PHẦN III
Tự Chủ Thời-Đại
(Thời Kỳ Thống Nhất)
CHƯƠNG I
NHÀ NGÔ
(939-965)
1. Tiền Ngô-Vương
2. Dương Tam Kha
3. Hậu Ngô-Vương
4. Thập-Nhị Sứ-Quân
1. TIỀN NGÔ VƯƠNG (939-965)
Năm kỹ-hợi (939) Ngô Quyền xưng
vương, đóng đô ở Cổ Loa (thuộc huyện Đông-anh, tỉnh Phúc-yên). Ngô-vương đặt
quan chức, chế triều-nghi, định phục-sắc và chỉnh đốn việc chính-trị trong
nước, chí muốn dựng nghiệp lâu dài, nhưng chỉ làm vua được có 6 năm, đến năm
Giáp Thìn (944) thì mất, thọ 47 tuổi.
2. DƯƠNG TAM KHA (945-950).
Ngô-vương trước lấy con Dương diên
Nghệ là Dương-thị lập làm vương-hậu; đến lúc mất, vương uỷ- thác con là Ngô
xương Ngập cho Dương tam Kha là em Dương-hậu. Dương tam Kha bèn cướp lấy quyền
của cháu, tự xưng là Bình-vương.
Ngô xương Ngập thấy biến, chạy trốn
sang Nam-sách (thuộc Hải- dương) vào ẩn ở nhà Phạm Lịnh-công ở Trà-hương (huyện
Kim-thành). Tam Kha sai quân đi đuổi bắt. Phạm Lịnh-công đem vào dấu trong núi.
Dương tam Kha bắt em Ngô xương Ngập là Ngô vương Văn nuôi làm con nuôi.
Năm Canh-Tuất (905) có dân ở tại
thôn Thái-bình (thuộc Sơn-tây) làm loạn. Dương tam Kha sai Ngô xương Văn cùng
với tướng là Dương cát Lợi và Đỗ cảnh Thạc đem quân đi đánh. Đi đến Từ-liêm,
Ngô xương Văn mưu với hai tướng đem quân trở về bắt Dương tam Kha.
Ngô xương Văn nghĩ tình cậu cháu
không nỡ giết, chỉ giáng xuống làm Trương Dương-công.
3. HẬU NGÔ VƯƠNG (950-965)
Ngô vương Văn bỏ Dương tam Kha đi
rồi, xưng là Nam-tấn-vương và sai người đi đến làng Trà-hương rước anh là Ngô
xương Ngập về cùng coi việc nước. Ngô xương Ngập về xưng là Thiên-sách-vương.
Cả hai anh em làm vua, sử gọi là Hậu Ngô-vương.
Làm vua được ít lâu, Thiên-sách
vương đã toan giữ lấy quyền một mình, nhưng đến năm giáp-dần (965) thì mất.
Thế lực nhà Ngô lúc bấy giờ mỗi ngày
một kém, giặc-giã nổi lên khắp cả mọi nơi. Nam tấn-vương phải thân chinh đi
đánh dẹp. Khi đi đánh giặc ở hai thôn Thái-bình, không may bị tên bắn chết. Bấy
giờ là năm Ất-Sửu (965), Nam-tấn-vương làm vua được 15 năm.
4. THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967)
Từ khi Dương tam Kha tiếm-vị rồi,
những người thổ-hào ở các nơi như bọn Trần Lãm, Kiểu công Hãn v.v... đều xướng
lên độc lập, xưng là Sứ-quân. Về sau Nam-tấn-vương đã khôi phục được nghiệp cũ,
nhưng mà các sứ-quân vẫn không chịu về thần-phục. Bởi vậy nhà vua cứ phải đi
đánh dẹp mãi, mà không yên được. Đến khi Nam-tấn-vương bị giặc bắn chết, thì
con Thiên-sách-vương là Ngô xương Xí lên nối nghiệp, nhưng thế nhà vua lúc ấy
suy-nhược lắm, không ai phục-tùng nữa. Ngô xương Xí về đóng giữ đất Bình-kiều.
Tướng nhà Ngô là Đỗ cảnh-Thạc cũng giữ một chỗ xưng là Sứ-quân.
Lúc bấy giờ trong nước có cả thảy 12
Sứ-quân, gây ra cảnh nội loạn kéo dài đến hơn 20 năm. Mười hai Sứ-quân là :
1. Ngô xương Xí giữ Bình-kiều (nay
là làng Bình-kiều, phủ Khoái-châu, Hưng-yên).
2. Đỗ cảnh Thạc giữ Đỗ-động -giang
(thuộc huyện Thanh-oai).
3. Trần Lãm, xưng là Trần Minh-công
giữ Bố-hải-khẩu (Kỳ-bố, tỉnh Thái-bình).
4. Kiểu công Hãn, xưng là Kiểu
Tam-chế giữ Phong-châu (huyện Bạch-hạc).
5. Nguyễn Khoan, xưng là Nguyễn
Thái-bình giữ Tam-đái (phủ Vĩnh Tường).
6. Ngô nhật Khánh, xưng là Ngô
Lãm-công giữ Đường-lâm (Phúc-thọ, Sơn-tây).
7. Lý Khuê, xưng là Lý Lang-công giữ
Siêu-loại (Thuận-thành).
8. Nguyễn thủ Tiệp, xưng là Nguyễn
Lịnh-công giữ Tiên-du (Bắc-ninh).
9. Lữ Đường, xưng là Lữ Tá-công giữ
Tế-giang (Văn-giang, Bắc-ninh).
10. Nguyễn Siêu, xưng là Nguyễn
Hữu-công giữ Tây-phù-liệt (Thanh-trì, Hà-đông).
11. Kiểu Thuận, xưng là Kiểu
Lịnh-công giữ Hồi-hồ (Cẩm-khê, Sơn-tây).
12. Phạm bạch Hổ, xưng là Phạm Phòng
át giữ Đằng-châu (Hưng-yên).
Những Sứ-quân ấy cứ đánh lẫn nhau,
làm cho dân-gian khổ-sở. Sau nhờ có ông Đinh bộ Lĩnh ở Hoa-lư đem quân đi đánh,
mới dẹp xong cái loạn sứ-quân, đem giang-sơn lại làm một mối,và lập nên cơ
nghiệp nhà Đinh vậy.
CHƯƠNG II
NHÀ ĐINH
(968-980)
1. Đinh Tiên-hoàng
2. Đinh Phế-đế
1. ĐINH TIÊN-HOÀNG (968-979)
Đinh bộ Lĩnh25 là
người ở Hoa-lư động (huyện Gia-viễn, tỉnh Ninh-bình), con ông Đinh công Trứ làm
thứ-sử ở Hoan-châu về đời Dương diên Nghệ và đời Ngô-vương Quyền. Đinh công Trứ
mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với trẽ chăn trâu-bò, bắt
chúng khoanh tay làm kiệu để nghồi cho chúng rước, và lại lấy bông lau làm cờ
bày trận đánh nhau. Trẽ xứ ấy đứa nào cũng sợ, tôn lên làm anh. Đến lúc
khôn-lớn lên, dân làng ở đấy theo phục rất nhiều, nhưng sau vì không hòa với
chú, cho nên Bộ Lĩnh cùng với con là Liễn sang ở với Sứ-quân Trần Minh-công ở
Bố-hải khẩu (Phủ Kiến-xương, Thái-bình).
Trần Minh-công thấy người khôi-ngô
có chí-khí, đem lòng yêu mến, cho được giữ binh-quyền. Đến khi Trần Minh-công
mất, Đinh bộ Lĩnh đem quân về giữ Hoa-lư, chiêu mộ những người hào-kiệt, hùng
cứ một phương. Năm tân-hợi (951) đời Hậu Ngô-vương, Nam Tấn-vương và
Thiên-sách- vương đã đem quân vào đánh không được. Đến khi nhà Ngô mất rồi,
Đinh bộ Lĩnh hàng được Sứ-quân Phạm Phòng-át, phá được Đỗ-dộng của Đỗ cảnh
Thạc. Từ đó đánh đâu được đấy, cho nên chúng tôn là Vạn-thắng-vương. Chỉ trong
một năm mà vương binh được các Sứ-quân và lập thành nghiệp đế.
Năm mậu-thìn (968) Vạn-thắng-vương
lên ngôi Hoàng-đế, tức là Tiên-hoàng-đế, đặt quốc-hiệu là Đại-cồ-việt, đóng đô
ở Hoa-lự Tiên-hoàng xây cung-điện, chế triều-nghi, định phẩm-hàm quan văn quan
võ, phong cho Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lê Hoàn làm Thập-đạo tướng-quân,
và phong cho con là Đinh Liễn làm Nam-việt-vương.
Năm canh-ngọ (970) Tiên-hoàng đặt
niên-hiệu là Thái-bình nguyên-niên, và đặt năm ngôi Hoàng-hậu.
Trong khi vua Đinh Tiên-hoàng dẹp
loạn Sứ-quân ở nước ta, thì ở bên Tàu ông Triệu khuông Dẫn nối nghiệp nhà
Hậu-Chu tức là vua Thái-tổ nhà Tống. Đến năm canh-ngọ (970) vua Thái-tổ nhà Tống
sai tướng là Phan Mỹ sang đánh lấy Nam-Hán. Vua Tiên-hoàng sợ quân nhà Tống
sang đánh, bèn sai sứ sang thông hiếu với Tống-triều.
Năm nhâm-thân (972) Tiên-hoàng lại
sai Nam-việt-vương là Liễn đem đồ phương vật sang cống nhà Tống. Vua nhà Tống
sai sứ sang phong cho Tiên-hoàng làm Giao-chỉ quận vương và phong cho
Nam-việt-vương Liễn làm Tĩnh-hải-quân Tiết-độ-sứ, An-nam đô-hộ. Từ đó nước ta
cứ giữ lệ sang triều cống nước Tàu.
Việc chính trị trong nước thì lúc
bấy giờ còn có nhiều người quen thói lúc loạn, không chịu tuân theo luật-lệ.
Tiên-hoàng phải dùng oai để trừng-trị những bọn gian-ác: đặt vạc dầu ở trước
điện, nuôi hổ báo ở trong vườn, rồi hạ lệnh rằng hễ ai phạm tội thì bỏ vạc dầu
hay là cho hổ báo ăn. Hình-luật uy-nghiêm như thế, thì cũng quá lắm, nhưng nhờ
có những hình-luật ấy thì dân trong nước mới dần dần được yên.
Việc binh-lính thì Tiên-hoàng phân
ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân; 1 quân 10 lữ; 1 lữ 10 tốt;
1 tốt 10 ngũ; 1 ngũ 10 người.
Vậy một đạo là 100.000 người, và cứ
số ấy mà tính thì nhà Đinh bấy giờ có 10 đạo, là 1.000.000 người.
Thiết tưởng nước ta bấy giờ đất thì
nhỏ, người thì ít, lấy đâu làm một triệu quân được, và lấy cơm gạo đâu mà nuôi
được bấy nhiêu người. Họa chăng Tiên-hoàng có được độ 10 vạn người đã là nhiều.
Tiên-hoàng bỏ trưởng lập âú, cho đứa
con út là Hạng Lang làm Thái-tử. Con trưởng là Nam-việt-vương Liễn đã theo
Tiên-hoàng đi trận-mạc từ thủa hàn-vi, nay không được ngôi Thái-tử, lấy sự ấy
làm tức-giận bèn khiến người giết Hạng Lang đi. Ấy là gây nên mối loạn ở trong
nhà.
Năm kỹ-mão (979) vua Tiên-hoàng và
Nam-việt-vương Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết. Sử chép rằng tên Đỗ Thích trước
làm lại, đêm nằm thấy sao rơi vào mồm, tưởng là triệu mình được làm vua, bèn
định bụng làm sự thí- đoạt. Một hôm Đỗ Thích thấy Tiên-hoàng say rượu nằm trong
cung, bèn lẻn vào giết Tiên-hoàng đi, rồi giết cả Nam-việt-vương Liễn.
Đình-thần tìm bắt được Đỗ Thích đem
làm tội, và tôn Vệ-vương Đinh Tuệ lên làm vua.
Tiên-hoàng làm vua được 12 năm, thọ
được 56 tuổi.
2. PHẾ ĐẾ (979-980).
Vệ-vương mới có 6 tuổi lên làm vua,
quyền- chính ở cả Thập-đạo tướng-quân là Lê Hoàn. Lê Hoàn lại cùng với Dương
Thái-hậu tư thông.
Các quan đại-thần bấy giờ là bọn
Đinh Điền, Nguyễn Bặc thấy Lê Hoàn nhiếp chính lộng quyền quá, mới cử binh-mã
đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết cả.
Lúc bấy giờ nhà Tống nghe tin
Tiên-hoàng đã mất, tự-quân còn dại, muốn thừa thế sang lấy nước ta, mới hội đại
binh ở gần biên-giới.
Bên ta được tin quân Tàu sắp sang,
Lê Hoàn sai Phạm cự Lượng làm đại-tướng đem binh đi chống giữ. Trước khi khởi
hành, Phạm cự Lượng họp cả quân-sĩ lại ở trong điện, rồi nói rằng: "Bây
giờ quân nghịch sắp vào cõi, mà vua thì còn bé, lấy ai mà thưởng phạt cho chúng
mình. Dẫu chúng mình có hết sức lập được chút công nào, thì rồi ai biết cho?
Chi bằng nay ta tôn Thập-đạo tướng-quân lên làm vua rồi ra đánh thì hơn"26.
Quân-sĩ nghe nói đều hô vạn-tuế.
Thái-hậu thấy quân-sĩ thuận cả, mới sai lấy áo long-cổn mặc vào cho Lê Hoàn.
Lê Hoàn lên làm vua , giáng Đinh Tuệ
xuống làm Vệ-vương, sử gọi là Phế-đế.
Nhà Đinh làm vua được 2 đời, cả thảy
là 14 năm.
{25 Có sách chép rằng Đinh Tiên
Hoàng tên là Hoàn, chứ không phải là Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh là một tước quan của Trần
Lãm phong cho Đinh Hoàn. Nhưng xét trong "Khâm Định Việt Sử" và cách
sách khác thì thấy chép Đinh Bộ Lĩnh chớ không thấy Đinh Hoàn. Vậy nay cứ theo
sách Khâm Định mà chép. }
{26 Xem sử Tàu, nhà Tống lấy ngôi
nhà Hậu-Chu cũng giống như bên ta nhà Tiền-Lê lấy ngôi nhà Đinh. Nhà làm sử có
chép lẫn nhau không? }
CHƯƠNG III
NHÀ TIỀN LÊ
(980-1009)
1. Lê Đại-Hành
2. Phá quân nhà Tống
3. Đánh Chiêm-thành
4. Việc đánh-dẹp và sửa sang trong
nước
5. Lê Trung-Tông
6. Lê long Đĩnh
1. Lê Đại Hành (980-1005)
Lê Hoàn là người làng Bảo-thái,
huyện Thanh-liêm, tỉnh Hà-nam bây giờ, làm quan Thập-đạo tướng-quân nhà Đinh.
Nhân khi vua nhà Đinh còn trẻ tuổi, và lại có quân nhà Tống sang xâm, quân-sĩ
tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức là Đại-hành Hoàng-đế, niên-hiệu là Thiên-phúc,
Hưng-thống (989-993), và Ứng-thiên (994-1005).
Vua Đại-hành lên làm vua rồi sai sứ
đưa thư sang nhà Tống nói dối là thư của Đinh Tuệ (Phế-đế) xin phong, có ý để
nhà Tống hoãn binh lại. Nhưng vua nhà Tống không nghe, sai sứ sang trách
Đại-hành rằng sao được xưng đế, và lại nói rằng : "Nhà Đinh truyền tập đã
ba đời rồi, vậy cho Đinh Tuệ làm Thống-soái, Lê Hoàn làm phó. Nhược bằng Đinh
Tuệ còn trẽ tuổi không làm được, thì Lê Hoàn phải bắt mẹ con Đinh Tuệ sang chầu
Bắc-triều, rồi sẽ phong quan-tước cho Lê Hoàn". Vua Đại-hành biết mưu nhà
Tống bèn không chịu và sửa-sang sự phòng-bị .
2. Phá Quân Nhà Tống.
Nhà Tống thấy vua Đại-hành không
chịu nghe lời, bèn sai tướng đem quân sang đánh. Tháng 3 năm tân-tị (981) thì
bọn Hầu nhơn Bảo và Tôn toàn Hưng tiến quân sang mặt Lạng-sơn, bọn Lưu-trừng
đem thủy-quân sang mặt Bạch-đằng-giang.
Vua Đại-hành đem binh-thuyền ra chống-giữ
ở Bạch-đằng. Quân nhà Tống tiến lên thế mạnh lắm, quan quân đánh không lại phải
lùi. Bấy giờ lục- quân của bọn Hầu nhân Bảo tiến sang đến Chi-lăng (thuộc
Ôn-châu, Lạng- sơn), vua Đại-hành sai người sang trá hàng để dụ Hầu nhơn Bảo
đến chổ hiễm bắt chém đi, rồi đuổi đánh quân nhà Tống chém giết được quá nửa,
và bắt được hai người bộ-tướng.
Bọn Lưu Trừng thấy lục-quân đã tan
vỡ, vội-vàng đem thủy-quân rút về.
Quân ta tuy thắng trận, nhưng vua
Đại-hành sợ thế-lực không chống với Tàu được lâu, bèn sai sứ đem hai viên tướng
bắt được sang trả nhà Tống và xin theo lệ triều cống. Lúc ấy ở phiá bắc nước
Tàu có quân Khiết-đan (Hung-nô) đang đánh phá, cho nên vua nhà Tống cũng thuận
lời, thôi việc chiến-tranh với nước ta, và phong cho vua Đại-hành làm chức Tiết-độ-sứ.
Năm quí-tị (993) nhà Tống sách phong
cho vua Đại-hành làm Giao-chỉ quận-vương, rồi đến năm đinh-dậu (997) lại gia
phong là Nam-bình-vương.
Bấy giờ sứ nhà Tống thường hay đi
lại, có khi vua Đại-hành phụng chiếu mà không lạy, nói dối rằng đi dánh giặc ngã
ngựa đau chân. Nhà Tống biết là nói dối, nhưng cũng làm ngơ đi.
3. Đánh Chiêm Thành.
Vua Đại-hành phá được quân nhà Tống
rồi, định sang đánh Chiêm-thành, vì lúc vua Đại-hành lên ngôi, có sai sứ sang
Chiêm-thành, bị vua nước ấy bắt giam sứ lại. Đến khi việc phía bắc đã yên, vua
Đại-hành đem binh sang đánh báo thù. Quân vua Đại-hành sang chiếm giữ dược
kinh-thành nước Chiêm và bắt được người, lấy được của rất nhiều. Từ đấy nước
Chiêm-thành phải sang triều-cống nước ta.
4. Việc Đánh Dẹp Và Sửa Sang Trong Nước.
Việc trong nước thì có các quan đại
thần là bọn Từ Mục, Phạm cự Lượng, Ngô tử An giúp rập. Đặt luật-lệ, luyện quân
lính và sửa-sang mọi việc.
Bấy giờ thường hay có các động Mường
và những người các châu quận làm phản, vua Đại-hành phải thân chinh đi đánh-dẹp,
bình được 49 động Hà-man (thuộc huyện Thạch-thành, tỉnh Thanh-hoá) và dẹp yên
những người phản-nghịch ở các nơi. Bởi vậy thanh-thế vua Đại-hành lúc bấy giờ
rất là lừng-lẫy.
Năm ất-tị (1005) là năm Ứng-thiên
thứ 12, vua Đại-hành mất, thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm.
5. LÊ TRUNG TÔNG (1005).
Vua Đại-hành đã định cho người con
thứ ba là Long Việt làm thái-tử, nhưng đến lúc vua Đại-hành mất, các hoàng-tử
tranh ngôi đánh nhau trong bảy tháng. Đến khi Long Việt vừa mới lên ngôi được
ba ngày thì bị em là Long Đĩnh sai người vào cung giết đi, thọ 23 tuổi. Sử gọi
là Lê Trung-tông.
6. LÊ LONG ĐĨNH (1005-1009).
Long Đĩnh là người bạo-ngược, tính
hay chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa. Khi đã giết anh rồi, lên làm vua
thường cứ lấy sự giết người làm trò chơi: có khi những tù phạm phải hình, thì
bắt lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt sống; có khi bắt tù trèo lên cây rồi
ở dưới sai người chặt gốc cho cây đổ ; có khi bỏ người vào sọt rồi đem thả
xuống sông. Làm những điều ác như thế thì lấy làm thích chí. Một hôm lấy mía để
lên đầu nhà sư mà róc vỏ, rồi thỉnh-thoảng giã tảng nhỡ tay bổ dao vào đầu sư
chảy máu ra, trông thấy thế làm vui cười. Còn khi ra buổi chầu, có ai tấu sớ
điều gì thì cho những thằng hề nói khôi- hài hay là nhại tiếng làm trò.
Long Đĩnh làm vua được 2 năm đổi
niên-hiệu là Cảnh-thụy (1008-1009). Sang năm sau là năm kỹ-dậu (1009) thì mất,
làm vua được 4 năm, thọ 24 tuổi.
Vì lúc sống dâm-dục quá độ, mắc bệnh
không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là
Ngọa-triều.
Long Đĩnh mất rồi, con thì bé,
đình-thần nhân dịp tôn Lý công Uẩn lên làm vua, khai sáng nên cơ-nghiệp nhà Lý.
Nhà Tiền-Lê làm vua được 3 đời, cả
thảy được 29 năm.
CHƯƠNG IV
NHÀ LÝ
(1010-1225)
I. LÝ THÁI TỔ
1. Thái-tổ khởi nghiệp
2. Dời đô về Thăng-long thành
3. Lấy kinh Tam-tạng
4. Việc chính-trị
II. LÝ THÁI TÔNG
1. Lê phụng Hiểu định loạn
2. Sự đánh dẹp
3. Giặc Nùng
4. Đánh Chiêm-thành
5. Việc chính-trị
III. LÝ THÁNH TÔNG
1. Việc chính-trị
2. Lấy đất Chiêm-thành
IV. LÝ NHÂN TÔNG
1. Ỹ-lan thái-phi
2. Lý đạo Thành
3. Việc sửa-sang trong nước
4. Việc đánh nhà Tống
5. Nhà Tống lấy đất Quảng-nguyên
6. Đánh Chiêm-thành
I. LÝ THÁI-TỔ (1010-1028)
Niên-hiệu : Thuận-thiên
1. Thái-Tổ khởi nghiệp.
Lý công Uẩn người ở làng Cổ-pháp,
nay thuộc về huyện Đông-ngạn, phủ Từ-sơn, tỉnh Bắc-ninh (ở làng Đình-bảng có
lăng và đền thờ nhà Lý).
Tục truyền rằng Công Uẩn không có
cha, mẹ là Phạm-thị đi chơi chùa Tiêu-sơn (làng Tiêu-sơn, phủ Từ-sơn), nằm mộng
thấy đi lại với thần nhân rồi về có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi đem
cho người sư ở chùa Cổ- pháp tên là Lý khánh Văn làm con nuôi, mới đặt tên là
Lý công Uẩn.
Công Uẩn lớn lên vào Hoa-lư làm quan
nhà Tiền-Lê, đến chức Tả-thân- vệ Điện-tiền Chỉ-huy-sứ. Khi Lê Long Đĩnh mất,
thì Lý công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán-giận nhà Tiền-Lê
lắm, ở trong triều có bọn Đào cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý công Uẩn
lên làm vua.
Lý công Uẩn bèn lên ngôi hoàng-đế,
tức là vua Thái-tổ nhà Lý.
2. Dời Đô Về Thăng Long Thành.
Thái-tổ thấy đất Hoa-lư chật-hẹp
không có thể mở-mang ra làm chỗ đô-hội được, bèn định dời đô về La-thành. Tháng
7 năm Thuận-thiên nguyên-niên (1010), thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La-thành,
Thái-tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại-la thành là
Thăng-long thành, tức là thành Hà-nội bây giờ. Cải Hoa-lư làm trường-an phủ và
Cổ-pháp làm Thiên-đức phủ.
3. Lấy Kinh Tam Tạng.
Nhà Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nhà
vua trọng đãi những người đi tu, lấy tiền kho ra để làm chùa đúc chuông. Tháng
6 năm mậu-ngọ (1018) vua sai quan là Nguyễn đạo Thanh và Phạm Hạc sang Tàu lấy
kinh Tam-tạng đem về để vào kho Đại-hưng.
4. Việc Chính Trị.
Lúc bấy giờ ở bên nhà Tống có nhiều
việc, cho nên cũng không sinh sự lôi thôi gì với nước ta. Bởi vậy khi Thái-tổ
lên làm vua, sai sứ sang cầu phong, vua nhà Tống liền phong cho làm Giao-chỉ
quận-vương, sau lại gia phong Nam-bình-vương. Nước Chiêm-thành và nước Chân-lạp
đều sang triều cống, cho nên việc bang-giao thời bấy giờ đều yên-trị.
ở trong nước cũng có đôi ba nơi nổi
lên làm loạn, như ở Diễn-châu (thuộc Nghệ-an) và ở mạn Thượng-du hay có sự
phản-nghịch, nhà vua phải thân chinh đi đánh-dẹp mới yên được.
Thời bấy giờ các hoàng-tử đều phong
tước vương và phải cầm quân đi đánh giặc, bởi vậy ai cũng giỏi nghề dùng binh.
Thái-tổ lưu tâm về việc sửa-sang trong
nước: đổi phép cũ của nhà Tiền- Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi Hoan-châu và
Ái-châu là trại. Lại định ra 6 hạng thuế là : thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất
trồng dâu và bãi phù-sa; thuế sản-vật ở núi; thuế mắm-muối đi qua Aỉ-quan; thuế
sừng tê, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Vua cho
những bậc công-chúa coi việc trưng-thu các thứ thuế ấy.
Thái-tổ trị-vì được 19 năm thì mất,
thọ 55 tuổi.
II. LÝ THÁI TÔNG (1028-1054)
Niên hiệu :
- Thiên thành (1028-1033)
- Thông-thụy (1034-1038)
- Càn-phù-hữu-đạo (1039-1041)
- Minh-đạo (1042-1043)
- Thiên-cảm-thánh-võ (1044-1048)
- Sùng-hưng-đại-bảo (1049-1054).
1. Lê Phụng Hiểu Định Loạn.
Thái-tổ vừa mất chưa tế-táng xong,
thì các hoàng-tử là bọn Võ-đức-vương, Dực-thánh-vương và Đông-chinh- vương đã
đem quân đến vây thành để tranh ngôi của Thái-tử.
Bấy giờ các quan là bọn Lý nhân
Nghĩa xin Thái-tử cho đem quân ra thành quyết được thua một trận. Khi quân của
Thái-tử và quân các vương đối trận, thì quan Võ-vệ tướng-quân là Lê phụng Hiểu
rút gươm ra chỉ vào Võ-đức-vương mà bảo rằng : "Các người dòm-ngó ngôi
cao, khinh-dể tự- quân, trên quên ơn Tiên-đế, dưới trái nghĩa tôi con, vậy
Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này !" Nói xong chạy xông vào chém
Võ-đức-vương ở trận tiền. Quân các vương trông thấy sợ-hãi bỏ chạy cả.
Dực-thánh-vương và Đông- chinh-vương cũng phải chạy trốn.
Thái-tử Phật Mã lên ngôi, tức là vua
Thái-tông.
Dực-thánh-vương và Đông-chinh-vương
xin về chịu tội. Thái-tông nghĩ tình cốt-nhục bèn tha tội cho, và lại phục chức
cũ cho cả hai ngừơi.
Cũng vì sự phản-nghịch ấy cho nên
vua Thái-tông mới lập lệ: cứ hàng năm, các quan phải đến đền Đồng-cổ (ở làng
Yên-thái, Hà-nội) làm lễ đọc lời thề rằng : "Làm con phải hiếu, làm tôi
phải trung, ai bất hiếu bất trung, xin quỉ thần làm tội". Các quan ai trốn
không đến thề, phải phạt 50 trượng.
2. Sự Đánh Dẹp.
Thái-tông là người có thiên-tư
đĩnh-ngộ, thông lục- nghệ, tinh thao-lược, gặp lúc trong nước có nhiều
giặc-giã, nhưng ngài đã quen việc dùng binh, cho nên ngài thường thân chinh đi
đánh đông dẹp bắc.
Thời bấy giờ nhà vua không đặt quan
tiết trấn; phàm việc binh việc dân ở các châu, là đều giao cả cho người
châu-mục. Còn ở mạn thượng-du thì có người tù-trưởng quản lĩnh. Cũng vì quyền
những người ấy to quá, cho nên thường hay có sự phản-nghịch. Lại có những nước
lân bang như Chiêm- thành và Ai-lao thường hay sang quấy nhiễu, bởi vậy cho nên
sự đánh-dẹp về đời vua Thái-tông rất nhiều.
3. Giặc Nùng.
Lúc ấy châu Quảng-nguyên (Lạng-sơn)
có những người Nùng cứ hay làm loạn. Năm mậu-đần (1038) có Nùng tồn Phúc làm
phản, tự xưng là Chiêu-thành Hoàng-đế, lập A-nùng làm Ninh-đức Hoàng-hậu, đặt
quốc-hiệu là Tràng-sinh-quốc rồi đem quân đi đánh-phá các nơi.
Năm kỹ-mão (1039) Thái-tông thân
chinh đi đánh, bắt được Nùng tồn Phúc và con là Nùng tri Thông đem về kinh làm
tội. Còn A-nùng và con là Nùng trí Cao chạy thoát được.
Năm tân-tị (1041) Nùng trí Cao cùng
với mẹ là A-nùng về lấy châu Đảng-đo (gần châu Quãng-nguyên) lập ra một nước
gọi là Đại-lịch-quốc. Thái-tông sai tướng lên đánh bắt được đem về Thăng-long.
Nhưng vua nghĩ trước đã giết cha và anh, nay thương tình không giết, tha cho về
và lại phong cho làm Quãng-nguyên mục. Sau lại gia phong cho tước Thái-bảo.
Năm mậu-tí (1048) Nùng trí Cao lại
phản, xưng là Nhân-huệ Hoàng-đế quốc-hiệu là Đại-nam. Thái-tông sai quan
thái-uý Quách thịnh Dật lên đánh không được. Bấy giờ Trí Cao xin phụ-thuộc vào
nước Tàu, vua nhà Tống không cho. Trí Cao bèn đem quân sang đánh lấy Ung-châu,
rồi chiếm cả thảy được 8 châu ở đất Quảng-đông và Quảng-tây. Những châu ấy là
châu Hoành châu Quí, châu Cung, châu Tầm, châu Đằng, châu Ngô, châu Khang, châu
Đoan.
Vua nhà Tống đã toan nhờ quân nhà Lý
sang đánh giúp nhưng tướng nhà Tống là Địch Thanh can rằng : Có một Nùng trí
Cao mà đất Lưỡng Quảng không chế được, lại phải nhờ quân ngoại-quốc vào đánh
giúp. Nếu có ai nhân đó mà nổi loạn, thì làm thế nào? Vua nhà Tống nghe lời ấy
bèn sai bọn Dư Tĩnh và Tôn Miện đi đánh-dẹp giặc Trí Cao. Bọn Dư Tĩnh đánh mãi
không được, nhà Tống lấy làm lo, nhân khi Trí Cao dâng biểu xin lĩnh chức
Tiết-độ-sứ châu Ung và châu Quí, vua nhà Tống đã toan thuận cho, Địch Thanh can
đi, và xin đem quân đi đánh.
Địch Thanh ra hợp quân với bọn Dư
Tĩnh và Tôn Miện đóng ở Tân-châu (Liễu-châu tỉnh Quảng-tây) rồi hội các tướng
lại cấm không cho ra đánh nhau với giặc. Bấy giờ có quan Kiềm-hạt tỉnh Quảng-tây
tên là Trần-Thự trái tướng lệnh đem quân đi đánh bị thua, Địch Thanh đem chém
đi, rồi lệnh cho quân nghĩ 10 ngàỵ Quân đi thám biết chuyện về báo Trí Cao
biết. Trí Cao tưởng là quân nhà Tống không dám đánh, bèn không phòng-giữ. Địch
Thanh đem quân đến cửa Côn-lôn (gần phủ Nam-ninh) đánh Nùng trí Cao. Lúc đang
đánh nhau, Địch Thanh đem quân kỵ đánh hai bên tả hữu, quân của Trí Cao tan vỡ,
tướng là bọn Hoàng sư Mật đều tử trận.
Trí Cao chạy thoát trốn sang nước
Đại-lý. Sau người Đại-lý bắt Nùng trí Cao chém lấy đầu đem nộp nhà Tống. Giặc
Nùng từ đó mới yên.
4. Đánh Chiêm Thành.
Thái-tông lên làm vua đã hơn 15 năm,
mà nước Chiêm-thành không chịu thông sứ và lại cứ quấy nhiễu ở mặt bể. Thái-
tông bèn sắp-sửa binh-thuyền sang đánh Chiêm-thành.
Năm giáp-thân (1044) vua Thái-tông
ngự giá đi đánh Chiêm-thành. Quân Chiêm-thành dàn trận ở phía nam sông
Ngũ-bồ(?) Thái-tông truyền thúc quân đánh tràn sang, quân Chiêm-thành thua
chạy. Quân ta bắt được hơn 5.000 người và 30 con voi.
Tướng Chiêm-thành là Quách gia Gi
chém quốc-vương là Sạ Đẩu đem đầu sang xin hàng.
Bấy giờ quan quân chém giết người
bản xứ rất nhiều, máu chảy thành suối. Thái-tông trông thấy động lòng thương,
xuống lịnh cấm không được giết người Chiêm-thành, hễ ai trái lệnh thì theo phép
quân mà trị tội.
Thái-tông tiến binh đến quốc đô là
Phật-thệ (nay ở làng Nguyệt-hậu, huyện Hương-thủy, tỉnh Thừa-thiên), vào thành
bắt được Vương-phi là Mị Ê và các cung nữ đem về. Khi xa-giá về đến sông
Lý-nhân, Thái-tông cho đòi Mị Ê sang chầu bên thuyền ngự . Mị Ê giữ tiết không
chịu, quấn chiên lăn xuống sông mà tự-tử. Nay ở phủ Lý-nhân còn có đền thờ.
Thái-tông bắt về hơn 5.000 người
Chiêm-thành ban cho ruộng đất lập thành phường ấp mà làm ăn.
5. Việc Chính Trị.
Thái-tông tuy phải đánh dẹp luôn,
nhưng cũng không bỏ việc chính-trị trong nước, bao giờ cũng để lòng thương dân.
Hễ năm nào đói kém hay là đi đánh giặc về, thì lại giảm thuế cho hàng hai ba
năm. Ngài sửa lại luật-phép, định các bậc hình-phạt, các cách tra-hỏi, và đặt
lệ cho những người già người trẻ, trừ khi phạm tội thập ác, thì được lấy tiền
mà chuộc tội. Nhân khi đổi luật mới, nhà vua đổi niên-hiệu là Minh-đạo (1042).
Năm quí-mùi (1043) Thái-tông hạ
chiếu cấm không cho ai được mua hoàng-nam27 để làm nô. Vua lại
chia đường quan-lộ ra từng cung, đặt nhà trạm để chạy giấy công-văn.
ở trong cung thì Thái-tôn định số
hậu-phi và cung-nữ như sau này : hậu và phi 13 người, ngự-nữ là 18 người , nhạc
kỹ 100 người. Những cung-nữ phải học nghề thêu-dệt vóc-gấm.
Thái-tông trị-vì được 27 năm, đến
năm giáp-ngọ (1054) thì mất, thọ 55 tuổi.
III LÝ THÁNH-TÔNG (1054-1072)
Niên-hiệu :
- Long-thụy thái-bình (1054-1058)
- Chương-thánh gia-khánh
(1059-1065)
- Long-chương thiên-tự
(1066-1067)
- Thiên-huống bảo-tượng (1060)
- Thần-võ (1069-1072).
1. Việc Chính Trị.
Thái-tử là Nhật Tôn lên ngôi tức là
vua Thánh-tông, ngài đổi quốc-hiệu là Đại-Việt28.
Thánh-tông là một ông vua nhân-từ,
có lòng thương dân; một năm trời làm rét lắm, Thánh-tông bảo những quan hầu gần
rằng: "Trẫm ở trong cung ăn-mặc như thế này còn rét, nghĩ những tù-phạm
giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại
có người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật là
thương lắm". Nói rồi truyền lấy chăn chiếu cho tù nằm, và mỗi ngày cho hai
bửa ăn. Lại có một hôm Thánh-tông ra ngự ở điện Thiên-khánh xét án, có
Động-thiên công-chúa đứng hầu bên cạnh. Thánh-tông chỉ vào công-chúa mà bảo các
quan rằng : "Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ
ngu dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì cũng
giãm nhẹ bớt đi" .
Vua Thánh-tông có nhân như thế, cho
nên trăm họ mến-phục, trong đời Ngài làm vua ít có giặc-giã. Ngài lại có ý muốn
khai-hóa sự văn-học, lập văn-miếu, làm tượng Chu-công Khổng-tử và 72 tiên-hiền
để thờ. Nước ta có văn-miếu thờ Khổng-tử và chư hiền khởi đầu từ đấy.
Việc binh-chính thì ngài đặt
quân-hiệu và chia ra làm tả hữu tiền hậu 4 bộ, hợp lại là 100 đội có lính kỵ và
lính bắn đá. Còn những phiên-binh thì lập ra thành đội riêng không cho lẫn với
nhau. Binh-pháp nhà Lý bấy giờ có tiếng là giỏI, nhà Tống bên Tàu đã phải bắt
chước. Ấy là một sự vẻ-vang cho nước mình bao nhiêu?
2. Lấy Đất Chiêm Thành.
Vua Thánh-tông đã nhân mà lại dũng:
nước Chiêm-thành hay sang quấy nhiễu, ngài thân chinh đi đánh. Đánh lần đầu
không thành công, đem quân trở về. Đi đến châu Cư-liên (?) nghe thấy người khen
bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên-trị, Thánh-tông nghĩ bụng
rằng: "Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh Chiêm-thành
không thành công, thế ra đàn-ông hèn lắm à !" Lại đem quân trở lại đánh
bắt được vua Chiêm-thành là Chế Củ. Năm ấy là năm kỷ-dậu (1069). Thánh-tông về
triều, đổi niên-hiệu là Thần-võ.
Chế Củ xin dâng đất ba châu để chuộc
tội, là châu Địa-lý, châu Ma-linh và châu Bố-chính. Thánh-tông lấy 3 châu ấy và
cho Chế Củ về nước.
Những châu ấy nay ở địa-hạt tỉnh
Quảng-bình và tỉnh Quảng-trị.
Năm nhâm-tí (1072) Thánh-tông mất,
trị-vì được 17 năm, thọ 50 tuổi.
IV. LÝ NHÂN-TÔNG (1072-1127)
Niên-hiệu :
- Thái-ninh (1072-1075)
- Anh-võ chiêu-thắng (1076-1084)
- Quảng-hữu (1085-1091)
- Hội-phong (1092-1100)
- Long-phù (1101-1109)
- Hội-tường đại-khánh (1110-1119)
- Thiên-phù duệ-võ (1120-1126)
- Thiên-phù khánh-thọ (1127).
1. Ỹ Lan Thái-Phi.
Vua Nhân-tông là con bà Ỹ-lan
Thái-phi, người ở Siêu-loại (Bắc-ninh). Khi trước vua Thánh-tông đã 40 tuổi mà
không có con, đi cầu tự qua làng Thổ-lội (sau đổi là Siêu-loại rồi lại đổi là
Thuận- quang), người đi xem đứng đầy đường, có một người con gái đi hái dâu,
thấy xe nhà vua đi cứ đứng tựa vào cây lan chứ không ra xem. Vua thấy thế lấy
làm lạ, truyền gọi đem vào cung, phong là Ỹ-lan phu-nhân. Được ít lâu có thai
đẻ ra hoàng-tử là Càn Đức, được phong là Nguyên-phi.
Càn Đức làm thái-tử rồi lên nối
ngôi, tức là vua Nhân-tông, phong cho mẹ làm Ỹ-lan thái phi.
Thái-phi tính hay ghen-ghét, thấy bà
Dương-thái-hậu giữ quyền, trong bụng không yên, bèn xui vua bắt Thái-hậu và 72
người thị-nữ bỏ ngục tối, rồi đem giết cả.
2. Lý Đạo Thành.
Lúc Nhân-tông lên làm vua mới có 7
tuổi, có quan Thái-sư là Lý đạo Thành làm phụ-chính.
Ông Lý đạo Thành là người họ nhà
vua, tính rất đoan-chính, hết lòng lo việc nước. Thường những lúc sớ tấu cứ hay
nói đến việc lợi hại của dân. Những quan-thuộc thì chọn lấy người hiền-lương mà
cất nhắc lên để làm mọi việc. Bởi vậy thời bấy giờ trong thì sửa-sang được việc
chính-trị, ngoài thì đánh nhà Tống, phá quân Chiêm. Ấy cũng nhờ có tôi hiền
tướng giỏi cho nên mới thành được công-nghiệp như vậỵ
3. Việc Sửa Sang Trong Nước.
Việc đánh-dẹp về đời vua Nhân-tông
thì nhiều, song những công-việc ở trong nước cũng không bỏ trễ. Đời bấy giờ mới
khởi đầu đắp cái đê Cơ Xá để giữ đất kinh-thành cho khỏi lụt ngập. Việc đắp đê
khởi đầu từ đó.
Năm ất-mão (1075) mở khoa thi
tam-trường để lấy người văn-học vào làm quan. Kỳ thi ấy là kỳ đầu tiên ở nước
ta, chọn được hơn 10 người. Thủ- khoa là Lê văn Thịnh. Ông Thủ-khoa ấy ngày sau
làm đến chức thái-sư, nhưng vì sự làm phản-nghịch, cho nên phải đày lên ở
Thao-giang (huyện Tam-nông, Phú-thọ).
Năm bính-thìn (1076) lập
Quốc-tử-giám để bổ những người văn-học vào dạy. Đến năm bính-dần (1086) mở khoa
thi chọn người văn-học vào Hàn-lâm-viện, có Mạc hiển Tích đỗ đầu, được bổ
Hàn-lâm-học-sĩ.
Sự nho-học nước ta khởi đầu thịnh
lên từ thời bấy giờ.
Năm kỷ-tị (1089) định quan-chế, chia
văn võ ra làm 9 phẩm. Quan đại- thần thì có Thái-sư, Thái-phó, Thái-uý và
Thiếu-sư, Thiếu-phó, Thiếu-uý. ở dưới những bậc ấy, đàng văn-ban thì có
Thượng-thư, tả hữu Tham-tri, tả hữu Gián-nghị đại-phu, Trung-thư Thị-lang, Bộ
Thị-lang v.v.. Đàng võ-ban thì có Đô-thống Nguyên-súy, Tổng-quản khu-mật sứ,
Khu-mật tả hữu-sứ, Kim-ngô thượng-tướng, đại-tướng, đô-tướng, Chư-vệ tướng-quân
v.v...
ở ngoài các châu-quận, văn thì có
Tri-phủ, Phán-phủ, Tri-châu, võ thì có Chư-lộ trấn trại-quan.
4. Việc Đánh Nhà Tống.
Từ nhà Đinh, nhà Lê trở đi, tuy Tàu
không sang cai-trị nước ta nữa, nhưng vẫn cứ lăm-le có ý muốn xâm-lược. Đến khi
vua Thần-tông nhà Tống (1068-1078) có quan Tể-tướng là Vương an Thạch đặt ra
phép mới để cải-tổ việc chính-trị nước Tàu.
Nguyên nhà Tống bấy giờ bị nước
Bắc-liêu và nước Tây-hạ ức hiếp, hằng năm phải đem vàng bạc và lụa vải sang
cống hai nước ấy. Mà trong nước thì không có đủ tiền để chi dụng. Vua Thần-tông
mới dùng ông Vương an Thạch làm Tể-tướng để sửa-sang mọi việc.
Vương an Thạch29đặt ra ba
phép về việc tài-chính và 2 phép về việc binh-chính.
Việc Tài Chính :
1. Phép thanh miêu: là khi lúa còn
xanh thì nhà nước cho dân vay tiền, đến khi lúa chín thì dân lại phải trả tiền
lại, tính theo lệ nhà nước đã định mà trả tiền lãi.
2. Phép miễn dịch: là cho những
người dân đinh mà ai phải sưu-dịch thì được nộp tiền, để nhà nước lấy tiền ấy
thuê người làm.
3. Phép thị dịch: là đặt ra một sở
buôn-bán ở chốn kinh-sư, để có những thứ hàng-hóa gì mà dân-sự bán không được,
thì nhà nước mua thu cả lấy mà bán. Những người con-buôn mà ai cần phải vay
tiền thì cho vay, rồi cứ tính theo lệ nhà nước mà trả tiền lãi.
Việc Binh Chính:
1. Phép bảo giáp: là lấy dân làm
lính. Chia ra 10 nhà làm một bảo, 500 nhà làm một đô-bảo. Mỗi bảo có đặt hai
người chánh phó để dạy dân luyện-tập võ-nghệ
2. Phép bảo mã: là nhà nước giao
ngựa cho các bảo phải nuôi, có con nào chết thì dân phải theo giá đã định mà
thường lại.
Khi năm phép ấy thi-hành ra thì dân
nước Tàu đều lấy làm oán-giận, vì là trái với chế-độ và phong-tục cũ.
Vương an Thạch lại có ý muốn lập
công ở ngoài biên, để tỏ cái công-hiệu viêc. cải-tổ của mình. Bấy giờ ở
Ung-châu có quan tri-châu là Tiêu Chú biết ý Vương an Thạch, mới làm sớ tâu về
rằng: nếu không đánh lấy đất Giao- châu thì về sau thành một điều lo cho nước
Tàu.
Vua nhà Tống nghe lời tâu ấy, sai
Tiêu Chú kinh-lý việc đánh Giao-châu. Nhưng Tiêu Chú từ chối, lấy việc ấy làm
khó, đang không nổi. Nhân lúc ấy lại có Thẩm Khởi tâu bày mọi lẽ nên đánh
Giao-châu. Vua nhà Tống bèn sai Thẩm Khởi làm Tri-châu châu Quế. Thẩm Khởi ra
thu-xếp mọi việc theo ý Vương an Thạch, nhưng sau không biết tại lẽ gì phải bãi
về. Tống-triều cho Lưu Gi ra thay.
Lưu Gi sai người đi biên các khe
ngòi, các đồn-lũy, sửa binh-khí, làm thuyền-bè và lại cấm không cho người ở
châu huyện gần đấy đi lại buôn-bán với người Giao-châu.
Bên Lý-triều ta thấy sự tình như thế
mới viết thư sang hỏi Tống-triều, thì Lưu Gi lại giữ lại không đệ về kinh.
Lý-triều tức giận, bèn sai Lý thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn binh chia ra
làm 2 đạo, thủy bộ cùng tiến sang đánh nhà Tống, lấy cớ rằng nhà Tống đặt ra
phép mới làm khổ trăm họ. Vậy quân Đại-Việt sang đánh để cưú-vớt nhân-dân,
v.v.....
Năm ất-mão (1075) Lý thường Kiệt đem
quân sang vây đánh Khâm- châu và Liêm-châu (thuộc tỉnh Quảng-đông) giết hại hơn
8.000 người. Đạo quân của Tôn Đản sang đánh Ung-châu (tức là thành Nam-ninh
thuộc tỉnh Quảng-tây), quan Đô-giám Quảng-tây là Trương thủ Tiết đem binh lại
cưú Ung-châu, bị Lý thường Kiệt đón đánh ở Côn-lôn quan (gần Nam-ninh) chém
Trương thủ Tiết ở trận tiền.
Tôn Đản vây thành Ung-châu hơn 40
ngày, quan tri-châu là Tô Dam kiên cố giữ mãi. Đến khi quân nhà Lý hạ được
thành, thì Tô Dam bắt người nhà tất cả là 36 người chết trước, rồi tự đốt mà
chết. Người trong thành cũng bắt-chước quan tri-châu, không ai chịu hàng cả.
Quân nhà Lý vào thành giết hại gần đến 58.000 (?) người.
Lý thường Kiệt và Tôn Đản sang đánh
nhà Tống giết hại cả thảy đến 10 vạn người, rồi lại bắt người lấy của đem về
nước.
5. Nhà Tống Lấy Đất Quảng Nguyên.
Tống-triều đươc. tin quân nhà Lý
sang đánh-phá ở châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, lấy làm tức-giận lắm, bèn sai
Quách Quì làm Chiêu-thảo-sứ, Triệu Tiết làm phó, đem 9 tướng quân cùng hội với
nước Chiêm-thành và Chân-lạp chia đường sang đánh nước Nam ta.
Tháng chạp năm bính-thìn (1076) quân
nhà Tống vào địa-hạt nước ta. Lý-triều sai Lý thường Kiệt đem binh đi cự địch.
Thường Kiệt đánh chặn quân nhà Tống ở sông Như-nguyệt (làng Như-nguyệt ở
Bắc-ninh, tức là sông Cầu bây giờ). Quân nhà Tống đánh trận ấy chết hơn 1.000
người, Quách Quì tiến quân về phía tây, đến đóng ở bờ sông Phú-lương30.
Lý thường Kiệt đem binh-thuyền lên
đón đánh không cho quân nhà Tống sang sông. Quân Tống mới chặt gỗ làm máy bắn
đá sang như mưa, thuyền của ta thủng nát mất nhiều, quân-sĩ chết hàng mấy nghìn
người. Lúc bấy giờ quân nhà Tống đánh hăng lắm, Lý thường Kiệt hết sức chống
giữ, nhưng sợ quân mình có ngã lòng chăng, bèn đặt ra một chuyện nói rằng có
thần cho bốn câu thơ :
Nam-quốc sơn-hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên
thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm -phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Quân-lính nghe đọc mấy câu thơ ấy,
ai nấy đều nức lòng đáng giặc, quân nhà Tống không tiến lên được. Hai bên cứ
chống giữ nhau mãi. Lý- triều sợ đánh lâu không lợi, bèn sai sứ sang Tống xin
hoãn binh.
Vua Tống thấy quân mình không tiến
lên được, mà lại đóng ở chỗ chướng địa, quân-sĩ trước sang hơn 8 vạn, sau chết
đến quá nửa, cho nên cũng thuận hoãn-binh lui về, chiếm-giữ châu Quảng-nguyên
(bây giờ là châu Quảng-uyên, tỉnh Cao-bằng), châu Tư-lang (bây giờ là châu
Thượng-lang và Hạ-lang, tỉnh Cao-bằng), châu Tô, châu Mậu (ở giáp-giới tỉnh
Cao-bằng và tỉnh Lạng-sơn) và huyện Quảng-lang (Ôn-châu, tỉnh Lạng-sơn).
Đến năm mậu-ngọ (1078) Lý nhân Tông
sai Đào tôn Nguyên đưa voi sang cống nhà Tống và đòi lại những châu huyện ở mạn
Quảng-nguyên. Vua Tống bắt phải trả những người châu Khâm, châu Liêm và châu
Ung mà quân nhà Lý bắt về ngày trước, rồi mới trả châu huyện cho nhà Lý. Sang
năm kỷ-mùi (1079) Nhân-tông cho những người Tàu về nước , tất cả chỉ có 221
người. Con trai thì thích ba chữ vào trán, từ 15 tuổi trở lên thì thích:
Thiên-tử binh; 20 tuổi trở lên thì thích: Đầu Nam-triều; còn con gái thì thích
vào tay trái hai chữ : Quan-khách.
Đất Quảng-nguyên từ khi bọn Quách
Quì lấy được, cải tên là Thuận- châu và có 3.000 quân Tống ở lại giữ, nhưng vì
đất lam-chướng, mười phần chết đến năm sáu.
Đến khi nhà Lý cho những người châu
Khâm, châu Liêm và châu Ung về Tàu, vua nhà Tống trả lại châu Quảng-nguyên.
Nhưng vì có người nói rằng châu ấy có nhiều vàng, người Tống tiếc của, làm hai
câu thơ rằng :
Nhân tham Giao-chỉ tượng.
Khước thất Quảng-nguyên kim.
Đến mùa hạ năm giáp-tí (1084)
Nhân-tông sai quan binh-bộ Thị-lang là Lê văn Thịnh sang nhà Tống bàn việc chia
địa-giới. Lê văn Thịnh phân-giãi mọi lẽ, nhà Tống trả nốt cả mấy huyện mà trước
còn giữ lại. Từ đó nước ta và nước Tàu lại thông sứ như cũ.
Năm đinh-mão (1087) vua nhà Tống
phong cho Nhân-tông là Nam-bình-vương.
Nhà Tống bấy giờ đã suy-nhược, đến
năm bính-ngọ (1126) nước Kim (Mãn-châu) sang lấy mất cả phía bắc nước Tàu, nhà
Tống dời đô về đóng ở Hàng-châu (thuộc Chiết-giang) gọi là Nam-tống.
6. ĐÁNH CHIÊM-THÀNH.
Nước Chiêm-thành thỉnh-thoảng cứ hay
sang quấy-nhiễu, đánh thế nào cũng không được. Năm ất-mão (1075) trước khi đi
đánh nhà Tống, Lý thường Kiệt đã sang đánh Chiêm-thành, vẽ được địa-đồ ba châu
của Chế Cũ đã nhường ngày trước, rồi cho người sang ở.
Năm quí-mùi (1103) ở Diễn-châu
(thuộc Nghệ-an) có Lý Giác làm phản. Lý thường Kiệt vào đánh, Lý Giác thua chạy
sang Chiêm-thành đem quốc- vương là Chế ma Na sang đánh lấy lại ba châu
Ma-linh, Bố-chính, v.v... Sang năm sau là năm giáp-thân (1104) vua Nhân-tông
sai Lý thường Kiệt vào đánh Chiêm-thành. Chế ma Na thua chạy xin trả lại ba
châu như cũ.
Lý thường Kiệt bấy giờ đã ngoài 70
tuổi đi đánh Chiêm-thành về được một năm thì mất. Ông là người ở phường
Thái-hoà, huyện Thọ-xương (thành phố Hà-nội), có tướng tài, tinh thao-lược, bắc
đánh Tống, nam bình Chiêm, thật là một người danh-tướng nước ta vậy.
Từ khi bình-phục được nước
Chiêm-thành rồi, các nước ở phía nam đều về triều-cống. Nhân-tông làm vua đến
năm đinh-vị (1127) thì mất, trị-vì được 56 năm, thọ 63 tuổi.
{27 Hoàng Nam là người từ 18 tuổi
trở lên. }
{28 Từ nhà Đinh đến bây giờ, nước ta
vẫn gọi là Đại Cồ Việt, nay mới đổi là Đại Việt. }
{29 Xin xem "Vương An
Thạch" của Đào Trinh Nhất - Tân Việt xuất bản. }
{30 Sách "Khâm-định
Việt-sử" có chép rằng sông Phú-lương là con sông đi từ Bạch-hạc qua Nam-
định rồi chảy ra bể, tức là sông Hồng-hà. Nhưng xem trận thế bấy giờ và xét ở
trong địa-lý thì sông Phú-lương chép ở đây chính là sông Cầu, chứ không phải
sông Hồng-hà. Nếu lúc bấy giờ Lý thường Kiệt đã phá quân nhà Tống ở sông
Như-nguyệt tức là khúc dưới sông Cầu, thì tất nhà Lý còn đóng ở mạn sông Cầu.
Quân Quách Quì làm thế nào mà tiến đến sông Hồng-hà được ? Vả lại ở Thái-nguyên
hiện bây giờ có huyện Phú-lương, huyện ấy về đời nhà Lý, nhà Trần là Phú-lương
phủ, mà chính con sông Cầu chảy qua địa-hạt ấy. Có lẽ là những nhà chép sử đời
trước thường không thuộc địa-lý cho nên chép lầm sông Phú-lương là sông Nhị-hà,
vậy ta nên cải lại. }
CHƯƠNG V
NHÀ LÝ
(Tiếp theo)
V. Lý Thần Tông
VI. Lý Anh Tông
1. Đỗ Anh Vũ
2. Tô Hiến Thành
3. Giặc Thân Lợi
4. Việc chính trị
VII. Lý Cao Tông
1. Tô Hiến Thành làm phụ chính
2. Sự nội loạn
VIII. Lý Huệ Tông
1. Trần thị
2. Quyền về họ Trần
XI. Lý Chiêu Hoàng
V. LÝ THẦN-TÔNG (1128-1138)
Niên-hiệu:
- Thiên Thuận (1128-1132)
- Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137)
Nhân-tông không có con, lập con của
hoàng-đệ là Sùng-hiền-hầu lên làm thái-tử, nay lên nối ngôi, tức là vua
Thần-Tông31.
Bấy giờ có các quan đại-thần là bọn
ông Trương Bá Ngọc, Lưu Khánh Đàm, Dương Anh Nhị giúp Thần-tông trị nước. Ngài
vừa lên ngôi thì đại xá cho các tù phạm, và trả lại những ruộng đất tịch thu
của quan dân ngày trước. Quân lính thì cho đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một,
được về làm ruộng. Như thế việc binh không làm ngăn-trở việc canh-nông.
Giặc-giã thời bấy giờ cũng ít. Một hai
khi có người Chân-lạp và người Chiêm-thành sang quấy nhiễu ở mạn Nghệ-An, nhưng
đó là những đám cướp-phá vặt vãnh không mấy nỗi mà quan quân đánh đuổi đi được.
Thần Tông làm vua được 10 năm thì
mất, thọ 23 tuổi.
VI. LÝ ANH-TÔNG (1138-1175)
Niên-hiệu:
- Thiệu Minh (1138-1139)
- Đại-định (1140-1162)
- Chính-long bảo-ứng (1163-1173)
- Thiên-cảm chí bảo (1174-1175)
1. Đỗ Anh Vũ.
Thần-tông mất, triều đình tôn
Thái-tử là Thiên Tộ lên làm vua, tức là vua Anh-tông.
Anh-tông bấy giờ mới có 3 tuổi,
Thái-hậu là Lê-thị cầm quyền nhiếp chính. Lê Thái-hậu lại tư thông với Đỗ anh
Vũ, cho nên phàm việt gì bất cứ lớn nhỏ đều ở tay Đỗ anh Vũ quyết đoán cả. Đỗ
anh Vũ được thể ra vào chỗ cung cấm, kiêu ngạo và khinh-dể đình-thần. Các quan
như bọn Vũ Đái, Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc và Dương tự Minh thấy Đỗ anh Vũ lộng
quyền quá độ, đều lo mưu trừ đi, nhưng sự không thành lại bị giết-hại cả.
May nhờ thời bấy giờ có nhiều tôi
giỏi như Tô hiến Thành, Hoàng nghĩa Hiền, Lý công Tín làm quan đại triều cho
nên Đỗ anh Vũ không dám có ý khác.
2. Tô Hiến Thành
Ông Tô hiến Thành giúp vua Anh-tông
đi đánh dẹp, lập được nhiều công to, như là bắt được giặc Thân Lợi, phá được
giặc Ngưu Hống và dẹp yên giặc Lào, được phong làm chức Thái-úy coi giữ việc
binh. Ông luyện tập quân-lính, kén-chọn những người tài giỏi để làm tướng hiệu.
Bởi vậy binh-thế nhà Lý lúc bấy giờ lại phấn-chấn lên. Ông giỏi việc võ và chăm
việc văn. Ông xin vua khai-hóa việc học-hành, và làm đền thờ đức Khổng-Tử ở cửa
nam thành Thăng-Long, để tỏ lòng mộ nho học.
3. Giặc Thân Lợi.
Vua Anh-tông vừa mới lên làm vua
được 2 năm, thì ở mạn Thái-nguyên có giặc Thân-Lợi làm loạn.
Thân Lợi xưng là con riêng vua
Nhân-tông, trước đã xuất gia đi tu, rồi chiêu tập những đồ vong mạng hơn 1,000
người, chiếm giử mạn Thái-nguyên, xưng vương phong tước, đem quân đi đánh phá
khắp nơi. Quan quân đánh mãi không được.
Năm tân-dậu (1141) Thân Lợi về vây
phủ Phú-lương, Đỗ anh Vũ đem quân lên đánh, Thân Lợi chạy lên Lạng-châu, tức là
Lạng-sơn bị ông Tô hiến Thành đuổi bắt được, đem về kinh làm tội.
4. Việc Chính Trị.
Năm giáp-thân (1164) vua nhà Tống
đổi Giao-chỉ quận làm An-nam quốc, và phong cho Anh-tông làm An-nam quốc-vương.
Nguyên khi trước Tàu gọi ta là
Giao-chỉ quận, rồi sau đổi là Giao- châu, đến thời nhà Đường đặt An-nam
đô-hộ-phủ. Nhà Đinh lên đặt Đại-Cồ-Việt, vua Lý Thánh-tông đổi là Đại-Việt.
nhưng Tàu vẫn phong cho vua ta là Giao-chỉ quận-vương, đến bấy giờ mới đổi là
An-nam quốc-vương. Nước ta thành tên là nước An-nam khởi đầu từ đấy.
Năm tân-mão và năm nhâm-thìn
(1171-1172) Anh-tông đi chơi xem sơn-xuyên hiểm-trở, đường-sá xa gần và sự
sinh-hoạt của dân-gian, rồi sai quan làm quyển địa-đồ nước An-nam33.
Năm ất-mùi (1175), Anh-tông phong
cho Tô hiến Thành làm Thái- phó Bình-chương-quân-quốc trọng-sự và phong vương
tước. Anh-tông đau, uỷ thác Thái-tử là Long Cán cho Tô hiến Thành. Anh-tông
mất, trị vì được 37 năm, thọ 40 tuổi.
VII. LÝ CAO-TÔNG (1176-1210)
Niên-hiệu:
- Trinh-phù (1176-1185)
- Thiên-gia bảo-hữu (1202-1204)
- Trị-bình-long-ứng (1205-1210).
1. Tô Hiến Thành Làm Phụ Chánh.
Khi vua Anh-tông mất, Thái-tử Long
Cán chưa đầy 3 tuổi, bà Chiêu-linh Thái-hậu muốn lập người con trưởng là con
mình tên là Long Xưởng33 lên làm vua, đem vàng bạc đút lót cho
vợ Tô hiến Thành, nhưng ông nhất thiết không chịu, bèn cứ theo di-chiếu mà lập
Long Cán, tức là vua Cao-tông.
Tô hiến Thành giúp vua Cao-tông trị
nước, đến năm kỷ hợi(1179) thì mất. Sử chép rằng khi ông đau có quan Tham-tri
chính sự là Vũ tán Đường, ngày đêm hầu hạ. Đến khi bà Đỗ Thái-Hậu34 ra
thăm hỏi ngày sau ai thay được ông, ông tâu rằng: có quan Gián-nghị đại-phu
Trần trung Tá. Thái-hậu ngạc nhiên nói rằng tại sao không cử Vũ tán Đường? Ông
đáp: "Nếu bệ-hạ hỏi người hầu-hạ, thì xin cử người Tán Đường, hỏi người
giúp nước thì tôi xin cử người Trung-Tá".
Tô hiến Thành không những là một
người có tài thao-lược, dẹp giặc yên dân mà thôi, cách thờ vua thật là
trung-thành cho nên người đời sau thường ví ông với Gia cát Lượng đời Tam-quốc
bên Tàu.
Tô hiến Thành mất rồi, Triều-đình
không theo lời ông ấy dặn, cử Đỗ yên Di làm phụ chính và Lý kính Tu làm đế-sư.
Đình-thần bấy giờ có người đứng đắn, cho nên bà Chiêu-linh Thái-hậu không dám
mưu sự phế-lập.
Đến khi Cao-tông lớn lên cầm quyền
trị nước, thì cứ đi săn bắn chơi bời, làm cung xây điện, bắc trăm họ phải
phục-dịch khổ-sở. Ngoài biên thì quân mường thổ ở bên Tàu sang quấy nhiễu ở
phía bắc, người Chiêm-thành sang đánh ở phía nam; trong nước thì nổi lên như
ong dấy. Vua tôi không ai lo nghĩ gì về chính-trị, chỉ làm những việc
nhũng-lạm, mua quan bán chức, hà-hiếp nhân-dân, lấy tiền để làm những việc
xa-xỉ.
2. Sự nổi loạn.
Năm bính-thìn (1208) ở Nghệ-an có
Phạm Du, chiêu nạp những đồ vong mệnh, cho đi cướp các thôn dân, có bụng làm
phản. Cao-tông sai quan Phụng-ngự là Phạm bỉnh Di đi đánh Phạm Du. Bỉnh Di đem
quân vào đến nơi đánh đuổi Phạm Du đi và tịch-biên cả của-cải, đốt phá cả nhà
cửa.
Phạm Du cho người về kinh, lấy vàng
bạc đút lót với các quan trong triều, để vu cho Bỉnh Di làm việc hung bạo, giết
hại những kẻ không có tội, và Phạm Du lại xin về triều để kêu oan.
Cao-tông nghe lời, cho vời Phạm Du
vào chầu và triệu Phạm bỉnh Di về.
Bỉnh Di về kinh vào chầu, Cao-tông
truyền bắt giam, lại toan đem làm tội. Bấy giờ có bộ tướng của Bỉnh Di là Quách
Bốc đem quân phá cửa thành vào cứu Bỉnh Di.
Cao-tông thấy biến, bèn đem giết
Phạm bỉnh Di đi, rồi cùng với Thái- tử chạy lên Qui Hóa (sông Thao-giang ở phía
bắc huyện Tham-nông, Phú- thọ). Thái-tử Sam thì chạy về HảI-ấp, làng Lưu-gia
(bây giờ là làng Lưu-xá, huyện Hưng-nhân).
Bọn Quách Bốc đưa xác Bỉnh Di ra mai
táng xong rồi, lại vào điện tôn Hoàng-tử Thẩm lên làm vua.
Khi Thái-tử Sam chạy về Hải-ấp vào ở
nhà Trần Lý. Nguyên Trần Lý là người làng Tức-mạc (huyện Mỹ-lộc, phủ
Xuân-trường, tỉnh Nam-định) làm nghề đánh cá, nhà giàu, có nhiều người theo
phục, sau nhân buổi loạn cũng đem chúng đi cướp phá. Đến khi Thái-tử Sam chạy
về đấy, thấy con gái Trần Lý có nhan sắc, lấy làm vợ, rồi phong cho Trần Lý
tước Minh-tự và phong cho người cậu Trần-thị là Tô trung Từ, người ở làng
Lưu-gia làm Điện-tiền Chỉ-huy-sứ.
Anh em họ Trần mộ quân về kinh dẹp
loạn, rồi lên Qui-hóa rước Cao-tông cho quân về làng Lưu-gia đón Thái-tử, còn
Trần-thị thì về ở nhà Trần Lý.
Cao-tông về kinh được một năm thì
phải bệnh, đến tháng 10 năm canh-ngọ (1210) thì mất, trị-vì được 35 năm, thọ 38
tuổi.
VIII. Lý Huệ Tông (1211-1225)
Niên-hiệu:
- Kiến-gia (1211-1224)
1. Trần Thị.
Thái-tử Sam lên ngôi, tức là vua
Huệ-tông, rồi sai quan đi rước Trần-thị về phong làm Nguyên-phi.
Bấy giờ Trần Lý đã bị quân cướp
giết, chúng theo về người con thứ là Trần tự Khánh. Huệ-tông bèn phong cho tự
Khánh làm Chương-tín-hầu và cho người cậu Trần-thị làm Thái-úy Thuận-lưu-bá.
Năm quí-dậu (1213) Thái-hậu làm khổ
Trần-thị ở trong cung, anh Trần-thị là Tự Khánh đem quân đến chốn kinh sư, nói
rằng xin rước vua đi. Huệ-tông không biết tình-ý gì, nghi Tự Khánh có ý
phản-nghịch bèn giáng Trần-thị xuống làm Ngự-nữ. Tự Khánh nghe tin ấy, thân đến
quân môn xin lỗi và rước vua đi. Huệ-tông càng nghi lắm, bèn cùng với Thái-hậu
đi lên Lạng-châu (Lạng-sơn).
Tự Khánh lại phát binh xin rước vua
như trước, Huệ-tông sợ lại rước Thái-hậu về huyện Bình-hợp (?).
Khi bấy giờ bà Thái-hậu cho Tự Khánh
là phản-trắc, thường chỉ mặt Trần-thị mà xỉ mắng và xui Huệ-tông bỏ đi.
Huệ-tông không nghe. Thái- hậu định bỏ thuốc độc cho Trần-thị, nhưng Huệ-tông
biết ý, đến bữa ăn thì ăn một nửa, còn một nửa cho Trần-thị ăn và ngày đêm
không cho đi đâu. Sau vì Thái-hậu làm ngặt quá, Huệ-tông và Trần-thị đêm bèn
lẻn ra đi đến nhà tướng-quân Lê Mịch ở huyện Yên-duyên rồi lại đến Cửu-liên
(?), cho đòi Tự Khánh đến chầu.
2. QUYỀN VỀ HỌ TRẦN.
Trần tự Khánh đem quân đến hộ giá.
Huệ-tông phong Trần-thị làm Hoàng-hậu, Tự Khánh làm Phụ-chính và người anh Tự
Khánh là Trần Thừa làm Nội-thị Phân-thủ. Trần tự Khánh cùng với
Thượng-tướng-quân là Phân Lân sửa-sang quân ngũ, làm đồ chiến-khí, luyện-tập
việc võ. Từ đấy quân-thế lại nổi dần dần lên.
Huệ-tông phải bệnh, thỉnh-thoaảng có
cơn điên, rồi cứ uống rượu say cả ngày, có việc chính-trị đều ở tay Tự Khánh
quyết đoán cả.
Đến tháng chạp năm quí-mùi (1228) Tự
Khánh mất, Huệ-tông cho Trần Thừa làm Phụ-quốc Thái-úy, sang năm sau lại cho người
em họ Hoàng-hậu là Trần thủ Độ làm Điện-tiền chỉ-huy-sứ. Từ đó việc gì ở trong
triều cũng quyền ở Thủ Độ cả.
Huệ-tông có bệnh mãi không khỏi, mà
Thái-tử thì chưa có, Trần-thị thì chỉ sinh được hai người con gái, người chị là
Thuận-thiên công-chúa thì đã gả cho Trần Liễu là con trưởng của Trần Thừa; con
người em là Chiêu- thánh công chúa tên là Phật-kim thì mới lên 7 tuổi, Huệ-tông
yêu mến lắm, cho nên mới lập làm Thái-tử. Tháng 10 năm giáp-thân (1224)
Huệ-tông truyền ngôi cho Chiêu-thánh công-chúa, rồi vào ở chùa Chân-giáo.
Huệ-tông trị vì được 14 năm.
IX. LÝ CHIÊU-HOÀNG (1225)
Niên-hiệu:
- Thiên-chương-hữu-đạo
(1224-1225)
Chiêu-thánh công-chúa lên ngôi, tức
là vua Chiêu-hoàng. Bấy giờ quyền-chính ở cả Trần thủ Độ. Thủ Độ lại tư thông
với Trần Thái hậu, đêm ngày mưu lấy cơ-nghiệp nhà Lý, bèn đòi các con quan vào
trong cung để hầu Chiêu-hoàng, và lại cho cháu là Trần Cảnh vào làm chức
Chính-thủ. Đến tháng chạp thì Chiêu-hoàng lấy Trần Cảnh và truyền ngôi cho
chồng.
Nhà Lý đến đấy là hết, cả thảy làm
vua được 216 năm, truyền ngôi được 9 đời.
Nhà Lý có công làm cho nước Nam ta
nên được một nước cường-thịnh: ngoài thì đánh nước Tàu, bình nước Chiêm, trong
thì chỉnh-đốn việc võ-bị, sửa-sang pháp-luật, xây vững cái nền tự-chủ. Vì vua
Cao-tông hoang chơi, làm mất lòng người, cho nên giặc-giã nổi lên, loạn thần
nhiễu sự. Vua Huệ-tông lại nhu-nhược bỏ việc chính-trị, đem giang-sơn phó-thác
cho người con gái còn đang thơ-dại, khiến cho kẻ gian-hùng được nhân dịp mà lấy
giang-sơn nhà Lý và lập ra cơ-nghiệp nhà Trần vậy.
{31 Tục truyền rằng Thần Tông là con
cầu tự được, mà Ngài chính là ông Từ Đạo Hạnh hóa xác sinh ra. Ở Bắc Việt ai đi
đến chùa Thầy (thuộc Sơn Tây) cũng nghe nói sự tích ông Từ Đạo Hạnh và ông
Nguyễn Minh Không. Chuyện hoang đường, không thể tin là sự thật được. }
{32 Quyển địa đồ ấy bây giờ không
thấy còn di tích ở đâu cả. }
{33 Long Xưởng trước đã lập làm Thái
Tử, sau vì có tội phải giáng xuống làm thứ dân. }
{34 Đỗ Thái Hậu là mẹ đẻ ra Cao
Tông. }
CHƯƠNG VI
NHÀ TRẦN
(1225-1400)
Thời kỳ thứ nhất (1225-1293)
I. TRẦN THÁI TÔNG
1. Trần thủ Độ
2. Việc đánh-dẹp giặc-giã
3. Việc cai-trị
4. Việc thuế-má
5. Việc đắp-đê
6. Việc học-hành
7. Pháp-luật
8. Quan-chế
9. Binh-chế
10. Việc đánh Chiêm-thành
11. Quân Mông-cổ xâm-phạm đất An-nam
II. TRẦN THÁNH TÔNG
1. Việc chính-trị
2. Sự giao-thiệp với Mông-cổ
III. TRẦN NHÂN-TÔNG
1. Việc chiến-tranh
2. Việc văn-học
I. TRẦN THÁI-TÔNG (1225-1258)
Niên-hiệu:
- Kiến-trung (1225-1237)
- Thiên-ứng chính-bình
(1238-1350)
- Nguyên-phong (1251-1258)
I. Trần Thủ Độ.
Tháng chạp năm ất-dậu (1225) Trần
Cảnh lên làm vua, tức là Trần Thái-Tông phong cho Trần thủ Độ làm Thái-sư
Thống-quốc hành-quân chinh-thảo-sự. Bấy giờ vua Thái-tông mới có 8 tuổi, việc
gì cũng do ở Trần thủ Độ cả. Thủ Độ tuy là một người không có học-vấn nhưng là
một tay gian-hùng, chủ ý cốt gây dựng cơ-nghiệp nhà Trần cho bền-chặt, cho nên
dẫu việc tàn-bạo đến đâu, cũng làm cho được. Lý Huệ-tông tuy đã xuất gia đia ở
chùa rồi nhưng Thủ Độ vẫn định bụng giết đi, cho khỏi sự lo về sau.
Một hôm Huệ-tông ngồi nhổ cổ ở sân
chùa Chân-giáo, Thủ-Độ đi qua trông thấy, mới nói rằng: "Nhổ cỏ thì phải
nhổ cả rể cái nó đi! " Huệ- tông nghe thế, phủi tay đứng dậy nói rằng:
"Nhà ngươi nói ta hiểu rồi ". Được mấy hôm, Thủ Độ cho người đến mời
Huệ-tông, Huệ-tông biết ý, vào nhà sau thắt cổ tự-tận. Thủ Độ đưa bách quan đến
tế khóc xong rồi hỏa táng, chôn ở tháp Bảo-quang.
Còn Thái-hậu là Trần-thị giáng xuống
làm Thiên-cực công-chúa để gả cho Trần thủ Độ (Trần thủ Độ và Thiên-cực
công-chúa là hai chị em họ). Bao nhiêu những cung-nhân nhà Lý thì đưa gả cho
những Tù-trưởng các mường.
Thủ Độ đã hại Huệ-tông rồi, lại muốn
trừ nốt các tôn-thất nhà Lý. Đến năm nhăm-thìn (1232) nhân làm lễ Tiên-hậu nhà
Lý ở thôn Thái-Đường, làng Hoa-lâm (huyện Đông-ngạn, tỉnh Bắc-ninh), Thủ Độ sai
đào hầm, làm nhà lá ở trên, để đến khi các tôn-thất nhà Lý vào đấy tế-lễ, thì
sụt cả xuống hố rồi đổ đất chôn sống cả.
Thủ Độ chỉ lo làm cho thế nào cho
ngôi nhà Trần được vững-bền, cho nên không những là tàn ác với nhà Lý mà thôi,
đến luân-thường ở trong nhà, cũng làm loạn cả. Chiêu-thánh Hoàng-hậu lấy
Thái-tông đã được 12 năm mà vẫn chưa có con 35 , Thủ Độ bắt Thái-tông bỏ đi và
giáng xuống làm công-chúa, rồi đem người chị bà Chiêu-thánh tức là vợ Trần Liễu
vào làm Hoàng-hậu, bởi vì người chị đã có thai được 3 tháng.
Làm loạn nhân-luân như thế, thì tự
thượng-cổ mới có là một. Trần Liễu tức giận, đem quân làm loạn. Vua Thái-tông
bị Thủ Độ hiếp chế như thế, trong bụng cũng không yên, đến hôm trốn ra, lên
chùa Phù-vân, trên núi Yên-tử (huyện Yên-hưng, tỉnh Quảng-yên). Trần thủ Độ
biết tin ấy, đem quân thần đi đón Thái-tông về. Thái-tông không chịu về, nói
rằng: "Trẫm còn nhỏ-dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn
người khác để cho khỏi nhục xã-tắc". Thủ Độ nói mãi không nghe, ngảnh lại
bảo bác quan rằng: "Hoàng-thượng ở đâu là Triều-đình ở đấy!" Nói
đoạn, truyền sắp sửa xây cung điện ở chùa Phù-vân. Quốc-sư ở chùa ấy thấy thế,
vào van lạy Thái-tông về Triều, Thái-tông bất-đắc-dĩ truyền xa-giá về Kinh.
Được ít lâu
35
Chiêu Thánh Hoàng Hậu bấy giờ mới có
19 tuổi. Trần Liễu biết sức mình không làm gì nổi, bèn nhân lúc Thái-tông ngự
thuyền đi chơi, giả làm người đánh cá lẻn xuống thuyền ngự, xin hàng. Hai anh
em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ nghe tin, đến rút gươm toan giết Trần Liễu,
Thái-tông can mãi mới thôi. Sau Thái-tông lấy đất Yên-phụ, Yên- đường, Yên-sinh
và Yên-bang (ở huyện Đông-triều và phủ Kinh-môn, Hải- dương) cho Trần Liễu làm
thái-ấp và phong cho làm An-sinh-vương. Thủ Độ đã hại hết cả dòng dỏi họ Lý,
lại muốn cho họ Lý không còn ai nhớ đến họ Lý nửa, mới nhân vì tổ nhà Trần tên
là Lý, bắt trong nước ai là họ Lý đều phải cải là họ Nguyễn.
Thủ Độ là người rất gian-ác đối với
nhà Lý, nhưng lại là một người đại công-thần của nhà Trần. Một tay cáng-đán bao
nhiêu trong-sự, giúp Thái-công bình-phục được giặc-giã trong nước và chỉnh-đốn
lại một việc, làm cho nước Nam ta bấy giờ được cường thịnh, ngày sau có thể
chống-cự với Mông-cổ, khỏi phải làm nô-lệ những kẻ hùng-cường.
2. Việc Đánh Dẹp Giặc Giã.
Nước An-nam từ khi vua Cao-tông nhà
Lý thất chính, trong nước chỗ nào cũng có giặc-giã. ở mạn Quốc-oai thì có giặc
Mường làm loạn, ở Hồng-châu thì có Đoàn Thượng chiếm giữ đất Đường hào, tự xưng
làm vua, ở Bắc-giang thì có Nguyễn Nộn độc-lập xưng vương ở làng Phù-đổng. Ấy
là một nước mà chia ra làm mấy giang-sơn. Khi Trần thủ Độ đã thu-xếp trong việc
cướp ngôi nhà Lý rồi, mới đem quân đi đánh dẹp. Trước lên bình giặc Mường ở
Quốc-oai, sau về đánh bọn Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn. Nhưng thế-lực hai người ấy
mạnh lắm, Trần thủ Độ đánh không lại, bèn chia đất cho hai người làm vương để
giảng-hòa.
Năm mậu-tí (1228) Nguyễn Nộn đem
quân đánh Đoàn Thượng, chiếm giữ lấy đất Đường-hào, thanh-thế lừng-lẫy. Trần
thủ Độ đã lấy làm lo. Nhưng chỉ được mấy tháng, thì Nguyễn Nộn chết. Từ đó các
châu huyện trong nước lại thống-hợp làm một.
3. Việc Cai Trị.
Cứ theo phép nhà Lý thì làng nào có
bao nhiêu người đi làm quan văn, quan võ, thơ-lại, quân lính, hoàng-nam,
lung-lão, tàn-tật, và những người đến ở ngụ cư, hay là những người xiêu-lạc đến
trong làng, thì xã-quan phải khai vào cả quyển sổ gọi là trường-tịch. Ai có
quan-tước mà có con được thừa ấm thì con lại được vào làm quan, còn những người
giàu-có, mà không có quan-tước thì đời đời cứ phải đi lính. Thái-tông lên làm
vua phải theo phép ấy, cho nên đến năm mậu-tí (1228) lại sai quan vào Thanh-hóa
làm lại trường-tịch theo như lệ ngày trước.
Năm nhâm-dần (1242) Thái-tông chia
nước Nam ra làm 12 lộ. Mỗi lộ đặt quan cai-trị là An-phủ-sứ, chánh-phó 2 viên.
Dưới An-phủ-sứ có quan Đại-tư-xã và Tiểu-tư-xã. Từ ngũ phẩm trở lên thì làm
Đại-tư-xã, lục phẩm trở xuống thì làm Tiểu-tư-xã, mỗi viên cai-trị, hoặc hai
xã, hoặc ba bốn xã. Mỗi xã lại có một viên xã-quan là Chánh-sử-giám. Lộ nào
cũng có quyển dân-tịch riêng của lộ ấy.
4. Việc Thuế Má.
Người trong nước phân ra từng hạng:
con trai từ 18 tuổi thì vào hạng tiểu-hoàng-nam, từ 20 tuổi vào hạng
đại-hoàng-nam. Còn từ 60 tuổi trở lên thì vào lão hạng.
Thuế thân: Thuế thân thời bấy giờ
tùy theo số ruộng mà đánh, ai có một hai mẫu ruộng thì phải đóng một năm một
quan tiền thuế thân; ai co ba bốn mẫu, thì phải đóng hai quan; ai co năm mẫu
trở lên, thì đóng ba quan. Ai không có mẫu nào, thì không phải đóng thuế.
Thuế ruộng: Thuế ruộng thì đóng bằng
thóc: cứ mỗi một mẫu thì chủ điền phải đóng 100 thăng thóc.
Còn như ruộng công, thì có sách chép
rằng đời nhà Trần có hai thứ ruộng công, mỗi thứ phân ra làm ba hạng.
1. Một thứ gọi là ruộng quốc-khố:
hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch 80 thăng thóc; hạng nhì mỗi mẫu 4 thạch;
hạng 3 mỗi mẫu 3 thạch. 2. Một thứ gọi là thác-điền 36 : hạng nhất mỗi mẫu đánh
thuế một thạch thót; hạng nhì ba mẫu lấy một thạch, hạng ba, bốn mẫu lấy một
thạch.
Còn ruộng ao của công-dân thì mỗi
mẫu lấy ba thăng thóc thuế. Ruộng muối phải đóng bằng tiền.
Các thứ thuế: Có sách chép rằng nhà
Trần đánh cả thuế trầu cau, thuế hương yên-tức, và tôm, cá, rau, quả, gì cũng
đánh thuế cả.
36
Sử chép rằng ông Lê Phụng Hiểu đời
vua Lý Thái Tông đi đánh giặc lập được nhiều công. Sau vua định phong tước cho
ông, ông từ chối, xin lên núi ném con dao, hễ rơi đến đâu xin lấy đất làm tư
nghiệp. Vua thuận cho. Lê Phụng Hiểu lên núi Băng Sơn ném con dao xuống xa được
10 dặm. Vua bèn lấy ruộng ở chung quanh núi Băng Sơn cho ông Lê Phụng Hiểu, gọi
là thác đao điền. Sau thành ra tên thác điền là ruộng để thưởng công cho các
quan. Còn như vàng bạc tiêu-dụng trong nước thì tiêu bằng phân, lượng đã đúc
sẵn, có hiệu nhà nước. Khi nào đóng nộp cho vua quan, thì một tiền là 70 đồng,
mà thường tiêu với nhau thì một tiền chỉ có 69 đồng mà thôi.
5. Việc Đắp Đê.
Nước Nam ta ở mạn đường ngược thì
lắm núi, mà ở trung châu thì nhiều sông ngòi, cho nên đến mùa lụt nước ngàn,
nước lũ chảy về ngập mất cả đồng-điền. Vì vậy năm mậu-thân (1244) Thái-tông sai
quan ơở các lộ đắp đê ở hai bên bờ sông cái (Hồng-hà), gọi là Đỉnh-nhĩ-đê. Lại
đặt quan để coi việc đê, gọi là Hà-đê chánh phó-sứ hai viên. Hễ chỗ nào mà đê
đắp vào ruộng của dân, thì nhà nước cứ chiếu theo giá ruộng mà bồi thường cho
chủ ruộng.
6. Việc Học Hành.
Năm nhăm-thìn (1232) mở khoa thi
Thái-học-sinh (thi Tiến-sĩ). Từ đời nhà Lý cũng đã có thi nho-sĩ, nhưng chỉ thi
Tam-trường mà thôi, đến bây giờ mới có khoa thi Thái-học-sinh, chia ra thứ bậc,
làm ba giáp để định cao thấp. Đến khoa thi năm đinh-vị (1247) lại đặt ra
tam-khôi: trạng nguyên, bảng-nhãn, thám-hoa. Khoa thi năm đinh-vị này có Lê văn
Hưu, là người làm sử nước Nam trước hết cả, đổ bảng-nhãn. Năm ấy lại có mở khoa
thi Tam-giáo: Nho, Thích, Lão, ai hơn thì đổ khoa giáp, ai kém thì đổ khoa ất.
Xem như thế thì sự học-vấn đời nhà
Trần cũng rộng: Nho, Thích, Lão cũng trọng cả. Nhưng không rõ cách học-hành và
phép thi-cử bấy giờ ra thế nào, bởi vì chỗ này sử chỉ nói lược qua mà thôi.
Năm quí-sửu (1253) lập Quốc-học-viện
để giảng tứ-thư ngũ-kinh và lập giảng-võ-đường để luyện-tập-võ-nghệ.
7. Pháp Luật . Sử chép rằng năm
giáp-thìn (1244) vua Thái-tông có định lại các luật-pháp, nhưng không nói rõ
định ra thế nào. Xét trong sách " Lịch-triều hiến-chương " của ông
Phan huy Chủ thì phép nhà Trần đặt ra là hễ những người phạm tội trộm-cắp đều
phải chặt tay, chặt chân, hay là cho voi giày. Xem như thế thì hình-luật bấy
giờ nặng lắm.
8. Quan Chế . Quan-chế đời nhà Trần
cũng sửa-sang lại cả. Bấy giờ có Tam-công, Tam-thiếu, Thái-úy, Tư-mã, Tư-đồ,
Tư-không, làm văn-võ đại- thần. Tể-tướng thì có Tả-hữu Tường-quốc, Thủ-tướng,
Tham-tri. Văn-giai nột chức, thì có các bộ Thượng-thư, Thị-lang, Lang-trung,
Viên-ngoại, Ngự- sử, v.v... Ngoại chức, thì có An phủ-sứ, Tri-phủ, Thông-phán,
Thiêm-phám v.v... Còn võ-giai nội-chức, thì có Phiêu-kỵ thượng-tướng-quân,
Cẩm-vệ thượng-tướng quân, Kim-ngô đại-tướng-quân, Võ-vệ đại-tướng-quân, Phó
đô-tướng-quân v.v... Ngoại chức thì có Kinh-lược-sứ, Phòng-ngự-sứ, Thủ- ngự-sứ,
Quan-sát-sứ, Đô-hộ, Đô-thống, Tổng-quản, v.v...
Quan-lại đời bấy giờ, cứ 10 năm, thì
được thăng lên một hàm, và 15 năm mới được thăng lên một chức.
Đời nhà Trần tuy quan-lại thì nhiều,
nhưng vua quan có ý thân-cận với nhau lắm. Hễ khi nào vua đãi yến, các quan
uống rượu xong rồi, thì ra dắt tay nhau mà múa hát, không có giữ lễ-phép
nghiêm-khắc như những đời sau.
9. Binh Chế.
Từ khi Thái-tông lên ngôi làm vua
thì việc binh-lính một ngày một chỉnh-đốn thêm. Bao nhiêu những người dân-tráng
trong nước đều phải đi lính cả. Các quân-vương ai cũng được quyền mộ tập
quân-lính. Vì cớ ấy cho nên đến sau người Mông-cổ sang đánh, nước Nam ta có hơn
20 vạn quân để chống với quân nghịch. Trừ những giặc-giã nhỏ-mọn ở trong nước
không kể chi, nước Nam ta bấy giờ ở phía nam có Chiêm-thành, phía bắc có quân
Mông-cổ sang quấy-nhiễu cho nên phải đánh -dẹp luôn.
10. Việc Đánh Chiêm Thành.
Từ khi Thái-tông lên làm vua, nước
Chiêm-Thành đã sang cống-tiến, nhưng thường vẫn sang cướp phá, và cứ đòi lại
đất cũ. Thái-tông lấy làm tức giận, bèn sửa-soạn sự đi đánh Chiêm-thành. Năm
nhăm-tí (1252) ngài ngự-giá đi đánh, bắt được vương- phi nước Chiêm tên là
Bố-gia-la và quân dân nước ấy rất nhiều.
11. Quân Mông Cổ Xâm Phạm Đất An Nam.
Trong khi nhà Lý mất ngôi, nhà Trần
lên làm vua ở An-nam, thì nhà Tống bên Tàu bị người Mông-cổ đánh phá. Nguyên ở
phía bắc nước Tàu có một dân-tộc gọi là Mông-cổ, ở vào khoảng thượng-lưu sông
Hắc-long-giang (Amour). Người Mông-cổ hung tợn, mà lại có tính hiếu chiến,
người nào cưỡi ngựa cũng giỏi, và bắn tên không ai bằng. Binh-lính thường là
quân-kị, mà xếp-đặt thành cơ nào đội ấy, thật là có thứ-tự, và người nào cũng
tinh nghề chiến-đấu.
Bởi tính-chất và binh-pháp của người
Mông-cổ như thế, cho nên Thiết-mộc-chân (Témoudjine) tức là Thành-cát-tư-hãn
(Gengis khan), miêu- hiệu là Nguyên-thái-tổ, mới chiếm giữ được cả vùng
Trung-Á, cùng đất Ba- tư, sang đến phía đông-bắc Âu-la-ba. Sau quân Mông-cổ lại
lấy được nước Tây-hạ, phía tây nước bắc Tàu, dứt được nước Kim và tràn sang đến
nước Triều-tiên (Cao-ly).
Thành-cát-tư-hãn mất, người con thứ
ba là A-loa-đài (Agotai) lên làm vua tức là Nguyên-thái-tông. A-loa-đài truyền
cho con là Quí-do (Gouyouk) tức là Nguyên Định-tông. Quí-do làm vua được non ba
năm thì mất, ngôi vua Mông-cổ về chi khác. Người em con nhà chú là Mông-kha
(Mong-ké) lên làm vua, tức là Nguyên Hiến-tông.
Mông-kha sai hai em là Hạt-lỗ
(Houlagen) sang kinh-lý việc nước Ba- tư, và Hốt-tất-liệt (Koubilai) sang đánh
nhà Tống bên Tàu. Trong khi quân Mông-cổ sang đánh nhà Tống, thì Mông-kha mất,
Hốt-tất-liệt phải rút binh về lên ngôi vua, tức là Nguyên Thế-tổ. Hốt-tất-liệt
lên làm vua rồi đổi quốc hiệu là Nguyên.
Hốt-tất-liệt lại sang đánh nhà Tống.
Từ đó cả nước Tàu thuộc về Mông-cổ cai-trị.
Khi Mông-kha hãy còn, Hốt-tất-liệt
đem quân sang đánh nhà Tống, có sai một đạo quân đi đánh nước Đại-lý (thuộc
tỉnh Vân-nam bây giờ) tướng Mông-cổ là Ngột-lương-hợp-thai (Wouleangotai) sai
sứ sang bảo vua Trần-thái-tông về thần-phục Mông-cổ.
Thái-tông không những là không chịu,
lại bắt giam sứ Mông-cổ, rồi sai Trần quốc Tuấn đem binh lên giữ ở phía Bắc.
Bấy giờ là năm đinh-tị (1257).
Trần quốc Tuấn ít quân đánh không
nổi, lùi về đóng ở Sơn-tây. Quân Mông-cổ kéo tràn xuống đến sông Thao.
Thái-tông phải ngự-giá thân chinh, nhưng đánh không được, chạy về đóng ở sông
Hồng-hà 37 . Quân Mông-cổ tiến lên đánh đuổi quân nhà Trần đến Đông-bộ-đầu
(phía đông sông Nhị-hà ở hạt huyện Thượng-phúc). Thái-tông phảI bỏ kinh-đô,
chạy về đóng ở sông Thiên-mạc (về hạt huyện Đông-an, tỉnh Hưng-yên).
Quân Mông-cổ vào thành Thăng-long,
thấy ba người xứ Mông-cổ còn phải trói, giam ở trong ngục, đến khi cởi trói ra
thì một người chết. Ngột-lương-hợp-thai thấy thế tức giận quá, cho quân ra giết
phá cả nam phụ lão ấu ở trong thành.
Bấy giờ thế nguy, Thái-tông ngự
thuyền đến hỏi Thái-úy là Trần nhật Hiệu. Nhật Hiệu không nói gì cả, cầm sào
viết xuống nước hai chữ "Nhập Tống". Thái-tông lại đến hỏi Thái-sư
Trần thủ Độ. Thủ Độ nói rằng: " Đầu tôi chưa rơi xuống đất, thì xin Bệ-hạ
đừng lo! ". Thái-tông nghe thấy Thủ Độ nói cứng-cỏi như thế, trong bụng
mới yên.
37
Sử ta chép là sông Phú Lương.
Được ít lâu quân Mông-cổ ở nước Nam
không quen thủy-thổ xem ra bộ mỏi-mệt. Thái-tông mới tiến binh lên đánh ở
Đông-bộ-đầu. Quân Mông- cổ thua chạy về đến trại Qui-hóa, lại bi chủ trại đấy
chiêu-tập thổ dân ra đón đánh. Quân Mông-cổ thua to, rút về Vân-nam, đi đường
mỏi-mệt, đến đâu cũng không cướp-phá gì cả, cho nên người ta gọi là giặc Phật.
Quân Mông-cổ tuy thua phải rút về,
nhưng chẳng bao lâu vua Mông- cổ dứt được nhà Tống, lấy được nước Tàu, rồi có ý
muốn bắt vua nước Nam ta sang chầu ở Bắc-kinh, bởi vậy lại sai sứ sang đòi lệ
cống. Vua Thái-tông sai Lê phụ Trần sang sứ xin cứ ba năm sang cống một lần.
Mùa xuân năm mậu-ngọ (1258),
Thái-tông nhường ngôi cho Thái-tử là Trần Hoảng, để dạy-bảo mọi việc về cách
trị nước, và đề phòng ngày sau anh em không tranh nhau. Triều-đình tôn
Thái-tông lên làm Thái-thượng- hoàng để cùng coi việc nước. Thái-tông trị-vì
được 33 năm, làm Thái- thượng-hoàng được 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.
II. TRẦN THÁNH-TÔNG (1258-1278)
Niên-hiệu: Thiệu-long (1258-1272) Bảo-phù (1273-1278)
1. Việc Chính Trị.
Thái-tử Hoảng lên ngôi, tức là vua
Thánh-tông, đổi niên-hiệu là Thiệu-long.
Thánh-tông là ông vua nhân-từ
trung-hậu ở với anh em họ hàng rất là tử-tế. Thường hay nói rằng: "
Thiên-hạ là của ông cha để lại, nên để cho anh em cùng hưởng phú-quí chung
". Rồi cho các hoàng-thân vào nội điện, cùng ăn một mâm, nằm một giường,
thật là thân-ái, chỉ có lúc nào ra việc công, hoặc buổi chầu, thì mới phân
thứ-tự theo lễ-phép mà thôi.
Còn việc nước thì thật ngài có lòng
lo giữ cho dân được yên trị. Trong 21 năm, ngài làm vua không có giặc-giã gì
cả. Việc học-hành cũng mở mang thêm: cho Hoàng-đệ Trần ích Tắc là một người hay
chữ trong nước lúc ấy, mở học-đường để những người văn-sĩ học-tập. Danh nho Mạc
đỉnh Chi cũng học ở trường ấy ra.
Đời bấy giờ Lê văn Hưu làm xong bộ
Đại-Việt sử thành 30 quyển, chép từ Triệu Võ-vương đến Lý Chiêu-hoàng. Bộ sử
này khởi đầu làm từ Trần Thái-tông đến năm nhâm-thân (1272) đời Thánh-tông mới
xong. Nước Nam ta có quốc-sử khởi đầu từ đấy.
Thánh-tông lại bắt các vương-hầu,
phò-mã phải chiêu-tập những người nghèo-đói lưu-lạc để khai-khẩn hoang điền làm
trang hộ. Trang-điền có từ đấy.
2. Sự giao-thiệp với Mông-Cổ.
Nước tuy được yên, song việc
giao-thiệp với Tàu một ngày một khó thêm. Đời bấy giờ Mông-cổ đã đánh được nhà
Tống rồi, chỉ chực lấy nước An-nam, nhưng vì trước tướng Mông- cổ đã đánh thua
một trận, vả trong nước Tàu vẫn chưa được yên, cho nên vua Mông-cổ muốn dụng kế
dụ vua An-nam sang hàng-phục, để khỏi dùng can-qua. Vậy cứ vài năm lại cho sứ
sang sách-nhiễu điều nọ điều kia, và dụ vua An-nam sang chầu, nhưng vua ta cứ
nay lần mai lữa, không chịu đi. Sau nhân dịp Thái-tông nhừờng ngôi cho
Thánh-tông, vua Mông-cổ sai sứ sang phong vương cho Thánh-tông, và tuy không
bắt nước Nam phải đổi phục-sắc và chính-trị, nhưng định cho ba năm phải một lần
cống. Mà lệ cống thì phải cho nho-sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán-số và
thợ-thuyền mổi hạng ba người, cùng với các sản-vật như là sừng tê, ngà voi,
đồi-mồi, châu-báu và các vật lạ. Vua Mông-cổ lại đặt quan Đạt-lỗ-hoa-xích
(tiếng Mông-cổ tức là quan Chưởng-ấn), để đi lại giám-trị các châu-quận nước
Nam.
Ý Mông-cổ muốn biết nhân-vật tài-sản
nước Nam ta có những gì, và học-vấn xảo-kỹ ra sao, để liệu đường mà đánh lấy
cho tiện. Và tuy rằng quyền chính-trị vẫn để cho vua nước Nam, nhưng đặt quan
giám-trị để dần dần lập thành Bảo-hộ.
Thánh-tông bề ngoài tuy vẫn chịu
thần-phục, nhưng trong bụng cũng biết rằng Mông-cổ có ý đánh lấy nước mình, cho
nên cứ tu binh dụng võ để phòng có ngày tranh chiến. Vậy tuyển đinh-tráng các
lộ làm lính, phân quân-ngũ ra làm quân và đô: mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80
người, bắt phải luyện tập luôn.
Năm bính-dần (1266) nhân sứ Mông-cổ
sang, Thánh-tông sai quan sang Tàu đáp lễ và xin đừng bắt nho-sĩ, thầy bói, và
các thợ-thuyền sang cống. Vua Mông-cổ ưng cho, nhưng bắt chịu 6 điều khác:
1. Vua phải thân vào chầu
2. Vua phải cho con hay là em sang
làm tin
3. Biên sổ dân sang nộp
4. Phải chịu việc binh-dịch
5. Phải nộp thuế-má
Vua An-nam cứ lần-lữa không chịu.
Đến năm tân-mùi (1271) vua Mông-cổ là Hốt-tất-liệt cải quốc-hiệu là Đại-nguyên,
rồi cho sứ sang dụ Thánh-tông sang chầu nhưng Thánh-tông cáo bệnh không đi.
Năm sau Nguyên-chủ cho sứ sang tìm
cột đồng-trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng Thánh-tông sai quan sang nói
rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa. Việc ấy cũng thôi.
Đến năm ất-hợi (1275) Thánh-tông sai
sứ sang Tàu nói rằng: nước Nam không phải là nước Mường-mán mà đặt quan
giám-trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn-tiến-sứ. Vua nhà Nguyên
không cho, lại bắt theo 6 điều đã định trước. Thánh-tông cũng không chịu. Tự
đấy vua nhà Nguyên thấy dụng-mưu không được, quyết ý cử binh sang đánh nước
Nam, sai quan ở biên-giới do thám địa-thế nước ta. Bên An-nam cũng đặt quan
phòng-bị.
Năm đinh-sửu (1277)
Thái-thượng-hoàng mất ở Thiên-trường-phủ (tức là làng Tức-mạc). Năm sau (1278),
Thánh-tông nhường ngôi cho Thái- tử Khâm, rồi về ở Thiên-trường làm
Thái-thượng-hoàng.
Thánh-tông trị vì được 21 năm, làm
Thái-thượng-hoàng được 13 năm, thọ 51 tuổi.
III. TRẦN NHÂN-TÔNG (1279-1293)
Niên-hiệu: Thiệu-bảo (1279-1284) Trùng-hưng (1285-1293)
1. Việc Chính Trị.
Thái-tử Trần Khâm lên làm vua, tức
là vua Nhân-tông.
Lúc bấy giờ sứ nhà Nguyên đi lại hạch
điều này, trách điều nọ, triều- đình cũng có lắm việc bối-rối. Nhưng nhờ có
Thánh-tông thượng-hoàng còn coi mọi việc và các quan triều-đình nhiều người có
tài-trí, vua Nhân-tông lại là ông vua thông-minh, quả-quyết, mà người trong
nước thì từ vua quan cho chí dân-sự đều một lòng cả, cho nên từ năm giáp-thân
(!284) đến năm mậu- tí (1288) hai lần quân Mông-cổ sang đánh rồi không làm gì
được.
Trừ việc chiến-tranh với quân
Mông-cổ ra, để sau sẽ nói, trong đời vua Nhân-tông lại còn giặc Lào, thường hay
sang quấy-nhiễu ở chỗ biên- thùy, bởi vậy năm canh-dần (1290) vua Nhân-tông lại
phải ngự giá đi đánh Lào.
2. Việc Văn Học . Đời vua Nhân-tông
có nhiều giặc-giã, tuy vậy việc văn-học cũng hưng-thịnh lắm. Xem bài hịch của
Hưng-đạo-vương, thơ của ông Trần quan Khải và của ông Phạm ngũ Lão thì biết là
văn-chương đời bấy giờ có khí-lực mạnh-mẽ lắm. Lại có quan Hình-bộ Thượng-thư
là ông Nguyễn Thuyên khởi đầu dùng chữ Nôm mà làm thơ-phú. Ông Nguyễn Thuyên là
người Thanh-lâm 38 , tỉnh Hải-dương, có tiếng tài làm văn như ông Hàn Dũ bên
Tàu ngày xưa, bởi vậy vua cho đổi họ là Hàn. Về sau người mình theo lối ấy mà
làm thơ, gọi là Hàn-luật.
Năm quí-tị (1293) Nhân-tông truyền
ngôi cho Thái-tử tên là Thuyên, rồi về Thiên-trường làm Thái-thượng-hoàng.
Nhân-tông trị-vì được 14 năm, nhường ngôi được 13 năm, thọ 51 tuổi.
38
Làng Lai Hạ, huyện Thanh Lâm, phủ
Nam Sách, nay thuộc huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh.
CHƯƠNG VII GIẶC NHÀ NGUYÊN I
(1284-1288)
1. Sài Thung sang sứ An-nam 2. Trần
di Ái theo nhà Nguyên 3. Thoát Hoan sang đánh lần thứ nhất 4. Trần
Hưng-đạo-vương quân thua về vạn-kiếp 5. Thành Thăng-long thất-thủ 6. Toa Đô
đánh Nghệ-an 7. Hưng-đạo-vương đem vua về Thanh-hóa 8. Trận Hàm-tử-quan: Trần
nhật Duật phá quân Toa Đô 9. Trận Chương-dương-Độ: Trần quang Khải khôi-phục Thăng-long
10. Trận Tây-kết: tướng nhà Trần chém Toa-Đô 11. Trận Vạn-kiếp: Thoát Hoan trốn
chạy về Tàu
1. Sài Thung Sang Sứ An Nam . Nhà
Nguyên nghe tin Trần Thái-tông mới mất và Thánh-tông nhượng-vị, liền sai Lễ-bộ
thượng-thư là Sài Thung sang sứ, đi tự Giang-lăng (Hồ-bắc), qua Ung-châu
(Quảng-tây) rồi sang nước Nam, chứ không đi qua tỉnh Vân-nam như các sứ-thần
trước.
Sài Thung đến kinh-thành, lên mặt
kiêu-ngạo,cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương-minh, rồi cho người đưa thư vào
trách Nhân-tông rằng: "Sao không xin phép triều-đình nhà Nguyên, mà dám
tự-lập, vậy phải sang chầu Thiên-triều Hoàng-đế mới xong". Nhân-tông sai
quan đại-thần ra tiếp. Thung không thèm đáp lễ; vua bày yến mời, Thung không
thèm đến. Đình- thần An-nam ai cũng lấy làm tức giận nhưng không dám nói ra.
Sau vua phải dọn yến ở điện
Tập-hiền, mời mãi Sài Thung mới đến. Đương khi uống rượu, Nhân-tông bảo Sài
Thung rằng: "Quả-nhân xưa nay sinh-trưởng ở trong cung không quen
phong-thổ, không thể nào đi được".
Được mấy hôm Sài Thung về nước.
Nhân-tông sai sứ mang thư sang Tàu nói không thể sang chầu được. Nguyên-triều
thấy vua An-nam không chịu sang chầu, và cứ đưa thư sang nói thoái-thác ra việc
nọ việc kia, ý muốn cầm quân sang đánh, nhưng còn chưa quyết.
2. Trần Di Ái Theo Nhà Nguyên.
Năm nhâm-ngọ (1282) Nguyên-chủ lại
cho sứ sang dụ rằng: "Nếu vua nước Nam không sang chầu được thì phải đưa
vàng ngọc sang thay, và phải nộp hiền-sĩ, thầy âm-dương bói-toán, thợ khéo mỗi
hạng 2 người ".
Nhân-tông sai người chú họ là Trần
di Ái và Lê Tuân, Lê Mục sang thay cho mình. Nhưng Nguyên-chủ không bằng lòng,
quyết ý chiếm giữ quyền cai-trị nước Nam, bèn xuống chỉ lập tòa Tuyên-phủ-ti,
đặt quan liêu- thuộc để sang giám-trị các châu huyện. Quan nhà Nguyên sang đến
nơi, Nhân-tông không nhận, đuổi về Tàu.
Nguyên-chủ thấy vậy giận lắm, bèn
lập Trần di Ái làm An-nam quốc- vương, phong cho Lê Mục làm Hàn-lâm học-sĩ, Lê
Tuân làm Thượng-thư- lệnh, và sai Sài Thung dẫn 1.000 quân đưa bọn ấy về nước.
Trần di Ái thấy Nguyên-chủ phong cho
cũng nhận, đưa về cũng về; chắc trong bụng đồ là chuyến này nhờ sức Mông-cổ,
may việc xong, thì được làm vua, nhược bằng không xong, thì đổ cho là
Nguyên-chủ bắt-ép; vì thế mới theo Sài Thung về.
Sài Thung đưa bọn Trần di Ái đến gần
ải Nam-quan, có tin phi-báo về Kinh-đô. Nhân-tông liền sai tướng dẫn một đội
quân lên đón đường đánh lũ nghịch-thần. Sài Thung bị tên bắn mù mất một mắt,
trốn chạy về Tàu, còn lũ Trần di Ái bị bắt, phải tội đồ làm lính.
3. Thoát Hoan Sang Đánh Lần Thứ
Nhất.
Nguyên-chủ thấy Sài Thung bị thương
chạy về tức giận lắm, bèn sai con là Thoát Hoan làm Trấn-nam-vương, cùng với
bọn Toa-Đô, Ô mã Nhi dẫn 50 vạn quân, giả tiếng mượn đường đi qua nước Nam sang
đánh Chiêm-thành.
Quan trấn-thủ Lạng-sơn do-thám được
tin ấy, sai người về Kinh-đô phi báo. Nhân-tông ngự thuyền ra sông Bình-than 39
chỗ sông Đuống nối với sông
Thái-bình, để hội các vương-hầu bách quan lại bàn kế chống giữ.
Các quan, người thì nói nên để cho
quân Nguyên mượn đường, người thì bảo nên đưa đồ sang cống để xin hoãn binh.
Duy có Trần quốc Tuấn và Trần khánh Dư quyết xin đem quân đi phòng-giữ các nơi
hiểm-yếu,
39
Làng Bình Than, tổng Vạn Ti, huyện
Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. không cho quân Mông-cổ sang nước Nam. Nhân-tông ưng
nghe lời ấy. Đến tháng mười năm quí-mùi (1283) phong cho Hưng-đạo-vương là
Trần-quốc- Tuấn làm Tiết-chế thống-lĩnh mọi quân đi chống giữ với quân nhà
Nguyên.
Qua tháng tám năm giáp-thân (1284)
ông Trần quốc Tuấn truyền hịch cho các vương-hầu hội hết quân-sĩ tại bến
Đông-bộ-đầu để điểm-duyệt. Quân thủy và quân bộ hết cả thảy 20 vạn.
Ông Trần quốc Tuấn truyền cho các
tướng-sĩ rằng: "Bản-chức phụng-mệnh thống đốc quân-sĩ ra phá giặc. Các
vương-hầu và các tướng-sĩ, ai nấy phải cần giữ phép-tắc, đi đâu không được
nhiễu dân và phải đồng lòng hết sức đánh giặc, chớ thấy thua mà ngã lòng, chớ
thấy được mà tự kiêu, việc quân có luật, phép nước không thân, các ngươi phải
giữ ". Xong rồi sai Trần bình Trọng đem quân đi đóng đồn ở trên sông
Bình-than, Trần khánh Dư đem quân ra giữ mặt Vân-đồn (thuộc Vân-hải ở
Quảng-yên), còn các tướng thì chia ra đóng các nơi hiểm-yếu. Trần quốc Tuấn tự
dẫn đại quân đóng ở Vạn-kiếp (tức là làng Kiếp-bạc thuộc Hải-dương) để tiếp-ứng
cho các nơi.
Được ít lâu, Nhân-tông nghe tin về
báo rằng nhà Nguyên hội tại Hồ- quảng sắp sửa kéo sang mặt Lạng-sơn. Vua có ý
lo quân ta không địch nổi, bèn sai sứ mang đồ lể sang Tàu, xin vua nhà Nguyên
hoãn binh, để thương- nghị lại.
Vua nhà Nguyên không nghe, sai Thoát
Hoan cứ việc tiến binh sang. Nhân-tông thấy vậy, lập tức cho triệu các bô-lão
dân-gian hội tại điện Diên- hồng để bàn xem nên hòa hay nên đánh. Các bô-lão
đều đồng thanh xin đánh. Vua thấy dân-gian một lòng như vậy, cũng quyết ý kháng
cự.
Quân Nguyên chia ra làm hai đạo: một
đạo do tướng Mông-cổ là Toa Đô đem 10 vạn quân từ Quảng-châu đi hải-đạo sang
đánh Chiêm-thành; còn Thoát Hoan thì kéo đại binh đến ải-quan, sai người đưa
thư sang nói cho mượn đường đi đánh Chiêm-thành.
Nhân-tông tiếp được thư của Thoát
Hoan, trả lời lại rằng: "Tự bản- quốc sang Chiêm-thành, thủy lục không có
đường nào tiện ". Sứ-giã về nói với Thoát Hoan, Thoát Hoan nổi giận, thúc
quân kéo sang mạn Lạng-sơn, rồi sang quan Bả-tổng tên là A Lý đến dụ rằng:
"Bản-súy chỉ nhờ đường Nam- quốc sang đánh Chiêm-thành, chứ không có bụng
gì đâu mà ngại. Nên mở cửa ải cho quân bản-súy đi, và đi dến đâu, nhờ giúp ít
nhiều lương-thảo, rồi khi nào phá xong Chiêm-thành thì sẽ có trọng ta về sau.
Nhược bằng kháng-cự thiên binh, thì bản-súy sẽ không dong tình, phá tan bờ-cõi,
bấy giờ dù hối lại cũng không kịp ".
Hưng-đạo-vương Trần quốc Tuấn nổi
giận, đuổi A Lý về, rồi phân binh giữ ải Khả-li và Lộc-châu (thuộc Lạng-sơn)
còn mình thì tự dẫn quân đi đóng giữ núi Kì-cấp. Những chiến thuyền thì đóng ở
Bái-tân 40
giữ mặt thủy.
4. Trần Hưng Đạo Vương Quân Thua Về
Vạn Kiếp.
Thoát Hoan thấy Hưng-đạo-vương giữ
cả các nơi, liền tiến binh lên đánh núi Kì-cấp, ải Khả-li và ải Lộc-châu. Quân
hai bên đánh nhau ở núi Kì-cấp hai ba trận không phân thắng bại. Nhưng sau vì
Khả-li và Lộc-châu thất thủ, quân An-nam phải rút về ải Chi-lăng 41 . Thoát
Hoan dẫn đại binh đến đánh Chi- lăng, Hưng-đạo-vương kém thế, thua chạy ra bến
Bái-tân, xuống thuyền cùng với bọn gia-tướng, là Dã Tượng và Yết Kiêu về
Vạn-kiếp. Các tướng thu nhặt tàn quân dần dần cũng kéo về đấy cả.
Nhân-tông nghe Hưng-đạo-vương thua
chạy về Vạn-kiếp, liền ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải-đông (tức là
Hải-dương) rồi cho vời Hưng- đạo-vương đến bàn việc, nhân thấy quân mình thua,
trong bụng lo sợ, mới bảo Hưng-đạo-vương rằng: "Thế giặc to như vậy, mà
chống với nó thì dân- sự tàn-hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn
dân".
Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Bệ-hạ
nói câu ấy thì thật là lời nhân- đức, nhưng mà Tôn-miếu Xã-tắc thì sao? Nếu
bệ-hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng!". Vua
nghe lời nói trung-liệt như vậy, trong bụng mới yên.
Hưng-đạo-vương chiêu-tập quân các
đạo, hội tại Vạn-kiếp được hơn 20 vạn quân, thế lại nổi to. Bấy giờ
Hưng-đạo-vương có soạn ra một quyển Bình-thư yếu-lược
rồi truyền hịch khuyên-răn các
tướng-sĩ. Tờ hịch ấy làm bằng Hán-văn, nay dịch ra quốc âm như sau này:
"Ta thường nghe chuyện: Kỷ Tín
liều thân chịu chết thay cho vua Cao-đế; Do Vu lấy mình đỡ ngọn giáo cho vua
Chiêu-vương; Dư Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu
nạn cho nước; Kính Đức là một chức quan còn nhỏ, mà liều thân cứu vua Thái-tông
được thoát vòng vây; Kiểu Khanh là một bề tôi ở xa, mà kể tội mắng thằng Lộc
Sơn là quân nghịch-tặc. Các bậc trung-thần nghĩa-sĩ ngày xưa, bỏ mình vì nước,
đời nào không có? Giả-sử mấy người ấy cũng cứ bo bo theo lối thường tình, chết
già ở xo nhà thì sao cho lưu danh sử-sách đến nghìn muôn đời như thế được? Nay
các ngươi vốn dòng vũ-tướng, không hiểu văn-nghĩa, nghe những chuyện cổ-tích
ấy, nửa tin nửa ngờ, ta không nói làm gì nửa; ta hãy đem chuyện đời Tống,
Nguyên mới rồi mà nói: Vương công Kiên là người thế nào? Tỳ-tướng của Vương
công Kiên là Nguyễn văn Lập lại là người thế nào, mà giữ một thành Điếu-ngư 42
nhỏ mọn, chống với quân Mông-kha 43
kể hàng trăm vạn, khiến cho dân sự
nhà Tống, đến nay còn đội ơn sâu. Đường ngột Ngại là người như thế nào?
Tỳ-tướng của Đường ngột Ngại là Xích tu Tư lại là người thế nào, mà xông vào
chỗ lam-chướng xa xôi, đánh được quân Nam-chiếu trong vài ba tuần, khiến cho
quân-trướng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt. Huống chi ta cùng các ngươi
sinh ở đời nhiễu- nhương, gặp phải buổi gian-nan này, trông thấy những ngụy-sứ
đi lại rầm- rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ-mắng triều-đình, đem thân
dê chó mà bắt-nạt tổ-phụ, lại cậy thế Hốt tất Liệt mà đòi ngọc-lụa, ỷ thế
Vân-nam- vương 44
để vét bạc vàng; của kho có hạn,
lòng tham không cùng, khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, giữ sao cho khỏi
tai-vạ về sau! Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt,
nước mắt đầm-đìa, chỉ căm-tức rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu
thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các
ngươi ở cùng ta coi giữ binh-quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho
áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít
thì ta tăng cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn-nạn
thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn-hạ thì cùng nhau vui cười, những cách cư-xử
so với Vương công Kiên, Đường ngột Ngại ngày xưa cũng chẳng kém gì. Nay các
ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc-sĩ mà không biết
thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến
ngụy sứ, mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui- đùa, hoặc lấy việc
đánh bạc làm tiêu-khiển, hoặc vui thú về vườn ruộng, hoặc quyến-luyến về vợ
con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn-bắn mà quên việc
binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà
trống sao cho đâm thủng được áo-giáp; mẹo cờ-bạc sao cho dùng nổi được quân
mưu; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ
bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền-của đâu mà mua cho được đầu giặc;
chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù; chén rượu ngon không làm được cho giặc
say chết; tiếng
42
Điếu Ngư là tên núi, thuộc phủ Trùng
Khánh, tỉnh Tứ Xuyên. 43
Mông Kha (Mungke) là vua Mông Cổ,
anh Hốt Tất Liệt. 44
Khi quân Mông Cổ lấy được đất Vân
Nam rồi, Hốt Tất Liệt phong cho con là Hố Kha Kích làm Vân Nam Vương. hát hay
không làm được cho giặc điết tai; khi bấy giờ chẳng những là thái-ấp của ta
không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng hết; chẳng những là gia- quyến ta bị
đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ,
mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mãi; mà gia thanh của các ngươi cũng
chẵng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các ngươi dẫu muốn vui-vẻ, phỏng có
được hay không? Nay ta bảo thật các ngươi: nên cẩn-thận như nơi củi lửa, nên
giữ-gìn như kẻ húp canh, dạy-bảo quân-sĩ, luyện-tập cung tên, khiến cho người
nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được
quân giặc, mà lập nên được công-danh. Chẳng những là thái-ấp ta được vững- bền,
mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng-lộc; chẳng những là gia- quyến của ta
được yên-ổn, mà các ngươi cũng đều được vui với vợ con, chẳng những là tiên-nhân
ta được vẻ-vang, mà các ngươi cũng được phụng- thờ tổ-phụ, trăm năm vinh-hiển;
chẳng những là một mình ta được sung- sướng, mà các ngươi cũng được lưu-truyền
sử-sách, nghìn đời thơm-tho; đến bấy giờ các ngươi dầu không vui-vẻ, cũng tự
khắc được vui-vẻ. Nay ta soạn hết các binh pháp của các nhà danh-gia hợp lại
làm một quyển gọi là "Binh-thư yếu-lược". Nếu các ngươi biết
chuyên-tập sách này, theo lời dạy-bảo, thì mới phải đạo thần-tử; nhược bằng
khinh bỏ sách này, trái lời dạy-bảo, thì tức là kẻ nghịch-thù. Bởi cớ saỏ Bởi
giặc Nguyên cùng ta, là kẻ thù không đội trời chung, thế mà các ngươi cứ
điềm-nhiên không nghĩ đến việc báo thù, lại không biết dạy quân-sĩ, khác nào
như quay ngọn giáo mà đi theo kẻ thù, giơ tay không mà chịu thu quân giặc,
khiến cho sau trận Bình-lỗ 45
mà ta phải chịu tiếng xấu muôn đời,
thì còn mặt-mũi nài đứng trong trời đất nữa. Vậy nên ta phải làm ra bài hịch
này để cho các ngươi biết bụng ta".
5. Thành Thăng Long Thất Thủ.
Các tướng-sĩ được lời khuyên- răn
ấy, ai nấy hết lòng luyện-tập, quyết chí đánh giặc, cho nên người nào cũng lấy
mực thích vào cánh tay hai chữ "Sát Đát " nghĩa là giết quân Mông-cổ.
Khi Thoát Hoan lấy xong các ải ở Lạng-sơn rồi, thừa thắng đánh xuống Vạn-kiếp,
quân An-nam non thế, địch không nổi thua chạy, bao nhiêu chuyến thuyền mất cả.
Quân Mông-cổ bắt được quân An-nam thấy người nào cũng có hai chử "Sát
Đát" ở cánh tay, giận lắm, đem giết sạch cả, rồi kéo tràn sang mặt
Kinh-bắc. Thoát Hoan thả quân cho cướp phá vùng Võ- ninh, Gia-lâm, Đông-ngạn
rồi kéo về đóng tại bến Đông-bộ-đầu, Hưng-đạo- vương lập trại mé ngạn để phòng
giữ.
45
Bình Lỗ là tên thành, nhưng sử cũ
không chép rõ ở đâu và ai xây lên. Sách "Khâm Định Việt Sử" chép rằng
theo bộ "Dư Địa Chí" của ông Nguyễn Trãi, thì đời nhà Lý có đào con
sông Bình Lỗ để đi lên Thái Nguyên cho tiện. Vậy thành Bình Lỗ có lẽ ở vào hạt
Thái Nguyên. Xem lời dặn của Trần Hưng Đạo Vương thì thành Bình Lỗ này xây vào
đời Đinh hay đời Tiền Lê, rồi Lý Thường Kiệt đời Lý đã đánh quân Tống ở đó.
Thoát Hoan thấy phía nam ngạn sông
Hồng-hà 46
có trại quân An- nam đóng giữ, mới
sai quân lấy súng đại-bác bắn sang, phá tan cả các trại, quân-sĩ khiếp-sợ bỏ
chạy hết sạch. Quân Mông-cổ bấy giờ làm cầu phao qua sông, kéo đến tận chân
thành Thăng-long hạ trại.
Hưng-đạo-vương rước xa-gía Thượng-hoàng
và vua ra ngoài Thăng- long, để các tướng ở lại giữ thành. Đến khi Thoát Hoan
vây đánh, hạ được thành, biết rằng Hưng-đạo-vương đã rước xa-giá xuống mặt nam
rồi, liền sai tướng dẫn quân đi đuổi đánh.
6. Toa Đô Đánh Nghệ An.
Toa Đô là tướng đạo thứ hai quân
Nguyên, đi đường bể sang đánh Chiêm-thành, nhưng mà quân nước Chiêm giữ được
các đường hiểm-yếu, đánh mãi không được. Nguyên chúa hạ chiếu sai Toa Đô theo
đường bộ kéo ra mặt Nghệ-an, hợp với quân Thoát Hoan để đánh An-nam.
Thoát Hoan được biết tin ấy, liền
sai tương Ô mã Nhi dẫn quân đi đường bể vào tiếp-ứng cho Toa Đô để đánh tự mặt
trong đánh ra, còn ở mặt ngoài thì chiến thuyền của nhà Nguyên chia ra giữ các
bến đóng ở sông Hồng-hà 47
từ Thăng-long xuống đến khúc sông
Đại-hoàng (thuộc huyện Nam-xang, Hà-nam).
7. Hưng Đạo Vương Đem Vua Về Thanh
Hóa.
Bấy giờ Hưng-đạo-vương dẫn các tương
hộ-vệ xa-giá xuống Thiên-trường, nghe Toa Đô từ vùng trong kéo ra,
Hưng-đạo-vương tâu vua xin sai Thượng-tướng Trần quang Khải đưa binh vào đóng
mặt Nghệ-an, giữ chặn đường hẽm, không cho Toa Đô ra, và sai Trần bình Trọng ở
lại giữ Thiên-trường cự nhau với quân Thoát Hoan, rồi rước xa-giá ra Hải-dương.
Trần quang Khải vào đến Nghệ-an,
chia quân phòng giữ, nhưng mà quân nhà Nguyên thế mạnh, đi đến đâu đánh tan đến
đấy, lại có Ô mã Nhi ở mặt bể đánh vào. Quang Khải đương không nổi, phải lui
quân ra mặt ngoài. Còn quan trấn-thủ Nghệ-an là Trần Kiện đem cả nhà ra hàng
với Toa Đô. Toa Đô cho đưa bọn Trần Kiện về Yên-kinh.
Hưng-đạo-vương nghe tin, sai tướng
đem quân đi lẻn đường tắt đuổi theo. Khi quân Nguyên đưa Trần Kiện đến địa-phận
Lạng-sơn, qua trại Ma-lục (?), thì có người thổ-hào ở đấy tên là Nguyễn thế Lộc
và Nguyễn Lĩnh
46
Sử chép là Phú Lương Giang. 47
Sử chép là Phú Lương Giang. đem dân
binh ra đánh. Lại có quan quân đuổi đến nơi, quân Nguyên bỏ chạy. Trần Kiện bị
tên bắn chết, nhưng có người nhà là Lê Tắc cướp được thây chạy thoát, đưa đến
gò Ôn-khâu (Lạng-sơn) mai-táng xong rồi trốn sang Tàu. Lê Tắc là dòng dõi
Nguyễn Phu làm Thứ-sử Giao-châu về đời Đông-Tấn (317-419) ngày trước. Tự lúc
trốn sang Tàu rồi, Lê Tắc có làm bộ sử "An-nam chí-lược". Bộ sử ấy
hiện bây giờ còn có ở bên Tàu và bên Nhật- bản.
ở Thiên-trường, Trần bình Trọng thấy
quân nhà Nguyên đã đến bãi Đà-mạc (ở khúc sông Thiên-mạc, huyện Đông-an,
Hưng-yên) liền đem binh ra đánh, nhưng chẳng may bi vây, phảI bắt. Quân Nguyên
đưa Bình Trọng về nộp cho Thoát Hoan. Thoát Hoan biết Bình Trọng là tướng
khỏe-mạnh, muốn khuyên-dỗ về hàng, thết-đãi cho ăn-uống, nhưng Bình Trọng không
ăn, dỗ-dành hỏi dò việc nước, Bình Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan hỏi
rằng: "Có muốn là vương đất Bắc không?" Bình Trọng quát lên rằng:
"Tà thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt
thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi-thôi!" Thoát Hoan thấy dỗ
không được, sai quân đem chém.
Thánh-tông thượng-hoàng cùng
Nhân-tông và Hưng-đạo-vương nghe tin Trần bình Trọng tử-tiết, ai nấy động lòng
thương-xót.
Hưng-đạo-vương thấy thế nguy-cấp
lắm, bèn rước xa-giá ra Quảng- yên. Thuyền đi về đường sông Tam-chỉ (thuộc châu
Tiên-yên), sai một tướng dẫn chiếc thuyền rồng ra cửa bể Ngọc-sơn (thuộc châu
Vạn-ninh, tỉnh Quảng-yên) làm cho nghi tình quân giặc. Tướng nhà Nguyên là Lý
Hằng và Khoan Triệt sai người do-thám biết thuyền ra Ngọc-sơn là giả, mới dẫn
quân đuổi theo đến sông Tam-chỉ, Hưng-đạo-vương rước xa-giá lên bộ đi đến làng
Thủy-chú rồi lại xuống thuyền ra sông Nam-triều (tức Bạch-đằng-giang, thuộc
Hải-dương) rồi vaò tỉnh Thanh-hóa. Bấy giờ quân Nguyên thế lắm, đóng khắp các
nơi, từ vùng Bắc-ninh, Thăng-long, Thiên-trường, chỗ nào cũng có quân đóng. Ở
vùng Nghệ-an lại có Toa Đô, Đường ngột Ngải, Ô mã Nhi đánh ra. Nhân-tông
kinh-hãi, Thượng-hoàng đêm ngày lo sợ. Nhà nước ngất-ngưởng nguy như trứng
chồng. Bọn Hoàng-tộc là Trần ích Tắc, Trần tú Viên đều ra hàng Thoát Hoan cả.
Chỉ có Hưng-đạo-vương phụng xa- giá đi, trèo non vượt bể, trải gió dầm mưa, thế
lực tuy cùng, nhưng vẫn bền vững một lòng, tìm kế đánh giặc, lo liệu việc nước
không rối sợ lúc nào. Thật là một người có tài đại-tướng, có thể cứu dân giúp
nước, tiếng để muôn đời.
8. Trận Hàm Tử Quan - Trần Nhật Duật
phá quân Toa Đô:
Đạo quân của Toa Đô ở Chiêm-thành
kéo ra đánh lấy đất Nghệ-an. Trần quang Khải đem quân lùi ra mặt ngoài giữ các
đường hiểm-yếu. Toa Đô đánh mãi không được, mà lương-thảo thì một ngày một cạn,
bèn cùng với Ô mã Nhi dẫn quân xuống thuyền vượt bể ra ngoài Bắc để hợp binh
với Thoát Hoan. Trần quang Khải được tin ấy, cho người về Thanh-hóa phi báo.
Nhân-tông hội quân-thần lại hỏi kế, Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Toa Đô tự
Chiêm- thành trở ra, qua vùng Ô-lý (Thuận-hóa), Hoan (Nghệ-an), Ái (Thanh-hóa),
đường sá gập-ghềnh, quân-sĩ vất-vả, nay lại vượt bể ra Bắc, thì sức-lực cũng đã
mỏi-mệt. Vậy nay nên sai một tướng nên ra đón đường mà đánh thì chắc phá
được".
Nhân-tông nghe lời, sai Chiêu-văn-vương
Trần nhật Duật làm tướng và Trần quốc Toản 48
làm phó-tướng cùng với tướng-quân là
Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đường đánh Toa Đô ở mặt Hải-dương. Tháng tư
năm ất-dậu (1285) Trần nhật Duật ra đến Hàm-tử (thuộc huyện Đông-an, Hưng-yên)
thì gặp chiến thuyền của Toa Đô, Nhật Duật liền phân binh ra đánh. Quân Nhật
Duật bấy giờ có bọn Triệu Trung là tướng nhà Tống sang xin tùng chinh, mặc áo
đeo cung như quân nhà Tống. Đến khi giáp trận, quân Nguyên trông thấy bọn Triệu
Trung, tưởng là nhà Tống đã khôi-phục được nước Tàu, rồi cho quân sang cứu
An-nam, đứa nào cũng sợ-hãi bỏ chạy. Quân ta đuổi đánh, quân giặc thua to chết
hại rất nhiều. Toa Đô phải lùi ra ở bải Thiên-trường.
Trần nhật Duật thắng trận, cho Quốc
Toản đưa tin về Thanh-hóa. Hưng-đạo-vương được tin mừng ấy, vào tâu với vua
rằng: "Quân ta mới thắng, khí-lực đang hăng, mà quân Nguyên mới thua, tất
cũng chột dạ. Vậy nên nhân dịp này mà tiến quân đánh Thoát Hoan để khôi phục
Kinh-thành".
Vua nghe lời truyền sắp sửa tiến
binh. Sực có Thượng tướng Trần quang Khải ở trong Nghệ-an ra, xin đi đánh Thoát
Hoan. Vua liền sai Quang Khải thu-xếp quân-sĩ để ra đánh Thăng-long và truyền
hịch sai Trần nhật Duật đóng quân giữ chặn đường không cho bọn Toa Đô kéo lên
hợp với Thoát Hoan.
48
Sử chép rằng khi vua Nhân Tông hội
các vương thần ở Bình Than đê/ bàn việc chống giặc, Trần Quốc Toản bấy giờ mới
có 15, 16 tuổi cũng theo ra hội. Vì còn nhỏ tuổi cho nên không được dự bàn,
Quốc Toản căm tức vô cùng, trong tay cầm quả cam bóp vỡ nát ra lúc nào không
biết. Khi tan hội, ai nấy về lo sửa soạn binh thuyền. Quốc Toản về nhà cùng tụ
họp những người thân thuộc, sắm đồ khí giới, may lá cờ đề sáu chữ: "Phá
Cường Địch Báo Hoàng Ân" Rồi đem quân đi đánh giặc. Đánh chỗ nào quân giặc
cũng phải lùi. 9. Trận Chương-Dương-Độ - Trần Quang Khải khôi phục Thăng Long:
Khi bấy giờ đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng-long, còn chiến thuyền thì
lại đóng ở bến Chương-dương, địa phận huyện Thượng-phúc.
Trần quang Khải với Trần quốc Toản
và Phạm ngũ Lảo đem quân từ Thanh-hóa đi thuyền vòng đường bể ra đến bến
Chương-dương, sấn vào đánh chiến-thuyền của quân Nguyên. Quan quân đánh hăng
quá, quân Nguyên địch không nổi phải bỏ chạy. Quan quân lên bộ đuổi đánh về đến
chân thành Thăng-long hạ trại. Thoát Hoan đem đại quân ra cự địch, bị phục binh
của Trần quang Khải đánh úp lại, quân Nguyên phải bỏ thành Thăng-long chạy qua
sông Hồng-hà 49
sang giữ mặt Kinh-bắc (Bắc-ninh).
Trần quang Khải đem quân vào thành
mở tiệc khao quân. Đến khi uống rượu vui-vẻ, Quang Khải ngâm bài thơ rằng:
Đoạt sáo Chương-dương-độ 50
Cầm hồ Hàm-tử quan
Thái-bình nghi nỗ lực
Vạn cổ thủ giang-san Dịch nôm:
Chương-dương cướp giáo-giặc
Hàm-tử bắt quân thù
Thái-bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu
Trần quang Khải sai người về
Thanh-hoá dâng biểu báo tin thắng trận. Vua Nhân-tông thấy quân thế đã mạnh,
trong hai tháng đánh được hai trận, quân-sĩ ai nấy đều nức lòng đánh giặc, bèn
rước Thượng-hoàng và cất binh-mã ra đóng ở Tràng-an (Ninh-bình).
10. Trận Tây Kết - Tướng Nhà Trần
Chép Được Toa Đô:
Toa Đô đóng quân ở Thiên-trường xa
cách Thoát Hoan hơn 200 dặm, cho nên chưa biết Thoát Hoan đã thua chạy về
Bắc-giang rồi, bèn tiến bình vào đóng ở sông Thiên-mạc 51
định để hợp sức với Thoát Hoan làm
thế ỷ- giốc. Được mấy hôm Toa Đô biết đạo tiền quân của mình đã bại trận, mà
49
Sử chép là Phú Lương. 50
Chữ Nho là: 51
Thiên Mạc là một khúc sông Hồng Hà ở
vào địa hạt huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên. các bến thì chỗ nào cũng có quân nhà
Trần án ngữ, mới lui về đóng ở Tây- kết 52
rồi cho người đi dò xem quân Thoát
Hoan đóng ở đâu.
Quân An-nam từ khi đánh được trận
Hàm-tử và trận Chương-dương rồi, quân-thế phấn chấn lắm. Hưng-đạo-vương mừng
rỡ, vào tâu với Nhân- tông xin một mặt sai Chiêu-văn-vương Trần nhật Duật, hợp
với Thượng- tướng Trần quang Khải dẫn quân chặn các đường, không cho Thoát
Hoan, Toa Đô đi lại thông tin với nhau, và một mặt xin tự tiến binh ra đánh Toa
Đô, rồi đánh Thoát Hoan.
Nhân-tông nghe lời ấy, cho
Hưng-đạo-vương tùy ý mà sai khiến. Khi quân ra đến Tây-kết, Hưng-đạo-vương chia
quân ra đánh trại quân Nguyên, và đặt phục binh để bắt Toa Đô.
Quân ta đánh hăng quá, quân Nguyên
không địch nổi, Toa Đô và Ô mã Nhi đem binh lên bộ chạy ra mặt bể, nhưng khi
chạy đến mé sau một dãy núi, thì bị quân An-nam vây đánh, Toa Đô trúng tên
chết, còn Ô mã Nhi thì tìm đường chạy vào Thanh-hóa, nhưng bị quân ta đánh đuổi
ngặt quá, phải một mình lẻn xuống chiếc thuyền con chạy ra bể, trốn về Tàu
được.
Khi các tướng thắng trận, đưa đầu
Toa Đô về nộp, Nhân-tông thấy người dũng-kiện mà lại hết lòng với chúa, mới
than rằng: "Làm bầy tôi nên như người này!" rồi cởi áo ngự-hào đắp
vào đầu Toa Đô, sai quan dùng lễ mai-táng cho tử-tế.
Trận Tây-kết đánh vào tháng năm, năm
ất-dậu (1285) quan quân bắt được quân Nguyên hơn 3 vạn người, và chiến-thuyền
khí-giới không biết bao nhiêu mà kể. Hưng-đạo-vương được trận toàn thắng, mở
tiệc khao thưởng ba quân, rồi lên đánh mặt bắc, để tiểu-trừ Thoát Hoan.
11. Trận Vạn Kiếp - Thoát Hoan Trốn
Chạy Về Tàu : Bấy giờ Thoát Hoan đóng quân ở Bắc-giang, nghe tin đồn Toa Đô tử
trận, Ô mã Nhi đã trốn về Tàu, quân-binh tướng-sĩ ai nấy đều ngã lòng cả. Vả
lại trời đang mùa hè nóng-nực khó chịu, sơn-lam chướng-khí bốc lên, quân-sĩ bị
dịch-tễ chết hại cũng nhiều. Bởi thế có bụng muốn rút quân về Tàu.
Hưng-đạo-vương cũng biết cơ Thoát
Hoan tất phải chạy, liền sai Nguyễn Khoái, Phạm ngũ Lão dẫn 3 vạn quân đi lên
đường núi, phục sẵn hai bên rừng sậy ở bên sông Vạn-kiếp, để chờ lúc quân
Nguyên chạy đến thì đổ
52
Hiện nay thuộc phủ Khoái Châu (Hưng
Yên) có làng Đông Kết ở vào trong cách xa bờ sông Hồng Hà. Hoặc ở phía tây gần
bờ sông, ngày xưa có làng Tây Kết mà nay đã lỡ mất đi chăng? ra đánh; sai hai
con là Hưng-võ-vương Nghiễn và Hưng-hiếu-vương Úy dẫn 3 vạn quân đi đường
Hải-dương ra mặt Quảng-yên, giữ chặn đường về châu Tư-minh; Hưng-đạo-vương tự
dẫn đại quân lên Bắc-giang đánh quân Nguyên. Quân Nguyên thua chạy, Thoát Hoan
dẫn đại binh chạy đến bến Vạn-kiếp, gặp bọn Nguyễn Khoái ra đánh, quân Nguyên
mười phần tổn-hại mất năm. Tướng nhà Nguyên là Lý Hằng bị tên bắn chết. Còn
Thoát Hoan, Phàn Tiếp , A bát Xích, Lý Quán cố sức đánh lấy đường mà chạy. Sau
thấy quân An-nam đuổi kíp quá, Thoát Hoan phải chui vào cái ống đồng để lên xe
bắt quân kéo chạy. Về gần đến châu Tư-ninh lại gặp bọn Hưng-võ-vương Nghiễn và
Hưng-hiếu-vương Úy đánh đuổi một trận nửa. Lý Quán trúng tên bắn chết. Thoát
Hoan, A bát Xích và Phàn Tiếp chạy thoát về Tàu được.
Thế là Đại-quân của Thoát Hoan lúc
đầu mới sang lừng-lẫy bao nhiêu, bây giờ tan nát mất cả. Trong sáu tháng trời,
từ tháng chạp năm giáp thân (1284) đến tháng sáu năm ất dậu (1285), quân An-nam
đuổi 50 vạn quân Mông-cổ ra ngoài bờ-cỏi, chỉnh-đốn giang-sơn lại như cũ. Ấy
cũng nhờ có tay Hưng-đạo-vương có tài đại-tướng, cầm quân vững-chãi, gan bền
tựa sắt, và lại khéo dùng lời khuyên-dỗ, khiến cho bụng người cảm-động, sinh
lòng trung-nghĩa, cho nên tướng-sĩ ai nấy đều hết lòng giúp nước.
Vả nước An-nam thời bấy giờ vua tôi
hòa-hợp, lòng người như một, nhân-tài lũ-lượt kéo ra; mà quân Nguyên sang
An-nam thì đường xa muôn dặm, núi sông cách trở, hùng mạnh được lúc đầu mà
thôi, sau thành ra bệnh-tật yếu-đau. Như thế mà lại gặp phải tay Hưng-đạo-vương
Trần quốc Tuấn dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế tiến thoái, cho nên sự
quân nhà Nguyên thua tan-nát là sự tất-nhiên vậy.
{40 Ở Thượng lưu sông Lục Nam, có lẽ
là bến Chữ. } {41 Cửa Chi Lăng, tục gọi là bầu Chi Lăng ở tổng Chi Lăng, gần ga
Tuần Muội, thuộc về địa hạt châu Ôn, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ấy là một nơi hiểm địa
nước Nam ta. Trần Hưng Đạo Vương sau lại phá quân Nguyên ở chỗ ấy, và đến đầu
đời Lê, vua Thái Tổ giết tướng nhà Minh là Liễu Thăng cũng ở chỗ ấy. }
CHƯƠNG VII GIẶC NHÀ NGUYÊN II
(1284-1288)
1. Nguyên-chủ định khởi binh phục
thù
2. Thoát Hoan sang đánh lần thứ hai
3. Trận Vân-đồn Trần khánh Dư cướp
lương của quân Nguyên
4. Trận Bạch-đằng-giang Ô mã Nhi
phải bắt
5. Hưng-đạo-vương đại phá Nguyên-binh
6. Sứ An-nam sang Tàu xin hòa
7.
Định công, phạt tội
8.
Định cuộc hòa-hiếu
1. Nguyên Chủ định khởi binh phục
thù . Hưng-đạo-vương Trần quốc Tuấn phá được quân Nguyên rồi thì kéo quân về
Tràng-an, rước Thượng-hoàng và Nhân-tông ra Thăng-long. Giang-sơn nhà Trần lại
khôi phục đâu vào đấy cả. Bọn Thoát Hoan bại trận về Tàu, nghĩ khi đi thì
thanh- thế lừng-lẫy bao nhiêu, khi về thì hao binh tổn tướng, lấy làm xấu hổ
lắm. Định xin Nguyên-chủ cho thêm binh-mã sang đánh báo thù. Nguyên-chủ thấy
bọn Thoát Hoan bại trận về, giận lắm, muốn bắt chém cả, nhưng quân-thần
can-ngăn mãi mới thôi.
Bấy giờ nhà Nguyên đang sắp sửa cất
quân sang đánh Nhật-bản, bèn lập tức đình việc đi đánh Nhật-bản lại và sai đóng
thêm 300 chiếc thuyền, truyền hịch cho ba tỉnh Giang-hoài, Hồ-quảng, Giang-tây
tụ tập quân-sĩ, định đến tháng tám thì cất quân noi đường châu Khâm, châu Liêm
sang đánh nước Nam để báo thù.
Quan tỉnh Hồ-nam là Tuyến Kha dâng
sớ về can rằng: "Quân ta bại trận mới về, kẻ mang dấu-vết chưa khỏi, người
đau-yếu chưa dậy, xin hãy cho quân-sĩ nghỉ-ngơi dưỡng sức ít lâu, rồi sẽ định
kế xuất chinh".
Vua nhà Nguyên nghe lời, cho quân-sĩ
nghĩ vài tháng. Còn Trần ích Tắc đã theo Thoát Hoan về Tàu, thì cho ra ở
Ngạc-châu.
Nhân-tông nghe tin Nguyên-triều sắp
sửa cất quân sang đánh An- nam, bèn vời Hưng-đạo-vương vào hỏi rằng:
"Thoát Hoan bại trận trở về, chuyến này căm-tức định sang đánh báo thù,
quân-thế hẳn to hơn trước, ta nên dùng kế gì mà chống lại được?"
Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Nước ta xưa kia, quân-dân hưởng thái-bình đã
lâu, không tập đến việc chiến-trận, cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp còn
có kẻ trốn-tránh theo hàng- giặc. May nhờ có oai-linh Tổ-tông, và thần-võ của
Bệ-hạ, đi đến đâu đánh được đến đấy, cho nên mới quét sạch được bờ-cõi. Còn như
bây giờ quân ta quen việc chinh-chiến, mà quân nghịch thì đi xa mỏi-mệt. Vả lại
thấy Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán tử trận, tất cũng chột dạ, quân-tình đã sinh
nghi-sợ, hẳn không dám hết sức mà đánh. Cứ như ý tôi, thì chuyến này dù có quân
Nguyên sang đây, ta phá cũng dễ hơn phe trước, xin bệ-hạ đừng lo".
Nhân-tông mừng rỡ, sai
Hưng-đạo-vương đốc-suất các vương-hầu, mộ thêm quân-sĩ, sử-sang khí-giới để
phòng việc công thủ.
2. Thoát Hoan Sang Đánh Lần Thứ Hai.
Sang mùa xuân tháng hai năm đinh-hợi
(1287) Nguyên-chủ kén lấy 7 vạn quân, 5 trăm chiếc thuyền, 6 nghìn quân Vân-nam
và 1 vạn 5 nghìn quân ở bốn châu ngoài bể, sai Thoát Hoan làm Đại-nguyên-súy, A
bát Xích làm Hành-tỉnh-tả-thừa, Áo lỗ Xích làm Bình-chương-chính-sự, Ô mã Nhi,
Phàn Tiếp làm Tham-tri chính-sự, đem tất cả hơn 30 vạn quân sang đánh nước Nam,
giả danh đưa Trần ích Tắc về nước, lập làm An-nam quốc-vương 53 . Lại sai
Vạn-hộ Trương văn Hổ theo đường bể tải hơn 17 54
vạn thạch lương sang cấp cho
quân-sĩ.
Qua tháng mười một, Thoát Hoan dẫn
quân noi đường Châu-khâm, châu Liêm đến châu Tư-minh; sai bọn Trương Ngọc lĩnh
2,000 quân coi việc chở lương-thực, khí-giới lại sai Trình bằng Phi, Áo lỗ
Xích, mỗi người dẫn 1 vạn quân đi đường bộ; Ô mã Nhi, Phàn Tiếp suất lĩnh
thủy-quân đi đường bể, đều tiến sang An-nam.
Quan Trấn-thủ ở biên-thùy phi báo về
Thăng-long. Các quan xin tuyển thêm binh. Hưng-đạo-vương nói rằng: "Binh
cốt giỏi, chứ không cốt
53
Có sách chép rằng: Thoát Hoan sang
đánh An Nam lần thứ hai này có đem một tên hướng đạo là Nguyễn Nhan, tên chữ là
Nguyễn Bá Linh, phạm tội trảm quyết, tình nguyện đi đánh để lập công chuộc tội.
Cha tên Nguyễn Nhan là người Quảng Đông sang buôn bán ở nước Nam, lấy vợ ở làng
An Bài, huyện Đông Triều, đẻ ra Bá Linh, cho về Tàu học, thi đỗ tiến sĩ, lại
cao tay phù thủy. Khi sang An Nam, nó dùng phép để giúp quân Nguyên. Sau Hưng
Đạo Vương bắt được, đưa về chém ở làng An Bài, là quê mẹ nó. Tục truyền rằng
khi tên Nguyễn Nhan chết rồi hồn nó bay hiện lên trêu ghẹo đàn bà con gái, mà
hễ ai phạm đến nó thì chết, cho nên gọi là Phạm Nhan. 54
Sử cũ chép là 70 vạn thạch. nhiều,
nếu nhiều mà không giỏi, thí-dụ như Bồ Kiên có trăm vạn quân cũng không
ích-gì!"
Nhân-tông sai Hưng-đạo-vương
thống-lĩnh các vương-hầu, chia quân phòng-giữ các nơi.
Hưng-đạo-vương sai Trần nhật Duật,
Nguyễn Khoái dẫn 3 vạn quân lên giữ mặt Lạng-sơn; sai Trần quốc Toản, Lê phụ
Trần dẫn 3 vạn quân và giữ mặt Nghệ-an; tự mình thống đại quân ra giữ mặt
Quảng-yên. Một mặt sai tiền-quân lên gần châu Tư-minh chia ra đóng làm ba đồn:
Sa, Từ, Trúc, để chống-giữ quân Nguyên; một mặt sai tướng đem quân ra giữ chặt
cửa sông Đại-than 55
(thuộc Hải-dương) còn đại-quân của
Hưng-đạo-vương thì đóng lại núi Phù-sơn.
Quan quân tuy đóng giữ như vậy,
nhưng quân Nguyên thế to lắm, chống không nổi, phải rút về Vạn-kiếp; Thoát Hoan
tiến lên chiếm giữ núi Phả-lại và núi Chí-linh, lập trại chống nhau với quân
ta, rồi sai tướng là Trình bằng Phi đem hai vạn lính đánh lấy đồn Vạn-kiếp, lại
sai Ô mã Nhi và A bát Xích dẫn quân từ sông Lục-đầu đánh xuống sông Hồng-hà.
Hưng-đạo-vương rút quân về giữ Thăng-long
và sai tướng rước xa- giá tạm lánh về Hám-nam (?).
Nhưng sau khi bị bọn Ô mã Nhi đuổi
ngặt quá, Thượng-hoàng và Nhân-tông phải xuống thuyền ra bể đi vào Thanh-hóa. Ô
mã Nhi đuổi không kịp, đem quân trở về qua Long-hưng (phủ Tiên-hưng, Thái-bình)
biết ở đấy có Thiên-lăng, là lăng tổ nhà Trần, bèn sai quân đến phá nát cả đi.
Thoát Hoan đem binh-mã tiến lên vây
đánh Thăng-long không được, phải rút về giữ Vạn-kiếp, Chí-linh và Phả-lại,
Hưng-đại-vương cũng tiến quân lên lập trại để chống với giặc.
Nhân-tông thấy quân Nguyên đã lùi
rồi bèn rước Thượng-hoàng ra Bắc.
3. Trận Vân Đồn - Trần khánh Dư cướp
lương của quân Nguyên . Quân Nguyên đóng mãi ở Vạn-kiếp lương-thực sắp cạn,
Thoát Hoan bèn sai Ô mã Nhi dẫn thủy-quân ra cửa bể Đại-bàng (huyện
55
Huyện Nghi Dương nay thuộc về tỉnh
Kiến An. Nghi-dương, Hải-dương) 56
đón thuyền lương của Trương văn Hổ.
Ô mã Nhi đem thuyền đi đến ải Vân-đồn (Vân-hải, Quảng-yên) gặp quân của Nhân-
huệ-vương Trần khánh Dư chặn đường không cho đi. Ô mã Nhi thúc quân đánh rát một
trận, quân Khánh Dư thua bỏ chạy cả. Quân Nguyên kéo thẳng ra bể đi đón thuyền
lương.
Thượng-hoàng nghe tin thủy-quân ở
Vân-đồn bại trận, cho sứ ra bắt Khánh Dư về hỏi tội.
Khánh Dư từ khi thất trận, đang nghĩ
kế phục binh thù, bỗng thấy sứ ra bắt, Khánh Dư tiếp sứ rồi nói rằng: "Tôi
sai tướng-lệnh đành thôi chịu tội, nhưng xin khoan cho tôi một vài hôm, may mà
tôi lập được công khác để chuộc tội chăng?"
Được mấy hôm Ô mã Nhi ra bể gặp
thuyền lương của Trương văn Hổ, lại đem quân trở vào đi trước dẹp đường. Trương
văn Hổ đem thuyền lương theo vào sau.
Khánh Dư đồ rằng Ô mã Nhi đã phá
được quân ta, trong bụng hắn chắc rằng không còn ai ngăn-trở gì nữa, cho nên
mới khinh thường đem binh thuyền đi trước. Khánh Dư bèn nhặt-nhạnh thuyền-bè
phục quân sẵn đợi thuyền lương của Trương văn Hổ đến thì kéo ra đánh.
Quả-nhiên Trương văn Hổ tải các
thuyền lương vào cửa bể Lục-thủy- dương (phía đông-nam huyện Hoành-bồ tức là
vịnh cửa Lục bây giờ). Khánh Dư đổ quân ra đánh. Văn Hổ địch không nổi, bao
nhiêu thuyền lương bị quân của Khánh Dư phá cướp mất cả, và bắt được khí giới
rất nhiều. Còn Trương văn Hổ thì chạy xuống chiếc thuyền nhỏ trốn về
Quỳnh-châu.
Khánh Dư thắng trận đưa thư về báo
tiệp. Thượng-hoàng mừng rỡ, xá tội trước không hỏi, và bảo Hưng-đạo-vương rằng:
"Quân Nguyên cốt trông cậy có lương-thảo khí-giới, nay đã bị ta cướp được
cả rồi, thì thế nó không tràng-cửu được nữa. Nhưng nó chưa biết tất còn đắc
chí, vậy ta nên tha những quân bị bắt cho về báo tin với Thoát Hoan, thì
quân-sĩ của nó tất ngã lòng, bấy giờ mới phá rất dễ".
Hưng-đạo-vương tuân lệnh, cho lũ
quân Nguyên về. Từ đấy quân của Thoát Hoan xôn-xao, có bụng muốn về Tàu, mà
lương-thực một ngày một cạn.
56
Bấy giờ thuộc huyện Gia Bình, tỉnh
Bắc Ninh, liền với Bình Than.
Ô mã Nhi từ khi ở ải Vân-đồn trở về,
chờ mãi không thấy thuyền lương đến, bèn đem quân đến phá trại An-hưng (thuộc
Quảng-yên) rồi rút về Vạn-kiếp.
4. Trận Bạch Đằng Giang - Ô mã Nhi
phải bắt.
Quân Nguyên từ khi thua trận
Vân-đồn, lương-thảo một ngàymột cạn đi, Thoát Hoan muốn cho người về Tàu cầu
viện và lấy thêm lương, Hưng-đạo-vương biết ý, sai tướng lên giữ núi Kỳ-cấp và
ải Nữ-nhi ở mặt Lạng-sơn không cho người Tàu đi lại.
Các tướng thấy vậy bèn vào bàn với
Thoát Hoan rằng: "Quân ta đóng ở đây, thành-trì đã không có, kho-tàng lại
cạn cả; và bây giờ là đang lúc hết xuân sang hạ, khí trời nồng-nực, mà lại
những chổ hiểm-yếu đều mất cả, chi bằng hãy rút quân về, rồi sau sẽ liệu kế
khác".
Thoát Hoan thấy quân thế của
Hưng-đạo-vương mạnh lắm, chưa có thể phá được, bèn nghe lời các tướng, sai Ô mã
Nhi, Phàn Tiếp dẫn thủy- quân theo đường sông Bạch-đằng 57
về trước. Còn mặt bộ thì sai Trình
bằng Phi, Trương Quân dẫn binh đi chặn hậu. Sửa-soạn định vài hôm nữa thì rút
về.
Hưng-đạo-vương biết mưu ấy, bèn sai
Nguyễn Khoái dẫn binh lẻn qua đường tắt mé sông thượng-lưu sông Bạch-đằng, kiếm
gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng khắp giửa giòng sông, rồi phục binh chờ đến lúc nào
nước thủy- triều lên thì đem binh ra khiêu-chiến, nhử cho thuyền giặc qua chỗ
đóng cọc. Hễ lúc nào nước thủy-triều xuống thì quay binh lại hết sức mà đánh.
Lại sai Phạm ngũ Lão, Nguyễn chế Nghĩa dẫn quân lên phục ở ải Nội-bàng (thuộc
Lạng-sơn) chờ quân Nguyên chạy lên đến đấy thi đổ ra mà đánh.
Các tướng đi đâu đấy cả rồi.
Hưng-đạo-vương tiến quân lên đánh giặc, sực nghe tin báo rằng Ô mã Nhi đã kéo
quân về đến Bạch-đằng, Hưng- đạo-vương mới hô quân-sĩ , trỏ sông Hóa-giang 58
mà thề rằng: "Trận này không
phá xong giặc Nguyên, thì không về đến sông này nửa!" Quân-sĩ ai nấy đều
xin quyết chiến, kéo một mạch đến sông Bạch-đằng.
Những chiến-thuyền của Ô mã Nhi,
Phàn Tiếp theo giòng sông Bạch- đằng, bỗng chốc thấy tướng nhà Trần là Nguyễn
Khoái dẫn chiến thuyền đến khiêu-chiến. Ô mã Nhi tức giận thúc quân xông vào
đánh, Nguyễn
57
Sông Bạch Đằng bây giờ thuộc huyện
Thụy Nguyên, tỉnh Kiến An. 58
Hóa Giang là một ngọn sông thuộc về
sông Thái Bình, ở giáp giới tỉnh Kiến An và tỉnh Thái Bình. Nay ở đấy dân sở
tại còn nhớ chỗ con voi của Hưng Đạo Vương qua sông Hóa sa lầy mà chết. Khoái
liền quay thuyền chạy. Bấy giờ đang lúc thủy-triều lên, mặt nước mênh-mông, Ô
mã Nhi vô tình, thấy địch quân chạy, cứ việc thúc thuyền đuổi theo. Nguyễn
Khoái nhử quân đi khỏi xa chỗ đóng cọc, rồi mới quay thuyền đánh vật lại. Hai
bên đánh đang hăng, thì đại quân của Hưng-đạo-vương tiếp đến. Ô mã Nhi, Phàn
Tiếp thấy quan quân to thế lắm, mới quay thuyền chạy trở lại. Khi chạy đến khúc
sông có cọc đóng thì nước thủy-triều đã rút xuống, thuyền của quân Nguyên vướng
mắc phải cọc, đổ nghiêng đổ ngửa, đắm vở mất nhiều. Quan quân thừa thắng đánh
cực hăng, quân Nguyên chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông. Tướng Nguyên là Ô
mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc đều bị bắt cả.
Trận Bạch-đằng-giang đánh vào tháng
ba năm mậu-tí (1288) lấy được chiến thuyền của quân Nguyên hơn 400 chiếc và bắt
được quân-sĩ rất nhiều.
5. Hưng Đạo Vương Đại Phá Nguyên
Binh.
Thoát Hoan nghe tin quân thủy vở tan
rồi, dẫn bọn Trình bằng Phi, A bát Xích, Áo lỗ Xích, Trương Quân, Trương Ngọc,
đi đường bộ chạy về đến ải Nội-bàng, bỗng gặp quân phục của Phạm ngũ Lão đổ ra
đánh. Các tướng hết sức giữ gìn Thoát Hoan, vừa đánh vừa chạy. Trương Quân dẫn
3,000 quân đi đoạn hậu cố sức đánh lấy đường chạy, bị Phạm ngũ Lão chém chết.
Thoát Hoan chạy thoát ra được cửa ải, quân-sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 6 phần.
Bọn Thoát Hoan đang đi, bỗng lại có
tin báo rằng tự cửa ải Nữ-nhi đến mãi núi Kì-cấp hơn 100 dặm, chổ nào cũng có
đồn ải. Nghe tin ấy quân-sĩ đều xôn-xao sợ-hãi, và mé sau lại nghe tiếng ầm-ầm
quan quân đuổi theo và sắp kéo đến. Thoát Hoan vội-vàng sai A bát Xích, Trương
Ngọc dẫn quân đi trước mở đường, Áo lỗ Xích đi đoạn hậu.
A bát Xích, Trương Ngọc gặp phải
quan quân chặn đường phục ở hai bên sườn núi bắn tên thuốc độc xuống như mưa.
Hai tướng đều tử trận, và quân-sĩ chết thây nằm ngổn-ngang từng đống. Còn Trình
bằng Phi hết sức giữ-gìn Thoát Hoan chạy ra Đan-kỹ, qua Lộc-châu rồi đi lẻn con
đường tắt về châu Tư-minh. Áo lỗ Xích đi sau, chạy thoát được, mới nhặt-nhạnh
tàn quân theo cả Thoát Hoan về Yên-kinh.
Hưng-đạo-vương chuyến này thực là
trừ hết quân Mông-cổ mới hội cả tướng, dẫn quân rước xa-giá Thượng-hoàng và
Nhân-tông về kinh-sư. Khi về đến Long-hưng, Nhân-tông đem bọn tướng Nguyên bị
bắt là Ô mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc vào làm lễ hiến-phù ở trước
Chiêu-lăng.
Nhân thấy giang-sơn lại được như cũ,
Thánh-tông Thượng-hoàng có làm hai câu thơ để làm kỹ-niệm:
Xã-tắc lưỡng hồi lao thạc mã,
Sơn-hà thiên cổ điện kim âu.
Dịch nôm:
Xã-tắc hai phen bọn ngựa đá,
Non sông thiên cổ vững âu vàng.
Về đến Thăng-long vua sai mở tiệc
khao thưởng tướng-sĩ, cho dân- sự mở hội vui-vẻ ba ngày, gọi là Thái-bình
diên-yến.
6. Sứ An Nam Sang Tàu Xin Hòa.
Quân nhà Nguyên sang đánh An-nam tuy
thua hai ba phen thật, nhưng thế nhà Nguyên vẫn mạnh lắm, mà nước Nam ta sánh
với nước Tàu lại là một nước nhỏ-mọn, cô-lập một mình, không nương tựa vào đâu
được; nếu cứ tranh chiến mãi thì sự thắng-bại chưa biết ra thế nào, mà muôn dân
lại phải lầm-than, khổ-sở. Vì những lẽ ấy, cho nên đến tháng mười năm mậu-tí
(1288) vua Nhân-tông sai quan là Đỗ thiên Thứ sang sứ nhà Nguyên, xin theo lệ
cống hiến như xưa.
Nguyên-chủ thấy quân mình thua mấy
lần rồi, trong bụng cũng nản, cho nên cũng thuận cho thông hòa.
Tháng hai năm kỷ-sửu (1289)
Nhân-tông sai quan đưa bọn tướng Nguyên bị bắt là Tích Lệ, Cơ Ngọc về Tàu. Còn
Phàn Tiếp vì lo mà thành bệnh chết, vua sai hỏa táng, rồi cấp người ngựa cho vợ
con đem hài-cốt về nước. Các đầu mục cũng tha cho về cả. Duy có Ô mã Nhi giết
hại nhiều người, vua căm-tức vô cùng, không muốn tha về, nhưng lại ngại đường
hòa- hiếu, bèn dùng mưu của Hưng-đạo-vương sai người đưa đi đến giửa bể, đánh
đắm thuyền, cho chết đuối, mà Nguyên-triều cũng không trách vào đâu được. Về
sau vua Dực-tông bản triều nhà Nguyễn xem đến chỗ này, có phê bốn chữ: "
bất nhân phi nghĩa". Tưởng lời phê ấy cũng là chính đáng.
7. Định công, phạt tội.
Tháng tư năm kỷ-sửu (1289) mới định
công, phạt tội. Bao nhiêu những vương hầu đi đánh giặc Nguyên có công đều được
thăng trật cả, còn các tướng-sĩ khác họ mà ai có công to thì cho quốc-tính.
Nguyễn Khoái được phong tước hầu, cho ăn lộc một làng Khoái- lộ (tức là phủ
Khoái bây giờ); Phạm ngũ Lão được thăng làm Quản Thánh- dực quân. Các chúa
Mường mà có công đem dân binh ra cự giặc cũng được phong hầu.
Vua lại sai văn-thần ghi-chép
công-trạng của các tướng hợp biên làm quyển sách gọi là Trung hưng thực lục và
lại sai thợ vẽ tranh các tướng để treo ở gác công thần.
Định công xong rồi mới xét đến tội
những người hàng giặc. Khi quân Nguyên đang cường thịch, triều thần lắm kẻ hai
lòng, có giấy-má đi lại với giặc. Sau giặc thua chạy về bắc, triều-đình bắt
được tráp biểu hàng của các quan. Đinh-thần muốn lục ra để trị tội, nhưng
Thượng-hoàng nghĩ rằng làm tội những đồ tiểu-nhân cũng vô ích, bèn sai đem đốt
cả tráp đi, cho yên lòng mọi người. Duy những người nào quả thực là hàng với
giặc, thì mới trị tội; hoặc đem cày, hoặc xử-tử. Vì thế bọn Trần Kiện, Trần văn
Lộng tuy đã chết rồi, nhưng con cháu phải tước họ tôn-thất đổi ra họ Mai. Còn
Trần ích Tắc, thì vua nghĩ tình cận-thân không nở bỏ họ, nhưng phải gọi là ả
Trần, nghĩa là bảo nhút-nhát như đàn-bà vậy.
Những quân-dân thì được thứ tội cả,
duy có hai làng Bàng-hà, Ba điểm trước hết theo giặc, cả làng phải đồ làm
binh-lính, không khi nào được làm quan.
Thưởng công, phạt tội xong rồi,
Thượng-hoàng về phủ Thiên- trường, đến tháng năm, năm canh-dần (1290) thì mất.
Nhân-tông sai sứ sang cáo tang và xin phong.
8. Định cuộc hòa-hiếu.
Tự lúc Thoát Hoan thua về, vua nhà
Nguyên đã thuận cho hòa-hiếu, nhưng trong bụng vẫn chưa nguôi giận, ý lại muốn
cất binh sang đánh báo thù. Đình-thần can, xin để cho sứ sang dụ vua An-nam
sang chầu xem đã, nếu không sang rồi hãy liệu. Nguyên-chủ nghe lời, sai
Thượng-thư Trương lập Đạo sang sứ An-nam. Nhưng vua Nhân-tông lấy cớ có tang
không đi. Sai quan là Nguyễn đại Phạp đi thay. Nguyễn đại Phạp sang Tàu nói năm
sau vua An-nam sẽ sang chầu.
Qua năm sau Nguyên-triều không thấy
vua An-nam sang, lại sai Lại- bộ thượng-thư là Lương Tằng và Lễ-bộ thượng-thư
là Trần Phu sang giục Nhân-tông sang chầu.
Nhân-tông không đi, sai sứ là Đào tử
Kỳ đưa đồ vật sang cống Tàu. Nguyên-triều thấy vua An-nam không sang định khởi
binh sang đánh, bèn bắt giam Tử Kỳ ở Giang-lăng, rồi sai Lưu quốc Kiệt và các
tướng sửa-soạn binh-lương, chọn ngày phát binh. Lại sai Trần ích Tắc đi theo,
về hội ở Tràng sa. Nhưng lúc đang sửa soạn, thì Nguyên Thế-tổ là Hốt-tất-Liệt
mất, Nguyên Thánh-tông lên ngôi, mới bãi việc binh và cho sứ An-nam là Đào tử
Kỳ về nước.
Từ đó nhà Nguyên với nước Nam thông
hòa, không có sự tranh chiến nữa.
CHƯƠNG IX Nhà Trần
Thời Kỳ Thứ Hai ( 1293 - 1341 )
I. Trần Anh Tông 1. Đức Độ Vua Anh
Tông 2. Trần Hưng Đạo Vương mất 3. Việc Đánh Ai Lao 4. Sự Giao Thiệp Với Chiêm
Thành
II. Trần Minh Tông
III. Trần Hiến Tông 1. Giặc Ngưu
Hống 2. Giặc Ai Lao
I. Trần Anh Tông (1293-1314)
Niên-hiệu: Hưng Long
1. Đức Độ Vua Anh Tông.
Thái tử Trần Thuyên lên ngôi, tức là
vua Anh Tông.
Anh Tông lúc đầu hay uống rượu và
đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có khi bị đồ vô lại phạm đến.
Một hôm uống rượu say đến nỗi Nhân
Tông Thượng Hoàng ở Thiên Trường về kinh, các quan đều ra đón rước cả, mà vua
vẫn nằm ngủ. Thượng Hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ
chiếu cho bách quan phải về đấy hội nghị. Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng
hoàng về kinh, sợ hãi quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò
tên là Đoàn Nhữ Hài, mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ
Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng Hoàng xem biểu rồi
quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn
Nhữ Hài làm ngự sử trung tán, và từ đấy không uống rượu nữa. Từ xưa đến nay vua
An Nam vẫn có tục lấy chàm vẽ rồng vào đùi, nhưng Anh Tông không muốn theo tục
này. Một hôm Thượng Hoàng bảo Anh Tông rằng: " Dòng dõi nhà mình vẫn vẽ
mình để nhớ gốc ngày xưa, nay nhà vua phải theo tục ấy mới được". Anh Tông
tuy vâng mệnh nhưng lừa khi Thượng Hoàng bận việc khác, lẩn đi không cho vẽ. Từ
đấy, vua An Nam mới không vẽ mình nữa.
Tính vua Anh Tông hay vẽ: thường có
làm một tập Thủy Vân Tùy Bút, nhưng đến lúc sắp mất đem đốt đi không cho để
lại. Sử có chép rằng khi Anh Tông đau nặng, hoàng hậu cho đi gọi thầy tăng về
để làm lễ xem sự sinh tử, Anh Tông gạt đi mà bảo rằng: " Thầy tăng đã chết
đâu mà biết được sự chết". Xem thế thì biết Anh Tông là một ông vua hiếu
thảo và lại thông minh, cho nên việc triều chính thời bấy giờ có cương kỷ lắm.
Trong triều lại có những người tài
giỏi hết lòng giúp việc nước. Văn như bọn ông Trương Hán Siêu, võ như ông Phạm
Ngũ Lão đều là người có tài trí cả.
Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng,
huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Dương 59 , trước theo Trần Hưng Đạo Vương đánh giặc
Nguyên, lập được công to. Triều đình trọng dụng cho làm đại tướng. Ngũ Lão trị
quân có kỷ luật, đãi tướng hiệu như người nhà, ở với sĩ tốt cùng chịu cam khổ,
cho nên vẫn gọi quân của ông ấy là phụ tử chi binh, đánh đâu được đấy, thành
một người danh tướng nước Nam ta.
Ông Phạm Ngũ Lão đã giỏi nghề võ,
lại hay nghề văn, thường ngâm bài thơ thuật hoài sau này:
Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu 60
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu Nam nhi
vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Thời bấy giờ vua hiền, tôi trung,
phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh, chính trị không có điều gì hồ đồ.
Việc học hành mở mang rộng rãi, cho nên những người có tài văn học như bọn ông
Mạc Đĩnh Chi, ông Nguyễn Trung Ngạn đều được thi đỗ, ra làm quan giúp việc
triều đình. Thật là một thời rất thịnh về đời nhà Trần vậy.
59
Bây giờ thuộc tỉnh Hưng Yên 60
Bài này có người dịch ra nôm như
sau: Ngọn giáo non sông trải mấy thâu Ba quân hùng hổ khí thôn ngưu Công danh
nếu để còn vương nợ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu
2. Trần Hưng Đạo Vương mất.
Trong đời vua Anh Tông có mấy người
danh tướng như là: Thượng Tướng Trần Quang Khải, thắng trận Chương Dương ngày
trước, mất năm giáp ngọ (1294), và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, mất ngày 20
tháng tám năm canh tí (1300).
Hưng Đạo Vương là một danh tướng đệ
nhất nước Nam, đánh giặc Nguyên có công to với nước, được phong làm Thái Sư,
Thượng Phụ, Thượng Quốc Công, Bình Bắc Đại Nguyên Súy, Hưng Đạo Đại Vương. Vua
lại sai người về Vạn Kiếp làm sinh từ để thờ ngài ở chỗ dinh cũ của ngày đóng
ngày trước.
Hưng Đạo Vương làm quan đến đời vua
Anh Tông thì xin về trí sĩ ở Vạn Kiếp. Khi ngài sắp mất, vua Anh Tông có ngự
giá đến thăm, nhận thấy ngài bệnh nặng, mới hỏi rằng: " Thượng phụ một mai
khuất núi, phỏng có quân bắc lại sang thì làm thế nào? "
Hưng Đạo Vương tâu rằng: " Nước
ta thuở xưa, Triệu Võ Vương dựng nghiệp, Hán Đế đem binh đến đánh, Võ Vương sai
dân đốt sạch đồng áng, không để lương thảo cho giặc chiếm được, rồi đem đại
quân sang châu Khâm, châu Liêm đánh quận Tràng Sa 61
dùng đoản binh mà đánh được, đó là
một thời. Đến đời Đinh, Lê, nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam
đang cường, vua tôi đồng lòng, bụng dân phấn chấn; mà bên Tàu đang lúc suy
nhược, cho nên ta đắp thành Bình Lỗ (thuộc Thái Nguyên) phá được quân nhà Tống,
đó là một thời. Đến đời nhà Lý, quân Tống sang xâm, Lý Đế sai Lý Thường Kiệt
đánh mặt Khâm, Liêm, dồn đến Mai Lĩnh, quân hùng, tướng dũng, đó là có thế đánh
được. Kế đến bản triều, giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi
đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia,
cũng là lòng trời giúp ta mới được thế.
Đại để, kẻ kia cậy có tràng trận, mà
ta thì cậy có đoản binh; lấy đoản chống nhau với tràng, phép dùng binh thường
vẫn phải như thế. Còn như khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm, như gió, như lửa,
thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như tằm ăn lá, thong thả mà không
ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị; thì ta nên kén dùng
tướng giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ, phải tùy cơ mà ứng biến, dùng
binh phải dồn lòng như cha con một nhà, thì mới có thể đánh được.
61
Chỗ này Hưng Đạo Vương nói lầm:
Triệu Võ Vương đóng đô ở Phiên Ngung tức là ở gần thành Quảng Châu bây giờ, mà
châu Khâm, châu Liêm thì ở giáp giới nước ta. Lẽ nào đi đánh Trường Sa ở tỉnh
Hồ Nam mà lại quay trở lại châu Khiêm, châu Liêm. Chắc hẳn người mình ngày
trước không thuộc địa đồ và có lẽ rằng Hưng Đạo Vương lúc nói chuyện đó cũng
tưởng là kinh đô của Triệu Võ Vương ở đâu bên nước ta bây giờ, cho nên mới nói
như thế chăng?
Cách ấy cốt phải tự lúc bình thì
khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn
cả."
Anh Tông chịu lời ấy rất là phải.
Được mấy hôm thì ngài mất, vua cùng
các quan ai nấy đều cảm thương lắm.
Hưng Đạo Vương thực là hết lòng với
vua, với nước, tuy rằng uy quyền lừng lẫy, mà vẫn giữ chức phận làm tôi, không
dám điều gì kiêu ngạo. Đang khi quân Nguyên quấy nhiễu, ngài cầm binh quyền,
Thánh Tông, Nhân Tông cho ngài được chuyên quyền phong tước: trừ ra tự tước hầu
trở xuống, cho ngài được phong trước rồi mới tâu sau. Thế mà ngài không dám tự
tiện phong thưởng cho ai cả; phàm những nhà giàu mà ngài có quyên tiền gạo để
cấp cho quân ăn, ngài chỉ phong cho làm giả lan tướng mà thôi, nghĩa là tướng
cho vay lương. Ngài cẩn thận như thế và ở với ai cũng thật là công chính cho
nên đến khi ngài mất, tự vua cho chí bách tính ai cũng thương tiếc. Nhân dân
nhiều nơi lập đền thờ phụng để ghi nhớ cái công đức của ngài.
3. Việc Đánh Ai Lao.
Từ khi quân nhà Nguyên thua chạy về
Tàu rồi, phía bắc được yên, nhưng ở phía tây nam có quân Ai Lao thường hay sang
quấy nhiễu ở mạn Thanh Hóa, Nghệ An. Trước vua Nhân Tông đã thân chinh đi đánh
giặc lại sang cướp phá. Sau Anh Tông sai tướng quân là Phạm Ngũ Lão đi đánh ba
bốn phen nữa. Đánh trận nào quân Lào cũng bị giết hại rất nhiều, cho nên từ đó
phía Thanh, Nghệ, mới được yên.
4. Sự Giao Thiệp Với Chiêm Thành.
Nước Chiêm Thành đối với An Nam từ
ngày nhà Trần lên làm vua, hai nước không có điều gì lôi thôi. Đến khi Nhân
Tông đi đánh Lào trở về, thì bỏ đi tu, trước ở chùa Võ Lâm ( làng Võ Lâm, phủ
Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình), sau về ở An Tử Sơn (huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng
Yên). Năm tân sửu (1301) Thượng Hoàng đi sang Chiêm Thành sang phong cảnh, có
ước gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Được ít lâu Chế Mân cho
người đưa vàng bạc và các sản vật sang cống và xin cưới. Triều thần có nhiều
người không thuận. Chế Mân lại xin dâng Châu Ô và Châu Rí để làm lễ cưới, bấy
giờ Anh Tông mới quyết ý thuận gả. Đến tháng sáu năm bính ngọ (1306) cho công
chúa về Chiêm Thành.
Sang năm sau (1307) vua Anh Tông thu
nhận hai Châu Ô và Châu Rí, đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, rồi sai quan là
Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị.
Huyền Trân Công Chúa lấy Chế Mân
chưa được một năm thì Chế Mân mất, mà theo tục Chiêm Thành, hễ khi vua đã chết,
thì các hậu phải hỏa thiêu chết theo.
Anh Tông được tin ấy, sai Trần Khắc
Chung, giả mượn tiếng vào thăm để tìm kế đưa công chúa về.
Từ khi Chế Mân mất rồi, Chế Chí lên
làm vua Chiêm Thành. Nhưng Chế Chí hay phản trắc, không giữ những điều giao ước
trước, cho nên năm tân hợi (1311), Anh Tông cùng với Huệ Võ Vương Trần Quốc
Chân, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư phân binh làm ba đạo sang đánh Chiêm Thành,
bắt được Chế Chí đem về An Nam và phong cho người em là Chế Đà A Bà làm vua
Chiêm Thành.
Chế Chí về An Nam được phong là Hiệu
Thuận Vương, nhưng chẳng được bao lâu thì mất ở huyện Gia Lâm. Vua sai đưa hỏa
táng. Từ đó về sau nước Chiêm và nước Nam thành ra có điều thù oán mãi.
Năm mậu thân (1308) Nhân Tông Thượng
Hoàng mất ở chùa Yên Tử Sơn. Năm giáp dần (1314) Anh Tông nhường ngôi cho thái
tử Mạnh, rồi về làm Thái Thượng Hoàng ở phủ Thiên Trường đến năm canh thân
(1320) thì mất.
Anh Tông trị vì được 21 năm, nhường
ngôi được 6 năm, thọ 54 tuổi.
II. Trần Minh Tông (1314-1329)
Niên-hiệu: Đại Khánh (1314 - 1323) Khai Thái (1324 - 1329)
Năm giáp dần (1314) Thái Tử Mạnh lên
ngôi làm vua, tức là vua Minh Tông.
Thời bấy giờ làm quan tại triều có
Đoàn Nhữ Hài, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn,
Chu Văn An, v.v... đều là những người có tài cán trí lự cả.
Trong nước được yên trị; giao hiếu
với nước Tàu thì tuy rằng có lôi thôi về đường phân địa giới, nhưng đại khái
vẫn được hòa hảo. Duy chỉ có nước Chiêm Thành tự khi Chế Chí chết rồi, thì
người Chiêm cứ hay sang quấy nhiễu ở phía nam, cho nên phải dùng đến can qua.
Năm mậu ngọ (1318), Minh Tông sai Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân và tướng quân
Phạm Ngũ Lão đem binh đi đánh, vua Chiêm là Chế Năng phải bỏ thành mà chạy.
Còn những việc chính trị trong nước,
thì năm ất mão (1315), lập lệ cấm người trong họ không được đi thưa kiện nhau;
năm bính thìn (1316) duyệt định văn võ quan cấp; năm quý hợi (1323) mở khoa thi
Thái Học Sinh; năm ấy lại cấm quân sĩ không được vẽ mình như trước. Nước ta bỏ
thói vẽ mình từ đấy.
Minh Tông vốn là ông vua có lòng
nhân hậu, hay thương yêu nhân dân, nhưng chỉ vì nghe nịnh thần cho nên giết oan
Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân, là người làm quan có công với nước.
Trần Quốc Chân là thân sinh ra hoàng
hậu và lại có công đi đánh Chiêm Thành thắng trận mấy lần. Nhưng vì Hoàng Hậu
chưa có hoàng tử, triều thần phân ra làm 2 đảng, một đảng thì có Văn Hiến Hầu
và Trần Khắc Chung, xin lập hoàng tử Vượng là con bà thứ, làm thái tử. Một đảng
thì có Trần Quốc Chân xin chờ cho hoàng hậu có con trai rồi sẽ lập thái tử.
Sau Văn Hiến Hầu cho tên Trần Nhạc
là đầy tớ của Trần Quốc Chân một trăm lạng vàng xúi nó vu cáo cho Quốc Chân làm
mưu phản. Minh Tông bắt Quốc Chân đem giam ở chùa Tư Phúc.
Trần Khắc Chung xin vua trừ Quốc
Chân đi, lấy lẽ rằng bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó. Minh Tông nghe lời ấy, cấm
không cho Quốc Chân ăn uống gì cả, đến đổi khát nước quá, Hoàng Hậu phải lấy áo
nhúng xuống nước rồi mặc vào vắt ra cho uống. Uống xong thì chết. Sau có người
vợ lẽ tên Trần Nhạc ghen nhau với vợ cả, đi tố cáo ra sự Trần Nhạc lấy vàng và
sự vu cáo cho Trần Quốc Chân. Bấy giờ mới rõ cái tình oan của một người trung
thần.
Minh Tông làm vua đến năm ất tị
(1329), thì nhường ngôi cho thái tử Vượng, rồi về làm Thái Thượng Hoàng.
III. Trần Hiến Tông (1329-1341)
Niên-hiệu: Khai Hữu
Thái Tử Vượng mới có 10 tuổi, lên
làm vua tức là vua Hiến Tông.
Hiến Tông chỉ làm vua lấy vì mà
thôi, quyền chính ở cả tay Minh Tông Thượng Hoàng, cho nên tuy ngài có làm vua
được non 13 năm, nhưng không được tự chủ việc gì.
1. Giặc Ngưu Hống.
Minh Tông Thượng Hoàng vừa nhường
ngôi xong, thì ở mạn Đà Giang có Mường Ngưu Hống làm loạn. Thượng Hoàng phải
thân chinh đi đánh. Người Ngưu Hống ở trại Chiêm Chiêu đưa thư đến giả xin
hàng. Nhưng khi đạo quân ở Thanh Hóa đi đến nơi, thì bị người ở trại ấy đổ ra
đánh, phải thua chạy. Thượng hoàng đem đại binh tiến lên, thanh thế lừng lẫy,
quân Ngưu Hống bỏ chạy cả vào rừng. Quân giặc tuy thua nhưng không trừ hết
được, mãi đến năm đinh sữu (1377) tướng nhà Trần là Hưng Hiếu Vương chém được
thủ đảng Ngưu Hống ở trại Trịnh Kỳ, thì giặc ấy mới yên.
2. Giặc Ai Lao.
Trong khi giặc Ngưu Hống còn đang
quấy nhiễu, giặc Ai Lao lại sang đánh phá. Năm giáp tuất (1384) Minh Tông
Thượng Hoàng lại phải thân chinh đi đánh. Sai ông Nguyễn Trung Ngạn vào Thanh
Hóa sung chức Phát Vận Sứ để vận lương đi trước, Thượng Hoàng đem đại quân vào
sau. Khi đại quân vào đến Kiềm Châu (thuộc huyện Tương Dương, Nghệ An), quân Ai
Lao nghe tiếng đều bỏ chạy cả.
Thượng Hoàng bèn sai ông Nguyễn
Trung Ngạn làm bài bia khắc trên núi để ghi công. Bài bia ấy chữ to bằng bàn
tay, khắc vào đá sâu một tấc, đến nay vẫn còn.
Văn bài bia ấy dịch ra chữ nôm như
sau này:
"Chương nghiêu Văn triết Thái
thượng hoàng là vua thứ sáu đời nhà Trần, nước Hoàng Việt chịu mệnh trời nhất
thống cõi trung hạ, trong đất ngoài bể đâu cũng thần phục. Nước Ai Lao nhỏ mọn
kia dám ngạnh vương hóa; cuối mùa thu năm ất hợi vua thân đem sáu quân đi tuần
cõi tây, Thế tử nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, nước Tiêm La và tù trưởng các
dạo mán là Quì, Cầm, Xa, Lạc, tù trưởng rợ Bồ Man mới phụ và các bộ Mán Thanh
xa đều mang phương vật tranh nhau đến đón rước. Chỉ có tên nghịch Bổng cứ giữ
mê tối, sợ phải tội chưa lại chầu ngay. Cuối mùa đông vua đóng quân ở cánh đồng
Cự, thuộc châu Mật, sai các tướng và quân rợ mọi vào tận nước, nghịch Bổng theo
gió chạy trốn. Vua mới xuống chiếu đem quân về. Lúc bấy giờ là ngày tháng chạp
nhuận năm ất hợi, niên hiệu Khai Hữu thứ 7, khắc vào đá".
Xem văn từ thì hình như việc Minh
Tông Thượng Hoàng đi đánh Ai Lao thật là hống hách lắm, nhưng cứ sự thực thì
quân ta bấy giờ chưa ra khỏi cõi, mà giặc Ai Lao thì chưa trừ được. Còn như
việc thế tử nước Chân Lạp và nước Tiêm La, v.v.... sang chầu, thì thiết tưởng
đấy là một lối làm văn của nhà làm bia nói cho trân trọng đó mà thôi, chứ chưa
chắc đã hợp với sự thực.
Năm sau quân Ai Lao lại sang cướp ở
ấp Nam Nhung (thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An). Minh Tông thượng hoàng
lại ngự giá đi đánh lần nữa. Ngài sai quan Kinh Lược Đại Sứ tỉnh Nghệ An là
Đoàn Nhữ Hài làm Đô Đốc chư quân. Đoàn Nhữ Hài khi quân lào hèn yếu, chắc đánh
là tất được. Đến khi đem quân đến ấp Nam Nhung qua sông Tiết La, chẳng may phải
hôm có sương mù, bị phục binh của Lào đổ ra đánh, quan quân thua chạy cả xuống
sông, chết đuối nhiều lắm. Đoàn Nhữ Hài cũng chết đuối.
Xét ra nước Ai Lao đã sang quấy
nhiễu đất An Nam từ đời vua Nhân Tông và vua Anh Tông. Quan quân đã phải đi
đánh nhiều lần, nhưng lần nào đánh xong thì cũng chỉ yên được độ vài ba năm,
rồi giặc lại sang đánh phá. Mà quan quân có đi đánh thì cũng đánh cho nó đừng
sang ăn cướp ở đất mình nữa mà thôi, chứ không có lúc nào định chiếm giữ đất Lào
cả. Có lẽ là tại đất Lào nhiều rừng lắm núi, phải sơn lam thủy chướng, đường sá
xa sôi, vận tải khó nhọc, cho nên quân ta không ở được lâu. Còn người Lào thì
họ thuộc đường sá, quen phong thổ, tiến thoái tùy tiện; thắng trận thì họ tiến
lên đánh, bại trận thì họ rút quân đi, mình không biết đâu mà đuổi. Bởi thế cho
nên quân ta vẫn đánh được giặc mà giặc vẫn còn, thành ra cứ phải đi đánh mãi.
Hiến Tông làm vua đến năm tân tị
(1341) thì mất, trị vì được 13 năm, thọ 23 tuổi.
CHƯƠNG X Nhà Trần - Thời Kỳ Thứ Ba (
1341 - 1400 )
I. Trần Dụ Tông 1. Việc chính trị 2.
Việc giao thiệp với nước Tàu 3. Việc giao thiệp với Chiêm Thành 4. Dương Nhật
Lễ
II. Trần Nghệ Tông
III. Trần Duệ Tông 1. Việc chính trị
2. Sự thi cử 3. Việc đánh Chiêm Thành
IV. Trần Phế Đế 1. Chiêm Thành sang
phá Thăng Long 2. Tình thế nước Nam 3. Nhà Minh sách nhiễu 4. Nghệ Tông thất
chính 5. Lê Quý Ly giết Đế Hiễn
V. Trần Thuận Tông 1. Phạm Sư Ôn
khởi loạn 2. Chế Bồng Nga tử trận 3. Lê Quý Ly chuyên quyền 4. Nghệ Tông mất
VI. Lê Quý Ly mưu sự thoán đoạt 1.
Việc tài chánh 2. Việc học hành 3. Việc cai trị 4. Lập Tây Đô 5. Sự phế lập:
Trần Thiếu Đế
I. Trần Dụ Tông (1341-1369)
Niên-hiệu: Thiệu Phong (1341 - 1357) Đại Trị ( 1358-1369)
1. Việc Chính Trị.
Hiến Tông không có con, Minh Tông
thượng hoàng lập người em tên là Hạo lên làm vua, tức là vua Dụ Tông.
Trong những năm Thiệu Phong, là mười
mấy năm đầu, tuy Dụ Tông làm vua, nhưng quyền chính trị ở Minh Tông thượng
hoàng quyết đoán cả, cho nên dẫu có phải mấy năm tai biến mất mùa đói khổ,
nhưng việc chính trị còn có thứ tự. Từ năm Đại Trị nguyên niên (1358) trở đi,
Thượng Hoàng mất rồi, bọn cựu thần như ông Trương Hán Siêu, ông Nguyễn Trung
Ngạn cũng mất cả, từ đó việc chính trị bỏ trễ nãi. Kẻ gian thần mỗi ngày một
đắc chí. Ông Chu Văn An là một nhà danh nho thời bấy giờ và đang làm quan tại
triều, thấy chính trị bại hoại, làm sớ dâng lên xin chém bảy người quyền thần.
Vua không nghe, ông ấy bỏ quan về ở núi Chí Linh.
Vua Dụ Tông về sau cứ rượu chè chơi
bời, xây cung điện, đào hồ đắp núi, rồi lại cho gọi những người nhà giàu vào
trong điện để đánh bạc. Bắt vương hầu công chúa phải đặt chuyện hát tuồng 62
và bắt các quan thi nhau uống rượu,
ai uống rượu được một trăm thăng thì thưởng cho hai trật.
Chính sự như thế, cho nên giặc cướp
nổi lên như ong dấy: ở mạn Hải Dương thì có giặc Ngô Bệ làm loạn ở núi Yên Phụ;
ở các nơi thì chỗ nào cũng có giặc nổi lên cướp phá. Dân tình khổ sở, năm nào
cũng phải đói kém. Cơ nghiệp nhà Trần bắt đầu suy từ đấy.
2. Việc Giao Thiệp Với Nước Tàu.
Bấy giờ ở bên Tàu, nhà Nguyên đã
suy, trong nước rối loạn, có bọn Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, Chu Nguyên
Chương khởi binh đánh phá.
Chu Nguyên Chương dấy binh ở đất Từ
Châu (tỉnh An Huy), chiếm giữ thành Kim Lăng, rồi trong 15 năm dứt được nhà
Nguyên dẹp yên thiên hạ, dựng nên cơ nghiệp nhà Minh.
Năm mậu thân (1368) Minh Thái Tổ sai
sứ đưa thư sang dụ nước ta, Dụ Tông sai quan Lễ Bộ Thị Lang là Đào Văn Đích
sang cống.
62
Khi quân nhà Trần đánh được quân nhà
Nguyên, có bắt được một tên hát bội là Lý Nguyên Cát, sau nó ở lại nước ta lấy
cổ truyện mà đặt thành bài tuồng, rồi dạy người mình hát. Khi con hát ra làm
trò thì mặc áo gấm, áo vóc, theo nhịp đàn nhịp trống mà hát. Sự hát tuồng của
Việt Nam bắt đầu từ đấy.
Nước Nam ta bấy giờ tuy đã suy
nhược, nhưng mà nhà Minh mới định xong thiên hạ, còn phải sửa sang việc nước,
chưa dòm đến nước mình, cho nên cũng chưa có việc gì quan trọng lắm.
3. Việc Giao Thiệp Với Chiêm Thành.
Từ khi vua nước Chiêm Thành là Chế A
Nan mất rồi, con là Chế Mộ và rể là Bồ Đề tranh nhau làm vua. Người Chiêm Thành
bỏ Chế Mộ mà theo Bồ Đề; qua năm nhâm thìn (1352) Chế Mộ chạy sang An Nam cầu
cứu.
Đến năm quý tị (1353) Dụ Tông cho
quân đưa Chế Mộ về nước, nhưng quan quân đi đến đất Cổ Lụy (thuộc Quảng Nghĩa)
thì bị quân Chiêm đánh thua, phải chạy trở về. Chế Mộ cũng buồn rầu chẳng bao
lâu thì chết.
Người Chiêm Thành từ đấy được thể cứ
sang cướp phá ở đất An Nam.
Năm đinh mùi (1367), Dụ Tông sai
Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình đi đánh Chiêm Thành. Quan quân đi đến Chiêm Động
(thuộc phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) bị phục quân của Chiêm Thành đánh bắt
mất Trần Thế Hưng, Đổ Tử Bình đem quân chạy trở về.
Người Chiêm thấy binh thế nước Nam
suy nhược, có ý khinh dễ, cho nên qua năm mậu thân (1368) vua nước Chiêm cho sứ
sang đòi đất Hóa Châu. Việc đòi Hóa Châu này thì sử chỉ chép qua đi mà thôi. Vả
bấy giờ ở nước Nam ta, vua Dụ Tông chỉ lo việc hoang chơi, không tưởng gì đến
việc Võ bị; mà ở bên Chiêm Thành thì có Chế Bồng Nga, là một ông vua anh hùng,
có ý đánh An Nam để rửa những thù trước. Vậy cho nên hết sức tập trận, luyện
binh; bắt quân lính phải chịu khó nhọc cho quen, dàn trận voi cho tiện đường
lui tới: thắng thì cho voi đi trước để xông đột, bại thì cho voi đi sau để ngăn
giữ quân nghịch. Nhờ cách xếp đặt có thứ tự, dụng binh có kỷ luật như thế, cho
nên quân Chiêm Thành từ đó mạnh lắm, sau dánh phá thành Thăng Long mấy lần, làm
cho vua tôi nhà Trần phải kính sợ mấy phen.
4. Dương Nhật Lễ (1369 - 1370).
Năm kỷ dậu (1369), vua Dụ Tông mất,
không có con. Triều đình định lập Cung Định Vương là anh Dụ Tông lên làm vua,
nhưng mà bà Hoàng Thái Hậu nhất định lập người con nuôi của Cung Túc Vương là
Dương Nhật Lễ.
Nguyên mẹ Nhật Lễ là người con hát,
lấy người hát bội tên là Dương Khương, có thai rồi mới bỏ Dương Khương mà lấy
Cung Túc Vương, sinh ra Nhật Lễ. Nay lên làm vua, Nhật Lễ muốn cải họ là Dương
để dứt ngôi nhà Trần, rồi giết bà Hoàng Thái Hậu và Cung Định Vương.
Bấy giờ Cung Tĩnh Vương ở chỗ Kinh
Sư cũng sợ bị hại, vả lại tính khí cũng nhu nhược, không có ý tranh cạnh, mới
bỏ trốn lên mạn Đà Giang. Các quan Tôn thất nhà Trần mới hội nhau đem binh về
bắt Nhật Lễ giết đi, rồi rước Cung Tĩnh Vương về làm vua. Tức là vua Nghệ Tông.
II. Trần Nghệ Tông (1370-1372)
Niên-hiệu: Thiệu Khánh
Khi Nghệ Tông giết Nhật Lễ rồi, mẹ
Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành, xin vua nước ấy là Chế Bồng Nga đem quân sang
đánh An Nam. Quân Chiêm vược bể vào cửa Đại An, kéo lên đánh Thăng Long. Quan
quân đánh không nổi. Nghệ Tông phải lánh mình chạy sang Đông Ngạn (ở Cổ Pháp
làng Đình Bảng). Quân Chiêm vào thành, đốt sạch cung điện, bắt đàn bà con gái, lấy
hết các đồ báu ngọc, rồi rút quân về.
Nghệ Tông là một ông vua nhu nhược,
việc gì cũng để cho người ngoại thích là Lê Quý Ly quyết đoán cả.
Quý Ly là dòng dõi người ở Chiết
Giang bên Tàu, tổ là Hồ Hưng Dật, từ đời Ngũ Quý sang ở nước ta, làng Bào Đột,
huyện Quỳnh Lưu. Sao ông tổ tứ đại là Hồ Liêm dời ra ở Thanh Hóa, làm con nuôi
nhà Lê Huấn, cho nên mới đổi họ là Lê. Lê Quý Ly có hai người cô lấy vua Minh
Tông. Một người sinh ra vua Nghệ Tông, một người sinh ra vua Duệ Tông. Vì thế
cho nên Nghệ Tông càng tin dùng lắm, phong cho làm Khu Mật Đại Sứ, lại gia tước
Trung Tuyên Hầu.
Năm nhâm tí (1372) Nghệ Tông truyền
ngôi cho em là Kính, rồi về ở phủ Thiên Trường làm Thái Thượng Hoàng.
III. Trần Duệ Tông (1372-1377)
Niên-hiệu: Long Khánh
1. Việc Chính Trị.
Thái Tử Kính lên ngôi, tức là vua
Duệ Tông, lập Lê Thị làm hoàng hậu (Lê Thị là em họ Quý Ly).
Duệ Tông có tính quyết đoán hơn Nghệ
Tông, nhưng mà quyền bính vẫn ở tay Nghệ Tông thượng hoàng cả.
Bấy giờ quân Chiêm Thành cứ sang
quấy nhiễu mãi, vua Duệ Tông quyết ý đi đánh báo thù, bèn hạ chiếu luyện tập
quân lính, làm chiến thuyền, và tích lương thảo để phòng việc chinh chiến, rồi
đặt thêm quân hiệu, cho Quý Ly làm Tham mưu quân sự; dổi đất Hoan Châu làm Nghệ
An, Diễn Châu làm Diễn Châu Lộ, Lâm Bình Phủ làm Tân Bình Phủ, rồi sai quan bắt
dân sửa sang đường sá tự Cửu Chân (Thanh Hóa) cho đến huyện Hà Hoa (tức là
huyện Kỳ Anh bây giờ).
2. Sự Thi Cử.
Tuy bấy giờ lo việc võ bị nhiều,
nhưng cũng không quên việc văn học; năm giáp dần (1374) mở khoa thi tiến sĩ,
lấy hơn 50 người cho áo mão vinh quy. Trước vẫn có thi thái học sinh, đến bấy
giờ mới đổi ra là thi tiến sĩ.
3. Việc Đánh Chiêm Thành.
Năm bính thìn (1376) quân Chiêm lại
sang phá ở Hóa Châu. Duệ Tông định thân chinh đi đánh. Đình thần can không
được. Sai quân dân Thanh Hóa, Nghệ An, vận tải 5 vạn thạch lương vào Hoá châu,
rồi rước Thượng Hoàng lên duyệt binh ở Bạch Hạc. Nhân năm ấy vua Chiêm Thành là
Chế Bồng Nga đem sang cống 15 mâm vàng, quân trấn thủ Hóa châu tên là Đỗ Tử
Bình lấy đi, rồi dâng sớ về nói rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, xin vua cử
binh sang đánh. Được tin ấy, Duệ Tông quyết ý đi đánh; sai Quý Ly đốc vận lương
thực đến cửa bể Di Luân (thuộc huyện Bình Chính, Quảng Bình) và tự lĩnh 12 vạn
quân, cả thủy bộ cùng tiến; đi đến cửa bể Nhật Lệ (ở làng Đồng Hới, huyện Phong
Lộc, Quảng Bình) đóng lại một tháng để luyện tập sĩ tốt.
Quan tháng giêng năm đinh tị (1377)
mới tiến quân vào cửa Thị Nại (tức là cửa Quy Nhơn) đánh lấy đồn Thạch Kiều và
động Kỳ Mang, rồi kéo quân đến đánh thành Đồ Bàn là Kinh đô Chiêm Thành 63 .
Chế Bồng Nga lập đồn giữ ở ngoài
thành, rồi cho người sang giả hàng nói Chế Bồng Nga đã bỏ thành chạy trốn rồi,
chỉ còn có thành không mà thôi, xin tiến binh sang ngay. Duệ Tông lấy điều ấy
làm thật, hạ lệnh truyền tiến binh vào thành. Đại tướng là Đỗ Lễ can mãi vua
không nghe. Khi quân gần đến thành Đồ Bàn, quả nhiên bị quân Chiêm đổ ra vây
đánh. Quan quân thua to; Duệ Tông chết ở trận, tướng sĩ quân lính chết mười
phần đến bảy tám.
Bấy giờ Đỗ Tử Bình lĩnh hậu quân
không đem binh lên cứu, Lê Quý Ly cũng bỏ chạy về. Thế mà hai người về kinh,
Nghệ Tông thượng hoàng chỉ giáng Đổ Tử Bình xuống làm lính mà thôi.
63
Thành Đồ Bàn bây giờ hãy còn di tích
ở huyện Tuy Viễn, tỉnh Khánh Hòa.
IV. Trần Phế Đế (1377-1388)
Niên-hiệu: Xương Phù
Thượng Hoàng được tin Duệ Tông chết
trận rồi, bèn lập con Duệ Tông là Hiễn lên nối ngôi, tức là vua Phế Đế.
1. Chiêm Thành Sang Phá Thăng Long.
Quân Chiêm Thành đã phá được quân An
Nam và giết được Duệ Tông rồi, qua tháng sau đem quân sang đánh Thăng Long.
Thượng hoàng nghe tin giặc đến, sai tướng ra giữ Đại An hải khẩu. Giặc biết chỗ
ấy có phòng bị, đi vào cửa Thần Phù (sông Chính Đại, thuộc huyện Yên Mô, Ninh
Bình) rồi lên cướp phá thành Thăng Long, không ai chống giữ được.
Tháng năm năm mậu ngọ (1378) quân
Chiêm Thành lại sang đánh đất Nghệ An, rồi lại vào sông Đại Hoàng lên đánh
Thăng Long lần nữa.
Quân Chiêm Thành biết nước Nam suy
nhược, cứ sang cướp phá. Năm canh thân (1380) lại sang phá ở đất Thanh Hóa,
Nghệ An. Vua sai Lê Quý Ly lĩnh thủy binh, Đỗ Tử Bình lĩnh bộ binh vào giữ ở
Ngu Giang, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa). Lê Quý Ly đánh đuổi được quân Chiêm về.
Đến năm nhâm tuất (1382) quân Chiêm lại sang đánh ở đất Thanh Hóa. Lê Quý Ly
cùng với tướng quân Nguyễn Đa Phương giữ ở bến Thần Đầu (Ninh Bình). Nguyễn Đa
Phương phá được quân Chiêm, đuổi đánh đến đất Nghệ An mới thôi.
Từ khi đánh được trận Ngu Giang và
trận Thần Đầu, quân thế An Nam đã hơi nổi, cho nên sang tháng giêng năm quý hợi
(1383). Thượng hoàng sai Quý Ly vào đến Lại Bộ Nương Loan (tức là cửa Nương
Loan bây giờ ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh) phải bão đánh nát mất nhiều thuyền, lại
phải rút quân về.
Qua tháng sáu năm ấy, Chế Bồng Nga
cùng với tướng là La Khải đem quân đi đường sơn lộ ra đóng ở Khổng Mục, đất
Quảng Oai. Ở kinh sư nghe tin giặc Chiêm lại sang, Thượng hoàng sai tướng là
Mật Ôn ra giữ ở châu Tam Kỳ ở địa hạt Quốc Oai, nhưng Mật Ôn bị quân Chiêm đánh
bắt mất. Thượng Hoàng sợ hãi, sai Nguyễn Đa Phương ở lại kinh sư làm đồn giữ
thành, rồi cùng với vua chạy sang Đông Ngạn. Bấy giờ có người níu thuyền lại
xin Thượng hoàng cứ ở lại kinh sư mà chống giữ với giặc. Thượng hoàng không
nghe.
Quân Chiêm Thành bấy giờ ra vào nước
Nam ta như đi vào chỗ không người, cho nên trong mấy năm mà vào phá kinh thành
3 lần; ba lần thượng hoàng cùng Đế Hiễn phải bỏ thành mà chạy. Thế mà đến khi
giặc về rồi, cũng không sửa sang gì để phòng bị về sau, thật là làm nhục cái
tiếng con cháu Trần Hưng Đạo Vương.
2. Tình Thế Nước Nam.
Trong nước bấy giờ dân tình đói khổ,
nhà vua thì sợ giặc phải đưa của đi chôn ở trên núi Thiên Kiện, tức là núi Kiện
Khê, huyện Thanh Liêm. Ở ngoài bờ cõi thì người Chiêm hay vào đánh chỗ này, mai
vào phá chỗ khác, nhà nước mỗi ngày một hèn yếu, đến nỗi phải nhờ đến lũ tăng
nhân là bọn Đại Nạn Thiền Sư đi đánh giặc Chiêm.
Thuế má thì càng ngày càng nặng.
Trước dân An Nam cứ phải định nghạch chịu thuế, sống không kể, chết không trừ,
ai đã làm lính, thì cả đời chỉ phải làm lính, chứ không bao giờ được làm quan.
Còn những người có điền thổ thì phải đóng tiền, ai không có gì thì thôi. Khi
nào có binh sự, thì những người có ruộng, có đồng dâu, hay là có đầm cá phải
chịu thóc, tiền và vải, để cho quân dùng. Đến nay giặc giã luôn, kho tàng trống
thốc, Đỗ Tử Bình 64
xin với vua bắt mỗi suất đinh mỗi
năm phải đóng 3 quan tiền thuế. Thuế thân sinh ra từ đấy.
3. Nhà Minh Sách Nhiễu.
Ở bên Tàu thì bấy giờ nhà Minh đã
dứt được nhà Nguyên, lại có ý dòm đất An Nam. Thường thường cho sứ đi lại sách
cái nọ, đòi cái kia; năm giáp tí (1384) Minh Thái Tổ cho sứ sang bắt An Nam
phải cấp 5000 thạch lương cho quân nhà Minh đóng ở Vân Nam. Năm sau (1385) lại
cho sứ sang đem 20 tăng nhân An Nam về Kim Lăng, rồi lại đòi phải cống cây quý,
phải nộp lương, chủ ý là xem tình thế nước Nam ra thế nào.
4. Nghệ Tông Thất Chính.
Vua Nghệ Tông tuy giữ quyền chính
trị, nhưng việc gì cũng do ở Lê Quý Ly. Triều đình thì chỉ có mặt xu nịnh,
người nào cũng chỉ lo lấy thân mà thôi, việc nước an nguy thế nào không ai lo
nghĩ đến. Những người tôn thất như Trần Nguyên Đán 65
thấy quốc chính rã rời, xin về trí
sĩ. Một hôm Thượng hoàng đến thăm bàn đến hậu sự, Nguyên Đán tâu rằng: "
Xin bệ hạ thờ nhà Minh như cha, yêu nước Chiêm Thành như con, thì quốc gia sẽ
không việc gì, mà lão thần chết cũng không hẩm !" Ấy là chỉ bàn những
chuyện làm tôi tớ mà thôi, chứ không có chí muốn cho nước mình cường thịnh. Nguyên
Đán biết rằng Quý Ly sau này tất cướp ngôi nhà Trần, bèn kết làm thông gia, vì
thế cho nên sau dòng dõi nhà Trần chết cả, duy chỉ có con cái nhà Nguyên Đán
được phú quý mà thôi.
64
Đỗ Tử Bình trước đi đánh Chiêm Thành
có tội phải đày đi làm lính. Nay không biết làm thế nào đã được phục chức. 65
Trần Nguyên Đán là cháu tằng tôn
Trần Quang Khải.
Nghệ Tông Thượng Hoàng thì cứ mờ
mịt, không biết ai trung ai nịnh, vẫn tưởng là Lê Quý Ly hết lòng với nhà vua,
bèn cho Lê Quý Ly gươm và cờ có chữ đề rằng: "Văn Võ Toàn Tài, Quân Thần
Đồng Đức". Lê Quý Ly làm thơ nôm dâng tạ.
5. Lê Quý Ly Mưu Giết Đế Hiễn.
Bấy giờ Đế Hiễn thấy Thượng hoàng
yêu dùng Quý Ly, mới bàn với các quan thấy rằng nếu không trừ đi rồi sau tất
thành ra vạ to. Quý Ly biết mưu ấy, đến kêu van với Thượng hoàng rằng: "
Cổ lai chỉ bỏ cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai bỏ con nuôi cháu bao giờ".
Thượng hoàng nghe lời, xuống chiếu trách Đế Hiễn còn tính trẻ con và lại có ý
hại kẻ công thần, làm nguy xã tắc; vậy phải giáng xuống làm Minh Đức Đại Vương,
và lập Chiêu Định Vương là con Nghệ Tông lên nối ngôi.
Khi tờ chiếu ấy bố cáo ra ngoài, có
mấy người tướng quân đã toan đưa quân vào điện cứu Đế Hiễn ra, nhưng vua viết
hai chữ "giải giáp" và không cho được trái mệnh của Thượng hoàng. Sau
Đế Hiễn bị thắt cổ chết, còn những tướng sĩ đồng mưu giết Quý Ly đều bị hại cả.
V. Trần Thuận Tông (1388-1398)
Niên-hiệu: Quang Thái
1. Phạm Sư Ôn khởi loạn.
Nghệ Tông Thượng Hoàng đã nghe Quý
Ly mà giết Đế Hiễn rồi lập người con út của mình là Chiêu Định Vương lên làm vua,
tức là vua Thuận Tông.
Bấy giờ trong triều thì Lê Quý Ly
chuyên quyền, chọn những chân tay cai quản các đội quân để làm vây cánh, ngoài
các trấn thì giặc giã nổi lên nhiều lắm. Ở Thanh Hóa có tên Nguyễn Thanh tự
xưng là Linh Đức Vương làm loạn ở Lương Giang; tên Nguyễn Kị tự xưng là Lỗ
Vương làm loạn ở Nông Cống. Ở Quốc Oai thì có người sư tên là Phạm Sư Ôn nổi
lên đem quân về đánh Kinh Sư. Thượng Hoàng, Thuận Tông và Triều đình phải bỏ
chạy lên Bắc giang. Phạm Sư Ôn lấy được Kinh sư, ở ba ngày rồi rút về Quốc Oai.
Bấy giờ có tướng quân là Hoàng Phụng Thế đóng ở Hoàng Giang 66
để phòng giữ quân Chiêm Thành, nghe
tin Sư Ôn phạm đất Kinh sư mới đem quân về đánh lẻn bắt được Sư Ôn và phá tan
giặc ấy.
66
Hoàng Giang là khúc sông Hồng Hà ở
về huyện Nam Xang, Hà Nam. 2. Chế Bồng Nga Tử Trận.
Năm kỷ tị (1389) Chế Bồng Nga lại
đem quân ra đánh Thanh Hóa. Vua sai Lê Quý Ly đem binh vào chống giữ ở làng Cổ
Vô. Quan quân đóng cọc ngăn sông ra giữ nhau với giặc hơn 20 ngày. Giặc bèn
phục binh, rồi giả tảng rút quân về. Lê Quý Ly đem quân thủy bộ đuổi đánh, bị
phục binh của giặc đổ ra đánh, giết hại mất nhiều. Quý Ly trốn chạy về kinh để
người tỳ tướng là Phạm Khả Vĩnh, và tướng quân là Nguyễn Đa Phương chống nhau
với giặc ở Ngu Giang. Bọn Nguyễn Đa Phương thấy quân mình yếu thế, giả tảng bày
cờ giàn thuyền ra rồi đến đêm rút quân về.
Qua tháng mười một, quân Chiêm lại
vào sông Hoàng gian, Thượng hoàng sai quan Đô tướng là Trần Khát Chân 67
đem binh đi chống giữ với giặc. Trần
Khát Chân khóc và lạy rồi ra đi, Thượng hoàng cũng khóc. Xem thế thì biết vua
tôi nhà Trần, bấy giờ lấy quân Chiêm thành làm khiếp sợ lắm.
Trần Khát Chân đem quân đến Hoàng
Giang xem không có chỗ nào đóng quân được tiện lợi, bèn rút về đóng ở sông Hải
Triều (ở vào địa phận Huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình và huyện Tiên Lữ, tỉnh
Hưng Yên, tức là ở sông Luộc).
Đến tháng giêng năm canh ngọ (1390)
Chế Bồng Nga đi thuyền đến xem hình thế quân của Trần Khát Chân. Bấy giờ có
thằng đầy tớ của Chế Bồng Nga có tội, sợ phải giết, chạy sang hàng với Trần
Khát Chân. Nhân khi Chế Bồng Nga đem hơn 100 chiếc thuyền đến gần trại của quân
nhà Trần đóng, tên đầy tớ ấy chỉ cái thuyền của Chế Bồng Nga cho Khát Chân.
Khát Chân mới truyền lấy súng bắn vào thuyền ấy. Chế Bồng Nga trúng phải đạn
chết.
Quan quân đổ ra đánh, quân Chiêm
thấy quốc vương chết đều bỏ chạy cả. Quan quân đánh đuổi rồi cắt lấy đầu Chế
Bồng Nga đem về dâng triều đình. Thượng Hoàng thấy đầu Chế Bồng Nga, tự ví mình
như Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ, rất là vui vẽ. Đoạn rồi định công thưởng tước
các tướng sĩ.
Tướng Chiêm Thành là La Khải đem xác
Chế Bồng Nga hỏa táng xong rồi, dem quân trở về nước, chiếm lấy ngôi vua Chiêm
Thành. Hai người con Chế Bồng Nga phải chạy sang hàng An Nam, đều được phong
tức hầu cả.
67
Trần Khát Chân là dòng dõi Trần Bình
Trọng. 3. Lê Quý Ly Chuyên Quyền.
Từ khi giặc Chiêm đã yên, Lê Quý Ly
càng ngày càng kiêu hãnh. Bao nhiêu những người mà không tòng phục mình thì xui
Thượng hoàng giết đi; hoàng tử, thân vương đều bị giết hại. Mà Thượng hoàng thì
cứ tin Quý Ly một cách lạ lùng. Sĩ phu có người dâng sớ tâu với Thượng hoàng
rằng Quý Ly có ý muốn dòm cơ nghiệp nhà Trần, thì Thượng hoàng lại đưa sớ cho
Quý Ly xem, cho nên những người trung thần không ai nói năng gì nữa.
Uy quyền của Quý Ly một ngày một to,
vây cánh một ngày một nhiều, Thượng hoàng sau tỉnh dần dần lại biết lấy làm sợ,
nhưng đã chậm lắm rồi, thế không sao được nữa; mới bắt người vẽ cái tranh tứ
phụ cho Quý Ly. Trong tranh ấy vẽ ông Chu công giúp vua Thành Vương, ông Hoắc
Quang giúp vua Chiêu Đế, ông Gia Cát Lượng giúp vua Hậu Chủ, ông Tô Hiến Thành
giúp vua Lý Cao Tông, rồi bảo Quý Ly rằng nhà ngươi giúp con trẫm cũng nên như
thế. Một hôm Thượng hoàng gọi Quý Ly vào trong điện mà bảo rằng: "Nhà
ngươi là thân tộc, cho nên bao nhiêu việc nước, trẫm đều ủy thác cho cả; nay quốc
thế suy nhược, trẫm thì già rồi; ngày sau con trẫm có nên giúp thì giúp, không
thì nhà ngươi tự làm lấy". Thượng hoàng bắt chước câu ấy của ông Lưu Bị
nói vớo ông Khổng Minh ngày trước, tưởng để mua chuộc được lòng Quý Ly.
Quý Ly cởi mũ, khấu đầu khóc lóc mà
thề rằng: "Nếu hạ thần không hết lòng, hết sức giúp nhà vua, thì trời tru
đất diệt. Vả ngày trước Linh Đức Vương (tức là Phế Đế) có lòng làm hại, nếu
không có uy linh của bệ hạ, thì nay đã ngậm cười dưới đất, còn đâu ngày nay nữa
mà mài thân nghiền cốt để báo đền vạn nhất! Vậy hạ thần đâu có ý gì khác, xin
bệ hạ tỏ lòng ấy cho và đừng lo gì ! "
VI. Lê Quý Ly Mưu Sự Thoán Đoạt
Nghệ Tông mất rồi, Quý Ly lên làm
Phụ Chính Thái Sư vào ở trong điện, dịch thiên Vô Dậu ra chữ Nôm để dạy vua và
bắt người ta gọi là Phụ Chính Cai Giáo Hoàng Đế.
Từ đấy Quý Ly cứ chuyên làm mọi việc
để chực đường thoán đoạt. Việc trong nước, Quý Ly xếp đặt lại cả, hoặc để mua
chuộc lấy những người vây cánh.
1. Việc Tài Chính.
Quý Ly đặt ra một cách làm tiền giấy
để thu tiền của dân: Tờ giấy ăn 10 đồng, thì vẽ cây rêu bể; ăn 30 đồng thì vẽ
cái sóng; ăn một tiền, thì vẽ đám mây; hai tiền thì vẽ con rùa; ba tiền thì vẽ
con lân; năm tiền thì vẽ con phượng; một quan thì vẽ con rồng. Hễ ai làm giấy
giả thì phải tội chém. Khi đã có dấu đóng rồi thì phát ra bắt dân phải tiêu,
còn bao nhiêu tiền đồng thì thu nộp nhà vua; ai mà dấu giếm thì phải tội như là
tội làm giấy giả vậy.
Việc ruộng đất thì khi trước những
nhà tôn thất cứ sai đầy tớ ra chỗ đất bồi ở ngoài bể, đắp đê để một vài năm cho
hết nước mặn, rồi khai khẩn thành ruộng, để tư trang. Nay Quý Ly lập lệ rằng
trừ những bậc đại vương, công chúa ra, thì những người thứ dân không được có
hơn 10 mẫu, ai có thừa ra thì phải đưa nộp quan, và ai có tội thì được phép lấy
ruộng mà chuộc tội.
2. Việc Học Hành.
Tư trước thì phép thi không có định
văn thể; bây giờ định lại làm tứ trường văn thể và bỏ thi ám tả; nhất trường
làm bài kinh nghĩa; nhị trường làm bài thi phú; tam trường làm chiếu, chế,
biểu; tứ trường làm bài văn sách. Còn như kỳ thi, thì năm trước thi Hương, năm
sau thi Hội, ai đã trúng Hội thì vào thi một bài văn sách nữa để định cao thấp.
Những quan làm giáo chức ở các lộ,
phủ, châu thì được cấp ruộng; như ở các lộ thì có quan đốc họ; ở phủ và châu
lớn thì các quan giáo thụ được ruộng 15 mẫu, ở phủ và châu vừa thì được 12 mẫu,
ở phủ và châu nhỏ thì được 10 mẫu.
3. Việc Cai Trị.
Ở trong triều thì Quý Ly định lại
phẩm phục của các quan; nhất phẩm mặc áo sắc tía; nhị phẩm sắc đỏ; tam phẩm sắc
hồng; tứ phẩm sắc lục; ngũ lục, thất phẩm sắc biếc; bát, cửu phẩm sắc sanh; vô
phẩm và hoằng nô 68
sắc trắng.
Ở ngoài thì cải các lộ làm trấn, và
đặt thêm quan chức ở lộ, phủ, v.v.... Thanh Hóa đổi ra Thanh Đô Trấn; Quốc Oai
là Quảng Oai Trấn; Đà Giang Lộ là Thiên Hưng Trấn; Nghệ An Lộ là Lâm An Trấn;
Tràng An Lộ là Thiên Quan Trấn; Diễn Châu Lộ là Vọng Giang Trấn; Lạng Sơn Phủ
là Lạng Sơn Trấn; Tân Bình Phủ là Tây Bình Trấn. Và bỏ các ti xã, chỉ để quản
giáp như cũ mà thôi.
Ở các lộ, phủ, châu, huyện thì đặt
lại quan chức. Lộ thì đặt chánh phó An phủ sứ; phủ thì đặt chánh phó Trấn Phủ
Sứ; châu thì đặt Thông phán, Thiêm phán; huyện thì đặt Lĩnh Úy, Chủ Bạ. Lộ coi
phủ coi châu, châu coi huyện. Lộ nào cũNg phải có một tập sổ sách về những việc
đinh, điền, kiện tụng, đến cuối năm thì đệ về Kinh để kê cứu.
68
Hoằng Nô là đầy tớ nhà quan.
4. Lập Tây Đô.
Quý Ly định dời Kinh Đô vào Thanh
Hóa cho dễ đường thoán đoạt, bèn sai quan vào xây thành Tây Đô ở động Yên Tôn
(nay còn di tích ở xã Yên Tôn, huyện Vĩnh Lộc, tục gọi là Tây Giai). Đến năm
bính tí (1396) Quý Ly bắt Thuận Tông phải dời kinh về Tây Độ Qua tháng ba năm
sau, Quý Ly lập mưu cho người đạo sĩ vào trong cung xui Thuận Tông nhường ngôi
mà đi tu tiên. Thuận Tông phải nhường ngôi cho con, rồi đi tu tiên ở cung Bảo
Thanh tại núi Đại Lại (thuộc huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa).
5. Sự Phế Lập: Trần Thiếu Đế (1398 -
1400).
Quý Ly bắt Thuận Tông nhường ngôi
rồi, lập Thái Tử là Án lên làm vua. Thái tử bấy giờ mới có 3 tuổi, tức là Thiếu
Đế, niên hiệu là Kiến Tân.
Lê Quý Ly làm phụ chính tự xưng làm
Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương, rồi sai người giết Thuận Tông đi.
Bấy giờ triều đình có những người
như là Thái Bảo Trần Nguyên Hảng, Thượng tướng quân là Trần Khát Chân lập hội
để mưu trừ Quý Ly, chẳng may sự lộ ra, bị giết đến hơn 370 người 69 .
Lê Quý Ly lại xưng là Quốc Tổ Chương
Hoàng, ở cung Nhân Thọ, ra vào dùng nghi vệ của Thiên Tử. Đến tháng hai năm
canh thìn (1400) Quý Ly bỏ Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua thay ngôi nhà Trần.
Nhà Trần làm vua nước Nam ta kể từ
Trần Thái Tông đến Trần Thiếu Đế, với 12 ông vua, được 175 năm, công việc trong
nước sửa sang được nhiều, chính trị luật lệ đều chỉnh đốn lại, học hành thi cử
thì mở mang rộng thêm ra. Lại chống với nhà Nguyên giữ được giang sơn, lấy đất
Chiêm Thành mở thêm bờ cõi, thật là có công với nước Nam. Nhưng chỉ có điều luân
thường trong nhà thì bậy: cô cháu, anh em, trong họ cứ lấy lẫn nhau, thật là
trái với thế tục.
Còn như cơ nghiệp nhà Trần xiêu đổ
là tại vua Duệ Tông và vua Nghệ Tông. Dụ Tông thì hoang chơi, không chịu lo gì
đến việc nước và lại làm loạn cả cương kỷ để đến nổi dân nghèo nước yếu. Nghệ
Tông thì không biết phân biệt hiền gian để kẻ quyền thần được thế làm loạn,
thành ra tự mình nối giáo cho giặc, tự mình làm hại nhà mình vậy.
69
Nay ở Thanh Hóa có nhiều nơi làm đền
thờ Trần Khát Chân. CHƯƠNG XI Nhà Hồ
( 1400 - 1407 )
I. Hồ Quý Ly
II. Hồ Hán Thương 1. Việc võ bị 2.
Sự sưu thuế 3. Việc học hành 4. Việc giao thiệp với Chiêm Thành 5. Việc giao
thiệp với nhà Minh 6. Nhà Minh đánh họ Hồ 7. Thành Đa Bang thất thủ 8. Trận Mộc
Phàm Giang 9. Trận Hàm Tử Quan 10. Họ Hồ phải bắt
I. Hồ Quý Ly ( 1400 ) Niên-hiệu:
Thánh Nguyên
Quý Ly bỏ Thiếu Đế, nhưng vị tình
cháu ngoại cho nên không giết, chỉ giáng xuống làm Bảo Ninh Đại Vương, rồi tự
xưng làm đế, đổi họ là Hồ. Nguyên họ Hồ là dòng dõi nhà Ngu bên Tàu, cho nên
Quý Ly đặt quốc hiệu là Đại Ngu.
Bấy giờ vua Chiêm Thành là La Khải
mới mất, con là Ba Đích Lại mới nối nghiệp, Quý Ly nhân dịp ấy sai tương là Đỗ
Mãn làm thủy quân đô tướng, Trần Tùng làm bộ quân đô tướng lĩnh 15 vạn quân đi
đánh Chiêm Thành. Nhưng Trần Tùng đem quân đi đường núi sang gần đất Chiêm
Thành, cách thủy quân xa, hai bên không tiếp ứng được nhau, thành ra bộ quân
thiếu lương phải rút về. Trần Tùng về phải tội, đày ra làm lính.
Quý Ly làm vua chưa được một năm,
muốn bắt chước tục nhà Trần, nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi làm Thái
Thượng Hoàng để cùng coi việc nước.
II. Hồ Hán Thương ( 1401 - 1407 )
Niên-hiệu: Thiệu Thành (1401 - 1402) Khai Đại (1403 - 1407)
1. Việc Võ Bị.
Hồ Quý Ly đã nhường ngôi rồi, nhưng
việc gì cũng quyết đoán ở mình cả. Hồ Hán Thương chỉ làm vua lấy vì mà thôi.
Nhà Hồ không làm vua được bao lâu,
nhưng mà công việc sửa sang cũng nhiều. Trước hết Hồ Quý Ly chỉnh đốn việc võ
bị: bề ngoài tuy lấy lễ mà đối đãi với nhà Minh, nhưng vẫn biết nhà Minh có ý
muốn dòm đất An Nam, cho nên thường cứ hỏi các quan rằng: " Ta làm thế nào
cho có 100 vạn quân để đánh giặc Bắc ?" Bèn lập ra hộ tịch bắt người trong
nước cứ hai tuổi trở lên thì phải biên vào sổ, ai mà ẩn lậu thì phải phạt. Đến
lúc hộ tịch làm xong rồi, số người từ 15 tuổi đến 60 tuổi hơn gấp mấy phần lúc
trước. Từ đó số quân lại thêm ra được nhiều.
Còn như thủy binh để giữ mặt sông,
mặt bể thì Quý Ly bắt làm những thuyền lớn ở trên có sàn đi, ở dưới thì để cho
người chèo chống, thật tiện cho sự chiến đấu.
Quý Ly lại đặt ra bốn kho để chứa đồ
quân khí và bắt những người xảo nghệ vào làm những đồ khí giới.
Ở các cửa bể và những chỗ hiểm yếu ở
trong sông lớn đều bắt lấy gỗ đóng cọc để ngự bị quân giặc.
Việc quân chế thì nam bắc phân ra
làm 12 vệ, đông tây phân ra 8 vệ. Mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18 người. Đại
quân thì có 30 đội, trung quân thì có 20 đội. Mỗi doanh có 15 đội, mỗi đoàn có
10 đội. Còn những cấm vệ, thì chỉ có 5 đội, có một người đại tướng thống lĩnh
cả.
2. Việc Sưu Thuế.
Những thuyền đi buôn bán đều phải
chịu thuế cả. Những thuyền hạng nhất mỗi chiếc phải 5 quan, hạng nhì 4 quan,
hạng ba 3 quan.
Thuế điền thì ngày trước nhà Trần
đánh thuế ruộng tư mỗi mẫu ba thăng thóc, ruộng dâu mỗi mẫu hoặc 9 quan, hoặc 7
quan. Thuế đinh thì mỗi người phải đóng 3 quan. Nay nhà Hồ định lại: ruộng tư
điền thì phải đóng 5 thăng; còn ruộng dâu thì chia ra làm 3 hạng: hạng nhất 5
quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan. Thuế đinh thì lấy ruộng làm ngạch: ai có
2 mẫu 6 sào trở lên thì phải đóng 3 quan, ai có kém số ấy được giảm bớt, ai
không có ruộng, và những người cô nhi quả phụ thì được tha thuế.
3. Việc Học Hành.
Việc học hành, thi cử đều sửa sang
lại, lấy toán học đặt thêm ra một trường nữa, nghĩa là trong những khoa thi, có
đặt thêm ra một kỳ thi toán pháp. Còn những cách thi, thì những người đã đỗ
hương thi, sang năm sau phảI vào bộ Lễ thi lại, ai đỗ thì mới được tuyển bổ,
rồi qua năm sau nữa thì lại thi hội, bấy giờ có đỗ, thì mới được là Thái Học
Sinh.
Nhà Hồ lại sửa hình luật, và đặt ra
y tỳ để coi việc thuốc thang.
4. Việc Giao Thiệp Với Chiêm Thành.
Năm nhâm ngọ (1402) tướng nhà Hồ là
Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành. Vua nước ấy là Ba Đích Lại sai cậu là Bồ
Điền sang dâng đất Chiêm Động (phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) để xin bãi binh.
Quý Ly lại bắt phải dân đất Cổ Lụy (Quảng Nghĩa) rồi phân đất ra làm châu
Thăng, Châu Hoa, châu Tư, châu Nghĩa, và đặt quan An Phủ Sứ để cai trị bốn châu
ấy. Lại bắt những dân có của mà không có ruộng ở các bộ khác đem vợ con vào ở
để khai khẩn đất những châu ấy, bởi vì khi vua Chiêm nhường đất Chiêm Động và
Cổ Lụy, người Chiêm đều bỏ đất mà đi cả.
Năm quý mùi (1403) nhà Hồ lại muốn
lấy những đất Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch, và Sa Ly Nha về phía nam những đất đã
nhường năm trước, bèn sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ Mãn đem thủy bộ cả thảy 20 vạn
quân sang đánh Chiêm Thành. Quân nhà Hồ vào vây thành Đồ Bàn hơn một tháng trời
mà đánh không đổ, lương thực hết cả, phải rút quân về. Lần này hao binh tổn
tướng mà không có công trạng gì.
5. Việc Giao Thiệp Với Nhà Minh.
Khi Hồ Hán Thương mới lên ngôi, thì
cho sứ sang nhà Minh nói dối rằng: vì chưng dòng dõi nhà Trần không còn người
nào nữa, cho nên cháu ngoại lên thay để quyền lý việc nước.
Đến khi vua Thái Tổ nhà Minh mất,
Hoàng Thái Tôn lên ngôi tức là vua Huệ Đế. Bấy giờ hoàng thúc là Yên Vương Lệ,
đóng ở Yên Kinh, quyền to thế mạnh, có ý tranh ngôi của cháu, bèn khởi binh
đánh lấy Kim Lăng, rồi lên làm vua, tức là vua Thành Tổ, đóng đô ở Yên Kinh
(Bắc Kinh).
Khi Thành Tổ dẹp xong dư đảng nhà
Nguyên ở phía bắc rồi, có ý muốn sang lấy nước An Nam, cho nên nhân khi Hồ Hán Thương
sai sứ sang xin phong, vua Thành Tổ sai quan là Dương Bột sang xem hư thực thể
nào. Hồ Quý Ly bèn bắt những quan viên phụ lão làm tờ khai nói y như lời sứ An
Nam dã sang nói. Vì thế cho nên Thành Tổ không có cớ gì mà từ chối, phải phong
cho Hồ Hán Thương làm An Nam Quốc Vương.
Đến năm giáp thân (1404) có Trần
Khang ở mạn Lão Qua đi đường Vân Nam sang Yên Kinh, đổi tên là Trần Thiêm Bình,
xưng là con vua Nghệ Tông rồi kể rõ sự tình Hồ Quý Ly tiếm nghịch. Vua Thành Tổ
nhà Minh sai quan ngự sử Lý Ỷ sang tra xét việc ấy. Lý Ỷ về tâu quả thật là họ
Hồ làm điều thoán đoạt.
Từ đấy nhà Minh muốn mượn tiếng đánh
Hồ để lấy đất An Nam. Ở bên này cha con họ Hồ cũng biết ý ấy, hết sức tìm cách
chống giữ.
Năm ất dậu (1405) nhà Minh sai sứ
sang đòi đất Lộc Châu. Trước Hồ Quý Ly đã không chịu, sau phải cắt ra 59 thôn ở
Cổ Lâu nhường cho Tàu.
Tuy vậy nhà Minh vẫn cứ cứ trách nhà
Hồ làm điều tiếm nghịch. Sứ nhà Hồ sang Tàu thì nhà Minh giữ lại, không cho ai
về, lại cho người sang An Nam dò xem sơn xuyên đạo lộ hiểm trở thế nào, để liệu
đường tiến binh.
Họ Hồ biết thế nào rồi quân Minh
cũng sang đánh, bèn sai đắp thành Đa Bang (bây giờ ở xã Cổ Pháp, huyện Tiên
Phong, tỉnh Sơn Tây), bắt lấy gỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc để chặn đường quân
Minh sang, và chia các vệ quân ở Đông Đô ra giữ mọi đường hiểm yếu. Đoạn rồi
hội cả nội ngoại bách quan văn võ lại bàn việc nên đánh hay là nên hòa. Người
thì bàn đánh, người thì bàn hòa, nhưng Quý Ly nhất định đánh.
Từ khi Lý Ỷ trở về Tàu, nhà Hồ cho
sứ sang dâng biểu tạ tội, và xin rước Trần Thiêm Bình về. Vả bấy giờ Thiêm Bình
cứ kêu van với vua nhà Minh, xin cho đem binh sang đánh báo thù, vì vậy năm
Bính Tuất (1406) Minh Thành Tổ sai đốc tướng là Hàn Quan và bọn Hoàng Trung dẫn
5000 quân đưa Thiêm Bình về nước.
Khi Hồ Quý Ly được tin ấy, liền sai
tướng lên đón ở cửa Chi Lăng, đánh quân Minh, bắt được Thiêm Bình đem về giết
đi. Đoạn rồi biết quân Minh tất lại sang, một mặt cho sứ sang biện bạch việc
Thiêm Bình nói dối, và xin theo lệ tiếng cống như cũ, một mặt cho những công
hầu được quyền mộ những người đào vong làm lính, đặt thiên hộ, bách hộ để làm
quản những lính mộ ấy. Và ở các cửa sông thì đóng cừ lại, để giữ quân giặc ở
mặt bể vào. Về phía nam ngạn sông Nhị Hà (tức là sông Hồng Hà) thì đóng cừ dài
hơn 700 dặm. Lại sai dân ở Bắc Giang và Tam Đái sang làm nhà sẵn ở phía nam
sông lớn để phòng khi giặc đến, thì bỏ sang bên này mà ở.
6. Nhà Minh Đánh Họ Hồ.
Vua nhà Minh trước đã cho hoạn quan
là Nguyễn Toán sang An Nam do thám, biết nước ta phú thịnh, đã có ý đánh lấy,
cho nên thường cứ tìm chuyện để lấy cớ dấy binh. Nay nhân việc Hồ Hán Thương
giết Thiêm Bình, vua Thành Tổ mới sai Thành Quốc Công là Chu Năng làm đại
tướng, Tân Thành Hầu là Trương Phụ, Tây Bình Hầu là Mộc Thạnh, làm tả hữu phó
tướng, Phong Thành Hầu là Lý Bân, Vân Dương Bá là Trần Húc làm tả hữu tham
tướng, chia binh ra làm hai đạo sang đánh An Nam.
Khi quân nhà Minh đến Long Châu thì
đại tướng Chu Năng chết, phó tướng Trương Phụ lên thay.
Đạo quân của Trương Phụ ở Quảng Tây
đi từ đất Bằng Tường sang đánh lấy cửa Ba Lụy, tức Nam Quan bây giờ, rồi tiến
sang phía tây bắc về mé sông Cái 70 . Còn đạo quân của Mộc Thạnh ở Vân Nam theo
đường Mông Tự sang đánh lấy cửa Phú Lĩnh ( thuộc tỉnh Tuyên Quang) rồi tiến
sang đến sông Thao. Cả hai đạo hội ở Bạch Hạc, đóng đồn ở bờ sông phía bắc.
Tuy rằng nhà Hồ trước đã phòng bị,
nhưng mà tướng nhà Minh biết rằng người An Nam không phục họ Hồ, bèn làm hịch
kể tội họ Hồ, và nói rằng quân Tàu sang là để lập dòng dõi nhà Trần lên, cứu
cho dân khỏi sự khổ sở. Trương Phụ sai viết hịch ấy vào những mảnh ván nhỏ bỏ
xuống sông, trôi đến đâu, quân sĩ An Nam bắt được, nhiều người không đánh và
theo hàng quân Minh; vì thế cho nên quân Minh đi đến đâu đánh được đến đấy.
Quân Hồ phải lui về giữ thành Đa Bang.
Ở chỗ thành Đa Bang, quân Hồ lập đồn
ải liên tiếp ở phía nam sông Thao và sông Cái tức là dọc sông Hồng Hà, rồi đóng
cọc cắm ở giữa sông, thuyền bè không đi lại được, có ý để cho quân Minh mỏi mệt
rồi sẽ đánh.
7. Thành Đa Bang thất thủ.
Quân Minh tiến lên mặt có thành Đa
Bang ngăn trở. Mộc Thạnh mới bàn với Trương Phụ rằng: "Mọi nơi đồn An Nam
đóng gần bờ sông, quân sang không được, còn thành Đa Bang thì lũy cao hào sâu,
nhưng ở đằng trước có bãi cát, quân có thể sang đấy được, vả ta có đồ chiến cụ,
nếu đánh thì tất thành ấy phải đổ". Trương Phụ bèn hạ lệnh rằng:
"Quân kia trông cậy có thành này, mà ta lập công cũng ở đó; hễ quân sĩ ai
lên được trước thì có thưởng to !" Rồi ngay đêm hôm ấy đốt lửa thổi tù và
làm hiệu, Trương Phụ, Hoàng Trung đánh mặt tây bắc, Mộc Thạnh, Trần Tuấn đánh
mặt đông nam, dùng thang vân thê để lên thành; quân Hồ đánh không được phải lui
vào thành, đến sáng hôm sau đào thành
70
Sử chép là Phú Lương. cho voi ra
đánh. Quân Minh vẽ sư tử trùm lên ngựa rồi xông vào và dùng súng bắn hăng lắm,
voi sợ chạy trở vào, quân Minh theo sau voi chạy ồ vào thành, quân Hồ thua to,
phải bỏ chạy vào Hoàng Giang 71 . Quân Minh thừa thế đánh tràn xuống sông Cái,
đốt sạch cả các đồn ải, rồi tiến lên đánh lấy Đông Đô (tức là Thăng Long), bắt
đàn bà con gái, cướp lấy của cải. Bọn Trương Phụ tích trữ lương thực, đặt quan
làm việc, định kế ở lâu dài.
8. Trận Mộc Phàm Giang.
Qua tháng ba năm đinh hợi (1407) Mộc
Thạnh biết rằng con trưởng Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng đóng ở Hoàng Giang, bèn
đem thủy lục cùng tiến lên đến hạ trại ở sông Mộc Phàm (ở làng Mộc Phàm, huyện
Phú Xuyên tiếp với Hoàng Giang).
Hồ Nguyên Trừng đem 30 chiếc thuyền
ra đánh bị quân Mộc Thạnh ở hai bên bờ sông đánh ụp lại. Nguyên Trừng thua chạy
về cửa Muộn Hải (ở Giao Thủy, Nam Định). Bấy giờ tướng nhà Hồ là Hồ Đỗ và Hồ Xạ
cũng bỏ bến Bình Than 72
(ở làng Trần Xá, huyện Chí Linh, Hải
Dương) chạy về cửa Muộn Hải để cùng với Nguyên Trừng tìm kế phá giặc; nhưng
quân Minh sực đến, lại bỏ chạy ra giữ cửa Đại An (thuộc phủ Nghĩa Hưng bây
giờ).
Quân Minh ở Muộn Hải phải bệnh, lui
về đóng ở bến Hàm Tử, để đợi quân Hồ lên sẽ đánh.
Bọn Hồ Nguyên Trừng rước Quý Ly và
Hán Thương ở Tây Đô ra, rồi đem quân lên Hoàng Giang để chống giữ với giặc.
9. Trận Hàm Tử Quan.
Quân Hồ bấy giờ cả thủy và bộ được 7
vạn, giả xưng là 21 vạn, rồi phân quân bộ ra làm hai đạo đi men hai bên sông,
quân thủy đi giữa, tiến lên Hàm Tử Quan. Vừa đi đến nơi bị quân Minh hai mặt
xông lại mà đánh, quân bộ của nhà Hồ đương không nổi, bỏ chạy cả, phần thì hàng
giặc, phần thì chạy xuống xông chết đuối. Còn thủy quân thì chạy thoát được,
nhưng bao nhiêu thuyền lương thì đắm mất cả.
Bấy giờ có quan An Phủ Sứ Bắc Giang
tên là Nguyễn Hy Chu bị quân Minh bắt được, không chịu hàng phải giết.
Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đưa bọn
liêu thuộc chạy ra bể, rồi về Thanh Hóa, vào đến Lỗi Giang (tức là Mã Giang)
gặp quân Minh đuổi đến, quân Hồ không đánh mà tan. Tướng nhà Hồ là Ngụy Thức
thấy thế nguy
71
Hoàng Giang tức là khúc sông Hồng Hà
thuộc về huyện Nam Xang tỉnh Hà Nam. 72
Bến Bình Than là bến đò ngang từ
làng Bình Than, Gia Bình, Bắc Ninh qua sông Thái Bình sang làng Trần Xá ở hữu
ngạn sông Kinh Thầy, thuộc phủ Nam Sách, Hải Dương. cấp lắm, bảo Quý Ly rằng:
" Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ Hạ
tự đốt mà chết đi còn hay hơn ! " Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức chém rồi
chạy vào Nghệ An.
10. Họ Hồ Phải Bắt.
Trương Phụ, Mộc Thạnh biết là Quý Ly
chạy vào Nghệ An, bèn đem binh đi đường bộ đuổi theo, lại sai Liễu Thăng đem
thủy sư đi đuổi mặt thủy. Quý Ly vào đến cửa Kỳ La (thuộc huyện Kỳ Anh, Hà
Tĩnh) bị quân nhà Minh bắt được. Hán Thương và những con cháu họ Hồ đều bị giặc
bắt được cả ở núi Cao Vọng. Những quan nhà Hồ, người thì ra hàng, người thì bị
bắt, người thì không chịu nhục nhảy xuống sông tự tử.
Nhà Hồ chỉ làm vua được từ năm canh
thìn (1400) đến năm đinh hợi (1407), kể vừa 7 năm thì mất.
Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì
không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có tài kinh tế
như thế, mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung, thì dẫu giặc Minh có thế
mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ đã cướp được nước Nam, mà mình lại được
cái tiếng thơm để lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế
lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền, cướp nước. Bởi thế Hồ Quý Ly mới làm sự
thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Cũng vì cái
cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà đem theo giặc, để đến nỗi cha con họ
Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục ở đất nước người!
Nhưng đấy là cái tội làm hại riêng
cho một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước Nam, thì ai gánh vác cho Quý Ly
? May mà sau có một tay đại anh hùng là vua Lê Thái Tổ hết sức ra tay trong hơn
mười năm trời, cứu vớt được người mình ra khỏi tay quân Tàu, chứ không thì cái
khổ làm nô lệ nước Tàu lại biết mấy mươi đời nữa mới giải thoát được.
CHƯƠNG XII Nhà Hậu Trần
( 1407 - 1413 )
1. Nhà Minh chiếm giữ đất An Nam 2.
Giản Định Đế 3. Trận Bồ Cô 4. Trần Quý Khoách 5. Trương Phụ trở sang An Nam 6.
Hóa Châu thất thủ
1. Nhà Minh Chiếm Giữ Đất An Nam.
Nhà Minh không phải có yêu gì nhà
Trần mà sang đánh nhà Hồ, chẳng qua là nhân lấy cái cớ nhà Trần mất ngôi mà đem
binh sang lấy nước Nam. Lại nhân vì người An Nam ta hay có tính ỷ lại, có việc
gì thì chỉ muốn nhờ người, chứ tự mình không biết kiên nhẫn, không có cố gắng
mà làm lấy. Một ngày gì nữa mà còn lạ cái lòng hùm beo của người Tàu, thế mà hễ
khi nào trong nước có biến loạn, lại chạy sang van lạy để rước chúng sang. Khác
nào đi rước voi về giày mồ vậy.
Dẫu người Tàu có lòng vị nghĩa mà
sang giúp mình nữa thì nghĩ cũng chẳng vẻ vang gì cái việc đi nhờ người ta,
huống chi kỳ thực thì lúc nào chúng cũng chực đánh lừa mình, như đánh lừa trẻ
con, để bóp cổ mình, thế mà người mình vẫn không biết cái dại, là tại làm sao?
Tại là cái nghĩa dân với nước ta
không có mấy người hiểu rõ. Nhà nào làm vua, cho cả nước là của riêng của nhà
ấy; hễ ai lấy mất thì đi tìm cách lấy lại, lấy không được thì lại đi nhờ người
khác lấy lại cho, chứ không nghĩ đến cái lợi chung trước cái lợi riêng, cái
quyền nước trước cái quyền nhà, thế cho nên mình cứ dại mãi, mà vẫn không biết
là dại.
Xem như lúc còn nhà Trần, nhà Minh
đã có ý lấy đất An Nam, sau nhà Trần mất rồi lại dùng lời nói khéo, và lấy
tiếng điếu phạt đem binh sang đánh họ Hồ. Đến khi bắt được cha con Hồ Quý Ly
rồi, lại bày kế để chiếm giữ đất An Nam: giả treo bảng gọi con cháu họ Trần,
rồi bắt quan lại và kỳ lão làm tờ khai rằng: Họ Trần không còn ai nữa và đất An
Nam vốn là đất Giao Châu ngày trước, nay xin đặt quận huyện như cũ.
Nhà Minh lấy cái cớ giả dối ấy để
chiếm giữ lấy nước Nam, rồi chia đất ra làm 17 phủ là: Giao Châu, Bắc Giang,
Lạng Giang, Lạng Sơn, Tân An, Kiến Xương, Phong Hóa, Kiến Bình, Trấn Man, Tam
Giang, Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, Thăng
Hoa, và 5 châu là: Quảng Oai, Tuyên Hóa, Qui Hóa, Gia Bình, Diễm Châu.
Còn những nơi yếu hại thì đặt ra 12
vệ để phòng giữ. Lại đặt ra 3 ti là: Bố Chính Ti, Án Sát Ti, Chưởng Đô Ti, và
cả thảy ở trong nước lập ra 472 nha môn để cai trị, sai quan thượng thư là
Hoàng Phúc coi cả Bố Chính và Án Sát Ti; Lữ Nghị chi Chưởng Đô Ti, Hoàng Trung
làm phó.
Vua quan nhà Hồ thì đều phải đem cả
về Kim Lăng. Quý Ly về bên Tàu phải giam, rồi sau đày ra làm lính ở Quảng Tây,
còn con cháu và các tướng sĩ thì được tha cả không phải tội.
Vua nhà Minh lại truyền cho Trương
Phụ tìm kiếm những người ẩn dật ở sơn lâm, những kẻ có tài có đức, hay văn học
rộng, quen việc, hiểu toán pháp, nói năng hoạt bát cùng những người hiếu đễ,
những người lực điền mà mặt mũi khôi ngô, hoặc có gân sức khoẻ mạnh, những
người thầy đồ, thầy bói, thầy thuốc, v.v.... để đưa sang Kim Lăng, ban thưởng
cho phẩm hàm, rồi cho về làm quan phủ, quan châu, hay là quan huyện. Bấy giờ
những đồ bôn cạnh tranh nhau mà ra, duy chỉ có vài người như ông Bùi Ứng Đẩu,
ông Lý Tử Cấu biết liêm sĩ, không chịu ra làm quan với nhà Minh.
Công việc xếp đặt đâu vào đấy rồi.
Lữ Nghị và Hoàng Phúc ở lại trấn đất Giao Chỉ, còn Trương Phụ và Mộc Thạnh đem
quân về Tàu, đưa địa đồ An Nam về dâng vua nhà Minh.
Bấy giờ tuy rằng nhà Minh đã chiếm
giữ đất An Nam, nhưng con cháu nhà Trần còn có người muốn khôi phục nghiệp cũ,
vả nước ta còn có nhiều người không muốn làm nô lệ nước Tàu, cho nên nhà Hậu
Trần lại hưng khởi lên được mấy năm nữa.
2. Giản Định Đế (1407 - 1409).
Khi trước Trương Phụ treo bảng gọi
con cháu nhà Trần là ý giả dối để chực giết hại, cho nên không ai dám ra. Bấy
giờ có Giản Định Vương tên là Quĩ, con thứ vua Nghệ Tông chạy đến Mô Độ (thuộc
làng Yên Mô, huyện Yên Mô, Ninh Bình) gặp Trần Triệu Cơ đem chúng đi theo, bèn
xưng là Giản Định Hoàng Đế, để nối nghiệp nhà Trần, đặt niên hiệu là Hưng Khánh.
Giảng Định khởi nghĩa chống với quân
Minh, nhưng vì quân mình là quân mới góp nhặt được, đánh không nổi, phải thua
chạy vào Nghệ An; bấy giờ có Đặng Tất là quan nhà Trần, trước đã ra hàng nhà
Minh được làm đại tri châu ở Hóa Châu, nay thấy Giản Định Đế khởi nghĩa, liền
giết quan nhà Minh đi, rồi đem quân ra Nghệ An để giúp việc khôi phục. Lại ở
đất Đông Triều có Trần Nguyệt Hồ cũng khởi binh đánh quân nhà Minh, nhưng chẳng
được bao lâu mà phải bắt, còn dư đảng chạy vào Nghệ An theo vua Giản Định. Vì
vậy cho nên quân thế của Giản Định mới mạnh lên. Ông Đặng Tất lại giết được
hàng tướng nhà Minh là Phạm Thế Căng ở cửa Nhật Lệ. Lúc bấy giờ đất An Nam từ
Nghệ An trở vào lại thuộc về nhà Trần.
3. Trận Bô Cô.
Tháng chạp năm mậu tý (1408) Giản
Định Đế hội tất cả quân Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa, rồi
tiến ra đánh Đông Đô. Quân ra đến Trường Sơn (Ninh Bình) thì các quan thuộc và
những kẻ hào kiệt ở các nơi ra theo nhiều lắm.
Quan nhà Minh đem tin ấy về báo cho
Minh Đế biết. Minh Đế sai Mộc Thạnh đem 4 vạn quân ở Vân Nam sang đánh dẹp. Mộc
Thạnh cùng với các quan đô chưởng là Lữ Nghị vào đến bến Bô Cô (thuộc xã Hiếu
Cổ, huyện Phong Doanh) thì gặp quân Trần. Hai bên giao chiến, vua Giản Định tự
cầm trống thúc quân, tướng sĩ ai nấy hết sức xung đột, phá tan được quân nhà
Minh, chém được Lữ Nghị ở trận tiền và đuổi Mộc Thạnh về đến thành Cổ Lộng
(thành nhà Minh xây, bấy giờ ở làng Bình Cách, huyện Ý Yên).
Bấy giờ vua Giản Định muốn thừa
thắng đánh tràn ra để lấy lại Đông Quan (tức Đông Đô). Nhưng ông Đặng Tất ngăn
lại muốn để đợi quân các lộ về đã, rồi sẽ ra đánh. Từ đó vua tôi không được hòa
thuận, vua Giản Định lại nghe người nói gièm, bắt Đặng Tất và quan tham mưu là
Nguyễn Cảnh Chân đem giết đi, thành ra lòng người ai cũng chán ngán cả, không
có lòng giúp rập nữa.
4. Trần Quý Khoách (1403 -1413).
Giặc nước hãy còn, mà vua tôi đã
nghi hoặc nhau, rồi đem giết hại những người có lòng vì nước, thật là tự mình
gây nên cái vạ cho mình.
Bấy giờ con ông Đặng Tất là Đặng
Dung và con ông Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị thấy thân phụ bị giết, đều
bỏ vua Giản Định, đem quân bản bộ về Thanh Hóa rước vua Quý Khoách vào huyện
Chi La (tức là huyện La Sơn, Hà Tĩnh) rồi tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là
Trùng Quang.
Lúc ấy vua Giản Định đương chống
nhau với quân nhà Minh ở thành Ngự Thiên (thuộc huyện Hưng Nhân). Quý Khoách
sai tướng là Nguyễn Súy ra đánh lẻn bắt đem về Nghệ An. Quý Khoách tôn Giản
Định lên làm Thái Thượng Hoàng để cùng lo việc khôi phục.
5. Trương Phụ Trở Sang An Nam.
Vua nhà Minh thấy Mộc Thạnh bại
binh, lại sai Trương Phụ làm thống binh, Vương Hữu làm phó đem binh sang cứu
viện.
Quân nhà Trần bấy giờ chia ra là mấy
đạo đi đánh dẹp các châu huyện ở mạn Hải Dương. Giản Định đóng quân ở Hạ Hồng
(Ninh Giang), Quý Khoách đóng ở Bình Than.
Khi Trương Phụ sang đến nơi, tiến
binh đánh đuổi, Giản Định đem binh thuyền chạy về đến huyện Mỹ Lương (giáp Sơn
Tây và phủ Nho Quan) gặp quân Trương Phụ đuổi đến bắt được giải về Kim Lăng.
Giản Định bị bắt rồi, Quý Khoách ở
Bình Than sai Đặng Dung đến giữ Hàm Tử Quan (huyện Đông An, Hưng Yên). Nhưng
quân của Đặng Dung thiếu lương, phải bỏ chạy. Quý Khoách thấy quân của Đặng
Dung đã thua, liệu thế giữ không nổi, bèn bỏ Bình Than chạy về Nghệ An.
Trương Phụ thắng trận, đi đến đâu
giết hại quân dân, và làm những điều tàn bạo gớm ghê như là: xếp người thành
núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy đầu. Còn
những người An Nam ai tòng phục nhà Minh mà giết được nhiều người bản quốc thì
được thưởng cho làm quan. Thật bấy giờ tha hồ cho bọn hung ác đắc chí!
Năm canh dần (1410) Trần Quý Khoách
cùng với bọn Nguyễn Cảnh Dị lại đem quân ra đánh quân Minh ở Hồng Châu, được
thắng trận, rồi lại ra đóng ở Bình Than. Ở các nơi lại nổi lên đánh giết quân
nhà Minh; nhưng chỉ vì quân không có thống nhiếp, hiệu lệnh bất nhất, cho nên
đến khi quân giặc đến đánh, quân nhà Trần lại thua, phải chạy về Nghệ An.
Trương Phụ một mặt đưa chiếu của vua
Minh lấy lời giả nhân nghĩa mà dụ quan lại nhân dân, một mặt thì tiến quân vào
đánh Trần Quý Khoách.
Tháng tư năm quý tị (1413) Trương
Phụ đưa quân đánh Nghệ An, quân Quý Khoách bấy giờ mười phần chỉ còn ba bốn,
lương thực lại không có, phải bỏ chạy và Hóa Châu.
Trước Quý Khoách đã mấy lần cho
người sang Tàu cầu phong, Minh Đế không cho, đem giết sứ thần đi. Nay Quý
Khoách lại sang Nguyễn Biểu ra cầu phong với Trương Phụ . Trương Phụ bắt giữ
không cho về. Nguyễn Biểu giận mắng Trương Phụ rằng: " Chúng bay trong
bụng thì chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân nhân nghĩa
đi đánh dẹp; trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị,
rồi tìm kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân; chúng bay thật đồ ăn cướp hung
ngược !" Trương Phụ tức giận đem giết đi.
6. Hóa Châu Thất Thủ.
Đến tháng sáu năm quý tị (1413) quân
Trương Phụ vào đến Nghệ An, quan Thái Phó nhà Hậu Trần là Phan Quý Hữu ra hàng,
nhưng được mấy hôm thì mất. Trương Phụ cho con là Quý Hữu là Liêu làm tri phủ
Nghệ An. Phan Liêu muốn tâng công, Quý Khoách có bao nhiêu tướng tá người nào
giỏi, người nào dở, quân số nhiều ít, sơn xuyên chổ hiểm, chỗ không thế nào,
khai cả cho Trương Phụ biết. Trương Phụ bèn quyết ý vào Hóa Châu, và hội chư
tướng lại để bàn kế tiến binh.
Mộc Thạnh nói rằng: " Hóa Châu
núi cao bể rộng khó lấy lắm".
Trương Phụ nhất định vào đánh cho
được, nói rằng: " Ta sống cũng ở đất Hóa Châu này, mà chết cũng ở đất Hóa
Châu này. Hóa Châu mà không lấy được thì không mặt mũi nào về trông thấy chúa
thượng !" Lập tức truyền cho quân thủy bộ tiến vào đánh Hóa Châu.
Đến tháng chín, quân Trương Phụ vào
đến Thuận Hóa, Nguyễn Súy và Đặng Dung nửa đêm đem quân đến đánh trại Trương
Phụ. Đặng Dung đã vào được thuyền của Trương Phụ định để bắt sống lấy nhưng
không biết mặt, vì thế Trương Phụ mới nhảy xuống xông lấy cái thuyền con mà
chạy thoát được.
Bấy giờ quân nhà Trần ít lắm. Trương
Phụ thấy vậy đem binh đánh úp lại, bọn Đặng Dung địch không nổi phải bỏ chạy.
Từ khi thua trận ấy rồi, Trần Quý
Khoách thế yếu quá không thể chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở
trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quý Khoách, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung,
Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Quý
Khoách nhảy xuống bể tự tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả.
Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng
giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà
họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có
đền thờ ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông Đặng Dung có làm bài thơ thuật
hoài như sau này, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng:
Thế sự du du nại lão hà !
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma !
DỊch:
Việc đời bối rối tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
Nhà Hậu Trần nổi lên toan đường khôi
phục, nhưng hiềm vì nỗi lòng người còn ly tán, thế lực lại hèn yếu, cho nên chỉ
được 7 năm thì mất.
CHƯƠNG XIII Thuộc Nhà Minh
( 1414 - 1427 )
1. Việc chính trị nhà Minh 2. Việc
tế tự 3. Cách ăn mặc 4. Sự học hành 5. Việc trạm dịch 6. Việc binh lính 7. Phép
hộ thiếp và hoàng sách 8. Việc thuế má 9. Việc sưu dịch 10. Quan lại
1. Việc Chính Trị Nhà Minh.
Trương Phụ lấy được châu Thuận Hóa
và châu Tân Bình rồi, làm sổ biên số dân đinh ở hai châu ấy, đặt quan cai trị
và để quân binh ở lại phòng giữ chỗ giáp giới nước Chiêm Thành. Đến htáng 8 năm
giáp ngọ (1414) Trương Phụ và Mộc Thạnh về Tàu, đem những đàn bà con gái về rất
nhiều.
Bọn Hoàng Phúc ở lại sửa sang các
việc trong nước để khiến cho người An Nam đồng hóa với người Tàu. Lập ra đền
miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu, rồi từ cách ăn mặc cho chí sự
học hành, việc gì cũng bắt theo như người Tàu cả. Còn cái gì là di tích của
nước mình như là sách vở thì thu nhặt đem về Tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ,
bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ
nhục
2. Việc Tế Tự.
Hoàng Phúc bắt các phủ, châu, huyện
phải lập văn miếu và lập bàn thờ bách thần, xã tắc, sơn xuyên, phong vân để bốn
mùa tế tự.
3. Cách Ăn Mặc.
Bắt con trai con gái không được cắt
tóc, đàn bà con gái thì phải mặt áo ngắn quần dài theo như người Tàu cả.
4. Sự Học Hành.
Quan nhà Minh bắt mở nhà học ở các
phủ, châu, huyện, rồi chọn những thầy âm dương, thầy thuốc, thầy chùa, đạo sĩ,
ai giỏi nghề gì thì làm cho quan để dạy nghề ấy.
Vua nhà Minh lại xuống chỉ truyền
lấy Ngũ Kinh, Tứ Thư và bộ Tính Lý Đại Toàn, sai quan đưa sang ban cấp cho
người An Nam học ở các châu huyện, rồi lại sai thầy tăng và đạo sĩ ở Tăng Đạo
Ti 73 , đi truyền giảng đạo Phật và đạo Lão. Còn bao nhiêu sách vở của nước
Nam, từ nhà Trần về trước thì thu lấy cả rồi đem về Kim Lăng.
Cứ theo sách Lịch Triều Hiến Chương
Văn Tịch Chí của ông Phan Huy Chú thì những sách của nước Nam mà Tàu lấy về là
những sách này:
- Hình Thư, của vua Thái Tông nhà Lý
3 quyển. - Quốc Triều Thông Lễ, của
vua Thái Tông nhà Trần 10 quyển - Hình Luật, của vua Thái Tông nhà Trần 1 quyển
- Thường Lễ, niên hiệu Kiến Trung
10 quyển - Khóa Hư Tập
1 quyển - Ngự Thi
1 quyển - Di Hậu Lục, của vua Thái
Tông nhà Trần 2 quyển - Cơ Cầu Lục
1 quyển - Thi Tập
1 quyển - Trung Hưng Thực Lục, của
Trần Nhân Tông
2 quyển - Thi Tập
1 quyển - Thủy Vân Tùy Bút, của Trần
Anh Tông
2 quyển - Thi Tập, của Trần Minh
Tông
1 quyển - Trần Triều Đại Điển, của
Trần Dụ Tông 2 quyển - Bảo Hòa Điện Dư Bút, của Trần Nghệ Tông
8 quyển - Thi Tập
1 quyển - Binh Gia Yếu Lược, của
Trần Hưng Đạo 1 bộ - Vạn Kiếp Bí Truyền, của Trần Hưng Đạo 1 bộ - Tứ Thư Thuyết
Ước, của Chu Văn Trinh 1 bộ - Tiều Ẩn Thi
1 tập - Sầm Lâu Tập, của Uy Văn
Vương Trần Quốc Toại 1 quyển - Lạc Đạo Tập, của Chiêu Minh Vương Trần Quang
Khải 1 quyển - Băng Hồ Ngọc Hác Tập, của Trần Nguyên Đán 1 quyển - Giới Hiên
Thi Tập, của Nguyễn Trung Ngạn 1 quyển - Giáp Thạch Tập, của Phạm Sư Mạnh
1 quyển - Cúc Đường Di Thảo, của
Trần Nguyên Đào 2 quyển
73
Nhà Minh bấy giờ không những là mở
mang Nho Học mà thôi, lại lập ra Tăng Cương Ti và Đạo Kỳ Ti để coi những việc
thuộc về Đạo Phật và Đạo Lão. - Thảo Nhàn Hiệu Tần, của Hồ Tôn Vụ
1 quyển - Việt Nam Thế Chí
1 bộ - Việt Sử Cương Mục
1 bộ - Đại Việt Sử Ký, của Lê Văn
Hưu 30 quyển - Nhị Khê Thi Tập, của Nguyễn Phi Khanh
1 quyển - Phi Sa Tập, của Hàn Thuyên
1 quyển - Việt Điện U Linh Tập, của
Lý Tế Xuyên
1 quyển
Những sách ấy bây giờ không biết mất
đâu cả, không thấy quyển nào nữa, thật là một cái thiệt hại cho người nước
mình.
Còn những người đi học, ở các phủ,
châu, huyện, trước thì ở phủ mỗi năm 2 người, ở châu 2 năm 3 người, ở huyện mỗi
năm 1 người, sau cải lại ở phủ mỗi năm 1 người, ở châu 3 năm 2 người, ở huyện 2
năm 1 người, được làm học trò tuế cống cho vào học Quốc Tử Giám, rồi bổ đi làm
quan.
5. Việc Trạm Dịch.
Từ thành Đông Quan (tức là Hà Nội)
cho đến huyện Gia Lâm, phủ Từ Sơn, thì đặt trạm để chạy giấy bằng ngựa; từ
huyện Chí Linh, huyện Đông Triều cho đến phủ Vạn Ninh là nơi giáp đất Khâm Châu
nước Tàu thì đặt trạm chạy giấy bằng thuyền.
6. Việc Binh Lính.
Việc bắt lính thì cứ theo sổ bộ mà
bắt. Ở những nơi gọi là vệ sở thì mỗi một bộ phải ba suất đinh đi lính, nhưng
từ Thanh Hóa về nam người ở ít, thì mỗi hộ chỉ phải hai suất đinh đi lính mà
thôi. Những chỗ nào mà không có vệ sở thì lập đồn ở chỗ hiểm yếu rồi lấy dân
binh ra giữ.
7. Phép Hộ Thiếp và Hoàng Sách.
Việc điền hộ ở An Nam bấy giờ phải
theo như lệ bên Tàu. Những dân đinh trong nước, thì ai cũng phải có một cái
giấy biên tên tuổi và hương quán để lúc nào có khám hỏi thì phải đưa ra. Cái
giấy ấy biên theo như ở trong quyển sổ của quan giữ. Hễ giấy của ai mà không
hợp như ở trong sổ thì người ấy phải bắt đi lính.
Việc cai trị ở trong nước thì chia
ra làm lý và giáp. Ở chỗ thành phố thì gọi là phường; ở chung quanh thành phố
thì gọi là tương; ở nhà quê thì gọi là lý. Lý lại chia ra giáp.
Cứ 110 hộ làm một lý và 10 hộ làm
một giáp. Lý thì có lý trưởng, giáp thì có giáp thủ.
Mỗi một năm có người làm lý trưởng
coi việc trong lý.
Mỗi một lý, một phường hay là một
tương có một quyển sách để biên tất cả số đinh số điền vào đấy. Còn những người
tàn tật cô quả thì biên riêng ra ở sau, gọi là kỷ linh. Ở đầu quyển sách lại có
cái địa đồ.
Khi nào quyển sổ ấy xong rồi, thì
biên ra làm 4 bản, một bản có bìa vàng, cho nên gọi là hoàng sách để gửi về bộ
Hộ, còn 3 bản bìa xanh, thì để ở bố chính ti, ở phủ và huyện, mỗi nơi một bản.
Cứ mười năm lại tùy số dinh điền hơn
lên hay kém đi thế nào, phải làm lại cái mẫu sổ khác, gửi đi cho các lý, phường
và tương để cứ theo mẫu ấy mà làm.
Bấy giờ lý trưởng và giáp thủ phải
đập đánh cực khổ lắm.
8. Việc Thuế Má.
Phép nhà Minh đánh thuế cứ mỗi mẫu
ruộng phải nộp năm thăng thóc, mỗi một mẫu bãi để trồng dâu phải nộp một lạng
tơ, và mỗi cân tơ phải nộp một tấm lụa.
Lại đặt ra thuế muối. Dân mà nấu
muối mỗi một tháng được bao nhiêu phải đưa vào để ở tòa Đề Cử, đợi khi nào tòa
Bố chính khám rồi mới được bán. Ai mà nấu lậu hay là bán lậu thì cũng phải phạt
như nhau.
Ở châu, huyện nào cũng có một tòa
Thuế Khóa để thu thuế.
9. Việc Sưu Dịch.
Phàm những chỗ nào có mỏ vàng mỏ bạc
thì đặt quan ra để đốc dân phu đi khai mỏ. Những chỗ rừng núi, thì bắt dân đi
tìm ngà voi, sừng tên; ở chỗ gần bể, thì bắt dân phải đi mò ngọc trai. Còn
những thổ sản như: hồ tiêu, hương liệu, cũng phải bắt cống nộp. Đến những hươu,
voi, rùa, chim, vượn, rắn, cái gì cũng vơ vét đem về Tàu.
Từ khi bọn Lý Bân, Mã Kỳ sang thay
Trương Phụ, dân ta bị bọn ấy sách nhiễu thật là khổ sở.
10. Quan Lại.
Trừ những quan lại ở bên Tàu sang
cai trị ra không kể, những người An Nam như những tên Nguyễn Huân, Lương Nhữ
Hốt, Đỗ Duy Trung theo hàng nhà Minh, khéo đường xu nịnh, được làm quan to, lại
càng ỷ thế của giặc, làm những điều tàn bạo hung ác hơn người Tàu. Vả, trong
những lúc biến loạn như thế, thì những đồ tham tàn gian ác, không có nghĩa khí,
không biết liêm sĩ, lại càng đắc chí lắm, cho nên dân tình cực khổ, lòng người
sầu oán. Cũng vì lẽ ấy, có nhiều kẻ tức giận nổi lên đánh phá, làm cho trong
nước không lúc nào được yên ổn.
CHƯƠNG XIV Mười Năm Đánh Quân Tàu
( 1418 - 1427 )
1. Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn 2. Về
Chí Linh lần thứ nhất 3. Về Chí Linh lần thứ hai 4. Bình Định Vương về đóng Lư
Sơn 5. Bình Định Vương về đóng Lỗi Giang 6. Nguyễn Trãi 7. Bình Định Vương phá
quân Trần Trí 8. Về Chí Linh lần thứ ba 9. Bình Định Vương hết lương phải hòa
với giặc. 10. Bình Định Vương lấy đất Nghệ An 11. Vây thành Tây Đô 12. Lấy Tân
Bình và Thuận Hóa 13. Quân Bình Định Vương tiến ra Đông Đô 14. Trận Tụy Động:
Vương Thông thất thế 15. Vây thành Đông Đô 16. Vương Thông ước hòa lần thứ nhất
17. Bình Định Vương đóng quân ở Bồ Đề 18. Bình Định Vương đặt pháp luật để trị
quân dân 19. Trận Chi Lăng: Liễu Thăng tử trận 20. Vương Thông xin hòa lần thứ
hai 21. Trần Cao dâng biểu xin phong 22. Tờ Bình Ngô Đại Cáo
1. Lê Lợi Khởi Nghĩa ở Lam Sơn.
Từ khi nhà Minh sang cai trị An Nam,
dân ta ph?i khổ nhục trăm đường, tiếng oan không kêu ra được, lòng tức giận
ngấm nghía ở trong tâm can, chỉ mong mỏi ra cho khỏi đống than lửa. May lúc ấy
có một đấng anh hùng nổi lên, kéo cờ nghĩa để chống với giặc Minh, trong 10 năm
ấy lại được giang sơn cũ, và xây đắp lại nền độc lập cho nước Nam.
Đấng anh hùng ấy, người ở làng Lam
Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, họ Lê, tên là Lợi. Đã
mấy đời làm nghề canh nông, nhà vẫn giàu có, lại hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khó,
cho nên mọi người đều phục, và những tôi tớ ước có hàng nghìn người. Ông Lê Lợi
khẳng khái, có chí lớn, quan nhà Minh nghe tiếng, đã dỗ cho làm quan, nhưng ông
không chịu khuất, thường nói rằng: " Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp
nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ
người ta!" Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm, đón mời những kẻ hào kiệt, chiêu
tập những kẻ lưu vong.
Đến mùa xuân năm mậu tuất (1418) đời
vua Thành Tổ nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 16, ông Lê Lợi cùng với tướng là
Lê Thạch, Lê Liễu khởi binh ở núi Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương, rồi
truyền hịch đi gần xa kể tội nhà Minh để rõ cái mục đính của mình khởi nghĩa
đánh kẻ thù của nước.
Việc đánh giặc Minh tuy là thuận
lòng người và hợp lẽ công bằng, nhưng mà thế lực của Bình Định Vương lúc đầu
còn kém lắm, tướng sĩ thì ít, lương thực không đủ. Dẫu có dùng kế đánh được đôi
ba trận, nhưng vẫn không có đủ sức mà chống giữ với quân nghịch, cho nên phải
về núi Chí Linh 74
ba lần, và phải nguy cấp mấy phen,
thật là gian truân vất vả. Sau nhờ hồng phúc nước Nam, Bình Định Vương lấy được
đất Nghệ An, rồi từ đó mới có thể vẫy vùng, đánh ra mặt Bắc, lấy lại được giang
sơn nước nhà.
2. Về Chí Linh Lần Thứ Nhất.
Khi quan nhà Minh là Mã Kỳ ở Tây Đô,
nghe tin Bình Định Vương nổi lên ở núi Lam Sơn, liền đem quân đến đánh. Vương
sang đóng ở núi Lạc Thủy (Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa) để đợi quân Minh. Đến khi
quân Mã Kỳ đến, phục binh của Vương đổ ra đánh, đuổi được quân nghịch, nhưng vì
thế yếu lắm chống giữ không nổi, Vương phải bỏ vợ con để giặc bắt được, đem bại
binh chạy về đóng ở núi Chí Linh.
74
Sách "Khâm Định Thông
Giám" chép là núi Chí Linh này ở phủ Trấn Định, tỉnh Nghệ An, tức là ở vào
đất Cam Môn, Cam Cát giáp tỉnh Hà Tĩnh. Nhưng xem kỹ địa đồ thì vua Thái Tổ
khởi binh ở Lam Sơn, thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, và lúc ấy vẫn lui
tới ở vùng Lạc Thủy, tức là Cẩm Thủy và ở vùng Nga Sơn. Vậy thì núi Chí Linh
này không phải ở miền Trấn Định, mà chắc là chỉ ở trong vùng Thanh Hóa mà thôi.
Xem như khi ngài thua ở Chí Linh thì chạy về Lư Sơn ở châu Quan Hóa, thuộc phủ Quảng
Hóa thì biết. Vả lại ngày khởi nghĩa từ năm mậu tuất (1418) mà mãi đến năm giáp
thìn (1424) thì ngài mới bàn sự đi đánh mạng Nghệ An, như thết mà nói rằng núi
Chí Linh ở phủ Trấn Định, tức là xứ Ngọc Ma ngày trước, ở phía nam tỉnh Nghệ An
bấy giờ thì chắc là lầm. 3. Về Chí Linh Lần Thứ Hai.
Tháng tư năm kỷ hợi (1419) Bình Định
Vương lại ra đánh lấy đồn Nga Lạc (thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa) giết được
tướng nhà Minh là Nguyễn Sao, nhưng quân của Vương bấy giờ hãy còn ít, đánh lâu
không được, lại phải rút về Chí Linh.
Quan nhà Minh biết rằng Chí Linh là
chỗ Bình Định Vương lui tới, bèn đem binh đến vây đánh. Vương bị vây nguy cấp
lắm, mới hỏi các tướng rằng: Có ai làm được như người Kỷ Tín ngày trước chịu
chết thay cho vua Hán Cao không? Bấy giờ có ông Lê Lai liều mình vì nước, xin
mặc thay áo ngự bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà Minh tưởng là
Bình Định Vương thật, xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi rút quân về
Tây Đô.
4. Bình Định Vương Về Đóng Lư Sơn.
Vương nhờ có ông Lê Lai chịu bỏ mình
cứu chúa, mới trốn thoát được nạn lớn, rồi một mặt cho người sang Ai Lao cầu
cứu, một mặt thu nhặt những tàn quân về đóng ở Lư Sơn (ở phía tây châu Quan
Hóa).
Ngay năm ấy, ở Nghệ An có quan tri
phủ là Phan Liêu làm phản nhà Minh; ở Hạ Hồng có Trịnh Công Chứng, Lê Hành; ở
Khoái Châu có Nguyễn Đặc; ở Hoàng Giang có Nguyễn Đa Cấu, Trần Nhuế; ở Thủy
Đường có Lê Ngà, nổi lên làm loạn, quân nhà Minh phải đi đánh dẹp các nơi cho
nên Bình Định Vương ở vùng Thanh Hóa cũng được nhân dịp mà dưỡng uy súc nhuệ.
5. Bình Định Vương Về Đóng Lỗi
Giang.
Năm canh tí (1420) Bình Định Vương
đem quân ra đóng ở làng Thôi, định xuống đánh Tây Đô, tướng nhà Minh là Lý Bân
được tin ấy, đem quân đến đánh, đi đến chỗ Thi Lang, bị phục binh của Vương
đánh phá một trận, quân Minh bỏ chạy. Vương lại đem quân lên đóng ở Lỗi Giang
75
và ở đồn Ba Lậm. Quân Minh phải lùi
về đóng ở Nga Lạc và Quan Du để phòng giữ Tây Đô.
6. Nguyễn Trãi.
Khi Bình Định Vương về đánh ở Lỗi
Giang, thì có ông Nguyễn Trãi 76 , vào yết kiến, dâng bài sách bình Ngô, vua
xem lấy làm hay, dùng ông ấy làm tham mưu.
75
Lỗi Giang là tên một khúc sông Mã
Giang ở vùng trên huyện Cẩm Thủy. 76
Ông Nguyễn Trãi là cháu ngoại ông
Trần Nguyên Đán, bởi vậy ông cùng với Trần Nguyên Hãng có tình thân. Ông Nguyễn
Trãi và ông Trần Nguyên Hãng là người đại công thần nhà Lê, sau đều bị giết hại
cả.
Ông Nguyễn Trãi là con ông Bảng Nhãn
Nguyễn Phi Khanh. Đời nhà Hồ, ông đã thi đỗ tiến sĩ (1400). Khi ông Nguyễn Phi
Khanh bị nhà Minh bắt về Kim Lăng, ông theo khóc, lên đến cửa Nam Quan không
chịu trở lại. Ông Phi Khanh bảo rằng: " Con phải trở về mà lo trả thù cho
cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm gì ? " Từ đó ông trở
lại, ngày đêm lo việc phục thù. Nay ra giúp Bình Định Vương, bày mưu định kế để
lo sự bình định.
7. Bình Định Vương Phá Quân Trần
Trí.
Đến tháng 11 năm tân sửu (1421)
tướng nhà Minh là Trần Trí đem mấy vạn quân đến đánh Bình Định Vương ở đồn Ba
Lậm, lại ước với người Lào sang cùng đánh hai mặt. Vương mới hội các tướng lại
bàn rằng: Quân kia tuy nhiều nhưng ở xa đến, còn đang nhọc mệt, ta nên đưa quân
ra đón đành tất là phải được. Bàn xong, đến đêm đem quân vào cướp trại Minh,
giết được hơn 1.000 người. Trần Trí thấy vậy giận lắm, sáng hôm sau truyền lệnh
kéo toàn quân đến đánh. Quân An Nam đã phục sẳn trước, thấy quân Minh đến, liền
đổ ra đánh hăng quá, quân Minh lại phải lui về.
Đang khi hai bên còn đối địch, có ba
vạn người Lào giả xưng sang làm viện binh cho Bình Đình Vương. Vương không biết
là dối, quân Lào nửa đêm kéo đến đánh, tướng của Vương là Lê Thạch bị tên bắn
chết. Nhưng mà quân ta giữ vững đồn trại, quân Lào phải lùi về.
8. Về Chí Linh Lần Thứ Ba.
Sang năm sau là năm nhâm dần (1422)
Bình Định Vương tự đồn Ba Lậm tiến lên đánh đồn Quan Gia, bị quân Minh và quân
Lào hai mặt đánh lại, phải thua chạy về giữ đồn Khôi Sách. Quân Minh và quân
Lào thừa thế đổ đến vây kín bốn mặt. Vương thấy thế nguy quá, mới bảo các tướng
rằng: "Quân giặc vây kín rồi, nếu không liều sống chết đánh tháo lấy đường
chạy ra, thì chết cả !" Quân sĩ ai nấy đều cố sức đánh phá, quân giặc phải
lùi. Vương lại đem quân về núi Chí Linh.
Từ khi Bình Định Vương đem binh về
Chí Linh, lương thực một ngày một kém, trong hai tháng trời quân sĩ phải ăn rau
ăn cỏ có bao nhiêu voi ngựa làm thịt ăn hết cả. Tướng sĩ mỏi mệt, đều muốn nghỉ
ngơi, xin Vương hãy tạm hòa với giặc. Vương bất đắc dĩ sai Lê Trăn đi xin hòa.
Quan nhà Minh bấy giờ thấy đánh không lợi, cũng thuận cho hòa.
9. Bình Định Vương Hết Lương Phải
Hòa Với Giặc.
Năm quý mão (1423) Bình Định Vương
đem quân về Lam Sơn. Bấy giờ tướng nhà Minh là bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường hay
cho Vương trâu, ngựa, cá mắm và thóc lúa; Vương cũng cho Lê Trăn đưa vàng bạn
ra tạ. Nhưng sau bọn Trần Trí ngờ có bụng giả dối, bắt giữ Lê Trăn lại, không
cho về, vì vậy Vương mới tuyệt giao không đi lại nữa, rồi đem quân về đóng ở
núi Lư Sơn.
10. Bình Định Vương Lấy Đất Nghệ An.
Năm giáp thìn (1424) Bình Định Vương
hội các tướng bàn kế tiến thủ. Quan thiếu úy là Lê Chích nói rằng: " Nghệ
An là đất hiểm yếu, đất rộng người nhiều, nay ta hãy vào lấy Trà Long (phủ
Tương Dương) rồi hạ thành Nghệ An, để làm chỗ trú chân đã, nhiên hậu sẽ quay
trở ra đánh lấy Đông Đô, như thế thiên hạ có thể bình được."
Vương cho kế ấy là phải, bèn đem
quân về nam, đánh đồn Đa Căng, tướng nhà Minh là Lương Nhữ Hốt bỏ chạy.
Lấy được đồn Đa Căng rồi, Vương tiến
quân vào đánh Trà Long, đi đến núi Bồ Liệp, ở phủ Quì Châu, gặp bọn Trần Trí,
Phương Chính đem binh đến đánh, Vương bèn tìm chỗ hiểm phục sẳn; khi quân Minh
vừa đến, quân ta đổ ra đánh, chém được tướng nhà Minh là Trần Trung, giết được
sĩ tốt hơn 2.000 người, bắt được hơn 100 con ngựa. Quân Minh bỏ chạy, Vương đem
binh đến vây đánh Trà Long. Quan tri phủ là Cầm Bành chờ cứu binh mãi không
được, phải mở cửa thành ra hàng.
Từ khi Bình Định Vương khởi nghĩa
cho đến giờ, đánh với quân nhà Minh đã nhiều phen, được thua đã trải qua mấy
trận, nhưng quan nhà Minh vẫn lấy làm khinh thường, cho nên không tâu về cho
Minh Triều biết. Bấy giờ Hoàng Phúc về Tàu rồi, vua nhà Minh sai Binh Bộ Thượng
Thư là Trần Hiệp sang thay.
Trần Hiệp thấy Bình Định Vương lấy
được châu Trà Long, thanh thế lừng lẫy, bèn vội vàng làm sớ tâu cho vua nhà
Minh biết. Minh Đế mới xuống chiếu trách mắng bọn Trần Trí, Phương Chí, bắt
phải dẹp ngay cho yên giặc ấy. Bọn Trần Trí sợ hãi đem cả thủy bô, cùng tiến
lên đánh Bình Định Vương.
Vương sai Đinh Liệt đem 1.000 quân
đi đuờng tắt ra giữ Đỗ Gia 77 , còn Vương thì đem cả tướng sĩ đến ở mạn thượng
du đất Khả Lưu ở bắc ngạn sông Lam Giang (thuộc huyện Lương Sơn), rồi tìm chỗ
hiểm yếu phục binh để đợi quân Minh.
Khi quân Minh đã đến Khả Lưu, Vương
bèn sai người ban ngày thì kéo cờ đánh trống, ban đêm thì bắt đốt lửa để làm
nghi binh, rồi cho binh sang bên kia sông phục sẵn. Sáng hôm sau quân Minh tiến
lên bị phục binh
77
Vào quãng gần đồn Linh Cảm, huyện
Hương Sơn, Hà Tĩnh. bốn mặt đổ ra đánh, tướng nhà Minh là Chu Kiệt phải bắt,
Hoàng Thành phải chém, còn quân sĩ bỏ chạy cả. Trần Trí phải thu quân về giữ
thành Nghệ An.
Tháng giêng năm ất tị (1425) Vương
đem binh về đánh thành Nghệ An, đi đến làng Đa Lôi ở huyện Thổ Du (bây giờ là
huyện Thanh Chương) dân sự đưa trâu đưa rượu ra đón rước, già trẻ đều nói rằng:
không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nước cũ. Bấy giờ lại có quan tri phủ Ngọc
ma (phủ Trấn Định) là Cầm Quý đem binh mã về giúp.
Vương bèn xuống lệnh rằng: "Dân
ta lâu nay đã phải khổ sổ về chính trị bạo ngược của người Tàu, quân ta đi đến
đâu cấm không được xâm phạm đến chút gì của ai. Những gạo thóc trâu bò mà không
phải là của người nhà Minh thì không được lấy". Đoạn rồi, phân binh đi
đánh lấy các nơi, đi đến đâu các quan châu huyện ra hàng cả, đều tình nguyện đi
đánh thành Nghệ An. Vương bèn đem quân về vây thành; quân Minh hết sức giữ gìn
không dám ra đánh.
Đương khi vây đánh ở Nghệ An, tướng
nhà Minh là Lý An ở Đông Quan đem quân đi dường bể vào cứu. Quân của Trần Trí ở
trong thành cũng đổ ra đánh, Vương nhử quân Minh đến cửa sông Độ Gia, rồi dùng
phục binh đánh tan quân giặc. Trần Trí bỏ chạy về Đông Quan, còn Lý An vào giữ
thành, Vương lại đem quân về vây thành.
11. Vây Thành Tây Đô.
Đến tháng năm, Vương sai quan Tư Không
là Đinh Lễ đem binh đi đánh Diễn Châu, Đinh Lễ đi vừa đến nơi, thì gặp tướng
nhà Minh là Trương Hùng đem 300 chiếc thuyền lương ở Đông Quan mới vào, quân ở
trong thành ra tiếp, bị phục binh của Đinh Lễ đánh đuổi. Bao nhiêu thuyền lương
Đinh Lễ cướp lấy được cả, rồi đuổi Trương Hùng ra đến Tây Đô. Bình Định Vương
được tin ấy liền sai Lê Sát và Lưu Nhân Chú đem binh ra tiếp ứng Đinh Lễ. Đinh
Lễ nhân dịp tiến lên vây thành Tây Đô.
12. Lấy Tân Bình và Thuận Hóa.
Qua tháng bảy, Vương sai quan Tư Đồ
Trần Nguyên Hãn 78 , Thượng Tướng Lê Nỗ đem hơn một nghìn quân vào lấy châu Tân
Bình và châu Thuận Hóa. Đi đến Bố Chính thì gặp tướng nhà Minh là Nhâm Năng,
hai bên đánh nhau, quân nhà Minh bị phục binh đánh chạy tan cả. Bấy giờ lại có
đạo thủy quân của Lê Ngân đem hơn 70 chiếc thuyền đi đường bể vào, Trần Nguyên
Hãn liền đem cả thủy bộ tiến
78
Trần Nguyên Hãn, có nơi chép là Trần
Hãn, là cháu Trần Nguyên Đán, dòng dõi Trần Quang Khải. lên đánh hạ được hai
thành ấy, mộ thêm mấy vạn tinh binh đưa ra đánh mặt bắc.
Từ đây binh thế của Bình Định Vương
một ngaymột mạnh, các tướng tôn ngài lên làm "Đại Thiên Hành Hóa",
nghĩa là thay trời làm mọi việc.
13. Quân Bình Định Vương Tiến Ra
Đông Đô.
Năm bính ngọ (1426) Vương thấy tinh
binh của nhà Minh ở cả Nghệ An, ở ngoài Đông Đô không có bao nhiêu người, bèn
sai Lý Triện, Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Đỗ Bí ra đánh Quốc Oai, Quảng Oai, Gia
Hưng, Quý Hóa, Đà Giang, Tam Đái (Bạch Hạc), Tuyên Quang để chặn đường viện
binh ở Vân Nam sang. Sau Lưu Nhân Chú và Bùi Bị ra đánh Thiên Trường, Kiến
Xương, Tân Hưng, Thượng hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang), Bắc Giang,
Lạng Giang để chặn đường viện binh ở Lưỡng Quảng sang. Lại sai Đinh Lễ, Nguyễn
Xí đem binh đi thẳng ra đánh Đông Quan.
Quân của Bình Định Vương đi đến đâu
giữ kỷ luật rất nghiêm, không xâm phạm đến của ai chút gì, cho nên ai ai cũng
vui lòng theo phục. Bọn Lý Triện lấy được Quốc Oai và Tam Đái rồi đem quân về
đánh Đông Quan.
Quan tham tướng nhà Minh là Trần Trí
đem binh ra đóng ở Ninh Kiều 79
(phía tây phủ Giao Châu) và ở Ứng
Thiên (?) để chống giữ; quân Lý Triện đến đánh, Trần Trí thua chạy về đóng ở
phía tây sông Ninh Giang (khúc trên sông Đáy). Chợt có tin báo rằng có hơn một
vạn quân Vân Nam sang cứu. Lý Triện sợ để hai đạo quân của Minh hợp lại thì khó
đánh, bèn bảo Phạm Văn Xảo đem hơn một nghìn người đi đón chặn đường quân Vân
Nam; còn mình thì cùng với Đỗ Bí đem quân đến đánh Trần Trí. Trần Trí thua
chạy; bọn Lý Triện đuổi đến làng Nhân Mục bắt được tướng nhà Minh là Vi Lạng,
chém được hơn 1.000, rồi lại quay trở về Ninh Giang hợp binh với Văn Xảo để
đánh quân Vân Nam.
Phạm Văn Xảo đến cầu Xa Lộc (?) thì
gặp quân Vân Nam sang, đánh một trận, quân nghịc thua chạy về giữ thành tam
giang.
Trần Trí thấy thế ở Đông Quan yếu
lắm bèn viết thư vào Nghệ An gọi Phương Chính đem binh ra cứu, để giữ lấy chỗ
căn bản. Phương Chính
79
Những tên Ninh Kiều, Ninh Giang, Ứng
Thiên chắc là ở vùng huyện Từ Liêm, huyện Thanh Oai, về quãng sông Nhuệ Giang
và sông Đáy. Mà Ninh Giang có lẽ là khúc sông Đáy ở vào quãng Từ Liêm hay Thanh
Oai gì đó. được thư bèn sai Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, rồi đem quân
xuống thuyền đi đường bể ra Đông Quan.
Bình Định Vương nghe tin ấy, liền
sai Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận, Lê Văn Linh ở lại vây thành Nghệ An;
Vương tự đem đại quân cả thủy bộ Phương Chính ra bắc. Ra đến Thanh Hóa, Vương
đem binh vào đánh thành Tây Đô, nhưng quân Minh giữ vững thành trì đánh không
được, Vương đem quân đến đóng ở Lỗi Giang.
14. Trận Tụy Động - Vương Thông Thất
Thế.
Từ khi Bình Định Vương ở Lư Sơn vào
đánh Nghệ An đến giờ, đánh đâu được đấy, thanh thế lừng lẫy, quân Minh khiếp
sợ, đem tin về cho Minh Triều biết, Minh Đế liền sai Chinh Di Tướng Quân là
Vương Thông và Tham Tướng là Mã Anh đem 5 vạn quân sang cứu Đông Quan. Trần Trí
và Phương Chính thì phải cách hết cả quan tước bắt phải theo quân đi đánh giặc,
còn Trần Hiệp thì cứ giữ chức Tham Tán Quân Vụ.
Vương Thông sang đến đất Đông Quan
hội tất cả quân sĩ lại được mười vạn, cùng với bọn Trần Hiệp chia làm ba đạo đi
đánh Bình Định Vương.
Vương Thông đem quân đến đóng ở bến
Cổ Sở (thuộc huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai, Sơn Tây). Phương Chính đóng ở Sa
Thôi (thuộc huyện Từ Liêm), Mã Kỳ đóng ở Thanh Oai, đồn lũy liên tiếp nhau một
dãy dài hơn mấy mươi dặm.
Bọn Lý Triện, Đỗ Bí ở Ninh Kiều đem
quân và voi đến phục ở Cổ Lãm, rồi cho quân đến đánh nhữ Mã Kỳ. Mã Kỳ đem tất
cả quân đuổi đến cầu Tam La (ở giáp giới huyện Thanh Oai và huyện Từ Liêm),
quân phục binh của Lý Triện đổ ra đánh, quân Minh thua chạy, nhiều người xuống
đồng lầy, chạy không được, bị chém hơn 1.000 người. Lý Triện đuổi quân Minh đến
Nhân Mục, bắt được hơn 500 người. Mã Kỳ một mình một ngựa chạy thoát được.
Bọn Lý Triện thừa thắng tiến lên
đánh đạo quân Phương Chính. Nhưng Phương Chính thấy Mã Kỳ đã thua cũng rút quân
lui, rồi cùng Mã Kỳ về hội với Phương Thông ở bến Cổ Sở.
Vương Thông liệu tất thế nào quân An
Nam cũng đến đánh, bèn phục binh và phòng bị trước cả. Chợt có quân của Lý
Triện đến. Quân Minh giả ra đánh rồi bỏ chạy, nhử quân ta và chỗ hiểm có chông
sắt. Đi đến đấy, voi xéo phải chông đi không được, rồi lại có phục binh đổ ra
đánh, Lý Triện thua chạy về giữ Cao Bộ (ở vùng Chương Đức, Mỹ Lương) và cho
người về Thanh Đàm (tức là huyện Thanh Trì bây giờ) gọi bọn Đinh Lễ và Nguyễn
Xí đến cứu.
Đinh Lễ và Nguyễn Xí đem 3.000 quân
và hai con voi lập tức đêm hôm ấy đến Cao Bộ, rồi phân binh ra phục sẵn ở Tụy
Động (thuộc huyện Mỹ Lương) và ở Chúc Động (thuộc huyện Chương Đức) 80 . Chợt
bắt được tên thám tử của quân Minh, tra ra thì biết rằng quân Vương Thông đóng
ở Ninh Kiều, có một đạo quân đi lẻn ra đường sau quân Lý Triện để đánh tập hậu,
đại quân sang đò chỉ chờ lúc nào nghe súng thì hai mặt đổ lại cùng đánh.
Biết mưu ấy rồi, đến canh năm đêm
hôm ấy, Đinh Lễ sai người bắn súng làm hiệu để đánh lừa quân giặc. Quả nhiên
quân giặc nghe tiếng súng đều kéo ùa đến đánh. Bấy giờ phải độ trời mưa, đường
lầy, quân Minh vừa đến Tụy Động thì bị quân ta bốn mặt đổ ra đánh, chém được
quan Thượng Thư là Trần Hiệp, và Nội Quan là Lý Lượng. Còn những quân sĩ nhà
Minh thì chết hại nhiều lắm: phần thì giày xéo lẫn nhau mà chết, phần thì ngã
xuống sông chết đuối, cả thảy đến hơn năm vạn người; còn bị bắt sống hơn một
vạn người, các đồ đạc khí giới thì lấy được không biết bao nhiêu mà kể. Trận
Tụy Động đánh vào tháng mười năm bính ngọ (1426).
Phương Chính và Mã Kỳ chạy thoát được,
rồi cùng với Vương Thông về giữ thành Đông Quan.
Bọn Đinh Lễ thừa thắng đem binh về
vây thành và cho người về Lỗi Giang báo tin thắng trận cho Bình Định Vương
biết.
Vương liền tiến binh ra Thanh Đàm,
rồi một mặt sai Trần Nguyên Hãn đem 100 chiếc thuyền đi theo sông Lung Giang
(?) 81
ra cửa Hát Giang (cửa sông Đáy thông
với sông Cái) rồi thuận dòng sông Nhị Hà xuống đóng ở bến Đông Bộ Đầu ; một mặt
sai bọn Bùi Bị đem hơn 1 vạn quân đi lẻn ra đóng ở Tây Dương Kiều (?), Vương tự
dẫn đại quân đến hạ trại ở gần thành Đông Quan. Quân Minh giữ ở trong thành
không ra đánh, bao nhiêu chiến thuyền thì Vương lấy được cả.
Kể từ ngày Bình Định Vương đem binh
vào đánh Nghệ An đến giờ, tuy rằng đánh đâu được đấy, nhưng chưa có trận nào
quan hệ bằng trận Tụy Động này. Bởi vì việc thắng bại trong 10 phần, đánh xong
trận này, thì đã chắc được 7, 8 phần rồi. Quân thế nhà Minh chỉ còn ở trong mấy
thành bị vây
80
Tụy Động và Chúc Động ở vào quãng
huyện Chương Mỹ, phía đông có sông Đáy, phía tây có con sông con gọi là sông Bùi,
chảy vào sông Đáy, chỗ Ngã Ba Thá. 81
Chắc là một khúc sông Đáy thuộc hạt
tỉnh Hà Đông bây giờ. nữa mà thôi, mặt ngoài thì viện binh lại chưa có, mà dẫu
cho có sang nữa, thì thế của Bình Định Vương cũng đã vững lắm rồi.
Nhưng cứ trong Việt Sử thì quân của
Lý Triện và Đinh Lễ chẳng qua chỉ có mấy nghìn người mà thôi, làm thế nào mà
phá được hơn 10 vạn quân tinh binh của Vương Thông ? Vả lại sử chép rằng đánh
trận Tụy Động quân An Nam giết được hơn 5 vạn quân Minh, lại bắt được hơn 1 vạn
người, như thế chẳng hóa ra quân Minh hèn lắm ru! E rằng nhà làm sử có ý thiên
vị, cho nên sự thực không được rõ lắm. Nhưng dẫu thực hư thế nào mặc lòng, đại
khái trận Tụy Động là một trận đánh nhau to, mà Vương Thông thì thua, phải rút
quân về giữ thành Đông Quan rồi bị vây, còn Bình Định Vương thì ra bắc thu phục
các châu huyện. Việc ấy chắc là thật có.
15. Vây Thành Đông Đô.
Từ khi Bình Định Vương ra Đông Đô,
những kẻ hào kiệt ở các nơi đều nô nức về theo, xin hết sức đi đánh giặc. Vương
dùng lời úy dụ và lấy cái nghĩa lui tới mà giảng giải cho mọi người nghe, rồi
cứ tùy tài mà thu dùng.
Vương chia đất Đông Đô ra làm bốn
đạo, đặt quan văn võ để coi việc chính trị.
Cứ theo sách "Lịch Triều Hiến
Chương Địa Dư Chí" của ông Phan Huy Chú thì những trấn Tam Giang, Tuyên
Quan, Hưng Hóa, Gia Hưng thuộc về Tây Đạo; những trấn Thượng Hồng, Hạ Hồng,
Thượng Sách, Hạ Sách cùng với lộ An Bang thuộc về Đông Đạo; những trấn Bắc
Giang, Thái Nguyên thuộc về Bắc Đạo; những lộ Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hưng,
Kiến Xương, Thiên Trường thuộc về Nam Đạo.
16. Vương Thông Xin Hòa Lần Thứ
Nhất.
Vương Thông ở Đông Quan cứ bị thua
mãi, liệu thế đánh không được nữa, muốn bãi binh về Tàu, nhưng sợ mang tiếng,
bèn lục tờ chiếu của vua nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc (1407), nói về việc tìm
con cháu họ Trần, rồi cho người ra nói với Bình Định Vương tìm người dòng dõi
họ Trần lập lên, để xin bãi binh.
Vương nghĩ đánh nhau mãi, trong nước
tàn hại, dân tình khổ sở, bèn y theo lời Vương Thông. Nhân lúc bấy giờ có người
tên là Hồ Ông trốn ở Ngọc Ma, xưng là cháu ba đời vua Nghệ Tông, vương bèn cho
người đi đón Hồ Ông về đổi tên là Trần Cao, lập nên làm vua, mà Vương thì xưng
làm Vệ Quốc Công để cầu phong với nhà Minh, cho chóng xong việc.
Vương Thông cho người đưa thư ra xin
hòa, và xin cho đem toàn quân về nước. Bình Định Vương thuận cho, định ngày để
Vương Thông gọi quân ở các nơi về hội tại Đông Đô, rồi về Tàu. Việc đã định như
thế, nhưng mà bấy giờ có mấy người An Nam theo nhà Minh, như những tên Trần
Phong, Lương Nhữ Hốt, sợ rằng quân Minh về thì mình phải giết, bèn lấy chuyện Ô
Mã Nhi ngày trước can Vương Thông đừng rút quân về. Vương Thông nghe lời, bề
ngoài tuy nói hòa, nhưng bề trong sai người đào hào, rắc chông, rồi cho người
đi lẻn đem thư về Tàu cầu cứu.
Bình Định Vương bắt được người đưa
thư, giận lắm, không giao thông với quân Minh nữa, rồi sai Lê Quốc Hưng đánh
thành Điêu Diêu (huyện Gia Lâm, Bắc Ninh) và thành Thị Kiều (tức là Thị Cầu
thuộc huyện Võ Giang, Bắc Ninh); Trịnh Khả và Lê Khuyển đánh thành Tam Giang
(tức là Tam Đái, nay là huyện Bạch Hạc); Lê Sát và Lê Thụ đánh thành Xương
Giang ( tức là Phủ Lạng Thương bây giờ); Trần Lựu, Lê Bôi đánh thành Kỳ Ôn.
Chẳng bao lâu những thành ấy đều lấy được cả.
17. Bình Định Vương Đóng Quân ở Bồ
Đề.
Tháng giêng năm đinh mùi (1427),
Bình Định Vương tiến quân lên đóng ở chỗ Bồ Đề, ở phía bắc sông Nhị Hà, rồi sai
tướng đánh thành Đông Quan: Trịnh Khả đánh cửa Đông, Đinh Lễ đánh cửa Nam, Lê
Cực đánh cửa Tây, Lý Triện đánh cửa Bắc.
Quân nhà Minh một ngày một kém,
tướng nhà Minh giữ thành Nghệ An và thành Diễn Châu là bọn Thái Phúc và Tiết Tụ
đều ra hàng cả. Bình Định Vương lại sai Lại Bộ Thượng Thư là ông Nguyễn Trãi,
làm hịch đi khuyên tướng sĩ các nơi về hàng.
Nhưng cũng vì thấy quân Minh đã yếu
thế, có ý khinh định cho nên quân ta mất hai viên đại tướng. Trước thì Lý Triện
đóng ở Từ Liêm, không cẩn thận, bị quân của Phương Chính đến đánh lẻn giết mất;
sau Vương Thông ở Đông Quan đem binh ra đánh Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt (thuộc
huyện Thanh Trì), Vương sai Đinh Lễ và Nguyễn Xí đem 500 quân đi cứu. Đi đến Mỹ
Động (thuộc Hoàng Mai, huyện Thanh Trì) gặp quân Minh, hai bên đánh nhau. Vương
Thông thấy quân Đinh Lễ có ít, bèn vây lại đánh bắt được Đinh Lễ và Nguyễn Xí.
Nguyễn Xí trốn đi được, còn Đinh Lễ bị giết.
18. Bình Định Vương Đặt Pháp Luật Để
Trị Quân Dân.
Bình Định Vương cứ một mặt vây đánh
thành Đông Quan và các thành khác, một mặt lo việc cai trị, đặt ra các điều lệ
để cho việc binh có kỷ luật và cho lòng dân được yên.
Trước hết Vương dụ cấm tà đạo: ai mà
dùng những phép tà ma giả dối để đánh lừa người ta thì phải tội. Còn những dân
sự bị loạn phải lưu tán đi chỗ khác cho về nguyên quán, cứ việc làm ăn như cũ.
Những vợ con gia quyến của những
người ra làm quan với giặc, thì được phép theo lệ, lấy tiền mà chuộc 82 ; còn
những quân lính nhà Minh đã hàng thì đưa về Thiên Trường, Kiến Xương, Lý Nhân,
Tân Hưng để nuôi nấng tử tế.
Vương đặt ra ba điều để răn các
quan: 1. Không được vô tình. 2. Không được khi mạn. 3. Không được gian dâm
Và lại dụ rằng những quân lính ngày
thường có tội không được giết càn, trừ lúc nào ra trận mà trái quân lệnh thì
mới theo phép mà thi hành.
Vương lại đặt ra 10 điều để làm kỷ
luật cho các tướng sĩ: 1. Trong quân ồn ào không nghiêm. 2. Không có việc gì mà
đặt chuyện ra để làm cho mọi người sợ hãi. 3. Lúc lâm trận nghe trống đánh,
thấy cờ phất, mà chùng chình không tiến. 4. Thấy kéo cờ dừng quân mà không
dừng. 5. Nghe tiếng chiêng lùi quân mà không lùi 6. Phòng giữ không cẩn thận,
để mất thứ ngũ. 7. Lo riêng việc vợ con, mà bỏ việc quân. 8. Tha binh đinh về
để lấy tiền, và làm sổ sách mập mờ. 9. Theo bụng yêu ghét của mình mà làm lòa
mất công quả của người ta. 10. Gian dâm, trộm cắp.
Hễ tướng sĩ ai mà phạm vào 10 điều
ấy thì phải tội chém.
Còn quân lính, thì hễ nghe một tiếng
súng mà không có tiếng chiêng, thì các tướng hiệu phải đến dinh nghe lệnh; hễ
nghe hai ba tiếng súng và hai ba tiếng chiêng ấy là có việc cảnh cấp, quan chấp
lệnh phải sắp hàng ngũ, còn quan thiếu úy thì đến dinh mà nghe lệnh; hễ đến lúc
lâm trận mà lùi hoặc là bỏ những người sau không cứu, thì phải tội chém, nhưng
gián hoặc đã có ai không may chết trận mà mình hết sức mang được xác ra thì
khỏi tội.
82
Vợ con của quan Bố Chính thì phải 70
quan; vợ con những sinh viên và thổ quan thì 10 quan; còn những con trai, con
gái đầy tớ, đứa ở thì 5 quan.
Đại khái kỷ luật ở trong quân của Bình
Định Vương như thế, cho nên đi đâu, dân gian kính phục lắm.
19. Trận Chi Lăng - Liễu Thăng Tử
Trận.
Từ khi quân Minh thua trận Tụy Động,
Trần Hiệp bị giết, Vương Thông cho người về tâu với Minh Đế để xin thêm binh.
Minh Đế thất kinh, liền sai Chinh Lỗ Phó Tướng Quân An Viễn Hầu là Liễu Thăng,
Tham Tướng Bảo Định Bá là Lương Minh, Đô Đốc là Thôi Tụ, Binh Bộ Thượng Thư là
Lý Khánh, Công Bộ Thượng Thư là Hoàng Phúc, Hữu Bố Chính Sứ là Nguyễn Đức Huân,
đem 10 vạn quân, hai vạn ngựa, đi đường Quảng Tây sang đánh cửa Ba Lụy, bấy giờ
là tháng chạp năm bính ngọ (1427). Lại sai Chinh Nam Đại Tướng Quân Kiềm Quốc
Công là Mộc Thạnh, Tham Tướng Anh Hưng Bá là Từ Hanh, Tây Ninh Bá là Đàm Trung
đi đường vào Vân Nam sang đánh cửa Lê Hoa.
Khi các tướng nghe viện binh của
quân Minh sắp đến, nhiều người khuyên Vương đánh ngay lấy thành Đông Quan để
tuyệt đường nội ứng, nhưng Vương không nghe, bảo rằng: "Việc đánh thành là
hạ sách, nay ta hãy cứ dưỡng binh súc nhuệu để đợi quân địch đến thì ra đánh.
Hễ viện quân mà thua, thì quân trong thành tất phải ra hàng. Thế có phải làm
một việc mà thành được hai không?" Đoạn rồi bắt phải giữ gìn mọi nơi cho
nghiêm nhặt, lại bắt người ở Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái, Tuyên Quan, Quy
Hóa đi chỗ khác, bỏ đồng không để tránh quân Minh.
Đến tháng mười (1427) Bình Định
Vương nghe tin quân của bọn Liễu Thăng đã sắp sang đất An Nam, liền hội các
tướng lại bàn rằng: "Quân kia cậy khoẻ khinh yếu, lấy nhiều bắt nạt ít,
chỉ cốt đánh cho được, chứ không tưởng đến điều khác. Nay đường xa nghìn dặm,
mà đi có mấy ngày, nếu ta nhân lúc người ngựa của chúng đang mỏi mệt, ta
"dĩ dật đãi lao", đánh là tất được". Bèn sai Lê Sát, Lưu Nhân
Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ đem 1 vạn quân và 5 con voi lên phục sẵn ở cửa
Chi Lăng, để đợi quân Minh. Lại sai Lê Lý, Lê Văn An, đem 3 vạn quân cứ lục tục
kéo lên đánh giặc.
Bấy giờ Trần Lựu đang giữ cửa Ba Lụy
(Nam Quan) thấy quân Minh đến, lui về giữ Ai Lưu; đến khi quân giặc đến đánh Ai
Lưu, Trần Lựu lại lùi về giữ Chi Lăng, cứ cách từng đoạn, chỗ nào cũng có đồn,
quân Minh đi đến đâu không ai dám chống giữ, phá luôn một lúc được những mấy
cái đồn. Liễu Thăng đắc ý đuổi tràn đi. Bình Định Vương lại làm ra bộ khiếp sợ,
cho người đưa thư sang nói với Liễu Thăng xin lập Trần Cao lên làm vua để xin
bãi binh. Liễu Thăng tiếp thư không mở ra xem cho người đưa về Bắc Kinh, rồi cứ
tiến lên đánh.
Ngày 18 tháng 9, quân Liễu Thăng đến
gần cửa Chi Lăng. Lê Sát sai Trần Lựu ra đánh rồi bỏ chạy. Liễu Thăng mừng lắm,
chỉ đem 100 lính kị đuổi theo, bỏ đại đội ở lại sau. Đuổi được một đoạn, phải
chỗ bùn lầy đi không được, phục binh ta đổ ra đánh, chém Liễu Thăng ở núi Đảo
Mã Pha (bây giờ là Mã Yên Sơn, ở làng Mai Sao, thuộc Ôn Châu). Việc ấy vào ngày
20 tháng 9 năm đinh mùi.
Bọn Lê Sát, Trần Lựu thừa thắng đuổi
đánh quân Minh giết hơn 1 vạn người. Lúc bấy giờ đạo quân của Lê Lý cũng vừa
đến, hội lại tiến lên đánh quân Minh, chém được Lương Minh ở giữa trận (ngày
25). Lý Khánh thì tự tử (ngày 28). Còn bọn Hoàng Phúc và Thôi Tụ đem bại binh
chạy về thành Xương Giang (thành của nhà Minh xây ở xã Thọ Xương, phủ Lạng
Giang), đi đến nữa đường bị quân của Lê Sát đuổi đến đánh phá một trận; Thôi Tụ
cố đánh lấy đường chạy về Xương Giang, không ngờ thành ấy đã bị bọn Trần Nguyên
Hãn lấy mất rồi, quân Minh sợ hãi quá bèn lập trại đắp lũy ở giữa đồng để chống
giữ.
Bình Định Vương sai quân thủy bộ vây
đánh, sai Trần Nguyên Hãn chặn đường tải lương của quân Minh, lại sai Phạm Vấn,
Lê Khôi, Nguyễn Xí đem quân thiết đội vào đánh chém quân Minh được hơn 5 vạn,
bắt sống được Hoàng Phúc, Thôi Tụ và 3 vạn quân. Thôi Tụ không chịu hàng phải
giết.
Bấy giờ Mộc Thạnh với bọn Phạm Văn
Xảo và Trịnh Khả đang giữ nhau ở cửa Lê Hoa. Trước Vương cũng đã liệu rằng Mộc
Thạnh là người lão luyện tất chờ xem quân Liễu Thăng thắng bại thế nào rồi mới
tiến, bèn sai đưa thư dặn bọn Văn Xảo cứ giữ vững chứ đừng ra đánh. Đến khi
quân Liễu Thăng thua rồi, Vương cho những tên tì tướng đã bắt được, đem những
giấy má ấn tín lên cho Mộc Thạnh biết.
Mộc Thạnh được tin ấy, sợ quá, đem
quân chạy, bị quân Trịnh Khả đuổi theo chém được hơn 1 vạn người và bắt được cả
người lẫn ngựa mỗi thứ hơn một nghìn.
20. Vương Thông Xin Hòa Lần Thứ Hai.
Bình Định Vương sai đưa bọn Hoàng
Phúc và hai cái hổ phù, hai dấu đài ngân của quan Chinh Lỗ Phó Tướng Quân về
Đông Quan cho Vương Thông biết.
Vương Thông biết rằng viện binh sang
đã bị thua rồi, sợ hãi quá, viết thư xin hòa. Vương thuận cho, rồi cùng với
Vương Thông lập đàn thề ở phía nam thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp thì đem
quân về Tàu.
21. Trần Cao Dâng Biểu Xin Phong.
Bình Định Vương đã hòa với Vương
Thông rồi, quân Minh ở Tây Đô và ở các nơi đều giải binh cả. Vương sai Lê Thiếu
Dĩnh, Lê Quang Cảnh và Lê Đức Huy đem tờ biểu và phương vật sang sứ nhà Minh.
Những đồ phương vật là: 1. Hai người
bằng vàng để thay mình. 2. Một lư hương bằng bạc. 3. Một đôi bình hoa bằng bạc
4. Ba mươi tấm lượt. 5. Mười bốn đôi ngà voi. 6. Mười hai bình hương trầm. 7.
Hai vạn nén hương duyến. 8. Hai mươi bố cây hương trầm.
Và lại đem hai cái dấu đài ngân, đôi
hổ phù của Chính Lỗ Phó Tướng Quân cùng với sổ kê những người quan quân nhân mã
đã bị bắt đem trả lại Minh Triều.
Còn tờ biểu thì đứng tên Trần Cao,
đại lược như sau này:
"Khi vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế
mới lên ngôi, tổ tiên tôi là Nhật Khuê vào triều cống trước nhất, bấy giờ ngài
có ban thưởng, phong cho tước Vương. Từ đó nhà tôi vẫn nối đời giữ bờ cõi,
không bỏ thiếu lễ triều cống bao giờ.
Mới rồi nhân họ Hồ thoán nghịch, vua
Thái Tông Văn Hoàng Đế quân sang hỏi tội. Sau khi đã dẹp yên rồi, ngài có hạ
chiếu tìm con cháu họ Trần để giữ lấy dòng dõi cúng tế. Bấy giờ quan tổng binh
Trương Phụ tìm chưa được khắp, đã xin đặt làm quận huyện.
Nguyên tôi lúc trước vì trong nước
có loạn, chạy trốn vào xứ Lão Qua, cũng là muốn để tìm chốn yên thân mà thôi,
không ngờ người trong nước, vẫn quen thói mọi, nhớ đến ân trạch nhà tôi thuở
trước, lại cố ý ép tôi phải về, bất đắc dĩ tôi cũng phải theo.
Dẫu rằng trong khi vội vàng, bị
người trong nước cố ép, nhưng cũng là cái tội tôi không biết liệu xử. Mới đây
tôi đã có xin lỗi trước hàng quân, nhưng không ai chịu nghe, bấy giờ người nước
tôi sợ phải tai vạ, liền đem nhau ra phòng bị các cửa ải, cũng là một kế giữ
mình.
Ngờ đâu quan quân xa xôi mới đến
thấy voi sợ hãi, tức khắc vỡ tan. Việc đã xảy ra như vậy, dẫu bởi sự bất đắc dĩ
của người trong nước cũng là lỗi của tôi. Nhưng bao nhiêu những quân và ngựa
bắt được đều phải thu dưỡng tử tế, không dám xâm phạm một tí gì.
Dám xin hoàng thượng ngày nay lại
theo như lời chiếu của vua Thái Tông Văn Hoàng Đế, tìm lấy con cháu họ Trần,
nghĩ đến cái lòng thành vào triều cống trước nhất của tổ tiên tôi ngày xưa, mà
xá cái tội to như gò núi ấy, không bắt phải cái phạt nặng bằng búa rìu, khiến
cho tôi được nối nghiệp ở xứ nam, để giữ chức triều cống.
Tôi đã sai người thân tín mang tờ
biểu tạ và đưa trả những ấn tín nhân mã tới chốn kinh sư, nay lại xin đệ tâu
những danh số ấy"
Vua nhà Minh bấy giờ là Tuyên Tông
xem biểu biết rằng giả dối, nhưng cũng muốn nhân dịp ấy để thôi việc binh, bèn
đưa tờ biểu cho quần thần xem, mọi người đều xin hòa. Minh Đế sai quan Lễ Bộ
Thị Lang là Lý Kỳ đưa chiếu sang phong cho Trần Cao làm An Nam Quốc Vương, bỏ
tòa Bố Chính và triệt quân về Tàu.
Đến tháng chạp năm đinh mùi, Vương
Thông theo lời ước với Bình Định Vương, đem bộ binh qua sông Nhị Hà, còn thủy
quân theo sau.
Bấy giờ có người xui Vương rằng: lúc
trước người Minh tàn ác lắm, nên đem giết cả đi. Vương nói rằng: " Phục
thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng cái bản tâm người có nhân
không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đã hàng mà lại còn giết thì không
hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ
hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được cái mối tranh
chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh".
Vương không giết người Minh lại cấp
cho thủy quân 500 chiếc thuyền giao cho Phương Chính và Mã Kỳ quản lĩnh; cấp
lương thảo cho lục quân giao cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc quản lĩnh; còn 2 vạn người
đã ra hàng và đã bị bắt thì giao cho Mã Anh quản lĩnh đem về Tàu. Vương Thông
thì lĩnh bộ binh đi sau. Bình Định Vương tiễn biệt rất hậu.
Giặc Minh lục tục về bắc, bấy giờ
mới thật là: Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế Cư; nước Nam lại được tự chủ như cũ.
23. Tờ Bình Ngô Đại Cáo.
Bình Định Vương dẹp xong giặc Minh
rồi, sai ông Nguyễn Trãi làm tờ bá cáo cho thiên hạ biết.
Tờ Bình Ngô Đại Cáo này làm bằng Hán
Văn, là một bản văn chương rất có giá trị trong đời Lê. Nay theo nguyên văn ở
trong tập Hoàng Việt Văn Tuyển mà chép ra như sau này:
Bình Ngô Đại Cáo
Tượng mảng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân
điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn
hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây
nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược
có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết
nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô
Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng 83 .
Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong
nước nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược 84 , bọn gian tà còn
bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới
hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân
nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm 85
vét không sơn trạch. Nào lên rừng
đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn hại
cả côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả điên liên 86 . Kẻ há miệng, đứa
nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào
phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi.
Độc ác thay ! trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay ! nước bể không rửa sạch
mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã
nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch tặc.
Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai
sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay,
lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn
một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
83
Minh trưng: chứng cớ rõ ràng. 84
Tứ ngược: Hết sức tàn ngược. 85
Khoa liễm: Thuế má. 86
Quan: Người không vợ; Quả: người góa
chồng; Điên Liên: những kẻ không có nhà ở, không trông cậy vào đâu được.
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài
như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông 87 ; mấy thủa đợi chờ, luống
đằng đẵng cỗ xe hư tả 88 . Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ
như kẻ vọng dương 89 . thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng
nịch 90 . Phần thì giận hung đồ ngang dọc, phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi
Linh Sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi huyện quân không một lữ. Có lẽ trời muốn
trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma; cho nên ta cố gắng gan
bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phất phới, ngóng vân
nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng
phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được
luôn.
Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy
chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy, miền Trà Lân trúc
phá tro baỵ Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía
chạy tan; Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh. Đánh Tây Kinh phá tan thế
giặc, lấy Đông Đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông; bến Tụy
Động xác đầy ngoại nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng. Lý Lương lại phơi thây. Vương
Thông hết cấp lo lường, Mã Anh không đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó
tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu
khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm
phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham
công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Đức 91
, nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.
Năm đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiếng san; lại năm nay tháng
mười, Mộc Thạnh tự Vân Nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc
quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu
Thăng thua ở Chi Lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã Yên. Hai mươi lăm, Lương
Minh trận vong; hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo
giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt
tặc. Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng
mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình ngạc,
đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt
toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói
87
Dục đông: ý nói muốn về lấy Đông Đô.
88
Hư tả: Cỗ xe không bên trái để đợi
người hiền. 89
Vọng dương: Trông ra biển không thấy
gì. 90
Chửng nịch: Vớt người chết đuối. 91
Vua Tuyên Tông nhà Minh, niên hiệu
Tuyên Đức. để ra hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang,
Bình Than máu trôi đỏ nước. Gớm ghê thay ! sắc phong vân cũng đổi; thảm đạm
thay ! sáng nhật nguyệt phải mờ. Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật;
quân Mộc Thạnh tan chưn Cần Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh Câu, nước
sông rền rĩ; thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn
chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã
vẫy đuôi phục tôi; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ,
Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi. Nó
đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ
ngơi.
Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại
suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt, xã tắc từ đầy vững nền. Nhật
nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn,
thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che
chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi !
Vẫy vùng một mảng nhung y nên công
đại định, phẳng lặng bốn bề thái vũ mở hội vĩnh thanh. Bá cáo xa gần, ngỏ cùng
cho biết.
Bình Ngô Đại Cáo
Cái văn : nhân nghĩa chi cử, yếu tại
an dân; điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. Duy ngã Đại-Việt chi quốc, thực vi
văn-hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực ký thù, Nam Bắc chi phong-tục diệc
dị. Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc, dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi
các đế nhất phương. Tuy cường nhược thì hữu bất đồng, nhi hào kiệt thế vị
thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong. Toa Đô ký cầm ư Hàm-tử quan, Ô Mã hựu ế ư
Bạch-đằng hải. Kê chư vãng cổ, quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ-chính chi phiền-hà,
trí-sử nhân-tâm chi oán-bạn. Cuồng-Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân; ngụy
đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc. Hân thương-sinh ư ngược-diễm, hảm xích-tử
ư họa-khanh. Khi thiên võng dân, quỷ-kế cái thiên vạn trạng; liên binh kết hấn,
nẫm ác đãi nhị thập niên. Bại nghĩa thương nhân, kiền khôn ky hồ dục tức; trọng
khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di. Khai kim-trường, tắc mạo lam-chướng
nhi phủ sơn đào sa; thái minh-châu, tắc xúc giao-long nhi hoàn yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh, điễn vật chức thúy cầm chi võng la. Côn
trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh, quan quả điên-liên câu bất hoạch
dĩ an kỳ sở. Tuấn sinh dân chi huyết, dĩ nhuận kiệt-hiệt chi vẫn nha; cực thổ
mộc chi công, dĩ sùng công tư chi giải vũ. Châu lý chi chinh dao trọng khốn, lư
diêm chi trữ trục giai không. Quyết Đông-hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô;
Khánh Nam-sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác. Thần nhân chi sở cộng phẫn, thiên
địa chi sở bất dung.
Dư phấn tích Lam-sơn, thê thân hoang
dã. Niệm thế-thù khởi khả cộng đái, thệ nghịch-tặc nan dữ câu sinh. Thống tâm tật
thủ giả thùy thập dư niên, thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật. Phát phẫn
vong thực, mỗi nghiên đàm thao-lược chi thư; tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng
vong chi lý. Đồ hồi chi chí, ngộ mỵ bất vong. Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ nhân tài thu diệp, tuấn kiệt
thần tinh. Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân, mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ
trợ. Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất-uất nhi dục đông; cố ư đãi hiền chi xa,
thường cấp-cấp dĩ hư tả. Nhiên kỳ đắc nhân chi hiệu, mang nhược vọng dương; do
kỷ chi thành, thậm ư chửng nịch. Phẫn hung-đồ chi vị diệt, niệm quốc-bộ chi tao
truân. Linh-sơn chi thực tận kiêm tuần, Khôi-huyện chi chúng vô nhất lữ. Cái
thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhâm, cố dư ích lệ chi dĩ tế vu nạn. Yết can
vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập; đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. Dĩ
nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị; dĩ quả địch chúng, thường thiết
phục dĩ xuất kỳ.
Tốt năng dĩ đại nghĩa nhi thắng
hung-tàn, dĩ chi nhân nhi dịch cường-bạo. Bồ-đằng chi đình khu điện xiết,
Trà-lân chi trúc phá khôi phi. Sĩ khí dĩ chi ích tăng, quân thanh dĩ chi đại
chấn. Trần Trí, Sơn Thọ, văn phong nhi trĩ phách; Lý An, Phương Chính, dả tức
dĩ thâu sinh. Thừa thắng trường khu, Tây-kinh ký vi ngã hữu; tuyển phong tiến
thủ, Đông-đô tận phục cựu cương. Ninh-kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn
lý; Tụy-động chi thi tích dã, di xú thiên niên. Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký
kiêu kỳ thủ; Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bộc quyết thi. Vương Thông lý loạn
nhi phần giả ích phần, Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ. Bỉ trí cùng nhi lực
tận, thúc thủ đãi vong; ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất. Vị bỉ
tất dịch tâm nhi cải lự, khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô. Chấp nhất kỷ chi
kiến, dĩ giá họa ư tha nhân; tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên-hạ.
Toại lệnh Tuyên- đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; nhưng mệnh Thạnh Thăng chi
nhụ tướng, dĩ du cứu phần. Đinh-vị cửu nguyệt, Liễu Thăng toại dẫn binh do
Khâu-ôn nhi tiến; bản niên bản nguyệt, Mộc Thạnh diệc phân đồ tự Vân-nam nhi
lai. Dư tiền ký tuyển binh tắc hiểm dĩ tồi kỳ phong, dư hậu tái điều binh tiệt
lộ dĩ đoạn kỳ thực. Bản nguyệt thập bát nhật, Liễu Thăng vi ngã quân sở công,
kế đọa ư Chi-lăng nhi dã; bản nguyệt nhị thập nhật, Liễu Thăng vi ngã quân sở
bại, thân tử ư Mã-yên chi sơn. Nhị thập ngũ nhật, Bảo-định bá Lương Minh trận
hãm nhi táng khu; nhị thập bát nhật, thượng-thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại nghinh nhận nhi giải, bỉ tự
đảo qua tương công. Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, kỳ dĩ thập nguyệt
trung tuần nhi điễn diệt. Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ, thân mệnh trảo nha chi
thần. Ẩm tượng nhi hà thủy can, ma đao nhi sơn thạch khuyết. Nhất cổ nhi kình
khô ngạc đoạn, tái cổ nhi điểu tán quân kinh. Quyết hội nghị ư băng đê, chấn
cương phong ư cảo diệp. Đô-đốc Thôi Tụ tất hàng nhi tống khoản, thượng-thư
Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm. Cương-thi tắc Lạng-giang, Lạng-sơn chi đồ;
chiến-huyết xích Xương-giang, Bình-than chi thủy. Phong vân vị chi biến sắc,
nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân-nam binh vi ngã quân sở ách ư
Lê-hoa, tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá đảm. Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng
quân đại bại ư Cần- trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân. Lãnh-câu
chi huyết xử phiêu, giang-thủy vị chi ô yết; Đan-xá chi thi sơn tích, dã thảo
vị chi ân hồng. Lưỡng lộ cứ binh, ký bất tuyền chủng nhi âu bại; các thành cùng
khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng. Tặc thủ thành cầm, bỉ ký điệu ngạ- hổ
khất liên chi vỹ; thần vũ bất sát, dư diệc thể Thượng-đế hiếu sinh chi tâm.
Tham-tướng Phương Chính, nội-quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ
hải nhi do thả hồn phi phách táng. Tổng-binh Vương Thông, tham-chính Mã-Anh,
hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh. Bỉ ký úy
tử tham sinh, nhi tu hiếu hữu thành; dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân đắc
tức.
Phi duy kế mưu chi cực kỳ thâm viễn,
cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn. Xã-tắc dĩ chi điện an, sơn xuyên dĩ chi cải
quán. Kiền khôn ký bĩ nhi phục thái, nhật nguyệt ký hối nhi phục minh. Vu dĩ
khai vạn thế thái bình chi cơ, vu dĩ tuyết thiên cổ vô-cùng chi sỉ. Thị do
thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.
Ô-hô! Nhất nhung đại-định, ngật
thành vô cạnh chi công; tứ hải vĩnh-thanh, dản bố duy-tân chi cáo. Bá cáo hà
nhĩ, hàm sử văn tri.
CHƯƠNG XV NHÀ LÊ (1428-1788) Thời-Kỳ
Thống-Nhất (1428-1527)
I. Lê Thái Tổ
1. Bình-định-vương lên ngôi tôn
2. Việc học-hành
3. Luật-lệ
4. Việc cai-trị
5. Phép quân-điền
6. Việc binh-lính
7. Công thần bị giết
II. Lê Thái Tông
III. Lê Nhân Tông
1. Cai-trị
2. Việc thuế-lệ
3. Việc canh-nông
4. Nhà sinh-tế
5. Việc sửa phong-tục
6. Địa-đồ nước Nam
7. Đại-Việt sử-ký
8. Việc văn-học
9. Việc vũ-bị
10. Đánh Chiêm-thành
11. Đánh Lão-qua
12. Đánh Bồn-man
13. Việc giao-thiệp với Tàu
V. Lê Hiến Tông
VI. Lê Túc Tông và Lê Uy Mục
VII. Lê Tương Dực
1. Việc thuế-má
2. Đại-Việt thông-giám
3. Sự biến-loạn
VIII. Lê Chiêu Hoàng và Lê Cung
Hoàng
1. Giặc Trần Cao quấy-nhiễu ở
Đông-đô
2. Quan trong Triều làm loạn
3. Mạc đăng Dung chuyên quyền
I. Lê Thái Tổ ( 1428 - 1433 ) Niên-hiệu:
Thuận Thiên
1. Bình Định Vương Lên Ngôi Tôn.
Bình-định-vương là Lê Lợi có công
dẹp giặc Minh, đem lại giang-sơn cho nước nhà. Nhưng vì trước phải lấy cớ lập
con cháu nhà Trần để cầu hòa với nhà Minh, cho nên phải tôn Trần Cao lên làm
vua. Nay việc chiến-tranh đã xong, lòng người theo về Bình-định-vương, mà Trần
Cao cũng biết chừng không ai để cho mình ở yên, bèn trốn vào châu Ngọc-Ma
(thuộc phủ Trấn-ninh) nhưng bị quan quân đuổi bắt được, đem về bắt phải uống
thuốc độc mà chết.
Trần Cao chết rồi, Bình-định-vương
lên ngôi tức là vua Thái-tổ nhà Lê, đặt quốc-hiệu là Đại-Việt. Năm ấy là năm
mậu-thân, lịch Tây là năm 1428.
Vua Thái-tổ sai sứ sang cầu phong
bên Tàu, nhưng mà nhà Minh không chịu, bắt phải tìm con cháu nhà Trần để lập
lên làm vua. Sứ nhà Minh đi về hai ba lần, sau vua Thái-tổ bắt các quan viên và
phụ lão trong nước làm tờ khai rằng con cháu nhà Trần thật không còn ai nữa, và
xin phong cho ngài là Lê Lợi làm vua nước Nam. Vua nhà Minh thấy vậy mới thuận
phong vương cho ngài.
Từ đấy lệ cứ 3 năm phải sang cống
nhà Minh một lần, mà lần nào cũng phải đúc hai người bằng vàng gọi là:
"đại thân kim nhân ". Có lẽ là lúc đánh trận Chi-lăng có giết mất
tướng nhà Minh là Liễu Thăng và Lương Minh, cho nên phải đúc hai người bằng
vàng thế mạng.
Việc cầu phong và việc chịu cống
nước Tàu là việc thế bất-đắc-dĩ, vì rằng nước ta đối với nước Tàu thì lớn nhỏ
khác nhau nhiều lắm; vả lại nước ta một mình lẻ-loi ở phía nam không có
vây-cánh nào cả, như vậy, nếu mà cứ kháng-cự, không chịu kém một tí, thì không bao
giờ yên được. Mà dẫu bề ngoài mình chịu kém nước Tàu, nhưng kỳ thực bề trong
vẫn tự chủ, chứ người Tàu không xâm-phạm gì đến việc nước mình. Thế cũng là một
sự giao-thiệp khôn-khéo, làm cho nước được yên-trị.
Vua Thái-tổ lên ngôi rồi, phong
thưởng cho các công-thần: bên văn thì ông Nguyễn Trãi đứng đầu, bên võ thì ông
Lê Vấn đứng đầu, cả thảy là 227 người đều được quốc-tính cả. Ngài lại phong cho
ông Nguyễn Trãi là Quan-phục-hầu, ông Trần nguyên Hãn là Tả-tướng-quốc, ông
Phạm văn Xảo làm Thái-úy.
Những người công-thần vào bậc thứ
nhất thì được thưởng tước là Thượng-trí-tự, bậc thứ nhì thì được tước là
Đại-trí-tự, bậc thứ ba thì được tước là Trí-tự.
2. Việc Học Hành.
Vua Thái-tổ sửa-sang việc học-hành,
đặt trường Quốc-tử-giám ở đất kinh-đô để cho con cháu các quan viên và những
người thường dân tuấn-tú vào học-tập; mở nhà học và đặt thầy dạy nho-học ở các
phủ và các lộ. Rồi lại bắt các quan văn vũ từ tứ phẩm trở xuống phải vào thi
Minh-kinh-khoa,
nghĩa là quan văn thì phải thi
kinh-sử, quan vũ thì phải thi vũ-kinh. ở các lộ cũng mở khoa thi Minh-kinh
để cho những người ẩn-dật ra ứng-thí
mà chọn lấy nhân-tài.
Những người đi tu đạo Phật, đạo Lão
cũng bắt phải thi kinh điển những đạo ấy; hễ ai thi trúng thì mới cho phép được
làm tăng và đạo-sĩ, ai thi hỏng thì phải về tục làm ăn.
3. Luật Lệ.
Đặt ra luật-lệ mới theo như
hình-luật nhà Đường: có tội xuy, tội trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử.
Tội xuy chia ra làm 5 bậc từ 10 roi
đến 50 roi; tội trượng cũng chia ra làm 5 bậc, từ 60 đến 100 trượng; tội đồ
chia ra làm 3 bậc: đồ làm dịch đinh, đồ làm lính chuồng voi, và đồ làm lính
đồn-điền; tội lưu chia ra làm 3 bậc : lưu đi cận châu, lưu đi viễn châu và lưu
đi ngoại châu 92 ; tội tử cũng chia ra làm 3 bậc: tội thắt cổ và chém, tội chém
bêu đầu và tội lăng-trì.
Hễ ai được vào hàng bát nghị 93
thì trước phải tâu xin nghị, khi vào
nghị xong rồi lại phải tâu để vua xét lại. Những người cựu thần có công từ
ngũ-phẩm dĩ thượng, có ai phạm tội đồ hay là tội lưu thì cũng tha cả; con cháu
những người được
nghị công
mà có tội, thì cứ theo cái thứ bậc
tập
92
Lưu đi cận châu là vào Nghệ-an, đi
viễn châu là vào Bố-chính, đi ngoại châu là vào Tân-bình. 93
Bát nghị là : Nghị thân, nghị cố,
nghị hiền, nghị năng, nghị công, nghị quí, nghị cần, nghị tân. Xem ở sách
Chu-lễ thì biết rõ. ấm của ông cha mà giảm cho. Những quan viên, quân dân ai có
lầm-lỗi, nhỡ ra phạm đến tội lưu trở xuống thì được cho chuộc. Những người 70
tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống hay là có phế-tật mà phạm tội lưu trở xuống,
thì cũng được cho chuộc. Những người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống hay là
đốc-tật, thì cứ thứ-tự giảm bớt cho. Những người phạm tội gì hay là phạm tội
ăn-trộm, ăn-cắp của người ta mà tự mình ra thú nhận trước, thì được lượng tội
mà giảm cho ít nhiều.
Trong nước bấy giờ có nhiều người
du-đãng cứ rượu chè cờ bạc, không chịu làm ăn tử-tế, vậy nên đặt ra phép nghiêm
để trừng-trị : ai đánh đổ-bác bắt được phải chặt ngón tay mất ba phân; đánh cờ,
bắt được phải chặt ngón tay mất một phân; không có việc gì quần-tụ nhau để rượu
chè, phải đánh 100 trượng, người dung chứa những kẻ ấy cũng phải tội, nhưng mà
được giảm đi một bậc.
Sự nghiêm-phạt như thế, thì có
thái-quá thật, vì là làm tàn-hại đến thân-thể người ta, nhưng mà cũng có
công-hiệu, khiến cho trong nước bớt có thứ người cả đời không chịu làm gì, chỉ đi
đánh lừa người mà kiếm ăn.
4. Việc Cai Trị.
Khi vua Thái-tổ mới ở Nghệ-an ra
Đông-đô, thì đã chia nước ra làm bốn đạo, nay lại đặt thêm một đạo nữa gọi là
Hải-tây- đạo, gồm cả Thanh-hóa, Nghệ-an, Tân-bình và Thuận-hóa.
Trong các đạo, đạo nào cũng có quan
Hành-khiển để giữ sổ-sách về việc quân-dân. Còn như các xã-thôn thì cứ xã nào
có hơn 100 người trở lên, gọi là đại xã, đặt ba người xã quan; xã nào có 50
người trở lên, gọi là trung xã, đặt hai xã quan; xã nào có 10 người trở lên gọi
là tiểu xã, đặt một người xã quan để coi việc trong xã.
5. Phép Quân Điền.
Bấy giờ thường những người không có
công-lao gì với nhà-nước thì lắm ruộng nhiều nương, mà những kẻ phải đánh đông
dẹp bắc lao-lung khổ-sở, lúc về một tấc đất cũng không có. Vì thế cho nên vua
Thái-tổ định ra phép quân-điền
để lấy công điền, công thổ mà chia
cho mọi người, từ quan đại-thần cho đến những người già yếu cô quả, ai cũng có
một phần ruộng, khiến cho sự giàu nghèo ở trong nước khỏi chênh-lệch lắm.
6. Việc Binh Lính.
Khi giặc Minh hãy còn ở nước Nam,
thì phải cần có nhiều quân binh, cho nên lúc quân An-nam ta mới ra Đông-đô, cả
thảy được 25 vạn, sau lấy được Đông-đô rồi cho 15 vạn về làm ăn, chỉ để lại 10
vạn để phòng-vệ mà thôi, nay lại chia quân ra làm 5 phiên, một phiên ở lại lưu
ban còn bốn phiên cho về làm ruộng, cứ lần lượt thay đổi nhau mà về.
7. Công Thần Bị Giết.
Vua Thái-tổ vẫn là một ông vua anh
tài, đánh đuổi được giặc Minh, mà lại sửa-sang được nhiều công-việc ích-lợi cho
nước, nhưng khi ngài lên làm vua rồi, có tính hay nghi-ngờ, chém giết những
người công-thần như ông Trần nguyên Hãn và ông Phạm văn Xảo. Hai ông ấy giúp
ngài đã có công to, về sau chỉ vì sự gièm-pha mà đều phải chết oan cả.
Nghĩ mà buồn thay cho mấy người
công-thần đời xưa, chỉ lầm về hai chữ công danh, mà đem tấm lòng son sắt đi
phù-tá quân-vương trong lúc nguy-nan, mong được chút hiển-vinh để cho thỏa cái
chí trượng-phu ở đời. Ngờ đâu : chim bay đã hết, cung tốt cất đi, thỏ nhanh
chết rồi, chó săn phải giết; đến khi công việc xong rồi, thì không những là một
thân mình cũng không được trọn vẹn mà cả họ-hàng thường cũng phải vạ lây. Thế
mới biết chỉ có ôn Trương tử Phòng nhà Hán là người kiến cơ hơn cả !
Vua Thái-tổ làm vua được 6 năm thì
mất, thọ được 49 tuổi.
II. Lê Thái Tông ( 1434 - 1442 )
Niên-hiệu: Thiệu Bình ( 1434 - 1442 ) Đại Bảo ( 1440 - 1442 )
Khi vua Thái-tông lên làm vua thì
ngài mới có 11 tuổi, cho nên công- việc gì cũng ở quan Phụ-chính là Lê Sát
quyết định hết cả.
Lê Sát là một người ít học nhưng vì
trước theo vua Thái-tổ lập được công to, quan làm đến Đại-tư-đồ. Nay làm
Phụ-chính, thường hay cậy quyền, trái phép, làm nhiều điều kiêu-hãnh, hễ
triều-thần ai là người không tòng-phục thì tìm cách làm hại.
Vua Thái-tông tuy còn trẻ tuổi nhưng
vốn có tính thông-minh, làm vua được ít lâu thì ra thân chính lấy, rồi giết Lê
Sát đi để thu lấy quyền. Song cũng vì ít tuổi mà lại không có người phù-tá, cho
nên sau thành say- đắm tửu sắc làm lắm điều không được chính-đính.
Đời Thái-tông làm vua thì trong nước
phải mấy năm đại hạn, nước lụt và hoàng-trùng làm hại mùa-màng, dân phải đói
khổ. ở mạn mường- mán lại có đôi ba đám giặc nổi lên làm loạn, có khi vua phải
thân chinh đi đánh, có khi chỉ sai quan đi tiểu-trừ, cũng dẹp yên được. Còn
việc giao- thiệp với những nước lân-bang, như Tiêm-la (Thái-lan), Chiêm-thành, Ai-lao
thì những nước ấy đều có sứ thần đi lại và thường có tiến cống cả.
Ở trong thì chỉnh-đốn việc thi-cử
lại. Lệ cứ 5 năm một lần thi hương, 6 năm một lần thi hội. Phép thi thì kỳ
đệ-nhất làm một bài kinh- nghĩa, bốn bài tứ-thư nghĩa, mỗi bài phải 300 chữ trở
lên; kỳ đệ-nhị thì làm bài chiếu, bài chế và bài biểu; kỳ đệ-tam làm bài thi
phú; kỳ đệ-tứ thì làm một bài văn sách phải 1.000 chữ trở lên.
Đến năm nhâm-tuất (1442) mở khoa thi
tiến-sĩ, bao nhiêu những người thi đỗ đều được khắc tên vào bia đá để phấn-chấn
lòng người văn- học. Các tiến-sĩ được khắc tên vào bia ở Văn-miếu khởi đầu từ
đấy.
Những cách-thức tiêu-dùng tiền và
lụa vải ở trong nước cũng định lại cả; cứ 60 đồng là một tiền; lụa thì cứ dài
30 thước, rộng 1 thước 5 tấc trở lên là một tấm; giấy thì 100 tờ làm một tập.
Tháng bảy năm nhâm-tuất (1442),
Thái-tông đi duyệt binh ở huyện Chí-linh. Bấy giờ ông Nguyễn Trãi đã về trí sĩ
ở trại Côn-sơn, thuộc huyện Chí-linh. Khi vua đi qua đó có vào thăm, và thấy
người hầu ông ấy là Nguyễn thị Lộ có tài sắc, bèn bắt theo hầu. Đi đến huyện
Gia-định (nay là huyện Gia-bình ở Bắc-ninh) thì vua mất. Triều-đình đổ tội cho
Nguyễn thị Lộ giết vua, bắt ông Nguyễn Trãi làm tội và tru di cả ba họ.
Vua Thái-tông làm vua được 9 năm,
thọ được 20 tuổi.
III. Lê Nhân Tông ( 1443 - 1459 )
Niên-hiệu: Đại Hòa ( 1443 - 1453) Diên Ninh ( 1454 - 1459 )
Khi vua Thái-tông mất, thái-tử là
Băng Cơ mới lên 2 tuổi. Các quan đại-thần là bọn Lê Khả, Nguyễn Xí, lập thái-tử
lên làm vua, tức là Nhân-tông, để bà Hoàng-thái-hậu ra nhiếp chính.
Trong mấy năm bà thái-hậu cầm quyền,
thì có mấy việc quan-trọng như là đặt ra 14 điều hộ-luật về việc tư-điền; đổi
cách thi để lấy người làm lại, bỏ thi ám-tả và thi kinh-nghĩa, chỉ thi viết và
thi tính mà thôi. Lại đào sông Bình-lỗ 94
ở tỉnh Thái-Nguyên để cho tiện đường
vận-tải.
Còn ở ngoài, thì vua nước
Chiêm-thành là Bí Cai cứ hay sang cướp phá ở đất Hóa-châu. Triều-đình đã mấy
phen sai quan vào đánh đuổi, nhưng vẫn không chừa. Đến năm bính-dần (1446)
Triều-đình sai Lê Thụ, Lê Khả đem quân sang đánh Chiêm-thành lấy được thành
Đồ-bàn, bắt được Bí Cai và cả phi tần đem về để ở Đông-kinh, rồi lập người cháu
vua Bồ-đề là Mã-kha-qui-Lai lên làm vua.
Năm mậu-thìn (1448) lại có xứ
Bồn-man xin nội thuộc nước ta, đặt làm châu Qui-hợp. Đất Bồn-man phía đông-nam
giáp tỉnh Nghệ-an, tỉnh Quảng-bình, phía tây-bắc giáp tỉnh Hưng-hóa, tỉnh
Thanh-hóa.
Tuy vậy, nhưng vì bà Thái-hậu hay
nghe những lời nói gièm, chém giết các quan cựu-thần như là Lê Khả, Lê khắc
Phục, làm cho nhiều người không phục.
Năm quí-dậu (1453), Nhân-tông mới
bắt đầu thân chính. Trước hết ngài truy-tặng cho những người công-thần và cấp
ruộng quan-điền cho con cháu các ông Lê Sát, Lê Ngân, và Lê khắc Phục.
Lại sai ông Phan phù Tiên làm bộ
quốc-sử kể từ vua Thái-tông nhà Trần cho đến khi thuộc nhà Minh, cả thảy là 10
quyển.
Trước các vương-hầu và các quan
văn-vũ đều cứ theo phẩm-hàm của mình mà ăn lộc lấy thuế trong 50 hộ hay là 100
hộ. Nay Nhân-tông lại cho thêm tiền tuế-bổng nữa.
Vua Nhân-tông có lẽ cũng nên được
một ông vua hiền, nhưng chẳng may ngài có người anh là Lạng-sơn-vương Nghi Dân,
trước đã làm Thái-tử, sau vì người mẹ phải tội cho nên phải bỏ. Đến năm kỷ-mão
(1459), Nghi Dân đồng mưu với bọn Lê đắc Ninh, Phạm Đồn, Phan Ban và Trần Lăng,
nửa đêm trèo thành vào giết Nhân-tông và Hoàng-thái-hậu, tự xưng làm vua, rồi
cho sứ sang Tàu cầu phong.
Nhân-tông trị-vì được 17 năm, thọ 19
tuổi.
94
"Khâm-định Việt-sử" chép
rằng sông Bình-lỗ chảy từ Thái-nguyên về đến Phù-lộ, thì có lẽ sông Bình-lỗ là
sông Cà-lồ chăng? IV. Lê Thánh Tông ( 1460 - 1497 ) Niên-hiệu: Quang Thuận (
1460 - 1469) Hồng Đức ( 1470 - 1497 )
Nghi Dân cướp ngôi vua được 8 tháng,
nhưng vì tính hay nghe lời dua-nịnh, chém giết kẻ cựu thần, cho nên lòng người
không ai phục, đến tháng sáu năm canh-thìn (1460) các quan đại-thần là bọn Nguyễn
Xí, Đinh Liệt mưu chém Phạm Đồn và Phan Ban ở giữa nghị-sự-đường, rồi đóng cữa
thành lại vào bắt Nghi Dân giết đi, rước con thứ tư vua Thái-tông là Bình-
nguyên-vương Tư-Thành lên làm vua, tức là vua Thánh-tông.
Thánh-tông là một ông vua
thông-minh, thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đãi lấy lòng thành. Ngài trị-vì
được 38 năm, sửa-sang được nhiều việc chính-trị, mở-mang sự học hành, chỉnh-đốn
các việc vũ-bị, đánh dẹp nước Chiêm, nước Lào, mở thêm bờ-cõi, khiến cho nước
Nam ta bấy giờ đuợc văn- minh thêm ra và lại lừng-lẫy một phương, kể từ xưa đến
nay chưa bao giờ cường-thịnh như vậy.
Thánh-tông lên ngôi rồi phong tước
và cấp ruộng quan điền cho các công-thần. Ngài lại truy-tặng những người
công-thần bị giết oan ngày trước, và cho tìm con cháu ông Nguyễn Trãi về, cấp
cho 100 mẫu ruộng để phụng- thờ tổ-tiên.
Những người mà được quốc-tính, nay
ngài cho phục tính lại để cho khỏi mất tên họ.
1. Việc Cai Trị.
Từ trước đến giờ triều-chính vẫn
theo lối cũ của nhà Trần : trên thì có tả hữu Tướng-quốc, rồi đến Lễ-bộ,
Lại-bộ, Nội- các-viện, Trung-Thư, Hoàng-Môn, và ba sở Môn-hạ, lại có ngũ-đạo
Hành- khiển để coi sổ-sách quân-dân các đạo. Đến khi Nghi Dân cướp ngôi, đặt ra
lục Bộ và lục Khoa. Lục Bộ là : Lại-bộ, Hộ-bộ, Lễ-bộ, Binh-bộ, Công-bộ và
Hình-bộ. Lục khoa là : Lại-khoa, Lễ-khoa, Binh-khoa, Hình-khoa, Hộ-khoa và
Công-khoa.
Quan lục bộ thì có Thượng-thư làm
đầu, rồi đến tả hữu Thị-lang, Lang-trung, Viên-ngoại-lang, Tư-vụ.
Thánh-tông đặt thêm ra lục tự là :
Đại-lý-tự, Thái-thường-tự, Quang- lộc-tự, Thái-bộc-tự, Hồng-lô-tự,
Thượng-bảo-tự. Quan Lục Tự thì có Tự- khanh, Thiếu-khanh và Tự-thừa.
Ngài lại lập ra quan chế và lễ-nghi
theo như bên Tàu. Các quan văn võ có phần ruộng đất, lại được tiền tuế bổng.
Nhưng ai mà làm điều gì nhũng-lạm thì đều phải nghiêm trị.
Ngài lại định lệ trí sĩ, cho các
quan nội ngoại : ai làm quan đến 65 tuổi thì được xin về trí sĩ, còn những
người làm nha-lại đến 60 tuổi cũng được xin về.
Trước vua Thái-tổ chia ra làm 5 đạo,
có phủ, lộ, trấn, châu, huyện, xã. Đạo thì đặt quan Hành-khiển, Tuyên-phủ chánh
phó-sứ; phủ thì đặt Tri- phủ; lộ thì đặt An-phủ-sứ; trấn thì đặt Trấn-phủ-sứ;
huyện thì đặt Chuyển- vận-sứ và Tuần-sát-sứ; xã thì đặt Xã-quan.
Thánh-tông chia nước ra làm 12 đạo
là Thanh-hóa, Nghệ-an, Thuận-hóa, Thiên-trường, Nam-sách, Quốc-oai, Bắc-giang,
An-bang, Hưng- hóa, Tuyên-quang, Thái-nguyên, Lạng-sơn. Mỗi đạo có tòa Đô, tòa
Thừa và tòa Hiến. Tòa Đô thì có chánh phó Đô-tổng-binh, coi về việc binh; tòa
Thừa thì có Thừa-chính chánh-phó-sứ, coi về việc chính; tòa Hiến thì có
Hiến-sát chánh-phó-sứ, coi về việc hình.
Lại đặt ra chức Giám sát-ngự-sử để
đi xem xét công-việc ở các đạo cho khỏi sự nhũng-nhiễu.
Sau nhân có đất Quảng-nam mới lấy
của Chiêm-thành lại đặt ra làm 13 xứ là Thanh-hóa, Nghệ-an, Sơn-nam (trước là
Thiên-trường), Sơn-tây (trước là Quốc-oai), Kinh-bắc (trước là Bắc-giang),
Hải-dương (trước là Nam- sách), Thái-nguyên, Tuyên-quang, Hưng-hóa, Lạng-sơn,
An-bang, Thuận- hóa, Quảng-nam. Ở những xứ hiểm-yếu như Nghệ-an, Thuận-hóa,
Tuyên- quang, Hưng-hóa, Thái-nguyên, Lạng-sơn, Quảng-nam đều đặt chức Thủ- ngự
kinh-lược-sứ để phòng giữ. Trong 13 xứ ấy lại chia làm 52 phủ, 172 huyện và 50
châu. Còn ở dưới phủ huyện thì có hương, phường, xã, thôn, trang, sách, động,
nguyên, trưởng cả thảy là 8.006.
2. Việc Thuế Lệ.
Bấy giờ thuế đinh mỗi người đồng
niên đóng 8 tiền; còn thuế ruộng, thuế đất và thuế đất bãi trồng dâu thì cứ kể
mẫu mà đóng thuế, mà thứ đất nào cũng chia ra làm ba hạng.
Việc làm sổ hộ, thì cứ 6 năm một kỳ,
quan phủ huyện phải dẫn các xã-trưởng về Kinh để khai số hộ-khẩu ở các xã.
3. Việc Canh Nông.
Vua Thánh-tông lấy sự nông-tang làm
trọng, cho nên ngài chú ý về việc ấy lắm. Thường thường ngài sắc cho phủ huyện
phải hết sức khuyên bảo dân làm việc cày ruộng trồng dâu.
Đặt quan Hà-đê và quan Khuyến-nông
để coi việc cày cấy trong nước. Bắt quan Hộ-bộ và quan Thừa-chính ở các xứ phải
tâu cho ngài biết những đất bỏ hoang để bắt phủ huyện đốc dân phu khai-khẩn làm
ruộng.
Lập ra cả thảy 42 sở đồn-điền, đặt
quan để trông-nom sự khai-khẩn, khiến cho dân khỏi phải đói-khổ.
4. Nhà Tế Sinh.
Vua Thánh-tông lại lo đến các chứng
bệnh làm hại dân. Ngài lập nhà Tế-sinh để nuôi những người đau-yếu, và khi nào
ở đâu có dịch tễ thì sai quan đem thuốc đi chữa bệnh.
5. Việc Sửa Phong Tục. Dân ta bấy
giờ sùng-tín đạo Phật, hay làm đình làm chùa. Những lễ hôn và lễ tang thì làm
những điều trái với lẽ thường, như là nhà nào có tang-chế thì làm cỗ bàn
ăn-uống, rồi bày ra các trò hát xướng, làm một cuộc vui chơi. Lễ hôn thì ăn lễ
hỏi rồi, để ba bốn năm mới cho rước dâu về nhà chồng.
Thánh-tông cấm không cho làm chùa
mới, để tiền của và công-phu mà làm việc có ích. Cấm những nhà có lễ tang không
được bày cuộc hát xướng. Việc hôn thì khi đã nhận lễ hỏi rồi, phải chọn ngày
cho rước dâu, và lệ cứ cưới rồi ngày hôm sau đi chào cha mẹ, ba ngày thì đi lễ
từ đường.
Ngài lại đặt ra 24 điều, sức cho
dân-xã thường thường giảng đọc để giữ lấy thói tốt :
1. Cha mẹ dạy con phải có phép-tắc,
trai gái đều có nghề-nghiệp, không được rượu-chè cờ-bạc, tập nghề hát-xướng để
hại phong-tục.
2. Người gia-trưởng tự mình phải giữ
lễ-phép để cho cả nhà bắt-chước; nếu con em làm càn, thì bắt tội người gia
trưởng.
3. Vợ chồng cần-kiệm làm ăn,
ân-nghĩa trọn-vẹn, duy chỉ có khi nào người vợ phạm tội thất-xuất thì mới được
bỏ, chứ không được khiên ái cẩu dung
làm hại đến phong-hóa.
4. Làm kẻ tử-đệ nên yêu-mến anh em,
hòa-thuận với hương-đảng, phải lấy lễ-nghĩa mà cư-xử; nếu trái phép thì người
tôn-trưởng đánh-đập dạy-bảo, có tội to thì phải đem nộp quan để trừng-trị.
5. ở chốn hương-đảng tông-tộc, có
việc hoạn-nạn thì phải giúp-đỡ lẫn nhau; nếu ai có tiếng là người hạnh-nghĩa
tốt, thì các quan phủ huyện sở tại phải bẩm lên tòa Thừa, tòa Hiến, để tâu vua
mà tinh biểu cho.
6. Đàn-bà có lỗi mà cha mẹ và chồng
đã trừng-trị thì nên phải sửa mình đổi lổi, không được tự-tiện trốn đi, làm hư
mất nết đàn-bà.
7. Người đàn-bà góa không được chứa
những đứa trai trẻ ở trong nhà, nói dối là con nuôi để ám hành những việc gian
dâm.
8. Người đàn-bà góa chồng, đối với
các con vợ cả, hoặc vợ lẽ, nàng hầu, nên có lòng thương-xót, không được mưu-mô
để chiếm đoạt gia-tài làm của riêng mình.
9. Đàn-bà góa chồng, chưa có
con-cái, phải ở nhà chồng để giữ đủ tang-lễ, không được chuyển-vận, của-cải
mang về nhà mình.
10. Làm đàn-bà thì phải theo chồng,
không được cậy cha mẹ mình phú-quí mà khinh nhà chồng, nếu không như thế thì
bắt tội đến cha mẹ.
11. Kẻ sĩ-phu nên quí phẩm-hạnh và
giữ phép quan, nếu cứ xu-nịnh những kẻ quyền quí để cậy thế làm càn thì phải
cách bỏ đi không kể đến nữa.
12. Kẻ điển-lại chỉ việc giữ sổ-sách
giấy-má để làm việc quan, nếu làm những sự điên-đảo án từ, thì quan trên sẽ xét
ra mà trừng trị.
13. Quan dân đều phải hiếu-để, và
chăm-chỉ làm ruộng, cùng giúp đỡ lẫn nhau; khi đi làm việc quan, không được trễ
biếng, trốn-tránh. Nếu ai có tiếng là người lương-thiện thì các quan phủ huyện
phải trình tòa Thừa, tòa Hiến để tâu mà tinh biểu cho.
14. Kẻ thương-mãi phải tùy thời giá
mà buôn-bán với nhau, không được thay đổi thưng đấu, và tụ-tập đồ-đảng để đi
trộm-cướp; nếu phạm điều ấy thì trị tội rất nặng.
15. Việc hôn-giá tế-tự phải giữ
lễ-phép, không được làm càn.
16. Chỗ dân-gian có mở trường du-hí
hoặc cúng-tế, thì con-trai con-gái đến xem, không được đứng lẫn lộn, để khỏi
thói dâm.
17. Các hàng quán bên đường, có
phụ-nữ đi xa đến trọ, thì phải phòng giữ. Nếu để hà-hiếp ô-nhục người ta, việc
phát-giác ra, thì người phạm cùng với chủ nhà đều phải trị tội cả.
18. Phủ huyện phải lập bia ở các nơi
sở-tại để cấm con-trai con-gái không được cùng tắm một bến, để cho có phân
biệt.
19. Các xã-thôn phải chọn một vài
người già-cả, đạo-đức làm trưởng, những ngày thong-thả đem dân ra đình, tuyên
giảng những lời cáo dụ, để khiến dân bắt-chước làm điều thiện, thành ra mỹ tục.
20. Trong hạt phủ huyện có kẻ
cường-hào xâm-chiếm điền-thổ, ức-hiếp cô- độc và xui-giục người ta kiện-tụng,
thì cho xã-thôn cáo giác lên để quan xử- trị, nếu mà ẩn-nặc thì phải biếm-bãi.
21. Các nhà vương, công, đại-thần
dung túng những đứa tiểu-nhân, đưa người khấn lễ, và để cho người nhà đi
ức-hiếp dân-gian mà mua rẻ các đồ vật, thì cho dân được đầu cáo để trọng trị.
22. Những người làm quan phủ, huyện
mà biết khuyên-bảo dân-gian làm điều lễ-nghĩa khiêm-nhượng, có quan Thừa-chính,
Hiến-sát xét thực, thì được cho vào hạng tốt; nếu ai không chăm dạy-bảo dân thì
cho là người không xứng chức.
23. Các người huynh-trưởng ở chốn
xã-thôn và phường biết dạy bảo con em trong làng cho nên được phong-tục tốt,
thì quan phủ huyện phải bẩm tòa Thừa, tòa Hiến để tâu vua ban khen cho.
24. Các dân mường-mán ở ngoài
bờ-cõi, nên giữ lời di-huấn, không được trái đạo luân-thường như cha, anh, chú,
bác đã chết thì con em không được chiếm lấy những thê-thiếp, nếu mà trái phép,
thì sẽ trị tội rất nặng.
6. Địa Đồ Nước Nam.
Từ xưa đến nay nước Nam ta vẫn không
có địa-đồ, Thái-tông bèn sai quan ở các đạo xem xét ở trong hạt mình có những
núi sông gì, hiểm-trở thế nào phải vẽ địa-đồ ra cho rõ-ràng và chỗ nào tự cổ
chí kim có những sự-tích gì phải ghi-chép vào cho tường-tận, rồi gửi về bộ Hộ
để làm quyển địa-dư nước ta.
7. Đại Việt Sử Ký.
Thánh-tông sai Ngô sĩ Liên làm bộ
Đại-Việt sử-ký chia ra làm 2 bản. Một bản kể từ Hồng-bàng-thị cho đến thập-nhị
Sứ- quân có 5 quyển. Một bản kể từ Đinh Tiên-hoàng cho đến Lê Thái-tổ có 10
quyển. Cả thảy là 15 quyển.
8. Việc Văn Học.
Vua Thánh-tông định phép thi hương,
sửa phép thi hội, để chọn lấy nhân-tài. Thường ngài ra làm chủ các kỳ thi đình,
và ngài lập ra lệ xướng danh các Tiến-sĩ và lệ cho về vinh qui.
Ngài mở rộng nhà Thái-học ra. Phía
trước thì làm nhà Văn-miếu, phía sau thì làm nhà Thái-học, và làm ra các phòng
ốc để cho những kẻ sinh-viên ở học. Làm kho Bí-thư để mà chứa sách. Sự học bấy
giờ càng ngày càng mở-mang thêm.
Ngài lại hay ngâm thi, đặt ra
Quỳnh-uyển cửu-ca, xưng làm Tao-đàn nguyên-súy, cùng với kẻ triều-thần là bọn
ông Thân nhân Trung, Đỗ Nhuận, cả thảy 28 người xướng họa với nhau. Non xanh
nước biếc chỗ nào cũng có thơ của ngài.
Ngài sai ông Thân nhân Trung và ông
Đỗ Nhuận làm bộ Thiên-nam dư-hạ-tập, 100 quyển nói về việc chính là hình-luật
đời Hồng-đức. Ngài làm ra một quyển Thân-chinh ký-sự, kể việc ngài đi đánh
Chiêm-thành, Lão-qua và các mường.
9. Việc Võ Bị.
Tuy rằng vua Thánh-tông hết lòng
sửa-sang mọi việc trong nước, nhưng ngài cũng hiểu rằng phàm một nước mà
cường-thịnh thì tất là phải có võ-bị, cho nên ngài bắt các quan tổng-binh phải
chăm giảng-tập trận-đồ, phải luyện-tập sĩ-tốt để phòng khi có việc.
Ngài đổi năm Vệ-quân ra làm năm phủ
là : Trung-quân phủ, Nam quân-phủ, Bắc-quân phủ, Đông-quân phủ và Tây-quân phủ.
Mỗi một phủ thì có 6 vệ, mỗi vệ có 5 hay là 6 sở, mỗi sở có số quân độ 400
người. Quân cả 5 phủ ước chừng 6, 7 vạn người. Ngài lại đặt ra 31 điều quân
lệnh để tập thủy trận; 42 điều để tập bộ trận.
Lại đặt ra lệ cứ ba năm một kỳ thi
võ. Tướng-sĩ ai đậu thì thưởng, ai hỏng thì phạt, để khiến mọi người đều vui
lòng về việc võ-bị.
Đời vua Thánh-tông mấy năm về trước
cũng được yên ổn, nhưng mấy năm về sau thì phải chinh-chiến nhiều lần. Khi thì
phải đánh giặc Lào, khi thì đánh những giặc cỏ ở trong nước; nhưng chỉ có đánh
Chiêm-thành, đánh Lão-qua và đánh Bồn-man là phải dùng đến đại-binh.
10. Đánh Chiêm Thành.
Năm canh-thìn (1470) là năm Hồng-đức
nguyên-niên, vua nước Chiêm-thành là Trà Toàn muốn sinh sự với nước Nam. Một
mặt thì cho người sang cầu viện-binh bên nhà Minh, một mặt thì đem quân sang
đánh phá ở đất Hóa-châu.
Vua Thánh-tông cho sứ sang Tàu kể
chuyện Trà Toàn làm nhiễu, rồi ngài tự làm tướng, cử đại-binh hơn 20 vạn sang
đánh Chiêm-thành; khi quân vào đến Thuận-hóa, Thánh-tông đóng quân lại để
luyện-tập và sai người lẻn sang vẽ địa-đồ nước Chiêm-thành để biết cho rõ chỗ
hiểm chỗ không rồi mới tiến binh lên đánh lấy cửa Thị-nại (cửa Bình-định).
Trà Toàn đánh thua, rút quân về giữ
kinh-thành Đồ-bàn. Quân An- Nam kéo đến vây đánh, phá được thành, bắt được Trà
Toàn.
Bấy giờ có tướng Chiêm-thành là Bô
trì Trì chạy về đất Phan-lung, sai sứ vào cống và xin xưng thần. Thánh-tông có
ý muốn làm cho nước Chiêm yếu thế đi, mới chia đất ra làm ba nước, phong làm ba
vua, một nước gọi là Chiêm-thành, một là Hóa-anh và một nước nữa là Nam-phan.
Còn đất Đồ-bàn, đất Đại-chiêm và đất
Cổ-lũy thì vua Thánh-tông lấy để lập thêm đạo Quảng-nam, có 3 phủ, 9 huyện, rồi
đặt quan cai-trị, và chọn dân đinh từ 15 tuổi trở lên, ai là người thông-minh
ham học thì cho làm sinh-đồ, để dạy cho sự học-hành và sự lễ-nghĩa.
Khi Trà Toàn đã phải bắt rồi, em là
Trà Toại trốn vào núi, sai người sang kêu với nhà Minh và xin phong làm vua.
Thánh-tông biết tin ấy liền sai ông Lê Niệm đem 3 vạn quân vào bắt được Trà
Toại giải về kinh-sư. Sau vua nhà Minh có sai sứ sang bảo ngài phải trả đất
Chiêm-thành, nhưng ngài không chịu.
Từ khi vua Thánh-tông đánh được
Chiêm-thành rồi, thanh-thế nước Nam lừng-lẫy, nước Lào và các mường ở phía tây
đều về triều cống cả.
11. Đánh Lão Qua.
Đến năm kỷ-hợi (1479) có tù-trưởng
xứ Bồn-man là Cầm Công có ý làm phản, xui người Lão-qua 95
đem binh quấy- nhiễu ở miền tây nước
ta. Thánh-tông liền sai quan Thái-úy là Lê thọ Vực
95
Lão-qua, là đất thượng Lào ở về phía
tây Bắc-Việt bây giờ tức là Luang-Prabang. Có khi gọi là nước Nam-chướng. cùng
với các tướng quân là Trịnh công Lộ, Lê đình Ngạn, Lê Lộng và Lê nhân Hiếu chia
làm 5 đạo đi từ Nghệ-an, Thanh-hóa và Hưng-hóa sang đánh đuổi vua Lão-qua đến
sông Kim-sa 96
giáp với nước Diến-điện. Trận ấy
quân An- nam được toàn thắng.
12. Đánh Bồn Man.
Gây nên sự đánh Lão-qua là cũng vì
họ Cầm ở Bồn-man muốn làm điều phản-nghịch.
Nguyên đất Bồn-man trước đã xin nội
thuộc, đổi làm châu Qui-hợp, nhưng vẫn để cho tù-trưởng là họ Cầm được đời đời
làm Phụ-đạo. Sau đổi làm Trấn-ninh phủ, có 7 huyện, và đặt quan phủ huyện để
giám-trị. Nay Cầm Công cậy có người Lão-qua giúp-đỡ, bèn đuổi quân An-nam đi,
chiếm lấy đất, rồi đem quân chống giữ với quan quân.
Thánh-tông bèn ngự giá thân-chinh,
nhưng đi đến Phù-liệt, được tin thắng trận của quân ta sang đánh Lão-qua, ngài
trở về, sai ông Lê Niệm đem binh đi đánh. Cầm Công đánh thua chết, còn những
người Bồn-man xin hàng.
Thánh-tông phong cho người họ Cầm
Công là Cầm Đông làm Tuyên- úy-đại-sứ và đặt quan cai-trị như trước.
13. Việc Giao Thiệp Với Tàu.
Nước ta bấy giờ tuy phải theo lệ
xưng thần với nhà Minh, nhưng vua Thánh-tông vẫn hết lòng phòng- bị mặt bắc.
Thỉnh-thoảng có những người thổ-dân sang quấy-nhiễu, thì lập tức cho quan quân
lên tiễu-trừ và cho sứ sang Tàu để phân-giải mọi sự cho minh-bạch. Có một hôm
được tin rằng người nhà Minh đem binh đi qua địa- giới, Thánh-tông liền cho
người lên do-thám thực hư. Ngài bảo với triều- thần rằng : "Ta phải
giữ-gìn cho cẩn-thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của vua
Thái-tổ để lại."
Ngài có lòng vì nước như thế, cho
nên dẫu nước Tàu có ý muốn dòm-ngó cũng không dám làm gì. Vả lại quân An-nam
bấy giờ đi đánh Lào, dẹp Chiêm, thanh-thế bao nhiêu, nhà Minh cũng phải lấy
lễ-nghĩa mà đãi An-nam, cho nên sự giao-thiệp của hai nước vẫn được hòa-bình.
Xem những công việc của vua
Thánh-tông thì ngài thật là một đấng anh-quân. Những sự văn-trị và sự võ-công ở
nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn là đời Hồng-đức. Nhờ có vua Thái-tổ thì
giang-sơn nước Nam mới
96
Theo địa-dư nước Tàu, thì
Kim-sa-giang là khúc trên sông Trưng-giang. Sông ấy chảy ở phía bắc qua tỉnh
Tây-khương và Tứ-xuyên. Đây có lẽ là nhà chép sử lẫn với khúc sông Lan-thương-
giang là khúc trên Cửu-long-giang còn, và nhờ có vua Thánh-tông thì văn-hóa
nước ta mới thịnh, vậy nên người An-nam ta không bao giờ quên công đức hai ông
vua ấy.
Thánh-tông làm vua được 38 năm thọ
được 56 tuổi.
V. Lê Hiến Tông ( 1497 - 1504 )
Niên-hiệu: Cảnh Thống
Thái-tử là Tăng lên nối ngôi làm
vua, tức là vua Hiến-tông.
Ngài là một ông vua thông-minh
hòa-hậu. Thường khi bãi triều rồi, ngài ra ngồi nói chuyện với các quan, hễ ai
có điều gì trái phải, ngài lấy lời êm-ái mà nhủ-bảo, chứ không gắt mắng bao giờ.
Ngài vẫn hay nói rằng : "Vua Thái-tổ đã gây-dựng cơ-đồ, vua Thánh-tông đã
sửa-sang mọi việc, ta nay chỉ nên lo gìn-giữ nếp cũ, và mở-mang sự nhân-chính
ra cho sáng rõ công-đức của ông cha trước."
Ngài theo cái chủ-ý ấy mà trị dân,
cho nên trong mấy năm ngài làm vua không có giặc-giã gì, mà những việc
chính-trị đều theo như đời Hồng- đức, chứ không thay-đổi gì cả. Nhất là về việc
cày ruộng trồng dâu, ngài lưu tâm khuyên-nhủ quan dân, khiến mọi người phải hết
sức giữ-gìn, bắt đào sông, khai ngòi, đắp đường, làm xe nước, để cho tiện việc
vệ nông. Việc văn-học cũng vậy, không bao giờ ngài để trể-nải. Nhưng ngài
trị-vì được có 7 năm thì mất, thọ được 44 tuổi.
VI. Lê Túc Tông ( 1504 ) và Lê Uy
Mục ( 1505 - 1509 ) Niên-hiệu: Thái Trinh và Đoan Khánh
Hiến-tông mất, truyền ngôi lại cho
người con thứ ba tên là Thuần, tức là vua Túc-tông.
Túc-tông làm vua được 6 tháng thì
mất. Triều-đình tôn người anh thứ hai của ngài là Tuấn lên làm vua, tức là vua
Uy-mục.
Từ vua Uy-mục trở đi thì cơ-nghiệp
nhà Lê mỗi ngày một suy dần, vì rằng từ đó về sau không có ông vua nào làm được
việc nhân-chính, và lại thường hay say-đắm tửu sắc, làm những điều tàn-ác, cho
nên thành ra sự giặc-giã, thoán-doạt, đến nỗi về sau dẫu có trung-hưng lên
được, nhưng quyền chính-trị vẫn về tay kẻ cường-thần.
Vua Uy-mục mới lên làm vua thì giết
tổ-mẫu là bà Thái-hoàng Thái- hậu, giết quan Lễ-bộ Thượng-thư là ông Đàm văn Lễ
và quan Đô-ngự-sử là ông Nguyễn quang Bật, vì lẽ rằng khi vua Hiến-tông mất, bà
Thái-hậu và hai ông ấy có ý không chịu lập ngài.
Đã làm điều bạo-ngược, lại say đắm
tửu-sắc; đêm nào cũng cùng với cung-nhân uống rượu, rồi đến khi say thì giết
đi. Có khi bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau để làm trò chơi. Tính đã hung-ác, mà
lại hay phản-trắc. Cho nên sứ Tàu sang làm thơ gọi Uy-mục là Quỉ-vương .
Bấy giờ Uy-mục lại hay tin dùng mấy
kẻ ngoại-thích và tìm những người có sức mạnh để làm túc-vệ. Bởi thế cho nên
Mạc đăng Dung là người đánh cá vào thi đỗ đô-lực-sĩ, được làm chức
Đô-chỉ-huy-sứ. Còn những tôn- thất và công-thần thì bị đánh-đuổi, dân sự thì bị
hà-hiếp, lòng người ta-oán, thiên-hạ mất cả trông-cậy, triều-thần có nhiều
người bỏ quan trốn đi.
Tháng chạp năm kỷ-tị (1509) có
Giản-tu-công tên là Oanh cháu vua Thánh-tông, là anh em con chú con bác với
ngài, bị bắt giam. Ông đút tiền cho người canh ngục mới được ra, trốn về
Tây-đô, rồi hội với các quan cựu- thần đem binh ra đánh bắt vua Uy-mục và
Hoàng-hậu Trần-thị giết đi.
VII. Lê Tương Dực ( 1510 - 1516 )
Niên-hiệu: Hồng Thuận
Giản-tu-công giết vua Uy-mục rồi tự
lập làm vua, tức là vua Tương- dực.
Vua Tương-dực tính hay chơi-bời và
xa-xỉ, như là sai người thợ tên là Vũ như Tô làm cái điện 100 nóc, xây cái
Cửu-trùng-đài, bắt quân dân làm trong mấy năm trời không xong, mà thật là
hao-tổn tiền-của, chết hại nhiều người. Rồi lại đóng chiến-thuyền bắt đàn-bà
chèo chơi ở hồ Tây. Lại tư- thông cả với những cung-nhân đời tiền triều. Vì
hoang dâm như thế cho nên sứ nhà Minh sang trông thấy ngài, bảo rằng ngài là
tướng lợn,
sự loạn-vong chắc là sắp tới vậy.
1. Việc Thuế Má.
Việc thuế-má lúc bấy giờ thì đại-khái
cũng như mấy triều trước, nhưng không biết rõ tiền-tài sản-vật đồng-niên thu
được những gì. Đến đời vua Tương-dực thấy sử chép rằng trước thì thuế vàng thuế
bạc đồng niên thu được :
Vàng mười, thứ tốt gọi là
"kiêm-kim".. 480 lượng
Vàng mười
2.883 lượng
Bạc
4.930 lượng Nay vua Tương-dực định
lệ đổi lại mỗi năm thu được :
Vàng mười thứ "kiêm-kim"
449 lượng
Vàng mười
2.901 lượng
Bạc
6.125 lượng
Những vàng bạc ấy là nộp vào kho để
chi vua tiêu-dùng. Còn cách thu-nộp thế nào thì không rõ.
2. Đại Việt Thông Giám.
Đời bấy giờ có quan Binh-bộ
Thượng-thư là ông Vũ Quỳnh làm xong bộ Đại-Việt thông-giám; chia ra từ họ
Hồng-Bàng cho đến thập-nhị Sứ-quân làm ngoại-kỷ, còn từ Đinh Tiên- hoàng đến Lê
Thái-tổ làm bản-kỷ, cả thảy là 26 quyển. Vua sai ông Lê Tung soạn bài tổng-luận
về bộ sử ấy.
3. Sự Biến Loạn.
Thời bấy giờ vua thì hoang chơi,
triều-thần thì tuy là có bọn ông Nguyễn văn Lang, ông Lê Tung, ông Lương đắc
Bằng, v.v... nhưng người thì già chết, người thì xin thôi quan về. Vả cũng
không có ai là người có thể ngăn giữ được vua và kinh-doanh được việc nước, cho
nên trong nước giặc-giã nổi lên khắp cả mọi nơi. ở đất Kinh-bắc thì có Thân duy
Nhạc, Ngô văn Tổng, làm loạn ở huyện Đông-ngạn và huyện Gia-lâm; đất Sơn-tây
thì có Trần Tuân đánh phá. Lại có tên Phùng Chương làm giặc ở núi Tam-đảo; Trần
công Ninh chống giữ ở huyện An-lãng. Đất Nghệ-an thì có Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê
văn Triệt làm phản. Lại ở huyện Thủy-đường (Hải- dương) có Trần Cao thấy sấm
nói rằng ở phương đông có thiên-tử khí,
bèn cùng với đồ-đảng đánh lấy đất
Hải-dương, Thủy-đường, Đông-triều, rồi tự xưng là vua Đế-thích giáng sinh, bởi
thế thiên-hạ theo có hàng vạn người.
Trần Cao đem quân về đóng ở đất
Bồ-đề, bên kia sông Nhị-hà, chực sang lấy Kinh-đô. Sau quan quân sang đánh,
Trần Cao lui về đóng ở Châu- sơn, thuộc phủ Từ-sơn. Vua sai An-hòa-hầu là
Nguyễn hoằng Dụ sang đóng quân ở Bồ-đề để chống giữ.
Tuy trong nước giặc cướp như thế,
nhưng vua cũng không chịu sửa- sang việc gì cả, lại khinh-dể các quan
triều-thần. Bấy giờ có Nguyên-quận- công là Trịnh duy Sản, trước vẫn có công đi
đánh giặc, nhưng sau vì hay can vua mà phải đánh. Trịnh duy Sản tức giận bèn
mưu với Lê quảng Độ và Trình chí Sâm để lập vua khác, rồi giả mượn tiếng đi
đánh giặc, đêm đem binh vào cửa Bắc-thần giết vua Tương-dực.
Ngài trị-vì được 8 năm, thọ được 24
tuổi.
VIII. Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng
( 1516 - 1527 ) Niên-hiệu: Quang Thiệu ( 1516 - 1526 ) Thống Nguyên ( 1527 )
Bọn Trịnh duy Sản giết vua Tương-dực
rồi, hội triều-đình lại định lập con Mục-ý-vương là Quang Trị, mới có 8 tuổi,
nhưng Võ-tá-hầu là Phùng Mại bàn nên lập cháu ba đời vua Thánh-tông là con
Cẩm-giang-vương tên là Y, đã 14 tuổi. Đảng Trịnh duy Sản bắt Phùng Mại chém
ngay ở chỗ nghị-sự, rồi lập Quang Trị. Quang Trị mới làm vua được ba ngày, chưa
kịp đổi niên-hiệu thì bị Trịnh duy Đại là anh Trịnh duy Sản đem vào Tây-kinh.
Quang Trị vào đấy được mấy ngày lại bị giết.
Lúc trong triều còn đang rối loạn,
chưa biết ai là vua thì Nguyễn hoằng Dụ ở bến Bồ-đề được tin Trịnh duy Sản đã
giết vua Tương-dực, bèn đem quân về đốt phá Kinh-thành và bắt Vũ như Tô, là
người đốc việc làm đền-đài cho vua Tương-dực, đem chém ở ngoài thành.
Bọn Trịnh duy Sản lại lập con
Cẩm-giang-vương là Y lên làm vua, tức là vua Chiêu-tông.
Nhưng bây giờ Kinh-thành đã bị
tàn-phá rồi, Trịnh duy Sản phải rước vua vào Tây-kinh.
1. Giặc Trần Cao Quấy Nhiễu ở Đông
Đô.
Giặc Trần Cao thấy Triều-đình đã bỏ
kinh-đô, bèn đem quân sang chiếm lấy, rồi tiếm hiệu làm vua.
Triều-đình vào đến Tây-kinh, truyền
hịch đi các nơi lấy binh ra đánh Trần Cao.
Trịnh duy Sản, Nguyễn hoằng Dụ,
Trịnh Tuy, Trần Chân và các quan cựu thần phân binh ra vây Đông-kinh. Trần Cao
phải bỏ thành chạy lên đất Lạng-nguyên (có lẽ là Lạng-sơn).
Triều-đình lại về Đông-kinh, rồi sai
Trịnh duy Sản lên Lạng-nguyên đuổi đánh Trần Cao. Trịnh duy Sản khinh địch quá,
bị giặc giết mất. Quan giặc lại về đóng ở Bồ-đề. Vua sai Thiết-sơn-bá là Trần
Chân đem quân đánh tập hậu, phá được quân của giặc.
Trần Cao lại chạy về Lạng-nguyên, và
thấy sự-nghiệp không thành, bèn nhường quyền lại cho con là Thăng rồi cắt tóc
đi tu để trốn cho khỏi nạn.
2. Quan Trong Triều Làm Loạn.
Tuy giặc Trần Cao đã phá được, nhưng
mà lúc bấy giờ vua Chiêu-tông hãy còn trẻ tuổi, chưa quyết-đoán được, mà
Triều-thần thì không có ai là người có chí giúp nước, đến nỗi ngoài thì giặc
làm loạn, trong thì các quan sinh ra hiềm-thù, đem quân đánh lẫn nhau, như là
Nguyễn hoằng Dụ và Trịnh Tuy, hai người đi đánh giặc về rồi mỗi người đóng quân
một nơi để chống-cự với nhau, vua can ngăn cũng không được.
ở trong triều thì bọn Trịnh duy Đại
mưu sự làm phản, bị người tố cáo ra, phải giết cả đảng.
Bọn Nguyễn hoằng Dụ và Trịnh Tuy cứ
đánh nhau mãi, sau Trần Chân bênh Trịnh Tuy đem quân đánh Nguyễn hoằng Dụ.
Nguyễn hoằng Dụ bỏ chạy về giữ Thanh-hóa.
Vua sai bọn Mạc đăng Dung đi đánh
Nguyễn hoằng Dụ. Nhưng Đăng Dung tiếp được thư của Hoằng Dụ viết riêng cho
mình, bèn không đánh, đem quân trở về.
Bấy giờ quyền-bính về cả Trần Chân
và lại có người nói rằng Trần Chân có ý làm phản, vua bèn cho người vời Trần
Chân vào thành rồi đóng cửa thành lại, bắt giết đi.
Bộ tướng của Trần Chân là bọn Hoàng
duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng nghe tin Trần Chân phải giết, bèn đem quân
vào đánh phá kinh-thành. Vua phải chạy sang lánh mình ở đất Gia-lâm, rồi cho
người vào Thanh-hóa vời Nguyễn hoằng Dụ ra đánh giặc. Nguyễn hoằng Dụ không ra.
Chiêu-tông không biết mong cậy vào
ai được, phải cho người sang Hải-dương vời Mạc Đăng Dung về giúp. Mối
thoán-đoạt gây nên từ đó.
Nguyên Mạc đăng Dung là cháu 7 đời
ông Mạc đĩnh Chi, ngày trước vốn ở làng Đông-cao, huyện Bình-hà (thuộc Hải-dương),
sau dời sang ở làng Cổ-chai (thuộc huyện Nghi-dương, tỉnh Kiến-an bây giờ). Mạc
đăng Dung thủa trẻ nhà nghèo, làm nghề đánh cá, nhưng có sức mạnh, thi đỗ
Đô-lực-sĩ, làm đến Đô-chỉ-huy-sứ về triều vua Uy-mục; đến triều vua Tương-dực
được phong là Vũ-xuyên-hầu.
Nay vua Chiêu-tông gọi sang, nhất
thiết trao cả binh quyền để đánh giặc Hoàng duy Nhạc.
Mạc đăng Dung đem vua về ở Bồ-đề rồi
cho người mật dụ bọn Nguyễn Kính, Nguyễn Áng về hàng. Bọn ấy nói rằng Trần Chân
bị giết là tại Chử Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bính gièm-pha. Nếu nhà vua làm tội ba
người ấy thì xin về hàng.
Vua bắt ba người đem giết đi, nhưng
bọn tên Kính tên Áng vẫn không giải binh. Mạc đăng Dung lại dời vua về Bảo-châu
(thuộc huyện Từ- liêm). Thế giặc vẫn mạnh, rồi lại có Trịnh Tuy và Nguyễn Sư
làm phản, thông với bọn tên Kính lập Lê Do lên làm vua, đóng hành-điện ở
Từ-liêm.
Vua lại phải cho người vào gọi
Nguyễn hoằng Dụ lần nữa. Nguyễn hoằng Dụ đem binh Thanh-hóa ra để cùng với Mạc
đăng Dung đi đánh giặc. Nhưng Hoằng Dụ xuất binh đánh trước, bại trận, phải rút
quân về Thanh.
Được ít lâu Mạc đăng Dung trừ được
bọn Lê Do, Trịnh Tuy và Nguyễn Sư, rồi lại hàng được bọn Hoàng duy Nhạc, Nguyễn
Kính, Nguyễn Áng đem về làm vây-cánh của mình. Từ đó quyền bính về cả Đăng
Dung.
3. Mạc Đăng Dung Chuyên Quyền.
Mạc đăng Dung bây giờ quyền-thế
hống-hách, ra vào cung cấm tiếm dụng nghi-vệ thiên-tử. Các quan ai có vì nhà
vua mà can-gián điều gì, thì Đăng Dung tìm cách giết đi. Các quan triều-thần có
nhiều người thấy quyền lớn về cả họ Mạc, cũng bỏ vua mà theo phò Mạc đăng Dung.
Vua Chiêu-tông thấy vậy, mới mưu
ngầm với bọn nội thần là Phạm Hiến và Phạm Thứ để đánh Mạc đăng Dung, lại cho
người vào Tây-kinh vời Trịnh Tuy đem binh ra làm ngoại ứng. Đêm đến canh hai
vua chạy lên Sơn- tây để thu-xếp binh-mã đánh họ Mạc.
Sáng hôm sau Mạc đăng Dung mới biết
vua xuất ngoại, liền sai Hoàng duy Nhạc đem quân đuổi theo, đến Thạch-thất, Duy
Nhạc bị quân sở- tại bắt được giết đi.
Mạc đăng Dung cùng với các quan ở
trong triều lập Hoàng-đệ là Xuân lên làm vua, tức là Cung-hoàng, đổi niên-hiệu
là Thống-nguyên. Nhưng ở kinh-thành sợ vua Chiêu-tông viện quân về đánh, cho
nên Mạc đăng Dung rước Hoàng-đệ Xuân về ở đất Gia-phúc, nay là Gia-lộc thuộc
tỉnh Hải-dương.
Khi vua Chiêu-tông chạy lên Sơn-tây,
những người hào-kiệt ở các nơi theo về cũng nhiều, nhưng vì vua nghe lời những
kẻ hoạn-quan là bọn Phạm Điền, không theo lời bàn của các tướng, cho nên lòng
người ly-tán, mọi việc hỏng cả. Vua cho người vào Thanh-hóa vời Trịnh Tuy ba
bốn lần, Trịnh Tuy do-dự mãi không ra. Sau Trịnh Tuy cùng với Trịnh duy Tuấn
đem hơn một vạn quân ra giúp, thì vua lại nghe lời bọn Phạm Điền bắt Nguyễn bá
Kỷ là thuộc tướng của Trịnh Tuy đem giết đi. Trịnh Tuy tức giận đem quân bắt
vua Chiêu-tông về Thanh-hóa.
Năm giáp-thân (1524) Mạc đăng Dung
đem quân vào đánh Thanh- hóa, Trịnh Tuy thua trận rồi chết, vua Chiêu-tông bị
bắt đem về để ở Đông- hà (thuộc huyện Thọ-xương), rồi cho người đến giết đi.
Vua Chiêu-tông làm vua được 11 năm,
thọ 26 tuổi.
Cách hai năm sau là năm đinh-hợi
(1527), Mạc đăng Dung bắt các quan nhà Lê thảo bài chiếu truyền ngôi cho nhà
Mạc.
Cung-hoàng và bà Hoàng-thái-hậu đều
bị giết cả. Bấy giờ triều-thần có Vũ Duệ, Ngô Hoán, quan Đô-ngự-sử là Nguyễn
văn Vận, quan Hàn-lâm hiệu-lý là Nguyễn thái Bạt, quan Lễ-bộ thượng-thư là Lê
tuấn Mậu, quan Lại- bộ thượng-thư là Đàm thận Huy, quan Tham-chính-sứ là Nguyễn
duy Tường, quan Quan-sát-sứ là Nguyễn tự Cường, tước Bình-hồ-bá là Nghiêm bá
Ký, quan Đô-ngự-sử là Lại kim Bảng, quan Hộ-bộ thượng-thư là Nguyễn thiệu Tri,
quan Phó Đô-ngự-sử là Nguyễn hữu Nghiêm, quan Lễ-bộ tả Thị-Lang là Lê vô Cương
đều là người khoa-giáp cả, người thì nhổ vào mặt Mạc đăng Dung hay là lấy
nghiên mực đập vào mặt, hay chửi mắng, bị Đăng Dung giết đi. Có người thì theo
vua không kịp, nhảy xuống sông mà chết, người thì quay đầu về Lam-sơn lạy rồi
tự-tử. Những người ấy đều là người có nghĩa- khí để tiếng thơm về sau.
Nhà Lê, kể từ vua Thái-tổ cho đến
vua Cung-hoàng vừa một trăm năm (1428-1527), được 10 ông vua. Nhưng trong bấy
nhiêu ông, trừ vua Thái-tổ ra, thì chỉ có vua Thánh-tông và vua Hiến-tông là đã
lớn tuổi mới lên ngôi, còn thì ông nào lên làm vua cũng còn trẻ tuổi cả. Vì thế
cho nên việc triều-chính mỗi ngày một suy-kém, lại có những ông vua hoang-dâm,
làm lắm điều tàn-bạo để đến nổi trong nước xảy ra nhiều sự biến loạn.
Vậy vận nhà Lê phải lúc trung-suy,
nhưng công-đức vua Thái-tổ và vua Thánh-tông làm cho lòng người không quên nhà
Lê, cho nên dầu nhà Mạc có cướp ngôi cũng không được lâu bền, và về sau họ
Trịnh tuy có chuyên-quyền nhưng cũng chỉ giữ ngôi chúa, chứ không dám cướp ngôi
vua.
PHẦN IV
Tự Chủ Thời-Đại
Thời Kỳ Nam Bắc Phân Tranh
( 1528 - 1802 )
NHÀ HẬU LÊ Thời-kỳ phân tranh
(1533-1788)
CHƯƠNG I Lịch Triều Lược Kỷ
1. Nam-triều Bắc triều
2. Trịnh Nguyễn phân tranh
Nước Nam ta từ khi Ngô Vương Quyền
đánh đuổi được quân Nam- Hán, vua Đinh Tiên-hoàng dẹp yên được loạn Thập-nhị
Sứ-quân lập thành một nước tự-chủ, đời nọ qua đời kia kế truyền được non 600
năm. Đến đầu thập-lục thế-kỷ, bởi vì vua nhà Lê hoang dâm vô độ, bỏ việc
chính-trị đổ-nát, cho nên trong nước loạn-lạc, nhà Mạc nhân dịp mà làm sự
thoán-đoạt. Nhà Lê tuy đã mất ngôi, nhưng lòng người còn tưởng nhớ đến công-đức
của vua Thái-tổ và vua Thánh-tông, cho nên lại theo phò con cháu nhà Lê trung-
hưng lên ở phía nam, lập ra một Triều-đình riêng ở vùng Thanh-hóa, nghệ- an để
chống nhau với nhà Mạc. Ấy là thành ra Nam-triều và Bắc-triều; hai bên đánh
nhau trong năm sáu mươi năm trời.
Đến khi nhà Lê nhờ có họ Trịnh giúp
rập, dứt được nhà Mạc, tưởng là giang-sơn lại thống-nhất như cũ, ai ngờ họ
Trịnh và họ Nguyễn lại sinh ra lòng ghen-ghét, gây nên mối thù-oán, rồi mỗi họ
hùng-cứ một phương, chia nước ra làm hai mảnh: họ Nguyễn giữ xứ Nam, họ Trịnh
giữ xứ Bắc, mỗi họ chiếm-giữ một Xứ để làm cơ-nghiệp riêng của mình. Từ đó
giang-sơn chia rẽ, Nam Bắc phân tranh, ấy là một thời-đại riêng trong lịch-sử
nước ta vậy.
Nhà Hậu-Lê từ khi trung-hưng lên,
con-cháu vẫn giữ ngôi làm vua, nhưng quyền chính-trị ở cả họ Trịnh. Còn ở phía
nam thì từ sông Linh-giang trở vào là cơ-nghiệp của họ Nguyễn. Tuy vậy, hai họ
chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua, và bề ngoài vẫn tôn-phù nhà Lê. Sau này ta
hãy chép tóm cả các đời vua và các đời chúa để cho rõ sự kế truyền. Còn những
công-việc về thời bấy giờ thì ta sẽ bàn riêng rẽ từng mục cho rõ-ràng.
I. NAM TRIỀU BẮC TRIỀU NAM TRIỀU
Lê Trang Tông (1533-1548) Niên hiệu:
Nguyên-hòa
Trang-tông húy là Duy-Ninh, con rốt
vua Chiêu-tông. Ông Nguyễn Kim lập ngài lên làm vua ở đất Cầm-chân (Lào), sau
đưa ngài về Thanh-Hóa, lập hành-điện ở Vạn-lại.
Trang-tông làm vua được 16 năm, thọ
31 tuổi.
Lê Trung Tông (1548-1556) Niên hiệu:
Thuận-bình
Trung-tông húy là Duy Huyên, con vua
Trang-tông. Ngài làm vua được 8 năm, thọ 28 tuổi.
BẮC TRIỀU
Thái Tổ Mạc Đăng Dung (1527-1529)
Niên hiệu: Minh-Đức
Thái Tông Mạc Đăng Doanh (1530-1540)
Niên hiệu: Đại-chính
Nhà Lê trung-hưng lên ở Thanh-hóa.
Hiến Tông Mạc Phúc Hải
(1541-1546) Niên hiệu: Quãng-hòa
Lê Anh Tông (1556 - 1573) Niên hiệu:
Thiên-hữu (1557) Chính-trị (1558-1571) Hồng-phúc (1572-1573)
Anh-tông húy là Duy-bang, cháu
huyền-tôn ông Lê Trừ, anh vua Thái-tổ ngày trước. Vua Trung-tông không có con,
cho nên ông Trịnh Kiểm mới đi tìm ngài về lập nên làm vua.
Khi Trịnh Kiểm mất rồi, quyền về
Trịnh Tùng, ngài phải trốn về Nghệ-an. Trịnh Tùng sai người đuổi theo bắt về
giết đi. Ngài làm vua được 16 năm, thọ 42 tuổi.
Lê Thế Tông (1573 - 1599) Niên hiệu:
Gia-thái (1573-1577) Quang-hưng (1578-1599)
Thế-tông húy là Duy-Đàm, con thứ 5
vua Anh-tông. Trịnh Tùng lập ngài lên làm vua từ lúc còn 7 tuổi.
Trong đời ngài làm vua, Trịnh Tùng
dứt được họ Mạc, lấy lại đất Đông-đô. Ngài làm vua được 27 năm, thọ 33 tuổi.
Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên (1546 -
1561) Niên hiệu: Vĩnh-Định (1547) Cảnh-lịch (1548-1553) Quang-bảo (1554-1561)
Mạc phúc Nguyên cố đánh lấy
Thanh-hóa nhưng không được.
Mạc Mậu Hợp (1562-1592) Niên hiệu:
Thuần-phúc (1562-1565) Sùng-khang (1566-1577) Diên-thành (1578-1585) Đoan-thái
(1586-1587) Hưng-trị (1588-1590) Hồng-ninh (1591-1592)
Mạc Mậu Hợp làm vua được 30 năm. Sau
bị Trịnh Tùng bắt được đem về chém ở Thăng- long và đem đầu vào bêu ở
Thanh-hóa.
Nhà Mạc mất ngôi từ đấy. Nhưng con
cháu được nhờ nhà Minh bênh-vực, còn được giữ đất Cao-bằng ba đời nữa. II.
TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH Lê Kính-tông (1600-1619) Niên hiệu: Thận-đức (1600) -
Hoằng-định (1601-1619)
Kính-tông húy là duy-tân, con vua
Thế-tông. Ngài làm vua đến năm kỷ-mùi (1619) bị Trịnh Tùng bắt phải thắt cổ mà
tự tận. Trị-vì được 20 năm, thọ 32 tuổi. TRỊNH
Bình An Vương Trịnh Tùng (1570 -
1620) Miếu hiệu: Thành tổ Triết Vương
Trịnh Tùng tranh quyền của anh, nối
nghiệp Trịnh Kiểm đánh phá nhà Mạc, lấy lại đất Đông-đô. Lập ra nghiệp chúa
Trịnh, nhưng vẫn tôn vua Lê. NGUYỄN
Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng (1600 -
1613)
Truy tôn là Thái-tổ Gia-dụ Hoàng-đế
, đương thời gọi là chúa Tiên .
Ông Nguyễn Hoàng là con thứ hai ông
Nguyễn Kim, vào trấn đất Thuận-hóa và Quảng- nam lập ra nghiệp chúa Nguyễn.
Lấy đất của Chiêm-thành lập ra phủ
Phú-yên. Mất năm quí- sửu (1613), thọ 89 tuổi.
Thụy Quận Công Nguyễn Phúc Nguyên
(1613 - 1635)
Truy tôn là Hi-tông Hiến văn
Hoàng-đế,
đương thời gọi là chúa Sãi. Ngài là
con thứ 6 ông Nguyễn Hoàng, cải họ là Nguyễn-phúc.
Lê Thần Tông (1619-1643) (lần thứ
nhất) Niên-hiệu: Vĩnh-tộ (1620-1628) Đức-long (1629-1643) Dương-hòa (1635-1643)
Thần-tông húy là Duy-Kỳ, con vua
Kính-tông. Làm vua đến năm quí-mùi (1643) thì nhường ngôi cho Thái-tử, mà làm
Thái-thượng-hoàng.
TRỊNH
Trịnh Tùng mất năm quí-hợi (1635).
Thanh Đô Vương Trịnh Tráng (1623 -
1657) Miếu-hiệu là: Văn-tổ Nghị-vương
Trịnh Tráng đánh họ Mạc ở Cao-bằng
và khởi sự đánh nhau với họ Nguyễn ở đất Quảng- bình. NGUYỄN
Ông Nguyễn-phúc Nguyên chống với họ Trịnh
ở Quảng- bình. Mất năm ất-hợi (1635), thọ 73 tuổi.
Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan
(1635-1648)
Truy tôn là Thần-tông Hiếu- chiêu
Hoàng-đế,
đương thời gọi là chúa Thượng .
Ông Nguyễn-phúc Lan là con thứ hai
chúa Sãi, đánh nhau với họ Trịnh ở Quảng-bình.
Lê Chân Tông (1634-1649) Niên-hiệu:
Phúc-thái
Chân-tông húy là Duy-Hữu, con vua
Thần-tông, làm vua được 6 năm, thọ 20 tuổi.
Trong đời ngài, vua nhà Minh là
Quế-vương đóng ở Quảng-tây sai sứ sang phong cho ngài là An-nam quốc-vương.
TRỊNH
Trịnh Tráng đánh họ Nguyễn ở phía
nam. NGUYỄN
Ông Nguyễn-phúc Lan mất năm mậu-tí
(1648), thọ 48 tuổi.
Dũng Quận Công Nguyễn Phúc Tần
(1648-1687)
Truy tôn là Thái-tông Hiếu- triết
Hoàng-đế,
đương thời gọi là chúa Hiền.
Ông Nguyễn-phúc Tần đánh nhau với họ
Trịnh ở đất Nghệ- an. Lấy đất Chiêm-thành lập ra phủ Ninh-hòa và phủ Diên-
khánh (tức là đất Khánh-hòa bây giờ).
Lê Thần Tông (1649-1662) (lần thứ
hai) Niên-hiệu: Khánh-đức (1649-1652) - Thịnh-đức (1653-1657) - Vĩnh-thọ
(1658-1661) - Vạn-khánh (1662)
Chân-tông mất không có con. Trịnh
Tráng lại rước Thần- tông Thái-thượng-hoàng về làm vua. Lần thứ hai này ngài
làm vua được 13 năm thì mất, thọ 56 tuổi.
TRỊNH
Trịnh Tráng mất năm đinh- dậu (1657)
Tây Vương Trịnh Tạc (1657-1682)
Miếu-hiệu: Hoằng-tổ Dương-vương
Trịnh Tạc đánh con cháu nhà Mạc lấy
lại đất Cao-bằng. Đặt ra lệ vào chầu vua không lạy, sớ tấu không viết tên, và
đặt giường ngồi ở bên tả ngai vua ngự.
NGUYỄN
Nguyễn-phúc Tần (Chúa Hiền) LÊ
HUYỀN-TÔNG (1663-1671) Niên-hiệu: Cảnh-trị
Huyền-tông húy là Duy-Vũ, con thứ
hai vua Thần-tông. Trong đời ngài làm vua mới khởi đầu thông sứ với nhà Thanh,
và cấm đạo Gia-tô. Ngài làm vua được 9 năm, thọ 18 tuổi.
TRỊNH
Trịnh Tạc NGUYỄN
Nguyễn phúc Tần (Chúa Hiền)
Lê Gia Tông (1672-1675) Niên-hiệu:
Dương-đức (1672-1773) - Đức-nguyên (1674-1675)
Gia-tông húy là Duy-Hội, con thứ ba
vua Thần-tông. Lúc ngài lên hai tuổi thì Thần-tông mất, Trịnh Tạc đem về nuôi
trong phủ. Khi vua Huyền-tông mất, không có con, Trịnh Tạc lập ngài lên làm
vua, được 4 năm, thọ được 15 tuổi.
TRỊNH
Trịnh Tạc
NGUYỄN
Nguyễn-phúc Tần (Chúa Hiền)
Lê Hi Tông ( 1676-1705) Niên-hiệu:
Vĩnh-trị (1678-1680) - Chính-hòa (1680-1705)
Hi-tông húy là Duy-Hợp, con thứ tư
vua Thần-tông. Khi Thần-tông mất, bà Trịnh-thị mới có thai được bốn tháng,
Trịnh Tạc đem về nuôi ở bên phủ. Gia-tông mất không có con, Trịnh Tạc lập lên
làm vua được 29 năm rồi truyền ngôi cho Thái-tử mà làm Thái-thượng-hoàng.
TRỊNH
Trịnh Tạc mất năm nhâm- tuất (1682)
Định Vương Trịnh Căn (1682-1709)
Miếu-hiệu là: Chiêu-tổ Khang-vương
Trịnh Căn làm chúa được 28 năm thì
mất, truyền ngôi chúa cho cháu huyền-tôn là Trịnh Cương. NGUYỄN
Nguyễn-phúc Tần mất năm đinh-mão
(1687), thọ 68 tuổi.
Hoằng Quốc Công Nguyễn Phúc Trăn
(1687 - 1691)
Truy tôn là Anh-tông Hiếu- nghĩa
Hoàng-đế,
đương thời gọi là chúa Nghĩa .
Lập phủ ở Phú-xuân là chỗ kinh-đô
bấy giờ. Mất năm tân- mùi (1691), thọ 43 tuổi.
Tộ Quốc Công Nguyễn Phúc Chu (1691 -
1725)
Truy tôn là Hiến-tông Hiếu- minh
Hoàng-đế,
đương thời gọi là Quốc-chúa .
Ông Nguyễn-phúc Chu lấy hết nước
Chiêm-thành (nay là đất Bình-thuận) và lại lấy đất Gia-định, Hà-tiên của
Chân-lạp.
Lê Dụ Tông (1706-1729) Niên-hiệu:
Vĩnh-thịnh (1706-1719) - Bảo-thái (1720-1729)
Dụ-tông húy là Duy-Đường, làm vua
được 24 năm, bị Trịnh Cương bắt phải truyền ngôi cho Thái-tử là Duy-Phương. Mất
năm tân-hợi (1731), thọ 52 tuổi.
TRỊNH
Trịnh Căn mất năm kỷ-sửu (1709).
An Đô Vương Trịnh Cương (1709 -
1729) Miếu-hiệu là: Hi-tổ Nhân-vương.
Mất năm kỷ-dậu (1729). NGUYỄN
Nguyễn-phúc Chu mất năm ất-tị
(1725), thọ 51 tuổi, có 146 người con.
Đỉnh Quốc Công Nguyễn Phúc Trú
(1725-1738)
Truy tôn là Túc-tông Hiếu- ninh
Hoàng-đế
mở-mang đất Gia-định, và bảo-hộ nước
Chân- lạp.
Lê Đế Duy Phương (1729-1732)
Niên-hiệu: Vĩnh-khánh
Duy-phương làm vua được 3 năm, bị
Trịnh Giang vu cho tư thông với vợ Trịnh Cương, phải bỏ, giáng xuống làm
Hôn-đức- công, rồi đến năm nhâm-tí (1732) thì bị giết.
TRỊNH
Trịnh Cương mất.
Uy Nam Vương Trịnh Giang (1729 -
1740) Miếu-hiệu là: Dụ-tổ Thuận-vương
Trịnh Giang làm chúa xa-xỉ và
hung-ác quá độ, giặc-giã nổi lên rất nhiều.
NGUYỄN
Nguyễn-phúc Trú.
Lê Thuần Tông (1732-1735) Niên-hiệu:
Long-đức
Thuần-tông húy là Duy-Tường. Ngài là
con vua Dụ-tông, trước đã được lập làm Thái-tử, sau bị Trịnh Cương bỏ để lập
Duy- Phương. Trịnh Giang lại bỏ Duy-Phương lập ngài lên làm vua, mất năm ất-mão
(1735), thọ 37 tuổi.
TRỊNH
Trịnh Giang NGUYỄN
Nguyễn-phúc Trú
Lê Ý Tông (1735-1740) Niên-hiệu:
Vĩnh-hữu
Ý-tông húy là Duy-Thìn, con vua
Dụ-tông, Trịnh Giang bỏ con vua Thuần-tông mà lập ngài.
Năm canh-thân (1740) Trịnh Doanh bắt
ngài phải nhường ngôi cho con vua Thuần-tông, rồi làm Thái-thượng-hoàng, mất
năm kỷ-mão (1759), thọ 41 tuổi.
TRỊNH
Trịnh Giang bị bỏ năm canh- thân
(1740), làm Thái-thượng- vương. Em là Trịnh Doanh lên thay.
Minh Đô Vương Trịnh Doanh (1740 -
1767) Miếu-hiệu là: Nghị-tổ Ân-vương
Trịnh Doanh đánh-dẹp giặc- giã trong
nước.
NGUYỄN
Nguyễn-phúc Trú mất năm mậu-ngọ
(1738), thọ 43 tuổi.
Vũ-Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 -
1765)
Truy tôn là Thế-tông Hiếu-võ
Hoàng-đế.
Ông Nguyễn-phúc Khoát đánh Chân-lạp
mở thêm đất ở Gia-định.
Lê Hiển Tông (1740-1786) Niên-hiệu: Cảnh-hưng
Hiển-tông húy là Duy-Diêu, con vua
Thuần-tông. Làm vua được 46 năm, thọ 70 tuổi.
TRỊNH
Trịnh Doanh mất năm đinh- hợi
(1767).
Tỉnh Đô Vương Trịnh Sâm (1767 -
1782) Miếu-hiệu là: Thánh-tổ Thịnh-vương
Trịnh Sâm dẹp yên giặc ở xứ Bắc. Lấy
đất Thuận-hóa và Quảng-nam của chúa Nguyễn. Nhưng vì say-đắm nàng Đặng thị Huệ,
mới bỏ con trưởng lập con thứ, làm thành ra cái mối biến-loạn. Mất năm nhâm-dần
(1782).
Tôn Đô Vương Trịnh Cán
Làm chúa được 2 tháng bị quân
Tam-phủ bỏ đi, lập anh là Trịnh Khải lên làm chúa.
Đoan Nam Vương Trịnh Khải (1783 -
1786)
Bị Tây-sơn bắt được, phải tự tử năm
bính-ngọ (1786). NGUYỄN
Võ-vương Nguyễn-phúc Khoát xưng
vương-hiệu năm ất- dậu (1765).
Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765 -
1777)
Truy tôn là Diệu-tông Hiếu- định
Hoàng-đế.
Đời ngài làm chúa bị Trương phúc
Loan chuyên quyền. Quân Tây-sơn nổi lên đánh phía nam, quân họ Trịnh đánh phía
bắc.
Sau quân chúa Trịnh vào lấy mất
Phú-Xuân, Định-vương chạy vào Gia-định bị tướng Tây-sơn là Nguyễn văn Huệ giết
mất. Ngài thọ 24 tuổi.
Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh
Tức là vua Thế-tổ Cao-hoàng- đế nhà
Nguyễn khởi binh ở Gia- định.
Lê Mẫn Đế (1787-1788) Niên-hiệu:
Chiêu-thống
Mẫn-đế là cháu đích-tôn vua
Hiển-tông. Ngài bị quân Tây-sơn đánh thua chạy sang Tàu cầu-cứu, sau đánh thua
lại trở sang Tàu, bị quan Tàu làm nhục, rồi mất ở Yên-kinh.
TRỊNH
Ân Đô Vương Trịnh Bồng
Khi quân Tây-sơn về Nam rồi, đảng họ
Trịnh lại lập Trịnh Bồng lên làm chúa. Vua gọi Nguyễn hữu Chỉnh ra đánh họ
Trịnh, Trịnh Bồng bỏ đi tu.
NGUYỄN
Nguyễn-vương Nguyễn-phúc Ánh khôi-phục
đất Gia-định. CHƯƠNG II
NAM-TRIỀU BẮC-TRIỀU (1527-1592)
1. Chính-trị nhà Mạc
2. Việc nhà Mạc giao-thiệp với nhà
Minh
3. Họ Nguyễn khởi nghĩa giúp nhà Lê
4. Quyền về họ Trịnh
5. Trịnh Tùng thống-lĩnh binh-quyền
6. Khôi-phục thành Thăng-long
7. Nhà Mạc mất ngôi
8. Việc nhà Hậu-Lê giao-thiệp với
nhà Minh
9. Con-cháu nhà Mạc ở Cao-bằng
1. Chính-Trị Nhà Mạc.
Năm đinh-hợi (1527) Mạc đăng Dung
cướp ngôi nhà Lê lên làm vua, đặt niên-hiệu là Minh-đức.
Nhà Mạc tuy đã làm vua, nhưng còn sợ
lòng người nhớ nhà Lê, cho nên công-việc gì cũng theo phép nhà Lê cả, rồi lại
tặng phong cho những người vì nhà Lê mà tuẩn-tiết, và lục dụng những con-cháu
các quan cựu thần, phong cho quan-tước để dụ về với mình. Nhưng mà kẻ thì
trốn-tránh vào ở chỗ sơn-lâm, kẻ thì đi ra ngoại-quốc, kẻ thì đổi họ tên, không
mấy người chịu phục. Lại có kẻ tức-giận vì họ Mạc làm điều gian-ác, tụ họp
những người nghĩa-khí nổi lên đánh phá, như Lê công Uyên, Nguyễn Ngã, Nguyễn
thọ Trường, khởi-nghĩa ở đất Thanh-hóa, nhưng vì thế-lực không đủ, cho nên phải
thua. Sau lại có Lê Ý nổi lên đánh họ Mạc ở đất Mã-giang, mấy phen đã được
thắng trận, nhưng cũng vì khinh địch cho nên đến nỗi phải bị bắt.
Mạc đăng Dung bắt chước lối nhà
Trần, làm vua được ba năm thì nhường ngôi cho con là Mạc đăng Doanh rồi về ở
Cổ-trai, làm Thái-thượng- hoàng.
Năm canh-dần (1530) Mạc đăng Doanh
lên làm vua, đặt niên-hiệu là Đại-chính. Đăng Doanh tuy làm vua nhưng công việc
trong nước thường do Đăng Dung quyết đoán cả.
Mạc đăng Doanh làm vua được 10 năm,
đến năm canh-tí (1540) thì mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc phúc Hải.
Mạc phúc Hải lên nối ngôi, đổi
niên-hiệu là Quảng-hòa.
2. Việc Nhà Mạc Giao-Thiệp Với Nhà
Minh.
Từ khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê rồi,
quan nhà Lê đã có người sang kêu cầu bên Tàu để xin viện binh. Vua nhà Minh đã
sai quan đi đến Vân-nam cùng với quan Tuần- phủ sở-tại tra-xét bên An-nam thực
hư thế nào.
Quan nhà Lê sang Vân-nam kể rỏ việc
họ Mạc làm điều thí nghịch. Quan nhà Minh tâu với vua xin cử binh-mã sang đánh.
Việc định sang đánh họ Mạc không
phải là vua nhà Minh có vị gì họ Lê, nhưng chẳng qua cũng muốn nhân lúc nước
Nam có biến, lấy cớ mà sang làm sự chiếm giữ như khi trước sang đánh họ Hồ vậy.
Ta phải biết rằng phàm những việc nước nọ giao-thiệp với nước kia thì thường là
người ta mượn tiếng " vị nghĩa " mà làm những việc " vị lợi
" mà thôi.
Năm đinh-dậu (1537) vua nhà Minh bèn
sai Cừu Loan làm Đô-đốc, Mao bá Ôn làn Tán-lý-quân-vụ, đem quân sang đóng gần
cửa Nam-quan rồi truyền hịch đi mọi nơi, hễ ai bắt được cha con Mạc đăng Dung
thì thưởng cho quan-tước và hai vạn bạc. Lại sai người đưa thư sang cho Mạc
đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng-đất nhân-dân sang nộp và chịu tội, thì được tha
cho khỏi chết.
Mạc đăng Dung sai bọn Nguyễn văn
Thái sang sứ nhà Minh để xin hàng.
Đến tháng 11 năm canh-tí (1540), Mạc
đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa-soạn sang đánh, sợ-hãi quá chừng, bèn để Mạc
phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng với bọn Vũ như Quế cả thảy hơn 40 người, tự
trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam-quan, lạy phục xuống đất để nộp sổ
điền-thổ và sổ dân-đinh, lại xin dâng đất 5 động: là động Tê-phu, động Kim-lạc,
động Cổ-xung, động Liễu-cát, động La-phù, và đất Khâm-châu. Lại đem vàng bạc
dâng riêng cho nhà Minh.
Quan nhà Minh tuy làm bộ hống-hách
nói đem binh sang đánh, nhưng cũng sợ phải cái vạ như mấy năm bình-định ngày
trước, và lại được tiền bạc của Đăng Dung rồi, cái lòng nhiệt thành vị quốc
cũng nguội đi, cho nên mới tâu với vua nhà Minh xin phong cho Mạc đăng Dung làm
chức Đô- thống-sứ hàm quan nhị-phẩm nhà Minh.
Mạc đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà
lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước
mà không giữ lấy bờ-cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người
phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh-giá cho trọn-vẹn, đến nỗi
phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước cửa một người tướng của
quân nghịch để cầu lấy cái phú-quí cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một
người không biết liêm-sỉ.
Đối với vua là nghịch thần, đối với
nước là phản quốc, đối với cách ăn-ở của loài người, là không có nhân-phẩm; một
người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang-sơn nhà Lê, dẫu có
mượn được thế nhà Minh bênh-vực mặc lòng, một cái cơ-nghiệp dựng lên bởi sự
gian-ác hèn-hạ như thế, thì không bao giờ bền-chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên
con cháu họ Lê lại trung-hưng lên được.
3. Họ Nguyễn Khởi-Nghĩa Giúp Nhà Lê.
Khi Mạc đăng Dung làm sự thoán-đoạt
thì các quan cựu thần trốn-tránh đi cũng nhiều. Thủa ấy có người con ông Nguyễn
hoằng Dụ, tên là Nguyễn Kim (hay là Nguyễn hoằng Kim) 97
làm quan Hữu-vệ Điện-tiền Tướng-quân
An-thanh-hầu, trốn sang Ai-lao. Vua nước ấy là Xạ-đẩu cho đến xứ Sầm-châu
(thuộc Trấn-man phủ, đất Thanh-hóa). Ông Nguyễn Kim đến ở Sầm-châu rồi cho
người đi tìm con-cháu nhà Lê để đồ sự khôi-phục. Đến năm quí-tị (1532) tìm được
một người con rốt vua Chiêu-tông tên là Duy-Ninh lập lên làm vua, tức là Trang-
tông.
Khi ấy lại có một người tướng giỏi
tên là Trịnh Kiểm, ở làng Sóc-sơn, huyện Vĩnh-lộc, phủ Quảng-hóa. Ông Nguyễn
Kim thấy người có tài, gả con gái là Ngọc Bảo cho, để cùng ra sức giúp nhà Lê,
dứt nhà Mạc.
Vua tôi nhà Lê nương-náu ở Sầm-châu
để chiêu-tập quân-sĩ, mãi đến năm canh-tí (1540), ông Nguyễn Kim mới đem quân
về đánh Nghệ-an. Năm nhâm-dần (1542) Trang-tông mới cất quân về đánh Thanh-hóa
và Nghệ-an, qua năm sau (1543) thì thu phục được đất Tây-đô, quan Tổng-trấn nhà
Mạc là Dương chấp Nhất ra hàng.
97
Xem sách Việt Nam Khai Quốc Chí
truyện, thì ông Nguyễn Kim tức là ông Nguyễn Hoằng Kim, là con ông Nguyễn Hoằng
Dụ, cháu ông Nguyễn Văn Lang, đều làm quan nhà Lê cả. 4. Quyền Về Họ Trịnh.
Năm ất-tị (1545) ông Nguyễn Kim đem
quân tiến đánh Sơn-nam, đi đến huyện Yên-mô, bị Dương chấp Nhất là hàng tướng
nhà Mạc đánh thuốc độc chết. Những binh-quyền giao cả lại cho con rể là Trịnh
Kiểm.
Trịnh Kiểm rút quân về Thanh-hóa,
lập hành-điện ở đồn Vạn-lại (thuộc huyện Thụy-nguyên, Thanh-hóa) để cho vua ở,
rồi chiêu-mộ những kẻ hào-kiệt, luyện-tập quân-sĩ, tích trữ lương-thảo để lo
việc đánh họ Mạc.
Bấy giờ có những người danh-sĩ như
là các ông Phùng khắc Khoan (tức là trạng Bùng), ông Lương hữu Khánh đều vào
giúp nhà Lê. Giang-sơn bấy giờ chia làm hai: từ Thanh-hóa trở vào thuộc nhà Lê,
làm Nam-Triều; từ Sơn-nam trở ra thuộc về họ Mạc, làm Bắc-Triều.
Năm bính-ngọ (1546) Mạc phúc Hải
mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc phúc Nguyên, niên-hiệu Vĩnh-định.
Năm mậu-thân (1548) vua Trang-tông
mất, Trịnh Kiểm lập Thái-tử tên là Duy Huyên lên làm vua, được 8 năm thì mất,
tức là Trung-tông.
Vua Trung-tông mất không có con, mà
bấy giờ dòng-dõi họ Lê cũng không có ai, việc binh-quyền thì ở trong tay Trịnh
Kiểm cả.
Tục truyền rằng Trịnh Kiểm đã
lưỡng-lự muốn tự xưng làm vua, nhưng còn chưa dám định hẳn bề nào, các quan
cũng không ai biết làm thế nào cho phải. Sau Trịnh Kiểm cho người lẻn ra
Hải-dương hỏi ông Nguyễn bỉnh Khiêm 98 , tức là Trạng Trình, xem nên làm thế
nào.
Ông Nguyễn bỉnh Khiêm không nói gì
cả, chỉ ngảnh lại bảo đầy-tớ rằng: " Năm nay mất mùa, thóc giống không
tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ ". Nói rồi lại sai đầy-tớ ra
bảo tiểu quét-dọn chùa và đốt hương, để ông ra chơi chùa, rồi bảo tiểu rằng:
" Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản ".
Sứ-giả về kể chuyện lại cho Trịnh
Kiểm nghe. Trịnh Kiểm hiểu ý, mới cho người đi tìm con cháu họ Lê. Sau tìm được
người cháu huyền-tôn ông Lê Trừ, là anh vua Thái-tổ, tên là Duy Bang, ở làng
Bố-vệ, huyện Đông- sơn, rước về lập lên làm vua.
98
Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan nhà
Mạc, được phong là Trình Quốc Công cho nên mới gọi là Trạng Trình, sau về trí
sĩ ở làng Trung An, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương.
Bấy giờ nhà Lê thì lo đánh họ Mạc để
khôi phục lại đất Đông-đô, nhà Mạc thì muốn trừ họ Lê để nhất-thống thiên-hạ.
Nhưng từ khi ông Nguyễn Kim mất rồi, và trong mấy năm về đời vua Trung-tông,
Trịnh Kiểm cứ giữ thế thủ ở đất Thanh-hóa, để sửa-sang việc binh-lương, đợi
ngày ra đánh họ Mạc.
Nhà Mạc sai Mạc kính Điển, là chú
Mạc phúc Nguyên cầm quân đi đánh họ Lê.
Mạc kính Điển đem binh vào đánh
Thanh-hóa cả thảy kể hơn mười phen, phen nào cũng phải thua trở về, Trịnh Kiểm
cũng ra đánh Sơn-nam kể vừa 6 lần, nhưng không có lần nào được toàn thắng. Chỉ
có năm kỷ-mùi (1559) Trịnh Kiểm đem 6 vạn quân ra đánh mặt Bắc, đã lấy được
những tỉnh Sơn-tây, Hưng-hóa, Thái-nguyên, Kinh-bắc, Lạng-sơn, và các huyện ở
mặt Hải-dương, tưởng đã sắp thành-công, nhưng lại bị Mạc kính Điển đem một đạo
quân đi đường bộ vào đánh Thanh-hóa nguy-cấp lắm, Trịnh Kiểm lại phải bỏ miền
Bắc về giữ đất Tây-đô. Thành ra hai bên cứ giữ nhau mãi: nhà Lê tuy đã
trung-hưng, nhưng giang-sơn vẫn chưa thu được lại như cũ, mà nhà Mạc có làm
vua, thì cũng chỉ làm vua ở miền Bắc mà thôi.
Năm tân-dậu (1561) vua nhà Mạc là
Phúc Nguyên mất, con là Mạc mậu Hợp lên nối ngôi làm vua.
Việc tranh chiến vẫn cứ như trước:
khi thì Trịnh Kiểm ra đánh Sơn- nam, khi thì Mạc kính Điển vào đánh Thanh-hóa,
hai bên không bên nào được hẳn.
5. Trịnh Tùng Thống-Lĩnh Binh-Quyền.
Năm canh-ngọ (1570) Trịnh Kiểm mất,
trao quyền lại cho con trưởng là Trịnh Cối để lo việc đánh dẹp. Nhưng Trịnh Cối
hay say đắm tửu sắc, tướng-sĩ không mấy người phục; lại có em là Trịnh Tùng ý
muốn cướp quyền của anh, bèn cùng với bọn Lê cập Đệ, Trịnh Bách rước vua về đồn
Vạn-lại, rồi chia quân ra chống với Trịnh Cối.
Đương khi hai anh em họ Trịnh đánh
nhau, thì Mạc kính Điển lại đem hơn 10 vạn quân vào đánh Thanh-hóa, Trịnh Cối
liệu thế địch không nổi, bèn đem quân về hàng họ Mạc, được giữ quan-tước như cũ.
Quân nhà Mạc thừa thế tiến lên đến sông Mã-giang, tràn sang đóng ở đất
Hà-trung, rồi đến vây đánh An-trường (thuộc huyện Thụy-nguyên) là chỗ vua nhà
Lê đóng.
Bấy giờ vua Anh-tông về ở Đông-sơn,
phong cho Trịnh Tùng làm tả- thừa-tướng, tiết chế chư quân, để chống giữ với
quân nhà Mạc. Trịnh Tùng sai các tướng giữ mọi nơi rất là chắc-chắn. Mạc kính
Điển đánh mãi không được, lâu ngày hết lương phải rút quân về Bắc.
Quân nhà Mạc rút về rồi, vua phong
cho Trịnh Tùng làm Thái-úy Trưởng-quốc-công, và thăng thưởng cho các tướng-sĩ.
Lại sai ông Phùng khắc Khoan đi chiêu-tập những hoang dân ở Thanh-hóa về
yên-nghiệp làm ăn, và chỉnh-đốn việc chính-trị lại.
Bấy giờ việc gì cũng do Trịnh Tùng
quyết-đoán cả, uy-quyền hống- hách, vua cũng lấy làm lo. Lê cập Đệ thấy vậy,
mưu với vua để trừ họ Trịnh, nhưng Trịnh Tùng biết ý dùng mưu giết Cập Đệ, vua
Anh-tông biết sự không thành, lo sợ lắm, bèn cùng với bốn hoàng-tử chạy vào
Nghệ-an.
Trịnh Tùng thấy vua xuất ngoại rồi,
bèn cho người đi rước hoàng-tử thứ năm là Duy Đàm, ở làng Quảng-thi, huyện
thụy-nguyên về làm vua, rồi sai Nguyễn hữu Liêu đem binh đi đuổi theo vua
Anh-tông.
Anh-tông vào đến đất Nghệ-an, thấy
quân đuổi đến, vội-vàng ẩn vào trong vườn mía, nhưng bị Hữu Liêu tìm thấy đưa
về, đến huyện Lôi-dương thì Trịnh Tùng sai người đến giết đi, rồi nói rằng vua
thắt cổ chết.
Trịnh Tùng giết vua Anh-tông rồi,
thăng thưởng cho những người đồng đảng với mình, và chia quân ra phòng giữ các
nơi để chống với quân nhà Mạc.
Từ năm quí-dậu (1573) cho đến năm
quí-mùi (1583) vừa 10 năm, Trịnh Tùng cứ giữ vững đất Thanh-hóa, Nghệ-an, để
cho quân nhà Mạc vào đánh phải hao binh tổn tướng. Trong bấy nhiêu năm, tướng
nhà Mạc là Mạc kính Điển, Nguyễn Quyện, và Mạc ngọc Liễn, khi thì vào đánh
Thanh-hóa, khi thì vào đánh cả mặt Thanh và mặt Nghệ, nhưng mà không bao giờ
thành công, phen nào cũng được một vài trận rồi lại thua, phải rút quân về.
Từ năm ất-mão (1579) trở đi, Mạc
kính Điển mất rồi, Mạc đôn Nhượng đem binh vào đánh họ Lê, nhưng cũng không
được trận nào.
6. Khôi-Phục Thành Thăng-Long.
Đến năm quí mùi (1583) Trịnh Tùng
xem thế mình đã mạnh, mới cử binh mã ra đánh Sơn-nam lấy được thóc gạo đem về.
Từ đó về sau năm nào cũng ra đánh, bắt quân nhà Mạc phải đổi thế công ra thủ.
Và nhà Mạc thấy thế nhà Lê một ngày một mạnh, bèn bắt quân-dân đắp ba từng lũy,
đào ba lần hào ở ngoài thành Đại- la để làm kế thủ-bị.
Quân nhà Lê ra đánh trận nào được
trận ấy, Trịnh Tùng bèn quyết ý cử đại binh ra đánh Thăng-long.
Năm tân-mão ( 1591 ) Trịnh Tùng sai
Diễn-quận-công Trịnh văn Hải, Thái-quận-công Nguyễn thất Lý đem binh trấn-thủ
các cửa bể và các nơi hiểm-yếu. Sau Thọ-quận-công Lê Hòa ở lại giữ ngự-dinh và
cả địa hạt Thanh-hóa. Phòng bị đâu đó rồi, bèn đem hơn 5 vạn quân chia ra làm 5
đội, sai quan Thái-phó Nguyễn hữu Liêu, quan Thái-úy Hoàng đình Ái, Lân-quận-
công Hà thế Lộc, Thế-quận-công Ngô cảnh Hữu, mỗi người lĩnh một đội, còn Trịnh
Tùng tự lĩnh 2 vạn quân ra cửa Thiên-quan (Ninh-Bình) qua núi Yên mã (ở huyện
An-sơn ) đất Tân-phong (tức là Tiên-phong ) rồi kéo về đóng ở Tốt-lâm ( ? ) .
Vua nhà Mạc là Mạc mậu Hợp cũng
điều-động tất cả quân bốn vệ và quân năm phủ được hơn 10 vạn, sai Mạc ngọc Liễn
và Nguyễn Quyện lĩnh hai đạo tả hữu, Mậu Hợp tự dẫn trung-quân đến đóng đối
trận với quân Trịnh Tùng.
Trịnh Tùng thấy quân Mạc đã đến, bèn
tự mình dốc tướng-sĩ thề đánh cho được để báo thù. Quân họ Trịnh đánh rất hăng,
quân nhà Mạc đánh không nổi, thua to, chết đến hàng vạn người. Mạc mậu Hợp bỏ
chạy. Quân họ Trịnh thừa thế đuổi tràn gần đến thành Thăng-long. Nhưng vừa đến
tết Nguyên-đán, cho nên Trịnh Tùng đình-chiến lại cho quân-sĩ nghỉ- ngơi ăn
tết. Qua sang tháng giêng năm nhâm-thìn ( 1592 ) Trịnh Tùng lập đàn tế trời đất
và các vua nhà Lê rồi đặt ba điều ước để cấm quân-sĩ.
1. Không được vào nhà dân mà lấy đồ
ăn và củi-đuốc.
2. Không được cướp lấy của-cải và
chặt lấy cây-cối.
3. Không được dâm hiếp đàn-bà
con-gái, và không được
vì tư thù mà giết người.
Ai phạm ba điều ấy thì cứ theo
quân-pháp mà trị. Đoạn rồi, tiến quân lên đánh Thăng-long thành.
Mạc mậu Hợp thấy quân nhà Lê lại
tiến lên, bèn sai Mạc ngọc Liễn, Bùi văn Khuê, Nguyễn Quyện và Trần bách Niên ở
lại giữ thành Thăng-long, rồi đem quân sang sông Nhị-hà về đóng ở làng Thổ
Khối.
Trịnh Tùng sai tướng chia quân vây
đánh các cửa thành. Quân nhà Mạc giữ không nổi, ba tầng lũy đều phải phá cả bọn
Mạc ngọc Liễn, Bùi văn Khuê phải bỏ thành mà chạy, Nguyễn Quyện thì bị bắt.
Trịnh Tùng lấy được thành Thăng-long
rồi bắt quân phá những hào lũy đi, sau phẳng ra làm bình địa, rồi về Thanh-hóa
đem tin thắng trận cho vua biết.
Sử không nói rõ tại làm sao Trịnh Tùng
đã lấy được Thăng-long mà không đánh rấn đi, lại bỏ về Thanh-hóa. Có lẽ là tại
quân họ Trịnh tuy thắng trận, nhưng tướng sĩ đều mỏi-mệt cả, vả lại thế họ Mạc
hãy còn mạnh, ở lại giữ không nổi, cho nên phải bỏ mà về.
Trịnh Tùng đã bỏ Thăng-long về
Thanh-hóa, nhưng Mậu Hợp không biết nhân lấy dịp ấy mà sửa sang việc võ-bị,
chỉnh-đốn việc chính-trị, lại cứ say đắm tửu sắc, bạc đãi các tướng-sĩ, đến nỗi
công-việc hỏng nát, thân mình bị hại.
Bấy giờ Bùi văn Khuê có người vợ tên
là Nguyễn-thị nhan sắc hơn người, Mạc mậu Hợp muốn giết Văn Khuê đi để lấy
Nguyễn-thị làm vợ.
Văn Khuê biết ý đem vợ vào ở huyện
Gia-viễn ( thuộc Ninh-bình ) Mậu Hợp cho quân vào bắt. Văn Khuê phải xin về
hàng với Trịnh Tùng.
7. Nhà Mạc Mất Ngôi.
Trịnh Tùng được Văn Khuê về hàng,
mừng lắm, liền sai Hoàng đình Ái ra đón Văn Khuê rồi đem đi làm tiền đội, tự
mình lại đem đại binh trở ra Tràng-an, gặp quân nhà Mạc ở sông Thiên-phái ( ở
về cuối huyện Ý-yên và huyện Phong-doanh, tỉnh Nam-định ), đánh nhau một trận,
lấy được 70 chiếc thuyền, tướng nhà Mạc là Trần bách Niên về hàng.
Quân Trịnh Tùng kéo ra Bình-lục,
sang Thanh-oai đóng ở bãi Tinh- thần ( bây giờ là xã Thanh-thần ở huyện
Thanh-oai ) rồi tiến lên đến sông Hát-giang, cửa sông Đáy ra sông Hồng-hà, gặp
tướng nhà Mạc là Mạc ngọc Liễn, đánh đuổi một trận lấy được chiến thuyền kể
hằng nghìn chiếc.
Mạc mậu Hợp được tin quân mình thua
to, bỏ thành Thăng-long chạy sang Hải-dương về đóng ở kim-thành thuộc
Hải-dương.
Trịnh Tùng ra đến Thăng-long, rồi
sai Nguyễn thất Lý, Bùi văn Khuê và Trần bách Niên sang đánh Mậu Hợp ở
Kim-thành, lấy được vàng bạc của cải nhiều lắm, và bắt được mẹ Mậu Hợp đem về.
Mạc mậu Hợp thấy quân mình thua
luôn, bèn giao quyền chính-trị cho con là Mạc Toàn rồi tự mình làm tướng đem
quân đi đánh.
Bấy giờ quan nhà Mạc là bọn Đỗ Uông,
Ngô Tạo, cả thảy 17 người về hàng nhà Lê.
Trịnh Tùng sang đóng quân ở huyện
Vĩnh-lại, rồi sai Phạm văn Khoái đem quân đi đuổi đánh Mậu Hợp ở huyện Yên-dũng
và huyện Vũ-ninh ( nay là Vũ-giang ). Mạc mậu Hợp phải bỏ thuyền chạy lên bộ,
vào ẩn trong cái chùa ở huyện Phượng-nhỡn. Văn Khoái đuổi đến đấy, có người chỉ
dẫn bắt được đem về Thăng-long, làm tội sống ba ngày, rồi chém đầu vào bêu ở
trong Thanh-hóa.
Bấy giờ có con Mạc kính Điển là Mạc
kính Chỉ ở đất Đông-triều biết tin Mạc mậu Hợp đã bị bắt, bèn tự lập làm vua,
đóng ở huyện Thanh-lâm. Con cháu họ Mạc hơn 100 người và các quan văn võ đều về
đấy cả, rồi treo bảng chiêu mộ quân-sĩ, chẳng bao lâu được sáu bảy vạn người.
Mạc Toàn là con Mạc mậu Hợp cũng theo về với Mạc kính Chỉ.
Trịnh Tùng thấy Kính Chỉ lại nổi
lên, thanh thế to lắm, quan quân đánh mãi không được, bèn đem quân sang đánh ở
huyện Cẩm-giang và Thanh-lâm, bắt được Kính Chỉ và con cháu họ Mạc cùng các
quan cả thảy hơn 60 người.
Trịnh Tùng đánh được trận ấy, rồi về
Thăng-long, sai quan vào rước vua Thế-Tông ra Đông-đô, mở triều và thăng thưởng
cho các tướng-sĩ.
Năm sau, tướng nhà Mạc là Mạc ngọc
Liễn tìm được một người con Mạc kính Điển là Mạc kính Cung lập lên làm vua,
chiếm giữ châu Yên-bác ở đất Lạng-sơn để làm căn-bản. Nhưng chẳng bao lâu quan
Thái-úy là Hoàng đình Ái đem binh lên đánh. Mạc kính Cung và Mạc ngọc Liễn phải
chạy sang Long-châu. Ít lâu Ngọc Liễn chết có để thư lại dặn Kính Cung rằng :
" Nay họ Lê lại dấy lên được, ấy là số trời đã định; còn dân ta thì có tội
gì, mà ta nỡ để khổ sở mãi về việc chiến-tranh ? Vậy ta nên đành phận lánh mình
ở nước ngoài, chứ đừng có đem lòng cạnh-tranh mà lại mời người Tàu sang làm hại
dân nước mình . "
Trung-hậu thay, mấy lời dạy lại của
Mạc ngọc Liễn! Chỉ tiếc vì họ Mạc không ai chịu theo!
Từ đó nhà Mạc mất ngôi làm vua, ngày
sau tuy Mạc kính Cung nhờ có nhà Minh bênh-vực được về ở đất Cao-bằng, nhưng
cũng là ở một chỗ nhỏ-mọn gần chỗ biên-thùy mà thôi.
Nhà Mạc làm vua từ Mạc đăng Dung cho
đến Mạc mậu Hợp là từ năm đinh-hợi ( 1527 ) đến năm nhâm-thìn ( 1592 ) kể vừa
được 65 năm.
Trịnh Tùng tuy đã lập được công to
dứt được nhà Mạc, lấy lại được đất Đông-đô, nhưng nhà Minh vẫn có ý bênh nhà
Mạc không chịu nhận nhà Lê. Và con cháu nhà Mạc hãy còn nhiều; nay xưng vương
chỗ này, mai khởi loạn chỗ khác, cho nên Trịnh Tùng phải một mặt dùng trí mà
giữ cho nhà Minh khỏi quấy nhiễu, và một mặt dùng lực mà đánh dẹp dư-đảng họ
Mạc.
8. Việc Nhà Hậu-Lê Giao-Thiệp Với
Nhà Minh.
Khi Trịnh Tùng đã thu-phục được
thành Thăng-long rồi, người nhà Mạc sang kêu với vua nhà Minh rằng họ Trịnh nổi
lên tranh ngôi, chứ không phải con-cháu nhà Lê.
Vua nhà Minh sai quan đến Nam-quan
khám-xét việc ấy.
Tháng 3 năm bính-thân ( 1596 ) vua
Thế-tông sai quan Hộ-bộ Thượng-thư là Đỗ Uông và quan Đô-ngự-sử là Nguyễn văn
Giai lên Nam- quan tiếp quan Tàu. Sau lại sai hai ông hoàng-thân là Lê Cánh, Lê
Lựu cùng với quan Công-bộ tả-thị-lang là Phùng khắc Khoan đem 10 người kỳ-mục,
100 cân vàng, 1,000 cân bạc, cái ấn An-nam Đô-thống-sứ của nhà Mạc và cái ấn
An-nam-quốc-vương của vua nhà Lê ngày trước, sang cho quan nhà Minh khám. Nhưng
quan nhà Minh lại bắt vua Thế-tông phải thân hành sang hội ở cửa Nam-quan.
Trịnh Tùng sai Hoàng đình Ái, Nguyễn
hữu Liêu đem một vạn quân đi hộ giá, đưa vua sang phó hội. Sang đến nơi, quan
nhà Minh lại đòi phải nộp người vàng và ấn vàng như tích cũ, rồi không chịu đến
hội. Vua chờ lâu, không xong việc lại phải trở về.
Đến tháng tư năm sau, sứ nhà Minh
lại sang mời vua Thế-tông lên hội ở Nam-quan. Triều-đình sai quan Thái-úy Hoàng
đình Ái đem 5 vạn quân đi hộ giá sang hội ở Nam-quan.
Đến khi xa giá về, Trịnh Tùng đem
các quan đi đón mừng rồi sai Công-bộ tả-thị-lang Phùng khắc Khoan làm chánh-sứ,
quan Thái-Thường tự- khanh Nguyễn nhân Thiệm làm phó sứ, đem đồ lễ sang
Yên-kinh cống nhà Minh và xin phong.
Vua nhà Minh chỉ phong cho vua
Thế-tông làm An-nam Đô-thống- Sứ. Ông Phùng khắc Khoan dâng sớ tâu rằng :
" Đô-thống-sứ là chức cũ của họ Mạc, chứ vua nước Nam là dòng dõi họ Lê,
mà phong cho chức ấy thì không xứng-đáng
" . Vua nhà Minh trả lời rằng :
vẫn biết họ Lê không ví như họ Mạc, nhưng lúc đầu mới phong hãy tạm cho chức
ấy, rồi về sau sẽ phong vương.
Ông Phùng khắc Khoan phải chịu mà
về. Từ đó nhà Minh với nhà Lê lại thông sứ như trước.
9. Con cháu nhà Mạc ở Cao-Bằng.
Từ khi Mạc mậu Hợp và Mạc kính Chỉ
bị bắt rồi, con cháu họ Mạc ẩn ở các nơi để mong đường khôi- phục. Bấy giờ có
Mạc kính Chương xưng làm Tráng-vương, chiếm-giữ từ huyện Đông-triều cho đến đất
Yên-quảng.
Năm bính-thân ( 1596 ) Trịnh Tùng
sai quan Trấn-thủ Hải-dương là Phan Ngạn đánh bắt được Kính Chương.
Lại có người Mạc kính Dụng là con
Mạc kính Chi chiếm-giữ đất Yên- bắc ( Lạng-sơn ) xưng làm Uy-vương, nhưng cũng
chẳng bao lâu bị quân họ Trịnh bắt được.
Còn Mạc kính Cung trước đã chạy sang
ở Long-châu, sau lại về cùng với đảng mình đánh phá ở đất Cao-bằng và đất
Lạng-sơn. Trịnh Tùng sai quan lên đuổi đánh, nhưng Mạc kính Cung sang kêu với
nhà Minh, vua nhà Minh cho đưa thư sang bắt nhà Lê phải để đất Cao-bằng cho con
cháu họ Mạc.
Nhà Lê bất-đắc-dĩ phải để đất
Cao-bằng cho họ Mạc ở.
CHƯƠNG lll
Trịnh-Nguyễn phân tranh
1. Họ Trịnh xưng chúa miền Bắc
2. Họ Nguyễn xưng chúa miền Nam
1. Họ Trịnh Xưng Chúa Miền Bắc.
Từ khi Trịnh Tùng dứt được họ Mạc,
thu giang sơn lại cho nhà Lê rồi, mỗi ngày một kiêu hãnh, chiếm giữ lấy quyền
chính trị và lại hà hiếp nhà vua. Họ Nguyễn ở trong Thuận-hóa thấy họ Trịnh
chuyên quyền, cũng tự xưng độc-lập ở miền Nam, làm thành ra Nam Bắc đôi nơi và
gây nên sự chiến tranh rất là tàn-hại cho nước nhà.
Năm kỷ-hợi ( 1599 ) đời vua Thế-tông
nhà Lê, Trịnh Tùng thu-xếp xong việc thông sứ với nhà Minh, và đã chịu nhường
đất Cao-bằng cho con- cháu nhà Mạc rồi, trong nước đã yên dần, bèn tự xưng làm
Đô-nguyên-súy Tổng-quốc-chính Thượng-phu Bình-an-vương rồi định lệ cấp bổng cho
vua được thu thuế 1.000 xã, gọi là lộc thượng-tiến, cấp cho vua 5.000 lính để
làm quân túc-vệ. Còn những việc đặt quan, thu thuế, bắt lính, trị dân, đều
thuộc về họ Trịnh cả. Chỉ có khi nào thiết triều hay là tiếp sứ thì mới cần đến
vua mà thôi.
Từ đó về sau, họ Trịnh cứ thế tập
làm vương, tục gọi là chúa Trịnh.
Uy quyền họ Trịnh bấy giờ hống-hách
như thế và các quan lại theo về họ Trịnh cả. Giả-sử Trịnh Tùng có muốn dứt nhà
Lê đi mà làm vua, thì cũng không khó gì. Tuy vậy mà Trịnh Tùng không dám làm,
là tại sao ? Tại lẽ rằng ở phía Bắc sợ nhà Minh sinh sự lôi thôi, lại có họ Mạc
còn giữ đất Cao-bằng nhỡ có làm điều gì phản-trắc, thì e quân nghịch nổi lên
lấy thù Lê thảo Trịnh làm cớ.
Và chăng mặt Nam còn có họ Nguyễn,
thế-lực cũng chẳng kém-hơn gì, mà lại có ý độc-lập để tranh quyền với họ Trịnh.
Chi bằng không lấy nước cũng như lấy nước, không làm vua mà lại hơn vua. Vì bao
giờ có phải đi đánh-dẹp nơi nào, vẫn lấy lệnh thiên tử mà sai khiến mọi người,
không ai bắt-bẻ gì được. Bởi thế cho nên họ Trịnh đành chịu ngôi thứ nhì trong
nước mà giữ quyền cả nước.
2. Họ Nguyễn Xưng Chúa Miền Nam.
Nguyên khi xưa ông Nguyễn Kim
khởi-nghĩa giúp nhà Lê đánh nhà Mạc đi lấy được đất Thanh- nghệ rồi , sau đem
quân ra đánh Sơn-nam bị hàng tướng nhà Mạc nhà Mạc là Dương chấp Nhất đánh
thuốc độc chết, binh quyền giao cả lại cho rể là Trịnh Kiểm để đánh giặc.
Ông Nguyễn Kim có hai người con là
Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng cũng làm tướng lập được nhiều công. Người anh là
Nguyễn Uông được phong là Lang-quận-công, người em là Nguyễn Hoàng được phong
là Thái-úy Đoàn-quận-công.
Nhưng vì Trịnh Kiểm sợ họ Nguyễn
tranh mất quyền mình, bèn kiếm chuyện mà giết Nguyễn Uông đi. Còn Nguyễn Hoàng
cũng sợ Trịnh Kiểm có ý ám hại, chưa biết thế nào mới cho người ra Hải-dương
hỏi ông Nguyễn bỉnh Khiêm. Ông ấy bảo rằng : " Hoành-sơn nhất đái, vạn đại
dung thân
" nghĩa là một dãy Hoành-sơn 99
kia có thể yên thân được muôn đời.
Nguyễn Hoàng mới nói với chị là bà
Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn phía Nam.
Năm mậu-ngọ ( 1558 ) đời vua
An-tông, Trịnh Kiểm mới tâu vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận-hóa. Bấy
giờ những người họ hàng ở huyện Tống-sơn cùng những quân lính ở đất Thanh-nghệ
nhiều người đưa cả vợ con theo đi. Nguyễn Hoàng vào đóng ở Xã Ái-tử ( sau gọi
là kho Cây- khế ), thuộc huyện Đăng-xương, tỉnh Quảng-trị.
Nguyễn Hoàng là một người khôn-ngoan
mà lại có lòng nhân-đức, thu-dùng hào-kiệt, yên-ủi nhân-dân, cho nên lòng người
ai cũng mến-phục.
Đến năm kỷ-tỵ ( 1569 ) ông ra chầu
vua ở An-tràng. Qua năm sau Trịnh Kiểm gọi quan tổng-binh ở Quảng-nam là Nguyễn
bá Quýnh về giữ đất Nghệ-an, và lại cho ông vào trấn cả đất Thuận-hóa và đất
Quảng-nam. Lệ mỗi năm phải nộp thuế là 400 cân bạc, 500 tấm lụa.
Năm nhâm-thân ( 1572 ) nhân lúc
Trịnh Kiểm mới mất, con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh nhau, nhà Mạc đem quân
vào đánh Thanh-hóa và sai tướng là Lập Bạo đem một toán quân đi 60 chiếc
thuyền, bởi đường hải- đạo kéo vào đóng ở làng Hồ-xá và ở làng Lạng-uyển (
thuộc huyện Minh-linh ) để đánh Nguyễn Hoàng.
99
Núi Hoành Sơn là núi Đèo Ngang ở
tỉnh Quảng Bình
Ông mới sai một người con gái đẹp là
Ngô-thị giả làm cách đưa vàng bạc sang nói với Lập Bạo xin cầu hòa. Lập Bạo
mừng rỡ, không phòng bị gì cả, bị quân họ Nguyễn đánh lẻn, bắt được giết đi, và
đánh tan quân nhà Mạc.
Năm quí-tị ( 1593 ) Trịnh Tùng đã
lấy được thành Thăng-long, bắt được Mạc mậu Hợp, nhưng mà đảng nhà Mạc còn
nhiều, phải đánh dẹp nhiều nơi, Nguyễn Hoàng đưa quân-binh và súng-ống ra
Đông-đô, ở hằng 8 năm, giúp Trịnh Tùng để đánh họ Mạc, lập được nhiều công to.
Nhưng mà Trịnh Tùng vẫn có ý ghen ghét không muốn cho ngài về Thuận-hóa, mà
ngài cũng không có dịp gì mà về được.
Năm canh-tý ( 1600 ) nhân vì họ
Trịnh kiêu hãnh quá, các quan có nhiều người không phục ; bọn Phan Ngạn, Ngô
đình Hàm, Bùi văn Khuê khởi binh chống lại với họ Trịnh ở cửa Đại-an ( thuộc
Nam-định ), Nguyễn Hoàng mới đem bản bộ tướng-sĩ giả cách nói đi đánh giặc, rồi
theo đường hải-đạo về Thuận-hóa.
Nguyễn Hoàng về Thuận-hóa rồi, sợ họ
Trịnh nghi-ngờ, bèn đem người con gái là bà Ngọc Tú gả cho Trịnh Tráng là con
trai Trịnh Tùng. Ngài ở giữ đất Thuận-hóa, cho người con thứ sáu vào trấn đất
Quảng-nam dựng ra kho tàng, tích-trữ lương thực.
Từ đấy trở đi, Nam Bắc phân-biệt, bề
ngoài thì làm ra bộ hòa-hiếu, nhưng bề trong thì vẫn lo việc phòng-bị để chống
cự với nhau.
CHƯƠNG IV
Sự Chiến Tranh
1. Họ Trịnh đánh họ Mạc ở Cao Bằng.
2. Nhà Thanh dấy nghiệp. 3. Tình thế họ Nguyễn ở miền Nam. 4. Đánh nhau lần thứ
nhất. 5. Đánh nhau lần thứ hai. 6. Đánh nhau lần thứ ba. 7. Đánh nhau lần thứ
tư. 8. Đánh nhau lần thứ năm. 9. Đánh nhau lần thứ sáu. 10. Đánh nhau lần thứ
bảy.
1. Họ Trịnh Đánh Họ Mạc ở Cao Bằng.
Năm kỷ hợi (1599), vua Thế Tông mất,
Trịnh Tùng cùng với các quan triều thần lập hoàng tử là Duy Tân lên làm vua,
tức là vua Kính Tông. Qua năm sau (1600) bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm và Bùi Văn
Khuê nổi loạn ở cửa Đại An. Trịnh Tùng ở Thăng Long sợ bốn mặt thụ địch, bèn
rước vua vào Thanh Hóa.
Đảng họ Mạc thấy thành Thăng Long bỏ
không, bèn rước bà thứ mẫu của Mậu Hợp là Bùi Thị về tôn lên làm quốc mẫu, rồi
cho người lên đón Mạc Kính Cung ở đất Cao Bằng.
Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê lại nghi
ngờ nhau rồi giết lẫn nhau, còn Ngô Đình Hàm thì về giúp nhà Mạc.
Trịnh Tùng đem Kính Tông vào Thanh
Hóa rồi thu xếp ra lấy lại Thăng Long, nhưng còn sợ mặt Thuận Hóa có biến
chăng, bèn sai quan vào ủy dụ Nguyễn Hoàng; đoạn rồi đem thủy bộ đại quân ra
Bắc, đánh bắt được Bùi Thị giết đi, còn Mạc Kính Cung bỏ chạy sang Kim Thành ở
Hải Dương, sau thấy đảng của mình thua cả, lại bỏ Kim Thành chạy lên Cao Bằng.
Trịnh Tùng lấy lại Thăng Long rồi
sai quan vào rước vua ra, và sai các tướng đi tiễu trừ đảng họ Mạc ở mặt Thái
Nguyên, Lạng Sơn và Yên Quang.
Trịnh Tùng càng ngày càng kiêu hãnh
quá, vua cũng không chịu được, lại nhân họ Trịnh có con là Trịnh Xuân muốn ganh
quyền với người con trưởng là Trịnh Tráng, vua Kính Tông mới mưu với Trịnh Xuân
để giết Trịnh Tùng, nhưng chẳng may sự không thành. Trịnh Tùng bức vua phải
thắt cổ chết, và bắt Trịnh Xuân giam mấy tháng rồi tha.
Trịnh Tùng giết vua Kính Tông rồi,
lập Hoàng Tử là Duy Kỳ lên làm vua, tức là vua Thần Tông.
Năm quý hợi (1623) Trịnh Tùng đau,
hội các quan lại giao binh quyền cho con là Trịnh Tráng, và cho Trịnh Xuân làm
phó.
Trịnh Xuân không bằng lòng, đem binh
làm loạn, đốt phá kinh thành, Trịnh Tùng thấy biến, chạy về xã Hoàng Mai, vào
nhà Trịnh Đỗ, rồi cho gọi Trịnh Xuân đến bắt giết đi. Được mấy hôm Trịnh Tùng mất
ở chùa Thanh Xuân, thuộc huyện Thanh Trì.
Trịnh Tráng lên nối nghiệp làm chúa.
Nhưng vì đảng Trịnh Xuân còn làm loạn, cho nên mới đưa vua về Thanh Hóa. Vua
phong cho Trịnh Tráng làm Thái Úy Thanh Quốc Công, tiết chế thủy bộ chư quân.
Bấy giờ có Mạc Kính Khoan là cháu
Mạc Kính Cung xưng làm Khánh Vương ở đất Thái Nguyên. Trước đã bị quân họ Trịnh
đánh phá mấy trận, phải lên ẩn núp ở đất Cao Bằng, nay thâ"y người nhà họ
Trịnh làm loạn, lại đem quân vào đóng ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm. Nhưng
chẳng bao lâu Trịnh Tráng ở Thanh Hóa ra đánh. Kính Khoan lại phải chạy về Cao
Bằng.
Trịnh Tráng dẹp yên đất Đông Đô, lại
vào rước vua ra, và tự xưng làm Nguyên Súy, Thống Quốc Chính Thanh Đô Vương,
rồi sai con là Trịnh Kiều đem quân lên đánh Cao Bằng (ất sửu 1625) bắt được Mạc
Kính Cung đem về giết đi. Mạc Kính Khoan thì chạy sang Tàu, rồi cho người về
dâng biểu xin hàng.
Triều đình phong cho Kính Khoan làm
Thái Úy Thông Quốc Công, và cho giữ đất Cao Bằng theo lệ cống tiến.
2. Nhà Thanh Dấy Nghiệp.
Khi Trịnh Tráng ở An Nam ta mới lên
nối nghiệp làm chúa và đang phải đánh dẹp họ Mạc ở đất Cao Bằng, thì ở bên Tàu
nhà Minh mất nước.
Nguyên ở xứ đông bắc nước Tàu có một
xứ gọi là Mãn Châu, có giống người Nữ Chân ở. Về đời nhà Tống người Nữ Chân đã
lập nên một nước lớn gọi là Kim, xưng đế được 120 năm, rồi bị nhà Nguyên lấy
mất. Nhà Nguyên đặt Vạn Hộ Phủ để cai trị đất Mãn Châu.
Sau nhà Minh dứt được nhà Nguyên,
tuy ở Mãn Châu nhà Minh có đặt vệ địa, nhưng mà người xứ ấy vẫn tự cai trị lấy.
Đất Mãn Châu bấy giờ chia làm bốn
bộ:
1. Mãn Châu Bộ (thuộc về Kiến Châu
Vệ Địa) 2. Trường Bạch Bộ (thuộc về Kiến Châu Vệ Địa) 3. Đông Hải Bộ (thuộc về
Dạ Nhân Vệ Địa) 4. Hỗ Luân Bộ (thuộc về Hải Tây Vệ Địa)
Về cuối đời nhà Minh, ở Trường Bạch
Bộ có một người tên là Nỗ Nhĩ Cấp Xích, tức là vua Thái Tổ nhà Thanh, đánh lấy
tất cả đất bốn bộ, đóng kinh đô ở Thẩm Dương, là Thịnh Kinh bây giờ.
Nỗ Nhĩ Cáp Xích mất, con lên nối
nghiệp tức là Thanh Thái Tông. Sau nhân được cái Truyền Quốc Tỉ của nước Tàu,
Thái Tông mới cải quốc hiệu là Đại Thanh.
Con Thái Tông tên là Phúc Lâm lên
làm vua, tức là Thanh Thế Tổ, đánh lấy được cả đất Liêu Tây của nhà Minh.
Khi tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế
đang chống với quân nhà Thanh ở Sơn Hải Quan thì Lý Tự Thành nổi lên vây đánh
Yên Kinh. Vua Trang Liệt nhà Minh gọi Ngô Tam Quế về cứu, nhưng về đến nửa
đường, Tam Quế được tin Yên Kinh đã thất thủ, Trang Liệt Đế và Hoàng Hậu đã bị
giết, Tam Quế lại trở về Sơn Hải Quan.
Lý Tự Thành cho người gọi Tam Quế về
hàng, Tam Quế không về. Tự Thành đem quân đến đánh Sơn Hải Quan. Tam Quế xin
hàng nhà Thanh để lấy binh về đánh Tự Thành.
Lý Tự Thành đánh thua, phải bỏ Yên
Kinh mà chạy, quân nhà Thanh vào giữ Yên Kinh rồi dời kinh sư về đó.
Các quân cựu thần nhà Minh lập Phúc
Vương lên làm vua ở Nam Kinh, nhưng sau vì các tướng không hòa với nhau, Phúc
Vương phải ra hàng.
Phúc Vương hàng Thanh rồi, Đường
Vương xưng đế ở Phúc Châu, chẳng bao lâu cũng bị bắt, phải nhịn ăn mà chết.
Dòng dõi nhà Minh là Quế Vương xưng
đế ở đất Triệu Khánh (thuộc tỉnh Quảng Tây) được mấy năm, bị quân nhà Thanh đến
đánh, phải chạy sang Diến Điện. Vua Diến Điện bắt Quế Vương nộp cho Ngô Tam
Quế. Tam Quế đem giết đi. Từ đấy nhà Thanh nhất thống nước Tàu.
Khi Quế vương xưng đế ở đất Quảng
Tây, có ý muốn nhờ An Nam cứu viện, cho nên mới phong cho vua Thần Tông nhà Lê
làm An Nam Quốc Vương và phong Trịnh Tráng làm phó vương.
Khi ấy ở phía bắc nước Tàu đang
loạn, họ Mạc thì đã về hàng, Trịnh Tráng mới nhân dịp quyết ý đi đánh họ Nguyễn
ở phía nam.
3. Tình Thế Họ Nguyễn ở Miền Nam.
Từ khi Nguyễn Hoàng về Thuận Hóa
rồi, bề ngoài tuy vẫn chưa ra mặt chống với họ Trịnh, nhưng bề trong thì hết
sức lo sợ phòng bị. Xem như năm quý sửu (1613), khi Nguyễn Hoàng sắp mất, gọi
người con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên vào dặn rằng: "Đất Thuận, Quảng này
bên bắc thì có núi Hoàng Sơn, sông Linh Giang, bên nam thì có núi Hải Vân và
núi Bi Sơn thật là một nơi trời để cho người anh hùng dụng võ. Vậy ta phải
thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ để mà gây dựng cơ nghiệp về muôn
đời." Xem lời ấy thì biết họ Nguyễn đã có ý muốn độc lập để chống với họ
Trịnh.
Khi ở ngoài Bắc, Trịnh Tùng mất,
chúa Sãi là ông Nguyễn Phúc Nguyên bảo các quan rằng: "Ta muốn nhân dịp
này mà ra đánh họ Trịnh, nhưng hiềm vì công việc chưa xong, vậy thì hãy sai
người ra phúng điếu, trước là cho phải cái nghĩa hôn nhân với nhau, sau là nhân
thể xem tình ý ngoài Bắc ra thế nào."
Bấy giờ ở miền Nam lại có những
người tôi giỏi giúp rập như các ông Nguyễn Hữu Dật, ông Đào Duy Từ, và ông
Nguyễn Hữu Tiến đều là người có tài trí cả.
Nguyễn Hữu Dật là người làng Gia
Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, học rộng, tài cao, và lại có tài hùng
biện, đánh giặc giỏi, thật là một bậc văn võ kiêm toàn.
Đào Duy Từ là người làng Hoa Trai,
huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Vì ông là con nhà xướng hát cho
nên không được đi thi, ông phẫn trí mới đi vào miền Nam tìm đường lập công,
nhưng chưa gặp được người tiến cử cho, bèn vào ở chăn trâu cho một nhà phú gia
ở làng Tùng Châu, phủ Hoài Nhân (nay là Bình Định). Ông làm bài "Ngọa Long
Cương" để tự ví mình với ông Gia Cát Lượng. Sau có quan Khâm Lý là Trần
Đức Hòa biết Duy Từ là người có tài, đem về nuôi, và gả con gái cho, rồi đưa
dâng chúa Sãi. Chúa dùng làm Nội tán, phong làm Lộc Khê Hầu 100 .
Nguyễn Hữu Tiến cũng là người Thanh
Hóa, làng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, võ nghệ tinh thông, dùng binh rất có kỷ
luật, thật là một người làm tướng có tài vậy.
Những người ấy giúp chúa Nguyễn, bày
mưu định kế, luyện tập quân lính, xây đồn đắp lũy để chống với quân họ Trịnh
101 .
Khi những đồn lũy đã kiên cố, binh
lương đã đủ rồi, chúa Sãi mới ra mặt không thần phục họ Trịnh nữa, và sai tướng
ra chiếm giữ lấy đất Nam Bố Chính là đất ở phía nam sông Linh Giang để làm chỗ
chống giữ. Từ đó họ Trịnh và họ Nguyễn đánh nhau tai hại trong khoảng 45 năm ở
đất Quảng Bình, Hà Tĩnh bây giờ.
4. Đánh Nhau Lần Thứ Nhất.
Năm đinh mão (1627) nhân khi nhà
Minh bên Tàu còn đang chống nhau với nhà Thanh, và họ Mạc ở Cao Bằng thì về
hàng, Trịnh Tráng mới sai quan vào Thuận Hóa giả tiếng nhà vua sai vào đòi tiền
thuế từ ba năm về trước.
Tờ sắc làm bằng chữ nôm như sau này:
"Hoàng thượng sắc dụ cho Thái
bảo Thụy quốc công là Nguyễn Phúc Nguyên được biết rằng: Mệnh lệnh triều đình,
Đạo làm tôi phải nên tuân thủ; Thuế má phủ huyện, Tướng ngoài cõi không được tư
chuyên. Trước đây trẫm có sai Công bộ thượng thư là Nguyễn Duy Thì, Bá Khê Hầu
là Phan Văn Trị vào Thuận Hóa, đạo đạt tình ý, chỉ bảo đường họa phúc, để cho
tỉnh biết mà phục tùng quyền chính triều đình. Không ngờ nhà ngươi mang lòng
dùng dằng, tối đường tới lui, nói thoái thác cho lôi thôi ngày tháng, để đến nỗi
thuế má thiếu thốn, không đủ việc chi thu, đạo làm tôi như thế đã phải chưa?
Nhà ngươi nay nên đổi lỗi trước, giữ gìn phép tắc. Phàm ngạch thuế trong hai xứ
Thuận, Quảng, từ năm quý hợi về trước, có
100
Đào Duy Từ giúp chúa Sãi được 8 năm
thì mất, thọ 63 tuổi. 101
Đào Duy Từ lập đồn Trường Dục ở
huyện Phong Lộc (Quảng Bình). Và xây cái lũy dài ở cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới)
tức là cái Trường thành ở Quảng Bình bây giờ. Người ta thường gọi lũy ấy là lũy
Thầy, nghĩa là lũy của Đào Duy Từ đắp ra. phải đã mất mùa thì xá cả cho; còn từ
năm giáp tí đến nay phải tính cho đủ số theo lệ trước, tải thuyền đem ra nộp
cho đủ; và phải chỉnh tề binh mã, hoặt thân đến kinh đô triều hạ, hoặc phải sai
con đi thay, để coi xem nghi vệ trong nước, và để tỏ giãi tấm lòng làm tôi. Nếu
thế thì triều đình sẽ phong thêm cho chức tước vinh hiển, để rạng tỏ đến tổ
tông. Nhược bằng thoái thác không đến, thì tức là phạm tội với triều đình.
Khâm tai dụ sắc!"
Chúa Sãi tiếp sứ nhưng không chịu
nộp thuế. Trịnh Tráng lại sai sứ mang sắc vua Lê vào dụ chúa Sãi cho con ra
chầu, và lấy 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền để đưa đi cống nhà Minh. Chúa Sãi
không chịu.
Trịnh Tráng thấy vậy, bèn quyết ý
đánh họ Nguyễn, sai Nguyễn Khải và Nguyễn Danh Thế đem 5.000 quân đi làm tiên
phong vào đóng ở xã Hà Trung (tục gọi là Cầu Doanh), rồi đem đại binh, rước vua
Lê đi đánh mặt Nam.
Chúa Sãi sai cháu là Nguyễn Phúc Vệ
làm tiết chế cùng với Nguyễn Hữu Dật đem binh mã ra giữ các nơi hiểm yếu. Quân
họ Trịnh đến đánh, chết hại rất nhiều. Bọn Nguyễn Hữu Dật lại đặt ra một kế
khiến cho quân Trịnh phải rút về, sai người đi nói phao ra rằng ở ngoài Bắc có
Trịnh Gia và Trịnh Nhạc sắp làm loạn.
Trịnh Tráng nghe tin ấy trong bụng
sinh nghi, không biết thực hư thế nào, bèn rước vua và rút quân về Bắc.
5. Đánh Nhau Lần Thứ Hai.
Năm canh ngọ (1630) chúa Sãi nghe
lời Đào Duy Từ, sai người đem sắc dụ ra trả vua Lê, rồi sai tướng đánh lấy phía
nam ngạn sông Linh Giang để chống với quân họ Trịnh. Đến năm quý dậu (1633)
nhân khi chúa Sãi có người con thứ ba tên là Ánh, trấn thủ ở đất Quảng Nam, có
ý muốn tranh quyền, bèn sai người đưa thư ra Thăng Long xin chúa Trịnh đem quân
vào đánh bắn súng làm hiệu, thì sẽ làm nội ứng. Ánh lại xin chúa Sãi cho ra
Trấn thủ đất Quảng Bình để cho tiện làm mưu gian, nhưng chúa Sãi có lòng ngờ,
không cho.
Khi Trịnh Tráng được cái thư của
ngươi Ánh gửi ra, liền đem đại binh vào đóng ở cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới).
Chúa Nguyễn sai Nguyễn Vân Thắng và
Nguyễn Hữu Dật đem quân ra chống giữ.
Quân Họ Trịnh đến đợi hơn 10 ngày,
không thấy tin tức gì của ngươi Ánh, bèn lui quân ra để chờ.
Quân lính đợi lâu thành ra lười
biếng, quân họ Nguyễn mới xuất kỳ bất ý, đổ ra đánh đuổi.
Trịnh Tráng thấy sự không thành, rút
quân về.
6. Đánh Nhau Lần Thứ Ba.
Năm ất hợi (1635) chúa Sãi là Nguyễn
Phúc Nguyên mất, con là Nguyễn Phúc Lan lên nối nghiệp làm chúa, gọi là chúa
Thượng.
Lúc ấy ngươi Ánh ở Quảng Nam nghe
tin chúa Sãi mất rồi, anh lên nối nghiệp, bèn phát binh làm phản - Bấy giờ có
Nguyễn Phúc Khê giúp chúa Thượng, sai quân vào đánh bắt được ngươi Ánh, lấy
nghĩa "Anh em là tình riêng, phép nước là nghĩa lớn" đem giết đi.
Trịnh Tráng thấy anh em họ Nguyễn
tranh nhau, sai tướng vào đánh đất Nam Bố Chính, giết được tướng họ Nguyễn là
Bùi Công Thắng rồi tiến lên đóng ở cửa Nhật Lệ.
Đến năm quý tị (1643) Trịnh Tráng
đem đại binh và rước vua Lê vào đất Bắc Bố Chính. Nhưng bấy giờ đang tiết tháng
tư, khí trời nóng lắm, quân sĩ chết hại rất nhiều, Trịnh Tráng phải rút về Bắc.
7. Đánh Nhau Lần Thứ Tư.
Năm mậu tí (1648) Trịnh Tráng sai đô
đốc Tiến Quận Công Lê Văn Hiểu 102
đem quân thủy bộ vào đánh miền Nam;
bộ binh tiến lên đóng ở đất Nam Bố Chính; còn thủy quân thì vào đánh cửa Nhật
Lệ.
Bấy giờ có hai cha con Trương Phúc
Phấn cố sức giữ lũy Trường Dục, quân họ Trịnh đánh mã không tiến lên được.
Chúa Nguyễn sai con là Nguyễn Phúc Tần
đem binh ra chống giữ với họ Trịnh, khi ra đến Quảng Bình, Nguyễn Phúc Tần hội
các tướng lại bàn rằng: "Quân kia tuy nhiều, nhưng người đánh giỏi thì ít.
Nếu đến đêm, ta cho voi xông vào rồi đem đại quân đến đánh là chắc phá
được". Đoạn rồi, một mặt cho thủy quân đi phục sẳn ở sông Cẩm La để chặn
đường quân Trịnh chạy về; một mặt sai Nguyễn Hữu Tiến đem 100 con voi đến canh
năm xông vào trại quân Trịnh, quân bộ tiếp sau vào đánh phá. Quả nhiên quân
102
Có nơi chép là Trịnh Đào hay là Hàn
Tiến. Trịnh thua to chạy về Bắc, lại gặp quân thủy của họ Nguyễn đón đường đuổi
đánh mãi đến sông Lam Giang mới thôi.
Trận ấy quân họ Nguyễn bắt được mấy
người tướng và 3.000 quân của họ Trịnh.
Trịnh Tráng thấy quân mình thua, sai
Lê Văn Hiểu cùng với Trần Ngọc Hậu lĩnh một vạn quân đóng ở Hà Trung, Lê Hữu
Đức cùng với Vũ Lương đóng ở Hoàng Sơn, Phạm Tất Toàn đóng ở đất Bắc Bố Chính
để phòng giữ quân họ Nguyễn.
Lúc bấy giờ ở trong Nam thì chúa
Thượng mất, truyền nghiệp chúa lại cho con là Nguyễn Phúc Tần, gọi là chúa Hiền.
Ở ngoài Bắc thì vua Chân Tông mất, không có con, Trịnh Tráng lại rước Thần
Tông, Thái Thượng Hoàng, về làm vua lần nữa.
Họ Trịnh vào đánh họ Nguyễn đã mấy
phen, đánh phen nào thì hao binh tổn tướng phen ấy, thế mà vẫn không chịu thôi
việc chiến tranh. Đến năm ất tị (1655) quân nhà Trịnh lại vào đánh đất Nam Bố
Chính. Bấy giờ chúa Hiền mới quyết ý đem quân ra đánh họ Trịnh.
8. Đánh Nhau Lần Thứ Năm.
Tháng tư năm ất tị (1655) chúa Hiền
sai Thuận Nghĩa Hầu là Nguyễn Hữu Tiến, Chiêu Vũ Hầu là Nguyễn Hữu Dật đem quân
qua sông Linh Giang ra đánh đất Bắc Bố Chính, tướng họ Trịnh là Phạm Tất Toàn
về hàng.
Quân nhà Nguyễn tiến lên đến Hoành
Sơn, gặp quân của Lê Hữu Đức, đánh đuổi một trận, rồi thừa thắng đánh đến đồn
Hà Trung, Lê Văn Hiểu chống không nổi, phải cùng với Lê Hữu Đức rút quân về giữ
An Trường (tức là thành Nghệ An bây giờ).
Nguyễn Hữu Tiến đem binh đến đóng ở
huyện Thạch Hà, Lê Văn Hiểu và Lê Hữu Đức lại sang đóng ở xã Đại Nại.
Trịnh Tráng thấy bọn Lê Văn Hiểu
binh bại ở Hà Trung, bèn cho sứ vào triệu về kinh, và sai Trịnh Trượng vào làm
Thống lĩnh, kinh lược đất Nghệ An.
Lê Văn Hiểu bị đạn ở chân, về đến
nửa đường thì chết; còn bọn Lê Hữu Đức, Vữ Lương đều phải giáng chức cả.
Trịnh Trượng tiến binh lên đến huyện
Kỳ Hoa, cho thủy binh vào đóng ở cửa Kỳ La.
Nguyễn Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh
đã tiến, bèn rút quân về sông Linh Giang để nhử quân nghịch. Nhưng mà Trịnh
Trượng thấy tự nhiên quân Nguyễn bỏ về như vậy, sợ có mưu kế gì, không dám
đuổi, bèn đóng quân ở lại Lạc Xuyên, rồi cho 500 người vào đóng ở đồn Hà Trung.
Nguyễn Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh
không đuổi, bèn đem quân đến đánh quân Trịnh ở Lạc Xuyên; còn Nguyễn Hữu Dật
thì đem thủy binh ra đánh cửa Kỳ La, đuổi chiến thuyền của họ Trịnh về cửa Châu
Nhai.
Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật
thừa thắng tiến binh lên đánh quân họ Trịnh, rồi chiếm giữ lấy đồn Lạc Xuyên.
Binh tướng họ Trịnh phải chạy về An Tràng.
Bấy giờ những huyện ở phía nam sông
Lam Giang (tức là sông Cả bây giờ) là huyện Kỳ Hoa, huyện Thạch Hà, huyện Thiên
Lộc, huyện Nghi Xuân, huyện La Sơn, huyện Hương Sơn, huyện Thanh Chương, cả
thảy là bảy huyện đều thuộc về họ Nguyễn cả.
Tin quân Trịnh thua ở Lạc Xuyên ra
đến Thăng Long, Trịnh Tráng giáng Trịnh Trượng xuống làm đô đốc, rồi sai con là
Trịnh Tạc vào Nghệ An làm Thống lĩnh để chống giữ với quân họ Nguyễn.
Bọn Nguyễn Hữu Tiến thấy quân Trịnh
Tạc lại tiến, liền lui quân về đóng ở Hà Trung để giữ trận thế. Nhưng bây giờ ở
ngoài Bắc lắm việc, Trịnh Tráng phải gọi Trịnh Tạc về, để tướng là Đào Quang
Nhiêu ở lại trấn thủ đất Nghệ An, đóng ở An Tràng, sai Thân Văn Quang, Mẫn Văn
Liên đóng ở làng Tiếp Vũ (thuộc huyện Thiên Lộc), thủy quân đóng ở sông Khu Độc
(thuộc huyện Nghi Xuân).
Qua năm bính thân (1656) quân họ
Nguyễn đến đánh đồn Tiếp Vũ, bọn Thân Văn Quang bỏ chạy, Nguyễn Hữu Tiến đem
quân đến đóng ở sông Tam Chế. Còn Nguyễn Hữu Dật tiến binh đến núi Hồng Lĩnh,
gặp quân họ Trịnh đánh đuổi đến đất Mẫn Tường, rồi lại gặp thủy binh củaVũ Văn
Thiêm, đánh phá một trận, Văn Thiêm thua chạy. Quân họ Nguyễn thừa thắng tiến
lên đến làng Minh Lương và lành Bình Lạng gặp quân của Đào Quang Nhiêu, hai bên
đánh nhau một trận rất dữ. Đào Quang Nhiêu thua chạy về An Tràng, dâng biểu tạ
tội và xin viện binh.
Trịnh Tráng sai người con út là Ninh
Quận Công Trịnh Toàn (tục hay gọi là ông Ninh) vào làm thống lĩnh trấn thủ đất
Nghệ An.
Trịnh Toàn vào đến Nghệ An, đốc chư
quân tiến lên đến Thạch Hà, sai Đào Quang Nhiêu và Dương Hồ đem binh đến đóng ở
làng Hương Bộc và ở làng Đại Nại, sai Lê Sĩ Hậu, Bùi Sĩ Lương đem thủy quân đến
đóng ở Nam Giới, và sai Vũ Văn Thiêm đem thủy quân đến đóng ở Châu Nhau.
Nguyễn Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh
cử động như vậy, bèn sai bọn Dương Trí, Tống Phúc Khang cùng với Nguyễn Hữu Dật
đem thủy bộ quân đến đánh quân Trịnh ở Nam giới, lấy được hơn 30 chiếc thuyền,
rồi tràn xuống sông Lam Giang đánh Vũ Văn Thiêm ở Châu Nhai, Vũ Văn Thiêm phải
bỏ thuyền mà chạy.
Trịnh Toàn thấy các đạo thủy binh
của mình đã thua, bèn rút về đóng ở bến Hoạt, bỗng nghe tin toán quân của Đào
Quang Nhiêu bị vây ở Hương bộc, lập tức đem quân đến cứu, hai bên đánh nhau ở
làng Đại Nại, quân họ Nguyễn chạy về Hà Trung. Trịnh Toàn và Đào Quang Nhiêu
đem quân đuổi đến Tam Lộng, bị quân của Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật đón
đường đánh phá. Trịnh Toàn lại thua, phải chạy về An Tràng.
Trịnh Toàn từ khi vào trấn thủ đất
Nghệ An, hậu đãi tướng sĩ, yêu mến quân dân, lòng người đều phục; nhưng chẳng
được bao lâu, Trịnh Tráng mất, Trịnh Tạc lên thay, thấy em có nhiều người mến
phục, lấy làm nghi kỵ, bèn cho con là Trịnh Căn vào cùng trấn đất Nghệ An, có ý
giữ để cho khỏi biến loạn. Đoạn rồi cho người vào đòi Trịnh Toàn về kinh, trách
sao không về chịu tang, bắt bỏ ngục giam chết.
Binh quyền ở Nghệ An giao lại cho
Trịnh Căn. Đến tháng sáu năm đinh sửu (16570 Trịnh Căn chia quân làm 3 đạo, sai
Lê Hiến làm tướng trung quân, sai Hoàng Nghĩa Giao làm tướng tả quân, sai Trịnh
Thế Công làm tướng hữu quân, sang sông Lam Giang rồi tiến lên đánh tướng nhà
Nguyễn là Tống Hữu Đại ở làng Nam Hoa (thuộc huyện Thanh Chương).
Nhưng vì có người báo trước, bọn
Nguyễn Hữu Tiến đã phòng bị cả, đến khi quân Trịnh đến, thì mắc kế phải thua,
may nhờ có quân Trịnh Căn tiếp ứng, cho nên mới rút về được.
Từ đó quân hai bên cứ giữ nhau ở
sông Lam Giang, thỉnh thoảng đánh nhau một trận, như tháng chạp năm mậu tuất
(1658), đánh ở làng Tuần Lễ (huyện Hương Sơn), quân họ Nguyễn phải lùi; đến
tháng tám năm canh tí (1660) đánh ở Nghi Xuân, quân họ Trịnh thua bỏ thuyền mà
chạy; qua tháng 9 năm ấy đang khi quân họ Nguyễn còn đóng ở làng Hoa Viên (tức
là làng Xuân Viên bây giờ), Trịnh Căn định sang lấy núi Lận Sơn để giữ trận
thế, bèn sai Hoàng Nghĩa Giao và Phan Kiêm Toàn đem binh sang ssông Lam Giang ở
làng Âm Công, và sai Lê Hiến 103
đi xuống phía Hội Thống rồi sang
sông, chờ đến nửa đem thì hai đạo cùng tiến cả.
Đạo quân của Đào Nghĩa Giao đi đến
Lận Sơn bị quân của Nguyễn Hữu Dật đánh và vây ngặt lắm. Bấy giờ Trịnh Căn đứng
thị chiến trên núi Quyết Dũng (ở gần Bến Thủy bây giờ), trông thấy quân mình bị
vây nguy cấp lắm, liền sai quân sang cứu, và truyền cho thủy quân đến bờ sông
mà bắn lên, quân họ Nguyễn phải lùi.
Còn đạo quân của Lê Hiến và Mẫn Văn
Liên sang đến làng Tả Ao gặp quân họ Nguyễn, hai bên đánh nhau, Mẫn Văn Liên tử
trận, nhưng quân họ Nguyễn phải bỏ Hoa Viên lui về đóng ở Nghi Xuân.
Lúc ấy đại quân của Nguyễn Hữu Tiến
đóng ở Nghi Xuân, còn Nguyễn Hữu Dật thì đóng ở Khu Đốc. Chúa Hiền cũng đem
binh đến tiếp ứng, đóng ở làng Phù Lộ (nay là làng Phù An thuộc huyện Bình
Chính, Quảng Bình). Nguyễn Hữu Dật lẻn về ra mắt chúa Hiền, kể đầu đuôi mọi
việc đánh lấy thế nào, chúa Hiền mừng lắm, cho Hữu Dật một thanh bảo kiếm bằng
vàng và lại sai trở lại đánh giặc.
Nguyễn Hữu Tiến biết việc ấy, trong
bụng lấy làm không bằng lòng, và bấy giờ lại nhân có những sĩ tốt mới hàng ở
đất Nghệ An, thường hay bỏ trốn, Hữu Tiến bèn hội chư tướng lại để bànx em nên
đánh hay là nên lui về. Mọi người đều muốn lui về, duy chỉ có Nguyễn Hữu Dật
không chịu.
Khi các tướng họ Nguyễn đang bàn
bạc, thì có tin rằng Trịnh Căn sai bọn Lê Hiến đi men bờ bể đến làng Cương
Gián, bọn Hoàng Nghĩa Giao đến làng Lũng Trâu và làng Mãn Trưởng, rồi tiến lên
đánh ở làng An Điền và ở làng Phù Lưu; quân họ Nguyễn thua. Được tin ấy Nguyễn
Hữu Tiến quyết ý đem quân về, nhưng bề ngoài giả tảng truyền lện cho các tướng
rằng đến tối 28 thì các đạo đều phải tiến sang đánh An Tràng, Nguyễn Hữu Dật
đem binh đi hậu tiếp. Đoạn rồi, dặn riêng các tướng đến nữa đêm rút quân về Nam
Bố Chính, không cho Nguyễn Hữu Dật biết. Nguyễn Hữu Dật sắm sửa đâu vào đấy,
chờ mãi không có tin tức gì, đến khi cho người đi thámvề nói mới biết quân mình
đã rút về Nam rồi. Lúc ấy quân họ Trịnh đã sang sông đến đánh đồn Khu Độc. Hữu
Dật mới dùng kế nghi binh để cho quân Trịnh không dám tiến lên, rồi đem binh
chạy về, đến Hoành sơn mới gặp quân của Nguyễn Hữu Tiến. Bấy giờ quân Trịnh Căn
vừa đuổi đến, hai bên đánh nhau một trận chết hại rất nhiều.
103
Có sách chép là Lê Thời Hiến.
Trịnh Căn lui về đóng ở Kỳ Hoa. Còn
bên kia Nguyễn Hữu Tiến đóng ở Nhật Lệ. Nguyễn Hữu Dật đóng ở Đông Cao, giữ các
chỗ hiểm yếu. Từ bấy giờ 7 huyện ở vùng sông Lam Giang lại thuộc về đất Bắc.
Trịnh Căn thấy quân họ Nguyễn giữ
gìn mọi nơi chắc chắn lắm, liệu thế đánh không được, bèn sai Đào Quang Nhiêu ở
lại trấn thủ đất Nghệ An và kiêm lĩnh cả đất Bắc Bố Chính để phòng giữ mọi nơi,
rồi về Thăng Long.
9. Đánh Nhau Lần Thứ Sáu.
Đến tháng 10 năm tân sửu (1661) Trịnh
Tạc cử đại binh và đem vua Lê vào đánh chúa Nguyễn: sai Trịnh Căn làm thống
lĩnh, Đào Quang Nhiêu làm Tổng suất, Lê Hiếu và Hoàng Nghĩa Giao làm Đốc suất,
Lê Sĩ Triệt và Trịnh Tế làm Đốc thị, đem binh sang sông Linh Giang rồi đến đóng
ở làng Phúc Tự.
Quan Trấn thủ Nam Bố Chính của họ
Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật đóng ở làng Phúc Lộc chia quân ra đắp lũy, giữ vững
mọi nơi, quân Trịnh đánh mãi mấy tháng không được.
Đến tháng 3 năm nhâm dần (1662),
quân mệt, lương hết, Trịnh Tạc phải thu quân và rước vua về Bắc. Nguyễn Hữu Dật
đem binh đuổi đánh đến sông Linh Giang mới thôi.
Năm ấy Thần Tông về rồi đến tháng 9
thì mất. Trịnh Tạc lập Thái tử là Duy Vũ lên làm vua tức là vua Huyền Tông.
Huyền Tông làm vua được 8 năm thì mất. Trịnh Tạc lại lập Hoàng Đệ là Duy Hội lên
làm vua, tức là vua Gia Tông.
10. Đánh Nhau Lần Thứ Bảy.
Từ năm tân sửu (1661) quân họ Trịnh
thua ở đất Bắc Bố Chính rồi, Trịnh Tạc về phải lo việc nước và phải đánh dẹp họ
Mạc ở đất Cao Bằng, cho nên không dòm ngó đến phía Nam; mãi đế năm nhâm tí (1672)
Trịnh Tạc lại đem mấy vạn quân và rước vua Gia Tông và đất Bắc Bố Chính để đánh
họ Nguyễn, sai Trịnh Căn làm thủy quân Nguyên Súy, Lê Hiến làm bộ quân Thống
suất.
Chúa Hiền cũng sai em thứ tư là Hiệp
làm Nguyên Súy đem binh ra cùng Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Mỹ Đức giữ các nơi
hiểm yếu để ngự địch, chúa Hiền đem đại binh đi tiếp ứng.
Quân họ Trịnh đến đánh lũy Trấn Ninh
rất hăng, đã hai ba phen sắp phá được lũy, nhưng Nguyễn Hữu Dật hết sức chống
giữ, quân Trịnh đánh mãi không được, phải lùi về Bắc Bố Chính. Đến tháng chạp,
trời mưa rét và lại nghe tin rằng Trịnh Căn đi đến Linh Giang phải bệnh nặng,
Trịnh Tạc bèn sai Lê Hiến ở lại trấn thủ Nghệ An, Lê Sĩ Triệt làm Đô Đốc đóng ở
Hà Trung để giữ các nơi yếu lộ, lấy sông Linh Giang, tức là sông Giang bây giờ
mà phân giới hạn Nam Bắc, rồi rút quân về Thăng Long.
Từ đó Năm Bắc thôi việc chiến tranh,
mãi đến khi Tây Sơn khởi binh, thì họ Trịnh mới nhân dịp vào đánh lấy đất Thuận
Hóa.
Kể từ năm đinh mão (1627) đời vua
Thần Tông lần thứ nhất, đến năm nhâm tí (1672) đời vua Gia Tông, vừa 45 năm, họ
Trịnh, họ Nguyễn đánh nhau cả thảy 7 lần. Trong bấy nhiêu lần, họ Nguyễn chỉ ra
đánh họ Trịnh có một lần, đã lấy được 7 huyện ở phía nam sông Lam Giang, nhưng
vì các tướng họ Nguyễn không đồng lòng với nhau, cho nên lại phải bỏ về giữ đất
cũ.
Còn như thế lực binh lương thì họ
Trịnh mạnh hơn họ Nguyễn, nhưng người Bắc phải đi đánh xa xôi, vận tải khó
khăn, mà người Nam thì đánh ở đất nhà mình, có đồn lũy chắc chắn, tướng sĩ hết
lòng, cho nên thành ra hai bên đối địch chứ không làm gì được nhau, chỉ khổ cho
những dân sự, phải sưu dịch vất vả, và bị tàn phá thiệt hại rất nhiều.
CHƯƠNG V
Công Việc Họ Trịnh Làm ở Đất Bắc
1. Việc giao thiệp với nhà Thanh 2.
Việc lấy đất Cao Bằng của họ Mạc 3. Quan chế 4. Việc binh chế 5. Hình luật 6.
Thuế đinh, thuế điền và sưu dịch 7. Các thứ thuế 8. Sổ chi thu 9. Việc khai mỏ
10. Việc đúc tiền 11. Sự đong lường 12. Việc in sách 13. Việc học hành thi cử
14. Trường học võ 15. Làm quốc sử 16. Sự đánh dẹp giặc giã trong nước: Giặc
Ngân già; Giặc Ninh xa: Nguyễn hữu Cầu; Nguyễn danh Phương; Hoàng công Chất; Lê
duy Mật
1. Việc Giao Thiệp Với Nhà Thanh.
Năm quý mão (1663), lúc ấy nhà Minh
đã mất rồi, vua nhà Thanh có cho sứ sang dụ vua An Nam về triều cống. Bấy giờ
Trịnh Tạc mới cho sứ đem đồ cống lệ sang Yên Kinh (tức là Bắc Kinh) để cầu
phong cho vua Lê. Đến năm đinh mùi (1667) vua Khang Hy nhà Thanh sai sứ sang
phong cho vua Lê làm An Nam Quốc Vương. Từ đó hai nước thông sứ với nhau như
thường. Về sau dẫu có lôi thôi về những việc giặc cướp và việc giới hạn ở phía
thượng du, nhưng bao giờ vua nhà Thanh cũng chủ lấy sự hòa bình, cho nên việc
gì cũng trang trải xong xuôi.
2. Việc Lấy Đất Cao Bằng của Nhà
Mạc.
Năm ất sửu (1625) Mạc Kính Khoan đã
xin về hàng, được phong làm Thái Úy Thông Quốc Công, cho giữ đất Cao Bằng. Song
đến năm mậu dần (1638) Kính Khoan mất, con là Mạc Kính Vũ (có chỗ gọi là Mạc
Kính Hoàn) không nhận chức và không chịu về cống, lại tự xưng làm vua hiệu là
Thuận Đức.
Từ đó họ Mạc cứ thỉnh thoảng đem
quân về cướp phá ở mạn Thái Nguyên, quan quân đánh đuổi nhiều lầ, nhưng không
trừ hẳn đi được.
Năm đinh tị (1667) Trịnh Tạc đem đem
đại binh cùng các tướng là Đinh Văn Tả, Lê Chân, Lê Hiến lên đánh lấy đất Cao
Bằng, Mạc Kính Vũ phải bỏ chạy sang Tàu. Trịnh Tạc mới treo bảng, chiêu tập dân
sự về làm ăn, và đặt quan cai trị, lại sai Vũ Vinh làm đốc trấn đất Cao Bằng,
Đinh Văn Tả làm trấn thủ đất Thất Tuyền (tức là Thất Khê bây giờ).
Mạc Kính Vũ ở bên Tàu, lấy vàng bạc
đút lót cho quan nhà Thanh để tâu xin với Thanh Đế bắt họ Trịnh trả lại đất Cao
Bằng cho họ Mạc. Thanh Đế cho Kính Vũ về ở Nam Ninh, rồi sai sứ sang thương
nghị với Nam triều về việc ấy. Triều đình An Nam và sứ nhà Thanh bàn đi bàn lại
mãi, sau Trịnh Tạc phải chịu trả lại cho họ Mạc đất 4 châu ở Cao bằng là châu
Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang và triệu quan đốc trấn Vũ Vinh về.
Về sau Ngô Tam Quế phản nhà Thanh ở
đất Vân Nam và đất Quảng Tây, Mạc Kính Vũ cũng về đảng với Tam Quế mà chống lại
nhà Thanh. Đến khi Tam Quế chết rồi, nhà Thanh đã lấy lại đất Quảng Tây, họ Trịnh
muốn nhân dịp ấy mà trừ họ Mạc cho xong, bèn một mặt sai Đinh Văn Tả và Nguyễn
Hữu Đăng lên đánh Mạc Kính Vũ. Đến tháng tám năm đinh tị (1667), Đinh văn Tả
lấy được thành Cao Bằng. Mạc Kính Vũ cùng họ hàng chạy sang Long Châu, bị quân
nhà Thanh bắt giải sang trả cho An Nam.
Từ khi Mạc Mậu Hợp phải bắt, họ Mạc
thất thủ Thăng Long rồi, con cháu chạy lên mạn ngược, nhờ thế nước Tàu được giữ
đất Cao Bằng, tương truyền được 3 đời, là Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan và Mạc
Kính Vũ; đến nay mới mất hẳn. Dòng dõi học Mạc hoặc bị bắt, hoặc về hàng, có
nhiều người được tha, cho làm quan với họ Trịnh.
3. Quan Chế.
Trước khi họ Mạc cướp ngôi nhà Lê
thì quan chế vẫn theo như đời Hồng Đức, nhưng từ khi nhà Lê trung hưng về sau,
chính quyền về họ Trịnh, cho nên quan chế có khác ít nhiều. Trước thì trên cùng
có quan Tham tụng và quan Bồi tụng để coi việc chính trị, tức là giữ chức Tể
tướng đời xưa, rồi đến các quan Thượng thư ở lục bộ.
Lục bộ là: Lại bộ coi việc thuyên
chuyển các quan viên, việc thăng hàm thưởng tước, việc cách chức giáng trật,
tức là coi mọi việc riêng về quan lại trong nước. Hộ bộ coi việc điền thổ và
nhân dân, thuế khóa, lương tiền thu vào phát ra. Lễ bộ coi việc nghi lễ tế tự,
việc học hành thi cử, việc áo mũ phẩm phục và phù ấn, việc làm chương làm biểu,
việc đi sứ nước nọ nước kia, việc coi thiên văn, làm lịch, làm thuốc, bói toán,
việc quan hệ tăng ni, đạo sĩ, việc âm nhạc ca xướng. Binh bộ coi các võ quan,
quân lính và việc phòng bị biên giới v.v.... Hình bộ coi việc hình pháp, kiện
tụng. Công bộ coi việc xây đắp thành trì, cung điện, cầu cống, đường xá, sông
ngòi, rừng núi.
Đến năm mậu tuất (1718), đời vua Dụ
Tông, Trịnh Cương lại đặt ra Lục phiên ở bên phủ chúa, cũng như Lục bộ ở bên
nhà vua, để coi mọi việc chính trị.
Về việc võ bị thì trước có Ngũ phủ
là: Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân phủ, Nam quân phủ, Bắc quân phủ.
Mỗi một phủ đặt một Đô đốc phủ có quan tả hữu Đô đốc coi việc cả quân. Trong
đời vua Thánh Tông, thì Thanh Hóa, Nghệ An thuộc về Trung quân; Hải Dương, An
Bang thuộc về Đông quân; Sơn nam, Thuận hóa, Quảng nam thuộc về Nam quân; Tam
Giang, Hưng Hóa thuộc về Tây quân; Kinh Bắc, Lạng Sơn thuộc về Bắc quân. Đến
năm giáp thìn (1664) đời vua Huyền Tông, Trịnh Tạc lại đặt thêm chức Chưởng phủ
sự và Thự phủ sự để coi hết thảy các quân.
Các quan chức thời bấy giờ, chia ra
làm ba ban: văn ban, võ ban và giám ban. Theo thường lệ, thì chỉ có văn ban và
võ ban mà thôi. Nhưng từ khi họ Trịnh giữ quyền bính và lại yêu dùng các nội
giám, thường cho ra làm quan coi việc chính trị, cho nên mới đặt ra giám ban.
Ban này đến cuối đời Cảnh hưng (1740-1786) mới bỏ.
Từ khi họ Trịnh cầm quyền, thì bên
nhà vua gọi là Triều đình, bên phủ chúa gọi là Phủ Liêu. Phàm những việc chính
trị và quân dân đều do bên phủ chúa định đoạt hết cả, cho nên người ta thường
dùng Phủ liêu, chứ không mấy khi dùng chữ Triều đình, vì Triều đình chỉ có cái
hư vị, chứ không có quyền gì nữa.
Sự kén chọn các quan lại thì lệ cứ
mấy năm lại khảo hạch một lần, ai không xứng chức thì phải giáng xuống.
Khi nào quan viên về hưu trí thì
được ăn dân lộc, như là quan nhất phẩm thì mỗi năm được 400 quan tiền dân lộc
của bốn năm xã; quan nhị phẩm được 300 hoặc 250 quan của hai ba xã; quan tam
phẩm được 250 hoặc 150 quan của một hai xã; quan tứ phẩm được 150 quan của một
xã; quan ngũ phẩm được 100 quan của một xã.
Đời bấy giờ lại đặt ra một phép rất
hay, như là cấm không cho các quan viên lập trang trại ở chỗ mình làm quan, bởi
vì thường có nhiều người ỷ quyền thế mà hà hiếp lấy ruộng đất của dân, rồi nuôi
những đồ gian ác làm tôi tớ, để quấy nhiễu mọi người, đến nỗi có nhiều nơi dân
phải xiêu tán đi. Ấy cũng là một việc đỡ hại cho dân, và lại có thể giữ liêm
cho quan vậy.
Nhưng về sau, từ đời Trịnh Giang trở
đi, nhà chúa chơi bời xa xỉ, lại có nhiều giặc giã, phải tìm cách lấy tiền, đặt
ra lệ cứ tứ phẩm trở xuống ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc. Còn
những người chân trắng mà ai nộp 2.800 quan thì được bổ tri phủ, 1.800 quan thì
bổ tri huyện 104 .
Như thế, hễ ai có tiền thì được
quyền trị dân, chứ không cần có tài năng gì cả, thành ra cái phẩm giá của những
người làm quan đời bấy giờ cũng kém dần dần đi.
4. Việc Binh Chế.
Khi nhà Lê trung hưng ra đánh họ
Mạc, số quân chỉ có hơn 56.000 người mà thôi 105 . Về sau, từ lúc đánh được nhà
Mạc rồi, họ Trịnh chia ra làm hai thứ binh: một thứ gọi là ưu binh thì lấy lính
ở ba phủ đất Thanh Hóa và ở bốn phủ đất Nghệ An, lệ cứ ba suất đinh lấy một tên
lính; một thứ gọi là nhất binh thì lấy lính ở tứ trấn ở đất Bắc là Sơn Nam,
Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây, lệ cứ 5 suất đinh lấy một tên lính.
Lính ưu binh thì đóng ở kinh thành,
kén vào làm quân Túc vệ để canh giữ những nơi đền vua phủ chúa. Những lính ấy
đã được cấp cho công điền, lại được thêm chức sắc.
Lính nhất binh thì chỉ để đủ giữ các
trấn, và hầu hạ các quan, còn thì cho về làm ruộng, có khi nào cần dùng đến thì
mới gọi, như là về đời Trịnh Doanh có lắm giặc giã, phải đánh dẹp nhiều nơi,
thì mới gọi đến lính tứ trấn,
104
Việc bán phẩm hàn đã có từ đời vua
Dụ Tông nhà Trần và đời vua Thánh Tông nhà Lê. Nhưng mà bấy giờ chỉ cho lấy hàm
mà thôi, chứ không có thực chức. 105
Khi vua Lê Thái Tổ ra đánh nhà Minh
thì số binh bấy giờ được 25 vạn, chia ra làm 5 quân, gọi là trung quân, tiền
quân, hậu quân, tả quân, hữu quân. Đến khi đánh dẹp xong rồi, cho 15 vạn về làm
ruộng, còn để lại 10 vạn chia ra làm 5 đạo gọi là đông đạo, tây đạo, nam đạo,
bắc đạo và hải tây đạo. cả thảy được độ chừng 11.500 người, chia ra làm 20 vệ.
Sau lại đổi ra làm cơ, làm đội, mỗi cơ có 200 người, để 100 người ở tại ngũ,
còn 100 người cho về làm ruộng, rồi cứ lần lượt thay đổi nhà mà về.
5. Hình Luật.
Hình luật về đời ấy thì đại khái
cũng như đời Tiền Lê. Hình pháp thì chia ra làm 5 thứ gọi là ngũ hình: xuy,
trượng, đồ, lưu và tử. Nhưng trước thì tội gì cũng được cho chuộc cả 106 , đến
đời vua Huyền Tông, Trịnh Tạc định lại: trừ những người được dự vào bát nghị
107
ra, còn ai phạm tội gì cứ chiếu theo
tội nặng nhẹ mà luận hình, chứ không cho chuộc nữa.
Trước thì ai đã phải tội lưu, lại
phải tội chặt tay nữa. Đến đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương mới bỏ cái luật chặt
tay và đổi lại như là ai phải chặt hai bàn tay va phải lưu đi viễn châu thì cải
làm tội đồ chung thân; ai phải chặt một bàn tay và phải lưu ngoại châu thì đổi
làm tội đồ 12 năm; ai phải chặt hai ngón tay trỏ và phải lưu cận châu, thì đổi
làm tội đồ 6 năm. Còn như ai phạm tội trộm cướp thì không kể vào lệ ấy.
Những việc án mạng, trộm cướp và
những việc hộ, hôn, điền thổ thì phải theo thứ tự mà xét xử. Như việc án mạng
thì quan phủ huyện xét, rồi đệ lên để Thừa ti và hiến ti hội đồng xét lại. Việc
trộm cướp, ở Kinh đô thì do quan Đề Lĩnh xét lại, ở các trấn thì do quan Trấn
thủ xét lại.
Phàm những việc đại tụng tiểu tụng
mà ở huyện phủ hay là ở Thừa ti, Trấn ti, xử không xong, thì đến Hiến ti xét
lại. Ở Hiến ti không xong, thì đến Giám sát xét lại. Ở Giám sát và Đề Lĩnh
không xong, thì đến Ngự sử Đài xét lại.
Những việc nhân mạng thì hạn cho 4
tháng, việc trộm cướp điền thổ thì 3 tháng, việc hôn nhân ẩu đả thì 2 tháng,
chứ lệ không cho để lâu, làm mất công việc của dân.
6. Thuế Đinh, Thuế Điền và Sưu Dịch.
Trước tệ cứ sáu năm làm sổ hộ tịch
một lần, rồi cứ tùy số dân đinh nhiều ít mà đánh thuế, gọi là "qui"
đồng niên mỗi tên đinh cứ tùy hạng, hoặc đóng một quan hay là một quan tám
tiền, tức là thuế thân. Đến năm kỷ dậu (1669) đời vua Huyền Tông, quan Tham
Tụng là ông Phạm Công Trứ xin đặt ra phép bình lệ, nghĩa
106
Tội trượng thì cứ mỗi một trượng là
quan tam phẩm phải chuộc 5 tiền, quan tứ phẩm phải chuộc 4 tiền, quan ngũ phẩm
3 tiền, quan thất bát phẩm 2 tiền, từ củu phẩm cho xuống đến thứ nhân thì 1
tiền. Tội đồ làm lính coi chuồng voi thì phải chuộc 60 quan, làm lính đồn điền
thì 100 quan. Tội lưu cận châu thì phải chuộc 130 quan, viễn châu thì 290 quan.
Tội tử thì phải chuộc 330 quan. 107
Đã nói ở đời vua Lê Thái Tổ. là làm
sổ đinh nhất định một lần, rồi làng nào phải đóng bao nhiêu suất đinh, cứ theo
như thế mà đóng mãi, chứ có đẻ thêm ra cũng không kể, mà có chết đi cũng không
trừ.
Lập phép ấy là để cho dân khỏi phải
làm sổ, mà quan cũng khỏi phải tra xét, nhưng phải một điều bất tiện là về sau
số đinh hơn kém bao nhiêu, quan không biết được nữa. Đến năm quý tị (1713) đời
vua Dụ Tông, sử chép rằng số dân nội tịch phải đóng thuế cho nhà vua cả thảy
chỉ 206.315 suất mà thôi.
Còn như thuế điền thì năm kỷ hợi
(1719) đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương sai cái quan phủ huyện và quan Thừa Chính,
Hiến sát làm việc đạc điền để mà chia tiền thuế cho các dân xã cho đều. Lệ bây
giờ cứ đo công điền công thổ mà đánh thuế, gọi là "thuế", chia ra làm
ba hạng. Hạng nhất mỗi mẫu đồng niên đóng 1 quan, hạng nhì 8 tiền, hạng ba 6
tiền.
Những sưu dịch như là việc tế tự
trong đền vua phủ chúa, việc sửa sang trường thi, việc làm cầu cống, đắp đường
sá, giữ đê điều v.v.... thì cứ tùy nghi mà bổ cho các suất đinh để lấy tiền mà
cung ứng cho đủ.
Ấy, các thứ thuế trước đánh là vậy.
Đến năm quý mão (1723), quan tham tụng là ông Nguyễn Công Hãng theo phép tô,
phép dung và phép điệu của nhà Đường mà châm chước, sửa sang lại, như sau này:
Phép tô, tức là phép đánh thuế điền
thổ, cứ mỗi mẫu công điền là phải nạp 8 tiền thuế, mà ruộng nào cấy hai mùa thì
chia ba, quan lấy một phần thóc. Những đất bãi của quan, cứ mỗi mẫu nạp thuế 1
quan 2 tiền; chỗ nào trồng dâu thì nộp một nửa bằng tơ, chỗ nào không trồng dâu
thì nộp cả bằng tiền.
Các ruộng tư điền ngày trước không
đóng thuế, đến bây giờ mới đánh: ruộng hai mùa mỗi mẫu 3 tiền, ruộng một mùa
mỗi mẫu 2 tiền.
Phép dung, tức là phép đánh thuế
thân, cứ mỗi suất đinh là đồng niên đóng 1 quan 2 tiền. Những người sinh đồ,
lão hạng và hoàng đinh 108
thì đóng một nửa.
Phép điệu, tức là phép bắt dân đóng
tiền sưu dịch, cứ mỗi một suất đinh, một năm 2 mùa, mùa hạ phải đóng 6 tiền,
mùa đông phải đóng 6 tiền. Quan lấy tiền ấy mà làm các việc, không phiền đến
dân nữa.
108
Lão hạng là những người từ 50 tuổi
đến 60 tuổi. Hoàng đinh là người mới có 17 đến 19 tuổi.
7. Các Thứ Thuế.
Đời bấy giờ đánh thuế các thứ thổ
sản, thuế mỏ, thuế đò, thuế chợ, v.v.... nhưng mà những thuế ấy, khi đánh khi
thôi, không có nhất định.
1. Thuế Tuần Ti: Các thuyền bè chở
hàng hóa đi buôn bán ở trong sông cũng phải chịu thuế. Trong nước lập ra cả
thảy 23 sở tuần ti để thu thuế; như tre gỗ thì cứ 10 phần đánh thuế một phần;
những đồ tạp hóa thì 40 phần đánh thuế một phần. 2. Thuế muối: Năm tân sửu
(1721) Trịnh Cương đặt quan Giám Dương để đánh thuế muối, cứ 10 phần, quan lấy
2 phần. Những người buôn muối phãi lĩnh thẻ của quan Giám dương, thì mới được
mua muối, mà trước phải mua của quan đã, rồI sau mới được mua của những người
làm muối. Vì đánh thuế như thế, cho nên giá muối cao đến một tiền một đấu muối,
dân sự ăn uống khổ sở. Bởi vậy đến năm nhâm tí (1732) Trịnh Giang bỏ thuế muối
không đánh nữa. Đến năm bính thìn (1746) Trịnh Doanh lại lập lại phép đánh thuế
muối, cứ chia ra 50 mẫu ruộng muối làm một bếp, mỗi bếp phải nộp 40 hộc thuế
muối, mỗi một hộc đánh giá là 180 đồng tiền, tức là ba tiền. 3. Thuế thổ sản: Năm
giáp thìn (1724), Trịnh Cương định lệ đánh thuế các thổ sản, như là vàng, bạc,
đồng, kẽm, sơn, diêm tiêu, than gỗ, than đá, tre, gỗ, tơ lụa, quế, cá, mắm, các
đồ dụng vật như là rượu, mật, dầu, và các đồ thập vật như là giấy, chiếu, vải,
v.v....
8. Sổ Chi Thu.
Về thời Trịnh Giang làm chúa, có lắm
giặc giã phải chi tiêu nhiều việc, cho nên năm kỷ mùi (1731) các quan xin đặt
quan để cùng với Hộ phiên mà làm sổ biên rõ đồng niên thu vào được bao nhiêu và
phát ra mất bao nhiêu, để liệu sự chi dụng cho vừa.
9. Việc Khai Mỏ.
Nước ta từ đời bấy giờ ở Tuyên Quang
thì có mỏ đồng ở Tụ Long, mỏ bạc ở Nam Xương và ở Long Sinh. Ở Hưng hóa thì có
mỏ đồng ở Trinh Lan và Ngọc Uyển. Ở Thái Nguyên thì có mỏ đồng ở Sáng Mộc, Yên
hận, Liêm tuyền, Tống sinh, Vũ nông; mỏ vàng ở Kim mã, Tam lộng; mỏ kẽm ở Cồn
minh. Ở Lạng sơn thì có mỏ đồng ở Hoài viễn.
Những mỏ ấy đều là người Tàu sang
khai cả, bao nhiêu quyền lợi về tay người Tàu hết, của 10 phần nhà nước không
được một. Mà những phu Tàu sang làm mỏ thường hay quấy nhiễu dân sự. Tuy rằng
năm đinh dậu (1717) Trịnh Cương đã định lệ rằng những người Tàu sang khai mỏ;
chỗ đông lắm chỉ được đến 300 người, chỗ đông vừa 200 người, chỗ ít 100 người
mà thôi. Thế mà về sau có nơi phu khách đông đến hàng vạn người, rồi sinh sự
đánh nhau, thường phải dùng binh lính đi đánh dẹp mãi mới xong.
10. Việc Đúc Tiền.
Nhà Hậu Lê trung hưng lên rồi, vẫn
tiêu tiền Hồng Đức, và ở trấn nào cũng có sở đúc tiền; nhưng vì có lắm sự nhũng
lạm cho nên đến năm quý dậu (1753) Trịnh Doanh mới bỏ sở đúc tiền ở các trấn,
mà chỉ để hai sở gần đất Kinh sư mà thôi. Đến năm bính thân (1776) đời Cảnh
Hưng vua Hiến Tông, khi họ Trịnh đã lấy được đất Thuận Hóa rồi, lại mở lò đúc
tiền ở Phú Xuân, đúc ra 3 vạn quan tiền Cảnh Hưng nữa.
Đời bấy giờ cũng có đúc ra bạc lạng
để tiêu dùng. Mỗi một lạng là 10 đồng, mỗi đồng giá hai tiền. Bạc ấy chặt ra mà
tiêu cũng được
11. Sự Đong Lường.
Sự đong lường thì trước vẫn theo lối
cũ, cứ 6 hạp là một thăng, nhưng từ năm giáp thìn (1664) ông Phạm Công Trứ định
lại, lấy một cái ống gọi là hoàng chung quản làm chừng. Cái ống ấy đựng được
1200 hộc thóc đen, gọi là một thược, rồi cứ 10 thược làm một hạp, 10 hạp làm
một thăng, 10 thăng làm một đấu, 10 đấu là một hộc.
12. Việc In Sách.
Người nước ta học chữ Nho đã lâu mà
những sách học như là Tứ Thư, Ngũ Kinh toàn thị dùng sách in của Tàu cả. Năm
giáp dần (1734) đời vua Thuần Tông, Trịnh Giang mới bắt khắc bản in, in các
sách phát ra mọi nơi và cấm không cho mua sách in bên Tàu nữa. Ấy cũng là một
sự lợi cho sự tài chính của nước ta.
13. Việc Học Hành Thi Cử.
Sự học hành về đời Hậu Lê, thì đại
khái cũng giống như đời Tiền Lê, trong nước ở đâu cũng lấy Nho học làm trọng. Ở
Quốc Tử Giám thì đặt quan tế tửu và quan tư nghiệp để làm giảng quan, mỗi tháng
một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập.
Còn việc thi cử là việc nhà nước
chọn lấy nhân tài để dùng làm việc nước, thì đời nào cũng có. Từ khi nhà Mạc và
nhà Lê tranh nhau ngôi vua, Bắc Triều họ Mạc vẫn mở khoa thi ở Thăng Long; Nam
triều họ Lê vì bận việc binh, cho nên đến mãi năm Canh Thìn (1580) mới mở khoa
thi Hội ở Tây Đô; từ đó về sau cứ ba năm một kỳ thi Hội, nhưng mà cách thức thi
cử còn sơ lược, đến năm Giáp thìn (1664) đời vua Huyền Tông, Trịnh Tạc mới định
lại qui thức thi Hội.
Còn như thi Hương, thì đến năm Mậu
Ngọ (1678) mới định các điều lệ rõ ràng. Từ đó cứ ba năm một kỳ thi Hương:
Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Hưng
Hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Yên Quảng đều có trường thi cả. Nhưng mà sự thi
Hương bấy giờ hồ đồ lắm, không nghiêm như đời Hồng Đức. Như là về đời vua Dụ
Tông, niên hiệu Bảo Thái thì đặt lệ ai đi thi phải nộp tiền minh kinh để lấy
tiền làm nhà trường và khoản đốn quan trường.
Đến năm canh ngọ (1750) đời Cảnh
Hưng, nhà nước thiếu tiền, lại đặt ra lệ thu tiền thông kinh, hễ ai nộp ba quan
thì dược đi, mà không phải khảo hạch. Thành ra lúc bấy giờ những người đi làm
ruộng, đi bán thịt, ai cũng được nộp quyển vào thi, đến nỗi lúc vào thi, người
tranh nhau vào trường xéo đạp lẫn nhau, có người chết. Vào ở trong trường người
thì dùng sách, kẻ đi thuê người làm bài, học trò với quan trường thì thông với
nhau, thành ra cái chợ thi. Phép thi cử bấy giờ thật là bậy.
14. Trường học võ.
Đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương lại mở
ra trường học võ, đặt quan giáo thụ để dạy cho con cháu các quan vào học võ kinh
chiến lược, cứ mỗi tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập. Mùa xuân
mùa thu thì tập võ nghê, mùa đông mùa hạ thì tập võ kinh.
Lại đặt ra lệ 3 năm một lần thi võ.
Thi là đại khái là phải bắn cung, múa giáo, múa gươm, phi ngựa mà bắn cung và chạy
bộ và bắn cung, rồi sau cùng hỏi nghĩa sách để xét học lực, hỏi phương lược để
xét tài năng.
Năm canh thân (1740) Trịnh Doanh lập
võ miếu, chính vị thì thờ Vũ Vương, Khương thái công, Tôn võ tử, Quảng tử,
v.v.... Ở đàng sau thì thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, và lại lập miếu riêng
thờ Quan Công. Cứ xuân thu hai kỳ tế lễ.
15. Làm Quốc Sử.
Từ khi ông Vũ Quỳnh làm sách Đại
Việt Thông Giám, mãi đến đời vua Lê Huyền Tông nhà Hậu Lê, Trịnh Tạc mới sai
quan Tham Tụng là Phạm Công Trứ soạn sách Việt Sử Toàn Thư, kể từ vua Trang
Tông nhà Hậu Lê cho đến vua Thần Tông, chia ra làm 23 quyển; nhưng mà bộ sử ấy
không in. Đến năm bính thìn (1676) đời vua Hi Tông sai Hồ Sĩ Dương xét lại bộ
quốc sử, nhưng chẳng bao lâu ông ấy mất, lại sai Lê Hi và Nguyễn Quý Đức chép nối
từ vua Huyền Tông cho đến vua Gia Tông, thêm vào 13 quyển, gọi là Quốc Sử Thực
Lục.
Năm ất tị (1775) đời Cảnh Hưng,
Trịnh Sâm sai Nguyễn Hoàn, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Sĩ, Nguyễn Du soạn quốc sử,
chép thêm từ Hi Tông cho đến đời Ý Tông, gọi là Quốc Sử Tục Biên, cả thảy là 6
quyển.
16. Sự Đánh Dẹp Giặc Giã Trong Nước.
Về thời Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh
Cương làm chúa, thì ông nào cũng hết lòng lo việc trị dân, và lại nhờ có những
người tôi giỏi như Phạm Công Trứ, Nguyễn Công Hãng, v.v... đều hết sức giúp đỡ,
cho nên sửa sang được nhiều việc, nước được yên trị. Nhưng mà từ khi Trịnh
Giang lên nối nghiệp chúa, giết vua Lê, hại cả các quan đại thần như Nguyễn
Công Hãng, Lê Anh Tuấn và làm lắm điều tàn ác. Tính ông ấy đã tàn ngược lại hay
tiêu dùng xa xỉ, thuế má một ngày một nhiều, sưu dịch một ngày một nặng, dân
tình khổ sở, giặc giã nổi lên khắp cả mọi nơi, đường sá trạm dịch đi không
được, phải làm đồn hỏa hiệu ở trên đỉnh núi để phòng khi có việc gì thì đốt lửa
báo
Bấy giờ trong triều thì có mấy người
tôn thất như là Lê Duy Mật, Lê Duy Qui, Lê Duy Chúc 109
cùng với mấy người triều thần là
Phạm Công Thế, Võ Thước, định đốt kinh thành để trừ họ Trịnh, nhưng chẳng may
việc lộ ra phải bỏ chạy. Ở ngoài các trấn thì chỗ nào cũng có giặc, ở Hải Dương
thì có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi lên ở làng Ninh Xá (thuộc huyện Chí Linh),
Võ Trác Oánh nổi lên ở làng Mộ Trạch (thuộc huyện Đường An), ở đất Sơn Nam thì
có Hoàng Công Chất, đều lấy tiếng phù Lê diệt Trịnh làm cớ, bởi vậy cho nên dân
mặt đông nam mang bừa vác gậy đi theo giặc. Toán nào đông thì kể có hàng vạn
người, toán nào ít thì cũng có đến hàng trăm hàng nghìn người, rồi đi cướp phá
ở các hương thôn và vây các thành ấp, quan quân đánh dẹp không được.
Đang lúc giặc cướp như thế, Trịnh
Giang cứ dâm dật vô độ, lại đào hầm làm nhà ở dưới đất để cho khỏi sợ sấm sét,
còn việc chính trị thì để cho những hoạn thần là bọn Hoàng Công Phụ chuyên
quyền làm bậy. Các quan ở phủ liêu là Nguyễn Quý Cảnh, Nguyễn Công Thái, Võ
công Tể bèn truất Trịnh Giang mà lập em là Trịnh Doanh lên làm chúa, để lo việc
đánh dẹp cho yên giặc giã.
Đời bấy giờ giặc cướp thì nhiều,
nhưng mà những giặc to phải đánh lâu, thì có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, và Võ
Trác Oánh ở đất Hải Dương; Hoàng Công Chất, Võ Đình Dung ở Sơn Nam; Nguyễn Danh
Phương, Nguyễn Diên, Tế, Bồng, ở Sơn Tây; Nguyễn Hữu Cầu ở mặt đông nam; Lê Duy
Mật ở mặt Thanh Hóa và Nghệ An. May lúc ấy lại có những quan đánh giặc giỏi như
Hoàng Nghĩa Bá, Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Phan, Bùi Thế Đạt,
v.v.... cho nên Trịnh Doanh và Trịnh Sâm mới dần dần dẹp yên được các nơi.
109
Duy Mật và Duy Qui là con vua Dụ
Tông, Duy Chúc là con vua Hi Tông.
Giặc Ngân Già: Năm canh thân (1740
trong khi đất Hải Dương, ở làng Ninh Xá, có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ làm loạn,
thì đất Sơn Nam, ở làng Ngân Già, có Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn, Tú Cao, cướp
phá rất dữ, giết cả quan Đốc lĩnh là Hoàng Kim Qua. Thế giặc mạnh lắm, Trịnh
Doanh phải tự làm tướng đem binh đi đánh, bắt được Võ Đình Dung đem chép, và
đỗi tên xã Ngân Già làm Lai Cách (nay là Gia Hòa).
Giặc Ninh Xá: Trước hết Nguyễn
Tuyển, Nguyễn Cừ, Võ Trác Oánh và Nguyễn Diên dấy binh từ năm kỷ mùi (1739) làm
loạn ở Hải Dương, rồi vẫy vùng ở đất Từ Sơn, Thuận Thành, Nam Sách và Hồng
Châu. Nguyễn Cừ thì giữ đất Đỗ Lâm ở Gia Phúc, Nguyễn Tuyển thì giữ núi Phao
Sơn ở Chí Linh, làm đồn, xây lũy liên lạc với nhau, quân lính kể có hàng mấy
vạn người, quan quân đi đánh có nhiều người phải bắt.
Năm tân sửu (1745) quan thống lĩnh
Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá phá được các đồn của giặc ở Phao Sơn, ở Ninh Xá và
ở Gia Phúc; Nguyễn Tuyển thua chạy rồi chết, Võ Trác Oánh không biết đi đâu
mất. Còn Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng Sơn được mấy tháng lại về Đông Triều,
nhưng vì hết lương phải vào nấp ở núi Ngọa Vân Sơn, bị quan Hiệp Đồng là ông
Phạm Đình Trọng bắt được đóng cũng đem về kinh làm tội. Từ đó giặc Cừ và giặc
Tuyển mới tan.
Nguyễn Hữu Cầu: Nguyễn Hữu Cầu, tục
gọi là quận He, người Hải Dương, trước đi ăn cướp, sau theo Nguyễn Cừ làm giặc.
Đến khi Nguyễn Cừ bị bắt rồi, Nguyễn Hữu Cầu đem đồ đảng về giữ núi Đồ Sơn và
đất Vân Đồn. Năm quý hợi (1743), Hữu Cầu giết được quan Thủy Đạo đốc binh là
Trịnh Bảng, rồi tự xưng làm Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân Đại Tướng Quân, thanh
thế lừng lẫy ở mạn ấy. Sau bị Hoàng Ngũ Phúc đem binh đến vây ở núi Đồ Sơn, Hữu
Cầu phá vây ra, về đánh lấy thành Kinh Bắc, quan Trấn phủ là Trần Đình Cẩm, và
quan Đốc đồng là Võ Phương Đề đánh thua ở Thị Cầu phải bỏ ấn tính mà chạy; ở
Kinh Sư, được tin ấy rất lấy làm báo động.
Hoàng Ngũ Phúc đem binh về, cùng với
Trương Khuông lấy lại thành Kinh Bắc, nhưng thế Nguyễn Hữu Cầu vẫn mạnh, phá
quân của Trương Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc huyện Yên Dũng), đuổi quân của
quan thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang (thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại về
vây dinh Thị Cầu.
Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc và
Phạm Đình Trọng đem binh đến đánh Hữu Cầu ở Xương Giang, giết được tướng của
giặc là tên Thông, lấy được quân nhu chiến mã thật là nhiều.
Nguyễn Hữu Cầu là một người kiệt
hiệt nhất trong bọn làm giặc thời bấy giờ, mà lại quỷ quyệt, ra vào bất trắc
lắm; có khi bị vây hàng mấy vòng, mà chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ
trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo. Vì rằng ngày thường cướp được
thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên đi đến đâu cũng có người
theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có.
Các tướng sĩ ai cũng sợ, duy chỉ có
ông Phạm Đình Trọng là đánh được Hữu Cầ mà thôi, cho nên Hữu Cầu đào mã mẹ ông
ấy đổ xuống sông. Từ đó Phạm Đình Trọng thề không cùng sống ở đời với Nguyễn
Hữu Cầu. Cũng vì lẽ ấy cho nên năm bính dần (1749) Hữu Cầu cho người đem vàng
về đút lót cho Đỗ Thế Giai và người nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh để xin hàng,
Trịnh Doanh thuận cho và lại phong cho làm Hướng Nghĩa Hầu, lại sai quan Thiêm
Tri là Nguyễn Phi Sảng đem tờ dụ ra bảo Phạm Đình Trọng đừng đánh Nguyễn Hữu
Cầu nữa. Phạm Đình Trọng khăng khăng một mực không chịu, bảo Nguyễn Phi Sảng
rằng: "Những người làm tướng ở ngoài dẫu có mệnh vua cũng có điều không
nên chịu. Ông vâng mệnh vua đi gọi giặc về hàng thì ông cứ đi, tôi vâng mệnh
vua đi đánh giặc, thì tôi cứ đánh". Nói xong, cất quân đi ngay.
Lúc ấy Phạm Đình Trọng có mộ người ở
huyện Thanh Hòa, huyện Tú Kỳ, huyện Vĩnh Lại và huyện Thượng Hồng, đặt làm 4
cơ, giao cho hai người thủ hạ cai quản. Ở phủ liêu bọn Đỗ Thế Giai nhân lấy
điều ấy mà nói gièm với Trịnh Doanh. Nhưng Trịnh Doanh vốn biết Phạm Đình Trọng
là người trung thành, không nói gì đến việc ấy, lại làm một bài thơ đưa ra cho
ông ấy để ông ấy yên lòng.
Nguyễn Hữu Cầu tuy đã xin về hàng,
nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi, sau lại về phá ở đất Sơn Nam. Một hôm Phạm Đình Trọng
đánh đuổi Hữu Cầu ở Cẩm Giàng, Hữu Cầu nói với thủ hạ rằng: "Ta vừa mới
thua, có tin về Kinh, tất nhiên không ai phòng bị, nay ta lẻn về đánh có lẽ
được". Nói đoạn, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi thì trời
vừa sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam Tân. Phạm Đình
Trọng biết tin ấy lập tức đem quân về đánh mặt sau, Hữu Cầu lại thua bỏ chạy.
Từ khi thua trận Bồ Đề rồi, Hữu Cầu
về cùng với Hoàng Công Chất cướp ở huyện Thần Khê và Thanh Quan. Phạm Đình
Trọng và Hoàng Ngũ Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi.
Hoàng Công Chất chạy vào Thanh Hóa,
Hữu Cầu chạy vào Nghệ An hợp đảng với tên Diên ở Hương Lãm (thuộc huyện Nam
Đường). Phạm Đình Trọng đem quân vào đánh phá trại giặc, rồi đuổi Hữu Cầu ra
đến làng Hoàng Mai bắt được, đóng cũi đem về nộp chúa Trịnh. Bấy giờ là năm tân
vị (1751) tức là năm Cảnh Hưng thứ 12.
Nguyễn Danh Phương: Năm canh thân
(1740) tên Tế và tên Bồng làm loạn ở đất Sơn Tây, quan Chính Tây Đại Tướng quân
là Võ Tá Lý đánh bắt được cả hai tên ấy ở huyện An Lạc (thuộc phủ Vĩnh Tường).
Bấy giờ thủ hạ tên Tế là Nguyễn Danh Phương, tục gọi là quận Hẻo, đem dư đảng
về giữ núi Tam Đảo. Một mặt thì mộ quân trữ lương và một mặt thì cho người về
nói dối xin hàng.
Lúc bấy giờ tên Cầu tên Chất đang
làm loạn ở phía đông nam, cho nên Trịnh Doanh cũng tạm cho hàng.
Năm giáp tí (1744) tên Phương đem
hơn một vạn quân về giữ đất Việt Trì, sang cướp phá ở bên huyện Bạch Hạc. Bấy
giờ quan Đốc suất Sơn Tây là Văn Đình Ức đem binh đến vây đánh, Danh Phương
chạy sang giữ làng Thanh Linh (huyện Bình Xuyên, đất Thái Nguyên). Từ đó Danh
Phương lập đại đồn ở núi Ngọc Bội (giáp huyện Bình Xuyên và huyện Tam Dương),
trung đồn ở đất Hương Canh, ngoại đồn ở đất Ức Kỳ, rồi tự xưng là Thuận Thiên
Khải Vận Đại Nhân, làm cung điện, đặt quan thuộc, thu các thứ thuế ở đất Tuyên
Quan, thanh thế lừng lẫy trong non 10 năm trời, thành ra một nước riêng trong
nước Nam vậy.
Năm canh ngọ (1750) Trịnh Doanh tự
đem đại quân đi đường Thái Nguyên đến đánh phá được đồn Ức Kỳ. Khi quân tiến
lên đến đồn Hương Canh, giặc bắn súng, đạn ra như mưa, quan quân không tiến lên
được Trịnh Doanh mới lấy gươm trao cho ông Nguyễn Phan mà bảo rằng: "Đồn
này phá không được thì lấy quân pháp mà trị!" Nguyễn Phan đem quân sấn vào
rồi cởi áo chiến bào ra, xuống ngựa đi bộ, và bảo những người thủ hạ rằng:
"Quân sĩ có tên ở trong sổ sách, việc gì đã có quân pháp. Chúng bay là
người riêng của ta mà hôm nay là buổi ta phải bỏ mình để giúp nước, và lại
chính là ngày chúng bay đền ơn cho ta. Vậy ai có cha già con dại, thì cho lui
ra, còn thì nên cùng với ta mà liều một trận sống chết để báo đền ơn nước, cho
khỏi phụ cái tiếng râu mày!". Thủ hạ không ai chịu lùi, đều xin cùng xông
vào, phá được đồn Hương Canh. Doanh Phương rút quân về giữ đồn Ngọc Bội, quân
Trịnh Doanh tiến lên đuổi đánh. Nguyễn Phan sai thủ hạ cầm đồ đoản binh cho tự
tiện đi trước mà vào, đại quân theo sau. Giặc giữ không nổi bỏ chạy tan cả.
Nguyễn Danh Phương chạy vào núi Độc Tôn, quan quân đuổi đến làng Tĩnh Luyện ở
huyện Lập Thạch thì bắt được. Trịnh Doanh đem quân về Kinh đô, đi đến làng Xuân
Hi, huyện Kim Anh, gặp người của Phạm Đình Trọng giải Nguyễn Hữu Cầu đến. Trịnh
Doanh bèn mở tiệc khao quân, bắt tên Phương dâng rượu, tên Cầu thổi kèn, ba
quân hôm ấy thật là vui vẻ.
Về đến Kinh sư, tên Cầu và tên
Phương đều phải chém cả.
Hoàng Công Chất: Hoàng Công Chất
cùng với Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi lên một lúc. Trước phá ở đất Sơn Nam về
hạt Khoái Châu. Đến năm ất sửu (1745) lại bắt được và giết quan trấn thủ Sơn
Nam là Hoàng Công Kỳ, sau vì quan quân đuổi đánh, Công Chất chạy vào Thanh Hóa
rồi ra Hưng Hóa cùng với tên Thành làm loạn ở vùng ấy. Năm tân tỵ tên Thành bị
quan quân bắt được, tên Chất chạy lên giữ động Mãnh Thiên (phía bắc Hưng Hóa)
rồi chiếm giữ cả mấy châu gần đấy, đồ đảng có hàng vạn người. Từ đó tên Chất cứ
cướp phá ở đất Hưng Hóa và đất Thanh Hóa. Mãi đến năm kỷ sửu (1769) Trịnh Sâm
mới sai quan thống lĩnh là Đoàn Nguyễn Thục đem quân Sơn Tây lên đánh động Mãnh
Thiên. Khi quan quân lên đến nơi thì Hoàng Công Chất đã chết rồi, con là Hoàng
Công Toản chống giữ không nổi, bỏ chạy sang Vân Nam. Đồ đảng tan cả.
Lê Duy Mật: Năm mậu ngọ (1738) đời
vua Ý Tông, bọn hoàng thân là Lê Duy Mật, Lê Duy Qui và Lê Duy Chúc định mưu
giết họ Trịnh, nhưng chẳng may sự không thành phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Sau
Duy Qui và Duy Chúc phải bệnh mất, còn Duy Mật giữ đất thượng du phía tây nam.
Những người đồng mưu với Duy Mật đều bị họ Trịnh bắt được giết cả. Bấy giờ Duy
Mật có bắt được Phạm Công Thế đem ra hỏi rằng: "Ông là người khoa giáp sao
lại theo nghịch?" - Công Thế cười mà nói rằng: "Đã lâu nay danh phận
không rõ, lấy gì mà phân thuận nghịch?" Nói rồi giương cổ ra chịu hình.
Lê Duy Mật từ khi chạy về Thanh Hóa,
chiêu tập binh sĩ, rồi từ năm canh thân (1740) là Cảnh Hưng năm đầu, về đánh ở
đất Hưng Hóa và Sơn Tây, sau lại cùng với giặc là tên Tương giữ đồn Ngọc Lâu
(thuộc huyện Thạch Thành). Đến khi tướng họ Trịnh phá được đồn Ngọc Lâu, tên
Tương tử trận, Lê Duy Mật lại chạy vào Nghệ An, rồi sang Trấn Ninh giữ núi
Trình Quang làm căn bản.
Năm giáp tí (1764) Lê Duy Mật sai
người đem thư vào cầu cứu với chúa Nguyễn là Vũ Vương. Nhưng chúa không muốn
gây sự với họ Trịnh, cho nên không giúp.
Năm đinh hợi (1767) được tin Trịnh
Doanh vừa mất, con là Trịnh Sâm lên làm chúa, Lê Duy Mật đem quân về đánh ở đất
Hương Sơn và đất Thanh Chương rồi lại rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đưa
thư sang vỗ về không được, mới quyết ý dùng binh để dứt mối loạn.
Năm kỷ sửu (1769) Trịnh Sâm sai Bùi
Thế Đạt làm thống lĩnh đất Nghệ An, Nguyễn Phan làm chánh đốc lĩnh đất Thanh
Hóa, Hoàng Đình Thể làm đốc binh đất Hưng Hóa, cả ba đạo đều tiến sang đánh
Trấn Ninh. Khi qua6n của Bùi Thế Đạt và Nguyễn Phan đến vây Trình Quang. Lê Duy
Mật định cứ giữ hiểm không ra đánh. Không ngờ là người con rể là Lại Thế Chiêu
làm phản, mở cửa lũy cho quân họ Trịnh vào. Duy Mật biết có nội biến, bèn cùng
với vợ con tự đốt mà chết
* * *
Tóm lại mà xét, thì những công việc
của họ Trịnh sửa đổi ở miền Bắc cũng nhiều, và có thể chia ra làm ba thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất vào khoảng Trịnh
Kiểm, Trịnh Tùng và Trịnh Tráng. Lúc bấy giờ còn phải đánh họ Mạc ở phía Bắc,
rồi lại chống với họ Nguyễn ở phía Nam, cho nên trong thời kỳ ấy chỉ có việc
chiến tranh ở ngoài mà thôi, còn những công việc trong nước không sửa sang được
mấy.
Thời kỳ thứ hai là vào khoảng Trịnh
Tạc, Trịnh Căn và Trịnh Cương. Lúc bấy giờ việc chiến tranh đã yên, trong nước
bình trị, cho nên trong thời kỳ ấy các chúac mới sửa sang và chỉnh đốn lại
những phép tắc, luật lệ, việc thuế khóa, sự học hành, thi cử, v.v....
Thời kỳ thứ ba là vào khoảng Trịnh
Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm. Vì Trịnh Giang thất chính cho nên trong thời
kỳ này có lắm giặc giã, quan quân phải đánh đông dẹp bắc trong ba bốn năm trời,
thành ra không làm được việc gì ích lợi, đến nỗi dân nghèo nước yếu, chính trị
điêu tàn, bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà nhà Trịnh đổ, nhà Lê cũng mất.
CHƯƠNG VI
Công-việc họ Nguyễn làm ở miền Nam
1. Quan-chế
2. Thi-cử
3. Việc võ-bị
4. Việc thuế-khóa
5. Số tiền chi-thu trong nước
6. Lấy đất Chiêm-thành
7. Mở đất Nam Việt và sự giao-thiệp
với Chân-lạp
8. Việc giao-thiệp với nước Tiêm-la
9. Việc lập dinh định phủ
Họ Nguyễn đã giữ riêng một cõi ở
phía nam, lập ra nghiệp chúa, lưu- truyền đời nọ qua đời kia, bởi vậy cho nên
chính-trị, thuế-lệ, binh-lính, việc gì cũng tự sửa-sang và xếp đặt lấy như là
một nước tự-chủ vậy.
1. Quan-Chế.
Lúc họ Nguyễn chưa ra mặt chống nhau
với họ Trịnh thì quan-lại vẫn ở ngoài Bắc bổ vào nhưng mà từ khi chúa Sãi là
Nguyễn Phúc Nguyên không chịu nộp thuế cho nhà Lê, và đem quân chống giữ với
quân họ Trịnh ở bắc Bố-Chính thì các quan-viên đều do chúa Nguyễn đặt lấy cả.
Ở Chính dinh là chỗ chúa đóng thì
đặt tam-ti để giúp chúa coi việc chính- trị. Tam-ti là: Xá sai-ti,
Tướng-thần-lại-ti, Lệnh-sử-ti. 1. Xá-sai-ti
giữ việc từ tụng văn án. Có quan
Đô-tri, Ký-lục làm đầu. 2. Tướng-thần-lại-ti
giữ việc thu tiền thu thuế, chi-phát
lương- thực cho quan các đạo. Có quan cai-bạ làm đầu. 3. Lệnh-sử-ti
giữ việc tế tự, tết nhất và việc
chi-cấp lương cho quân ở chính dinh. Có quan Nha-úy làm đầu.
Mỗi ti lại có quan Cai-hợp, Thủ-hợp
và các lại-ti để làm mọi việc.
Ở ngoài các dinh, thì có nơi chỉ đặt
có một Lệnh-sử-ti kiêm cả việc Xá-sai-ti và Tướng-thần-lại-ti, có nơi thì đặt
Xá-sai-ti và Lệnh-sử-ti để coi việc quân dân, từ tụng, đinh điền, sổ sách, thuế
khóa, v.v. nghĩa là tùy nơi quan-trọng hay là không, mà thêm bớt quan-viên.
Ở phủ huyện, thì đặt tri-huyện,
tri-phủ, để coi việc từ tụng, thuộc hạ thì có đề-lại, thông-lại, chuyên việc
khám xét. Lại có huấn đạo, lễ-sinh, chuyên việc tế-tự ở chỗ sở tại. Còn việc
thu thuế thì đặt quan khác để coi về việc ấy.
Đến đời chúa Thượng Nguyễn phúc Lan
(1635-1648) lại đặt thêm chức nội-tả, ngoại-tả, nội-hữu, ngoại-hữu, gọi là tứ
trụ để giúp chúa trị dân.
Về đàng quan võ thì đặt chức:
chưởng-đinh, chưởng-cơ, cai-cơ, cai- đội để coi việc binh.
2. Thi Cử.
Năm đinh-hợi (1674) chúa Nguyễn mở
khoa thi gọi là thi chính đồ và thi hoa-văn.
Thi chính đồ chia ra làm ba kỳ: kỳ
đệ-nhất thi tứ-lục, kỳ đệ-nhị thi thơ-phú, kỳ đệ-tam thi văn-sách. Quan tri-phủ
tri-huyện làm sơ-khảo, quan cai-bạ, ký-lục, vệ-úy làm giám-khảo. Những quyển
đậu, thì chia ra làm ba hạng: hạng thứ nhất gọi là giám-sinh, được bổ ra làm
tri-phủ, tri-huyện; hạng thứ nhì gọi là sinh đồ được bổ làm huấn đạo; hạng thứ
ba cũng gọi là sinh đồ được bổ làm lễ-sinh, hoặc làm nhiêu-học.
Thi hoa-văn thì cũng phải ba ngày,
mỗi ngày chỉ phải làm có một bài thơ mà thôi. Ai đậu thì được bổ vào làm việc ở
Tam-ti.
Năm ất-hợi (1695) Quốc-chúa Nguyễn
Phúc Chu (1691-1725) mở khoa thi ở trong phủ chúa, gọi là thi Văn-chức và thi
Tam-ti. Thi Tam-ti là thi Xá-sai ti, thi Tướng-thần-lại-ti và thi Lệnh-sử-ti.
Thi Văn-chức thì thi tứ- lục, thơ-phú, văn-sách; thi Xá-sai-ti thì hỏi về việc
binh-lính, tiền lương, từ tụng; thi Tướng-thần-lại-ti và Lệnh-sử-ti thì chỉ làm
một bài thơ mà thôi.
Năm canh-thân (1740), Vũ-vương
Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) định lại phép thi: những người đậu kỳ đệ-nhất gọi
là nhiêu-học, được miễn sai 5 năm; đậu kỳ đệ-nhị và kỳ đệ-tam thì được miễn sai
chung thân; đậu kỳ đệ-tứ gọi là hương-cống, được bổ đi làm tri-phủ, tri-huyện.
Xem như vậy thì sự thi-cử ở miền Nam
đời bấy giờ còn sơ-lược lắm.
3. Việc Võ-Bị.
Họ Nguyễn bấy giờ phải chống nhau
với họ Trịnh cho nên phải lo việc võ-bị hơn. Quân thì chia ra làm năm cơ gọi
là: trung cơ, tả cơ, hữu cơ, tiền cơ, hậu cơ. Số quân độ chừng non ba vạn
người.
Năm tân-mùi (1631) chúa Sãi lập ra
sở đúc súng đại-bác và mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa, cứ hằng năm
luyện-tập để phòng-bị chiến-tranh.
4. Việc Thuế-Khóa.
Điền-thổ chia ra làm 3 hạng để đánh
thuế. Lại có hạng gọi là thu điền, khô thổ, nghĩa là ruộng đất xấu thì thuế
đánh lại nhẹ hơn ruộng đất thường.
Những công điền thì cấp cho dân
cày-cấy để nộp thuế; còn ai khai-khẩn được đất hoang ra làm ruộng, thì cho là
tư điền.
Thuế mỏ. Ở đất Quảng-nam, Thuận-hóa
có mỏ vàng; ở đất Quảng- nghĩa có mỏ bạc; ở đất Bố-chính có mỏ sắt. Các mỏ ấy
đều đánh thuế cả.
Thuế xuất-cảng nhập-cảng. Lệ cứ
những tàu ở Thượng-hải và ở Quảng đông lại, thì phải nộp 3.000 quan, đến lúc đi
phải nộp 300 quan. Tàu ở Mả-cao, ở Nhật-bản lại, thì phải nộp 4.000 quan, đến
lúc đi phải nộp 400 quan. Tàu ở Tiêm-la, ở Lã-tống lại, thì phải nộp 2.000
quan, đến lúc đi phải nộp 200 quan. Tàu ở các nước phương Tây lại, thì phải nộp
8.000 quan, đến lúc về phải nộp 800 quan.
Thuế ấy chia ra làm 10 thành: 6
thành thì đem vào kho, còn 4 thành để nộp cho quan-lại, binh-lính đã coi về
việc thu thuế.
5. Số tiền chi-thu trong nước.
Năm quí đậu (1753) Vũ- vương sai
quan Chưởng-thái-giám là Mai văn Hoan tính số vàng, bạc và tiền thu vào phát ra
mỗi năm là bao nhiêu.
Bấy giờ số tiền thì có năm thu vào
được hơn 338.100 quan, mà phát ra mất hơn 364.400 quan; có năm được hơn 423.300
quan, mà phát ra mất hơn 369.400 quan. Vàng thì có năm thu được 830 lượng, có
năm được 890 lượng. Bạc thì thứ giáp-ngân (?) có năm thu được 240 lượng, có năm
được 390 lượng; thứ dung-ngân (?) có năm được 2.400 lượng, có năm được 1.800
lượng; thứ kê-ngân (?) có năm được 10.100 đồng, có năm được 400 đồng, cũng có
năm không có đồng nào.
Tính đổ đồng lại từ năm bính-dần
(1746) đến năm nhâm-thân (1752) nghĩa là trong 7 năm, số vàng được 5.768 lượng,
số giáp ngân được 9.978 lượng, số dung-ngân được 14.276 lượng, số kê-ngân được
21.150 đồng.
Từ đó trở đi mỗi năm phải làm sổ kê
rõ ra trong năm vàng bạc và tiền thu vào và phát ra mất bao nhiêu, lệ cứ đến
ngày mồng ba tháng giêng năm sau dâng lên để chúa xem.
Những tiền tiêu trong nước, thì có
tiền đồng và tiền kẽm, khắc hai chữ thái-bình.
6. Lấy đất Chiêm-Thành.
Trước Trịnh Kiểm chỉ cho Nguyễn
Hoàng vào trấn-thủ đất Thuận-hóa mà thôi; sau đến năm canh-ngọ (1570) họ Trịnh
đòi quan trấn-thủ Quảng-nam là Nguyễn Bá Quýnh về trấn đất Nghệ-an, để đất
Quảng-nam cho Nguyễn Hoàng kiêm lĩnh.
Năm tân-hợi (1611) Nguyễn Hoàng vào
đánh nước Chiêm-thành lấy đất lập ra phủ Phú-yên; chia ra làm hai huyện là
Đồng-xuân và Tuyên-hòa. Đến năm quí-tị (1653) vua nước Chiêm-thành là Bà Thấm
sang quấy-nhiễu ở đất Phú-yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần mới sai quan cai-cơ
là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông
Phan-lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan-lang trở ra lấy làm
Thái-ninh-phủ, sau đổi làm phủ Diên-khánh (tức là Khánh-hòa bây giờ), đặt dinh
Thái-khang để Hùng Lộc làm thái-thú.
Năm quí-dậu (1693) vua nước
Chiêm-thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai
quan tổng-binh là Nguyễn hữu Kính (con Nguyễn hữu Dật) đem binh đi đánh bắt
được Bà Tranh và bọn thần-tử là Tả trà Viên, Kế bà Tử cùng thân-thuộc là Bà Ân
đem về Phú-Xuân. Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm-thành làm Thuận-phủ, cho Tả trà
Viên, Kế bà Tử làm chức Khám-lý và ba người con của Bà Ân làm đề đốc giữ
Thuận-phủ, lại bắt phải đổi y phục theo như người Việt-nam để phủ dụ dân Chiêm-
thành. Qua năm sau lại đổi Thuận-phủ ra làm Thuận-thành-trấn, cho Kế bà Tử làm
tả-đô-đốc. Năm đinh-sửu (1697) chúa Nguyễn đặt phủ Bình-thuận lấy đất Phan-lý
(Phan-tri) Phan-lang (Phan-rang) làm huyện Yên-phúc và huyện Hòa-đa.
Từ đó nước Chiêm-thành mất hẳn.
Nước Chiêm-thành chính là nước
Lâm-ấp ngày trước đã từng qua mấy trăm năm, cùng với họ Lý, họ Trần đối địch,
chống với quân Mông-cổ, không cho xâm phạm vào cõi, lập nên một nước có vua, có
tôi, có chính-trị, có luật-pháp. Nhưng chỉ hiềm vì người nước ấy cứ hay sang
cướp phá ở đất Việt-nam, thành ra hai nước không mấy khi hòa hiếu được với
nhau.
Đã là đối địch thì không sao tránh
khỏi được cái luật chung của tạo- hóa là: khỏe còn, yếu chết. Vì vậy cho nên từ
khi vua Thánh-tông nhà Lê đã lấy đất Quảng nam và đã chia nước Chiêm ra làm 3
nước rồi, thì từ đó về sau thế-lực nước ấy mỗi ngày một kém, dân tình mỗi ngày
một suy. Chẳng những là đến nỗi mất nước với chúa Nguyễn mà chủng-loại
Chiêm-thành bây giờ cũng chẳng còn được mấy nghìn người nữa. Một nước trước như
thế, mà nay như thế, dẫu rằng nước ấy đồng hóa với nước ta mặc lòng, song nghĩ
cũng thương-tâm thay cho những nước yếu-hèn không tránh khỏi được cái họa: cá
nhỏ bị cá lớn nuốt.
7. Mở đất Nam-Việt và sự giao thiệp
với Chân-Lạp.
Nguyên nước Chân-lạp ở vào quãng
dưới sông Mê-kông, có lắm sông nhiều ngòi, ruộng đất thì nhiều mà nước Nam ta
thường hay mất mùa, dân-tình phải đói khổ luôn, và lại vào lúc chúa Nguyễn,
chúa Trịnh đánh nhau, cho nên nhiều người bỏ vào khẩn đất, làm ruộng ở Mô-xoài
(Bà-rịa) và ở Đồng- nai (nay thuộc Biên-hòa).
Năm mậu-tuất (1658) vua nước
Chân-lạp mất rồi, chú cháu tranh nhau, sang cầu cứu bên chúa Nguyễn. Chúa
Nguyễn bấy giờ là chúa Hiền sai quan đem 3.000 quân sang đánh ở Mỗi-xuy (nay
thuộc huyện Phước- chánh, tỉnh Biên-hòa) bắt được vua nước ấy là Nặc ông Chân
đem về giam ở Quảng-bình một độ, rồi tha cho về nước, bắt phải triều-cống và
phải bênh- vực người Việt-nam sang làm ăn ở bên ấy.
Năm giáp-dần (1674), nước Chân-lạp
có người Nặc ông Đài đi cầu- viện nước Tiêm-la để đánh Nặc ông Nộn.
Nặc ông Nộn bỏ chạy sang cầu cứu ở
dinh Thái-khang (nay là Khánh-hòa). Chúa Hiền bèn sai Cai-cơ đạo Nha-trang là
Nguyễn dương Lâm cùng với Nguyễn đình Phái làm tham-mưu đem binh chia ra hai đạo
sang đánh Nặc ông Đài, phá được đồn Sài-gòn, rồi tiến quân lên vây thành Nam-
vang. Nặc ông Đài phải bỏ thành chạy vào chết ở trong rừng. Nặc ông Thu ra
hàng. Nặc ông Thu là chính dòng con trưởng cho nên lại lập làm chánh quốc-vương
đóng ở Long-úc, để Nặc ông Nộn làm đệ-nhị quốc-vương, đóng ở Sài-gòn, bắt hằng
năm phải triều cống.
Năm kỷ-tị (1679) có quan nhà Minh là
tổng-binh trấn-thủ đất Long- môn (Quảng-tây) Dương ngạn Địch, phó-tướng Hoàng
Tiến, tổng-binh châu Cao, châu Lôi, và châu Liêm (thuộc Quảng-đông) là Trần
Thượng Xuyên, phó-tướng Trần an Bình, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3.000
quân cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Việt-nam. Chúa Hiền nhân muốn
khai-khẩn đất Chân-lạp, bèn cho vào ở đất Đông-phố (tức là đất Gia định). Bọn
Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc đã (tức là đất Đồng-nai thuộc Biên-hòa), ở Mỹ-tho
(thuộc Định-tường), ở Ban-lân (thuộc Biên-hòa) rồi cày ruộng làm nhà lập ra
phường-phố, có người phương tây, người Nhật-bản, người Chà-và đến buôn bán đông
lắm.
Năm mậu-thìn (1688) những người khác
ở Mỹ-tho làm loạn. Hoàng Tiến giết Dương ngạn Địch đi, rồi đem chúng đóng đồn ở
Nan-khê, làm tàu đúc súng để chống nhau với người Chân-lạp. Vua Chân-lạp là Nặc
ông Thu cũng đào hào đắp lũy để làm kế cố thủ và bỏ không chịu thần-phục chúa
Nguyễn nữa.
Bấy giờ chúa Nguyễn là Nguyễn-phúc
Trăn sai quan đem quân đi đánh dẹp, dùng mưu giết được Hoàng Tiến và bắt vua
Chân-lạp phải theo lệ triều-cống.
Năm mậu-dần (1698) chúa Nguyễn là
Nguyễn-phúc Chu sai ông Nguyễn hữu Kính làm kinh-lược đất Chân-lạp, chia đất
Đông-phố ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng-nai làm huyện Phúc-long và Sài-gòn
làm huyện Tân-bình. Đặt Trấn-biên dinh (tức là Biên-hòa) và Phan-trấn dinh (tức
là Gia định) sai quan vào cai-trị. Lại chiêu-mộ những kẻ lưu dân từ Quảng-bình
trở vào để lập ra thôn-xã và khai-khẩn ruộng đất. Còn những người Tàu ở đất
Trấn-biên (Biên-hòa) thì lập làm xã Thanh-hà, những người ở đất Phan-trấn (Gia
định) thì lập làm xã Minh-hương. Những người ấy đều thuộc về sổ bộ nước ta.
Bấy giờ lại có người khách Quảng
đông tên là Mạc Cửu, trong khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh bên Tàu, bỏ sang ở
Chân-lạp, thấy ở phủ Sài-mạt có nhiều người các nước đến buôn-bán, bèn mở sòng
đánh bạc, rồi lấy tiền chiêu-mộ những lưu dân lập ra 7 xã, gọi là Hà-tiên. Năm
mậu-tí (1708) Mạc Cửu xin thuộc về chúa Nguyễn; chúa phong cho làm chức tổng-
binh, giữ đất Hà-tiên.
Đến khi Mạc Cửu mất, chúa Nguyễn lại
phong cho con Mạc Cửu là Mạc thiên Tứ làm chức đô đốc, trấn ở Hà-tiên. Mạc
thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và rước thầy về dạy Nho-học để
khai-hóa đất Hà- tiên.
Thời bấy giờ đất Chân-lạp cứ loạn
lạc luôn. Năm kỷ-mão (1699) vua nước ấy là Nặc ông Thu đem quân chống với quân
chúa Nguyễn, chúa sai quan tổng-suất Nguyễn hữu Kính sang đánh. Quân ta sang
đến thành Nam- vang, Nặc ông Thu bỏ chạy, con Nặc ông Nộn là Nặc ông Yêm mở cửa
thành ra hàng. Sau Nặc ông Thu cũng về hàng, xin theo lệ triều-cống như cũ.
Quân ta rút về.
Được ít lâu vua thứ hai là Nặc ông
Nộn mất, vua thứ nhất là ông Nặc ông Thu phong cho con Nặc ông Nộn là Nặc ông
Yêm làm quan và lại gả con gái cho. Sau Nặc ông Thu già yếu, truyền ngôi cho
con là Nặc ông Thâm.
Năm ất-dậu (1705) Nặc ông Thâm nghi
cho Nặc ông Yêm có ý làm phản, bèn khởi binh đánh nhau. Nặc ông Thâm lại đem
quân Tiêm-la về giúp mình. Nặc ông Yêm phải chạy sang cầu cứu ở Gia định.
Chúa Nguyễn sai quan cai-cơ là
Nguyễn cửu Vân sang đánh Nặc ông Thâm. Nguyễn cửu Vân sang phá được quân
Tiêm-la; đem Nặc ông Yêm về thành La-bích. Từ đó Nặc ông Thâm ở Tiêm-la cứ
thỉnh-thoảng đem quân về đánh Nặc ông Yêm.
Năm giáp-ngọ (1714) quân của Nặc ông
Thâm về lấy thành La-bích và vây đánh Nặc ông Yêm nguy-cấp lắm. Nặc ông Yêm sai
người sang Gia định cầu-cứu. Quan đô đốc Phiên-trấn (Gia-định) là Trần thượng
Xuyên và quan phó-tướng Trấn-biên (Biên-hòa) là Nguyễn cửu Phú phát binh sang
đánh, vây Nặc ông Thu và Nặc ông Thâm ở trong thành La-bích. Nặc ông Thu và Nặc
ông Thâm sợ-hãi, bỏ thành chạy sang Tiêm-la. Bọn ông Trần thượng Xuyên lập Nặc
ông Yêm lên làm vua Chân-lạp.
Năm tân-hợi (1729) quân Chân-lạp
sang quấy-nhiễu ở hạt Gia định. Chúa Nguyễn bèn đặt sở Điều-khiển để
thống-nhiếp việc binh ở mạn ấy.
Năm bính-thìn (1736) Nặc ông Yêm
mất, con là Nặc ông Tha lên làm vua. Đến năm mậu-thìn (1747) Nặc ông Thâm lại ở
bên Tiêm-la về, cử binh đánh đuổi Nặc ông Tha đi, rồi chiếm lấy ngôi làm vua.
Nặc ông Tha phải bỏ chạy sang Gia định.
Được ít lâu Nặc ông Thâm mất, con là
Nặc Đôn, Nặc Hiên và Nặc Yếm tranh nhau. Chúa Nguyễn bèn sai quan Điều-khiển là
Nguyễn hữu Doãn đem quân sang đánh bọn Nặc Đôn và đem Nặc ông Tha về nước.
Nặc ông Tha về được mấy tháng lại bị
người con thứ hai của Nặc ông Thâm là Nặc Nguyên đem quân Tiêm-la sang đánh
đuổi đi. Nặc ông Tha chạy sang chết ở Gia định.
Nặc Nguyên về làm vua Chân-lạp
thường hay hà-hiếp rợ Côn-man 110
và lại thông sứ với chúa Trịnh ở
ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn biết tình-ý ấy, đến năm
quí-dậu (1753), sai Nguyễn cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm ất-hợi (1755) Nặc
Nguyên thua bỏ thành Nam-vang chạy sang Hà-tiên nhờ Mạc thiên Tứ.
Năm sau Mạc thiên Tứ dâng thư về nói
rằng Nặc Nguyên xin dâng hai phủ Tầm-bôn và Lôi-lạp để chuộc tội, và xin cho về
nước. Chúa Nguyễn không muốn cho. Bấy giờ ông Nguyễn cư Trinh dâng sớ bày-tỏ
cách khai- thác nên dùng kế "tầm thực" nghĩa là nên lấy dần dần như
con tầm ăn lá, thì mới chắc chắn được. Chúa Nguyễn nghe lời ấy bèn nhận hai phủ
và cho Nặc Nguyên về Chân-lạp.
Năm đinh-sửu (1759) Nặc Nguyên mất,
chú họ là Nặc Nhuận làm giám-quốc. Nặc Nhuận còn đang lo để xin chúa Nguyễn
phong cho làm vua, thì bị người con rể là Nặc Hinh giết đi, rồi cướp lấy ngôi
làm vua.
Quan tổng-suất là Trương phúc Du
thừa kế sang đánh, Nặc Hinh thua chạy bị thuộc-hạ giết chết, bấy giờ con Nặc
Nhuận là Nặc Tôn chạy sang nhờ Mạc thiên Tứ ở Hà-tiên. Mạc thiên Tứ dâng thư về
xin lập Nặc Tôn làm vua Chân-lạp. Chúa Nguyễn thuận cho, sai Thiên Tứ đem Nặc
Tôn về nước.
Nặc Tôn dâng đất Tầm-phong-long để
tạ ơn chúa Nguyễn. Chúa bèn sai ông Trương phúc Du và Nguyễn cư Trinh đem dinh
Long-hồ về xứ Tầm-bào, tức là chỗ tỉnh-lỵ tỉnh Vĩnh-long bây giờ, và lại đặt ra
ba đạo là Đông-khẩu đạo ở Sa-đéc, Tân-châu đạo ở Tiền-giang và Châu đốc đạo ở
Hậu-giang.
Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương-úc,
Cần-bột, Trực-sâm, Sài-mạt và Linh-quỳnh để tạ ơn Mạc thiên Tứ. Mạc thiên Tứ
đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà-tiên cai-quản.
Vậy đất 6 tỉnh Nam-Việt bây giờ là
đất lấy của nước Chân-lạp mà người Việt-nam khai-thác ra.
110
Côn-man là chỗ những người Chiêm
Thành sang tụ họp ở tại xứ Chân Lạp
8. Việc giao-thiệp với nước Tiêm-La.
Tiêm-la là một nước ở về phía
tây-nam sông Mê-kông dòng đõi người Thái sang ở đấy.
Cứ theo sử ta và sử Tàu thì thoạt
đầu tiên gọi là nước Phù-nam. Đến quãng nhà Tùy và nhà Đường bên Tàu là vào
quãng thế-kỷ thứ sáu, thứ bảy thì đất Phù-nam chia ra làm hai: một nửa về phía
đông có một dân-tộc khác đến lập ra nước Chân-lạp, còn một nửa về phía tây thì
người Phù-nam ở gọi là nước Xích-thổ.
Vào quãng nhà Tống, nhà Kim (thế-kỷ
thứ XI, thứ XII) thì nước Xích- thổ lại chia ra làm hai: một nước gọi là
La-hộc, một nước gọi là Tiêm. Lúc nhà Nguyên làm vua bên Tàu (thế-kỷ thứ XIII,
thứ XIV) thì sử có chép hai nước ấy sang cống.
Về sau nước La-hộc gồm được cả nước
Tiêm, mới gọi là nước Tiêm- la-hộc. Đến đầu nhà Minh (cuối thế-kỷ thứ XIV) vua
nước ấy sang cầu phong bên Tàu, vua Thái-tổ nhà Minh mới phong là nước Tiêm-la
111 .
Nước Tiêm-la lúc đầu còn nhỏ-yếu,
thường bị người Chân-lạp áp- chế. Sau cường-thịnh dần dần lên, rồi vào khoảng
năm Vạn-lịch (1573- 1620) nhà Minh, nước Tiêm-la lại đánh Chân-lạp mà hùng-bá
cả phương ấy.
Trong thời ấy vua Tiêm-la là Phra
Naroi dòng dõi nhà Ayouthia dùng một người Hi-lạp tên là Constantin Phaulcon
làm tướng. Người ấy xin vua giao-thiệp với nước Pháp. Bởi vậy năm 1620 mới có
bọn sứ-thần Tiêm-la sang bái-yết Pháp-hoàng Louis XIV ở tại Versailles.
Thủa bấy giờ chúa Nguyễn còn đang
khai sáng ở đất Phú-yên, Khánh-hòa, nhưng về sau chúa Nguyễn lấy hết đất
Chiêm-thành, lại lấn sang đất Chân-lạp. Người Tiêm-la có ý muốn ngăn-trở để giữ
lấy Chân-lạp làm của mình. Nhưng vì thế chúa Nguyễn mạnh hơn, cho nên phải chịu
để chúa Nguyễn sang bảo-hộ Chân-lạp.
Tuy vậy nước Tiêm-la thường hay dùng
những người phản đối với vua Chân-lạp, rồi giúp binh-lực cho về làm loạn trong
nước. Nhiều khi quân ta phải sang đánh đuổi quân Tiêm-la để giúp quốc-vương
Chân-lạp. Cũng có khi quân Tiêm-la sang đánh ở đất Hà-tiên, như năm ất-tị
(1715) người Chân-lạp là Nặc Thâm đem quân Tiêm-la sang cướp phá, quan
tổng-binh Hà-tiên là Mạc Cửu phải bỏ thành mà chạy.
111
Nước Thái Lan ngày nay.
Quân ta và quân Tiêm-la đã giao
chiến nhiều lần, cho nên hai bên không thông sứ với nhau. Mãi đến năm canh-ngọ
(1750) đời chúa Nguyễn là Võ-vương Nguyễn-phúc Khoát, thì mới thấy sử chép rằng
chúa sai quan đem thư sang trách nước Tiêm-la dung-túng kẻ nghịch-thần để làm
loạn nước Chân-lạp.
Năm ất-hợi (1755) nước Tiêm-la sai
sứ sang xin đừng đánh thuế những thuyền của nước ấy sang buôn-bán ở đất chúa
Nguyễn. Chúa đáp thư lại rằng thuế ấy là quốc-lệ đã đặt ra không thể bỏ đi
được.
Năm đinh-hợi (1767) quân nước
Diến-Điện sang đánh Tiêm-la bắt được vua nước ấy là Phong-vương 112
và con là Chiêu Đốc cùng mấy vạn
người dân đem về Diến-Điện. Còn những người con của Phong-vương là Chiêu xỉ
Khang thì chạy sang Chân-lạp và Chiêu Thúy thì chạy sang Hà-Tiên.
Bấy giờ nước Tiêm-la không có vua,
chức Phi-nhã (Phya) đất Mang- tát là Trịnh quốc Anh bèn khởi binh tự lập làm
vua. Trịnh quốc Anh là người Triều-châu, tỉnh Quảng đông, cha tên là Yển sang ở
đất Tiêm-la làm trưởng ở Mang-tát. Yển chết, Trịnh quốc Anh lên nối nghiệp xưng
là Phi-nhã, là một chức xã-trưởng vậy.
Trịnh quốc Anh lên làm vua rồi sai
sứ sang bắt vua Chân-lạp là Nặc Tôn phải sang cống. Nặc Tôn lấy lẽ rằng Trịnh
quốc Anh không phải là dòng dõi người Tiêm-la, không chịu cống.
Vua Tiêm-la lấy điều ấy làm hiềm,
sai tướng là Bôn Ma đem người Chân-lạp tên là Nặc Non về đánh Nặc Tôn. Nặc Tôn
giữ vững các nơi, quân Tiêm-la không làm gì được lại phải rút về.
Trịnh quốc Anh biết con vua cũ là
Chiêu Thúy còn ở Hà-tiên, sợ ngày sau sinh ra biến loạn, bèn đến tháng 10 năm
tân-mão (1771) đem binh- thuyền sang vây đánh Hà-tiên. Quan tổng-binh là Mạc
thiên Tứ giữ không nổi phải bỏ thành chạy.
Vua Tiêm-la để tướng là Trần Liên, ở
lại giữ Hà-tiên rồi tiến quân sang đánh Chân-lạp. Quốc-vương là Nặc Tôn phải bỏ
chạy. Vua Tiêm-la đóng quân ở thành Nam-vang và lập Nặc Non lên làm vua
Chân-lạp.
112
Vua nước Tiêm La bấy giờ có bệnh
hủi, cho nên sử gọi là Phong Vương
Tháng 6 năm sau (1772) chúa Nguyễn
sai quan tổng-suất là Nguyễn cửu Đàm lĩnh chức Điều-khiển đem binh-thuyền đi
đánh quân Tiêm-la. Quân của Nguyễn cửu Đàm tiến sang đến Nam-vang, quân Tiêm-la
bỏ chạy về Hà-tiên, Nặc Non cũng chạy về Cầu-bột.
Nặc Tôn lại về làm vua Chân-lạp.
Vua Tiêm-la về đến Hà-tiên sai người
đưa thư sang gọi Mạc thiên Tứ về để giảng-hòa. Mạc thiên Tứ không chịu. Vua
Tiêm-la bèn để Trần Liên ở lại giữ Hà-tiên, rồi bắt con gái Mạc thiên Tứ và
Chiêu Thúy đem về nước.
Năm sau Mạc thiên Tứ thấy việc không
xong, bèn sai người sang Tiêm-la xin hòa. Vua Tiêm-la gọi Trần Liên về và cho
người con gái của Mạc thiên Tứ về Hà-tiên. Còn Chiêu Thúy thì đem giết đi.
Từ đó Mạc thiên Tứ lại về giữ đất
Hà-tiên.
9. Lập dinh định phủ.
Lúc đầu, Nguyễn Hoàng mới vào trấn
đất Thuận-hóa thì đóng dinh ở làng Ái-tử (thuộc huyện Đăng-xương, gần tỉnh-lỵ
tỉnh Quảng-trị). Được 13 năm sau (1570) Nguyễn Hoàng lại dời vào làng Trà-bát ở
huyện ấy, tức là Cát Dinh. Đến năm bính-dần (1626) chúa Sãi là Nguyễn phúc
Nguyên sắp sửa chống nhau với chúa Trịnh, mới dời dinh vào làng Phúc-an (thuộc
huyện Quảng-điền, tỉnh Thừa-thiên bây giờ) và đổi chỗ tư sở là phủ.
Năm bính-tí (1636) chúa Thượng là
Nguyễn phúc Lan lại dời phủ vào làng Kim-long (thuộc huyện Hương-trà, tỉnh
Thừa-thiên).
Năm đinh-mão (1687) chúa Nguyễn là
Nguyễn phúc Trăn đem phủ về làng Phú-xuân, tức là đất Kinh-thành bây giờ, gọi
là chính dinh. Chỗ phủ cũ để làm Thái-tông-miếu, thờ chúa Hiền.
Năm giáp-tí (1744) Vũ-vương mới xưng
vương-hiệu đổi phủ ra làm điện, sửa-sang phép-tắc, và định triều-phục. Lại chia
nước ra làm 12 dinh.
1. Chính dinh (Phú-xuân) 2. Cựu dinh
(Ái-tử) 3. Quảng-bình dinh 4. Vũ-xá dinh 5. Bố-chính dinh 6. Quảng-nam dinh 7.
Phú-yên dinh | 8. Bình-khang dinh | đất Chiêm-thành 9. Bình-thuận dinh | 10.
Trấn-biên dinh } 11. Phiên-trấn dinh } đất Chân-lạp 12. Long-hồ dinh }
Dinh nào cũng đặt quan Trấn-thủ,
quan Cai-hạ, quan Ký-lục để coi việc cai-trị. Còn phủ Quảng-nghĩa và phủ
Qui-nhơn thì thuộc về tỉnh Quảng- nam, cho nên mỗi phủ đặt riêng quan Tuần-phủ
và quan Khám-lý để coi mọi việc. Đất Hà-tiên thì đặt là Trấn, có quan đô đốc
cai-trị.
Tóm lại mà xét, họ Nguyễn làm chúa
miền nam, nhưng trước thì vẫn giữ chức vua Lê phong cho, mãi đến đầu thế-kỷ thứ
XVIII năm nhâm-ngọ (1702) Nguyễn phúc Chu mới sai người sang cống vua nhà Thanh
để xin phong làm vua, nhưng Thanh-triều nói rằng nước Nam còn có họ Lê không
phong được cho họ Nguyễn. Việc ấy lại im đi. Nguyễn-phúc Chu bèn xưng là
quốc-chúa và đúc cái ấn Đại-Việt-Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo để làm cái
Truyền-quốc-bảo, đến đời vua Thế-tổ mới thôi. Đến năm giáp-tí (1744)
Nguyễn-phúc Khoát mới xưng vương-hiệu và đổi lại chế độ, định ra triều-nghi.
Bấy giờ đất phía nam tuy độc-lập,
nhưng họ Nguyễn chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua và vẫn không đặt quốc-hiệu.
Nhưng người ngoại-quốc thường gọi đất chúa Nguyễn là Quảng-nam quốc. Đấy là vì
ở Quảng-nam có phố Hội-an (Faifo) là chỗ người Tàu và người các nước ra vào
buôn bán, cho nên mới lấy tên Quảng-nam mà gọi.
Còn những công-việc họ Nguyễn làm ở
phía nam quan-trọng cho nước Nam ta hơn cả, là việc mở-mang bờ-cõi, khiến cho
nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là chiêu-mộ những người nghèo-khổ trong
nước đưa đi khai-hóa những đất phì-nhiêu bỏ hoang, làm thành ra Nam-Việt bây giờ
phồn-phú hơn cả mọi nơi, ấy là cái công họ Nguyễn với nước Nam thật là to lắm
vậy.
CHƯƠNG VII
Người Âu-châu sang nước Nam
I. SỰ ĐI TÌM ĐẤT
1. Người Âu-châu sang Á-đông
2. Người Âu-châu sang đất Việt-nam
II. SỰ ĐI TRUYỀN GIÁO
1. Đạo Thiên-chúa
2. Đạo Thiên-chúa sang nước Việt-nam
Nguyên người Âu-la-ba đi du-lịch
thiên-hạ là vì có hai cớ: một là đi ìm đất để buôn-bán, hai là để truyền-bá
tông-giáo Thiên-chúa ở các nước.
1. Sự đi tìm đất.
Người Âu-châu sang Á đông - Từ đời
La- mã, đã có sách chép người Âu-châu sang đến nước Tàu, nhưng không rõ cách
giao-thiệp ra làm sao; đến thập-tam thế-kỷ mới có ông Marco Polo, người nước
I-ta-li sang ở triều nhà Nguyên về đời vua Thế-tổ Tất Liệt hằng 17 năm, rồi sau
đi qua Ấn-độ-dương về nước, làm ra quyển sách: "Thế-giới kỳ-quan"
(Les merveilles du monde), kể những chuyện ông ấy đã biết.
Về sau vào thập-ngũ thế-kỷ, ông Kha
Luân Bố (Christophe Colomb) dùng địa-bàn chỉ nam (boussole) định đi qua Đại-tây
dương sang Ấn độ, rồi tìm thấy châu A-mỹ-lị-gia (Amérique); đến năm 1479, người
Bồ đào-nha (Portugal) tên là Vasco de Gama đi vòng qua Hảo-vọng-giác (Cap de
Bonne Espérance) sang Ấn-độ-dương vào đất Ấn độ. Năm 1521 lại có người Bồ
đào-nha tên là Magellan đi qua Ấn độ dương sang Thái-bình-dương vào đất
Phi-luật-tân (Philippines).
Từ đó về sau người Bồ đào-nha
(Portugal) mới sang Tây-ban-nha (Espagne) và người Hòa-lan (Hollande) mới sang
Á đông lấy đất thuộc địa và mở cửa hàng buôn-bán như sau này:
Năm quí-hợi (1563) về đời Gia-tĩnh
nhà Minh, người Bồ-đào-nha đến ở đất Áo-môn (Macao) nước Tàu.
Năm mậu-thìn (1568) người
Tây-ban-nha sang lấy đất Phi-luật-tân làm thuộc địa.
Năm bính-thân (1596) người Hòa-lan
sang lấy đất Trà-và (Java) làm thuộc địa. Về sau dần dần người Bồ-đào-nha,
người Pháp-lan-tây (France) và người Anh-cát-lợi (Angleterre) đến ở đất Ấn độ.
Người Âu-châu sang đất Việt-nam.
Người Âu-châu sang buôn-bán ở nước ta, thì có người Bồ-đào-nha đến ở xứ Nam
trước hết cả, mở cửa hàng ở phố Hội-an (tức là Faifo) thuộc đất Quảng-nam. Ở
đấy lại có người Tàu, người Nhật-bản và người Hòa-lan đến buôn-bán nhiều lắm.
Sách của ông Maybon và Russier có chép rằng năm giáp dần (1614) đời chúa Sãi đã
có người Bồ-đào-nha tên là Jean de la Croix đến lập lò đúc súng ở đất Thuận-
hóa, mà bây giờ ở Huế người ta còn gọi chỗ ấy là Phường đúc.
Ở ngoài Bắc thì trước đã có tàu của
người Bồ-đào-nha ra vào buôn-bán, nhưng mãi đến năm đinh-sửu (1637) đời vua
Thần-tông nhà Lê, Thanh đô- vương Trịnh Tráng mới cho người Hòa-lan đến mở cửa
hàng ở Phố-Hiến (gần chỗ tỉnh-lỵ Hưng-yên bấy giờ). Về sau ở đấy có người
Nhật-bản, người Tàu, người Tiêm-la đến buôn-bán kể có 2.000 nóc nhà, làm thành
ra chỗ vui-vẻ lắm, cho nên tục-ngữ bấy giờ có câu rằng:
" Thứ nhất Kinh-kỳ, thứ nhì
Phố-hiến "
Lúc bấy giờ người Bồ-đào-nha sang
buôn-bán ở trong Nam nhiều hơn, mà ở ngoài Bắc thì có người Hòa-lan nhiều hơn,
nhưng thủa ấy người hai nước ấy hay tranh-cạnh với nhau, bởi thế chúa Trịnh và
chúa Nguyễn đều có ý muốn nhân cớ ấy mà nhờ họ giúp mình. Song vì lợi buôn-bán
cho nên họ không chịu ra mặt giúp hẳn, thành ra lâu ngày các chúa cũng chán và
lại lôi-thôi về việc tông-giáo, cho nên đến năm canh-thìn (1700) đời vua Lê
Hi-tông, người Hòa-lan thôi không vào buôn-bán ở ngoài Bắc nữa.
Đời bấy giờ người Anh-cát-lợi và
người Pháp-lan-tây cũng vào buôn- bán ở nước ta. Năm nhâm-tí (1672) đời vua Lê
Hi-tông, người Anh-cát-lợi đem chiếc tàu Zant vào xin mở cửa hàng buôn-bán,
chúa Trịnh cho xuống ở Phố-hiến, nhưng vì sau sự buôn-bán không được thịnh-lợi,
người Anh-cát-lợi chỉ ở đến năm đinh-sửu (1697) rồi thôi.
Còn người Pháp-lan-tây thì từ năm
canh-thân (1680) đã có tàu vào xin mở cửa hàng ở Phố-hiến; đến năm nhâm-tuất
(1682) lại có chiếc tàu Saint Joseph ở Tiêm-la sang đem phẩm-vật dâng chúa
Trịnh.
Ở trong Nam thì năm bính-dần (1686)
có người Pháp tên là Verret được phép mở cửa hàng ở cù-lao Côn-lôn. Đến năm
kỷ-tị (1749) lại có một người Pháp tên là Poivre đi chiếc tàu Machault vào cửa
Hội-an, xin vào yết- kiến chúa Nguyễn và dâng tờ quốc-thư cùng phẩm-vật để tỏ
tình giao hiếu của hai nước. Chúa Nguyễn cũng đáp thư lại, thuận cho người Pháp
vào thông-thương. Nhưng chẳng được bao lâu thì công-ty của Pháp ở Ấn độ bãi đi,
cho nên sự thông thương với người Pháp cũng bãi.
2.
Sự đi truyền giáo.
Đạo Thiên-chúa. Nguyên khi xưa toàn
xứ Âu-la-ba không có nhất định một tông-giáo nào cả. Mỗi dân-tộc thờ một vị
thần riêng của mình. Thường hay lấy cái lực hoạt động của tạo-hóa mà
tưởng-tượng ra các vị thần, rồi làm đền, làm đài, để thờ cúng. Như dân- tộc
Hi-lạp (Grec) và dân-tộc La-mã (Romain) thờ thần Giu-bi-te (Jupiter), thần
A-bô-lông (Apollon) và các vị thần khác vậy. Duy có dân-tộc Do-thái (Juifs) ở
đất Tiểu Á-tế-á, nay là đất Palestine đã được độc-lập, chỉ thờ một vị thần gọi
là Jéhovah sinh-hóa vạn vật và người; cho nên người chỉ phải thờ một vị thần ấy
mà thôi. Đến đời dân La-mã đã kiêm-tính được cả đất Tiểu Á-tế-á, đất bắc
A-phi-lị-gia và đất tây-nam Âu-la-ba, dân Do-thái cũng thuộc về La-mã, mà đạo
Do-thái bấy giờ cũng đã suy lắm rồi. Lúc ấy đức Gia-tô ra đời, nhân đạo Do-thái
mà lập ra đạo mới 113
dạy người lấy sự yêu-mến và tôn-kính
Thiên-chúa làm gốc, lấy bụng từ-bi nhân thứ, coi người như anh em ruột thịt làm
cốt. Từ đó về sau các môn đồ đem đạo ấy đi truyền-bá các nơi. Ông Saint Pierre
thì sang lập giáo đường ở tại Kinh-thành La-mã, ông Saint Paul thì đi truyền
đạo ở khắp trong nước.
Lúc đầu đạo Thiên-chúa bị nhiều phen
vua La-mã nghiêm-cấm, dùng cực hình mà giết hại các giáo-sĩ và những người theo
đạo mới, nhưng dẫu nguy-nan thế nào mặc lòng, các môn đồ cứ một niềm đi truyền
đạo khắp bốn phương. Mãi đến đầu đệ-tứ thế-kỷ (313) vua La-mã là Constantin mới
cho giảng đạo Thiên-chúa ở mọi nơi trong nước. Từ bấy giờ trở đi đạo Thiên-chúa
ở mọi nơi trong nước. Từ bấy giờ trở đi đạo Thiên-chúa một ngày một thịnh, lập
Giáo-hoàng để thống-nhất việc giáo, đặt Giám-mục để coi việc giáo ở các nơi,
lại sai giáo-sĩ đi truyền đạo khắp trong thiên-hạ: hễ ở đâu có người là có
giáo-sĩ đến dạy đạo. Bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà toàn Âu đều theo đạo
Thiên-chúa cả.
113
Đạo của ông Gia Tô lập ra cho nên ta
thường gọi là đạo Gia Tô, lại vì đạo ấy chỉ thờ Thiên Chúa mà thôi, cho nên lại
gọi là đạo Thiên Chúa. Có phái gọi là Cơ đốc bởi chữ Christ là bậc cứu thế.
Bên Á đông ta thì từ đời nhà Đường
(618-907) sử chép có Cảnh- giáo 114
tức là một phái Gia-tô-giáo đã sang
Tàu, nhưng vì bấy giờ đạo Phật đang thịnh, cho nên đạo Cảnh-giáo mất dần đi.
Mãi đến đời nhà Nguyên, nhà Minh mới thật có giáo-sĩ sang giảng đạo Gia-tô ở
nước Tàu.
Đạo Thiên-chúa sang nước Nam. Ở nước
Nam ta từ khi đã có người Âu-la-ba sang buôn bán, thì tất là có giáo-sĩ sang
dạy đạo. Cứ theo sách Khâm định Việt-sử, thì từ năm Nguyên-hòa nguyên-niên đời
vua Trang-tông nhà Lê (1533) có người Tây tên là I-nê-khu đi đường bể vào giảng
đạo Thiên-chúa ở làng Ninh-cường, làng Quần-anh, thuộc huyện Nam-chân (tức là
Nam-trực) và ở làng Trà-lũ, thuộc huyện Giao-thủy.
Sách Nam-sử của Trương vĩnh Ký chép
rằng năm bính-thân (1596) đời ông Nguyễn Hoàng có người giáo-sĩ Tây-ban-nha tên
là Diego Adverte vào giảng đạo ở trong Nam trước hết cả. Nhưng lúc bấy giờ lại
có mấy chiếc tàu Tây-ban-nha cùng đến, chúa Nguyễn sợ có ý quấy-nhiễu gì chăng,
bèn đuổi đi.
Đến năm ất-mão (1615) đời chúa Sãi,
giáo-sĩ là P. Busomi lại đến giảng đạo, rồi đến năm giáp-tí (1624) có giáo-sĩ
tên là Jean Rhodes, người Pháp-lan-tây, đến giảng đạo ở Phú-xuân và lập ra các
giáo đường. Năm bính-dần (1626) đời vua Lê Thần-tông, giáo-sĩ là Baldinoti vào
giảng đạo ở ngoài Bắc, bị chúa Trịnh không cho, phải bỏ đi. Được ít lâu ông
Jean Rhodes ở trong Nam ra Bắc vào yết-kiến chúa Trịnh và đem dâng các đồng- hồ
quả lắc, chúa Trịnh cho ông Jean Rhodes được giảng đạo tại Kinh đô.
Từ đó về sau các giáo-sĩ cứ dần dần
vào nước dạy đạo, mà người mình càng ngày càng theo đạo cũng nhiều. Nhưng vì
nước ta tự xưa đến nay vẫn theo Nho-giáo, lấy sự thờ-cúng ông cha làm trọng,
lấy sự tế-tự thần-thánh làm phải, mà lệ nước thì lấy sự cúng-tế làm một việc
rất quan- trọng. Đột nhiên thấy nhiều người mình theo đạo Thiên-chúa, bỏ cả các
thói cũ, chỉ chuyên về một mặt theo đạo mới, bởi vậy cho nên trong Nam ngoài
Bắc, vua chúa đều cho đạo ấy là một tả đạo, làm hủy-hoại cả cái phong-hóa của
nước nhà xưa nay, bèn xuống chỉ cấm không cho người trong nước theo đạo mới
nữa, và đặt ra phép nghiêm để bắt tội những kẻ không tuân theo chỉ đụ ấy.
Cứ theo trong sử thì năm tân-vị
(1631) ở trong Nam, chúa Thượng là Nguyễn-phúc Lan cấm không cho người Tây vào
giảng đạo ở trong nước.
114
Cảnh giáo là một phái đạo Gia Tô của
người chủ giáo tên là Nestorius lập ra từ đệ ngũ thế kỷ ở Đông La Mã, rồi
truyền sang nước Ba Tư (Perse) và nước Tàu.
Năm quí-mão (1663) ở ngoài Bắc, chúa
Trịnh là Trịnh Tạc bắt đuổi các giáo-sĩ và cấm không cho người mình theo đạo
Gia-tô.
Năm giáp-thìn (1644) chúa Hiền ở
miền Nam bắt giết những người đi giảng đạo ở Đà-nẵng.
Năm bính-tí (1696) đời vua Lê
Hi-tông, Trịnh Căn bắt đốt phá hết cả những sách đạo và nhà đạo ở các nơi và
đuổi những người giảng đạo ra ngoài nước.
Năm nhâm-thìn (1712) đời vua Lê
Dụ-tông, Trịnh Cương bắt những người theo đạo Gia-tô phải cạo trán và khắc vào
mặt bốn chữ "học Hoa-lan đạo" 115 .
Năm giáp-tuất (1754) đời Cảnh-hưng,
Trịnh Doanh lại nghiêm-cấm một cách rất ngặt, không cho người ta đi theo đạo,
và lại giết cả các đạo- trưởng và đạo đồ.
Từ đó về sau việc cấm đạo một ngày
một nghiêm, mà người đi giảng đạo cũng không lấy luật nước làm sợ, cứ cố sức dụ
cho được nhiều người theo đạo. Rồi dần dần người trong nước phân ra bên lương
bên giáo, ghen-ghét nhau hơn người cừu địch. Vua quan thì thấy dùng phép thường
không cấm được, mới dùng đến cực hình để mà trừng-trị, giết hại bao nhiêu người
vô tội.
Tóm lại mà xét, thì giả sử người
ngoại quốc vào nước ta mà chỉ có việc buôn bán mà thôi, thì chắc rằng nước ta
xưa nay vốn là một nước văn hiến, vua quan ta cũng không có lẽ gì mà ngăn-cấm;
nhưng bởi vì khi đã quan-hệ đến việc sùng-tín, thì dù hay dở thế nào mặc lòng,
người ta ai cũng cho sự sùng-tín của mình là phải hơn, thành ra không ai khoan
dung cho ai, rồi cứ phải dùng thế-lực để mà đè-nén nhau. Cũng vì thế cho nên về
sau nước ta không chịu suy-xét lẽ phải-trái cho kỹ-càng, làm lắm sự tàn-ác để
đến nỗi mất cả sự hòa-hiếu với các nước ở Tây dương và gây nên cái mối
biến-loạn cho nước nhà vậy.
115
Hoa Lan tức là Hòa Lan (Hollande).
Người Hòa Lan sang buôn bán ở ngoài Bắc trước hết cả cho nên mới gọi là đạo Hòa
Lan. Vả lúc bấy giờ người Việt Nam ta không phân biệt được những nước nào, hễ
thấy người Tây thì thường cứ gọi là Hòa Lan CHƯƠNG VIII
Vận Trung Suy của Chúa Nguyễn
1. Trương Phúc Loan chuyên quyền 2.
Tây Sơn dấy binh 3. Quân họ Trịnh vào lấy Phú Xuân 4. Chúa Nguyễn vào Gia Định
5. Nguyễn Vương khởi binh đánh Tây Sơn 6. Nguyễn Vương định cầu viện nước Pháp Lan
Tây 7. Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La
1. Trương Phúc Loan chuyên quyền.
Từ ông Nguyễn Hoàng trở đi, họ
Nguyễn làm chúa trong Nam: phía bắc chống nhau với họ Trịnh, phía nam đánh lấy
đất Chiêm thành và đất Chân Lạp, truyền đến đời Vũ Vương là Nguyễn Phúc Khoát
mới xưng vương hiệu. Vũ Vương định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, và
phong cho người con thứ 9 là Nguyễn Phúc Hiệu làm thế tử.
Năm ất dậu (1765) Vũ Vương mất. Bấy
giờ thế tử đã mất rồi, con thế tử là Nguyễn Phúc Dương hãy còn nhỏ, mà người con
trưởng của Vũ Vương cũng mất rồi. Tờ di chiếu để lại định lập người con thứ hai
lên nối nghiệp chúa 116 . Nhưng khi ấy người quyền thần là Trương Phúc Loan, ý
muốn chuyên quyền làm bậy, bèn đổi tờ di chiếu đi mà lập người con thứ 16 của
Vũ Vương, mới có 12 tuổi, lên làm chúa, gọi là Định Vương.
Trương Phúc Loan là người tham lam,
làm nhiều điều tàn ác, trong nước ai ai cũng oán giận, bởi thế cho nên, ở phía
nam thì có Tây Sơn dấy binh đánh phá tại đất Qui Nhơn; ở mặt bắc thì có quân họ
Trịnh vào lấy đất Phú Xuân, làm cho cơ nghiệp họ Nguyễn xiêu đổ vậy.
116
Tức là hoàng khảo vua Thế Tổ, sau
truy tôn là Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế. 2. Tây Sơn Dấy Binh.
Lúc bấy giờ ở huyện Phù Ly (nay đổi
là Phù Cát) đất Quy Nhơn, có người tên là Nguyễn Nhạc khởi binh phản đối với
chúa Nguyễn.
Nguyên ông tổ bốn đời của Nguyễn
Nhạc là họ Hồ cùng một tổ với Hồ Quý Ly ngày trước, người ở huyện Hưng Nguyên,
đất Nghệ An, gặp lúc chúa Trịnh, chúa Nguyễn đánh nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây
Sơn 117
thuộc đất Quy Nhơn. Đến đời ông thân
sinh là Hồ Phi Phúc dời nhà sang ở ấp Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện
Tuy Viễn, sinh được 3 người con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ.
Anh em ông Nhạc muốn khởi loạn, mới
lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ thu phục nhân tâm, vì rằng đất trong Nam
vẫn là đất của chúa Nguyễn.
Nguyễn Nhạc trước làm biện lại ở Vân
Đồn, cho nên sau người ta thường gọi là biện Nhạc. Nhưng vì tính hay đánh bạc,
tiêu mất cả tiền thuế, sợ phải tội, bỏ đi vào rừng làm giặc. Đến năm tân mão
(1771) mới lập đồn trại ở đất Tây Sơn, chiêu nạp quân sĩ, người theo về càng
ngày càng đông. Thường hay lấy của nhà giàu cho nhà nghèo, cho nên những kẻ
nghèo khổ theo phục rất nhiều.
Thế Nguyễn Nhạc mỗi ngày một mạnh,
quân nhà chúa đánh không được. Vả lại Nhạc là một người có can đảm và lắm cơ
trí; một hôm định vào lấy thành Qui Nhơn, bèn lập mưu, ngồi vào trong cái cũi,
cho người khiêng vào nộp quan Tuần Phủ ở đấy là Nguyễn Khắc Tuyên. Nguyễn Khắc
Tuyên tưởng là thật, cho đưa vào trong thành. Đến nửa đêm, Nhạc phá cũ ra, mở cửa
thành cho quân mình vào đánh đuổi quan quân đi, giữ lấy thành Qui Nhơn làm chỗ
căn bản. Bấy giờ lại có mấy người khách buôn tên là Tập Đình và Lý Tài cũng mộ
quân nổi lên theo giúp Tây Sơn. Nguyễn Nhạc chia quân ra làm 5 đồn là: trung,
tiền, hậu, tả, hữu, rồi tiến lên đánh lấy đất Quảng Nam. Chẳng bao lâu từ đất
Quảng Nghĩa bây giờ vao cho đến Bình Thuận đều thuộc về Tây Sơn cả.
3. Quân Họ Trịnh vào lấy Phú Xuân.
Đang khi trong Nam có quyền thần
chuyên chính ở trong, Tây Sơn đánh phá ở ngoài, ở ngoài Bắc chúa Trịnh là Trịnh
Sâm biết tình trạng như vậy, bèn sai đại tướng là Hoàng Ngũ Phúc đem thủy bộ
hơn 3 vạn quân cùng với Hoàng Phùng Cơ, Hoàng
117
Ấp Tây Sơn nay là đất thôn An Khà và
thôn Cửu An thuộc phủ Hoài Nhân. Vì anh em Nguyễn Nhạc khởi nghiệp ở chỗ ấy,
nên mới gọi là Tây Sơn. Đình Thể, Hoàng Đình Bảo vào đất Bố Chính để đánh họ
Nguyễn, giả nói là vào đánh Trương Phúc Loan.
Đến tháng 10 năm giáp ngọ (1774)
quân Hoàng Ngũ Phúc sang sông Linh Giang, sai Hoàng Đình Thể đem binh đến đánh
lấy lũy Trấn Ninh, nhờ có nội ứng, cho nên không đánh mà lấy được lũy. Trịnh
Sâm được tin Hoàng Ngũ Phúc đã phá được thành Trấn Ninh rồi, bèn quyết kế đem
đại binh đi vào tiếp ứng. Đến tháng chạp thì quân của Ngũ Phúc tiến lên đóng ở
làng Hồ Xá (thuộc huyện Minh Linh, Quảng Trị) rồi truyền hịch đi nói rằng quân
Bắc chỉ vào đánh Trương Phúc Loan mà thôi, chứ không có ý gì khác cả. Các quan
ở Phú Xuân bèn mưu bắt Phúc Loan đem nộp.
Hoàng Ngũ Phúc bắt được Trương Phúc
Loan rồi, lại tiến binh đến huyện Đăng Xương, sai người đưa thư đến Phú Xuân
nói rằng Phúc Loan tuy đã trừ, nhưng mà Tây Sơn hãy còn, vậy xin đem binh đến
hội tại Phú Xuân để cùng đi đánh giặc.
Chúa Nguyễn biết mưu Hoàng Ngũ Phúc
chực đánh lừa để lấy kinh thành, bèn sai Tôn Thất Tiệp cùng với quan Chưởng cơ
là Nguyễn Văn Chinh đem thủy bộ quân ra án ngữ ở sông Bái Đáp Giang (nay gọi là
Phu lệ ở huyện Quảng Điền). Hoàng Ngũ Phúc sai Hoàng Đình Thể đem binh đi lên
đường núi rồi tiến binh hai mặt đánh ập lại, quân họ Nguyễn vỡ tan bỏ chạy cả,
quân Bắc tiến lên lấy thành Phú Xuân, chúa Nguyễn và các quan chạy vào Quảng
Nam.
Bấy giờ Trịnh Sâm đóng ở Hà Trung,
được tin Hoàng Ngũ Phúc đã lấy được Phú Xuân rồi, mừng lắm, sai quan đưa cho
Ngũ Phúc 100 lạng vàng, và cho các tướng sĩ 5000 lạng bạc, lại phong cho Ngũ
Phúc làm Đại Trấn Phủ, đất Thuận Hóa để lo việc lấy đất Quảng Nam. Đoạn rồi
Trịnh Sâm rút quân về Bắc.
4. Chúa Nguyễn vào Gia Định.
Chúa Nguyễn vào đến Quảng Nam đóng ở
Bến Vân, lập cháu là Nguyễn Phúc Dương lên làm đông cung, để lo việc đánh giặc.
Được mấy tháng quân Tây Sơn ở Quy Nhơn kéo ra đánh lấy Quảng Nam, quân Chúa
Nguyễn đánh không nổi, thua chạy về đóng ở Trà Sơn.
Chúa Nguyễn liệu chừng không chống
giữ được, bèn cùng người cháu là ông Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào Gia
Định, để Đông Cung ở lại Quảng Nam chống giữ với giặc. Đông cung đóng đồn ở
làng Câu Để (thuộc huyện Hòa Vinh).
Nguyễn Nhạc biết Đông cung yếu thế,
và lại muốn lấy tiếng để mà sai chúng, bèn sai người đi rước Đông cung về đóng
ở phố Hội An (Faifo, thuộc Quảng Nam).
Ngay lúc ấy quân của Hoàng Ngũ Phúc
đã qua Hải Vân Sơn vào lấy đồn Trung Sơn và đồn Câu Để ở huyện Hòa Vinh, Nguyễn
Nhạc sai người khác là Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân, tự mình
làm hậu tập ra đánh nhau với quân họ Trịnh ở làng Cẩm Sa (thuộc Hòa Vinh). Quân
của Tập Đình đều là người khách Quảng Đông và những người mọi to lớn, ai nấy
cởi trần ra đội khăn đỏ cầm phang, đeo khiên, đánh thật là hung mạnh. Quân tiền
đội của Ngũ Phúc đương không nội, Ngũ Phúc mới sai Hoàng Đình Thể và Hoàng
Phùng Cơ đem kỵ binh vào xông trận, rồi bộ binh đánh tràn vào. Tập Đình thua
chạy. Nguyễn Nhạc và Lý Tài phải lùi về giữ bến Bản rồi đưa Đông Cung về Quy
Nhơn. Tập Đình vốn là người bạo ngược, Nguyễn Nhạc muốn nhân dịp thua trận bắt
giết đi. Tập Đình biết ý bỏ chạy về Quảng Đông bị quan nhà Thanh bắt được đem
chém.
Lúc bấy giờ ở phía nam có quan Lưu
thủ đất Long Hồ là Tống Phúc Hợp đem quân đánh lấy lại được ba phủ là Bình
Thuận, Diên Khánh và Bình Khánh, rồi lại tiến binh ra đánh đất Phú Yên; ở phía
bắc thì có quân họ Trịnh đóng ở Quảng Nam, Nguyễn Nhạc liệu thế chống không
nổi, bèn sai Phan Văn Tuế đem thư và vàng lụa ra nói với Hoàng Ngũ Phúc xin nộp
đất Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Phú Yên và xin làm tiền khu đi đánh họ Nguyễn.
Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn dùng Nguyễn
Nhạc để đánh đất Gia Định, bèn làm biểu xin chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc làm tiên
phong tướng quân, Tây Sơn Hiệu trưởng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem cờ và ấn kiếm
vào cho Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Nhạc không lo mặt bắc nữa,
bèn lập mưu để đánh lấy đất Nam, đem con gái mình là Thọ Hương dâng cho Đông
Cung và khoảng đãi một cách rất tôn kính, rồi sai người giả đến nói với Tống
Phúc Hợp xin về hàng để lo sự khôi phục lại đất Phú Xuân. Tống Phúc Hợp cho sứ
đến xem hư thực, Nguyễn Nhạc đưa Đông Cung ra tiếp, rồi viết thư cho sứ đưa về
nói lấy nghĩa phù lập Đông Cung, điện an xã tắc, Tống Phúc Hợp tin là thực
tình, không phòng bị gì nữa.
Nguyễn Nhạc biết rõ tình hình, sai
em là Nguyễn Huệ đem quân đến đánh Tống Phúc Hợp. Quân họ Nguyễn thua to bỏ
chạy về giữ Vân Phong. Nguyễn Nhạc cho người đưa tin thắng trận ra cho Hoàng
Ngũ Phúc biết. Ngũ Phúc xin chúa Trịnh phong cho Nguyễn Huệ làm Tây Sơn Hiệu
Tiên Phong Tướng Quân.
Quân Hoàng Ngũ Phúc đóng ở Châu Ổ,
giáp đất Quảng Nghĩa, đến tháng chạp năm ấy là năm ất tị (1775) bị dịch chết
mất nhiều. Ngũ Phúc viết thư ra xin chúa Trịnh cho rút về giữ Thuận Hóa. Trịnh
Sâm thuận cho. Hoàng Ngũ Phúc về đến Phú Xuân thì mất, chúa Trịnh sai Bùi Thế
Đạt vào thay, và sai Lê Quý Đôn vào làm Tham Thị cùng giữ đất Thuận Hóa.
Đất Thuận Hóa bấy giờ kể từ đất Nam
bố chính trở vào là 2 phủ: Triệu Phong và Quảng Bình 118 , 2 huyện, 8 châu. Số
nhân đinh được 126.857, số ruộng đất rộng được 265.508 mẫu, nhưng mà trừ đất
rừng và các thứ đi, thì còn được 153.181 mẫu phải đóng thuế.
Từ khi quân họ Trịnh lui về Thuận
Hóa rồi, đất Quảng Nam lại thuộc về Tây Sơn. Năm bính thân (1776) Nguyễn Nhạc
sai em là Nguyễn Lữ đem thủy quân vượt bể vào đánh Gia Định, lấy được thành Sài
Côn. Chúa Nguyễn phải chạy về Trấn Biên (tức là Biên Hòa).
Bấy giờ ở Đông Sơn có Đỗ Thành Nhân
khởI binh chống với Tây Sơn lấy lại thành Sài Côn. Nguyễn Lữ lấy thóc gạo rồi
rút quân về Quy Nhơn.
Nguyễn Nhạc thấy thế mình một ngày
một mạnh, bèn sai sửa lại thành Đồ Bàn (là kinh thành cũ của Chiêm Thành ngày
trước) rồi đến tháng ba năm bính thân (1776) tự xưng làm Tây Sơn Vương và phong
chức tước cho mọi người. Bấy giờ Tây Sơn đem Đông Cung ra ở chùa Thập Tháp.
Đông Cung bèn trốn xuống thuyền chạy về Gia Định.
Người khách Lý Tài trước đã bỏ
Nguyễn Nhạc theo giúp chúa Nguyễn, rồi sau lại phản lại, đánh chúa Nguyễn, nay
nghe Đông cung trốn về, lại đem binh rước về Sài Côn lập lên làm Tân Chính
Vương, tôn Định Vương làm Thái Thượng Vương để cùng lo sự khôi phục.
Năm đinh dâu (1777) Nguyễn Nhạc sai
người ra xin với chúa Trịnh cho trấn thủ đất Quảng Nam, Trịnh Sâm bấy giờ cũng
chán sự dụng binh, bèn nhân dịp phong cho Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ,
Tuyên Úy đại sứ, Cung Quận Công.
Nguyễn Nhạc được phong rồi, không
phải phòng giữa mặt bắc nữa, bèn sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem thủy bộ quân
vào đánh Gia Định. Lý Tài chống khôngh nổi phải bỏ chạy. Tân Chính Vương chạy
về bến Trà (thuộc Định Tường) rồi lại chạy về Ba vát (thuộc Vĩnh Long), còn
Thái
118
Triệu Phong phủ có 5 huyện; Quảng
Bình phủ có 3 huyện 1 châu. Thượng Vương thì chạy về Long Xuyên. Nhưng chẳng
bao lậu Nguyễn Huệ đem quân đuổi bắt được cả Thái Thượng Vương và Tân Chính
Vương, đem giết đi.
Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ lấy xong đất
Gia Định, để tổng đốc Chu ở lại trấn thủ, rồi đem quân về Quy Nhơn. Qua năm sau
là năm mậu tuất (1778) Nguyễn Nhạc tự xưng đế hiệu, đặt niên hiệu là Thái Đức,
gọi thành Đồ Bàn là Hoàng Đế Thành, phong cho Nguyễn Lữ làm Tiết Chế, Nguyễn
Huệ làm Long Nhương Tướng Quân.
5. Nguyễn Vương Khởi Binh Đánh Tây
Sơn.
Khi Thái Thượng Vương và Tân Chính
Vương bị bắt, thì người cháu Thái Thượng Vương là Nguyễn Phúc Ánh, chạy thoát
được. Đến khi Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, Nguyễn Phúc Ánh lại tụ
tập những tôi tớ cũ, khởi binh từ đất Long Xuyên, tiến lên đến Sa đéc, và cùng
với quan chưởng dinh là Đỗ Thanh Nhân, quan cai đội Lê Văn Câu 119
và các tướng là Nguyễn Văn Hoằng,
Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương về đánh đuổi tổng đốc Chu, lấy lại thành
Sài Côn. Bấy giờ Nguyễn Phúc Ánh mới có 17 tuổi, các tướng đều tôn làm Đại
Nguyên Súy, Nhiếp Quốc Chính.
Được ít lâu vua Tây Sơn lại sai tổng
đốc Chu, tư khấu Uy, và quan hộ giá Phạm Ngạn đem quân thủy vào đánh Trấn Biên
và Phan trấn cùng các miền ở mặt bể. Đỗ Thanh Nhân đem quân Đông Sơn đánh chém
được tư khấu Uy, đuổi được quân Tây Sơn đi, ông Nguyễn Phúc Ánh bèn sai Lê Văn
Quân đem binh ra đánh lấy thành Bình Thuận và thành Diên Khánh.
Từ khi khôi phục được đất Gia Định
rồi, Nguyễn Phúc Ánh sai sứ sang thông với nước Tiêm La, và lại sai Đỗ Thanh
Nhân, Hồ Văn Lân đem binh đi đánh Chân Lạp, lập con Nặc Tôn là Nặc In lên làm
vua để Hồ Văn Lân ở lại bảo hộ. Ở đất Gia Định thì ngài sửa sang mọi việc: đặt
quan cai trị các dinh, định lệ thu thuế để nuôi binh lính, làm chiến thuyền,
tập binh mã để phòng bị việc chiến tranh.
Năm canh tí (1780) Nguyễn Phúc Ánh
xưng vương hiệu rồi phong cho Đỗ Thanh Nhân làm chức Ngoại Hữu, Phụ Chính,
Thượng Tướng Công, và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Nhưng sau vì Đỗ Thanh Nhân
cậy công lộng quyền, cho nên Nguyễn Vương mới giết đi. Cũng vì việc ấy cho nên
Đông Sơn trước đã hết lòng giúp Nguyễn Vương, sau đều bỏ cả, và lại phản lại,
thành ra lôi thôI phải đánh dẹp mãi.
119
Lê Văn Câu là người ở Vĩnh Tường đất
Gia Định, trước theo Châu Văn Tiếp sau làm thuộc tướng Đỗ Thanh Nhân.
Tháng 10 năm tân sửu (1781) vua nước
Tiêm La là Trịnh Quốc Anh sai tướng là Chất Tri (Chakkri) và Sô Si, hai anh em
sang đánh Chân Lạp. Nguyễn Vương sai quan Chưởng cơ là Nguyễn Hữu Thoại và Hồ
Văn Lân đem 3000 quân sang cứu. Trong khi quân Nam và quân Tiêm La còn đang
chống giữ nhau ở Chân Lạp, thì ở Vọng Các vua nước Tiêm La bắt giam cả vợ con của
hai anh em Chất Tri, bởi vậy hai tướng ấy mới giao kết với Nguyễn Hữu Thoại thề
phải cứu nhau trong lúc hoạn nạn. Đoạn rồi Chất Tri đem quân về Tiêm La. Ngay
lúc ấy ở bên nước Tiêm có giặc nổi lên, vua nước ấy bị ngươi Phan Nha Văn Sản
đuổi đi cướp mất ngôi. Chất Trí về đến Vọng Các, sai người đi tìm quốc vương là
Trịnh Quốc Anh đem giết đi, và bắt giết cả Phan Nha Văn Sả, rồi tự lập làm vua,
xưng là Phật Vương, phong cho em là Sô Si làm đệ nhị vương, cháu là Ma Lạc làm
đệ tam vương. Họ Chakkri làm vua đến nay hãy còn, và các vua đều xưng là Rama.
Tháng ba năm nhâm dần (1782) vua Tây
Sơn là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem hơn 100 chiếc thuyền vào cửa Cần Giờ, đánh
nhau với quân Nguyễn Vương ở Thất Kỳ Giang (tức Ngả Bảy). Trận ấy quân Nguyễn
Vương thua to, có người nước Pháp tên là Mạn Hòe (Manuel) làm chủ một chiếc tàu
phải đốt tàu mà chết. Nguyễn Vương phải bỏ thành Sài gòn chạy về đất Tam phụ
(Ba giồng), rồi ra lánh ở đảo Phú Quốc.
Vua Tây Sơn bình xong đất Gia Định,
rút quân về Quy Nhơn, để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập ở lại giữ thành Sài Côn
(tức Sài Gòn).
Khi quân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ
về Quy Nhơn rồi, các tướng nhà Nguyễn lại nổi lên đánh quân Tây Sơn. Bấy giờ có
Châu Văn Tiếp là người ở Quy Nhơn, nhân lúc loạn, tụ chúng giữ núi Trà Lang
(thuộc Phú Yên). Đến khi chúa Nguyễn bỏ Phú Xuân chạy vào Gia Định, Châu Văn
Tiếp đem binh ra giúp. Sau chẳng may chúa Nguyễn thất thế ngộ hại, Nguyễn Vương
lên nối nghiệp. Văn Tiếp theo giúp, được phong làm chức chưởng cơ, đem binh ra
đánh Tây Sơn, bị thua, phải bỏ về giữ Trà Lang. Nay được tin Gia Định lại thất
thủ, Văn Tiếp bèn đem quân từ Phú Yên về hợp với quân các đạo, đánh đuổi quân
Tây Sơn đi, lấy lại được thành Sài Côn rồi cho người ra Phú Quốc đón Nguyễn
Vương về.
Nguyễn Vương về sửa sang mọi việc để
chống giữ với Tây Sơn, nhưng qua năm quý mão (1783) vua Tây Sơn lại sai Nguyễn
Lữ và Nguyễn Huệ đem binh vào đánh. Nguyễn Vương lại phải rước vương mẫu và
cung quyến ra Phú Quốc. Đến tháng 6 năm ấy, Nguyễn Huệ ra đánh Phú Quốc. Nguyễn
Vương chạy về Côn Nôn; quân Tây Sơn lại đem thuyền đến vây Côn Nôn; nhưng may
nhờ có cơn bão đánh đắm cả thuyền của Tây Sơn, cho nên Nguyễn Vương mới ra khỏi
trùng vi, chạy về đảo Cổ Cốt, rồi lại trở về Phú Quốc.
6. Nguyễn Vương Định Cầu Viện Nước
Pháp Lan Tây.
Lúc bấy giờ lương thực hết sạch,
Nguyễn Vương cùng với những người đi theo phải hái rau và tìm củ chuối mà ăn,
thế lực cùng kiệt, thật là nguy nan quá. Nhân vì khi trước Nguyễn Vương có quen
một người nước Pháp làm giám mục đạo Gia Tô, tên là Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau
de Béhaine, évêque d'Adran) khi ấy đang ở đất Chantaboun (thuộc nước Tiêm La),
ngài bèn sai người đến bàn việc. Ông Bá Đa Lộc nói nên sang cầu cứu nước Pháp,
nhưng phải cho Hoàng Tử đi làm tin thì mới được.
Nguyễn Vương theo lời ấy, ben giao
Hoàng Tử Cảnh và cái quốc ấn cho ông Bá Đa Lộc, lại làm tờ quốc thư cho ông ấy
được quyền tự tiện sang thương nghị với chính phủ Pháp để xin viện binh.
Tờ quốc thư ấy có 14 khoản, đại lược
nói nhờ ông Bá Đa Lộc sang xin nước Pháp giúp cho 1500 quân và tàu bè, súng
ống, thuốc đạn, đủ mọi cả thứ. Nguyễn Vương xin nhường cho nước Pháp cửa Hội An
(Faifo), đảo Côn Nôn và để riêng cho người nước Pháp được đặc quyền vào buôn
bán ở nước Nam 120 .
Nguyễn Vương lại làm một cái thư
riêng để dâng cho vua nước Pháp, và sai quan phó vệ úy là Phạm Văn Nhân, quan
cai cơ là Nguyễn Văn Liêm theo hộ vệ Hoàng Tử Cảnh bấy giờ mới có 4 tuổi.
Mọi sự đã xếp đặt cả rồi, nhưng vì
còn trái mùa gió cho nên ông Bá Đa Lộc chưa khởi hành được. Nguyễn Vương tuy đã
nghe lời ông Bá Đa Lộc định sang cầu cứu nước Pháp, nhưng trong bụng chưa quyết
hẳn, còn có ý muốn nhờ nước Tiêm La.
Nguyên lúc đánh thua ở Sài Côn, Châu
Văn Tiếp chạy sang Tiêm La cầu cứu. Đến tháng 2 năm giáp thìn (1784) vua Tiêm
La sai tướng là Chất Si Đa đem thủy quân sang Hà Tiên, tìm Nguyễn Vương để mời
sang bàn việc. Nguyễn Vương lại tiếp được mật biểu của Châu Văn Tiếp, cho nên
mới đến hội với tướng nước Tiêm, rồi cùng sang Vọng Các xin binh cứu viện.
Tiêm Vương tiếp đãi Nguyễn Vương rất
hậu, và sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem hai vạn quân cùng 300
chiếc thuyền sang
120
Tờ quốc thư này và cái thư của
Nguyễn Vương viết cho vua nước Pháp nay hãy còn ở Ngoại Giao Bộ tại Paris. giúp
Nguyễn Vương. Quân Tiêm La sang lấy được Rạch Giá, Ba thắc, Trà Ôn, Mân thít,
Sa đéc. Khi đánh ở Mân thít, Châu Văn Tiếp bị thương nặng mà mất. Từ đó quân
Tiêm ỷ thế đi đến đâu quấy nhiễu dân sự, làm nhiều điều tàn ác, cho nên lòng
người oán hận lắm.
7. Nguyễn Huệ Phá Quân Tiêm La.
Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là
Trương Văn Đa, thấy quân Tiêm La sang đánh phá, thế lực mạnh lắm, bèn sai người
về Quy Nhơn phi báo. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.
Nguyễn Huệ vào đến Gia Định nhử quân
Tiêm La đến gần Rạch Gầm và Xoài mút ở phía trên Mỹ Tho, rồi đánh phá một trận,
giết quân Tiêm chỉ còn được vài nghìn người, chạy theo đường thượng đạo trốn về
nước. Nguyễn Huệ phá được quân Tiêm La rồi, đem binh đuổi đánh Nguyễn Vương.
Nguyễn Vương bấy giờ hết cả lương thực, cùng với mấy người chạy về Trấn Giang,
ra đảo Thổ Châu, đảo Cổ Cốt, rồi sang Tiêm La.
Đánh dẹp xong, Nguyễn Huệ đem quân
về Quy Nhơn để đô đốc là Đặng Văn Chân ở lại trấn đất Gia Định.
Nguyễn Vương biết thế không mong cậy
được người Tiêm La, bèn giục ông Bá Đa Lộc đem Hoàng tử đi sang nước Pháp cầu
viện. Ông Bá Đa Lộc đi rồi, Nguyễn Vương rước vương mẫu và cung quyến sang trú
ở Vọng Các để chờ có cơ hội lại về khôi phục.
CHƯƠNG IX
Họ Trịnh Mất Nghiệp Chúa
1. Chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ 2.
Kiêu binh 3. Tây Sơn lấy Thuận Hóa 4. Tây Sơn dứt họ Trịnh
1. Chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ.
Từ khi quân chúa Trịnh lấy được đất
Thanh Hóa rồi, Trịnh Sâm đắc chí, càng thêm kiêu hãnh, lại có ý muốn cướp ngôi
nhà Lê, bèn sai quan Thị Lang là Vũ Trần Thiệu sang nhà Thanh dâng biểu nói
rằng con cháu họ Lê không có ai đáng làm vua nữa, và lại sai quan nội giám đi
với Vũ Trần Thiệu đem tiền cũa sang đút lót mà xin phong làm vua. Nhưng sang
đến Động Đình Hồ, thì Vũ Trần Thiệu đem tờ biểu đốt đi, rồi uống thuốc độc mà
chết, bởi vậy việc cầu phong lại bỏ, không nói đến.
Sau Trịnh Sâm say đắm nàng Đặng Thị
Huệ, bỏ con trưởng là Trịnh Khải mà lập người con của Đặng Thị là Trịnh Cán làm
thế tử. Từ đó người thì theo Đặng Thị, người thì phò Trịnh Khải, trong phủ chúa
chia ra bè đảng.
Tháng chín năm nhâm dần (1782) Trịnh
Sâm mất để di chiếu lập Trịnh Cán làm chúa và Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo làm
phụ chính. Trịnh Cán còn ít tuổi mà lại lắm bệnh, không mấy người chịu phục,
bởi vậy cho nên thành sự biến loạn.
2. Kiêu Binh.
Nguyên từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê
Trung Hưng về sau, đất Kinh Kỳ chỉ dùng lính Thanh, lính Nghệ gọi là ưu binh để
làm quan túc vệ.
Những lính ấy thường hay cậy công
làm nhiều điều trái phép. Năm giáp dần (1674) đời Trịnh Tạc, lính tam phủ tức
là lính Thanh, lính Nghệ đã giết quan Tham Tụng Nguyễn Quốc Trinh và phá nhà
Phạm Công Trứ. Năm tân dậu (1741) quân ưu binh lại phá nhà và chực giết quan
Tham Tụng Nguyễn Quý Cảnh. Những lúc quân ưu binh làm loạn như vậy, tuy nhà
chúa có bắt những đứa thủ xướng làm tội nhưng chúng đã quen thói, về sau hễ hơi
có điều gì bất bình, thì lại nổi lên làm loạn.
Đến năm nhâm dần (1782) Trịnh Sâm
mất, Đặng Thị và Hoàng Đình Bảo lập Trịnh Cán lên làm chúa. Con trưởng Trịnh
Sâm là Trịnh Khải mưu với quân tam phủ để tranh ngôi chúa. Bấy giờ có tên biện
lại thuộc đội Tiệp bảo tên là Nguyễn Bằng, người Nghệ An, đứng lên làm đầu, vào
phủ chúa đánh ba hồi trống làm hiệu, quân ưu binh kéo đến vây phủ, vào giết
Hoàng Đình Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa.
Trịnh Khải phong quan tước cho
Nguyễn Bằng và trọng thưởng cho quân tam phủ. Từ đó quân ấy một ngày một kiêu,
cứ đi cướp phá các nhà, không ai kiềm chế được. Năm giáp thìn (1784) quân tam
phủ lại phá nhà quan tham tụng Nguyễn Ly, nhà Dương Khuông và giết Nguyễn Triêm
ở trước cửa phủ chúa. Khi bấy giờ Nguyễn Ly chạy thoát được lên Sơn Tây cùng
với em là Nguyễn Điều bàn định rước Trịnh Khải ra ngoài, rồi gọi binh các trấn
về trừ kiêu binh. Nhưng sự lộ ra, quân kiêu binh vào canh giữ phủ chúa, Trịnh
Khải không ra được. Quân ấy lại chia nhau ra giữ các cửa ô. Quân các trấn cũng
sợ chúa bị hại đều phải rút về. Từ đó quân kiêu binh kéo nhau hàng trăm hàng
nghìn đi cướp phá các làng. Hễ có đứa nào đi lẻ loi thì dân làng lại bắt giết
đi, thành ra quân với dân xem nhau như cừu địch, mà các văn thần võ tướng cũng
bó tay mà chịu không làm sao được. Sau có quan tham tụng là Bùi Huy Bích dỗ
dành mãi mới dần dần hơi yên.
Lúc bấy giờ ở trong đang có kiêu
binh làm loạn, ở ngoài Tây Sơn nhân dịp đem quân vào đánh phá, bởi thế cho nên
cơ nghiệp họ Trịnh đổ nát vậy.
3. Tây Sơn Lấy Thuận Hóa.
Nguyên khi trước Hoàng Đình Bảo trấn
thủ đất Nghệ An, có nhiều thủ hạ giỏi, mà trong bọn ấy có một người ở huyện
Chân Lộc, thuộc Nghệ An, tên là Nguyễn Hữu Chỉnh, đỗ hương cống từ lúc 16 tuổi,
tục gọi là cống Chỉnh, tính hào hoa, lắm cơ trí, nhiều can đảm, mà lại có tài
biện bác. Trước theo Hoàng Ngũ Phúc, thường đi đánh giặc bể, giặc sợ lắm, gọi
là chim dữ; sau khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Hữu Chỉnh về theo Hoàng Đình Bảo.
Đến khi kiêu binh đã giết Hoàng Đình
Bảo rồi, có người đem tin Hữu Chỉnh biết, Hữu Chỉnh vào bàn với quan trấn thủ
Nghệ An là Võ Tá Giao để tự lập ở xứ Nghệ, nhưng mà Võ Tá Giao sợ không dám
làm, Hữu Chỉnh bèn bỏ vào với vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc.
Nguyên khi trước Nguyễn Hữu Chỉnh
theo Hoàng Ngũ Phúc vào đánh Quảng Nam thường vẫn đi lại quen Nguyễn Nhạc, cho
nên Nguyễn Nhạc tin dùng, đãi làm thượng tân. Từ đó Nguyễn Hữu Chỉnh bày mưu
định kế xin vua Tây Sơn ra đánh Thuận Hóa và đất Bắc Hà.
Vả, từ khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi,
Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt vào trấn thủ đất Thuận Hóa, sau lại sai Phạm Ngô Cầu
vào thay Bùi Thế Đạt. Phạm Ngô Cầu là người nhu nhược vô mưu, mà lại có tính
tham lam, chỉ lo việc làm giàu, chứ không nghĩ gì đến việc binh. Quan phó đốc
thị là Nguyễn Lệnh Tân đã viết thư về bày tỏ mọi lẽ và xin Trịnh Sâm cho tướng
khác vào thay Phạm Ngô Cầu. Trịnh Sâm không nghe, lại đòi Nguyễn Lệnh Tân về.
Vua Tây Sơn biết đất Thuận Hoá không
phòng bị, bèn sai em là Nguyễn Huệ làm tiết chế, rể là Vũ Văn Nhậm làm tả quân
đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, đem quân thủy bộ ra đánh Thuận
Hóa.
Một hôm Phạm Ngô Cầu thấy một người
khách buôn nói thuật số, đến bảo Ngô Cầu rằng: "Hậu vận tướng công phúc
lộc nhiều lắm, nhưng năm nay có hạn nhỏ có lẽ phải ốm đau, nên lập đàn làm chay
mới được yên lành". Phạm Ngô Cầu nghe lời ấy lập đàn cầu khấn bảy đêm
ngày, bắt quân sĩ phải phục dịch không được nghỉ ngơi chút nào. Chợt nghe tin
quân Tây Sơn đã lấy được đồn Hải Vân, tướng giữ đồn là Hoàng Nghĩa Hồ đã tử
trận, lại thấy báo rằng thủy quân của Tây Sơn đã vào cửa bể, thủy bộ hai mặt
đều kéo đến đánh. Ngô Cầu hốt hoảng, từ ở đàn chạy về dinh, gọi binh tướng để
chống giữ, nhưng quân lính đều mỏi mệt cả, không ai có lòng muốn đánh.
Phạm Ngô Cầu lại có tính đa nghi.
Nguyễn Hữu Chỉnh bèn làm một cái thư đề ngoài gửi cho phó tướng là Hoàng Đình
Thể, rủ về hàng Tây Sơn, rồi giả tảng sai người đưa nhầm sang cho Ngô Cầu. Ngô
Cầu bắt được thư ấy nghi cho Hoàng Đình Thể nhị tâm. Đến khi quân Tây Sơn đến
đánh, Hoàng Đình Thể đem quân bản bộ ra trận đối địch bắn hết thuốc đạn. Ngô
Cầu đóng cửa thành lại không ra tiếp ứng. Hoàng Đình Thể cùng hai con và tì
tướng là Vũ Tá Kiên đều tử trận cả.
Khi quân Tây Sơn kéo đến đánh thành,
Phạm Ngô Cầu kéo cờ trắng mở cửa thành ra hàng. Quân họ Trịnh giữ ở các đồn đều
tan vỡ bỏ chạy. Trong mấy ngày mà đất Thuận hóa ra đến Linh Giang đều thuộc về
Tây Sơn cả. Bấy giờ là tháng năm năm bính ngọ (1786) đời Cảnh hưng năm thứ 47.
4. Tây Sơn Dứt Họ Trịnh.
Nguyễn Huệ lấy được đất Thuận Hóa
rồi, sai người giải Phạm Ngô Cầu về Qui Nhơn định tội phải chém, đoạn rồi
Nguyễn Huệ hội các tướng lại bàn sai người ra sửa sang đồn Đồng Hới, và định
giữ địa giới cũ ở sông La Hà. Nguyễn Hữu Chỉnh nói rằng: "Ông phụng mệnh
ra đánh một trận mà bình được đất Thuận Hóa, uy kinh cả chốn Bắc hà. Phàm cái
phép dùng binh, một là thời hai là thế ba là cơ, có ba điều đó đánh đâu cũng
được. Bây giờ ở đất Bắc Hà tướng thì lười, quân thì kiêu, triều đình không có
kỷ cương gì cả, nếu ông nhân lấy cái uy thanh này, đem binh ra đánh thì làm gì
mà không được. Ông không nên bỏ mất cái cơ, cái thời và cái thế ấy".
Nguyễn Huệ nói rằng: "Ở Bắc Hà có nhiều nhân tài, không nên coi làm
thường". Hữu Chỉnh đáp lại rằng: "Nhân tài Bắc Hà chỉ có một mình
Chỉnh, nay Chỉnh đã bỏ đi, thì nước không có ai nữa, xin ông đừng có ngại
gì!" Nguyễn Huệ cười mà nói rằng: " Ấy! người khác thì không ngại,
chỉ ngại có ông đó thôi!" Hữu Chỉnh thất sắt đi rồi nói rằng: " Tôi
tự biết tài hèn, nhưng mà tôi nói thế là có ý tỏ cho ông biết ngoài Bắc không
có nhân tài đó thôi". Nguyễn Huệu lấy lời nói ngọt để yên lòng Hữu Chỉnh
và bảo rằng: " Nhà Lê làm vua đã mấy trăm năm nay, bây giờ cướp lấy, chưa
chắc lòng người đã theo mình." Hữu Chỉnh nói: "Nay Bắc Hà có vua lại
có chúa, ấy là một sự cổ kim đại biến. Họ Trịnh tiếng rằng phù Lê, thực là hiếp
chế, cả nước không ai phục. Vả xưa nay không ai làm gì để giúp nhà Lê, là chỉ
sợ cái thế mạnh đó mà thôi, nay ông mà, phù Lê diệt Trịnh thì thiên hạ ai chẳng
theo ông." Nguyễn Huệ nói: "Ông nói phải lắm, nhưng ta chỉ phụng mệnh
đi đánh đất Thuận Hóa mà thôi, chứ không phụng mệnh đi đánh Bắc Hà, sợ rồi can
tội kiểu mệnh thì làm thế nào ?" Hữu Chỉnh nói: "Kiểu mệnh là tội
nhỏ, việc ông làm là công to. Vả làm tướng ở ngoài có điều không cần phải theo
mệnh vua, ông lại không biết hay sao?"
Nguyễn Huệ bèn sai Nguyễn Hữu Chỉnh
đem thủy binh đi tiên phong vào cửa Đại An đánh lấy kho lương ở bên sông Vị
Hoàng. Nguyễn Huệ tự đem binh đi sau, ước với Hữu Chỉnh đến sông Vị Hoàng đốt
lửa lên làm hiệu.
Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân đi qua
Nghệ An, Thanh Hóa, quan trấn thủ là Bùi Thế Toại và Tạ Danh Thùy không ai dám
ra cự địch; khi ra đến Vị Hoàng, quan coi đồn ở đấy bỏ chạy. Hữu Chỉnh lấy được
hơn trăm vạn hộc lương, rồi đốt lửa làm hiệu, quân Nguyễn Huệ kéo đến đóng giữ
ở đấy.
Trước kia thành Phú Xuân đã vỡ rồi,
tin báo đến Thăng Long, các quan bàn rằng: xứ ấy vẫn không là đất của triều
đình, bây giờ mất cũng không hại gì. Vì thế, chỉ sai Trịnh Tự Quyền đem 27 cơ
vào giữ đất Nghệ An. Trịnh Tự Quyền thu xếp hơn 10 ngày chưa xong, đến khi đi
được độ 30 dặm thì đã có tin báo Tây Sơn đến đóng ở sông Vị Hoàng rồi. Tự Quyền
bèn đem quân xuống giữ ở mặt Kim Động. Quan trấn thủ Sơn Nam là Bùi Thế Dận đem
bộ binh xuống đóng ở xã Phù Sa, thuộc huyện Đông An. Đinh Tích Nhưỡng đem thủy
quân ra giữ cửa Luộc Bấy giờ gió Đông Nam thổi to, đến đêm Nguyễn Huệ sai lấy
tượng gỗ để lên trên mấy chiếc thuyền rồi đánh trống kéo cờ thả thuyền cho trôi
đi. Đinh Tích Nhưỡng trông thấy tưởng là quân Tây Sơn đến đánh, giàn thuyền ra
trận thành chữ nhất, rồi truyền lấy súng mà bắn. Bắn mãi, sau mới biết người
trên thuyền là tượng gỗ. Lúc quân Tây Sơn tiến lên đánh, thì Đinh Tích Nhưỡng
hết cả thuốc đạn, phải bỏ thuyền mà chạy. Quân của Bùi Thế Dận và Trịnh Tự
Quyền cũng tan cả. Nguyễn Huệ hạ được thành Sơn Nam rồi, rồi một mặt truyền
hịch đi các lộ nói lấy nghĩa phù Lê diệt Trịnh, một mặt kéo quân lên lấy Thăng
Long.
Bấy giờ ở kinh thành thì quân kiêu
binh không sai khiến được, mà quân Tây Sơn thì đã đến nơi rồi. Trịnh Khải mới
cho gọi Hoàng Phùng Cơ, ở Sơn Tây về, đem quân đóng ở hồ Vạn Xuân (xã Vạn Phú,
Thanh Trì) còn thủy binh thì đóng ở bến Tây Long (Thọ Xương) để phòng giữ. Quân
Tây Sơn tiến lên đánh tan thủy quân của nhà Trịnh, Hoàng Phùng Cơ phải bỏ chạy.
Trịnh Khải mặc áo nhung y cầm cờ lên voi thúc quân vào đánh, nhưng thế Tây Sơn
mạnh lắm, đánh không được, Trịnh Khải bỏ chạy lên Sơn Tây. Đi đến làng Hạ Lôi,
huyện Yên Lãng, gặp tên Nguyễn Trang đánh lừa bắt đem nộp cho Tây Sơn. Trịnh
Khải về đến làng Nhất Chiêu lấy gươm cắt cổ tự tận. Bấy giờ là năm bính ngọ
(1786). Nguyễn Huệ cho lấy vương lễ mà tống táng cho chúa Trịnh, rồi vào thành
Thăng Long yết kiến vua Lê.
Họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng lên,
rồi giữ lấy quyền chính, lập ra nghiệp chúa, lưu truyền từ Trịnh Tùng đến Trịnh
Khải được 216 năm (1570- 1786) đến đấy là hết.
CHƯƠNG X
Nhà Hậu Lê Mất Ngôi Vua
1. Tây Sơn rút quân về Nam 2. Nguyễn
Hữu Chỉnh chuyên quyền ở đất Bắc 3. Tây Sơn lấy đất Bắc Hà
1. Tây Sơn Rút Quân Về Nam.
Nguyễn Huệ đã dứt được họ Trịnh rồi,
vào thành Thăng Long, xuống lệnh cấm quân lính không được cướp phá dân gian, và
định ngày xin yết kiến vua Lê ở đền Vạn Thọ.
Bấy giờ vua Hiển Tông đang đau,
không ngồi dậy tiếp được, ngài mời Nguyễn Huệ vào ngồi gần sập ngự, lấy lời ôn
tồn mà phủ dụ. Nguyễn Huệ tâu bày cái lẽ đem binh rà phù Lê diệt Trịnh, chứ
không dám có ý dòm ngó gì. Vua mừng rỡ mà tạ Nguyễn Huệ.
Khi quân Tây Sơn ra đến Thăng Long,
các quan triều thần chạy trốn cả, chỉ còn có mấy người nội giám ở lại hầu hạ
vua. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vậy vào tâu với vua xin xuống chiếu tuyên triệu các
quan về triều; được mấy hôm có độ mươi người lục tục kéo nhau trở về. Vua bèn
định đến ngày mồng 7 tháng 7 lập đại trào ở điện Kính Thiên, Nguyễn Huệ đem các
tướng và lạy và dâng sổ quân sĩ, dân đinh, để tỏ rõ cái nghĩa tôn phù nhất
thống, nghĩa là tự đó về sau nhà Lê có quyền tự chủ.
Vua phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên
Soái Uy Quốc Công, và lại gả cho bà Ngọc Hân Công Chúa là con gái của ngài.
Chẳng bao lâu vua Hiển Tông mất, Hoàng Tôn là Duy Kỳ lên nối ngôi, đặt niên
hiệu là Chiêu Thống.
Nguyên lúc trước vua Tây Sơn là
Nguyễn Nhạc vốn không có ý ra đánh Bắc Hà, đến khi tiếp được thư của Nguyễn Huệ
nói sắp ra đánh ngoài Bắc, Nguyễn Nhạc vội vàng sai người ra Thuận Hóa ngăn
lại. Nhưng khi sứ thần ra đến nơi, thì Nguyễn Huệ đã cử binh đi rồi. Sau lại
tiếp được thư nói rằng quân Tây Sơn đã lấy được Thăng Long rồi, và còn phải ở
lại để giúp nhà Lê. Nguyễn Nhạc sợ em ở lâu ngoài Bắc Hà có sự biến chăng, bèn
đem 500 quân ra Thuận Hóa, rồi lấy thêm 2000 quân, đi không kỳ ngày đêm ra
Thăng Long.
Vua Chiêu Thống được tin vua Tây Sơn
ra Bắc, bèn đem bách quan ra đón ở ngoài Nam Giao. Nhưng Nguyễn Nhạc cứ đi
thẳng, rồi cho người đến nói rằng: xin để ngày khác tiếp kiến. Được mấy hôm
Nguyễn Nhạc mời vua Chiêu Thống sang phủ đường là lễ tương kiến. Nguyễn Nhạc
ngồi giữa, vua Chiêu Thống ngồi bên tả, Nguyễn Huệ ngồi bên hữu, các quan văn
võ đứng hầu hai bên.
Khi vào làm lễ xong rồi, vua Chiêu
Thống xin nhường mấy quận để khao quân. Nguyễn Nhạc nói rằng: "Vì họ Trịnh
hiếp chế, cho nên chúng tôi ra giúp nhà vua; nếu bằng đất nước họ Trịnh thì một
tấc cũng không để lại, nhưng mà của nhà Lê thì một tấc cũng không dám lấy. Xin
mong nhà vua gắng sức làm việc, giữ yên cõi đất, để đời đời giao hiếu với nhau,
ấy là cái phúc của hai nước đấy."
Đoạn rồi vua Chiêu Thống về điện,
hôm sau anh em Tây Sơn bàn rút quân về Nam, và thấy Nguyễn Hữu Chỉnh là người
giảo quyệt, định bỏ lại ở Bắc Hà, bèn mật truyền cho các tướng thu xếp quân
thủy bộ, kho tàng có gì lấy hết, rồi đến nửa đêm ngày 17 tháng 8, kéo quân về
Nam. Sáng hôm sau Nguyễn Hữu Chỉnh biết Tây Sơn về rồi, sợ hãi lắm, hoảng hốt
bỏ cả đồ đạc, chạy xuống chiếc thuyền buôn vào Nghệ An, theo vua Tây Sơn.
Nguyễn Nhạc thấy Hữu Chỉnh lại theo về, không nỡ bỏ, cho ở lại cùng với Nguyễn
Duệ giữ đất Nghệ An.
Bấy giờ quyền bính ở đất Bắc Hà về
cả vua nhà Lê, thật là một cơ hội ít có để lập lại cái nền tự chủ của nhà Lê,
nhưng tiếc vì vua Chiêu Thống không có tài quyết đoán, mà đình thần lúc bấy giờ
không có ai là người biết kinh luân: hễ thấy có giặc thì bỏ chạy, giặc đi rồi
thì kéo nhau ra bàn ngược bàn xuôi, người thì định lập lại nghiệp chúa, kẻ thì
muốn tôn phù nhà vua. Lại có dòng dõi họ Trịnh là Trịnh Lệ và Trịnh Bồng chia đảng
ra đánh nhau để tranh quyền. Vua Chiêu Thống bất đắc dĩ phải phong cho Trịnh
Bồng làm Án Đô Vương, lập lại phủ Chúa. Đảng họ Trịnh lại toan đường hiếp chế
nhà vua, vua Chiêu Thống phải xuống mật chiếu vời Nguyễn Hữu Chỉnh ra giúp.
2. Nguyễn Hữu Chỉnh Chuyên Quyền ở
Đất Bắc.
Nguyễn Hữu Chỉnh từ khi trở về Nghệ
An, chiêu mộ dũng sĩ, ngày đêm luyện tập, nhân có chiếu nhà vua gọi vào, bèn
thu xếp được hơn một vạn quân ra giúp vua Lê. Trịnh Bồng đem quân ra chống giữ,
đánh thua phải bỏ chạy. Hữu Chỉnh vào yết kiến vua Chiêu Thống và chuyên giữ
binh quyền.
Trịnh Bồng có khởi binh mấy lần để
toan sự khôi phục, nhưng không thành co6ng, cho nên cũng chán sự đời bèn bỏ đi
tu, về sau không biết chết ở đâu. Họ Trịnh mất từ đấy.
Nguyễn Hữu Chỉnh đánh đuổi họ Trịnh
đi rồi, vua phong cho chức Đại Tư Đồ Bằng Trung Công. Từ đó Hữu Chỉnh cậy công
khinh người, làm lắm điều trái phép, vua cũng lấy làm lo. Nhưng không biết
trông cậy vào ai, cho nên đành phải chịu vậy.
3. Tây Sơn Lấy Đất Bắc Hà.
Ở trong Nam thì từ khi vua Tây Sơn
là Nguyễn Nhạc về Quy Nhơn rồi, tự xưng làm Trung ương Hoàng Đê, phong cho
Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình
Vương, ở đất Thuận Hóa, lấy Hải Vân Sơn làm giới hạn.
Được ít lâu Nguyễn Nhạc và Nguyễn
Huệ có chuyện hiềm khích với nhau, Nguyễn Huệ đem binh vào vây đánh thành Qui
Nhơn, ngặt đế nỗi Nguyễn Nhạc phải thân lên thành mà kêu khóc, gọi Nguyễn Huệ
mà bảo rằng: " Nỡ lòng nào lại nồi da nấu thịt như thế" 121
- Nguyễn Huệ động lòng mới giải vây
rút quân về Thuận Hóa.
Trong khi anh em Tây Sơn đánh nhau,
thì Nguyễn Hữu Chỉnh ra Bắc Hà, đến khi anh em Tây Sơn đã giảng hòa rồi, Nguyễn
Huệ ở Phú Xuân thấy Hữu Chỉnh lừng lẫy ở đất Bắc, bèn sai Vũ Văn Nhậm ra bắt.
Tháng 11 năm đinh tị (1787) Vũ Văn
Nhậm phá quân Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thanh Quyết Giang (làng Thanh Quyết, huyện Gia
Viễn), và ở Châu Cầu ( phủ Lý Nhân) rồi đánh đuổi ra đến Thăng Long.
Vua Chiêu Thống thấy quân của Nguyễn
Hữu Chỉnh đã thua rồi, bèn bỏ Kinh đô, chạy sang Kinh bắc, và sai Lê Quýnh cùng
với hơn 30 người tôn thất đem bà Hoàng Thái Hậu, bà Hoàng Phi và Hoàng Tử lên
Cao Bằng. Còn vua thì cùng với Hữu Chỉnh về đóng ở núi Mục Sơn ở đất Yên Thế.
Tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Hòa đem
binh lên đánh bắt được Hữu Chỉnh đem về làm tội ở Thăng Long.
Vũ Văn Nhậm giết Nguyễn Hữu Chỉnh
rồi, cho đi tìm vua Chiêu Thống không được, bèn tôn Sùng Nhượng Công tên là Lê
Duy Cẩn lên làm giám quốc để thu phục lòng người.
Bấy giờ các quan không ai theo, Sùng
Nhượng Công ở trong điện chỉ có vài người hoàng thân và mấy viên võ tướng, sớm
tối hầu hạ, còn thì
121
Tục người trong Bình Định hễ ai đi
săn được hươu nai gì thì lột da ra làm nồi mà nấu thịt: ở đây Nguyễn NHạc có ý
nói rằng cùng da cùng thịt nỡ nào hại lẫn nhau vậy. không ai tâu hỏi việc gì
cả. Ngày ngày cứ đi bộ sang chầu chực bên dinh Vũ Văn Nhậm. Văn Nhậm cũng không
biết xử làm sao. Người kinh thành thấy vậy gọi Sùng Nhượng Công là thầy đề lại
giám quốc. Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra đánh Nguyễn Hữu
Chỉnh thì đã có lòng nghi Vũ Văn Nhậm, cho nên lại sai Ngô Văn Sở và Phan Văn
Lân làm tham tán quân vụ để chia bớt binh quyền. Đến khi Văn Nhậm lấy được
Thăng Long, bắt được Hữu Chỉnh rồi, có ý cậy tài và ra bộ kiêu ngạo. Ngô Văn Sở
đem ý ấy viết thư về nói Vũ Văn Nhậm muốn làm phản. Bắc Bình Vương lập tức truyền
lện kéo quân kỵ, đêm ngày đi gấp đường ra Thăng Long, nửa đêm đến nơi bắt Vũ
Văn Nhậm giết đi, rồi truyền gọi các quan văn võ nhà Lê cho vào yết kiến, đặt
quan lục bộ và các quan trấn thủ, để Lê Duy Cẩn làm giám quốc, chủ trương việc
tế lễ, dùng Ngô Thời Nhậm làm Lại Bộ Tả Thị Lang. Còn các quan nhà Lê thì có
người ở lại nhận chức, có người trốn đi, cũng có người tuẩn tiết.
Bắc Bình Vương đã đổi đặt quan quân,
chỉnh đốn mọi việc xong cả rồi, chọn ngày về Nam, để bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ
đất Bắc Hà.
Vua Chiêu Thống từ khi thua trận Mục
Sơn chạy về núi Bảo Lộc, rồi nay ở Hải Dương, mai ở Sơn Nam, cùng với mấy người
trung nghĩa lo sự khôi phục, nhưng vì thế lực mỗi ngày một kém, bề tôi như bọn
Đinh Tích Nhưỡng thì giở mặt làm phản, còn thì ai nấy trốn tránh đi mất cả, bởi
thế cho nên cơ nghiệp nhà Lê đổ nát vậy.
Nhà Lê kể từ vua Thái Tổ khởi nghĩa,
đánh đuổi quân nhà Minh về Tàu, lập lại cái nền tự chủ cho nước nhà, truyền đến
vua Chiêu Tông thì họ Mạc cướp mất ngôi. Sau nhờ có họ Nguyễn và họ Trịnh giúp
đỡ, nhà Hậu Lê lại trung hưng lên, truyền đến vua Chiêu Thống tức là Mân Đế thì
hết.
Nhà Lê làm vua, kể cả Tiền Lê và Hậu
Lê, được 360 năm (1428- 1788), trước sau sửa sang được nhiều việc: sự học hành,
việc luật pháp, việc canh nông đều được mở mang ra hơn trước. Nhưng từ khi
trung hưng lên trở về sau nhà vua bị họ Trịnh hiếp chế thành ra có vua lại có
chúa. Vua ngồi làm vì, chúa giữ cả quyền chính trị. Đến khi nghiệp chúa suy thì
ngôi vua cũng đổ vậy.
CHƯƠNG XI
Nhà Nguyễn Tây Sơn
1. Nhà Nguyễn Tây Sơn dấy nghiệp 2.
Vua Quang Trung 3. Tôn Sĩ Nghị đem quân sang Việt Nam 4. Vua Quang Trung đại
phá quân nhà Thanh 5. Vua Quang Trung cầu phong 6. Vua Chiêu Thống nhà Lê bị
nhục bên Tàu 7. Đức độ vua Quang Trung 8. Chính Trị của vua Quang Trung 9. Quan
Chế 10. Việc Dinh Điền 11. Việc Học Hành 12. Việc làm chùa chiền 13. Việc định
đánh Tàu 14. Vua Quang Trung mất 15. Vua Cảnh Thịnh
1. Nhà Nguyễn Tây Sơn Dấy Nghiệp.
Những người làm quốc sử nước Tàu và
nước ta thường chia những nhà làm vua ra chính thống và ngụy triều. Nhà nào,
một là đánh giặc mở nước, sáng tạo ra cơ nghiệp, hai là được kế truyền phân
minh, thần dân đều phục, ba là dẹp loạn yên dân, dựng nghiệp ở đất trung
nguyên, thì cho là chính thống. Nhà nào, một là làm tôi cướp ngôi vua, làm sự
thoán đoạt không thành, hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất
biên địa, bà là những người ngoại chủng vào chiếm nước làm vua, thì cho là ngụy
triều.
Vậy nay lấy những lẽ ấy mà xét xem
nên cho nhà Nguyễn Tây Sơn làm chính thống hay ngụy triều, để cho hợp lẽ công
bằng và cho xứng cái danh hiệu những người anh hùng đã qua.
Nguyên nước ta là nước quân chủ, lấy
cái nghĩa vua tôi làm trọng hơn cả, thế mà từ khi nhà Lê trung hưng lên trở về
sau, họ Nguyễn hùng cứ phương Nam, họ Trịnh xưng chúa miền Bắc; trên tuy còn
tôn vua nhưng mà quyền về cả nhà chúa. Trong nước ta đã có vua lại có chúa, làm
thành ra vua không phải là vua, tôi không phải là tôi, ấy là một thời loạn. Đến
sau ở trong Nam thì có Trương Phúc Loan chuyên quyền làm bậy, ở ngoài Bắc thì
có kiêu binh làm loạn, giết hại quan đại thần, vua chúa phải nhún mình mà chiều
đãi, đình thần phải khoanh tay mà chịu một bề, ấy lại là một lúc đại loạn vậy.
Lúc ấy anh em Nguyễn Nhạc là người
dân mặc áo vải, dấy binh ở ấp Tây Sơn, chống nhau với chúa Nguyễn để lập nghiệp
ở đất Quy Nhơn. Tuy rằng đối với họ Nguyễn là cừu địch, nhưng mà đối với nước
Nam, thì chẳng qua cũng là một người anh hùng lập thân trong lúc biến loạn đó
mà thôi.
Còn như Nguyễn Huệ là vua Thái Tổ
nhà Nguyễn Tây Sơn, thì trước giúp anh bốn lần vào Gia Định đều được toàn
thắng, phá hai vạn quân hùm beo của Tiêm La, chỉ còn được mấy trăm người lủi
thủi chạy về nước; sau lại ra Bắc Hà, dứt họ Trịnh; tôn vua Lê, đem lại mối
cương thường cho rõ ràng. Ấy là đã có sức mạnh mà lại biết làm việc nghĩa vậy.
Nhưng vì vua nhà Lê nhu nhược, triều
thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu
Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc lòng,
khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám Quốc để giữ
tông miếu tiền triều; như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc.
Sau vua Chiêu Thống và bà Hoàng Thái
Hậu đi sang kêu cầu bên Tàu, vua nhà Thanh nhân lấy dịp ấy mượn tiến cứu nhà
Lê, để lấy nước Nam, bèn sai binh tướng sang giữ thành Thăng Long. Bấy giờ cứ
theo như tờ mật dụ của vua nhà Thanh thì nước Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất
hẳn, nhưng kỳ thật đã vào tay người Tàu rồi.
Vậy nước đã mất, thì phải lấy nước
lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng Đế, truyền hịch đi các nơi, đường đường chính
chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ
Nghị phải bỏ cả ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ nhà
Thanh thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như
vậy.
Vả đánh đuổi người Tàu đi lấy nước
lại mà làm vua thì có điều gì mà trái đạo? Há lại chẳng hơn nhà Lý, nhà Trần
nhân lúc ấu quân, nữ chúa, mà làm sự thoán đoạt hay sao? Vậy thì lấy lẽ gì mà
gọi là ngụy? Huống chi sau vua nhà Thanh cũng công nhận cho ông Nguyễn Huệ làm
vua nước Nam, và lại sai sứ sang phong cho ông làm An Nam Quốc vương theo như
lệ các triều trước, như thế thì nhà Nguyễn Tây Sơn mở nước có khác gì nhà Đinh
và nhà Lê không?
Tuy rằng chẳng được bao lâu nhà
Nguyễn Tây Sơn sinh ra nội loạn, vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn lại thu phục
được cơ nghiệp cũ mà nhất thống cả nam bắc lại làm một, nhưng việc thành bại
hưng vong là mệnh trời, vả lại khi hai người anh hùng đuổi một con hươu, tất là
người nọ gọi người kia là cừu địch. Vậy lấy lẽ tôn bản triều mà xét thì nhà
Nguyễn Tây Sơn là ngụy, mà lấy công lý mà suy thì vua Quang Trung Nguyễn Huệ là
một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Thái Tổ, mà nhà
Nguyễn Tây Sơn cũng là một nhà chính thống như nhà Đinh và nhà Lê vậy.
2. Vua Quang Trung (1788-1792).
Ông Nguyễn Huệ (sau đổi tên là
Nguyễn Quang Bình) là một người có sức khỏe tuyệt trần, lại có mưu trí quyền
biến, mẹo mực như thần, khởi binh ở đất Tây Sơn (thuộc huyện An Khê, Bình Định)
giúp anh là Nguyễn Nhạc lập nên nghiệp lớn, được phong làm Bắc Bình Vương, đóng
đô ở đất Phú Xuân.
Năm mậu thân (1788) quân nhà Thanh
mượn tiếng sang cứu nhà Lê, chiếm giữ thành Thăng Long, có ý muốn lấy đất An
Nam, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế đặt niên hiệu là Quang Trung, rồi đem
binh đi đánh giặc.
3. Tôn Sĩ Nghị Đem Quân Sang An Nam.
Nguyên vua Chiêu Thống đã mấy lần
toan sự khôi phục, nhưng không được, phải nương náu ở đất Lạng Giang; còn bà
Hoàng Thái Hậu thì đem hoàng tử sang Long Châu kêu van với quan Tàu, xin binh
cứu viện. Bấy giờ quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị dâng biểu tâu với
vua Càn Long nhà Thanh, đại lược nói rằng: "Họ Lê là cống thần nước Tàu,
nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu cứu, tình cũng nên thương.
Vả nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê, và lại lấy
được đất An Nam, thực là lợi cả đôi đường."
Vua Càn Long nghe lời tâu ấy sai Tôn
Sĩ Nghị khởi quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam, đem sang
đánh Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị chia quân ra làm 3 đạo, sai quan tổng binh tỉnh Vân
Nam và Quý Châu đem một đạo sang mạn Tuyên Quang 122 , sai Sầm Nghi Đống là tri
phủ Điền Châu đem một đạo sang mạn Cao Bằng. Sĩ Nghị cùng với đề đốc là Hứa Thế
Hanh đem một đạo sang mạn Lạng Sơn, hẹn ngày tiến binh sang đánh An Nam.
122
Khi xưa đất Hà Giang, Lao Kay, Yên
Báy thuộc về địa hạt tỉnh Tuyên Quang.
Tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở ở Thăng
Long được tin quân Tàu đã sang, sợ thế yếu đánh không nổi, bèn rút quân thủy bộ
về đóng giữ từ núi Tam Điệp 123
ra đến bờ bể, rồi sai người về Phú
Xuân cáo cấp.
Tôn Sĩ Nghị kéo quân đến Kinh Bắc
(Bắc Ninh), vua Chiêu Thống ra chào mừng rồi theo quân Tàu về Thăng Long. Sĩ
Nghị đóng đồn ở giữa bãi, về mé nam sông Nhị Ha, bắc cầu phao ở giữa sông để
tiện đi lại, và chia quân ra giữ các mặt.
Ngày hôm sau, Sĩ Nghị là lễ tuyên
độc tờ sắc của vua nhà Thanh phong cho vua Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương.
Vua Chiêu Thống tuy đã thụ phong,
nhưng các tờ văn thư đều phải đề niên hiệu Càn Long. Mỗi khi buổi chầu xong
rồi, lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật quân quốc. Vua cưỡi ngựa đi
với độ mười người lính hầu mà thôi. Sĩ Nghị thì ngạo nghễ, tự đắc, ý tứ xử với
vua rất là khinh bạc; có khi vua Chiêu Thống lại hầu, không cho vào yết kiến,
chỉ sai một người đứng dưới gác chiêng truyền ra rằng: không có việc quân quốc
gì, xin ngày hãy về cung nghỉ.
Người bấy giờ bàn riêng với nhau
rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế vương đến giờ, không thấy vua nào hèn hạ
đến thế. Tiếng là làm vua mà phải theo niên hiệu vua Tàu, việc gì cũng phải bẩm
đến quan Tổng Đốc, thế thì có khác gì đã là nội thuộc rồi không?"
Vua và triều thần bấy giờ việc gì
cũng trông cậy vào Tôn Sĩ Nghị; ngày đêm chỉ lo việc báo ân báo oán, giết hại
những người trước đã đi theo Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị thì càng ngày càng kiêu ngạo
thêm, coi việc binh làm thường, lại thả quân lính ra cướp phá dân gian, làm lắm
sự nhũng nhiễu. Vì thế cho nên lòng người mất cả trông cậy.
4. Vua Quang Trung Đại Phá Quân
Thanh.
Bắc Bình Vương được tinh quân nhà
Thanh đã sang đóng ở Thăng Long, lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem binh
ra đánh, các tướng đều xin hãy chính ngôi tôn, để yên lòng người rồi sẽ khởi
binh.
Bắc Bình Vương bèn sai đắp đàn ở núi
Bàn Sơn, ngày 25 tháng mười một năm mậu thân (1788), Vương làm lễ lên ngôi
Hoàng Đế, rồi tự mình
123
Núi Tam Điệp trước gọi là đèo Ba Dội
ở chỗ phân biệt địa giới tỉnh Ninh Bình và tỉnh Thanh Hóa. thống lĩnh thủy bộ
đại binh ra đánh giặc Thanh. Ra đến Nghệ An nghỉ lại 10 ngày để kén lấy thêm
binh, cả thảy được 10 vạn quân và hơn 100 con voi.
Vua Quang Trung điểm duyệt quân sĩ,
truyền dụ nhủ bảo mọi người phải cố gắng đánh giặc giúp nước. Đoạn rồi kéo quân
ra Bắc, đến ngày 20 tháng chạp thì đến núi Tam Điệp. Bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thì
Nhiệm đều ra tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên
phải lui về giữ chỗ hiểm yếu.
Vua Quang Trung cười mà nói rằng:
"Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi
việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong
việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một
trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi
không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải
nhờ Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm
nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng
nữa."
Vua Quang Trung truyền cho tướng sĩ
ăn tết Nguyên Đán trước, để đến hôm trừ tịch thì cất quân đi, định ngày mồng 7
tháng giêng thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Đoạn rồi, truyền lệnh cho
ba quân đến nghe lệnh điều khiển.
Đại tư mã Sở, Nội Hầu Lân đem tiền
quân đi làm tiên phong. Hô hổ Hầu đem hậu quân đi đốc chiến.
Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu
quân cùng thủy quân, vượt qua bể vào sông Lục Đầu. Rồi Tuyết thì kinh lược mặt
Hải Dương, tiếp ứng đường mé đông; Lộc thì kéo về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn,
Yên Thế để chặn đường quân Tàu chạy về.
Đại đô đốc Bảo, đô đốc Mưu đem tả
quân cùng quân tượng mã đi đường núi ra đánh phía tây. Mưu thì xuyên ra huyện
Chương Đức (nay là Chương Mỹ), tiện đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện
Thanh Trì, đánh quân Điền Châu; Bảo thì thống suất quân tượng mã theo đường
huyện Sơn Lãng ra làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả.
Năm quân được lệnh đều thu xếp đâu
đấy, đến hôm 30 khua trống kéo ra Bắc. Khi quân sang sông Giản Thủy 124 , cánh
nghĩa quân của nhà Lê
124
Giản Thủy chắc là bến đò Giản ở giáp
giới tỉnh Ninh Bình và Hà Nam bây giờ. tan vỡ chạy cả. Vua Quang Trung thân đốc
các quân đuổi theo đến huyện Phú Xuyên bắt sống hết được toán quân Tàu đóng ở
đấy, không một người nào chạy thoát được; vì thế cho nên không có tin báo về,
những quân Tàu đóng ở làng Hà Hồi và làng Ngọc Hồi không biết gì cả. Nửa đêm
ngày mồng 3 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân vua Quang Trung đến làng Hà hồi
vây kín đồn giặc, rồi bắc loa lên gọi, các quân dạ rầm cả lên, có hàng muôn
người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ hãi thất thố, đều xin hàng, bởi thế,
lấy được hết cả quân lương và đồ khí giới. Sáng mờ mờ ngày mồng năm, quân Tây
Sơn tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra như mưa. Vua Quang Trung
sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy rơm cỏ giấp nước
quấn ở ngoài, rồi sai quân kiêu dũng cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt
một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới theo sau. Vua Quang Trung cưỡi
voi đi sau đốc chiến, quân An Nam vào đến gần cửa đồn, bỏ ván xuống đất, rút
dao ra, xông vào chém, quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không
nổi, xôn xao tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Nam thừa thế đánh tràn đi,
lấy được các đồn, giết quân Thanh thây nằm ngổn ngang khắp đồng, máu chảy như
tháo nước. Quân các đạo khác cũng đều được toàn thắng. Quan nhà Thanh là đề đốc
Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thượng Duy Thăng đều tử trận
cả; quan phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đóng ở Đống Đa 125
bị quân An Nam vây đánh cũng thắt cổ
mà chết 126 .
Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được tin báo,
hoảng hốt không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáo, đem mấy tên lính kỵ chạy qua
sông sang Bắc. Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn, tranh
nhau sang cầu, một lát cầu đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị Hà đầy
những thây người chết.
Vua Chiêu Thống cũng theo Tôn Sĩ
Nghị sang sông cùng với bà Hoàng Thái Hậu và mấy người cận thần chạy sang Tàu.
Đạo quân Vân Nam và Quý Châu đóng ở
miền Sơn Tây 127
nghe tin Tôn Sĩ Nghị đã thua, cũng
rút quân chạy về.
Ngày hôm ấy vua Quang Trung đốc quân
đánh giặc, áo ngự bào bị thuốc súng bắn vào đen như mực. Đến trưa thì vào thành
Thăng Long, sai
125
Ở cạnh Thái Hà Ấp, gần Hà Nội. 126
Về sau bọn khách trú ở Thăng Long
làm cái đền thờ Sầm Nghi Đống ở ngõ Sầm Công, sau Hàng Buồm, nữ sĩ Hồ Xuân
Hương có vịnh bài tuyệt cú rằng: Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo, Kìa đền
Thái thú đứng cheo leo. Ví đây đổi phận làm trai được, Thì sự anh hùng há bấy
nhiêu?
127
Trước đất Phú Thọ, Vĩnh Yên thuộc về
địa hạt tỉnh Sơn Tây. tướng đem binh đuổi đánh quân nhà Thanh đến cửa Nam Quan.
Những dân Tàu ở gần Lạng Sơn sợ khiếp, đàn ông, đàn bà dắt díu nhau mà chạy, từ
cửa ải về mé bắc hơn mấy trăm dặm, tịnh không nghe thấy tiếng một người nào?
Vua Quang Trung vào thành Thăng
Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những người Tàu trốn tránh ở đâu ra thú tội, đều
được cấp cho áo mặc, lương ăn. Lại bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại,
trong những giấy má bắt được có tờ mật dụ của vua Càn Long nói rằng: "
Việc quân nên từ đồ, không nên hấp tấp. Hãy nên đưa hịch truyền thanh thế đi
trước, và cho các quan nhà Lê về nước cũ hợp nghĩa binh, tìm tự quân nhà Lê đem
ra đứng đầu để đối địch với Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người
nước Nam còn nhớ nhà Lê, có quân ta kéo đến, ai là chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ
tất phải tháo lui; ta nhân lấy dịp ấy mà sai Tự quân đuổi theo, rồi đại binh
của ta theo sau, như thế không khó nhọc mấy nỗi mà nên được công to, đó là mẹo
hay hơn cả. Ví bằng suốt người trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia,
thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui. Vậy ta hãy đưa thư sang tỏ bảo đường họa
phúc xem nó đối đáp làm sao. Đợi khi nào thủy quân ở Mân, Quảng đi đường bể
sang đánh mặt Thuận Hóa và Quảng Nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ
trước sau bị địch, thế tất phải chịu thua. Bấy giờ ta sẽ nhân mà là ơn cho cả
hai bên; tự đất Thuận Hóa Quảng Nam trở vào Nam, thì cho Nguyễn Huệ; tự châu
Hoan, châu Ái trở ra Bắc thì phong cho Tự quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để
kiềm chế cả hai bên, rồi sẽ có xử trí về sau".
Vua Quang Trung đem tờ mật dụ ấy bảo
với Ngô Thì Nhiệm rằng: " Ta xem tờ chiếu của vua nhà Thanh chẳng qua cũng
muốn mượn tiếng để lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị ta đánh thua một trận, tất là
lấy làm xấu hổ, chắc không chịu ở yên. Hai nước mà đánh nhau thì chỉ khổ dân.
Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà người
chủ trương cho mới được".
Ngô Thì Nhiệm vâng lệnh làm thư đại
khái nói rằng: "Nước Nam vốn không dám chống cự với đại quốc, nhưng chỉ vì
Tôn Sĩ Nghị làm nhỡ việc cho nên phải thua. Vậy nay xin tạ tội và xin giảng
hòa."
Vua Quang Trung sai sứ đem thư sang
Tàu, và lại sai đem những quân nhà Thanh đã bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương
thực, đợi ngày cho về nước. Xếp đặt mọi việc xong rồi, đem quân về Nam, lưu Ngô
Văn Sở và Phan văn Lân ở lại tổng thống các việc quân quốc; còn những việc từ
lệnh giao thiệp với nước Tàu thì ủy thác cho Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích cho
được tự tiện mà khu xử, hễ không có việc gì quan hệ thì bất tất phải đi tâu báo
mà làm gì.
5. Vua Quang Trung Cầu Phong.
Vua nhà Thanh nghe tin Tôn Sĩ Nghị
bại binh, nổi giận đùng đùng, lập tức giáng chỉ sai quan nội các là Phúc Khang
An 128
ra thay Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng
Quảng, đem binh mã chín tỉnh, sang kinh lý việc An Nam.
Phúc Khang An ra đến Quảng Tây nghe
tiếng quân An Nam thế mạnh trong bụng đã sợ, có ý muốn hòa, bèn sai người đưa
thư sang nói việc lợi hại và bảo phải làm biểu tạ tội để cho yên việc binh đao.
Vua Quang Trung bèn cho người đưa
vàng bạc sang đút lót cho Khang An, rồi sai người cháu là Nguyễn Quang Hiển và
quan là Vũ Huy Tấn đem đồ cống phẩm sang Yên Kinh vào chầu vua nhà Thanh và
dâng biểu xin phong.
Bấy giờ quan ngoài thì có Phúc Khang
An đề đạt giúp đỡ, quan trong thì có các thần là Hòa Thân 129
làm chủ trương, cho nên vua nhà
Thanh mới thuận cho giảng hòa. Hòa Thân được tiền bạc của vua Quang Trung đút
lót, rồi dùng lời nói khéo, điều gì cũng hợp ý vua nhà Thanh. Vua nhà Thanh bèn
sai sứ sang phong cho vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương, và lại giáng chỉ
vời quốc vương vào chầu.
Vua Quang Trung bèn chọn một người
hình dung giống mình, tên là Phạm Công Trị trá làm quốc vương, rồi sai Ngô Văn
Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn đưa sang Yên Kinh, vào chầu Càn
Long. Ngoài những phẩm vật phải đem cống, vua Quang Trung lại đem cống thêm đôi
tượng đực, làm cho các cung trạm ở dọc đường bên Tàu phảI phục dịch đưa đón
thật là vất vả. Quan Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An và quan Tuần phủ
Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh phải đưa Quốc Vương An Nam vào Kinh.
Sang đến Yên Kinh, vua Càn Long nhà
Thanh tưởng là Nguyễn Quang Trung thật, vời đến chầu ở Nhiệt Hà, cho vào làm lễ
ôm gối, như là tình cha con một nhà, và cho ăn yến với các thân vương. Đến lúc
về nước, vua lại sai thợ vẽ làm một bức ảnh truyền thần để ban cho ân lễ thật
là hậu.
128
Phúc Khang An là người Mãn Châu,
thuộc về dinh Hoàng Kỳ, vốn là người tìn dùng của vua nhà Thanh. 129
Hòa Thân cũng là người Mãn Châu về
dinh Hoàng Kỳ, cùng với Phúc Khang An coi việc phiên viễn. 6. Vua Chiêu Thống
Nhà Lê bị nhục bên Tàu.
Vua Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị vào
thành Nam Kinh ở Quảng Tây, được ít lâu thì vua nhà Thanh sai các thần là Phúc
Khang An ra thay Tôn Sĩ Nghị. Khang An muốn giảng hòa với Tây Sơn, bèn mời vua
Chiêu Thống về Quế Lâm. Bấy giờ những quan cựu thần nhà Lê là: Hoàng thúc Lê
Duy Án, Đinh Nhạ Hành, Đinh Lịnh Dận, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh, Phan Khải
Đức, Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Doãn, đều lục tục sang theo vua Chiêu Thống, vào
ra mắt Khang An.
Khang An dùng Đinh Nhạ Hành làm chức
thủ bị Toàn Châu, Phan Khải Đức làm chức đô tư Liễu Châu, còn thì tùy tiện an
trí mỗi người một nơi. Duy chỉ có Lê Duy Án, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh về
Quế Lâm theo vua nhà Lê.
Đến tháng tư năm kỷ dậu (1789), vua
tôi nhà Lê vào thành Quế Lâm, Khang An nói thác ra bảo với vua Chiêu Thống
rằng: Trời đang mùa hè nắng nóng, sang đánh phương nam không tiện, nên để đến
mùa thu mát mẻ sẻ khởi binh. Vậy nhà vua nên gióng giả dần bọn tướng thuộc đi
trước. Nhưng nhà vua hãy nên gọt đầu thay áo, làm như dáng người Tàu, để khi về
nước, giặc không nhận được mặt. Việc hành binh phải nên biến trá, đợi khi thành
công rồi lại theo tục nước mà ăn mặc. Vua Chiêu Thống không ngờ là Khang An
đánh lừa mình, bèn cùng với các quan cạo đầu gióc tóc và đổi y phục.
Phúc Khang An bèn làm một tờ biểu
tâu với vua nhà Thanh rằng: "Vua nước Nam là Lê Duy Kỳ không có ý xin viện
binh nữa, vua tôi hiện đã gióc tóc, thay áo, xin yên tâm ở lại nước Tàu. Vậy
xin bãi binh đánh An Nam". Ở trong lại có Hòa Thân tán thành, bởi vậy vua
nhà Thanh mới xuống chỉ bãi binh.
Vua nhà Thanh đã nghe lời bọn Phúc
Khang An và Hòa Thân, và đã phong vương cho vua Quang Trung rồi, lại giáng chỉ
triệu vua tôi nhà Lê về Yên Kinh 130 .
130
Bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến cả thảy đến
10 người sau cũng bị Phúc Khang An gọi về Quảng Tây, rồi bắt đổi áo gióc tóc
như mọi người. Lê Quýnh nói rằng: "Ông cho gọi chúng tôi đến chẳng bàn
được điều gì, lại dỗ chúng tôi đổi áo, gióc tóc, ấy là nghĩa gì? Đầu chúng tôi
có thể chặt được, chứ tóc không gióc, da có thể lột được, chứ áo không
đổi!". Phúc Khang An tức giận cho giải về cả Yên Kinh, đi đến Sơn Đông gặp
vua Càn Long đi chơi, vua đòi vào hỏi sao vua An Nam đã chịu đổi áo gióc tóc
theo nhà Thanh mà bọn ấy lại còn không chịu ? Lê Quýnh tâu rằng: " Chúng
tôi muôn dặm tòng vong, xin cứ theo tục bản quốc vào ra mắt quốc vương, rồi sau
sẽ vâng chỉ" Vua nhà Thanh khen là trung. Nhưng về sau Lê Quýnh không chịu
gióc tóc, chiếu tội vi mệnh phải giam mãi.
Mùa xuân năm canh tuất (1790), vua
Chiêu Thống cùng với các quan tòng vong vào kinh. Vua Càn Long để vua Chiêu
Thống, bà Thái Hậu và Hoàng Tử ở ngõ Hồ Đồng, Tòa Quốc Tử Giám, cửa Tây Định ở
Yên Kinh, ngoài cửa đề chữ "Tây An Nam Dinh". Còn các quan An Nam đi
theo, thì cho ở ngõ Hồ Đồng, cửa Đông Trực, ngoài cửa đề chữ: "Đông An Nam
Dinh".
Vua Chiêu Thống đến Yên Kinh được
mấy hôm, thì thấy quan Đô Thống Nhương Hoàng Kỳ là Kim Giản phụng chỉ vua nhà
Thanh ra phong cho chức Tá Lĩnh, và ban cho áo mão quan tam phẩm. Còn các quan
đi theo thì cấp cho mỗi người ba lạng bạc và một thạch gạo.
Vua Chiêu Thống giận vì bị người Tàu
đánh lừa, bèn cùng với bề tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiển, Lễ Hân,
Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn
Trương, Lê Tùng, Lê Thức uống máu ăn thề, định sống chết thế nào thì cũng dâng
biểu xin binh cứu viện. Nếu không cho thì xin đất hai tỉnh Tuyên Quang, Thái
Nguyên để phụng thờ tông tự; mà không nữa, thì xin cho về nước vào đất Gia Định
với chúa Nguyễn để đồ việc khôi phục.
Văn biểu làm xong, đến nói lót trước
với Kim Giản, Kim Giản không nghe, vua tôi nhà Lê phục xuống đất mà kêu khóc.
Kim Giảng bất đắc dĩ mời vào an ủi, rồi nói rằng: hãy xin về quán nghỉ ngơi,
đợi để thương lượng thế nào, sau sẽ cho biết.
Kim Giản bèn mưu với Hòa Thân phân
trí vua tôi An Nam đi ở mỗi người một nơi, để cho khỏi kêu ca khó chịu.
Đến tháng tư năm tân hợi (1791)
Hoàng Ích HIểu phải đày sang I-lê (thuộc Hồi-bộ ở Tây-vực, phía Tây nước Tàu);
Lê Hân đày đi Phụng Thiên (Mãn Châu); Phạm Như Tùng đày lên Hắc Long Giang (Mãn
Châu); Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Đàm Thận Xưởng, Lê
Văn Trương đày ra bến Trương-gia ở Nhiệt-hà (thuộc tỉnh Trực-lệ). Chỉ để Phạm
Đình Thiện, Đinh Nhạ Hành ở lại hầu hạ vua Lê.
Vua Chiêu Thống nghe chuyện ấy lo
lắng chua xót, ruột nóng như lửa đốt, sáng hôm sau cưỡi ngựa đế nhà Kim Giản,
để kêu oan cho mấy người phải đi đày, gặp Kim Giản vào chầu vua nhà Thanh ở
vườn Viên Minh, vua Chiêu Thống đi vào cửa vường, bị lính giữ vường ngăn cấm
không cho đi. Bấy giờ có Nguyễn Văn Quyên đi theo hầu vua, thấy lũ lính vô lễ,
mới nổi giận lên mà chửi mắng rằng: "Lũ chó Ngô kia sao chúng bay được làm
nhục đến vua tao!" Rồi lấy gạch ném vào chúng nó. Chúng nó xúm nhau lại
đánh Văn Quyên về thành bệnh mà chết.
Tự đó vua Chiêu Thống trong bụng
buồn bã rầu rĩ, không dám nói đến việc xin binh nữa. Qua tháng năm năm nhâm tí
(1792) hoàng tử lên đậu mất. Vua nhân dịp đó phải bệnh một ngày một nặng, đến
tháng mười năm quý sửu (1793) thì mất, thọ được 28 tuổi.
Vua nhà Thanh sai theo lễ tước công
mà táng ở ngoài cửa Đông Trực.
Tháng 11 năm kỷ mùi (1799) đời vua
Gia Khánh thì bà Hoàng Thái Hậu mất.
Đến năm nhâm tuất (1802) nhân khi
bên Việt Nam ta vua Thế Tổ nhà Nguyễn đã thống nhất cả nam bắc, và có sứ ta
sang cầu phong, các quan nhà Lê mới nhân dịp dâng biểu xin đem ma Thái Hậu và
Cố Quân về nước. Vua Gia Khánh cho tất cả những người Việt Nam theo vua Lê sang
Tàu về nước.
Sử chép rằng khi đào đất lên để cải
táng mả Cố Quân, thì thấy da thịt đã tiêu cả, chỉ còn có quả tim không nát, vẫn
đỏ như thường. Ai trông thấy cũng động lòng thương xót. Dẫu chuyện đó thực hư
thế nào mặc lòng, nhưng tưởng đến tình cảnh vua Chiêu Thống lúc bấy giờ, thì ai
cũng ái ngại thay cho ông vua một nước, phải đày đọa đến nỗi như thế, có thể
làm được một bài bi kịch thảm xót muôn đời. Tuy rằng tại vua tôi nhà Lê vụng
tính cho nên bị người ta đánh lừa, nhưng cũng nên tránh vua quan nhà Thanh xử
tệ, bạc đãi một ông vua vong quốc, đem thân đến nương nhờ nước mình. Ấy cũng là
một thời dã man về đời áp chế, khiến cho cái oan khổ của người ta muôn đời về
sau không tiêu thoát đi được.
Khi đem ma bà Thái Hậu và vua Chiêu
Thống về đến Việt Nam thì bà Hoàng Phi trước phải ẩn nấp ở đất Kinh Bắc, nay
lên đến Ải quan đón rước, rồi về đến Thăng Long cũng nhịn ăn mà tự tử.
Ngày 24 tháng 11, rước ma Cố quân,
Thái Hậu, Hoàng Phi và Hoàng tử về táng ở lăng Bàn Thạch ở Thanh Hóa.
7. Đức Độ Vua Quang Trung.
Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn
là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am
hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra lấy
Bắc hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất
là đối với một người xử sĩ như Nguyễn Thiệp thì thật là khác thường.
Ông Nguyễn Thiệp, tự là Khải Chuyên,
hiệu là Nguyệt Úc, biệt hiệu là Hạnh Am. Ông làm nhà ở Lục Niên Thành, thuộc
huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, cho nên người ta gọi là Lục Niên tiên sinh
hay là La sơn phu tử. Vua Quang Trung từ khi đem quân ra đánh Bắc hà, biết
tiếng Nguyễn Thiệp, đã mấy lần cho người đem lễ vật mời ông ra giúp, ông không
nhận lễ và cũng từ chối không ra. Đến khi ngài đã đăng cực, lại mấy lần cho
người đến mời ông, ông có đến bái yết và khuyên vua nên lấy nhân nghĩa mà trị
dân trị nước, rồi lại xin về. Vua Quang Trung tuy không dùng được ông, nhưng
bao giờ cũng tôn kính ông như bậc thầy, và việc chính trị trong nước thường
theo ý nghĩa của ông đã trình bày.
8. Chính Trị của vua Quang Trung.
Vua Quang Trung tuy đã thụ phong nhà
Thanh, nhưng vẫn tự xử theo cách Hoàng Đế, lập bà Ngọc Hân con vua Hiển Tông
nhà Lê làm Bắc Cung Hoàng Hậu, lập con là Quang Toản làm Thái Tử. Lại lấy thành
Nghệ An là đất giữa nước và lại là đất tổ khi xưa ở đó, mới sai thợ thuyền tải
vận đá, gỗ, gạch, ngói, sửa sang đền đài cung điện, và sai quân các đạo đào lấy
đá ong để xây nội thành, gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. Cải thành Thăng Long là
Bắc Thành, chia đất Sơn Nam ra làm hai trấn, gọi là Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ
131 .
Mỗi trấn đặt quan trấn thủ và quan
hiệp trấn. Mỗi huyện, văn thì đặt chức phân tri để xét việc kiện cáo, võ thì
đặt chức phân suất để coi việc binh lương.
9. Quan Chế.
Quan Chế thời bấy giờ thì không thấy
sử chép rõ, nhưng xem các dã sữ thì thấy có tam co6ng, tam thiếu, có Đại chủng
tể, Đại tư đồ, Đại tư khấu, Đại tư mã, Đại tư không, Đại tư cối, Đại tư lệ,
Thái Úy, Đại tổng quản, Đại đổng lý, Đại đô đốc, Đại đô hộ, v.v... Lại có Trung
thư sảnh, Trung thư lệnh, Đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Thị trung ngự sử,
Lục bộ thượng thư, Tả hữu đồng nghị, Tả hữu phụng nghị, Thị lang, Tư vụ, Hàn lâm,
v.v....
Về đường quân binh thì đặt ra tiền
quân, hậu quân, trung quân, tả quân, hữu quân, v.v...
131
Trấn lị Sơn Nam Thượng ở Châu Cầu,
trấn lị Sơn Nam Hạ ở Vị Hoàng. 10. Việc Đinh Điền.
Đinh thì chia ra làm ba hạng: từ 2
tuổi đến 17 tuổi làm hạn "vị cập cách"; từ 18 đến 55 tuổi làm tráng
hạng; từ 56 đến 60 tuổi làm lão hạng; từ 61 trở lên làm lão nhiêu.
Ruộng cũng chia ra làm ba hạng: nhất
đẳng điền mỗi mẫu phải nộp 150 bát thóc, nhị đẳng điền mỗi mẫu 80 bát, tam đẳng
điền mỗi mẫu 50 bát. Lại thu tiền thập vật, mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khố
mỗi mẫu 50 đồng.
Ruộng tư điền cũng đánh thuế: nhất
đẳng điền mỗi mẫu nộp 40 bát thóc, nhị đẳng điền mỗi mẫu 30 bát, tam đẳng điền
mỗi mẫu 20 bát. Tiền thập vật cũng theo như ruộng công điền, còn tiền khoán khố
thì mỗi mẫu phải nộp 30 đồng.
11. Việc Học Hành.
Đời Tây Sơn việc cai trị thường hay
dùng chữ nôm. Nhà vua muốn rằng người Việt Nam thì phải dùng tiếng Việt Nam, để
gây thành cái tinh thần của nước nhà, và cái văn chương đặc biệt, không phải đi
mượn tiếng mượn chữ của nước Tàu. Vậy nên khi thi cử thường bắt quan ra bài chữ
nôm và bắt sĩ tử làm bài bằng chữ nôm. Thời bấy giờ nhiều người không hiểu rõ
cái ý nghĩa sâu xâ ấy, cho là vua Tây Sơn dùng hà chính mà ức hiếp nhân dân.
12. Việc Làm Chùa Chiền.
Vua Quang Trung thấy làng nào cũng
có chùa chiền, mà những người đi tu hành thì ngu dốt, không mấy người đạt được
cái đạo cao sâu của Phật, chỉ mượn tiếng thần thánh mà đánh lừa kẻ ngu dân,
ngài xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng, đem gỗ gạch làm ở mỗi phủ
mỗi huyện một cái chùa thật to, rất đẹp, rồi chọn lấy những tăng nhân có học
thức, có đạo đức, ở coi chùa thờ Phật. Còn những người không xứng đáng thì bắt
về làm ăn. Ý vua Quang Trung muốn rằng chỗ thờ Phật phải cho tôn nghiêm, mà
những người đi tu hành thì phải là người chân tu mộ đạo mới được.
Những việc cải cách ấy rất có nghĩa
lý, nhưng vì thủa ấy có nhiều sự chiến tranh, vả nhà Tây Sơn cũng không làm vua
được bao lâu, cho nên thành ra không có công hiệu gì cả.
13. Việc Định Đánh Tàu.
Trước vua Quang Trung cầu hòa với
nước Tàu và chịu phong là cốt để đợi ngày có đủ sức mà đánh báo thù, cho nên từ
khi trong nước đã dẹp yên rồi, ngày đêm trù tính việc đánh Tàu. Đình thần ai
cũng bàn nên xét số dân đinh cho đích thực để kén lấy lính. Vua bèn xuống lệnh
cho các trấn bắt dân xã làm lại sổ đinh, ai ai cũng phải biên vào sổ, rồi cấp
cho mỗi người một cái thẻ bài, khắc bốn chữ "Thiên Hạ Đại Tính",
chung quanh ghi tên họ quê quán, và phải điểm chỉ làm tin. Người nào cũng phải
đeo thẻ ấy gọi là tín bài. Ai không có thẻ là dân lậu, bắt sung vào quân phòng,
và bắt tội tổng trưởng, xã trưởng. Nhân có việc ấy, những kẻ lại dịch hiệp với
xã trưởng đi lại làm bậy: thường vào làng vây bắt hỏi thẻ, làm cho dân gian
nhiễu động, nhiều người phải trốn vào rừng mà ở.
Sổ đinh làm xong rồi cứ ba tên đinh
kén lấy một người lính.
Quân thì chia ra làm đạo, cơ, đội.
Đạo thì thống các cơ, cơ thì thống các đội. Cơ đội nào theo về cơ đội ấy, bắt
phải diễn tập luôn luôn.
Bấy giờ ở bên Tàu có những giặc Tàu
ô, quấy nhiễu ở miền bể bị quân nhà Thanh đánh đuổi, chạy sang xin phụ thuộc
nước ta, vua Quang Trung cho người tướng Tàu-ô làm chức tổng binh, sai sang
quấy nhiễu ở mặt bể nước Tàu. Lại có người thuộc về đảng Thiên Địa Hội làm giặc
ở Tứ Xuyên, vua cũng thu dùng cho làm tướng.
Công việc xếp đặt đâu vào đấy rồi,
đến năm nhâm tí (1792) vua Quang Trung sai sứ sang Tàu, xin cầu hôn và xin trả
lại cho Việt Nam đất Lưỡng Quảng. Việc ấy tuy không phải là bản ý nhưng muốn
mượn chuyện để thử ý vua nhà Thanh. Không ngờ vua Quang Trung phải bệnh mất,
các quan dìm việc cầu hôn và việc xin trả đất đi, không cho Thanh triều biết.
14. Vua Quang Trung mất.
Vua Quang Trung mất năm nhâm tí
(1792), làm vua được 4 năm, thọ được 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Võ Hoàng Đế.
Triều thần bấy giờ là Bùi Đắc Tuyên,
Trần Quang Diệu 132 , Vũ Văn Dũng lập thái tử là Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi
làm vua, rồi sai sứ sang Tàu dâng biểu cáo tang và cầu phong. Trong biểu nói
dối rằng khi vua Quang Trung mất có dặn lại rằng phải đem chôn ở Tây Hồ gần Bắc
Thành, để tỏ cái bụng quyến luyến trông về Thiên triều. Vua nhà Thanh xem biểu
tưởng là thật, khen là trung, đặt tên thụy cho là Trung Thuần, lai ngự chế một
bài thơ sang viếng, sai quan án sát Quảng Tây là Thành Lâm sang tế, và phongcho
Quang Toản làm An Nam Quốc Vương. Trong bài văn tế có câu rằng:
Chầu ngô Nam cực,
Lòng trung nghĩa hết đạo thờ vua
Chôn đất Tây hồ
132
Có sách chép là Nguyễn Quang Diệu.
Nghĩa thần tử vẫn còn mến chúa.
15. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802).
Khi vua Quang Trung mất thì Thái Tử
là Nguyễn Quang Toản mới lên 10 tuổi, triều đình tôn lên làm vua, đặt niên hiệu
là Cảnh Thịnh, sau thành Phú Xuân thất thủ, vua tôi nhà Tây Sơn chạy ra Bắc hà
lại đổi niên hiệu là Bảo Hưng.
Vua Cảnh Thịnh tuy đã lên ngôi nhưng
mà việc gì cũng do ở thái sư là Bùi Đắc Tuyên quyết đoán cả. Bùi Đắc Tuyên là
anh ruột bà Thái Hậu, cho nên uy quyền lại càng hống hách lắm. Các quan văn võ
có nhiều người không phục, bởi vậy cho nên về sau trong Triều phân ra bè đảng;
các đại thần giết hại lẫn nhau. Vả lại lúc bấy giờ có vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà
Nguyễn là một bậc có tài trí, quyết chí phục thù, cho nên cơ nghiệp nhà Tây Sơn
không được bao lâu mà đổ nát vậy.
Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim (Phần 1)
Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim (Phần 3)
Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim (Phần 1)
Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim (Phần 3)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét