Ngôn
từ dân gian trước đây định danh "Đền Đông",
"Đền Mẫu Đông". Khánh tự và sớ văn ghi rõ
"Đông Quang linh từ", còn bây giờ là "Đền
Mẫu đệ nhị Thượng Ngàn".
Trong
Kiến Văn Tiểu Lục quyển X mục "Linh tích" thời
hậu Lê, cụ Lê Quý Đôn viết: "Văn Châu, một người
thuyền hộ xã Kính Chủ, huyện Thanh Ba (nay thuộc địa
phận Lâm Thao- Phú Thọ) là học trò Hiệu như Nguyễn
Đình Kính. Giữa niên hiệu Bảo Thái (1720 - 1729) đi buôn
ở Đông Quang (nay thuộc huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái) bến
sông này có miếu thờ Đông Quang Công Chúa vẫn nổi
tiếng anh linh. Tục truyền Công Chúa là vợ Đại vương
miếu Ngọc Tháp huyện Sơn Vi (sau đổi là huyện Lâm
Thao). Một hôm trời đã tối, Văn Châu thấy một người
từ trong miếu Đông Quang đi ra đến chỗ thuyền đỗ,
gọi tên mình và bảo rằng: " Khi thuyền nhà người
trở về qua miếu Ngọc Tháp, phiền nhà ngươi nói giúp
là kính tạ Đại vương, Chúa bà đã sinh con trai rồi,
gửi lời về báo để đại vương biết". Nói xong
liền biến mất. Đường thuỷ mà thuyền buồm đi từ
Đông Quang đến Ngọc Tháp phải ba, bốn ngày, thế mà
ngày hôm ấy, Văn Châu bắt đầu đi từ sáng sớm, thuyền
đi như tên bay, đến giờ Thân đã tới Ngọc Tháp (chỗ
này núi đá mọc nhô ra bến sông như hình ruột ốc, miếu
ở trên núi, bên cạnh miếu có chùa Lăng Nghiêm) Văn Châu
theo lời thầy dặn, đứng ở đầu thuyền nói lại rồi
đi".
Thần
Tích của dòng mo họ Hà coi việc giữ đền và tế tự
chép: Đông Quang Công Chúa là Lê Thị Kiểm. Bà là vợ
ông Hà Văn Thiên, người Tày Đông Cuông được triều
đình giao cai quản vùng Đông Cuông và ngoại vi. Ông
Thiên, hậu duệ của Hà Đặc, Hà Bổng (Trại chủ Quy
Hoá) bị hy sinh trong chiến tranh chống Nguyên. Ông bà sinh
hạ được một con trai. Khi Ông tạ thế, bà Kiểm và con
trai ở lại Đồng Cuông rồi mất tại đấy. Dân lập
miếu thờ ông bên Ghềnh Ngai (hữu ngạn sông Hồng) và
thờ hai mẹ con bà bên tả ngạn, đối diện với
miếu.
Trong
nhân dân hai xã Đông Cuông và Ngòi A lưu truyền một
huyền thoại: ở xóm Đá Ôm thôn Đồng Dẹt xã Đông
Cuông có một giếng nước sâu trong vắt. Giếng ở chân
gò, nơi chúa họ Cầm ở (tù trưởng bộ tộc Tày). Một
hôm, con gái tù trưởng là Cầm Thị Lả (Cầm Thị Lê)
ra giếng gội đầu. Lỡ tay đánh rơi lược xuống giếng,
nàng vội nhào theo vớt lược. Lược chẳng thấy chỉ
thấy đáy giếng lộ ra một con đường rộng, sâu hút.
Nàng theo đường ấy, đi mãi đến Thuỷ Cung rồi gặp
Long Vương lấy làm chồng và sinh hạ được một trai.
Nhớ nhà, nàng bế con trở lại dương thế và hứa với
Long Vương hàng năm sẽ xuống thăm chồng một lần và
chỉ đi một mình không đem con đi cùng. Giếng Đồng Dẹt
trở thành giếng thần. Tháng Giêng ngày mão, xã chọn
thanh niên chưa vợ đi tát sạch giếng để lọc lấy nước
trong thanh khiết cúng lễ.
Năm
Giáp Dần (1914) nghĩa quân Kinh - Dao - Tày huyện Trấn Yên
khởi nghĩa chống Pháp thất bại bị chính quyền thống
trị Pháp hành hình trong đó có năm ông người Tày họ
Hà, Hoàng, Lương, Nguyễn quê ở Đông Cuông, các vị được
tôn thờ tại đền.
Theo
tục truyền, xã Đông Cuông cổ xưa là Mương Khà đã có
từ lâu đời do các dòng họ Hà, Hoàng Tày Khao sáng lập;
đồng thời họ Hà dựng đình để làm nơi cúng thần
Sông , Núi, Thổ địa, Thành Hoàng Làng.
Hai
họ Hà và Cầm từng thay nhau đảm lãnh công vụ chính
quyền và cúng lễ của toàn mường.
Đình
Mường Khà cũng là nơi làm việc của thổ tù, chức
dịch, phiên quan gánh nhận chức năng "Đình Trạm"
chuyên tống đạt công văn thư chỉ hai chiều giữa cấp
trên và cấp cơ sở. Thời Trần, Tổng binh Quy Hoá Hà
Bổng và thuộc viên của ông từ Thanh Sơn lên biên ải
vẫn thường dừng chân ở Quán Tuần và Đình trạm Mường
Khà.
Hệ
thống đình Mường Khà gồm: đình cả (sau này là đền
Đông Cuông) và các đình thôn, đình xóm thượng - hạ.
Đình cả do dòng họ Hà quán xuyến, đình nhỏ do dòng họ
Hoàng, họ Lương đăng nhang.
Dòng
họ Hà cho biết tổ phụ của họ là Hà Văn Thiên đã
từng lãnh đạo địa phương đánh giặc Nguyên thời Trần
sau bị tử trận và được dân làng lập miếu thờ bên
Ghềnh Ngai (xã Tân Hợp huyện Văn Yên ). Miếu làm theo
kiểu nhà sàn chân thấp, to hơn miếu hiện nay. Vợ ông
là Lê Thị Kiểm và con trai ông khi tịch diệt cũng được
dân thờ bên Ghềnh Ngai và ít lâu sau, ban thờ mẹ con
được di sang đình cả bên Đông Cuông.
Kế
từ khi triều đình phong sắc, đình được mở rộng,
tông trang, dần dà cải đổi thành miếu mà Cụ Lê Quý
Đôn thời Hậu Lê đã ký lục. Triều Nguyễn, miếu được
nâng thành đền và thánh từ trong Đại Nam Nhất Thống
chí định danh là "Đền Thần Vệ Quốc" gọi
theo sắc phong. Đền lúc này vẫn bằng gỗ làm theo kiểu
nhà sàn chân thấp. Sau sự biến Giáp Dần (1914), dân tổng
Đông Cuông góp tiền đón thợ Hà Đông, Nam Định lên
đúc tượng đồng Vua Mẫu và Vua Con.
Năm
1924, một nhà buôn lâm sản ở mấy cửa ngòi quanh Đông
Cuông bỏ tiền riền và vận động thiện nam tín nữ góp
của đón thợ Hương Canh (Vĩnh Yên) lên gạch đền Mẫu
và tu sửa đền Ông Ngềnh Ngai. Dịp này, con nhang đệ tử
cung tiến khá nhiều đồ thờ phong phú: chuông, đỉnh,
lư, hoành phi, đại tự, câu đối, bát bửu, y môn, rèm
cung, tán họng, hạc nến, mâm bồng... mang đậm yếu tố
văn hoá - tín ngưỡng đồng bằng. Tinh tuý và màu sắc
Việt Tày hoà trộn sâu sắc từ thời điểm này.
Năm
1979, nổ ra chiến tranh biên giới phía Bắc. Đền dỡ đi
để xoá mục tiêu. Đồ thờ cất giữ cẩn thận. Năm
1980, Hội người cao tuổi ở khu Bến Đền tái dựng đền
bằng vật liệu tranh tre nứa lá.
Thể
theo nguyện vọng nhân dân, ngày 4/01/1995, UBND tỉnh Yên
Bái ra quyết định cho phép nhân dân xã Đông Cuông huyện
Văn Yên "xây dựng lại ngôi đền Đông Cuông... đúng
trên nền ngôi đền cũ… để phục vụ việc tôn kinh
thờ cúng. Đền được Nhà nước và nhân dân dành cho
một khu đất khá rộng: 17.600 m2, tạo thành khuôn viên lý
tưởng: Tiền diện là sông Hồng và nản đá Ghềnh Ngai
luôn gợn sóng, sau lưng là đồng ruộng xen đồi bát úp,
phía phải là Khe Ao Sen, bên trái là con đường đất từ
đường sắt Yên Bái - Lào Cai chạy vào đền.
Đền Đông Cuông |
Đền
hướng mặt ra sông, chếch tây nam, nhìn thẳng sang miếu
Ghềnh Ngai. Miếu hiện được tách khỏi đền, giao cho xã
Tân Hợp quản lý.
Theo
bản "tóm tắt lịch sử đền mẫu Đông Cuông"
ngày 01/6/1998 của nhà Đền Đông Cuông thì "nội thất
bên trong... được sắp đặt các bàn thờ như sau: Trong
cung cấm có một tượng Mẫu, một tượng Quan Hoàng và
hai tượng hầu cận. Gian giữa bệ thờ Công Đồng Tứ
Phủ có 5 tượng quan. Nhìn theo hướng nhà đền bên phải
là toà sơn trang thờ 12 cô sơn trang. Bên trái xây toà thờ
Trần Triều và hai cô hầu cận". Tượng Quan Hoàng
chính là tượng "Vua Báo" mà đồng bào Tày thường
gọi nôm na.
Thời
phong kiến, chư thần Đông Cuông được bốn đời vua sắc
phong về công lao "bảo vệ đất nước, che chở nhân
dân" và xã Đông Cuông được đặc cách chuẩn y cho
theo trước phụng thờ chư thần và chăm non miếu đền:
Năm Tự Đức thứ 33 ngày 11 tháng 4 âm lịch; năm đồng
Khánh thứ 2 tháng 7 ngày 1; năm Duy Tân thứ 3 tháng 8 ngày
11; năm Khải Định thứ 9 tháng 7 ngày 25.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét