Hồi
thứ bảy
Phò
Lê đế, đạo Vũ thành lại ra quân
Đốt Trịnh cung, chúa án đô phải bỏ nước.
Lại nói, Thạc quận công (Hoàng
Phùng Cơ) sau khi thua trận ở cửa Thuý ái, liền chạy về vùng Hưng Hoá, nương
nhờ ở nhà một phiên mục là Đinh Công Hồ. Kịp khi nghe tin quân Tây Sơn đã rút
về Nam, quận Thạc bèn tới trấn Sơn Tây, thu nhặt binh lính để về bảo vệ kinh
thành. Khi ấy hoàng thượng vẫn thường cho người qua lại chỗ quận Thạc, vua
tôi rất là ăn ý với nhau.
Đến lúc này được tin quận Thạc đã
tới, nhà vua liền sai ông ta đem quân vào đóng ở cửa ô Trường Bắn để bảo vệ
hoàng thành. Lúc vào thành, quận Thạc đến lạy chào nhà vua, rồi sau mới ra
chào án đô vương.
Bấy giờ, người trong kinh nhao
nhao đồn rằng: "Thạc vào bè với vua; Nhưỡng vào bè với chúa. Hai người
sẽ có ngày dàn quân đánh nhau. Cả hai đều là tướng mạnh chưa biết ai thua ai
được?". Hoặc có người lại nói rằng: "Vua với chúa thế lực cũng
ngang nhau, nhưng vua có phần mạnh hơn một chút".
án đô vương thường sai người đến
uý lạo quận Thạc, khuyên Thạc nên giúp đỡ nhà chúa. Nhưỡng cũng hay cho người
đi lại biếu xén để liên kết với quận Thạc.
Thủ hạ của quận Thạc có người tên
là Nguyễn Liên, thấy thế lớn trong thiên hạ đang có chiều ngả về phía chúa,
nên cho rằng việc Nhưỡng phò chúa khó mà có thể xoay chuyển được. Rồi nhân
đó, muốn cho quận Thạc hợp vào với Nhưỡng, Liên bèn cố khuyên quận Thạc bỏ
vua mà theo chúa. Quận Thạc trả lời:
- Người ta khó nhọc mới làm được
mâm cỗ ngon, mình bỗng xông đến, chọc ngay đũavào mà ăn, còn ra cái mặt mũi
gì nữa?
Liên nói:
- Hiện nay ngôi chúa tuy đã lập,
nhưng quyền chúa chưa định xong. Ông Nhưỡng vì đã trót hứa với hoàng thượng
là quyền bính thuộc về nhà vua, nên bây giờ không dám hé răng nói lại. Chúa
ngồi chồm chỗm ở trong phủ, mà hoá ra chính phủ chẳng có người nào, dân không
biết theo ai. Việc ấy không có ông thì không xong. Người xưa có câu:
"Làm việc thì dễ; làm cho nên việc mới khó". Bây giờ nếu ông gánh
lấy cái khó ấy, thì công nghiệp chẳng kém gì ông Nhưỡng đâu!
Quận Thạc hỏi:
- Thế thì nên làm ra sao?
Liên đáp:
- Người ta có thể họp được các
quan, sao ông lại không chịu họp? Nay ông hãy định ngày hội họp các quan để
bàn về việc đặt tên các quan chức rồi sau đem những lời bàn ấy mà tâu xin với
nhà vua, hẳn là nhà vua phải nghe theo.
Quận Thạc khen phải, rồi sai thảo
tờ hiểu thị các quan văn võ, đại ý nói rằng:
"Khi Nguyễn Hữu Chỉnh đưa
giặc vào cướp nước, mỗ vâng mệnh dẹp giặc, chẳng may đã sai phạm quân luật và
làm tan vỡ quân đội, đến nỗi kinh thành không giữ được, thật là đáng chịu tội
muôn lần. May nhờ lòng trời hối hoạ (một quan niệm cũ cho rằng, mọi tai hoạ ở
trên đời đều là do trời gieo rắc, khi tai hoạ hết, ấy là lúc trời đã hối
lại), quân giặc phải lẻn trốn về. Nay non sông lại y nguyên, vua chúa vẫn như
cũ. Nhưng giường mối đã đổ, triều chính lại càng rối bời. Tướng võ, quan văn,
há nên một mực im lặng? Vậy xin định đến ngày này tháng này, hội họp ở bộ Lễ,
cùng nhau bàn định, rồi sẽ tâu lên hoàng thượng và trình lên vương thượng
biết; sau đó xin giao xuống cho thi hành, để chỉnh đốn lại thể thống của
triều đình".
Mọi người thấy tờ hiểu thị đó, đều
cho rằng quận Thạc vì nhà vua mà mở ra cuộc họp ấy, để báo thù lại cuộc họp
của Nhưỡng ở Tây-long trước đây. Đến ngày đã định, quận Thạc kéo quân từ
hoàng thành ra, Nhưỡng dẫn quân từ phủ chúa lại, người ta chắc là hai tướng
sắp sửa đánh nhau, có kẻ sợ vạ lây đã phải lánh đi nơi khác. Nhưng đến khi
thấy hai tướng đã gặp nhau mà không xảy ra chuyện gì, thì người ta lại đồ
rằng quận Thạc lừa cho Nhưỡng ngồi vào họp rồi mới bắt, tướng trẻ tất phải
mắc mưu tướng già. Rút lại, chẳng ai hiểu được ý định của quận Thạc như thế
nào?
Kịp đến lúc các quan văn võ đến
họp, chào hỏi nhau xong, quận Thạc nói:
- Chúa lên ngôi đã hơn một tuần,
mà chính sự vẫn chưa ra đầu ra mối gì cả, các ông có ý kiến gì xin cứ bày tỏ,
rồi cùng lựa chọn những điều đáng làm để đem tâu xin với bề trên.
Mọi người còn chưa biết nói thế
nào. Trong đám có Ninh Tốn là tay lắm mưu mẹo giảo quyệt, định dùng lối nói
lập lờ nước đôi để dò ý quận Thạc, bèn lên tiếng mà rằng:
- Từ khi sáng nghiệp về sau, quyền
ở nhà vua. Từ ngày trung hưng lại đây, quyền ở phủ chúa...
Tốn vừa mở miệng đến đấy, đã bị
Nhưỡng hỏi vặn ngay:
- Bây giờ là sau đời sáng ngiệp
hay là sau đời trung hưng? Làm sao lại còn nói đèo thêm đời sáng nghiệp vào
nữa? Xem viên ấy là quan chức gì mà nói dốt đến vậy?
Tốn vốn có tài đối đáp nhanh nhẹn,
liền nói luôn:
- ấy là tôi cũng chỉ viện dẫn ra
để tỏ rằng, từ sau đời trung hưng thì như thế đó mà thôi!
Nhưỡng nói:
- Nếu vậy thì mời ông ra thảo bản
nghị sự.
Tốn bèn thảo một bản nháp, đại ý
như sau:
"Nhà vua, nhà chúa, vẫn là
một thể. Nay tên gọi các chức quan ở phủ chúa phải theo như chỉ ý của nhà vua
vừa mới định, nhưng cũng nên giữ cả tên gọi cũ. Vậy xin để chức bình chương
kiêm chức tham tụng, tham tri kiêm bồi tụng, thiêm thư kiêm thiêm sai, đô cấp
sự kiêm lục phiên tri phiên. Về hàng quan võ thì những chức chưởng phủ, thự
phủ, sẽ thêm vào những chữ ngũ quân đô đốc phủ, tả hữu đô đốc. Còn nhà nghị
sự ở ngoài cửa phủ đã quen tai mắt thiên hạ, xin cứ để nguyên như tên cũ. Các
việc chính sự sau khi bàn xong, trước hết phải trình cho chúa biết, rồi sau
mới tâu vua để xin nhà vua quyết định".
Nhưỡng coi bản nháp của tờ nghị
sự, thấy lời văn chứa đựng những ý từ khôn khéo, tiếng rằng theo vua mà kỳ
thực là xem trọng ở chúa, bèn đổi ra giọng vui mừng mà rằng:
- Người ta khen ông là tay lão
luyện về nghề từ hàn, quả thật là không sai! Vừa nãy tôi nói lỡ lời, xin ông
đừng giận.
Rồi Nhưỡng bảo Tốn chép thành bản
tâu để dâng lên nhà vua. Lúc bản tâu đã chép xong, Nhưỡng tự thấy rằng việc
làm ấy và lời hứa của mình với nhà vua trước đây là trái ngược nhau, nên
không dám giáp mặt vua, bèn cáo từ các quan mà về dinh. Các viên quan võ cùng
đều theo Nhưỡng ra về hết. Chỉ còn lại quận Thạc và mấy viên quan văn vào
điện để xin mệnh của nhà vua.
Hoàng thượng lúc đầu tưởng quận
Thạc hẳn phải thuận theo ý mình, nên rất mừng, cho người dẫn ông ta vào ra
mắt. Đến khi coi hết tờ tâu, hoàng thượng nổi giận mà rằng:
- Tham tụng, bồi tụng cứ việc tham
tụng, bồi tụng, hà tất phải đèo thêm bình chương, tham tri? Chưởng thự cứ
việc chưởng thự, can gì phải đèo thêm ngũ quân đô đốc? Bọn các ngươi lấy hư
văn mà đánh lừa ta; bịp bợm, xảo trá như vậy, há phải là lễ thờ vua?
Quận Thạc nghĩ xưa nay mình với
nhà vua vốn có ân tình sâu xa, bỗng dưng vô cớ thay đổi thì thật là xấu hổ,
vì vậy, không dám hé răng, chỉ cúi rập đầu tạ tội mà thôi.
Ninh Tốn quỳ tâu:
- Nay ở ngoài thành đều là bãi
chiến trường, thiên hạ đang loạn lớn, mà chính sự trong triều đình thì vẫn
còn rối bời. Lũ thần trót phạm oai trời, thật là sợ hãi khôn xiết. Dám xin
hoàng thượng soi xét.
Hoàng thượng nói:
- Ngoài thành đều là bãi chiến
trường, vạ ấy hỏi tại nhà ai gây ra? Đâu phải là lỗi ở trẫm? Thôi đừng nói
lắm, lũ ngươi tưởng rằng bè đảng đông, có thể ăn hiếp được trẫm, thì cứ việc
làm đi! Cần gì mà phải xin mãi?
Bọn quận Thạc đều sợ hãi, bồ hôi
toát ra khắp lưng, không dám nài xin gì nữa; bèn cùng nhau phủ phục ở sân
rồng, mãi đến đầu canh một chưa dậy.
Hoàng thượng thấy họ cứ nằm lỳ ở
sân, nghĩ rằng người ta đã có bụng khác với mình, không thể trông cậy được
nữa, dầu có cố giữ ý mình cũng là vô ích, bèn ưng cho lời tâu của họ.
Bọn quận Thạc xin được mệnh lệnh
rồi, liền lạy tạ mà ra.
Hôm sau, họ cùng vào phủ để lựa
chọn các quan. Mọi người bàn bạc cho rằng, chúa mới được lên ngôi, những
người mà hoàng thượng tin dùng như loại Tứ xuyên hầu, chưa nên gạt bỏ vội.
Rồi họ bèn lấy Tứ xuyên hầu (tức Phan Lê Phiên) làm chức bình chương kiêm
tham tụng; Kế liệt hầu (tức Bùi Huy Bích) và Khuê phong hầu (tức Phan Cận)
cùng làm chức đồng bình chương sự kiêm hành tham tụng; quận Thạc làm trung
quân đô đốc phủ, tả đô đốc chưởng phủ sự, tước Thạc vũ công; Nhưỡng làm đông
quân đô đốc phủ, hữu đô đốc thự phủ sự, tước Liễn quận công; Ngô Trọng Khuê,
Ninh Tốn đều làm tham tri chính sự kiêm bồi tụng; Nguyễn Huy Chiểu, Phan Huy
ích, cả bọn gồm sáu người đều làm chức đô cấp sự trung, kiêm thiêm sai tri phiên
trong sáu khoa.
Mệnh đó được ban xuống. Tứ xuyên
hầu từ chối không nhận. Kế liệt hầu thì tự thẹn mình không làm được công
trạng gì, nói:
- Ta làm tể tướng không được tốt
lành (trỏ việc Bùi Huy Bích trước kia làm tham tụng (tướng quốc) nhưng bất
lực, để Tây Sơn lấy được Bắc Hà). Việc trước hãy còn tấm gương sờ sờ ra đấy.
Một đời lại định mấy lần làm hại nước người ta nữa? (người ta đây chỉ vào nhà
vua; quan niệm phong kiến cho nước là của vua).
Rồi Kế liệt hầu cũng không chịu
nhận chức. Chỉ có Khuê phong hầu một mình gánh vác công việc. Nhưng bấy giờ
quyền bính trong nước đều ở tay Nhưỡng. Còn quận Thạc thì già nua dốt nát,
chẳng biết gì đến chính sự, chỉ giữ một chức quan cho đủ số mà thôi:
Quan liêu trong chính phủ đã đầy
đủ, họ bèn ngày ngày bàn mưu tìm kế để đè nén nhà vua, muốn cho tất cả quyền
hành về việc binh, việc dân đều thuộc về phủ chúa. Riêng có bổng lộc của nhà
vua, thì họ bàn nhau đãi hậu hơn các triều trước một chút. Nhưng hoàng thượng
cũng không chịu lép vế, cứ mỗi việc mỗi giằng giữ co kéo, thành ra các việc
binh, dân, chính đều rối tung chẳng đâu vào đâu. Rồi đó hoàng thượng lại ra
sức mộ thêm binh mã để tự vệ, và ngấm ngầm lập mưu chế ngự nhà chúa.
Lệ cũ, nội điện nhà vua có một
viên quan phụ tá. án đô vương bèn sai một hoàng thân tin cẩn của mình đến
sung vào chức đó. Hoàng thượng bảo với vị hoàng thân ấy rằng:
- Ta vừa cho lên làm chúa, sập
ngồi còn rung rinh, thế mà đã vội sai người đến dòm dỏ, làm như nền nếp lúc
thái bình ấy. Ông về bảo chúa án đô rằng, chúa đã sai ông đến làm phụ tá cho
trẫm, thì trẫm cũng khiến ông trở lại làm phụ tá cho chúa.
Vị hoàng thân ấy lui ra, hoàng
thượng bèn dặn mấy người tả hữu:
- Các ngươi hãy nhớ lấy, hễ mà
người này còn lại đây nữa, thì cứ chặt chân hắn đi cho ta!
Thế là từ đó, vua chúa đâm ra thù
nhau.
Hồi án đô vương mới vào kinh
thành, Trọng Tế trốn về huyện Gia Lâm. Vương vốn mến tư cách của Trọng Tế,
lúc này bèn cho sứ giả đi mời. Khi Tế đến nơi, vương nói:
Trong lúc giặc mọi vào cướp kinh
kỳ, các quan văn võ hoặc chạy trốn hoặc đầu hàng, riêng ngươi là nho thần lại
dám lập đồn bên cạnh kinh thành để chống nhau với giặc; cái tiếng nghĩa khí
của ngươi đã làm rung động cả nước, bọn giặc càn rỡ sở dĩ phải trốn đi, cũng
chính là sợ về oai phong của ngươi. Điều đó, quận Thạc quận Liễn không thể
sánh kịp. Vả lại, ngươi mới thoạt vào thành đã lấy ngay việc lập chúa làm
điều trước nhất. Tuy việc quận Thuỵ không thành, nhưng thanh thế nhà chúa lại
nhen nhúm lên được cũng là từ đấy. Nay ta mới được lên ngôi, nhà vua với ta
lại chưa hoà thuận, mà thiên hạ thì đang còn rối ren, vậy ngươi hãy cố ở lại
giúp ta.
Sau đó án đô vương bèn cho Tế
trông nom về việc tài phú. Nguyễn Mậu Nễ, học trò của Tế, cũng được cất nhắc
lên làm chức tiến triều.
Tế vốn có bụng oán giận nhà vua,
liền nói với án đô vương:
- Cái thuyết nhất thống (tập trung
quyền bính vào tay nhà vua) do ở giặc Chỉnh xướng ra, thật không nghĩa lý gì
hết. Xưa nay nhà vua vẫn uỷ quyền cho nhà chúa, mà nhà chúa thì phò giúp mối
giường của nhà vua; có hề "nhị thống" (quyền lực thuộc vào cả vua
và chúa) bao giờ? Nhà vua đã chẳng chịu chung tai nạn với nhà chúa, trái lại
còn lấy sự thất bại của nhà chúa để làm lợi cho mình. Bọn Tứ xuyên hầu đã cúi
mình theo giặc, giờ lại hùa theo nhà vua mà không biết chi đến chúa. Đó đều
là những việc mà lẽ trời, tình người đều không thể dung tha. Dạo nọ vì chúa
đến chậm, thần bất đắc dĩ mà phải phò Thuỵ quận công. Nếu chúa đến sớm, thì
thần há lại để cho bọn đầu hàng giặc tới nay vẫn còn trốn khỏi hình pháp? Tôn
thất nhà vua hãy còn nhiều, tìm một vị khác làm người khoanh tay rủ áo, tưởng
cũng không thiếu gì. Chúa mà đến sớm hơn nữa, ông vua "lông đỏ" hẳn
đã phải đi theo bọn giặc "lông đỏ" từ lâu rồi!
Đoạn, Tế xui án đô vương cho quân
vây điện vua ở, bắt hết bọn gia thần của vua giết đi, rồi bỏ vua này mà lập
vua khác.
Mưu mô đã định xong, Tế bèn sai
Nguyễn Mậu Nễ đem quân chẹn ở phía trước điện, đồng thời ngầm cho Nhuận trạch
hầu (Bùi Nhuận) lẻn vào cửa Đông Hoa để đánh úp mé sau.
Hoàng thượng nghe tin có biến,
liền sai các hoàng thân đem hết binh lính đã mộ ra chống giữ. Nễ cưỡi voi đến
ngoài cửa Đại Hưng, khí thế rất mạnh, khiến cho trong điện ai nấy đều run sợ,
cơ hồ muốn tan vỡ. Thình lình thấy quận Thạc ngồi trên đầu voi từ phía sau
điện xông tới cửa Đông Hoa, ngăn Nễ không được vào nữa và quát:
- Mày muốn sống thì mau mau thu
quân về, bằng không, tao sẽ chặt đầu mày trước để bêu ra cho thiên hạ coi,
rồi sau sẽ bắt nốt những tên trong đảng nghịch.
Nguyên quận Thạc vốn ghen với danh
vọng của Tế, vả lại trong bụng cũng không ưng cái việc đại nghịch ấy; mặt
khác, lúc bấy giờ, quận Thạc đang làm chức đề lãnh chính hiệu, phải gìn giữ
hoàng thành, e rằng trong điện có biến thì mình cũng mang tội, vì vậy quận
Thạc phải kíp ngăn cản.
Nghe Thạc quát, Nễ sợ hãi lùi
ngay, Nhuận trạch hầu cũng không dám vào nữa. Thế là trong điện được vô sự.
Hoàng thượng giận lắm, bảo các
quan tả hữu rằng:
- Đảng ác đã đông, gốc hoạ khó mà
nhổ nổi. Nếu không có hữu quân (chỉ vào Nguyễn Hữu Chỉnh) trở lại, thì việc
tất không xong.
Rồi đó, hoàng thượng bèn bàn tính
việc vời Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân ra bảo vệ kinh sư.
Lại nói, sau khi quân Nam lén lút
về, Chỉnh cướp được chiếc thuyền hối hả đuổi theo, ra đến biển lại bị gió cản
lại luôn mấy ngày, chừng hơn một tuần mới vào đến cửa biển Hội Thống. Lúc
thuyền của Chỉnh đậu ở dưới bến Động Hải (tức xã Đông Hải, quê Chỉnh. Nay
thuộc Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh), thì cũng vừa gặp lúc anh em Tây Sơn đi đường bộ
đã vào tới Vĩnh Doanh (tức vùng thị xã Vinh-Bến Thuỷ bây giờ) Bình nghe tin
Chỉnh đã trốn thoát và theo về đến đó thì cả kinh mà rằng:
- Thằng chết tiệt này khéo tìm
đường sống, thật chẳng khác gì mười lăm giống quỉ dạ xoa luân hồi làm hại,
cắt cũng không đứt đi cho.
Tuy vậy, lúc Chỉnh vào ra mắt,
Bình vẫn vỗ về yên ủi. Chỉnh xin theo Bình cùng về, Bình nói:
- Nay quận Thạc quận Liễn chưa trừ
xong, nước An Nam phi ông không ai trị nổi; ông hãy tạm ở đây đã!
Rồi Bình sai người san sẻ các thứ
súng đồng, súng sắt, cùng những khí giới, đồ lề thu được ở Bắc Hà, đem đến
Đông Hải cho Chỉnh.
Chỉnh từ chối không nhận.
Bình lại cho Chỉnh hai mươi lạng
vàng, hai trăm lạng bạc, và để lại một trăm tên lính để hộ vệ cho Chỉnh,
Chỉnh nghĩ để số lính ấy cũng chẳng dùng được bèn nhận vàng bạc, trả lại lính
và nói:
- Tôi xin được tự mộ lấy quân địa
phương mà dùng. Nếu như sức tôi không đủ, phải đưa thư cáo cấp, thì bấy giờ
mong ông hãy chú ý sai tướng sĩ giúp đỡ tôi.
Bình ưng lời, rồi về Phú Xuân, lưu
Chiêu viễn hầu đóng lại ở Kỳ Hoa để hưởng ứng với Chỉnh. Nhưng Bình về rồi
thì Chiêu viễn hầu cứ đóng lỳ ở Kỳ Hoa không hề liên lạc gì với Chỉnh.
Chỉnh ở dưới thuyền, thủ hạ chỉ có
hơn ba chục người, thành thử không dám bỏ thuyền lên cạn.
Người xứ Nghệ biết Chỉnh đang lúc
thân cô thế cùng liền bàn nhau định ngày khởi binh bắt Chỉnh.
Chỉnh được tin, vội gọi người anh
rể là Nguyễn Kim Khuê xuống thuyền để bàn cách đối phó. Chỉnh bảo Khuê:
- Nay trong nước rối loạn, tôi
muốn chiếm cứ lấy trấn này để tính việc lấy thiên hạ. ý anh thấy thế nào? Mưu
mẹo của anh sắp đặt ra sao?
Kim Khuê người làng Đặng Điền,
huyện Chân Phúc, từng làm chức tri huyện, là bậc túc học và có mưu trí. Thấy
Chỉnh hỏi vậy, Khuê liền bày mưu rằng:
- Tên tuổi ông, thiên hạ không ai
là không sợ! Sức ông lấy Nghệ An, chẳng qua chỉ như trở bàn tay. Nay người
trong trấn này tuy biết ông thân cô thế cùng, song họ vẫn chưa biết rõ hư
thực thế nào. Tờ hịch của họ mới truyền đi, chỉ là những lời đưa đẩy lẫn
nhau, chưa kẻ nào dám thò đầu ra trước. Nếu ông làm trước để chặn họ, hẳn họ
sẽ trở tay không kịp. Hiện nay ông mà có được một ngàn thủ hạ, thì ông có thể
dọc ngang khắp thiên hạ vậy!
Chỉnh nói:
- Anh nói rất hợp ý tôi.
Rồi đó, Chỉnh bèn làm tờ hịch lông
gà (dịch chữ "vũ hịch". Thời xưa, trên tờ Hịch văn mộ quân người ta
thường cắm chiếc lông gà, để tỏ ý phải thi hành thật mau, phải làm gấp như
bay) để điều động quân lính. Hịch phát bắt đầu từ làng Chỉnh ở. Ra lệnh hễ
chậm một khắc sẽ chém liền.
ở làng bên cạnh có hai tên lính
già, nguyên là lính ở các đội Nhưng, Kiệu mãn về, thường vẫn hống hách với
dân làng, thấy hịch của Chỉnh đến, chúng liền ra ngăn dân làng và bảo họ đừng
nhận.
Chỉnh được tin, tức thì đêm sai
bọn thủ hạ sang cướp phá làng đó, đâm chết hai tên lính già, chém lấy đầu,
rồi truyền hai cái đầu ấy đi khắp các thôn ấp, rao cho nhân dân biết.
Thế là cả huyện Chân Phúc, không
ai dám trái mệnh của Chỉnh. Chỉ trong mười ngày, Chỉnh đã mộ được hơn một
ngàn quân.
Các hào mục ở huyện bên cạnh, thấy
Chỉnh dấy binh vội vàng tính việc đánh Chỉnh. Họ tôn viên trấn thủ cũ là
Đương trung hầu (Bùi Thế Toại) lên làm thủ lĩnh, rồi ai nấy đều kéo quân đi
theo.
Chỉnh lúc đó bị vây hãm tứ phía,
tình thế hết sức nguy ngập.
Bấy giờ, ở kinh đô có Khuê phong
hầu là người Nghệ An, thường được người làng cho biết Chỉnh hiện đang ở vào
tình thế rất dễ bắt. Khuê phong hầu liền đem việc đó tâu trình với án đô
vương; rồi xin cho Đương trung hầu ra làm trấn thủ như cũ, lại xin cử con là
Phan Huy ích làm chức đốc thị, và viên trấn thủ Thanh Hoa là Mãn trung hầu
(tức Lê Trung Nghĩa, người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá) sung chức
tham lĩnh, thu nhặt các tàn binh ở Thanh Hoa đem vào Nghệ An, rồi lại triệu
tập binh xứ Nghệ và các hào mục, thổ dân sở tại để đánh Chỉnh. án đô vương
bằng lòng.
Lúc lĩnh mệnh lên đường, ích hung
hăn nói với mọi người rằng:
- Các ông hãy chờ đó, để tôi vào
xứ Nghệ lấy đầu Hữu Chỉnh về cướp ấn quận công cho mà coi!
ích lại còn sai bọn thủ hạ làm
chiếc trống trận và dặn:
- Phải làm cho rõ lớn, có thể chứa
được người vào trong, để khi ta thúc đội tiền quân xông vào bắt được Chỉnh
rồi, thì sẽ chọc thủng mặt trống, nhét hắn vào đó mà khiêng về dưới cửa
khuyết.
Ngày ích xuất quân, ai cũng cho
rằng sự thành công có thể đứng mà chờ đợi.
Hồi Chỉnh ở Nghệ An, lúc nghe tin
án đô vương mới lên ngôi, bèn đặt câu nói lái mà đùa rằng: "yến đô là đố
yên" (âm Hán đọc án đô hay yến đô đều
được). ý Chỉnh muốn bảo: nhà chúa có muốn yên cũng không thể yên được.
Kịp đến lúc nghe tin ở kinh thành
các tàn quân đã họp thành cơ ngũ như cũ, lại nghe tin án đô vương đã sai
người vào đánh mình; Chỉnh bèn viết thư báo gấp vào Phú Xuân, nói là Thạc,
Nhưỡng lại lập họ Trịnh, định chiếm cứ đất nước để báo thù xưa, xin cho quân
cứu viện ra để chống nhau với chúng.
Bình được thư ấy, tức thì sai viên
tả quân đem binh ra ngay.
Cùng lúc ấy, Chỉnh lại viết thư
cho Đinh Tích Nhưỡng. Trước hết Chỉnh nhắc lại tình xưa nghĩa cũ; rồi nói
rằng mình hiện đã đoạn tuyệt với Tây Sơn, xứ Nghệ An tiếp giáp xứ Thuận Hoá,
chưa biết quân Nam sẽ ra đánh lúc nào. Tiếp theo, Chỉnh xin hãy cho ở đó để
đương lấy một mặt: sau khi bình yên rồi, nếu Nhưỡng có thể bảo toàn cho Chỉnh,
thì chẳng bao lâu, Chỉnh cũng sẽ về triều.
Nhưỡng coi thư xong, liền gọi con
rể của Chỉnh là Siêu Vũ vào dinh mà bảo rằng:
- Ông anh với chú trước đây cùng ở
trong cửa cụ Huy, cụ lớn đều coi như con đẻ. Chẳng may cụ lớn bị nạn, ông anh
đã trả thù được cho ngài; riêng chú chẳng có công trạng gì, chú thẹn với ông
anh nhiều lắm. Song ông anh ta, nói về nghĩa thời đã đủ rồi, mà nói về trung
thời hãy còn chưa trọn. Nay chú phò nhà chúa, dựng lại cơ đồ; ông anh đã ngỏ
ý muốn đóng giữ trấn Nghệ An lẽ đâu chú dám chẳng chiều ý? Nhưng ông anh chớ
có lừa ta, rồi mà bất thình lình nổi dậy kéo quân về... Tuy nhiên, chú cũng
nói thế thôi, chứ chú còn ở đây, thì dù ông anh có muốn về chú cũng chẳng
nghe đâu. Anh về phải thưa lại ý chú như thế nhé!
Từ đó, Nhưỡng không để ý gì đến
việc Chỉnh nữa.
Bấy giờ án đô vương đang ngày ngày
mưu sự chuyên quyền, không nghĩ gì đến các việc khác.
Có người thấy vậy, nói với Nhưỡng
rằng:
- Hiện nay giặc dữ mới đi, bờ cõi
còn chưa yên ổn, mà giặc Chỉnh ở Nghệ An thế lực càng ngày càng lớn mạnh.
Nhân trong lúc này lòng người đang phấn chấn, hãy xin chúa ngự giá thân chinh
để diệt hữu quân, đuổi Chiêu Viễn, lấy lại bờ cõi cũ của đất Nghệ An; thì như
vậy cũng chẳng kém gì cái công dựng nghiệp trung hưng của các bậc tiên vương.
Khi đã lập công mà về, quyền lớn tự nhiên sẽ vào tay. Cần gì chúa cứ phải
quẩn quanh tranh giành những chuyện cũ rích, mà bỏ quân giặc không lo nghĩ
đến? Vạn nhất Chỉnh lại đem binh ra, thì lúc ấy lấy gì mà chống chọi?
Nhưng Nhưỡng chỉ làm thinh.
Giữa khi ấy Chỉnh lại sai anh ruột
là giám sinh Nguyễn Ban lẻn ra kinh đô yết kiến hoàng thượng, để xin mệnh làm
trấn thủ Nghệ An. Hoàng thượng liền hỏi kín Ban về tình hình quân lính của
Chỉnh. Ban được thể, nói thêm lên để phô trương thanh thế cho Chỉnh. Hoàng
thượng mừng lắm, bèn nói rằng:
Việc ấy, trước mặt trẫm hữu quân
đã từng tâu xin, mà trẫm cũng đã hứa cho rồi. Nay lại xin nữa thì sẽ làm cho
tờ sắc ban xuống. Vậy ngươi hãy ở đó mà đợi mệnh!
Các quan tả hữu thấy thế, khuyên
nhà vua rằng:
- Hữu quân ở xa mà chúa thì gần.
Chưa biết sau này hai bên thua được ra sao? Nếu như mệnh này ban ra, mà việc
của hữu quân không thành, thì chúa sẽ có cớ mà nói.
Hoàng thượng nghe theo, bèn thôi
không dám hạ mệnh cho Chỉnh.
Ban lật đật ra về, nói dối là đã
có sắc của vua cho Chỉnh làm trấn thủ Nghệ An, được mở dinh quân Trung-hùng,
thăng tước Bằng lĩnh hầu, đồng thời khiến Chỉnh phải đem quân về bảo vệ kinh
sư.
Chỉnh cũng vờ làm lễ bái mệnh, rồi
truyền hịch đi kêu gọi các hào mục và thu thập các quân lính tản mát trong
vùng.
Do đó, các tay hào mục đều bảo
nhau:
- Hắn dẫu đáng ghét thật, nhưng
nay đã chịu mệnh vua, nếu chống lại hắn tức là chống mệnh triều đình, hắn sẽ
vin vào cớ đó mà nói, thì mình khó tránh khỏi tội.
Rồi họ bỏ Đương trung hầu mà theo
Chỉnh chỉ trong khoảng mươi ngày, Chỉnh đã thu nhặt được hàng vạn quân. Chỉnh
bèn cho người bà con là Nguyễn Kim Khuê làm chức thị sư, đặt ra những hiệu
quân Tứ đột, Tứ thành, lấy danh nghĩa là vâng sắc tôn phò nhà vua mà hẹn ngày
xuất quân. Quân của Chỉnh tuy mới mộ, song đội ngũ chỉnh tề, hiệu lệnh nghiêm
túc.
Bấy giờ ở kinh sư hoàng thượng
đang tức vì bị bọn Nhưỡng ăn hiếp, nên ngày đêm chỉ mong Chỉnh kéo quân ra.
Hoàng thượng bèn ngầm ban xuống một tờ chiếu giục Chỉnh tức khắc lên đường.
Chỉnh nhận được mệnh, vội hội họp
đông đủ quân sĩ, rồi tuyên cáo với mọi người rằng:
- Bọn Đinh Tích Nhưỡng và Dương
Trọng Tế cầm quân ở kinh sư, ngầm mưu làm việc phản nghịch. Ta nay vâng mật
chỉ đem quân về triều, để quét cho sạch lũ giặc bên cạnh nhà vua. Vậy các
ngươi phải nên chung lòng gắng sức để cùng giúp nhà vua trong lúc khó khăn.
Khi quân Chỉnh qua bến Hoàng Mai ở
huyện Quỳnh Lưu, thì gặp tham lĩnh Mãn trung hầu và đốc thị Phan Huy ích, hai
người vâng mệnh chúa án đô vào mộ lính Thanh Hoa đánh Chỉnh. Chỉnh lập tức
sai đội thiết kỵ bất thình lình đón đánh. Hai bên giao chiến ở địa phận Ngọc
Sơn (một huyện giáp liền với Quỳnh Lưu. Nay là huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá).
Kết quả, Mãn trung hầu bị thua, chết tại trận, còn Phan Huy ích thì bị bắt
sống.
Chỉnh mắng ích về những tội vào bè
với Nhưỡng làm phản nhà vua, rồi hỏi:
- Nghe nói nhà ngươi làm cái trống
lớn lắm, chọc thủng mặt trống có thể chứa được người phải không?
ích run sợ mà xin lỗi.
Nguyễn Kim Khuê vì chỗ quen biết
nên hết sức cứu gỡ cho ích. Chỉnh cười khẩy mà rằng:
- Hừ! Cái bộ thầy đồ nói khoác,
giết cũng vô ích.
Đoạn Chỉnh tha cho ích và bắt phải
đi theo mình.
Sau khi Chỉnh thắng được trận ấy,
thanh thế càng lừng lẫy. Tin báo đến tai án đô vương, vương liền cho đòi
Nhưỡng vào phủ để bàn cách chống cự.
Lúc này, hoàng thượng đã hạ mật
chỉ sai các hào kiệt vùng Hải Dương đánh phá đất Hàm Giang để diệt trừ họ
Đinh. Nhưỡng bất đắc dĩ phải cố xin được lĩnh chức trấn thủ hai trấn Hải
Dương và Yên Quảng. Rồi Nhưỡng tự đem bộ hạ kéo về miền đông.
Dân chúng các hạt Thượng Hồng, Hạ
Hồng, Kinh Môn, Nam Sách vốn ghét Nhưỡng là kẻ tàn bạo, nên khi được mật chỉ
của nhà vua, họ rất mừng. Lập tức họ họp nhau thành từng đoàn, đưa hịch kể
tội ác của Nhưỡng, rồi bốn mặt ào ào kéo đến, vây kín thành trấn.
Nhưỡng liệu sức mình không ngăn
nổi, bèn lừa lúc ban đêm, phá vỡ vòng vây, chạy về giữ Hàm Giang.
Khi ấy, ở kinh kỳ người ta đồn
rằng Nhưỡng đã bị dân xứ đông giết chết, chỉ trong sớm tối hữu quân Nguyễn
Hữu Chỉnh sẽ đến nơi, kinh sư ắt thành bãi chiến trường. Trong một ngày,
người ta nhốn nháo bỏ chạy đến ba bốn lần. Lòng người nơm nớp lo sợ. Dân
chúng trong thành khuân chuyển đồ đạc, dắt già bế trẻ, tranh nhau chạy trốn
về các vùng thôn quê; quan quân ngăn cấm cũng không được.
Quận Thạc biết sự thế không thể
làm gì được nữa, liền bàn riêng với bộ hạ rằng:
- Vua chúa thù ghét nhau, việc
nước không có chủ. Quận Liễn đã đi mất rồi mà giặc Chỉnh lại sắp đến, ta đóng
mãi ở đây, thật là thất sách. Chi bằng rút về Sơn Tây, chiếm cứ miền thượng
du, giữ vững thế căn bản, bảo tồn lấy lực lượng, ung dung xem việc thiên hạ,
chờ cơ hội mà nổi dậy, sau này ắt phải ký công. Các ngươi đều ở dưới cờ của
ta, roi cung giong ruổi, phải nên gắng sức. Trong lúc trẩy quân, cần phải
đánh dẹp trộm cướp, làm cho dân chúng ăn ở yên ổn, chứ đừng có bắt chước quận
Liễn, đi đâu làm việc tàn bạo ở đó, khiến cho dân chúng xứ đông đều phản lại
mình.
Bọn thủ hạ đều nói:
Chúng tôi đâu dám chẳng nghe theo
tướng lệnh?
Quận Thạc liền thu quân trở về xứ
Đoài (tức Sơn Tây).
Thế là quận Liễn đi, quận Thạc lại
đi nốt, kinh sư khi ấy thành ra một nơi trống rỗng. Hoàng thượng truyền cho
các hoàng thân đốc thúc những lính đã mộ được đêm ngày tuần phòng, canh giữ
cung điện. Còn ở bên phủ chúa thì chỉ có viên quyền phủ sự Bùi Nhuận, viên
hành tham tụng Mai Thế Uông và viên bồi tụng Dương Trọng Tế, hàng ngày ngồi
trong phủ đường thảo giấy bắt lính, thu lương. Nhưng các phủ huyện không một
ai chịu làm theo. Người của phủ chúa sai đi, qua các thôn ấp đều bị dân quê
đánh đập, lột quần áo, chỉ còn cái mình trần chạy về.
Chúa án đô thấy vậy rất lo, nói
với Trọng Tế:
- Việc lớn hỏng mất rồi! Nếu không
phải người có tài như Thiếu Khang, Thần My (Thiếu Khang là chắt vua Hạ Vũ;
Thần My là bề tôi của Thiếu Khang. Lúc nhà Hạ bị bọn Hậu Nghệ, Hàn Sác cướp
mất nước, Thiếu Khang và Thần My đã khôi phục được) thì không thể cứu vãn
được tình thế. Ta không tự lượng sức mình, trót đã làm chúa. Nhà ngươi quá
đỗi trung thành, trót đã giúp ta. Nay giặc Chỉnh sắp kéo ra, thế lực cực kỳ
mạnh mẽ.
Tục ngữ có nói: "ở vào thế
cưỡi hổ không thể xuống được". Muốn cho xong việc này, phi nhà ngươi
không còn ai.
Rồi chúa bèn sai Tế làm chức trấn
thủ Thanh Hoa, đem quân chống nhau với Chỉnh. Tế bất đắc dĩ phải xin vâng
mệnh. Nhưng khi nghe người ta nói đến tên Chỉnh thì Tế đã mất cả hồn vía. Kéo
quân ra đến ô Cầu Dền, Tế còn trùng trình đóng ở đó hai ngày, chưa chịu lên
đường. Sau chúa phải cho người đến giục, Tế mới chịu đi. Quân Tế vừa mới đến
làng Bình Vọng (tức làng Bằng, Thường Tín, Hà Đông (Hà Sơn Bình)), thì có tin
báo Chỉnh đã vượt sông Thanh Quyết, Tế giật mình mà rằng:
Trừ phi có Phù Đổng thiên vương
sống lại, còn ai có thể địch nổi với hắn? Quận Liễn, quận Thạc thật là biết
thời cơ. Tiếc thay ta là kẻ đọc sách biết chữ mà lại không bằng mưu trí của
bọn võ biền! Bây giờ nghĩ lại thì đã muộn mất rồi!
Liền đó, Tế thu quân qua bến Thanh
Trì, không kịp vào gặp án đô vương nữa. Chạy một mạch thẳng sang vùng Kinh
Bắc, rồi Tế mới sai người về dâng tờ khải, xin án đô vương cho lĩnh chức trấn
thủ Kinh Bắc, để chiêu mộ hào mục ở đó mà mưu đồ cuộc nổi dậy khác.
Chúa án đô thấy tờ khải của Tế, sợ
hãi luống cuống như mất cả hai cánh tay, lập tức cho gọi Bùi Nhuận. Nhưng Bùi
Nhuận đã đem cả gia quyến trốn đi từ ban đêm rồi. Chúa lại cho đòi Sỹ Uông.
Uông cũng thác bệnh xin về nhà riêng. Chúa khóc mếu nói:
- Ta chẳng may đẻ ra ở nhà chúa,
lại bị một lũ tiểu nhân làm cho lầm lỡ. Nếu sớm biết thế này, thà cứ ở Chương
Đức làm ông sư già, chống cây thiền trượng (gậy của nhà sư) ở dưới cửa chiền
mà lại hoá hay!
Rồi chúa ngoảnh lại hỏi bọn tả
hữu:
- Bây giờ nên đi đâu?
Có người trong họ quê ở huyện Quế
Dương tâu rằng:
- Xin chúa cứ trấn tĩnh, hãy vào
nhà Thái-miếu làm lễ cáo biến, thu xếp thân chủ của tiền vương, để tôi ra
sông tìm thuyền, chờ đến đêm khuya, tôi xin phò chúa qua sông sang bắc, đi về
làng tôi. Nhà tôi đã trải mấy đời làm tướng cầm quân, hào mục vùng Từ Sơn đều
ở trong cửa mà ra, nếu tôi lấy điều trung nghĩa mà kêu gọi, chắc hẳn không ai
là không theo. Đinh Tích Nhưỡng ở Cẩm Giàng làm cánh tay trái; Dương Trọng Tế
ở Gia Lâm làm cánh tay phải; Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây làm ngoại ứng; còn chúa
cứ việc đóng tại huyện Quế Dương mà hiệu triệu quân cần vương, đồng thời dựa
vào thế hiểm của sông Nhị Hà để cố thủ. Chỉnh tuy hung tợn, há dám sang sông
đánh nhau cùng ta? Xin chúa đừng lo!
Chúa mừng rỡ mà rằng:
- Có lẽ trời chưa nỡ làm mất họ
Trịnh, nên mới đem ngươi mà ban cho ta. Nếu quả như lời ngươi nói, thật là
phúc lớn cho xã tắc vậy!
Đồng hồ (đây là đồng hồ ngày xưa:
người ta dùng một cái bình đựng nước có khắc từng độ, và có lỗ cho nước nhỏ
giọt dần dần, rồi cứ xem mực nước mà biết giờ giấc) nhỏ giọt xuống đến trống
canh ba. án đô vương bèn lẻn sang bắc, quan quân theo hầu chỉ chừng vài chục
người. Tàn binh Thanh-Nghệ ở trong bốn đội quân thị vệ không một tên nào đi
theo.
Sớm hôm sau, hoàng thượng mới biết
là án đô vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm sai người phóng hoả đốt
hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa
tắt.
Thế là hai trăm năm lâu đài cung
khuyết huy hoàng bỗng chốc đã thành ra bãi đất cháy đen! Xa gần nghe thấy tin
đó, ai cũng thương chúa và trách vua làm quá đáng. Hôm ấy nhằm ngày mồng 8
tháng chạp năm Bính-ngọ (1786).
Lại nói, khi qua khỏi sông Thanh
Quyết, Chỉnh trước hết cho ngay bộ hạ là Lê Giốc đem biểu tới dâng nhà vua.
Trong biểu đại ý nói rằng:
"Thần vâng chỉ kéo quân vào bảo vệ kinh sư, đã kính cẩn xuất quân từ
tháng trước. Khi tới huyện Ngọc Sơn, Lê Trung Nghĩa (tức Mãn trung hầu) và
Phan Huy ích dám ra chống cự, thần vẫy toán thiết kỵ tiến đánh, chém chết
Trung Nghĩa, bắt sống Huy ích. Nhờ về oai trời, lòng hăng hái của quân sĩ
tăng lên gấp trăm lần. Từ Thanh Hoá trở ra Bắc, thần đi tới đâu dân chúng vui
mừng đón rước tới đó. Đến chỗ nào thần cùng đều kính cẩn tuyên bố oai đức của
nhà vua, khiến cho đâu đấy đều yên nghiệp làm ăn. Thần nay thân mang giáp
trụ, hồn mơ tưởng quân thiều (khúc nhạc của vua Thuấn. ở đây mượn để chỉ vào
nhà vua), tấc lòng khôn xiết nhớ mong cửa khuyết.
Hoàng thượng xem xong tờ biểu,
mừng lắm, liền hỏi thăm về tình trạng khi ở trấn Nghệ An, Giốc cứ thực mà
tâu. Hoàng thượng khen Chỉnh đã khéo quyền biến; rồi phong cho Giốc làm chức
nội hàn viện cung phụng sứ thiêm thư khu mật viện sự, trông coi cơ Tả oai.
Khi Chỉnh tới làng Thịnh Liệt,
hoàng thượng sai các quan triều ra ngoài cửa ô đón tiếp. Lúc Chỉnh vào triều
hoàng thượng cho ra mắt ở điện Trung Hoà và ân cần an uỷ. Chỉnh tâu rằng:
- Gần đây, kiêu binh làm loạn, đại
thần (chỉ quận Huy) gặp nạn, thần bấy giờ đang cầm quân ở ngoài, vì chúa
Trịnh không dong, nên phải bỏ nước trốn đi. Thần đã nghĩ kỹ, nguồn gốc của sự
rối loạn ấy, là do cương thường sai trái, mũ dép đảo lộn mà ra. Khoảng năm
Canh thân (1740), Tân-dậu (1741), những kẻ trung nghĩa trong nước đều căm tức
về chuyện ấy, người thì phò hoàng thân mà nổi dậy, người thì giữ quận ấp mà
mộ binh. Công việc của họ tuy không thành, nhưng cái tiếng nghĩa khí cũng đã
lan rộng. Coi đó đủ biết, người ta ai cũng chung một bụng ấy, không phải thần
vì mưu riêng của thân mình mà gây ra hiềm khích. Vả chăng thần lấy điều nghĩa
mà cảm động lòng người, là cốt để chỉnh đốn lại cơ đồ nhà vua, làm sáng tỏ
đạo quân thần cho hợp với lẽ trời đất. Chớ còn đối với chúa Trịnh, thần có
thù oán gì đâu? Nay nếu lòng trời đã hối việc gieo hoạ, mọi người đều biết
sửa lỗi lầm; đó há chẳng phải là phúc lớn của nước nhà sao? Tiên đế thương
tấm lòng ấy của thần, đã dùng những lời lẽ ôn tồn để dụ thần, thần thật cảm
kích khôn xiết. Vậy mà người trong nước, những kẻ không hiểu thần, lại cho
thần là có tội. Họ muốn mưu đồ bước theo vết xe đã đổ, rắp tâm giết chết thần
để quấy rối chính sự buổi đầu của bệ hạ. Cúi xin bệ hạ xét kỹ lo xa, không có
điều gì là không soi đến. Thần chẳng dám đổ vạ cho người để che lỗi của mình.
Người xưa đã nói: "Biết tôi là vua". Mong ở lượng trên soi xét.
Hoàng thượng nói:
- Trẫm đã biết rồi! Ngày nay giúp
trẫm dẹp yên loạn lạc, làm cho nước được thái bình, chỉ nhờ nhà người mà
thôi!
Rồi đó, hoàng thượng thăng cho
Chỉnh làm chức bình chương quân quốc trọng sự, tước Bằng trung công. Một
người thân cận với Chỉnh là Nguyễn Kim Khuê và con trai Chỉnh là Nguyễn Hữu
Du đều được phong tước hầu, được cầm quân và cùng thuộc vào trong tướng phủ.
Ngoài ra, bao nhiêu bộ hạ, tướng sĩ của Chỉnh, cũng đều được theo thứ bậc mà
thăng chức tất cả.
Khi Chỉnh mới chạy về Nghệ An,
trong triều có viên quan văn là Nguyễn Đình Giản, thường vẫn nói mãi về tội
Chỉnh dắt quân nước ngoài về phá nước nhà; lại xin gánh vác việc đánh Chỉnh
để giết tên giặc của nước, và thề không cùng sống với Chỉnh. Bấy giờ triều
đình cũng cho là người hăng hái, nhưng không dám chuẩn y lời xin của Giản.
Viên quan Nguyễn Đình Giản ấy,
người làng Vĩnh Trị, huyện Hoằng Hoá, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ-sửu (1769), là người
chất phác, cương trực, hay công kích lỗi lầm của người khác. Kẻ có lỗi dẫu là
bậc quyền quý, là bạn bè gần gũi hay là bà con thân thuộc, Giản cũng đều vạch
lỗi ngay trước mặt, không hề kiêng nể. Bởi vậy mọi người đều khen Giản là
thẳng thắn.
Đến lúc Chỉnh vào kinh, thì Giản
đang vâng mệnh đi chiêu dụ ở trấn Sơn Tây chưa về. Các quan bàn riêng với
nhau: Giản chắc không về, mà có về chắc cũng không chịu khuất phục, nhất định
Giản sẽ lập mưu với Hoàng Phùng Cơ để diệt Chỉnh. Nếu Giản về triều, chắc
Chỉnh sẽ không dung, thế nào Chỉnh cũng ngầm kiếm cớ để giết Giản. Hai sự
việc ấy không biết rồi sẽ ra sao?
Kim Khuê nghe được những lời bàn
ấy, bèn hỏi Chỉnh:
- Ông cho Nguyễn Đình Giản là hạng
người như thế nào?
Chỉnh đáp:
- Cuồng trực! (thẳng thắn đến mức
cuồng dại)
Khuê lại hỏi:
- Có thể dùng được không?
Chỉnh trả lời:
- Chẳng những dùng được mà thôi,
con người ấy còn đáng trọng nữa là khác!
Khuê lại hỏi tiếp:
- Ông không giận Giản, có phải là
thật tình chăng?
Chỉnh nói:
- Ông chẳng thấy quận Hoàn là bố
vợ hắn, vậy mà hắn còn ngồi tại giữa triều kể tội ông ta rằng quỳ gối theo
giặc, huống chi là người khác? Nếu mình có lỗi, hắn nói đúng. Còn như mình
không có lỗi mà hắn nói, thì cũng không hại gì cho mình. Con người như hắn
thực không nên giận. Mà có giận cũng không làm gì hắn tốt. Chẳng qua chỉ tổ
để cho người ta nhòm thấy chỗ nông sâu của mình thôi!
Khuê nhân đó bèn khuyên Chỉnh nên
vời Giản về dùng, để thu phục lòng người trong nước. Chỉnh nghe theo, liền
sai người đưa thư cho Giản, trong thư lời lẽ hết sức ôn tồn, mềm mỏng.
Giản trở về, vừa gặp lúc triều
đình đang bàn việc sắp đặt quan chức. Phan Lê Phiên được cử làm bình chương
sự; Trương Đăng Quỹ, Trần Công Xán làm đồng bình chương sự; Nguyễn Huy Trạc,
Phạm Đình Dư làm tham tri chính sự; Nguyễn Đình Giản làm phó đô ngự sử.
Khi mọi việc đã tạm yên, Chỉnh
liền sửa sang dinh thự ở toà Lượng phủ để ở.
Năm ngày Chỉnh mới vào chầu một
lần, tan buổi chầu, lại ra ngồi ở chính sự đường để bàn bạc công việc. Còn
những ngày khác, bất kỳ việc quan, việc dân, các quan đều phải tới dinh thự
riêng của Chỉnh, để xin Chỉnh quyết định.
Từ đó, quyền Chỉnh thật ngang với
nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước.
Bấy giờ, tiền tệ trong nước phần
nhiều bị các nhà giàu giấu cất, nhân dân đều khốn khổ về nạn khan tiền, hàng
hoá không lưu thông, vật giá cao vọt. Chỉnh bèn xin với triều đình, ra lệnh
thu vét hết tượng đồng, chuông đồng ở các chùa, miếu, đem về kinh sư, mở lò
đúc tiền. Rồi Chỉnh thả cho thủ hạ đi về khắp nơi, cướp bóc chuông tượng của
các thôn ấp. Người nào mà dám giấu giếm, tức thì bị chúng tra khảo, trừng
trị. Chỉ riêng có pho tượng thần bằng đồng đen ở quán Trấn Vũ phía bắc kinh
thành, là chúng không dám lấy mà thôi.
Thấy Chỉnh làm như vậy, trăm họ ai
cũng ta thán. Một đêm, có người dán ở ngoài cửa Đại Hưng hai câu đối như sau:
Thiên hạ thất tự chung, chung thất
nhi đỉnh an tại?
Hoàng thượng phần vương phủ, phủ
phần tức điện diệc không! (thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất, vạc còn đâu
nữa? Hoàng thượng thiêu phủ chúa, phủ thiêu, điện cũng trơ thôi! Chữ
"đỉnh" (vạc) ở vế trên, là tượng trưng cho cơ nghiệp của nhà vua)
Chỉnh nghe hai câu đó, lấy làm căm
ghét lắm. Vả chăng, Chỉnh cũng tự đoán biết rằng, những việc mình làm đều
không được dư luận đồng tình. Bởi vậy, Chỉnh càng mượn thế ra oai, để hòng
khoá miệng mọi người.
Hồi Chỉnh trốn theo quân Nam, có
viên quan võ là Hoàng Đình Xước vâng chỉ đốc lính coi giữ kinh thành. Khi đó,
Xước gặp người nhà Chỉnh đeo gươm chạy ở trên đường, liền bắt lại hỏi. Người
ấy xin nộp thanh gươm, Xước thu lấy rồi thả cho đi. Đến khi Chỉnh tới kinh
sư, Xước đang đóng quân ở trấn Kinh Bắc, liền về ra mắt Chỉnh để trả lại
thanh gươm. Chỉnh lập tức sai bắt Xước bỏ ngục. Nghe nói nhà Xước có nhiều đồ
quý lạ, Chỉnh bèn đòi lấy kỳ hết, rồi mới tha.
Những việc làm của Chỉnh đại loại
đều như thế thực là tàn bạo và không còn kiêng sợ gì cả.
Muốn thêm oai thế, Chỉnh lại tự
đặt tên quân đội của mình là đạo Vũ Thành. Trong đạo chia ra năm doanh; nội
quân gồm có hai vệ gọi là Thiết kỵ, Thiết đột; mỗi vệ chia làm năm đội; khí
giới, màu sắc quần áo đều trang bị theo hình thức của triều nhà Thanh, để cho
phân biệt với các toán quân khác. Tại Lượng-phủ, nơi ở của Chỉnh, nhà cửa,
lâu đài, kiệu xe, quần áo hết thảy đều chế theo kiểu mới, có ý muốn sánh
ngang với nhà vua. Trong thì nắm giữ quân cơ, ngoài thì chiếm quyền trấn thủ
các trấn, phàm những chỗ cơ mật, trọng yếu, đều do vây cánh của Chỉnh chia
nhau lĩnh chức. Tất cả mọi việc, Chỉnh đều chuyên quyền, làm trước rồi sau
mới tâu vua. Thậm chí có việc đã bàn định tại triều mà vua cũng không được
biết.
Uy quyền của Chỉnh ngày càng to
lớn như vậy, nên hình tích của hắn cũng lộ ra hết. Người ta bàn tán sôi nổi,
ai cũng bảo rằng Chỉnh sẽ làm chúa, và rồi đây Chỉnh hiếp chế nhà vua sẽ còn
tệ hơn chúa Trịnh ngày xưa.
Hoàng thượng thấy thế cũng hơi ngờ
Chỉnh. Một hôm, hoàng thượng đuổi hết tả hữu, rồi nói kín với hai viên nội
hàn là Ngô Vi Quý và Lê Xuân Hợp rằng:
- Chỉnh tuy có công bảo vệ, nhưng
dần dà đã thấy hắn có vẻ muốn lấn bức. Giá có thể chặn ngay lúc đầu, khiến
hắn không thể càn rỡ được nữa, thì mới đúng với thuật nuôi chim ưng (đời Tam
quốc, Trần Đăng nói với Lã Bố rằng: "Tào công nói nuôi Lã Bố như nuôi
chim ưng, cáo thỏ chưa hết thì không dám cho ăn no, nếu ăn no ưng sẽ bay đi
mấtv.v...". ở đây dùng ý ấy). Nếu để khi thế lực của hắn đã thành, thì
hắn sẽ khó trị, e cũng giống như nuôi cọp để lo về sau. Vậy các ngươi hãy nên
tính hộ trẫm!
Bọn Quý, Hợp tâu:
- Như lũ thần đã xem xét, thì
Chỉnh là hạng người ý nghĩ cực kỳ hiểm độc, bụng dạ quá ư tàn nhẫn, mưu mô hết
sức sâu sắc, giả trá rất đỗi khôn ngoan, mà ứng biến thì mau lẹ tuyệt vời.
Con người ấy thực là một kẻ gian hùng ở đời loạn, chưa chắc là một kẻ bầy tôi
hiền tài ở đời trị. Cũng ví như loài chồn sói, không phải là vật có thể dạy
dỗ; giống yêu ma, không phải là vật có thể kiềm chế. Chỉ còn có một cách là
giết đi mà thôi. Nhưng giết hắn cũng phải có mẹo. Bệ hạ hãy nên coi hắn như
người tâm phúc, đãi hắn với vẻ lễ mạo, cho hắn ra vào nơi cung cấm, không tỏ
vẻ gì nghi kỵ này khác. Rồi đó, thỉnh thoảng lại mời hắn vào điện bàn việc,
luôn thể đặt tiệc cho hắn uống rượu thật say. Vài lần như thế để hắn quen đi
mà coi là thường, bấy giờ mới dùng thuốc độc mà giết. Như vậy, việc làm mới
khỏi lộ, biến loạn cũng không thể do đâu mà xảy ra được. Theo ý ngu của lũ thần,
chỉ có mẹo ấy là hay hơn cả!
Hoàng thượng nói:
- Chuyện này ra ở miệng các ngươi,
vào trong tai trẫm, đừng để cho người nào biết. Kinh Dịch có câu rằng:
"Làm vua không kín chuyện thời mất bề tôi, làm bề tôi không kín chuyện
thời mất thân mình". Các ngươi phải lấy đó làm răn. Bao giờ gặp cơ hội
có thể làm được, trẫm sẽ bảo với các ngươi.
Thực là:
Âu quen trên biển chừng không lạ
Thỏ mắc trong vòng hẳn khó ra.
Chưa biết việc này như thế nào?
Hãy xem hồi sau phân giải.
Theo sách Liệt sử: xưa trên biển có người chơi với
chim âu đã quen thuộc. Một hôm anh ta theo ý người cha định bắt chim âu về
cho cha chơi, chim âu bèn không chịu đậu xuống nữa. Câu này ý nói việc vua Lê
định lừa Nguyễn Hữu Chỉnh uống rượu cho quen để đánh thuốc độc cũng giống như
thế.
Kinh Thi có bài thơ "Thỏ ta" ý
nói đời Văn vương đến những người làm nghề bẫy thỏ cũng có thể dùng làm quan.
"Thỏ ta" là cái bẫy đánh thỏ. ở đây tác giả chỉ mượn hai chữ ấy để
nói một khi Nguyễn Hữu Chỉnh đã mắc vào cạm bẫy thì khó mà trốn khỏi.
|
Hồi
thứ tám
Dương
Trọng Tế bị dâng tù trước nhà Thái học
Hoàng Phùng Cơ phải tự tử ở ngoài Tây thành.
Lại nói, sau khi vua đã lập mưu
giết Chỉnh, một hôm viên nội hàn là Vũ Trinh có việc riêng vào yết kiến, vua
bèn đem việc ấy bảo kín với Trinh, Trinh giật mình, nói:
- Người nào bày cho bệ hạ cái mưu
ấy, thần trộm lấy làm nguy hiểm. Hiện nay ở ngoài có giặc mạnh, tin tức ngoài
biên ải đang báo về khẩn cấp, ở trong triều đình thì mọi người còn nghi ngờ
nhau. Bệ hạ đã dựa vào Chỉnh làm nanh vuốt, thì nên đối đãi bằng cách thành
thực, để cho y được vui lòng thần phục. Hễ mà biết cách giá ngự, thì kẻ loạn
thần có thể thành kẻ lương thần. Sao lại đón trước sự dối trá của người ta để
đoán chừng một việc chưa chắc đã có? Hình tích chưa lộ mà nghi kỵ đã sinh. Họ
hàng bè đảng của Chỉnh đều cầm nhiều quân và ở nơi trọng yếu, la liệt trong
ngoài, một khi xảy ra biến cố, bọn ở kinh thành sẽ làm việc có hại cho xã
tắc, bọn ở các ngoại trấn sẽ chạy theo quân giặc. ấy là mình tự cắt vây cánh
của mình để giúp cho kẻ thù vậy.
Vua liền đổi sắc mặt mà rằng:
- Nếu nhà ngươi không nói, thì có
lẽ trẫm bị lầm rồi.
Tức thì vua đòi Vi Quý, Xuân Hợp
vào quở trách và bảo mau mau thôi ngay việc ấy đi.
Về sau Chỉnh biết chuyện ấy, rất
oán vua bạc bẽo và muốn hại ngầm những người bày ra mưu đó.
Chỉnh bảo với viên tướng bộ hạ là
Nguyễn Như Thái rằng:
- Ta đi khắp bốn biển, không kẻ
nào dám ngó thẳng vào mặt ta. Mấy thằng học trò chưa thông hiểu việc đời ấy
là cái thá gì mà dám cả gan như vậy? Chờ khi nào ta xuất quân đánh giặc, sẽ
đem chúng để thử gươm xem có sắc không, rồi tống cổ chúng xuống âm ty cho
chúng gây chuyện với Diêm Vương.
Thái hỏi người nào, Chỉnh trả lời:
- Chính là Ngô Vi Quý và Lê Xuân
Hợp, bọn bề tôi thân cận của nhà vua đấy!
Từ đó, Chỉnh cứ ở luôn trong dinh
thự riêng, không vào triều yết. Mọi việc quân, việc nước, đều sai người vào
tâu. Vua có ý kiến nên chăng thì lại sai các đại thần như bọn Phan Lê Phiên,
Trần công Xán, Vũ Trinh đến dinh của Chỉnh để biện bạch cho rõ.
Một hôm, trời rất rét, bọn Phiên ở
trong triều, cử Trinh tới nhà Chỉnh.
Trinh người làng Xuân Liên, huyện
Lang Tài, nổi tiếng là người có tài và nhanh nhẹn, Chỉnh cũng có ý kính mến.
Vua thường dặn Trinh nếu có dịp thuận tiện thì nên biện bạch với Chỉnh về
chuyện hiềm nghi trước đó.
Hôm ấy, Trinh đến nhà Chỉnh là để
phúc tư về việc quân, ngồi chờ trên linh các mãi không được vào. Một viên
công sai nói với Trinh.
- Thượng công đang ở nhà trong
uống rượu không phải là giờ tiếp khách, quan lớn hãy về đã.
Trinh nói to lên rằng:
- Việc quân khẩn cấp, không thể
báo chậm. Thượng công ngồi chơi, chỉ cách hai tấm cánh cửa, mà tắc tịt không
thông; trên nhà dưới nhà mà xa nhau hơn hai ngàn dặm, thế là cớ làm sao? Tôi
có việc công đến đây không phải là để gặp riêng, về cũng không được!
Chỉnh nghe tiếng, vội sai người
dẫn Trinh vào.
Sau khi nói xong. Trinh xin lui,
Chỉnh nói:
- Việc ấy đã có bọn tỳ tướng của
quận Thái trông nom, sẽ phát binh phù ngay, không phải phiền đến sứ thần nhà
vua phục mệnh. Ông hãy ở đây cùng uống chén rượu đã. Rồi Chỉnh rót một chén
rượu lớn đưa cho Trinh.
Trinh cố từ không nhận, Chỉnh nói:
- Quan nội hàn nghi tôi chăng?
Trinh đứng dậy tạ lỗi, xin uống,
và nói:
Tôi là kẻ bất tài, được thu dùng
đã là quá lắm. Việc gây dựng cho tôi đều là nhờ ở nhà vua và quan tể tướng,
dám đâu có bụng nghi ngờ như chuyện "cung treo rơi bóng" đời xưa
(theo Tân thư: xưa Nhạc Quảng mời bạn uống rượu, cái cung
treo ở trên tường soi bóng vào trong chén, người bạn tưởng là con rắn, uống
xong về nhà thành bệnh. Sau Quảng phải mời bạn đến uống rượu một lần nữa ở
chỗ ngồi trước kia và chỉ cho bạn biết rõ là bóng cái cung, soi vào trong
chén rượu bấy giờ người bạn mới khỏi bệnh. - Đây mượn ý để chỉ sự nghi ngờ).
Chỉnh im lặng không nói gì. Tan
tiệc. Trinh ra bảo với viên thị sư của Chỉnh là Nguyễn Khuê rằng:
- Gần đây lắm kẻ bịa đặt tin nhảm,
trăm điều không có một điều thật. Bọn gian đó thêu dệt ra những việc không có
căn cứ, để gây sự nghi hoặc cho cả trong và ngoài. óc suy xét của người tầm
thường có khi không khám phá nổi. Nhưng người cao minh như ông lớn nhà ta,
chắc là không để những câu nói ấy vào tai. Tuy vậy, về phần hình tích, có lẽ
ngài cũng chưa khỏi lầm lẫn; tôi sợ rằng vì thế mà họ lại bịa ra nhiều
chuyện. "Cọp ở chợ" (theo Chiến quốc sách: Bàng Thống nói với vua
nhà Nguỵ rằng: một người nói ở chợ có cọp thì vua không tin, nhưng hai ba
người nói ở chợ có cọp thì vua sẽ phải tin, - ý nói tuy lời gièm pha không
thật, nhưng nhiều người nói thì người nghe cũng phải tin) là việc không thể
có, nhưng đến ba người nói thì người nghe cũng không rõ là có hay không.
Huống chi những kẻ bịa chuyện, lại không phải chỉ có ba người mà thôi. Vì
thế, tôi muốn nói rõ sự tình ấy, để dứt mối hiềm nghi từ lúc còn nhỏ bé,
khiến cho giữa vua và tôi, tình ý thông suốt, trên dưới yên ổn với nhau, há
chẳng hơn hay sao?
Khuê trả lời:
- Vâng! Ông hãy cứ về.
Sáng mai, nhân lúc rảnh, Khuê đem
lời Trinh thuật lại với Chỉnh. Chỉnh nói:
- Lời người ta nói cố nhiên không
thể tin cả, nhưng cũng không thể hoàn toàn không tin. Ta đã xem kỹ, nhà vua
là người nhẫn tâm và đa nghi, việc ấy chắc có. Tuy vậy, dù có dù không, cũng
chẳng làm gì được ta. Vả chăng, trong lúc bốn cõi còn nhiều giặc giã, hãy gác
chuyện đó lại, khoan nói đến.
Lại nói, Dương Trọng Tế từ khi ở
làng Bình Vọng rút quân chạy sang Kinh Bắc, liền cùng cháu là Dương Vân, học
trò là Nguyễn Mậu Nễ, đắp đồn luỹ ở huyện Gia Lâm để chống giữ và lo tính
việc khởi bính. Vừa lúc ấy, chúa Trịnh chạy đến làng Quế ổ (nay thuộc huyện
Quế Võ, Hà Bắc), cho người đến gọi Tế, Tế nói:
- Vừa rồi, việc đi Thanh Hoá,
trong phủ có Bùi Nhuận là võ tướng, Mai Thế Uông là thổ quan, chúa không sai
hai người ấy mà lại dùng ta trước để thử quân giặc. Đó là chúa muốn đem ta mà
cho giặc vậy. Bởi chúa đãi người không thật cho nên mới đến thế này. Bây giờ
cùng chúa mưu tính việc lớn, đã có một lũ võ biền ở làng Quế ổ, vời ta làm
gì?
Rồi Tế chối là việc quân khẩn cấp,
không thể đến được. Tế tự mộ lấy vài ngàn người tráng đinh, đắp luỹ từ làng
Như Kinh đến làng Phú Thị (Như Kinh nay thuộc Văn Giang, Hưng Yên. Phú Thị
thuộc Gia Lâm, Hà Nội), dựng lên ba đồn, chia quân đóng giữ. Tế cho Vân làm
chức bình địch tướng quân, Nễ làm chức tham tán quân vụ. Lại đưa hịch đến các
quận bên cạnh, kể cái tội nhà vua dựa vào Chỉnh mà đuổi chúa. Lời hịch đại
lược như sau:
"Trong hồi nguỵ Mạc, nhà Lê
đã không còn nước. Nhờ có Thái vương họ Trịnh giúp cuộc trung hưng, công
nghiệp thấu đến trời đất, phúc khánh để cho con cháu. Hai trăm năm nay, vua
Lê chỉ việc khoanh tay rủ áo, chúa Trịnh coi hết mọi việc chính sự; thần dân
trong ngoài cùng tôn phò và kính mến, không ai có lòng nào khác. Tên Nguyễn
Hữu Chỉnh vốn là một kẻ vong mạng, thoát chết, mưu đồ làm việc càn rỡ, đem
giặc ngoài vào phá phách nước nhà, giết chủ cũ mà làm hại nhân dân, xướng ra
câu "diệt Trịnh", mượn cái tiếng "phò Lê". Vua Chiêu
thống là người do quân Nam và Chỉnh lập lên. Nể giặc lập mình, quên ân nghĩa
tám đời chủ suý; đốt phủ đuổi chúa, tựa vào sức một lũ loạn thần. Đã không
xứng đáng làm vua, lấy gì tiêu biểu cho nước. Tôi là viên đài thần (chức ngự
sử) của tiên triều, nghĩa không thể nín. Nay sắp dấy quân giết Chỉnh, tìm lấy
người hiền trong họ vua cháu chúa mà lập lên để nối cơ nghiệp vua, chúa thuở
trước. Hẹn đến ngày mồng một tháng nọ sẽ kéo quân qua sông Nhĩ Hà. Các vị hào
kiệt bốn phương người nào đồng chí với tôi, đều nên đúng hẹn họp quân, hợp
sức tiến đánh, công khôi phục kíp sớm hoàn thành, nghĩa đồng hưu cùng ghi
vĩnh viễn... "
Các thổ hào ở vùng Từ Sơn, Thuận
Thành thấy lời hịch chỉ trích nhà vua, giọng nói ngược ngạo, họ bèn nói với
nhau rằng: "Danh đã không chính thì lời nói cũng không thuận, mà việc sẽ
không thành. Chúng mình đều là bề tôi của nhà vua, không nên theo y để chuốc
lấy vạ". Bởi vậy, chẳng một người nào hưởng ứng với Tế; mà những người
đã nhóm họp với Tế rồi cũng rút về dần dần, thành ra người giúp Tế càng ngày
càng ít đi. Vả chăng bọn Tế, Vân sẵn có tính tàn bạo, hay cướp bóc của nhân
dân, Nễ lại là tên ty bỉ dung tục, không hiểu biết gì, nên ai cũng chán ghét.
Lúc bấy giờ có người giám sinh ở
huyện Văn Giang, bắt được tờ hịch của Tế, chạy lên báo với vua. Vua xem hịch
giận lắm, vội vàng cho gọi Chỉnh mà bảo rằng:
- Trọng Tế xuất thân ở hàng tiến
sĩ, sao lại được khinh vua. Trước đây y đã gọi trẫm là vua "lông
đỏ" (ý nói Chiêu Thống theo Tây Sơn) và xé tờ chỉ dụ của trẫm trước mặt
sứ giả. Nay y lại viết ra tờ hịch, không kiêng sợ gì cả. Thằng giặc ấy mà
không giết thì lấy gì để răn kẻ khác. Vậy phải cho quân đi đánh ngay.
Chỉnh lạy hai lạy, vâng mệnh lui
ra, rồi sai Nguyễn Như Thái và Hoàng Viết Tuyển đem quân đi đánh Tế.
Lúc sắp đi, Chỉnh dặn họ rằng:
- Trọng Tế chiếm giữ vụng trộm mấy
thôn ấp ở quê mình, chẳng khác con cáo nương nơi gò cũ. Thứ quân nhà quê của
y cũng như bầy dê chăn ở ngoài đồng, cầm roi mà đuổi là chạy, có cần gì phải
đánh! Các ông cứ gióng trống mở cờ, đến thẳng dưới luỹ. Chắc hắn chỉ có hai
cách: không hàng thì chạy. Hắn hàng thì điệu ngay về, không được cướp bóc
làng xóm. Hắn chạy thì không cần đuổi tới cùng, sợ sinh ra việc rắc rối khác.
Ta nghe nói người vùng Kinh Bắc oán hắn đến tận xương, hắn chạy đến đâu chắc
không có ai chứa chấp, sớm muộn thế nào họ cũng bắt hắn đến cửa quân cho hắn
nộp đầu mà thôi.
Thái, Tuyển vâng mệnh dẫn quân qua
sông.
Tế nghe tin báo, liền gọi bọn Vân
và Nễ bàn việc chống cự. Vân nói:
- Giả sử Chỉnh tự đến đây, cũng
không phải là kẻ đối thủ của cháu, huống chi mấy thằng thiên tỳ (những quan
võ giúp việc cho chủ tướng) kia thì làm được trò trống gì? Cứ cho chúng nó
đến để chịu chết. Chém đầu hai đứa ấy trước, rồi kéo tràn qua sông, bắt Chỉnh
và dựng nước đều ở cả một chuyến này. Quan chú không phải lo lắng làm gì!
Tế mừng lắm, cho là phải, rồi cười
nói:
- Cửa chùa đã có thiên thần hộ
pháp, khắp ba ngàn thế giới, mười lăm loài quỷ, tự nhiên đều phải lui bước
nghe theo. Đức Phật Thế tôn chỉ việc chắp tay ngồi trên toà sen nhận lễ dâng
cúng mà thôi.
Mậu Nễ cũng nói:
- Tôi xin sắp sẵn trâu rượu, chờ
khi tới kinh mở tiệc uống cho thật say. Lần này quan thầy sẽ là đức Phật sống
của nước Nam Việt, trăm nghìn Phật La-hán chắc đều phải hiện chân thân để
nghe ta chỉ vẽ.
Chú cháu, thầy trò tâng bốc, khoe
khoang lẫn nhau, không còn để ý gì đến việc binh nữa. Chợt có tin báo quân
của Thái, Tuyển đã đến. Tế bèn lấy thanh gươm trao cho Vân và nói:
- Kinh thư nói
rằng: "Nãi ngôn để khả tích" (nghĩa là: Lời ngươi đưa đến thành
công). Phải nhớ lấy nhé!
Vân lạy hai lạy, nhận gươm lui ra,
rồi dẫn quân lên mặt luỹ, phấp phỏng dòm ngó. Thấy thế quân của Thái, Tuyển
rất mạnh, Vân bắt đầu tỏ vẻ lo sợ. Vả chăng, quân của Vân mới mộ, đều là hạng
người ô hợp chưa qua trận mạc bao giờ, tai mắt chưa quen thuộc với chiêng
trống cờ xí, họ tưởng đó cũng như những đám rước thần, cúng Phật ở thôn quê
mà thôi.
Vân tựa vào luỹ mà dàn trận. Thái,
Tuyển chia quân làm hai đường cùng đánh ập lại. Súng và hoả hổ cùng nổ ran
một lúc, xa gần rung động, khói lửa ngút trời. Quân của Vân kinh hãi, tan vỡ,
không sao ngăn được. Vân hoảng hốt, cuống quít, không biết làm thế nào, bèn
cởi bỏ áo trận, rồi chạy trốn.
Trọng Tế ở trong đồn Lạc Đạo (tên
xã, thuộc Gia Lâm, Hà Nội) cho người đến dò, thì Vân đã bỏ đi đâu mất, chỉ
thấy hai đạo quân của Thái, Tuyển đang trèo lên luỹ, chém giết tứ tung.
Người do thám sợ hãi chạy về báo
tin, Tế nghe nói, vội vàng đứng dậy, ruột gan rối bời, chưa biết tính liệu ra
sao? Lại thấy quân lính tan tác, mỗi người chạy mỗi ngả, Tế trông trước, nhìn
sau, chẳng biết làm thế nào, bèn ngửa mặt lên trời, mà kêu rằng:
"Trời ơi, chỉ tại trời không
phù hộ nhà chúa cho nên mới đến thế này đây!".
Rồi Tế dẫn vài tên tay chân vượt
luỹ chạy trốn. Chập tối, Tế chạy đến làng Ngọc Xá (sau đổi là Yên Xá, thuộc
huyện Cẩm Giàng, Hải Dương (Hải Hưng)) thì Vân theo kịp. Đêm ấy chú cháu bàn
với nhau vào ngủ nhờ ở nhà một người dân trong làng. Vân nói với Tế:
- Xin chú trước hết hãy vào Quế ổ
ra mắt chúa, chúa vốn tin và trọng chú, thấy chú chắc là mừng. Hơn nữa, ở đó
đều là những người võ biền, được chú là văn thần bày mưu lập kế, chỉ huy mọi
việc cho, thế nào chúa cũng nghe theo. Nhân cơ hội ấy, mình sẽ thu thập tàn
quân để tính việc về sau. Chẳng qua chỉ trong mươi ngày, thanh thế nổi lên là
lại có thể làm nên việc.
Tế nói:
- Không được! Trước đây chúa cho
gọi ta, ta chối không đến. Bây giờ thua trận mà đến, thì lấy cớ gì mà nói! Vả
chăng như thế thì còn mặt mũi nào? Mà rồi những người ở Quế ổ còn coi ta ra
gì? Trước đây ta đã cộng sự với quận Nhưỡng, rất là tương đắc. Nay nghe ông
ta chiếm giữ vùng Hàm Giang, và hiệu triệu nhân dân vùng Hải An, thủ hạ có
tới vài vạn, thuyền bè đầy sông. Ông ta là tay tướng giỏi, ta nên đến ngay
Hàm Giang, mưu tính với ông ta, rồi xin chúa dời xa giá về đó, bọn người ở
Quế ổ không thể không theo chúa tới họp. Nhân đó ta bảo họ nổi lên ở xứ bắc,
cháu đem một cánh quân đi cùng họ; quận Nhưỡng thì nổi lên ở xứ đông; ta thì
phò chúa đốc chiến. Các đạo hẹn nhau cùng cất quân trong một ngày, việc lớn
chắc có thể thành. Không như trước đây, chỉ một toán quân chơ vơ, đến nỗi bị
giặc uy hiếp.
Vân nói:
- Phải lắm! Nhưng từ Ngọc Xá đến
Hàm Giang, đường sá xa xôi, mà mình chỉ có năm sáu người lủi thủi đi đường,
bộ dạng tiều tuỵ, trông chẳng ra sao. Vả lại, vạn nhất xảy ra biến cố gì,
giữa đường tay không, lấy chi mà chống đỡ. Vậy cháu xin mộ lấy dăm sáu chục
tên lính, khí giới sắc bén, mở cờ gióng trống mà đi; sớm lên đường chiều tới
nơi, quận Nhưỡng thấy thế cũng không đến nỗi khinh mình.
Tế nói:
- ý kiến của cháu cũng đúng. Cháu
nên gấp rút đi mộ quân lính, hẹn chiều tối hôm nay phải đến đây ngay.
Không ngờ chú cháu y bàn luận cả
đêm như thế, đều bị người trong nhà nghe thấy hết và biết rõ chuyện. Nửa đêm,
họ liền đi báo với viên ấp trưởng. Sáng dậy, khi Vân đã đi rồi, viên ấp
trưởng liền đem vài chục bộ hạ cầm khí giới và khiêng một cái cũi đến, bảo
với Tế rằng:
- Mời quan lớn vào trong này! Đã
có quân của quận Tuyển chờ ở gần đây, xin sẵn sàng hộ tống ngài về kinh yết
kiến cụ Bằng trung công.
Tế vờ thất kinh mà rằng:
- Các ông lầm rồi! Tôi là học trò
xứ Hải Dương, tới Như Kinh kiếm nơi dạy học, thình lình gặp việc binh đao,
nên lại trở về xứ đông, có việc gì mà phải yết kiến bậc quý nhân trong triều?
Người ấp trưởng cười mà nói:
- Quan lớn đừng có dùng miệng lưỡi
nói dối người ta! Trước kia ngài đã bay lượn ở vùng Thăng Long, gầm hét ở hạt
Kinh Bắc, tự cho là người tài giỏi độc nhất trong nước Nam. Học trò Hải Dương
đâu có khí thế ấy? Bây giờ xin mau mau vào cũi để họ khiêng đi cho sớm. Đừng
nhiều lời làm gì, mệt sức vô ích!
Rồi họ đẩy Tế vào cũi, giải đến
dinh quân của Tuyển. Những nơi cũi Tế đi qua, nhân dân đều đổ xô ra hai bên
vệ đường để xem. Có người gọi Tế mà bảo:
Ông nghè sao lại đến thế; tức thay
thằng kẻ cướp vô loại kia sao lại lọt lưới? (chỉ Dương Vân)
Trước đó, khi bọn Tuyển cầm quân
ra đi, Chỉnh đã có lời răn bảo. Đến lúc bắt sống được Tế rồi, Tuyển liền đem
quân thắng trận trở về, hết thảy đúng như lời Chỉnh đã dặn.
Các quan trong triều đến dinh
Chỉnh. Mừng việc thắng trận, ai cũng tấm tắc khen ngợi và khâm phục. Riêng
Trần Công Xán lại nói:
- Không phải ông có tài tính liệu
tình hình địch mà chỉ vì Tế vô mưu "Giống vật thương tình đồng
loại" (dịch câu: "Vật thương kỳ loại", câu này do ở thành ngữ Thố
từ hồ bi, vật thương kỳ loại, nguyên nghĩa là: "Con thỏ chết
con cáo buồn, giống vật thương tình đồng loại". ý nói người ta thấy kẻ
đồng loại gặp nạn thì cũng buồn thương. Đây chỉ vào ý Xán mượn câu này để
ngầm tỏ ý nói Tế cũng là kẻ đáng thương) thật là đáng buồn!
Chữ "vô mưu" ở đây là
Trần Công Xán ám chỉ việc Trọng Tế viết tờ hịch chỉ trích vua Lê trước kia.
Vua nghe tin đã bắt được Tế, liền
sai thảo bản kể tội của Tế, để làm cho nghiêm chỉnh pháp điển. Chỉnh tâu:
- Xin kéo hắn ra cửa Bắc mà chém
đi là xong, chẳng cần phải làm bẩn bút mực!
Phan Lê Phiên nói:
- Với tên giặc khác, cố nhiên nên
như vậy. Nhưng Tế là người học hành thi đỗ, xuất thân trong hàng tiến sĩ mà
dám làm việc phản nghịch như thế, thật là kẻ tội nhân trong danh giáo. Sao
được chết một cách im lặng như vậy? Bởi thế, cần vâng theo chỉ ý của hoàng
thượng, nêu rõ tội ác của y, để cho người khác thấy y mà biết răn mình, thì
bọn ngang ngược kia mới dẹp đi được.
Rồi Phiên cầm bút thảo lời
"Luận tội" dâng lên rằng:
"Làm tôi phản vua, trời đất
không còn chỗ chứa; mang tên là giặc, người nước cùng được giết đi. Vậy phải
đục bỏ tên trong bia tiến sĩ, dâng tù trước nhà Thái-học, để tỏ rõ rằng y đã
bị đuổi ra ngoài hàng kẻ sĩ, khiến cho không làm nhơ danh của nhà nho".
Vua truyền "được", rồi
lập tức sai bọn Tuyển mặc quần áo trận, bắt Tế đưa đến nhà Thái-học phủ phục
chịu tội, rồi điệu đến Trường thi võ mà chém.
Sau đó, vua lại thăng thưởng quân
công cho bọn Tuyển, Thái, và theo thứ bậc mà ban cấp tiền bạc cho các tướng
sĩ.
Nhân việc này, triều thần lại kiến
nghị tâu với vua thăng cho Chỉnh lên tước công một chữ (theo quan chế đời
xưa, tước "một chữ" (nhất tự) là cao quý hơn tước có nhiều chữ. Ví
dụ; Bằng công to hơn Bằng trung công), cho phép mở ra phủ quân Vũ thành, đúc
con dấu Vũ thành và để Viện xu mật thống thuộc vào đấy. Chỉnh nhân dịp, liền
tâu xin cho con trai là Hữu Du làm chức doanh tướng, coi lĩnh toán quân ấy.
Vua ưng cho.
Từ đó, những việc thuộc về quân
sự, Chỉnh đều để cho Du điều khiển lấy. Chỉnh lại xây dựng một toà phủ ở phía
đông chỗ ở của mình, nhà cửa rất mực lộng lẫy để cho Du ở, theo như lệ
"thế tử ra ở phủ riêng" của chúa Trịnh ngày xưa. Bộ hạ của Chỉnh
nhân đó cậy thế làm nhiều điều phi pháp. Bất cứ là nha môn nào hay việc gì,
hễ đã thấy những giấy tờ đưa đến, có đóng dấu quân Vũ thành, là không ai dám
trái lệnh. Vì thế, triều đình không còn kỷ cương gì cả, mà lòng người cũng
sinh ra chia lìa. Người hiểu biết đều cho là thế nào cũng có loạn. Có người
cáo bệnh bỏ quan, tìm chốn nhàn tĩnh ở nơi xó rừng, góc biển để tránh tai vạ.
Chỉnh cũng biết dư luận không ưa
gì mình, muốn mượn con đường khoa mục, thu nhặt nhân tài, để mua chuộc lòng
người làm chước yên lành về sau. Chỉnh bèn bàn với Lê Phiên tâu xin theo phép
"kén học trò theo mười khoa" của Tư Mã Quang nhà Tống, đặc cách mở
một chế khoa (Chế khoa là khoa thi do nhà vua tự ra đầu bài và tự chấm lấy
văn. Nhưng đời sau, những khoa thi mở bất thường cũng đều gọi là chế khoa. -
Đời Tống Triết-tông, Tư Mã Quang xin vua cho đặt mười khoa (10 điều) để làm
tiêu chuẩn kén nho sĩ. Mười khoa đó đại để như sau: Có nết; có tiết tháo; có
mưu trí và sức khoẻ; thông minh; ngay thẳng; thông kinh sử; học rộng biết
nhiều, v.v...). Các quan văn từ tam phẩm trở lên đều phải tiến cử những người
mình biết, rồi cho phép họ vào trong sân điện, đối đáp những câu văn sách của
nhà vua hỏi. Khi ấy, các danh sĩ trong nước ai cũng trau dồi chữ nghĩa và đức
hạnh để chờ đợi ơn trên. Cả những người làm quan rồi cũng đều hăng hái ứng
cử. Bấy giờ là tháng giêng mùa xuân, năm đầu niên hiệu Chiêu-thống (1787).
Lúc đó có viên hiến phó là Ngô
Tưởng Đào được cử vào khoa "hiền lương phương chính", dâng biểu cố
từ như sau:
"Hiện nay, nhân sau khi sụp
đổ, những việc đáng cảm đáng than trong nước, kể không thể xiết. Không phải
chỉ có "một đau, hai khóc, ba thở dài" (nói theo lời của Giả Nghị
trong bài nói về tình hình trị an đời Hán Văn-đế) mà thôi. Nếu không có tài
hơn đời thì sao có thể xoay chuyển được thời thế. Nhưng những bậc kỳ tài, kỳ
ngộ, phải đâu hết thảy đều do khoa cử mà ra. Đời nếu có người tài, bệ hạ nên
dùng lễ mà mời ra như vua Thang mời Y Doãn ở đất Sằn, vua Văn vương thăm Lã
Thượng ở sông Vị (Y Doãn là công thần đời nhà Thương, từng cày ruộng ở đất
Sằn, vua Thang ba lần đến mời ông mới chịu ra giúp. - Lã Thượng tức Lã Vọng,
công thần đời nhà Chu, từng câu cá ở bờ sông Vị, vua Văn vương đi săn bắt
gặp, hết sức kính trọng, đón lên xe mời về triều làm quân sư), ngõ hầu mới mời
được họ đến. Còn như thần đây lạm giữ một chức còn sợ chưa nổi, dám đâu làm
nhơ đến việc long trọng này, để thương tổn đến sự sáng suốt trong việc cất
nhắc nhân tài của thánh triều".
Lê Phiên nghe bài biểu ấy nói với
Công Xán rằng:
- Ông ta bảo cần phải có người có
tài lạ, là muốn nói nước giặc đang nhòm ngó ở bên ngoài, chẳng bao lâu sẽ có
nạn binh đao. Mình bỏ việc ấy không lo, mà lại đi mở khoa thi kén học trò, để
vờ làm ra vẻ thái bình. Sợ khi quân Nam trở lại, không biết dùng chước gì mà
chống đỡ? Đó thật là cái lo trước mắt!
Năm ấy, những kẻ vào điện thi để
đối đáp văn sách, có đến hai trăm người. Chỉnh muốn kén chọn cả loạt để thu
nhặt danh sĩ trong nước. Nhưng đến khi xướng tên, thì hạng đúng tư cách thì
đỗ chỉ có hai người là Trần Bá Lãm và Nguyễn Gia Cát mà thôi. Chỉnh có ý
không bằng lòng, cho nên mùa đông năm ấy, Chỉnh lại xin thi hội ở lầu Ngũ
phượng, lấy bọn Bùi Dương Lịch vào hạng tiến sĩ, tất cả mười lăm người.
Nguyễn Khuê là người bà con của Chỉnh, đỗ vào thứ tư, dự luận trong ngoài có
ý chê là tư vị.
Nhắc lại, khi Chỉnh ở Nghệ An về
triều, được vua trọng dụng, các thân thần, cựu thần của nhà vua chẳng ai được
ở trên Chỉnh. Vì vậy, Chỉnh làm việc gì cũng trôi chảy, không còn lúc nào
nghĩ đến tình hình nước địch và công việc ở ngoài biên cương nữa.
Lúc ấy, những người ở ngoài đối
địch với Chỉnh, thì phía tây có quận Thạc, phía đông có quận Nhưỡng, Chỉnh
đều xem khinh. Mỗi khi chuyện trò với ai, Chỉnh vẫn thường nói:
- Nhưỡng tuy là dòng nhà tướng,
nhưng là người thô lỗ, không thạo mưu cơ làm tướng. Xưa kia ở dưới cửa tiên
công (chỉ quận Huy), y vẫn coi ta là bậc anh. Về sau vì sự gặp gỡ khác nhau,
thành ra mỗi người một ngả. Chắc Nhưỡng không dám tranh giành với ta, mà ta
cũng không nỡ đánh nhau với Nhưỡng, hãy để y ra ngoài đã. Đến như quận Thạc
thì chỉ là người dũng mãnh, mà lúc gặp việc cần ứng biến thì lại không phải
là giỏi. Vả nay y đã tuổi già sức yếu, nên cũng không đáng sợ nữa.
Vừa lúc ấy, có người thân của
Chỉnh là Lệ Vũ ở Sơn Tây về, nói với Chỉnh rằng:
- Quận Thạc trước đi Hưng Hoá,
chiêu dụ mấy viên quan Mường, mở lò đúc khí giới. Hiện nay đồ đảng ở bốn trấn
có đến vài vạn, ông ta đang truyền hịch cho các thổ hào trấn Sơn Tây, hẹn
ngày đem thủ hạ vào kinh. Nghe đâu ông ta có sai người đem tờ biểu bí mật
dâng lên nhà vua, ông có biết không?
Chỉnh nói:
- Ta biết rồi. Trong tờ biểu, quận
Thạc trình bày rằng: "Trước đã trái luật làm tan mất quân đội, sau vào
bảo vệ kinh thành lại không nên công trạng gì, nhờ hoàng thượng có lòng bao
dong, lại cho làm chức trấn thủ để cho bù lại tội xưa. Ngày nay có lòng luyến
nhớ cửa khuyết, lại sợ ý ấy chưa được rõ ràng, kẻ không ưa sẽ được thế chỉ
trích, đổ cho tiếng xấu, nên còn dùng dằng chưa dám tới ngay...". Hoàng
thượng có đưa tờ biểu cho ta xem. Ta đã đoán ngầm được ý của Thạc, chắc y
không dám dùng quân sự chống cự lại ta, mà chỉ muốn giảng hoà. Y ở ngoài lâu
ngày, tình thế cách trở, đâm ra nghi hoặc, sợ hoàng thượng không tin dùng. Mà
đột ngột về kinh, thì lại sợ có ta ở trong triều, chưa biết hoạ phúc thế nào,
nên mới dâng trước tờ biểu ấy để dò xem ý tứ của triều đình đó thôi. Ta cũng
muốn tâu xin hoàng thượng giáng chỉ triệu y, nhân tiện ta gửi cho y một lá
thư, nhưng khó kiếm được người xứng đáng để sai đi. Người đã biết rõ tình
hình thì nên theo sứ giả của nhà vua mang thư cùng đi.
Lệ Vũ xin vâng lời. Chỉnh bèn viết
thư gửi cho quận Thạc, đại lược như sau:
"Trước đây tướng quân lên
miền thượng du, xếp đặt công việc ngoài bờ cõi, trèo đèo vượt suối, thật là
vất vả. Nếu tướng quân có ý chuyên giữ một phương để che chở cho miền tây,
thì tôi xin đề đạt ý ấy lên nhà vua, cho phép tướng quân tuỳ ý mà làm. Nếu
tướng quân cho rằng ở trong quân ngũ đã lâu, sức lực suy yếu, muốn nghỉ việc
quân cơ, thì tôi dám đâu không giúp đỡ tướng quân chọn một địa vị tốt đẹp để
cho tướng quân giữ trọn công danh, làm bậc túc tướng (vị tướng cũ đời trước
còn lại) của tiên triều? Kẻ đại trượng phu ở đời chỉ có hai con đường là
"hành" và "chỉ", cần phải sơm sớm chọn lấy một. Mong
tướng quân tính liệu lấy".
Lúc mới nghe có mệnh lệnh nhà vua
đòi, quận Thạc liền ra ngoài sân để bái nhận và hạ lệnh cho tướng tá kiểm
điểm binh mã chờ ngày lên đường. Đến khi mở thư Chỉnh ra, quận Thạc bỗng nổi
giận bảo Lệ Vũ:
- Mày là người riêng của Chỉnh
phải không?
Sứ giả đỡ lời:
- Thư này Bằng công đã trình lên
hoàng thượng xem; như vậy, người đưa thư tức là do hoàng thượng sai đi, không
phải là người riêng.
Thạc nói:
- Tục ngữ có câu: "Bò con mới
đẻ không biết sợ cọp". Chính là bảo hạng người như Nguyễn Hữu Chỉnh đây!
Ta là con nhà võ biền, không biết văn hoa che đậy, việc gì cũng cứ thẳng băng
mà làm. Điều gì không bằng lòng, chỉ biết có lưỡi gươm mà thôi. Này ta nói
cho các ngươi nghe: Nguyễn Hữu Chỉnh trước thì phản bội nước nhà mà giúp Tây
Sơn, sau lại ở hai lòng với Tây Sơn mà chiếm giữ đất Nghệ An. Đến khi Tây Sơn
không nhìn nhận, người Nghệ An không dong, mới quay về với hoàng thượng. Các
vị văn quan lại bị hắn lừa dối, để cho hắn có thể mượn mệnh lệnh của nhà vua,
sai khiến người trong nước. Riêng có Dương Trọng Tế chống cự với hắn, nhưng
vì không rõ nghĩa lớn, cho nên hắn có cớ mà nói. Quận Nhưỡng lại là bạn quen
của hắn, thành ra chỉ bay lượn ở vùng Hàm Giang, không dám vượt lên một bước,
tiến về kinh đô mà hỏi tội hắn. Hiện nay, riêng ta thề lấy việc đánh Chỉnh
làm trách nhiệm của mình. Các ông hãy về bảo với Chỉnh rằng: hắn quen dùng
thói gian trá, giảo quyệt để lừa dối người trong nước, nhưng lừa dối thế nào
được ta đây. Ta nay vâng chỉ về triều hỏi tội hắn. Nếu hắn có thể đánh với
ta, thì nên ra ngoài thành vài dặm để chọi nhau cho tiện, đừng để kinh động
đến cung khuyết. Bằng không thì hắn nên ra chịu tội ở ngoài cửa Đại Hưng, đã
có triều đình xử trí.
Rồi đó, quận Thạc tiễn sứ giả về
kinh, lại viết tờ biểu "xuất sư" dâng lên nhà vua, đại lược nói:
"Trước đây, thần vâng mệnh ra
trấn Sơn Tây, vừa lúc ấy Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An vào chầu. Bệ hạ cho là
Chỉnh có công tôn phò, nên giao việc chính trị trong nước cho hắn. Đứa tiểu
nhân đắc chí, dần dà mưu đồ làm việc không hay. Cứ như ý ngu của thần, thì
Chỉnh không phải là người bề tôi thuần thục, mà là một đứa tự mưu lợi riêng.
Xem việc hắn làm, giống như ma quỷ; xét bụng hắn nghĩ, độc hơn hùm beo. Cúi
xin bệ hạ xét rõ, cho phép thần được trị hắn ngay từ lúc đầu, để hắn không
thể rông rỡ làm ác về sau, thì thật là phúc cho xã tắc...".
Tiếp đó, quận Thạc đưa tờ hịch đến
các lộ Quốc Oai, Quảng Oai, kể rõ tội ác của Chỉnh, gọi Chỉnh là tên giặc ở
cạnh nhà vua, nguyền thế nào cũng giết Chỉnh để triều đình được trong sạch.
Chỉnh nghe tin quận Thạc đem quân
đến nổi giận nói:
- Tên giặc già này thật đáng giết!
Không muốn làm người công danh ở thế gian, lại muốn theo gót thằng Trọng Tế
làm con ma phản nghịch ư?
Rồi Chỉnh vào tâu với vua, xin sai
bộ tướng là Lê Duật đem quân đi đánh quận Thạc: còn tự mình đốc suất đội quân
lớn theo sau tiếp ứng.
Duật đến làng Đại Phùng (thuộc
huyện Đan Phượng, Hà Đông, nay thuộc Hà Nội) thì quân quận Thạc cũng vừa tới
đó. Hai bên mới giao chiến được một trận thì quân Duật chống không nổi đã vứt
bỏ khí giới mà chạy.
Con trai quận Thạc là Gia Vũ xin
thừa thắng đuổi tràn, khiến hậu quân của Chỉnh kinh sợ, để có thể giữ được
toàn thắng.
Quận Thạc không nghe và nói:
- Quân lệnh sớm nay đã truyền là
đúng trưa họp ăn ở làng Đại Phùng. Các quân lính đang đói mệt, chờ đợi nghỉ
ngơi ăn uống, thì quân giặc thình lình kéo đến; ta mới vẫy quân một cái mà đã
đánh lui được chúng, bây giờ nên nhân đấy mà truyền cho quân lính ăn cơm là
phải. Nếu lại khua cho họ tiến lên, chiều tối đến kinh thành, giặc tất nhiên
dốc hết quân ra liều chết mà đánh, lúc đó quân ta vừa mệt vừa đói, lấy sức
đâu mà chống? Binh pháp có nói: "Quân đi hàng trăm dặm để kiếm lợi, sẽ
què thượng tướng"; đó là con đường nguy hiểm. Hãy cứ nghỉ quân mà ăn
uống, ăn rồi thúc trống tiến lên, gặp giặc là đánh. Ăn no khí mạnh, lo gì
không thắng địch? Vả lại, ta bắt Chỉnh như bắt trẻ con, có cần gì mà phải gấp
vội để cho thất tín với quân lệnh.
Quận Thạc bèn truyền lệnh khua
chiêng cho quân tạm nghỉ. Duật chạy đến nửa đường, ngoảnh lại trông biết là
quận Thạc không đuổi; lại sợ Chỉnh đến sẽ bị quở phạt, liền thu quân, dàn
thành trận, quay trở lại đánh quận Thạc. Quân của quận Thạc đang ngồi lên khí
giới mà ăn, hàng ngũ lộn xộn chẳng đâu vào đâu. Thấy quân Duật ào đến, quân
quận Thạc không kịp đánh lại, sợ hãi, tan vỡ, chạy tứ tung. Lúc ấy quận Thạc
đang ngồi trên đình Đại Phùng, vội vàng trèo lên mình voi, thủ hạ chỉ còn vài
chục người, xúm quanh thân voi, ra sức mà đánh. Quận Thạc ngồi trên bành voi,
ném lao giết chết quân Duật chừng vài trăm người. Duật không dám lại gần.
Chốc lát thấy Chỉnh đem đại quân kéo đến tiếp ứng, Duật liền vẫy quân vây
quanh voi của quận Thạc, lấy giáo dài mà đâm. Quận Thạc co voi vào bãi cát,
rồi xuống voi nhảy phốc lên ngựa, múa đao chém vung tàn tán, người ngựa qua
lại như bay. Gia Vũ ở phía sau trận phi ngựa hô tới, xông lên phía trước, lăn
xả vào đánh giết, làm bị thương quân địch rất nhiều. Một viên tỳ tướng của
quận Thạc là Hoàng Đăng, tập hợp được vài trăm tên lính tản mát, cũng quay
trở lại hợp sức mà đánh, Chỉnh trông thấy thế, sợ quận Thạc thoát thân được
thì sẽ phi ngựa trốn mất, bèn vẫy quân Thiết đột vây kín bốn mặt, nhắm vào
ngựa quận Thạc mà bắn. Ngựa què, quận Thạc bị Duật bắt sống. Gia Vũ, Hoàng
Đăng liệu chừng không thể chống nổi, đều theo lối Thượng Hiệp (tên xã, thuộc
Sơn Tây. (Cũng ở gần vùng Đan Phượng)) mà tháo lui.
Trận này, quận Thạc tự mình đốc
suất các phiên thần Hưng Hoá, thổ mục Sơn Tây, lại hợp với quân của cả hai
trấn, khí giới rất là sắc bén. Sau khi thua một trận, hết thảy đều bị thu
bắt, không còn sót một tý gì. Do đó, oai danh của Chỉnh rung động khắp thiên
hạ.
Tin thắng trận về đến kinh thành,
các quan vào mừng. Vua Lê miễn cưỡng ra ngự triều, rồi nói riêng với Ngô Vi
Quý rằng:
- Quận Thạc không phải là bề tôi
bạo nghịch của trẫm. Quận Thạc còn sống thì tên gian hùng kia (chỉ Nguyễn Hữu
Chỉnh) còn e sợ, nay chẳng may mà chết, trẫm rất thương xót, còn mừng nỗi gì?
Tiếp đó, Chỉnh rút quân về và giải
quận Thạc vào kinh thành tâu xin đem chém.
Vua khuyên Chỉnh rằng:
- Quận Thạc trọng về phần nghĩa
nhiều, mà ít hiểu về phần lý, cho nên danh với thực không xứng với nhau, hình
tích khó mà rõ rệt. Nay thua trận bị bắt, phép vẫn nên chém. Nhưng nghĩ lại
lúc Trọng Tế thả quân vây bức kinh thành, trẫm đứng chơ vơ một mình trong
điện suýt nữa mắc phải tai biến bất trắc; nếu không có quận Thạc, làm gì có
ngày nay? Theo như phép "Bát nghị" (theo sách Chu lễ,
hình phạt có "Bát nghị" (tám phép bàn), chia ra tám loại người thân
của vua, người có công, người có tài, người quý hiển v.v... để xét xử phân
biệt khác nhau mà định cách giảm tội) Lòng trẫm thật không nỡ, nên bài lại để
cho tỏ rõ cái ơn nghĩ đến công trạng hồi xưa.
Chỉnh đối với quận Thạc từ trước
vốn không có hiềm thù gì, nay đánh một trận mà thắng, khí tức cũng đã hả, lại
nghe lời vua khuyên dụ, bèn xin giao cho triều đình bàn lại.
Ngự sử là Ngô Trọng Khuê thảo lời
nghị tội khác, trong có câu:
"Làm quan chống lại mệnh lệnh
của triều đình, tội vẫn đáng chém; nhưng đem công mà bù với tội, thì sự chết
cũng nên có lễ...".
Vua bèn sai đưa quận Thạc ra ngoài
cửa Tây, cho uống thuốc độc.
Quận Thạc lạy hai lạy, rồi uống
thuốc độc mà chết.
Lúc quận Thạc mới bị giải vào
thành, nhân dân kinh đô xúm lại xem. Quận Thạc nói:
- Ta là tên tướng già Hoàng Phùng
Cơ đây. Cha con một nhà đã có sáu người chết vì việc nước. Phải, trái đã có
công luận. Thành, bại là bởi lòng trời. Ta không giết được Nguyễn Hữu Chỉnh,
thế nào Tây Sơn cũng sẽ giết hắn. Đạo trời báo ứng không bao giờ sai; chỉ
tiếc rằng ta không kịp trông thấy mà thôi.
Sau khi quận Thạc chết, thi hài
được đem về chôn ở Sơn Tây, quân và dân ai cũng chảy nước mắt.
Lại nói, Nguyễn Hữu Chỉnh nắm hết
quyền bính trong nước, việc gì cũng tự tay của y mà ra. Càng ngày y càng lộng
hành, lòng người lìa tan, quan văn quan võ, ai cũng chán nản. Người nào theo
lẽ công, giữ phép nước, đều bị bọn tướng sĩ cơ Vũ thành của Chỉnh quấy nhiễu.
Người nào khảng khái dám nói thì nhiều khi bị chúng làm hại, tai hoạ xảy ra
bất ngờ không sao mà lường được. Bởi thế, thường thường ai cũng kiêng nói.
Cũng có người đã cáo bệnh, trả lại ấn tín, bỏ về nơi làng xóm.
Bọn hào mục gian ác ở đâu thì tụ
họp ở đấy, rồi đi cướp bóc lẫn nhau. Ngoài thành vài dặm, đều là hang ổ của
bọn trộm cướp.
Vua Lê lấy thế làm lo, bèn vời
viên tham tụng cũ là Bùi Huy Bích vào triều để hỏi về việc thiên hạ. Bích sợ
Chỉnh không dám nói gì, chỉ từ tạ mà rằng:
- Thần may được thi đỗ, nhưng
không có tài giúp đời trị nước. Chúa Trịnh xưa cất nhắc thần làm việc trong
chính phủ; lính kiêu dân oán, quân giặc lấn cướp, thần không có một chước gì
để cứu vãn. Kinh thành bị hãm, chúa soái mắc nạn, cái tội làm lầm lỡ việc
nước ấy, thần thật khó lòng mà trốn tránh. Nay nước nhà đã nhất thống, chính
sự ban đầu đang sáng suốt, bệ hạ hãy nên tìm lấy những người tài giỏi khác.
Còn như thần đây, thì dám đâu lại làm nhơ đến triều đình, để lỡ việc thiên
hạ? Cúi xin bệ hạ cho thần được lui về nơi ruộng đồng, làng xóm.
Lúc lui ra, Bích bảo riêng với
người thân tín rằng:
- Thiên hạ sắp loạn mất rồi! Từ
đây ta cũng bỏ mà đi thôi.
Rồi đó, ông ta đem cả gia quyến
dời sang xứ đông.
Viên đốc đồng trấn Nghệ An là Phạm
Huy Khiêm cũng bỏ quan đi lên vùng thượng du huyện Thanh Chương mưu đồ việc
khởi quân cần vương. Khiêm có đưa tờ hịch kể tội của Chỉnh, nhưng việc chưa
thành thì đã chết (Huy Khiêm (có người đọc là Vĩ Khiêm, tức Phạm Nguyễn Du)).
Bấy giờ, trong bọn sĩ phu tại
chức, lại có hạng người khác, nặng lòng công danh, lấy việc dẹp loạn, phò
nguy làm trách nhiệm của mình. Họ tụ tập các người đồng chí, chiêu mộ quân
lính nghĩa dũng. Hào kiệt bốn phương, khi nhận được chỉ thư, cũng theo lời
hiệu triệu mà đến với họ. Những đám như vậy, khắp nơi đều có.
Viên đốc trấn Cao Bằng là Lưu Tiệp
(có bản chép là Lưu Côn, Lưu Tiệp quê ở làng Nguyệt áng, huyện Thanh Trì, Hà
Nội) nhận tờ mật chỉ của chúa Trịnh. Còn viên đốc đồng là Nguyễn Hàn (Nguyễn
Hàn quê ở xã Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, Tiệp và Hàn đều đỗ tiến sĩ) lại nhận
tờ mật chỉ của vua Lê. Cả hai đều khuyên dỗ bọn phiên mục ở trấn ấy giúp sức,
rồi lại cấp phát phù tín, sắm sửa khí giới cho họ, và dặn họ sẵn sàng chờ
lệnh đòi gọi. Lúc bấy giờ một trấn Cao Bằng, chia làm hai đảng. Kẻ theo tiết
chế của viên đốc trấn, thì không biết có viên đốc đồng. Người theo ước thúc
của viên đốc đồng, thì lại không biết có viên đốc trấn. Hai người ai ở dinh
nấy, không chịu họp chung với nhau. Tiếng là đồng liêu với nhau, thật ra chỉ
là thù địch.
Tiệp ngầm sai viên phiên thuộc của
mình đem thủ hạ về trá hàng Nguyễn Hàn, rồi lại cho người tới cầu hoà để đòi
lại viên phiên thuộc cùng bọn đầu hàng ấy. Hàn không biết là mẹo lừa, cứ nhận
bọn đầu hàng mà cự lời xin của Tiệp. Tiệp liền đem quân vây đánh Hàn. Bọn trá
hàng bấy giờ mới nổi lên làm nội ứng cho Tiệp, quân của Hàn tức thì rối loạn
tan vỡ. Hàn hoảng sợ vội vàng bỏ chạy, bị giết chết liền. Vợ con của Hàn ở
trong dinh cũng đều bị giết tất cả. Do đó, trấn Cao Bằng rối loạn lung tung.
Bọn hào mục kẻ nào giữ ấp trại của kẻ nấy, rồi đem quân đánh giết lẫn nhau.
Tiệp cũng không thể ngăn nổi.
Cùng lúc đó, Hà Quốc Ký ở Lạng
Sơn, Triệu Văn Khương ở Thái Nguyên, Hoàng Văn Đồng ở Tuyên Quang, Đinh Văn
Hồ ở Hưng Hoá và các tù trưởng ở vùng Phù Sương, Tây Lĩnh cũng đua theo, đâu
đó đều chống lại mệnh lệnh của triều đình, quan lại ở trấn có người cũng bị
chúng đuổi. Khắp trong bốn cõi không còn có chỗ nào yên tĩnh.
Thật là:
Quạ cáo tranh nhau, không đáng ngại.
Cọp, rồng đánh lộn, mới ghê thay!
Chưa biết đại thể ra sao? Hãy chờ
hồi sau phân giải.
|
Hồi
thứ chín
Tướng Tây Sơn Võ Văn Nhậm đem quân lấn ngoài bờ cõi Quan bình chương Trần Công Xán vâng mệnh bàn việc biên cương
Lại nói, khi ở Cao Bằng bắt đầu
nhóm lên việc binh đao, Lưu Tiệp, Nguyễn Hàn đều có sai trạm đưa thư về kinh
cáo biến. Tiệp bảo Hàn là phản nghịch, Hàn bảo Tiệp là phản nghịch, và cả hai
đều nói "hiện đã điều quân vây đánh, chỉ khoảng mươi ngày sẽ bắt được kẻ
có tội".
Quan Bình chương là Phan Lê Phiên
thấy thư ấy, rất kinh hãi mà rằng:
- Hai người đều là bậc thanh cao
trong hàng triều sĩ, ra ngoài gánh việc phiên trấn, đáng lẽ phải vì việc công
mà quên việc riêng. Sao họ không chịu nén lòng theo nhau, lại đi cầm đầu cho
cuộc quấy rối? Đồng loại làm hại nhau, đó cũng là một biến cố lớn! Đáng ghê!
Đáng sợ!
Vừa lúc ấy, các viên trấn thủ ở
bốn lộ Lạng, Thái, Tuyên, Hưng cũng đều lần lượt gửi thư hoả tốc về cáo biến.
Vua Lê bèn bàn với Bằng công
Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh thưa:
Các trấn đem quân đánh nhau, cũng
là thói thường của bọn tù trưởng ở ngoài bờ cõi, chỉ cần hạ một bức thư, báo
cho họ biết đường hoạ phúc, chắc họ sẽ nghe theo; dẹp yên việc ấy, không có
gì khó. Riêng việc biến cố ở Cao Bằng thì lại do các viên quan trấn gây ra,
bọn tù trưởng trên ấy đều không đáng trách. Cái tội tự tiện đánh nhau, giết
nhau, triều đình sẽ phải có phân xử, vậy xin giao xuống cho các quan họp bàn.
Quan đồng bình chương Trương Đăng
Quỹ và quan tham tri Nguyễn Diệu đều xin gấp rút chọn hai viên đốc trấn, đốc
đồng khác có tài cán lên coi thay việc trấn và luôn thể hạ chiếu chỉ triệu
bọn Tiệp, Hàn về triều, may ra mới dẹp được cuộc rối loạn.
Phan Lê Phiên nói:
- Phải đấy! Rễ chùm, mấu cứng,
phải dùng đồ sắc! Viên quan cử lên coi trấn ấy, không thể dễ dàng muốn sai ai
cũng được.
Quan đồng bình chương Trần Công
Xán nói tiếp:
- Việc loạn ở Cao Bằng hồi xưa,
viên đại thần đã qua đời là Nghĩa thành vương (tức Nguyễn Đình Bá) vâng mệnh
lên vỗ về, ở luôn trên trấn ấy bảy năm, nhân dân các bản đều mến phục. Sau
ông mất tại đó, dân địa phương vì thương tiếc mà nghỉ mấy phiên chợ liền, lại
dựng đền mà thờ. Quan xu mật hiện nay là Nguyễn Đình Tố (người ở Khoái Châu,
Hưng Yên (Hải Hưng)), chính là con của Nghĩa thành vương. Ông ta là người
rộng rãi có độ lượng, tài xử sự cũng nhanh, vậy xin gấp rút sai đi ngay.
Vua Lê bèn dùng Nguyễn Đình Tố làm
đốc trấn Cao Bằng, lại sai Nguyễn Huy Túc làm phó đốc trấn. Rồi hạ lệnh giục
hai người lên đường đi nhậm chức. Tố nói:
- Cha thần sinh ở Cao Bằng, mất ở
Cao Bằng, thần cũng sinh ở Cao Bằng, nay lại lên đó, việc sau này có thể biết
rồi. Vậy xin cho phép mười ngày để thần xếp đặt việc nhà.
Khi hai người lên đến giáp giới
tỉnh Lạng Sơn thì nghe tin Hàn đã bị hại, Tố giật mình nói:
- Thương thay! Chết cũng bởi số,
nhưng cũng lỗi tại ta đi chậm quá.
Rồi Tố lập tức giục trạm đi dấn
lên. Khi trạm đầu báo tin quan đốc trấn mới là Nguyễn Đình Tố đến, thì tù
trưởng các nơi đều vui mừng chờ đón. Lúc Tố đến Cao Bằng thì Lưu Tiệp còn
đang đóng cửa thành, đánh nhau với dư đảng của Hàn. Tố vâng lệnh tuyên bố uy
đức của nhà vua, bảo hai bên phải giải tán quân lính, rồi thong dong xếp đặt
mọi việc, trong cõi lại yên ổn như thường.
Một hôm, vừa gặp lúc đến yết kiến
đền thờ Nghĩa thành vương, Tố bảo Nguyễn Huy Túc:
- Tôi nay có lẽ sắp đi với tiền
nhân, trách nhiệm ở bờ cõi rất nặng, rồi đây sẽ có những việc khó khăn, lớn
lao. Trấn này thông với đất Trung Quốc, trước đây tôi đã đi sứ, cũng hơi
thuộc đường lối, chỉ giận rằng không ở đây nữa. Ông còn ở đây, hãy nên cố
gắng mà đương lấy mọi việc.
Tố lại ngoảnh sang các phiên
trưởng mà dặn rằng:
- Sau khi tôi đi rồi, các ông chỉ
nên nghe lệnh quan phó đốc trấn, chớ như vừa rồi, gây ra nhiều việc, thì thế
nào cũng có vạ lớn.
Mọi người đều lấy làm lạ mà hỏi,
thì Tố nói:
- Điều đó rất khó nói.
Chiều hôm ấy, Tố về doanh rồi chết.
Huy Túc một mặt lo liệu việc ma
chay, một mặt viết thư báo tin cho triều đình, rồi vâng chỉ của vua lĩnh chức
đốc trấn Cao Bằng.
Lại nói vua Tây Sơn từ lúc rút
quân về Nam, đến Nghệ An ở lại mười ngày, giao cho phó tướng Nguyễn Duệ giữ
đất này, cùng đô đốc là Chiêu Viễn đóng quân ở doanh Hà Trung (thuộc Hà
Tĩnh).
Sau đó, vua Tây Sơn lại đổi Chiêu
Viễn vào đóng ở châu Bố Chánh, Nguyễn Duệ coi doanh Kỳ Hoa, tả quân Võ Văn
Nhậm đóng một đạo binh quan trọng ở Động Hải (Bố Chánh thuộc Quảng Bình. Kỳ
Hoa thuộc Hà Tĩnh. Động Hải tức Đồng Hới Quảng Bình (Bình Trị Thiên)) để làm
thanh viện và nương tựa lẫn nhau.
Lúc Nguyễn Hữu Chỉnh theo kịp,
thượng công (tức Nguyễn Huệ) ngỏ lời yên uỷ dỗ dành, và bảo ở lại Nghệ An làm
việc với Duệ. Bề ngoài tuy thượng công hứa hẹn với Chỉnh bằng những lời ngon
ngọt, nhưng lại dặn riêng Duệ rằng:
- Chỉnh vốn người Bắc, trốn về với
ta. Xem bộ hắn ta là kẻ phản phúc gian dối, không thể tin cậy. Vả chăng người
Bắc oán hắn rất sâu. Ta định bỏ hắn, để cho hắn chết. Không ngờ hắn lại trốn
chết cố theo. Nghệ An là quê hương của hắn. Nay để nhà ngươi ở lại đây, ngươi
nên xem xét kỹ lòng người xứ này, xem theo ai chống ai và tình hình động tĩnh
của hắn ra sao. Chiêu Viễn ở gần đấy, gọi một tiếng là đến. Tả quân cũng
không xa đây lắm, có việc nên chăng, ngươi phải viết thư báo tin cho mau, và
cùng bàn định với ông ta. Sống ở nước ngoài đất khách, ngươi phải để ý đề
phòng cẩn thận, chớ có dễ dàng tin theo Chỉnh mà mắc mưu của hắn. Ngươi phải
cẩn thận lắm mới được!
Sau khi thượng công về Nam, Chỉnh
liền được chiếu chỉ nhà vua vời đưa quân ra Bắc. Lúc đi, Chỉnh để đồ đảng của
mình là Nguyễn Duật ở lại làm việc với Duệ. Ngày chia tay lên đường, Chỉnh
hai ba lần dặn dò và mong mỏi Duệ đối xử tử tế với mình; Duệ cũng tiễn đưa
Chỉnh rất ân cần, tử tế.
Sau khi Chỉnh nắm được chính
quyền, thường thường gửi thư qua lại với Duệ và biếu tặng rất hậu. Rồi Chỉnh
lại ngầm sai người gọi Duật về kinh thành, để hỏi tình hình Tây Sơn và dò ý
tứ của Duệ. Khi đã biết vua Tây Sơn và thượng công gây ra việc binh đao, anh
em đánh lẫn nhau, tiếp đó lại được thư của Duệ hẹn cùng chung sức đánh vào
phương Nam, thì Chỉnh rất mừng, cho là có thể mưu đồ lấy lại Nghệ An. Chỉnh
bèn thu xếp mười lạng vàng và mười tấm đoạn, sai Duật đem vào biếu Duệ, nhân
tiện lấy việc lợi hại hoạ phúc mà doạ hắn ta, lại dỗ dành hắn ta giữ lấy Nghệ
An, ngăn chặn Chiêu Viễn, đắp lại luỹ cũ Hoành Sơn, và vạch sông Gianh làm
nơi biên giới như việc cũ trước đây (chỉ vào cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn
(1627-1672), sau lấy sông Gianh làm giới hạn để phân chia Đàng trong (Nam) và
Đàng ngoài (Bắc)).
Lúc đó, người do thám của Võ Văn
Nhậm ở Nghệ An biết rõ việc ấy, vội vàng về báo với Nhậm. Nhậm lập tức đưa
binh phù triệu Duệ về. Duệ chống lại và nói:
- Tướng ở ngoài, mệnh lệnh của vua
cũng có khi không cần phải theo. Lúc thượng công về, giao cho tôi đóng giữ
đất này, nay tôi không dám tự tiện rời khỏi trấn này.
Nhậm được thư ấy, liền nói:
- Quả nhiên Duệ làm phản rồi!
Tiếp đó, Nhậm lập tức gửi thư cáo
biến với thượng công; trong thư có đoạn viết: "Ngày trước dùng Chỉnh tức
là nhốt hổ gầm giường; ngày nay để Duệ, ấy là nuôi ong tay áo. Xin kíp phát
quân ra Bắc, trước hết giết Duệ ở Nghệ An, rồi sau bắt Chỉnh ở Thăng Long.
Dẹp loạn và bình định đất nước ở một chuyến này, cơ hội không nên bỏ
lỡ..."
Trong lúc ấy, thượng công và vua
Tây Sơn đang có việc xích mích, cuộc binh đao giữa hai anh em chưa dàn xếp
xong, việc nội chiến ở miền Nam so với mối lo ở miền Bắc còn cần kíp hơn
nhiều. Bởi vậy thượng công không quả quyết thi hành, bèn sai người báo cho
Nhậm biết, và giục Nhậm tiến quân ra Nghệ An bắt Duệ; rồi sau đó sẽ kiểm điểm
quân lính, thu góp lương thực, chia đi đóng đồn ở các nơi hiểm yếu và viết
thư hỏi Chỉnh về tội thông mưu với Duệ, xem Chỉnh trả lời ra sao. Nếu Chỉnh
còn biết sợ hãi, cố tình chối cãi, thì nên để đó sau này sẽ liệu, chưa nên
đánh vội. Bằng Chỉnh ra mặt chống lại, thì như thế là đã có cớ, lúc ấy cứ
việc tiến quân ra đánh cũng không muộn gì.
Nhậm vâng lệnh, tự mình đem đại
quân đi gấp. Chỉ trong một ngày một đêm. Nhậm đã đến doanh Kỳ-hoa nhưng Duệ
không còn ở đó nữa.
Số là mùa đông năm trước, thượng
công nghe tin Chỉnh đem quân ra bảo vệ vua Lê, sợ có biến cố gì khác xảy ra,
liền sai Nguyễn Văn Đức đem quân giữ phủ Diễn Châu cùng làm chức trấn thủ với
Duệ, để nương tựa lẫn nhau. Kịp đến khi nghe miền Nam đánh nhau, Duệ và Đức
đều gửi thư cho Chỉnh, mưu đồ hợp lực kéo quân về Nam, để thừa cơ làm loạn.
Hai người hẹn rằng, sau khi đắc thắng, sẽ trả các đất từ Hoành Sơn ra Bắc,
nhưng Chỉnh còn chần chừ chưa quyết định. Đến khi bị Nhậm phát giác, hai người
bèn bỏ xứ Nghệ đem quân theo mạn ngược trở về Nam. Duệ về với vua Tây Sơn.
Còn Đức vốn là một đại thần của chúa Nguyễn, bị quân Tây Sơn bắt, phải miễn
cưỡng theo, chứ thực ra cũng không thích làm việc cho họ. Lúc đó, Đức bèn
theo đường núi tây nam, trốn thẳng sang nước Tiêm La. Đức đi đã lâu, thượng
công mới nhận được thư hoả tốc của Nhậm, vội sai quân đón bắt, nhưng cũng
không kịp.
Nhậm đến Nghệ An, kiểm điểm binh
lính, trưng thu lương thực, sửa soạn khí giới, rồi đưa thư ra Thăng Long,
trách móc Chỉnh gay gắt.
Chỉnh được thư, giấu giếm không
cho vua Lê biết, đoạn viết thư tạ tội, đại ý nói:
"Trước kia tôi bỏ nước cũ về
với chúa công, nhờ ơn cho vào nơi mạc phủ, hầu hạ túi cung roi ngựa đến bốn
năm năm. Mùa thu năm ngoái, đại quân về Nam không cho tôi biết, tôi cũng hiểu
là thượng công muốn dùng cách đó thử tôi, để xem tôi lui tới ra sao. Lúc bấy
giờ người Bắc cố lưu lại, nhưng tôi quả quyết bỏ họ mà đi. Nghĩ rằng lòng này
không có đổi thay như thế, bậc cao minh hẳn đã soi xét đến. Lúc vào yết kiến
thượng công ở Vĩnh Dinh, tôi xin đi theo quân đội về Nam, ngài bảo tôi rằng:
"Quận Thạc, quận Nhưỡng còn làm ngang trở không thể không trừ khử, nhà
ngươi hãy ở lại đây, lo liệu một phen". Tôi dám đâu không theo mệnh
lệnh? Tôi đã đem thân mình mà ruổi rong theo chúa (chỉ vua Tây Sơn) thì còn
dám tiếc gì? Vì thế, tôi tự mình xông pha tên đạn, quyết chiến với bọn Thạc,
Nhưỡng. Chỉ mong trừ được hai tên ngang ngược ấy, thì sẽ lập tức quay ngựa về
Nam. Nhưng, tháng trước đây đánh ở Sơn Tây, mới bắt được có quận Thạc. Riêng
Nhưỡng thì vẫn đang vùng vẫy ở miền Hải Dương, còn cần phải đánh dẹp vất vả.
Bởi vậy cho nên tôi chưa về triều được. Những kẻ ghét tôi, thấy tôi ở lại đất
Bắc, liền đặt lời gièm pha. Sao họ không xét rằng, sau khi thượng công về
Nam, tôi chỉ ở lại Nghệ An hơn mười ngày, rồi lại ra Bắc ngay, thì còn thời
giờ đâu mà mưu toan với Duệ? Từ đó kẻ Nam người Bắc, ai làm việc nấy, tôi có
hề đi lại gì với Duệ đâu? Nếu xét rõ tình cảnh ấy, hẳn không cần phải chờ tôi
biện bạch gì thêm. Vả chăng, cái ngày mà tôi làm việc chung với tướng quân,
không phải không lâu. Nếu quả là tôi có lòng gì khác, hồ dễ đã giấu được cho
khỏi lộ? Tướng quân nên chuyển đạt lời tôi đến trước chúa công, thì tôi đội
ơn nhiều lắm!".
Nhận được thư ấy, biết Chỉnh còn
có ý sợ, Nhậm bèn viết bức thư khác, dùng lời nói khéo, vỗ về khuyên giải làm
cho Chỉnh yên lòng, để mình còn có thì giờ sắp đặt công việc ở trấn Nghệ An.
Tiện thể Nhậm cũng không quên buộc Chỉnh phải mau chóng dẹp yên quận Nhưỡng,
rồi rút quân về Nam, để khỏi trái với ý định.
Chỉnh tiếp thư, không hiểu rõ ý
của Nhậm, cho rằng Nhậm có thể dễ lừa phỉnh, chắc không phải lo gì về mặt
Nam.
Lúc bấy giờ, trong ngoài đều đồn
đại rằng tướng của Tây Sơn là tả quân Nhậm, kéo quân ra Nghệ An, kén chọn
lính tráng, định kỳ xuất phát, chẳng bao lâu quân Tây Sơn lại tới, Thăng Long
sẽ thành nơi chiến trường. Vì thế, trong kinh nhốn nháo, người chuyển vận đồ
đạc, người bồng bế con cái, tranh nhau đi lánh nạn, lính Kim Ngô (tên một đội
lính bảo vệ trật tự ở kinh đô) ngăn cấm không nổi. Nhiều viên đình thần đem
việc đó tâu với vua Lê. Vua Lê liền triệu Chỉnh vào hỏi. Chỉnh tâu:
Người ta đồn nhảm, không cần phải
tin. Thần đã cho người đi xem xét biết hết sự thật rồi. Vua Tây Sơn từ khi ở
đất Bắc về Nam, liền vào thẳng chỗ quốc thành (tức Qui Nhơn). Còn thượng công
thì đóng ở Phú Xuân, nghỉ quân để vui chơi, ban bố hiệu lệnh, sửa sang thành
luỹ. Bao nhiêu vật liệu, khí giới và các báu vật lấy được ở Bắc về, thượng
công đều thu chứa lấy. Vua Tây Sơn sai sứ thần tuyên triệu, thượng công không
chịu về triều. Mọi việc phong quan, ban tước và xử trí này khác, thượng công
đều tự tiện quyết định. Vua Tây Sơn sai người đưa ấn phong thượng công làm
Bắc bình vương và hỏi những thứ của báu lấy được ở phủ chúa Trịnh. Thượng
công cũng chống lại không chịu dâng lên. Vua Tây Sơn giận lắm. Vì thế, anh em
mới gây ra cuộc binh đao, ở trong một nhà mà đối với nhau còn dữ dội hơn là
đối với nước thù địch. Ngay trong bọn họ với nhau cũng không đủ thì giờ để
cứu vãn được tình thế cấp bách, đâu còn dám ra khỏi Hoành Sơn một bước để
tranh quyền với ta? Ta cần làm sao cho việc nội trị có quy mô yên ổn, thế là
sẽ được thái bình. Đến như trấn Nghệ An, thì chỉ cần sai một sứ giả đem bức
quốc thư sang, bàn bạc với họ, một lời nói là xong. Ta cùng họ đã thành thông
gia, ta cũng không cần lo xa làm gì.
Quan ngự sử là Nguyễn Đình Giản
nói:
- Xưa nay tình hoà hảo thông gia,
nói chung đều không thể tin cậy. Chỉ có bằng vào chước tự cường của mình, làm
sao cho bờ cõi được vững chắc, ngăn chặn sự dòm dỏ của kẻ địch, thì như vậy
mới có thể tin cậy được. Bắc bình vương cũng là một bậc anh hùng, xem thường
ông ta không được đâu!
Chỉnh nói:
- Tôi đã từng cộng sự với ông ta,
há lại không biết? Ông ta quả thật là bậc anh hùng, nhưng nhân tài xứ Bắc ta
đây cũng không thua lắm. Vạn nhất xảy ra việc binh đao, tôi xin chọi với ông
ta, còn như bọn Võ Văn Nhậm đã chiếm giữ đất Nghệ An, nhưng cứ mặc y. Quân
nước ngoài ở trọ, chẳng qua cũng như bọn Chiêu võ, Thuận nghĩa hồi xưa chiếm
đóng bảy huyện phía nam Nghệ An, không bao lâu rồi cũng lại về ta (chỉ việc
các tướng của họ Nguyễn là Thuận nghĩa hầu, Nguyễn Hữu Tiến và Chiêu võ hầu
Nguyễn Hữu Dật, đánh chiếm được bảy huyện ở nam sông Lam hồi xưa (1655-1660),
trong cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn. Về sau, các miền ấy, lại bị họ Trịnh
giành lại).
Vua Lê nói:
- Nhân tình lo sợ, nghi ngờ, họ
đang coi việc động tĩnh ở phương Nam để định sự thể khinh trọng của nước nhà.
Ngươi nên tính kỹ liệu trước cho lòng trẫm được thư thái.
Chỉnh tâu:
- Đó là việc trong chức phận của
thần, dám đâu không hết lòng hết sức?
Ngoài mặt, Chỉnh tuy nói năng
khuếch khoác để trấn áp mọi người, nhưng kỳ thực, từ khi được thư của Nhậm,
trong lòng Chỉnh rất đỗi lo sợ.
Một hôm vào chầu, Chỉnh đuổi người
chung quanh ra mà nói kín với nhà vua rằng:
- Võ Văn Nhậm tuy là tả tướng
trong soái phủ của Bắc bình vương, nhưng vốn là rể vua Tây Sơn. Lâu nay chỉ
huy việc quân, y vẫn đóng vai con rể của nước. Nay thấy anh em Tây Sơn xích
mích nhau, Nhậm là kẻ đứng giữa, cố nhiên là phải tuân theo tướng lệnh, nhưng
trong lòng lẽ nào lại hoàn toàn không nghĩ gì đến bố vợ? Vừa rồi có tên do
thám nói rằng: "Nhậm ở Động Hải nghe việc biến cố ấy, bèn xin về hầu.
Nhưng Bắc bình vương không cho mà bảo ra thẳng Nghệ An. Nay Nhậm đang ở vào
địa vị nguy ngập và bị ngờ vực, nên không thể không có ý trông về bên trong.
Thần xin nhân cơ hội này để thương lượng về việc bờ cõi Nghệ An. Hết sức nhắm
nhe vào ân tình của họ, lại lễ nhiều, lời ngọt, ngoài có Văn Nhậm tâng bốc,
trong có công chúa đỡ lời; Bắc bình vương dù có lòng nào chăng nữa cũng không
thể không gượng theo mình.
Vua Lê khen phải.
Sáng hôm sau, nhân buổi chầu sớm,
vua nói với các quan rằng:
- Nghệ An liền kề với Thanh Hoa,
là một quận phụ vào đất "thang mộc". Con em đất ấy vẫn được lựa
chọn vào quân túc vệ, làm nanh vuốt cho nước nhà. Đất ấy không thể để cho
người khác chiếm giữ mãi. Trẫm sắp sai người đi Phú Xuân để bàn với Bắc bình
vương một phen. Vậy các ngươi hãy chọn xem người nào có thể sung vào sứ bộ?
Trương Đăng Quỹ thưa:
- Nguyễn Đình Giản và Phạm Đình Dư
là người ngay thẳng có thể làm được việc ấy.
Phan Lê Phiên nói:
- Giản cương trực có thừa mà mềm
mỏng ôn hoà thì không đủ. Dư tuy nghị luận vững vàng, nhưng xét việc hơi
chậm. Bắc bình vương là người rất quỷ quyệt, hay dùng mưu khôn lung lạc người
ta. Trong lúc bàn bạc, khi nén xuống, khi nâng lên, không biết đường nào mà
dò. Thần sợ rằng hai người ấy tranh biện với ông ta, thế nào rồi cũng làm
hỏng việc nước.
Đình thần bàn mãi việc cử người,
luôn mấy ngày vẫn chưa ngã ngũ. Chỉnh bèn tâu để Trần Công Xán đi.
Vua Lê nói:
- Được đấy!
Nhà vua bèn đòi Công Xán vào triều
mà bảo rằng:
- Người là người trung trinh vì
nước, lòng trẫm đã biết. Ngày xưa Phú Bật sang sứ Khiết Đan, làm cho nước
địch phải kính trọng, công việc xong xuôi (Khiết Đan là một nước ở phía đông
bắc Trung Quốc, thường hay xâm phạm bờ cõi. Đời vua Tống Nhân tông, quân
Khiết Đan đến đóng sát biên giới và bắt nhà Tống phải cắt đất. Phú Bật được
đi sứ, đã hết sức biện bạch, kết quả làm cho quân Khiết Đan phải lui và từ đó
hai nước hoà bình được đến vài chục năm). Chuyến đi này, cũng giống như thế.
Ngươi cố vì trẫm vâng mệnh ra đi, cũng là Phú Bật của nước Nam đó. Một vị
hoàng thân cùng đi, trẫm đã sai Duy án (Cương mục chép là Duy
Hiên), còn một viên phó sứ nữa thì tuỳ ngươi chọn lấy.
Xán hăng hái xin đi, và nói:
- Vua phải lo thì bề tôi mang
nhục; thần đâu dám sợ khó khăn? Trong những người từng làm việc chung với
thần mà thần đã biết, thì có Ngô Nho là có thể dùng được.
Vua ưng lời, rồi ban mệnh lệnh
xuống. Cả triều đình đều khen là chọn được người xứng đáng.
Duy án là con thứ sáu của vua ý
tông, và là ông chú họ nhà vua. án tính người cẩn thận, nho nhã và trung
thực. Công chúa Ngọc Hân khi chưa lấy chồng, vẫn thường tôn kính án, mọi việc
nên chăng đều hỏi ý kiến của án. Kịp đến khi công chúa về với Bắc bình vương,
án thường nhân có việc tới gặp, Bắc bình vương cũng khen án nói năng lui tới
có lễ độ. Lúc đó vì muốn luôn tiện hỏi thăm công chúa, cần chọn người hoàng
thân xứng đáng, nên mới sai án đi.
Trần Công Xán, người làng Yên Vỹ,
huyện Đông An, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm thìn (1772) đời Cảnh Hưng. Hồi Đoan nam
vương còn coi giữ việc nước, Xán đang ở chức tả thị lang bộ công, được sung
chức hành tham tụng. Trong cuộc biến loạn năm Bính ngọ (1786), quân Tây Sơn
tiến sát kinh kỳ, quân quận Thạc tan vỡ, các quan văn vỡ đang đêm đua nhau bỏ
trốn, riêng có mình Xán xin với chúa quyết liều một trận sống chết. Xán bận
quần áo trận, tay cầm gươm, hộ vệ chúa Trịnh ở lầu Ngũ Long.
Lúc Bắc bình vương vào kinh đô,
vua Lê trước sai các quan lần lượt tới yết kiến. Thấy thần sắc của Bắc bình
vương rực rỡ, nghiêm nghị, ai cũng run sợ, hãi hùng, riêng có Xán là tiến
thoái như thường, không mất phong thể của bậc đại thần. Bắc bình vương lấy
làm lạ, đã mấy lần mời Xán đến, hỏi việc Bắc Hà. Hỏi đâu Xán đáp luôn đấy,
nói như suối chảy, không có chỗ nào ngập ngừng, ấp úng.
Có lúc Bắc bình vương cố ý hỏi
vặn, nhưng Xán vẫn lật qua lật lại, tranh cãi nhiều lần, không mảy may chịu
khuất phục.
Bắc bình vương bảo với tả hữu
rằng:
"Ta nghe Bắc Hà rất nhiều
nhân tài, nay đến tận nơi thì chỉ thấy Trần Công Xán là có khí sắc con người
mà thôi!".
Công Xán vốn được Bắc bình vương
kính trọng là như vậy.
Xán đã từng làm thượng thư bộ
Hình, được vào chầu ở toà Kinh-diên, rồi lĩnh chức đồng bình chương quân quốc
trọng sự. Trong triều đình, Xán là người cương trực, gặp việc có tài ứng
biến, lại thêm có học thuật, vì vậy ai cũng tôn trọng. Xán lại là thầy học
của Chỉnh. Mỗi khi Chỉnh có tâm sự gì, không thể nói với người ngoài thì
không khi nào không hỏi Xán để quyết định. Vì thế, chuyến này Chỉnh mới xin
vua để sai Xán đi.
Ngô Nho người làng Tri Chỉ, huyện
Phú Xuyên. Trước kia Xán làm đài quan (tức là chức ngự sử) coi việc chấm thi,
đã lấy Nho đậu tiến sĩ khoa ất-tỵ (1785), nên Nho vẫn theo lễ thầy học mà đối
đãi với Xán, thường tới nhà Xán luôn. Nho thấy Xán là người khảng khái, có
khí tiết lớn lao, không thèm xu phụ quyền thế, nên hai bên thanh khí hợp
nhau. Xán cũng yêu và trọng Nho, vì thế bảo Nho đi với mình.
Khi Nho mới nghe lệnh ấy, liền vào
gặp Xán. Xán bảo Nho rằng:
- Nước địch đè lấn, tin báo ngoài
bờ cõi đang gấp. Nay chỉ biết ra đi chưa biết ngày về. Tôi là đại thần của
nước nhà, nghĩa phải ra đi, sống thác không cần tính đến. Ông mới làm quan,
ngôi thứ còn thấp, ở nhà lại có mẹ già. Trung hiếu không thể vẹn cả đôi
đường, hãy thử nghĩ cho kỹ, tôi không dám ép ông đâu.
Nho trả lời:
- Tướng công chịu ơn dày của nước,
tôi thì chịu ơn trí ngộ cao cả của tướng công. Đại thần gánh việc cho nước
nhà, kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, đều là nghĩa phải như thế, ngoài ra không
biết đến việc gì khác.
Xán mừng mà rằng:
- Mạnh mẽ thay! Kẻ sĩ như thế đáng
gọi là "đạt" vậy.
Rồi đem Nho vào yết kiến vua. Vua
cho Nho lạy ở nội điện và hỏi:
- Nhà ngươi đã ôm ấp kinh luân,
từng trải việc đời thử liệu xem chuyến đi này ra sao?
Nho tâu:
- Ngửa trông phúc lớn của nhà nước
và mưu sâu của miếu đường, công việc xong xuôi tưởng cũng không khó. Vả lại
lúc ấy đã có vị lương thần chuyên việc ứng đối, chắc sẽ không để nhục đến
mệnh vua. Thần làm người giúp việc chỉ biết làm hết chức phận mà thôi.
Nhà vua gật đầu, rồi sai quan bình
chương Phan Lê Phiên cùng với Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh họp nhau bàn việc
thảo quốc thư. Trong thư đại lược nói rằng:
" Nghệ An là đất nền móng
trong cuộc trung hưng của bản triều, cùng với Thanh Hoa, đều là quận chân tay
của nhà nước, quan văn tướng võ phần nhiều ở đó mà ra. Quân lính túc vệ cũng
đều kén chọn đinh tráng ở xứ ấy sung vào. Nếu như dùng người mà bỏ đất, để họ
cách trở quê hương, xa lìa thân thích, xét về nhân tình, rất là trái ngược.
Đức vua quý quốc trọng điều tín nghĩa, hoà với láng giềng, "suy bụng ta
ra bụng người", chắc rằng không việc nhỏ mọn nào mà không soi thấu,
huống chi là việc rõ ràng như thế. Nghĩ lại đức vua quý quốc lúc mới ra Bắc,
vốn lấy việc tôn phò làm nghĩa thứ nhất. Tiên đế lúc sinh thời, từng mời ngồi
trên giường, cầm tay cùng trò chuyện. Tiếng ngọc còn văng vẳng bên tai, vội
quên sao được? Kịp đến khi tiên đế tựa ghế trối trăng mọi việc, ân cần lo cho
kẻ tiểu tử này tuổi còn trẻ nhỏ, muốn nhờ vào phúc ấm của quý quốc, để làm
nơi nương tựa. Gần đây nghe tin quý quốc sai tướng ra đóng ở Nghệ An, lòng
người ngờ vực, có kẻ cho rằng đó là do bọn bề tôi ở biên giới gây việc, không
phải bản ý của quý quốc vương. Đến lúc tiếp được bức thư tư ra, mới biết thật
là vâng mệnh lệnh của quý quốc vương. Trong thư vin vào cớ mùa thu năm ngoái
bản quốc đã hứa cắt đất khao quân. Kẻ tiểu tử này mới lên ngôi, chưa được rõ
nguyên nhân việc trước, đã sai đình thần tra cứu lại cái ước cắt đất, thì là
hai châu Bố Chánh, Minh Linh (Bố Chánh nay gồm các huyện Bố Trạch, Quảng
Trạch, Tuyên Hoá thuộc Quảng Bình. Minh Linh nay là Vĩnh Linh, Do Linh thuộc
Quảng Trị (Bình Trị Thiên)), chứ không liên can gì tới bờ cõi xứ Nghệ An. Vả
lại, hồi đó đã vâng lời quý quốc vương dụ rằng: "Quả là đất đai của nhà
Lê, một tấc cũng không lấy". Nay nếu khao quân bằng đất thì không bằng
khao quân bằng của. Vậy xin tính số thu nhập hàng năm của đất ấy, dùng làm
chi phí khao quân; rồi cứ hàng năm đưa đến biên giới, làm thành định lệ lâu
dài. Xa trông quý quốc vương xét cho, để trọn tình hoà hảo của hai nước. Cả
nước chúng tôi đều lấy làm may lắm!".
Thư thảo xong, đệ lên vua xem. Vua
sai lấy ở kho nội phủ một số vàng, đoạn màu, và lụa vải thổ sản làm đồ biếu
tặng. Rồi vời Trần Công Xán vào trước mặt để dặn dò và giao cho mang đi. Ngay
hôm đó, bọn Xán lên đường. Trăm quan đều tiễn chân đến ngoài kinh thành.
Riêng Nguyễn Hữu Chỉnh thì cùng Xán ngủ đêm ở chùa Thịnh Liệt. Xán bảo Chỉnh
rằng:
- Bắc bình vương là người hiểm sâu
khó lường, chuyến đi này vị tất ông ta đã nghe theo. Nhưng tôi đã vâng mệnh
nhà vua thì cứ liệu chiều biện luận, liều chết mà cãi. Còn công việc phòng bị
thì sau khi tôi đi, ông phải chú ý thêm, chớ có sơ suất. Dọc theo địa phận
miền núi Thanh Hoa, phải gấp rút chia đồn đóng giữ các nơi hiểm yếu đề phòng
quân bộ. Cửa biển trong trấn Sơn Nam cũng nên đóng cọc ngang dòng sông, để
chặn quân thuỷ. Nếu họ trái lời hẹn, mà tới đánh, thì ta đã có phòng bị
trước, không đến nỗi để việc tới nơi mới hấp tấp.
Chỉnh nói:
- Xin thầy cứ đi, không cần phải
quá lo. Lời nói của thầy ai chẳng nghe theo? Nếu không thì việc điều khiển
quân lính của trò đây cũng chẳng kém ai. Vạn nhất có biến, há lại không làm
nổi một trận sấm vang chớp giật, nghiêng biển, lật núi cho sướng bụng hay
sao? Họ dù kiệt hiệt, cũng chẳng làm được gì.
Xán không cho lời nói của Chỉnh là
phải.
Khi sứ thần đến đầu huyện Quỳnh
Lưu thì có viên tướng của Võ Văn Nhậm sai ra đóng đồn ở đấy đón vào trong
đồn. Xem xét đồ vật xong rồi, y chỉ cho ba viên sứ thần và mười tám người tôi
tớ cùng đi, còn bao nhiêu đều bảo về.
Đến doanh trấn Nghệ An, Nhậm sai
thết tiệc khoản đãi, rồi thong thả hỏi Xán rằng:
- Quan văn quan võ ở Bắc Hà như cụ
phỏng được mấy người? Vua Lê giao nước cho tên giặc Chỉnh, ý ngài tự nghĩ ra
sao? Tôi nay đã lĩnh binh phù, sớm tối sẽ kéo thẳng ra Thăng Long, trước chém
đầu giặc Chỉnh sau hỏi tội vua Lê sao lại bội ơn dong nạp đứa làm phản? Rồi
báo cáo rõ ràng với sĩ dân Bắc Hà, cho họ biết tại sao chúng tôi phải dùng
quân? Vua Lê đã không giữ nổi nước nhà thì các trấn từ Thanh Hoa trở ra,
chúng tôi không lấy, người khác cũng sẽ lấy. Nghệ An là một mảnh đất cỏn con,
cắt hay không cắt có quan hệ gì đến việc mất còn của nước nhà mà phải đi xa
xin xỏ cho mất công trèo non lội suối. Tôi chỉ e rằng con chim đã lìa tổ, đến
lúc bay về lại không có cành để đậu nữa mà thôi!
Xán im lặng, mọi người nghe nói
đều sợ hãi. Đến lúc trở ra, Xán bảo Nho rằng:
- Người Tây Sơn hành binh như bay,
tiến quân rất gấp. Xem họ đi lại vùn vụt mau chóng như thần, chống không thể
được, đuổi không thể kịp, xưa nay chưa hề nghe có giặc nào như thế. ý tôi đã
lo xa, phải đề phòng trước, lúc đi đã dặn ông Bằng phải như thế, như thế,
không biết ông ấy có nhớ không? Nếu hơi chậm trễ, việc sẽ không kịp.
Nói xong, than thở hồi lâu rồi đi.
Nho bèn nói với Xán rằng:
- Xem mưu kín của chủ tướng họ,
thì việc thôn tính nước mình họ đã sắp đặt sẵn sàng. Việc tôn phù năm trước
chẳng qua chỉ là mượn cớ mà thôi. Bọn lang sói vốn sẵn bụng ác, quyết không
thể nói bằng nhân nghĩa. Bây giờ xe sứ thần đã ra khỏi bờ cõi, kinh thành sắp
bị nạn đinh đao, sự thế quá gấp, phải tính đường quyền biến để làm cho được
việc, không nên câu nệ. Vả xem ông Bằng từ khi đắc chí đến nay, đai vàng
ngang lưng, bộ dạng nhơn nhơn tự đắc, không còn như hồi trước "nhá rễ
cây mà làm nên việc". Tôi e rằng ông ta lính quýnh ra trận, thế nào cũng
bị Võ Văn Nhậm bắt mất. Lúc đó vua ta đi hay ở lại, cũng chưa dám chắc. Chúng
ta phải trù tính thế nào để ngấm ngầm xoay lại then máy, may ra mới có thể cứu
vãn được. Chỉ cần cho nước được yên, dầu có tự tiện cũng không hề gì. Nếu cứ
vâng chỉ cũ, cố tranh cãi về việc Nghệ An, thì đúng như người ta vẫn nói:
"Cướp đã vào nhà còn sửa phên dậu". Như thế thật là thất sách. Vậy
xin chữa lại quốc thư để mang đi.
Xán nói:
- Chữa! Chữa như thế nào?
Nho nói:
- Chữa rằng: "Họ Trịnh chuyên
quyền, vua Lê đã không còn nước. May nhờ quý quốc vương tôn phò. Nếu trời còn
phù hộ nhà Lê, tiên đế đâu đến nỗi qua đời. Tôi là cháu kế tự còn nhỏ tuổi,
nghĩ rằng gánh vác không nổi, để nhục cho xã tắc. Kinh thư có
chữ "làm khách", Kinh thi nói rằng "có
khách" (hai câu này đều có nghĩa là muốn nhường nước cho người khác. ở
đây, tỏ ý nhường cả nước cho Tây Sơn, và chỉ xin cắt lại cho một mảnh để vua
Lê lấy chỗ thờ cúng tổ tiên mà thôi), đều là việc cũ đời xưa. Kính xin cắt
cho một phần đất để được nối đời thờ phụng tổ tiên. Thật là thuận mệnh trời
để mà sống còn, cầu lòng thương của trời về dài lâu vậy!". Nếu họ chỉ
muốn giữ nước, không có bụng làm hại mình, thấy nói như thế chắc hẳn phải
mừng rỡ, thế nào họ cũng thả sứ thần về nước và chia đất cho ta. Nhân thế ta
có thể khuyên vua ta hãy tạm ở đất ấy. Họ không có lòng ngờ ta, thì sẽ không
đến dòm giỏ nữa. Bấy giờ ta sẽ lo tính dần dần như vua Thiếu Khang ở Luân ấp,
vua Câu Tiễn ở Cối Kê, tự nhiên sẽ có ngày trung hưng. Nếu không thế, họ đã
tức giận mà ra tay hung tàn, thì bọn mình chỉ làm ma biển khơi. Điều đó tuy
chẳng đáng kể nhưng vua ta sau khi phiêu bạt, long đong, không còn tấc đất để
nương tựa, thì dẫu đến tài như Khổng Minh cũng khó lòng mà trở tay.
Xán nói:
- Không được! Ông Bằng theo việc
quân từ lúc đầu còn để chỏm, là tay lão luyện trong chốn trận mạc, nếu như đô
thành mắc nạn binh đao, tưởng cũng không đến nỗi khốn đốn lắm. Hai nước đánh
nhau, chưa biết ai thua ai được. Chúng ta vâng mệnh đi sứ, mới ra khỏi cõi mà
đã chữa quốc thư, mạo lời chúa, chẳng những bị tội với nước mình, mà nếu bên
địch khám phá ra chỗ lừa dối đó, họ cũng không dong mình; tai vạ càng lớn,
tiếng cười không biết bao giờ mới hết. Chi bằng cứ minh bạch mà làm, việc
thành hay bại là tại ông trời, ta có lo gì.
Từ đó Nho không dám nói nữa.
Khi đến Phú Xuân, các sứ thần bày
lễ vật vào yết kiến Bắc bình vương. Xán trình quốc thư lên. Bắc bình vương
xem qua một lượt, rồi vứt xuống đất mà nói to:
- Thư này ai làm? Nói ra toàn điều
vô nghĩa lý. Người Bắc quen dùng lời lẽ để dử người. Ta không phải trẻ con mà
lừa dối được đâu!
Xán vẫn không đổi nét mặt, ung
dung trả lời:
- Xin đại vương hãy bớt giận, để
tôi nói rõ. Nếu muốn giết tôi, tôi cũng xin nói một lời rồi chết.
Bắc bình vương vốn trọng Xán, liền
đổi nét mặt mà rằng:
- Ngày xưa ta vượt biển ra Bắc,
phá Thăng Long, diệt họ Trịnh, cả nước khiếp sợ, trong triều ngoài nội đều
chịu bó tay, không ai dám làm gì. Lúc bấy giờ nếu ta chiếm giữ đất nước, xưng
đế, xưng vương, gì mà chả được? Nhưng vì ta xa mến đức của tiên đến, nên đem
cả cõi đất nguyên vẹn trả lại ngài. Cơ đồ thống nhất đều do tay ta gây dựng
lại. Bắc triều lại dùng chế sách "thượng công" để đền đáp ta. Chẳng
biết "thượng công"? là danh hiệu gì? Đối với ta có thêm được cái gì
không? Kịp đến khi tiên đế chầu trời, lễ cả sơn lăng, ta giúp đỡ cho: tự
vương nối ngôi, lễ lớn sách lập, ta chủ trương cho. Nay không cảm ơn những
việc của ta làm, lại chứa chấp kẻ phản ta, chống cự với ta, mưu đồ dành lại
đất Nghệ An. Xử sự như thế, nhân tình có ai nín nhịn được không? Ta đã phái
ra hai vạn binh mã, sai tả quân Võ Văn Nhậm thống lĩnh, thẳng tới Thăng Long,
chặt đầu cha con giặc Chỉnh về dâng. Chắc rằng khi Chỉnh nghe tin quân ta kéo
ra, thế nào cũng kèm tự tôn bỏ chạy. Bấy giờ ở dưới gươm đao, ngọc đá lẫn
lộn, không biết tự tôn có giữ được yên lành hay không? Nếu có làm sao, người
trong nước lại qui oán về ta thì thật phiền.
Xán thưa:
- Xưa đức Lê Thái tổ dẹp yên quân
Ngô, mở mang nước nhà, công đức như trời. Vua Thánh tông tự mình làm nên thái
bình, rạng danh đời trước, mở rộng về sau. Từ núi Thạch Bi ra bắc, từ dẫy Đại
Lĩnh (Thạch Bi ở Quảng Nam (Quảng Nam-Đà Nẵng) Đại Lĩnh ở Khánh Hoà (Phú
Khánh)) vào nam, đều làm tôi làm dân, ai ai cũng phải tôn kính, trải qua hàng
trăm năm. Họ Mạc tiếm ngôi, cả nước đều giận. Đấng tiên vương hội họp những
người đồng chí, dựng lại họ Lê. Họ Trịnh nối theo cũng vì có công phò Lê, cho
nên mới sai bảo được bốn phương, và được mọi người hưởng ứng. Từ mấy đời nay,
chúa Trịnh tuy là hiếp chế vua Lê, nhưng chính sóc không đổi thay, chuông
khánh vẫn ở đấy (Chính sóc là ngày mùng 1 tháng giêng; xưa các vua sáng
nghiệp khi lên ngôi thường đổi chính sóc, đây mượn ý đó để nói đến quyền vua.
Chuông khánh (nguyên văn là chuông và giá khánh) là những đồ thờ của nhà vua;
đây ý nói miếu đường của nhà vua vẫn tồn tại), thiên hạ vẫn là thiên hạ của
nhà Lê. Đại vương ruổi xe một mạch, thẳng đến kinh thành, tuy rằng oai danh
đã vang dậy khắp nơi, nhưng cũng do lấy nghĩa cả tôn phò, khiến người ta tin
phục, mới được như vậy. Nếu không, việc vào nước người ta, đâu có dễ dàng như
thế. Tiên đế thoạt thấy đại vương, tiếp đãi rất là long trọng. Trước ban sách
mệnh làm tước công, rồi sau sẽ phong vương, đó là điển cũ của bản triều,
không phải trả ơn không hậu, chớ nên thấy như thế mà cho là bạc. Một nước đã
trải hơn ba trăm năm, trời cao chứng giám, lòng người tôn sùng. Đại vương đem
cả cõi đất trả lại nguyên vẹn, là thể thuận ý trời, chiều lòng dân, chưa có
thể lấy đấy làm ơn. Tiên đế mất đi, hoàng thượng nối ngôi, mọi việc đều bẩm
trước với đại vương. Đại vương không làm chủ thì ai làm chủ nữa. Lý đã đến
thế, đừng cũng chẳng được. Tôi không dám khen ngợi để dâng lời ton hót. Đại
quân về Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh đuổi theo, đại vương để hắn ở lại Nghệ An, sao
lại bảo hắn làm phản? Nghệ An vốn là đất cũ của bản triều, bản triều phải giữ
lấy bờ cõi, sao lại nói là tranh giành? Đại vương phái binh mã ra, nếu là để
thăm hỏi, bản triều đã có lễ nghênh tiếp. Bằng không, thì như người xưa đã
nói: "Nước lớn có quân đánh dẹp, nước nhỏ có cách chống giữ". Tôi
nay đã ra khỏi cõi, việc ấy không còn dám biết đến. Tự hoàng của nước tôi,
trời đã sai làm vua, đế vương có chân mệnh, gươm đao cũng phải lựa chọn, đại
vương chớ có lo. Nếu như đại vương cứ thuận lẽ trời mà làm, gây lại nước đã
suy, nối lại họ đã dứt, để cho nước của nhà họ Lê được yên ổn, thì những
người làm tôi làm dân trong cả nước ai chẳng cảm đội công đức, còn có oán gì?
Nhược bằng làm trái lại, thì sự thế thay đổi khác thường, tôi đây ngu dại,
không thể nào mà thấy trước được.
Xán cứ cãi đi cãi lại mãi, không
chịu khuất phục một lời nào. Đến lúc trời sắp tối, Bắc bình vương bảo:
- Hãy ra nhà trọ mà nghĩ đi nghĩ
lại cho kỹ!
Xán nói:
- Nghĩ lắm luẩn quẩn lại dễ lầm
lẫn, một chết là xong!
Bắc bình vương nổi giận, sai đem
giam Xán vào ngục. Bọn án và Nho cũng đều bị chia ra giam ở các nơi khác.
Xán vào ngục, cười nói như thường,
Bắc bình vương sai người đến dò, thấy Xán viết ở chỗ giam đôi câu đối như
sau:
Đạt đức
hữu tam, túng vị năng chi, nguyện học.
Tiểu tâm
vô nhị, hành kỳ tố dã, hà vưu? (nghĩa
là: Đạt đức có ba, dù chẳng làm nên xin học. Giữ lòng như một, noi theo chí
cũ, oán gì?)
Tư mã Ngô Văn Sở xin giết chết bọn
Xán. Bắc bình vương còn tiếc tài của Xán, bèn bảo trung thư Lê Văn Kỷ và viên
quan bộ Lễ là Vũ Văn Trụ rằng:
- Nhân vật Bắc Hà, Xán cũng vào
bậc giỏi đấy! Ta muốn thu phục hắn để dùng, nhưng mà chắc hắn không chịu. Các
ngươi thử hiểu dụ hắn một phen nữa xem sao?
Hai người bèn đến chỗ giam Xán,
thấy Xán mang gông nằm sấp, liền nói:
- Ông già sao lại tự mình làm khổ
mình như vậy?
Xán trả lời:
- Cũng là số mệnh đấy thôi!
Kỷ nói:
- Quân tử có khi không cần theo số
mệnh, chế ngự được số mệnh là cốt ở mình. Ví như đánh bạc, đồng tiền một sấp
một ngửa; ta theo kẻ được mà đánh, thiên hạ sẽ khen ta là người đánh bạc
giỏi.
Xán nói:
- Bởi thế cho nên đó chỉ là phường
cờ bạc, chứ không phải đạo của người quân tử. Tôi nghe nói: "Kẻ làm bề
tôi phải chết vì chữ trung". Đấy là lời dạy của người xưa!
Hai người biết là không thể làm
lung lay được ý chí của Xán, liền đi ra và nói với nhau:
- Nhà Hán có Tô Tử Khanh (tức Tô
Vũ đời Hán Võ đế. Khi đi sứ Hung Nô, Tô Vũ bị Hung Nô giữ lại, bắt nuôi dê ở
Bắc Hải 19 năm ròng, mà Tô Vũ vẫn giữ khí tiết không chịu khuất phục) nhà Lê
có Trần Công Xán. Đáng thương, nhưng cũng đáng ghét thay!
Vừa gặp lúc đó, vua Tây Sơn gửi
thư ra kể tội lỗi của Bắc bình vương và sắp phái quân tới đánh. Tướng sĩ dưới
cờ của Bắc bình vương có kẻ trốn đi, Bắc bình vương liền bảo Trần Văn Kỷ
rằng:
- Nay nước ta có việc lôi thôi,
lòng người còn phân vân. Việc biến trong nhà không nên để nước láng giềng
nghe biết. Sứ Bắc ở đây, tai vách mạch rừng. Họ ở xa đến để dò xét ta, giữ họ
ở lại thì họ biết rõ tình hình trong nước, hoặc giả nhân đó họ xúi giục, gây
ra việc không hay. Thả họ về thì lại bị họ rêu rao làm lộ việc, người Bắc Hà
mà biết, thì lại sinh lòng khinh rẻ ta. Bởi thế, ta định ném bọn họ xuống
biển, để cho hết tiếng tăm dấu vết, vậy cứ theo chước đó mà làm.
Rồi Bắc bình vương sai đô đốc là
Võ Văn Nguyệt sắp sẵn vài chiếc thuyền biển, nói phao là đưa sứ thần về Bắc.
Lúc bọn Xán vào từ giã, Bắc bình
vương nói:
- Các ông hãy về trước, chờ lúc
tôi ra ngoài ấy vời vào gặp mặt, sẽ có cách xử trí việc Nghệ An.
Rồi Bắc bình vương lại đem tặng họ
một trăm nén bạc và bảo:
- Đây là của công chúa gửi tặng,
các ông đừng chối từ.
Tiếng gọi là đưa họ về, nhưng thật
ra Bắc bình vương đã ngầm bày mưu cho Nguyệt, người ngoài không ai được biết.
Tháng ba, mùa xuân năm Đinh vị
(1787) thuyền từ cửa Tư Dung (thuộc Thuận Hoá, nay là cửa Tư Hiền) giương
buồm ra đi, không mấy ngày đã đến cửa biển Đan Nhai thuộc thị trấn Nghệ An.
Nguyệt cùng bọn sứ thần ghé thuyền vào bờ, rồi cùng lên bộ.
Lúc ấy có người học trò của Xán là
giám sinh Nguyễn Hiên, người huyện Chân Lộc, nghe tin thầy học được về, vội
mừng rỡ đến chào. Chợt thấy nét mặt Nguyệt có vẻ khác thường, Hiên ngầm đoán
được ý của hắn, bèn nói kín với Xán hãy xin đổi đi đường bộ.
Nhưng Nguyệt nói:
- Tôi vâng mệnh đưa sứ giả đi
đường biển, thuận tiện mà ổn thoả, không nên đi đường bộ, trèo non vượt suối
vất vả.
Rồi đó, cả bọn lại lên thuyền ra
biển.
Vừa ra đến ngoài khơi, Nguyệt liền
bảo bọn lái thuyền đục thuyền cho nước vào, dìm cả bọn sứ thần xuống biển.
Hiên đứng trong bờ trông ra xa gào khóc hồi lâu mà về. Hôm ấy nhằm ngày 11
tháng 4, mùa hè năm Đinh vị (1787).
Xong việc, Nguyệt lại ghé thuyền
vào bờ, nói phao cho trong ngoài biết rằng, thuyền gặp sóng gió bị đắm, để
tránh cái tiếng giết hại sứ giả. Lúc bấy giờ, có người làm hai câu thơ rằng:
Tên lưu
vũ trụ bia ngàn thuở,
Nghĩa
nặng cương thường biển vạn năm.
Từ lúc bọn Xán đi Nam, Chỉnh cho
rằng việc thế nào cũng xong, nên đã nói toạc ra ở trong triều rằng:
- Tình hình Tây Sơn như ở trong
tầm con mắt của ta. Họ sẽ mừng là ta đã không gây sự, để họ có thể chuyên tâm
vào việc nước họ. Hiện nay cuộc nội chiến của họ đang rối ren, thì giờ đâu mà
lo đến việc bên ngoài. Còn Võ Văn Nhậm thì chơ vơ ở Nghệ An ngoảnh về bên
trong không có quân cứu viện, có làm được gì? Bắc bình vương thấy thư của ta
đưa đến, thế nào cũng mừng mà nghe theo, xin đừng lo gì việc miền Nam!
Vì thế, những lời Xán dặn lúc ra
đi, Chỉnh đều không để ý tới, chỉ tâu xin cho Nguyễn Duật làm trấn thủ Thanh
Hoa mà thôi.
Lúc Duật sắp đi, Chỉnh dặn rằng:
- Chỉ nên giữ gìn bờ cõi cẩn thận,
chớ có sinh sự để bên địch nghi ngờ. Đợi khi Trần bình chương trở về, sẽ dời
vào làm trấn thủ Nghệ An, sửa lại luỹ cũ ở Hoành Sơn, giữ vững bờ cõi để làm
chước lâu dài.
Quan bình chương Phan Lê Phiên
nghe được chuyện ấy, liền đến nhà Chỉnh mà nói:
- Ông Trần đã già giặn việc đời,
xét đoán công việc rất nhanh. Ngày thường ông ấy bàn bạc tính liệu như thần,
đến lúc sự việc xảy ra, không việc gì là không đúng. Ông chớ nên xem thường!
Chỉnh cũng không cho là phải.
Phiên ra ngoài nói với người bạn đồng liêu là Trương Đăng Quỹ rằng:
- Ông Bằng vốn có tiếng là biết
việc binh, thế mà không nghe lời can, coi thường quân giặc, sợ rằng quốc đô
mới qua một cuộc tàn phá, không thể chịu nổi một trận giày đạp nữa. Chúng ta
gánh chức phụ bạt đã lâu, nếu "đổ mà không giữ, nguy mà không phò"
thì còn dùng hạng tướng quốc như chúng ta làm gì?
Hai người than thở cùng nhau hồi
lâu, rồi Phiên nói:
- Nghĩ lại công đức của tiên đế
rất lớn, mà nay ngài chưa có miếu hiệu, không bàn định cho kịp lúc này, rốt
cuộc điển lễ vẫn thiếu.
Hai người bèn cùng bàn với các
quan, dùng sách vàng tôn xưng tiên đế làm Vĩnh hoàng đế, miếu hiệu Hiển tông.
Rồi tâu với vua xin làm lễ cáo miếu. Chỉnh nói:
- Theo lễ, việc tôn xưng miếu hiệu
phải chờ sau ngày đại tường, khi đã rước linh vị vào miếu rồi mới cử hành,
làm gì mà gấp thế?
Phiên nói:
- Việc đời chưa biết thế nào, bây
giờ chính là lúc cần phải tôn mỹ hiệu của tiên đế cho xong ngay đi!
Chỉnh nghe nói cũng im lặng.
Lại nói, lúc Nguyễn Hữu Chỉnh từ
Nghệ An vào kinh. án đô vương Trịnh Bồng chạy qua sông, sang trấn Kinh Bắc,
vào tạm lánh ở làng Quế ổ. ở đấy có viên võ biền tên là Nguyễn Đình Toại (Cương
mục chép là Nguyễn Trọng Mại) vâng mật chỉ của chúa kêu gọi các thổ
hào vùng Thuận Thành, Từ Sơn mộ quân nghĩa dũng, mưu đồ đánh Chỉnh để dẹp yên
nạn nước và khôi phục nghiệp cũ. Rồi đó, Toại lại đưa hịch cho các phiên thần
ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, bảo họ họp quân lại, làm việc cần vương.
Chỉnh thấy vậy, luôn luôn tỏ ý
muốn đánh, nhưng vì có Dương Trọng Tế chiếm giữ huyện Gia Lâm, đắp luỹ chống
nhau với Chỉnh, đường đi còn bị ngáng trở một lối, nên Chỉnh đành phải tạm
gác việc ấy lại chưa làm vội. Kịp đến khi Trọng Tế đã bị giết, Chỉnh bèn hối
hả cho việc đánh chúa Trịnh là điều cần thứ nhất, liền tâu xin tự mình đem
quân bản bộ tiến đánh.
Vua Lê nghĩ chúa Trịnh vốn có lòng
kính thuận không nỡ đánh, vả trong bụng đang hết sức ghét Chỉnh, không muốn
cho hắn đắc chí, sợ sẽ thành cái thế lấn át vua, nên muốn ngăn việc ấy lại.
Nhưng rồi khó nói ra lời, nhà vua bèn sai viên nội hàn là Vũ Trinh tuyên rõ
chỉ ý của vua và truyền cho Chỉnh biết rằng:
- Gia đinh họ Trịnh trải qua nhiều
đời, thực có công lớn, nếu để người như Tử Văn mà phải tuyệt tự thì lấy gì mà
khuyến khích điều thiện? (Tử Văn tên thực là Đấu Cốc Ô Đồ, người đời Xuân
thu, làm quan nước Sở, có công lớn trong việc trị nước. Sau người em họ là
Đấu Việt Thục làm loạn, đáng lẽ phải tru di cả họ, nhưng Sở Trang Vương tha
tội cho người cháu của Tử Văn, và nói: "Người như Tử Văn mà bị tuyệt tự
thì lấy gì mà khuyến khích điều thiện"). Chỉ bằng trước hãy làm bài cáo
văn hiểu dụ rõ đường phúc hoạ cho y. Nếu y cứ u mê không tỉnh, sau đó ta hãy
đem quân đánh. Ta cứ giữ niềm trung hậu, để cho người ngoài không nói vào đâu
được, há không hơn hay sao?
Chỉnh không nghe, nói:
- Nếu tôi không đem quân ra, để
cho việc Trọng Tế giúp chúa được thành, xem y có xử hậu với hoàng thượng
không? Anh hùng làm việc, há lại theo lòng nhân đức của đàn bà?
Rồi Chỉnh cố xin ra quân, vua Lê
bất đắc dĩ phải cho Chỉnh đốc suất các quân qua sông, thuyền bè chật cả mặt
nước, khí thế rất là lẫm liệt đáng sợ.
Chúa Trịnh nghe tin, vội vàng sai
Toại đốc suất người trong họ ở Quế ổ làm quân tiền phong, thổ hào Yên Dũng là
Nguyễn Trọng Linh làm tướng chống bên tả, thổ hào Gia Bình là Trần Quan Châu
làm tướng chống bên hữu, bày trận chờ sẵn.
Quân Chỉnh tới nơi, hai bên đánh
nhau từ sáng đến trưa, chưa phân được thua; sau đều rút quân để nghỉ ngơi.
Chỉnh sai người đưa tờ chiếu của
vua tới dụ chúa, khuyên nên qui thuận, không nên chống cự. Chúa cười mà nói:
- Hữu Chỉnh đến đây lần này, ý
muốn bắt sống ta, nếu nuốt trôi được, chắc không chịu nhả ra. Nay lại lấy lời
ngon ngọt dỗ ta, thằng nghịch tặc này quỉ quyệt đáng ghét thật. Tuy vậy, hắn
đã mượn mệnh lệnh hoàng thượng đưa ra, ta không thể im lặng không trả lời.
Chúa bèn tự thảo một tờ biểu trần
tình, kể tội ác của Chỉnh và nói nhân dân ai cũng nghiến răng tức giận, xin
hãy giết Chỉnh đã, rồi sẽ về triều, lời lẽ có nhiều câu gay gắt.
Thật là:
Sống mái ngoài đồng còn chửa quyết,
Trai cò trong ruộng vẫn giằng co
Chưa biết thua được ra sao? Hãy
xem hồi sau phân giải.
|
Hồi
10
Lân
dương hầu phò chúa vượt biển đến Yên Quảng
Bằng công Chỉnh mời vua qua sông đi Lạng Sơn
Lại nói, Chỉnh thấy lời lẽ trong
tờ biểu, gọi mình là thằng giặc, thì nổi giận đùng đùng, vung gươm quát to:
- Cái quân mất nước kia mà chưa
biết sợ, còn dám múa bút khua lưỡi để lừa người trong nước! Hôm nay ta thề
với hắn một sống một thác. Tướng sĩ các ngươi đều phải trông cờ nghe trống,
ra sức xông vào trận mạc, chỉ có tiến không có lùi. Kẻ nào không nghe mệnh
lệnh đã có thanh gươm này!
Rồi Chỉnh vận đồ trận, lên mình
voi, cầm lá cờ đỏ vẫy các quân sĩ tiến về phía trước.
Nguyễn Như Thái tế ngựa vào trận
hò reo "giết giặc". Súng nổ, cung bắn, tên đạn bay tới tấp như mưa
rào.
Quân bên tả của chúa chống không
nổi cơ hồ sắp vỡ. Chúa bèn sai đội tiền phong hợp với hai đội tả hữu vừa đánh
vừa lui vào trong luỹ, rồi chia quân để cố thủ.
Chỉnh dàn quân giáp liền với luỹ,
bốn mặt đánh vào, suốt nửa ngày không lấy được luỹ. Đến tối, mưa dầm rả rích,
gió thổi ào ào, trời đất đen ngòm, cách gang tấc không trông thấy gì. Chỉnh
hạ lệnh cho quân lính vây sát luỹ của chúa. Chúa bèn chia quân làm ba toán.
Những người dũng cảm thì làm hai cánh quân trước và sau, do Toại và Châu đốc
suất. Những người già yếu thì cho làm cánh giữa, chúa tự dẫn đi.
Đêm đã yên lặng, chiêng trống im
bặt, đèn lửa tắt hết. Ngoài luỹ súng bắn liên thanh không ngớt, mà trong luỹ
im lặng như tờ. Chỉnh sai quân do thám ngầm đến dưới luỹ nghe ngóng, hình như
trong luỹ không có người, nhưng cũng không lường được hư thực ra sao.
Đến canh tư, mưa và sấm sét lại
nổi lên dữ dội.
Chúa sai mở rộng cửa luỹ, bảo
Toại, Châu ra trước, mỗi người đem năm mươi tên dũng sĩ, đánh thẳng vào doanh
của Chỉnh; Toại đánh mặt tả, Châu đánh mặt hữu, mở một đường ở giữa. Tiếp đó
chúa dồn quân ra, nhằm phía đông mà chạy, để Toại và Châu làm đội chặn hậu.
Đêm ấy, quân của Chỉnh không phân
biệt ai với ai, bắn nhau đâm nhau lộn bậy. Sáng ra mới biết rõ sự thật, thì
đuổi theo không kịp nữa rồi. Chỉnh dồn quân vào luỹ, chỉ thấy nhà cửa rỗng
không, sai quân tìm kiếm khí giới lương thực, chẳng được gì hết. Chỉnh rầu
rầu không vui, liền rút quân về kinh.
Chúa Trịnh chạy đến Hàm Giang,
nương tựa vào Đinh Tích Nhưỡng. Bao nhiêu quân lính già yếu, chúa đều cho về,
chỉ để hai tướng Châu, Toại và hơn một trăm thủ hạ ở lại với mình. Nhưỡng sai
dọn riêng một trại để cho chúa ở.
Tính Nhưỡng nóng nảy, lại không
thông thạo nghề làm tướng, và cũng không phải thật thà có lòng trung nghĩa.
Lời nói, việc làm thường ngày của Nhưỡng cũng đều là giả dối, cốt lấy tiếng
mà thôi. Từ khi xuất thân tới nay, Nhưỡng chỉ quen thuỷ chiến, chứ chưa từng
đốc suất lính bộ. Sau trận thua ở huyện Kim Động, Nhưỡng bỏ hết thuyền bè,
thất thểu chạy về miền đông, giữ trấn thành Hải Dương. May nhờ ở đấy sẵn có
quân lương, nhưng Nhưỡng không khéo vỗ về trăm họ, lại thả lỏng cho bộ hạ
cướp bóc xóm làng, nên dân chúng hai phủ Thượng Hồng, Hạ Hồng đều căm giận.
Hào mục các nơi hùa nhau nổi lên đánh lại, Nhưỡng phải bỏ chạy về Hàm Giang.
Khi nghe tin Tây Sơn đã về Nam, Nhưỡng lại kéo quân vào kinh, định mưu lập
quận Thuỵ để chống vua Lê. Đến khi quận Thuỵ thua chạy. Nhưỡng bất đắc dĩ lại
phải bám vào chúa Trịnh Bồng. Lúc nghe tin Chỉnh lại ra Bắc, sợ Chỉnh không
dong mình, Nhưỡng bèn dẫn quân về đông, xin lĩnh hai trấn Hải Dương, Yên
Quảng để tránh tai vạ. Khi chúa chạy về Quế ổ, Nhưỡng vẫn vẫy vùng ở phía
đông, chưa hề lần nào đến thăm chúa. Đến lúc này, chúa đến Hàm Giang, Nhưỡng
luôn luôn tỏ vẻ nhạt nhẽo, lễ ý xem chừng cũng đơn bạc. Toại và Châu đêm ngày
ở bên cạnh chúa. Đối với Toại thì Nhưỡng ghen ghét là con nhà tướng; đối với
Châu thì Nhưỡng khinh rẻ là kẻ bạch đinh. Hai người dò biết ý Nhưỡng, sợ có
điều gì bất trắc, nên đều từ giã chúa và ra đi cùng một ngày.
Chúa khóc lóc tiễn đưa hai người
và nói:
- Tục ngữ có câu "chết đuối
vớ phải bọt", bám cũng không được, chẳng bao lâu nữa ta cũng đi thôi,
giữ các ngươi lại làm gì cho nhục!
Chúa ở lại hơn 10 ngày. Nhưỡng
không hề nói đến việc quân, việc nước. Chợt một đêm, Nhưỡng tới chỗ chúa ở mà
nói:
- Trời thanh trăng sáng, vẻ thu
rất đẹp, thần đã đem rượu lên thuyền chờ đợi, xin chúa đi chơi một lúc, ngắm
xem phong cảnh, cho khuây nỗi buồn.
Chúa tỏ vẻ sầu não mà rằng:
- Phong cảnh vẫn như thường mà
ngước mắt thấy non sông khác lạ. Ta chưa giết được quân thù, không nên quên
ngồi trên áo giáp. Bơi thuyền uống rượu không phải là việc của ta ngày nay.
Tướng quân hãy đi mà chơi!
Sau khi Nhưỡng đi, chúa rầu rầu
tựa ghế, bảo bọn người hầu:
- Quan võ đều không thể trông cậy,
hoặc giả bọn quan văn có khá hơn chăng? Chúa bèn viết bức thư, sai người ngấm
ngầm đưa cho quan bình chương là Trương Đăng Quỹ. Thư nói rằng:
"Kiếp này sinh ra lỗi thời,
gặp lúc nhà nước lắm nạn; lạm dự vào dòng đích nhà chúa, rất lo cho việc tôn
miếu xã tắc. Dâng biểu trần tình, may được hoàng thượng cho về triều kiến.
Lúc mới về, chỉ muốn giữ lấy việc thờ phụng tổ tiên cho tròn đạo hiếu, thực
không có bụng chuyên quyền giữ nước. Sự thế đổi thay, lại bị chư tướng ép
buộc, thành ra trái ý hoàng thượng. Lúc Chỉnh vào kinh, cung khuyết liền bị
tiêu huỷ. Con chim bị cháy tổ, bay quanh không biết nương nhờ vào đâu. Vì thế
phải phiêu bạt giang hồ, không dám về nơi kinh khuyết. Nay Quế ổ, mai Hàm Giang,
chỉ vì lo tìm nơi trú ngụ, bèn vướng lấy hình tích chống chế triều đình,
khiến kẻ ghét mình có cớ mà nói. Mảnh lòng kính thuận, không có cách nào thấu
đến bề trên. Ông hãy dùng lời lẽ khéo léo, tâu bày giúp cho. Lần này, dù tiến
dù lui, tuỳ theo mệnh lệnh của hoàng thượng".
Quỹ tiếp thư ấy, liền đem tâu vua.
Vua ngậm ngùi mà rằng:
- Tấm lòng thật thà của chúa, trẫm
đã lường biết. Chỉ vì không khéo xử sự trong lúc gặp biến cố nên mới đến nỗi
như thế. Nếu đã nghĩ lại và biết hối lỗi, trẫm sẽ có cách đỗi đãi, chẳng
những giữ được dòng dõi, mà cũng không mất địa vị giàu sang.
Luôn dịp, vua Lê bèn sai Quỹ làm
sứ thần đi nghênh tiếp, đón chúa về triều.
Lúc đó, chúa ở Hàm Giang, nghe nói
Nhưỡng và Chỉnh ngấm ngầm thông tin tức với nhau, ngỡ rằng bọn chúng có mưu
đồ gì khác, liền than rằng:
- Đây không phải là chỗ yên lành
có thể ở được. Ta thà vượt biển vào núi còn hơn là ngồi lại mà chịu nhục.
Rồi chúa sai người hầu bí mật mượn
mấy chiếc thuyền buôn, đang đêm đem cả đồ đảng, thuận gió giương buồm chạy
thẳng tới Sơn Nam. Sáng ngày Nhưỡng mới biết, rất lấy làm kinh sợ mà nói:
- Chúa đi sang nam mà không bảo
cho ta biết trước, phải chăng là có ý ngờ ta? Nếu không theo chúa, lòng này
không sao bộc bạch ra được, thiên hạ sẽ cho ta là người thế nào?
Tức thì, Nhưỡng cũng cưỡi chiếc
thuyền binh chạy theo chúa.
Chúa đến huyện Chân Định thì có
Phạm Tôn Lân (Cương mục chép là Phạm Đình Thiện) lên thuyền yết
kiến.
Lân quê ở làng Bác Trạch, huyện
Chân Định (nay là huyện Kiến Xương, thuộc Thái Bình), vốn dòng dõi thế phiệt;
ông tổ đời trước là Phạm Tôn Nhậm, một danh tướng của Trịnh Doanh, khoảng đầu
niên hiệu Cảnh hưng từng lập được nhiều chiến công, trong quận ấp ai cũng
kính phục. Tính Lân hào hiệp, khách ăn trong nhà thường có hàng trăm, khí
giới cất giấu đầy đủ. Trong đám thổ hào của trấn Sơn Nam hạ, Lân là bậc nhất.
Lúc ấy gặp chúa, Lân bàn việc binh
cùng chúa, và vạch chước tiến thủ. Chúa rất mừng và nói:
- Tiếc rằng ta gặp ngươi muộn quá!
Ngươi hãy gắng giúp ta để nối công đức của tổ tiên ngày xưa.
Lân nói:
- Tuần vốn không có tài gì. May
được nhờ oai linh của chúa, dám đâu không hết lòng hết sức.
Rồi đó, Lân mời chúa về nhà, nhóm
họp đồ đảng, hộ vệ cho chúa.
Hôm sau, Nhưỡng cũng đã theo đến
nơi. Trước hết. Nhưỡng sai người đưa một tờ khải cho chúa, trong nói:
"Nhà thần bao đời được đội ơn
dày, một lòng với nhà chúa. Nay thần với Chỉnh, nói về tình tuy có quen
thuộc, nhưng nói về thế thì không thể nào đứng đôi. Cả nước ai cũng biết điều
đó, thần dám có lòng nào để nhục đến tổ tiên đời trước, xin chúa soi xét cho,
khiến thần có thể lập được chút công, bù lại lỗi trước...".
Chúa xem khải rồi hỏi ý Lân, Lân
vốn nghe tiếng tăm của Nhưỡng, thường coi là tay cự phách xứ đông, nay may
được chung sức làm việc thì rất lấy làm mừng, nên cố khuyên chúa đem lòng
thành thực mà dùng Nhưỡng để thêm thế lực. Chúa nghe lời, Lân lập tức tự mình
ra đón Nhưỡng cùng vào gặp chúa. Do đó, hai người rất là tương đắc. Họ liền
đưa hịch đi các phủ Thái Bình, Kiến Xương, Thiên Trường (Thái Bình, Kiến
Xương sau đều thuộc tỉnh Thái Bình. Thiên Trường sau là Xuân Trường thuộc Nam
Định (Hà Nam Ninh)), hẹn cùng dấy quân đánh Chỉnh. Trong khoảng mười ngày,
người theo về có đến vài vạn. Họ định ngày cùng tiến quân, thuyền bè đầy
sông, thanh thế lừng lẫy xa gần đều hưởng ứng. Nhiều người cho rằng, nghiệp
chúa có thể tính ngày mà khôi phục. Con em nhà quan lúc trước, như bọn Đoàn
Nguyễn Tuấn, Phạm Giáp, Nhữ Công Liêu, Đào Nhữ Toản cũng đều chiêu mộ người
làng đến họp. Các xứ đông tây cùng nổi dậy trong một lúc.
Bấy giờ Trương Đăng Quỹ vâng mệnh
đi đón chúa, đến huyện Tiên Hưng, đường bị nghẽn, phải trở lại.
Vừa lúc ấy có người từ kinh thành
tới yết kiến chúa, nói rõ việc Chỉnh chuyên quyền kiêu ngạo, lòng người không
phục, vua cũng nghi kỵ, và khuyên chúa nên kíp tiến binh đánh Chỉnh. Chúa
nói:
- Ta có viên tướng cũ là Bùi
Nhuận, hiện ở kinh thành, coi quân Kim-ngô, lĩnh chức tứ thành đề lĩnh, có
thể bảo y làm nội ứng. Chức trách của Nhuận là việc tuần phòng, chắc không ai
nghi ngờ.
Rồi chúa bèn sai người đưa tờ chỉ
bí mật cho Nhuận, nói về việc ấy.
Tiếp chỉ, Nhuận liền bàn với người
thân tín. Đổi hết các quân canh giữ cửa ô. Con Hữu Chỉnh là Bái xuyên hầu dò
biết việc đó, lập tức sai quân bắt Nhuận; rồi sai tướng của Chỉnh là Nguyễn
Viết Tuyển hiện làm chức trấn thủ Sơn Nam đem quân đánh chúa.
Lúc lính thuỷ của Tuyển tới sông
Ngô Đồng (thuộc huyện Giao Thuỷ, Nam Định (Hà Nam Ninh)), mà lính bộ chưa đến
cửa Đại Hoàng (thuộc huyện Yên Mô, Ninh Bình (Hà Nam Ninh)), có người dò biết
về báo với chúa. Nhưỡng đem hai chục thuyền biển lớn nhất, dàn ngang sông thành
trận chữ "nhất", trên đầu thuyền bày đặt các thứ súng, trông như
bức thành. Quân Tuyển đến đánh, vì thuyền nhỏ không thể chống cự, nhiều chiếc
bị súng Bảo-long bắn chìm xuống sông, Tuyển sợ, định lui giữ Hoàng-giang (tên
sông, thuộc phủ Lý Nhân, Hà Nam (Hà Nam Ninh)) để cùng bộ binh nương tựa lẫn
nhau.
Thình lình có gió đông nam nổi
lên, Nhưỡng liền sai các hải thuyền tản ra, ghé sát vào hai bờ, rồi buộc
thuyền lại mà lên bộ. Tiếp đó Nhưỡng chỉ huy quân lính từ trên bờ theo chiều
gió bắn xuống thuyền quân của Tuyển. Nhưng quân của Nhưỡng toàn là quân ô
hợp, đứng, ngồi, tiến, lui chưa quen hiệu lệnh, lại hờ hững không có chí
chiến đấu; nên sau khi lên bộ, hàng ngũ lộn xộn, chẳng ra sao. Tuyển ở dưới
sông trông thấy vậy, liền hô to:
- Quân Nhưỡng thua rồi!
Thế là quân lính của Nhưỡng đâm
nghi hoặc, rồi hoảng sợ, tan vỡ, đua nhau cướp đường mà chạy, giày xéo lẫn
nhau, không sao ngăn cấm được nữa. Thuyền bè bỏ bừa ven sông, đều bị quân
Tuyển bắt được.
Quân Lân ở sau, trông thấy quân
của Nhưỡng thua chạy tan tác, lại nghe nói Nhưỡng đã bị giặc giết rồi, nên
đều kinh ngạc run sợ. Riêng Lân cũng không thể kiềm thúc được nữa, thế là
cùng lúc ấy, đám quân tan vỡ luôn. Lân bèn hộ vệ chúa, cưỡi một chiếc thuyền,
xuôi dòng chạy sang phủ Thái Bình. Chừng nửa đêm, đến huyện Đông Quan, chợt
nghe tiếng súng đùng đùng, giống như hiệu lệnh hành quân. Có người bảo quân
Tuyển đuổi theo. Có người ngờ là bọn kẻ cướp. Sau Lân sai người đi dò, mới
biết đó là quân của Trần Mạnh Khuông.
Trần Mạnh Khuông là một người hào
mục ở huyện Đông Quan, gia tư giàu có, lại có nghĩa khí. Khi mới tiếp được tờ
hịch, lập tức tụ tập quân lính trong huyện để hưởng ứng việc nghĩa, hẹn ngày
hôm ấy xuất quân ra đi. Lúc này quân Khuông đóng ở Bái Hạ, cách đấy không xa.
Nghe nói, chúa bèn vội vàng sai người
đến gọi Khuông. Khuông theo sứ giả tới yết kiến, chúa nói:
- Quả nhân tài hèn, đức kém, không
biết tự lượng sức mình, hễ hành động gì liền bị vấp ngã. Bây giờ nên làm thế
nào?
Khuông nói:
- Thua được là sự thường của nhà
binh, dù là đạo quân thắng trận luôn, cũng phải có một lúc thua trận. Cho nên
tướng giỏi đời xưa trước hết phải xem hình thế, đắp doanh luỹ, chứa lương
thực, phòng bị sẵn những khi xảy ra việc cần kíp, làm cho khi tiến có thể
đánh, khi lui có thể giữ. Đó chính là cái chước vạn toàn, không làm gì đến
nỗi thua một trận mà đã phải bẹp hẳn. ở huyện tôi có làng Bái Hạ, bốn mặt đều
là đồng lầy, phía trước có sông lớn chặn ngang, chỉ có một lối ra vào, lại có
khe nhỏ quanh co thông với con sông, có thể dùng để chuyển vận quân lương.
Cuộc loạn lạc năm trước, địa phương đây ở vào chỗ xung yếu của hai vùng đông
và nam, nên tôi đã cho sửa sang lại, nay hào rãnh đều đã bền vững. Chỉ hiềm
luôn mấy năm mất mùa, thóc lúa tích trữ chưa được đầy đủ mà thôi. Xin chúa
hãy tạm dời xa giá về đó, rồi thong thả sẽ tính chuyện sau.
Chúa Trịnh nghe theo, bèn phong
cho Lân làm quân phủ trưởng sử. Khuông làm chức hành doanh sứ, dẫn quân vào
đóng ở ấp Bái Hạ.
ở đó mới được vài đêm, Khuông sai
người đi trưng thu lương thực chưa về, thì Chỉnh đã lại sai Nguyễn Như Thái
đem lính bộ đến, hợp với quân của Tuyển, hai đường thuỷ bộ tiếp nhau, hai mặt
trước sau đánh dồn lại. Trong đồn dựa vào tình thế hiểm yếu mà giữ, quân
Chỉnh đánh luôn mười ngày không hạ được. Tuyển bèn đắp luỹ dài để tuyệt đường
lương thực của quân chúa. Quân chúa hết lương đến nỗi phải đào cả củ chuối mà
ăn, tình thế rất là khốn quẫn.
Lân và Khuông vội gọi các thủ hạ
mà bảo rằng:
- Ngồi đây để làm con ma chết đói
của làng Bái Hạ, sao bằng quyết một trận tử chiến, giết lấy vài trăm tên giặc
cho sướng tay? Các ngươi ai là người có thể chung lòng góp sức với ta, để ta
khỏi mang tiếng phụ chúa mà các ngươi cũng không mang tiếng phụ ta. Dẫu có
chết còn được làm con ma trung nghĩa. May mà không chết, rồi đây công lao sự
nghiệp sẽ không biết đến đâu mà lường!
Mọi người nghe nói đều cảm động,
có hơn trăm người xin theo. Đêm đến, bốn bề đã vắng lặng, họ bèn cưỡi thuyền
nan, theo đường khe mà đi ra. Nhân lúc Tuyển và Thái sơ ý, họ liền phóng hoả
đốt doanh trại. Hai người hoang mang không kịp chống cự. Lân và Khuông tức
thì phá vỡ vòng vây, đem chúa ra, cướp mấy chiếc thuyền, rồi theo cửa biển
chạy thẳng về phía đông. Tuyển đem quân đuổi theo, nhưng không kịp. Thái thả
quân vào làng Bái Hạ, chém giết lung tung, trai, gái, già, trẻ, không sót lại
một người. Từ khi dấy cuộc binh đao tới lúc này, không chỗ nào không có nạn
chém giết, nhưng chưa có đâu bị chém giết thảm hại như ở đây.
Lại nói, sau trận thua ở sông Ngô
Đồng, Nhưỡng một mình chạy về phía đông, thuyền bè và đồ quân dụng bỏ mất gần
hết.
Đến khi đồn Bái Hạ bị vỡ, chúa
chạy về Hải Dương, lại cùng bọn Lân vượt biển tới đất Quảng Yên, giả làm
khách buôn, chia nhau ở trọ trong các nhà dân ở châu Vạn Ninh (nay là đất
Móng Cái (Quảng Ninh)). Chẳng bao lâu, Lân vì có việc nhà, cáo từ xin về, người
theo hầu chúa chỉ còn lại Mạnh Khuông mà thôi. Sau đó hơn một tháng, Khuông
lại mắc bệnh, rồi chết. Lúc bấy giờ, bên cạnh chúa không còn có ai, chúa một
mình sống lẩn lút ở vùng ven biển, tình cảnh rất là điêu đứng.
Chúa nghĩ bụng: "Giầu sang ở
kiếp phù sinh, đều là cảnh mộng. Bởi vậy, ngày xưa đã có người xin thề đời
đời đừng sinh vào nhà đế vương... Phật thương hết thảy chúng sinh bị chìm đắm
trong biển khổ. óc Người thông suốt, ý kiến Người thông suốt, thật như gương
sáng muôn đời. Từ lúc ta ở trọ đất Chương Đức đã có ý nghĩ như thế. Bây giờ
nên quay đầu lại là hơn".
Thế rồi chúa Trịnh gột sạch ma
chướng ở đời, tự xưng là Hải đạt thiền sư, dạo khắp các chùa ở vùng Lạng Sơn,
Cao Bằng.
Bấy giờ có người học trò đất Kinh
Bắc tên là Vũ Kiền, chạy loạn lên ở Lạng Sơn. Một hôm Kiền gặp Hải đạt thiền
sư ở chùa Tam Giáo, nhân trong lúc đàm kinh thuyết pháp, Kiền ngầm biết đó là
chúa, bèn báo với bọn phiên thần ở đó là Hà Quốc Ký, và Nguyễn Khắc Trần (có
bản chép là Nguyễn Khắc Lâm).
Hai người bèn vờ nói là có việc
làm chay, đón Hải đạt thiền sư về nhà, rồi đuổi hết người nhà ra mà bảo với
nhà sư rằng:
- Chúng tôi nối đời làm bề tôi ở
chốn biên cương. ở xa vẫn mến oai đức của triều đình, thường chỉ nghe người
ta nói vua Lê chúa Trịnh như ở trên trời. Nếu như thiên hạ vô sự, bọn chúng
tôi làm gì được trông thấy chúa. Chẳng may nhà nước có nạn, xe chúa phải tới
nơi biên ải, thần dân ai chẳng đau lòng. Lúc này chính là dịp cho kẻ trung
thần nghĩa sĩ ra tài linh luân. Vậy chúng tôi xin rước chúa về ở Đoàn Thành
(tức thành trấn Lạng Sơn), xướng nghĩa cả, để lo việc hưng phục. Trông nhờ
vào phúc hồng của chúa, thành được công lớn thì may chăng lũ tù trưởng nhỏ
mọn ở xứ mọi rợ này được dự vào hàng cuối ở vân đài (Vân Đài: Đài cao chạm
mây, nơi vua Minh-đế nhà Hán sai vẽ hình 28 người công thần), ấy là ý nguyện
của chúng tôi.
Nhà sư nhắm mắt chắp tay, khoan
thai trả lời:
- Sư già này xuất gia theo Phật,
không can dự gì đến việc đời. Các ông chớ có nhận lầm, khiến cho đương lúc
yên lặng, lại sinh ra bao nhiêu nỗi phiền não. Trong thiên hạ, ai là vua, ai
là chúa, đã có mệnh trời; sư già này chỉ biết một lọ một bát, tu hành ở cửa
thiền, làm môn đồ đức Phật Như lai mà thôi.
Vũ Kiền lúc ấy cũng thưa rằng:
- Thần tuy chưa được vào chầu phủ
chúa, nhưng khi du học ở kinh sư cũng đã từng trông trộm dung nhan của chúa.
Người trong nước còn có lòng ấy, chúa cũng không nên từ chối. Thần nghe nói,
nghiệp vương phải khó nhọc, không thể ngồi yên mà làm nên được. Bởi vậy,
Quang Võ đã phải bạc cả tóc đầu, Tiên chúa (Quang Võ là vua đầu nhà Đông-Hán.
Tiên chúa tức Lưu Bị, là vua nhà Thục đời Tam-quốc) thì phải mòn hết thịt vế.
Những cơn nguy hiểm ở Quế ổ và Bái Hạ gần đây, cũng giống việc Tuy Thuỷ, Hô
Đà đời Hán (theo Hán thư, sau khi Hán vương là Lưu Bang vào
chiếm Bành Thành, Sở vương là Hạng Võ đem quân trở về, phá tan quân Hán trên
sông Tuy Thuỷ và vây Hán vương ba vòng, may gặp có gió lớn nổi lên, thổi tan
quân Sở, Hán vương mới chạy thoát.
Cũng theo Hán thư: Khi
vua Quang Võ đi đến trạm Khúc-Dương, phía sau có quân Lương Vang theo đuổi,
mọi người đều kinh sợ, Quang Võ cho người đi dò đường thì họ nói, trước mặt
có sông Hô Đà nước chảy mạnh lắm, không thể qua được. Quang Võ lại bảo Vương
Bá đi xem lại. Vương Bá e quân lính hoảng sợ, bèn nói dối là ở sông băng giá
đóng rất chắc, có thể đi qua được. Quang Võ bèn bảo Bá hộ vệ mình qua sông,
nhưng mới qua được mấy người thì băng đã tan. ở đây, mượn hai điển này để nói
làm nên nghiệp lớn thế nào cũng phải trải qua nhiều gian nan, nguy hiểm thì
mới đi tới thành công), chỉ vì không nản chí, không ngã lòng, rốt cuộc họ đã
làm nên nghiệp lớn. Thần chưa từng bao giờ thấy ai đường đường là một vị
vương giả mà lại lui về làm nhà sư nhàn hạ. Xin chúa hãy nghĩ lại!
Nhà sư khóc và nói:
- Cái cảnh "Thử ly"
"Mạch tú" ("Thử ly" là một bài thơ trong Kinh Thi nói
về cảnh cung điện nhà Chu bị tan hoang thành ra ruộng lúa. "Mạch
Tú" là bài hát của Cơ tử nói về việc nhà Thương mất nước, cung điện
thành ruộng cấy lúa mạch. - ở đây chỉ cảnh tang thương của họ Trịnh) ở đâu
cũng đều cảm động. Ta không phải là loài gỗ đá, sao không căm hờn. Nhưng đã
biết sức của ta, mà vẫn không thể dành được với trời, nên đành phải nín nhịn
để giữ lấy mình, đâu còn dám làm càn để lại lầm lẫn lần nữa?
Chúa đã nói lộ bản tướng, liền bị
mọi người vin lấy mà bắt buộc phải truyền sắc lệnh ra để điểm quân, thu
lương.
Bọn Ký và Trần đều là kẻ tầm
thường, không nghiêm cấm nổi thủ hạ, để chúng làm bừa những việc phi pháp.
Nhân dân không thể chịu đựng được, họ bèn nổi lên làm loạn, giết bọn Ký và
Trần, rồi đuổi chúa đi. Chúa chạy về đất Hữu Lũng (nay thuộc Lạng Sơn) rồi từ
đó nấp náu trong chốn núi rừng, cả nước không còn thấy mặt chúa ở đâu nữa.
Họ Trịnh từ Thái vương là Trịnh
Kiểm thụ phong, truyền đến Thịnh vương là Trịnh Sâm, vừa được tám đời thì xảy
ra biến loạn. Rồi đến Đoan nam vương là Trịnh Khải, án đô vương là Trịnh Bồng
thì nghiệp chúa hết. Tất cả trước sau gồm 243 năm (theo Lịch triều
hiến chương lại chí thì tất cả là 248 năm, gồm 11 đời chúa, kể từ
Trịnh Kiểm năm Kỷ hợi (1539) đến Trịnh Bồng năm Bính ngọ (1786)).
Xét trong địa ký chép về đất phát
tích của tổ tiên họ Trịnh có lời đoán rằng:
"Chẳng đế chẳng bá, quyền
nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ".
Xem thế đủ biết, cái lý hưng vong
tuy là việc của người, mà cũng tự có số mệnh vậy.
Lại nói sau khi Chỉnh đưa Tây Sơn
vào nước, dân chúng oán Chỉnh thấu đến xương tuỷ. Lúc Chỉnh tất tả chạy về
Nghệ An, người cả một xứ ai cũng muốn giết Chỉnh cho hả dạ. May được vua Lê
có chỉ vời, Chỉnh bèn lấy việc dấy quân ra bảo vệ nhà vua mà thoát khỏi tai
nạn. Rồi Chỉnh lại được nhà vua mở lòng tin dùng, cho nên mọi người trong
ngoài chỉ dám oán mà không dám nói. Các quan văn võ trước kia chạy trốn ra
ngoài, đều dấy quân và lên tiếng giết Chỉnh. Chỉnh mượn nhà vua để sai khiến
cả nước, tự tiện làm oai làm phúc, luôn luôn đem quân đi trừ khử những người
muốn làm hại mình. Thế rồi, bắt Trọng Tế, giết Phùng Cơ, đem quân đánh mãi án
đô vương, làm cho vương phải chạy trốn lang thang không dám về kinh.
Việc Chỉnh làm phần nhiều là càn
bậy, nhưng đụng đâu là thắng đấy, nên chẳng ai biết làm thế nào. Vì thế,
Chỉnh càng ngày càng làm lắm điều bạo ngược, Chỉnh tự cho rằng người đời
chẳng ai bằng mình. Thậm chí Chỉnh coi nhà vua như đứa trẻ con, khi bảo làm
thế này, khi bảo làm thế kia, không còn kiêng sợ gì cả. Bụng Chỉnh còn e dè,
chỉ một Bắc bình vương mà thôi. Chỉnh thường nói riêng với người thân tín
rằng:
- Bắc bình vương là người anh hùng
hào kiệt ở miền Nam ta cũng không thua. Hắn quỷ quyệt hơn ta, nhưng ta khôn
ngoan hơn hắn. Năm trước ta từng cộng sự với hắn, nên ngày nay hãy nhường hắn
một nước cờ, đợi khi trong nước tạm yên, ta sẽ chuyên tâm lo việc phương Nam.
Lúc đó ta có thể tập hợp binh mã, cùng hắn giao phong trong một trận lớn lao.
Đã trừ khử được vật ngăn trở rồi, thì từ dải đèo Ngang trở về Nam, lại là bờ
cõi của nước nhà. Nay Trần bình chương vào Nam bàn việc bờ cõi, dù bất đắc dĩ
mà phải nhường đất Nghệ An cho họ, thì cũng như cái mưu khôn xưa nước Tấn đem
ngọc bích và ngựa tốt đút cho nước Ngu, Hán Cao tổ đem đất Quan Trung nhường
cho Hạng Vũ đấy thôi (thời Xuân thu, nước Tấn lấy ngựa hay và ngọc quý đút
lót cho nước Ngu để mượn đường sang đánh nước Quắc; đến khi diệt được nước
Quắc rồi, Tấn liền quay lại diệt luôn cả nước Ngu, thu lại ngựa và ngọc đã
biếu-việc Hán Cao-tổ cũng tương tự, tạm nhường đất Quan Trung cho Hạng Vũ rồi
sau lại lấy lại). Đúng như lời sách xưa đã nói: "Định lấy của nó hãy tạm
cho nó" (câu này nguyên văn chữ Hán là "Tương dục thủ chi
tất cô dữ chi" Trong Đạo đức kinh của Lão Tử
cũng có câu tương tự là: "Tương dục đoạt chi, tất cô dữ chi" (muốn chiếm
đoạt của nó, hãy tạm cho nó). Có thể tác giả dẫn câu này là thoát thai từ câu
của Lão Tử). Điều đó người thường không thể biết được!
Vì thế, đối với việc Nghệ An,
Chỉnh mới dùng lễ vật nhiều, lời nói ngọt, mong sao cho được vô sự; lại đem
hết những điều uỷ khúc trong lòng mà dặn dò Trần Công Xán. Chỉnh cho rằng
chuyến đi ấy thế nào cũng dẹp yên được việc binh đao, nên không còn để ý đến
việc quân lữ và việc bờ cõi nữa. Không ngờ rằng Bắc bình vương lập tâm bắt
Chỉnh đã lâu, nhưng cơ mưu giấu kín quá nên Chỉnh không biết. Hoặc có người
nhắc đến việc biên cương thì Chỉnh cũng xem thường, cho là kẻ hiếu sự đoán mò
hay cho là tin đồn nhảm ngoài đường sá mà thôi. Tới lúc sứ bộ chết đắm ở
biển, nhiều người trong triều bảo đó là do Bắc bình vương sợ lộ việc tranh
chấp ở miền Nam mà giết ngầm đi, khi nội biến đã yên, thế nào họ cũng sẽ mưu
đồ đánh ta; Chỉnh cũng vẫn không cho là phải...
Sau khi Bắc bình vương đã hoà với
vua Tây Sơn (theo các tài liệu lịch sử, thì hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ giảng hoà với nhau ở thành Qui Nhơn (Nghĩa Bình) liền trở về Phú Xuân mở
đại hội các tướng mà bảo họ rằng: "Nguyễn Chỉnh là người đã chết, ta lại
vẽ mặt vẽ mày cho. Nay hắn bay nhảy ở Bắc Hà, phò vua Lê để sai khiến cả
nước. Đã không lo đền đáp ơn ta mà còn định cắn lại, mưu đồ giành đất Nghệ
An, đặt làm một trấn quan trọng, để bắt chước việc chúa Trịnh xâm lấn phương
Nam ngày xưa. Thằng giặc ấy thật đáng giết. Không biết hắn đã sắp sẵn được
bao nhiêu binh mã, có thể đánh nhau với ta được một trận hay không?"
Tức thì, Bắc bình vương sai bọn
Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, kéo quân ra Nghệ An, họp cùng Võ Văn Nhậm tính việc
đánh dẹp phương Bắc. Tiếp đó lại cho Võ Văn Nhậm lĩnh ấn tiết chế, các tướng
đều phải ở dưới quyền. Khi sắp đặt đã xong, Bắc bình vương hạ lệnh giục họ
tiến quân. Bấy giờ đúng vào tháng mười một mùa đông năm Đinh vị (1787).
Khi Văn Nhậm kéo quân qua Thổ Sơn,
trấn thủ Thanh Hoa là Lê Duật không dám chống cự, rút quân lui giữ Trinh
Giang (sông Trinh Giang thuộc xã Trinh Sơn, huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá), rồi
cho người phi ngựa về kinh cáo cấp. Tin cáo cấp một ngày đến chín lần, làm
cho kinh thành nhao lên, nhân tình tan rã, vội vàng mang xách, bồng bế nhau
ra ngoài thành để trốn tránh: phố phường đều đóng cửa thôi buôn bán đường sá
cũng ít người đi lại, trong chốn đài sảnh chỉ còn người có chức vụ ở lại mà
thôi.
Vua Lê sai các quan cùng họp ở
dinh của Chỉnh để bàn cách đánh giữ. Chỉnh nói:
- Đời nhà Tấn, khi quân nhà Tần ập
đến bờ cõi, Tạ An vẫn cười nói như thường; đời Tống, khi quân Khiết Đan vào
sâu trong nước, Khấu Chuẩn vẫn điềm nhiên như không. Các vị đại thần, cần
phải trấn tĩnh, không nên tự mình bối rối trước, chỉ tổ làm cho lung lay lòng
người. Chức trách của Lê Duật là giữ đất đai, thấy giặc đến không thể không
báo cáo, nhưng y cũng là một tay tướng giỏi. Võ Văn Nhậm vị tất đã dễ dàng
nuốt sống được y. Vả chăng, sông Trinh Giang, sông Thanh Quyết (sông Thanh
Quyết tức khúc sông Đáy thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình (Hà Nam Ninh)), sông
sâu nước lạnh, dù có thiên binh vạn mã chưa dễ đã vượt qua được một cách yên
ổn. Công việc đánh hay giữ, đã có định cục, làm gì mà phải luống cuống.
Quan phó đô ngự sử là Nguyễn Đình
Giản nói:
- Thanh Hoa là đất "thang
mộc", lăng tẩm mấy triều đều ở đấy. Nay người Tây Sơn tới đánh, cả vùng
Tĩnh Gia đã bị chiếm mất, còn các vùng Thiệu Thiên, Hà Trung đều thành chiến
trường, xã tắc nguy như treo trên sợi tóc. Ông làm vị quan đầu triều, binh
quyền ở trong tay, định cục thế nào, thử nói ra cho rõ ràng, để chúng tôi đều
đem hết ý kiến nông cạn, cùng ông lo liệu. Việc thiên hạ không phải là chuyện
riêng một nhà, sao không nói cho mọi người đều biết? Ngày xưa người Nguyên
cười người Tống rằng: "Đợi khi chúng bay bàn bạc ổn thoả thì ta đã qua
sông rồi". Nay không lo liệu cho sớm, chờ khi quân giặc đã đến ô Cầu Dền
thì giả sử Tạ An, Khấu Chuẩn (Tạ An, người đời Tấn, làm Đại đô đốc, có tài
chỉ huy, đã cứu nguy cho kinh đô trong lúc đang bị hàng trăm vạn quân Bồ Kiên
uy hiếp. - Khấu Chuẩn, người đời Tống, khi quân Khiết Đan xâm phạm bờ cõi,
được vua Chân Tông giao cho chỉ huy quân sự, ông đã dùng kế buộc địch phải
rút về nước) có sống lại, họ cũng không thể trấn tĩnh được!
Ninh Tốn và Nguyễn Bá Lan (có bản
chép Nguyễn Nhuận) cũng đều nói:
- Quan ngự sử nói rất đúng.
Ngày thường Chỉnh quen dùng miệng
lưỡi để lấn át người ta, người ta cũng sợ khí thế của y, nên không dám tranh
cãi lại. Nhưng lúc ấy, tin tức về quân địch gấp rút đưa đến, trong bụng rối
beng, lại bị Giản bẻ, nên Chỉnh chưa biết trả lời ra sao. Quan bình chương
Phan Lê Phiên nói:
- Không cần nói nhiều, quân giặc
đến chỉ có đánh mà thôi. Bộ hạ của ông, người nào có thể làm tướng, xin tâu
với hoàng thượng cho làm tướng; toà Xu mật sẽ cấp binh bài, toà Độ chi sẽ cấp
lương thực, ngày nay vào bái mạng, ngày mai tức tốc lên đường, không thể chậm
trễ!
Chỉnh nói:
- ý tôi cũng vậy, nói trấn tĩnh là
nghĩa như thế!
Chỉnh liền tâu vua cho Nguyễn Như
Thái làm thống lĩnh, Ninh Tốn làm tham tán quân vụ, đem quân cùng họp với
Duật, chống địch ở trấn Thanh Hoa.
Lại nói, Duật đóng quân ở Trinh
Giang, Nhậm bèn sai người đến báo rằng:
- Ngày mai đại quân qua sông,
ngươi dám đánh nhau thì bày trận chờ đợi. Nếu không có thể đánh nhau thì mau
mau tới đầu hàng.
Lúc đó Nhậm đóng quân ở phía nam
Trinh Giang, trước tiên sai Ngô Văn Sở đem quân men theo chân núi đi về phía
tây, cất lẻn qua sông Tất Mã, đánh úp phía sau quân Duật. Duật không hề biết,
tối hôm ấy rút quân chạy cả đêm; hôm sau tới Cao Lũng, đã thấy quân Sở ở đấy,
quân Duật sợ hãi, chạy tan tác ra tứ phía. Duật bị quân Sở giết chết. Khí
giới, lương thực, hết thảy đều bị địch thu lượm.
Quân Nguyễn Như Thái đi đến Châu
Cầu (nay là thị xã Phủ Lý, Hà Nam (Hà Nam Ninh)), nghe tin Duật đã thua và
chết, vội gọi Ninh Tốn cùng bàn, Tốn nói:
- Binh pháp dạy rằng: "Tranh
được núi thì thắng, giữ chỗ hiểm thì vững". Giữa Thanh Hoa nội và Thanh
Hoa ngoại có núi Tam Điệp (tục gọi là núi Ba Dội, ở chỗ giáp giới giữa Thanh
Hoá và Ninh Bình ngày nay) ngăn cách, ấy là chỗ trời đất xây dựng, rất là
hiểm yếu. Ta nên tiến quân gấp để giữ lấy, chớ để quân giặc chiếm trước. Được
như vậy thì từ Trường Yên (tên phủ, sau đổi là Yên-Khánh, thuộc Ninh Bình (Hà
Nam Ninh)) về bắc còn là của mình. Nếu núi Tam Điệp mà mất, thì lộ Nam Sơn
thênh thang với những cánh đồng bằng phẳng rộng rãi, e khó tranh nhau với
giặc, việc nước sẽ không thể làm thế nào được nữa.
Thái cho là phải, lập tức chỉnh
đốn đội ngũ, đang đêm gấp rút tiến quân. Mờ sáng, quân Thái qua sông Giản
Khẩu (tức sông Gián, cũng thuộc Ninh Bình (Hà Nam Ninh)) thì nghe tin quân
Nhậm đã vượt qua núi Tam Điệp, Phan Văn Lân đã đem quân tuyển phong đóng ở
Hàm Mai (có sách chép là Đa Mai), cách đấy chỉ có vài dặm. Thái vỗ ngực kêu
to mấy tiếng, rồi đem quân bày trận trên bờ sông Giản để chờ địch.
Quân Tây Sơn đến, chia hai ngả
đánh kẹp vào. Quân Thái lẻ loi không có quân cứu viện, cố sức đánh nhau từ
sáng đến trưa, tên đạn đều hết sạch. Bọn lính ở đằng trước trở giáo hàng
địch. Thái biết thế không thể chống nổi, bèn cùng vài chục người bộ thuộc,
phi ngựa chạy về phía bắc. Quân địch đuổi theo, bắn chết hết. Ninh Tốn chạy
trốn vào nhà dân, được thoát nạn.
Văn Nhậm đã thắng trận, tức thì
dẫn quân tiến lên.
Chỉnh đang ăn thì tin báo đến nơi,
luống cuống vứt đũa, chạy vội vào nhà, gọi Hữu Du và bảo:
- Chiến tướng của ta chỉ có bốn
người. Thái và Duật chẳng may chết rồi. Tuyển ở Sơn Nam, Thước ở Kinh Bắc,
gọi về không kịp. Tình thế gấp rút ta phải tự ra cầm quân. Con nên sắp đủ
binh lính, lương thực, cùng đi với ta. Quân cha, con cùng dốc một lòng mới có
thể nên việc được.
Du nói:
- Sách có câu: "Thờ cha phải
hết sức, thờ vua phải liều mình". Con xin đi trước, đánh với giặc một
trận lớn, không dám để cho vua và cha phải lo vì giặc. Cha cứ đi thong thả mà
đốc thúc việc chiến trận, con sẽ lấy đầu thằng Võ Văn Nhậm đem về cho cha
xem.
Lúc Chỉnh sắp ra đi, người hầu yêu
nắm vạt áo của y mà nói:
- Thiếp nghe đâu các quan trong
triều đều đã đem vợ con đi trốn trước rồi, đài sảnh hiện bỏ không tất cả. Bây
giờ quan lớn lại ra đánh giặc, tướng sĩ cũng đều theo đi hết, riêng thiếp ở
đây một mình, chịu làm sao được? Vậy xin cho thiếp một chiếc kiệu nhỏ để
thiếp đi theo quan lớn.
Chỉnh nói:
- Trong vòng tên đạn, không phải
nơi đàn bà nên đi, đừng làm cho người ta thêm rối ruột nữa!
Rồi Chỉnh tự mình vào cung điện
tâu xin xuất quân.
Vua bèn ngự ra điện Cần-chánh,
truyền chỉ ban tiết việt (tức "phù tiết" và "phủ việt".
Phù tiết: vật làm tin, thường làm bằng thanh tre viết chữ vào đó, rồi chẻ đôi
mỗi người giữ một nửa, sau kháp lại để làm tin. Cũng có khi làm bằng vàng,
ngọc hoặc gỗ... Phủ việt: lưỡi búa. Đời xưa khi đại tướng ra trận được vua
ban tiết việt để trao quyền hạn và làm tin) cho Chỉnh và dụ rằng:
- Trẫm dựa vào ông như dựa bức
trường thành. Chuyến đi này quan hệ đến sự an nguy của nhà nước. Nhất thiết
chớ có khinh giặc đánh tràn, phải tuỳ cơ mà làm, mau đưa tin thắng trận về để
yên lòng trẫm!
Chỉnh tâu:
- Thần đã biết rõ tình hình của
giặc. Võ Văn Nhậm mạnh mà không có mưu khôn, làm tỳ tướng thì dư sức, mà làm
chủ tướng thì không đủ tài. Ngày thường hắn vẫn sợ thần, nay thấy thần, nay
thấy thần đến, chắc là không dám chống chọi. Thần chỉ lấy khí thế mà đè nén,
không cần phải đánh cũng thắng. Chuyến đi này, không quá năm ngày, sẽ có thư
trạm tâu tin thắng trận, xin bệ hạ chớ lo!
Tâu xong, Chỉnh bái từ mà ra. Vua
Lê thân hành tiễn đến ngoài cửa Đoan môn, rồi sai các hoàng thân và trăm quan
tiễn đưa ra ngoài kinh thành.
Chỉnh đem quân đến trạm Hoàng Mai
(nay thuộc ngoại thành Hà Nội), sai Hữu Du lĩnh các đội quân của cơ Ngũ-nhuệ
đi trước.
Du đi đến sông Thanh Quyết, liền
đắp luỹ đất chạy theo bờ sông, chia đồn mà cố thủ.
Lúc bấy giờ, khí trời rét buốt,
quân lính của Du đêm ngủ giữa trời, túm năm tụm ba đốt củi để sưởi. Quân đi
tuần của địch trông vào ánh lửa, thấy rõ tất cả, bèn về báo với Văn Nhậm.
Nhậm cho quân cưỡi bè, sang thẳng
bãi sông, ngầm bắn xuyên qua các khe hở trên bờ luỹ, nhắm chỗ có lửa làm
đích, bắn phát nào trúng phát ấy. Quân ở trong luỹ hoảng sợ, bối rối, tự
nhiên tan vỡ, Du rút quân về giữ Châu Cầu. Quân sĩ mười phần chỉ còn hai ba,
không dám đón đánh, cũng không dám chạy về, phải vừa lui vừa dừng để đợi hậu
quân (sự kiện này, Cương mục chép hơi khác; thuyền súng đạn
của Du đậu ở bờ bắc sông, không phòng bị gì: nửa đêm quân Tây Sơn ngầm bơi
sang, buộc thừng vào các thuyền của Du, rồi kéo về phía bờ nam, tước đoạt hết
súng đạn do đó Du thua...).
Lại nói, Chỉnh đem quân đến trạm
Bình Vọng (tục gọi làng Bằng, thuộc Thường Tín, Hà Đông (Hà Sơn Bình)), tạm
dừng lại nghỉ. Chợt thấy gió nam thổi vù vù, có đám mây đen chạy suốt từ tây
nam đến. Chỉnh ngồi trong kiệu, giở sách bói ra xem, vừa gặp một quẻ, có lời
đoán rằng: "Nước có giặc lớn, nguyên nhung thua trận", Chỉnh tỏ ý
buồn rầu, đang lúc trầm ngâm nghĩ ngợi, thình lình lại có đàn ong rừng vo vo
bay đến, đua nhau đốt vào cổ Chỉnh. Chỉnh giật mình ngã xuống, sực nghĩ toàn
là điềm gở, chần chừ không muốn tiến quân.
Chốc lát, thấy quân bại trận của
Du tan tác chạy về nói:
- Quân ta đã vỡ, quân giặc đuổi
theo sắp sửa đến nơi!
Chỉnh nghe nói, mặt mày thất sắc,
tiến lui hai đường đều khó khăn. Tướng sĩ, bộ hạ cũng đều mất vía, đua nhau
nói: "Thế giặc rất mạnh, chưa thể giao tranh với chúng được. Kinh thành
ít quân, khó mà giữ nổi. Chi bằng dẫn quân về, lui giữ đất Kinh Bắc, chặn
ngang sông Nhĩ Hà cho vững; rồi sau sẽ từ từ tính chước công thủ, thế là tiện
hơn". Chỉnh nghe theo.
Sau một lúc, Hữu Du đến, Chỉnh kéo
quân tức tốc về kinh. Xẩm tối, vừa về tới thành, Chỉnh liền bảo quan tham tri
chính sự là Nguyễn Khuê vào tâu với vua, xin đến ngày mai, xa giá đi sang
Kinh Bắc (theo Cương mục thì vua Lê cho gọi mấy lần nhưng
Chỉnh không đến, cuối cùng mới cho Nguyễn Khuê đến thay...). Rồi Chỉnh vào
thẳng lượng phủ là chỗ mình ở, sắp xếp hành trang, sai người hộ vệ vợ con gia
thuộc sang sông trước.
Lính Kim ngô biết chuyện, vội vàng
vào điện tâu với vua rằng: "Gia quyến ông Bằng đi rồi!"
Vua Lê lật đật chạy đến dinh của
Chỉnh. Lúc bấy giờ Chỉnh đang chạy đi chạy lại trước sân, dặn dò những người
ra đi. Vua cầm lấy tay Chỉnh mà hỏi:
- Sự thể đã đến thế này thì làm
thến nào?
Chỉnh thấy vua, thẹn thùng, run
sợ, bèn lạy mà thưa rằng:
- Bệ hạ giao nước cho thần, thần
không xứng đáng với chức vị, làm lầm lỡ việc nước, tội ấy không dám chối cãi:
hai mặt tây nam kinh sư, không còn có gì để nương tựa, thành trì cũng chưa
đào đắp, chỉ có cửa ô mà thôi. Quân giặc thừa thắng ruổi dài, không có thành
luỹ nào ngăn cản; đánh thì không được, giữ cũng không xong, lấy gì để bảo đảm
cho được toàn vẹn? Nay bệ hạ hãy nên đi sang phương bắc, để lo tính công việc
sau này. Quân giặc từ xa đến đã mệt nhọc, lại bị sông lớn ngăn trở, thế nào
cũng không dám đuổi ta. Trong khoảng mười ngày, ta được thư thả, rồi sẽ lo
sâu tính xa, há lại không có cơ hội tốt để khôi phục? Bệ hạ hãy về cung, tâu
với hoàng thái hậu, xin đưa từ giá (xe của mẹ vua) đi trước, thần sẽ thân đem
lính và voi đợi ở bến sông.
Dứt lời, Chỉnh nhớn nhác đảo mắt
ngó quanh một lượt, rồi đi. Vua cũng lập tức đi bộ về cung. Trên đường, đã
thấy dân chúng dắt díu nhau cùng chạy. Bọn vô loại thừa cơ cướp giật, tiếng
kêu khóc oai oái. Có kẻ giữ lấy vua, sờ nắn trong lưng không có gì, mới tha
cho đi. Vua vội vàng đi về phía cửa Chu Tước, rồi vào cửa Tả Khúc. Vừa tới
nơi đã nghe thái hậu và các phi tần tìm nhà vua không thấy, đang gọi luôn
miệng: "Thừa dư (chỉ nhà vua) ở đâu?". Vua vội trả lời: "ở đây!
ở đây!". Rồi nhà vua lập tức gọi lính thị vệ, nhưng chỉ được mười bảy,
mười tám người, còn thì đều lẩn trốn không đến. Vua vội vàng sai lấy võng đòn
tre cáng thái hậu và nguyên tử (con đầu của vua mà chưa lập làm thái tử thì
gọi là nguyên tử) đi. Các tôn thất và phi tần đều phải đi bộ. Những đồ ngự
dụng chỉ khênh đi được bốn hòm, còn bao nhiêu đều bỏ lại trong điện. Những đồ
riêng tây cùng quần áo quí báu của bọn thị vệ, cũng đều bỏ rơi dần ở dọc
đường.
Đến bến sông, phải giành giật lấy
đò mà qua, bất cứ kẻ sang người hèn, ai mạnh thì được qua sông trước. ở trong
bãi cát, mọi người giẫm đạp lẫn nhau, có người bị ngã rồi bị xéo đến chết.
Các tay lái đò chèo không kịp, hoặc có thuyền vì chở nặng quá mà bị đắm.
Tiếng kêu khóc vang trời động đất. Kinh thành rối loạn lung tung. Bọn vô loại
ùa vào trong cung, phủ, cướp bóc bừa phứa. Nhưng những vật lấy được, chúng
cũng không dám chuyên chở ra ngoài thành, mà phải giấu ở các phố.
Gần tối, Võ Văn Nhậm đến nơi đem
quân vào thành thì thấy cung điện, kho tàng chỉ còn trơ lại xác nhà không mà
thôi. Nhậm nói:
- Vào chợ còn được cái kim, huống
chi là vào một nước. Ta nghe đất Bắc Hà giàu có, sao lại sạch trơn thế này?
Ta ở xa đến mà lại không kiếm được một đồng tiền nào đưa về thì nói ra con
nít cũng không nghe được.
Ngày hôm sau Nhậm bèn thả lính
lùng khắp các nhà dân ở phường phố, lấy được của báu rất nhiều, đến cả của tư
cũng đều lấy hết.
Có người dân đến cửa quân kêu
rằng:
- Đời xưa hành quân, không hề chạm
đến một mảy may của dân. Có người lấy lấy cái nón của dân để che áo giáp của quan,
cũng không dung thứ. Sao nay dân gian lại bị hại đến như thế?
Nhậm quát to:
- Những vật quân ta lùng được đều
là tài sản trong cung phủ nhà Lê, phải đâu là của nhà dân? Chẳng qua chúng
bay nhân lúc rối loạn, tranh nhau ăn trộm, đại quân ập đến, không kịp cất
giấu đấy thôi. Thằng này chính là bè đảng của bọn côn đồ, không thể tha thứ
được!
Lập tức, Nhậm sai điệu người ấy ra
chém. Do đó, dân chúng rất sợ, không còn ai dám kêu ca gì nữa.
Lại nói, cha con Chỉnh cùng các
quan theo vua chạy sang phương bắc. Vì sợ quân địch đuổi kịp, ai nấy chạy sấp
chạy ngửa, người nọ níu áo người kia, chẳng còn ra thể thống gì cả. Chập tối
thì vua tôi nhà Lê đến trấn Kinh Bắc. Gặp lúc trấn thủ là Nguyễn Cảnh Thước
mưu đồ làm phản, mượn cớ ốm không chầu vua. Chỉnh tới, quở trách gắt gao,
Thước mới miễn cưỡng ra yết kiến.
Lúc ấy, dọc đường quân lính đã bỏ
trốn quá nửa. Chỉnh rất lo, liền kiểm điểm số lính còn lại, ưu binh và nhất
binh (lính tuyển ở bốn trấn) chỉ còn hơn bốn trăm ba mươi người, ngựa hơn sáu
chục con, Chỉnh đem quân đi trước, qua sông Như Nguyệt (tức sông Cầu (Hà
Bắc)), đóng đồn ở núi Tam Tằng (nay thuộc Hà Bắc), tự mình đốc suất quân lính
đắp luỹ, cắm rào, rồi sai Thước hộ vệ nhà vua đến sau.
Chỉnh đi rồi, vua và thái hậu chờ
đợi bên sông, lâu mãi chẳng thấy thuyền, liền cho gọi Thước đến hỏi.
Thước tâu:
- Các thuyền đều không ở đây, bệ
hạ muốn sang sông gấp thì xin cho thần ít nhiều vàng lụa, mới có thể thuê
được. Nếu không, dẫu đến sáng mai cũng vẫn ở đây. Giả sử quân giặc đuổi đến,
thần xin dùng thùng gỗ để đưa bệ hạ qua sông. Nhưng chỉ e những đồ ngự dụng
không thể giữ được mà thôi.
Vua nói:
- Trẫm có cả thiên hạ còn không
giữ được, bây giờ lại còn tiếc cái gì nữa.
Tức thì nhà vua sai mở hòm cho
Thước xem. Trong hòm chỉ có con dấu truyền quốc và bốn mươi lạng vàng mà
thôi.
Vua nói:
- Tuỳ nhà ngươi muốn lấy gì thì
lấy.
Thước nói:
- Đội ơn bệ hạ ban cho, thần xin
chia một nửa.
Vua cho Thước tất cả. Thước liền
gọi lái đò đưa thuyền đến bến, chở nhà vua và đám người cùng đi qua sông. Khi
vua đã lên bờ, Thước lại cho người đuổi theo, lột chiếc ngự bào vua đang mặc.
Vua ứa nước mắt, cởi ngự bào trao cho chúng, rồi chạy về núi Như Thiết.
Vua xin với thái hậu rằng:
- Con tài đức kém cỏi, không đủ
làm chủ thần khí (trỏ ngôi vua), lại không sành sỏi trong việc xét người, bị
Nguyễn Hữu Chỉnh làm lầm lỡ, đến nỗi kinh thành thất thủ, phiêu bạt ra ngoài,
để gây mối lo cho thánh mẫu. Bây giờ trèo leo ở chốn núi rừng, nay đây mai
đó, tình thế này không chắc đã sum họp một nhà được. Đã thế lại còn dắt díu
nhiều người đi theo, sợ giặc dò biết, sẽ sinh ra tai biến bất ngờ. Con đã
nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có viên đốc đồng trấn Cao Bằng Nguyễn Huy Túc là người
trung hậu có thể nương nhờ được. Vậy xin thánh mẫu hãy tạm lên Cao Bằng, nơi
đó đường đất xa xôi, quân giặc không thể phút chốc đi tới được. ở đó, công
việc nên chăng thế nào, con xin viết bức thủ thư giao cho Túc. Đến như việc
sớm khuya hầu hạ, em con có thể thay con. Dám xin thánh mẫu tạm yên lòng, để
con ở đây ngầm lo việc khôi phục, ngõ hầu có thể chuộc được tội lỗi.
Thái hậu nói:
- Trời đã không giúp xã tắc, già
này sống chẳng bằng chết, nguyện lấy mảnh đất ở núi này làm nơi chôn cất hài
cốt, chớ còn phải trèo non vượt suối làm chi nữa cho khổ?
Vua rập đầu chảy máu, mãi không
dậy. Các quan cũng có nhiều người khuyên giải. Thái hậu mới ưng ý.
Rồi đó, em vua là Quang, thị thần
là Quýnh cùng bọn tôn thất hơn ba chục người đều theo thái hậu đi lên Cao
Bằng.
Hôm sau, vua sang huyện Yên Dũng
(nay thuộc tỉnh Hà Bắc), văn thần đi theo chỉ có năm sáu người là bọn Nguyễn
Đình Giản, Phạm Đình Dư, Chu Doãn Lệ, Vũ Trinh, Trương Đăng Quỹ mà thôi.
Vừa lúc ấy, Võ Văn Nhậm sai bộ
tướng là Nguyễn Văn Hoà đuổi kịp Nguyễn Hữu Chỉnh. Hai bên đánh nhau ở núi
Tam Tằng. Hữu Du múa đao đánh mạnh, giết vài chục quân địch. Hoà chia một đội
kỳ binh vòng ra sau núi đánh úp. Quân Chỉnh rối loạn, tự nhiên tan vỡ. Hữu Du
chống cự không nổi, chết ở trước trận. Tham tri chính sự là Nguyễn Khuê cũng
bị địch giết. Chỉnh lên ngựa nhằm hướng bắc mà chạy, ngựa ngã, bị quân địch
đuổi kịp, chúng tranh nhau chĩa giáo chực đâm. Chỉnh vội kêu to:
- Xin cứ bắt sống mà đem dâng!
Quân địch bèn trói Chỉnh lại, bỏ
cũi đưa về kinh.
Chỉnh xin gặp Văn Nhậm để nói một
lời. Nhậm không cho, sai người kể tội Chỉnh rằng:
Mày vốn là tôi chúa Trịnh, phản
chủ mà về với chúng tao để mưu đồ diệt họ Trịnh; rồi lại phản chúng tao về
Bắc, lừa dối vua Lê, chiếm lấy ngôi cả, tự tiện làm oai làm phúc, ngầm ngầm
lo mưu lấn cướp để tranh giành với chủ tao. Xét cuộc đời của mày, toàn học
thói cũ của quân giặc loạn, phải phanh gan ruột mày ra, bỏ hết những cái dơ
bẩn, để người Bắc lấy mày làm răn!
Rồi Nhậm bảo phanh thây Chỉnh, thả
cho chó ăn thịt.
Trong trận ấy, Hoà tuy bắt được
Chỉnh, nhưng chưa bắt được vua Lê, Hoà thả quân lùng mãi không được, bèn ngấm
ngầm sai người dò tìm tung tích. Vua Lê nghe tin sợ quá, liền chạy trốn vào
vùng núi Bảo Lộc (nay thuộc huyện Lạng Giang, Hà Bắc).
Lại nói, trước kia Lân dương hầu
tà Phạm Tôn Lân theo án đô vương chạy ra Yên Quảng, rồi vì có việc phải cáo
từ về nhà; nhân đó Lân mưu đồ chiêu dụ quân lính để giúp chúa Trịnh, nhưng về
sau không biết chúa ở đâu, bèn nương nhờ vào người hào mục huyện Yên Dũng, là
Nguyễn Trọng Linh (Cương mục chép là Dương Đình Tuấn, người huyện
Yên Thế, Bắc Giang (Hà Bắc)).
Lúc ấy, nghe tin vua ở vùng Bảo
Lộc, Lân bèn nói với Linh cùng nhau đi đón vua về. Rồi họ đốc suất nhân dân
bảy tổng thuộc huyện Yên Dũng, đắp luỹ ở phía bắc sông Nguyệt Đức (tức sông
Cầu (Hà Bắc)), chống nhau với Hoà. Hoà đánh không được. Nhậm phải tự mình dẫn
đại quân đến, đêm ngày đánh rất dữ. Quân Linh thua trận. Linh dắt vua Lê chạy
trốn. Em Linh là Lung bị Nhậm bắt sống. Nhậm không giết mà sai đem thư dụ
Linh, bảo phải nộp vua Lê, đại lược nói rằng:
"Tôi vâng mệnh ra Bắc, chỉ
giết giặc Chỉnh, không can gì đến tự hoàng nhà Lê. Tự hoàng là người của chúa
thượng lập nên, bị giặc kèm đi, cùng chạy với chúng. Loài cáo vốn hay ngờ
vực, vẫn mê không chịu quay về; bọ ngựa dám chống bánh xe, nên phải đem quân
tới đánh. Nay nếu biết hối mà về ngay, còn có thể chuộc được lỗi trước. Nếu
không, thì sẽ tìm người khác để coi việc nước. Ngôi chủ tể đã có người, thì
tự hoàng không còn ngày trở về nữa, mà lũ các ngươi rồi cũng bị vạ lây".
Linh nhận được thư, dùng dằng chưa
quyết, lại sai Lung về báo với Nhậm rằng: "Sau khi bị thua, mỗi người bỏ
chạy một ngả, thật không rõ vua Lê ở đâu. Xin cho phép mươi ngày để đi tìm
kiếm, rồi sẽ tự đến".
Đình Giản biết chuyện ấy, bèn tâu
riêng với vua Lê rằng:
- Anh em Linh không thể tin cậy
được. Các ông Đinh Dư, Doãn Lệ, Vũ Trinh đều là người Kinh Bắc, nên kíp sai
đi chiêu dụ lấy quân để tự vệ, rồi dời xa giá đến phủ Thuận An (nay là huyện
Thuận Thành, Hà Bắc). Còn các ông Đăng Quỹ, Văn Lân đều là người Sơn Nam,
cũng nên sai về bản quán mộ quân, chờ lệnh trưng phát.
Vua Lê nghe lời, sai mọi người
chia ngả mà đi làm việc, chỉ để Đình Giản ở lại hộ giá.
Vua Lê ngấm ngầm tới huyện Gia
Bình (nay là huyện Gia Lương, Hà Bắc), vời tiến sĩ là Trần Danh án, đến hỏi
về tình hình vùng đó. án tâu:
- Thổ hào phương bắc đây có Trần
Quang Châu, nguyên là xã trưởng xã Kênh Than, là người dũng cảm mà lại có sức
mạnh. Trước đây nhân khi loạn, Châu tụ tập đinh tráng, để giữ xóm làng. Trong
huyện nơi nào có kẻ cướp thì Châu liền đem quân đến cứu. Trộm cướp không dám
đụng chạm đến, cả huyện yên ổn, họ bèn bầu Châu làm chức huyện trưởng. Có
lúc, Châu vác cày bừa, giả dạng làm người nông phu, hễ gặp lính Tây Sơn là
đánh chết liền. Quân Tây Sơn luôn luôn bị Châu giết hại, răn nhau không dám
xâm phạm đến bờ cõi huyện này. Văn Nhậm nghe tin giận lắm, định đem quân đến
bắt Châu. Châu bèn trốn vào vùng Chí Linh, Phượng Nhãn (Chí Linh thuộc Hải
Dương (Hải Hưng). Phượng Nhãn nay sáp nhập vào huyện Yên Dũng, Hà Bắc), chiêu
mộ dũng sĩ, chống nhau với địch. Người ở hai vùng đông bắc, theo về với Châu
mỗi ngày một nhiều. Châu thường cho người dò la nơi ở của quân Tây Sơn, rồi
đêm đến đem quân đi gấp tới nơi, đánh úp giết chết. Quân của Châu khi ẩn, khi
hiện như thần, đánh đâu là thắng đấy. Quân Tây Sơn chẳng làm gì được. Châu
vẫn muốn khởi nghĩa, nhưng chưa có ai làm chủ. Vậy xin đưa lá thư của bệ hạ
đi để chiêu dụ Châu, chắc là Châu sẽ đến ngay.
Vua nói:
- Vậy nhà ngươi hãy sai người đi
đi!
Châu nghe tin, mừng lắm, nói với
mọi người:
- Quân ta nay đã có danh nghĩa
rồi!
Châu bèn đem quân đến đón vua Lê,
vua tôi gặp nhau rất là vui mừng.
Vua nói:
- Nghe đồn nhà ngươi dùng binh rất
hùng dũng, nay quân giặc tụ tập ở vùng Bảo Khảm chừng hai trăm tên, nếu ngươi
có thể đánh phá được chúng, ta sẽ cho ngươi làm chức trấn thủ xứ Kinh Bắc.
Châu nói:
- Việc đó rất dễ, song chỉ e khi
chúng kéo hết quân đến, thần ít quân, lại không có quân cứu viện, thì không
đủ sức đánh nhau với chúng, mà rồi lại không thể tránh đi nơi khác để giấu
kín tung tích. Lâu nay những việc thần đã làm, chỉ có thể hả bớt tức giận mà
chưa thể tự lập được cũng là vì cớ ấy. May nhờ oai linh của bệ hạ, lại được
các tướng góp sức, thần xin tự mình chống đỡ một mặt, gặp giặc là đánh, có
chết thì thôi chứ không chạy.
Vua nói:
- Mạnh mẽ thay! Thật đáng là bậc
đại tướng.
Rồi đó vua bèn phong cho Châu làm
quyền trấn thủ, tước Dao quận công. Châu liền mở cuộc diễu võ ở núi Vạn Kiếp
(thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương (Hải Hưng)), dựng cờ và trống đại tướng ở
trên núi, rồi sai người tâu mời nhà vua tới xem.
Thật là:
Thành lữ long đong lo việc nước,
Trạch bào hăng hái giết quân thù
Chưa biết việc này ra sao? Hãy xem
hồi sau phân giải.
Thành
lữ: mượn ở câu: Hữu điền
nhất thành, hữu chúng nhất lữ (Đất đai có mười dặm, quân lính có
trăm người) trong Bắc sử, trỏ vào việc vua Thiếu Khang nhà Hạ bị
mất nước, chỉ còn có một thành một lữ mà khôi phục được cơ nghiệp. Trạch
bào mượn chữ ở bài "Vô y" trong Kinh thi,
bài thơ nói về tinh thần hữu ái và khảng khái của quân lính. "Trạch"
là áo lót, "bào" là áo khoác. Nguyên văn là Khởi
viết vô y, Dữ tử đồng bào.. Khởi viết vô y, Dữ tử đồng trạch (Há
rằng không có áo? Ta sẽ chung áo khoác cùng anh... " cả hai câu thơ trên
đều nói về việc Chiêu-thống cùng đám quân cần vương đang hăng hái mưu khôi
phục lại cơ nghiệp.
Hoàng Lê nhất thống chí (Phần 1) Hoàng Lê nhất thống chí (Phần 3) |
Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012
Hoàng Lê nhất thống chí (Phần 2)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét