LỜI GIỚI THIỆU
Nguyễn Khánh Toàn
Một dân tộc có nền văn hóa lâu đời
bao giờ cũng trọng thị, giữ gìn coi như thiêng liêng những di tích của nó, đặc
biệt là dấu tích của những sự nghiệp anh hùng và quang vinh của ông cha, nòi
giống, những gì nhắc lại những kỳ công của các bậc tiền bối trong cuộc đấu
tranh vì độc lập, tự do, vì đời sống ấm no, hạnh phúc của các thế hệ đã qua.
Về phương diện ấy, những cái gọi là
di sản văn hóa, tuy thuộc về quá khứ của một dĩ vảng không bao giờ trở lại,
nhưng nó vẫn sống bởi vì những cái chúng ta làm hôm nay, trong đời sống vật
chất cũng như trong đời sống tinh thần, là tiếp tục cái hôm qua.
Trong các loại di sản văn hóa của
dân tộc, hiện nay chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến các loại sách cổ về đất
nước và con người, về văn hóa, xã hội, nhất là về lịch sử nước ta.
Có sự mâu thuẫn lạ đời này, là dân
tộc ta có một lịch sử lâu đời với một nền văn hóa độc đáo mà nhân dân ta từ bao
đời, với bàn tay và khối óc của mình, đã tự xây dựng lấy, nhưng chỉ cách đây
tám, chín trăm năm, mới có người Việt viết về lịch sử đất nước mình. Còn trước
đó, trong các sách của người Tàu viết, chỉ thỉnh thoảng họ mới nói đến cái đất
nước của một dân tộc "man di" gọi là Giao chỉ, một mảnh đất hầu như
hoang vu, con người còn sống sơ khai, cần phải được "Thiên Triều"
"giáo hóa".
Vì thế mà trong suốt cả một thời
gian lịch sử rất dài - hai, ba nghìn năm, dân tộc Việt Nam phải liên tục đấu
tranh chống họa xâm lược của nước ngoài. Chíh trong cuộc đấu tranh đầy hy sinh
gian khổ, nhưng anh hùng bất khuất ấy mà dân tộc ta xây dựng và phát triển nền
văn hóa độc đáo và xán lạn của mình, tiêu biểu là nền văn hóa Đại Việt thời Lý,
Trần, Lê.
Cho nên, rất dễ hiều, cách đây tám,
chín trăm năm, khi lịch sử nước ta đi vào kỷ nguyên Đại Việt, xuất hiện những
nhà sử học lớn như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên.
Đối với thời kỳ lừng danh như thời
Đại Việt, nó là cả một bản anh hùng ca, cái gì có liên quan đến nó, dẫu là một
câu, một dòng chữ tự tay nhân vật đã sống hoặc đã chứng kiến những giờ phút huy
hoàng viết ra, mà ta được đọc hay được nghe, đều là tiếng nói thân thiết từ
ngàn xưa vọng lại, làm rung động tâm hồn của chúng ta biết bao.
Cho nên, việc đáng mừng là chúng ta
đã tìm lại đợc bản in xưa nhất của bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Đó là bản in
theo ván khắc năm Chính Hoà thứ 18, tức năm 1697, mà trước đây tưởng như không
hy vọng tìm thấy. Còn những bản in chúng ta vẫn thường dùng là những bản in sau
đó, vào đời Nguyễn.
Đại Việt sử ký toàn thư là một thành
tựu của nền văn hóa Đại Việt. Nó là một công trình biên soạn lịch sử đồ sộ của nhiều
nhà sử học nổi tiếng của nước ta, từ Lê Văn Hưu đời Trần, qua Phan Phu Tiên,
Ngô Sĩ Liên, đến Phạm Công Trứ, Lê Hy đời Lê.
Bộ sự được đặt cơ sở đầu tiên với
Đại Việt sử ký toàn thư 30 quyền của Lê Văn Hưu, viết xong năm 1272, trong thời
kỳ chiến đấu oanh liệt chống quân xâm lược Mông - Nguyên. Nó được tiếp tục với
Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên thế kỷ XV, trong giai đoạn phát triển cao nhất của
nền văn hóa Đại Việt, giao đoạn của vũ công chống Minh, của Đại Cáo Bình Ngô,
của chủ nghĩa yêu nước hoàn chỉnhv à tiên tiến của Nguyễn Trãi. Nó được hoàn
thành và công bố năm 1697, biên chép lịch sử dân tộc từ buổi đầu dựng nước cho
đến năm 1675.
Một công trình sử học được xây dựng
trong bối cảnh lịch sử như thế hẳn mang hơi thở của thời đại, phản ánh được
tương đối chính xác và đầy đủ thực tế hào hùng của đất nước. Và điều chắc chắn,
nó là kho tư liệu phong phú không những cần thiết cho ngành sử học mà còn giúp
ích cho nhiều ngành khoa học xã hội khác nữa.
Bộ Đại Việt sử ký toàn thư là một di
sản vô giá của văn hóa dân tộc.
Tôi xin trân trọng giới thiệu với
các nhà khoa học trong và ngoài nước, với tất cả bạn đọc, bản dịch Đại Việt sử
ký toàn thư dựa trên ván khắc năm 1697 kèm theo chú giải, sách dẫn và bản chụp
nguyên văn chữ Hán.
Tôi hy vọng công trình xuất bản này
sẽ đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu của các nhà sử học, các nhà khoa học thuộc
nhiều ngành khoa học xã hội trong nước, các nhà Việt Nam học trên thế giới và
tất cả những ai muốn tìm hiểu nghiên cứu lịch sử Việt Nam.
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Năm 1967, Nhà xuất bản Khoa Học xã
hội đã xuất bản bộ Đại Việt sử ký toàn thư gồm 4 tập do nhà Hán học Cao Huy Giu
dịch và Giáo sư Đào Duy Anh hiệu đính. Đó là một bộ sử lớn, có giá trị, được
biên soạn qua nhiều đời, gắn liền với tên tuổi của những nhà sử học nổi tiếng
ngày xưa như Lê Văn Hưu thế kỷ XIII, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên thế kỷ XV, Phạm
Công Trứ, Lê Hy thế kỷ XVII.
Năm 1971, bộ sử đó được tái bản lần
thứ hai, có sửa chữa và bổ sung. Sau đó một thời gian, nhiều bạn đọc yêu thích
lịch sử dân tộc, nhiều nhà sử học, nhiều cán bộ nghiên cứu và giảng dạy thuộc
nhiều ngành, nhiều cơ quan đã yêu cầu chúng tôi tái bản lần thứ ba bộ sử ấy.
Giữa lúc đó thì Giáo sư sử học Phan
Huy Lê, sau chuyến đi công tác ở Pháp về, cho chúng tôi biết việc phát hiện ra
bản in xưa nhất của bộ Đại Việt sử ký toàn thư, bản Nội các quan bản, và vui
lòng cho chúng tôi sử dụng bản sao chụp bản in ấy do Giáo sư đem về nước. Đấy
là bản in theo ván khắc năm Chính Hoà thứ 18, tức năm 1697, còn được lưu giữ
tại Thư viện của Hội Á Châu ở Paris.
Năm 1985, theo đề nghị của Ủy ban
Khoa học xã hội Việt Nam, bà C. Rageau, Giám đốc Thư Viện Trường Viễn Đông bác
cổ (EFFO), đã đem sang tặng Việt Nam bộ vi phim (microfilm) bản in Nội các quan
bản của Đại Việt sử ký toàn thư đang lưu giữ ở Paris và đồng ý cho Việt Nam
được toàn quyền sử dụng văn bản này.
Chúng tôi đã báo cáo lên Ủy ban Khoa
học xã hội Việt Nam (Viện Khoa học xã hội Việt Nam hiện nay) và đề nghị cho tổ
chức nghiên cứu, phiên dịch và xuất bản kịp thời bộ Đại Việt sử ký toàn thư căn
cứ trên bản in Nội các quan bản được in từ ván khắc năm Chính Hoà 18 (1697).
Sau khi đề nghị trên được chấp nhận, một Hội đồng chỉ đạo đã được thành lập,
gồm:
Chủ tịch:
|
- Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Khánh
Toàn
|
Ủy viên:
|
- Giáo sư sử học Phan Huy Lê,
|
- Giám đốc kiêm Tổng biên tập Nhà
xuất bản Khoa học xã hội Phạm Hựu
|
Sau khi ông Phạm Hựu nghỉ hưu, ông
Nguyễn Đức Diệu giữ chức Giám đốc kiêm Tổng biên tập Nhà xuất bản Khoa học
xãhội đã tham gia Hội đồng chỉ đạo với cương vị ủy viên thay thế ông Phạm Hựu.
Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ sử
có giá trị về nhiều mặt, là một di sản qúy báu của nền văn hoá dân tộc. Dưới sự
chỉ đạo của Hội đồng, chúng tôi thấy có nhiệm vụ phải cố gắng làm sao để cho
công trình xuất bản này xứng đáng với vị trí và giá trị của bộ sử. Về mặt phiên
dịch, chúng tôi có tham khảo và kế thừa bản dịch cũ, nhưng phải dịch lại trực
tiếp từ văn bản mới phát hiện. Chúng tôi cũng mong muốn bản dịch mới tiếp thu
những thành tựu mới về ngôn ngữ tiếng Việt và dịch thuật chữ Hán trong thời
gian gần đây, vừa tôn trọng ở mức độ cao nhất nội dung và phong cách của bộ sử
đã ra đời cách đây gần 300 năm, vừa làm cho bạn đọc dù không biết chữ Hán vẫn
hiểu đợc nội dung bộ sử đến mức tốt nhất.
Công trình xuất bản Đại Việt sử ký
toàn thư gồm 4 tập:
Tập I gồm Lời Nhà xuất bản Khoa học
xãhội, Lời giới thiệu của Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn, bài Khảo cứu về
"Đại Việt sử ký toàn thư: tác giả - văn bản - tác phẩm" của Giáo sư
Phan Huy Lê và bản dịch phần đầu Đại Việt sử ký toàn thư gồm Quyển thủ, Ngoại
kỷ Q. 1 - 5, Bản kỷ Q 1 - 4, do nhà nghiên cứu Hán Nôm Ngô Đức Thọ dịch, chú
giải, và Giáo sư Hà Văn Tấn hiệu đính.
Tập II gồm phần dịch và chú giải Bản
kỷ Q.5 - 13 do nhà nghiên cứu Hán Nôm Hoàng Văn Lâu dịch, Giáo sư Hà Văn Tấn
hiệu đính.
Tập III gồm phần dịch và chú giải
Bản kỷ Q.14 - 19 do nhà nghiên cứu Hán Nôm Hoàng Văn Lâu dịch, Giáo sư Hà Văn
Tấn hiệu đính và phần Phụ lục với bản dịch Đại Việt sử ký tục biên Q.20 - 21
của Phạm Công Trứ do nhà nghiên cứu Hán Nôm Ngô Thế Long thực hiện và Sách dẫn
để tra cứu do Bộ môn phương pháp luận sử học thuộc Khoa sử Trường Đại học tổng
hợp Hà Nội thực hiện.
Tập IV in lại bản chụp nguyên văn
chữ Hán bản in Nội các quan bản bộ Đại Việt sử ký toàn thư.
Tập I đã xuất bản năm 1983, tập II
năm 1985, trong điều kiện ấn loát chưa được tốt lắm. Vì vậy, theo quyết định
của Hội đồng chỉ đạo, năm 1992 chúng tôi in lại tập I, tập II có sửa chữa và in
tiếp tập III, IV.
Nhà xuất bản Khoa học xã hội xin
trân trọng và vui mừng giới thiệu với bạn đọc công trình xuất bản bộ Đại Việt
sử ký toàn thư.
Nhân đây, chúng tôi xin chân thành
cảm ơn Hội đồng chỉ đạo do Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn làm Chủ tịch, cảm
ơn sự tin cậy và cộng tác tích cực của Giáo sư Phan Huy Lê, Giáo sư Hà Văn Tấn,
sự làm việc hết lòng của các nhà nghiên cứu Hán Nôm Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lâu,
Ngô Thế Long và các cán bộ biên tập Lê Văn Quýnh, Nguyễn Duy Chiếm.
Cũng nhân dịp bộ Đại Việt sử ký toàn
thư ra mắt, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Thư viện Hội Á Châu, Trường Viễn
Đông bác cổ, Trường Đại học Paris VII, Hội Khoa học xã hội của người Việt Nam
tại Pháp và Giáo sư sử học lão thành Hoàng Xuân Hãn, nhà nghiên cứu Hán Nôm Tạ
Trọng Hiệp, các nhà khoa học người Việt Nam tại Pháp ở Paris trước đây đã nhiệt
tình giúp đỡ Giáo sư Phan Huy Lê trong việc nghiên cứu và sao chụp bản Đại Việt
sử ký toàn thư ở Pháp, nay tiếp tục giúp đỡ chúng tôi trong việc chụp lại và
công bố văn bản đó, chúng tôi trân trọng cảm ơn bà Vân Bùi Mộng Hùng, Giám đốc
Nhà xuất bản Chân Mây Médiapoly đã hết lòng cộng tác giúp đỡ chúng tôi sao chụp
và thu nhỏ, làm chế bản in Nội các quan bản bộ Đại Việt sử ký toàn thư để xuất
bản tập IV.
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Ủy
ban quốc gia UNESCO Việt Nam, nhà thơ Cù Huy Cận đã quan tâm giúp đỡ chúng tôi
và đặc biệt trân trọng cảm ơn ông Tổng Giám đốc UNESCO (Paris) đã tài trợ cho
công trình xuất bản bộ Đại Việt sử ký toàn thư này, nhằm bảo vệ và phát huy một
di sản quý giá của nền văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam.
TÁC GIẢ - VĂN BẢN - TÁC PHẨM
PHAN HUY LÊ
I. QUÁ TRÌNH BIÊN SOẠN VÀ TÁC GIẢ
Bộ Đại Việt sử ký toàn thư còn lại
đến ngày nay là một bộ Quốc sử lớn, có giá trị, lần đầu tiên được khắc in toàn
bộ và công bố vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà thứ 18, triều Lê Hy Tông,
tức năm 1697. Trong lời tựa của lần xuất bản đó - gọi là Tựa Đại Việt sử ký tục
biên - nhóm biên soạn đứng đầu là Tham tụng, Hình bộ thượng thư tri Trung thư
giám Lê Hy, cho biết bộ Quốc sử này là kết quả của một quá trình biên soạn, tu
bổ qua nhiều đời: "Nước Việt ta, sử ký các đời do các tiên hiền Lê Văn
Hưu, Phan Phu Tiên làm ra trước, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh soạn tiếp sau, đến đời
Lê Huyền Tông (1663 - 1671) sai bọn tể thần Phạm Công Trứ tham khảo sử cũ như
sử ký ngoại kỷ, Bản kỷ toàn thư, Bản kỷ thực lục đều y theo danh lệ của các sử
trước, lại tham xét biên soạn từ quốc triều Trang Tông Dụ Hoàng đế (1533 -
1548) "sai bọn khảo thần khảo đính sử cũ, chỗ nào sai thì sửa lại, chỗ nào
đúng thì chép lấy Lại sưu tầm sự tích cũ, tham khảo các dã sử, loại biên, [biên
sọan] từ Huyền Tông Mục Hoàng Đế năm Đức Nguyên thứ 2 (1675), tất cả sự thực
trong 13 năm, cũng gọi là Bản kỷ tục biên. Sách làm xong, dâng lên ngự lãm, bèn
sai thợ khắc in, ban bố trong thiên hạ" (Quyển thủ, Đại Việt sử ký tục
biên tự, 1b - 3b).
Như vậy, bộ Đại Việt sử ký toàn thư
là một công trình tập đại thành nhiều bộ sử do nhiều nhà sử học của các đời
biên soạn, từ Lê Văn Hưu đời Trần, qua Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh đời
Lê sơ, đến Phạm Công Trứ, Lê Hy đời Lê Trung hưng, cùng những người cộng sự với
họ. Theo bản in từ ván khắc năm Chính Hoà 18 (1697) mang danh hiệu bản in Nội
các quan bản - từ đây gọi tắt là bản Chính Hoà - bộ sử này gồm quyển thủ 24
quyển, biên chép một cách hệ thống lịch sử dân tộc từ họ Hồng Bàng đến năm
1675.
Bố cục của bộ sử như sau:
Quyển thủ: gồm các Lời tựa của Lê Hy, Phạm Công Trứ, Ngô Sĩ Liên, Biểu
dâng sách của Ngô Sĩ Liên, Phạm lệ, Kỷ niên mục lục và bài Việt giám thông khảo
tổng luận của Lê Trung.
Ngoại kỷ: gồm 5 quyển, từ họ Hồng Bàng đến các Sứ quân.
Quyển 1: kỷ họ Hồng Bàng, kỷ họ Thục
Quyển 2: kỷ họ Triệu
Quyển 3: kỷ thuộc Tây Hán, kỷ Trưng Nữ Vương, kỷ thuộc Đông Hán, kỷ Sĩ Vương
Quyển 4: kỷ thuộc Ngô-Tấn-Tống-Tề-Lương, kỷ tiền Lý kỷ Triệu Việt vương, kỷ Hậu lý
Quyển 5: kỷ thuộc Tùy - Đường, ký họ Ngô
Quyển 2: kỷ họ Triệu
Quyển 3: kỷ thuộc Tây Hán, kỷ Trưng Nữ Vương, kỷ thuộc Đông Hán, kỷ Sĩ Vương
Quyển 4: kỷ thuộc Ngô-Tấn-Tống-Tề-Lương, kỷ tiền Lý kỷ Triệu Việt vương, kỷ Hậu lý
Quyển 5: kỷ thuộc Tùy - Đường, ký họ Ngô
Bản kỷ: gồm 19 quyển, từ triều đình đến năm 1675.
Quyển 1: kỷ nhà Đinh, kỷ nhà Lê
Quyển 2: kỷ nhà Lý: Thái Tổ, Thái Tông
Quyển 3: Thánh Tông, Nhân Tông
Quyển 4: Anh Tông, Cao Tông, Huệ Tông, Chiêu Hoàng
Quyền 5: kỷ nhà Trần, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông
Quyển 6: Anh Tông, Minh Tông
Quyển 7: Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Duệ Tông
Quyển 8: Phế Đế, Thuận Tông, Thiếu Đế, Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương
Quyển 9: kỷ Hậu Trần, kỷ thuộc Minh
Quyển 10: kỷ Lê Hoàng Triều: Thái Tổ
Quyển 11: Thái Tông, Nhân Tông
Quyển 12: Thánh Tông (thượng)
Quyển 13: Thánh Tông (hạ)
Quyển 14: Hiến Tông, Túc Tông, Uy Mục
Quyển 15: Tương Dực, Đà Vương, Cung Hoàng, Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Khanh
Quyển 16: Trang Tông, Trung Tông, Anh Tông, Mạc Đăng Doanh đến Mạc Mậu Hợp
Quyển 17: Thế Tông, Mạc Mậu Hợp
Quyển 18: Kính Tông, Chân Tông, Thần Tông
Quyển 19: Huyền Tông, Gia Tông
Quyển 2: kỷ nhà Lý: Thái Tổ, Thái Tông
Quyển 3: Thánh Tông, Nhân Tông
Quyển 4: Anh Tông, Cao Tông, Huệ Tông, Chiêu Hoàng
Quyền 5: kỷ nhà Trần, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông
Quyển 6: Anh Tông, Minh Tông
Quyển 7: Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Duệ Tông
Quyển 8: Phế Đế, Thuận Tông, Thiếu Đế, Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương
Quyển 9: kỷ Hậu Trần, kỷ thuộc Minh
Quyển 10: kỷ Lê Hoàng Triều: Thái Tổ
Quyển 11: Thái Tông, Nhân Tông
Quyển 12: Thánh Tông (thượng)
Quyển 13: Thánh Tông (hạ)
Quyển 14: Hiến Tông, Túc Tông, Uy Mục
Quyển 15: Tương Dực, Đà Vương, Cung Hoàng, Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Khanh
Quyển 16: Trang Tông, Trung Tông, Anh Tông, Mạc Đăng Doanh đến Mạc Mậu Hợp
Quyển 17: Thế Tông, Mạc Mậu Hợp
Quyển 18: Kính Tông, Chân Tông, Thần Tông
Quyển 19: Huyền Tông, Gia Tông
19 quyển Bản kỷ lại chia làm 3 phần:
Bản kỷ toàn thư: từ quyền 1 đến quyển 10
Bản kỷ thực lục: từ quyển 11 đến quyển 15
Bản kỷ tục biên: từ quyển 16 đến quyển 19
Bản kỷ thực lục: từ quyển 11 đến quyển 15
Bản kỷ tục biên: từ quyển 16 đến quyển 19
Bộ Đại Việt sử ký toàn thư với bố
cục như trên đã được hoàn thành, khắc in và công bố vào năm 1697.
Một vấn đề khoa học được đặt ra là
quá trình biên soạn từ Lê Văn Hưu đến Lê Hy diễn ra như thế nào, những ai đã
tham gia vào công trình đó, đóng góp của mỗi người (haymỗi nhóm) ra sao và để
lại dấu ấn gì trong bộ quốc sử cón lại đến ngày nay?
Muốn giải đáp vấn đề trên, chúng ta
hãy lấy bộ Đại Việt sử ký toàn thư đời Chính Hoà làm cơ sở và ngược dòng thời
gian, nghiên cứu những bộ sử tiền thân của nó, bắt đầu từ Đại Việt sử ký của Lê
Văn Hưu đời Trần.
Đ ạ
i V i ệ
t S ử
K ý N g o ạ
i K ỷ
T o à n T h ư
Quyển I
[1a] Triều Liệt Đại Phu, Quốc Tử Giám Tư Nghiệp, Kiêm Sử Quan
Tu Soạn, Thần Ngô Sĩ Liên Biên
Xét: Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy
địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt. Vua Nghiêu sai Hy
thị1
đến ở Nam Giao2
để định đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vua Vũ chia chín châu3
thì Bách Việt4
thuộc phần đất châu Dương, Giao Chỉ thuộc về đấy. Từ đời Thành Vương nhà Chu
[1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị5
, tên Việt bắt đầu có từ đấy.
K ỷ H ồ n g B à n g T h ị
Kinh Dương Vương
[1b] Tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông6
.
Nhâm Tuất, năm thứ 17
. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh
sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh8
lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [Kinh Dương Vương]. Vua là bậc thánh trí thông
minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám
vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong
cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ.
Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long9
sinh ra Lạc Long Quân (Xét: Đường kỷ chép: thời Kinh Dương có
người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động Đình Quân, lấy con thứ của
Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình Quân. Thế thì
Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia với nhau đã từ lâu rồi).
Lạc Long Quân
[2a] Tên húy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương.
Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh
trăm trứng), là tổ của Bách Việt. Một hôm, vua bảo Âu Cơ rằng: "Ta là
giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó".
Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam (có
bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Khi trời đất mới mở mang, có thứ do
khí hóa ra, đó là Bàn Cổ thị. Có khí hóa ra rồi sau có hình hóa, không thứ gì
ngoài hai khí âm dương cả. Kinh Dịch nói: "Trời đất nung ủ, vạn vật thuần
hóa, đực cái hợp tinh, vạn vật hóa sinh"10
. Cho nên có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua
tôi. [2b] Nhưng thánh hiền sinh ra, tất có khác thường, đó là do mệnh trời.
Nuốt trứng chim huyền điểu mà sinh ra nhà Thương11
, giẫm vết chân người khổng lồ mà dấy nhà Chu12
, đều là ghi sự thực như thế. Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh lấy con gái Vụ
Tiên mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái
Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai mà có phúc
lành sinh trăm con trai. Đó chẳng phải là cái đã gây nên cơ nghiệp của nước
Việt ta hay sao? Xét sách Thông Giám Ngoại kỷ (4)13
nói: Đế Lai là con Đế Nghi; cứ theo sự ghi chép ấy thì Kinh Dương Vương là em
ruột Đế Nghi, thế mà kết hôn với nhau, có lẽ vì đời ấy còn hoang sơ, lễ nhạc
chưa đặt mà như thế chăng?
Hùng Vương
Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam
Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước
Chiêm Thành, nay là Quảng Nam), chia nước làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ
Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài
Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đều là đất thần thuộc của Hùng
Vương; còn bộ gọi là Văn Lang là nơi vua đóng đô16
. Đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng (chữ
Lạc Tướng, sau chép sai là Hùng Tướng17
). Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương. Quan coi việc
gọi là Bồ Chính, đời đời cha truyền con nối, gọi là phụ đạo. Vua các đời đều
gọi là Hùng Vương. Bấy giờ dân ở rừng núi thấy ở sông ngòi khe suối đều có tôm
cá, nên rủ nhau đi bắt cá để ăn, thường bị thuồng luồng làm hại, [3b] đến thưa
với vua. Vua nói: "Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy
tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua
bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy
không cắn hại nữa. Tục vẽ mình của người Bách Việt có lẽ bắt đầu từ đấy.
Đời Hùng Vương thứ 6, ở hương Phù Đổng, bộ Vũ Ninh có người nhà giàu, sinh
một con trai, đến năm hơn ba tuổi ăn uống béo lớn nhưng không biết nói cười.
Gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, vua sai người đi tìm người có thể đánh lui
được giặc. Ngày hôm ấy, đứa trẻ bỗng nói được, bảo mẹ ra mời thiên sứ vào, nói:
"Xin cho một thanh gươm, một con ngựa, vua không phải lo gì". Vua ban
cho gươm và ngựa, đứa trẻ liền phi ngựa vung gươm tiến lên trước, quan quân
theo sau, đánh tan quân giặc ở chân núi Vũ Ninh18
. Quân giặc tự quay giáo đánh lẫn nhau, chết rất nhiều, bọn sống
sót đều rạp lạy, tôn gọi đứa trẻ ấy là thiên tướng, liền đến xin hàng cả. Đứa
trẻ phi ngựa [4a] lên trời mà đi. Vua sai sửa sang chỗ vường nhà của đứa trẻ để
lập đền thờ, tuế thời cúng tế. Về sau, Lý Thái Tổ phong là Xung Thiên Thần
Vương. (Đền thờ ở cạnh chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng).
Thời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN], nước Việt ta lần đầu sang thăm nhà
Chu (không rõ vào đời Hùng Vương thứ mấy), xưng là Việt Thường thị, hiến chim
trĩ trắng. Chu Công nói: "Chính lệnh không ban đến thì người quân tử không
coi người ta là bề tôi của mình", rồi sai làm xe chỉ nam đưa sứ giả về
nước.
Cuối thời Hùng Vương, vua có con gái gọi là Mị Nương, nhan sắc xinh đẹp.
Thục Vương nghe tiếng, đến cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng Hùng hầu can rằng:
"Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ mà thôi". Thục
Vương vì chuyện ấy để bụng oán giận. Vua muốn tìm người xứng đáng để gả, bảo
các bề tôi rằng: "Đứa con gái này là giống tiên, người nào có đủ tài đức
mới cho làm rể". Bấy giờ có hai người từ ngoài đến, lạy dưới sân để cầu
hôn. Vua lấy làm lạ, hỏi thì họ thưa rằng một người là [4b] Sơn Tinh, một người
là Thủy Tinh, đều ở trong cõi cả, nghe nhà vua có thánh nữ, đánh bạo đến xin
lĩnh mệnh. Vua nói: "Ta có một người con gái, lẽ nào lại được cả hai rể
hiền?". Bèn hẹn đến ngày hôm sau, ai đem đủ sính lễ đến trước thì gả cho
người ấy. Hai người vâng lời, lạy tạ ra về. Hôm sau, Sơn Tinh đem các đồ châu
báu vàng bạc, chim núi thú rừng đến dâng. Vua y hẹn gả con cho. Sơn Tinh đón vợ
về ở ngọn núi cao trên núi Tản Viên. Thủy Tinh cũng đem sính lễ đến sau, giận
tiếc là không kịp, bèn kéo mây làm mưa, dâng nước tràn ngập, đem các loài thủy
tộc đuổi theo. Vua cùng Sơn Tinh lấy lưới sắt chăng ngang thượng lưu sông Từ
Liêm19
để chặn lại. Thủy Tinh theo sông khác, từ Ly Nhân vào chân núi
Quảng Oai20
rồi theo dọc bờ lên cửa sông Hát, ra sông lớn21
mà rẽ vào sông Đà để đánh Tản Viên, nơi nơi đào sâu thành vực thành chằm, chứa
nước để mưu đánh úp. Sơn Tinh có phép thần biến hóa, gọi [5a]22
người man đan tre làm rào chắn nước, lấy nỏ bắn xuống, các loài có vẩy và có vỏ
trúng
tên đều chạy trốn cả. Rốt cuộc Thủy Tinh không thể xâm phạm được núi Tản
Viên. (Tục truyền Sơn Tinh và Thủy Tinh từ đấy về sau đời đời thù oán, mỗi năm
mùa nước to thường vẫn đánh nhau).
Núi Tản Viên là dãy núi cao của nước Việt ta, sự linh thiêng rất ứng nghiệm.
Mị Nương đã lấy Sơn Tinh, Thục Vương tức giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn
Lang mà chiếm lấy nước. Đến đời cháu là Thục Phán có dũng lược, bèn đánh lấy
nước.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thời Hùng Vương đặt chư hầu để làm
phên giậu, chia nước làm 15 bộ. Ở 15 bộ ấy đều có trưởng và tá. Vua theo thứ
bậc cắt đặt các con thứ để cai trị. Nói 50 con theo mẹ về núi, làm sao biết
không phải là như thế? Vì mẹ làm quân trưởng, các con đều làm chúa một phương.
Cứ xem như tù trưởng người man ngày nay xưng là nam phụ đạo, [5b] nữ phụ đạo
(nay bản triều đổi chữ phụ đạo ___ ___ thành chữ phụ đạo ___ ___ thì có lẽ đúng
như thế). Còn như việc Sơn Tinh, Thủy Tinh thì rất là quái đản, tin sách chẳng
bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ
thôi).
Trở lên là [kỷ] Hồng Bàng thị, từ Kinh Dương Vương được phong
năm Nhâm Tuất, cùng thời với Đế Nghi, truyền đến cuối thời vua Hùng Vương,
ngang với đời Noãn Vương nhà Chu năm thứ 57 [258 TCN] là năm Quý Mão thì hết,
tất cả 2.622 năm [2879 - 258 TCN].
K ỷ N h à T h ụ c
An Dương Vương
Họ Thục, tên húy là Phán, người Ba Thục23
, ở ngôi 50 năm, đóng đô ở Phong Khê (nay là thành Cổ Loa).
[6a] Giáp Thìn, năm thứ 1 [257 TCN], (Chu
Noãn Vương năm thứ 58). Vua đã thôn tính được nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là
Âu Lạc. Trước kia vua nhiều lần đem quân đánh Hùng Vương, nhưng Hùng Vương binh
hùng tướng mạnh, vua bị thua mãi. Hùng Vương bảo vua rằng: "Ta có sức
thần, nước Thục không sợ ư ?" Rồi Hùng Vương bỏ không sửa sang võ bị, chỉ
ham ăn uống vui chơi. Quân Thục kéo sát đến nơi, hãy còn say mềm chưa tỉnh, rồi
thổ huyết nhảy xuống giếng chết, quân lính quay giáo đầu hàng Thục Vương.
Bấy giờ Thục Vương đắp thành ở Việt Thường, rộng nghìn trượng, cuốn tròn như
hình con ốc, cho nên gọi là Loa Thành24
, lại có tên là thành Tư Long (người nhà Đường gọi là thành Côn
Lôn, vì thành rất cao25
). Thành này cứ đắp xong lại sụt, vua lấy làm lo, mới trai giới khấn trời đất
và thần kỳ núi sông, rồi khởi công đắp lại.
Bính Ngọ, năm thứ 3 [255 TCN], (Động
Chu Quân năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, chợt có thần nhân đến cửa thành, trỏ
[6b] vào thành, cười mà nói rằng: "Đắp đến bao giờ cho xong!". Vua
mời vào điện hỏi, thần nhân trả lời: "Cứ đợi giang sứ đến". Rồi cáo
từ đi ngay. Sáng hôm sau, vua ra cửa thành, quả thấy có con rùa vàng bơi trên
sông từ phía đông đến, xưng là giang sứ, nói được tiếng người, bàn được việc
tương lai. Vua mừng lắm, để vào mâm vàng, đặt mâm lên trên điện. Vua hỏi về
nguyên
do thành sụp, rùa vàng đáp: "Đó là do tinh khí núi sông vùng này bị con
vua trước phụ vào để báp thù nước, nấp ở núi Thất Diệu. Trong núi có con quỷ,
đó là người con hát thời trước chôn ở đấy hóa làm quỷ. Cạnh núi có cái quán,
chủ quán tên là Ngộ Không, có một đứa con gái và một con gà trắng, đó là dư khí
của tinh, phàm người qua lại ngủ đêm ở đấy đều phải chết vì bị quỷ làm hại.
Chúng có thể gọi nhau họp đàn lũ, làm cho sụp thành. Nếu giết con gà trắng để
trừ tinh khí ấy, thì thành tự nhiên được [7a] bền vững. Vua đem rùa vàng đến
quán ấy, giả làm người ngủ trọ. Chủ quán nói: "Ngài là quý nhân, xin đi
ngay, chớ lưu lại đây mà bị họa". Vua cười nói: "Sống chết có mệnh,
ma quỷ làm gì nổi ?". Rồi ngủ lại quán. Đến đêm nghe tiếng tinh quỷ từ
ngoài đến gọi mở cửa, rùa vàng liền quát mắng, quỷ không vào được, đến khi gà gáy
thì lũ quỷ tan chạy hết. Rùa vàng xin vua đuổi theo. Tới núi Thất Diệu thì tinh
khí biến mất, vua trở về quán. Sáng sớm, chủ quán tưởng vua đã chết rồi, gọi
người đến để khâm liệm đem chôn. Thấy vua vẫn vui vẻ cười nói, chủ quán liền
sụp lạy nói: "Ngài làm sao được như thế, tất phải là thánh nhân!".
Vua xin con gà trắng giết để tế. Gà chết, con gái chủ quán cũng chết theo. Vua
liền sai người đào núi, thấy có nhạc khí cổ và xương người, đem đốt thành tro,
rải xuống sông, yêu khí mới mất hẳn. Từ đấy, đắp thành không [7b] quá nửa tháng
thì xong. Rùa vàng cáo từ ra về. Vua cảm tạ, hỏi rằng: "Đội ơn ngài thành
đắp đã vững, nếu có giặc ngoài đến, thì lấy gì mà chống giữ ?" Rùa vàng
bèn trút chiếc móng trao cho vua và nói: "Nước nhà yên hay nguy đều do số
trời, nhưng người cũng nên phòng bị; nếu có giặc đến thì dùng móng thiêng này
làm lẫy nỏ, nhằm vào giặc mà bắn thì không phải lo gì". Vua sai bề tôi là
Cao Lỗ (có sách chép là Cao Thông26
) làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim
Trảo Thần Nỏ.
Cao Vương nhà Đường [tức Cao Biền] dẹp nước Nam Chiếu, khi đưa quân về qua
châu Vũ Ninh, đêm nằm chiêm bao thấy có người lạ tự xưng là Cao Lỗ, nói:
"Ngày xưa giúp An Dương Vương, có công đánh lui giặc, bị Lạc hầu gièm pha,
phải bỏ đi, sau khi chết, trời thương không có tội gì, ban cho một dải núi sông
này, cho làm chức quản lĩnh đô thống tướng quân, làm chủ mọi việc đánh dẹp giặc
giã và mùa màng cày cấy. Nay theo minh công đi dẹp yên quân giặc, lại trở về
bản bộ, không có lời từ biệt thì không phải lễ. Cao Vương thức dậy, nói chuyện
lại với liêu thuộc, có làm bài thơ:
Mỹ hĩ Giao Châu địa, Du Du vạn tải lai. Cổ hiền năng đắc
kiến, Chung bất phụ linh đài. (Đẹp thay đất Giao Châu,
Dằng dặc trải muôn thâu. Người xưa nay được thấy, Hả tấm lòng bấy lâu).
Nhâm Tý, năm thứ 9 [249 TCN], (Đông Chu Quân năm thứ 7; [bấy giờ có] 7 nước là Tần, Sở, Yên, Triệu,
Ngụy, Hàn, Tề). Năm ấy nhà Chu mất.
[8a] Canh Thìn, năm thứ 37 [221 TCN], (Tần
Thủy Hoàng Lữ Chính năm thứ 26). Nước Tần thôn tính cả 6 nước, xưng hoàng đế.
Bấy giờ người Từ Liêm, Giao Chỉ ta, là Lý Ông Trọng27
người cao 2 trượng 3 thước, lúc ít tuổi đến hương ấp làm lực dịch, bị trưởng
quan đánh, bèn bỏ sang nước Tần làm quan đến chức Tư lệ hiệu úy. Thủy Hoàng lấy
được thiên hạ, sai ông đem quân đóng giữ đất Lâm Thao28
, uy danh chấn động nước Hung Nô. Khi tuổi già, về làng rồi chết. Thủy Hoàng
cho ông là người kỳ lạ, đúc đồng làm tượng, để ở cửa Tư Mã ở Hàm Dương, bụng
tượng chứa được mấy chục người, ngầm lay thì chuyển động được, Hung Nô tưởng đó
là hiệu úy còn sống, không dám đến xâm phạm (Triệu Xương nhà Đường làm đô hộ
Giao Châu, đêm thường nằm chiêm bao thấy cùng Ông Trọng giảng bàn sách Xuân
Thu, Tả Truyện, nhân hỏi chỗ ở cũ, rồi dựng đền thờ. Khi Cao Vương đi đánh Nam
Chiếu, thần thường hiển linh giúp sức. Cao Vương cho sửa lại đền thờ, tạc gỗ
làm tượng, gọi là [tượng] Lý hiệu úy. Đề ở xã Thụy Hương huyện Từ Liêm)29
.
Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần
Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể [8b]
người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền,
sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục
Dương, đặt các quận Quế Lâm (nay là huyện Quý của đất Minh, Quảng Tây)30
, Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là An Nam)31
; cho Nhâm Ngao32
làm Nam Hải úy, Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh (Long Xuyên là thuộc huyện của Nam
Hải), đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng đồn ở Ngũ Lĩnh, Ngao và
Đà nhân đó mưu xâm chiếm nước ta. (Chuế tế: con trai không có tiền nộp sính lễ,
lấy thân ở gửi nhà vợ nên gọi là chuế tế [ở gửi rể] như cái bướu ở mình người
ta, là vật thừa. Lục Lương là người Lĩnh Nam phần nhiều ở chỗ núi rừng, trên
cạn (lục), tính người mạnh tợn (cường lương) nên gọi là Lục Lương).
Tân Mão, năm thứ 48 [210 TCN], (Tần
Thủy Hoàng năm thứ 37). Mùa đông, tháng 10, Thần Thủy Hoàng mất ở Sa Khâu. Nhâm
Ngao và Triệu Đà đem quân sang xâm lấn. Đà đóng quân ở núi Tiên Du, Bắc Giang33
đánh nhau với vua. Vua đem nỏ thần ra bắn, Đà thua chạy. Bấy giờ Ngao đem thủy
quân đóng ở Tiểu Giang (tức là [con sông] ở phủ [9a] Đô hộ, sau lầm là Đông Hồ,
tức là bến Đông Hồ ngày nay)34
, vì phạm thổ thần nên bị bệnh, phải rút về. Nhâm Ngao bảo Đà rằng: "Nhà
Tần sắp mất, dùng mưu kế đánh Phán thì có thể dựng nước được". Đà biết vua
có nỏ thần, không thể địch nổi, bèn lui giữ núi Vũ Ninh, sai sứ đến giảng hòa.
Vua mừng, bèn chia từ Bình Giang (nay là sông Thiên Đức ở huyện Đông Ngàn) trở
lên phía Bắc thuộc quyền cai trị của Đà, trở về phía Nam thuộc quyền cai trị
của vua. Đà sai con là Trọng Thủy vào hầu làm túc vệ, cầu hôn con gái vua là Mỵ
Châu. Vua bằng lòng. Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu để xem trộm nỏ thần, rồi ngầm bẻ gãy
lẫy nỏ, thay cái khác vào, giả vờ về Bắc thăm cha mẹ, bảo Mỵ Châu rằng:
"Ân tình vợ chồng không thể quên nhau, nếu lỡ hai nước không hòa, Nam Bắc
cách biệt, ta lại tới đây thì làm thế nào mà tìm thấy nhau?". Mỵ Châu nói:
"Thiếp có cái nệm gấm lông ngỗng, thường mang theo mình, đi đến đâu thì
rút lông ngỗng rắc ở chỗ đường rẽ để làm dấu". Trọng Thủy về báo cho Đà
biết.
[9b] Quý Tỵ, năm thứ 50 [208 TCN] (Tần
Nhị Thế Hồ Hợi, năm thứ 2). Nhâm Ngao ốm sắp chết, bảo Đà rằng: "Tôi nghe
nói bọn Trần Thắng làm loạn, lòng dân chưa biết theo về đâu. Đất này ở nơi xa
lánh, sợ bọn giặc xâm phạm đến đây, muốn cùng ông chặt đường (đường vào đất
Việt do nhà Tần mở), tự phòng bị, đợi xem chư hầu biến động thế nào". Đến
khi ốm nặng, lại nói: "Đất Phiên Ngung (nhà Hán gọi là Nam Thành) dựa núi
cách sông, đông tây dài mấy nghìn dặm, vả có người Tần cùng giúp, cũng đủ dựng
nước, dấy vương, làm chủ một phương. Các trưởng lại trong quận này không người
nào đáng cùng mưu bàn, cho nên tôi gọi riêng ông để bảo". Rồi Ngao lấy Đà thay
mình. Ngao chết, Đà liền gửi hịch đến các cửa ải Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàng
Khê, nói: "Quân giặc sắp đến, phải gấp chặt đường, họp binh tự giữ".
Hịch đến nơi, các châu quận đều hưởng ứng. Bấy giờ Đà giết hết các trưởng lại
do nhà Tần đặt, đem thân thích phe cánh thay làm thú lệnh. Đà đem quân đến đánh
vua, vua không biết lẫy nỏ đã mất [10a], ngồi đánh cờ cười mà bảo: "Đà
không sợ nỏ thần của ta sao?". Quân của Đà tiến sát đến nơi, vua giương nỏ
thì lẫy đã gãy rồi. Vua thua chạy, để Mỵ Châu ngồi trên ngựa, cùng chạy
về phía nam. Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng đuổi theo. Vua đến bờ biển, hết
đường mà không có thuyền, liền gọi rùa vàng mấy tiếng: "Mau đến cứu
ta!" Rùa vàng nổi lên mặt nước, mắng rằng: "Kẻ ngồi sau ngựa là giặc
đấy, sao không giết đi?". Vua rút gươm muốn chém Mỵ Châu, Mỵ Châu khấn
rằng: "Trung tín trọn tiết, bị người đánh lừa, xin hóa thành ngọc châu để
rửa thù nhục này". Cuối cùng vua vẫn chép Mỵ Châu, máu chảy loang mặt
nước, loài trai nuốt vào bụng, hóa làm hạt minh châu. Vua cầm sừng tê văn dài 7
tấc xuống biển mà đi (tức như ngày nay gọi là sừng tê rẽ nước. Tục truyền núi
Dạ Sơn xã Cao Xá ở Diễn Châu là nơi ấy). Trọng Thủy đuổi theo đến nơi, thấy Mỵ
Châu đã chết, thương khóc ôm xác đem về chôn ở Loa Thành, hóa làm đá ngọc.
Trọng Thủy nhớ tiếc Mỵ Châu, trở lại chỗ Mỵ Châu [10b] tắm gội trang điểm khi
trước, thương nhớ không nguôi, cuối cùng nhảy xuống giếng mà chết. Người sau
được hạt minh châu ở biển Đông, lấy nước giếng ấy mà rửa, sắc ngọc càng sáng
hơn.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Chuyện rùa vàng đáng tin chăng?
Chuyện thần giáng đất Sần35
, chuyện đá biết nói36
cũng có thể là có. Vì việc làm của thần là dựa theo người, thác vào vật mà nói
năng. Nước sắp thịnh, thần minh giáng để xem đứa hóa; nước sắp mất, thần cũng
giáng để xét tội ác. Cho nên có khi thần giáng mà hưng, cũng có khi thần giáng
mà vong. An Dương Vương hưng công đắp thành có phần không dè đặt sức dân, cho
nên thần thác vào rùa vàng để răn bảo, chẳng phải là vì lời oán trách động dân
mà thành ra như thế ư? Nhưng thế cũng còn là khá. Đến như lo họa hoạn về sau mà
nài xin với thần, thì lòng riêng đã nảy. Lòng riêng một khi nảy mầm thì lẽ trời
theo đó mà mất, [11a] sao thần lại chẳng gieo cho tai họa! Rùa vàng trút móng
thiêng trao cho, bảo là có thể đánh lui được quân địch, đó là mầm họa chăng?
Như chuyện thần ban cho nước Quắc ruộng đất mà sao đó nước Quắc cũng mất theo.
Sau [An Dương Vương] quả nhiên như vậy. Thế chẳng phải là thần theo người mà
hành động sao? Nếu không có lời nài xin [với rùa vàng], cứ theo đạo lý mà làm,
biết đâu quốc thống lại chẳng được lâu dài? Đến như chuyện Mỵ Châu rắc lông
ngỗng chỉ đường, thì chưa chắc đã có. Nếu có thì chỉ một lần là phải, thế mà
sau này con gái Triệu Việt Vương lại bắt chước mà cũng nói như thế, là làm sao?
Có lẽ người chép sử cho rằng nhà Thục và nhà Triệu mất nước đều do con rể, cho
nên nhân một việc mà nói hai lần chăng? Thế thì việc ma quỷ làm đổ thành cũng
đáng tin sao? Trả lời rằng: Đại loại cũng như chuyện Bá Hữu làm quỷ dữ, sau
người nước Trịnh lập con cháu của Hữu, [hồn của Hữu] có chỗ nương tựa rồi thì
hết37
. Thế là trừ bỏ yêu khí, quỷ không [11b] có chỗ phụ vào nữa thì phải thôi. Đến
như sử chép An Dương Vương bại vong là do nỏ thần bị đỗi lẫy, Triệu Việt Vương
bại vong vì mũ đâu mâu mất móng rồng, đều là mượn lời để cho vật trở thành
thiêng mà thôi. Đại phàm việc giữ nước chống giặc tự có đạo lý của nó, đúng đạo
lý thì được nhiều người giúp mà nước hưng, mất đạo lý thì ít người giúp mà nước
mất, không phải vì những thứ ấy.
Trở lên là [kỷ] An Dương Vương, khởi từ năm Giáp Thìn đến năm
Quý Tỵ là hết, tất cả 50 năm [257 - 208 TCN].
Đ ạ
i V i ệ
t S ử
K ý N g o ạ
i K ỷ
T o à n T h ư
Quyển II
[1a]
K ỷ N h à T r i ệ u38
Vũ Đế
Ở ngôi 71 năm [207 - 136 TCN], thọ 121 tuổi [256 - 136 TCN].
Họ Triệu, nhân lúc nhà Tần suy loạn, giết trưởng lại Tần, chiếm giữ đất Lĩnh
Nam, xưng đế, đòi ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi 100 năm mới mất,
cũng là bậc vua anh hùng.
Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định39
nước Hán, đóng đô ở Phiên Ngung (nay ở tỉnh Quảng Đông)40
.
Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207 TCN] , (Tần
Nhị Thế năm thứ 3). Vua chiếm lấy đất Lâm Ấp41
và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vương.
Ất Mùi, năm thứ 2 [206 TCN] , (Tây Sở
Bá Vương Hạng Tịch năm thứ 1; Hán Vương Lưu Bang năm thứ I). Năm ấy nhà Tần
mất.
[1b] Đinh Dậu, năm thứ 4 [204 TCN] ,
(Sở Hạng Tịch năm thứ 3; Hán Lưu Bang năm thứ 3). Mùa đông, tháng 10, ngày 30,
nhật thực. Tháng 11, ngày 30, nhật thực.
Mậu Tuất, năm thứ 5 [203 TCN] , (Sở
Hạng Tịch năm thứ 4; Hán Lưu Bang năm thứ 4). Mùa thu, tháng 7, sao Chổi mọc ở
khu vực sao Đại Giác.
Kỷ Hợi, năm thứ 6 [202 TCN] , (Hán Cao
Đế năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 2, Hán Vương lên ngôi hoàng đế. Năm ấy Tây Sở
mất.
Quý Mão, năm thứ 10 [198 TCN], (Hán Cao
Đế năm thứ 9). Vua sai hai sứ coi giữ hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân.
Ất Tỵ, năm thứ 12 [196 TCN], (Hán Cao
Đế năm thứ 11) Nhà Hán đã định được thiên hạ, nghe tin vua cũng đã xưng vương ở
nước Việt, mới sai Lục Giả sang phong vua làm Nam Việt Vương, trao cho ấn thao42
và con so bổ đôi43
, thông sứ với nhau, bảo vua giữ yên đất Bách Việt, chớ cướp phá. Khi sứ
đến, vua ngồi xổm mà tiếp Lục Giả. Giả nói: "Vương vốn là [2a] người
Hán, họ hàng mồ mả đều ở nước Hán, nay lại làm trái tục nước mình, muốn chiếm
đất này làm kẻ địch chống chọi với nhà Hán, há chẳng lầm hay sao? Vả lại, nhà
Tần mất con hươu44
, thiên hạ đều tranh nhau đuổi, chỉ có Hán Đế khoan nhân yêu
người, dân đều vui theo, khởi quân từ đất Phong Bái mà vào Quan Trung trước
tiên để chiếm giữ Hàm Dương, dẹp trừ hung bạo. Trong khoảng 5 năm, dẹp yên loạn
lạc, bình định bốn biển, đó không phải là sức người làm nổi, tức là trời cho.
Hán Đế nghe vương làm vua ở đất này, từng muốn quyết một phen được thua, nhưng
vì dân chúng lao khổ vừa xong cho nên phải bỏ ý định, sai sứ mang ấn thao cho
vương, đáng lẽ vương phải ra ngoài giao45
nghênh đón bái yết để tỏ lòng tôn kính. Nay đã không làm thế, thì nên sắm lễ mà
tiếp sứ giả mới phải, sao lại cậy dân Bách Việt đông mà khinh nhờn sứ giả của
thiên tử? Thiên Tử nghe biết, phát binh sang hỏi tội, thì vương làm thế
nào?". Vua ra dáng sợ hãi, đứng dậy nói: "Tôi ở đất này lâu ngày [2b]
quên mất cả lễ nghĩa". Nhân hỏi Giả rằng: "Tôi với Tiêu Hà, Tào Tham
ai hơn?"46
Giả nói: "Vương hơn chứ". Lại hỏi: "Tôi với vua Hán ai
hơn?". Giả nói: "Hán Đế nối nghiệp của Ngũ Đế Tam Vương, thống trị
người Hán kể hàng ức vạn người, đất rộng hàng muôn dặm, vật thịnh dân giàu,
quyền chính chỉ do một nhà, từ khi trời đất mở mang đến nay chưa từng có. Nay
dân của vương, chẳng qua mười vạn ở, ở xen khoảng núi biển, chỉ ví như một quận
của nhà Hán, ví với Hán Đế sao được?". Vua cười và nói: "Tôi lấy làm
giận không được nổi dậy ở bên ấy, biết đâu chẳng bằng nhà Hán?" Giả ngồi
im lặng, sắc mặt tiu nghỉu. Bèn giữ Giả ở lại vài tháng. Vua nói: "Ở đất
Việt này không ai đủ để nói chuyện được. Nay ông đến đây hàng ngày tôi được
nghe những chuyện chưa từng nghe." Cho Giả đồ châu báu giá nghìn vàng để
làm vật bỏ bao. Đến khi Giả về, lại cho thêm nghìn vàng nữa.
[3a] Bính Ngọ, năm thứ 13 [195 TCN], (Hán
Cao Đế năm thứ 12). Mùa hạ, tháng 4, vua Hán băng.
Canh Tuất, năm thứ 17 [191 TCN], (Hán
Huệ Đế Doanh năm thứ 4). Mùa hạ, nhà Hán dựng Nguyên Miếu ở phía bắc sông Vị.
Quý Sửu, năm thứ 20 [188 TCN], (Hán Huệ
Đế năm thứ 7) Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng một, nhật thực. Mùa hạ, tháng 5,
nhật thực, mặt trời bị che khuất hết. Mùa thu, tháng 8, vua Hán băng.
Ất Mão, năm thứ 22 [186 TCN], (Hán Cao
Hậu Lữ Trĩ năm thứ 2). Mùa hạ, tháng 6, ngày 30, nhật thực.
Đinh Tỵ, năm thứ 24 [184 TCN], (Hán Cao
Hậu năm thứ 4). Nhà Hán cấm nước Nam Việt mua đồ sắt ở cửa quan. Vua nói:
"Khi Cao Đế lên ngôi, ta cùng thông sứ chung đồ dùng. Nay Cao Hậu nghe lời
gièm pha, phân biệt đồ dùng Hán, Việt. Việc này tất là mưu kế của Trường Sa
Vương47
muốn dựa uy đức của nhà Hán mưu lấy nước ta mà làm vua cả, tự làm công của
mình".
[3b] Mậu Ngọ, năm thứ 25 [183 TCN], (Hán
Cao Hậu năm thứ 5). Mùa xuân, vua lên ngôi hoàng đế, đem quân đánh Trường Sa,
đánh bại mấy quận rồi về.
Canh Thân, năm thứ 27 [181 TCN], (Hán
Cao Hậu năm thứ 7). Nhà Hán sai Lâm Lư hầu Chu Táo sang đánh Nam Việt để báo
thù việc đánh Trường Sa. Gặp khi nắng to ẩm thấp, bệnh dịch phát, bèn bãi quân.
Vua nhân thế dùng binh uy và của cải để chiêu vỗ Mân Việc và Âu Lạc ở phía tây
(tức là Giao Chỉ và Cửu Chân), các nơi ấy đều theo về, từ đông sang tây rộng
hơn vạn dặm. Vua ngồi xe mui vàng, dùng cờ tả đạo48
, cho là nghi vệ ngang với nhà Hán.
Tân Dậu, năm thứ 28 [180 TCN], (Hán Cao
Hậu năm thứ 8). Mùa thu, tháng 7, Cao Hậu băng, các đại thần đón Đại vương Hằng
lên ngôi, tức là Văn Đế.
Nhâm Tuất, năm thứ 29 [179 TCN], (Hán Văn Đế Hằng năm thứ 1). Vua Hán vì
thấy mồ mả tổ tiên của vua đều ở Chân Định [4a] mới đặt người thủ ấp để trông
coi, tuế thời cúng tế, gọi các anh em của vua cho làm quan to, ban cho hậu. Vua
Hán hỏi Tể tướng Trần Bình có thể cử ai sang sứ Nam Việt được, Bình nói:
"Lục Giả thời Tiên đế đã từng sang sứ Nam Việt". Vua Hán gọi Giả cho
làm Thái trung đại phu, lấy một người yết giả49
làm phó sứ, đem thư sang cho vua. Thư nói: "Kính hỏi thăm
Nam Việt Vương rất lao tâm khổ ý. Trẫm là con vợ lẽ của Cao Đế, phải đuổi ra
ngoài làm phiên vương ở đất Đại, vì đường sá xa xôi, kiến thức hẹp hòi quê
kệch, nên chưa từng gửi thư. Cao Hoàng Đế lìa bỏ bầy tôi, Hiếu Huệ Hoàng Đế qua
đời, Cao Hậu tự lên trông coi việc nước, không may có bệnh, người họ Lữ chuyên
quyền làm bậy, một mình khống chế ngự được, mới lấy con người họ khác nối
nghiệp Hiếu Huệ Hoàng Đế. Nhờ anh linh tông miếu và sức lực của các công thần,
đã giết hết bọn ấy. Trẫm vì các vương hầu và quan lại không cho từ chối, không
thể không nhận, nay đã lên ngôi. Mới rồi nghe nói vương có gửi thư cho tướng
[4b] quân Lâm Lư hầu, muốn tìm anh em thân và xin bãi chức hai tướng quân ở
Trường Sa. Trẫm theo thư của vương, đã bãi chức tướng quân Bác Dương hầu rồi,
còn anh em thân của vương hiện ở Chân Định, trẫm đã sai người đến thăm hỏi và
sửa đắp phần mộ tiên nhân của vương rồi. Ngày trước nghe tin vương đem quân
đánh biên giới, cướp phá mãi không thôi, dân Trường Sa khổ sở mà Nam Quận khổ
nhất, nước của vương há được lợi riêng hay sao? Tất phải chết nhiều quân lính,
hại các tướng lại tài giỏi, làm cho vợ góa chồng, con mồ côi, cha mẹ mất con,
được một hại mười, trẫm không nỡ làm thế. Trẫm muốn phân định đất phong xen kẽ
để chế ngự lẫn nhau50
, đem việc ra hỏi, bọn quan lại đều nói: "Cao Hoàng Đế sở dĩ lấy Trường Sa
làm địa giới, vì [quá chỗ đó] là đất của vương, không nên tự tiện thay
đổi". Nay dù lấy được đất đai của vương cũng không đủ lớn thêm, lấy được
của cải của vương cũng không đủ giàu thêm, cõi đất từ Ngũ Lĩnh về nam, vương cứ
việc trị lấy. Tuy vậy, vương xưng là [5a] đế, hai đế cùng lập mà không có xe sứ
thông hiếu, thế là tranh nhau. Tranh mà không biết nhường thì người có nhân
không làm. Trẫm nguyện cùng vương đều bỏ hiềm trước, từ nay trở đi thông hiếu
như xưa. Vì vậy mới sai Lục Giả sang đưa tờ dụ, để tỏ với vương bản ý của trẫm.
Vương cũng nên nghe theo, chớ làm những việc cướp phá nữa. Nhân gửi biếu vương
50 chiếc áo bông thượng hạng, 30 chiếc áo bông trung hạng, 20 chiếc áo bông hạ
hạng. Mong rằng Vương hãy nghe nhạc tiêu sầu và thăm hỏi nước láng giềng".
Khi Giả đến, vua tạ lỗi nói: "Kính vâng chiếu chỉ, xin làm phiên vương,
giữ mãi lệ cống". Rồi đó vua hạ chiếu rằng: "Trẫm nghe: hai người
hùng không đứng cùng nhau, hai người hiền không ở cùng đời. Hoàng Đế nhà Hán là
bậc thiên tử hiền tài, từ nay ta triệt bỏ xe mui vàng và cờ tả đạo là nghi chế
của hoàng đế". Nhân viết thư rằng: "Man Di đại trưởng lão phu, thần
Đà, mạo muội đáng chết, hai lạy dâng thư lên hoàng đế bệ hạ. Lão phu vốn là lại
cũ ở đất Việt, Cao Đế ban cho ấn [5b] thao làm Nam Việt Vương. Hiếu Huệ Hoàng
Đế lên ngôi, vì nghĩa không nỡ tuyệt nên ban cho lão phu rất hậu. Cao Hậu lên
coi việc nước lại phân biệt Hoa - Di, ra lệnh không cho Nam Việt những khí cụ
làm ruộng bằng sắt và đồng; ngựa, trâu, dê nếu cho thì cũng chỉ cho con đực,
không cho con cái. Lão phu ở đất hẻo lánh, ngựa, trâu, dê đã già. Tự nghĩ nếu
không sắm lễ vật cúng tế, thì tội thực đáng chết, mới sai nội sử Phan, trung úy
Cao, ngự sử Bình, ba bọn dâng thư tạ lỗi, nhưng đều không thấy trở về. Lại nghe
đồn rằng, phần mộ của cha mẹ lão phu bị đập phá, anh em họ hàng đều bị giết. Vì
vậy, bọn lại bàn nhau rằng: "Nay bên trong không được phấn chấn với nhà
Hán, bên ngoài không lấy gì để tự cao khác với nước Ngô". Vì vậy mới đổi
xưng hiệu là đế, để tự làm đế nước mình, không dám làm điều gì hại đến thiên
hạ. Cao Hoàng Hậu nghe tin cả giận, tước bỏ sổ sách của Nam Việt, khiến cho
việc sai người đi sứ không thông. Lão phu trộm ngờ là vì Trường Sa Vương gièm
[6a] pha, cho nên mới đem quân đến đánh biên giới. Lão phu ở đất Việt 49 năm,
đến nay đã ẵm cháu rồi, những vẫn phải dậy sớm, ngủ muộn, nằm không yên chiếu,
ăn không biết ngon, mắt không trông sắc đẹp, tai không nghe tiếng chuông trống,
chỉ vì không được làm tôi nhà Hán mà thôi. Nay may được bệ hạ có lòng thương
đến,
được khôi phục hiệu cũ, cho thông sứ như trước, lão phu dù chết xương cũng
không nát. Vậy xin đổi tước hiệu, không dám xưng đế nữa. Kính cẩn sai sứ giả
dâng một đôi ngọc bích trắng, 1.000 bộ lông chim trả, 10 sừng tên, 500 vỏ ốc
màu tía, 1 giỏ cà cuống, 40 đôi chim trả sống, 2 đôi chim công. Mạo muội liều
chết, hai lạy dâng lên hoàng đế bệ hạ".
Lục Giả đem thư ấy về báo, vua Hán rất mừng. Từ đấy Nam Bắc giao hảo, thôi
việc binh đao, dân được yên nghỉ.
Quý Hợi, năm thứ 30 [178 TCN], (Hán Văn
Đế năm thứ 2). Mùa đông, tháng 10, ngày 30, nhật thực.
[6b] Giáp Tý, năm thứ 31 [177 TCN], (Hán
Văn Đế năm thứ 3). Mùa đông, tháng 10, ngày 30 nhật thực. Tháng 11, ngày 30,
nhật thực.
Tân Tỵ, năm thứ 48 [160 TCN], (Hán Văn
Đế Hậu Nguyên, năm thứ 4). Mùa hạ, tháng 4, ngày 30, nhật thực.
Giáp Thân, năm thứ 51 [157 TCN], (Hán
Văn Đế năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 6, vua Hán băng, có chiếu dặn để tang ngắn.
Mùa thu, tháng 9, sao Chổi mọc ở phương tây.
Ất Dậu, năm thứ 52 [156 TCN], (Hán Cảnh
Đế Khải, năm thứ 1). Nhà Hán chiếu sai các quận quốc dựng miếu Thái Tông.
Bính Tuất, năm thứ 53 [155 TCN], (Hán
Cảnh Đế năm thứ 2). Mùa đông, tháng 11, có sao Chổi mọc ở phương tây.
Đinh Hợi, năm thứ 54 [154 TCN], (Hán
Cảnh Đế năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, có sao Chổi đuôi dài mọc ở phương
tây. Tháng ấy, ngày 30, có nhật thực.
[7a] Mậu Tý, năm thứ 55 [153 TCN], (Hán
Cảnh Đế năm thứ 4). Mùa đông, tháng 10, ngày 30, nhật thực.
Quý Tỵ, năm thứ 60 [148 TCN], (Hán Cảnh
Đế Trung Nguyên năm thứ 2). Mùa hạ, tháng 4, có sao Chổi mọc ở phía tây bắc.
Mùa thu, tháng 9, ngày 30, có nhật thực.
Giáp Ngọ, năm thứ 61 [147 TCN], (Hán
Cảnh Đế năm thứ 3). Mùa thu, tháng 9, có sao Chổi mọc ở phía tây bắc. Tháng ấy,
ngày 30, nhật thực.
Ất Mùi, năm thứ 62 [146 TCN], (Hán Cảnh
Đế năm thứ 4). Mùa đông, tháng 10, ngày 30, nhật thực.
Đinh Dậu, năm thứ 64 [144 TCN], (Hán
Cảnh Đế năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7, ngày 30, nhật thực. Bấy giờ vua sai sứ
sang nhà Hán thì xưng là vương, giữ lễ triều yết cũng như các nước chư hầu, ở
trong nước thì theo hiệu cũ [đế].
[7b] Mậu Tuất, năm thứ 65 [143 TCN], (Hán
Cảnh Đế Hậu Nguyên, năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, ngày 30, nhật thực.
Canh Tý, năm thứ 67 [141 TCN], (Hán
Cảnh Đế [Hậu Nguyên] năm thứ 3). Mùa đông51
, tháng 10, mặt trời, mặt trăng đều sắc đỏ. Tháng 12, sắc mặt trời đỏ tía, năm
sao đi ngược chiều ôm lấy chòm sao Thái Vi; mặt trăng đi xuyên vào Thiên Đình
(Thiên Đình tức là 10 ngôi sao cung viên Thái Vi ở góc hữu sao Long Tinh, ở
khoảng sao Dực sao Chẩn; ấy là cung của thiên tử; tòa của ngũ đế).
Mùa xuân, tháng giêng, vua Hán băng.
Nhâm Dần, năm thứ 69 [139 TCN], (Hán Vũ
Đế Triệt, Kiến Nguyên năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 30, nhật thực.
Mùa hạ, tháng 4, có sao to bằng mặt trời mọc ban đêm.
Quý Mão, năm thứ 70 [138 TCN], (Hán
Kiến Nguyên năm thứ 3). Mùa thu, tháng 7, sao Chổi mọc ở phía tây bắc. Tháng 9,
ngày 30, nhật thực.
Giáp Thìn, năm thứ 71 [137 TCN], (Hán
Kiến Nguyên, năm thứ 4). Vua băng, thụy là Vũ Đế. Cháu là Hồ lên nối ngôi. (Về
sau, nhà Trần [8a] phong là Khai Thiên Thể Đạo Thánh Vũ Thần Triết Hoàng Đế).
Lê Văn Hưu nói: Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành
phong tục mặc áo đội mũ [như Trung Hoa], đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không
thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi
trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại. Thế
mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ
xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước,
đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp đế
vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước
Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân
quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ
cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể [8b] lại ngấp nghé được.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Truyện [Trung Dung] có câu: "Người có đức lớn
thì ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu". [Vũ] Đế làm gì mà được như
thế? Cũng chỉ vì có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì
Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời
cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà
Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ
đức ư? Kinh Dịch nói: "Biêt khiêm nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi
thấp mà không ai dám vượt qua". Vua chính hợp câu ấy.
Văn Vương
Ở ngôi 12 năm, thọ 52 tuổi.
Vua lấy nghĩa để cảm nước láng giềng, đánh lui địch, yên biên cảnh, cũng gọi
là bậc vua có ý muốn thịnh trị vậy.
[9a] Tên húy là Hồ, con trai Trọng Thủy, cháu Vũ Đế.
Bính Ngọ, năm thứ 2 [135 TCN], (Hán
Kiến Nguyên năm thứ 6). Mùa thu, tháng 8, có sao Chổi mọc ở phương đông, đuôi
dài hết trời.
Mân Việt Vương Sính xâm lấn biên ấp nước ta. Vua giữ ước với nhà Hán, không
tự tiện dấy quân, sai người đem thư nói việc đó với nhà Hán. Nhà Hán khen là
nghĩa, vì vua mà phát đại binh, sai Vương Khôi xuất quân từ Dự Chương, Hàn An
Quốc xuất quân từ Cối Kê, để đánh Mân Việt.
Hoài Nam Vương [Lưu] An dâng thư can rằng:
"Việt là đất ở ngoài cõi. Dân cắt tóc vẽ mình, không thể lấy pháp độ
của nước đội mũ mang đai mà trị được. Từ thời Tam đại thịnh trị, người Hồ,
người Việt đã không nhận chính sóc, không phải là vì mạnh mà không hàng phục
được, uy không chế ngự được, mà vì đất ấy không thể ở được, dân ấy không thể
chăn được, không bõ làm phiền đến Trung Quốc vậy. Nay họ đánh lẫn nhau mà bệ hạ
phát quân đến cứu, thế là trái lại đem Trung Quốc mà [9b] phục dịch di dịch
vậy.
Vả người Việt khinh bạc, tráo trở, không theo pháp độ, không phải mới có một
ngày. Nay mới không vâng chiếu mà cất quân đi đánh giết, thần sợ sau này việc
binh cách không biết đến lúc nào thôi. Vừa rồi mấy năm liền không được mùa,
sinh kế của dân chưa lại như cũ, nay phát binh lấy lương, đi mấy nghìn dặm lại
thêm rừng sâu tre rậm, nhiều rắn độc thú dữ, tháng hè mùa nắng, các bệnh thổ tả
hoặc loạn phát ra luôn, tuy chưa từng ra quân đọ kiếm mà chết chóc tất đã nhiều
rồi. Thần nghe rằng sau việc quân lữ, tất là mất mùa, là bởi cái khí sầu khổ
phá sự điều hòa của khí âm dương, cảm đến tinh khí
của trời đất, tai biến do đấy mà sinh ra. Bệ hạ đức sánh trời đất, ơn đến cỏ
cây, một người đói rét không được hưởng trọn tuổi trời mà chết, bệ hạ cũng lấy
làm thương xót trong lòng. Hiện nay trong nước không có tiếng chó sủa báo động
mà khiến quân lính phải dãi dầu [10a] ở đồng nội, ngấm ướt ở núi hang, khiến
dân ở biên cương phải đóng cửa sớm mở cửa muộn, bữa mai không kịp bữa hôm, thần
An trộm xin bệ hạ thận trọng việc đó.
Vả người Việt nhân tài vật lực yếu mỏng không biết đánh bộ, lại không biết
dùng xe ngựa cung nỏ, thế mà không thể đem quân vào được, là vì họ giữ được đất
hiểm, mà người Trung Quốc thì không quen thủy thổ.
Thần nghe ở đường sá người ta nói rằng: Mân Việt Vương bị em là Giáp giết
chết, Giáp cũng đã bị giết rồi, dân nước ấy chưa thuộc về ai. Nếu bệ hạ sai
trọng thần đến nơi thăm hỏi, ban đức cấp thưởng để chiêu dụ họ, thế tất họ sẽ
dắt trẻ dìu già theo về thánh đức. Nếu [bệ hạ] không dùng đất ấy làm gì, thì
nước đã mất làm cho còn, dòng đã tuyệt khiến nối lại, phong làm vương hầu, như
thế tất họ phải đem mình làm tôi, đời đời nộp cống. Bệ hạ chỉ dùng cái ấn vuông
một tấc, dây thao một trượng hai, mà trấn vỗ được đất ngoài, không phải nhọc
mệt tên lính nào, không phải cùn một chiếc giáo nào, mà uy đức đều được cả. Nay
đem quân [10b] vào đất họ, họ tất sợ hãi, trốn vào rừng núi; nếu ta bỏ về, thì
họ lại họp đàn tụ lũ, nếu ta ở để giữ, thì hết năm này sang năm khác, quân lính
mệt mỏi, lương thực thiếu hết, một phương có việc gấp, thì bốn mặt đều sợ. Thần
sợ rằng biến cố sẽ sinh, gian tà sẽ nổi, đều là bắt đầu từ đấy cả.
Thần nghĩ rằng: quân của thiên tử chỉ đi đánh kẻ dưới phạm lỗi, chứ không đi
đánh nhau để tranh giành, vì là không ai dám đọ sức. Nếu người Việt làm liều
chống lại quan chấp sự mà trong quân kiếm củi đẩy xe có kẻ nào không về đủ thì
dù có chém được đầu của Việt Vương, thần cũng lấy làm xấu hổ52
. Bệ hạ lấy chín châu làm nhà, sinh dân đều là thần thiếp cả,
đất của di địch nào có đủ làm nhàn hạ được một ngày mà phải phiền đến ngựa đổ
mồ hôi mệt nhọc? Kinh Thi có câu:
"Đạo vương tin thực, đất Từ theo về". Ý nói vương đạo rất lớn mà
phương xa mến phục. Thần An trộm lo rằng tướng lại đem 10 vạn quân đi chỉ làm
cái trách nhiệm của một người [11a] sứ giả mà thôi."
Khi ấy quân nhà Hán chưa qua đèo, Mân Việt Vương đã phát binh giữ chỗ hiểm
để chống cự. Em Mân Việt Vương là Dư Thiện cùng với người trong họ bàn nhau
rằng: "Vì vương tự tiện đem quân đánh Nam Việt không xin phép nhà Hán, cho
nên nhà Hán đem quân đến đánh. Quân Hán nhiều và mạnh, dù may mà mình có đánh
được chăng nữa sau họ lại kéo sang nhiều hơn, chung quy nước cũng bị diệt, chi
bằng giết vương để tạ lỗi với nhà Hán mà xin bãi binh". Bèn giết Sính, sai
sứ đem đầu nộp cho Vương Khôi. Khôi liền cho đóng quân lại, bảo cho Hàn An
Quốc, rồi sai sứ mang đầu Sính chạy về báo. Vua Hán sai Trang Trợ sang tỏ ý cho
vua biết. Vua rập đầu nói: "Thiên tử vì quả nhân đem quân giết vua Mân
Việt, quả nhân dù chết cũng không báo đáp được ân đức ấy". Mới sai thái tử
là Anh Tề sang nhà Hán làm con tin. Nhân bảo Trợ rằng: "Nước tôi mới bị
cướp, sứ giả cứ về trước, quả nhân đang ngày đêm sắm sửa hành trang để vào
triều kiến thiên tử". Trợ về rồi, bầy tôi đều can [11b] vua rằng:
"Quân nhà Hán giết [Mân Việt Vương] Sính là có ý muốn cảnh cáo nước Việt
ta. Vả lại tiên đế đã nói thờ nhà Hán cốt không thất lễ thì thôi. Tóm lại chớ
nên tin lời nói khéo, vào chầu vua Hán thì không về được nữa, đó là thế mất
nước đấy." Vua bèn nói thác là có bệnh rồi không sang yết kiến nữa.
Đinh Mùi, năm thứ 3 [134 TCN], (Hán
Nguyên Quang, năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, ngày 30, nhật thực.
Giáp Dần, năm thứ 10 [127 TCN], (Hán
Nguyên Sóc năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, ngày 30, nhật thực.
Ất Mão, năm thứ 11 [126 TCN], (Hán
Nguyên Sóc năm thứ 3). Vua ốm nặng, Thái tử Anh Tề ở Hán về.
Bính Thìn, năm thứ 12 [125 TCN], (Hán
Nguyên Sóc năm thứ 4). Vua mất, thụy là Văn Vương. Con là Anh Tề nối ngôi.
[12a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Văn Vương giao thiệp với nước
láng giềng phải đạo, nhà Hán khen là có nghĩa, đến mức dấy binh đánh giúp kẻ
thù; lại biết nghe lời can, thác bệnh không sang chầu nhà Hán, giữ phép nhà để
mưu cho con cháu, có thể gọi là không xấu hổ với ông nội.
Minh Vương
Ở ngôi 12 năm.
Vua không cẩn thận mối vợ chồng, gây thành loạn cho quốc gia, không có gì
đáng khen.
Tên húy là Anh Tề, con trưởng của Văn Vương.
Đinh Tỵ, năm thứ 1 [124 TCN], (Hán
Nguyên Sóc năm thứ 5). Lấy Lữ Gia làm Thái phó.
Kỷ Mùi, năm thứ 3 [122 TCN], (Hán
Nguyên Thú năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 5, ngày 30, nhật thực.
Nhâm Tuất, năm thứ 6 [119 TCN], (Hán
Nguyên Thú năm thứ 4). Mùa xuân, sao Chổi mọc ở phía đông bắc. Mùa hạ, sao Chổi
dài mọc [12b] ở phương tây.
Ất Sửu, năm thứ 9 [116 TCN], (Hán
Nguyên Đỉnh năm thứ 1).
Mậu Thìn, năm thứ 12 [113 TCN], (Hán
Nguyên Đỉnh năm thứ 4). Trước kia vua làm thế tử, sang làm con tin cho nhà Hán
ở Trường An, lấy con gái người họ Cù ở Hàm Đan, sinh con tên là Hưng. Đến khi
lên ngôi, giấu ấn của tiên đế đi, dâng thư sang nhà Hán xin lập Cù thị làm
hoàng hậu, Hưng làm thế tử. Nhà Hán mấy lần sai sứ giả sang khuyên vua vào
chầu. Vua sợ vào yết kiến phải theo pháp độ nhà Hán ngang với các chư hầu ở
trong, cố ý cáo ốm không đi, bèn sai con là Thứ công vào làm con tin. Năm ấy
vua mất, thụy là Minh Vương. Con là Hưng nối ngôi.
Ai Vương
Ở ngôi 1 năm [112 TCN].
[13a] Mẫu hậu ngang nhiên dâm loạn, quyền thần chuyên chính, vua hèn tuổi
trẻ, giữ nổi thế nào được.
Tên húy là Hưng, con thứ của Minh Vương.
Năm ấy, vua đã lên ngôi, tôn mẹ là Cù thị là thái hậu.
Trước kia, thái hậu chưa lấy Minh Vương, đã từng thông dâm với An Quốc Thiếu
Quý người Bá Lăng. An Quốc là họ, Thiếu Quý là tên. Năm ấy nhà Hán sai An Quốc
Thiếu Quý sang dụ vua và thái hậu vào chầu, như đối với các chư hầu ở trong,
lại sai biện sĩ là bọn Gián nghị đại phu Chung Quân tuyên dụ, dũng sĩ là bọn
Ngụy Thần giúp việc, vệ úy Lộ Bác Đức đem quân đóng ở Quế Dương để đợi sứ giả.
Khi ấy vua còn ít tuổi, Cù hậu là người Hán, Thiếu Quý đến, lại tư thông. Người
nước biết, phần nhiều không theo thái hậu. Thái hậu sợ loạn nổi, muốn dựa uy
nhà Hán, nhiều lần khuyên vua và các quan xin nội phụ nhà Hán. [13b] Bèn nhờ sứ
nhà Hán dâng thư, xin theo như các chư hầu ở trong, cứ 3 năm một lần vào chầu,
triệt bỏ cửa quan ở biên giới. Vua Hán bằng lòng, ban cho vua và Thừa tướng Lữ
Gia ấn
bằng bạc và các ấn nội sử, trung úy, thái phó, còn các chức khác được tự đặt
lấy. Bỏ hình phạt cũ thích chữ, cắt mũi, dùng pháp luật nhà Hán như các chư hầu
ở trong. Các sứ giả đều ở lại để trấn giữ vỗ về53
.
Kỷ Tỵ, năm thứ 1 [112 TCN], (Hán Nguyên
Đỉnh năm thứ 5). Vua và thái hậu đã sửa soạn hành trang lễ vật quý giá để vào
chầu. Bấy giờ Tể Tướng Lữ Gia tuổi đã nhiều, làm tướng trải ba triều, người
trong họ làm trưởng lại đến hơn 7 chục người, con trai đều lấy con gái vua, con
gái đều gả cho con em vua và người tôn thất, cùng thông gia với Tần Vương ở
quận Thương Ngô, trong nước rất được lòng dân hơn cả vua. Gia nhiều lần dâng
thư can vua, vua không nghe, nhân thế có lòng muốn làm phản, thường cáo ốm
không tiếp [14a] sứ giả nhà Hán. Các sứ giả nhà Hán đều chú ý đến Gia, nhưng
thế chưa thể giết được. Vua và thái hậu cũng sợ bọn Gia khởi sự trước, muốn nhờ
sứ giả nhà Hán trù mưu giết bọn Gia. Bèn đặt tiệc rượu mời sứ giả đến dự, các
đại thần đều ngồi hầu rượu. Em Gia làm tướng, đem quân đóng ở ngoài cung. Tiệc
rượu mới bắt đầu, thái hậu bảo Gia rằng: "Nam Việt nội thuộc [Trung Quốc]
là điều lợi cho nước, thế mà tướng quân lại cho là bất tiện là tại sao?",
cốt để chọ
Đ ạ
i V i ệ
t S ử
K ý N g o ạ
i K ỷ
T o à n T h ư
Quyển III
[1a]
K ỷ T h u ộ c T â y H á n
Tân Mùi, [110 TCN], (Hán Nguyên Phong
năm thứ 1). Nước Việt ta đã thuộc về nhà Hán. Nhà Hán cho
Thạch Đái làm Thái Thú 9 quận. (Chế độ nhà Hán lấy châu lãnh quận, trừ hai quận
Châu Nhai, Đạm Nhĩ đều ở giữa biển, còn 7 quận thuộc về Giao Châu, Đái làm châu
Thái thú63
. Thời Tây Hán, trị sở của Thái Thú đặt tại Long Uyên, tức là Long Biên, thời
Đông Hán đặt tại Mê Linh tức là Yên Lăng64
. Đến khi Đái chết, Hán Chiêu Đế lấy Chu Chương thay. Đến cuối đời Vương Mãng,
châu mục Giao Châu là Đặng Nhượng cùng các quận đóng chặn bờ cõi để tự giữ.
Tướng nhà Hán là Sầm Bành vốn quen thân với Nhượng, gửi thư cho Nhượng bày tỏ
uy đức của nhà Hán. Thế rồi [Nhượng] bảo Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và
Thái thú các quận là bọn Đỗ Mục sai sứ sang cống hiến nhà Hán. Nhà Hán đều
phong cho những người ấy tước hầu. Bấy giờ là năm Kỷ Sửu thời Hán Quang Vũ năm
Kiến Vũ thứ 5 [29]. Tích Quang người quận Hán Trung, khi ở [1b] Giao Chỉ, lấy
lễ nghĩa dạy dân. Lại lấy Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân. Diên là người Uyển
[huyện]. Tục người Cửu Chân chỉ làm nghề đánh cá, đi săn, không biết cày cấy.
Diên mới dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng, trăm họ no đủ. Dân
nghèo không có sính lễ cưới vợ, Diên bảo các trưởng lại trở xuống bớt bổng lộc
ra để giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ có đến 2.000 người. Diên coi việc được 4 năm
thì bị gọi về. Người Cửu Chân làm đền thờ. Những người đẻ con đều đặt tên là
Nhâm. Phong tục văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú ấy.
Kỷ Hợi, [39], (Hán Quang Vũ Lưu Tú, Kiến Vũ năm thứ 15) . Thái thú Giao Chỉ là Tô Định chính sự tham lam tàn bạo, Trưng Nữ
Vương dấy binh đánh.
Trở lên là [kỷ] thuộc nhà Hán, từ năm Tân Mùi đến năm Kỷ Hợi, cộng 149 năm
[110 TCN - 39].
[2a]
K ỷ T r ư n g N ữ V ư ơ n g
Trưng Vương
Ở ngôi 3 năm.
Vua rất hùng dũng, đuổi Tô Định, dựng nước xưng vương, nhưng vì là vua đàn
bà, không thể làm nên công tái tạo.
Tên húy là Trắc, họ Trưng. Nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê
Linh65
, Phong Châu, vợ của Thi Sách ở huyện Chu Diên66
. (Thi Sách cũng là con Lạc tướng, con hai nhà tướng kết hôn với nhau. Sách Cương mục tập lãm lấy Lạc làm họ là lầm). Đóng
đô ở Mê Linh.
Canh Tý, năm thứ 1 [40], (Hán Kiến Vũ
năm thứ 16). Mùa xuân, tháng 2, vua khổ vì Thái thú Tô Định dùng pháp luật trói
buộc, lại thù Định giết chồng mình, mới cùng với em gái là Nhị nổi binh đánh
hãm trị sở ở châu. Định chạy về nước. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp
Phố đều hưởng ứng, lấy được [2b] 65 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua, mới xưng
là họ Trưng.
Tân Sửu, năm thứ 2 [41], (Hán Kiến Vũ
năm thứ 17). Mùa xuân, tháng 2, ngày 30, nhật thực. Nhà Hán thấy họ Trưng xưng
vương, dấy quân đánh lấy các thành ấp, các quận biên thùy bị khổ, mới hạ lệnh
cho Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu ta sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường,
thông các núi khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc
hầu Lưu Long làm phó sang xâm lược.
Nhâm Dần, năm thứ 3 [42], (Hán Kiến Vũ
năm thứ 18). Mùa xuân, tháng giêng, Mã Viện theo ven biển mà tiến, san núi làm
đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành, gọi là
Lãng Bạc)67
đánh nhau với vua. Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ
không chống nổi, lui quân về giữ Cấm Khê (Cấm Khê, sử chép là Kim Khê). Quân
cũng cho vua là đàn bà, sợ không đánh nổi địch, bèn tan chạy. Quốc thống lại
mất.
[3a] Lê Văn Hưu nói: Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một
tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều
hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế
đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến
trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm
tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà
hay sao? Ôi ! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy.
Trở lên là Trưng Nữ Vương, bắt đầu từ năm Canh Tý đến năm
Nhâm Dần thì hết, tất cả 3 năm [40-42].
K ỷ T h u ộ c Đ ô n g H á n
Quý Mão, [Trưng Vương, năm thứ 4], [43], (Hán Kiến Vũ năm thứ 19). Mùa xuân, tháng giêng, Trưng Nữ Vương cùng
em gái là Nhị chống cự lại với quân nhà Hán, [3b] thế cô, đều thua chết. Mã
Viện đuổi theo đánh quân còn sót là bọn Đô Dương. Đến huyện Cư Phong thì [bọn
Đô Dương] đầu hàng, [Viện] bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà
Hán. (Cột đồng tương truyền ở trên động Cổ Lâu68
châu Khâm. Viện có câu thề: "Cột đồng gãy thì Giao Châu diệt". Người
Việt ta đi qua dưới cột ấy, thường lấy đá chất vào, thành như gò đống, vì sợ
cột ấy gãy. Mã Tổng nhà Đường lại dựng hai cột đồng ở chỗ cũ của nhà Hán ghi
công đức của Mã Viện để tỏ ra mình là dòng dõi của Phục Ba, nay chưa rõ ở chỗ
nào. Hai sông Tả Giang, Hữu Giang mỗi nơi có một cột). Viện thấy huyện Tây Vu
có 3 vạn 3 nghìn hộ, xin chia làm hai huyện Phong Kê và Vọng Hải, vua Hán nghe
theo. Viện lại đắp thành Kiển Giang ở huyện Phong Khê. Thành đắp tròn như hình
cái kén, cho nên lấy [chữ Kiển]69
làm tên. Nước Việt ta lại thuộc vào nhà Hán. Ba năm sau, Viện trở về. Người địa
phương thương mến Trưng Nữ Vương, làm đền thờ phụng (đền ở xã Hát Giang, huyện
Phúc Lộc70
, ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có).
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay
hô một tiếng mà [4a] quốc thống nước ta cơ hồ được khôi phục, khí khái anh hùng
há chỉ lúc sống dựng nước xưng vương, mà sau khi chết còn có thể chống ngăn tai
họa. Phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đến cầu đảo không việc gì là không
linh ứng. Cả bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, cái khí
hùng dũng trong khoảng trời đất không vì thân chết mà kém đi. Bọn đại trượng
phu há chẳng nên nuôi lấy cái khí phách cương trực chính đại ấy ư ?
Giáp Thìn, [44], (Hán Kiến Vũ năm thứ
20). Từ đây về sau, trải các đời Hán Minh Đế, Chương Đế, Hòa Đế, Thượng Đế, An
Đế, gồm 5 đời, cộng 82 năm, duy thời Minh Đế có Lý Thiện người huyện Nam Dương
làm Tháu thú Nhật Nam, làm việc chính sự có ân huệ yên dân, khiến cho người
khác phong tục cũng mến chuộng tìm đến. Sau Thiện đổi làm Thái thú Cửu Chân.
Bính Tý, [136], (Hán Thuận Đế Bảo, Vĩnh
Hòa năm thứ 1). Thái thú Chu Xưởng cho là Giao Châu ở ngoài chín châu [4b], ở
rìa Bách Việt, dâng biểu xin đặt phương bá71
. Vua Hán để cho Xưởng làm Thứ sử72
, cai quản các quận huyện.
Đinh Sửu, [137], (Hán Vĩnh Hòa năm thứ
2). Người man ở huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam (ở địa giới nước Việt Thường
xưa), là bọn Khu Liên đánh phá quận huyện, giết trưởng lại. Thứ sử Giao Châu là
Phàn Diễn đem quân châu và quân Cửu Chân hơn vạn người đi cứu ứng, nhưng quân
lính ngại đi xa. Mùa thu, tháng 7, quân hai quận làm phản đánh phủ trị, thế
chuyển thành mạnh.
Mậu Dần, [138], (Hán Vĩnh Hòa năm thứ
3). Mùa hạ, tháng 5, Thị ngự sử Giả Xương cùng với các châu quận hợp sức đánh
bọn Khu Liên không được, bị Khu Liên vây đánh hơn một năm, binh lương không thể
tiếp tế được. Vua Hán gọi các công khanh và thuộc lại bốn phủ để hỏi phương
lược, các quan đều bàn nên sai tướng phát 4 vạn quân của bốn châu Kinh, Dương,
[5a] Duyện, Dự đi đánh. Lý Cổ bác đi, nói rằng: "Các châu Kinh, Dương giặc
cướp tụ họp chưa tan; Trường Sa, Quế Dương đã nhiều lần bị thu thuế bắt lính,
nay lại làm rối động, ắt lại sinh họa nữa. Người các châu Duyện, Dự phải đi xa
muôn dặm, chiếu thư thúc bách, tất phải bỏ trốn. Nam Châu73
thì trời nắng nực, ẩm thấp lại thêm lam chướng dịch lệ, 10 phần phải chết đến
4, 5 phần. Đường xa muôn dặm, quân lính mỏi mệt, đến lúc tới Lĩnh Nam thì đã
không kham nổi chiến đấu. Quân đi mỗI ngày 30 dặm mà Duyện, Dự cách quận Nhật
Nam hơn 9
nghìn dặm, phải 3 trăm ngày mới đến. Tính lương một người ăn mỗI ngày 5
thăng, thì phải dùng đến 60 vạn hộc gạo, đó là không kể lương thực của tướng
lại và lừa ngựa. Đặt quân ở đấy, chết chóc tất nhiều, đã không đủ quân chống
giặc, lại phải bắt thêm. Thế là xẻo cắt lòng bụng để chắp vá cho chân tay. Cửu
Chân và Nhật Nam chỉ cách nhau 1 nghìn dặm, lại dân ở đó đi đánh còn không kham
nổi, huống chi lại làm khổ quân lính ở bốn châu [5b] để cứu nạn xa muôn dặm?
Trước đây Trung lang tướng Doãn Tựu đánh người Khương làm phản ở Ích Châu,
người Ích Châu có ngạn ngữ rằng: "Lỗ lai thượng khả, Doãn lai sát
ngã" (Giặc đến còn khá, Doãn đến chết ta). Sau Tựu bị đòi về, đem quân
giao cho Phán châu là Trương Kiều, Kiều vẫn dùng tướng lại của Tựu, chỉ trong
khoảng mười hôm, diệt hết giặc cướp. Thế là bằng chứng tỏ rằng sai tướng đi là
vô ích, mà châu quận có thể dùng được. Nay nên chọn người nào có dũng lược nhân
huệ, có thể làm tướng súy được, cho làm Thứ sử, Thái thú, dời lại dân ở Nhật
Nam đến nương dựa vào quận Giao Chỉ ở Bắc, trở lại chiêu mộ người Man Di, khiến
họ đánh lẫn nhau, chuyển vận hàng lụa đến để cấp cho, kẻ nào có thể phản gián
dụ hàng thì cắt đất phong cho. Thứ sử Tính Châu trước là Chúc Lương dũng mãnh
quyết đoán, Trương Kiều trước ở Ích Châu có công phá giặc, đều có thể dùng
được. Bốn phủ đều theo lời bàn của Cố. Bèn cho Lương làm Thái thú Cửu Chân,
Kiều làm Thứ sử Giao Châu. [6a] Kiều đến nơi, lấy lòng thành thật dỗ bảo, dân
chúng đều hàng phục. Lương đi một xe đến Cửu Chân, tỏ rõ uy tín, người ra hàng
đến vài vạn.
Đ ạ i V i ệ t S ử
K ý N g o ạ
i K ỷ
T o à n T h ư
Quyển IV
[1a]
K ỷ T h u ộ c N g ô , T ấ n , T ố n
g , T ề , L ư ơ n g
Đinh Mùi, [227], (Hán Kiến Hưng năm
thứ 5; Ngô Hoàng Vũ năm thứ 6), Vua Ngô nghe tin Sĩ Nhiếp mất, thấy Giao Châu ở
xa cách, mới chia từ quận Hợp Phố trở về bắc thuộc vào Quảng Châu, cho Lữ Đại
làm Thứ sử; từ quận Hợp Phố trở về nam thuộc vào Giao Châu, cho Đái Lương làm
Thứ sử. Lại sai Trần Thì làm Thái thú thay Sĩ Nhiếp. Đại ở lại Nam Hải. Lương
và Thì cùng lên đường. Đến Hợp Phố nghe tin ở Giao Châu con Sĩ Nhiếp là Huy đã
tự làm Thái thú, đem tông binh ra chống cự. (Cuối thời nhà Hán, tôn thất nổi
loạn, người Nam cũng tụ họp họ hàng làm binh để tự vệ, cho nên gọi là tông
binh). Lương ở lại Hợp Phố. Thuộc lại của Sĩ Nhiếp là Hoàn Lân cúi đầu can Huy,
xin đón Lương, Huy giận đánh chết Lân.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Từ xưa hễ
giết bề tôi can ngăn thì chưa từng không mất nước. Nước Trần giết [1b] Tiết Dã,
nước Tề giết Cô Huyên, việc nước Trần, nước Tề đáng làm gương soi, lấy đó làm
răn. Thế mà còn có người giết bề tôi căn ngăn như Sĩ Huy, nối nghiệp chưa kịp
quay gót mà đã phải chết là đáng lắm.
Anh của Lân là Trị và con là Phát
lại họp tông binh đánh Huy. Huy đóng cửa thành để giữ. Bọn Trị đánh mấy tháng
không hạ được thành, bèn giảng hòa và đều bãi binh. Kế đó Lữ Đại vâng chiếu
nước Ngô đánh Huy, đem quân từ Quảng Châu, ngày đêm đi gấp đến Hợp Phố, cùng
với Lương đều tiến, dụ con của Sĩ Nhiếp là Trung Lang Tướng Khuông92
bảo Huy ra chịu tội, tuy mất chức quận thú, nhưng bảo đảm không có lo ngại gì
khác. Đại theo Khuông đến sau. Anh Huy là Chi, em Huy là bọn Cán, Tụng sáu
người cởi trần93
đón Đại. Đại mặc áo thường94
đi thẳng đến quận trị. Sáng hôm sau, Đại bày màn trướng, mời anh em Huy theo
thứ tự đi vào. Tân khách đầy nhà, Đại đứng dậy cầm phù tiết đọc tờ chiếu kể tội
Huy, tả hữu trói quặt [2a] [anh em Huy] đưa ra ngoài, đem chém cả, lấy đầu đưa
về Vũ Xương.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Sĩ Huy cha
mất không xin mệnh mà đã tự lập, lại đem quân chống mệnh, theo nghĩa thì phải
đánh. Nhưng Lữ Đại đã dụ [Huy] ra hàng mà lại giết đi là trái lẽ. Giữ điều tin
là báu của nước. Huy đã hàng cứ trói giải về Vũ Xương, khiến cho việc sinh sát
được quyết ở trên, mà uy tín lan xuống kẻ dưới, há chẳng hay hơn ư? Tôn Thịnh
nói: "Hòa với người phương xa, được lòng người ở gần, không gì hay hơn chữ
Tín". Lữ Đại giết kể đầu hàng để cầu công, người quân tử lấy làm chê cười,
xem thế mới biết họ Lữ không được lâu là phải lắm.
Nhất, Vĩ và Khuông sau mới ra hàng,
được Ngô Vương tha tội, cùng với con tin của Sĩ Nhiếp là Ngẩm, đều giáng làm
thứ nhân. Được vài năm, Nhất và Vĩ có tội bị giết, duy có Khuông ốm chết trước.
Đến khi Ngẩm chết, đại [2b] tướng của Huy là Cam Lễ và Hoàn Trị đem lại dân
đánh Đại, Đại đánh tan
được. Bấy giờ mới bỏ Quảng Châu, đặt
lại Giao Châu như cũ. Đại tiến đánh quận Cửu Chân, chém và bắt được kể hàng vạn
người.
Tân Hợi, [231], (Hán Kiến Hưng năm
thứ 9; Ngô Hoàng Vũ năm thứ 3). Người man Ngũ Khê ở Vũ Lăng nước Ngô làm phản.
Ngô Vương cho là đất miền Nam đã dẹp yên, gọi Thứ sử Lữ Đại về. Thái thú Hợp
Phố là Tiết Tống95
dâng sớ nói: "Ngày xưa vua Thuấn đi tuần phương nam, mất ở Thương Ngô, nhà
Tần đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận, thế thì bốn quận96
ấy nội thuộc đã lâu rồi. Triệu Đà nổi dậy ở Phiên Ngung, vỗ về thần phục được
vua Bách Việt, đó là miền đất về phía nam quận Châu Nhai, Hiếu Vũ (nhà Hán)
giết Lữ Gia, mở 9 quận, đặt chức Thứ sử ở Giao Chỉ, dời những người phạm tội ở
Trung Quốc sang ở lẫn vào các nơi ấy, cho học sách ít nhiều, hơi thông hiểu lễ
hóa. Đến khi Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân,
dựng nhà học, dẫn dắt bằng lễ nghĩa. Từ đấy trở đi, hơn 400 [3a] năm, dân tựa
hồ đã có quy củ. Nhưng đất rộng người đông, núi rừng hiểm trở, dễ làm loạn.
Thần từng thấy Hoàng Cái ở Nam Hải làm Thái thú Nhật Nam, khi đến nơi thấy đồ
cung đốn, trần thiết không đủ, đánh chết người chủ bạ, nhưng rồi cũng bị đánh
đuổi. Thái thú Cửu Chân là Đam Manh vì bố vợ là Chu Kinh mà bày tiệc mời các
quan to. Khi rượu say cho cử nhạc, công tào Phan Hâm đứng dậy múa, rồi mời
Kinh. Kinh không chịu đứng lên, Hâm cứ thúc ép mãi. Manh nổi giận giết Hâm. Em
của Hâm đem quân đến đánh Manh. Thái thú Giao Chỉ trước là Sĩ Nhiếp sai quân
đến đánh dẹp không được. Bấy giờ Thứ sử Chu Phù phần nhiều cho người làng như
bọn Ngu Bao, Lưu Ngạn chia nhau làm trưởng lại, vơ vét của dân, một con cá vàng
thu thóc mộc hộc. Trăm họ oán ghét làm phản, kéo đi đánh phá châu quận, Phù
phải chạy ra biển. Bộ Chất đã lần lượt làm cỏ, kỷ cương mới được chấn chỉnh
lại. Sau Lữ Đại bình được loạn Sĩ Huy, đổi đặt các trưởng lại, làm sáng tỏ kỷ
cương của nhà vua, uy [3b] danh khắp muôn dặm, lớn nhỏ đều theo. Do đó mà xem
thì giữ yên biên giới, vỗ về dân xa quả thật là ở tại người. Bổ nhiệm các chức
bá mục nên chọn người thanh liêm. Ngoài cõi hoang phục thì họa phúc lại càng hệ
trọng lắm. Nay Giao Châu tuy rằng tạm yên, nhưng còn bọn giặc lâu nay ở Cao Lương97
bốn quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Châu Nhai cũng chưa yên, trộm cướp
thường tụ họp. Nếu Đại không trở lại phương Nam nữa thì Thứ sử mới nên chọn
người nào cẩn thận chu đáo, có phương lược mưu kế để vỗ về, mới có thể trị yên
được. Còn như hạng người thường, chỉ biết giữ phép thường, không có mưu kỳ
chước lạ thì lũ ác nghịch98
ngày thêm nảy nở99
". Ngô Vương lại cho Đại làm Trấn Nam tướng quân, phong tước Phiên Ngung
hầu (có sách chép là phong Ngụy quận Lăng Lệ Công).
Mậu Thìn, [284], (Hán Diên Hy năm
thứ 11; Ngô Vĩnh An năm thứ 1)100
. Người Cửu Chân lại đánh hãm thành ấp, châu quận rối động. Ngô Vương cho Hành
Dương đốc quân đô úy Lục Dận (có sách chép là Lục Thương) làm Thứ sử kiêm hiệu
úy. [4a] Dận đến nơi, lấy ân đức tín nghĩa hiểu dụ, dân ra hàng phục đến hơn 3
vạn nhà, trong châu lại yên. Sau, người con gái ở quận Cửu Chân là Triệu Ẩu tập
họp dân chúng đánh chiếm các quận huyện (Ẩu vú dài 3 thước, vắt ra sau lưng,
thường ngồi trên đầu voi đánh nhau với giặc). Dận dẹp yên được. (Sách Giao Chỉ
chí chép: Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài 3 thước,
không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu
vàng, chân đi giày mũi cong101
, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần)102
.
Quý Mùi, [263], (Hán Viêm Hưng năm
thứ 1, Ngô Vĩnh An năm thứ 16)103
. Mùa xuân, tháng 3, lúc trước nhà Ngô lấy Tôn Tư làm Thái thú Giao Châu, Tư là
người tham bạo, làm hại dân chúng. Đến đây vua Ngô sai Đặng Tuân đến quận. Tuân
lại tự tiện bắt dân nộp 30 con công đưa về Kiến Nghiệp. Dân sợ phải đi phục
dịch đường xa, mới mưu làm loạn. Mùa hạ, tháng 4, quận lại là Lữ Hưng giết Tư
và Tuân, xin nhà Tấn đặt Thái thú và cho binh. (Xét sách Cương mục chép là xin
nhà Ngụy đặt quan, nhưng đến năm sau. Ngụy nhường ngôi cho Tấn, thì Ngụy cũng
tức là Tấn). Các quận Cửu Chân, Nhật Nam đều hưởng ứng. Năm ấy [4b] nhà Hán
mất.
Giáp Thân, [264], (Ngụy Tào Hoán Hàm
Hy năm thứ 1, Ngô Tôn Hạo Nguyên Hưng năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, nhà Ngô
tách Giao Châu, đặt Quảng Châu. Bấy giờ Ngô đã phụ vào Tấn. Nhà Tấn cho Lữ Hưng
làm An Nam tướng quân đô đốc Giao Châu chư quân sự, cho Nam Trung giáp quân là
Hoắc Dặc xa lĩnh104
Thứ sử Giao Châu, cho được tùy nghi tuyển dụng trưởng lại. Dặc dâng biểu tiến
cử Thoán Cốc (có sách chép là Phần Cốc) làm Thái thú, đem thuộc lại là bọn Đổng
Nguyên, Vương Tố đem quân sang giúp Hưng, nhưng chưa đến nơi thì Hưng đã bị
công tào là Lý Thống giết. Cốc cũng chết (có sách chép Cốc ốm chết).
Ất Dậu, [265], (Tấn Vũ Đế Tư Mã
Viêm, Thái Thủy năm thứ 1, Ngô Cam Lộ năm thứ 1), Vua Tấn sai Mã Dung người Ba
Tây thay Hưng. Dung ốm chết. Dặc lại sai Dương Tắc người Kiện Vi thay Dung làm
Thái thú.
[5a] Mậu Tý, [268], (Tấn Thái Thủy
năm thứ 4, Ngô Bảo Đỉnh năm thứ 3). Nhà Ngô lấy Lưu Tuấn làm Thứ sử. Tuấn cùng
với Đại đô đốc Tu Tắc105
và Tướng quân Cố Dung trước sau 3 lần đánh Giao Châu. [Dương] Tắc đều chống cự
và đánh tan được cả. Các quận Uất Lâm, Cửu Chân đều theo về Tắc. Tắc sai tướng
quân là Mao Linh106
và Đổng Nguyên đánh quận Hợp Phố, giao chiến ở Cổ Thành (tức là thành quận Hợp
Phố), đánh tan quân Ngô, giết Lưu Tuấn và Tu Tắc, dư binh tan chạy về Hợp Phố,
Dương Tắc nhân đó dâng biểu cử Mao Linh làm thái thú Uất Lâm, Đổng Nguyên làm
Thái thú Cửu Chân.
Kỷ Sửu, [269], (Tấn Thái Thủy năm
thứ 5, Ngô Kiến Hành năm thứ 1). Mùa đông, tháng 10, nhà Ngô sai Giám quân Nhu
Phiếm, Uy Nam tướng quân Tiết Hủ và Thái thú quận Thương Ngô người Đan Dương là
Đào Hoàng theo đường Kinh Châu sang; Giám quân Lý Đỉnh, Đốc quân Từ Tồn theo
đường biển Kiến An sang, đều hội ở Hợp Phố để đánh [Dương] Tắc (Lý Đỉnh có sách
chép là Lý Húc).
Tân Mão, [271], (Tấn Thái Thủy năm
thứ 7, Ngô Kiến Hành năm thứ 3). Mùa hạ, tháng 4, Ngu Phiếm, Tiết Hủ, Đào Hoàng
chống nhau với Tắc, đánh nhau [5b] ở sông Phần107
Đào Hoàng thua, lui về giữ Hợp Phố, chết hai tướng. Hủ giận bảo Hoàng:
"Ngươi tự dâng biểu xin đi đánh giặc mà để chết mất hai tướng thì trách
nhiệm ở đâu?" Hoàng nói: "Hạ quan không được làm theo ý mình, quân sĩ
không hòa thuận, cho nên đến nỗi thua như thế". Hũ chưa nguôi giận, muốn
đem quân trở về. Đêm ấy, Hoàng đem mấy trăm quân đánh úp Đổng Nguyên, lấy được
của báu, chở thuyền đem về. Hủ bèn tạ lỗi, cho Hoàng lĩnh chức Tiền bộ đô đốc
Giao Châu. Hoàng lại theo đường biển, nhân khi bất ngờ, tiến thẳng đến châu.
Nguyên chống cự. Các tướng muốn đánh, Hoàng ngờ bên trong chỗ cầu gãy có phục
binh, bèn dàn riêng một đội quân giáo dài ở đằng sau. Quân hai bên vừa mới giao
chiến, Nguyên giả cách lui, Hoàng đuổi theo, phục binh quả nhiên kéo ra. Quân
giáo dài quay lại đánh, phá tan bọn Nguyên, giết Nguyên [tại trận], lấy những
thuyền chở hàng hóa báu vật và mấy nghìn tấm thổ cẩm cướp được trước đây đem
cho tướng giặc Phù Nghiêm là Lương Tề108
. Tề đem [6a] hơn vạn người đến giúp Hoàng. Bấy
giờ Dương Tắc lấy tướng của mình là
Vương Tố thay Nguyên. Dũng tướng của Nguyên là Giải Hệ cùng ở trong thành.
Hoàng sai em [của Hệ] là Tượng viết thư gửi cho Hệ, lại sai Tượng ngồi xe ngựa,
đánh trống thổi sáp, dẫn đường cho mình đi theo. Bọn Tố bảo nhau rằng:
"Tượng như thế, Hệ tất có ý bỏ bọn ta để đi theo". Bèn giết Hệ. Bọn
Hủ và Hoàng bèn đánh lấy châu. Nhà Ngô nhân đó dùng Đào Hoàng làm Thứ sử. Hoàng
là người có mưu lược, chu cấp kẻ nghèo khốn, ưa bố thí, được lòng người, ai ai
cũng vui lòng giúp việc, đến đâu cũng có công trạng. Trước đây vua Tấn cho
Dương Tắc làm Thứ sử Giao Châu, Mao Miện109
làm Thái thú, ấn thao chưa gửi đến mà Tắc và Miện đã thua chết rồi. Nhân đó vua
Tấn truy tặng Tắc, Miện, Tùng, Năng (Tùng, Năng không kê cứu được110
) tước Quan nội hầu. Công tào quận Cửu Chân là Lý Tộ giữ quận mà phụ theo nhà
Tấn, Hoàng sai tướng đi đánh, không được. Cậu của Tộ là Lê Hoàn (có sách chép
là Lê Minh) theo quân [của Hoàng], khuyên Tộ hàng, Tộ gay gắt trả lời:
"Cậu [6b] là tướng nước Ngô, Tộ là bề tôi nước Tấn, chỉ có thể dùng sức mà
đối xử với nhau thôi". Quân của Hoàng phải đánh, giờ lâu mới hạ được
thành.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Bề tôi giữ
đất, nếu ai cũng có lòng như lòng Lý Tộ thì có thể gọi là trung với chúa mình
thờ.
Vua Ngô cho Đào Hoàng làm Thứ sử trì
tiết đô đốc Giao Châu chư quân sự. Dưới thời các tướng quân châu mục trước kia,
các quận Vũ Bình, Cửu Đức, Tân Xương, địa thế hiểm trở, người Di Lão hung tợn,
đã mấy đời không chịu thần phục, Hoàng đi đánh, dẹp yên được, mở thêm đất, đặt
3 quận, và hơn 30 huyện ở các nước phụ thuộc với quận Cửu Chân111
. Sau vua Ngô lấy Hoàng làm Đô đốc Vũ Xương, cho Thái thú Hợp Phố là Tu Nguyên112
thay. Dân địa phương đến hàng nghìn người xin lưu Hoàng lại, bởi thế cho Hoàng
trở về nhiệm sở cũ. Sau vua Ngô hàng nhà Tấn, tự tay viết thư sai Mã Tức Dung113
khuyên Hoàng quy thuận [nhà Tấn]. Hoàng khóc mấy ngày, rồi sai sứ mang ấn [7a]
thao về Lạc Dương. Vua Tấn xuống chiếu cho phục chức, phong cho Hoàng tước Uyển
Lăng hầu, lại đổi làm Quán quân tướng quân. Hoàng ở châu 30 năm, tỏ ra người có
ân có uy, được người địa phương yêu mến. Đến khi chết, cả châu khóc thương như
mất cha mẹ hiền. Vua Tấn lấy Viên ngoại lang tán kỵ thường thị là Ngô Ngạn làm
Đô đốc thứ sử. Khi Hoàng mới mất, các thú binh ở Cửu Chân làm loạn, đuổi Thái
thú, người cầm đầu là Triệu Chỉ vây quận trị, Ngạn dẹp yên cả. Ngạn giữ chức 25
năm, ân uy rõ rệt, dân trong châu yên ổn, sau dâng biểu xin cho người thay. Vua
Tấn cho Viên ngoại lang tán kỵ thường thị là Cố Bí thay. Bí là người ôn hòa,
nhã nhặn, cả châu yêu mến, không được bao lâu thì mất. Người trong châu cố ép
con của Bí là Tham trông coi việc châu. Sau Tham chết, em là Thọ trông coi việc
châu, người châu không nghe. Thọ cố nài, bèn được coi việc châu. Rồi giết
trưởng lại là bọn Hồ Triệu, lại toan giết đốc quân dưới trướng [7b] là Lương
Thạc. Thạc chạy thoát được, dấy binh đánh, bắt được Thọ. Mẹ Thọ sai lấy thuốc
độc giết chết. Thạc bèn chuyên quyền (có sách chép là cả mẹ của Thọ cũng bị
giết bằng thuốc độc), nhưng sợ dân tình không theo, bèn cho con trai của Hoàng
là Uy [đang làm] Thái thú Thương Ngô về lĩnh chức Thứ sử [Giao Châu]. Uy ở chức
rất được lòng dân, được 30 năm114
thì chết. Em trai Uy là Thục, con trai [của Uy] là Tuy115
nối nhau làm thứ sử. Từ Cơ đến Tuy bốn đời đều làm Thứ sử. Cơ là ông nội của
Hoàng116
.
Mậu Dần, [318], (Đông Tấn Nguyên Đế
Tư Mã Duệ, Đại Hưng117
năm thứ 1). Mùa đông, tháng 10, vua Tấn xuống chiếu cho Thứ sử Quảng Châu là
Đào Khản làm Đô đốc Giao Châu chư quân sự.
Nhâm Ngọ, [322], (Tấn Vĩnh Xương năm
thứ 1). Vương Đôn nhà Tấn lấy Vương Lượng làm Thứ sử, sai đánh Lương Thạc. Thạc
đem quân vây Lượng ở Long Biên.
[8a] Quý Mùi, [323], (Tấn Minh Đế
Thiệu, Thái Ninh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, Đào Khản sai quân đi cứu Vương
Lượng, chưa đến nơi thì Lương Thạc đã lấy được Long Biên rồi. Thạc đoạt lấy cờ
tiết của Lượng, Lượng không cho, Thạc bèn chặt tay trái của Lượng, Lượng nói:
"Chết còn không tránh, chặt cánh tay thì làm gì?". Được hơn 10 ngày
thì Lượng chết. Thạc chiếm châu, hung bạo mất lòng dân. Đào Khản sai tham quân
là Cao Bảo sang đánh, chém chết Thạc. Vua Tấn cho Khản lĩnh chức Thứ sử Giao
Châu, thăng hiệu là Chinh Nam đại tướng quân, được mở phủ riêng nghi thức như
tam ti. Không bao lâu, Thị lang Lại bộ là Nguyễn Phóng xin làm Thứ sử, vua Tấn
bằng lòng. Phóng đến Ninh Phố gặp Cao Bảo, mời Bảo đến dự cơm, đặt phục binh
muốn giết Bảo. Bảo biết chuyện, liền đem quân đánh Phóng (Phong là cháu họ của
Hàm). Phóng chạy thoát, đến châu được chốc lát thì khát nước quá mà chết.
Quý Sửu, [353], (Tấn Mục Đế San,
Vĩnh Hòa năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, Nguyễn Phu nhà Tấn làm Thứ sử Giao
Châu. Phu đánh [8b] nước Lâm Ấp118
, phá được hơn 50 lũy. (Trước đây nhà Tấn khi đã bình được nhà Ngô, trưng binh ở
Giao Châu119
, Thứ sử Giao Châu là Đào Hoàng dâng thư nói: "Giao Châu ngoài cách Lâm Ấp
chỉ vài nghìn dặm120
. Tướng Di [Lâm Ấp] là Phạm Hùng đời đời trốn tránh làm giặc, tự xưng vương,
nhiều lần đánh phá trăm họ. Vả lại [nước ấy] liền với nước Phù Nam, rất nhiều
chủng người, bè đảng dựa nhau, cậy thế đất hiểm không chịu thần phục. Khi trước
còn thuộc nước Ngô thì nhiều lần cướp bóc dân lành, phá quận huyện, giết hại
trưởng lại. Thần trước kia được nước cũ [Ngô] dùng, cho đóng giữ phương Nam hơn
10 năm, tuy đã trừ được những tên đầu sỏ, nhưng ở chốn núi sâu hang cùng vẫn
còn có kẻ trốn tránh. Lúc đầu số quân của thần trông coi là 8 nghìn. Vì đất Nam
ẩm thấp, có nhiều khí độc, liền năm đánh dẹp, ốm chết hao hụt, hiện nay chỉ còn
2.400 người. Nay bốn biển thống nhất, không còn lo kẻ nào không thần phục, đáng
lẽ nên cuốn giáp hủy gươm [...]121
. Phàm việc phong trần, biến đổi thường xảy ra thình lình. Thần là người sót
thừa của nước đã mất, lời bàn không có gì khả thủ". Tấn Vũ Đế nghe theo,
đến nay còn thấy hiệu nghiệm).
Canh Thìn, [380], (Tấn Vũ Đế122
, Xương Minh, Thái Nguyên năm thứ 5). Mùa đông, tháng 10, Thái thú Cửu Chân là
Lý Tốn chiếm châu làm phản.
Tân Tỵ, [381], (Tấn Thái Nguyên năm
thứ 6). Thái thú Giao Châu là Đỗ Viện chém được Lý Tốn, trong cõi lại được yên,
thăng cho Viện làm thứ sử Giao Châu117
. (Viện người Chu Diên nước ta. Sách Giao Chỉ chí chép vào mục nhân vật nước
ta, xếp sau Sĩ Nhiếp).
[9a] Kỷ Hợi, [399], (Tấn An Đế Đức
Tông, Long An năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 3, vua nước Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt
đánh lấy Nhật Nam và Cửu Chân, rồi vào cướp Giao Châu. Đỗ Viện đánh tan được.
Tân Hợi, [411], (Tấn Nghĩa Hy năm
thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Thái thú quận Vĩnh Gia là Lư Tuần chạy sang [Giao
Châu]. Trước đó, khi Thứ sử Đỗ Viện chết (có sách nói Viện vốn người Kinh
Triệu, ông là Nguyên, làm Thái thú Hợp Phố, nhân đó Viện mới đến ở Giao Chỉ),
vua Tấn cho con là Tuệ Độ thay làm Thứ sử. Chiếu thư chưa đến nơi, Tuần đã đánh
phá Hợp Phố, tiến thẳng đến Giao Châu. Tuệ Độ đem các quan văn võ ở châu phủ
chống nhau với Tuần ở Thạch Kỳ124
, đánh tan được. Quân của Tuần sống sót khoảng 2 nghìn người. Dư đảng của Lý
Tốn là bọn Lý Thoát kết tụ với dân Lý, Lạo hơn 5 nghìn người để ứng theo Lư
Tuần, ngày Canh Tý kéo đến bờ nam Long Biên. Tuệ Độ bỏ hết gia tài để thưởng
quân sĩ, cùng Tuần giao chiến, ném đuốc đuôi trĩ đốt thuyền bè của Tuần, cho bộ
binh áp bờ sông bắn xuống. Thuyền của Tuần cháy hết, [9b] bèn tan vỡ. Tuần biết
thế nào cũng chết, bỏ thuốc độc cho vợ con chết trước rồi gọi các nàng hầu con
hát hỏi rằng: "Ai có thể theo ta?" Phần nhiều đều trả lời: "Con
sẻ, con chuột còn tham sống, chết theo thì khó lắm". Cũng có người nói:
"Quan còn phải chết, chúng tôi há lại muốn sống". Tuần bèn giết hết
những kẻ không chịu chết theo, rồi gieo mình xuống sông mà chết. Tuệ Độ sai
nhặt xác đem chém đầu, cùng với vợ con của Tuần và bọn Thoát, đều lấy đầu đóng
hòm đưa về Kiến Khang125
.
Quý Sửu, [413], (Tấn Nghĩa Hy năm
thứ 9). Mùa xuân, tháng 2, vua nước Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt cướp quận Cửu Chân.
Tuệ Độ đánh chém được.
Ất Mão, [415], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ
11). Mùa đông, tháng 12, quân Lâm Ấp cướp Giao Châu. Tướng châu đánh bại được.
Canh Thân , [420], (Tấn Cung Đế Đức
Văn, Nguyên Hy năm thứ 2; Tống Vũ Đế Lưu Dụ, Vĩnh Sơ năm thứ 1). Mùa thu, tháng
7, Tuệ Độ đánh Lâm Ấp, phá được, chém giết đến quá nửa. Lâm Ấp xin hàng, Tuệ Độ
cho. Những người trước sau bị [Lâm Ấp] cướp bắt [10a] đều được trả về cả. Tuệ
Độ ở Giao Châu, mặc áo vải, ăn cơm rau, cấm thờ nhảm, sửa nhà học, năm đói kém
thì lấy lộc riêng để chẩn cấp, làm việc cẩn thận chu đáo cũng như việc nhà, lại
dân sợ mà yêu. Cửa thành đêm vẫn mở, ngoài đường không ai nhặt của rơi. Khi Tuệ
Độ chết, tặng chức Tả tướng quân, cho con là Hoằng Văn làm Thứ sử. Năm ấy nhà
Tấn mất.
Đinh Mão, [427], (Tống Văn Đế Nghĩa
Long, Nguyên Gia năm thứ 4). Mùa hạ, tháng 4, ngày Canh Tuất, vua Tống gọi
Hoằng Văn về làm Đình Úy, cho Vương Huy Chi làm Thứ sử. Bấy giờ Hoằng Văn đang
ốm, cố ngồi xe lên đường, có người khuyên chờ khỏi ốm hãy đi. Hoằng Văn nói:
"Nhà ta ba đời cầm phù tiết, thường muốn đem mình sang chầu sân vua, huống
chi nay lại được gọi về". Bèn cứ đi, chết ở Quảng Châu.
Tân Mùi, [431], (Tống Nguyên Gia năm
thứ 8). Vua nước Lâm Ấp là Phạm Dương Mại cướp phá quận Cửu Chân, bị quân châu
đánh lui.
[10b] Nhâm Thân, [432], (Tống Nguyên
Gia năm thứ 9). Mùa hạ, tháng 5, vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại sai sứ sang cống
nước Tống, xin lĩnh Giao Châu. Vua Tống xuống chiếu trả lời vì đường xa không
cho.
Lê Văn Hưu nói: [Dù khỏe như] Bôn và
Dục126
mà lúc còn thơ ấu cũng không thể chống nổi người què, người thọt đã tráng niên.
Nước Lâm Ấp thừa lúc nước Việt ta
không có vua, đến cướp Nhật Nam và
Cửu Chân rồi xin quản lĩnh cả [Giao Châu], có phải bấy giờ nước Việt ta không
thể chống nổi nước Lâm Ấp ấy đâu! Chỉ vì không có người thống suất mà thôi !
Thời không bĩ mãi, tất có lúc thái. Thế không khuất mãi, tất có lúc duỗi. Lý
Thái Tông chém đầu vua nước ấy là Sạ Đẩu, Lý Thánh Tông bắt vua nước ấy là Chế
Củ, bắt làm tù dân nước ấy 5 vạn người, đến nay vẫn còn phải chịu làm tôi tớ,
cũng đủ để rửa được mối hận thù hổ thẹn của mấy năm ô nhục này.
[11a] Bính Tý, [436], (Tống Nguyên
Gia thứ 13)127
. Mùa xuân, tháng 2, vua Tống sai Thứ sử Giao Châu là Đàn Hòa Chi đánh Lâm Ấp.
Trước kia, vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại tuy sai sứ sang cống, nhưng vẫn không
thôi việc cướp bóc, cho nên vua Tống sai Hòa Chi đi đánh. Bấy giờ người quận
Nam Dương là Tông Xác, nếp nhà đời đời Nho học, riêng Xác thích việc võ, thường
nói: "Muốn cưỡi gió lớn mà phá sóng muôn dặm". Đến khi Hòa Chi đi
đánh Lâm Ấp, Xác hăng hái xin đi theo quân. Vua Tống cho Xác làm Chấn vũ tướng
quân. Hòa Chi sai Xác làm tiên phong. Dương Mại nghe tin quân Tống sang, sai sứ
dâng biểu xin trả lại những người dân Nhật Nam bị bắt và nộp một vạn cân vàng,
mười vạn cân bạc. Vua Tống xuống chiếu bảo Hòa Chi: "Nếu Dương Mại thực có
lòng thành, cũng cho quy thuận". Hòa Chi đến đóng ở đồn Chu Ngô (huyện Chu
Ngô từ thời Hán đến giờ thuộc quận Nhật Nam, bấy giờ đặt đồn thú ở đấy), sai Hộ
tào tham quân của phủ là bọn Khương Trọng Cơ (phủ là phủ thứ sử Giao Châu) đi
trước [11b] đến gặp Dương Mại, bị Dương Mại bắt giữ. Hòa Chi giận, tiến vây
tướng của Lâm Ấp là Phạm Phù Long ở thành Khu Túc128
. Dương Mại sai tướng là Phạm Côn Sa Đạt đến cứu. Xác lén đem quân đón đánh
[Phạm] Con Sa Đạt, phá tan được. Tháng 5, bọn Hòa Chi hạ thành Khu Túc, chém
Phù Long, thừa thắng tiến vào Tượng Phố129
. Dương Mại dốc sức cả nước ra đánh, lấy các vật che bọc mình voi, trước sau
không hở. Xác nói: "Ta nghe nước ngoài có giống sư tử, oai phục được trăm
loài thú". Bèn làm hình sư tử để chống lại voi, voi quả nhiên sợ chạy.
Quân Lâm Ấp thua to. Hòa Chi thắng được Lâm Ấp, Dương Mại cùng với con đều chỉ
chạy thoát thân, thu được đồ châu báu lạ không biết bao nhiêu mà kể. Riêng Tông
Xác không lấy một thứ gì, ngày về nhà cũng chỉ có khăn áo xác xơ.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Có tài hữu
dụng thì không thể không đem ra thi thố, há câu nệ vì thói đời [12a]130
hay sao? Người ta lập chí mỗi người một khác. Người có chí về đạo đức thì công
danh không thể động được lòng, người có chí về công danh thì phú quý không thể
động được lòng. Chí của Tông Xác có lẽ ở công danh chăng ? Ngày trở về nhà, tài
vật không lấy một thứ gì, đó thực sự là phú quý không thể động được lòng. So
với người có chí về đạo đức, cố nhiên không thể kịp, nhưng so với người có chí
về phú quý thì hạng ấy còn kém xa.
Đinh Sửu, [437], (Tống Nguyên Gia
năm thứ 14). Mùa đông, tháng 10, ngày Nhâm Ngọ, Đàn Hòa Chi bỏ quan về.
Mậu Thân, [468], (Tống Minh Đế Úc131
, Thái Thủy năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 3, Thứ sử Lưu Mục ốm chết. Người châu
là Lý Trường Nhân giết những bộ thuộc của châu mục đem từ Trung Quốc sang rồi
chiếm giữ châu làm phản, tự xưng là Thứ sử.
Mùa thu, tháng 8, vua Tống lấy Nam
Khang tướng là Lưu Bột làm Thứ sử Giao Châu. Bột đến, bị Trường Nhân [12b]
chống cự, không bao lâu thì chết. Tháng 11, Lý Trường Nhân sai sứ xin hàng và
tự hạ xuống chức Hành Châu sự127
. Vua Tống y cho.
Kỷ Mùi, [479], (Tống Thuận Đế Chuẩn,
Thăng Minh năm thứ 3; Tề Cao Đế Tiêu Đạo Thành, Kiến Nguyên năm thứ 1). Mùa
xuân, tháng 3, ngày mồng 1, có nhật thực.
Mùa thu, tháng 7, vua Tề lấy Lý Thúc
Hiến làm Thứ sử Giao Châu. Thúc Hiến là em con chú con bác của Trường Nhân.
Trước đó khi Thứ sử Trường Nhân chết, Thúc Hiến thay lĩnh việc châu, vì thấy
hiệu lệnh chưa được thi hành cho nên sai sứ sang xin nhà Tống cho giữ chức Thứ
sử. Nhà Tống lấy Thái thú Nam Hải là Thẩm Hoán làm Thứ sử Giao Châu, cho Thúc
Hiến làm Ninh Viễn quân tư mã, giữ chức Thái thú hai quận Vũ Bình và Tân Xương133
. Thúc Hiến đã được mệnh lệnh của triều đình [nhà Tống], lòng người phục theo,
bèn đem quân giữ nơi hiểm, không chịu thu nạp Thẩm Hoán. Hoán lưu lại ở Uất
Lâm, rồi chết. Vua Tề bèn cho Thúc Hiến làm Thứ sử, vỗ yên đất phương Nam. Năm
ấy nhà Tống mất.
[13a] Giáp Tý, [484], (Tề Vũ Đế Di,
Vĩnh Minh năm thứ 2). Lý Thúc Hiến nhận mệnh xong liền cắt đứt việc cống hiến.
Vua Tề muốn đánh.
Ất Sửu, [485], (Tề Vĩnh Minh năm thứ
3). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính Thìn, vua Tề lấy Đại tư nông Lưu Khải làm
Thứ sử, phát binh các quận Nam Khang, Lư Lăng, Thủy Hưng đi đánh Lý Thúc Hiến.
Thúc Hiến sai sứ xin bãi binh, dâng 20 cỗ mũ đâu mâu toàn bằng bạc cùng dải tua
bằng lông công. Vua Tề không cho. Thúc Hiến sợ bị Khải đánh úp, mới đi đường
tắt từ Tương Châu sang chầu vua Tề, Khải bèn vào trấn.
Canh Ngọ, [490], (Tề Vĩnh Minh năm
thứ 8). Mùa đông, tháng 10, Thứ sử là Phòng Pháp Thặng (thay Lưu Khải) chỉ
thích đọc sách, thường cáo ốm không làm việc, vì thế trưởng lại134
là Phục Đăng Chi được chuyên quyền [13b] thay đổi các tướng lại mà không cho Pháp
Thặng biết. Lục sự là Phòng Tú Văn mách với Pháp Thặng. Pháp Thặng cả giận,
giam Đăng Chi vào ngục hơn 10 ngày. Đăng Chi hối lộ nhiều cho Thôi Cảnh Thúc,
là chồng của em gái Pháp Thặng, nên được thả ra, rồi đem bộ khúc đánh úp châu
trị, bắt Pháp Thặng, bảo Thặng rằng: "Sứ quân đã có bệnh, thì không nên
khó nhọc", rồi giam ở một nhà riêng. Pháp Thặng không có việc gì, lại gặp
Đăng Chi xin đọc sách. Đăng Chi nói: "Sứ quân ở yên còn sợ phát bệnh, há
lại còn xem sách?", bèn không cho, rồi tâu [với vua Tề] là Pháp Thặng bị
bệnh động tim, không thể coi việc được. Tháng 11, ngày Ất Mão, vua Tề cho Đăng
Chi làm Thứ sử. Pháp Thặng về đến Ngũ Lĩnh thì chết.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Phòng Pháp
Thặng ham đọc sách mà bỏ việc quan đến nỗi kẻ trưởng lại nhân đó chuyên quyên,
thay đổi tướng lại, đó là cái lỗi nghiện sách quá. Còn như giam [Đặng Chi] vào
ngục mà [14a] trừng trị, thế là biết sửa lỗi rồi. Đến như nghe lời thỉnh thác
[của em rể] mà bỏ qua không hỏi đến nữa, thì lỗi ấy to lắm, bị [Đặng Chi] đánh
úp lại là đáng, không chết là may. Cho nên phàm việc gì quá mức trung thì chưa
từng không tai hại vậy.
Nhâm Ngọ, [502], (Lương Vũ Đế Tiêu
Diễn, Thiên Giám năm thứ 1). Năm ấy nhà Tề mất.
Ất Dậu, [505], (Lương Thiên Giám năm
thứ 4). Mùa xuân, tháng 2, Thứ sử Giao Châu là Lý Nguyên Khải chiếm châu làm
phản, Trưởng sử là Lý Tắc dẹp được (trước Nguyên Khải thay Đăng Chi làm Thứ sử,
cho là nhà Lương được nhà Tề nhường ngôi, chưa có ân uy gì, nhân đó giữ châu
làm phản. Đến đây Tắc đem tông binh đánh Nguyên Khải, giết được).
Bính Thân, [516], (Lương Thiên Giám
năm thứ 15). Mùa đông, tháng 11, [vua Lương] xuống chiếu cho Lý Tắc làm Thứ sử,
Tắc lại chém Lý Tông Lão là dư đảng của Nguyên Khải, lấy đầu chuyển về Kiến
Khang, châu lại yên.
[14b], Trở lên thuộc Ngô, Tấn, Tống,
Tề, Lương, từ năm Đinh Mùi đến năm Canh Thân, cộng 314 năm [227 - 540].
K ỷ N h à T i ề n L ý
Tiền Lý Nam Đế
Ở ngôi 7 năm [541-547].
Vua có chí diệt giặc cứu dân, không
may bị Trần Bá Tiên sang đánh chiếm, nuốt hận mà chết. Tiếc thay !
Vua họ Lý, tên húy là Bí135
, người Thái Bình [phủ] Long Hưng136
. Tổ tiên là người Bắc, cuối thời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang
ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam. Vua có tài văn võ, trước làm
quan với nhà Lương, gặp loạn, trở về Thái Bình. Bấy giờ bọn thú lệnh tàn bạo hà
khắc, Lâm Ấp cướp phá ngoài biên, vua dấy binh đánh đuổi được, xưng là Nam Đế,
đặt quốc [15a] hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên137
.
Đ ạ
i V i ệ
t S ử
K ý N g o ạ
i K ỷ
T o à n T h ư
Quyển V
[1a]
K ỷ T h u ộ c T ù y Đ ư ờ n g
Quý Hợi, [603], (Tùy Nhân Thọ năm thứ
2). 158
Lưu Phương bắt được tướng cũ của Hậu Nam Đế, cho là gian ác,
đều chém cả.
Ất Sửu, [605], (Tùy Dạng Đế Quảng, Đại Nghiệp năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, Lưu Phương mới dẹp yên nước ta, bầy tôi nhà Tùy
có người nói nước Lâm Ấp có nhiều báu lạ. Vua Tùy bèn cho Phương làm Hoan Châu
đạo hành quân tổng quản, đi kinh lược nước Lâm Ấp. Phương sai bọn thứ sử Khâm
Châu là Nịnh Trường Chân đem quân bộ và quân kỵ hơn một vạn xuất phát từ Việt
Thường159
. Phương thân dẫn bọn đại tướng quân Trương Tốn đem thủy quân xuất phát từ quận
Tỷ Cảnh (huyện của nhà Hán, thuộc quận Nhật Nam; nhà Tùy đặt quận Tỷ Cảnh)160
. Tháng ấy quân đến cửa biển. Tháng 3, vua Lâm Ấp là Phạn [1b] Chí sai quân ra
giữ nơi hiểm yếu, bị Lưu Phương đánh tan chạy. Quân của Phương qua sông Chà Lê.
Quân Lâm Ấp cưỡi voi lớn từ bốn mặt kéo đến, quân của Phương đánh không lợi bèn
đào nhiều hố nhỏ, phủ cỏ lên trên, cho quân khiêu chiến, đang đánh giả thua
chạy. Quân Lâm Ấp đuổi theo, voi phần nhiều sụp hố ngã nhào, nhốn nháo kinh
hãi, quân trở nên rối loạn. Phương cho dùng nỏ bắn voi, voi lùi chạy, xéo giẫm
vào hàng trận. Phương nhân đó cho quân tinh nhuệ đuổi theo. Quân Lâm Ấp thua
to, bị bắt, bị chém kể hàng vạn. Phương tiến quân đuổi theo, mấy trận đều được
cả, qua phía nam cột đồng Mã Viện, đi tám ngày nữa đến quốc đô Lâm Ấp. Mùa hạ,
tháng 4, Phạn Chí bỏ thành chạy ra biển. Phương vào thành lấy được 18 bộ thần chủ
trong miếu đều đúc bằng vàng (tức là 18 đời vua), khắc đá ghi công rồi về. Binh
sĩ thũng chân, mười phần chết đến bốn năm phần. Phương cũng bị ốm, chết dọc
đường.
[2a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lâm Ấp tự chuốc bại vong là có
nguyên do. Từ khi Phạm Hồ Đạt đánh chiếm Nhật Nam, Cửu Chân, cướp phá Giao
Châu, bị Đỗ Viện nhà Tấn đánh tan, mà không từng lấy đó làm răn. Năm nay cướp
Cửu Chân, sang năm lại cướp Giao Châu. Đỗ Tuệ Độ lại đánh tan, giết hết quá
nửa. Dương Mại lại cướp Cửu Đức, bị Đàn Hòa Chi nhà Tống đánh cho phải phục
tội. Tuy có sai sứ vào cống nhưng vẫn cướp phá như cũ. Tông Xác và Hoà Chi đuổi
dài, thắng được Lâm Ấp. Dương Mại may thoát khỏi miệng hùm, văng mình bỏ chạy.
Từ đấy, biển Nam sóng lặng, tưởng chừng mãi mãi lấy đó làm răn. Nhưng Phạn Chí
nối ngôi, lại ra cướp Nhật Nam, bị Pham Tu đánh tan ở Cửu Đức, suốt cả đời Hậu
Nam Đế không dám dòm ngó đất trung châu phía bắc [tức nước ta] nữa, mà nước họ
cũng được giàu thịnh. Đến đây người Tùy tham của báu, cất quân đi đánh, giày
xéo quốc [2b] đô, làm dơ bẩn cung điện, tuy gọi là quân tham bạo, nhưng bọn man
di quấy nhiễu trung châu cũng có thể lấy làm răn.
Mậu Dần , [618], (Đường Cao Tổ Lý Uyên,
Vũ Đức năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 4, Thứ sử Khâm Châu là Nịnh Trường Chân đem
đất Uất Lâm và Thủy An phụ theo Tiêu Tiển. Thái thú Hán Dương là Phùng Áng đem
đất Thương Ngô, Cao Yếu, Châu Nhai, Phiên Ngung phụ theo Lâm Sĩ Hoằng. Tiển và
Sĩ Hoằng đều sai người sang chiêu dụ Thái thú Giao Châu là Khâu Hòa, Hòa không
theo. Tiển sai Trường Chân đem quân Lĩnh Nam đi đường biển đến đánh Hòa. Hòa
muốn đón hàng, Tư pháp thư tá là Cao Sĩ Liêm bảo Hòa rằng: "Quân của
Trường Chân tuy nhiều, nhưng quân cô từ xa đến, lương thực ít, tất không thể
cầm giữ lâu, quân giỏi trong thành cũng đủ đương được, việc gì mới nghe hơi đã
vội chịu theo người". Hòa nghe theo, lấy Sĩ Liêm làm [3a] Hành quân tư mã,
đem các doanh thủy bộ đón đánh, phá tan quân [của Trường Chân]. Trường Chân chỉ
chạy thoát một mình, quân lính bị bắt hết. Hòa lại đắp tử thành (tức thành nhỏ
bên trong thành), chu vi 9 trăm bước để chống giữ. Đến khi nhà Tùy mất, Hòa
hàng phục nhà Đường. Vua Đường sai Lý Đạo Hựu mang cờ tiết sang cho Hòa làm
Giao Châu đại tổng quản161
, tước Đàm quốc công. Hòa sai Sĩ Liêm dâng biểu xin vào chầu. Vua Đường xuống
chiếu sai quân đi đón162
. Năm này nhà Tùy mất.
Nhâm Ngọ , [622], (Đường Vũ Đức năm thứ
5). Trước đây, cuối thời nhà Tùy, Khâu Hòa làm Thái thú Giao Châu, cậy uy thế
của nhà Tùy, thường đi tuần các khe động ở biên giới, ở châu hơn 60 năm, Lâm Ấp
và các nước163
tặng cho Hòa những ngọc minh châu, sừng tê văn và vàng bạc của báu, cho nên Hòa
giàu như vương giả. Năm này nhà Đường đổi Giao Châu làm An Nam đô hộ phủ164
.
[3b] Mậu Tý , [628], (Đường Thái Tông
Thế Dân, Trinh Quán năm thứ 2). Tông thất nhà Đường là Lý Thọ làm Đô đốc Giao
Châu tham ô phải tội. Vua Đường thấy Thứ sử Doanh Châu là Lư Tổ Thượng có tài
gồm văn võ, gọi vào triều, dụ rằng: "Giao Châu đã lâu không được người
giỏi, các đô đốc trước sau đều không xứng chức. Khanh có tài lược dẹp yên biên
giới, hãy vì ta sang trấn đất ấy, chớ lấy đường xa mà từ chối". Tổ Thượng
lạy tạ, rồi lại hối, lấy cớ đau ốm mà từ chối. Vua Đường sai Đỗ Như Hối bảo cho
Tổ Thượng biết ý vua. Tổ Thượng vẫn cố từ. Lại sai Chu Phạm là anh vợ của Tổ
Thượng đến dụ rằng: "Người thường đã hứa với nhau còn biết giữ chữ tín,
khanh đã hứa trước mặt trẫm, há trái lời hay sao? Nên sớm lên đường, sau ba năm
tất gọi về, trẫm không nuốt lời". Tổ Thượng trả lời rằng: "Đất Lĩnh
Nam lam chướng, dịch lệ, đó là cái lẽ đã ra đi thì không trở về". Vua
Đường tức giận nói: "Ta sai người không đi, còn làm chính lệnh thế nào
được nữa". Sai chém ngay ở triều đường. Sau hối lại, cho khôi phục quan
tước và ấm phong.
[4a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua sai bề tôi lấy lễ, bề tôi
thờ vua lấy trung. Đường Thái Tông sai bề tôi không chịu đi, dỗ đến hai lần, có
thể gọi là có lễ. Tổ Thượng được vua sai lại tránh khó nhọc, thế là thất tiết;
đã nhận rồi lại hối, thế là thất tín; lời nói giận dỗi, thế là thất lễ. Thái
Tông giết đi, tuy là quá, song Tổ Thượng đủ ba lỗi ấy, thì tội ra sao?
Ất Mùi , [635], (Đường
Trinh Quán năm thứ 9). Tông thất nhà Đường là Lý Đạo Hưng làm Đô đốc Giao Châu
vì bệnh chướng khí chết ở nơi làm quan.
Đinh Hợi , [687], (Đường Trung Tông
Triết, Tự Thánh năm thứ 4). Mùa thu, tháng 7, các hộ người Lý ở Lĩnh Nam theo
như lệ cũ nộp nửa thuế, Đô hộ Lưu Diên Hựu bắt phải nộp cả. Các hộ người Lý mới
oán giận, mưu làm loạn. Lý Tự Tiên làm [4b] chủ mưu, Diên Hựu giết đi. Dư đảng
là bọn Đinh Kiến họp quân vây phủ thành. Trong thành binh ít không chống nổi,
đóng cửa thành cố giữ để đợi quân cứu viện. Đại tộc ở Quảng Châu là Phùng Tử Do
muốn lập công, đóng quân không đến cứu, Kiến giết Diên Hựu. Sau Tư mã Quế Châu
là Tào Trực Tĩnh165
đánh giết được Kiến.
Nhâm Tuất, [722], (Đường Huyền Tông,
Long Cơ, Khai Nguyên năm thứ 10). Tướng giặc là Mai Thúc Loan166
chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp,
số quân nói là 30 vạn167
. Vua Đường sai nội thị tả giám môn vệ tướng quân là Dương Tư Húc và Đô hộ là
Nguyên Sở Khách168
đánh dẹp yên được.
Mậu Tuất, [758], (Đường Túc Tông Hanh,
Chí Đức năm thứ 3). Nhà Đường đổi An Nam Đô Hộ Phủ làm Trấn Nam Đô Hộ Phủ.
Đinh Mùi [767], (Đường Đại Tông Dự, Đại
Lích thứ 2). [Người] Côn Lôn169
, Chà Bà170
đến cướp, đánh lấy châu thành. Kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu với Đô úy
châu Vũ Định là Cao Chính Bình. Quân cứu viện đến, đánh tan quân Côn Lôn, [5a]
Chà Bà ở Chu Diên. Bá Nghi đắp lại La Thành171
. Khi ấy có người tiết phụ họ Toàn172
là mẹ của Đào Tề Lượng ở Giao Châu, thường lấy trung nghĩa dạy Lượng, nhưng
Lượng ngoan cố không chịu nghe, mới dứt tình với con, tự cày lấy mà ăn, dệt lấy
mà mặc, người trong làng xóm đều noi theo. Vua Đường xuống chiếu cho 2 người
đinh đến hầu nuôi, sai quan bản đạo bốn mùa đến thăm hỏi.
Mậu Thân, [768], (Đường Đại Lịch năm
thứ 3). Nhà Đường đổi Giao Châu làm An Nam Đô Hộ Phủ.
Giáp Tý, [784], (Đường Đức Tông Quát,
Hưng Nguyên năm thứ 1). Người quận Cửu Chân là Khương Công Phụ làm quan thời
Đường, đậu tiến sĩ, bổ làm Hiệu Thư Lang. Vì có bài chế sách hơn người, cho làm
Hữu thập di Hàn Lâm học sĩ, kiêm chức Kinh triệu hộ tào tham quân, từng xin
giết Chu Thử, vua Đường không nghe. Không bao lâu Kinh sư có loạn, vua Đường từ
cửa Thượng Uyển đi ra, Công Phụ giữ ngựa lại can rằng: "Chu Thử từng làm
tướng ở đất Kinh đất Nguyên, được lòng quân lính, [5b] vì Chu Thao làm phản nên
bị vua cất mất binh quyền, ngày thường vẫn uất ức, xin cho bắt đem đi theo, chớ
để cho bọn hung ác đón được". Vua Đường đương lúc vội vàng không kịp nghe,
trên đường đi lại muốn dừng lại ở Phượng Tường để nương nhờ Trương Dật. Công
Phụ can rằng: "Dật tuy là bề tôi đáng tin cậy, nhưng là quan văn, quân đột
kỵ ở Ngư Dương do ông ta quản lĩnh đều là bộ khúc của Chu Thử. Nếu Thử thẳng
đến Kinh Nguyên làm loạn, thì ở nơi ấy không phải kế vạn toàn". Vua Đường
bèn đi sang Phụng Thiên. Có người báo tin Thử làm phản, xin vua phòng bị. Vua
Đường nghe lời Lư Kỷ xuống chiếu cho quân các đạo đóng cách xa thành một xá173
, muốn đợi Thử đến đón. Công Phụ nói: "Bậc vương giả không nghiêm việc vũ
bị thì lấy gì để oai linh được trọng. Nay cấm binh đã ít người mà quân lính
người ngựa đều ở bên ngoài, thần lấy làm nguy cho bệ hạ lắm". Vua Đường
khen là phải, cho gọi hết vào trong thành. Quân của Thử quả nhiên kéo đến, đúng
như lời của Công Phụ. Vua Đường bèn thăng cho Phụ làm Gián Nghị Đại Phu, Đồng
trung thư môn hạ bình chương sự174
. Sau [6a] vì việc can
vua chôn cất công chúa Đường An quá hậu, trái ý vua, Lục Chí tâu gỡ cho,
nhưng không được, cuối cùng vẫn phải xuống chức làm Thái tử tả thứ tử, lại bị
biếm là Tuyền Châu biệt giá. Đường Thuận Tông lên ngôi, cho làm Thứ sử Cát
Châu, chưa đến nơi nhận chức thì chết. Em là Khương Công Phục cũng đậu tiến sĩ,
làm quan đến chức Bắc bộ thị lang175
.
Tân Mùi, [791], (Đường Trinh Nguyên năm
thứ 7). Mùa xuân, An Nam đô hộ phủ là Cao Chính Bình làm việc quan bắt dân đóng
góp nặng. Mùa hạ, tháng 4, người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu (Đường Lâm thuộc
huyện Phúc Lộc)176
là Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ mà chết. Trước đây Phùng Hưng
vốn là nhà hào phú, có sức khỏe, có thể vật trâu, đánh hổ. Khoảng niên hiệu Đại
Lịch (766-780] đời Đường Đại Tông, nhân Giao Châu có loạn, cùng với em là Hãi
hàng phục được các ấp bên cạnh, Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo, đánh
nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng [6b] kế của người
làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ. Chính Bình lo sợ phẫn uất thành bệnh ở
lưng mà chết. Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị, chưa được bao lâu thì chết. Con
là An tôn xưng làm Bố Cái Đại Vương (tục gọi cha là Bố, mẹ là Cái, cho nên lấy
[Bố Cái] làm hiệu). Vương thường hiển linh, dân cho là thần, mới làm đền thờ ở
phía tây phủ đô hộ, tuế thời cúng tế (tức là Phu hựu chương tín sùng nghĩa Bố
Cái Đại Vương. Đền thờ nay ở phường Thịnh Quang177
, ở phía đông nam178
ruộng tịch điền).
Tháng 5, ngày Tân Tỵ, nhà Đường đặt quân Nhu Viễn ở phủ trị. Mùa thu, tháng
7, ngày Canh Thìn, nhà Đường lấy Triệu Xương làm đô hộ. Xương vào cõi, lòng dân
bèn yên. Xương sai sứ dụ An, An đem quân hàng. Xương đắp thêm La Thành kiên cố
hơn trước, ở chức 17 năm, vì đau chân xin về. Vua Đường chuẩn cho, lấy Lang
trung bộ Binh là Bùi Thái thay Xương.
Quý Mùi, [803], (Đường Trinh Nguyên năm
thứ 19). Đô đốc Bùi Thái sai lấp bỏ những hào rãnh ở trong thành, hợp làm một
[7a] thành179
. Tướng ở châu là Vương Quý Nguyên đuổi Bùi Thái đi. Vua Đường vời Xương hỏi
tình trạng. Xương đã ngoài 70 tuổi, mà tâu việc rõ ràng. Vua Đường cho là giỏi,
lại sai làm Đô hộ Giao Châu. Xương đến, người trong châu đều mừng, loạn bèn
yên.
Mậu Tý, [808], (Đường Hiến Tông Thuần,
Nguyên Hòa năm thứ 3). Trương Chu làm Đô hộ Giao Châu (trước Chu làm Kinh lược
phán quan, đến nay thăng làm Đô hộ), đắp thêm thành Đại La, đóng 300 chiếc
thuyền mông đồng (loại thuyền ngắn), mỗi thuyền có 25 chiến thủ, 23 tay chèo,
thuyền chèo ngược xuôi, nhanh như gió. Lại đắp hai thành ở châu Hoan, châu Ái,
vì các thành ấy trước bị Hoàn Vương (vua Chiêm Thành) phá hủy.
Kỷ Hợi, [819], (Đường Nguyên Hòa năm
thứ 14). Mùa đông, tháng 10, Đô hộ là Lý Tượng Cổ vì tham bạo hà khắc mất lòng
dân chúng. Tướng của Cổ là Dương Thanh đời đời làm tù trưởng Man, khoảng niên
hiệu Khai Nguyên [713-742] nhà Đường làm Thứ sử Hoan Châu180
, [7b] Tượng Cổ vẫn kiêng dè, gọi cho làm nha tướng, đến đai sai đi đánh người
Man ở Hoàng Động. Thanh nhân thấy lòng người oán giận Tượng Cổ, đang đêm trở về
đánh úp châu, chiếm được, giết Tượng Cổ (Thanh là người Giao Châu, Tượng Cổ là
người tôn thất nhà Đường). Vua Đường sai Quế Trọng181
đánh Dương Thanh mà
không thắng. Thanh vào trong người Man Lạo làm loạn, cướp phá phủ thành, Đô
hộ Lý Nguyên Gia đánh không được, dụ không đến. Do đấy người Man Hoàng Động dẫn
Hoàn Vương182
vào cướp.
Giáp Thìn , [824], (Đường Mục Tông
Hằng, Trường Khánh năm thứ 4). Mùa đông, tháng 11, Lý Nguyên Gia183
thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh
lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện nay. (Bấy giờ Nguyên Gia dời
phủ trị184
đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi, có người thầy tướng bảo rằng: Sức ông
không đắp nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có người họ Cao đến đây đóng đô dựng
phủ. Đến đời Hàm Thông [860-874], Cao Biền đắp thêm La Thành, đúng như lời
người ấy. Lại xét: Phủ thành đô hộ trước đó ở ngoài thành Đông Quan ngày nay,
gọi là La Thành, sau Cao Biền đắp thành hiện nay, thành bên ngoài cũng gọi là
La Thành).
[8a] Mậu Thân, [828], (Đường Văn Tông
Hàm, Thái Hòa năm thứ 2). Đô hộ Hàn Ước đánh Vương Thăng Triều ở Phong Châu,
thắng được, sau bị Dương Thanh đuổi, chạy về Quảng Châu.
Tân Dậu, [841], (Đường Vũ Tông Viêm,
Hội Xương năm thứ 1). Vua Đường xuống chiếu lấy Vũ Hồn làm Kinh lược sứ thay
Hàn Ước.
Quý Hợi, [843], (Đường Hội Xương năm
thứ 3). Kinh lược sứ Vũ Hồn bắt tướng sĩ đắp sửa thành phủ, tướng sĩ làm loạn,
đốt lầu thành, cướp kho phủ. Hồn chạy về Quảng Châu. Giám quân là Đoàn Sĩ Tắc
vỗ yên được quân làm loạn.
Bính Dần , [846], (Đường Hội Xương năm
thứ 6). Người Nam Man185
vào cướp. Vua Đường sai Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Hựu186
đem quân các đạo lân cận đánh dẹp được.
Đinh Sửu, [857], (Đường Tuyên Tông
Thầm, Đại Trung năm thứ 11). Mùa hạ, tháng 4, nhà Đường lấy Hữu thiên ngưu vệ
đại tướng quân [8b] là Châu Nhai187
là Kinh lược sứ Giao Châu.
Mậu Dần, [858], (Đường Đại Trung năm
thứ 12). Mùa xuân, tháng giêng, vua Đường lấy Khang Vương phó188
là Vương Thức làm Giao Châu kinh lược đô hộ sứ. Thức là người có tài lược, đến
phủ sai trồng cây táo gai189
làm rào, bên ngoài đào hào sâu để thoát nước trong thành, bên ngoài hào trồng
tre gai, giặc không thể xâm phạm được, kén chọn dạy bảo quân lính rất tinh nhuệ.
Không bao lâu, người Nam Man (tức Nam Chiếu) kéo đến đông, đóng ở bến đò Cẩm
Điền, cách châu độ nửa ngày đường. Ý tứ của Thức vẫn an nhàn như thường, sai
người phiên dịch đến dụ, bày tỏ lợi hại, chỉ một đêm người Man lại kéo đi, sai
người đến từ tạ nói: "Chúng tôi chỉ đến bắt bọn người Lạo làm phản, chứ
không phải đến cướp".
Lại có Đô hiệu La Hành Cung (Đô hiệu cũng như Đô tướng) chuyên quyền ở phủ
đã lâu, quân tinh nhuệ dưới cờ đến 2 nghìn người mà ở phủ đô hộ chỉ có vài trăm
quân gầy yếu. Thức đến phủ, đánh trượng vào lưng [Hành Cung] rồi đuổi ra nơi
biên viễn.
Trước đó, Đô hộ là Lý Trác làm chính sự tham [9a] lam tàn bạo, mua hiếp bò
ngựa của người Man, mỗi con chỉ trả cho một đấu muối, lại giết tù trưởng Man là
Đỗ Tồn Thành, dân Man oán giận, dẫn đường cho người Nam Chiếu đến lấn cướp biên
giới. Đất Tây Nguyên, Đào Lâm, thuộc Phong Châu, từ xưa vẫn có quân phòng đông190
6.000 người, tù trưởng Man Động Thất Quán bên cạnh là Lý Do Độc,
thường giúp đỡ việc đóng giữ và thu tô thuế. Viên Tri Châu Phong Châu (không rõ
họ tên) nói với Tác xin bỏ quân đóng thú, chuyên ủy cho Do Độc ngăn phòng. Từ
đó Do Độc thế cô, không thể đứng vững được. Thác đông tiết độ của Nam Chiếu
(Thác đông: ý nói khai thác cõi đông; Giao Chỉ ở phía đông nước Nam Chiếu, cho
nên đặt chức ấy) gửi thư sang dụ Do Độc, đem con gái gả cho con trai của Do
Độc, bổ làm Thác đông thác nha191
. Do Độc bèn đem dân chúng làm tôi nước Nam Chiếu. Từ đấy Giao Châu mới có mối
lo về người Man [Nam Chiếu].
Tháng 5 năm ấy, người Man [Nam Chiếu] đến cướp, Thức đánh lui được.
Mùa thu, tháng 7, có bọn dân xấu nhiều lần nổi loạn, nói phao rằng:
"Nghe đồn Kinh lược sứ Châu Nhai (Châu Nhai ở Quảng [9b] Châu)192
sai quân Hoàng đầu (quân bịt đầu bằng khăn vàng) vượt biển sang
đánh úp châu ta". Rồi bọn họ đang đêm kéo nhau đến vây thành, đánh trống
reo hò: "Xin đuổi Thức về để chúng tôi đóng ở thành này chống giữ quân
Hoàng đầu phía Bắc". Lúc ấy Thức đang ăn, có người khuyên nên tránh đi.
Thức nói: "Tôi động chân một chút thì thành này vỡ ngay". Rồi cứ
thong thả mà ăn, ăn xong, mặc áo giáp dẫn tả hữu lên mặt thành, dựng cờ đại
tướng ngồi mà trách mắng. Bọn làm loạn quay đầu bỏ chạy. Ngày hôm sau, Thức sai
bắt giết hết.
Bấy giờ đói kém loạn lạc liên tiếp, 6 năm không nộp thượng cung (thượng cung
là tiền, lụa nộp sang Kinh sư để cho vua [Trung Quốc] chi dùng), trong quân
không có khao thưởng. Thức bắt đầu sửa sang việc thuế khóa, khao thưởng quân
lính. Chiêm Thành, Chân Lạp đều thông sứ trở lại.
Canh Thìn, [860], (Đường Ý Tông Thôi,
Hàm Thông năm thứ 1). Mùa xuân, giặc ở Chiết Đông là Cừu Phủ làm loạn. Nhà
Đường bàn chọn tướng đi đánh dẹp. Hạ Hầu Tư nói: "Vương Thức tuy là con
nhà nho, nhưng trước ở An Nam đã từng uy phục được cả người Hoa và người Di,
[10a] cõi xa đều nghe danh tiếng, có thể đảm nhiệm được". Vua Đường bèn
gọi Thức về trao cho chức Chiết Đông quan sát sứ.
Mùa đông, tháng 12, ngày Mậu Thân, người thổ man dẫn quân Nam Chiếu hợp lại
hơn 3 vạn người, nhân khi sơ hở đến đánh chiếm phủ [trị] của châu ta. Đô hộ Lý
Hộ cùng với viên giám quân chạy về Vũ Châu.
Tân Tỵ, [861], (Đường Hàm Thông năm thứ
2). Mùa xuân, tháng giêng vua Đường xuống chiếu phát quân Ung Quản193
và các đạo lân cận sang cứu Lý Hộ, đánh lại Nam di [Nam Chiếu]. Mùa hạ, tháng
6, ngày Quý Sửu, vua Đường sai Phòng ngự sứ Diêm Châu là Vương Khoan làm Kinh
lược sứ An Nam. Bấy giờ Lý Hộ từ Vũ Châu thu nhặt quân người địa phương [Giao
Châu] đánh bọn Man [Nam Chiếu], lấy lại được phủ thành. Vua Đường trách tội
thất thủ, biếm làm Tư hộ Đạm Châu, sau đày đi Phong Châu, lấy Vương Khoan làm
Đô hộ kinh lược sứ. Hộ khi mới đến giết tù trưởng người Man là Đỗ Trừng194
, cho nên họ hàng nhà Trừng xui giục và dẫn đường cho người Man [Nam Chiếu]
đánh lấy châu.
[10b] Nhâm Ngọ, [862], (Đường Hàm Thông
năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, Nam Chiếu lại vào cướp phá. Vương Khoan mấy lần
sai sứ cáo cấp. Vua Đường sai Hồ Nam quan sát sứ trước là Sái Tập thay thế, đem
binh các đạo Hứa, Hoạt, Từ, Biện, Kinh, Tương, Đàm, Ngạc, hợp lại được 3 vạn,
giao cho Tập để chống cự. Thế quân đã mạnh, quân Man bèn rút lui.
Đ ạ
i V i ệ
t S ử
K ý B ả
n K ỷ
T o à n T h ư
Quyển I
[1a]
K ỷ n h à Đ i n h
Tiên Hoàng Đế
Họ Đinh, tên húy là Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, châu Đại
Hoàng247
con của Thứ sử châu Hoan Đinh Công Trứ, dẹp yên các sứ quân, tự lập làm đế, ở
ngôi 12 năm [968-979], bị nội nhân là Đỗ Thích giết, thọ 56 tuổi [924-979], tán
ở sơn lăng Trường Yên.
Vua tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, quét sạch các
hùng trưởng, tiếp nối quốc thống của Triệu Vũ [Đế], song không biết dự phòng,
không giữ được trọn đời, tiếc thay!
Xưa, cha của vua là Đinh Công Trứ làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, được
Đình Nghệ giao giữ chức quyền Thứ sử châu Hoan, sau theo về với Ngô Vương, vẫn
được giữ chức cũ, rồi mất. Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở
cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con
chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự biết kiến thức không bằng vua, [1b] cùng nhau
suy tôn làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu
khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi,
thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng
ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn
nhà cho chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau: "Đứa bé này khí lượng như thế
ắt làm nên sự nghiệp, bọn ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn".
Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ở sách Đào Áo. Người chú của vua
giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh,
phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan248
, cầu gãy, vua rơi xuống bùn, [2a] người chú toan đâm, bỗng thấy
hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại
đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ
như chẻ tre, gọi là Vạn Thắng Vương.
Bấy giờ Mười hai sứ quân đều tự xưng hùng trưởng, cát cứ đất đai. Ngô Xương
Xí chiếm Bình Kiều, Ngô Nhật Khánh chiếm Đường Lâm, Kiểu Tam Chế chiếm Phong
Châu, Nguyễn Thái Bình chiếm Nguyễn Gia Loan, Đỗ Cảnh Thạc chiếm miền sông Đỗ
Động, Nguyễn Lệnh Công249
chiếm Tây Phù Liệt, Tế Giang thì có Lữ Tá Đường, Tiên Du có
Nguyễn Thủ Tiệp, Siêu Loại có Lý Lãng Công, Hồi Hồ có Kiểu Lệnh Công, Đằng Châu
có Phạm Phòng Át, Bố Hải có Trần Minh Công250
. Vua một phen cất quân là dẹp yên,
bèn tự lập làm đế. Chọn được chỗ đất đẹp ở Đàm thôn, vua muốn dựng [2b] đô ở
đó, nhưng vì thế đất chật hẹp lại không có lợi về việc đặt hiểm, nên vẫn đóng
đô ở Hoa Lư251
(nay là phủ Trường Yên).
Mậu Thìn, năm thứ 1 [968], ( Tống Khai Bảo năm thứ 1 ). Vua lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời Kinh ấp về động Hoa
Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi. Bầy
tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế.
Vua muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ
trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho
hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm.
Lê Văn Hưu nói: Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn
người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các
hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết. Vua mở nước
dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu [3a] quân, chế độ gần đầy
đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại sinh bậc thánh triết để tiếp nối quốc
thống của Triệu Vương chăng?
Kỷ Tỵ, năm thứ 2 [969], (Tống Khai Bảo
năm thứ 2) . Tháng 5 nhuận, phong con trưởng là Liễn làm
Nam Việt Vương.
Canh Ngọ, Thái Bình năm thứ 1 [970] ,
(Tống Khai Bảo năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, đặt niên hiệu. (Sử cũ nói
rằng nước Việt ta có niên hiệu bắt đầu từ đây. Nhưng Lý Nam Đế [trước đó] đã
đặt niên hiệu là Thiên Đức [544-548]. Sai sứ sang nhà Tống giao hảo. Bấy giờ
nhà Tống sai Đại tướng Phan Mỹ dẹp yên Lĩnh Nam (chỉ Lưu Xưởng252
), cho nên mới có mệnh ấy.
Lập 5 hoàng hậu (một là Đan Gia, hai là Trinh Minh, ba là Kiểu Quốc, bốn là
Cồ Quốc, năm là Ca Ông).
Lê Văn Hưu nói: Trời đất cùng che chở, mặt trời mặt trăng
cùng chiếu soi, mới sinh thành muôn vật, nảy nở mọi loài, cũng như hoàng hậu
sánh với ngôi vua, cho nên mới có thể [3b] đứng đầu tiêu biểu cho nội cung, tác
thành cho thiên hạ. Từ xưa chỉ lập [hoàng hậu] một người để chủ việc nội trị mà
thôi, chưa từng nghe nói lập đến 5 người. Tiên Hoàng không kê cứu cổ học, mà
bầy tôi đương thời lại không có ai biết giúp sửa cho đúng, để đến nổi chìm đắm
trong tình riêng, cùng lập 5 hoàng hậụ Sau đến 2 triều Lê, Lý cũng phần nhiều
bắt chước làm theo, ấy là do Tiên Hoàng khởi xướng sự rối loạn thứ bậc vậy.
Tân Mùi, [Thái Bình] năm thứ 2 [971] , (Tống Khai Bảo năm thứ 4). Bắt đầu quy định cấp bật văn võ, tăng
đạo. Lấy Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lưu cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư253
, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân254
, Tăng thống255
, Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục256
, Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi257
.
[4a] Nhâm Thân, [Thái Bình] năm thứ 3 [972] , (Tống Khai Bảo năm thứ 5). Sai Nam Liệt Vương Liễn sang sứ thăm nhà
Tống.
Quý Dậu, [Thái Bình] năm thứ 4 [973] ,
(Tống Khai Bảo năm thứ 6). Nam Việt Vương Liễn đi sứ về. Nhà Tống sai sứ sang
phong cho vua làm Giao Chỉ Quận Vương, Liễn làm Kiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải quân
tiết độ sứ An Nam đô hộ. (Lời chế đại lược nói: "[Họ Đinh] đời làm vọng
tộc, gìn giữ được phương xa, chí hâm mộ phong hoá Trung Hoa, thường nghĩ đến
việc nội phụ. Nay chín châu hợp một, miền Ngũ Lĩnh sạch quang258
, bèn trèo non vượt biển đến dâng đồ cống. Khen người làm con biết giữ lễ phiên
thần, vậy ban cho cha ngươi theo lối cắt đất phong tước, xếp phẩm trật cho vào
hạng được cầm quân, được hưởng mức "tỉnh phú"259
. Như thế là để khen thưởng đức tốt của người già, há chỉ hạn chế trong điển
chương thường lệ đâu?".
Giáp Tuất, [Thái Bình] năm thứ 5 [974] ,
(Tống Khai Bảo năm thứ 7). Muà xuân, tháng hai, quy định về quân mười đạo: mỗi
đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người, đầu
đội mũ bình đính260
vuông bốn góc (loại mũ này làm bằng da, chóp phẳng, bố bên khâu liền, trên hẹp
dưới rộng, quy chế này đến đời bản triều khởi nghĩa vẫn còn dùng, đời sau vẫn
theo thế).
Hoàn thứ tử là Toàn sinh.
[4b] Ất Hợi, [Thái Bình] năm thứ 6 [975] , (Tống Khai Bảo năm thứ 8). Mùa xuân, quy định áo mũ cho các quan văn
võ. Sai Trịnh Tú 261
đem vàng lụa, sừng tê, ngà voi sang nhà Tống.
Mùa thu, nhà Tống sai Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự dẫn đầu bọn Vương Ngạn Phù
đem chế sách sang gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam
ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ Quận Vương. Từ đó về sau, sai sứ sang nhà Tống
đều lấy Liễn làm chủ.
Bính Tý, [Thái Bình] năm thứ 7 [976] ,
(Tống Khai Bảo năm thứ 9. Từ tháng 10 trở về sau thuộc về Tống Thái Tông
[Triệu] Khuông Nghĩa, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ nhất). Muà xuân,
thuyền buôn của các nước ngoài đến dâng sản vật của nước họ. Sai Trần Nguyên
Thái sang đáp lễ nhà Tống.
Mùa đông, tháng 10, Tống Thái Tổ băng.
Đinh Sửu, [Thái Bình] năm thứ 8 [977] ,
(Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 2). Sai sứ sang nhà Tống mừng Thái Tông lên
ngôi.
Mậu Dần, [Thái Bình] năm thứ 9 [978] ,
(Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, động đất. Lập con
nhỏ là Hạng Lang [5a] làm hoàng thái tử, phong con thứ là Toàn làm Vệ Vương.
Tháng hai, mưa đá.
Mùa hạ, tháng sáu, nắng hạn.
Kỷ Mão, [Thái Bình] năm thứ 10 [979] ,
(Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 4). Mùa xuân, Nam Việt Vương Liệt giết hoàng
thái tử Hạng Lang. Liễn là con trưởng của vua, thuở hàn vi cùng chịu gian khổ,
đến khi định yên thiên hạ, ý vua muốn truyền ngôi cho, mới phong làm Nam Việt
Vương, lại từng xin mệnh và nhận tước phong của nhà Tống. Sau vua sinh con nhỏ
là Hạng Lang, rất mực yêu quý, lập làm thái tử. Liễn vì vậy bất bình, sai người
ngầm giết đi.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nối ngôi dùng con đích là đạo thường
muôn đời, bỏ đạo ấy, chưa từng không gây loạn. Cũng có khi nhân thời loạn mà
lập Thái tử, thì trước hết chọn người có công, [5b] hoặc con đích trưởng quá ác
phải bỏ thì sau mới lập con thứ. Thế là xử việc lúc biến mà vẫn được đúng đắn,
người xưa vẫn từng làm. Nam Việt Vương Liễn là con trưởng, lại có công, chưa
thấy lầm lỗi gì. Tiên hoàng yêu con thứ mà quên con trưởng, cho như thế mới đủ
tỏ tình yêu quý, không biết như thế là làm hại con.
Liễn lại nhẫn tâm, đến nỗi giết em, thiên đạo nhân luân mất
hết, chuốc họa chết thiệt thân, còn liên lụy cả cha nữa, há chẳng rùng rợn lắm
thay! Không thế thì tội đại ác của Đỗ Thích do đâu nảy ra để hợp với lời sấm
Được?
Mùa đông, tháng mười, Chi hậu nội nhân Đỗ Thích262
giết vua ở sân cung. Bọn Đinh quốc công Nguyễn Bặc bắt được đem giết. Trước đó
Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm trên cầu, bỗng thấy sao sa rơi vào
miệng, Thích cho là điềm tốt, bèn nảy ra ý định giết vua. Đến đây, nhân lúc vua
ăn yến ban đêm, say rượu nằm trong sân, [6a] Thích bèn giết chết, lại giết luôn
cả Nam Việt Vương Liễn. Khi ấy lệnh lùng bắt hung thủ rất gấp, Thích phải lén
núp ở máng nước trong cung qua 3 ngày, khác lắm, gặp lúc trời mưa thò tay hứng
nước uống, cung nữ trông thấy liền đi báo. Đinh quốc công Nguyễn Bặc sai người
bắt đem chém, đập nát xương, băm thịt ra từng mảnh, chia cho người trong nước
ăn, chẳng ai không tranh lấy mà nhai nuốt. Ngày trước, khi vua còn hàn vi,
thường đánh cá ở sông Giao Thủy, kéo lưới được viên ngọc khuê to nhưng va vào
mũi thuyền, sứt mất một góc. Đêm ấy vào ngũ nhờ ở chùa Giao Thủy, giấu ngọc ở
dưới đáy giỏ cá, đợi sáng ra chợ bán cá. Bấy giờ vua đang ngũ say, trong giỏ có
ánh sáng lạ, nhà sư chùa ấy gọi dậy hỏi duyên cớ, vua nói thực và lấy ngọc khuê
cho xem. Sư than rằng: "Anh ngày sau phú quý không thể nói hết, chỉ tiếc
phúc không được dài".
Lại vào năm Thái Bình thứ 5 [974], có lời sấm ngữ: "Đỗ Thích thí Đinh
Đinh, Lê gia xuất thánh minh, cạnh đầu đa hoành nhi263
, đạo lộ tuyệt nhân hành. Thập nhị xưng đại vương, thập ác vô
nhất thiện [6b], thập bát tử đăng tiên, kế đô264
nhị thập thiên" (Đỗ Thích giết hai Đinh, nhà Lê nỗi thánh minh, tranh nhau
nhiều hoành nhi, đường sá người vắng tanh. Mười hai xưng đại vương, toàn ác
không một thiện, mười tám con lên tiên, sao kế đô hai chục ngày)265
. Người ta cho là số trời đã định như thế. Khi ấy Định quốc công Nguyễn Bặc,
Ngoại giáp Đinh Điền, cùng thập đạo tướng quân Lê Hoàn rước Vệ Vương Toàn lên
ngôi Hoàng đế, tôn gọi vua là Tiên Hoàng Đế, tôn mẹ đẻ [vua mới] là Dương Thị
làm Hoàng thái hậu. Rước linh cữu Tiên Hoàng Đế về táng ở sơn lăng Trường Yên266
.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đế vương dấy nghiệp không ai không
nhờ ở trời. Nhưng thánh nhân không cậy có mệnh trời mà làm hết phận sự của
mình. Việc đã thành, lại càng lo nghĩ đề phòng. Sửa sang lể nhạc hình án chính
sự là để phòng giữ lòng người. Đặt nhiều lần cửa, đánh hiệu canh là đề phòng kẻ
hung bạo. Bởi vì [7a] lòng dục không cùng, việc đời không bến, không thể không
đề phòng trước. Đó là nghĩ xa cho đời sau, mưu tính cho con cháu cũng chính là
ở đó. Cho nên Tiên Hoàng không được trọn đời là do chưa làm hết việc ngừơi,
không phải mệnh trời không giúp. Cũng vì vua không giữ được trọn đời khiến cho
cái thuyết sấm đồ266
đắc thắng, đời sau không thể không bị mê hoặc vì điều đó.
PHẾ ĐẾ
Tên húy là Toàn, con thứ của Tiên Hoàng, ở ngôi 8 tháng. Họ
Lê cướp ngôi, giáng phong là Vệ Vương, thọ 18 tuổi [974-991]. Vua còn thơ ấu
phải nối nghiệp lớn gian nan, cường thần nhiếp chính, người trong nước lìa
lòng, nhà Đinh bèn mất.
Vua nối ngôi khi mới 6 tuổi. Lê Hoàn nhiếp chính, làm công việc như Chu Công267
, tự xưng là Phó Vương. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc, ngoại
giáp Đinh Điền, Phạm Hạp ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn cùng
nhau dấy binh, chia hai đường thủy bộ, muốn tiến về kinh đô giết [7b] Hoàn,
nhưng không đánh nổi, bị giết. Trước đó khi Điền và Bặc cất quân, Thái hậu nghe
tin, lo sợ bảo Hoàn rằng: "Bọn Bặc dấy quân khởi loạn làm kinh động nước
nhà ta. Vua còn nhỏ yếu chưa kham nỗi nhiều nạn, các ông nên liệu tính đi chớ
để tai họa về sau". Hoàn nói: "Thần ở chức Phó Vương nhiếp chính, dù
sống chết biến họa thế nào, đều phải đảm đương trách nhiệm". Rồi đó chỉnh
đốn quân lữ, đánh nhau với Điền, Bặc ở Tây Đô (Hoàn người Ái Châu, [sau lên
ngôi] đóng đô ở Hoa Lư, cho nên sử gọi Ái Châu là Tây Đô). Điền, Bặc thua chạy,
lại đem quân thủy ra đánh. Hoàn nhân chiều gió phóng lửa đốt thuyền chiến, chém
Điền tại trận, bắt được Bặc đóng củi đưa về kinh sư, kể tội rằng: "Tiên đế
mắc nạn, thần người đều căm thẹn. Ngươi là tôi con lại nhân lúc tan tóc bối
Krối mà dấy quân bội nghĩa. Chức phận tôi con có đâu như thế?". Bèn chém
đầu đem bêu.
Điền, Bặc đã chết, quân Phạm Hạp mất hết khí thế, tan chạy về hương Cát Lợi
ở Bắc Giang. Hoàn dẫn quân đuổi theo, bắt sống được Phạm Hạp đem về [8a] Kinh
sư.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Chu Công là người vương thất rất
thân, giúp vua nhỏ tuổi còn không tránh khỏi những lời gièm pha phao truyền. Lê
Hoàn là đại thần khác họ, nắm giữ binh quyền, làm công việc như Chu Công,
thường tình còn ngờ vực, huống là Nguyễn Bặc ở chức thủ tướng và Đinh Điền là
đại thần cùng họ hay sao? Bọn họ khởi binh không phải làm loạn, mà là một lòng
phù tá nhà Đinh, vì giết Hoàn không được mà phải chết, ấy là chết đúng chỗ. Nay
xem lời Đại Hành kể tội Nguyễn Bặc tựa như vạch tội mình. Khi Bặc chết, ắt phải
có nói một lời để bày tỏ chính nghĩa, nhưng không thấy sử chép, thế là bỏ sót.
Phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền quân Chiêm Thành hơn nghìn
chiếc vào cướp, muốn đánh thành Hoa [8b] Lư, theo hai cửa biển Đại Ác và Tiểu
Khang, qua một đêm, gặp gió bão nổi lên, thuyền đều lật đắm, Nhật Khánh cùng
bọn người Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát trở về nước.
Nhật Khánh là con cháu của Ngô Tiên chúa Quyền, trước xưng là An Vương, cùng 12
sứ quân mỗi người chiếm giữ một vùng. Tiên Hoàng dẹp yên, lấy mẹ Khánh làm
hoàng hậu, lấy em gái Khánh làm vợ Nam Việt Vương Liễn, còn lo sinh biến, lại
đem công chúa gã cho Khánh, ý muốn dập hết lòng oán vọng của hắn. Nhật Khánh bề
ngoài cười nói như không, nhưng trong lòng vẫn bất bình, bèn đem cả vợ chạy
sang Chiêm Thành, đến cửa biển Nam Giới268
rút đao ngắn xẻo má vợ kể tội rằng: "Cha mày lừa dối ức hiếp mẹ con ta, lẽ
nào ta vì mày mà quên tội ác của cha mày hay sao? Cho mày trở về, ta đi đằng
khác tìm kẻ có thể cứu ta". Nói xong bèn đi. Đến đây nghe tin Tiên Hoàng
băng, Khánh dẫn người Chiêm vào cướp.
[9a] Canh Thìn, [Thái Bình] năm thứ 11 [980] , (Phế Đế vẫn dùng niên hiệu Thái Bình, từ tháng 7 về sau là niên hiệu
Thiên Phúc năm đầu của Lê Đại Hành; Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 5).
Mùa hạ, tháng 6,Tri Ung Châu269
của nhà Tống là Thái thường bác sĩ Hầu Nhân Bảo dâng thư tâu với
vuaTống rằng:
" An Nam Quận Vương cùng với con là Liễn đều bị giết, nước ấy sắp mất,
có thể nhân lúc này đem một cánh quân sang đánh lấy.nếu bỏ lúc này không mưu
tính, sợ lở mất cơ hôị. Xin cho đến cửa khuyết để tâu Bày trực tiếp tình trạng
có thể đánh lấy được ". Vua Tống sai chạy trạm đến gọi Nhân Bảo. Lư Đa Tốn
nói: " An Nam bên trong rối loạn, đó là lúc trời làm mất, triều đình nên
bất ngờ đem quân sang đáng úp, như người ta nói: " sét đánh không kịp bịt
tai". Nếu trước gọi Nhân Bảo về, mưu ấy ắt bị lộ, kẻ kia nhờ đó biết được,
sẽ dựa núi ngăn mà phòng bị, cái thế thắng thua chưa biết thế nào.
Chi bằng giao cho Nhân Bảo trách nhiệm ngầm đem quân sang, theo lệnh mà lo
liệu việc ấy, chọn tướng đem 3 vạn quân Kinh Hồ270
ruổi dài mà [9b] tràn sang, tạo ra cái thế vạn toàn như xô bẻ
cành khô gỗ mục, không phải lo tốn một mũi tên".Vua Tống cho là phải.
Mùa thu,tháng 7, ngày Đinh Mùi, nhà Tống lấy Hầu Nhân Bảo làm Giao châulục
lộ thủy lộ chuyển vận sứ, Lan Lãng đoàn luyện sứ Tôn Toàn Hưng,Bất tác sứ Hác
Thủ Tuấn, Yên bi khổ sứ Tràn Khâm Tộ, Tả giám môn tướng quân Thôi Lượng làm Ung
Châu Lộ binh mã bộ thư, Ninh Châu thứ sử Lưu Trừng, Quân khi khố phó sứ Giả
Thực, Cung phụng quan cáp môn chi hậu Vương Soạn làm Quảng Châu Lộ binh mã đô
bộ thư., họp quân cả bốn hướng, hẹn ngày cùng sang xâm lược.
Bấy giờ,Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về.
Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là
Phạm Cư Lạng271
làm đại tướng quân. Khi [ triều đình ] đang bàn kế hoạch xuất
quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ,
[10a] nói với mọi người rằng: " Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là
phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết
sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho ?
Chi bằng trước hãy tôn lâp ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẻ xuất quân thì
hơn".Quân sĩ nghe vậy đều hô "vạn tuế ".
Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn272
khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ đó Hoàn lên
ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu [ 980 ], giáng phòng vua làm
Vệ Vương.
Truy phong cha của vua [ Hoàn ] làm Trường Hưng Vương, mẹ họ Đặng làm Hoàng
thái hậu.
Tháng 8, vua Tống xuống chiếu đem quân sang xâm lược, sai Lư Đa Tốn đem thư
sang nói rằng: " Trung Hoa đối với Man Di, cũng như thân người có tứ chi,
vận động duỗi co tùy ở tim mình, cho nên nói tim là chủ. Nếu ở một [10b] tay
một chân mà mạch máu ngừng đọng, gân cốt không yên thì phải dùng thuốc thang để
chữa. Chữa mà không công hiệu thì lại phải châm cứu cho kỳ khỏi, không phải là
không biết thuốc thang thì đắng miệng, mà châm chích thì rách da. Phải làm như
thế là vì tổn hại ít mà lợi ích nhiều. Kẻ làm vua thiên hạ cũng phải làm như
vậy chăng? cho nên Thái Tổ Hoàng Đế ta nhận ngôi do nhà Chu nhường, đổi tên
nước là Tống, văn vật trong sáng, một phen biến đổi theo xưa, ở ngôi đế vương
mà nhìn Man Di mắc bệnh. Cho nên năm thứ 1 thứ 2 thì thuốc thang cho các đất
Kinh, Thục, Tương, Đàm, năm thứ 3 thứ 4 thì châm cứu cho các miền Quảng, Việt,
Ngô, Sở273
, gân cốt huyết mạch ra dáng trẻ non, có phần khoẻ mạnh. Không
do cơ trí thần diệu sáng suốt của bậc vương giả mà trù liệu được đến thế ư ?
Đến khi ta nối giữ cơ nghiệp lớn, đích thân coi chính sự, cho rằng đất Phần,
đất Tinh274
là bệnh ở lòng bụng, nếu lòng bụng chưa chữa khỏi thì làm sao chữa nổi tứ
chi ? Vì thế mới luyện thuốc thang bằng nhân nghĩa, [11a] sửa đồ châm cứu bằng
đạo đức, hết sức chữa cho các đất Phần, Tinh chỉ một lần là khỏi bệnh, chín
châu bốn biển đã mạnh lại yên. Chỉ có Giao Châu của ngươi ở xa cuối trời, thực
là ngoài năm cõi275
.
Nhưng phần thừa của tứ chi, ví như ngón chân ngón tay của thân người, tuy
chỉ một ngón bị đau, bậc thánh nhân lại không nghĩ đến hay sao ? Cho nên phải
mở lòng ngu tối của ngươi, để thanh giáo của ta trùm tỏa, ngươi có theo chăng ?
Huống chi từ thời Thành Chu, [ nước ngươi ] đã đem chi trĩ trắng sang dâng, đến
thời Viêm Hán276
, dựng cột đồng làm mốc, cho đến thời Lý Đường, vẫn thuộc về nội
địa. Cuối thời Đường nhiều họa nạn, chưa kịp xử trí. Nay thánh triều lòng nhân
trùm khắp muôn nước, cơ nghiệp thái bình kể cũng đã thịnh. Lễ phân phòng đã sắp
đặt sẵn, còn đợi ngươi đến chúc sức khoẻ của ta. Ngươi đừng ru rú trong bốn góc
nhà, khiến cho ta buồn phiền, phải chém cờ bổ so277
làm cỏ nước ngươi, hối sao cho kịp. Dù cho sông nước ngươi có ngọc, [11b] ta
vứt xuống suối; núi nước ngươi sản vàng, ta ném vào bụi, [ để thấy ] chẳng phải
ta tham của báu nước ngươi. Dân của ngươi bay nhảy ( ý nói người hoàng dã ) còn
ta thì có ngựa xe; dân ngươi uống mũi ( nay người man ở miền rừng núi Giao
Quảng278
vẫn còn tục ấy ) còn ta thì có cơm rượu để thay đổi phong tục của nước ngươi;
dân ngươi bắt tóc còn ta thì có áo mũ, dân ngươi nói tiếng chim, còn ta thì có
Thi, Thư, để dạy lễ cho dân ngươi. Cõi nóng chói chang, khói hơi mù mịt, ta tỏa
mây Nghiêu, tưới cho mưa ngọt. Khí biển hầm hập, cháy mày chảy đá, ta gảy đàn
Thuấn, quạt làn gió thơm. Sao trên trời nước ngươi, chẳng ai biết tên gì, ta
quay chòm tử vi để ngươi biết chầu về. Đất ngươi nhiều ma quỷ, ai cũng sợ chúng
quấy, ta đã đúc vạc lớn [để yểm trừ], khiến chúng không làm hại. Ra khỏi chốn
đảo di của ngươi mà xem nhà Minh đường, Bích ung279
chăng? Trút áo quần cỏ lá của ngươi mà mặc áo cổn hoa thêu hình rồng núi chăng?
Ngươi có theo về hay không, chớ mau chuốc lấy tội. Nay ta đang chỉnh đốn xe cộ
quân lính, truyền hiệu lệnh chiêng trống. Nếu chịu theo giáo hóa, ta [12a] sẽ
tha tội cho, nếu trái mệnh ta sẽ sai quân đánh. Theo hay chống, lành hay dữ, tự
ngươi xét lấy". (Sử cũ chép thư này ở Đinh Kỷ, dưới năm Thái Bình thứ 2
[971], nay xét nên để ở đây. Thư này do Vương Vũ Xứng nhà Tống soạn. Lại xét ở
trên đoạn đó, Lê Văn Hưu có nêu bốn chữ "cải nguyên xưng đế", thì rõ
ràng là từ mùa thu năm này, thuộc niên hiệu Thiên Phúc năm đầu. Lại trong bức
thư này nói: "Thái Tổ ta nhận ngôi nhà Chu nhường lại..., ta nối giữ cơ
nghiệp lớn...", thì rõ là thư của Tống Thái Tông, Văn Hưu không thể quá
lầm mà ghi vào đời Đinh Tiên Hoàng, có lẽ do người sau sao chép ở những chỗ còn
lại trong sách rách giấy nát, tự ý chép bậy vào chỗ ấy, đến nỗi Văn Hưu phải
chiụ oan là đã lầm. Năm sau, là năm Tân Tỵ [981] mới đổi gọi là Thiên Phúc năm
đầu, biết đâu chẳng phải do mất tờ sách ấy mà đổi lầm chăng? Còn như Lý Thái Tổ
lên ngôi vào cuối năm, cho nên năm sau đổi niên hiệu, không giống như đây).
Mùa đông, tháng 10, vua sắp phát binh, trước sai nha hiệu là Giang Cự Vọng,
Vương Thiệu Tộ đưa thư sang nước Tống giả làm thư của [Vệ Vương] Toàn thỉnh cầu
nối ngôi cha, xin ban cho mệnh lệnh chính thức, ý muốn hoãn binh nhà Tống ( thư
nói: cha thần là mỗ, anh thần là mỗ, điều được đội ơn nước, cho giữ phận trông
coi biên khổn, kính giữ bờ cõi, không dám trái lệnh. Chưa khó nhọc ngựa đổ mồ
hôi, đả đau buồn sương tan buổi sớm280
. Nhà thần sắp sụp đổ, chưa bỏ aó tan thì quân dân tướng lại
trong hạt, người giá lão ở núi rừng cùng đến chỗ nằm rơm gối đất281
của thần, bảo thần tạm giữ việc quân lữ. Thần cố từ ba bốn lần, nhưng bọn họ
thỉnh cầu nài ép càng khẩn thiết. Thần muốn [12b] đợi tâu bày, nhưng lại lo
chậm trễ; người núi rừng hung ác, dân khe động tráo trở, nếu không chiều ý họ,
sợ có khi tai biến xảy ra. Cho nên thần đã kính giữ quyền Tiết độ hành quân tư
mã, tạm giữ việc quân trong
châu. Cúi mong được chính thức lĩnh mệnh, đủ được dự hàng phiên bang, để yên
ủi tấm lòng tận trung của kẻ toi mọn, nêu cao thịnh điển ban khen của thánh
triều ).
Khi ấy nhà Tống đang muốn trách hỏi vua về việc xưng đế đổi niên hiệu, lại
có ý chiếm lấy nước Việt ta, mới sai Trương Tông Quyền đưa thư trả lời rằng:
" họ Đinh truyền nối ba đời, trẫm muốn cho Toàn làm thống soái, khanh282
làm phó. Nếu Toàn tướng tài chẳng có, vẫn còn trẻ con, thì nên
bảo cả mẹ con cùng thân thuộc sang quy phụ. Đợi khi bọn họ vào chầu ắt sẻ có
điễn lễ ưu đải và sẻ trao cờ tiết cho khanh. Nay có hai đường, khanh nên chọn
một".Vua đều không nghe.
Trở nên là triều Đinh, hai vua, bắt đầu từ năm Mậu Thìn, chấm dứt vào năm
Canh Thìn [ 968- 980 ] tất cả 13 năm.
[13a]
K ỷ N H À L Ê
ĐạI HÀNH HOÀNG ĐẾ
Họ Lê, tên huý là Hoàn, người Ái Châu283
, làm quan nhà Đinh đến chức Thập đạo tướng quân; quân Tống xâm lược đem quân
ra chống cự, rồi thay nhà Đinh làm vua; ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi [941 -
1006], băng ở điện Trường Xuân.
Vua trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước
thanh bình, Bắc Nam vô sự. Tiếc rằng không sớm chọn con nối, khiến cho con cái
tranh nhau bên trong, dẫn đến mất ngôi; về đạo vợ chồng có nhiều điều đáng thẹn
Trước kia cha vua là Mịch, mẹ là Đặng thị, khi mới có thai chiêm bao thấy
trong bụng nở hoa sen, chỉ chốc lát đã kết hạt, bèn lấy chia cho mọi người, còn
mình thì không ăn, tỉnh dậy không hiểu nguyên do thế nào. Đến khi năm Thiên
Phúc thứ 6 thời Tấn [941] là năm Tân Sửu, mùa thu, tháng bảy, ngày 15, sinh ra
vua. Đặng thị thấy tướng mạo khác thường, bảo với mọi người rằng: "Thằng
bé này lớn lên, ta sợ không kịp hưởng lộc của nó". Được vài năm thì mẹ
chết, sau đó cha [13b] cũng qua đời, trơ trọi một thân, muôn vàn cô đơn đói
rét. Trong thôn có viên quan sát họ Lê trông thấy lấy làm lạ, nói: " Tư
cách đứa trẻ này, người thường không sánh được". Lại thấy là cùng họ nên
nhận làm con nuôi, sớm chiều chăm sóc dạy dỗ, không khác gì con đẻ. Có đêm mùa
đông trời rét, vua úp cối mà ngũ. Đêm ấy ánh sáng đẹp đầy nhà, viên quan sát
lén đến xem, thì thấy con rồng vàng che ấp bên trên, vì thế lại càng thêm quý
trọng. Lớn lên theo giúp Nam Việt Vương Liễn, [tỏ ra] phóng khoáng, có chí lớn.
Tiên Hoàng khen là người trí dũng, chắc thế nào cũng làm được việc, bèn giao
cho cai quản 1 nghìn quân sĩ, thăng dần đến chức Thập đạo tướng quân điện tiền
đô chỉ huy sứ. Đến đây thay họ Đinh làm vua, đóng đô ở Hoa Lư.
[14a] Tân Tỵ, Thiên Phúc ] năm thứ 2 [981] , ( Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 6, xét các bản chép niên kỷ các
triều đều ghi năm này là năm Thiên Phúc thứ 1, nay sửa lại ). Mùa xuân, tháng
2, Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàng Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu
Trừng đến sông Bạch
Đằng284
. Vua tự làm tướng đi chặn giặc, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông
Chi Lăng285
. Vua sai quân sĩ trá hàng để dụ Nhân Bảo, đem chém. Bọn Khâm Tô. nghe tin quân
thủy thua trận, dẫn quân về. Vua đem các tướng danh, quân của Khâm Tộ thua to,
chết đến quá nửa, thây chết đầy đồng, bắt được tướng giặc là Quách Quân Biện,
Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất yên. Bầy tôi dâng tôn hiệu
là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí nhân quảng Hiếu Hoàng Đế.
Lê Văn Hưu nói: Lê Dại Hành Giết Đinh Điền, bằt Nguyễn Bặc,
tóm Quân Biện [14b], Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài
năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường
cũng không hơn được.Có người hỏi: Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể
về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai
với người tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn.
Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho
con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn. Thế thì Lý
Thái Tổ hơn ư ? Đáp: Hơn thì không biết, chỉ thấy đức của họ Lý dày hơn họ Lê,
vì thế nên nói theo họLý.
Sử Thần Ngô Sĩ Liên nói: Tam cương là đạo thường của muôn đời, không thể một
ngày [15a] rối loạn. Khi Đại Hành giữ chức nhiếp chính, Vệ Vương tuy còn nhỏ
nhưng vẫn là vua, thế mà Đại Hành tự xưng là Phó Vương, rắp tâm làm điều bất
lợi. Đạo làm tôi không được rắp tâm, rắp tâm thì ắt phải giết. Đó là phép của
sách Xuân Thu, người người điều được nêu lên mà thi hành. Nguyễn Bặc, Đinh Điền
sao có thể nhẫn tâm điềm nhiên mà nhìn ? Rồi lui về dấy quân hỏi tội, mưu giữ
xã tắc, thế là bầy tôi trung nghĩa đấy. Việc không xong mà chết, thế là bề tôi
tử tiết đấy. Lời bàn của Văn Hưu lái đánh đồng với hàng loạn tặc, khiến cho đạo
nhân luân không được sáng tỏ với đời sau, gây mầm mống tiếm đoạt, để cho những
kẻ có quyền lực tranh nhau bắt chước, quét sạch cương thường, vì thế không thể
không biện bác.
Giang Nam chuyển vận sứ của nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên đem
việc Nhân Bảo thua chết tâu lên. Vua Tống xuống chiếu rút quân về, sai sứ quở
trách bọn Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn. Trùng ốm chết, Soạn bị giết ở [15b]
Ung Châu, Tôn Hoàng Hưng cũng bị giết bêu ở chợ.
Nhâm Ngọ, Thiên Phúc năm thứ 3 [982] ,
( Tống Thái Bình Hưng Quấc năm thứ 7 ). Lập Hoàng thái hậu nhà Đinh là Dương
thị làm Đại Thắng Minh Hoàng Hậu. Hậu là vợ của Tiên Hoàng, mẹ đẻ cuả Vệ Vương
Toàn. Khi vua lấy được nước, đem vào cung, đến đây lập làm Hoàng hậu, cùng với
Phụng Càn Chí Lý Hoàng Hậu, Thuận Thánh Minh Đạo Hoàng Hậu, Trịnh Quấc Hoàng
Hậu, Phạm Hoàng Hậu là 5 hoàng hậu ( về sau, tục dân lập đền thờ, tô tượng hai
vua Tiên Hoàng và Đại Hành và tượng Dương hậu cùng ngồi, hồi quốc sơ [đầu thời
Lê] vẫn còn như thế. Sau An Phủ Sứ Lê Thúc Hiển mới bỏ ).
Đ ạ i V i ệ t S ử
K ý B ả
n K ỷ
T o à n T h ư
Quyển II
[1a]
K ỷ N h à L ý
Thái Tổ Hoàng Đế
Họ Lý, tên húy là Công Uẩn, người
châu Cổ Pháp371
Bắc Giang, mẹ họ Phạm, đi chơi372
chùa Tiêu Sơn373
cùng với người thần giao hợp rồi có chửa, sinh vua ngày 12 tháng 2 năm Giáp
Tuất, niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 [974] thời Đinh. Lớn lên làm quan nhà Lê,
thăng đến chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Khi Ngọa Triều băng, tự lập làm vua, đóng
đô ở thành Thăng Long. Ở ngôi 18 năm [1010-1028], thọ 55 tuổi [974-1028], băng
ở điện Long An, táng ở Thọ Lăng. Vua ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời
mở vận, là người khoan thứ nhân từ, tinh tế hòa nhã, có lượng đế vương. Song
chưa làm sáng chính học, lại ưa thích dị đoan, bị lụy về chuyện đó.
Vua sinh ra mới 3 tuổi, mẹ ẵm đến
nhà Lý Khánh Văn. Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi. Bé đã thông minh, vẻ người
tuấn tú khác thường. Lúc còn nhỏ đi học, nhà sư ở chùa Lục Tổ374
là Vạn Hạnh thấy, khen rằng: "Đứa bé này [1b] không phải người thường, sau
này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ".
Lớn lên, không chăm việc sản nghiệp, chỉ học kinh sử qua loa, khảng khái có chí
lớn. Trong đời Ứng Thiên, xuất thân thờ Lê Trung Tông [1005]. Đại Hành băng,
Trung Tông bị giết, vua ôm xác mà khóc, Ngọa Triều khen là người trung, cho làm
Tứ sương quân375
phó chỉ huy sứ, thăng đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Đến khi Ngọa
Triều băng, bèn lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, đại xá thiên
hạ.
Trước ở viện Cảm Tuyển chùa Ứng
Thiên Tâm376
, châu Cổ Pháp có con chó đẻ con sắc trắng có đốm lông đen thành hình hai chữ
"Thiên tử". Kẻ thức giả nói đó là điềm năm Tuất sinh người làm thiên
tử. Đến nay, vua sinh năm Giáp Tuất lên làm thiên tử, quả là [2a] ứng nghiệm.
Canh Tuất, Thuận Thiên năm thứ 1
[1010] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2 xa giá, về
châu Cổ Pháp, ban tiền lụa cho các bô lão trong làng theo thứ bậc khác nhau.
Sai Viên ngoại lang Lương Nhậm Văn
và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống để kết hảo.
Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật
hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu
truyền rằng: "Ngày xưa, nhà Thương đến đời Bàn canh năm lần dời đô, nhà
Chu
đến Thành Vương ba lần dời đô, há
phải các vua thời Tam đại ấy theo ý riêng tự dời đô xằng bậy đâu. Làm như thế
cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên
kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước
lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi
thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi
đây, đến nỗi thế đại [2b] không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn
vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời. Huống chi thành Đại La,
đô cũ của Cao Vương377
, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông
tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất
cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt
phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu
của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa
lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?"
Bề tôi đều nói: "Bệ hạ vì thiên
hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân
chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo". Vua cả
mừng.
Mùa thu, tháng 7, vua [3a] từ thành
Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng
vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long. Đổi
châu Cổ Pháp gọi là phủ Thiên Đức, thành Hoa Lư gọi là phủ Trường Yên, sông Bắc
Giang gọi là sông Thiên Đức378
. Xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan, thuê thợ làm chùa ở phủ Thiên Đức, tất
cả 8 sở, đều dựng bia ghi công. Lõi xây dựng các cung điện trong kinh thành
Thăng Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện
Tập Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Võ. Lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghêng
Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng chính nam dựng điện Cao Minh,
đều có379
thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía. Sau điện
Càn Nguyên dựng hai điện Long An, Long Thụy làm nơi vua nghỉ. Bên tả xây điện
Nhật Quang, bên hữu xây điện Nguyệt Minh, phía sau [3b] dựng hai cung Thúy Hoa,
Long Thụy làm chỗ ở cho cung nữ. Dựng kho tàng, đắp thành, đào hào. Bốn mặt
thành mở bốn cửa: phía đông gọi là cửa Tường Phù, phía tây gọi là cửa Quảng
Phúc, phía nam gọi là cửa Đại Hưng, phía bắc gọi là cửa Diệu Đức. Lại ở trong
thành làm chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu380
Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía nam dựng chùa Thắng Nghiêm.
Lê Văn Hưu nói: Lý Thái Tổ lên ngôi
mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám
chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn
nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không
biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần
làm thay, há chẳng phải là vét màu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi
là làm việc phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp, tự mình [4a] cần kiệm, còn lo cho
con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời
sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung
vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp,
trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa
chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?
Xuống chiếu truyền cho những kẻ trốn
tránh phải về quê cũ. Lại hạ lệnh cho các hương ấp, nơi nào có chùa quán đã đổ
nát đều phải sửa chữa lại.
Mùa đông, tháng 12, cung Thúy Hoa
làm xong, làm lễ khánh thành, đại xá các thuế khóa cho thiên hạ trong 3 năm,
những người mồ côi, góa chồng, già yếu, thiếu thuế lâu năm đều tha cho cả.
Cắp áo quần, lương thực, thuốc men
cho 28 người lính man bị Ngọa Triều bắt, [4b] sai người đưa về quê cũ. Tha cho
người ở vùng Nam Giới, huyện Thạch Hà thuộc châu Hoan được trở về bản huyện.
Nhà Tống phong vua làm Giao Chỉ Quận
Vương lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ sứ.
Đổi 10 đạo làm 24 lộ, châu Hoan,
châu Ái làm trại. Năm ấy độ381
dân làm sư. Phát bạc ở kho 1.680 lạng để đúc chuông lớn, treo ở chùa Đại Giáo.
Tân Hợi, [Thuận Thiên] năm thứ 2
[1011] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, đặt quân
tả hữu túc xa382
, [mỗi đội] đều 500 người. Tháng hai, vua thấy giặc Cử Long ở Ái Châu hung hăng
dữ tợn, trải hai triều Đinh, Lê không đánh nổi, đến nay càng dữ, mới đem sáu
quân đi đánh, đốt bộ lạc, bắt kẻ đầu sỏ đem về, giặc ấy bèn tan.
Mùa hạ, tháng 4, sai viên ngoại lang
là Lý Nhân Nghĩa và Đào Khánh Văn sang thăm nước Tống để đáp lễ. Khánh Văn trốn
ở lại nước Tống, người Tống bắt trả lại cho ta, [5a] đánh trượng chết.
Nước Chiêm Thành dâng sư tử.
Năm ấy, ở trong thành bên tả dựng
cung Đại Thanh, bên hữu dựng chùa Vạn Tuế, làm kho Trấn Phúc. Ngoài thành dựng
chùa Tứ Đại Thiên Vương và các chùa Cẩm Y383
, Long Hưng, Thánh Thọ. Dựng điện Hàm Quang ở bến sông Lô384
.
Nhâm Tý, [Thuận Thiên] năm thứ 3
[1012] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 5). Mùa hạ, tháng 4, sửa chữa hai
điện Long An, Long Thụy.
Sách phong Hoàng thái tử Phật Mã làm
Khai Thiên Vương, làm cung Long Đức ở ngoài thành cho ở, ý muốn thái tử hiểu
biết mọi việc của dân.
Mùa thu, tháng 7, vua ngự ở điện Hàm
Quang xem đua thuyền.
Mùa đông, tháng 10, sai Thái bảo Đào
Thạc Phụ và Viên ngoại lang Ngô Nhưỡng sang nước Tống để kết hảo.
Tháng 12, trên tảng đá lớn ở ngọn
núi phía đông nam có vết chân thần dài rộng đều 3 thước, sâu 1 tấc (không biết
rõ núi nào).
Nước Chân Lạp đến cống.
Vua thân đi đánh [5b] Diễn Châu. Khi
về đến Vũng Biện385
gặp lúc trời đất tối sầm, gió sấm dữ dội, vua đốt hương khấn trời rằng:
"Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực
sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không
theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay
không thể dung tha không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ
trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ
cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân
thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét". Khấn xong, gió sấm
đều yên lặng.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua Thang
gặp tai nạn hạn hán, lấy sáu việc tự trách mình mà mưa xuống ngay. Nay vua gặp nạn
gió sấm, lấy việc đánh dẹp tự trách mình
mà gió bão ngừng ngay. [6a]. Trời và
người cảm ứng nhau rất nhỏ nhạy, ảnh hưởng rất chóng, ai bảo là trong chỗ tối
tăm mặt trời không soi đến ta mà dám dối trời chăng?
Trong tàu ngựa nhà vua, có con ngựa
trắng, phàm khi vua sắp đi thì nó tất hí lên trước. Vua đặt cho tên là Bạch
Long thần mã.
Năm ấy người Man386
sang quá cột đồng, đến bến Kim Hoa387
và châu Vị Long388
để buôn bán. Vua sai người bắt được người Man và hơn 1 vạn con ngựa.
Quý Sửu, [Thuận Thiên] năm thứ 4
[1013] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 6). Mùa xuân, tháng 2, định các lệ
thuế trong nước: 1 - Ao hồ ruộng đất, 2 - Tiền và thóc về bãi dâu, 3 - Sản vật
ở núi nguồn các phiên trấn, 4 - Các quan ải xét hỏi về mắm muối, 5 -Sừng tê,
ngà voi, hương liệu của người Man Lão, 6 - Các thứ gỗ và hoa quả ở đầu nguồn.
Mùa hạ, tháng 6, phong Hoàng tử Bồ
làm Khai Quốc Vương, ở phủ Trường Yên.
Mùa thu, tháng 7, [6b] vua ngự điện
Hàm Quang xem đua thuyền.
Mùa đông, tháng 10, châu Vị Long làm
phản, hùa theo người Man [Nam Chiếu]. Vua thân đi đánh. Thủ lĩnh là Hà Án Tuấn389
sợ, đem đồ đảng trốn vào rừng núi.
Cho các vương hầu công chúa được
quản các thuế theo thứ bậc khác nhau.
Giáp Dần, [Thuận Thiên] năm thứ 5
[1014] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 7). Mùa xuân, tháng giêng, tướng của
người Man là Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí đem 20 vạn người Man vào cướp, đóng
đồn ở bến Kim Hoa, dàn quân đóng trại gọi là trại Ngũ Hoa. Châu mục châu Bình
Lâm390
là Hoàng Ân Vinh đem việc tâu lên. Vua sai Dực Thánh Vương391
đem quân đi đánh, chém đầu kể hàng vạn, bắt sống được quân lính và ngựa không
kể xiết. Xuống chiếu cho viên ngoại lang là Phùng Chân và Lý Thạc đem một trăm
con ngựa bắt được của người Man sang biếu nhà Tống. Vua Tống xuống chiếu cho
quan sở tại sai sứ thần đón tiếp, cùng đi đến cửa khuyết, mọi khoản cung đốn
dọc đường đều được chu cấp đầy đủ. Khi đến, vua Tống gọi [7a] bọn Chân vào ra
mắt ở điện Sùng Đức, ban cho mũ, đai, đồ dùng, tiền bạc theo thứ bậc khác nhau.
Mùa hạ, tháng 4, châu Hoan dâng kỳ
lân.
Tháng 5, Hữu nhai tăng thống là Thẩm
Văn Uyển tâu xin lập đàn chay ở chùa Vạn Tuế để cho tăng đồ thụ giới. Vua chuẩn
tâu.
Mùa thu, tháng 9, xuống chiếu phát
310 lạng vàng trong kho để đúc chuông treo ở chùa Hưng Thiên.
Nước Chân Lạp sang cống.
Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu phát
trăm lạng bạc trong kho để đúc hai quả chuông treo ở chùa Thắng Nghiêm và tinh
lâu Ngũ Phượng. Đắp thành đất ở bốn mặt kinh Thăng Long. Đổi phủ Ứng Thiên392
làm Nam Kinh.
Ất Mão, [Thuận Thiên] năm thứ 6
[1015] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, cho Trịnh
Văn Tú làm Thiếu sư.
Đào Cam Mộc chết, tặng Thái sư á
vương.
Tháng 2, sư chùa Tề Thánh huyện Thái
Bình dâng hòm quý đựng xá lị.
Xuống chiếu cho Dực Thánh Vương và
Vũ Đức Vương đi đánh các châu Đô Kim393
, Vị Long394
, Thường [7b] Tân395
, Bình Nguyên396
, bắt được thủ lĩnh là Hà Án Tuấn đem về kinh sư chém đầu bêu ở chợ Đông.
Bính Thìn, [Thuận Thiên] năm thứ 7
[1016] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, lại lập 3
hoàng hậu: Tá Quốc hoàng hậu, Lập Nguyên hoàng hậu, Lập Giáo hoàng hậu397
, Độ cho hơn nghìn người ở kinh sư làm tăng đạo. Dựng hai chùa Thiên Quang,
Thiên Đức và tô bốn pho tượng Thiên Đế.
Động đất. Làm lễ tế vong các danh
sơn. (Vua nhân đi xem núi sông, đến bến đò Cổ Sở398
, thấy khí tốt của núi sông, tâm thần cảm động, bèn làm lễ rưới rượu xuống đất,
khấn rằng: "Trẫm xem địa phương này, núi lạ sông đẹp, nếu có nhân kiệt địa
linh thì hưởng lễ". Đêm ấy, vua chiêm bao thấy có dị nhân đến cúi đầu lạy
hai lạy, nói: "Thần là người làng này, họ Lý tên Phục man, làm tướng giúp
Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ
Động và Đường Lâm, bọn Di Lão không dám xâm phạm biên giới, một phương yên
bình. Đến khi chết, thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ. Cho
nên phàm giặc Man Di đến cướp đều chống giữ được cả. Nay may được bệ hạ thương
đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi". Rồi đó thung dung nói: "
Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai
chẳng thấy dáng hình"399
. Vua thức dậy nói việc ấy với Ngự sử đại phu Lương Nhậm Văn rằng: " Đó là
ý thần muốn tạc tượng". Vua sai bói xin âm dương, quả nhiên đúng như thế.
Bèn sai người trong châu [8a] lập đền đắp tượng đúng như hình dạng người trong
chiêm bao, tuế thời cúng tế. Khoảng niên hiệu Nguyên Phong [1251-1258] đời
Trần, người Thát Đát400
vào cướp, đi đến địa phương này, ngựa khuỵu chân không đi được, người trong
thôn dẫn dân chúng ra chống đánh, chém được đầu giặc, giặc chạy tan. Khoảng năm
Trùng Hưng [1285-1293], [Thát Đát] lại vào cướp, đến đâu cũng đốt phá, mà ấp ấy
vẫn như được che chở, không bị xâm phạm mảy may, quả đúng như lời thần nói).
Nhà Tống phong vua làm Nam Bình
Vương.
Năm ấy được mùa to, 30 bó lúa giá 70
tiền. Cho thiên hạ 3 năm không phải nộp tô thuế.
Đinh Tỵ, [Thuận Thiên] năm thứ 8
[1017] , (Tống Thiên Hy năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, cho Trần Văn Tú làm Thái
phó401
.
Xuống chiếu xá tô ruộng cho thiên hạ.
Điện Càn Nguyên bị sét đánh, vua coi
chầu ở điện phía đông402
.
Mậu Ngọ, [Thuận Thiên] năm thứ 9
[1018] , (Tống Thiên Hy năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, truy phong bà nội làm
hậu và đặt tên thụy.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua đến đây
mới truy phong cho bà nội, đó là lỗi chậm trễ.
[8b] Mùa hạ, tháng 6, sai Viên ngoại
lang là Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc403
sang nước Tống xin kinh Tam Tạng .
Mùa đông, tháng 10, phong Hoàng tử
Lực làm Đông Chinh Vương.
Xá một nửa tô ruộng cho thiên hạ.
Kỷ Mùi, [Thuận Thiên] năm thứ 10
[1019] , (Tống Thiên Hy năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, dựng Thái Miếu ở
lăng Thiên Đức404
. Xuống chiếu độ dân trong nước làm tăng.
Canh Thân, [Thuận Thiên năm thứ 11
[1020] , (Tống Thiên Hy năm thứ 4). Mùa hạ, tháng 4, nước Chân Lạp đến cống.
Mùa thu, tháng 9, Nguyễn Đạo Thanh
đi sứ về, xin được kinh Tam Tạng ; xuống chiếu cho Tăng thống là Phí Trí sang
Quảng Châu đón.
Mùa đông, tháng 12, sai Khai Thiên
Vương [Phật Mã] và Đào Thạc Phụ đem quân đi đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính405
, thẳng đến núi Long Tỵ406
, chém được tướng của chúng là Bố Linh tại trận, người Chiêm [9a] chết đến quá
nửa.
Năm ấy điện phía đông bị sét đánh,
vua coi chầu ở điện phía tây407
. Dựng ba điện: điện phía trước để coi chầu, hai điện phía sau để nghe chính
sự.
Tân Dậu, [Thuận Thiên] năm thứ 12
[1021] , (Tống Thiên Hy năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 2, lấy ngày sinh nhật của
vua làm tiết Thiên Thành, lấy tre kết làm một ngọn núi gọi là Vạn Thọ Nam Sơn ở
ngoài cửa Quảng Phúc, trên núi làm nhiều hình chim bay thú chạy, muôn vẻ lạ kỳ.
Lại sai người bắt chước tiếng của cầm thú làm vui để ban yến cho bề tôi.
Sai bọn Viên ngoại lang Nguyễn Khoan
Thái và Nguyễn Thủ Cương sang nhà Tống.
Làm nhà Bát giác chứa kinh.
Nhâm Tuất, [Thuận Thiên] năm thứ 13
[1022] , (Tống Cao Hưng năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, vua thấy tiết Thiên
Thành làm núi giả khó nhọc cho dân, bãi đi, chỉ đặt yến lễ mà thôi.
Xuống chiếu cho Dực Thánh Vương đi
đánh Đại Nguyên Lịch. Quân ta [9b] đi sâu vào trại Như Hồng401
trong đất Tống, đốt kho đụn ở đó rồi về (Xét: Trại Như Hồng nước Tống giáp với
trấn Triều
Dương409
nước ta. Đại Nguyên Lịch là một giống người Di ở vào khoảng giữa hai vùng đất
ấy. Về sau, Nùng Trí Cao làm phản, chiếm châu Thảng Do410
, gọi nước là Đại Lịch, ngờ là chỗ này).
Quý Hợi, [Thuận Thiên] năm thứ 14
[1023] , (Tống Nhân Tông, húy Trinh, Thiên Thánh năm thứ 1). Mùa thu, tháng 9,
xuống chiếu chép kinh Tam tạng để ở kho Đại Hưng, đổi trấn Triều Dương làm châu
Vĩnh An.
Giáp Tý, [Thuận Thiên] năm thứ 15
[1024] , (Tống Thiên Thánh năm thứ 2). Mùa xuân, xuống chiếu cho Khai Thiên
Vương [Phật Mã] đi đánh Phong Châu, Khai Quốc Vương [Bồ] đi đánh châu Đô Kim.
Sửa chữa kinh thành Thăng Long.
Mùa thu, tháng 9, làm chùa Chân Giáo
ở trong thành để vua tiện ngự xem tụng kinh.
Ất Sửu, [Thuận Thiên] năm thứ 16
[1026] , (Tống Thiên Thánh năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, nước Chân Lạp sang
cống.
Xuống chiếu lập trại Định Phiên411
ở địa giới phía nam châu Hoan, cho quân giáp Lý Thai Giai làm chủ.
Mùa thu, [10a] tháng 8, định binh
làm giáp, mỗi giáp 15 người, dùng một người quản giáp. Lại định các cấp bậc
quản giáp (khi ấy có con hát là Đào thị, giỏi nghề hát, thường được ban thưởng.
Người thời bấy giờ hâm mộ tiếng hát của Đào thị, phàm các con hát đều gọi là
Đào nương).
Sư Vạn Hạnh chết (Vạn Hạnh không
bệnh mà mất, người bấy giờ nói là hóa thân).
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Sư Vạn Hạnh
mới trông thấy Lý Thái Tổ, biết là người khác thường, đến khi thấy sét đánh
thành vết chữ thì đoán biết thời thế thay đổi, như thế là có tri thức vượt
người thường vậy. Nhưng dứt tính mệnh, bỏ nhân luân, chán trần tục ồn ào, nương
cửa thiền tịch mịch, để trong sạch lấy một mình, người quân tử không cho là
phải.
Bính Dần, [Thuận Thiên] năm thứ 17
[1026] , (Tống Thiên Thánh năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu làm
Ngọc điệp.
Mùa thu, tháng 8, [10b] sai Lý Trưng
Hiển và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống kết hảo.
Mùa đông, tháng 11, nước Chân Lạp
sang cống.
Xuống chiếu cho Khai Thiên Vương đi
đánh giặc ở Diễn Châu.
Đinh Mão, [Thuận Thiên] năm thứ 18
[1027] , (Tống Thiên Thánh năm thứ 5). Mùa hạ, tháng 6, đại hạn.
Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu chép
kinh Tam tạng. Xuống chiếu cho Khai Thiên Vương [Phật Mã] đi đánh châu Thất
Nguyên412
, Đông Chinh Vương [Lực] đi đánh Văn Châu413
.
Mậu Thìn, [Thuận Thiên] năm thứ 19
[1028] , (Từ tháng 3 về sau là niên hiệu Lý Thái Tông, Thiên Thành năm thứ 1; Tống
Thiên Thánh năm thứ 6).
Mùa xuân, tháng 2, vua không khỏe.
Tháng 3, ngày mồng 1 Bính Thân, nhật thực. Ngày Mậu Tuất, vua băng ở điện Long
An. Bề tôi đều đến cung Long Đức xin thái tử vâng di chiếu lên ngôi. Ba vương
là Đông Chinh [Lực], Dực Thánh và Vũ Đức414
nghe tin đều đem quân ở phủ mình vào phục sẵn trong cấm thành. Đông Chinh Vương
phục ở trong Long Thành, hai vương Dực Thánh và Vũ Đức phục trong cửa Quảng
Phúc, đợi thái tử đến thì đánh úp. [11a]. Một lát sau, thái tử từ cửa Tường Phù
vào, đến điện Càn Nguyên, biết có biến, sai người hầu đóng hết các cửa điện và
sai các vệ sĩ trong cung phòng giữ, nhân bảo tả hữu rằng: "Ta đối với anh
em không phụ bạc chút nào. Nay ba vương làm việc bất nghĩa, quên di mệnh của
Tiên đế, mưu chiếm ngôi báu, các khanh nghĩ thế nào?" Nội thị là Lý Nhân
Nghĩa nói: "Anh em với nhau, bên trong có thể hiệp sứ bàn mưu, bên ngoài
có thể cùng nhau chống giặc. Nay ba vương làm phản, thì là anh em hay là kẻ
thù? Xin cho bọn thần đánh một trận để quyết được thua". Thái tử nói:
"Ta lấy làm xấu hổ là Tiên đế mới mất chưa quàn mà cốt nhục đã giết nhau,
há chẳng để cho muôn đời chê cười sao?" Nhân Nghĩa nói: "Thần nghe
rằng muốn mưa xa thì phải quên công gần, giữ đạo công thì phải dứt tình riêng,
đó là việc Đường Thái Tông và Chu Công Đán bất đắc dĩ phải làm415
. Nay điện hạ có cho Đường Thái và Chu Công là chăm [11b] mưu xa, giữ đạo công
chăng? Hay là tham công gần, đắm tình riêng chăng? Điện hạ biết theo dấu cũ của
Đường Thái, Chu Công thì đời sau ca tụng công đức còn chưa rỗi, còn rỗi đâu mà
chê cười!". Nhân Nghĩa lại nói: "Tiên đế cho điện hạ là người hiền,
đủ để nối được chí, tài đủ để làm nổi việc, nên đem thiên hạ phó thác cho điện
hạ. Nay giặc đến vây bức cửa cung mà ẩn nhẫn như thế, thì đối với sự phó thác
của Tiên đế ra sao?" Thái tử im lặng hồi lâu rồi bảo Nhân Nghĩa và bề tôi
trong cung là bọn Dương Bình, Quách Thịch, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu rằng:
"Ta há lại không biết việc làm của Đường Thái, Chu Công hay sao? Chỉ vì ta
muốn che giấu tội ác của ba vương, khiến họ tự ý rút quân chịu tội để được vẹn
toàn tình cốt nhục là hơn".
Khi ấy phủ binh của ba vương vây bức
càng gấp, Thái tử liệu không thể ngăn được, nói: "Thế đã như vậy, ta còn
mặt mũi nào trông thấy ba vương nữa. Ta chỉ biết làm lễ thành [12a] phục đứng
hầu Tiên đế, ngoài ra đều ủy cho các khanh cả". Bọn Nhân Nghĩa đều lạy hai
lạy nói: "Chết vì vua gặp nạn là chức phận của bọn thần. Nay đã được chỗ
đáng chết, còn từ chối gì nữa!" Bèn ra lệnh cho vệ sĩ trong cung mở cửa ra
đánh, ai cũng vui lòng xông pha, đều là một người địch với trăm người. Quân
đánh nhau chưa phân được thua, Phụng Hiểu tức giận rút gươm chạy thẳng đến cửa
Quảng Phúc hô to rằng: "Bọn Vũ Đức Vương ngắp nghé ngôi báu, không coi vua
nối vào đâu, trên quên ơn Tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, vì thế thần là
Phụng Hiểu xin đem thanh gươm này để dâng". Rồi xông thẳng đến chỗ ngựa
của Vũ Đức Vương. Vương quay ngựa tránh, ngựa quỵ xuống, bị Phụng Hiểu bắt
giết. Phủ binh của ba vương thua chạy. Quan quân đuổi theo chém giết không sót
một mống, chỉ có hai vương Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát được.
Bọn Phụng Hiểu trở về, mặc áo trận
đi vào báo tin thắng trận ở trước linh cữu Thái Tổ, rồi [12b] đến điện Càn
Nguyên báo cho thái tử biết. Thái tử úy lạo rằng: "Ta sở dĩ được gánh vác
cơ nghiệp to lớn của tiên đế, toàn vẹn được thân thể của cha mẹ để lại đều là
nhờ sức của các khanh cả. Ta thường xem sử nhà Đường thấy Uất Trì Kính Đức giúp
nạn vua, tự nghĩ là bề tôi đời sau không ai sánh được. Ngày nay gặp biến, mới
biết Phụng Hiểu còn trung dũng hơn Kính Đức nhiều". Phụng Hiểu lạy tạ hai
lạy nói: "Đức của điện hạ cảm động cả trời đất, kẻ nào manh tâm mưu đồ gì
khác thì trời đất thần linh đều làm hết chức phận mà giết đi, bọn thần có công
sức gì!" (Phụng Hiểu người hương Băng Sơn416
ở Ái Châu, từ khi còn nhỏ đã có sức vóc hùng dũng. Hai thôn Cổ Bi và Đàm Xá
tranh nhau địa giới, toan đánh nhau, Phụng Hiểu bảo người thôn Cổ Bi rằng:
"Một mình tôi có thể đánh được bọn họ". Các phụ lão mừng lắm, làm cơm
rượu để thết. Phụng Hiểu ăn một bữa mấy đấu gạo, uống cũng quá mức, rồi đến
khiêu chiến với thôn Đàm Xá. Phụng Hiểu cứ đứng thẳng lưng nhổ cây mà đánh tới
tấp, nhiều người bị thương. Thôn Đàm Xá sợ, phải trả lại ruộng cho thôn Cổ Bi.
Thái Tổ nghe danh, dùng làm tướng, thăng đến chức Vũ vệ tướng quân. Đên đây có
công dẹp nạn, thăng Đô thống thượng tướng quân, tước hầu. Trong khoảng
niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ [1044
-1048] theo Thái Tông đi đánh ở miền nam, làm tiên phong, phá tan quân giặc,
danh tiếng rung động nước Phiên. [13a]. Khi thắng trận trở về định công, Phụng
Hiểu nói: "Thần không muốn thưởng tước, xin cho đứng trên núi Băng Sơn ném
đao lớn đi xa, đao rơi xuống chỗ nào trong đất công417
thì xin ban cho làm sản nghiệp. Vua nghe theo. Phụng Hiểu lên núi, ném đao xa
hơn đến nghìn dặm, đao rơi xuống hương Đa Mi. Vua bèn lấy số ruộng ấy ban cho,
tha thóc thuế cho ruộng ném đao ấy. Vì vậy người Châu Ái gọi [ruộng] thưởng
công là [ruộng] ném đao).
Lê Văn Hưu nói: Nhà Lý phong cho các
con mẹ đích đều làm vương, các con mẹ thứ đều làm hoàng tử mà không đặt ngôi
hoàng thái tử. Đến khi nào vua ốm nặng mới chọn một người trong các con cho vào
để nối nghiệp lớn. Truyền dần thành tục, không biết là ý thế nào. Có người nói:
"Nhà Lý không đặt thái tử trước là vì muốn cho các con chăm làm điều
thiện. Nếu lập ngôi thái tử thì phận vua tôi đã định dù có con hiền như Vi Tử418
cũng không biết xử trí thế nào. Đáp rằng: Gốc thiên hạ đã định rồi mà còn có
cái họa như Dương Quảng làm ra vẻ có đức hạnh419
để cướp ngôi đích, huống chi ngôi thái tử không lập trước, đến khi vội vàng mới
chọn lập, không may có việc như ba phu [13b] nhân nài xin lập con khác, Từ Văn
Thông mua bút sửa di chiếu420
thì dù muốn không bằng lòng cũng chẳng được nữa. Người có nước nhà nên lấy đó
làm răn.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Cùng lòng,
cùng đức, tất sự nghiệp có thể thành. Có vua, có tôi, gian hiểm nào cũng vượt
được. Thái Tông đương lúc đau xót, biến loạn sinh ngay kẽ nách mà vua tôi xử
trí gãy gọn phải lẽ, vượt được hiểm nạn, làm nên sự nghiệp, tông miếu nhờ đó
được vững yên. Không phải là vuà tôi gặp gỡ cùng đức cùng lòng mà được như thế
ư? Xem sử chép thì tình cảm chân thành của Thái Tông phát ra ở câu nói
"cốt nhục giết nhau", lòng trung phẫn khích của Nhân Nghĩa tỏ ở chỗ
dẫn việc Đường Thái, Chu Công, lòng nghĩa dũng hăng hái của Phụng Hiểu lộ ra ở
lúc nhảy ngựa dâng gươm. Đến khi xong việc, vua [14a] tôi không một chút khoe
khoang, cố nhiên là không có gì đáng chê. Còn như việc chưa qua năm đã đổi niên
hiệu thì không thể không bàn đến được. Theo phép kinh Xuân thu thì khi vua cũ
mất, vua nối lên ngôi ngay khi bắt đầu phát tang, qua năm ấy rồi mới đổi niên
hiệu. Chép việc lên ngôi, theo nghĩa trước sau thì một năm không thể có hai vua
được, theo lòng thần dân thì không thể bỏ trống một năm không có vua. Đó là lễ
vậy. Thái Tông lại mạo nhận năm [ở ngôi] của tiên đế mà đặt niên hiệu là thế
nào? Phàm năm này sang năm khác theo can chi là sự chuyển vận của trời. Người
làm vua theo phép trời, nhân sự vận hành của can chi mà chép năm ở ngôi lâu hay
chóng, từ xưa đã như thế. Vua [Thái Tông] tinh thông lễ nhạc thư số, lại không
xét việc ấy mà làm rối, để cho đời sau noi theo việc cũ, nối gót mà làm, ấy là
lỗi lớn vậy.
Ngày Kỷ Hợi, Thái tử Phật Mã lên
ngôi trước linh cữu. Tôn mẹ là Lê thị làm Linh Hiển [14b] thái hậu. Đại xá
thiên hạ. Đổi niên hiệu là Thiên Thành năm thứ 1.
Ngày ấy, hai vương Đông Chinh và Dực
Thánh đến cửa khuyết xin chịu tội. Xuống chiếu tha cho, lại cho tước như cũ.
Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khai Thiên
Thống Vận Tôn Đõo Quý Đức Thánh Văn Quảng Vũ Sùng Nhân Thượng Thiện Chính Lý
Dân An Thần Phù Long Hiện Thể Nguyên Ngự Cực Ức Tuế Công Cao Ứng Chân Bảo Lịch
Thông Huyền Chí Áo Hưng Long Đại Địch Thông Minh Từ Hiếu Hoàng Đế.
Vua nhận việc mời lên ngôi, xuống
chiếu cho lấy tiền lụa ở kho lớn ban cho thiên hạ (ngày 15 Canh Thân).
Khai Quốc Vương làm phản. Trước
vương đóng ở phủ Trường Yên, cậy có núi sông hiểm trở, tụ tập những kẻ trốn
tránh, cướp bóc dân mọn, Thái Tổ không hề hay biết, nuôi thành tội ác. Đến khi
nghe Thái Tổ băng, Vũ Đức Vương bị giết, lòng càng bất bình, bèn đem phủ binh
làm phản.
Phong tước vương cho thần núi Đồng
Cổ, dựng miếu để tuế thời cúng tế và [15a] làm lễ thề. Trước đây, một hôm trước
khi ba vương làm phản, vua chiêm bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ
nói với vua về việc ba vương Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh làm loạn, phải mau
đem quân dẹp ngay. Tỉnh dậy liền sai phòng bị, quả nhiên ứng nghiệm. Đến đây
xuống chiếu giao cho Hữu ty dựng miếu ở bên hữu thành Đại La sau chùa Thánh
Thọ, lấy ngày 25 tháng ấy, đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ,
treo gươm giáo ở trước thần vị, đọc lời thề rằng: "Làm con bất hiếu, làm
tôi bất trung, xin thần minh giết chết". Các quan từ cửa đông đi vào, đến
trước thần vị cùng uống máu ăn thề, hàng năm lấy làm lệ thường. Sau vì tháng 3
có ngày quốc kỵ, chuyển sang mồng 4 tháng 4.
Mùa hạ, tháng 4, vua thân đi đánh
phủ Trường Yên, cho nội thị Lý Nhân Nghĩa ở lại giữ Kinh sư. Ngày Nhâm Thân đến
Trường Yên. Ngày ấy, Khai Quốc Vương đầu hàng. Vua hạ lệnh rằng: "Ai cướp
bóc của cải của [15b] dân thì chém". Quân sĩ nghiêm theo, không mảy may
xâm phạm. Đại quân vào thành Trường Yên, dân trong thành đem dâng biếu trâu
rượu đứng đầy đường. Vua sai sứ tuyên chỉ ủy lạo, cả thành vui to. Xuống chiếu
dời Khai Quốc Vương và các liêu thuộc của vương về kinh Thăng Long. Vua từ phủ
Trường Yên về, xuống chiếu tha tội cho Khai Quốc Vương, vẫn cho tước như cũ.
Tháng 5, ngày 6, có dấu vết của thần
nhân hiện ra ở chùa Vạn Tuế. Bầy tôi dâng lời nói: "Thái tử là gốc của
thiên hạ, gốc đứng thì thiên hạ yên, xin bệ hạ sớm chọn con nối hiền lập ngôi
Đông cung, để thỏa lòng mong của thiên hạ". Vua nghe theo, sách phong
hoàng tử Nhật Tôn làm Đông cung thái tử.
Lập bảy hoàng hậu.
Tháng 11, cho cha của Mai hoàng hậu
là Hựu làm An quốc thượng tướng, cha của Vương hoàng hậu là Đỗ làm Phụ quốc
thượng tướng, cha của Đinh hoàng hậu là Ngô Thượng làm Khuông quốc thượng
tướng.
[16a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thân
thích của hoàng hậu được quý hiển, đời trước cũng đã có. Tuy vậy, lấy thích
thuộc cũng phải lấy người có tài. Bọn Hựu quả là có tài chăng? Thì không cứ là
cha của hoàng hậu là phải, trao tước phong là không phải. Hoặc có người nói:
Đây là ân sủng đặc biệt chỉ cho tước, chứ không cho quyền. Trả lời rằng: Tước
cũng đã cao rồi, sao lại có danh hiệu an quốc, phụ quốc, khuông quốc thượng
tướng quân mà lạm cho kẻ không có công lao!
Lấy Lương Nhậm Văn làm Thái sư. Ngộ
Thượng Đinh421
làm Thái phó, Đào Xử Trung làm Thái bảo, Lý Đạo Kỷ làm Tả khu mật, Lý Triệt làm
Thiếu sư, Xung Tân làm Hữu khu mật, Lý Mật làm Tả tham tri chính sự, Kiểu Bồng
làm Hữu tham tri chính sự, Liêu Gia Trinh422
[16b] làm Trung thư thị lang, Hà Viễn làm Tả gián nghị đại phu, Đỗ Sấm làm Hữu
gián nghị đại phu, Nguyễn Quang Lợi làm Thái úy, Đàm Toại Trang làm Đô thống,
Vũ Ba Tu làm Uy vệ thượng tướng, Nguyễn Khánh làm Định thắng đại tướng, Đào Văn
Lôi làm Tả phúc tâm, Lý Nhân Nghĩa làm Hữu phúc tâm, Phan Đường Liệt làm Nội
thị.
Đặt các cấp bậc của tăng đạo.
Đặt 10 vệ điện tiền cấm quân: 1.
Quảng Thánh, 2. Quảng Vũ, 3. Ngự Long, 4. Bổng Nhật, 5. Trừng Hải. Mỗi vệ đều
chia ra tả hữu trực, đi quanh để bảo vệ bên trong cấm thành, cộng là 10 vệ.
Tháng 6, lấy ngày sinh của vua làm
tiết Thiên Thánh. Lấy tre làm núi Vạn Tuế Nam Sơn ở Long trì: kiểu núi làm
thành năm ngọn, trên đỉnh ngọn ở giữa dựng núi Trường Thọ, bên đỉnh bốn ngọn
xung quanh đều đặt núi Bạch Hạc, trên núi làm hình dạng các giống chim bay
[17a] thú chạy, lưng chừng núi có rồng thần cuốn quanh, cắm xen các thứ cờ, treo
lẫn vàng ngọc, sai con hát423
thổi sáo thổi kèn trong hang núi, dâng ca tấu múa làm vui, cho các quan ăn yến.
Quy chế núi năm ngọn bắt đầu từ đấy.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Mừng ngày
sinh là lễ lớn. Bề tôi chúc mừng vua, vua ban yến cho bề tôi, vua tôi hòa hợp
để thông tình trên dưới, lễ vốn nên như thế. Song vua đương để tang mà vui chơi
hết mức, không nghĩ đến việc tiên đế chưa chôn sao? Cái lòng đau đớn thương
xót, có lẽ không còn gì.
Mùa đông, tháng 10, táng [tiên đế] ở
Thọ Lăng, phủ Thiên Đức, đặt thụy là Thần Vũ Hoàng Đế, miếu hiệu là Thái Tổ.
[17b] Lê Văn Hưu nói: Thời cổ, khi
thiên tử đã băng, xây Lăng an táng linh cữu, hoặc gọi là Mậu Lăng hoặc gọi là
Xương Lăng; để văn chương ở các, hoặc gọi là Hiển Mô, hoặc gọi là Bảo Văn. Nay
nhà Lý, lăng các đời chỉ gọi chung là Thọ Lăng, các gọi là Long Đồ, có lễ bấy
giờ vua không có học mà các nho thần cũng không biết sửa chữa hoặc không có sức
kê cứu việc cổ vậy.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lý [Thái
Tổ] dấy lên, trời mở điềm lành hiện ra ở vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi,
bởi lòng người theo về, lại vừa sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua
thì vốn có tiếng khoan nhân, trời thường tìm chủ cho dân, dân theo về người có
đức, nếu bỏ vua thì còn biết theo ai! Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ,
dời đô yên nước, lòng nhân thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp
phản loạn, Nam Bắc [18a] thông hiếu, thiên hạ bình yên, truyền ngôi lâu đời, có
thể thấy là có mưu lược của bậc đế vương. Duy có việc ham thích đạo Phật, đạo
Lão là chỗ kém.
THÁI TÔNG HOÀNG ĐẾ
Tên húy là Phật Mã, một tên khác là
Đức Chính, con trưởng của Thái Tổ. Mẹ là hoàng hậu họ Lê, sinh vua vào ngày 26
tháng 6 năm Canh Tý, niên hiệu Ứng Thiên năm thứ 7 [1000] thời Lê, ở phủ Trường
Yên. Thái Tổ được nhường ngôi, lập Đông cung thái tử. Khi Thái Tổ băng, nhờ có
Phụng Hiểu trung dũng, đồng lòng cứu nạn, lên ngôi hoàng đế, ở ngôi 27 năm
[1028 - 1054], thọ 55 tuổi [1000 - 1054], băng ở điện Trường Xuân. Vua là người
trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán Quang Vũ đánh đâu được
đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông. Nhưng người quân tử còn lấy việc khoe
khoang thái quá để chê trách vua chưa hiền.
Đ ạ i V i ệ t S ử
K ý B ả
n K ỷ
T o à n T h ư
Quyển III
[1a]
Thánh Tông Hoàng Đế
Tên húy là Nhật Tôn, con trưởng của
Thái Tông. Mẹ là Kim Thiên Thái Hậu họ Mai, khi trước chiêm bao thấy mặt trăng
vào bụng rồi có mang, ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi, Thuận Thiên thứ 14 [1023], sinh
vua ở cung Long Đức. Năm Thiên Thành thứ 1 [1028], được sách phong làm Đông
Cung Thái Tử. Thái Tông băng, bèn lên ngôi báu, ở ngôi 17 năm [1054- 1072], thọ
50 tuổi [1023-1072], băng ở điện Hội Tiên.
Vua khéo kế thừa, thực lòng thương
dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa
bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên
tĩnh, đáng gọi là bậc vua tốt. Song nhọc sức dân xây tháp Báo Thiên, phí của
dân làm cung Dâm Đàm đó là chỗ kém.
Ất Mùi , Long Thụy Thái Bình năm thứ
2 [1055], (Tống Chí Hòa năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, sửa sang các cung
điện trong đại nội.
Tháng 2, lấy ngày sinh nhật làm
thánh tiết Thừa Thiên.
Nước Chiêm Thành sang cống.
Mùa đông, tháng 10, [1b] đại hàn, vua
bảo các quan tả hữu rằng: "Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo
lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông
cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió
rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty
phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.
Nhà Tống phong cho vua làm Giao chỉ
Quận Vương.
Bính Thân, [Long Thụy Thái Bình] năm
thứ 3 [1056], (Tống Gia Hựu năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng nước Chân Lạp
sang cống.
Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu khuyến
nông.
Làm chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát
1 vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông lớn. Vua thân làm bài minh502
.
Đinh Dậu, [Long Thụy Thái Bình] năm
thứ 4 [1057], (Tống Gia Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, xây bảo tháp Đại
Thắng Tự Thiên cao vài [2a] chục trượng, theo kiểu 12 tầng (tức là tháp Báo
Thiên).
Sai sứ đem con thú lạ sang biếu nhà
Tống nói là con lân. Tư Mã Quang nói: "Nếu là con lân thực mà đến không
phải thời cũng chẳng lấy gì làm điềm tốt, nếu không phải lân, thì làm cho người
phương xa chê cười. Xin hậu thưởng rồi bảo đem về".
Mùa đông, tháng 12, làm hai chùa
Thiên Phúc và Thiên Thọ. Đúc hai pho tượng Phạn Vương và Đế Thích bằng vàng để
phụng thờ. (Triều nhà Trần làm lễ yết chùa, tức là ở hai chùa này).
Mậu Tuất, [Long Thụy Thái Bình] năm
thứ 5 [1058], (Tống Gia Hựu năm thứ 3). Mùa xuân, sửa chữa cửa Tường Phù.
Kỷ Hợi , [Chương Thánh Gia Khánh]
năm thứ 1 [1059], (Tống Gia Hựu năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 3, đánh Khâm Châu
nước Tống, khoe binh uy rồi về, vì ghét nhà Tống phản phúc.
Mùa thu, tháng 8, vua ngự điện Thủy
Tinh cho các quan vào chầu, truyền các quan đội mũ phốc đầu503
, đi hia, mới cho vào. Đội mũ phốc đầu, đi hia bắt đầu từ đấy.
[2b] Định hiệu quân, gọi là Ngự
Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Bổng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược, Vạn Tiệp
đều chia làm tả hữu, thích vào trán ba chữ "Thiên tử quân".
Canh Tý, [Chương Thánh Gia Khánh]
năm thứ 2 [1060], (Tống Gia Hựu năm thứ 5). Mùa xuân, châu mục Lạng Châu là
Thân Thiệu Thái đi bắt những binh lính bỏ trốn vào đất Tống, bắt được chỉ huy
sứ là Dương Bảo Tài và quân lính, trâu ngựa đem về.
Mùa thu, tháng 7, quân Tống sang xâm
lấn, không được, bèn sai Thị Lang bộ lại là Dư Tĩnh đến Ung Châu để hội nghị.
Vua sai Phí Gia Hựu đi. Tĩnh hậu tặng cho Gia Hựu và đưa thư xin trả Bảo Tài cho
họ, vua không nghe.
Tháng 8, phiên dịch nhạc khúc và
điệu đánh trống của Chiêm Thành, sai nhạc công ca hát.
Làm hành cung cạnh hồ Dâm Đàm504
để xem đánh cá.
Tân Sửu, [Chương Khánh Gia Thánh]
năm thứ 3 [1061], (Tống Gia Hựu năm thứ 6). Mùa xuân, tháng 2, chọn con gái dân
gian 12 người vào hậu [3a] cung.
Châu La Thuận dâng voi trắng.
Nhâm Dần, [Chương Thánh Gia Khánh]
năm thứ 4 [1062], (Tống Gia Hựu năm thứ 7).
Mùa xuân, quận Gia Lâm dâng con rùa
3 chân, mắt có 6 con ngươi.
Quý Mão, [Chương Thánh Gia Khánh]
năm thứ 5 [1063], (Tống Gia Hựu năm thứ 8).
Bấy giờ vua xuân thu đã nhiều, tuổi
40 mươi mà chưa có con trai nối dõi, sai Chi hậu nội nhân Nguyễn Bông làm lễ
cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó _ Lan phu nhân có mang, sinh hoàng tử Càn Đức
tức Nhân Tông, (Tục truyền rằng vua cúng khấn cầu tự chưa thấy hiệu nghiệm,
nhân đi chơi khắp các chùa quán, xa giá đi đến đâu, con trai con gái đổ xô đến
xem không ngớt, duy có một người con gái hái dâu cứ nép trong bụi cỏ lan. Vua
trông thấy, gọi đưa vào cung, được vua yêu, phong làm _ Lan phu nhân. Vua muốn
có con trai, sai Bông đem hương cầu đảo ở chùa Thánh Chúa. Nhà sư dậy cho Bông
thuật đầu thai thác hoá. Bông nghe theo. Việc phát giác, đem chém Bông ở trước
cửa chùa. Người sau gọi chỗ ấy505
là Đồng Bông. Chùa ở xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm506
, Đồng Bông ở phía Tây trước cửa chùa, nay hãy còn.
Giáp Thìn, [Chương Thánh Gia Khánh]
năm thứ 6 [1064], (Tống Anh Tông Thự, Trị Bình năm thứ 1). Mùa xuân, tháng
giêng sai sứ sang Tống.
Mùa hạ, tháng 4, [3b] vua ngự ở điện
Thiên Khánh xử kiện. Khi ấy công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào
công chúa, bảo ngục lại rằng: "Ta yêu con ta cũng như lòng ta làm cha mẹ
dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào hình pháp, trẫm rất thương xót, từ nay về
sau, không cứ gì tội nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm".
Bính Ngọ, [Long Chương Thiên Tự] năm
thứ 1 [1066], (Tống Trị Bình năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 25, giờ
Hợi, hoàng tử Càn Đức sinh. Ngày hôm sau, lập làm hoàng thái tử, đổi niên hiệu,
đại xá phong mẹ thái tử là _ Lan phu nhân làm Thần phi.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói : thái tử là
căn bản của nước, không lập sớm không được. Kinh Xuân thu chép: "Con là
Đồng sinh" ý cũng bởi đó. Vua tuổi đã cao, may mà sinh hoàng tử, [4a] mừng
vui bội phần, vội lập làm hoàng thái tử, đại xá thiên hạ, để yên lòng mong mỏi
của muôn dân là phải lắm.
Mùa thu, tháng 9, sai lang tướng là
Quách Mãn xây tháp ở núi Tiên Du507
.
Lái buôn người nước Trảo Oa508
dâng ngọc châu dạ quang, trả tiền giá 1 vạn quan.
Đinh Mùi, [Long Chương Thiên Tự] năm
thứ 2 [1067], (Tống Trị Bình năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 2, các nước Ngưu Hống509
, Ai Lao dâng vàng bạc, trầm hương, sừng tê, ngà voi và các thứ sản vật địa phương.
Nhà Tống gia phong vua làm Khai phủ
nghi đồng tam ti, rồi lại gia phong làm Nam Bình Vương. Cho Viên ngoại lang là
Ngụy Trọng Hoà và Đặng Thế Tư làm Đô hộ phủ sĩ sư510
, đổi mười người thư gia511
làm án ngục lại512
. Cho Trọng Hoà và Thế Tư mỗi người bổng hàng năm là 50 quan tiền, 100 bó lúa
và các thứ cá muối v..v.. [4b] ngục lại mỗi người 20 quan tiền, 100 bó lúa để
nuôi đức liêm khiết của họ.
Mậu Thân513
, [Long Chương Thiên Tự] năm thứ 3 [1068], (từ tháng 2 về sau là niên hiệu
Thiên Huống Bảo Tượng thứ 1; Tống Thần Tông Hy Ninh năm thứ 1). (Xét bài ký
tháp Thăng Bình, Thanh Hoá lấy năm này làm Thần vũ năm thứ 1 là sai).
Mùa xuân, tháng 2, hoàng tử là Minh
Nhân vương (không rõ tên) sinh, đó là người em cùng mẹ của Nhân Tông.
Châu Chân Đăng514
dâng 2 con voi trắng, nhân đó đổi niên hiệu là Thiên Huống Bảo Tượng515
năm thứ 1.
Đổi hương Thổ Lỗi làm Hương Siêu
Loại516
, vì là nơi sinh của Nguyên Phi.
Chiêm thành dâng voi trắng, sau lại
quấy nhiễu biên giới.
Kỷ Dậu517
, [Thiên Huống Bảo Tượng] năm thứ 2 [1069], (Từ tháng 7 về sau là niên hiệu
Thần Vũ năm thứ 1; Tống Hy Ninh năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, vua thân đi đánh
Chiêm Thành, bắt được
vua nước ấy là Chế Củ518
và dân chúng 5 vạn người. trận này vua đánh chiêm thành mãi không được, đem
quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên phi giúp việc nội trị, lòng dân [5a]
cảm hoá hoà hợp. Trong cõi vững vàng, tôn sùng Phật giáo, dân gọi là bà Quan
Âm, vua nói: "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại
chẳng được việc gì hay sao?". Bèn quay lại đánh nữa, thắng được.
Mùa hạ, tháng 6 đem quân về. Mùa
thu, tháng 7, vua từ Chiêm thành về đến nơi, dâng tù ở Thái Miếu, đổi niên hiệu
là Thần Vũ năm thứ 1. Chế Củ xin dâng ba châu Địa Lý519
, Ma Linh520
, Bố Chính521
để chuộc tội. Vua bằng lòng, tha cho Chế Củ về nước (Địa Lý nay là tỉnh Quảng
nam)522
.
Mùa đông, tháng 10, ngày Đinh Sửu,
có đám mây sắc đỏ sát mặt trời.
Canh Tuất, Thần Vũ năm thứ 2 [1070],
(Tống Hy Ninh, năm thứ 3). Mùa xuân, làm điện Tử Thần.
Mùa hạ, tháng 4 đại hạn, phát thóc,
và tiền lụa trong kho để chẩn cấp cho dân nghèo.
Mùa thu, tháng 8, làm Văn Miếu, đắp
tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối523
, vẽ tượng Thất thập nhị hiền524
, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây.
[5b] Tân Hợi , [Thần Vũ] năm thứ 3
[1071], (Tống Hy Ninh, năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, vua viết bia chữ
"Phật" dài 1 trượng 6 thước đặt ở chùa Tiên Du525
. Từ mùa xuân đến mùa hạ không mưa.
Chiêm Thành sang cống.
Định tiền chuộc tội theo thứ bậc
khác nhau.
Mùa đông, tháng 12, vua không khỏe.
Xuống chiếu cho Hữu ty ai vào lầm hành lang tả hữu quan chức đô526
thì đánh 80 trượng.
Nhâm Tý, [Thần Vũ] năm thứ 4 [1072],
(Từ tháng giêng về sau là Nhân Tông, Thái Ninh năm thứ 1; Tống Hy Ninh năm thứ
5). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Dần, vua băng ở điện Hội Tiên. [Bầy tôi]
dâng hiệu là Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Tường Minh Văn Duệ Vũ
Hiếu Đức Thánh Thần Hoàng Đế, miếu hiệu là Thánh Tông.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Xót thương
vì hình ngục, nhân từ với nhân dân, là việc đầu tiên của vương chính. Thánh
Tông lo tù nhân trong ngục hoặc có kẻ vô tội mà chết vì đói rét, [6a] cấp cho
chiếu chăn ăn uống để nuôi sống, lo quan lại giữ việc hình ngục hoặc có kẻ vì
nhà nghèo mà nhận tiền đút lót, cấp thêm cho tiền bổng và thức ăn để nhà được
giàu đủ. Lo dân thiếu ăn thì xuống chiếu khuyến nông, gặp năm đại hạn thì ban
lệnh chẩn cấp người nghèo, trước sau một lòng, đều là thành thực. Huống chi lại
tôn sùng đạo học, định rõ chế độ, văn sự thi hành mau chóng bên trong; phía nam
bình Chiêm; phía bắc đánh Tống, uy vũ biểu dương hiển hách bên ngoài. Tuy có
việc lầm lỗi nhỏ khác cũng vẫn là bậc vua hiền. Hoặc có người bảo là vua nhân
nhu có thừa mà cương đoán không đủ, ngu ý chưa cho là phải.
Hoàng thái tử Càn Đức lên ngôi trước
linh cữu, đổi niên hiệu là Thái Ninh năm thứ 1. Bấy giờ vua mới 7 tuổi, tôn mẹ
đẻ là _ Lan nguyên phi làm Hoàng thái phi, tôn mẹ đích là Thượng Dương thái hậu
[6b] họ Dương làm Hoàng thái hậu, buông rem cùng nghe chính sự, Thái sư Lý Đạo
Thành giúp đỡ công việc.
Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 8, vua
xem lễ tắm Phật.
Vua bắt đầu ngự điện Thiên An coi
chầu. Tha các tù ở phủ Đô hộ.
NHÂN TÔNG HOÀNG ĐẾ
Húy Càn Đức, con trưởng của Thánh
Tông, mẹ đẻ là thái hậu Linh Nhân, sinh vua ngày 25 tháng giêng năm Bính Ngọ,
Long Chương Thiên Tự thứ 1 [1066], ngày hôm sau lập hoàng thái tử. Thánh Tông
băng, vua lên ngôi hoàng đế, ở ngôi 56 năm [1072 - 1127], thọ 63 tuổi [1066 -
1127], băng ở điện Vĩnh Quang. Vua trán dô mặt rồng, tay dài quá gối, sáng suốt
thần võ, trí tuệ hiếu nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần giúp người theo,
thông âm luật, chế ca nhạc, dân được giàu đông, mình được thái bình, là vua
giỏi của triều Lý. Tiếc rằng mộ đạo Phật, thích điềm lành, đó là điều lụy cho
đức tốt.
Qúy Sửu, Thái Ninh năm thứ 2 [1073],
(Tống Hy Ninh năm thứ 6). Bấy giờ mưa dầm, rước phật Pháp Vân527
về kinh để cầu tạnh. Cúng thần núi Tản Viên.
Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn
Hoàng thái phi làm Linh [7a] Nhân hoàng thái hậu. Linh nhân có tính ghen, cho
mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: "Mẹ già khó
nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú qúy người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ
già vào đâu?". Vua bèn sai đem giam Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào
cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Tông
là người nhân hiếu, Linh Nhân là người sùng Phật, sao lại đến nỗi giết đích
thái hậu, hãm hại người vô tội, tàn nhẫn đến thế ư? Vì ghen là thường tình của
đàn bà, huống chi lại mẹ đẻ mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người
hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải kêu với vua. Bấy giờ vua còn
trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng mẹ là thích, mà không biết là lỗi to. Thái sư Lý
Đạo Thành phải ra trấn bên ngoài, biết đâu chẳng vì can gián [7b] việc ấy?
Nhà Tống phong vua làm Giao Chỉ Quận
Vương.
Thái sư Lý Đạo Thành lấy chức Tả
gián nghị đại phu ra coi châu Nghệ An. Đạo Thành lập viện Địa Tạng ở trong miếu
Vương Thánh châu ấy, ở giữa viện đặt tượng Phật và vị hiệu của Thánh Tông, sớm
hôm thờ phụng.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đạo Thành
là đại thần cùng họ, đương khi để tang Thánh Tông vì có việc ra trấn ở ngoài,
lòng cảm nhớ tiên đế là chân tình, nhân mượn cớ thờ Phật để thờ vua, đó chỉ là
việc nhất thời mà thôi. Về sau những người trấn thủ châu Nghệ An vẫn lấy nơi ấy
làm chỗ phụng thờ Thánh Tông, suốt cả triều Lý không ai chê việc ấy là trái.
Phàm vua không được tế ở nhà bề tôi, cha không được tế ở nhà con thứ, huống chi
lại thờ chung với người Di. [8a] Đó là lỗi của nhà Lý sùng Phật.
Giáp Dần, [Thái Ninh] năm thứ 3
[1074], (Tống Hy Ninh năm thứ 7). Mùa xuân có chim sẻ trắng đậu ở cấm đình.
Chiêm Thành lại quấy rối biên giới.
Cho Lý Đạo Thành làm Thái phó bình
chương quân quốc trọng sự.
Xuống chiếu cho các công thần 80
tuổi đều được chống gậy ngồi ghế khi vào chầu.
Ất Mão, [ Thái Ninh] năm thứ 4
[1075], (Tống Hy Ninh năm thứ 8). Mùa xuân, tháng 2, xuống chiếu tuyển Minh
kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu
vua học.
Vương An Thạch nhà Tống cầm quyền,
tâu [với vua Tống] rằng nước ta bị Chiêm Thành đánh phá. Quân còn sót lại không
đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu di
làm tri Quế Châu528
ngầm dấy binh người Man động529
, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với
nước ta. Vua biết tin, sai Lý Thường Kiệt, [8b] Tông Đản đem hơn 10 vạn binh đi
đánh. Quân thủy, quân bộ đều tiến530
. Thường Kiệt đánh các châu Khâm, Liêm; Đản vây châu Ưng, Đô giám Quảng Tây nhà
Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn
(nay là phủ Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây của nhà Minh) phá tan được, chém Thủ Tiết
tại trận. Tri Ưng châu là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân ta đánh đến hơn 40
ngày, chồng bao đất trèo lên thành. Thành bèn bị hạ. Giám cho gia thuộc 36
người chết trước, chôn xác vào hố, rồi châm lửa tự đốt chết. người trong thành
cảm ân nghĩa của Giám, không một người nào chịu hàng, giết hết hơn 5 vạn 8
nghìn người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 10 vạn.
Bọn Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về. Vua Tống truy tặng Giám là
Phụng quốc quân tiết độ sứ, thụy là Trung Dũng, cho một khu nhà lớn ở kinh
thành, 10 khoảnh ruộng tốt cho thân tộc [9a] 7 người làm quan, cho con là
Nguyên chức Cáp môn chi hậu.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhà Tống
cho Tô Giám thụy là Trung Dũng cũng đủ nêu rõ sự trung dũng của Lý Thường Kiệt,
há có thể xem như hạng Túc Sa531
đâu?
Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 1 Canh
Dần, nhật thực.
Sai Lý Thường Kiệt tổng lĩnh các
quân đi đánh Chiêm Thành, không thắng được. Thường Kiệt bèn họa địa đồ hình thế
núi sông của ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh rồi về. Đổi châu Địa Lý làm châu
Lâm Bình, châu Ma Linh là châu Minh Linh, chiêu mộ dân chúng đến đấy ở. Cho
Thường Kiệt làm Thái úy.
Bính Thìn, [Thái Ninh] năm thứ 5
[1076], (từ tháng 4 về sau là niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng năm thứ 1; Tống Hy
Ninh năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam532
là Quách Quỳ làm Chiêu Thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hợp với
Chiêm Thành và [9b] Chân Lạp sang xâm lấn nước ta. Vua sai Lý Thường Kiệt đem
quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt533
đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1 nghìn người. Quách Quỳ lui quân, lại lấy
châu Quảng Nguyên của ta (người đời truyền rằng Thường Kiệt làm hàng rào theo
dọc sông để cố thủ. Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có
tiếng đọc to rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên
phân định tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? Nhữ đẳng hành khan thủ
bại hư!
(Sông núi nước Nam, Nam đế ở,
Rõ ràng phân định tại sách trời Cớ
sao nghịch tặc sang xâm phạm? Cứ thử làm xem, chuốc bại nhơ!534
)
Sau đó quả nhiên như thế. (Hai anh
em Trương tướng quân, anh tên là Khiếu535
, em tên là Hát, đều là tướng giỏi của Triệt Việt Vương. [Triệu] Việt Vương bị
[Hậu] Lý Nam Đế đánh bại mà mất nước. Nam Đế gọi cho làm quan, hai người đều
nói: "Tôi trung không thờ kẻ làm vua đã giết hại chủ mình". Rồi ẩn
mình trốn ở núi Phù Long, Nam Đế gọi mấy lần không chịu ra, mới hạ lệnh ai chém
được thủ cấp hai người thì thưởng nghìn vàng. Hai người đều uống thuốc độc
chết. Nam Tấn Vương nhà Ngô đi đánh giặc Lý Huy ở châu Tây Long đóng quân ở cửa
Phù La536
, chiêm bao thấy có hai người xin theo giúp quân, nói rằng trời thương họ là
trung thần không thờ hai vua, bổ làm "Than hà Long quân phó tuần Vũ Lạng
nhị giang" và Chi mạn nguyên tuần giang đô phó sứ". Đến khi dẹp xong
giặc, Nam Tấn Vương nhà Ngô phong cho anh làm "Đại đương giang đô hộ quốc
thần vương", lập đền thờ ở cửa sông Như Nguyệt, em là "Tiểu đương
giang đô hộ quốc thần vương", lập đền thở ở cửa sông Nam quận tức là đền
thờ này).
Mùa hạ, tháng 4, đại xa, đổi niên
hiệu làm Anh Vũ Chiêu Thắng năm thứ 1.
Xuống chiếu cầu lời nói thẳng.
[10a] Cất nhắc những người hiền
lương có tài văn võ cho quản quân dân.
Chọn quan viên văn chức, người nào
biết chữ cho vào Quốc tử giám.
Đinh Tỵ, [Anh Vũ Chiêu Thắng] năm
thứ 2 [1077], (Tống Hy Ninh năm thứ 10). Mùa xuân, mở hội Nhân Vương537
ở điện Thiên An.
Tháng 2, thi lại viện bằng phép viết
chữ, phép tính và hình luật.
Tháng 3, lại đem đại binh sang đánh
hai châu Khâm và Liêm nước Tống, nói lấy tiếng rằng nhà Tống thi hành phép
thanh miêu538
, tàn hại dân Trung quốc, cho nên đem quân sang hỏi tội để cứu giúp nhau539
.
Mùa đông, tháng 12, Triệu Tiết nhà
Tống sang xâm lấn, không được lại đem quân về540
.
Mậu Ngọ, [Anh Vũ Chiêu Thắng] năm
thứ 3 [1078], (Tống Nguyên Phong năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, sửa lại
thành Đại La, sai Đào Tống Nguyên đem biếu nhà Tống 5 con voi thuần, xin trả
lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, và những người các châu ấy bị bắt đi.
[10b] Kỷ Mùi, [Anh Vũ Chiêu Thắng]
năm thứ 4 [1079], (Tống Nguyên Phong năm thứ 2). Châu Lạng dâng voi trắng.
Mưa đá.
Được mùa to.
Nhà Tống đem Thuận Châu trả cho ta
(tức là châu Quảng Nguyên, nhà Tống đổi làm Thuận Châu).
Canh Thân, [Anh Vũ Chiêu Thắng] năm
thứ 5 [1080], (Tống Nguyên Phong năm thứ 31). Mùa xuân, tháng 2, đúc chuông lớn
cho chùa Diên Hựu. Chuông đúc xong, đánh không kêu, nhưng cho rằng nó đã thành
khí, không nên tiêu hủy, bèn đem bỏ ở Quy Điền [ruộng rùa] của chùa. Ruộng ấy,
thấp ướt, có nhiều rùa, người bấy giờ gọi là chuông Quy Điền.
Mùa thu, tháng 8, móc ngọt xuống.
Vua đem đua thuyền.
Tân Dậu, /Anh Vũ Chiêu Thắng/ năm
thứ 6 [1081], (Tống Nguyên Phong năm thứ 4). Mà xuân, mặt trời có hai quầng
sáng. Trả lại cho nhà Tống dân và lính bị bắt ở ba châu Ung, Khâm, Liêm, vì nhà
Tống đã trả lại ta các châu Quảng
Nguyên.
Mùa đông, tháng 10, Thái [11a] sư Lý
Đạo Thành chết.
Nhâm Tuất, /Anh Vũ Chiêu Thắng/ năm
thứ 4 [1082] , (Tống Nguyên Phong năm thứ 5). Mùa xuân, gả công chúa Khâm Thánh
cho châu mục châu Vị Long là Hà Di Khánh.
Quý Hợi, /Anh Vũ Chiêu Thắng/ năm
thứ 8 [1083] , (Tống Nguyên Phong năm thứ 6). Mùa xuân, vua thân duyệt các
hoàng nam541
, định làm 3 bậc.
Rồng vàng bay từ điện Tử Thần đến
điện Hội Long.
Giáp Tý, /Anh Vũ Chiêu Thắng/ năm
thứ 9 [1084] , (Tống Nguyên Phong năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 6, sai thi lang bộ
Binh Lê Văn Thịnh đến trại Vĩnh Bình cùng với người Tống bàn việc cương giới.
Xuống chiếu cho thiên hạ nung ngói
lợp nhà.
Định biên giới.
Nhà Tống trả lại cho ta 6 huyện 3
động. Người Tống có thơ rằng:"Nhân tham Giao Chỉ tượng, khướt thất Quảng
Nguyên kim" (vì tham voi Giao Chỉ, bỏ mất vàng Quảng Nguyên).
[11b] Ất sửu, /Quảng Hựu/ năm thứ 1
[1085] , (Tống Nguyên Phong năm thứ 8). Cho Lê Văn Thịnh làm Thái sư. Bấy giờ
thiên hạ vô sự, Hoàng hậu đi chơi khắp các nơi núi sông, ý muốn xây dựng chùa
tháp.
Bính Dần, /Quảng Hựu/ năm thứ 2
[1086] , (Tống Triết Hú, Nguyên Hựu năm thứ 1). mùa xuân, Nguyễn Viễn dâng con
rùa 6 chân, trên lưng có vạch chữ.
Mùa thu, tháng 8, thi người có văn
học trong nước, sung làm quan ở Hàn lâm viện, Mạc Hiển Tích trúng tuyển, bổ làm
Hàn lâm học sĩ.
Làm chùa ở núi Đại Lãm542
.
Đinh Mão, /Quảng Hựu/ năm thứ 3
[1087] , (Tống Nguyên Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, dựng bí thư các.
Nhà Tống phong làm Nam Bình Vương.
Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến chùa
Lãm Sơn. Đêm ban yến cho các quan, vua thân làm hai bài thơ Lãm Sơn dạ yến.
Mậu Thìn, /Quảng Hựu/ năm thứ 4
[1088] , (Tống Nguyên Hựu năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, phonh nhà sư Khô
Đầu làm Quốc sư (có thuyết nói là cho [12a] tiết việt, cùng với Tể tướng đứng
trên điện, xét đoán công việc và đơn từ kiện tụng của thiên hạ, chưa chắc là có
thể, có lẽ bấy giờ Nhân Tông sùng đạo Phật, phong làm Quốc sư để hỏi việc nước,
cũng như Lê Đại Hành đối với Ngô Khuông Việt mà thôi). Dặt chức thư gia mười
hỏa543
.
Định các chùa trong nước làm ba hạng
đại, trung và tiểu danh lam, cho quan văn chức cao kiêm làm đề cử544
. Bấy giờ nhà chùa có điền nô và kho chứa đồ vật, cho nên đặt chức ấy.
Mùa đông, tháng 10, xây tháp chùa
Lãm Sơn.
Kỷ Tỵ, /Quảng Hựu/ năm thứ 5 [1089]
, (Tống Nguyên Hựu năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 3, định các chức văn võ, quan
hầu vua và các chức tạp lưu.
Quân nhà Tống /xâm phạm/ vào châu
Thạch Tê545
.
Đào ngòi lãnh kinh546
.
Canh Ngọ, /Quảng Hựu/ năm thứ 6
[1090] , (Tống Nguyên Hựu năm thứ 5). Làm cung hợp hoan.
Tân Mùi, /Quảng Hựu/ năm thứ 7
[1091] , (Tống Nguyên Hựu năm thứ 6). Mùa xuân, vua ngự đến Lạng Sơn xem bắt
voi. Mùa Đông, tháng 11, cho Hà Ư làm Thiếu úy tri điện tiền chư quân sự.
Lê Toàn Nghĩa dâng [12b] con rùa năm
sắc.
Nhâm Thân, /Quảng Hựu/ năm thứ 7
[1092] , (Tống Quang Hựu năm thứ 8), (Ừ tháng 8 về sau là niên hiệu Hội phong
năm thứ 1; Tống Nguyên Hựu năm thứ 7). Mùa Thu, tháng 8 đổi niên hiệu làm Hội
Phong năm thứ 1.
Được mùa to. Định sổ ruộng, thu tô
mỗi mẫu 3 thăng547
để cấp lương cho quân.
Qúy Dậu, /Hội Phong/ năm thứ 2
[1093] , (Tống Nguên hựu năm thứ 8). Cây ưu bát đàm /cây sung/548
nở hoa.
Giáp Tuất, /Hội Phong/ năm thứ 3
[1094] , (Tống Thiệu Thánh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, sai Hàn Lâm học
sĩ Mạc Hiển Tích sang sứ Chiêm Thành đòi lễ tuế cống.
Mùa Hạ, tháng 4, tháp chùa Lãm Sơn
xây xong.
Ất Hợi, /Hội Phong/ năm thứ 4 [1095]
, (Tống Thiệu Thánh năm thứ 2). Mùa xuân, các vương vào chầu.
Mùa Hạ, tháng 6, đại hạn. Thả tù,
giảm hoặc miễn các khoản tang thuế543
.
Trời mưa.
Bính Tý, /Hội Phong/ năm thứ 5
[1096] , (Tống Thiệu Thánh năm thứ 3). Mùa Xuân, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm
phản, tha tội chết, [13a] an trí ở Thao Giang550
. Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù
nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua
lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ
tái mặt, nói: "Việc nguy rồi!". Người đánh cá là Mạc Thận quăng lưới
trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có
công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Thưởng cho Mục Thận
quan chức và tiền của, lại cho đất ở Tây Hồ làm thực ấp. Trước đấy Văn Thịnh có
gia nô người nước Đại Lý551
có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Kẻ làm tôi
/phạm tội/ giết vua cướp ngôi mà được miễn tội chết, thế là sai trong việc
hình, lỗi ở vua tin sùng đạo Phật.
[13b] Đinh Sửu, /Hội Phong/ năm thứ
6 [1097] , (Tống Thiệu Thánh năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu
kiểm định các lệ, đều phỏng theo các điển cũ.
Mùa Thu, tháng 8, sao mọc ban ngày.
Bấy giờ trong nước giàu đủ, Thái hậu làm nhiều chùa Phật.
Mậu Dần, /Hội Phong/ năm thứ 7
[1098] , (Tống Nguyên Phù năm thứ 1). Mùa Thu, tháng 8, động đất.
Sao Chổi hiện ra.
Kỷ Mão, /Hội Phong/ năm thứ 8 [1098]
, (Tống Nguyên Phù năm thứ 2). Rồng thần hiện xuống ở cây mai.
Canh Thìn, /Hội Phong/ năm thứ 9
[1100] , (Tống Nguyên Phù năm thứ 3). Mùa Đông, tháng 12, bệnh dịch lớn.
Tân Tỵ, Long Phù năm thứ 1 [1101] ,
(Tống Huy Tông Cát, Kiến Trung Tĩnh Quốc năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, đổi
niên hiệu. Cho Thái úy Lý Thường Kiệt kiêm chức Nội thị phán thủ đô áp nha hành
điện nội ngoại đô tri sự.
Sửa chùa Diên Hựu.
Nhâm Ngọ, /Long Phù/ năm thứ 2
[1102] , (Tống Sùng Ninh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Lập xuân; tuyết
lành xuống.
Tháng 2, [14a] nước to. Sai Hoàng
hậu và các phi tần trai giới lập đàn chay để cầu tự.
Quí Mùi, /Long Phù/ năm thứ 3 [1103]
, (Tống Sùng Ninh năm thứ 2). Mùa xuân, Thái hậu phát tiền ở kho Nội phủ để
chuộc những con gái nhà nghèo đã phải bàn đi ở đem gã cho những người góa vợ.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Con gái nhà
nghèo đến phải cầm thân làm mướn, con trai nhà nghèo đến nỗi không có vợ , đó
là cùng dân trong thiên hạ. Thái hậu đổi đời cho họ, cũng là việc làm nhân
chính vậy.
Mùa Đông, tháng 10, người Diễn Châu
là Lý Giác mưu làm phản. Giác trước học được thuật lạ, có thể biến cây cỏ làm
người, bèn chiêu tập những kẻ vô lại chiếm cứ châu ấy, đắp thành làm loạn. Việc
tâu lên, vua sai bọn Lý Thường Kiệt đi đánh. Giác thua trốn sang Chiêm Thành,
dư đảng đều bị dẹp yên.
Chiêm Thành cướp [14b] biên giới.
Giáp Thân, /Long Phù/ năm thứ 4
[1104] , (Tống Sùng Ninh năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, sai Lý Thường Kiệt đi
đánh Chiêm Thành, nói tình hình hư thực của nước ta. Vua Chiêm Thành là Chế Ma
Na552
nhân thế đem quân vào cướp, lấy lại 3 châu Địa Lý v.v... mà Chế Củ đã dâng. Đến
đây, sai Lý Thường Kiệt đi đánh, phá được, Chế Ma Na lại dâng nộp đất ấy.
Tháng 3, định lại binh hiệu của quân
cấm vệ.
Ất Dậu, /Long Phù/ năm thứ 5 [1105]
, (Tống Sùng Ninh năm thứ 4). Mùa xuân, cúng thần Cao Môi553
. Mùa hạ, tháng 6, Thái úy Lý Thường Kiệt chết, tặng chức Nhập nội điện đô tri
kiểm hiệu thái úy bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công, thực ấp
1 vạn hộ, cho người em là Lý Thường Hiến được kế phong tước hầu (Thường Kiệt
người phường Thái Hòa, thành Thăng Long, nối đời làm quan, nhiều mưu lược, có
tài làm tướng. Khi còn ít tuổi, vì vẻ mặt tươi đẹp được sung làm Hoàng môn chi
hậu theo hầu Thái Tông, thăng dần đến chức Nội thị sảnh đô tri. Thánh Tông
phong chức Thái bảo, trao cho tiết [15a] việt để đi thăm hỏi lại dân ở Thanh
Hóa, Nghệ An. Đến khi vua thân đi đánh Chiêm Thành, ấy làm tướng tiên phong,
bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Vì có công, được phong làm Phụ quốc thái phó, dao
thụ chư trấn tiết độ, đồng trung thư môn hạ, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ,
phụ quốc thượng tướng quân, tước Khai quốc công, sau lại có công nữa, được
phong làm Thái úy, rồi chết).
Mùa thu, tháng 9, làm hai ngọn tháp
chỏm trắng ở chùa Diên Hựu, ba ngọn tháp chỏm đá ở chùa Lãm Sơn. Bấy giờ vua
sửa lại chùa Diên Hựu đẹp hơn cũ, đào hồ Liên Hoa Đài554
, gọi là hồ Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy chung quanh, ngoài
hành lang lại đào hồ gọi là hồ Bích Trì, đều bắc cầu vồng để đi qua. Trước sân
chùa xây bảo tháp. Hàng tháng cứ ngày rằm, mồng một và mùa hạ, ngày mồng 8
tháng 4, xa giá ngự đến, đặt lễ cầu phúc, bày nghi thức tắm Phật, hàng năm lấy
làm lệ thường.
Bính Tuất, /Long Phù/ năm thứ 6
[1106] , (Tống Sùng Ninh năm thứ 5). Mùa xuân, tháng giêng, sao Chổi mọc ở
Phương Tây, đuôi dài khắp trời. Sao Thái Bạch mọc ban ngày. Đại xá cho thiên
hạ, trừ những kẻ phe đảng làm loạn.
[15b] Đinh Hợi, /Long Phù/ năm thứ 7
[1107] , (Tống Đại Quan năm thứ 1).Mùa hạ, động đất.
Mậu tý, /Long Phù/ năm thứ 8 [1108],
(Tống Đại Quan năm thứ 2).Mùa xuân, tháng 2, đắp đê ở phường Cơ Xá555
.
Các tháng mùa hạ không mưa.
Kỷ Sửu, /Long Phù/ năm thứ 9 [1109]
, (Tống Đại Quan năm thứ 3). Mùa xuân, đắp đài Động Linh.
Mùa thu, kẻ nghịch là Tô Hậu và Đỗ
Sùng mưu làm phản, bị giết.
Canh Dần, /Hội Tường Đại Khánh/ năm
thứ 1 [1110] , (Tống Đại Quan năm thứ 4).Mùa xuân có người đàn bà dâng con chim
phượng non, có đủ 9 chòm ngũ sắc.
Từ Văn Thông556
dâng hổ trắng, ngựa trắng có cựa và cây cau một gốc 12 thân.
Mùa thu, tháng 8, Chiêm Thành dâng
voi trắng
Tân Mão, /Hội Tường Đại Khánh/ năm
thứ 2 [1111] , (Tống Chính Hòa năm thứ 1). Mùa xuân, phủ Thanh Hóa dâng cây cau
một gốc 9 thân.
[16a] Mùa thu được mùa to.
Mặt trời có hai quầng.
Nhâm Thìn, /Hội Tường Đại Khánh/ năm
thứ 3 [1112] , (Tống Chính Hòa nam thứ 2). Mùa xuân, móc ngọt xuống.
Chiêm Thành dâng voi trắng.
Bấy giờ vua tuổi đã nhiều mà chưa có
con trai nối dõi, xuống chiếu chọn con của tông thất để lập làm con nối. Em vua
là Sùng Hiều hầu (không rõ tên) cũng chưa có con trai. Gặp lùc nhà sư núi Thạch
Thất557
là Từ Đạo Hạnh đến chơi nhà, hầu nói với Đạo Hạnh về việc cầu tự. Đạo Hạnh dặn
rằng:" Bao giờ phu nhân sắp đến ngày sinh thì báo cho tôi biết trước để
cầu khấn với sơn thần". Ba năm sau, phu nhân có mang sinh con trai là [Lý]
Dương Hoán.
Quý Tỵ, /Hội Tường Đại Khánh/ năm
thứ 4 [1113] , (Tống Chính Hòa năm thứ 3). Mùa hạ, tháng 6, phu nhân của châu
mục châu Chân Đăng là công chúa họ Lý mất. (Phu nhân tên là Ngọc Kiều, con gái
lớn của Phụng Càn Vương được Thánh Tông nuôi ở trong cung, lớn lên phong làm
chúa, gả cho châu mục châu Chân Đăng là người họ Lê, chồng chết, phu nhân tự
thề ở góa, đi tu làm sư nữ, đến đây mất, thọ 72 tuổi. Thần Tông tôn làm Ni sư).
Đ ạ i V i ệ t S ử
K ý B ả
n K ỷ
T o à n T h ư
Quyển IV
[1a]
Anh Tông Hoàng Đế
Tên húy là Thiên Tộ, con đích trưởng
của Thần Tông, mẹ là Hoàng hậu họ Lê, sinh tháng 4 năm Bính Thìn, Thiên Chương
Bảo Tự thứ 4 [1136], tháng 9 năm Mậu Ngọ [1138] lập làm Hoàng Thái Tử. Thần
Tông băng, bèn lên ngôi báu. Ở ngôi 37 năm [1138-1175], thọ 40 tuổi
[1136-1175], băng ở điện Thụy Quang. Trong việc phế lập, vua không mê hoặc lời
nói của đàn bà, ký thác được người phụ chính hiền tài, có thể gọi là không thẹn
với việc gánh vách. Song không phân biệt được kẻ gian tà, hình phạt không sáng
suốt, cho nên trời xuống tai biến để răn, giặc cướp nổi lên, giềng mối rối
loạn, không thể nói xiết.
Kỷ Mùi , Thiệu Minh năm thứ 2
[1139], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 9)620
. Nhà tống phong vua làm Giao Chỉ Quận Vương.
Canh Thân , [Thiệu Minh] năm thứ 3
[1140], (Từ tháng 2 về sau là niên hiệu Đại Định năm thứ 1; Tống Thiệu Hưng năm
thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, châu mục châu Chân Đăng là Lê Pháp Viên dâng
hươu trắng.
Tháng 2, đổi niên hiệu là Đại Định
năm thứ 1.
Tháng 3, Ngọc bệ [1b] viên ngoại
lang là Nguyễn Nghĩa Minh dâng hươu đen.
Lấy Đỗ Anh Vũ làm cung điện lệnh tri
nội ngoại sư. Anh Vũ là em của Đỗ thái hậu, nên Lê thái hậu trao cho chức này.
Mùa hạ, tháng 4, lấy ngày sinh của
vua làm tiết Thọ Ninh.
Từ mùa xuân sang mùa hạ, không mưa.
Tháng 5, có mưa.
Mùa đông, tháng 10, được mùa to.
Người thầy bói Thân Lợi tự xưng là
con của Nhân Tông621
đem đồ đảng theo đường thủy đến châu Thái Nguyên622
, từ châu Tây Nông623
kéo ra, qua châu Lục Lệnh, vào chiếm châu Thượng Nguyên và châu Hạ Nông620
, thu nạp những kẻ trốn tránh, chiêu mộ thổ binh, có đến hơn 800 người, cùng
mưu làm loạn.
Tân Dậu, [Đại Định] năm thứ 2 [1141]
, (Tống Thiệu Hưng năm thứ 11). Mùa xuân, tháng giêng, Thân Lợi tiếm xưng là
Bình Vương, lập vợ cả, vợ lẽ làm hoàng hậu và phu nhân, con làm vương hầu, cho
đồ đảng quan tước theo thứ bậc[2a] khác nhau. khi ấy đồ đảng của Thân Lợi chỉ
hơn nghìn người, đi đến đâu nói phao là Lợi giỏi binh thuật để hiếp chế người
miền biên giới. Người các khe động dọc biên giới đều khiếp sợ, không dám chống
lại.
Tháng 2, quan coi biên giới dâng thư
cáo cấp. Xuống chiếu cho Gián nghị đại phu Lưu Vũ Nhĩ625
đem quân do đường bộ tiến đi, Thái phó là Hứa Viêm đem quân ngược đường thủy để
tiến đánh. Khi ấy Vũ Nhĩ sai tướng tiên phong là Thị vệ đô Tô Tiệm và Chủ đô
trại Tuyên Minh là Trần Thiềm đem quân đi trước, đóng ở sông Bác Đà626
, gặp thủy quân của Lợi cùng giao chiến. Tiệm thua, bị Lợi giết, Lợi trở về giữ
châu Thượng Nguyên, đắp đồn ải ở huyện Bác Nhự để chống quan quân. Vũ Nhĩ đánh
nhổ được ải Bác Nhự, tiến đến Bồ Đinh627
, gặp thủy quân của Lợi, đánh lớn, Vũ Nhĩ thua trận, tướng sĩ chết đến quá nửa,
phải rút về.
Mùa hạ, tháng 4, ngày Mậu Thìn, Vũ
Nhĩ về đến Kinh sư. Ngày Tân Mùi, Lợi ra chiếm châu Tây Nông, sai người ở các
châu Thượng Nguyên [2b] Tuyên Hóa628
, Cảm Hóa629
, Vĩnh Thông630
đánh lấy phủ Phú Lương631
. Lợi chiếm giữ phủ trị, ngày đêm hợp bè đảng mưu cướp kinh sư. Ngày Kỷ Mảo,
vau sai thái úy Đỗ Anh Vũ đem quân đi đánh Lợi.
Tháng 5, ngày Tân Mão, quân của Lợi
kéo về cướp kinh sư, đóng ở Quảng Dịch632
, gặp quân của Anh Vũ, đánh lớn. Quân của Lợi thua, chết không kể xiết. Anh Vũ
sai chém lầy đầu bêu lên ở cạnh đường suốt từ quan Bình Lỗ633
đến sông Nam Hán.
Bắt được thủ lĩnh châu Vạn Nhai634
là Dương Mục, thủ lĩnh động Kim Kê là Chu Ái, đóng củi giải về Kinh sư. Lợi chỉ
chạy thoát một mình về châu Lục Lệnh. Ngày Nhâm Ngọ, giải bọn Mục và Ái về trói
giam ở huyện phủ của chúng. Xuống chiếu cho Anh Vũ chiêu tập bọn tàn tốt của
Lợi ở cửa quan Bình Lỗ. Phát muối kho công cho bọn Mục và Ái.
Mùa thu, tháng 8, quốc sư Minh Không
chết (sư người xã Đàm Xá, huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên, rất linh ứng, phàm
khi có tai ương hạn lụt, cầu đảo đều nghiệm cả. Nay hai chùa Giao Thủy và Phả
Lại đều có tượng thờ)635
.
[3a]Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1,
lại sai Anh Vũ đi đánh châu Lục Lệnh, bắt được bọn bè đảng của Lợi hơn 2.000
người. Lợi trốn sang châu Lạng, Thái phó Tô Hiến Thành bắt được Lợi, giao cho
Anh Vũ đóng củi giải về kinh sư. Sai Lý Nghĩa lâm chiêu tập vỗ yên dư đảng của
Lợi. Xuống chiếu cho quan Đình úy xét tội Lợi. Án xét xong, vua ngự điện Thiên
khánh xử tội Lợi và bọn đồng mưu 20 người
đều xử trảm, những kẻ còn lại đều
theo tội nặng nhẹ mà xử, tha cho những kẻ vì ép buộc mà phải theo. Các quan
dâng biểu mừng.
Lưu Vũ Nhĩ dâng hươu trắng, lại dâng
ngọc tân lang [ngọc cau].
Sử thần Ngô Sĩ liên nói: Bấy giờ Lưu
Vũ Nhĩ có tội về sai quân luật mà bại trận, lại dâng những vật điềm lành để che
lỗi, thế mà không một người nào dám bàn đến, có thể biết hình pháp chính sự bấy
giờ nhiều việt sai trái. Đỗ Anh Vũ lăng loàn dữ tợn đâu phải không có nguyên
do.
[3b] Nhâm Tuất, [Đại Định] năm thứ 3
[1142] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 12). Mùa xuân, tháng 2, Lưu Vũ Nhĩ dâng ngọc
thiềm thừ [ngọc cóc].
Mùa đông, tháng 10, sai thủ Lĩnh phủ
Phú Lương là Dương Tự Minh đến châu Quảng Nguyên để chiêu tập người châu ấy.
Tháng 12, xuống chiếu rằng những
người cầm đợ ruộng thục636
trong vòng 20 năm thì cho phép chuộc lại; việc tranh chấp ruộng đất thì trong
vòng 5 năm hay 10 năm còn được tâu kiện; ai có ruộng đất bỏ hoang bị người khác
cấy cày trồng trọt trong vòng một năm thì được kiện mà nhận, quá hạn ấy thì
cấm. Làm trái thì xử 80 trượng. Nếu tranh nhau ruộng ao mà lấy đồ binh khí nhọn
sắc đánh chết hay làm bị thương người thì đánh 80 trượng, xử tội đồ, đem ruộng
ao ấy trả lại người chết hay bị thương.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Giết người
thì phải xử tội chết, đó là phép của đời xưa, nay tôi giết người cũng xử như
tội khác thực là không phân biệt mức độ, mất sự cân nhắc nặng nhẹ.
[4a] Xuống chiếu rằng những người
bán đoạn ruộng hoang hay ruộng thục đã có văn khế rồi thì không được chuộc lại
nữa, ai làm trái bị phạt đánh 80 trượng.
Xuống chiếu tha tội lưu cho các bè
đảng của Thân Lợi.
Quý Hợi, [Đại Định] năm thứ 4 [1143]
, (Tống Thiệu Hưng năm thứ 13). Mùa xuân, tháng 2, xuống chiếu thiên hạ từ nay
về sau cứ ba nhà làm một bảo, không được mổ riêng bò trâu, nếu có việc cúng tế
phải tâu xin được chỉ rồi mới cho mổ, kẻ làm trái thì trị tội nặng, láng giềng
không cáo giác cũng xử cùng tội.
Từ mùa xuân đến mùa hạ, đại hạn, vua
thân làm lễ cầu đảo. Tháng 6, ngày Đinh Sửu, có mưa.
Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu cho
Dương Tự Minh cai quản việc công các khi động dọc theo biên giới về đường bộ.
Tháng 9, xuống chiếu rằng, các nhà
quyền thế ngoài đầm ao của mình không được ngăn cấm xằng bậy, làm trái thì có
tội.
Mùa đông, tháng 10, sai Thái phó Hoàng
Nghĩa Hiền và Viên ngoại lang Khổng Trường đem quân các khe động dọc biên giới
về đường bộ đi đãi vàng ở các xứ Như Cá v. v...
Giáp Tý [Đại Định] năm thứ 5 [1144]
, (Tống Thiệu Hưng năm thứ 14). Gả công chúa Thiều Dung cho Dương Tự Minh,
phong Tự Minh làm Phò mã lang.
Tháng 5, Mâu Du Đô dâng chim sẻ
trắng. Cho Mâu Du Đô làm Thái sư, xa lĩnh việc các khe động dọc biên giới về
đường bộ.
Ất Sửu, [Đại Định] năm thứ 6 [1145]
, (Tống thiệu Hưng năm thứ 15). Mùa hạ, tháng 4, mưa dầm, làm lễ cầu tạnh.
Phụng chức là Nguyễn Phụng dâng rùa
mắt có sáu con ngươi, ức có hai hàng chữ triện các quan nhận ra bốn chữ
"Vương dĩ công pháp"637
.
Xống chếu rằng những người tranh
nhau ruộng ao của cải không được nhờ cậy nhà quyền thế, làm trái đánh 80
trượng, xử tội đồ.
Muà thu, tháng 7, dựng đền thần núi
Tản Viên và các đền Bố Cái, Ông Nghiêm, Ông Mẫu.
Tháng 8, kẻ có yêu thuật người nước
Tống là Đàm Hửu Lượng trốn sang châu Tư [5a] Lang638
, tự xưng là Triệu tiên sinh639
, nói dối là vâng lệnh đi sứ để dụ nước An Nam640
. Các khe động ở dọc biên giới nhiều người theo. Hữu Lượng bèn đem đồ đảng đến
cướp châu Quảng Nguyên. Bấy giờ Kinh lược suý ty lộ Quảng Tây nước Tống đưa thư
nhờ đuổi bắt Hữu Lượng. Vua xuống chiếu cho Phò mã lang Dương Tự Minh và văn
thần là Nguyễn Nhữ Mai, Lý Nghĩa Vinh đi đánh. Không bao lâu lại sai Thái sư
Mâu Du Đô đem quân các khe động dọc biên giới về đường bộ tiếp đánh. Khi ấy Tự
Minh đã lấy được ải Lũng Đổ, châu Thông Nông641
bắt được bè đảng của Hữu Lượng và bọn Bá Đại 21 người, duy có Hữu Lượng chạy
thoát, trốn vào núi chằm. Xuống chiếu cho Quản quân sứ là [Lý] Nghĩa Vinh trông
coi áp giải bọn Bá Đại giao trả về nước Tống. Trước đó Ung Châu làm cáo sắc giả
sai người đi gọi Hữu Lượng, Hữu Lương cho là thực, cùng với bọn thủ lĩnh châu
Tự Minh hơn 20 người mang ấn đồng, địa đồ và vật thổ sản quy phụ nhà Tống. Khi
đến [5b] trại Dương Sơn, viên thủ Ung Châu là Triệu Nguyệt bắt Hữu Lượng và bè
đảng giải đến suý ty. Người Tống thấy trong bọn ấy có Dương ở ngực có thích
hình rồng đen, và bọn thủ lĩnh ở châu Bồ năm người, biết là người nước Việt ta,
đều trả về.
Dựng cung Quảng Từ để hoàng thái hậu
ở.
Dựng các chùa Vĩnh Long, Phúc Thánh.
Cấm các thợ bách tác642
không được làm đồ dùng theo kiểu của nhà nước tự tiện bán cho dân gian.
Bính Dần [Đại Định] năm thứ 7 [1146]
, (Tống Thiệu Hưng năm thứ 16). Mùa xuân, tháng giêng, An Trung hầu (không rõ
tên) ở châu Lạng dâng hươu trắng.
Tháng 3, Viên ngoại lang Lý Ngọ dâng
hươu trắng.
Thái sư Mâu Du Đô chết.
Muà hạ, tháng 4, trâu và gia súc
chết dịch.
Hạn, cầu đảo được mưa.
Sao Chổi mọc.
Tháng 6 nhuận, xuống chiếu cho các
ty xử án, kẻ nào tranh bậy không hợp điều luật pháp chế thì xử 60 trượng.
Mùa thu, [6a] tháng 7, dựng 6 sở kho
Thiên Tư.
Tháng 8, xuống chiếu rằng các quan
quản giáp và chủ đô, phàm sung bổ cấm quân, phải chọn những hộ nhiều người,
không được lấy người cô độc, làm trái thì trị tội.
Đinh Mão, [Đại Định] năm thứ 8
[1147] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 17). Mùa thu, tháng 8, đóng hai thuyền Vĩnh
Long, Thanh Lan và hai thuyền lớn Trường Quyết, Phụng Tiên.
Tháng 9, thư gia là Lý Chiêu dâng
con quạ trắng. Mùa đông, tháng 10,ngày Canh Thìn, tiểu thị vệ là Lý Sùng dâng
con rùa mắt có sáu con ngươi, ức có tám chữ triện.
Dựng hành dinh ở trại Yên Hưng643
.
Xuống chiếu cho Đỗ Anh Vũ đi phủ Phú
Lương khảo xét quan liêu và định số mục hộ tịch.
Tháng 11, làm nhà cho Công chúa Thuỵ
Thiên ở châu Lạng.
Hoàng thái hậu họ Đỗ băng, thuỵ là
Chiêu Hiếu hoàng hậu.
Mậu Thìn, [Đại Định] năm thứ 9
[1148] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 18). Mùa xuân, tháng 2, vua ngự đến hành cung
ly Nhân cày ruộng tịch điền [6b] rồi đến hành cung Ứng Phong.
Mùa hạ, tháng 6, xuống chiếu cấm các
thủ lĩnh và quan lang người Man Lý và người Sơn Lão ở hai trấn Đại Thông và Quy
Nhân644
không có việc gì không được về Kinh.
Công chúa Thuỵ Thiên về châu Lạng.
Mùa đông, tháng 10, khánh thành cung
quảng Từ.
Kỷ Tỵ, [Đại Định] năm thứ 10 [1149]
, (Tống Thiệu Hưng năm thứ 19). Mùa xuân, tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa645
, Lộ Lạc646
, Xiêm La647
vào hải Đông648
, xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là vân Đồn, để mua
bán hàng hoá quý, dâng tiến sản vật địa phương.
Mùa hạ, tháng 4, mở hội Nhân Vương ở
Long Trì, đại xá người có tội.
Vua ngự ở Long Trì xem bắt voi.
Mùa đông, tháng 11, Công chúa Thiên
Thành mất.
Cho trung thư hoả giữ phủ Phú Lương
làm Nguyễn Quyền là Trung thư xá nhân, đến Na Dâm Điền ở đầu phía nam châu Văn,
hội với Triều phụng lang châu Thất Nguyên là Nông Ngạn Cương [7a] để bàn việc,
vì người châu Quảng Nguyên bắt Liêu Ngũ ở châu Thất Nguyên.
Dựng hành cung ở Ly Nhân.
Canh Ngọ, [Đại Định] năm thứ 11
[1150] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 20). Mùa xuân, tháng 3, hạn.
Mùa thu, tháng 7, hạn.
Tháng 9, người Chân Lạp cướp châu
Nghệ An, đến núi Vụ Thấp649
gặp nắng nóng ẩm thấp, phần nhiều chết vì lam chướng bèn tự tan vỡ.
Khi trước vua còn trẻ thơ, chính sự
không cứ việc lớn, việc nhỏ đều uỷ cho Đỗ Anh Vũ cả. Anh Vũ sai vợ là Tô thị ra
vào cung cấm hầu hạ Đỗ thái hậu, do đó mà Anh Vũ tư thông với Lê thái hậu, nhân
thế lại càng kiêu rông, ở triều đình thì khoát tay lớn tiếng, sai bảo quan lại
thì hất hàm ra hiệu, mọi người đều liếc nhau nhưng không ai dám nói. Điện tiền
đô chỉ huy sứ là vũ Đái, Hoả đầu đô Quảng Vũ là Lương Thượng Cá, Hoả đầu đo
Ngọc Giai là Đồng Lợi, Nội thị là Đỗ Ất, cùng với bọn Trí Minh Vương, Bảo Ninh
hầu, Phò mã lang Dương Tự Minh cùng mưu bắt giam Anh Vũ. Bàn tính xong, bọn
Đái[7b] đem quân lính đến ngoài cửa Việt Thành hô to rằng: "Anh Vũ ra vào
cấm đình, làm nhiều đều ô uế, tiếng xấu đồn ra ngoài, không tội gì to bằng. Bọn
thần xin sớm trừ đi, khỏi để mối lo về sau". Bèn có chiếu sai cấm quân đến
bắt Anh Vũ trói giam ở hành lang Tả Hưng Thánh, giao cho Đình uý tra xét. Thái
hậu sai người mang cơm rượu cho Anh Vũ, ngầm để vàng vào trong đồ đựng món ăn
để đút cho Vũ Đái và các người canh giữ. Hoả đầu ở đô Tả Hưng Thánh là Nguyễn
Dương nói: "Các ông tham của đút, tôi với các ông tất không thoát khỏi tay
Anh Vũ đâu, chi bằng cứ giết trước đi cho khỏi tay hoạ về sau". bèn cầm
giáo định đâm. Đô Tả Hưng [Thánh]650
là Đàm Dĩ Mông ôm Dương, cướp lấy giáo, ngăn rằng: "Điện tiền bảo Anh Vũ
tội đáng chết, nhưng còn phải đợi mệnh lệnh của vua, không nên tự tiện".
Dương giận, chửi: "Điện tiền Vũ cứt chứ chẳng phải Đái! (chữ Cát Đái
phương ngôn651
nói là cứt đái). [8a] Sao tham của đút mà không tiếc đến mạng mình!". Nói
xong, tự biết không khỏi chết, bèn nhảy xuống giếng tự tử.
Bấy giờ vua xét án của Anh Vũ, đày
Anh Vũ làm Cảo điền nhi652
. Thái hậu lo buồn, cố nghĩ làm thế nào để phục hồi chức nhiệm cho Anh Vũ, mới
nhiều lần mở hội lớn để xá cho tội nhân, mong Anh Vũ được dự vào đấy. Anh Vũ
được mấy lần xá tội, lại làm Thái uý phụ chính như cũ, càng được yêu dùng hơn,
do đấy chuyên làm oai, làm phúc, sinh sát mà lòng báo thù lúc nào cũng tỏ rõ,
còn sợ rằng bọn quân lại đi bắt bớ phần nhiều không được như ý, mới dâng hơn
một trăm người thủ hạ để làm đô Phụng quốc vệ, người nào phạm tội đều giao cho
đô Phụng quốc vệ đi bắt. Anh Vũ mật tâu với vua rằng: "Trước kia bọn Vũ
Đái tự tiện đem cấm quân xông vào cung đình, tội ấy không gì to bằng, nếu không
sớm trừng trị, sợ một ngày kia sinh biến, không thể lường được". Vua chẳng
biết gì cả, [8b] bèn chuẩn tâu. Anh Vũ sai đô Phụng quốc về đi bắt bọn Vũ Đái
giam vào ngục để trị tội. Hạ chiếu giáng Trí Minh Vương xuống tước hầu, Bảo
Ninh hầu xuống tước minh tự, Bảo Thắng hầu xuống tước phụng chức, Nội thị là
bọn Đỗ Ất 5 người bị "cưỡi ngựa gỗ"653
, bọn Hoả đầu đô Ngọc Giai là Đồng lợi 8 người bị chém ở chợ Tây Giai, bọn Điện
tiền đô chỉ huy Vũ Đái 20 người chém bêu đầu ở các bến sông, bọn Phò mã lang
dương Tự Minh 30 người bị tội lưu ở
nơi xa độc, những người dự mưu đều bị tội đồ làm điền hoành, khao giáp, quả như
lời nói của Nguyễn Dương.
Lê Văn Hưu nói: Đỗ Anh Vũ ra vào cấm
đình, tư thông với mẫu hậu, không tội gì to bằng. Bọn Vũ Đái nên tâu bày gian
trạng rồi bắt giam vào ngục mà giết đi là phải. Nay lại đem quân đột nhập cửa
Việt Thành, hiếp vua nhỏ tuổi, ép lấy chiếu chỉ. [9a] Đến khi bắt được Anh Vũ
rồi, lại nhận vàng của thái hậu mà không nghe lời nói của Nguyễn Dương, đến sau
rốt cuộc bị Anh Vũ giết, liên lụy đến mấy mươi người, thế là nuôi hổ để hoạ về
sau vậy.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Anh Vũ là
kẻ đại ác. Bọn [Vũ] Đái đã cùng với người tông thất hiệp mưu mà không biết
tuyên bố tội trạng ở triều đình để trị tội cho đàng hoàng, lại đem binh lính
bằt hiếp vua còn nhỏ tuổi. Ngay lúc bấy giờ. Anh Vũ đã mừng có cớ để nói rồi,
biết đâu không lập kế thông với thái hậu để đút lót nhiều cho bọn Đái, mong
khỏi chết để thỏa lòng báo thù chăng? May mà Nguyễn Dương bảo rõ tai hoạ. Khi
bọn Đái không chịu nghe lời, [Dương] lại nhảy xuống giếng mà chết để cảnh cáo,
thế mà vẫn còn không tính, để sau bị tai vạ thì còn trách ai nữa? Thế thì thái
hậu không có tội ư? Trả lời rằng: tội nặng lắm. Người không có tài đức quyền
[9b] vị như Y Doãn, Chu Công mà muốn ngăn sửa thì khó tránh cái lỗi làm việc
sừa lớn thì hỏng.
Xuống chiếu cấm bọn hoạn quan không
được tự tiện vào trong cung, ai phạm thì bị tội chết. Nếu [canh giữ] không cẩn
thận để người khác vào cung cũng bị tội như thế.
Cấm các quan trong triều không được
đi lại nhà các vương hầu, ở trong cung cấm không được hội họp nhau năm, ba
người bàn luận chê bai, ai phạm thì trị tội. Kẻ nào phạm việc qua lại bên ngoài
phía đầu hành lang chứa khí giới của đô Phụng quốc vệ thì xử 80 trượng, tội đồ;
nếu vào trong hành lang ấy thì xử tử. Lính Phụng [quốc] vệ ở trong hành lang ấy
có chiếu chỉ mới được cầm khí giới, không có chiếu chỉ mà tự tiện mang khí giới
đi quá ra ngoài phía đầu [hành lang] thì xử tử.
Tân Mùi, [Đại Định] năm thứ 12
[1151] , (Tống thiệu Hưng năm thứ 21). Mùa xuân, tháng giêng, Nội nhân hoả đầu
là Đỗ Thì dâng rùa vàng có lông xanh.
Tháng 2, vua ngự đến Long Thủy654
bắt voi trắng, bắt được, các quan dâng [10a] biểu mừng.
Mùa hạ, tháng 4, Đỗ Anh Vũ dâng cây
cau một gốc 28 nhánh. Tháng 5, Đỗ Anh Vũ dâng hươu trắng.
Mùa thu, tháng 8, vua ngự đến cung
Quảng Từ xem đua thuyền.
Mùa đông, tháng 10, công chúa Thuỵ
Minh mất.
Tháng 11, hoàng trưởng tử Long Xưởng
sinh ở hành cung Ứng Phong, sau được sách phong là Hiển Trung Vương.
Dựng gác Vĩnh Thanh ở điện phía tây
và hai chiếc thuyền VĨnh Diệu, Thanh Lan.
Nhâm Thân, [Đại Định] năm thứ 13
[1152] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 22). Muà xuân, tháng 2, Nội sư ông là Lý
Nguyên dâng rùa ba chân, mắt có sáu con ngươi, trên ức có chữ triện. Các quan
nhận thành bốn chữ: "Vương dĩ bát phương"655
.
Mùa hạ, tháng 4, động đất.
Tháng 5, trời mưa cát vàng.
Bá Đại Vương (chưa rõ là ai) mất.
Mùa thu, tháng 7, trời mưa cát vàng.
Mùa đông, tháng 10, thi Điện.
Người nước Chiêm Thành [10b] là Ung
Minh Ta Điệp656
đến cửa khuyết xin mệnh cho làm vua nước ấy. Xuống chiếu cho Thượng chế Lý Mông
đem hơn 5.000 người ở phủ Thanh Hoá và châu Nghệ An sang Chiêm Thành lập Ung
Minh Ta Điệp làm vua. Mông đến Chiêm Thành bị vua nước ấy là Chế Bì La Bút657
chống cự, bọn Ung Minh Ta Điệp và [Lý] Mông đều chết.
Quý Dậu, [Đại Định] năm thứ 14
[1153] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 23). Dựng cửa Tân Quan.
Giáp Tuất, [Đại Định] năm thứ 15
[1154] , (Tống thiệu Hưng năm thứ 24). Muà xuân, tháng giêng, An Trung hầu
(không rõ tên) dâng con hoẵng trắng.
Người Sơn Lão ở Chàng Long làm phản.
Từ Dần dâng quạ trắng.
Tháng 2, xuống chiếu cho Anh Vũ đi
đánh người Sơn Lão ở Chàng Long, hàng phục được.
Mùa thu, tháng8, thủ lĩnh bọn Sơn
lão ở Đại Hoàng giang (nay là phủ Trường yên) là Nông Khả Lai làm phản.
Tháng 9, vua ngự ra cửa Nam Thành
Đại la xem đắp đàn Viên Khâu658
.
[11a] Mùa đông, tháng 10, vua nước
Chiêm Thành là Chế Bì La Bút dâng con gái, vua nhận659
.
Lê Văn Hưu nói: Các bậc đế vương đối
với người Di Địch, nếu họ chịu phục thì lấy đức mà vỗ yên, nếu làm phản thì lấy
uy mà tỏ cho biết. Anh Tông sai Lý Mông đem hơn 5 nghìn người để giúp lập Ung
Minh Ta Điệp làm Vua nước Chiêm Thành mà bị Chế Bì la Bút giết, đáng lẻ phải
đem quân hỏi tội, chọn lập một người khác để thay làm vua nước ấy, thì mới có
thể gia uy với cõi xa, mà vua sau phải nhớ đức. Nay lại nhận con gái của họ mà
không hỏi tội, có thể gọi là lầm lỗi. Về sau Chiêm Thành và Chân Lạp liền năm
vào cướp một lộ Nghệ An, mối hại không kể xiết, thực là do Anh Tông khơi mối
vậy.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nước nhỏ
nhờ vào nước lớn để cho mình được yên tĩnh mà thôi.[11b] Không may gặp loạn,
công tử660
chạy ra ngoài thì cũng có thể đưa về nước, nhưng không chính đáng thì chưa bao
giờ nên việc. Nước Lỗ đưa công tử Củ về là thế661
. Đưa về mà biết không chính đáng thì như việc nước Tấn đưa Tiệp Tri về662
, [Lý] Anh Tông đưa Ung Minh Ta Điệp về, nếu quả là chính đáng mà kẻ kia chống
mệnh giết càn ư? Thì không thể không cất quân hỏi tội. Nếu quả là không chính
đáng thì sao không tự xét ngay ở mình? Song việc đã đến thì nên sai một sứ giả
sang hỏi tội, đợi cho họ phục tình hối lỗi mà tạ tội thì mới phải. Sao lại say
đắm tình riêng nữ sắc, quên mất việc lớn của nước nhà, mà những người ăn thịt663
bấy giờ không ai nói gì là làm sao?
Tháng 11, ngày Đinh Mùi, vua thân đi
đánh Nông Khải lai. Ngày Canh Tuất, xuất phát từ Kinh sư. Ngày Giáp Dần [12a]
thắng trận. Ngày Bính Thìn, đem quân về. Ngày Kỷ Mùi, về đến Kinh.
Dựng hành cung Ứng Phong, hành cung
Ly Nhân và đóng thuyền Vĩnh chương.
Ất Hợi, [Đại Định] năm thứ 16 [1155]
, (Tống Thiệu Hưng năm thứ 25). Mùa hạ, tháng 5, công chúa Thiệu Dung mất.
Mùa thu, tháng 8, đua thuyền.
Nước to.
Động đất.
Tháng 9, thu tô ruộng chiêm.
Mùa đông, tháng 10, sao Mộc phạm và
sao Kim.
Sai thợ làm phủ đệ ở Phú Lương.
Tháng 11, nước Chiêm Thành sang
cống.
Tháng 12, động đất.
Làm cung Lệ Thiên và hành lang triều
cận ở điện Long Khánh.
Bính Tý, [Đại Định] năm thứ 17
[1156] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 26). Mùa xuân, tháng 2, ngày tân Mùi, trời
mưa cát vàng.
Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu làm phủ
đệ ở châu Quảng Nguyên.
Mùa đông, tháng 12, ngày đinh Mùi,
ban đêm kho ngự cháy.
Làm hành cung Ngự Thiên664
, điện Thuỵ Quang, gác Ánh vân, cửa Thanh Hòa, thềm Nghi Phượng, [12b] gác Diện
Phú, đình Thưởng Hoa, thềm Ngọc Hoa, hồ Kim Liên, cầu Minh Nguyệt và đóng
thuyền to bản của ngự trù665
, thuyền to bản của cung nội.
Thái phó Lý Du Đô dâng sớ xin hưu
trí, thăng làm Thái sư, ban cho vàng bạc về quê.
Dựng miếu khổng Tử.
Năm ấy đói to, một thăng gạo giá 70
đồng tiền.
Đinh Sửu, [Đại Định] năm thứ 18
[1157] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 27). Xuống chiếu định luật lệnh.
Mậu Dần, [Đại Định] năm thứ 19
[1158] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 28). Mùa xuân, tháng 2, Nguyễn Quốc sang sứ
nước Tống về, dâng tâu rằng: "Thần sang nước Tống thấy ở giữa sân vua có
cái hòm bằng đồng để nhận các chương tấu của bốn phương, thần xin bắt chước mà
làm như thế để bề trên rõ được tình người dưới". Vua y theo, cho đặt cái
hòm ở giữa sân để ai có trình bày việc gì thì bỏ thư vào hòm ấy. Bấy giờ có
người ngầm bỏ thư nặc danh nói là Anh Vũ làm loạn, tìm xét [13a] không biết là
ai. Anh Vũ vu cho Quốc làm, đày Quốc đến trại đầu ở Thanh Hóa. Không bao lâu,
vua gọi Quốc về. Anh Vũ lại đưa cho Quốc rượu có thuốc độc, Quốc tự nghĩ không
khỏi bị hại, bèn uống thuốc độc chết666
.
Sai Thiếu bảo Phí Công Tín tuyển dân
đinh, định các hạng và lấy người sung việc thờ cúng ờ thái miếu và sơn lăng.
Mùa thu, tháng 8, Đỗ Anh Vũ chết.
Kỷ Mão, [Đại Định] năm thứ 20 [1159]
, (Tống Thiệu Hưng năm thứ 29). Mùa xuân, cột chùa Thiên Phù chảy máu.
Nước Ngưu Hồng dâng voi hoa.
Mùa hạ, tháng 5, Ngưu Hồng và Ai Lao
làm phản. Sai Tô Hiến Thành đi đánh, bắt được người và trâu ngựa voi, vàng bạc
châu báu rất nhiều. Phong Hiến Thành làm Thái uý.
Canh Thìn, [Đại Định] năm thứ 21
[1160] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 30). Mùa xuân, tháng giêng làm đền Hai Bà và
đền Xuy Vưu667
ở phường Bố Cái.
Tháng 2, sai Tô Hiến Thành và Phi
Công Tín tuyển dân đinh, người mạnh khỏe thì sung [13b] vào quân ngũ. Chọn các
tướng hiệu, người nào thông thạo binh pháp, am tường võ nghệ thì chia cho cai
quản.
Tân tỵ, [Đại Định] năm thứ 22 [1161]
, (Tống Thiệu Hưng năm thứ 31). Mùa xuân, sai đem voi thuần sang biếu nhà Tống.
Vua Tống bảo các đại thần rằng:
"Trẫm không chuộng thú vật lạ,
làm khó nhọc người xa, nên sai suý thần bảo họ từ nay về sau bất tất phải mang
vật ấy tiến cống".
Dựng chùa Pháp Vân668
ở châu Cổ Pháp.
Mùa đông, tháng 10, Thái phó Hoàng
nghĩa Hiền chết, nghỉ thiết triều 5 ngày, vì Nghĩa Hiền có công giúp vua lên
ngôi, nên đặt ân làm hơn lễ thường.
Tháng 11, vua sai Tô Hiến thành làm
Đô tướng, Đỗ An Di làm phó, đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển tây nam, để
giữ yên miền biên giới. Vua thân đi tiễn đến cửa biển Thần Đầu ở Đại An (nay là
cửa biển Thần Phù) mới trở về.
Thái uý Lưu Khanh Đàm chết.
Nhâm Ngọ, [Đại Định] năm thứ 23
[1162] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 32). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu rằng
kẻ nào tự hoạn thì xử [14a] 80 trượng, thích 23 chữ vào cánh tay bên trái.
Động đất.
Tháng 2, khảo khóa các quan văn võ,
người nào đủ niên hạn khảo mà không có lỗi thì thăng trật, định làm phép
thường, cứ 9 năm là một kỳ khảo.
Quý Mùi, [Chính Long Bảo Ứng] năm
thứ 1 [1163] , (Tống Hiếu Tông Vĩ, Long Hưng năm thứ 1). Cấm người trong nước
không được dùng trân châu giả.
Mùa thu, tháng 8, lính chốn rủ nhau
tụ họp thành bọn cướp bóc cư dân trên đường bộ. Vua sai Phu Công Tín đem 10 vạn
quân đi đánh dẹp yên được.
Giáp Thân, [Chính Long Bảo Ứng năm
thứ 2] [1164] , (Tống Hưng Long năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, nước Chiêm Thành
sang cống.
Mùa thu, tháng 7, nước to quá mức
thường, lúa bị ngập hết.
Nhà Tống phong vua làm An Nam Quốc
Vương, đổi Giao Chỉ làm An Nam Quốc Vương đổi Giao Chỉ làm An Nam Quốc Vương.
Ất Dậu, 3 [1165], (Chính Long Bảo
Ứng năm thứ 3 [1165]) , (Tống Càn Đạo năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 6, đại hạn, dân
bị nạn dịch lớn, trâu bò gia súc chết nhiều, [14b] giá gạo cao vọt.
Mùa thu, tháng8, thi học sinh.
Bính Tuất, [Chính Long Bảo Ứng] năm
thứ 4 [1166] , (Tống Càn Đạo năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, sứ Chiêm Thành đi
đến miền Ô Lý, dùng quân phong thủy (ma thuật của thầy tăng) mà vượt biển, cướp
bóc nhân dân ven biển nước ta rồi về.
Dân có người dâng con rùa ở ức có
bốn chữ "Thiên tử vạn niên", cũng có người dâng quạ trắng.
Đinh Hợi, [Chính Long Bảo Ứng] năm
thứ 5 [1167] , (Tống Càn Đạo năm thứ 3). Mùa thu, tháng 7 , sai Thái uý Tô Hiến
Thành đi đánh Chiêm Thành.
Mùa đông, tháng 10, Chiêm Thành sai
sứ sang dâng trân châu và sản vật địa phương để xin hoà.
Xuống chiếu cho Tô Hiến Thành đem
quân về. Từ đấy nước Chiêm Thành giữ lễ phiên thần, dâng cống không thiếu.
Đóng thuyền Nhật Long.
Mậu Tý, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ
6 [1168] , (Tống Càn Đạo năm thứ 4). Mùa thu, tháng 8, sứ nhà Tống sang sứ Thát
Đạt (tức là sứ của nhà Nguyên), cũng sang669
. Đều thưởng hậu để dụ, ngầm lấy lễ tiếp đãi cả hai sứ, không cho họ gặp nhau.
[15a] Kỷ Sửu, [Chính Long Bảo Ứng]
năm thứ 7 [1169] , (Tống Càn Đạo năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 3, ngày rằm nguyệt
thực. Cá ở cửa biển chết. Sai tăng ni, đạo sĩ các chùa quán ở Kinh và các nơi
tụng kinh cầu đảo.
Thái sư trí sĩ là Lý Du Đô chết.
Mùa hạ, tháng 4, làm điện Thanh Hoà
để đặt thần vị của tiên đế và tiên hậu, theo thời cúng tế.
Sửa lại chùa Chân Giáo.
Canh Dần, [Chính Long Bảo Ứng] năm
thứ 8 [1170] , (Tống càn Đạo năm thứ 6). Vua tập bắn và cưỡi ngựa ở phía nam
thành Đại La, đặt tên là Xạ Đình, sai các quan võ hàng ngày luyện tập phép công
chiến phá trận.
Tân Mão, [Chính Long Bảo Ứng] năm
thứ 9 [1171] , (Tống Càn Đạo năm thứ 7). Mùa xuân, tháng 2, điện Vĩnh Nguyên vô
cớ tự rung động.
Làm miếu điện thờ Văn Tuyên Vương670
và đền thờ Hậu Thổ.
Vua đi tuần các hải đảo, xem các
hình thế núi sông, muốn biết dân tình đau khổ và đường đi xa gần thế nào.
[15b] Nhâm Thìn, [Chính Long Bảo
Ứng] năm thứ 10 [1172] , (Tống Càn Đạo năm thứ 8). mùa xuân, tháng 2, vua lại
đi tuần các hải đảo ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép
phong vật rồi về.
Quý Tỵ, [Chính Lonh Bảo Ứng] năm thứ
11 [1173] , (Tống càn Đạo năm thứ 9). Mùa xuân, làm lại cầu Thái Hoà.
Mùa hạ, tháng 5, ngày 25, Hoàng thái
tử Long Trát sinh.
Mùa thu, đóng thuyền Ngoạn thủy.
Giáp Ngọ, [Chính Long Bảo Ứng] năm
thứ 12 [1174] , (Từ tháng 2 về sau là niên hiệu Thiên Cảm Chí Bảo năm thứ 1;
Tống Thuần Hy năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng động đất.
Tháng 2, đổi niên hiệu là Thiên Cảm
Chí Bảo năm thứ 1671
.
Muà thu, tháng 9, Thái tử Long Xưởng
có tội, phế làm thứ dân và bắt giam. Trước đó, Long Xưởng thông dâm với cung
phi, vua không nỡ bắt tội chết, cho nên có mệnh này. Một hôm, vua gọi tể tướng
đến bảo rằng: "Thái tử là gốc lớn của nước, Long Xưởng đã làm điều trái
đạo, trẫm muốn Long Trát nối giữ nghiệp lớn, nhưng nó còn nhỏ tuổi, [16a] sợ
không đương nổi, nếu đợi lớn thì trẫm đã tuổi già suy yếu, biết làm thế
nào?". Bấy giờ có nội nhân ẵm Long Trát ra, thấy vua đội mũ, khóc đòi đội,
vua chưa kịp tháo mũ đưa cho thì càng khóc to hơn. Vua bèn tháo mũ đội cho,
Long Trát cả cười. Vua càng lấy làm lạ, ý lập Long Trát làm thái tử bèn quyết
định.
Mùa đông, tháng 11, động đất.
Tháng 12, sao Chổi mọc phương nam.
Ất Mùi, [Thiên Cảm Chí Bảo] năm thứ
2 [1175] , (Tống Thuần Hy năm thứ 2). ùa xân, tháng giêng, sách lập long Trát
làm Hoàng thái tử, ở đông cung. Phong Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái
phó bình chương quân quốc trọng sự, tước vương, giúp đỡ đông cung.
Mùa hạ, tháng tư, vua không khỏe, cố
gượng sai Tô Hiến Thành ẵm thái tử mà quyền nhiếp chính sự.
Mùa thu, tháng 7, ngày Ất Tỵ, vua
băng ở điện Thuỵ Quang. Trước đó, khi vua ốm nặng, hoàng hậu lại xin lập Long
Xưởng, vua nói: "Làm con [16b] bất hiếu còn trị dân sao được". Di
chiếu cho Tô Hiến Thành giúp rập thái tử, công việc quốc gia nhất nhất tuân
theo phép cũ. Bấy giờ thái hậu muốn làm việc phế lập, sợ Hiến Thành không nghe,
mới đem vàng bạc đút cho vợ là Nữ thị. Hiến Thành nói: "Ta là đại thần
nhận mệnh tiên đế dặn lại giúp rập vua bé, nay lấy của đút mà làm việc phế lập
thì còn mặt mũi nào trông thấy Tiên đế ở suối vàng?". Thái hậu lại gọi
Hiến Thành đến dỗ dành trăm cách. Hiến Thành trả lời: "Làm việc bất nghĩa
mà được giàu sang, kẻ trung thần nghĩa sĩ đâu có vui làm, huống chi lời của
Tiên đế còn ở bên tai, điện hạ lại không nghe việc của Y Doãn, Hoắc Quang hay
sao? Thần không dám vâng chiếu". Việc bèn thôi.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Anh Tông
nối ngôi tuổi còn thơ ấu, việc của Đỗ Anh Vũ làm gì mà biết được, đến khi tuổi
ngoại hai mươi, sai bọn Hiến Thành đem quân đi tuần nơi biên giới, [17a] lại
thân đi xem khắp tình thế núi sông, muốn biết sự đau khổ của dân gian và đường
đi xa672
gần, về mặt giữ dân giữ nước, quy mô đã thấy rõ. Lại đặt Xạ Đình, sai các quan
võ hàng ngày luyện tập phép đánh trận, về mặt sửa binh giãng võ, mưu lược đã
thấy rõ. Thái tử Long Xưởng có tội thì phế đi mà lập Long Trát làm thái tử, cho
ở đông cung, để lòng người có chỗ gắn bó. đến khi ốm nặng, hoàng hậu xin lập
lại Long Xưởng, thì lấy lễ nghĩa mà bác bẻ, không mê hoặc lời nói của đàn bà,
lại cố gượng gọi Hiến Thành nhận di chiếu giúp thái tử quyền nhiếp chính sự,
phó thác được người giỏi để phòng lo sau, rốt cuộc mưu phế lập của thái hậu
không thể làm được, trên yên dưới thuận, không phải là sức của Anh Tông sao?
Còn như Cao Tông không phải là người hiền thì ngay lúc bấy giờ đã biết trước
thế nào được? Vua chỉ thuận theo lẽ phải mà làm [17b] thôi.
Thái tử Long Trát lên ngôi trước
linh cữu, bấy giờ mới lên 3 tuổi, tôn mẹ là Đỗ thị làm Chiêu Thiên Chí lý hoàng
thái hậu.
Cho Đỗ An Di673
(em trai hoàng thái hậu) làm thái sư đồng bình chương sự, Tô Hiến Thành làm
thái uý671
.
Họp quốc nhân thề ở Long Trì.
Cao Tông Hoàng Đế
Tên huý là Long Trát con thứ sáu của
Anh Tông, mẹ là hoàng hậu họ Đỗ675
, sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tỵ, Chính Long Bảo Ứng thứ 11 [1173]. Năm Thiên
Cảm Chí Bảo thứ 2 [1175] sách lập làm hoàng thái tử. Anh Tông băng, bèn lên
ngôi báu, ở ngôi 35 năm [1176- 1210], băng ở cung Thánh Ngọ.
Vua chơi bời vô độ, chính sự hình
pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý
từ đấy suy.
Bính Thân, [Trinh Phù] năm thứ 1
[1176] , (Tống Thuần Hy năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, đổi niên hiệu, đại
xá thiên hạ.
[18a]Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Cao
Tông lên ngôi từ tháng 7 năm ngoái, đến đây mới đổi niên hiệu, là vì có Tô Hiến
Thành phụ chính, biết trở lại lễ cổ.
Đinh Dậu, [Trinh Phù] năm thứ 2
[1177] , (Tống Thuần Hy năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 3, Chiêm Thành đến cướp
châu Nghệ An.
Mậu Tuất, [Trinh Phù] năm thứ 3
[1178] , (Tống Thuần Hy năm thứ 5). Hết quốc tang. Chiêu Linh hoàng thái hậu
ban yến cho các quan ở biệt điện, bảo rằng: "Hiện nay Tiên đế đã chầu
trời, vua nối còn thơ ấu, nước Chiêm Thành thất lễ, người phương Bắc cướp biên.
Các khanh chịu ơn nặng của triều đình, nên lo việc của nước nhà. Kế sách ngày
nay không gì bằng lập lại thái tử, để vận nước được lâu, lòng dân được
yên". Các quan đều chắp tay cuối đầu nói: "Thái phó nhận mệnh lệnh rõ
ràng của thiên tử. Bệ hạ cũng đã nhiều lần dỗ bảo rồi, bọn thần không dám trái
lệnh". Đều lạy tạ rồi lui ra. Hiến Thành quản Lĩnh cấm binh, nghiêm hiệu
lệnh, thưởng phạt công bằng, [18b] người trong nước đều quy phục.
Mùa hạ, tháng 5, lấy ngày sinh của
vua làm tiết Càn hưng.
Kỷ Hợi, [Trinh Phù] năm thứ 4 [1179],
(Tống Thuần Hy năm thứ 6). Mùa xuân, tháng giêng, tuyển các đinh nam, người nào
mạnh khỏe sung vào quân ngũ.
Tháng 2, động đất.
Tháng 3, khảo xét công trạng các
quan, người giữ chức siêng năng tài cán nhưng không thông chữ nghĩa làm một
loại, người có chữ nghĩa tài cán làm một loại, người tuổi cao hạnh thuần, biết
rõ việc xưa nay làm một loại, cứ theo thứ tự mà trao cho chức vụ trị dân coi
quân, khiến cho quan chức không lạm nhũng.
Mùa hạ, tháng 6 (không rõ ngày nào),
hai mặt trời cùng mọc.
Thái uý Tô Hiến Thành chết. Vua bớt
ăn ba ngày, nghĩ thiết triều 6 ngày. Trước đây khi Tô Hiến Thành nằm bệnh, Tham
trì chính sự Vũ Tán Đường ngày đêm hầu bên cạnh, Gián nghị đại phu Trần Trung
Tá vì bận việc không lúc nào rỗi để tới thăm hỏi. Đến khi bệnh nặng, thái hậu
thân đến thăm, hỏi rằng: "Nếu có mệnh hệ nào thì ai là người có thể thay
ông?". Hiến Thành trả lời: "Trung Tá [19a] có thể thay được".
Thái hậu nói: "Tán Đường hàng ngày hầu thuốc thang, sao không thấy ông
nhắc đến?". Hiến Thành trả lời: "Vì bệ hạ hỏi người nào có thể thay
thần nên thần nói đến Trung Tá, còn như hỏi người hầu dưỡng thì phi Tán Đường
còn ai nữa?". Thái hậu khen là trung, nhưng cũng không dùng lời ấy.
Lấy Đỗ An Di làm phụ chính.
Sử thần Ngô Sỉ Liên nói: Tô Hiến
Thành nhân việc ký thác con côi, hết lòng trung thành, khéo xử trí khi biến cố,
tuy bị gió lay sóng đập mà vẫn đứng vững như cột đá giữa dòng, khiến trên yêu
dưới thuận, không thẹn với phong độ của đại thần đời xưa. Huống chi đến lúc sắp
chết còn vì nước tiến cử người hiền, không vì ơn riêng, thái hậu không dùng lời
nói của Hiến Thành là việc không may cho nhà Lý vậy.
Xuống chiếu cấm không được đem mắm
muối và đồ sắt lên bán đổi ở đầu nguồn.
Canh Tý, [Trinh Phù] năm thứ 5
[1180] , (Tống Thuần Hy năm thứ 7). Mùa xuân, định lệ các vương hầu vào chầu.
Mùa thu, tháng 8, nước to.
[19b] Động đất ở hai điện Vĩnh
Nguyên, Hội Tiên.
Tân Sửu, [Trinh Phù] năm thứ 6
[1181] , (Tống Thuần Hy năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, thái tử củ là Long
Xưởng cầm đầu bọn gia thuộc nô lệ trộm cướp bừa bãi, muốn mưu làm loạn.
Mùa hạ, tháng 4, sao Huỳnh Hoặc676
đi vào chòm Nam Đẩu. Đói to, dân chết gần một nửa.
Nhâm Dần, [Trinh Phù] năm thứ 7 [1182]
, (Tống Thuần Hy năm thứ 9). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu cầu người hiền
lương.
Đắp đàn phong tướng, lấy Ngô Lý Tín
làm Thượng tướng quân, đem quân thủy bộ đi tuần bắt trộm cướp.
Lấy Lý Kinh Tu làm Đế sư677
, trong thì hầu việc giảng sách, ngoài thì dạy dân trung hiếu, từ đấy Chiêu
Linh thái hậu không dám manh tâm mưu khác nữa.
Cấm người trong nước không được mặc
áo sắc vàng.
Nước Xiêm La sang cống.
[20a] Quý Mão, [Trinh Phù] năm thứ 8
[1183] , (Tống Thuần Hy năm thứ 10).Mùa xuân, tháng giêng, cho Ngô Lý Tín làm
Đốc tướng đi đánh Ai Lao.
Mùa đông, tháng 11, ngày mồng 1 Nhâm
Ngọ, nhật thực.
Giáp Thìn, [Trinh Phù] năm thứ 9
[1184] , (Tống Thuần Hy năm thứ 11). Mùa xuân, tháng 3, nước Chiêm Thành sang
cống.
Người buôn các nước Xiêm La và Tam
Phật Tề678
vào trấn Vân Đồn dâng vật báu để xin buôn bán.
Mùa đông, tháng 10, các sách Tư Mông
v. v... làm phản, đánh lẫn nhau679
.
Ất Tỵ, [Trinh Phù] năm thứ 10 [1185]
, (Tống Thuần Hy năm thứ 12). Mùa xuân, tháng giêng, thi sĩ nhân trong nước,
người nào từ 15 tuổi mà thông thi thư thì được vào hầu học ở ngự điện. Lấy đỗ
bọn Bùi Quốc Khái, Đặng Nghiêm 30 người, còn thì đều ở lại học.
Mùa thu, tháng 7, sai Kiến Khang
Vương Long Ích đem quân đánh người Man ở sách Viêm, dẹp được.
[20b] Bính Ngọ, [Trinh Phù] năm thứ
11 [1186] , (Từ tháng 7 về sau là niên hiệu Thiên Tư Gia Thuỵ năm thứ 1, Tống
Thuần Hy năm thứ 13). Mùa xuân, tháng giêng, nhà Tống phong vua làm An Nam Quốc
Vương, chế thư đại khái nói: "Ngay bắt đầu đã phong cho tước ấp ở một nước
yên vui, được theo lệ cha truyền con nối ban sắc mệnh cho được thực thụ tước
vượng, cần gì phải đợi thăng dần theo thứ tự"680
. Đó là lễ đặc biệt.
Tháng 3, sách phong Đàm thị làm An
Toàn nguyên phi (Phi là con gái của tướng quân [Đàm] Thì Phụng).
Mùa thu, tháng 7, bắt được voi
trắng, đặt cho tên là Thiên Tư. Xuống chiếu đổi niên hiệu là Thiên Tư Gia Thuỵ
năm thứ 1.
Sai Lê Hòe Khanh sang nhà Tống đáp
lễ.
Đinh Mùi, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm
thứ 2 [1187] , (Tống Thuần Hy năm thứ 14). Mùa hạ, tháng 4, sét đánh nhà Thái
Miếu.
Có nhà sư Tây Vực681
đến. Vua xuống chiếu hỏi sư ấy có tài năng gì, trả lời là có tài phục được hổ.
Bảo làm thử, không hiệu nghiệm.
Mậu Thân, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm
thứ 3 [1188] , (Tống Thuần Hy năm thứ 15). Mùa hạ, tháng 5, đại hạn.Vua thân
ngự đến chùa Pháp Vân ở Duềnh Bà682
[21a] để đảo vũ,nhân rước tượng phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên. (Buổi đầu bản
triều [Lê] vẫn còn theo tục cũ này).
Tháng 6, động đất, gió bão.
Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1 Giáp
Tý, nhật thực.
Thái sư Đỗ An Di chết, lấy Thái phó
Ngô Lý Tín làm Phụ chính.
Kỷ Dậu, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ
4 [1189] , (Tống Thuần Hy năm thứ 16). Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 1 Tân Dậu,
nhật thực, mặt trời mặt trăng sắc đỏ như máu.
Động đất,
Tháng 3, vua ngự đi khắp núi sông,
phàm xe vua đến đâu mà có thần linh đều cho phong hiệu và lập miếu để thờ.
Canh Tuất, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm
thứ 5 [1190] , (Tống Thiệu Hy năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, hoàng thái hậu
họ Đỗ băng.
Mùa thu, tháng 7, Thái phó ngô Lý
Tín chết, lấy Đàm Dĩ Mông làm Thái phó.
Mùa đông, tháng 10, vua lễ yết Sơn
Lăng, rước tượng mới tô của Hoàng thái hậu thờ phụ vào Thái Miếu.
Đóng thuyền Ngoạn Dao.
[21b] Tân Hợi, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm
thứ 6 [1191] , (Tống Thiệu Hy năm thứ 2). Mùa xuân, nước Chân Lạp sang cống.
Mùa đông, tháng 12, sao Huỳnh Hoặc
phạm vào sao Thái Bạch683
.
Nhâm Tý, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ
7 [1192] , (Tống Thiệu Hy năm thứ 3). Mùa hạ, tháng 6, động đất.
Mùa thu, tháng 7, sét đánh vào điện
Vĩnh Ninh hai chỗ.
Người giáp Cổ Hoằng684
ở Thanh Hóa làm phản, sai tướng đi đánh, dẹp được. Trước đó có người giáp ấy
thấy vệt chân trâu [trèo lên] cây muỗm, nhìn lên thấy con trâu bạc, hồi lâu, nó
lại theo ngả khác đi xuống. Có người lính ở giáp ấy là Lê Văn đoán rằng: 'Trâu
trắng là vật ở dưới, nay lại ở trên cây, thế là điềm kẻ dưới lên ở trên".
Nhân đó bèn rủ nhau làm phản. Đến đây đánh dẹp yên được.
Đào sông Tô Lịch.
Quý Sửu, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ
8 [1193] , (Tống Thiệu Hy năm thứ 4). Khảo khóa các quan văn võ trong ngoài, để
rõ nên giáng hay thăng. [22a]thi các sĩ nhân trong nước để [chọn người] vào hầu
vua học.
Giáp Dần, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm
thứ 9 [1194] , (Tống Thiệu Hy năm thứ 5). Mùa thu, tháng 7, hoàng thái tử Sảm
sinh. Phong Đàm nguyên phi làm An Toàn hoàng hậu. Đại xá thiên hạ. ban cho
người già từ 70 tuổi trở lên mỗi người một tấm lụa. Mở tiệc rượu hai ngày ở
miếu.
Mùa đông, tháng 10, mưa đá, có tảng
to bằng đầu ngựa.
Đóng thuyền Thiên Long.
Ất Mão, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ
10 [1195] , (Tống Ninh Tông Khuếch, Khánh Nguyên năm thứ 1). Nùa xuân, tháng 2,
động đất.
sét đánh gác Ly Minh.
Đ ạ
i V i ệ
t S ử
K ý B ả
n K ỷ
T o à n T h ư
Quyển V
[1a]
K ỷ N h à T r ầ n
Thái Tông Hoàng Đế
Họ Trần, tên húy là Cảnh, trước tên húy là Bồ, làm Chi hậu
chính triều Lý, được Chiêu Hoàng nhường ngôi, ở ngôi 33 năm [1226-1258], nhường
ngôi 19 năm, thọ 60 tuổi [1218- 1277] băng ở cung Vạn Thọ, táng ở Chiêu Lăng.
Vua khoan nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền
dòng, lập kỷ dựng cương, chế độ nhà Trần thực to lớn vậy. Song quy hoạch việc
nước đều do Trần Thủ Độ làm và chốn buồng the cũng có nhiều điều hổ thẹn.
Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có
người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc719
, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra
Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16
tháng 6 năm Mậu Dần, Kiến Gia thứ 8 triều Lý720
. Vua mũi cao, mặt rộng, giống như [1b] Hán Cao Tổ. Khi mới 8 tuổi, làm Chi hậu
chính chi ứng cục triều Lý. Vì có chú họ là Trần Thủ Độ làm Điện Tiền Chỉ Huy
Sứ, nên vua được vào hầu trong cung. Chiêu Hoàng thấy vua thì ưa.
Năm Ất Dậu [1225], mùa đông, tháng 12, ngày 12 Mậu Dần, nhận thiền vị của
Chiêu Hoàng, lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung.
Bính Tuất, Kiến Trung năm thứ 2 [ 1266], (Tống Bảo Khánh năm thứ 2) mùa xuân, tháng Giêng, sách phong Chiêu
Hoàng làm hoàng hậu, đổi gọi là Chiêu Thánh.
Phong Trần Thủ Độ làm Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sư.Phế
thượng hoàng nhà Lý ra ở chùa Chân Giáo, gọi là Huệ Quang đại sư.
Tháng 2, định luật lệnh, điều lệ.
Sai Trần Thủ Độ đem quân đi đánh Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng và các man.
Lúc ấy, nhân thế suy yếu của triều Lý, giặc cướp tụ tập nhiều. Người Man ở
vùng núi Tản Viên, vùng núi Quảng Oai xâm phạm đánh lẫn nhau. [2a] Nguyễn Nộn
chiếm cứ Bắc Giang721
, Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu 722
. Thủ Độ điều động các quân đi đánh dẹp.
Bấy giờ Nộn và Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, mới phong
cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ,
Đông Ngạn723
cũng hẹn phong làm vương cho Thượng định ngày đến thề, nhưng
Thượng không đến.
Mùa hạ, tháng 5, phong em là Nhật Hiệu làm khâm Thiên Đại Vương (khi ấy mới
2 tuổi).
Trao phẩm cấp cho các quan văn võ theo hẫu theo thứ bậc khác nhau.
Tháng 6, lấy ngày sinh làm tiết Càn Ninh.
Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 10, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông ở chùa Chân
Giáo.
Trước đó, Thượng hoàng nhà Lý có lần ra chơi chợ Đông, dân chúng tranh nhau
chạy đến xem, có người thương khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh biến
loạn, cho dời đến ở chùa Chân Giáo; bề ngoài giả vờ là để phụng sự, mhưng bên
trong thực ra là để dễ bề giữ chặt.
Có lẫn Thủ Độ qua trước cửa chùa, thấ Huệ Tông ngồi xổm nhổ cỏ, Thủ Độ nói:
"Nhổ cỏ thì phải nhổ cả [2b] rễ sâu".
Huệ Tông đứng dậy, phủi tay nói: "Điều ngươi nói, ta hiểu rồi".
Đến nay, sai người bày biện hương hoa đến bảo [Huệ Tông]: "Thượng phụ
sai thẫn đến mời"..
Thượng hoàng nhà Lý nói: "Ta tụng kinh xong sẽ tự tử".
Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng: "Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi,
ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị
như thế".
Bèn thắt cổ tự tử ở vườn sau chùa.
Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam cửa (người
bấy giờ gọi là "cửa khoét"), đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu,
chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông. Giáng hoàng hậu
của Huệ Tông làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ, cho châu lạng làm ấp
thang mộc.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Tam Đại xưa lấy được thiên hạ là vì
lòng nhân. Cho nên [3a] những vua có đức lớn mà không làm nhiễu việc ác quá lắm
thì trời chưa bao giờ vội dứt bỏ họ. Nhà Hạ nếu không có Kiệt, nhà Thương có
Trụ, thì việc truyền ngôi hẵn cũng chưa hết. Xem như cuối đời nhà Chu, các nước
chư hẫu cưỡng bức, tiếm lấn mà ngôi chính thống vẫn truyền nối mãi mãi không
dứt. Đó là do nhân sâu ơn dày của tổ tông để lại mãi đến đời sau vậy.
Họ Lý được nước không kém gì Tam Đại, truyền nối nhiều đời,
đến Huệ Tông không có con trai, lại mắc bệnh tật, chắc là ơn trạch của tiên
vương đến đây là hết rồi, cho nên họ Trẫn mới có thể lấy được nước. Đã lấy nước
của người ta, lại giết vua của người ta thì thực bất nhân quá lắm.
Sau này, Phế Đế phải thắt cổ chết, Nguyên Quân bị giết724
, mình làm thế nào thì phải chịu thế ấy, đạo trời là như vậy đó.
Dù không có lời nguyền của Huệ Tông, cũng tin là phải thế. Thủ Độ coi việc đó
là hết lòng trung, lo việc nước, nhưng có biết đâu thiên hạ đời sau chỉ mặt
[3b] gọi là giặc giết vua, huống chi lại còn làm thói cho lợn725
.
Đưa các cung nhân và con gái họ hàng nhà Lý Huệ Tông gả cho các tù trưởng
người Man.
Mùa đông, tháng 10, tôn cha là Thừa làm Thượng hoàng, ở cung Phụ Thiên,
phường Hạc Kiều phía bên tả. Hễ khi nước có việc lớn, thì ở trong đó xem xét,
quyết định. Tôn mẹ là Lê thị làm Quốc Thánh hoàng thái hậu ( có sách chép là
Bảo Thánh Quốc mẫu).
Xuống chiếu cho dân gian dùng tiễn "tỉnh bách"726
mỗi tiễn là 69 đỗng. Tiền nộp cho nhà nước ( tiễn " thượng
cung") thì mỗi tiễn là 70 đồng.
Tuyển thục nữ trong nước sung làm cung nhân.
Sai Phụ quốc thái phó Phùng Tá Chu quyền Tri phủ Nghệ An, cho phép ban tước
từ tá chức, xá nhân trở xuống cho người khác, rồi sau về triều tâu lê .
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Ban tước cho người là quyễn của
thiên tử, không phải là quyền của kẻ làm tôi [4a]. Phùng Tá Chu là bề tôi cũ
triều Lý, không có việc cần phải chuyên quyễn như ra ngoài cương giới, làm lợi
cho quốc gia, vỗ yên trăm họ, mà lại cho phép chuyên quyền thì cả người cho
phép đều sai cả.
Bễ tôi nhà Trẫn mà biết đạo ấy, phải chăng chỉ có Quốc công
Hưng Đạo Đại Vương. Thánh Tông vì thấy ông có công lao to lớn, cho phép được tự
tiện phong tước cho người, nhưng chưa bao giờ ông phong cho một ai cả. Giữa lúc
giặc Hỗ vào cướp, cầm quân chuyên chế, lấy thóc của người giàu để cấp lương
quân, nhưng cũng chỉ cho người đó làm giả Lang tướng mà không dám cho làm Lang
tướng thực.
Đinh Hợi [Kiến Trung] năm thứ 3 [1227] ,
(Tống Bảo Khánh năm thứ 3). Thi tam giáo tử (nghĩa là những nối nghiệp Nho
giáo, Đạo giáo, Thích giáo).
Xuống chiếu rằng tất cả các đơn từ văn khế đều dùng phép in ngón tay vào nửa
tờ giấy.
Tuyên bố các điều khoản lễ minh thệ, theo như lệ cũ của triều Lý và bắt đẫu
định việc thực hiện. Nghi thức lễ đó như sau:
Hàng năm vào ngày mồng 4 tháng 4, tể tướng và trăm quan đến trực ngoài cửa
thành từ lúc gà gáy, [4b] tờ mờ sáng thì tiến vào triều. Vua ngự ở cửa Hữu Lang
điện Đại Minh trăm quan mặc nhung phục lạy hai lạy rồi lui ra. Ai nấy đều thành
đội ngũ, nghi trượng theo hầu ra cửa Tây thành, đến đền thờ thần núi Đồng Cổ727
, họp nhau lại uống máu ăn thề. Quan Trung thư kiểm chính tuyên
đọc lời thề rằng:
"Làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh
giết chết".
Đọc xong, tể tướng sai đóng cửa điểm danh, người vắng mặt phải phạt 5 quan
tiền. Ngày hôm ấy, trai gái bốn phương đứng chật ních bên đườngđể xem như ngày
hội lớn.
Mậu Tý, [Kiến Trung] năm thứ 4 [1228]. (Tống
Thiệu Định năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, phong Khâm Thiên Vương Nhật Hiệu
làm Quận vương.
Tháng 2, thi lại viên bằng thể thức công văn (bạ đầu cách).
Mùa thu, tháng 8, phong anh là Liễu làm thái úy.
Xác định số đinh tỉnh Thanh Hóa.
Lệ cũ, hằng năm vào đầu mùa xuân, xã quan (nay là xã trưởng) [5a] khai báo
nhân khẩu gọi là đơn sổ, rồi căn cứ vào sổ, kê rõ các loại tông thất, văn quan
văn giai, võ quan võ giai, quan theo hầu, quân nhân, tạp lưu, hoàng nam, già
yếu, tàn tật, phụ tịch, xiêu tán v.v... Người có quan tước, con cháu được tập
ấm mới được ra làm quan, người giàu có khoẻ mạnh mà không có quan tước thì sung
quân đội, đời đời làm lính.
Tháng 9, thi lại viên bằng thể thức công văn gọi là bạ đầu. Người trúng tuyển
được sung làm thuộc lại ở các sảnh viện. (Việc này đã chép vào tháng 2 rồi).
Mùa đông, tháng 10, nước Chiêm Thành sang cống.
Tháng 12, Nguyễn Nộn đánh giết Đoàn Thượng.
Nộn đã phá được Thượng, nhân gộp cả quân của Thượng, cướp bắt con trai, con
gái, tài sản, trâu ngựa đất Hồng Châu. Con của Thượng là Văn đem gia thuộc đến
hàng.
Thanh thế của Thượng rất lừng lẫy. Thủ Độ lo lắm, chia quân chống giữ và sai
sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương, đưa công
chúa Ngoạn Thiềm gả cho hắn để ngầm [5b] dò la tin tức. Nộn cũng chia nha tướng
riêng cho công chúa ở. Vì thế công chúa không thể báo được tin gì.
Kỷ Sửu,[ Kiến Trung] năm thứ 5[1229] ,
(Tống Thiệu Định năm thứ 2, Nguyên Thái Tông Oa Khoát Đài năm thứ1. Mùa xuân,
tháng 3, nhật thực.
Nguyễn Nộn ốm chết.
Sau khi kiêm tính quân của Thương, Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, chè chén
chơi bời bừa bãi. Nhưng Nộn cũng biết là thế không thể cùng đối lập với
nhàTrần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết.
Đến khi ốm nặng, vua sai nội nhân tớihỏi thăm, Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa
để tỏ ra còn khoẻ mạnh, không bao lâu thì chết. Người dưới quyền là Phan Ma Lôi
Ngầm phóng ngựa chạy trốn, không biết là đi đâu.
Ma Lôi là người Chiêm Thành, buôn bán ở Ai Lao, được Nộn nhận làm nô, có tài
chủ động đánh thắng, dùng binh như thần. Sau khi Nộn chết, thiên hạ lại quy về
một mối.
Sai sứ sang thăm nước Tống. Nha Tống phong vua làm An Nam Quốc Vương.
[6a] Canh Dần, [Kiến Trung] năm thứ 5 [1230 ], (Tống Thiệu Đinh năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 3, khảo xét các luật
lệ của triều trước, soạn thành Quốc triều thống chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển.
Định bị đồ có mức độ khác nhau:
Loại bị đồ làm Cảo điền hoành thì thích vào mặt 6 chữ, cho ở Cảo xẵ (nay là
xã Nhật Cảo), cày ruộng côn, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm phải nộp 300 thăng thóc.
Loại bị đồ làm Lao thành binh thì thích vào cổ 4 chữ, bắt dọn cỏ ở Phượng
Thành, thành Thăng Long, lệ vào quân Tứ sương729
.
Định các phường về hai bên tả hữu của kinh thành, bắt chước đời trước chia
làm 61 phường.
Đặt ty Bình bạc730
.
Lại mở rộng phía ngoài thành Đại La, bốn cửa thành giao cho quân Tứ sương
thay phiên nhau canh giữ.
Sửa đổi quan chức các phủ lộ. Đặt 2 viên An phủ sứ và An phủ phó sứ.
Trong thành dựng cung, điện, lầu, các và nhà lang vũ ở hai bên phía đông và
tây. Bên tả là cung Thánh Từ ( nơi thượng hoàng ở), bên hữu là cung Quan Triều
(nơi vua ở).
Chép công việc của quốc triều làm bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển.
[6b] Mùa xuân, tháng 7, xuống chiếu rằng phàm người coi tục đi đòi người
kiện tụng, thì cho lấy tiềncước lục tùy theo quãng đường gần hay xa.
Tháng 9, Quốc Thánh hoàng thái hậu băng, truy tôn làm Thuận Từ hoàng thái
hậu.
Tân Mão, [ Kiến Trung] năm thứ 7 [1231] , (Tống Thiệu Định năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, sai NộI minh tự
Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và
kênh Hào731
từ phủ Thanh Hóa đến địa giớI phía nam Diễn Châu. Việc xong,
thăng Bang Cốc làm Phụ Quốc thượng hầu.
Mùa thu, tháng 8, vua ngự đến hành cung Tức Mặc, dâng lễ hưởng ở tiên miếu,
thết yến và ban lụa cho bô lão trong hương theo thứ bậc khác nhau.
Thượng hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chổ nào có đình trạm đều phải
đắp tượng phật để thờ.
Trước đây, tục nước ta vì nóng bức, nên làm nhiều đình cho người đi đường
nghỉ chân, thường quét vôi trắng, gọi là đình trạm. Thượng hoàng khi còn hàn vi
từng nghỉ ở đó, có một nhà sư bảo rằng : "Người trẻ tuổi này ngày sau sẽ
đại quý". Nói xong [7a] thì không thấy nhà sư đâu nữa. Đến nay vua lấy
được thiên hạ mới có lệnh này.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói : Việc này của Trần Thái Tông cũng
giống như việc Vạn Hạnh với Lý Thái Tổ. Đó là mầm đầu tiên của sự sùng Phật ở
đời Lý, đời Trần. Kể ra, người thức giả mọi việc đều biết trước, có gì lạ đâu.
Nhâm Thìn, [Kiến Trung] năm thứ 8
[1232], (Từ tháng 7 về sau là Thiên Ứng Chính Bình năm
thứ 1, Tống Thiệu Định năm thứ 5).
Mùa xuân, tháng giêng, bắt đầu định triều nghi.
Phong con của thượng hoàng là Bà Liệt làm Hoài Đức Vương.
Xưa Thượng hoàng còn hàn vi, lấy người con gái thôn Bà Liệt (thuộc huyện Tây
Chân)732
. Người đó có mang thì bị ( Thượng hoàng) ruồng bỏ. Đến khi Bà
Liệt ra đời, Thượng hoàng không nhận con. Lớn lên Bà Liệt khôi ngô, giỏi võ
nghệ, xin sung vào đội đánh vật. Một hôm, bà Liệt đánh cầu với người trong đội,
người kia vật ngã Bà Liệt, bóp cổ Liệt đến suýt tắt thở. Thượng hoàng thét lên
: " Con ta đấy". Người ấy [7b] sợ hãi lạy tạ.
Ngay hôm đó, Thượng hoàng nhận Bà Liệt làm con, cho nên có lệnh này.
Tháng 2, thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm; đệ nhị
giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu; đệ tam giáp là Trần Chu Phổ.
Mùa hạ, tháng 6, ban bố các chữ quốc húy và miếu húy.
Vì Nguyên tổ tên húy là Lý, mới đổi triều Lý làm triều Nguyễn, vả lại cũng
để dứt bỏ lòng mong nhớ của dân chúng đối với nhà Lý.
Tháng 8, gió lớn, dân gian phát dịch lệ, nhiều người chết.
Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý.
Khi ấy, Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lý đều
bùi ngùi thất vọng.
Mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm733
, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người
uống rượu say, giật máy chôn sống hết.
(Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa [Phan] Phu
Tiên không ghi lại, việc này chưa chắc đã có thực, hãy tạm [8a] chép vào đây).
Quý Tỵ, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 2 [1233], (Tống Thiệu Định năm thứ 6), sai Phùng Tá Chu duyệt định các ấp lớn
phủ Nghệ An.
Hoàng Thái tử Trịnh mất.
(Xét phép chép sử: Hoàng thái tử sinh, tất phải chép rõ ngày, tháng, năm
sinh; khi mất cũng thế. Đây chỉ chép khi mất, có lẽ là vừa mới sinh đã chết
ngay, nên không chép ngày tháng sinh).
Nước to.
Giáp Ngọ, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 3 [1234], (Tống Đoan Bình năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 18, thượng
hoàng băng ở cung Phụ Thiên, thọ 51 tuổi.
Mùa thu, tháng 8, ngày 28, táng [Thượng hoàng] ở Thọ Lăng phủ Long Hưng.
(Lăng ở hương Tinh Cương734
. Ba lăng Chiêu, Dụ Đức735
đều ở hương ấy). Miếu hiệu là Huy Tông, tên thụy là Khai Vận Lập Cực Hoằng Nhân
Ứng Đạo Thuần Chân Chí Đức Thần Vũ Thánh Văn Thùy Dụ Chí Hiếu Hoàng Đế.
Lấy thái úy [ Trần] Liễu làm phụ chính, sách phong làm Hiển Hoàng.
[8b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thái Tông đối với anh là Liễu,
có ý muốn tôn kính khác thường, cho nên làm việc việc quá đáng này. Sách phong
là Hiển Hoàng, thế là danh không chính rồi. Đã danh không chính thì nói không
thuận, nói không thuận thì việc không thành. Liễu manh tâm làm loạn, vị tất đã
không phải do đấy.
Phong Trần Thủ Độ làm Thống quốc thái sư, tri Thanh Hóa phủ
sự.
Gia phong thái phó triều Lý là Phùng Tá Chu làm Hưng Nhân Vương; Quan nội
hầu Phạm Kính Ân làm Thái phó, tước Bảo Trung quan nội hầu.
Ất Mùi , [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 4 [1236], (Tống Đoan Bình năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, sét đánh 30 chỗ
trong thành Đại Xá.
[9a] Bính Thân, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 5 [1236], (Tống Đoan Bình năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, định lệ cấp lương
bổng cho các quan văn võ trong ngoài và các quan ở cung điện, năng miếu, chia
tiền thuế, ban cấp theo thứ bậc.
Tháng 2, định quan hàm cho các đại thần.
Phàm người tôn thất vào chính phủ, hoặc là Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Thái
uý, hoặc là Tư đồ, Tả Hữu tướng quốc, đều kiêm hàm Kiểm hiệu đặc tiến nghi đồng
tam ty bình chương sự736
.
Mùa hạ, tháng 6, nước to, vỡ tràn vào cung Lệ Thiên.
Bấy giờ Hiển Hoàng [Trần] Liễu làm tri Thánh Từ cung, nhân nước to, đi
thuyền vào chầu, thấy người phi cũ của triều Lý liền cưỡng dâm ở cung Lệ Thiên.
Đình thân hặc tâu, vì thế mới đổi tên cung Thưởng Xuân, giáng Hiển làm Hoài
Vương.
Mùa thu, tháng 8, chọn các nho sinh đã thi đỗ vào chầu, sau làm định lệ.
Mùa đông, tháng 10, cho Phạm Ứng Thần làm Thượng thư tri Quốc tử viện, đưa
con em văn thần và tụng thần vào học.
[9b] Gia phong Hưng Nhân Vương Phùng Tá Chu làm Đại Vương; Quan nội hầu Phạm
Kính Ân làm Thái úy, ban cho mũ áo đại vương.
Đinh Dậu, [ Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 6 [1237], (Tống Gia Hy năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, xuống rằng: khi làm
giấy tờ về chúc thư, văn khế ruộng đất và vay mượn tiền bạc thì người làm chứng
in tay ở 3 dòng trước, người bán in tay ở 4 dòng sau.
Lập công chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ của Hoài Vương Liễu, anh vua, làm
hoàng hậu Thuận Thiên. Giáng Chiêu Thánh làm công chúa.
Bấy giờ Chiêu Thánh không có con mà Thuận Thiên đã có mang Quốc Khang 3
tháng. Trần Thủ Độ và công chúa Thiên Cực bàn kính với vua là nên mạo nhận lấy
để làm chổ dựa về sau, cho nên có lệnh ấy. Vì thế, Liễu họp quân ra sông Cái
làm loạn.
Vua trong lòng áy náy, ban đêm, ra khỏi kinh thành đến chỗ quốc sư Phù Vân
(quốc sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử rồi ở lại đó [10a]737
.
Hôm sau, Thủ Độ dẫn các quan đến mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "Vì
trẫm non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mạng năng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm
mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc".
Thủ Độ cố nài xin nhiều lần vẫn chưa được vua nghe, mới bảo mọi người rằng:
"Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó".
Thế rồi [Thủ Độ] cắm nêu trong núi, chỗ này là điện Thiên An, chỗ kia là các
Đoan Minh, sai ngườ xây dựng. Quốc sư nghe thấy thế bèn, tâu rằng:
"Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hại núi rừng của đệ
tư".
Vua bèn trở về kinh đô. Được hai tuần, Liễu tự lượng thế cô, khó lòng đối
lâp được, ngầm đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá, đến chỗ vua xin hàng.
Lúc ấy vua đang ở trong thuyền, vội vàng bảo Thủ Đô:
"Phụng Càn Vương (Phụng Càn là tên hiệu [10b] cũ của Liễu hồi còn nhà
Lý) đến hàng đầy!" rồi lấy thân mình che đỡ cho Liễu. Thủ Độ tức lắm, ném
gương xuống sông nói:
"Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế
nào?".
Vua nói giải hòa, rồi bảo Thủ Độ rút quân về.
Lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang738
cho Liễu làm ấp thang mộc. Nhân đất được phong, mà Liễu có tên
Hiệu là Yên Sinh Vương. Binh lính [theo Liễu] làm loạn ở sông Cái đều bị giết.
Phan Phu Tiên nói: Tam cương ngũ thường là luân lý lớn của
loài người. Thái Tông là ông vua khai sáng cơ nghiệp, đáng lẽ phải dựng phép
tắc để truyền lại cho đời sau, lại nghe mưu gian của Thủ Độ, cướp vợ của anh
làm hoàng hậu, chẳng phải là bỏ cả luân thường, mở mối dâm loạn đó ư? Liễu từ
đó sinh ra hiềm khích, cả gan làm loạn, là do Thái Tông nuôi nên tội ác cho
Liễu vậy. Có người bảo Thái Tông không giết anh, thế là nhân, nhưng tôi thì cho
rằng cướp vợ của anh, tội ác đã rõ ràng, không giết anh [11a] là vì lẽ trời
chưa mất mà thôi, sao được gọi là nhân? Xét ra sau này Trần Dụ Tông dâm loạn
làm càn chưa hẳn không do Thái Tông đầu têu vậy .
Ất
Sửu,
[ Thiệu
Long] năm thứ 8 [1265], (Tống Độ Tông Cơ, Hàm Thuần
năm thứ nhất, Nguyên Chí Nguyên năm thứ
2). Mùa xuân, tháng 2, nước
Chiêm Thành sai sứ
[30a] sang cống.
Tháng 3, đổi Bình bạc ty ở Kinh sư
làm Đại an phủ sứ.
Theo chế độ trước, An phủ sứ qua trị
nhậm các lộ , đủ lệ khảo duyệt thì vào làm An phủ sứ phủ Thiên Trường, lại đủ
lệ khảo duyệt nữa thì bổ làm việc ở Thẩm hình viện, rồi mới được làm An phủ sứ
Kinh sư.
Mùa thu, tháng 7, nước to, vỡ ở
phường Cơ Xá. Người và súc vật bị chết đuối nhiều.
Đại xá.
Hoàng tử Đức Việp sinh .
Bính Dần, [Thiệu Long]năm thứ 9
[1266], (Tống Hàm Thuần năm thứ 2, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 3). Mùa xuân,tháng
giêng, sứ thần Chiêm Thành là Bố Tin, Bố Hoằng, Bố Đột đến cống.
Tháng 2,nhà Nguyên sai Nậu Lạt Đinh788
sang bảo:
"Trước kia, ta đã sai sứ sang
thông hiếu, kẻ thừa hành u mê không cho sứ trở về789
do đó ta mới có việc dụng binh năm trước790
"
Vua sai Dương An Dưỡng và Vũ Hoàn
sang Nguyên đáp lễ.
Tháng 3, mở khoa thi chọn học trò,
Ban đỗ kinh trạng nguyên Trần Cố, trại trạng nguyên Bạch Liêu; bảng nhãn
(khuyết tên họ); thám hoa lang Hạ Nghi; thái học sinh [30b] 47 người, xuất thân
theo thứ bậc khác nhau.
Liêu người Nghệ An, tính thông minh
nhớ lâu, đọc sách ngàn dòng một mạch. Bấy giờ, thượng tướng Quang Khải coi Nghệ
An, Liêu làm môn khách mà không làm quan.
Tháng 2, thủy quân lộ Đông Hải đi
tuần biên giới đến núi Ô Lôi do đó biết được kỳ hạn quân Nguyên sang xâm lược.
Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu cho
vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập dân phiêu tán không có sản
nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng bỏ hoang, lập thành điền trang.Vương hầu có
trang thực bắt đầu từ đấy.
Đinh Mão, [Thiệu Long]năm thứ 10
[1267] , (Tống Hàm Thuần năm thứ 3, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 4). Mùa xuân,
tháng 2, Chiêm Thành sang cống.
Tháng 3, định ngọc diệp791
phái chính dòng họ vua của vương hầu, công chúa để phong ấm, gọi là "kim
chi ngọc diệp"788
. Cháu 3 đời được phong tước hầu hay quận vương, cháu 4 đời được ban tước minh
tự , cháu đời ban tước thượng phẩm [31a]. Tước phong theo ngũ phục đồ789
.
Mùa hạ, tháng tư, chọn dùng nho sinh
hay chữ sung vào quán, các, sảnh, viện.
Bấy giờ Đặng Kế làm Hàn lâm viện học
sĩ, Đỗ Quốc Tá làm trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học.
Theo chế độ cũ, không phải là nội
nhân (hoạn quan ) thì không được làm hành khiển, chưa bao giờ dùng nho sĩ văn
học. Bắt đầu từ đây, nho sĩ văn học mới giữ được quyền bính.
Tháng 5, phong em là Ích Tắc làm
Chiêu Quốc Vương.
Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng,
thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề
vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề ghì không thông thạo; từng mở học đường ở
bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phươngcho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo
thành tài như bọn Mạc Đỉnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu v.v . . . gồm
20 người, đều được dùng cho đời.
Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu định
quân ngũ, mỗi quân 30 đô, mỗi đô 80 người, [31b] chọn người tôn thất giỏi võ
nghệ, tinh binh pháp để chỉ huy.
Phong em là Nhật Duật làm Chiêu Văn
Vương.
Bọn Dương An Dưỡng từ nước Nguyên
trở về, mang theo luôn lễ vật của vua Nguyên đáp lại794
.
Mậu Thìn, [Thiệu Long] năm thứ 11
[1269], (Tống Hàm Thuần năm thứ 4, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 5 ). Mùa Xuân,
tháng giêng, vua từng nói với tôn thất rằng:
"Thiên hạ là thiên hạ của tổ
tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng hưởng phú quý với anh em trong họ.
Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn, được cả thiên hạ phụng sự, nhưng bên
trong thì ta với các khanh là đồng bào ruột thịt. Lo thì cùng lo, vui thì cùng
vui. Các khanh nên truyền những lời này cho con cháu để chúng đừng bao giờ
quên, thì đó là phúc muôn năm của tông miếu xã tắc ".
Đến đây, xuống chiếu cho các vương
hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Vua cùng ăn uống
với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê
giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau.
[32a] Còn như trong các lễ lớn như
triều hạ, tiếp tân, yến tiệc thì phân biệt rõ ngôi thứ, cấp bậc cao thấp. Vì
thế, các vương hầu thời ấy không ai là không hòa thuận, kính sợ và cũng không
phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng.
Muà hạ, tháng 6, đại hạn.
Ngoại thích là Lý Cát phạm tội ngồi
vào ngai vua ở điện Thiên An. Khi xét hỏi trị tội thấy hắn có chứng điên, bèn
đánh trượng rồi tha.
Mùa thu, tháng 7, nước to.
Tướng quốc thái úy Nhật Hiệu chết,
thọ 44 tuổi, truy tặng Tướng quốc thái sư.
Mùa đông, tháng 10, vua cùng anh là
Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang cùng vui đùa trước mặt Thượng hoàng. Thượng
hoàng lúc bấy giờ mặc áo vải bông trắng. Tĩnh Quốc múa điệu múa của người Hồ,
Thượng hoàng cởi áo ban cho Quốc Khang. Vua cũng múa điệu múa của người Hồ để
xin chiếc áo ấy. Quốc Khang nói:
"Cái quý nhất là ngôi hoàng đế,
hạ thần còn không tranh với chú hai. Nay đức chí tôn ban cho thần một vật nhỏ
mọn mà chú hai cũng muốn cướp lấy chăng ?".
Thượng cả cười nói:" Thế ra mày
coi ngôi vua[32b] với cái áo xoàng này chẳng hơn kém gì nhau".
Khen ngợi hồi lâu rồi [thượng hoàng]
cho Tĩnh Quốc chiếc áo ấy.Trong chỗ cha con, anh em hòa thuận vui vẻ như vậy
đấy.
Đói to.
Kỷ Tỵ, [Thiệu Long] năm thứ 12
[1269] , (Tống Hàm Thuần năm thứ 5, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 6). Mùa xuân,
tháng 2, Chiêm Thành dâng voi trắng.
Mùa hạ, tháng 5, đất nứt, sao băng.
Tháng 6, hạn hán. Soát tù. Có mưa.
Đến tháng 7, mùa thu, dân mới cày cấy được.
Tháng 8, nước to.
Tháng 9, phong Tĩnh Quốc Đại Vương
Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kỵ đô thượng tướng quân.
Mùa đông, tháng 10, được mùa nhỏ.
Tháng 12, sứ Nguyên Lung Hải Nha795
sang dụ về việc biên giới. Vua sai Lê Đà, Đinh Củng Viên sang Nguyên.
Canh Ngọ, [Thiệu Long] năm thứ 13
[1270], (Tống Hàm Thuần năm thứ 6, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân,
tháng 3, Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang dựng phủ đệ ở Diễn Châu, hành lang,
điện vũ bão quanh, tráng lệ khác thường.Vua nghe tin ,sai người đến [33a] xem
.Tĩnh Quốc sợ, mới tạc tượng phật để đó (nay là chùa Thông).
Mùa hạ, tháng 4, Chiêm Thành sang
cống.
Mùa thu, tháng 7, nước to. Các đường
phố ở kinh đô phần nhiều phải đi lại bằng thuyền bè.
Tháng 9 ,Vua ngự đến hành cung Thiên
Trường.
Tân Mùi, [Thiệu Long] năm thứ 14
[1271], (Tống Hàm Thuần năm thứ 7, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 8 ). Mùa xuân,
tháng giêng, soát tù.
Tháng 2, ngày mồng 1, động đất.
Tháng 3, phong Chiêu Minh Đại Vương
Quang Khải làm Tướng quốc thái úy, nắm giữ việc nước.
Năm ấy, Mông Cổ đặt quốc hiệu là Đại
Nguyên, sai sứ sang dụ vua vào chầu. Vua lấy cớ có bệnh từ chối không đi.
Nhâm Thân, [Thiệu Long] năm thứ 15
[1272], (Tống Hàm Thuần năm thứ 8, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 9) .Mùa Xuân,
tháng giêng, Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc Sử viện giám tu Lê Văn Hưu vâng sắc
chỉ soạn xong bộ Đại việt sử ký từ Triệu Vũ [33b] đế đến Lý Chiêu Hoàng, gồm 30
quyển, dâng lên. Vua xuống chiếu khen ngợi.
Mùa hạ, tháng 4, sứ Nguyên Ngột
Lương796
sang dụ, hỏi giới hạn cột đồng cũ. Vua sai Viên ngoại lang Lê Kính Phu đi hội
khám. [Phu] trở về nói rằng, cột đồng Mã Viện dựng lâu năm đã bị mai một, không
còn tung tích gì nữa.
Tháng 6, ngày 23, giờ Mùi, mặt trời
rung động.
Sai Đồng Tử Dã, Đỗ Mộc sang Nguyên797
.
Mùa động, tháng 10, xuống chiếu tìm
người tài giỏi, đạo đức, thông hiểu kinh sách làm Tư nghiệp Quốc tử giám, tìm
người có thể giảng bàn ý nghĩa của tứ thư , ngũ kinh sung vào hầu nơi vua đọc
sách.
Quý dậu, Bảo Phù năm thứ 1 [1273],
(Tống Hàm Thuần năm thứ 9, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 10). Mùa xuân, tháng
giêng, ngày mồng 1, đổi niên hiệu.
Tháng 3, ngày 19, sét đánh 7 chỗ
ngoài cửa Đại Hưng.
Mùa đông, tháng 11, cho Nhân Túc
Vương Toản làm Nhập nội phán đại tông chính phủ đại tông chính.
[34a] Giáp Tuất, Bảo Phù năm thứ 2
[1274], (Tống Hàm Thuần năm thứ 10, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 11 ). Mùa thu,
tháng 7, nước to.
Mùa đông, tháng 10, người Tống sang
quy phụ.
(Trước đó, nước Tống ở mé Giang Nam,
người Nguyên thường hay lấn đánh. Đến đây, họ đem 30 chiếc thuyền biển chở đầy
của cải và vợ con, vượt biển đến La Cát Nguyên. Đến tháng 12, dẫn về kinh, an
trí ở phường Nhai Tuân, họ tự xưng là người Hồi Kê798
. Người nưước ta gọi người tống là kê quốc, vì người tống có các hàng vải lụa,
dược phẩm, bày hàng mở chợ buôn bán riêng).
Tháng 12, sách phong hoàng trưởng tử
Khâm làm hoàng thái tử, lấy con gái trưởng của Hưng Đạo Vương làm phi cho thái
tử.
Chọn người nho học có đức hạnh trong
thiên hạ vào hầu Đông Cung799
.
Lấy Lê Phụ Trần làm Thiếu sư, kiêm
Trừ cung giáo thụ800
. lấy bọn Nguyễn Thánh Huấn, Nguyễn Sĩ Cố sung Nội thị nội thị học sĩ (Phụ Trần
người Ái Châu ). Vua tự làm thơ để dạy hoàng tử và viết Di hậu lục 2 quyển.
Ất Hợi, [Bảo Phù] năm thứ 3 [1275],
(Tống Cung Đế Hiền Đức Hựu năm thứ 1, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 12 ). Mùa xuân,
tháng 2, mở khoa thi chọn học trò. [34b] Ban đỗ trạng nguyên Đào Tiêu ; bảng
nhãn (khuyết họ tên); thám hoa lang Quách Nhẫn ; thái học sinh 27 người, xuất
thân có thứ bậc khác nhau.
Hai Khoa Bính Thìn, Bính Dần trước
kia có chia kinh trạng nguyên và trại trạng nguyên, đến nay lại hợp nhất.
Muà hạ, tháng 6, ngày Canh Tý mồng 1,
nhật thực, mặt trời bị che hết 801
.
Mùa đông, tháng 11, tướng thần ở
biên giới phía bắc chạy trạm tâu báo người Nguyên đi tuần biên giới, xem xét
địa thế.
Sai Lê Khắc Phục và Lê Túy Kim sang
Nguyên.802
Nguyên sử q.209 cũng chép việc Đồng
Tử Dã và Lê Văn Ân vào cống năm Chí Nguyên thứ 11 (1274). Như vậy Đồng Tử Dã là
tên người và được chép đúng. Ở đây, Toàn thư đã chép lẫn lộn tên hai người.
Phải sửa cho đúng là: "Sai Đồng Tử Dã và Đỗ Mộc sang Nguyên".
Bính Tý, [Bảo Phù] năm thứ 4 [1276],
(Tống Đức Hựu năm thứ 2, từ tháng 5 về sau là Tống Đoan Tông Cảnh ViêM năm thứ
1, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 13 ). Mùa xuân, tháng 2, sai Đào Thế Quang sang
Long châu mượn cớ đi mua thuốc để thăm dò tình hình người nguyên.
Tháng 3, mặt trời có chấm đen to
bằng quả trứng gà, lay động hồi lâu. Có 2 ngôi sao đấu nhau ở giữa trời, một
ngôi sa xuống.
Mùa hạ, tháng 4, Nguyên Thế Tổ đánh
Giang Nam, sai Hợp Tán Nhi Hải Nha 803
sang dụ 6 việc như điều dân, giúp quân v.v . . . Vua đều không nghe.
Mùa thu, tháng 9, ngày 17, hoàng
trưởng tôn Thuyên sinh, lập làm hoàng thái tôn, ít lâu sau lập làm Đông cung
hoàng thái tử.
Đinh Sửu, [Bảo Phù] năm thứ 5
[1277], (Tống Cảnh Viêm năm thứ 2, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 14 ). Muà xuân,
tháng 2, vua thân chinh đánh người Man, Lạo ở động Nẫm Bà La804
, bắt sống bộ đảng hơn 1.000 người giải về.
Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1 ,
Thượng hoàng băng ở cung Vạn Thọ
Trước đó, Thượng hoàng đến ngự
đường, bỗng thấy con rết bò trên áo ngự. Thượng hoàng sợ, lấy tay phủi nó rơi
đánh "keng" xuống đất, nhìn xem thì hóa ra cái đinh sắt, đoán là điềm
năm Đinh.
Lại có lần đùa sai Minh tự Nguyễn
Mặc Lão dùng phép nghiệm quan nghiệm xem điềm lành hay điềm dữ. Hôm sau Mặc lão
tâu : "Thấy một chiếc hòm vuông bốn mặt đều có [35b] chữ
"nguyệt" , trên hòm có một cái kim, một chiếc lược".
Thượng hoàng lại đoán: "Hòm tức
là quan tài, chữ " nguyệt" (tháng) ở bốn bên tức là tháng 4, cái kim
có thể cắm vào vật gì, tức là nhập vào quan tài, chữ "sơ" là chiếc
lược, đồng âm với "sơ" là xa tức là sẽ xa rời các ngươi".
Lại lúc ấy đương có trò múa rối,
thường có câu : "Mau đến ngày mồng 1 thay phiên". Thượng hoàng lại
đoán : "Thế là ngày mồng 1 ta chết".
Năm trước, có một hôm thượng hoàng
chợt bảo tả hữu : "Tháng 4 sang năm ta tất chết". Đến nay quả như
vậy.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói : Điềm lành
hay tai họa, chỉ có người thành tâm mới biết trước được. Vì thế, Đại truyện
trong kinh dịch có nói : "Hình dung sự vật thì biết được vật thực, chiêm
đoán sự vật thì mới biết được tương lai". Nhưng tất là phải sau khi đã suy
xét trong lòng, nghiền ngẫm trong óc. Thái Tông biết được việc tương lai là
chiêm đoán sự vật đấy. Nhưng nếu không phải là người lý sáng, lòng thành, mà cứ
thấy việc là phỏng đoán mò để rồi khẳng định, thì chưa bao giờ không chuốc lấy
tai họa về sau .[36a]. Đó là chỗ khác nhau giữa cái học sấm ký thuật số với cái
học thánh hiền chăng?
Tháng 5, nước to. Đất nứt sâu 7
trượng (chưa rõ chỗ nào), súc vật, tôm cá chết nhiều.
Mùa đông, tháng 10 ngày mồng 4, táng
[thượng hoàng] ở Chiêu Lăng, miếu hiệu là Thái Tông, tên thụy là Thống Thiên
Ngự Cực Long Công Mậu Đức Hiền Hòa Hựu Thuận Thần Văn Thánh Võ Nguyên Hiếu
Hoàng đế.
Sử thần ngô sĩ liên nói: Dụ Tông có
thơ ca ngợi Thái Tông:
Đường Việt khai cơ lưỡng Thái Tông
Bỉ xưng Trinh Quán ngã Nguyên Phong.
Kiến Thành tru tử Yên Sinh tại,
Miếu hiệu tuy đồng đước bất đồng.
(Sáng nghiệp Việt Đường hai Thái
Tông
Kia xưng Trinh Quán, ta Nguyên Phong
Miếu hiệu như nhau, đức chẳng đồng).
Đức của Thái Tông sở dĩ được thế,
tuy tấm lòng hiếu đễ bắt nguồn từ tính trời, nhưng cũng do Linh Từ quốc mẫu
điều đình [B] hòa giải. Việc cướp vợ của anh cũng do Linh Từ và Thủ Độ. Thế là
Thái Tông mắc vào tội lỗi là do người dẫn lối, mà ẩn nhẫn để trọn nghĩa anh em
cũng lại là do người dẫn lối. Đó là vì tuy có tư chất tốt đẹp trời phú cho,
nhưng chưa có học thức. Đến khi tuổi cao, lý lẽ sáng tỏ, đạo đức tăng tiến, thì
phải chăng điều đó có được là từ thánh học807
?
Hôm thượng hoàng băng, công chúa
Thiều Dương (con gái thứ của Thượng hoàng tên là Thúy ) đương ở cữ, bỗng nghe
tiếng chuông liên hồi, mới hỏi: "Có thể nào không phải là tin dữ
chăng"?.
Những người hầu bên cạnh nói dối,
nhưng công chúc chúa không nghe, cứ thương khóc, kêu gào, mắt nhắm nghiền rồi
mất.
Trước đó, Thương hoàng không khỏe.
Lúc ấy công chú đã lấy thượng vị Văn Hưng hầu (khuyết danh), công chúa nhiều
lần sai người đến thăm hỏi, nhưng người hầu cạnh đều trả lời là Thượng hoàng đã
bình phục, không việc gì. Đến khi nghe tiếng chuông, thương khóc kêu gào mãi
rồi mất. Người trong nước ai cũng thương.
Bấy giờ Uy Văn Vương [37a] Toại lấy
con gái của Thượng Hhàng là công chúa Thụy Bảo. Toại ham học, hay thơ, có câu:
Pha lạp ngũ hồ vinh bội ấn , Tang ma
tế dã thắng phong hầu. (Tơi nón năm bồ hơn giữ ấn, Dâu giai nội vượt phong hầu
), [Toại] tự hiệu là Sầm Lâu, có Sầm Lâu tập lưu hành ở đời.
Vua từng hỏi ông nghĩa chữ
"Quan gia". Ông đáp:
"Năm đời đế lấy thiên hạ làm
của công (quan), ba đời vương lấy thiên hạ làm của nhà (gia) nên gọi là quan
gia".
Vua khen ông kiến thức rộng. Không
may chết sớm (24 tuổi), người trong nước ai cũng thương tiếc.
Mậu Dần, [Bảo Phù] năm thứ 6 [1278],
(Tống Cảnh Viêm năm thứ 3, từ tháng 5 về sau là Đế Bính Tường Hưng năm thứ 1,
Nguyên Chí Nguyên năm thứ 15 ). Mùa xuân, tháng 2, dân chết nhiều vì bệnh đậu
mùa.
Hồi đó, nhà dân ở kinh thành thường
bị cháy về ban đêm. Vua ra ngoại thành xem chữa cháy, Nội thư gia Đoàn Khung đi
theo. Vua sai điểm xem người nào đến chữa cháy và kiểm xem ai đến trước . Khung
ấn đầu từng người một bảo ngồi xuống để đếm , đếm xong tâu rõ người nào đến
trước , người nào đến sau .
Vau hỏi : " Tại sao mà biết
?".
Khung trả lời :" Thần ấn đầu
người nào mà thấy mồ hôi thấm tóc và có tro bụi bám [37b] vào thì đó là những
người đến trước và cố sức chữa, người nào đầu tóc không có mồ hôi mà tro bụi
bay rơi là người đến sau không kịp chữa, vì thế mà biết ". Vua cho là giỏi
, có ý cất nhắc để dùng .
( Thời Anh Tông, Khung làm kiểm pháp
quan, khi xét án , hễ Anh Tông hỏi về điển lệ cũ , Khung đều dẫn được án cũ làm
chứng , có khi dẫn nhiều đến 5 , 6 án . Anh Tông khen Khung thông minh nhớ lâu
).
Phong con thứ là Đức Việp làm Tá
Thiên Đại Vương .
Tháng 3, phu nhân Lê Phụ Trần là
công chúa Chiêu Thánh Lý thị mất
Công chúa lấy Phụ Trần hơn 20 năm,
sinh con trai là thượng vị hầu Tông, con gái là Ứng Thụy công chúa Khuê. Đến
nay 61 tuổi thì mất .
Mùa hạ , lúa mất mùa.
Tháng 6, có ngôi sao lớn sa về
phương nam rơi xuống biển, hơn ngàn ngôi sao nhỏ rơi theo, tiếng khêu như sấm
đến vài khắc mới hết .
Mùa thu, tháng 8, động đất 3 lần,
nhiều súc vật chết .
Mùa đông, tháng 10, ngày 22, vua
nhường ngôi cho hoàng thái tử Khâm.
[38a] Khâm lên ngôi Hoàng đế, xưng
là Hiếu Hoàng, tôn Thượng hoàng là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế ,
tôn Thiên Cảm hoàng hậu làm Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu . Bầy tôi
dâng tôn hiệu là Pháp Thiên Ngực Cực Anh Liệt Vũ Thánh Minh Nhân Hoàng Đế .
Vua Nguyên nghe tin Thái Tông băng,
có ý mưa tính nước ta, sai Lễ bộ thượng thư Sài Xuân808
( tức Sài Trang Hương) sang ta.
Bấy giờ sứ nước ta là Lê Khắc Phục
đang trở về, gặp quân Nguyên đánh nước Tống, liền theo đường Hồ Quảng mà về
nước , Xuân cùng đi với Khắc Phục sang ta [ Nhà Nguyên ] lấy cớ vua không xin
mệnh mà tự lập, dụ bảo phải sang chầu. Vua không nghe, sai Trịnh Đình Toản, Đỗ Quốc
Kế sang Nguyên. Nguyên giữa Đình Toản không cho về809
.
NHÂN TÔNG HOÀNG ĐẾ
Tên húy là Khâm, con trưởng của
Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ,
Nguyên Phong năm thứ 8, tháng 11, ngày 11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy
đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung810
đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên [38b] đồng tử. Trên vai bên trái có nốt ruồi
đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn, ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm,
xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, băng ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức
Lăng. Vua nhân từ hòa nhã, cố
kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng
sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh
phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh
nhân.
Kỷ Mão, [Thiệu Bảo] năm thứ 1
[1279], (Tống Tường Hưng năm thứ 2, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 16 ). Mùa xuân,
tháng giêng, ngày mồng 1, đổi niên hiệu, đại xá.
Chiêm Thành sai Chế Năng, Tra Diệp
sang cống. Bọn Chế Năng xin ở lại làm nội thần, vua không nhận.
Lập bà phi Trần thị làm hoàng hậu.
Người Nguyên đánh úp quân Tống Nhai
Sơn811
. Quân Tống thua, Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu cõng vua Tống nhảy xuống
biển chết. Hậu cung và các quan chết theo rất nhiều. Qua 7 ngày có đến hơn 10
vạn xác chết nổi lên mặt biển. Xác vua Tống cũng ở trong số đó. Thế là ứngv
điềm sao sa xuống biển. Năm ấy nhà Tống mất.
[39a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói :
Trong khoảng trời đất, chỉ có hai khí âm dương mà thôi. Người làm vua đạt đến
mức trung hòa thì trời đất định vị, vạn vật sinh sôi, và hai khí cũng được điều
hòa. Nếu khí âm thịnh mà phạm bừa vào khí dương, thì trời đất tất xuất hiện tai
biến để tỏ cho người làm vua biết. Cho nên tai biến xuất hiện trước rồi sau đó
sẽ có chứng nghiệm ngay. Lúc bấy giờ nào nhật thực, nào mặt trời lay động, nào
đất nứt, nào mưa đá, sao sa, đều là khí âm thịnh hơn khí dương cả. Nếu không
phải là triệu chứng tôi con mưu hại vua cha thì cũng là điềm di địch xâm lấn
Trung Quốc. Phàm người làm vua thận trọng trước sự răn bảo của trời, lo lắng
làm hết phận sự của người thì đó là đạo vãn hồi tai biến của trời vậy. Nhà Tống
đã không vãn hồi được tai biến của trời, mà nước Việt ta rồi cũng bị giặc Hồ812
xâm lấn. May mà vua tôi cùng lo, quân dân chung sức, cuối cùng diệt trừ được
giặc Bắc và hoàn thành võ công đại định. Vì thế mới nói: Thận trọng trước sự
răn bảo của trời, làm hết phận sự của người là cái đạo vãn hồi tai biến của
trời vậy.
[39b] Mùa đông, tháng 10, lấy ngày
sinh làm tiết Thọ Thiên.
Canh Thìn, [Thiệu Bảo] năm thứ 2
[1280], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 17). Mùa xuân, tháng giêng, ban thước gỗ,
thước lụa cùng một kiểu.
Tháng 2, xét duyệt sổ đinh và các
sắc dịch trong nước.
Mùa đông, tháng 10, được mùa to. Lúa
ruộng ở Trà Kiều thuộc Khoái Lộ một giò 2 bông.
Em Đỗ Khắc Chung là Đỗ Thiên Thư
kiện nhau với người, tình lý đều trái. Người kia đón xa giá để kêu bày. Vua hỏi
quan xử kiện. [Viên quan đó] trả lời:
" Án xử đã xong, nhưng hình như
quan thoái thác không chịu chuẩn định đó thôi". Vua nói:
" Đó là do sợ mà né tránh Khắc
Chung đấy".
Lập tức, đang trên đường đi, sai
Chánh crưởng nội thư hỏa là Trần Hùng Thao kiêm chức kiểm pháp quan để chuẩn
định, thì Thiên Thư quả thực là trái, Quan áo xanh (tức là hoạn quan ) được làm
việc kiểm pháp bắt đầu từ Hùng Thao.
Sử Thần Ngô Sĩ Liên nói: Người kiện
có điều oan uổng mà được dễ dàng kêu bày, hình quan để chậm [40a] án, không
thấy có lời trách hỏi, hoạn quan nội thần lạm cử làm pháp quan, vua làm việc
này có có ba lầm lỗi kèm theo, nhưng như vậy thì dân tình được thấu lên trên.
Việch cai trị kẻ dưới thà sai để khoan thứ để cho án kiện đọng lại được xử
ngay, cũng thấy được lòng trung hậu của vua.
Đ ạ i V i ệ t S ử
K ý B ả
n K ỷ
T o à n T h ư
Quyển VI
[1a]
K ỷ N h à T r ầ n
Anh Tông Hoàng Đế
Tên là Thuyên, con trưởng Nhân Tông,
mẹ là Khâm Từ Bảo Thánh hoàng thái hậu, ở ngôi 21 năm, nhường ngôi 6 năm, thọ
45 tuổi, băng ở cung Trùng Quang, phủ Thiên Trường, táng ở Thái Lăng. Vua khéo
biết kế thừa, cho nên thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp,
văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song
tụ họp nhà sư trên núi Yên Tử, làm nhọc sức dân dựng gác Ánh Vân, thì chẳng
phải là tỳ vết nhỏ trong đức lớn đó sao?
Giáp Ngọ, Hưng Long năm thứ 2
[1294], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 31). Mùa xuân tháng 2, ngày mồng 7 ban bố
các chữ quốc húy: chữ húy của vua là Thuyên, của Nhân Tông là Khâm, của Thánh
Tông là Hoảng; của Thái Tông là Cảnh, của Thái Tổ là Thừa, của Nguyên Tổ là Lý;
các chữ nội húy: Thánh Từ hoàng hậu là Phong, Thuận Từ hoàng hậu là Diệu, Hiển
Từ hoàng hậu là Oanh, Nguyên Thánh hoàng hậu là [1b] Hâm.
Tháng 3, lấy Nhập nội phán thủ
thượng vị Chiêu Hoài hầu Hiện làm Đô áp nha, coi giữ các sắc mục trong ngoài
cung Thánh Từ, lấy con Văn Túc Vương920
là Văn Bích làm Thượng vị Uy Túc hầu.
Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 3,
Thượng tướng thái sư Chiêu Minh Đại Vương Quang Khải mất, thọ 54 tuổi.
Quang Khải lúc mới sinh, phát chứng
kinh suýt chết, Thái Tông lấy áo của Thượng hoàng và thanh gươm báu truyền quốc
để bên cạnh rồi bảo ông: "Nếu sống lại, sẽ ban cho những thứ này".
Đến khi sống lại, Thái Tông nói:
"Gươm báu truyền quốc, không
thể trao bừa, chỉ ban cho áo của Thượng hoàng thôi".
Quang Khải có học thức, hiểu tiếng
nói của các phiên921
. Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh giặc, Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ
không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn tới
bảo:
"Thượng tướng đi theo hầu vắng,
trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc".
Quốc Tuấn trả lời:
"Việc tiếp [2a] sứ giả, thần
không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu.
Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong
chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan
gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa
muộn".
Đến khi Thánh Tông trở về, việc ấy
lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa nhau.
Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới,
Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm
gội, Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải:
"Mình mẩy cáo bẩn, xin tắm
giùm", rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói:
"Hôm nay được tắm cho Thượng
tướng".
Quang Khải cũng nói: "Hôm nay
được Quốc công tắm rửa cho".
Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai
người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà vua, hai
ông đứng hàng đầu.
Quang Khải ham học hay thơ, có Lạc
đạo [2b] tập lưu hành ở đời. Con ông là Văn Túc Vương Đạo Tái cũng nổi tiếng về
văn học thời đó, được Thượng hoàng ưu ái hơn các em thúc bá khác.
Bấy giờ, Thượng hoàng đến Vũ Lâm922
vào chơi hang đá, cửa núi đá hẹp, thượng hoàng ngự chiếc thuyền nhỏ, Tuyên Từ
thái hậu ngồi đằng đuôi thuyền, gọi Văn Túc Vương lên mũi thuyền, chỉ để một
người chèo thuyền thôi. Đến khi thượng hoàng xuất gia, sắp ra đi, mời Đạo Tái
vào điện Dưỡng Đức cung Thánh Từ cho ngồi ăn các món hải vị, làm thơ rằng:
Hồng thấp bác quy cước, Hoàng hương
chích mã an, Sơn tăng trì tịnh giới, Đồng tọa bất đồng xan. (Quy cước923
bóc đỏ ướt, Mã yên nướng vàng thơm, Sơn tăng giữ trai giới, Cùng ngồi chẳng
cùng ăn). Tin yêu, quý mến Đạo Tái đến như vậy, định dùng ông vào chức to,
nhưng trời không cho sống lâu. Cháu [Quang Khải] là Uy Túc công Văn Bích làm
Thái bảo thời Minh Tông, chắt là Chương Túc quốc thượng hầu Nguyên Đán là Từ đồ
đời Nghệ Tông cũng có danh tiếng. Đức trạch [của Quang Khải] thực sâu dày, cùng
hưởng phúc với nhà vua từ trước đến sau.
[3a] Tháng 8, Thượng hoàng đích thân
đi đánh Ai Lao, bắt được người và súc vật nhiều không kể xiết. Trong chiến dịch
này, Trung Thành Vương (không rõ tên) làm tiên phong, bị quân Ai Lao bao vây,
Phạm Ngũ Lão dẫn quân ập tới, giải vây, rồi tung quân nghênh chiến, đánh bại
quân Ai Lao. Ban kim phù cho Ngũ Lão.
Tháng 9, lấy ngày sinh làm tiết Sùng
Thiên.
Thiếu bảo Đinh Củng Viên mất, vua
tôn trọng không gọi tên ông.
Ất Mùi, [Hưng Long] năm thứ 3
[1295], (Nguyên Thành Tông Mộc Nhĩ Nguyên Trinh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2,
ngày mồng 1, sứ Nguyên Tiêu Thái Đăng sang.
Vua sai Nội viên ngoại lang Trần
Khắc Dụng, Phạm Thảo cùng đi theo, nhận được bộ kinh Đại Tạng đem về để ở phủ
Thiên Trường, in bản phó để lưu hành.
Mùa hạ, tháng 6, Thượng hoàng trở về
kinh sư. Vì [trước] đã xuất gia ở hành cung Vũ Lâm rồi lại trở về.
Bấy giờ, Tuyên Từ thái hậu từ khi
Khâm Từ băng, phải quản việc trong cung, tính người khó khăn nóng nảy, dạy bảo
rất nghiêm, mà vua vâng theo rất kính cẩn. Thượng hoàng [3b] nói [với vua]:
"Cha tự thẹn xưng là Hiếu
Hoàng, nên dùng danh hiệu ấy để gọi Quan gia thì phải".
Ngày 13, người đàn bà ở phường Tây
Nhai phía hữu kinh thành là Lê Thị Ta nghe tin chồng là Phạm Mưu đi sứ nước
Nguyên ốm mất, thương nhớ không ăn 3 ngày rồi cũng mất. Việc ấy tâu lên, [vua]
cho bạc lụa để viếng.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Công chúa
Thiều Dương nghe tin Thái Tông băng, kêu gào mãi rồi chết; Lê thị nghe tin
chồng chết, không ăn mà chết; Mỵ Ê phu nhân tiết nghĩa không thờ hai chồng,
nhảy xuống sông mà chết; vợ Ngô Miễn là Nguyễn Thị không phụ nghĩa chồng, cũng
nhảy xuống sông chết theo chồng. Mấy người này đức hạnh thuần hiếu, trinh tiết,
trên đời thực không có nhiều. Các vua đương thời nêu khen họ để khuyến khích
đời sau thực là phải lắm! Nhưng Thiều Dương và Nguyễn thị chưa được nêu khen,
cho nên bàn chung cả ở đây.
Truy tặng Đinh Củng Viên làm Thiếu
phó.
Mùa thu, tháng 8, thi con trai các
quan văn từ miện sam924
trở xuống [4a]ở nha An Hoa, sung bổ làm thuộc viên nha ấy.
Bính Thân, [Hưng Long] năm thứ 4
[1269], (Nguyên Trinh năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, Thượng phẩm Nguyễn Hưng
đánh bạc, [vua sai] đánh chết.
Phan Phu Tiên nói: Luật pháp nhà
Trần nghiêm cấm đánh bạc đến như vậy, thế mà đến đời Dụ Tông lại công nhiên làm
bậy, gọi là những người giàu vào cung đánh bạc, rồi sau người trong nước bắt
chước cái dở ấy, không thể ngăn cấm được nữa. Cuối cùng vì tệ đánh bạc mà rồi
mất nước.
Nhân Huệ Vương Khánh Dư từ Bài Áng
vào chầu.
Người trong trấn kiện Khánh Dư tham
lam thô bỉ. Hành khiển đem sự trạng tâu lên. Khánh Dư nhân đó tâu vua:
"Tướng là chim ưng, dân lính là
vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?".
Vua không hài lòng, Khánh Dư bèn trở
về. Khánh Dư vào chầu không quá 4 ngày đã trở về, vì sợ ở lâu bị vua khiển
trách.
Mùa thu, tháng 7, vua [4b] ngự đến
Đông Bộ Đầu xem đua thuyền. Được mùa to.
Đinh Dậu, [Hưng Long] năm thứ
5[1279], (Nguyên Đại Đức năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, duyệt định dân binh các
xã trong cả nước, bắt đời đời làm lính, không được làm quan theo quy chế cũ.
Đổi giáp thành hương.
Sai Chiêu Văn Vương Nhật Duật đi
đánh sách A Lộc. Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng đi đánh sách Sầm Tử.
Ai Lao xâm phạm sông Chàng Long.
Phạm Ngũ Lão đánh bại chúng, lấy lại được đất cũ. Ban vân phù cho Phạm Ngũ Lão.
Mùa hạ, tháng 4, lấy Trần Thì Kiến
làm Kiểm pháp quan, nhậm chức Đại an phủ Kinh sư.
Thì Kiến tính người cương trực,
trước kia làm môn khách của Hưng Đạo Vương, Vương tiến cử ông, được cất nhắc
làm An phủ sứ Thiên Trường. Có người trong hương, nhân ngày giỗ đem biếu mâm
cỗ, Thì Kiến hỏi vì cớ gì mà biếu. Người ấy trả lời là vì ở gần trị sở [nên đem
biếu] chứ không kêu xin gì. Mấy ngày sau, quả nhiên có việc kêu xin. Thì Kiến
[5a] móc họng mửa ra. Đến đây lại được thăng làm Kiểm pháp quan. Mỗi khi có
kiện tụng, thì dùng lý lẽ mà bắt bẻ, việc đến thì tìm phương pháp để ứng phó.
Người đời đều cho là giỏi xét đoán kiện tụng (Thì Kiến người Cự Sa, huyện Đông
Triều).
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thì Kiến
hành động lạ lùng quá mức để uốn nắn cái tệ xin xỏ của người bấy giờ, cũng như
Án Anh tằn tiện quá mức để uốn nắn cái thói xa xỉ tiếm lễ của Quan Trọng vậy.
Mùa đông, tháng 10, sai phủ tông
chính khảo chính phả hệ của họ nhà vua.
Mậu Tuất, [Hưng Long] năm thứ 6
[1298], (Nguyên Đại Đức năm thứ 2). Mùa xuân, ban hai chữ húy là Ngụy và Châu.
Mùa thu, tháng 8, cấm mọi người
không được xưng là "thần" với các nhà đại thần tôn thất.
Thi đánh gậy.
Tháng 9, gió lớn mưa to.
Mùa đông, tháng 10, đánh Ai Lao.
Tướng Nguyên đầu hàng là Trương Hiển chết tại trận, được tặng tước minh tự, cho
thờ ở Thái Thường.
Lấy Phạm Ngũ Lão làm Hữu kim ngô vệ
đại [5b] tướng quân. Đặt [các quân hiệu] Thượng đô925
, Thủy dạ xoa đô, Chân kinh đô, thích các chữ như "Chân kim"... lên
trán.
Tháng 12, sao Chổi mọc ở phương
đông. Vua lánh không ở chính điện, giảm món ăn.
Lấy Ngự sử đại phu Trần Khắc Chung
làm Đại an phủ Kinh sư.
Lấy Trần Thì Kiến làm Nhập nội hành
khiển hữu gián nghị đại phu. Vua ban cho ông cái hốt có khắc bài minh ngự chế.
Thái sơn trinh cao, Tượng hốt trinh
liệt, Linh trãi tiến giác, Vi hốt nam chiết. (Thái sơn rất cao, Hốt ngà rất
cứng, Linh trãi926
dâng sừng, Làm hốt khó gãy). Kỷ Hợi, [Hưng Long] năm thứ 7 [1299], (Nguyên Đại
Đức năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 4, ngày 12, xuống chiếu cấm chữ húy của Khâm
Minh Đại Vương và Thiện Đạo quốc mẫu (Khâm Minh tên húy là Liễu, Thiện Đạo tên
húy là Nguyệt; Thiện Đạo là phu nhân của Liễu) khi làm văn không được dùng. Các
các chữ Ngụy, Thấp, Nam, Càn, Tô, Tuấn, Anh, Tảng khi làm văn phải viết bớt
nét. Nhà Trần kiêng tên huý họ ngoại bắt đầu từ đây.
Lấy Phạm Ngũ Lão làm Thân vệ tướng
quân kiêm quản quân Thiên thuộc phủ Long Hưng.
[6a] Tháng 5, lấy Đoàn Nhũ Hải làm
Ngự sử trung tán.
Bấy giờ Thượng hoàng từ phủ Thiên
Trường trở về kinh sư. Các quan trong triều không ai biết cả, vua thì uống rượu
xương bồ say khướt. Thượng hoàng thong thả đi thăm khắp các cung điện, từ giờ
Thìn đến giờ Tỵ. Cung nhân dâng bữa, Thượng hoàng ngoảnh nhìn không thấy vua,
lấy làm lạ, hỏi là Quan gia ở đâu? Cung nhân vào trong nội đánh thức, nhưng
ngài không tỉnh. Thượng hoàng giận lắm, lập tức trở về Thiên Trường, xuống
chiếu cho các quan ngay ngày mai đều phải tới phủ Thiên Trường để điểm danh, ai
trái lệnh sẽ bị xử tội.
Đến giờ Mùi vua mới tỉnh, cung nhân
đem việc ấy tâu lên. Vua sợ quá, đi rảo ra khỏi cửa cung không thấy ai coi giữ;
qua chùa Tư Phúc, thấy học sinh Đoàn Nhữ Hài ở cửa chùa. Vua hỏi: "Sao
ngươi
lại ở đây?". Nhữ Hài vội vàng
lạy rạp xuống đất tâu: "Thần vì mãi học, đi lỡ ra đây". Vua bèn dẫn
Nhữ Hài vào buồng ngủ và bảo:
"Vừa rồi trẫm vì say rượu, có
tội với Thượng hoàng, giờ trẫm định đến [6b] trước mặt ngài tạ tội, ngươi hãy
thảo cho trẫm bài biểu".
Nhữ Hài đứng trước mặt vua, soạn
xong tờ biểu. Vua bèn lấy thuyền nhẹ đi ngay, cho Nhữ Hài theo mình.
Sáng sớm hôm sau, vua tới phủ Thiên
Trường, dâng biểu tạ tội. Thượng hoàng thấy Nhữ Hài, liền hỏi là người nào. Nội
nhân trả lời là người dâng biểu của Quan gia. Thượng hoàng không nói gì.
Buổi chiều, mưa gió ập đến. Nhữ Hài
vẫn cứ quỳ không nhúc nhích. Thượng hoàng hỏi: "Người ở trong sân có còn
đấy không?". Nội nhân đáp rằng còn. Thượng hoàng bèn sai nhận biểu để xem,
thấy lời lẽ khẩn thiết cho gọi vua vào bảo:
"Trẫm còn có con khác, cũng có
thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi còn như thế, huống chi sau
này?".
Vua rập đầu tạ tội. Thượng hoàng
hỏi: "Ai soạn biểu cho ngươi".
Vua thưa: "Đó là thư sinh Đoàn
Nhữ Hài".
(Sử cũ chép việc này vào năm Mùi đời
Minh Tông nay xét nên để ở đây).
Thượng hoàng bèn gọi Nhữ Hài vào và
bảo: "Bài biểu ngươi soạn, rất hợp lòng trẫm".
Rồi xuống chiếu cho Quan [7a] gia
lại vẫn làm vua; các quan về triều như cũ.
Vua từ Thiên Trường trở về [Kinh],
phong Nhữ Hài làm Ngự sử trung tán. Bấy giờ có người ghen Nhữ Hài tuổi trẻ làm
quan to, làm thơ chế giễu rằng:
Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ,
Khẩu tồn nhữ xú Đoàn trung tán. (Ôn câu chữ cổ: Đài ngự sử, Miệng sữa còn hôi:
Trung tán Đoàn). Nhữ Hài là cận thần của vua. Vua nói năng hành động gì đều
được biết cả. Đến khi nhận chức này, xem thực lục của sử thần chép, có chổ lầm
lẫn, bèn sửa lại cho đúng, rồi đốt bỏ bản thảo cũ đi.
Vua bái yết sơn lăng.
Tháng 6, tế khắp các thần kỳ núi
sông.
Mùa thu, tháng 7, xây am Ngự Dược
trên núi Yên Tử.
Tháng 8, Thượng hoàng từ phủ Thiên
Trường lại xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh.
Thượng hoàng có lần ngự cung Trùng
Quang, vua đến chầu, quốc công Quốc Tuấn đi theo. Thượng hoàng nói:
"Nhà ta vốn là người hạ lưu
(thủy tổ người Hiền Khánh), đời đời chuộng dũng cảm, thường xăm hình rồng vào
đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên [7b] xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên
gốc".
Bấy giờ thợ xăm đã đợi mệnh ở ngoài
cửa cung. Vua rình lúc Thượng hoàng quay nhìn chỗ khác, về ngay cung Trùng Hoa.
Một lúc lâu, Thượng hoàng hỏi Quan gia đâu rồi, các quan tả hữu thưa là đã về
cung Trùng Hoa. Thượng hoàng bảo: "Quan gia đã trốn rồi chăng? thì xăm cho
Huệ Vũ Quốc Chẩn vậy".
Quốc phụ có xăm hình rồng ở đùi, mà
về sau nối ngôi không xăm ở đùi nữa là bắt đầu từ Anh Tông.
Lại hồi quốc sơ, quân sĩ đều xăm
hình rồng ở bụng, ở lưng và hai bắp đùi, gọi là "thái long" (rồng
hoa).Vì khách buôn người Tống thấy dân Việt ta xăm hình rồng, lỡ gặp gió bão
thuyền đắm, thuồng luồng không dám phạm tới, cho nên gọi là "thái
long".
Vua thích vi hành, cứ đêm đến, lại
lên kiệu, cùng với hơn chục thị vệ đi khắp trong kinh kỳ, gà gáy mới trở về
cung. Có đêm, ra đến quân phường, bị bọn vô lại ném gạch [8a] trúng vào đầu
vua. Người theo hầu thét lên: "Kiệu vua đấy". Bọn chúng biết nhà vua,
mới tan chạy cả. Một hôm, thượng hoàng thấy đầu vua có vết thương, vặn hỏi, vua
cứ thực mà thưa. Thượng hoàng giận giữ hồi lâu.
In các sách Phật giáo pháp sư, Đạo
trường tân văn và Công văn cách thức ban hành trong cả nước.
Tháng 9, xuống chiếu rằng từ năm
Canh Dần (1290), Tân Mão (1291) đến nay, phàm bán ruộng đất và mua gia nhân làm
nô thì cho được chuộc, nếu để quá năm nay thì không cho chuộc nữa.
Xuống chiếu cho sĩ nhân trong nước
ôn luyện để đợi thi.
Lấy nội quan Trần Hùng Thao làm Tham
tri chính sự, đồng tri Thánh Từ cung tả ty sự. Sau Hùng Thao can tội phê án tha
người nên bãi chức.
Canh Tý, [Hưng Long] năm thứ 8
[1300], (Nguyên Đại Đức năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 27, động đất 3
lần, suốt từ giờ thân đến giờ tý mới thôi.
Tháng 3 nhuận, Trần Quốc Khang chết.
Quốc Khang từng cai trị Diễn Châu,
chọn [8b] con gái đẹp trong châu làm vợ lẽ nàng hầu, nên các con thứ như Huệ
Nghĩa, Quốc Trinh đều do các bà Diễn Châu sinh ra. Về sau chức Tri châu Diễn
Châu đều do con cháu Quốc Khang làm cả. Đến khi dòng giống thiếu người nối dõi,
mới dùng người trong châu làm chức ấy.
Mùa hạ, tháng 4 (không chép ngày),
mặt trời rung động.
Tháng 5, ngày 16, xuống chiếu rằng
các quan văn võ trong triều ai mới có chữ phê mà không có ấn trướng hạ927
thì phải giảm 1 tư, người có công đánh dẹp thì không phải giảm (đó là xét những
thiếp ban cho trong thời gian mất ấn).
Người đàn bà lộ Hồng đẻ một con trai
có hai đầu.
Tháng 6, ngày 24, sao sa.
Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà
thăm, hỏi rằng:
"Nếu có điều chẳng may, mà giặc
phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào".
Vương trả lời:
"Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước,
vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế "thanh dã"928
, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh
úp phía sau. Đó là [9a] một thời. Đời Đinh, Lê dùng người tài giỏi, đất phương
Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân
không lìa, xây thành Bình Lỗ929
mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa
giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh930
là vì có thế.
Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao
vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó
là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng
đoản [binh] chế trường [trận] là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó
kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn,
không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như
đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, cóđược đội quân một lòng như cha
con thì mới dùng được. Vả lại, khoan
thư sức dân [9b] để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước
vậy".
Quốc Tuấn là con Yên Sinh Vương, lúc
mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: "[Người này] ngày sau có
thể giúp nước cứu đời".
Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô,
thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ. Yên Sinh Vương trước
đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng931
, mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn. Lúc sắp
mất, Yên Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng rằng:
"Con không vì cha lấy được
thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được?.
Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng,
nhưng không cho là phải.
Đến khi vận nước lung lay, quyền
quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời cha dặn nói với gia nô là Dã Tượng,
Yết Kiêu. Hai người gia nô can ông:
"Làm kế ấy tuy được phú quý một
thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay
sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không [10a] muốn làm quan mà
không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi932
.
Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen
ngợi hai người.
Một hôm Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là
Hưng Vũ Vương:
"Người xưa có cả thiên hạ để
truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?".
Hưng Vũ Vương trả lời:
"Dẫu khác họ cũng không nên,
huống chi là cùng một họ!".
Quốc Tuấn ngẫm cho là phải.
Lại một hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy
hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa:
"Tống Thái Tổ vốn là một ông
lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ"933
.
Quốc Tuấn rút gươm kể tội:
"Tên loạn thần là từ đức con
bất hiếu mà ra", định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ Vương hay tin, vội chạy tới
khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha. Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương:
"Sau khi ta chết, đậy nắp quan
tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng".
Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo
Vương Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, được tặng Thái sư [10b] thượng phụ
thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
Thánh Tông có soạn bài văn bia ở
sinh từ [của Quốc Tuấn], ví ông với Thượng phụ [ngày xưa]934
. Lại vì ông có công lao lớn, gia phong là Thượng quốc công, cho phép ông được
quyền phong tước cho người khác, từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu thì
phong tước rồi tâu sau. Nhưng Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người
nào. Khi giặc Hồ vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương
quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không cho họ tước lang thực,
ông kính cẩn giữ tiết làm tôi như vậy đấy.
Quốc Tuấn lại từng soạn sách để
khích lệ tướng sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỷ Tín chết thay để cứu thoát Hán Cao935
, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử936
Thế là dạy đạo trung đó.
Khi sắp mất, ông dặn con rằng: Ta
chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc,
rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải [làm
sao cho] mau phục [11a].
Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, người
Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra
tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất lại như thế đấy.
Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi
cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã
Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh
Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời
đó về văn chương và chính sự, bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một
lòng giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi Thánh Tông vờ bảo Quốc Tuấn rằng:
"Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi". Quốc Tuấn trả lời: "[Bệ
hạ] chém đầu tôi trước rồi hãy hàng". Vì thế, đời Trùng Hưng, lập nên công
nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Hưng
Đạo Vương mà không dám gọi tên. Sau khi mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ
có tai nạn bệnh dịch, nhiều người cầu đảo ông. Đến nay, mỗi khi [11b] đất nước
có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào
cũng thắng lớn.
Quốc Tuấn từng soạn sách Binh gia
diệu lý yếu lược để dạy các tỳ tướng, dụ họ rằng bài hịch như sau:
"Ta từng nghe, Kỷ Tín đem mình
chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu giơ lưng chịu giáo che chở cho Chiêu
vương; Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ937
; Thân Khoái chặt lấy tay cứu nạn cho nước938
; Kính Đức, một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung939
; Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc940
. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử
các bậc đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng chết uổng nơi xó
cửa, sao có thể lưu danh sử sách, để cùng bất hủ với đất trời?.
Các ngươi vốn nòi võ tướng không
hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy, nửa tin nửa ngờ [12a]. Thôi việc đời
trước, hãy tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Thát941
mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào; tỳ tướng của ông là Nguyễn Văn Lập
(có thuyết cho là Sơn Lập) lại là người thế nào, mà lấy thành Điếu Ngư nhỏ như
cái đấu chống lại quân Mông Kha đông hàng trăm vạn; khiến cho sinh linh bên
Tống đến nay còn đội ơn sâu942
. Cốt Đãi Ngột Lang943
là người thế naò, tỳ tướng của ông là Cân Ty
Tư944
lại là người thế nào, mà xông pha lam chướng trên đường muôn dặm, phá quân Nam
Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay vẫn còn
lưu tiếng tốt945
.
Huống chi ta cùng các ngươi, sinh ra
phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc, ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh
ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình, ỷ cái thân dê
chó mà bắt nạt tể phụ. Thác lênh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thỏa lòng tham
khôn cùng [12b], giả hiệu Vân Nam Vương946
mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, giữ
sao cho khỏi tai vạ về sau!.
Ta từng tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ
gối, nước mắt đầm đìa, ruột đau như cắt, chỉ giận không được ăn thịt, nằm da,
nuốt gan, uống máu quân thù, dẫu trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác ta
bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ
binh quyền, người không có áo, ta cho áo mặc, kẻ không có ăn, ta cấp cơm ăn.
Quan thấp thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho
thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, khi ở nhà
thì cùng nhau vui cười, nếu so với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi
người phụ tá, cũng chẳng kém gì.
[13a] Nay các ngươi ngồi nhìn chủ
nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng triều
đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường thết yến sứ
ngụy mà không biết căm, hoặc lấy chọi gà làm vui, hoặc lấy đánh bạc làm thú,
hoặc chăm chút vườn ruộng để nuôi gia đình, hoặc quyến luyến vợ con chỉ vì ích
kỷ, hoặc lo làm giàu mà quên việc quân việc nước, hoặc ham săn bắn mà bỏ việc
đánh việc phòng, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát
tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc
không thể dùng làm mưu lược nhà binh, vườn ruộng giàu không thể chuộc được tấm
thân ngàn vàng, vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu nhiều,
khôn mua được đầu giặc; chó săn tuy khỏe, khôn đuổi được [13b] quân thù. Chén
rượu ngon không đầu độc được quân thù, tiếng hát hay không chọc thủng được tai
giặc. Lúc bấy giờ, chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết dường nào! Chẳng
những thái ấp của ta bị tước, mà bổng lộc các ngươi cũng về tay kẻ khác, chẳng
những gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị người khác bắt đi,
chẳng những xã tắc tổ tông của ta bị người khác bới đào, chẳng những thân ta
kiếp này bị nhục, dẫu trăm đời sau, tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu mãi còn, mà đến
gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là viên bại tướng. Lúc bấy giờ,
dẫu các ngươi có muốn thỏa lòng vui thú, phỏng có được không?.
Nay ta bảo rõ các ngươi: Nên nhớ
chuyện "đặt mồi lửa vào dưới đống củi"947
, làm nguy cơ, nên lấy điều "kiềng [14a] canh nóng mà thổi rau nguội"948
làm răn sợ. Hãy huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người
giỏi như Bàng Mông949
, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, để có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, phơi
xác Vân Nam Vương ở Cảo Nhai950
. Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi lưu truyền, mà bổng lộc các ngươi
cũng đời đời được hưởng, chẳng những gia quyến của ta được yên ấm gối chăn, mà
vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão, chẳng những tông miếu của ta
được muôn đời tế lễ, mà ông cha các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm, chẳng
những thân ta kiếp này đắc chí, mà các ngươi trăm năm về sau tiếng thơm vẫn
còn. Chẳng những danh hiệu ta lưu truyền
mãi mãi, mà họ tên các ngươi cũng sử
sách lưu thơm. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui thú phỏng có được
không?.
Nay ta chọn binh pháp các nhà, soạn
thành một quyển, gọi là [14a] Binh thư yếu lược . Các ngươi nếu biết chuyên tập
tập sách, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là tôi chủ, nhược bằng khinh bỏ
sách này, trái lời ta dạy bảo, thì trọn đời là cừu thù.
Vì sao vậy? Vì giặc Mông Thát là kẻ
thù không đội trời chung, mà các người cứ điềm nhiên không nghĩ rửa nhục, không
lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, thế là quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ
tay không mà chịu thua giặc, khiến cho sau khi dẹp giặc, muôn đời để nhơ, thì
còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở nữa? Cho nên, ta viết bài hịch
này để các ngươi biết rõ lòng ta!:.
Quốc Tuấnlại sưu tập binh pháp các
nhà, làm thành Bát quái cửu cung đồ, đặt tên là Vạn Kiếp tông bí truyền thư .
Nhân Huệ Vương Khánh Dư viết bài tựa cho sách ấy như sau:
"Người giỏi cầm quân thì không
cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì
không thua, người khéo thua thì không chết.
Ngày xưa Cao Dao làm sĩ [15a] sư951
mà không ai dám trái mệnh, đến Vũ Vương, Thành Vương nhà Chu làm tướng cho Văn
Vương, Vũ Vương952
, ngầm lo sửa đức, để lật đổ nhà Thương mà dấy nên vương nghiệp, thế là người
giỏi cầm quân thì không cần phải bày trận vậy. Vua Thuấn múa mộc và múa lông
trĩ mà họ Hữu Miêu đến chầu953
, Tôn Vũ nước Ngô đem ngươi đẹp trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở
mạnh, phía bắc uy hiếp nước Tấn, nước Tần, nổi tiếng chư hầu954
, thế là người khéo bày trận không cần phải đánh vậy. Đến Mã Ngập955
nước Tấn theo bát trận đồ, đánh vận động hàng ngàn dặm, phá được Thụ Cơ Năng để
thu phục Lương Châu. Thế gọi là người đánh giỏi không bao giờ thua vậy.
Cho nên trận nghĩa là
"trần", là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, Hoàng Đế lập phép tỉnh điền
956
để đặt binh chế. Gia Cát 957
xếp đá sông làm bát trận đồ, Vệ Công 958
sửa lại làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn 9 lập ra Xà thế trận có vẽ các thế trận
hay, trình bày thứ tự, rõ ràng, trở thành khuôn phép. Nhưng người đương thời ít
ai hiểu được, thấy muôn đầu ngàn mối, cho là rối rắm, chưa từng biến đổi. [15b]
Như Lý Thuyên 960
có soạn những điều suy diễn của mình, những người đời sau cũng không hiểu ý
nghĩa. Cho nên Quốc công ta mới hiệu đính, biên tập đồ pháp của các nhà, soạn
thành một sách, tuy ghi cả những việc nhỏ nhặt, nhưng người dùng thì nên bỏ bớt
chỗ rườm rà, tóm lược lấy chất thực.
[Sách] gồm đủ ngũ hành tương ứng 961
, cửu cung suy nhau 951
, phối hợp cương nhu, tuần hoàn chẵn lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với
sát, phương với lợi, sao lành, hung thần, ác tướng, tam
cát, ngũ hung 963
, đều rất rõ ràng, ngang với Tam Đại, trăm đánh trăm thắng. Cho nên, đương thời
có thể phía bắc trấn ngự Hung Nô 964
, phía nam uy hiếp Lâm Ấp 965
". Rồi dùng sách này dạy bảo [con cháu] làm gia truyền, không tiết lộ ra
ngoài. Lại có lời dặn rằng: "Sau này, con cháu và bồi thần của ta, ai học
được bí thuật này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp [thế trận]; không được
ngu dốt mà trao chữ truyền lời. Nếu không thế thì mình chịu tai ương mà vạ lây
đến con cháu. Thế gọi là tiết lộ thiên cơ đó".
[16a] Ngày 21, hoàng tử Mạnh sinh.
Bấy giờ, các hoàng tử đều không nuôi
được, đến khi Mạnh sinh, vua nhờ công chúa Thụy Bảo [tức là cô của Nhân Tông]
nuôi hộ. Nhưng công chúa cho là bấy giờ bà đương có vận hạn, lại nhờ Nhật Duật
nuôi. (Nhật Duật là anh công chúa Thụy Bảo). Nhật Duật coi là trách nhiệm của
mình, chăm sóc, nuôi nấng, không khác gì con mình. Nhật Duật nghĩ rằng con
trưởng của mình tên là Thánh An, con gái tên là Thánh Nô, mới đặt tên cho hoàng
tử là Thánh Sinh, vì muốn [tên hoàng tử[ cũng giống với tên con mình. Hoàng tử
từ bé nhờ nuôi nấng, đến khi lên ngôi vua, công chăm nom của Nhật Duật rất
nhiều.
Mùa đông, tháng 10, quy định kiểu mũ
áo mới của quan văn võ. Quan văn thì đội mũ chữ đinh màu đen, tụng quan thì đội
mũ toàn hoa màu xanh vẫn như quy chế cũ. Ống tay áo của các quan văn võ rộng 9
tấc đến 1 thước 2 tấc, không cho dùng từ 8 tấc trở xuống. Các quan văn võ không
được mặc xiêm, tụng quan không được mặc thường (mũ toàn hoa xanh có hai vòng
vàng đính vào hai bên).
[16b] Tân Sửu, [Hưng Long] năm thứ 9
[1301], (Nguyên Đại Đức năm thứ 5). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu rằng các
quan văn võ đều đội mũ chữ đinh, thêm miếng lụa bọc tóc màu tía xen màu biếc.
Gả công chúa Thiên Trân cho Uy Túc
công Văn Bích966
, phong Văn Bích làm Phò ký lang.
Lấy Trần Thì Kiến làm Tham tri chính
sự. Trước đó, khi Thì Kiến làm gián ngị, can tội chứa giấu dân đinh bị bãi
chức, vua nghĩ không phải là cố ý, nên có lệnh này.
Tháng 2, Chiêm Thành sang cống .
Tháng 3, Thượng hoàng vân du các
nơi, sang Chiêm Thành.
Ai Lao sang cướp Đà Giang, sai Phạm
Ngũ Lão đi đánh, gặp quân giặc ở Mường Mai967
, giao chiến, bắt được rất nhiều. Phong Ngũ Lão làm Thân vệ đại tướng quân, ban
cho quy phù.
Mùa hạ, tháng 4, hạn hán. Soát tù.
Có mưa.
Phong con trưởng của Hưng Nhượng Đại
Vương là Quang Triều làm Văn Huệ Vương.
Mùa đông, tháng 11, Thượng hoàng từ
Chiêm Thành trở về.
Trần Hùng Thao lại được làm Tham tri
chính sự, rồi được cử làm Tả bộc xạ.
[17a] Đói to.
Nhâm Dần, [Hưng Long] năm thứ 10
[1302], (Nguyên Đại Đức năm thứ 6). Mùa xuân, tháng giêng, lấy thái úy Đức Việp
làm thống chính thái sư; Huệ Võ Đại Vương Quốc Chẩn làm Nhập nội bình chương;
Chiêu Văn Vương Nhật Duật làm Thái úy quốc công.
Theo quy chế cũ: Tân vương968
vào làm tể tướng thì gọi là Quốc công thượng hầu, nếu vào nội đình thì gia
phong Quan nội hầu.
Có đứa nghịch thần tên là Biếm làm
loạn. Sai Phạm Ngũ Lão đi đánh, Biếm bị giết. Phong Phạm Ngũ Lão làm Điện súy,
ban cho hổ phù.
Bấy giờ có người đạo sĩ phương Bắc
là Hứa Tông Đạo theo thuyền buôn sang ta, cho ở bến sông Yên Hoa969
. Phép phù thủy, đàn chay bắt đầu thịnh hành từ đó.
Quý Mão, [Hưng Long] năm thứ 1
[1303], (Nguyên Đại Đức năm thứ 7). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 15, thượng
hoàng ở phủ Thiên Trường [17b], mở hội Vô lượng pháp ở chùa Phổ Minh, bố thí
vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp dân nghèo trong nước và giảng kinh Giới thí.
Tháng 2, lấy Đô áp nha thượng vị
Chiêu Hoài hầu Hiện làm Nhập nội phụ quốc thái bảo.
Mùa đông, tháng 10, quy định kiểu mũ
của vương hầu: người tóc dài đội mũ triều thiên, người tóc ngắn đội mũ bao.
Lấy Trần Khắc Chung làm Nhập nội đại
hành khiển.
(Chức hành khiển mà có thêm 2 chữ
"nhập nội" là theo triều Lý, chuyên dùng hoạn quan làm chức ấy. Thời
Thánh Tông, thượng tướng Quang Khải khi mới được phong làm nhập nội thái úy,
kiêm làm hành khiển còn có 2 chữ "nhập nội", liền tâu rằng:
"Thần từ bên ngoài vào, cho nên thêm hai chữ "nhập nội", còn các
hành khiển khác đều là hoạn quan, sao lại thêm chữ "nhập nội", xin bỏ
chữ "nhập nội", Thánh Tông nghe theo. Từ đó, hàm hành khiển chỉ gọi
là nội hành khiển. Đến đây, thượng hoàng mới lấy Khắc Chung làm hành khiển, lại
thêm 2 chữ "nhập nội" như xưa và dùng cả sĩ phu làm hành khiển).
Lấy Đoàn Nhữ Hài làm Tham tri chính
sự.
Trước đây, vua sai Nhữ Hài đi sứ
Chiêm Thành, Nhữ Hài xin yết kiến Thượng hoàng ở chùa Sùng Nghiêm núi Chí Linh,
suốt ngày không được gặp. Một lát sau, pháp giá ra chơi, Nhữ Hài đến bái yết
[18a]. Thượng hoàng nói chuyện với Nhữ Hài có đến một giờ. Khi trở về, Thượng
hoàng bảo tả hữu:
"Nhữ Hài đúng là người giỏi,
hắn được Quan gia sai khiến là phải".
Trước đây, sứ nước ta tới Chiêm
Thành, đều lạy chúa Chiêm trước, rồi sau mới mở chiếu thư. Đến khi Nhữ Hài tới,
liền bưng ngay chiếu thư để lên trên án và nói với chúa Chiêm:
"Từ khi sứ thiên triều mang
chiếu thư của thiên tử sang, xa cách ánh sáng lâu ngày, nay mở chiếu thư, thực
như trông thấy mặt thiên tử, tôi phải lạy chiếu thư đã, rồi mới tuyên đọc
sau". Rồi lập tức hướng vào tờ chiếu mà lạy. Lúc ấy, chúa Chiêm đứng bên cạnh,
lạy thế không khỏi có chút chưa ổn, nhưng lấy cớ mà lạy chiếu thư thì về lý là
thuận, mà sứ tiết cũng không phải khuất.
Hôm sau, Nhữ Hài treo bảng cấm buôn
bán ở Tỳ Ni970
(bến cảng của Chiêm Thành, nơi tụ tập các thuyền buôn), tuyên đọc xong, treo
bảng lên, lại gọi viên coi cảng đến bảo:
"Chỗ này người buôn bán tụ họp
phức tạp, lại là bến tàu xung yếu, khó giữ gìn, [18b] sứ thần về rồi, cất ngay
bảng đi, đừng để mất".
Ý ông cho rằng Chiêm Thành tuy đã
thần phục, nhưng thực ra chưa chịu nội phụ, bảng cấm rốt cục cũng bị bỏ đi, cho
nên nói trước như vậy, không để tự họ làm như thế. Sau này, đi sứ Chiêm Thành,
không lạy chúa Chiêm là bắt đầu từ Nhữ Hài. Khi về nước, vua rất khen ngợi ông
và quyết ý dùng vào chức to, cho nên có lệnh này.
Giáp Thìn, [Hưng Long] năm thứ 12
[1304], (Nguyên Đại Đức năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, người đàn bà là Lê
thị, phường Các Đài, ở cầu bên hữu kinh thành đẻ con gái có hai đầu, bốn chân,
bốn tay.
Tháng 2, lấy Bùi Mộc Đạc làm Chi hậu
bạ thư chánh chưởng trông coi cung Thánh Từ.
Mộc Đạt tên tự là Minh Đạo (người
Hoàng Giang), họ Phí, tên là Mộc Lạc, có tài năng. Thượng hoàng cho rằng họ Phí
từ xưa không thấy có, mới đổi làm họ Bùi, cái tên Mộc Lạc là điềm chẳng lành971
, mới đổi thành Mộc Đạc, sai theo hầu ngày đêm. Đến nay, trao cho chức ấy. Sau
này, người [19a] họ Phí hâm mộ danh tiếng của Mộc Đạc, nhiều người đổi làm họ
Bùi.
Tháng 3, thi kẻ sĩ trong nước. Ban
cho trạng nguyên. Mạc Đĩnh Chi chức Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung làm nội
thư gia; bảng nhãn Bùi Mộ chức chi hậu bạ thư mạo sam, sung làm nội lệnh thư
gia; thám hoa lang Trương Phóng chức Hiệu thư quyền miện, sung làm nhị tư;
Nguyễn Trung Ngạn đỗ hoàng giáp; tất cả 44 người đỗ thái học sinh.
Dẫn 3 người đỗ đầu ra cửa Long Môn
của Phượng Thành đi du ngoạn đường phố 3 ngày. Còn 330972
người khác thì ở lại học tập.
Trung Ngạn mới 16 tuổi, đương thời
gọi là thần đồng.
Về phép thi: Trươc hết thi ám tả
thiên Y quốc và truyện Mục Thiên tử973
để loại bớt. Thứ đến kinh nghi974
, kinh nghĩa975
, đề thơ (tức thể cổ thi ngũ ngôn trường thiên) hỏi về "vương độ khoan
mãnh"976
, theo luật "tài nan xạ trĩ977
, về phú thì dùng thể 8 vần "đế đức hiếu sinh, hiệp vụ dân tâm"978
. Kỳ thứ ba thi chế, chiếu, biểu. Kỳ thứ tư thi đối sách.
(Đĩnh Chi người Chí Linh [19b], Mộ
người Thanh Oai, Phóng người Thanh Hóa).
Sư Du Già nước Chiêm sang ta, chỉ ăn
sữa bò.
Thi các thủ phân (thủ phân tức là
quan lại nắm việc hình pháp) hỏi phép đối án.
Mùa thu, tháng 7, xuống chiếu rằng
các chữ huý về miếu hiệu, tên vua, thì viết bớt nét.
Tháng 8, cấm chữ huý miếu hiệu nhà
Lý 8 chữ: Uẩn, Mã, Tôn, Đức, Hoán, Tộ, Cán, Sảm, viết bớt nét.
Tháng 9, xuống chiếu rằng, khi áp
tay vào giấy tờ hình án hay văn tự thì dùng hai đốt của ngón tay vô danh979
bên trái.
Mùa đông, tháng 11, xuống chiếu thi
kẻ sĩ trong nước, hỏi về 7 khoa.
Tháng 12, sao Chổi mọc ở phương nam.
Trần Hùng Thao xin từ chức Tả bộc
xạ, y cho.
Lấy Đoàn Nhữ Hài tri Khu mật viện
sự.
Vua đối với người tôn thất như Bảo
Hưng (không rõ tên) thân yêu hết mực, nhưng không trao cho việc chính sự, vì
không có tài. Còn như Nhữ Hài chỉ là một nho sinh thôi, nhưng vì có tài, nên
không ngại trong việc ủy dụng nhanh vọt.
[20a] Xuống chiếu cho phủ Tông chính
soạn ngọc phả của họ vua.
Ất Tỵ, [Hưng Long] năm thứ 13
[1305], (Nguyên Đại Đức năm thứ 9). Mùa xuân, tháng giêng, sách phong hoàng tử
thứ tư là Mạnh làm Đông cung thái tử, (vua) làm bài Dược thạch châm980
ban cho.
Tháng 2, Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài
và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu
hôn. Các quan trong triều đều cho là không nên, duy có Văn Túc Vương Đạo Tái
chủ trương bàn việc đó, Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới quyết.
Tháng 3, nước La Hồi981
sai người dâng vải liễn la và các thứ khác.
Lấy Trần Thì Kiến làm Tả bộc xạ.
Bấy giờ có viên độc bạ là Trần Cụ
tính khoan hậu, cẩn thận, thật thà, giỏi ngề đánh cá, bắn nỏ và chơi cầu. Vua
sai dạy thái tử các nghề ấy.
Cụ mỗi khi sắp đánh đàn, thì trước
hết cắt đầu dây, buộc lại cho chặt dây rồi sau mới gảy. Có người hỏi [20b] cớ
làm sao, Cụ trả lời: "Nếu khúc đàn chưa hết mà dây đứt thì làm thế
nào?".
Cụ làm cầu thì cân nhắc các múi da,
cho mười hai múi cân nhau, duy ba múi ở miệng cầu lỗ là chỗ bỏ cái bong lợn vào
thì hơi mỏng và nhẹ, để cân với sức nặng ở đầu bong bóng, cho nên khi đá cầu,
múi nào ở trên đến lúc rơi xuống đất lại nguyên như cũ, không bao giờ chuyển
khác.
Người đời bắn nỏ, chân đứng cũng như
bắn cung, tức là kiểu chữ "đinh" không thành, chữ "bát"
không ngay. Cụ thì đứng ngay ngắn mà bắn và bảo mọi người:"Phàm bắn cung
thì tay trái giơ ra phía trước nắm lấy thân cung, tay phải kéo dây cung về phía
sau, mình đã nghiêng thì chân cũng phải lệch, còn bắn nỏ thì đưa cân bằng ra
phía trước, cho nên khi cầm nỏ mà bắn, thân mình ngay ngắn, thì cớ gì chân lại
phải đứng lệch?".
Nhà ông ta ở và thuyền ông ta đi,
đều có hai cửa đối nhau, xếp đặt, bày biện các thứ cũng cân đối và phải ngay
ngắn, vì là bản [21a] tâm như vậy, cho nên biểu hiện ở mọi việc làm cũng như
vậy.
Cụ người Cứu Liên, vốn có mối hận
với Cứu Liên, thề rằng chân không giẫm lên đất ấy nữa. Sau này trở về Cứu Liên
thì đi thuyền, đến khi lên bộ thì đi kiệu vào cửa, tới giường mới xuống kiệu,
thức ngủ, ăn uống đều ở trên giường. Khi nào chơi xem vườn ao thì sai khiêng
giường đến chỗ đó, hết hứng thì trở về, lại ngồi kiệu, lên thuyền... Cứ như thế
cho đến hết đời, chưa hề giẫm một bước xuống đất [Cứu Liên]. Ông ta giữ lòng
bền rắn một mực như vậy đó, đời xưa gọi thế là người gàn.
Bính Ngọ, [Hưng Long] năm thứ 14
[1306], (Nguyên Đại Đức năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, Thống
chính thái sư Tá Thiên Đại Vương Đức Việp mất (thọ 42 tuổi).
Mùa hạ, tháng 6, gả công chúa Huyền
Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân.
Trước đây, Thượng hoàng vân du sang
Chiêm Thành, đã hứa gã rồi. Các văn sĩ trong triều ngoài nội [21b] nhiều người
mượn chuyện vua Hán đem Chiêu Quân gả cho Hung Nô làm thơ, từ bằng quốc ngữ để châm
biếm việc đó.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Ngày xưa,
Hán Cao hoàng vì nước Hung Nô nhiều lần làm khổ biên cương, mới lấy con gái nhà
dân làm công chúa gả cho Thiên Vu 982
.
Kết hôn với người không cùng giống
nòi, các tiên nho đã từng chê trách, song dụng ý là muốn binh yên, dân nghỉ,
thì còn có thể nói được. Nguyên Đế thì vì Hô Hàn 983
sang chầu, xin làm rể nhà Hán, nên lấy Vương Tường mà ban cho, cũng là có cớ.
Đ ạ
i V i ệ
t S ử
K ý B ả
n K ỷ
T o à n T h ư
Quyển VII
[1a]
K ỷ N h à T r ầ n
Hiến Tông Hoàng Đế
Tên húy là Vượng, con thứ của Minh Tông, mẹ đích là Hiến Từ
tuyên thánh hoàng thái hậu, mẹ sinh là Minh Từ hoàng thái phi Lê thị. Ở ngôi 13
năm, thọ 23 tuổi, băng táng ở lăng Xương An. Vua tư trời tinh anh, sáng suốt,
vận nước thái bình, nhưng hưởng thọ không dài, chưa thấy làm được gì, đáng tiếc
thay!
Canh Ngọ, Khai Hựu năm thứ 2 [1330], (Nguyên Chí Thuận năm
thứ 1). Mùa hạ, tháng 5, lấy ngày sinh làm tiết Hội
Thiên.
Mùa thu, tháng 7, Thuận Thánh Bảo Từ hoàng thái hậu1037
băng tại am Mộc Cảo, Yên Sinh.
Thái hậu tính nhân từ. Các con của Anh Tông, dù là con vợ thứ sinh ra, bà
đều yêu dấu, chăn nuôi như con mình.
Công chúa Huệ Chân được Anh Tông yêu quí, thái hậu cũng rất yêu nàng. Thiên
Chân là con đẻ của [1b] Thái hậu, nhưng khi có ban thức gì, thì cho Huệ Chân
trước, rồi sau mới đến Thiên Chân. Sau khi Anh Tông băng, Thái hậu càng chăm
sóc Huệ Chân hơn trước.
Đến như đối xử với các cung tần ưu hậu, như nữ quan trong cung là Vương thị,
mẹ đẻ của Huệ Chân, được yêu quí mà có thai, Thái hậu đã lấy song hương đường (
phòng ngủ của thái hậu ) cho làm nơi sinh đẻ. Vương thị sau khi đẻ xong thì
mất. Cung nhân ngầm tâu với Thượng hoàng là Thái hậu giết Vương thị. Thượng
hoàng vẫn biết Thái hậu là người nhân từ, liền nổi giận lấy roi đánh người cung
nhân ấy. Thái hậu cũng chẳng để bụng chuyện đó.
Bảo Huệ quốc mẫu ( tức là mẹ của Bảo Từ thái hậu ) có lần xin cho Nguyên Huy
( túc là con gái của Uy Huệ, cháu gái của Bảo Từ ) vào làm cung phi. Thượng
hoàng đem chuyện đó hỏi thái hậu. Thái hậu trả lời: " Không được, nếu
Nguyên Huy được làm phi thì sẽ khiến Thục Tư phải xưng là nô chăng?".
Bà không đem ơn riêng mà cho bừa là như vậy đó. Người đương thời ca ngợi bà
là bậc đứng đầu mẫu đức. Từ khi rước linh cữu Anh Tông về Yên Sinh, mọi điều
khổ hạnh, bữa cháo, bữa chay, [2a] không việc gì bà không làm, nhưng bà không
chịu thụ giới với nhà sư. Bà nói:
" Từ khi Tiên đế ra đi, ta không thể trông thấy mặt nhà sư, ngồi nói
chuyện với nhà sư được, chỉ ăn chay, húp cháu khổ hạnh để báo đáp đức lớn như
trời của tiên đế thôi, y bát1038
mà làm gì?".
Bà ở núi mười năm rồi mất.
Tá Thánh thái sư Chiêu Văn Đại Dương Nhật Duật mất ( thọ 77 tuổi ).
Nhật Duật thích chơi với người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi thôn Bà
Già ( thôn này hồi Lý Thánh Tông đánh chiếm Chiêm Thành, bắt được người Chiêm
cho ở đấy, lấy tiếng Chiêm đặt tên là Đa Gia Ly, sau gọi sai thành "Bà
Già") có khi ba, bốn ngày mới về. Lại hay đến chơi chùa Tường Phù, nói
chuyện với nhà sư người Tống, ở lại đến hôm sau mới về. Người nước ngoài đến
kinh sư, thường kéo đến nhà ông. Nếu là khách Tống thì ông kéo ghế ngồi gần,
chuyện trò suốt buổi, nếu là người Chiêm hay người các man khác, thì đều theo
phong tục nước họ mà tiếp đãi.
Đời Nhân Tông, sứ nước Sách Mã Tích1039
sang cống, không tìm được người phiên dịch. Chỉ có [2b] Nhật
Duật là dịch được. Có người hỏi vì sao ông biết tiếng nước họ, ông trả lời
rằng:
"Thời Thái Tông, sứ nước ấy sang1040
nhân có giao du với họ nên hiểu được đôi chút tiếng nước
họ".
Nhân Tông từng bảo:
"Chiêu Văn Vương1041
có lẽ là kiếp sau của người phiên lạc, nên giỏi tiếng các nước
đó".
Khi đã làm tể tướng, ông thường qua nhà Trần Đạo Chiêu là người Tống, ngồi
bên nhau nói chuyện phiếm hàng giờ mà không mỏi. Anh Tông nghe biết chuyện bảo
ông:
"Tổ phụ1042
là tể tướng. Đạo Chiệu tuy là người Tống, nhưng đã có Hàn lâm
phụng chỉ, há nên ngồi nói chuyện với hắn?".
Theo lệ cũ, sứ Nguyên sang, phải sai người biết tiếng để phiên dịch, tể
tướng không được nói chuyện [trực tiếp ] với họ, sợ lỡ có sai sót gì thì đỗ lỗi
cho người phiên dịch. Nhật Duật thì không thế, khi tiếp sứ Nguyên, ông thường
nói chuyện thẳng với họ mà không mượn người phiên dịch. Đến khi sứ về nơi nghỉ
thì dắt tay cùng vào, ngồi uống rượu vui vẽ như bạn vẫn quen biết. Sứ Nguyên hỏi
ông:
"Ông là người Chân Định1043
tới làm quan ở đây chớ gì ? ".
Nhật Duật ra sức bác lại, nhưng họ vẫn không tin [3a] vì hình dáng và tiếng
nói của ông đều giống người Chân Định.
Anh Tông muốn tuyên Tôn Từ hoàng thái hậu làm Thái hoàng thái hậu, nhưng
chưa biết gia tôn thế nào. Khâm Từ hoàng thái hậu đem việc ấy hỏi ông, ông trả
lời là tôn làm thái hoàng thái hậu.
Anh Tông có hai chiếc mũ võ, là mũ đội khi duyệt và giảng võ mà chưa có tên
gọi. Khi đi đánh Chiêm Thành, định đội đi, sai Nhật Duật đặt tên, Nhật Duật
liền đặt tên một chiếc là Vũ Uy, một chiếc là Vũ Đức. Đến các tênb"Toát
Trai", "Tư thiện đường" của Đông cung ( nhà học của hoàng thái
tử gọi là Tư thiện đường, nhà học của Đông thái tử gọi là Toát trai) cũng đều
là do ông đặt tên cả.
Những tiết tấu âm nhạc, khúc điệu múa hát cũng do Nhật Duật sáng tác.
Đ ạ
i V i ệ
t S ử
K ý B ả
n K ỷ
T o à n T h ư
Quyển VIII
[1a]
K ỷ N h à T r ầ n
Phế Đế
Tên húy là Hiện, con trưởng của Duệ Tông, mẹ là bà Gia Từ
hoàng hậu Lê thị, sinh ngày mồng 6 tháng 3, năm Đại Trị thứ 4, Tân Sửu (1361),
đến khi Duệ Tông đi đánh phương Nam rồi mất, được Nghệ Tông lập nên làm vua.
Sau bị giáng làm Linh Đức Vương, rồi bị thắt cổ chết. Ở ngôi 12 năm, thọ 28
tuổi, chôn ở núi An Bài.
Vua u mê, nhu nhược, không làm nổi việc gì, uy quyền ngày càng về tay kẻ
dưới1142
, xã tắc lung lay, đến thân mình cũng không giữ được. Thương
thay!
Mậu Ngọ, Xương Phù năm thứ 2 [1378], (Minh Hồng Vũ năm thứ
11). Mùa xuân, tháng giêng, tuyển chọn vệ sĩ. [Lấy] Trần
Tông Ngoạn quản quân Thiên Đinh; Trần Trung Hiếu coi quân Bảo Tiệp; Trần Thế
Đăng coi quân Thần Dực; Bùi Bá Ngang coi quân Thần Sách; Bùi Hấp coi quân Thiên
Uy; Hoàng Phụng Thế coi quân Thánh Dực; Lê Mật Ôn coi quân Hoa Ngạch; Đỗ Dã Ca
coi quân Thị Vệ; Nguyễn Tiểu Luật [1b] coi quân Thiên Trường; Trần Na coi quân
Long Tiệp; Nguyễn Kim Ngao coi quân Thần Vũ.
Tháng 3, lấy ngày sinh làm tiết Quang Thiên.
Xuống chiếu cho các quân chế tạo vũ khí và thuyền chiến.
Mùa hạ, tháng 5, ngày mồng 5, người Chiêm đưa Ngự Câu Vương Húc đã đầu hàng
đến cướp phủ Nghệ An, tiếm xưng vị hiệu đề chiêu dụ dân chúng, nhiều người theo
lệnh của bọn ngụy.
Tháng 6, giặc đánh vào sông Đại Hoàng1143
Vua sai Hành khiển Đỗ Tử Bình đi chống giữ. Quan quân tan vỡ.
Giặc liền đánh vào kinh sư, bắt người cướp của rồi rút về. An phủ sứ Lê Giốc bị
giặc bắt. Giặc buộc Giốc phải lạy, Giốc trả lời chúng:
"Ta là quan của nước lớn, sao phải lạy chúng mày!".
Giặc nổi giận, giết ông. Giốc luôn miệng chửi chúng. Việc này tâu lên, Giốc
được truy phong là Mạ Tặc Trung Vũ hầư1144
, cho con ông là Nhuế làm Chánh chưởng bốn cục Cận thị chi hậu,
Giốc là con của cố Nhập nội hành khiển thượng thư hữu bật Lê Quát.
[2a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Bỏ sống đễ giữ nghĩa còn hơn là
sống; cầu sống mà nhục, người quân tử không làm. Kinh dịch nói: Người quân tử
thà hy sinh tính mạng để thực hiện chí hướng của mình1145
. Giốc là người như vậy.
Mùa thu, tháng 7, nước lớn.
Đỗ Tử Bình kiến nghị thu mỗi hộ đinh nam 3 quan tiền. Vua nghe theo. Bấy giờ
đương có việc dùng binh mà kho tàng trống rỗng, nên Tử Bình có kiến nghị này.
Theo lệ cũ, các trấn hễ có việc binh thì lệnh cho mỗi huyện có bao nhiêu
ruộng thì phải nộp bao nhiêu vàng, bạc, tiền, lụa, không tính thêm theo số nhân
đinh1146
sinh ra, cũng không trừ bớt theo số người đã chết. Nếu phục dịch
việc binh, thì đều thu bổ theo số ruộng cả. Các lộ có đơn binh1147
, là phải phục dịch việc binh, [những người này] đời đời làm [2b] lính, không
được ra làm quan. Người nào có ruộng, bãi dâu, đầm cá thì phải đóng thuế, không
có thì thôi. Đến đây, Tử Bình bắt chước phép đánh thuế dung1148
của nhà Đường, thuế má lại nặng thêm.
Mùa đông, tháng 10, lựa chọn những người khoẻ mạnh, dũng cảm, thông hiểu võ
nghệ trong các vệ quân sung làm vệ sĩ.
Lấy Nguyễn Bát Sách, người cùng một vú nuôi với nhà vua quản lĩnh quân Thiếu
Sang; Nguyễn Văn Nhi quản lĩnh quân Thiết Sang; Nguyễn Văn Nhi quản lĩnh quân
Thiết Giáp; Nguyễn Hổ, Lê Lặc quản lĩnh quân Thiết Liêm; Nguyễn Thánh Du quản
lĩnh quân Thiết Hổ; Trần Quốc Hưng quản lĩnh quân Ô Đồ.
Năm nay, con của Thượng hoàng là Ngung sinh (tức là Thuận Tông).
Kỷ Mùi, [Xương Phù] năm thứ 3 [1379], (Minh
Hồng Vũ năm thứ 12). Mùa xuân, tháng 2, Lê Quý Ly làm Tiểu tư không kiêm Hành
khu mật đại sứ như cũ.
Quý Ly tiến cử Nguyễn Đa Phương làm tướng quân. Đa Phương là con của Sư Tề.
Quý Ly hồi nhỏ theo học Sư Tề, Sư Tề dạy cho võ [3a] nghệ, nhân đó nhận Đa
Phương làm em. Đa Phương từng bị Chiêm Thành bắt, sau đó trốn về. Đến đây, Quý
Ly tiến cử ông ta. Lại có chủ thư thị ngự sử Phạm Cự Luận giỏi bày mưu tính kế,
Quý Ly tiến cử làm quyền đô sự. Người bấy giờ bảo Quý Ly có "phương viên
tá lự1149
.
Mùa hạ, hạn hán, đói to.
Mùa thu, tháng 8, Nguyễn Bồ, ngưi lộ Bắc Giang tự xưng là Đưởng lang tử y,
dùng pháp thuật, tiếm hiệu xưng vương làm loạn, bị giết.
Tháng 9, sai quân dân chở tiền đồng giấu vào núi Thiên Kiện1150
(núi Thiên Kiện trước gọi là núi Địa Cận, tục truyền có cây tùng
cổ, rồng quấn ở trên, Trần Thái Tông dựng hành cung ở đó).
Mùa đông, tháng 10, giấu [tiền] ở khám1151
Khả Lãng, Lạng Sơn, là vì sợ nạn người Chiêm đốt cung điện.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thiên tử có cả bốn biển, kho tàng
phủ khố đâu chẳng phải là [3b] của mình? Đương khi nước nhà nhàn hạ thì làm tỏ
chính hình, sửa sang lễ nghĩa, ví như con chim đi lấy rễ dâu ràng buộc cửa tổ1152
, thì ai làm nhục mình được? Thế mà sợ tai nạn Chiêm Thành đốt cướp, đem chở
tiền của giấu tận hang cùng núi thẳm, làm kế tránh giặc, thực là nhử giặc đến,
chuốc lấy tiếng chê cười của đời sau. Có thể coi là cả nước không còn người nữa
vậy!.
Hữu tướng quốc Cung Tín Vương Thiên Trạch mất.
Canh Thân, [Xương Phù] năm thứ 4 [1380], (Minh Hồng Vũ năm thứ 13). Mùa xuân, tháng 2, người Chiêm xúi giục
người Tân Bình, Thuận Hóa ra cướp Nghệ An, Diễn Châu, cướp của bắt người.
Tháng 3, [Chiêm Thành lại] cướp các nơi ở Thanh Hóa. Thượng hoàng sai Lê Quý
Ly chỉ huy quân thủy, Đỗ Tử Bình chỉ huy quân bộ đi chống giữ. Đến Ngu [4a]
Giang1153
, đóng cọc ở giữa sông cầm cự với người Chiêm.
Mùa hạ, tháng 5, Quý Ly dẫn viên tướng chỉ huy quân Thần Vũ và Nguyễn Kim
Ngao và tướng chỉ huy quân Thị vệ là Đỗ Dã Kha ra đánh. Kim Ngao quay thuyền
trở lại để tránh mũi nhọn của giặc. Quý Ly chém Ngao để rao trong quân. Các
quân nổi trống hò reo mà tiến. Chúa Chiêm Chế Bồng Nga thua trận rút chạỵ Tử
Bình từ đó cáo ốm, không giữ binh quyền nữa. Chỉ còn Quý Ly chuyên lãnh chức
Nguyên nhung hành Hải Tây đô thống chế1154
.
Mùa đông, tháng 11, lấy Đỗ Tử Bình làm Nhập nội hành khiển tả tham tri chính
sự, lĩnh chức Kinh lược sứ Lạng Giang, được vài năm thì chết, được truy tặng
Thiếu bảo, và được tòng tự ở Văn Miếu.
Phan Phu Tiên nói: Bậc danh nho các đời có bài trừ được dị
đoan, truyền giữ được đạo thống thì mới được tòng tự ở Văn Miếu, thế là để tỏ
rõ đạo học có ngọn nguồn. Nghệ Tông cho Chu An [4b], Trương Hán Siêu, Đỗ Tử
Bình được dự vào đó, thì Hán Siêu là người cứng cỏi, bài xích đạo Phật, An sửa
mình trong sạch, bền giữ khí tiết, không cầu hiển đạt, thì cũng tạm được. Đến
như Tử Bình là hạng học nhảm chiều người, tham lam bòn vét, là kẻ gian thần hại
nước, sao lại được len vào chổ đó?
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Tử Bình lén đánh cắp vàng cống của Bồng Nga, tậu
bậy lừa vua, để đến nỗi Duệ Tông đi tuần phương nam không trở về nữa, nước nhà
từ đó liên tiếp có tai họa Chiêm Thành vào cướp, tội ấy giết cũng chưa đáng,
còn học nhảm chiều người thì chê trách làm gì?
Tân Dậu, [Xương Phù] năm thứ 5 [1381], (Minh Hồng Vũ năm thứ 14). Mùa xuân, tháng 2, thi thái học sinh.
Tháng 2, sai quốc sư Đại Than1155
đốc suất tăng nhân trong nước và các tăng nhân không có độ điệp
ở rừng núi, người nào khỏe mạnh thì tạm [5a] làm quân đi đánh Chiêm Thành.
Mùa hạ, tháng 4, chém Hồ Thuật người Diễn Châu, vì nhân giặc Chiêm Thành,
Thuật rủ người đi cướp của.
Tháng 5, lấy Đào Sư Tích làm Nhập nội hành khiển hữu ly lang trung, Toàn
Bân, cha Sư Tích, làm tri Thẩm hình viện sự.
Tháng 6, rước thần tượng các lăng ở Quắc Hương1156
, Thái Đường1157
, Long Hưng, Kiến Xương đưa về lăng lớn ở Yên Sinh để tránh [nạn] người Chiêm
Thành vào cướp.
Mùa thu, tháng 9, lấy Nguyễn Nhiên làm Nhập nội hành khiển hữu ty. Nhiên
người Tiên Du. Trong năm Thiên Khánh1158
làm Chi hậu nội nhân, biết Nhật Lễ định giết hại họ Trần, mật
báo cho Thượng hoàng. Đến đây, Thượng hoàng nhớ công ấy, nên trao cho ông chức
đó.
Mùa đông, tháng 10, hoàng hậu Gia Từ băng ở am Tây chùa Chiêu Khánh (nay là
chùa Triệu Khánh) hương Long Đàm1159
.
Vua dụ giết Quan phục hầu đại vương Húc.
[5b] Nhâm Tuất, [Xương Phù] năm thứ 6 [1382], (Minh Hồng Vũ năm thứ 15). Mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành vào cướp
Thanh Hóa. [Vua] sai Quý Ly đem quân đi chống giữ. [Quý Ly] đóng quân ở núi
Long Đại1160
. Cho tướng coi quân Thần Khôi là Nguyễn Đa Phương giữ hàng cọc đóng ở [cửa]
biển Thần Đầư1161
.
Người Chiêm tiến đến bằng cả hai đường thủy bộ. [Quân giặc] ở trên núi lấy
đá ném xuống, thuyền quân ta bị hỏng nhiều. Đa Phương không đợi lệnh của Quý
Ly, tự ý cho mở hàng cọc xông ra đánh, một chốc thì thắng. Các quan thừa thắng
tấn công. Chiêm Thành thua to, chạy tán loạn vào rừng núi. Quân ta vây núi ba
ngày, giặc nhiều tên bị chết đói. Ta đốt hết thuyền bè của giặc, tàn quân giặc
chạy trốn cả. Tháng 3, đuổi giặc đến thành Nghệ An rồi về.
Mùa hạ, tháng 4, tin thắng trận báo về, phong Nguyễn Đa Phương làm Kim ngô
vệ đại tướng quân.
Mùa thu, tháng 7, nước to.
Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu cho quân dân Nghệ An, Diễn Châu đào các kênh
ở Hải Tây.
[6a] Quý Hợi, [Xương Phù] năm thứ 7 [1383], (Minh Hồng Vũ năm thứ 16). Mùa xuân,
Đ ạ i V i ệ t S ử
K ý B ả
n K ỷ
T o à n T h ư
Quyển IX
[1a]
K ỷ H ậ u T r ầ n
Giản Định Đế
Tên húy là Ngỗi, con thứ của Nghệ
Tông, tên hiệu cũ là Giản Định, họ Hồ đổi phong là Nhật Nam Quận Vương. Cuối
đời Hồ, khởi binh khôi phục nhà Trần. Ở ngôi hơn 2 năm. Vua không có tài dẹp
loạn, lại giết bỏ người giúp mình, tự chuốc lấy diệt vong, chẳng phải vì không
may.
Đinh Hợi, Hưng Khánh năm thứ 1
[1407], (từ tháng 10 trở về trước là Hán Thượng Khai Đại năm thứ 5, Minh Vĩnh
Lạc năm thứ 5). Mùa xuâ, tháng 2, ngày 20, Tả tướng quốc Hồ Trừng tiến quân đến
sông Lô, quân Minh giữ hai bên bờ sông đánh kẹp lại, quân Trừng thất bại, lui
giữ cửa Muộn1335
. Quý Ly và Hán Thương đều trở về Thanh Hóa. Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm
phản. Hồ Đỗ, Hồ Xạ bỏ Bình Than qua Thái Bình, Đại Toàn đến cửa muộn1336
, hợp sức đắp lũy, đúc hỏa khí, đóng thuyền chiến để chống giặc. Quyên mộ tiền
của, ai đóng góp thì được lấy con gái tôn thất và được cấp 10 mẫu ruộng.
Thị trung của họ Hồ là Trần Nguyên
Chỉ cùng công chúa Thiên Huy dẫn nhân dân tránh loạn ra Đồ Sơn, trung thư lệnh
Trần Sư Hiền cùng công chúa Thiên Gia ngược dòng sông Cái đều đầu hàng quân
Minh.
Tướng chỉ huy quân Thần Đinh của họ
Hồ là Ngô Thành nhân gió theo nước triều lên tiến đánh, đột kích đến Giao Thủy.
Phụ, Thạnh chia quân ra hai bên bờ sông chặn đánh. Thành thế cô bị hãm trận
chết, được truy tặng Kiêu vệ tướng quân.
Người Kiến Hưng là Nguyễn Nhật Kiêm
tụ tập bạn bè đảng giết viên Trấn phủ sứ Phan Hòa Phủ rồi đầu hàng Trương Phụ
(sau Nhật Kiên kiêu căng không giữ phép, bị Phụ giết).
Quân Minh đối luỹ với quân Hồ, ngày
đêm đánh nhau, vì nắng mưa, dịch bệnh, lại bùn lầy ẩm uớt khó ở, chúng bèn dời
đến đóng ở Hàm Tử, lập doanh trại phòng bị nghiêm ngặt. Tả tướng quốc Trừng và
Hồ Đỗ cũng dời quân đến Hoàng Giang, lại đón Quý Ly, Hán Thương từ [2a] Thanh
Hóa tới. Bấy giờ người ở Kinh lộ bị quân Minh sai khiến và mất cả gia thuộc,
mang lòng oán hận, các quân nhân và tráng đinh đều đến cửa quân tự nguyện gắng
sức lập công.
Tháng 3, ngày 13, Tả tướng quốc Hồ
Trừng cùng Hồ Đỗ, Đỗ Mãn tiến quân đến cửa Hàm Tử.
Hồ Xạ và Trần Đĩnh chỉ huy quân bộ ở
bờ nam; Đỗ Nhân Giám, Trần Khắc Trang chỉ huy quân bộ ở bờ bắc; Nguyễn Công
Chửng chỉ huy 100 chiến thuyền làm tiên phong. Trừng và Đỗ ở trong doanh bọn Đỗ
Mãn, Hồ Vấn chỉ huy quân thủy. Quân thủy, quân bộ tổng cộng 7 vạn người, nói
phao là 21 vạn, đều tiến đánh. Người Minh chia hai mặt thủy bộ xông ra. Quân
hai bên bờ sông của họ Hồ quay ngược
giáo nhảy xuống chết, chỉ có thủy
quân thoát được. Nhưng các thuyển chiến và thuyền chở lương đều bị chìm, không
một người nào sống sót về được.
Khi ấy Hồ Xạ biết người Minh có mai
phục, không chịu tiến quân. Hồ Đỗ [2b] sai người đến trách rằng: "Tướng
quân sao không đánh giặc?". Xạ bèn tiến đánh, bị thua. An phủ sứ Bắc Giang
Nguyễn Hy Chu bị Trương Phụ bắt sống, Hy Chu chửi Phụ là giặc tàn bạo, bị Phụ
giết.
Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, nhà
Minh xuống chiếu cho tìm khắp nơi con cháu họ Trần lập làm quốc vương. Bọn quan
lại và bô lão nhiều lần nói là đã bị họ Lê giết hết cả, không còn ai có thể nối
dõi nhà Trần được nữa. Nước An Nam vốn là đất Giao Châu, xin được trở lại làm
quận huyện như xưa để cùng các nha môn vệ, sở, phủ, châu, huyện. Lấy Đô chỉ huy
Lữ Nghị giữ đô ty. Bắc Kinh hành bộ Thượng thư Hoàng Phúc giữ hai ty Bố chính
và Án sát. Lại cấm sai phái và ngừng thu các loại thuế 3 năm.
Quý Ly và Hán Thương dẫn các tướng
và quan lại [3a] vượt biển trở về Thanh Hóa.
Ngày 23, quân Minh đánh vào Lỗi
Giang1337
, quân Hồ không đánh mà tan.
Ngày 29, quân Minh đánh vào cửa biển
Điển Canh1338
, quân Hồ bỏ thuyền tự tan vỡ. Hai [cha con] họ Hồ định lánh đến Thâm Giang1339
nhưng không thành. Nguỵ Thức xin hai cha con họ Hồ tự thiêu. Ông nói:
"Nước đã sắp mất, bậc vương giả
không chết bởi tay kẻ khác".
Quý Ly giận, chém chết.
Tháng 5, ngày mồng 5, quân Minh đánh
vào cửa biển Kỳ La1340
, châu Nhật Nam. Nguyễn Đại (Nguyễn Đại trước thờ họ Hồ, sau phản lại họ Hồ,
đầu hàng quân Minh, đến đây dẫn người Minh sang xâm lược) bắt được Hữu tướng
quốc Quý Tỳ và con ông là Phán trung đô Nguyễn Cửu1341
.
Ngày 11, quân Minh đánh vào Vĩnh
Ninh1342
. Bọn vệ quân Vương Sài Hồ 7 người bắt được Quý Ly ở bãi Chỉ Chỉ; Giao Châu hữu
vệ quân là bọn Quý Bảo 10 người bắt được Tả tướng quốc Trừng ở cửa biển Kỳ La.
Ngày 12, đầu mục bộ hạ của Mạc Thúy
[3b] là bọn Nguyễn Như Khanh bắt được Hán Thương và thái tử Nhuế ở núi Cao Vọng1343
.
Bọn Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngạn
Quang, Đoàn Bồng đều bị bắt. Còn bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn
Cẩn, Đỗ Mãn đều đã đầu hàng từ trước.
Duy có Hành khiển tham tri chính sự
Ngô Miễn, trực trưởng Kiều Biểu nhảy xuống nước chết. Khi Miễn chết, vợ là
Nguyễn thị ngửa mặt lên trời than rằng:
"Chồng ta thờ chúa, một đời ăn
lộc, ngày nay giữ tiết nghĩa mà chết, thế là chết xứng đáng, còn oán hận gì nữ?
Nếu thiếp muốn sống cho qua ngày, chẳng lẽ lại không còn chỗ đến nữa hay sao?
Nhưng đạo chồng, ơn vua, một chốc mà phụ bạc thì thiếp không nỡ nào! Chi bằng,
xin theo nhau!".
Nói xong, cũng nhảy xuống nước chết.
Nói Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vợ Ngô
Miễn là Nguyễn thị, không những chỉ chết vì ngghĩa mà [4a] thôi, câu nói cũng
đủ làm lời khuyên cho đời, nên chép ra đây để nêu gương.
Trước hai [cha con] họ Hồ đến Kỳ La
là định chạy vào Tân Bình. Dân ở đó, có một phụ lão ra bái yết thưa rằng:
"Xứ này tên là Ky Lê1344
, trên có núi Thiên Cầm là điều không lành. Xin chớ lưu lại".
[Quý Ly] liền chém người ấy. Đến
đây, quả nhiên bị bắt trói ở chổ ấy.
Người Minh thống kê những thứ đã thu
được: 48 phủ, châu, 168 huyện, 3.129.500 hộ, 112 con voi, 420 con ngựa, 35.750
con trâu bò, 8.865 chiếc thuyền.
Trước đây, Hoàng Hối Khanh nhân lệnh
cai trị Thăng Hoa. Khi đến quận, dùng thổ quan là Đặng Tất và Phạm Thế Căng làm
tâm phúc. Tất cả cùng Tả châu phán Nguyễn Rổ vốn ghen ghét nhau vì công trạng.
Gặp khi hai họ Hồ chạy về phía tây, [4b] bị quân Minh đánh gấp, viết thư báo
Hối Khanh lấy một phần ba số dân di cư khi trước, gộp với quân lính địa phương
giao cho Rỗ chỉ huy để làm quân cần vương, lại sắc phong cho Cổ Lũy huyện
thượng hầu Chế Ma Nô Đà Nan làm Thăng Hoa quận vương để vỗ yên dân Chiêm Thành.
Hối Khanh đều giấu đi không cho mọi người biết.
Đến khi Chiêm Thành cất quân định
thu lại đất cũ, dân di cư sợ chạy tan cã, bọn Hối Khanh trở về Hóa Châu, chỉ
một mình Ma Nô Đà Nan chống nhau với Chiêm Thành, thế cô sức núng, bị người
Chiêm giết chết. Hối Khanh trước đã thề bồi với dân Nghĩa Châu. Rỗ biết Tất và
Hối Khanh có ý đồ khác nên không đi dự thề. Hối Khanh trở về Hóa Châu, thì Rỗ
đưa dân di cư đi đường bộ đến chậm, Tất đi đường thủy đến trước, Trấn phủ sứ lộ
Thuận Hóa là Nguyễn Phong ngăn không cho vào. Tất cố sức đánh, giết Phong, vào
được thành, lại đánh nhau với Rỗ [5a] hơn một tháng. Rỗ không có viện binh,
liềm đem gia quyến sang Chiêm Thành. Hối Khanh đem giết mẹ và gia thuộc của Rỗ.
Chiêm Thành cho Rỗ làm quan to. Sau nhà Minh đòi Rỗ đến Kim Lăng, giả cách cho
làm Hồ Quảng chỉ huy sứ, rồi giết đi.
Hai cha con họ Hồ đã thất bại, Thế
Căng trở về Tân Bình, đón hàng người Minh ở Nghệ An nhận chức Tri phủ của
Trương Phụ, cướp bóc của dân rồi trở về. Chiêm Thành lại chiếm cứ Thăng Hoa,
rồi sang cướp Hóa Châu. Tất xin với Phụ cho làm quan để cai quản Hóa Châu,
Chiêm Thành dẫn quân rút về. Đến đây, Tất sai người đưa Hồi Khanh về, đến cửa
biển Đan Thai1345
thì Hối Khanh tự vẫn. Phụ đem phụ cấp của Khanh ra bêu ở chợ Đông Đô.
Trương Phụ, Mộc Thạnh sai Đô đốc
thiêm sự Liễu Thăng; Hoành hải tướng quân Lỗ Lân; Thần cơ tướng quân Trương
Thăng, Đô chỉ huy sứ Du Nhượng; Chỉ huy đồng tri Lương Định; Chỉ huy thiêm sự
Thân [5b] Chí bằ1t giải Quý Ly và các con là Hán Thương, Trừng, Triết, Uông,
các cháu là Nhuế, Lô, Phạm, cháu nhỏ là Ngũ Lang, em là Quý Tỳ, cháu gọi bằng
bác là Nguyên Cữu, Tử Tuynh, Thúc Hoa, Bá Tuấn, Đình Việp, Đình Hoảng; các
tướng thần là Đông Sơn hương hầu Hồ Đỗ, Hành khiển Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh
Kỳ; các tướng quân là huyện bá Đoàn Bổng, đình bá Trần Thang Mông, trung lang
tướng Phạm Lục Tài cùng các ấn tín đến Kim Lăng để dâng.
Vua Minh hỏi rằng : "Trung Quốc
như vậy, sao không sợ phục mà dám láo xược chống cự?".
Đều trả lời là không biết.
Vua Minh nói: "Từng sai sứ giả
sang bảo, không phải là không biết".
Nhà Minh vờ cho Vương Nhữ Tương,
Đồng Ngạn Hú, Nguyễn Quân, Lê Sứ Khải làm Kinh Bắc1346
thị lang và tham chính ở Sơn Tây, Thiểm Tây, Sơn Đông, sai người đưa đi, đến
nửa đường thì giết.
Mùa thu, tháng 7, gió lớn [6a] nước
to.
Người Minh lùng tìm những người ẩn
dật ở rừng núi, người có tài có đức, thông minh chính trực, giỏi giang xuất
chúng, thông kinh giỏi văn, học rộng có tài, quen thuộc việc quan, chữ đẹp tính
giỏi, nói năng hoạt bát, hiếu để lực điền, tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh dũng
cảm, quen nghề đi biển, khéo các nghề nung gạch, làm hương... lục tục đưa dần
bản thân họ về Kim Lăng, trao cho quan chức, rồi cho về nước làm quan phủ,
châu, huyện. Những người có tiếng tăm một chút đều hưởng ứng.
Duy có Bùi Ứng Đẩu từ chối, lấy cớ
đau mắt, bọn hạ trai học sinh Lý Tử Cấu mấy người lui ẩn không chịu ra mà thôi.
Bấy giờ có câu ngạn ngữ: "Muốn sống vào ẩn núi rừng, muốn chết làm quan
triều Ngô1347
. Đến khi Thái Cao Tổ Hoàng đế1348
ta diệt trừ bọn hung tàn, bọn nguỵ quan, đứa nào có tiếng xấu đều bị giết hết,
quả đúng như [6b] lời ấy.
Trương Phụ cho là Nguyễn Đại có công
trong việc bắt hai cha con họ Hồ, trao cho chức Giao Chỉ đô chỉ huy sứ. Đại
kiêu căng ra mặt, lại ngầm có chí làm phản. Phụ bèn giết đi.
Tháng 8, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem
quân về, lưu lại đô ty Lữ Nghị, thượng thư Hoàng Phúc để trấn giữ. (Phúc người
Xương Ấp, tỉnh Sơn Đông). Trước đây, Hoàng Phúc đốc suất thổ binh tỉnh Quảng
Tây điều vận lương thực, theo quân tiến đánh. Đến đây, được giữ lại. Phúc là
người thông minh, giỏi ứng biến, có tài trị dân, người ta phục là giỏi.
Phan Phu Tiên nói: Họ Hồ mất nước,
Nguyễn Hy Chu chửi giặc, Hồ Xạ, Đỗ Nhân Giám (Nhân Giám là con Đỗ Mãn) chết
trận, Lê Cảnh Kỳ đến Kim Lăng không chịu ăn. Loại người như vậy, tựa hồ có thể
khen là chết vì tiết nghĩa được. Nhưng Hy Chu từng xui họ Hồ giết họ Trần; [7a]
cha con Nhân Giám là bề tôi cũ của nhà Trần, thế là phường ác giúp nhau. Anh
ruột của Xạ là Ông Thiện can tội đảng [mưu giết Quý Ly] bị chết, Xạ không chút
đoái hoài, lại hăng hái đánh giặc cho Quý Ly. Thế là chỉ biết ăn lộc của ai chế
vì người ấy là nghĩa mà không biết người ấy là kẻ bất nghĩa. Cảnh Kỳ là người
chỉ lo thỏa mãn thân mình, kiếm chác lộc vị, không chết khi Quý Ly cướp ngôi mà
chết lúc hắn bị bại vong thì không đáng khen. Còn như Ngô Miễn, Nguyễn Lệnh,
Kiều Biểu vốn là kẻ hoạn nạn, cái chết của bọn họ là điều nên lắm. Than ôi!
Dương Hùng nhảy từ trên gác xuống3 không phải là người trung nghĩa, nhưng khó
tránh khỏi cái tội làm tôi cho Vương Mãng. Thiệu Hốt chết theo4 không thể coi
là phải đạo, thế nhưng những kẻ phản trắc há chẳng thấy thế mà phấp phỏng chột
dạ hay sao?.
[7b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Ngày
xưa, Hạ Trưng Thư giết Trần Linh Công, người trong nước không đánh giết được.
Sở Tử vào nước Trần, giết Trưng Thư rồi dùng xe xé xác ở cử thành, kinh Xuân
thu ca ngợi việc đánh giết đó.
Họ Hồ giết Trần Thuận Tông mà cướp
lấy nước, những người như Trần Hãng, Trần Khát Chân mưu giết mà không được. Sau
khi họ chết, trong khoảng 7, 8 năm, không còn ai có thể làm được việc ấy nữa.
[Họ Hồ] tự cho là người trong nước không còn ai dám làm gì nữa. Nhưng bọn loạn
thần tặc tử thì ai ai cũng có thể giết chết chúng được và trời cũng không một
ngày nào tha trừng phạt chúng dưới gầm trời này! Người trong nước giết chúng không
được thì ngưoời nước láng giềng có thể giết, người nước láng giềng giết không
được thì người Di người Địch có thể giết. Vì thế người Minh mới có thể giết
được chúng. Còn như [người Minh] giả nhân giả nghĩa, sát hại sinh linh thì
chính là một bọn giặc tàn bạo. [8a] Cho nên Thái Cao Tổ Hoàng Đế ta lại có thể
tiêu diệt được bọn chúng.
Than ôi, bọn phạm tội đại ác làm sao
trốn được sự trừng phạt của trời? Đạo trời rõ ràng như vậy, đáng sợ thay!
Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 2, Gản
Định Đế lên ngôi ở Mô Độ1349
, châu Trường Yên, dựng niên hiệu là Hưng Khánh. Trước đó, Trương Phụ yết bảng
bắt các tôn thất họ Trần và đầu mục quan lại cũ để đưa về. Vua trốn chạy đến Mô
Độ. Người Thiên Trường là Trần Triệu Cơ đem quân đến lập lên ngôi, xưng theo
tên hiệu cũ1350
.
Tháng 4, quân Minh đánh vào hành
dinh, vì quân mới chiêu tập, không đánh mà tan vỡ. Vua liền đi về phía tây, đến
Nghệ An tạm đóng tại đó. Đại trị châu Hóa Châu là Đặng Tất nghe tin, giết vien
quan nhà Minh, đem quân tới hội, tiến con gái mình sung vào hậu cung. Vua phong
Tất [8b] làm Quốc công, cùng mưu việc khôi phục.
Người Minh ngờ viên thổ quan là Hữu
tham nghị Bùi Bá Kỳ có bụng khác, bắt đưa về Kim Lăng.
Bá Kỳ (người Phù Nội, Hạ Hồng) vốn
là phe Trần Khát Chân, tự xưng là bề tôi trung nghĩa của Nam triều, trốn sang
nước Minh, vừa gặp tên Trần vương nguỵ là Thiêm Bình đến trước, người Minh hỏi
có biết không, Bá Kỳ trả lời là không biết.
Đến khi nhà Minh đưa Thiêm Bình về
nước, hỏi Thiêm Bình cần bao nhiêu quân, Thiêm Bình nói: "Chẳng qua vài
nghìn thôi, đến đó người ta tự nguyện hàng phục". Bá Kỳ nói rằng không thể
được. Vua Minh giận, phế bỏ Bá Kỳ, đem an trí tại Thiểm Tây, Cam Túc. Đến khi
Thiêm Bình thất bại, vua Minh gọi Bá Kỳ về ban sắc cho, ân cần hứa hẹn lập con
cháu nhà Trần và để Bá Kỳ làm phụ thần, rồi sai Kỳ đi theo quân, nên trao cho
chức ấy. Bá Kỳ không dự với đồng liêu ở nha môn, chỉ ở nhà riêng thu nạp các
viên quan cũ bị sa cơ lỡ bước. Bấy giờ [9a] viên thổ hào ở Đông Triều là Phạm
Chấn lập Trần Nguyệt Hồ làm vua ở Bình Than, đề cờ chiêu an gọi là Trung nghĩa
quân, cho nên người Minh ngờ Bá Kỳ. Sau Trần Nguyệt Hồ bị người Minh bắt, Phạm
Chấn bỏ trốn.
Tháng 12, vua sai Trần Nguyên Tôn,
Trần Dương Đình, cựu hành Trần Ngạn Chiêu lại cùng Phạm Chấn thu quân về Bình
Than. Không bao lâu bị tan vỡ, chạy về hành tại Nghệ An.
Giết bọn nguỵ quan Trần Thúc Giao,
Trần Nhật Chiêu và thuộc hạ hơn 500 người.
Trước đây, người Minh lấy tôn thất
họ Trần là Trần Thúc Giao (là con Trần Nguyên Đán) giữ đất Diễn Châu, cựu tướng
quân Trần Nhật Chiêu giữ đất Nghệ An. Đến đây, vua lên ngôi, vì họ không đón
rước trước nên bị giết.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thiên hạ
đại loạn, nhân dân Nghệ An, Diễn Châu biết [9b] ai là chân chúa. Thúc Dao là
con người tôn thất, Nhật Chiêu là tướng quân cũ, nhận quan tước của nhà Minh,
giữ đất, trị dân, dân không theo có được không? Giết Thúc Dao và Nhật Chiêu là
phải, còn bọn thuộc hạ nên vỗ về mà dùng, thì chúng không cảm kích ơn đức đó
hay sao? Thế là lại giết nhiều như vậy, sao gọi là quan nhân nghĩa được? Xem
như Lê Tiệt và Lê Nguyên Đỉnh nhầm họp quân ở Hát Giang, mưu đánh úp Trùng
Quang Đế, mà Trùng Quang Đế chỉ có Tiệt Đế và Nguyễn Đỉnh thôi, còn đều tha cả,
so với Giản Định Đế thì đằng nào hơn?
Năm ấy đói và dịch bệnh, nhân dân
không cày cấy được, người chết gối lên nhau.
Mậu Tý, [Hưng Khánh] năm thứ 2
[1408], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 6). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 30, tướng nhà
Minh là Trương Phụ cùng bọn thổ quan Mạc Thúy đánh vào Diễn Châu. Vua và Đặng
Tất vì quân ít không địch nổi, rút về nam đến Hoá [10a] Châu, Quân Minh đuổi
theo, đánh vào cửa biển
Bố Chính1351
, Phạm Thế Căng đón hàng, Phụ trao cho chức tri phủ Tân Bình, rồi đặt lưu quan
để cai trị. Phụ trở về Đông Đô.
Mùa hạ, tháng 4, Đặng Tất rước vua
trở về Nghệ An.
Nhà Minh xuống chiếu, đại lược nói:
"Còn nghĩ bọn dư chúng1352
vốn là ngu muội, hoặc vì đói nghèo bức bách, hoặc bị kẻ mạnh bắt ép, hặc bị bọn
gian dụ dỗ, việc không thể đừng, tình cũng đáng thương, nếu nhất loạt bắt tội
cả, trẫm thực không nỡ. Khi chiếu thư này tới, đều tha cho cả. Quan lại ở các
nha môn, quân dân thuộc đất Giao Chỉ hãy thể lòng chí nhân của trẫm phải khoan
hồng thương xót, chớ làm ráo riết, chớ vơ vét của dân, hết thảy những việc
không cần kíp phải ngừng bỏ cả".
Tháng 6, ngày 16, Đặng Tất cả phá
tên bạn thần Phạm Thế Căng ở cửa biển Nhật Lệ, bắt được Thế Căng và cháu nó là
Phạm Đống Cao giải về hành tại giết [10b] đi.
Trước đó, Thế Căng nhận quan chức
của nhà Minh, làm oai làm phúc tiếm xưng là Duệ Vũ Đại Vương. Đến đây, họp quân
chiếm cứ núi An Đại1353
. Tất đánh dẹp được.
Tháng 9, động đất, nhà cửa, cây cối
như nghiêng đổ cả.
Mùa đông, tháng 10, quốc công Đặng
Tất điều quân các lộ Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa tiến
đánh Đông Đô. Khi quân đi qua các xứ Trường Yên, Phúc Thành1354
, các quan thuộc cũ và các hào kiệt không ai không hưởng ứng đi theo. Tất chọn
những người có tài đều trao cho quan chức.
Tháng 12, ngày 14, quốc công Đặng
Tất cả phá quân Minh ở Bô Cô hãn1355
.
Bấy giờ nhà Minh sai tổng binh Mộc
Thanh mang tước Kiềm quốc công, đeo ấn Chinh di tướng quân, đem 5 vạn quân từ
Vân Nam đến Bô Cô, vừa khi vua cũng từ Nghệ An tới, quân dung nghiêm chỉnh, gặp
lúc nước triều lên gấp, gió thổi mạnh, sai các quân đóng cọc giữ, [11a] và lên
hai bên bờ đắp lũy. Thạnh cũng chia quân thủy, quân bộ cùng cầm cự. Vua cầm dùi
đánh trống, hạ lệnh, các quân thừa cơ xông ra đánh, từ giờ Tỵ đến giờ Thân1356
, quân Minh thua chạy, chém được Binh bộ thượng thư Lưu Tuấn, Đô ty Lữ Nghị,
cùng quân mới, quân cũ đến hơn 10 vạn tên. Chỉ một mình Mộc Thạnh chạy thoát
trốn về thành Cổ Lộng1357
.
Vua bảo các quân:
"Hãy thừa thế chẻ tre, đánh
cuốn chiếu thẳng một mạch, như sét đánh không kịp bịt tai, tiến đánh thành Đông
Quan1358
thì chắc chắn phá được chúng".
Tất tâu: "Hãy bắt hết bọn giặc
còn sống sót, không nên để mối lo về sau".
Do dự mãi không quyết định được.
Quân giữ thành Đông Quan đến cứu viện, đón Mộc Thạnh về. Tất chia quân vây các
thành, gửi hịch cho các lộ hành quân đánh giặc.
Phan Phu Tiên nói: Đặng Tất chỉ biết
hành quân là gấp mà không biết cứu [11b] Đông Đô còn gấp hơn. Đông Đô có tầm
hình thế của cả nước. Chiếm được Đông Đô thì
các lộ không đâu không hưởng ứng,
hơn nữa hào kiệt trung châu đều ở cả đó. Bỏ nơi ấy mà không lo đánh chiếm, lại
chia quân phân tán đi các xứ, vì thế hiệu lệnh không thống nhất, rốt cuộc đi
đến sụp đổ là đáng lắm!
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đường Thái
Tông dùng binh, phần nhiều nhân thế chẻ tre mà giành thắng lợi, là vì có tư thế
anh hùng mà tướng và quân vốn đã rèn sẳn. Vua tính kế quyết thắng nhưng Tất
không theo, cố nhiên là đáng tiếc. Song có lẽ Tất liệu vua mình không phải là
bậc anh hùng như [Đường] Thái Tông, mà quân thì từ xa đến, lương thực có thể
không tiếp tế được, còn quân ở kinh lộ thì chưa tập hợp được, chẳng thà theo
phép hơn địch gấp 10 lần thì bao vây, hơn địch gấp 5 lần thì đánh1359
là hơn. Nếu không thế thì thành Cổ Lộng chỉ cách Bô Cô không quá nửa ngày đường
sao vẫn không thể thừa thế chẻ tre mà đánh. [12a] huống chi thành Đông Quan.
Kẻũ ấy cũng chưa lấy gì làm hỏng lắm, chỉ vì vua tin lời gièm mà vội giết Tất
thôi. Than ôi, Đặng Tất sau khi phá được giặc mạnh, trổ tài mới trong khoảng
một tuần một tháng, công việc chưa làm được một nửa mà bị chết oan, đó là cái
họa sụp đổ [của nhà Trần], chứ đâu phải là tội của Tất.
Quan quân đến phủ Kiến Xương, viên
thổ quan đồng tri Trần Quốc Kiệt trốn vào rừng bị chết đói. Trần Phúc1360
nghe tin cho lập đền thờ.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Quốc Kiệt
chết đói, không phải là giữ tiết nghĩa với nhà Minh, mà là xấu hổ vì nhận quan
chức của nhà Minh đó! Thế mới biết lòng hổ thẹn là đầu mối của điều nghĩa. Tiếc
thay Quốc Kiệt không biết xấu hổ ngay từ đầu.
Kỷ Sửu, [Hưng Khánh] năm thứ 3
[1409], (từ tháng 3 trở đi là Trùng Quang đến năm thứ 1, Minh Vĩnh Lạc năm thứ
7). Mùa xuân, tháng 2, giết quốc công Đặng Tất [12b] và Đồng tri khu mật viện
sự tham mưu quân sự Nguyễn Cảnh Chân.
Khi ấy vua đóng ở Hoàng Giang, nội
nhân là Nguyễn Quỹ (có sách viết là?) học sinh Nguyễn Mộng Trang mật tâu rằng
Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất chuyên quyền bổ quan và cách chức, nếu không tính
sớm đi, sau này khó lòng kiềm chế. Vua cho gọi hai người đến, bóp cổ giết Tất,
Chân chạy lên bờ, lực sĩ đuổi theo chém chết.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua may
thoát khỏi vòng vây hãm nguy hiểm, cầu người cứu giúp nạn nước, được cha con
Đặng Tất có tài làm tướng, cha con Cảnh Chân giỏi tài mưu lược, đủ để lập được
công khôi phục, dựng được nghiệp trung hưng. Với trận thắng Bô Cô, thế nước lại
nổi. Thế mà nghe lời gièm pha ly gián của bọn hoạn quan, một lúc giết hại hai
người bề tôi phò tá mình, thì làm sao nên việc được!
Cho nên đức của người làm vua quý ở
chỗ cương quyết, sáng suốt. Cương quyết thì có thể [13a] xử đoán được, sáng
suốt thì có thể xét rõ được. Ôi, nếu lúc đó vua gọi hai đại thần đến, dẫn hai
đứa ấy kể rõ tội gièm pha vu hãm hại đại thần rồi chém ngay chúng đi thì uy
lệnh được thi hành và bọn Tất dũng cảm càng tăng, cảm kích càng sâu, giả sử có
manh tâm chuyên quyền chả lẽ không sợ uy mà phải tự bỏ, sợ gì khó kiềm chế nữa.
Đã không làm được như thế thì chỉ có long đong rồi đến chết chìm mà thôi!
Con Nguyễn Cảnh Chân là Cảnh Dị, con
Đặng Tất là Dung đều căm giận vì cha bị chết oan, mới đem quân Thuận Hóa về
Thanh Hóa, đón rước Nhập nội thị trung Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lên làm vua.
Tháng 3, ngày 17, vua lên ngôi ở Chi
La1359
, đổin niên hiệu là Trùng Quang, lấy Nguyễn Súy là Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm
Thái bảo, Đặng Dung làm đồng bình chương [13b] sự, Nguyễn Chương
làm Tư mã. Giản Định Đế giữ thành
Ngự Thiên1362
chống nhau với quân Minh. Bọn Súy hội đánh úp bắt được.
Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 7, Hưng
Khánh thái hậu1363
cùng với hành khiển là Lê Tiệt, Lê Nguyên Đỉnh ngầm khởi binh ở Hát Giang mưu
đánh úp Trùng Quang Đế. Người Nghệ An là Nguyễn Trạo tiết lộ việc ấy. Trùng
Quang Đế giết bọn Tiệt và Nguyên Đỉnh, còn những người khác đều tha cả.
Ngày 20, bọn Nguyễn Súy dẫn Hưng
Khánh Đế đến sông Tam Chế 1364
ở Nghệ An, trùng Quang đổi mặc áo thường xuống thuyền đón rước. Khi ấy trời đất
đương tối sầm bỗng nhiên mây vàng rực rỡ hiện ra, mọi người đều kinh ngạc. Bèn
tôn Hưng Kháng Đế làm Thượng hoàng, cùng chung sức đánh giặc.
Tháng 5, bà phi của Trùng Quang Đế
mất.
Tháng 6, Hưng Khánh thái hậu mất.
Tháng 7, mưa dầm suốt mấy tuần không
tạnh.
Tổng binh nhà Minh là Mộc Thạnh sai
Hoàng La tới. Vua sai [14a] người tiếp hắn ở Nỗ Giang1365
, Thanh Hóa.
Hai vua ra quân đánh giặc. Thượng
hoàng tiến quân tới Hạ Hồng, vua đem quân đến Bình Than, đóng đinh ở đấy. Quân
Minh đóng ở cửa thành cố thủ. Vua hạ lệnh cứ 4, 5 ngày một lần đi tuần tra. Hào
kiệt các lộ đều hưởng ứng, chỉ có tri phủ Tam Giang1366
là Đỗ Duy Trung (Duy Trung là thổ hào ở Thao Giang) bảo dưỡng quan lại nhà Minh
nên không chịu theo thôi.
Vừa khi tổng binh Trương Phụ, với
tước Anh quốc công đeo ấn Chinh Di tướng quân sang cứu viện, thế quân Minh lại
lên. Thượng hoàng liền bỏ thuyền lên bờ, đến trấn Thiên Quan1367
. Vua ngờ Thượng hoàng có ý khác, sai Nguyễn Súy đuổi theo nhưng không kịp.
Trương Phụ chia quân đuổi theo, bắt được Thượng hoàng và Thái bảo Trần Hy Cát
cùng ấn báu, giải về Kim Lăng, rồi bị hại.
Tháng 8, Trùng Quang Đế cầm cự nhau
với Trương Phụ ở Bình Than.
Vua lệnh cho Bình chương Đặng Dung
giữ cửa Hàm Tử. Bấy giờ [14b] lương thực rất thiếu thốn, Dung chia quân đi gặt
lúa sớm để cấp cho quân. Quân Minh dò biết, dùng thủy quân đánh cửa Hàm Tử,
quân của Dung tan vỡ. Vua nghe tin thất thủ, tự lượng không chống nổi, mới dẫn
quân về Nghệ An mưu việc tiến thủ.
Phụ đi đến đâu, giết chóc rất nhiều,
có nơi thây chất thành núi, có chỗ moi ruột quấn vào cây, hoặc rán thịt lấy mỡ,
hoặc nướng đốt làm trò, thậm chí có đưá mổ bụng lấy thai, cắt lấy hai cái tai
để nộp theo lệnh. Kinh lộ các nơi lần lượt đầu hàng. Những dân còn sót lại bắt
hết làm nô tỳ và bị đem bán, tan tác khắp bốn phương cả.
Thượng thư Hoàng Phúc lại đặt quan
chức, chia ra trị các phủ, huyện từ Thanh Hóa trở ra Bắc. Người địa phương có
ai chiêu an được, hay có công cướp giết, Trương Phụ đều trao cho quan chức.
Hoàng Phúc xin nâng hai châu Thái Nguyên và Tuyên Quang lên thành phủ.
Năm này đói và dịch bệnh nặng hơn
[15a] năm trước.
Đ ạ i V i ệ t S ử
K ý B ả
n K ỷ
T o à n T h ư
Quyển IX
[1a]
K ỷ H ậ u T r ầ n
Giản Định Đế
Tên húy là Ngỗi, con thứ của Nghệ
Tông, tên hiệu cũ là Giản Định, họ Hồ đổi phong là Nhật Nam Quận Vương. Cuối
đời Hồ, khởi binh khôi phục nhà Trần. Ở ngôi hơn 2 năm. Vua không có tài dẹp
loạn, lại giết bỏ người giúp mình, tự chuốc lấy diệt vong, chẳng phải vì không
may.
Đinh Hợi, Hưng Khánh năm thứ 1
[1407], (từ tháng 10 trở về trước là Hán Thượng Khai Đại năm thứ 5, Minh Vĩnh
Lạc năm thứ 5). Mùa xuâ, tháng 2, ngày 20, Tả tướng quốc Hồ Trừng tiến quân đến
sông Lô, quân Minh giữ hai bên bờ sông đánh kẹp lại, quân Trừng thất bại, lui
giữ cửa Muộn1335
. Quý Ly và Hán Thương đều trở về Thanh Hóa. Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm
phản. Hồ Đỗ, Hồ Xạ bỏ Bình Than qua Thái Bình, Đại Toàn đến cửa muộn1336
, hợp sức đắp lũy, đúc hỏa khí, đóng thuyền chiến để chống giặc. Quyên mộ tiền
của, ai đóng góp thì được lấy con gái tôn thất và được cấp 10 mẫu ruộng.
Thị trung của họ Hồ là Trần Nguyên
Chỉ cùng công chúa Thiên Huy dẫn nhân dân tránh loạn ra Đồ Sơn, trung thư lệnh
Trần Sư Hiền cùng công chúa Thiên Gia ngược dòng sông Cái đều đầu hàng quân
Minh.
Tướng chỉ huy quân Thần Đinh của họ
Hồ là Ngô Thành nhân gió theo nước triều lên tiến đánh, đột kích đến Giao Thủy.
Phụ, Thạnh chia quân ra hai bên bờ sông chặn đánh. Thành thế cô bị hãm trận
chết, được truy tặng Kiêu vệ tướng quân.
Người Kiến Hưng là Nguyễn Nhật Kiêm
tụ tập bạn bè đảng giết viên Trấn phủ sứ Phan Hòa Phủ rồi đầu hàng Trương Phụ
(sau Nhật Kiên kiêu căng không giữ phép, bị Phụ giết).
Quân Minh đối luỹ với quân Hồ, ngày
đêm đánh nhau, vì nắng mưa, dịch bệnh, lại bùn lầy ẩm uớt khó ở, chúng bèn dời
đến đóng ở Hàm Tử, lập doanh trại phòng bị nghiêm ngặt. Tả tướng quốc Trừng và
Hồ Đỗ cũng dời quân đến Hoàng Giang, lại đón Quý Ly, Hán Thương từ [2a] Thanh
Hóa tới. Bấy giờ người ở Kinh lộ bị quân Minh sai khiến và mất cả gia thuộc,
mang lòng oán hận, các quân nhân và tráng đinh đều đến cửa quân tự nguyện gắng
sức lập công.
Tháng 3, ngày 13, Tả tướng quốc Hồ
Trừng cùng Hồ Đỗ, Đỗ Mãn tiến quân đến cửa Hàm Tử.
Hồ Xạ và Trần Đĩnh chỉ huy quân bộ ở
bờ nam; Đỗ Nhân Giám, Trần Khắc Trang chỉ huy quân bộ ở bờ bắc; Nguyễn Công
Chửng chỉ huy 100 chiến thuyền làm tiên phong. Trừng và Đỗ ở trong doanh bọn Đỗ
Mãn, Hồ Vấn chỉ huy quân thủy. Quân thủy, quân bộ tổng cộng 7 vạn người, nói
phao là 21 vạn, đều tiến đánh. Người Minh chia hai mặt thủy bộ xông ra. Quân
hai bên bờ sông của họ Hồ quay ngược
giáo nhảy xuống chết, chỉ có thủy
quân thoát được. Nhưng các thuyển chiến và thuyền chở lương đều bị chìm, không
một người nào sống sót về được.
Khi ấy Hồ Xạ biết người Minh có mai
phục, không chịu tiến quân. Hồ Đỗ [2b] sai người đến trách rằng: "Tướng
quân sao không đánh giặc?". Xạ bèn tiến đánh, bị thua. An phủ sứ Bắc Giang
Nguyễn Hy Chu bị Trương Phụ bắt sống, Hy Chu chửi Phụ là giặc tàn bạo, bị Phụ
giết.
Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, nhà
Minh xuống chiếu cho tìm khắp nơi con cháu họ Trần lập làm quốc vương. Bọn quan
lại và bô lão nhiều lần nói là đã bị họ Lê giết hết cả, không còn ai có thể nối
dõi nhà Trần được nữa. Nước An Nam vốn là đất Giao Châu, xin được trở lại làm
quận huyện như xưa để cùng các nha môn vệ, sở, phủ, châu, huyện. Lấy Đô chỉ huy
Lữ Nghị giữ đô ty. Bắc Kinh hành bộ Thượng thư Hoàng Phúc giữ hai ty Bố chính
và Án sát. Lại cấm sai phái và ngừng thu các loại thuế 3 năm.
Quý Ly và Hán Thương dẫn các tướng
và quan lại [3a] vượt biển trở về Thanh Hóa.
Ngày 23, quân Minh đánh vào Lỗi
Giang1337
, quân Hồ không đánh mà tan.
Ngày 29, quân Minh đánh vào cửa biển
Điển Canh1338
, quân Hồ bỏ thuyền tự tan vỡ. Hai [cha con] họ Hồ định lánh đến Thâm Giang1339
nhưng không thành. Nguỵ Thức xin hai cha con họ Hồ tự thiêu. Ông nói:
"Nước đã sắp mất, bậc vương giả
không chết bởi tay kẻ khác".
Quý Ly giận, chém chết.
Tháng 5, ngày mồng 5, quân Minh đánh
vào cửa biển Kỳ La1340
, châu Nhật Nam. Nguyễn Đại (Nguyễn Đại trước thờ họ Hồ, sau phản lại họ Hồ,
đầu hàng quân Minh, đến đây dẫn người Minh sang xâm lược) bắt được Hữu tướng
quốc Quý Tỳ và con ông là Phán trung đô Nguyễn Cửu1341
.
Ngày 11, quân Minh đánh vào Vĩnh
Ninh1342
. Bọn vệ quân Vương Sài Hồ 7 người bắt được Quý Ly ở bãi Chỉ Chỉ; Giao Châu hữu
vệ quân là bọn Quý Bảo 10 người bắt được Tả tướng quốc Trừng ở cửa biển Kỳ La.
Ngày 12, đầu mục bộ hạ của Mạc Thúy
[3b] là bọn Nguyễn Như Khanh bắt được Hán Thương và thái tử Nhuế ở núi Cao Vọng1343
.
Bọn Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngạn
Quang, Đoàn Bồng đều bị bắt. Còn bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn
Cẩn, Đỗ Mãn đều đã đầu hàng từ trước.
Duy có Hành khiển tham tri chính sự
Ngô Miễn, trực trưởng Kiều Biểu nhảy xuống nước chết. Khi Miễn chết, vợ là
Nguyễn thị ngửa mặt lên trời than rằng:
"Chồng ta thờ chúa, một đời ăn
lộc, ngày nay giữ tiết nghĩa mà chết, thế là chết xứng đáng, còn oán hận gì nữ?
Nếu thiếp muốn sống cho qua ngày, chẳng lẽ lại không còn chỗ đến nữa hay sao?
Nhưng đạo chồng, ơn vua, một chốc mà phụ bạc thì thiếp không nỡ nào! Chi bằng,
xin theo nhau!".
Nói xong, cũng nhảy xuống nước chết.
Nói Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vợ Ngô
Miễn là Nguyễn thị, không những chỉ chết vì ngghĩa mà [4a] thôi, câu nói cũng
đủ làm lời khuyên cho đời, nên chép ra đây để nêu gương.
Trước hai [cha con] họ Hồ đến Kỳ La
là định chạy vào Tân Bình. Dân ở đó, có một phụ lão ra bái yết thưa rằng:
"Xứ này tên là Ky Lê1344
, trên có núi Thiên Cầm là điều không lành. Xin chớ lưu lại".
[Quý Ly] liền chém người ấy. Đến
đây, quả nhiên bị bắt trói ở chổ ấy.
Người Minh thống kê những thứ đã thu
được: 48 phủ, châu, 168 huyện, 3.129.500 hộ, 112 con voi, 420 con ngựa, 35.750
con trâu bò, 8.865 chiếc thuyền.
Trước đây, Hoàng Hối Khanh nhân lệnh
cai trị Thăng Hoa. Khi đến quận, dùng thổ quan là Đặng Tất và Phạm Thế Căng làm
tâm phúc. Tất cả cùng Tả châu phán Nguyễn Rổ vốn ghen ghét nhau vì công trạng.
Gặp khi hai họ Hồ chạy về phía tây, [4b] bị quân Minh đánh gấp, viết thư báo
Hối Khanh lấy một phần ba số dân di cư khi trước, gộp với quân lính địa phương
giao cho Rỗ chỉ huy để làm quân cần vương, lại sắc phong cho Cổ Lũy huyện
thượng hầu Chế Ma Nô Đà Nan làm Thăng Hoa quận vương để vỗ yên dân Chiêm Thành.
Hối Khanh đều giấu đi không cho mọi người biết.
Đến khi Chiêm Thành cất quân định
thu lại đất cũ, dân di cư sợ chạy tan cã, bọn Hối Khanh trở về Hóa Châu, chỉ
một mình Ma Nô Đà Nan chống nhau với Chiêm Thành, thế cô sức núng, bị người
Chiêm giết chết. Hối Khanh trước đã thề bồi với dân Nghĩa Châu. Rỗ biết Tất và
Hối Khanh có ý đồ khác nên không đi dự thề. Hối Khanh trở về Hóa Châu, thì Rỗ
đưa dân di cư đi đường bộ đến chậm, Tất đi đường thủy đến trước, Trấn phủ sứ lộ
Thuận Hóa là Nguyễn Phong ngăn không cho vào. Tất cố sức đánh, giết Phong, vào
được thành, lại đánh nhau với Rỗ [5a] hơn một tháng. Rỗ không có viện binh,
liềm đem gia quyến sang Chiêm Thành. Hối Khanh đem giết mẹ và gia thuộc của Rỗ.
Chiêm Thành cho Rỗ làm quan to. Sau nhà Minh đòi Rỗ đến Kim Lăng, giả cách cho
làm Hồ Quảng chỉ huy sứ, rồi giết đi.
Hai cha con họ Hồ đã thất bại, Thế
Căng trở về Tân Bình, đón hàng người Minh ở Nghệ An nhận chức Tri phủ của
Trương Phụ, cướp bóc của dân rồi trở về. Chiêm Thành lại chiếm cứ Thăng Hoa,
rồi sang cướp Hóa Châu. Tất xin với Phụ cho làm quan để cai quản Hóa Châu,
Chiêm Thành dẫn quân rút về. Đến đây, Tất sai người đưa Hồi Khanh về, đến cửa
biển Đan Thai1345
thì Hối Khanh tự vẫn. Phụ đem phụ cấp của Khanh ra bêu ở chợ Đông Đô.
Trương Phụ, Mộc Thạnh sai Đô đốc
thiêm sự Liễu Thăng; Hoành hải tướng quân Lỗ Lân; Thần cơ tướng quân Trương
Thăng, Đô chỉ huy sứ Du Nhượng; Chỉ huy đồng tri Lương Định; Chỉ huy thiêm sự
Thân [5b] Chí bằ1t giải Quý Ly và các con là Hán Thương, Trừng, Triết, Uông,
các cháu là Nhuế, Lô, Phạm, cháu nhỏ là Ngũ Lang, em là Quý Tỳ, cháu gọi bằng
bác là Nguyên Cữu, Tử Tuynh, Thúc Hoa, Bá Tuấn, Đình Việp, Đình Hoảng; các
tướng thần là Đông Sơn hương hầu Hồ Đỗ, Hành khiển Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh
Kỳ; các tướng quân là huyện bá Đoàn Bổng, đình bá Trần Thang Mông, trung lang
tướng Phạm Lục Tài cùng các ấn tín đến Kim Lăng để dâng.
Vua Minh hỏi rằng : "Trung Quốc
như vậy, sao không sợ phục mà dám láo xược chống cự?".
Đều trả lời là không biết.
Vua Minh nói: "Từng sai sứ giả
sang bảo, không phải là không biết".
Nhà Minh vờ cho Vương Nhữ Tương,
Đồng Ngạn Hú, Nguyễn Quân, Lê Sứ Khải làm Kinh Bắc1346
thị lang và tham chính ở Sơn Tây, Thiểm Tây, Sơn Đông, sai người đưa đi, đến
nửa đường thì giết.
Mùa thu, tháng 7, gió lớn [6a] nước
to.
Người Minh lùng tìm những người ẩn
dật ở rừng núi, người có tài có đức, thông minh chính trực, giỏi giang xuất
chúng, thông kinh giỏi văn, học rộng có tài, quen thuộc việc quan, chữ đẹp tính
giỏi, nói năng hoạt bát, hiếu để lực điền, tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh dũng
cảm, quen nghề đi biển, khéo các nghề nung gạch, làm hương... lục tục đưa dần
bản thân họ về Kim Lăng, trao cho quan chức, rồi cho về nước làm quan phủ,
châu, huyện. Những người có tiếng tăm một chút đều hưởng ứng.
Duy có Bùi Ứng Đẩu từ chối, lấy cớ
đau mắt, bọn hạ trai học sinh Lý Tử Cấu mấy người lui ẩn không chịu ra mà thôi.
Bấy giờ có câu ngạn ngữ: "Muốn sống vào ẩn núi rừng, muốn chết làm quan
triều Ngô1347
. Đến khi Thái Cao Tổ Hoàng đế1348
ta diệt trừ bọn hung tàn, bọn nguỵ quan, đứa nào có tiếng xấu đều bị giết hết,
quả đúng như [6b] lời ấy.
Trương Phụ cho là Nguyễn Đại có công
trong việc bắt hai cha con họ Hồ, trao cho chức Giao Chỉ đô chỉ huy sứ. Đại
kiêu căng ra mặt, lại ngầm có chí làm phản. Phụ bèn giết đi.
Tháng 8, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem
quân về, lưu lại đô ty Lữ Nghị, thượng thư Hoàng Phúc để trấn giữ. (Phúc người
Xương Ấp, tỉnh Sơn Đông). Trước đây, Hoàng Phúc đốc suất thổ binh tỉnh Quảng
Tây điều vận lương thực, theo quân tiến đánh. Đến đây, được giữ lại. Phúc là
người thông minh, giỏi ứng biến, có tài trị dân, người ta phục là giỏi.
Phan Phu Tiên nói: Họ Hồ mất nước,
Nguyễn Hy Chu chửi giặc, Hồ Xạ, Đỗ Nhân Giám (Nhân Giám là con Đỗ Mãn) chết
trận, Lê Cảnh Kỳ đến Kim Lăng không chịu ăn. Loại người như vậy, tựa hồ có thể
khen là chết vì tiết nghĩa được. Nhưng Hy Chu từng xui họ Hồ giết họ Trần; [7a]
cha con Nhân Giám là bề tôi cũ của nhà Trần, thế là phường ác giúp nhau. Anh
ruột của Xạ là Ông Thiện can tội đảng [mưu giết Quý Ly] bị chết, Xạ không chút
đoái hoài, lại hăng hái đánh giặc cho Quý Ly. Thế là chỉ biết ăn lộc của ai chế
vì người ấy là nghĩa mà không biết người ấy là kẻ bất nghĩa. Cảnh Kỳ là người
chỉ lo thỏa mãn thân mình, kiếm chác lộc vị, không chết khi Quý Ly cướp ngôi mà
chết lúc hắn bị bại vong thì không đáng khen. Còn như Ngô Miễn, Nguyễn Lệnh,
Kiều Biểu vốn là kẻ hoạn nạn, cái chết của bọn họ là điều nên lắm. Than ôi!
Dương Hùng nhảy từ trên gác xuống3 không phải là người trung nghĩa, nhưng khó
tránh khỏi cái tội làm tôi cho Vương Mãng. Thiệu Hốt chết theo4 không thể coi
là phải đạo, thế nhưng những kẻ phản trắc há chẳng thấy thế mà phấp phỏng chột
dạ hay sao?.
[7b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Ngày
xưa, Hạ Trưng Thư giết Trần Linh Công, người trong nước không đánh giết được.
Sở Tử vào nước Trần, giết Trưng Thư rồi dùng xe xé xác ở cử thành, kinh Xuân
thu ca ngợi việc đánh giết đó.
Họ Hồ giết Trần Thuận Tông mà cướp
lấy nước, những người như Trần Hãng, Trần Khát Chân mưu giết mà không được. Sau
khi họ chết, trong khoảng 7, 8 năm, không còn ai có thể làm được việc ấy nữa.
[Họ Hồ] tự cho là người trong nước không còn ai dám làm gì nữa. Nhưng bọn loạn
thần tặc tử thì ai ai cũng có thể giết chết chúng được và trời cũng không một
ngày nào tha trừng phạt chúng dưới gầm trời này! Người trong nước giết chúng
không được thì ngưoời nước láng giềng có thể giết, người nước láng giềng giết không
được thì người Di người Địch có thể giết. Vì thế người Minh mới có thể giết
được chúng. Còn như [người Minh] giả nhân giả nghĩa, sát hại sinh linh thì
chính là một bọn giặc tàn bạo. [8a] Cho nên Thái Cao Tổ Hoàng Đế ta lại có thể
tiêu diệt được bọn chúng.
Than ôi, bọn phạm tội đại ác làm sao
trốn được sự trừng phạt của trời? Đạo trời rõ ràng như vậy, đáng sợ thay!
Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 2, Gản
Định Đế lên ngôi ở Mô Độ1349
, châu Trường Yên, dựng niên hiệu là Hưng Khánh. Trước đó, Trương Phụ yết bảng
bắt các tôn thất họ Trần và đầu mục quan lại cũ để đưa về. Vua trốn chạy đến Mô
Độ. Người Thiên Trường là Trần Triệu Cơ đem quân đến lập lên ngôi, xưng theo
tên hiệu cũ1350
.
Tháng 4, quân Minh đánh vào hành
dinh, vì quân mới chiêu tập, không đánh mà tan vỡ. Vua liền đi về phía tây, đến
Nghệ An tạm đóng tại đó. Đại trị châu Hóa Châu là Đặng Tất nghe tin, giết vien
quan nhà Minh, đem quân tới hội, tiến con gái mình sung vào hậu cung. Vua phong
Tất [8b] làm Quốc công, cùng mưu việc khôi phục.
Người Minh ngờ viên thổ quan là Hữu
tham nghị Bùi Bá Kỳ có bụng khác, bắt đưa về Kim Lăng.
Bá Kỳ (người Phù Nội, Hạ Hồng) vốn
là phe Trần Khát Chân, tự xưng là bề tôi trung nghĩa của Nam triều, trốn sang
nước Minh, vừa gặp tên Trần vương nguỵ là Thiêm Bình đến trước, người Minh hỏi
có biết không, Bá Kỳ trả lời là không biết.
Đến khi nhà Minh đưa Thiêm Bình về
nước, hỏi Thiêm Bình cần bao nhiêu quân, Thiêm Bình nói: "Chẳng qua vài
nghìn thôi, đến đó người ta tự nguyện hàng phục". Bá Kỳ nói rằng không thể
được. Vua Minh giận, phế bỏ Bá Kỳ, đem an trí tại Thiểm Tây, Cam Túc. Đến khi
Thiêm Bình thất bại, vua Minh gọi Bá Kỳ về ban sắc cho, ân cần hứa hẹn lập con
cháu nhà Trần và để Bá Kỳ làm phụ thần, rồi sai Kỳ đi theo quân, nên trao cho
chức ấy. Bá Kỳ không dự với đồng liêu ở nha môn, chỉ ở nhà riêng thu nạp các
viên quan cũ bị sa cơ lỡ bước. Bấy giờ [9a] viên thổ hào ở Đông Triều là Phạm
Chấn lập Trần Nguyệt Hồ làm vua ở Bình Than, đề cờ chiêu an gọi là Trung nghĩa
quân, cho nên người Minh ngờ Bá Kỳ. Sau Trần Nguyệt Hồ bị người Minh bắt, Phạm
Chấn bỏ trốn.
Tháng 12, vua sai Trần Nguyên Tôn,
Trần Dương Đình, cựu hành Trần Ngạn Chiêu lại cùng Phạm Chấn thu quân về Bình
Than. Không bao lâu bị tan vỡ, chạy về hành tại Nghệ An.
Giết bọn nguỵ quan Trần Thúc Giao,
Trần Nhật Chiêu và thuộc hạ hơn 500 người.
Trước đây, người Minh lấy tôn thất
họ Trần là Trần Thúc Giao (là con Trần Nguyên Đán) giữ đất Diễn Châu, cựu tướng
quân Trần Nhật Chiêu giữ đất Nghệ An. Đến đây, vua lên ngôi, vì họ không đón
rước trước nên bị giết.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thiên hạ
đại loạn, nhân dân Nghệ An, Diễn Châu biết [9b] ai là chân chúa. Thúc Dao là
con người tôn thất, Nhật Chiêu là tướng quân cũ, nhận quan tước của nhà Minh,
giữ đất, trị dân, dân không theo có được không? Giết Thúc Dao và Nhật Chiêu là
phải, còn bọn thuộc hạ nên vỗ về mà dùng, thì chúng không cảm kích ơn đức đó
hay sao? Thế là lại giết nhiều như vậy, sao gọi là quan nhân nghĩa được? Xem
như Lê Tiệt và Lê Nguyên Đỉnh nhầm họp quân ở Hát Giang, mưu đánh úp Trùng
Quang Đế, mà Trùng Quang Đế chỉ có Tiệt Đế và Nguyễn Đỉnh thôi, còn đều tha cả,
so với Giản Định Đế thì đằng nào hơn?
Năm ấy đói và dịch bệnh, nhân dân
không cày cấy được, người chết gối lên nhau.
Mậu Tý, [Hưng Khánh] năm thứ 2
[1408], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 6). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 30, tướng nhà
Minh là Trương Phụ cùng bọn thổ quan Mạc Thúy đánh vào Diễn Châu. Vua và Đặng
Tất vì quân ít không địch nổi, rút về nam đến Hoá [10a] Châu, Quân Minh đuổi
theo, đánh vào cửa biển
Bố Chính1351
, Phạm Thế Căng đón hàng, Phụ trao cho chức tri phủ Tân Bình, rồi đặt lưu quan
để cai trị. Phụ trở về Đông Đô.
Mùa hạ, tháng 4, Đặng Tất rước vua
trở về Nghệ An.
Nhà Minh xuống chiếu, đại lược nói:
"Còn nghĩ bọn dư chúng1352
vốn là ngu muội, hoặc vì đói nghèo bức bách, hoặc bị kẻ mạnh bắt ép, hặc bị bọn
gian dụ dỗ, việc không thể đừng, tình cũng đáng thương, nếu nhất loạt bắt tội
cả, trẫm thực không nỡ. Khi chiếu thư này tới, đều tha cho cả. Quan lại ở các
nha môn, quân dân thuộc đất Giao Chỉ hãy thể lòng chí nhân của trẫm phải khoan
hồng thương xót, chớ làm ráo riết, chớ vơ vét của dân, hết thảy những việc
không cần kíp phải ngừng bỏ cả".
Tháng 6, ngày 16, Đặng Tất cả phá
tên bạn thần Phạm Thế Căng ở cửa biển Nhật Lệ, bắt được Thế Căng và cháu nó là
Phạm Đống Cao giải về hành tại giết [10b] đi.
Trước đó, Thế Căng nhận quan chức
của nhà Minh, làm oai làm phúc tiếm xưng là Duệ Vũ Đại Vương. Đến đây, họp quân
chiếm cứ núi An Đại1353
. Tất đánh dẹp được.
Tháng 9, động đất, nhà cửa, cây cối
như nghiêng đổ cả.
Mùa đông, tháng 10, quốc công Đặng
Tất điều quân các lộ Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa tiến
đánh Đông Đô. Khi quân đi qua các xứ Trường Yên, Phúc Thành1354
, các quan thuộc cũ và các hào kiệt không ai không hưởng ứng đi theo. Tất chọn
những người có tài đều trao cho quan chức.
Tháng 12, ngày 14, quốc công Đặng
Tất cả phá quân Minh ở Bô Cô hãn1355
.
Bấy giờ nhà Minh sai tổng binh Mộc
Thanh mang tước Kiềm quốc công, đeo ấn Chinh di tướng quân, đem 5 vạn quân từ
Vân Nam đến Bô Cô, vừa khi vua cũng từ Nghệ An tới, quân dung nghiêm chỉnh, gặp
lúc nước triều lên gấp, gió thổi mạnh, sai các quân đóng cọc giữ, [11a] và lên
hai bên bờ đắp lũy. Thạnh cũng chia quân thủy, quân bộ cùng cầm cự. Vua cầm dùi
đánh trống, hạ lệnh, các quân thừa cơ xông ra đánh, từ giờ Tỵ đến giờ Thân1356
, quân Minh thua chạy, chém được Binh bộ thượng thư Lưu Tuấn, Đô ty Lữ Nghị,
cùng quân mới, quân cũ đến hơn 10 vạn tên. Chỉ một mình Mộc Thạnh chạy thoát
trốn về thành Cổ Lộng1357
.
Vua bảo các quân:
"Hãy thừa thế chẻ tre, đánh
cuốn chiếu thẳng một mạch, như sét đánh không kịp bịt tai, tiến đánh thành Đông
Quan1358
thì chắc chắn phá được chúng".
Tất tâu: "Hãy bắt hết bọn giặc
còn sống sót, không nên để mối lo về sau".
Do dự mãi không quyết định được.
Quân giữ thành Đông Quan đến cứu viện, đón Mộc Thạnh về. Tất chia quân vây các
thành, gửi hịch cho các lộ hành quân đánh giặc.
Phan Phu Tiên nói: Đặng Tất chỉ biết
hành quân là gấp mà không biết cứu [11b] Đông Đô còn gấp hơn. Đông Đô có tầm
hình thế của cả nước. Chiếm được Đông Đô thì
các lộ không đâu không hưởng ứng,
hơn nữa hào kiệt trung châu đều ở cả đó. Bỏ nơi ấy mà không lo đánh chiếm, lại
chia quân phân tán đi các xứ, vì thế hiệu lệnh không thống nhất, rốt cuộc đi
đến sụp đổ là đáng lắm!
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đường Thái
Tông dùng binh, phần nhiều nhân thế chẻ tre mà giành thắng lợi, là vì có tư thế
anh hùng mà tướng và quân vốn đã rèn sẳn. Vua tính kế quyết thắng nhưng Tất
không theo, cố nhiên là đáng tiếc. Song có lẽ Tất liệu vua mình không phải là
bậc anh hùng như [Đường] Thái Tông, mà quân thì từ xa đến, lương thực có thể
không tiếp tế được, còn quân ở kinh lộ thì chưa tập hợp được, chẳng thà theo
phép hơn địch gấp 10 lần thì bao vây, hơn địch gấp 5 lần thì đánh1359
là hơn. Nếu không thế thì thành Cổ Lộng chỉ cách Bô Cô không quá nửa ngày đường
sao vẫn không thể thừa thế chẻ tre mà đánh. [12a] huống chi thành Đông Quan.
Kẻũ ấy cũng chưa lấy gì làm hỏng lắm, chỉ vì vua tin lời gièm mà vội giết Tất
thôi. Than ôi, Đặng Tất sau khi phá được giặc mạnh, trổ tài mới trong khoảng
một tuần một tháng, công việc chưa làm được một nửa mà bị chết oan, đó là cái
họa sụp đổ [của nhà Trần], chứ đâu phải là tội của Tất.
Quan quân đến phủ Kiến Xương, viên
thổ quan đồng tri Trần Quốc Kiệt trốn vào rừng bị chết đói. Trần Phúc1360
nghe tin cho lập đền thờ.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Quốc Kiệt
chết đói, không phải là giữ tiết nghĩa với nhà Minh, mà là xấu hổ vì nhận quan
chức của nhà Minh đó! Thế mới biết lòng hổ thẹn là đầu mối của điều nghĩa. Tiếc
thay Quốc Kiệt không biết xấu hổ ngay từ đầu.
Kỷ Sửu, [Hưng Khánh] năm thứ 3
[1409], (từ tháng 3 trở đi là Trùng Quang đến năm thứ 1, Minh Vĩnh Lạc năm thứ
7). Mùa xuân, tháng 2, giết quốc công Đặng Tất [12b] và Đồng tri khu mật viện
sự tham mưu quân sự Nguyễn Cảnh Chân.
Khi ấy vua đóng ở Hoàng Giang, nội
nhân là Nguyễn Quỹ (có sách viết là?) học sinh Nguyễn Mộng Trang mật tâu rằng
Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất chuyên quyền bổ quan và cách chức, nếu không tính
sớm đi, sau này khó lòng kiềm chế. Vua cho gọi hai người đến, bóp cổ giết Tất,
Chân chạy lên bờ, lực sĩ đuổi theo chém chết.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua may
thoát khỏi vòng vây hãm nguy hiểm, cầu người cứu giúp nạn nước, được cha con
Đặng Tất có tài làm tướng, cha con Cảnh Chân giỏi tài mưu lược, đủ để lập được
công khôi phục, dựng được nghiệp trung hưng. Với trận thắng Bô Cô, thế nước lại
nổi. Thế mà nghe lời gièm pha ly gián của bọn hoạn quan, một lúc giết hại hai
người bề tôi phò tá mình, thì làm sao nên việc được!
Cho nên đức của người làm vua quý ở
chỗ cương quyết, sáng suốt. Cương quyết thì có thể [13a] xử đoán được, sáng
suốt thì có thể xét rõ được. Ôi, nếu lúc đó vua gọi hai đại thần đến, dẫn hai
đứa ấy kể rõ tội gièm pha vu hãm hại đại thần rồi chém ngay chúng đi thì uy
lệnh được thi hành và bọn Tất dũng cảm càng tăng, cảm kích càng sâu, giả sử có
manh tâm chuyên quyền chả lẽ không sợ uy mà phải tự bỏ, sợ gì khó kiềm chế nữa.
Đã không làm được như thế thì chỉ có long đong rồi đến chết chìm mà thôi!
Con Nguyễn Cảnh Chân là Cảnh Dị, con
Đặng Tất là Dung đều căm giận vì cha bị chết oan, mới đem quân Thuận Hóa về
Thanh Hóa, đón rước Nhập nội thị trung Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lên làm vua.
Tháng 3, ngày 17, vua lên ngôi ở Chi
La1359
, đổin niên hiệu là Trùng Quang, lấy Nguyễn Súy là Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm
Thái bảo, Đặng Dung làm đồng bình chương [13b] sự, Nguyễn Chương
làm Tư mã. Giản Định Đế giữ thành
Ngự Thiên1362
chống nhau với quân Minh. Bọn Súy hội đánh úp bắt được.
Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 7, Hưng
Khánh thái hậu1363
cùng với hành khiển là Lê Tiệt, Lê Nguyên Đỉnh ngầm khởi binh ở Hát Giang mưu
đánh úp Trùng Quang Đế. Người Nghệ An là Nguyễn Trạo tiết lộ việc ấy. Trùng
Quang Đế giết bọn Tiệt và Nguyên Đỉnh, còn những người khác đều tha cả.
Ngày 20, bọn Nguyễn Súy dẫn Hưng
Khánh Đế đến sông Tam Chế 1364
ở Nghệ An, trùng Quang đổi mặc áo thường xuống thuyền đón rước. Khi ấy trời đất
đương tối sầm bỗng nhiên mây vàng rực rỡ hiện ra, mọi người đều kinh ngạc. Bèn
tôn Hưng Kháng Đế làm Thượng hoàng, cùng chung sức đánh giặc.
Tháng 5, bà phi của Trùng Quang Đế
mất.
Tháng 6, Hưng Khánh thái hậu mất.
Tháng 7, mưa dầm suốt mấy tuần không
tạnh.
Tổng binh nhà Minh là Mộc Thạnh sai
Hoàng La tới. Vua sai [14a] người tiếp hắn ở Nỗ Giang1365
, Thanh Hóa.
Hai vua ra quân đánh giặc. Thượng
hoàng tiến quân tới Hạ Hồng, vua đem quân đến Bình Than, đóng đinh ở đấy. Quân
Minh đóng ở cửa thành cố thủ. Vua hạ lệnh cứ 4, 5 ngày một lần đi tuần tra. Hào
kiệt các lộ đều hưởng ứng, chỉ có tri phủ Tam Giang1366
là Đỗ Duy Trung (Duy Trung là thổ hào ở Thao Giang) bảo dưỡng quan lại nhà Minh
nên không chịu theo thôi.
Vừa khi tổng binh Trương Phụ, với
tước Anh quốc công đeo ấn Chinh Di tướng quân sang cứu viện, thế quân Minh lại
lên. Thượng hoàng liền bỏ thuyền lên bờ, đến trấn Thiên Quan1367
. Vua ngờ Thượng hoàng có ý khác, sai Nguyễn Súy đuổi theo nhưng không kịp.
Trương Phụ chia quân đuổi theo, bắt được Thượng hoàng và Thái bảo Trần Hy Cát
cùng ấn báu, giải về Kim Lăng, rồi bị hại.
Tháng 8, Trùng Quang Đế cầm cự nhau
với Trương Phụ ở Bình Than.
Vua lệnh cho Bình chương Đặng Dung
giữ cửa Hàm Tử. Bấy giờ [14b] lương thực rất thiếu thốn, Dung chia quân đi gặt
lúa sớm để cấp cho quân. Quân Minh dò biết, dùng thủy quân đánh cửa Hàm Tử,
quân của Dung tan vỡ. Vua nghe tin thất thủ, tự lượng không chống nổi, mới dẫn
quân về Nghệ An mưu việc tiến thủ.
Phụ đi đến đâu, giết chóc rất nhiều,
có nơi thây chất thành núi, có chỗ moi ruột quấn vào cây, hoặc rán thịt lấy mỡ,
hoặc nướng đốt làm trò, thậm chí có đưá mổ bụng lấy thai, cắt lấy hai cái tai
để nộp theo lệnh. Kinh lộ các nơi lần lượt đầu hàng. Những dân còn sót lại bắt
hết làm nô tỳ và bị đem bán, tan tác khắp bốn phương cả.
Thượng thư Hoàng Phúc lại đặt quan
chức, chia ra trị các phủ, huyện từ Thanh Hóa trở ra Bắc. Người địa phương có
ai chiêu an được, hay có công cướp giết, Trương Phụ đều trao cho quan chức.
Hoàng Phúc xin nâng hai châu Thái Nguyên và Tuyên Quang lên thành phủ.
Năm này đói và dịch bệnh nặng hơn
[15a] năm trước.
TRÙNG QUANG ĐẾ
Tên húy là Quý Khoáng, con thứ của
Mẫn Vương Ngạc, cháu nội Nghệ Tông, cháu gọi Giản Định Đế bằng chú, ở ngôi 5
năm. Vua gặp thời loạn lạc, gắng chí mưu việc khôi phục, nhưng vì trời không
giúp nhà Trần nữa, nuốt hận mà chết, thương thay!
Canh Dần, [Trùng Quang] năm thứ 2
[1410], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, Trương Phụ sai người
Minh mở thêm đồn điền ở nơi gần thành và thu thóc lúa ở Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Tam Giang để dự trữ lương quân.
Mùa hạ, tháng 5, vua đem bọn Nguyễn
Cảnh Dị tiến quân đến bến La, Hạ Hồng, đánh phá quân của đô đốc Giang Hạo, thừa
thắng đuổi theo, tiến quân đến Bình Than, đốt phá gần hết thuyền trại của quân
Minh.
Bấy giờ, các hào kiệt nghe tin đều
hưởng ứng. Người Thanh Hóa là Đồng Mặc, tên hiệu là Lỗ Lược tướng quân, đánh
giết bọn giặc nhiều không kể xiết. Chỉ huy của quân Minh là Tả [15b] Địch bị
bắt, Vương Tuyên (có sách ghi là Vương Đản) thế cùng phải tự vẫn. Hưng Khánh Đế
cho Mặc làm Phủ quản quận Thanh Hóa.
Lại có người Nguyễn Ngân Hà tuy
không bằng Mặc, nhưng cũng là ngườitrội trong đám hào kiệt. Lê Nhị ở Thanh Oai
giết cha con tên đô ty Lư Vượng ở cầu Ngọc Tản, lại chiếm giữ huyện Từ Liêm,
quân Minh rất sợ hãi. Lê Khang ở Thanh Đàm1368
, Đỗ Cối, Nguyễn Hiệu ở Trường Yên cũng họp quân chống giặc. Nhưng vì hiệu lệnh
không thống nhất, quân đội không có chỉ huy chung, nên sau đều tan vỡ cả. Gặp
khi Trương Phụ đến Diễn Châu, vua lại đem quân về Nghệ An.
Hoàng Phúc xin cấp ruộng cho các thổ
quan, tùy theo phẩm trật, để họ cho người cày cấy thu tô thay cho bổng lộc, còn
các lưu quan thì cấp lính để cấy ruộng thu thóc, chi cấp lương ăn.
Tân Mão, [Trùng Quang] năm thứ 3
[1411], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 9). Mùa xuân, tháng giêng, Trương Phụ cấp bằng
cho thổ quan các phủ vì có công [16a] đánh dẹp, gồm cả những thổ quan ở phủ,
châu cai quản quân lính, những người thuộc thiên trưởng, bách trưởng lấy làm
chỉ huy thiên bộ.
Tháng 2, nhà Minh xuống chiếu ân xá,
đại lược nói: "Giao Chỉ đã thuộc về Chức phương1369
mà liền mấy năm chưa được yên nhgỉ. Nghĩ thương dân ấy sau cơn khốn khổ, đặc
cách ban ân khoan thứ, xót thương, ngõ hầu khiến cho triệu dân đều được thấm
nhuần đức trạch".
Lại dụ bọn quan lại, quân dân rằng:
"Người Giao Chỉ đều là dân của trời, đã vỗ về chúng, thì chúng đều là con
đỏ của trẫm. Chúng nhất thời đi theo bọn giặc, nghe nói bị giết, trẫm thực
thương xót trong lòng, sao lại nỡ để chúng như vậy? Vả lại, bọn gây tội ác chỉ
có mấy đứa thôi, còn trăm họ nơi bãi biển, hang núi,bị chúng cưỡng bức, uy
hiếp, hoặc giúp chúng lương thực, hoặc bị chúng đem theo làm giặc ở các nơi,
đều là bắt đắc dĩ, bị chúng làm cho lầm lỡ chứ không phải là do bản tâm. Nếu
biết [16b] hối hận sửa bỏ lỗi lầm, đều cho được đổi mới. Làm ác chỉ có mấy đứa,
trăm họ không có tội gì. Trong đó, người nào hiên ngang dũng cảm, có kiến thức,
có thể bắt được mấy đứa kia đem dâng thì nhất định sẽ ban cho quan to, tước
cao. Còn bọn làm ác, nếu biết tẩy rửa tâm trí, đổi lỗi sửa mình, thì chẳng
những được khoan tha tội lỗi, lại còn chắc chắn được làm quan vinh hiển
nữa".
Tháng 3, nhà Minh sai quan mang sắc
chỉ cho các thổ quan như sau: "Các ngươi tài năng khôi kiệt, tư chất đôn
hậu, sáng suốt nhìn xa, trước đã thành tâm gắng sức, tận trung với triều đình,
nghĩ tới công lao của các ngươi, đặc ân thăng cho chức vụ vinh hiển. Nay nghe
các ngươi biết làm tròn nghĩa vụ,
dốc sức lập công, bắt giết bọn phản
nghịch, giữ vững đất đai, nghĩ đến lòng trung thành ấy, xiết nỗi vui mừng khen
ngợi. hiện nay, bọn giặc còn sót chưa dẹp yên hết, các ngươi hãy lập thêm nhiều
công, ra sức quét sạch bọn chúng để tiếp nối công tích trước đây. Ta đặc cách
sai người [17a] sang úy lạo ban thưởng. Các ngươi hãy kính cẩn phục tùng mệnh
lệnh ân sủng này".
Mùa thu, tháng 7, sông Đáy nước lên
to, vỡ đê quai, trôi cả nhà cửa của dân.
Tháng 9, vua và bọn Nguyễn Súy chia
đường tiến đến cửa biển, bắt được tên chỉ huy Nguyễn Chính người địa phương ở
Bài Lâm, chém bêu đầu rồi về.
Sai Hành khiển Hồ Ngạn Thần làm sứ
giả cầu phong, Thẩm hình là Bùi Nột Ngôn làm phó, mang biểu văn, phương vật và
hai tượng người bằng vàng và bằng bạc thay thân mình.
Trước đó, vua đã sai hành khiển
Nguyễn Nhật Tư và thẩm hình Lê Ngân sang cầu phong. Vua Minh nổi giận, bắt giam
rồi giết cả. Đến đây lại sai bọn Ngạn Thần đi.
Đến Yên Kinh, vua MInh sai Hồ Trừng
giả vờ lấy ân tình cũ hỏi thăm quốc chủ khoẻ hay yếu, tình hình trong nước thế
nào, Ngạn Thần nóu hết cả với Trừng. Nột Ngôn thì không chịu khuất phục. Nhà
Minh giả cách cho vua làm Giao Chỉ Bố chính sứ, Ngạn Thần làm Tri phủ Nghệ An.
Sứ về nước, Nột Ngôn tâu hết [17b]
việv Ngạn Thần tiết lộ việc nước và nhận lệnh của giặc. [Vua sai] bắt Ngạn Thần
giam ngục rồi giết.
Gả Quốc tỷ trưởng công chúa1370
cho Hồ Bối người Hóa Châu, phong Bối làm Tư đồ rồi sai ra Thanh Hóa chống giặc.
Nhà Minh bắt giam viên Tham nghị
Giải Tấn rồi giết đi (Tấn là người Cát An, tỉnh Giang Tây). Tấn đỗ tiến sĩ cập
đệ, bổ Hàn lâm học sĩ, vì nói việc trái ý vua, bị đuổi ra làm Tham nghị ở Giao
Chỉ. Khi đến ty, lại nói rằng:
"Giao Chỉ chia đặt quân huyện
không bằng để nguyên như cũ, phong tước chia đất cho các thổ hào để họ cai quản
lẫn nhau. [Chia đặt quận huyện] dẫu có cái được cũng không bù được những cái
mất, cái lợi không chữa được cái hại".
Vua Minh xem tờ tâu nổi giận, cho là
Giải Tấn có ý tư vị họ Trần, bất lợi cho nước, xuống chiếu bắt giam ở Cẩm y vệ,
rồi ốm chế. Đến năm Minh Nhân Tông lên ngôi, mới được đưa về chôn, gia thuộc
mới được về quê hương.
[18a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lời
nói của bề tôi ngay thẳng không phải lợi cho mình mà lợi cho nước. Nhưng các
vua chúa tầm thường thì không hay coi đó là lợi mà cứ muốn hại người ta. Đó là
do họ bị che lấp nặng rồi. Minh Thái Tông một khi đã manh tâm hiếu đại hý công,
tham cướp được nước ta, Giải Tấn há lại không biết nói thế là chạm tới cơn giận
giữ hay sao? Đó chính là vì nước không nghĩ đến mình. Thái Tông không nghe,
cùng binh độc vũ, cho rằng ắt chiếm được. Lời của Giải Tấn lúc ấy hình như chưa
ứng nghiệm.
Đến khi Thái Tổ ta1371
dẹp loạn trừ bạo, bắt được phong thư bọc sáp của Vương Thông nói rằng:
"Quân để dùng phải được như số quân đi đánh lúc đầu, và phải được 6, 7
viên đại tướng như Trương Phụ mới có thể đánh được, mà dẫu có lấy được cũng
không thể giữ được", thì bấy giờ lời Giải Tấn mới ứng nghiệm. Lời nói của
bề tôi ngay thẳng chả lẽ không [18b] lợi cho nước hay sao? Cốt ở người làm vua
biết soi xét mới được.
Người Minh bắt giải giáo thụ Lê Cảnh
Tuân về Kinh Lăng.
Trước đây, Cảnh Tuân là hạ trai học
sinh1372
của họ Hồ. Năm Hưng Khánh thứ 1, viết bức thư một vạn chữ1373
dâng cho Tham Nghị Bùi Bá Kỳ, nêu ba phương sách thượng, trung, hạ, đại lược
nói rằng:
"Nhà Minh đã có sắc ban cho
ngài theo quân tiến đánh, đợi khi bắt được họ Hồ thì chọn con cháu họ Trần lập
làm vua, gia tước cho ngài để ở nước làm phụ tá. Nay thấy thiết lập ty bố
chính, phong tước cao cho ngài, mà chỉ cấp người quét dọn đền miếu nhà Trần.
Nếu ngài có thể tâu lại, phân tích những lời khai của các quan lại, kỳ lão, nói
rõ con cháu họ Trần, đó là thượng sách. Nếu không được như thế, thì xin thôi
chức vị hiện nay, nguyên làm [19a] quan coi nhà thờ họ Trần, đó là trung sách.
Nếu ngày còn tiếc quan tước to, tham bổng lộc nhiều, thì đó là hạ sách.
Nếu ngài làm theo thượng sách thì
tôi là nhân sâm, cam thảo, chỉ xác, trần bì bổ sung vào ô thuốc của ngài, tùy
ngài sử dụng. Nếu ngài làm theo trung sách, thì tôi xin bưng khay chén hầu hạ ở
đó, cũng xin tùy ngài sai khiến. Nếu ngài làm theo hạ sách thì tôi sẽ là kẻ câu
vắng cầy nhàn1374
cho hết tuổi thừa mà thôi".
Đến khi tịch biên nhà Bá Kỳ, bắt
được bức thư ấy, tâu lên, sai bắt Cảnh Tuân để xét hỏi, thì gần đây vì loạn
lạc, không biết đi đâu.
Đến đây, đặt học hiệu ở Giao Châu,
bắt được Cảnh Tuân đưa về Kim Lăng giam xuống ngục của y vệ Cẩm. Cảnh Tuân ở
trong ngục 5 năm, cùng con là Thái Điên đều ốm chết.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Ba phương
sách của Cảnh Tuân có khí thái của bậc trượng phu. Ông nhận [19b] chức giáo thụ
của nhà Minh phải chăng là vì muốn ẩn dật mà khônng được?
Nhâm Thìn, [Trùng Quang] năm thứ 4
[1412], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 19). Mùa xuân, tháng giêng, viên phụ đạo ở Đại
Từ, Thái Nguyên là Nguyễn Nhuế khởi binh, hoại động ở vùng núi tam Đảo, bị
Trương Phụ nhà Minh bắt.
Bấy giờ kinh lộ đều phụ thuộc vào
nhà Minh, trăm họ phải làm sai dịch và nộp lương theo sự sai bắt của bọn quan
thú nhiệm. Thổ quan thì đóng thuyền và lập đồn điền để giúp việc cho tổng binh.
Từ Ciễn Châu trở vào nam, không được cày cấy.
Mùa hạ, tháng 6, Trương Phụ và Mộc
Thạnh nhà Minh đem quân đánh vào hành tại ở Nghệ An, gặp bọn Nguyễn Súy, Nguyễn
Cảnh Dị, Đặng Dung ở Mô Độ. Dung, Phụ đều liều chết đánh nhau chưa phân thắng
bại, thì Súy và Cảnh Dị vượt biển chạy, Hồ Bối bỏ thuyền lên bờ. Dung thế cô,
không có cứu viện, bèn đi thuyền nhẹ vượt biển trốn đi.
[20a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đạo
cầm quân chế thắng cốt ở đồng tâm hiệp lực. Giả sử bọn Súy và Dị một lòng quyết
đánh thì Dung và Phụ cũng chưa biết ai được ai thua. Đó là vì trời không giúp
họ Trần vậy!.
Mùa thu, tháng 7, nhà Minh sai Tổng
binh Hàn Quan với chức Hữu quân đô đốc đồng trị, đeo ấn Chinh Nam tướng quân
sang trấn giữ.
trương Phụ nhà Minh lệnh cho Tam
Giang và Tuyên Hóa đóng thuyền để cấp cho quân.
Bọn Trương Phụ nhà Minh lại vào cướp
hành tại ở Nghệ An; Thanh Hóa, Diễn Châu đều bị hãm.
Mùa đông, tháng 12, nhà Minh mang
sắc dụ các quan lại, kỳ lão các châu, phủ, huyện thuộc Bố chính ty rằng:
"Trẫm vâng mệnh trời, thống trị
thiên hạ, chỉ mong cho dân thiên hạ được yên ổn, Giao Chỉ ở xa tận ven biển,
xưa là đất của Trung Quốc, nay [20b] đã lại như cũ, binh lính và dân chúng theo
về giáo hóa đến nay đã mấy năm rồi, đã đặt mục, bá, thú, lệnh và quân, vệ, ty,
chọn dùng những người
trung lương, hiền năng để vỗ trị.
Trẫm sớm khuya nghĩ đến, còn lo rằng đất xa dân đông, giáo hóa có chổ không
thấu tới, không được thấm ơn trạch yêu thương, nuôi nấng của nhà nước.
Nay bọn các ngươi đều là bề tôi
trung lươmg, phải thể lòng kính trời thương dân của trẫm, hưng lợi trừ hại cho
dân, thuận theo lòng yêu ghét của dân mà trừ bỏ mối gian tệ cho dân. Dạy dân
cày ruộng, trồng dâu, khiến cho không trái thời vụ thì áo mặc, cơm ăn có chổ
trông cậy; dạy dân bằng hiếu, để, trung, tín; khuyên dân điều lễ nghĩa, liêm
sĩ, thì phong tục sẽ tốt lành. Khi tang ma, hoạn nạn thì thương xót giúp đỡ lẫn
nhau; lúc khốn cùng long đong thì chu cấp phù trì cho nhau. Người già phải dạy
con trẻ, kẻ dưới phải kính bề trên,, ai nấy phải thuận theo bản tính, không
được làm trái với lễ. [21a] Chớ có làm trộm cướp, chớ có đi lừa dối, chớ múa
may văn chương mà đùa với luật pháp, chớ theo ý riêng ,mà bỏ lẽ công, muốn cho
dân chúng an cư lạc nhgiệp, mãi mãi là dân trời vô sự, để cùng vui thời thịnh
trị thái bình, thì bọn các người phải thận trọng với chức vị của mình, làm tròn
công việc của mình, theo được đức y thay trời nuôi dân của trẫm, để có thể sánh
vai với những bậc tuần lương đời xưa, tên tuổi chiếu sáng sử xanh, thế chẳng
tốt đẹp lắm sao!".
Nông Văn Lịch ở Lạng Sơn tụ tập quân
lính chiếm giữ đất ấy, chẹn lấp đường đi lại của người Minh, giết bắt vô số.
Tham chính Mạc Thúy từng đem quân tiến sâu vào đất ấy, bị trúng tên thuốc độc
mà chết. Sau vì Văn Lịch thông dâm với vợ của cấp dưới, binh sĩ tức giận giết
chết.
Nguyễn Liễu ở Lý Nhân1375
chiêu tập người các huyện Lục Na1376
, Vũ Lễ đánh cướp người Minh trong mấy năm. Vua ở Nghệ An, đường bị ngăn trở
không thông, quân của Liễu bị tan vỡ dần, Tham nghị Nguyễn huân vờ kết thông
[21b] gia rồi dụ [Liễu] đến giết chết.
Quý Tỵ, [Trùng Quang] năm thứ 5
[1413], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 11). Mùa xuân, tháng giêng, vua dẫn bọn Nguyễn
Súy, Nguyễn cảnh Dị lại đem quân vượt biển đến Vân Đồn, Hải Đông và các bãi
biển để thăm dò và lấy lương thực, đánh quân Minh đóng giữ ở những nơi ấy.
Hoàng Phúc nhà Minh chọn lựa thợ
giỏi và vợ con họ đưa về Yê Kinh để đóng thuyền.
Tháng 2, Trương Phụ nhà Minh lệnh
cho quân nhâ đem đổi lấy thóc lúa ở Tam Giang, Tuyên Hóa, Quy Hóa để trữ lương
quân, lại mộ khách buôn nộp thóc, chở thuyền đem về các xứ Quảng Đông, Phúc
Kiến, Chiết Giang, Tứ Xuyên, Vân Nam để bán.
Tháng 3, ngày mồng 4, vua lại trở về
Nghệ An, quân lính mười phần chỉ còn 3, 4 phần.
Tổng binh Hàn Quan ốm chết ở thành
Đông Quan.
Mùa hạ, tháng 4, bọn Trương Phụ nhà
Minh vào cướp Nghệ [22a] An.
Vua ngự đến Hóa Châu, sai đái quan
Nguyễn Biểu làm sứ cầu phong, mang phương vật tới Nghệ An. Trương Phụ giữ Biểu
lại, Biểu tức giận mắng Biểu rằng:
"Bên trong thì mưu kế đánh
chiếm, bên ngoài thì rêu rao là quân nhân nghĩa. Đã hứa lập con cháu họ Trần,
lại đặt thành quận huyện, không chỉ cướp bóc của cải châu báu, lại còn tàn hại
sinh dân, thực là loài giặc dữ".
Phụ nổi giận giết chết.
Tháng 6,Trương Phụ và Mộc Thạnh nhà
Minh họp các tướng bàn kế đánh chiếm. Thạnh nói:
"Hóa Châu núi cao biển rộng,
chưa dễ lấy được". Phụ nói:
"Tôi sống được cũng là vì Hóa
Châu, có làm ma cũng là vì Hóa Châu. Hóa Châu mà chưa dẹp được, tôi còn mặt mũi
nào trông thấy chúa thượng nữa!".
Bèn đem quân thủy đi, mất 21 ngày,
đánh vào thành châu Thuận Hóa.
Mùa thu, tháng 9, bọn Trương Phụ nhà
Minh đánh nhau với Nguyễn Súy ở kênh Sái Già1377
. Quân Nam quân Bắc [22b] đương cầm cự nhau, Đặng Dung mai phục binh tượng, nửa
đêm đánh úp doanh trại Phụ. Dung nhảy lên thuyền của Phụ, định bắt sống Phụ
nhưng không nhận ra hắn. Phụ vội đi thuyền nhỏ trốn chạy. Quân Minh tan vỡ đến
một nửa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết. Bọn Súy không chịu hợp sức
đánh. Phụ thấy quân của Dung ít, quay lại đánh. Quân của Dung tan chạy, từ đấy
chỉ ẩn nấp trong núi hang.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Trận đánh ở
Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Súy, đem tàn quân trơ trọi chống lại bọn giặc mạnh,
quân tướng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc làm cho tướng
giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, không phải người
thực sự có tài làm tướng, thì có làm được như thế hay không?. Thế nhưng cuối
cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang, vì sao
vậy?.
Bọn Dung vì nghĩa không thể cùng
sống với giặc, phải tiêu diệt bọn chúng mới nghe, cho nên mới hết lòng, hết sức
giúp đỡ [23a] Trùng Quang để mưu khôi phục. Trong khoảng 5 năm, kiên trì chiến
đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng, đến
kiệt sức mơí chịu thôi. Lòng trung vì nước của người bề tôi, dẫu trăm đời sau
vẫn còn tưởng thấy được!
Ngày xưa nước Lỗ đánh nhau với nước
Tề ở đất Can Thì bị thất bại, thánh nhân không vì thua mà kiêng né, lại chép rõ
để nêu niềm vinh quang chiến đấu với kẻ thù, chứ không bàn đến việc thành bại.
Thế thì trận đánh ở Sái Già, quân Minh bị tan vỡ một nửa, quân ta đến khi sức
kiệt mới chịu thua cũng vinh quang lắm thay!
Mùa đông, tháng 10, Trương Phụ nhà
Minh lấy Đô đốc Hoàng Trung đi dò trước, chặn ở thượng lưu. Nguyễn Súy sai ba
thích khách, đội cỏ xuôi dòng đến thuyền của Phụ. Một người trèo lên mũi
thuyền, hai người trèo lên đuôi thuyền. Phụ biết, bắt được hai người, giết một
người, thả một người, lại còn [23b] cho tiền bạc. Hôm sau Phụ hội họp các tướng
nghị bàn, Hoàng Trung nói không hợp ý Phụ, Phụ nổi giận kể tội Trung phòng giữ
không nghiêm, để đến nỗi có chuyện khích thách, rồi chém Trung. Các tướng đều
tái mặt đi.
Tháng 11, bọn Nguyễn Cảnh Dị và Đặng
Dung bị Trương Phụ nhà Minh bắt sống. Cảnh Dị mắng ngay vào mặt Phụ:
"Tao định giết mày, lại bị mày
bắt", chửi Phụ luôn miệng. Phụ giận lắm, giết Dị rồi lấy gan ăn.
Vua chạy sang Lão Qua. Phụ sai người
lùng bắt được, đưa đến cửa quân. Người Thuận Hóa đều hàng. Thế là nhà Trần mất.
Trước đây, nhà Hậu Trần dấy binh mưu
việc hưng phục, viên Trấn phủ cũ Phan Quý Hựu có công bày mưu giúp việc, được
thăng dấn đến Thiếu bảo. Đến khi Trương Phụ vào cướp Nghệ An, vua ngự tới Hóa
Châu, Quý Hựu hàng giặc. Phụ mừng lắm. Được mươi hôm thì Quý Hựu ốm chết. Phụ
cho con là Liêu làm Tri châu Nghệ An và hậu thưởng gia thuộc Quý Hựu. [24a]
Liêu đem tình hình tướng văn tướng võ giỏi kém thế nào, số quân có được bao
nhiêu, núi sông hiểm dị ra sao kể rõ cho Phụ biết. Bấy giờ Phụ mới quyết chí
đánh Hóa Châu.
Trở lên làđời vua nhà Trần, bắt đầu
từ năm Bính Tuất (1226) chấm dứt ở năm Kỷ mão (1399), tổng cộng 174 năm và 2
đời vua nhà Hậu Trần 7 năm.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Trùng Quang
Đế lấy quân một lữ để mưu khôi phục đất nước trong lúc loạn lạc lưu ly, ví như
dùng một cây gỗ để chống giữ ngôi nhà lớn đã đổ, chả lẽ không biết rằng thế
không thể cứu vãn được nữa hay sao? Nhưng hãy làm hết bổn phận nên làm, ngõ hầu
có thể vãn hồi được thiên mệnh!.
Còn như khi bị giặc bắt đem về, giữ
nghĩa không chịu nhục, cam lòng nhảy xuống biển mà chết, để cùng mất với nước,
thực đúng là "quốc quân chết vì xã tắc", mà các [24b] bề tôi của ngài
như Cảnh Dị chửi giặc mong cho chúng giết ngay mình, Nguyễn Biểu kể tội ác của
giặc rồi chết, đều là những người đáng ca ngợi cả. Chỉ có Hồ Ngạn Thần đi sứ
làm nhục mệnh vua, đã bị giết rồi, Phan Liêu đem tình hìụnh mạnh yếu trong nước
đi báo cho giặc, tuy được thoát chết trong một thời, nhưng sau lại bị Thái Tổ
Cao Hoàng Đế ta giết chết. Than ôi, người làm tôi trung với nước tuy chết vì
nghĩa không có tội gì, mà để lại tiếng thơm mãi mãi, còn bọn bất trung phản
quốc, không khỏi tránh khỏi chết, lại còn để tiếng xấu ngàn năm, thực đúng như
thế.
K _ T H U Ộ C M I N H
Giáp Ngọ, [1414], (Minh Vĩnh Lạc năm
thứ 12). Mùa xuân, tháng giêng, Trương Phụ và Mộc Thạnh nhà Minh chiêu dụ, vỗ
về Tân Bình, Thuận Hóa, chia đặt quan cai trị để cùng làm việc với thổ quan,
khám xét nhân khẩu, gộp làm sổ hộ.
[25a] Phủ Thăng Hoa tuy có đặt quan,
nhưng Chiêm Thành vẫn có trưởng lộ chiếm giữ cai trị, nên nhà Minh chỉ ghi tên
không mà thôi.
Quan lại ở kinh lộ, những ai lánh
giặc đi theo Trùng Quang Đế đến Hóa Châu, đến đây người thì mang cả nhà chạy
sang nước Lão Qua, người thì chạy sang Chiêm Thành, còn người trong nước từ đấy
đều làm thần thiếp cho người Minh cả.
Mùa hạ, tháng 4, tổng binh Trương
Phụ, Mộc Thạnh, Binh bộ thị lang Trần Hiệp của nhà Minh đem trùng Quang Đế,
Nguyễn Súy và Đặng Dung về Đông Quan. Quan lại các phủ, châu, huyện sắm lễ vật
cùng trướng vẽ cờ thêu đến mừng. Sai người giải về Yên Kinh.
Trùng Quang Đế đi đến nửa đường nhảy
xuống nước chết. Súy thấy Trùng Quang Đế đã nhảy xuống nước chết, ngày ngày
chơi cờ với viên chỉ huy coi giữ mình, thành quen, mới lấy bàn cờ đánh hắn ngã
xuống nước chết, Súy cũng nhảy xuống nước chết. Quốc thống từ đấy thuộc về nhà
Minh.
Mùa thu, tháng 7, [25b] Trương Phụ
nhà Minh ra lệnh cho các phủ, châu, huyện, phàn quân nhân bắt được tôi tớ, cùng
đàn bà con gái trốn đi xứ khác thì giải về cửa quân. Bọn quan lại chìu ý cấp
trên bắt nhiều dân nghèo xiêu tán giải nộp.
Tháng 8, Trương Phụ, Mộc Thạnh và
Trần Hiệp trở về bắc, chia quân trấn giữ.
Tháng 9, Hoàng Phúc nhà Minh truyền
bảng cho các phủ, châu, huyện dựng Văn Miếu và các đàn thờ thần xã tắc, thần
gió, thần mây, thần núi, thần sông và những thần không ai thờ cúng để tế lễ
thường xuyên.
Nhà Minh cấm con trai, con gái không
được cắt tóc; phụ nữ mặc áo ngắn, quần dài, đồng hóa theo phong tục phương bắc.
Mùa đông, tháng 10, nhà Minh mở học
hiệu và sức tìm tòi những người nho học, thầy thuốc, thầy tướng số, nhà sư, đạo
sĩ, hạ lệnh cho các phủ, châu, huyện lấy lễ mà thành tân thỉnh mời. Đó là làm
theo lời của Hữu tham tri Bành Đạo Trường.
Nhà Minh bắt khai số ruộng và đất
trồng dâu, trưng thu lương thực, tơ tằm. Mỗi hộ 1 mẫu thì bắt khai thành 3 mẫu.
[26] Đến sau xét hộ khẩu tăng hàng năm, định số ruộng mỗi hộ là 10 mẫu (nghĩa
là mỗi mẫu chỉ có 3 sào, 10 mẫu thực ra chỉ có 3 mẫu). Mỗi mẫu thu 5 thăng
thóc, đất bãi mỗi hộ một mẫu thu 1 lạng tơ, mỗi cân tơ dệt được 1 tấm lụa.
Ất Mùi, [1415], (Minh Vĩnh Lạc năm
thứ 13). Mùa thu, tháng 8, nhà Minh khám thu các mỏ vàng, bạc, mộ phụ đãi nhặt
vàng bạc và bắt voi trắng, mò trân châu. Thuế khóa nặng, vơ vét nhiều, dân chúng
điêu đứng. Bãi muối ven biển cấm dân mua bán riêng, sai nội quan coi giữ cả.
Lại đặt chức cục sứ và phó của từng bãi muối để chia nhau trông coi. Các phủ,
châu, huyện đêù đặt phó sứ ty Thuế khóa và sở Hà bạc.
Phép lấy muối của nhà Minh: Trước
hết sai viên cục sứ và viên phó đốc thúc dân nấu muối, mỗi tháng được bao nhiêu
đưa tới ty Đề cử thu giữ. Các viên nội quan mộ người buôn bỏ tiền ra lĩnh giấy
khám hợp1378
của ty Bố chính. Giấy khám hợp lớn [26b] thì lấy 10 cân muối, giấy khám hợp nhỏ
thì lấy 1 cân rồi mới được đem bán. Nếu không có giấy [giấy khám hợp] thì [xử
tội] như luật nấu lậu. Lạ cấm người đi đường, lệ chỉ được đem 3 bát muối và 1
lọ nước mắm thôi.
Tháng 9, Hoàng Phúc nhà Minh sai
quan áp giải đích thân những bọn nho học, thầy thuốc, thầy tướng số, nhà sư,
đạo sĩ đưa về Yên Kinh trao cho quan chức rồi đưa về các nha môn làm việc. Lại
ra lệnh cho các quan ty sở tại cấp cho tiền đi đường và ngưoời bạn tống, nếu
không sẽ bị trừng trị; dọc đường phải cấp cơm ăn và tiền đi đường.
Mùa đông, tháng 10, Tổng binh nhà
Minh là Trương Phụ giữ chức Chinh lỗ phó tướng quân, lại sang trấn thủ.
Nhà Minh mở đường thủy Vĩnh An, Vạn
Ninh, đặt trạm đón chuyển đường thủy đến thẳng Khân Châu. Lại đặt trạm chạy
ngựa đến thẳng Hoành Châu1379
.
Bính Thân, [1416], (Minh Vĩnh Lạc
năm thứ 14). Mùa xuân, tháng giêng, nhà Minh bắt đầu đưa những thượng quan văn
võ và kỳ lão sang Yên [27a] Kinh, đổi trát văn của Tổng binh mà dùng giấy vàng
của bộ để thực thụ quan chức. Thăng Tham nhgị Nguyễn Huân làm Tả bố chính sứ;
Tri phủ Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung làm Tham chính. Còn lại thì thăng chức Tri
phủ, Đồng tri phủ, Tri châu, Đồng tri châu, Tri huyện. Nhân đó, ban sắc rằng:
"Trước kia bình định Giao Chỉ,
các ngươi đã tỏ lòng thành, làm việc nghĩa, lòng hướng về triều đình, trẫm khen
ngợi lòng thành của các ngươi mà trao cho quan chức. Từ khi nhận mệnh đến nay,
đã biết tận tâm hết sức, hăng hái trung thành, quét diệt phản nghịch, vỗ yên bờ
cõi, cố gắng làm tròn chức phận, đã nhiều lần thăng thưởng để biểu dương công
trạng của các ngươi. Nay các ngươi đến cửa khuyết triều cống, trẫm xét lòng
thành, đánh nên khuyến khích. Nay đặc ân thăng cho các ngươi làm chức mỗ... Các
ngươi hãy cố gắng trung thành, cần mẫn hơn nữa, kính cẩn giữ khí tiết của người
bề tôi, úy lạo, vỗ về, khiến cho dân chúng đều được yên nghiệp sinh sống, cùng
hưởng phúc thái bình [27b] thì sẽ được trời che chở, các ngơi sẽ được phúc lộc
dồi dào nối đến đời con đời cháu, mà tiếng tốt của các ngươi sẽ lưu truyền
trong sử sách, mãi mãi không cùng".
Tháng 2, Trương Phụ nhà Minh ra lệnh
xét duyệt danh số thổ quân, lấy một phần ba số hộ khẩu chia về c1c vệ, sở. Mỗi
hộ định mức là 3 đinh. Từ Thanh Hóa trở vào Nam, nhân đinh thưa thớt, định mức
là 2 đinh. Chỗ nào không phải là vệ, sở mà là nơi quan yếu, cũng lập đồn lũy,
lấy dân binh canh giữ.
Mùa thu, tháng 9, quân lính huyện
Tân An nổi lên, Trương Phụ dẹp được.
Nhà Minh chiêu dụ các quan cũ của
triều trước, giả cách bổ đi các nha môn quân, dân làm việc rồi chuyển đưa về
Yên Kinh giữ lại. Bọn người bon chen, vốn không phải là quan lại cũ, chưa được
thực thụ quan chức, cũng hănh hái ra nhận, trong nước vì thế trở nên trống
rỗng. Ở được vài năm, thấy vất vả khổ sở, thỉnh thoảnh họ lại trốn về.
Nhà Minh bắt đầu đưa các thổ lại đi,
[28a] người nào đủ 9 năm thì giữ lại nha môn ở Kinh để làm việc, người nào chưa
đủ năm thì cho về.
Đinh Dậu, [1417], (Minh Vĩnh Lạc năm
thứ 15). Nội quan nhà Minh là Mã Kỳ tâu rằng Tổng binh Trương Phụ ở Giao Chỉ
chọn lấy những thổ nhân mạnh khỏe can đảm làm vi tử thủ1380
, vua Minh nghi
ngờ, gọi Phụ về, sai Phong Thành hầu
Lý Bân với chức Tổng binh Chinh Di tướng quân sang thay Phụ trấn giữ.
Nhà Minh sai Giám sát ngự sử chia
giữ việc tuần xét bắt đầu từ đấy.
Binh bộ thượng thư nhà Minh là Trần
Hiệp, lại giúp việc quân chính cho Tổng binh.
Nhà Minh định lệ mỗi năm cống các
nho học, sinh viên saung vào Quốc tử giám; Nhà phủ học mỗi năm 2 tên, nhà châu
học 2 năm 5 tên, nhà huyên học mỗi năm 1 tên. Sau lại quy định nhà phủ học mỗi
năm 1 tên, nhà châu học 3 năm 2 tên, nhà huyện học 2 năm 1 tên.
Bộ Lại khám hợp, lệnh cho 2 ty Bố
chính và Án sát cùng [28b] các quan phủ, châu, huyện, ở Giao Chỉ, hẹn đến ngày
mồng 1 tháng giêng sang năm đến kinh triều cận, không kể là chức chánh hay chức
tá, chỉ cần người giữ chức lâu năm, cho dẫn đầu, đưa các quan lại cùng đi. Lại
khám các hạng mục hộ khẩu, ruộng đất lương thực trong 3 năm, từ tháng 7 năm
Giáp Ngọ, đến cuối tháng 6 năm này, làm thành sổ "tu tri"1381
dâng lên để kê xét.
Hoàng Phúc sức cho các hào phú, thổ
quan là bọn Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung, Đỗ Hy Vọng, Lương Sĩ
Vĩnh, Dương Cự Giác đều phải đem người nhà sang Yên Kinh phục dịch, xây dựng
cung điện. Vua Minh nói là làm khó nhọc người phương xa, ban cho ưu hậu rồi cho
về.
Đại Việt sử ký toàn thư (Phần 2)
Đại Việt sử ký toàn thư (Phần 3)
Đại Việt sử ký toàn thư (Phần 2)
Đại Việt sử ký toàn thư (Phần 3)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét