諭諸裨將檄文
Dụ chư tỳ tướng hịch văn
余常聞之
Dư thường văn chi:
紀信以身代死而脫高帝
Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi
thoát Cao Đế;
由于以背受戈而蔽招王
Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế
Chiêu Vương.
蓣讓吞炭而復主讎
Dự Nhượng thốn thán nhi phục
chủ thù;
申蒯断臂而赴國難
Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc
nạn.
敬德一小生也身翼太宗而得免世充之圍
Kính Đức nhất tiểu sinh dã,
thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi;
杲卿一遠臣也口罵禄山而不從逆賊之計
Cảo Khanh nhất viễn thần dã,
khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế.
自古忠臣義士以身死國何代無]之
Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ
thân tử quốc hà đại vô chi?
設使數子區區為兒女子之態
Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi
nữ tử chi thái,
徒死牖下烏能名垂竹白
Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy
trúc bạch,
與天地相為不朽哉
Dữ thiên địa tương vi bất hủ
tai!
汝等
Nhữ đẳng
世為將種不曉文義
Thế vi tướng chủng, bất hiểu
văn nghĩa,
其聞其說疑信相半
Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín
tương bán.
古先之事姑置勿論
Cổ tiên chi sự cô trí vật
luận.
今余以宋韃之事言之
Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn
chi:
王公堅何人也
Vương Công Kiên hà nhân dã?
其裨將阮文立又何人也
Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập
hựu hà nhân dã?
以釣魚鎖鎖斗大之城
Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đẩu đại
chi thành,
當蒙哥堂堂百萬之鋒
Đương Mông Kha đường đường
bách vạn chi phong,
使宋之生靈至今受賜
Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ
tứ!
骨待兀郎何人也
Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã?
其裨將赤脩思又何人也
Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu
hà nhân dã?
冒瘴厲於萬里之途
Mạo chướng lệ ư vạn lý chi
đồ,
獗南詔於數旬之頃
Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi
khoảnh,
使韃之君長至今留名
Sử Thát chi quân trưởng chí kim
lưu danh!
況余與汝等
Huống dư dữ nhữ đẳng,
生於擾攘之秋
Sinh ư nhiễu nhương chi thu;
長於艱難之勢
Trưởng ư gian nan chi tế.
竊見偽使往來道途旁午
Thiết kiến ngụy sứ vãng lai,
đạo đồ bàng ngọ.
掉鴞烏之寸舌而陵辱朝廷
Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi
lăng nhục triều đình;
委犬羊之尺軀而倨傲宰祔
Ủy khuyển dương chi xích khu nhi
cứ ngạo tể phụ.
托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅求
Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi
sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu;
假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥庫
Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi
khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng khố.
譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉
Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ,
ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai?
余常
Dư thường
臨餐忘食
Lâm xan vong thực,
中夜撫枕
Trung dạ phủ chẩm,
涕泗交痍
Thế tứ giao di,
心腹如搗
Tâm phúc như đảo.
常以未能食肉寢皮絮肝飲血為恨也
Thường dĩ vị năng thực nhục
tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã.
雖
Tuy
余之百身高於草野
Dư chi bách thân, cao ư thảo dã;
余之千屍裹於馬革
Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách,
亦願為之
Diệc nguyện vi chi.
汝等
Nhữ đẳng
久居門下
Cửu cư môn hạ,
掌握兵權
Chưởng ác binh quyền.
無衣者則衣之以衣
Vô y giả tắc ý chi dĩ y;
無食者則食之以食
Vô thực giả tắc tự chi dĩ
thực.
官卑者則遷其爵
Quan ti giả tắc thiên kỳ tước;
祿薄者則給其俸
Lộc bạc giả tắc cấp kỳ
bổng.
水行給舟
Thủy hành cấp chu;
陸行給馬
Lục hành cấp mã.
委之以兵則生死同其所為
Ủy chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng
kỳ sở vi;
進之在寢則笑語同其所樂
Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu
ngữ đồng kỳ sở lạc.
其是
Kỳ thị
公堅之為偏裨
Công Kiên chi vi thiên tì,
兀郎之為副貳
Ngột Lang chi vi phó nhị,
亦未下爾
Diệc vị hạ nhĩ.
汝等
Nhữ đẳng
坐視主辱曾不為憂
Tọa thị chủ nhục, tằng bất
vi ưu;
身當國恥曾不為愧
Thân đương quốc sỉ, tằng bất
vi quý.
為邦國之將侍立夷宿而無忿心
Vi bang quốc chi tướng, thị lập
di tú nhi vô phẫn tâm;
聽太常之樂宴饗偽使而無怒色
Thính thái thường chi nhạc, yến
hưởng ngụy sứ nhi vô nộ sắc.
或鬥雞以為樂
Hoặc đấu kê dĩ vi lạc;
或賭博以為娛
Hoặc đổ bác dĩ vi ngu.
或事田園以養其家
Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng
kỳ gia;
或戀妻子以私於己
Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ.
修生產之業而忘軍國之務
Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong
quân quốc chi vụ;
恣田獵之遊而怠攻守之習
Tứ điền liệp chi du, nhi đãi
công thủ chi tập.
或甘美酒
Hoặc cam mỹ tửu;
或嗜淫聲
Hoặc thị dâm thanh.
脱有蒙韃之寇來
Thoát hữu Mông Thát chi khấu
lai,
雄雞之距不足以穿虜甲
Hùng kê chi cự, bất túc dĩ
xuyên lỗ giáp;
賭博之術不足以施軍謀
Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ
thi quân mưu.
田園之富不足以贖千金之軀
Ðiền viên chi phú, bất túc dĩ
thục thiên kim chi khu;
妻拏之累不足以充軍國之用
Thê noa chi lụy, bất túc dĩ sung
quân quốc chi dụng.
生產之多不足以購虜首
Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu
lỗ thủ;
獵犬之力不足以驅賊眾
Liệp khuyển chi lực, bất túc
dĩ khu tặc chúng.
美酒不足以沈虜軍
Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ
quân;
淫聲不足以聾虜耳
Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ
nhĩ.
當此之時
Ðương thử chi thời,
我家臣主就縛
Ngã gia thần chủ tựu phọc,
甚可痛哉
Thậm khả thống tai!
不唯余之采邑被削
Bất duy dư chi thái ấp bị tước,
而汝等之俸祿亦為他人之所有
Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc
vi tha nhân chi sở hữu;
不唯余之家小被驅
Bất duy dư chi gia tiểu bị khu,
而汝等之妻拏亦為他人之所虜
Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc
vi tha nhân chi sở lỗ;
不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵
Bất duy dư chi tổ tông xã tắc,
vi tha nhân chi sở tiễn xâm,
而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘
Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần
mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật;
不唯余之今生受辱雖百世之下臭名難洗惡謚長存
Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục,
tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường
tồn,
而汝等之家清亦不免名為敗將矣
Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc
bất miễn danh vi bại tướng hĩ!
當此之時
Ðương thử chi thời,
汝等雖欲肆其娛樂
Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu
lạc,
得乎
Đắc hồ?
今余明告汝等
Kim dư minh cáo nhữ đẳng,
當以措火積薪為危
Đương dĩ thố hỏa tích tân vi
nguy;
當以懲羹吹虀為戒
Đương dĩ trừng canh xuy tê vi
giới.
訓練士卒
Huấn luyện sĩ tốt;
習爾弓矢
Tập nhĩ cung thỉ.
使
Sử
人人逄蒙
Nhân nhân Bàng Mông;
家家后羿
Gia gia Hậu Nghệ.
購必烈之頭於闕下
Cưu Tất Liệt chi đầu ư khuyết
hạ;
朽雲南之肉於杲街
Hủ Vân Nam chi nhục ư cảo nhai.
不唯余之采邑永為青氈
Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi
thanh chiên,
而汝等之俸祿亦終身之受賜
Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc
chung thân chi thụ tứ;
不唯余之家小安床褥
Bất duy dư chi gia tiểu đắc an
sàng nhục,
而汝等之妻拏亦百年之佳老
Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc
bách niên chi giai lão;
不唯余之宗廟萬世享祀
Bất duy dư chi tông miếu vạn
thế hưởng tự,
而汝等之祖父亦春秋之血食
Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc
xuân thu chi huyết thực;
不唯余之今生得志
Bất duy dư chi kim sinh đắc chí,
而汝等百世之下芳名不朽
Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ,
phương danh bất hủ;
不唯余之美謚永垂
Bất duy dư chi mỹ thụy vĩnh
thùy,
而汝等之姓名亦遺芳於青史矣
Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc
di phương ư thanh sử hĩ.
當此之時
Ðương thử chi thời,
汝等雖欲不為娛樂
Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu
lạc,
今余
Đắc hồ!
今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略
Kim dư lịch tuyển chư gia binh
pháp vi nhất thư, danh viết Binh thư yếu lược.
汝等
Nhữ đẳng
或能專習是書受余教誨是夙世之臣主也
Hoặc năng chuyên tập thị thư,
thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã;
或暴棄是書違余教誨是夙世之仇讎也
Hoặc bạo khí thị thư, vi dư
giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã.
何則
Hà tắc?
蒙韃乃不共戴天之讎
Mông Thát nãi bất cộng đái
thiên chi thù,
汝等記恬然不以雪恥為念不以除凶為心
Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất
dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm,
而又不教士卒是倒戈迎降空拳受敵
Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị
đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch;
使平虜之後萬世遺羞
Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế
di tu,
上有何面目立於天地覆載之間耶
Thượng hữu hà diện mục lập
ư thiên địa phú tái chi gian da?
故欲汝等明知余心
Cố dục nhữ đẳng minh tri dư
tâm,
因筆以檄云
Nhân bút dĩ hịch vân.
Hịch tướng sĩ
của Trần Hưng Đạo, người
dịch: Trần Trọng Kim
Ta thường nghe chuyện: Kỷ Tín 紀
信 liều thân chịu chết thay cho vua Cao-đế; Do Vu 由
于 lấy mình đỡ ngọn giáo cho vua Chiêu-vượng; Dư
Nhượng 豫 讓 nuốt than để
báo thù cho chủ; Thân Khoái 申 蒯
chặt tay để cứu nạn cho nước; Kính Đức 敬
德 là một chức quan còn nhỏ, mà liều thân cứu
vua Thái-tông được thoát vòng vây; Kiểu Khanh 杲
卿 là một bề tôi ở xa, mà kể tội mắng thằng
Lộc Sơn 祿 山 là quân
nghịch-tặc. Các bậc trung-thần nghĩa-sĩ ngày xưa, bỏ
mình vì nước, đời nào không có? Giả-sử mấy người
ấy cũng cứ bo bo theo lối thường tình, chết già ở xó
nhà thì sao cho lưu danh sử-sách đến nghìn muôn đời như
thế được?
Nay các ngươi vốn dòng vũ-tướng,
không hiểu văn-nghĩa, nghe những chuyện cổ-tích ấy, nửa
tin nửa ngờ, ta không nói làm gì nữa; ta hãy đem chuyện
đời Tống, Nguyên mới rồi mà nói: Vương công Kiên 王
公 堅 là người thế nào? Tỳ-tướng của Vương
công Kiên là Nguyễn văn Lập 阮
文 立 lại là người thế nào, mà giữ một thành
Điếu-ngư[1] nhỏ mọn, chống với quân Mông-kha[2] kể
hàng trăm vạn, khiến cho dân sự nhà Tống, đến nay còn
đội ơn sâu. Đường ngột Ngại là người như thế nào?
Tỳ-tướng của Đường ngột Ngại là Xích tu Tư lại là
người thế nào, mà xông vào chỗ lam-chướng xa xôi, đánh
được quân Nam-chiếu trong vài ba tuần, khiến cho
quân-trướng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt.
Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở đời nhiễu-nhương,
gặp phải buổi gian-nan này, trông thấy những ngụy-sứ
đi lại rầm-rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà
xỉ-mắng triều-đình, đem thân dê chó mà bắt-nạt
tổ-phụ, lại cậy thế Hốt tất Liệt 忽
必 烈 mà đòi ngọc-lụa, ỷ thế Vân-nam-vương[3]
để vét bạc vàng; của kho có hạn, lòng tham không cùng,
khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, giữ sao cho khỏi
tai-vạ về sau!
Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm
thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa,
chỉ căm-tức rằng chưa được sả thịt lột da của
quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói
trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta
coi giữ binh-quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta
cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta
thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy thì
ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn-nạn thì
cùng nhau sống chết, lúc nhàn-hạ thì cùng nhau vui cười,
những cách cư-xử so với Vương công Kiên, Đường ngột
Ngại ngày xưa cũng chẳng kém gì.
Nay các ngươi trông thấy chủ
nhục mà không biết lo, trông thấy quốc-sỉ mà không
biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không
biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ, mà không
biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui-đùa, hoặc
lấy việc đánh bạc làm tiêu-khiển, hoặc vui thú về
vườn ruộng, hoặc quyến-luyến về vợ con, hoặc nghĩ
về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn-bắn
mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng
hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà trống sao cho đâm
thủng được áo-giáp; mẹo cờ-bạc sao cho dùng nổi được
quân-mưu; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy
nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu, nước
này trăm sự nghĩ sao; tiền-của đâu mà mua cho được
đầu giặc; chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù; chén
rượu ngon không làm được cho giặc say chết, tiếng hát
hay không làm được cho giặc điếc tai; khi bấy giờ
chẳng những là thái-ấp của ta không còn, mà bổng-lộc
của các ngươi cũng hết; chẳng những là gia-quyến của
ta bị đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy; chẳng
những là ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau,
tiếng xấu hãy còn mãi mãi; mà gia-thanh của các ngươi
cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các
ngươi dẫu muốn vui-vẻ, phỏng có được hay không?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên
cẩn-thận như nơi củi lửa, nên giữ-gìn như kẻ húp
canh, dạy-bảo quân-sĩ, luyện-tập cung tên, khiến cho
người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ,
thì mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên
được công-danh. Chẳng những là thái-ấp ta được vững
bền, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng-lộc;
chẳng những là gia-quyến của ta được yên-ổn, mà các
ngươi cũng đều được vui với vợ con, chẳng những là
tiên-nhân ta được vẻ-vang, mà các ngươi cũng được
phụng-thờ tổ-phụ, trăm năm vinh-hiển; chẳng những là
một mình ta được sung-sướng, mà các ngươi cũng được
lưu-truyền sử sách, nghìn đời thơm-tho; đến bấy giờ
các ngươi dầu không vui-vẻ, cũng tự khắc được
vui-vẻ.
Nay ta soạn hết các binh-pháp của
các nhà danh-gia hợp lại làm một quyển gọi là «
Binh-thư yếu-lược ». Nếu các ngươi biết chuyên-tập
sách này, theo lời dạy-bảo, thì mới phải đạo thần-tử;
nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy-bảo, thì
tức là kẻ nghịch-thù.
Bởi cớ sao? Bởi giặc Nguyên
cùng ta, là kẻ thù không đội trời chung, thế mà các
ngươi cứ điềm-nhiên không nghĩ đến việc báo thù, lại
không biết dạy quân-sĩ, khác nào như quay ngọn giáo mà
đi theo kẻ thù, giơ tay không mà chịu thua quân giặc,
khiến cho sau trận Bình-lỗ[4] mà ta phải chịu tiếng xấu
muôn đời, thì còn mặt-mũi nào đứng trong trời đất
nữa. Vậy nên ta phải làm ra bài hịch này để cho các
ngươi biết bụng ta.
Hịch Tướng Sĩ
Bản diễn Song thất lục bát của
Nguyễn Văn Bình
Xưa Kỷ Tín liều thân chịu
chết,
Cứu Hán Vuơng thoát khỏi Hoàng
Dương
Do Vu cháu Sở Chiêu Vương,
Giơ lưng đỡ giáo tìm đường
cứu vua.
Kìa Dự Nhượng thuở xưa người
Tấn,
Từng nuốt than lận đận phục
thù.
Kìa Thân Khoái một Tể Phu,
Chặt tay theo nạn với vua Tề.
Quan nhỏ nhưa Uất Trì Kính Đức,
Giúp Thái Tông khỏi bước trùng
vi.
Cảo Khanh quan ở biên thùy,
Già mồm chửi giặc không hề
tiếc thân.
Bậc nghĩa sĩ trung thần từ
trước,
Từng diệt thân cứu nước có
nhiều.
Những người kia nếu chẳng
liều,
Chết suông như đám nữ lưu xó
nhà.
Còn danh tiếng đâu mà chép lại,
Cùng kiền khôn truyền mãi không
ngần.
Các ngươi dòng dõi vũ thần,
Xưa này nào có hiểu văn nghĩa
gì.
Nghe câu chuyện bán nghi bán tin,
Sự muôn năm nhắc đến chi vay ?
Nay ta hãy nói cho hay,
Thử xem Tống, Thát truyện này
ra sao ?
Vương Công Kiên người nào thế
vậy ?
Tướng Nguyễn Văn Lập ấy người
nào ?
Điếu ngư thằng bé tẻo teo,
Chống quân Mông Cổ ồn ào trăm
muôn.
Khiến quân Tống thắng luôn mấy
trận,
Đến bây giờ dân vẫn hàm ân.
Ngột Lang là tướng Đốc Quân,
Với Tỳ tướng Xích là nhân
phẩm nào ?
Ngoài muôn dặm quản bao nước
độc,
Trong mấy ngày phá rốc quân Nam.
Lòng vua Thát Đát đã cam,
Đ^ n nay lừng lẫy tiếng thơm
nhường nào ?
Ta với ngươi sinh vào đời loạn,
Vừa gặp bao cơn vận hạn gian
nan.
Sứ Nguyên lai vãng bao lần,
Mọi nơi đường sá muôn vàn nôn
nao.
Triều đình bị cú diều soi mói,
Tể tướng thì lang sói rẻ
khinh.
Mượn oai Hốt Liệt tranh giành,
Lấy bao của báu chưa đành lòng
tham.
Cậy thế chúa Vân Nam nạt nã,
Đòi bạc vàng hết cả kho ta.
Thịt nuôi hùm đói mãi a ?
Sao cho thoát khỏi lo xa sau này.
Ta đây những hàng ngày quên bữa,
Lúc đêm thâu ngồi dựa gối
kiêu.
Giọt châu tầm tã tuôn trào,
Như nung gan sắt, như bào lòng
son.
Chí nhừng muốn moi gan lấy tiết,
Lòng những toan xẻ thịt vằm
da.
Dù thân dầu với cỏ hoa,
Dù da ngựa bọc thân đà cũng
vui.
Các người vốn là người môn
thuộc
Được trông nom mọi việc binh
cơ,
Áo không, ta cỡi áo cho,
Cơm không, ta sẻ cơm no cho lòng.
Quan nhỏ thì ta phong chức cả,
Lộc ít thì ta trả lương thêm.
Đi sông, ta cấp cho thuyền,
Đi đường, ta cũng lệnh truyền
ngựa đi.
Cho cầm quân an nguy cùng lối,
Cho nằm yên, vui nói cùng hàng.
So Vương Kiên với Ngột Lang,
Đãi chư Tỳ tướng mọi người
kém chi.
Nếu vua nhục ngươi thì chẳng
đoái,
Mà nước nguy, ngươi lại làm
ngơ,
Đừng hầu tướng giặc không
dơ,
Nghe ca thết sứ vẫn trơ táo
ngồi
Khi gà chọi, khi thời cờ bạc,
Cuộc vui chơi, gỡ gạc đủ trò.
Ruộng vườn muôn sự ấm no,
Vợ con vui thú riêng cho một
mình.
Ham lập nghiệp, quên tình nhà,
nước,
Mãi đi săn, nhác việc ngăn,
ngừa.
Rượu chè hôm sớm say sưa,
Hát hay, đàn ngọt sớm trưa thỏa
lòng
Đúng có lúc quân Mông, Thát tới,
Cựa gà không chọc nỗi áo da,
Những nghề cờ bạc tinh ma,
Phải đâu kế hoạch của nhà
cầm quân ?
Ruộng nương nào đủ phần chuộc
mạng,
Vợ con nào đủ cáng quân nhu ?
Của đâu chuốc được đầu thù
?
Chó săn đâu đủ sức khua giặc
trời ?
Rượu ngon khó làm mồi bã giặc,
Hát hay không làm điếc tai thù.
Bây giờ chẳng sót lắm ru ?
Vua tôi bị trói gô một đàn !
Tước ấp ta bị tan nát cả,
Bổng lộc người cũng chẳng còn
gì
Gia đình ta bị đuổi đi,
Vợ ngươi cũng phải đến khi
nhục nhằn
Tông xã ta, địch quân xéo đi,
Phần mộ ngươi cũng bị quật
lên.
Đời ta khổ nhục liên miên,
Cái tên nhơ nhuốc lưu truyền
mãi sau !
Nhà các ngươi cũng đều mang
tiếng,
Không khỏi làm những tướng bị
thua.
Các ngươi đang lúc bây giờ,
Muốn mong vui thích như xưa được
nào ?
Lời ta nhũ thấp ca ngươi nhớ,
Phải coi nằm trên lửa là nguy.
Kiềng canh đưa cũng thổi xùy,
Luyện quân sĩ tốt tập nghề
đao cung.
Khiến ai nấy nức lòng mạnh mẽ,
Sức Bàn Mông, Hậu Nghệ cũng
ham.
Bêu đầu Hốt Liệt cho cam,
Phơi luôn thịt chúa Vân Nam bên
đường.
Tước ấp ta chăn thường ấm
chỗ,
Bổng lộc ngươi hưởng có trọn
đời
Gia đình ta được yên vui,
Vợ con ngươi cũng lo đời trăm
năm.
Tông miếu ta nghìn năm hương
lửa,
Tổ tiên ngươi muôn thuở cương
thường,
Ta đây phỉ chí bồng tang,
Các ngươi dường cũng vẻ vang
vô cùng.
Huy hiệu ta tôn sùng mãi mãi
Tính danh ngươi ghi với sử xanh.
Bấy giờ vui thú linh đình,
Các ngươi đều muốn buồn tênh
được nào ?
Này binh pháp soạn theo đời
trước,
Là "Binh Thư Yếu Lược"
ban ra,
Các ngươi theo đúng sách ta,
Ấy là thần, chủ một nhà từ
xưa.
Nếu bỏ sách thờ ơ lời dạy,
Ấy kẻ thù đã mấy đời nay,
Tại sao mà lại thế vầy ?
Là thù không đội trời này được
chung.
Nếu các ngươi lòng không biết
hổ,
Không coi đều "sát Lỗ"
là cần,
Lại không vâng dạy luyện quân,
Ấy là quay giáo, bó thân quy
hàng.
Giặn yên rồi còn mang tiếng
mãi,
Mặt mũi nào đứng với ca cao
đây ?
Muốn ngươi hiểu rõ lòng đây,
Vậy nên thảo bức hịch nầy
cho nghe.
Bản dịch của Huệ Chi
Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình
chết thay, cứu thoát cho Cao Ðế; Do Vu chìa lưng chịu
giáo, che chở cho cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than,
báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho
nước. Kính Ðức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái
Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy
tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch
tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì
nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ
khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết
hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời
đất muôn đời bất hủ được?
Các ngươi vốn dòng võ tướng,
không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa
ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta
lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là
người thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông
lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Ðiếu Ngư nhỏ
tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường
đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay
còn đội ơn sâu! Cốt Ðãi Ngột Lang là người thế nào?
Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào?
Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh
quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân
trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh
ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén
nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc
lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân
dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà
đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác
hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của
kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói,
tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa
đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa;
chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu
quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn
thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng,
nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có
ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít
thì ta cấp lương. Ði thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì
ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được
nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ
tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém
gì?
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ
nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết
thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà
không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ
ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm
vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo
vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến
vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản
nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà
trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng
nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa
gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo
cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn
ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ
con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu
lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không
đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm
giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc
tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót
biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn
mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác;
chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các
ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ
tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các
ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta
kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn
rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không
khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu
các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được
chăng?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên
lấy việc đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ làm nguy;
nên lấy điều kiềng canh nóng mà thổi rau nguội làm sợ.
Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho
ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài
như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới
cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị
Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền
mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng;
chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà
vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những
tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các
ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân
ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau
còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề
mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền.
Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng
có được không?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà
hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu
các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy
bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ
sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch
thù.
Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với
ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ
điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại
không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin
đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy,
rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn
đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất
chở này nữa?
Cho nên ta viết bài hịch này để
các ngươi hiểu rõ bụng ta."
Chú thích
· Kỷ Tín: tướng của Hán Cao
Tổ Lưu Bang. Khi Lưu Bang bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương,
Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu
chết. Hán Cao Tổ nhờ thế mới thoát được.
· Do Vu: tướng của Sở Chiêu
Vương thời Xuân Thu. Theo Tả Truyện, Sở Chiêu Vương bị
nước Ngô đánh phải lánh sang phương Ðông, một đêm bị
cướp vây đánh. Do Vu đã chìa lưng ra đỡ giáo cho vua
mình.
· Dự Nhượng: gia thần của Trí
Bá thời Chiến Quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết,
Dự Nhượng bèn nuốt than cho khác giọng đi, giả làm
hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.
· Thân Khoái: quan giữ ao cá của
Tề Trang Công thời Xuân Thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết,
Thân Khoái bèn chết theo chủ.
· Kính Ðức: tức Uất Trì Cung
đời Ðường. Khi Ðường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần
Vương Lý Thế Dân) bị Vương Thế Sung vây, ông đã lấy
mình che chở, hộ vệ cho Thái Tông chạy thoát.
· Cảo Khanh: họ Nhan, một bề
tôi trung của nhà Ðường. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh
đuổi Ðường Huyền Tông và Dương Quý Phi, ông đã cả
gan chưởi mắng An Lộc Sơn và bị cắt lưỡi.
· Vương Công Kiên: tướng tài
nhà Tống, giữ Hợp Châu, lãnh đạo quân dân Tống cầm
cự với quân Mông Cổ do Mông Kha chỉ huy ở núi Ðiếu
Ngư suốt bốn tháng trời. Mông Kha cuối cùng bị loạn
tên chết, quân Mông Cổ đành phải rút lui.
· Ðiếu Ngư: tên ngọn núi hiểm
trở ở Tứ Xuyên, ba mặt nhìn xuống sông. Ðời Tống,
Dư Giới đắp thành ở đó.
· Mông Kha: tức Mongka, anh của
Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, làm Ðại Hãn Mông Cổ từ
năm 1251. Mông Kha trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang
Trung Quốc và các nước phía Ðông. Ông bị tử trận năm
1259 dưới chân thành Ðiếu Ngư trong cuộc vây hãm đội
quân Tống do Vương Công Kiên chỉ huy.
· Cốt Ðãi Ngột Lang: tức
Uriyangqadai, tướng giỏi của Mông Cổ, con của viên tướng
nổi tiếng Subutai. Cốt Ðãi Ngột Lang nhận lệnh của
Mông Kha, cùng Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam Chiếu.
Cốt Ðãi Ngột Lang cũng là viên tướng chỉ huy đạo
quân Mông Cổ xâm lược Ðại Việt lần thứ nhất
(1258).
· Xích Tu Tư: chép Xích theo Hoàng
Việt Văn Tuyển. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư chép Cân.
Hai chữ gần giống nhau, không biết quyển nào chép nhầm.
Hiện nay, chưa có tài liệu nào nói gì về viên tướng
này, và việc khôi phục lại tên Mông Cổ từ Hán tự
cũng không phải là chuyện đơn giản.
· Nam Chiếu: nước nhỏ nằm ở
khoảng giữa tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam ngày nay; thủ đô
là Ðại Lý, thuộc Vân Nam.
· Hốt Tất Liệt: tức Qubilai,
em ruột và là tướng của Mông Kha. Sau khi Mông Kha tử
trận ở Ðiếu Ngư, Hốt Tất Liệt tự xưng làm Ðại
Hãn ở Khai Bình, khiến xảy ra cuộc nội chiến tranh
giành ngôi báu với em ruột là Ariq-Buka. Năm 1264, Ariq-Buka
đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô về Yên Kinh (tức
Bắc Kinh ngày nay), xưng Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà
Nguyên.
· Vân Nam Vương: tức Hugaci hay
Thoát Hoan, con ruột Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân
Nam Vương năm 1267 với nhiệm vụ khống chế các dân tộc
thiểu số vùng này cũng như mở rộng biên cương nhà
Nguyên về phía Nam. Thoát Hoan là người chỉ huy quân
Nguyên xâm lược Ðại Việt lần thứ hai năm 1285 và lần
thứ ba năm 1287-1288.
· Nghìn thây ta bọc trong da ngựa:
điển tích lấy từ câu nói của viên tướng khét tiếng
Mã Viện đời Hán chép trong Hậu Hán Thư (Ðại trượng
phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ:
Bậc đại trượng phu nên chết ở giữa chiến trường,
lấy da ngựa mà bọc thây.)
· Thái thường: tên loại nhạc
triều đình dùng trong những buổi tế lễ quan trọng ở
tông miếu. Bấy giờ là thời kỳ ngoại giao căng thẳng
giữa ta và quân Nguyên, trong những buổi yến tiệc tiếp
sứ Nguyên, triều đình nhà Trần nhiều khi phải buộc
dùng đến nhạc thái thường để mua vui cho sứ giả.
Trần Quốc Tuấn xem đó là một điều nhục nhã.
· Thái ấp: phần đất vua Trần
phong cho các vương hầu.
· Ðặt mồi lửa dưới đống
củi nỏ: từ câu văn trong Hán Thư (phù bão hỏa, thố
chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ thượng, hỏa vị cập
nhiên nhân vị chi an. Ôm mồi lửa, đặt dưới đống củi
rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên.)
· Kiềng canh nóng mà thổi rau
nguội: xuất xứ từ một câu văn trong Sở Từ trừng ư
canh nhi xuy tê hề. Người bị bỏng vì canh nóng, trong
lòng đã e sợ sẵn, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng vẫn
thổi như thường.
· Bàng Mông: danh tướng đời
nhà Hạ, có tài bắn cung trăm phát trăm trúng.
· Hậu Nghệ: một nhân vật bắn
cung giỏi nữa trong thần thoại Trung Quốc.
· Cảo Nhai: nơi trú ngụ của
các vua chư hầu khi vào chầu vua Hán ở Trường An.
· Mãi mãi vững bền: nguyên văn
chữ Hán là vĩnh vi thanh chiên. Sách Thế Thuyết chép
chuyện Vương Tử Kính đêm nằm ngủ thấy bọn trộm vào
nhà sạch sành sanh vét mọi vật. Ông từ tốn bảo chúng
rằng: cái nệm xanh (thanh chiên) này là đồ cũ của nhà
ta, các ngươi làm ơn để lại. Tác giả dùng điển tích
này để chỉ những của cải được lưu truyền từ đời
này sang đời khác.
· Binh Thư Yếu Lược: tức Binh
Gia Diệu Lý Yếu Lược, nay đã thất truyền. Tác phẩm
với đầu đề tương tự được lưu truyền hiện nay
không phải là văn bản thực thụ, trong đó có vài đoạn
chép các trận đánh thời Lê Nguyễn sau này.
· Dẹp yên nghịch tặc: nguyên
văn chữ Hán là bình lỗ chi hậụ Các dịch giả Dương
Quảng Hàm, Trần Trọng Kim đoán Bình Lỗ là tên đất ở
đâu đó vùng Phù Lỗ thuộc tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Ở
đây, chúng tôi theo Ngô Tất Tố và Phan Kế Bính dịch
thoát là bình định nghịch tặc nói chung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét