh Tông yêu thương cưng chiều con gái; có thể nói cả hoàng tộc đều nâng niu cô công chúa.
Càng lớn, hai người càng thân thiết... nhưng họ đều chẳng dám nói điều gì với nhau cả... Bởi vì luật lệ nhà Trần lúc đó rất ngạt nghèo. Thời vua Minh Tông, thế lực nhà Trần còn mạnh mẽ, vững chãi. Nhà vua cấm các cô công chúa không được lấy con trai ngoài họ Trần. Huyền thoại dân gian thêu dệt rằng, trong giấc mơ, Quý Ly được thần gà cho một vế đối:
“Quảng Hàn cung lý nhất chi mai” để ông đối lại vế đối mà vua Minh Tông đưa ra: “Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế”. Thực ra, với một tình cảm quá thân mật từ thủa ấu thơ, với sự cảm thụ cái vóc dáng mong manh trắng ngần của cô em họ, Hồ Quý Ly có thừa đủ trí thông minh, óc tưởng tượng để so sánh cô với chị Hằng Nga trong cung Quảng Hàn, hoặc so sánh cô với một nhành hoa mai. Và với vế đối ấy, người ta cũng hé thấy sự ước ao tuyệt vọng của Quý Ly: cô em gái thủa ấu thơ đẹp như một nhành mai nhưng ở xa vời quá, tận cung trăng trên trời cao, làm sao Quý Ly với tay tới được
Công chúa Huy Ninh, nàng Nhất Chi Mai đã được vua Minh Tông gả cho tôn thất Trần Nhân Vinh. Quý Ly đành ôm hận lấy một cô gái hiền thục khác và sinh ra Hồ Nguyên Trừng.
Sự xoay vần của lịch sử thật trớ trêu, đối với con người, nhiều khi rủi nhưng cũng có khi may. Hồ Quý Ly, nhờ thế lực hai bà cô, được vào làm chức quan nhỏ vô danh, hầu hạ trong cung đình. Làm chức nhỏ nhưng ông vẫn ngày đêm dùi mài kinh sử. Thân phận nhỏ nhoi, vô danh, có tính chất tôi đòi ấy chẳng làm nhụt lòng, mà trái lại, nó khuyến khích chàng trai cố ngoi lên, để thoả mãn những tham vọng ngày càng lớn lên trong tâm trí chàng.
Quý Ly hầu hạ vua Minh Tông sau khi Minh Tông mất lại vào giúp việc cho Cung Định Vương Trần Phủ, tức là vua Nghệ Tông sau này. Trần Phủ đã nhanh chóng nhận ra tài năng sắc sảo của người em họ ngoại. Quý Ly được tin dùng, được thăng chức cao đã là cái may, ông còn tiếp tục được Nghệ Hoàng ban cho cái may thứ hai không kém phần quan trọng. Trong vụ loạn Dương Nhật Lễ, chồng bà Huy Ninh, tôn thất Trần Nhân Vinh bị ông vua phường chèo giết chết. Nghệ Hoàng rất quý cô em gái đẹp người mà bạc mệnh, nên quyết định gả Huy Ninh công chúa cho Quý Ly vừa mới goá vợ.
Đêm đầu tiên, hai người gặp nhau, Quý Ly hỏi:
- Nàng còn nhớ tới ngọn lửa trong hốc đá thủa xưa không?
- Thiếp vẫn nhớ.
Những năm qua nàng để nó ở đâu?
Bà công chúa không trả lời thẳng vào câu hỏi:
- Hôm đi lấy chồng, thiếp khóc suốt một ngày ròng.
Bà không trả lời nơi để ngọn lửa, nhưng Quý Ly đã hiểu bà để nó ở đâu. Cũng như nhiều bà công chúa nhà Trần, Huy Ninh rất sùng đạo Phật. Và càng sống lâu với Quý Ly, sự sùng đạo ấy càng thêm sâu đậm. Lúc mới về nhà họ Hồ, bà chỉ đọc kinh gõ mõ vào buổi tối. Sau này bà tăng dần lên: mỗi ngày đọc kinh sám hối ba lần; cuối cùng bà gần như quy y đạo Phật ngay trong nhà mình. Tại sao như thế, bà không nói ra, và mọi người cũng tránh không hỏi. Bà không bao giờ biết đến việc triều chính. Nơi bà sống và đi lại chỉ có hai chỗ: chùa Báo Thiên và gia đình. Những diễn biến và âm mưu cung đình hầu như chẳng bao giờ lọt đến tai bà. Vậy thì không phải sự bạo liệt cuồng nộ của thời thế đã biến bà thành người sùng đạo, hay cũng có thể “thời thiên tuý” có cách riêng của nó để truyền lan ảnh hưởng đến từng người, dù người đó chui vào mật thất, cách ly với cuộc đời.
Điều kỳ lạ Quý Ly nhận thấy: bà chưa hề bao giờ trách móc ông nửa lời, dù ông làm những việc mà bản thân ông cũng thấy ghê gớm. Bà khiêm nhường, lặng lẽ dịu dàng... Cũng như hồi bé, ở bên bà ông thấy sự an lành xoa dịu. Những ngày xưa, cảm giác an lành ấy ông nhận được từ sự toả sáng của một ánh mắt, một sắc thái âm thanh, hay từ hơi thở thơm tho của bà. Còn ngày nay khi đã là vợ chồng, sự an lành ấy đi theo bà để tràn vào khắp nơi trong nhà ông.
Sự dịu hiền của bà ám vào trong không gian, trên cái gối, cái chăn luôn luôn thơm tho mời đón, trên mâm cơm giản dị ngon lành tự tay bà nấu. Có bận ông ốm, bà nấu cho ông bát canh sâm cầm nóng. Ông chậm rãi nhìn những mẩu hành như những đốm hoa mầu ngà xanh bơi trong thứ nước sóng sánh... Ông nhìn chậm rãi.. Ô kìa? Sao lại thế? Hành mà có vị thơm đến thế ư? Lần đầu tiên trong đời ông cảm nhận được hương thơm của một nhánh hành hoa. Có lẽ cuộc sống chính trường vội vã, hối hả và bạo hệt đã làm cho tất cả giác quan của con người bị thui chột... Và chỉ có bàn tay người đàn bà mới có thể làm thức dậy những cảm xúc tinh tế mà con người đã đánh mất...
Tiếc thay! Những phút như vậy, ông có ít làm. Ông làm gì có thời gian nhàn rỗi để nhấm nháp những hương vị tinh tế ấy. Thời giờ để ốm ông cũng không có. Ông sống như một cơn lốc, hay cuộc sống cung đình như một cơn lốc đã hút ông vào, không cho phép ông được hưởng thụ những điều tầm thường ấy. Ông thiếu cảm giác ư? Không cảm giác của ông buộc phải mài nhọn vào hướng khác, nhạy bén vào hướng khác. Cái mũi. cái mắt, cái tai của ông phải hướng về những âm mưu; phải đánh hơi, phải nghe, phải nhìn thấy chúng ngay từ lúc chúng còn ở xa chưa xuất hiện... Tiếc thay! Chỉ những phút hưởng thụ hương vị của một nhánh hành tầm thường như vậy, người đời mới gọi là hạnh phúc. Tiếc thay? Chỉ những cảm giác hiền hoà an lành mới thực sự là hạnh phúc. Còn ông, đêm ngày ông phải bận rộn, vật lộn; tâm trạng lúc nào cũng khắc khoải, cuồng nộ. Và những đam mê những khát vọng của ông cho đến lúc thành tựu, thực bụng lúc đó ông thấy kiêu hãnh và thoả mãn. Vâng, ông rất thoả mãn, và chỉ có thế mà thôi? Cái đó có gọi là hạnh phúc không nhỉ? Còn tham vọng thì vẫn như những đợt sóng; đợt này qua, đợt khác tới. Và ông lại say sưa đi vào những tham vọng mới...
Cũng chính vì vậy, nên những phút bên bà công chúa Huy Ninh, ông rất quý. Ông càng lao đầu vào chính trường bao nhiêu, ông càng kính trọng sự thánh thiện an lành trên gương mặt bà bấy nhiêu. Có đêm, ông đang nằm ngủ với một giấc mộng dữ. Ông bỗng choàng tỉnh giấc vì có tiếng mưa rơi tí tách. Ông nhổm dậy đã nhìn thấy bà Huy Ninh đang kính cẩn quỳ gối trước bàn thờ Phật, khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Ông chợt hiểu ngọn lửa ông nuôi là sự cuồng nộ hành động. còn ngọn lửa của bà nằm ở sự sám hối...
Hoá ra... bà vẫn ngày đêm cầu khẩn cho ông...
Vì thế, khi bà mất, ông thấy choáng váng cô đơn. Những người như ông, nỗi cô đơn là bạn đồng hành. Ông kiêu hãnh vì sự cô đơn ấy. Thậm chí, ông nghĩ phải có sự cô đơn, ông mới làm nên sự nghiệp ở đời. Thế gian này dễ mấy ai hiểu nổi ông. Nhưng với bà, lại hoàn toàn khác. Ông chưa hề bao giờ nói những chuyện to tát với bà, hầu như bà chẳng biết việc ông làm, nhưng thực ra bà lại rất hiểu ông. Thật nghịch lý! nhưng lại là sự thật, bởi vì bà là một phần của đời ông. Bà là điều ông thiếu, là cái khát khao mà ông không có. Bà là cái mầu trắng mát mẻ luôn tràn vào tâm hồn ông để hoà dịu cái mầu đỏ luôn đêm ngày rừng rực trong ông.
Ôi! Người đàn bà thánh thiện của ông đã ra đi! Bà đã cho ông rất nhiều. Những việc ông làm được, phần nào nhờ bà nên mới có. Ông vật lộn giành giật, bà chẳng trách móc ông. Có lúc ông xé ruột xé gan kẻ thù và xé nát cả tâm hồn mình, bà giơ bàn tay trắng ngần xoa dịu lòng ông. Có lúc ông tàn nhẫn độc ác, bà sám hối thay ông...
Cũng chính vì vậy, hằng đêm ông vẫn đến trước bàn thờ công chúa Huy Ninh, ngồi dưới chân pho tượng đá trắng, để nói chuyện với bà bằng những thì thầm trong tâm tưởng. Có lúc chẳng nói gì, mà chỉ cần nhìn vào gương mặt đá trắng ấy, ông cũng thấy lòng vơi nhẹ. Đêm nay, nhìn pho tượng trắng ngần hai tay giơ ra phía trước như muốn can ngăn ấy, nhìn vào khuôn mặt đá trắng buồn héo hắt và thương xót ấy... Ông mới thấy hết nôi cô đơn của mình mênh mông biết nhường nào! Cứ như thể lòng ông muốn khóc, cứ như thể pho tượng đá trắng kia muốn giục giã cho những giọt nước mắt trong lòng ông tuôn chảy cho vơi nhẹ... song không tài nào được.
“ Ngủ đi! Ngủ đi! Cứ nhắm mắt lại? Hãy quên hết, quên hết đi...” Giọng thì thầm của bà bỗng vang trong lòng ông... như nhiều đêm ông đã gặp. Và người đàn ông hùng mạnh ấy đã gối đầu lên chân pho tượng đá. Ông đi tìm gặp lại bà trong giấc mơ.
Hồ Quý Ly
Phần XI -Chương 1 Ngôi chùa đổ
Thời nhà Trần, ở phía nam kinh thành Thăng Long có một khu hồ lớn gọi là Đại Hồ .
Nó còn to hơn cả Tây Hồ. Thực ra, đó là một hệ thống những hồ ăn thông với nhau gồm nhiều nhánh, ở giữa lại có những đảo đất cao trồi lên. Tuỳ theo hình thể hoặc địa danh từng nơi, có đoạn gọi là hồ Phượng Hoàng, có đoạn là hồ Bích Câu, có đoạn gọi là đầm Vạc, đầm Sậy... Thời đó, hồ khá nổi danh, vì trong khu vực ấy có Quốc Tử Giám ở vùng trên và Từ Thiên Giám ở vùng giữa. Vùng dưới Tư Thiên Giám, khu hồ rộng phình ra, quanh năm hơi nước bốc lên, mặt hồ lúc nào cũng phủ hơi sương. Chung quanh hồ, những làng rải rác mọc lên đây đó. Ở vùng hồ phình rộng có một chỗ cây cối mọc um tùm, những bụi tre lưu niên suốt ngày đêm đung đưa cót két, xào xạc. Quãng hồ ấy, mặt nước mọc đầy chỗ thì hoa súng, chỗ thì sậy lác. Vắng người, lại cận kề hồ nước nên cò vạc kéo về trú ngụ, nhất là vạc, vì vậy dân gọi vùng đó là đầm Vạc.
Bên bờ đầm Vạc có một xóm rất đặc biệt, xóm Đà La. Một cái tên rất Chiêm Thành, bởi vì nơi đây trú ngụ những người tù binh Chiêm Thành từ đời nhà Lý, trải qua mấy trăm năm, thôn Đà La đã biến âm thành làng Già. Cũng như mọi làng Việt, làng Già có một ngôi chùa tên gọi chùa Tiên. Tên như vậy, vì người đến vãn cảnh chùa thấy nó đẹp như một động tiên. Nghề tạc đá người Chiêm mang từ vùng Chiêm Động ra vẫn được lưu truyền. Những người thợ đá làng Già đã đục nên những con hươu, con voi, con hổ... và đặt trong vườn chùa dưới những bóng cây, cạnh những bụi hoa và bên bờ con ngòi thông ra đầm Vạc, tạo thành một phong cảnh kỳ tuyệt khác hẳn mọi ngôi chùa. Sư cụ chùa Tiên là một nhà sư du phương từ phương Nam tới. Ông gầy khô, ngày chỉ ăn một bữa, có tài chữa bệnh cho mọi người nhưng không bao giờ lấy công.
Năm Tân Hợi (1371), Nghệ Hoàng mới lên ngôi, Chế Bồng Nga từ Nam tràn ra đốt phá Thăng Long lần thứ nhất. Sau khi giặc rút, vua hỏi quần thần:
- Ta nghe nói trong dân gian có người tiếp tay cho Chiêm Thành.
Quý Ly tâu Với Nghệ Hoàng.
- Từ thời Lý đến giờ, ta với Chiêm Thành xảy ra nhiều cuộc chinh chiến. Những tù binh, vũ nữ người Chiêm ta bắt được nay đã hoà vào dân cư. Những kẻ đó không nói làm gì. Nhưng vẫn có những người Chiêm hoặc là người buôn bán, hoặc là những du tăng khất sĩ vẫn thường xuyên qua lại nước ta. Những kẻ đó ở những trấn, lộ xa sẽ chẳng sao, nhưng ở kinh đô Thăng Long thì ta cần chú ý, vì quân do thám có thể trà trộn lẻn vào...
Đô hộ phủ Thăng Long do đó rà soát lại tất cả những người gốc gác Chiêm Thành. Sư cụ Đà La chùa Tiên bị xét hỏi. Ông trả lời;
- Bần tăng là người tu hành, suốt đời chỉ làm Phật sự, lòng chẳng chút dinh dáng tới việc trần tục.
- Dân chúng nói hàng ngày ông vẫn đi từ làng này qua làng khác, phường này qua phường khác, phải chăng để dò xét tình hình quan quân?
- Oan cho bần tăng, bần tăng chỉ đi chữa bệnh cứu người. Cũng có lúc chỉ đi khất thực.
- Có những người Chiêm lạ mặt thỉnh thoảng ngủ tại chùa?
- Họ là người buôn bán trầm hương... có cả người buôn voi, thấy chùa có sư người Chiêm... vì tình đồng hương nên khi ra buôn bán có ghé thăm chơi.
Rủi cho ông sư, người ta cho rằng kẻ buôn voi đó chính là quân do thám người Chiêm, vì vậy ông sư chùa Tiên bị ghép vào tội chết.
Ngôi chùa Tiên từ đó trở thành hoang phế. Hoang phế nhưng lúc nào cũng nhộn nhịp đông đúc. Đám cư dân đầu tiên đến nương nhờ cửa Phật là lũ cò vạc. Sự thực, người đầu tiên rủ đám chim đến là sư cụ Đà La. Hồi chưa bị chết thiêu, sư Đà La một đêm đang tụng kinh bỗng nghe thấy một tiếng chim kêu thảm thiết ngoài vườn chùa. Tụng xong, sư cụ cầm đèn ra vườn tìm, sư thấy một con vạc lớn bị một con chim đêm hung dữ nào đó đánh bị thương xoã cánh từ ngọn tre rơi xuống đất. Sư là một lương y giỏi, đã chăm sóc lành vết thương cho con chim, tuy vậy nó còn đi khập khiễng. Một đêm, cụ thả con vạc về với trời đất. ít lâu sau, một đêm cụ lại nghe thấy tiếng vạc ngoài vườn. Cụ cầm đèn ra, con vạc khập khiễng xưa đã trở về. Lần này nó rủ theo một con vạc khác. Con này chắc là chồng, con chim đực như vẫn sợ hãi, nó đậu ở ngọn tre và kêu xáo xác. Cụ bảo:
- Đừng sợ! cứ về đây mà ở. Đất này là đất Phật.
Đôi vạc đẻ ra một lũ vạc con. Thấy gia đình nhà vạc được sống yên ổn, dần dần lũ chim trời rủ nhau đến, càng ngày càng đông đúc thêm. Vườn chùa trở thành vườn chim. Hôm sư Đà La bị chết thiêu, ba ngày liền, lũ chim xáo xác bay trên bầu trời vùng chùa.
Thiếu bóng sư cụ, mấy sư bác và chú tiểu cũng chuyển đi ở chùa khác; ngôi chùa hoang phế hoàn toàn. Sự vắng lặng đã khuyến khích lũ chồn cáo đến chiếm lĩnh. Chứng đào hang hốc trong các bệ thờ. Những đêm tĩnh mịch chúng nô đùa đuổi nhau trên mái làm sụt lở từng mảng, để nước mưa luồn vào phá hoại thêm.
Chúng trèo lên cây cao bắt chim non làm vườn chim xơ Những cư dân cuối cùng đến ở là những con người lang thang, những anh học trò nghèo đến Thăng Long học tập, những nô tỳ trốn chủ hoặc được giải phóng, những kẻ ăn mày, những người lỡ độ đường, thậm chỉ cả bọn trộm cướp tạt qua... Có bóng người, lập tức lũ chồn cáo chuồn ngay, trả lại sự yên lành cho lũ chim và những con người. Người lang thang vốn không thích nhiễu sự, không thích ai nhòm ngó, họ không muốn đàn chim xáo xác, kéo sự chú ý đến ngôi chùa, vì vậy người và chim sống rất hoà thuận. Vườn chim từ đó lại đông đúc như sinh thời sư cụ Đà La. Kể từ ngày Chế Bồng Nga cướp Thăng Long lần thứ nhất, đã gần ba mươi năm; thời gian không người chăm sóc dài như vậy đã đủ làm ngôi chùa trở thành tiều tuỵ biết nhường nào.
Một nho sinh tên là Phạm Sinh đến Thăng Long làm nghề viết mướn, nghe mách có ngôi chùa hoang, bèn tìm đến trú ngụ. Nhìn thấy cảnh hoang phế, đôi mắt sáng của anh buồn bã tối sầm lại. Anh thở dài và xắn tay áo dọn dẹp ngôi chùa.
Bước vào nhà tiền điện đã thấy ngay hai pho hộ pháp, ông Thiện ông ác khổng lồ đắp bằng đất sét tô sơn. Hai ông uy nghi đầu sát mái chùa nhìn trừng trừng vào mặt Phạm Sinh.
Phạm đến trước bệ thờ ông Thiện, thắp một nén nhang. Ông khổng lồ râu ba chòm, mắt hiền hậu buồn rầu như cúi nhìn Phạm Sinh. Tay trái ông giơ ra phía trước cầm viên ngọc, như muốn tặng cho người đời. Một luồng sáng tròn như cái cột từ lỗ thủng trên mái dọi xuống, chiếu thẳng vào bàn tay ấy, rồi đâm trúng nơi đầu gối trên vạt áo sặc sỡ vàng son. Chắc nước mưa cũng qua lỗ hổng ấy đã rơi xuống làm lói lở bàn tay, làm rã ra một mảng áo nơi đầu gối. Ông có đau đớn không? Sao mắt ông vẫn dịu dàng như vậy? Phạm thầm nghĩ và chợt nhìn sang ông ác, ông hộ pháp khổng lồ này vẫn rực rỡ vàng son. Ông ta như mỉm cười với pho tượng bạn đã đang dần dần trở nên phôi phai cùng với thời gian.
Ngay ngày hôm sau, Phạm Sinh cắt cỏ, đánh tranh, bịt lại những chỗ đột trên mái chùa Tiên.
Ngôi chùa hình chữ Công. Nhà hậu điện thờ các tổ nhỏ hơn, nên vững chắc hơn, nó hầu như không bị phá huỷ. Phạm Sinh dọn dẹp một ngày ròng và ngôi chùa chợt như bừng sáng trở lại. Anh thấy ưng ý, và cảm thấy căn hậu điện trở nên ấm cúng như ngôi nhà đích thực của mình vậy.
***
Chắc chúng ta không quên anh chàng học trò đã gặp gỡ Thiên Nhiên Tăng, Phạm Sư Ôn lúc nhà sư bắt đầu nổi loạn với ba vạn quân du đãng ở lộ Quốc Oai. Người đó chính là Phạm Sinh và cũng chính là con trai ông thày chùa Phạm Sư Ôn và cô nô tỳ cắt cỏ bên bờ đầm năm xưa. Cô nô tỳ sau một tháng ròng giao hoan với nhà sư trẻ cường tráng, thấy trong lòng mình đã đâm hoa kết trái. Cô nô tỳ xinh đẹp từ lâu đã lọt vào mắt ông trại chủ quý tộc Trần Tùng. Kể về dòng dõi, ông là cháu đời thứ bẩy của cụ Trần Liễu. Cụ Trần Liễu là anh ruột cụ Trần Cảnh tức vua Trần Thái Tôn. Cụ Liễu là cha cụ Trần Hưng Đạo, cụ tính hào hoa phóng đãng. Cụ Liễu một lần Thăng Long bị lụt, chèo thuyền đi chơi. Cụ thấy một cô cung nữ xinh đẹp, liền bắt lại, rồi mây mưa cùng nàng. Cô cung nữ mang thai, vì thế cụ Liễu bị triều thần hạch tội, bị giáng chức. Cụ Trần Thái Tôn muốn cho yên chuyện liền cấp mười mẫu ruộng cho cô cung nữ để cô sinh nở. Cô cung nữ cũng khéo xoay xở nên từ mười mẫu ruộng đã biến thành ba mươi mẫu ở lộ Quốc Oai; và trang trại ấy được truyền tới đời thứ bẩy cho Trần Tùng thì nó đã được mở rộng tới gần trăm mẫu.
Công bằng mà nói, cụ Trần Liễu có cả ưu điểm cả nhược điểm: ưu điểm là sự thông minh, táo bạo quyết đoán còn nhược điểm là tính phóng đãng, quá đa tình. Trí thông minh, và quyết đoán cụ truyền kết cho con trai cả là Trần Hưng Đạo. Còn đứa con hoang với cô cung nữ, ông đại chỉ truyền cho cái tính đa tình dâm loạn. Vì là chúa đất một vùng, có điều kiện thuận lợi nên tính phóng đãng ấy sang đời con đời cháu ở lộ Quốc Oai lại càng phát triển. Chắc người đọc không quên cô quận chúa Trần A Kim trong truyện Hà Ô Lôi (Lĩnh Nam trích quái). Cô quận chúa xinh đẹp goá chồng ấy đã tằng tịu với anh chàng người Chiêm Thành đen như củ súng nhưng đặc biệt hát rất hay và rất cường tráng. Cuộc tình sôi động ấy, thời Trần Dụ Tôn đã làm xôn xao dư luận Thăng Long, đến nỗi được ghi lại thành sách trong cuốn Lĩnh Nam trích quái truyền cho hậu thế. Cô Trần A Kim chính là cô ruột Trần Tùng. Tùng còn có năm anh em trai đều là trại chủ và quan chức ở lộ Quốc Oai. Tùng rất háo sắc, hầu hết nô tỳ trong trang trại đều bắt buộc phải qua tay Tùng.
Hôm ấy Tùng dắt chó đi săn cầy ở đầm Thiên Nhiên. Đến lều vịt, Trần Tùng gặp cô nô tỳ cắt cỏ. Cô bé kia ngẩng đầu lên. Cô chào thế đủ rồi. Cô nô tỳ đang quỳ lạy. từ từ ngẩng bộ mặt nhem nhuốc sợ sệt nhìn ông chủ.
- Cởi chiếc khăn vuông ra. Ôi! Sao đầu tóc lại rối tung, mặt mũi lại đầy bùn.
Bôi bùn vào mặt, để đầu tóc rối bời, là một mưu kế hay của một bà nô tỳ già dậy cho cô để tránh sự dâm loạn của ông chủ. Cô bé cắt cỏ chỉ rửa mặt và chải tóc mỗi khi chiều xuống, để chờ đón ông thày chùa cường tráng của mình. Cô nô tỳ run rẩy khi nhà quý tộc Trần Tùng ra lệnh:
- Xuống hồ rửa mặt ta xem.
Khi bộ mặt trắng hồng với đôi mắt bồ câu đen láy hiện ra, ông chủ cười mỉm:
- Cô đừng sợ! Trông mặt sáng sủa thế này... Người như cô mà phải cắt cỏ ư? Đô quản đâu.. Nhà ngươi cho cô bé này tắm rửa sạch sẽ, phát cho quần áo mới, ngày mai cho chuyển vào làm việc trong nhà chăn tằm...
Cô nô tỳ càng run rẩy hơn. Nhà chăn tằm, đó là nơi ở của những cô gái được ăn sung mặc sướng, hay nói khác đi, đó là nơi ở của bầy thê thiếp của Trần Tùng... Đêm hôm ấy cô nô tỳ bỏ trốn, không kịp một lời báo tin cho Thiên Nhiên Tăng.
Khi Phạm Sư Ôn trốn chùa đi làm giặc ông biết mọi sự đều do Trần Tùng. Việc đầu tiên ông làm khi trở về Quốc Oai là bắt ngay tên chúa quý tộc. Ông không giết mà chỉ cắt phăng bộ “tam sự”. Ông bảo:
- Việc đầu tiên phải làm là cắt bỏ sự dâm loạn của dòng dõi nhà Trần .
Cô nô tỳ trốn thật xa khỏi lộ Quốc Oai, ra trấn Hải Đông, định đi tìm bà nô tỳ già người đã chăm sóc và dậy dỗ cô lúc bé, nay đã được giải phóng, cùng với một ông già khác dắt díu nhau ra vùng biển. Đi ròng rã một tháng trời, một bận cô đói quá vào ăn mày cửa Phật tại một ngôi chùa nhỏ vùng Yên Tử. Thật may mắn cô đã gặp sư cụ Vô Trụ người đã nuôi dạy Thiên Nhiên Tăng khi xưa, sau khi học trò trốn đi làm giặc, ông cũng chuyển chùa ra đây trụ trì. Cô nữ tỳ xin làm tam bảo nô, chăn trâu, cắt cỏ làm ruộng cho ngôi chùa núi. Phạm Sinh được sinh ra ở đây. Sư cụ thấy thằng bé thông minh, dạy cho học chữ. Khác với ông bố Phạm Sư Ôn chỉ phát triển về sức mạnh cơ bắp, Phạm Sinh lại có sức mạnh rất lớn về tinh thần. Cậu bé học đâu biết đấy, ham đọc sách, tham khảo đủ cả Phật và Nho. Một bận sư Vô Trụ nói với cô nô tỳ:
- Con không nên cho thằng bé biết cha nó là ai
- Bẩm thầy, sao lại phải thế
Sư thở dài, lắc đầu, không trả lời. Cậu bé hay trầm tư và thường hỏi những câu hỏi nằm ngoài kinh sách. Càng lớn, cậu càng hỏi những câu hỏi mà sư khó trả lời. Gần đến tuổi thanh niên, cậu lại hỏi những câu hỏi thuộc về thời cuộc. Sư Vô Trụ bảo;
- Học đạo là để tự mình giải thoát, để tránh xa đường tục luỵ níu chân ta lại.
Sinh nói:
- Đức đệ nhất tổ Trúc Lâm (tức Trần Nhân Tôn) làm vua, đánh giặc rồi mới đi tu. Ai bảo người không mắc tục luỵ?
- Người là Bồ Tát. Còn chúng ta chỉ là kẻ thường nhân.
Sinh không cho là phải. Một bận, Sinh xin phép thầy lên đường để tìm hiểu mọi lẽ huyền ở đời. Sư Vô Trụ lắc đầu:
- Nghiệt chướng? Ta lại mắc lầm như xưa rồi.
Sinh không hiểu, gặng hỏi. Sư lặng lẽ nói:
- Con đã đọc sách của Trúc Lâm đại sĩ (tức Trần Nhân Tôn). Con hãy đi đi! Ta chỉ nhắc con nên nhớ hai câu của người:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc xan, hề, khốn tác miên...
(ở cõi phàm trần, vui đạo hãy tuỳ duyên
Đói thì ăn, mệt ngủ yên...).
Phạm Sinh lạy thầy, rồi giã từ mẹ, khăn gói lên đường. Sinh lang thang khắp đó đây, vừa để biết sự kỳ thú của núi sông, vừa có chí tìm thầy học đạo. Anh đã đến nhiều ngôi chùa, nhưng chỉ thấy ở đấy rặt những người trốn tránh cuộc đời, hoặc những ông thày chùa thân thì nương nhờ bóng Phật, hồn thì tham vọng bon chen.
Một bận, đi trong rừng, bụng đói, lại lên cơn sốt. anh hôn mê trong một căn nhà mồ. Một ông lão bán than đem anh về nhà thuốc thang mấy hôm mới tỉnh. Ông già quắc thước, râu tóc đã bạc phơ hỏi:
- Có phải anh là kẻ thư sinh ngán việc đời đi tìm Phật trong núi. Há chẳng biết câu: núi không có Phật?
- Thưa cụ, con chưa đủ cao vọng để đi tìm đức Phật...
Ông già cười:
- Vậy, chắc muốn di tìm cái lý ở đời? - Nhìn chàng thư sinh im lạng, ông ôn tồn - Nhưng xem ra anh ốm yếu quá. Chưa tìm được nó thì mình đã thân tàn, lực kiệt. Thôi, cứ tạm ở đây. Ta sẽ dậy cho anh phép dưỡng sinh. Con người ta sống ở đời, trước tiên thể xác phải cương kiện. Thân có vững vàng thì hồn mới có nơi mà nương tựa.
Phạm Sinh biết đã gặp được cao nhân, liền cúi xuống lạy tạ. Ông già dạy anh phép hít thở, sau đó dạy anh luyện võ. Được ít lâu sau, Phạm Sinh mạnh khỏe trở lại.
Nửa năm sau, ông lão càng thấy mến chàng trẻ tuổi. Thầy trò đã quấn quýt chẳng khác tình cha con. Lại được biết Phạm Sinh là con một nô tỳ bỏ trốn, và được sư Vô Trụ dạy dỗ cẩn thận, lúc đó ông già mới bảo:
- Ta tên là Sư Tề, xưa kia mở trường dạy võ ở Thăng Long. Hồi ấy, học trò ta đông lắm, trong số đó có cả Quý Ly. Ta có người con trai là Nguyễn Đa Phương. Quý Ly vụt lên, giữ ngôi cao trong triều đình, nhận Đa Phương làm nghĩa đệ. Ta bảo thằng Phương: “Triều đình là chốn hang hùm ổ rắn; chớ đắm đuối vào đó, nguy hiểm lắm”. Con ta không nghe, nó làm tướng dưới quyền Quý Ly. Trận đánh nhau với Chế Bồng Nga ở Lương Giang Thanh Hoá, Quý Ly thua chạy. Con ta là kẻ hữu dũng vô mưu, về triều nó cứ lu loa Quý Ly là kẻ bất tài quân sự. Vì lẽ đó Quý Ly đã giết Đa Phương. Ta đã già rồi, nhưng ta hiểu, nếu còn ở Thăng Long, ta cũng sẽ bị giết nốt. Ta bỏ trốn lên đây làm nghề đốt than...
Phạm Sinh nghe xong liền quỳ lạy xin cụ Sư Tề thu nhận làm học trò. Ông già đỡ dậy:
- Năm nay ta đã ngoại tám mươi, anh là người học trò cuối cùng. Thời gian còn lại của ta ngắn lắm. Ta không còn đủ thời gian để dậy nghề đao kiếm cho anh... Vả lại, anh tư chất thông minh nhưng ốm yếu, không hợp với nghề luyện võ. Hơn nữa anh còn muốn tìm hiểu cái lý ở đời, ta sẽ truyền cho anh binh thư, những mưu lược chiến trận. Binh thư học đến chỗ uyên áo, cũng sẽ vỡ ra cái lý ở đời. Bởi vì gốc của binh thư là đạo, là thiên lý...
Từ đó ông già giảng cho anh binh pháp Tôn Tủ, binh thư Trần Hưng Đạo, và nguyên lý cương nhu của Hoàng Thạch Công... Ông dạy cho học trò một cách hối hả, hình như ông đã cảm nhận được cái gì đó khác thường trong người. Một năm sau ông ngã bệnh. Có những cơn đau dữ dội đến tắc thở trong lồng ngực. Ông gọi người học trò nhỏ bé nhất của mình đến dặn dò.
- Sau khi thầy chết, không phải việc báo thù là điều chính yếu. Đất nước mới là chính yếu. Có thể kẻ thù của ta sẽ làm điên đảo đất nước... Cũng có thể kẻ thù của ta sẽ làm phồn vinh đất nước... Ta chẳng biết dạy con thế nào cho phải. Lúc đó con phải tự mình quyết định. Ở Thăng Long hiện nay còn có nhiều sư huynh của con... Hãy tìm họ...
Cụ Sư Tề trút hơi thở cuối cùng. Sau khi chôn cất thầy, Phạm Sinh quay trở về ngôi chùa núi. Sư Vô Trụ đã đi du phương. Còn mẹ anh, bà nô tỳ đang ốm và ngày đêm mỏi mắt chờ Phạm Sinh về. Người mẹ bảo:
- Đã hơn hai chục năm, mẹ dấu không cho con biết cha con là ai. Nhưng mẹ thấy mình yếu lắm rồi, mẹ không có thể dấu điều bí mật ấy ở trong lòng nữa.
- Cha con là ai?
Ông ấy là Thiên Nhiên Tăng, cũng là học trò của sư cụ Vô Trụ đã cưu mang mẹ con con ta.
Phạm Sinh buồn rầu:
- Không hiểu tại sao sư cụ cũng dấu con điều ấy?
- Cụ bảo con rất giống cha. Cái mầm phản loạn cũng có trong con... Sư cụ thương con lắm. Cụ không muốn con đi theo vết cũ của đời trước. Nhưng gần đây, trước khi đi ẩn tu trong rừng sâu, cụ bảo mẹ: “Ta nghĩ kỹ rồi. Không thể bắt nó theo ý người lớn. Nghiệp thế nào, phải chịu thế ấy. Chịu cho hết nghiệp của mình mới là phải đạo. Tránh cũng chẳng được”. Cụ cho phép mẹ nói với con về cha con.
- Vậy cha con bây giờ ở đâu?
- Sau khi rời chùa. Cha đi tìm mẹ con ta mãi nhưng không gặp. Mẹ cũng chẳng biết tin gì... Mãi gần đây, người ở kinh đô về nói rằng cha con đã dấy binh chống lại triều đình. Người đã chiếm được hầu hết địa phận Quốc Oai.
Nói rồi, bà lục cái hòm gỗ lấy ra chiếc khăn vuông bốn góc có bốn cái thao ngũ sắc.
- Con hãy cầm vật này đến Quốc Oai đưa cho ông, xem ông còn nhận ra không? Hãy nhớ con chưa nên nói ngay mình là ai đối với ông. Con xem xét rồi trở về cho mẹ biết. Nhớ cho kỹ, con chỉ được gặp cha, nhưng không được nhận cha.
Người mẹ đã nghĩ thế nào lại dặn con như vậy. Bà sợ ông thay lòng đổi dạ rồi chăng? Hay bà lo cho số phận của người con nếu gắn với người cha? Hay trước khi đi ẩn tu, sư Vô Trụ đã nhìn thấy một điều gì đó trong số phận của Phạm Sinh và sư muốn tránh cho chàng...
Hôm con trai ra đi, bà thức suốt đêm không ngủ. Bà dậy sớm nấu cơm nếp gói cho con ăn đường. Cuối cùng bà nói với con một câu, có lẽ là gan ruột của bà.
- Đừng cho cha con biết là mẹ còn sống. Mẹ không muốn làm vướng chân ông ấy. Khi gặp, hỏi ông xem còn nhớ đến chiếc khăn vuông bốn quả đào phủ lồng con sáo khi xưa không. Và nhớ nói với ông câu này: “Con sáo đã sổ lồng, nhưng sáo phải khôn ngoan. Đừng để sa vào lồng lần nữa”.
Như ta đã biết, Phạm Sinh đã gặp Phạm Sư Ôn ở lộ Quốc Oai khi đội quân dấy loạn của ông thầy chùa đang đùng đùng nổi dậy, đi đến đâu quân triều đình tan rã đến đấy. Hai cha con gặp nhau rất tương đắc. Phạm Sinh hiểu ngay ra mình có một người cha anh hùng. Cảm giác cô đơn côi cút anh mang trong mình từ lúc bé đột nhiên tan biến, để nhường chỗ cho một cảm giác hào hùng, bạt núi lấp sông mà anh chưa hề biết tới. Nhưng Phạm Sinh cũng rất tỉnh táo, anh hiểu Phạm Sư Ôn có thừa dũng khí nhưng lại thiếu sự trật tự sự kỷ luật khắt khe, điều kiện rất cần cho việc lớn. Hơn nữa, cha anh còn nóng vội mà chí lớn thì cần sự bình tĩnh kiên nhẫn.
Ở với cha được nửa tháng, Phạm Sinh bỗng thấy lòng nóng như lửa đốt. Anh ra đi lúc mẹ đang ốm... Vậy nên, lúc này cha anh sắp tiến vào Thăng Long, một trận đánh hào hùng và chắc chắn, anh rất muốn tham dự, nhưng cũng phải đành lòng dứt áo, nhanh chóng trở về với mẹ. Nhất là đêm qua anh lại mơ thấy bà đầm đìa những máu đang vẫy gọi anh. Lúc chia tay, Sư Ôn ôm lấy anh và bảo:
- Về quê xong việc. cậu lên đây ngay với ta. Ta sẽ nghe lời cậu, đánh xong Thăng Long, ta lại rút đi ngay, lúc đó, thanh thế quân ta sẽ như sấm dậy. Cậu hiểu đấy, ta rất mến cậu và rất cần cậu...
Lúc đó... Phạm Sinh về đến ngôi chùa núi lúc bà mẹ đang ốm rất nặng. Bà nằm trên giường thều thào hỏi con:
- Ông ấy có nhận ra chiếc khăn bốn quả đào của ta không?
- Dạ, nhận ra ngay. Cầm lấy chiếc khăn, cha con nhỏ nước mắt.
- Ông ấy khóc ư? Tức là... Ông ấy còn nhớ đến mẹ.
- Vâng. Cha con còn nhớ đến mẹ. Ông không nói nhưng con biết, tình của cha con rất sâu nặng. Người đã luôn để chiếc khăn vuông của mẹ trong người...
Người mẹ mỉm cười, nước mắt bà trào ra. Phạm Sinh nắm lấy tay mẹ:
- Cha con đã đánh chiếm Thăng Long. Người thật oai hùng.
Người mẹ bóp chặt tay con, lắc đầu:
- Sư cụ đã đoán trước được hết cả... Người biết cha con sẽ rất kiêu hùng... nhưng rồi sẽ thất bại... Sư cụ còn bảo: sắp đến rồi đấy. Chính vì thế cụ dặn mẹ: con chỉ được gặp mặt cha rồi phải về đây ngay...
Người mẹ tắt thở, nụ cười thoả mãn còn đọng trên môi. Cùng lúc chôn cất mẹ, Phạm Sinh lại được tin, Phạm Sư Ôn đã bị triều đình bắt giải về Thăng Long.
Phạm Sinh tức tốc lên kinh đô. Anh chỉ còn được nhìn thấy mặt cha lần cuối cùng ở tháp Báo Thiên. lúc triều đình đem ông ra xử trảm.
Hồ Quý Ly
Chưong 2 Phạm Sinh ở lại Thăng Long
Phạm Sinh ở lại Thăng Long tìm cách trả hận. Nơi ở của anh là ngôi chùa đổ làng Già. Còn việc kiếm sống hàng ngày, anh làm nghề bán chữ tại tháp Báo Thiên.
Chùa Báo Thiên là danh thắng kinh đô. Ngôi chùa nằm giữa một vườn cây rộng chừng chục mẫu Những cây đại thụ, lá xum xuê có chỗ che kín không đế lọt ánh sáng mặt trời. Lại có những vạt đất trồng hoa thơm cỏ lạ như chào đón làm say lòng khách thập phương.
Đặc biệt nhất là ngọn tháp cổ Đại thắng tư thiên mà nhân dân vẫn gọi tháp Báo Thiên, xây ngay phía trước chùa. Ngôi tháp cao ngút trời, mềm tự hào của dân Thăng Long, được đánh giá là một trong An Nam tứ khí, một trong bốn vật quý của Đại Việt. Tháp xây bằng đá, xen lẫn gạch nung có in hoa, trên một gò đất. Đứng ở tầng cao cuối cùng của tháp, có thể nhìn quang cảnh khắp Thăng Long. Tháp mười hai tầng; tầng dưới cùng to rộng bằng một ngôi chùa quê. Tháp hình tứ giác, bốn mặt có bốn cửa ra vào. Cửa chính đông nhìn ra hồ Lục Thuỷ và xa xa nhìn thấy cả bãi dâu tít tắp trải đến tận bờ sông Cái. Hai cửa bắc, nam là hai cửa phụ, cửa tây là cửa giả. Chung quanh khu tháp có tường bao bằng đá chạm trổ tinh xảo, dưới chân tường đặt những chậu hoa quý. Điều đập mạnh vào mắt khách thập phương là tám pho tượng đá bát bộ kim cương kích thước cao gấp rưỡi người thường. Mỗi cửa có hai pho đứng gác. Cửa chính đông, một pho tay trái cầm ngược thanh kiếm giơ lên, tay phải như đang đi xuống; một pho tay phải cầm thanh long đao, tay trái để ngang lồng ngực. Những pho tượng dáng vẻ nghiêm khắc đến độ hung dữ như nhắc nhở con người phải nghiêm trang giữ cái tâm của mình khi vào cửa Phật.
Qua cửa chính vào trong tháp, ta gặp ngay tượng A Di Đà tạc bằng đá trắng ngồi trên toà sen hiền từ nhìn xuống. Trước tượng là chiếc giường đá, nơi khách thập phương vẫn đặt tay lên để được nhận linh khí của đức Phật, để được nhận sự hộ niệm, an ủi của Người.
Phạm Sinh hàng ngày đi từ ngôi chùa đổ đến tháp Báo Thiên hành nghề. Anh treo mấy tờ giấy đỏ lên cây đa cổ thụ mọc ở phía hữu khu tháp, trải chiếc chiếu, ngồi xếp bằng tròn ngay ngắn, bên cạnh người chiếc bút chiếc nghiên, chờ người viết mướn. Việc anh làm là viết sớ, viết văn tự bán nhà, văn tự bán người, cả viết câu đối, hoành phi... Ngòi bút lông của anh đã vẽ nên bao cảnh thương tâm, bao cảnh lên voi xuống chó của người dân Thăng Long: cô Trịnh Thị ả bán mình làm lẽ một ông già để lấy mấy quan tiền chữa bệnh cho cha. Ông Lê Văn Mỗ bán mẫu ruộng để lo lót cho con đi lính thú tận miền Hoá Châu giáp Chiêm Thành trở về; ông huyện quan Trần được thăng hàm tứ phẩm và được chuyển vào làm việc ở Đô hộ phủ nay làm lễ ăn khao, những người có máu mặt ở kinh đô đi mua chữ về khắc câu đối mừng...
Ngoài viết tại chỗ, anh còn nhận việc mang sách về nhà chép thuê. Thời đó, sách in bản ít lắm. Những cuốn sách hiếm, muốn có cần phải thuê chép... Như vậy, nhờ nghề viết mướn, Phạm Sinh đọc được rất nhiều sách. Lại biết được nhiều việc, quen được nhiều người. Bọn lính tráng, tôi tớ nhà quan, hễ có việc đến chữ lại phải ra gốc đa Báo Thiên nhờ cậy đến anh. Bọn chúng hay bép xép nên anh biết khá nhiều chuyện chung quanh những người tai to mặt lớn.
Phạm Sinh viết chữ rất đẹp. Sư cụ Vô Trụ là người cẩn thận. Cụ bảo: chữ thế nào, người thế ấy, rèn người việc đầu tiên phải rèn chữ. Vì vậy, hồi Phạm Sinh mới học viết, cụ rèn cho anh từng nét; có khi suốt một tháng ròng cụ bắt anh chỉ viết có ba chữ. Viết nhỏ, viết to, viết chân phương, viết bay bướm... Viết đi, viết lại, viết mãi bao giờ chữ nhập vào ngòi bút, vào khối óc, thậm chí nhắm mắt lại viết chữ vân có hồn... lúc đó mới tạm được. Nhờ viết nhiều đến như vậy, dần dần Phạm hiểu ra cái đậm cái nhạt, cái nhặt cái khoan. cái xa cái gần, cái chơi vơi bay bướm của nét chữ... Và thế là những nét hoạ đầu tiên của anh ra đời. Lúc rỗi rãi, anh vẽ những cánh chim, những con trâu, rồi khói núi ban chiều, cuối cùng là những bức hoạ Phật những bức tranh thiền... Sư Vô Trụ bảo: “Con hãy tập vẽ mây bay, nước chảy, bao giờ thấy như bay thật, chẩy thật mới vẽ sang thứ khác”. Một năm sau, sư cụ bảo: “Con vẽ cho ta một bức tranh mùa thu”. Phạm Sinh loay hoay vẽ mãi, vẽ xong lại xé, xé rồi lại vẽ. Cuối cùng anh vẽ một đôi chim sẻ xù đậu trên cành đang rỉa lông cho nhau, cạnh một hốc cây, nơi đó thò ra mấy cọng rơm được nắng hanh làm cho sáng bừng lên. Cành cây đang rụng lá. Những chiếc lá lóng lánh nửa muốn rời cành, mà cành còn cố níu lại...
Sư ngắm nghía bức tranh rất lâu, rồi nói “Con đã biết dùng mực đen để vẽ một chiếc lá vàng rồi. Thu đến hơi lạnh, nhưng vẫn còn sự nồng nàn ở đó. Con đã hiểu thế nào là cái hồn của tranh”. Từ đó, phạm Sinh nổi tiếng về hoạ, nhưng càng ngày anh càng vẽ ít đi. Thi thoảng mới vẽ, nhưng đã vẽ là tranh rất đẹp.
Phạm Sinh không vẽ tranh bán mà chỉ bán chữ, nhưng có một lần anh đã phá lệ vẽ tranh. Lần đó Phạm không vẽ tranh trên giấy mà vẽ tranh trên gốm. Hồi đó, anh vừa mới đi dự cuộc xử trảm cha anh, nhà sư nổi loạn Phạm Sư Ôn ở tháp Báo Thiên được chừng một tháng. Anh ngụ tại ngôi chùa đổ và bắt đầu làm nghề bán chữ. Hôm ấy, người dân Thăng Long nô nức ra bến Đông để đón người anh hùng Trần Khát Chân vừa mới chém được đầu Chế Bồng Nga, nay ca khúc khải hoàn, trở lại kinh sư.
Ông vua già Nghệ Tôn sai làm lễ đón mừng Trần Khát Chân cực kỳ long trọng. Người anh hùng cứu nước ngồi trên chiếc bành son đỏ, che lọng tía, trên lưng con voi tràng khổng lồ. Đoàn nhạc cung đình, chiêng trống tưng bừng mở lối cho voi đi. Từ bến Đông, voi trắng theo đại lộ đến tháp Báo Thiên để dâng hoa cúng Phật và tế cáo trời đất, mừng thanh bình thịnh trị từ nay lại trở về với dân Đại Việt. Dân Thăng Long trẻ già trai gái mặc quần áo đẹp, nô nức đi trảy hội thanh bình. Phạm Sinh đứng dưới gốc cây đa Báo Thiên và anh đã được chiêm ngưỡng vẻ uy nghi, tràn trề hùng khí của người anh hùng. Anh thầm nghĩ: Ông cũng giống như cha ta. Có thể, con người này sẽ là một cứu tinh chăng? Có thể, ông ta sẽ mở ra được một lối đi chăng? Với ý nghĩ ấy, Phạm Sinh có cảm tình với Khát Chân ngay. Anh nghĩ cách ra mắt quan thượng tướng. Phạm đến một lò gốm cạnh kinh đô, mua ba cái xương gốm, phóng bút vẽ ba chiếc chậu hoa. Lúc gốm ra lò, ba chiếc chậu: Một chiếc vẽ hoa sen, một chiếc hoa mai, một chiếc hoa cúc. Đáng lẽ phải tặng thượng tướng hoa mai mới đúng, vì đất phong hầu của ông là Trại Mai, nhưng hoa mai mong manh quá, Phạm không muốn Khát Chân như vậy. Tặng chậu hoa sen ư? Sự từ bi hiền hậu của đức Phật cũng không phải cái cần lúc này. Còn cúc? Lúc vẽ Phạm đã nghĩ tới một bài thơ mà anh rất khoái. Lập tức Phạm đập tan hai chiếc chậu vẽ hoa sen và hoa mai, rồi bọc kín chiếc chậu vẽ hoa cúc đem dâng thượng tướng. Lúc đó, trên gò đất định xây dinh thự còn hoang sơ. Khát Châu tiếp chàng nho sĩ cạnh đôi mai già. Chàng thư sinh gầy gò có đôi mắt sáng, dáng điệu kính cẩn:
- Để mừng tướng quân thắng trận, tiểu nhân định vẽ một bức hoạ, nhưng nghĩ rằng vẽ tranh trên gốm sẽ lâu bền hơn, nên đánh bạo dâng chiếc chậu tự tay vẽ này lên thượng tướng để tỏ lòng thành kính.
Nhìn chiếc chậu men hoa lam với nét vẽ lung linh thần tình, mặt tướng quân rạng rỡ:
- Chiếc chậu thật quý! Có lẽ độc nhất...
- Thưa vâng. Tôi không vẽ chiếc thứ hai. Trên đời này chỉ có một người như tướng quân, thì chiếc chậu cũng phải độc nhất vô nhị.
Thượng tướng ngắm nghía có vẻ hài lòng, nhưng nét mặt vẫn đọng lại những băn khoăn. Hình như chàng nho sinh hiểu ý vị tướng, anh nói:
- Tiểu sinh vẽ nó theo ý một bài thơ mà hai câu cuối ý tứ thật hào hùng..
Lúc đó có người tới, thượng tướng không tiện hỏi nữa, tuy nhiên chiếc chậu hoa cúc với ba bông hoa vừa nụ vừa hàm tiếu ấy cứ ám ảnh ông mãi. Thậm chí, cho tới đêm ông còn suy nghĩ. Bài thơ nào nhỉ? Hai câu hào hùng nào nhỉ? Trong giấc ngủ, ba bông hoa như vẫn chập chờn trong mơ. Và đến gần sáng, ông bỗng choàng tỉnh giấc vì bài thơ ấy bỗng hiện ra trong óc. Sao ta tối tăm thế? Hàng ngàn bài thơ Đường chỉ có độc nhất một bài hoa cúc. Người làm ra nó chính là Hoàng Sào, một nho sĩ đã nổi loạn ở cuối triều đại nhà Đường. Hàng chục vạn dân theo ông đã làm lung lay nền móng của một triều đại. Đang đêm, ông cũng dậy, pha một ấm trà rồi độc ẩm, miệng ngâm khe khẽ:
Táp táp tây phong mãn viên tài
Nhị hàn hương lãnh điệp nan lai.
Tha niên ngã nhược vi thanh đế.
Báo dữ hoa đào nhất xứ khai
(ào ào gió tây vườn cúc hoa
Nhị tàn hương lạnh bướm khó qua
Nếu xuân năm tới ta làm chúa
Lệnh nở hoa đào khắp xứ gần xa)
Ông cứ nghĩ mãi tới cái ý thơ hào hùng của hai câu cuối Nếu năm sau ta lên ngôi vua, ta sẽ truyền lệnh cho hoa đào khắp đất nước phải nở hoa cùng một lúc. Chà! Cái chữ “nhất xứ” dịch ra quốc âm mới khó làm sao. Rồi ông lại nhớ tới chàng thư sinh tặng chậu. Sao anh ta lại nhắc tới bài thơ Cúc của Hoàng Sào? Có ý gì đây? Từ một chậu hoa đẹp, đầu óc ông lại chuyển sang việc triều chính. Đêm ấy, ông mất ngủ.
Tới lúc Nghệ Hoàng ốm người muốn vẽ tranh tứ phụ để ban tặng và nhắc khéo thái sư Quý Ly, ông tiến cử Phạm Sinh.
Một tháng trời vẽ tranh tứ phụ tại nhà quan thượng tướng, Phạm Sinh được tiếp xúc với một số người trong trại Mai. Sinh vẽ trong một căn nhà nhỏ ở khu vườn rộng không ai lai vãng. Hàng ngày chỉ có một tráng sĩ râu rậm đến đưa cơm và chăm sóc. Anh ta trạc ngoại ba mươi, vạm vỡ, ít nói. Phạm Sinh cũng ít nói. Hình như thượng tướng cho anh ta đến thăm dò mình. Sinh nghĩ thầm. Đôi bên đối với nhau rất khách sáo.
- Đệ tên Phạm Sinh, từ miền Hải Đông tới Thăng Long, nghèo túng nên làm nghề bán chữ qua ngày.
- Tôi là Phạm Tổ Thu, vốn lưu lạc, trong trận đánh Chế Bồng Nga có chút công nhỏ, nên được thượng tướng thu nhận làm người giúp việc.
Một tối, hai người ngồi uống rượu, ngắm trăng trong vườn. Tổ Thu bảo:
- Mấy bức tranh vừa rồi thấy đã đẹp lắm, sao tiểu huynh lại xé đi?
- Hôm nọ, đệ ngồi ngắm mai với thượng tướng, ngài bảo:
- Mai đẹp cốt ở thưa, không cốt ở rậm; cốt ở gân guốc, xù xì, dãi dầu sương gió, không cất ở mập mạp trẻ tươi; cốt ở nụ, không cốt ở hoa...” Chơi hoa còn tìm đến cái thần của hoa, nữa là cầm bút vẽ. Vẽ, bao giờ tìm thấy cái thần của tranh mới được.
- Đệ nói hay lắm. Xưa kia học kiếm, thầy huynh cũng nói như vậy.
Tổ Thu hào hứng múa bài kiếm loang loáng, làm đám lá cây nhảy múa rung rinh. Phạm Sinh cũng nổi hứng theo, lấy giấy điều viết một chữ “thần” đẹp tựa rồng bay để tặng Tổ Thu. Người tráng sĩ ngắm bức hoạ, lấy làm khoái trá, anh cởi áo quần ra múa một bài quyền. Hai bàn tay Tổ Thu tựa như đang nâng niu một cái gì đó. Đường quyền mềm dẻo song tràn trề sát khí. Phạm Sinh đang ngồi bỗng ngạc nhiên đứng dậy ngắm người tráng sĩ, anh ta càng lúc múa càng nhanh. Rồi đột nhiên, chàng nho sĩ vô cùng cao hứng, chàng cũng vứt nhanh chiếc áo dài, rồi xắn tay áo nhảy vào cùng múa theo. Tổ Thu cười lên ha hả. Hai bóng người xoắn suýt với nhau. Bốn bàn tay như nâng niu một cái gì đó dâng lên trước mặt, rồi đặt vào nơi tim. Tổ Thu dừng lại mừng rỡ kêu lên:
- “Song Ngọc Trản”. Đã lâu lắm ta mới được một đêm thoả thích thế này. Té ra... ngươi là sư đệ của ta.
Nói rồi, người tráng sĩ rậm râu ôm chầm lấy chàng nho sĩ
Ngọc Trản (cái chén ngọc) là bài quyền đặc biệt của cụ Sư Tề. Trước khi chết, cụ dặn Phạm Sinh: “Ngọc Trản là bài võ riêng của ta. Chỉ có ai là học trò của ta mới biết. Con sẽ nhờ nó mà tìm gặp được các sư huynh. Bao giờ gặp họ, con nhắc đừng làm mai một ngọc trản. Hãy gìn giữ chén ngọc”.
Hồ Quý Ly
Chương 3 Như vậy, Phạm Sinh đã gặp được những người đồng chí hướng của mình
Như vậy, Phạm Sinh đã gặp được những người đồng chí hướng của mình, các sư huynh Phạm Tổ Thu và Phạm Ngưu Tất, hai gia tướng thân tín của quan thượng tướng Khát Chân và quan Thái bảo Nguyên Hàng. Trên vai anh bây giờ khoác ba gánh nặng thù hận: nợ nước, thù của thầy và thù nhà.
Khi Phạm vẽ xong bốn bức tranh tứ phụ dâng lên Nghệ Hoàng, ông vua già khen ngợi, ban tặng lụa và tiền bạc. Thượng tướng biết Phạm Sinh là học trò cụ Sư Tề nên có ý định tiến cử. Chàng nho sinh tạ ơn:
- Kẻ tiện dân rất cảm kích lòng rộng rãi giúp đỡ của ngài, song le vốn là kẻ ưa bay nhảy, chí chưa muốn trụ lại một nơi.. Vả lại ngày nay, Quý Ly chuyên quyền lại thâm độc. Tụ lại một nơi không có lợi. Tiểu nhân không muốn ông ta nhận ra chân tướng của mình. Tiểu nhân muốn là kẻ chìm trong bóng tối... nhưng sẽ hết lòng phụng sự ngài.
Quan Thái bảo Nguyên Hàng nghe tiếng cũng muốn thu dụng làm người tâm phúc. Ngưu Tất nói riêng với ông:
- Trước khi chết, sư phụ tôi có gửi cho tôi một lá thư nói về người sư đệ này. Thầy tôi bảo Phạm Sinh có tài lại có chí. Thu nạp được là điều tốt. Tôi đã bảo: nếu đệ không muốn ở dinh thượng tướng, thì có thể sang dinh quan Thái bảo. Chú ấy cười nói: “Đệ có cái lợi hơn các huynh, Quý Ly chẳng biết đệ là ai, đệ sẽ tìm hết cách để vào bên cạnh Quý Ly”
Quan Thái bảo gật gù:
- Nếu đã có ý ấy còn gì bằng. Làm được như vậy sẽ có lợi gấp nhiều lần. Ta không ngờ trong thiên hạ lại có người tài trí đến như vậy. Mình cũng phải tìm hết cách giúp anh ta.
Vậy là Phạm Sinh đã lộ ra ý định đến gần Quý Ly. Thực ra, tâm hồn anh đầy mâu thuẫn. Chuyện anh là con ông thày chùa nổi loạn Phạm Sư Ôn anh không hở cho ai biết. Hồi anh gặp cha ở lộ Quốc Oai, ông thày chùa nói với Phạm:
- Nhà Trần mục ruỗng rồi. Khắp nơi nhung nhúc bọn tham quan ô lại. Ngôi trời chẳng phải của riêng ai. Quý Ly định cướp ngôi cũng là lẽ thường. Chỉ tiếc rằng ông ta là người tàn nhẫn. Phải diệt ông ta nhưng cũng phải diệt nhà Trần.
Như vậy, mình sẽ đi chung với họ một quãng đường
- Phạm thầm nghĩ - Diệt xong Quý Ly chắc phải chia tay. Đến lúc đó chẳng biết rồi sẽ ra sao. Mục đích của họ chỉ là giữ lại ngôi báu cho nhà Trần.
Sau đó, Phạm Sinh lại quay về ngôi chùa đổ. Ngưu Tất và Tổ Thu trước kia làm tướng trong đội quân của Nguyễn Đa Phương, ngoài phận thủ túc, còn là sư đệ của Phương. Trong trận đánh Lương Giang Thanh Hoá, Quý Ly thua. Đa Phương đem đội quân Thánh Dực rút lui. Đa Phương cậy có công bảo vệ được lực lượng, sinh lòng kiêu ngạo, chê bai Quý Ly, nên bị thái sư giết. Lúc ấy, Khát Chân lên nắm quân thắng được Chế Bồng Nga, xoay chuyển được tình thế. Ngưu Tất và Tổ Thu tham gia trận đánh, vì vậy chuyển sang làm gia tướng tâm phúc của quan Thái bảo và thượng tướng. Cũng may, Quý Ly chỉ giết Nguyễn Đa Phương mà không cho rằng Phương còn có những người thân tín, nhờ đó hai người thoát chết.
Cũng từ đó, hai người căm thù Quý Ly đến tận xương tuỷ, nhất là từ khi được ở gần hai vị đại thần, tinh thần trung quân của Trần Khát Chân và Trần Nguyên Hàng, lòng căm thù ấy càng sâu sắc. Họ sẵn sàng xả thân vì nhà Trần.
Cứ độ một tuần trăng, họ lại mặc giả làm người đánh cá. áo rách nón mê, bơi thuyền trên Đại Hồ, đêm xuống mới lẻn vào đầm Vạc đến ngồi chùa đổ liên lạc với Phạm Sinh. Họ muốn truyền vào trong lòng người sư đệ trẻ tuổi lòng căm hận ngút trời của họ. Ngưu Tất nói:
- Quý Ly chẳng khác loài chó lợn. Đối với vua thì lăm le tiếm ngôi, đó là tội bất trung. Đối với thầy, cụ Sư Tề chẳng khác gì cha thế mà cũng tìm cách săn đuổi, đó là tội bất hiếu. Đối với Đa Phương đã nhận làm em mà cũng nỡ đang tâm giết chết, đó là tội bất nghĩa. Tàn tặc nào bằng! Trời đất cũng phải nghiến răng căm hận.
Hai người còn luôn thông tin cho Phạm Sinh biết tình hình triều chính, cho chàng đọc những bài viết phản đối Quý Ly như bài Phản Minh Đạo của Đoàn Xuân Lôi, tờ tấu ngăn việc dời đô của Sử Văn Hoa. Hôm ấy, họ mang đến cho chàng bài biểu của một tôn thất nhà Trần sau trốn sang nhà Minh xin giúp đỡ.
Cáo nạn biểu
Hạ thần là Trần Thiêm Bình cháu quan tư đồ Trần Nguyên Đĩnh đã hầu hạ vua Trần từ bé, làm quan đến hàm tứ phẩm, sau đó giúp việc cho quan tư đồ. Năm Kỷ Tỵ, đời Hồng Võ, sau khi Võ Tiết Hầu Trần Khát Chân diệt giặc Chế Bồng Nga, cha con tặc thần Lê Quý Ly âm mưu cướp ngôi đã vu oan giết hại tôn thất nhà Trần: quan tư đồ Trần Đĩnh, quan thiếu bảo Trần Tôn, sau đó là Trang Định Vương Trần Ngạc. Những bậc trung lương bị giết kể có hàng trăm. Anh em vợ con thần cũng đều bị giết hại, lại sai người đuổi bắt thần định chém đầu muối xác.
Thần phải thay hình đổi dạng, trốn lủi trong dân gian, ẩn mình trong hang núi, lưu lạc sang nước Lão qua, tìm mọi cách tới nơi cửa khuyết để phơi bày gan ruột. Phải lặn lội cực khổ mấy năm ròng mới trông thấy mặt trời.
Thần trộm nghĩ Lê Quý Ly là con của cố kinh lược sử Lê Quốc Kỳ, đời đời ăn lộc nhà Trần, thế mà một khi đắc ý đã manh tâm thoán đoạt. Nay hắn đã phế truất Trần Thuận Tôn là con rể, đưa Trần An cháu ngoại y lên ngai vàng, để dễ bề làm việc đại nghịch, không thèm kính nể gì mệnh lệnh của thiên triều, khiến cho các bậc trung thần nghĩa sĩ phải đau lòng nhức óc.
Lê Quý Ly đang dời đô. Nhà Trần sắp mất.
Mong Hoàng đế cử đội quân thăm dân, phạt tội, với danh nghĩa giúp dòng dõi sắp đứt quét sạch bọn gian hùng, thì thần đây dù chết cũng không nát.
Thần nguyện bắt chước lòng trung của Thân Bao Tư quỳ kêu xin dưới cửa khuyết, mong Hoàng đế rủ lòng xem xét.
Chàng nho sinh đọc xong bài biểu cứ ngồi lặng im. Khó ai biết nổi lòng chàng đang nghĩ gì. Phạm Ngưu Tất nói:
- Tình hình cấp bách lắm rồi. Một nửa triều đình đã vào Tây Đô. Gia quyến quan Thái bảo, và thượng tướng cũng rục rịch rời Thăng Long. Âm mưu thoán đoạt của họ chỉ là nay mai. Các nghĩa sĩ trung thần ở địa vị nào cũng đang làm hết sức mình tận trung cứu nước. Nhà Minh cũng hứa sẽ giúp chúng ta. Tiểu đệ còn nghĩ gì nữa?
Chàng nho sinh cười:
- Đệ cũng đang làm việc của mình đấy chứ. Chỉ có khác, việc của đệ làm phải lặng lẽ. Càng lặng lẽ càng thuận lợi... Và có lẽ còn cần đến sự chậm chạp...
Phải nói, những tin tức, và lòng sốt sắng tận trung với nhà Trần, chí căm thù đối với Quý Ly của Tổ Thu và Ngưu Tất ảnh hưởng đến Phạm Sinh không phải nhỏ. Những tác động ấy cộng với hình ảnh về cái chết của người mẹ, của thầy Sư Tề cộng với tiếng kêu của Sư Ôn trước khi bị trảm quyết: “Nhớ lấy! Hãy trả thừ” làm Phạm Sinh dần dần hình thành trong óc quan niệm: chính Quý Ly là người đã gây ra tất cả mọi chuyện đau thương trên đất Đại Việt. Và bởi vì chỉ trực tiếp gặp gỡ tâm sự với Tổ Thu và Ngưu Tất nên dần dần ngọn lửa bừng bừng trong họ cũng truyền mạnh sang chàng...
Thực ra, Phạm Sinh có một điểm rất khác mà mọi người gần chàng đều không hiểu. Đó là quan niệm về thời gian mau chậm. Người chung quanh đều như hối hả cuống quýt. Người ta bảo xây dựng xong Tây Đô là mọi việc sẽ xấu hẳn đi. Người ta bảo cần diệt Quý Ly ngay, cứ như thể diệt xong con người ấy là mọi việc sẽ lại tốt đẹp. Nhanh chóng sẽ tốt ư? Chậm chạp sẽ hỏng ư? Biết đâu đấy, dòng đời tuy đủng đỉnh nhưng vẫn có cái lý riêng của nó. Nó ẩn ngầm tác động chẳng theo ý ai. Nó cuốn phăng ta cùng trôi với nó, còn ta háo hức theo dòng mà cứ tưởng như chỉ riêng mình nhìn thấy chân trời, nhưng thực ra ta làm vậy chỉ vì cái nghiệp. Ta gánh chịu số phận riêng mình bởi vì ta đã từng gieo mầm ấy...
Nói là đủng đỉnh, nhưng sự thực là sự đủng đỉnh háo hức. Con ếch trông thấy con rắn như bị thôi miên. “Quý Ly và ta, ai là rắn ai là ếch?”. Nói thực lòng, anh rất bị hấp dẫn vì con người độc đáo ấy. Cả xã hội, nhất là những con người như Khát Chân, Ngưu Tất, quan Thái bảo... đều thù hận ông ta. Còn anh, khi đọc xong cuốn Minh Đạo của Quý Ly, Phạm Sinh thấy bàng hoàng, và hình như anh thấy căm ghét ông ta hơn, đồng thời cũng bị hấp lực của sự táo bạo của ông ta cuốn hút. Nhưng liệu sự căm ghét ấy là cảm nhận của riêng anh, hay chỉ là cái bóng mơ hồ của những ý kiến đương thời? Anh chỉ là một cánh bèo trong cái biển thù hận. Và Phạm Sinh càng bị thu hút hơn, tìm mọi cách đến gần Quý Ly.
Phạm Sinh ngồi bán chữ ở gốc đa Báo Thiên, để ý thấy có một phu nhân cứ cách vài ngày lại đến lễ chùa. Bà đi kiệu sơn nâu, thường mặc áo mầu tối, nhưng dáng vẻ rất nghiêm trang và cao quý. Anh hỏi Ngưu Tất và Tổ Thu, họ cho biết người phụ nữ tôn quý ấy là ai. Phạm Sinh để ra mấy ngày ròng rã mới vẽ xong một bức tranh rất đẹp. Anh treo bức tranh độc nhất ấy lên gốc cây đa.
Người tò mò bâu đến xem. Bức tranh khổ dài vẽ một cành trúc trên cao và những chiếc lá trúc đang rủ xuống, rơi xuống thấp; những chiếc lá quấn quýt lấy nhau, điểm xuyết vào đó là một đôi chim như đang xòe cánh lượn, chúng nô đùa với nhau hay chúng đang tìm cách để nâng những chiếc lá lên ngăn cho chúng chẳng được rời cành.
Có người hỏi mua, nhưng chàng đặt giá quá cao nên không ai mua nổi. Phu nhân áo sẫm màu, một buổi sáng đến lễ, thấy đám đông xúm quanh gốc đa, sai thị tì đến hỏi xem chuyện gì. Thị tì đến, rồi quay về bẩm:
- Dạ, người ta bán tranh, nhưng đòi giá cao lắm.
Phu nhân tò mò bước đến. Đám đông vội rẽ ra.
Phạm Sinh ngẩng lên, thấy phu nhân trạc tuổi sáu mươi, da dẻ trắng xanh, tóc bạc, khuôn mặt trái xoan buồn bã có đôi mắt rất hiền từ. Phu nhân ngắm bức tranh, rồi gật đầu:
- Ta không sành về hoạ, nhưng thấy bức tranh trang nhã. Phu quân ta rất yêu tranh, nhưng phải là tranh đẹp mới được.
Phạm Sinh nói rất tự tin:
- Bẩm phu nhân, nếu là tranh không quý, kẻ hèn mọn này sao dám đặt giá cao?
- Đắt ta cũng mua. Chỉ hiềm không biết phu quân ta có ưng hay không.
Chàng nho sinh lễ phép:
- Kẻ vẽ tranh chỉ cốt gặp được người tri âm. Phu nhân cứ mang bức vẽ về. Nếu tướng công không ưng, kẻ tiểu nhân này tình nguyện sẽ xé bức hoạ, và bẻ bút không làm nghề bán tranh nữa.
Phu nhân cười, trả tiền, rồi mang bức hoạ về nhà. Phu nhân đó chính là công chúa Huy Ninh, vợ thái sư. Bà vẫn thường đến dâng hoa cúng Phật ở tháp Báo Thiên. Bà đều đặn đến chùa đọc kinh sám hối, cầu nguyện cho chồng. Gặp bức hoạ của Phạm Sinh, bà rất ưng. Bà thấy những chiếc lá trúc và đôi chim rất đẹp. Thần tình ở chỗ những chiếc lá trúc vẽ bằng mực đen, nhưng lại trong veo hình như đang ửng nàng. Đã lâu bà không mua quà tặng chồng. Bà đem về, treo bức tranh ở toà hậu đường cung Hoa Lư. Bà ngồi ngắm nghía, càng ngắm càng thấy bức tranh có duyên. Đôi chim xòe cánh rất vui, hình như mắt của chúng cũng mang mầu nắng. Tuy nhiên, bà vẫn phập phồng lo ngại, không biết bức tranh có làm thái sư vui lòng chút nào không?
Thái sư Quý Ly chiều hôm ấy đến thăm vợ. Trông thấy bức tranh trên tường, ông đến gần để ngắm. Công chúa Huy Ninh theo dõi nét mặt của chồng. Ông đến sát, rồi lại lùi ra, nghiêng đầu xem xét, rồi cuối cùng gật đầu làm phu nhân cũng vui theo. Tưởng chỉ đến thế, nhưng ông vẫn đứng nguyên tại chỗ và thốt lên “quái lạ”. Ông lại ngắm bức tranh lần thứ hai, lần này lâu hơn, kỹ lưỡng hơn. Cuối cùng ông à lên một tiếng và hỏi:
- Bà mua tranh này ở đâu?
- Của một nho sinh ở tháp Báo Thiên... Nhưng... Ông đã thấy điều gì trong đó?
- Ở đây có hai điều đặc biệt. Thứ nhất: nét vẽ của người này cũng là nét vẽ bốn bức tranh tứ phụ mà đức Nghệ Hoàng đã ban cho tôi. Thứ hai: điều này thật tài tình... bà hãy nhìn những chiếc là tre đang rơi xuống... theo hai dòng đấy... nhìn kỹ mới thấy chúng xếp thành những chữ. Đúng chưa?
- Dòng thứ nhất thành những chữ gì?
- Thiên... Thụ... Quế... Chà, khéo thật!
- Còn dòng lá thứ hai chắc chắn bà nhận ra ngay là tên bà Nhất Chi Mai... giỏi thật! Người nho sinh này đã biết hai câu đối xưa kia.
Thanh thử điện tiền thiên thụ quế
Quảng hàn cung lý nhất chi mai.
Anh ta còn nói với bà thế nào nữa?
- Anh ta còn bảo nếu tướng công không thích, anh ta tình nguyện xé tranh và bỏ bút không vẽ nữa.
Thái sư Quý Ly và bà Huy Ninh bỗng nhìn vào mắt nhau, cười to. Đã lâu lắm bà Nhất Chi Mai mới được nghe thấy tiếng cười sảng khoái của chồng, trên gương mặt buồn của bà, cũng đã lâu lắm nét hoa mới rạng rỡ hẳn lên.
Sau đó, phu nhân Nhất Chi Mai ốm rồi nằm liệt giường. Bà ốm mấy tháng liền, không đi chùa được nữa, nhưng không ngày nào bà quên dâng hoa và đọc sám kinh trước tượng phật A Di Đà thờ ngay gian giữa. Sáng hôm ấy, đột nhiên bà thấy trong người dễ chịu. Bà ra ngồi trên chiếc ghế bành. Con gái bà, hoàng hậu Thánh Ngẫu đến thăm mẹ, dâng lên một bó hoa hồng. Bà đã ngồi đúng như pho tượng của bà hiện nay, giơ hai bàn tay ngọc ngà ra phía trước, đẩy bó hoa đỏ ra xa và lắc đầu:
- Ở đây không dùng hoa đỏ. Ta chỉ xin con, sau khi ta mất, hãy hàng ngày thay ta dâng hoa cúng Phật. Có hai cây đại trắng trước cửa nhà ra hoa quanh năm. Hãy hái những bông hoa vừa trắng vừa thơm ấy dâng lên bàn thờ Phật giúp mẹ. Còn bàn thờ mẹ, con chỉ cần nhặt vài bông rụng trên sân rêu đặt lên là đủ...
Ngày hôm ấy, bà đã ra đi vĩnh viễn, sau khi dâng đĩa hoa trắng sở nguyện lên trước bàn thờ Phật A Di Đà và cúi đầu đảnh lễ.
Hồ Quý Ly
Chương 4 Cũng vào khoảng thời gian ấy
Cũng vào khoảng thời gian ấy, một đêm, Phạm Sinh mất ngủ, đang nằm nghĩ ngợi liên miên trong ngôi chùa đổ, bỗng nghe tiếng lũ chim xáo xác ngoài vườn. Anh nghĩ; lại có bọn đi ăn sương nào xong việc về ngủ tạm ở chùa? Hay chẳng lẽ sư huynh Tổ Thu hoặc Ngưu Tất có việc gấp đến gặp ta? Phạm Sinh tập trung tinh thần lắng nghe. Lũ chim vẫn tiếp tục xáo xác. Điều này khác thường, bởi vì khi người đi qua xong, lũ chim lại im lặng ngay. Vậy đã có ai đang ngồi dưới những tán cay, ngay ở chỗ lũ chim trên cao trú ngụ. Lẫn trong tiếng xáo xác ấy hình như có chen thêm một tiếng lạ. Thoang thoảng tiếng ti tỉ - Ô hay? Có người đang khóc? Phạm Sinh mò trong bóng tối ra vườn chùa. Đúng là có người đang khóc thật. Anh lần theo tiếng khóc đến chỗ con trâu đá, và hỏi:
- Ai đấy? Làm sao lại đến đây mà khóc?
Hai mẹ con người đàn bà rách rưới ẩn trốn dưới bụng con trâu đá. Phạm Sinh dìu họ vào trong chùa. Người mẹ đã già, cô con gái mới chừng đôi tám. Cô ăn mặc rách rưới nhưng không dấu được những nét xinh đẹp khác thường. Họ bị lạnh cóng và đói lả. Phạm săn sóc nấu cháo cho ăn. Họ nhìn Phạm như e ngại, có vẻ muốn dấu diếm điều gì. Nhưng rồi thấy sự ân cần và biết Phạm cũng chỉ là một kẻ vô gia cư, bán chữ sinh nhìn, nên bà mẹ tỏ lòng tin cậy, thú nhận:
- Mẹ con tôi chỉ là những người đang chạy trốn. Chồng tôi bị quan thái sư tống giam ngục thất...
- Chồng bà là ai?
- Ông ấy là quan thái sử Sử Văn Hoa.
- Tôi hiểu rồi. Nay mẹ con cụ định đi đâu?
- Mẹ con tôi đang đêm trốn khỏi làng định đi thật xa, nhưng chẳng biết chồng tôi sống chết ra sao, nên định nấn ná tìm nơi trú tạm gần Thăng Long, để chờ biết tin của ông ấy ngã ngũ ra sao...
Phạm ngẫm nghĩ rồi nói:
- Bà cụ đừng sợ. Nếu vậy, tôi có thể thu xếp được. Khu đầm Vạc này vắng vẻ lắm. Chỉ có vài người xiêu tán dựng mấy túp lều bên hồ kiếm ăn bằng cách mò cua, đánh dậm... Người ta đến rồi lại ra đi. Gần chùa có một túp lều bỏ hoang, mẹ con cụ ở tạm nơi đó thật kín đáo. Việc dò hỏi tin tức đã có tôi lo.
Tổ Thu, Ngưu rất ban đêm bơi thuyền lẻn tới ngôi chùa đổ liên lạc với Phạm Sinh, nghe câu chuyện của mẹ con bà Sử Văn Hoa. vừa ngậm ngùi vừa bừng bừng nổi giận:
- Cụ Sử Văn Hoa là người tài cao đức trọng, đầy khí tiết, thế mà ngày nay thân phận tử tù. Nông nôi này do bởi tay ai? Việc giúp đỡ mẹ con bà là nghĩa cử phải làm của chúng ta.
Từ đó, Phạm Sinh có hai mẹ con bà Sử làm hàng xóm nên cũng đỡ hiu quạnh. Có Tổ Thu và Ngưu Tất giúp đỡ gạo nước, cộng thêm với đồng tiền viết mướn của Phạm Sinh, nhưng họ cũng không ỷ lại. Cô con gái tên là Thị Hạnh vẫn hàng ngày xuống hồ mò cua bắt ốc. Cô bận bịu làm, đi kiếm ăn xong lại về nấu cơm phụng dưỡng mẹ.
Bà mẹ, cô bán rượu làng Mơ xinh xắn thủa xưa, nghèo khó, nhưng đã truyền lại cho con gái một gia tài vô giá đó là sự duyên dáng tươi tắn. Cô Hạnh cũng có đôi mắt bồ câu của mẹ. có tiếng nói trong veo và ấm áp của mẹ, nhưng cô còn được thừa hưởng thêm sự thông minh sắc sảo của người cha. Sự thông minh bén nhậy ấy làm cho sắc đẹp của cô trở nên tinh tế hơn. Cô biết cách nói bằng ánh mắt, bằng nụ cười, bằng cái dáng vẻ không nói. Tất cả những thứ ấy, âm thầm trong con người cô, nhưng nó vẫn toát ra lặng lẽ mỗi khi ta gặp, để tạo nên một cảm giác mà người đời vẫn gọi là “có duyên”. Cô Hạnh sợ người ta chú ý, cố dấu nét duyên ấy đi bằng sự lam lũ nghèo hèn, bang cái bề ngoài nâu sồng lấm láp, bằng chiếc khăn vuông tùm hụp suốt ngày; sự kín đáo ấy ngay cả trước mặt Phạm Sinh cô vẫn giữ. Nhưng ngay từ lúc đầu mới gặp, nhìn vào mắt cô, anh đã nhận ra cái duyên ngay. Đôi mắt người nguỵ trang khó nhất. Anh học trò viết Sử Văn Hoa, ngày xưa, trong khốn khó đã tìm thấy cái duyên của cô bán rượu làng Mơ thế nào, thì ngày nay anh chàng viết mướn bơ vơ trong ngôi chùa đổ cũng nhận ra cái duyên của cô Thị Hạnh như vậy. Một mối tình thầm lặng được nhen.
Một hôm, cô Hạnh ngồi trên một phiến đá vườn chùa nói chuyện với Phạm. Cô ngồi nghiêm trang, hai tay đặt trên đầu gối. Bỗng nhiên Phạm chăm chú nhìn cô, rồi bảo cô giơ hai tay từ từ đẩy ra phía trước, những ngón tay cong lên. Anh ngắm nghía, nhìn nghiêng rồi lại nhìn thẳng nét mặt của Hạnh. Hạnh đỏ mặt lên cười khúc khích. Mấy hôm sau, anh đã vẽ được một bức tranh. Cô Hạnh nhìn bức tranh người phụ nữ nõn nà, với dáng vẻ buồn cao quý đương ngồi tay đẩy ra phía trước. Hạnh ngạc nhiên:
- Huynh vẽ em đấy ư? Sao quần áo em lại sang trọng như một bà mệnh phụ? Sao mớ tóc em lại được búi cao và trên đó có mũ vàng trâm ngọc? Sao nét mặt lại u buồn... như đức Phật?
Phạm gật đầu khe khẽ:
- Đúng! Huynh vẽ muội là đức Phật.
- Huynh điên rồi sao?
- Cả em, cả bà ấy đều giống Phật.
- “Bà ấy”? Huynh nói thế là nghĩa làm sao?
- Bà ấy là một người nhân hậu. Tôi chỉ một lần giáp mặt đã nhận ra ngay... Hàng ngày bà đến chùa dâng hoa. Dáng vẻ của bà ấy mới tôn quý làm sao, u buồn làm sao... Cả em cũng vậy, mới nhìn vào mắt em lần đầu tiên, huynh đã thấy ngay...
- Huynh điên thật rồi Những lời nói sao em không hiểu.
- à! Bà ấy là công chúa... bà Huy Ninh... bà thái sư. Ôi. sao mắt bà ta buồn làm vậy... Đã lâu chẳng thấy bà ấy đi chùa... Rồi hôm trước, nhìn thấy em trên tảng đá chợt nghĩ, hình như em có nét hao hao... Huynh đã trộn lẫn cả hai người vào tranh. Ở bà là nét u buồn cao quý nhưng đôi mắt bà tối quá. Phải đem sự trắng trong, sự ấm áp của mắt em vào tranh... Chắc là như thế... Phải, đúng rồi Bởi vì em là tuổi trẻ... em bồn chồn... nhưng cuộc sống còn dài. Em lo lắng cho số phận của cha. nhưng vẫn còn những tia hi vọng... Nhưng ở mắt bà, chẳng thấy le lói một mảy may sự sống. Huynh thầm nghĩ chắc bà ta chết rồi, cảm thấy bà Huy Ninh đã chết rồi.
- Câu chuyện của huynh thật buồn...
- Và nếu đoán không sai, ông ta sắp đến đây.
- Ông ta là ai?
- Ông ta là thái sư, là Hồ Quý Ly.
***
Điều Phạm Sinh dự đoán đã xảy ra thật. Một buổi sáng, có người lính ở cung Hoạ Lư đến gốc đa tháp Báo Thiên, đưa giấy mời Phạm đến ngay phủ thái sư. Phải qua bao nhiêu thủ tục rườm rà, phải qua bao nhiêu toà ngang dãy dọc, Phạm mới đến được cung Hoạ Lư nổi tiếng.
Người lính dẫn đường trao Phạm cho viên lực sĩ nội vệ dẫn anh đi trên con đường đá xanh từ cổng đến toà tiền điện. Phạm liếc nhìn cái sân lát gạch đỏ mênh mông và dãy chậu đá khổng lồ, ở đó mọc đủ các thứ hoa quý hiếm. Đến trước đôi rồng đá, người lực sĩ bắt anh dừng lại, chỉnh đốn khăn áo. Hắn đi vòng quanh Phạm, ngắm nghía anh từ đầu đến chân, rồi vuốt ve quần áo, chỉnh lại chiếc khàn nhiễu tím cho anh. Phạm hiểu, hắn muốn xem anh có gài dắt thứ gì sắc nhọn trong người. Cuối cùng, sau khi đã yên tâm, hắn mới dẫn anh bước lên chín bậc thềm đá để vào nhà tiền điện.
Thái sư ngồi trên chiếc sập cao đặt chính giữa, sau lưng ông ở hai phía tả hữu là hai bức đại hoành rực rỡ “Vô dật nãi dật” và “Nhật nhật tân”.
Quý Ly cho Phạm ngồi ở chiếc đôn phía dưới, cách xa ông. Thái sư cất tiếng hỏi:
- Có phải anh chính là người vẽ bức hoạ trúc mà phu nhân ta đã mua về từ tháp Báo Thiên?
- Bẩm thái sư, đúng kẻ học trò này.
Thái sư vuốt râu, đôi mắt sáng của ông nhìn vào mặt Phạm rồi nói bằng cái giọng vang và trầm:
- Vẽ khéo đấy Nhà ngươi có thể vẽ... ngay lúc này, trước mặt ta? à, cũng chẳng cần vẽ. Viết cũng được. Chỉ cần viết một chữ đại tự. Thế nào? Có được không?
- Kẻ tiểu nhân xin viết - Phạm Sinh điềm đạm nhận lời.
- Ta cho phép tự chọn. Viết chữ gì cũng được. Tuỳ ý.
Người hầu bê ra cái nghiên mực lớn bằng đá, một bó bút các cỡ, một tờ giấy đại bạch, một tờ hồng điều, một vuông lụa lớn. Phạm chọn cái bút to nhất và tấm lụa bạch. Tấm lụa được căng lên khung. Phạm trầm ngâm đứng trước tấm lụa, mắt nhắm lại hồi lâu, tay đặt lên đầu chạm vào chiếc bút cài sau gáy.
Rồi anh choàng mở mắt, chấm chiếc bút vào nghiên đá, khẽ quay đầu bút vài vòng, rồi khoan thai như múa chiếc bút trên nền lụa.
Thái sư chằm chằm nhìn. Một chữ lớn đen nháy, khỏe khoắn, dịu dàng hiện lên trên mầu trắng ngà tinh khiết. Ông nói:
- Chữ “Thần” ư? - Thư pháp được đấy. Nhưng tại sao lại chữ thần? Ngươi nghĩ gì mà viết chữ thần?
- Tiểu nhân mạo muội xin phép được nói. Trộm nghĩ: mọi vật không có thần sẽ bất dạng. Người không có thần là kẻ thất phu. Kẻ viết chữ không có thẩn chỉ là con mọt sách. Việc làm không có thần chỉ là việc làm của phường ngu muội. Ngay cả đến sông kia, núi kia, tất thảy đều mang một chữ thần, nên mới làm cho bậc tao nhân mạc khách phải ưu tư, làm cho kẻ sĩ trong thiên hạ phải đau đáu tấm lòng...
Thái sư lặng lẽ khoanh tay trước ngực rồi gật đầu:
- Thôi được. Ta hiểu ngươi - giọng ông chợt như trầm xuống - Sở dĩ hôm nay ta gọi ngươi đến, vì muốn nhờ ngươi một việc. Từ ngày phu nhân của ta mất đi, ta muốn có một bức tranh vẽ bà. Cứ băn khoăn tìm người hoạ sĩ mãi. Đêm trước, bà về trong mộng, bảo ta sao không đến tháp Báo Thiên, tìm người viết thuê dưới gốc đa, người đã vẽ bức trúc hoạ. Vậy ngươi có nhớ được mặt bà không? Có thể vẽ lại được không? Tiểu nhân đã nhiều lần thấy phu nhân đến chùa dâng hoa cúng Phật. Tiểu nhân vẫn còn nhớ được dáng vẻ tôn quý của người. Dạ thưa đó là khuôn mặt từ bi...
- Đúng? Phu nhân ta là người nhà phật... Đúng? Ngươi đã biết tên bà là Nhất Chi Mai... chắc phải rất chú ý. Và đã chú ý chắc phải nhớ. Cũng chính vì vậy nên ta đã quyết định gọi người đến. Ta hẹn ngươi trong mười hôm, ngươi hãy về nhớ lại, vẽ bức hoạ về bà. Nhớ gắng hết sức. Ta sẽ trọng thưởng.
Phạm Sinh trở về ngôi chùa đổ, tìm cách báo tin cho Tổ Thu và Ngưu Tất biết chuyện. Một đêm, hai người lẻn đến ngôi chùa đổ. Tổ Thu nói:
- Quan thượng tướng bảo đã đến gặp được Quý Ly là điều rất tốt. Chỉ có điều ông ta đa nghi, kỹ lưỡng. Để đến gần ông ta hơn nữa không phải dễ. Đệ cần phải nhớ ngay như sư huynh Nguyễn Đa Phương đã được ông nhận làm nghĩa đệ mà ông ta vẫn nghi ngờ, khi cần vẫn giết.
Ngưu Tất truyền lại lời của quan Thái bảo Nguyên Hàng:
- Từ nay cần ít liên hệ với người bên ta. Quý Ly khi gặp có nói: đã biết tên phu nhân là Nhất Chi Mai chắc người phải rất chú ý rồi, tức là trong đầu óc ông đã muốn tìm hiểu người bán chữ này là ai, tại sao lại quá quan tâm tới gia đình thái sư như vậy.
- Đệ xin ghi lời các sư huynh. Và đệ đã có cách... Chắc chắn bức tranh của đệ vẽ bà Nhất Chi Mai phải làm ông ta ưa thích.
Khi sắp đến ngày gặp thái sư, cô Hạnh rất lo lắng.
- Hang hùm đấy? Cha em đã gặp nạn vì vào đó, đến nay còn chưa biết sống chết. Em thật không hiểu chốn hang hùm ấy có cái gì lại hấp dẫn được cả anh.
- Chính vì muốn giúp những người như cha em, nên anh phải vào đó.
Cô gái cúi đầu:
- Mẹ con em lúc này bơ vơ. Nhỡ anh có thể nào...
Phạm Sinh mang bức tranh đến gặp thái sư. Trông thấy bức tranh, Quý Ly mắt sáng hẳn lên.
- Thật tài hoa. Từ bi. đúng là từ bi như bà ấy? Mà lại giống. Nhà ngươi có trí nhớ thật tài tình... có bàn tay vàng... Thần! đúng là thần hoạ! Này lúc nhà ngươi giảng giải cái thần, ta lấy làm... sốt ruột quá... Nhưng hôm nay, xem tranh, ta mới hiểu ngươi thực lòng. Thái sư nhìn sâu vào mắt Phạm - Ta thích sự thật lòng.
Phạm Sinh nhún nhường:
- Đa tạ thái sư quá khen.
Quý Ly cầm khư khư bức tranh người đàn bà buồn rầu đang đẩy hai bàn tay ra phía trước, ngắm nghía không chán; hôm ấy ông thật cởi mở. dễ tính. Chính ông dẫn Phạm vào toà hậu điện nơi thờ Phật và thờ bà vợ Tự tay ông treo bức hoạ lên bàn thờ, thắp hương, rồi dịu dàng thì thầm trong tâm tưởng:
- Phu nhân hãy về mà xem. Phạm Sinh đấy, người thợ vẽ mà bà trân trọng đấy. Anh ta đã vẽ bà cũng trân trọng như tấm lòng của bà. Kìa? chàng thư sinh đang hái hoa đại để dâng lên bàn thờ. Ai mách bảo mà anh ta biết bà thích những bông hoa mầu trắng?
Mà kỳ lạ thật. Từ lúc vào đây, Phạm trông thấy hai cây hoa đại, và như có một hấp lực ẩn ngầm vào đó đã hướng dẫn chân anh đến cây hoa. anh cung kính hái để dâng lên cúng bà. Và anh cũng không ngờ cử chỉ tự nhiên ấy bỗng dưng tạo rất nhiều thuận lợi cho anh. Quý Ly hỏi chàng nho sĩ:
- Nhà ngươi thấy nơi đây ra sao?
- Dạ, thật tĩnh! Đúng như sự tưởng tượng của tiểu nhân về phu nhân. Nhưng lúc này, chợt thấy như còn thiếu một chút gì đó...
- Thiếu gì?
- Dạ, tiểu nhân chợt nảy ra một ý... Có lẽ một pho tượng... Vâng, đúng! Một pho tượng của phu nhân.
- Sao?
- Vâng! phải tạc một pho tượng. Bằng gỗ ư?... không!
- Tốt nhất là bằng đá... đá cẩm thạch... hay đá trắng? Tinh khiết... như Phật bà... Vâng pho tượng lớn bằng người thực... rất tinh khiết và từ bi...
- Hay? Ngươi nghĩ như thế cũng phải. Vậy thì ngày mai, ta sẽ cho ngươi thợ, cho ngươi đá.. sẽ tạc một pho tượng bằng đá trắng giống hệt như bức tranh ngươi đã vẽ... Ngươi phải đứng lên trông nom cho ta.
Câu chuyện về pho tượng đá trắng, về pho tượng người đàn bà tinh khiết như Phật bà xảy ra như vậy đó. Thái sư sai người đến làng Nhồi, Thanh Hoá, tìm một tốp thợ khéo tay nhất, tìm một tảng đá trắng đẹp nhất mà dân làng Nhồi vẫn thờ ở đình làm vật hương bảo, một tảng đá mà họ chỉ dành để tiến vua, để tạc một pho tượng quý. Nghe nói tìm đá tạc tượng công chúa Huy Ninh, một bà công chúa từ bi của dòng nhà Trần, làng Nhồi sẵn sàng cung tiến ngay.
Hôm khởi công tạc tượng, phường thợ làm lễ, ông thợ cả dâng hương hoa. Rồi ông lấy chiếc dùi gỗ gõ vào tảng đá. Tiếng đá vang vang như tiếng chuông vàng; dứt hồi gõ vẫn ngân nga kéo dài không muốn dứt. Thái sư đến dự, ông nghe tiếng đá ngân như tiếng thì thầm dịu dàng của bà Huy Ninh còn lưu lại trên đời.
Xưởng đá nằm trong hoàng cung. Hàng ngày, tốp thợ và Phạm Sinh đều đặn đến đó từ sớm. Ông thợ cả cùng Phạm Sinh nghiên cứu bức hoạ tỉ mỉ rồi mới cho đục. Khó nhất là gương mặt sao cho thật giống. Phải có nỗi buồn nhân thế nhưng không bi luỵ. Khi tạc gương mặt bà Huy Ninh chính tay ông thợ cả phải làm suốt mười lăm ngày ròng rã. Thái sư đến thăm, bắt gặp cuộc trao đổi giữa ông già và Phạm Sinh.
- Tôi đã thấy gương mặt từ bi của đức Phật - ông già nói - Mắt đã toả ra ánh dịu dàng.
Phạm Sinh lắc đầu:
- Gương mặt mới chỉ là trìu mến, hiền hậu, ánh mắt hãy còn hẹp. Gương mặt bà phải toả ra bao la rộng rãi. - Anh chau mày lại, tìm lời diễn tả - Thế nào nhỉ. dưới ánh mắt của bà, người thiện cũng như người ác đều được ân huệ, ví như một bóng mát bao la giữa mênh mông nắng. Người tốt thấy mình tốt hơn. Người xấu không thấy xấu hổ và chợt lóe nhìn thấy ánh sáng vơi nhẹ. Nghĩa là ta cảm thấy an lành... Đúng... phải cảm thấy an lành, đó là điều cần đạt tới...
Rồi Phạm hì hục dội nước để ông già lấy đá nháp mài đi những nét tục còn đọng lại đó đây trên pho tượng đá. Thái sư gật đầu:
- Ngươi hiểu đúng. Ở phu nhân chính là sự an lành. Ta thấy sự an lành trong bức hoạ của ngươi còn toả ra trên đôi bàn tay ngà.
Cụ thợ cả gãi đầu:
- Vâng. Tạc tượng khó nhất là gương mặt và đôi bàn tay. Bàn tay cũng là gương mặt của người. Bẩm thái sư hoàn thiện đôi bàn tay cho thật ưng ý có khi mất tới nửa tháng.
Cũng nhờ việc làm tượng lâu như thế. Phạm Sinh đã nhiều lần được nói chuyện với thái sư. Quý Ly dần dần thấy mến và hiểu chàng nho sinh ngoài tài viết vẽ, con có một sức học khá uyên thâm. Ông hỏi:
- Có phải nhà ngươi là người đã vẽ bốn bức tranh tứ phụ?
- Bẩm vâng.
Con trai ta, quan kiểm pháp Nguyên Trừng cũng là người vẽ tranh, rất khen nét bút của ngươi.
Đó là điều vinh hạnh cho kẻ học trò này.
- Ta nghe nói thượng tướng Khát Chân, sau khi nhìn ngươi vẽ xong, thấy mến tài, có ý định tiến cử, sao ngươi không nhận?
- Tiểu nhân là người ít gặp may, chính lúc đó lại mắc công việc, phải đi xa ít bữa.
- Ừ! Ngươi vẽ rất khéo, sao lại không vẽ tranh bán? Làm nghề bán chữ, phỏng được bao tiền?
- Bẩm thái sư tiểu nhân bán chữ là vạn bất đắc dĩ, chỉ cốt kiếm sống qua ngày là đủ. Còn nghề vẽ... kẻ học trò này từ khi cầm bút, đã có lời nguyền chỉ vẽ cho người tri âm, tri kỷ.
- à, ra thế. - Rồi ông gật gù - Tiếc thật. Tiếc thật!
- Đáng tiếc, triều đình lúc này đang bận nhiều việc, chưa có điều kiện mở khoa thi, để cho những người trai trẻ như ngươi được vẫy vùng cho thoả chí.
Hồ Quý Ly
Chương 5 Khi bức tượng hoàn thành
Khi bức tượng hoàn thành, Phạm Sinh được thái sư thưởng rất hậu. Lại có lần, quan nội thị Nguyễn Cẩn đến tận nơi ở của Phạm, tức ngôi chùa đổ, mang tặng vải lụa, quà của thái sư, Cẩn nói:
- Thái sư biết anh là học trò có chí. Gắng dùi mài kinh sử, chờ đến khoa thi. Thái sư còn dặn, mà có khi chưa đến khoa thi, có dịp người sẽ cất nhắc.
Phạm Sinh tỏ vẻ cảm động, tạ ơn. Cẩn về, trong lòng Phạm thấy hồi hộp. Anh biết Cẩn là người tâm phúc của Quý Ly; Cẩn đến đây cái chính là để xem xét chàng. Anh thầm nghĩ: như vậy Quý Ly có ý định dùng ta.
Hai mẹ con cô Hạnh, từ ngày về ở tại túp lều hoang bên đầm Vạc, lo việc cơm nước luôn cả cho Phạm Sinh. Hàng ngày, cứ buổi chiều, cô lại mang cơm sang ngôi chùa đổ. Còn bữa trưa, Sinh ăn cơm hàng ngoài chợ Báo Thiên. Trưa hôm ấy, ăn cơm xong Sinh đang lúi húi bên gốc đa nghe thấy tiếng người tíu tít gọi: “Phạm Huynh! Phạm huynh”. Ngẩng đầu lên, thấy cô Hạnh đang rảo bước đi tới. Phạm thầm nghĩ: Hạnh rất hiếm khi xuất hiện ở chỗ đông người, vì sợ lộ hình tích. Sao hôm nay cô ấy lại ra đây? Hạnh đứng trước mặt anh lau mồ hôi trán, má ửng đỏ, vừa nói vừa thở, đôi mắt tươi cười:
- Huynh ơi! Mừng rồi. Mừng quá rồi?
- Nàng nói mừng gì? Sao lại ra đây? Quên cả lời dặn dò mất rồi?
- Huynh ơi? Cha em... Cha em đã về.
- Sao? Nói lại anh nghe.
- Cha em về rồi... Cô gái báo tin vui sung sướng quá đến nỗi hai dòng nước mắt chảy ra. Cha được tha sáng hôm nay... Mẹ bảo mời Phạm huynh về ngay uống rượu với cha em... mừng cho mẹ con em.
Hai người vội vã quay về ngôi chùa đổ. Họ thấy hai ông bà Sử Văn Hoa đang đứng nói chuyện bên cạnh con trâu đá, dưới tán cây nhãn. Hạnh giữ Phạm Sinh đứng lại, thì thầm:
- Ngày xưa cha mẹ em quen nhau ở chỗ con trâu đá ấy.
- Sao?
- Cha bảo, lúc mới ra Thăng Long, cha ở trọ trong chùa đổ. Còn mẹ thỉnh thoảng đến bán rượu, vẫn đặt gánh ở chỗ con trâu đá. Vì ở đó có bóng mát, lại có cái bệ đá dưới chân con trâu, ngồi rất tiện.
Cô gái nói xong cười khúc khích. Phạm cũng cười.
- Thảo nào lúc chạy nạn, đêm hôm đó tối trời đến thế, bác vẫn nhớ đường đến chỗ con trâu đá. Mà này...
- Làm sao?
Cả chúng mình cũng gặp nhau lần đầu tiên ở chỗ con trâu đá... Em không nhận ra ư?... Điều lành đấy... Hạnh đỏ mặt lúng túng, và trông cô càng xinh đẹp. Phạm Sinh đến trước mặt ông già, cúi đầu vái chào. Ông Sử gầy gò lom thom, tươi cười:
- Gia đình tôi được đoàn tụ ngày hôm nay, phải chịu ơn sự cưu mang của công tử nhiều lắm.
Nói xong, ông lễ phép cúi mình vái. Phạm lúng túng không dám nhận lễ. Ông già đi dẫn đầu mọi người vào trong chùa. Ông chỉ một cây đề to, bóng mát toả một vùng:
- Chỗ này xưa kia, người ta xếp giàn củi để thiêu sư Đà La. Sau khi sư chết, có người để tưởng nhớ ông thày chùa từ bi, chết oan uổng, đã trồng một cây đề con vào nơi đó. Thế mà, nay cây đề đã thành đại thụ xum xuê... Còn ngôi chùa thì tiêu điều đổ nát. Nhanh thế đấy - ông nhìn bà và hỏi - Từ dạo ấy đến nay đã bao nhiêu năm rồi nhỉ?
- Từ dạo quân Chiêm đốt phá Thăng Long đến nay đã ngót nghét ba chục năm.
- Nhanh thật! Tôi với bà nay đã thành người già cả rồi.
Ông ngậm ngùi đứng trước pho tượng hộ pháp lở lói:
- Xưa kia, pho ông Thiện đẹp nhất chùa này. Nơi đây vàng son chói lọi. Hương khói không bao giờ tắt. Thế mà ông Thiện nay đã cụt tay.
Cô Hạnh thật khéo. Không biết bằng cách nào đã tìm được một hũ rượu mơ thơm nức. Ông nhấp hớp rượu rồi sáng mắt nhìn vợ:
- Đúng là rượu nhà ta. Những ngày gian truân ấy mà bà vẫn giữ được nó sao?
- Những ngày gần đây, đã thấy nguôi nguôi, chẳng còn ai để ý đến mẹ con tôi nữa. Không hiểu sao tôi cứ tin rằng ông sẽ tai qua nạn khỏi. Tôi bảo con Hạnh: “Nhà mình còn hũ rượu quý chôn ngoài vườn. Con về đào lên. Bố mày sắp về rồi đó...”. Con Hạnh về làng. Nhà mình ở rìa đồng, vang vẻ, không ai để ý...
Ông Sử Văn Hoa tinh ý, đã thấy Hạnh nhìn Phạm mỉm cười và đỏ mặt lên. Ông cũng mỉm cười nói: Con gái tôi mang rượu ngon về, thứ nhất để mừng cha, nhưng thứ hai cũng để tạ ơn Phạm công tử nữa chứ.
Mọi người đều vui vẻ cười ran. Lúc chỉ còn hai người đàn ông bên mâm rượu, ông Sử hỏi:
- Bác nghe em Hạnh nói vừa qua cháu vào hoàng cung làm tượng, được thái sư Quý Ly ban thưởng?
- Bẩm... vâng... thưa bác...
- Nếu ta không lầm... cháu có ý định... đến gàn thái sư.
Phạm nghĩ ngợi, rồi nói:
- Cháu nghĩ... bác là người đã bị ông ta làm cho điêu đứng?
- Đúng vậy. Bác chỉ bị... Ông ta làm cho khổ thôi, còn nhiều người khác bị ông ta cướp đi cả tính mạng.
- Vậy phải làm thế nào? ý đồ của ông ta, hầu khắp mọi người đã biết... Ông ta là một người tài giỏi ư?.. Một kẻ bất trắc ư?... Hay một hôn quân, bạo chúa ngày mai? Phải ủng hộ ông ta hay phải tiêu diệt ông? Cháu là đứa con mồ côi. Ai là người đã giết cha mẹ cháu? Ai là người gây nên sự hôn độn, điêu linh hôm nay? Nhà Trần đã đến thời mạt vận hay sao?... Bao nhiêu câu hỏi cháu đã suy ngẫm, cháu đã thấy lý lẽ của bao nhiêu người và thấy ai cũng có cái lý riêng. Tuy nhiên, chỉ có một điều ai ai cũng thấy, ông ta là một con người quá ư tàn nhẫn...
- Cháu có biết Quý Ly định nay mai đặt quốc hiệu cho nước ta là gì không?
- Cháu chưa được rõ.
Đã có tiếng xì xào ông ta sẽ đặt tên cho nước Đại Việt mình là nước Đại Ngu (Ngu Thuấn). Ông ta có kỳ vọng tạo nên một đất nước rạng rỡ như thời Nghiêu Thuẫn.
- Hồ Quý Ly có niềm say mê quá đỗi. Nó biến ông thành con người việc gì cũng dám làm.
Theo bác tựu trung phải nghĩ tới cái hồn nước cháu ạ. Hồn nước là giấc mơ của người dân. Dân ta mơ như thế nào, ai đi quá giấc mơ ấy cũng không được, chậm hơn cũng chẳng xong. Đi chệch, đi chậm, đi nhanh đều phải thất bại... Hồn nước có cách đi của nó. Có thể vinh quang... tàn lụi.. và máu nữa... Nó chẳng xót thương cho riêng từng người... Ai đi đúng cái đạo nó vạch ra sẽ thành công. Nhưng đạo ấy lại ẩn ngầm... phải tự tìm ra. Chẳng ai có thể thông minh hơn cái hồn của đất nước mình...
- Ý bác định khuyên cháu ra sao?
- Cháu phải tự ngẫm lấy... Những lúc như lúc này có bao nhiêu là gió... Đừng bị cuốn theo các cơn lốc... có khi một cơn lốc mạnh lại dễ làm ta loạng choạng. Môi người một nghiệp. Nghiệp ai người ấy đi. Nghiệp của cháu ra sao? Ma đưa lối quỷ đưa đường... tất nhiên cháu sẽ phải đi theo con đường mà tiền kiếp, quá khứ, gia đình, hoàn cảnh... đã vạch ra cho cháu.. Bác ngăn cũng chẳng được... Ai cản trở cũng chẳng được...
Phạm Sinh mơ màng:
- Cháu đã hiểu... cháu đã mất công toan tính... Cháu như kẻ đi câu... thả miếng mồi thơm... nhử con cá lớn... Cá cắn mồi... và cháu phải giật. Cháu sẽ bắt được cá nhưng cũng có thể.. con cá lớn quá nó sẽ kéo phăng cháu đi...
Phạm Sinh nói xong, anh khẽ mỉm cười.
Một hôm, Sử Văn Hoa đến dinh Trần Khát Chân, thượng tướng hoan hỉ:
- May quá? May quá! Thật mừng cho lão huynh. Trong triều ai ai cũng tưởng thái sư sẽ chẳng tha cho ông.
- Cũng nhờ hồng phúc tổ tiên... Vả lại, tôi bao giờ cũng lấy lòng thành đối đãi với mọi người...
- Lòng thành ư? Cái đức của nó lớn đến mức cảm hoá được cả con người sắt đá như thái sư?
Sử Văn Hoa đem mọi việc, nào chuyện viết sách trong ngục, nào chuyện gặp gỡ Quý Ly kể cho Khát Chân nghe. Quan thượng tướng rất chăm chú; nghe xong ông lặng im không nhận xét, mà chỉ hỏi tới chuyện sau này của Sử. Viên thái sử trả lời:
- Tôi nay đã là người dân thường. Việc sinh kế cũng chẳng đáng lo. Bán mấy mẫu ruộng ở làng đi, mua ít ruộng bên đầm Vạc. Tôi thấy đất chỗ ấy cũng tốt, lại cạnh Đại Hồ, phong cảnh hữu tình. Có thể tôi hứng lên, cắp cái tráp ra tháp Báo Thiên làm nghề tướng số cũng nên. Nghề ấy chắc tôi làm được - ông chợt cười xoà thú vị - Còn chiếc bút lông của tôi nữa chứ. Tôi không làm quan, nhưng có ai cấm tôi chép sử đâu...
Khát Chân cũng cười theo. Ông bảo lão Mai lấy vò rượu quý tặng ông già, rồi ân cần nói:
- Khi nào rỗi rãi lão huynh nhớ ghé chơi - Nhưng thượng tướng chợt sững lại, vẻ buồn rầu - Quên mất một điều. Trong vòng hai tuần trăng nữa, triều đình sẽ đi hết vào Tây Đô. Riêng tôi, một tháng nữa đã phải đi. Tình hình gấp gáp lắm rồi, lão huynh biết không?
Hai người nắm tay nhau lắc lắc, gương mặt xốn xang. Hôm sau, thượng tướng gặp quan Thái bảo, Khát Chân nói:
- Quái lạ! Quý Ly vốn tính đa sát, xưa nay có bao giờ tha chết cho kẻ thù của mình đâu, nhất là khi kẻ ấy đả kích ông ta chính diện... Hay là... Ông ta chỉ tha chết cho những ai đổi hướng.
Nguyên Hàng ngẫm nghĩ:
- Con người ấy đầy mưu mô... Cũng có thể ông ta muốn gây lục đục trong phe đối lập... Thả một người ra, để đối phương nghi ngờ lẫn nhau.
- Dù sao cũng phải giữ ông Sử lại với mình... Sử Văn Hoa ]à người có uy tín...
Nguyên Hàng im lặng hồi lâu, rồi gật gù.
- Tôi đã có cách.
Cũng thời gian ấy, thái sư nói với Nguyễn Cẩn:
- Phạm Sinh là người có tài - Anh ta có thể là danh hoạ. Không những vẽ giỏi, Phạm còn uyên bác. Chúng ta cần những người trẻ tuổi như vậy. Có bận ta đã ướm hỏi, nói xa xa với anh ta. Phạm bảo: “Thưa đất trời có bao giờ ngừng đắp đổi. Xưa nay, có cái gì vĩnh hằng đâu. Chuyển vần vốn là lẽ thường.” Mấy đêm liền, ta đều mơ gặp phu nhân. Phu nhân khuyên ta liền dùng Phạm... Nhưng dùng như thế nào? Khoa thi còn lâu mới mở được... Và lòng ta vẫn như... e ngại.
- Bẩm, thái sư e ngại là phải. Sĩ tử đi thi, lai lịch rõ ràng... còn anh ta... quê quán ở đâu, con cái nhà ai... Có xã quan nào biết mà chứng nhận?
Nguyễn Cẩn sai người đi dò tìm gốc gác của Phạm.
Cuối cùng, Cẩn tâu với Quý Ly:
- Bẩm mẹ Phạm là tam bảo nô. Bà ta đã bị bệnh, chết rồi.
- Cha hắn là ai?
- Bẩm, bọn nô tỳ lấy nhau thường chẳng cưới cheo.
Thời gian qua, đánh nhau với quân Chiêm Thành liên miên, rồi lập đồn điền ở Hoá Châu, rồi hạn nô nữa, dân cư xáo trộn, biến động. Vả lại, số đàn ông ở thôn quê vợi đi phân nửa. Các nơi chỉ thấy nhan nhản toàn đàn bà con gái. Rất khó truy tìm tung tích người bố...
- Thầy học của hắn là ai?
- Bẩm, một ông sư già tu hạnh đầu đà, luôn đi du phương, nay đây, mai đó. Ông ta đã già lắm. Không chừng chết ở một xó nào rồi.
Quý Ly ngẫm nghĩ:
- Ngày xưa, Đoàn Nhữ Hài là học trò đã đội biểu quỳ trước cung Trùng Hoa, xin đức thượng hoàng Trần Nhân Tôn tha lỗi cho Trần Anh Tôn. Nhữ Hài không đi thi, cũng trở thành người tài của nhà Trần, Ngày nay, ta thấy Phạm Sinh cũng có cái phong thái của Nhữ Hài... Nhà ngươi nghĩ thử xem có cách nào để ta khỏi mang tiếng bỏ phí người hiền...
Cẩn biết ý thái sư, suy ngẫm rồi nói:
- Bẩm, hạ quan đã nghĩ ra.
Hồ Quý Ly
Chương 6 Nguyễn Cẩn trở nên thân thiết với Phạm Sinh
Nguyễn Cẩn trở nên thân thiết với Phạm Sinh. Cẩn thường mang rượu đến ngôi chùa đổ, lúc ngắm hoa, lúc ngâm thơ cùng Phạm.
Một đêm, hai người tay xách bình rượu đồ nhắm vai, mang ống sáo, xuống thuyền chơi tráng trên Đại Hồ. Ra khỏi vũng lau sậy, thấy mặt hồ bao la, lóng lánh sóng nước. Cẩn thổi sáo. Tiếng sáo buồn như ngọn gió hiu hiu lan toả khắp mọi nơi. Chợt khói sương từ hòn đảo bồng bềnh giữa hồ lẻn ra, lan toả, giăng mùng trước mắt. Chẳng biết đâu là trời, là nước. Hòn đảo mọc đầy lau lách trước mắt bỗng trở nên mờ ảo, khi ẩn khi hiện. Nhìn lên chẳng thấy bóng trăng, chỉ còn thấy màn sữa đục, loãng và xôm xốp. Tiếng sáo dứt. Vẳng lạng mênh mông. Mấy con vạc, từ khu chùa đổ bay ra cánh đầm, thỉnh thoảng kêu lên vài tiếng buồn tênh. Một cô gái đánh cá đêm ở phía tít xa, hát lên một giọng ca chài không rõ tiếng, nhưng buồn não ruột.
Trông khắp mọi nơi, chợt Phạm thấy trong lòng thổn thức. Bèn gõ khẽ mạn thuyền mà hát rằng:
Sương đêm tim tím,
Đáy nước trăng tà.
Hạc đêm cô quạnh
Góc trời ngân nga.
Gõ mạn thuyền bài hát “Chu trung thính vũ”
Vạn cổ sầu mỗi khúc mỗi tơ vương.
Thăm thẳm dòng xuân tràn khắp ngả,
Đòi đoạn tơ lòng,
Ròng ròng sương nhỏ.
Núi sông ơi! Mưa gió đến bao giờ
Nguyễn Cẩn rót một chén rượu, sung sướng mời Phạm:
- Thật không ngờ, huynh lại có tài ngẫu hứng nhả ngọc phun châu đến vậy. Chả trách...
- Quan huynh? ý quan huynh...?
- Chả trách đã lọt mắt xanh của... thái sư.
Phạm nói giọng tâm sự khéo léo:
- Từ thủa nhỏ kẻ học trò hèn này vốn thích câu ca... nét chữ... chỉ là những thứ tài mọn... Còn như huynh, cái tài giúp đời mới là điều hữu ích...
Mắt Cẩn chợt sáng lên. Giọng dần dần sôi nổi và sảng khoái:.
- Thái sư thật có con mắt tinh đời. Chỉ mới qua nét bút của huynh, người đã nhận ngay ra. Xin có lời mừng cho huynh. Giữa trần ai mà đoán mặt anh hùng; việc ấy thực là.. tài minh chủ. Nói thật lòng, lúc mới gặp huynh, nghe thái sư đoán nhận, ta vẫn có ý không phục, nhưng rồi gần huynh, ta mới hiểu.
- Minh chủ ư?
- Trong lúc như thế này... đất nước rất cần một minh chủ... Trong những năm qua... đã có bao nhiêu người... Và hiện nay... cũng có bao nhiêu người... Nhưng thử hỏi có ai xứng làm minh chủ.. kẻ sĩ... người có chí... cũng phải có con mắt tinh đời... để nhận ra đâu là chân, đâu là giả. Cái độc ác, cái khủng khiếp lắm khi chỉ là cái vỏ... vờ vĩnh... để đằng sau nó ẩn nấp cái chân thiện, mà người đời, kẻ tầm thường không bao giờ nhìn thấy.
- Minh chủ? - Phạm bâng khuâng nghe giọng sôi nổi của Cẩn. Lạ thật Con người như anh ta cũng mang một cái vỏ che dấu ư? Hay ta cũng chỉ là kẻ ngốc nghếch. Có ai nghĩ rằng con người tưởng như chỉ là một kẻ tay sai xoàng xĩnh, một thứ thư lại, lại có những ý nghĩ như vậy. Cẩn không nhìn vào mặt Phạm. Đôi mắt anh nhìn ra mặt hồ bao la, sương khói mù mịt. Giọng anh như thể nói với chính bản thân:
- Minh chủ. Đó là điều quan hệ! Khách đa tình sẵn sàng vứt bỏ tất cả vì một hồng nhan tri kỷ. Người anh hùng sẵn sàng chết vì bạn tri âm. Kẻ sĩ sẵn sàng liều thân vì một minh chủ. Trên đời có mấy ai vừa đại trí... đại đức, lại có đôi mắt xanh?...
Rồi Cẩn đưa sáo lên môi thổi khúc Phượng hoàng mà Hồ Nguyên Trừng lúc say vẫn hát.
Phượng hoàng hề.
Phượng hoàng hề, bay vút trời cao...
Phượng hoàng hề, ngươi ở nơi nao
***
Thượng tướng Khát Chân, qua Phạm Tổ Thu, gửi đến Phạm Sinh những lời nhận xét về Nguyễn Cẩn:
- Một kẻ thông minh lanh lợi. Anh ta cuồng nhiệt vì ý tưởng Minh Đạo của Quý Ly. Nhiệt tình ấy, những người trung thần nào có thiếu. Cá đã cắn câu nhưng còn lượn lờ qua lại. Cần hết sức thận trọng với Cẩn. Sự thân mật của Cẩn với Phạm sau đêm bơi thuyền trên Đại Hồ, lại thêm phần gắn bó. Có lẽ Cẩn muốn tìm thấy ở Phạm Sinh một tri âm; Cẩn mang ngựa mời Sinh đến chơi nhà mình.
Nguyễn Cẩn dòng dõi Trâu Canh. Trâu Canh, thời vua trần Dụ Tôn, có công chữa bệnh liệt dương cho vua nên được vua yêu. Canh cậy thế làm càn nên phải tội may được tha chết. Trâu Canh có nhiều điều lạ. Đồn rằng: Trâu Canh cải sang họ Nguyễn, vì vậy con trai thành Nguyễn Điền, cháu nội thành Nguyễn Cẩn. Lời đồn đại về Trâu Canh có nhiều điều lạ. Đồn rằng: Trâu Canh bố là Trâu Tôn chết sớm. Ở với mẹ nghèo khó. Hàng ngày, Canh đi mò cua bắt ốc. Một hôm xuống nước, Canh bứt một sợi dây leo bên bờ ao buộc quanh bụng để treo cái rọ. Không ngờ, sau đó con chim của anh ta cứ cương cứng suốt ngày không chịu rũ xuống lúc nào. Hổ thẹn quá, Canh không dám lên bờ, suốt cả ngày ngâm mình dưới nước. Về sau, cởi chiếc giây leo ra, thấy yên ổn. Và Canh hiểu ra, sở dĩ con chim của anh cương cứng lên như vậy là do sợi dây leo. Nó là dây cường dương. Canh mang thứ giây leo ấy về vườn nhà mình và trở thành ông lang giỏi vô địch về chữa bệnh liệt dương. Chữa khỏi bệnh cho vua Dụ Tôn và nhiều vương gia nhà quyền quý khác trong triều đình. Cẩn biết Phạm cũng nghe được lời đồn như thế. Nguyễn Cẩn cười và giải thích cho Phạm về thân thế của mình:
- Cụ nội tôi, Trâu Tôn, là thầy thuốc đi theo quân đội nhà Nguyên, chữa thương cho binh lính. Quân Nguyên thua nhà Trần. Cụ Tôn ở lại Đại Việt, lấy vợ đẻ ra Trâu Canh. Cụ Canh mắc tội đi đầy, may được người con gái họ Nguyễn thương yêu cưu mang nên còn sống, cảm ơn cứu tử, cụ đổi họ Trâu sang họ Nguyễn. Cụ Trâu Tôn giỏi nghề mổ xẻ và có nhiều phương thuốc bí truyền nên mấy đời nay gia đình tôi nổi tiếng ở Thăng Long, nhất là cách chữa bệnh nhanh chóng và quyết liệt.
Phạm nói:
- Có lẽ cụ tổ gia đình huynh làm thày thuốc mổ xẻ nên đẻ ra cách trị bệnh quyết liệt như vậy.
Cả hai cùng cười.
Khu trang trại của gia đình Nguyễn Cẩn khá rộng rãi, đẹp đẽ, nằm cạnh Tây Hồ. Những thửa đất bên hồ trồng hoa, những chỗ xa hồ trồng nhãn. Con đường dẫn vào nhà tiền đường đi giữa vườn hoa muôn sắc hương đó Nguyễn Cẩn đưa bạn đến khu ở riêng của mình.
Phạm nói:
- Đệ muốn làm lễ ra mắt với cụ lang trước đã.
- Thân phụ tôi đang mắc việc bận.
Vợ Cẩn dẫn con ra chào khách. Phạm chợt nhận xét trong bụng: “Sao người đàn bà này buồn làm vậy. Rõ ràng chị ta tươi cười đón khách, nhưng vẻ mặt và đôi mắt mới u buồn làm sao?”. Cẩn dẫn Phạm đi thăm các nơi.
Đặc biệt là khu trại voi. Khi Cẩn và Phạm đến nơi thì những người quản tượng đương cho một chục con voi tập. Những quản tượng mặc áo đỏ nẹp vàng cầm chiếc đòn và chiếc búa điều khiển ngồi trên đầu voi. Thấy Cẩn đến, người chánh quản hô chào. Những quản tượng gõ chiếc búa gỗ theo một nhịp nào đó lên đầu voi. Tức thì những con voi quỳ hai chân trước xuống. Sau đó họ cho voi tiến, lui, chạy rất quy củ.
Cẩn giải thích:
- Voi là một sức mạnh riêng của quân phương nam chúng ta. Phương bắc không có tượng binh. Vừa qua, đội tượng binh của chúng ta rất yếu. Tôi tuân lệnh thái sư củng cố đội voi trận. Tôi tìm hiểu kỹ chuyện này. Phải vào Hoan, ái tìm những quản tượng giỏi, hậu đãi họ, để họ chuyên luyện voi và dạy nghề quản tượng cho bọn trai trẻ. Trước sau, ta cũng phải đối mặt với phương Bắc... Huynh đài có hiểu ý tôi không?
Lúc Cẩn mời Phạm đến nhà, Phạm chưa hiểu ý định của Cẩn, lúc này Phạm mới hơi vỡ lẽ một chút. Anh ta đã tin mình phần nào rồi đây. Nhưng tiếp theo...
Nguyễn Cẩn như cũng đoán được những ý nghĩ của Phạm, anh ta nói:
- Không hiểu sao mới gặp nhau, tôi đã rất tin tưởng ở huynh. Tôi nghĩ: đây là người bạn của ta...
Lời nói làm Phạm ngạc nhiên. Người làm những việc như Cẩn lại mong muốn một tình bạn ư? Hay là... hay là kìa sao gương mặt Cẩn lại rất thành thật? Một lời tâm sự, hay những trá nguỵ? Cũng có thể lắm chứ? ở tít cạnh một ngôi cao... mở mắt ra... chạm tay về tứ phía... lúc nào, chỗ nào cũng lúc nhúc những cạm bẫy và âm mưu. Sống như thế, chắc hẳn phải thấy cô đơn. Anh ta muốn một tình bạn là phải.
Cẩn vẫn tiếp tục:
- Cả huynh nữa, rồi thì... rốt cuộc... huynh cũng sẽ thèm một một người bạn, khi huynh hoàn toàn là người của thái sư... Tôi sẽ dần dần chỉ cho hết, nói cho huynh hết. Trại voi này chỉ là một điều quan trọng, còn nhiều điều khác quan trọng hơn. Hôm nay, chính hôm nay, huynh sẽ biết thêm một điều nữa... một điều cực kỳ bí mật... mà sẽ chẳng ai ngoài huynh được biết.
Về đến nhà, người đàn bà có gương mặt buồn, vợ Cẩn, chạy ra nói:
- Tôi đã chuẩn bị cơm rượu sắp xong. Mời bác và chàng vào nghỉ ngơi, rửa mặt.
Cẩn quay sang Phạm nói:
- Lúc này, cha tôi đã về rồi. Để tôi dẫn huynh sang chào cụ.
Nguyễn Điền, tức Trâu Điền, trạc sáu mươi tuổi, để râu dài, nét mặt quắc thước, đang ngồi trên chiếc tràng kỷ khảm trai. Sau khi chào hỏi, ông Điền đưa ra một câu nói làm Phạm Sinh ngỡ ngàng sửng sốt.
- Có phải đây là vị khách con mời đến để coi thăm “tịnh thân đường” của chúng ta không?
Cẩn trả lời:
- Phạm huynh là người bạn con mới gặp.
Phạm Sinh vẫn chưa hết sửng sốt, anh hỏi ông già:
- Thưa bác, “tình thân đường” có phải... nghĩa là..
Giọng ông già bình thản giải thích:
- Vâng, đúng nghĩa chữ “tình thân” đấy... Làm cho thân ta trở nên chay tịnh... hết những hệ luỵ dày vò. Con người sẽ tập trung được tinh thần vào những việc mà ta ao ước... những việc có thể lưu danh với đời.
Phạm Sinh càng ngạc nhiên hơn khi ông già tiếp:
- Việc “tình thân” là một công việc khó khăn, hệ trọng. Sinh mạng con người đặt vào hai bàn tay này. Có phải như chuyện thiến một con gà đâu? Con người ta phức tạp hơn nhiều. Phải làm thế nào để ít chảy máu. Phải làm thế nào để cho tuyệt nọc. Làm một lần là xong.. sạch sẽ... phải làm thế nào cho thật nhanh và chính xác. Rồi trước khi tịnh thân, sau khi tịnh thân, phải kiêng cữ ra sao? Nhưng, ông tổ tôi đã làm công việc y đức này... Việc bí truyền trong dòng họ... Hầu như chẳng bao giờ sai sẩy... Như hôm nay, tôi vừa tịnh thân cho ba người xong. Ba chàng trai dành cho việc triều cống nhà Minh vào cuối năm nay. Bên Bắc họ kỹ càng lắm. Quan tổng quản thái giám bên ấy cũng biết tiếng gia đình tôi. Ông ta biên thư sang: yêu cầu triều đình ta phải để do chính tay tôi làm...
Ông già nói giọng sang sảng, nhưng vừa tiến hành xong mấy trường hợp phẫu thuật, nên không dấu được vẻ mệt mỏi trên gương mặt. Cẩn và Sinh vội cáo từ, lui về, cho ông già nghỉ ngơi.
Phạm Sinh trở nên ngơ ngác, suy nghĩ câu chuyện này có ý nghĩa gì? Phạm đang đi vào một mảnh đất đầy bí ẩn. Nguyễn Cẩn hay thái sư định trao cho ta làm một việc gì đây? Sao Cẩn lại hé lộ cho ta thấy những điều mà người ta không nên để mắt tới? Phải chăng đây là điều bí mật mà lúc thăm trại voi anh ta đã đả động tới? Cẩn dẫn Phạm đi qua một vườn cây, trông thấy một dãy nhà bên hồ và nói:
“Tịnh thân đường” của cha tôi đấy. Nhà Minh, đầu năm nay, yêu cầu Đại Việt phải nộp cống hai chục đồng nam, để làm hoạn quan. Tuổi từ mười, đến mười lăm, mười sáu. Khôi ngô tuấn tú, thông minh, biết chữ. Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương là người đa nghi. Ông giết hại công thần, không cho hoạn quan tham dự triều chính. Ông sợ nạn hoạn quan nhưng không thể thiếu hoạn quan. Vì thế cả ông khi còn sống và con ông lúc nối ngôi đều tăng cường dùng hoạn quan người nước ngoài. Dùng cách này có nhiều cái lợi... Trong những điều lợi ấy, nhà Minh có thể mua chuộc, dùng hoạn quan và người nhà của họ làm gián điệp dò xét đất nước ta.
- Đã có dấu hiệu đó?
- Đã có nhiều chuyện rõ ràng về việc dụng gián của họ.
- Tại sao ta không lợi dụng lại đưa người của ta sang...
Nguyễn Cẩn gật đầu:
- ý của huynh thật đúng với ý thái sư.
Hai người đến bên bờ rào khu “nhà thiến” đã được mang cái tên mỹ miều: “Tịnh thân đường”. Những chuyện vừa xảy ra kích thích trí tò mò của Phạm đến cao độ. Nhưng Cẩn không đưa bạn vào đó, anh ta chỉ đứng bên ngoài để giới thiệu:
Người được tịnh thân phải hoàn toàn tự nguyện. Ký giao kèo cam kết bằng lòng, gia đình được trả một món tiền lớn. Ba ngày đầu tiên, họ được nhốt trong căn nhà thứ nhất; mỗi người một phòng riêng, kín gió. Ba ngày đó kiêng ăn uống mọi thứ để sau đó không đại tiểu tiện. Sáng hôm thứ tư, người tịnh thân được uống một thứ rượu thật nặng, uống cho đến say mềm, mê man bất tỉnh. Tiếp đó, đưa họ sang căn nhà thứ hai. Nơi đây chính là y đường, nơi tiến hành việc cắt bỏ. Chỗ sẽ cắt phải tẩm dầu tê. Dao thật sắc, cắt một nhát là xong tất cả cụm, không bỏ sót một tí gì. Cái khó là chọn đúng chỗ. Cắt chệch chỗ có thể chết. Người tịnh thân nằm trên bàn, cái bàn đặt trên một hố vôi bột. Sau khi cắt, họ được đưa sang ngôi nhà thứ ba, ngôi nhà dưới gốc cây mát rượi. Chung quanh bao bọc những vườn hoa. Người tịnh thân xong, nhịn ăn thêm ba ngày, và ở trong nhà kín, kiêng gió nửa tháng...
Nghe Cẩn say sưa nói, một thoáng nghĩ chua chát chợt len lỏi vào trong tâm tưởng Phạm Sinh. Từ trước đến nay, Phạm cứ tưởng mình đã bày đặt sắp xếp cho mọi việc phải xảy ra theo ý riêng mình, hoá ra lại là bị xỏ mũi. Tưởng chủ động hoá ra bị động. Hai người quay trở về lúc trời đã xế chiều. Người đàn bà có gương mặt buồn đã sắp sẵn cơm rượu. Phạm cáo từ định ra về, nhưng Cẩn cố giữ lại.
Đêm nay, huynh phải ở lại. Chúng ta sẽ hàn huyên cho thoả thích. Huynh đã cho tôi bơi thuyền ngắm tràng trên Đại Hồ. Còn tôi, đêm nay sẽ đãi huynh một bữa tiệc trăng thâu đêm suốt sáng trên Tây Hồ. Nguyễn Cẩn sai gia nhân chuẩn bị một con thuyền nửa có mui, sắp sẵn đủ cả chăn màn, đồ nhạc khí, rượu ngon và thức nhắm. Chờ trăng lên mới cho thuyền rời bến.
Lũ gia nhân đẩy mái chèo ra đến giữa hồ, cắm sào, neo thuyền, rồi sang thuyền khác bơi tản vào sương mù, chỉ còn để lại hai người giữa mênh mông sóng nước. Chiếc đèn lồng buộc trên cọc thuyền cao thắp lên, ánh vàng lan toả vào sương đêm, làm cho không gian quanh vùng hồng hồng sắc đỏ, nhưng đưa mắt nhìn đến cuối trời thì lại chỉ thấy một mầu tím ngắt. Phạm Sinh thở dài. Nguyễn Cẩn vội thả đèn xuống, tắt đi, rồi nói:
- Đã lâu lắm tôi chẳng bơi thuyền. Ngày trước hai hoàng thân Nguyên Dận và Nguyên Uyên vẫn thuê thuyền để chơi bời hát xướng trên hồ. Lúc đó, thuyền này chứa được chục người. Đèn lồng treo quanh thuyền toả ánh xanh đỏ xuống mặt nước. Rồi kỹ nữ đàn ca thâu đêm... Rộn ràng, đẹp đẽ như cảnh tiên. Về sau Dận và Uyên, lúc Nghệ Hoàng mất, có ý phản nghịch, bị thái sư xử tội chết. Từ đó, Tây Hồ hết cảnh náo nhiệt. Bọn gia nhân tưởng tôi và huynh cũng như Dận và Uyên khi xưa nên đã thắp đèn lồng... nhưng chỉ thắp thử một chiếc thôi.
Phạm cười vang mặt nước.
- Hoá ra họ có ý thăm dò... tưởng tôi là một công tử, biết đâu rằng chỉ là anh học trò kiết.
Hai người ra đứng ở đầu thuyền, ngắm nhìn đêm Tây Hồ. Trăng lu. Cả một bầu trời pha sữa loãng. Không có gió, chỉ có sương giăng mù mịt và một không gian tịch mịch, vắng cả tiếng chim đêm.Thỉnh thoảng, sương lại vén màn, để mắt ta thoáng nhìn thấy những ngọn đèn chài ở tít xa xa, như những đốm lửa ma trơi lúc phồng to bằng quả bưởi, lúc xẹp nhỏ chỉ như hạt đậu rồi thoắt một cái đã biến mất, chỉ còn để lại dấu tích của chúng ở những tiếng thanh tre gõ cá lách cách vang lên, nhưng rồi cuối cùng cũng mơ hồ, mất tích trong tịch mịch.
Hai người uống rượu, ngâm thơ, đàn hát, lấy làm thoả thích. Nguyễn Cẩn, nhân chén rượu cao hứng, tay đánh đàn miệng hát. Đầu tiên hát bài “Trăng có tự bao giờ?” rồi sang điệu “Hoa say” cuối cùng lại trở về “khúc Phượng Hoàng”.
Phượng hoàng hề
Phượng hoàng hề bay vút trời cao..
Đến bài này, cao hứng đã đến tột độ, giọng chàng cảm khái, vang vang trong đêm, hoà cùng tiếng sóng oàm oạp vỗ thuyền. Nghe hát xong, Phạm gật đầu:
- Thật bi tráng, nhưng phảng phất chút buồn.
Cẩn gật đầu với sự tri âm... chàng lặng lẽ ngồi xuống uống luôn ba chén rượu. Câu chuyện dần dần đi vào tâm sự.
- Người ta sinh ra ở trên đời không gì bằng thoả chí bình sinh...
- Thế nào là thoả chí?
- Thứ nhất: có một người bạn tri âm, đêm xuống thả thuyền mặc trôi trên sông. nghêu ngao hát khúc “Chu trung thính vũ” chẳng là thoả thích hay sao?
Hai người cười to, chúc nhau cùng uống.
- Thứ nhì: có một tấm hồng nhan, vừa là người đẹp, vừa là bạn tri kỷ, lúc sênh sang thì cùng lên xe xuống ngựa, lúc thất thế sa cơ thì rau cháo không lìa, há chẳng phỉ chí ở đời lắm sao?
- Còn thứ ba?
- Thứ ba là rồng mây gập hội. Kẻ sĩ chỉ là những đám mây trôi nổi trên trời... may ra chỉ hoá thành một cơn mưa, một bóng râm che mát cho đời chốc lát. Mây phải gặp rồng. Có rồng thì mây mới trở thành vần vũ, mới tạo thành chớp giật sấm ran, mới có thể đổi thay thiên hạ, mới có được cái cao vọng nhất trụ kình thiên (trụ chống trời) thay sông đổi núi... Làm cho thiên hạ thành đời Nghiêu Thuần... thái bình.
Phạm Sinh cầm bầu rượu lên tu một hơi dài, chàng không rót ra chén nữa. Và chàng bâng qươ hỏi:
- Nghĩa là phải có biệt nhãn, phải biết nhận ra rồng.
- Phải. đúng là biệt nhãn. Mây phải có biệt nhãn để tìm rồng... mà rồng phải có biệt nhãn để nhận mây. Trên đời mấy ai được phú cho biệt nhãn?
Đến lúc này, họ đã uống tràn cung mây. Họ luân phiên nhau nói, những tiếng nói có lúc là tự nhủ với mình, có lúc lại là lời tâm sự.
- Thật thoả chí bình sinh khi rồng gặp mây. Nhưng đã bao giờ huynh gặp tiên chưa? Tôi nghe nói ở Tây Hồ có vị thuỷ tiên trú ngụ... đêm đêm lúc hoá thành cô gái hái sen, người nức hương, vừa bơi thuyền vừa hát, tiếng hát làm ngát cả một góc trời, có lúc lại biến thành một ông già râu tóc bạc phơ, thổi tiếng tiêu buồn vào đêm tĩnh lặng, ru êm cơ cực trần gian... Như thế cũng chẳng thoả chí lắm sao?
- Con rồng ẩn nay đã hiện hình...
- Tôi hiểu, tôi hiểu ý huynh muốn nói gì...
- Còn chần chờ gì nữa... Thái sư đã nhìn ra tài của huynh.
Cuộc chuyện trò đã quay về đời thực. Cái thực khủng khiếp may nhờ đêm trăng ấp sương, nhờ những hồ lô rượu mịt mù, đã làm giảm bớt sự thô kệch, mài nhẳn những góc cạnh gồ ghề của nó. Chẳng nhớ được rượu nói hay là ai nói nữa?
- Huynh có biết tại sao chúng ta lại uống rượu đêm nay ở một nơi chỉ có trời nước mênh mông và riêng hai chúng ta không?
- Là bởi bài “ Chu trung thính vũ” của tôi hôm xưa. Nó cũng là một câu tâm sự.
- Để tôi kể cho huynh nghe một câu chuyện ngày xưa của nước ta. Ở phường Thái Hoà, bên Hồ Tây, khoảng chỗ kia kìa... thời vua Lý Thánh Tông có một kẻ sĩ tên là Lý Tuấn. Anh ta, ngày học võ, đêm học văn, trở thành người văn võ kiêm toàn, nức tiếng Thăng Long. Tuấn lại có gương mặt khả ái, được bổ vào ngạch thị vệ hầu vua. Lý Thánh Tông rất yêu mới bảo: “Nhà ngươi mặt mày đẹp đẽ, lại có tài, ta muốn hậu dụng. nhược một nỗi không trong hoàng tộc, khó có chức cao. Nếu người bằng lòng “tịnh thân” ta sẽ phong cho chức Hoàng môn chỉ hậu, ngày đêm ở bên ta làm người tâm phúc”. Lúc ấy, Lý Tuấn mới 23 tuổi, mới có vợ, nhưng vì là người có chí lớn, nên bái tạ ơn vua, nhận ba vạn quan tiền, rồi tự hoạn... Ông đã lập bao chiến công hiển hách phá Tống, bình Chiêm, lưu danh trong sử sách đến muôn đời...
- Vâng, Lý Tuấn tức vị đại anh hùng Lý Thường Kiệt...
- Kẻ được người tri âm, nhất là khi người tri âm ấy lại là một đấng minh chủ thì thân ta phỏng có sá gì. Ôi! Đại nghĩa? Vì đại nghĩa, vì người tri kỷ mà Dự Nhượng nuốt than... Này, huynh có để ý đến gương mặt người vợ hiền của tôi không?
- Một gương mặt buồn đến tan nát...
- Thế đấy tôi đâu dám sánh với người xưa... Nhưng một bận thái sư gặp tôi, người bảo: “Ngươi là kẻ có tài, ta rất yêu...”. Còn tôi, tôi đã đọc sách Minh Đạo và phải nói, tôi đã tôn sùng thái sư. Và để tỏ rõ lòng sùng kính, sự tri âm của mình... Tôi đã... tự... tôi... đã để lại một vết thương không chữa nổi trong lòng. trên gương mặt vợ tôi.
- Huynh đã...?
- Vâng... tôi đã làm như vậy...
- Cha huynh có bằng lòng không?
- Cha tôi bảo: “Anh đã có con trai, đã có người nối dõi. Còn chí trai... tuỳ anh quyết định. Ở đời, chẳng có việc lớn nào lại dễ dàng... Làm việc lớn, thân mình có thể tiếc được chăng?...
- Chí lớn! Ha ha... Chí lớn!
Phạm nâng hồ lô rượu lên uống một hơi dài và cười sằng sặc.
- Lý Thường Kiệt đấy? Tư Mã Thiên đấy? Toàn những con người bị thiến hoạn. Ngay cả như huynh... nếu huynh muốn được trọng dụng, cũng không thoát khỏi các thông lệ đó đâu. Ở cạnh một con người kiệt xuất, nếu ta không phải là kẻ bị hoạn hỏi có ai tin? Mà người ta cũng lo liệu cho thấu tình đạt lý... ví dụ huynh sẽ có ba vạn quan tiền... Huynh sẽ mua năm người thiếp... và chờ cho đến khi những người đàn bà ấy đã mang thai... lúc dó.. lúc đó.. sẽ là...
- Ha ha. ta sẽ có năm người thiếp... sẽ có năm đứa con, sẽ là anh quan thị... sẽ thực hành chí lớn...
Phạm và Cẩn uống cho đến li bì quay cuồng trời đất. Họ đếm sao, đếm trăng, nhìn thấy một trăm ông trăng chìm đáy nước. Họ cúi đầu qua mạn thuyền rồi nôn mửa cả vào mặt nước, cả vào những mặt trăng... những mặt trăng vàng úa như những kẻ mác chứng hoàng đản...
Hồ Quý Ly
Chương 7 Sáng hôm sau, lúc tỉnh dậy
Sáng hôm sau, lúc tỉnh dậy. Phạm ngạc nhiên thấy mình đang nằm trong một phòng ngủ ở trang trại của họ Nguyễn. Người gia nhân vào báo Nguyễn Cẩn có việc gấp phải đến cung Hoạ Lư từ sớm. Trên bàn có một lá thư Cẩn để lại.
Phạm huynh nhã giám.
Đêm hôm qua, đệ đã rút hết tâm can phơi bày cùng huynh. Những lời đề nghị là những lờ tâm huyết, mong huynh suy nghĩ. Rất mong sớm nhận được phúc đáp, trao cho rồng mây gặp hội. Rồng mây gặp hội.
Câu nói đó bỗng làm thức dậy toàn bộ diễn biến của bữa tiệc trăng trên mặt hồ Tây đêm qua. Rồng mây gặp hội! Thế là chuyện thật chứ không phải một giấc mơ, hoặc những lời của rượu. Như vậy, mục đích Nguyễn Cẩn mời ta đến “Tịnh thân đường” nay đã rõ ràng. Hay thật? Để trở thành một người tâm phúc ngày đêm bên cạnh Hồ Quý Ly, ta sẽ phải... tự huỷ hoại thân mình...
Thế là... như kẻ bị ma đuổi, Phạm Sinh tức tốc trở về ngôi chùa đổ. Chàng bồn chồn. ngồi đứng chẳng yên.
Chợt thấy chẳng muốn gặp ai lúc này. Phạm ra bờ hồ, ngồi lên con thuyền nhỏ, bơi thăng ra hòn lau, hòn đảo hoang; ngay thẳng chùa nhìn ra thấy nó nằm dài như một người ngủ mơ trên mặt nước.
Có lẽ từ hàng ngàn vạn năm xưa nơi đây có một dòng sông chảy qua, rồi trải nhiều cuộc dâu bể, đã trở thành hồ nước; còn cái bãi nổi trên sông nay đã trở thành một hòn đảo hoang đầy lau lách, làm nơi trú ngụ cho lũ chồn cáo và nơi trốn lủi cho đám dân manh lệ, sa cơ lỡ bước...
Phạm Sinh cắm sào, lên bờ. Những bãi đất gần mép nước là những nương ngô, còn ở sâu bên trong toàn cây hoang và lau sậy. Trước đây, có mấy lần Phạm đã đi cùng cô Hạnh và bà Sử ra vỡ đất. Anh còn nhớ nương ngô của Hạnh. Ngô xuân mới nhú như tấm thảm mượt. Phạm theo ruộng ngô đi đến túp lều trú nắng mưa. Ở đây có nhiều lều. Người ta chỉ cần dọn một vạt đất nhỏ bằng chiếc chiếu, rồi vít những cây lau chung quanh, buộc túm đầu lại là đã có một cái túp chống nàng. Cẩn thận hơn nữa đánh một chiếc tranh mềm và dài, rồi che vòng quanh trên cao, kiểu như mặc áo tơi, là chiếc túp lại có thể chống mưa.
Cái lều nhà Hạnh, do tay Phạm làm. Anh làm cẩn thận hơn. Phạm kiếm những cây lau, cây sậy già, rót hết lá, rồi cũng buộc túm đầu lại, chân choãi ra, nhưng chung quanh Phạm ken dầy, và đều đạn tạo thành một cái vách tròn kín mít. Sau đó, anh đan gianh, lợp như lợp nhà. Phạm nhớ hôm ấy làm xong, cô Hạnh cứ chui ra chui vào như đứa trẻ thơ, mắt long lanh, miệng cười: Huynh là học trò mà khéo tay thế.
Hạnh kiếm một số bông lau buộc lại như bó hoa, cắm trên đỉnh; chiếc lều càng thêm đẹp.
Lúc Phạm ra hồ lấy thuyền, cái dáng vẻ bồn chồn của anh, từ lúc về, không thoát khỏi con mắt tinh tường của Hạnh. Cô nói với cha chuyện đó. Hôm sau, ông già Sử sai cô chở mình ra đảo lau tìm Phạm. Anh đang nằm co ro trong ổ rơm suy ngẫm. Thấy ông già Sử, anh vội ngồi dậy chào. Sử Văn Hoa bảo:
- Anh mới ra đây một ngày, đã có bao nhiêu người đi tìm. Đêm qua, Tổ Thu và Ngưu Tất hỏi. Biết anh ở ngoài đảo nhưng tôi không nói. Sáng nay lại đến lượt Nguyễn Cẩn. Tôi nghĩ: chắc là có chuyện.
Phạm và ông già Sử, trở thành đôi bạn vong niên từ lúc mới gặp nhau. Khí chất, sự từng trải, nỗi ưu tư của ông già, làm cho anh tin tưởng. Anh chẳng nói nhưng ông Sử hầu như đã hiểu mọi tâm sự của anh. Hôm nay, ông kể cho Phạm một câu chuyện về Nguyễn Cẩn: Cẩn là người thông minh, học giỏi có tiếng ở Thăng Long so với những người đồng trang lứa. Anh ta có người anh song sinh tên Nguyễn Trọng. Cẩn thư sinh còn Trọng quắc thước. Cẩn giỏi văn, còn Trọng giỏi võ. Bộ đôi song sinh này quấn quýt với nhau lắm. Họ đầy triển vọng. Nhưng về sau, Trọng có hiềm khích với con trai một vị vương nhà Trần. Sự hiềm khích chuyển thành xung đột. Trọng giỏi võ, nhưng cậu công tử họ Trần lại đông tay chân. Một lần, bọn nô tì nhà công tử họ Trần vây đánh Trọng một trận nên thân. Họ đánh đòn hiểm. Trọng bị nội thương thổ huyết; mặc dù ông Nguyễn Điền là thầy thuốc giỏi cũng không cứu nổi mạng con trai. Từ khi Trọng chết, Cẩn mắc bệnh trầm tư Hồi về sau. Cẩn luôn luôn nghe thấy một tiếng nói trong đầu. Ông Điền không giỏi về chữa chứng cuồng phải nhờ tay ông lang Phạm, ông ngoại Nguyên Trừng. Hôm Cẩn đến xin thăm bệnh có mặt cả ông Sử vì cụ lang và ông Sử vốn là bạn thân Cụ lang bảo: Công tử phải kể chi tiết cho tôi. Ai nói trong đầu? Nói những gì? Nói vào lúc nào? Công tử đừng ngại... Tôi vốn là người kín đáo.. Vả lại, nếu không rõ... sẽ khó cho việc chữa trị.
Công tử Cẩn ngẫm nghĩ hồi lâu rồi trả lời:
- Cháu chẳng bao giờ nói với ai kể cả thân phụ cháu... sợ những ngộ nhận nhưng thực ra đó là những lời của đức Phật.
- Công tử nghe Phật nói... Nhưng tại sao lại biết chính là đức Phật?
- Dạ, từ khi anh Trọng cháu mất, hằng đêm cháu vẫn đến thắp hương trước điện thờ Phật cầu cho vong linh anh ấy... Rồi sự khẩn cầu được linh nghiệm... Cứ mối tối, đến trước bàn thờ Phật, là tiếng nói của Người bỗng đột hiện trong đầu óc. Tiếng nói hiền từ... Người khuyên nhủ nên viết ra những điều mà thâm tâm tôi hằng suy nghĩ... Viết ra mới nhẹ người.
- Công tử đã viết chưa?
- Dạ đã viết... Đó là bản: “Nhật tân thập nhị sách”
- Nhật Tân... à, tôi hiểu... tôi hiểu... sau đó ra sao?
- Sau đó thấy bệnh đỡ hẳn nửa phần... Còn bây giờ đức Phật lại khuyên cháu... “Đã đi, phải đi hết con đường của mình. Sứ mạng của con rất nặng nề”.
- Sứ mạng ấy là gì?
- Điều này cháu không thể nói với cụ được... Và chính nó đã làm cháu suy nghĩ ngày đêm... Nên hay không nên...
- Việc này... tự công tử phải suy ngẫm... Nhưng tôi chỉ khuyên một điều... Sức người có hạn... Vả lại... cuộc đời vốn có con đường đi theo cái lý của nó... Không vội được! Vội vã sẽ bất cập. Công tử đọc sách phật có để ý đến thuyết “tuỳ duyên” của Trúc Lâm bồ tát chưa? Người đại trí trông cứ tưởng như người ngu... Đói thì ăn, mệt thì nghỉ... Duyên đến đâu. Làm đến đó... Có thể cả đời ta không gặp cái duyên ấy, nhưng sẽ có người khác gặp được, họ sẽ làm thay ta... Còn nếu ta gặp, thì cứ làm... không làm không đặng... Làm xong rũ áo bỏ đi. Cuộc đời thản nhiên. nhi nhiên. Cứ như thế... Đừng quá sức lội ngược... Đừng một mình làm cây trụ chống trời... Bệnh của công tử do suy nghĩ thái quá. Tôi sẽ cắt thuốc điều hoà cho... Nhưng điều chính, công tử phải tự mình giải quyết lấy.
Ít lâu sau, thấy Nguyễn Cẩn khỏi bệnh, và làm người tâm phúc của thái sư. Nghe đến đây, Phạm nói:
- Cháu đã hiểu đoạn sau câu chuyện... Việc này chắc chỉ có mình cháu biết, Nguyễn Cẩn đã đã tự tịnh thân.
- Tự cắt bỏ... mình đi.
- Vâng! Để chiếm được sự tin cậy tuyệt đối của thái sư.
- Và và anh ta đã khuyên cháu.
- Vâng Cẩn đã khuyên cháu.
Ông già viết sử ngậm ngùi:
- Cái giá phải trả đấy? Ta cứ ngẫm nghĩ mãi về cái tâm bệnh của Cẩn. Tiếng nói trong đầu ư? Lời của Phật ư? Chẳng qua cũng vẫn chỉ là giấc mơ cuồng. Nó không phát ra thành hình, thành tượng, trong phút mơ màng. thì phải biết thành lời nói vang vang, nhỏ to trong đầu óc.
Ông già Sử suy ngẫm một lúc lâu rồi chợt nói:
- Đáng lẽ ta cũng chẳng nói ra một chuyện về ta. Nhưng chắc nó sẽ có ích cho cháu... Cháu có biết cách đây ít bữa, một đêm Ngưu Tất chèo thuyền đưa ta đến gặp quan thượng tướng và quan Thái bảo không?
- Cháu có biết.
- Họ định nhờ ta làm cho một việc. Một việc mà Trần Khát Chân bảo hợp với khả năng của ta, mà một kẻ sĩ trung hiếu như ta phải làm lúc này. Ta nhớ hôm ấy, thượng tướng đãi ta rượu “Thập niên cổ mai”, thứ rượu hiếm, không phải lúc nào cũng dám đem ra mời khách. Uống thứ rượu ấy, ta biết có việc quan trọng. Thượng tướng ân cần nắm lấy tay ta: “Đoàn Xuân Lôi đã viết Phi Minh Đạo. Trần Thiêm Bình đã viết Cáo Nạn Biểu, khóc dưới cung khuyết nhà Minh. Và chính ông cũng đã viết Minh Đạo luận để vạch trần tội ác của Quý Ly. Những bài văn ấy xúc động và thức tỉnh lòng người. Nhưng theo ý chúng tôi như thế chưa đủ. Phải viết cả một cuốn sách, vạch ra đủ mọi tội ác, từ cuộc sống tư riêng đến việc triều chính. Phải làm sao biến tên ông ta thành một vết nhơ trong sử sách. Hiện nay cũng có lợi cho chúng ta, sau này cũng có lợi... Ví dụ việc ông ta đầu độc bà công chúa Huy Ninh... Việc ông ta có con riêng với lũ kỹ nữ... Việc ông ta nhục mạ ông lang già, ông bố vợ, làm ông này phẫn chí lên núi Yên Tử đi tu... Việc viết quyển Minh Đạo là một sự nhận vơ... Chính Nguyễn Cẩn đã viết ra cuốn sách đó...”. Ta càng nghe nói càng ngạc nhiên, bởi vì các chuyện đó đều không có. Ta bèn nói: “Việc viết sách là việc tâm huyết của kẻ sĩ. Phải điều tra cho tận tường. Không có thật thì không thể nói. Bởi vì nói vu cáo, kẻ bị hại sẽ không hề gì, mà chính vết nhơ sẽ in lên mặt kẻ sĩ cầm bút”. Trần Khát Chân bảo ta: “Ông không nên câu nệ. Để tỏ rõ lòng trung hiếu, để tiêu diệt kẻ thù, thì ta có quyền làm tất cả, ngay cả dựng nên sự việc...”.
- Chắc bác không viết cuốn sách đó - Phạm Sinh hỏi, song ông già Sử không nói vào việc đó. Giọng ông lúc này chợt buồn bã:
- Thế đấy! Thời nay sao đẻ ra làm kẻ cuồng. Nguyễn Cẩn là một kẻ cuồng tín. Đến cả Khát Chân cũng chẳng ra ngoài một chữ cuồng. Họ đinh ninh với một ý tưởng, rồ dại vì suy nghĩ của mình, không từ một thủ đoạn nào, không dung tha cho một ai trái ý... Có đúng không? Có đáng hy sinh cho những điều như vậy không? Ai cũng rồ dại vì những câu nói khoa trương.
Họ có hiểu đâu được hồn nước mới là điều chính yếu.
Chẳng ai thông minh hơn được hồn của núi sông mình. Ai đúng, ai sai? Khát Chân hay Quý Ly? Vả lại đường đi của hồn núi sông thật là ngoắt ngoéo. Đánh giá thành ư? bại ư? Có khi bại mà mấy trăm năm sau lại là thành. Có khi người đời chỉ vì mê muội mà kéo ánh sáng trở về bóng tối. Sự mơ màng lòe loẹt làm chậm bước chân của hồn núi hồn sông?
Những câu nói của Sử Văn Hoa làm Phạm thấy mình dần dần tỉnh lại. Ông già sau khi nói một hồi dài, cũng thấy như mình được vơi nhẹ nỗi lòng. Cả hai người trở nên ít nói hẳn đi. Ông Sử lấy ra bình rượu mà ông đã mang sẵn bên người. Một già một trẻ nhâm nhi lặng lẽ. Cuối cùng, ông già Sử nói: - Ta đã bị Quý Ly hành hạ nhiều. Nhưng lúc này còn quá sớm để khen chê ông ta. Chỉ biết rằng đất nước mình đang cần lột xác Quý Ly là một người đầy táo bạo. Một kẻ cướp phải có gan: trên đầu nào biết có ai. Ông ta là một con người dám “trên đầu chẳng có ai”. Ta không thích ông ta, nhưng cũng không viết cuốn sách mà thượng tướng đã giao cho. Còn cháu, ta quý cháu như con trai. Nếu cháu thấy lời ta là phải... thì cái Hạnh đấy, ta biết các con thương yêu nhau. Các con hãy mang nhau đi... Đi đi, đi thật xa, đến nơi thôn ổ nghèo nàn không bon chen mà ở... Chốn náo nhiệt này không phải là chỗ của các con đâu.
Ông già lấy một cuốn sách. trao cho Phạm:
- Đây là cuốn Trần Sử bác mới phác thảo và chưa hoàn thành. Ta già rồi, vả lại trước mắt có nhiều bất trắc, con hãy mang nó đi và viết tiếp rồi hoàn chỉnh lại nó... Việc này có lẽ là cái duyên nợ cháu phải làm, nó hợp với cháu hơn.
Qua lời ông già. Phạm cảm nhận cứ như một cuộc chia tay. Anh bùi ngùi hỏi:
- Tại sao bác lại nói tới chữ bất trắc?
- Bởi vì... bởi vì.. à quên chưa nói với cháu một điều. Chuyện dạo xưa cháu vẽ chậu hoa cúc, lại nói theo ý bài thơ Cúc của Hoàng Sào. Hoàng Sào là giặc, tại sao cháu có cảm tình với Hoàng Sào? Quan thượng tướng để ý và cho người đi dò la. Cuối cùng, họ đã biết cháu là con trai của Phạm Sư Ôn năm xưa đã chiếm Thăng Long ba ngày, Cháu là kẻ thù của Quý Ly, nhưng cũng là kẻ thù của nhà Trần... Cháu đã hiểu ý bác chưa?
Đến lúc này, Phạm Sinh đã hoàn toàn tỉnh mộng. Anh muốn cả gia đình nhà Hạnh cùng đi với anh. Nhưng ông Sử cho rằng đi bốn người líu ríu rất dễ gặp nguy hiểm. Trong lúc đó cả Nguyễn Cẩn, cả Tổ Thu Ngưu Tất đều đang rất muốn tìm anh.
***
Phạm Sinh và Thị Hạnh nghe lời cụ Sử Văn Hoa, ngay đêm ấy, bơi thuyền rời khỏi Đại Hồ, đi về phía nam Thăng Long ở nhờ một nhà quen cách kinh đô chừng vài mươi dặm. Cụ Sử hẹn mấy hôm sau cả nhà sẽ đoàn tụ. Nhưng đã mười hôm rồi mà vẫn chưa thấy bóng dáng cụ Sử ông và cụ Sử bà. Hai người lòng nóng như lửa đốt. Không chịu nổi nữa. Phạm Sinh định giả trang trở về Thăng Long nghe ngóng tin tức.
Phạm mới rời chỗ ở một quãng đường, đến một cái chợ, may mắn gặp người quen. Anh ta là một nô tì được giải phóng, không có việc làm, phải lên Thăng Long làm nghề gánh thuê, thỉnh thoảng vẫn đến ngủ đô ở ngôi chùa đổ. Gặp Phạm, anh ta kéo ngay ra chỗ vắng báo tin:
- Huynh chớ có về Thăng Long. Người ta đang vẽ hình truy nã huynh. Giấy dán ngay ở chợ Báo Thiên. Vả lại...
- Tôi muốn hỏi bác tin tức về hai ông bà Sử.
- Thật khổ? Huynh chưa biết tin tức gì sao? Chùa Tiên bị đốt cháy rồi.
- Chùa cháy?
- Cả hai vợ chồng cụ Sử cũng bị chết cháy trong đó...
- Hai cụ Sử đều chết cả rồi sao?
- Thật khổ! Sau khi huynh và cô Hạnh bỏ đi, vợ chồng cụ Sử về ngủ ở toà hậu điện, chỗ huynh ở cũ. Đêm hôm ấy, có một toán người bịt mặt đến chùa. Tôi may mắn hôm ấy không ngủ tại chùa. Nghe nói toán người này rất hung ác, chúng sục sạo khắp chùa, trói gô tất cả ai có mặt, đánh đập dã man, rồi giết tất cả chẳng trừ một ai. Hôm ấy chỉ có ba người thì phải. Ông bà Sử và một thằng bé ăn mày, thằng bé nhỏ người nằm dưới đít ông Thiện hộ pháp. Nó nhìn thấy tất cả. Nó thấy lũ bịt mặt đánh đập ông bà già tra hỏi điều gì đó, thằng bé nhanh nhẹn lẻn được ra khỏi chùa, xuống hồ lặn đi mới thoát chết. Bọn bịt mặt giết hai vợ chồng ông bà già xong, liền phóng hoả đốt chùa. Lửa cháy ngùn ngụt cho đến sáng. Người ta đến thấy xác vợ chồng ông Sử bị cháy đen. Và có một điều rất dã man và rất kỳ quặc.
- Điều gì kỳ quặc?
- Bọn bịt mặt đã dùng dao sắc cắt toàn bộ cụm ngọc hành của cụ Sử Văn Hoa...
Cắt sạch! tại sao lại cắt? tại sao phải dã man như vậy? Là một tín hiệu gì hay một sự đe doạ? Ai đã làm việc này? Cũng có thể họ muốn tìm ta. Cũng có thể cụ Sử đã chửi rủa hoặc làm phật ý một nhóm người nào đó?
Phạm lặng người đi vừa buồn rầu vừa tức giận. Cũng xen lẫn một cảm giác hối hận, vì Phạm nghĩ có thể cụ Sử chết vì người nào đó muốn tra hỏi để tìm anh, vậy anh đã gây ra cái chết của vợ chồng cụ Sử, mà cũng là bố mẹ vợ của anh.
Phạm chợt nghĩ đến một câu nói của cụ Sử cái đêm ngoài túp lều bãi ngô: “Con người có ba thứ quý nhất: khối óc. trái tim và tinh lực. Nếu ở cạnh một quân vương, chắc chắn con người sẽ bị mất một trong ba vật quý ấy “ Phạm liên miên suy ngẫm. Anh lại nhớ xa hơn đến những lời dạy của ông thầy già Sư Tề khi dạy võ Ngọc Trản cho anh. Có ba miếng võ độc thủ: Thượng Ngọc Trản, Trung Ngọc Trản và Hạ Ngọc Trản. Dùng độc chiêu Thượng Ngọc Trản kẻ thù sẽ mất đầu; dùng miếng Trung Ngọc Trản, kẻ thù sẽ bị đâm qua tim, dùng miếng Hạ Ngọc Trản kẻ thù sẽ mất cái sinh khí ở đời.
Phạm không đi sâu vào võ thuật nên không học những thế võ giết người quái quỷ ấy. Song ở đây cụ Sử bị cắt toàn thể bộ sinh thực khí, liệu có gì liên hệ với thế võ Hạ Ngọc Trản kia không? Và như vậy, liệu có liên quan gì tới Tổ Thu và Ngưu Tất hay không?
Tuy nhiên Phạm Sinh vẫn miên man nghĩ tiếp - Cái đêm tâm sự với Nguyên Cẩn trên hồ Tây, rồi chuyện Nguyễn Cẩn đã tự hoạn, rồi Nguyễn Cẩn đã gợi ý cho chính anh... liệu tất cả những cái đó có mối liên hệ nào tới cái chết bi thương và tàn độc một cách quái dị của cụ Sử không?
Sao lại không? Đối với những kẻ cuồng tín tất cả đều có thể.
Vậy thì ai là người đã giết chết Sử Văn Hoa? Ai là người đã đang tâm giết một con người đã cõng một bồ sử trên lưng, leo đèo lội suối, trốn tránh một hôn quân để đi tìm một chân mạng thiên tử? Ai là kẻ đã dã man giết một con người nhân hậu chỉ muốn đi tìm cách giải giấc mộng cuồng ở đời? Ai là kẻ đã mất hết nhân tính đến mức giết một người suốt đời ghi chép sử di tìm hồn của núi sông, dù trong tù ngục vẫn giải một câu đố về sự thái hoà dân tộc?
Hồ Quý Ly
Phần XII- Chương - 1 Đường Yên tử
Cha tôi nói:
- Anh Trừng? Đã đến lúc cha phải vào Tây Đô. Tình thế lúc này dồn dập. Minh Thái Tổ vừa mới chết. Minh Huệ Đế vừa mới lên ngôi. Lúc này, phương Bắc đang phải lo việc bên trong của họ. Bên mình, thái tử An cũng vừa lên ngôi thay Thuận Tôn. Cháu ta còn nhỏ lắm. Năm nay ta cho tổ chức hội thề tại Tây Đô, trên Đốn Sơn ta sẽ đích thân làm chủ lễ. Trăm quan đều phải có mặt ở hội thề, không ai được phép vắng. Ngày ấy sẽ là ngày chứng tỏ lòng trung trinh của mọi người. Anh Trừng? Chính vì hệ trọng như vậy, nên công việc ngoài biên ải không thể lơi là. Những việc ta giao cho anh...
Tôi trả lời:
- Thưa cha, biên cương phía nam hiện nay không còn là mối lo ngại, nhưng con cũng đã biên thư vào Hoá Châu nhắc nhở bọn Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân vẫn phải cẩn mật theo dõi địch tình. Ngại nhất là biên giới phía Bắc. Mặc dù nhà Minh đang bận. nhưng ý đồ nhòm ngó nước ta của họ ít lâu nay đã rõ. Vậy nên, phía Lạng Sơn con đã nhờ Hoàng Hồi Khanh đi nhắc nhở và thanh sát; còn phía mặt biển, đã cho Đỗ Tử Mãn đem thuỷ binh ra Vân Đồn. Mặc dù vậy, ngày mai con cũng phải lên đường ra Hải Đông thanh sát...
Quý Ly gật đầu:
Như vậy cha mới yên lòng vào Tây Đô. Cha dặn thêm con một điều: Ngoài việc xem xét động tĩnh của phương Bắc, trong khi đi thanh sát, con nên nhớ gặp những nhân sĩ khoa bảng... Cha muốn ngày hội mừng Tây Đô và ngày hội thề phải có đủ mặt các danh sĩ... Cũng nên báo cho cả đám học trò, sắp tới ta sẽ cho mở khoa thi kén người tài ngay tại kinh đô mới... Sĩ tử nên vào sớm ngay từ lúc này là vừa... Ra Hải Đông, con nhớ lên Yên Tử thăm ông ngoại... nếu mời được ngoại vào Tây Đô dự hội mừng kinh đô mới là tốt nhất - Nhưng năm nay ngoại của con đã ngoại tám mươi; không biết người còn đủ sức để đi một chuyến...
Vậy là khi tất cả các gia đình quý tộc Thăng Long lũ lượt kéo nhau vào Thanh Hoá, thì một mình tôi lại chuẩn bị đi một chuyến ngược chiều, vừa ra biển, vừa lên biên giới.
Tôi cưỡi ngựa. trở về Trại Thuốc. Ông già Lặc ra đón. Tôi nói với người lão bộc:
- Cụ vào chuẩn bị hành trang. Nhớ mang cả túi thuốc quý, nhất là những thỏi quế Thanh, những con nhân sâm...
Ông già đưa mắt nhìn tôi. như muốn hỏi lộ trình nơi đến, song lại không dám. Tôi vui vẻ trả lời câu hỏi ẩn ngầm ấy, bởi vì tôi biết câu trả lời sẽ làm ông vui:
- Chuyến này ta lên Yên Tử, đến chỗ ông ngoại tôi.
Quả như tôi dự đoán. mắt ông già mắt chợt sáng lên. Tôi hiểu người lão bộc rất gắn bó với ông tôi. ừ nhỉ? Người già... tuổi già... nỗi cô đơn... tại sao ta lại không nhận thấy ông lão Lặc và ngoại tôi, ngoài thân phận chủ tớ, còn là hai người bạn. Ông Lặc được ông ngoại tôi nhờ cậy giao phó... vì cái nghĩa, ông cụ đã từng ấy năm trời chăm sóc cho tôi. Nhưng còn ông ngoại và nỗi cô đơn của người già nữa... Trong thời ly loạn này, tôi có quyền gì để kéo cái tuổi già vào vòng xoáy? Nghĩ vậy tôi nói:
- Lần này, lên đó, tôi sẽ gửi cụ ở lại với ông ngoại tôi
- Thưa đức ông...
- Ngoại tôi đã già lắm rồi. Và cụ cũng đã trở về già... Tôi nói thực bụng đấy... Hai người cần ở bên nhau lúc tuổi già. Tôi đã vô tâm, đáng trách với ngoại tôi... cả với cụ nữa... nhưng chuyến này, tôi đã quyết...
- Thưa đức ông, cụ nhà dặn, vì đức ông chưa có...
Tôi cười:
- Ngoại tôi lo láng, vì mấy năm nay, từ khi quận chúa mất, tôi chưa chịu tục huyền chứ gì. Cụ đừng lo... Phen này tôi sẽ lấy vợ... mà không chừng, tôi sẽ cưới dăm ba bà ấy chứ.
Chiều hôm ấy, tôi ngồi ở thềm ngôi nhà cổ, ngắm nghía khu vườn thuốc của ông ngoại. Khu vườn thuốc, nhưng đối với tôi lại là một vườn hoa, lúc này đương tiết xuân, nên tưng bừng muôn sắc. Mấy bụi loa kèn trắng, trước sân, vươn cao những giò hoa trắng ngà, toả một vị hương kín đáo, tôi phải nhắm mắt lại mới bắt được thứ hương dìu dịu ngọt của nó. Bóng tối sắp đến, tôi phải mở mắt ra để đón nhận trăm sắc hoa rực rỡ. Chắc ông tôi, lần này, sẽ muốn cháu mình kể lại cho nghe về khu vườn yêu mến, khu vườn mà có lẽ ông sẽ không còn có dịp gặp lại... Ông ơi! Cháu vẫn giữ nguyên vạt vườn cỏ lau ở góc xa xa, nơi ông đã nuôi thứ sâu “đông trùng hạ thảo”. Vẫn còn đó cây lựu, tứ thời, cây lựu già lúc này có hàng trăm bông hoa đỏ chót, cây lựu của ông sao lại nở hoa quanh năm? Vẫn còn tất cả những chậu địa lan, cháu chẳng nhớ tên từng thứ, nhưng cháu nhận thấy có thứ hoa xanh cốm, có thứ hoa ngà ngà, đốm tím bông to, có thứ hoa vàng ươm như một đàn bướm xúm xít...
- Ông ơi! Cây ngọc lan yêu quý của ông vẫn xanh tốt, nhưng lúc này chưa đơm hoa... Ông tôi yêu cây lan, tôi cũng yêu cây ngọc lan không kém. Ngày xưa, phải vạch cỏ dại mới đến được gốc của nó. Ở đó, có một ngôi miếu nhỏ. Nó giống như một thứ cây hương, to hơn mọi cây hương, đằng trước có bậc trèo. Chính ở đây, tôi đã dấu bí mật của thời thơ ấu. Bà mẹ kế của tôi, bà công chúa Huy Ninh kể rằng, cha tôi thời thơ ấu vẫn nuôi một ngọn lửa bí mật trong một hốc đá. Tôi lấy làm ngạc nhiên sao lại có sự trùng hợp như vậy. Tôi cũng đã nuôi một ngọn lửa bằng những que hương ở góc miếu, dưới gốc ngọc lan, và vẫn thường mơ thấy những điều kỳ lạ bí ẩn về cây hoa ngát hương nọ. Có đêm, nằm cạnh ông, nghe tiếng thạch sùng tặc lưỡi trên nóc nhà, tôi vẩn vơ hỏi:
- Ông ơi? Tại sao ta phải thắp hương ở miếu ngoài vườn?
- Tại vì... cây ngọc lan.
- Sao lại thế?
- Cây lan thơm quá... thành thử những vong linh thiêng liêng hay về tụ hội ở đó.
- Những vị thần hở ông?
- Ừ! Thần đất... có người bảo lắm khi... cả những hồn ma.
- Cây ngọc lan nhà mình có ma sao?
- Ông chưa trông thấy ma ở đấy bao giờ.
Những tín ngưỡng thơ ngây dân dã ấy, khi lớn lên làm tôi tự cười thầm, nhưng đã làm đẹp thời ấu thơ của tôi rất nhiều. Đêm ấy, tôi trằn trọc và im lặng nghĩ ngợi: ông tôi chưa hề thấy, nhưng riêng tôi đã từng trông thấy con ma Ngọc Lan. Điều này tôi chẳng nói với ai, và cứ thầm hứa với mình sẽ gìn giữ bí mật ấy mãi mãi. Tôi ghen tuông mà gìn giữ, bởi vì chẳng có ai, ngay cả ông ngoại tôi, cũng chưa bao giờ nhìn thấy. Riêng một mình tôi thấy, vậy đó là đặc ân trời đã riêng ban cho tôi. Cái đặc ân độc nhất trên đời - Không hiểu sao, tôi cứ nghĩ như vậy - Nếu như ai ở trên đời này không có một bí mật riêng tư, dù cho điều đó bị coi là ngớ ngẩn, thì chắc chắn người đó là kẻ bị thiệt thòi, thậm chí có thể nói là bất hạnh. Tổ tiên, khí sông khí núi đã gửi riêng cho ta điều linh thiêng kỳ bí đó... tôi cứ tưởng như đó là vật gia bảo được xưa truyền lại... nó như muốn dạn dò tôi để làm kế tiếp một điều gì đó rất mơ hồ, ta khó bao giờ xác định rõ rệt. Con người cứ như thể bị quỷ ám, cứ đinh ninh mình phải làm một điều gì đó, một điều có thể nhỏ bé thôi, nhưng là số phận, mà có khi cả cuộc đời vật lộn cam go mới có thể tìm ra.
Con ma Ngọc Lan của tôi hình thù thế nào? Cứ nhớ mãi một đêm mùa hạ năm tôi trạc chừng bẩy, tám tuổi - tôi cũng ngồi ở thềm nhà nhìn ra góc vườn, chỗ cây ngọc lan. Hương lan ngát trời. Hương lan đượm vào vườn cây thuốc, đượm vào lùm cây bưởi. để man mác theo ngọn gió đến đánh thức cái hồn mơ màng ở chỗ sâu kín trong tôi, vẫy gọi nó thoát xác, để ra nô đùa dưới trăng hè. Tôi như bị thứ mê hồn hương ấy vừa ru rím, vừa rủ rê đi vào cuộc xuất thần. Trong giấc ngủ ngồi chập chờn, đột nhiên, tôi rùng mình. Rùng mình, bởi vì hồn tôi hay chính là tôi chợt trông thấy cái vòm lá thẫm của cây ngọc lan đang lắc lư. Cảm giác cái cây như một con người đang cựa quậy muốn gắng hết sức... lột xác Rồi cây lan bỗng run bần bật. Toàn bộ không gian quanh vùng cũng nức lên, ngút ngát hương thơm. Không gian được ướp hương hay là cây lan đang vắt mình phun ào ạt thứ mê hồn hương kỳ lạ, để tặng cho người. Chính phút ấy, từ bóng sẫm, tôi trông thấy con ma Ngọc Lan lững thững bước ra ánh trăng. Thế là tôi choàng tỉnh dậy, và không tin ở mắt mình nữa. Tôi dụi mắt. Đúng là tôi đang thức.
Chính đôi mắt tôi đã trông thấy hồn ma. Những con ma của người đời, của hầu hết mọi người, thảy đều xấu xí, đều làm ta rùng mình sởn gáy, trái lại, con ma Ngọc Lan của tôi lại là một giai nhân. Một cô gái đẹp, rất trẻ, đội nón thúng quai thao, mạc áo mớ ba, bên trong áo lụa bạch, ở giữa áo hồ thuỷ, bên ngoài áo là mầu cánh gián. Cô bước đi làm mớ váy lụa, trong trắng ngoài đen sột soạt; mớ thắt lưng mầu hoa đào và hoa lý phất phơ. Đôi chân cô đi hài cườm, lướt trên đầu ngọn cỏ tựa đang bay. Còn thêm một điểm khác nữa: con ma của người đời đều độc ác, chúng hiện hình như chỉ để doạ nạt, chỉ để báo một điều dữ, làm cho con người phải đẫm mồ hôi lạnh toát. Riêng con ma Ngọc Lan của tôi lại hiền lành, cô con gái nón thúng quai thao ấy đứng giữa vườn hoa thuốc, nở nụ cười với tôi, vẫy nón, rồi thủng thỉnh quay về gốc hoa lan, và... hoà tan trong vũng tối góc vườn, để cho tôi ngơ ngẩn trông theo. Cũng không hiểu sao, trong thâm tâm, tôi cứ đinh ninh rằng đó là một điềm lành đã xuất hiện ở lúc rạng đông cuộc đời mình. Rồi nhiều buổi chiều khác, tôi cứ ngồi ở thềm ngôi nhà cổ, chờ đợi, rình gặp lại cái phút kỳ diệu mà một lần tôi đã thoáng thấy, nhưng phút đó không bao giờ tái hiện. Hay, nói cho đúng hơn, điều kỳ diệu ấy chỉ tái hiện trong giấc mơ tôi. Cô gái Ngọc Lan, hay cô ma xinh đẹp ấy, trong cuộc đời tôi, thỉnh thoảng lại về trong mộng; đó là những lúc, trong những cơn bão tố cung đình, lòng tôi mang nhiều phiền muộn...
***
Hôm nay, trong cái chập choạng, tôi lại ngồi ở thềm ngôi nhà cổ nghĩ xa nghĩ gần. lòng buồn man mác, nghĩ tới số phận của những người thân đang bị cuốn theo, không cưỡng nổi, những cơn co giật cuồng nộ của sóng thịnh suy. Khu vườn này, ngày xưa, chẳng đã in dấu chân của Thánh Ngẫu, của Thuận Tôn... đó sao, chẳng đã từng nghe tiếng cười giòn giã sung sướng của những đứa em tôi đó sao; nhưng nay Thánh Ngẫu lúc nào cũng khóc, nó đã trở thành bà thái hậu u buồn; còn Thuận Tôn, sau khi làm lễ truyền ngôi cho Thái tử An, chắc lúc này đã ra tới Hải Đông, lên núi cao, ngồi tĩnh toạ, để tìm giấc mơ tiên... trong khói núi, sương chiều. Tôi muốn chối bỏ tất cả. Mà phút mơ màng trở về thủa ấu thơ lúc này cũng là cách chối bỏ. Bây giờ, tôi đã quá lớn để có thể đốt nén hương, nhen một ngọn lửa trong cái hốc ở gốc cây ngọc lan, nhưng chắc chắn trong lòng tôi vẫn còn bí ẩn leo lét ngọn lửa ấm áp của ngày xưa.
Ông ngoại tôi đã lên Yên Tử từ lâu. Khu trại đã bỏ hoang, nhưng vườn thuốc vẫn còn đó. Ông già Lặc vẫn chăm sóc vườn thuốc nhưng chẳng để làm gì cả. Ông ngoại, người thày thuốc từ tâm đã bỏ lên núi, hỏi còn ai biết xử dụng những cây cỏ lạ lùng đó nữa. Vườn thuốc không còn hữu dụng, nhưng nó vẫn còn là một vườn hoa, một vườn hoa ắp đầy kỷ niệm. Bụi bìm bìm tím mọc ở góc sân, leo lên cây bưởi, những ngọn của nó cong cong vươn ra không trung để nhảy múa với gió. Tôi chợt giật mình, nhớ tới chuyện ông ngoại dạn một bài thuốc lúc cụ đi tu:
- Phải nhớ lấy cây bìm bìm. Hạt của nó tên gọi “Khiên ngưu tử”, có thể chữa được bệnh rồ dại. Mà dòng giống nhà cháu vốn có chứng rồ dại.
- Ai rồ dại? Cha tôi? Hán Thượng? Hay bà hoàng Thánh Ngẫu? Cũng có khi, kẻ rồ dại ấy chính là tôi? Bởi vì đã nhiều đêm tôi mất ngủ. Bởi vì có một nỗi sầu dằng dặc vẫn ám ảnh tôi, mà tôi đã cố chôn vùi vào trong chén rượu. Bởi vì trong hồn tôi mang nhiều ảo ảnh. mà cô gái xinh đẹp nón thúng quai thao kia cũng là một ảo ảnh.
Dòng nghĩ miên man lang thang ấy bỗng nhiên chững lại, như bánh xe lăn vấp phải viên đá giữa đường. Hồn tôi sẽ lạnh, rùng mình. Tôi chợt ngẩng đầu nhìn ra vườn thuốc, rồi bàng hoàng... Từ xa xa, trong bóng mờ, dưới những tán cây hòe, có bóng một người con gái bước ra. Cô ta bước ra từ đám lau sậy, hay từ bóng những cây cổ thụ nhập nhoạng? Trăng non mùa xuân chẳng biết đã lên tự lúc nào... Không có bóng tráng. Biết trăng lên vì trời mầu trắng sữa. Trăng dãi lên người cô gái như khoác lên một tấm sa trắng mờ mờ, để làm nhoà khuôn mặt, nhưng lại càng làm tăng thêm vẻ kiều diễm. Tôi giật mình, tự nhủ thầm: hồn ma Ngọc Lan. Nhưng, cô Ngọc Lan đêm nay không đội nón thúng quai thao. Cô vấn khăn, tóc bỏ đuôi gà.
Những tà áo mớ ba đỏ trắng nâu và bộ thắt lưng hồng lý bạch được gió thổi tung phơ phất. Đúng! Cô ta đã hiện về? Tôi khẩn cầu cho hồn ma bước lại gần tôi. Người con gái mờ ảo đó tiến về phía tôi thật. Cô ta cười. Và hai tay lại dâng lên ngang mày một cây đàn nguyệt. Ô hay! Hồn ma đêm nay cũng muốn cùng ta say một khúc nguyệt cầm? Tôi đứng lên, mừng rỡ.. Người con gái mà ta đã gặp từ thủa ấu thơ, người con gái vẫn nhiều đêm đi về an ủi tôi trong giấc mơ, hôm nay, lại hiện ra bằng xương bằng thịt cùng với cây nguyệt cầm... Tôi như trong mộng, khi nghe thấy tiếng ríu rít như lạ... mà lại rất quen:
- Chàng thẫn thờ gì thế?
Tôi kính cẩn cúi đầu thi lễ.
- Ô hay!
- Đúng là nàng! thật hay mơ?
- Ô kìa? Chàng chẳng nhận ra em?
Tôi càng bàng hoàng hơn, khi nhận thấy giọng nói... quá ư quen thuộc...
- Chàng sao thế? Chàng nghĩ đi đâu vậy? Em đây mà? Thanh Mai đây mà
Tiếng nói chợt kéo tôi về cuộc sống thật. Và, thế là tôi bừng tỉnh... à! Ra thế! Thực và ảo?... Ở đây ảo với thực hoà tan. Thì ra, cô gái Ngọc Lan, người đàn bà nón thúng quai thao, mà tôi đã gặp từ thủa xa xưa, nay đã hiện thân ra thành Thanh Mai. Thảo nào! Tôi cứ cảm thấy gương mặt của nàng rất quen thuộc... Hoá ra, một tiền duyên? Có thể nàng đã quen tôi từ một kiếp khác... Và hồn nàng đã về ẩn dưới gốc hoa cao quý để bây giờ hồn và xác, mơ và thực, nhập với nhau làm một, hoá thành cô gái bằng xương bằng thịt: Thanh mai, biến thành cô kỹ nữ, với tiếng đàn làm mê hồn cả đất Thăng Long.
Tôi cười, bảo nàng:
- Có lẽ em không phải ở cõi đời này!
Thanh Mai cười giòn:
- Chàng quá khen... thành mơ. Chẳng phải em là xương là thịt hay sao?
Chúng tôi trò chuyện, vui vầy thâu đêm. Trong lúc ái ân, tôi ngạc nhiên nhìn đôi mắt long lanh ánh trăng của nàng, nhìn mớ tóc mượt mà xoã tung của nàng, sao chúng đen láy và linh động đến thế, và gương mặt nàng lúc trang nhễ nhại lúc hồng hào, sao chúng đổi sắc màu nhanh đến thế, cứ như thể tôi vừa mới thổi cho chúng một cái hồn mang nhiều âm điệu. Giọng ríu rít của nàng nói vào tai tôi:
- Chưa bao giờ em sung sướng như đêm nay.
Tôi chợt nhớ đến lời một người bạn: Chỉ có người đàn ông thông minh mới đem lại được sự vui vầy thoả thích cho người đàn bà trong cuộc giao duyên. Không hiểu câu nói đó có chút nào kiêu ngạo không? Tôi cứ tự cười thầm, tự chế nhạo thầm trong lòng, nhưng chắc chắn nó là một niềm hãnh diện và hạnh phúc. Cũng không hiểu ảo ảnh về con ma Ngọc Lan có ảnh hưởng gì đến cuộc ái ân đêm đó không, mà bỗng dưng, lúc ở cạnh nàng, tôi bỗng thấy sực nức mùi hoa vương giả, phải chăng mùi hương được lan toả từ da thịt nồng nàn, ấm áp và quấn quýt của nàng.
Và chính đêm ấy, tôi mới chợt hiểu một điều: Thanh Mai là người đàn bà độc nhất mà tôi đi tìm kiếm từ bấy lâu nay. Đó là người đàn bà ẩn dấu luôn ám ảnh tâm tưởng con người, người đàn bà tôi muốn gặp mà chưa hề thấy mặt. Lúc thì nàng biến hình ra một bóng ma, một ảo ảnh. Lúc thì biến thành một cây hoa, một hồn hoa. Người đàn bà đầy nhục cảm, đầy sự sống. Người đàn bà xinh đẹp lại có một tâm hồn. Gặp được nàng, đó là niềm vui lớn, đó là cuộc tìm kiếm lớn của đời người.
Hồ Quý Ly
Chương 2 Đêm hôm đó
Đêm hôm đó, Thanh Mai kể với tôi về cuộc đời nàng: Gia đình em làm nghề chài lưới ở một vùng hạ lưu sông Hồng. Khúc sông bát ngát. Ký ức chẳng còn gì nhiều lắm chỉ còn nhớ được những bãi lau ven sông thu về trắng xoá. Hoặc nhớ những cánh đồng xanh mướt thẳng cánh cò bay, đó là quang cảnh vùng quê mỗi khi theo mẹ mang cá lên chợ bán. Chàng biết không? Hầu như người lái đồ nào cũng hát hay; bố mẹ em và cả em nữa đều hát hay cả. Những buổi chiều, cơm nước xong, bố em vừa kéo nhị vừa hát; hát chán lại gõ mạn thuyền mà hò ô, bố hò câu trước, mẹ tiếp câu sau; giọng bố trầm, giọng mẹ cao quấn quýt với nhau. Đời người lái đò chỉ có thể mà vui...
Năm ấy, em chừng mười ba tuổi, quân Chiêm Thành theo Chế Bồng Nga tràn ra cướp phá nước ta. Những năm đó, người lái đò là người chịu khổ trước nhất vì giặc Chiêm, chúng thường theo đường biển xâm chiếm vùng châu thổ vào mùa gió nồm. Mùa gió đông - nam. Các gia đình sông nước đều biết điều đó, nên cứ đến vụ gió nam là nơm nớp lo sợ. Khốn nỗi. vụ nam đối với dân chài lại là chính vụ. Cá tôm trên sông nhiều ê hề. Có khi tung lưới chỉ vài canh giờ đã đầy thuyền tôm cá. Bán không hết đem phơi khô để dành. Nguồn sống quanh năm nhờ vào vụ cá nam là chính. Do vậy, dù sợ giặc, các gia đình chài vẫn phải bám mặt sông. Giặc đến, người ta gõ thanh tre vào mạn thuyền theo nhịp ngũ liên báo động. Thuyền nọ truyền tới thuyền kia. Cứ như vậy, tiếng ngũ liên truyền suốt dọc sông, rồi truyền đến cả những xóm làng trên bờ. Các thuyền vừa gõ vừa nhanh chóng cặp bờ, trốn giặc. Mọi người đã tay nải sẵn sàng, thoắt một cái, phải lủi nhanh vào những bãi lau sậy ven sông.
Em đã nhiều phen chui lủi trốn giặc như vậy, nhưng có một lần gia đình đã bị giặc bắt. Bị bắt vì quá mải mê theo một đàn cá ra tận cửa sông, xa rời các bạn thuyền. Mặt nước mênh mông, chẳng biết tìm đâu chỗ trốn. Cha em bị giặc giết ngay. Quân Chiêm có lệnh tuyệt diệt tất cả dàn ông. Còn mẹ em, vì có chút nhan sắc nên được một viên tì tướng Chiêm Thành bắt làm thiếp. Vì thương con, nên mẹ em đành nhẫn nhục. Năm ấy, em mười ba tuổi, vừa xinh đẹp vừa có giọng hát hay nên bị xung vào đội ca múa của vua Chế Bồng Nga. Đầu tiên, em phải học múa hát, do một bà cung nữ già truyền dậy. Người Chiêm múa rất khéo mà hát cũng lạ và hay. Chỉ một năm sau. em đã tinh thông mọi ngón đàn ca của họ. Cha em, xưa kia là trai cầy hết vụ nông lại cùng bè bạn họp thành gánh hát, lang thang khắp vùng châu thổ sông Hồng, sau gặp mẹ em cô gái thuyền chài có giọng hò làm mê mẩn lòng người, cha di theo mẹ và trở thành dân chài. Chính vì thế nên dù học hát người Chiêm, em vẫn không quên các làn điệu của người Việt. Thỉnh thoảng, em vẫn hát giọng Việt cho người Chiêm nghe. Nhưng phải nói, em đã bị lây giọng Chiêm rất nhiều. Người Chiêm thích giọng hát buồn. Mà đời em nào có ra gì, nên giọng em càng buồn hơn. Do đó, người Chiêm Thành rất thích nghe em hát...
Kể tới dây, Thanh Mai ngồi nhỏm dậy, lấy cây đàn nguyệt. Trong đêm thanh vắng, tiếng đàn của cô chợt vang lên não nùng. Cô nhấn, cô luyến, cô láy chậm rãi như một tiếng thổn thức. Cô hát lên khe khẽ:
Con ngựa Hồ?
Ơ con ngựa Hồ?
Mi ăn cỏ phương Nam
Uống nước dòng sông Thu Bồn...
Đêm đêm hí trăng,
Hí về phương Bắc
Mày nhớ con sông màu đỏ.
Mày nhớ bờ lau xám buồn
Mày nhớ ai da diết ngày đêm...
- Nàng làm bài hát đó ư? Sao mà sầu thảm đến thế? - Tôi khẽ khàng hỏi.
- Không phải của em. Bài hát của mẹ em đấy. Khi bị bắt làm vợ người ta, vì nhớ cha em, nhớ con sông Hồng, mẹ đã hát như thế. Hát theo một điệu hát ngày xưa của bố, rồi mẹ héo hon mà ốm. Mẹ bỏ ăn hàng tháng trời mới chết nơi đất khách quê người.
Thanh Mai treo cây nguyệt cầm lên tường, ngồi thừ ra hồi lâu mới hết xúc động. Nàng kể tiếp:
- Chế Bồng Nga là một ông vua vũ dũng, nhưng rất thích múa hát. Sau công việc triều chính, tối nào ông cũng xem múa hát. Ngay cả khi đi chiến trận, ông cũng mang theo đội ca vũ. Có một đêm, ngồi xem, ông ta bỗng để ý tới em. Chế lại gần, nhìn cham chằm vào mặt em; ông đi vòng quanh ngắm, rồi lật chiếc mũ nhọn dát vàng trên đầu em ra, ngắm nghía mớ tóc. Ông hất hàm hỏi:
- Tóc này, không phải tóc người Chiêm?”
- Em quỳ xuống, tâu bày. Ông trầm ngâm gật đầu, rồi từ đó em được chuyển làm thị tì cho vua Chiêm. Hầu hạ, xoa bóp mỗi khi Chế mệt nhọc... đội đèn hầu tiệc. Công việc thật nhục nhã tuy không vất vả. Mỗi khi có tiệc em mặc chiếc khố dát vàng, đôi vú cũng bịt bằng hai chiếc chóp vàng. Hai tay giơ lên đỡ chiếc khay vàng đội trên đầu, trên khay đặt những cây bạch lạp.
Em gần như trần truồng đội đèn. Thân hình em đẹp. Khách khứa vừa ngắm em vừa cười đùa ăn uống. Bà vũ nữ già người Chiêm đã dặn: “Đức vua Chế Bồng Nga không thích người đội đèn lại khóc. Muốn khóc thì khóc trong lòng”.
Để cho bữa tiệc đặc biệt, vua Chiêm bắt em hát những bài hát Việt.
Em cầm cây đàn nguyệt, càng nén mối sầu bao nhiêu, thì tiếng đàn của em càng não nùng bấy nhiêu...
...Ơ con ngựa Hồ?
Mày nhớ con sông màu đỏ
Mày nhớ bờ lau xám buồn
Mày nhớ ai da diết ngày đêm...
Đến phút ấy, em không còn nén nổi lòng mình nữa, em đã khóc lã chã, song càng khóc hát càng hay. Hay đến nỗi Chế Bồng Nga, con người sắt đá cũng phải phá lệ tha cái tội khóc trong bữa tiệc của em.
Đêm ấy, vua Chiêm say lắm. Khi khách khứa về hết, ông đến bên em, khẽ khàng gỡ hai chiếc chóp vàng bịt đôi vú. Ông vuốt ve chúng, đắm say nhìn chúng, trong khi em run lên bần bật. Ông đặt em nằm xuống, gỡ nốt chiếc khố vàng ròng, và chiếm đoạt thân xác em. Em mê man sợ hãi, người như khúc gỗ. Em hét lên. Chao ôi! Nóng bỏng và đau đớn đến tê dại cả tâm hồn. Ông ta hung hãn chiếm đoạt; còn em thì rúm ró khiếp hãi. Không hiểu sao, như thế mà ông ta lại cảm thấy khoái lạc. Chế nói:
- Tốt đấy? Nhưng nhà người phải nhớ lấy điều này, nếu ngươi mang thai, thì phải biết tự xử trí...
Ông ta nói thế nghĩa là gì? Em ngồi lên, hàm răng còn thấy lập cập. Máu chảy loang đùi. Bà già cung nữ đến lau cho em, khoác áo cho em, đút cháo cho em. Rồi bà vào rừng, tìm những thứ lá đang ngắt, nấu cho em uống. Bà già thì thầm vào tai:
“Uống để triệt thai”.
Chế Bồng Nga không thích có con lai. Con của ông ta không thể mang một chút dòng máu Việt. Em rung lên cầm cập khi bà già cho em biết “tự xử trí” nghĩa là thế nào.
Có thể nói Chế Bồng Nga vừa thích em vừa căm thù em. Ông ta xâm chiếm cơ thể em như để trả thù. Có lần, sau lúc thoả mãn, ông nói.
“May mắn cho nhà người! Ta đã ngủ với nhiều con gái Việt; nhưng không một người đàn bà Việt nào được ngủ với ta đến lần thứ hai”.
Nghĩa là mỗi lần chiếm đoạt xong, ông ta đều sai giết chết những người đàn bà xấu số ấy. Điều đó càng làm em lo sợ hơn. Chẳng chóng thì chầy, sẽ đến lúc ông ta chán, lúc đó số phận em lại như những người đàn bà xấu số kia. Có một lần, ông ta lại nói:
“Ta không muốn câu chuyện “Huyền Trân công chúa” khi xưa lại tái diễn”.
Như vậy số phận em đã được định đoạt. Em đã sống những ngày buồn thảm căng thẳng nhất của đời. Đã có lúc em muốn chết. Em đã chuẩn bị lá độc. Bà già cung nữ biết được bèn bảo:
- “Nghiệp là thế. Thôi thì sống cho hết nghiệp của mình. Chết cũng chẳng trách được nghiệp. Nó còn theo đuổi mình sang kiếp khác. Chi bằng cứ cắn răng lại mà trả nợ. Hết nghiệp là xong. Nhanh chóng lắm... Ta lại nhẹ tênh. Đằng nào cũng đã khổ, nỗi khổ đã thành chai gánh nhẹ hơn... “
Sao lại thành chai? Sao lại nhẹ gánh? - Em thầm nghĩ - Mỗi lần ông vua Chiêm đến chiếm đoạt, em lại trải qua những phút run rẩy kinh hoàng. Những cuộc giao duyên đó đều như những cuộc xử tội. Đó là những trải nghiệm của riêng em mà ít có người đàn bà nào biết, vì người đời chỉ mới biết một điều: chuyện giao duyên là hoan lạc...
Nào ai biết cảnh những phút em phải hét lên vì đau đớn... và kỳ lạ thay, em càng đau đớn, ông vua kia càng thích thú...
Mãi sau này em mới hiểu: Chế Bồng Nga thích nỗi đau của người Việt. Kẻ thù càng đau, tâm hồn ông càng sảng khoái. Ông đem cả sự hận thù vào trong cuộc hành lạc. Cũng may cho em, vì còn biết cảm nhận đau đớn, không biến thành chai sạn. Nỗi đau làm cơ thể xinh đẹp em mỗi lần lại méo mó đi một cách khác... nên nó vẫn gây được khoái cảm cho ông... Em thoát chết phần nào nhờ được còn biết đau đớn...
***
Mùa gió nam đã đến đem đến nỗi lo sợ khắc khoải cho người dân châu thổ sông Hồng. Riêng Chế Bồng Nga hân hoan. Ông ta nói với em:
“Nước Việt của ngươi đã đến hồi mạt vận. Nhà ngươi hãy cầu trời khấn Phật đi. Hãy cầu cho ta đại thắng. Phen này, nếu ta tiêu diệt xong nhà Trần, tất cả bọn đàn ông người Việt, ta sẽ làm cỏ; nhưng bọn đàn bà, ta tha. Khi khải hoàn trở về, ta sẽ chính thức lấy nàng vào cung... “
Thế quân Chiêm như chẻ tre. Đánh vào Thanh Hoá, Quý Ly thua, Nguyễn Đa Phương mang quân rút chạy, tôn thất Trần Nguyên Diệu đầu hàng. Thày chùa Phạm Sư Ôn chiếm Thăng Long ba ngày. Chế Bồng Nga cười ha hả.
“Trời giúp ta rồi! Trời đã chiều ta? Phạm Sư Ôn chẳng qua là bầy giặc cỏ, triều đình nhà Trần còn không giữ nổi kinh đô, huống hồ là năm vạn quân hùng mạnh của ta. Trời giúp ta rồi? Ha ha? Ta sẽ phong cho Trần Nguyên Diệu làm An nam vương, và nước Việt phải hàng năm triều cống Chiêm Thành. Trời đã chuyển gió bạc ư? Không cần! Bọn tư đồ, Thái bảo, đại thần nhà Trần chả bí mật gửi thư đến cầu xin ta mau tiến quân giúp đỡ họ ư? Phen này, ta sẽ ăn tết ở Thăng Long.
Bên bờ sông Lương, Thanh Hoá, vua Chiêm cho mở tiệc khao quân, để khích lệ muôn lòng tướng sĩ, trước khi tiến quân vào sông Hoàng Giang, vào châu thổ sông Hồng.
Trong bữa tiệc ấy, chính em là người vũ nữ mà Ba Lậu Kê, tên quân hầu của Chế Bồng Nga, định cưỡng đoạt, và đã gây nên cơn giận lôi đình của vua Chiêm. Khi Chế Bồng Nga tát tên lính hầu, bàn tay ông ta lăm lăm sờ vào đốc kiếm. Sự thịnh nộ ấy nằm ngoài lẽ thường. Ba Lậu Kê không thể hiểu được tại sao một vị vua oai hùng như thế lại có thể bảo vệ một con tù binh nô lệ, thứ người mạt cấp, thứ chiến lợi phẩm rẻ tiền.
Theo đúng lẽ, vua Chiêm thiếu gì gái đẹp, thiếu gì những người đàn bà cao quý, còn thứ đàn bà mạt cấp như em thường chỉ để dành cho bọn binh lính; nếu như em là một quận chúa một phu nhân nhà Trần, điều đó có thể hiểu được, đang này... Ba Lậu Kê, mắt tròn xoe, lủi vào bóng tối... Ông vua oai hùng đứng đó, chau mày nhìn em... còn em cố lấy mấy mảnh vải rách che thân, đứng run rẩy dưới ánh sáng cây bạch lạp...
Rồi Ba Lậu Kê bỏ trốn, quân Chiêm từ biển dong thuyền vào sông Hoàng Giang. Cũng may, từ hôm xảy ra chuyện ấy, em bị Chế Bồng Nga đuổi sang thuyền khác. Cũng nhờ thế, em không hề gì, khi Ba Lậu Kê chỉ điểm và quân cung nỏ của thượng tướng Khát Chân bắn như mưa vào thuyền vua Chiêm và giết chết Chế Bồng Nga.
Thanh Mai dừng kể, vì xúc động, hơn nữa chắc để sắp xếp, nhớ lại những tình cảm, những diễn biến đã qua của đời mình. Một lát sau, nàng mới tiếp:
... Mấy ai hiểu được sự tủi nhục, nỗi đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần của một cô gái ngây thơ trong phút chốc cuộc sống bỗng tan nát, mất cả cha lẫn mẹ, sống một cuộc sống thấp hèn của một con vật, của kiếp người nô lệ đàn bà, chung quanh lúc nào cũng ngút trời khí hận thù, lúc nào cũng nơm nớp như con cá năm trên thớt...
Hiểu được nỗi đau ấy, mới biết được tâm trạng của em khi được vị anh hùng Trần Khát Chân cứu thoát...
- Huynh hiểu. Tướng Trần Khát Chân, như một người cha, đã sinh ra nàng lần thứ hai.
- Vâng! Em đã khóc rưng rức, quỳ rạp dưới chân ngài, hôn lên đôi ủng chiến trận của ngài. Em không nói được thành lời chỉ biết khóc như mưa như gió. Mọi người khuyên giải mãi mới nguôi. Ngài đỡ em đậy. Em nói:
“Xin đức ông cho tiện nữ được lập bàn thờ, thờ sống ngài. Tấm thân hèn hạ này nhờ tướng công mới được tái sinh. Xin làm thân trâu ngựa để đền bù. Hôm sau, trong quân mở tiệc mừng công. Em ôm đàn ra hát. Lúc đầu hát bài “Lạc khúc báo thiên”, sau sang “Thanh bình điệu”. Tướng quân nói:
“Ta nghe vua Chiêm vẫn thích nghe một bài hát Việt do nàng làm ra, hay lắm”.
“Dạ! Đó là bài “Con ngựa Hồ!” do mẹ thiếp làm lúc sắp lâm chung. Nhưng sợ rằng nó quá u sầu... “
“Không sao? Bây giờ chiến tranh đã dứt. Vả lại, hát bài xưa buồn để ghi nhớ nỗi khổ trong lòng tướng sĩ cũng là điều nên làm”.
Em đành phải vâng lời:
Con ngựa Hồ?
Ơ con ngựa Hồ?
Mi ăn cỏ phương Nam
Uống nước dòng sông Thu Bồn...
Đêm đêm hí trăng,
Hí về phương Bắc
Mày nhớ con sông màu đỏ.
Mày nhớ bờ lau xám buồn
Mày nhớ ai da diết ngày đêm...
Ơ con ngựa Hồ
Người ngồi nghe đều biết thân phận của em, nay lại được nghe tiếng đàn tiếng hát của chính người trong cuộc cho nên tướng sĩ dự tiệc không mấy người không sa nước mắt. Tướng công gọi đến, bảo:
“Con hát hay lắm. Có muốn ta tiến cử xung vào đội nữ nhạc trong cung?”
Em đa tạ và từ chối.
“Hay là ta sẽ tìm nơi tử tế gả chồng cho con?”
Có lẽ không ai biết được nỗi khiếp hãi đàn ông của em. Sự cưỡng đoạt tàn nhẫn của vua Chiêm đã ghi lại một vết hằn sâu trong óc. Cứ nghĩ tới những phút bên vua Chiêm, em lại rùng mình... Em quỳ xuống trả lời:
“Tấm thân kẻ tiện dân nay đã vấy bùn. Không dám nghĩ đến việc gia thất. Ý nguyện của con lúc này chỉ muốn được xin về nơi thôn dã sống yên ổn, lập bàn thờ, thờ vong linh cha mẹ và cầu nguyện trời Phật hộ trì cho tướng quân ngày thêm rạng ngời công đức. Thế là đã thoả nguyện lắm rồi”.
Tướng công nghe vậy liền bảo:
“Sao lại vấy bùn? Con đừng nghĩ sai lệch. Con là một người trong trang nhất mà ta đã gặp. Ta có người thuộc hạ hiền lành trung trực, đã goá vợ. Ta muốn con có nơi có chốn. Ta muốn coi con như con gái của ta. Ta không muốn trông thấy con đến già...”
Em càng sợ hãi, một mực khăng khăng chối từ.
“Con đội ơn sâu. Đức ông đã cải tử hoàn sinh cho con. Nhưng việc gia thất... quả thực con đây không dám...”
Thượng tướng nhìn nét mặt tái mét của em, người rất ngạc nhiên. Ngồi im lặng hồi lâu, rồi gật gật đầu.. Có lẽ gương mặt và thái độ của em làm cho người hiểu được một điều gì chăng. Nhưng từ đây người không bao giờ đả động đến chuyện đó nữa...
Thượng tướng không cho em về quê. Người cho em một khu vườn ở phường Hà Khẩu, chu cấp tiền bạc để em lập nghiệp ở đất Thăng Long. Từ đó, thượng tướng đã thật sự coi em như con gái, nhưng không vì thế mà em lạm dụng lòng tốt của người. Em cố gắng tự lập. Trời đất đã phú cho em giọng hát. Số phận đã đưa đẩy em làm nghề ca hát từ lúc còn trẻ; vậy tại sao em lại không tiếp tục làm nghề ca hát. Xưa kia, giọng hát của em chỉ dành riêng cho vua chúa và triều đình Chiêm Thành, bây giờ em muốn đem tiếng hát ấy cho người Thăng Long. Nghĩ thế, nên em lại tiếp tục làm nghề ca hát. Người dân kinh đô rất lấy làm lạ sao em còn trẻ và đẹp, lại có thượng tướng đỡ đầu lại không lấy chồng. Nào ai có biết cho chuyện riêng tư, nỗi khiếp sợ đàn ông mà Chế Bồng Nga còn để lại cho em. Và cứ thế, em đinh ninh rằng từ nay đến sau này sẽ chẳng còn có người đàn ông nào có thể làm tan nỗi khiếp sợ trong lòng em”.
Tôi mỉm cười, không khỏi cảm thấy một chút kiêu hãnh. Trong bóng tối nàng đâu có nhìn thấy nụ cười trên môi tôi cớ sao nàng lại rúc đầu vào ngực tôi như để trốn tránh một sự ngượng ngùng đầy thi vị. Và Thanh Mai hỏi.
- Chàng có nhớ những ngày mới gặp nhau?
- Quên sao được cái đêm đầu tiên trong vườn mai.
- Kỳ lạ thật! Tại sao em sợ đàn ông đến thế mà sau cái đêm ở Tị Huyên Đình, sau khi cùng chàng hát bài “Hương lan” hay “Ai xui câu hát nghiêng nghiêng” gì đó, em bỗng chợt nhận thấy niềm xác tín trong lòng từ trước đến nay bỗng lung lay.
Tôi sung sướng nói:
- Còn huynh, mới gặp muội, huynh cũng bồn chồn...
Và xúc động. Rồi tự nói với mình: cô ấy là người đàn bà hiền dịu đã trải qua nhiều đau khổ. Cô ấy trong trắng, cô ấy có một tấm lòng cao cả, chịu bao nhiêu cay đắng như thế mà không hận thù...
- Chàng đừng nói thế. Em hận thù chứ. Tại sao bị ngược đãi như thế mà em không tự vẫn? Vì lòng hận thù đấy. Lòng hận thù đã tiếp sức cho em, dậy cho em biết cắn răng lại để sống sót. Ngày xưa em cứ tự nhủ: “Rồi các người sẽ biết tay ta”. Sự nhục nhã quá chừng làm em thù hận chẳng phải riêng gì Chế Bồng Nga quân Chiêm. Hình như nó mơ hồ được mở rộng với tất cả đàn ông... Khi được giải thoát, sự vui sướng lên đến quá mức làm em quên đi được một thời gian... Nhưng sau hôm gặp mặt chàng, ở vườn mai. em bàng hoàng. Tình yêu đã thức dậy trong em nhưng không phải không kèm theo sự hận thù. Nó biểu lộ ở chỗ, trong lòng vẫn có sự nghi ngờ, sự dày vò, sự ngập ngừng. Em tự bảo: tin gì được con người như chàng. Người cao sang tột bậc. Ta là kỹ nữ. Chẳng qua... một cuộc đùa chơi gió thoảng.
- Trải qua nhọc nhằn như nàng, có những ý nghĩ ấy là chuyện tất nhiên.
- Không phải! Chàng đã quá rộng lượng. Em chưa nói hết. Còn nhiều chuyện khác. nếu nói ra chàng có thể khinh thường... cứ thử nhớ lại mà xem... Tại sao thời gian đầu chàng cảm thấy như em cố tình lẩn tránh...
- Không nhớ... Không hiểu... à? đúng rồi. Huynh nhớ lại lúc đầu, đã có lúc thất vọng... uống rượu say... rồi nằm ở bãi sông...
- Đúng... Hôm ấy chàng đến nhà em... đến phường Hà Khẩu... Chàng gọi cửa... rồi buồn rầu quay ra bãi sông... Về sau em nói dối là em không có nhà, chỉ khi về mới bắt gặp chàng tuý luý nằm gục trên bờ ruộng. Thực ra, lúc đó em có nhà. Em ở trong nhà. Em nghe tiếng chàng mà không mở cửa... Bởi vì...
- Vì sao.
- Vì thực ra lúc đó em vừa yêu chàng đồng thời hình như lại hận thù chàng. Em cũng xấu xa chứ đâu như chàng tưởng.
- Muội nói, huynh hoàn toàn không hiểu.
- Bởi vì... bởi vì em không muốn dối trá.
- Huynh vẫn chưa hiểu.
- Bởi vì... em đã thật sự dối trá...
- Em không dối trá.
- Thật ra... Giọng Thanh Mai trở nên bình tĩnh đến lạnh băng khi nàng thốt ra những lời từ lâu vẫn chôn chặt trong lòng - Thật ra, em đã nhận lời với thượng tướng Khát Chân, rằng sẽ giả vờ yêu chàng, nhưng thực ra để dò xét tình hình.
Nói xong Thanh Mai hai tay ôm lấy mặt. Tôi nhẹ nhàng cầm lấy tay nàng:
- Nhưng nàng đã không dò xét?
Tay Thanh Mai run lên. Sự thổ lộ thành thực đã làm nàng xúc động. Tôi ôm lấy nàng. Thanh Mai phải ngừng một lúc mới trở về bình tĩnh để nói tiếp:
- Sau khi về phường Hà Khẩu, và em đã nổi danh về tài đàn ca ở đất Thăng Long, thượng tướng Khát Chân liền nảy ra một ý định. Ông biết rõ chàng là người phong lưu, nên muốn em tiếp kiến chàng, rồi sau đó... Chàng hiểu rõ em đã chịu ơn quan thượng tướng ra sao, hơn nữa nguyên nhân sự sa sút điên đảo của đất nước, ở Thăng Long người nào mà chẳng nói đều do vì thái sư khuynh đảo triều chính.
Nàng chợt nắm chặt lấy tay tôi. Còn tôi vẫn thản nhiên lặng lẽ. Bóng tối cũng giúp đỡ để nàng nói ra được những lời tự đáy lòng, và làm cho tôi cũng dễ nghe
- Em chẳng biết gì những chuyện đại sự, nhưng đó là ý dân. Còn em, cũng chỉ là một dân thường nên cũng có những ý ấy. Thế là em hăm hở thi hành mưu kế của thượng tướng. Nhưng khi gặp chàng ở vườn mai, những ý nghĩ trong lòng em bỗng trở nên nghiêng ngả. Em bỗng bàng hoàng, bồn chồn trong dạ. Công việc của em là phải lừa dối chàng, nhưng em lại không muốn lừa dối. Em vừa muốn đến gần, lại vừa muốn lánh xa - Cái đêm chàng đến phường Hà Khẩu, em phải cắn răng lại để mặc chàng thất thểu đi ra bãi dâu. Nhưng khi bước chân chàng rời xa, lòng em lại thấp thỏm. Em mở cửa bước ra, nấp sau những bụi cây, cho đến lúc chàng li bì nằm bên dòng nước.
Em đem chàng vào nhà. Trong lúc lên cơn sốt, mê sảng, chàng vẫn luôn nhắc đến Thanh Mai. Em bật khóc. Và từ phút ấy, em hiểu mình sẽ chẳng bao giờ xa chàng được nữa. Cũng từ phút ấy, nỗi sợ đàn ông, nỗi hận thù đến độ mê muội, lòng biết ơn đi đến chỗ quá khích trong em cũng được điều hoà hơn. Em ra vườn hái một cành mai đã kết trái cắm trong chiếc lọ đầu giường và chờ chàng thức dậy. Em tự nhủ: người đàn ông mình đợi chờ từ bao lâu nay đã đến rồi. Lúc này, tất cả những việc khác, với ta, đều không quan trọng nữa. Em đã đến gặp quan thượng tướng:
“Tâu đức ông. Con xin chịu tội cùng đức ông. Con không thể làm hại chàng được”.
“Con đã yêu?”
“Vâng? Con đã thương chàng”
“Ta đâu muốn bảo con làm hại Nguyên Trừng. Ta cũng rất quý trọng con người ấy”.
“Nhưng, con không thể dối trá với chàng được”.
Đức ông Khát Chân ngồi lặng lẽ, suy ngẫm rất lâu, lơ đãng đến nỗi bỏ mạc em quỳ rạp mãi trên mặt đất. Rồi ông thở dài, cúi xuống đỡ em lên:
“Thôi? Đứng dậy đi con. Ta đã giải lời nguyền cho con rồi đó”.
Tôi rung động, chẳng nói thành lời. Tôi nắm hai bàn tay nồng ấm, mềm dịu của Thanh Mai. Những lời nàng nói không làm tôi ngạc nhiên. Đêm đầu tiên gặp nhau ở Vườn Mai, tôi hầu như đã hiểu tất cả. Song, tôi không hé răng nói một lời, bởi vì tôi nhìn vào mắt nàng, tôi đã tin. Niềm tin ấy thực sự đã được đền đáp. Ông trời quả không phụ lòng tôi.
Đó là chuyện xảy ra đêm trước khi chúng tôi sửa soạn lên đường đi Yên Tử. Có lẽ, trước khi đến đất Phật, Thanh Mai muốn lòng mình được hoàn toàn thanh thản, bởi vì nơi chúng tôi sắp đến là miền tịnh độ và dù một vết gợn nhỏ trong tâm cũng phải rửa sạch làu.
Hồ Quý Ly
Chương 3 Nguyên Trừng
Nguyên Trừng, Thanh Mai ngồi trên bành con voi trắng. Ông già Lặc ngồi trên đầu voi điều khiển. Lộ trình của họ dài và quanh co. Đường đi phải qua nhiều núi cao, suối sâu, rừng rậm, vì vậy nên phải đi bằng voi; chỉ có voi mới có sức chịu đựng dẻo dai, leo dốc cũng được, lội suối cũng được, mà thức ăn là lá cây, trên rừng vốn sẵn.
Địa điểm đầu tiên hai người đến là núi Đạm Thuỷ vùng Đông Triều.
Như đã nói, Trần Thuận Tôn từ lâu đã chán cảnh bon chen trần thế. Quý Ly đã ngầm sai đạo sĩ Nguyễn Khánh nói với vua:
- Cõi tiên thanh nhã, thơm tho, khác hẳn cõi phàm trần. Các tiên đế bản triều ta đều thờ Phật, chưa ai từng theo chân tiên. Bệ hạ ở ngôi tôn quý nhưng khó nhọc muôn việc, chi bằng nhường ngôi cho thái tử để theo tiên tu đạo.
Vua Trần Thuận Tôn đã làm đạo quán trong vườn ngự uyển, quyết tâm tu đạo. Sau đó làm chiếu nhường ngôi cho con là thái tử An. Lúc đầu vua tu ở cung Bảo Thanh vùng núi Nhồi Thanh Hoá. Nơi đó cung điện nguy nga, vẫn gần triều đình, chưa phải nơi thanh tịnh. Vùng Đông triều vốn là căn cứ của nhà Trần, làng mộ tổ tiên nhà Trần cũng ở đó. Hơn nữa ở đấy có nhiều danh sơn, phong cảnh như gấm như hoa. Mấy năm trước, vua đến núi Đạm Thuỷ thăm mộ cha thấy có quán Ngọc Thanh, hang động, cỏ hoa tươi tốt, hình như trong lòng đã thầm hẹn ước. Vì vậy, Thuận Tôn quyết định dứt bỏ hoàn toàn với thế gian. Vua rời Thanh Hoá về tu ở quán Ngọc Thanh trên núi Đạm Thuỷ.
***
Núi Đạm Thuỷ là một danh sơn của vùng Đông Triều lộ Hải Đông. Thời xưa ở các danh sơn người ta hay xây chùa, bởi vì danh sơn thường phong cảnh đẹp, hơn nữa lại là những đỉnh chóp cao, nơi đất chạm mây, nơi khí thiêng đất trời tụ hội. Người ta hành ở đó có thể xử dụng được khí thiêng sông núi để cho mình chóng thành chính quả. Theo cách nghĩ đó, trên núi Đạm Thuỷ người ta dựng quán Ngọc Thanh; chỉ có khác, nơi đây tu tiên chứ không tu Phật.
Để đón Trần Thuận Tôn về tu đạo, người ta đã cho sửa sang lại đạo quán. Ngôi quán tám mái, ngói đỏ au. nằm cheo leo sườn núi, toà lâu đài của tiên ẩn hiện trong những làn mây trắng. Có cả lầu chuông, lầu khánh. Chiếc khánh bằng đả xanh ngân nga mỗi buổi chiều về. Tiếng khánh đá trầm khua lanh canh như tiếng người nức nở, đó là đặc điểm riêng vùng này, mỗi khi khách qua đây đều nhận thấy.
Ở phía bên phải, quán dẫn tới một hang đá, có dây leo làm mành che. có khóm trúc vàng làm bình phong, có tảng đá nhẵn làm bàn trà ẩm, Thuận Tôn sung sướng vô cùng, từ đó an tâm ẩn tu ở chốn thần tiên. Một con đường mòn nhỏ đi xuống chân núi, nơi đây có một chiếc ao trên đá, nước trong suốt nhìn đến tận đáy Một đàn cá chép đỏ sống ở đây; mỗi chiều Thuận Tôn vẫn cho cá ăn. Ao đó tên gọi ao Tích Lịch. Người ta kể khi xưa, một đêm mưa to gió lớn, sét đã đánh xuống núi, đã hõm xuống và tạo thành cái ao nước trong vắt, ngọt ngào. Cũng vì dòng nước lạ lùng này nên có tên núi Đạm Thuỷ.
Vùng Đông Triều, xã Yên Sinh chính là quê gốc của họ Trần. Tiên tổ nhà Trần vốn người Yên Sinh, sau mới dời đến ở hướng Tức Mặc phủ Thiên trường; điều này có ghi trong bia thầu đạo của xã. Cũng chính vì vậy, nên khi chết các vua nhà Trần đều chôn ở Yên Sinh hoặc vùng quanh đó. Lăng Tự Phức là lăng tẩm của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông. Tháp cổ trên núi Yên Tử là nơi để xá lị của Trần Nhân Tôn. Ta còn thấy lăng Đồng Thái, lăng Đồng Mục, lăng Ngải Sơn, lăng Phụ Sơn, đó là những mộ của Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dục Tông. Hầu hết tất cả các vua Trần trở về với tổ tiên, đều gửi nắm xương tàn ở vùng Yên Sinh. Vua Nghệ Tôn cha của Thuận Tôn cũng không ra ngoài thông lệ. Sau khi ông mất, Thuận Tôn đưa cha về chôn ở chân núi Đạm Thuỷ. Trần Nghệ Tôn đã tự đặt tên trước cho lăng mộ của mình: lăng Đồng Hy. Ta có thể hiểu khi Thuận Tôn trở về tu tiên ở quán Ngọc Thanh trên núi Đạm Thuỷ; cũng chỉ vì ông muốn chăm sóc cho phần mộ của cha mình tổ tiên mình. Và trong thâm tâm ông cũng dự kiến: nếu chết sẽ được chôn bên cạnh cha.
Từ khi trở về núi Đạm Thuỷ, Thuận Tôn như thấy lòng mình vơi nhẹ hơn nhiều. Suối rừng, hoa cỏ đã an ủi được ông. Ông sợ sự huyên náo, sự xao động. Mỗi lần nó đến lòng ông lập tức chao đảo. Lại thấy nôn nao như muốn lên cơn rồ dại. Do vậy, ông cấm các quan lại địa phương không được đến thăm viếng. Ở nơi ông ẩn tu, chỉ có một chú tiểu đồng và con vượn nhỏ. Từ ngày trở về rừng, con vượn nhỏ cũng tươi tỉnh hẳn lên. Nó quấn quýt đi theo ông suốt ngày. Buổi sáng, sau khi tĩnh toạ, ông xuống núi thắp hương ở Hy Lăng, mộ cha. Sau đó ra ao Tích Lịch thả những hạt cơm, vui vầy cùng đàn cá chép đỏ, và để tự ngắm mình dưới nước. Ông để tóc, để râu, nên mới hai mươi tuổi trông đã như một người già, râu dài trước cằm, tóc búi trên chỏm đầu. Mặc chiếc áo đạo sĩ mầu xanh, trông ông rất tiên phong đạo cốt, giống như một vị tiên. Chỉ có điều, một ông tiên buồn. Thanh Hư đạo trưởng trước kia đã nói với ông: bao giờ con ngắm mình dưới nước, thấy nét mặt hết buồn, và lòng hết giận, lúc đó con đã trai lòng. tức là đã đắc đạo. Hôm nay, tự ngắm mình trong ao Tích Lịch, ông nhủ thầm: lòng ta đã lặng, nhưng vẫn không hết phảng phất một nét tư lự. Con vượn nhỏ đứng bên cạnh, từ lúc nãy cứ lồng lộn tỏ vẻ sốt ruột. Thuận Tôn vuốt ve đầu nó và hỏi.
- Con làm sao thế? Sao con lại kêu lên những tiếng xáo xác? Hay con đói? Con không đói ư?... Con muốn trở về? Về làm gì? Trời cao lắm. Sẽ chẳng có mưa sớm. Trời quang... mây tạnh... thày trò ta ngồi đây đùa vui cùng đàn cá... chẳng thích lắm sao... Ôi? Con vẫn muốn về Chẳng lẽ... hay là ta có khách?
Ông vua đạo sĩ đứng lên. Con vượn hết quạu cọ, nó tươi tỉnh lại, nhảy phóc lên cành cây, rồi chuyền ra lối mòn trở về quán Ngọc Thanh trên núi. Ông sung sướng nhìn con vật. Nó là người bạn trung thành nhất mà ông từng thấy. Đêm, con vật bé bỏng ấy nằm trong lòng ông. Có đêm, nhớ tới hoàng hậu Thánh Ngẫu và thái tử An, ông đã khóc thầm, khóc không ra tiếng. Đang ngủ, con vật cũng vùng tỉnh dậy. Có lẽ nó nghe được tiếng thổn thức của trái tim ông. Nó áp bộ lông mượt vào má ông để lâu khô những giọt nước mắt. Vừa nghĩ, ông vừa leo dốc. Đến trước quán, ông ngồi trên tảng đá nghỉ cho hết mệt. Chợt con vượn nhỏ từ trên cành cây nhảy xuống, kéo tay ông đi. Ông muốn nghỉ nhưng con vật không nghe. Nó bắt ông đứng dậy bằng được, để dắt ra đứng trước bức tường quét vôi trắng, trên đó còn tươi những nét chữ của một bài thơ vừa mới viết sáng nay: Thơ rằng:
Lâu đài phủ tía dựa non cao
Xuân quang tươi tốt đến thăm chào
Hoa tùng rụng đất, đàn xưa lặng
Đạo viện thâm sâu, khánh biếc reo
Đỉnh vàng nấu thuốc, tiên đâu tá
Mộng tỉnh kê vàng, dạ nao nao
Vượn sầu hạc oán tình khôn xiết
Đêm lạnh bên rừng trúc lao xao...
Cùng lúc đó, tiểu đồng bước ra thưa:
- Ban sáng, lúc nguyên quân xuống núi thắp hương, có một nho sinh đến vãn cảnh, anh ta dáng trầm tư bồn chồn đi lại trước quán hồi lâu. Sau lại ngồi trên tảng đá buồn rầu suy nghĩ, rồi làm bài thơ đề trên vách. Bảo rằng: Vì không tiện quấy quả, làm rối sự u tĩnh, làm bận lòng nguyên quân, nên xin cáo từ, chỉ để lại bài thơ này gửi tặng...
Thuận Tôn đọc lại bài thơ, rồi thở dài:
- ý người này có nhiều đồng cảm. Chỉ tiếc rằng hơi u buồn... Nhưng mà... Cảnh này, người này, tình này... đúng là buồn thơ mới hay... Thế nhà ngươi có hỏi họ tên? Hình dáng anh ta ra sao?
- Đệ tử có hỏi. Nho sinh tên là Nguyễn Trãi. Tuổi trạc đôi mươi. Dáng người gầy gò, thanh tú.
- Nguyễn Trãi... Nguyễn Trãi... Thế ngươi có hỏi gia thế anh ta?
- Bẩm nho sinh ấy là cháu của Băng Hồ tướng công.
Ông vua đạo sĩ ngồi xuống tảng đá. lặng lẽ suy nghĩ:
... Thảo nào? Ta hiểu. Trãi là cháu ngoại quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Họ ngoại nhà Trần. Đứng về thế thứ Trãi gọi ta bằng bác... Thảo nào? Cháu đến thăm ta... nhưng sợ ta buồn... Nó gửi thơ tặng ta... Thì ra... Ở đời vẫn còn người cảm thương tới số phận của ta. Mấy tháng ở rừng hầu như xoá dần quá khứ. nhưng chỉ đọc một bài thơ, nhưng xót xa cay đắng lại giật mình thổn thức trong ông.
Đêm hôm ấy, Thuận Tôn tỉnh giấc lúc quá nửa đêm. Ngoài rừng, có tiếng nai kêu thảm thiết. cả tiếng những con khỉ tíu tít gọi nhau, rồi tiếng những con chim vô cánh xào xạc... Tất cả như muốn báo hiệu có loài thú ác đương lởn vởn. Sau đó lại im ắng. thứ im ắng lạnh tanh đến sởn tóc gáy. Từ phút đó, Thuận Tôn không ngủ lại được. Chợt lại suy nghĩ miên man, dẫn tới một nỗi buồn mênh mang không tài nào chịu nổi. Ông ngồi dậy, và không thể nào xoá được nỗi phiền muộn trong lòng; chỉ còn một cách ngồi tĩnh toạ, đọc kinh, đọc những câu thần chú, cố thoát xác, cố đưa mình vào cõi hư vô. Sự cố gắng thoát vượt số phận ấy làm người ông dần dần như đông cứng lại. Hơi nóng dần toả đi. chỉ còn để lại một thân xác lạnh băng. Con vượn nhỏ vẫn trung thành ngồi bên. Nhìn gương mặt buồn bã với đôi mắt nhắm nghiền của thầy, con vật có vẻ sửng sốt. Sờ vào bàn tay lạnh ngắt của thầy, con vật chừng như lo lắng. Nó kêu lên khe khẽ và ngả đầu vào lòng ông, nhưng khí lạnh ở người ông toát ra làm nó giật mình kêu tíu tít. Nó chạy vòng quanh ông vua bạc phận, ngó nghiêng. Nó tưởng ông chết rồi chăng? Nhưng ông vẫn ngồi trơ trơ ở tư thế tĩnh toạ thế kia, bộ óc thô sơ chắc cũng mách bảo nó rằng ông chưa chết. Thế là, với bản năng của loài động vật, nó nhẩy lên ngực ông, giơ hai cánh tay bé nhỏ ôm chặt cổ ông, áp má vào má ông, áp ngực vào ngực ông, rồi dùng đôi chân quặp chặt quanh người ông, như tư thế mà nó vẫn còn nhớ được khi ngày xưa nó vẫn ôm lấy mẹ. Bằng cách áp chặt người như vậy, nó đã che chở được trái tim ông, giữ cho chút hơi nóng cuối cùng khỏi tan đi và truyền được một chút hơi ấm áp vào tấm thân mong manh kia đang dần dần chuyển vào cõi hư vô. Chính lúc đó, Thuận Tôn như thấy mình thoát ra khỏi cái hình hài gầy guộc, ông lơ lửng trên cao, nhìn xuống con người thảm thương đang ngồi dưới đất. Giá lúc dó chẳng có bóng con vật nhỏ bé đang ôm lấy thân xác ông, dáng xót thương trìu mến, giá lúc đó chẳng có chút hơi ấm nhỏ nhoi của con vật truyền vào trái tim ông... có lẽ linh hồn trên cao của ông đã bay thẳng đi xa vào cõi khôn cùng. Chợt thấy thương mình, thương tất cả ông chưa ra đi được. Còn phải ở lại mà chịu hết cái cộng nghiệp mà toàn thể dòng họ nhà Trần của ông đã để lại cho ông. Một dòng họ hiển hách với bao công đức cho non sông. Nhưng phúc, tổ tiên ông đã hưởng hết rồi phần gia tài mà ông được hưởng nay chỉ còn chút dư hương thê thảm... Nhưng, nghĩ cho cùng, số phận của những hậu duệ cuối cùng của một triều đại bao giờ chẳng thế. Như ông Lý Huệ Tôn, bà Lý Chiêu Hoàng ngày xưa chẳng đã được các bậc tiên tổ nhà Trần dành cho những số phận thê thảm hay sao?... Nghĩ như thế, nên linh hồn ông bỗng thở dài. Thuận Tôn đã quay trở về với thân xác mình để hưởng cho hết những nghiệp quả, dù cho nó đắng cay.
Da thịt ông từ từ nóng ấm trở lại.
***
Khi nội tẩm học sinh Nguyễn Cẩn tới núi Đạm Thuỷ nhà vua không hề ngạc nhiên. Thuận Tôn tự nhủ với mình: “Đến rồi đấy”. Nguyễn Cẩn quỳ dưới đất làm lễ, ông vua đạo sĩ nói:
- Đêm qua, khi tĩnh toạ, ta nhìn thấy trong tâm tưởng có những con người đi theo những lối mòn trong rừng tiến tới núi Đạm Thuỷ. Ta còn nhớ một dáng người rất giống ông. Ta tự nhủ thầm: Nguyễn Cẩn đến gặp ta, chẳng biết đã có chuyện gì xảy ra?
Vị quan trẻ sau khi được phép ngồi dậy, kính cẩn thưa:
- Tâu thái thượng nguyên quân, thần được sai đến để tấu trình về lễ đăng quang của thái tử... lễ được cử hành rất trọng thể ở Tây Đô... Dạ, hoàng cung Tây Đô đã hoàn thành... rất nguy nga tráng lệ... Lễ được cử hành ở điện Minh Đạo... Lúc đầu triều đình có chút lo lắng, thái tử còn nhỏ tuổi quá, sợ có điều gì sơ suất, mà lễ đăng quang là một đại lễ ảnh hưởng lâu dài tới cả triều đại. Nhưng khi tân hoàng đế xuất hiện giữa hai con rồng đá thì... mọi người thở phào nhẹ nhõm. Bởi vì mới ba tuổi thôi nhưng người đã rất đĩnh đạc. Bẩm, hoàng thái hậu Thánh Ngẫu định dắt tay người bước lên thềm rồng, nhưng tân vương đã buông tay thái hậu, một mình chững chạc bước lên từng bậc. Riêng chỉ lúc làm lễ quỳ lạy trước bàn thờ ở thái miếu, hoàng thái hậu phải ngồi kề bên, hoàng hậu làm lễ thế nào, tân vương nhất nhất làm theo giống hệt...
Thuận Tôn thở dài:
- Nghi lễ làm lâu suốt buổi... Thế... Con ta có bị ốm không?
- Dạ, tân vương có mệt chút ít, đêm ấy phải dỗ ngài đi ngủ sớm... Nhưng sáng hôm sau đã hoàn toàn tỉnh táo. Tướng quân Trần Khát Chân vào vấn an, hoàng thượng còn bắt thượng tướng cõng mình trên lưng... ngài cười như nắc nẻ.
Thuận Tôn im lặng hồi lâu, rồi hỏi:
- Ta nhớ trong tâm tưởng đêm qua, còn nhìn thấy cả một đoàn người ngựa.
- Dạ. Chúng thần đi một đoàn, nhưng sợ làm kinh động đến sự thâm u của nơi tu hành thanh tịnh... Đức nguyên quân lại cấm người đến viếng thăm... nên thần đã bố trí họ ở trong làng gần đây...
Nguyễn Cẩn dâng quà biếu của thái sư gồm các thứ thuốc quý, sâm, nhung, quế phụ, cả trà ngon, đồ cống của các tù trưởng miền biên viễn.
Tiểu đồng pha trà tuyết, dùng nước trong lấy từ nguồn nước ao Tích Lịch. Ông vua đạo sĩ vốn chẳng ưa Nguyễn Cẩn nhưng vì không có ai trò chuyện lâu ngày, nên Thuận Tôn vẫn nói chuyện với vị học sĩ suất một buổi ròng. Nguyễn Cẩn vốn tinh ý, ông ta khôn khéo đưa đẩy. Chẳng phải những chuyện tâm sự, cũng chẳng phải những chuyện trọng đại, chỉ là những điều vụn vặt. Ví dụ, chuyện người thợ đá làng Nhồi, tạc đôi rồng đá ở Tây Đô, có lẽ đó là đôi rồng đá tuyệt đẹp chưa từng thấy. Ví dụ, cổng Nam của thành mới nhìn thẳng vào núi Đún, đó cũng là cái cổng đá hùng tráng lớn chưa từng thấy. Cũng có lúc họ nói sang chuyện sách vở
- Lúc còn ở ngôi, ta có đọc “Nhật tân thập nhị sách” của khanh - Thuận Tôn vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt Nguyễn Cẩn - Đọc xong bài sách, ta nghĩ bụng: Con người này đáo để đây, một con người cuồng nhiệt với chuyện cách tân - Nói tới đây cựu vương cười giòn - Vả lại ta cũng là người cách tân. Việc thoái vị của ta chẳng là một việc cách tân hay sao?
- Thưa nguyên quân, thần trộm nghĩ, việc người theo lẽ tuỳ thời, đó là điều đáng kính.
- Ta chẳng muốn bàn về chuyện đó. Chỉ xin hỏi ngươi một điều: Trong thập nhị sách kế sách, ngươi đặt lên hàng đầu là sĩ sách; Ngươi luận bàn nhiều về kẻ sĩ; có một điều ngươi không bàn tới, bậc quân vương có phải là kẻ sĩ không?
Nguyễn Cẩn ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Nên chia các bậc vua chúa ra làm ba loại: hôn quân, hiền quân, và minh quân. Khỏi cần nói tới hôn quân, còn lại hai bậc hiền quân và minh quân. Thần run sợ mà xin luận bàn...
- Ngươi cứ thành thật, bạo dạn mà nói - Ở nơi rừng núi này, nào ai còn có thể bắt tội nhà ngươi. Thực ra, vua là người cầm đầu kẻ sĩ trong thiên hạ, xử dụng kẻ sĩ, điều hành kẻ sĩ, nếu không phải là một kẻ sĩ, thì đó là điều bất hạnh cho dân. Biết tôn trọng một kẻ sĩ làm thầy mình. Làm bạn mình, điều đó chỉ có được ở một ông vua mắt biếc.
- Ta biết, ông vua bích nhãn là đấng minh quân.
- Thực ra, trong sử sách thấy hiếm khi ghi lại một ông vua nào là kẻ sĩ. Nhưng một bậc minh quân bao giờ cũng là một kẻ sĩ lớn. Không những bích nhãn mà còn thiên nhãn. Nhìn thấy rất xa, mà cũng nhìn thấy rất gần. Thấy được cái bất biến mà cũng thấy được cả cái hằng biến...
- Còn bậc vua hiền?
Mắt Nguyễn Cẩn chợt sáng lên. Ông ta đã nhập cuộc vào những ý tưởng thường nung nấu. Bao nhiêu dồn nén bỗng được bung ra. Hầu như Cẩn đã quên mất trước mắt mình là một ông vua mới thoái vị; hoặc giả ông còn nhớ, nhưng đó là một vua thoái vị sa cơ; hoặc giả ông không có tâm địa coi thường, nhưng trong lòng Cẩn lúc này ý tưởng đang sục sôi, chúng cần bộc lộ:
- Ông vua hiền ư? Có thể đôi khi cũng là kẻ sĩ, nhưng thứ kẻ sĩ bất túc. Bởi lẽ, thông thường họ chỉ biết đến cái lý nhu yếu. Lúc nào trên cửa miệng cũng chỉ có câu: nhu nhược thắng cương cường. Những con người của thời rủ áo, toạ hưởng kỳ thành. Đất nước ta cũng chẳng thiếu... các vị vua hiền... kiểu như vậy.
Nhưng tại sao đất nước vẫn rơi vào loạn lạc? Vua không thương dân ư? Thương chứ! Vua giảm cả sự xa hoa, yến tiệc của riêng mình, sao nơi hang cùng ngõ hẻm vẫn vang lên lời kêu than đói khát? Bởi vì các ông vua đó không biết tới sự sấm ran chớp giật; nói đến chuyện thay da đổi thịt là xám ngoét, run rẩy. Non sông, qua một thời gian dài trơ ỳ, đã trở nên cứng quèo, thối rữa. Hồn núi sông như ngủ mơ trên đống vàng. Tất cả trở nên ù lỳ, hèn yếu; đâu đâu cũng bốc lên mùi xác rữa. Cần phải lột xác. Non sông gấm vóc cần phải hồi xuân, dù phải qua máu lửa, chết chóc, tàn phá, lụi tàn...
Lúc đó chiến tranh sẽ tới, bão tố sẽ tới. Sự tàn khốc thổi ngọn cuồng phong trải khắp núi sông. Chỗ nào cũng đầu rơi máu chảy. Tiếng than khóc vang tận chín tầng mây... Nhưng sự thay da đổi thịt ấy là cần thiết, nó cũng có cái hay. Nếu non sông đứng vững, nó sẽ tươi trẻ lại, những thứ thối rữa bị cuốn trôi đi, chỉ còn để lại những mầm sống mạnh mẽ. Qua thời lột xác, non sông sẽ bừng tỉnh dậy... Thế đấy! Bi thương lắm! Trong cuộc đổi đời, biết bao nhiêu người bị cơn bão cuốn phăng, bị ném vào lửa không thương xót... Cũng chính vì vậy, nên lúc này, ta cần có một minh quân. một ông vua đại trí
Những lời nói của Cẩn tưởng như bâng qươ, nhưng chúng như những mũi kim đâm vào lòng ông vua đạo sĩ Cẩn đang tự trấn an cho mình, hay ông ta đang đọc một bản án. Thuận Tôn thở dài, lời nói của Cẩn không phải không mang nhiều sự thực, nhưng nó đầy nét bi thảm. Nó tôn vinh sự cương cường, hạ nhục sự mềm yếu thậm chí nó kết án tất cả những ai yếu đuối, ném tất cả vào lò lửa để cho cái nóng địa ngục, tôi luyện, để lúc ra lò ai không chịu được sẽ tan biến đi, nhường chỗ cho những mầm sống tinh khôi... thức dậy... Chả trách, Cẩn được thái sư dùng làm người tâm phúc. Ông ta đầy nhiệt huyết tới mức mê cuồng... Nhưng mà ngày mai khi tất cả đã tinh khôi.. Cẩn sẽ thành người ra sao?... Liệu sự nhiệt tâm của Cẩn sẽ biến đổi thành cái gì? Dù là cái gì nữa, thì đó cũng là chuyện ngày mai; còn ngày hôm nay ta là kẻ mềm yếu, thậm chí còn là vật cản trở... Số phận của ta thế nào? Cẩn đã báo cho biết rồi đấy ông vua hẩm hiu thầm nghĩ như vậy trong lòng. Đoạn cuối những lời nói của Cẩn. Thuận Tôn bị những ý nghĩ riêng của mình kéo đi, nên không nhớ được. Song. cần gì nữa. Cái chính đã được tỏ lộ...
Lúc này Nguyễn Cẩn lấy ra một chiếc liễn nhỏ, ủ trong chiếc ấm giỏ sơn son thiếp vàng.
- Đây là canh hồng sâm. Vua mới lên ngôi nhà Minh nhân các sứ thần sang mừng, đã ban cho các vua ngoài cõi mỗi người một hộp sâm quý. Thái sư dặn phải nấu cho đúng cách, dâng lên nguyên quân. Sợ rằng tiểu đồng trên núi quê mùa, thô lậu, không biết nấu, làm hỏng vật quý, nên thần đã đem viên ngự thiện từ Thăng Long tới đây, chuẩn bị nấu từ đêm hôm qua, để dâng lên mời nguyên quân thưởng thức.
Thuận Tôn chợt nhìn chằm chằm vào liễn canh sâm. Ông đã hiểu. Ông gật đầu mỉm cười, đỡ lấy bát canh còn nóng hổi được múc ra toả hương thơm nức. Ông nói:
- Ngửi mùi đã thấy ngon lắm? Để ta ăn ngay món quý ta đã quên mùi nó từ lâu. Ta nghe nói ăn thứ sâm này sẽ sống lâu... trăm tuổi.
Rồi vừa cười, ông vừa húp sụp soạt một cách ngon lành. Trong khi đó, con vượn nhỏ rối rít chạy quanh và rên lên những tiếng lạ lùng. như lo sợ, như vừa thấy một chuyện bất thường đã xảy ra. Nguyễn Cẩn mắt tươi lên. Ông ta kính cẩn quỳ lạy, rồi mới quay xuống núi. Sau lưng, trong động đá, con vượn nhỏ vẫn cuống quýt kêu ầm ĩ.
Sáng hôm sau, Nguyễn Cẩn lại leo lên quán Ngọc Thanh. Ông ta trằn trọc suốt đêm qua, cứ luôn nghĩ tới bát canh sâm. Và hôm nay lên núi, Cẩn có vẻ nóng lòng. Cẩn sộc ngay vào điện thờ không thấy Thuận Tôn, vội rẽ sang động đá. Ông ngạc nhiên khi thấy con vượn nhỏ đang đánh đu trên đám giây leo thả mành trước hang. Cẩn càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy ông vua đạo sĩ đang thanh nhàn uống trà trên sập đá. Thấy viên học sĩ sững người đứng nhìn, Thuận Tôn lên tiếng gọi:
- Nhà ngươi đến thật đúng lúc. Trà thái sư biếu ngon làm. Thứ nước Đạm Thuỷ ở ao Tích Lịch pha với trà này rất hợp. Thứ nước từ giữa lòng núi tuôn ra không một chút bợn nhơ. Trà thơm. nước thanh tịnh, uống một chút tâm thần thấy hoàn toàn nhẹ nhõm. Ông vua đạo sĩ rót một chén trà mầu hổ phách đưa cho Cẩn. Viên học sĩ cầm chén nước ngẫm nghĩ. Sở dĩ Cẩn ngạc nhiên ngẫm nghĩ, bởi vì bát canh sâm hôm qua có pha thuốc độc. Thứ thuốc độc này không mùi vị, không gây đau đớn, người uống phải nó chỉ buồn ngủ, sẽ nằm xuống đánh một giấc dài, và không bao giờ thức dậy.
Thế mà sáng nay Thuận Tôn lại ngồi ung dung uống trà, có vẻ còn tỉnh táo hơn cả sáng qua.
Không phải Cẩn là người sắt đá đến nỗi chẳng còn trái tim. Giá như lúc này, trước mắt ông là ông vua đạo sĩ hiền hoà, mắt nhắm nghiền, nằm dài trên sập đá, chắc chắn Cẩn sẽ có chút mủi lòng, thương cảm; bởi vì suy cho cùng, có hận thù gì với ông ta đâu, hoàn cảnh buộc ông ta phải chết, cái lý tuần hoàn, bão tố thời cuộc buộc ông ta phải chết... Nhưng, lúc này, Thuận Tôn lại ngồi uống trà... Ông ta không dương dương tự đắc, nhưng sự ung dung tự tại của ông vua như chọc vào mắt Cẩn, biến đổi cảm nhận của Cẩn, làm ông thấy bối rối và bực bội. Cái lý của kẻ quyền sinh quyền sát mà. Tại sao ông ta không sợ sệt? Nếu không sợ sệt cũng phải lo lắng chứ. Tại sao ông ta không như một người thường? Khối cơ hội đấy, sao không trốn chạy? Hay Thuận Tôn nghĩ rằng ông ta thoái vị đi tu là đủ. Dù sao ông cũng là con rể thái sư Quý Ly. Nhưng lòng dân lại cứ hướng về nhà Trần. Bọn quan trong triều lại cứ muốn dựng một lá cờ đại nghĩa vì ông. Mấy đám giặc cỏ, thanh thế chẳng có gì, cũng phất cờ phò Trần, chúng mọc lên như nấm ở khắp nơi... Thái sư buộc phải muốn ông ta chết.
Chén trà truyền hơi nóng và lòng bàn tay đã nguội đi, Cẩn vẫn mải nghĩ, quên uống. Chợt giọng Thuận Tôn cất lên làm Cẩn giật mình:
- Ông đang nghĩ tới lẽ sống chết ư? Ta biết lắm chứ...
Ô hay? Ông ta đoán được ý nghĩ của ta. Thế là hai con người chuyển sang chơi trò nhàn phiếm luận trong hang đá lạnh. Lòng Cẩn đang bộn bề, nhưng Cẩn lại có thể bình tĩnh nói về lẽ huyền sống chết:
- Hạ thần trước khi tới đây, có vào thăm chùa trên núi Đông Sơn, nghe nói có vị danh ni đắc đạo thấu được sự huyền nhiệm, coi sống chết bình đẳng, đã một mình ngồi thiền giữa núi sâu rừng rậm, không ăn uống suốt hai mươi mốt ngày đêm. Hổ lang ngồi chồm hỗm vây quanh.
Thuận Tôn cười:
- Vị sư nữ này ta biết. Người đời kính mộ bà ngang hàng với các bậc cao tăng. Chính cha ta Trần Nghệ Vương đã ban hiệu cho bà là “Tuệ Thông đại sư” . Lúc già bà về tu trên núi Đông Sơn gần đây. Một hôm bà nói với đệ tử rằng: “Ta muốn đem tấm thân hư ảo này bố thí cho lũ hổ lang ăn một bữa no”. Rồi bà đi một mình vào thiền định trong rừng sâu gần một tháng. Song chẳng con hổ nào dám xông vào ăn thịt bà cả.
- Tuệ thông đại sư. Nghĩa là con mắt bà nhìn thấu được cả lòng người?
- Ta nghe nói trong lòng ông vẫn có một giọng nói vang lên khuyên nhủ?
Nguyễn Cẩn giật mình: nhà vua biết cả chuyện riêng của ta ư? Rồi Cẩn trả lời:
- Vâng, tiếng nói ấy vẫn vang trong đầu óc hạ thần. Nó báo về một thời đã hết và một thời đang tới.
- Chính vì thế nên ông là người cuồng nhiệt nhất. Cuồng nhiệt để dẫn đất nước đi thật hối hả, đi cho nhanh.
- Hạ thần biết nói sao. Điều bí ẩn của non sông vốn là như vậy phải như vậy.
- Ông là kẻ mê cuồng quá đỗi - Thuận Tôn chợt thở dài - Ta là kẻ đi theo đạo nhu mềm, thong thả. Mà này ông Cẩn! Ta biết lòng ông đang xáo động. Ta cứ tưởng lòng ông sắt đá... Hoá ra... Ông vẫn còn chút yếu mềm... Vậy nên ta chẳng thù ghét ông đâu... Ông cứ tưởng ta không biết gì khi ta uống bát canh sâm của ông? Thái sư giao việc đó cho ông. Và tay ông đã run lên khi ấy... Còn tiếng nói vẫn thường vang lên trong hồn ông... đàm thoại với ông... chỉ dẫn cho ông, đó là tiếng của ai?... Người ta vẫn bảo đó là tiếng nói Phật. Nhưng ta nghĩ đó chính là tiếng của ông. Ông tự phân thân ra thành hai: một là tiếng nói hư ảo, một là tiếng nói trần thế Hai nhưng một. Ông tự nói với mình đó thôi. Phật nào nói. Phải phân làm hai bởi vì lòng ông còn dằng xé. Phải đối thoại với chính mình để tự trấn an, để vững lòng tin, bởi vì con đường ông đang đi thật là khốc liệt.
Nguyễn Cẩn ngồi im nghe ông vua đạo sĩ nói. Có bao giờ Cẩn lặng im lâu như thế? Còn Thuận Tôn cũng ngừng lại một lúc rồi mới tiếp:
- Ông mới đến chùa núi Đông Sơn một lần... chắc ông chưa biết cặn kẽ về Tuệ Thông đại sư. Để ta kể nốt đoạn cuối lúc đại sư thị tịch. Ta may mắn có duyên hạnh ngộ, thủa nhỏ, được gặp bà một lần. Người từ bi, gầy guộc nét mặt giống hệt như La Hán, nhất là đôi mắt tuệ thông suốt dịu dàng. Sau khi vào rừng, hổ lang không dám ăn thịt, đại sư về chùa ngồi thiền suốt mấy tháng ròng, rồi ngồi thản nhiên mà hoá. Trước lúc thị tịch, người có dặn: “Sau khi ta đi, hãy bớt lại chút xương để chữa bệnh cho người đời”. Đám đệ tử không nỡ, cho hết xương vào hộp phong lại. Qua một đêm, lúc trở dậy, thấy có một chiếc xương cùi tay nằm trên bàn, ở ngoài hộp. Về sau, ai có bệnh đến cầu, mài xương với nước đem cho người bệnh, không ai là không khỏi...
Nguyễn Cẩn ngạc nhiên khi nghe câu chuyện, ông không hiểu được Thuận Tôn định nói gì. Nhà vua chỉ bảo:
- Thôi! Ông về đi, đã đến lúc ta phải ngồi tĩnh toạ. Ông cứ yên tâm...
***
Cả đêm hôm ấy Thuận Tôn ngồi diện bích. Ông quay mặt vào vách đá, quên cả cái lạnh mùa xuân từ vách núi luồn qua lần áo mỏng xuyên vào da thịt, quên cả tiếng gà rừng gáy lúc nửa đêm và tiếng chân của loài hổ lang lởn vởn trên lưng chừng núi, quên cả tiếng hú sầu muộn của những con vượn, tiếng hú buồn bã của kiếp sống nguyên thuỷ cô đơn. Ông đã sinh ra kiếp bày đàn, đã náo nức với kiếp bày đàn, rồi lại trở về nơi hoang dã với nỗi buồn nguyên thuỷ - Cái ngưỡng chăng? Vượt qua cái ngưỡng chắc là sự an nhiên hoà đồng mà sự xao động ngờ vực vẫn làm chân con người lưu luyến.
Cho đến lúc cả khu rừng bỗng rộn rã tiếng gà. Mỗi quả núi có vài ba con gà trống ngự trị. Gà núi nọ gọi gà núi kia. Tiếng gà gáy bình minh bổng trầm lúc xa lúc gần; tiếng con gà tre lảnh lót, tiếng con công trầm đục, lại cả tiếng lũ gà cồ ở xóm chân núi hùng dũng và náo nhiệt, tiếng người tranh với tiếng rừng... Tất cả làm rung rinh những làn sương sớm đang trôi ngang khu cổ tự
Thuận Tôn đã tỉnh dậy sau đêm dài tĩnh toạ. Tiểu đồng pha trà. Ông vừa uống trà vừa nghe tiếng gà. Bao nhiêu tiếng gà tranh nhau báo hiệu bình minh chợt làm ông mỉm cười. Và ông thở dài. Rồi, đột nhiên ông bảo tiểu đồng:
- Khách đã đến rồi đấy. Con ra cửa quán đón vào đây!
Khách đến cửa hang, nhà vua đã hỏi:
- Ông Vĩnh đấy phải không? Ta chờ ông... chờ lâu lắm rồi...
Phạm Khả Vĩnh quỳ sụp xuống lạy:
- Bẩm, thượng hoàng nguyên quân đã biết kẻ bầy tôi hèn mọn này đến đây rồi sao?
- Ta biết chứ! Đêm qua lúc tĩnh toạ, ta đã nhìn rõ thấy ông từ chân núi đi lên. Nhưng rồi ông đã dừng chân ngồi trước cửa quán Ngọc Thanh.
Vĩnh ngạc nhiên:
- Hạ thần không có mắt: Hoá ra bệ hạ đã tu được phép thiên nhãn. Mắt đã nhìn xa được ngoài tầm mắt người trần... đã nhìn thấu lòng người.
Ông vua đạo sĩ thở dài:
- Thái sư sai Nguyễn Cẩn tới đây... Hôm qua, nhìn bát canh sâm của Cẩn, ta biết ngay trong đó có gì. Nhưng, ta thản nhiên uống. Ta không bị lừa đâu. Song, ta cứ uống vì ta đã nghĩ kỹ rồi.. Ta uống vì lòng ta lúc này đã lạnh tanh. Ta đã chán cảnh tranh đua giành giật Ta không muốn vì ta mà sinh ra cảnh nồi da nấu thịt... Lạ lùng thay! Ta lại không chết. Có lẽ vì Cẩn, trong lúc bỏ thuốc độc vào bát canh, lòng đã xáo động, thuốc độc chẳng đủ liều nên ta thoát chết. Cũng có thể, vì công phu tu luyện của ta đã đến mức, khiến thứ thuốc độc kia chẳng hại được. Lại có thể vì người pha chế, lúc ra tay, còn có chút xót thương... Nhưng, này ông Vĩnh, thái sư đã sai Nguyễn Cẩn tới đây chăm sóc cho ta; còn ông, ông đến để làm gì?
Tướng quân Phạm Khả Vĩnh vẫn quỳ mọp dưới đất.
- Hạ thần thực muôn phần đắc tội.
- Này ông Vĩnh? Chắc ông biết câu chuyện bà sư ở chùa Đông Sơn gần đây, muốn đem tấm thân hư ảo bố thí cho lũ hổ lang trong rừng. Ngồi suốt một tháng ròng giữa lũ hổ lang, mà chúng chẳng dám ăn...
- Hạ thần thực muôn phần đắc tội - Vĩnh nhắc lại câu nói cũ - Lũ chúng thần đúng là lũ hổ lang...
- ý của ông, ông chẳng nỡ nói ra chứ gì. - Thuận Tôn nhắm mắt buồn rầu - Thôi để ta nói hộ cho - Ta đọc được những ý nghĩ của ông. Thái sư sai Nguyễn Cẩn đi nhưng vẫn chẳng yên tâm. Thái sư sốt ruột sai ông đi tiếp, ông là thượng tướng quân. Giết một ông vua chân yếu tay mềm đã hết quyền như ta mà phải dùng đến tay một tướng quân!...
Phạm Khả Vĩnh như không nén nổi được nữa, ông ta ngồi bật dậy.
- Tâu đức vua, dù có thế nào, xin người cũng đừng nghi ngờ lòng trung hiếu của hạ thần. Nhà thần mấy đời nay đều ăn lộc nhà Trần.
- Ta biết. Trong trận đánh Chế Bồng Nga, cha ta chỉ ban tước hầu, và phong chức thượng tướng quân cho hai người, đó là Trần Khát Chân và ông. Ta còn biết, trước khi chết, cha ta dặn đò hai người phải là hai cây cột trụ, cầm giữ binh quyền bảo vệ cơ đồ nhà Trần... Hỡi ông xa kỵ thượng tướng quân? Người ta còn báo với ta rằng ông và Trần Khát Chân là một. Ông là kẻ phục Trần, nhưng ông nằm im...
Lúc này Phạm Khả Vĩnh vẫn ủ rũ cúi đầu. Ông như muốn nói mà không nói nổi. Thuận Tôn nhíu mày.
- Dùng một kẻ chịu ơn sâu của nhà Trần... đi giết một ông vua nhà Trần... Ông bố vợ của tôi thực là sâu hiểm... Ông không cho phép ai nằm ngoài vòng cơn lốc... Thái sư bắt ông phải nhúng chàm... tay ông phải nhúng vào máu nhà Trần... Ông lừng chừng cũng chẳng được ông phải đồng loã... hoặc là chống đối... Có đúng không? Hỡi ông xa kỵ tướng quân!... và thế là ông chịu mang tiếng nhơ nhuốc... chỉ cốt...
Phạm Khả Vĩnh phủ phục dưới đất
- Vâng, thần xin chịu nhơ nhuốc. Chỉ cốt ngôi nhà Trần bền vững...
- Ông nói nữa đi... Ông không nỡ thốt thành lời sao?... Vậy thì ta nói tiếp cho ông nghe... Các ông đã bàn tính... cho rằng nếu Khả Vĩnh giết vua... thái sư sẽ không nghi... Vĩnh sẽ nằm im chờ thời... à, ta hiểu rồi ý của các ông còn một điều này nữa... Các ông muốn mượn cái chết của ta để làm một cái cớ... tụ hợp lòng dân... phất cờ đại nghĩa trừ kẻ đại nghịch vô đạo... Ta sống cũng được... Ta chết cũng được... Dù thế nào các ông cũng xử dụng được. Có phải vậy không? Có đúng không? Có đúng không? Có đúng không?
Phạm Khả Vĩnh ròng ròng nước mắt, quỳ lạy ba lạy:
- Chúng thần thật đắc tội với bệ hạ.
Vĩnh lại nhắc lại câu nhận tội. Người ông rung lên từng hồi vì xúc động. Còn Thuận Tôn, sau cuộc nói chuyện bỗng rơi vào tư lự. Ông thầm nhủ: Thế đấy! tất cả đều đến để cầu xin ta chết. Quý Ly mong ta chết đã đành, nhưng cả Khát Chân cũng muốn ta chết. Ai bảo ngươi sinh vào kiếp vua! Ai bảo người là ông vua hiền. Mà hiền thực hay là hèn? Ai bảo người tôn vinh sự mềm yếu, lại coi thường sự cương cường? Hỡi ôi. Kẻ làm quan làm vua có thể chẳng ác nhưng phải làm ác. Cái ác gắn với vua quan. Cái ác làm món ăn của vua quan. Cái ác là đôi cánh của vua quan. Thiếu cái ác một ngày, ngai vàng buồn rầu. Thiếu cái ác vài tuần trăng, ngai vàng rung rinh. Thiếu cái ác một năm, ngai vàng sụp đổ Cái ác là nguồn sống của vua quan. Điều đó đã ghi rành rành trong sách sử. Ôi? Cô đơn? Ta sinh ra trong xứ sở cô đơn. Cái ác, cái cuồng nộ bao giờ cũng sống bày đàn đông đúc. Còn cái hiền hậu tốt lành, lại chỉ như những nụ hoa yếu ớt và lẻ loi. Cái hiền hoà của ta là tội lỗi ư? Vả lại cái tàn nhẫn cuồng nộ phải đâu kém phần quyến rũ? Sao mà ta thấy thương ta. Ta thương ta tức thương kiếp của vạn loài. Thôi thì... ta hãy bắt chước bà sư già Tuệ. Thông bố thí tấm thân hư ảo này cho lũ hổ lang... Thuận Tôn mỉm cười với ý nghĩ của mình. Ông mở mắt ra, dứt dòng tư lự, bảo xa kỵ tướng quân:
- Ông Vĩnh. Đứng lên đi. Ta chấp nhận lời thỉnh cầu của các ông... Nhưng nên nhớ một điều: sự cuồng ngộ, dù của ai, ở đâu, cũng chẳng dẫn tới bến bờ... Ta biết các ông đều mong ta chết, muốn dùng cái chết của ta, nhưng lại chẳng ai - muốn tự mình ra tay... Thôi thì ta cũng tránh tiếng cho các ông. Ta sẽ tự chết. Đêm nay, ta sẽ hoá thân... Còn ông, ông hãy đi đi. Ta không muốn trông thấy mặt các ông cho đến khi ta chết.
Buổi sáng, Trần Thuận Tôn xuống Hy lăng, thắp hương trước mộ Nghệ Hoàng và khấn: “Trước vong linh tiên tổ, con là kẻ có tội. Dù sấm sét nổi lên đùng đùng xé xác con làm muôn mảnh, cũng không đủ đền tội. Nhưng xin hãy thứ tội cho con. Con không muốn cảnh núi sông xương máu, nồi da nấu thịt. Con không đương nổi việc gánh vác chăn dắt muôn dân, vạch đường cứu nước. Nhưng con nghĩ tội với dân còn nặng hơn tội với tổ tiên. Con xin chịu muôn lời xỉ vả, chịu xuống địa ngục cho xứng tội này”. Ông quỳ phục trước mộ cha rất lâu. Sau đó, ra ao Tích Lịch. Nước trong văn vắt và lạnh buốt. Ông mặc cả quần áo trầm mình dưới nước, để cho đàn cá chép đỏ vây quanh. Tay ông cầm vắt cơm bẻ dần, vứt cho lũ cá. Ông chìa tay ra, có con cá nhỏ rúc đầu vào lòng bàn tay kiếm mồi. Ông nói với cá: “Đây là vắt cơm cuối cùng ta bố thí cho các con”. Cả Nguyễn Cẩn, cả xạ kỵ tướng quân Phạm Khả Vĩnh đều chỉ dám nấp nhìn ông từ xa, không dám lại gần. Đêm hôm ấy, họ tụ tập chầu chực suốt đêm ở quán Ngọc Thanh. Thượng hoàng nguyên quân Trần Thuận Tôn ngồi tĩnh toạ trên thạch sàng, trong hang đá lạnh. Bằng phép bí truyền, ông vua đạo sĩ trút dần hơi thở vào không gian, để cuối cùng tấm thân gầy cứng lại, lạnh toát như băng. Tiểu đồng đứng hầu ngoài cửa hang. Chỉ có con vượn nhỏ ở bên mình ông vua đạo sĩ. Nó rên rỉ, và cũng như lần trước ôm chặt lấy ông, vòng tay quanh cổ, chân quặp quanh người, tim áp vào tim. Con vượn muốn như lần trước cố dùng chút hơi nóng để sưởi ấm, làm sống lại trái tim cô đơn thoi thóp của ông, nhưng lần này không được. Quá giờ dần, thì ông vua ra đi vào cõi vĩnh hằng.
***
Lúc Hồ Nguyên Trừng và Thanh Mai cưỡi voi đến núi Đạm Thuỷ: tấn bi kịch của ông vua cuối cùng nhà Trần đã kết thúc. Cẩn nói với Nguyên Trừng:
- Đức vua muốn được chôn cạnh đức Nghệ Hoàng. Hạ quan đã chôn cất ngài theo sở nguyện.
Con vượn nhỏ, sau khi xác nhà vua đã nhập quan, cứ phủ phục nằm dưới quan tài, bỏ ăn bỏ uống. Lúc chôn vua, con vật chết theo. Nghĩ rằng, nhà vua chỉ có nó là kẻ gần gũi nhất; từ lúc vua hoá điên cho đến lúc đi tu, nó luôn ngày đêm ở bên ngài; vì vậy cũng cho nó một nấm mồ con cạnh mả vua.
Nguyên Trừng thở dài:
- Thế cũng phải - Trừng dặn dò - Sau đây, ông phải xây cất lăng mộ cho nhà vua được đẹp đẽ. Rồi ông phải nhanh chóng trở về Tây Đô. Cha ta nhắc nhở ông như vậy.
Hồ Quý Ly
Chương 4 Sau khi đến lỵ sở ở Bình Than
Sau khi đến lỵ sở ở Bình Than kiểm tra công việc và nhắc nhở các quan chức địa phương những việc cấp thời phải làm để bảo vệ miền biển và cương giới vùng đông bắc, Hồ Nguyên Trừng và Thanh Mai cưỡi voi trắng đến Côn Sơn.
Có nhiều thuyết phong thuỷ nói về địa lý Đại Việt. Một trong những thuyết ấy nói nước Việt có 72 phúc địa. Những dãy núi miền Đông Bắc có đủ hình long, ly, quy, phượng. Núi Yên Tử có con suối hình rồng gọi là Long Khê là một phúc địa. Núi Phượng Hoàng nơi Chu Văn An ở ẩn cũng là danh sơn. Núi hình rùa có nhiều, chưa hiểu nơi nào là đất vượng. Còn núi hình Kỳ Lân phúc địa chính là núi Côn Sơn.
Ngày xưa, núi Côn Sơn bị mờ chìm trong hàng vạn quả núi khác, ít ai biết tới. Người đầu tiên phát hiện ra linh khí của Côn Sơn là thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Dưới chân núi Côn Soạn, xưa kia, có một ngôi chùa làng nhỏ bé gọi Chùa Hun. Đệ nhị Tổ Trúc Lâm, Pháp Loa thiền sư, qua đây thấy đất lành. cảnh đẹp, bèn cho mở rộng ngôi chùa, đặt tên là Thiên tư phúc tự. Khi Pháp Loa viên tịch, đệ tam tổ Trúc Lâm, thiền sư Huyền Quang về trụ trì và mất ở dây. Thời các cụ còn sống, chùa Hun là tổ đình của phái Trúc Lâm, các thiền khách và Phật tử lui tới tấp nập. Đó là thời kỳ toả sáng của Côn Sơn. Nhà Trần dần suy vong, đạo Phật cũng suy thoái. Khách thập phương không còn được đông đúc như xưa. Cả vùng đất Côn Sơn lại trở nên heo hút. Đại tư đồ Trần Nguyên Đán đến vãn cảnh chùa. Ông là người thứ hai tái phát hiện ra cái linh khí của Côn Sơn. Ông ưa chí tiêu dao của Trang Tử. lại vốn uyên thâm Lão học. Biết thời của nhà Trần đã hết, biết mình dù tài giỏi đến đâu cũng không dựng lại được cơ đồ, biết đất nước lại phải trải qua kiếp nạn mới lột xác nổi, nên ông xin về ở ẩn. Tư đồ tâu xin vua khu đất hoang ở Côn Sơn, sắp đặt một ngôi nhà để lui về nghỉ ngơi. Hai vua lúc đó là thượng hoàng Nghệ Tôn và vua Duệ Tôn biết không thể ép được cái chí của quan tư đồ. nên đã thể theo ý nguyện của ông. Vua sai thợ thuyền, binh lính và dân chúng phát hoang dọn cỏ: phạt bụi san đồi, xây đắp không nghỉ trong mấy tháng ròng. Căn nhà khang trang được dựng nên. cầu Thấu Ngọc được bắc ngang dòng suối trong vắt chảy giữa hai quả núi. Lại xếp đá, trồng cây. trồng hoa xen kẽ, tạo nên một cảnh thanh u kỳ thú ở chốn trần gian.
Côn Sơn có nhiều hoa mọc hoang. Mùa xuân những cây mai nở trắng khắp vùng. Mua hè, mùa thu, hoa mẫu đơn đỏ, hoa sim, mua tím, hoa cúc dại vàng, hoa bướm trắng, chen lẫn đá lẫn màu xanh của lá.
Khi làm xong toàn bộ khu ẩn cư, hai vua Trần từ Thăng Long về thăm. Quan tư đồ dẫn khách quý đến soi bóng trên cầu Thấu Ngọc, ngồi uống trà trên Thạch Bàn, dưới bóng những cây tùng reo vi vu, rồi lên đỉnh Vãn Thuý trên núi để vừa uống rượu vừa ngắm cảnh núi rừng như gấm biếc của toàn vùng. Hai vua tấm tắc ngợi khen quan tư đồ có con mắt tinh đời, biết chọn cảnh, lại khéo xây dựng, tô điểm, để tạo thành một chốn thần tiên ở nơi trần thế. Vua Duệ Tông sai lấy giấy bút tự tay viết ba chữ “Thanh Hư Động” chữ lớn để đặt tên cho toàn bộ khu vực.
Thái học sinh Nguyễn Phi Khanh, con rể quan tư đồ, người nức tiếng hay chữ, được quan tư đồ rất yêu quý, vì ngoài tình cha con, còn có tình tri kỷ văn thơ, đã làm một bài ký “Thanh Hư động” để ca ngợi nơi ở thanh cao của quan tư đồ. Có đoạn viết:
“Sau khi quan tu đồ từ giã triều đình lui về nghỉ ở đây có khi rong ngựa chơi vùng Gia Lâm, có khi chèo thuyền dạo miền Bình Than. Hoặc có lúc... đầu bịt chiếc khăn lững thững bên đèo. Khói ngàn. ráng đỏ, như gấm uốn, như lụa giăng. Cỏ rừng. hoa suối, hoặc mầu biếc đung đưa, hoặc mầu hồng rực rỡ. Cảnh mát dịu trong lành, thơm đến muốn nuốt, xinh đến muốn ăn. Phàm những cái gọi là hình trạng trong mát, tiếng vi vu, xa xa và vắng không, sâu thẳm mà lặng lẽ, hợp với sự mong mỏi của tai mắt và tinh thần, đều hầu như hoà với bầu trời mênh mông mà vui chơi ra ngoài cõi vật...”
Nguyên Trừng rất thích bài Thanh Hư Động ký của Phi Khanh. Trừng cứ nức nở khen câu “Cảnh mát dịu trong lành, thơm đến muốn nuốt xinh đến muốn ăn”. Kể về mối quan hệ họ hàng, Trần Nguyên Đán và Hồ Quy Ly là sui gia với nhau. Vả lại Trừng và Khanh còn mến tài học của nhau, cho nên hai người là đôi bạn khá thân thiết. Hôm cưới Trần Mộng Dữ, anh vợ Phi Khanh, lấy con gái bà Huy Ninh, Nguyên trừng đã đến Côn Sơn, Trừng và Khanh đưa nhau lên Vãn Thuý đình trên đỉnh núi ngắm cảnh uống rượu. Phi Khanh nói:
- Đám cưới này đã tỏ lộ cái ý của nhạc phụ tôi rồi đó. Tôi hiểu...
Huynh hiểu thế nào?
- Những bậc cao nhân đi ở ẩn vẫn lo cho đời sau. - Nhạc phụ tôi vốn thích cái chí của Lão Trang.
- Người ẩn sĩ khi lui về vẫn lo cho đời. Các vị biết cuộc biến thiên có lúc dài lâu. Nôn nóng chẳng được. Mình chẳng xoay chuyển nổi, thì lo đào luyện, truyền đạo cho đời sau, chuẩn bị cho đời sau, để thế hệ con cháu có đủ sức gánh vác...
Phi Khanh cười:
Huynh quả đã hiểu cái thâm ý của đại tư đồ. Nhạc phụ tôi bây giờ tháng ngày chỉ lo chơi bời với các cháu và dạy dỗ các cháu. Cháu Trãi nhà tôi may mắn được cụ dạy dỗ... Người nhồi nhét bắt cháu đọc sách. Nhạc phụ tôi yêu nó nhất. lắm khi quá khen nó.làm tôi lo lắng... Cháu Trãi thể tạng yếu ớt. Lắm lúc tôi muốn nói với người... song lại không dám, vì nghĩ thương cho người... Có lẽ
- Có lẽ sao?
- Có lẽ - Phi Khanh trầm giọng xuống - nhạc phụ tôi thấy năm tháng của mình còn ít quá... lại thấy thằng cháu thông minh, nên cụ hối hả... như con tằm cố nhả tơ cho hết... Để truyền lại những điều tâm đắc cho một đứa trẻ mới hơn mười tuổi.
Cuộc nói chuyện đó xảy ra thấm thoắt đã hơn mười năm rồi. Lúc này, Nguyễn Trãi, con trai của Phi Khanh đã chừng hai mươi tuổi. Ở kinh đô, người ta đồn rằng Trãi hiện nay là một nho sinh tài ba đang kỳ nở rộ. Được tin gia nhân báo đức ông Nguyên Trừng đến thăm Thanh Hư Động. Nguyễn Trãi tề chỉnh xuống Chân núi đón khách quý. Nguyên Trừng xuống voi mừng rỡ:
- Tiểu huynh đệ đã chững chạc thế này rồi ư?
Ông ngắm nghía chàng trai dong dỏng cao có đôi mắt sáng và đôi môi tựa thoa son trên khuôn mặt trái xoan thanh tú. Gương mặt như có ánh sáng, nó hơi gầy làm nổi lên đôi gò má, tạo ra những nét cương nghị, làm dịu bớt sự non tơ của dôi mắt sáng đa tình, làm chín chắn thêm sự thông minh mà toàn bộ con người chàng toát ra khi ta mới gặp. Nguyên Trừng đưa mắt nhìn quanh. Trãi hiểu ngay Trừng muốn tìm gì:
- Bẩm đức ông, cha tiểu sinh mấy hôm nay đến thăm bác Đoàn Xuân Lôi.
Nguyên Trừng gật đầu. Ông hiểu. Tháng trước, thái sư có gửi thư cho Phi Khanh, muốn nhờ ông thuyết phục những người đỗ đạt vùng Hải Đông. Tập hợp nhân tài ở Tây Đô. Càng nhiều người tài giỏi càng tốt. Đó là mối ưu tư của thái sư Quý Ly. Nhớ lại chuyện Đoàn Xuân Lôi viết thiên phi Minh Đạo để phản đối Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng lại chợt cười thầm. Hôm ấy, Nguyên trừng đến thăm cha, bắt gặp thái sư cứ đi đi lại lại mặt phừng phừng. Hầu như chưa bao giờ Trừng bắt gặp cha mình tức giận. Đôi mày ông già cau lại, mắt ông long lanh. Ông đưa cho Trừng đọc bài Phi Minh Đạo của Xuân Lôi.
- Anh xem. Thằng cha này có xược không? Có ngu không? Thế mà cũng đỗ thái học sinh đấy? Rặt một lũ tầm chương trích cú. Rặt một lũ đạo chính văn chương. Chỉ chăm chăm bước sao cho khỏi chệch bước các vị tiên hiền. Kẻ sĩ đấy ư?... Một lũ nô bộc sĩ? Đầu óc họ ở đâu? Không dám cả gan ra khỏi lối mòn. Không dám cả gan tạo lập... Cứ nhắc đến các vị tiên hiền là đầu óc tê liệt, mặt mày dúm dó... Cứ như thể mất mật bay hồn... Hỏi như thế làm sao có thể làm rạng rỡ văn hiến cho non sông. Đức Khổng Phu tử cũng phải có lúc sai chứ... Nếu không sai thì cũng có lúc, có nơi chẳng hợp thời...
Cơn giận của Thái sư Quý Ly hình như đến cực điểm. Lần đầu tiên, Trừng thấy cha mình văng tục:
- Chu Hy là cái đếch gì? Trình Di cũng là cái đếch gì! Thuần một lũ ăn cắp văn mà thôi...
Cả triều đình cứ tưởng thế nào Đoàn Xuân Lôi cũng phải chết. Động đến cái vẩy ngược của con rồng còn mong gì sống. Cuốn Minh Đạo là tâm huyết của Quý Ly Tất cả suy tư phục hưng đất nước của ông nằm ở đó. Cái vẩy rồng ngược của ông ai dám chạm... Thế nhưng Đoàn Xuân Lôi lại chỉ bị xử rất nhẹ, chỉ bị điều đi làm chức học quan ở trấn Hải Đông...
***
Nguyễn Trãi thu xếp chỗ ở để Nguyên Trừng và Thanh Mai nghỉ một ngày tại Thanh Hư Động. Hôm sau Trãi dẫn hai người đi vãn cảnh. Côn Sơn mùa xuân bừng lên đầy hoa. Khu rừng mai như có ức triệu con bướm trắng nhỏ đậu lốm đốm trên nền lá xanh cốm. Khu rừng trúc với muôn ngàn búp măng chĩa lên trời. Những ngọn tre non chưa mọc lá như những chiếc giáo tua tủa, hoặc như những chiếc cần câu cong cong làm chỗ đậu cho lũ chim rừng, khi thấy bóng người chúng bay túa cả lên bầu trời, biến thành một đám mây ríu rít, đám mây chim thoắt biến thành một giải lụa màu xanh, bay qua thung lũng, rồi biến mất ở khu rừng trên sườn núi Ngũ Nhạc.
Tiếng suối rót rách, rừng thông vi vu, ngàn tre xào xạc, nghe khúc nhạc rừng êm ả ấy, Thanh Mai như thấy thơ trẻ lại; cô gái luôn cười giòn; tiếng cười vang trong trẻo lạ thường khiến lũ khướu rừng hót hay đến thế cũng phải ngừng hót, không dám tranh hơn. Nguyễn Trãi nhìn gương mặt sung sướng và hào hứng của Nguyên Trừng, anh hỏi:
- Chắc phu nhân phải có giọng hát thật hay?
Nguyên Trừng nắm tay Trãi cười ngất:
- Quả là công tử có con mắt tinh đời. Nghe tiếng cười đã đoán biết ngay giọng hát.
Trãi ngẫm nghĩ:
- Nhìn đức ông và phu nhân, tiểu sinh lại chợt nhớ tới một đôi vợ chồng đi làm thuê ở chùa Hun. Năm ngoái, họ đến chùa. xin làm chân thợ gặt. Hai người ăn mặc, sạch sẽ, rất khôi ngô tuấn tú, không có vẻ người lam lũ. Nhà chùa mới đầu còn ngần ngừ, nhưng vì đang mùa gặt rộ nên nhận họ vào làm. Một hôm, tôi đến chùa Hun thấy họ, nhận ngay ra đó là một đôi tài tử ẩn đời, thích ngao du sơn thuỷ hơn là bị trói buộc. Tôi mời họ về nhà, rồi chuyện trò, thấy người con trai tỏ ra có tầm mắt rất xa rộng. Hết mùa gặt họ lại ra đi. Tôi hỏi tên tuổi. Họ chỉ cười chẳng nói. Và đến lúc ấy, tôi mới biết người con trai là một hoạ sĩ tuyệt vời. Để cảm ơn tấm lòng tri ngộ, anh vẽ tặng tôi cảnh một ngôi nhà tranh trên núi, ngôi nhà mà ông tôi mùa hè vẫn lên ở. Ngôi nhà nằm bên rừng trúc sau lưng lác đác mấy gốc thông già suốt ngày reo hát, những lúc trời trong đứng ở đó nhìn thấy cả dòng sông Lục Đầu như giải lụa ngoằn ngoèo trôi về phía xa xa, nhưng về mùa đông luôn luôn có những đàm mây bồng bềnh bay qua. Người hoạ sĩ gọi bức tranh đó là Hang Mây (Vân Oa).
Cả ba người quay trở về nhà khách. Bức tranh Vân Oa khổ lớn treo dài trên tường. Phía trên đỉnh là ngôi nhà cỏ nằm trong rừng trúc. Khoảng giữa. lấp ló ngôi chùa cổ đìu hiu dưới những hàng tùng. Phía dưới cùng uốn khúc một dòng sông. Đẹp nhất và vẽ khó nhất là những đám mây. Những đám mây xôm xốp giăng giăng khắp đỉnh núi và sườn núi khiến cho ngôi nhà mờ mờ tỏ tỏ. Chúng phân cách ngôi lều cỏ với chân núi, với trần thế. Tức là ngay cả ngôi chùa cũng nằm trong vùng trần thế... Nguyên Trừng nhìn bức tranh nhận ngay ra nét vẽ của Phạm Sinh, nhưng ông không nói gì, chỉ thở dài và mãi lúc sau mới bâng qươ:
- Chả trách gọi là hang mây!
Phía góc trống bên phải có bài thơ “Vân Oa” của Nguyễn Trãi:
Nửa rèm hoa chiếu, sách giường đầy
Khóm trúc ngoài sân reo gió lay
Ở chốn Vân Oa ngày rỗi trọn
Song trưa một gối giấc ngon say .
Nguyên Trừng cứ tấm tắc ngâm mãi hai câu thơ đầu của Trãi:
Bán liêm hoa ảnh mãn sàng thư
Đình ngoại tiêu tiêu thuỷ trúc cư...
Đêm hôm ấy ba người ngồi uống trà, Nguyên Trừng bảo:
- Nguyễn Trãi công tử có tài nhìn người nông phu đã nhận ngay ra tay thần hoạ. Sáng nay nghe tiếng cười lại bảo nàng cỏ giọng hát hay. Công tử lại cho chúng ta đọc thơ Vân Oa tuyệt tác. Vậy tôi đề nghị thế này: đêm nay công từ phải làm một bài thơ, nàng Thanh Mai phải nhân thơ mà hát; còn ta cũng nhân hát mà đàn...
Mọi người vui vẻ cười. Nguyễn Trãi có vẻ tần ngần:
- Thanh Hư Động gắn bó với vãn sinh từ thủa ấu thơ. Biết bao nhiêu cảnh vật, hình bóng, kỷ niệm. Nhưng tôi mới chỉ làm bài thơ Vân Oa. Nhất định tôi sẽ làm một bài thơ Côn Sơn... Có lẽ là đến lúc tuổi già chăng... còn bây giờ...
Hồ Nguyên Trừng gật đầu:
- Cũng phải! Cái gì thật thiêng liêng ta hãy dành cho tuổi già. Còn nàng; một tài tử du khách, lẽ nào lại không thể có một khúc ngẫu hứng nhẹ nhàng để đánh dấu cuộc kỳ ngộ của chúng ta.
Thanh Mai nói:
- Được đọc thơ Hang mây của công tử. Lại được hưởng bao nhiêu cảnh kỳ thú. Tôi đánh bạo làm một khúc ca dân dã:
“Vân Oa” chót vót non cao
Bông bềnh mây trắng bay vào Bồng lai
Suối khuya rót rách bên tai
Dưới khe nước chảy ngỡ ai đàn cầm...
Nguyên Trừng sảng khoái cầm ngay chiếc đàn nguyệt dạo một khúc lưu không. Thanh Mai lấy chiếc ống trúc đựng bút đặt nằm ngang, rồi gõ bằng hai chiếc đũa. Nàng nói:
- Điệu hát này tôi học từ thủa bé. Xưa kia mẹ tôi vẫn gõ vào thanh tre xua cá mà hát. Còn cha tôi thì ngẫu hứng trên chiếc đàn. Đã lâu rồi, cũng có chỗ quên. Điệu hát này cốt ở thanh thản ngân nga. Và lòng không vướng bụi...
Nói rồi nàng bắt đầu gõ. Tiếng lách cách lúc khoan, lúc nhặt, lúc ngập ngừng, lúc lãng đãng phiêu du. Nguyên Trừng nhắm mắt lại nghe tiếng gõ, để dần dần hồn và xác nhập vào tiếng phách. Và những ngón tay cũng nhân đó mà ngân nga, dặt dìu tuỳ hứng. Giọng Thanh Mai chậm rãi vút lên trong vắt hát khúc Côn Sơn:
Chót vót non cao...
Bồng bềnh chót vót non cao.
Ta theo mây trắng bay vào Bồng Lai.
Chợt nghe rót rách bên tai
Suối khuya nước chảy ngỡ ai đàn cầm...
Bàu đá xám rêu phong phô biếc
Ngả lưng nằm ngỡ chiếc nệm êm
...Thông mọc như nêm...
Rừng xanh thông mọc như nêm
Như muôn chiếc lọng che trên mái đầu
Cầu Thấu Ngọc, tiêu sầu vạn cổ.
Động Thanh Hư, thoát luỵ trần gian
Non tiên, chép một chữ nhàn...
Thanh Mai hát theo một đường. Tiếng đàn Nguyên Trừng lại lãng đãng đi theo một nẻo. Mới đầu cứ tưởng tiếng hát và tiếng đàn đã lạc lối nhau. Thậm chí có lúc cứ tưởng như chúng đối nghịch lẫn nhau, xa cách hẳn nhau. Nhưng điều kỳ lạ, tiếng đàn tiếng hát càng đi xa càng chẳng nỡ; và người nghe càng nghe thật kỹ, mới thấy sự ngỡ ngàng xa cách ấy chỉ là bề ngoài, thực chất chúng càng khác nhau lại càng xoắn xuýt lấy nhau, tựa như mối tơ vò không sao tách khỏi. Cảm giác như chúng văng ra khỏi nhau từng khúc rồi lại nhập lại với nhau từng khúc, để rồi cuối cùng là một sự đại hoà hợp. Tiếng hát, tiếng phách, tiếng đàn đã hoàn toàn chập lại với nhau, tròn đầy, hài hoà...
Nguyễn Trãi tán thưởng:
- Nghe nói đây là khúc hát chầu trong cung được nhặt ra từ chốn quê dân dã, tôi đã được nghe qua vài lần. Nhưng chỉ lần này mới hiểu được cái thần của nó. âm thanh rất động, nhưng cái thể lại là tĩnh lặng. Tưởng như chẳng nhịp nhàng, mỗi người mỗi ngả, hoá ra lại chung một nẻo đường. Không vội vã, không xáo xác, không âu lo, ngân nga, thoát tục... Xin lỗi phu nhân: “Non tiên chép một chữ nhàn”, hay là “Non tiên chép một chữ thiền”?
Thanh Mai cúi mình cảm tạ. Gia nhân bưng rượu lên. Ba người ngồi uống; bỗng nhiên chẳng ai nói một câu. Trong chiếu rượu của các bậc tài tử thường có chuyện như vậy. Người ta hay nói nhiều, để rồi đột nhiên tất cả ngồi lạnh ngắt, như thể mỗi người theo đuổi một dòng tâm tư riêng rẽ. Nguyễn Trãi là người đầu tiên phá sự im lặng.
- “Non tiên, chép một chữ nhàn!” Trước kia tôi không hiểu, tại sao tôi rất muốn làm một khúc Côn Sơn, mà hình như trong lòng lại có điều gì ngăn cản lại. Bây giờ thì tôi hiểu, chỉ những người từng trải như phu nhân mới nên làm khúc tụng ca về những chuyện sơn khê. Tôi còn trẻ quá. Chưa thể đem lời ước hẹn với núi rừng được...
Câu chuyện dần dần đi vào chỗ tâm đắc. Nó đã chuyển sang hướng khác, cuối cùng đi vào những vấn đề thiết yếu của non sông. Nguyên Trừng hỏi:
- Công tử thấy đất nước ta đang... vận hội ra sao?
- Một thời biến động!
- Công tử cô tiếc rằng mình đã sinh lỡ thời... không được gặp thời đại trị hay không?
- Lỡ thời ư? Thực ra, tôi rất thích dù mình được sinh ra ở thời nào. Đại trị ư? Thì nhân lúc trời sáng, sao ta chẳng như con gà vươn cổ mà cất cao tiếng gáy. Chẳng sảng khoái lắm sao? Đại loạn ư? Sao ta chẳng nhân lúc sấm ran chớp giật, để biến thành cơn mưa rào giăng giăng trên cánh đồng, rồi biến thành dòng nước, hoà cùng muôn vật chảy, để rồi, sau cơn giông bão trời sẽ tạnh, nước lại tì tũm cùng muôn loài vươn lên xanh tươi Vẫn chẳng sảng khoái lắm sao.
Nguyên Trừng cười to:
- Đại loạn ư? Tại sao lại sợ? Nếu không có nó hỏi đất trời làm cách nào thay da đổi thịt.
Lúc này, Trãi đã ngà ngà. Chàng công tử mắt sáng lên, nói chuyện với người mà như nói với mình:
- Chỉ cốt cái tâm ta sáng... Cái trí ta sáng... lúc này đây lột xác là chính hay lòng dân là chính?... Dân theo, nhưng không lột xác... cả bầu trời vẫn là tăm tối. Lột xác, nhưng dân thờ ơ... Cái hoạ lật đắm thuyền của bao đời vẫn sờ sờ trước mắt. Nhưng biết làm sao được! Người ta vẫn phải đi vào mưa to gió lớn mới có thể tìm được lối ra... Chỉ miễn là cái tâm ta sáng... Nguyễn Trãi lại lặp lại câu nói của mình. Còn Nguyên Trừng, ông cười to sảng khoái:
- Cái chí của công tử rất hợp với Trừng này - Rồi Trừng nâng chén rượu lên mời Trãi - Tiểu huynh đệ ạ, tôi đến đây mục đích có hai việc. Thứ nhất: Muốn mời bác Phi Khanh cùng các bậc danh sĩ xứ Đông đến Tây Đô dự lễ, mừng khánh thành kinh đô mới. Thứ hai: Tôi xin báo với công tử, đầu năm tới, sẽ mở khoa thi lớn tại Tây Đô để kén chọn hiền tài. Tôi đã đến trấn sở, báo cho các quan trấn phủ đều biết; nay mai sẽ thông báo việc này đến tận các làng xã. Đã lâu nay, vì tình thế chưa ổn, nên chẳng có khoa thi, vì vậy ngăn trở, không có cơ hội cho người tài xuất đầu lộ diện, giúp vua trị nước...
Cuộc rượu kéo dài mãi cho đến tận khuya...
***
Tuy say, nhưng sáng hôm sau, Nguyên Trừng và Thanh Mai vẫn lên bành voi khởi hành từ sớm rời khỏi Côn Sơn. Cuộc gặp gỡ với Nguyễn Trãi làm ông rất vui. Trước mắt ông là điểm cuối của cuộc hành trình, họ nhằm thẳng hướng núi thiêng Yên Tử.
Hồ Quý Ly
Chương 5 Trong các ngọn núi cao của Đại Việt
Trong các ngọn núi cao của Đại Việt, núi Tản Viên và núi Yên Tử được coi là những núi thiêng. Riêng núi Yên Tử được coi là đất tổ Phật giáo của Đại Việt. Núi cao trên ba ngàn thước (thước ta = 1069 mét) ngọn núi chót vót cao nhất vùng Đông Bắc, sừng sững nằm nhìn ra vịnh Bái Tử Long, quanh năm mây phủ nên cũng gọi là Núi Mây Trắng (Bạch Vân Sơn).
Người Việt tin rằng, ở những ngọn núi thiêng, khí âm trong lòng đất nhờ chóp núi cao, nên đổ dồn về tụ hợp tại đó, và khí dương trên trời thấy khí âm tụ hội, cũng nương theo những đám mây trắng bay tới, để giao hoà. Sự thái hoà nhờ đó mà được xác lập tốt lành. Cũng vì lý do đó, đạo Phật đạo Lão đều tìm cách xây chùa, quán trên các ngọn núi. Thậm chí ở Trung Hoa đạo Phật đạo Lão xẩy ra chiến tranh để tranh chiếm núi thiêng. Ở Đại Việt, đạo Lão không phải quốc giáo nên may mẩn không xẩy ra chuyện đó. Và ở Đại Việt, cũng vì lý do đó, nên các ngôi chùa nổi tiếng phần lớn đều được dựng ở các danh sơn, ví dụ chùa Thầy ở lộ Quốc Oai, chùa Phật Tích ở Lộ Bắc Giang, chùa Quỳnh Lâm và chùa Yên Tử ở vùng Đông Bắc...
Theo Sử ký của Tư Mã Thiên, đoạn viết về Nhạc Nghị có nói khi nước Tần thâu tóm toàn bộ Trung Nguyên, có Hà Thượng Trượng Nhân là một người rất giỏi đạo Hoàng Lão, là bậc chân nhân của một thời. Thời Nhà Tần các bậc chân nhân rất giỏi việc luyện đan, làm thuốc. Hà Thượng Trượng Nhân có học trò giỏi là An Kỳ Sinh. Sang thời nhà Hán, lúc đó nước ta còn bị nội thuộc nước Tầu, An Kỳ Sinh sang Nam Việt đến núi Mây Trắng, thấy núi nhiều linh khí đã lên đỉnh núi dựng am cỏ, ở lại luyện đan, chữa bệnh cho dân, từ đó núi có tên Yên Tử Sơn. Đến thời nội thuộc nhà Đường, Tôn Quang Đình viết bài ký “Động thiên phúc đại” có nói” Núi Yên Tử là một trong 72 phúc địa của nước Việt”.
Nhưng, danh dự to lớn nhất đến với núi Yên Tử, phải kể từ khi vua Trần Nhân Tông của Đại Việt sau hai lần đánh tan giặc Nguyên, đã rời bỏ ngôi báu, mặc áo nâu sồng. đi chân đất lên núi thiêng tu Phật và thành lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đạo Phật nhà Trần phát triển rực rỡ, góp phần tạo dựng nên văn hoá hài hoà Đại Việt. Hơn một chục ngôi chùa được dựng ngay trên đất Yên Tử. Núi thiêng đã toả khí lành từ bi lên khắp đất nước. Yên Tử đã trở thành tổ đình Phật giáo là một danh sơn bậc nhất nước ta...
***
Sau khi Phạm Sinh quay trở về Thăng Long tìm cha, sư Vô Trụ cũng quay trở về núi thiêng Yên Tử. Vị du tăng đã lang thang cả một đời, đi đến đâu cũng tìm hết cách xoa dịu nỗi đau khổ của người dân khốn cùng. Ông thấy mình đã già rồi, đã thấm mệt, tuổi già không cho phép ông tiếp tục để du phương khuyến thiện, hành phật sự. Ông quay lại suối rừng để làm việc cuối cùng, niệm phật, suy ngẫm tìm về với cái chân tâm vắng lặng của mình.
Về cuối đời thiền sư Huệ Quang đệ tam tổ Trúc Lâm đã gần 80, già lắm rồi, ông tu tại chùa Hun, Côn Sơn. Lúc đó Vô Trụ là một chú sa di chừng mười tuổi, suốt ngày đêm hầu hạ tổ. Lúc nào chú cũng khoanh tay trước ngực rất lễ phép, chẳng lúc nào sao nhãng công việc Hoà thượng già rất thương chú, thường gọi đùa là “Chú bé khoanh tay”. Hỏi đến chữ nghĩa kinh kệ, chú trả lời rất thông. Thiền sư Huệ Quang ngạc nhiên:
- Ai dậy con học vậy?
- Thưa tổ, các sư huynh dậy mặt chữ.
- Thời giờ đâu con học?
Thưa tổ, ban trưa, ban tối, lúc tổ mệt ngủ thiếp đi, con lấy que viết chữ lên đất. Viết mãi nên lu lu như in.
- Con thử dọc một bài kệ nào cho ông nghe
Chú bé lập tức đọc vanh vách:
Tâm vương không tướng cũng không hình
Mặt tựa ly châu vẫn chẳng minh
Muốn biết đâu là “khuôn mặt thực”
Ha ha! giữa trưa là nửa đêm.
- Bài đó của ai?
- Của ngài Tuệ Trung thượng sĩ.
- Con hiểu thế nào?
- Dạ, con không hiểu, nhưng con biết “Tâm” là điều quan trọng nhất của đức Phật.
- Ai dậy con bài kệ?
- Bẩm sư tổ, không ai dậy... Con suốt ngày đứng hầu tổ Con nghe tổ nói chuyện với khách, và con nhập tâm. Tổ Huyền Quang lấy làm lạ. Từ đó, tổ dậy cho chú bé học hành cẩn thận. Được một năm, sư Huyền Quang ốm nặng. Chú tiểu đêm ngày liền kề bên thầy. Có bận, nửa đêm sư tỉnh dậy, chợt nghe thấy bên giường có tiếng khóc sụt sùi. Nhìn ra mới biết tiếng khóc của chú tiểu. Sư nắm lấy tay chú bé bảo:
- Con nín đi! Người tu hành đừng để cho tình cảm sai khiến.
- Thưa tổ, con biết, nhưng tự nhiên nước mắt cứ chảy ra.
- Dạo trước, ta đã giảng cho con bài “Sinh tử nhàn nhi dĩ”. (Sống chết, nhàn mà thôi) của ngài Tuệ Trung, con không nhớ sao?
- Dạ, con còn nhớ.
- Con nghe dây. Sau khi ta ra đi, con hãy đến học đạo với thiền sư Lãm Sơn. Ông ta là một ẩn tăng, ít nói, nhưng là bậc đắc đạo trong rừng thiền...
Chú sa di mấy tháng sau, tìm đến núi Lãm Sơn lộ Bắc Giang. Thiền sư Lãm Sơn theo thuyết “vô ngôn chi giáo”. Hôm chú bé đến, sư bảo:
- Tổ Huyền Quang là thầy ta. Ta nghe tổ nói ngươi đứng hầu mà thuộc lòng bài Tâm Vương, vậy đã có chút duyên với Phật rồi đó. Nhưng ta sẽ không giảng giải gì hết. Tự nhà ngươi phải tìm ra cái “bản lai diện mục” của mình. Sách đấy, kinh đấy, lục đấy, ngươi hãy tự đọc Đạo Phật có hàng ngàn cuốn sách, nhưng mỗi người ngộ đạo có khi chỉ nhờ vào một câu. Hãy suy ngẫm đêm ngày, cho đến lúc nào hết suy ngẫm và bừng sáng. Những lời của chư tổ thật ngược ngạo, bí hiểm, nhưng thực ra chẳng có gì bí hiểm. Chẳng qua chư tổ dùng lời khó khăn để chọn lựa người. Con đường đi đến chân giác thành Phật vốn xa lắc và đầy gian nguy, nên chi không thể thiếu chí khí và không được hèn nhát. Phải nhảy qua núi cao, thõng tay đi trên vực thẳm mới đến được bờ giác...
Từ đó, chú bé chăm chỉ làm việc, đọc kinh và suy ngẫm. Chỉ có những giờ thiền định, chú mới được ngồi lặng lẽ bên thầy. Thiền sư Lãm Sơn chẳng nói gì, nhưng chú cảm thấy ánh mắt hiền từ ấm áp của thầy như luôn luôn ở bên chú, hộ niệm cho chú.
Chú sa di cứ tự vật lộn một mình như vậy trong thời gian dài, cho đến khi thành niên, được thụ giới cụ túc (chính thức trở thành sư). Một bận, thấy đang đọc kinh, thiền sư Lãm Sơn hỏi:
- Này Vô Trụ, nhà ngươi đang đọc gì vậy? Bẩm hoà thượng, con đang đọc Phật Pháp. - Đức Phật tổ há chẳng nói, bốn mươi chín năm ta thuyết pháp song chẳng hề nói một lời nào cả...
Vô Trụ sửng người, chưa biết trả lời ra sao. Hoà thượng liền nói.
- Nhà ngươi đang mê. Thôi! Bỏ sách đấy. Hãy đến Yên Tử gặp thiền sư Vô Trước, ở đấy ít bữa, may ra đầu óc ngươi có sáng ra chút nào.
Vô Trụ vâng lời thầy, khăn gói lặn lội mấy ngày đến chùa Vân Yên trên núi thiêng. Người thủ toạ bảo thiền sư Vô Trước ở am cỏ, trên đỉnh núi. Vô Trụ phải leo những bậc đá cheo leo, nửa buổi mới tới đỉnh mây mù, tới am cỏ. Trời mù gió. Mây trắng khắp chốn, như sữa trôi ngang núi. Rừng cỏ lau trắng xoá cong mình nhận cơn gió lạnh từ ngoài biển đông thốc vào. Sư Vô Trước đang tĩnh toạ trong lều cỏ hẹp. Vô Trụ không dám làm kinh động hoà thượng, người thầy tu trẻ quỳ trước cửa lều chờ cho đến lúc xong buổi ngồi thiền. Vô Trụ đã quỳ lâu lắm. Sương mù đỉnh núi làm quần áo ướt đẫm. kéo cái lạnh vào đến xương tuỷ, song người thày chùa vẫn kiên trì quỳ đợi. Gần sẩm tối, thiền sư Vô Trước mới bừng mở mắt, và hỏi.
- Nhà ngươi từ đâu đến?
Bẩm hoà thượng, thầy con là Lãm Sơn sai con đến.
- à! Nhà ngươi đến làm gì?
- Con đi tìm Phật Pháp.
- Có đói khát lắm không?
- Bạch hoà thượng. Con vô cùng đói khát.
- Nhà có giầu có lắm không?... Có nhiều châu báu lắm không?
- Bạch hoà thượng... Vô Trụ ngỡ ngàng như còn suy nghĩ. Thiền sư liền hất tay.
- Về đi về đi! Nhà ngươi mê rồi. Nhà đầy châu báu còn đi tận đâu đâu... Về đi? Về đi?
Sư Vô Trụ chợt bừng tỉnh. Người thầy tu trẻ ngay đêm hôm đó xuống núi. quay trở về Lãm Sơn. Thấy học trò bái lạy, hoà thượng Lãm Sơn hỏi:
- Ngươi bái lạy ta cái gì?
- Con biết ơn thầy vì thầy không giảng giải cho con.
- Ngươi đã ngộ được cái gì?
- Thưa thầy, con đã trở về nhà.
Hoà thượng Lãm Sơn gật đầu.
Ít lâu sau, Vô Trụ cuốn giẻ tẩm dầu lạc vào một ngón tay đốt cho cháy thành than mà vẫn ngồi thiền điềm nhiên. Sư nguyện tu theo hạnh đầu dà, môi ngày chỉ ăn một bữa, và di du tăng khắp miền đất nước. Sư gặp gỡ các vị thiền đức để học hỏi thêm về đạo. Sư muốn giúp đỡ nhiều cho mọi người, nên đã học thêm cả võ đạo, y đạo. Gặp năm mất mùa đói khát, giặc cướp nổi lên như ong, dịch bệnh truyền lan, người chết như ngả rạ, sư đi hành cước đến một ngôi chùa làng ở lộ Quốc Oai, đã dừng chân, ngày đêm xả thân chữa bệnh cứu đói cho dân làng, chữa khỏi bệnh cho nhiều người. Xong việc, ông định ra đi, dân làng chạy theo đồng thanh xin ông ở lại. Ông bèn dừng chân ở ngôi chùa quê nhỏ bé, hẻo lánh, cạnh cái đầm lớn tên gọi đầm Thiên nhiên. Chính tại ngôi chùa làng nhỏ bé bên bờ đầm ấy, sư cụ đã ra tay cứu giúp chú bé vô thừa nhận Phạm Sư Ôn. Nhưng kỳ lạ thay? Chú bé lại không đi theo con đường mà hoà thượng vạch ra. Thiên Nhiên tăng đã đi theo con đường nổi loạn. Sư Vô Trụ lúc đó chợt hiểu thế giới này họp bởi triệu ức những cơ duyên, có những duyên hợp để làm công việc huỷ bỏ, lại có những duyên hợp khác để làm việc xây dựng; dù ta có ý muốn làm thay đổi cũng chẳng được.
Tuy nghĩ thế. nhưng khi gặp mẹ con Phạm Sinh hoà thượng lại ra tay cứu giúp cái thế hệ tiếp theo của những con người vô thừa nhận. Rồi Phạm Sinh lại cưỡng lại những thiện ý của sư cụ. Sư thở dài nghĩ: “Con đường của các bồ tát dạy ta là thế, dù có phải làm đi làm lại nhiều lần”.
Thời gian thiền sư hành cước đến Thăng Long, ông đã kết thân với Sử Văn Hoa và cụ lang Phạm. Ở kinh đô sư mới hiểu đất nước đang biến chuyển với tốc độ thiên lý. Nhất là, gần gũi cụ lang Phạm, ông biết được nhiều chuyện cung. Ông bảo cụ lang:
- Cư sĩ ạ. Chúng ta sinh ra vào thời mạt pháp. Mà lúc này, có lẽ đang vào thời hắc ám. Về thôi! Ta về với núi rừng thôi.
- Chúng ta đã già rồi. Và có lẽ tôi cũng muốn về núi để viết một cuốn sách thuốc.
Thế là hai ông già dắt díu nhau trở về núi thiêng Yên Tử.
***
Hai người leo lên chùa Vân Yên. được biết thiền sư Vô Trước đã thị tịch. Vô Trụ ra tháp thắp hương rồi quay về nhà tổ. Sư huynh Quốc Nhất thay thế thiền sư Vô Trước bảo Vô Trụ:
Sư đệ đã già rồi, chắc đã mỏi gót vân du, có muốn trở về làm bạn với suối rừng để dưỡng chân không? Bẩm sư huynh, cho phép đệ được về nơi càng thanh vắng càng tốt. Cư sĩ Phạm là danh y ở kinh sư cũng cùng một chí với đệ.
Thiền sư Quốc Nhất gật đầu, cho họ ra ở nơi am cỏ vùng Thác Bạc.
Cứ nhìn quang cảnh núi Yên Tử, người ta thấy ngay được sự lên xuống của Phật giáo Đại Việt. Thời vua Trần Nhân Tôn đệ nhất tổ Trúc Lâm, đây là núi tổ Phật giáo. Vua bụt tu hành ở đó nên toàn thể phật tử và nhân dân đều hướng về đó. Đệ nhất tổ tu hạnh đầu đà, không ưa xa hoa, nên chùa chiền trên núi hoàn toàn mộc mạc, nhiều chùa chỉ là am cỏ. Đến thời vua Trần Anh Tôn cùng với đệ nhị tổ Pháp Loa, Phật giáo lúc đó cực thịnh. Điều khác trước, là các chùa chiền trên núi Yên Tử đều được xây cất nguy nga đẹp đẽ, nhất là khu vực lưng chừng núi, quanh chùa Vân Yên. Mới đến trước chùa, ta đã gặp ngay ngọn tháp bằng đá, nơi để xá lị của đức Nhân Tông, cao ngất trời, chừng vài chục trượng. Sau tháp có ao nhỏ thả sen, và vườn hoa. Leo lên sân chùa, ta trông thấy toà Vân yên Tự lợp ngói lưu ly mầu xanh, tám mái. Đối xứng hai bên tả hữu là lầu chuông, lầu khánh nguy nga. Vua Trần Anh Tôn muốn phát huy công đức của vua bụt Nhân Tôn cha mình, nên đã phát tiền công khố tu bổ cho chùa chiền Yên Tử rất nhiều. Các chùa nơi khác có nguồn kinh tế do ruộng chùa cung cấp. Núi Yên Tử không có ruộng nước nên nguồn cung cấp kinh tế do nhà nước cấp. Hàng trăm sư tăng của hơn một chục ngôi chùa đều ăn gạo nhà nước, ăn muối nhà nước. Thậm chí, có cả một kho muối dự trữ trên núi, nơi trữ muối gọi là am diêm...
Tiếp đó, đến đời vua Trần Minh Tông. Vua không chú ý mấy tới đạo Phật. Thiền phái Trúc Lâm dần dần sa sút. Nhà nước cắt dần cung cấp. Sư tăng trên núi phải rau cháo tự túc. Lẽ dĩ nhiên sư tăng cũng giảm bớt, phải chuyển về các ngôi chùa làng ở khắp nơi, để có cái sống mà tu hành. Nhà nước bỏ rơi thì nhân dân cưu mang đạo Phật...
Từ thời Trần Dụ Tôn trở đi, đạo Phật rơi vào chỗ suy sụp Rồi giặc cướp nổi lên, Chế Bồng Nga đánh phá, rồi Hồ Quý Ly ra sắc lệnh bắt sư tăng đi tu để trốn lính phải hoàn tục. Đạo Nho bắt đầu lên ngôi, đạo Phật như chỉ còn thoi thóp.
Chùa chiền Yên Tử lúc này, qua thời gian gần trăm năm, kể từ khi Trần Nhân Tôn thị tịch, đã bắt đầu đổ nát. Và vì chùa to đẹp quá, lại xây dựng trên núi cao nên không tài nào có khả năng trùng tu lại được. Lầu chuông gác trống đã trông thấy cả trời; chùa cả Vân Yên vì to rộng quá nên càng nhiều chỗ dột nát; sư tăng cố co kéo, đảo mái, nhưng ngói dần dần vỡ, thiếu hụt, dù có cố dàn mỏng ra cũng không kín mái. Tường vôi lở lói. Sư tăng còn ít, lại phải lo xuống chân núi trồng sắn trồng khoai; chỉ còn sư cụ và chú tiểu thường trực tại chùa trông nom làm cho sạch sẽ gọn gàng, nhưng cũng không ngăn nổi cỏ mọc xanh kẽ gạch và rêu bò lan vách tường.
Thiền sư Quốc Nhất cho chú tiểu dẫn hai ông già ra vùng Am Dược. Hồi các tổ Trúc Lâm còn sống, vùng am Dược nhộn nhịp người đi về. Vùng Yên Tử nhiều cây thuốc quý, Trúc Lâm đại sĩ tụ hợp một số nhà sư giỏi nghề thuốc về đây, hái lá, đào rễ cây. bào chế nhiều loại thuốc để phát không cho dân nghèo. Nhưng bây giờ, am Dược từ lâu không có người ở. Chú tiểu dẫn đầu đi về hướng đông. Lối mòn xưa đã bị cây đại, cây leo xoá hết dấu vết, chú phải dùng dao quắm phát quang, mở lối dẫn vào một khu rừng già nguyên sơ. Rừng đại ngàn với những cây cao thẳng vút xòe tán rộng, cây nọ ôm bóng cây kia, toả âm u, ngăn không cho, dù một vệt nắng, lọt rơi xuống đất. Qua đoạn rừng già, họ gặp khu rừng trúc vàng. Trúc nhỏ và cao đều tăm tắp. Những cây măng dầu xuân đã kịp chui qua màu lá xanh để chĩa thẳng lên trời, rồi cong cong như hàng ngàn chiếc cần câu vàng đu đưa khi gió thổi. Họ dẫm chân trên thảm cây khô lá mục, nhắm mắt lại chợt thấy mùi ngai ngái, thoang thoảng của thứ lá ngải rừng, cũng có khi của lá tùng mục, mà biết đâu đấy có thể của một loài hoa rừng nào đó mà ta chẳng biết.
Qua khỏi ngọn thác nhỏ trắng xoá đổ xuống một vũng ao núi, trong suốt nhìn thấu đáy, là một khoảng đất rộng bằng phẳng. Một chiếc am nhỏ. tường xây đá. nằm dưới một cụm dăm cây xích tùng trồng đã trăm năm kể từ thời vua bụt đi tu, nay đã vừa người ôm. Đó là am Hoa. Vườn hoa bỏ hoang từ vài chục năm rồi nhưng vẫn còn dấu vết. Những bụi bạch trà đại. đoá mọc ngang đầu người, hoa to như những chiếc chén tống trắng muốt. Những bụi mẫu đơn đỏ, vàng, trắng. xếp hàng trước cửa am. Những bụi hoa chống cự bao năm với cỏ hoang, nên trở thành hoa dại dầy sức sống, chúng um tùm xanh tốt, gặp tiết xuân. nở hoa tưng bừng. Hai ông già đi thăm cả am Dược gần đó. với vườn thuốc bỏ hoang, nhưng thật thú vị. bởi vì cây thuốc càng hoang sơ càng quý, chúng phải chống cự mãnh liệt với khắc nghiệt thiên nhiên nên được tính của chúng càng mạnh. Họ cắt cỏ tranh, chặt tre rừng lợp lại hai chiếc am Hoa vào am Dược. Họ quét dọn bàn thờ Phật, dựng lại những pho tượng đã tróc sơn. bạc mầu vì mưa nắng. Họ lại trồng sắn trồng khoai, trồng thuốc và cả trồng hoa. Họ lại tụng kinh, viết sách. Một sư, một cư sĩ một chú tiểu thay nhau xuống các làng chân núi thăm bệnh cứu người.
Cho đến mùa xuân năm nay. sư Vô Trụ đột nhiên cảm thấy bồn chồn lạ lùng. Ông thầm nghĩ: “Ta đã già quá rồi mấy tháng nay chân ta không xuống núi nổi nữa. Cả ông bạn họ Phạm của ta cũng vậy. Thời tiết đã đến rồi sao? Tất cả mọi chuyện xuống núi lúc này đều nhờ vào chú tiểu Vô Tâm...”
Đêm hôm qua, khắp người đau nhức, sư Vô Trụ cả đêm không ngủ. Quá nửa đêm, gió nổi đùng đùng. Cơn gió lạnh cuối mùa sao mà dữ dằn. Những cây xích tùng reo lên vu vu. Rồi mưa đổ xuống. Cơn mưa đầu mùa sao lắm nước vậy. Một lúc sau nghe tiếng con suối đổ xuống thác rầm rầm. Giun dế trong rừng, lũ nhái ngoài suối, những con ếch con cóc trong các hốc đá đều cất vang đủ giọng cao thấp đón mưa. Rồi cả tiếng con nai mừng cỏ mọc, tiếng con hổ gọi giao duyên, một con chim đêm to vỗ cánh phành phạch. tiếp theo là lũ khỉ nháo nhác vừa kêu vừa chạy... Sao lại vậy? Rừng đêm nay sao nhiều tiếng dộng? Cảm giác như tiếng động mỗi lúc mỗi nhiều hơn, mỗi to thêm. Trước là một tiếng của một con hổ. Sau, hình như có tiếng cả chục con. Tiếng à uôm từ mỏm đá này truyền sang mỏm khác. Có con hổ trước còn ở xa, sau tiến lại gần am. Có lẽ nó đứng ngay ở gốc cây xích tùng to nhất, gần nhất mà kêu. Tiếng kêu ngân vang rung cả mái là. Có lẽ nó vươn cổ lên trong mưa mà kêu bằng một sắc điệu trầm trầm thê thiết. Tiếng kêu hình như tức giận lại hình như khiếp hãi, không hiểu con vật khổng lồ hung dữ đó muốn báo hiệu một cái gì cho rừng sâu. Chỉ biết rằng khi con vật ấy cất lên, thì muôn vật khác đều bặt lặng. Rừng núi Yên Tử lúc đó chỉ còn tiếng mưa rơi, suối réo ầm ào, và tiếng con hổ oang oang... uôm uôm... thảm thiết. Rống lên một lúc, con vật đột nhiên ngừng kêu. Núi rừng chợt rơi tõm vào sự lặng ngắt. Chỉ còn tiếng rào rào của mưa và tiếng ầm ầm của con suối. Cả đến gió lúc này cũng yên. Trong cái nền âm thanh đều đều của nước ấy, chợt nghe thấy một tiếng động lạ soạt soạt. Nghe kỹ mới đoán ra đó là tiếng con hổ mài móng vuốt trên thân cây xích tùng.
Sư Vô Trụ ngồi đọc kinh thâu đêm cho đến sáng. Cư sĩ họ Phạm cũng ngồi thiền sau lưng người đồng đạo. Hôm sau, trời tạnh. Vào lúc quá ngọ, khi hai người đang ngồi uống trà. sư tiểu xuống núi trở về dẫn theo hai người một trai một gái. Họ quỳ xuống vái lạy sư Vô Trụ:
- Học trò thật đắc tội. Bao năm nay mới về thăm thầy.
Hoà thượng nhìn chàng trai một lát, nhận ra ngay:
- Phạm Sinh! Con đấy ư? Ta chờ con đã bao lâu nay. Thảo nào, dạo này ta thấy sốt ruột. Đêm qua rừng động, ta chợt nhớ tới con, và cầu xin đức Phật hộ trì cho con. Thì nay, con về thật rồi. Về thật rồi - Sự sung sướng hiệu rõ trên nét mặt ông già mặc dầu ông là người tu hành. Ông chỉ tay vào cô gái đang quỳ bên cạnh - Còn vị này là ai? à, ta hiểu rồi. Có phải là vợ con đó không?
Được biết Thị Hạnh là con gái Sử Văn Hoa, hai ông già ngậm ngùi cho số phận người bạn già tài hoa viết sử ở Thăng Long.
Tối hôm đó, hai thầy trò ngồi dưới hoa trò chuyện. Phạm Sinh nói:
- Thưa thầy, con thật mê muội. Trước kia lòng con lúc nào cũng nung nấu một chí căm thù. Thậm chí ngột ngạt vì nó, có lúc muốn huỷ bỏ cả thân mình vì nó... May mà gặp duyên...
- Ta rất mừng vì con đã về núi, đã rũ thị phi...
- Thưa thầy, con đã gặp được ông ta...
- Ông ta?
- Vâng, ông quan thái sư đó, là người đại chí. Đúng vừa có chí lớn lại vừa đại trí, cũng là con người lạnh lùng như băng. Con căm ghét ông ta đến cùng cực. Nhưng gặp mặt ông ta, con lại bị hấp dẫn vô cùng. Cứ tưởng đó là loài yêu quái ngậm máu phun người chẳng tanh, nhưng không phải. Ông ta thông minh, có thể nói sâu sắc đến tinh tế, nhưng đầy tham vọng. Nói thế nào cho đúng đây... phải, tham vọng đến độ ngạo mạn. Vì thế cho nên, đầy rẫy những kẻ thù. Và kẻ thù của ông cuồng vọng cũng không phải nhỏ, ý chí cũng không phải vừa. Hai ý chí cuồng nộ gặp nhau... ắt là có máu. Họ chẳng từ một thủ đoạn nào... Nói thế nào nhỉ? Vừa tàn bạo đến cùng cực... nhưng lại vĩ đại vô cùng. Vừa đáng căm giận, lại vừa đáng thương đáng kính... Và bao trùm lên tất cả là một nỗi cô đơn đến kinh hoàng. Thưa thầy, con nói năng thật lộn xộn. Ai cô đơn? Ông ta? Hay kẻ thù của ông ta? Hay chính là con?
Hoà thượng hiền từ trả lời:
- Ta hiểu và ta mừng. Con đang bối rối tức là con đang tìm đến với đạo.
- Hôm chúng con ra đi, nhạc phụ của con giao cho con quyển sách viết giở và cây bút lông?
- Cây bút lông? Quyển sách viết tiếp? Có lẽ con có duyên với việc đó. Thầy chỉ xin tặng con hai câu thơ của người xưa:
Thiên giang hữu thuỷ, thiên giang nguyệt.
Vạn lý vô vân, vạn lý thiên.
(Ngàn sông tràn nước, ngàn trăng sông.
Muôn dặm không mây, trời mênh mông.)
Phạm Sinh ngẫm nghĩ:
- Thưa thầy, mặt trăng chỉ có một, nhưng ngàn sông có nước nên có ngàn trăng dưới nước. Dù sao cũng chỉ có một mặt trăng mà thôi.
- Con thấy đấy: chân như bất biến, nhưng tuỳ duyên vạn biến.
- Con xin giữ lấy chân như.
- Con hãy cầm lấy cây bút lông của nhạc phụ con. Nhưng mực của con phải là thứ mực đại từ bi của chân như... Hãy vượt qua thị phi... Con hãy nhớ.
Vợ chồng Phạm Sinh ở lại am Hoa cuốc đất, trồng khoai, trồng thuốc. Dạo này, đêm nào hổ cũng gầm gào và về mài vuốt ở cây xích tùng. Những vết móng hổ hàn sâu khắp gốc cây. Sư Vô Trụ nói với ông bạn già họ Phạm:
- Thời tiết của tôi đã đến rồi chăng?
- Nên như thế nào? - Cư sĩ hỏi.
- Sư ngẫm nghĩ rồi bảo:
- Đạo đang ở thời kỳ mạt pháp nhất. Nhưng vua bụt, tổ của chúng ta đã khêu đèn Phật, gieo hạt bồ đề ở khắp đất nước. Những chủng tử ấy nằm ở những ngôi chùa làng. Và khi nào đất nước cần đến. những mầm ấy gặp duyên lại thức dậy che chở cho dân lành. Lúc này chúng ta là những kẻ ẩn cư, giữ mầm lành.
Rung động liên tiếp mấy hôm. Đêm nào cũng có tiếng thú kêu xáo xác trong rừng. và con hổ lạ vẫn về mài móng ở cây xích tùng sau am. Sư Vô Trụ mệt đi trông thấy. Phạm Sinh lo lắng hỏi:
- Thưa thầy, tại sao rừng lại động lâu như thế?
- Ta cũng chưa hiểu... nhưng, ta có nghe...
- Có lẽ nào...
- Các cụ nói rằng những khi có chuyện bất thường, rừng thường nổi giận. Như năm xưa, lúc cha con chiếm Thăng Long, rừng đã nổi giận một lần. Bận ấy. có lẽ cũng dữ dội như lần này. Rồi năm ngoái. quan quân dẹp bọn nổi loạn trốn trong rừng sâu, rừng cũng xáo xác...
- Có lẽ nào...
- Chúng ta có lục căn. Tâm tình lúc xúc động biểu lộ ra bằng tiếng cười. tiếng khóc... Thầy chắc rừng cây muông thú cũng vậy thôi.
- Thưa thầy... con trộm nghĩ như con hổ lạ kia, đêm nào cũng về mài móng ở cây xích tùng... đêm qua, con để ý, thầy ra khỏi am nhưng nó không hề xúc phạm. Đến khi con ra hiên đón thầy vào, cũng chẳng xẩy ra chuyện gì. Khi con đốt lửa sưởi ấm cho thầy, con nghe thấy tiếng cào móng càng lúc càng dồn dập. Nghe cả tiếng rít ư ừ như tiếng kêu thương của một con mèo to lớn mà hiền dịu. Con cảm thấy như nó lo lắng cho thầy...
Hoà thượng cười hiền hậu:
- Ngày xưa, lúc ta còn là một chú tiểu, sư Huyền Quang, thầy khai tâm của ta lúc sắp ra đi, ta sụt sùi khóc, thầy bảo: “sinh tử nhàn như dĩ”... Bây giờ cũng vậy ta biết con thương ta, nhưng ta là người tu hành con đừng nên lo lắng quá... Con là người viết sử... cũng đừng nên để rối cái chân tâm.
Phạm Sinh ngần ngừ mãi rồi hỏi:
- Bạch thầy, con quyết định viết tiếp sử nhưng còn một điều con băn khoăn mãi vẫn chưa nghĩ ra.
- Con cứ nói.
Thưa thầy. nhạc phụ con thường khi vẫn nhắc tới hai chữ hồn sông hồn núi. Thú thực, con vẫn chưa hiểu rõ hai chữ ấy.
Sư Vô Trụ ngẫm nghĩ hồi lâu mới trả lời:
- Một non sông cũng như một con người, vốn có cái nghiệp của nó. Đó là cái cộng nghiệp của toàn thể người dân. Đức Phật bảo con người có A lại da thức, nơi tàng chứa những chủng tử lành dữ của con người qua nhiều kiếp. Một đất nước cũng vậy, trong tàng thức của non sông có chứa những chủng tử... những mong muốn tốt đẹp những điều văn hiến mà dân tộc ấy đã gieo trồng, chúng biến thành khát vọng, thành hồn của núi sông, rồi từ đời này sang đời khác, khát vọng ấy sẽ hoá thân vào những bậc hiền nhân, vĩ nhân, danh nhân và cả trong những trái tim tốt lành của người dân thường để dẫn dắt dân tộc ấy đi đến đường của Đạo.
Nói đến đây, sư Vô Trụ có vẻ mệt. Cụ lặng im. Phạm Sinh rạp đầu xuống tạ ơn, và để nhận ánh sáng từ bi an lành của thầy toả ra từ bàn tay già đặt lên đầu chàng. Có lẽ đó là sự giao nhận cuối cùng của thầy và trò
Cuối cùng, sư bình tĩnh dặn dò:
- Thời của ta đã đến rồi đấy... Ta nghe rõ trong mình... Từ mai ta sẽ tuyệt cốc không ăn uống. Khi nào ta ra đi hẳn, cứ để xác ta nửa tuần trăng. Nếu không có mùi gì thì để nguyên, bọc lại, táng vào hang núi, lấy đá lấp kín. Còn nếu có mùi khác lạ thì hãy hoả thiêu rồi đem tro vùi ở gần làng Quy Đức. Ta muốn chết còn được nương nhờ bóng mát của tổ Trúc Lâm.
Từ hôm đó, sư ngồi thiền suốt đêm ngày và không ăn uống.
***
Khi con bạch tượng đưa Nguyên Trừng và Thanh Mai leo đèo vượt dốc, lội qua hàng chục con suối đến chân núi Yên Tử, đã thấy quan lại địa phương và xã trưởng cùng nhân dân bầy hương án sẵn để đón rước. Quan phủ rước đức ông vào nghỉ ở căn nhà tạm mới mọc lên. Người đó thưa:
- Theo lệnh của đức ông, lộ đã sức về phủ, phủ đã sức về huyện, huyện đã sức về xã, mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng...
Trừng bảo:
- Các ông biết đấy. Tây Đô đã hoàn thành. Năm nay mở hội thề rất lớn trong đó. Nhưng cha ta muốn cả nước đều được tưng bừng, vì vậy cho phép mùa xuân này, các hội quê đều được mở. Tiếng âu ca phải được vang lên khắp nơi. Vả lại, năm qua cả nước được mùa. Ta nghe nói, mấy năm nay Yên Tử không mở hội. Hơn nữa, vừa rồi phủ sở tại đây đã dập tắt được một nhóm nô tỳ kéo nhau tụ tập trong rừng, tuy chưa làm phản nhưng chắc là có chí ấy.
Viên quan sung sướng khúm núm:
- Dạ, quân lính đã chặt được hơn trăm thủ cấp.
- Tôi có nghe an phủ sứ đề nghị thăng thưởng cho ông. Việc võ là cần, nhưng việc văn cũng cần không kém. Vì vậy, tôi muốn ông cho tổ chức ngày hội Yên Tử thật long trọng. Tôi đã dạn thưởng thêm cho phủ trăm lạng bạc, chi vào lễ hội. Ông nên biết, dân rất thèm vui. Mấy năm nay, chẳng hề nghe tiếng trống thì thùng... có hội, lòng dân sẽ vui tươi nô nức...
Đúng lúc Nguyên Trừng đang nói, rừng Yên Tử bỗng rộ lên những tiếng kêu xáo xác của muông thú. Tiếng động ồn lên như một cơn sóng ào ạt xô tới, rồi bỗng dưng bặt lặng. Trừng nhíu mày hỏi:
- Tiếng gì vậy?
- Dạ mấy hôm nay rừng động!
- Sao lại động?
- Dạ, có thể lúc quan quân hàng ngàn người reo lên à à sục sạo trong rừng tìm lũ phản loạn, rồi đang đêm đốt đuốc thổi tù và inh ỏi... nên đã làm lũ muông thú kinh hoàng. Cũng lại có thể, vì con hùm đen - chúa rừng, đã lâu vắng bóng, nay lại xuất hiện ở vùng này... Thật lạ lùng? Nghe nói con vật đó hằng đêm vẫn về mài móng vào thân cây xích tùng ở am Hoa trên núi nhưng lại chẳng hề làm hại tới sự cụ Vô Trụ và những người ở đó
- Hổ về ư? Chúng đã xâm phạm tới ai chưa? Hổ về làm sao mở hội? Các ông đã có biện pháp gì?
- Xin đức ông chớ lo. Chưa hề xảy ra chuyện. Còn biện pháp, chúng tôi đã theo kinh nghiệm của dân sở tại. Mỗi năm, trước khi mở hội, xã vẫn thịt trâu rồi vứt thịt ra những cánh rừng xa. Hổ có cái ăn no sẽ chẳng động tới dân. Năm nay cũng theo cách ấy, nhưng vì rừng động, nên hạ quan đã ra lệnh thịt ba con trâu, vứt thịt ở các ngả. Lại có thêm hai con khác dự phòng.
Nguyên Trừng nhìn viên quan phủ tinh khôn ấy rồi gật đầu:
- Ông thật khéo. Tôi yên tâm rồi.
***
Khi Nguyên Trừng, Thanh Mai, ông già Lặc leo lên núi cũng là lúc hội Yên Tử bắt đầu. Các ngôi chùa Long Động, Giải Oan, Vân Yên... đều gióng chuông từ sớm. Từ các làng quê trong vùng, những người dân nghe tiếng chuông ngân nga, từng đoàn kéo nhau về Yên Tủ. Một lá phướn to, dài mầu vàng treo trên đầu cây bương cao chót vót được chôn ở chân núi trước khi đến suối Giải Oan. Dân quê ngạc nhiên và háo hức bởi vì hội Phật hầu như vắng bóng đến chục năm trời, nay bỗng nhiên được mở, mà lại do chính các quan trên đứng ra đỡ đầu. Hội đông là phải...
Nguyên Trừng đứng trên dốc đá, dưới một gốc tùng già nhìn xuống chân núi, thấy dòng người nô nức đang tiến về phía chùa Giải Oan thấy ngọn phướn uốn lượn trong gió như con rồng vàng đang múa; rồi chợt một hồi chuông chậm rãi từ trên núi vang vang lan toả trên đầu những cây đại thụ, tiếng chuông hiền từ nhưng sao mà buồn đến vậy, ông chợt thở dài, có chút ngậm ngùi... Thực ra, cuộc mở hội này là điều bất chợt ông tự nghĩ ra, đâu có phải ý định của quan thái sư. Trừng đi thăm ông ngoại nên muốn có món quà làm ông vui lòng. Mới đầu, ý nghĩ chỉ giản đơn thế thôi, nhưng khi hội mở, nhìn mặt người dân hớn hở, Nguyên Trừng mới chợt thấy như mình có lỗi với mọi người.
Cụ lang Phạm gặp Nguyên Trừng đã nói ngay:
- Được tin cháu lên thăm, lại được tin mở hội Phật ông biết ngay đây là ý riêng của cháu...
- Cháu chỉ muốn làm ông vui lòng.
- Chẳng những ông vui và người dân cũng cảm ơn cháu. Đã gần chục năm nay, họ vẫn mong một ngày hội Phật. Ông già ngẫm nghĩ rồi hỏi - Làm thế này, cháu không sợ cha cháu phật lòng hay sao?
Nguyên Trừng cười:
- Cả đến ông, cũng không hiểu được lòng cha cháu.
- Không hiểu cha cháu?
- Ông thử nghĩ xem. Khói hương ư? Tụng kinh ư? Lễ hội ư? Cha cháu tại sao lại giận, tại sao lại phản đối?... Chỉ miễn là lòng dân an vui - Trừng mỉm cười - Thậm chí cha cháu còn bảo sau khi thăm ông, cháu phải đến vấn an các thiền sư Yên Tử, và thỉnh các vị về Tây Đô mừng kinh đô mới.
***
Sư Vô Trụ, không ăn uống, ngồi kiết già đã mấy ngày liền vẫn chưa thị tịch. Hôm Nguyên Trừng theo ông ngoại từ am Dược đến am Hoa viếng thăm, sư đột nhiên bừng mở mắt và sai chú tiểu mời vào. Nguyên Trừng làm lễ vấn an, thiền sư nói:
- Khi đức ông còn nhỏ tuổi, tôi đã có duyên hội ngộ. Đức ông từ khi ấy đã đọc kinh Phật. Vậy là đã có chút duyên với nhà Thiền.
Nguyên Trừng truyền đạt lời mời tới Tây Đô dự lễ. Sư nói:
- Rất tiếc, đã đến thời tiết của lão nạp này rồi.
- Xin thiền sư chỉ giáo đôi lời.
Lão nạp đức mỏng không có lời riêng. Chỉ xin gửi lại đức ông hai câu kệ của đức Nhân Tôn:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên.
Cơ tắc xan, hề, khốn tắc miên...
(ở cõi trần vui đạo, hãy tuỳ duyên
Đói thì ăn, hề, nhọc ngủ liền...)
- Tuỳ duyên?
- Vâng... có duyên, chớp mắt mọc vạn lâu đài. Hết duyên, chớp mắt lại tan ngay...
Thiền sư nhắm mắt, từ đó ông không nói gì nữa. Hôm sau, Nguyên Trừng từ giã ông ngoại xuống núi. Nguyên Trừng để Thanh Mai ở lại ít bữa với ông ngoại để giúp đỡ am Hoa, vì sư Vô Trụ sắp ra đi. Nàng và ông già Lặc tiễn chân Trừng xuống chân núi. Hôm đó mở hội phóng sinh và phóng đăng ở suối Giải Oan. Những bè chuối nhỏ đem theo những chiếc đèn hoa bập bềnh trôi theo dòng nước. Những con cá chép từ chậu được thả ra suối trước khi bơi đi xa còn cố ngoi lên mặt nước thả những chuỗi bong bóng như để cám ơn con người. Phạm Sinh và Thị Hạnh mua một lồng chim sáo của bọn trẻ mục đồng, trùm chiếc khăn vuông xưa của bà nô tì lên. Thị Hạnh nhón tay nhấc chiếc khăn để Phạm Sinh mở cửa lồng cho con sáo nhảy ra đậu trên lòng bàn tay chàng. Phạm Sinh nói:
- Bay đi? Hãy trở về với bầu trời!
Con chim bay vút lên cây cao. Đột nhiên trong rừng một bầy chim từ những lùm cây bay túa lên trời kêu xáo xác.
Người quản tượng mới thay ông già Lặc tiến lại gần con voi trắng. Con bạch tượng chợt giậm chân thình thịch như tức giận, khiến người đó không thể nào tiến lại gần. Nó bỗng vươn vòi lên trời, chồm lên, đứng bang hai chân sau và bắt đầu rống. Tiếng rống vang trời, gọi mọi người xúm lại gần. Càng thấy đông, con voi càng nổi cơn giận dữ. Tiếng rống của con bạch tượng chuyển sang giọng man rợ chưa từng thấy. Tiếng nó kêu rung chuyển núi rừng. Tiếng rống xoáy vào rừng sâu kêu gọi, làm rừng tĩnh lặng bỗng nhiên choàng tỉnh. Ở phía xa xa, hình như cũng có tiếng gầm gào đáp lại. Nguyên Trừng thở dài. Đây là lần thứ hai ông thấy con voi giận dữ. Ông nhớ lại lần trước, ở pháp trường Báo thiên, con voi cũng đã gào rống như thế này. Song, lần đó, người ta hát bài hát dỗ voi đã dần dần làm nó nguôi đi. Lần này, ông già Lặc cũng hát:
Ơ con voi rừng!
Ơ con voi hoang!
Nước mắt ròng ròng
Cái vòi ủ rũ
Vểnh tai lên mà nghe ta hát
Vươn vòi lên mà đón nhành hoa...
Nhưng con bạch tượng chẳng chịu nghe lời dỗ của ông Lặc nữa. Nó chẳng cần nhành hoa. Lần này nó điên thực rồi. Nó chỉ còn biết rống lên bằng tiếng kêu thảm thiết, nghe mà rùng mình, giống như tiếng kêu chọc tiết của hàng ngàn vạn con lợn. Có lẽ lần này ở đây là rừng, và tiếng gọi của rừng đánh thức khối óc nhỏ bé của nó đã ngủ lịm từ bao lâu nay. Nó thức giấc và không chịu ngủ lại lần nữa.
Thanh Mai nói với Nguyên Trừng:
- Em xin chàng một đặc ân. Xin chàng hãy thả nó về rừng.
Nguyên Trừng như còn suy nghĩ, Thanh Mai lại tiếp:
- Hôm nay, ngày hội phóng sinh. Sao chàng chẳng phóng sinh cho con bạch tượng?
- Phóng sinh ư?
- Cha chàng, ngài thái sư đã chẳng phóng sinh cho hàng vạn nô tì rồi đó sao?
- Đúng! Phóng sinh. Phóng sinh. Ý nghĩ của nàng thật tuyệt. Đã có bao giờ người ta phóng sinh cho một con voi chưa?
Con voi được tháo xích, nó nhằm thẳng phía rừng già, cắm đầu chạy, vừa chạy vừa rống lên ồ ồ, nhưng đó là tiếng rống mà Nguyên Trừng chưa hề bao giờ nghe thấy. Tiếng kêu của nó dần mất hút trong rừng sâu. Nguyên Trừng lên ngựa ra sông Lục Đầu, trở về Tây Đô Tất cả, ông ngoại, Thanh Mai, ông già Lạc và cả con voi nữa đều ở lại Yên Tử.
Chàng ra đi chỉ có một mình.
Hồ Quý Ly
Phần XIII- Chương - 1 Hội thề Đông Sơn
Từ sông Bạch Đằng, Nguyên Trừng lên thuyền, căng buồm men theo bờ biển vào Thanh Hoá, rồi ngược dòng sông Mã đến Tây Đô. Đến bến đò, ông lên yên nhằm thẳng núi Đún cho ngựa chạy. Suốt dọc hành trình, lòng ông đeo đẳng một nỗi buồn man mác. Tất cả đã ở sau lưng rồi. Tuy rằng chỉ tạm chia tay Thanh Mai, nhưng ông linh cảm thấy lần chia tay này sẽ là mãi mãi. Hình như Trừng chẳng muốn về Tây Đô, nhưng số phận buộc ông phải tới đó. Mới chỉ vài ngày, ông đã chuyển qua những cõi trời hoàn toàn khác biệt. Ở Yên Tử, đó là núi, suối, là hoa cỏ cây cối, là đi giữa mây trắng, vượt từ cõi ồn ào sang miền tịnh thổ; ở đó đất trời gặp nhau cho ta cảm giác dịu dàng, hiền hoà; ở đó chỉ có sự tốt lành, hết tranh giành, cắn xé. Chẳng ai nói, nhưng Trừng có cảm giác chua xót rằng tất cả hình như đang quay lưng lại với mình. Ông ngoại, Thanh Mai, ông già Lặc, cả con voi trắng nữa, tất cả đều muốn đi hướng khác. Họ muốn về với bình an...
Đứng ở cửa ngõ Tây Đô, dưới chân núi Đún, Nguyên Trừng đã hoàn toàn bước qua một thế giới khác. Đứng ở đỉnh Yên Tử, hòn núi cao nhất vùng, tâm hồn ta như được cởi mở nâng cao lên, khoáng đạt hơn, rộng lượng hơn; tầm mắt nhìn được xa hơn. Còn đứng ở chân núi Đún, trên con đường cát đá dài thẳng tắp, nhìn vào toà thành đá khổng lồ Tây Đô, Nguyên Trừng như thấy mình đang chui vào một cái hòm, một khuôn mẫu, ở đó tất cả là sự ngang bằng sổ thẳng, sự chỉn chu đúng phép của những Đông, Tây, Nam, Bắc, của lễ nghĩa, của quân thần phụ tử.
Hồ Quý Ly là một nhà nho uyên thâm. Kinh thành Thăng Long trải qua hai triều đại Lý Trần tôn sùng đạo Phật đã bị ảnh hưởng thứ tư tưởng khoan dung của đạo Thích trong kiến trúc. Nhiều chùa quá, nào Diên Hựu, Chân Giáo, nào Thần Quốc, Báo Thiên... ngóc ngách nào cũng thấy chùa chiền. Được mấy cái hồ đẹp như những tấm gương, thì chung quanh Hồ Tây cũng nhan nhản những chùa, còn bên Hồ Lục Thuỷ, lại sừng sững soi bóng ngọn tháp cao vút Đại Thắng Tư Thiên của chùa Báo Thiên. Quý Ly sai Nguyên Trừng vẽ bản đồ xây dựng Tây Đô. Ông bảo:
- Thật uyển chuyển, nhưng cái chính là phải cương nghị hùng tráng. Không có bóng dáng một ngôi chùa! Những ngôi chùa dễ làm mềm yếu lòng người. Kinh đô mới phải toát lên hùng khí trang nghiêm, kính cẩn, phép tắc...
Quê hương Quý Ly ở đó, thủa nhỏ ở đó, nên rành địa hình vùng động An Tôn. Ông góp ý, bắt Nguyên Trừng sửa chữa nhiều lần, cuối cùng tạm ưng. Đại thể, đó là một kinh đô quân sự. Quý Ly muốn xây dựng một toà thành khổng lồ, bằng đá, quy mô hùng tráng, to lớn nhất kể từ trước đến nay. Địa thế Tây Đô thực hiểm trở, có sông núi bao quanh. Phía Bắc dựa vào núi Voi, phía Nam có núi Đún che chắn. Phía Tây có dòng sông Mã, phía Đông có núi Hắc Khuyển cùng dòng sông Bái bao bọc.
Tây Đô chia ra làm hai: khu thành nội và khu thành ngoại.
Khu thành nội hình chữ nhật, dài khoảng 2.250 thước ta (900 mét), rộng khoảng 1.760 thước ta (700 mét). Chung quanh có tường thành cao 15 thước ta (6 mét), trên có đường đi rộng khoảng 10 thước ta (4 mét). Tường thành xây bằng những viên đá lớn 2 mét x 1mét x 0,7 mét). Những viên đá quá nặng, phải đắp đất, seo lên mới xây dựng được. Mặt trong thành lèn đất dày như đắp đê. Thành có bốn cửa đều cao to, nhưng to nhất là cửa Nam được gọi cửa Tiền, gồm ba vòm cổng, vòm giữa cao nhất (cao 9,5 mét, rộng 6 mét). Các cánh cổng đều làm bằng gỗ lim phiến dầy, dưới chân có lắp bánh xe bằng đá. Từ cửa nam một con đường lát đá thẳng tắp chạy đến tận chân núi Đún, khá dài (5 ki - lô - mét).
Bao quanh thành nội là khu thành ngoại. Đó là khu dân cư gồm các làng xã, phố phường, nơi mọc lên cả những dinh thự của các quan lại. Phía ngoài thành ngoại đắp một bức thành đất, dưới chân trồng tre dày ken thành luỹ, và ngoài cùng đào một lớp hào sâu như con sông nhỏ vây kín Tây Đô. Từ con sông này lại có lối ăn thông với sông Mã, sông Bái để tiện việc chuyên chở, giao thông cho kinh đô mới.
Kiến tạo một kinh thành vĩ đại đến như thế, đồng thời còn phải xây dựng các cung điện, đài, các trong nội thành thử mà thời gian vẻn vẹn chỉ có ba năm. Thật phi thường. Phải huy động hàng vạn nhân công, hàng vạn thợ giỏi; phải trưng tập hàng ngàn chiếc thuyền, chiếc xe; phải bỏ ra hàng chục kho lương, nhiều kho tiền. Người chết vì lao lực, vì bệnh tật kể tới số vài ngàn. Mất bao nhiêu là máu, nước mắt, mồ hôi? Đứng sững trên con đường đá Đốn Sơn, Nguyên Trừng miên man nghĩ tới những chuyện đó, ông chợt thở dài. Ở xa xa, có tiếng trống thì thùng và tiếng loa vọng lại. Nguyên Trừng lắng tai:
Bàn dân thiên hạ
Hãy nghe cho rõ
Đất nước thái bình
Thái sư lệnh truyền
Mở ngay ngày hội
Cho ngời Minh Đạo
Cho rạng nghĩa nhân
Cho khắp xóm thôn
Vui đời Nghiêu Thuấn...
Từ phía sau Đốn Sơn, ở lưng chừng núi, có một đoàn người Mường đi ra. Họ xếp hàng một. Dẫn đầu là một đoàn con gái váy đen, áo trắng, khăn trắng, tay môi người cầm một chiếc chiêng to nhỏ khác nhau. Các cô vừa đi vừa gõ. Bóng họ in bật trên nền xanh của núi. Tiếng chiêng theo một giai điệu lên bổng xuống trầm nghe rất lạ tai. Những người Mường từ vùng núi cao, nghe vua mở hội ở kinh đô mới, đã xuống núi, vừa dự vui vừa để ngắm một đô thành bỗng dưng lạc tới vùng đất hoang sơ này. Nghe tiếng chiêng của họ, tất cả muôn vật đều như bị thu hút; mọi người đều ngẩng nhìn, lắng nghe; cả đến tiếng trống, tiếng loa cũng đột nhiên im bặt. Tiếng chiêng vang vang trong thung, kéo dài đến tận ngôi thành đá, nó ngân nga như một giọng trầm trầm, thì thầm tâm sự. Tiếng chậm rãi bùng bung, bùng binh, bang bang... như từ chiều sâu thẳm của núi rừng, của thời gian, bị lạc hay bị nhốt hãm từ lâu, nay bỗng xổ lồng bung ra, tràn vào thung lũng. Nó chẳng ồn ào nhưng bỗng làm ta cảm thấy rung động. Đó là tiếng của rừng đại ngàn, tiếng của con suối ngầm rót rách gặp chỗ thoát bỗng ùa ra thành thác; tiếng của những con người trong rừng sâu đêm đêm vây quanh đống lửa, mắt họ ánh lên nôi u buồn của những đêm dài nguyên thuỷ; hay là tiếng của những hồn xưa, của tổ tiên thần linh trở về; cũng có thể đó là tiếng của những con thú bị nhốt trong rừng chập chùng, âm u, tầng tầng lớp lớp, nó phải luồn qua những tầng cây dưới vực thẳm sâu như âm ti, để trườn trên những vách đá cheo leo, cố trồi lên để húp lấy tí ánh sáng hiếm hoi, nó vang vang cất tiếng nhưng gió làm tan loãng, chỉ còn nghe thấy những tiếng u.. u... a...a... Tiếng chiêng buồn nhưng không nức nở, nó tưới đẫm hồn ta, để dần dần thấm sâu vào tận xương tận tuỷ con người, làm ta ớn lạnh.
Nguyên Trừng bứt rứt rời xa tiếng chiêng, cho ngựa bước lộp cộp trên con đường lát đá. Tiếng vó ngựa đẩy lùi tiếng chiêng lại phía sau. Nhưng dù cho ngựa chạy nhanh, dù cho tiếng vó ngựa vang giòn, những thứ đó cũng không thể xua tan tiếng chiêng, nó đeo bám riết ráo sau lưng đến tận toà thành đá.
Chỉ khi đóng sập cánh cửa lim to dầy ở phía sau lưng, Nguyên Trừng mới trút được sự ám ảnh của tiếng chiêng. Tiếng chiêng chỉ còn là một thanh âm mơ hồ, lãng đãng đâu đây trước khi lặng tắt.
Trừng vội vã đến thăm em gái trước tiên. Ông vua tí hon Trần An trong bộ quần áo vàng chóe, đang chơi thơ thẩn ở trước cửa cung điện, thấy Nguyên Trừng, giang tay chạy ùa đến. Nguyên Trừng ôm cháu, bế lên tay. Cậu bé nép đầu vào cổ ông bác. Nó nói nhỏ:
- Bác Trừng ơi? An sợ lắm!
- Nào, nào! Bây giờ cháu là vua rồi. Cháu sợ gì cơ chứ?
- Sợ mẫu hậu khóc.
- Mẹ cháu khóc ư?
- Mẹ khóc cả ngày. Mẹ không cười nữa. Đêm qua, mẫu hậu ôm An, rồi cũng khóc.
Nguyên Trừng lặng im. Chú bé vẫn bi bô:
- An dỗ mẹ, mẹ không nín. Mẹ khóc to hơn.
Rồi ông vua tí hon rón rén, không nói, dẫn ông bác vào trong toà cung điện nguy nga. Thánh Ngẫu ngồi ủ rũ trong chiếc ghế bành trải nệm gấm. Câu hỏi đầu tiên của nàng:
- Có phải huynh vừa từ Yên Sinh về không? Trừng gật đầu. Bà hoàng dồn dập hỏi tiếp:
- Nhà vua... người thế nào?
Trừng như lảng tránh câu hỏi:
- Ông ta đã là một đạo sĩ thật sự?
- Huynh nói thật đi Xin huynh đừng giấu điều gì.
- Sao huynh lại giấu?...
- Em nhìn mắt huynh, sao đôi mắt buồn rười rượi? Và bàn tay nữa? Sao bàn tay lại run run?...
- Em suy nghĩ quá nhiều nên thốt ra những lời mê sảng.
- Sao lại mê sảng? Nhưng, đúng là em mê sảng... Cách đây mươi ngày, đang đêm, bỗng nghe thấy một tiếng động... Mở mắt ra, bỗng thấy một bóng tráng... Đúng là một hồn ma. Hồn ma đứng cúi đầu trước giường, dòng dòng nước mắt... rồi giơ tay ra như muốn xoa mớ tóc của thang An. Môi cái bóng trắng mấp máy như muốn nói mà nói chẳng thành lời... Em choàng dậy... giơ tay ra... thì hồn ma biến mất...
- Em có bệnh rồi. Đúng là một cơn ác mộng mê sảng...
- Không phải mơ đâu... Mấy hôm nay, đêm nào hồn ma cũng hiện về. Em đã nhận ra, đó là hồn Thuận Tôn... Chồng em đã ra sao? Lòng em nóng như lửa đốt. Huynh nói thật đi.
- Thánh Ngẫu? Em đã ốm rồi?
- Tôi không ốm! Tôi cần biết sự thật. Tôi muốn gặp chồng tôi. Thằng An muốn gặp cha nó. Hay là... Phải. Hay là cha chúng ta đã có âm mưu gì?... Hay là cả huynh nữa... các người đã có âm mưu gì?...
Bà hoàng hậu như nổi cơn điên rồ. Nàng đứng lên, mắt long lanh, đôi mắt đau khổ hầu như đã cạn khô nước mắt. Ông vua con chạy tới, nắm lấy tay mẹ.
- Mẫu hậu ơi. Mẹ ơi! An sợ lắm.
Người mẹ cúi xuống, ôm lấy đứa con. Mẹ và con cùng oà lên khóc, dưới con mắt bối rối của Nguyên Trừng. Ông có cảm giác như chính mình đang phạm tội...
***
Điện Minh Đạo hiện ra trước mắt. Nó là bản sao của cung điện Hoạ Lư ở Thăng Long. Hay nói cho đúng hơn, điện Minh Đạo chính là cung Hoa Lư được phát triển đường bệ hơn, nguy nga hơn. Vẫn là kiểu hình chữ tam, nhưng khác với cung Hoạ Lư, toà tiền điện ở đây mới là Chính điện. Toà trung và hậu điện là nơi ở riêng và nơi thờ lại biến thành những kiến trúc phụ. Điện Minh Đạo lấy tên ngay cuốn sách Minh Đạo của thái sư, âu cũng là cách tỏ rõ cái chí. Một điều khác biệt nữa: cung Hoạ Lư chất liệu bằng gỗ, còn điện Minh Đạo chất liệu chủ yếu bằng đá, nhất là toà chính điện. Ở bậc thềm bước lên, ta đã gặp ngay đôi rồng đá to nhất từ trước đến nay. Đôi rồng, mỗi con dài mươi thước, uốn khúc uyển chuyển và hùng dũng như đang bay. Cái tráng khí hào hùng ấy do bàn tay tài ba của phường thợ đá làng Nhồi làm. Quý Ly đã ban thưởng tước cho người thợ cả, điều đó thật hiếm thấy. Hàng cột đỡ hiên là mười chiếc cột đá chạm rồng leo tinh xảo. Đặc biệt nhất là chiếc sập to làm bằng đá phiến nguyên khối đánh bóng lên mới thấy nổi những vân đá đen như rồng, như mây.
Cung Minh Đạo nằm ngay chính tâm toà thành đá Tây Đô. Chính nơi đây sẽ là trung tâm chính trị của đất nước trong những ngày sắp tới.
***
Viên quan cấm vệ to như ông hộ pháp đứng ngay bên cạnh con rồng đá, kính cẩn cúi chào. Nguyên Trừng dừng lại hỏi:
- Cha ta có trong điện không?
Viên lực sĩ thưa:
- Bẩm đức ông. Đại Vương đang ở bên trong.
Toà đại điện rộng mênh mông, với hai bức đại hoành “Nhật nhật tân” và “Vô dật, nãi dật” giống như ở cung Hoa Lư Thăng Long. Kích cỡ của hai bức đại hoành ở đây to rộng hơn. Hầu như nó choán kín cả vùng tường hậu. Mầu vàng óng của hai bức hoành phản chiếu ánh sáng của khoảng hở giữa hai đợt mái chồng lên nhau, ở trên cao dọi xuống, rồi rải khắp toà đại điện, làm cho không gian như mở rộng thêm, nó oai nghiêm và sáng sủa lạ thường. Tuy nhiên, đó là thứ ánh sáng lạnh, có lẽ lạnh vì ở đây chẳng thấy một bóng người. Nguyên Trừng nhìn quanh, rồi rảo bước đến cửa sau, ông hầu như nghe thấy cả tiếng chân của chính mình. Đến toà trung điện, vào phòng ngủ, sang nơi làm việc, lên lầu đọc sách, ở khắp nơi đều không thấy bóng Quý Ly. Sự lặng lẽ vắng bóng người đã kéo lũ chim sẻ đến đậu trên mái ngói. Chỉ nghe thấy tiếng chim rúc rích càng làm tăng thêm sự cô liêu cho khu cung điện nguy nga và bao la. Quý Ly vốn không thích những bóng người qua lại nhộn nhịp trước mắt mình. Tất cả những kẻ giúp việc: thư lại, vệ sĩ, thể nữ, ngự thiện đều phải ở những căn nhà nằm ngoài khu vực. Bên người ông, luôn đeo một quả chuông vàng; khi cần, ông lắc chuông, và một con người cực kỳ tin cẩn sẽ xuất hiện không biết từ đâu. Sau khi nghe lời ông sai bảo, cái bóng tin cẩn ấy biến ngay lập tức mất tăm, để cho sự vắng tanh lặng lẽ lại ngự trị.
Nhìn quang cảnh, Nguyên Trừng hiểu ngay cha mình đang ở đâu. Ông di đến toà hậu điện, nơi thờ cúng bà Huy Ninh công chúa. Thường thường, thái sư chỉ đến đây vào buổi tối, hôm nay ông lại đến vào giữa ban ngày.
Toà hậu điện được thái sư Quý Ly cho xây dựng trước nhất ông muốn khi ông đến ở, thì nơi thờ phụng bà Huy Ninh đã phải đẹp đẽ khang trang. Vì vậy, ở đây cây cối đã xum xuê. Vẫn có hai cây đại mọc trước nhà, hai cây đại non tơ nhưng đã nở hoa trắng xoá. Những bông hoa trắng ngà, những bông ngọc lan nhà Phật nức hương rải thảm lốm đốm trắng trên chiếc sân gạch đỏ au đã chớm rêu xanh. Trước kia, ở cung Hoa Lư, toà hậu điện gồm cả ban thờ Phật và ban thờ bà Huy Ninh. Nhưng, ở cung Minh Đạo, toà hậu điện chỉ riêng thờ bức tượng đá trắng của công chúa.
Nguyên Trừng mới đến giữa sân đã phải đứng sững lại ông trông thấy cha mình đang ngồi xệp dưới chân pho tượng ở gian giữa nhà, pho tượng ở đây được đặt thấp, từ ngoài nhìn vào cứ tưởng như bà Huy Ninh đang thật sự ngồi đó. Bà ngồi trên ghế bên một chiếc bàn sơn son có đặt bát hương nghi ngút khói. Còn Quý Ly, ông như gục vào lòng người vợ hiền hậu. Nhìn từ xa, không cảm giác thấy hai bàn tay trắng ngà đương đấy ra, mà hình như hai bàn tay ấy đương đặt lên mớ tóc bạc của thái sư để chở che, để vuốt ve an ủi. Còn Quý Ly thì... toàn thân đang rung lên. Hoá ra như vậy? Lần đầu tiên, Trừng bắt gặp cha mình đang khóc. Có lẽ ông già đang thì thầm kể lể cho vợ mình nghe những chuyện ông đã làm. Có thể ông đang nói về số phận của bà hoàng Thánh Ngẫu, đứa con gái cưng của ông bà, đứa con gái kiều diễm mà ông bà đã nâng niu như một nhành hoa quý. Cũng có thể là những lời tâm sự về ông vua bé nhỏ Trần An, đứa cháu ngoại run rẩy ngồi trên ngai vàng. Hay dó là những lời biện bạch về số phận của Thuận Tôn, ông vua của vương triều nhà Trần, đã vĩnh viễn bay về tiên cảnh... Hay có khi ông đang hé cho bà biết những điều vừa vĩ đại vừa khủng khiếp đã và đang xảy ra với núi sông...
Nguyên Trừng nhìn chiếc lưng còng của cha mình đang rung lên từng đợt, Trừng chợt nhớ tới vua Thái Tôn Trần Cảnh của nhà Trần ngày xưa. Ông vua uyên bác và nhân từ ấy đã chẳng từng viết bao nhiêu bài kinh sám hối trong cuốn Khoá Hư Lục: sám hối buổi sáng, sám hối ban trưa, cả sám hối khi đêm xuống. Kẻ mở đầu một vương triều bao giờ chẳng thế! Điều khác biệt đó là Trần Thái Tôn viết ra thành văn điều sám hối, còn Quý Ly, cha ông, lại quỳ dưới chân pho tượng trắng... để thổ lộ với một hòn đá vô tri.
Nguyên Trừng lập tức lùi lại, rồi rón rén quay về toà tiền điện. Ông hiểu, dù mình là con, cũng không nên có mặt trong những phút yếu đuối của một con người đầy khát vọng như cha mình.
***
Không lâu sau đó, Hồ Quý Ly đã đến nhà tiền điện. Ông chằm chằm nhìn vào mắt con trai. Lúc này, ông đã là một con người hoàn toàn khác hẳn. Hình như những tia nhìn của ông tỏ ra rằng ông đã biết mọi chuyện. Tia nhìn lạnh băng ấy như quở trách ngầm, Nguyên Trừng vội cúi xuống chào cha. Ông báo cáo tình hình bằng mấy câu nói ngắn gọn:
- Thưa cha, mọi việc cha giao, con đã hoàn thành. Tất cả đều diễn ra như ý định của cha.
Quý Ly gật đầu, rồi ông nhắm mắt lại như để sắp xếp những ý tưởng, trước khi cái giọng trầm trầm của ông cất lên:
- Anh về kịp lúc. Đúng ngày mai, ta cho mở hội mừng tân đô. Dân thèm ngày hội, ta cho ngày hội. Hãy cho người Mường, người Thái... xuống núi mà thi gõ chiêng, đánh trống. Hãy cho những người hát xẩm, những đào nương, những phường chèo đến mà khoe giọng hát. Hãy cho đánh đu, chọi gà, múa rối, đánh vật. Ban đêm cho đốt cây bông, thi đèn cù... Và, cũng có thể cuối cùng mở hội chọi voi cả một ngày ròng... Nói tóm lại, làm mọi cách cho thật tưng bừng trước lúc hội thề.
Ông già chợt cười khẽ:
- Tuy vui, nhưng no bụng vẫn là điều chủ yếu. Anh phải đứng ra thay ta đôn đốc việc mở kho, phát chẩn cho dân nghèo ở những nơi mất mùa. Riêng quanh vùng Đông Đô Thăng Long, và Tây Đô, không cho phép có người dân đói khát. Quan lại những địa phương này nếu không làm tròn trách vụ cần phạt thật nặng.
Bỗng nhiên, đang trò chuyện dân sinh Thái sư lại nhảy ngay sang vấn đề kẻ sĩ:
- Những sĩ phu ở xứ Đông, việc quan trọng tôi dặn anh, nay thế nào?
- Thưa cha, có lẽ khả quan. Con đã bảo phủ, lộ sức xuống các làng xã... đã cho mời các danh sĩ, các nhà khoa bảng... Trên đường đến đây, con nghe ngóng, họ đang lục tục kéo tới Tây Đô.
Thái sư nhắm mắt lại, trầm ngâm một hồi lâu mới lên tiếng:
- Ta đã suy nghĩ rất nhiều. Sang năm, dù thế nào cũng phải mở khoa thi. Nhưng trước mắt, nhân ngày hội, cũng nên mở một cuộc thi làm văn làm phú...
Ông nhắm mắt lại, tiếp tục suy nghĩ rồi mới nói:
Này Nguyên Trừng, con có nhớ Quách Ngỗi người nước Yên thời chiến quốc mua bộ xương con thiên lý mã bằng 500 lạng vàng không?
- Con nhớ. Quách Ngỗi có trả lời khi yên Chiêu Vương tức giận vì nghĩ đã phí vàng: “Ngựa chết còn mua 500 lạng vàng, huống chi ngựa sống”. Dùng ngựa chết để nhử ngựa sống. Dùng một người hiền loại trung để nhử các bậc đại hiền...
- Phải đấy? Chính là cái ý ấy. Vì vậy, nên ta ra đầu đề “Phú con ngựa lá”
- Bài phú về con bọ ngựa ư?
- Vậy sẽ thế này: con hãy viết cho cha một bài bố cáo chữ thật to, ngày mai dán ở lầu Quảng Văn trước cửa thành phía nam; bất cữ già trẻ, không phân biệt sang hèn chức tước, ai làm được bài phú thật hay ta sẽ thưởng trăm lạng bạc. Đích thân ta sẽ làm chánh chủ khảo chấm thi.
Hồ Quý Ly
Chương 2 Tây Đô tưng bừng náo nhiệt
Từ sông Bạch Đằng, Nguyên Trừng lên thuyền, căng buồm men theo bờ biển vào Thanh Hoá, rồi ngược dòng sông Mã đến Tây Đô. Đến bến đò, ông lên yên nhằm thẳng núi Đún cho ngựa chạy. Suốt dọc hành trình, lòng ông đeo đẳng một nỗi buồn man mác. Tất cả đã ở sau lưng rồi. Tuy rằng chỉ tạm chia tay Thanh Mai, nhưng ông linh cảm thấy lần chia tay này sẽ là mãi mãi. Hình như Trừng chẳng muốn về Tây Đô, nhưng số phận buộc ông phải tới đó. Mới chỉ vài ngày, ông đã chuyển qua những cõi trời hoàn toàn khác biệt. Ở Yên Tử, đó là núi, suối, là hoa cỏ cây cối, là đi giữa mây trắng, vượt từ cõi ồn ào sang miền tịnh thổ; ở đó đất trời gặp nhau cho ta cảm giác dịu dàng, hiền hoà; ở đó chỉ có sự tốt lành, hết tranh giành, cắn xé. Chẳng ai nói, nhưng Trừng có cảm giác chua xót rằng tất cả hình như đang quay lưng lại với mình. Ông ngoại, Thanh Mai, ông già Lặc, cả con voi trắng nữa, tất cả đều muốn đi hướng khác. Họ muốn về với bình an...
Đứng ở cửa ngõ Tây Đô, dưới chân núi Đún, Nguyên Trừng đã hoàn toàn bước qua một thế giới khác. Đứng ở đỉnh Yên Tử, hòn núi cao nhất vùng, tâm hồn ta như được cởi mở nâng cao lên, khoáng đạt hơn, rộng lượng hơn; tầm mắt nhìn được xa hơn. Còn đứng ở chân núi Đún, trên con đường cát đá dài thẳng tắp, nhìn vào toà thành đá khổng lồ Tây Đô, Nguyên Trừng như thấy mình đang chui vào một cái hòm, một khuôn mẫu, ở đó tất cả là sự ngang bằng sổ thẳng, sự chỉn chu đúng phép của những Đông, Tây, Nam, Bắc, của lễ nghĩa, của quân thần phụ tử.
Hồ Quý Ly là một nhà nho uyên thâm. Kinh thành Thăng Long trải qua hai triều đại Lý Trần tôn sùng đạo Phật đã bị ảnh hưởng thứ tư tưởng khoan dung của đạo Thích trong kiến trúc. Nhiều chùa quá, nào Diên Hựu, Chân Giáo, nào Thần Quốc, Báo Thiên... ngóc ngách nào cũng thấy chùa chiền. Được mấy cái hồ đẹp như những tấm gương, thì chung quanh Hồ Tây cũng nhan nhản những chùa, còn bên Hồ Lục Thuỷ, lại sừng sững soi bóng ngọn tháp cao vút Đại Thắng Tư Thiên của chùa Báo Thiên. Quý Ly sai Nguyên Trừng vẽ bản đồ xây dựng Tây Đô. Ông bảo:
- Thật uyển chuyển, nhưng cái chính là phải cương nghị hùng tráng. Không có bóng dáng một ngôi chùa! Những ngôi chùa dễ làm mềm yếu lòng người. Kinh đô mới phải toát lên hùng khí trang nghiêm, kính cẩn, phép tắc...
Quê hương Quý Ly ở đó, thủa nhỏ ở đó, nên rành địa hình vùng động An Tôn. Ông góp ý, bắt Nguyên Trừng sửa chữa nhiều lần, cuối cùng tạm ưng. Đại thể, đó là một kinh đô quân sự. Quý Ly muốn xây dựng một toà thành khổng lồ, bằng đá, quy mô hùng tráng, to lớn nhất kể từ trước đến nay. Địa thế Tây Đô thực hiểm trở, có sông núi bao quanh. Phía Bắc dựa vào núi Voi, phía Nam có núi Đún che chắn. Phía Tây có dòng sông Mã, phía Đông có núi Hắc Khuyển cùng dòng sông Bái bao bọc.
Tây Đô chia ra làm hai: khu thành nội và khu thành ngoại.
Khu thành nội hình chữ nhật, dài khoảng 2.250 thước ta (900 mét), rộng khoảng 1.760 thước ta (700 mét). Chung quanh có tường thành cao 15 thước ta (6 mét), trên có đường đi rộng khoảng 10 thước ta (4 mét). Tường thành xây bằng những viên đá lớn 2 mét x 1mét x 0,7 mét). Những viên đá quá nặng, phải đắp đất, seo lên mới xây dựng được. Mặt trong thành lèn đất dày như đắp đê. Thành có bốn cửa đều cao to, nhưng to nhất là cửa Nam được gọi cửa Tiền, gồm ba vòm cổng, vòm giữa cao nhất (cao 9,5 mét, rộng 6 mét). Các cánh cổng đều làm bằng gỗ lim phiến dầy, dưới chân có lắp bánh xe bằng đá. Từ cửa nam một con đường lát đá thẳng tắp chạy đến tận chân núi Đún, khá dài (5 ki - lô - mét).
Bao quanh thành nội là khu thành ngoại. Đó là khu dân cư gồm các làng xã, phố phường, nơi mọc lên cả những dinh thự của các quan lại. Phía ngoài thành ngoại đắp một bức thành đất, dưới chân trồng tre dày ken thành luỹ, và ngoài cùng đào một lớp hào sâu như con sông nhỏ vây kín Tây Đô. Từ con sông này lại có lối ăn thông với sông Mã, sông Bái để tiện việc chuyên chở, giao thông cho kinh đô mới.
Kiến tạo một kinh thành vĩ đại đến như thế, đồng thời còn phải xây dựng các cung điện, đài, các trong nội thành thử mà thời gian vẻn vẹn chỉ có ba năm. Thật phi thường. Phải huy động hàng vạn nhân công, hàng vạn thợ giỏi; phải trưng tập hàng ngàn chiếc thuyền, chiếc xe; phải bỏ ra hàng chục kho lương, nhiều kho tiền. Người chết vì lao lực, vì bệnh tật kể tới số vài ngàn. Mất bao nhiêu là máu, nước mắt, mồ hôi? Đứng sững trên con đường đá Đốn Sơn, Nguyên Trừng miên man nghĩ tới những chuyện đó, ông chợt thở dài. Ở xa xa, có tiếng trống thì thùng và tiếng loa vọng lại. Nguyên Trừng lắng tai:
Bàn dân thiên hạ
Hãy nghe cho rõ
Đất nước thái bình
Thái sư lệnh truyền
Mở ngay ngày hội
Cho ngời Minh Đạo
Cho rạng nghĩa nhân
Cho khắp xóm thôn
Vui đời Nghiêu Thuấn...
Từ phía sau Đốn Sơn, ở lưng chừng núi, có một đoàn người Mường đi ra. Họ xếp hàng một. Dẫn đầu là một đoàn con gái váy đen, áo trắng, khăn trắng, tay môi người cầm một chiếc chiêng to nhỏ khác nhau. Các cô vừa đi vừa gõ. Bóng họ in bật trên nền xanh của núi. Tiếng chiêng theo một giai điệu lên bổng xuống trầm nghe rất lạ tai. Những người Mường từ vùng núi cao, nghe vua mở hội ở kinh đô mới, đã xuống núi, vừa dự vui vừa để ngắm một đô thành bỗng dưng lạc tới vùng đất hoang sơ này. Nghe tiếng chiêng của họ, tất cả muôn vật đều như bị thu hút; mọi người đều ngẩng nhìn, lắng nghe; cả đến tiếng trống, tiếng loa cũng đột nhiên im bặt. Tiếng chiêng vang vang trong thung, kéo dài đến tận ngôi thành đá, nó ngân nga như một giọng trầm trầm, thì thầm tâm sự. Tiếng chậm rãi bùng bung, bùng binh, bang bang... như từ chiều sâu thẳm của núi rừng, của thời gian, bị lạc hay bị nhốt hãm từ lâu, nay bỗng xổ lồng bung ra, tràn vào thung lũng. Nó chẳng ồn ào nhưng bỗng làm ta cảm thấy rung động. Đó là tiếng của rừng đại ngàn, tiếng của con suối ngầm rót rách gặp chỗ thoát bỗng ùa ra thành thác; tiếng của những con người trong rừng sâu đêm đêm vây quanh đống lửa, mắt họ ánh lên nôi u buồn của những đêm dài nguyên thuỷ; hay là tiếng của những hồn xưa, của tổ tiên thần linh trở về; cũng có thể đó là tiếng của những con thú bị nhốt trong rừng chập chùng, âm u, tầng tầng lớp lớp, nó phải luồn qua những tầng cây dưới vực thẳm sâu như âm ti, để trườn trên những vách đá cheo leo, cố trồi lên để húp lấy tí ánh sáng hiếm hoi, nó vang vang cất tiếng nhưng gió làm tan loãng, chỉ còn nghe thấy những tiếng u.. u... a...a... Tiếng chiêng buồn nhưng không nức nở, nó tưới đẫm hồn ta, để dần dần thấm sâu vào tận xương tận tuỷ con người, làm ta ớn lạnh.
Nguyên Trừng bứt rứt rời xa tiếng chiêng, cho ngựa bước lộp cộp trên con đường lát đá. Tiếng vó ngựa đẩy lùi tiếng chiêng lại phía sau. Nhưng dù cho ngựa chạy nhanh, dù cho tiếng vó ngựa vang giòn, những thứ đó cũng không thể xua tan tiếng chiêng, nó đeo bám riết ráo sau lưng đến tận toà thành đá.
Chỉ khi đóng sập cánh cửa lim to dầy ở phía sau lưng, Nguyên Trừng mới trút được sự ám ảnh của tiếng chiêng. Tiếng chiêng chỉ còn là một thanh âm mơ hồ, lãng đãng đâu đây trước khi lặng tắt.
Trừng vội vã đến thăm em gái trước tiên. Ông vua tí hon Trần An trong bộ quần áo vàng chóe, đang chơi thơ thẩn ở trước cửa cung điện, thấy Nguyên Trừng, giang tay chạy ùa đến. Nguyên Trừng ôm cháu, bế lên tay. Cậu bé nép đầu vào cổ ông bác. Nó nói nhỏ:
- Bác Trừng ơi? An sợ lắm!
- Nào, nào! Bây giờ cháu là vua rồi. Cháu sợ gì cơ chứ?
- Sợ mẫu hậu khóc.
- Mẹ cháu khóc ư?
- Mẹ khóc cả ngày. Mẹ không cười nữa. Đêm qua, mẫu hậu ôm An, rồi cũng khóc.
Nguyên Trừng lặng im. Chú bé vẫn bi bô:
- An dỗ mẹ, mẹ không nín. Mẹ khóc to hơn.
Rồi ông vua tí hon rón rén, không nói, dẫn ông bác vào trong toà cung điện nguy nga. Thánh Ngẫu ngồi ủ rũ trong chiếc ghế bành trải nệm gấm. Câu hỏi đầu tiên của nàng:
- Có phải huynh vừa từ Yên Sinh về không? Trừng gật đầu. Bà hoàng dồn dập hỏi tiếp:
- Nhà vua... người thế nào?
Trừng như lảng tránh câu hỏi:
- Ông ta đã là một đạo sĩ thật sự?
- Huynh nói thật đi Xin huynh đừng giấu điều gì.
- Sao huynh lại giấu?...
- Em nhìn mắt huynh, sao đôi mắt buồn rười rượi? Và bàn tay nữa? Sao bàn tay lại run run?...
- Em suy nghĩ quá nhiều nên thốt ra những lời mê sảng.
- Sao lại mê sảng? Nhưng, đúng là em mê sảng... Cách đây mươi ngày, đang đêm, bỗng nghe thấy một tiếng động... Mở mắt ra, bỗng thấy một bóng tráng... Đúng là một hồn ma. Hồn ma đứng cúi đầu trước giường, dòng dòng nước mắt... rồi giơ tay ra như muốn xoa mớ tóc của thang An. Môi cái bóng trắng mấp máy như muốn nói mà nói chẳng thành lời... Em choàng dậy... giơ tay ra... thì hồn ma biến mất...
- Em có bệnh rồi. Đúng là một cơn ác mộng mê sảng...
- Không phải mơ đâu... Mấy hôm nay, đêm nào hồn ma cũng hiện về. Em đã nhận ra, đó là hồn Thuận Tôn... Chồng em đã ra sao? Lòng em nóng như lửa đốt. Huynh nói thật đi.
- Thánh Ngẫu? Em đã ốm rồi?
- Tôi không ốm! Tôi cần biết sự thật. Tôi muốn gặp chồng tôi. Thằng An muốn gặp cha nó. Hay là... Phải. Hay là cha chúng ta đã có âm mưu gì?... Hay là cả huynh nữa... các người đã có âm mưu gì?...
Bà hoàng hậu như nổi cơn điên rồ. Nàng đứng lên, mắt long lanh, đôi mắt đau khổ hầu như đã cạn khô nước mắt. Ông vua con chạy tới, nắm lấy tay mẹ.
- Mẫu hậu ơi. Mẹ ơi! An sợ lắm.
Người mẹ cúi xuống, ôm lấy đứa con. Mẹ và con cùng oà lên khóc, dưới con mắt bối rối của Nguyên Trừng. Ông có cảm giác như chính mình đang phạm tội...
***
Điện Minh Đạo hiện ra trước mắt. Nó là bản sao của cung điện Hoạ Lư ở Thăng Long. Hay nói cho đúng hơn, điện Minh Đạo chính là cung Hoa Lư được phát triển đường bệ hơn, nguy nga hơn. Vẫn là kiểu hình chữ tam, nhưng khác với cung Hoạ Lư, toà tiền điện ở đây mới là Chính điện. Toà trung và hậu điện là nơi ở riêng và nơi thờ lại biến thành những kiến trúc phụ. Điện Minh Đạo lấy tên ngay cuốn sách Minh Đạo của thái sư, âu cũng là cách tỏ rõ cái chí. Một điều khác biệt nữa: cung Hoạ Lư chất liệu bằng gỗ, còn điện Minh Đạo chất liệu chủ yếu bằng đá, nhất là toà chính điện. Ở bậc thềm bước lên, ta đã gặp ngay đôi rồng đá to nhất từ trước đến nay. Đôi rồng, mỗi con dài mươi thước, uốn khúc uyển chuyển và hùng dũng như đang bay. Cái tráng khí hào hùng ấy do bàn tay tài ba của phường thợ đá làng Nhồi làm. Quý Ly đã ban thưởng tước cho người thợ cả, điều đó thật hiếm thấy. Hàng cột đỡ hiên là mười chiếc cột đá chạm rồng leo tinh xảo. Đặc biệt nhất là chiếc sập to làm bằng đá phiến nguyên khối đánh bóng lên mới thấy nổi những vân đá đen như rồng, như mây.
Cung Minh Đạo nằm ngay chính tâm toà thành đá Tây Đô. Chính nơi đây sẽ là trung tâm chính trị của đất nước trong những ngày sắp tới.
***
Viên quan cấm vệ to như ông hộ pháp đứng ngay bên cạnh con rồng đá, kính cẩn cúi chào. Nguyên Trừng dừng lại hỏi:
- Cha ta có trong điện không?
Viên lực sĩ thưa:
- Bẩm đức ông. Đại Vương đang ở bên trong.
Toà đại điện rộng mênh mông, với hai bức đại hoành “Nhật nhật tân” và “Vô dật, nãi dật” giống như ở cung Hoa Lư Thăng Long. Kích cỡ của hai bức đại hoành ở đây to rộng hơn. Hầu như nó choán kín cả vùng tường hậu. Mầu vàng óng của hai bức hoành phản chiếu ánh sáng của khoảng hở giữa hai đợt mái chồng lên nhau, ở trên cao dọi xuống, rồi rải khắp toà đại điện, làm cho không gian như mở rộng thêm, nó oai nghiêm và sáng sủa lạ thường. Tuy nhiên, đó là thứ ánh sáng lạnh, có lẽ lạnh vì ở đây chẳng thấy một bóng người. Nguyên Trừng nhìn quanh, rồi rảo bước đến cửa sau, ông hầu như nghe thấy cả tiếng chân của chính mình. Đến toà trung điện, vào phòng ngủ, sang nơi làm việc, lên lầu đọc sách, ở khắp nơi đều không thấy bóng Quý Ly. Sự lặng lẽ vắng bóng người đã kéo lũ chim sẻ đến đậu trên mái ngói. Chỉ nghe thấy tiếng chim rúc rích càng làm tăng thêm sự cô liêu cho khu cung điện nguy nga và bao la. Quý Ly vốn không thích những bóng người qua lại nhộn nhịp trước mắt mình. Tất cả những kẻ giúp việc: thư lại, vệ sĩ, thể nữ, ngự thiện đều phải ở những căn nhà nằm ngoài khu vực. Bên người ông, luôn đeo một quả chuông vàng; khi cần, ông lắc chuông, và một con người cực kỳ tin cẩn sẽ xuất hiện không biết từ đâu. Sau khi nghe lời ông sai bảo, cái bóng tin cẩn ấy biến ngay lập tức mất tăm, để cho sự vắng tanh lặng lẽ lại ngự trị.
Nhìn quang cảnh, Nguyên Trừng hiểu ngay cha mình đang ở đâu. Ông di đến toà hậu điện, nơi thờ cúng bà Huy Ninh công chúa. Thường thường, thái sư chỉ đến đây vào buổi tối, hôm nay ông lại đến vào giữa ban ngày.
Toà hậu điện được thái sư Quý Ly cho xây dựng trước nhất ông muốn khi ông đến ở, thì nơi thờ phụng bà Huy Ninh đã phải đẹp đẽ khang trang. Vì vậy, ở đây cây cối đã xum xuê. Vẫn có hai cây đại mọc trước nhà, hai cây đại non tơ nhưng đã nở hoa trắng xoá. Những bông hoa trắng ngà, những bông ngọc lan nhà Phật nức hương rải thảm lốm đốm trắng trên chiếc sân gạch đỏ au đã chớm rêu xanh. Trước kia, ở cung Hoa Lư, toà hậu điện gồm cả ban thờ Phật và ban thờ bà Huy Ninh. Nhưng, ở cung Minh Đạo, toà hậu điện chỉ riêng thờ bức tượng đá trắng của công chúa.
Nguyên Trừng mới đến giữa sân đã phải đứng sững lại ông trông thấy cha mình đang ngồi xệp dưới chân pho tượng ở gian giữa nhà, pho tượng ở đây được đặt thấp, từ ngoài nhìn vào cứ tưởng như bà Huy Ninh đang thật sự ngồi đó. Bà ngồi trên ghế bên một chiếc bàn sơn son có đặt bát hương nghi ngút khói. Còn Quý Ly, ông như gục vào lòng người vợ hiền hậu. Nhìn từ xa, không cảm giác thấy hai bàn tay trắng ngà đương đấy ra, mà hình như hai bàn tay ấy đương đặt lên mớ tóc bạc của thái sư để chở che, để vuốt ve an ủi. Còn Quý Ly thì... toàn thân đang rung lên. Hoá ra như vậy? Lần đầu tiên, Trừng bắt gặp cha mình đang khóc. Có lẽ ông già đang thì thầm kể lể cho vợ mình nghe những chuyện ông đã làm. Có thể ông đang nói về số phận của bà hoàng Thánh Ngẫu, đứa con gái cưng của ông bà, đứa con gái kiều diễm mà ông bà đã nâng niu như một nhành hoa quý. Cũng có thể là những lời tâm sự về ông vua bé nhỏ Trần An, đứa cháu ngoại run rẩy ngồi trên ngai vàng. Hay dó là những lời biện bạch về số phận của Thuận Tôn, ông vua của vương triều nhà Trần, đã vĩnh viễn bay về tiên cảnh... Hay có khi ông đang hé cho bà biết những điều vừa vĩ đại vừa khủng khiếp đã và đang xảy ra với núi sông...
Nguyên Trừng nhìn chiếc lưng còng của cha mình đang rung lên từng đợt, Trừng chợt nhớ tới vua Thái Tôn Trần Cảnh của nhà Trần ngày xưa. Ông vua uyên bác và nhân từ ấy đã chẳng từng viết bao nhiêu bài kinh sám hối trong cuốn Khoá Hư Lục: sám hối buổi sáng, sám hối ban trưa, cả sám hối khi đêm xuống. Kẻ mở đầu một vương triều bao giờ chẳng thế! Điều khác biệt đó là Trần Thái Tôn viết ra thành văn điều sám hối, còn Quý Ly, cha ông, lại quỳ dưới chân pho tượng trắng... để thổ lộ với một hòn đá vô tri.
Nguyên Trừng lập tức lùi lại, rồi rón rén quay về toà tiền điện. Ông hiểu, dù mình là con, cũng không nên có mặt trong những phút yếu đuối của một con người đầy khát vọng như cha mình.
***
Không lâu sau đó, Hồ Quý Ly đã đến nhà tiền điện. Ông chằm chằm nhìn vào mắt con trai. Lúc này, ông đã là một con người hoàn toàn khác hẳn. Hình như những tia nhìn của ông tỏ ra rằng ông đã biết mọi chuyện. Tia nhìn lạnh băng ấy như quở trách ngầm, Nguyên Trừng vội cúi xuống chào cha. Ông báo cáo tình hình bằng mấy câu nói ngắn gọn:
- Thưa cha, mọi việc cha giao, con đã hoàn thành. Tất cả đều diễn ra như ý định của cha.
Quý Ly gật đầu, rồi ông nhắm mắt lại như để sắp xếp những ý tưởng, trước khi cái giọng trầm trầm của ông cất lên:
- Anh về kịp lúc. Đúng ngày mai, ta cho mở hội mừng tân đô. Dân thèm ngày hội, ta cho ngày hội. Hãy cho người Mường, người Thái... xuống núi mà thi gõ chiêng, đánh trống. Hãy cho những người hát xẩm, những đào nương, những phường chèo đến mà khoe giọng hát. Hãy cho đánh đu, chọi gà, múa rối, đánh vật. Ban đêm cho đốt cây bông, thi đèn cù... Và, cũng có thể cuối cùng mở hội chọi voi cả một ngày ròng... Nói tóm lại, làm mọi cách cho thật tưng bừng trước lúc hội thề.
Ông già chợt cười khẽ:
- Tuy vui, nhưng no bụng vẫn là điều chủ yếu. Anh phải đứng ra thay ta đôn đốc việc mở kho, phát chẩn cho dân nghèo ở những nơi mất mùa. Riêng quanh vùng Đông Đô Thăng Long, và Tây Đô, không cho phép có người dân đói khát. Quan lại những địa phương này nếu không làm tròn trách vụ cần phạt thật nặng.
Bỗng nhiên, đang trò chuyện dân sinh Thái sư lại nhảy ngay sang vấn đề kẻ sĩ:
- Những sĩ phu ở xứ Đông, việc quan trọng tôi dặn anh, nay thế nào?
- Thưa cha, có lẽ khả quan. Con đã bảo phủ, lộ sức xuống các làng xã... đã cho mời các danh sĩ, các nhà khoa bảng... Trên đường đến đây, con nghe ngóng, họ đang lục tục kéo tới Tây Đô.
Thái sư nhắm mắt lại, trầm ngâm một hồi lâu mới lên tiếng:
- Ta đã suy nghĩ rất nhiều. Sang năm, dù thế nào cũng phải mở khoa thi. Nhưng trước mắt, nhân ngày hội, cũng nên mở một cuộc thi làm văn làm phú...
Ông nhắm mắt lại, tiếp tục suy nghĩ rồi mới nói:
Này Nguyên Trừng, con có nhớ Quách Ngỗi người nước Yên thời chiến quốc mua bộ xương con thiên lý mã bằng 500 lạng vàng không?
- Con nhớ. Quách Ngỗi có trả lời khi yên Chiêu Vương tức giận vì nghĩ đã phí vàng: “Ngựa chết còn mua 500 lạng vàng, huống chi ngựa sống”. Dùng ngựa chết để nhử ngựa sống. Dùng một người hiền loại trung để nhử các bậc đại hiền...
- Phải đấy? Chính là cái ý ấy. Vì vậy, nên ta ra đầu đề “Phú con ngựa lá”
- Bài phú về con bọ ngựa ư?
- Vậy sẽ thế này: con hãy viết cho cha một bài bố cáo chữ thật to, ngày mai dán ở lầu Quảng Văn trước cửa thành phía nam; bất cữ già trẻ, không phân biệt sang hèn chức tước, ai làm được bài phú thật hay ta sẽ thưởng trăm lạng bạc. Đích thân ta sẽ làm chánh chủ khảo chấm thi.
Hồ Quý Ly
Chương 3 Đêm thứ ba ngày hội Tây Đô
Đêm thứ ba ngày hội Tây Đô.
Tôi vừa đi dự tiệc trong hoàng cung trở về. Đủ mặt các vị đại thần. Bữa tiệc đầu tiên của triều đình kể từ khi Tây Đô xây dựng xong. Đêm nay cha tôi vui chưa từng có. Tôi như còn thấy gương mặt hớn hở với đôi mắt sáng lóng lánh, và cả cái giọng sang sảng của thân phụ tôi khi ông đọc bài giải nhất cuộc thi phú với đầu đề “Phú con ngựa lá”.
Cha sai tôi viết thông báo để mọi người dự thi ở Quảng Văn Lâu ngoài cửa Tiền. Thực ra, việc làm đó chỉ là nghi thức, bởi vì hầu hết các quan trong triều đã biết chuyện đó, biết đầu đề bài phú, còn biết cả thể lệ cuộc thi ra sao. Nói cuộc thi dành cho tất cả học trò trong nước, nhưng thực ra đó là cuộc thi của các bậc danh sĩ, toàn các bậc đô đạt, tiếng tăm viết bài. Lúc tôi đi công cán ở Yên Tử, cha tôi đã nghĩ ra đầu đề, sao chép ra nhiều bản, gửi đến các ngài khoa bảng và các quan văn trong triều. Cha tôi thật khéo? Như vậy đã buộc các bậc triều thần hay chữ người nào cũng phải viết một bài văn ca tụng Tây Đô. Vả lại, không cứ gì các văn quan mới hay chữ, cả các võ quan cũng thế, tôi nhẩm tính hầu hết các vị tướng trong triều ông nào cũng làm thơ cả; người ta không thích mang tiếng võ biền, ông nào cũng muốn được kể vào hàng văn võ song toàn. Do vậy, một số quan võ cũng nhận đầu đề làm bài phú về con bọ ngựa.
Trong bữa tiệc, cha tôi vui miệng kể cho cả triều đình nghe:
- Khi thượng tướng Khát Chân báo tin mọi công việc xây dựng Tây Đô đều đã hoàn thành tốt đẹp. Tôi rước vua vào kinh đô mới. Kiệu vua đi trên con đường đá thẳng tới cửa Tiền. Gần tới nơi, thấy một đoàn dân chúng già có, trẻ có, bầy hương án và tung hô vạn tuế, phủ phục chào thiên tử. Tôi thay mặt nhà vua ra phủ dụ dân chúng. Một ông già đầu tóc bạc phơ, đại diện các bô lão trong vùng, quỳ xuống dâng lên một chiếc hộp lồng kính. Nhìn vào thấy một con bọ lá có hình dáng giống hệt con ngựa. Không phải là giống bọ ngựa đâu? Khác lắm? Như một con thiên lý mã vậy? Các cụ bảo: đúng lúc kinh đô làm xong, lên Đốn Sơn, thấy hòn đá nứt và thấy trên đó có con bọ lá đẹp đẽ, hiếm hoi, kỳ lạ, liền đánh bạo dâng lên. Tôi đưa cho triều thần mọi người cùng xem. Ai nấy đều trầm trồ, khen là điềm lành. Vì vậy mới nghĩ ra đầu bài: “ - Phú con ngựa lá”.
Nói xong, cha tôi cười khà khà. Đêm nay, cha tôi vui chưa từng có. Còn riêng tôi, vẫn nỗi buồn hôm xưa đeo đẳng. Có phải vì sự chia cách với Thanh Mai? Đêm hôm trước khi chia tay ở Yên Tử. Thanh Mai nói với tôi răng:
- Chàng thật nhiều quyền thế! Nhưng có những điều em muốn, chàng cũng chẳng làm được.
- Nàng muốn gì?
- Ước gì chàng không phải thuộc dòng quyền quý, ước gì chàng chẳng phải một đức ông, ước gì chàng chỉ là người dân thường...
Nhớ lại những lời nói ấy tôi càng buồn thêm. Nó động tới những hố thẳm ngăn cách vô hình mà thực tế đặt ra và con người rất khó vượt qua. Nếu như cuộc tình này chỉ là một cuộc vui chơi thoảng qua, ở địa vị của tôi, người ta vẫn chau mày lại, nhưng còn có thể tha thứ. Nhưng thử hỏi, nếu coi nó là việc nghiêm túc, sẽ ra sao... Tự nhiên, tôi thấy bồn chồn... Đến kinh đô mới này, sao tôi cứ cảm giác như không phải chính quê hương tôi. Vừng Tây Đô là quê hương của họ Hồ. Mồ mả tổ tiên tôi đều nằm ở đây. Cha tôi xây dựng Tây Đô cũng chính vì người muốn trở về nơi chôn rau cắt rốn, muốn tìm sự ủng hộ, tìm sự tin cậy của những người cùng quê. Chả thế, như tôi đã nói, cha tôi đêm nay hớn hở như con cá chợt tìm thấy nước. Còn tôi, sao lòng lại thấy ưu tư, sao lại cảm thấy xa lạ, sao lại như kẻ bị lưu đày trên chính quê hương của mình? Tôi như kẻ mộng du để cho tâm hồn mình chợt lạc về Thăng Long, lại có lúc phiêu diêu trên đỉnh Yên Tử. Cứ như muốn nhận chính những nơi ấy mới là nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Phải chăng vì ở đấy có những ky niệm êm ả, vì ở đấy còn có Thanh Mai; còn ở đây người ta có thể tươi cười hể hả, nhưng lúc nào đầu óc cũng sưng tấy lên tìm những thủ đoạn, những âm mưu.
Kìa! Tôi như còn nhìn thấy rõ mồn một, thái sư Quý Ly và thượng tướng Khát Chân đang ngồi cạnh nhau, nói cười hể hả. Thượng tướng giơ chén rượu lên:
- Xin chúc mừng thái sư tuổi già thêm mạnh khỏe. Mấy tháng nay, được thái sư giao cho vào Tây Đô đôn đốc, hoàn thành nốt công việc xây thành, mới thấy ngài liệu việc như thần. Còn bận bao nhiêu việc triều chính đại sự ở Thăng Long, ngồi ở xa, không bước chân vào thực địa, thế mà ngài vẫn nắm rất chắc mọi công việc nơi đây. Cứ cảm thấy như ngài có thiên lý nhãn, ngoài nghìn dặm vẫn nhìn thấy hết tỉ mỉ mọi tình hình diễn biến ở Tây Đô.
- Xin cảm ơn lời khen và chúc tụng của thượng tướng. Về phần tôi, cũng rất hài lòng vì những công việc cuối cùng của thượng tướng làm cho Tây Đô thêm đẹp và đường bệ, vững chãi. Riêng công việc lát đá từ cửa Tiền đến núi Đún, đường quá dài mà chỉ làm trong vòng một tuần trăng. Nhân dân bảo ngài là người thần mới làm nhanh được thế. Còn tôi, tôi thấy chỉ có ngài, một vị tướng giỏi, mới làm nhanh được thế. Đúng như một trận đánh tốc chiến tốc thắng...
Hai người thực bụng hay giả bộ? Có thể họ thực bụng. Hàng năm nay, tình hình ở triều đình yên ắng. Chẳng có chuyện nào to tát xảy ra. Hầu như những âm mưu chống đối, những lời đả kích cha tôi đã xẹp xuống. Phe chống đối đã nản lòng chăng? Khi nhận nhiệm vụ đi hoàn thiện nốt Tây Đô, tướng Khát Chân thực sự đã làm việc hết mình. Kết quả rất xuất sắc. Việc xây con đường đá cửa Tiền như một huyền thoại. Đến nỗi dân gian bảo thượng tướng có bùa phép. Tối hôm trước, căng giây, trải giấy phủ mặt đường, rồi hoá phép. Sáng hôm sau, giấy hoá thành đá. Con đường đã trải xong.
Cha tôi hể hả, nâng chén mừng các bậc danh sĩ.
Cuộc thi “Phú con ngựa lá” thành công mỹ mãn. Gần một trăm bài văn ca tụng Tây Đô, không một bài chệch hướng. Trước lúc vào tiệc, cha vuốt râu bảo tôi:
- Cha thấy mừng. Không ngờ được như thế này.
- Cha có nghĩ rằng nhiều người viết ra lời ca tụng, nhưng trong bụng vẫn không đồng lòng với cha?
- Nghĩ chứ! Cha đâu có ngờ nghệch! Có ba mức ở đây Mức thấp, viết nhưng bụng vẫn chống đối; Mức trung, viết nhưng lòng vẫn chông chênh; Mức thượng, viết toàn tâm toàn ý. Nhưng điều ta quan tâm ở đây là họ đã viết; đối với kẻ sĩ, lập ngôn là điều tối hệ trọng. Cha chỉ cần họ viết...
Tôi thở dài:
- Con hiểu.
- Ta mừng nhất là đã có bài của Đoàn Xuân Lôi - Sự vui mừng hiện rõ trên mặt cha - Con thử nghĩ xem một người đã viết thiên Phi Minh Đạo, một người có gan không sợ chết chống đối lại cha, thế mà nay lại viết “Phú con ngựa lá” , hơn nữa, bài phú đó lại hay. Có thể, trong lòng ông ta vẫn không thích cha... nhưng chẳng sao.
- Việc này cha phải cảm ơn Nguyễn Phi Khanh. Cha biết - Phi Khanh là người thức thời.. Nhưng sự đời rối rắm lắm... Có thể, cả Phi Khanh cũng có nhiều điểm chẳng bằng lòng cha. Nhưng cha trọng nhất ở chỗ ông ta dám gánh vác... đảm đương.
Tôi nói:
- Con đã gặp công tử Nguyễn Trãi, trưởng nam của Phi Khanh.
- Người thiếu niên đó ra sao?
- Cậu ta nói với Phi Khanh: “Cha hãy cứ ra gánh vác người đi mở đường bao giờ cũng khó khăn” Chả trách! bài phú của Phi Khanh là bài văn hay nhất cuộc thi.”
Tuy cha tôi khen nhất Phi Khanh, nhưng trong bữa tiệc, bài được đọc trước tiên lại là của Đoàn Xuân Lôi. Nguyễn Cẩn tốt giọng, được cử đứng lên đọc. Giọng ông sang sang:
Kìa tạo hoá sinh ra muôn vật, phú cho hình lớn nhỏ khác nhau. Kìa là sâu hay là lá khôn phân, là động vật hay thực vật khó bề biết được. Con ngựa ở trên lá nọ, do giả hợp mà thành; úp lá xuồng thì lưng thành loài có vằn có sông; ngửa lá lên thì bụng màu lục không héo không khô. Hai sừng nhọn như ngọc, tựa hai lá vông làm đồ chơi; Bốn móng sáng như sương, tựa chạm gỗ chử làm hình mẫu. Thân đủ mà nhỏ con; cao đầu mà rộng ngực. Náu hình không phân biệt cành kết hay hoa phô. Hình nhỏ nên nhìn khó thấy, mỏng manh chợt không, chợt có...
Than ôi! Người vốn lâu dài, thời đang thịnh trị. Đã hay giữ được thái hoà lại đáng tụ về muôn phúc. Trời sinh sâu này, há không có ý. Dáng hình con ngựa, tỏ rằng quân tử được xe. Kết lá làm nên, thấy được nhân dân nhờ cậy. Vả chăng: ngựa là rồng vậy, ứng điềm mở đất vô cùng.
Nguyễn Cẩn đọc phú của Đoàn Xuân Lôi đã sang sảng. nhưng sang đến bài của Nguyễn Phi Khanh, giọng ông càng trở nên hùng tráng và phấn khích lạ thường. Hình như Cẩn tìm được sự đồng điệu trong lời văn Phi Khanh. Giọng ông vút lên vang vang trên vòm điện Minh Đạo:
...
Kính xem: tài năng thánh trí, khó kẻ luận bàn. Lại trộm nghĩ: suy xét lòng trời, dõi tìm nhân sự. Ví bằng sinh sâu thiêng lạ trên cây, sao bằng sản kẻ sĩ cao thượng, người kỳ tài trong thiên hạ.
...
Thế nên, đối với vật thiêng lạ cũng đã yêu thương, huống chi đối với loài xảo diệu còn hơn và cực kỳ thiêng lạ! Xin hãy đổi lòng yêu vật thành lòng trọng người hiền; đem chí đãi vật thành chí đãi kẻ sĩ.
...
Quán đãi hiền, ngựa hay mua được, vàng không sợ phí. Màn tiếp khách, Ôn họ mời về, Thạch kia vừa ý .
Khiến cho chốn triều đình, tượng vẽ được tìm, vùng rừng rú rồng nằm phấn khởi. Được như thế thì phô trương điều lành, ngợi ca đức tốt, há chẳng lớn lao rực rỡ lắm sao
Văn của Đoàn Xuân Lôi chúc tụng Tây Đô như gấm phô rực rỡ. Ý tứ của Nguyễn Phi Khanh thì sâu sắc thiết tha, biến chuyện con ngựa lá thành chuyện người hiền tài, khiến cho kẻ dự tiệc ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Kìa những khuôn mặt, người thì rạng rỡ, kẻ thì phân vân, lại có người bầm gan tím ruột nhưng vẫn nở nụ cười trên đôi môi tê dại. Hôm nay, cha tôi vui. Còn tôi, tôi muốn uống cho đến quay cuồng trời đất. Tôi muốn sao cho đầu óc trống rỗng. Chẳng muốn nghĩ gì. Phường nhạc nổi sáo, nổi đàn. Có cô cung nữ đang hát khúc Phượng hoàng yêu dấu của tôi:
Phượng hoàng hề.!
Phượng hoàng hề bay vút trời cao!
Người xưa mây cũ nay ở nơi nao..
Tôi dùng bàn bay gõ nhịp và khe khẽ hát theo. Đêm hôm nay, tôi mơ thấy Thanh Mai về trong giấc mộng. Tôi mơ thấy nàng cưỡi con voi trắng, đi trên con đường đá Đốn Sơn, tiến vào cửa thành. Không hiểu sao, tôi lại kêu lên:
- Thanh Mai! Em hãy bay đi? Bay đi! Chớ có về đây! Chớ có về đây!
Và nàng cưỡi con ngựa trắng bay lên đỉnh núi.
Hồ Quý Ly
Chương 4 Cho đến ngày thứ tư của lễ hội
Cho đến ngày thứ tư của lễ hội, tất cả vẫn diễn ra mĩ mãn. Bề ngoài phẳng lặng, nhưng thực ra bên trong thì sao? Những thám tử của ty Liêm phóng trà trộn vào đám dân xem hội nghe ngóng động tĩnh. Hơi có chuyện lạ Nguyễn Cẩn đã biết ngay. Hầu như chẳng có chuyện gì xảy ra. Sau khi vua Thuận Tôn chết ở núi Đạm Thuỷ, mặc dầu tin tức đưa về là vua ốm mà chết, nhưng liệu người ta có tin không? Hồi vua Nghệ Tôn chết, chẳng có mờ ám gì mà lời đồn đại vẫn xôn xao, và sự phản ứng đã dẫn đến đổ máu. Còn bây giờ, vua cũ đi tu, lại chết ở một vùng hẻo lánh, cái chết ấy há chẳng đáng suy nghĩ? Trong khi đó, vua kế vị ngồi trên ngai vàng thì sao? Một chú bé vắt mũi chưa sạch! Quyền lực rơi hết vào tay thái sư. Tại sao tình hình đến như vậy mà tất cả vẫn im lìm? Phải chăng những người đối địch đã nản lòng? Phải chăng gió đã đổi chiều thuận lợi? Những kẻ phản đối cứng đầu nhất đã lặng lẽ, ắt những người lưng chừng phải như ngọn cỏ nép đầu xuôi theo chiều gió. Cuộc thi “phú con ngựa lá” đã chẳng minh chứng điều đó rồi sao?
Hôm trước, thượng tướng Khát Chân dẫn tôi lên Đốn Sơn xem đàn thề. Đàn này khác đàn thề ở đền Đồng Cổ, Thăng Long. Ở Đồng Cổ, đàn thề giản dị, chỉ là chiếc đàn cao xây hình vuông, hai bên xây bậc lên xuống, để vua và thái sư ngự trên đó. Còn trăm quan ở dưới đàn, khi đến lượt ăn thề sẽ trèo lên, xong rồi đi xuống. Còn ở đỉnh núi Đún, đàn xây theo một quy củ rất phức tạp. Có cổng tam quan dẫn vào đàn. Ở đây cổng chính giữa dành cho các thần linh qua lại, đến vua cũng phải đi cổng bên. Đàn xây bằng gạch có bốn tầng cao dần lên. Ba tầng dưới hình vuông, tầng thứ tư hình tròn.
Tôi hỏi vị lão tướng:
- Dưới là phương đàn, trên là viên đàn...
Khát Chân cười:
- Ông rất tinh ý. Chính thái sư tự tay vẽ kiểu cho tôi làm, khi ông ra Hải Đông. Thái sư bảo các bậc tiên vương (nhà Trần) sùng đạo Phật nên làm đàn không đúng quy củ. Năm nay tuy là hội thề giống hội thề Đồng Cổ, nhưng ba năm nữa sẽ là hội tế lễ trời đất, vì vậy phải làm đàn tròn, đàn vuông.
- Đàn giao - Tôi nói.
- Đúng - vị lão tướng nói bằng giọng cảm khái - Đổi thay, đó là tất cả ý muốn của thái sư. Ông muốn thay đổi ngay cả những việc nhỏ nhất. Kinh đô mới, nhưng ông còn muốn một kinh đô sạch sẽ, khác hẳn cố đô Thăng Long...
- Sạch sẽ?
- Nghĩa là một kinh đô không có chùa chiền. Nghĩa là một kinh đô không có trộm cướp. Người dân đến lập nghiệp ở đây cũng phải chọn lựa, ưu tiên cho người bản địa, những người được tin cậy, được đảm bảo. Cấm binh do Hồ Tùng chỉ huy và tuyển chọn. Những cấm binh ngày trước đều bị đổi đi ngoại trấn.
Trần Khát Chân nói bằng cái giọng lạnh băng, vô cảm, nhưng nhìn đôi mắt ông, tôi thấy một nỗi buồn không chịu được. Thật khó cho ông, mà cũng khó cho tôi Mặc dù những cảm tình riêng của chúng tôi với nhau, nhưng hoàn cảnh đã buộc cả hai người không thể phát triển những tình cảm ấy lên cao hơn, đồng thời cũng không cho phép chúng tôi trở thành những kẻ thù đối đầu
Lúc chia tay ở Yên Tử, Thanh Mai có nhờ tôi chuyển cho Khát Chân một lá thư. Tôi lảng tránh những câu chuyện làm cho hai người khó xử bằng cách trao cho thượng tướng lá thư ấy. Viên lão tướng đọc lá thư đến hai lượt. Đọc xong, tôi thấy mày ông nhíu lại. Tôi dè dặt nói:
- Thanh Mai vẫn mạnh khỏe. Cô ấy chỉ hẹn ngày về Tây Đô... Cô ấy xa cha nuôi đã được vài tuần trăng... vị lão tướng im lặng ngẫm nghĩ một lúc lâu rồi mới thở dài:
- Thực ra, nó cứ ở Yên Tử một thời gian nữa có lẽ... tốt hơn... cho sức khỏe của nó. Con bé vốn cả nghĩ; trước khi đi Yên Tử, nó mắc chứng mất ngủ... Đến đất Phật, đến xứ tịnh thổ... điều đó có lợi cho nó... Sao lại hấp tấp trở về Tây Đô làm gì? Nơi đây, đất phồn hoa, là trường chính sự... đâu có hợp với một người... như Thanh Mai...
Có một cái gì rất lạ lùng trong giọng nói của viên võ tướng mà tôi không xác định nổi. Tại sao Khát Chân lại không muốn nàng trở về lúc này? Tôi đặt câu hỏi, nhưng chính trong thâm tâm, tôi cũng nghĩ nàng không nên về đây. Có một cái gì đó gờn gợn trong không khí nơi này. Lúc dừng ngựa ở chân Đốn Sơn, tôi đã cảm thấy điều đó. Nhưng đến khi vị lão tướng kể ra: nào việc Hồ Tùng nắm cấm vệ quân, nào chuyện người dân đến đây cũng phải chọn lựa kỹ càng, rồi nhất là trong bữa tiệc mừng Tây Đô và đọc “Phú con ngựa lá” bữa tối, thì một cảm giác ong ong ngột ngạt bỗng xuất hiện trong tôi, càng lúc càng rõ.
Sự tất bật của Nguyễn Cẩn càng làm tôi thêm bồn chồn. Khi gặp cha tôi, Cẩn bối rối nói:
- Tại sao lại im ắng thế này? Thưa thái sư, sự quá im ắng làm lòng hạ quan không yên.
Người của ta ở nhà thượng tướng quân có báo tin gì về không?
- Dạ, Trần Khát Chân vẫn im lìm không có thái độ lạ ông ta cũng chẳng gặp ai.
- Còn Trần Nguyên Hàng?
- Dạ, quan Thái bảo cũng thế.
- Còn những người khác?
- Thưa cũng thế.
- Dân chúng thì sao?
- Dân chúng hồ hởi vì được nhận phát chẩn, lại được vui chơi thoả thích...
- Có đông người lạ không?
- Dạ, người tứ xứ đến khá đông...
- Có tin đồn đại gì không?
- Có tin đồn Nguyễn Nhữ Cái, tên làm bạc giả, tên giặc cỏ ở Đà Giang cũng có mặt ở Tây Đô, tôi đã cho ráo riết tìm kiếm, nhưng chưa thấy.
- Người tứ xứ, đó là điều cần chú tâm. Không để bất cứ chuyện gì xẩy ra, đó là việc quan trọng hàng đầu. Hình như đêm qua, lúc ở điện Minh Đạo đang đọc “Phú con ngựa lá”, người ta đã bắt được một kẻ du thủ du thực say rượu. Lúc say, hắn ba hoa rằng đã từ Đà Giang đến, Nguyễn Cẩn rất khôn ngoan, không cho bắt, mà chỉ phái người theo dõi.
Tôi còn mải say, mải mơ thấy nàng Thanh Mai cưỡi con ngựa tràng bay lên núi Đún nên chỉ nghe được lõm bõm. Cho đến khi, trong mơ, tôi hét lên:
- Thanh Mai? Em hãy bay đi? Chớ có đến đây!...
Tôi choàng tỉnh dậy, vã mồ hôi như tắm. Rồi uống ừng ực để tưới mát tâm hồn cồn cào như lửa đốt. Cơn sốt, cơn mê sảng chỉ lui chốc lát lại trở về ngay. Đúng ngày hội Đốn Sơn hôm thứ tư, tôi sốt li bì.
Đáng lẽ, theo chương trình, sáng hôm sau tôi phải tuyên đọc lệnh đại xá cho tù, sau đó phải đến dự cuộc phát chẩn cho người nghèo ở cửa Đông; cuối cùng lại phải đi cùng với cha đến dự tiệc tại nhà thượng tướng Trần Khát Chân, rồi tiếp tục lên núi Đún kiểm tra mọi công việc ở đàn thề, bởi vì ngày mai là ngày hội chính. Công việc hôm nay cực kỳ quan trọng. Nếu chuẩn bị được chu tất, ắt ngày hội chính sẽ thành công tốt đẹp.
Mà theo ý cha tôi, hội thề này nhất định phải hoàn hảo. Lễ ăn thề tiếng do Trần An chủ trì, nhưng sự thực cha mới là nhân vật chính. Thái sư muốn việc mở đầu ngày hội phải thành công tưng bừng, để dương cao thanh thế, để lấy lòng muôn dân... Những người thân cận của cha tôi bận rộn tít mù. Hồ Hán Thương được giao việc chuẩn bị nghi lễ sao cho thật long trọng, bọn Đỗ Tử Mãn, Hồ Tùng, Hồ Vấn lo việc quân cơ; Nguyễn Cẩn lo việc an toàn... Tất cả bọn họ ngày đêm không nghỉ.
Riêng tôi lại trơ trơ nằm đấy, sốt nóng như hòn than, đầu óc hoang tưởng lạc vào những cơn ác mộng. Tôi nằm đấy, nhưng tai vẫn nghe thấy những bước chân, những tiếng thì thầm. Không hiểu bộ óc ốm đau của tôi có tưởng tượng ra không, nhưng tôi cảm thấy một bóng ma vô hình đang lù lù đi tới. Bước chân của nó rón rén, nhưng đánh lừa sao nổi đôi tai thính nhậy của toi. Ô kìa! Không phải một bước chân mà vô số bước chân. Không phải một cái bóng mà vô vàn cái bóng... Ai đấy? Cẩn đây. Hán Thương đây! Có cả quan thượng tướng, quan Thái bảo. Có cả những lực sĩ cám vệ của Hồ Tùng. Đã xảy ra sự gì hệ trọng? Sao tất cả các người đều đến mà dương oai diễu võ, rồi diễu hành trong óc ta. Cả Thanh Mai cưỡi con ngựa trắng cũng chập chờn trong tâm tưởng. Đuổi theo mãi, gọi theo mãi mà không được. Hình như người đàn bà cưỡi con ngựa trắng bị một phép lạ vô hình nào đó làm cho không nghe thấy. Nàng vẫn chập chờn như một đám mây trôi đi trôi lại. Cái bóng trắng như thể tìm ai. Tôi hét lên gọi thật to nhưng cái bóng trắng vẫn ngơ ngơ ngác ngác. Lúc này tôi. mới hiểu: hoá ra tiếng nói của tôi là vô hình. Dù tôi có gào lên, hét lên, muốn tự vỡ tung ra thành tiếng nổ, thì cũng chẳng ai có thể nghe thấy. Không nghe thấy, vậy tôi phải đuổi theo. Tôi muốn đến bên Thanh Mai, ôm lấy nàng, để cản nàng lại để báo cho nàng biết có một điều gì nghiêm trọng lắm sắp xảy ra. Thậm chí, tôi có thể quỳ trước ngựa nàng để van xin nàng chớ đặt chân lên mảnh đất này. Hôm qua, lúc thượng tướng Khát Chân nói ra điều ấy thực ra tôi còn bán tín bán nghi. Đến hôm nay, trong lò lửa của cơn sốt kỳ quái, tôi hoàn toàn cảm nhận được điều đó là sự thực. Tôi muốn đến với nàng nhưng chân tôi không đi được, có một bàn tay nào đó giữ cứng tôi lại. Lúc này, định thần nhìn kỹ, mới thấy một cái bóng đương ôm chặt lấy tôi. Cái bóng đen thui, trơn tuột. Nó há mồm rộng hoác, răng trắng nhởn, chẳng biết nó cười hay đang hăm doạ. Tôi hỏi: “Ngươi là ai? Sao lại cướp đi tiếng nói không cho ta gọi nàng? Sao lại ngăn cản không cho ta đến báo cho nàng biết đất này đang là đất dữ? Ngươi là ác hay là thiện? Hay, ngươi là sự tan hoà của mọi cái bóng? Mà ngươi có biết không, nàng là sự trắng trong đã bị khổ đau dày vò từ tấm bé...” Tôi nói để mà nói thôi, vì đã là bóng thì làm sao có nổi từ tâm. Tôi hết sức giãy giụa. Và mặc dù vô thanh, tôi vẫn cố sức hét: “Thanh Mai. Hãy bay đi! Hãy bay đi?”. Cái bóng siết chặt lấy cổ, làm tôi hầu như tắc thở. Cứ tưởng như mình sắp chết. Chính lúc đó, vang lên những tiếng ồn ào... Thế là tôi choàng tỉnh dậy.
Ngoài sân, có tiếng bọn lính chạy tới tấp. Nghe cả tiếng lao xao: “May mắn? Thế là phá tan được đảng nghịch!”
Đảng nghịch nào đây? Cơn sốt đột nhiên tan biến ngay mất từ lúc nào chẳng rõ. Tôi ngồi dậy, bước chân còn chệnh choạng, đi ra cửa. Một viên đô tướng vội vã báo cho tôi biết thượng tướng Trần Khát Chân định dùng thích khách mưu sát thái sư Hồ Quý Ly. Cuộc mưu sát không thành. Thái sư không hề hấn gì. Toàn bộ đảng nghịch đã bị bắt. Nói với tôi xong, viên đô tướng vội vã triệu tập binh mã đi làm nhiệm vụ cấp bách.
Cuộc mưu sát Đốn Sơn thất bại, làm rung rinh triều đình Đại Việt thời bấy giờ, sau này được chính sử chép lại vẻn vẹn chỉ có vài dòng:
Bọn thượng tướng quân Trần Khát Chân và Thái bảo Trần Nguyên Hàng mưu giết Quý Ly không được. Ngày hôm ấy Quý Ly họp thề ở Đôn Sơn Bọn Khát Chân đã có ý giết Quý Ly. Quý Ly lên lầu nhà Khát Chân để xem. Phạm Tổ Thu là cháu gọi tướng quân Phạm Khả Vĩnh là chú Bác và thích khách cầm gươm định tiến lên lầu. Khát Chân trừng mắt ngăn lại. Quý Ly chột dạ đứng dậy. Vệ sĩ ủng hộ xuống lầu. Ngưu Tất quăng gươm xuống đất nói: “Cả lũ chết rồi”? Việc tiết lộ, các tôn thất Trần Nguyên Hàng, Trần Nhật Đôn, các tướng quân Khát Chân và Khả Vĩnh, hành khiển Hà Đức Lân, thượng thư Lương Nguyên Bưu và tất cả liêu thuộc, thân thuộc cộng hơn 370 người bị giết...
Tịch thu gia sản, con gái bắt làm tì, con trai từ một tuổi trở lên hoặc chôn sông, hoặc dìm nước, lùng bắt dư đảng mấy năm không thôi. Người quen biết nhau chỉ nhìn bằng mắt không dám nói chuyện với nhau. Nhà dân không chứa người đi đường ngủ đỗ. Các xã đặt điếm tuần đêm ngày canh phòng xét hỏi.
Lễ minh thệ từ đây bỏ không làm nữa.
(Đại Việt sử ký toàn thư (tập II)
nhà xuất bản Khoa học xã hội 1967,
trang 207 - 208).
Còn Nguyễn Cẩn, cánh tay đắc lực của cha tôi nói với tôi rằng cuộc mưu sát này đã được chuẩn bị từ lâu. Phe đối nghịch gồm hầu hết các vị đại thần trong triều đã suy tính kỹ càng. Trước tiên, họ giả vờ thần phục, chính vì vậy luôn mấy năm liền không có một vụ chống đối nào đáng kể xảy ra. Nhiều người còn tỏ ra năng nổ với những công việc của cha tôi, như Lương Nguyên Bưu, Trần Khát Chân góp phần rất đắc lực vào xây dựng Tây Đô. Thậm chí, có người còn làm như đứng hẳn về với thái sư, như thượng tướng quân Phạm Khả Vĩnh đã nhận nhiệm vụ đến núi Đạm Thuỷ Đông Triều để bức tử Thuận Tôn.
Có lẽ phe đảng của cha tôi lúc này đã yên tâm, nghĩ rằng đã thật sự hết mầm chống đối. Có phần nào lơ là, có phần nào hớn hở rồi chăng? Lễ ăn mừng Tây Đô hoàn thành, cuộc thi “Phú con ngựa lá” thành công mĩ mãn, bữa tiệc vui ở điện Minh Đạo... phải chăng là biểu hiện.
Nhưng cha tôi vốn cẩn thận. Ông đã thay hết những tướng chỉ huy cấm binh. Ở Tây Đô từ tướng cho đến quân đều là người thân tín của cha. Còn những đạo quân trung thành với Khát Chân và Khả Vĩnh đều bị lưu lại ở Thăng Long. Bị bẻ nanh vuốt như vậy, hỏi Khát Chân dù có ý định cũng lấy đâu ra người mà cựa quậy.
Có lẽ Khát Chân, nhận thấy cha tôi đã thoát ra khỏi Thăng Long, thoát khỏi vùng ảnh hưởng của nhà Trần, tuột ra khỏi sự khống chế quân sự của mình. Bây giờ, cha tôi không còn ở thế cô lập nữa, mà ngược lại chính phe Khát Chân đang dần lâm vào thế bị bao vây. Chính vì vậy, cuộc mưu sát được gấp rút tiến hành. Khát Chân nói với bộ hạ:
- Lúc này, Quý Ly đang ngây ngất vì tất cả đều suôn sẻ. Vả lại ông ta mới đặt chân đến đây. Tất cả đều còn chệch choạc. Không thể để yên cho ông ta củng cố lực lượng khoa trương thanh thế.
Nhưng ngoài những võ sĩ thích khách, còn cần phải có lực lượng nữa chứ. Ở đây, quân quyền đều nằm trong tay thái sư. Người của Khát Chân bèn liên hệ với Nguyễn Nhũ Cái. Người này làm tiền giả và dấy binh ở lộ Đà Giang. Nhũ Cái giưng cao lá cờ ủng hộ nhà Trần, trừ bỏ Quý Ly lộng quyền. Nhũ Cái đem hai trăm quân tinh nhuệ, giả trang là dân thường đến Tây Đô dự hội thề. Vụ liên kết giữa phái phục Trần và Nhũ Cái kín như bưng. Đám thám tử chẳng có một chút tin tức gì đa báo cho Nguyễn Cẩn cả.
Tất cả đều yên ắng. Khát Chân chuẩn bị cuộc mưu sát Quý Ly rất tỉ mỉ. Việc mưu giết thái sư sẽ được tiến hành trong nhà thượng tướng, khi Quý Ly đến để soát xét công việc và lên lầu cao ngắm nhìn dân chúng dự hội, ở ngoài dinh thự, Khát Chân bố trí hai vành đai nghĩa sĩ, một vòng từ xa và một vòng gần nhà, phòng khi lực lượng quân lính của thải sư tiến tới. Đám nghĩa quân này do Nhũ Cái chỉ huy. Ở trong nhà bố trí những gia nhân tin cẩn ở những nơi trọng yếu. Thích khách là Phạm Tổ Thu và Phạm Ngưu Tất, hai nghĩa sĩ võ nghệ cao cường... Không may cho phe phục Trần! Một nghĩa quân của Nhũ Cái say rượu đã lộ ra là người từ Đà Giang tới. Thám tử được Nguyễn Cẩn ra lệnh bám theo. Người nghĩa quân không hay biết, cứ thản nhiên trở về nhà trọ cùng đồng đảng. Từ một người, phát hiện ra năm người khác; rồi từ năm người ấy, Cẩn đã lần theo dấu vết, và thấy tất cả đều hướng tới dinh thự của Trần Khát Chân. Cũng từ đó Cẩn đã phán đoán ra được âm mưu. Cẩn trinh báo tình hình cho Thái sư. Cha tôi bảo:
- Nếu tất cả đầu mối đều dẫn tới nhà thượng tướng, phen này ta sẽ đụng phải một âm mưu cực kỳ to lớn. Nhưng cũng có thể không có chuyện gì. Như vậy cũng rất có lợi vì qua chuyện này đen trắng sẽ rõ ràng. Một người như Khát Chân ta rất cần.
- Bẩm thái sư, kiệu hôm nay người có nên tới nhà thượng tướng như kế hoạch không? Việc này rất nguy hiểm.
- Đến chứ. Nếu phen này họ manh tâm thật sự thì mẻ lưới sẽ to đấy. Vả chăng... ta cũng muốn... một lần... cho xong, để còn lo chuyện khác. Chỉ cốt các ngươi phải bố trí cho thật chặt chẽ.
Sáng hôm ấy, thái sư ngồi kiệu, rủ rèm che, tiền hô hậu ủng, đi tới nhà thượng tướng. Kiệu qua cổng lớn đến đậu ngay trước nhà khách. Nhà khách của Khát Chân thiết kế khá đẹp. Thềm cao. Nhà chín gian. Ba gian chính giữa có lầu son bên trên, lầu son nhìn thẳng ra đường lớn. Thượng tướng gọi tên là Phượng lâu vì trên nóc đắp hình đôi phượng múa. Thềm cao, lầu cao, nhà lại nằm ở dốc chân núi, nên từ đó có thể nhìn bao quát khắp cảnh Đốn Sơn. Theo kế hoạch, thái sư sẽ ngồi trên Phượng lâu để ngắm hội. Nhưng khi hạ kiệu ở sân, rèm kiệu vẫn im lìm không vén lên. Thái sư chưa bước xuống; bốn vệ sĩ vẫn như bốn pho tượng hộ pháp đứng yên ở bốn góc.
Thượng tướng quân từ nhà khách tiến ra thềm đón thái sư. Bỗng có tiếng sang sảng từ trong kiệu truyền:
- Quan thượng tướng cứ yên vị. Lệnh cho cấm binh vào soát xét kỹ lưỡng trên lầu, dưới nhà trước đã.
Đội cấm vệ của Hồ Tùng từ đằng sau kiệu nhanh nhẹn sộc vào nhà khách, trong khi đó bốn vệ sĩ đặt tay vào đốc kiếm và hai người tiến lên đứng hai bên Khát Chân. Hỏng rồi! - Khát Chân thầm nghĩ - Chuyện đã bại lộ rồi. Những cấm binh xộc lên lầu, gạt những tấm rèm che và phát hiện Phạm Tổ Thu, Phạm Ngưu Tất nấp bên trong, tay kiếm đã sẵn sàng. Nguyễn Cẩn lập tức thò đầu ra cửa lầu hét lớn:
- Có âm mưu hành thích!
Trên lầu xảy ra cuộc ác chiến. Ngưu Tất, Tổ Thu liều mạng xông xuống dưới nhà. Nhưng ở phía dưới hai lực sĩ đã bắt gọn Trần Khát Chân. Cùng lúc ấy, ở ngoài dinh thự, cấm binh và những nghĩa sĩ cũng hỗn chiến.
Cuộc chiến giữa cấm binh và phe bạo động đã diễn ra không cân sức. Cấm binh đã được chuẩn bị sẵn, ùn ùn kéo tới. Nghĩa quân rút chạy. Cũng may Nhũ Cái là người lo xa, đã chuẩn bị sẵn thuyền bè và ngựa, nên quá nửa đã trốn được vào rừng.
Thực ra, cha tôi đâu có phải là người phiêu lưu mạo hiểm vô ích. Ông nói trước mặt mọi người rằng ông đích thân sẽ tới Phượng lâu. Thực ra. Ông là người luôn lo tới sự dụng gián, nên người ngồi trong kiệu là người đóng giả cha tôi.
Trần Khát Chân được giải ngay đến gặp thái sư.
- Khát Chân! Từ mấy năm nay tôi vẫn chờ đợi ông. Nhưng tôi vẫn mong gặp ông ở một tư thế khác hiện nay.
- Biết làm sao được? Tôi không bao giờ thay đổi được. Hai người chúng ta hoàn toàn khác nhau.
- Ông là người anh hùng... nhưng cố chấp.. Thôi thì cũng đành... Tôi không thể tha cho ông được...
- Tôi hiểu... Còn ông cũng là người tài trí... nhưng tôi nghĩ cuối cùng ông... sẽ cũng như tôi.
- Cũng như ông?
- Nghĩa là... Ông đã xây được ngôi thành đá vĩ đại, nhưng đã không xây được thành đá trong lòng người.
Ngay sau khi Khát Chân bị bắt, Tây Đô ở trong tình trạng báo động. Toàn kinh đô, nội bất xuất ngoại bất nhập; không ai được phép vào ra kể từ con sông đào bao quanh khu dân cư. Toàn bộ các gia đình bị khám xét bất kể nhà quan hay nhà dân. Ai chống cự bị giết bỏ ngay tức khắc. Người ta bắt đi hàng ngàn người. Tang tóc, khiếp hãi bao trùm lên Tây Đô. Và lẽ dĩ nhiên, hội thề Đốn Sơn bị huỷ bỏ.
Hồ Quý Ly
Chương kết Tôi đứng lặng nhìn cái hòm đen to tướng
Tôi đứng lặng nhìn cái hòm đen to tướng nằm chềnh ềnh ở trước cửa Tiền. Nó được sơn đen bóng nhẫy, được khoá bằng chiếc khoá đồng vàng, to bằng cổ chân. Nó nằm ngay giữa đường, gần cổng giữa, nơi có hai người cấm binh cầm giáo oai nghiêm đứng gác. Người dân đi qua nem nép sợ hãi. Nhiều người chẳng dám nhìn. Thậm chí có người nhắm mắt lại vì sợ sự cám dỗ ma quái của nó. Nếu có kẻ nào táo tợn mà nhìn nó thì cũng vội quay đầu đi ngay, sợ rằng có kẻ đã chứng kiến việc mình nhìn vào nó. Người ta gọi nó là cái hòm tang tóc. Ai biết chuyện gì về đảng nghịch Trần Khát Chân, hãy viết lên giấy rồi bỏ vào đó. Ai biết người nào là thân thuộc, liên thuộc hoặc liên quan đến đảng nghịch còn lẩn trốn cũng tố cáo vào đó. Ai biết các quan lại binh lính ở mọi địa phương nằm trong đảng nghịch vẫn còn lọt lưới cũng bỏ giấy vào đó. Ai phát hiện đúng sẽ được thưởng hậu, nếu việc hệ trọng sẽ được thưởng quan chức. Ai che dấu đảng nghịch sẽ bị chặt đầu. Ai biết mà không tố cáo cũng bị xử tội...
Cái hòm đen chính là sáng kiến của Nguyễn Cẩn. Cẩn nói với cha tôi:
- Không cần như Trần Thủ Độ xưa kia, phải đào hầm, sập bẫy tôn thất nhà Lý, mới làm lòng người quên nhà Lý. Thái sư trừ ở đây là trừ đảng nghịch chứ không trừ họ Trần. Ai liên quan đến đảng nghịch quyết không tha. Chỉ cần một cái hòm đen ở Tây Đô và vài cái hòm đen ở Thăng Long, chắc chắn đảng nghịch sẽ tuyệt nọc.
Mọi người đều sợ hãi. chỉ riêng tôi vẫn chằm chằm nhìn nó. Tôi được miễn trừ sợ hãi bởi vì tôi là con của thái sư - Tôi chua chát thầm nghĩ - Chua chát, bởi vì ngay cả ở địa vị như thế, chiếc hòm kỳ quái đó cũng có tha tôi đâu. Nói cho đúng hơn, bản thân tôi nào có lo gì, lo là lo cho số phận của Thanh Mai.
Hôm chia tay ở Yên Tử, nàng hẹn bao giờ an táng cho hoà thượng Vô Trụ xong, sẽ đến Tây Đô tìm tôi. Nàng còn muốn tới đây gặp nghĩa phụ. ơn của thượng tướng Khát Chân Thanh Mai chẳng lúc nào quên. Đối với tướng quân, nàng luôn làm trọn bổn phận của người con thực sự. Ở xa thì thư từ ở gần luôn thăm viếng. Có của ngon vật lạ chẳng bao giờ quên dâng lên. Mấy hôm trước, lòng tôi bồn chồn như lửa đốt cũng chỉ vì Thanh Mai. Hôm xảy ra vụ mưu sát, tôi cho người thân tín cưỡi ngựa chạy nhanh tới Yên Tử để báo cho nàng. Người đi mất hút, chẳng thấy trở về. Có thể khi người báo tin đến nơi, nàng đã lên đường. Rồi còn đường thuỷ, đường bộ, có bao nhiêu sông, bao nhiêu ngả... biết ngả nào mà tìm.
Một lá thư trong chiếc hòm đen tố cáo Thanh Mai là con nuôi thượng tướng và chung sống cùng tôi. Nguyễn Cẩn lúng túng, không dám hỏi tôi và đùn cho Hán Thương việc ấy. Tôi bảo Hán Thương nàng đã đi tu. Đêm hôm ấy, lòng tôi quá bồn chồn, không tài nào ngủ được. Lúc nào trong lòng cũng chỉ hiện lên hình bóng Thanh Mai. Dinh thự của tôi nằm cạnh con sông Đào bao quanh Tây Đô. Tôi buồn rầu bước lên bờ luỹ cao nhìn ra con sông lóng lánh như giát bạc. Nàng bảo sẽ về trên bến trăng rồi lẻn vào khu rừng quế thơm hương, khu rừng quế già chẳng biết có tự bao giờ, mà chỉ tôi mới có quyền chọn lựa để xây dinh thự cho nàng. Khu rừng chờ đợi cô chủ sẽ về mắc võng đánh đàn, nhưng có lẽ chẳng bao giờ khu rừng sẽ được biết mặt nàng. Tôi đứng trên bờ luỹ cao thầm thì gửi lời vào đám mây trắng mà bộ óc của tôi như tưởng trông thấy bóng nàng cưỡi con bạch mã: “Thanh Mai? Bay đi? Nàng hãy bay đi?”
Nhưng sự tưởng tượng mơ mộng ấy cũng chẳng tài nào xoá đi được nỗi lo lắng từ lúc tôi gặp Hán Thương. Tại sao Hán Thương lại hỏi tôi về Thanh Mai? Việc lá thư trong chiếc hòm đen chỉ là cái cớ, bởi vì còn ai lạ gì mối quan hệ giữa Thanh Mai với quan thượng tướng và cả với tôi Có thể còn có một nguyên nhân khác. Hay là...
Nghĩ đến đây tôi chợt giật mình, không muốn nghĩ thêm, nhưng trật tự của sự suy nghĩ vẫn cứ tiếp diễn... Có thể người ta biết sự sâu nặng giữa tôi và nàng, và cách nói này là cách hé mở. Người ta đâu cần ta trả lời những điều mọi người đều đã biết. Chẳng qua chỉ là sự đánh động đầu tiên. Điểm suy diễn cuối cùng. điều hiển nhiên đơn giản đã lồ lộ hiện ra trong óc tôi: Thanh Mai đã bị bắt.
Đêm hôm ấy, tôi mơ thấy nàng trong một giấc mơ khủng khiếp. Thanh Mai chới với gần như chết chìm trong một biển máu. Nàng giơ đôi tay tuyệt vọng về phía tôi và kêu lên: “Chàng cứu em với”.
Hôm sau, tôi đến gặp Nguyễn Cẩn. Ông ta xác nhận Thanh Mai đã bị bắt.
Nàng đi đò dọc, ngược dòng sông Mã đến Tây Đô. Trên đường đi, nàng hỏi thăm tin tức, đã gặp phải ngay một không khí ngột ngạt khó thở. Chẳng ai nói với nàng một điều gì. Người ta chỉ ngạc nhiên nhìn nàng chòng chọc, khi nàng nói đi tới Tây Đô. Và chằng ai nói một lời. Thậm chí, mọi người còn lẩn tránh khỏi nàng như lánh xa một con hủi. Chỉ có một bà già đánh cá lẻ loi trên sông, nhìn trước nhìn sau, không thấy ai, mới thì thầm một câu:
- Đừng đến Tây Đô. Nguy hiểm lắm!
Sau đó, những người phu kéo thuyền lên bờ, ra chợ mới biết. được tin tức. Nhưng tin tức mơ hồ, vì Tây Đô đã bị bao vây, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Sự việc mới xẩy ra nên người ta chỉ biết ở đó triều đình đang có biến. Biến gì? Ai nổi loạn? Ai thắng? Ai thua? Ai cầm đầu? Ai bị bắt? Ai bị giết? Những câu hỏi cụ thể như thế, rất cần cho Thanh Mai, lại không ai biết cả.
Đám phu chèo thuyền nói:
- Chúng tôi chẳng đi thêm nữa. Người ta bảo ở đó loạn to. Hàng trăm người chết. Bà chủ cũng nên quay trở về Thăng Long.
Lòng Thanh Mai bấn lên như mớ chỉ rối. Nguyên Trừng có sao không? Thượng tướng Trần Khát Chân có hề gì không? Nàng có hai người thân lại đứng về hai phe đối nghịch. Tình hình thế này chắc đại biến. Có thể phe của nghĩa phụ đã làm chính biến. Trong cuộc biến này, dù ai thắng, nàng cũng là người đau khổ. Mà họ toàn là những con người trọng yếu, chắc chắn phe thắng thế không thể tha. Thanh Mai nghĩ trắng một đêm rồi quyết định một mình đi tới Tây Đô. Đò, không ai chịu chở; cáng không ai chịu khiêng; Thanh Mai bèn mua một con ngựa thồ và một bộ yên cương, nàng đi ngựa nhằm thẳng hướng Tây Đô. Gần đến kinh đô mới, nàng bị một toán lính giữ lại. Họ dẫn nàng đến gặp quan trên. May mắn, người nàng gặp hôm ấy lại là Nguyễn Cẩn. Cẩn thốt lên kinh ngạc:
- Kìa Thanh Mai? Nàng đến đây làm gì?
Câu hỏi đầu tiên của nàng:
- Đức ông Nguyên Trừng có sao không?
Cẩn lắc đầu. Nàng lại hỏi:
- Nghĩa phụ của tôi có sao không?
Cẩn im lặng hồi lâu rồi nói:
- Ông ấy đã chết.
Thanh Mai rất ngây ngô:
- Nể tình quen biết xưa kia, ông có thể giúp tôi đến thắp một nén nhang cho nghĩa phụ tôi không?
Cẩn lúng túng chẳng biết giải quyết chuyện này ra sao. Cẩn vốn mến tài của nàng từ xưa; Thanh Mai lại là người thân của Nguyên Trừng, người mà Cẩn vừa trọng vừa nể. Cẩn định đến gặp Nguyên Trừng nhưng ông chưa kịp đi Hán Thương đã cho lệnh Nguyễn Cẩn đưa Thanh Mai đến nơi biệt giam.
Nguyễn Cẩn kết thúc câu chuyện kể về Thanh Mai:
- Tôi cũng chẳng biết giúp đức ông bằng cách nào nữa. Ngoài tầm tay của tôi... Bây giờ... đức ông Hán Thương...
Tôi hiểu sự lúng túng của Cẩn, vì đây là chuyện tế nhị. Hán Thương vốn ngầm ganh tị với tôi, vì tôi là con trưởng. Và bây giờ tình thế hầu như đã rõ ràng...
Quyền lực đã hoàn toàn trong tay cha. Vậy, người kế tiếp cha sẽ là ai? Tôi chợt nghĩ: đây là mối đe doạ cho Thanh Mai, nhưng có thể cũng là lối thoát.
Ngay sáng hôm ấy, tôi quyết định đến điện Minh Đạo Viên lực sĩ đô đầu cấm quân đứng cạnh đôi rồng đá lễ phép chào tôi và nói:
- Đức chương hoàng hiện đang ở hậu điện.
Tôi vội vàng qua nhà tiền điện mênh mông, qua cầu đá và nhà trung điện, rồi nhẹ nhàng đi trên sân rêu u tĩnh, nơi hai cây đại trắng nở rộ hoa sau trận mưa đêm. Làm không gian man mác hương ngọt ngào.
Từ hôm xảy ra vụ hành thích trượt, cha tôi hầu như chẳng ra ngoài, suốt ngày giam mình trong nhà hậu điện. Những vụ bắt bớ cha giao cả cho Hán Thương, Nguyễn Cẩn và những người thân tín khác xử lý cụ thể. Hình như cha chỉ quan tâm đến những việc lớn, những nhân vật lớn, những đường hướng quan trọng nhất. Cha cũng ít gặp mọi người, hàng ngày chỉ tiếp Thương và Cẩn. Còn những người khác muốn gặp cũng rất khó.
Tôi nhẹ nhàng đến đứng trước gian thờ pho tượng đá trắng của bà Huy Ninh công chúa. Cha tôi ngồi trên sập, bên cái kỷ, tay chống má, mắt nhắm lại như mải suy nghĩ. Tôi không dám lên tiếng sợ đứt dòng suy nghĩ của người. Một lúc lâu sau cha mở mắt:
- Anh Trừng đấy hả? Cha biết là anh sẽ đến.
Cha tôi chỉ tay vào một chiếc đôn, ra hiệu cho tôi ngồi. Từ cái cửa nách ở đầu hồi, một thị nữ không biết được sai bảo bằng cách nào, đã sẵn sàng pha chè bưng ra, rồi lại nhanh nhẹn biến mất. Từ lúc đến, cho đến khi cha con tôi bắt đầu nói chuyện là im lặng khá lâu.
Cũng vẫn là cha tôi nói trước:
- Cho đến hôm nay đúng là hai mươi ngày... Cho đến hôm nay đã có 215 người bị bắt. Cho đến hôm nay, người bị xử tội chết là 85.
Những con số chính xác của cha càng làm tôi im lặng thêm. Cha tôi nói tiếp:
- Chuyện chính sự mà... Tất phải thế thôi... Biết sao được Điều chính yếu là cái ung nhọt bùng nhùng hàng chục năm nay đã được cắt bỏ... Đau đấy... nhưng cần thiết... Ta chờ đợi họ thay đổi đã lâu quá rồi... Dù sao cũng tránh được một cuộc đại tương tàn... nếu nó xảy ra sẽ có bao nhiêu người chết; gấp bội bây giờ. Nào tôi có muốn đâu... Bà nhớ chứ, chính Nghệ Tôn đã kể cho bà nghe chuyện ngày xưa, ông Trần Thừa... Ông Trần Tự Khánh... Ông Trần Thủ Độ dấy nghiệp nhà Trần. Phải hàng chục năm chiến tranh nồi da nấu thịt. Nào Nguyễn Nộn, nào Đoàn Thượng cầm quân chống lại. Có khi phải mất chục vạn người phơi thây, nhà Trần mới dựng xong cơ nghiệp... Thế mà, nay tôi chỉ giết có vài trăm người... Tôi đã đến đây ở với bà mấy chục ngày... Nỡ nào đêm qua bà còn về trong mộng để trách cứ tôi...
Hoá ra, cha tôi vẫn còn trong một cơn mơ, mơ giữa ban ngày, cha nói chuyện với bà Huy Ninh, mà sự có mặt của tôi chỉ là cái cớ. Tôi vội vã lùi vào một góc. Và cũng như hôm xưa, tôi len lén định rút lui. Khi tôi ra đến gốc cây đại, cha cũng ở trong nhà bước ra sân. Tôi phải dừng chân để nhường cho cha trầm mặc suy tư đứng ở giữa trời. Rồi bỗng ông tỉnh cơn mơ khi nhìn thấy tôi dưới gốc cây. Từ trạng thái mộng du, người đột nhiên chuyển sang đời thực. Cha lại kéo tay tôi vào trong nhà. Sau khi uống xong chén trà nóng, lúc đó người mới hoàn toàn tỉnh táo và nhớ đến những chuyện của riêng tôi. Và câu nói bị đứt quãng từ lúc tôi mới đến bây giờ lại được nói tiếp:
- Cha biết rằng anh sẽ đến. Cha chờ anh hai hôm nay. Khi cô kỹ nữ Thanh Mai chuyển về tay Hán Thương một hôm sau, cha mới biết. Cha đã ra lệnh nhốt riêng cô ta, không được hành hạ. Con và Hán Thương từ xưa đã có chút xích mích, cha không muốn xích mích ấy tăng thêm. Con hiểu ta chứ? Mẹ nó là công chúa, nó lại là con út... Ta cần đến nó... Xưa kia, ta ra câu đối muốn làm hòn đá nhỏ nhưng sẽ có lúc làm mây làm mưa vần vũ trời đất, con đối lại rằng chỉ muốn làm cây tùng nhỏ nhưng sẽ làm rường làm cột chống đỡ ngôi nhà, ta hiểu cái chí của con, cái chí của kẻ khoáng đạt, coi danh lợi chỉ là đám mây trôi. Và ta đã yên tâm, nhưng Hán Thương chưa đủ chín để hiểu con.
Cha nhìn vào mắt tôi và kết luận:
- Cha không xử chết Thanh Mai, nhưng con cũng không thể lấy con người ấy được. Cha đã nói chuyện và cô ta đã hiểu ra lẽ ấy. Làm sao con người có thể vừa là kẻ trượng phu mưu việc lớn, mà đồng thời làm cả kẻ si tình đèo bòng với một mỹ nhân?
Chờ cho đêm xuống, lúc đó tôi và Thanh Mai mới cưỡi ngựa đi sóng đôi ra cửa Tiền. Chúng tôi trông thấy chiếc hòm đen ma quái vẫn nằm lù lù ở đó, cái hòm càng khủng khiếp hơn khi mầu đen của nó được ánh lửa bập bùng của ngọn đuốc cắm gần đấy làm cho loang loáng. Thanh Mai quay đầu đi. Vó ngựa lộp cộp trên con đường đá lát thẳng đến chân núi Đún. Ở bên trái đường cách một quãng lại cắm một ngọn đuốc. Cạnh mỗi ngọn đuốc cắm một cây đòn sóc, trên đầu các cọc tre đều xiên một thủ cấp. Người lính tuần đường nói rằng số thủ cấp cho đến lúc ấy đã là con số 100. Một trăm gương mặt, một trăm dáng vẻ. Có những chiếc đầu lâu đôi mắt còn mở tròn xoe. Có những chiếc đầu lâu bị xổ cái búi tó củ hành, tóc bị gió thổi tung xòe che kín mặt. Lại có chiếc đầu lâu cạo nhẵn thín, mồm há ra như đang hét. Thỉnh thoảng mới gập một chiếc đầu mắt khép kín vẻ như cam chịu... ánh đuốc chiếu vào làm những bộ mặt chỗ tối chỗ sáng, làm nổi bật hết lên những nét gồ ghề đau khổ. Giun dế trên cánh đồng xanh rì, sau hàng cọc, cất lên khúc tang ca, tiếng khóc dài của đêm đen, hay tiếng hát tiễn chân của một cuộc đổi đời
Chỉ có tôi mắt không hề rời cuộc diễu hành đầu lâu ma quái đó. Thanh Mai cương quyết không nhìn. Nàng nhắm mắt lại, lỏng cương, mặc cho con ngựa dẫn nàng đi trên đường, con đường do chính nghĩa phụ Trần Khát Chân chỉ huy xây dựng.
“Trần Khát Chân, đầu của ông ở đâu? Sở dĩ tôi ngắm nhìn lũ đầu lâu là để tìm ông đó”. Mãi tới cuối con đường, ở chân núi Đún, trên một bãi rộng, tôi mới thấy thủ cấp của thượng tướng. Ở đây, cắm liền hơn chục ngọn đuốc. Nhiều đuốc sáng đến vậy, chắc vì ông là người thủ lãnh cuộc bạo động, người ta cắm nhiều đuốc để đe nẹt, nhưng có khi lại là tôn vinh. Chiếc đòn xóc ở đây cũng cao hơn, nó được cắm trên một gò đất vắng tanh vắng ngắt. Cái đầu ông nhìn thẳng ra con đường đá, hướng về cửa Tiền. Ông bị chặt đầu đã nửa tuần trăng, lẽ ra thịt đã phải thâm xịt, lũ dòi bọ đã phải ăn thủng đôi mắt và chỉ còn để lại trên gương mặt ông hai cái lỗ đen ngòm. Nhưng người đao phủ nhân đức hôm hành quyết đã giã một thứ lá rừng, vắt lấy nước, và trước khi bêu đầu lên cọc đã đổ thứ nước ấy lên chiếc thủ cấp, làm lũ ruồi nhặng sợ, không dám đậu, làm lũ dòi bọ sợ không dám ăn, làm thịt vẫn tươi nguyên trong một tháng tức là hết hạn bêu đầu.
Tôi ghìm ngựa, đứng lại trước thủ cấp thượng tướng, và bảo nàng:
- Đến rồi.
Đầu lâu thượng tướng quả là cái đầu tươm tất nhất trong số trăm cái đầu. Chòm râu hoa râm của ông vẫn nguyên vẹn, cái búi tó trên đầu vẫn như vừa mới chải xong. Thượng tướng không tròn xoe đôi mắt, cũng không nhắm nghiền đôi mắt. Lạ thật? Sao nhìn mặt ông ta chỉ thấy một sự bình tĩnh, một sự đón nhận lạnh lùng và cương quyết. Có lẽ nào những ngày trước khi chết ông đã nhìn thấy một điều gì đó của tương lai? Cái chết của ông liệu có ý nghĩa gì cho sự lột xác của núi sông? Ông là con người giằng xé. Đổi thay ư? Ông biết chứ, nhưng thế tất ông phải chết cho cơ nghiệp nhà Trần.
Thanh Mai đã mở mắt ra. Trước cái đầu thượng tướng với vẻ hiền từ đang nhìn xuống cô, Thanh Mai đã quên hết sợ hãi. Cô lặng lẽ lấy trong người ra một dải khăn tang, buộc quanh đầu, rồi thắp mấy nén hương, cô quỳ lạy miệng nức nở:
- Cha ơi là cha ơi...
Đầu cô gục sát mặt đất. Toàn thân cô rung lên từng đợt.
***
Tôi tiễn Thanh Mai ra tận bến đò trên sông Mã.
Nàng nắm tay tôi bịn rịn:
- Chàng ơi? Hãy xuống thuyền với em.
Tôi nhìn đôi bàn tay trắng muốt của Thanh Mai. Đôi bàn tay sao mà đẹp! Những ngón tay thon dài, mới trông thấy tôi đã như nghe được một điệu đàn, hai bàn tay ấy, mỗi đêm khi ôm lấy tôi, làm tôi lại được nghe tiếng thầm thì của nhiều cung bậc yêu thương.
- Chàng ơi! Hãy nắm lấy tay em.
Nhưng, tôi chẳng nói, chỉ khe khẽ lắc đầu.
- Sao thế? Hàng cọc đầu lâu ấy có ma lực gì lại có thể cuốn hút chàng? Toà thành đá cao ngất ấy, lúc nào cũng đầy rẫy những âm mưu phỏng quý báu gì? Hãy tung hê tất cả đi? Chúng mình sẽ lên rừng. Chúng mình sẽ về với suối.
Trên sông, cô lái đò giục giã:
- Xong chưa? Thuyền sắp nhổ sào?
- Chị lái đò ơi! Em van chị! Chờ chúng em một lát - Giọng Thanh Mai nghe bổng trầm như tiếng hát.
- Mình ơi! Mình điên rồ hay sao? Mình còn tiếc vinh hoa phú quý hay sao? Chẳng lẽ em lại không đáng để cho chàng quên tất cả cái thế gian độc ác và tội lỗi ấy?
Tôi muốn cất lời lên, nhưng không sao nói được: “Hỡi cô tiên nhỏ bé! Đừng vò xé lòng ta nữa. Phải xa em lòng ta như dao cắt. Nhưng ta không thể nào theo em được. Nàng có nghe thấy gì không? Những tiếng trống ngũ liên. Tiếng khóc đấy! Máu đấy Lầm than đấy! Ta đã có nhời nguyền từ thủa biết nghĩ: Ví dù trời phật cho ta hàng nghìn kiếp người, ví dù ta có may mắn được dự vào cõi cực lạc, thì ta cũng sẵn sàng từ bỏ tất, sẵn sàng dâng một ngàn kiếp của mình để lăn lộn chốn trần ai, cùng gánh chịu vui buồn với thế gian. Nàng đi? Ta không thể rời bỏ, không muốn chạy, khi trước mắt đang là cơn bão. Còn nàng thì khác. Nàng hãy đi đi! Những ngày qua nàng đã giúp ta nhiều. Nàng đã giúp ta đứng vững một mình. Người xưa bảo: Con người vốn độc hành, độc bộ...”
Cô lái đò lại lên tiếng giục giã.
Thanh Mai nước mắt như mưa, chân bước xuống thuyền, đầu còn ngoái lại.
Ở phía xa xa, tiếng trống ngũ liên môi lúc mỗi gấp gáp Con thuyền đã nhổ neo. Thanh Mai nâng vạt áo lên, hai bàn tay ngọc ôm lấy mặt. Tôi vẫy tay cho đến lúc con đò lẫn vào màn sương đêm trên sông. Tôi lặng lẽ đi về phía tiếng trống.
Bí ẩn về triều đại Hồ Qúy Ly - Phần 1
Bí ẩn về triều đại Hồ Qúy Ly - Phần 1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét