JOSEPH BALESTIER
TỪ
CUỘC TẤN CÔNG ĐÀ NẴNG NĂM 1845
CỦA CHIẾN HẠM HOA
KỲ CONSTITUTION ĐẾN
SỨ BỘ CỦA ĐẶC PHÁI VIÊN
BALESTIER
NĂM 1850
***
I. Thuyền Trưởng Percival,
Chiến Hạm Constitution và
Cuộc Tấn Công Quân Sự Đầu
Tiên của Hoa Kỳ
tại vịnh Đà Nẵng, tháng Năm
1845
NGÔ
BẮC dịch
Lịch sử, như chúng ta
được giảng dạy, cần phải được học hỏi để không
lập lại những sai lầm của quá khứ. Chiến hạm
Constitution đã đóng một vai trò trọng tâm trong một biến
cố rõ ràng không được học hỏi và bài học của nó
không được khắc ghi trong lòng.
Vào buổi sáng ngày
10 tháng Năm 1845, chiến hạm to lớn đã cập bến hải
cảng Turon, Cochin China (Đà Nẵng, Việt Nam ngày nay).
Nó đã đi được nửa đường trong một hành trình vòng
quanh thế giới khởi hành một năm trước đó. Các
hải cảng khác đã ghé lại bao gồm Rio de Janerio,
Zanzibar, Quallah Battoo, Singapore, và Brunei. Đi vòng quanh để
thả neo tại phía tây một hòn đảo được các người
Hoa Kỳ sau này gọi là “Núi Khỉ,” công tác đầu tiên
là sắp xếp tang lễ cho một nhạc sĩ tên Cooke, người
đã từ trần ngay vào lúc tàu đến hải cảng. Một
trong số người phục dịch gốc Trung Hoa trong thủy thủ
đoàn đứng làm thông dịch viên để có được một ngôi
mộ nằm trong phạm vi nghĩa đia chôn cất người bản xứ
tại chân ngọn núi. Với khoản tiền tương đương
hai mỹ kim, sự trông coi ngôi mộ vĩnh viễn đã được
hứa hẹn. Tang lễ đã mau chóng được cử hành, và
rồi chiếc thuyền dời neo vào sâu trong vịnh và gần thị
trấn hơn. Các sự chuẩn bị đã khởi sự để tiếp
tế nước cho con tàu.
Ba ngày sau đó, Thuyền Trưởng
John Percival, bình phục sau một cơn chiến đấu kéo dài
chống chứng bệnh thống phong, đã phái Trung Úy William
Chaplin lên bờ để hội kiến với các quan chức của thị
trấn (Người Hoa Kỳ gọi họ là “Quan Lại”.)
Cùng đi với ông ta là một phái đoàn nhỏ bao gồm các
sĩ quan cấp thấp, các thủy thủ, và các binh sĩ thuộc
Thủy Quân Lục Chiến để mang lại cho ông “uy thế” –
và sự bảo vệ nếu cần. Được hướng dẫn bởi một
trong số thủy thủ gốc Trung Hoa, phái đoàn đi dọc theo
các đường phố trong thị trấn và xuyên qua chợ.
Sau cùng, hai hàng lính mang váy màu đỏ dài tới đầu gối
có mang một huy hiệu tròn màu xanh lá cây phía trước váy
và đội nón gỗ hình chóp được bọc thiếc, và cầm
các chiếc lao dài với đuôi nheo màu sắc sặc sỡ, đứng
hai bên con đường dẫn tới khu vườn của ngôi nhà của
vị quan chức chủ chốt.
Các người phục dịch mời
Chaplin ngồi một bên của chiếc bàn đặt ngoài trời,
đoàn tùy tùng đứng ở sau lưng ông ta. Không lâu
sau đó, viên “Quan Lại” xuất hiện, được tháp tùng
bởi một người cầm lọng và các người khác, và ngồi
xuống bên đối diện. Cuộc gặp gỡ thì ngắn ngủi:
trao đổi các sự giới thiệu và các câu chào hỏi lịch
sự, và sự chấp nhận bởi viên Quan Lại lời mời thăm
viếng chiến thuyền Hoa Kỳ.
Ngày kế tiếp, Thứ
Tư, ngày 14 tháng Năm, phía “Trung Hoa” [“Chinese” trong
nguyên văn, chú của người dịch] đến thăm Percival và
đã được tiếp đón với nghi lễ thích hợp, bất kể
sự việc là thủy thủ đoàn đang sơn lại chiếc thuyền
với thân tàu màu đen theo qui ước cùng mẫu sọc màu
trắng sau khi đã được sơn trước đây bằng màu trắng
với một sọc màu đỏ trong khi hải hành vùng hải phận
nhiệt đới. Dù thế, mọi việc diễn ra tốt đẹp,
và phía “Trung Hoa” đã ra về sau khi được hướng dẫn
thăm chiếc thuyền.
Tuy nhiên, trong cuộc thăm viếng
này, một thành viên cấp thấp của phái đoàn thăm viếng
đã lén quay trở lại buồng tàu của Percival và trao một
lá thư, nói rằng anh ta sẽ mất mạng nếu thượng cấp
anh ta biết được. Khi mở lá thư ra, sau khi đoàn
khách của mình ra về, Percival thấy lá thư được viết
bởi một giáo sĩ truyền đạo người Pháp, một Giám Mục
tên là Dominique Lefevre,cho hay ông lấy làm “ngạc nhiên
khi thấy không nhận được hồi âm cho lá thư trước đây
của ông,” và lên tiếng cầu cứu lần nữa khi ngôi
làng của ông bị “trao cho quân cướp” và rằng ông
cùng mười hai người dân Cochin China, sau đó đã bị bắt
và bị kết án tử hình tức thời.”
John Percival
đã nổi tiếng về việc hành động bốc đồng từ những
ngày đầu tiên đi biển; đến nỗi ông được gán cho
biệt hiêu “anh Jack Điên” (Mad Jack). Trong tình
trạng đương thời, ông ta đã hành động đúng với
tiếng tăm của mình. Không cần suy nghĩ rằng cuộc điều
tra cẩn thận sẽ phát hiện rằng nhân vật người Pháp
này đã có một thành tích đối đầu kéo dài với vị
Hoàng Đế Thiệu Trị, hay việc ông ta đã từng bị cảnh
cáo về việc tử hình và bị trục xuất khỏi quốc gia
trưo’c đó. Như viên Trung Úy Thứ Năm (Fifth
Lieutenant, chức vụ thường để chỉ sĩ quan cầm lái
tàu, chú của người dịch] tên John B. Dale đã viết trong
nhật ký của mình, phản ảnh quan điểm của vị Thuyền
Trưởng của anh ta, “Đây là một cơ hội cho một sự
giải cứu khỏi quốc gia bán khai này. Đối với chúng
ta, việc hay biết rằng một tín hữu Thiên Chúa Giáo có
tính mạng bị lâm nguy là đủ rồi. Các biện pháp
mạnh nhất và nhanh chóng nhất phải được thực hiện.
Tình nhân loại là mệnh lệnh [cao hơn] của chúng ta hơn
là luật lệ của các quốc gia.”
Viên Thuyền
Trưởng mau chóng tập họp một nhóm đổ bộ gồm năm
mươi thủy thủ và ba mươi lính Thủy Quân Lục Chiến,
tất cả đều được trang bị vũ khí, chất lên các
chiếc tàu nhỏ của chiến thuyền, đột nhập lên bờ và
đi đến tư dinh vị “Quan Lại.” Nhân vật Đông
Phương này ngồi đối diện với viên Thuyền Trưởng tại
cùng chiếc bàn như khi gặp gỡ Trung Úy Chaplin.
Percival yêu cầu một lá thư mà ông đã viết phải được
gửi cho nhân vật người Pháp, và đòi hỏi rằng ba nhân
vật địa phương phải được giao cho ông ta để làm con
tin, nếu không ông ta sẽ tiến đánh. Viên “Quan
Lại,” có vẻ bình tĩnh, đem giao các con tin, và đoàn
quân Hoa Kỳ đã trở về chiến hạm mà không có biến cố
gì xảy ra.
Hai mươi bốn giờ trôi qua và không có
gì xảy ra. Percival di chuyển chiến hạm Constitution
đến gần thị trấn và một trong ba đồn phòng thủ lân
cận hơn, và bắn mười viên đại pháo để dò tọa độ.
Ông ta cũng phái các toán đổ bộ đi chiếm đoạt ba
chiến thuyền buồm cách đó một dặm rưỡi. Các
thuyền này được kéo về gần “Thiết Hạm Cổ Xưa”
(Chiến Hạm Constitution) và cắm neo xuống. Sĩ quan
Hải Hành (Sailing Master) Isaac Strain được cắt cử để
bảo đảm chúng ở yên vị trí đó.
Sau ba ngày nữa
mà không có tin tức gì cả, vào ngày 19 Percival di chuyển
sát gần hơn nữa Thành Phố Đà Nẵng, và lần này kéo
các dây buộc chặt dây neo để ông ta có thể giữ các
khẩu pháo bên sườn phải chiếc tàu nhắm vào bờ.
Các viên chức địa phương từ chối không làm bất kỳ
điều gì cho đến khi các con tin được thả. Percival lại
đột nhập lên bờ một lần nữa, nhưng không dành đạt
được gì bằng lời nói suông. Ông đã thả các con tin
ra về.
Ngày thứ ba, hôm 20, trời mới sáng có gió
mạnh và biển động mạnh. Dưới bức màn mưa có gió
thổI mạnh, ba chiến thuyền buồm tháo dây buộc và theo
gió thổi chạy trốn ngươc về dòng sông chảy qua Đà
Nẵng. Một cuộc khai pháo của chín khẩu súng một
bên mạn tàu từ chiến hạm to lớn của Hoa Kỳ khiến
cho một thủy thủ đoàn phải thả neo và nhảy ra khỏi
thuyền, một vài người có lẽ đã bị chết đuối.
Hai chiếc thuyền kia vượt qua cồn cát và có vẻ như một
cách bình thường sẽ trốn thoát được.
Tuy nhiên,
Percival đã phóng các chiếc tàu có vũ trang truy kích
chúng, và chúng được phóng đi một cách cuồng nhiệt để
truy đuổi con mồi. Chiếc xuồng lớn và bốn chiếc
xuồng nhỏ lao tới vào khoảng từ sáu đến tám con tàu
có vũ trang của phía Cochin [Việt Nam], dưới lằn đạn
của một trong các đồn phòng thủ, và không có hành động
nào khác kháng cự lại các xuồng này. Một chiếc
thuyền buồm thứ nhì bị bắt giữ trở lại và giao cho
một toán nhỏ canh chừng nó.
Nhiều toán quân mặc áo đỏ
được trông thấy ở cả hai bên bờ khi mà các chiếc
xuồng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục truy kích chiếc thuyền buồm
cuối cùng. Không một hành động nào được phát ra
để ngăn chặn họ, mặc dù họ đi ngang qua các chiếc
tàu chở đầy các binh sĩ có vũ trang và ở trong tầm bắn
của một trong các đồn phòng thủ. Vào khoảng một
dặm ngược dòng sông, chiếc thuyền buồm được tìm
thấy đã đáp vào bờ và bị bỏ rơi, các buồm của nó
bị phá hủy. Kiểm tra nó một cách mau chóng, các
binh lính Hoa Kỳ đang sửa soạn để trục nó lên thì
thấy xuất hiện vào khoảng 150 binh lính vũ trang xếp
hàng một đứng vào vị trí cách xa khoảng hai mươi thước
Anh (yard). Thủy thủ đoàn các chiếc xuồng, đang cơn
hăng máu, tức thời nhảy vào dòng nước sâu ba bộ Anh
(feet) chung quanh tàu của họ và, với các thanh đoản kiếm
trong tay, phát ra các lời hỗn độn nhắm vào các lính
bản xứ với “một lối la hét đích thực của người
da trắng gốc Anglo-Saxon.” Toán binh sĩ [Việt Nam]
“đã vắt chân bỏ chạy một cách hấp tấp nhất” và
không bao giờ được trông thấy nữa. Trên con đường
trở về xuồng, các lính Thủy Quân Lục Chiến làm trò
với việc thu thập các trái dừa, được quan sát một
cách im lặng bởi một người đàn ông lớn tuổi hút
thuốc qua ống điếu ngồi trước cổng nhà gần đó.
Cả ba chiếc thuyền buồm được kéo về thả neo gần
chiến hạm Constitution.
Ngày 21 trời tiếp tục giông
bão, và không có sự truyền tin nào với thị trấn. Đã
có một sự ngạc nhiên khó chịu chào đón các người
Hoa Kỳ buổi sáng hôm đó: ba chiếc thuyền mang “lá cờ
vàng của xứ Cochin” đã im lìm trôi đi trong đêm và
giạt vào các vị trí dưới đồn phòng thủ đóng ở
trên đồi bên sườn Núi Khỉ.
Khí hậu bình lặng
hơn hôm 22 cho phép Percical cố gắng đi xem xét ba chiếc
thuyền. Ông ta bị cự tuyệt [Câu này không rõ nghĩa, khi
đọc tiếp câu kế sau, chú của người dịch]. Một
trong các chiếc thuyền buồm bị bắt giữ trở lại được
khám phá là bị dò thủng nặng nề, vì thế nó được
giao hoàn cho các viên chức địa phương. Không có gì
được đưa ra để cho biết tại sao hai chiếc thuyền kia
lại không được giao hoàn.
Cuối cùng, vào ngày 24,
hai lá thư nhận được từ các viên chức trên bờ.
Một lá thư phủ nhận sự hay biết nào về vị giám mục
người Pháp và yêu cầu trả lại hai chiếc thuyền buồm
còn lại. Lá thư kia, ngược lại, nói rằng vị giám
mục sẽ được giao trả khi các chiếc thuyền buồm được
hoàn lại. Ngoài ra, các khoản tiếp tế không còn
được cung cấp nữa. (Khá kỳ lạ, xuyên qua các ngày đối
đầu, các khoản tiếp liệu và nước uống cho chiến hạm
vẫn tiếp diễn như thể các quan hệ vẫn bình thường
và thân thiện!) Percival đồng ý với các yêu cầu
này. Khoản tiếp liệu được tái lập, nhưng giám
muc Lefevre không hề xuất hiện.
Sáng hôm sau, Percival
đưa ra một nỗ lực sau cùng đòi phóng thích vị giám
mục bằng cách gửi lên bờ một lá thư cho hay ông ta sẽ
rời đi để đến Thành Phố Quảng Châu, nơi ông sẽ
tường trình sự việc với người Pháp tại đó. Họ
chắc chắn sẽ tìm cách trả đũa. Câu trả lời ông nhận
được cho thấy rõ ràng là sự phỉnh phờ của ông bị
lật tẩy và rằng sẽ không còn sự thông tin với bất
kỳ người nào khác được cho phép.
Sau hết
Percival có vẻ như đã bước đến điểm mà ông ta ngừng
lại và xem xét các hành động của mình. Nhìn quanh,
ông có thể nhìn thấy bên dưới vẻ lầm lì bề ngoài,
các thẩm quyền địa phương đang chuẩn bị để hành
động hơn là nói chuyện. Có ba chiếc thuyền mới
đến. Và các chiếc thuyền buồm hoàn trả đã được
sửa chữa lại. Ba chiếc tàu khác nằm ụ cũng đang
được tái trang bị như thế. Trông lên bờ, ông có
thể nhìn thấy các đồn phòng thủ được tái chỉnh
trang và mở rộng, các lối tiếp cận đến chúng được
bố trí nhằm làm gây nhiều khó khăn hơn và tầm tác xạ
của chúng được khai quang. Ông đã chẳng làm được
điều gì mà chỉ làm trầm trọng hơn các quan hệ giữ
Hoa Thịnh Đốn và Huế, kinh đô của xứ Cochin.
Sau
khi mặt trời lặn hôm 26 tháng Năm, năm 1845, sau mười
sáu ngày cuồng nhiệt và không hiệu quả, chiến hạm
Constitution đã ra đi, để lại nhiều sự việc như chúng
đã xảy ra. “Anh Jack Điên”, trong sự thất vọng,
đã bắn sáu phát từ các khẩu pháo Paixhans bên sườn
phải của chiếc thuyền vào một hòn đảo nhỏ vô tội
bên ngoài lối vào hải cảng. Chỉ có một phát
trúng mục tiêu. Trung Úy Dale vô cùng đanh thép đã
tóm tắt kinh nghiệm đầu tiên của Lực Lượng Thủy
Quân Lục Chiến - Hải Quân tại Việt Nam khi viết trong
tập nhật ký của mình tối hôm đó: “Nó có vẻ, tôi
phải nói như thế, đã phô bày một thiếu sót đáng buồn
của “sự cân nhắc vững chắc”, khi khởi sự một sự
việc như thế này, không mang nó đến một kết thúc mỹ
mãn.”/-
(Ghi chú: các hình vẽ người lính Cochin
[nguyên văn, chú của người dịch] và thuyền buồm vũ
trang được cung cấp một cách quảng đại bởi Thuyền
Trưởng John Charles Roach, Họa Sĩ Hải Quân Chiến Đấu,
đã vẽ chúng dựa theo các bản phác thảo của Trung Úy
Dale).
II. Joseph Balestier, Lãnh Sự Hoa Kỳ, Đặc Phái
Viên Ngoại Giao
và Sứ Đoàn Sang Việt Nam năm 1850
Chỉ
một năm sau sự từ trần không đúng lúc của Edmund
Roberts, lãnh sự Hoa Kỳ tại Singapore, Joseph Balestier, đã
tái lập chiến dịch của ông nhằm kêu gọi sự hậu
thuẫn chính thức nhiều hơn cho việc mở rộng và bảo
vệ nền mậu dịch của Hoa Kỳ trong vùng. Nhân dịp
có sự xuất hiện tại Singapore một chiến thuyền của
Thái Lan có trang bị 40 khẩu súng, Balestier đã lập luận
trong một lá thư gửi về Hoa Thịnh Đốn rằng một chiệc
tàu như thế sẽ “không lẽ nào lại không gây ra sự
phiền nhiễu không nhỏ cho sự buôn bán của Âu Châu và
Hoa Kỳ tại các vùng biển này.” Ông thúc dục “sự
thích nghi của việc đặt nền mậu dịch sâu rộng và
vẫn còn đang gia tăng của chúng ta tại khu vực này dưới
sử bảo vệ của một trong các chiến thuyền to lớn của
chúng ta, vị Tư Lệnh của chiến thuyền đó có thể được
chỉ thị để lần lượt thăm viếng Bờ Biển Sumatra, Eo
Biển Malacca, Singapore, Vịnh Xiêm La, Bờ Biển Cochinchina
[Việt Nam ngày nay, chú của người dịch], Lintin, Manilla …
Borneo & Java. Trong thực tế -- tất cả các hải
cảng tại hay gần lưu vực xích đạo rộng lớn này.
Với việc lợi dụng mùa gió nồm, hầu hết nếu không
phải là tất cả các Nước chính yếu này có thể được
viếng thăm hai lần mỗi năm là quá đủ trong tình huống
hiện thời của sự vụ.” (1)
Trong một lá thư gửi
Bộ Trưởng Ngoại Giao Forsyth, đề ngày 4 tháng Sáu 1838,
Balestier từ đề cử mình là người có thể kế nhiệm
đặc sứ Edmund Roberts và đồng ý trở thành một Đại
Diện thường trú để trông coi các quyền lợi của Hoa
Kỳ trong toàn vùng. Ông chào đón các cuộc thăm viếng
thường xuyên hơn của hải quân Hoa Kỳ trong vùng, vừa
như một sự bảo vệ cho các thương thuyền Hoa Kỳ vừa
như phương tiện chuyên chở đến thăm viếng khắp nơi
trong khu vực. Tuy nhiên, ông nghĩ sự hiểu biết
chuyên môn và kinh nghiệm của ông trong vùng sẽ mang lại
các kết quả tốt hơn là dựa vào các sĩ quan hải quân
đóng vai các nhà thương thuyết:
Công cuộc mậu
dịch trải rộng của chúng ta tại các vùng biển này, mà
không có dù chỉ một hải cảng nào của chính chúng ta
gần hơn là những hải cảng nằm trên chính bờ biển
của chúng ta, tạo thành một trường hợp chưa từng có
tại phương Đông; và Chính phủ xem ra có lưu tâm để có
một [hải cảng] trong số đó. Tôi hay biết rằng
các vị tư lệnh hải quân của chúng ta thường hành động
với tư cách các nhà thương thuyết trong các trường hợp
cần thiết, nhưng mặc dù cảm nhận được các công tác
năng động và hữu hiệu của họ, vẫn có sự thiếu sót
một kinh nghiệm lâu dài về nhóm dân bán khai mà họ có
dịp mở ra các cuộc thương thảo, nhằm khai thông nền
mậu dich., hay nhằm giải quyết các sự ngộ nhận hiện
hữu, khiến cho họ kém hữu dụng hơn sự can thiệp của
một người đã sở đắc được một sự am tường về
các người dân đó , các phong tục của họ, và bản chất
của sự mua bán. Xuyên qua báo chí tôi hay biết sự
quyết tâm của Chính Phủ muốn duy trì một lực lượng
hải quân tại khu vực này của thế giới sẽ cung ứng
cho một đại diện như thế một phương tiện để thỉnh
thoảng thăm viếng các nơi chốn như thế khi mà quyền
lợi của quốc gia chúng ta có thể đòi hỏi sự có mặt
của đại diện đó.
Balestier đã đề nghị trong lá
thư này:
Việc gửi sang các loại vũ khí chế tạo
toàn hảo khác nhau, các loại kiếm, vàng, các tấm gương
đóng khung, ống nhòm, quả địa cầu, [một từ không đọc
được], vân vân, và vân vân, để phân phối đến các
vị Quân Vương & các lãnh tụ chính yếu, là những
người sẽ đón nhận chúng như là các biểu hiệu của
tình hữu nghị chứ không phải như các sự thừa
nhận trình độ yếu kém như thường được tin tưởng.
(2)
Chín năm sau đó, Balestier đã có thể cung cấp
một lý do cụ thể để phát huy nhiệm vụ của ông tại
Cochinchina [Việt Nam ngày nay, chú của người dịch].
Vào ngày 6 tháng Tư, 1847, ông có viết cho ông Bộ Trưởng
Ngoại Giao:
Một năm trước đây một vài Quan Lại
của Quốc Vương xứ Cochin China đã đến đây như thường
lệ trên các con thuyền của họ, đã yêu cầu tôi có một
sự kiểu chính cho hành vi ngược ngạo mà họ đã gánh
chịu từ tay vị thuyền trưởng chiến thuyền
“Consitution.” Họ trình bày rằng họ đương
ở trên bờ thi hành công việc cho Quốc Vương khi chiếc
thuyền “Constitution” thả neo tại Vịnh Turong [Đà
Nẵng], rằng khi hay biết vị thuyền trưởng thiếu củi
và nước, họ đã sằn lòng cung cấp cho ông ta và đã
giữ mối dây liên lạc thân hữu với ông ta. Nhưng
một hôm, vị thuyền trưởng lên bờ cùng với một đoàn
tùy tùng từ chiếc thuyền của ông ta và ra lệnh cho họ
phải giao một số Linh Mục người Pháp, là những người
mà ông ta cho rằng đang bị bắt làm tù nhân trong nước,
về việc này họ [các quan lại Việt Nam, chú của người
dịch] đã phản đối rằng họ không biết gì hết và
rằng tốt hơn là ông ta nên tới Kinh đô, [là] một cảng
biển và đích thân thỉnh cầu lên Quốc Vương, vì việc
này họ đã bị còng tay và hạ nhục trước sự hiện
diện của các thân nhân và gia nhân của mình và sau cùng
đã bị dẫn lên thuyền “Constitution” nơi mà họ bị
bắt làm tù nhân trong nhiều ngày và bị đe dọa hành
quyết hàng ngày nếu các vị Linh Mục Công Giáo Pháp
không được chuyển giao cho ông ta.
Các Quan Lại
khác xác nhận sự việc trên & tuyên bố rằng trong
khi họ không hay biết gì về sự bắt giữ các người
ngoại quốc và hơn nữa họ không có thẩm quyền phóng
thích các ngoại kiều này, điều này được nói lại
hàng ngày cho viên thuyền trưởng hay biết. Rằng vào
một hôm nào đó họ có nhìn thấy nhiều chiếc tàu rời
khỏi chiến thuyền chở đầy binh sĩ có vũ trang đầy đủ
nhưng trong khi họ hay người dân trong thị trấn không hề
có ý thức về sự nguy hiểm nào đã tụ tập để nhìn
các binh sĩ đổ bộ; sau khi tỏ vẻ khích động các binh
sĩ đã sắp thành hàng một và nổ súng vào đám đông và
trong khi đám đông bỏ chạy vào thành phố các binh sĩ
này đã rượt đuổi theo họ. Mười bảy người,
gồm cả đàn ông, đàn bà, trẻ em, đã bị giết.
Trong khi đó chiến thuyền “Constitution” đã tiến vào
một vị trí sát Hải Cảng, sau đó không lâu đã triệt
hạ và bắn cháy các Thuyền Buồm Chở Gạo trên Sông làm
cho nhiều người bị giết và bị thương bởi đạn bắn
ra và các người khác bị chết đuối khi các Chiếc
Thuyền Buồm bị chìm …
Tôi không muốn tự đặt
mình vào cương vị kẻ tố cáo Thuyền Trưởng Percival,
hay thông tin cho Chính Phủ về bất kỳ điều gì chưa
được công bố trên các báo chí tại Ấn Độ và Âu
Châu, nhưng tôi xem đó là một bổn phận của tôi để
lưu ý Ngài [Bộ Trưởng] về hành vi hiếu khách của
Radja of Subi và để đề nghị một sự thừa nhân cấp
quốc gia về hành vi đó và cùng một lúc cứu xét điều
đó trong khuôn khổ trách nhiệm chính thức của tôi là
phải thông tri với Ngài Bộ Trưởng các ấn tượng không
thuận lợi có khuynh hướng chống lại tư cách quốc gia
của chúng ta trong các khu vực này và là các ấn tượng
mà nếu không được tháo gỡ chắc chắn sẽ dẫn đến
sự hy sinh các nhân mạng vô tội dưới sự tra tấn khủng
khiếp nhất, như được thi hành trên các kẻ thù bởi
Quốc Vương xứ Cochin China.
Vị Giám Mục & Các
Linh Mục người Pháp nói trên không lâu sau chuyến viếng
thăm của chiến thuyền “Constitution” tại Cochin China đã
được chuyển giao theo lời thỉnh cầu của vị chỉ huy
Pháo Hạm “Alcmène” của Pháp.” (3)
Điều gì đã
xảy ra trong cuộc viếng thăm của Chiến Thuyền USS
Constitution tại vịnh Đà Nẵng không được biết rõ một
cách xác thực. Jean Chesneaux, một tác giả người
Pháp trong tác phẩm về Việt Nam được viết hồi giữa
thập niên 1950, xác nhận lời tường thuật của phía
Cochinchina về biến cố và phát biểu một cách châm
biếm:
Về một chiến thuyền của Hợp Chủng Quốc
Hoa Kỳ trong năm 1845 liên hệ đến đặc ưu quyền đáng
ngờ của việc phóng ra một hành vi can thiệp có vũ trang
đầu tiên chống lại nhân dân Việt Nam: một thuyền
trưởng Hoa Kỳ, mà tên tuổi không được lưu giữ trong
lịch sử, đã đến Tourane trong năm đó, đở bộ lên bờ
để cưỡng bách sự phóng thích một giám mục người
Pháp bị bắt giữ, đã cầm tù tất cả các quan lại
cũng như các chiếc Thuyền Buồm Chiến Đấu có tại hải
cảng; nhưng các con tin kháng cự, và viên Thuyền Trưởng
Hoa Kỳ, không biết chắc mình phải làm gì với các tù
binh, sau cùng đã thả họ ra và lái thuyền bỏ đi.
(4)
Bất kể lời buộc tội rằng Hoa Kỳ đã thực
hiện hành vi can thiệp bằng vũ trang đầu tiên (giả định
là của Tây Phương) chống lại Việt Nam, Chesneaux đã
không đề cập đến việc nổ súng hay tổn thất nào.
Ông D.G.E. Hall, sử gia người Anh về Đông Nam Á, có viết
ở trong cùng thời khoảng đó, hậu thuẫn cho sự tường
thuật của Chesneaux và có đề cập đến việc nổ súng
và các tổn thất, nhưng ông đã trích dẫn từ các nguồn
tư liệu Anh Quốc hiện đại tại Singapore là các kẻ đã
nghe được câu chuyện, chúng tôi giả định, từ cùng
các viên chức Cochin China đã tìm gặp Balestier. (5)
Mặt
khác, Buttinger, sử gia Hoa Kỳ về Việt Nam trong tác phẩm
được ấn hành năm 1958, đã nhẹ nhàng châm biếm nỗ
lực của Chesneaux về việc “xếp loại sự câu lưu tạm
thời một vài vị quan lại như một ‘hành vi can thiệp
có vũ trang'”, gọi đó “đúng ra là một sự thậm
xưng.” Ông nêu ý kiến rằng Chesneaux đã không hiểu
biết tường tận về biến cố và viện dẫn rằng ông
ấy không hề hay biết cả về tên viên thuyền trưởng
Hoa Kỳ (John Percival) (6). Buttinger không nên bị buộc
tôi là kẻ theo chủ nghĩa quốc gia quá cực đoan trong cái
nhìn của ông về biến cố, vì ông khẳng định rằng
các nỗ lực của Percival là vụng về. Sự
lượng định của Buttinger được ủng hộ bởi Auguste
Haussman, một tác giả người Pháp khác, là người đưa
ra sự tường thuật sau đây:
Viên thuyền trưởng Hoa
Kỳ, thấm nhuần tinh thần quảng đại, tìm kiếm một sự
phóng thích vị giám mục và đây là câu chuyện mà ông
ta đã hành động như thế nào: ba hay bốn quan lại được
phái bởi Quốc Vương lên chiến thuyền, bị bắt và giam
giữ làm con tin, trong khi chờ đợi sự trả tự do cho vị
giáo sĩ truyền đạo. Khi nghe báo cáo về việc này,
Quốc Vương trở nên tức giận và từ chối trao trả vị
giám mục theo một thủ tục như thế. Quốc Vương
còn xem xét cả việc phái một hạm đội nhỏ để tấn
công chiến thuyền, nhưng một cơn bão làm các chiếc tàu
của Nhà Vua bị tán loạn. Muốn tránh một cuộc
giao chiến, thuyền trưởng Hoa Kỳ đã quyết định phóng
thích con tin, là những kẻ lại bị cầm tù lần thứ nhì
theo lệnh của Quốc Vương vì tội để mình bi bắt.
(7)
Sự tường thuật này cho hay là chiến thuyền
Hoa Kỳ tức khắc rời đi, sau khi để lại các lời đe
dọa.
Nay chúng ta có lời khai của chính Thuyền
Trưởng John Percival, là người, theo văn thư trao đổi của
chính ông ta, đã cho tàu USS Constitution cặp bến tại Vịnh
Đà Nẵng để tái tiếp tế. Vào ngày 21 tháng Sáu
1845, sau khi chiếc thuyền Constitution đến Đảo Whampoa
ngoài khơi Trung Hoa, Percival đã báo cáo “sự việc xảy
ra” trong một lá thư gửi Bộ Trưởng Hải Quân. Lá
thư của ông ta, chính yếu là một biện minh trạng cho
hành động của mình, đính kèm một văn kiện trình bày
về chính biến cố mà ông đã gửi cho vị đô đốc Pháp
trong vùng. Bức thư viện dẫn sự hiểu biết của
Percival về sự trợ giúp của nước Pháp dành cho Hoa Kỳ
trong buổi lập quốc của nó cũng như sự tin tưởng rằng
các chính phủ phải đối xử với sự kính trọng các
ngoại kiều mà họ cho phép được sống trong lãnh thổ
của họ. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy sự lo ngại
của Percival rằng các thượng cấp của ông có thể xem
là ông đã vượt quá các chỉ thị đã giao cho ông, nhằm
yêu cầu ông mang lại mọi sự bảo vệ cần thiết cho
các công dân Hoa Kỳ và cho nền thương mại Hoa Kỳ, nhưng
không nói gì về các công dân ngay của các nước thân
hữu nhất.
Văn kiện Percival gửi cho [đô đốc]
Pháp mô tả biến cố với một vài chi tiết, nhưng mơ hồ
về việc là có bất kỳ cuộc nổ súng nào đã xảy ra
hay không.
Cùng lúc tôi đã bắt giữ ba viên quan lại
và giải họ lên tàu làm con tin [cho] sự an toàn của sinh
mạng vị Giám Mục. Ngày sau đó tôi tịch thu ba
chiếc thuyền buồm của Nhà Vua, và di chuyển chiến
thuyền của tôi đến sát bờ hơn để có thể vươn tới
các Đồn Phòng Thủ và [nhiều từ không đọc được]
với pháo đội của tôi, hy vọng rằng một cuộc biểu
dương, chứng tỏ một cuộc bày binh bố trận sẵn sàng
giao tranh sẽ bảo đảm được một cách hữu hiệu hơn
sự an toàn của ngài Giám Mục.” (8)
Trong phần
cuối văn kiện này, Percival ám chỉ một cách rõ ràng
rằng ông ta đã không tham gia vào các sự giao chiến. bởi
chúng sẽ vi phạm vào các chỉ thị dành cho ông. Đúng
như điều là Percival lo sợ, Bộ Hải Quân đã không chấp
nhận. Lá thư của ông tại Văn Khố Hải Quân có
mang bút phê: “Trả lời tức thời. Bộ Hải Quân
không chấp thuận hành động của Thuyền Trưởng Percival
vì không được phép hoặc do có lời yêu cầu của vị
Giám Mục hay bởi luật lệ của các quốc gia.” (9)
Một
tháng sau đo, giả định trước khi ông ta có thể hay biết
về phản ứng tiêu cực từ Bộ sở quan của mình,
Percival mau chóng gửi lên Bộ Trưởng Hải Quân bản sao
các phản ứng thuận lợi của cả viên Đô Đốc Pháp và
Sứ Thần Pháp tại Trung Hoa, cùng với tin tức cho hay vị
Giám Mục đã được trả tự do ít ngày sau khi Percival
rời khỏi hiện trường. Lá thư của Percival gửi Bộ
Trưởng Hải Quân toát ra niềm tin tưởng rằng sự giải
thoát vị Giám Mục xảy ra phần lớn là nhờ hành động
quyết đoán và hợp thời của ông ta (Percival) và rằng,
nếu ông ta có thể lưu lại đó lâu hơn một chút, vị
Giám Muc chắc sẽ được trao trả trực tiếp vào tay ông
ta.(10) Sau hết, như được biểu tỏ dưới đây, khi
Hoa Kỳ cố gắng đưa ra các sự đền bù cho biến cố,
phía Cochin China đã bác khước rằng nó đã từng xảy
ra!
Trong bất kỳ trường hợp nào, bất luận lời
tường thuật biến cố nào là chính xác, sự trần thuật
gây tổn hạI nhất cho Percival chính là câu chuyện đã
được chuyển đến Balestier, mà Balestier đã chuyển về
Hoa Thịnh Đốn, và theo đó Hoa Thịnh Đốn đã ra tay hành
động. (11) Tổng Thống Zachary Taylor đã quyết định
phái Balestier làm đặc phái viên ngoại giao để thực
hiện các sự hàn gắn với Quốc Vương xứ Cochin China
và, nhân đó, thực hiện một nỗ lực khác để thương
thảo một hiệp ước thương mại với Cochin China; ông
cũng sẽ cố gắng thuyết phục nước Xiêm La thi hành
đúng với các điều khoản của hiệp ước mà Edmund
Roberts đã thương thảo năm 1833 và thực hiện các cuộc
thăm viếng thiện chí và thương thảo các hiệp ước với
nhiều vương quốc thuộc các đảo vùng Đông Ấn Độ.”
(12)
Toàn thể phái bộ công tác của
Balestier gặp trục trặc vì các sự trì hoãn và vì sự
căng thẳng và bất đồng ý kiến với viên chỉ huy con
tàu. Phái bộ của ông sang Cochinchina đã thất bại
vì phần lớn cùng các lý do mà hai chuyến công tác của
ông Roberts đã gặp – hai nền văn hóa xa lạ chỉ nói về
phần mình mà không cần nghe kẻ đối thoại, và tầm
quan trọng của mỗi bên với bên kia không lớn đủ để
khắc phục các rào cản. Balestier, cũng giống như
Roberts trước ông, đã không thể thuyết phục được
người Cochinchina rằng Hoa Kỳ thì khác biệt với các dân
tộc Âu Châu và rằng nó chỉ quan tâm đến công cuộc
mậu dịch thành thật và hai bên cùng có lợi, chứ không
quan tâm đến việc chinh phục hay đặt đồn trú quân ỏ
hải ngoại. Về phần mình, bên Cochinchina đơn giản
kể người Hoa Kỳ gộp chung với tất cả các ngườii
Tây Phương đi cướp phá, và họ không sẵn lòng hay không
có thể cố gắng sử dụng Hoa Kỳ (hay người Hòa Lan hay
Bồ Đào Nha) để bảo vệ họ chống lại các áp lực và
sự dòm ngó ngày càng gia tăng của Pháp.
Bộ Trưởng
Ngoại Giao John Clayton đã trao cho Balestier, “Đặc Phái
Viên của Hoa Kỳ sang Cochinchina và các nơi khác trong vùng
Đông Nam Á” các chỉ thị vào ngày 16 tháng Tám 1849,
ngay trước khi Balestier trương buồm rời Boston lên đường
thi hành nhiệm vu.:
Tổng Thống … đã chỉ định
ông làm Đặc Phái Viên của Hoa Kỳ để tiến hành, một
cách tức thời, sang Cochinchina …và sau đó sang các phần
khác của vùng Đông Nam Á Châu, với các chủ đích và
mục tiêu sẽ được trình bày trong các chỉ thị theo
đây. Một vài nhiệm vụ, sẽ được giao phó cho ông
có tính chất tế nhị, và tất cả các nhiệm vụ dều
có mang tầm quan trọng. Sự cư trú chính thức lâu
dài của ông tại phương Đông, trong đó các trách vụ
của ông đã được hoàn tất với sự trung tín và thành
công rõ rệt; và sự quen thuộc thân thiết với cung cách
và các tập quán cùng nền mậu. dịch và thương mại của
các xứ sở đông phương, đã đưa đến sự bổ nhiệm
ông ngày nay, và đem lại sự bảo đảm rằng các nhiệm
vụ sẽ được chấp hành một cách thỏa đáng.
Tôi
có chuyển, kèm theo đây, một lá thư của Tổng Thống
gửi Quốc Vương Anam (Cochinchina) … Mục tiêu của
nó là để phủ nhận một cách chính thức một cuộc xâm
kích bị cáo giác, được tường thuật đã phạm phải,
trên lãnh thổ của Nhà Vua, và trên các thần dân của
Ngài, bởi Thuyền Trưởng John Percival, trong khi chỉ huy
Chiến Thuyền Constitution của Hoa Kỳ, trong năm 1845, trong
tình huống đã được thông báo cùng Chính Phủ này bởi
chính ông, và là tình huống, cũng vì lý do đó, thật là
dư thừa để tôi phải lập lại trong các chỉ thị
này.
Ông sẽ khởi hành ngay khi có thể đi được,
… đến trạm nơi ông sẽ tìm thấy Hạm Đội Đông Ấn
Độ của chúng ta, và trao cho vị Tư Lệnh, thư đính kèm,
từ ông Bộ Trưởng Hải Quân chỉ thị viên tư lệnh để
ông lên tàu và chuyên chở ông đến một hay nhiều hải
cảng như thế, tại Cochin China, như ông có thể chỉ
định; và sau đó đến các nơi khác như thế, trong vùng
Đông Nam Á, mà các chỉ thị dành cho ông sẽ yêu cầu
ông đến thăm viếng.
Sau khi lên tàu chiếc soái hạm
của Hạm Đội, ông sẽ đến hải cảng gần nhất của
Huế, Kinh Đô của Cochin China, và khi đến nơi đó ông tự
tìm cách tiếp xúc với các giới chức có thẩm quyền
thích hợp, và loan báo mục tiêu cuộc thăm viếng của
ông là, để đích thân, trao đến Nhà Vua, một bức thư
hữu nghị và hòa giải, của Tổng Thống Hợp Chúng Quốc
về một hành vi đối nghịch được nói là đã gây ra,
bởi một Thuyền Trưởng hải quân Hoa Kỳ, nhiều năm
trước đây, nhưng mới chỉ được thông báo lên Tổng
Thống mới đây; Cần bổ túc rằng, sau khi nghe được
bản báo cáo này, Tổng Thống giờ đây, đã tức thời
phái ông sang, để thực hiện mọi sự giải thích khả
hữu và thích đáng, và xin làm lành.
Nếu ông nhận
thấy không thể khắc phục được ác cảm nổi tiếng
của vị Chúa Tể để chấp thuận cho một cuộc tiếp
chuyện cá nhân, và hội kiến, khi đó ông sẽ theo đuổi
cùng đường lối, với các quan chức tại triều đình
của Nhà Vua, các viên chức mà Nhà Vua có thể chỉ định
để hội họp với ông, sao cho, theo ý kiến của ông, sẽ
là phương thức được tính toán tốt nhất không chỉ
ảnh hưởng đến mục tiêu chính yếu trong nhiệm vụ của
ông; mà còn, nhằm phát huy một mục tiêu khác rất quan
trọng, mục tiêu mà Tổng Thống nóng lòng muốn có, nghĩa
là, sự thương thảo và kết thúc một Hiệp Ước Hữu
Nghị và Thương Mại, theo đó sinh mạng và tài sản của
các công dân của chúng ta có thể sẽ được bảo vệ
tại Cochin China; và các thương thuyền của chúng ta sẽ
được phép để mậu dịch, tại nhiều hải cảng khác
nhau tại Đế Quốctheo những điều khoản được quy định
bởi một quan thuế biểu cố định, công bằng và cởi
mở. Và trong bất kỳ cuộc thương thảo nào mà ông
có thể tiến tới, với các mục tiêu này, sẽ cần đặc
biệt lưu tâm đến việc vạch ra, và để giải thích,
đường lối vô cùng cởi mở trong chính sách được theo
đuổi bởi chính Chính Phủ của ông mà, theo các Hiệp
Ước hỗ tương, sẽ tự do đón tiếp các chiếc thuyền
của họ, cập bến mọi hải cảng của chúng ta trên cùng
một căn bản dành cho các tàu thuyền hải hành dưới
quốc kỳ của chính chúng ta. Một ủy nhiệm thư, và
giấy ủy toàn quyền được chuyển kèm theo đây.
Ông
sẽ trình bày để Nhà Vua, hay các Thượng Thư của Ngài
hay biết, rằng Chính Phủ và nhân dân Hợp Chúng Quốc
nhắm đến các sự trú ngụ hòa bình, hơn là theo đuổi
chiến tranh -- rằng họ không có thuộc địa hay đồn
đóng quân nào ở hải ngoại, như các nước Anh, Hòa Lan,
Pháp, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha -- rằng trong khi các
thương gia của họ đến Hợp Chúng Quốc, để mậu dịch,
họ nhớ mang theo vàng, bạc, và hàng hóa nhiều loại khác
nhau để thanh toán cho các sản phẩm mà họ mua – và,
rằng chúng ta sống hòa bình với toàn thế giới: Ông sẽ
gắng sức để giúp họ hiểu được tầm mức bao la, và
tầm quan trọng cùng sức mạnh gia tăng của xứ sở chúng
ta – tham chiếu trên các bản đồ của thế giới, và
của Hợp Chúng Quốc; giúp họ quen thuộc với số tàu
chiến, tàu (hỏa) chạy bằng hơi, và các thương thuyền
của chúng ta; và trình bày những lợi thế không thể
lường được, và các ích lợi, chắc sẽ mang lại cho
họ, từ một Hiệp Ước như thế, với một dân tộc
thật vĩ đại, từ đó, khi ràng buộc với nó bằng các
quan hệ quốc tế, họ không còn phải lo sợ sự xâm lăng
nào.
Ông cũng sẽ gắng sức để thúc dục Chính
Quyền xứ Cochin China tiếp nhận một Lãnh Sự, hay một
Đại Diện Thương Mại, tại một hay nhiều hải cảng
chính của họ.
Sau khi đã hoàn tất mỹ mãn nhiệm
vụ của ông với Quốc Vương Cochin China, con thuyền kế
đó sẽ chuyên chở ông sang nước Xiêm La …
Balestier
đáp tàu rời Boston trong tháng Tám 1849. Bởi tàu chở
ông bị hư hỏng ngoài khơi vùng Halifax, ông đã không đến
được Anh Quốc mãi cho đến ngày 17 tháng Chín. Tuy
nhiên, ông đã có thể rời Anh Quốc ba ngày sau đó, đi
qua Alexandria, Suez và Hồng Kông, nơi ông đã đến bờ vào
ngày 24 tháng Mười Một, ba tháng sau ngày rời Boston.
(John White mất năm tháng để đi từ Boston đến xứ
Cochin China, xuyên qua Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope) trong
năm 1819; Edmund Roberts đã đi theo cùng hải trình này, có
ghé Phi Luật Tân và Trung Hoa trước khi đến Cochinchina.
Sự xuất hiện của “tàu hỏa chạy bằng hơi nước”
trong thập niên 1840 đã khiến cho “lộ trình qua đất
liền” sang Á Châu xuyên qua vùng Địa Trung Hải nhanh hơn
rất nhiều hơn đường thủy vòng qua bất kỳ Mũi đất
nào.)
Balestier bị bắt buộc phải chờ đợi ba
tháng nữa tại Hương Cảng trước khi đáp tàu tiến hành
nhiệm vụ của mình. Vị tư lệnh Hạm Đội Đông
Ấn Độ, Chuẩn Tướng David Geisinger (người cũng đã là
thuyền trưởng chiếc thuyền chở ông Edmund Roberts, chiếc
thuyền Peacock), đã không chấp nhận phái bộ Balestier bất
kể các chỉ thị của Bộ Trưởng Hải Quân được trao
tay bởi Balestier, tuyên bố rằng ông sẽ rất sớm được
thay thế khỏi chức vụ chỉ huy bởi Chuẩn Tướng
Voorhees. Voorhees đến nơi ba tháng sau đó, và
Balestier đã có thể khởi hành sang Cochinchina hôm 21 tháng
Hai năm 1850, sau khi đã chiêu dụng được Mục Sư William
Dean ở Hồng Kông làm thư ký của phái bộ, kiêm thông và
phiên dịch viên. (14)
Sự gặp gỡ của Balestier với
phía Cochinchina rất giống với cuộc đối đầu của
Edmund Roberts.(15) Chiếc thuyền Plymouth, chuyên chở
Balestier và thư ký của ông tên Dean, thả neo ở vịnh Đà
Nẵng hôm 25 tháng Hai năm 1850. Chiếc thuyền tức
thời được thăm viếng bởi hai viên chức Cochinchina ở
“cấp thấp,” dò hỏi về lý do của cuộc thăm viếng.
Balestier đã trao cho họ một bức thư trình bày các duyên
cớ thân thiện của phái bộ mà các viên chức đã đọc
qua nhưng từ chối không tiếp nhận. Tuy nhiên, họ
có đồng ý là sẽ chuyển đạt nội dung của bức thư
lên thượng cấp của họ.
Tiếp sau đó, một lần
nữa, là nhiều cuộc gặp mặt sơ bộ, có tính cách nghi
lễ với nhiều quan chức Việt Nam cấp thấp khác nhau.
Các quan chức sau này thì lịch sự nhưng dè dặt, cho hay
họ đã bị lừa gạt bởi những người nước ngoài đi
trên tàu chiến, đã đến như các kẻ thân thiện nhưng
lại gây ra các hành vi thù nghịch, triệt hủy các thuyền
tàu của họ và giết hại hàng trăm người dân.
Ngày
6 tháng Ba, các người khách của Balestier yêu cầu ông
thông báo cho họ nội dung lá thư của Tổng Thống gửi
cho Hoàng Đế. Áp lực của thời gian đã khiến Balestier
chiều theo lời yêu cầu trái với sự phán đoán vững
chắc hơn của ông. Khi ông làm như thế, phía
Cochinchina, như đã đối xử vớI Roberts hai mươi năm
trước đây, đã phản đối các cách thức xưng hô cũng
như các ý kiến nơi cuối thư của Tổng Thống, mà họ
đã giải thích như là một sự đe dọa. Balestier đã
cố gắng giải thích cho qua các sai lầm trong nghi lễ.
Liên quan đến sự đe dọa hàm chứa trong lá thư của
Tổng Thống, ông đã lập luận rằng Tổng Thống đã đưa
ra đề nghị thực hiện các sự sửa chữa cho các hành
vi của Thuyền Trưởng Percival nhưng cảnh cáo rằng nếu
các thiện chí của Tổng Thống không được chấp nhận
và hoàng đế thực hiện sự đe dọa của Ngài nhằm trả
thù cho các hành vi của Percival đối với các công dân
Hoa Kỳ khác, Hợp Chúng Quốc sẽ bị bắt buộc phái các
chiến thuyền đến để đòi hỏi các sự giải thích
thỏa đáng.
Vào ngày 13 tháng Ba, có lời nhắn được
gửi đến Balestier rằng Tổng Đốc tỉnh Kwangnam (Quảng
Nam) mời ông lên bờ để nhóm họp. Cuộc hội kiến
đã diễn ra, và vị Tổng Đốc đã thông báo với
Balestier rằng lá thư không thể được tiếp nhận vì nó
có đề cập đến việc giết hại người dân Cochinchina
bởi thủy thủ đoàn một tầu chiến của Hoa Kỳ, và sự
kiện này đã không thể được xác chứng bởi hồ sơ
lưu trữ của quốc gia. Balestier đã tố cáo rằng
phía Cochinchina đã tìm một lý cớ để bác bỏ sự việc
hầu giữ quyền tự do thực hiện các hành vi thù nghịch
đối với người Mỹ. Ông cáo buộc rằng sự từ chối
tiếp nhận lá thư của Tổng Thống sẽ là một sự xúc
phạm lớn lao đối với Tổng Thống. Vị Tổng Đốc
Quảng Nam không bị lay chuyển, đã chấm dứt cuộc thảo
luận sau ba tiếng đồng hồ, và ra về. Chiếc thuyền
của Balestier vẫn còn lưu lại trong haỉ cảng cho đến
ngày 16 để chờ đợi xem có bất kỳ dấu hiệu quan tâm
nào khác hay nỗ lực để tiếp xúc hay không. Khi
không có gì xảy ra, ông đã rời khỏi hải cảng, với ý
định sẽ tái tục các nỗ lực của ông khi chiếc thuyền
đến cửa sông nơi kinh đô Huế tọa lạc, nhưng thời
tiết đã không hợp tác, và chiếc thuyền Plymouth thay vào
đó đã lái sang Bangkok (Vọng Các). (16)
Trong các báo
cáo gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao Clayton về phái bộ của
mình sang Cochinchina, Balestier đã viết rằng một vài viên
chức Cochinchina cấp thấp hơn có nhìn nhận một cách
riêng tư với ông rằng chiếc thuyền của Thuyền Trưởng
Percival đã giết chết một số người Cochinchina, nhưng
các thẩm quyền ở Huế đã ra lệnh rằng sự kiện đó
bị phủ nhận cùng với việc từ chối lá thư của Tổng
Thống. Balestier đã phân tích các lý do cho sự thất
bại và biện hộ cho việc đối phó với phía Cochinchina
-- bằng vũ lực.
Sự tin tưởng vững chắc của tôi
là, bằng cách từ chối sự phủ nhận của Tổng Thống
về hành vi xúc phạm, họ xem là họ sẽ được tự do để
trút sự trả thù trên các công dân của chúng ta chẳng
may rơi vào tay họ như thế, với việc không hứa hẹn
với chúng ta một đường lối thân thiện. Tôi bắt
buộc phải cảm thấy, như hơn một lần tôi đã có hân
hạnh được quan sát Ngài khi đối thoạI, rằng thật là
vô vọng cho việc nỗ lục để thương thảo nghiêm chỉnh
với một dân tộc không thực tế như thế, nếu không có
một sức mạnh kiềm chế trong tay. Giả sử tôi đã
đi cùng một hạm đội có ba chiếc thuyền thay vì một
chiếc thuyền duy nhất, và đã đi tới cửa con sông, chỉ
còn cách kinh đô vài dặm, sau khi các cố gắng của tôi
đã thất bại trong cuộc thương thuyết tại Turong (Đà
Nẵng), tôi chắc không còn nghi ngờ về cung cách mà tôi
sẽ được đón tiếp, và sự tôn trọng đối vớI lá
thư của Tổng Thống. Tôi xin phép Ngài để nhận
xét rằng người Cochinchina giống như mọi dân tộc bị
cô lập và không hiểu biết khác, mang đầy những tham
vọng cá nhân hão huyền và tính tự phụ trẻ con -- tự
hạ mình làm nô lệ và phục tùng một cách hèn hạ trước
vị chúa tể và các thượng cấp, họ đã hoàn toàn không
đếm xỉa đến các quyền và cảm nghĩ của các kẻ
khác, và, trong khái niệm không giới hạn về tính vĩ đại
của chính họ, họ lấy làm hài lòng để nghĩ rằng phía
các người Âu Châu phải bày tỏ một sự tôn kính cao xa
đối với họ trong mọi nỗ lực tiến tới các sự quan
hệ thân thiện với ho.
Tôi muốn kính trình với
Ngài rằng đương biên duyên hải chạy dài tại vùng biển
Trung Hoa nằm dưới quyền cai trị của dân tộc này, mà
sự chuyên chỏ bằng tàu của chúng ta, cùng vớI công
cuộc hảv vận của các dân tộc khác, bắt buộc phải
tiếp cận với hảl lộ này khi vãng lai vùng biển Trung
Hoa, tại bất kỳ phần đất nào trong đó sinh mạng của
các công dân của chúng ta có thể bị phát lộ và phải
chịu hy sinh, hay những người bị cầm tù; và để bảo
vệ chống lại các lề lối như thế, điều tuyệt đối
cần thiết để có sự an ninh là một sự biểu tỏ trực
tiếp về sự đối xử thân thiện về phía họ. Để đạt
được sự an toàn mong muốn này, tôi nghĩ cần phải đưa
ra một yêu cầu chính thức với Huế, cùng với một lực
lượng vũ trang có khả năng cưỡng hành yêu cầu này.
Nhưng, trong ý kiến của tôi, nhiều phần không cần đến
một hành vi thù nghịch nào về phía chúng ta, với việc
tin tưởng rằng sự xuất hiện của ba chiến thuyền
trong các hải phận đó sẽ đủ để đạt được mọi
điều có thể được yêu cầu một cách hợp lý nơi họ.
(17)
Trong một lá thư gửi thẳng lên Tổng Thống đề
ngày 15 tháng Mười Hai, 1851, trong đó Balestier biện luận
cho lời xác định xin bồi hoàn các chi phí của mình đã
chi tiêu trong phái bộ không thành công của ông, ông đã
lượng giá một cách khập khiễng các lý do của sự thất
bại của ông tại Cochinchina:
Về kết quả của
cuộc thăm viếng của tôi tại Cochin China, Xiêm la &
Borneo, tôi xin được nói thêm rằng sự thất bại của
tôi về việc [đạt] một hiệp ước với Cochin China nảy
sinh từ một sự quyết tâm đã xác định trước của
Chính Phủ của xứ đó là không chịu thương thảo, về
ngoại giao hay thương mại, với các nước Âu Châu bởi
có các xúc phạm sau đó đi cùng với việc chuyên chở
bằng tàu và thương mại của họ (các nước Âu Châu).”/-
CHÚ THÍCH:
1. Văn Khố Bộ
Ngoại Giao, Phòng Đọc Vi Phim, Văn Khố Quốc Gia,
Washington, D.C., Thư của Joseph Balestier gửi Bộ Trưởng
Ngoại Giao Forsyth, ngày 3 tháng Tám, 1837.
2. Cùng nơi dẫn
trên, Các Thư Tín Của Lãnh Sự Singapore, Singapore Consular
Letters, I.
3. Cùng nơi dẫn trên.
4. Jean Chesneaux,
Contribution à l’Histoire de la Nation Vietnamienne, Paris:
Editions Sociales, 64 Bd. Auguste-Blanqui, 1955, trang 95.
5.
D.G.E. Hall, A History of Southeast Asia, 3rd ed., New York: St.
Martin’s Press, các trang 644-646. Sự tường thuật của
Hall cho thấy cuộc biểu dương lực lượng của Mỹ đặt
Hoàng Đế Thiệu Trị vào một tình trạng khó xử về
mặt chính trị nội bộ khiến Nhà Vua phải phản ứng.
“Thống Đốc Butterworth, trong một lá thư đề ngày 13
tháng Ba 1847, đã báo cáo lên Chính Phủ Anh Quốc tại Ấn
Độ rằng các thương thuyền mậu dịch đến từ Cochin
China đã mang lại sự cáo tri về các quy điều nghiêm
ngặt mới chống lại ngoại kiều ở đó, và rằng ông
đã nói với vị quan lại phụ trách ngoại kiều là
‘vương triều Anh Quốc sẽ lấy làm bất mãn' nếu họ
cưỡng bách áp dụng đối với các kiều dân nước Anh.
‘Viên quan lại', ông viết tiếp, tức thời cho tôi hay
rằng các quy điều phát sinh từ cuộc thăm viếng vịnh
Turon (Đà Nẵng) của chiến thuyền Constitution của Hoa Kỳ,
khi chiếc thuyền đó bắn súng vào thành phố và giết
chết nhiều cư dân, bởi lời yêu cầu của vị chỉ huy
chiếc thuyền đòi giao trả một giám mục truyền giáo
người Pháp, khi đó đang ở trong tù, cho viên thuyền
trưởng, đã không được thi hành. Và rằng các sự
hạn chế nêu ra phải được nhìn như một phần chính
sách về phía Nhà Vua, kẻ lo ngại để biểu lộ cho thần
dân của Ngài rằng sự sỉ nhục đối với Nhà Vua sẽ
không được bỏ qua mà không có sự phản bác …’ “
6.
Joseph Buttinger, The Smaller Dragon: A Political History of Vietnam,
New York: Praeger, 1958, trang 391, chú thích số 17.
7. August
Haussman, Voyage en Chine, Cochinchine, Inde, et Malaisie, 1848,
quyển ii, các trang 376-377, như được trích dẫn bởi
Georges Taboulet, trong quyển La Geste Francaise en Indochine,
Paris: Maisonneuve, bộ I, trang 365.
8. Xem Phụ Lục D, văn
bản của lá thư của Percival đề ngày 21 tháng Sáu gửi
Bộ Trưởng Hải Quân. Được sao chép lại cùng với các
tài liệu đính kèm, từ Văn Khố Hải Quân, Các Thư Tín
gửi Bộ Trưởng Hải Quân từ các Thuyền Trưởng, Văn
Khố Quốc Gia, Ban vi phim,
9. Cùng nơi dẫn trên.
10.
Cùng nơi dẫn trên, thư của Percival gửi Bộ Trưởng Hải
Quân, đề ngày 26 July 1845, cùng với tài liệu đính
kèm.
11. Bất kể các sự kiện liên hệ đến hành động
của Percival tại vịnh Đà Nẵng ra sao, có điều chắc
chắn là hai năm sau đó, năm 1847, một lực lượng hải
quân Pháp đã tấn công và triệt hủy năm tàu chiến mộ6
buồm của Cochinchina tại cùng vịnh đó, cũng viện cớ
đòi phóng thích các linh mục người Pháp bị giam cầm
bởi Nhà Vua. Một bản tường thuật về hành động
này được ghi trong Điện Văn số 80, ngày 1 tháng Năm,
1847, từ Sứ Thần Hoa Kỳ tại Trung Hoa, A. H. Everett gửi
lên Bộ Trưởng Ngoại Giao James Buchanan, Văn Khố Bộ
Ngoại Giao.
12. Balestier tiếp tục nỗ lực vận động
Hoa Thịnh Đốn giao cho ông một sự cử nhiệm như thế.
Thí dụ, ông đã viết một lá thư gửi lên Bộ Trưởng
Ngoại Giao James Buchanan đề ngày 15 tháng Mười, 1848, khi
đang ở Hoa Thịnh Đốn, nêu lên trường hợp của
ông.
13. Văn Khố Bộ Ngoại Giao, Special Missions I, các
trang 292-296. Chỉ thị cung cấp một cái nhìn tuyệt
hảo về tổng quan chính sách của Hoa Kỳ đối với vùng
Đông Nam Á hồi giữa thế kỷ thứ 19. Chỉ thị này
cũng bao gồm sự đề cập đầu tiên về mục tiêu thiết
lập một sự hiện diện lãnh sự Hoa Kỳ tại Việt
Nam.
14. Senate Documents 618 (29-38), 32nd Congress, 1st Session,
1851-2, vol. 7 of 16 vols. Doc. 38, “Report of Joseph
Balestier to Secretary of State,” 25 November 1851, các trang
3-5.
15. Bản tường thuật này dựa theo các báo cáo của
Balestier gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao Daniel Webster, Senate
Documents, cùng nơi dẫn trên, các trang 3-8.
16. Về các
báo cáo chi tiết của Balestier liên quan đến sứ bộ sang
Cochinchina của ông ta, xem Senate Documents, cùng nơi dẫn
trên, các trang 37-46.
17. Cùng nơi dẫn trên, thư của
Balestier gửi lên Bộ Trưởng Ngoạ Giao, đề ngày 19 tháng
Ba năm 1850.
18. Văn Khố Bộ Ngoại Giao, Singapore Consular
Letters.
Ngoài các Phụ Lục
nguyên thủy, người dịch có bổ túc thêm hai tài liệu
để tiện việc tham khảo.
Phụ Lục 1: Thư gửi
Bộ Trưởng Hải Quân từ Thuyền Trưởng John
Percival
Trên Chiến Thuyền U.S.S. Frigate
Constitution
Ngoài khơi đảo Whampoa Island (Trung Hoa)
Ngày
21 tháng Sáu, 1845
Thưa Ngài Bộ Trưởng,
Trong
văn thư của tôi gửi về Bộ đề ngày 10th inst. [trong
nguyên văn, không rõ nghĩa, chú của người dịch], tôi đã
tự nhủ một cách nghiêm ngặt rằng tôi phải, ngay vào
lúc có cơ hội thích đáng đầu tiên, viết một báo cáo
đặc biệt về một sự việc đã xảy ra tại vịnh
Touron (Đà Nẵng), thuộc xứ Cochinchina [Việt Nam ngày nay,
chú của người dịch]. Sự vụ diễn ra như sau.
Vào
ngày 14 tháng Năm, bốn ngày sau ngày cập bến của tôi
tại hải cảng đó, một loạt chào với sáu khẩu súng
đã được trao đổi, tôi đã tiếp đón một cuộc thăm
viếng của các giới chức thẩm quyền của thành phố
Touron (Đà Nẵng). Họ có biểu diễn một vài đám
rước nhỏ như thường được cử hành bởi những quan
chức này trong những dịp như thế, đã được đón nhận
với phép lịch sự và được đối xử một cách tử tế
và ân cần. Sau khi ở lại trong boong tàu một lúc,
họ tỏ ý muốn được khảo sát các sự sắp xếp v.v…
của con thuyền, và một sĩ quan đã được chỉ định để
đi với họ.
Một vài phút trôi qua, một người
trọng họ quay lại, và với nhiều sự lo sợ đã trao cho
tôi một lá thư mở ngỏ, ra các dấu hiệu rằng nếu bí
khám phá ông ta sẽ mất đầu. Sau khi phái đoàn đã
rời khỏi con tàu, lá thư đã được phiên dịch (thư
được viết bằng tiếng Pháp) và được nhận ra là để
gửi cho vị Đô Đốc người Pha’p. (Xem bản sao đính
kèm đánh dấu chữ D).
Tôi bị thuyết phục rằng
nếu có bất kỳ điều gì có thể được làm để ngăn
chặn thảm họa đang trực chờ chụp lên vị Giám Mục,
nó sẽ phải được thực hiện tức thời. Sự khích
động lớn lao tràn ngập khắp Chiến Thuyền, được ghi
ra nơi phần cước chú của lá thư, là phần duy nhất mà
theo đó tôi đã hành động. Điều đã khiến tôi lo ngại
nhất là việc quyết định tôi có thể tiến hành đến
mức độ nào, và không vượt quá các giới hạn của
nghĩa vụ trong sự tranh đấu chống lại việc hành hạ
con người trên một thần dân của một Dân Tộc đã liên
kết với chúng ta bởi các mối ràng buộc của các sự
quy định theo hiệp ước và những hành vi tuy đã qua
nhưng chưa quên được từ lòng tử tế trong thời buổi
sơ sinh của đất nước chúng ta. Đây là một trường
hợp mà tôi biết là chưa từng xảy ra, nhưng tin tưởng
rằng một tình cảm quảng đại đã là một đặc tính
nổi bật của Chính Phủ chúng ta, và rằng việc hành sử
ảnh hưởng của nó xuyên qua các nhân viên của Chính Phủ
trong mục đích nhân đạo là khuôn mẫu của các tập
quán và năng lực đạo đức của nó từ ngày chấp nhận
Hiến Pháp Liên Bang. Tôi đã tiến hành việc sử dụng
các nỗ lực của mình để ảnh hưởng đến sự phóng
thích Giám Mục Dominique Lefevre, một thần dân nổi tiếng
của nước Pháp.
Cảm tưởng của tôi là mọi quốc
gia đều có quyền ấn định sự giao tiếp của chính
mình với các nước khác, không từ khước lẫn nhau các
đặc quyền thích đáng và công bằng, trong một phương
cách sao cho có lợi nhất cho quyền lợi và sự thịnh
vượng của chính quốc gia mình. Tuy nhiên, về phương
diện đối với các ngoại kiều, đặc biệt những người
được mời để cư trú trong lãnh thổ của mình, và để
giảng dạy người dân mình về nghệ thuật, khoa học và
tôn giáo, mọi Quốc Gia, có vẻ đối với tôi, đều có
một nghĩa vụ tinh thần là phải đối xử với họ trong
sự kính trọng, tử tế và nhân đạo trong thời gian cư
trú của những người đó; bất kỳ sự can thiệp nào
bằng sự truy nã thông thường đối với các khách được
mời đến như thế, về phía một Quốc Gia, đối với
tôi là một sự hành sử quyền hành khắc nghiệt, và còn
kết án tử hình các ngoạI kiều mà không có sự trần
tình và không được biện hộ, bởi một tòa án độc
đoán, thì không phù hợp với quy luật đạo đức theo đó
mọi quốc gia đều bị chi phối.
Nếu một quốc
gia mời và cho phép các ngoại kiều nhập nội lãnh thổ
của mình, nó bị bắt buộc phải tôn trọng các quyền
như thế, chừng nào mà các khách mời vẫn hoạt động
một cách ôn hòa; nếu trong sự phá bỏ thiện chí, quốc
gia đó tiến hành việc trừng phạt các ngoại kiều nhằm
trả thù trong khi không có sự vi phạm luật lệ nào,
chính quốc gia đó phải chịu trách nhiệm một cách sòng
phẳng về hành động của mình, đặc biệt nếu đó là
một quốc gia bán khai và từ chối không ký các hiệp ước
hay không có các giao tiếp xã hội với các quốc gia khác
trên thế giới.
Chắc chắn đã phát sinh trong tư
tưởng của tôi là mình sẽ phải tiến bước đến đâu,
nếu vị Giám Mục Khả Kính đó là một công dân Hoa Kỳ,
đối với lời kêu cứu của một người Hoa Kỳ đang bị
cưỡng bức cầm tù, đang rên xiết dưới xích xiềng, đã
vạch ra cho tôi một con đường duy nhất (theo tôi nghĩ)
để một sĩ quan Hoa Kỳ theo đuổi, và đó là con đường
giải thoát vị giám mục đó bất chấp mọi khó khăn.
Tôi đã xem xét lại các chỉ thị cho tôi để tự xác
minh: mức độ mà quý Bộ có thể có cùng quan điểm mà
tôi trích dẫn dưới đây là điều làm tôi lo âu rất
nhiều:
“Mọi sự khích lệ và trợ giúp trong thẩm
quyền của ông sẽ được cung cấp [để hỗ trợ] cho
nền Thương Mại Hoa Kỳ và các công dân Hoa kỳ cùng công
dân của các quốc gia thân hữu mà ông có thể gặp mặt
trong suốt các hải trình của mình.”
Các động
lực ảnh hưởng đến tôi đều có tính cách nhân đạo,
đượ thi hành vì tình đồng loại đang bị đau khổ, để
trợ giúp một thần dân của một Dân Tộc thân thiện từ
lâu với Hợp Chúng Quốc. Nếu tôi có sai lạc, đó
là một lỗi lầm trong sự suy nghĩ chứ không phải trong
tình cảm, vốn luôn luôn được cống hiến cùng với bàu
nhiệt huyết cao đẹp nhất cho danh dự và sự thịnh
vương của đất nước tôi.
Tôi kính mong Bộ lưu
tâm đến các văn kiện đính kèm, đã được chuyển đếnn
vị Đô Đốc người Pháp, bao gồm một sự trình bày
trung thực các sự việc như chúng đã xảy ra, cũng như
về thông tin về tình trạng người công dân của nước
ông ta. Tôi hay biết rằng sau đó ông ta đã tiến
hành đến vịnh Đà Nẵng để thực hiện sự phóng thích
Giám Mục Lefevre.
Tôi kính đệ trình hành động của
tôi và các động lực thúc đẩy tôi theo đường lối mà
tôi đã theo đuổi, lên các Thẩm Phán của Bộ [xem
xét].
Tôi hân hạnh được là một Công Bộc trung
thành của Ngài,
Kính chào với lòng tôn kính sâu xa
nhất,
Thuyền Trưởng PERCIVAl,
Chuẩn Tướng Chiến
Hạm Constitution của Hoa Kỳ
Kính gửi:
Ngài Bộ
Trưởng Hải Quân,
Washington, D.C.
Phụ Lục 2:
Báo Cáo của
ông Balestier gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao,
Trên Chiến Thuyền Plymouth,
Ngày 19 tháng Ba,
1850
Thưa Ngài: Tôi hân hạnh đính
kèm bản ghi nhớ một cuộc họp được diễn ra ngày 13
tháng Ba cùng với Quan Tổng Đốc tỉnh Quảng nam tại
vịnh Đà Nẵng. Ngài sẽ nhận thấy, khi xem xét kỹ
lưỡng văn kiện đó, rằng lý cớ được dùng để không
tiếp nhận lá thư của Tổng Thống gửi Quốc Vương
Cochin China dựa trên giả thuyết rằng không có ngườI
dân nào bị sát hại bởi các nhân viên chiến hạm
Constitution của Hoa Kỳ, như được mô tả trong lá thư,
nên lá thư không được chính xác, và không thể được
đệ trình hay được đọc bởi Nhà Vua, bất kể lá thư
có thể chứa đựng các điều khác nữa. Thế nhưng
sự sai lạc được đưa ra này là một lý cớ thoái thác
thuận tiện, được trình bày mà không cần đưa ra sự
việc cụ thể nào khác, chẳng hạn như về hình thức,
hay kiểu cách, hay cách xưng hô, trong bản dịch sang tiếng
Trung Hoa vốn dĩ được soạn thảo một cách rất hoàn
chỉnh bởi Tiến Sĩ Parker, theo các nghi thức của triều
đình Bắc Kinh, đến nỗi nó không còn có thể bị tranh
nghị vào đâu được.
Về lý cớ thoái
thác được nhấn mạnh theo mệnh lệnh từ Huế, như tôi
đã thông báo trước đây, thì hoàn toàn giả dối, theo
sự thú nhận từ một thông dịch viên bản xứ và các
quan chức cấp thấp quanh Đà Nẵng, các người mà đã
hơn một lần cho hay rằng những gì mà lá thư của Tổng
Thống diễn tả đều đúng hết, nhưng bởi có các mệnh
lệnh từ Huế là phải phủ nhận biến cố và cùng lúc
tứ khước tiếp nhận lá thư.
Sự
tin tưởng vững chắc của tôi là, bằng cách phản bác
sự phủ nhận của Tổng Thống về hành vi xúc phạm, họ
xem là họ sẽ được tự do để trút sự trả thù trên
các công dân của chúng ta chẳng may rơi vào tay họ như
thế, với việc không hứa hẹn với chúng ta một đường
lối thân thiện. Tôi bắt buộc phải cảm thấy, như
hơn một lần tôi đã có hân hạnh được nhận thấy nơi
Ngài khi đối thoại, rằng không gì vô vọng cho việc nỗ
lục để thương thảo nghiêm chỉnh với một dân tộc
không thực tế như thế, nếu không có một sức mạnh
kiềm chế trong tay. Giả sử tôi đã đi cùng một
hạm đội có ba chiếc thuyền thay vì một chiếc thuyền
duy nhất, và đã đi tới cửa con sông, chỉ còn cách kinh
đô vài dặm, sau khi các cố gắng của tôi đã thất bại
trong cuộc thương thuyết tại Turong (Đà Nẵng), tôi chắc
không còn nghi ngờ về cung cách mà tôi sẽ được đón
tiếp, và sự tôn trọng đối với lá thư của Tổng
Thống.
Tôi xin phép Ngài để nhận xét
rằng người Cochinchina giống như mọi dân tộc bị cô
lập và không hiểu biết khác, mang đầy những tham vọng
cá nhân hão huyền và tính tự phụ trẻ con – khi tự hạ
mình làm nô lệ và phục tùng một cách hèn hạ trước
vị chúa tể và các thượng cấp, họ đã hoàn toàn không
đếm xỉa đến các quyền hạn và cảm nghĩ của các kẻ
khác, và, trong khái niệm không giới hạn về tính vĩ đại
của chính họ, họ lấy làm hài lòng để nghĩ rằng phía
các người Âu Châu phải bày tỏ một sự tôn kính cao xa
đối với họ trong mọi nỗ lực muốn tiến tới các sự
quan hệ thân thiện với ho.
Tôi muốn
kính trình với Ngài rằng đường biên duyên hải chạy
dài tại vùng biển Trung Hoa nằm dưới quyền cai trị của
dân tộc này, mà sự chuyên chỏ bằng tàu của chúng ta,
cùng với công cuộc hải vận của các dân tộc khác, bắt
buộc phải tiếp cận với hải lộ này khi vãng lai vùng
biển Trung Hoa, [rằng] tại bất kỳ phần đất nào nơi
đó sinh mạng của các công dân của chúng ta có thể bị
phát lộ và phải chịu hy sinh, hay [sẽ có] những người
bị cầm tù; và để bảo vệ chống lại các lề lối
như thế, điều tuyệt đối cần thiết để có sự an
ninh là một sự biểu tỏ trực tiếp về sự đối xử
thân thiện về phía họ. Để đạt được sự an toàn
mong muốn này, tôi nghĩ cần phải đưa ra một yêu cầu
chính thức với Huế, cùng với một lực lượng vũ trang
có khả năng cưỡng hành yêu cầu này. Nhưng, trong ý
kiến của tôi, nhiều phần không cần đến một hành vi
thù nghịch nào về phía chúng ta, với việc tin tưởng
rằng sự xuất hiện của ba chiến thuyền trong các hải
phận đó sẽ đủ để đạt được mọi điều có thể
được yêu cầu một cách hợp lý nơi họ.
Tôi hân hạnh phục vụ như một công bộc trung thành của
Ngài.
J. Balestier
Kính gửi
Ngài J.M. Clayton
Bộ Trưởng Ngoại Giao
Bản ghi nhớ cuộc họp của Ngài
Phái Viên và Sứ Thần Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ tại vùng
Đông Nam Á, và Tổng Đốc tỉnh Quảng Nam, tại thành phố
Đà Nẵng, vào ngày 13 tháng Ba năm 1850.
Vào giờ
khắc sớm sủa sáng nay các quan chức địa phương của
Đà Nẵng đã lên Chiến Thuyền Plymouth của Hợp Chúng
Quốc để gặp Đại Tá T.R. Gedney, nhằm thông báo cho Đặc
Sứ rằng quan Tổng Đốc tỉnh Quảng nam đã đến thành
phố, và rằng ông ấy mong muốn được gặp Đặc Sứ
trên bờ.
Đặc Sứ đã phúc đáp rằng, cuộc thăm
viếng đầu tiên phải là việc của quan Tổng Đốc, bởi
ông từ phương xa đến đây để mang một lá thư của
Tổng Thống Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ gửi Quốc Vương nước
An Nam; và, hơn thế nữa, đây là một hành vi của phép
lịch sự đối với một người ngoại quốc, và là điều
đã từng được thực hiện đối với các nhân viên
ngoại giao trong những dịp trước đây tại địa điểm
này.
Các quan chức Cochin China nói rằng đúng là thủ
tục đã diễn ra như thế trong các thời điểm trước
đây, nhưng trong ba năm qua các mệnh lệnh mới đã được
ban hành, cấm đoán các quan chức cao cấp của chính phủ
được thăm viếng tàu thuyền ngoại quốc.
Sau một
cuộc thảo luận kéo dài về điểm này, hiểu được là
không có ích lợi nào từ những quan chức không thể có
ý kiến riêng của họ được, và không có thẩm quyền
quyết định nào dành cho họ, ông đặc sứ, để ngăn
chặn việc mất thời giờ hơn nữa, vì mười sáu ngày
đã bị trôi qua, quyết định sẽ làm theo lời yêu cầu
của họ, và, được tháp tùng bởi Chuẩn Tướng
Voorhees, người được mời tham dự buổi tiếp xúc, đã
đi tới tòa thị chính, địa điểm tiếp kiến thường
lệ.
Phụ Lục 3 (bổ túc bởi
người dịch):
Người dịch xin bổ túc trong Ph ụ
Luc 3 này bức thư đề ngày 16 tháng Tám năm 1849,
được viết bởi Tổng Thống Hoa Kỳ Zachary Taylor gửi
cho Nhà Vua Việt nam khi đó (vua Thiệu Trị). Ngoài
lời văn lủng củng, có chỗ không đúng văn phạm, nội
dung bức thư cho thấy có lẽ đây là một quốc thư ngoại
giao kỳ qu ặc, “không có tính cách ngoại giao” như
được hiểu ngày nay .
[Tổng Thống Hoa Kỳ Zachary
Taylor đã viết thư vào tháng Tám, 1849 cho Nhà Vua
Anam [trong nguyên văn, chú của người dịch] để trả lời
về cuộc tấn công hồi tháng Năm, 1845 của chiến thuyền
USS Constitution và Thuyền Trưởng John Percival tại Đà Nẵng
và đe dọa khai chiến nếu Nhà Vua Việt Nam không chấp
nhận lời xin lỗi!]
Zachary Taylor,
Tổng Thống Hợp
Chúng Quốc Hoa Kỳ,
Kính gửi Nhà Vua nước An Nam Huy
Hoàng,
Kính gửi Người Bạn Tốt và Vĩ Đại,
Tôi
xin gửi đến Ngài, người anh em của tôi, Quốc Vương Vĩ
Đại và Uy Nghiêm của xứ Anam [trong nguyên văn, chú của
người dịch] lòng yêu mến và hảo ý, trong lá thư này,
được trao bằng tay bởi ông Joseph Balestier, vị Phái Viên
trung thành và thân tín của tôi, Sứ Thần Đông Nam Á, là
người mà tôi đã chỉ thị rõ ràng là phải trao thư đến
tận tay Hoàng Thượng, hầu Ngài có thể hiểu được
rằng tôi lấy làm buồn phiền biết bao khi nghe thấy
chuyện viên Thuyền Trưởng của một trong những chiến
thuyền của nước tôi, đã tự ý cư xử sai trái, bốn
năm trước đây, (tôi mới chỉ được nghe thấy câu
chuyện một cách chậm trễ, lần đầu tiên, bởi xứ sở
của Ngài quá xa xôi với đất nước của tôi,) qua việc
cho binh lính từ chiếc thuyền của ông ta đổ bộ
lên Vịnh Toorong [trong nguyên văn, tức vịnh Đà Nẵng,
chú của người dịch], và nổ súng vào dân chúng của
Ngài, làm chết và bị thương một số người trong họ.
Tôi đã ra lệnh mở một phiên tòa để điều tra về
người thuyền trưởng này và áp dụng mọi biện
pháp mà công lý sẽ đòi hỏi tiếp theo đó. Và làm
sao mà y lại có thể làm như thế, một khi y biết được
rằng, các chiến thuyễn và thương thuyền của tôi luôn
luôn được đón nhận trong tình hữu nghị tại Anam
(trong nguyên văn, chú của người dịch], và rẵng tấm
lòng của chính tôi lúc nào cũng ở cùng bên với Ngài và
nhân dân của Ngài, người anh em cua tôi!
Viên Thuyền
trưởng đó có thể đã không được bình thường khi ông
ta làm như thế. Tôi lấy làm buồn phiền, và tôi
đau lòng vì sự xúc phạm đến tình hữu nghị của chúng
ta, và nay tôi phải vội vã gửi thư này đến Ngài để
Ngài thấu hiểu cho tấm lòng của tội.
Hoa Kỳ, Đất
Nước tôi, rất lớn rộng, rất vĩ đại: Tôi có rất
nhiều các chiến hạm và các thương thuyền. Hiện
nay tôi giao hảo trong hòa bình với toàn thế giới, và
người dân tôi thì lương hảo và hiếu hòa, và tại
Trung Hoa cùng Xiêm La, nơi mà mọi năm, nhiều người trong
họ tham gia vào việc mậu dịch, họ rất lấy làm thích
thú, và trái tim của tôi sẽ lấy làm hân hạnh rằng,
giờ đây, Ngài hiểu rằng tôi không chấp thuận hành
động xấu xa của bất kỳ kẻ nào chỉ huy một trong
những chiến thuyền của tôi, [xin] Ngài sẽ quên đi những
gì là quá khứ, và đón nhận các thuyền tàu, và người
dân của chúng tôi, như trước, để buôn bán, và Ngài có
thể an tâm rằng Ngài sẽ chẳng bao giờ có nguyên do để
lại phải phàn nàn nữa.
Tôi đã tự trải tấm
lòng của tôi ra với Ngài, vị Hiền Hữu của tôi, bởi
vì tôi là một người công bình và lương hảo, tôi hy
vọng Ngài sẽ lắng nghe các lời làm lành của tôi, và
[xin] đừng nghĩ đến việc trả thù, trên người dân vô
tội, của dân tộc tôi, cho tội lỗi gây ra bởi những
kẻ làm trái với các mệnh lệnh của tôi. Giờ đây
tôi không còn có thể làm điều gì khác hơn nữa.
Thế
nhưng, tôi phải thông tri cho Ngài hay biết rằng, nếu
Ngài, hay các quan chức của Ngài, tự mình tìm cách trả
thù trên các người dân Hoa Kỳ, cho sự việc cần quên
đi và tha thứ sau khi lá thư của tôi đến được tay
Ngài, khi đó, Ngài sẽ bắt buộc tôi phải gửi các chiến
thuyền, các pháo hạm, và binh lính đến Anam [trong nguyên
bản, chú của người dịch] để yêu cầu Ngài giải
thích lý do tại sao Ngài lại quá hận thù về điều mà
giờ đây không có thể gì hơn được, và Ngài sẽ
phải gánh chịu mọi hậu quả không tốt {(?) phần nhấn
mạnh đựợc bố túc bởi người biên tập trong nguyên
bản, không phải của người dịch]
Thật vô cùng
đáng tiếc rằng Sứ Bộ sang Phương Đông trước đây
của chúng tôi, cầm đầu bởi [Đặc Sứ] Edmund Roberts,
được phái đi bởi chính phủ này hồi năm 1835, để mở
mang các quan hệ thương mại hữu nghị với Ngài, đã
không cho thấy là đạt được sự thành công như có thể
mong muốn, nhưng giờ đây vẫn chưa quá trễ. Tôi
tin tưởng rằng, việc đặt các quan hệ đó trên căn bản
khả dĩ tốt đẹp nhất, và tư đó, để phát huy mối
giao tiếp hòa hài giữa hai Xứ Sở, và việc mở rộng
đến mức độ có lợi nhất cho cả đôi bên, [sẽ mang
lạI] lợi ích của sự mậu dịch và thương mại. Đây
là mong ước thành thật và nhiệt tình của chúng tôi, và
ông [Đặc Sứ] Balestier đã được chỉ thị phải làm
mọi điều trong thẩm quyền của ông để hoàn thành.
Xin
cầu nguyện Hoàng Thiên của Ngài, và Thượng Đế của
tôi, ngăn cản việc đổ thêm bất kỳ giọt máu nào nữa
giữa dân tộc của Ngài và dân tộc của tôi, thưa Ngài
Huynh Đệ của tôi.
Hiền Hữu của Ngài,
Z.
Taylor,
Thừa lệnh Tổng Thống,
John M. Clayton
Bộ Trưởng Ngoại Giao
Thành Phố
Hoa Thịnh Đốn, ngày 16 tháng T ám, năm 1849.
----
Nguồn:
Communications to Foreign Sovereigns and States, Vol. 2, pages
114-117. Dept. of State, Records Group 59, National Archives,
Diplomatic Branch
***
Phụ Lục 4 bổ túc bởi người
dịch:
Ủy Nhiệm Thư cử ông Joseph Balestier làm Đặc
Phái Viên
của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ
Tổng
Thống Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ,
Kính gửi: Đức
Hoàng Thượng, Quốc Vương An Nam,
Thưa Vị Hiền Hữu
Vĩ Đại,
Tôi đã tuyển chọn ông Joseph Balestier,
một trong những công dân xuất sắc của chúng tôi, để
giao dịch, với tư cách Đặc Phái Viên của Hợp Chúng
Quốc, công việc quan trọng với Đức Hoàng Thương.
Tôi cầu xin Đức Hoàng Thượng hãy bảo vệ cho ông ta
trong việc thi hành các nhiệm vụ đã được giao phó cho
ông ta, và đối xử với ông ta bằng sự tử tế và tín
nhiệm, đặt hoàn toàn sự tin tưởng nơi những gì ông
ta sẽ nói với Ngài nhân danh nước chúng tôi, và đặc
biệt khi ông [Đặc Phái Viên] sẽ lập lại các sự bảo
đảm cho tình hữu nghị tuyệt hảo và thiên chí của
chúng tôi đối với Hoàng Thượng.
Tôi cầu nguyện
xin Thượng Đế luôn phù hộ sự an toàn và bảo vệ cho
Ngài, Vị Hiền Hữu Vĩ Đại.
Lập tại Thành Phố
Hoa Thịnh Đốn, ngày Mười Sáu tháng Tám, năm một nghìn
tám trăm bốn mươi chín sau dương lịch, tức năm thứ
Bảy mươi tư sau ngày Độc Lập của Hợp Chúng Quốc Hoa
Kỳ.
Z. Taylor,
Thừa lệnh Tổng Thống,
John
M. Clayton,
Bộ Trưởng Ngoại Giao
Nguồn:
Robert Hopkins Miller, The United States and Vietnam, 1787-1941,
National Defense University Press, Fort Lesley McNair, Washington
D.C., 20319
Nguồn: Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét