Hồi
thứ nhất
Đặng Tuyên Phi được yêu dấu, đứng
đầu hậu cung
Vương Thế Tử bị truất ngôi, ra ở nhà kín.
Triều Lê Trang tông Dụ hoàng đế
(Tức Lê Trang Tông, tên là Duy Ninh (1533-1548). Các chú thích từ đây trở đi
đều của người dịch) trung hưng cơ nghiệp ở sông Tất Mã (Tức sông Mã ở Thanh
Hoá). Bấy giờ Thế tổ Minh khang thái vương Trịnh Kiểm làm phụ chính, giúp vua
dẹp yên được đảng họ Mạc và trở lại kinh đô cũ. Rồi từ đó, họ Trịnh đời đời
kế tiếp tước vương, nắm giữ hết quyền bính trong tay, hoàng gia mỗi ngày một
suy yếu dần.
Truyền đến đời Hiển tông Vĩnh
hoàng đế, niên hiệu Cảnh hưng (1740-1786), thì Thánh tổ Thịnh vương (Tức
Trịnh Sâm, mới lên ngôi chúa) chuyên quyền cậy thế, làm oai làm phúc; vua Lê
chỉ còn biết chắp tay rủ áo mà thôi.
Thịnh vương là người cứng rắn,
thông minh, quyết đoán sáng suốt, trí tuệ hơn người, có đủ tài về văn lẫn võ,
đã xem khắp kinh sử, biết làm văn làm thơ. Sau khi Thịnh vương lên nối ngôi
chúa, từ kỷ cương trong triều đến chính trị trong nước, hết thảy đều được sửa
đổi; bao nhiêu tướng giặc, đảng nghịch, đều lần lượt bị dẹp tan, Chúa có cái
chí muốn làm bá chủ, nào diệt giặc Trấn Ninh, nào phá bọn Công Chất [đây là
hai cuộc khởi nghĩa nông dân lớn ở thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật
ở vùng Thanh-Nghệ, lấy Trấn Ninh làm căn cứ, kéo dài 32 năm (1738-1770). Cuộc
khởi nghĩa của Hoàng Công Chất ở vùng Sơn Nam và Tây Bắc, kéo dài 30 năm
(1739-1769)], quân nhà chúa đã đến, không chỗ nào là không thắng. Lúc đó bốn
phương yên ổn, kho đụn đầy đủ, chúa dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi
tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thoả thích.
Một hôm, tiệp dư (Một cấp bực của
vợ vua, dưới bậc phi) Trần Thị Vịnh sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ bưng một khay hoa
đến trước nơi chúa ngồi. ả họ Đặng này, quê ở làng Phù Đổng, mắt phượng mày
ngài, vẻ người mười phần xinh đẹp. Chúa nom thấy rất bằng lòng, bèn tư thông
với ả.
Từ đó, Thị Huệ càng ngày càng được
nhà chúa yêu quí, ả nói gì chúa cũng nghe và hễ có việc gì là chúa cũng bàn
với ả. Rồi ả được ở chung một nơi với chúa, y như một cặp vợ chồng nhà thường
dân. Xe kiệu, quần áo của ả cũng đều được sắm sửa hệt như đồ dùng của chúa.
Thị Huệ từ lúc được nhà chúa chiều
chuộng, hơi có vẻ lộng hành. Hễ có chuyện gì không vừa ý, là ả xây xẩm mặt
mày, rồi kêu khóc thảm thiết để làm rối lòng chúa.
Chúa có một viên ngọc dạ quang,
lấy được trong khi đánh dẹp phương Nam, vẫn xâu ở trên đầu khăn làm đồ trang
sức. Một hôm Thị Huệ lấy tay mân mê viên ngọc. Chúa nói:
- Nhè nhẹ tay chứ, đừng làm ngọc
sây sát!
Thị Huệ bèn ném viên ngọc xuống
đất mà khóc rằng:
- Làm gì cái hạt ngọc này! Chẳng
qua vào Quảng Nam kiếm giả chúa hạt khác là cùng. Sao chúa nỡ trọng của khinh
người như vậy?
Rồi ả tự ý bỏ ra ở cung khác, từ
chối không gặp chúa nữa. Chúa phải dùng nhiều cách dỗ dành cho ả vui lòng,
lúc ấy ả mới chịu làm lành với chúa.
Kịp đến khi Thị Huệ có mang, chúa
liền sai người đi lễ khắp trăm thần để cầu sinh con thánh. Đến kỳ, ả sinh
được một trai, vào năm Đinh Dậu, niên hiệu Cảnh hưng 38 (1777). Chúa hết sức
yêu mến đứa bé, lúc đầy trăm ngày, chúa lấy tên của mình lúc nhỏ là Cán mà
đặt cho nó, để tỏ ra nó cũng giống mình.
Khoa thi hương năm ấy, chúa lấy
hai câu: "Sơn xuyên anh dục, hà hải tú chung" (Nghĩa là: "Khí
thiêng của sông núi tụ lại, sự tốt đẹp của hồ biển đúc nên", ý muốn chỉ
về Trịnh Cán), để làm đề thi. Các quan văn võ đưa đón ý chúa, cũng có nhiều
kẻ lấy chữ: "Tính huy hải nhuận" (nghĩa là: "Sao sáng, biển
hoà" tức là điềm sinh ra bậc thánh) làm câu chúc mừng.
Lúc vương tử Cán đầy tuổi tôi, cốt
cách tướng mạo khôi ngô, đẫy đà, khác hẳn người thường. Đến khi biết nói,
vương tử Cán đối đáp gãy gọn, cử chỉ không khác gì người lớn. Mỗi khi các
quan văn võ vào thăm, vương tử tiếp đón với dáng bộ nghiêm chỉnh. Có người
cách hàng năm mới gặp, vương tử cũng vẫn nhớ rõ họ, tên, kể lại chuyện cũ
vanh vách. Chúa sai quan từ hàn làm bài tụng 16 chữ, để viên a bảo (viên quan
trông nom việc nuôi nấng, dạy dỗ con cái của vua chúa) dạy truyền miệng cho
vương tử. Vương tử chỉ nghe qua một lượt là đọc thuộc liền. Thấy vậy chúa
càng quí vương tử Cán bội phần.
Cũng do đó, Thị Huệ mới ngầm có ý
muốn cướp ngôi thế tử.
Lại nói, lúc ấy chúa đã có thế tử
là Trịnh Tông (sau đổi là Trịnh Khải), do thái phi họ Dương đẻ ra. Thái phi
tên là Ngọc Hoan, người ở làng Long Phúc, huyện Thạch Hà. Chị nàng là cung
tần của Ân vương (cha Thịnh vương, tức là Trịnh Doanh), sinh ra Thuỵ quận
công, được Ân vương hết sức yêu quí. Nhờ chị, thái phi được kén vào làm cung
tần của Thịnh vương. Nhưng từ sau khi vào cung, nàng vẫn ngày đêm sống cô
quạnh. Bỗng một đêm, nàng nằm mơ thấy vị thần đem cho tấm đoạn có vẽ đầu
rồng. Nàng không hiểu đó là điềm gì, đem hỏi viên quan hầu là Khê trung hầu.
Khê trung hầu biết chắc là điềm sinh thánh.
Hôm sau, chúa cho vời cung tần
Ngọc Khoan vào hầu. Khê trung hầu cố ý giả làm nghe lầm, đưa ngay thái phi
Ngọc Hoan đến. Thấy nàng, chúa có vẻ không thích, nhưng đã chót gọi đến,
không nỡ đuổi ra. Sau đó chúa đòi Khê trung hầu vào trách mắng. Khê trung hầu
cúi đầu tạ tội, đoạn thuật rõ đầu đuôi chuyện thái phi nằm mơ cho chúa nghe.
Chúa cũng nín lặng không nói sao cả.
Thái phi trải qua một trận mưa
móc, liền có thai ngay. Đến kỳ, nàng sinh ra một trai. Năm Quí-mùi, Cảnh hưng
24 (1763).
Chúa tự nghĩ đầu rồng tuy có khí
tượng làm vua, nhưng là rồng vẽ không phải rồng thật, mà lại chỉ có đầu không
có đuôi, như vậy chưa hẳn đã là điềm tốt cả. Vả lại ở triều trước, Trịnh Cối,
Trịnh Lệ (Trịnh Cối là con Trịnh Kiểm, Trịnh Lệ là con Trịnh Doanh. Hai người
này đều mưu đồ giành ngôi chúa, nhưng đều thất bại) cũng do người Long Phúc
đẻ ra và đều mưu sự phản nghịch mà không thành.
Do đó, chúa có ý không vui. Các
quan văn võ vào chúc mừng, chúa lấy cớ rằng đứa con ấy không phải là vợ cả đẻ
ra, từ chối không nhận lời mừng.
Khi thế tử Tông đã lớn, dung mạo
rất khôi ngô mà chúa cũng chẳng yêu chiều gì mấy.
Tính thế tử ham võ nghệ, không
thích học hành. Năm lên bảy tuổi, chúa sai Nguyễn Khản (Nguyễn Khản là con
Nguyễn Nghiễm, người huyện Nghi Xuân Nghệ Tĩnh có sách chép là Nguyễn Lệ)
tiến sĩ khoa Canh-thìn (1760), làm tả tư giảng, và Trần Thản, tiến sĩ khoa
Kỷ-sửu (1769), làm hữu tư giảng để rèn tập cho thế tử. Nhưng chẳng bao lâu,
Thản chết. Còn Khản thì đang được chúa tin dùng, phải quán xuyến mọi công
việc trong ngoài, nên cũng không mấy khi đến được chốn "màn giảng",
chỉ có năm sáu viên tuỳ giảng bảo ban việc học cho thế tử theo như nếp cũ mà
thôi. Chuyện đó chúa cũng có biết phần nào, nên lại càng không bằng lòng.
Theo lệ cũ, người con trai nối
ngôi chúa hễ đến mười hai tuổi thì phải ra ở Đông cung. Bấy giờ các quan cũng
có tâu trình việc ấy; song chúa không cho, bắt thế tử phải đến ở tại nhà
riêng của quan a bảo là Hân quận công (Nguyễn Đĩnh). Như vậy, ngôi đông cung
vẫn bỏ trống, như có ý chờ đợi người khác.
Đến năm thế tử mười lăm tuổi, thì
con nhỏ là vương tử Cán ra đời, chúa hết sức yêu dấu đứa con nhỏ đó. Ba năm
sau, thế tử đúng mười tám tuổi. Theo lệ cũ, thế tử đáng được mở phủ riêng;
nhưng bấy giờ các quan chẳng ai dám tâu bày, mà chúa cũng không hề nhắc tới
việc ấy.
Như thế là người nối ngôi vẫn chưa
định, nên lòng người rất phân vân. Hễ ai thuộc về thế tử Tông thì hùa theo
thế tử Tông, ai thuộc đảng Thị Huệ thì vào phe vương tử Cán. Trong phủ chúa
dần dần sinh ra bè nọ cánh kia.
Thị Huệ cho rằng thế tử Tông đã
khôn lớn, lông cánh đã đủ; mà con mình hãy còn trứng nước, nên càng mưu mô để
gây thêm thế lực.
Khi ấy Huy quận công Hoàng Tố Lý
(nguyên trước là Hoàng Đăng Bảo) đang có danh vọng lớn, thường dựa vào sự
giúp đỡ của Thị Huệ; mà Thị Huệ thường cũng lấy quận Huy làm chỗ nhờ cậy bên
ngoài. Quận Huy người làng Phụng Công, là cháu Bình Nam thượng tướng quân
Việp quận công là Hoàng Ngũ Phúc, vẻ người thanh dật, là tay văn võ toàn tài.
Khoa thi hương năm ất-dậu (1765), Huy đi thi được trúng cách; đến khoa thi võ
năm Bính-tuất (1766) Huy lại đỗ luôn tạo sĩ. Hồi ấy Ân vương còn đang trọng
dụng quận Việp, mới gả con gái thứ cho quận Huy.
Uy quyền quận Việp mỗi ngày một
lớn. Có người ngờ sẽ xảy ra điều gì bất trắc, hoặc cũng có kẻ bảo quận Việp
sắp lấy thiên hạ để truyền cho quận Huy. Căn cứ vào lời sấm hồi ấy có câu:
"Nhất thỉ trục quần dương". (Một con lợn đuổi đàn dê); có kẻ tán
rằng: Thỉ tức là quận Huy, bởi vì quận Huy tuổi hợi (thuộc lợn), mà dương đây
chỉ vào chúa và thế tử, vì cả hai đều tuổi mùi (thuộc dê). Rồi những kẻ hiếu
sự lại còn đặt ra câu sấm: "Thảo nhất điền bát" (Cỏ một, ruộng tám)
để chỉ vào chữ Hoàng (thảo nhất điền bát chắp lại thành chữ Hoàng chỉ Hoàng Ngũ
Phúc). Có kẻ lại nói: "Thổ sất vân gian nguyệt, hoàng hoa ánh nhật
hương". (Mảnh đất sánh trăng trong mây; hoa cúc ánh hương mặt trời).
Thổ, sất, nguyệt là chữ tế (chữ tế nghĩa là con rể, chỉ quận Huy). Hoàng,
hoa, nhật là chữ Việp (Chữ Việp gồm chữ hoa và chữ nhất, còn chữ Hoàng là họ
Hoàng), chỉ quận Việp. Thêm nữa, tên cũ của quận Huy là Đăng Bảo (Có nghĩa
là: lên ngôi báu) người ta cũng lấy đó để dị nghị. Vì vậy quận Việp muốn
tránh sự hiềm nghi ấy mới bảo quận Huy đổi tên Đăng Bảo ra Tố Lý.
Sau quận Việp lấy cớ mắc bệnh đau
mắt để xin từ chức, chuyện ấy chẳng nhắc làm gì nữa.
Lại nói năm Giáp-ngọ (1774), quận
Việp phụng mệnh kéo quân vào đánh trong Nam, có đem quận Huy đi theo. Quận
Huy vốn đã học được phép dùng binh gia truyền của quận Việp, nên được các
tướng tá rất sợ phục. Huy lại khéo cắt đặt nhân tài, nên các tay hào kiệt đều
vui lòng chịu sai khiến. Huy có công luôn luôn phá được quân địch, tiếng tăm
mỗi ngày một lẫy lừng. Khi dẹp yên được xứ Thuận Hoá thì quận Việp qua đời.
Chúa bèn giao luôn cho quận Huy quản lĩnh số quân của quận Việp, và cho làm
trấn thủ Nghệ An.
Đóng ở trấn Nghệ An. Huy ra sức
tiêu diệt trộm cướp, cấm đổi tiền (đổi tiền đẹp để tích trữ, làm cho tiền
khan hiếm), trấn áp cường hào, ngăn chặn việc kiện cáo, làm cho trong hạt rất
thịnh vượng, Huy lại thu dụng những kẻ anh tài, đặt ra nhiều chức liêu thuộc.
Dưới trướng ông ta có những tên như tả, hữu tham quân chẳng hạn. Thế là thiên
hạ lại ồn ào lên, đồn rằng quận Huy sắp sửa làm phản.
Chúa nghe tiếng, ngày ngày cùng
viên triều thần tin cẩn là Nguyễn Khản và quan thế tử a bảo Hân quận công
Nguyễn Đĩnh bàn cách giết Huy. Trong lúc bàn bạc, ba người vẫn dùng tiếng
lóng "chữ thập" để chỉ quận Huy. Vì chữ thập cũng na ná chữ nghệ
(chữ thập xoay chéo thành chữ nghệ viết tắt) là trấn Nghệ An, nơi quận Huy
đóng quân.
Họ thường đuổi mọi người đi để bí
mật bàn bạc, chỉ có Thị Huệ là biết được.
Công chúa vợ quận Huy, ngày đêm ra
vào trong phủ luồn lọt Thị Huệ; Thị Huệ mới đem việc kín nói cho công chúa
nghe. Quận Huy trong dạ không yên, dâng thư xin về triều. Chúa cho phép ngay.
Huy nghĩ rằng Thị Huệ tuy được
chúa yêu, nhưng con trai của Thị Huệ còn nhỏ, trong khi đó thế tử đã lớn rồi,
hùa theo Thị Huệ e không phải là kế lâu bền. Vì vậy, sau khi đã vào hầu chúa,
Huy liền lấy châu báu đút lót cho những kẻ chân tay của thế tử, để xin nương
tựa vào thế tử. Rồi Huy lại đem một trăm lạng vàng và mười tấm đoạn Nam Kinh
làm lễ yết kiến, để xin vào ra mắt thế tử. Nhưng thế tử không nhận đồ lễ,
cũng không cho vào gặp, nói riêng với bọn hầu cận rằng:
Thằng giặc ấy sao không ở trấn làm
phản, mà lại vội về triều? Rồi đây ta sẽ tịch thu hết cả gia sản nhà nó, cần
gì đồ lễ của nó bây giờ!
Quận Huy biết thế tử không dung
mình, bèn quyết ý hùa theo Thị Huệ và âm thầm có chí phế lập.
Huy đem dâng ngôi nhà cũ của quận
Việp cho vương tử Cán làm dinh thự. Từ đó, Huy thành ra người riêng của Thị
Huệ. Mà trước mặt chúa, Thị Huệ cũng hết sức bao che cho Huy. Do đó, quận Huy
được vào chính phủ (phủ của chúa Trịnh để phân biệt với triều đình của vua
Lê) mở dinh quân Trung nhuệ, coi việc trong phủ, đồng thời kiêm lĩnh chức
trấn thủ trấn Sơn Nam (địa bàn của Sơn Nam thời Lê gồm: Hà Đông, Hà Nam, Hưng
Yên, Nam Định, Thái Bình), Quận Huy và Thị Huệ, trong ngoài liên kết với
nhau, thế lực nghiêng cả thiên hạ. Các viên quan võ như chức cai cơ, trấn
thủ, đều do cửa của họ mà ra. Lúc ấy, duy chỉ có Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản,
trấn thủ Sơn Tây hiện đang làm tả tư giảng cho thế tử, và Tuân sinh hầu
Nguyễn Khắc Tuân, trấn thủ Kinh Bắc tức con nuôi của Hân quận công, hiện đang
làm a bảo cho thế tử, là còn dám có ý kia khác với quận Huy mà thôi. Như vậy
là cái thế bè đảng đã thành rồi.
Lại nói, từ khi vương tử Cán sinh
ra, thế tử Tông có ý rất tức bực, chỉ sợ mình không được lập làm chúa. Thế tử
cùng với bọn gia thần là mấy tên hầu Thế Thọ, Thẩm Thọ... nho sinh Đàm Xuân
Thụ và tên xuất thân tạp lưu (là hạng thư lại không đỗ đạt gì, không do chính
ngạch mà ra) Vĩnh Vũ, ngày đêm bàn mưu, lo lắng không biết nên làm thế nào.
Vừa lúc đó, chứng bệnh cũ của chúa
lại phát, bệnh tình rất nguy kịch. Một đêm thế tử bỗng mơ thấy mình mặc áo
chầu chàm, đội mũ chữ đinh, đứng ở phủ đường. Sáng mai thế tử kể lại với bọn
gia thần và nói:
- Ta mơ như vậy là điềm có tang,
trong cung nay mai chắc sẽ có biến; ta phải sớm lo liệu trước mới được.
Bọn tôi tớ ấy liền khuyên thế tử
nên ngấm ngầm sắm sửa binh khí, chiêu mộ dũng sĩ; một mai trong cung xảy ra
chuyện chẳng lành, thì cứ việc đóng chặt cổng thành, giết quận Huy, và bắt
giữ cả hai mẹ con Thị Huệ, khiến vương tử Cán không thể lên ngôi chúa. Mặt
khác báo cho hai trấn Tây, Bắc (Sơn Tây, Kinh Bắc) đem quân vào kinh, bắt ép
các đại thần để dựng thế tử lên ngôi chúa.
Thế tử nghe theo và phao lên rằng
mình sắp được lệnh đem quân vào đánh miền Nam. Rồi thế tử lại sai người báo
ngầm cho Khê trung hầu, giao một ngàn lạng bạc cho nho sinh Đàm Xuân Thụ để
Thụ phân phát cho bọn tay chân đi mua sắm vũ khí. Tiếp đó, thế tử mật báo cho
các viên trấn thủ ở hai trấn Tây, Bắc, chiêu tập dũng sĩ.
Thế tử cắt đặt xong thì bệnh của
chúa cũng vừa khỏi, việc ấy bị tiết lộ. Hồi đó, có Nguyễn Huy Bá người ở Gia
Lâm (làng Phú Thị, huyện Gia Lâm) tính tình nham hiểm, giảo hoạt, thường vẫn
quen thói tố giác kẻ khác để kiếm quan chức. Năm trước, chính vì Bá đã tố cáo
âm mưu nổi loạn của Nguyễn Huy Cơ và Thuỵ quận công (Thuỵ quận công tức Trịnh
Lệ con Trịnh Doanh, định giành ngôi chúa với Trịnh Sâm) mà y được làm chức
tham nghị ở trấn Sơn Nam, dần dà, y ngoi lên chức tiến triều (những người
không đỗ tiến sĩ mà được làm quan ở sáu bộ thì gọi là tiến triều), rồi lại
thăng tới chức đốc đồng ở trấn Thái Nguyên. Lúc này vì có lỗi bị cách chức, y
đang nóng lòng mong lại được ra làm quan. Y bèn sai con dâu cả vào làm đày tớ
cho Thị Huệ; rồi thường nhặt nhạnh những chuyện chơi bời đùa nghịch của Tông,
xui con dâu kể lại cho Thị Huệ để nịnh nọt, lấy lòng. Mặt khác, y lại ngầm
sai người nhà tin cậy tới làm bộ hạ của hai viên trấn quan Tây, Bắc để dò xét
tình hình. Đến lúc ấy, y đã nắm được phần nào sự việc của bọn này, liền vào
báo với Thị Huệ.
Thị Huệ đem việc đó bàn với quận
Huy. Huy bảo Huy Bá viết bức thư kín, rồi Huy tự bỏ vào trong tay áo, đi đến
phủ chúa, đuổi hết những người chung quanh, đem thư ra trình chúa.
Chúa xem xong, cả giận, định sai
người giao xuống trị tội tức khắc. Quận Huy can rằng:
- Thế tử quả là có lỗi, nhưng sở
dĩ thế tử dám làm chuyện to lớn như thế chính là do hai viên trấn thủ Tây,
Bắc chủ mưu. Nay hai viên ấy hãy còn cầm quyền ở ngoài, nếu vội vã trừng trị
thế tử, e sẽ có biến khác. Chẳng thà trước hết hãy gọi hai viên ấy về triều,
giam cả ở trong phủ, rồi bấy giờ hãy tuyên bố tội trạng và trừng trị một thể.
Chúa cho là phải. Hôm sau chúa đòi
thế tử vào cung, vờ quở mắng về việc xao nhãng học hành, rồi bắt thế tử phải
đến ở trong một ngôi nhà ba gian trong Trạch các. Lại sai tiến sĩ khoa
Bính-tuất (1766) là Nguyễn Quýnh làm tả tư giảng, và tiến sĩ khoa Mậu-tuất
(1778) là Nguyễn Đích làm hữu tư giảng. Rồi sau đó chúa cho đòi hai viên trấn
thủ Tây, Bắc về triều; bữa ấy nhằm ngày 15 tháng 8 năm Canh tý niên hiệu Cảnh
hưng (1780).
Lại nói, lúc ấy ở trấn Kinh Bắc
(địa bàn Kinh Bắc gồm: Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên) có viên đốc đồng là Ngô
Thì Nhậm (người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, con Ngô Thì
Sỹ, sau làm quan với Tây Sơn), tiến sĩ khoa ất-mùi (1775) vốn là gia thần và
tuỳ-giảng của thế tử, thường vẫn rất ăn ý với trấn thủ Tuân sinh hầu (Nguyễn
Khắc Tuân). Về phía Tuân, không việc gì là không bàn với Nhậm, duy chỉ có
việc âm mưu của thế tử là Tuân không hề nói đến. Trước đó mấy ngày, Sơn Thọ
(có sách chép Hà Như Sơn) là gia thần của thế tử, lại từng là học trò của
Nhậm, được thế tử sai đến kể rõ mưu mô của thế tử cho Nhậm biết; rồi lại ngầm
ra lệnh cho Nhậm phái người cất lẻn lên vùng Lạng Sơn mua ngựa tốt để dùng
vào việc binh. Thì Nhậm hoảng sợ nói:
- Thế tử là người sẽ nối ngôi
chúa, mà nước là nước của thế tử, lo gì mất ngôi mà phải lập mưu ấy? Đây ắt
lại do bọn tôi tớ xúi giục. Thế tử trẻ người hăng máu, suy nghĩ chưa chín
chắn, nên mới nghe theo họ. Chúa thượng là người xét đoán sáng suốt, há lại
che giấu được ngài ư? E rằng tai hoạ sẽ xảy ra lúc nào không biết, bọn gia
thần của thế tử rồi không còn đất gửi thân đâu.
Đoạn Thì Nhậm vội vã sang kể hết
tình đầu cho Khắc Tuân nghe, và khuyên Tuân phải hoả tốc về kinh, can ngăn
thế tử đừng làm việc đó, để tránh tai vạ sau này.
Khắc Tuân không nghe, nói rằng:
- Tiểu chức này với quan lớn, chỉ
biết việc tuần phòng khám xét; ngoài ra những việc không dính líu đến ta, thì
không nên hé răng.
Thì Nhậm thở dài mà về.
Mấy ngày sau, quả nhiên có lệnh
đòi Khắc Tuân và Thì Nhậm. Hai người vội vàng cùng đi. Tới kinh, họ thấy trấn
thủ Sơn Tây (Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản) và a bảo Hân quận công (Nguyễn Đĩnh)
đều đã bị triệu về, còn đang ngồi đợi tội ở nhà Tả-xuyên. Khắc Tuân xin vào
điếm Quyển-bồng gặp chúa, nhưng chúa không cho vào, sai viên quan hầu là
Quyến trung hầu ra trách Khắc Tuân rằng:
- Cậu và thằng Tông đã muốn làm
giặc thì cậu cứ việc ra mà sắp sẵn binh mã, đây ta đã có các tướng mạnh để
đối địch với cậu!
Khắc Tuân quay ra, gặp Thì Nhậm ở
điếm Tiểu-bút, Tuân cầm tay Nhậm than:
- Tôi thờ chúa từ khi lọt lòng đến
giờ, nay chúa gọi tôi là giặc. Hôm nọ quan lớn nói chuyện tôi cứ cho làm
thường, nay việc đã như thế, tính sao bây giờ?
Thì Nhậm cũng hoảng hốt chẳng biết
trả lời thế nào.
Khắc Tuân liền làm tờ khải, cung
khai hết những việc trước rồi nhờ Quyến trung hầu đưa vào dâng chúa. Nhưng
chúa đang giận, không xem, lại sai Quyến trung hầu đem tờ khải ra xé trước
mặt Khắc Tuân.
Khắc Tuân lượm lấy tờ khải bị xé
ấy mà ra, nhưng sợ hãi luống cuống chẳng biết đi đường nào.
Viên trấn thủ Sơn Tây lúc ấy cũng
rất lo sợ, có điều muốn nói mà không dám tự bày tỏ. Ông ta bèn cùng Khắc Tuân
nói với Thì Nhậm:
Bọn tôi ở ngôi trọng yếu mà bị lời
gièm pha nặng nề, bây giờ dù có nói gì, chúa cũng chẳng tin. Ngài nên đem
những điều nghe thấy viết một tờ khải, đổ tội cho lũ tôi tớ, như vậy may ra
bọn tôi mới khỏi bị oan, mà thế tử cũng sẽ được an toàn không việc gì.
Thì Nhậm bất đắc dĩ phải làm theo
ý hai người. Chẳng ngờ chúa nhận được tờ khải, lại càng giận dữ nói:
- Quả như lời nói của người ta
không sai!
Rồi chúa sai Thì Nhậm và bọn quan
hầu là Ngạn triêu hầu, Đường trung hầu, án trung hầu cùng tra xét vụ án đó.
Thì Nhậm cùng bọn quan hầu định
tìm cách gỡ tội cho Khắc Tuân và viên trấn thủ Sơn Tây, nhưng vì nhà có tang
Nhậm phải bỏ việc quan mà về [Nhậm về chịu tang cha là Ngô Thì Sĩ. Theo Việt
sử thông giám cương mục (sau đây gọi tắt là Cương mục) thì chính Nhậm hợp mưu
cùng Huy Bá để tố cáo việc của Tông và Khắc Tuân. Ngô Thì Sĩ đã cố sức can mà
nhậm vẫn không nghe. Sau khi nghe tin Nhậm đã phát giác việc ấy, Sĩ buồn bực,
bèn uống thuốc độc tự tử. Nhậm vì có công tố giác, được thăng hữu thị lang bộ
Công. Do đó, người đương thời có câu rằng: "Sát tứ phụ nhi thị
lang" giết 4người cha để làm thị lang). Bốn cha là: Sĩ, thân phụ; Tông,
quân phụ; Khắc Tuân, và Xuân Hán, phụ chấp (bạn của bố). Có thuyết lại nói tứ
phụ là Sỹ và Nguyễn Khản, Phương Định, Khắc Tuân ba người bạn của bố].
Chúa bèn giao cho viên đồng tham
tụng là Nghĩa phái hầu Lê Quí Đôn, bảng nhãn khoa Nhâm-thân (1752) làm thay
việc tra xét. Cuối cùng, nắm được hết tình hình tội trạng, chúa liền gọi các
chính thần vào cung vừa khóc vừa nói:
- Quả nhân không may gặp phải
thằng con bất hiếu, lũ bầy tôi bất trung, chúng ngầm mưu việc phản nghịch;
hình tích cũng giống như vụ Thừa Kiền, nhưng tâm địa thì tệ hơn nhiều. Việc
bỏ con cả lập con thứ là bất đắc dĩ. Các ngươi cũng nên hiểu rõ bụng ta, cứ
theo phép nước mà định tội chúng nó đi!
Các quan trong triều bàn rằng: mấy
tên phạm tội đều nên xử tử, còn riêng về thế tử thì không dám bàn.
Lời bàn đó dâng lên, chúa cầm bút
phê rằng:
"Cứ xét theo nghĩa của kinh
Xuân-thu thì phải trị tội tên Tông thật nặng. Nhưng nghĩ tình cha con ruột
thịt không nỡ như thế, vậy nên truất nó xuống làm con út, trọn đời giữ đạo
làm tôi. Còn bọn các quan, thì viên trấn thủ Sơn Tây và Khê trung hầu, vốn đã
theo hầu ta từ lúc chưa lên ngôi, cũng có công lao, đặc ân cho được tự liệu
lấy. Riêng a bảo Hân quận công là người thật thà không tham dự và mưu đó cũng
được tha tội chết, nhưng phải cách chức xuống làm dân thường".
Mệnh lệnh ban xuống, Khê trung hầu
và Tuân sinh hầu đều uống thuốc độc tự tử.
Dưới trướng Tuân sinh hầu có viên
văn thư là Nguyễn Quốc Trấn cũng bị tội lây với chủ, phải ghép án tử hình.
Lúc sắp bị chém, Quốc Trấn quát lớn:
- Trời không có mắt, triều đình
không có quan, nỡ để Quốc Trấn mắc oan.
Rồi Trấn dặn người thân thuộc để
giấy bút vào tay áo mình và nói thêm:
- Sống đã không bày tỏ nỗi oan
được, chết phải kiện ở âm phủ.
Mọi người nghe câu nói đó, ai cũng
thương xót cảm động.
Thế tử Tông bị truất rồi, chúa bắt
cứ phải ở trong ngôi nhà ba gian, cho người giám sát chặt chẽ; phàm những
việc ăn uống Tông đều không được tự do. Bọn gia thần của Tông cũng không được
phép ra vào thăm hỏi. Do đó, phe đảng của thế tử, mỗi người lẩn trốn đi mỗi
nơi.
Còn phe cánh của Thị Huệ thì mỗi
ngày một mạnh. Các quan lớn nhỏ không ai là không nịnh nọt, hùa theo, mà nhà
chúa cũng càng trọng ả hơn trước.
Thừa dịp ấy, Thị Huệ bèn hỏi con
gái chúa là công chúa Ngọc Lan cho em trai mình là Đặng Mậu Lân.
Công chúa này tên chữ là Ngọc
Thuyên, là cô con gái yêu quý nhất của chúa. Nguyên chính phi họ Hoàng sinh
được hai nàng công chúa. Cô lớn là công chúa Ngọc Anh, tên chữ là Ngọc Loan,
đã gả cho Đương trung hầu Bùi Thế Toại, con trai cả của Đoan quận công Bùi
Danh Đạt làm trấn thủ Nghệ An trước kia. Còn Ngọc Lan là cô thứ hai, chưa có
chồng, được chúa rất yêu chiều.
Ngọc Lan vóc người yếu đuối, từ
nhỏ vẫn ở trong cung thuỷ tinh, kiêng nắng, kiêng gió. Nơi Ngọc Lan ở, chúa
bắt thị tỳ phải nói năng sẽ sàng để cho nàng khỏi giật mình. Khi Ngọc Lan đã
lớn, mỗi lần vào thăm chúa, chúa đều cho phép cùng ngồi với mình như lúc nàng
còn bé. Phàm những điều Ngọc Lan cầu xin chúa, không có lời nào là không đắt.
Các quan vào hàng công thần, quí tộc, nhiều người đã tới cầu hôn, nhưng chúa
chưa hứa gả cho ai. Đã có lần chúa hạ chiếu chỉ cho các quan văn võ, cùng con
cháu các dòng họ công thần vào phủ để cho công chúa tự kén chọn. Chúa bảo
công chúa hễ chọn được ai vừa ý thì chúa sẽ gả cho người đó. Nhưng Ngọc Lan
vẫn chưa kén được ai vừa lòng.
Đến
nay, Thị Huệ cầu hôn cho em trai, chúa sợ mất lòng ả ta, bất đắc dĩ mà phải
gượng nhận lời.
Lại nói, Đặng Mậu Lân này vốn là
một tên hung bạo; từ khi Thị Huệ được chúa yêu dấu Lân lại càng ỷ vào thế chị
để làm những việc càn rỡ. Hết thảy áo quần, xe kiệu của y, nhất nhất đều rập
kiểu theo đúng như của vua chúa. Thường ngày, Lân vẫn đem theo vài chục tên
tay sai, cầm gươm vác giáo đi nghênh ngang khắp kinh ấp. Hễ gặp xe kiệu, bất
kỳ là của đám quan quân nào, Lân cũng đều cà khịa đánh nhau làm cho họ nhục
nhã, rồi lấy thế làm thích thú. Gặp đàn bà con gái giữa đường, hễ người nào
trông vừa mắt, tức thì Lân sai tay chân quây màn trướng ngay tại chỗ, rồi lôi
người ấy vào hiếp liền. Ai không chịu, Lân xẻo luôn đầu vú. Chồng hoặc cha kẻ
bị nạn, nếu dám hé răng kêu ca, lập tức Lân sai quân vặn gãy răng, hoặc cũng
có người bị đánh đến chết. Người thiên hạ sợ Lân hơn sợ beo sói.
Chúa cũng biết thế, nên tuy đã
trót nhận lời gả công chúa cho Lân mà trong bụng vẫn còn có ý thương tiếc. Vả
lại chúa nghĩ, công chúa người yếu ớt, mảnh khảnh, không thể chịu nổi một tên
đàn ông cường bạo như thế. Nến đến ngày về nhà Lân, chúa lấy cớ rằng công
chúa chưa từng lên đậu lên sởi, để không cho phép Lân hợp cẩn (Theo lễ xưa,
đêm tân hôn vợ chồng uống chung một chén rượu, gọi là hợp cẩn). Rồi chúa sai
quan a bảo cùng nhiều thị nữ đi theo để hộ vệ công chúa. Tiếp đó, chúa lại
phái thêm cả viên nội sai là Sử trung hầu đến làm giám chế, không cho Lân xâm
phạm tới công chúa.
Thật là:
Ái ân, cô gái không e sợ
Hoan hỉ, chàng trai lại dở dang.
Chưa biết việc tới thế nào? Hãy
xem hồi sau phân giải.
|
Hồi
thứ hai
Lập Điện đô, bảy quan nhận di chúc, Giết Huy quận, ba quân phò Trịnh vương.
Lại nói, Đặng Mậu Lân tuy đã lấy
được công chúa Ngọc Lan, nhưng cứ mỗi lần vào với công chúa thì lại bị Sử
Trung ngăn cản; vì vậy Lân hết sức tức giận, nói với Sử Trung rằng:
- Chúa bảo con gái chúa là tiên
dưới trần, nhưng ta coi ra, thật không bằng con bé ở xách giày nhà ta, có quý
hoá gì? Đây ta không phải ham gì nhan sắc của nó; nhưng tốn kém mất bao nhiêu
tiền của mới lấy được một con vợ, nếu không ra hồn thì cũng phải vần một trận
cho nẫu nhừ ra như bùn, để đền đắp lại sự phí tổn, rồi bấy giờ sẽ tống cổ nó
đi. Còn mày, mày muốn sống muốn tốt thì hãy tìm đường kiếm nẻo mà bước đi.
Kẻo nữa lại kêu ta không bảo trước.
Sử Trung đáp:
- Đó là mật chỉ của chúa thượng,
không phải tôi dám như vậy!
Lân nói:
- Mày thử hỏi chúa, xem chúa ở vào
địa vị tao liệu chúa có nhịn được không?
Sử Trung nói:
- Quan lớn đừng nên quá lời như
vậy, nhà chúa không thể so sánh với người thường.
Lân nổi giận đùng đùng mà rằng:
- à, mày đem chúa để doạ tao
phỏng? Chúa là cái quái gì?
Dứt lời, Lân tuốt gươm chém Sử
Trung. Sử Trung chết ngay.
Giết xong Sử Trung, lân bèn sai
đóng chặt cửa dinh, ra lệnh trong không được ra, ngoài không được vào, định
ngầm thủ tiêu cái thây Sử Trung.
Ngọc Lan nghe chuyện, sợ quá, lập
tức bảo một thị nữ chui qua một lỗ hở nhỏ chạy về phủ chúa báo tin.
Chúa cả giận, sai viên quan hầu
đốc thúc một toán lính đến bắt Lân.
Lân cầm gươm lăm lăm, đứng trước
cửa doạ:
- Đứa nào muốn chết thì cứ vào
đây!
Chúa lại phải sai quận Huy đem
quân vây bắt Lân, giải về phủ, giao cho triều đình xử tội. Các quan đều nói
tội giết sứ giả đáng bêu đầu.
Thị Huệ nghe tin, khóc lóc xin
chết thay em. Chúa bất đắc dĩ phải tha cho Lân tội chết và giảm xuống thành
tội đi đày ở châu xa.
Lại nói, vương tử Cán rất tuấn tú,
thông minh, nhưng người vốn yếu đuối. Lúc còn ẵm ngửa, vương tử đã mắc chứng
cam: bụng to, rốn lồi, da nhợt, gân xanh, chân tay gầy khẳng khiu. Chúa phải
sai người đi tìm danh y khắp bốn phương về chữa cho vương tử (Hải thượng lãn
ông Lê Hữu Trác cũng đã từng bị triệu vào kinh để chữa bệnh cho Cán (xem
Thượng kinh ký sự)). Những người do nghề thuốc mà vào phủ đều được thăng
trưởng: Nguyễn Thực từ chức huấn đạo lên đến chức tiến triều; Chu Nghĩa Long
là người khách buôn Trung Quốc, được phong tước hầu coi việc quân. Thuốc
thang tốn kém kể có hàng trăm vạn, nhưng chạy chữa hết năm này qua năm khác
mà bệnh vẫn không khỏi.
Chúa lại sai người đi lễ bái khắp
các đền đài có tiếng linh thiêng; một mặt cho thiết lập đàn tràng ở ngay
trong cung để ngày đêm đèn nhang cầu khẩn. Vậy mà bệnh của vương tử vẫn đâu
hoàn đấy.
Có kẻ tố cáo với chúa, nói là vì
Tiệp dư (Tiệp dư đây không rõ ai, bản chữ Hán không ghi tên họ người nào; bản
dịch của Ngô Tất Tố, cho là Dương Ngọc Hoan có lẽ là phỏng đoán như vậy)
không được yêu, sinh ra ghen ghét, mượn bọn đồng cốt chôn hình người gỗ ở
trong cung để trấn yểm.
Chúa giận lắm, sai bắt người nhà
Tiệp dư để tra hỏi. Nhưng bọn ấy trốn hết, tìm khắp tứ phía không lùng bắt
được người nào cả. Sau, kẻ tố cáo tự dẫn người đến đào chỗ chôn người gỗ,
cũng không thấy gì, việc này mới thôi.
Tuy nhiên, bụng chúa cũng vẫn còn
ngờ, nên cứ để mặc cho Thị Huệ làm chay làm bùa, tha hồ cúng lễ. Do đó, bọn
đồng cốt ra vào tấp nập; mà bệnh của vương tử Cán vẫn khi tăng khi giảm chẳng
ra thế nào.
Đến khi thế tử Tông bị tội, thì
gặp lúc bệnh của vương tử Cán đã hơi đỡ. Năm sau vương tử lên đậu, từ tuần
nung mủ đến tuần đậu lặn đều không có gì quản ngại. Chúa hết sức vui mừng
nói:
- Thì ra trẻ con cam sài cũng là
sự thường, chẳng cần phải lo. Mà hễ nó đã lên đậu, lên sởi thì tức là nên
người rồi.
Bấy giờ các quan trong ngoài đều
có lời chúc mừng.
Nhiều người khuyên chúa giáng chỉ
lập vương tử Cán làm thế tử cho yên sự mong mỏi của thiên hạ. Chúa nghe lời
ngay.
Thánh mẫu thái tôn (tức là mẹ
Trịnh Sâm) được tin liền nói với chúa:
- Thế tử Tông với vương tử Cán đều
là cháu cả, già này thực không coi đứa nào hơn đứa nào. Có điều thế tử đã lớn
và khoẻ mạnh, còn vương tử thì nhỏ tuổi lại hay đau yếu; khuyên chúa hãy nghĩ
đến tôn miếu xã tắc, tạm dành ngôi đông cung lại đó, may ra đứa con út (chỉ
Tông vì Tông bị giáng xuống làm con út) kia nó biết hối lỗi thì hay, bằng
không, đợi lúc vương tử khôn lớn hãy lập trưởng cũng chưa muộn gì.
Chúa đáp:
- Tên Tông và tên Cán đối với mẹ
là cháu, chưa bằng đối với tôi là con. Người xưa đã nói: "Biết con chẳng
ai bằng cha". Tôi cũng chưa đến nỗi mê lẫn, vả chăng triều đình bàn bạc
chung như thế, chứ cũng chẳng phải vì tôi yêu đứa con nhỏ mà bày đặt ra việc
này. Mẹ há chẳng biết rõ rồi sao? Nay nếu không sớm định người nối ngôi, bọn
tiểu nhân đâm ra dòm nom, mong chờ, tôi e tai hoạ sẽ xảy đến lúc nào không
biết. Huống hồ ngôi báu của thiên hạ cốt phải giao phó vào tay người xứng
đáng. Đã coi tôn xã làm trọng, thì dẫu con đẻ ra cũng không được tư túi; lẽ
nào tôi lại dám tư túi với đứa con nhỏ? Nếu như cuối cùng bệnh của Cán không
khỏi, thì thà lập Côn quận công (có bản chép là Quế quận công, tức Trịnh
Bồng, anh em con chú bác với Sâm, con Trịnh Giang), trả lại dòng chính cho
nhà bác; chứ không thể nào giao cho cái thằng Tông bất hiếu, để nó làm hỏng
cơ nghiệp của tổ tiên.
Thánh mẫu không dám nói gì nữa.
Chúa bèn sai các quan trong triều
làm tờ tâu lên vua Lê, xin lập vương tử Cán làm thế tử (Bấy giờ có nhiều
người không đồng tình việc lập Cán, nên đã đặt ra câu ca dao:
Đục cùn thì giữ lấy tông:
Đục long, cán gãy, còn mong nỗi
gì?
Dùng chữ tông và cán theo nghĩa
đôi để chỉ vào Trịnh Tông và Trịnh Cán.).
Lại nói, từ mấy năm nay, bệnh cũ
của chúa vẫn thường hay phát trở lại, khi thì một tháng, khi thì nửa tháng.
Mỗi lần bệnh phát thường hết sức nguy kịch, nhưng rồi dần dần cũng lại khỏi.
Chúa rất sợ nắng gió, bình thường phải ở luôn trong thâm cung và nơi đó phải
thắp nến suốt đêm ngày. Nếu không phải triều hội lớn, thì không bao giờ chúa
ra gặp các quan. Sập ngự trong phủ chúa có che trướng thuỷ tinh, kiệu của
chúa đi cũng treo rèm thuỷ tinh, để ngăn nắng gió. Các quan muốn trình báo
việc gì, đều do quan hầu đem tờ khải vào. Chúa muốn phán gì cũng do quan thị
truyền chỉ ra. Dẫu đến các bậc thân quí, cũng phải một năm hoặc nửa năm mới
gặp mặt chúa một lần. Còn các hàng văn võ trong triều, thì thường không hề
được thấy mặt rồng. Việc của phủ chúa, bên ngoài người ta đồn đại như là việc
thiên tào. Cứ như thế, sự ngăn cách, che lấp ngày càng thêm tệ.
Đến lúc này, bện của chúa lại nguy
kịch. Thị Huệ ngày đêm hầu hạ. Trong hàng đại thần chỉ có quận Huy là được ra
vào. Mẹ chúa và các con gái chúa cũng ít khi được tới gặp, hàng ngày thăm hỏi
sức khoẻ của chúa, họ chỉ đứng ngoài cửa buồng và hỏi qua bọn quan hầu mà thôi.
Nhân cơ hội ấy, Thị Huệ bèn nói
với chúa:
- Thiếp thờ chúa thượng, nhờ ơn
được quá thương yêu, thành ra nhiều kẻ thù ghét; không biết rồi đây mẹ con
thiếp sẽ gửi thân vào đâu?
Chúa yên ủi rằng:
- Thế tử đã chính thức lên ngôi
đông cung, nước là nước của nó; rồi đây khanh sẽ làm mẹ cả thiên hạ, kẻ nào
còn thay đổi được?
Thị Huệ lại thưa:
- Sợ không dự định trước, đến lúc
tình thế khẩn cấp sẽ bị người khác cướp mất.
Bấy giờ quận Huy cũng có ở đó. Chúa
nhìn Huy nói:
- Sau này ngươi cần hết sức giúp
đỡ chính cung và thế tử, để cho yên lòng ta.
Quận Huy thưa:
- Tôi dám đâu chẳng hết lòng về
việc này kỳ cho đến chết. Nhưng ngay bây giờ, nhân lúc chúa còn tỉnh táo, xin
hãy kịp thời truyền mệnh lệnh cho thế tử Cán nối ngôi và lập chính cung làm
vương phi, cùng coi việc nước, để cho có mệnh lệnh sẵn sàng.
Chúa khen:
- Phải đấy! Khanh cần làm phụ
chính cho vương tử.
Quận Huy lại thưa:
- Vâng lời di chúc làm người phụ
chính, tôi chẳng dám gánh vác một mình. Hiện nay có Khanh quận công là bậc
chí thân, Hoàn quận công là bậc sư phó đại thần, Châu quận công và Tứ xuyên
hầu đều ở trong chính phủ, vốn có đức vọng, Diễm quận công là a bảo của đông
cung, Thuỳ trung hầu là bảo vệ của đông cung, đều là những bầy tôi tin cậy.
Vậy xin nhà chúa hãy cho phép những viên ấy cùng nhận cố mệnh (mệnh dặn lại
lúc sắp chết) với tôi.
Chúa bằng lòng.
Quận Huy liền sai Tứ xuyên hầu
thảo tờ cố mệnh, và quan thiêm sai Nhữ Công Điền làm tờ sách phong Tuyên phi.
Giấy tờ lập xong, Huy bỏ vào tay áo đem dâng chúa để xin điền tên.
Bấy giờ bệnh chúa đã nguy kịch,
nhân có thánh mẫu vào thăm, Thị Huệ phải ôm chúa ngồi dậy. Thánh mẫu đứng ở
đầu sập vừa khóc vừa hỏi han. Chúa cũng khóc mà rằng:
- Con xin chắp tay cúi đầu lạy mẹ.
Nay con chẳng may xấu số, không được thờ mẹ cho đến cùng. Nghĩ đến đạo hiếu
chưa tròn, ruột gan con đau như dao cắt. Xin mẹ hãy ngự giá về cung, cố ăn
ngủ cho thảnh thơi, đừng nghĩ gì đến con mà đau lòng mẹ. Còn việc sớm hôm
thăm hỏi sau này đã có tự vương (chúa nối nghiệp, chỉ Trịnh Cán) thay con.
Thánh mẫu nức nở, sụt sịt, ngập
ngừng hồi lâu, ý muốn nói đến ngôi thế tử, nhưng vì có Thị Huệ ở đấy nên cũng
khó hé răng, dùng dằng mãi chưa ra.
Chúa thấy vậy lại nói:
- Mẹ quá thương con, không nỡ dứt
tình mà đi. Con trông thấy mẹ cũng đau lòng không thể nhắm mắt. Vậy cúi xin
mẹ hãy ngự giá về cung.
Thánh mẫu bèn ứa nước mắt trở ra.
Chúa quay sang dặn Thị Huệ.
- Bệnh ta không khỏi, không ở được
cùng khanh đến lúc bạc đầu. Nay ta về chầu giời, khanh ở lại phụng thờ thánh
mẫu, nuôi nấng tự vương; còn duyên sắt cầm đành hẹn đến kiếp khác.
Thị Huệ nấc lên đến hơn một khắc,
rồi ả cắt tóc thề rằng:
- Chúa thượng chẳng thương thiếp,
nỡ bỏ thiếp vò võ một mình! Thiếp xin liều thân mà chết theo chúa. Thờ phụng
thánh mẫu đã có hai công chúa, giúp rập tự vương đã có các quan đại thần,
chúa đừng giao những việc ấy cho thiếp.
Rồi thị khóc oà lên.
Chúa ngoảnh sang Thuỳ trung hầu
nói:
- Sau khi ta qua đời, các ngươi
phải nên khuyên giải chính cung cho khéo, chớ để nàng liều mình. Vạn nhất nếu
không ngăn cản nổi ý chí của nàng, thì cứ để nàng chung thuyền với ta mà đưa
đi, cho nàng được hầu hạ ta ở nơi lăng tẩm.
Tiếp đó, chúa cho đòi quận Khanh,
quận Hoàn vào chịu cố mệnh.
Hai người vào, chúa truyền miễn
lạy và cho ngồi. Hai người khóc lóc hỏi han sức khoẻ. Chúa nói:
- Con xin chắp tay cúi đầu lạy
chú, lạy thầy. Chẳng may con bị bệnh nặng, nay đã nguy cấp, muốn cho thế tử
Cán lên nối ngôi chúa. Vậy nhờ chú và thầy chung sức đồng lòng, giúp cho qua
khỏi bước khó khăn này.
Dứt lời, chúa bảo Thị Huệ đặt mình
nằm xuống.
Quận Huy quì xuống, rút tờ cố mệnh
trong tay áo dâng trình, nhưng chúa chỉ lấy tay xua đi.
Quận Huy lại thưa rằng:
- Nay thánh thể không yên, mà chỗ
đề tên họ trong tờ cố mệnh thì hãy còn để trống, vậy xin chúa hãy để cho
vương thân Khanh quận công viết thay.
Chúa không còn nói được nữa, chỉ
gật đầu mà thôi.
Quận Khanh bèn lấy bút phê, rồi
ngay trước sập chúa, lần lượt viết tên mấy người vào chỗ bỏ trắng trong tờ cố
mệnh. Viết xong, lại dâng cho chúa xem; nhưng lúc ấy chúa đã nhắm nghiền hai
mắt không biết gì nữa.
Thế là Trịnh vương qua đời. Bữa ấy
nhằm ngày 13 tháng quận Huy năm Nhâm-dần (1782). Chúa thọ 44 tuổi, làm chúa
được 16 năm.
Sau khi chúa tắt thở, quận Huy một
mặt cắt đặt cho các quan lo liệu việc tang lễ, một mặt sai Thuỳ trung hầu sao
lấy mấy bản thư cố mệnh và tờ sách phong Tuyên phi đưa ra chính phủ, để cho
các quan triều tâu lên vua Lê.
Ngay hôm ấy, vua Lê hạ sắc dụ lập
thế tử Cán làm Điện đô vương.
Trăm quan liền đem nghi trượng,
binh lính đến cửa Kính-thiên để rước sắc về phủ chúa.
Đến phủ, quan a bảo Diễm quận công
bế thế tử-đã được mặc áo triều, đội mũ, mang đai màu hoa quì-đứng đón ở sân,
quỳ xuống nhận sắc.
Xong đó, ngoài phủ đường đã đặt
sẵn sập ngự, quận Diễm bồng thế tử Cán lên ngôi chúa. Các quan theo thứ tự
lần lượt vào lễ mừng. Lễ xong, quận Diễm lại bế chúa mới (Trịnh Cán) vào cung
Huỳnh để lạy thánh mẫu. Rồi sau đấy, mọi người đều thay triều phục, mặc áo
trở để làm lễ phát tang.
Lúc Thịnh vương còn sống có soạn
ra cuốn Vạn niên thư, phàm việc tang lễ từ lễ "phạm hàm" đến lễ
"đại tường", "nhập miếu" (Phạm hàm: Lễ đặt vàng, ngọc
hoặc các của quí khác vào trong miệng người chết. Đại tường: Lễ giỗ sau khi
chết hai năm. Nhập miếu: Lễ rước linh hồn vào nhà thờ, để thờ chung với các
tổ tiên), nghi tiết như thế nào đều đã chua rõ; cho cả đến mấy chữ miếu hiệu
"Thánh tổ Thịnh vương" cũng được ghi sẵn. Nay cứ theo đó mà làm.
Bảy viên đại thần ngày đêm túc
trực ở trong phủ, chia nhau coi sóc mọi việc.
Lại nói về bảy viên phụ chính này.
Khanh quận công tên là Trịnh Kiều,
tức là con thứ năm của Hy tổ Nhân vương, và là em Nhị tổ Ân vương, đối với
chúa mới là hàng ông chú. Kiều là bậc tuổi cao, đức cả, song tính tình chất
phác, thật thà, đối với công việc nên hay không nên cũng mặc, chẳng có ý kiến
gì.
Hoàng quận công tên là Nguyễn
Hoàn, người làng Lan Khê huyện Nông Cống, đỗ tiến sĩ khoa Quí-hợi (1743).
Trước Hoàn làm hữu tư giảng cho Thịnh vương, sau lên đến chức thượng thư bộ
Lại, rồi làm Tham tụng. Hoàn đã về trí sĩ nhưng lại bị gọi ra tham dự triều
chính, Hoàn là một vị trọng thần của nhà nước, nhưng tính người hoà hoãn,
chìm nổi theo đời, gặp việc thường dè chừng, không quyết đoán.
Tứ xuyên hầu tên là Phan Lê Phiên
(có sách chép Duy Phiên hoặc Trọng Phiên), người làng Đông Ngạc, huyện Từ
Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Đinh-sửu (1757). Phiên từng làm tả thị lang bộ Hộ, làm
tham tụng; là người có phong độ đoan trang, học vấn rộng rãi, nhưng tính nết
thâm trầm lại hay nương nhờ vào bọn quyền thế.
Châu quận công, Diễm quận công và
Thuỳ trung hầu đều xuất thân từ hàng quan hoạn.
Châu quận công tên là Lê Đình
Châu, người làng Liên Hồ, huyện Ngọc Sơn, hầu hạ các chúa trải đã mấy triều.
Châu có làm chức tri binh phiên cơ mật, là người trung hậu, lúc đã già vì là
bậc kỳ cựu, nên được vào chính phủ, nhưng không giữ việc gì.
Diễm quận công tức Trần Xuân Huy,
người làng Khoái Lạc, huyện Thiên Bản; nguyên là gia thần của Thịnh vương,
khi vương chưa lên ngôi. Lúc Thịnh vương lên cầm quyền, Huy được giao cho
chức tri hộ phiên. Huy là người thuần thục, cẩn thận. Thịnh vương rất tin,
sai Huy làm a bảo cho thế tử, ngày đêm ở luôn bên cạnh thế tử, không dự gì
đến những việc bên ngoài.
Thuỳ trung hầu tên là Tạ Danh
Thuỳ, người làng Khang Thượng, huyện Yên Mô, từng làm chức xuất nạp (một chức
quan hầu cận của vua chúa chuyên giữ việc phát nhận giấy tờ, và truyền đạt
mệnh lệnh) rồi lại làm trấn thủ Thanh Hoa (thời Lê trung hưng, Thanh Hoá gọi
là Thanh Hoa). Thuỳ là người cơ trí, giỏi văn học, biện luận như gió. Thịnh
vương vốn tin trọng, sai Thuỳ làm chức bảo vệ cho thế tử; nhưng vì Thuỳ tuổi
trẻ chưa có danh vọng gì mấy, nên không tránh khỏi phải lép vế và chiều theo
ý những kẻ đồng liêu.
Bởi vậy, hết thảy mọi việc trong
thiên hạ đều do một tay quận Huy quyết định, không có ai bàn qua nói lại gì
hết.
Nguyên sáu người kia, không phải
hết thảy đều một lòng với quận Huy cả. Chẳng qua thấy họ có địa vị và danh
vọng, nên quận Huy mới lôi kéo họ vào cùng cánh với mình để họ khỏi có ý khác
mà thôi.
Chỉ Diễm quận công vốn là phe đảng
của Thị Huệ, xưa nay lại rất ăn ý với Tứ xuyên hầu; nên hai người này đều một
bụng một dạ với quận Huy. Song quận Diễm là người dốt nát, ít hiểu biết, việc
gì cũng phải nhờ Tứ xuyên hầu chỉ vẽ cho; mà Tứ xuyên hầu thì cũng như quận
Huy, đều đang mê mẩn trong tình thế lúc bấy giờ.
Còn Hoàn quận công là bậc lão nho.
Thuỳ trung hầu là hạng khôn vặt. Rút lại không lường được bụng dạ của họ ra
sao.
Trong đó, thực thà không có ý gì,
duy chỉ có Khanh quận công và Châu quận công mà thôi.
Quận Huy tự đứng làm chủ cuộc,
phàm mọi việc đều tự mình gánh vác, không cần đùn đẩy cho ai; người khác có
đồng ý hay không, Huy cũng chẳng thèm kể đến.
Lúc đó, chúa mới lên ngôi, vì còn
thơ ấu nên người trong nước không khỏi có ý ngờ. ở phố phường người ta túm
năm tụm ba bàn tán. Kẻ nói chúa mới bị bệnh rất nặng, chưa biết chừng ngày
nào đó trong cung sẽ có biến; quận Huy uy quyền lớn quá, không khéo hắn sẽ
cướp nước mất. Người bảo chính cung tư thông với Huy, ả sắp đem xã tắc giao
phó cho quận Huy. Bấy giờ, đầu đường xó chợ có câu ca dao như sau:
Trăm quan ít sáng nhiều mờ (có
sách chép: "Trăm quan có mắt như mờ" hoặc "Sáu ông cố mệnh
ngẩn ngơ");
Để cho Huy quận vào rờ chính cung.
Huy nghe tin, bèn sai quan đề lĩnh
đem móc sắt và kéo treo khắp các chợ, doạ rằng những ai còn dám tụ họp nói
chuyện thì sẽ móc lưỡi cắt đi. Do đó, ở ngoài đường sá người ta chỉ dám ghé
mắt ngó nhau; dân chúng kinh kỳ đều sợ nơm nớp.
Lại nói về thế tử cũ, từ khi chúa
mới lên ngôi, Thị Huệ vẫn muốn ngầm hại thế tử, nhưng Thuỳ trung hầu thường
tìm lời khôn khéo để che chở cho. Thị Huệ bị lời lẽ Thuỳ trung hầu giằng giữ,
nên không dám quả quyết hành động. ả bèn bắt Tông ra ở tại nhà Tả-xuyên, rồi
giao cho bốn đội Nội-khuông, Nội-dực, Nội-nhưng, Nội-kiệu giám sát. Mỗi ngày
chỉ có ba bữa cúng cha, thế tử mới được vào phủ đường, lễ xong lại về sở
giam. Vì vậy, thế tử ngày đêm lo lắng, sợ rằng không giữ được tính mạng.
Mẹ thế tử là thái phi họ Dương nhờ
người chị là quận phu nhân họ Dương kêu van với quận Huy rằng:
- Em thiếp là cung tần Dương thị
mỗ và con út chúa là vương tử mỗ xin gửi lời lạy trình quan lớn xét cho: Đứa
con út đó có tội, gạt bỏ là phải, không dám phàn nàn. Nhưng nay nó ở vào cảnh
ngộ hiềm nghi, tình thế cấp bách, khôn xiết nguy hiểm sợ hãi. Vậy muôn vàn
lần mong mỏi quan lớn hãy rủ lòng thương, che chở cho nó được toàn vẹn; công
ơn cứu sống của ngài, mẹ con nó xin ghi xương tạc dạ.
Quận Huy vừa khóc vừa trả lời:
- Tôi thờ tiên chúa, được chịu ơn
huệ đã nhiều, nghĩa tuy là vua tôi, nhưng tình là cha con. Thế tử cũ cũng là con
của chúa tôi, tôi có lòng nào, thì xin trời đất tru diệt. Phu nhân trở về,
cho tôi gửi lời trình trước màn tang của vương tử và quý cung tần rằng, xin
cứ yên lòng, tôi sẽ hết sức giúp đỡ, không có điều gì phải lo ngại.
Rồi Huy bí mật sức cho bốn đội quan
quân, ra lệnh phải lỏng lẻo bớt trong việc giam giữ thế tử. Từ đó các gia
thần và các người thân tin cũ của thế tử mới được ra vào dễ dàng, không ai
xét hỏi.
Thế tử có người đầu bếp tên là Dự
Vũ, vốn là người cơ trí, nói năng rành mạch. Một hôm, thế tử hỏi bên ngoài
lòng người ra sao, Dự Vũ đáp:
- Nhà chúa bỏ con cả lập con út,
thiên hạ đều căm ghét, nhất là quân lính lại càng bất bình lắm. Hôm nọ trong
khi tân chúa lên ngôi, theo lệ có ban tiền bạc cho các quân sĩ, nhưng trong
quân nhao nhao, có kẻ không chịu nhận tiền ấy. Sau, quận Huy phải ra lệnh
nghiêm cấm, họ mới miễn cưỡng nghe theo, mà trong lòng vẫn còn hậm hực.
Thế tử mừng thầm, đem chuyện ấy
bàn với một viên gia thần tên là Gia Thọ.
Thọ người làng Bát Tràng, huyện
Gia Lâm, cũng là kẻ tinh khôn; hắn nói với thế tử:
- Lòng người như thế, nếu lấy
nghĩa khí mà khích động, khiến cho họ một lòng tôn phù, thì việc lớn ắt
thành.
Thế tử mừng lắm, bèn sai Dự Vũ làm
cơm rượu, mời bọn biện lại trong đám thân quân tới đánh chén, rồi nói với họ
rằng:
- Thế tử chẳng có tội gì, nhưng bị
mụ đàn bà ác nghiệt họ Đặng làm mê hoặc tiên chúa, vu tội hãm hại thế tử để
cướp ngôi. Còn quận Huy vốn có chí phản nghịch, lợi dụng vương tử Cán bé dại
dễ kiềm chế, nên hắn mới vào hùa với mụ mà gây ra việc bỏ người này lập người
kia, để hắn làm phụ chính cho tiện cái mưu cướp nước của mình. Nay tân chúa
bị bệnh nặng, sự nguy biến chỉ trong sớm tối. Không biết rồi đây cơ nghiệp
nhà chúa sẽ do ai làm chủ? Ba quân đều là người ở đất "thang mộc"
("thang mộc" nghĩa là tắm gội. Đất "thang mộc" là đất
thiên tử phong cho các chư hầu, để làm nơi cung đốn việc tắm gội hoặc nơi ăn
ngủ trước khi vào chầu. Do đó, đất "thang mộc" cũng dùng để trỏ
chung đất quê hương của vua chúa. ở đây đất "thang mộc" trỏ vào
Thanh Hoá, đất quê hương của vua Lê.) và là binh lính ứng nghĩa, làm nanh
vuốt của nhà nước, ai cũng sẵn lòng trung nghĩa. Nếu anh em còn nghĩ đến cái
ơn của nhà chúa nuôi nấng trong hai trăm năm, thì hãy nên một lòng giúp đỡ
nhà chúa. Mai đây nếu trời cho xong việc, tất nhiên sẽ có sách son, khoán sắt
(văn thư viết bằng son, khoán ước chế bằng sắt, ban cho bầy tôi có công để tỏ
ý cùng được hưởng phú quí lâu dài với nhà vua) lưu truyền muôn đời.
Mọi người đều nói:
- Chúng tôi vẫn có bụng đó, nhưng
chưa biết ý vương tử ra sao. Sợ đến lúc ấy nhỡ có điều gì kinh động, người
lại quở trách chúng tôi gây việc. Nay vương tử đã ngỏ ý cho biết như thế, thì
việc này chắc không khó gì.
Sau đó, họ bèn ngầm đi báo cho
nhau, hẹn ngày tụ họp ở chùa Khán Sơn (chùa Khán Sơn xưa ở trên trái núi đất
gần khu vực vườn Bách Thảo Hà Nội, chùa bị phá từ cuối đời Cảnh-hưng).
Lúc quân lính đến hội họp, bàn về
việc ấy không ai là không hăng hái. Nhưng họ còn sợ thanh thế quận Huy, nên
chưa biết khởi sự như thế nào cho ổn thoả.
Giữa lúc đang bàn bạc như thế, thì
bỗng một người đứng phắt lên nói:
- Chỉ sợ anh em không cùng một
bụng thôi. Chứ nếu ba quân đồng lòng, thì bất quá chỉ thừa dịp cúng cơm sáng
xong (theo tang lễ xưa, người chết khi chưa chôn thì gia đình mỗi ngày cúng
hai lần cơm), đánh một hồi trống trong phủ làm hiệu, rồi kéo ùa cả vào, nắm
cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!
Mọi người đều reo mừng hưởng ứng,
và cùng nhìn về phía kẻ mới nói, thì ra đó là viên biện lại của đội Tiệp-bảo
(đội thân binh hầu hạ) tên là Bằng Vũ.
Gã Bằng Vũ này là người huyện
Thanh Chương, xứ Nghệ An, ông cha vốn là công thần đời Lê trung hưng. Về sau
tập ấm (đây dịch theo hai chữ ấm tận. Trong chế độ phong kiến, những kẻ làm
quan, tuỳ theo thứ bực, con cháu đều được nối nghiệp làm quan gọi là tập ấm;
đến lúc nào không được hưởng tập ấm nữa thì gọi là ấm tận) đã hết, con cháu
trở nên nghèo nàn. Bằng Vũ được người làng thuê đi lính thay. Gã người thấp
bé, thanh nhã như dáng học trò. Sau khi vào đội Tiệp-bảo, nhờ biết dăm ba
chữ, gã được làm chân biện lại. ở kinh, gã thường làm mướn đơn kiện cho người
ta, vẫn lừng tiếng là tay điêu toa trong việc xui nguyên giục bị.
Lúc này Bằng Vũ thủ xướng ra lời
bàn đó, cả bọn liền bầu ngay gã làm chủ mưu, giao cho gã đánh trống trước để
thúc giục ba quân.
Bằng Vũ mạnh bạo nhận lời. Rồi cả
bọn cùng nhau uống máu ăn thề. Nhưng họ không dự định ngày nào, chỉ hẹn nhau
hễ nghe hiệu trống của Bằng Vũ thì cùng kéo đến để khởi sự.
Mưu toan bí mật đã bàn định xong.
Chợt lại có người nói:
- Việc này hết sức quan hệ. Nên
nhờ quốc cữu tâu với thánh mẫu, xin lĩnh ý chỉ của thánh mẫu mà làm. Vạn nhất
quận Huy có biết, mình còn có mật lệnh làm cớ để mà nói, tỏ rằng mình vẫn làm
việc minh bạch. Như thế mới là kế vạn toàn!
Người ấy là Bùi Bật Trực, quán
làng An Toàn, huyện La Sơn, một tay danh sĩ xứ Nghệ. Bật Trực trước đã từng
làm chức viên ngoại lang, hồi này vì bị mất quan vẫn nương nhờ ở trong nhà
quốc cữu Viêm quận công (Viêm quận công Nguyễn Trọng Viêm là em mẹ Trịnh Sâm,
do đó gọi là quốc cữu). Khi bọn biện lại hẹn quân sĩ đến tụ tập ở chùa Khán
Sơn, Bật Trực cũng đã nghe phong thanh. Gã liền đem mưu mô của bọn quân sĩ
nói nhỏ với Chiếu lĩnh bá (tức Nguyễn Trọng Chiếu), con Viêm quận công, và
khuyên nên nhập bọn để hớt lấy công ấy. Còn bản thân gã thì đứng ra làm người
manh mối giữa Chiếu lĩnh bá và bọn quân sĩ. Vì thế, nên gã mới đến dự cuộc
họp để nói với bọn họ như vậy.
Quân sĩ vốn không cần chỉ của
thánh mẫu, nhưng thấy người nhà quốc cữu cũng có mặt trong cuộc hội họp,
khước từ sẽ lộ chuyện. Vả lại, lời của Bật Trực nghe cũng có lý, họ bèn cùng
đi với Bật Trực đến gặp quận Viêm.
Lúc quân sĩ chưa đến, Chiếu lĩnh
bá đã đem chuyện nói trước với cha. Cha hắn ta vốn là người tầm thường, nghe
thấy chuyện đó thì sợ lắm, bèn nói:
- Lũ lính tráng này là đồ thô lỗ,
khinh suất nên mới làm việc ấy: mình can dự vào làm gì? "Con vua thì lại
làm vua". Ai làm chúa ta cũng vẫn không mất cái chân là quốc cữu tiền
triều. Nay lại muốn cầu công trạng, nếu việc thành, ta không thể giàu sang
hơn thế này nữa; mà ngộ nhỡ công việc vỡ lở, hẳn là chết không có đất chôn!
Chiếu lĩnh bá đáp:
- Bọn họ bàn bạc, ước hẹn với nhau
đã đâu vào đấy rồi. Thế nào nay mai họ cũng ra tay, mà đã ra tay là phải xong
việc. Cự tuyệt họ tức là bỏ uổng cơ hội. Vả chăng sự giàu sang của cha dẫu đã
đầy đủ rồi thật, nhưng cha cũng nên để cho chúng con nhân dịp này mà lập công
danh. Hơn nữa con đã trót hứa với họ, bây giờ dù có muốn thoái thác cũng
không thể được.
Một lát quân sĩ kéo đến. Quận Viêm
bất đắc dĩ phải ra tiếp.
Sau khi nghe họ nói, quận Viêm trả
lời:
- Các anh em còn có lòng vì nước,
tôi đây há lại dám có bụng dạ nào khác. Có điều anh em muốn xin ý chỉ của
thánh mẫu, thì nên đến nhà cháu tôi là viên phó tri binh phiên Nguyễn Kiêm mà
bảo viên ấy vào bẩm với thánh mẫu. Viên ấy giữ chức tri lệnh sử, nên ra vào
cung Huỳnh người ta sẽ không nghi ngờ. Còn tôi, tôi cũng xin gửi lời trình
thêm với thánh mẫu nữa.
Quân sĩ nghe lời, lại kéo cả sang
nhà Nguyễn Kiêm.
Kiêm vốn là hạng hèn nhát, nghe
quân sĩ nói thì hoảng hốt chối đây đẩy. Nhưng bọn người vẫn cố nèo:
- Việc này cũng đã bẩm với quốc
cữu và Người đã dạy như thế.
Rồi họ thúc ép Kiêm phải đến nhà
quận Viêm để nhận lời dặn mà vào tâu với thánh mẫu.
Nguyên việc bỏ con lớn lập con
nhỏ, thánh mẫu vốn không hài lòng, vì vậy khi được nghe mưu toan ấy, thánh
mẫu đã thấy hợp ý ngay. Nhưng dẫu sao cũng chưa thoát khỏi chí khí đàn bà,
thánh mẫu sợ nhỡ công việc bại lộ, quốc cữu sẽ bị vạ lây; nên muốn hãy ngầm
dỗ dành quận Huy để hắn đưa thế tử Tông lên quyền ngôi chúa cho khỏi sinh
biến. Lại nghĩ trong bọn bảy tên phụ chính, chỉ có quận Hoàn vừa là thầy học
của chúa trước vừa là bố vợ Kiêm, bụng dạ có thể tin được, mà lại là bậc lão
nho có nhiều mưu trí, có thể cùng bàn mọi việc với ông ta. Thánh mẫu bèn bảo
Nguyễn Kiêm một mặt báo cho bọn quân sĩ hãy chậm khởi sự lại vài ngày, còn
một mặt thì tới bàn mưu với quận Hoàn.
Quận Hoàn nói:
- Nếu ba quân làm như thế, tất sẽ
gây ra rất nhiều việc lôi thôi. Nay thánh mẫu quyết đoán sáng suốt như vậy,
thực là phúc cho xã tắc. Lão thần đây cũng không thể nghĩ hơn thế được. Nhưng
xin thánh mẫu hãy hạ chỉ dụ quận Huy, còn tôi ở trong sẽ nói thêm vào.
Kiêm đem lời ấy tâu với thánh mẫu.
Thánh mẫu bèn sai người bảo quận Huy rằng: "Nay tân chúa bị đau, trong
nước đang lo lắng, nghi ngờ. Tướng quân nếu còn coi xã tắc là trọng thì, hãy
nên tạm để cho vương tử Tông lên quyền ngôi chúa để yên lòng người. Đợi khi
nào tân chúa trưởng thành, vương tử Tông sẽ lại trao trả chính quyền và lui
về giữ trọn đạo làm tôi. Tướng quân nên đem ý đó bày tỏ với Tuyên phi và để
vương tử Tông nhận Tuyên phi làm mẹ nuôi, lấy tướng quân làm a bảo. Mong rằng
tướng quân hãy hết sức giúp đỡ cho được chu toàn!".
Quận Huy đáp lại rằng: "Lý
tôi gửi lạy dưới cửa thánh mẫu. Thánh mẫu đã lo đến việc lớn của xã tắc, tôi
đâu dám chẳng vâng mệnh. Nhưng có điều việc này không phải ý của tiên vương.
Tôi được tiên vương trao gửi con bồ côi, ngài đã dặn dò rất cặn kẽ. Nay tử
cung (quan tài của vua chúa) còn quàn tại đây mà đã thay đổi mệnh ngài, lòng
tôi tự thấy không yên. Vậy chuyện này xin hãy để liệu sau. Vả tiên vương cũng
không còn người con nào khác, chỉ có tân chúa và vương tử Tông mà thôi. Nếu
tân chúa không gánh vác nổi công việc, thì sau đó tất là phải đến vương tử
Tông. Lúc đó vương tử Tông cứ việc đường hoàng mà thay thế, há chẳng tốt đẹp
hơn sao, cần gì phải vội vã hấp tấp, làm việc trái với lẽ thường như vậy? Còn
như kẻ lo lắng, thì lâu rồi họ khắc yên lòng; kẻ nghi ngờ, lâu rồi họ khắc
tin tưởng. Dám xin thánh mẫu cứ yên tâm... ".
Sứ giả ra chưa khỏi cửa, quận Huy
đã hằn học:
- Việc này dẫu có đánh chết ta
cũng chẳng nghe!
Sứ giả về thuật với thánh mẫu.
Thánh mẫu biết chí của Huy không thể lay chuyển, bèn đem lời Huy nói lại với
Nguyễn Kiêm.
Kiêm sợ việc lộ, vạ lây, lại đến
bàn với quận Hoàn.
Quận Hoàn nói:
- Bây giờ sự thế đã như vậy, thôi
thì mặc cho ba quân họ muốn làm gì thì làm!
Tình cờ có một tên lính ở xã Vạn
Lộc, huyện Động Sơn, đem các công việc báo với người cùng làng làm viên thiêm
tri binh phiên Trần Hữu Cầu. Cầu vốn tính hiếu sự, lại giỏi làm văn, tức thì
soạn ngay bài hịch Ba quân phò chính, rồi ngầm đem dán ở khắp các đường phố.
Do đó, trong kinh kỳ nôn nao cả lên.
Thấy chuyện đã vỡ lở như vậy, bọn
Bằng Vũ cho là thế không thể đừng được, bèn quyết định ngay ngày hôm sau khởi
sự, không cần phải tâu với thánh mẫu. Hôm ấy là ngày 24 tháng 10 năm Nhâm dần
(1782).
Bấy giờ quận Huy cũng biết tai hoạ
sắp xảy ra, liền nói toạc ra ở trong triều rằng:
- Ngày mai có biến, tôi sẽ chết.
Nhưng tôi chết cũng phải có dăm ba mạng đi theo.
Các quan nói:
- Lẽ nào lại có chuyện ấy?
Quận Huy bèn đưa ra một tờ khải
nói là Huy Bá tố cáo quận Viêm đang âm mưu làm phản và xin các quan hãy tra
xét để trừng trị.
Gặp lúc trời sắp tối, người nhà
quận Huy có kẻ khuyên hắn nên bế tân chúa đi trốn, rồi gọi quân bên ngoài vào
bắt bọn gian; có kẻ khuyên hắn nên đưa nghĩa sỹ vào trong phủ để tự vệ...
Nhưng quận Huy đều gạt đi mà rằng:
- Xưa nay thói đời vẫn hay phao
nhảm, chưa chắc việc đó đã có thật. Mà dù có đi nữa thì cứ để thong thả rồi
cũng tra ra, chúng nó trốn đi đằng nào được. Nếu việc quá gấp không thể trị
nổi bọn chúng, thì ta đây vâng mệnh của đấng tiên vương, sống thác cũng cam,
cần gì mà phải hốt hoảng!
Đêm ấy quận Huy ngủ ở trong phủ,
cũng chỉ đem theo vài người hầu như mọi ngày, không hề phòng bị gì hết.
Sáng mai, lễ cúng cơm bữa sáng vừa
xong, các quan đang sắp lui trào, Bằng Vũ vào trong phủ, đánh luôn ba hồi
chín tiếng trống.
Các quan ngơ ngác nhìn nhau. Quận
Huy sai người đóng chặt cửa các, bắt trói Bằng Vũ đem chém. Khi Bằng Vũ đã bị
trói rồi, Thuỳ trung hầu bảo quận Huy rằng:
- Bọn chúng lập mưu này không phải
chỉ có một đứa, nếu chém Bằng Vũ thì đảng gian sẽ lọt lưới hết. Chi bằng hãy
giam nó lại, để tra xét thêm cho tiệt hết mầm loạn.
Quận Huy cho là phải, thế là Bằng
Vũ không bị giết chết.
Lại nói, quân lính nghe thấy tiếng
trống tức thì người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn
nhau mà vào trong phủ.
Lúc ấy cửa các đã đóng, quân lính
ở bên ngoài không vào được, họ cứ đứng hò reo quát tháo long trời lở đất.
Quận Huy gọi quận Châu ra bảo:
- Cậu (Quận Châu là bà con họ
ngoại của chúa Trịnh, do đó gọi là cậu) giữ chức binh phiên, làm sao không
biết răn đe chúng nó?
Quận Châu sợ hãi, vâng dạ mà ra.
Quận Huy tự làm tờ khải rằng:
"Lý tôi kính khải như sau:
Tôi được tiên vương giao cho giúp đỡ nhà chúa. Nay đám ba quân nổi loạn, làm
cho kinh khuyết náo động. Tôi xin vâng lĩnh mệnh chúa đem quân giết chúng.
Nếu dẹp được, ấy là nhờ về oai linh của chúa, nhược bằng không dẹp được, tôi
cũng xin liều chết để xuống ra mắt tiên vương ở dưới âm cung".
Khải làm xong, quận Huy giao cho
quan xuất nạp dâng trình, và xin lấy thanh bảo kiếm của chúa để ra đánh giặc.
Khi bảo kiếm đưa tới, quận Huy quỳ
gối lĩnh nhận, rồi lập tức truyền lấy voi để ra trận.
Lúc ấy quận Châu đang đứng ở phía
trái trong cửa các, cách quân lính một bức tường, lên tiếng dụ họ rằng:
- Làm lính phải biết lễ phép. Nay
tử cung còn quàn ở đây, các người không được làm ồn ào như vậy. Nếu có điều
gì muốn nói, cứ về viết một tờ khải đem lại, ta sẽ trình bày giúp.
Quân lính thét lớn:
- Cậu cũng định theo quận Huy làm
phản à? Nếu cậu không mở ngay cửa ra, chúng tôi trèo tường mà vào, thì xác
cậu sẽ nát như cám!
Quận Châu run sợ, phải mở cửa.
Quân lính chen vai xông vào.
Quận Huy chống kiếm lên voi, cưỡi
ra giữa sân phủ, trỏ ba quân quát:
- Bớ ba quân! các người phải đâu về
đấy ngay, không được làm ầm ỹ, ta sẽ chém đầu chúng mày!
Quân lính vốn sợ Huy, thấy hắn
cưỡi voi, lại càng khiếp đảm, đều ngồi sụp xuống nghe lệnh, không dám lên
tiếng, cũng không dám xông tới.
Nhưng chỉ được một lát, bao nhiêu
người đang ngồi lại nhao nhao đứng dậy, kéo ập vào trước đầu voi. Voi vươn
đầu ra húc, quân lính chạy quanh chân voi để tránh cặp ngà. Rồi họ lấy khí
giới đâm chém túi bụi, có kẻ cạy gạch ngói ở phủ ném ra tới tấp, voi co vòi
mà gầm không dám húc nữa. Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị
đứt dây; lại vớ lấy súng để nạp đạn, nhưng mồi lửa tịt không cháy. Quân lính
thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quản tượng xuống đất mà chém. Voi bước
lùi trở lại. Quân lính xúm đến vây kín dưới chân voi. Quận Huy lấy mũi lao
phóng xuống, làm bị thương vài người. Quân lính hăng máu kéo đến càng đông.
Lại có một toán ở cửa Tuyên-vũ xông vào, đứng chắn ở đằng sau voi, khiến voi
phải đứng im không thể nhúc nhích. Họ bèn dùng câu liêm móc cổ quận Huy kéo
xuống, rồi đánh đấm túi bụi giết chết ngay tại chỗ.
Sau đó, họ phanh bụng quận Huy lấy
gan ăn sống, còn thây chết thì lôi ra ngoài cửa Tuyên-vũ.
Em ruột quận Huy là Lý vũ hầu
Hoàng Lương nghe tin có biến, vội vàng chạy bổ vào phủ đường. Nhưng mới đi
đến cửa chùa Báo Thiên thì bị quân lính quát đứng lại, rồi họ vớ luôn gạch đá
trên đường đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ Thuỷ Quân (Hồ Hoàn Kiếm bây
giờ).
Anh em quận Huy chết rồi, quân
lính vui mừng reo hò như sấm. Họ kéo nhau vào nhà Tả Xuyên phò thế tử Tông
lên phủ đường. Họ kiệu thế tử lên vai, rồi đứng xúm chung quanh, gào lên vui
sướng:
- Xin ngồi cao thêm nữa để thiên
hạ đều được thấy mặt rồng, cho thoả lòng vui của mọi người!
Trong lúc gấp vội không có kỷ sập,
họ phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế, đặt thế tử ngồi lên, rồi
tám người kề vai vào khiêng. Chốc chốc họ lại nâng bổng chiếc mâm lên trên
đầu mà đội; đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại nâng lên đầu. Cứ thế
lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng phật. Mỗi
lần thế tử được nhô lên cao, quân lính lại vỗ tay reo hò vang lên một chặp.
Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau kéo đến xem chúa,
sân phủ đông như họp chợ.
Quận Châu phải đem ngọn cờ đuôi
báo phất ở giữa sân, rồi khua chiêng thu quân, mãi đến hơn một trống canh mới
yên.
Mấy hôm trước, ngày nào trời cũng
u ám. Hôm ấy tự dưng bầu trời lại trong sáng, mọi người đều cho đó là cái
điềm thái bình, thánh chúa. Kẻ qua người lại trên đường đều hý hửng nói:
"Chúa ta lập rồi!". Thế rồi họ truyền miệng nhau mà reo mừng, kinh
kỳ hôm ấy vì thế phải nghỉ phiên chợ.
Quân lính đặt chiếc sập ngự ở
ngoài phủ đường, các quan đều dìu thế tử lên ngôi chúa. Cuộc lễ mừng xong
rồi, các quan mới đem đạo sắc của nhà vua và tờ chỉ của thánh mẫu dụ ba quân
về việc phò lập chúa, tới dán ở cửa các. Những tờ ấy đều là tạm thời thảo ra,
nhưng được gọi là mệnh lệnh định sẵn.
Hôm ấy, việc biến xảy ra, Thị Huệ
khiếp sợ vô cùng, phải thay đổi quần áo, nấp ở hậu cung. Các gia thần của vị
chúa nhỏ cũng đều chạy trốn hết cả. Riêng quận Diễm bế chúa lánh đi ở một nơi
khác, từ sớm đến tối không được miếng gì vào mồm, chúa gào khóc nheo nhéo.
Quận Diễm phải doạ: "Không được khóc to, kẻo quân lính nghe tiếng, chúng
nó kéo đến đánh chết!" Chúa nhỏ sợ hãi, mới không khóc nữa.
Đến đêm, thánh mẫu sai người đi
tìm Thị Huệ cùng chúa nhỏ về cung, cho thay quần áo và ăn uống. Chúa nhỏ vì
quá sợ hãi không ăn uống gì được, bệnh càng thêm nguy kịch.
Chúa mới (Trịnh Tông) bèn treo
giải hễ người nào chữa khỏi bệnh cho chúa nhỏ, thì thưởng một trăm lạng vàng
và phong cho tước hầu. Nhưng rốt cuộc không có ai nhận chữa.
Hôm sau, chúa mới ra lệnh cho quan
tham tụng Tứ-xuyên hầu, thay chúa nhỏ làm một tờ khải xin tự lui xuống làm
vương đệ. Tờ khải làm xong, chúa mới giao xuống cho các đình thần bàn bạc.
Các quan xin giáng phong chúa nhỏ làm Cung quốc công. Được ít lâu sau thì
Cung quốc công qua đời.
Lại nói, bọn quân lính tuy đã giết
chết anh em quận Huy, nhưng cơn giận vẫn chưa hả. Phò lập thế tử Tông lên
ngôi chúa xong xuôi, họ lại kéo đến quỳ ở trước mặt chúa xin phá tất cả dinh
cơ của quận Huy.
Chúa ưng lời ngay. Ba quân liền
reo lớn:
- Quan cứ lệnh, lính cứ truyền,
mau đi phá huỷ dinh quận Huy anh em ơi!
Chỉ trong chốc lát, nhà cửa của
quận Huy bị phá tan tành, một mảnh ngói cũng không còn. Rồi bọn quân lính
càng thừa thế hoành hành. Phàm các quan văn võ hễ ai thuộc bè đảng của Thị
Huệ và quận Huy, cùng những người dự vào việc tố giác vụ án năm Canh-tý (việc
Tông mưu cướp ngôi khi trước) những viên quan hầu mọi ngày có tính nghiệt ngã
mà quân lính vẫn ghét, lúc ấy cũng đều bị phá nhà hàng loạt và bị lùng bắt
đem giết chết.
Luôn trong mấy ngày, họ làm náo
động cả kinh thành. Tông phải hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi.
Sau, chúa phải sai người dò xét
trong kinh kỳ, lén đến chỗ họ tụ họp, rồi bắt phứa lấy một người thường dân ở
gần đó đem chém để ra oai. Từ đó về sau việc phá phách nhà cửa mới tạm ngừng,
nhưng việc lùng bắt người để giết thì vẫn chưa dứt.
Lại nói, trong bọn thủ hạ của quận
Huy có một người tên là Nguyễn Hữu Chỉnh, quê ở làng Đông Hải, huyện Chân
Phúc, trấn Nghệ An.
Cha Chỉnh nhờ nghề buôn bán, trở
nên giàu sang, gia tư kể có hàng vạn, thường vẫn ở dưới cửa quận Việp.
Chỉnh, phong tư đẹp đẽ, trí tuệ
hơn người. Lúc nhỏ theo học nho, đã đọc khắp các kinh sử, năm mười sáu tuổi
đỗ hương cống; đã từng theo cha nương nhờ dưới cửa nhà quận Việp.
Chỉnh giỏi về thơ văn quốc âm. Vì
mến công nghiệp của Quách Tử Nghi nhà Đường, Chỉnh có làm bài Quách lệnh công
phú bằng chữ nôm, được nhiều người trong nước truyền tụng.
Tính Chỉnh lại hào hiệp, giao du
khắp thiên hạ. Trong nhà Chỉnh lúc nào cũng có vài chục người khách, khi ngâm
thơ, khi uống rượu, tuỳ theo sự hứng thú mà thù tạc với nhau. Nhà Chỉnh nuôi
mười mấy ca nhi và vũ nữ; Chỉnh tự tay soạn ra bài hát, phổ vào đàn sáo, ngày
đêm bắt họ ca múa để mua vui.
Vì thế, Chỉnh được xem là tay
phong lưu bậc nhất ở đất Trường An (tức là kinh đô Thăng Long. Nguyên là tên
kinh đô nhà Hán, sau thành danh từ chung chỉ kinh đô) hồi ấy.
Ngoài ra, Chỉnh lại còn có tài
khôi hài, mỗi khi bông đùa ai cũng phải phục.
ở trong nhà quận Việp hơn mười
năm, Chỉnh mới được cử ra coi đội Thiện-tiểu; có kẻ thấy vậy chê rằng:
"Sao nhỏ thế?". Chỉnh liền đáp lại ngay: "Chớ cho điều thiện
nhỏ mà không làm!" (câu này rút trong bài di chúc của Lưu Bị đời Tam
quốc để lại cho con. Nguyên văn là: "Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi",
ở đây Chỉnh mượn hai chữ Thiện-tiểu của Lưu Bị để chỉ đội Thiện-tiểu với ý
khôi hài). Cả đám đều bật cười. Tài bông đùa của Chỉnh đại để là như vậy.
Khi quận Việp vào đánh phương Nam,
Chỉnh được đi theo giúp việc bút nghiên. Thấy Chỉnh có tài, quận Việp hết sức
yêu mến.
Sau khi quận Việp qua đời, có kẻ
tố cáo rằng trong lúc làm việc quan, Chỉnh đã đánh cắp vàng bạc của công kể
đến hàng trăm vạn. Việc ấy liên luỵ đến cả quận Huy. Chỉnh bị tống giam vào
ngục và bị tra tấn đến gần chết, nhưng vẫn nhất định không xưng. Nhờ vậy
Chỉnh mới được vô tội. Còn quận Huy thấy thế thì lại càng trọng Chỉnh bội phần.
Lúc vào làm trấn thủ Nghệ An, quận
Huy dùng Chỉnh làm hữu tham quân; thường giao cho Chỉnh luyện tập thuỷ thủ để
chống giặc biển. Chẳng bao lâu Chỉnh trở thành vô địch trong nghề thuỷ chiến.
Ngoài biển, mọi người thường gọi Chỉnh là "con hải ưng".
Đến hồi quận Huy đổi về trấn Sơn
Nam, Chỉnh cũng được đổi sang cai quản đội Tiền-trung, đem quân đi tuần mặt
biển. Rồi ít lâu sau, Chỉnh lại được đổi về trông coi cơ Tiền-ninh ở trấn
Nghệ An.
Ngôi mả tổ nhà Chỉnh nằm ở trên
núi Côn Bằng. Về thế đất ấy, sách địa lý nói rằng: "Ngàn vạn con rồng
đuổi ngàn vạn con hổ; xưng bá xưng vương đều được như ý". Nhân đó Chỉnh
mới tự đặt hiệu là Bằng lĩnh hầu.
Thời kỳ còn ở dưới trướng quận
Việp, Chỉnh có một người quen cùng làng tên là Nguyễn Viết Tuyển, thi võ đỗ
biền sinh. Tuyển vốn có sức lực hơn người, lại là tay can đảm, mưu lược, nhờ
Chỉnh tiến cử lên quận Việp, nên Tuyển được coi trung đội của đạo Hậu-kiên
đóng ở trấn Sơn Nam.
Đến lúc này nghe tin trong kinh có
biến, Tuyển vội vã vượt biển về quê. Giương buồm ra đi từ ngày 26 đến ngày 28
thì đến làng Đông Hải. Tuyển đem hết mọi việc ở đường ngoài kể lại với Chỉnh.
Chỉnh bối rối, hoảng hốt, không biết nên làm thế nào.
Thật là:
Sóng nổi đất bằng ai chẳng sợ,
Nắng thiêu núi tuyết khó nương nhờ
Chưa biết Chỉnh tính liệu như thế
nào? Hãy xem hồi sau phân giải.
Sách Thông giám chép: Đời Đường, có người bảo Trương
Thoàn nên tới nhà Dương Quốc Trung. Thoàn nói: "Các người tựa vào Dương
hữu tướng như tựa núi Thái Sơn; tôi thì cho đó là trái núi băng. Hễ mặt trời
lên thì các người hết chỗ dựa". Câu này lấy ý ở điển ấy.
|
Hồi
thứ ba
Dương nguyên cữu bàn chém kiêu
binh,
Nguyễn quốc sư mưu trừ nội loạn.
Lại nói, Nguyễn Hữu Chỉnh nghe lời
Viết Tuyển, bị một phen giật mình sợ hãi, nhưng rồi lại cố trấn tĩnh ngay và
giữ kín chuyện đó không để lộ cho ai biết, chỉ bí mật dặn vợ mấy điều, rồi đi
thẳng đến trấn sở Doanh cầu để bàn với Dao trung hầu [tức Vũ Tá Dao, người
huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh (Nghệ Tĩnh)].
Dao trung hầu nguyên là em rể quận
Việp, hiện làm trấn thủ Nghệ An, nghe lời Chỉnh nói, sợ lắm, liền hỏi mưu kế
nên như thế nào.
Chỉnh nói:
- Trấn này giáp liền trấn Thuận
Hoá, hiện nay phó tướng Phú Xuân là Thể quận công, đồn thủ Động Hải là Khôi
thọ hầu (Thể quận công tên là Hoàng Đình Thể. Khôi Thọ hầu tên là Khôi Thọ),
đều là môn đồ của cụ quận Việp; với chúng ta cũng là những người cùng thuyền.
Quan lớn nên viết thư kín bảo quận Thể tìm cách giết viên đại tướng Phú Xuân,
chiếm lấy thành đó, rồi kíp cho người ra dụ Khôi Thọ. Khôi Thọ thế nào cũng
đem cả thành Động Hải mà hưởng ứng với ta. Còn ở đây, quan lớn cứ việc giữ
lấy trấn này để làm cái thế môi răng với hai nơi ấy. Rồi ngài thu dùng hào
kiệt, chiêu mộ thổ binh, chặn đường Hoàng Mai và đóng đồn lớn ở vùng Quỳnh
Lưu để làm kế cố thủ. Còn về việc phòng giữ mặt biển, tôi xin đảm đương. Trấn
này địa lợi có thể nương tựa, nhân tâm có thể trông cậy. Năm trước, quận Siêu
bị tội với đức Dụ tổ (tức Trịnh Giang) cũng giữ trấn này để chống lại nhà
chúa, cuối cùng đã thoát khỏi tai nạn. Huống chi sự thế ngày nay lại còn dễ
dàng hơn hồi quận Siêu, nếu ngài làm được như vậy, ấy là đã lấy được nửa
thiên hạ rồi. Chẳng những triều đình không làm gì nổi, mà ngài còn có thể giữ
cõi yên dân, ung dung ngồi nhìn sự thay đổi của thiên hạ. Như thế, chẳng
những trước mắt khỏi bị tai vạ mà về sau còn có thể lập được kỳ công nữa!
Dao trung hầu ngẫm nghĩ hồi lâu
rồi nói:
- Kế của ông quả thực là hay lắm.
Nhưng tôi tự liệu tài sức không thể làm được như thế. Xin ông nghĩ cho cách
thứ hai nữa xem sao?
Chỉnh đáp:
- Ngoài kế ấy ra, chỉ còn một cách
bỏ nước mà đi thôi!
Dao trung hầu lại hỏi:
- Nhưng mà đi đâu?
Chỉnh nói:
- Thiên hạ vạn nước lo gì không có
chỗ đi?
Rồi Chỉnh ghé tai Dao trung hầu
nói nhỏ mấy câu. Dao trung hầu nửa muốn nghe theo, nửa lại mơ hồ chưa quyết,
liền nói với Chỉnh:
- Đó cũng là việc to lớn lắm, để
tôi nghĩ lại xem đã!
Chỉnh nói:
- Bây giờ sự biến chỉ trong chốc
lát, đợi khi ngài nghĩ lại thì có lẽ cái lệnh tróc nã đã tới nơi rồi. Vậy
ngài hãy ở lại mà nghĩ, xin để cho tôi được tự tiện!
Rồi Chỉnh cáo từ ra về. Tới nhà,
Chỉnh hỏi vợ biết mọi việc đã sửa soạn xong; bèn nói là có lệnh của quan trấn
thủ sai đi tuần tiễu mặt biển, rồi đưa hết người nhà từ già đến trẻ và tất cả
các thứ gia sản xuống thuyền. Mọi người trong nhà đều không hiểu là chuyện
gì.
Khi tất cả đã ở trên thuyền rồi,
Chỉnh mới gọi hơn ba trăm lính cơ do Chỉnh trông coi, bảo họ đứng ở bờ sông,
nói rõ ràng duyên cớ cho họ nghe, để lại cho mỗi tên lính một quan tiền đen,
rồi từ biệt họ. Đến tận lúc ấy, bọn lính mới hiểu công việc của Chỉnh.
Thuyền nhổ neo, Chỉnh cho bắn ba
phát súng lớn, rồi sai chèo ra giữa dòng sông và kéo buồm cho thuyền chạy
thẳng ra biển.
Lại nói, ba quân sau khi đã phò
lập được thế tử Tông lên ngôi chúa, họ cậy vào công đó sinh ra kiêu căng.
Hàng ngày họ tụ họp để cùng nhau bàn việc triều đình. Thường khi họ viết giấy
đưa vào trong triều, nói việc này nên để, việc kia nên đổi. Nhiều khi những
việc vô lý họ cũng bắt buộc triều đình phải làm. Chẳng những thế họ còn đòi
hỏi những ơn này ơn khác, không biết thế nào là đủ. Triều đình hễ có ai bàn
chuyện phải chăng, thì họ lấy việc phá nhà, đánh giết ra để hăm doạ. Những
lúc các quan xử kiện, họ cũng nhúng tay vào, hoặc nhận bên nguyên là người
họ, hoặc nhận bên bị là người quen, rồi ép các quan phải đổi trắng thay đen.
Còn dân chúng trong vùng họ đóng có kiện cáo gì, thì họ tự ý đòi bắt và xử
đoán lấy, không cần gì đến quan tư.
Các quan đều phải nhịn hơi nuốt
tiếng, không dám động chạm đến họ. Trong cung hễ động làm việc gì bất kể lớn
nhỏ, họ cũng dòm nom bàn tán; hoặc bẻ việc này sao làm thế kia, hoặc hỏi việc
kia sao làm thế này. Chúa và Dương thái phi cũng tự thấy bị bó buộc quá,
không thể chịu nổi.
Triều đình bàn nên xét công ban
thưởng, để tỏ rõ sự đền ơn, khiến cho họ đều được mãn nguyện; rồi sau đó sẽ
dùng phép vua mà trừng trị dần dần. Chúa cho là phải, bèn sai các quan bàn
định về công giúp đỡ tôn phò nhà chúa. Phong cho Bằng Vũ là Suy trung dực vận
công thần, tước hầu, coi đội quân chầu chực ở nội cung. Quận Viêm, quận Hoàn
cùng bọn Nguyễn Kiêm, Gia Thọ, Dự Vũ đều được phong làm Tuyên lực công thần
và theo thứ bực khác nhau, đều được thăng chức tất cả. Riêng ba chục người
nhóm họp ở chùa Khán-sơn lại còn được ghi tên vào sổ trung nghĩa và cho thăng
thưởng thêm. Ngoài ra, các quân lính thuỷ, bộ, trong, ngoài đều được thăng
chức một lần, đồng thời được ban tiền thưởng tuỳ theo công trạng nhiều hay
ít. Triều đình lại cấp cho họ những đạo sắc bỏ trống chỗ đề tên người, họ có
thể nhượng lại cho kẻ khác mà lấy tiền để hưởng được ơn huệ thực sự.
Sau khi quân lý đã nhận thưởng đâu
vào đấy, chúa bèn dụ họ ai nấy đều nên tuân theo pháp luật để cùng vui hưởng
thái bình.
Bấy giờ, quân lính liền răn bảo nhau
rằng:
"Cánh mình đã phò lập ông ấy
làm chúa, thì cũng đừng nên quấy nhiễu quá để cho ông ấy được biết cái thú
vui làm chúa. Rồi xem sau này dần dần thuận cảnh ông ấy cư xử ra sao? Nếu ông
ấy càn rỡ quá đáng, thì lúc bấy giờ sẽ liệu cách mà trừng trị. Chúng mình
đằng nào cũng không mất quyền làm lính kia mà!".
Rồi từ đó, họ cũng bớt làm bậy.
Chúa được yên ổn đôi chút, liền
đưa những người thân tín cũ vào các chỗ trọng yếu. Lấy tả tư giảng Nguyễn
Khản làm tham tụng; cậu cả là Khuông thọ hầu Dương Khuông làm quyền phủ sự.
Nguyễn Khản người làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, là con Xuân quận công Nguyễn Nghiễm. Khản sinh ra là một
trang phong lưu công tử, thi đỗ rất sớm, theo phò Thịnh vương từ lúc chưa lên
ngôi chúa, được vương rất đỗi yêu mến. Kịp đến khi vương lên ngôi, Khản lại
càng được tin dùng, được ra vào trong cung cấm, y như các viên nội giám.
Tính Khản hào hoa, trong lâu đài
không mấy khi dứt tiếng sênh ca, hoặc tiếng ngâm thơ, đánh đàn để mua vui.
Người ta thường xem Khản là bậc phong lưu đại thần. Tại đình Kim-âu nơi Khản
ở, có đủ cả nước, non, trúc, đá, cảnh trí hết sức thú vị. Thịnh vương hay ngự
chơi nhà Khản, thường ban thưởng rất nhiều.
Trước Khản làm tả thị lang sung
chức bồi tụng, với Xuân quận công cùng ở trong chính phủ. Sự yêu quý của chúa
đối với Khản hồi ấy, thật là có một không hai trong hàng các quan văn võ.
Sau đó, Khản được đổi làm trấn thủ
Sơn Tây và kiêm cả trấn thủ Hưng Hoá. Đến khi xảy ra vụ án năm Canh tý, tội
Khản đáng phải chết, nhưng Thịnh vương nghĩ thương tình, đặc cách cho giảm
nhẹ, chỉ bắt giam ở nhà quận Châu. Hồi ấy quận Huy và Thị Huệ cũng muốn tìm
cớ đưa Khản đến chỗ chết. Nhưng Khản biết ý đã làm một bài Tự tình khúc bằng
chữ nôm, kể hết những sự đãi ngộ quý mến ngày xưa, rồi nhờ người lén đưa giấu
cho chúa. Chúa xem bài đó, động lòng thương; nhờ vậy Khản mới thoát chết.
Kịp đến khi thế tử Tông lên ngôi,
Khản lại được phục chức về ban cũ, rồi thăng chức thượng thư bộ Lại, tước Tán
quận công.
Nguyên ngày đi đánh dẹp phương
Nam, Khản làm tham lĩnh trấn Nghệ An, kiêm trông coi về lương hướng của quân
lính; Khản có dung túng cho người nhà quấy nhiễu xứ ấy. Nên bây giờ thấy Khản
được phục chức, thì bọn lính xứ Nghệ lại lôi cái oán cũ ấy ra. Họ nhao nhao
bảo nhau: "Lão ấy là người xa xỉ, phóng túng, năm xưa đã từng gieo rắc bao
nhiêu tội ác cho trấn ta, ta kiện nhưng không được xử. Nay lão ấy lại làm
quốc sư, rồi nếu để lão ấy lại làm tể tướng nữa thì dân chịu sao nổi? Chi
bằng chúng ta mỗi đứa cho một quả đấm cho xong đời lão ấy đi!
Nhưng rồi trong bọn lại có kẻ đứng
ra khuyên giải, nên Khản mới được vô sự.
Dương Khuông là em ruột Dương thái
phi; người rất dung tục bỉ ổi, không có tài năng gì hết. Vụ án năm Canh tý,
tôi tớ, họ hàng, bè đảng nhà thế tử Tông đều bị tai vạ, riêng Khuông nhờ ngu
si mà được hưởng phúc thái bình.
Khi thế tử mới lên ngôi, Khuông
liền được giao cho trông nom cơ Trung uy, cùng với Dương thái phi nấp bên
trong mà định đoạt mọi việc. Quân lính đã từng nhạo báng rằng: "Cậu ấy
thì có tài cán gì? Chẳng qua chỉ nhờ vào cái bóng của người mặc váy mà được
như thế. Nay vừa khỏi vòng cùng khốn, đã muốn vội giàu sang. Cũng ví như kẻ
bị đói đã lâu, lúc gặp cơm thì ăn ngốn ăn ngấu rồi cũng đến nứt ruột ra mà
thôi!".
Đến bây giờ thấy Khản và Khuông
cùng vào chính phủ, lòng họ đều không phục. Tuy vậy, bọn họ cũng rất giảo
quyệt, kẻ này oán nhưng kẻ kia lại ơn, sau lưng họ chê mà trước mặt họ lại
khen, chẳng còn hiểu đầu đuôi ra sao?
Vả chăng những nhà có chức quyền
trọng yếu thường thường chỉ nghe lời nói chuyện thái bình mà không nghe lời
nói chuyện nguy biến. Việc gì cũng muốn mạnh bạo tiến tới, nhưng không biết
ngoảnh nhìn mối lo về sau. Họ chỉ muốn nóng vội làm cho chóng được thái bình.
Cho nên mới có những mưu kế sâu sắc, những lời bàn bạc kín đáo, mà việc cần
kíp thứ nhất là đè nén bọn kiêu binh.
Tình cờ lúc đó, trong đám kiêu
binh có bốn người lính giả lấy danh nghĩa đồng đội, ức hiếp người lái buôn
Đông Hà để mượn thuyền. Việc này bị người đội trưởng phát giác và triều đình
đem chém cả bốn. Bọn kiêu binh đều oán là hình phạt quá lạm. Nhưng vì họ đã
trót tự mình phát giác ra, nên cuối cùng cũng đành im.
Khản và Khuông thấy đám lính im
lặng, cho là uy quyền đã được lập lại; hai người mừng rỡ bảo nhau: "Nhà
nước đã sẵn có pháp luật. Nếu ta cứ giữ vững pháp luật như thế vài lần, thì
dù chúng có kiêu cũng chẳng kiêu được!".
Bấy giờ có viên tri huyện Đông
Thành là Mai Doãn Khuê, người làng An Toàn, huyện La Sơn. Khuê vốn là tay
giảo quyệt ghê gớm trong trấn Nghệ An. Việc quân lính ngông nghênh làm bậy,
phần nhiều đều do hắn xui giục. Vì muốn tâng công với triều đình, Khuê bèn
mật báo với Tán quận công Nguyễn Khản rằng:
- Triều đình cho rằng kiêu binh có
thể dẹp được, nhưng không biết rằng hoạ lớn sắp xảy ra không thể nào ngăn
nổi. Tôi nghe bọn lính bàn nhau: Hoàng tự tôn (Hoàng tự tôn là cháu nối
nghiệp của hoàng thượng, chỉ Lê Duy Kỳ, tức Chiêu-thống sau này) nguyên trước
do họ đón về, nay hoàng thượng tuổi già, mà hoàng tự tôn cũng đã khôn lớn, họ
muốn họp nhau tâu xin hoàng thượng nhường ngôi cho cháu. Khiến cho ngôi vua
ngôi chúa đều do tay quân lính dựng lên, để công của họ càng to thêm. Trong
bọn họ lại có một số người cậy mình có công rồi tỏ ý oán vọng, họ muốn phò
cho nhà vua thống nhất thiên hạ, để cướp lại quyền ở nhà chúa. Nếu kế ấy mà
thành được, tôi e các ngài sẽ không còn đất mà gửi thân nữa.
Tán quận công đem lời ấy tâu lại
với chúa. Chúa sai Doãn Khuê phát giác chuyện đó.
Khuê bèn vu cáo cho viên câu kê
Siêu thọ bá, cháu gọi Tứ xuyên hầu bằng cậu, cũng có dự mưu.
Việc ấy được giao xuống tra xét
thì không thấy bằng chứng gì hết. Nhưng triều đình vẫn cho là người tố cáo
nói đúng, bèn đưa Siêu Thọ về giam ở quê quán.
Còn Doãn Khuê vì có công phát
giác, được phong làm Khuê lĩnh bá, cho cai quản toán lính chầu hầu ở nội
điện. Khuê lại còn được kiêm chức giảng quan cho hoàng tự tôn và được ở luôn
trong nội điện để dò xét công việc của ông hoàng đó.
Lại nói, hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ
(trước tên là Duy Khiêm, hoặc Tư Khiêm), là con thái tử Lê Duy Vỹ đã mất.
Thái tử xưa vóc người đẹp đẽ, tư
chất thông minh. Thấy nhà vua bị mất quyền, thái tử căm tức lắm, thường vẫn
khảng khái nuôi chí thu phục lại quyền bính. Thái tử lại từng xem khắp kinh
sử, yêu mến các nho sinh; nên hào kiệt trong thiên hạ không ai là không
ngưỡng vọng. Trong lúc Thịnh vương còn là thế tử, chỉ vì tranh giành trên
dưới mà vương có bụng ghét thái tử.
Khi ấy chính phi của Ân vương
không có con trai, chỉ sinh được một con gái tức là công chúa Tiên Dung. Tiên
Dung được vương hết sức yêu chiều. Năm nàng mới mười tuổi, chính phi xin với
vương gả cho thái tử để sau này nàng làm hoàng hậu. Vương bằng lòng.
Một hôm thái tử và thế tử cùng vào
thăm Ân vương; vương mời ăn cơm và để con rể với con trai cùng ngồi một mâm.
Chính phi thấy vậy liền nói rằng:
- Sao chúa lại được cùng ăn với
vua?
Rồi bà ta bắt ngồi riêng ra mỗi
người một nơi. Thế tử giận tái mặt lại, nhưng vẫn cắn răng không dám nói. Lúc
tan tiệc trở ra, thế tử bảo với thái tử:
- Hai chúng ta sẽ phải một người
sống, một người chết. Vua ấy cũng không nên đứng cùng với chúa này!
Đến khi Thịnh vương lên ngôi chúa,
liền lập mưu với gia thần là viên quan hoạn Thiều quận công Nguyễn Kim Đĩnh
(chính tên là Phạm Huy Đĩnh, người xã Cao Mỗ, nay là xã Kim Bôi, huyện Tiên
Hưng, Thái Bình), vu cho thái tử Vỹ thông dâm với cung nữ của Ân vương; rồi
đem tội đó tâu lên hoàng thượng để bắt thái tử bỏ ngục.
Trước đó, trong giếng Tam Sơn ở mé
sau điện bỗng có tiếng nổ như sấm. Thái tử dùng thuật số để bói, biết mình
sắp gặp nạn, bèn đến nói với hoàng thượng. Hoàng thượng cũng lấy làm lo, vẫn
phải luôn luôn cầu nguyện cho con.
Kịp tới ngày bị bắt, thái tử biết
tai nạn xảy ra đến nơi, liền vào ẩn ở trong điện ngủ của hoàng thượng.
Quận Thiều dẫn toán lính trước
tiên xông thẳng vào Đông cung, định bắt thái tử đã rồi mới tâu vua, nhưng tìm
khắp cả Đông-cung không thấy. Quận Thiều liền vào thẳng trong điện, kể tội
thái tử cho vua nghe, rồi nói rằng:
- Tôi nghe nói thái tử náu ở chỗ
ngủ của bệ hạ, xin hãy bắt giao cho tôi.
Hoàng thượng ôm mãi lấy thái tử
không nỡ rời ra. Quận Thiều cũng cứ quỳ mãi ở giữa sân điện.
Thái tử tự biết mình không thể
thoát được, liền lạy trước mặt hoàng thượng, rồi ra cho quân lính trói.
Sau khi giải về phủ chúa, thái tử
bị truất xuống làm dân thường và bị giam vào ngục. Rồi Thịnh vương ép hoàng
thượng lấy người con thứ tư là Lê Duy Cận làm hoàng thái tử.
Được ít lâu sau, quận Thiều lại
sai tay chân vu cáo cho hai nho sinh thi đỗ ở làng Đan Luân là Nguyễn Huy
Sưởng [chính là Vũ Bá Sưởng người làng Đan Luân, nay thuộc Bình Giang, Hải
Dương (Hải Hưng)] và Lương Giản (người xã Tào Sơn, huyện Ngọc Sơn, nay là
Tĩnh Gia, Thanh Hoá), rằng hai người này âm mưu cướp thái tử ra khỏi ngục để
cùng dấy quân làm loạn. Việc này được đưa xuống các quan bàn bạc, và bắt
Sưởng để tra xét. Giản khi ấy đã kịp bỏ trốn. Còn Sưởng bị đánh đau quá,
không chịu nổi roi vọt, đành phải nhận liều. Thế là thái tử phải ghép vào tội
thắt cổ.
Ngày hành hình, bầu trời tự nhiên
tối tăm, giữa ban ngày mà chỉ cách nhau gang tấc cũng không trông rõ. Chừng
hơn một khắc mới lại sáng sủa. Già, trẻ, trai, gái trong thiên hạ, không ai
là không rơi nước mắt. Họ đều cho rằng đó là việc trái ngược nhất, bi thảm
nhất từ xưa đến nay. Hôm ấy nhằm ngày 20 tháng chạp, năm Tân-mão, niên hiệu
Cảnh-hưng (1771).
Sau khi giết thái tử, Thịnh vương
bắt đầu có chí thống nhất đất nước, định bắt cả ba con của thái tử giam vào
một nơi. Một hôm, chúa tắm gội ăn chay, rồi ngự ra hồ Tây để cầu thần báo
mộng. Đang đi, chợt thấy trước mặt có một cái kiệu, trên kiệu có một người
ngồi chĩnh chện, nhìn kỹ té ra đó là thái tử Vỹ. Chúa truyền hỏi quân lính có
ai trông thấy xe kiệu gì ở trước mặt không. Quân lính đều nói không thấy.
Chúa lo lắm, liền sai quay ngay về cung. Đêm ấy, chúa đang nằm trong màn,
bỗng thấy một người đầu đội khăn hồng, mình vận áo đỏ, tay cầm một chiếc mái
chèo, vạch màn ra rồi đứng ở đầu giường trừng mắt nhìn mình. Chúa vội hỏi ai
thì người ấy đáp rằng:
- Ta là Duy Vĩ đây!
Chúa cả sợ, bấy giờ mới biết đó là
linh hồn của thái tử Vỹ.
Nguyên khi thái tử bị bắt thì một
người đàn bà trong cung bế các con của thái tử chạy trốn về phía tây, vào ngủ
nhờ nhà một người dân ở làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm.
Người dân này đêm trước đã mơ thấy
có người bảo rằng: "Mày phải quét rửa nhà cửa, sân sướng cho sạch sẽ,
thiên tử và thái hậu sắp sửa tới nơi?" Tỉnh dậy hắn ta nghĩ bụng:
"Mình là nhà dân, đâu được cái may mắn có các bậc chí tôn ngự tới?"
Rồi suốt ngày hôm đó, hắn ta chắp tay đứng đợi ở ngoài cổng; nhưng đợi mãi mà
vẫn chả thấy một ai. Đến xẩm tối, mới thấy một người đàn bà bồng con xăm xăm
tiến đến trước cổng xin ngủ nhờ; hắn ta liền đón ngay vào trong nhà và mời
ngồi lên chiếc phản cao nhất. Sau khi đã kể qua câu chuyện chiêm bao cho
người đàn bà nghe, hắn ta lại nói:
- Cứ theo giấc mộng đêm qua của
tôi như thế, thì bà và các cậu đây hẳn phải là dòng dõi quí tộc; nếu không
phải thân thích nhà vua, ắt cũng là họ hàng nhà chúa!
Người đàn bà đó chính là cung phi
họ Nguyễn, nghe nói, vội gạt đi mà rằng:
- Câu chuyện chiêm bao, có gì là
bằng cứ. Bác đừng nói nhảm, đó là việc chết người chứ không phải chuyện chơi
đâu!
Ngay sớm hôm sau, mấy mẹ con lại
từ giã chủ nhà mà ra đi. Nhưng chẳng bao lâu, bị người ta dò theo tung tích
bắt được, đưa về an trí ở trấn Sơn Tây, rồi lại bị giải về kinh đô và giam ở
ngục đề lĩnh.
Kịp đến khi quân lính phò thế tử
Tông làm chúa, thì hoàng tôn (Lê Duy Kỳ) đã 17 tuổi. Nhâ dịp ấy, quân lính
bèn mang luôn kiệu tới nhà giam đón hoàng tôn về điện.
Hoàng tôn mặt rồng mắt phượng,
tiếng nói như chuông, quân lính thấy vậy đều khen: "Thật đúng là bậc
thiên tử"
Bà nội thế tử Tông xưa nay vốn
thân với thái tử Lê Duy Cận. Thấy hoàng tôn về, bà ta sợ thái tử Cận mất
ngôi, liền sai người giả vờ mời hoàng tôn vào chầu ở cung Huỳnh, để lừa bắt
hoàng tôn đem dìm xuống sông Nhĩ Hà. Lúc hoàng tôn vào cung, bà ta cho tay
chân bức hoàng tôn phải nằm lên cáng rồi bí mật khiêng đi.
Khi qua hồ Sen. hoàng tôn nằm
trong cáng kêu gào ầm ĩ: lính canh nghe tiếng, quát phải đứng lại. Phu cáng
và tên đi theo bỏ chạy tứ tung, nhân đó hoàng tôn được thoát nạn (theo Cương
mục thì hơi khác; bà nội Tông sai hoạn quan Liêm Tăng ép Kỳ tới chầu hầu, để
bí mật giết chết. Kỳ chối không được, vừa khóc vừa đi. Do đó, quân lính phát
hiện được la hét đòi tra ra kẻ thủ mưu. Họ tìm Liêm Tăng không thấy, có ý ngờ
cho Cận chủ mưu).
Bấy giờ ba quân ồn ào nhốn nháo,
muốn tra ra kẻ mưu hại hoàng tôn để bắt mà giết đi.
Thái tử Cận nghe được chuyện đó,
liền vào phủ hầu chúa.
Thấy kiệu thái tử để ở ngoài cửa
phủ, quân lính đều tức giận nói: "Ngôi vua lại có thể cầu may mà được à?
Để chi cái của này để hắn tiện đường chạy chọt làm những việc bậy bạ!"
Rồi họ phá tan chiếc kiệu. Thái tử
Cận hoảng sợ phải ăn mặc giả làm thường dân mà lẻn về cung.
Chúa biết việc đó là do ở nơi bà
mình gây ra, bèn dụ quân lính không nên làm ồn ào. Rồi lập tức sai triều đình
bàn định việc dựng hoàng tôn Kỳ lên ngôi đông cung, cho được yên lòng ba
quân.
Chúa ép thái tử Cận phải nhường
ngôi và giáng phong làm Sùng nhượng công.
Thế là hoàng tôn Lê Duy Kỳ được
lên ngôi làm hoàng tự tôn. Hoàng thượng liền sai đặt ra các giảng quan để
trông nom việc học hành. Công phu dạy dỗ ấy, ngày tháng thêm nhiều mãi. Do đó
cái tiếng thánh hiền nhân hiếu của hoàng tôn được đồn vang khắp cả trong
ngoài. Cũng do đó mà quân lính mới có cái mưu tôn phò cho hoàng tôn lên làm
vua.
Đến khi Doãn Khuê tố cáo, tuy tra
xét không thấy có bằng chứng gì, nhưng cuối cùng chúa cũng vẫn ngờ.
Một hôm, quân lính họp nhau, đem
việc đón rước hoàng tôn ở nhà giam ra tâu lên hoàng thượng, để kể công và xin
được ban ơn. Hoàng thượng cho ba quân vào lạy ở sân điện Vạn-thọ, tuyên chỉ
uý lạo họ. Rồi truyền cho viên tả phiên lại sai người đánh cá hồ Sen lên,
chọn lấy cá trắm làm gỏi thết đãi cả bọn. Sau đó mới từ từ bàn đến cách
thưởng công cho họ.
Lúc quân lính ngồi dự yến tiệc ở
trên điện, có kẻ chạy đi báo tin với chúa. Chúa cho đòi ngay quốc sư Nguyễn
Khản, quốc cữu Dương Khuông vào phủ và bảo:
- Cái mưu mô tôn phò của bọn kiêu
binh thật là giập không thể tắt được! Hiện giờ chúng nó đang tụ họp trên điện
nhà vua. Vậy ta nên làm thế nào?
Quốc sư Nguyễn Khản đáp:
- Xin cho bắt mà giết đi!
Chúa bèn sai viên đầu hiệu đội
Nhưng-nhất là Triêm vũ hầu (tên là Nguyễn Triêm) đem đội quân Phong-vân đến
vây bắt.
Gã Triêm vũ hầu này người làng Phú
Hoa, huyện Yên Lãng, thi đỗ tạo sĩ, dáng người hùng vĩ, có can đảm lại có sức
khoẻ. Sau khi vâng mệnh chúa, Triêm vũ hầu liền xách gươm đi thẳng ra ngoài
cửa phủ, rồi tuốt gươm ra, lấy tay gại gại vào lưỡi gươm mà nói: "Gươm
sắc lắm! Gươm sắc lắm!
Chém được đầu kiêu binh
đây!". Tiếp đó gã dẫn quân xông thẳng lên trên điện, vây lấy chỗ bọn
kiêu binh đang tụ họp ăn uống.
Ba quân đang mải mê chè chén, thấy
có lính đến vây bắt thì đều hoảng hốt bỏ chạy tán loạn. Triêm vũ hầu và đội
quân Phong-vân đuổi bắt được bảy tên, đem giải về phủ chúa.
Chúa lập tức cho với các quan tới
để bàn cách xử trí. Các quan tới đông đủ, đem cả bảy tên ra tra hỏi. Bảy tên
cứ thực tình khai hết, không có âm mưu gì khác cả. Các quan họp bàn đều có ý
che chở cho họ. Riêng nguyên cữu Dương Khuông lại quả quyết mà rằng:
- Không phải hỏi tội trạng nào cả!
Chỉ cái thói hay tụ họp mà không chừa cũng đáng xử chém rồi, còn phải bàn bạc
làm gì nữa? Bọn chúng cứ cậy đông người mà ngông nghênh, không thể một lúc
giết cho hết được. Nhưng hễ đứa nào phạm tội thì quyết không dung tha. Ví như
cả bó đũa thì không thể nào bẻ gãy được, nhưng nếu cứ rút riêng một hai chiếc
ra mà bẻ, thì lâu dần rồi cũng phải gãy hết. Hôm nọ chém bốn đứa đó, thế là
chịu chết bốn đứa, có thấy chúng bắt đền được ai đâu?
Quốc sư Nguyễn Khản cũng nói thêm:
- Lời bàn của quốc cữu thực là có
lý. Các quan cứ nên theo luật mà thi hành.
Các quan bèn chiểu theo điều luật
"vào trộm hoàng thành" mà xử cả bảy tên vào tội bêu đầu.
Tờ khải dâng lên, chúa sai đem tội
phạm ra chém ngay hôm đó. Trong triều ngoài phố, ai cũng lấy làm hể hả. Bữa
ấy nhằm ngày 15 tháng thái tử năm Nhâm thìn, niên hiệu Cảnh hưng (1772).
Sau vụ bảy kiêu binh bị giết chết,
ba quân thẩy đều đem lòng oán giận. Họ lại họp nhau bàn bạc.
Một người trong bọn nói:
- Ngày nay được có triều đình này,
khiến cho chúa tôi ngồi yên mà hưởng phú quí, đều là do công sức của chúng
mình cả. Thế mà, họ chẳng ơn thì chớ, lại còn cho là kẻ thù, động một tí là
bị đè nén. Nếu chúng ta cứ chần chừ nín nhịn mãi, khiến cho cái mưu "bẻ
đũa" của họ thành được, thì rồi bọn mình sẽ không còn người nào sống sót
đâu!
Một người khác lại nói:
- Chúng ta không biết bẻ, chỉ biết
"đả" thôi! Mau mau mỗi người một đấm, đưa ngay chúng đi theo quận
Huy, xem chúng nó có còn bẻ được nữa hay không?
Rồi họ hẹn nhau đến hôm sau, vào
lúc tan chầu thì sẽ khởi sự.
Có kẻ đem việc đó mật báo với các
quan trong triều. Các quan nửa ngờ, nửa tin. Sớm hôm sau, quốc cữu Dương
Khuông và Triêm vũ hầu đi lén vào trong phủ. Còn quốc sư Nguyễn Khản thì đóng
cửa nằm nhà, không dám vào triều. Tan chầu, quân lính chia nhau đi bủa vây
các dinh thự. Vào nhà Dương Khuông và Triêm vũ hầu, không thấy hai người,
quân lính tức thì hò nhau phá nhà. Chỉ trong chốc lát, cả hai dinh đó đều bị
san thành đất bằng.
Riêng ở dinh quốc sư Dương Khuông,
có một thủ hạ là người khách phương Bắc (chỉ người Trung Quốc lúc bấy giờ),
vốn rất giỏi thuật đánh kiếm. Nghe tin có biến, hắn vội tuốt gươm ra đứng giữ
ở cổng. Quân lính nom bộ dạng người khách phương Bắc ngờ ở trong còn nhiều
tay kiếm khách khác, nên không dám vào. Nhưng lâu lâu, họ thấy ra ra vào vào
vẫn chỉ có một hắn ta; tức thì cả bọn liền sấn ngay vào sát cổng. Người khách
múa gươm ra đánh, chém bị thương vài người, quân lính kéo ùa vào, vằm hắn ra
nát như bùn. Rồi họ xông thẳng vào trong dinh; lúc ấy Khản đã thay đổi quần
áo, theo đường tắt chạy ra cửa ô Trường Bắn mà trốn đi rồi. Quân lính lập tức
phá tan dinh của Khản.
Chúa nghe tin dinh thự của quốc sư
Nguyễn Khản có người canh giữ, cho rằng Khản đã phòng bị, chắc không việc gì;
bèn sai một hiệu quân đến ngay đó để phân giải. Nhưng lúc quan quân tới nơi
thì Khản đã bỏ trốn, dinh thự đã bị phá gần hết.
Sau đó, đám kiêu binh lại kéo về
phủ bảo với chúa rằng:
- Quốc sư mang quân ra ngoài làm
loạn, xin chúa cho người đuổi theo!
Chúa bất đắc dĩ phải sai viên thị
thần là thiêm tri binh phiên Thoan trung hầu đem quân đuổi theo Khản; nhưng
lại dặn ngầm là cứ đi từ từ để cho Khản chạy thoát. Thoan trung hầu đuổi đến
ô Cầu Giấy không theo kịp Khản, lại quay trở về.
Quân lính giận Thoan trung hầu
không chịu đem hết sức ra đuổi, liền kéo đến nhà phá luôn nhà hắn ta.
Thoan trung hầu cũng phải chạy
trốn nốt.
Quân lính không bắt được ba viên
quan ấy, lấy làm căm tức lắm. Sau khi dò biết quốc cữu Dương Khuông và Triêm
vũ hầu lẩn trốn trong phủ chúa, họ bèn chai nhau chắn kín cửa phủ, rồi cho
một toán xông vào bên trong, đòi chúa phải đưa hai viên ấy ra cho họ.
Chúa nói dối rằng:
- Không thấy ai trong này cả!
Quân lính đều nhao nhao:
- Chúng trốn vào phủ, đã có người
trông thấy rõ ràng. Người ta còn nhớ cả giờ chúng đi vào nữa, thế nhà chúa
còn chối à? Xưa nay há lại có chuyện vua chúa chứa giặc ở trong cung bao giờ?
Dương thái phi vừa khóc vừa dỗ
dành các quân lính rằng:
- Cái thân goá bụa may nhờ có ba
quân phò chúa mới được như thế này! Nay chỉ còn có một đứa em, xin ba quân
hãy tha mạng nó, để cho được trọn vẹn cái ơn xương thịt.
Đám kiêu binh thét lên:
- Tha mạng cậu ấy à! Thế hôm nọ
bảy mạng người chết, ai tha? Nếu còn cố giấu, cung khuyết sẽ ra tro ngay lập
tức, cái đó chắc cũng không hay ho gì!
Thái phi bèn ngồi sụp xuống đất,
chắp hai tay lại vái lạy, van xin.
Các quân lính lại nói:
- Không nói chuyện với đàn bà. Chỉ
hỏi nhà chúa thôi!
Chúa nói:
- Bức bách nhau thế này, thà đừng
lập làm chúa còn hơn!
Quân lính nói:
- Tưởng rằng muốn làm chúa nên mới
lập, chớ nếu không muốn thì có ai ép?
Một người nữa hùa theo nói:
- Bẻm mép thế! Thôi, hãy xuống
khỏi bệ đi! Chúng tôi mời Thuỵ quận công đến là khắc yên chuyện.
Chúa hoảng sợ, không dám ho he gì
nữa.
Lúc bấy giờ đã sắp tối, bọn quân
lính đều tản ra về, và họ còn nói thêm:
- Bắt chúng nó cũng ví như bắt cá.
Nước sâu thì cá còn lặn; đến mai tháo cho cạn nước, xem chúng nó có thể bay
lên trời được không?
Đêm ấy, kiêu binh canh giữ cửa phủ
rất chặt chẽ.
Chúa bàn với thái phi rằng:
- Khí thế của chúng như vậy, không
thể dùng lời nói suông mà giảng giải được đâu. Cần phải mất nhiều của đấm mõm
cho chúng nó, may ra mới xong, nếu không, thì phải xoay kế khác...
Thái phi đáp:
- Nghe nói có tên Nhuyến Thọ, biện
lại đội Nhưng-nhất là một đứa giảo quyệt, bọn kiêu binh làm gì cũng phải hỏi
mưu nó.
Sáng mai, chúa bèn cho người ra dụ
Thọ, ngỏ ý đút lót, bảo Thọ hễ nhận thu xếp việc này, sẽ giao một vạn lạng
bạc, ba vạn quan tiền, cho y mặc sức muốn làm gì thì làm, không cần hỏi đến.
Lại hứa thêm rằng: "Nếu làm xong việc, sẽ còn có trọng thưởng nữa".
Nhuyến Thọ trong bụng đã ưng,
nhưng còn làm bộ khó khăn mà rằng:
- Bọn họ muôn người muôn miệng,
khó mà nói năng được với họ. Vả chăng, hễ đã ngỏ ý đút lót thì thế nào họ
cũng sinh ngờ vực. Rồi ngộ nhỡ lúc ấy lại có một vài người bàn ngang vào nữa,
làm cho cơn giận của họ bốc lên, thì lưng tôi phỏng chịu được mấy đấm?
Người của chúa sai đến vẫn cố kèo
nài. Nhuyến Thọ ngần ngừ đáp:
- Nếu vậy để tôi lựa chọn lấy mấy
chục người hung hăng, táo tợn nhất, đem tình thực ra bàn với họ, rồi bảo họ
phụ hoạ thêm với tôi. Nhưng khi bàn bạc, giả sử mấy chục người này có đòi
thêm điều gì, thì tuỳ nhà chúa thương lượng lấy; tôi chỉ xin đứng ra làm kẻ
dàn xếp mà thôi. Còn như cái khoản tiền bạc công cộng kia, cũng xin đợi đến
lúc quân lính tập hợp đông đủ đã. Bấy giờ nhà chúa sẽ tự ngỏ lời trước; tôi
và mấy chục người này ở bên cạnh hùa thêm vào, như thế việc mới có thể thành
được!
Người ấy về nói lại với chúa. Chúa
bằng lòng, liền sai đưa riêng Nhuyến Thọ một ngàn lạng bạc để hắn phân phát.
Gần chiều, quân lính lại tụ họp và
tiến sát vào tận trong phủ. Chúa và thái phi lại phải ra dỗ dành. Bọn lính
nói:
- Việc gì mà phải lắm mồm! Cứ vào
trong cửa cấm lùng khắp toà phủ, rồi túm búi tóc lôi ra, hỏi hắn xem cái nắm
đũa ấy còn có thể bẻ được mấy chiếc nữa?
Chúa nói:
- Ba quân làm như vậy thì có sướng
gì, chẳng qua chỉ thêm bẩn tay mà thôi! Nay quả nhân có chút quà mọn là một
vạn lạng bạc, ba vạn quan tiền, xin đưa để khao thưởng ba quân, mong ba quân
hãy nghĩ lại mà tha thứ cho hai cái mạng nhỏ bé đó!
Đám kiêu binh đáp:
- Chúa còn tiếc hai người đó, rồi
sẽ thấy phủ đường cũng không giữ được đâu. Bọn tôi cần gì số tiền bạc ấy!
Giữa lúc họ đang nhao nhao, Nhuyến
Thọ bỗng vượt lên phía trước và nói:
- Nhà chúa là bề trên đã phải chịu
nhũn như vậy; các anh em không nên ăn nói cạn tàu ráo máng quá!
Tiếp đó bọn mấy chục người kia
cũng mỗi người một câu phụ hoạ thêm vào. Rút cục lính tráng ai chẳng hám lợi,
họ bèn dịu giọng mà rằng:
- Đã thế, thì hãy tha cho em ruột
thái phi. Còn Triêm vũ hầu là người giữa trời, bọn tôi phải xin mỗi người một
miếng thịt để nhắm rượu, rồi sẽ tan về ngay tức khắc. Nếu không, thì dẫu có
số tiền ấy cũng chẳng làm cho ba quân nguôi giận được.
Chúa nói:
- Tha thì tha cả. Sao còn tách
bạch người nọ người kia?
Quân lính nói:
- Nhà chúa nếu còn quanh co che
chở cho Triêm vũ hầu; bọn tôi khi "máu đã nhập tim" (do câu tục
ngữ: "Máu nhập tim, nhà lim cũng nhỏ"), thì ngay cả quốc cữu cũng
không tha nữa!
Nguyên hôm trước Triêm vũ hầu trốn
vào phủ, lẩn ở trên gác Kỳ-lân, vẫn dùng đôi kiếm để giữ mình. Trong lúc bọn
quân lính đòi giết, Triêm vũ hầu bụng bảo dạ: "Nếu chúng không nghe nhà
chúa điều đình, mà cứ xông vào bắt ta, thì phải đứng trên thang chém lấy dăm
ba cái đầu của bọn chúng, chứ ta không chịu chết một mình!".
Đến lúc này việc đã gấp quá, chúa
bèn sai người đến dỗ Triêm vũ hầu rằng: "Bây giờ xã tắc nguy nan như
treo trên sợi tóc, nhà chúa không thể cố giấu tướng quân được nữa. Vậy xin
tướng quân hãy vì chúa chớ tiếc cái chết, để cho nhà chúa được yên. Đó là
công muôn đời của tướng quân!"
Triêm vũ hầu bất đắc dĩ phải trèo
thang xuống ra mắt chúa mà nói:
- Chết thì chết, thần xin hai tay
hai kiếm tung hoành với chúng nó một trận, giết gọn lấy vài trăm đứa, cho hả
bớt cơn giận của nhà chúa!
Chúa nói:
- Như thế chỉ làm cho thái phi
kinh sợ, mà quả nhân cũng chẳng được yên nào!
Triêm vũ hầu quẳng hai thanh gươm
xuống đất nói:
- Bó tay mà chịu như thế, thần
đành chết uổng vậy!
Chúa khóc mà từ biệt Triêm vũ hầu.
Rồi lại hứa với Triêm vũ hầu rằng, sau khi y chết, sẽ cấp cho một ngàn khoảnh
ruộng làm của nối đời và phong cho làm phúc thần, bắt dân mười làng thờ cúng.
Triêm vũ hầu đáp:
- Thần chỉ vì chúa mà chết, đâu
phải cầu mong tước lộc? Xin chúa hãy ra sức tăng thêm uy quyền, xoay loạn làm
trị, thì thần dẫu chết, xương vẫn không mục nát!
Chúa bèn tự tay viết sáu chữ:
"Trung nghĩa tráng liệt đại vương" đưa cho Triêm vũ hầu. Triêm vũ
hầu quì xuống nhận mảnh giấy đó, vê tròn, nuốt vào bụng, rồi lạy tạ chúa mà
đi ra. Khi qua điếm Tiểu-bút, Triêm vũ hầu bị đám kiêu binh lôi kéo và hỏi:
- Gươm sắc của mày bây giờ như thế
nào?
Triêm vũ hầu đáp:
- Tao không thể dùng thanh gươm đó
chém đầu chúng bay là theo mệnh chúa và vì xã tắc đó thôi. Nhưng mà, chẳng
lâu gì đâu, tao chết rồi, sẽ có người khác đến chặt đầu lũ chúng bay. Đến lúc
ấy, chúng bay sẽ biết gươm có sắc hay không!
Quân lính xúm vào toan đánh Triêm
vũ hầu, gã cản lại mà rằng:
- Đây là nơi nghiêm cấm, không
được hành hung. Hãy để tao ra khỏi cửa phủ, ngồi yên đâu đấy, rồi tha hồ cho
chúng bay muốn làm gì tao thì làm.
Đoạn gã bước khoan thai đến bên
cạnh cầu đá, tìm chỗ, ung dung ngồi xuống và bảo bọn quân lính:
- Nào, bây giờ chúng bay làm gì
tao thì làm đi!
Đám kiêu binh lấy gạch đá đập mãi
vào đầu Triêm vũ hầu khiến máu chảy đầy mặt. Nhưng gã vẫn ngồi yên không cựa,
khẽ lấy tay áo lau mặt, rồi vừa cười vừa nói:
- Bây giờ tao không thi đấu võ,
nhưng vẫn còn thi can đảm! Thế mới lạ chứ!
Ngay đó, một tên lính đứng sau cầm
giáo đâm thọc vào lưng gã, gã mới chết.
Triêm vũ hầu chết rồi; quân lính
vẫn chưa hết giận, lại vào buộc chúa phải xử lại vụ án vừa qua.
Chúa bất đắc dĩ phải giao việc đó
xuống cho triều đình bàn định. Quốc sư, quốc cữu đều bị bãi chức làm dân
thường. Bảy tên lình bị chém ngày trước đều được đền mạng.
Từ đó, kiêu binh lại càng ngông
nghênh tợn. Tại các đường phố, họ cứ dăng tay nhau mà đi. Các vị công hầu gặp
họ đều phải quay xe tránh sang lối khác.
Lại nói, Nguyễn Khản lúc mới phục
chức, được làm trấn thủ Sơn Tây; đến khi vào làm tể tướng thì cho em ruột là
Điền nhạc hầu Nguyễn Cương (Cương mục chép là Nguyễn Điều. Có sách lại chép
Nguyễn Điền) ra thay.
Hôm ấy, Khản lật đật trốn ra ngoài
thành, dùng võng một đòn bắt hai người khiêng đi, nhằm hướng Sơn Tây mà chạy.
Tới trấn, Cương ra đón vào trong dinh và hỏi duyên cớ. Khản đáp:
- Tục ngữ nói: "Quân bất
trị". Thật là đúng lắm!
Rồi Khản đem đầu đuôi câu chuyện
kể hết cho Cương nghe. Cương nói:
- Bây giờ việc đã như thế, anh
định đối phó ra sao?
Khản vốn là hạng người xuềnh
xoàng, không có cơ mưu, nghe em hỏi liền cười và đáp:
- Trừ ra có thuật quỷ thần, hễ
thấy chúng nó họp nhau, tức thì theo đến mà ám ảnh, làm cho chúng nó đau bụng
nứt ruột, như Tề thiên đại thánh bóp Hoàng My (Điển này lấy ở truyện Tây du),
không biết đằng nào mà lần nữa, hoạ may chúng nó mới sợ. Chứ còn sức người
thì không làm sao được!
Cương là kẻ có nhiều mưu mẹo khôn
ngoan, liền nói với Khản:
- Tôi có một mẹo, có thể khiến cho
chúng nó chết ráo.
Khản hỏi:
- Mẹo như thế nào?
Cương đáp:
- Ngày nay dân trong bốn trấn (Sơn
Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương. Thời Lê, 4trấn ở chung quanh kinh đô này
được gọi là kinh trấn hay kinh lộ, là những nơi che chở cho kinh đô; ngoài
kinh trấn lại có 9 phiên trấn hay phiên lộ như Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên
Quangv.v... là phên giậu che chở cho các kinh trấn) đang oán ghét chúng nó
đến xương tuỷ; nếu ai lấy danh nghĩa diệt kiêu binh để kêu gọi, thì chỉ cần
hô một tiếng, không người nào là không hưởng ứng. Trấn này ở về miền thượng
du, dân chúng thuần hậu dễ bảo. Trước kia anh làm trấn thủ Hưng Hoá, các tù
trưởng địa phương đều là thuộc hạ của anh, anh bảo chắc họ phải nghe. Trên
vùng Tuyên Quang, phiên mục Diễn quận công (tức Hoàng Văn Đồng giữ Mỏ đồng Tụ
Long, Tuyên Quang) giàu có nhất thiên hạ, năm xưa có tội được anh cứu giúp,
ông ta hẳn còn nhớ ơn; nếu viết thư lên rủ, thế nào ông ấy chả theo. ở trấn
Sơn Nam, quận Thạc (tức Hoàng Phùng Cơ) là tướng đánh trăm trận, vốn nổi
tiếng là bậc vô địch. Rồi ở trấn Kinh Bắc thì Thần trung hầu (tức Trương
Tuân), ở trấn Hải Dương thì Thái đình hầu (tức Trịnh Tự Quyền), đều là những
tay có mưu trí. Bây giờ hãy dùng mật lệnh nhà chúa, sai họ ngầm nuôi nghĩa
sĩ, giữ vững dinh trấn, và nghe theo sự điều khiển của anh. Còn anh, vốn là
một vị tể tướng lại kiêm chức sư phó, thì một lời nói ra khỏi miệng, trấn nào
lại dám không tuân theo. Bên Kinh Bắc còn có hai tên tướng giặc đầu hàng là
tú Huy và cai Hồ, đều là những tay dữ tợn, tinh khôn. Hiện chúng đang ở chỗ
viên nội thần Nhật trung hầu; nếu thả cho chúng và sai đi xui giục hai phủ
Lạng Giang, Bắc Hà (đều thuộc Bắc Giang), chắc cũng giúp cho mình được một
tay. Trên Thái Nguyên lại có tên giặc già là cai Già, thuở xưa đã từng làm
môn hạ của anh, hẳn anh cũng có thể sai khiến được. Cả bấy nhiêu nơi ta hẹn
nhau cùng ngày khởi sự. Phàm ưu binh (thời Lê trung hưng, kén lính ở 3 phủ
thuộc Thanh Hoá và 12 huyện thuộc Nghệ An để chuyên bảo vệ kinh thành. Loại
lính này được ưu đãi hơn các lính nơi khác, vì thế gọi là ưu binh, hoặc cũng
gọi là lính tam phủ) Thanh-Nghệ, hễ đứa nào ở các trấn ngoài đều phải trừ cho
hết. Đứa nào trốn thoát, cho dân sở tại cứ bắt mà giết đi. Rồi thì bốn phương
tám mặt cùng ập vào kinh thành kiêu binh ắt sẽ không còn đường mà chạy nữa.
Đó là một kỳ công muôn đời mới gặp, anh nên tính gấp đi!
Khản nghe xong, nói:
- Hay lắm! Nhưng nay chúa còn đang
ở trong tay chúng; ném chuột lại có thể không kiêng đồ vật được ư? (ý muốn
nói diệt kiêu binh lại sợ vạ đến Trịnh Tông)
Cương nói:
- Đó là việc rất dễ: Trước hãy sai
người trình với chúa, bí mật lấy hết vàng bạc, của cải trong kho, phân tán ra
các trấn; thái phi, vương tử và các cung tần cũng lén đưa cả ra ngoài thành,
hễ gặp chỗ nào tiện thì hãy ở tạm. Sau đó ngầm báo cho quận Thạc đem thuyền
chở quân đến bến Thanh Trì, nói phao là đi tuần sông: rồi giấu kín một chiếc
đò ngang, đợi sẵn ở bến Tây Long. Còn chúa thì sẽ mặc quần áo thường dân, cất
lẻn xuống chiếc thuyền ấy đi xuôi đến dinh trấn Sơn Nam và tạm đóng tại đó.
Xong đâu đấy bấy giờ các trấn mới cùng khởi sự. Như vậy, thì không còn lo
ngại gì nữa!
Khản mừng mà rằng:
- Không có chú, tôi không nghĩ
được đến thế. Dẫu không thành cũng là một việc làm hả dạ!
Rồi Khản làm tờ mật khải đưa về
cho chúa. Chúa mừng lắm, viết ngay tờ mật chỉ khen ngợi, đồng thời hẹn sẵn
mọi việc. Tiếp đó, chúa mời thái phi cải trang và lẻn ra ngoài thành, đến tạm
trú tại nhà người chồng bà dì thứ bảy của chúa ở làng Văn Giáp, huyện Thượng
Phúc. Vương tử và các cung tần cũng đều theo cả đến đó. Một mặt, chúa cho mở
kho lấy hết vàng bạc châu báu, sai các thị thần thân tín ngầm đem ra, giao phó
cho bốn trấn. Một mặt, chúa cho hẹn với quan trấn thủ trấn Sơn Nam, đúng ngày
28 tháng ấy thì bí mật đến đón mình; lại hẹn với các trấn đúng ngày mồng một
tháng sau thì các đạo sẽ cùng khởi binh cả một loạt.
Công việc sắp đặt như thế là xong.
Tới ngày hẹn, quận Thạc theo lệnh
chúa đem thuyền đến đón.
Khi ấy trong kinh hết sức nhốn
nháo: người ta kháo nhau rằng quan trấn thủ Sơn Nam sắp đem quân vào thành,
để giết hết kiêu binh. Đám quân lính nghe tin ấy đều hoảng hốt, ngầm cho vợ
con gói ghém hành lý đem ra ngoài thành và trốn tránh đi các nơi, còn ở kinh
chỉ để lại những người thuộc "quân tịch" mà thôi. Rồi chúng kéo
nhau vào phủ chúa, xin chúa cấp tốc khởi binh đánh dẹp. Chúa bất đắc dĩ phải
ra ngự ở Trạch các để uý lạo ba quân.
Trong đám kiêu binh có kẻ biết mưu
của chúa, liền mắng chúa rằng:
- Chúa đừng tưởng chúng tôi không
biết mà hòng đem đầu lưỡi ra khua múa để che đậy. Từ đây theo cửa Tuyên Vũ đi
ra, rồi đến bến Tây Long (tục gọi là Tây Luông, ở thẳng phía sau nhà hát
thành phố Hà Nội bây giờ); chẳng qua chỉ độ trăm bước đã có thuyền của quận
Thạc chờ đón sẵn sàng ở đó; trông trước trông sau, khi nào thấy không có
người, thì bước lên thuyền cho nhanh rồi tìm đường mà đi chứ gì!
Chúa biến sắc mặt, nín lặng quay
vào.
Từ hôm ấy, quân lính canh giữ phủ chúa
rất ngặt. Những người nào ra vào, hễ hơi có vẻ khang khác là bị họ khám xét
tra hỏi liền.
Vì vậy, chúa không dám ra khỏi
cung. Quận Thạc nghe tin, lại rút quân về trấn của mình.
Chúa sai người ra báo lại với các
trấn hoãn ngày khởi sự, nhưng chưa đến kịp thì các đạo theo đúng hẹn cũ đã
rầm rộ kéo quân lên đường. Thiên hạ cực kỳ náo động. Hào kiệt các nơi đồng
thời nổi dậy, ai ai cũng nói phải tiêu diệt hết kiêu binh.
Ngày hôm đó, hết thảy kiêu binh
hai xứ Thanh-Nghệ đóng ở các trấn đều phải bỏ trốn, lúc đi qua làng mạc chúng
không dám lên tiếng. Hễ kẻ nào buột miệng lòi ra thổ âm Thanh-Nghệ, tức thì
bị dân chúng bắt giết ngay. Bọn chúng phải luôn luôn giả cách làm người câm,
ăn xin ở dọc đường, rồi lần mò về kinh, báo cho đám kiêu binh ở đây biết cái tin
nay mai quân các trấn sẽ về họp ở dưới thành.
Được tin này, bọn kiêu binh ở kinh
tức thì họp nhau bàn cách chống cự. Rồi họ chia nhau thành các đạo kéo đi.
Nhưng đạo phía tây mới kéo ra đến Đại-phùng, đạo phía bắc mới kéo đến cầu
Vịnh thì đã bị ngay các tay thổ hào địa phương đánh thua. Họ phải bỏ cả khí
giới, cố mang vết thương mà chạy về kinh.
Bấy giờ kinh thành chấn động, dân
hàng phố kẻ chợ đều dắt díu bồng bế nhau ra ngoài thành chạy trốn.
Đám kiêu binh vừa sợ vừa tức, gọi
chúa là giặc. Rồi họ kéo vào trong phủ, lấy hết binh khí, chia cho cơ đội các
dinh nắm giữ. Phủ chúa lúc ấy không còn một tấc sắt nào để tự vệ.
Đêm hôm ấy, kiêu binh bắt được bốn
tay nghĩa sĩ lẻn vào thành; họ liền bí mật đem đến hội sở của họ để tra hỏi.
Mấy tay nghĩa sĩ đau quá, khai liều rằng đêm nay quân ở ngoài sẽ vào đánh úp.
Đám kiêu binh cả sợ, bèn bảo nhau phòng bị nghiêm nhặt. Súng nhồi sẵn mồi
lửa, gươm tuốt khỏi vỏ, suốt đêm họ hò hét, đi lại rầm rập, kinh thành hầu
như sắp vỡ.
Sớm hôm sau, họ đem chém cả bốn
nghĩa sĩ, rồi xúm quanh phủ chúa mà trách rằng:
- Nhờ có chúng tôi phò, chúa mới
được lên ngôi. Nay chúa lại coi chúng tôi là kẻ thù. Lính Thanh-Nghệ hai trăm
năm nay vẫn là nanh vuốt cật ruột của nhà chúa. Bây giờ chúa lại nỡ dấy quân
bốn trấn về giết hại lính hai xứ chúng tôi. Tin da dẻ mà ngờ cật ruột, giơ
dao cưa để cắt nanh vuốt, kẻ nào bày ra mưu ấy đều là những kẻ bỏ thuốc độc
cho chúa. Nếu chúa không mau dụ bốn trấn bãi binh, thì đừng có trách chúng
tôi là vô lễ!
Chúa một mực chối là không biết,
rồi ngầm sai người bảo các trấn bãi việc ấy đi.
Đám kiêu binh không biết là chúa
đã ngầm ra lệnh đình chỉ, nên vẫn còn nghi ngờ. Họ bèn tụ họp nhau, bàn làm
chuyện đại nghịch. Hẹn đến canh ba đêm ấy, nổ ba tiếng súng Bảo-long làm
hiệu, rồi cùng kéo vào phủ chúa để hành sự; sẽ lấy hết của cải đồ vật trong
phủ chia nhau; sau đó lấy xe kiệu của chúa chở hết các đồ nghi vệ cùng sổ
sách đưa đến nội điện, rồi rước hoàng thượng về Thanh Hoa để mưu toan công
việc sau này.
Thật là:
A'o cá hớ hênh nên chẳng quyết,
Lòng hồ cố chấp hoá ngờ nhau.
Chưa biết việc này ra sao? Xin xem
hồi sau phân giải.
áo cá: dịch chữ "ngư phục".
Sách Thuyết uyển chép: Bạch long ngư phục, khốn ư Dự Thư, nghĩa là: con rồng
trắng cải trang làm con cá, bị người Dự Thư bắn trúng mắt. ở đây ý nói Trịnh
Tông định cải trang làm thường dân để ra khỏi thành, nhưng mưu cơ bị
lộ...).
lòng hồ: bụng da loài cáo nham hiểm, hay
nghi ngờ.
|
Hồi thứ tư
Nhờ
ngoại viện, Hữu Chỉnh rửa thù thầy
Tỏ lòng trung, Trần Quán chết theo chúa.
Lại nói, đám kiêu binh sau khi đã
bàn định mưu mô xong, liền kéo nhau đến hỏi Trần Nguyễn Nhưng. Nhưng vốn quen
làm giấy tờ cho đám lính; bèn lập ngay một bản điều ước, cắt đặt rõ người nào
làm việc nào, rồi đưa cho họ. Sau đó, Nhưng lại tức tốc đem mưu ấy vào báo
với chúa. Chúa cả sợ nói:
- Hôm qua ta ngồi ở cung Trung
Hoà, có con quạ khoang bay xuống trước sân vừa nhảy nhót vừa nhìn vào ta đến
hai ba lần, như có ý muốn mổ. Ta phải sai thị thần lấy giáo ra xua mấy cái,
nó mới bay đi. Thấy điềm ấy, bụng ta đã biết chắc là có kẻ dưới đang mưu hại
ta. Nay quả nhiên đúng như vậy. Bây giờ ngươi hãy nên vì ta mà giảng giải với
họ, cho nó hợp với cái điềm "xua giáo" của ta.
Rồi chúa lại hứa cho Nhưng tiền
bạc, để Nhưng ngầm phá mưu của quân lính.
Nhưng là một người nông nổi, được
chúa tỏ ý khen thưởng, tin dùng, liền đi khoe ngay với người khác. Quân lính
biết mưu của họ đã bị Nhưng tiết lộ, bèn lùng bắt, Nhưng phải trốn về vùng
Thanh Hoa.
Chúa thấy Nhưng là kẻ đa tâm lại
hay kiếm chuyện, nhân dịp hắn đi trốn, bèn cho làm chức ký lục ở Thuận Hoá.
Sau khi Nhưng đi rồi, thì vừa lúc
các trấn cũng bãi binh; vì vậy mưu của quân lính cũng thôi nốt.
Bây giờ lại nói về việc Nguyễn Hữu
Chỉnh giong buồm ra biển vào Tây Sơn trong năm Nhâm dần (1782).
ấp Tây Sơn thuộc địa phận xứ Quảng
Nam (Quảng Nam hồi ấy gồm cả ba tỉnh Nam-Ngãi-Định cũ. ấp Tây Sơn ở vào địa
phận tỉnh Bình Định). Xứ này phía bắc giáp ải Vân, phía nam giáp Gia Định,
phía tây giáp Ai Lao, phía đông giáp biển; bờ cõi rộng hàng ngàn dặm.
ở ấp Tây Sơn có người họ Nguyễn
tên là Văn Nhạc, tổ tiên nguyên là người Nghệ An. Khoảng năm Thịnh-đức (Lê
Thần Tông 1653-1657), quân nhà Nguyễn ra đánh Nghệ An, chiếm cứ được bảy
huyện phía nam sông Cả, rồi dồn bắt tất cả dân cư đưa về Nam cho sống ở vùng
Tây Sơn. Tổ bốn đời của Văn Nhạc, chuyến ấy cũng bị bắt ở trong số đó.
Văn Nhạc trước kia nhà nghèo,
nhưng sau nhờ vào việc gá bạc mà gia tư bỗng trở nên giàu có. Nhạc từng làm
biện lại ở Vân Đồn, nên người ta vẫn thường gọi là biện Nhạc. Biện Nhạc vì
tiêu mất tiền công, bèn trốn vào núi, tụ tập tay chân hơn một trăm người, rồi
đi ăn cướp ở các châu ấp. Viên trấn tướng vùng ấy không sao trị nổi.
Từ đó, biện Nhạc tự xưng là chúa
Tây Sơn. Một hôm, biện Nhạc tự ngồi vào trong cũi, cho bọn tay chân khiêng đi
và loan báo ở dọc đường rằng đã bắt được chúa Tây Sơn tức biện Nhạc, xin đưa
đến dinh trấn để trình nộp. Viên trấn tướng mừng lắm, mở cửa cho vào, rồi đem
giam ở trong ngục. Đêm ấy, biện Nhạc phá cũi xông ra, cướp lấy thanh gươm của
tên lính canh ngục, chém chết tên ấy, phóng lửa đốt luôn dinh trấn, rồi giết
nốt viên tướng trấn và chiếm lấy thành (đây là thành Qui Nhơn, do trấn tướng
Nguyễn Khắc Tuyên coi giữ. Theo một số tài liệu khác thì Nhạc chỉ là người
vào làm nội ứng, bên ngoài lúc ấy đã có Nguyễn Thung cầm đầu một toán quân Tây
Sơn ập vào, cùng với Nhạc cướp thành).
Bấy giờ chúa nhà Nguyễn là Nguyễn
Phúc Thuần (tức Định vương) còn bé, quan quốc phó của triều đình nhà Nguyễn
là Đạt quận công (Trương Phúc Loan) nắm hết quyền chính, làm lắm điều càn
bậy, nên lòng người trong xứ đều lìa tan.
Khi Văn Nhạc nổi loạn, lại mượn
một bọn vô lại người phương Bắc (khi Nguyễn Nhạc khởi nghĩa, có hai thương
nhân Trung Quốc là Tập Đình và Lý Tài chiêu tập các dân nghèo người Hoa-kiều
theo giúp. Lý Tài xưng là Hoà nghĩa quân, Tập Đình xưng là Trung nghĩa quân.
Quân của Lý Tài và Tập Đình chiến đấu rất hăng, làm cho bên địch vô cùng sợ
hãi. Nhân đó, Nhạc thường chọn nghĩa quân của mình lấy những người cao lớn,
cho ăn mặc giống như quân của Lý Tài và Tập Đình, lúc ra trận quân Nguyễn
trông thấy bóng đã bỏ chạy. Người phương Bắc nói đây chính là trỏ vào những
người Hoa-kiều đó) giả xưng làm quân cứu viện của Tập đình hầu, để chống với
quân nhà Nguyễn. Mấy trận đánh nhau, quân nhà Nguyễn đều không thắng nổi, do
đó mà thanh thế của Tây Sơn ngày càng to lớn hơn.
Năm Giáp Ngọ (1774) niên hiệu Cảnh
hưng, thánh tổ Thịnh vương nhân cơ hội đó, mới sai quan đại tư đồ Việp quận
công làm Bình Nam thượng tướng, đem quân đóng ở La Hà và phao lên rằng sẽ vào
tiếp viện cho chúa Nguyễn. Nhạc thấy vậy liền sai người đem cống một con ngựa
hay, một thanh gươm báu, và xin theo về triều đình.
Hồi ấy, xứ Thuận Hoá mới dẹp yên,
tướng sĩ đều ngại vất vả, muốn để công việc Tây Sơn sẽ tính toán sau. Do đó
quận Việp mới làm tờ khải về trình với Thịnh vương, xin nên nhân dịp ấy mà vỗ
về Nhạc. Vương cũng nghe lời, bèn cho Nhạc làm trấn thủ Quảng Nam và phong
làm Tuyên uý đại sứ, Cung quốc công. Từ đó, hàng năm Nhạc vẫn dâng lễ cống
đều đặn.
Quận Việp thường hay sai Nguyễn
Hữu Chỉnh làm sứ giả qua lại với Tây Sơn. Thấy Chỉnh có tài biện luận, Nhạc
rất yêu mến. Được ít lâu, Nhạc thấy có điềm rồng vàng, liền cho đóng ngai
rồng, lên ngôi vua, tự xưng là thiên vương, đặt niên hiệu là Thái đức. Triều
đình biết vậy, nhưng cũng bỏ đó không hỏi gì đến. Bấy giờ Nhạc đang có ý muốn
thôn tính Thuận Hoá, mà vẫn chưa có người để bàn định công việc. Nên khi được
Chỉnh chạy vào với mình, Nhạc mừng lắm. Nhưng thực ra, trong lòng vẫn chưa
tin. Chỉnh cũng nhận thấy điều đó, liền kể với Nhạc tất cả đầu đuôi câu
chuyện của mình, rồi lại tình nguyện gửi vợ con làm con tin, để xin được
nương tựa vào xứ sở của Nhạc, Nhạc bằng lòng.
Nhạc vốn đã mến tài của Chỉnh, nên
đối với Chỉnh càng ngày càng thân mật, tin cậy. Ngược lại, Chỉnh cũng hết
lòng thờ Nhạc, bày kế cho Nhạc đánh chiếm đất đai các nước Chiêm Thành, Xiêm
La, Bồn Man. Rồi Chỉnh lại tự mình cầm quân đi tiên phong, xông pha vào những
nơi tên đạn, khiến mấy nước lân cận ấy lần lượt đều bị đánh bại. Do đó, ân
tình giữa Nhạc với Chỉnh lại càng thêm mặn mà.
Tuy thế, nhưng trong khi ở với Tây
Sơn, Chỉnh vẫn hàng ngày mong về nước cũ.
Lại nói, triều đình từ khi mất
Chỉnh, rất lấy làm lo, thường vẫn chiêu mộ xem ai dụ được Chỉnh trở về thì sẽ
trọng thưởng. Một người em rể của Chỉnh xin nhận việc đó. Triều đình liền cấp
cho một đạo mật chỉ để người ấy lên đường.
Lúc gặp Chỉnh, người ấy chưa kịp
nói gì thì Chỉnh đã hỏi:
- Chú lận đận trèo đèo lội suối
tới đây làm chi? Có phải định làm thuyết khách cho chúa Trịnh không? Chú coi
mặt ta, xem từ khi đẻ ra đến giờ đã từng nghe ai xui khôn xui dại chưa, mà
chú dám cả gan như vậy?
Người em rể chỉ còn biết cúi đầu
nín lặng, không dám nói gì nữa.
Chỉnh lại hỏi tiếp:
- Nhưng thôi được, chú đã ở Bắc
vào đây, ắt là biết rõ đầu đuôi sự việc. Vậy chú hãy kể cho ta nghe xem, từ
sau khi Huy quận công bị nạn, thì công chúa (chỉ con gái Trịnh Doanh, vợ Huy
quận công) và các cậu công tử lưu lạc đi đâu?
Người ấy đáp:
- Khi ấy, công chúa bị Dương thái
phi giam vào hậu cung. Còn hai công tử nghe tin có biến thì bỏ chạy về huyện
Yên Dũng, dấy quân trả thù, làm chấn động cả vùng Kinh Bắc. Chúa Trịnh sai
viên trấn thủ Kinh Bắc là Mãn trung hầu đem quân đi đánh. Quân Mãn trung hầu
bày trận ở núi Ba Tầng (nay ở địa phận huyện Việt Yên, Hà Bắc). Các công tử
sai viên thủ lệnh Hoàng Tú làm tiền bộ đem quân ra đánh. Hoàng Tú bị chết
ngay trước trận. Quân sĩ tan rã. Hai công tử đều bị bắt sống, đóng cũi giải
về kinh.
Chỉnh nghe xong, than rằng:
- Tuổi trẻ bồng bột, hèn nào không
hỏng việc! Nhưng cũng là một việc làm vì nghĩa, dầu thất bại mà vẫn vẻ
vang...!
Rồi Chỉnh lại hỏi:
- Thế đưa về kinh rồi sau ra sao?
Người ấy trả lời:
- Triều đình bàn định hai công tử
đều đáng tội chết. Chúa nghĩ tình anh em cô cậu, ra ơn cho được tha tội chết.
Nhưng lại bị thái phi ngầm sai người đến bắt uống thuốc độc. Có kẻ báo với
chúa. Chúa vội sai viên trung sứ đến ngăn lại. Nhưng khi đến nơi thì cậu cả
đã bị trúng độc chết rồi. Chỉ còn cậu hai hiện đang bị giam ở ngục cửa Đoài.
Chỉnh tỏ vẻ ngậm ngùi mà rằng:
- Thương thay! Phá tổ đổ trứng
(đời Tam-quốc, Khổng Dung bị Tào Tháo bắt, lúc sắp bị giết chết, có kẻ đến
bảo hai con của Dung nên trốn đi; hai người đó trả lời: "Tổ vỡ thì trứng
còn toàn vẹn làm sao được"- Câu này dùng theo ý đó)! Người ta có tội
tình gì?
Lại hỏi:
- Còn công chúa, từ khi bị giam
vào hậu cung thì việc ăn ở ra sao?
Đáp:
- Chúa cũng nghĩ tình cô ruột,
không nỡ hành hạ gì cả. Song vì thái phi vẫn có hiềm cũ, nên đã làm cho khổ
cực đủ đường. Công chúa vừa đau buồn vừa uất giận, nên đã thành bệnh mà chết
rồi!
Chỉnh thở dài hồi lâu, rồi nói:
- Công chúa chết cũng là phải,
sống mà làm gì nữa...!
Lại hỏi:
- Thế còn Đặng Tuyên phi thì thế
nào?
Đáp:
- Khi chúa nhỏ bị bỏ, thái phi
liền sai người bắt Tuyên phi đến trước mặt mình, kể tội, rồi buộc Tuyên phi
phải lạy tạ. Tuyên phi không chịu lạy. Thái phi bèn sai hai thị nữ đứng kèm
hai bên, níu tóc Tuyên phi rập đầu xuống đất. Nhưng Tuyên phi vẫn nhất định
không chịu lạy, mà cũng không nói nửa nhời. Thái phi giận quá, đánh đập một
hồi, nhổ nước bọt vào đầu vào mặt, rồi đem giam vào nhà Hộ-tăng ở vườn sau.
Tại đây, Tuyên phi bị làm tình làm tội cực kỳ khổ sở. Một bữa, Tuyên phi lấy
áo che mặt, trốn ra khỏi cửa Tuyên-vũ, chạy đến bến đò phố Khách thì bị quân lính
đuổi kịp. Từ đó, lại càng bị giam giữ chặt chẽ. Năm sau trong nhà tẩm miếu
trên lăng Thịnh-phúc, tự dưng bao nhiêu đồ thờ bằng gỗ, bằng vàng hễ động tay
vào là nát mủn như bùn. Viên giữ lăng miếu vội vàng gửi thư về kinh trình rõ
việc biến. Thái phi cho đòi cô đồng vào hỏi. Cô đồng phán rằng: "Chúa
thượng đã làm trái ý tiên vương; tội bất hiếu có hai điều: Chúa vừa lên ngôi,
đã ngờ Đặng thị làm bùa yểm trong tử cung, rồi tự ý cạy mở tử cung, thay đổi
quần áo khâm liệm, khiến cho xương ngọc không yên. Đó là một! Đặng thị là
người mà tiên vương yêu dấu, bây giờ bị chúa làm cho tủi nhục đủ đường, khiến
vong linh tiên vương phải áy náy. Đó là hai! Nếu không mau hối lỗi tạ tội,
tai biến sẽ còn nhiều nữa!". Thái phi sợ hãi, lập tức vào nói với chúa.
Chúa bèn sai quan tế lễ tạ tội, rồi cho Tuyên phi được trở lại làm cung tần
nội thị vào thờ phụng tẩm miếu. Tuyên phi được vào hầu hạ lăng tẩm, đêm ngày
chỉ gào khóc xin chết theo tiên vương. Đến ngày giỗ "đại tường" của
tiên vương, Tuyên phi bèn uống thuốc độc mà chết. Chúa sai quan trấn thủ
Thanh Hoa, theo lễ cung nhân táng Tuyên phi ở cách Vọng-lăng của tiên vương
một dặm.
Chỉnh nói:
- Chết được đấy! Ta tưởng Tuyên
phi chỉ có nhan sắc, không ngờ lại có tiết liệt như vậy. Nhưng không hiểu vì
sao ngôi của Tuyên phi lại bị giáng làm cung tần như thế?
Đáp:
- Bởi vì khi chúa lên ngôi được
một năm, người ta lục tờ cố mệnh của tiên vương, thấy có chữ son của thánh
mẫu ngự phê rằng: "Không phải bút rồng của tiên vương, không đủ làm
bằng". Chúa liền giao tờ đó cho triều đình bàn định, bấy giờ quan thiêm
sai Phạm Nguyễn Du làm tờ luận về "quốc sách", nói rằng: "Ngôi
của chúa Điện đô với sách mệnh của Tuyên phi cùng tờ cố mệnh, đều là cái mệnh
của tiên vương trong lúc mê lẫn. Nó rất trái lẽ thường, sai đạo lý, không thể
cho là phải được. Nay thánh mẫu là mẹ mà đổi lại ý của con thì thật là một
việc hết sức chính đáng. Vậy cần phải truy xét về cái tội của những kẻ phụ
hoạ, để làm cho sáng tỏ và nghiêm chỉnh pháp điển của nhà nước!" Do đó
mà Tuyên phi bị truất làm người thường. Rồi Tứ xuyên hầu vì viết tờ thư cố
mệnh, Khanh quận công vì tự tiện viết thay bút rồng, Thiêm sai Nhữ Công Chấn
vì tự tiện thảo tờ sách mệnh phong Tuyên phi, xuất nạp Thuỳ trung hầu vì sao
những tờ sách mệnh ấy đưa ra chính phủ... đều phải bãi chức về làm dân
thường. Đặng thị sau này lại phải giáng làm cung tần, cũng là vì cớ đó.
Lại hỏi:
- Ngoài mấy việc ấy, còn chuyện
báo ơn báo oán gì khác nữa không?
Đáp:
- Chúa mới lên ngôi hôm trước, hôm
sau liền hạ lệnh rằng, tất cả mọi người đều được khoan dung, chỉ riêng những
kẻ tố giác việc năm Canh tý thì không được tha. Vì vậy những kẻ này lần lượt
đều bị bắt và bị làm tội hết thảy. Duy Ngô Thì Nhậm không biết trốn đi đâu.
Những kẻ phải chết về vụ án Canh tý gồm có Tuân sinh hầu, Khê trung hầu và
chồng dì Sáu, về sau đều được truy tặng tước vương và lập đàn chay để làm lễ
cầu siêu, giải oan cho họ.
Chỉnh nói:
- Bãi bỏ mệnh của cha giữa triều
đình, phô bày lỗi của cha với cả nước; đó là việc đại bất hiếu!
Lại hỏi:
- Tham tụng, bồi tụng bây giờ là
những ai?
Đáp:
- Chúa mới lập nên, Tứ xuyên hầu
liền bị bãi chức; quan bồi tụng Bùi Huy Bích lên thay chân và được phong làm
Kế liệt hầu. Nay Kế liệt hầu vẫn một mình giữ ngôi tham tụng. Còn bọn Trương
Đăng Quỹ, Mai Thế Uông, và Trần Công Thước được thay nhau làm bồi tụng. Đó
đều là những bậc tai mắt nắm quyền chính hiện giờ.
Hỏi tiếp:
- Từ bấy đến nay, còn có điềm
lành, điềm gở gì không?
Đáp:
- Điềm lành không thấy, chỉ có
điềm gở thì nhiều: ngày rằm tháng một năm Nhâm dần (1782), ở trong cung bỗng
dội ra một tiếng rất to, rền vang đến hơn một khắc, làm rung chuyển cả trời
đất. Không hiểu là tiếng gì?
Chỉnh nói:
- Đó là tiếng trống trời.
Người ấy kể tiếp:
- Năm Quí mão (1783), núi vua Hùng
tự nhiên sụt xuống hơn hai chục thước. Tháng sáu năm ấy, con sông Thiên-đức
(tức sông Đuống) cạn hẳn một ngày một đêm. Năm Giáp thìn (1784), giữa đêm
mùng một tháng mười, trong hồ Thuỷ-quân (tức hồ Hoàn Kiếm) thình lình có
tiếng phát ra như sấm, nước hồ sủi lên sùng sục, sớm mai bao nhiêu tôm cá đều
chết sạch. Cũng trong năm ấy, trên các cây cối trong phủ chúa, thường có hàng
vạn con quạ ở đâu kéo đến, bay lượn lao xao, ngày đêm kêu gào quang quác. Rồi
ở quãng bờ thành phía ngoài cửa các của phủ đường, bỗng dưng cũng sụt xuống
hơn mười trượng. Đó là những sự lạ to lớn, ai ai cũng biết. Còn những chuyện
lặt vặt, thì không sao kể hết được.
Chỉnh chắt lưỡi luôn mấy cái, rồi
hỏi đến tình trạng bọn kiêu binh. Người ấy cứ theo sự thực kể lại hết đầu
đuôi. Chỉnh xem chừng câu chuyện đã cạn, bèn sai nhà bếp làm cơm rượu, thết
đãi cho người ấy ăn uống thật no say. Sau đó, Chỉnh mới căn vặn người ấy rằng
vào đây để làm gì?
Người ấy thưa:
- Đương trung hầu thấy tôi với
quan lớn có tình bà con, nên mới tâu với chúa, xin giáng chỉ sai tôi đến đây
khuyên quan lớn về triều, cho khỏi mất công danh phú quí.
Chỉnh cười mà rằng:
- Chú là đứa ngu, ta thực không
thèm chấp. Song ta chỉ ghét cái đứa sai chú đến đây dám khinh nhờn ta. Vậy ta
kết quả tính mạng cho chú; nếu có oan ức thì cứ xuống âm phủ mà kiện cái đứa
đã sai chú ấy!
Rồi Chỉnh hạ lệnh cho tay chân lôi
luôn người ấy ra chém chết.
Nhạc thấy Chỉnh chém thuyết khách,
lại càng thân cận tin yêu hơn.
Qua năm Bính ngọ (1786), khoảng
cuối mùa xuân, đại tướng Thuận Hoá là Tạo quận công (tức Phạm Ngô Cầu) sai
viên thuộc hiệu đội Dực-hữu là Dương lĩnh bá Nguyễn Phu Như vào Tây Sơn nói
về công việc biên giới của hai xứ.
Phu Như với Chỉnh vốn là chỗ quen
biết, liền nói với Chỉnh những lẽ có thể lấy được Thuận Hoá. Rồi Như lại cho
Chỉnh biết rằng hai xứ Thanh-Nghệ và cả bốn trấn hiện đang bị đói lớn, dân
chúng đều ta oán kêu khổ, dân với lính chẳng ưa gì nhau, tình thế không thể
lâu bền; nếu lấy được Thuận Hoá, thì việc dẹp yên thiên hạ không khó gì nữa!
Do đó, Chỉnh mới quyết định mưu kế
về nước. Luôn bữa ấy, Chỉnh vào hầu Nhạc, bày cách thức lấy đất Thuận Hoá, và
xin điều động binh tướng đánh chiếm ngay lấy Phú Xuân.
Nhạc theo lời, liền sai người em
ruột là thượng công Nguyễn Văn Bình (tức Nguyễn Huệ), đốc xuất các quân thuỷ
bộ; lại sai dũng tướng Võ Văn Nhậm (Võ Văn Nhậm vốn là tiết chế của họ
Nguyễn, bị Tây Sơn đánh thua ở trận Gia Định, toan tự tử, sau nghe Nguyễn Huệ
dụ hàng, Nhậm bèn theo Tây Sơn từ đó, rồi được Nhạc gả con gái cho) làm tả
quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, cùng theo hiệu lệnh của
Bình, đến ngày 28 tháng tư thì kéo quân lên đường, tiến thẳng về phía thành
Phú Xuân.
Lại nói, từ năm Giáp-ngọ (1774),
Thuận Hoá thuộc về bờ cõi nước ta (đứng về phía Lê-Trịnh ở Đàng ngoài mà nói.
Năm 1774 quân Trịnh hạ được thành Phú Xuân), thành Phú Xuân trở nên chỗ đầu
cùng của miền biên giới và là một thị trấn rất xung yếu. Bởi thế, triều đình
mới để ba ngàn quân đóng đồn và ba vạn quân thay phiên canh phòng; lại cử một
viên đại tướng, một viên phó tướng, cùng với một viên đốc thị, một viên phó
đốc thị trông nom công việc đó. Các nơi trọng yếu từ đèo ải Vân trở ra đều có
lập đồn đóng quân. Rồi lấy dân địa phương để bổ sung thêm quân lính. Khai
khẩn đất hoang để tăng thêm lương thực. Mở mang việc lưu thông trao đổi hàng
hoá. Khai thác các nguồn lợi trên rừng dưới biển. Lấy việc thi cử để kén chọn
người tài. Dùng danh vị, tước lộc để thu phục lòng người... Cách khống chế,
cai trị thật không còn thiếu sót điều gì. Chỉ đáng tiếc là viên đại tướng Tạo
quận công đứng đầu xứ đó lại là một người nhu nhược, chỉ quen lấy miệng lưỡi
chống chế người, còn đến khi gặp việc quan trọng xảy ra thì lại không có tài
năng đối phó kịp thời. Trước kia, viên đốc thị Nguyễn Lệnh Tân cứ mỗi lần
nhắc đến việc phải gấp rút đánh lấy Tây Sơn, thì lại bị quận Tạo gạt đi. Lệnh
Tân bèn tâu về triều rằng: "Quận Tạo là kẻ nhút nhát, ít mưu cơ, Thuận
Hoá chắc chắn sẽ mất ở tay ông ta; xin hãy bãi chức ông ta và nhắc phó tướng
lên làm đại tướng, hoạ may xứ này mới có thể giữ vững được". Chúa (Trịnh
Sâm) nghĩ rằng Thuận Hoá là xứ vừa mới dẹp yên, lại thích tính ôn hoà, thận
trọng của quận Tạo, bèn bãi chức đốc thị của Lệnh Tân và cho người khác làm
thay.
Bấy giờ bảng nhãn Lê Quí Đôn khảo
cứu những sấm ký về đất khởi nghĩa Tây Sơn, nói với chúa rằng: " Tây Sơn
có đất thiên tử, đến mười hai năm nữa thì sức mạnh của họ sẽ không ai chống
nổi. Đại tướng Thuận Hoá e không phải là tay đối địch được với họ. Xin chúa
hãy lưu ý". Nhưng chúa cũng chỉ cho là lời nói quá đáng, không để ý gì
mấy.
Rồi đó, bờ cõi không có chuyện gì,
Nam-Bắc đều yên ổn, Thuận Hoá đang là một miền thái bình, vui vẻ.
Đến tháng tư năm Bính-ngọ (1786),
bỗng có chiếc thuyền buôn của người khách phương Bắc đi tới. Người khách vào
ra mắt quận Tạo, rồi giở thuật tướng số ra nói rằng: "Hậu vận của ngài
rất tốt, phúc lộc không thể kể xiết. Có điều hiện nay ngài đang gặp phải năm
xung tháng hạn, cần đề phòng bệnh tật xảy ra. Mùa hè này ngài nên lập đàn mà
cầu cúng thì tốt!". Quận Tạo tin lời, tức thì sai lập đàn chay rất lớn,
cúng luôn bảy ngày bảy đêm. Quân lính phải phục dịch liên tục hết đêm này
sang ngày khác rất là vất vả.
Thình lình thấy có tin báo bộ binh
của địch đã lấy mất đồn ải Vân, tướng giữ ải Vân là Quyền Trung hầu (tức là
Hoàng Nghĩa Hồ) bị chết trong khi đánh nhau; hiện nay các đạo thuỷ binh của
địch đang theo đường biển kéo ra, chỉ sớm tối sẽ đến đây. Quận Tạo hốt hoảng
về thành, không biết nên làm thế nào. Các quân lính vì suốt mấy hôm hầu hạ
đàn chay đang mỏi mệt, thốt nghe tin có địch, ai nấy đều không còn hồn vía.
Quận Tạo vội cho người đi tìm người khách, thì đã mất tăm không thấy đâu nữa.
Bấy giờ, quận Tạo mới biết hắn là thám tử của địch, đến bày mưu để đánh lừa
mình.
Nguyễn Hữu Chỉnh khi ở Tây Sơn vốn
đã biết quận Tạo là người nhút nhát mà đa nghi, dụ hàng chưa chắc Tạo đã tin.
Chỉnh bèn viết một bức thư cho phó tướng Thể quận công (tức Hoàng Đình Thể)
đại ý nói rằng: quân Tây Sơn tinh nhuệ lắm, không thể địch nổi. Quận Thể với
Chỉnh xưa đều là thuộc hạ của quận Huy, nếu nay Thể chịu đem thành Phú Xuân
ra hàng thì Chỉnh sẽ bảo đảm cho được giàu sang toàn vẹn. Rồi Chỉnh lấy sáp
bọc kín (xưa các thư từ bí mật đều bọc sáp ong), và mật sai người cố ý đưa
lầm phong thư ấy vào dinh đại tướng Tạo quận công. Quận Tạo nhận được thư đâm
ra nghi ngờ, sợ hãi, ngầm có ý muốn hàng Tây Sơn, bèn dìm luôn bức thư đi.
Chẳng bao lâu, đại binh Tây Sơn
kéo đến. Đại tướng và phó tướng bèn cùng nhau bàn cách chống cự.
Nguyên thành Phú Xuân ở ngay bờ
sông, từ mặt nước dưới dòng sông lên chân thành, chiều cao khoảng độ hơn hai
trượng. Lúc ấy thuyền Tây Sơn ở dưới sông bắn ngược lên, vì vậy không tới mặt
thành. Trong thành, người ta đóng chặt các cửa, rồi dốc tất cả quân sĩ ở trên
bắn xuống. Bộ binh của Tây Sơn phải lui cả vào trong thuyền. Trên thành bắn
theo, thuyền của Tây Sơn bị chìm một chiếc. Nhờ vậy, tinh thần quân lính
trong thành đã hăng hái lên được một chút. Chẳng dè, đêm ấy thuỷ triều lên
to, nước sông tràn ngập khắp chân thành. Quân Tây Sơn thừa dịp thả thuyền
tiến sát vào, bắn thẳng lên thành, rồi cho bộ binh vây chặt cửa thành.
Quận Tạo tự mình chỉ huy các toán
quân giữ cổng thành; rồi sai phó tướng quận Thể cùng các thuộc tướng là bọn
Kiên kim hầu (tức Vũ Tá Kiên) ra ngoài thành đón đánh. Hai người con trai
quận Thể đều làm quan võ, cũng theo cha ra đánh, cả toán dựa lưng vào bờ
thành mà bày trận. Đánh nhau được hơn một canh, tên đạn đều hết, quận Thể cử
người vào thành xin thêm. Quận Tạo ngồi trên lầu thành, sai người đóng cửa
chặn lại mà cự rằng: "Cơ nào đội ấy, ngoài việc cấp lương khẩu phần, đạn
dược cũng đều có cả rồi, giờ lại còn vào đòi hỏi ai?" Quận Thể giận lắm,
liền bảo với các tướng:
- Quận Tạo phản rồi! Để ta phá cửa
thành vào chặt lấy đầu thằng giặc già trước đã, rồi sau sẽ ra đánh.
Đoạn ngoảnh lại nói với các con:
- Chúng bay hãy đứng phía trước
cản địch, ta vào một lát sẽ quay ra.
Rồi quận Thể co đầu voi quay vào.
Voi vừa lùi lại, thế trận tức thì rối loạn, quân Tây Sơn thừa cơ sấn đến. Hai
con quận Thể phóng ngựa ra trận, múa đao chém chết chừng vài trăm người. Quân
địch kéo đến càng đông hơn, họ xông vào chém chân ngựa của hai người. Ngựa
quỵ, hai người lại hoa đao đánh bộ, giết thêm vài chục người nữa, rồi bị
thương nặng và cùng đuối sức, bèn gọi cha ra cứu.
Quận Thể vội quay voi đến cứu, thì
hai người đã bị chém chết ở trước trận. Liền đó, Kiên kim hầu cũng bị giết
chết.
Quận Thể thu quân, toan bày trận
khác, nhưng ngoảnh đầu nom lên thành thì đã thấy kéo cờ trắng rồi.
Tên quản tượng của quận Thể hốt
hoảng, bỏ voi nhảy xuống đất chạy trốn. Quân địch đuổi theo voi mà bắn. Quận
Thể chết ngay trên bành voi.
Đại tướng Tạo quận công truyền mở
cổng thành, xe quan tài ra hàng (tỏ ý xin ra chịu chết). Bình thả quân vào
thành, chém giết bừa phứa. Đốc thị Nguyễn Trọng Đương chết trong trận đó. Còn
bao nhiêu lính tráng trong thành chạy trốn ra ngoài, đều bị thổ dân giết
sạch.
Trong trận đánh này, mấy vạn mạng
tướng sĩ đóng ở thành Phú Xuân đều không còn sống sót lấy một mống.
Chiếm xong Phú Xuân, Bình nhân đà
thắng kéo quân ra lấy luôn đồn Động Hải. Tướng giữ đồn là Vị phái hầu cùng
hiệp trấn là Ninh Tốn mới trông thấy bóng quân Tây Sơn đã chạy trốn. Thế là
mất hết cả đất Thuận Hoá. Bấy giờ là ngày 14 tháng 5 năm Bính Ngọ niên hiệu
Cảnh hưng (1786).
Sau khi hoàn toàn lấy được Thuận
Hoá rồi, Bình bèn họp các tướng bàn việc sửa lại địa giới La Hà; đồng thời
sai làm tờ "lộ bố" (thư báo tin thắng trận) báo tin thắng trận về
cho chúa Tây Sơn.
Lúc ấy, Chỉnh nói với Bình rằng:
- Ngài vâng mệnh ra lấy Thuận Hoá,
đánh một trận mà xong, oai danh lừng lẫy khắp thiên hạ. Phép dùng binh có ba
điều cốt yếu, một là "thời", hai là "thế", ba là
"cơ"; ba điều ấy đều có cả thì đánh đâu cũng thắng. Nay ở Bắc Hà,
tướng lười binh kiêu, triều đình không còn kỷ cương gì cả, ta thừa thế mà
đánh lấy, như trong sách đã nói: "Chiếm nước yếu, đánh nước ngu, lấy
nước loạn, lấn nước suy vong". Cơ và thời ấy không nên bỏ lỡ!
Bình đáp:
- Bắc Hà là một nước lớn, có nhiều
người tài. Lời xưa có nói: "Con ong có nọc", há có thể khinh thường
được ư?
Chỉnh nói:
- Người tài ở Bắc Hà chỉ có một
Chỉnh này mà thôi. Nay tôi đã đi rồi, ấy là cái nước rỗng không, xin ngài chớ
nghi ngại!
Bình vốn khéo dùng ngôn ngữ để bẻ
người, liền đùa rằng:
- Không nghi ngại người nào khác,
chả hoá ra chỉ có ông là đáng nghi ngại thôi ư?
Chỉnh tái mặt mà tạ rằng:
- Sở dĩ tôi tự nêu lên cái ngu hèn
của mình như thế, chẳng qua cũng chỉ để nói quá rằng nước tôi tuyệt nhiên
không có người tài đó mà thôi! (ý Chỉnh muốn nói chữa, ngoài Bắc chỉ có Chỉnh
là tài mà Chỉnh cũng chỉ xoàng như vậy thì quả là ngoài Bắc không còn có
người tài nữa)
Bình lại an ủi mấy câu, rồi tiếp:
Một nước đã trải bốn trăm năm, nay
bỗng chốc mình đến cướp lấy, người ta sẽ gọi đạo quân ấy là đạo quân gì?
Chỉnh đáp:
- Nước tôi có vua lại có chúa, đó
là một việc hết sức trái ngược xưa nay. Chúa Trịnh tiếng rằng phò Lê, thực ra
chỉ là ăn hiếp thiên tử. Người trong nước vốn không phục. Trước đây các bậc
anh hùng mỗi khi nổi dậy, chưa từng có ai không lấy danh nghĩa phò Lê. Nhưng
số họ Trịnh chưa hết, nên công việc của những người ấy đều không thành. Nay
xét ở trong "địa ký" của họ Trịnh có câu: "Chẳng đế chẳng bá,
quyền nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ". Mà tính
từ Thái vương đến Tĩnh vương [địa ký: sách ghi lời dự đoán trước về thế đất
để mả. Thái vương là Trịnh Kiểm; Tĩnh vương là Trịnh Sâm. Tương truyền Trịnh
Kiểm lúc nhỏ nhà nghèo, thường ăn trộm gà hàng xóm để nuôi mẹ, ai cũng ghét.
Họ bèn ném mẹ Kiểm xuống vực sâu ở làng. Qua một đêm, chỗ vực sâu ấy bỗng
biến thành một gò đất. Sau có một thầy địa lý đi qua gò đất, đọc bốn câu
rằng: Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ, tộ truyền bát đại, tiêu tường
khởi hoạ (nghĩa như trên). Câu "tộ truyền bát đại" có bản chép
"truyền nhị bách niên" (truyền hai trăm năm)] thì đã đủ số tám đời
rồi. Nếu ngài lấy cớ "diệt Trịnh phò Lê" mà kéo quân ra, thiên hạ
không ai là không hưởng ứng. Đó chính là cái công không mấy đời có vậy!
Bình nói:
- Đó là việc rất hay! Nhưng nay ta
vâng mệnh đi đánh Thuận Hoá, không phải vâng mệnh đi đánh nước người. Tự ý
thay đổi mệnh lệnh của nhà vua như thế thì ra làm sao?
Chỉnh đáp:
- Trong kinh Xuân Thu có nói:
"Thay đổi nhỏ mà công lao lớn, ấy là có công!" Như thế thì thay đổi
cũng có ngại gì đâu? Huống hồ, ngài há chẳng nghe nói câu "tướng ở
ngoài, mệnh vua có khi không cần phải theo" đấy ư?
Bình là một người thông minh,
quyết đoán, được lời Chỉnh nói trúng với ý mình, tức thì nghe theo ngay. Bình
sai Chỉnh đem đội quân tuyển phong, vượt vào cửa biển Đại An, đánh lấy kho
lương Vị Hoàng (xã Vị Hoàng, sau là tỉnh lỵ Nam Định) trước; còn tự mình thì
dẫn thuỷ binh theo sau, lại hẹn với Chỉnh hễ đến được Vị Hoàng thì phải đốt
lửa lên làm hiệu.
Bố trí xong rồi, Chỉnh liền cầm
quân đi trước. Lúc ngang qua mấy trấn Nghệ Anh, Thanh Hoa, Chỉnh sai nhiều
toán du binh, mỗi toán chừng vài trăm người, chia ngả đi đánh các đồn để phô
trương thanh thế.
Trấn thủ Nghệ An là Đương trung
hầu, trấn thủ Thanh Hoa là Thuỳ trung hầu (tức Bùi Thế Toại và Tạ Danh Thuỳ)
đều bỏ thành mà chạy.
Ngày mồng sáu tháng sáu năm ấy
(1786) Chỉnh tới Vị Hoàng. Quân ở trong đồn mới trông thấy bóng quân Chỉnh đã
bỏ trốn. Hơn một trăm vạn hộc lương ở đây đều bị Chỉnh chiếm gọn. Sau đó,
Chỉnh bèn đốt lửa báo tin.
Bình thấy hiệu lửa, lập tức dẫn
hơn một ngàn chiếc thuyền theo đường biển đi ra. Dân chúng Nghệ An lên núi,
trông bóng lâu thuyền (loại chiến thuyền hạng lớn, khoang thuyền có lầu cao)
cùng cờ quạt ngoài biển đều ngậm ngùi than: "Cõng rắn cắn gà nhà, hắn ta
thật có tội. Song cũng là một việc không mấy đời có!"
Chỉnh ở Vị Hoàng hợp với quân của
Bình, thanh thế rất lớn. Bấy giờ trong nước, những kẻ hai lòng thường hay lui
tới dinh quân của Chỉnh, đem hết tình hình nước nhà mà kể với địch. Còn như
tình hình quân địch ra sao, thì triều đình lại không hề hay biết gì hết.
Khi Phú Xuân bị vỡ, tin từ biên
giới báo về kinh, những người dự bàn đều nói: Thuận Hoá vốn không phải là bờ
cõi của triều đình, tiên triều hao phí bao nhiêu của cải trong nước mới lấy
được xứ ấy, rồi lại phải đem quân đóng giữ, rốt cuộc chẳng có ích gì. Ngày nay
mất đi cũng là một cái may. Bây giờ chỉ nên bàn tính việc đóng đồn ở trấn
Nghệ An và định rõ cương giới cũ mà thôi. Ta lấy sự mất Thuận Hoá làm may, ắt
họ phải lấy sự lấn đất của ta làm điều đáng ngại. Như vậy hẳn là ta không
phải lo gì nữa.
Thế là kẻ trên người dưới, ai nấy
đều yên lòng. Chợt nghe tin Nghệ An bị vỡ, quân địch sắp sửa đến nơi; triều
đình bấy giờ mới hốt hoảng, bèn sai Thái đình hầu (tức Trịnh Tự Quyền) làm
thống lĩnh, đem 27 cơ lính vào Nghệ An chống nhau với quân địch, Thái đình
hầu lĩnh mệnh đã hơn mười ngày, mà sửa soạn vẫn chưa xong. Kịp đến khi rời
thành được nửa ngày, thì quân địch đã tới Vị Hoàng. Bấy giờ triều đình lại
sai luôn Thái đình hầu xuống giữ ở vùng Sơn Nam; và phái thêm Liễn trung hầu
Đinh Tích Nhưỡng đốc lĩnh đường thuỷ, dẫn các đội thuyền Tả-vệ, Hữu-vệ,
Ngũ-hầu, Ngũ-thiện, Ngũ-trung cùng với Thái đình hầu thuỷ bộ đều tiến.
Hồi ấy Nhưỡng đang đánh nhau với
bọn thuỷ khấu (bọn cướp trên sông, biển) ở vùng Hải Dương; đến lúc này, bọn
thuỷ khấu đã hợp cả với quân Nam, vì vậy triều đình liền sai luôn Nhưỡng về
đánh giữ mặt Nam.
Nhưỡng là danh tướng ở vùng Hàm
Giang, vốn là con nhà dòng dõi, triều đình đem hết công việc thuỷ chiến giao
phó cả cho Nhưỡng.
Các thuyền quân của Nhưỡng kéo đến
đóng ở cửa Luộc [cửa Luộc, chỗ sông Luộc chảy vào sông Hồng Hà giáp liền với
huyện Tiên Lữ (Hưng Yên) và huyện Hưng Nhân (Thái Bình)], cầm cự với quân Tây
Sơn. Bấy giờ gió đông nam thổi rất dữ, quân Tây Sơn ở hạ lưu cho năm chiếc
thuyền làm tiền bộ tuyển phong, giương buồm ngược dòng tiến lên, còn đại quân
thì từ từ tiến theo sau. Nhưỡng thấy những thuyền tuyển phong của địch xông
đến, tức thì đem chiến thuyền chặn ngang sông, dàn thành thế trận hình chữ
"nhất"; rồi truyền quân lính nạp súng Bảo-lân, bắn sang thuyền
địch. Bắn phát đầu, thuyền địch đứng yên không động. Nhưỡng truyền bắn phát
thứ hai, các buồm của thuyền địch đều cuốn lại. Quân bên Nhưỡng mừng rỡ, cho
là bên địch có ý sợ. Nhưỡng lại sai bắn luôn ba phát nữa. Lúc ấy bên địch mới
bắn trả một phát súng lớn, tiếng nổ như sấm, đạn bay lên cây cổ thụ bên bờ,
làm cho thân cây bị gãy làm hai đoạn.
Bấy giờ Trướng trung hầu (tức Đỗ
Thế Dận) và viên đốc đồng Nguyễn Huy Bình đều một mình bỏ trốn. Quân của Thái
đình hầu đóng ở cửa Kim Động [thuộc Hưng Yên (Hải Hưng)] cũng tự vỡ mà chạy.
Khi ấy, thư báo tin thua trận tới
tấp đưa về kinh, các quan văn võ trong triều ai nấy chỉ cuống lên lo thu xếp
chỗ nương náu cho vợ con, lo cất giấu của cải, không một ai dám ra nhận lấy
việc đánh nhau với quân Tây Sơn.
Chúa thấy tham tụng Bùi Huy Bích ở
ngôi tể tướng lâu ngày mà chẳng làm được việc gì, đến lúc này lại không có
mưu kế gì để chống địch, trong lòng đã chán ghét. Rồi nhân những người xung
quanh lại công kích Bích rất gay gắt, chúa bèn bãi chức tể tướng của Bích và
cử ra trận đốc chiến.
Tể tướng đi rồi, lòng người càng
nôn nao. Chúa bèn đòi Công Thước (Trần Công Thước, sau đổi là Công Xán) vào
phủ, mật bàn xem nên đánh lui địch hay nên tránh địch. Công Thước thưa:
- Giặc kéo quân vào sâu xứ lạ, đó
là điều mà trong binh pháp rất kỵ. Nên dử cho chúng tới gần nữa, rồi đánh một
trận mà tiêu diệt hết, đó cũng là cái thuật kỳ diệu trong phép dùng binh. Vả
lại, kinh sư là cái gốc của thiên hạ, rời bỏ thì sẽ đi đâu? Chẳng những thế,
nếu kiệu chúa lật đật ra ngoài thành, tất lòng người sẽ phải lìa tan, ấy là
đem nước mà trao cho giặc vậy. Bây giờ chỉ nên xin thái phi và cả sáu cung
hãy tạm lánh ra ngoài thành mà thôi.
Chúa nghe theo lời Thước. Lại tự
nghĩ rằng, trong hàng võ tướng chỉ có Thạc quận công là tay lão tướng có thể
trông cậy được, bèn sai người ra trấn Sơn Tây tức tốc triệu ông ta về triều.
Được lệnh, quận Thạc liền đem ngay
năm trăm quân nghĩa dũng về cứu kinh thành. Thấy quận Thạc về, lòng người
cũng hơi vững. Khi quận Thạc vào ra mắt, chúa nói:
- Ông bỏ quả nhân hay sao? Bây giờ
thế nước như vậy thì làm thế nào?
Quận Thạc khóc mà rằng:
- Thần chịu ơn dày của nhà nước,
thề không cùng sống với giặc. Cha con thần tất cả còn có chín người, nếu phải
dựa lưng vào thành mà quyết một trận tử chiến, thần xin cầm roi mà theo dưới
chân chúa, chúa không lo gì hết!
Chúa bèn bỏ ra năm ngàn lạng bạc,
giao cho quận Thạc để chi về việc binh. Thạc lập tức ra lo liệu việc quân,
một ngày gọi được hơn một ngàn thủ hạ, toàn là những tên quân hết sức tinh
nhuệ. Rồi theo lệnh chúa, quận Thạc tiến quân ra đóng ở hồ Vạn Xuân (tức đầm
Vạn Phúc ở làng Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Hà Đông, nay là ngoại thành Hà
Nội).
Bấy giờ gió đông nam đang mạnh,
đường thuỷ trở nên rất xung yếu. Sau khi các đội thuyền của Liễn trung hầu đã
bị đánh bại, quân địch chiếm được cả một dải đất yên ổn chạy dài theo ven
sông, rồi thuận đường kéo thẳng lên kinh kỳ. Tông sai cả bốn hiệu lính thuỷ
dốc hết quân xuống ngăn địch ở cửa Thuý ái (Cửa Thuý ái nằm ở địa phận bãi
Thuý ái, Thanh Trì, Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà Nội).
Thuyền địch đến bến Nam Dư (cũng
thuộc Thanh Trì, Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà Nội), tức thì bỏ thuyền
nhảy lên bộ, đánh úp vào đám lính thuỷ ở cửa Thuý ái. Trước đó, thuỷ binh ở
đây nghe tin quân địch còn xa, nên không phòng bị gì hết, cứ cột thuyền lại
rồi lên bờ đi tản mát, linh tinh ở các bãi sông. Khi quân địch thình lình kéo
đến, thuỷ binh không kịp lên thuyền, bao nhiêu thuyền bè đều bị địch chiếm
hết cả. Cả đội duy có viên tiểu tướng họ Ngô (tức Ngô Cảnh Hoàn, theo Cương
mục, Hoàn có người thiếp yêu là Phan Thị Thuấn rất trẻ, đẹp. Sau khi Hoàn
chết, nàng cứ nhởn nhơ may sắm quần áo và trang điểm như không có chuyện gì,
mọi người chê cười cũng mặc. Đến hết giỗ 100 ngày, bấy giờ nàng mới trang
điểm đẹp đẽ, bơi thuyền đến chỗ chồng chết mà tự tử. Nhân dân địa phương bèn
lập đền thờ, khen là người con gái tiết liệt) là dám vác đao đứng ở đầu
thuyền, đánh nhau với địch. Được chừng hơn một khắc, quân Tây Sơn dùng súng
lớn bắn vào đầu thuyền, viên tiểu tướng ấy trúng đạn chết tại chỗ. Quân địch
bèn kéo ùa lên bộ, xông vào trận của quận Thạc. Quân lính của quận Thạc khi
ấy đang ăn cơm, chợt thấy địch ập tới, ai nấy bỏ cả khí giới mà chạy (theo
Cương mục, lúc ấy có Mai Thế Pháp dám một mình vác dao ra chặn đường quân Tây
Sơn, nhưng giết được mươi người thì bị vây chặt, phải nhảy xuống sông tự tử).
Quân Tây Sơn từ hai phía tả hữu cùng đánh dồn lại, chém giết quân của quận
Thạc tơi bời, thây chết nằm ngổn ngang khắp bãi. Những kẻ nhảy xuống hồ Vạn
Xuân mà chết, cũng không biết bao nhiêu mà kể.
Quận Thạc chỉ còn hơn mười thủ hạ
và tám người con. Bọn họ đều xúm quanh chân voi của quận Thạc, tựa vào voi mà
chống cự lại quân Tây Sơn. Sáu người con của quận Thạc ra sức chiến đấu, chết
ở trước voi. Quận Thạc liền sai quản tượng cho voi quỳ xuống, rồi ông ta nhảy
xuống đất cùng hai người con cướp đường mà chạy tháo thân.
Thuỷ binh của Tây Sơn tiến thẳng
đến bến Tây Long. Chúa thân hành ra ngự trên lầu Ngũ-long bày trận. Chia
thành năm đạo quân: hiệu Tả-bộ giữ mặt Đông Long, hiệu Hữu-bộ giữ mặt Tây Hổ,
hiệu Tiền-bộ giữ mặt cửa thành Tiền Lâu, hiệu Hậu-bộ giữ mặt Hậu Lâu, cạnh bờ
hồ Thuỷ-quân, còn hai hiệu Nhưng, Kiệu ở trung quân để hộ giá.
Quân Tây Sơn từ bãi sông tiến vào,
chúa ở trên lầu sai nổi hiệu trống trận, hiệu Tiền-bộ liền nổ súng bắn ra.
Bắn được một hồi lâu, quân địch khom mình vừa tránh đạn vừa xông vào. Chúa
bèn mặc đồ trận, xuống lầu, trèo lên mình voi, cầm cờ đỏ chỉ ba cái, vẫy ba
cái, rồi sai thúc trống làm hiệu cho quân lính tiến về phía trước. Quân lính
nghe trống giục, trông theo lá cờ liều mạng tiến lên. Bên địch dùng "hoả
hổ" (tên một thứ ống phun lửa của Tây Sơn) phun lửa bừa vào, quân lính
nhà chúa đều sợ mất mật, bỏ cả khí giới ở bờ sông mà chạy thục mạng.
Chúa thấy quân lính tan tác,
ngoảnh nhìn quanh mình, đã không còn một người nào; nhưng quân Tây Sơn không
biết đó là chúa, hối hả tranh nhau xông vào phủ chúa, không ai lại gần chân
voi. Chúa vội cởi bỏ quần áo trận, đội khăn chữ đinh, tụt xuống ngồi núp
trong ngăn hòm da ở mé sau bành voi, rồi co đầu voi quay về phủ. Khi qua cửa
Tuyên Vũ, thì thấy tiền binh của địch chừng vài chục người đã vào lọt trong
phủ và đang kéo cờ ở phía ngoài phủ; chúa liền quay voi men theo bờ hồ Minh
Đường, nhằm phía cửa ô Yên Hoa (tức là ô Yên Phụ, Hà Nội bây giờ) mà chạy.
Bấy giờ Bình đã vào thành [Nguyễn
Huệ vào Thăng Long ngày 26 tháng 6 năm Bính-ngọ (1786)], hạ lệnh nghiêm cấm
quân sĩ không được cướp bóc của dân, rồi Bình vào phủ chúa nghỉ ngơi.
Mấy viên cận thần và các thân binh
biết chúa chạy về phía tây, bèn lục tục chạy theo. Tới ngoài cửa thành, hãy
còn có chín thớt voi hơn mười con ngựa và hơn ngàn người. Lúc qua địa phận Từ
Liêm, dân quê thấy bóng gươm giáo, ngờ là địch đến, vội dắt nhau chạy. Quan
quân trông đằng xa thấy dân chạy tưởng là địch, quá nửa số người vứt bỏ cả
khí giới mà trốn. Đến huyện Yên Lãng, thì có người con trai Nguyễn Thưởng là
Nguyễn Noãn, quê ở làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, vốn là gia thần của chúa,
đón chúa ở dọc đường quỳ xuống mép đường bên trái mà thưa rằng:
- Ngày trước tôi vâng mệnh chúa đi
mộ quân, hiện đã mộ được năm trăm tên, đang chờ ở phía bờ bắc sông này. Xin
chúa hãy ngự giá sang phía bắc, tới làng tôi đóng tạm để lo tính công việc về
sau.
Chúa bèn sai gọi đò để sang sông.
Bao nhiêu chân sào ở bến đò mỗi người lẩn đi mỗi ngả. Tìm mãi mới được ba
chiếc thuyền nhỏ, mỗi chiếc chỉ chở được khoảng 13, 14 người. Chúa vội lên
thuyền, chỉ có năm sáu viên quan hoạn trẻ tuổi và Noãn đi theo. Còn bao nhiêu
quan quân và voi ngựa đều phải ở lại: khi nhìn thấy chúa đã sang đến bờ bên
kia, thì họ cũng bảo nhau trốn chạy tan tác.
Chúa lên bờ, không thấy một tên
quân nào, vội hỏi Noãn thì Noãn đáp:
- Lính tráng hiện ở làng tôi, xin
chúa hãy quá bộ đi dấn lên phía trước, làng tôi cách đây cũng không xa.
Chúa có ý hối bị Noãn làm lỡ việc,
lại sợ đi nữa chưa chắc giữa đường có được yên lành hay không. Bấy giờ quanh
mình chẳng có ai đáng tin; chúa nghĩ rằng chỉ có những bậc văn thần tiến sĩ
là có thể trông cậy được, bèn hỏi Noãn:
- Những thôn ấp gần đây có viên
tiến sĩ nào không?
Noãn thưa:
- ở đây thì chẳng có ai là tiến
sĩ. Chỉ có viên thiêm sai tri lại phiên Lý Trần Quán, trước kia phụng mệnh đi
chiêu dụ nhân dân, vẫn đóng tạm tại làng Hạ Lôi, nhưng không biết hiện giờ có
còn ở đó nữa không?
Chúa nói:
- Người hãy thử đi hỏi xem. Nếu
còn thì nên bảo kín tình trạng này để cho viên ấy biết mà lo liệu giúp ta.
Noãn vâng mệnh, đi tới ra mắt Lý
Trần Quán kể rõ đầu đuôi, rồi nói:
- Tôi trước vâng mệnh về quê mộ
quân, hiện nay đã mộ được một số, đang đợi ở địa giới huyện tôi. Quan lớn hãy
liệu cách nào mượn tạm lấy ít binh lính, khí giới hộ vệ cho chúa tới đó, thế
là yên ổn.
Quán có người quen là viên tuần
huyện Trang (tức Nguyễn Trang) ở làng Hạ Lôi. Trang vốn là một tên tướng
cướp, thuở trước đã có học với Quán. Bấy giờ Quán trú ở Hạ Lôi cũng là nhờ có
Trang che chở. Nghe Noãn nói thế, Quán bèn cho gọi Trang vào bảo:
- Hiện có quan tham tụng là Kế
liệt hầu tránh loạn đến đây, muốn phiền anh hộ tống ra khỏi địa phận.
Trang xin vâng.
Quán liền cùng Trang theo Noãn đến
yết kiến chúa.
Nguyên lúc Quán ở chính phủ chỉ là
một viên quan nhỏ, chưa từng được thấy mặt chúa, mà chúa cũng chưa hề biết
Quán bao giờ. Khi ấy, chợt thấy Quán đến, chúa bèn ngoảnh lại hỏi mấy viên
thị thần:
- Đó là người nào?
Bọn thị thần đáp:
- Đó là Lý Trần Quán!
Chúa đang nhún nhường chưa biết
nên nói câu gì. Quán khi được tiếp kiến cũng tỏ ra hết sức cung kính, điệu bộ
rụt rè, khúm núm. Vô tình chúa và tôi đều lộ rõ chân tướng. Hồi lâu, chúa mới
nói tâm sự với Quán.
Quán chỉ vào Trang thưa:
- Tôi có tên này, vốn là học trò
cũ của tôi, việc đó hắn rất có thể đảm đương được.
Rồi Quán quay sang bảo Trang:
- Anh phải cẩn thận hộ vệ quan lớn
ra khỏi địa giới đấy nhé!
Trang thưa: "Dạ!".
Quán bèn từ biệt chúa, trở về nhà
riêng. Còn Trang thì đem theo năm mươi thủ hạ đi hộ vệ chúa. Lúc đi qua một
ngôi nhà mà Quán đã từng ở, Trang giữ chúa lại trong một căn buồng bỏ không
và hỏi:
- Ông có phải là Đoan nam vương
thì cứ nói thực với tôi. Nếu không, rồi xảy ra việc gì, ông đừng có trách!
Chúa mới đầu còn định giấu giếm,
bèn đáp:
- Sao anh lại đoán xằng như vậy?
Ta chỉ là quan tham tụng Bùi Huy Bích mà thôi!
Trang nói:
- Ông chớ nói dối người ta. Cái bộ
điệu che đậy của chúa tôi nhà ông lúc nãy tôi đã thấy cả rồi, còn che mắt ai
được nữa? Từ xưa đến nay, hưng phế là việc thường, ông cũng không thể tránh
khỏi, đừng có làm gì nữa cho thêm nhọc mình!
Rồi Trang đưa chúa về nhà. Chúa
giận lắm, đổi sắc mặt mà nói:
- Vua chúa phải có mệnh trời.
Chính thật đại nguyên soái Đoan nam vương là tao đây! Nếu có chết về tay
người trong nước thì cũng là mệnh trời. Tha hồ cho mày làm gì thì làm!
Trang bèn sai người đi báo tin cho
quân Tây Sơn. Hết thảy những kẻ đi theo chúa đều bị bắt giữ.
Quán nghe tin có việc biến, thân
hành đến tận chỗ chúa, rập đầu xuống đất mà nói:
- Làm lầm chúa đến nông nỗi này,
là do tội của tôi cả!
Tông đáp:
- Người ta ai có bụng nấy, khanh
có can dự gì?
Quán lui trở ra, bảo Trang:
- Chúa là chúa chung của thiên hạ.
Mà ta lại là thầy anh. Vua tôi là nghĩa lớn, sao anh nỡ làm như thế?
Trang đáp:
- Quan lớn không bảo tôi trước,
khiến tôi trót lầm đến gặp chúa. Nếu chúa trốn thoát ở tay tôi, rồi nữa quân
Nam đến hỏi tội tôi, liệu quan lớn có thể biện bạch hộ được không? Sợ thầy
chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi không để quan lớn
làm cho lầm lỡ đâu!
Tiếp đó, Trang bức Quán phải trở
về nhà, rồi quát thủ hạ dìu chúa về kinh đô.
Quán tới lạy chúa, vừa khóc vừa
kêu gào rằng:
- ối trời ơi! Tôi giết chúa tôi
rồi, trời có hay chăng?
Chúa an ủi:
- Tấm lòng trung thành của khanh,
"cô" (lối khiêm xưng của vua chúa đời xưa) đã biết rồi đừng nên tự
oán mình như thế!
Quán muốn nèo chúa ở lại chút nữa,
nhưng chưa kịp nói thì chúa đã bị Trang đẩy đi rồi.
Đi đến giữa đường, Trang dẫn chúa
vào tạm nghỉ trong một cái quán. Chúa vớ được con dao con của nhà hàng, đưa
lên đâm ngay vào cổ mình. Trang trông thấy vội giằng lấy dao. Mũi dao đâm vào
hãy còn nông, nên vết thương ở cổ cũng nhỏ. Chúa bèn dùng ngón tay chọc vào
vết thương xé cho rách thêm ra, nhưng cũng bị Trang ngăn chặn. Một chốc, chúa
thấy trong bụng nôn nao, buồn bực, đòi uống nước lạnh. Trang sai người lấy
nước cho chúa. Chúa bưng nước uống xong thì chết liền. Trang đưa thi hài chúa
đến kinh. Quân Tây Sơn mừng lắm, đem phơi xác chúa ra ngoài cửa Tuyên Vũ để
cho thiên hạ cùng biết. Sau đó, sai khâm liệm chúa đúng theo lễ vua chúa, rồi
dùng kiệu rồng đưa ra chôn ở lăng Cung quốc công (nơi chôn Trịnh Cán).
Còn Trang, được phong làm Tráng
nghĩa hầu thêm chức trấn thủ Sơn Tây. Hôm ấy nhằm ngày 27 tháng 6 quận công
năm Bính-ngọ (1786) (theo Trịnh thị thế gia, thì ngoài Trang còn có Nguyễn
Noãn tức Ba Đóm cũng tham dự vào việc bắt Tông. Nhưng lúc Noãn đòi thưởng
công thì Nguyễn Huệ cho là kẻ bất nghĩa và sai đem chém ngay).
ở Hạ Lôi, Lý Trần Quán sau lúc từ
biệt chúa, liền quay về nhà trọ, nói với chủ nhà rằng:
- Bề tôi mà làm lầm vua, tội thật
đáng chết! Nếu ta không chết, không lấy gì tỏ được lòng này với trời đất. Vậy
hãy sắm cho ta một cỗ quan tài, mười vuông vải trắng, để ta làm theo cái chí
của ta.
Chủ nhà hết sức khuyên giải, Quán
vẫn không nghe, nói rằng:
- Ta đã muốn chết, tự khắc còn có
những cách khác, nhà ngươi không thể ngăn nổi đâu. Nếu quả là yêu mến ta, thì
cứ để mặc ta làm gì thì làm.
Qua hai ngày sau, Quán càng phẫn
uất, bồn chồn. Chủ nhà ngăn Quán chẳng được, biết lòng trung của Quán không
thể lay chuyển, đành phải sắm sửa đầy đủ các thứ theo như lời Quán đã bảo.
Quán sai đào huyệt ở ngay vườn sau
nơi nhà mình ở đặt sẵn chiếc quan tài xuống đó. Lại lấy vải trắng xé ra làm
một chiếc khăn đội đầu và một chiếc dây lưng. Sau đó, đội mũ mặc áo chỉnh tề,
hướng về phía nam lạy hai lạy. Lạy xong, lại bỏ mũ, lấy khăn trắng chít lên
đầu, lấy dải lưng trắng thắt ngang lưng; rồi nằm vào trong quan tài, bảo chủ
nhà đậy nắp lại.
Tấm ván vừa đặt lên, bỗng Quán ở
trong áo quan nói vọng ra:
- Hãy còn thiếu một câu nữa, phải
nói hết cái đã. Chủ nhà lại mở nắp ra, Quán liền đọc hai câu rằng:
Tam niên chi hiếu dĩ hoàn,
Thập phần chi trung vị tận (nghĩa
là: Đạo hiếu ba năm đã trọn, Chữ trung mười phần chưa xong).
Rồi Quán bảo với chủ nhà:
- Phiền ông đem câu ấy dặn lại con
ta, bảo nó sau này dán ở nhà thờ mà thờ ta.
Nói xong câu ấy, lại tiếp luôn:
- Đa tạ ông chủ, ta vĩnh biệt ông
từ đây nhé!
Chủ nhà và năm sáu tên đày tớ cùng
sụp xuống lạy chào ở trước quan tài, rồi đậy nắp và lấp đất lên. Hôm ấy là
ngày 29 tháng 6, năm Bính ngọ (1786) sau khi chúa chết hai ngày.
Quán người làng Vân Canh, huyện Từ
Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Bính Tuất (1766); tính nết giản dị, chất phác và rất
hiếu thảo. Trong khi chịu tang mẹ, Quán ở nhà mồ luôn ba năm liền; miệng
không ăn thịt cá, thân thể gầy rạc, chỉ còn da bọc xương. Quán thường tự nói:
"Ta nay đã bốn chục tuổi đầu, nhưng những việc đã làm trong quãng đời
vừa qua của ta, chỉ có ba năm chịu tang này là gần với đạo làm người".
Bởi Quán cư xử không có điều gì đáng phàn nàn như vậy, nên khi sắp chết, Quán
mới có lời tự hứa (nghĩa là tự cho rằng mình có điều đáng khen. ở đây chỉ vào
câu "Tam niên chi hiếu dĩ hoàn", ý nói mình đã tận hiếu với cha mẹ)
như thế
Sau khi Quán mất, thiên hạ ai cũng
thương chúa và kính trọng Quán là bậc nghĩa khí. Rồi nhân đó truy nguyên đến
kẻ gây ra tai hoạ, không ai là không oán Chỉnh. Chỉnh cũng cảm thấy điều ấy.
Chỉnh có một người quen là Đỗ Thế
Long, quê ở làng Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì, vốn là một kẻ giảo hoạt. Hồi
Chỉnh nợ tiền công bị bỏ ngục, Long vì cớ khác phải tội, cũng cùng ở tù với
Chỉnh. Long làm các bài từ khúc bằng chữ nôm rất giỏi, so với Chỉnh cũng
không kém gì. Kịp đến khi Chỉnh ở Tây Sơn ra, Long vẫn còn bị giam. Chỉnh tới
kinh, tức thì sai người thả Long ra, và đãi Long làm bậc khách quý. Mỗi lần
có việc nước, Chỉnh đều hỏi han Long. Long biết điều gì, không bao giờ không
nói. Đã nói, không bao giờ Chỉnh không theo.
Đến lúc này thấy chúa chết, Chỉnh
bèn nói với Long rằng:
- Chúa không tin bụng ta, nên mới
đến nỗi tự huỷ hoại đời mình. Nếu chúa còn sống, hẳn ta cũng đặt vào một địa
vị thanh nhàn không để đến nỗi phải mất danh lộc.
Long nghe lời lẽ của Chỉnh, thấy
Chỉnh đối với chúa cũng có tình, bỗng nhiên Long nảy ra cái ý muốn lập lại họ
Trịnh. Rồi nhân ý của Chỉnh, Long bèn xoay chuyển thêm để cho đúng với cơ mưu
của mình.
Thật là:
A'c độc than người tàn phá trứng,
Ngây thơ cười kẻ giữ gìn con
Chưa biết việc này ra sao? Xin xem
hồi sau phân giải.
phá
trứng: dịch ở chữ huỷ noãn, nghĩa
bóng ý nói Nguyễn Hữu Chỉnh diệt họ Trịnh cũng giống như phá tổ chim đập vỡ
trứng chim.
giữ gìn
con: tạm dịch ở chữ "Tồn
sô" nghĩa đen là bảo tồn con chim con. Nghĩa bóng ý nói Đỗ Thế Long muốn
lập lại họ Trịnh cũng giống như tổ chim đã bị phá mà còn muốn bảo tồn con
chim con.
|
Hồi
thứ năm
Phò
chính thống, thượng công vào điện
Kết duyên lành, công chúa ra xe.
Lại nói, Đỗ Thế Long nghe lời lẽ
Chỉnh có ý hậu với chúa, bèn nhân đó nói với Chỉnh rằng:
- Việc ông đã làm, tiếng làm nhân
nghĩa, nhưng xét rõ ra thì lại là tàn hại! Ngày nay ông có cái thế nghiêng
non lật biển, quả thật là nhờ vào sự giúp đỡ của quý quốc (chỉ Tây Sơn).
Nhưng khi ông mới xuất thân, nào cầm quân, nào phong hầu, thử hỏi có cái gì
không phải là ơn của nhà chúa? Chuyến này ông lấy tiếng "phù Lê, diệt
Trịnh" để kéo quân ra, thật là quá lắm! Nếu bảo nhà chúa hiếp chế nhà
vua là việc có lỗi, thì sao lại không nghĩ đến cái công tôn phò hai trăm năm
trời? Theo người mới mà phản người cũ là bất nghĩa; bới lỗi lầm để lấp công
lao là bất nhân. Đã bất nghĩa, bất nhân tức là tàn hại. Kẻ đại trượng phu lập
thân, có thể tự mình đứng vào địa vị tàn hại được ư?
Chỉnh nghe nói, sắc mặt tái mét,
lặng đi hồi lâu mới đáp:
- Gây dựng là ơn riêng của một
người, cương thường là nghĩa lớn của thiên hạ. Tôi làm cái việc tôn phò ấy,
là cốt để chống đỡ cho nền cương thường. Đó là một việc nhân nghĩa vô cùng
lớn lao, vậy mà ông lại cho là tàn hại, chẳng phải là ông nói nhau quá tệ ư?
Nếu tôi không nghĩ sai, thì chắc là ông nói quá lời đấy!
Long nói:
- Nhà vua vốn đã tôn quý sẵn rồi,
cần gì đợi ông tôn phò nữa? Chẳng qua ông cũng chỉ mượn cớ ấy để làm cho trôi
cái mưu cướp bóc đó thôi. Nhưng mà, nhà nước đang như chiếc âu vàng lành lặn,
bỗng dưng vô cớ ông đưa người ngoài đến đây, làm hại chủ suý, làm hại nhân
dân; người trong thiên hạ nhất định sẽ còn cho ông là beo, sói, diều quạ. Bảo
là tàn hại cũng chưa phải là quá đáng. Nay ông dựa vào thế lực nước ngoài,
cũng giống như cáo mượn oai hùm. E rằng lòng người còn nhớ họ Trịnh, chắc sẽ
có ngày sinh biến. Vả lại, mai đây người ta bỏ ông mà về; bấy giờ ông lấy cái
thân cỏn con để cõng cái tội tầy trời, làm sao mà đứng vững được với thiên
hạ?
Chỉnh giận nghiến răng lại, nhưng
vẫn còn làm ra vẻ mặt tươi cười mà rằng:
- Vậy thì ông bạn của giống beo,
sói, diều, quạ nên làm thế nào bây giờ?
Long đáp:
- Ông ra chuyến này, chẳng qua
muốn vì ngài trấn thủ trước (chỉ quận Huy) mà trả thù bọn kiêu binh. Nay kiêu
binh đã diệt, ấy là chí ông đã thoả. Nếu ông có thể nhanh chóng xoay lại
đường lối đã định, khéo điều đình với quý quốc, khiến cho họ mãn nguyện mà
rút quân về rồi ông ở lại, chọn trong tôn thất họ Trịnh lấy một người khá,
lập nên làm chúa, còn ông thì sẽ làm phụ chính. Đó thực là cái công không mấy
đời có vậy!
Chỉnh nói:
- Đúng! Nhưng để tôi nghĩ xem đã.
Bây giờ ông hãy về nhà, đi tìm người nào đáng nói, rồi liệu mà sửa lời nói
cho khéo, đợi lúc người ta thích nghe, thì ông có thể dùng lời nói mà làm cho
mình được vẻ vang đấy!
Long ra khỏi, Chỉnh bảo với mọi
người chung quanh:
- Rồng [nghĩa của chữ
"long" (tên Đỗ Thế Long)] thì phải đưa xuống nước, không nên cho ở
trên cạn để nó làm mê hoặc thiên hạ.
Rồi Chỉnh sai người chặn bắt Long
ở ngoài cửa, trói lại, đem ra dìm xuống giữa dòng sông Nhĩ-hà.
Lại nói, nguyên soái Tây Sơn ngay
từ lúc mới đến Vị hoàng, đã làm tờ tâu nói rõ về ý tôn phò và đã sai người bí
mật dâng lên nhà vua. Người ngoài cũng nghe phong thanh chuyện đó. Nhưng phần
đông đều cho rằng lòng giặc khó lường, lời nói suông chưa thể tin được. Bởi
vậy, khi ấy quan, quân, lại, sĩ ở kinh thành ai cũng tranh nhau mà chạy trốn.
Người nào còn bận việc quan hoặc còn đang mắc cớ gì khác, chưa kịp ra ngoài
thành thì đến ngày 26, cũng hốt hoảng đeo bọc mang hòm chuồn ra nốt.
Nhân lúc rối ren, dân chúng ở xung
quanh kinh thành tha hồ rủ nhau đón đường cướp bóc. Ngựa xe, của nả của các
họ hàng nhà chúa và của các đại thần, đại phu đều bị họ lấy sạch, không biết
bao nhiêu người chỉ còn trơ chiếc mình không mà chạy.
Còn bọn kiêu binh, sau khi tan vỡ
đều phải chạy trốn đi các nơi. Nhưng chúng đến đâu cũng bị dân quê kể tội
kiêu ngạo lộng quyền ngày trước và làm cho nhục nhã đủ đường, không có ai
chứa chấp.
Bữa ấy, có một người cởi trần
trùng trục cũng ở trong thành chạy ra, khi qua cửa ô bị dân chúng trông thấy,
họ liền chỉ mặt mà nói:
- Thằng bụng phệ kia chẳng phải
lính Nhưng, Kiệu (Nhưng và Kiệu là tên của hai cơ lính trong hàng ngũ kiêu
binh hồi bấy giờ) là gì, lôi cổ nó lại mà đánh chết đi!
Người ấy vội đáp:
- Không phải, ta là huyện uý huyện
Thọ Xương đây!
Mọi người cùng cười mà rằng:
- Người ta thường nói "bụng
to như bụng ông huyện", thật không sai!
Người ấy cũng cười rồi đi.
Ngày hôm đó lính Thanh-Nghệ dắt
díu nhau về quê, bị đói khát ở dọc đường, lại chết thêm đến hàng trăm tên.
Riêng có chi phái nhà vua, các gia
thần nội điện, các lính tráng nội điện, cùng dân chúng ở phố phường quanh
điện, thì vẫn yên ổn như cũ.
Đến ngày kinh đô bị mất, Bình vào
thành, việc trước tiên là sai tỳ tướng đem một đội quân vây giữ cung điện.
Lúc ấy hoàng thượng đang ốm, các hoàng tử đều hầu hạ ở trong điện. Thấy sân
điện có quân lính đứng vây kín như bức tường, ngờ là địch đến bức bách nhà
vua, ai nấy vội vàng nâng hoàng thượng dậy, định dìu ra vườn Tam Sơn ở mé sau
điện mà trốn. Chợt thấy có viên tỳ tướng quì giữa sân, hai tay nâng tờ tâu
lên trán để tiến dâng; gia thần nội điện vội chạy ra đón lấy và đem dâng vua
xem. Trong tờ tâu, đại ý trước nói những lời thăm hỏi sức khoẻ nhà vua, sau
xin ngày khác sẽ vào ra mắt. Hoàng thượng xem xong tờ tâu, bấy giờ trong lòng
mới yên.
Tinh mơ sớm hôm sau, Bình và Chỉnh
cùng vào điện Vạn Thọ để ra mắt nhà vua. Quan hầu vào tâu, hoàng thượng đang
ở trong điện, sai người vén màn lên, đưa Bình vào hầu ở sập ngự. Bình sụp
xuống đất lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái. Hoàng thượng sai hoàng tử nâng
Bình dậy, và mời đến ngồi vào một chiếc sập khác ở bên trái sập ngự. Bình
nhún nhường không dám ngồi. Hoàng thượng phải hai ba lần dụ, Bình mới ngồi
ghé vào một góc chiếu cuối sập, một chân bỏ thõng xuống đất.
Hoàng thượng uý lạo hết sức ôn
tồn. Bình nói:
- Thần vốn là một kẻ hèn mọn ở đất
Tây Sơn, gặp thời nổi dậy, chưa từng được mặc áo của bệ hạ, ăn lộc của bệ hạ.
Nhưng vì thánh đức của bệ hạ tràn đi xa rộng, nên thần tuy ở chốn mọi rợ mà
cũng vẫn một lòng kính mến. Ngày nay được thấy mặt rồng, cũng là bởi tấm lòng
chí thành như hoa quì (Bình muốn nói: lòng luôn luôn hướng về nhà vua như hoa
quì luôn luôn hướng về mặt trời) của thần xui khiến ra vậy. Vả lại, cũng vì
họ Trịnh vô lễ, lấn ép nhà vua đã lâu, cho nên hoàng thiên mới mượn tay thần
diệt trừ họ Trịnh, để tỏ oai quyền của bệ hạ. May được thành công như thế
này, thực cũng là nhờ phúc lớn của bệ hạ đưa đến. Nay thần chỉ cầu mong thánh
thể khoẻ mạnh, coi trị thiên hạ, cho thần được hưởng nhờ chút phúc thừa.
Hoàng thượng đáp:
- Đa tạ ông có lòng quá hậu đối
với quả nhân, trèo đèo vượt suối từ xa đến đây, thật là vất vả cho tôi tớ
ngựa xe. Hiềm nỗi quả nhân ở ngôi thanh bạch giản dị, không có gì để biếu
tặng.
Bình nói:
- Thần vì nghĩa tôn phò mà đến
đây, đâu dám kể công lao. Vả chăng, chuyến này thần ra cũng là bởi ý trời,
không phải sức người làm được. Nếu bảo là thần có hậu tình riêng với bệ hạ mà
kéo quân ra, thì đành rằng quân lính, thuyền bè, thần có thể điều khiển được,
nhưng đến chuyện nước lụt rút xuống, gió nồm mạnh lên, há phải sức thần làm
nổi? Đó thực là mệnh trời muốn bệ hạ thống nhất bờ cõi, để lưu lại nền móng
cho ức vạn năm sau. Từ nay thần xin bệ hạ sắp đặt giường mối, yên kẻ trong,
nuôi kẻ ngoài, để đưa cõi đời này lên cảnh thái bình. ấy là thần được ban
tặng nhiều lắm vậy!
Rồi Bình ngoảnh về phía Chỉnh nói:
- Kia là bề tôi cũ của bệ hạ đấy!
Chỉnh liền ra trước sập ngự lạy
chào.
Hoàng thượng phán cho Chỉnh ngồi.
Bình lại nói:
- Ông này đội ơn tước lộc của bệ
hạ tưởng chưa nhiều lắm. Vậy mà tấm lòng trung thành của ông ấy đối với bệ
hạ, thật là có một không hai trong nước Nam. Thần được đến đây cũng chính là
nhờ vào công sức giúp đỡ của ông ấy một phần lớn.
Hoàng thượng nói:
- Chỉnh biết trung nghĩa như vậy
cũng là do ông gây dựng cho.
Chỉnh rập đầu rằng:
- Thật đúng như lời dạy của thánh
thượng.
Hoàng thượng vỗ về, an ủi hồi lâu
nữa, rồi Bình cáo từ mà rằng:
- Hiện giờ thánh thể không được
khoẻ lắm, ứng tiếp mãi e rằng sẽ mỏi mệt. Thần xin tạm lui về nơi đóng quân.
Từ nay về sau, thỉnh thoảng thần lại xin vào chầu. Nếu bệ hạ còn muốn hỏi han
điều gì, thần xin cung kính đợi chờ thánh chỉ.
Hoàng thượng nói:
- Quả nhân có nước mà không được
tham dự, khoanh tay rủ áo đã hơn bốn mươi năm. Nay lại già lẫn, việc nước
việc quân đều không quen thạo. Ông đã có lòng tôn phò, thì hãy nên ở lại tệ
quốc để giúp quả nhân, xin đừng ruồng bỏ!
Bình đáp:
- Thần chỉ vâng mệnh vua anh đi
lấy Thuận Hoá; nay đã trót ra đây cũng là việc nhân tiện mà làm, thần không
dám ở lâu. Tuy nhiên, vì bốn phương còn rối loạn, nên thần cũng phải đánh dẹp
một phen cho yên đã rồi mới xin về.
Hoàng thượng sai trà đồng pha chè
thết Bình. Bình ung dung uống chè, rồi lui ra. Chỉnh cũng ra theo.
Trong lúc ngồi chầu, Chỉnh nhận
thấy các quan tản mát chẳng ra sao: Gia thần của hoàng thượng thì không có
người nào ứng đối nên lời. Còn về hoàng thân, chỉ có Thanh nguyên hầu Lê Duy
Thiều, áng sơn hầu Lê Duy Phục, mà cũng đều là những kẻ tầm thường. Xem chừng
không còn ra triều đình nữa. Về hàng quan văn, chỉ còn hai người là Lê Duy
Tân và Lê Duy Chiểu thì lại đều là những kẻ lêu lổng ở Trường An, vì cùng
khốn quá không cần phải trốn, mới vào nương nhờ trong nội điện, rồi nhân có
Thanh nguyên hầu tiến dẫn, nên được hoàng thượng dùng để coi về việc giấy má.
Đối với hai người này, bụng Chỉnh cũng đều không ưa. Chỉnh tự nghĩ: "Gần
đây, những triều thần có tham dự chính sự và hàng ngày mình cũng đã biết, thì
chỉ có Tứ xuyên hầu Phan Lê Phiên, Kiến xuyên hầu Trương Đăng Quĩ, Thao đường
hầu Uông Sĩ Lãng (còn có tên là Uông Sĩ Điển), Luyện đường hầu Trần Công
Thước, Thiêm sai Nhữ Công Điền, Hoàn quận công Nguyễn Hoàn, cả thảy sáu
người". Chỉnh bèn tâu xin hoàng thượng ban sắc gọi đến. Hoàng thượng lập
tức cho đi vời ngay mấy người ấy vào triều.
Phan Lê Phiên và Nhữ Công Điền bị
cách chức, ở nhà đã lâu. Nguyễn Hoàn, Trương Đăng Quĩ, Uông Sĩ Lãng và Trần
Công Thước đều ra lánh nạn binh đao ở ngoài thành. Khi có chỉ nhà vua đòi,
các viên ấy đều vâng mệnh tới kinh, riêng Nhữ Công Điền lấy cớ mắc bệnh điên
để từ chối.
Uông Sĩ Lãng thấy chiếu vua đòi,
ngỡ có sự quở trách gì, trước khi vào chầu, vội đem chiếc ấn bộ Binh mà Lãng
vẫn giữ, nộp cho Chỉnh để xin hàng. Nhưng Chỉnh trả lại ấn và bảo cứ ra. Thế
là từ đó, các viên ấy ngày ngày lui tới triều đình để bàn việc nước. Những
viên quan khác nghe tin, cũng đều lục tục đến kinh. Hoàng thượng liền truyền
cho tất cả các viên quan trong triều đều phải tuỳ công việc mà giao thiệp với
Bình.
Bình tự nghĩ rằng mình ở nước
ngoài xa xôi mới đến, chưa am hiểu phong tục tập quán của xứ này; cho nên
công việc giao thiệp với các quan trong triều, Bình đều nhất nhất nghe theo
Chỉnh.
Một hôm Chỉnh nói với Bình rằng:
- Ngài lấy danh nghĩa tôn phò nhất
thống mà ra đây thiên hạ ai cũng mong ngóng. Nhưng danh phải đi đôi với thực.
Muốn cho nhất thống, thì những việc quân việc nước đều phải do hoàng thượng
quyết định, đó mới là cái thực của sự phò tôn. Ngài nên làm cái gì cho rõ sự
thực ấy đi. Hôm nọ, ngài vào ra mắt hoàng thượng ở điện Vạn Thọ, mới chỉ là
việc gặp gỡ riêng, chưa được tỏ rõ với thiên hạ. Nay ngài nên chọn ngày lành,
cử hành lễ chầu yết cho thiên hạ đều biết. Như thế mới là việc quang minh
chính đại.
Bình lấy làm phải, bèn chọn ngày
mùng 7 tháng bảy.
Đến ngày, Bình xin hoàng thượng mở
cuộc đại triều ở điện Kính Thiên, các quan đều theo thứ tự đứng hầu. Bình tự
dẫn các tướng sĩ theo cửa Đoan-môn đi vào. Sau khi đã lạy năm lạy và rập đầu
vái ba vái, Bình dâng lên tờ tâu nói về công diệt họ Trịnh, cùng các sổ sách
quân, dân để hoàng thượng sai quan coi giữ.
Hoàng thượng nhận lễ triều yết
xong, truyền đưa tiễn Bình ra khỏi cửa điện, rồi bãi triều.
Hôm sau, hoàng thượng sai quan đem
tờ chiếu đến tận chỗ đóng quân của Bình, phong cho Bình làm nguyên soái phù
chính dực vũ, Uy quốc công.
Bình làm lễ bái mạng nhận phong
xong, liền sai sứ vào triều tạ ơn, rất là chu đáo.
Nhưng sau đó, Bình bảo riêng với Chỉnh
rằng:
- Ta đem mấy vạn quân ra đây, chỉ
đánh một trận mà dẹp yên được cả thiên hạ. Một thước đất, một người dân của
nước Nam, không có cái gì không thuộc quyền sở hữu của ta. Ví phỏng ta muốn
xưng đế, xưng vương, gì mà chẳng được. Sở dĩ ta nhường nhịn không ở những
ngôi ấy, là hậu đãi nhà Lê đó thôi! Cái chức nguyên soái, quốc công, với ta
có thêm được gì đâu? Phải chăng là nước Nam dùng cái danh hão ấy để lung lạc
ta? Nếu ta không nhận thì e hoàng thượng bảo ta là kiêu căng. Song nhận mà
không nói gì, thì người trong nước lại bảo ta là mọi rợ. Nên nhân tiện nói
chuyện, thì ta cũng nói cho rõ mà thôi!
Chỉnh biết ý Bình không bằng lòng,
bèn bịa ra lời riêng của hoàng thượng rồi vờ tiết lộ với Bình rằng:
- Hoàng thượng đã có ý bảo riêng
với tôi rằng: nhà vua đơn bạc, không có vật gì đáng tặng. Vẫn biết những cái
danh tước nhỏ mọn, không đủ làm cho ngài sang thêm. Song vì tục lệ trong nước
vốn chuộng lễ nghĩa, nên cũng gọi là tỏ chút lòng thành của hoàng thượng kính
ngài mà thôi. Bản ý của hoàng thượng vẫn cho rằng mình đã cao tuổi, sợ sau
khi ngài về, không thể nương tựa vào ai, nên người muốn nối liền tình thân
hai họ, để cho hai nước đời đời kết tình thông gia giao hảo với nhau. Nhưng
vì chưa hiểu ý ngài thế nào, nên hoàng thượng vẫn còn trù trừ chưa dám nói
rõ.
Bình đáp:
- Xưa nay những kẻ chinh phu xa
nhà, tình khuê phòng rất là cần thiết. Hoàng thượng cũng xét đến chỗ ấy kia
à? ừ! Em vua nước Tây, làm rể hoàng đế nước Nam, "môn đương hộ đối"
như thế, tưởng cũng không mấy người đã có được.
Mọi người ngồi quanh Bình đều
cười.
Bình lại tiếp:
- Nhưng nói đùa đó thôi! ý nghĩ ấy
của hoàng thượng thật là mưu kế già giặn. Người muốn cho hai nước hoà hiếu
với nhau đấy mà.
Chỉnh biết là Bình bằng lòng, bèn
vào tâu với hoàng thượng, kể hết đầu đuôi như vậy, rồi lại hỏi xem con cái
hoàng thượng hiện còn mấy công chúa chưa gả chồng.
Nguyên trong số những người con
gái đẻ sau của hoàng thượng, còn có đến năm, sáu nàng công chúa chưa chồng.
Nhưng chỉ riêng có một nàng tên chữ gọi Ngọc Hân, là người có sắc đẹp và nết
na hơn cả. Hoàng thượng rất yêu quí Ngọc Hân, thường ngày vẫn nói: "Con
bé này ngày sau nên gả làm vương phi, không nên gả cho hạng phò mã tầm
thường!"
Lúc ấy nghe lời Chỉnh nói, hoàng
thượng trong bụng cũng ưng, bèn bảo Chỉnh:
- Con gái chưa chồng của trẫm còn
nhiều, nhưng chỉ có mình Ngọc Hân là có chút nhan sắc. Tuy vậy, thói thường
yêu con vẫn hay thiên lệch, chưa biết ở mắt người ngoài thì ra sao. Ngươi hãy
ở đây, để trẫm đòi cả ra cho mà coi qua, rồi tuỳ người lựa xem người nào xứng
đáng thì giúp cho thành việc đi!
Rồi hoàng thượng sai viên quan
đứng hầu đi gọi các công chúa. Một lát, tất cả các cô con gái chưa chồng của
hoàng thượng đều ra hầu ở trước ngự toạ. Chỉnh liếc nhìn một lượt, rồi nói:
- Được rồi! Mối nhân duyên tốt
lành này, thần xin làm mối, mười phần chắc xong cả mười.
Rồi Chỉnh về nói với Bình:
- Câu chuyện riêng hôm qua tôi nói
với ngài, nay tôi đã vào tâu với hoàng thượng, Người vui mừng mà bảo tôi
rằng: Nếu đã được ngài bằng lòng cho như thế, âu cũng là duyên trời run rủi.
Hiện hoàng thượng có nàng công chúa thứ chín, tuổi vừa đôi tám, xin cho nương
bóng nhà sau, hầu hạ khăn lược, để cho hai nước thành thông gia, đời đời hoà
hiếu với nhau.
Bình nói đùa rằng:
- Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ
mà về; bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà,
chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một chuyến xem có tốt không?
Những người cùng ngồi với Bình đều
cười ầm.
Chỉnh ra về, Bình lại nói thêm:
- Tôi xin kính lạy dưới bệ hoàng
thượng vạn tuế! ở nơi khe núi hẻo lánh xa xôi tới đây, há dám đường đột như
vậy? Bây giờ may sao được bám vào cành vàng lá ngọc, thật là một mối duyên kỳ
ngộ ngàn năm mới có. Kẻ ở khe núi này xiết bao mừng rỡ.
Chỉnh vào điện tâu lại với hoàng
thượng. Hoàng thượng bèn gả công chúa Ngọc Hân cho Bình.
Bình chọn ngày mồng mười tháng ấy,
sắp sẵn hai trăm lạng vàng, hai ngàn lạng bạc, hai chục tấm đoạn màu, bày
biện gươm giáo cờ quạt; rồi sai viên thị lang bộ Hình đem các thứ lễ vật đó
cùng một tờ tâu vào điện Vạn Thọ.
Hoàng thượng cho hoàng tử là Sùng
nhượng công ra đó nhận lễ vật, làm lễ cáo ở nhà Thái Miếu, định ngày hôm sau
thì đưa dâu. Rồi hoàng thượng lại truyền cho các hoàng thân, hoàng phi, công
chúa và các quan văn võ, ai nấy đều phải sửa soạn ngựa xe, sớm hôm đó đợi ở
cửa điện, để đưa công chúa về phủ của Bình.
Sáng sớm hôm sau, Bình lại sai
quan đem một tờ tâu vào triều, xin cho làm lễ nghênh hôn. Một mặt, Bình khiến
quân lính đứng sắp hàng ở hai bên đường, từ cửa điện đến cửa phủ. Trai gái
trong kinh nghe tin, rủ nhau đi xem đông như ngày hội. Ai cũng cho là việc
hiếm có xưa nay. Khi xe của công chúa tới cửa phủ, Bình ngồi kiệu rồng vàng
ra đón, hết thảy mọi thứ lễ nghi đều theo đúng như lệ thường ở các nhà. Sau
khi công chúa vào cung, Bình sai đặt tiệc ở bên ngoài để thết các vị hoàng
thân, hoàng phi, công chúa và các quan văn võ đi đưa dâu. Trong tiệc, mọi
người đều theo thứ bậc mà ngồi. Tiệc tan, Bình sắp riêng hai trăm lạng bạc,
sai quan ngỏ lời kính tặng các vị nhà gái, và đưa tiễn ra tận cửa phủ. Các
quan ra về, lại họp ở nhà công đường bộ Lễ, ai nấy đều khen nhà vua kén được
rể tốt, và bảo nhau: "Thế là từ nay nước An-nam ta đã có một nước dâu
gia".
Công chúa lúc mới về còn có vẻ bẽn
lẽn e thẹn, nhưng sau rồi cũng quen. Hôm vào làm lễ yết các vị tiên hoàng đế
ở nhà Thái Miếu, Bình và công chúa gióng kiệu cùng đi, lúc lễ xong lại gióng
kiệu cùng về.
Bình vốn có tính kiêu căng, chợt
hỏi công chúa:
- Con trai con gái nhà vua, đã có
mấy người được vẻ vang như nàng?
Công chúa đáp:
- Nhà vua ít lộc, các con trai con
gái ai cũng thanh bạch nghèo khó. Chỉ riêng thiếp có duyên, lấy được lệnh
công (tiếng gọi tôn trọng, chỉ Nguyễn Bình), ví như hạt mưa, bụi ngọc bay ở
giữa trời được sa vào chốn lâu đài như thế này, là sự may mắn của thiếp mà
thôi!
Bình nghe câu ấy, thích thú lắm.
Đến ngày 14, bệnh của hoàng thượng
đã nguy kịch. Bình muốn nhân lúc nhà vua đang còn sống, xin nhà vua nhận lễ
chúc mừng về cuộc nhất thống để trong ngoài đều biết, cho trọn vẹn cái công
tôn phò của mình. Bình bèn chọn ngày rằm để đặt lễ đại triều rồi dâng tờ tâu
lên xin với hoàng thượng. Đúng ngày, triều đình bày cuộc đại nhạc ở mé đông
và mé tây đan trì (thềm sơn đỏ nơi cung điện nhà vua) Các lễ quan sắp đặt đồ
nghi vệ cực kỳ trang trọng, rồi xin hoàng thượng ra ngự chầu. Sau khi các
hoàng tử đã dìu hoàng thượng lên ngự toạ, ngoài điện nổ ba phát súng làm hiệu
lệnh, trăm quan đều lần lượt làm lễ mừng. Lễ xong, hoàng thượng ban tờ chiếu nói
về việc nhất thống sai đem dán ở ngoài cửa Đại hưng. Thần dân thiên hạ thấy
vậy đều khen "phúc, lộc, thọ khảo" (Phúc là điều tốt lành, lộc là
của cải, thọ khảo là sống lâu) của hoàng thượng thế là hoàn toàn tốt đẹp.
Sau ngày lễ ấy, bệnh của hoàng
thượng càng nguy hơn, đã gần hấp hối. Công chúa mời Bình vào thăm, Bình nói:
- Nay tôi với hoàng thượng, nghĩa
như cha con. Tôi thành thật muốn kịp thời vào thăm khi hoàng thượng còn sống,
để chiêm ngưỡng mặt rồng, cho tỏ tấm lòng lưu luyến. Song, tôi mới từ xa tới
đây, người trong nước chưa chắc đã tin hết cả. Hôm qua hoàng thượng ra ngự
chầu, ai biết thánh thể mang bệnh? Nếu như tôi vào thăm lại chẳng may đúng
lúc Người về chầu giời, há chẳng khiến cho tôi mang tiếng muôn đời với thiên
hạ ư? Chi bằng, nàng cứ về thăm hoàng thượng và nói rõ với các anh em như
thế, để ai nấy đều hiểu lòng tôi.
Công chúa Ngọc Hân bèn từ biệt
Bình về cung thăm vua cha.
Đêm đó, hoàng thượng tinh thần
tỉnh táo, bèn cho đòi hoàng tự tôn vào, dặn dò các công việc lớn lao của nhà
nước, lại cho đòi công chúa Ngọc Hân vào để dạy bảo về đạo làm vợ. Trối trăng
với con gái xong đâu vào đấy, đúng giờ mão ngày 17, hoàng thượng băng ở điện
chính tẩm. Bấy giờ hoàng thượng thọ 70 tuổi, ở ngôi vua được 47 năm.
Nhà vua râu rồng, mũi cao, tóc
hạc, mắt phượng, đi nhẹ như nước, ngồi vững như non; tính nết hiền từ, giản
dị. Khi còn làm hoàng tử, vì việc ông hoàng Lê Duy Mật chống lại họ Trịnh,
nên nhà vua bị chúa Trịnh nghi ngờ, đem giam vào nhà viên nội thị Hồng quận
công. Đến năm Canh thân (1740) Nghị tổ (tức Trịnh Doanh) lên làm chúa, quận
Hồng ra trấn Sơn Nam, chúa liền chuyển nhà vua đến giam ở nhà cậu mình là
Bính quận công (Vũ Tất Thận, cậu ruột Trịnh Doanh, em thái phi Vũ thị). Khi
chưa có lệnh ấy của chúa, một đêm quận Bính bỗng mơ thấy thiên tử tới nhà, cờ
quạt phấp phới, nhã nhạc vang lừng, rõ ra cảnh tượng của đời thái bình. Sớm
hôm sau liền thấy quận Hồng cho giải hoàng tử đến giam ở nhà mình, quận Bính
hết sức ngạc nhiên, nghĩ rằng giấc mộng lúc ban đêm không phải là chuyện tình
cờ, bèn vào kể lại với chúa. Bấy giờ bốn phương đang loạn lạc, thế nước ngả
nghiêng, chúa thấy điềm lành ấy, muốn nhờ vào phúc đức của nhà vua để dẹp cho
yên thiên hạ, liền cho đón về, lập nên ngôi và đặt niên hiệu là Cảnh-hưng.
Sau khi nhà vua lên ngôi, bốn
phương dần dần dẹp xong, thiên hạ lại bình yên. Chúa biết phúc của nhà vua
rất lớn, nên càng hết sức tôn kính. Nhà vua cũng nhã nhặn, khiêm tốn, tin cậy
vào chúa. Thỉnh thoảng chúa lại dâng tiến thức nọ thức kia, vì thế sự chi
dùng của nhà vua cũng được thừa thãi.
Lúc nhà vua ở ngôi, chẳng qua chỉ
rủ áo khoanh tay, tìm trò mua vui chứ không có việc gì phải lo. Nhà vua lại
giỏi về các kỹ nghệ lặt vặt. Bao nhiêu cung điệu Nhạc phủ, nhà vua đều chế ra
bài mới, âm thanh cực kỳ du dương, trong sáng. Thường khi nhà vua lại còn
theo tranh Tam quốc, sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo mác, chia thế trận
ba nước Nguỵ, Ngô, Thục, rồi dạy họ các cách ngồi, đứng, đâm, đỡ, để mua vui
trong lúc thư nhàn.
Những năm tuổi già, nhà vua bị
Thánh tổ Trịnh Sâm đè nén đủ đường, người khác hẳn phải tức giận không thể
chịu nổi, nhưng nhà vua vẫn vui đùa như thường. Những người gần gũi nhà vua
thấy vậy đều can ngăn. Nhà vua liền đáp rằng:
- Các ngươi mới chỉ biết một mà
chưa biết hai. Nhà vua đối với nhà chúa, hiện nay đang ở vào cái thế bị ngờ
vực; nếu trẫm lấy việc mất quyền làm tức giận, thì nhà chúa ắt phải ngấm ngầm
tính việc chẳng hay. Vì vậy, trẫm phải mượn hứng vui chơi như thường để tránh
tai vạ đó thôi!
Có lần, nhà vua lại nói với các
cung nữ rằng:
- Trong đời ta, thế nào cũng có
phen được trông thấy cuộc nhất thống, nhưng đó chẳng phải là điều mà ta vui
mừng.
Các cung nữ hỏi lại:
- Nhà chúa chèn ép như vậy, nếu
chúa bại là may cho nhà vua, cớ sao bệ hạ lại không vui mừng?
Nhà vua đáp:
- Trời sai nhà chúa phò ta. Chúa
gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa, tức là cái lo lại về ta, ta còn vui
gì?
Khi Đoan nam vương Trịnh Tông mới
lên làm chúa, bọn kiêu binh có lần đã nghĩ đến cái mưu tôn phò nhất thống và
lén đến xin ý kiến nhà vua. Những người xung quanh cũng đã khuyên nhà vua nên
nghe theo mưu ấy. Nhưng nhà vua nói:
- Ta vì thành thật nghe theo trời
nên mới được như thế này. Những chuyện do ở mưu người xếp đặt, ta quyết không
làm. Nếu kẻ nào còn dám nói đến chuyện đó, trẫm sẽ lôi sang cho chúa, để theo
phép mà làm tội.
Vì thế, mưu ấy mới thôi.
Đến hồi này, thấy Bình làm việc
tôn phò, nhà vua bề ngoài tuy mừng nhưng bề trong thì lại lo. Những việc giao
thiệp, tiếp đãi đều là bất đắc dĩ.
Kịp đến khi bệnh nặng, nhà vua bảo
với hoàng tự tôn rằng:
- Ta chỉ sớm tối là được trút hết
gánh nặng, cái lo sẽ dồn cả vào thân mày, mày phải nghĩ tới điều đó!
Lúc sắp băng, nhà vua lại trối
thêm:
- Sau khi ta nhắm mắt, việc nối
ngôi là việc trọng đại, chuyện gì cũng phải bẩm qua với ông ấy, không được
khinh suất.
Nói xong, nhà vua băng. Hoàng tự
tôn bèn lên nối ngôi vua.
Trước đó, lúc công chúa Ngọc Hân
mới về với Bình, Bình đã hỏi công chúa về đức tính của các vị hoàng tử. Người
nào thế nào, công chúa cũng đều kể thật với Bình. Khi Bình hỏi đến nhân phẩm
của hoàng tự tôn như thế nào, công chúa chưa thoát khỏi thói thường của người
đàn bà, nghĩ bụng anh thân hơn cháu, lại sợ hoàng tự tôn sẽ cướp mất ngôi của
Sùng nhượng công, bèn đáp:
- Nhân phẩm của hoàng tự tôn cũng
tầm thường thôi!
Do đó, Bình có ý không thích hoàng
tự tôn.
Đến khi bệnh của hoàng thượng đã
tới lúc hấp hối, triều đình bàn nhau lập hoàng tự tôn, và sai người ra nói
với Bình. Bình không nghe. Sứ giả quay về nói lại ý Bình, cả triều bàn bạc
phân vân, chưa biết quyết định ra sao. Thình lình trong bọn có một người lớn
tiếng nói rằng:
- Tự tôn không được làm vua, thiên
hạ ắt loạn. Họ Lê sẽ mất, ấy là lỗi tại công chúa Ngọc Hân. Công chúa thực đã
làm hại đến việc lớn của xã tắc, hãy xoá tên trong sổ họ đi, để cho công chúa
về nước Tây Sơn mà yên hưởng giàu sang, họ ta chẳng thiếu gì một con người
ấy!
Triều đình nhìn xem ai, thì té ra
là hoàng thân Vượng quận công.
Công chúa sợ hãi, bèn về phủ xin
với Bình. Bấy giờ Bình mới bằng lòng. Sau khi hoàng thượng băng, trăm quan
bèn phò tự tôn lên ngôi.
Hôm ấy, Bình ở trong phủ, nghe tin
hoàng thượng băng, liền sai lính thị vệ sắp sửa đồ nghi vệ, xe kiệu, để chờ
khi hoàng tự tôn được lập rồi, nếu có ai bên họ nhà vua lại trình và mời sang
lo việc tang, thì Bình sẽ sàng đi ngay. Nhưng hoàng tự tôn không hiểu ý đó, nên
sợ phiền chẳng dám mời, mãi đến lúc khâm liệm xong xuôi và cho vào quan tài
rồi, mới bẩm với Bình.
Bình giận vì không được mời trước,
cho là hoàng tự tôn coi mình như người ngoài, bèn sai ngay người vào triều
bắt phải hoãn lễ đăng cực (lễ lên ngôi vua), có ý muốn lập người khác. Sứ giả
đến nơi thì lễ đăng cực đã xong, triều đình đem cái việc đã rồi ấy báo lại
với Bình. Bình càng tức liền đòi công chúa về phủ, rồi mắng rằng:
- Tiên đế là vua chung của thiên
hạ, không phải là vua riêng của hoàng tộc. Ta thương mến tiên đế, hôm qua vì
tránh sự hiềm nghi không dám vào thăm; hôm nay muốn kịp lúc chưa khâm liệm,
tới nơi để được thấy mặt ngọc, cho trọn cái tình bố vợ con rể; song tự dưng
ta đến, e rằng không phải phép. Sao hoàng tộc lại gạt ta ra ngoài, không thèm
mời? Nếu không có ta, thử hỏi: Triều đình sẽ thành cái gì? Chính sự sẽ ra cái
gì? Cớ sao lại dám sơ suất như vậy? Ta thử bỏ đây mà đi, xem hoàng tộc làm ăn
ra sao?
Rồi Bình lập tức truyền lệnh cho
các quân thuỷ, bộ sửa soạn hành trang, để sớm hôm sau rút quân về nước.
Công chúa khóc lóc xin Bình ở lại,
một mặt ngầm sai người tỏ bày ý kiến với tự hoàng. Tự hoàng vội cho người ra
phủ tạ lỗi và xin Bình ở lại. Bấy giờ, Bình mới thôi việc rút quân.
Đến ngày làm lễ thành phục, tự
hoàng sai quan mời Bình vào tế.
Bình mặc đồ tang, đứng ở trên điện
tế, coi xét lễ nghi hết sức chu đáo. Lúc đang tế, có viên tả phiên lại hơi có
vẻ cười, Bình sai lôi ngay ra chém. Đại khái đối với việc tang lễ, Bình hết
sức kính cẩn như vậy.
Bấy giờ, Bình đã ngấm ngầm có ý
định muốn về, bèn nói với các quan trong triều rằng:
- Tôi vâng mệnh vua anh đem quân
ra ngoài cõi, đi hay ở không có kỳ hạn nhất định. Tôi vì nghĩa tôn phù mà tới
đây, may mắn đã làm xong việc. Nay tôi là chàng rể, muốn ở cho hết đạo hiếu
với bố vợ. Làm cho xong sớm việc tang tế kịp khi tôi chưa rút về, để cho
trung hiếu vẹn cả hai bề, đó là ước muốn của tôi vậy.
Các quan đều nói:
- Chúng tôi xin vâng mệnh!
Rồi họ liền chọn ngày để đưa tử
cung xuống thuyền.
Còn Bình thì suốt ngày đêm sắm sửa
cho lễ táng, các đồ tế lễ tuy đơn sơ, giản dị, nhưng lễ nghi thì đều đầy đủ
không thiếu sót gì.
Đến ngày đưa đám, Bình tự cưỡi
voi, đem ba ngàn quân, hộ tống tử cung đến bến đò, rồi chờ cho lễ rước tử
cung xuống thuyền xong xuôi đâu đấy, mới quay trở lại.
Lúc công chúa Ngọc Hân về phủ,
Bình nhơn nhơn ra vẻ tự đắc mà rằng:
- Tiên đế có hơn ba mươi người con
trai, ngày nay báo hiếu lại chỉ ở một người con gái, nào có ai giúp đỡ cho
được mảy may? Người xưa thường bảo "Con gái làm rạng rỡ cho nhà
cửa", quả cũng đúng thật!
Công chúa cảm tạ và nói:
- Nhờ công đức của thượng công,
thiếp được báo hiếu với hoàng khảo, mở mặt với anh chị em. Tục ngữ vẫn nói:
"Trai không ăn mày vợ, gái phải ăn mày chồng", chính là như thế đó!
Bình nghe nói, thích lắm. Chợt có
tin báo vua Tây Sơn sắp ra. Bình vội sai Chỉnh cho dán yết thị khắp kinh
thành, nói là: "Thiên vương tuần du ra Bắc để xem xét phong tục, khoảng
mười ngày nữa sẽ tới. Vậy bố cáo cho cả trong ngoài đều biết". Một mặt,
Bình sai người tâu với tự hoàng, xin cho văn võ trăm quan ra ngoài cửa ô đón
tiếp.
Ngày mồng năm tháng Tám, vua Tây
Sơn đến kinh thành (ở một bản khác, thấy có thêm một đoạn như sau:
"Hoàng thượng thân hành ra đón ở cửa Nam-giao và sai quan khâm mạng đứng
ở bên đường, sau đó ngỏ lời chào mừng, rồi đi về. Chúa Tây Sơn sai người đáp
lại, rồi truyền đánh xe vào thành").
Vua Tây Sơn chẳng quản muôn dặm
đường xa tới đây, mà coi bộ lại hết sức hối hả, vội vã; mọi người đều không
hiểu duyên cớ làm sao?
Thật là:
Cá kình vượt biển giương vây nhảy,
Cọp dữ lìa rừng mượn cánh bay.
Chưa biết vua Tây Sơn đến về việc
gì? Xin xem hồi sau phân giải.
|
Hồi
thứ sáu
Chúa
Tây Sơn lẻn rút quân về nước
Quân Đông Giang mưu khởi nghĩa phò vương
Lại nói, khi Thuận Hoá mới vỡ, vua
Tây Sơn nhận được thư báo tin thắng trận của Bình. Đại ý bức thư viết như
sau: "Lũ thần vâng theo mưu mô của miếu đường, lại kính nhờ về oai trời
thiêng liêng, Thuận Hoá, đã dẹp yên, thiên hạ đều rung động. Nay ở Bắc Hà quân
kiêu tướng lười, thế có thể lấy được. Thần cúi xin mạn phép tuỳ tiện, đã uỷ
cho hữu quân Nguyễn Chỉnh đem tiền bộ thuỷ binh đi trước, thẳng tới Sơn Nam.
Riêng thần hiện đang chiêu mộ nhân dân các vùng ven biển, chọn lấy đinh tráng
để tăng thêm thế lực cho quân ta. Hẹn trong ít ngày sẽ dẹp yên xứ Bắc Hà. Còn
quan ải, thành quách xứ Thuận Hoá, hiện đã giao cho Đông định công (tức
Nguyễn Lữ, em thứ ba của Nguyễn Nhạc) coi giữ. Vậy xin bề trên ban cho chiếu
chỉ để thần tuân theo".
Vua Tây Sơn xem thư, mừng rằng
việc đã thành công, nhưng lại ghét cái chỗ tự chuyện của Bình. Vả lại, vua
Tây Sơn vốn đã biết Bình là người khôn ngoan, giảo quyệt, sợ Bình lấy được
Bắc Hà, lúc trở về ắt sinh ra kiêu căng, khó kiềm chế. Vua Tây Sơn lại còn
nghĩ rằng: "Nhà mình đời đời vẫn ở Nam Hà, được xứ Thuận Hoá là nơi bờ
cõi cũ, đủ rồi; không cần lấy thêm một nước lớn nữa làm gì. Ví dụ có lấy
được, chưa chắc đã giữ được, vạn nhất vấp ngã một cái, thì sự tai hại không
phải là nhỏ". Do đó, vua Tây Sơn liền sai người hoả tốc mang thư ra ngăn
Bình. Nhưng khi người đưa thư tới nơi, thì Bình đã thân hành đem đại quân,
thuận theo gió nồm trẩy ra Bắc rồi. Tiếp được tin này, vua Tây Sơn càng không
hài lòng.
Qua ngày hai mươi sáu tháng sáu
khi kinh sư bị vỡ, Bình lại gửi thư báo tin thắng trận về Tây Sơn. Trong thư
đại khái nói rằng: "Trước đây thần vâng mệnh cho phép tuỳ tiện đem quân
ra dẹp Bắc Hà, trông nhờ vào oai danh của vương huynh, chỉ đánh một trận mà
thắng. Nay nhà Trịnh đã diệt, thiên hạ thu về một mối, thần thể theo lòng ước
muốn của người trong nước, phò lập nhà Lê, cho họ yên lòng. Bây giờ trong
nước mới tạm yên, thần xin để cho quân lính được nghỉ ngơi, tạm đóng tại kinh
đô nước họ, để vỗ yên dân chúng và cắt đặt mọi việc cho đâu vào đấy. Chờ đến
dịp thu đông thuận gió, thần lại xin kính cẩn đem quân về nước".
Bức thư đến Tây Sơn vào ngày mười
bốn tháng bảy. Vua Tây Sơn tiếp được thư, hết sức lo ngại, nghĩ bụng:
"Bình luôn luôn lập được chiến công, đã làm cho hắn thêm kiêu ngạo.
Huống hồ trong tay hắn lại nắm giữ đạo quân lớn, chuyên chế ở ngoài muôn dặm.
Rồi Võ Văn Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh, những viên tướng dũng mãnh, mưu trí lại
đều thuộc quyền sai khiến của hắn. Nếu cứ buông lỏng cho hắn bay nhảy ở
ngoài, lâu dần ắt phải sinh ra những việc không hay. Nhưng khí thế của hắn
như thế, không thể dùng một lá thư mà gọi về được. Nếu mình không thân hành
ra Bắc, bắt hắn phải về, ấy là thả hùm ra khỏi cũi, không bao giờ còn có thể
nuôi dạy được nữa vậy. Thế rồi, luôn trong bữa đó, vua Tây Sơn tự đem năm
trăm tên lính thị vệ ra thẳng Phú Xuân. Tới nơi, lại lấy thêm hơn hai ngàn
quân Phú Xuân đi gấp ra kinh sư. Đoàn quân tất tưởi kéo đi, dáng dấp tiều
tuỵ, người ta không còn nhận ra đó là đám quan quân nào nữa.
Lúc vua Tây Sơn tới cửa biển Hội
Thống ở trấn Nghệ An, có người dân quê đem ít đồ biển xin ra mắt, nói rằng:
- Chúng tôi thấy quan lớn đi qua,
nhân có chút quà mọn, gọi là tỏ tấc lòng thành kính.
Vua Tây Sơn tính vốn thật thà,
không quen ăn nói văn hoa, thấy vậy, liền đáp:
- Tôi không phải là quan lớn, tôi
là họ ngoại của chúa Nam Hà (Chúa Nam Hà chỉ vào họ Nguyễn, vì Nhạc gả con
gái cho thế tử Dương của chúa Nguyễn, nên tự xưng là họ ngoại), vẫn quen gọi
là biện Nhạc ấy mà! Các người hậu tình, thấy tôi đi xa, lương khô, ăn nhạt,
mà đem cho những món ngon lành thế này, cám ơn lắm, cám ơn lắm!
Rồi lại hối hả đi luôn.
Thình lình thấy một bọn chừng vài
chục người, kẻ nào cũng lưng đóng khố, tay cầm đòn ống, mình trần trùng trục
đứng ở ven đường. Chờ cho vua Tây Sơn đi qua, bọn đó liền kêu lớn lên rằng:
- Chúng tôi về Nam, bị Chưởng Tiến
(một lục lâm hảo hán ở Nghệ An hồi ấy) đòi tiền mãi lộ, lấy hết của cải rồi.
Vua Tây Sơn hỏi:
- Nó đâu?
Bọn đó đáp:
- Nó lấy được của xong, vội vàng
chạy vào trong dãy núi kia!
Vua Tây Sơn liền sai một tốp lính
đuổi bắt. Vừa đến một chỗ núi hiểm, mấy chục người đó đều rút dao kiếm trong
đòn ống ra và reo lên:
- Chúng bay đã biết bọn tao hay
chưa; bọn tao đều là các bậc đàn anh trong đám thủ hạ của Chưởng Tiến. Hôm
nay đến để chặt cái đầu của lũ "lông đỏ" (không hiểu sao lại gọi
Tây Sơn là "lông đỏ" (hồng mao), chưa tra cứu ra. Trong Đại nam
quốc sử diễn ca thấy có câu tả cách ăn mặc của quân Tây Sơn như sau:
"Quân dung đâu mới lạ nhường; Mão mao áo đỏ chật đường kéo ra". Có
lẽ tác giả đã căn cứ vào cách ăn mặc đó (mũ lông áo đỏ) mà gọi Tây Sơn là "hồng
mao" chăng?) chúng bay đây.
Vừa reo họ vừa xông vào đâm chém,
dao kiếm vung lên tua tủa, quân Nam bị đánh bất ngờ, thua chạy liểng xiểng.
Vua Tây Sơn cả sợ, từ đó, trên
đường hành quân không dám vào ngủ trong nhà dân nữa; tối đâu giăng màn ra
giữa đồng ruộng ở đó mà ngủ, còn các quân sĩ thì đều ngủ ngoài trời.
Bởi lẽ đó, khi tới kinh sư, cả
đoàn quân chỉ còn là một lũ nửa người nửa ngợm, mặt mũi hốc hác, coi không ra
bộ quân của vua chúa nữa.
Thấy vậy, thiên hạ đều đồn đại
lung tung. Kẻ thì bảo thành Tây Sơn đã bị nhà Nguyễn phá vỡ, vua Tây Sơn vì
không giữ được nữa nên phải chuồn ra đây. Người thì nói Bình dùng mưu chước
gian dối, mượn một kẻ khác giả làm vua anh để thêm thanh thế cho mình. Hào
kiệt thiên hạ và những kẻ coi giữ châu quận ngầm nuôi binh mã, đều muốn dò
xem thực hư thế nào, để tìm cách bắt lấy; nhưng rốt cuộc cũng không ai biết
rõ tình hình.
Lúc vua Tây Sơn mới đến kinh, Bình
ra tận ngoài ô đón tiếp và tạ cái tội tự chuyên của mình. Vua Tây Sơn nói:
- Tướng ở bên ngoài, nếu gặp việc
có ích lợi cho nước nhà thì cứ tự ý mà làm cũng được. Bắc Hà có thể lấy, mà
ông lấy ngay được, đó là chỗ thần diệu trong phép dùng binh. Vả lại, ông trèo
đèo lội suối đi hàng muôn dặm để mở mang bờ cõi cho đất nước rộng thêm; thủ
đoạn anh hùng như vậy, anh thực không thể nào sánh kịp. Nhưng mà, mình đi
đánh nước khác, kéo quân vào sâu trong xứ sở của người ta, một chốc làm thay
đổi hết nền nếp cũ của họ như thế; tránh sao khỏi sự thù oán của muôn họ. Anh
luôn luôn lo ngại đến những việc bất ngờ có thể xảy ra, vì vậy phải lật đật
ra ngay đây để nghĩ kế đỡ ông.
Rồi hai anh em cùng gióng ngựa đi
vào thành.
Tới phủ, Bình dắt công chúa Ngọc
Hân ra chào và nói hết cả sự thật với anh. Vua Tây Sơn khen:
- Chà, em vua Tây Sơn làm rể vua
nước Nam, "môn đương hộ đối" mối nhân duyên đẹp thật!
Rồi lại bảo công chúa rằng:
- Người quí giá như thế này, thực
không hổ là cô em dâu của nhà ta.
Hai người ôn tồn trò chuyện thân
mật như anh em nhà thường dân vậy.
Hồi lâu, công chúa cáo từ lui ra.
Bình sai quây màn ở cung chính tẩm, mời anh vào nghỉ; còn tự mình thì chuyển
ra ngủ ở gác Kỳ-lân.
Quân lính của Bình đem đi trước
đây, các đội ngũ đều đã thay đổi một lượt. Đến lúc này, Bình đem binh phù nộp
cả cho anh. Vua Tây Sơn nắm được binh quyền trong tay rồi, bèn bố trí lại đội
ngũ y như cũ, còn sự thay đổi mới đây của Bình thì vờ như không hay biết gì
cả. Thế là từ đó, bao nhiêu tướng sĩ lại đều chỉ nghe theo mệnh lệnh của
"ông vua lớn".
Được ít bữa, vua Tây Sơn liền bí
mật cùng với Bình bàn chuyện rút về. Bình đành phải vâng theo. Các tướng tá
chỉ riêng có Võ Văn Nhậm được biết việc kín này, còn Chỉnh thì không được dự
nghe.
Lại nói, lúc mới tới kinh, Chỉnh
và Nhậm đều đóng ở lầu Ngũ-long. Nhậm đóng trước lầu, Chỉnh đóng sau lầu.
Chỉnh vốn là người bản quốc, nhiều
kẻ quen thuộc, nên người trong nước chỉ biết có Chỉnh. Quan lại, dân chúng,
ai đến ra mắt đều vào cửa Chỉnh. Sau lầu thường đông như chợ; mà trước lầu
nơi Nhậm ở thì chẳng có lấy một ma nào lui tới. Việc ấy làm cho Nhậm có vẻ
không thích. Thấy vậy, Chỉnh phải sai một tên thư lại mới vào làm việc, ngày
ngày ngồi chực ở cửa Nhậm để mời khách đến chỗ Nhậm, nhưng khách vẫn không
đến, Chỉnh bất đắc dĩ lại phải xoay cách khác. Hễ khách nào tới thăm Chỉnh,
sau khi đã thù tiếp xong. Chỉnh lại sai đưa người khách kèm theo đồ lễ đến
cửa Nhậm. Nhưng rốt cuộc Nhậm vẫn không bằng lòng. Chỉnh bèn dời chỗ ở sang
chùa Tiên Tích (ở xóm Nam Ngư, huyện Thọ Xương. Nay là đường Nam Bộ, Hà Nội).
Sau chuyện này, Nhậm bèn đem những
lời gièm pha Chỉnh mà nói với Bình rằng:
- Hắn là một kẻ bầy tôi đi trốn,
chạy về với mình, muốn mượn sức của mình trả thù cho thầy, để hả cái lòng căm
tức với nước cũ. Nay mình rong ruổi hàng muôn dặm, đưa hắn về nước, vẽ mày vẽ
mặt cho hắn. Thế mà khi hắn đã đạt được chí nguyện, những người trong nước
vào hùa với hắn, có kẻ lại đem hai câu đối: "Hổ tự Tây Sơn xuất, Long
tòng Đông-hải lai" (hổ từ non Tây ra; rồng ở biển Đông lại) ở tháp chùa
Thiên Mụ của nhà Nguyễn, để bảo ông là hổ, hắn là rồng. ý nói: "Hổ lìa
khỏi núi thì thất thế, rồng ra khỏi biển vẫn vẫy vùng". Thế là chẳng
những hắn không chịu để mình dùng, mà lại còn có chí ngang tàng nữa. Bây giờ
mình giam mấy vạn người ngồi ăn không ở đây, để giúp cho hắn gây nên thế lực,
nghĩ cũng khờ dại quá! Tôi nghe người trong nước này oán hắn rất sâu sắc, sở
dĩ họ chưa nổi dậy là vì còn sợ mình đó thôi. Nếu mình bỏ hắn mà về, người
nước này hẳn sẽ tranh nhau nhai thịt hắn. Và hắn thường nói: "Nhân tài
Bắc Hà chỉ có mình hắn". Để cho hắn chết, mình lấy Bắc Hà sẽ càng yên
ổn.
Bình tin lời Nhậm, nên từ đó đối
với Chỉnh tuy ngoài mặt vẫn như thường, nhưng trong lòng thì rất ngờ vực.
Quân Nam vì đi xa cũng rất oán
Chỉnh, ngày đêm mong cho Bình giết Chỉnh. Rồi họ biết thế nào Bình cũng đưa
Chỉnh đến chỗ chết, nên họ khinh Chỉnh ra miệng. Một hôm, bọn người trong
nước vào hùa với Chỉnh, có kẻ mang binh phù của Chỉnh cấp băng qua khu đất
cấm; khi bị quân Nam gạn hỏi, người ấy đáp:
- Tôi có binh phù của quan hữu
quân cấp cho đây!
Quân Nam bèn nói:
- Hữu quân là ai? Có phải Hữu
Chỉnh không? Được, cứ đợi đấy nửa tháng nữa mà xem hữu quân của các anh!
Chỉnh nghe được chuyện đó, bèn
sinh ra hai lòng với Bình. Vả Chỉnh cũng đã tính toán, biết rằng sớm muộn thế
nào rồi Bình cũng phải đi, mình sẽ không thể ở lại kinh sư một mình được. Vì
vậy, Chỉnh ngầm có ý muốn chiếm cứ Nghệ An, bèn mật tâu với hoàng thượng
rằng:
Thần đem hắn ra, chỉ vì việc tôn
phù. Bây giờ việc đã xong, thần quyết không theo hắn nữa. Chắc thế nào hắn
cũng rút về, mà khi hắn đã về rồi, thì trấn Nghệ An tức là một bức phên giậu
ở bên cạnh giống sài lang. Vậy xin bệ hạ cho thần vào đấy trấn thủ, một mặt
Nam Hà thần xin đương cả!
Kịp đến khi nghe tin vua Tây Sơn
ra. Chỉnh lại đoán là vua Tây Sơn sẽ cướp ngôi của hoàng thượng và chiếm cứ
đất nước. Rồi muốn dựa vào vua Tây Sơn để tránh tai vạ, Chỉnh bèn khuyên
hoàng thượng nên sắp sẵn ngọc tỷ mà ra hàng, lại giục các quan trong triều
thảo gấp một tờ biểu xin hàng. Triều đình bàn bạc mấy ngày liền chưa quyết
không ai dám hạ bút trước. Lúc vua Tây Sơn tới nơi hoàng thượng thân hành ra
đón ở cửa ô phía Nam. Ngài đứng ở trong cửa ô, sai hoàng thân là Thanh nguyên
hầu quỳ ở mé bên trái đường đi, để chào và nói thay hoàng thượng. Vua Tây Sơn
khi qua cửa ô không đáp lễ, cứ giục ngựa đi thẳng và cho một người quay lại
nói rằng:
- Quả quân thấy nhà vua lễ độ quá,
sợ rằng nếu xa giá ở lại chậm trễ, hoặc giả làm phiền cho quý thể phải quỳ
lạy mệt nhọc, rồi quả quân lại mang tiếng là thất lễ. Bởi thế, quả quân phải
vội vã đi ngay. Xin ngự giá hãy cứ về cung, ngày khác thong thả sẽ cùng gặp
nhau.
Hoàng thượng thấy vậy, biết vua
Tây Sơn còn ưu đãi mình, nên khi về cung không bàn đến việc đầu hàng nữa.
Hôm sau vua Tây Sơn sai bày ở phủ
đường ba chỗ ngồi. Chiếc sập của vau Tây Sơn kê ở chính giữa, bên trái là ghế
của hoàng thượng, bên phải là ghế của Bình. Hai bên có hai hàng giáp sĩ đứng
hầu cực kỳ nghiêm chỉnh.
Cuộc hội kiến này dùng lễ
"hai vua gặp nhau", không ai phải lạy ai. Khi hoàng thượng ngự giá
đến cửa phủ, vua Tây Sơn sai viên quan hầu ra đón. Hoàng thượng đi bộ vào
trước thềm; vua Tây Sơn đang ngồi vội bước xuống đất và đứng sang bên cạnh
sập để tỏ ý kính lễ; rồi sai Bình xuống dưới thềm đón tiếp và mời hoàng
thượng vào ghế. Mọi người đã ngồi yên chỗ, vua Tây Sơn liền hỏi:
- Hoàng thượng năm nay xuân thu độ
bao nhiêu?
Viên quan đi theo đáp thay hoàng
thượng, rồi nhân đó nói tiếp rằng:
- Quốc quân họ Lê chúng tôi gặp
phải họ Trịnh lấn quyền lộng thế, mũ dép đảo lộn đã lâu. May nhờ thánh thượng
là bậc chí nhân đại nghĩa, sai tướng ra quân, vì quốc quân chúng tôi mà chỉnh
đốn lại cơ đồ. Hiện nay đất đai cùng dân chúng nước Nam đều là do thánh
thượng gây dựng lại. Nếu như thánh thượng muốn thu nhận một vài quận ấp của
nước tôi để làm quà khao thưởng quân sĩ, thì quốc quân chúng tôi xin nhất
nhất vâng mệnh.
Vua Tây Sơn đáp:
- Tôi nghe ngày xưa đức Thái tổ mở
mang ra nước Nam Việt, công đức như trời. Tôi tuy ở xa khuất tại miền biển
phương Nam, song cũng là đất của đức Thái tổ khai thác. Tôi vì giận kẻ cường
thần hiếp chế nhà vua, nên phải làm việc tôn phò. Nếu là đất của họ Trịnh, một
tấc tôi cũng không để; còn đất của nhà Lê, thì một tấc tôi cũng không dám
lấy. Tôi nghĩ rằng nước ta đây mới dẹp yên, còn có nhiều việc cần phải sửa
sang, vì vậy tôi phải ra để giúp đỡ nhà vua. Sau khi bốn phương đã phẳng
lặng, anh em tôi lại xin rút về nước. Bây giờ chỉ mong nhà vua chấn chỉnh
giường mối triều đình, giữ yên bờ cõi, cùng nước tôi đời đời kết nghĩa láng
giềng, như thế là phúc cho cả hai nước vậy.
Viên quan theo hầu hoàng thượng
lại thay lời mà rằng:
- Thánh thượng nghĩ đến công đức
của tiên hoàng đế, ra ơn nối lại dòng dõi, khiến cho cơ đồ của tiên hoàng đế
không đến nỗi tuyệt diệt; ơn ấy của thánh thượng thật là vô cùng. Quốc quân
chúng tôi và các bề tôi xin đời đời giữ tình láng giềng hoà hiếu, không dám
sai trái.
Vua Tây Sơn sai trà đồng pha trà
đệ lên các ghế. Hoàng thượng uống trà xong, ung dung cáo từ ra về.
Vua Tây Sơn đứng dậy từ biệt. Bình
tiễn hoàng thượng xuống thềm, vua Tây Sơn đi theo một quãng, rồi né mình bước
giật lùi về chỗ, sai viên quan hầu đi hộ vệ hoàng thượng ra khỏi cửa phủ.
Hoàng thượng lên kiệu về cung, rồi
sai các quan trong triều tới ra mắt vua Tây Sơn. Vua Tây Sơn lần lượt hỏi hết
quan chức, họ tên từng người. Các quan trả lời xong, vua Tây Sơn liền nói
rằng:
- Tôi nghe nói ở nước An Nam, tiến
sĩ là quí nhất. Thế các ông có phải là tiến sĩ không? Tôi sẽ nói với nhà vua
cho xin may ông đem về để dạy dỗ người trong nước. Vậy các ông có chịu đi
theo tôi không?
Các viên quan trong triều đều
thưa:
- Quốc quân chúng tôi bảo sao
chúng tôi phải nghe làm vậy. Dẫu rằng sang đông, sang tây, sang nam, sang
bắc, đi đâu chúng tôi cũng không dám chối.
Vua Tây Sơn lại hỏi:
- Các ông lúc mới thấy tôi đột
ngột ra đây như thế, có ngờ tôi không?
Các viên quan đáp:
- Thánh thượng đã sai thượng công
ra phò lập nhà Lê, việc ấy rõ ràng lắm rồi, lũ chúng tôi đâu còn dám ngờ.
Vua Tây Sơn nói:
- Ai ngờ tôi, kẻ ấy là người ngu!
Chúa Trịnh bắt quân đi hàng muôn dặm, cố chiếm lấy đất Thuận Hoá, lấy nước
lớn làm hại nước nhỏ, nên mới dẫn đến cái vạ ngày nay. Gương ấy há có xa đâu?
Tôi nếu tham đất nước Nam, như vậy là lấy nước nhỏ mà hại nước lớn, còn mong
lâu bền sao được? Giả sử đời tôi giữ được đi nữa, thì đến đời con cháu tôi
cũng không thể nào giữ nổi. Tôi có ngu gì mà lại nuôi cái mầm vạ ấy? Chẳng
bao lâu nữa anh em tôi sẽ về, các ông nên giúp rập nhà vua cho yên thiên hạ.
Hai nước chúng ta sẽ kết nghĩa láng giềng, giữ vững tình hoà hiếu, để cùng
hưởng phúc thái bình!
Các quan đều ca ngợi:
- Sách có nói rằng: "Bậc
thánh nhân không chăm lo đến việc lập công ở phương xa". Thánh thượng
nghĩ tới chỗ đó, thật là vượt quá người thường đến muôn vạn lần. Nhưng quốc
quân chúng tôi hiện còn trẻ tuổi, nhiều việc chưa quen thạo, lũ chúng tôi lại
đều là những kẻ tài hèn; thánh thượng nếu đã giúp cho nước tôi được còn, xin
hãy tạm lưu lại đây, để vua tôi nước chúng tôi nhờ cậy vào oai linh của thánh
thượng. Bao giờ bốn phương đều yên, giường mối đã dựng lại, bấy giờ ngự giá
hãy về cũng chưa muộn.
Vua Tây Sơn nói:
- Có về cũng còn hàng năm hàng
tháng, há phải đâu là chuyện ngày một ngày hai? Các ông chớ vội lo!
Các quan lạy tạ lui ra, rồi cùng
bàn riêng với nhau: kẻ thì cho lời vua Tây Sơn nói là thật, người thì bảo lời
vua Tây Sơn nói là giả; đại để cũng chỉ đoán có hai việc là ông ta đi hay ở
lại, mà cứ hư hư thực thực, chẳng ai biết đích xác như thế nào cả.
Nhưng người trong nước biết rõ hay
không biết rõ, vua Tây Sơn cũng chẳng cần. Chỉ riêng có Nguyễn Hữu Chỉnh là
người trong bọn, lại là tay quỷ quyệt, nên vua Tây Sơn mới phải tìm đủ mọi
cách để kiềm chế mà thôi.
Lúc này, trong bụng vua Tây Sơn
rất nôn nóng muốn về, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra vẻ ung dung, thư thái. Sau lễ
tiếp kiến, vua Tây Sơn sai Chỉnh chọn ngày tốt, để vào làm lễ ra mắt ở nhà
Thái-miếu. Chỉnh xin chờ đến sau tết Trung thu, vua Tây Sơn cũng bằng lòng.
Rồi nhân nói đến chuyện hôn nhân của Bình, vua Tây Sơn bảo Chỉnh:
- Chú hai ra đây, được ngươi làm
mối cho cô vợ đẹp; riêng ta lại không ư?
Chỉnh thưa:
- Chỉ sợ thánh thượng chê gái Bắc
Hà quê mùa mà thôi. Nếu như thánh thượng rộng lượng bao dong, thì sự đó cũng
chẳng phải là khó!
Vua Tây Sơn cười mà rằng:
- Thế thì ngươi còn nợ ta đấy,
phải trả mau đi nhé!
Chỉnh thấy lời lẽ của vua Tây Sơn
có vẻ ung dung thong thả, do đó cũng yên lòng, bèn xin lui về.
Ngày 17 tháng ấy, vua Tây Sơn bí
mật hạ lệnh cho tất cả các quân thuỷ, bộ đều phải sửa soạn hành trang nai nịt
gọn gàng. Rồi sợ Chỉnh ở ngoài thấy rõ tình hình sinh nghi, vua Tây Sơn bèn
cho đòi Chỉnh vào hầu, giữ chân Chỉnh từ sáng đến tối, người ngoài không được
vào, tin ngoài không cho tới. Vì thế nên mọi việc xảy ra ở bên ngoài, Chỉnh
đều không biết gì hết. Đến khuya, vua Tây Sơn mới thả cho Chỉnh ra. Kịp đến
khi Chỉnh về nhà, người nhà có kẻ báo cho Chỉnh biết việc vua Tây Sơn sắp về,
thì Chỉnh còn nửa tin nửa ngờ nói:
- Ta suốt ngày ngồi hầu, chuyện
trò rất thư thái, làm sao lại có sự lật đật như vậy được?
Đến canh hai đêm ấy, vua Tây Sơn
cho người vào gõ cửa điện, ngỏ lời từ biệt hoàng thượng, nói là sớm mai rút
quân về Nam. Vậy mà Chỉnh cũng vẫn không biết gì cả.
Trước đó hơn mười ngày, đêm nào ở
trại quân Nam cũng nổi chiêng trống vang trời, nhưng sang đến đầu canh hai
thì chỉ còn thưa thớt vài tiếng, rồi từ canh ba trở đi thì lặng như tờ, không
còn tiếng nào nữa. Vì thế, mỗi hôm cứ vào quãng nửa đêm, người trong kinh lại
tưởng là quân Tây Sơn ngầm rút đi rồi; nhưng đến sáng ngày mai thì lại thấy
doanh trại vẫn y nguyên. Từ đó về sau ai cũng cho là thường, không hề để ý.
Mà tiếng trống canh cũng không còn lấy gì làm chuẩn xác nữa.
Phép quân Tây Sơn, lệnh cấm ban
đêm rất ngặt. Thám tử của Chỉnh mọi đêm đều không được ra ngoài. Đêm ấy,
khoảng đầu canh năm, bọn thám tử của Chỉnh liều mạng xông ra đường không kể
gì lệnh cấm; khi vượt qua mấy điếm canh, vừa đi vừa nghe ngóng thì thấy tất
cả đều vắng lặng không có tiếng người. Chúng đi vòng đến cửa phủ, ngó khắp
bốn phía cũng không thấy có người nào, mà chỉ thấy gáo mẻ nồi vỡ vứt bừa bãi
trên đường. Chúng vội vàng đi ra bến sông, thì ở đó chỉ có trời nước mênh
mông, hàng trăm vạn lâu thuyền trước đấy, không biết đi đâu hết cả. Lập tức
chúng chạy về báo với Chỉnh.
Chỉnh được tin ấy, trong bụng cực
kỳ hoang mang, tự biết mình đã thất thế, ở lại thì không dám, mà bỏ đi thì
cũng dở: đường thuỷ không có thuyền, đường bộ không có quân, muốn trốn không
có chỗ trốn, không biết nên đi đường nào.
Người nhà Chỉnh khi ấy cũng rất sợ
hãi. Nhưng Chỉnh trong lúc sống chết nguy cấp như vậy, vẫn còn dở giọng bông
đùa mà rằng:
- Ta đã đi khắp bốn biển chín
châu, chẳng lẽ khi trở về xó bếp, lại bị chuột chù gặm chân ư? Không sợ!
Không sợ! Ta cứ ở đây xem sao?
Bấy giờ bọn người nhà mới hơi vững
dạ. Chỉnh bèn bí mật sai người chạy gấp ra bến Cơ Xá tìm thuyền. Tảng sáng,
kiếm được một chiếc thuyền buôn. Chỉnh cùng bọn tay chân độ vài chục người đi
đến cửa ô Tây Long thì bị dân chúng ở kinh kỳ từ tứ phía kéo ra đuổi bắt.
Chỉnh một mình một đao quay lại đón đánh, mọi người phải chạy tán loạn. Thừa
cơ, Chỉnh liền cướp đường chạy xuống bến sông, nhổ neo buông thuyền, thuận
dòng xuôi thẳng ra cửa biển để theo quân Nam. Còn ngựa xe, khí giới, đồ đạc,
của cải của Chỉnh đều bỏ lại ở chùa Tiên-tích, không biết bao nhiêu mà kể.
Khi trời sáng rõ, có người đem
chuyện đó tâu vơí hoàng thượng, hoàng thượng vẫn không tin. Sau cho người đi
tra xét, mới biết là thật, hoàng thượng hết sức kinh ngạc, vội cho đòi các
quan vào triều hỏi rằng:
- Anh em hắn cướp hết của nước ta
mà đi, để cái nước rỗng không lại đây cho ta, nếu như có việc nguy cấp thì
lấy gì mà chống chế?
Các quan ngơ ngác nhìn nhau, chưa
biết nên nói thế nào. Chợt viên quan hầu cận tâu rằng:
- Hôm qua vâng chỉ truyền sớm nay
thiết triều. Bây giờ ngự giá đã cột ngựa rồi, dám xin tâu lại.
Hoàng thượng bèn hỏi các quan:
- Phiên chầu này hãy thôi chăng?
Các quan đều nói:
Hoàng thượng ra triều để ban chiếu
chỉ đổi niên hiệu, đó là việc lớn, sao lại thôi?
Hoàng thượng bèn ra ngự triều, rồi
ban tờ sắc công bố việc đổi niên hiệu, lấy năm sau tức năm Đinh mùi (1787)
làm năm đầu niên hiệu Chiêu-thống. Trong tờ sắc đó, chỗ nào cũng một rằng nhờ
đức vua của quý quốc, hai rằng nhờ thượng công của quý quốc, giọng văn đại để
đều là những câu viết trong lúc vua Tây Sơn còn ở kinh sư; vả lại, những chỗ
kể tội của họ Trịnh cũng hơi nhiều. Vì thế có người bàn rằng: Nay họ đã về
rồi, nên đổi lại hết cả đi! Song trong khi vội vàng không làm kịp, nên lại cứ
để như cũ không sửa đổi gì.
Tan chầu, hoàng thượng bảo các
quan ở lại triều đường họp thêm để bàn việc.
Nguyên hoàng thượng là người anh
minh, quả quyết, từ lâu vẫn căm tức về việc bị nhà Trịnh chèn ép. Vả hoàng
thượng với Thịnh vương lại có mối thù không đội trời chung (đây chỉ vào việc
Trịnh Sâm giết Lê Duy Vỹ, tức là cha Lê Duy Kỳ), nên khi được Tây Sơn ra diệt
Trịnh, hoàng thượng rất mừng. Lúc Đoan nam vương chết, hoàng thượng đang còn
là hoàng tự tôn; tiên đế sai hoàng thượng đem các hoàng tử đến chỗ Bình ở tỏ
lời chúc mừng, hoàng thượng đã nói với Bình rằng:
- Tôi có thù cha chưa trả, nay ông
trả thù thay cho tôi, đời tôi không còn mong gì hơn thế. Nếu thân này có phải
chết ở quý quốc, tôi cũng không hề phàn nàn. Huống chi ông còn phò dựng họ
Lê, khiến cho được thờ phụng tôn xã lâu dài, công đức ấy thật không nói sao
cho xiết.
Bình đáp:
- Đạo trời vẫn hay đền bù. Đấng
thái tử xưa bị hại, thì nay hoàng tự tôn cố nhiên là phải được hưởng phúc
thái bình, thống nhất.
Kịp đến khi tiên đế băng, hoàng
thượng lên nối ngôi, liền hăng hái tự gánh lấy việc nhất thống. Lại muốn nhân
dịp quân Nam tôn phò, tự mình gây lấy uy thế, cho nên trong khi quân Nam chưa
về, hoàng thượng đã nuôi ngầm vây cánh. Ngoài việc sai các hoàng thân ai về
quê ngoại của nấy, để chiêu tập binh mã phòng khi dùng đến, hoàng thượng còn
cho người tìm kiếm các nho sĩ, mời vào giúp việc cho mình. Về mặt quan văn,
lúc ấy đã thu dùng được bọn Ngô Vi Quý, Vũ Trinh, Nguyễn Nễ. Hoàng thượng
ngày đêm cùng họ trù tính mọi công việc, ngay cả những mưu kế phải dùng đến
trong lúc bối rối bất ngờ, cũng được lo toan chu đáo.
Bấy giờ, danh tướng trong thiên hạ
thì có Thạc quận công Hoàng Phùng Cơ, Liễn quận công Đinh Tích Nhưỡng. Còn
văn thần mà có binh lực mạnh mẽ thì có Dương Trọng Tế (còn có tên là Trọng
Khiêm, người xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, đỗ tiến sĩ).
Hoàng Phùng Cơ từ khi thua trận ở
Thuý ái, phải chạy về Sơn Tây, vẫn còn nấp náu chưa dám ra.
Nhưỡng từ khi bị tan đạo quân ở
Sơn Nam, liền về Cẩm Giàng, đem hết cả họ hàng ra chiếm luôn lấy trấn Hải
Dương. Trấn này lúc trước chưa bị binh đao, trong thành còn có năm vựa thóc
công, Nhưỡng bèn đem số thóc ấy ra nuôi quân. Nhờ đó Nhưỡng chiêu mộ được hơn
một ngàn dũng sĩ, thanh thế lẫy lừng. Lúc ấy lại có một tên cướp biển là
Thiêm Liên, nghe tiếng Nhưỡng cũng đem đồ đảng xin theo, thành ra Nhưỡng có
trong tay cả thảy tới vài vạn quân.
Hồi Chỉnh mới về kinh sư, đã có
viết thư gọi Nhưỡng. Nguyên Nhưỡng với Chỉnh đều là môn hạ của quận Việp, hai
người vốn ăn ý với nhau. Nhưng khi viết thư trả lời Chỉnh, thì Nhưỡng lại
kiếm cớ từ chối không đến, Chỉnh cũng chưa có thì giờ hỏi đến việc ấy. Do đó,
Nhưỡng được chuyên giữ một lộ, ngày đêm ra sức luyện tập quân lính.
Còn viên văn thần Dương Trọng Tế
thì vốn không biết việc binh. Nhưng Tế có Dương Vân là con trai người anh
ruột, tính rất hung tợn, vẫn thường tụ tập những phường vô loại, hoành hành ở
các làng xóm, ai cũng phải khiếp sợ. Lúc quân Nam ra, Vân ngầm cho gọi thợ
rèn đến rèn đúc khí giới. Bình sai người tìm thợ rèn, nhân biết việc đó, bèn
cho tróc nã bọn Vân. Vân đóng cổng làng, bắt hết những người của Bình đem
giết đi. Trọng Tế cả sợ, bất đắc dĩ mới phải khởi binh, kéo cờ, chiếm cứ
huyện Gia Lâm. Chỉ trong mười ngày, quân của Tế đã lên trên một vạn. Quân
tuần tiễn của Tây Sơn sang đánh không hạ nổi.
Lúc quân Tây Sơn còn ở kinh thành,
người trong kinh đồn rằng: hai đạo đông tây đã hợp quân làm một chẳng bao lâu
sẽ tới dưới thành. Đến lúc quân Nam lén rút đi, trong thành trống rỗng, các
quan bàn nên gọi các hào kiệt vào giữ hoàng thành. Bấy giờ ai có người nào
quen biết, đều xin nhà vua ban chỉ đi vời. Trong một ngày, chỉ dụ đưa đi đến
hơn mười đạo. Nhưỡng và Tế cũng đều ở trong số những người bị gọi.
Hoàng thượng cho rằng Tế là quan
văn, nghe mệnh nhà vua tất phải đến ngay; còn Nhưỡng là quan võ, lại có chút
tiếng tăm, nếu mời mọc không trịnh trọng, chưa chắc Nhưỡng đã chịu đến. Bởi
vậy, hoàng thượng mới sai thảo một tờ sắc, lời lẽ cực kỳ ôn tồn, và trong sắc
lại có các lời hứa như "nguyên huân" "đồng hưu", v.v...
("Nguyên huân" là người có công lao cao cả trên hết, "Đồng
hưu" là hưởng chung mọi sự tốt lành) Rồi sai người đem sắc đưa cho
Nhưỡng.
Nhưỡng đọc tờ sắc vừa khóc vừa
nói:
- Nhà tôi mười tám đời quận công,
ơn nước thật cao dày, đội trời đạp đất há dám quên ơn? Nay tôi còn có dăm ba
người theo, cũng là nhờ về oai đức của nhà vua. Bây giờ đã có chiếu mệnh ra
đòi, đáng lý tôi phải lập tức đến ngay trước cửa khuyết. Nhưng vì tôi còn
đang bận kiểm điểm binh mã, sắm sửa hành trang chưa thể đi được; vậy xin hãy
hoãn cho tôi chừng năm ba ngày nữa, tôi sẽ vào triều sau.
Đoạn Nhưỡng thảo tờ tâu và sai
người theo sứ giả về kinh dâng vua.
Lúc Nhưỡng chưa đến kinh, người ở
đây đồn rầm lên rằng Nhưỡng đem thuỷ binh đánh úp quân Nam, bắt được không
biết bao nhiêu mà kể. Lại có tin nói rằng Nhưỡng đã tóm được Chỉnh, chặt hết
chân tay làm hình "lợn người", chỉ trong sớm tối sẽ đưa tới kinh.
Chợt lại có tin rằng con "lợn người" ấy đã được đưa đến kinh rồi.
Thế là người ta tranh nhau đi xem. Một ngày có đến bốn năm lần háo hức, ồn ào
lên, và cứ như vậy luôn trong mấy ngày liền.
Bởi lẽ đó, hễ ai nghe tên Nhưỡng
cũng đều khiếp phục và trông ngóng.
Hoàng thượng nhận được tờ tâu của
Nhưỡng, thấy lời lẽ chan chứa lòng trung vua yêu nước, thì rất mừng, cho rằng
Nhưỡng tất là người có thể tin cậy được, nên trong bụng cũng đỡ lo.
Lại nói, sau khi họ Trịnh bị diệt,
quân Tây Sơn giết chết Đoan nam vương rồi kéo về Nam, những gia đình quan lại
cũ và những bầy tôi còn sống sót ai nấy đều tiếc cho vương không khéo lẩn núp
để đến nỗi bị nạn. Lòng họ vẫn còn chưa tuyệt vọng đối với họ Trịnh.
Bấy giờ con đầu lòng của Đoan nam
vương hãy còn nhỏ, vương thân Khanh quận công Trịnh Kiều thì đã già nua; chỉ
còn có Côn quận công Trịnh Bồng và Thuỵ quận công Trịnh Lệ khi ấy đều khoảng
bốn mươi tuổi, là có thể đảm đương được công việc.
Côn quận công là con trai Dụ tổ
(tức Trịnh Giang), tính nết hiền từ khoan hậu, được nhiều người yêu mến. Cuối
đời Thịnh vương, vì việc con thứ lôi thôi chúa đã muốn cho Thị Huệ nuôi Côn
quận công Trịnh Bồng làm con, để nếu bệnh của vương tử Cán không khỏi, thì sẽ
lập Côn quận công làm chúa. Nhưng rốt cuộc ý định ấy vẫn chưa thực hiện được.
Đến lúc thế tử Tông lên ngôi, kiêu binh mấy lần muốn phò dựng Côn quận công,
họ vào tận nhà để thúc ép và đón rước ông ta, khiến ông ta phải lẩn vào phủ
chúa kể rõ đầu đuôi với Đoan nam vương, rồi mới dám về nhà.
Còn Thuỵ quận công là con trai
Nghị tổ (Trịnh Doanh) là em ruột Thánh tổ (Trịnh Sâm), vốn là người khôn
ngoan và thông minh. Lúc Nghị tổ còn sống, quận Thuỵ thường vẫn có ý muốn
cướp quyền con cả. Đến khi Nghị tổ mất, Thánh tổ lên làm chúa, quận Thuỵ bèn
cùng với một người gia thần là Phạm Huy Cơ, tiến sĩ khoa Đinh sửu (1757) mưu
toan việc cướp ngôi. Chẳng may bị Dương Trọng Tế phát giác, Thánh tổ lấy tình
anh em ruột thịt tha tội chết cho quận Thuỵ, và bắt giam vào một nơi. Kịp khi
Đoan nam vương lên ngôi, vương nghĩ nể mẹ quận Thuỵ là bà dì mẫu của mình,
liền thả quận Thuỵ ra khỏi ngục. ít lâu sau, gặp lúc bọn kiêu binh oán giận
vương, quận Thuỵ lại thừa cơ cùng với bọn này mưu cướp ngôi
của vương. Nhưng việc cũng bị lộ.
Mẹ Đoan nam vương vì lẽ quận Thuỵ là con trai của chị ruột mình, nên phải
đứng ra cố xin với vương, vương nể lời mẹ, lại tha cho quận Thuỵ.
Lúc quân Tây Sơn kéo ra, quận Côn
chỉ đem theo một con đòi, một tên đày tớ, lánh vào huyện Chương Đức, lẩn lút
trong đám dân gian làm kế ở ẩn lâu dài. Còn quận Thuỵ thì trốn về huyện Văn
Giang, cùng với Thần trung hầu (tức Trương Tuân, người xã Như Quỳnh, huyện
Văn Giang) ngầm chiêu tập binh mã, hòng có dịp là sẽ nổi lên.
Thần trung hầu là con trai của
công chúa Quỳnh Anh, đối với quận Thuỵ và chỗ con cô con cậu. Thần trung hầu
đỗ tạo sĩ, đã từng coi cấm quân, lại từng làm trấn thủ trấn Kinh Bắc. Khi
nghe tin quân Tây Sơn đã rút, Thần trung hầu bèn dựng cờ viết hai chữ
"cần vương", rước quận Thuỵ qua sông, rồi theo bến Thanh Trì đi
thẳng lên cung Tây-long. Lúc này, quân của Dương Trọng Tế vâng chỉ hoàng
thượng từ Gia Lâm vượt sông sang, tình cờ chạm trán với quân của quận Thuỵ.
Nguyên trước kia, Tế mới đỗ tiến
sĩ và ra làm quan được ít lâu, thì đã phải bãi chức quan hơn mười năm vì tội
ăn của đút; mãi sau nhờ công phát giác việc quận Thuỵ mưu phản, mới được phục
chức. Bấy giờ gặp quận Thuỵ, Tế vô cùng sợ hãi, bèn đem quân xin hàng để
chuộc lỗi xưa. Quận Thuỵ tức thì sai luôn Tế và Thần trung hầu đóng quân ở
ngoài thành, khua chiêng đánh trống, thanh thế rất là lừng lẫy.
Khi ấy, hoàng thượng nghe tin Thần
trung hầu đang lảng vảng ở bên ngoài, bèn sai người ra gọi vào. Thần trung
hầu vào yết kiến, hoàng thượng liền bảo rằng:
- Ngươi là danh tướng con nhà
dòng, nay dấy quân gìn giữ kinh thành, tấm lòng trung nghĩa ấy trẫm rất ngợi
khen. Vậy ngươi cứ mang quân vào, trẫm sẽ tuỳ việc mà dùng.
Thần trung hầu quỳ tâu:
- ở trong bốn biển, ai chẳng là
tôi nhà vua. Bệ hạ khoanh tay rủ áo không làm việc gì, thì còn cần chi binh
lính bảo vệ? Duy có nhà chúa chẳng may bị lũ lính mọi làm hại, thì mới cần
kíp phải dùng đến binh lính mà thôi!
Nói đoạn, Thần trung hầu lạy tạ đi
ra.
Hoàng thượng giận, sai quan trấn
điện đem quân đuổi chém. Mọi người phải cố sức can ngăn, hoàng thượng mới
thôi.
Thần trung hầu về nói với Trọng Tế
rằng:
- Xưa nay nhà chúa truyền ngôi,
nối ngôi, có bao giờ phải xin mệnh lệnh nhà vua đâu? Thường thường khi công
việc đã làm xong rồi, bấy giờ mới đệ tờ tâu vào triều. Ngay cả những tờ sắc
dụ, sách phong, cũng đều do nhà chúa thảo sẵn trước, sau đó đệ lên hoàng
thượng ngự lãm qua, rồi đưa trả về phủ chúa để tuyên bố thi hành, thế là
thành mệnh (mệnh lệnh của vua làm thành từ trước), cần gì phải xin phép nhà
vua cho thêm rắc rối?
Rồi hai người bèn tức tốc chỉnh
đốn hàng ngũ binh lính, rước quận Thuỵ vào thành. Bấy giờ trời đã xẩm tối,
chừng đến canh hai mới vào tới phủ. Họ bèn thắp đèn sáng trưng khắp cả phủ,
đánh ba hồi chín tiếng trống, rồi phò quận Thuỵ lên ngôi. Thần trung hầu và
Trọng Tế tự chia làm hai ban đứng ra lạy mừng. Lạy xong, họ lại bảo các quân
sĩ cùng hò reo cho thêm rầm rộ.
Sau đó, hai người chia quân đi
đóng giữ các cửa thành cùng các điếm canh trong kinh đúng như lệ cũ. Đến sớm
mai, họ mới cho người đi gọi các quan văn võ.
Các quan văn là Hoàng quận công,
Tứ xuyên hầu, Thao đường hầu, Kiến xuyên hầu, Luyện đường hầu, cùng vài ba
viên tiến sĩ, khi ấy đang ở trong triều, thấy có giấy đòi, liền bảo nhau
rằng:
"Quận Thuỵ từ trước đến giờ,
đã từng ba lần gây việc mà đều không thành. Con người mà tâm địa như vậy, hẳn
không phải là "của quý". Thần trung hầu là hạng công tử ăn chơi,
bình sinh chỉ biết ban đêm uống rượu say mềm, rồi lăn ra ngủ đến khi mặt trời
sắp xuống núi mới dậy. Như thế, trong một ngày còn được mấy giờ để lo việc
nước mà còn muốn làm đại thần? Trọng Tế hồi trước phản quận Thuỵ, nay lại
theo quận Thuỵ, há cũng là "đồ vật ở chốn miếu đường" được ư? (câu
này ý nói Trọng Tế không phải là người xứng đáng làm một vị đại thần ở triều
đình) Huống chi, một việc lớn lao như vậy, mà trên không xin mệnh lệnh của
nhà vua, dưới không thu góp ý kiến của mọi người, chỉ cắm đầu nhắm mắt để tự
làm với nhau, lẽ nào lại thành việc được? Hoàng thượng vốn anh minh, quả
quyết, chắc chắn bọn ấy không thể lấn ép được. Chúng ta chớ nên hấp tấp, nhẹ
dạ mà đến với họ, kẻo sau này có hối lại cũng không kịp!".
Thế rồi, mấy người sai viên thư
lại trả lời cho bọn Thần trung hầu và Trọng Tế, đại để như sau: "Các
quan trong triều vì chưa vâng mệnh của hoàng thượng, cho nên không dám tự
tiện tới phủ chúa. Xin hai quan lớn trình chúa hãy thảo giấy tâu xin mệnh
lệnh của hoàng thượng, thì các quan sẽ xin vâng mệnh hoàng thượng sang phủ
lạy mừng".
Trọng Tế bèn tự ý làm một tờ tâu
rằng: "Thần là Trịnh Lệ kính tâu: Nhà thần đời đời nối nghiệp chúa, tôn
phò nhà vua. Vừa rồi nhân vì quân mọi vào cướp, tôn miếu nghiêng đổ. Mây nhờ
trung thần nghĩa sĩ một lòng giúp rập, giặc mọi nghe tin, đang đêm phải hốt
hoảng chạy trốn. Hôm mồng mười tháng này, thần đã vào ở trong phủ. Vậy cúi
xin ban cho sắc dụ, khiến thần được nối ngôi chúa, đời đời tôn phò, để giữ
vững lấy cái cơ nghiệp vua, chúa trong ngàn vạn năm".
Hoàng thượng coi tờ tâu, cả giận
nói:
- Nhà Trịnh là kẻ dưới mà dám lấn
người trên, nên mới chuốc lấy cái nạn bại vong. Thế mà nay nó lại vẫn đi theo
cái vết xe đổ ấy. Nó định khinh trẫm ít tuổi hay sao?
Khi ấy, quân của hoàng thượng
chiêu mộ, đã có tới vài ngàn người, hiện đã đến ở trước cửa khuyết. Các quan
tả hữu bèn khuyên hoàng thượng rằng:
- Chẳng qua hắn cũng giương to
thanh thế đấy thôi! Ta cứ doạ cho hắn sợ, ắt là có thể nhân đó mà đè bẹp được
hắn. Hắn có một vạn thủ hạ, quân ta cũng hàng mấy ngàn; nếu như hai bên đánh
nhau, hắn muốn nuốt ta cũng chưa dễ đã nuốt trôi. Vả chăng nhân dân trong
nước tuy nơi nào theo sự kêu gọi của hào kiệt nơi ấy mà nổi lên, và cố nhiên
lại có chia ra đám nọ đám kia khác nhau, nhưng cái lòng tôn vua thì đều như
nhau cả. Nếu lấy việc chống lại nhà vua để nổi dậy, thì quyết không một người
nào dám theo. Nay quận Thuỵ không chịu vào triều để bái yết, lại nghênh ngang
ngồi trong phủ, chưa được mệnh vua mà đã xin sắc dụ, nếu ta dễ dãi cho hắn
ngay, sau này khí thế của hắn mạnh thêm, sẽ có nhiều điều khiến ta không thể
chịu nổi. Vậy xin cứ bắt hắn phải vào lạy trước đã rồi mới được lập, chắc
chắn là hắn sẽ không dám tới. Hắn không tới, thì việc sách lập sẽ chậm, mà
thế lực của hắn tất nhiên sẽ tan vỡ. Thần trung hầu, Dương Trọng Tế hai người
ngồi suông trong phủ mà đóng vai quan võ, quan văn phường chèo, thì rốt cuộc
cũng chẳng được mấy lúc.
Hoàng thượng theo lời, sai thảo
một tờ chỉ, truyền dụ cho Trọng Tế, nói rõ lệ cũ mỗi khi lập ngôi chúa, thì
chúa mới phải thân hành vào triều vâng mệnh nhà vua; rồi nhà vua mới hậu đãi
bằng cái lệ "vào triều không lạy, tờ tâu không xưng tên". Thảo
xong, hoàng thượng sai viên nội hàn là Lê Hữu Cáo đem tới phủ đường.
Trọng Tế xem rồi, tức thì xé tan
tờ chỉ dụ ngay trước mặt sứ giả mà nói:
- Lạ thay, ta chưa từng thấy triều
nào, đời nào lập ngôi chúa mà vua lại dám ngăn trở như vậy! Chắc là mấy thằng
rồ dại đã lạy quân mọi hôm nọ, sợ rằng sau khi lập chúa, chúa sẽ hỏi tội
chúng nó, cho nên chúng nó mới xúi bẩy nhà vua đấy thôi. Ta cần gì phải xin
xỏ, cứ việc đem quân đến bắt hết mấy thằng xúi bẩy ấy đi, cho trơ cái ngai gỗ
ra. Xem vua có cho lập hay không cho lập?
Đoạn, Trọng Tế lại bảo sứ giả:
- Ông về tâu với hoàng thượng,
chúa vẫn làm chúa, nhà vua có thiệt hại gì đâu? Xin hãy cứ lập đã, rồi sẽ vào
lạy sau:
Sứ giả về triều tâu hết đầu đuôi,
hoàng thượng càng tức giận mà rằng:
- Nó khinh ta quá lắm! Như thế nó
còn phải xin mệnh của ta làm gì? Thôi mặc cho nó tự làm lấy, ta cũng không
khiến nó lạy nữa!
Các quan trong triều thấy vậy,
thảy đều run sợ. Giữa lúc ấy, bỗng có tờ tâu của quận Côn đệ vào, đại ý nói
rằng: "Tổ tiên nhà thần giúp đức tiên đế gây nghiệp trung hưng, đội ơn
thiên tử xét công ban thưởng rất hậu, phong cho ngôi chúa. Đến đời gần đây,
vì chuyên quyền lâu ngày, đâm ra kiêu lộng, làm những việc trái với lẽ
thường, đến nỗi sụp đổ mất cơ nghiệp của tổ tông. Nay thánh thiên tử thống
nhất thiên hạ, đùm bọc che chở, tấm lòng rộng mở bao la như trời đất, chẳng
nỡ làm tuyệt diệt tôn miếu nhà thần. Thần may được là dòng trưởng họ Trịnh,
lánh nạn nấp ở dân gian, cái bụng mến nhớ tông miếu, bâng khuâng suốt cả đêm
ngày, chỉ vì chưa được chiếu chỉ, cho nên thần vẫn chưa dám tự tiện vào
thành. Vậy dám đánh bạo tâu lên hoàng thượng xem xét".
Hoàng thượng coi hết tờ biểu, rất
hài lòng, khen:
- Trẫm nghe nói quận Côn là người
hết sức lễ độ, khiên tốn, quả nhiên không sai!
Rồi ngài sai giao tờ biểu đó xuống
cho triều đình bàn bạc. Các viên quan triều nghe tin quận Côn ở vùng Chương
Đức, hiện có cái thế nổi lên được, ai nấy đều ngầm có bụng ngả theo, nên đều
khuyên hoàng thượng xuống chỉ vời vào.
Quận Côn tiếp được chiếu chỉ, lập
tức phân chia hàng ngũ người ngựa, luôn trong bữa ấy lên đường về kinh. Quan
quân lại sĩ nghe tin, tranh nhau đi đón.
Thần trung hầu và Trọng Tế thấy
vậy đều sợ hết hồn hết vía, đám người đi theo cũng hơi ngã lòng. Cả hai bấy
giờ mới chịu lép vế cúi mình, sai người vào triều tâu xin cho quận Thuỵ tới
lạy. Hoàng thượng ưng lời.
Khi sứ giả ra khỏi, hoàng thượng
bèn sai lính phục sẵn ở bên cầu Cận-thiềm, chờ quận Thuỵ và bọn Thần trung
hầu, Trọng Tế tới nơi sẽ bắt lại để hỏi tội.
Nhưng quận Thuỵ rốt cuộc cũng
không dám vào. Trọng Tế biết việc không xong, bèn nói với quận Thuỵ, xin để
mình và Thần trung hầu chia quân chống chọi với quận Côn. Quân của Trọng Tế
ra đóng ở cửa ô Trường-bắn (ở vào khoảng Giảng Võ, Voi phục trên đường Đại
La, Hà Nội bây giờ), còn quân của Thần trung hầu thì đóng ở cửa ô Xã Đàn [nay
ở vào khoảng làng Xã Đàn và Nam Đồng (Hà Nội)].
Rồi thừa cơ, Trọng Tế bèn bí mật
sai Nguyễn Mậu Nễ đem một cánh quân lẻn đi xin hàng.
Nễ tới làng Nhân Mục, vừa gặp tiền
quân của quận Côn. Nễ liền sai quân lính cắm ngược gươm giáo xuống đất, hai
tay chắp lên trán, đứng ở bên trái đường. Khi kiệu của quận Côn đến nơi, Nễ
quỳ xuống, thuật rõ ý của Trọng Tế. Quận Côn bằng lòng, sai ngay Nễ làm tiền
bộ tuyển phong. Đi đến dưới lầu Trường Thi, gặp quân của Thần trung hầu chĩa súng
bắn thẳng vào, quân của Nễ liền ngồi thụp cả xuống đất để tránh đạn. Quân của
Thần trung hầu kéo ùa tới. Quân của Nễ bấy giờ mới nhất tề đứng dậy, xông bừa
vào đám quân của Thần trung hầu. Quân Thần trung hầu thấy quân Trọng Tế đã
đầu hàng như thế, liền vất bỏ cả gươm giáo mà chạy. Quân Nễ và quân của quận
Côn thừa thế đuổi thẳng đến trại Nam Đồng, chém được chừng vài trăm người,
quân của Thần trung hầu thua to phải chạy vào thành. Thế là tất cả đều tan
vỡ. Quận Thuỵ, Thần trung hầu, Trọng Tế không còn dịp nhìn nhau, nhắm thẳng
phía cửa ô Ông Mạc, mạnh ai nấy chạy lấy thân mình.
Quận Côn kéo quân vào thành. Khi
ấy đám tàn quân của Trọng Tế ở cửa ô Trường Bắn, phía ngoài bị quân của quận
Côn chẹn ngang, phía trong bị lính thị vệ của nội điện chặn giữ, thành ra
chúng không còn đường nào mà chạy, phải liều chết cố đánh.
Chúng đâm một hoàng thân ngã ngựa
chết. Hoàng thượng cả giận, liền sai quân bổ vây, bắt hết cả bọn đem chém,
máu chảy lênh láng, ngập đến mắt cá chân. Hôm ấy là ngày 14 tháng chín.
Lại nói, bấy giờ thanh thế của
quận Côn rất là ghê gớm. Nhưng vì thấy y có vẻ cung kính, hoà thuận, nên
hoàng thượng định hãy cứ vỗ về y, rồi sẽ ngấm ngầm uốn nắn dần.
Đến lúc quận Côn đã vào trong
thành, hoàng thượng liền sai dẫn y tới ra mắt ở điện Vạn Thọ. Quận Côn lạy
năm lạy và rập đầu vái ba vái. Lễ xong hoàng thượng cho ngồi và bảo:
Nhà chúa trải hai trăm năm tôn
phò, công lao đối với nhà vua không phải là nhỏ. Trẫm muốn đền ơn thật hậu.
Xét trong họ hàng nhà chúa, không ai được hiền như ông, vả ông lại là ngành
trưởng, nên việc nối dòng tế tự trẫm vẫn để dành cho ông.
Quận Côn tâu rằng:
- Thần vốn là kẻ hèn mọn, tính lại
ưa sự điềm tĩnh. Gặp lúc vận nhà suy bĩ, thần đành cam phận bỏ đi, những toan
khoác áo cà sa mà sống cho trọn quãng đời thừa. May sao, nhờ hoàng thượng sẵn
có mưu mô thần thánh, xoay lại vận hội trời đất, nên nạn nước lại yên, thần
lại được trông thấy mặt trời. Bây giờ, hoàng thượng lại nghĩ đến tiên tổ nhà
thần, mà không nỡ dứt bỏ thần, thần kính xin được về triều để đợi mệnh. Gây
dựng cho thần kiếp này, đều là ơn của hoàng thượng vậy!
Hoàng thượng khen phải, rồi hỏi
luôn:
- Thế đã chọn nơi nào để đóng quân
hay chưa?
Quận Côn đáp:
- Toà lượng phủ (phủ cũ của thế tử
họ Trịnh) còn có thể che mưa che gió, thần xin ở đấy.
ý hoàng thượng không muốn cho quận
Côn ở trong phủ, bèn nói:
- Nhà cũ của ông không việc gì
chứ?
Quận Côn thưa:
- Nhà thần ở chỗ hẻo lánh, lửa
binh không lan tới, nhưng cũng bị người kẻ chợ cướp bóc, tàn phá, không còn
chỗ nào nguyên lành.
Hoàng thượng lại hỏi:
- Thái phi và các vương tử của
Đoan nam vương bây giờ ở đâu?
Quận Côn đáp:
- Trong lúc hoảng hốt vội vàng,
mỗi người chạy đi mỗi ngả, đến khi tạm yên mới kịp dò hỏi. Nay vừa được biết,
họ đều ở nhà Ngạn lĩnh hầu trên trấn Sơn Tây. Nghe đâu ba vị vương tử đã chết
mất hai, giờ chỉ còn vị con cả mà thôi!
Hoàng thượng nói:
- Đoan nam vương xưa cũng có hậu
tình với trẫm, trẫm rất thương xót, thường vẫn cho người thăm viếng phần mộ,
sửa lễ cúng vái, để an uỷ hương hồn. Trẫm cũng thường hay hỏi thăm tin tức thái
phi và các vương tử, đến nay mới biết đích xác. Vậy hãy cho người đón về đây,
trẫm sẽ hậu đãi!
Quận Côn đáp:
- Dạ!
Hồi lâu, quận Côn lạy tạ xin lui.
Khi qua cửa phủ, vào thăm cung miếu, quận Côn gào khóc một chặp, rồi lại sai
xe đưa về lượng phủ. Nhưng bọn tay chân nói:
- Thần dân thiên hạ rước ngài đến
đây, chỉ muốn ngài ở phủ làm chúa, để họ lập chút công danh. Nay ngài lại
nhường phủ không ở, chắc họ sẽ bảo ngài là "vương tử lại hoàn vương
tử". Rồi đó lòng người chán nản, đại binh sẽ tan, khó mà thu thập lại
được. Nếu về ở lượng phủ, thà rằng cứ ở Chương Đức làm một người thanh nhàn,
còn phải lôi kéo bao nhiêu người tới đây làm gì cho nhọc?
Quận Côn nghe lời, bèn lưu lại
trong phủ, vào ở tại Trạch Các, rồi làm tờ tâu lên hoàng thượng, đại ý nói
rằng: "Thần vào thăm gia miếu, trông thấy lửa hương nguội lạnh, quang
cảnh tiêu điều, lòng bồi hồi không nỡ bỏ mà đi. Vậy xin tạm chọn một ngôi nhà
cạnh miếu để ở, cho tiện sớm hôm quét dọn thăm nom, để cho linh hồn tiên tổ
được yên". Hoàng thượng xem tờ tâu, hiểu ý ngay, nhưng thế chưa ngăn cấm
được, liền bảo với các quan tả hữu rằng:
- Nếu muốn ở phủ, tức là lại muốn
được làm chúa rồi. Như thế thì cái nạn quận Thuỵ cũng vẫn chưa trừ được vậy.
Cái ổ đã vỡ đó, hết kẻ kia đi, lại đến kẻ này lại, ồn ào bụi bậm làm dơ bẩn
con người. Trẫm giận mình, lúc Tây Sơn mới đi, đã không kịp cho ngay nó một
mồi lửa cho rảnh!
Hôm sau, hoàng thượng sai các quan
trong triều bàn việc sách phong cho quận Côn. ý hoàng thượng chỉ muốn phong
làm quốc công rồi cho hưởng lộc hậu hơn mà thôi. Nhưng các quan triều thấy
quận Côn giữ binh ở phủ, chắc y không chịu ngồi suông; vả lại, coi cái thế
thiên hạ hùa theo y bây giờ, thì có đè nén cho y khỏi to lớn cũng chẳng được
nào. Bởi vậy, không có người nào dám bàn trước. Chợt có kẻ xin với vua rằng:
- Nhà chúa từ khi Văn tổ (tức
Trịnh Tráng) bắt đầu được phong là chức tiết chế thuỷ bộ chư doanh, bình
chương quân quốc trọng sự và tước quốc công. Bây giờ, xin theo như lệ cũ ấy
mới là có căn cứ.
Hoàng thượng bèn sai lấy quốc sử
xuống để tra xét cho rõ, rồi bắt bớt đi hai chữ "tiết chế". Các
quan triều đều phân vân chưa dám quyết định.
Giữa lúc ấy, chợt có tin báo Liễn
trung hầu Đinh Tích Nhưỡng vâng sắc hoàng thượng đã tới. Nhưỡng có ba ngàn bộ
binh đóng ở Bát Tràng, nói thặng lên là ba vạn, và ba trăm chiến thuyền đóng
ở bến Thuý ái, nói thặng lên là ba ngàn; lại lấy hiệu quân là Đông-giang.
Người trong nước bấy giờ, nghe thanh thế của Nhưỡng, đua nhau đi theo rất
đông.
Nhưỡng đem vài trăm khinh kỵ vào
thành, dương dương tự đắc có vẻ coi khinh cả thiên hạ.
Hoàng thượng thấy Nhưỡng đến vừa
lúc quận Côn cũng đến, e cuộc gặp gỡ ấy làm cho Nhưỡng bất bình, mới sai
người dẫn Nhưỡng vào ra mắt, vỗ về an ủi cực kỳ ôn tồn. Nhưỡng cũng giãi tỏ
hết tấm lòng trung ái của mình. Hoàng thượng bảo Nhưỡng:
- Nhà ngươi nay đã đến đây, nên
đem hết quân vào thành để bảo vệ kinh sư.
Nhưỡng lạy tạ rồi lui ra.
Hoàng thượng lại bảo Nhưỡng ra
triều đình để cùng các quan bàn việc.
Các quan đem lệ cũ ở quốc sử ra
nói với Nhưỡng. Nhưỡng nói:
- Tôi là kẻ võ biền không biết văn
học; chẳng hay hoàng thượng đãi nhà chúa như thế là hậu hay bạc?
Các quan ngập ngừng chưa dám trả
lời ngay. Chợt có Nguyễn Hàn đáp rằng:
- Nhà chúa không thể giữ nổi tôn
miếu, hoàng thượng bảo tồn cho, như thế kể cũng đã là hậu.
Nhưỡng nhìn Hàn chòng chọc và hỏi:
- Ông là tiến sĩ phải không?
Hàn thưa:
- Phải!
Nhưỡng lại hỏi:
- Đỗ khoa nào?
Hàn trả lời:
- Khoa Kỷ hợi (1779).
Nhưỡng nín lặng đi ra.
Các quan cũng đều lui về.
Hôm ấy, thủ bạ của quận Côn vì
muốn dựa vào uy thế của Nhưỡng cho chóng thành việc, mới khuyên quận Côn mời
Nhưỡng đến để phó thác công việc.
Nhưỡng từ chối mà rằng:
- Tôi là bề tôi nhà Lê nhà Trịnh,
chỉ biết có nhà Lê nhà Trịnh, há lại có bụng dạ kia khác nào? Nay ông đến
đây, việc phong tước còn chưa xong, tôi lại vừa mới đem quân tới, nếu tôi vào
ra mắt ông, e khi ông được làm chúa, rồi nay mai hội bàn ở triều đình, tôi có
điều gì không đồng ý kiến với họ, người ta sẽ ngờ cho tôi là tư túi với ông.
Vậy xin hãy cứ chờ đến khi nào có mệnh lệnh nhất định của hoàng thượng, bấy
giờ tôi sẽ đến lạy chào cũng chưa muộn gì.
Hôm sau, hoàng thượng xuống chỉ
phong Nhưỡng tước quận công, rồi sai nội hàn Lê Hữu Cáo khuyên Nhưỡng một
lòng giúp rập nhà vua cho thành công cuộc nhất thống.
Nhưỡng nói:
- Tôi vâng chiếu đến đây, chỉ mong
thánh thiên tử ở trên cầm quyền, nhất thống bốn biển, ấy là phúc của thiên
hạ. Tôi đâu dám chẳng ra sức để làm cho tỏ hết lòng ngu của mình? Nhưng trước
kia tôi trót phạm quân luật, làm tan vỡ cả một đạo quân, để cho việc nước đến
nông nỗi này; mà nay hoàng thượng lại tha tội cho, như thế cũng đã là may mắn
lắm rồi. Còn bây giờ, trong lúc ngôi chúa vẫn chưa định, mà tôi lại đi nhận
phong tước trước, thì dư luận của mọi người sẽ bảo tôi ra sao? Tôi thờ bệ hạ
còn về lâu về dài, vậy nay hãy xin trả lại mệnh phong tước.
Tiện thể, Cáo đem việc hoàng
thượng muốn phong cho quận Côn tước quốc công để dò ý Nhưỡng. Nhưỡng bèn đáp
rằng:
- Thánh thiên thử chẳng thiếu gì
trí tuệ, cứ đãi ngộ thế nào cho xứng với công đức của nhà chúa là được.
Cáo về triều, thuật lại ý Nhưỡng,
và xin theo đúng như lệ phong Văn tổ khi trước. Hoàng thượng lại sai các quan
triều bàn bạc rồi phong quận Côn làm tiết chế thuỷ bộ chư doanh, bình chương
quân quốc trọng sự, tước Côn quốc công, cấp ba ngàn tên lính, năm ngàn mẫu
ruộng, hai trăm xã dân để cung phụng về việc tế tự nhà chúa. Sau đó, các quan
lại đem ý của hoàng thượng nói với Nhưỡng. Nhưỡng chẳng có ý kiến gì khác.
Các quan bèn đem lời bàn của triều đình tâu lên hoàng thượng. Hoàng thượng
nghĩ rằng: Văn tổ ngày xưa lúc mới phong thì thế, mà rồi về sau, lại tiến lên
đến ngôi chúa. Bây giờ nếu không nói trước rõ ràng, e rằng lâu dần sẽ lại
sinh ra những chuyện khác. Bởi vậy, khi đã quyết định việc phong tước quốc
công cho quận Côn, hoàng thượng bèn bắt các quan triều làm tờ sắc dụ, nói rõ
từ nay về sau cứ đời đời nối tiếp tước công mà thôi. Các quan triều vâng mệnh
hoàng thượng làm đúng như vậy. Mấy chữ ấy ghi trong sắc dụ. Nhưỡng không được
biết gì hết.
Hôm sau, hoàng thượng, sai quan
đem sắc đến phủ ban cho quận Côn, rồi lại sai đem dán bản sao ra ngoài cửa
Đại hưng cho thiên hạ đều biết.
Nhưỡng xem tờ yết thị, thấy có chữ
"đời đời nối tiếp tước công" liền hằm hằm mà rằng:
- Lấy tước công làm cái mệnh lúc
đầu, còn có lý. Nay lại nhất quyết hạn định ở tước công, bắt con cháu nhà
chúa đời đời kiếp kiếp cứ phải noi theo như thế mãi thì còn có lý nào nữa?
Vừa rồi giặc đến, nhà vua được tôn phò, các quan văn võ không một người nào
phải mất tước vị; riêng nhà chúa thì có tội tình gì mà lại bị thụt chức? Thử
coi những kẻ tai mắt ngồi ở trong triều, ai không chịu ơn sâu của nhà chúa?
Thế mà bây giờ người ta lại dùng những câu văn khéo léo để chiều ý nhà vua
như vậy, thật là khinh bạc quá lắm! Được! Họ đã nổi tiếng vì câu văn khéo
léo, thì ta cũng lại lấy câu văn khéo léo mà chọi lại, thử xem ai thắng ai?
Rồi Nhưỡng làm luôn một tờ yết thị
như sau:
"Hàm-giang, Đinh mỗ kính đạt
các quan văn võ quý đài:
Nay vâng sắc chỉ lập quốc công để
nối dòng dõi nhà chúa. Nếu như lòng người đều đã thoả thuận, thì nên đến phủ
lạy mừng. Nhược bằng ai còn nghĩ đến công đức nhà chúa, riêng có ý tâu xin
thế nào, thì hãy đến cùng họp ở cung Tây-long, bàn với mỗ về việc thảo biểu
dâng lên hoàng thượng, để cúi chờ thánh thượng xét định, cho thoả lòng mong
mỏi của thiên hạ".
Khi mệnh ban tước quốc công mới
ban xuống, ai nấy đều nghĩ rằng việc đó hẳn chưa hết miệng tiếng. Đến lúc này
Nhưỡng đã đi trước mọi người, lập ra cuộc họp để tranh công đầu. Tuy nhiên,
để phòng ngừa vì lỗ mãng thô bạo mà hỏng việc như bọn Thần trung hầu, Dương
Trọng Tế, nên Nhưỡng cũng không dám dùng uy thế mà ăn hiếp các viên triều
thần hiện đang theo nhà vua. Ngược lại, các viên triều thần khi mới gặp
Nhưỡng, cũng chỉ ngồi im để xem Nhưỡng ngả về bên nào mà cân nhắc nặng nhẹ.
Lúc thấy Nhưỡng kêu gọi hội họp, mọi người tuy không dám theo Nhưỡng, nhưng
trong bụng lại sợ Nhưỡng, vì thế việc theo phò nhà vua cũng có phần chểnh
mảng. Còn nhà vua, tuy vẫn quyết tâm giữ mệnh cũ, không chịu thêm bớt nửa
chữ, xong cũng chỉ xoay xở một mình, không ai là người giúp đỡ.
Bấy giờ, trong hàng quan văn đến
họp với Nhưỡng có Ngô Trọng Khuê, Nguyễn Gia Lịch (có bản chép Nguyễn Văn
Lịch), Nguyễn Tông Điển, Nguyễn Huy Chiểu, Nguyễn Đình Thiều, Phan Huy ích...
cả thảy sáu, bảy người.
Các quan đến dự cuộc họp, được
Nhưỡng đặt tiệc rất to để thết đãi. Tiệc xong, Nhưỡng hỏi mọi người rằng:
- Cái mệnh "quốc công"
các ông cho là thế nào?
Ngô Trọng Khuê đáp:
- Hai trăm năm nay có vua có chúa,
công đức nhà chúa không thể vì một lần thất bại mà hết sạch. Nhà vua còn ít
tuổi, nghĩ ngợi chưa chu đáo. Phụ hoạ với ý nhà vua để làm việc vô lý này, đó
là lỗi của bọn chúng tôi. Phen này chỉnh đốn lại, phi ông thì không xong.
Nhưỡng nói:
- Tôi họp các ông cũng chính vì
việc đó. Bây giờ tôi muốn làm tờ tâu để xin với nhà vua, vậy các ông có hiệp
ý không?
Mọi người đều đáp:
- Không hiệp ý thì đã chẳng đến
đây; đã đến đây tức là không ai không hiệp ý.
Nhưỡng nói:
- Nếu các ông đã hiệp ý, thì nên
thảo ngay tờ tâu để tôi đem dâng hoàng thượng. Hoàng thượng dẫu muốn chẳng
cho, tôi cũng cứ cố xin, đến bao giờ được mệnh lệnh nhất định thì mới thôi.
Một viên quan võ là Nguyễn Gia
Quán nói rằng:
- Thần trung hầu, Dương Trọng Tế
cũng có tờ tâu hẳn hoi, vậy mà chỉ đợi xin mệnh, cho nên rốt cuộc mới hỏng
việc. Nay có đủ cả quan văn, quan võ cùng hội họp như thế này, cứ kéo tuột
vào trong phủ là tự khắc thành triều đình. Triều đình đã thành, thế lớn ắt
phải trở về với nhà chúa. Kìa hãy thử nhìn hai điếm tả hữu (trước kia Trịnh
Cương đặt tả điếm và hữu điếm ở ngoài cửa phủ đường, để làm chỗ trăm quan tra
xét kiện tụng), không lại vẫn hoàn không. Đã đến nước ấy, cần gì còn phải đợi
xin mệnh nữa?
Nhưỡng đáp:
- Tôi muốn làm thế, kể cũng không
khó. Nhưng thiết nghĩ chúa không chịu mệnh của nhà vua, bảo là thuận thì chưa
lấy gì làm thuận. Vả lại tục ngữ đã nói: "Chẳng ai mặc áo qua đầu".
Vì vậy, tôi muốn cứ theo con đường ngay thẳng cho phải lẽ. Tôi không phải là
quân ô hợp như bọn Thần trung hầu và Trọng Tế, để đến nỗi bị người ta bỏ rơi.
Nếu tôi đã tâu xin, hẳn là mấy ông thầy già ngồi trong triều có muốn làm rầy
tôi cũng không thể được.
Sau đó, mọi người bèn thảo tờ tâu,
đại ý nói rằng:
"Nay kính vâng hoàng đế bệ hạ
đoái nghĩ đến nhà chúa, muốn cho được bảo tồn dòng dõi, phong làm tước công,
đời đời giữ việc cúng tế. Thần dân thấy vậy, chẳng ai không cảm kích. Nhưng
nhà chúa từ đức Thái vương về sau vẫn được thiên tử ban cho tước vương. Mới
rồi gặp cơn quốc biến, tiên chúa Đoan nam vương đã phải đem thân chết theo
nước. Bây giờ nạn nước đã qua, vâng được thánh thượng bao dong, các bề tôi
đều không ai bị mất quan tước, riêng có nhà chúa lại phải giáng phong. Như
thế, thần dân nghĩ không đành lòng. Vậy dám cúi xin cho Côn quốc công được
phong lên tước vương, cho thoả lòng mong mỏi của thần dân".
Hoàng thượng xem xong tờ tâu liền
nói:
- Cứ nằng nặc đòi phong vương để
ăn hiếp ta mới sướng hay sao? Nếu yên phận làm tôi, thì công với vương phỏng
có khác gì? Vả lại, mệnh vừa mới ban xuống mà đã muốn đổi, mệnh thiên tử đâu
phải là trò trẻ con?
Các viên quan triều thấy vậy, tự
nghĩ phò chúa đã không dự, giúp vua lại không xong, ai nấy đều muốn tháo thân
mà đi. Tứ xuyên hầu vào tâu với vua:
- Lấy chúa hiếp vua, đó là cái gốc
sinh loạn. Loạn đã đến thế, họ vẫn còn noi theo vết cũ mà làm, chẳng qua cũng
là lòng trời xui khiến ra như vậy. Nhưỡng là kẻ vũ phu, không thể lấy nghĩa
lý mà nói cho hiểu. Thần xin vâng chỉ đến nói thẳng với quận Côn, khuyên y
hãy từ bỏ chuyện xin phong vương, may ra việc nước còn có thể làm được. Nếu
không, phen này mà loạn thì lũ thần không sao xoay chuyển nổi. Dám xin hoàng
thượng hãy tha tội cho thần!
Hoàng thượng bằng lòng, Tứ xuyên
hầu bèn đến phủ nói với Côn quốc công rằng:
- Tôi chịu ơn sâu của nhà chúa,
không phải là không muốn hậu với ông. Nhưng mà biến cố của nước nhà lần này,
chính là một cơ khép mở rất lớn của trời đất; do đó, mọi việc đều không câu
nệ vào nếp cũ. Nay nếu theo lệ nối ngôi ngày trước mà lập, để ép thiên tử
phải làm cái việc không muốn làm, thì thật là quá ư vô đạo. Lũ chúng tôi,
nghĩa không thể nín, cho nên phải nói với ông. Ông nếu bỏ qua lời nói của
tôi, thì loạn lạc sau này, sẽ không thể cứu được nữa. Trong sách đã nói:
"Nước có đạo thì làm quan, nước vô đạo thì ở ẩn." Lũ chúng tôi đành
xin đi từ nay.
Côn quốc công đáp:
- Tôi vẫn tự biết là kẻ hèn mọn,
đâu dám mong những điều quá đáng? Việc này là do Liễn trung hầu gây ra, tôi
thật không dự, xử trí thế nào tuỳ lượng bề trên. Xin ông hãy vì tôi tâu lên
hoàng thượng, soi xét cho tấm lòng ấy của tôi.
Tứ xuyên hầu thấy lời lẽ Côn quốc
công có ý thoái thác, bèn về tâu với vua rằng:
- Việc này thần không thể nào xoay
chuyển được nữa. Hoàng thượng dùng thần cũng là vô ích!
Rồi Tứ xuyên hầu từ biệt mà đi.
Nhưỡng nghe tin ấy, nói với mọi
người:
- Lão rậm râu sâu mắt bỏ đi rồi,
thế là bớt được một tên cáo già!
Lúc ấy, hai điếm tả hữu đều bỏ
không. Những kẻ hội họp trước kia nay về ngồi trong triều, đều là bè đảng của
Nhưỡng. Hoàng thượng thấy vậy, than thở với bọn gia thần rằng:
- Ta nay không còn ai giúp rập nữa
rồi! Tuy vậy, nó cũng không thể cậy đông người mà ăn hiếp ta được. Ta cứ
không nghe, thử xem nó làm thế nào?
Thế rồi, sau khi Tứ xuyên hầu đã
đi khỏi, hoàng thượng vẫn cứ giữ nguyên mệnh cũ, ngay cả số quân dân, cũng
đều không cấp thêm cho Côn quốc công một người nào cả.
Các quan văn trong toà nội hàn ở
luôn bên cạnh vua sợ bị Nhưỡng quở trách, nhiều người khuyên vua nên ưng cho
lời xin của hắn. Nhưng vua đều không nghe.
Nhưỡng thấy nhà vua cương quyết,
cũng có ý chờn, bèn làm một tờ tâu kín, xin vua cứ cho Côn quốc công mang
danh hiệu tước vương, còn các quyền bính thì vẫn thuộc về nhà vua. Trong tờ
tâu ấy, lời lẽ của Nhưỡng cực kỳ mềm mỏng. Rồi Nhưỡng lại thân vào chầu để
xin với vua. Vì thế, nhà vua mới nguôi lòng mà nghe theo, phong cho Côn quốc
công làm nguyên soái phụ quốc chính, tước án đô vương. Rồi vua sai viên quan
trong triều là Nguyễn Du (Nguyễn Du quê ở xã Văn Xá, huyện Thanh Oai, Hà
Đông, đỗ tiến sĩ khoa ất tỵ (1785) năm Cảnh hưng) đem sắc chỉ đến ban cho Côn
quốc công.
Côn quốc công vâng mệnh, thân hành
vào triều lạy tạ; đoạn về phủ sai người đánh ba hồi chín tiếng trống, làm lễ
lên ngôi chúa. Hôm ấy là ngày mười chín tháng chín.
Sau khi án đô vương được lập, các
quan tả hữu khuyên vương nên theo lệ cũ, đặt ra các viên tham tụng, bồi tụng,
chưởng phủ, thự phủ, để dựng riêng một triều đình. Rồi họ lại trông mặt mấy
viên đến họp ở cung Tây-long hôm nọ mà chỉ định người này làm chức này, người
kia làm chức kia, sắp đặt rõ đâu vào đấy. Nhưng Nhưỡng tự nghĩ hôm trước mình
tâu với hoàng thượng như thế, mà nay đã vội tự ý tráo trở, lật lọng, e rằng
như vậy là lừa gạt bề trên quá chừng. Vì vậy, Nhưỡng vẫn còn trù trừ, chưa
dám xin vương ra mệnh.
Còn hoàng thượng, thì cứ giữ theo
mệnh cũ, đổi chức tham tụng làm bình chương, bồi tụng làm tham tri, thiêm sai
làm thiêm thư, hai điếm tả hữu làm hai nhà nghị sự. Rồi bắt Nhưỡng phải kíp
chọn lựa các quan, xin chỉ hoàng thượng, rồi định ngày họp ở nhà nghị sự để
chia đặt mọi việc. Nhưng ý Nhưỡng chưa quả quyết, thành ra công việc cứ dùng
dằng, lẩn quẩn luôn trong mấy hôm.
Đang khi ấy, chợt có tin báo Thạc
quận công ở trấn Sơn Tây đã thu thập hết binh lính các huyện, đông đến vài
vạn người, lại đem cả thổ binh của bọn phiên mục đất Phù Sùng ở vùng Hưng Hoá
là Đinh Công Hồ và Đinh Công Trinh đi theo, nay mai sẽ tới kinh sư.
Thật là:
Đã mạnh lại còn tay mạnh nữa,
Bất ngờ phòng chuyện bất ngờ hơn.
Chưa biết quận Thạc đến kinh sư
làm gì? Hãy xem hồi sau phân giải.
Hoàng Lê nhất thống chí (Phần 2) Hoàng Lê nhất thống chí (Phần 3) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét