CHƯƠNG 15: QUÂN MÔNG CỔ GÂY NẠN BINH ĐAO
T
Thời gian qua Hoàng thúc phải sống trong cảnh quạnh
hiu dài lê thê nơi đất khách quê người xa lạ. Nhưng
nhờ có vua quan và thần dân nước Cao Ly hết lòng thương
yêu quý mến và đùm bọc, nên Hoàng thúc đã lập được
gia đình mới, làm lại cuộc sống mới, bắt đầu bước
xuất phát mới một tâm trạng mới.
Cuộc sống mới đó cùng với tháng năm đã trôi qua nhanh
chóng như một chiếc đèn kéo quân. Không thể có hiện
tại mà không có quá khứ, cũng như không thể có tương
lại nếu không có hiện tại. Lòng con người ta cũng dễ
quên đi những việc đã qua. Thực ra, thời gian dù có
trải qua mấy vạn năm đi nữa, quy luật chuyển động
của mặt trời mặt trăng và quả đấy vẫn không sai một
ly, cho nên ngày nào cũng giống ngày nào. Có điều, mọi
vật chất đều có chủ riêng, của người là của người,
của ta là của ta, không thể tự tiện chiếm đọat của
cải của người khác. Song đối với mặt trời, mặt
trăng và cảnh sắc của núi non đồng nội thì mọi người
chúng ta đều có thể tai nghe mắt thấy, thỏa lòng tận
hưởng, không ai dám ngăn cấm. Nguồn vật chất thiên
nhiên bất tận đó lại gắn liền với cuộc đời của
con người nhỏ bé đang sống trong đó.
Lại nói về nước Tống, từ thờ hòang đế Cao Tống
trở đi, sau khi di chuyển xuống phía nam do có sự xâm
lăng của nước Kim, đã lập kế phòng bị, thi hành chính
sách thân thiện với Mông Cổ, nuôi lưỡng thực lực, và
thực hiện lược kìm chế nước Kim, đồng thời dùng
chính sách chinh phạt bằng văn hóa đối với người Kim
để quấy rối nội bộ nước này. Kết quả nước Kinh
xảy ra nội lọan. Nhưng nước Kim vẫn còn chiếm phần
đất bắc Tống. Lọi dụng co hội đó, thế lực của
Thành Cát Tư Hãn, vua Thái tổ của Mông Cổ bắt đầu
lớn mạnh dần lên.
Nếu ngược dòng thời gian để xem xét thêm diễn biến
của lịch sử, sẽ thấy dường như sau khi hợp lực với
Tân La đánh Cao Ly, chiếm được một vùng đất rộng bao
gồm cả xứ Mãn Châu ngày nay, khiến cho tất cả các
phiên bang của nhà Đường khiếp sợ dã tâm xâm lược
của họ. Trên thực tế dã tâm lực đó của Đường đã
phơi bày khắp thiên hạ. Trước cảnh nước mất nhà
tan, những người dân du mục của Cao Cù Ly đã vùng lên
tiếng hành cuộc đấu tranh bất khuất kéo dài hàng mấy
trăm năm. Những người chiến sĩ vong quốc đấu tranh để
giành lại độc lập cho đất nước mình đã tản mát đi
khắp nới và sang đến tận đất Mông Cổ.
Người đã lợi dụng trào lưu lịch sử đó để nhìn
thẳng vào cục diện thiên hạ là Thành Cát Tư Hãn, vùa
Thái tổ của Mông Cổ. Rốt cuộc nhà Đường suy vong,
còn nhà Tống thì bị nước Minh xâm lược. Đó là kết
quả tất yêu của đường lối xây dựng cộng đồng quy
tụ trở lại những người dân du mục của Cao Cù Ly.
Song thói đời của những người làm chính trị xưa nay
chẳng có gì khác nhau. Họ đã làm tiêu vong việc lớn
chỉ vì những tư tình cá nhân hoặc chỉ biết lấy mình
làm trung tâm. Nước Kinh và nước Cao Ly đã không hợp
lại được với nhau để nói rõ với thiên hạ họ là
con cháu hậu duệ của vua Tan-gum 1 chính là mối hận
nghìn thu không xóa nổi. Một vị tướng sóai của nước
Kim là Yarul Yuka đã mấy lần cử người sang Cao Ly nói rõ
âm mưu thâm độc của nhà Tống. Trong tình hình như vậy,
Yarul Yuka đề nghị Cao Ly và nước Kim hợp sức đánh
Tống. Nhưng lúc bấy giờ triều đình Cao Ly mắc phải tư
tưởng sùng bái nước lớn, nên những người như Thôi
Di đã bác bỏ lời đề nghị đó, không những thế còn
báo cho nước Tống sự thật này. Nhận được tin tình
báo. Tống đã lợi dụng nước Kim để thực hiện chính
sách "dĩ đi tự đi". Không còn cách nào khác
tướng Yarul đành phải đấu hàng và tiếp nhận sự "bảo
hộ" của vua Thái Tông nước Mông Cổ, nhằm trù tính
công việc mai sau dưới cái tên mỹ miều là "Đại
Liên Quốc".
Nước Tống thực hiện một chính sách thân Mông Cổ theo
cách của Tống. Đến đời hòang đế Lý Tông, thế lực
của Mông Cổ đã dần dần lớn mạnh lên theo cách "nuôi
hổ trong nhà, mang họa về sau" đối với Tống.
Vào năm thứ ba đời vua Thái Tông của Mông Cổ, nước
này cử đại quân sang xâm lược Cao Ly và giao bình quyền
cho một tướng Mông Cổ tên là San-li-tai.
Nước Cao Ly không hiểu được thế sự xoay vần nên Thôi
Di lên nắm quyền đến năm thứ mười bốn đời vua Cao
Tông, đã tuyển chọn các văn nhân, học giả Nho giáo lập
ra chế độ "thư phòng" đối với chế độ "đô
phòng" của các quan võ.
Ông ta làm như vậy là có ý định nhằm thống sóai cả
hai thế lực văn và võ vì lúc bấy giờ không ngăn chặn
được các tệ đoan của tầng lớp tăng lữ Phật giáo
và không thống nhất được công luận trong nước.
Mặc dù đã làm vậy, việc thống nhất công luận vẫn
không thực hiện được. Đã có nhiều chuyện xảy ra. Có
kẻ tên là Chu Diễn Chi (tức Phôi Phủ) đi khắp nơi làm
thuyết khách tung ra dự luận xằng vậy và dùng thuật
bói tóan tung tin nhảm làm thác lọan nhân tâm. Mặt khác
phe nhóm thượng tướng quân Lô Chi Nhánh và đại tướng
quân Cầm Huy đã bị sát hại vì bị ghép vào tội âm
mưu làm phản.
Quân Mông Cổ đã xâm lược nước Cao Ly vào một thời
điểm như vậy.
Tướng Mông Cổ San-li-tai dẫn hơi mười vạn kỵ, bộ
binh đánh vào Cao Ly, chúng tràn vào các miền vùng tây bắc
như nước vỡ bờ. Và cuối cùng chúng đã tiến sát đến
kinh đô Khai Kinh. Đương nhiên triều đình cũng cử quân
đến những nơi có giặc để chống đỡ, nhưng lực
lượng không ngang sức, ít không địch nổi nhiều. Tướng
địch San-li-ti đã tiến đến ngòai cổng kinh thành. Đáp
lại lời cầu hòa của Cao Ly, y đòi phải nộp nhiều
vàng bạc, da lông thú quý, quốc ấn, vương tôn công tử,
trẻ con nam, trẻ con nữ.
Đòi hỏi của tướng địch lớn quá không sao đáp ứng
nổi, nên triều đình có ý kéo dài thời gian, thực hiện
hõan binh chi kế. thấy vậy, một phó tướng của
San-li-tai là nguyên soái Đường Cô đã dẫn hơn một vạn
quân lính bắt đầu cướp phá khắp nơi trong tỉnh Hòang
Hải như vùng Hoàng Châu, Phụng Sơn…
Nghe tin quân Mông Cổ mạnh về lục chiến nhưng yếu về
thủy chiến, nên không những quân lính mà cả dân thường
cũng đều tìm đường lánh nạn ra bờ biển, số người
đông vô kể.
Triều đình ra lệnh huy động nhất phẩm quân, tức lính
công bình trong cả nước đến đắp đê dọc bờ biển
phía tây.
Miền đất Ủng Tân đang trong cảnh thái bình yên bĩnh
bỗng chốc trở nên náo lọan do dân tụ nạn gồng gánh
bồng bế nhau đổ dồn về quá nhiều.
Tin đồn quân Mông Cổ thủy chiến yếu lan truyền khắp
đất nước, ngay đến đứa trẻ con lên ba cũng biết,
nên mọi con đường tản cư của dân tỵ nạn đề đổ
dồn về phía bờ biển.
Dọc con đường lớn từ bên ngòai cửa đông của thành
ủng Tân nối liền với Thâm Xuyên, Hòang Châu, ngày này
qua ngày khác, dân tỵ nạn lũ lượt kéo về không ngớt.
Từ chỗ giao nhau giữa hai con đường ở làng Giao Chỉ
bên ngòai cửa đông, quân lính từ sáng sớm đã phải
tiếp đón từng người dân tản cư đổ về đưa họ vào
trong thành. Dù có sợ thám báo của quân Mông Cổ trà
trộn vào với những người tỵ nạn đáng thương này
cũng đành chịu. Biết làm sao được phải lo chăm sóc
cho những người tỵ nạn đáng thương này trước đã.
Hơn hai mươi người tỵ nạn đang về đây. Đàn ông thì
địu một chiếc gùi trên lưng, trong đó đựng các đồ
đạc hoặc đặt một đứa con nhỏ, còn những người
đàn bà thì đội trên đầu một gói lớn. Cả một đòan
người lang thang, dáng vẻ mệt mỏi.
Hai người lính bước đến trước mấy người tỵ nạn
trông có vẻ còn trẻ, lân la hỏi chuyện.
- Chà, di tản cư chắc vất vả lắm. Các anh từ đâu tới
đây vậy?
- Vâng, chúng tôi từ Hòang Châu đến đây.
Một người đàn ông trẻ đáp lại, chiếc gùi vẫn còn
địu trên lưng.
Hai người lính trông thấy họ có vẻ tội nghiệp, bèn
bảo họ nghỉ một chốc rồi hẵng đi và đến đỡ giúp
mấy chiếc gùi của họ đặt xuống đất.
Những người dân tỵ nạn dáng mệt mỏi, ngồi phịch
xuống đất.
- Các anh rời Hoàng Châu được bao nhiêu ngày rồi?
- Đã hơn mười ngày rồi.
- Vậy nhìn thấy bọn giặc Mông Cổ rồi chứ.
- Còn phải nói. Hơn hai mươi ngày qua, chúng tôi đã chứng
kiến những hành vi tàn ác của chúng, không một ai còn
có thể chịu nổi nên đã bỏ trốn đến đây…
- Bọn Mông Cổ dã man lắm.
Nghe người lính nói vậy, một ông già trong số người
tị nạn, trông có vẻ nhiều tuổi bèn đứng dậy nói:
- Bọn Mông Cổ tàn ác đã đành, nghe nói trong bọn lính
của chúng còn có cả lính Tàu nữa. Những hành vi thất
đức của bọn lính Tàu này thật không sao nói hết được.
Người lính nghe nói tỏ vẻ ngạc nhiên, bèn hỏi lại:
- Bọn lính Tàu ấy à? Có phải bọn lính người nước
Tống đó không?
- Không phải binh lính nước Tống mà là những người
nước Tống bị quân Mông Cổ bắt vào lính trên đất
Tống. Cho nên chúng cũng là quân Mông Cổ.
Những người lính ngồi nghe bây giờ mới gật gù, tỏ
vẻ như đã hiểu, bèn nói với vẻ khâm phục.
- Bà con đã thoát khỏi bàn tay của chúng như vậy thật
giỏi quá.
Một ông già đến trước mặt mấy người lính, nói:
- Các chú không biết rõ hành vi tàn ác của chúng nên mới
khen chúng tôi giỏi. Nếu các chú đã một lần gặp phải
bọn chúng, các chú sẽ biết rõ bọn chúng tàn ác như
thế nào. Tất nhiên quốc dân trăm họ nhìn thấy đất
nước mình bị bon man di dày xéo, có ai mà không phẫn uất
căm thù. Làm sao có thể nén nỗi căm giận đứng nhìn
thảm cảnh do bọn giặc gây ra, như cảnh chúng dùng giáo
mác và mã tấu đâm những người dân vô tội chẳng khác
gì chúng đâm con vật. Chúng cướp đọat tài sản của
dân, chúng hãm hiếp phụ nữ… Cả gia đình tôi nghĩ
muốn tự vẫn để khỏi phải sa vào tay giặc, nhưng thấy
mạng sống vẫn còn đáng quý nên đã chạy trốn về
đây.
Vốn người huyện thành Ủng Tân này, ông Phác Khuê Hòa
là quan huyện của xứ này đã cùng với Hoa sơn quân bàn
bạc và thỏa thuận với nhau: phần thành nội do Hoa sơn
quân trông coi, còn phía ngoài thành do một võ tướng quân
phòng vệ sơn thành giữ chức đốc binh có tên Kim Khuê
Vạn phòng giữ. Do vậy ở cửa thành mỗi khi có dân tỵ
nạn kéo đến, lính phòng vệ ngòai thành đều đến gặp
gỡ, xét hỏi xong đưa họ vào trong thành nội. Còn ở
trong thành nội, thì Hoa sơn quân cho dựng những chiếc
lều lớn để thu nhận họ.
Hoa sơn quân chăm sóc họ, cho họ ăn uống đầy đủ và
cung cấp quần áo cho họ. Bởi thế, người lính gác cửa
thành sau khi nghe ông già nói vậy, cảm thấy rất xót
thương. Anh ta không nói gì thêm bèn chạy về doanh trại
của mình lấy một tờ giấy chứng chỉ mang ra, ghi quê
quán và tên họ ông già vào bên dưới tờ giấy rồi đưa
vào ông và nói:
- Này cụ ơi, cụ hãy cất giữ cẩn thận tờ giấy này.
Sau khi cụ vào trong thành, đưa tờ giấy này ra, lính
trông coi sẽ hứơng dẫn cụ thêm. Tuy mệt nhưng cũng
phải đúng bữa. Cụ hãy vào đi để ăn cơm sáng.
Nghe nói vậy ông già uể ỏai đáp:
- Nghe chú nói biết vậy. Nhưng lương thực hết rồi chỉ
mong được lót dạ bữa hồ bữa cháo cũng đã quý.
Người lính nghe nói rất thương cho cảnh ngộ của người
lánh nạn, bèn nói:
- Cụ ơi, đừng lo. Trong thành đã làm xong cơm nước đang
chờ phát cho những dân tỵ nạn. xin mời cụ vào. Khi cụ
vào cụ nhớ đưa tờ chứng chỉ có người lính gác
trong đó.
Đúng vào lúc ấy, từ phía đằng xa, bụi bốc lên mù
mịt, một đòan người cưỡi ngựa hiện ra và chạy về
phía cổng thành. Những người lính gác lộ ra vẻ ngạc
nhiên, ngóai nhìn với cặp mắt căng thẳng. Còn những
người lánh nạn trông thấy vậy, hỏang hốt thu vén đồ
đạc vào trong thành.
Đòan người cưỡi ngựa tiến đến chỗ có quân lính
đang đứng. Đám quân sĩ nhìn kỹ ra mới biết đó là
một đòan khỏang gần một trăm người, tất cả đều
cuỡi ngựa chiến của quân Mông Cổ, mặc trang phục Cao
Ly, tay cầm trường thương hoặc mã tấu.
Đám quân sĩ chạy ra giữa đường, giơ giáo vây chéo
ngang cản đường. Họ bắt ngựa dừng lại không có đi
qua. Bỗng có một người từ phía sau chạy đến, nhảy
xuống ngựa nói:
- Xin chào mọi người. Chúng tôi là những người đánh
nhau với quân Mông Cổ ở Hoàng Châu. Chúng tôi đến đây
để xin gặp Hoa sơn quân. Xin các vị cho chúng tôi được
vào trong thành.
Đám quân sĩ nghe những người không mặc quân phục này
nói họ đã đánh nhau với quân Mông Cổ bèn lấy làm
lại. Họ giơ trường phương lên chặn lại.
- Vậy các anh có phải là quân nhân không?
- Chúng tôi không phải là quân nhân mà chỉ là những
người dân thường sống ở huyện Hoàng Châu. Chúng tôi
căm thù bọn giặc Mông Cổ xâm lược nên đã tổ chức
ra đội nghĩa binh để đánh lại chúng. Nay chúng tôi muốn
xin gặp đức ông Hoa sơn quân để lập ra kế hay diệt
sạch bọn chúng.
Người đó nói oang oang ra vẻ khí thế. Có lẽ lúc này,
đám quân sĩ mới hiểu hết câu chuyện bèn nói:
- Như vậy mấy anh vất vả quá. Nhưng mấy anh mang vũ khí
thế này, chúng tôi không đưa được các anh vào trong
thành nội đâu. Vậy mong các anh chịu khó đứng đây chờ
cho một chốc. Chúng tôi sẽ báo ngay lên cho đốc binh
biệt quân sơn thành để cho phép các anh vào trong thành
nội.
Một người trong đám quân sĩ lên ngựa phóng vào thành.
Năm người quân sĩ còn lại nhìn khắp lượt đòan người
mới đến. Họ thấy có một người trong đòan tàu đầu
đội khăn xếp nhà sư, mình mặc áo thụng nhà sư, tay
cầm một cây thương dài ngồi trên lưng ngựa.
Người lính trông thấy có vẻ ngộ nghĩnh, bèn hỏi:
- Anh có phải là nhà sư không?
Cả đòan người nghe vậy đều phá lên cười. Người
đàn ông đó cũng đỏ mặt lúng túng không trả lời
được.
Một người đứng sau lưng an ta nói đùa:
- Anh này là nhà sư nổi tiếng nhất ở nước ta đó.
Nghe nói vậy, cả đòan lại phá lên cười. Mấy người
lính nhìn kỹ thấy người đàn ông này không mặc áo
lót, chỉ đội chiếc khăn xếp và mặc chiếc áo thụng
nhà sư. Đã thế lại còn cầm một cây thượng rõ dài,
coi như mình cũng có một vũ khí chiến đấu.
Người lính càng thấy khác thường, bèn đến bên cạnh
người đàn ông hỏi:
- Này anh ơi, sao anh không trả lời câu hỏi của tôi?
Lúc này người đàn ông mới đáp lại vẻ nghiêm chỉnh.
- Vì tôi đội mũ mặc áo nhà sư, nên anh tưởng tôi là
nhà sư đó thôi. Nhưng tôi không theo đạo Phật. Chiếc
áo này là của một sư trị ở ngôi chùa trong núi cho tôi
đấy. Khi cả đòan chúng tôi bị bọn chúng tập kích
phải chạy tháo thân, không kịp mặc áo, nên nhà sư đã
cho chiếc áo này mặc tạm.
Nghe nói, người lính gật gật đầu, tỏ vẻ như đã
hiểu bèn nói:
- Như vậy mấy ông sư đó đã báo cho bọn giặc chỗ các
anh nấp có phải không?
- Lúc đầu chúng tôi cũng tưởng lầm như vậy, nhưng về
sau mới biết bọn giặc đến chùa để cúng Phật.
- Thế vậy… bọn giặc không làm hại các ông sư trong
chùa chứ?
- Không những không làm hại, mà chúng còn đem gạo cho.
Sư còn cầu Phật phù hộ cho chúng không bị giết chết.
Người lính nghe nói, dở cười, dở khóc, nhếch mép để
lộ hai hàm rằng trắng nhởn. Một chốc sau anh ta mới
cất giọng:
- Như vậy phải diệt sạch mấy lão thầy chùa đã đi
cầu Phật cho lũ giặc ác ôn đáng chết đó đi.
- Thì có ai bảo là không. Nhưng cách xử thế của nhà
Phật là đại từ đại bi, cấm sát sinh, bởi thế nên
không còn cách nào khác. Hơn nữa mấy ông sư đó bị đặt
trước mũi giáo lưỡi gươm của lũ giặc, bị buộc phải
phục tùng chúng chứ họ đâu có phải không thương xót
đồng bào. Mấy ông sư đó có khác gì chúng tôi. Thôi ta
không nói chuyện ấy nữa. Chiếc áo cũng khó khăn lắm
mới kiếm được đấy.
Lúc này người lính chạy về bản doanh sơn thành báo tin
đã trở ra, Lý công tử cùng đi ra phía ngòai thành. Người
lính cúi đầu chào Lý công tử.
Lý công tử đưa mắt nhìn khắp lượt người lính cùng
với đòan người mới và bảo người đứng ở hàng đầu
hãy lập danh sách đòan. Tổng cộng có tất cả một trăm
lẻ tám người.
Lý công tử nhìn vào danh sách và hỏi người đứng ở
hàng đầu:
- Tên họ anh là Tống Cơ Phương có phải không?
- Vâng, đúng thế ạ.
- Các anh đã dấy lên được nghĩa binh, đánh nhau với
đại quân của địch như vậy là giỏi lắm.
- Tôi phụng sự cho đất nước tôi là lẽ đương nhiên
thôi.
- Các anh vất vả nhiều. Nào, hãy theo tôi.
Lý công tử lên ngựa đi vào trong thành. Cả đội nghĩa
binh thế sau.
Chú
thích
(1)Ông vua thủy tổ đã khai sinh ra nước Triều Tiên cũng
tương tự như vua Hùng của Việt Nam (ND)
CHƯƠNG
16: SẴN SÀNG LÂM CHIẾN
H
Hoa sơn quân Hoàng thúc lập gia đình mới
với Trịnh Anh Cơ, bước vào cuộc sống mới đến nay đã
được sáu năm.
Thời gian ấy, Hoàng thúc đã
cùng với Trịnh Anh Cơ sinh hạ được hai người con trai,
con trưởng tên là Cán, con thứ đặt tên là Nhất Thành.
Tuy thuộc dòng dõi hòang tộc
của một nước, nhưng sau khi lưu vong sang nước Cao Ly,
Hoàng thúc đã hòan tòan trở thành người Cao Ly, người
của huyện thành này và sống hòa hợp với những người
dân vùng biên cương xa xôi nơi đây.
Bỗng tin đồn quân Mông Cổ
sang xâm lược Cao Ly đã làm náo động khắp hang cùng ngõ
hẻm trong cả nước, chẳng khác nào như một trận cuồng
phông phổi ào tới miền đất nơi đây giữa lúc trăm
hoa đua nở trong ngày xuaan hòa bình yên vui.
Có một hôm vào năm trước
đó, Tiêu Vĩnh Vạn trở lại thăm đất nước Cao Ly này,
mọi lai lịch của anh đều được giữ kín.
Người khác chỉ biết về
anh như một gia nhân của Hoàng thúc, thời gian trước đó,
anh trở về gặpvị đạo sĩ trên đất Tóng kể lại mọi
chuyện đã xảy ra, rồi anh lại sang nước Kim và nước
Liêu, ra sức thuyết phục dân tộc Phù Dư (tức là dân
tộc của nước cổ Triều Tiên) hãy đòan hết lại đấu
trang để thu phục lãnh thổ đã bị mất. Nhưng mọi việc
đều không thành. Nước Kim tuy sắp đến ngày tận số
vẫn thả sức ăn chơi, còn vua nước Liêu là Yarul Yuka,
tuy đã mấy lần kêu gọi bán quốc của mình là Cao Ly
đứng lên hợp sức đấu trang, nhưng Cao Ly không nghe lên
cũng đành bó tay.
Tiêu Vĩnh Vạn mất hết hi
vọng, chỉ lo một nỗi quân Mông Cổ không chừng sẽ
sang xâm lược Cao Ly, nên đã quay lại đất nước này,
một mặt để cấp báo cho các quan chức nước này biết,
mặt khác cũng để ghé thăm Hoàng thúc, biết tin tức để
được yên tâm hơn.
Hoàng thúc đã bàn với Tiêu
Vĩnh Vạn, chuẩn bị đối phó với cuộc chiến lọan
tới, trước hết bàn với quan huyện xây cao thành xung
quanh huyện ủng Tân.
Ngòai ra trên núi Hoa sơn
cũng xây cao thêm thành đất.
Giữa lúc đang chuẩn bị
như vậy thì quân Mông Cổ đánh sang, dân tỵ nạn ùn ùn
kéo về. Hoàng thúc đã cho sơ tán người già, phụ nữ,
trẻ em ra đảo Xương Lân nằm phía mặt phía trước mặt
biển tây và chọn hơn một nghìn trai tráng khỏe mạnh
cho luyện tập quân sự ngày đêm lo phòng bị.
Cả gia đình của Hoàng thúc
cũng đã cho sơ tán ra đảo Xương Lân còn Hoa sơn quá,
ngôi nhà riêng của Hoàng thúc, đã có các tráng đinh đến
trông cao.
Buổi sáng hôm đó, Hoàng
thúc thức dậy sớm ở trong thành Việt Nam cạnh núi Hoa
sơn và đang ngồi nói chuyện về tình hình thời cuộc
với Tiêu Vĩnh Vạn, thì Lý công tử bước vào báo tin có
đôi nghĩa binh từ Hòang Châu kéo tới. Hoàng thúc bèn bảo
Lý công tử:
- Lý công Tử hãy đi bảo
họ thay quần áo đi, cho họ ăn uống đầy đủ và nghỉ
ngơi cho đỡ mệt. Sau đó cắt cử họ đến bổ sung trấn
giữ cửa nam là nơi việc canh phòng có phần còn lỏng
lẻo.
- Thưa vâng.
Sau khi bảo Lý công tử đi
rồi, Hoàng thúc nói với Tiêu Vĩnh Vạn:
- Tiêu đại nhân này, chúng
ta hãy đi kểm tra một vòng các thành trì xung quanh huyện
lỵ này xem sao.
- Vâng đúng thế bọn giặc
xâm lược kéo tới đây chỉ còn là vấn đề thời gian
thôi.
Hoàng thúc cầm tấm bản đồ
tác chiến đang được trải trên bàn và bước ra ngòai
bản doanh.
Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn
vừa bước tới, các tráng đinh đã mang ngựa đến chờ
sẵn. Con ngựa được Hoàng thúc yêu quý là một con ngựa
trắng. Con ngựa nhìn thấy chủ, một chân nó co lên,
xương quai hàm bạnh ra, nó hý lên mấy tiếng.
Hai người lên ngựa đi ra
phố. Trên bến nước, công việc đưa người tỵn nạn
lên thuyền để chở ra đảo Xương Lân diễn ra khá tấp
nập, tại cửa lạch, các thuyền đánh cá bất kể lớn
bé đều được huy động neo đậu ở đó để chuẩn bị
đánh nhau.
Trên mỗi thuyền treo một
lá cờ to màu lam. Các thuyền đều được bố trí neo đậu
trật tự ngay hàng thẳng lối, toát lên khí thế của
những chiến thắng sắp xung trận.
Hoàng thúc quay nhìn Tiêu
Vĩnh Vạn nói:
- Tiêu đại nhân nhìn kìa,
những chiếc thuyền bé tý mà cũng cầm cờ sắp hàng neo
đậu trông có khí thế đấy chứ.
Tiêu Vĩnh Vạn tỏ vẻ hết
sức hài lòng, bèn đáp:
- Đúng vậy ạ, ở những
bờ biển lớn phía nam nơi tổ quốc của Hoàng thúc cần
nhiều chiến hạm lớn. Nhưng chiến đấu ở vùng duyên
hải xứ này thì ngược lại, rất cần đến những đòan
thuyền nhỏ như thế này.
- Quân Mông Cổ hải chiến
kém, nên với đòan chiến thuyền kia cũng đủ sức để
phòng vệ huyện trấn này.
Tiêu Vĩnh Vạn cũng cho lời
nói của Hoàng thúc là đúng, song có điều chưa được
mãn nguyện lắm bèn nói:
- Sách có câu khinh địch
tất bại. Lần này bọn giặc từ phía Nghĩ Châu – áp
Lục giang đánh vào, nên về mặt thuyền bè, chắc chúng
đã chuẩn bị ở mức đáng kể. Bởi thế, cả vùng
duyên hải phía tây nay chẳng đã lọt vào tầm tay của
chúng là gì.
Hoàng thúc gật đầu nói.
- Tiêu đại nhân nói phải
đấy.
Tiêu Vĩnh Vạn lại nhìn
THoàng thúc, trình bày kế họach để phòng quân địch
tiến từ phía bắc xuống theo đường biển.
- Thưa Hoàng thúc, nếu quân
giặc tiến xuống đây theo đường biển thì đã có lực
lượng thủy quân mạnh ở vùng phụ cận Nam phố. Có lẽ
chúng sẽ không chọc thủng nổi phòng tuyến đó để
tràn xuống đây. Nhưng chúng ta cứ đặt giả thiết là
chúng có thể đánh xuống đây, thì với số dân tỵ nạn
đông đảo đã được sơ tán ra đảo Xương Lân, chúng
ta cần sử dụng tốt lực lượng này để lập kế họach
để phòng sự tấn công của địch.
Hoàng thúc thấy trong câu
nói của Tiêu Vĩnh Vạn có cách đặt vấn đề giống như
một điều gì đó mà mình đã suy nghĩ, bèn nói:
- Tôi cũng đã có suy nghĩ
như vậy, ta hãy trao cho những người dân tỵ nạn kia
nhiều cờ xí. Khi quân giặc kép đến, họ sẽ giương
cao các cờ xí đó lên, để làm tiên tan sĩ khí của quân
giặc. Mặt khác, đòan thuyền ở phía nam kia, nếu có thể
được sẽ vòng lên phía bắc đảo Xương lân hình thành
"thế trận Ngư – Long" phục sẵn đấy. Tiêu đại
nhân thấy thế nào?
- Hoàng thúc quả thật là
bậc đại gia về binh pháp. Bây giờ nếu bầy thêm thế
trận như Hoàng thúc vừa nói thì tuyến phòng vệ trong
thành sẽ vững chắc như bàn thạch. Dù quân giặc có từ
phía Hòang Châu đánh tới, chúng cũng không tài nào phá
vỡ nổi bức thành này.
- Công việc này hôm nay cần
nói với Lý công tử để bắt tay thực hiện ngay. Còn
bây giờ chúng ta hãy đi kiểm tra tiếp tư thế sẵn sàng
chiến đấu ở phía cửa đông xem sao. Hoàng thúc giục
ngựa tiến bước. Tiêu Vĩnh Vạn cũng thúc ngựa đuổi
theo. Cả hai người đi thẳng một mạch đến cửa đông.
Số quân sĩ bố trí trên mặt thành cũng như quân lính bố
trí ở hai bên và phía ngòai cổng thành đều cầm lăm
lăm trong tay giáo gương sáng hóang rất có uy thế của
một đội quân dũng cảm. Thực ra lúc đầu không ai nghĩ
tới những người thanh niên vốn bình dị của các làng
mạc làm nghề trồng lúc và nghê chài lưới kia nếu được
giáo dục rèn luyện tốt sẽ trở thành những người
lính đáng tin cậy như vậy. Thế là qua một năm giá dục
rèn luyện, nay họ đã trở thành đội quân dũng cảm.
Tất cả binh sĩ đều dựng
giáo gươm ra phía trước đứng nghiêm kinh lễ.
Hai con ngựa cưỡi đến
được giao cho quân sĩ bên dưới thành trông coi Hoàng
thúc và Tiêu Vĩnh Vạn thì leo lên thành lầu.
Phía bên ngòai thành địa
thế không cao lắm, nhưng là vùng đấy đồi lúp xúp, lớp
lớp nối tiếp nhau, có những con đường từ Hòang Châu
tới và những con đường đi về phía Hải Châu hoặc
Trường Diên.
Tóm lại, đây là một vùng
địa hình có thể tiếp cận đánh địch bất kể chúng
từ đâu xâm nhập tới.
Sống ở đất Cao Ly đã sáu
năm rồi nhưng Hoàng thúc vẫn chưa thông thạo lắm tình
hình địa lý của nước này. Người đứng ngắm nhìn
chỗ ngã ba nối liền các con đường từ ba mặt đông,
nam, bắc rồi nói:
- Tiêu đại nhân xem có
nhiều khả năng quân giắc sẽ xâm nhập từ phía nào vào
đây?
Tiêu Vĩnh Vạn lấy tay chỉ
về phía đông rồi nói:
- Quân giặc sẽ lợi dụng
vùng đất không người thừa thắng xốc tới, cho nên thế
tất chúng sẽ chọn con đường từ Hòang Châu tới. Đặc
biệt vì chúng tiến bằng kỵ binh, nên quân của triều
đinh khó chống cự lại, sẽ tìm cách tránh vào vùng rừng
núi. Nếu như vậy, viên đốc binh chỉ huy biệt quân sơn
thành có thống sóai cả quân triều đình lẽ dĩ nhiên
phải nằm dưới quyền chỉ huy của Hoàng thúc. Mặt khác
về phía quân giặc chúng sẽ chọn con đường bằng phẳng
để tiến đến đây.
Nghe Tiêu Vĩnh Vạn trình bày
như vậy, Hoàng thúc có vẻ tán thành:
- Tiêu đại nhân nói phải
đấy.
- Khu vực do Hoàng thúc cai
quản chỉ là bên trong thành nội ủng Tân, còn các thành
bên ngòai do quân triều đình nắm giữ. Vì vậy, phía
chúng ta, chúng ta không thể lập ra kế họach tác chiến
chung được. Nhưng nhỡ chẳng may quân triều đình vỡ
mặt trận vùng gò đồi ở phía đông và chạy lánh vào
trong vùng núi ở phía đông – bắc thì quân giặc sẽ
đánh thẳng vào cửa thành này của chúng ta. Trong tình
hình đó, binh sĩ của sơn thành ít, vậy nên cần huy động
thêm nghĩ quân của chúng ta. Chúng ta sẽ bố trí khỏang
ba trăm tay bắn cung ở khu gò đồi kia, và mai phục khỏang
hơn một trăm thớt kỵ binh ém trong hai thung lũng hai bên.
Làm được như vậy thiết nghĩ là tốt, thưa Hoàng thúc.s
Nghe xong Tiêu Vĩnh Vạn trình
bày Hoàng thúc gật đầu:
- Tôi cho kế họach này hay
đấy. Nhưng quân giặc vốn là một lũ kiêu ngạo gian ác
lại rất liều mạng. Một khi chúng đã tiến thẳng vào
thành này như nước vỡ bờ, chúng ta không thể xem
thường.
Hoàng thúc nhìn thấy Lý
công tử, lòng mừng rỡ bèn nói:
- Lý công tử đến đúng
lúc quá. Nếu Lý công tử trải tấm bản đồ tác chiến
ra trước mặt Lý công tử và trình bày kế họach.
Nói đọan Hoàng thúc và
Tiêu Vĩnh Vạn trải tấm bản đồ tác chiến ra trước
mặt Lý công tử và trình bày kế họach.
Lý công tử gật đầu, tỏ
ý đã hiểu rõ, nói với Hoàng thúc:
- Xin chấp hành thượng
lệnh.
Nghe trình bày kế họach, Lý
công tử cảm thấy bừng lên niềm tin có thể chiến
thắng được quân Mông Cổ, dù chúng có hùng mạnh bao
nhiêu.
Hoàng thúc tỏ vẻ hài lòng
nói với Tiêu Vĩnh Vạn:
- Tiêu đại nhân, xem ra
quân, của chúng ta khác với quân triều đình cơ mà.
- Làm gì có quân triều đình
tồn tại một cách biệt lập, cho dù quân của Hoàng thúc
có nghĩa binh đi nữa, chỉ cần cản được bước tiến
của giặc cũng giỏi lắm rồi chứ sao.
Lý công tử nhận lệnh của
Hoàng thúc, một mặt liên hệ với đốc binh chỉ huy biệt
quân sơn thành họ Kim, một mặt truyền đạt mệnh lệnh
đó xuống các tráng đinh dưới quyền mình.
Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn
trở về thành Việt Nam.
Vốn dĩ Hoàng thúc chỉ đảm
trách việc phòng vệ khu vực huyện lỵ ủng Tân. Còn
việc phòng vệ phía ngời thành của huyện lỵ này thì
do quân đốc binh biệt sơn thành đảm trách. Quân đốc
binh nằm dưới quền quản hạt của An tây đô hộ phủ.
Do vậy mà một số lượng nhỏ quân lính của biệt quân
sơn thành trực thuộc An tây đô hộ phủ đang làm nhiệm
vụ phòng vệ mọt chu vi với bề rộng năm dặm kể từ
huyện thành trở ra. Bởi vậy, kế họach tác chiến tổng
quát cho cả địa phương này dũng do đô hộ phủ tức
quân triều đình họach định và thực hiện. Còn Hoàng
thúc chỉ phụ trách bên trong thành nội của huyện Ủng
Tân thôi.
Sau khi hòan thành mọi việc
chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu một cách hết sức vững
chắc. Hoàng thúc đã ngày đêm lặn lộn đi thăm hỏi cổ
vũ binh sĩ động viện khích lệ những cố gắng vất vả
của họ.
Hơn một vạn quân Mông Cổ,
do nguyên sóai Đương Tô thống lĩnh đã chiếm được
Thâm Thôn và truy kích quân triều đình đang bỏ chạy.
Theo đường chính, chúng tiễn thẳng về ủng Tân, đóng
quân cách ngòai thành ủng Tân ba mươi dặm.
Trong tình thế đó, bỗng
một hôm An tay đô hộ phủ cử một phó tuớng của án
sát sử có tên là Trương Hanh ích đến gặp đốc binh
biệt quân sơn thành ủng Tân. Nội dung cuộc gặp gỡ đại
để như sau; quân Mông Cổ hiện nay đang chiếm đánh miền
biên cương xa xôi này; chúng đang tấn công về phía An
Tây và ủng Tân. Như vậy địa phương này sẽ đứng ra
nhận trách nhiệm phản kích lại quân địch và bảo vệ
lấy mình. Do vậy, ở Ủng Tân, đề nghị Hoa sơn quân
đứng ra thống nhất chỉ huy cả việc phòng vệ sơn
thành mà hiện nay đang nằm dưới sự quản lý của quan
huyện.
Tướng Trương Hanh Ích và
quan đốc binh Biệt Sơn Thành cúi gập đầu cầu khẩn
Hoàng thúc:
- Thưa Hoa sơn quân, quan án
sát cử tiểu tướng về đây xin có lời thưa với quân
đại giám Hoa sơn quân, mong đại giám hãy đứng ra thống
lĩnh chỉ huy giúp công việc phòng vệ của Đô hộ phủ.
Vạn sự xin phó thác cùng Hoa sơn quân.
Hoàng thúc cảm thấy rất
khó xử. Nếu từ chối chẳng hóa ra mình khiếp nhược
sao, còn nếu đứng ra nhận lĩnh, thì bản thân vốn là
người chỉ huy quân nghĩa binh chứ không phải là người
chỉ huy quân triều đình, nay thống lĩnh cả quân triều
đình phải thấy là nan giản. Nhưng trong giờ phút vận
mệnh đất nước như ngàn cân treo sợi tóc, tấm lòng
nghĩ khí bùng lên mạnh mẽ trong tim Hoàng thúc. Người
cảm thấy không thể trốn tránh trách nhiệm, bèn nói:
- Tôi hiểu rồi. Quan án sát
sứ là chỗ rất quen thân với tôi, là vị ân nhân đã
hết lòng giúp đỡ tôi. Hơn nữa bản thân tôi đã nhận
thấy được bao ân sủng như trời biển của đại vương
Cao Tông, nay đất nước lâm nguy thế này, chẳng lẽ tôi
còn tiếc mạng sống của mình hay sao. Có điều phận tôi
nhỏ bé, không có danh phận gì để tự tiện chỉ huy đại
quân của đại vương. Đó không những là một điều
trái đạo lý mà còn là một điều thất lễ. Chỉ vì
nghĩ như vậy mà tôi không dám nhận thôi. Nhưng việc đã
như vậy rồi, dù tài hèn chí mọn, tôi cũng sẽ mang hết
sức mình để bảo vệ đất nước.
Tướng Trương Hanh Ích và
quan đốc binh Kim Khuê Vạn đã ba ngày cố trình bày ý
định của quan án sát sứ và thỉnh cầu Hoàng thúc chấp
nhận, nhưng người vẫn từ chối. Không còn cách nào,
hai người lại van nài Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử nói
hộ, nhưng cũng không xong. Đến lúc này mới là được
sự chấp thuận của Hoàng Thúc, nên họ không giấu nỗi
niềm sung sướng. Một lần nữa họ lại cúi đầu bái
tạ Hoàng thúc và bày tỏ lời chúc mừng.
- Xin cảm ơn Hoàng thúc,
không những các tiểu tướng chúng tôi trở về còn chút
mặt mũi thưa lại với quan án sử mà trăm họ của xứ
huyện này cũng sẽ hết sức vui mừng trước quyết tâm
của Hoàng thúc đứng ra gánh vác sơn hà.
Hoàng thúc nhìn Lý công tử
đang ngồi bên cạnh, ra lệnh chỉ tiếp nhận thủy thủ
quân và lục quân thuộc quân đội triều đình do tướng
Hanh ích đưa đến.
- Lý công tử hãy nhanh chóng
tiếp quản một nghìn năm trăm quân sĩ và đoàn thuyền
được biết đang đậu ngoài khơi đảo Xương Lân do
Trương tướng quân đưa tới để biên chế vào đội
quân của chúng ta.
- Xin tuân lệnh.
Trương tướng quân và quan
đốc binh Trương Khúc Vạn cũng Lý công tử đứng dậy
bước ra ngoài. Một chốc sau, Hoàng thúc quay lại nhìn
Tiêu Vĩnh Vạn nói:
- Cũng như trước đây Tiêu
đại nhân đã từng giúp, lần này xin Tiêu đại nhân hãy
nghĩ cho kế hay. Quân địch đóng cách ngoài thành ta ba
mươi dặm. Thành của chúng ta đang ở trong tình thế bị
bao vây cô lập, không còn đường tiếp viện. Chúng ta
phải liều thân sống chết chiến đấu đến cùng, ngoài
ra không còn cách nào khác.
Thấy Hoàng thúc hạ quyết
tâm cao như vậy. Tiêu Vĩnh Vạn mỉm cười thán phục và
nói hết nỗi lòng mình:
- Hoàng thúc nghĩ đúng lắm.
Tình hình như chúng ta biết rồi đấy. nếu hoàng thúc
chỉ huy quân triều đình giỏi bảo vệ được huyện
thành cô lập này thì chẳng nói chi, nhưng chẳng may thất
bại e rằng thanh danh sẽ mất hết. Thế nhưng Hoàng thúc
đã chấp nhận rồi, tôi cũng xin quyết một lòng phò
Hoàng thúc.
Hoàng thúc nghiêm mặt, tỏ
lời cảm ơn đối với Tiêu Vĩnh Vạn:
- Tiêu đại nhân là vị ân
nhân mà trời đã ban xuống cho tôi. Từ khi rời Thanh Châu
sang định cư trên đất này đến nay, Tiêu đại nhân đã
giúp cho tôi rất nhiều. Tôi xin được thực lòng cảm tạ
Tiêu đại nhân.
- Hoàng thúc nói gì vậy.
Nếu tôi không được Hoàng thúc cứu cho thì đâu còn
được sống đến bây giờ.
- Chuyện đã qua, bây giờ
nghĩ lại chúng ta càng cảm thấy quý mến nhau hơn. Điều
quan trọng sắp tới là chúng ta phải làm thế nào để
đẩy lùi được quân Mông Cổ xâm lược và cứu lấy
đấy nước này.
- Vâng đúng thế ạ. Bây
giờ chỉ có mỗi một việc là phải làm thế nào để
đập tan quân giặc.
- Nào, chúng ta hãy đi một
vòng kiểm tra xem thành trì của chúng ta đã được phòng
thủ như thế nào rồi.
Hoàng thúc đứng dậy, Tiêu
Vĩnh Vạn cũng đứng dậy theo.
CHƯƠNG
17: CUỘC QUYẾT CHIẾN VỚI QUÂN MÔNG CỔ
Sáng ngày
hôm sau, mặt trời tháng bảy từ sáng đã chiếu le lói.
Những bầy quạ đen bay đến trên nóc thành lầu, kêu
"quạ… quạ…" inh ỏi. Phía trong thành, người
già, phụ nữ và trẻ em đều đã đi sơ tán. Chỉ còn
lại những thanh niên trai tráng và quân sĩ đang chấp hành
nghiêm chỉnh nhiệm vụ được giao, nên quang cảnh rất
vằng vẻ. Nếu không phải là vị tướng có tài thao
lược, trí tuệ hơn người thì không thể đề ra được
kế sách như vậy.
Các
vị danh tướng đã tạo nên tư thế sẵn sàng chiến đấu
cao độ. Quân sĩ tràn đầy niềm tin bất kỳ lúc nào
cũng có thể giáp chiến với kẻ thù, cơ mưu linh hoạt
đánh trả lại quân địch.
Người
dân trong nội thành nhìn đãn quạ bay trên nóc thành lầu,
ai nấy đều lẩm bẩm phỏng đoán theo cách của mình.
"Bọn
giặc Mông Cổ sắp kéo đến rồi!"
Buổi
sáng sớm ngày hôm đó, theo tin của lính thám báo cho hay,
bọn giặc Mông Cổ đóng cách ngoài thành ba mươi dặm
đang sắp sửa tấn công vào huyện thành ủng Tân ngay
trong ngày.
Trên
lầu cửa đông, ba tướng soái là Hoàng thúc, Lý công tử
và Tiêu Vĩnh Vạn đang bàn luận công việc với nhau.
Tiêu
Vĩnh Vạn trải tấm bản đồ tác chiến ra nói:
-
Thưa Hoàng thúc, dù sao thành trì của chúng ra hãy còn yếu
so với thế lực của quân giặc. Mặt khác, xét về địa
lý, vị trí của huyện thành cũng không phải là vị trí
tốt. Trước hết về mặt thế trận của cũng ta, tuy có
thể bẻ gãy tinh thần chiến đấu của quân địch, song
dù vậy có chỗ vẫn chưa được chuẩn bị đầy đủ.
Cho nên hôm nay tôi xin được làm người tiên phong xung
trận.
Hoàng
thúc tỏ vẻ không tán đồng:
-
Không. Tiêu đại nhân sao lại định thế? Bọn giặc có
kỵ binh thiện chiến, chúng ta lại sử dụng thương kiếm
thành thào. Như vậy, hà tất Tiêu đại nhân lại chiu vào
hang cọp?
-
Dù có thể không bắt được cọp, ta cũng phải mang lửa
vào trong hang cọp. Bọn giặc dù tàn ác tôi cho rằng cũng
không dám xông tới.
Nhưng
Hoàng thúc và Lý công tử vẫn lo ngại cho Tiêu đại nhân
làm tiên phong ra ngoài thành chiến đấu, nhỡ chẳng may,
có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Tiêu
Vĩnh Vạn kề vào tai Hoàng thúc trình bày một chập về
mưu kế của mình. Đến lúc đó mới phần náo thuyết
phục được Hoàng thúc.
-
Nếu vậy hãy làm theo mưu kế của Tiêu đại nhân xem
sao. Thế nhưng phải hết sức thận trọng đấy.
-
Tôi đã rõ. Trong chiến tranh kẻ trượng phu phải biết
quý mạng mình.
Vào
lúc ấy bỗng có một lính truyền lệnh hối hả chạy về
phía ngoài thành hướng đông. Chắc là lính hỏa tốc
chạy về cấp báo cho quân giặc đang đánh vào nơi đây.
Thấy
vậy, Lý công tử liền chạy xuống chân thành. Tiêu Vĩnh
Vạn và Hoàng thúc cũng xuống theo sau, hoảng hốt định
quay lại, suýt đâm bổ vào nhau.
Hoàng
thúc không hài lòng trước vẻ hoảng hốt của Lý công
tử, nói như quở trách:
-
Bình tĩnh đã nào!
Lúc
ấy Tiêu Vĩnh Vạn đứng bên cạnh, đăm chiêu nhìn gương
mặt của Hoàng thúc nói với vẻ trầm tĩnh:
-
Như đã thưa với Hoàng thúc, tôi xin xuất chiến. Mọi
việc còn lại nhờ cậy Hoàng thúc.
-
Tiêu đại nhân vất vả.
Bốn
mắt của hai người nhìn nhau chớp chớp, như đang nói
lên một sự hứa hẹn thần bí nào đó.
Tiêu
Vĩnh Vạn mặc chiếc áo giáp, cưỡi ngưạ chiến của
địch, trên lưng khoác cây cung dài, hai bên người giắt
hai ống tên, một tay cầm cây thương dài. Tiêu đại nhân
siết dây cương, con ngựa chồm lên hai chân trước hí
vang, chạy lao về phía trước. Theo sau Tiêu đại nhân là
đoàn kỵ binh hơn một trăm thớt ngựa. Cách đó năm dặm
gò đồi, phục binh và tau bắn cung thiện xạ của quân
Cao Ly đã được bố trí sẵn sàng.
Đoàn
kỵ binh của Tiêu Vĩnh Vạn tiến được năm dặm bỗng
trông thấy ven đường cái lớn trước mặt, bụi bốc
lên mù mịt. Đúng là đoàn kỵ binh của quân Mông Cổ
đang xông tới.
Từ
trên thành lầu cao. Hoàng thúc đưa mắt nhìn ra xa, thấy
trên cánh đồng cách huyện chưa đầy năm dặm, có vẻ
như quân ta và quân địch đang bày thế trận đối mặt
nhau. Hoàng thúc không khỏi lo lắng, bèn giao cho Lý công
tử hơn năm mươi thớt kỵ binh và ra lệnh khi có nguy cấp
phải xông ra ứng cứu.
Tiêu
Vĩnh Vạn dần hơn một trăm thớt kỵ binh tiến ra dàn
trận tại phía đông khu gò đồi.
Tường
tiên phong của địch dẫn hơn năm trăm thớt kỵ binh xốc
tới và chạm trán ngay với quân Cao Ly. Tướng tiên phong
của giặc đi hàng đầu đoàn quân, đưa mắt đảo nhanh,
thấy quân Cao Ly dựa lưng vào ngọn đồi đã bày xong thế
trận sẵn sàng nghênh chiến. Lúc này vào đầu hạ tuần
tháng bảy, cỏ lên xanh, đồng lúa tốt tươi, có phần
nào che chắn cho quân Cao Ly, song nhìn qua vẫn có thế đoán
biết được.
Tướng
giặc là nguyên soái Đường Cô đang đi giữa đoàn quân
để đốc chiến, thấy quân đi tiên phong đúng lại, bèn
thúc người tiến lên phía trước:
-
Tại sao chúng mày không tiến lên?
Hắn
nói xong bèn nhìn ra phía trước quay lại hỏi tên lính hộ
vệ đi bên cạnh:
-
Thành trước mặt kia là thành gì?
-
Thưa đó là Ủng Tân.
Tướng
giặc Đường Cô nhìn thế trận của quân Cao Ly xong bèn
quay về phía sau nói:
-
Ta cũng không tiến lên nữa, hãy dừng lại để bố trí
trận địa.
-
Tuân lệnh.
Như
vậy là quân Mông Cổ dừng lại cuộc hành quân của
chúng để dàn thế trận. Nguyên soái Đường Cô gọi tên
tướng tiên phong đến ra lệnh:
-
Nhà ngươi hãy tiến về phía chúng, bảo chúng hàng phục
nhanh lên.
Tướng
tiên phong của địch cưỡi một con ngựa ô, hai bên tả
hữu kèm theo hai lính hộ vệ. Hắn thúc ngựa xông lên.
Không bao lâu tướng tiên phong của giặc Mông Cổ đã
tiến đến trước cửa trận địa quân Cao Ly thét lớn:
-
Chủ thành Ủng Tân biết điều hãy mau mau ra hàng phục
nghênh đón đại quân Mông Cổ chúng ta!
Lúc
này Tiêu Vĩnh Vạn cũng đã biết ý đồ của tướng tiên
phong phía địch bèn thúc người chạy ra của trận địa.
Nghe
tiếng quát của giặc. Tiêu đại nhân cười ha hả, mắng
rằng:
-
Thằng kia mày còn chưa bằng loài cầm thú. Bọn man di
phương bắc chúng mày, lại dám cả gan xâm lược nước
chúng tao, giết hại bao người dân vô tội, cướp bóc
bao nhiêu của cải. Chúng mày đã gây bao tội ác trời
không dung đất không tha. Như thế vẫn còn chưa đủ,
chúng mày lại còn xâm phạm vào huyện Ủng Tân nhỏ bé
này nữa.
Tướng
tiên phong có vẻ hơi bị bất ngờ, cười hô hố nói
rằng:
-
Thằng chuột nhắt kia, mày không biết trời cao đất dày,
còn dám mở mồm như thế?
Với
tiếng Mông Cổ lưu loát, Tiêu Vĩnh Vạn mắng chửi như
tát nước vào mặt bọn giặc.
Tướng
tiên phong của địch giương cờ phát hiệu. Trận địa
đại địch nhìn qua đó biết rằng quân Cao Ly sẵn sàng
quyết chiến chứ không chịu hàng. Nguyên soái Đường Cô
bèn xông ra, hai bên tả hữu của y, hơn ba trăm thớt kỵ
binh giương cờ xốc tới.
Tướng
giặc Đường Cô lại gầm lên:
-
Này thằng mọi rợ kia, mày không biết ta là ai à? Ta
chính là tướng quân Đường Cô, nguyên soái của nước
đại Mông Cổ. Này, ta bảo cho nhà người đừng có liều
như chó con không biết sợ cọp, phải mau mau xuống ngựa
quy hành!
Tiêu
Vĩnh Vạn đã nhiều lần sang nước Mông Cổ và cả nước
Kim, nước Tống không có nơi nào là chưa đi. Anh biết
rất rõ tình hình trong thiên hạ. Anh còn lạ gì tên
nguyên soái Đường Cô kia và cả nhân cách của y nữa.
-
Ta thừa biết tướng Đường Cô đang lớn tiếng tự xưng
là một nguyên soái của quân Mông Cổ kia. Nhưng tổ tiên
của nhà ngươi chẳng nhẽ không cảm thấy xấu hổ có
một thần dân của nhà Đường đã phản bội lại đất
nước, ôm chân quân Mông Cổ để trở thành một gian
tướng hay sao? Nếu nhà người còn có chút lương tâm hãy
mau mau hạ mũ quy hàng, trở về với tổ quốc của nhà
ngươi.
Tiếng
nói oang oang của Tiêu Vĩnh Vạn đã chẳng khác nào như
một mũi dao đâm vào tim nguyên soái Đường Cô. Tên tường
giặc uất ức đến tận cổ bèn ra lệnh cho tướng tiên
phong của hắn:
-
Hãy mau chặt đầu thằng kia mang về đây cho ta!
Tên
tướng tiên phong của Đường Cô được lệnh liền hươ
cây thương dài chạy tới.
Tiêu
Vĩnh Vạn cũng lăm lăm cây thương dài xông ra.
Hai
tường bắt đầu giao phong quyết chiến với nhau. Trận
địa của hay quân vang lên tiếng hò reo dậy đất. Tiếng
hai thương va vào nhau chan chát, tiếng ngựa hí, tiếng
quân reo hò làm cho cả một vùng phía đông Ủng Tân bốc
lửa.
Đánh
được hai mươi hiệp, rồi ba mươi hiệp vẫn chưa phân
thắng bại, hai tướng chưa có gì lộ vẻ mệt nhọc.
Nhưng đánh được hơn sau mươi hiệp, thì ngọn thương
của tướng tiên phong của giặc bị cụt đi còn ngọn
thương của Tiêu Vĩnh Vạn vẫn không hề suy suyển, con
chiến mã của Tiêu Vĩnh Vạn xông tới. Tên tướng giặc
đã thấm mệt liệu bề không địch nổi, bèn quay đầu
ngựa định tháo chạy thì bất thần ngọn thương của
Tiêu Vĩnh Vạn đã đâm phập vào cánh tay phải của hắn,
làm hắn ngã nhào xuống ngựa. Nguyên soái Đường Cô
trông thấy thế vội vã xông ra định cứu tên tướng
tiên phong. Lúc này Tiêu Vĩnh Vạn xông thẳng vào trận
địa địch tả xung hữu đột, khiến quân Mông Cổ bắt
đầu dao động.
Thừa
cơ, hơn năm mươi thớt ngựa kỵ binh do Lý công tử dẫn
đầu, hơn một trăm kỵ binh của nghĩa quân đột tiến
thẳng vào trận địa của địch ra sức tung hoành. Tiếng
quân Cao Ly reo hò vang trời dậy đất.
Phía
quân Mông Cổ núng thế không còn cách nào khác bèn ra
lệnh rút lui.
Hoàng
thúc đứng trên thành lầu nhìn thấy quang cảnh đó, khắp
người nổi gai ốc, bản thân cũng muốn nhảy ngựa ra
với Tiêu Vĩnh Vạn. Lúc đó cũng là lúc quân Mông Cổ
tháo chạy. Tiêu Vĩnh Vạn không đuổi theo truy kích theo
quân giặc mà ra lệnh toàn quân rút về.
Giữa
lúc Hoàng thúc đang bôn tẩu đó đây tìm Tiêu Vĩnh Vạn
thì phía sau lưng có người cũng đã tìm ai đó, lên tiếng
gọi:
-
Hoàng thúc ơi!
Hoàng
thúc quay lại nhìn thì đó là Tiêu Vĩnh Vạn. Hoàng thúc
không giấu nổi niềm vui sướng:
-
Tôi đang tìm Tiêu đại nhân, Tiêu đại nhân vẫn bình an
chứ?
Tiêu
Vĩnh Vạn cười sảng khoái đáp lại:
-
Không sao đâu ạ, để Hoàng thúc là chủ tướng mà cũng
xông ra giữa trận tiền như thế này thật không phải.
Tôi vẫn bình an thưa Hoàng thúc.
Lúc
này Lý công tử cũng chạy tới:
-
Kìa, Hoàng thúc cũng đến đây? Tiêu đại nhân có bị
thương chỗ nào không?
-
Hà hà, tôi vẫn nguyên vẹn, chẳng có thương tích gì.
Nào chúng ta vào trong đại bản doanh đi.
Tiêu
Vĩnh Vạn cùng Hoàng thúc và Lỹ công tử bước vào trong
lều đại bản doanh. Lúc đánh nhau quên hết nóng. Nay
bước nào trong lều, mồ hôi vã ra như tắm. Hoàng thúc
đã cho chở nước lạnh vào tự lúc nào để chỉ huy và
chiến sĩ cùng uống. Hoàng thúc mời Tiêu Vĩnh Vạn uống
trước. Lúc này cả tướng tá và binh lính đề đã có
được niềm tự tin - thì ra quân Mông Cổ không mạnh như
người ta đồn.
Hoàng
thúc xoa lên lưng Tiêu Vĩnh Vạn, hết lời khen ngợi là
võ nghệ của anh:
-
Tôi đã biết tài võ nghệ của Tiêu đại nhân, nhưng
không ngờ điêu luyện đến mức như vậy.
-
Thưa đâu dám, tôi chỉ biết võ vẽ vài miếng. Hoàng
thúc quá khen, làm tôi rất đỗi khó nghĩ.
Lý
công tử ngồi bên cạnh lấy khăn tay lau mồ hôi chảy
trên cổ Tiêu Vĩnh Vạn và nói:
-
Tài võ nghệ của Tiêu đại nhân ngày trước tôi đã
được trông thấy ở Thanh Châu nhưng không ngờ lại cao
cường đến mức như đã thấy hôm nay.
-
Ối chao, Lý công tử cũng nói đùa như vậy sao?
Cả
ba đều cười ồ lên. Trong lúc họ đang chuyện trò với
nhau như vậy thì quân giặc đã lùi ra bên ngoài khoảng
mười dặm và xây dựng trận địa ở đó.
Lúc
này Hoàng thúc nhìn xa xa về phía trận địa quân địch
một chốc, có vẻ như nghĩ ngợi điều gì rồi quay nói
với Tiêu Vĩnh Vạn:
-
Tiêu đại nhân này, tối hôm nay quân giặc thế nào sẽ
tập kịch vào trận địa của ta. Do vậy, chúng ta cần
có đối sách phòng bị.
-
Hoàng thúc nói đúng đấy. Nay là cuối tháng bảy. Bọn
giặc chắc chắn sẽ lợi dụng đêm không trăng để tập
kích ban đêm. Lực lượng quân sự lợi dụng đêm không
trăng để tập kích ban đêm. Lực lượng quân sự của
chúng ta còn yếu, do vậy có lẽ chúng ta phỉa rút vào
trong thành thôi.
Lý
công tử ngồi bên cạnh nói với giọng nghiêm trang:
-
Thưa Hoàng thúc, tối nay tôi xin ở lại để giữ trận
địa. Như vậy có lẽ tốt hơn.
Hoàng
thúc nghe thế chỉ cười, không trả lời. Tiêu Vĩnh Vạn
tuy cũng cảm phục trước nghĩa cử đó của Lý công tử,
nhưng đã không ngần ngại can ngăn:
-
Không được đâu. Lý công tử muốn làm tù binh sao? Đại
binh đoàn của giặc ban đêm tập kích vào đây, liệu có
cách gì ngăn nổi?
Đến
đây, Lý công tử đã hiểu ra mưu kế của ta.
Đêm
hôm ấy, lợi dụng lúc trời tối, tất cả quân sĩ đều
được lệnh rút hết vào trong thành, và đóng chặt cửa
thành lại.
Màn
đêm buông xuống từ lúc nào. Phía bên này không đèn
đuốc. Còn phía quân giặc, có lẽ chúng cũng sợ nên chỉ
đốt leo lét bốn bề yên tĩnh.
Gần
đến canh ba quân Mông Cổ bỗng hò reo ào tới bao vây,
khu gò đồi mà quân Cao Ly đang chốt. Tướng giặc Đường
Cô dốc hết sức lực bao vây trận địa quân Cao Ly.
Nhưng rốt cuộc chỉ thấy những con bù nhìn được cắm
khắp đó đây, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng một
quân sĩ nào. Y kéo cả đám binh lính đã mệt mỏi vì cả
đêm không được ngủ vào đến chân thành quân Cao Ly thì
thấy của thành đóng chặt. Nhìn lên thành lầu, chỉ
thấy hai lính đang ngồi ngủ gật.
Nguyên
soái Đường Cô biết mình đã bị mắc lừa quân Cao Ly,
bèn gầm lên:
-
Quân bay đâu, phá cửa thành này cho ta!
Đám
quân lính quá mệt mỏi, đành miễn cưỡng kéo nhau tới
định phá cửa thành.
Bỗng
đột nhiên từ trên thành lầu vang lên tiếng quân reo hò
rung trời chuyển đất, cùng lúc những mũi tên lửa bắn
xuống tới tấp, đá tảng lớn từ trên cao ném xuống.
Quân Mông Cổ đứa trúng tên ngã gục, đứa trúng đá
toác đầu lăn ra chết, đứa bị vó ngựa của chính quân
lính chúng dẫm xéo lên chết gục, con số nhiều vô kể
không sao đếm được. Lúc ấy, cửa thành bỗng mở loang
ra, kỵ binh của quân Cao Ly xông ra chém giết quân giặc.
Quân Mông Cổ hồn phi phách tán, đạp lên xác chết của
đồng ngũ chạy tháo thân.
Nguyên
soái Đường Cô khó nhọc lắm mới thoát chết trở về
doanh trại. Trong trận chiến này quân giặc đã mất hơn
một nghìn binh sĩ. Ngoài ra, quân Cao Ly còn thu được mấy
trăm thớt ngựa chiến và nhiều binh khí!
Tướng
giặc Đường Cô sau khi về đến doanh trại, bắt đầu
suy nhận ra: quả là chủ thành này là một doanh tướng
đấy. Bây giờ nếu vội vã muốn thắng ngay, chỉ tổ
tổn thất binh mã mà thôi. Vì vậy phải có được sự
hậu viện của thủy quân quan Mông Cổ đã được tiến
vào vùng biển tây, từ mặt biển đánh vào mới dễ công
phá được thành này.
Nghĩ
vậy, nên y cho quân sĩ bám lấy trận địa, tiếp tục
tại đó để chờ thủy quân đến.
Mặt
khác, lúc bấy giờ thủy quân Mông Cổ đã vượt sông áp
Lục tiến vào định chiếm cả một vùng Ngĩa Châu –
Long Nham phố, nhưng đã bị thủy quân Cao Ly tiêu diệt,
nên chúng phải vòng ra biển tây, định đổ bộ lên Nam
Hải phố nhưng cũng thất bại. Quân Mông Cổ vốn dĩ yếu
về thủy chiến nên chỗ nào cũng bị ăn đòn. Nhưng đến
đầu tháng tám năm đó, quân địch sau khi đã chiếm được
sơn thành An Lăng đã đưa chiến thuyền đến vùng duyên
hải, nhằm theo hướng Ủng Tân.
Quân
Mông Cổ xâm nhập vào vùng biển trước cửa ngõ Ủng
Tân đã chiếm được Đại Thanh.
Vào
lúc chập tối, Hoa sơn quân triệu tập các chư tướng
như Lý Công tử, Tiêu Vĩnh Vạn, Tướng Trương Hanh Ích
để bàn kế hoạch đối phó.
Bỗng
có một người tên là Lý Thành Thất, một á tướng thủy
quân trước đây được cử ra đồn trú tại đảo Đại
Thanh vội vã đi tới và bước thẳng vào đại bản
doanh. Mọi người đang ngồi họp nhìn thấy á tướng
thủy quân Lý Thành Thất mặt mày ủ rũ bước vào đều
đoán biết được tình hình hải chiến ở đảo Đại
Thanh.
Á
tướng Lý Thành Thất vốn xuất thân thủy quân ở Việt
Nam quốc, cũng là một danh tướng đã từng có nhiều
chiến tính về mặt hải chiến.
Lý
công tử biến sắc mặt hỏi:
-
Sao lại chạy về như thế này?
Lý
Thành Thất cúi gặp đầu, nói với dọng thống thiết:
-
Tôi thật có tội. Đảo Đại Thanh đã bị địch chiếm
mất rồi.
Lý
công tử cúi nhìn xuống đất, không nói câu nào.
Một
bầu không khí trầm uất bao trùm lấy đại bản doanh.
Nhưng Hoàng thúc không một chút dao động. Người lên
tiếng:
-
Thất bại một lần là chuyện thường tình của các binh
gia. Cái Đảo Đại Thanh bé nhỏ ấy dù có bị giặc cướp
đi cũng đừng nên chán nản. Vậy trong cuộc sống chiến
đấu trên đảo Đại Thanh, phía quân ta có bị tổn thất
nhiều không?
Hoàng
thúc muốn biết trước hết về tình hình cuộc chiến
đấy ở đó. Lý Thành Thất hiểu được suy nghĩ của
Hoàng thúc nên đã trình bày cặn kẻ mọi việc vừa xảy
ra.
Vốn
dĩ lực lượng thủy binh của Ủng Tân mỏng, không đủ
sức trải rộng ra để giữ một đảo nhỏ như đảo Đại
Thanh, nên chỉ cắt cử hơn một trăm lính cùng với năm
chiến thuyền ra đó để theo dõi và báo cáo tình hình
vùng biển gần. Lý Thành Thất được cử ra để chỉ
huy số binh sĩ này. Một hôm vào buổi tối quân Mông Cổ
huy động hơn hai mươi thuyền, đốt đuốc sáng rực
trời, hò reo xông tới bao vây đảo Đại Thanh.
Lý
Thành Thất theo dõi kỹ lực lượng địch, thấy trên mỗi
thuyền chiến thuyền lớn có hơn một trăm quân thủy
quân, mỗi chiến thuyền lại còn dắt theo một đoàn
thuyền nhỏ có đến mấy chục chiếc, ngoài ra chúng còn
chở rất nhiều ngựa đi theo. Như vậy là địch có kế
hoạch đánh điểm Ủng Tân. Lý Thành Thất nghĩ vậy và
ra lệnh cho lực lượng thủy quân dưới quyền mình lợi
dụng sương mù rút lui về đảo Kỳ Lân. Cũng may không
bị thiệt hại về sinh lực.
Hoàng
thúc ngồi bên cạnh, nghe trình bày xong bèn nhìn lên gương
mặt Tiêu Vĩnh Vạn, như có ý muốn hỏi Tiêu đại nhân
có kế sách gì hay không.
Tiêu
đại nhân mỉm cười, nhìn Lý Thành Thất nói:
-
Lý á tướng vất vả nhiều. Kế hoạch tác chiến đã
diễn ra đúng như dự định. Đây không phỉa là thất
bại, mà ngược lại là một thành công.
Mọi
người trong cuộc họp đều nhìn Tiêu Vĩnh Vạn với vẻ
ngạc nhiên. Song Tiêu Vĩnh Vạn không nói gì. Hoàng thúc
có phần sốt ruột, hỏi:
-
Vậy Tiêu đại nhân có kế sách gì hay?
-
Vâng xin Hoàng thúc đừng bận tâm. Hiện nay tướng đich
là nguyên soái Đường Cô đang trù quân tại phá của
đông thành Ủng Tân đang muốn phá vỡ thành này nhưng đã
liên tiếp bị thất bại. Không còn cách nào khác, nay
chúng dự định huy động cả hải quân đánh chiếm thành
Ủng Tân từ mặt biển. Hiện nay có vẻ như Đường Cô
đang liên hệ với lực lượng địch đã đổ bộ lên
đảo Đại Thanh, ý đồ của chúng là lực lượng thủy
quân này sẽ hợp đồng với cuộc đại tấn công của
lục quân, thừa cơ đánh chiếm Ủng Tân. Bởi thế việc
Lý á tường rút đảo Đại Thanh cho địch một cách dẽ
dàng như vậy sẽ làm cho địch yên tâm phối hợp với
lục quân. Nếu chúng ta đập tan được lực lượng thủy
quân này trong khi chúng đang yên tâm ngồi đợi mệnh lệnh
tác chiến trên bộ thì là xong mọi việc.
Đến
lúc bấy giờ. Hoàng thúc mới lấy hai tay vỗ vào đầu
gối mà nói rằng:
-
Tiêu đại nhân quả thực có trí tuệ thần kỳ.
-
Thưa không dám.
Tiêu
Vĩnh Vạn trả lời xong bèn đứng dậy nói với Hoàng
thúc:
-
Thời gian gấp lắm rồi, vậy tôi sẽ cùng Lý công tử
đi xem sao.
-
Tôi cũng cùng đi.
Hoàng
thúc cũng đứng dậy. Nhưng Tiêu Vĩnh Vạn thấy trong
thành không còn ai trông coi, nên muốn xin Hoàng thúc ở
lại. Nhưng Hoàng thúc coi đây là điều đạo lý phải
làm nên quyết định đi cùng Tiêu Vĩnh Vạn không còn
cách nào khác đành nói:
-
Nếu Hoàng thúc đã quyết như vậy thì chỉ một mình Lý
công tử ở lại, còn tôi và Hoàng thúc sẽ đi. Dù sao
thì quân địch cũng chưa thể mở cuộc tấn công trong
ngày một ngày hai được.
Như
vậy là Lý công tử ở lại trong thành còn Hoàng thúc và
Tiêu Vĩnh Vạn thì đi ra đảo Xương Lân.
Sau
khi đến đảo Xương Lân, hai người thấy việc bố trí
thủy quân ở đây rất đúng với kế hoạch, tinh thần
quân sĩ rất cao.
Tiêu
Vĩnh Vạn đi thuyền kiểm tra một vòng quanh đảo xong bèn
cùng với Hoàng thúc thầm thì bàn bạc với nhau điều
gì. Sau đó, Tiêu Vĩnh Vạn lên thuyền đi về nơi nào
không ai biết.
CHƯƠNG
18: LẬP MƯU TIÊU DIỆT HAI ĐẠO LỤC HẢI QUÂN CỦA GIẶC
Quân Mông
Cổ đi đến đâu là cướp bóc và gây ra những hành vi
man rợ đến đấy, nên không những xung quanh thành Ủng
Tân mà khắp dải bờ biển tây, những người dân làm
ruộng và làm nghề chài lưới hầu hết đều bỏ đi
lánh nạn. Những người còn lại chỉ là những người
già cả trong các gia đình nghèo.
Sau
khi quân Mông Cổ xâm chiếm đảo Đại Thanh, của Lạch
Nguyệt Xuyên vốn một thời là cửa lạch sông nay trở
thành chợ cá trên biển.
Từ
cửa lạch Nguyệt Xuyên vòng qua Giao Đình và đi hết làng
Trường Hiền, xong đi quá một chập nữa thì đến vòng
đóng quân của quân Mông Cổ ở bên ngoài của đông
thành Ủng Tân. Bên cạnh con đường lớn từ của lạch
Nguyệt Xuyên đi Giao Đình có hai gian nhà. Một gian trong
đó là quán rượu. Chỉ có quán rượu này là không đi
lánh nạn, tối hôm nay vẫn tiếp tục mở cửa.
Tiết
trời đã sang thu. Tối đến chủ quán cho trải chiếu lác
đác ngoài sân, thắp đèn nến sáng rực đón khách.
Nhưng
trong tình hình lúc đó không thể có ai đến đây uống
rượu.
Cô
chủ quán mới trạc ngoài ba mươi, dáng điệu lúng túng
định bắt mấy con bọ hung bay táp vào ngọn nến.
Lúc
ấy có ba người mặc quân phục đi ngang qua phía trước.
Những
người này là quân Mông Cổ. Sau khi chiếm được đảo
Đại Thanh, chúng định đánh vào Xương Lân và từ đó
đánh chiếm gọn thành Ủng Tân, nên chúng đã cho lập
hai doanh trại bí mật của thủy quân trên đảo Đại
Thanh. Mấy tên lính này là những tên lính liên lạc đã
dùng thuyền nhỏ đổ bộ lên của lạch Nguyệt Xuyên, để
từ đó đi dọc theo đường cái lớn đến gặp nguyên
soái Đường Cô tại bản doanh quân Mông Cổ quán mở
rộng. Chúng đưa mắt nhìn vào sân trước, thấy bên dưới
ánh nên có một vò rượu to đặt ở đấy và một thiếu
phụ còn trẻ đứng một mình. Một tên lính trong bọn
đưa mắt nhìn hai tên kia thì thầm to nhỏ:
-
Từ ngày đổ bộ đến giờ, lần đầu tiên thấy người.
-
Thấy người làm cái quái gì. Ta vào uống chén rượu rồi
đi có phải hơn không.
Tên
lính trả lời nhìn thấy vò rượu, mồm chảy nước dãi.
Tên lính còn lại móc trong túi một dúm tiền lá Cao Ly
xem và nói:
-
Dùng tiền này mua được rượu chứ.
-
Chà, thằng này có nhiều tiền quá, quỷ thần ơi, mày
cướp ở đâu mà lắm tiền thế!
Tên
lính mở miệng đầu tiên vừa rồi nói vậy, tên lính
nhìn vò rượu bèn nói:
-
Nào ta vào đi. Mỗi đứa làm một chén nhá! Một chén rồi
đi quan đại tướng nào biết được.
Tên
lính vừa bước vào trong cổng, đã thấy cô chủ quán
mỉm cười duyên dáng, đon đả ra mời chào.
-
Xin mời các vị quan quân vào trong này.
Nói
đoạn, cô chủ đưa chúng vào ngồi trên chiếc chiếu
trải ngay ngắn giữa sân.
Ba
tên lính ngồi xoái chân, chúng nhìn say đắm cô chủ quán
xinh đẹp. Một tên thò tay vào túi lấy một vốc tiền
xòe trong lòng bàn tay và nói:
-
Này chị chủ quán ơi, cho bát rượu, giá bao nhiêu tiền
chị lấy đủ thì thôi.
Hắn
nói bằng một thứ tiếng Cao Ly trọ trẹ, nhưng cũng hiểu
được.
Cô
chủ quán vừa nhìn vào mặt tên lính như muốn bật cười,
chọn nhặt ra ba đồng tiền lá và nói:
-
Giá tiền ba chén rượu là ba đồng đủ rồi. Các vị có
cần thức nhắm nữa không?
Cô
chủ quán vừa nói vừa cố nhịn cười, thấy vậy tên
lính nọ cười hì hì:
-
Thế à… cũng đã quá bữa rồi, mang ra cho mấy đĩa.
Cô
chủ quán lại nhặt thêm năm lá tiền trong lòng bàn tay
tên lính và đi vào nhà.
Một
chốc sau rượu và thức nhắm mang ra. Người bưng mâm
rượu ra là một ông già trạc trên bảy mươi.
Cô
chủ quán rất ý tứ, biết quân Mông Cổ có tính đa
nghi, nên đã rót ra một chén, uống hết và các thức
nhắm mỗi thứ một ít ăn trước mặt chúng. Đến lúc
ấy, bọn lính có vẻ yên tâm mới uống hết bát rượu
lớn.
Không
hiểu sao bọn lính vừa mới uống hết chén đầu tiên đã
nhanh chóng lăn ra ngủ.
Ông
già ở dưới bếp có lẽ đang đợi giờ phút này, bèn
bước ra nhặt lấy chiếc túi truyền lệnh mà bọn giặc
mang theo vào trong nhà xong, lại cầm mang ra đặt trả chỗ
cũ cạnh mấy tên lính. Ba tên lính và cô chủ quán cũng
chỉ mê đi trong chốc lát xong lại tỉnh lại, mọi vật
xung quanh vẫn như cũ. Chúng có vẻ như không cảm thấy
có điều gì xảy ra, lại tiếp tục uống rượu và ăn
các thức nhắm. Bọn lính còn muốn uống nữa và thích
ngồi vui chơi với cô chủ quán xinh xắn, nhưng chúng cũng
biết rằng nếu làm trái lệnh của đại tướng thì chắc
chắn chúng sẽ vị đầu lìa khỏi cổ trên đất Cao Ly
này. Do vậy chúng nhăn mặt bảo nhau:
-
Nào ta đi thôi!
Nhưng
một tên trong bọn tay cầm chai rượu, chép chép miệng,
nói như tiếc rẻ:
-
Ta chỉ uống thêm một chén nữa thôi rồi đi.
Nghe
vậy một tên trong bọn trợn mắt quát:
-
Mày có mấy cái đầu?
Có
thể hắn thấy ngượng vì đã nói quá lời, bèn chữa
lại:
-
Thôi, đợi lượt về sẽ cùng nhau uống cho thỏa thích.
Nói
xong cả bọn cùng đứng dậy. Cô chủ quán như tỏ vẻ
luyến tiếc:
-
Còn nhiều rượu và thức ăn quá mà các vị nỡ bỏ đi
sao.
-
À, ngay tối nay chúng tôi sẽ quay lại.
Nghe
thấy thế, cô chủ quán tỏ vẻ vui mừng, cũng đứng dậy
theo, nói với giọng trong trẻo:
-
Thế nào các vị cũng đến nhé. Chúng tôi sẽ làm thức
nhắm ngon chờ các vị đấy.
Bọn
lính nửa như nghe thấy nửa như không, vội vã rảo bước
ra đi.
Sau
khi bọn lính đi rồi, quán rượu lại vắng bóng khách
như trước.
Không
biết có phải chờ bọn lính trở lại hay chăng mà tuy
đêm đã khuya, quán rượu vẫn chong đèn mở rộng cửa.
Vào
khoảng ba giờ sáng, quả nhiên bọn lính quay trở lại.
Có
lẽ đã quen với cô chủ quán, nên bọn lính nói bằng
thứ tiếng Cao Ly giọng lơ lớ:
-
Này chị chủ quán ơi, chúng tôi đã quay lại rồi đây.
Tất
cả bọn chúng ngồi sà vào chỗ.
-
Mấy vị vất vả quá!
Cô
chủ quán đon đả mời chào và bưng mâm rượu cùng thức
nhắm ra.
-
Nào, lần này thế nào cũng mời chủ quán một chén nhé!
Một
tên lính ra vẻ tỉnh bơ, mời rượu cô chủ quán.
-
Vâng, tôi xin uống trước để các vị an tâm cùng uống.
Cô
chủ quán mắt đung đưa, cầm chén rượu lên uống và
gắp đều các thức nhắm mỗi thứ một ít nếm thử.
Bọn
lính yên tâm cầm chén rượu do cô chủ quán rót cho uống
cạn.
Chả
hiểu làm sao vừa mới uống hết chén đầu tiên, tất cả
đều lăn ra ngủ. Nhưng cũng chỉ là chén đầu tiên, còn
những chén rượu sau đó thì không việc gì.
Khi
họ uống hết chén đầu và bị mê lịm đi thì ông già
lại như lần trước từ trong bếp bước ra, nhấc lấy
chiếc túi truyền lệnh đặt bên cạnh bọn lính vào
phòng xong lại bước ra và đặt nguyên vào chỗ cũ.
Một
chốc sau, tất cả đều tỉnh lại. Mọi việc diễn ra
chỉ trong khoảng khắc. Tất cả mọi thứ trong bữa rượu
không có gì thay đổi, nên bọn lính không hay biết gì.
Một
chốc sau khi đã lặng lẽ ăn hết thức ăn và uống hết
rượu. Một tên lính lấy mu bàn tay quệt ngang cái mồm
nhờn những mỡ và nói:
-
Nào, ta đi thôi!
Hắn
cầm lấy chiếc túi truyền lệnh để bên cạnh và đứng
dậy. Hai tên còn lại tỏ vẻ tiếc rẻ, nhưng cũng đứng
dậy theo.
Cô
chủ quán lại tươi cười đon đả.
-
Mời các vị ở lại chơi thêm chốc nữa rồi hãy đi
nào. Trời chưa sáng mà.
Nghe
thấy vậy, một tên trong bọn đáp lại giọng thều thào:
-
Này, chủ quán đừng nói thế. Nếu trước khi trời sáng
mà không về kịp thì ba cái cổ chúng tôi sẽ bị phạt
bằng!
Bọn
chúng hốt hoảng đứng dậy bước ra ngoài. Một tên lính
xỏ chân vào giày, hắn đạp một chân lên thùng rượu
để buộc dây giày.
Tên
lính nhìn thùng rượu bèn quay lại cô chủ quán:
-
Này, chủ quán ơi! Đây là thùng rượu đấy chứ?
Cô
chủ quán đến bên cạnh tên lính nói:
-
Vâng, phải đấy. Đây là thùng rượu vốn được làm để
bán vào dịp mùa thu này. Nhưng gặp thời buổi loạn lạc,
cứ để nằm một chỗ không bán được. Mời các vị
mang về một ít biếu lên ngài đại tướng.
Nói
đoạn, cô chủ quán bước vào bếp bưng ra một chiếc
thùng to đẹp hơn và sang đầy rượu cho bọn lính mang
về. Bọn lính cười hí hửng.
-
Cảm ơn, cảm ơn, chúng tôi sẽ lại đến nữa.
Nói
xong, chúng vác thùng rượu ra về.
Lúc
này là thượng tuần tháng tám, đêm tối mịt mùng. Không
trăng, chỉ có ánh sao lấp lánh. Người nữ chủ quán
đứng trông cho đến khi bọn lính xuyên qua bức màn đêm
đen kịt khuất xa mới quay vào trong ngõ, áo của cô ướt
đẫm sương đêm từ lúc nào.
Vì
mặc áo dệt bằng sợi gai mỏng, ăn hồ nhiều lúc đầu
trông rất phẳng phiu, nhưng đến giờ bị sương đêm làm
ướt, chất hồ nhũn đi dính bết vào da, trông nhàu nát
hẳn đi. Trên vầng trán trắng trẻo của cô lấm tấm
những giọt mồ hôi chảy xuống hai má, trông có vẻ mệt
nhọc.
Người
thiếu phụ bước vào trong phòng, mắt liếc ngang nhìn ông
già, nói:
-
Rõ khiếp quá! Em chả hiểu ra thế nào. Lần đầu tiên
trong đời phải làm cái việc ghê sợ như thế này…
Ông
già nhìn người thiếu phụ với ánh mắt đầy cảm kích,
an ủi cô:
-
Quý cô sẽ là vị công thần số một của đất nước
này đấy.
Người
thiếu phụ như chẳng để ý đến lời nói đó, nét mặt
lộ vẻ sợ sệt nói:
-
Bây giờ nếu mọi việc đã xong xuôi thì hãy đi nhanh
khỏi nơi này thôi. Chao ôi em sợ quá…
Trước
cảnh đó ông già không thể chần chừ thêm được nữa,
bèn đứng dậy tắt hết tất cả nến trong phòng, nhìn
một lượt khắp gian phòng rồi quay sang nói nhỏ:
-
Ra đứng đợi ở cạnh đường cái trước mặt nhà nhé.
Tôi sẽ dắt ngựa ra đó.
Người
thiếu phụ tỏ vẻ lo lắng.
-
Ông đến nhanh cho, em sợ lắm…
-
Quý cô đã làm được một việc như vậy còn sợ gì…
Ông
già nói đoạn cười hà hà rồi đi ra phía ngoài cửa sau
nhảy lên lưng ngựa đã buộc sẵn ở đó đi ra phía
đường cái lớn.
Vừa
trông thấy người thiếu phụ, ông dùng một tay bế thốc
chị ta lên cho ngồi phía trước mặt mình bằng một động
tác chẳng có một chút gì gọi là già cả, rồi người
ngựa rẽ vào con đường mòn phóng chạy mất hút.
Trong
khi đó, trên đảo Xương Lân, Hoàng thúc ngồi một mình
trong bản doanh thủy quân thức suốt cả đêm để chờ,
nhưng người được chờ chưa đến, nên Hoàng thúc lại
bước ra ngoài, đi lên đi xuống bến thuyền, tỏ vẻ rất
sốt ruột.
Nước
biển vỗ bì bọp vào ghềnh đá dưới chân đảo.
Lúc
này, từ trên mặt biển đen ngòm, có tiếng khua mái chèo
vọng lại.
Lính
tuần canh đi trên thuyền lắng tai nghe, chăm chú theo dõi
về phía có tiếng động. Hoàng thúc cũng hết sức chú ý
dõi nhìn về phía đó.
Bỗng
có một chiếc thuyền lướt nhanh như tên về phía này,
người lính bình tĩnh hỏi giọng vừa phải:
-
Ai?
Nhưng
đêm vẫn lặng lẽ, chỉ có tiếng vọng xa xa đáp lại.
-
Tôi đây… Tiêu Vĩnh Vạn!
Nghe
tiếng Tiêu Vĩnh Vạn, Hoàng thúc đang ngồi thu mình trên
bến thuyền nhìn ra biển, không giấu nổi vui mừng, vội
vàng chạy ra đón.
-
Tiêu đại nhân đã về đó phải không?
Tiêu
Vĩnh Vạn cười hì hì, khua tiếp mấy mái chèo nữa cho
thuyền cập bến. Anh định neo thuyền vào bờ, nhưng sóng
biển buổi sớm mai tương đối mạnh làm cho thuyền chòng
chành, lúc trao bên nọ, lúc lắc bên kia.
Hoàng
thúc một chân giẫm xuống nước, đưa tay nắm giữ lấy
thuyền. Thuyền nhanh chóng cập ngay được vào bến.
Thuyền
vừa đứng yên, Tiêu Vĩnh Vạn bèn xốc nách người thiếu
phụ đang mê man bất tỉnh nằm bẹp trong thuyền đưa lên
bờ.
Hoàng
thúc thấy vậy, bèn lo lắng hỏi:
-
Bị thương hay sao?
Tiêu
Vĩnh Vạn buột miệng trả lời:
-
Làm gì mà phải bị thương. Say sóng chỉ mê man một tý
thôi, thưa Hoàng thúc.
Nói
đoạn bèn ôm lấy người thiếu phụ bước đi.
Biết
Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn đã về, bốn năm tráng đinh
chạy ra đón.
Các
tráng đinh cõng người thiếu phụ trên lưng đi theo Hoàng
thúc về bản doanh.
Hoàng
thúc bước vào bản doanh, được nhìn lại mặt của Tiêu
Vĩnh Vạn, cảm thấy yên tâm, trút đi được nỗi lo
trong lòng, nên cứ nhìn anh không chớp mắt.
Trên
khuôn mặt Tiêu Vĩnh Vạn, râu dài mọc tua tủa.
Hoàng
thúc nhìn Tiêu Vĩnh Vạn nói:
-
Tiêu đại nhân vất vả quá chừng!
Đôi
mắt Tiêu Vĩnh Vạn bừng sáng long lanh.
-
Hoàng thúc ơi, kỳ này chắc sẽ đại thành công.
Nghe
nói, Hoàng thúc xúc động, mừng rỡ.
Người
thiếu phụ nằm bên cạnh mê man khi nãy, bắt đầu cựa
mình, rên nhè nhẹ:
-
Mẹ ơi! Nước…
Hoàng
thúc bước đến bên người thiếu phụ, đổ từng ít
nước một vào môi cô ta. Người thiếu phụ lè lưỡi ra
liếm nước dính trên môi cho đỡ khát.
Một
chốc sau, nàng bắt đầu tỉnh lại và ngồi dậy.
Nàng
đưa hai mắt nhìn khắp gian phòng một chặp. Đến bây
giờ mới nhận ra Hoàng thúc và Tiêu đại nhân.
-
Ôi chao, tiện nữ em xấu hổ quá…
Nàng
đưa hai tay túm lấy áo xống và đầu tóc rũ rượi, úp
mặt vào hai đầu gối.
Nhìn
thấy vậy, Hoàng thúc không giấu nổi vui mừng, lấy khăn
tay lau những giọt mồ hôi chảy trên trán thiếu phụ và
nói:
-
Thu Nguyệt của chúng ta đã làm được việc lớn đó…
Tiêu
Vĩnh Vạn ngồi bên, nhìn người thiếu phụ khen ngợi.
-
Thưa Hoàng thúc, công của Thu Nguyệt lớn lắm. Lúc đầu
tôi cũng rất lo. Nhưng khi bước vào cuộc mới thấy cô
ấy mạnh dạn mà chu tất làm sao.
Lúc
này người thiếu phụ mới ngước đầu lên nhìn Hoàng
thúc:
-
Thưa Hoàng thúc, tiện nữ cứ tưởng như mình đã chết
rồi. Thật tiện nữ nằm mơ cũng chẳng nghĩ được mình
còn sống trở về gặp Hoàng thúc.
Tiêu
Vĩnh Vạn nói to:
-
Cô em cứ nói chết. Chết làm sao được. Dễ chừng cô
em chán cuộc sống rồi, có phải không nào?
Nói
đoạn anh cười ha hả.
Hoàng
thúc gọi một người lính vào ra lệnh bảo đưa Thu
Nguyệt sang phòng bên thay áo sống và ngủ nghê cho lại
sức.
Trong
bản doanh chỉ còn lại hai người Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh
Vạn đang bí mật thì thầm với nhau về một điều gì
đó. Bỗng Tiêu Vĩnh Vạn phá lên cười vang động cả
bản doanh. Nếu có ai trông thấy chắc sẽ nghĩ chuyện
chiến tranh mà lại như thế này ư. Nhưng trong trướng
nội bản doanh nếu không có một chủ trương quyết thắng
cho chiến trường thì chuyện bách chiến bách thắng là
một điều khó khăn.
Huống
hồ trong giờ phút đại quân Mông Cổ đang bao vây và
định đè bẹp thành Ủng Tân này thì phải làm thế nào
để phá tan được mưu gian của giặc?
Hoàng
thúc và Tiêu Vĩnh Vạn đang thì thầm bàn bạc. Một chốc
sau, khi kế hoạch tác chiến đã lập xong, một phần vì
suốt đêm không được ngủ, một phần nữa vì kế hoạch
tác chiến tối nay đã có rồi nên toàn thể các tướng
sĩ đều được lệnh phải đi ngủ.
Tiêu
Vĩnh Vạn gọi viên phó tướng đến lệnh cho toàn thể
các tướng sĩ đều phải đi ngủ cho đầy giấc, không
được đánh thức họ dạy cho đến tối hôm nay.
Lại
nói đến ba tên lính Mông Cổ. Chúng uống rượu ở quán
rượu bên cạnh đường từ Nguyệt Xuyên lý đến Giao
Đình xong, còn mang cả một thùng rượu to về bản doanh
thủy quân của chúng. Sau khi về đến nơi, chúng liền
chuyển đến đại tướng Ô – Khan Ka – Tan mệnh lệnh
tác chiến của nguyên soái Đường Cô và cả thùng rượu
nữa. Tướng thủy quân Mông Cổ Ô – Khan lắc đầu,
nhưng vì đây là mệnh lệnh của nguyên soái Đường Cô,
không còn cách nào khác, đành phải phục tùng. Vốn dĩ,
nếu theo kế hoạch của đại tướng thủy quân Ô –
Khan thì tối hôm nay sẽ bất ngờ đánh chiếm gọn đảo
Kỳ Lân và đảo Xương Lân. Nhưng nguyên soái Đường Cô
đã ra lệnh để chậm một ngày cho đến đêm mai.
Ý
đồ của nguyên soái Đường Cô là muốn mở cuộc tổng
công kích bằng thủy quân thì phải mở cuộc tấn công
của lục quân ở mặt trận phía đông trước để hút
lực của quân Cao Ly trong thành Ủng Tân về phía đông,
thừa cơ lúc đó thủy quân sẽ tấn công vào bờ biển
tây bị bỏ trống.
Mệnh
lệnh của cấp trên đã như thế rồi, không thể làm
khác được. Tướng Ô – Khan nhìn trừng trừng vào tên
lính đi truyền lệnh về.
-
Mày mang rượu này ở đâu về?
Bọn
lính cúi gầm mặt, sợ líu cả lưỡi.
-
Dạ thưa đại tướng, khi tiểu tốt từ cửa lạch gọi
là lạch Nguyệt Xuyên đi về đất Giao Đình có trông
thấy một quán rượu. Trước mặt quán có mấy chục
thùng rượu bày la liệt. Chỉ có mỗi nhà này là có một
đứa con gái bán rượu. Và bọn tiểu tốt đã lấy một
thùng rượu trong số các thùng rượu để trước sân
mang về dâng lên tướng quân.
Nghe
nói tướng quân Ô – Khan tỏ vẻ ngạc nhiên bèn lườm
nhìn tên lính một chặp.
Bọn
lính đã làm trái lệnh chỉ huy của chúng – trên đường
đi truyền lệnh chúng đã ghé vào quán mua rượu uống.
Nhưng
ba tên lính cố giấu biệt việc ăn nhậu: chúng tỏ vẻ
thản nhiên như không. Nhìn chằm chằm vào bọn lính một
chốc, tướng Ô – khan hỏi:
-
Chúng mày có uống rượu trong quán đó không?
-
Dạ thưa, hoàn toàn không có việc đó ạ.
Cả
ba tên mạnh dạn trả lời như đã có hẹn với nhau từ
trước.
Ô
– Khan có vẻ yên tâm bèn hỏi tiếp:
-
Thế chúng mày có trông thấy con chủ quán đó không?
Nghe
hỏi vậy, bọn lính định nói là một mỹ nhân tuyệt
thế, tiếng nói và cử chỉ thật là dịu dàng, nhưng ngộ
nhỡ nói ra lỡ mồm thì đầu cả ba đứa sẽ lìa khỏi
cổ. Nghĩ vậy nên chúng không thể trả lời đã trông
thấy cũng không thể trả lời chưa thấy. Một tên trong
bọn giả vờ như không biết gì cả, bèn nhìn sang tên
đứng cạnh. Tên này hiểu ý bèn trả lời:
-
Dạ thưa chỉ có mình tiểu tốt trong thấy mặt của nó.
-
Thế mày làm thế nào trông thấy nó?
-
Dạ thưa trên đường về, hai anh này vào lấy trộm thùng
rượu còn tiểu tốt đứng ngoài nhìn qua khe cổng trông
chừng xem con chủ quán có bước ra không. Vừa hay lúc ấy,
tiểu tốt nhìn thấy gương mặt của nó từ phòng khách
đi vào trong nhà bếp.
Tướng
Ô – Khan nghe thấy lời nói của mấy tên lính có lý,
nên cũng cho rằng sự thực có thể như vậy. Cặp mắt
gian ác của hắn xếch ngược trên bộ mặt đen sạm, hắn
nhìn thẳng vào mặt tên lính hỏi:
-
Thế mặt mũi của nó có xinh không?
Tên
lính ngớ ra, nhưng rồi hắn kịp trấn tĩnh lại:
-
Vâng, thưa đúng là một mỹ nhân đẹp tuyệt trần ạ.
Lúc
này tướng Ô – Khan mới cười hì hì, nhe ra cả hai hàm
răng trắng nhởn.
Y
định tối hôm nay sẽ mở cuộc tổng công kích chớp
nhoáng, đổ bộ lên Ủng Tân. Nhưng rốt cuộc hôm nay cả
ngày mai vẫn phải nghỉ; đến đêm mai vào lúc canh hai sẽ
bắt đầu cuộc chiến. Do vậy suốt thời gian đó phải
ngồi chờ một cách vô vị trên đảo Đại Thanh không
một ngụm rượu uống.
Vậy
chi bằng ta sai mấy tên lính đến bắt con chủ quán rượu
và mang hết rượu về đây, cho binh sĩ uống thoải mái
để tăng thêm sĩ khí có phải hay hơn không. Nghĩ thế
nên hắn lấy làm đắc ý cho rằng trời đã phù hộ tất
cả mọi việc của tướng Ô – Khan này. Hắn nhìn tên
lính và nói.
-
Nếu mày đi có thể tìm lại quán rượu đó được
không?
-
Dạ được.
Tên
lính trả lời vậy nhưng trong lòng vẫn thấp thỏm. Nếu
cô gái ấy để lộ chuyện lính uống rượu ở quán thì
dứt khoát ta sẽ làm ma nơi đất này, à không, nơi biển
sâu thăm thẳm này chứ chẳng chơi. Nghĩ vậy nên hắn
cảm thấy rùng mình. Nhưng việc đã thế rồi, không còn
cách nào khác, phải tìm phương kế sau vậy. Tướng Ô –
Khan tỏ vẻ hài lòng, bèn gọi viên phó tướng đến bảo:
-
Này, nhà anh hãy cử năm mươi lính đi cùng với mấy tên
này, tìm đến quán rượu mà bọn này biết, bắt đứa
con gái bán rượu và mang toàn bộ các thùng rượu về
đây cho ta.
-
Xin tuân lệnh.
Hơn
năm mươi tên lính do mấy tên lính truyền lệnh đi trước
dẫn đường, leo lên thuyền và mang nhiều quân xa đi
thẳng đến quán rượu.
Mặt
trời đã nhô lên từ phương Đông.
Hơn
năm mươi tên lính Mông Cổ đi vào những phố xá không
một bóng người. Quán rượu mà chúng xăm xăm tìm đến
cũng trống không.
Vừa
đến nơi, tên lính truyền lệnh bèn sục tìm cô chủ
quán, nhưng việc chẳng may mà lại hóa ra may. Tìm mãi vẫn
không thấy cô chủ quán đâu, ông giá dưới bếp cũng
không thấy. Có lẽ họ đã đi lánh nạn cả rồi chăng.
Chúng sục tìm cả trong nhà lẫn ngoài sân vườn, lùm cây
bụi cỏ, nhưng vẫn không thấy người con gái.
Tuy
vậy, các thùng rượu vẫn còn xếp gọn gàng nguyên chỗ
cũ. Không có cách nào khác, bọn lính chỉ còn biết lấy
hết các thùng rượu chất lên xe mang về.
Tướng
Ô – Khan từ lâu ước ao muốn được tìm thú vui với
người đẹp xứ Cao Ly. Nhưng người đẹp chẳng có. Bọn
lính chỉ chở về được mấy quân xa rượu.
Tướng
Ô – Khan nổi trận lôi đình:
-
Thế nào, đứa con gái chạy mất rồi à?
Mấy
tên lính hầu cúi đầu sát đất thưa:
-
Không những quán rượu mà cả vùng xung quanh, tất cả
mọi người đều chạy đi lánh nạn cả rồi. Có lẽ đứa
con gái cũng đi lánh nạn rồi ạ.
Nghe
bọn lính nói vậy, tướng Ô – Khan đành nuốt hận gọi
tên phó tướng đến bảo:
-
Cho mang số rượu này chia cho tất cả tướng sĩ hôm nay
nghỉ chơi cho thoải mái!
Thế
là rượu được mang chia cho tướng sĩ thủy quân trên
tất cả các chiến thuyền để cho chúng tha hồ uống và
chơi thả cửa. Bọn lính Mông Cổ bấy lâu thèm khát rượu
cao lương, nay được một bữa thỏa thích, chúng vui mừng
thích thú không sao kể xiết.
CHƯƠNG
19: NHỮNG CHIẾC HÒM CHÂU BÁU CÓ MA
Bọn lính
suốt ngày uống rượu say túy lúy.
Đêm
về khuya, sóng biển càng mạnh, các chiến thuyền rung
rinh chao đảo. Bọn lính say rượu cảm thấy như đất
trời đang quay cuồng, các chiến thuyền chỉ còn là những
chiếc xuồng con, quay cuồng cùng trời đất. Hơn nữa
sương mù dày đặc, hai thuyền ở cạnh nhau mà không
trông thấy nhau.
Giữa
lúc ấy, từ trong một một chiếc thuyền nào đó bỗng
"đoành" một tiếng nổ lớn của một khối diêm
tiêu vang lên, và một cột lửa bốc lên cao.
Tướng
Ô – Khan say rượu, nhìn thấy kinh hoàng. Ngọn lửa bốc
lên trời cao, trong nháy mắt cháy lan vào lòng thuyền. Bọn
lính trên thuyền kêu la inh ỏi.
Nhưng
đâu phải chỉ có một chiến thuyền đó. Hết chiếc này
đến chiếc khác đều bùng cháy dữ dội, ngọn lửa bốc
ngút trời. Đến bước này, dù tướng Ô – Khan có khờ
dại đến đâu cũng không thể không nhận ra là đã bị
mắc lừa quân đội nước Cao Ly. Bọn lính Mông Cổ lớp
nhảy xuống biển chết đuối, lớp bị cháy thiêu chết
trong thuyền, số lượng nhiều vô kể. Cùng lúc đó, bốn
bề tiếng quân reo hò vang động cả mặt biển. Tướng Ô
– Khan thét lên: "Ta bị mắc lừa quân địch rồi!"
Nhưng
đã muộn.
Thật
là họa vô đơn chí! Cùng với lửa cháy, quân Cao Ly tràn
lên các chiến thuyền, tay cầm giáo mác, mã tấu xông vào
đâm chém bọn giặc Mông Cổ.
Tướng
Ô – Khan khó nhọc lắm mới dập tắt được ngọn lửa
trên chiến thuyền của y và tìm cách chạy thoát thân.
Hắn chạy về phía cửa lạch Nguyệt Xuyên, định tìm
đường chạy về trận địa của nguyên soái Đường Cô
tại mặt trận phía đông, nhưng đã bị quân Cao Ly chặn
đầu phía trước.
Tướng
Ô – Khan không còn cách nào đành hốt hoảng quay mũi
thuyền chạy vào biển tây. Thế là hơn ba mươi chiến
thuyền và hơn ba nghìn binh lính Mông Cổ đã chìm sâu
xuống đáy biển. Ô – Khan chạy thoát chết nhưng lòng
hắn ngổn ngang bao nỗi đắng cay.
Hiển
nhiên trận chiến này được thực hiện theo mưu kế ban
đầu của Tiêu Vĩnh Vạn được Hoa Sơn quân bổ sung và
thẩm duyệt.
Đã
nhiều lần sang Mông Cổ, hiểu biết thông thạo tiếng
nói và chữ viết của nước này, khi nghe tin quân địch
chiếm đảo Đại Thanh, anh biết rằng thế nào thủy quân
địch cũng sẽ tìm cách liên lạc với tướng Đường
Cô. Do đó đã cử người ra phục ở vùng bờ biển gần
với cửa lạch Nguyệt Xuyên và cho dựng quán rượu bên
cạnh đường mà bọn lính liên lạc sẽ đi qua, đồng
thời cho chở đến chất đầy các hòm rượu trước quán
rượu.
Dân
trong vùng ai nấy đều đã đi lánh nạn hết, nên việc
chọn địa điểm không có gì khó khăn.
Sau
khi trù liệu công việc xong xuôi, anh đưa cô quan kỹ Thu
Nguyệt tới. Bản thân anh đóng vai ông già nấu bếp, còn
Thu Nguyệt đóng vai cô chủ quán.
Khi
cho bọn lính uống rượu, anh đã cho một thứ thuốc bột
gọi là "mộng hồn dược" vào trong rượu để
cho chúng uống. Chúng uống xong thì hồn vía bay lên mây
không còn biết gì. Thừa lúc đó anh móc túi lấy bức
mật thư tác chiến của tướng Ô – Khan gửi tướng
Đường Cô ra xem và nhanh chóng chữa lại rất khéo ngày
giờ cuộc tổng tấn công.
Sau
đó anh thay bình đựng rượu có "mộng hồn dược"
bằng bình đựng rượu không pha "mộng hồn dược"
nhưng cũng y hệt như bình kia. Tất cả các thứ nguyên vị
như cũ, cho nên sau khi tỉnh rượu rồi, bọn lính không
hề có cảm giác gì khác lạ.
"Mộng
hồn dược" vốn là một thứ thuốc uống vào phải
sau một thời gian dài mới tỉnh. Nhưng do Tiêu Vĩnh Vạn
phải đi lại nhiều vùng nguy hiểm thuộc nhiều nơi nên
vị đạo sĩ Đông Hải ở Thanh Châu đã đặc biệt làm
ra một thứ thuốc bằng phương pháp bí truyền để tặng
anh. Thuốc này uống xong sau một giờ sẽ tỉnh táo trở
lại bình thường nhưng không hề biết mình đã bị mê.
Trong thư của Ô – Khan Ka – Ta gửi cho Đường Cô có đề
nghị tiến hành cuộc tổng tấn công vào đêm ấy, đề
cập đến việc phối hợp của lục quân. Cả điều này
cũng đã được thay đổi chuyển sang đêm ngày hôm sau.
Kế hoạch tác chiến của quân Cao Ly đề ra là cho bọn
lính Mông Cổ đang thèm khát rượu uống thật say, nên đã
cho chở thật nhiều rượu đến xếp đầy trước quán
rượu và đưa cả Thu Nguyệt đến quán rượu để lôi
kéo bọn lính. Các yếu tố đó cuối cùng đã giúp cho
thủy quân Ủng Tân của Hoa Sơn quân tiêu diệt được
quân giặc mà không phải tốn bao nhiêu công sức.
Tướng
thủy quân Mông Cổ Ô – Khan Ka – Ta bị quân Cao Ly tập
kích bất ngờ ban đêm, đã bỏ chạy tháo thân, chỉ mang
theo được hơn một trăm quân. Tiếp đó, các tướng sĩ
dưới quyền chỉ huy của Hoa Sơn quân thành Ủng Tân với
khí thế ngút trời đã xông vào chém giết số thủy quân
Mông Cổ còn sót lại. Trận thắng lợi giòn giã của
quân Cao Ly kết thúc, trời đã rạng sáng. Từ phía đông,
mặt trời nhô lên chiếu nắng xuống mặt biển. Xác
thuyền bị cháy dập dềnh theo sóng biển lúc bị đẩy
lại chỗ này, lúc giạt sang chỗ kia. Xác chết quân Mông
Cổ ngã gục trên thuyền la liệt khắp nơi.
Hoa
Sơn quân động viên khen ngợi tất cả binh sĩ, thưởng
công cho họ tùy theo công lao của từng người.
Nhưng
ở phía đông, đại quân Mông Cổ vẫn còn đấy.
Ngày
hôm ấy, sau khi trở về thành Ủng Tân, Hoàng thúc, Tiêu
Vĩnh Vạn và Lý công tử lên thành lầu cửa đông nhìn
về mặt trận phía đông, và đề ra kế hoạch tác chiến
mới.
Tiêu
Vĩnh Vạn trải tấm bản đồ tác chiến ra và trình bày
với Lý công tử:
-
Tướng địch Đường Cô vào đầu giờ tối hôm nay sẽ
tấn công vào đây. Do vậy phải cho quân sĩ của chúng ta
đi ngủ trước cho đầy đủ.
Nói
xong Tiêu Vĩnh Vạn còn ghé vào tai Lý công tử thì thầm
điều gì đó một chập nữa.
Hoàng
thúc đối với kế hoạch tác chiến mới cảm thấy vững
tâm.
Sau
khi khen ngợi công lao của Tiêu Vĩnh Vạn, Hoàng thúc bảo:
-
Chúng ta cũng phải về bản doanh ngủ một giấc cho lại
sức.
Nghe
nói vậy, Tiêu Vĩnh Vạn đến lúc này mới thấy thấm
mệt. Anh nhìn lên gương mặt Hoàng thúc cũng lộ vẻ mệt
nhọc, bèn mỉm cười nói:
-
Vâng, xin lĩnh ý. Đã hai hôm nay, Hoàng thúc cũng bị mất
ngủ, chắc là mệt lắm.
Lý
công tử bước xuống thành lầu, đôn đốc việc chuẩn
bị sẵn sàng chiến đấu trên tất cả mọi mặt đêm
hôm đó. Còn Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn đi về bản
doanh nằm ngủ thiếp.
Đến
đêm hôm đó, quân Mông Cổ mở cuộc tấn công định đập
nát thành Ủng Tân. Trước hết, ngay từ buổi tối, chúng
bắt đầu mở những cuộc tấn công lẻ tẻ có tính chất
thăm dò. Nhưng quân Cao Ly vẫn đóng chặt cửa thành,
không chống cự, mặc cho bọn lính Mông Cổ đến tận
chân thành chế nhạo, chửi bới.
Tướng
giặc nhìn quanh cảnh đó, tỏ vẻ đắc chí cười và
quát:
-
Quân bay, trong đêm nay chúng mày phải cướp lấy thành
này cho ta.
Hắn
nói như vậy, nhưng trong lòng vẫn thấp thỏm chưa yên.
Đêm
mỗi lúc một khuya dần, thời gian từng khắc từng khắc
trôi qua, thành Ủng Tân vẫn chìm trong yên lặng, không
thấy nổi lửa.
Vì
đã có hẹn một khi thủy quân vào chiếm thành nhất định
sẽ đốt lửa lên nên chúng chỉ chờ có thế.
Giữa
lúc nguyên soái Đường Cô ngồi trong bản doanh thấp thỏm
lo âu thì bất ngờ từ chân núi Tú Đài nằm về mạn
đông nam trận địa quân Mông Cổ vang lên tiếng hò reo
dậy đất, lửa bốc ngụt trời. Quân Mông Cổ đã chiếm
được Tú Đài sơn nhưng do không cần thiết về mặt tác
chiến quân sự nên chúng chỉ để hai trăm quân ở lại
canh giữ. Nhưng nếu Tú Đài sơn bị quân Cao Ly chiếm thì
trận địa của quân Mông Cổ không những mất đi giá
trị về mặt tác chiến mà nếu quân Cao Ly chiếm lĩnh Tú
Đài sơn cùng với quân Cao Ly trong thành Ủng Tân phối
hợp tiến công cả mặt trước lẫn mặt sau quân Mông Cổ
thì quân Mông Cổ sẽ lâm vào tình trạng nguy khốn.
Tướng
Đường Cô hoảng hốt vội vã gửi điện viện quân ra
Tú Đài sơn, đồng thời lùi khoảng mười dặm về phía
tây bắc, cắm chốt trận địa tại đó.
Nhưng
viện binh quân Mông Cổ ra Tú Đài sơn nửa đường bị
phục binh của quân Cao Ly diệt sạch. Tại Tú Đài sơn,
quân Mông Cổ cũng đã bị tiêu diệt bởi quân triều
đình được tăng viện từ Đô hộ phủ theo lời thỉnh
cầu của Hoàng thúc, ở đời, khi thời vận đã hết thì
những việc chẳng may cứ liên tục xảy ra hết việc nọ
đến việc kia. Đến sáng ngày hôm sau, tướng Đường Cô
mới biết tin thủy quân bị thảm hại.
Rốt
cuộc, chờ mãi chẳng thấy lửa bốc lên ở thành Ủng
Tân là nơi tiền phương của chúng, ngược lại chỉ thấy
lửa bốc lên phía sau hậu phương của chúng. Đến bước
này, ngay cả nguyên soái Đường Cô, một danh tướng của
Mông Cổ cũng đành chịu bó tay.
Trái
ngược hẳn với cảnh tượng của quân Mông Cổ, lúc này
ở trong thành Ủng Tân, Hoàng thúc, Tiêu Vĩnh Vạn và Lý
công tử đang nâng chén chúc mừng thắng lợi.
Lúc
này tổng chỉ huy quân Mông Cổ là San-lì-tai đang cho quân
tràn qua các địa phương ở tây bắc và đóng quân gần
Khai Kinh là kinh thành Cao Ly. Bởi vậy, bản thân Đường
Cô không thể tự ý rút lui, và y bị buộc phải chuẩn
bị cho một cuộc chiến đấu lâu dài.
Mặt
khác y cũng nghĩ rằng dù người chủ soái của thành Ủng
Tân có tài giỏi đến đâu, quân sĩ Cao Ly có thiện chiến
đến đâu thì lực lượng phòng thủ đó cũng chỉ là
một lực lượng với quân số nhỏ của một sơn thành
heo hút không thể nào tiêu diệt nổi đại quân Mông Cổ
đông đến trên mười vạn. Cho nên lực lượng này chỉ
chú tâm vào việc bảo vệ thành Ủng Tân mà thôi.
Nghĩ
như vậy, nên tướng giặc Mông Cổ bèn chuyển sang dùng
mẹo để chiếm lấy thành Ủng Tân.
Vào
một ngày cuối tháng chín, có một tướng Mông Cổ cưỡi
ngựa tiến đến dưới chân thành Ủng Tân.
Đúng
vào lúc đó, Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn đứng trên
thành lầu nhìn kỹ xuống bên dưới thấy người cưỡi
ngựa đến một mình rõ ràng ăn mặc quần áo cấp tướng.
Tướng địch đến bên ngoài thành giương một lá cờ đỏ
lên làm tín hiệu.
"Tên
tướng địch này không phải định đánh nhau mà là có
điều gì đó muốn thương nghị, nên xin chúng ta cho hắn
vào trong thành." Hoàng thúc nghĩ vậy và nói:
-
Bọn này chắc đang bày ra mưu kế gì đây. Thế nhưng
thấy một tên tướng giặc tìm đến mà lại sợ không
dám tiếp nó thì còn làm được việc gì lớn…
-
Vâng, đúng thế ạ. Dù sao ta cũng nên gặp tên này để
xem chúng định giở trò gì…
Tiêu
Vĩnh Vạn ra lệnh cho một người lính chạy xuống chân
thành mở cửa thành ra.
Cửa
thành đóng chặt. Khi mở ra kêu ken két. Tướng Mông Cổ
bước vào trong thành.
Cửa
thành đóng chặt lại cũng kêu ken két.
Tướng
địch trao cho Tiêu Vĩnh Vạn bức thư của tướng Đường
Cô do y mang đến.
Tiêu
Vĩnh Vạn sai một binh sĩ đưa viên tướng Mông Cổ vào
ngồi chờ ở chỗ có lính gác, xong cùng với Hoàng thúc
mở xem bức thư. Nội dung bức thư viết đại để hai
bên đừng đánh nhau nữa; nếu tướng lĩnh của hai bên
gặp nhau bàn bạc, đi đến hòa thân với nhau thì quân
Mông Cổ sẽ tự rút lui. Ngoài ra trong thư còn nói sẽ
biếu Hoa Sơn quân nhiều vàng bạc châu báu.
Hoàng
thúc, Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử bàn bạc với nhau,
cuối cùng thống nhất ý kiến cho rằng trước hết cần
đàm phán với địch để biết mưu đồ của chúng. Ngày
hôm sau, phía quân Cao Ly quyết định đàm phán với sứ
giả của địch và để cho tên tướng địch ra về.
Hoàng
thúc cho rằng nội dung bức thư của quân địch là một
mưu kế nên chỉ thị cho Lý công tử:
-
Binh pháp có dạy rằng người cầm quân nếu tối mắt
trước vàng bạc châu báu thì không thể dũng mãnh được.
Bọn giặc kia không hề có lý gì mang vàng bạc châu báu
cho không chúng ta. Cho nên chúng nói như vậy là một thủ
đoạn để ướm thử lòng chúng ta. Việc chúng nói gặp
tôi cũng là điều không hợp với lẽ thường. Còn một
điều chúng ta cần nghĩ sâu là, theo binh pháp thì Chính
và Kỳ hợp lại với nhau thì chính là cái gì đó, còn
chiến thuật kỳ diệu là chiến thuật như thế nào, đó
là những điều không thể biết được. Điều đó cũng
giống như một chiếc nhẫn vàng, có hình tròn nhưng không
biết đâu là chỗ bắt đầu và đâu là chỗ kết thúc.
Bởi vậy, dù biết là mưu gian của giặc, nhưng nếu
chúng muốn đàm phán với ta ắt là có điều quanh co là
gì đây nên chúng mới làm thế. Do vậy, Lý công tử phải
cùng với Tiêu đại nhân ở trên thành lầu theo dõi chặt
động thái của bọn chúng để xử lý cho tốt. Còn tôi
sẽ ở trong bản doanh này. Biết vậy để hết sức đề
phòng.
Sau
khi để cho tên tướng giặc đến liên lạc về rồi, bộ
chỉ huy quân Cao Ly liền bắt tay vào chuẩn bị cuộc gặp
gỡ và đàm phán với sứ thần của địch.
Nhận
lệnh của Hoàng thúc xong, Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn
cùng trở về thành cửa đông.
Khí
thế của các binh sĩ trong thành hôm nay càng đặc biệt
lên cao; cờ xí rợp trời, trông uy nghiêm lẫm liệt…
ánh mặt trời hắt những tia nắng vàng rộm lên đầu
hồi phía Đông của thành lầu.
Lý
công tử và Tiêu Vĩnh Vạn lấy tay che ánh nắng chiếu
vào mặt, đưa mắt dõi nhìn về phía xa xa, dáng như đang
chờ sứ thần của phía trận địa địch tiến đến.
Tiêu
Vĩnh Vạn chớp chớp cặp mắt đen nhìn ra xa, bỗng chau
nói:
-
Lý công tử này, bọn kỵ binh đang chạy đến kia có lẽ
sẽ tiến đến thành chúng ta đấy. Hôm nay chắc thế nào
cũng có chuyện gì xảy ra.
Lý
công tử lúc này mới nhìn ra xa, lấy tay làm hiệu và
nói:
-
A không, bọn sứ thần đấy. Sứ thần gì mà đông quá.
Có lẽ đến hơn nghìn tên.
Trong
khi hai người đang nói chuyện với nhau thì quân Mông Cổ
đã đến dưới thành lầu.
Quân
địch đã đến bên ngoài cửa quân môn dưới chân thành,
có tất cả hơn một nghìn kỵ binh. Chúng chở trên các
cỗ xe ngựa những chiếc hòm to bọc lụa. Đằng sau mỗi
chiếc xe ngựa có hơn mười binh sĩ cầm vũ khí hộ tống.
Có đến năm chiếc hòm to như vậy. Cái gọi là đoàn sứ
giả quân Mông Cổ đến ngoài quân môn thì dừng lại. Sứ
thần dẫn dầu đoàn liên hệ với người canh cửa.
Lý
công tử và Tiêu Vĩnh Vạn đứng trên thành lầu nhìn
xuống thấy quang cảnh như vậy bèn bước xuống.
Tiêu
Vĩnh Vạn nói thạo tiếng Mông Cổ, có vẻ như đã có
mưu kế gì trong đầu.
-
Các vị từ xa đến đây vất vả quá. Tôi được Hoa sơn
quân cử ra đây để đón quý vị, và đang chờ quý vị
ở đây.
Tiêu
Vĩnh Vạn nói chuyện bằng tiếng Mông Cổ, khiến sứ
thần của quân Mông Cổ có vẻ lúng túng khó mở miệng.
Sứ thần nhìn vào bên trong cửa thành một chốc rồi nói
lớn.
-
Cảm ơn. Tất cả chúng tôi là những sứ thần được
nguyên soái Đường Cô cử đến đây. Xin ông cho vào
thành để được gặp ngay Hoa sơn quân.
Nhìn
tướng mạo của hắn, Tiêu Vĩnh Vạn có vẻ sửng sốt,
hỏi lại:
-
Sứ thần sao lại nhiều thế.
Sứ
giả Mông Cổ có lẽ chưa tìm được câu trả lời thỏa
đáng. Hắn ngập ngừng một chút rồi nói:
-
Ông hãy nhìn lại cả đoàn chúng tôi. Người đến đông
như thế này là có lý do của nó.
Nói
đoạn, hắn lấy tay chỉ về phía những chiếc hòm lớn
ở đằng sau, rồi tiếp tục giãi bày thêm:
-
Vì mang những chiếc hòm lớn đựng vàng bạc châu báu
quý giá nên cần có nhiều người đi theo, mặt khác còn
sợ bị cướp, nên trên đường đi cũng phải nghiêm mặt.
Tiêu
Vĩnh Vạn nhìn kỹ thấy hơn một nghìn quân Mông Cổ đều
mang theo gươm giáo, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu,
sát khí đằng đằng. Người nóng ran lên, anh nói:
-
Chúng tôi hiểu ý các ông. Nhưng chúng tôi không thể để
nhiều kỵ binh như thế này vào trong thành. Trước hết
các ông hãy cho lui đoàn kỵ binh và những chiếc hòm đựng
châu báu kia ra xa một nghìn bước, và sau đó chỉ một
mình ông vào gặp đại giám Hoa sơn quân chúng tôi.
-
Sao ông lại ăn nói vô lễ như vậy. Làm gì lại có kiểu
lễ nghi bắt những người đến với tư cách sứ thần
phải đứng bên ngoài cổng thành không được vào! Nếu
vậy thì Hoa sơn quân phải ra ngoài cổng thành đón tiếp
chúng tôi mới là hợp đạo lý thông thường trong thiên
hạ.
Nghe
những lời thô lỗ của tên sứ thần phía địch, Tiêu
Vĩnh Vạn uất quá bàn to tiếng mắng lại hắn:
-
Nếu ông đến với tư cách sứ thần, thì ông phải có
lời lẽ và hành động thận trọng để xin gặp Hoa sơn
quân thực hiện sứ mạng của ông. Nếu các ông biết
trọng phép lớn trong thiên hạ thì các ông đừng có xâm
phạm nước chúng tôi trái với lẽ trời, phi đạo lý
như thế. Trước hết các ông phải rút về nước và cử
sứ giả sang đây, đến lúc ấy chúng tôi sẽ tiếp đãi
sứ thần các ông theo phép tắc lễ nghi trong thiên hạ.
Trước
thái độ cứng rắn đó của Tiêu Vĩnh Vạn, sứ thần
của quân địch buộc phải thay đổi thái đọ và nói
tương đối dịu giọng:
-
À, tôi biết nước các ông nổi tiếng trong thiên hạ là
một nước coi trọng lễ nghi. Khi trao đổi sứ thần với
nước Tống chẳng phải các ông đã cử những một nghìn
tùy tùng đi theo là gì. Nước Đại Mông Cổ chúng tôi
còn mạnh hơn cả nước Tống, thế thì chúng tôi mang
theo hơn một nghìn tùy tùng có gì là nhiều. Nếu quý ông
cứ một mực khăng khăng không chịu thì đoàn tùy tùng
kỵ binh không vào cũng được, nhưng vì đây là những lễ
vật mang đến để biếu Hoa sơn quân cho nên năm chiếc
hòm và số người mang vác cần thiết, quý ông nên để
cho họ vào thành.
Trước
lời thỉnh cầu của sứ thần bên địch, Tiêu Vĩnh Vạn
trả lời không chần chừ:
-
Được.
Sứ
thần bèn cho đoàn kỵ binh lùi về phía sau hơn một nghìn
bước, chỉ để lại năm chiếc hòm to.
Mỗi
chiếc hòm chở trên một chiếc xe ngựa lớn đầy khít
nên phải dùng năm cỗ xe để chở năm chiếc hòm. Trên
mỗi hòm đều phủ lụa đỏ trông rất sang trọng hào
nhoáng. Sau khi buộc đoàn kỵ binh hơn một nghìn tên của
quân Mông Cổ lùi xa, phía quân Cao Ly đã mở cửa thành
đón sứ thần quân Mông Cổ vào.
Sứ
thần Mông Cổ liếc nhìn, thấy các cột gỗ làm hàng rào
chắn trước cổng thành rất kiên cố, thành đắp bằng
đất rất vững chắc, ý chừng bản thân y cũng đã thấy
không một đội quân nào có thể phá vỡ nổi.
Nhưng
đâu phải chỉ có thế. Bước chân vào bên trong thành,
hắn còn thấy quân sĩ Cao Ly sắp thành hàng trật tự
trang nghiêm, binh lính người nào người lấy trông rất
hiên ngang hùng dũng.
Tướng
giặc thấy thế không khỏi không cảm phục.
-
Thành trì kiên cố lại thêm quân đội dũng mãnh vô song
như thế kia, thì việc đại quân Mông Cổ ta công phá mấy
tháng nay mà vẫn không hạ nổi là chuyện không có gì
lạ.
Y
thở dài và theo sự hướng dẫn của Tiêu Vĩnh Vạn đi
đến ngoài cửa thổ thành Việt Nam.
Sau
khi bảo sứ thần chờ trước hàng rào gỗ chắn ở quân
môn, Tiêu Vĩnh Vạn bước vào bản doanh cùng bàn bạc với
Hoàng thúc. Hai người cho rằng trong năm chiếc hòm kếch
xù nói là đựng vàng bạc châu báu kia chắc chắn là có
chất chứa những gì gian ác, nên hãy đưa chúng vào để
riêng trong hang, mà chỉ gặp riêng sứ thần; đồng thời
bảo chúng trao tín thư ở trước rào gỗ chắn.
Nhưng
sứ thần của địch chẳng có tín thư gì cả. Hắn chỉ
xưng tên họ của hắn là A-tan Ma- li.
Thay
vì tín thư, hắn chỉ khăng khăng đòi đàm phán trực
tiếp với Hoa sơn quân, và mang các hòm bảo vật mà hắn
nói là đựng vàng bạc trong đó trực tiếp trao cho Hoa
sơn quân.
Nghe
vậy, Hoa sơn quân càng thấy khó hiểu, bèn chỉ thị cho
Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử:
-
Tướng giặc A-tan Ma-li cứ cố chấp đòi gặp tôi để
tiến dâng những chiếc hòm nói là có đựng vàng, bạc.
Như vậy, không chừng trong đó, có người hoặc có những
con vật hung dữ gì đó cũng nên. Tôi cho rằng: nếu trong
những hòm kia có đựng những con vật hung dữ như cọp
hoặc rắn độc, thì khi mở hòm hắn sẽ không đứng chỗ
đó mà sẽ tránh đi. Còn nếu trong hòm đó có những tên
thích khách mai phục thì tướng giặc sẽ yên tâm đứng
đó, không tránh đi nơi khác. Vì vậy cần hết sức chú
ý điều đó để xử trí cho tốt.
Tiêu
Vĩnh Vạn nghe Hoàng thúc phán đoán như vậy, bèn nghĩ ra
một kế:
-
Thưa Hoàng thúc, tôi nghĩ rằng sự phán đoán của Hoàng
thúc là đúng. Vậy trước hết, Hoàng thúc hãy trực tiếp
đàm phán với tướng địch và nói với hắn rằng sau đó
sẽ mở các nắp hòm mà hắn mang đến tiến lễ. Trong
khi đó, ta đưa các hòm vào trong hầm. Sau khi tìm hiểu
được những thứ chứa trong đó, Hoàng thúc mới ra cùng
với tướng địch chứng kiến việc mở nắp.
Hoàng
thúc đồng ý với ý kiến đó của Tiêu Vĩnh Vạn. Anh
bước ra gặp A-tan Ma-li đang chờ trước cửa thổ thành.
-
Theo ý kiến của ông, tôi đã thưa lại với Hoàng thúc,
chúng tôi đồng ý sẽ làm theo như vậy. Xin mời ông vào
trong thành.
Nghe
nói vậy tướng địch A-tan Ma-li thay đổi nét mặt, gật
đầu tỏ vẻ hài lòng:
-
Hoa sơn quân là người nhân từ, rất tốt. Nếu được
như thế, hai nước Mông Cổ và Cao Ly chúng ta có thể hòa
thân với nhau.
Một
lát sau, theo sự hướng dẫn của Tiêu Vĩnh Vạn, cửa
thành được mở ra, A-tan Ma-li bước vào thành cùng với
năm chiếc hòm châu báu.
Tướng
giặc A-tan Ma-li nhìn một lượt trong thành, tặc lưỡi:
-
Thành Ủng Tân quả là thành bất khả xâm phạm. Tôi đã
đi khắp thiên hạ, nhưng không đâu thấy trong thành rồi
lại còn có thành, xây cất công phu như thế này.
Trong
lúc hắn lẩm bẩm một mình như vậy thì cả đoàn của
hắn đã đến bên ngoài đại bản doanh. Tiêu Vĩnh Vạn
quay về phía A-tan Ma-li nói một cách trịnh trọng:
-
Tướng quân đi đường xa đến đây, người chắc là mệt
nhọc. Vậy xin ông hãy chờ cho một lát trong đại bản
doanh. Còn các hòm này thì sẽ đưa vào để tạm trong hầm
chứa bảo vật kia, đợi để Hoa sơn quân ra mở nắp.
Nghe
nói vậy, A-tan Ma-li không nghi ngờ gì. Y bước vào bên
trong đại bản doanh theo sự hướng dẫn của Tiêu Vĩnh
Vạn.
Lý
công tử nhân lúc này đem rượu và thức nhắm ra cho bọn
lính Mông Cổ đi theo áp tải năm chiếc hòm ăn uống, một
mặt sai lính của mình ra đưa năm chiếc hòm vào để
trong kho bên cạnh. Kho này vốn là một cái hầm, được
sửa sang lại sạch sẽ giống như một kho chứa những đồ
bảo vật châu báu.
Sau
khi đưa các hòm chất vào trong kho, Lý công tử bèn lấy
một chiếc dùi thật sắc chọc thủng lớp gỗ, tạo nên
một cái lỗ và và ghé mắt nhìn vào bên trong thấy có
năm tên lính cầm dao tuốt trần đang ém mình trong đó.
Có tất cả năm hòm lớn như vậy, vị chi có hai mươi
lăm tên thích khách đang núp sẵn ở trong.
Lý
công tử cứ cách một đoạn lại khoét một lỗ và đổ
nước sôi vào các lỗ đó.
Thế
là những tên thích khách ở bên trong hòm đều chết sạch
không kêu nổi một tiếng.
A-tan
Ma-li không hay biết gì chuyện này, nên đã đồng ý theo
sự sắp xếp của Tiêu Vĩnh Vạn là sau khi đàm phán với
Hoa sơn quân ở trước nhà kho nơi để các hòm lớn mà
chúng nói là đựng vàng trong đó, mọi người sẽ ra mở
hòm.
Hoa
sơn quân chờ sẵn ở đại bản doanh trước nhà kho, được
sự giới thiệu của Tiêu Vĩnh Vạn đã gặp A-tan Ma-li,
sứ thần của quân Mông Cổ.
-
Tôi là Hoa sơn quân Lý Long Tường.
Hoàng
thúc mỉm cười, ngỏ lời chào sứ thần quân địch.
A-tan Ma-li cũng cúi người chào lại.
-
Xin chào ngài. Tôi là A-tan Ma-li của quân Mông Cổ. Danh
tính cao cả của quý ngài chúng tôi đã được nghe và
biết rõ.
Hai
ánh mắt của Hoàng thúc và A-tan Ma-li bắt gặp nhau. Trong
ánh mắt của Hoàng thúc đượm nụ cười nhân hậu, như
gặp lại nơi đất khách một người bạn chứ không phải
đang đối diện với một tướng giặc… Nhưng trong hai
con mắt của A-tan Ma-li thì sát khí như bốc lửa.
Có
lẽ vẻ sát khí của tướng giặc đã bị bẻ gãy trước
thái độ nhân từ của Hoàng thúc, nên y cứ cúi đầu,
hai mắt nhìn dán xuống đất.
Hoàng
thúc nhìn bộ dạng của y bèn nói:
-
Tướng Đường Cô của quý quốc cử tướng A-tan đến
xin hòa thân, chúng tôi cảm ơn; lại còn gửi biếu năm
hòm lớn vàng bạc châu báu, chúng tôi cảm ơn.
Lời
nói của Hoàng thúc vô tình như có xương đâm vào ngực
tên tướng giặc. Nhưng tướng địch vẫn im lặng.
Hoàng
thúc đưa mắt nhìn vào kho châu báu nói tiếp.
-
Tướng quân A-tan đã có công khó nhọc mang đến những
hòm vàng như thế này. Nào chúng ta hãy vào kho để nhận
lĩnh trước sự chứng kiến của tướng quân.
Lúc
này A-tan mỉm cười, đã nhanh nhảu đến ngay trước từng
hòm. Y dùng con dao cài trong thắt lưng gõ gõ vào hòm mấy
tiếng. Đó là tín hiệu báo cho bọn bên trong biết sắp
mở hòm, hãy chuẩn bị nhảy ra hành thích. Lúc ấy Hoàng
thúc đứng sau lưng tướng địch, nói lời xã giao:
-
Tướng Đường Cô đã mấy tháng nay một mực đòi chúng
tôi phải trao nộp thành nhỏ này, chúng tôi chưa kịp mở
cửa thành để đón tiếp thì nay lại gửi cho nhiều vàng
bạc châu báu; chúng tôi nhận thế này thật cảm thấy
áy náy quá.
-
Dạ… không có gì.
Tướng
địch có vẻ bối rối…
Tiêu
Vĩnh Vạn cầm cây thương dài đứng giữa Hoàng thúc và
tên tướng địch, theo dõi động thái của y. Lý công tử
với thái độ thận trọng bước đến trước hòm lễ
vật và mở nắp.
-
Trời đất… không phải vàng mà là xác chết!
Hoàng
thúc và Tiêu Vĩnh Vạn cùng mọi người đi theo nhìn thẳng
vào mặt A-tan Ma-li
-
Cái gì? Xác chết à?
Tướng
địch bối rối đưa mắt nhìn vào trong hòm, thấy tất
cả năm tên lính được chọn làm thích khách nằm ém
mình trong đó đều chết sạch, mặt bợt ra, quần áo ướt
sũng. Một cảnh tượng khiến cho quỷ khốc thần sầu!
Đã phải chọn những tên lính giỏi môn kiếm thuật để
có thể làm nên trò trống, nào ngờ đâu đến nông nỗi
này!
Tên
tướng địch biến sắc mặt, chạy đến hòm tiếp theo
mở nắp ra xem. Nhưng lại cũng giống như hòm trước. Y
mở đến hòm cuối cùng. Trong hòm này bốn tên đã chết,
chỉ còn một tên còn sống nhưng bị thương đang ngắc
ngoải. Tuy vậy, sau khi nhận ra cấp trên của mình, hắn
van xin với giọng rên rỉ.
-
Thưa tướng quân, mong tướng quân tha chết cho con một
lần này. Nước sôi dội vào chết hết cả, chỉ một
mình con còn thoi thóp thế này…
Tiếng
kêu ai oán của người lính trong hòm bay đến tai những
người đang chứng kiến mọi sự việc diễn ra. Tướng
địch tái mặt. Hắn muốn giết chết người lính để
bịt mồm, bèn rút chiếc dao găm chạy tới.
-
Thằng khốn kiếp, đứa nào đã bày ra cái trò vô lễ
này?
Trong
nháy mắt, khi lưỡi dao sắc nhọn của dao găm trong tay
A-tan Ma-li sắp sửa cắm vào cổ người lính thì Tiêu
Vĩnh Vạn nhanh như cắt dùng bàn tay hộ pháp của mình
nắm chặt lấy tay của A-tan Ma-li lại.
-
Này, người lính kia có tội tình gì. Lâm vào cảnh như
thế này mà còn sống sót được là người có thiên mệnh
đấy.
Cánh
tay của viên tướng địch không còn sức nữa, chiếc dao
găm bị buông ra rơi xuống đất kêu đánh "keng"
một tiếng khô khốc.
Hoàng
thúc đứng phía sau nhìn thấy cảnh tượng đó, bèn đến
cạnh tướng địch nhẹ nhàng nói:
-
Mong tướng quân đừng quá buồn. Người ta hay nói thất
bại là chuyện thường tình đối với người cầm quân.
Việc đã như thế này rồi coi như chuyện đã qua, mong
rằng hai nước sẽ hòa thân với nhau.
Tướng
địch A-tan Ma-li tưởng mạng sống của mình chỉ còn
trong khoảnh khắc, giờ đây nghe những lời nói nhân từ
đó của Hoàng thúc, lòng không khỏi cảm thấy ngỡ
ngàng. Y ngước đầu lên nói:
-
Xin cảm ơn quý ngài đã tha cho tội chết. Nếu được
quý ngài thả cho về, tôi sẽ thưa lên tướng Đường Cô
xin rút quân ngay.
Trước
mặt tên tướng địch đang van xin tha cho mạng sống,
Hoàng thúc nói như an ủi:
-
Là quân Mông Cổ, các ngài định tìm cách hại tôi cũng
là lẽ đương nhiên. Tôi tha cho tướng quân, cũng không
có gì phải cảm ơn. Nếu tướng quân trở về, thuyết
phục được việc rút quân như tướng quân đã nói, ấy
là việc đáng khen… Còn người lính kia, có lẽ vết
thương không quá nặng, hãy cho chữa lành vết thương rồi
dẫn anh ta về.
Nhưng
viên tướng địch vẫn cúi gầm mặt xuống đất, im lặng
không nói một lời.
Hoàng
thúc quay sang nói với Lý công tử:
-
Lý Công tử hãy chữa chạy nhanh vết thương cho người
lính này chuẩn bị để trả anh ta trở về phía bên kia.
Chỉ
thị xong, Hoàng thúc bàn lấy tay vỗ lên lưng tướng địch
và nói nhỏ:
-
Tướng quân hãy yên tâm mà về. Nếu có duyên nợ với
nhau, biết đâu ngày sau chẳng gặp lại.
Tướng
địch Atan cảm kích trước thái độ rộng lượng đến
như vậy của Hoàng thúc, bèn cúi đầu đáp lại:
-
Tôi là người đáng tội chết mà Hoa sơn quân quý ngài
còn xử sự khoan hồng tha cho về như thế này, tôi thật
đội ơn muôn vàn.
Nói
xong, y leo lên mình ngựa. Còn người lính cũng được cấp
cứu nhanh và cho lên cáng thương chở về.
Hoàng
thúc cưỡi ngựa trắng ra tận ngoài cổng thành đông môn
tiễn viên tướng địch.
Trên
bục lễ tiễn khách ngoài cổng thành, Hoàng thúc còn gửi
tặng tướng địch Đường Cô đỗ sứ, một đặc sản
của Cao Ly và nhiều vật phẩm quý hiếm khác, nhờ A-tan
Ma-li mang về và nói những lời tốt đẹp khuyên giải.
Lại
nói về phía bên kia, sau khi nhốt các thích khách vào
trong những chiếc hòm lớn rồi gửi đi trong đó, tướng
địch Đường Cô cứ phấp phỏng đứng ngồi không yên.
Giữa lúc y đang sốt ruột chờ đợi, thì được tin đoàn
sứ giả đã trở về, y vui mừng ra đón…
Sau
khi nghe hết đầu đuôi câu chuyện, y thấy kế hoạch của
y không ngờ bị thảm bại, chỉ còn có phó tướng A-tan
Ma-li và một người lính may mắn sống sót mang tử thương
trở về. Đã thế chủ tướng thành Ứng Tân là Hoa sơn
quân lại còn thản nhiên như không, gửi sang cho nhiều đồ
lễ vật quý hiếm.
Dù
là một viên tướng giặc, có lòng dại như cầm thú
chăng nữa, y vẫn còn có chút lương tâm. Y lắc đầu nói
với A-tan:
-
Chủ tướng thành Ứng Tân là con người siêu việt; một
danh tướng thần kỳ!
Atan
đang cúi đầu. Dù đầu óc đang u mê, y vẫn đáp lại
bằng một giọng trầm tĩnh.
-
Khen tướng địch trước mặt tướng quân là điều thất
lễ, song cũng phải thừa nhận rằng, tướng địch đã
thấu hiểu mưu mô của ta, cho nên kết cục, âm mưu mới
bị tan tành như vậy. Xem ra, Hoa sơn quân là một con người
cao cả, đã không đối xử với tôi bằng thái độ hằn
thù. Ông ta mong tôi hãy về nói với tướng quân nên rút
quân.
Tướng
Đường Cô nghe rồi hỏi lại với nỗi đau đớn hiện
lên trong ánh mắt.
-
Tình hình phòng thủ trong thành như thế nào?
-
Thưa tướng quân, thành có hai lớp thành ngoài và thành
trong rất kiên cố. Thành Việt Nam là thành đất được
đắp cao, lại còn dựng thêm rào gỗ chắn nữa, cực kỳ
vững chắc. Không những thế, tinh thần quân sĩ lại rất
cao. Muốn phá thành này, có lẽ phải có thêm viện binh
và phải mở cuộc đại tấn công mới được.
Nghe
vậy, tướng Đường Cô chau mày nói:
-
Ta cũng còn thể diện của ta nữa chứ. Với lực lượng
đại quân trong tay, một cái thành bé tí teo thế kia không
phá nổi, còn mặt mũi nào xin thêm viện binh. Hãy báo cáo
lên nguyên soái Saili Fai nói rõ tình hình xin cho rút quân.
Nói
như vậy có nghĩa là tướng Đường Cô đã từ bỏ ý
định mở cuộc tấn công vào thành Ứng Tân. Tướng
A-tan hiểu được ý định của chủ tướng bèn nói:
-
Nếu ý định của chủ tướng như vậy, tôi xin sẵn sàng
đi gặp nguyên soái Sali Fai hiện đang đóng quân trước
thành Khai Kinh. Xin chủ tướng ra lệnh.
Tướng
Đường Cô cảm nhận tấm lòng chung thủy và sự trung
thành của viên phó tướng của mình, bèn nói:
-
Chả nhẽ bây giờ tôi lại cử đi một lần nữa một vị
tướng mới từ cõi chết trở về, người vẫn còn chưa
hoàn hồn.
A-tan
rất hiểu tấm lòng đó của tướng Đường Cô. Nhưng
nếu bây giờ mà cử một người khác đi, đến ăn nói
không ra đầu ra đũa, nguyên soái Sali Fai nghe không lọt
tai, lại ra lệnh tổng công kích thành Ứng Tân trở lại
thì chỉ tổ đẩy binh sĩ vào chỗ chết vô ích. Không
những thế, lại còn mang tiếng là một kẻ trượng phu
mà bội ước với Hoa sơn quân. Nghĩ thế nên tướng Atan
cho rằng mọi việc phải do tự bản thân mình tháo gỡ
mới là thượng sách. Sau khi được chủ tướng Đường
Cô cho phép, tướng Alan bèn lên đường ngay để đi gặp
nguyên soái Sali Fai đang đóng quân ở ngòai thành Khai
Kinh.
CHƯƠNG
20: THAN KHÓC NHỚ QUÊ
Thời gian
qua, triều đình Cao Ly sau khi xem xét những điều kiện
nghị hòa do Sali Fai, tổng chỉ huy quân Mông Cổ đang đóng
đại bản doanh ở vùng Khai Kính đưa ra, đã chủ trương
tránh xung đột trực tiếp với địch. Tân dương hầu
Thôi Di, người nắm giữ quyền bính là một nhân vật
vốn dĩ có ác cảm với Mông Cổ cho nên không thể có
nghị hòa chân thành. Nhưng vì thực lực của Cao Ly lúc
bấy giờ không thể ngăn nổi bước tiến xâm lược của
đại quân Mông Cổ hùng mạnh, nên không còn con đường
nào khác ngoài việc lợi dụng nghị hòa do phái địch
đưa ra để thoát khỏi cơn hiểm nghèo trước mắt. Do
vậy, phía Cao Ly đã phải thỏa hiệp hết bước này đến
bước khác, cuối cùng quyết định chấp nhận một phần
các điều kiện do chúng nêu ra, cống nạp cho chúng vàng
bạc, da lông thú quý v.v… và đến tháng giêng năm sau
thì quân Mông Cổ bắt đầu rút. Tiếp đó, quân Mông Cổ
đóng ở ngoài thành Ứng Tân cũng cùng rút theo.
Tuy
nhiên do không thể chấp nhận toàn bộ những đòi hỏi
vô lý của quân Mông Cổ, nên những bất đồng giữa hai
nước vẫn cứ luôn luôn âm ỷ. Trong dân gian còn loan
truyền lời đồi đại quân Mông Cổ sắp sang xâm lược
lần nữa, làm cho lòng người chồng chất bao nỗi lo
lắng, không yên. Lúc bấy giờ, Thôi Di chấp nhận ý kiến
của phái cứng rắn trong triều đình đối với Mông Cổ,
và tháng sáu năm Cao Tông thứ 19 đã dời đô ra đảo
Giang Hoa.
Quân
Mông Cổ xem việc dời đô của triều đình Cao Ly như một
dấu hiệu cho thấy họ sẽ không thực hiện điều kiện
giảng hòa với Mông Cổ, nên đã trao quyền cho tướng
Sali Fai đưa đại quân sang đánh Cao Ly một lần nữa.
Nhưng tháng mười năm đó, Sali Fai đã bị tử trận trong
một trận chiến đấu tấn công vào thành Thiên Nhân ở
Long Nhân, nên đại quân Mông Cổ lại rút về nước.
Sau
đó đến năm Cao Tông thứ 20, quân Mông Cổ lại sang bình
định nước Đông Trân ở phía bắc Cao Ly, năm sau đó
tiêu diệt nước Kim, nên trên thực tế đã bình định
hết cả phần đất bắc Tống mà nhà Đường đã chiếm
trước đây.
Không
những thế, thế lực của Mông Cổ đang dần vươn bàn
tay xâm lược ra đến tận nước Tống, và ngày càng lớn
mạnh khôn gì ngăn cản nổi.
Thời
gian đó, Mông Cổ cử sứ thần là Cho Kha sang Cao Ly thương
lượng nhưng triều đình Cao Ly đã dời đô ra đảo Giang
Hoa, và do chính sách của phái Thôi Di chủ trương đối
xử lạnh nhạt với Mông Cổ nên sứ thần Mông Cổ không
đạt được ý định bỏ về. Trong vòng bốn năm từ năm
thứ 22 đến năm thứ 24 đời vua Cao Tông, Mông Cổ đã
nhiều lần sang xâm lược nhưng do nội tình trong nước
nên đã tự rút lui.
Lại
nói về thành Ủng Tân, dân chúng trong thành bị quân Mông
Cổ xâm lược bao vây, khi được tin chúng rút về, đã
reo hò mừng vui, mở toang bốn cửa thành đông, tây, nam,
bắc. Dân tỵ nạn lũ lượt đi về, quang cảnh rất nhộn
nhịp. Hoàng thúc đích thân cưỡi ngựa trắng đi xem xét
các nơi trong và ngòai thành, vừa thăm hỏi những người
dân tị nạn vừa cho người sửa giúp những nhà dân bị
cháy đổ, ra sức gắng công khôi phục lại xứ sở sau
chiến tranh.
Dân
cư vùng Ủng Tân vốn chỉ khoảng hơn một nghìn hộ,
nhưng thời gian qua, do Hoàng thúc hậu đãi hết lòng những
người dân tỵ nạn, nêu sau khi quân Mông Cổ rút về
rồi, họ vẫn không quên ơn đức của Hoa sơn quân. Số
người tự nguyện xin ở lại thành Ủng Tân ngày càng
tăng, trong vòng ba mươi năm đã lên đến hơn hai nghìn
hộ.
Mọi
sự trên đời không phải đứng im một chỗ mà luôn luôn
thay đổi. Hàng ngàn vạn sự việc xảy ra xung quanh Hoa
sơn quân cũng thay hình đổi dạng không ngừng.
Tiêu
Vĩnh Vạn thoắt đến trước đây như một cơn gió, nhưng
chiến tranh vừa kết thúc, cũng lại thoắt cái ra đi
chẳng khác gì một cơn gió. Hình ảnh của anh đã lùi về
một dĩ vãng xa xôi. Còn công tử Lý Quân Tất mấy năm
trước đây được thăng lên chức tướng soát thủy quân
dưới quyền của thượng tướng quân Kim Lý Sinh, chỉ
huy sứ Đông nam đạo thuộc khu vực tỉnh Trung Thanh, đảm
đương công việc phòng thủ vùng biển tây, nên cũng đã
rời khỏi Ủng Tân. Cả đất nước biến động loạn
lạc, may sao chỉ có thành Ủng Tân vẫn còn được thanh
bình. Hoa sơn quân chỉ còn biết chú tâm vào việc chăm
sóc đời sống của người dân trong thành, và coi đó là
niềm vui lớn nhất.
Bởi
vậy, ngay từ đứa trẻ thơ cũng biết đến Hoa sơn quân.
Mỗi khi Hoa sơn quân cưỡi ngựa trắng xuất hiện trên
đường phố, tất cả già trẻ gái trai đều đi theo bạch
mã tướng quân. Họ trầm trồ nói với nhau:
"Bạch
mã tướng quân đang đi kìa".
"Tướng
quân anh minh đang đến kìa."
Nhưng
cuộc đời mang nặng quá khứ đau thương của Hoa sơn
quân trong hai mươi năm qua, toàn bộ đâu có phải chỉ
như vậy. Có lẽ phần lớn chỉ có đau buồn. Gần đây
nếu không nhận biết tấm lòng của người dân trong
thành đối với Hoàng thúc, có lẽ đôi khi có thể nhìn
thấy hình ảnh của Hoàng thúc không còn có vẻ là Hoàng
thúc nữa.
Năm
tháng trôi đi, mọi vật trên đời đều sinh thành biến
đổi theo quy luật của chúng, chỉ duy có tấm lòng thương
nhớ quê hương cố quốc đang ấp ủ trong trái tim của
Hoàng thúc là không sao có thể lắng dịu nguôi quên…
Hoàng
thúc không quên được cố quốc, lại trèo lên núi Hoa
Sơn, nhìn lên trời ôm mặt khóc nức nở. Trong cảnh nhàn
hạ, Hoàng thúc vẫn canh cánh trong lòng niềm mong nhớ về
quê hương vô vọng mịt mùng.
Cùng
với không gian biến đổi, những người anh hùng rồi
cũng phải tuân theo quy luật và sự thuần hóa của thiên
nhiên. Giữa Hoàng thúc và Trịnh Anh Cơ chỉ có hai người
con trai, người con trưởng là Cán năm nay hai mươi bảy
tuổi, người con thứ là Nhất Thanh hai mươi bốn tuổi.
Cả hai anh em đều rất thông minh, tài trí, đã đỗ đạt
ra làm quan và được điều động đến đảo Giang Hoa.
Như
vậy, Hoàng thúc không tránh khỏi cảnh cô độc. Về già,
không có con bên cạnh là một trong ba nỗi cô đơn.
Ngày
đầu mới đến nước Cao Ly, Hoàng thúc là một chàng
thanh niên mới hơn ba mươi tuổi, nay đã là ông già tóc
bạc quá sáu mươi.
Năm
tháng trôi đi, thời thanh xuân mới ngày nào đây nay đã
là chuyện dĩ vãng xa xôi. Mới đây mà đã ba mươi năm
trôi qua như một giấc mơ.
Trong
thời gian ấy, quân Mông Cổ đã nhiều lần trong nhiều
năm sang xâm lược. Nhưng may mắn chúng không xâm phạm
vào thành Ủng Tân.
Cùng
lúc ấy, triều đình Cao Ly cũng xảy ra nhiều chuyện. Tấn
dương hầu Thôi Di đã qua đời, người thừa kế không
có. Nhưng có một người con trai tên là Khang do kỹ nữ
Đoan Diên Phòng sinh ra, được xem là con thứ thất mang
huyết thống họ Thôi lên kế nghiệp triều chính.
Trong
trào lưu thời bấy giờ, để lo liệu cuộc sống, Hoàng
thúc cũng không thể không để tâm đến nhiều sự việc
có liên quan.
Bản
thân vốn là dòng dõi chính thống của vương triều Lý,
đế chế Đại Việt, nhưng vương triều Lý đã chuyển
sang vương triều Trần, do đó phải lánh nạn đến nơi
đất khách quê người sống cuộc sống cô đơn. Cứ mỗi
lần nỗi xót đau ấy bùng lên, Người lại lần hồi
từng bước mệt nhọc leo lên con đường mòn trên núi
Hoa sơn, rẽ lối qua những lùm cây, làm cho những con chim
núi giật mình. Người cũng không quên những cánh đồng
mà người đã nhiều lần đi lại trước đây. Có đôi
lúc người vào quán rượu bên dưới núi Hoa sơn uống
vài chén như muốn quên đi nỗi nhớ mong cố quốc tha
thiết đang day dứt trong lòng không sao quên được.
Trong
hơn ba mười năm qua, để xây dựng cuộc sống mới,
Hoàng thúc cũng đã từng chiến đấu, đã từng làm nên
những việc đầy ý nghĩa nhưng vẫn không quên tổ quốc
cũ của mình. Nỗi lòng ưu tư đó, vợ con của Người
đều không hay biết. Vợ con của Người chỉ biết Người
là Hoa sơn quân, một trung thần của triều đình Cao Ly
hơn là một Hoàng thúc của đế chế Đại Việt. Bản
thân Hoàng thúc cũng phải tự nhận như vậy. Hiện thực
song trùng đó có vẻ như một định mệnh không sao cưỡng
lại được.
Có
một hôm vào một ngày mùa thu năm thứu 39 đời vua Cao
Tông, Trịnh phu nhân cảm thấy những ngày vừa qua, nỗi
buồn nhớ quê hương đang sống lại trong lòng người
chồng của mình.
Ngày
hôm ấy, phu nhân thấy chồng sáng sớm dậy ăn cơm xong
định đi lên núi Hoa sơn, bèn mỉm cười nói nhỏ nhẹ:
-
Này mình ơi, gần đây mình có thì giờ thảnh thơi nên
định lên núi Hoa sơn có phải không?
Hoàng
thúc thấy vợ đã đoán biết ý định của mình, bèn lấy
tay vuốt vuốt chòm râu, lưỡng lự một chập rồi nói
lảng sang hướng khác:
-
Thành Hoa Sơn có đôi chỗ cần đắp lại…
Lúc
ăn cơm, phu nhân theo dõi thấy chồng trong suốt bữa ăn
chỉ im lặng, không nói một câu nào.
Ăn
cơm xong, Hoàng thúc đẩy bát nước lạnh sang một bên và
nói với vợ:
-
Mình ơi, mình cho tôi một bát nước cơm cháy với.
Phu
nhân mỉm cười âu yếm:
-
Mình cũng thích uống nước cơm cháy ư?
Hoàng
thúc cười theo:
-
Thích chứ… Dưa "kim chi" tôi cũng rất thích.
Phu
nhân cảm thấy vui vui trước sự yêu thích đó của
chồng, bèn nói:
-
Mình muốn thưởng thức hương vị thì phải trả giá cho
hương vị đó đấy nhé. Vì vậy hôm nay mình đừng lên
núi Hoa Sơn nữa mà nên ngồi ở gian thư trai nhà ngoài.
Hôm qua có nhiều người đến thăm rồi lại về không,
thật không phải với khách.
Trước
những lời nói ân cần đó của vợ, Hoàng thúc cũng cảm
thấy ấm lòng. Thời gian qua, cứ nhọc công leo lên núi
nhớ lại những ngày qua rồi lại buồn bã khóc lóc chẳng
có ích gì. Dĩ nhiên quá khứ cũng đáng trân trọng. Nhưng
hiện thực cũng đáng như thế. Bản thân mình sống trong
hòan cảnh hết sức éo le, nay đã là ông già đầu tóc
bạc phơ. Nghĩ đến những ngày sắp tới của các con,
nghĩ đến tương lai xa hơn, Hoàng thúc cảm thấy không
thể làm ngơ trước những lời khuyên nhủ tha thiết đó
của vợ.
-
Vâng, thôi bây giờ tôi nghe bà. Kể từ hôm nay tôi sẽ
ngồi ở gian thư trai nhà ngòai.
Vừa
lúc ấy, người hầu chạy vào, cúi rạp mình trước
thềm, thưa:
-
Bẩm quan, có khách từ kinh đô đến ạ.
-
Vậy, khách từ kinh đô đến là ai thế?
Nghe
Hoàng thúc hỏi vậy, người hầu hơi ngoẹo đầu suy nghĩ
một chốc rồi đáp:
-
Thưa, có lẽ Chu đại giám ạ…
Hoàng
thúc suy nghĩ một chốc, chừng như hiểu ra người đó là
ai, bèn nói:
-
Có phải Chu thượng thư là anh cả của thượng tướng
quân Chu Thúc đại giám, có phải không?
Lúc
này người hầu ra vẻ như đã biết rõ, bèn cười hỉ,
thưa lại:
-
Dạ, đúng đấy ạ. Chính là Chu thượng thư đại giám
đấy ạ.
-
Ra mời nhanh vị ấy vòa thư trai nhà ngoài, ta mặc áo rồi
ra ngay…
Bảo
người hầu xong, Hoàng thúc bèn ăn mặc chỉnh tề và
bước ra thư trai.
Bên
ngoài thư trai, thượng thư Bộ Lễ Chu Mạc đang ngồi đợi
ở ghế trên, vừa trông thấy Hoàng thúc đã vui vẻ chào
hỏi.
-
Đến thăm đại giám đột ngột như thế này thật không
phải quá.
-
Thưa đại giám. Đại nhân quý hóa hạ cố cho như thế
này, tôi rất lấy làm cảm kích.
-
Không có gì đâu. Hôm trước, tôi ghé lại thăm Thôi
Khang đại giám, có nói chuyện nhiều về Hoa sơn quân.
-
Xin cảm ơn. Tất cả cũng nhờ ơn đại nhân, và thượng
tướng quân đại giám là hiền đệ của đại nhân, luôn
luôn che chở cho rất nhiều.
Chu
thượng thư tỏ vẻ hài lòng trước thái độ khiêm tốn
của Hoàng thúc, bèn nói:
-
Đại giám khiêm tốn quá.
Hoàng
thúc đang sốt ruột, không biết cái ông Chu Mạc này đột
nhiên tìm đến có việc gì, bèn nói:
-
Sau khi dời đô ra đảo Giang Hoa, khoảng năm năm về
trước, tôi đã định ra đó để thăm, nhưng rồi rốt
cuộc vẫn không đi được. Thời gian qua, chắc là đã có
nhiều thay đổi lắm?
-
Vâng kể cũng có nhiều thay đổi. Nay đã khác trước
nhiều lắm. Bọn Mông Cổ quá quắt lắm…
Hoàng
thúc thấy Chu thượng thư nói có vẻ ngập ngừng như
vậy, tự nhiên nhớ lại cuộc xâm lược của quân Mông
Cổ trước đây, bèn nói:
-
Mông Cổ phải suy vong thì chúng ta mới có thể trở về
lại kinh đô cũ.
Chu
thượng thư lắc đầu, có vẻ như không tán thành câu
nói đó của Hoàng thúc:
-
Còn lâu bọn chúng nó mới suy vong. Chúng nó đang thừa
thắng tiến lên định nuốt chửng cả nước Tống. Nghe
đâu chúng đang chuẩn bị lại sang xâm lược nước ta
lần nữa.
Hoàng
thúc cũng biết chính vì việc này mà ông ta đến đây,
song nói trước điều ấy không tiện nên cứ phải tìm
cách đưa đẩy câu chuyện để thăm dò. Nay thấy quan
thượng thư nói thẳng đuột ra là quân Mông Cổ lại sắp
sang xâm lược lần nữa nên không khỏi ngạc nhiên. Hoàng
thúc im lặng, vẻ mặt trầm ngâm.
Hai
người ngồi đăm chiêu tư lự,
Sau
một chốc, quan thượng thư cúi mình nói với vẻ nghiêm
trang, gần như van lơn:
-
Trước đây Hoa sơn quân đã vì đất nước mà lập nên
công lớn, cả triều đình và thần dân đều biết rõ
điều đó. Quả thực trấn Ủng Tân này là nơi yếu địa
nối liền với đảo Giang Hoa trên vùng bờ biển phía
tây, cho nên Hoa sơn quân đại giám hãy cố gắng công cho
một lần nữa.
-
Thưa đại giám, quan thương thư dạy quá lời. Trước đây
tôi có làm được gì đâu. Tất cả là do trăm họ nơi
đây đã dũng cảm chiến đấu, quyết tâm bảo vệ thành
trì nhỏ bé này nên mới được thế.
Đương
nhiên, nếu sau này quân Mông cổ lại xâm lược lần nữa,
thì tôi cũng sẽ quyết liều thân chiến đấu để bảo
vệ bờ cõi non sông.
Nghe
Hoàng thúc giải bày quyết tâm của mình, Chu thượng thư
tỏ vẻ yên tâm:
-
Có một việc muốn xin nhờ đại giám. Thật cũng quá
thất lễ, nhưng biết nói sao…
Nghe
quan thượng thư định nói ra nhưng lại ngập ngừng như
vậy, Hoàng thúc nhìn kỹ ông ta, mỉm ười mà rằng:
-
Đại giám đã có lời muốn cần đến bản thân, vậy
chẳng hay là việc gì vậy?
Đến
lúc này, Chu thượng thư có vẻ như cũng quyết tâm, bèn
nói:
-
Chẳng là kinh thành của chúng ta nay đã đến bước này,
mọi người chẳng kể già trẻ gái trai đều lánh nạn
ra đảo Giang Hoa. Nhưng thuyền không có, làm sao vận
chuyển họ ra đảo được. Do vậy, triều đình sau khi
bàn bạc, thấy không còn cách nào nên cử tôi đến đây
mạo muội xin thương lượng với đại giám cho mượn
khoảng hai mươi chiếc thuyền của thủy quân dưới quyền
cai quản của đại giám, và chỉ sử dụng trong khoảng
mười ngày, sau đó sẽ trả lại.
Hoàng
thúc nghe Chu thượng nói vậy, bèn cười mà rằng:
-
Đất nước đang trong cơn nguy biến, nếu thấy cần thì
dù là thuyền của cá nhân tôi hay thuyền của thủy quân,
đều phải được huy động để đi làm các việc công
vụ. Một việc nhỏ như thế, thượng thư đại giám
không cần đích thân đến, mà chỉ cần cử người đến
đây báo là đủ.
Tất
nhiên trong tầu thuyền của thủy quân Ủng Tân có thuyền
của quân đội triều đình cho, cũng có thuyền do Hoa sơn
quân tự bỏ tiền tư của mình ra đóng.
-
Đại giám vui vẻ nhận lời như thế này, tôi rất lấy
làm biết ơn.
Lúc
này các người hầu đã bưng mâm rượu lên.
Hoàng
thúc nhìn một lượt mâm rượu tôi mời Chu thượng thư
lên ngồi ngôi trên và nói:
-
Khách quý không quản đường sá xa xôi đến đây, rất
tiếc vùng sơn dã hẻo lánh, thức nhắm chẳng có gì.
Chu
thượng thư tỏ vẻ ngạc nhiên, nói:
-
Ôi chao, thức ăn tuyệt vời thế này, chứng tỏ tài nấu
nướng khéo lắm, ngay ở kinh thành cũng hiếm thấy.
Theo
sự hướng dẫn của các người hầu, các cô quan kỹ
bước vào phòng.
-
Xin có lời vấn an đại giám từ kinh thành tới ạ. Tiện
nữ là quan kỹ Ngô Minh Nguyệt ạ.
-
Tiện nữ là quan kỹ Bùi Hương Lan xin có lời vấn an
quan đại giám. Quan đại giám đi đường xa đến đây
chắc là vất vả lắm ạ.
Minh
Nguyệt và Hương Lan mặc những chiếc váy dài lượt
thượt mầu hồng bằng lụa giáp sa, một vạt được cắt
chéo lên giắt vào bên dưới nách, chân đi chữ bát, bước
vào vấn an và cúi đầu chào nhanh nhảu. Hoàng thúc nhìn
các cô quan kỹ, thấp giọng bào:
-
Các cô nhớ tiếp đãi chu đáo Chu thượng thư đại giám
ở kinh đô về nhá!
Minh
Nguyệt cầm lấy chén rượu lên mời quan thượng thư:
-
Thưa quan lớn, xin mời quan lớn dùng rượu ạ.
Chu
thượng tư cầm chén rượu lên uống hết, rồi đưa chén
sang mời Hoàng thúc.
-
Lâu ngày mới gặp nhau, xin mời đại giám một chén rượu.
Nói
đoạn, Chu thượng thư đưa chén rượu sang. Lúc này,
Hoàng thúc cũng đã uống hết chén rượu và đưa sang
phía Chu thượng thư:
-
Tôi định mời trước đại giám một chén… Vậy ta hãy
cùng trao đổi chén cho nhau. Ha, ha, ha…
Hương
Lan ngồi bên cạnh Hoàng thúc, nhanh rót rượu vào chén
của Chu thượng thư.
-
Xin mời đại giám dùng rượu ạ.
Hai
người trao đổi chén qua lại, uống với nhau được một
chốc đã ngà ngà. Chu thượng thư như nghĩ ra điều gì,
đột nhiên hỏi Hoàng thúc:
-
Tôi có việc muốn xin hỏi Hoa sơn quân đại giám. Chả
là nghe nói ở trấn này có một cô quan kỹ tên là Thu
Nguyệt có phải không?
Nghe
nói Thu Nguyệt, Hoàng thúc chưa trả lời, quan kỹ Minh
Nguyệt ngồi bên cạnh đã nói trước:
-
Quan kỹ Thu Nguyệt là một kỹ nữ danh tiếng đã lập
được công đầu trong việc phòng vệ thành Ủng Tân đấy
ạ.
Hoàng
thúc cười, gật gật đầu nói:
-
Chu đại giám biết chuyện ấy rồi. Cô ấy đã có công
lớn trong cuộc chiến đấu ở Ủng Tân. Cho nên việc ấy
đã được tâu lên với triều đình.
Đến
lúc này Chu thượng thư tỏ vẻ có biết đầu đuôi câu
chuyện, bèn nói:
-
Thời gian qua, triều đình bận nhiều việc như dời đô
cùng các việc khác nữa nên chưa kịp xét. Nhưng không
bao lâu nữa, triều đình sẽ có khen thưởng.
Nghe
nói vậy không những Hoàng thúc mà cả các cô quan kỹ
cũng đều vỗ tay biểu lộ sự vui mừng.
Minh
Nguyệt lại mời Chu thượng thư một chén rượu.
-
Xin đa tạ Chu thượng thư đại giám đã quan tâm nhiều
đến chị gái chúng tôi như vậy. Vậy xin kính mời quan
đại giám một chén rượu này.
Chu
thượng thư cầm chén rượu lên, đang định uống thì
Hương Lan lại mời thêm một chén nữa.
-
Xin mời quan đại giám uống cả chén này nữa, để cho
hoa nở đều hai tay ạ.
-
Chà, như thế này thì cả hai cùng hối lộ cho tôi nhiều
quá! Tôi sẽ cố uống hết cả hai chén rượu trên hai
tay tay do hai cô mời nhưng thế thì say mất.
Nói
vậy nhưng vẫn cố uống hết cả hai chén.
Chu
thượng thư quên cả phép lịch sự vì đáng lẽ khi uống
chén rượu đầu tiên cũng nên nói qua một câu rượu này
là rượu gì vậy. Nhưng đằng này ông đã quên khuấy đi
mất, chẳng có lấy một lời hỏi han, cứ thế uống hết
chén này đến chén kia, say chếch choáng rồi vẫn còn ưỡn
ngực tiếp tục uống.
CHƯƠNG
21: QUÂN MÔNG CỔ LẠI SANG XÂM LƯỢC
Lại nói
về quân Mông Cổ. Chúng sang xâm lược nước Cao Ly, rồi
quay về. Được mấy năm chúng sang xâm lược lần nữa.
Vào
năm Cao Tông thứ 39, bị đặt trong tình thế đó, triều
đình đã cử sứ thần Lý Hiên sang Mông Cổ tìm cách
đánh lừa, nói rằng Cao Ly sẽ thực hiện tất cả những
gì mà Mông Cổ yêu cầu, và rằng triều đình đã dời
đô từ Giang Hoa trở lại Tùng Đào rồi. Nhưng Mông Cổ
không tin Cao Ly, nên sau khi sứ thần Lý Hiên trở về rồi,
họ bèn cử một đoàn sứ giả đông đến ba mươi bảy
người do Ta Kha dẫn đầu sang Cao Ly để xem rõ thực hư.
Lý Hiên biết rõ điều đó nên đã sai viên ký lục của
mình là Trương Giám bí mật về báo với triều đình kế
hiểm đó của Mông Cổ.
Nhưng
rồi đến đầu tháng tư năm Cao Tông thứ 40, cuối cùng
Yakul của Mông Cổ cùng với em vua là Long Chu cử Amukhan
làm tướng tiên phong kéo đại quân sang xâm lược Cao Ly.
Quân Mông Cổ tiến quân như thế trẻ che. Chúng đã chiếm
hết cả vùng quan bắc và xâm nhập vào vùng biển tây.
Theo đó cúng dần dần tiến quân về phía nam, xâm nhập
vào tận trung châu.
Trong
tình hình đó, dĩ nhiên bàn tay xâm lược của quân Mông
Cổ cũng đã vươn đến thành Ủng Tân.
Tháng
tám năm đó, á tướng của Đường Cô là Khalitan dẫn
hơn một vạn kỵ binh và bộ binh tiến đánh vào Ủng
Tân.
Khalitan
đã quét sạch cả một vùng biển tây của tỉnh Hoàng
Hải; đến tháng chín năm đó thì bắt đầu bao vây thành
Ủng Tân.
Để
bao vây thành Ủng Tân, Khalitan đã thay đổi cách đánh so
với cách đánh của Đường Cô trước đây; Y mở ra hai
mặt trận. Một vừa để kiềm chế quân phòng vệ cửa
tây bắc thành Ủng Tân, vừa để đối chọi với quân
Cao Ly ở núi Quảng Đại. Một mặt trận khác chúng bố
trí ở mạn Đông Nam, dựa lưng vào núi Liên căn, chuẩn
bị tấn công vào thành Việt Nam ở núi Hoa Sơn và cửa
thành phía đông nam.
Tình
hình đã đến bước này, nên cả quan huyện Ủng Tân coi
sóc nơi này, cũng như đốc binh biệt quân sơn thành và
cả quan mục sứ ở Hải Châu tất cả đều cuống cuồng
lo tìm cách đối phó.
Sơn
thành của trấn Ủng Tân này nằm dưới quyền quản hạt
của Mục sứ Hải Châu. Mục sứ trước đây được gọi
là An tây đô hộ phủ sứ, nhưng từ năm Cao Tông thứ 34
trở đi, đổi cách gọi là mục sứ. Mục sứ Hải Châu
- gọi như vậy vì Hải Châu là nơi đặt An tây đô hộ
phủ - bên cử quan truyền lệnh đến gặp đốc binh biệt
quân sơn thành Trác Vĩnh Phúc và quan huyện Ủng Tân An
Ngọc, báo cho hai người biết, trong việc phòng vệ thành
Ủng Tân, dựa theo kinh nghiệm chiến đấu lần trước,
cần bàn bạc với Hoa sơn quân, và phối hợp với nghĩa
binh của Hoa sơn quân.
Đốc
binh biệt quân sơn thành Trác Vĩnh Phúc là người hay cố
chấp, thường xung khắc ý kiến với quan huyện, không
phục ông này nên quan mục sứ đã có lời phê phán
nghiêm khắc.
Do
quân Mông Cổ nhiều lần sang xâm lược, nên triều đình
đã huy động dân binh toàn quốc đắp cao các con đê dọc
theo vùng bờ biển, tăng cường nhiều biện pháp phòng
thủ.
Ở
thành Ủng Tân cũng vậy. Quan huyện và đốc binh sơn
thành đã chấp nhận chỉ thị của Hoa sơn quân, xây dựng
lại thành lâu, và gia cố nhiều công trình phòng vệ
khác.
Mỗi
lần quân Mông Cổ sang xâm lược. Mục sứ Hải Châu lại
khẩn khoản liên hệ với Hoa sơn quân. Còn quan huyện An
Ngọc và đốc binh Trác thì nhiều lần tìm đến cúi rạp
mình nhờ Hoa sơn quân giúp đỡ. Song không hiểu sao Hoa
sơn quân cứ từ chối không muốn ra khỏi thành Việt
Nam.
Nhưng
quan huyện An và đốc binh Trác cứ tìm đến nằng nặc
van nài.
Quan
huyện An là người nhã nhặn, luôn đưa mặt nhìn lên hai
khuôn mặt của Hoa sơn quân và đốc binh sơn thành nói:
-
Hoa sơn quân đại giám cứ từ chối như thế này thì
nguy lắm ạ. Trấn Ủng Tân của chúng tôi mà thất thủ
thì mối nguy sẽ không lường hết được.
Lời
nói đó của Quan huyện như đấm vào tai đốc binh Trác.
Quan huyện An không phải con nhà binh mà lại ăn nói một
cách tùy tiện như vậy trong khi đốc binh là con nhà binh
đang ngồi bên cạnh rõ ràng làm cho đốc binh khó chịu,
nhưng ông ta không thể chống lại mệnh lệnh của thượng
cấp cũng như không thể phản ứng lại quan huyện trước
mặt ông cụ già.
Bởi
thế, ông ta đành phải cúi đầu xuống đất nhận rằng
lời nói của quan huyện An là đúng. Có lẽ thấy tội
nghiệp trước những lời van xin của quan huyện và đốc
binh đã nhiều ngày nay, cuối cùng Hoa sơn quân vuốt vuốt
một chặp bộ râu trắng như cước, chép miệng nói:
-
Tôi nay cũng đã già, tuổi cao sức yếu mà quan huyện An
và đốc binh Trác vẫn có lòng đến bảo tôi gánh vác
trách nhiệm, tôi xin cảm ơn hai vị nhưng thật lòng rất
lo. Quan huyện An thì đã đành rồi, nhưng đặc biệt có
đốc binh Trác, võ nghệ rất cao cường, cho nên mong hai
vị đừng nghĩ rằng tôi chịu trách nhiệm là tôi sẽ
làm tổng chỉ huy mà cả ba chúng ta hãy thỏa thuận cùng
nhau bảo vệ thành Ủng Tân. Được như vậy mới là quý.
Nghe
Hoa sơn quân nói vậy, đốc binh Trác phấn khởi, niềm
vui mừng hiện trên nét mặt. Nhưng nhớ lại việc này là
mệnh lệnh đặc biệt của mục sứ giao cho nên chấp hai
tay vái lạy Hoa sơn quân mà nói rằng:
-
Thưa Hoa sơn quân, có tin hiện nay quân Mông Cổ đã đến
cách ngoài thành có mấy chục dặm. Vì vậy, càng vào lúc
này, càng cần phải thống nhất quân lệnh chỉ huy. Hoa
sơn quân có chấp nhận cho lời cầu khẩn này thì mới
bảo vệ được thành và mục sứ của chúng tôi cũng giữ
được thể diện.
Hoa
sơn quân suy nghĩ rất nhiều. Ngày trước, Lý án sát sử
là chỗ quen thân đặc biệt với Người, nhưng nay quan
mục sứ mới đến, tuy có quen biết nhau nhưng không phải
là bạn bè thân thiết. Ông ta thông qua đốc binh dưới
quyền mình có thể nay bảo phải làm thế này, mai bảo
phải làm thế nọ. Ngộ nhỡ bại trận, thì mình sẽ
phải hứng chịu những lời oán thán. Hoa sơn quân rất
ngại điều đó, nhưng thấy đốc binh Trác mũi chấm đất,
cúi đầu van lạy như vậy và trong giờ phút quân Mông Cổ
đã tiến đến cách ngoài thành chỉ có mấy mươi dặm,
nên tình thế không cho phép trì hoãn thêm được nữa.
Không còn cách nào khác, Hoàng thúc bèn chấp nhận.
-
Hai vị đã có lòng. Tôi cũng xin nhận lãnh trách nhiệm
tổng chỉ huy vậy.
Quan
huyện An và đốc binh Trác cúi đầu tạ lễ.
-
Xin cảm ơn Hoa sơn quân. Vậy chúng tôi xin trở về báo
lên quan mục sứ, xong sẽ quay lại.
Nói
xong hai người bèn đứng dậy, chẳng kịp đợi Hoa sơn
quân có nói lại điều gì không.
Hoa
sơn quân thấy họ mấy ngày nay van vỉ mãi, nay mới được
chấp nhận, mà lại có thái độ như vậy kể cũng có
phần xem thường. Song, nghĩ lại thấy bổn phận của
người lính trước hết là phải báo cáo ngay điều đó
lên cấp trên, nên Người chỉ cười, ngồi nhìn theo bóng
hai người đang đi ra khỏi cổng.
Hai
người đi rồi, trong lòng Hoàng thúc lại nói lên bao nỗi
suy tư ngổn ngang trăm mối. Ngày trước bên cạnh Hoàng
thúc còn có Lý công tử Lý Quân Tất, và Tiêu Vĩnh Vạn,
tất cả đều hết lòng giúp đỡ, hơn nữa thể lực của
Hoàng thúc lúc ấy còn cường tráng. Mặt khác, hai đứa
con trai của Người nếu có ở đây cũng giúp đỡ được
cho bố, nhưng đằng này chúng nó cũng theo con đường của
chúng nó, đi làm quan ở triều đình, đang đảm đương
những công việc quan trọng hơn, nên không biết phải
xoay sở sao đây.
Lúc
này có một người tráng đinh chạy vào báo cáo.
-
Thưa Hoa sơn quân, ngựa đi tuần tra đã sắp đến rồi
ạ.
Hoàng
thúc muốn đi xem xét một lượt trong ngoài thành, nên đã
lệnh cho những người lính hầu cho rơm cỏ để ngựa ăn
no và đóng yên lên con ngựa trắng mà người rất yêu
quý.
-
Thế thì hãy đi quanh một vòng xem sao.
Nói
đoạn, người bước lên lưng ngựa và đi ra phố.
Trên
đường phố, thấy Hoa sơn quân xuất hiện, mọi người
già trẻ gái trai đều lộ nét mặt vui mừng hoan hỉ.
-
Bạch mã tướng quân của chúng ta đã cao tuổi nhưng
trông còn khỏe.
-
Tướng quân chiến đấu bằng sức mạnh, nhưng cũng bằng
cả trí tuệ nữa đấy! Hoa sơn quân của chúng ta là vị
tướng anh minh, quân Mông Cổ là cái thá gì.
Trên
đường phố, người nọ gặp người kia, bàn tán rôm rả,
thể hiện lòng dân trong thành muôn người như một đoàn
kết nhất trí với Hoa sơn quân, cho nên sự thắng bại
của thành này coi như có thể biết trước được.
Quan
huyện An và đốc binh Trác sau khi lên thư lại với mục
sứ Hải Châu, đã quay lại gặp Hoàng thúc báo cáo công
việc.
-
Thưa, Hoa sơn quân đi đâu vậy! Chúng tôi đang có một
trác thư gấp muốn được trình lên Hoa sơn quân.
Trời
rét cóng mà Hoa sơn quân thấy họ chạy đến vã cả mồ
hôi trán, bèn mỉm cười nói:
-
May quá, nào chúng ta hãy cùng nhau đi xem xét trong thành
một lượt rồi về nhà nói chuyện.
Đốc
binh Trác, thấy Hoa sơn quân đã xiêu lòng thì rất biết
ơn, nhưng không nói được nên lời, chỉ biết đi theo
sau Hoàng thúc.
Quan
huyện và đốc binh Trác đi theo hai bên, Hoàng thúc đi
giữa, cảm giác trống trải đã mất đi. Không những
vậy, họ còn cảm thấy có thể nghĩ ra được những
sáng kiến hay. Ba người vừa đi vừa suy nghĩ, chẳng bao
lâu đã đến núi Quảng Đại ở phía ngoài cửa Bắc.
Núi Quảng Đại là nơi đốc binh Trác dàn trận địa lập
phòng tuyến bảo vệ cửa thành phía tây bắc. Quân Cao Ly
binh lực ít, không chiếm nổi vùng núi Thanh Nham là nơi
đội quân đi trước của Mông Cổ đang dồn trú, nhưng
do đã bố trí những lực lượng tinh nhuệ ở chân núi
phía tây bắc núi Quảng Đại cho nên đã tạo ra một thế
trận tốt, có thể diệt gọn quân Mông Cổ dám liều
lĩnh tấn công vào trong thành Ủng Tân. Sau khi đi thăm một
lúc thế trận đó, Hoàng thúc tỏ vẻ hài lòng khen:
-
Trận pháp của đốc binh Trác khá đấy!
Với
vẻ đắc ý hiện trên nét mặt, đốc binh Trác khiêm
nhường đáp lại:
-
Trận pháp này do bản quan học được của mục sứ.
Nhưng năng lực chỉ huy của bản quan vốn kém lắm ạ.
Hoàng
thúc nhìn đốc binh Trác, rồi lại nhìn ra trận nói:
-
Sách có câu "Thiên thời bất như địa lọi" gặp
thời cơ tốt không bằng gặp địa thế tốt. Hình thế
của núi Quảng Đại chẳng phải thế sao? Đúng vậy, thế
trận này là "bát trận đồ".
Đốc
binh Trác nở cả ruột gan, cười hi hi nói:
-
Thưa Hoàng thúc, thế trên này có làm được đúng theo
quy cách không ạ?
-
Khá lắm. Khi còn ở cố quốc, tôi đọc sách thấy nói
ngày xưa Gia Cát Khổng Minh đã lập ra bát trận đồ rất
giỏi. Tôi sang nước Cao Ly thấy dường như ai cũng làm
giỏi bát trận đồ.
Nghe
câu chuyện trao đổi giữa Hoa sơn quân với đốc binh
Trác như vậy, quan huyện An là quan văn không biết có
phải vì ghen tức hay không, bèn nhăn trán nói một câu:
-
Thưa Hoa sơn quân, làm tốt bát trận đồ cố nhiên là
tốt rồi. Nhưng có được trí tuệ tốt như vậy mà lại
không làm được cái việc "bổ lưới tứ phương"
để bắt quân Mông Cổ, không buộc được chúng phải co
vòi bó tay mà cứ để chúng luôn luôn sang đánh [há nước
ta như vậy, thử hỏi chẳng phải đã là tốt hay sao?
Đốc
binh Trác tỏ vẻ khó chịu, nhìn chằm chằm vào quan huyện
An. Nhưng Hoàng thúc gật gật đầu, nói:
-
Quan huyện An nói như vậy cũng có cái lý của mình. Một
vị danh tiếng dù có tài ba lỗi lạc bao nhiêu, nếu không
gặp thời thì cũng không thể nổi danh được. Biết đâu,
một ngày nào đó, nhờ tài năng của đốc binh Trác chúng
ta sẽ đánh lui được đại binh của Mông Cổ chỉ trong
một trận cho mà xem. Chỉ có điều, thời thế đã vậy,
thì đất nước này phải chịu vậy thôi.
Trong
lúc mọi người đang nói chuyện với nhau bỗng có ba
người trong đó có cô á tướng sơn thành Lư Quân Đạt
đến Thanh Nham sơn trinh sát địch tình trên đường trở
về, trông thấy đốc binh bèn cúi chào thưa rằng:
-
Thưa, chúng tôi vừa được tin tướng Mông Cổ Khalitan đã
tập kết gần ba nghìn kỵ binh và hơn năm nghìn bộ binh
ở chân núi phía nam của Thanh Nham sơn, dàn trận địa ở
đó và bố trí khoảng hơn năm nghìn kỵ binh và ba nghìn
bộ binh ở phía núi Liên Căn.
Hoàng
thúc đứng bên cạnh nghe trình bày như vậy, bèn quay lại
hỏi Lưu Quân Đạt:
-
Vậy, cờ soái của chúng treo ở núi nào?
Nghe
hỏi vậy, Lưu Quân Đạt vẹo đầu suy nghĩ một chốc
rồi trả lời:
-
Dạ, vốn dĩ trên trận địa của quân Mông Cổ cắm rất
nhiều cờ không phân biệt rõ được. Nhưng ở Liên Căn
sơn thì không có cờ lớn, còn ở giữa trận địa Thành
Nham sơn có vẻ như có một lá cờ rất to. Có thể đó
là cờ soái của tướng Khalitan cũng nên.
Cả
quan huyện An và đốc binh Trác đều có vẻ như đang chờ
Hoa sơn quân nói tiếp. Hoàng thúc suy nghĩ một chập rồi
nhìn đốc binh Trác nói:
-
Như vậy chủ lực của địch chắc chắn đông ở Thanh
Nham sơn, có lẽ chúng đang chuẩn bị đánh vào cửa thành
phía bắc của chúng ta.
Đốc
binh Trác đến lúc này chừng như đã hiểu, ít nhiều tỏ
vẻ lo lắng.
-
Thưa Hoa sơn quân, binh lực của bản quan ít quá…
-
Tôi cũng nghĩ như vậy. Cho nên ngay tối hôm nay cần điều
động gấp một số binh lực ở phía ngoài cửa nam lên
cửa bắc.
Hoa
sơn quân chỉ thị như vậy, quan huyện An biết phải điều
lực lượng của khu vực mình phụ trách lên phía bắc,
ít nhiều muốn cưỡng lại, bèn lắc đầu nói:
-
Thưa Hoa sơn quân, binh lực ở phía nam chúng tôi cũng mỏng
lắm.
Đốc
binh Trác thấy quan huyện An nói năng không hợp lẽ, nhưng
trước mặt Hoa sơn quân không tiện vặn lại hỏi quan
huyện. Hoàng thúc nhìn dáng vẻ đó của họ một chặp
rồi nghiêm sắc mặt ra lệnh:
-
Các ông là những tướng lĩnh dưới quyền chỉ huy của
tôi. Theo binh pháp kẻ nào chống quân kỷ, sẽ chịu số
phận bi thảm. Không cho phép cưỡng lại mệnh lệnh, phải
chấp hành nhanh lên.
Lúc
bình thời, Hoàng thúc rất ôn hòa nhưng trong giờ phút
đối mặt với quân địch, khí phách của Người tưởng
như có thể lay chuyển được cả núi Thái Sơn. Quan huyện
An và đốc binh Trác bị áp đảo trước vẻ uy nghiêm đó
của Hoa sơn quân, đã cúi đầu sát đất cùng đồng
thanh hứa: "Xin tuân lệnh".
Hoàng
thúc mỉm cười trên khuôn mặt đã ôn hòa trở lại.
Người thấp giọng nói:
-
Quan huyện An này, công việc phòng vệ ở cửa nam, tôi đã
biết rồi, chúng ta sẽ có cách, cứ yên tâm.
Hai
người thở phào nhẹ nhõm trước lời nói đó của Hoa
sơn quân. Người ngừng giây lát rồi nói tiếp:
-
Quân Mông Cổ mới từ xa tới, còn mệt mỏi, nên trong
vòng hai ba ngày tới chúng chưa thể tấn công ngay được.
Do vậy đốc binh Trác cứ yên tâm củng cố trận địa
cho thật vững chắc. Còn quan huyện An hãy cùng tôi đến
cửa nam môn xem xét thế trận ở đó như thế nào rồi.
Hoa
sơn quân cùng với quan huyện quay lại cửa nam, điều
động một số binh lực ra phía cửa bắc. Còn quan huyện
an thì chuyển hành dinh vào trong thành đất, tức thành
Việt Nam ở núi Hoa Sơn. Ở phía cửa Nam cửa thành, ngược
lại cho cắm cờ xí rợp trời, khiến quân địch ở Liên
Căn sơn sợ không dám xâm nhập. Sau đó ở núi phía
tây-bắc, đặt phục binh ở núi Quảng Đại sơn, biến
trận địa thành một nơi gần như trống vắng.
Lý
do của việc nghi binh này là vì chủ lực của quân địch
đóng ở núi Thanh Nham sơn, nên trước hết cần dụ lực
lượng chủ lực của địch đánh vào cửa phía bắc.
Mặt
khác về phía quân địch, tướng Khalitan sau khix em xét
hình thế của thành Ủng Tân, cũng đã xây dựng một kế
hoạch tác chiến đánh vào cửa Bắc trước. Chủ lực ở
Thanh Nham sơn áng binh bất động, nhưng lại sử dụng
binh lực ở Liên Căn sơn bắt đầu đánh vào cửa nam.
Tuy vậy, các cuộc tấn công của chúng rất tản mạn. Âm
mưu của chúng là kéo hết chủ lực của quân Cao Ly về
phía đó để chúng tấn công vào cửa bắc.
Nhưng
Hoa sơn quân đã biết trước kế hiểm đó của giặc và
đã ra tay trước.
Lúc
bấy giờ vào khoảng thượng tuần tháng mười.
Những
bông tuyết đầu mùa bay lả tả, sương giá bắt đầu
phủ trắng mặt đất. Quân Mông Cổ dù sống quen ở xứ
lạnh cũng không thể không lo lắng.
Tại
bản doanh đặt ở Thanh Nham sơn, tướng Khalitan lúc này
chỉ còn chờ thời cơ để xông vào đánh chiếm thành
Ủng Tân. Sau khi quyết định tổng công kích, tối hôm đó
y gọi tất cả các tướng lĩnh dưới quyền chỉ huy của
y đến và ra lệnh. Các tướng sau khi nhận được lệnh
có liên quan đến phần việc của chính mình đều lần
lượt ra về.
Cũng
do vậy mà tối hôm đó, ngay từ đầu hôm đã có tiếng
hò reo của quân Mông Cổ đánh vào cửa nam thành Ủng
Tân.
Mặc
khác, vế phía quân Cao Ly, Hoa sơn quân đã gọi đốc binh
Trác và quan huyện đến, lập kế hoạch phòng bị cuộc
tổng tấn công của quân Mông Cổ sẽ nổ ra vào tối hôm
đó.
Trong
căn lều dùng làm bản doanh, các ngọn nến được thắp
sáng rực. Thời tiết đầu tháng mười, trời rét căm
căm, nhưng bên trong lều, lửa trong lò cháy rực bùng lên
những tàn lửa sáng lấp lánh nên không ai cảm thấy
lạnh.
Đốc
binh Trác chờ đợi mệnh lệnh tác chiến của Hoa sơn
quân. Nhưng hình như Người vẫn đang đăm chiêu suy nghĩ
một điều gì…
Trong
lều chỉ huy, không khí tạm lắng xuống. Nhưng đôi mắt
của Hoa sơn quân bỗng sáng lên khác thường.
Một
chốc sau, Hoa sơn quân nói:
-
Giờ đây quân Mông Cổ đang tấn công rời rạc vào phía
nam. Chúng tấn công sớm như vậy là để tiến hành cuộc
tổng công kích vào lúc canh hai. Do đó, đốc binh Trác hãy
tổng huy động toàn bộ binh lực ở Quảng Đại sơn
chuẩn bị xuất kích!
Nghe
chỉ thị như vậy, đốc binh Trác ít nhiều có vẻ ngạc
nhiên, bèn hỏi:
-
Thưa, vậy công việc phòng thủ cửa bắc phải làm thế
nào ạ?
Hoa
sơn quân gật đầu có vẻ cho đốc binh Trác hỏi đúng,
bèn trả lời:
-
Đúng vậy, tối hôm nay tôi sẽ lo liệu việc phòng thủ
cửa bắc.
Đốc
binh Trác tỏ vẻ mãn nguyện. Bản thân đốc binh Trác
cũng muốn đề nghị như vậy nhưng đã cố nín lặng vì
không thể nói điều như vậy với Hoa sơn quân nay đã
già yếu.
-
Thật chúng tôi không phải với Hoa sơn quân.
Không
để ý đến câu nói đó, Hoàng thúc giở tấm bản đồ
tác chiến ra, lấy tay chỉ chỗ nọ, chỗ kia. Bằng giọng
nói hết sức nhỏ nhẹ, người ra chỉ thị rồi lệnh
cho mọi người:
-
Nếu tất cả đã rõ cả rồi thì hãy xuất phát ngay.
Đốc
binh Trác đứng dậy, kính cẩn chào tạm biệt Hoa sơn
quân trước khi ra trận. Như để bày tỏ niềm kính trọng
lớn lao nhất đối với Hoa sơn quân, không những là
người rất đáng tin cậy mà còn hiểu sâu sắc nỗi lòng
của mình, đốc binh Trác cảm kích nói.
-
Bản quan về xin làm hết trách nhiệm theo mệnh lệnh.
Hoa
sơn quân cũng đứng dậy, lấy tay vỗ lên lưng đốc binh
Trác.
-
Số phận của thành này nằm trong tay đốc binh mong đốc
binh chiến đấu hết sức mình. Tôi tin ở đốc binh. Mong
đốc binh chú ý giữ gìn.
Đốc
binh Trác rời bản doanh với vẻ mặt trầm lắng, lòng
được khích lệ vô hạn trước lời nói đó của Hoa sơn
quân.
Hoa
sơn quân nhìn theo bóng dáng phía sau của đốc binh Trác
rồi đưa mắt về phía quan huyện An nói:
-
Tôi sắp đi ra cửa bắc. Quan huyện hãy ra cửa nam, phòng
thủ cho tốt.
-
Thưa vâng.
Nhìn
thấy quan huyện đứng dậy, Hoa sơn quân lại lưu ý ông
ta:
-
Quân Mông Cổ tối hôm nay sẽ mở trận đánh rất khác
thường. Đừng có chửi bới hoặc cho rằng lực lượng
địch ít rồi xem thường chúng, mà phải đóng cửa thành
thật chặt, chốt giữ bên trong. Cấm không được có bất
kỳ hành động nào như mở cửa thành ra truy kích quân
địch để lập công. Rõ chưa?
-
Vâng, rõ rồi ạ!
-
Vậy quan huyện hãy đi nhanh đến cửa thành xem xét tình
hình xem sao!
Tiễn
xong mọi người ra các vị trí chiến đấu thì đêm đã
khuya.
Đêm
không trăng, tối đen như mực. Chỉ có các vì sao nhấp
nháy.
Hoa
sơn quân lên ngựa cùng với tráng đinh và dân binh tiến
thẳng ra cửa Bắc.
Ở
đây chỉ có người đội trưởng giữ cửa thành và một
số dân binh nữa đang phòng thủ cửa thành. Tất cả họ
đều đã ngủ, quang cảnh im lặng như tờ.
Sở
dĩ như vậy là do lệnh của đốc binh Trác cho lính nghỉ
ngơi đầy đủ từ đầu hôm đến giờ tý.
Hoa
sơn quân leo lên thành lầu, nhìn ra bốn phía, đêm đã
khuya, cảnh vật chìm trong im lặng.
Về
phía trận địa địch, chỉ có ánh sáng leo lét, tất cả
chỉ là đêm tối mịt mùng.
Nhưng
chòm sao Bắc đẩu đêm hôm nay không hiểu sao bỗng rực
sáng lạ lùng, dáng chừng như đang tự hào về hiện diện
của Hoa sơn quân ở thành Ủng Tân này. Lúc này đã là
giờ tú, nhưng đang có chiến tranh, cấm đánh trống báo
giờ nên trong thành vẫn im phăng phắc, không ai biết đã
mấy giờ rồi.
Một
khắc trôi quan, tất cả quan và lính đều đã thức dậy
và ăn cơm sáng.
Trong
thành đã có lệnh của đốc binh Trác bắt buộc tất cả
quan lính đều phải hết sức nhẹ nhàng trong lời nói và
hành động, không được tạo nên tiếng động. Do vậy
binh sĩ chú ý tuân theo hành động rất lặng lẽ.
Hoa
sơn quân gọi các tướng đến, cho triển khai xây dựng
trận địa theo kế hoạch tác chiến.
Hoa
sơn quân đứng trên thành lầu chăm chú theo dõi trận địa
quân Mông Cổ ở Thanh Nham sơn, thấy ánh đèn bập bùng
chỗ này chỗ nọ, nhiều hơn so với lúc đầu hôm. Rõ
ràng quân Mông Cổ đang hối hả chuẩn bị tổng công
kích. Người bèn ra lệnh cho toàn thể quân lính trong
thành sẵn sàng chiến đấu.
Lúc
này là canh hai.
Hoa
sơn quân báo cáo cho toàn thể quân lính biết sự thật
đó.
Tướng
Khalitan của quân Mông Cổ trực tiếp chỉ huy toàn bộ
quân địch từ núi Thanh Nham mở cuộc tổng tấn công,
tiến về phía thành Ủng Tân.
Trong
lúc quân Mông Cổ tiến về phía thành Ủng Tân, bỗng
nhiên từ chân núi Quảng Đại, những ngọn đuốc nhất
tề vụt sáng lên, cùng với tiếng quân reo vang trời dậy
đất.
Quân
Mông Cổ tạm dừng cuộc hành tiến. Tướng Khalitan lệnh
cho cánh quân đi đầu tấn công vào núi Quảng Đại, còn
bản thân y thì đốc suất cánh quân đi giữa và cánh
quân đi sau đột kích vào cửa bắc thành Ủng Tân.
Đúng
lúc đó, từ mé gò đôi đối diện với núi Quảng Đại,
tiếng quân reo hò vang động khắp nơi, quân Cao Ly lao tới
đánh vào lưng quân Mông Cổ.
Đêm
tối như mực, quân Mông Cổ bị quân Cao Ly tấn công bất
ngờ, không tiến lên được, bắt đầu hoang mang nháo
nhác bỏ chạy tán loạn, đội binh rối tung. Thừa cơ,
trong thành Ủng Tân khắp nơi nổi đuốc sáng rực. Cửa
thành phía bắc bỗng mở toang, một đội kỵ binh từ
trong thành lao ra như một mũi tên. Đoàn kỵ binh xông tới
đánh vỗ mặt vào quân Mông Cổ, làm cho chúng dù có là
đại quân hùng mạnh đến đâu cũng không thể nào thoát
khỏi cảnh hỗn loạn.
Thế
là chỉ với số quân của Ủng Tân không đán bao nhiêu,
nhưng do được tổ chức hiệp đồng tuyệt vời nên đã
giáng cho bọn địch một đòn thất điên bát đảo.
Tướng
Khalitan hoảng hốt trước đoàn phản kích bất ngờ không
còn cách nào, đành ra lệnh rút lui.
Nhưng
quân Cao Ly lợi dụng bóng đêm, vừa reo hò vang trời dậy
đất vừa xông vào chém giết quân giặc. Bị tấn công
bất ngờ từ ba mặt, quân Mông Cổ bị tổn thất mấy
trăm tên. Chúng vất bỏ cả ngựa chiến, quân xa và tất
cả các chiến cụ khác, chạy thục mạng về Thanh Nham.
Thời
gian qua có nhiều cuộc đụng độ lẻ tẻ, nhưng đụng
độ lớn thì đây là lần đầu tiên. Phía quân Cao Ly đã
lợi dụng đêm tối không trăng, và hiểu rõ lợi thế
địa hình cũng như tình hình quân địch khi chúng tấn
công vào đây, nên chỉ với một binh lực nhỏ đã phản
kích rất hữu hiệu. Còn quân địch thì do đêm tối như
mực, chúng không nắm được thực lực của quân ta, nên
chúng đã thất bại cay đắng.
Mờ
sáng ngày hôm sau, trong thành Ủng Tân những bữa tiệc
khao quân lớn đã được mở ra.
Hoa
sơn quân ủy lạo quan huyện An và đốc binh Trác.
-
Đốc binh Trác vốn là một võ quan nổi tiếng lập được
công như vậy là lẽ đương nhiên, còn quan huyện An không
phải quan võ mà là quan văn, nhưng trong cuộc chiến đấu
lần này cũng lập được công lớn như vậy, thật là
một kỳ tích đó.
Quan
huyện An nghe nói vậy, nét mặt không giấu nổi bối rối,
bèn nói:
-
Hoa sơn quân đã khen ngợi một quan huyện không có công
lao gì. Tôi xin cảm ơn. Công lao trong cuộc chiến đấu
lần này là do hai vị lập nên đó ạ.
Hoa
sơn quân nghiêm mặt nói:
-
Tất nhiên như vậy không có nghĩa là đốc binh Trác hoặc
tôi không chiến đấu. Thế nhưng để đưa cuộc chiến
đấu lần này đi đến thắng lợi, phải nói là quan
huyện An đã chiến đấu tốt ở phía cửa nam nên viện
binh của địch ở núi Liên Căn không đến được. Nếu
cuộc tác chiến của quan huyện không tấn công giỏi cắt
đứt liên lạc của địch mà lại để cho chúng huy động
được lực lượng ở núi Liên Căn ra yểm trợ thì chúng
tôi có tài thánh cũng chẳng làm nên sự tích gì.
Đốc
binh Trác và cả quan huyện nữa nghe Hoa sơn quân giải
thích như vậy đều cảm thấy có lý.
Hoa
sơn quân quả là một vị tướng anh minh theo phong cách
"dưới tướng của một danh tướng không có người
lính tồi:. Bất kỳ người lính nào nếu thực hiện đầy
đủ mệnh lệnh của người chỉ huy đều có thể lập
nên công trạng.
Về
phía quân Mông Cổ, tướng Khalitan khinh thường thành Ủng
Tân, tưởng rằng chỉ trong một trận có thể chiếm gọn,
nào ngờ đã nuốt phải quả đắng, khiến y không khỏi
khiếp đảm. Trong tay có hơn một vạn binh lực, nhưng y
cứ ngỡ trong thành Ủng Tân có khá nhiều quân, nên đã
phải liên lạc với nguyên soái Amokhan yêu cầu cho thêm
viện binh.
Lúc
này nguyên soái Amokhan đã tiến đến tận tỉnh Trung
Thanh, không thể đưa viện binh đến sớm được, nên
phải hơn một tháng sau, tức là vào trung tuần tháng một,
khoảng hơn một vạn viện quân gồm cả kỵ binh và bộ
binh mới đến được. Như vậy là Khalitan đã phải dùng
một đại quân hơn hai vạn tên để tìm cách tiến đánh
trấn Ủng Tân một sơn thành nhỏ chỉ có hơn một nghìn
quân sĩ Cao Ly trấn giữ.
Thành
Ủng Tân biết rõ mọi việc lớn nhỏ xảy ra ở phía
trận địa quân địch. Nhưng vì binh lực nhỏ và chủ
yếu lấy phòng vệ làm chính nên không có đủ binh lực
để có thể đương đầu với đại quân Mông Cổ và
cũng không còn cách nào khác.
CHƯƠNG
22: THÀNH ỦNG TÂN BỊ BAO VÂY CÔ LẬP
Từ
trung tuần tháng một, quân Mông Cổ đã hoàn toàn bao vây
thành Ủng Tân và bắt đầu mở trả các cuộc tiến công
liên tục. Quân dân trong thành kiên quyết chống trả, bắn
tên lửa và lăn đá xuống để cản quân địch trèo
thành đột phá vào. Nhưng quân Mông Cổ vẫn liên tục
tấn công hơn mười ngày liền. Chúng dựng những chòi
cao gọi là "phi lâu" hòng tìm cách vượt qua bờ
thành.
Thời
gian qua, Hoa sơn quân một mặt khích lệ đốc binh Trác và
quan huyện An, một mặt đôn đốc động viên toàn thể
tướng tá binh lính ra sức phòng giữ nhưng trong hoàn cảnh
bị bao vây cô lập tứ bề, không được chi viện từ
bên ngoài nên không còn cách nào giữ nổi thành này. Sau
hơn mười ngày chiến đấu không nghỉ, Hoa sơn quân bèn
triệu tập quan huyện An và đốc binh Trác đến họp bàn.
-
Thời gian qua, quan huyện An và đốc binh Trác với tấm
lòng trung thành tận trung báo quốc đã ra sức chống giữ
thành này, nhưng sắp tới, tình hình sẽ còn khó khăn
hơn, vậy hai vị có kế sách gì hay không?
Khuôn
mặt Hoa sơn quân gầy xọp đi. Người nói gần như kêu
gọi.
Đốc
binh Trác đáp lại với giọng yếu ớt, đầy đau xót:
-
Xin Hoa sơn quân thứ lỗi. Thất bại một lần là chuyện
bình thường của người cầm quân. Lực lượng của ta
ít, không cân sức với quân địch. Tình thế đã như vậy
rồi, xin mời quan huyện An và Hoa sơn quân hãy tạm lánh
ra đảo Xương Lân. Còn bản quan sẽ ở lại trong thành,
tứ thủ đến cùng.
Quan
huyện An nghe nói vậy, bèn nghiêm nét mặt phản bác lại:
-
Không thể thế được. Đốc binh Trác nói quá lời rồi
đấy. Chúng ta đã cùng chiến đấu bên nhau. Nay để một
mình đốc binh Trác ở lại, còn chúng tôi chạy trốn,
thử hỏi còn mặt mũi nào nhìn thấy nhau nữa.
Nghe
nói vậy, đốc binh Trác đỏ mặt, không biết trả lời
thế nào.
Nhìn
thấy vậy, Hoàng Thúc nở nụ cười hài lòng:
-
Tấm lòng của hai vị cũng như tấm lòng của già này
không có gì khác nhau. Điều tôi định nói thì đốc binh
Trác đã nói trước rồi...
Nghe
Hoàng thúc nói vậy, cả hai người chỉ biết ngồi im
lặng. Lúc này trong lòng họ dù vẫn tin rằng Hoa sơn quân
sẽ có được phép mầu nào đó, song trước mắt thái độ
của họ vẫn là tuyệt vọng.
Ngừng
một chốc, Hoa sơn quân nói tiếp:
-
Ngày nào bọn địch cũng tấn công dữ dội, thương vong
của quân ta tăng lên. Cứ như thế này mãi thì sẽ dẫn
tới chỗ tự diệt vong. Không những thế, tất cả các
thành quách ở đông, tây, nam, bắc đều sẽ bị phá hủy.
Như vậy, thay vì phải chịu đựng những hy sinh không cần
thiết để bảo vệ một khu vực đất đai rộng lớn,
nay nếu ta dời vào trong thành Việt Nam ở núi Hoa Sơn và
chỉ tử thủ một chỗ đó thôi thì chúng ta có thể làm
được.
Nghe
xong một lát, đốc binh Trác nói:
-
Thưa Hoa sơn quân, nếu vậy ta hãy mở cửa cho quân Mông
Cổ kéo vào trong thành có phải thượng sách không?
Quan
huyện An chừng như hiểu được ý nghĩa câu nói đó, bèn
đáp:
-
Tất cả mọi quyền chỉ huy của thành này vẫn là do Hoa
sơn quân nắm giữ. Hoa sơn quân mà ra lệnh, chúng ta sẽ
chấp hành. Chúng ta hãy đừng nghĩ này nghĩ nọ làm gì.
Nếu là thượng sách, Hoa sơn quân khắc ra lệnh.
Nét
mặt quan huyện không giấu nổi nỗi đau khổ. Hoa sơn
quân ngồi nghe những lời bàn luận của họ, không khỏi
tự cảm thấy trách nhiệm đè nặng lên hai vai mình.
Không khí trong phòng chìm lắng đi một chốc. Từ trong
bản doanh, Hoàng thúc nhìn ra ngoài với vẻ đăm chiêu.
Chỉ
còn mấy ngày nữa đến đông chí. Đêm nay hoa tuyết rơi
lả tả.
Cho
đến ngày hôm sau, biết bao trận đánh một mất một còn
đã diễn ra để giành giật lấy thành này. Giờ đây
những bông tuyết trắng ngần đang rời lả tả xung quanh
bức tường thành và trên khắp mặt đất thắm đầy máu
như muốn làm dịu đi nỗi thảm khốc của chiến tranh.
Thỉnh
thoảng một cơn gió bấc mạnh thổi ào tới, đập vào
chiếc lều bản doanh, chiếc lều rung lên bần bật. Không
chỉ riêng chiếc lều bản doanh mà cả đất trời tưởng
chừng như cũng đang rung lên, chao đảo. Chỉ riêng có tấm
lòng của Hoa sơn quân, của quan huyện An và của đốc
binh Trác là vẫn vững chắc như bàn thạch chẳng hề
chuyển lay.
Một
chốc sau, ánh mắt của Hoa sơn quân quay sang phía quan
huyện An rực sáng lên. Bộ râu dài trắng như cước của
Người trong đêm nay càng trở nên uy nghiêm lạ thường.
Người nói với giọng nghiêm trang:
-
Tấm lòng trung hậu của hai vị, cả đất trời, thần
linh đều cảm động... Đánh đuổi quân Mông Cổ rồi,
chúng ta còn phải sống. Hãy tỏ rõ dũng khí của mình,
đừng lo lắng gì hết. Toàn bộ binh lực của chúng ta
nội trong đêm nay phải chuyển vào trong thành đất Việt
Nam. Sáng sớm ngày mai, hãy mở toang tất cả các cửa
thành ra!
Đây
không phải là kỳ tích mà là một quyển sách bất đắc
dĩ cuối cùng. Trước mệnh lệnh mở cửa thành đang bị
đại quân của giặc bao vây cô lập chẳng khác nào như
ngọn đèn trước gió, cả hai người – quan huyện và
đốc binh Trác, đứng dậy cùng đáp lại bằng một giọng
cương quyết và không chút bận tâm:
-
Chúng tôi xin thực hiện từ bây giờ.
Nói
xong họ liền bước ra ngoài.
Việc
di chuyển nhiều quân sĩ, binh khí và ngựa chiến đã được
bố trí ở bốn cửa thành vào hết trong thành đất nội
đêm nay là một công việc khá vất vả, nhưng vẫn phải
kiên quyết làm. Trong binh pháp có nói: rút lui còn khó hơn
tiến công. Điều đó đến nay càng thấy rõ.
Về
phía quân Mông Cổ, tướng Kha Litan huy động đại quân
hơn hai vạn tên, bao vây chặt thành Ủng Tân, liên tục
tấn công hơn hai mươi ngày nay. Hắn hò hét quân lính:
"
Chúng mày phải nhanh chóng đạp nát thành này cho ta!"
"
Chúng mày hãy xây dựng phi lâu trèo vào trong thành!"
"
Chúng mày hãy giết chết hết quân Cao Ly cho ta!"
Mặc
cho hắn gào thét, quân lính của hắn mỗi lần tiến lên
đầu gặp phải thất bại do đá lớn ném xuống và tên
lửa từ trong thành bắn ra.
Quân
Mông Cổ vốn sinh ra ở xứ rét, nên thấy tuyết xuống,
sĩ khí của chúng lại tăng lên. Tên tướng Khalitan càng
hăng thêm do tuyết xuống đêm qua, gọi tên phó tướng
đến ra lệnh:
-
Tối hôm qua tuyết xuống là điềm trời báo cho chúng ta
biết hôm nay phá vỡ được thành này. Do vậy, hôm nay dù
có phải hi sinh bao nhiêu cũng phải phá thành xông vào.
Nghe rõ chưa?
-
Tuân lệnh!
-
Vậy thì phải chuẩn bị tấn công. Hôm nay ta sẽ đi tiên
phong!
Dưới
sự thống lĩnh của Khalitan, quân Mông Cổ phất cờ, hò
reo vang trời, nhằm hướng thành Ủng Tân thẳng tiến.
Vì
đêm nào chúng cũng sợ quân Cao Ly tập kích, phải đóng
cách xa thành khoảng ba dặm nên chúng phải dò dẫm tiến
lên từng bước và cuối cùng đã đến được cửa
thành. Thấy cửa thành đã mở toang, nhìn lên thành lầu,
không thấy một bóng người.
Quân
Mông Cổ cố ráng sức tiến tới đây, nhưng đến nơi
thấy quang cảnh thế này, chúng cảm thấy rụng rời.
Kalitan ngồi trên mình ngựa nhìn vào trong thành, một chặp
bỗng quay sang ra lệnh cho tên phó tướng:
-
Này, toàn quân hãy dừng ngay lại cuộc tiến công. Có lẽ
ta mắc mưu quân Cao Ly rồi!
Nói
xong hắn ra tiếp một lệnh nữa cho tên phó tướng:
-
Có ai vào bên trong cửa thành thăm dò xem sao. Không chừng
lợi dụng tuyết xuống đêm qua, quân Cao Ly đã làm nhiều
hầm chông cũng nên.
-
Vâng, tiểu tướng xin đi xem xét.
Tên
phó tướng dẫn hơn mười tên lính dò dẫm từng bước
trên tuyết đi vào bên trong. Chúng tìm xem hết chỗ này
đến chỗ khác nhưng chẳng thấy một bóng người lính
Cao Ly nào.
Đến
tối, tên phó tướng mới về báo cáo lại. Nghe xong,
Khalitan ra lệnh ngay đêm hôm đó đưa một bộ phận quân
lính vào đồn trú trong thành Việt Nam ở núi Hoa Sơn.
Nhưng
quân Mông Cổ đã bị đặt trong tình thế dù có sợ
trúng kế của quân Cao Ly vẫn buộc phải bao vây thành
đất Việt Nam.
Khalitan
bị buộc trong cái thế phải bao vây, tấn công thành đất
Việt Nam, cũng có nghĩa là y phải chấp nhận nỗi khổ
tâm đi kèm theo đó. Bốn cửa lớn của thành Ủng Tân bị
đại quân Mông Cổ tổng công kích một tháng trời mà
vẫn không suy chuyển, nay bỗng nhiên mở toang ra như vậy,
ắt phải có chuyện gì đây: hoặc chờ viện quân đến,
hoặc có thâm kế gì chứ chẳng không. Tướng giặc nghĩ
như vậy và buộc phải đưa một số binh lực ra xây dựng
trận địa ở vành ngoài của thành. Do vậy, số quân
được huy động để tấn công chưa được mấy ngày thì
một số đoạn bờ thành đã bị sụp đổ và họ lâm
vào một tình tiết hết sức nguy ngập.
Quân
Mông Cổ từ sáng đến tối liên tiếp đột phá không
nghỉ. Chỉ có ban đêm, chúng sợ bị tập kích và có
viện quân tới nên mới rút về mà thôi. Thời tiết lúc
này đã là tháng chạp nên trời rất rét. Có một đêm
tại lều bản doanh trong thành, Hoàng thúc cùng quan huyện
An và đốc binh Trác ngồi lại với nhau, trên nét mặt
người nào cũng lộ vẻ đau sót.
Đốc
binh Trác lấy tay xoa vết thương trên cánh tay trái của
Hoa sơn quân, và nói:
-
Vết thương của Hoa sơn quân nặng quá.
Hoa
sơn quân chăm chú nhìn đốc binh Trác, nói với giọng cảm
thương:
-
Vết thương trên tay không việc gì đâu. Tôi nay đã già
rồi có chết cũng không sao. Chỉ lo cho tính mạng của
quý quan nhân và những người còn đầu xanh trẻ tuổi
trong thành này.
"
Hoa sơn quân!"
Đốc
binh nghẹn ngào thốt lên, đầu cúi xuống đất. Anh ta
chăm chú nhìn vào đôi chân của Hoa sơn quân, một ông
già bảy mươi tuổi, bó chân đi giày da thú. Một bên
giày rách một lỗ rõ to.
Đốc
binh Trác quá ư xúc động. Anh ngước đầu lên, lấy lại
khí thế, hai bàn tay nắm chặt thành hai nắm đấm.
-
Xin Hoa sơn quân đừng lo lắng. Chúng tôi sẽ chiến đấu
đến chết.
Quan
huyện An cũng đứng lên, hừng hực khí thế: " Hoa
sơn quân!"
Hoa
sơn quân cũng đứng lên theo. Tay phải Người nắm chặt
tay quan huyện, tay trái Người nắm chặt tay đốc binh
Trác.
-
Kẻ đại trượng phu chiến đấu hi sinh trong chiến tranh
bảo vệ đất nước thì có gì mà sợ. Chúng ta sẽ chiến
đấu đến người cuối cùng để bảo vệ thành này!
"
Hoa sơn quân!"
"
Hoa sơn quân!"
Cả
quan huyện An và đốc binh Trác rất đỗi cảm kích, chỉ
biết gọi " Hoa sơn quân!" và đó cũng là lời
thề bật lên từ trong trái tim của họ.
Trước
những cuộc tiến công càng dồn dập của quân địch,
thành trì dần dần bị sụp đổ, cả ba người đều
thương tích đầy mình, chỉ duy có tấm lòng của họ là
mỗi lúc càng cứng rắn thêm lên.
CHƯƠNG
23: CHA TRUYỀN CON NỐI
Cuộc
tấn công của địch mỗi ngày một thêm quyết liệt, sức
phòng vệ của quân Cao Ly càng thêm suy yếu, Quân lính
chẳng còn được bao nhiêu. Và tất cả đều được huy
động ra quyết tử để bảo vệ thành. Tình thế của họ
thật chẳng khác nào như ngọn đèn trước gió!
Vào
một hôm, từ sáng họ đã phải lao vào cuộc chiến đấu
gay go, ác liệt. Họ xông vào đánh giáp lá cà với quân
địch đã làm cho đoạn bờ thành cạnh cửa đông bị đổ
nhào. Lợi dụng đoạn tường bị đổ, bọn lính Mông Cổ
ào ào tràn vào như nước vỡ bờ.
Thế
là một trận đánh giáp lá cà với quân địch đã diễn
ra bên trong thành. Vào giờ phút thành đất Việt Nam sắp
bị quân Mông Cổ chiếm lĩnh thì đột nhiên từ phía sau
lưng quân Mông Cổ ở bên ngoài thành, những tiếng hò
reo nổi lên, một đội kỵ binh lao thẳng vào như một
mũi tên, bắt đầu chém giết quân Mông Cổ.
Tướng
giặc Mông Cổ vốn thấp thỏm lo sợ bị viện binh hoặc
phục binh của quân Cao Ly, nên khi hắn trông thấy cảnh
tượng đó, hắn nghĩ ngay rằng các đơn vị quân Cao Ly
đang hiệp đồng đánh úp sau lưng trận địa của hắn.
Thế là hắn hoảng hốt tưởng đã mắc mưu quân Cao Ly,
tức tốc ra lệnh:
"
Toàn quân rút lui"
Nhưng
quân Mông Cổ bị đột kích đã không phân biệt được
địch ta, chỉ biết hoảng hốt lo chạy tháo thân.
Binh
sỹ Cao Ly và binh lính Mông Cổ lẫn lộn vào nhau, không
còn phân biệt được nữa. Tên tướng Khalitan quá đỗi
hoảng sợ đã phóng ngựa chạy trước tiên, vọt ra cửa
bắc trốn thoát. Tất cả quân Mông Cổ đều trốn ra
ngoài thành.
Tướng
lính quân Cao Ly sau khi đuổi được quân Mông Cổ ra ngoài
thành liền cho đóng chặt cửa thành lại và bố trí quân
lính canh giữ.
Trong
lúc Hoa sơn quân đang ra sức động viên đôn đốc quân
sĩ trong thành đất ngăn chặn quân Mông Cổ phá sập
thành tràn vào, bỗng nghe có tiếng reo hò đột nhiên nổi
lên bên ngoài thành và thấy quân địch tháo chạy, cứ
nghĩ trong hàng ngũ quân địch có nổ ra nội biến bèn
cho đắp lại đoạn bờ thành bị đổ và đóng chặt cửa
thành lại.
Sau
đó Hoa sơn quân đã cùng nhiều tướng tá và binh sĩ đứng
trên thành lầu nhìn ra xa quan sát, thấy có năm sáu tướng
lĩnh cưỡi ngựa chạy về phía cổng thành.
Khoảng
cách càng gần càng nhìn rõ sắc phục của họ. Đốc
binh Trác trông thấy vậy bèn nói:
-
Trông kìa, các vị tướng ấy là tướng lĩnh của quân
ta!
Quan
huyện An quá ư xúc động reo lên:
-
Đúng rồi, đúng là quân triều đình của chúng ta rồi.
Trong
lúc mọi người đứng trên thành lầu bàn tán như vậy,
thì những người kia đã đến bên ngoài cổng thành đất.
Quan
huyện An đã rời khỏi chỗ đứng của mình từ lúc nào,
đến bên nói với Hoa sơn quân:
-
Thưa Hoa sơn quân, chúng ta cùng ra ngoài thành xem nào,
không biết quân triều đình từ đâu tới vậy?
Mọi
người cùng bước xuống cổng thành. Lúc này, Biện Thành
Thất là người canh giữ cửa thành đất trông thấy đoàn
người đi tới đã nhận ra ngay hai viên tướng mặc quân
phục quân đội Cao Ly đi đầu không phải ai khác mà
chính là hai người con trai của Hoa sơn quân đã lên ở
kinh đô, đó là Cán và Nhật Thanh.
Anh
ta quá đỗi vui mừng bèn chạy đến mở toang cửa thành.
Giữa
lúc Hoa sơn quân chưa rõ đầu đuôi ra sao, có vẻ lo ngại,
thì người con trai út Nhất Thanh, chẳng kể nghi thức,
vội chạy đến ôm chầm lấy Người reo lên:
-
Bố ơi!
-
Sao, con đấy hả?
-
Bố ơi, anh con cũng cùng về kia kìa.
Lúc
ấy, người con trai cả là Cán bước lên cúi đầu chào
bố:
-
Thưa bố, đã lâu con không được gặp bố.
Hoa
sơn quân dang tay ôm lấy hai con vào lòng, không nén được
nổi xúc động.
Hoa
sơn quân vốn dũng mãnh và trầm tĩnh trong chiến đấu
với quân Mông Cổ là vậy mà giờ cũng rơm rớm nước
mắt.
Quả
thật có nằm mơ cũng không nghĩ ra được rằng chính hai
người con trai của mình chứ không phải ai khác đến cứu
thành này giữa lúc vận mệnh của nó đang được tính
từng khắc một. Tất cả mọi người đều đổ dồn ánh
mắt về phía ba bố con Hoa sơn quân.
Một
chốc sau người con cả là Cán quay lại trịnh trọng nói:
-
Thưa bố, chúng con không ngờ thành của chúng ta bị nguy
ngập đến mức này. Lần trước nghe tin Mông Cổ đã rút
quân. Hầu như cả nước không ai không biết đến. Kỳ
này ở kinh thành Giang Hoa đã lan truyền tin viện binh của
quân Mông Cổ lại sang và chắc chắn sẽ gây nhiều tai
họa cho thành Ủng Tân. Đức đại vương tính toán hạ
lệnh cho Tấn dương hầu Thôi Khang trao một nghìn quân
cho anh em chúng con. Do vậy mà chúng con đã kịp về đến
nơi. Thật suýt nữa thì xảy ra họa lớn.
Mọi
người nghe xong những lời tường thuật của người con
trai cả là Cán mới hiểu hết nguồn cơn việc hai anh con
trai của Hoa sơn quân kéo viện binh về thành.
Nghe
lời con nói, Hoa sơn quân rất đỗi cảm kích trước công
ơn của đức đại vương.
-
Đức đại vương đã ban cho kẻ hạ thần nhiều ân sủng
thế này....
Người
con trai cả là Cán, chỉ những người đứng ở phía sau
mình.
-
Thưa bốn vị này là thượng thư Bộ Lễ Lư Vũ Trấn,
đặc phái viên của đức vua đến với bố đấy ạ
Lư
thượng thư trịnh trọng kính chào Hoa sơn quân:
-
Thời gian qua, Hoa sơn quân phải chiến đấu chống lại
đại quân của địch, thật là gian khổ nhiều lắm.
Nghe
Lư thượng thư nói vậy, Hoa sơn quân bèn đáp lại với
lời lẽ nhỏ nhẹ:
-
Lư thượng thư phụng mệnh đức đại vương lặn lội
đến đây còn gian khổ biết bao nhiêu so với chúng tôi
đánh giặc ở nơi đây. Chính nhờ có ân đức đó mà
già trẻ trai gái trong thành đất này đã được cứu
sống. Công ơn trời biển đó, dù chết chẳng dám quên.
Nói
đoạn, Người quay về phía quan huyện An và đốc binh
Trác.
-
Hiện nay đây tuy là nơi trận mạc chiến đấu chống
giặc không một giờ khắc nào nguôi, nhưng được vị
khách quý của triều đình đến thăm, nên dù bận mấy
chúng ta cũng dành thời gian mời quý khách vào bản doanh
trong thành để tiếp đãi.
Quan
huyện An và đốc binh Trác cúi đầu kính lễ và mời Lư
thượng thư vào trong thành đất.
Đến
lúc này, người con trai cả là Cán mới báo lại để
thân phụ biết được viện binh đã đánh đuổi toàn bộ
bọn giặc Mông Cổ ra ngoài cổng thành rồi, và các cổng
thành đang được canh gác chặt chẽ.
Hoa
sơn quân tỏ vẻ hài lòng, nhiều lần bày tỏ sự kính
trọng đối với quan thượng thư họ Lư:
-
Tất cả nhờ ơn đức của Lư thượng thư
Ngược
lại, Lư thượng thư cảm thấy bối rối trước những
lời tri ân đó của Hoa sơn quân.
-
Không phải thế. Dầu tôi vốn xuất thân quan văn, không
được am tường về binh pháp, binh sự. Hôm nay sở dĩ
đánh đuổi được quân Mông Cổ là nhờ tài nghệ tuyệt
vời của hai người con trai của Hoa tướng quân. Tục ngữ
có câu "cha truyền con nối". Hoa sơn quân là bậc
văn võ kiêm toàn như vậy thì làm sao các con của mình có
thể khác được.
Nghe
nói vậy, Hoa sơn quân tự dưng cảm thấy chẳng khác nào
như mình gợi chuyện ra để cho người ta khen, nên chẳng
biết nói sao.
Nhất
Thanh, người con thứ hai của Hoa sơn quân hiểu được
suy nghĩ của bố, nên hết nhìn lên gương mặt của Lư
thượng thư lại nhìn lên gương mặt của bố, song lại
nhìn quan thượng thư rồi chớp chớp mắt nói.
-
Thưa quan thượng thư, ngày chúng tôi còn nhỏ, bố tôi
ngày đêm huấn luyện cho chúng tôi cách đánh quân trong
thành này ạ!... Chúng tôi đã nhiều lần bị bố phạt,
đánh vào bắp chân.
Nghe
nói vậy, Lư thượng thư gật gật đầu như hiểu ý.
Đoàn
khách quý được mời vào nhà đón khách được gọi là
" Nghênh tân quán" nằm ngay cạnh Độc thư đường
ở trong thành đất.
Cán,
người con cả thay mặt bố hướng dẫn khách vào nhà.
Trong
đoàn khách có hai tùy tùng của Lư thượng thư, đưa vào
phòng một cái hộp văn thư màu đỏ được bọc trong một
tấm lụa màu xanh nửa hở. Tất nhiên những người trong
đoàn đều biết trong đó đựng tấm ngự bài do triều
đình sắc phong.
Cán
bước vào phòng, bưng một chiếc án thư nhỏ màu đỏ
đặt lên trên chiếc hòm gỗ lớn để ở phía đông gian
phòng. Sau đó, theo chỉ thị của Lư thượng thư, đặt
cẩn thận chiếc tráp đựng văn thư lên trên chiếc án
thư.
Vốn
dĩ khi tiếp nhận ngự bài được sắc phong theo lệnh của
nhà vua, tất thảy đều phải tuân theo nghi lễ được
quy định. Thế nhưng theo quy định của triều đình Cao
Ly, khi sắc phong cho các tướng lĩnh ngoài mặt trận,
không cần phải làm đủ các lễ nghi phức tạp. Bởi
thế, buổi lễ trao ngự bài hôm đó đã được cử hành
trước bản doanh mặt trận.
Từ
sau khi về sống ở thành Ủng Tân, Hoa sơn quân đã hai
lần đánh lui quân Mông Cổ. Điều đó đã hiển nhiên.
Song hơn thế nữa, Người còn chăm lo giáo dục dân địa
phương và xây dựng nơi đấy thành một thị trấn hòa
thuận yên vui. Đối với công lao về mặt xã hội đó,
triều đình đã tâu lên đại vương Cao Tông. Đại vương
rất đỗi vui mừng, đánh giá cao công lao đó. Nhà vua cử
Lư thượng thư đi làm thích sứ về phong cấp thực ấp
là đất Ủng Tân với hai nghìn hộ dân, đồng thời trao
tặng tước vị cho Hoa tướng quân.
Hai
người con của Hoa sơn quân cũng nhân dịp này kéo viện
binh về đi cùng với quan thích sứ.
Một
chốc sau, không khí trong phòng trở lên nghiêm trang hẳn
lên. Hoa sơn quân được hai con dìu hai bên, hai tay run run
giơ lên cao đỡ lấy chiếc tráp đựng văn thư do Lư
thượng thư trao lại bằng hai tay, đoạn đặt xuống phía
trước.
Hoa
sơn quân nhìn một chập chiếc tráp văn thư bên trong đặt
ngự bài của đại vương Cao Tông, không ngăn được nỗi
xúc động, hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi trên hai
gò má. Người sụp lạy trước chiếc tráp, giọng nghẹn
ngào:
-
Niềm ân sủng này của đức đại vương, hạ thần xin
đời đời ghi xương khắc cốt.
Nghe
tiếng khóc xúc động của Hoa tướng quân, mọi người
có mặt trong phòng cũng rơm rớm nước mắt khóc theo.
Cán
và Nhất Thanh đứng hai bên lấy lời an ủi bố và dìu
bố đứng dậy.
Bình
thời, Hoa sơn quân là người trầm tĩnh, nay nhận được
thánh chỉ của đức vua, trong lòng có nhiều mối cảm
kích là điều có thể hiểu được. Nhưng không ngờ niềm
xúc động đó đã bật thành tiếng khóc, thể hiện tình
cảm trung thành tận đáy lòng của Người.
Trong
lúc đó, bỗng nhiên viên phó tướng chạy vào báo cáo
tình hình với Hoa sơn quân:
-
Tướng Khalitan của Mông Cổ ngay từ đầu thấy bốn cửa
thành mở toang đã sinh nghi. Hắn không ngờ bị quân Cao
Ly tập kích từ phía sau lưng, bởi vậy hắn cứ tưởng
đó là cuộc tập kích của phục binh quân Cao Ly đã được
sắp sẵn từ trước, do đó hắn hoảng sợ chạy thoát
thân ra ngoài thành. Đúng vào lúc đó, nguyên soái A Mô
Khan của quân Mông Cổ hạ lệnh rút quân. Vì quân của
Khalitan là đơn vị đi trước nên chúng đã bắt đầu
rút.
Mọi
người đang căng thẳng đầu óc, nay nghe báo cáo bỗng
trở nên sôi nổi hẳn lên.
Quan
huyện An ngồi thu mình ở trên ghế cuối bỗng đứng dậy
như có điều gì khẩn cấp muốn nói ngay:
-
Bản quan là quan huyện An Ngọc ở xứ này. Hôm nay được
gặp Lư thượng thứ là thích sứ của đức đại vương
và Hoa sơn quân là người chẳng khác gì phụ mẫu của
trăm họ ở xứ này, bản quan xin có một lời muốn nói.
Dám mong quý vị ở đây cho phép.
Mọi
người cảm thấy khó xử trước lời thỉnh cầu bất
ngờ của quan huyện.
Giữa
lúc trang nghiêm như thế này, lỡ nói ra điều gì thất
thố sẽ rất phiền. Nhưng nghĩ lại, thấy lời thỉnh
cầu đó có lẽ quan huyện định nhằm nói với ai cũng
nên. Nên khi ánh mắt của quan huyện vừa nhìn sang Lư
thượng thư, Lư thượng thư không một chút chần chừ,
liền nói:
-
Quan huyện An có điều gì cần nói hãy thử nói nghe xem
nào
Được
cấp trên cho phép, quan huyện vốn ít hiểu biết phép xã
giao bèn giơ hai cánh tay lên cao hô to:
"Đại
vương Cao Tông nước Đại Cao Ly chúng ta muôn năm"
"Hoa
sơn quân Ủng Tân chúng ta muôn năm"
Tiếp
theo tiếng hô muôn năm vang dội, mọi người đều ra sức
dõng dạc hô theo " Muôn năm!"
Không
chỉ các cấp chỉ huy và binh lính ở đây mà tất cả
mọi người dân trong thành Ủng Tân dường như cũng hô
vang lên như vậy.
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét