Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2016

Hoàng Thúc Lý Long Tường (Khương Vũ Hạc) - Phần 1

Từ lâu chúng ta từng nghe nói có một dòng họ Lý gốc Việt đã nhập cư vào Hàn Quốc cách đây khá xa. Dòng họ ấy đã có nhiều đóng góp cho Tổ quốc thứ hai của mình trong quá trình "đồng cam cộng khổ" và "chia ngọt xẻ bùi" suốt nhiều thế kỷ. Song vì nhiều lý do và hoàn cảnh, trong một thời gian dài trước đây, tin tức về sự kiện này vẫn chưa được xác minh để có kết luận chính xác.
Phải mãi đến khi quan hệ giữa nước Việt Nam đổi mới với các nước bạn bè gần xa được khơi thông trong xu thế hợp tác và phát triển, giao lưu văn hóa được mở rộng, nhất là quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc được không ngừng tăng cường, chúng ta mới có điều kiện tiếp xúc với tư liệu, tìm hiểu thực tế để khẳng định: vào thế kỷ 13, Lý Long Tường – một hoàng thúc nhà Lý ở Việt Nam, do những hoàn cảnh cụ thể thời bấy giờ, đã nhập cư vào Vương quốc Cao Ly, cho đến nay đã tới đời hậu duệ thứ 32. Do có công lớn trong đánh đuổi quân Mông Cổ xâm lược Cao Ly, Lý Long Tường đã được Quốc Vương Cao Ly tuyên dương công trạng và phong tước Hoa Sơn quân (lấy tên một ngọn núi ở Việt Nam) cho Ông. Kể từ Lý Long Tường, con cháu dòng họ Lý Hoa Sơn ngày càng phát triển và sống hòa nhập vào cộng đồng cư dân Cao Ly trước đây cũng như Hàn Quốc hiện nay.
Song điều đáng quý, đáng trân trọng nhất là ở chỗ: không chỉ có vị tổ Lý Long Tường mà tất cả các thế hệ con cháu dòng Lý Hoa Sơn luôn luôn da diết trong lòng một nỗi nhớ quê hương của những người con xa xứ, luôn luôn hướng về cội nguồn với ý thức tự hào về giòng giống con Hồng cháu Lạc, về truyền thống dựng nước và giữ nước suốt mấy nghìn năm rạng rỡ văn trị, chói lọi võ công.
Nặng lòng với cố quốc, từ năm 1994 đến nay, năm nào con cháu dòng họ Lý cũng về thăm quê hương đất tổ và tổ chức lễ dâng hương tại đền Lý Bát Đế ở Đình Bảng (Hà Bắc).
Năm nay, vào đúng dịp đoàn đại biểu dòng họ Lý do Ông Lý Xương Căn hậu duệ đời thứ 31 dẫn đầu về thăm quê hương đồng thời cũng vào dịp lễ hội Lý Bát Đế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn tiểu thuyết lịch sử "Hoàng thúc Lý Long Tường" để bạn đọc có tài liệu hiểu thêm về chân dung của một con người, nỗi lòng của những người con xa quê cha đất tổ, truyền thống quý giá của một dòng họ đối với cội nguồn.
Đây là một sự kiện lịch sử hiếm thấy, đầy ý nghĩa, đáng để các thế hệ con người Việt Nam suy ngẫm dù ở trong hay ngoài nước, là chiếc cầu nối góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước Việt Nam – Hàn Quốc.
Xin giới thiệu cuốn sách với đông đảo bạn đọc.
Tháng Tư năm 1996
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
LỜI CẢM TẠ
Tất cả những điều mà đáng ra tôi phải chôn chặt trong lòng, nhưng vì sự cao quý mà không sao quên được nên tôi đã phải gắng công thành lập Hội kỷ niệm hoàng tử Lý Long Tường.
Thử thách to lớn là sự gián đoạn quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Hàn Quốc trước năm 1975 đã làm cho mối quan tâm đặc biệt đối với các hậu duệ của vương triều Lý vốn từng bị vùi sâu trong ký ức của lịch sử, phải dừng lại giữa chừng dù chỉ trong nhất thời.
Giờ đây trước tiếng gọi thiêng liêng của việc tăng cường tình hữu nghị giữa hai nước và phát triển quan hệ tương thân hướng tới sự phồn vinh trong trào lưu quốc tế hóa và toàn cầu hóa đã vượt qua sự cách biệt ý tưởng, chúng ta càng cảm nhận sâu sắc mối nhân duyên máu thịt đã gắn bó hai nước ngay từ thời tổ tiên xa xăm. Điều đó trở thành nguồn cổ vũ thúc đẩy sống động hơn nữa mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước và sẽ được xem như tài sản quý giá hướng tới sự phồn vinh chung của những người bạn đồng hành trong tương lai giữa hai nước. Do vậy việc khắc sâu và làm sống động ý nghĩa đó là điều không thể chần chừ được.
Đối với tôi, Hàn Quốc là nơi tôi sinh ra và lớn lên, Việt Nam là mảnh đất của Tổ tiên, cả hai đều quan trọng. Do vậy, hơn ai hết, tôi cảm thấy sung sướng vô hạn khi được nhìn thấy tình cảm hữu nghị giữa hai nước được vun đắp tốt tươi.
Tôi là hậu duệ đời thứ 31 của Vương tử nhà Lý, xin thề sẽ xứng đáng với sự nghiệp của 8 vị Tiên vương vĩ đại, xứng đáng với quan hệ gắn bó giữa hai nước. Được sự hợp tác của nhiều vị trí thức, sắp tới tôi sẽ cố gắng hoạt động với ý nghĩa nhằm thực hiện những công việc vì phúc lợi như xây dựng đền thờ và bia kỷ niệm Hoàng tử Lý Long Tường, thúc đẩy giao lưu văn hóa vì tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, xây dựng chế độ học bổng, xây dựng trường kỹ thuật Lý Thái Tổ… Mặt khác, tôi cũng mong những hoạt động đó của tôi sẽ có sức thu hút đối với thế hệ trẻ Việt Nam cũng như đối với tất cả bà con Việt kiều ở hải ngoại, trở thành nguồn cổ vũ nhỏ bé góp phần tạo nên sức mạnh tình thân của toàn thể quốc dân cùng đồng lòng xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh trên thế giới. Được như vậy, tôi cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa lớn lao hơn. Mong được sự quan tâm chăm sóc của hai chính phủ hai nước Việt - Hàn và sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của nhân dân hai nước.
Là một phần của hoạt động đó, việc dịch ra tiếng Việt và xuất bản cuốn tiểu thuyết lịch sử Hoàng thúc Lý Long Tường là điều có ý nghĩaa hết sức lớn lao. Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc trước tinh thần cao cả của tiên sinh Khương Vũ Hạc (Kang Moo Hak) là tác giả của cuốn sách này.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng đến ông Đại sứ Việt Nam Nguyễn Phú Bình tại Hàn Quốc, ông Đại sứ Hàn Quốc tại Việt Nam, ông Tổng lãnh sự cùng nhiều vị cán bộ ngoại giao khác.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến Giáo sư Phan Huy Lê, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã không quản khó nhọc, trực tiếp lo liệu cho đến khi bản dịch ra đời và dành sự quan tâm đặc biệt về lịch sử của Vương triều Lý nước Đại Việt từ thời Tiên tổ, đến ông Trần Văn Thêm, chuyên viên của Bộ ngoại giao Việt Nam, đã dành nhiều tâm huyết cho việc dịch ra tiếng Việt và nhà văn Đào Vũ đã nhuận sắc cho bản dịch. Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn đến Nhà xuất bản chính trị Quốc gia đã dành sự ưu ái cho việc xuất bản cuốn sách để tác phẩm kịp ra mắt bạn đọc vào dịp lễ hội đền thờ các vua Lý ở Đình Bảng (Hà Bắc) ngày 15 tháng 3 âm lịch.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến Chủ tịch Hội là Đại Long Chính Dân Lý Huân (hậu duệ đời thứ 30 Lý Thái Tổ) đã có lòng chi viện về tinh thần lẫn vật chất cho đến khi quyển sách được xuất bản.
Ngoài ra, tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến tất cả các vị đã dành cho tôi sự quan tâm và lòng yêu mến. Tôi mong rằng không chỉ hậu duệ họ Lý, các nhà nghiên cứu mà tất cả những ai quan tâm đến quan hệ hữu nghị Việt - Hàn sẽ có dịp đọc quyển tiểu thuyết này.
Ngày 20 tháng 4 năm 1996
LÝ XƯƠNG CĂN
Hậu duệ đời 31 Lý Thái Tổ nước Đại Việt
Chủ tịch điều hành Hội giao lưu văn hóa dân tộc Hàn - Việt
Hội kỷ niệm Hoàng tử Lý Long Tường

LỜI GIỚI THIỆU
Trước đây tôi có nghe nói về một dòng họ Lý gốc Việt ở Hàn Quốc. Nhưng đến tháng 10 năm 1994 nhân dịp sang tham dự cuộc Hội thảo khoa học về "Nguồn gốc Hoàng thúc Lý Long Tường và hậu duệ họ Lý ở Hàn Quốc" do Hội giao lưu văn hóa Hàn - Việt và Hội kỷ niệm Hoàng tử Lý Long Tường tổ chức tại Seoul, tôi mới có dịp tiếp cận những tư liệu của dòng họ này. Tư liệu khá phong phú bao gồm những chuyện truyền khẩu của con cháu, một số di tích vật chất như tổ mộ, làng quê Hoa Sơn, thành lũy, nhà bia và đặc biệt có giá trị là những tư liệu chữ viết như Hoa Sơn Lý thị tộc phổ là bộ gia phả chép từ thủy tổ Lý Công Uẩn ở Việt Nam đến Lý Long Tường nhập cư vào vương quốc Cao Ly thế kỷ 13 cho đến các thế hệ hậu duệ 32 đời, bài văn bia Thụ hàng môn kỷ tích bi ghi chép hành trạng và chiến công chống quân xâm lược Mông Cổ của Lý Long Tường, tập sách Hoa Sơn quân bản truyện…
Ở Hàn Quốc có nhiều họ Lý, dòng họ Lý gốc Việt này thường gọi là Lý Hoa Sơn vì Hoa Sơn là quê hương đầu tiên khi Lý Long Tường nhập cư Cao Ly và cũng gắn liền với thực ấp và tước hiệu Hoa Sơn Quân do vua Cao Tông nước Cao Ly phong cho ông.
Đem đối chiếu tư liệu ở Hàn Quốc với tư liệu Việt Nam, có thể xác định Lý Long Tường là Hoàng tử con vua Lý Anh Tông (1138-1175), em vua Lý Cao Tông (1176-1210) và là chú vua Lý Huệ Tông (1211-1224). Vì vậy trong tư liệu chữ viết và trong ký ức của con cháu, vị tổ Lý Long Tường được gọi là Hoàng tử hay Hoàng thúc.
Trong chính sử của Việt Nam, cho đến nay chưa tìm thấy một tư liệu nào về Lý Long Tường. Những bộ chính sử tiêu biểu như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư… chép Lý Anh Tông sinh Long Xưởng năm 1151 và Long Trát tức Lý Cao Tông, năm 1173. Nhưng Đại Việt sử ký toàn thư lại xác nhận Long Trát là con trai thứ 6 của Lý Anh Tông. Như vậy, ít ra có 4 người con không được ghi vào chính sử và do đó, không tìm thấy tên Lý Long Tường trong chính sử thì cũng không thể coi là căn cứ đáng tin cậy để phủ nhận sự tồn tại của nhân vật này. Hơn nữa, sử biên niên không chép hoặc chép thiếu sót, một số nhân vật hay sự kiện lịch sử thì cũng không có gì lạ và có thể chứng minh được qua nhiều dân chứng.
Đối chiếu tư liệu họ Lý ở Hàn Quốc với tư liệu Việt Nam thì Lý Long Tường sinh sau năm 1173, năm sinh của Long Trát, và trước năm 1175, năm mất của Lý Anh Tông (cũng có thể 1175 hay đầu năm 1176 với giả thuyết Hoàng hậu mang thai trước khi nhà vua mất vào tháng 7 năm ất Mùi-1175). Có thể giả định ông sinh năm 1174 hay 1175 và là Hoàng tử thứ 7 (em của Lý Cao Tông và chú của Lý Huệ Tông, không phải là Hoàng tử thứ 2 như có người đã viết).
Lý Long Tường lớn lên khi vương triều Lý đang suy vong và trong cung đình diễn ra nhiều biến cố dồn dập dẫn đến sự sụp đổ của triều Lý (1009-1225) và sự thay thế của triều Trần (1226-1400).
Trước những thảm họa đó, Lý Long Tường cùng một số tôn thất nhà Lý đã tìm cách vượt biển ẩn tránh ra nước ngoài. Văn bia Thụ hàng môn ký tích bí chép sự việc này như sau: "Năm Bính Tuất niên hiệu Bảo Khánh (đời Tống, 1226), trong nước có loạn, việc thờ cúng tổ tiên ở nhà Tông miếu bị hủy bỏ. Ông là chú vua, khóc ở miếu Nam Bình rồi đem đồ tế khi chạy về phía đông. Ông nói rằng: không đi thì không thành được cái chí của ba người xưa (ý nói Vi Tử, Tỉ Can, Cơ Tử đời Ân, khi nhà Ân mất, mỗi người theo chí của mình; Vi Tử theo Chu để giữ việc thờ cúng, Tỉ Can can vua bị giết, Cơ Tử chạy ra nước ngoài để giữ dòng giống). Ông vượt biển đến sông Phú Lương huyện ủng Tân nước Cao Ly, ẩn ở Trấn Sơn phía nam phủ thành, đặt hiệu Vi Tử động". Mục đích ra đi của Lý Long Tường là để giữ việc thờ cúng tổ tiên như trường hợp Vi Tử đời Ân nên ông đặt hiệu là Tiểu Vi Tử và nơi ở là Vi Tử động.
Lý Long Tường được vua Cao Ly ưu ái, ban cấp cho đất cư trú. Ông cùng con cháu họ Lý nhanh chóng hòa nhập vào cuộc sống của vương quốc Cao Ly và được nhân dân trong vùng quí mến.
Lúc bấy giờ, phía tây Cao Ly, đế chế Mông Cổ đang phát triển như vũ bão và mở rộng chinh chiến, xâm lược bắc Trung Quốc, chinh phục Trung á, Tây á và Đông Âu. Năm 1253, quân Mông Cổ tấn công Cao Ly, đánh vào quốc đô và một cánh quân đánh vào ủng Tân. Lý Long Tường đã đứng ra tổ chức kháng chiến, cùng với quan quân trong phủ thành và nhân dân địa phương chiến đấu dũng cảm, mưu trí. Sau 5 tháng, quan giặc thua to, phải xin hàng.
Văn bia ghi chép chiến công này như sau: "Đời Ân Hiếu Vương nước Cao Ly, năm Quý Sửu (1253), đại quân Mông Cổ đến, trước đánh vào quốc đô, vua phải lánh ra đảo Giang Hoa. Quân địch lại tràn ra phía tây, đánh ủng Tân, thế rất nguy cấp. Ông bèn vì nghĩa khí, quyết đem quân ra khỏi thành cùng với quân trong phủ, trao phương lược cho các quân. Giao chiến 5 tháng, quân địch thua to, nói là muốn hàng, đem biếu 5 hòm vàng. Ông đoán biết mưu gian, sai khoét hòm, dội nước sôi vào, cả 5 tên thích khách cầm gươm sẵn trong hòm đều bị chết, rồi sai bịt kín lại và gửi trả. Quân Mông Cổ sợ lắm, liền xin hàng, thu quân rút chạy. Nghe việc ấy, vua rất khen ngợi, sai đổi Trấn Sơn làm Hoa Sơn. Lại lấy đất 30 dặm vuông, nhân khẩu của 20 hộ, cho ông làm thái ấp để phụng thờ tổ tiên. Lại sai dựng cửa gọi là Thụ hàng môn, lập biển ghi công trạng để biểu dương công huân, tức cửa thứ ba phía ngoài dinh quán này. Con cháu đời đời ở đô, nhập tịch Hoa Sơn".
Tại Hoa Sơn (nay thuộc Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên) còn lưu giữ nhiều di tích mang dấu ấn chiến công của Lý Long Tường như khu dinh quán, thành lũy. Thụ hàng môn với tấm bia Thụ hàng môn kỷ tích bi. Lý Long Tường đã cùng quân dân Cao Ly đánh bại quân xâm lược Mông Cổ của quân dân Đại Việt 5 năm (1258). Lúc đó, ông đã là một lão tướng khoảng gần 80 tuổi. Mộ của ông ở phía tây phủ thành ủng Tân 10 dặm, dưới chân núi Di ất.
Kể từ Lý Long Tường, con cháu dòng họ Lý Hoa Sơn ngày càng phát triển và sống hòa nhập vào cộng đồng cư dân Cao Ly trước đây cũng như Hàn Quốc hiện nay. Trong lịch sử, dòng họ Lý có nhiều người thành đạt, có người đỗ Tiến sĩ, có người giữ chức tước cao như Nghệ văn quán đại đề học, Lê tào tham nghị, Giám tu quốc sử, Thượng thư hữu bộc xã, có người văn chương nổi tiếng một thời…
Điều đáng quý, đáng trân trọng nhất là từ vị tổ Lý Long Tường thế kỷ 13 cho đến các thế hệ con cháu ngày nay, không bao giờ quên cố quốc, luôn luôn hướng về quê cha đất tổ với ý thức và tình cảm sâu lắng. Tại Hoa Sơn có một ngọn núi cao gọi là Quảng Đại Sơn, trên đỉnh có một nền đá bằng phẳng. Tương truyền rẳng, Lý Long Tường thường lên đó ngóng trông về phương nam, thương nhớ quê nhà. Ngọn núi đó vì thế mang tên Vọng cố hương.
Cháu đời thứ 31 là ông Lý Xương Cần đã nhiều lần về thăm quê hương của tiên tổ và ông cùng đại biểu của dòng họ từ năm 1994 đến nay hàng năm hành hương về dự lễ hội tại đền Lý Bát Đế ở Đình Bảng (Hà Bắc). Ông cùng những người nhiệt tâm lập Hội giao lưu văn hóa Hàn-Việt nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước và Hội kỷ niệm Hoàng tử Lý Long Tường nhằm nhắc nhở con cháu nhớ về cội nguồn tổ tiên. Ông cũng đang hoạt động tích cực góp phần mở rộng quan hệ giao lưu văn hóa, kinh tế giữa Hàn Quốc và Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng thúc Lý Long Tường cùng tấm lòng của hậu duệ họ Lý Hoa Sơn không những là đề tài nghiên cứu khoa học hấp dẫn mà còn gây cảm hứng sáng tác văn học, nghệ thuật.
Nhà nghiên cứu phương Đông cổ điển và nhà văn Khương Vũ Hạc (Kang Moo Hak, 1910-1994) đã viết một cuốn tiểu thuyết lịch sử nhan đề Hoàng thúc Lý Long Tường. Ông Lý Xương Cần cho biết, cuốn sách đã làm ông rất xúc động và đã có tác dụng nâng cao hiểu biết, khắc sâu tình cảm của con cháu họ Lý đối với Tiên tổ và Cố quốc. Ông có nhã ý muốn dịch ra tiếng Việt và xuất bản cuốn tiểu thuyết lịch sử trên tại Việt Nam để con cháu họ Lý ở quê tổ cũng như ở hải ngoại vả mọi người Việt Nam được thưởng thức tác phẩm và qua đó, hiểu thêm cuộc đời sóng gió và anh hùng của Hoàng thúc Lý Long Tường cũng như tấm lòng luôn luôn hướng về quê cha đất tổ của hậu duệ họ Lý Hoa Sơn.
Bản dịch do ông Trần Văn Thêm, chuyên viên Bộ ngoại giao thực hiện và nhà văn Đào Vũ nhuận sắc. Trong một thời gian hết sức khẩn trương, chỉ trong 5 ngày, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã nhiệt tình tổ chức xuất bản để cuốn sách có thể ra mắt bạn đọc Việt Nam đúng vào dịp lễ hội đền Lý Bát Đế (đền Đô) vào ngày 15 tháng 3 âm lịch năm Bính Tý tức ngày 2-5-1996.
Đây là một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử với những đặc trưng của thể loại văn học này, chứ không phải là một cuốn sử hay tiểu sử. Đây đó trong tác phẩm có những miêu tả hay hư cấu chưa thật phù hợp với bối cảnh lịch sử và địa lý nước Đại Việt thế kỷ 13 thì cũng là điều dễ hiểu và cần thể tất vì tác giả thiếu những tư liệu lịch sử về phía Việt Nam và ngay trong tư liệu về Lý Long Tường lưu giữ ở Hàn Quốc so với những thư tịch trong nước cũng còn những điều cần phải được giám định và xác minh. Nhưng tinh thần xuyên suốt tác phẩm là tấm lòng trân trọng của tác giả đối với cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng thúc Lý Long Tường và mối quan hệ hữu nghị lâu đời giữa nhân dân hai nước Việt-Hàn.
Nhân dịp phát hành bản dịch tiếng Việt cuốn tiểu thuyết lịch sử Hoàng thúc Lý Long Tường, tôi xin trân trọng giới thiệu tác phẩm với bạn đọc trong nước và bà con người Việt ở hải ngoại. Tôi hi vọng cuốn tiểu thuyết lịch sử này cùng với những kết quả nghiên cứu khoa học về Lý Long Tường và dòng họ Lý Hoa Sơn sẽ giúp người đọc hiểu thêm về một nhân vật lịch sử bị thời gian che phủ khá lâu và hiểu thêm tấm lòng của những người Việt xa Tổ quốc.
PHAN HUY LÊ
Giáo sư sử học, Đại học quốc gia Hà Nội
CHƯƠNG 1: NHÀ LÝ SUY VONG
Khoảng hơn 740 năm trở về trước, vương triều nhà Lý của nước Đại Việt nối đời trị vì đất nước đã được 220 năm. Đến đời vua thứ tám là Hạo Sảm 1 sau khi lên ngôi, nhà vua lâm bệnh, phải sống trong đau khổ. Chưa đầy mấy năm, nhà vua băng hà. Nhà vua không có con trai làm thế tử nối ngôi, nên công chúa Chiêu Thánh 2 vốn trông coi công việc nhiếp chính đã lên kế vị ba năm nhưng chỉ mải mê công việc tu hành, không biết gì đến chính sự.
Xem lại cách sách sử của Hán, Đường, Tống đều thấy ghi chép nước Đại Việt chẳng khác chi một quận nơi miền biên ải xa xôi với các tên khác nhau như An Nam, Giao Chỉ…
Nhưng dân tộc Đại Việt là một dân tộc thông minh, tài trí. Từ ngày xưa, họ đã trải qua các thời đại dựng nước như Hùng vương, Thục vương. Và sau đó trong thời bắc thuộc, họ đã liên tiếp đứng lên chống lại sự đô hộ của bắc quốc qua các thời đại Trưng nữ vương, tức hai chị em bà Trưng Trắc, Trưng Nhị và vương triều nhà Lê. Đến đời vua thứ ba của nhà Lý là Nhật Tôn vương, Đại Việt chỉ xưng "Giao Chỉ quận vương" trong các văn thư quốc giao với nhà Tống, còn trong nước vẫn xưng "Đại Việt hoàng đế". Đến đời vua thứ sáu là Thiên Tộ 3, nước Đại Việt vốn ngang nhiên hùng cứ một phương, đã nhân lúc nhà Tống cất quân đi đánh nước Kim, và rục rịch Nam tiến, bèn tìm cách thoả hiệp với thiên tử Hiếu Tông nhà Tống, xây dựng nên quốc gia hoàn toàn độc lập, xưng danh là "Đại Việt quốc", nhưng trong nước lại tự xưng là "Đại Việt hoàng đế quốc", với ngụ ý lớn: vua nước Đại Việt cũng bằng vai với Hoàng đế nước Trung Hoa. Thiên Tộ đại vương là một ông vua cực kỳ thông minh tài trí, luôn luôn tìm cách thoát khỏi ách áp bức bóc lột của nhà Tống ở phương bắc, đã tại vị được 39 năm. Sau khi nhà vua băng hà, thế tử Long Hàn 4 lên kế vị.
Lúc bấy giờ, Trần Nhật Chiếu 5 là chồng của công chúa Chiêu Thánh - con gái vua Long Hàn lên làm tể tướng, phò tá vua Long Hàn.
Vua Long Hàn do có bệnh lâu ngày, đã đặt ra chức "Tam công" gồm có hoàng thúc Lý Long Tường, hoàng thân Lý Quân Tất và phò mã Trần Nhật Chiếu 6. Nhà vua giao cho ba người này phò tá quốc sự, nhưng rốt cuộc, Trần Nhật Chiếu với lòng tham không đáy, đã cùng với công chúa Chiêu Thánh gây bè kéo cánh, loại bỏ hoàng thúc và Lý Quân Tất. Sự thật, một tay Trần Nhật Chiếu thu nắm hết mọi quyền thế trong nước. Hoàng thái tử Hạo Sảm cũng luôn đau yếu. Trong hoàn cảnh đó, vua Long Hàn băng hà, thái tử lên ngôi kế vị, nhưng do đau ốm lâu ngày cũng băng hà nốt. Công chúa Chiêu Thánh theo mưu gian của Trần Nhật Chiếu đã lên ngôi kế vị trong ba năm.
Tế tướng Trần Nhật Chiếu sau khi đưa phu nhân của mình lên ngai vàng 7 và cho ngồi yên trong Đông cung, đã tự mình khuynh đảo quốc sự, lập mưu gian cướp đoạt ngôi báu.
Đến năm Bảo Khánh thứ ba 8, vương triều nhà Lý chuyển sang vương triều nhà Trần.
Vào một ngày trời quang mây tạnh khi mùa mưa đã qua, mặt trời ban mai toả chiếu xuống cung điện ở Trường An, kinh thành của nước Đại Việt.
Từ sáng, trời bắt đầu nóng, công chúa Chiêu Thánh, nữ vương đời thứ chín của nước Đại Việt ra lệnh triệu tập các quận công của chín quận và các tướng lĩnh hàng ngũ phẩm về triều họp bàn quốc sự.
Sáng hôm nay, theo lệnh, các văn võ bá quan của đất nước lần lượt tụ họp về ngôi chính điện. Bốn cửa của chính điện được mở to, trước cửa lính thị vệ đứng gác, tay lăm lăm giáo dài kiếm sắc, tỏ rõ uy thế của nước Đại Việt. Trong ánh nắng chói chang, các quan chức bộ Lễ áo mũ chỉnh tề, ghi chép tên họ bá quan văn võ và hướng dẫn họ vào chính điện.
Trong chính điện đã tề tựu đông đủ các quận công và bá quan văn võ.
Ở nước Đại Việt từng do các đại vương trị vì thiên hạ, giờ đây Long Tường đã mất chúa thượng. Còn công chúa Chiêu Thánh thì ngồi trong Đông cung, làm Quốc sư chân tu. Trong khi đó tại nơi chính điện, chồng của công chúa - Trần Nhật Chiếu nắm trọn mọi quyền hành trong tay, mặc sức lộng hành ngang ngược.
Với chức danh tể tướng, một ngôi thứ còn thấp hơn ngôi thứ cả Long Tường. Trần Nhật Chiếu không đi đâu cả mà chỉ quanh quẩn trong hàng ngũ các bá quan văn võ tụ họp tại chính điện, lái câu chuyện trao đổi giữa họ đi theo ý định của mình.
- Buổi chầu hôm nay, đức đại vương không lâm triều ư?
Trong số quần thần, có ai đó buông lời trống không như tự hỏi mình.
Và có tiếng thì thào của một người nào đó bên cạnh:
- Tướng Trần Vũ đi sứ sang Tống đã về chưa?
Rõ ràng đây không phải là một câu hỏi muốn hỏi riêng với một ai đó. Bởi thê đã có tiếng nói bâng quơ đáp lại:
- Tướng quân đã về nước hôm qua rồi. Có lẽ sẽ đến cùng với ba vị chúa công.
Những câu chuyện rời rạc không đầu không đuôi được trao đổi qua lại với nhau như vậy đã làm cho chính điện trở nên khá ồn ào. Vừa lúc ấy, bỗng người lính gác ở cửa đông của chính điện hô lớn:
"Quan đại giám lâm triều!"
Gian chính điện đang ồn ào bỗng im phăng phắc, tưởng chừng con muỗi bay qua cũng nghe rõ. Không khí gian chính điện trở nên trang nghiêm, trầm lắng. Tất cả các hàng văn võ bá quan đều cúi rạp mình chờ đợi.
Trần Nhật Chiếu, một trong ba vị chúa công của nước này vốn là người xuất thân ở đất Văn, đã quá ngũ tuần, chồng của công chúa Chiêu Thánh, tức phò mã của nhà vua. Ông là một người có thân hình đẫy đà, khuôn mặt màu da đồng, hai mắt xếch ngược, lạnh lùng thâm hiểm.
Một chốc sau, Trần phò mã bệ vệ bước lên ngai tể tướng. Hai bên tả hữu, các thị nữ cầm những chiếc quạt to phe phẩy.
Tướng quân Trần Vũ đứng hẳn ngay phía sau quan tể tướng, càng làm nổi bật thêm uy thế của Trần tể tướng.
Bầu không khí rờn rợn hôm nay cho thấy nghị đàm rất khác với thường lệ.
Trong khi đó, từ phía đông cung vang lên tiếng trống "bum, bum, bum" càng như thôi thúc buổi hành lễ. Lễ bộ thị lang cùng các quan viên của bộ này khúm núm trình lên quan tể tướng sổ ghi chép các lễ vật do các quận công tiến cống và danh sách bá quan văn võ cùng các quận công tham dự buổi triều kiến.
Quan tể tướng đưa mắt nhìn qua bản danh sách xong, đặt lên bàn. Ngài đưa mắt nhìn khắp một lượt gian chính điện rồi bắt đầu cuộc nghị sự. Bằng một giọng oai nghiêm, ngài nói:
- Đức đại vương ngọc thể bất an, nên kẻ hạ thần, tướng công Trần Nhật Chiếu sẽ chủ toạ cuộc nghị sự hôm nay. Đặc biệt, quan tả hữu vị tướng quân Trần Vũ được cử đi sứ sang chầu thiên tử nước Tống hơn một tháng trước, đã hoàn tất thành công mọi sứ mạng trở về. Đây quả là vận may mà trời đã ban cho chúng ta vậy.
Nói đến đây, Trần Nhật Chiếu dứt lời và qua sang nhìn Trần tướng quân đang đứng phía sau. Tất cả mọi người trong chính điện đều đổ dồn ánh mắt về phía Trần tướng quân.
Trần tướng quân cúi gập chiếc lưng cánh phản xuống thi lễ.
Quan tể tướng nói tiếp:
- Thiên tử nước Tống có gửi một bức tâm thư, hôm qua đã trình lên đại vương. Sau này sẽ công bố bức tâm thư đó. Có điều đức đại vương quý thể bất an nên đã nhiều lần bày tỏ ý định nhường ngôi cho kẻ hạ thần này. Dù kẻ hạ thần là phò mã của vương triều Lý, đã chịu nhiều ân sủng của các bậc tiên vương, nhưng một việc quốc gia đại sự như thế này sao lại chỉ có nơi cung nội tự ý quyết định được? Vậy xin các vị quận công và bá quan văn võ hãy bàn bạc và quyết định. Xin mời quý vị cho biết ý kiến quý báu.
Lời quan tể tướng vừa dứt, khắp gian chính điện bỗng im phăng phắc, tưởng như mọi người đều nín thở. Tất nhiên trong hàng ngũ các quận trưởng và bá quan văn võ đều có những người đã từng mấy đời nối tiếp cháu con trung thành với nhà Lý trong hơn 220 năm qua; và cũng có phe phái theo gia đình họ Trần đã nắm lấy quyền binh qua hai đời Vua Long Hàn và Hạo Cán.
Trong giờ phút suy tàn của đời vua thứ chín vương triều Lý, giữa cảnh tượng buồn vui chen lẫn này, có một người từ giữa chính điện đứng phắt dậy, ánh mắt của tất cả mọi người đều dồn về phía đó. Người đó không phải ai khác mà chính là em ruột của Lý Quân Tất, một trong ba người được phong chức chúa công.
- Tiện nhân là Hàn lâm học sĩ Lý Quân Châm, thật lấy làm xấy hổ đấng Thái tổ đại vương đã hết sức đau lòng khi nhìn thấy cảnh lương dân quằn quại trong đau thương bởi bầy giặc cướp hoành hành khắp bốn phương. Do vậy mà, Người đã bất chấp hiểm nguy đứng lên quét sạch lũ hung tàn, xây dựng nên cơ đồ đất nước. Tuân theo nghĩa lớn đó của đức Thái tổ, các bậc đại vương qua nhiều đời kế tiếp trị vì thiên hạ, luôn toả sáng một tấm lòng của thánh chỉ: bệ hạ là bệ hạ của muôn dân; thánh thượng không phải chỉ là thánh thượng của triều đình mà còn là thánh thượng của muôn dân. Sau đó đến đời thứ tư là Kiến Đức đại vương, bọn Quách Quỳ nhà Tống vào năm thứ tám Hy Ninh, đã sang xâm lấn đất đai của ba hạt thuộc tỉnh Quảng Yên hòng cướp đoạt cương thổ phía bắc. Nhà vua đã thân chinh cầm quân dẹp tan lũ giặc, lại còn vượt qua dãy núi Côn Lôn đẩy lui chúng về sào huyệt. Đến đời thứ sáu, Thiên Tộ đại vương, thể theo ý nguyện của Nhật Tôn đại vương đời thứ ba, một mặt dốc tâm dạy bảo muôn dân, mặt khác để giương cao quốc uy, xác lập chủ quyền đất nước, đã thoả hiệp với hoàng đế Hiếu Tông nhà Tống, xây dựng nền đế chế Đại Việt, một quốc gia hoàn toàn độc lập, làm cho uy quyền đất nước toả sáng muôn phương. Các bậc tiên vương suốt trong 220 năm có dư đã mang lại bao ơn đức trời biển cho muôn dân nước này. Chẳng hiểu cơ trời bất hạnh hay sao mà đại đức vương Hạo Hán không có thái tử nối ngôi nên công chúa Chiêu Thánh đã lên ngôi Thánh thượng. Đó là một điều rất đỗi đương nhiên. Nhưng lấy có đại vương Chiêu Thánh quý thể bất an để nhường ngôi cho phò mã Trần tể tướng là điều quá ư không hợp lệ. Có một điều suy nghĩ không chỉ của kẻ bầy tôi này, đó là Hoàng Thúc Lý Long Tường, người con trai thứ hai của Thiên Tộ đại vương, là một bậc hiền nhân, công cao đức cả, được muôn dân tôn kính. Bởi vậy, người kế vị Chiêu Thánh đại vương chỉ có thể là chúa công Lý Long Tường, dòng dõi chính thống của tiên vương.
Hàn lâm học sỹ Lý Quân Châm nghẹn ngào, dứt lời trong tiếng khóc, phủ phục xuống đất, oà lên nức nở, làm lay động cả gian chính điện im lìm. Ngồi trên bệ ngọc, tể tướng không giấu nổi bộ mặt trầm uất nặng nề, quát to:
- Hàn lâm học sỹ Lý Quân Châm ăn nói vô lễ. ta đây tuy là tể tướng, là kẻ bầy tôi nhưng lại là phò mã của Thiên Tộ đại vương. Vợ ta là bệ hạ thánh thượng. Việc tông miếu, xã tắc chỉ được quyết định trong tông thất cung nội làm sao một kẻ Hàn lâm học sỹ lại dám ăn nói bừa bãi, buông ra những lời kiêu căng mạn thượng vượt quá quyền hạn như vậy?
Trần tể tướng nói đoạn quay sang phía Trần tướng quân:
- Hãy tước chức vụ và hạ ngục ngay tên học sĩ kia cho ta!
- Dạ...
Tướng quân Trần Vũ sát khí đằng đằng, từ phía sau lưng quan tể tướng tiến lên mấy bước rồi đứng lại; tỏ vẻ uy nghiêm quan trọng, Trần tướng quân cất cao giọng ra lệnh:
- Quân cấm vệ đâu, bắt hạ ngục ngay tên này cho ta.
Khoảng hơn mười tên lính cấm vệ biết sẽ có chuyện này xảy ra hôm nay nên đã phục sẵn ở ngoài. Nghe lệnh truyền, chúng chạy rầm rập vào bắt trói Lý Quân Châm không chút nể nang và lôi đi về phía cửa tây.
Tướng Trần Vũ đứng nhìn bọn lính cấm vệ trói và lôi Lý Quân Châm đi cho đến khi mất hút mới trở lại đứng bên cạnh Trần Nhật Chiếu, bày ra gian kế:
- Hôm nay tiểu tướng để cho mật chỉ của đức đại giám bị trắc trở thật lấy làm xấu hổ. Theo thiển ý của tiểu tướng, ta hãy giải tán cuộc nghị sự hôm nay và chỉ triệu tập riêng các quận công và các đại quan văn võ vào trong Đông cung để quyết định việc này trước sự chứng kiến của bệ hạ thánh thượng. Được như vậy sẽ tốt hơn cả.
Sự việc xảy ra làm cho quan tể tướng tức điên ruột. Lòng đầy phẫn uất, ngài không biết tính kế ra sao, bỗng nghe như vậy ít nhiều ngài cũng nguôi bớt cơn giận. Bình tâm trở lại ngài nói:
- Ý kiến của tướng quân hay đấy. Ta sẽ về cung. Tướng quân ở lại, cố thu xếp cho khéo.
Nói xong, quan tể tướng rời gót:
"Đức đại giám hồi cung!"
Các thị nữ vội chạy đến dìu Trần tể tướng đi về phía Đông môn của ngôi chính điện. Các triều thần văn võ đồng loạt đứng nghiêm tiễn quan tể tướng ra về.
Tướng Trần Vũ dương dương tự đắc, lớn tiếng cáo thị với toàn thể quần thần:
- Quan tể tướng dặn rằng chỉ có các quận công, các vị đại quan các bộ tối hôm nay là được triệu tập về Đông cung để nghị bàn trước bệ hạ thánh thượng.
Ngày hôm đó, khó nhọc lắm tướng Trần Vũ mới thu xếp xong cuộc hội triều và Trần tướng quân đã trở thành kẻ tâm phúc đắc lực nhất của Trần tể tướng.
Mưu việc lớn lần này cũng là Trần tướng quân. Vừa qua, vị tướng họ Trần này đã kiến nghị với quan tể tướng cho mình làm sứ mang nhiều bảo vật và ngựa quý của Đại Việt sang triều cống nhà Tống. Trần tướng quân tìm cách gặp gỡ làm quen với quan đại thần họ Thái ở Khu mật viện, và nhờ quan đại thần giúp đỡ để thành đạt mưu kế. Sau đó công chúa Chiêu Thánh quy y đầu Phật, mời các tăng lữ vào trong cung thất. Công chúa đã trở thành Quốc sư chân tu, như vậy làm sao có thể trị vì đất nước. Thế là Trần tướng quân dâng sớ lên Thiên tử mong Thiên tử khuyên công chúa truyền ngôi cho chồng là Trần Nhật Chiếu. Viên tướng họ Trần nhận được chiếu chỉ chấp thuận và trở về nước.
Sự thật lúc bấy giờ nhà Tống đang trong thời Nam Tống, bị nhà Kim xâm lược từ phía bắc, quốc thổ bị mất nên không còn bụng dạ đâu để nghĩ tới công việc của phiên bang, chỉ mong sao phiên bang không mang lòng phản trắc, chịu quy phục thế là quý lắm rồi.
Ngày hôm ấy, Tả hữu vị tướng quân Trần Vũ sau khi lâm vào thế bí đã kiếm cớ giải tán cuộc nghị bàn và lui về chỗ ở của mình, nhưng trong lòng vẫn chưa yên.
Hoàng thúc Lý Long Tường là dòng dõi chính thống nối tiếp của triều Lý. Nếu Hoàng thúc còn đứng vững thì đó không những là điều không thể chấp nhận được mà hơn thế nữa còn là hậu hoạ lớn cho gia môn họ Trần.
Nghĩ vậy, tướng Trần Vũ quyết định phải triệt hạ Lý Long Tường. Trần Vũ gọi một kẻ bộ hạ tâm phúc là hiệu uý Kỳ đến và ra lệnh:
- Ngay từ bây giờ, nhà ngươi phải bí mật lén đến vùng Việt Thành đất Giao Chỉ tìm hiểu kỹ động tĩnh của Lý Long Tường và những người mà ông ta đã tiếp xúc gần đây. Công việc xong sáng ngày mai quay về đây báo cho ta biết.
Mệnh lệnh của Trần tướng quân vừa dứt, hiệu uý Kỳ vội cúi gập lưng, cố giấu vẻ nham hiểm trên nét mặt, đáp:
- Bẩm tướng quân, tướng quân đã ra lệnh, thì kẻ tiểu quan này xin phụng mệnh thừa hành một cách hết sức kín đáo, không ai có thể biết. Huống nữa, đây lại là một việc hệ trọng như vậy, tướng quân không nói ra, kẻ tiểu quan này cũng hiểu được việc mình phải làm.
Hiệu uý Kỳ nói xong, sắp sửa bước ra thì Trần tướng quân gọi lại, đưa cho mấy nén bạc và nói:
- Này, cầm lấy cái này bỏ vào túi!
Kỳ vội cúi đầu, tay phải giơ ra đỡ lấy những nén bạc do Trần tướng quân ban cho, còn tay trái đưa lên gãi gãi đầu, mồm lắp bắp những gì không ai nghe rõ.
Sau khi đám lính của hiệu uý Kỳ đi rồi, tướng Trần Vũ cũng đi mất hút về phía Đông cung, dáng chừng như đang nghĩ ngợi điều gì.
Chú thích
(1)Tức vua Lý Huệ Tông (1211-1224), tên là Sảm hay Hạo Sảm (1194-1226) (BT)
(2)Công chúa Chiêu Thánh tên Phật Kim sau đổi Thiên Hinh, con gái vua Lý Huệ Tông. Nhà vua không có con trai nên công chúa được nối ngôi, tức Lý Chiêu Hoàng (1224-1235)
(3)Tức vua Lý Anh Tông (1138-1175) (BT)
(4)Vua kế vị Lý Anh Tông Thiên Tô là Lý Cao Tông (1176 - 1210), theo chính sử Việt Nam tên là Long Trát (có người phiên âm là Long Cán) (BT)
(5)Trần Nhật Chiếu theo tác giả là chồng của công chúa Chiêu Thánh và công chúa là con gái của Long Hàn, ở đây có sự nhầm lẫn: Phần trên tác giả viết công chúa Chiêu Thánh là con gái của Hạo Sâm hay Lý Huệ Tông là đúng (chú thích 2). Chồng của công chúa Chiêu Thánh theo tư liệu Việt Nam là Trần Cảnh (1218-1277), cháu của Trần Thủ Độ. Trong phần này và cả phần sau, đối chiếu với chính sử Việt Nam, Trần Nhật Chiếu có khi là Trần Cảnh, có khi là Trần Thủ Độ (BT)
(6)Sự kiện này không có trong chính sử Việt Nam, nhưng được ghi chép trong gia phả họ Lý Hoa Sơn ở Hàn Quốc. Tác giả xây dựng trên cơ sở dữ liệu này
(7)Lý Huệ Tông không có con trai nối ngôi nên lập công chúa Chiêu Thánh lên làm vua. Trần Thủ Độ đã bố trí cho cháu mình là Trần Cảnh vào hầu trong cung rồi lấy Lý Chiêu Hoàng và buộc công chúa nhường ngôi cho chồng lập ra vương triều Trần
(8)Theo chính sử Việt Nam, Trần Cảnh lên ngôi vào năm Bảo Khánh thứ 1 triều Tống Lý Tông
CHƯƠNG 2: CUỘC TRỐN THOÁT CỦA HOÀNG THÚC
Hoàng tử Lý Long Tường là con trai thứ hai của Thiên Tộ đại vương, em vua Long Hàn (đời vua thứ 7), chú vua Hạo Sam (đời vua thứ 8), Hoàng thúc cũng là chú của công chúa Chiêu Thánh (tức Lý Chiêu Hoàng)
Vua Long Hàn vốn là người ốm yếu và thái tử Hạo Sam cũng ốm yếu, nên vua đã nhiều lần cho gọi em trai là hoàng tử Lý Long Tường đến và khuyên em thừa kế ngôi vua.
Nhưng Hoàng thúc vốn là người rất nhân đức, đã một mực từ chối, bản thân chỉ thích trau dồi học vấn và nghiên cứu về toán số, noi theo chí hướng của bảy vị hiền triết Trúc Lâm.
Lúc bấy giờ chính sự đất nước lắm nỗi éo le. Công chúa Chiêu Thánh câu kết cùng với phò mã Trần Nhật Chiếu, mặc sức thao túng công việc của đất nước, làm cho quốc sự rồi bời. Hoàng thúc nghĩ nếu mình can dự vào e rằng gây cảnh huyết nhục tương tranh, do vậy nên đã lánh xa nơi quyền thế. Nhưng từ sau khi lên ngôi, công chúa Chiêu Thánh chưa một lần bước chân vào chính điện mà chỉ lôi kéo các tăng ni vào trong Đông cung bàn chuyện tu hành Phật pháp, do vậy đã có tiếng đồn công chúa chỉ là một quốc sư thờ Phật. Lời đồn đó không chỉ lan truyền trong nước mà còn lan truyền sang nước láng giềng, khiến mọi người bàn tán với nhau qua cửa miệng những lời bóng gió: Vương triều Lý rốt cuộc sẽ chuyển sang vương triều họ Trần!
Hoàng tử cảm thấy xấu hổ với đất trời không còn mặt mũi đâu để nhìn về tông miếu, xã tắc, Hoàng thúc đã chấm dứt danh hiệu - Tam công chức -, rời khỏi cung điện, leo lên núi Việt Thanh ở đất Giao Chỉ, nằm phơi sương, phơi gió trong suốt hơn mười ngày như một người điên, sống bằng rau rừng nước suối, ngày ngày ngâm thơ, than khóc.
Từ hai tháng trước khoảng hơn mười tên sĩ tốt ở Bình Hải đã mò đến tư dinh của Hoàng Thúc ở núi Việt Thanh để theo dõi động tĩnh của Người. Dĩ nhiên Hoàng thúc và nhưững người thân cận đều biết đó là gian kế của Tả hữu vị tướng quân Trần Vũ.
Vào trước hôm có cuộc họp của bá quan văn võ tại ngôi chính điện, đã xảy ra câu chuyện như sau:
Hôm đó, trong lúc Hoàng thúc trèo lên phiến đá Việt Thanh Nham nằm trên núi Việt Thanh ngồi than khóc, xót xa cho vận nước như ngọn đèn trước gió, thì Lý Quân Tất, từ dưới chân núi hớt hải chạy lên, rõ ràng như để báo tin khẩn cấp.
Lý Quân Tất là anh ruột của Hàn lâm học sỹ Lý Quân Châm, và cũng là người tâm phúc có một không hai của Hoàng thúc.
- Kìa, Lý công tử, có việc chi mà vội vã như vậy?
Lý Quân Tất chẳng đáp, chẳng thưa, vội chạy đến sụp lạy trước Hoàng thúc, đôi vai rung lên nức nở.
- Thưa Hoàng thúc, mọi việc thôi thế là hết rồi. Tướng Trần Vũ sang Tông đã làm hết mọi thủ tụcvới Thiên tử Lý Tông rồi.
Hoàng thúc sững sờ nghe tiếng khóc của Lý Quân Tất, không giấu nổi xót đau trong lòng.
- Có đúng thế không? Nếu vậy thì cơ nghiệp triều Lý chúng ta sẽ chấm dứt sau chín đời vua với gần 220 năm tồn tại!
Tiếng khóc của Hoàng thúc nghẹn ngào trong cổ:
- Phụ vương ơi, thật là tàn nhẫn quá chừng. Vương triều Lý nhà ta đã đến hồi mạt vận. Phụ vương ơi, hãy nghiêm trị đứa con bất hiếu này đi, phụ vương ơi... Mang tiếng còn non còn nước thế mà đứa con bất hiếu này không còn chỗ dung thân để giữ gìn đồ tế lễ thờ cúng tổ tiên. Có trời mà không còn chỗ đội đầu, có đất mà không còn chỗ đạp chân. Thảm thiết lắm phụ vương ơi...
Nức nở thổn thức theo tiếng khóc ai oán của Hoàng thúc, Lý Quân Tất như chợt tỉnh ra điều gì phải quyết chí ngay, liền đứng dậy, an ủi Hoàng thúc:
- Thưa Hoàng thúc, đại cục đã ngả nghiêng rồi. Nếu chúng ta cứ tiếp tục nấn ná lại nơi đây, ắt sẽ có ngày mang hoạ. Tối hôm qua, đứa em trai của hạ thần, một Hàn lâm học sỹ có nói rằng tướng Trần Vũ cho hay triều đình nhà Tống đã đồng ý cho phép họ Trần thừa kế ngôi vua: ngày mai sẽ cho gọi trưởng hạt các miền và bá quan văn võ đến để quyết định. Đại cục đã vậy, chúng ta phải mau mau thu dọn các đồ tế tự các tiên vương triều Lý kíp lên đường lánh khỏi nơi đây dù là tạm thời.
Nghe những lời phân trần thảm thiết của Lý Quân Tất, Hoàng thúc cảm thấy chẳng khác nào như bản án tử hình đã dội xuống đầu mình, cả trời đất tối sầm lại. Bình nhật, Hoàng thúc sống rất trong sáng, yêu đời lánh xa mọi tục luỵ, nên được mọi người đề cao là Vi Tư 1. Thế mà giữa lúc này, do quá quằn quại trong nỗi đau thương, Hoàng thúc đã không trấn tĩnh được mình nữa. Hoàng thúc biết rằng bây giờ có ngửa mặt lên trời than vãn, có giậm chân xuống đất khóc kêu cũng chả ích gì. Với vẻ mặt đầy tức giận, Hoàng thúc nói như thể phản bác lại Quân Tất:
- Sao công tử lại nói như vậy... các vị tiên tổ của chúng ta đời đời nối nhau sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, vì tất cả cũng đều gửi xương nơi mảnh đất này. Giờ đây anh linh của các vị tiên tổ đang dõi theo chúng ta. Làm sao chúng ta có thể ra đi để tìm đường sống cho riêng mình. Dù có chết ta cũng muốn được gửi xương nơi quê hương tiên tổ đã từng sống...
Nhìn thấy Hoàng thúc nước mất tuôn rơi lã chã, Lý Quân Tất tuy cố an ủi Hoàng thúc nhưng không cầm lòng được cũng oà lên khóc theo. Nhưng không thể tiếp tục mãi như vậy được.
Như đã hiểu hết mọi nỗi cay đắng, Lý Quân Tất cố lau những giọt lệ như những giọt châu đọng trên hai mắt, nghẹn ngào nói với Hoàng thúc:
- Hoàng thúc ơi, triều đại nhà Lý coi như đã chấm dứt rồi. Nếu chúng ta cứ nấn ná lại đây sẽ có ngày gặp nguy mất. Chúng ta phải sớm rời khỏi nơi đây thôi Hoàng thúc ạ. Hạ thần đã sắp xong mọi để đưa đức Chúa công cùng với đồ tế lễ ra đi. Xin mời Chúa công kíp lên đường, không được chậm trễ phút giây nào.
Quân Tất nói xong lại an ủi Hoàng thúc, dìu Hoàng thúc đứng dậy và nói tiếp:
- Hoàng thúc ơi, ở phía cửa bắc kia có một đồn binh và bọn lính canh gác rất nghiêm ngặt, khó lòng thoát qua nổi. Nên ta phải đi theo hướng cửa nam... Hạ thần đã sắp sẵn mọi thứ rồi. Hạ thần sẽ xuống tư dinh nói khéo với bọn lính, xin mời Hoàng thúc đi theo mau. Thời gian gấp lắm rồi, xin Hoàng thúc đừng chần chừ phút giây nào nữa.
Lúc này, Hoàng thúc cũng không thể nào cứ vấn vương mãi với những suy nghĩ riêng của mình. Vả lại nếu để những đồ tế lễ của tông miếu tổ tiên rơi vào tay họ Trần thì sự bất trung bất hiếu đó còn nghiêm trọng gấp nhiều lần. Hoàng thúc quyết chí:
- Nếu vậy mọi việc ta đều phó thác cho Lý công tử. Ta sẽ đi ra ngoài cửa nam.
Hai mắt đẫm lệ, Hoàng thúc sững sờ quay lại nhìn lai lần cuối khắp lượt chung quanh rồi nhìn lên trời, miệng ráng chứng như lẩm bẩm điều gì rồi cất bước ra đi.
Phiến đá Việt Thanh Nham nơi Người thích lui tới, chiếc lều cỏ nơi Người ưa ngồi đọc sách... Hoàng thúc có vẻ như đã quên đi tất cả những nơi đó. Bước thấp bước cao, người thất thểu men theo con đường dốc gập ghềnh xuống núi mà không hề ngoái đầu nhìn lại.
Người bước đi giữa những hàng cau thẳng tắp được trồng rải rác đó đây bên cạnh những rặng dừa xanh lác đác, rồi đến một con đường mòn quạnh hiu hiểm trở không một dấu chân người, mọc đầy lau lách cỏ dại...
Hoàng thúc vẫn âm thầm bước đi. Chưa hết những nẻo đường gai góc, khắp nơi rắn độc, rắn hoa, lại tiếp đến những đoạn đường dốc cao hun hút, phải lấy hai tay gạt cây ra để mở lối đi và mất hút trong những lùm cây rậm rạp. Lâm vào cảnh tượng thê thảm đến bước đường này, Lý Quân Tất cũng lòng tan, dạ nát tưởng chừng sắp ngã gục.
Sau khi bình tâm xem xét lại cuộc hành trình, họ đành gạt nước mắt quay lại tư dinh.
Toà tư dinh ẩn mình sau những khóm hoa thơm cỏ lạ trong thung lũng phía đông núi Việt Thanh, trông thật thê lương ảm đạm.
Đàn chim ríu rít với nhau trong rặng dừa, dáng chừng như biết được Hoàng thúc đã ra đi, tỏ nỗi buồn nhớ khôn nguôi, muốn bay đến đậu trên nóc tư dinh, nhưng mái ngói đã nóng lên dưới ánh nắng chiều tà, chúng không đậu được đành uể oải cất cánh bay đi.
Lý Quân Tất đi lối cửa sau của toà tư dinh, nơi ngày thường Hoàng thúc hay qua lại, bước vào nhà. Hơn mười năm về trước, khi xây dựng khu tư dinh này, lão Trịnh hơn bảy mươi tuổi đã đến ở và giúp việc cho Hoàng thúc, lão không hề hay biết thế sự đã xoay vần, đang đứng trong nhà nhìn thấy Lý Quân Tất bước vào, lão chạy đến mừng rõ, nhưng không giấu nổi lo ngại.
- Ủa, Lý công tử, có việc gì vậy? Lý công tử đến có một mình, không có Hoàng thúc ư?
Lý công tử dù biết lão Trịnh là tâm phúc của Hoàng thúc, nhưng sợ làm hỏng việc lớn, nên vờ như không biết đáp lại:
- Nghe nói Hoàng thúc ngồi trong phòng đọc sách đã hơn mười ngày nay. Xin dặn ông lão chỉ biết vậy, có ai lên cũng đừng cho lên.
- Đức Hoàng thúc lại lên phòng đọc sách rồi ư? Trời đất quỷ thần ơi! Hoàng thúc sống trong thư phòng hơn mười ngày nay không cơm cháo gì, chỉ lấy nước dừa và rau rừng cầm hơi.
Lão Trịnh vừa nói vừa khóc, hai hàng nước mắt đầm đìa. Lý Quân Tất là con người tưởng như đã quay lưng đi với mọi việc đời, cũng không cầm được nước mắt trước nỗi thương tâm của lão Trịnh. Lý Quân Tất đột nhiên hỏi lão Trịnh:
- Lão Trịnh ơi, hôm nay có ai đến tìm Hoàng thúc không?
Lão Trịnh lấy ống tay áo lau nước mắt, đáp với giọng nghẹn ngào:
- Lý công tử cũng biết đấy, chỉ mới hai tháng trước đây thôi, trong tư dinh này có đến hai chục thị vệ theo hầu Hoàng thúc, hằng ngày không lúc nào không có mấy chục khách đến thăm. Thế mà gần đây chỉ còn có lão già này và bà lão mà thôi. Ngoài ra, chẳng có ai đến nữa, mà không đến cũng được.
Nói đoạn, lão Trịnh quay nhìn về phía đối diện của chiếc cổng lớn trước mặt tư dinh với ánh mắt đầy tức giận, rồi ông lại cúi nhìn xuống đất.
Đó là biểu hiện không lời nói lên nỗi căm ghét đám lính đến đó để theo dõi Hoàng thúc.
Lý công tử thấy đứng ở đây nói chuyện lâu không tiện, bèn từ trong nhà nhìn ra phía cổng trước, đi được vài bước lại quay vào, lấy trong túi ra một ít bạc trắng, đưa lão Trịnh.
- Lão Trịnh ơi, lão theo hầu Hoàng thúc, vất vả nhiều. Một chút này chẳng là bao, mong lão cầm lấy.
Lão Trịnh đưa mắt nhìn những đồng bạc nằm trên tay Lý công tử.
- Không đâu. Sao lại cho tôi nhiều thế này. Lão Trịnh già này cầm nhiều thế, biết làm gì!
Nói đoạn, ông lão lùi lại vài bước xin không nhận.
Lý công tử sợ quang cảnh này đập vào mắt bọn lính canh nên lấy tay trái ra hiệu, chỉ vào miệng. Ông lão đã quen vơớibầu không khí nơm nớp sợ hãi, chẳng nói thêm một câu nào nữa, cúi xuống đưa hai tay đỡ lấy những đồng bạc trắng, giấy vào thắt lưng.
- Đã có tôi đây theo phò Hoàng thúc. Ông lão yên tâm, không việc gì mà sợ. Lão Trịnh nhớ đừng cho ai lên phòng đọc sách của Hoàng thúc và giữ gìn tư dinh chu đáo nhé.
Nói đoạn, Lý Quân Tất phóng nhanh về phía trạm gác của bọn lính. Trong trạm gác có binh trưởng Hồ và năm lính khác đang ngồi nói chuyện với nhau.
Sáng hôm nay, phủ cẩm vệ lại cử đến thêm hai người nữa là binh trưởng Hoàng và binh trưởng Trương, ra lệnh phải hợp lực canh phòng cẩn mật hơn nữa.
Binh trưởng Hoàng ngồi trên sàn nhà, hai chân duỗi ra, đầu cúi - Mẹ kiếp. Thật là vận rủi. Nếu còn làm việc ở phủ cấm vệ, bây giờ chắc tớ đến chỗ mấy quán nhậu làm một chén cho giãn xương cốt. Còn ở đây, thằng cha già này lại không có đến một ngụm nước cay.
Nghe thấy vậy, cả bọn đều ngồi thừ người ra, chép miệng đắng ngắt.
Binh trưởng Hồ ngồi thu lu ngủ gật bên cạnh binh trưởng Hoàng, bỗng mở choàng mắt, đứng dậy lật tung chiếc túi lưng đặt bên cạnh như định lục tìm cái gì, xong vứt chỏng chơ ra sàn nhà, thốt lên:
- Chà, mụ vợ lại cuỗm đi mất của tôi rồi. Cái số tôi thật là đen đủi!
Bọn lính ngồi trong đám tỏ vẻ sửng sốt, Binh trưởng Hoàng buột miệng buông ra một câu:
- Cậu này điên rồi sao, bỗng nhiên làm toáng lên thế? Cuỗm mất cái gì cơ chứ?
Binh trưởng Hồ hếch mặt sang một bên bảo:
- À, không có gì. Rõ ràng hôm qua tôi đã để một đồng bạc vào túi lưng. Đang nhạt mồm quá, định lấy ra mua cút rượu nhấm nháp. thế mà mụ vợ nhà tôi lột đi lúc nào không biết!
Nghe nói đến rượu, cả toán đều nhao lên. Tất cả đứng dậy. Một người trong đám lính đứng lên nhìn ra ngoài, trông thấy Tam công Lý Quân Tất đi về phía trạm gác.
- A, Lý đại giám đang đến kìa!
Cả đám lính đổ dồn ánh mắt về phía đó. Bất giác đã trông thấy Lý công tử đến trước trạm gác. Lý công tử bước vào trạm gác với vẻ mặt tươi cười:
- Chà, các người vất vả quá. Có việc gì không?
Binh trưởng Hồ nhanh mồm nhanh miệng, chạy đến tự lúc nào, nhỏ nhẹ nói:
- Thưa Lý đại giám. Chúng em chẳng có gì vất vả ạ. Chỉ có điều nhạt mồm quá, chết mất thôi.
Nhìn quanh một lượt gian phòng đám lính ở, Lý công tử nói:
- Nhạt mồm thì làm một chén cho vui. Sao lại cứ ngồi nhịn khan như vậy?
Vừa nghe tán chuyện rượu, binh trưởng Hồ lại chép miệng nuốt nước bọt, mạnh dạn bước lên trước một bước, đưa tay phải lên gãi gãi đầu thưa:
- Bẩm quan đại giám, chúng em làm gì có tiền ạ.
Đoán được bụng dạ của bọn họ, Lý công tử móc túi lấy ra sáu dồng bạc trắng đưa cho:
- Này, tiền đây. Các người mua rượu uống cho vui.
Binh trưởng Hồ cười nhăn nhở...
- Xin tiền quan lớn như vậy thật không phải quá!
Nói đoạn đưa tay ra đỡ lấy tiền đặt lên bàn. Binh trưởng Hoàng đứng bên cạnh, như để tỏ sự mẫn cán hoàn thành chức trách của mình, vội nói:
- Thưa Lý đại giám, đức Hoàng thúc vẫn còn ở trên Việt Thanh Nham, chưa xuống núi!
- Ờ, nhà người không biết hay sao? Hoàng thúc gần đây giống như người mất trí. Ta cũng có lên xem, nhưng Người đã vào phòng đọc sách, đóng chặt cửa lại. Đã hơn mười ngày nay, có ai đến xin vấn an, Người cũng không tiếp. Người muốn sống yên một mình, từ chối mọi cuộc gặp gỡ với bất cứ ai, nên ta đành phải quay về. Thiên hạ vẫn chưa biết đức Hoàng thúc nay đã trở thành một người tàn phế.
Lý công tử cố ý rỉ tai bọn họ những lời như vậy để làm yên lòng họ.
Binh trưởng Hoàng mở túi lưng của mình đặt lên bàn, nói:
- Đức Hoàng thúc mà vào thư phòng đọc sách thì mười ngày nữa cũng chưa xuống tư dinh đâu. Cho nên thời gian ấy, chúng ta nên đi ngủ.
Nói xong, y vươn vai, xoãi chân, há hốc mồm ngáp dài.
Lý công tử nhìn các bộ mặt của đám sĩ tốt, mỉm cười:
- Nhà ngươi suy nghĩ khá lắm. Thôi hãy mua rượu về nhấm nháp cho vui. Ta đi đây. Hơn mười ngày sau sẽ quay trở lại
Lý công tử vừa quay trở ra, tất cả đám lính đều bước ra theo, cúi gập người, mũi như dính sát đất để tiễn đưa Lý công tử. Ngoài trời, hoàng hôn đã buông xuống từ lúc nào, bóng tối chùm lên cảnh vật. Lý công tử bước đi vội vã, men theo con đường dốc lần bước đi xuống, trong chốc lát đã khuất sau màn đêm.
Mặt trời đã lặn sau dãy núi phía tây. Mặt trăng buổi tối sắp đến ngày rằm nhô lên từ phía đông. Đó đây, những đám mây đen của buổi tối mùa hè kéo đến che kín gương mặt chị Hằng, nên chỉ còn là một đêm trăng mờ, khó khăn lắm mới nhận ra bóng người qua lại.
Tại chân phía nam núi Việt Thanh, khoảng hơn hai mươi trai tráng, tất cả đều ngồi thu mình bên con đường vắt ngang qua thung lũng, giữa những sườn đồi chập chùng như đang sắp sửa làm một việc gì.
Họ ngồi chụm vào nhau, cạnh đó đặt một cái kiệu.
Nét mặt họ đăm chiêu căng thẳng, dáng như đang chờ đợi một người nào đó. Họ quay nhìn về phía núi Việt Thanh. Nhưng núi Việt Thanh đã bị bao phủ trong màn đêm đen thẫm một màu, không còn nhận được ra hình dáng. Họ đang lặng lẽ chờ đợi một ai đó, cố nghiêng tai lắng nghe xem có bước chân người đi tới hay không.
Con đường mòn này tuy bao quanh kinh thành nước An Nam, nhưng ban đêm hầu như không có một bóng người qua lại. Một người tráng đinh leo lên cây dừa bên cạnh, chăm chú dõi nhìn về phía núi Việt Thanh thăm dò động tĩnh.
Người tráng đinh trên cây dừa bất chợt huýt sáo ba tiếng. Tất cả trai tráng đang ngồi thu mình bỗng đồng loạt đứng dậy, sửa sang lại kiệu, phía trước phía sau mỗi đầu hai người, sẵn sàng trong tư thế lên đường. Người tráng đinh theo dõi từ trên cây tụt xuống đất, dè dặt nhìn trước nhìn sau rồi nói vừa đủ nghe với đồng ngũ của mình:
- Chúng ta phải hết sức cẩn thận chu đáo cho đến khi đưa được đức Hoàng thúc qua khỏi cửa ải đất Giao Chỉ một cách an toàn. Phải đi nhanh mới qua khỏi được cửa thành trước khi cửa đóng.
Người tráng đinh nhắc nhở mọi người như vậy, nhưng không một ai trong số họ đáp lại. Tất cả đều im lặng. Không một ai hỏi thêm điều gì khác, bởi lẽ họ đã hiểu rõ việc này. Người tráng đinh nọ chạy đón Hoàng thúc đã gần như kiệt sức lê bước chân từ phía núi Việt Thanh đi tới, còn cách hơn một trăm bước.
Hoàng thúc đang đi tới, gặp người tráng đinh chạy đến, liền dừng chân. Người tráng đinh cúi gập lưng, thấp giọng lễ phép thưa:
- Bẩm Hoàng thúc, theo lời dặn của Lý công tử, chúng con xin đến rước Hoàng thúc. Xin chờ lệnh Hoàng thúc.
Hoàng thúc im lặng không nói gì, lặng lẽ bước theo sau người tráng đinh, như muốn bảo với họ: ta sẽ đi theo các ngươi.
Người tráng đinh vén bức mạn đen bên phải kiệu:
- Xin mời Hoàng thúc lên kiệu nhanh cho, thời gian gấp lắm rồi.
Trời tối quá, nhìn không rõ mặt, Hoàng thúc đứng lặng người, nhưng vẫn hiểu được những gì đang diễn ra. Người bước lên kiệu ngồi, và nói với giọng yếu ớt:
- Lý công tử chưa đến?
- Thưa vâng, Lý công tử có dặn ra khỏi cổng thành sẽ gặp nhau ạ.
Mấy người khiêng kiệu đưa đòn khiêng lên vai, hô lên se sẽ "Dô này! Dô này", làm cho nhịp thở ăn khớp theo độ rung của kiệu để nhịp bước chân không bị xộc xệch và họ bắt đầu chạy.
Phía sau, các tráng đinh giả làm lính hầu, vác giáo chạy theo.
Đúng vào lúc đêm trăng mờ mờ, nhìn không rõ mặt người, nên chuyến đi càng giống chuyến đi khẩn cấp của một bà mệnh phụ phu nhân nhà quan to nào đó.
Họ đã chịu đựng không biết bao nỗi gian truân mới qua được cổng thành, từ đó chạy liền ngày liền đêm mải miết vào phía nam và đã đến được đất Thuận Hoá.
Lại nói về Tam công Lý Quân Tất, sau khi thoát khỏi tư dinh liền đi về phía cửa tây, đến lưu lại tại nhà người em là Hàn lâm học sĩ Lý Quân Châm. Ngày hôm sau, Lý công tử mới hay rằng em mình do có chuyện trong buổi triều kiến hôm ấy nên đã bị bắt giam ở cấm phủ, còn tể tướng Trần Nhật Chiếu thì đã triệu tập các hạt trưởng các miền và các quan đại thần các bộ đến Đông cung để hiệu dụ việc kế thừa ngôi vua. Do vậy, Lý công tử đã lên ngựa nhằm hướng Thuận Hóa mải miết đuổi theo.
Chạy mấy ngày đường, chiếc kiệu chở Hoàng thúc cuối cùng đã đến được đất Thuận Hóa. Đoàn rước kiệu sửa soạn đi qua cửa thành.
Hoàng thúc ngồi trên kiệu có chiều mệt mỏi. Những người khiêng kiệu và cả toán tráng đinh cũng mệt mỏi nhưng vẫn lặng lẽ.
Với tấm lòng trung kiên vì Hoàng thúc, họ chẳng ngại đường sá xa xôi đã rong ruổi tới đây. Nhưng đến đất Thuận Hóa rồi mới biết, chưa thể thở phào nhẹ nhõm.
Bọn lính canh cửa bắc xét nét nhìn những người đi qua cửa thành để vào thành nội. Nhìn ai có vẻ khác thường, chúng lôi vào trạm xét hỏi bên cổng thành thẩm vấn điều này điều nọ.
Hoàng thúc ngồi trong kiệu suốt ngày đêm đã bốn, năm hôm nay, người mệt mỏi cũng ngả mình xuống, mơ màng hồi tưởng những ngày đã qua.
- Đây là đâu vậy?
Đã mấy ngày hôm nay, Hoàng thúc chẳng nói câu nào, nay bỗng bất ngờ hỏi người khiêng kiệu phía trước. Nghe thấy thế, người khiêng kiệu bối rối đáp lại:
- Bẩm Hoàng thúc, đây là cửa bắc của trấn Thuận Hóa. Xin Hoàng thúc ráng chịu thêm một chút, sắp đến nơi rồi ạ.
Hoàng thúc nghe nói trấn Thuận Hóa có hơi ngạc nhiên. Thuận Hóa nằm về phía nam đất Giao Chỉ, tại sao lại đến đây. Mấy hôm trước bàn với Lý công tử đã thỏa thuận với nhau sẽ qua nước Tống để đến đất Cao Ly ở phía đông cơ mà. Giữa lúc đang suy nghĩ miên man bỗng thấy hai người lính gác cổng thành cầm giáo đến chặn đường:
- Các người đi đâu đấy?
Người tráng đinh đi sau kiệu, chân khập khiễng bước tới đứng chắn ngang trước kiệu.
- Chúng tôi đến tư dinh quan lớn Trịnh Hy An, hiền đệ của quan trấn phủ miền này.
Mấy tên lính đứng chắn đường nghe nói đến nhà quan lớn Trịnh Hy An, tỏ vẻ khả nghi, liền vặn hỏi:
- Nhà qua Trịnh đại giám à? Vậy đây là vị nào, từ đâu đến vậy?
Sở dĩ chúng hỏi như vậy vì trong đám lính có một tên thường lui tới nhà Trịnh đại giám, nên hắn biết rõ nơi tư dinh đó. Người tráng đinh luống cuống không trả lời được.
Khi rời đất Giao Chỉ, Lý công tử có dặn khi đến châu Thuận Hóa phải làm như vầy, chứ không có nói lời chỉ bảo chi tiết. Mặc dù vậy, cũng không thể trả lời với bọn lính kia là mình không biết, lại càng không thể nói về hành trình của Hoàng thúc. Người tráng đinh lúng túng không biết trả lời thế nào, đứng thần người ra. Lúc này bọn lính gác cũng cảm thấy hơi lạ.
- Này, chúng tớ hỏi đằng ấy đi đâu, tại sao lại không trả lời? Mà thôi, cho chúng tớ xem có vị quan lớn nào trong kiệu vậy?
Vừa dứt lời, bọn lính đẩy người tráng đinh, định đến bên kiệu xem. Người tráng đinh nắm lấy tay tên lính ngăn lại.
- Này, không được vô lễ.
Giữa lúc ấy, ba người lính đứng sau kiệu liền vụt lao lên phía trước đứng chặn bọn lính lại, mở to những cặp mắt nảy lửa nhìn trừng trừng vào bọn lính. Tên lính định đến khám hiệu lùi lại phía sau một bước, kêu rống lên:
- Các người xông tới, tôi sẽ gọi quân lính ra bây giờ. Này, đừng có tự nhiên gây sự bất bằng. Biết điều thì hãy quy thuận đi.
Vừa nói, tên lính vừa giơ tay lên làm hiệu. Tên đội trưởng giữ cửa thành cùng khoảng hơn hai mươi sĩ tốt đang đứng trên thành lầu trông thấy cảnh tượng đó, liền chạy xuống chân thành, lăm lăm giáo mác trong tay, hừng hực khí thế, chỉ còn chờ lệnh quan giữ cửa là chúng xông vào hỗn chiến. Tình thế hết sức nguy cấp. Lúc này, Hoàng thúc cũng lâm vào cảnh khó xử. Lúc đầu giả vờ ốm, nằm đắp một chăn mỏng, nhưng đến bước này thì đành phải nhảy ra khỏi kiệu, liều một phen thôi, không còn cách nào khác. Người lấy một sợi dây nhỏ buộc lại búi tóc rối bời và định cởi chiếc áo vải ra, thay bằng chiếc áo nẹp dùng ngựa. Vừa lúc ấy có một người đi ngựa, đến đứng chắn ngang giữa những người tráng đinh và đám lính đang xảy ra cãi cọ.
Người ấy xuất hiện đột ngột, nên tất cả mọi cặp mắt xung quanh đều dồn về phía ông ta.
Không phải ai khác, đó chính là công tử Lý Quân Tất.
Hai tay vụt giơ lên, Lý công tử thét không ra hơi:
- Sao lại thế này?
Lý công tử xuất hiện, mang lại nỗi vui bất ngờ cho những người tráng đinh. Họ cúi rạp người chào Lý công tử. Một người trong số họ chớp chớp mắt, nói một cách thản nhiên như không:
- Dạ thưa... Chúng em đã bảo đoàn người rước kiệu đến tư dinh Trịnh đại giám. Thế mà những người này cứ đòi khám kiệu, thật chẳng ra làm sao.
Vừa mới tới nơi, Lý công tử chưa hiểu đầu đuôi câu chuyện, trong bụng có hơi hoảng. Đến giờ nghe nói mới rõ nguồn cơn, bèn đi về phía viên đội giữ cửa thành và rút từ trong lưng ra chiếc chiếu bài thông hành đưa cho họ trông thấy đoạn vui vẻ nói:
- Các người vất vả nhiều, người trong kiệu là bà chị dâu của ta vì đau ốm nên vào thành nội để chữa bệnh, các người yên tâm.
Đám người trông thấy chiếc bài thông hành do Lý công tử giơ lên, vội cúi rạp mình lùi lại phía sau. Lý công tử giắt trở lại chiếu bài vào lưng, nhảy lên ngựa. Các phu kiệu quay trở lại, đưa đòn khiêng lên vai, tiếp tục cuộc hành trình.
Mấy người tráng đinh sau một hồi cãi vã với đám lính gác cửa thành suýt đánh nhau, giờ đây cũng quân hết mệt nhọc, vội và cất bước lên đường.
Lý công tử cưỡi ngựa đi trước, đoàn khiêng kiệu bám gấp theo sau, tiến về bờ biển phía đông châu Thuận Hóa.
Không bao lâu sau, họ đã đến được một nơi trên bờ biển, ở đây có hai nhà tranh nhỏ bé. Mặt trời đã khuất đằng sau dãy núi phía tây, chỉ còn rớt lại chút nắng tàn trên bờ biển phía đông xa xa.
Chú thích
(1)Vi Tử đời nhà Ân. Khi nhà Ân mất, phải theo Chu để lo giữ việc thờ cúng
CHƯƠNG 3: GIÃ TỪ CỐ QUỐC
Hai gian nhà tranh đã sắp sẵn mọi thứ chờ Hoàng thúc. Trong nhà được chỉnh trang sạch sẽ tươm tất. Giữa nhà kê một chiếc chõng tre thấp rộng.
Lý công tử xuống ngựa. Mấy người trai trẻ trong nhà ra đỡ dây cương dắt ngựa vào chuồng.
Lý công tử đến trước kiệu, mở rộng cửa. Hai người đưa bốn mắt nhìn nhau. Sau khi chia tay ở núi Việt Thanh sáu ngày trước, nay Hoàng thúc và Lý công tử mới gặp lại nhau lần đầu.
- Thưa Hoàng thúc, mấy ngày hôm nay đi đường dài chắc Người mệt lắm?
Hoàng thúc tỏ vui mừng trước lời vấn an của Lý công tử.
- Không sao. Công tử còn vất vả hơn ta nhiều. Trời phạt ta đã đành. Còn công tử và bao nhiêu người khác nữa chẳng có tội gì cũng phải chịu khổ cực này. Nghĩ vậy lòng ta thực xót xa.
Các tráng đinh lùi lại phía sau Lý công tử, lặng lẽ cúi đầu chào Hoàng thúc. Họ đặt một đôi giày trước kiệu, chờ Hoàng thúc bước xuống.
Lý công tử đỡ lấy tay Hoàng thúc:
- Xim mời Hoàng thúc vào nhà.
Hoàng thúc một tay vịn vào cửa kiệu, luồn hai nửa bàn chân vào đôi giày đặt sẵn bên ngoài, bước ra khỏi kiệu.
Đã mấy ngày ngồi trong kiệu khá tù túng, hai chân mỏi tê, Hoàng thúc bước đi khập khiễng, đầu óc mông lung, người cảm thấy lao đao.
Lý công tử hai tay dìu Hoàng thúc, đưa vào nhà.
Trong nhà chưa tối nhưng đã nhọ mặt người. Người hầu bước vào nhà, châm đóm vào mồi lửa và đưa lên ngọn nến. Ngọn lửa chạm vào năm chiếc bấc nến cháy dần lên, tỏa sáng khắp gian phòng.
Hoàng thúc ngồi yên lặng một chốc, nhìn khắp lượt gian phòng, cất tiếng nói như rên:
- Ờ... gian nhà trông cũng khá đấy chứ?
Người đưa mắt nhìn lên bức tranh sơn thủy trên tấm bình phong và hàng chữ khắc trên tấm hoành phi.
Người hầu mang cây nến cắm đây đó khắp gian phòng xong, lui bước ra ngoài, còn nói với lại:
- Thưa Lý công tử, nước tắm đã sắp sẵn rồi ạ.
- Vậy hãy đưa Hoàng thúc đi tắm.
- Vâng ạ...
Nói xong người hầu bước ra ngoài, Lý công tử lễ phép nói:
- Xin mời Hoàng thúc đi tắm xong rồi dùng cơm tối.
Lý công tử nói đoạn, đứng lên đưa Hoàng thúc ra ngoài.
Một chốc sau, hai người tắm xong trở vào nhà. Bữa cơm tối đã được dọn sẵn.
Hai người ngồi đối diện, rót rượu mời nhau. Uống được mấy chén, Lý công tử bắt đầu kể lại câu chuyện xảy ra từ kinh thành Thăng Long tới đây.
Thời gian qua, Hoàng thúc cũng đã rất sốt ruột muốn biết sự thể ra sao, nhưng cũng hiểu rằng không thể vội vã. Bởi vậy Người rất chú ý lắng nghe.
Lý công tử rành rọt thuật lại mọi điều tai nghe mắt thấy, từ sau khi đưa Hoàng thúc rời khỏi núi Việt Thanh...
Nào là chuyện phò mã Trần Nhật Chiếu cho gọi các trưởng hạt các miền và bá quan văn võ tới hội triều tại chính điện, định thông qua việc kế thừa ngôi vua mà lại không có sự hiện diện của công chúa Chiêu Thánh. Do có sự phản đối của Hàn lâm học sĩ, việc không thành, phò mã đành chấm dứt cuộc hội triều và bắt giam Lý Quân Chiêm... Chuyện Trần Phú đi sứ sang Tống, mang theo nhiều đồ cống lễ sang bàn mưu tính kế, thỏa thuận với nhau đưa người họ Trần lên cầu xin Thiên tử nước Tống công nhận, để đến năm Bảo Khánh thứ tư nếu được kế vị sẽ đưa sứ giả sang chúc mừng vào ngày đã được cai trị thiên hạ... Chuyện triều đình nhà Tống bàn đến cả năm Hoàng thúc có thể nối dõi huyết thống của triều Lý, khiến cho tính mạng của Hoàng thúc cũng bị đe dọa... Chuyện Trần Vũ dâng kế hiến sau khi Trần tể tướng bị mất mặt. Theo đó, công chúa Chiêu Thánh đã gọi các trưởng hạt các miền và các quan đại thần đến điện Tử Vi nói rõ ý định nhường ngôi vua cho phò mã Trần Nhật Chiếu...
Hoàng thúc lắng nghe hết mọi chuyện, nét mặt đượm vẻ buồn. Như hiểu hết mọi nỗi điên đảo của thế sự. Người xúc động hỏi:
- Còn Lý học sĩ, hiền đệ của Lý công tử, tính mạng đang nguy cấp, biết làm sao bây giờ?
Nhưng Lý công tử không chút dao động, thản nhiên đáp:
- Thưa Hoàng thúc, em trai của hạ thần đã quyết liều thân vì nghĩa lớn. Em nó đã đưa gia đình trốn thoát đi các nơi, và ngày hôm ấy nó vào triều. Em nó còn giúp hạ thần đưa Hoàng thúc ra đi. Đến hôm nay mới thưa được mọi chuyện với Hoàng thúc thực là có lỗi. Việc đưa được Hoàng thúc đến đây cũng là nhờ em nó lo liệu sắp xếp trước cho đó ạ.
- Sự thể như thế này, nói trước cho ta biết có hay hơn không?
Lý công tử đáp:
- Trước khi hạ thần ra đi, đã định liên lạc với gia quyến của Hoàng thúc ở Đông cung, nhưng từ hơn mười hôm trước đó mọi liên hệ với bên ngoài đã bị cắt đứt. Không còn cách nào khác, kẻ hạ thần đành phải nhờ bà cụ già buôn đồ cổ chuyển bứa thư, báo để gia đình Hoàng thúc yên tâm.
Hoàng thúc lắc đầu đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ và nói:
- Về người nhà của ta, dù sao công chúa Chiêu Thánh còn đấy chưa chắc chúng đã dám làm gì. Chỉ hiềm một nỗi những đồ tế lễ thờ cúng tổ tiên không mang đi được.
Lý công tử đoán biết được nỗi lòng của Hoàng thúc liền đáp:
- Thật may quá, đồ tế lễ đã được rước theo đây cả rồi.
- Thật vậy ư? Vậy đồ tế lễ để ở đâu?
Nét mặt của Hoàng thúc rạng rỡ hẳn lên. Người ngồi dịch lại gần Lý công tử.
Lý công tử đứng dậy, Hoàng thúc cũng đứng dậy theo. Cả hai người giống như đã hẹn trước với nhau, đều đi sang phòng bên cạnh. Phòng nhỏ nhưng sạch sẽ. Trên một bộ phản gỗ rộng kê giữa nhà, các đồ thờ cúng được sắp xếp rất ngay hàng thẳng lối. Những quý vật đó như đang minh chứng cho uy danh và mạch sống liên tục qua tám đời vua trong 220 năm của Vương triều Lý.
Nhìn thấy các đồ thờ cúng, Hoàng thúc quỳ xuống, chắp hai tay vái lạy, giọng nghẹn ngào:
- Thưa các đấng tiên vương, thưa đức phụ vương... Hãy tha tội cho đứa cháu con bất trung bất hiếu này...
Nỗi ai oán bấy lâu kìm nén trong lòng Hoàng thúc giờ đây được dịp thốt ra, lan tỏa khắp gian phòng.
Nhưng ngọn lửa cháy trên đầu các cây nến cắm trên mỗi bài vị tỏa sáng như đang dõi theo hình bóng của Hoàng thúc đang rung lên trong tiếng nức nở.
Lý công tử đứng ở phía sau cũng sụt sùi rơi lệ, trong lòng trào lên nỗi sót đau vô hạn.
Một chốc sau, Lý công tử cố trấn tĩnh lại, gạt nước mắt, đỡ Hoàng thúc đứng dây, an ủi:
- Sự đã rồi, mong Hoàng thúc hãy nguôi quên nỗi xót đau, liệu tìm phương kế mới. Thời gian nay đã muộn rồi. Chúng ta nên kịp bắt tay vào việc tiếp nhận thờ cúng tông miếu tổ tiên.
Đến lúc này Hoàng thúc mới cầm được nước mắt.
- Công tử nói đúng đấy. Thôi được rồi, chúng ta hãy vào trong kia nói chuyện một chốc đi.
Nói xong, Người lui bước và trở về phòng mình.
Về đến nơi, Người ngồi xuống, nét mặt bừng lên niềm suy nghĩ mới. Bảo vệ giữ gìn các đồ thờ cúng là công việc tối ư quan trọng, không thể ngồi đây tiếp tục khóc than. Một lúc sau, Hoàng thúc nói:
- Số phận hiền đệ của công tử và gia đình của công tử là điều ta còn lo lắng hơn.
Lý công tử rất cảm kích trước sự quan tâm của Hoàng thúc đối với em mình và gia đình mình, nhưng mọi việc đã quyết xong cả rồi, bèn nói:
- Xin đội ơn tấm lòng ưu ái của Hoàng thúc. Em nó đã quyết liều thân với nước. Dạ thưa, "trung thần bất sự nhị quân", tôi trung không thờ hai vua. Cả gia đình của hạ thần đều đã tản mát lánh nạn về phương nam hết cả rồi.
Hoàng thúc hỏi lại, có phần ngờ ngợ:
- Ơ này, mà tại sao lại đi về phương nam. Phương bắc không an toàn hơn ư?
- Thưa không phải thế đâu ạ, ở phương bắc quân lính canh gác dày đặc. Cũng vì vậy nên hạ thần mới phó tá Hoàng thúc đến đây. Ngoài ra, trên mặt biển khơi, các tàu buôn của Tống còn đang đậu. Đợi thêm bốn năm hôm nữa, các tàu kia nhổ neo quay về Tống, lúc đó ta sẽ ra đi.
Tất cả những điều bí mật được giữ kín đến ngày hôm nay bây giờ Hoàng thúc mới hiểu hết. Trong bước phong trần, hình ảnh của Hoàng thúc trông thật lam lũ, rất thương tâm. Người tâm sự:
- Đến bây giờ ta mới rõ nguồn cơn. Ta cũng đã nghĩ đi vào Thuận Hóa ắt là có chuyện gì đây. Quả thực hiền đệ của công tử đã suy nghĩ hết sức thấu đáo, kín kẽ.
Cố nén nỗi đau thắt ruột, Lý công tử se sẽ cất tiếng than không kìm nén nổi:
- Thật khủng khiếp quá!
Vừa lúc ấy, có người rón rén vén bức mà tre, nhè nhẹ bước vào phòng. Hoàng thúc và Lý công tử đều nghiêng ánh mắt về phía có người vào. Người đó không phải là ai khác mà là Ngô Anh Cơ sống ở trấn Thuận Hóa. Cô gái mỉm cười duyên dáng, chắp hai tay lên trước mặt, cúi chào Hoàng thúc.
- Tiện nữ là Ngô Anh Cơ xin vấn an đức Hoàng thúc, đức Hoàng thúc đi đường sá xa xôi, đột ngột đến đây chắc là vất vả lắm ạ?
Hoàng thúc có phần ngỡ ngàng, bối rối, không biết người con gái này là ai mà lại biết rõ cảnh ngộ và tung tích của mình nên nhìn sang Lý công tử hỏi:
- Không biết quý tiểu thư này là ai vậy?
Như thấu hiểu được suy nghĩ trong lòng Hoàng thúc, Lý công tử lúc này mới nói rõ lai lịch người con gái.
- Thưa Hoàng thúc, cô Ngô Anh Cơ này là con gái út của ngài Ngô Nguyên Thanh một vị Hàn lâm học sĩ dưới thời Thiên Tộ đại vương đấy ạ. Do sự vu cáo của Trần đại giám, nên Ngô học sĩ đã chết trong ngục tối, gia sản nhà bị tịch biên. Không còn cách nào khác, hai mẹ con đưa nhau vào đất Thuận Hóa sống âm thầm. Thời gian qua, để phụng dưỡng mẹ già, cô gái út đành phải nhắm mắt đưa chân vào chốn ca lâu và nay tiếng tăm đã nổi khắp mọi vùng châu Thuận Hóa. Những người biết được gốc gác đó chỉ có hai anh em kẻ hạ thần mà thôi. Và lại cô ấy cũng là bà con phía ngoại của kẻ hạ thần nên mọi việc lần này cũng nhờ em nó rất nhiều.
Hoàng thúc lắng nghe lời kể, đưa mắt nhìn cô gái, không giấu nổi một nỗi xót thương trong lòng.
- Tình cảnh của ta đáng thương rồi mà cảnh ngộ éo le của nàng lại càng đáng thương hơn.
Đang lúc mọi người trò chuyện thì mấy người hầu mang mâm rượu đến. Một chốc sau, Ngô Anh Cơ rót rượu ra một chiếc chén đặt trước mặt Hoàng thúc.
Uống được mấy tuần rượu, buồn lòng, bụng đói đầu óc mơ màng, Hoàng thúc nhìn Ngô Anh Cơ, bèn đưa chén rượu ra mời:
- Nào, Ngô tiểu thư hãy uống đi một chén!
Tiểu thư đỏ mặt:
- Dạ thưa, Hoàng thúc tha cho. Kẻ hạ thần đâu dám...
Bằng giọng nhỏ nhẹ, Hoàng thúc dỗ dành:
- Tiểu thư ơi... ta bây giờ đâu còn là Hoàng thúc nữa. Mà tiểu thư cũng chẳng phải là kẻ bầy tôi. Chúng ta chẳng qua chỉ là những kiếp người chung số phận. Này, tiểu thư, hãy cầm lấy chén rượu này...
Hai mắt Hoàng thúc ánh lên niềm cảm động thật thà mời tiểu thư.
Lý công tử đứng bên cạnh trông thấy cũng cảm thấy áy náy, nên khuyên Ngô Anh Cư:
- Đây là chén rượu Hoàng thúc ban cho, hãy cầm lấy đi em.
Trước câu nói ân cần của Lý công tử, Ngô tiểu thư đưa hai tay đỡ lấy chén rượu:
- Tiện nữ mạn phép xin chén ngự tửu do Hoàng thúc ban cho.
- Thế mới vui chứ!
Hoàng thúc vốn là con người của hào hoa phong nhã, đưa mắt nhìn đăm đăm Ngô Anh Cư, cười nói vui:
- Ngô Anh Cư là một tuyệt sắc giai nhân mà ngay ở chốn kinh thành ta cũng chưa nhìn thấy đó.
Ngô Anh Cư đưa chén rượu lên môi nhấp nháp một tí xong mới uống.
Gương mặt cô phản chiếu qua ánh nến càng trở nên rạng rỡ.
Ngô Anh Cư đặt chén xuống và rót đầy rượu vào một chén bạc mới, bưng hai tay cung kính dâng lên Hoàng thúc.
- Xin kính mời Hoàng thúc cạn chén rượu này.
- Thế là nàng bảo ta uống cạn chén rượu này sẽ sống lâu trăm năm ngàn năm có phải không?
Hoàng thúc nói xong, cất tiếng cười trong trẻo.
- Tiện nữ lần đầu được bái kiến Hoàng thúc. Tiện nữ được biết Hoàng thúc nức tiếng đồn thanh cao, phong nhã. Hôm nay được bái kiến Hoàng thúc, tiện nữ đã được thỏa nguyện mong ước.
Trên chiếu, rượu được rót ra từng chén. Cùng với thời gian trôi qua, niềm vui tăng lên, tình cảm trở nên chan chứa nồng nàn. Những sợi tóc của Hoàng thúc buông xuống lõa xõa khiến Ngô Anh Cư cảm thấy tiếc không được nhìn rõ mặt Người. Nàng đứng dậy, đến bên Hoàng thúc:
- Tiện nữ xin được sửa lại mái tóc của Hoàng thúc. Xin Hoàng thúc cho phép.
- Bình nhật ta thích để tóc xõa, chỉ có ngày hôm nay Ngô tiểu thư muốn đến sửa lại mái tóc cho ta. Ta đành chiều theo ý tiểu thư vậy.
Nói đoạn, Hoàng thúc ngồi ngửa người, hai tay chống ra phía sau.
- Xin Hoàng thúc cứ ngồi tự nhiên và dựa lưng vào thành ghế ạ.
- Ờ, nàng hãy làm theo như ý nàng.
Chỉ trong chốc lát, những sợi tóc lõa xõa đã được vuốt lên cẩn thận, và nàng cởi dải lụa buộc trên đầu mình ra buộc lại cho gọn gàng búi tóc cho Hoàng thúc.
Hai gương mặt của Hoàng thúc và của giai nhân lồng bóng lung linh trong trước gương soi đặt trước mặt nàng. Hoàng thúc tươi cười nhìn lên gương mặt của nàng, còn nàng thì mím chặt môi, dùng hai bàn tay ngọc ngà đưa lên đưa xuống nhè nhẹ vuốt ve mái tóc.
- Thưa Hoàng thúc, xong rồi ạ. Những mong Hoàng thúc sẽ thấy thoải mái hơn.
Nói xong nàng quay về ngồi xuống chỗ cũ của mình. Nàng định bụng sẽ nhìn kỹ hơn dung nhan của Hoàng thúc.
- Thưa Hoàng thúc xin kính mời Hoàng thúc uống thêm một chén.
- Ờ, hôm nay ta uống đến thỏa thích thì thôi.
Nói đoạn, Người kề môi vào chén rượu do Ngô Anh Cư đưa hai tay cung kính bưng lên mời, và uống cạn một hơi.
Mới ba mươi sáu tuổi, trông Hoàng thúc còn rất trẻ. Trên khuôn mặt của Người, trên gương mặt của người hiện lên một phẩm chất trong sáng thanh cao.
Thân hình Người dong dỏng cao, khuôn mặt trắng trẻo đã ửng hồng vì men rượu. Đôi mắt của Người chan chứa tình thân ái, hai đồng tử sáng long lanh. Giọng nói của Người ấm áp, thấm đượm tình yêu thương.
Như người xưa thường nói, các bậc anh hùng hào kiệt hay những bậc trượng phu phong nhã hào hoa, dù có sức mạnh rung trời chuyển đất, bao giờ cũng trầm tĩnh vững vàng, thản nhiên tự tin. Hình ảnh đó bây giờ chẳng phải đã thể hiện rõ ràng ở nhân cách của Hoàng thúc đó sao. Đắm chìm trong suy nghĩ ấy, cô gái bỗng thấy trong lòng mình rạo rực một niềm hạnh phúc. Vừa ngưỡng mộ kính trọng Người, nhưng nàng đồng thời cũng cảm thấy có một niềm xúc động khác thường còn hơn thế đang dâng trào trong lòng mình.
- Thưa Hoàng thúc, từ nay cho đến khi Hoàng thúc rời khỏi nơi đây, xin cho phép tiện nữ được theo hầu hạ Hoàng thúc. Nếu được vậy thì đó là niềm vinh hạnh không gì sánh bằng đối với tiện nữ.
- Ta cảm ơn tấm lòng đáng quý của nàng, nhưng giờ đây ta không còn là Hoàng thúc nữa, mà cũng chẳng có gì đáng để được tiếp nhận sự hầu tiếp của nàng.
Hoàng thúc nói xong, đầu hơi cúi xuống, vẻ mặt đăm chiêu, hai mắt nhắm lại.
Ngô tiểu thư cảm thấy như mình đã nói lỡ lời, làm tổn thương đến tình cảm của Hoàng thúc, bèn lấy hai tay vuối lên đầu gối Hoàng thúc tỏ vẻ âu yếm.
- Thưa Hoàng thúc, Hoàng thúc nghĩ vậy làm chi. Tiện nữa đã quyết một lòng vì Hoàng thúc. Xin mời Hoàng thúc uống thêm chén rượu nữa.
Lý công tử đã có phần chuếnh choáng hơi men, hai mắt lim dim, cúi người xuống nói với Hoàng thúc:
- Xin Hoàng thúc thể tỉnh, hãy nhận lấy lời thỉnh cầu đó của Ngô tiểu thư, chẳng can hệ gì đâu mà.
Lúc này, Ngô tiểu thư được lời như cởi tấm lòng, hai mắt sáng long lanh, nói với giọng nũng nịu:
- Thưa đức Hoàng thúc suy nghĩ lại cho tiểu nữ đượ nhờ. Lý công tử cũng nói như vậy rồi mà.
Lời nói thiết tha của nàng chẳng khác nào như một mũi kim xuyên vào lòng kẻ trượng phu...
Hoàng thúc ngồi trầm ngâm, im lặng, bỗng nắm lấy tay nàng và nói:
- Nào rượu đâu rót thêm chén nữa. Ta sắp phải từ giã đất nước này, dân tộc này rồi mà nàng vẫn xin hầu tiếp ta. Tấm lòng vị nghĩa ấy của nàng thật cao cả và đáng quý biết bao!
Qua câu nói của Hoàng thúc, nàng hiểu rằng Hoàng thúc đã chấp nhận lời thỉnh cầu của nàng, lòng nàng bừng lên niềm vui khó tả.
- Thưa Hoàng thúc, tiện nữ xin hát dâng lên Hoàng thúc một bài ca.
Lý công tử lúc đầu dõi theo thái độ của tiểu thư, cảm thấy rất đáng thương, nhưng giờ đây cũng vui lây cho niềm vui vui đó của tiểu thư, bèn nói:
- Thưa Hoàng thúc, kẻ hạ thần cũng đã nghe nói tài nghệ đàn hát của tiểu thư là nhất phẩm thiên hạ đấy ạ.
Hoàng thúc nghe nói vui mừng bảo:
- Vậy nàng hãy cho ta thưởng thức tiếng đàn nhất phẩm thiên hạ.
Ngô tiểu thư cầm lấy cây đàn tranh dựng ở phía sau bình phong đưa lên lựa phím so dây. Tiếng đàn trầm bổng réo rắt một lúc sau đã hòa quyện vào nhau nghe sao mà du dương thổn thức...
- Mong đức Hoàng thúc và Lý công tử đừng chê lời hát tiếng đàn hãy còn vụng về của tiện nữ.
Ánh mắt của Hoàng thúc và Lý công tử đều quay về phía nàng. Nàng ngồi xếp bằng duyên dáng trước tấm bình phong về tranh thủy mặc, tay trái lướt nhẹ thướt tha trên các phím đàn, tay phải đưa lên chỉ ra ngoài cửa sổ...
Một vầng trăng khuyết sau rầm lững lờ nhô lên khỏi mặt nước biển đông.
- Hoàng thúc xin hãy nhìn xem...
"Nhô lên từ mặt biển đông,
Vầng trăng muôn thủa nỗi buồn đầy vơi.
Đêm thanh vằng vặc giữa trời,
Dù thân nghiêng ngửa, chẳng vơi tấc lòng.
Biển Đông bảy vị long thần,
Nước non một dải tiễn chân chị Hằng
Thánh nhân phù hộ dẫn đường,
Thiên hoàng bắc quốc khó lường chông gai..."
Lời ca trong trẻo, tiếng đàn thánh thót của tiểu thư lan khắp gian nhà. Tiếng đàn tiếng hát ấy đã xuyên thấm vào lòng của Hoàng thúc và Lý công tử.
Lời ca ấy vẫn tiếp tục réo rắt:
"Có bảy con chim hồng nhạn,
Dang rộng cánh tung trời.
Cánh chim vỗ phần phật,
Chim ơi bay đâu thế
Muốn đi gặp chị Hằng...
Hò ơ khoan, hò khoan..."
Hoàng thúc ơi, trăm năm thương nhớ, tiện nữ hôm nay được thỏa lòng vui hát với vầng trăng và phong cảnh nên thơ chốn thảo đường này. Hỏi ai có thể ngăn cản được niềm vui của tiện nữa đêm nay...
Gian nhà dần dần biến thành một hỷ trường, rộn ràng trong niềm hân hoan.
- Hoàng thúc ơi, xin nghe tiện nữ hát.
"Muôn vật trên đời đều có chủ,
Cớ sao đi chiếm đoạt của người
Vầng trăng nhô lên Đông Hải,
Rải ánh vàng lên non sông một dải.
Đưa mắt nhìn cảnh vật trần gian,
Lắng tai nghe bản hòa âm của trời đất
Thả hồn bay theo mộng tưởng cao xa.
Nào ai có thể can ngăn...
Ôi thiên nhiên vô tận
Ôi trời đất mênh mông..."
Nghe tiếng hát của Ngô Anh Cơ, Hoàng thúc càng thêm trầm ngâm, tư lự.
- Tiểu thư ơi, tiếng hát của nàng quả là tiếng hát của thần tiên... Ta lại muốn mời nàng chén rượu
Nói xong. Người cầm chén rượu đưa lên môi nàng.
- Tiện nữ xin mạn phép uống chén ngự tửu Hoàng thúc ban cho. Xin đa tạ Hoàng thúc.
Uống xong, Ngô Anh Cơ lại tiếp tục hát:
Hoàng thúc ơi
"Mọi nỗi u buồn trên cõi đời này đều tiêu tan hết
Ở miền xa xôi nơi Đông Hải, có một đất nước Cao Ly thần tiên.
Nơi đó sẽ chào đón đức Hoàng thúc tài hoa và giàu lòng nhân đức.
Ngày xưa vua Tần Thủy Hoàng nuôi lòng tham nơi trần thế.
Đã cắt cử con trai, con gái sang núi Tam Thần đất Cao Ly tìm thuốc trường sinh bất tử, nhưng họ đều không trở về.
Hoàng thúc chúng ta nay sang đất Cao Ly thần tiên nếu được trường sinh bất tử.
Bao giờ trăng lên, Hoàng thúc nhớ gửi về cho tiện nữ hình bóng của ngày xưa"
Hoàng thúc ơi!
Ngô tiểu thư dứt tiếng hát, mang chiếc đàn tranh dựng lại bên chiếc bình phong, cúi đầu vái chào Hoàng thúc.
- Lời ca vụng về của tiểu nữ, Hoàng thúc nghe nhiều chắc nhàm chán.
- Lời ca tiếng đàn nổi tiếng thiên hạ của tiểu thư thật danh bất hư truyền. Rất tiếc ta đã gặp nàng quá muộn.
- Xin đức Hoàng thúc chớ quá khen kẻ tiện nữ quê mùa này. Xin mời Hoàng thúc dùng thêm một chén rượu nữa.
Trên bàn rượu, các thứ nhắm đã cạn, bát đĩa ngổn ngang.
Đêm đã về khuya tự lúc nào. Hoàng thúc và Lý công tử vừa say vừa mệt, ai nấy đều ngả mình ra ngủ. Ngô tiểu thư ngồi thức, mở mắt trông chừng cho đến khi trời sáng. Nàng lấy chân mình kê dưới đầu làm gối cho Hoàng thúc. Đêm mùa hè ngắn ngủi, một đêm chẳng khác nào một thoáng trôi qua. Mặt trời đã lên cao hơn đọt ngọn cau, chiếu sáng khắp muôn cảnh vật. Trên bờ biển, các thuyền đánh cá nhỏ to chen chúc nhau tấp nập ra khơi.
Những người đàn bà dân chài chắp hai tay giơ lên lưu luyến tiễn chồng con của họ ra khơi, cầu mong đánh được nhiều cá, trở về bình an.
Bầy chim hải âu tung lượn lao xao, lúc lao vọt lên cao, lúc bay sà xuống mặt nước như một mũi tên rồi lại vun vút bay đi.
Cách bến về phía xa xa, một chiếc thuyền lớn treo cờ Nam Tống đang bỏ neo đậu.
Các phu thuyền thả xuống biển một chiếc xuồng nhỏ. Hai phu thuyền leo lên xuống khua mái chèo rẽ nước vào bờ.
Chỉ trong chốc lát họ đã leo được lên bờ. Một người bước xuống thuyền, dáng đi vội vã, rảo bước về phía gian nhà tranh nơi Hoàng thúc đang nương náu.
Vừa trông thấy người quét sân, ông ta liền hỏi:
- Lý công tử đã dậy chưa?
- À, chào ông Vương. Xin mời vào. Lý công tử đang nóng ruột chờ ông đấy. Mọi người đã ăn sáng xong rồi.
Nói xong, người quét sân chạy vào nhà nói với Lý công tử:
- Thưa Lý công tử, có ông Vương người nước Tống đến tìm.
- Ông Vương à? Sao đến muộn thế. Chúng tôi đang chờ đây. Trước hết phải đưa hành lý lên thuyền đã.
- Vâng... Trước định sau ba ngày nữa sẽ nhổ neo, nhưng nay đổi lại, tối nay phải đi rồi.
Lý công tử nghe vậy không khỏi bàng hoàng, bèn quay sang nhìn Hoàng thúc và Ngô Anh Cơ.
- Ngay tối hôm nay à?
Không một chút thay đổi nét mặt, ông Vương lạnh lùng đáp:
- Vâng, phải thế thôi. Ba ngày nữa, sóng gió bất thường, nên tối hôm nay đi là tốt nhất.
Những đìều mà Lý công tử nghĩ đến, cũng như những gì mà Ngô Anh Cơ phác hoạ lên trong mấy ngày còn lại, tất cả giờ đây đã tan biến thành bọt nước.
Đương nhiên, những người sắp giã từ cố quốc ra đi có nỗi buồn riêng của mình. Còn đằng này Ngô Anh Cơ vừa mới gặp đã phải vội chia ly thì nỗi lưu luyến bịn rịn trong lòng càng không sao nói hết.
Lý công tử đưa mắt nhìn lên gương mặt của Hoàng thúc rồi đưa mắt nhìn lên gương mặt của Ngô tiểu thư.
Nghe chưa hết câu nói, họ Vương liền đáp lại với giọng cộc lốc khô khan, mang nặng dấu ấn cửa quyền của bọn phu thuyền không một chút tình nghĩa.
- Không được đâu!
Hoàng thúc ngồi bên cạnh, thấy cảnh tượng ấy, đã hiểu ra tất cả, bèn nói:
- Thôi được rồi. Hôm nay chúng ta sẽ rời bến. Đằng nào cũng phải ra đi, vậy hãy kíp lên đường, sớm lúc nào hay lúc ấy.
Nói xong, Hoàng thúc nín lặng, đưa mắt thẫn thờ nhìn xuống đất.
Tất cả hơn hai mươi tráng đinh theo phò tá Hoàng thúc đến tề tựu đông đủ trước sân nhà.
- Các người hãy mang theo tất cả đồ hành lý mà chúng ta sẽ phải mang đi, cùng ông Vương nhanh chóng lên tàu.
- Xin vâng.
Các tráng đinh cũng ngậm ngùi bịn rịn theo thân phận của họ, im lặng khiêng các đồ thờ cúng là chính và các đồ vật khác ra mạn thuyền.
Lý công tử cũng đi cùng với họ ra bến.
Trong sân nhà tranh chỉ còn lại Hoàng thúc và Ngô tiểu thư. Ngô tiểu thư nói với Hoàng thúc bằng một giọng nhỏ nhẹ:
- Hoàng thúc ơi, tiện thiếp cứ nghĩ sẽ được hầu hạ Hoàng thúc ít nhất cũng vài ngày nữa. Nào ngờ đâu, Hoàng thúc sắp phải vội vã ra đi, chỉ dám thương cho số phận của tiện thiếp bạc phước vô duyên!
Hoàng thúc lấy hai tay vuốt lên mái đầu Ngô tiểu thư, an ủi:
- Không phải tiểu thư bạc phước mà ta đây mới là người chịu số phận hẩm hiu. Nàng ơi, ta rất hiểu nàng.
- Hoàng thúc ơi, được gặp Hoàng thúc như thế này, tiện thiếp đã thoả nguyện được nỗi mong ước ngàn thu. Đằng nào Hoàng thúc cũng sắp ra đi rồi. Hoàng thúc hãy ôm tiện thiếp vào lòng, xin chỉ một lần này thôi.
Hoàng thúc đưa tay đỡ lấy Ngô tiểu thư đang thổn thức ra khỏi lòng mình và ngồi lùi lại phía sau.
- Ngô tiểu thư ơi, ta không còn chỗ dung thân trên mảnh đất này nên mới phải ra đi. Tấm thân này chẳng còn sá chi, ta đã quen đi hết mọi nỗi mong ước trên đời.
- Hoàng thúc ơi, chẳng phải thế đâu. Dù Hoàng thúc có rời khỏi mảnh đất này, nhưng nơi đây còn có biết bao nhiêu người dù muốn theo Hoàng thúc cũng chẳng được không riêng gì một mình tiện thiếp... Nếu Hoàng thúc còn nghĩ đến trăm họ đáng thương, và những người đã mất đi vĩnh viễn, xin Hoàng thúc hãy ôm lấy tiện thiếp vào lòng, chỉ một lần này thôi... Được như thế, tiện thiếp sẽ mang tâm hồn của Hoàng thúc gieo đi khắp nơi nơi.
Lời van xin khẩn thiết của nàng, không chỉ là biểu hiện của tình yêu mà chính là tiếng kêu xé lòng của trăm họ sinh ra chẳng gặp điều lành trên đất nước này.
- Ngô tiểu thư!
Hoàng thúc đưa hai tay ôm lấy tiểu thư. Tiểu thư ngã vào lòng Hoàng thúc, rung lên nức nở.
Hoàng thúc và tiểu thư ôm lấy nhau quấn quít trong niềm ân ái yêu thương. Tình yêu của họ đã dâng cao, hai trái tim đập mạnh trong hơi thở gấp...
Tiểu thư đắm mình trong giây phút hạnh phúc. Nỗi đau toàn thân đã tan hết như một cơn bão táp đi qua. Nàng ngồi dậy, sửa lại mái đầu.
Hoàng thúc im lặng thẫn thờ, hai mắt nhắm nghiền, nằm không động đậy.
Tỉểu thư lại vuốt mái tóc, điểm trang khuôn mặt.
- Thưa Hoàng thúc, Hoàng thúc có điều gì suy nghĩ buồn phiền chăng? Hoàng thúc trước lúc ra đi đã thoả nguyện được nỗi ước mong cho tiện thiếp. Hoàng thúc ơi, dù Hoàng thúc có ra đi nơi chân trời góc bể xa xôi, dám cầu xin mong Hoàng thúc được vạn thọ vô cương, bình yên đất lạ.
- Tiểu thư ơi, ta chỉ cảm thấy lòng nặng trĩu. Ta là một kẻ có tội, không sống được với giang sơn đất nước nên đã phải ra đi! Lại còn gieo nỗi khổ cho nàng trước lúc xa cách...
Hoàng thúc mở mắt ra rồi nhắm mắt lại. Nàng lại gục vào lòng Hoàng thúc thổn thức:
- Xin Hoàng thúc đừng làm cho tiện thiếp phải khóc thêm. Hoàng thúc có nghe chăng những lời ai oán khóc than của trăm họ đang tiễn đưa một vị hoàng tử được muôn dân mến mộ? Nỗi ân hận trong lòng tiện thiếp có lớn đến đâu chăng nữa, cũng chẳng thể nào sánh được với nỗi ai oán đớn đau kia của trăm họ. Hoàng thúc ơi, trên bước đường đời, cũng có lúc thịnh lúc suy, trong trị vì thiên hạ cũng có khi tỏ khi mờ. Dám mong đức Hoàng thúc hãy quên đi tất cả, cố gắng giữ gìn quý thể an khang.
Những giây phút bịn rịn lưu luyến cứ thể vô tình trôi... Trời đã về chiều. Lý công tử ra thuyền Nam Tống lo liệu việc hành lý đã trở về.
- Thưa Hoàng thúc, mọi việc đã sắp đặt xong xuôi. Chỉ chốc nữa thôi là chúng ta phải ra đi.
Nét mặt Hoàng thúc đượm vẻ ngậm ngùi:
- Người ra đi đã đến lúc phải đi.
Ánh mắt Hoàng thúc dõi nhìn về phía bờ biển xa xa. Con đường phía trước, nước mây một màu mịt mùng...
Ngô Anh Cơ ngồi bên cạnh trông thấy Lý công tử dáng điệu thiểu não cũng noi một câu ra chiều trách móc:
- Lý công tử đi gặp những kể phu thuyền nhẫn tâm, trở về bây giờ cũng nhẫn tâm rồi.
Lý công tử chỉ biết đưa mắt nhìn xuống đất.
Nhìn thấy cảnh tượng não lòng đó. Hoàng thúc bất giác nghiêm sắc mặt nói:
- Tiểu thư ơi, đừng quá buồn lòng. Ta ra đi đây đâu phải là biệt tăm mãi mãi. Chắc rồi ta sẽ trở lại với Tổ quốc thân yêu của ta, trở về lại với mảnh đất này, nơi nàng vẫn chờ ta đó. Chúc nàng ở lại bình yên cùng với muôn dân trăm họ.
- Hoàng thúc ơi...
Nói chưa hết câu, tiểu thư đã ngã xỉu xuống đất. Lý công tử vội lại dỗ dành. Nhưng Hoàng thúc cố làm ra vẻ thờ ơ, từ từ đứng dậy đi thay áo. Người mặc bộ quần áo màu xanh, trông giống như một chủ thuyền và cũng giống như một người lái buôn. Lý công tử quay lại chỗ Hoàng thúc thì thầm điều gì đó rồi đến trước mặt Ngô Anh Cơ.
- Ngô tiểu thư, ta cảm ơn nàng đã hầu hạ Hoàng thúc. Những người ra đi giờ đã phải cất bước lên đường. Tiểu thư ơi, căn nhà tranh và khu đất nơi xa xôi này, tất cả đều đã được mua xong để đón Hoàng thúc và sắp xếp cho cuộc ra di không ai hay biết này. Tất cả giấy tờ văn tự cùng với một ít tiền dự phòng đã để sẵn trong ngăn kéo kia. Tiểu thư hãy đón mẹ già về đây nương náu. Cầu trời khấn phật mẹ con được bình an mạnh khoẻ!
Tiểu thư oà lên khóc nức nở như người mất hồn, chẳng còn bụng dạ nào nghe những lời công tử nói. Ngô tiểu thư vốn thông minh, lanh lợi là vậy mà trước giờ phút ly biệt đau thương này, đã không kìm nổi lòng mình.
Lý công tử thấy vậy đành ra ngoài trước, Hoàng thúc quàng tay ôm lấy tiểu thư đang quằn quại khóc lóc, dỗ dành nàng:
- Ta sắp lên đường rồi mà sao tiểu thư nỡ để cho ta tan nát ruột gan. Nào, nàng hãy trấn tĩnh lại đi. Ta sắp phải đi rồi...
Nghe nói vậy, nàng liền im tiếng khóc, ngồi ngay ngắn lại. Nàng cắn răng lau nước mắt.
- Hoàng thúc ơi, bây giờ tiện thiếp sẽ không khóc nữa. Xin mời Hoàng thúc lên đường. Tiện thiếp xin đưa Hoàng thúc ra bến thuyền.
Hoàng thúc ôm lấy tiểu thư vào lòng. À không, Hoàng thúc không chỉ ôm Ngô tiểu thư, mà ôm cả mảnh đất của cha ông, ôm lấy tất cả đồng bào cốt nhục yêu thương của mình vào lòng.
Một chốc sau, hai người chia tay nhau. Đây có lẽ là lần ôm nhau cuối cùng giữa hai người.
Lý công tử dáng vẻ mệt mỏi đang lê bước chân về phía bến thuyền xa xa. Theo sau là Hoàng thúc và Ngô tiểu thư.
Mặt trời đã gác đầu non phía tây, ánh ráng chiều trải dài trên bãi biển một màu vàng nhợt.
Gió biển thổi vào đất liền, nhưng cái nóng vẫn chưa dịu bớt.
Trong số những người qua lại nơi đây, không một ai biết được hành tích của họ. Trông họ giống như những người lái buôn thường hay đi lại với nước Tống, hoặc cùng lắm như một cặp vợ chồng dân đánh cá.
Lý công tử đi trước, đến đứng trước mũi xuồng nhỏ, dáng chừng nửa muốn giục Hoàng thúc lên thuyền, nửa muốn giành lấy những giây phút cuối cùng để giữ lại thêm chút nữa dấu chân của mình trên mảnh đất của cố quốc thân yêu.
Hoàng thúc cùng Ngô tiểu thư cũng đã đến trước mũi xuồng từ lúc nào.
Lý công tử nhìn thấy Hoàng thúc.
Hoàng thúc cố nén vẻ mặt đau xót không nói được nên lời. Nhưng thời gian không cho phép họ kéo dài thêm sự nấn ná. Bằng một giọng yếu ớt, Lý công tử quay về phía Hoàng thúc.
- Thưa Hoàng thúc, xin mời Hoàng thúc lên thuyền.
Hoàng thúc quay lại nhìn Ngô tiểu thư. Ngô tiểu thư đứng cách xa khoảng mười bước chân, cố cắn răng nén nỗi đau xót trong lòng. Thật bất ngờ, trên khoé mắt của nàng còn ánh lên cả nụ cười. Hoàng thúc gửi lại lời chào ly biệt bằng thân hình không còn tuỳ ý cử động được nữa. Có mắt mà không nỡ nhìn, có lời mà đành lặng yên bước lên thuyền.
Lý công tử quay nhìn về phía tiểu thư, đưa tay lên vẫy vẫy.
- Ngô tiểu thư... ở lại mạnh giỏi!
Tiểu thư giơ hai tay lên.
- Cầu chúc Hoàng thúc lên đường bình an. Lý công tử lên đường bình an, nhớ chăm lo Hoàng thúc.
Các phu thuyền khua mạnh mái chèo, chiếc xuồng rẽ nước xanh, từ từ rời bến.
Một chốc sau, chiếc xuồng chở họ cặp vào mạn thuyền lớn. Hoàng thúc và Lý công tử được các phu thuyền đỡ lên. Sau đó chiếc thuyền con cũng được bốc lên nốt.
Ngô tiểu thư lấy khăn tay lau nước mắt giàn giụa. Chiếc khăn ướt đẫm những lệ, hết lớp này đến lớp khác.
Nàng đưa chiếc khăn đỏ lên vẫy vẫy. Bên dưới hàng mi những giọt lệ tuôn rơi lã chã, ánh sáng của buổi chiều là phản chiếu lên phía sau lưng nàng một màu vàng ảm đạm của cảnh chia ly.
Các phu thuyền nhổ neo, lựa chiều gió, quay mũi thuyền định hướng xuất phát.
Hoàng thúc và Lý công tử đứng trên mạn thuyền, dáng cao cao. Quay nhìn về châu Thuận Hoá. Không, họ không chỉ nhìn về châu Thuận Hoá mà nhìn về mảnh đất Nam quốc Đại Việt, non sông một dải mênh mông.
Ai cũng giữ im lặng, dáng chừng như không biết ra đi rồi có trở về không. Chỉ còn lại bóng hình lẻ loi của Ngô tiểu thư đang đứng ở một góc bến thuyền giơ lên vẫy vẫy chiếc khăn tay ướt đẫm nước mắt.
Cả Hoàng thúc và Lý công tử đều giơ cả hai tay lên vẫy lại.
Hơn hai mươi tráng đinh đi theo Hoàng thúc, tất cả đều vẫy tay.
Họ cũng gửi lại lời chào ly biệt với non sông nặng nghĩa nặng tình.
"Người ơi, người ra đi trong cảnh ly biệt đầy nước mắt
Mong trời đất phù hộ cho người
Gió ơi, gió thổi lên đi, đưa người thương ta lên đường
Người, không còn nữa trên bến thuyền này
Thiếp biết sống vì ai
Người đi, đến rồi lại đi như cơn gió thoảng."
Con thuyền từ từ xa bờ, không còn nghe thấy tiếng hát ngậm ngùi đó của Ngô tiểu thư, mỗi lúc một xa dần về phía chân trời. Những cánh chim hải âu hôm nay bay lượn cũng khác với thường ngày. Trên mặt biển bao la, hình bóng con thuyền mờ dần trong cảnh nước mây man mác.
Chỉ còn một mình tiểu thư với chiếc bóng lẻ loi đứng nhìn mặt biển.
Trời chiều đã ngả bóng hoàng hôn. Mọi người trên bến đều đã về nhà. Chỉ còn một mình Ngô tiểu thư lơ đãng nhìn về phía biển khơi xa thẳm...
CHƯƠNG 4: MỘT DỊ NHÂN ĐEO MẶT NẠ
Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, nhà Đường đã suy vong. Lên thay nhà Đường là nhà Tống. Nước Cao Cù Ly (Kokuryo) bị diệt vong bởỉ mắc mưu nhà Đường. Dân du mục nước này lúc bấy giờ tản mác khắp nơi. Họ đã bền bỉ tiến hành cuộc đấu tranh vì độc lập, nhằm giành lại đất Cao Cù Ly, và đã lập nên nước Bột Hải ở Mãn Châu Trung Quốc ngày nay, để chống lại các thế lực xâm lược từ phía đại lục Trung Nguyên. Sau đó nước Bột Hải cũng suy vong và nước Kim ra đời. Lúc bấy giờ, nước Cao Ly do họ Vương trị vì, nhưng thế lực còn yếu, không có nổi ý định giành lại quốc thổ của Cao Cù Ly. Nước Kim nhiều lần cử sứ thần sang bàn với Cao Ly hợp sức đánh Tống để giành lại đất Cao Cù Ly, từ là nước Phù Dư ngày xưa 1. Nhưng sau nhà Đường, ý thức thống trị của Trung Nguyên đã thâm nhập vào đất Cao Ly, khiến cho nước này tiêm nhiễm phải tư tưởng thần phục nước lớn. Do vậy, đối với nước Kim, tuy cùng một dân tộc nhưng Cao Ly đã đối xử lạnh nhạt với họ, gọi họ là dân man di. Tuy vậy, nước Kim đã tránh cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn với Cao Ly và quay mũi giáo về phía nước Tống. Sự hình thành nước Bột Hải và nước Kim thực chất là những cuộc đấu tranh đẫm máu, không mệt mỏi vì độc lập của dân tộc này. Nhà Tống bị mất phần đất phía bắc sông Hoàng Hà về tay nước Kim. Từ đời Tống Cao Tông trở đi, họ bắt đầu nam tiến, lấy Nam Kinh làm thủ đô và ổn định sự nghiệp tại nơi đây. Đó tức là thời đại Nam Tống.
Nước Tống bị tổn thất rất nhiều về nạn binh đao, đã thế lại còn phải chỉnh tu lại bộ mặt thủ đô mới là Nam Kinh nên bị hao tài tốn của rất nhiều.
Xung quanh Nam Kinh rộng đến mười lăm dặm. Phía đông có hai cửa lớn, phía nam có Liên Hoa đài, phía bắc có Tao Nhân các, phía tây có ba cửa. Phía nam xây thành đồ sộ gọi là Tuần thành. Xung quanh cung điện còn xây một bức tường thành hùng vĩ bao bọc dài hai dặm ba trăm sáu mươi bộ.
Ngoài các lâu đài cung điện như Tử Thìn điện, Tập Anh điện, Thăng Bình lâu, Cảnh Phúc điện, Sùng Chính điện, Diên Thọ các, Phúc Minh điện, Thọ Minh điện... còn có Diên Nghị các, Lý Dịch các, Giang Du các, Tử Thọ điện, Ngọc Hoa điện cũng đã được xây cất để hoàn chỉnh bộ mặt của kinh đô phía nam.
Dưới thời vua Lý Tông, nước Tống cử sứ giả cầu hoà sang nước Kim. Nước Kim cũng cử sứ thần là Ôn An sang nước Tống. Hai bên tỏ tình hoà hiếu, đi lại giao hảo với nhau. Bên trong cửa phía đông, tức cửa Thừa Khánh môn, có một quán nhỏ.
Quán này có tên là Tĩnh Hải quán. Đây chính là nơi có nhiều sĩ phu ra vào. Một hôm có một sĩ phu tìm đến trước cửa Tĩnh Hải quán.
Vị sĩ phu này vừa bước vào cửa, người hầu đã vội ra đon đả nghênh tiếp.
- Xin mời quý ông vào, trong này có phòng sang trọng.
Người sĩ phu có vẻ khó chịu trước vẻ xun xoe của người hầu, bèn hắng giọng:
- Không, ta đến để tìm gặp một người khách ở đây.
Nghe thấy vậy, người hầu lễ phép hỏi lại:
- Dạ thưa... quý ông định tìm vị khách nào ạ?
- Có một ông tên là Lý Quân Tất có lưu lại tại quán này không?
- Dạ, dạ... ý quý ông muốn nói đến Lý công tử phải không ạ?
Người sĩ phu tỏ nét mặt mừng rỡ, tiến thêm một bước:
- Các vị ấy đến đây từ bao giờ, nhà ngươi có biết không?
Liếc qua diện mạo và thái độ của vị sĩ phu này cứ nhìn chằm chằm vào mình, người hầu biết ông ta không phải tay vừa, bèn chắp hai tay cung kính đáp:
- Dạ thưa, các vị ấy đến đây đã ba ngày rồi ạ.
Nghe đến đây, người sĩ phu có vẻ như không muốn nghe tiếp những lời nói của người hầu nữa, bèn cởi giày bước lên bậc thềm.
- Phòng nào vậy, nhà ngươi đưa ta đến thăm.
Người hầu nghe ông khách nói vậy, thì nghĩ rằng ông này có tính sốt ruột chứ không phải kiêu ngạo, bèn lướt nhìn ông một lượt từ đầu đến chân rồi nói:
- Có cần phải thưa với đại nhân là vị nào, từ đâu đến không ạ?
Nhưng vị sĩ phu tỏ vẻ khẩn cấp, nên đòi phải đưa đi gặp ngay.
- Cái gì? Mấy ông khách đó là chỗ quen thân với ta. Nhà ngươi cứ đưa ta đến, không sao cả.
Người hầu dáng chừng phật ý, nhưng không dám nói ra, bèn đi trước dẫn đường. Một chốc sau, hai người bước vào một cái sân ngoằn nghèo, nơi đây có nhiều phòng sang trọng.
Người hầu dừng lại trước phòng có đề hai chữ ''hạng nhất'', và rón rén gọi hỏi nhỏ:
- Thưa, Lý công tử có trong phòng không ạ? Có vị khách muốn đến thăm Lý công tử.
Lý công tử đang ngồi trong cửa, nghe nói có khách đến, vội mở cửa ra nhìn, trông thấy một người có tên là Hàn Phương Nguyên đang đứng phía sau người hầu.
- A, đại huynh đã đến, xin mời vào.
Lý công tử bước ra nghênh tiếp, nắm lấy tay vị sĩ phu, tỏ vẻ vô cùng mừng rỡ.
Người hầu nhìn thấy, có phần hơi ngượng bèn quay gót lui ra.
Lý công tử đưa khách có tên là Hàn Phương Nguyên đến gặp Hoàng thúc.
- Đây là Hoàng thúc của chúng tôi. Hàn huynh hãy chào người đi!
Hàn Phương Nguyên vội cúi gập người thi lễ.
-Xin kính chào đức Hoàng thúc. Kẻ hậu sinh tên là Hàn Phương Nguyên.
Hoàng thúc mỉm cười, cúi người chào đáp lại.
-Tôi là Lý Long Tường. Mong được các vị chỉ giáo.
Lý công tử đỡ lời, giới thiệu lai lịch của Hàn Phương Nguyên.
- Hàn huynh này là người gần gũi của Lâm đại giám trong Khu mặt viện của Tống triều, vốn là bạn học cũ của hạ thần. Tiên phụ của Hàn huynh đã từng là sứ thần sang nước Đại Việt của chúng ta. Lúc ấy, Hàn huynh cũng đã đi cùng với thân phụ sang ở nước ta. Kẻ hạ thần đã cùng với Hàn huynh kết nghĩa tâm giao từ thuở ấy.
Hàn Phương Nguyên cung kính cúi chào Hoàng thúc lần nữa, dáng chừng như muốn nói điều gì đó, nhưng không biết nghĩ thế nào lại chuyển sang ý khác.
- Dạ... thế quý ngài đến đây từ khi nào. Quý ngài đi đương sá xa xôi chắc là vất vả lắm.
Lý công tử như đã đọc được ý của Hàn Phương Nguyên qua ánh mắt của ông ta, bèn thay lời Hoàng thúc đáp lại:
- Hôm nay đã là trung tuần tháng chín. Hai tháng trước, chúng tôi đi thuyền, vượt biển Giao Châu, sau đó qua các miền Quảng Đông, Thượng Hải. Ba ngày trước, chúng tôi đã tới được quán này. Vì vậy đến tối hôm qua mới liên lạc được với Hoàng huynh.
Nói đoạn, Lý công tử đứng dậy ra mở cửa và gọi người hầu. Biết Hàn Phương Nguyên thích rượu, nên Lý công tử định mời rượu họ Hàn.
Người hầu vội bước tới chờ lệnh.
- Thưa quý ông cho gọi con.
- Nhà ngươi hãy dọn rượu ngon và thức nhắm tốt đến đây cho ta!
- Dạ vâng.
Người hầu lui ra, nhưng nét mặt Hàn Phương Nguyên vẫn rắn căng, ngồi im lặng, ra dáng trầm tư.
Hoàng thúc đã hiểu được thái độ của họ Hàn, bèn đứng dậy.
- Quý công tử ở lại chơi với Lý công tử chúng tôi đã rồi hãy về. Tôi có việc cần đi ra đây một chút.
Lý công tử dáng chừng cũng hiểu được bầu không khí trong phòng, nhân thể bèn đứng dậy đưa Hoàng thúc sang phòng khác, xong quay trở lại, mời Hàn Phương Nguyên chuyển sang chỗ ngồi mới.
- Nào, mời Hàn huynh sang đây. Chúng mình xa nhau thấm thoắt đã sáu năm rồi đấy nhỉ.
Đến lúc này, nét mặt của Hàn Phương Nguyên mới dịu đi đôi chút. Y nói không úp mở.
- Lý huynh phò Hoàng thúc lưu vong sang đây đấy à?
-........
Họ Hàn nắm lấy tay Lý công tử đang cúi nhìn xuống đất, lặng thinh không trả lời. Hàn nói tiếp:
- Thật chẳng may. Tôi không biết vương triều Lý của nước An Nam đã chuyển sang tay họ Trần một cách đơn giản như vậy.
Lúc này cửa đã mở ra, mấy người hầu mang mâm rượu vào.
Mâm rượu đặt ở giữa. Hai người ngồi đối diện, nâng chén mời nhau. Vừa uống gần hết một tuần rượu. Lý công tử mới mở miệng nói với giọng cứng cỏi:
- Hàn huynh... nước Tống nghĩ như thế nào về tình hình trong nước chúng tôi?
Lúc này Hàn Phương Nguyên đã có phần chếnh choáng hơi men, bèn nói toạc ra theo cảm nghĩ của mình.
- Lúc này, Hoàng thúc có mặt ở đây, tôi cũng định nói, nhưng lại thôi. Sự thật, nếu Hoàng thúc mang dòng máu của triều Lý mà đứng lên tiếp nối sự nghiệp thì chắc là Trần Nhật Chiếu sẽ phải ở vào thế khó khăn. Nhưng việc đó đã qua rồi. Giờ đây, tất cả đều đã kết thúc xong xuôi.
- Tất nhiên mọi việc thì đã xong rồi. Nhưng chả lẽ cả triều đình và thần dân nước Tống lại không biết dòng dõi huyết tộc của vương triều Lý vẫn còn đường đường tồn tại một Lý Long Tường mà lại đi can thiệp vào việc kẻ thừa ngôi vua của một nước láng giềng, rồi lại cử sứ giả sang cầu thân, tự ý làm những điều chẳng còn ra thể thống gì.
Hai người trẻ tuổi khác quốc tịch dù đã chếnh choàng hơi men, rõ ràng vẫn còn đủ minh mẫn để phân biệt phải trái, bàn bạc với nhau một cách chân thành về công việc quốc sự. Có lẽ vì thế, nên nghe những lời nói đó của Lý công tử, Hàn Phương Nguyên đã trả lời một cách bộc trực, giọng có phần sôi nổi:
- Lý huynh nói đúng thôi. Tôi cũng đồng tình. Trước đây được nghe tiên phụ kể lại. Nước Tống vừa bị rợ Hồ quấy phá, lại thêm chiến tranh Tống - Kim, nhiều người phải lánh nạn sang quý quốc, có ai là không gây phiền nhiễu cho vương triều Lý. Thế mà những người biết rõ điều đó, bây giờ lại xử xự sai với quý quốc như vậy thật là một điều đáng tiếc. Còn tình hình nước Tống hiện nay thật là khó xử.
Lý công tử nghe lời nói của Hàn Phương Nguyên, nghĩ rằng thời điểm chính là hiện này, bèn nói:
- Cảm ơn những ý nghĩ và lời nói của đại huynh. Đành rằng đó là việc đã qua, nhưng Trần Vũ sang đây để làm những trò gì. Hàn huynh có thể nói cho tôi biết một chút được không.
Hàn Phương Nguyên trả lời không chút do dự, giọng hùng hồn:
- À, đến mức ấy thì chưa biết được. Nhưng hiện nay sứ thần của Trần Nhật Chiêu và họ hàng thân thích của ông ấy sang ở lại tại đất kinh thành này khá nhiều, nên Lý huynh nhớ cẩn thận. Có lẽ thời gian ngắn trước mắt còn gặp khó khăn. Lâm đại quan của chúng tôi đang đi kinh lý ở phủ Tế Nam đất Mãn Châu khoảng hơn một tháng nữa mới về. Lúc ấy sẽ tìm hiểu xem, ở đây có Triệu đại giám giữ chức Khu mật sứ. Vị đại quan này là chỗ quen thân với Trần Nhật Chiêu. Nên cẩn thận kẻo xảy ra chuyện chẳng lành đấy. Hiện này Thái đại giám đã mất rồi, nếu ngài còn sống chắc đã không để xảy ra sự việc như thế này.
Lý công tử tỏ vẻ lễ phép, lựa lời đưa đẩy câu chuyện để họ Hàn vừa lòng.
- Dù sao thì ngoài Hàn huynh ra, chúng tôi chẳng còn quen biết ai. Tình hình này tuy khó khăn, rất mong ở sự chăm sóc của Hàn huynh.
Hàn Phương Nguyên như sực nhớ ra điều gì, bèn dè dặt hỏi nhỏ:
- À này, ở quán trọ này có ai biết việc Lý công tử từ An Nam quốc sang đây không?
Lý công tử hiểu ý câu hỏi, bèn trả lời:
- Không, ở đây họ chỉ biết chúng tôi là những người lái buôn từ Thanh Châu tới.
Hàn Phương Nguyên thở phào nhẹ nhõm:
- Thế là tốt. Đừng để vạn nhất xảy ra chuyện gì không hay đến tính mạng Hoàng thúc.
Dù sao Lý công tử cũng phải cảm ơn sự quan tâm của Hàn Phương Nguyên.
- Cảm ơn Hàn huynh. Người thực sự quan tâm đến chúng tôi nơi tha phương khách địa này giờ đây chỉ còn mỗi một mình Hàn huynh.
Hàn Phương Nguyên đứng dậy.
- Tôi có việc phải về. Sau này sẽ đến thăm lại. Xin thứ lỗi, tôi ra về mà không kịp chào Hoàng thúc.
Lý công tử cố giữ lại, nhưng Hàn Phương Nguyên vẫn cáo từ xin về. Để tỏ lòng tri ngộ, Lý công tử vào chỗ xếp hành lý kín đáo trong quán trọ, lấy ra một gói được bọc kỹ trao cho Hàn Phương Nguyên.
- Có chút quà mọn xin biếu Hàn huynh. Hàn huynh ra về, xin cầm về họ cho. Nhờ như thế này thật thất lễ với Hàn huynh, nhưng Hàn huynh cầm về thì tiện hơn chúng tôi trực tiếp đưa tới.
Hàn Phương Nguyên tuy biết nhận quà tặng của khách tha phương lưu vong đến đây là điều không hợp lệ, nhưng nghĩ rằng sau này có nhiều việc tìm hiểu phải cần đến tiền, nên đành nhận vậy.
- Thế này thì thật không phải. Đáng lẽ tôi phải tạo thuận lợi cho Lý huynh mới phải, đằng này lại còn đi nhận quà tặng như thế này.
- Giữa chúng mình với nhau có điều gì là phải với không phải. Hàn huynh về nhà xin đừng trách quở chúng tôi nhé.
- Vậy thì tôi đành chịu xấu hổ mà nhận vậy.
Lý công tử tiễn Hàn Phương Nguyên ra đến ngoài cổng thành xong, quay vào phòng Hoàng thúc, và trình lại Hoàng thúc mọi điều cặn kẽ đã trao đổi với Hàn Phương Nguyên.
Nghe xong, Hoàng thúc nói:
- Đúng như điều chúng ta đã nghĩ không sai, phò mã Trần Nhật Chiếu đã lập ra gian kế để cướp trọn vương triều Lý của chúng ta. Nhưng mà thôi, tất cả đều đã qua rồi...
Lý công tử cũng thở dài.
- Thưa Hoàng thúc, dù sao thì Hàn Phương Nguyên cũng đã nói như vậy. Hay là ta thử lưu lại đây ít lâu, theo dõi động tĩnh xem sao...
Hoàng thúc uể oải nhìn Lý công tử, nghe vậy bèn quay ra ngoài cửa sổ, đáp:
- Bây giờ chúng ta còn biết đi đâu nữa. Đành tạm sống cho qua mùa đông ở đây, không còn cách nào khác.
Từ sau đó, Hoàng thúc ở biệt trong quán trọ cửa đóng then cài. Chỉ có Lý công tử và đám tráng đinh mới thỉnh thoảng ra ngoài mà thôi. Họ phải sống những tháng ngày tẻ ngắt như vậy.
Lại nói về Hàn Phương Nguyên. Sau khi về nhà, ông ta giở xem chiếc bọc do Lý Quân Tất trao cho, thấy có trân châu, bảo vật và nhiều bạc nén. Lúc đầu ông định thăm dò và báo cho Lý Quân Tất biết nội dung đó. Nhưng sau khi Lâm đại giám trở về, vì không biết chuyện Hoàng thúc Việt Nam đã sang nước Tống, nên sau khi hỏi thăm tình hình liền ra lệnh nghiêm cấm hoàn toàn không được dính líu vào việc này. Nội dung đó là Trần Nhật Chiếu đã thông qua Trần Vũ tiến nạp cho nước Tống một nghìn con ngựa và các lễ vật khác nhiều chưa từng thấy. Nếu bây giờ mà ngăn cản họ Trần và dựng triều Lý thì nơi biên ải sẽ xảy ra biến loạn. Thực ra lúc bấy giờ nước Tống đang bù đầu vào những cuộc tranh chấp liên miên với nước Kim và Mông Cổ.
Vào dịp lễ lên ngôi vua Trần đầu năm tới, tiên tử nhà Tống quyết định sẽ cử sứ thần sang chúc mừng. Xét theo lương tri cá nhân và ý kiến của bản thân, thì những điều bí mật quốc gia đó đã như đinh đóng cột nếu tiết lộ chắc chắn sẽ gây tổn lại lớn cho đất nước, nên không biết làm thế nào. Do vậy mà Hàn Phương Nguyên không muốn gặp lại Lý công tử. Đợi mãi không thấy, Lý công tử đành phải dựa vào sức lực bản thân đi thăm dò chỗ này chỗ nọ và cũng biết được đại khái câu chuyện sau khi sứ thần nhà Tống đã lên đường sang Đại Nam quốc.
Dù sao thì một mùa đông vô vị tẻ ngắt cũng đã qua đi. Tháng năm năm sau đã tới. Cả đoàn lữ khách bị chôn chặt trong quán trọ suốt thời gian dài nay đã đến được Thanh Châu, lãnh địa của nước Kim để chuẩn bị đi tiếp sang nước Cao Ly.
Gọi là lãnh địa của nước Kim, vì đất đó của nước Tống nhưng nước Kim cướp được nên vẫn còn nhiều người nước Tống sống ở đó. Hai nước Kim - Tống có phong tục và ngôn ngữ gần giống nhau. Đoàn lữ hành đến Thanh Châu, để sửa chữa lại thuyền. Tiết trời tháng năm nơi đây đã là mùa hè, cây cỏ một màu xanh tốt.
Tuy không nóng bức như ở nước Đại Việt, nhưng mùa hè ở đây vẫn dài lê thê.
Đoàn lữ hành đậu thuyền ở trấn Thanh Châu. Họ vào nghỉ ở một quán trọ có tên là Đông Hải ở bên ngoài thành và làm các công việc chuẩn bị chờ ngày xuất phát sau khi đã ngớt sóng to gió lớn.
Nhưng trong quán trọ chỉ có Lý công tử cùng ở với Hoàng thúc, còn tất cả các tráng đinh đều tự nấu cơm ăn dưới thuyền.
Quán nằm ở vị trí tương đối cao. Những cảnh tượng diễn ra trên con đường phía trước mặt đều lọt vào tầm mắt của người ngồi trong quán.
Một hôm, Hoàng thúc và Lý công tử đang ngồi trong phòng trọ đưa mắt nhìn ra ngoài. Họ bỗng thấy một người đàn ông đeo mặt nạ cầm giáo chạy về phía lữ quán. Phía sau là một toán du côn khoảng hơn ba mươi tên vác giáo mác mã tấu đuổi theo định đâm chết người đàn ông này.
Những người đàn ông nhanh như chớp đã vung giáo chống lại, một số tên gã gục, số còn lại bỏ chạy toán loạn. Mới buổi sáng tinh mơ, khách đi đường chưa có ai qua lại. Giữa cảnh vật yên tĩnh, chỉ còn nghe thấy tiếp vó ngựa rộn rịp chạy trên đường. Lý công tử vội chạy khỏi phòng trọ ra ngoài xem sự thể ra sao. Vừa mới tháo được chốt cửa lớn, cửa vừa mở bỗng có một người từ ngoài nhảy bổ vào bên trong cửa. Tuy ít nhiều cũng đã đề phòng bất trắc, nhưng sự việc diễn ra qú bất ngờ, làm cho Lý công tử không khỏi hoảng hốt lùi về phía sau một bước.
Nhưng người đàn ông bước vào trong cửa với thái độ trầm tĩnh, điềm nhiên đến đóng cửa cài then rồi quay lại phía Lý công tử. Đây chính là người đàn ông đã cầm giáo đeo mặt nạ, vừa mới đánh nhau chống lại toán ác tặc hơn ba mươi tên khi nãy. Lý công tử quay nhìn khắp bốn phía, thấy người trong quán trọ vẫn còn chìm trong giấc ngủ im lìm của buổi sớm mai. Người đàn ông bèn bước đến trước mặt Lý công tử van nài với giọng thì thào yếu ớt...
- Thưa ông, mong ông cứu tôi với. Tôi là người vô tội, đang bị bọn gian tặc đuổi theo...
Lý công tử lấy tay phải che miệng, vừa ra dấu làm ám hiệu, vừa bước ra sân. Như đoán hiểu được điều đó, người đàn ông lặng lẽ bước theo sau. Họ trèo qua bức tường sau, tụt xuống con đường hẻm giữa buổi sớm mai yên tĩnh. Lý công tử đi trước, người đàn ông lẽo đẽo bước theo sau... Đi qua hết con hẻm ngoằn nghèo, một lúc sau họ đã ra đến bến thuyền.
Trời vẫn còn quá sớm, dọc bờ biển không một bóng người qua lại. Trên bến, một chiếc thuyền được kéo lên bờ để sửa chữa, nằm phơi tấm thân đen sì. Lý công tử lấy tay chỉ về phía đó:
- Ông hãy tạm lánh vào sau chiếc thuyền chờ một chốc nhé.
Nói xong bèn đi thẳng ra bờ biển.
Người đàn ông quay nhìn phía sau, trông chừng xem có ai theo dõi mình không, nhưng vẫn bốn bề tĩnh mịch. Chỉ có những cột khói lam nấu cơm buổi sáng trong các làng mạc theo bốc lên trời.
Anh ta đi đến bên cạnh thuyền, quay mặt về phía bờ biển, ngồi phịch xuống đất, hai chân duỗi thẳng. Một chốc sau, Lý công tử mở dây neo của một chiếc xuồng con, bước lên và đưa tay làm hiệu.
Khó nhọc lắm, người đàn ông mới nhấc nổi tấm thân, bật ra một tiếng rên nhẹ "úi chao".
Tay anh ta cầm chiếc giáo chống xuống đất, lấy thế đứng lên, bước đi lảo đảo về phía chiếc xuồng con có Lý công tử đang đứng bên trong. Leo lên thuyền xong, anh ta cứ thế ngồi phịch xuống. Lý công tử lấy một chiếc sào dài có sẵn trong thuyền chống xuống đất đẩy thuyền ra. Theo đó, thuyền rời khỏi mặt đất, và bị đẩy ra biển. Được một quãng, Lý công tử bỏ sào xuống, bắt đầu khua mái chèo. Theo tiếng nước khua bì bõm, chiếc xuồng dần dần tiến ra biển nước sâu.
Một lúc sau, thuyền con đã cập được vào mạn thuyền mẹ. Lý công tử buộc dây chuyền con vào thuyền mẹ và bước lên, vừa đưa tay ra dìu người đàn ông cũng bước lên theo.
Biết Lý công tử đã lên thuyền, những người tráng đinh từ trong khoang bước ra cúi chào. Lý công tử im lặng bước vào khoang. Người đàn ông theo sau, vừa bước vào khoang đã quỵ xuống.
Lý công tử và cả đám tráng đinh đều chạy tới liếc nhìn thân hình người đàn ông, thấy máu chảy ở đầu và chân. Lý công tử thấy vậy, bèn quay sang bảo những người tráng đinh:
- Các người cởi áo của người này ra và xem lại vết thương.
Những người tráng đinh không hiểu đầu đuôi thế nào, cứ theo sự sai bảo của Lý công tử cởi áo người này ra.
Một người tráng đinh chau mày nói:
- Lưng và chân phải có nhiều vết thương. Xương đầu phía sau gáy bị vỡ…
Một người tráng đinh lấy thuốc dự phòng có sẵn trong khoang ra và nói:
- Thưa Lý công tử, dùng thuốc này chữa được chứ ạ?
- Phải rồi, lấy thuốc này chữa cho chóng khỏi.
Một tráng đinh lấy một loại thảo dược ra đắp lên vết thương, xong lấy một miếng vải màu xanh buộc lại. Các tráng đinh muốn hỏi xem tại sao người này lại bị thương thế này, nhưng Lý công tử đang đứng đấy không tiện hỏi, nên cứ thắc mắc trong lòng.
- Chắc đau lắm phải không. Sao lại bị thương nhiều thế này?
Nhưng cả Lý công tử và người đàn ông đều không ai trả lời. Người đàn ông vẫn nhăn mặt kêu rên.
Lý công tử đứng nhìn với vẻ thương xót:
- Hãy mang lại một bộ quần áo mặc cho người này đi!
Các tráng đinh vội mang lại một bộ quần áo. Hai người phải khó nhọc lắm mới mặc được cho người đàn ông.
- Ông này trông thế mà người rắn như cục sắt ấy. Hai người chúng em không nhấc nổi một cái chân của ông ấy…
Lý công tử chỉ vào đồ đạc của người đàn ông, ra lệnh cho các tráng đinh:
- Này, các người hãy giặt sạch bộ quần áo thay ra này đi, còn các thứ đồ vật thì mang đi cất giữ ở chỗ kia.
Một người tráng đinh mang bộ quần áo dính đầy vết máu ra ngoài, còn một người nữa mang các đồ vật ra bên cạnh. Lý công tử chăm chú nhìn người đàn ông.
- Có lẽ ông đau lắm phải không. Ông hãy chịu khó nằm ở đây chữa chạy.
Người đàn ông chỉ nói được một câu rồi lại chau mày rên rỉ.
- Khi nào vết thương của người này đỡ đau, các ngươi phải cho người ta ăn uống tử tế, chăm sóc chu đáo cho người ta nhé.
Lý công tử lại gọi các tráng đinh tới, dặn không được tiết lộ việc này xong mới trở về quán trọ.
Hoàng thúc thấy Lý công tử đi ra ngoài lâu không có tin tức nay đã trở về nên rất vui.
Phía trước quán trọ có năm tên du côn chết, bốn tên khác bị thương. Tất cả bọn đều sục tìm ở các vùng phụ cận, nhưng không phát hiện được gì, hai người đoán chúng đã bỏ cuộc vào hết trong thành.
Tối hôm đó, Lý công tử lại ra ngoài thuyền lớn. Người đàn ông nhìn thấy Lý công tử cứ ngỡ người chủ thuyền. Dáng chừng nỗi đau cũng đã dịu bớt đôi chút, người đàn ông cất tiếng nói:
- Xin cảm ơn ông chủ, ông đã cứu mạng cho.
Lý công tử mỉm cười:
- Sá gì chút việc nhỏ. Có điều ông chưa thể cử động được.
Nói đoạn bèn thở dài, và như để an ủi người đàn ông, Lý công tử lại nói tiếp:
- Muốn cử động được ít nhất cũng phải trên mười ngày chữa chạy. Mong ông cứ yên lòng.
Thực ra Lý công tử phải nói vậy là vì không thể bảo người đàn ông nằm im không được động đậy cho đến khi các vết thương được chữa lành hoàn toàn.
Hết sức cảm kích trước tấm lòng nhân hậu của Lý công tử, người đàn ông cúi người xuống thưa:
- Nếu được ông chủ cho phép như vậy, tôi xin kết cỏ ngậm vành báo đáp ơn sâu này.
Đôi mắt người đàn ông sáng lên long lanh.
Lý công tử không định hỏi về lai lịch và tên họ của người này, chỉ biết ông ta bị bọn ác ôn đuổi theo và đã dùng giáo chống lại, nên qua đó có thể đoán anh ta chắc không phải là kẻ cướp, mặt khác bản thân cũng không muốn dính líu vào những việc không cần thiết trên đất nước Kim vốn là nơi đất khách xa lạ.
Người đàn ông mới nói được một câu đã phải nhăn mặt, gương mặt màu da đồng, cố nén nỗi đau nơi vết thương. Anh ta mở mắt nhìn về phía Lý công tử và định ngồi dậy nhưng lại ngã vật xuống.
Lý công tử đứng bên cạnh bèn ngồi xuống và nói:
- Sao lại định ngồi dậy. Cứ phải nằm yên chạy chữa thì vết thương mới mau lành miệng.
- Thưa ông chủ, không sao đâu ạ. Xin lỗi, tôi có câu chuyện muốn xin thưa với ông.
Lý công tử lại ép ông ta nằm xuống:
- Vết thương khá nặng, sao lại ngồi dậy. Cứ nằm thế nói chuyện.
- Nhưng chủ nhân là người nước nào, xin muốn được biết một chút.
Lý công tử thở dài, nói với giọng nhỏ nhẹ trầm trầm:
- Tại sao ông hỏi thế? Người trên đất nước Kim thì tất thảy đều là người nước Kim chứ còn của nước nào khác?
Nhưng người đàn ông vẫn tỏ vẻ quyết không tin:
- Xin lỗi ông vậy. Nhưng giọng nói của ông chủ không giống người nước Kim cũng không giống người nước Tống.
Đến lúc này, Lý công tử mới tỏ vẻ tươi cười, gật đầu.
- Vậy ra tôi giống người nước nào?
Nghe nói thế, mắt người đàn ông sáng lên, nỗi đau nơi vết thương dường như cũng quên mất.
- Ngài chủ nhân có lẽ là người của một nước nào đó ở phương nam. Có phải thế không ạ?
Nghe câu hỏi, Lý công tử thấy không còn cách nào khác, đành nói thật:
- Chúng tôi là người của nước Đại Việt. Ông đoán khá đấy.
Nghe thấy thế, người đàn ông tỏ vẻ tươi tỉnh hẳn lên.
- Ngài từ nơi xa xôi tới đây, vất vả quá. Thực ra tôi không phải là người nước Kim, cũng không phải là người nước Tống.
Nghe nói thế, Lý công tử càng ngạc nhiên hơn:
- Thế vậy, ông là người nước nào?
- Ngài chủ nhân là ân nhân của tôi, tôi xin nói thật. Tôi vốn là người nước Cao Cù Ly.
Lý công tử nghe nói là người Cao Cù Ly lại càng ngạc nhiên hơn, bèn ngồi xịch lại phía trước mặt người đàn ông.
- Nước Cao Cù Ly ư? Thế có phải là nước Cao Ly không?
Người đàn ông thở hắt ra một hơi dài. Lý công tử bây giờ mới nhìn kỹ thấy anh ta khoảng trên dưới bốn mươi, thân hình chắc khỏe, lông mày dài, đen sẫm, tướng mạo khôi ngô. Trên nét mặt của anh t có vẻ như đang mơ ước một điều gì đó.
- Vâng, đúng thế. Nước Cao Ly là mẫu quốc, nhưng mà…
Nói đến đây, anh ta ngập ngừng rồi im lặng. Lý công tử xúc động khi nghe mấy tiếng nước Cao Ly. Giữa lúc Hoàng thúc và bản thân cũng hơn hai mươi tráng đinh khác đang định gửi gắm số phận mình cho – nước Cao Ly – thì lại gặp được người của nước đó, trong lòng thật vô cùng cảm kích. Người ta thường hay nói rằng đời người có bốn niềm vui lớn, "đại tứ hỷ", trong đó có niềm vui "vạn lý tha hương ngộ cố tri". Người đàn ông kia lần đầu gặp gỡ, cũng không phải người cùng một nước, lạ mặt chưa quen, nhưng không hiểu sao mới nghe nói đất nước của người đó là nước Cao Ly, tự dưng trong lòng cảm thấy còn vui hơn so với gặp người tri kỷ cùng quê lâu ngày. Như để chắc dạ hơn, Lý công tử hỏi:
- Mẫu quốc của hiển huynh là nước Cao Ly. Có đúng vậy không?
- Đúng vậy ạ. Ngài chủ nhân đã có lần nào sang nước Cao Ly chưa?
Người đàn ông đoán đây là người chủ thuyền nên đã đi lại nhiều nước buôn bán. Lý công tử không trả lời thẳng vào câu hỏi mà muốn tìm hiểu tình hình của nước Cao Ly.
- Tôi chưa đến nước Cao Ly. Mới chỉ nghe nói nước Cao Ly là một nước nằm ở biển Đông, rất trọng lễ nghi, có nhiều thần tiên đang sống. Có đúng là như vậy không?
- ………
Người đàn ông im lặng, mắt nhìn xuống không trả lời. Lý công tử cảm thấy hơi lạ, bèn hỏi lại:
- Tại sao hiển huynh không trả lời. Chắc tôi đã nói điều gì xúc phạm đến hiển huynh?
Người đàn ông thở dài:
- Không phải thế đâu. Chủ nhân có nói gì xúc phạm tôi đâu. Chủ nhân là ân nhân của tôi. Nói như vậy thì làm sao tôi có thể nghĩ chủ nhân xúc phạm đến tôi. Chỉ có điều lòng tôi mỗi khi nghĩ đến tổ quốc, chẳng khác nào như nôn ra máu.
Lý công tử lòng rưng rưng cảm thấy cảnh ngộ của mình cũng giống như số phận của người đàn ông này nên chạnh lòng nghĩ về cố quốc. Công tử rộn lên niềm cảm xúc muốn thổ lộ hết với người đàn ông này bao nỗi tâm tư chứa chất bấy lâu nay trong lòng.
- Chúng tôi nay muốn sang sinh sống ở nước Cao Ly. Rất mong được hiển huynh giúp đỡ.
- Vâng thưa đại nhân, đại nhân đang trên đường đi sang nước Cao Ly sinh sống ư?? Thế mà tiện nhân cứ tưởng đại nhân là người đi thuyền làm nghề lái buôn…
Lúc này người đàn ông đã bỏ cách xưng hô chủ thuyền mà thay bằng cách xưng hô "đại nhân".
- Người nước Cao Ly hiền lành như những con cừu. Họ rất quý điều nhân nghĩa, rất trọng lễ nghi. Lại thêm đất nước có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt, kỷ cương nghiêm minh, cuộc sống yên lành.
Lý công tử nghe nói, cảm thấy vui vui, bèn ngồi gần lại, nói:
- Hiển huynh và chúng tôi hãy cùng làm quen với nhau đi. Dù sao đây cũng là duyên số trời cho. Tôi là Lý Quân Tất, hoàng tộc của nước Đại Việt. Nước chúng tôi vừa xảy ra cuộc chính biến. Triều đại họ Lý suy vong, không còn cách nào, tôi đành phò Hoàng thúc lánh nạn sang nước Cao Ly.
Nghe những lời đau xót đó của Lý công tử, người đàn ông bất giác ngồi dậy.
- Thế này thì thật thất lễ với đại nhân nhiều quá. Tiện nhân tên là Tiêu Vĩnh Vạn. Công ơn như trời biển của đại nhân sau này dù chỉ còn lại nắm xương tàn cũng khó quên. Nay còn một việc nữa, muốn được xin đại nhân giúp cho, chẳng hay đại nhân có rủ lòng thương?
Người đàn ông chẳng kịp đợi nghe Lý công tử trả lời, bèn vội vã tỏ ý muốn gác các việc khác lại và dốc tâm nhờ Lý công tử. Lý công tử hiểu được nỗi lòng của anh ta qua ánh mắt:
- Đâu dám. Bất kể việc gì mà sức tôi kham nổi, thì tôi sẵn sàng giúp ngay. Xin nói cho tôi được nghe xem.
Người đàn ông cúi gập lưng tỏ ý vui mừng.
- Xin đa tạ đại nhân. Chả giấu gì, trong tay nải kia có một ít tiền bạc và một bức thư khẩn rất quan trọng. Những thứ này cần phải chuyển đi ngay. Thế mà giờ đây, thân tôi như thế này không thể làm gì được mà thời gian thì quá gấp. Vì vậy, kính mong đại nhân chuyển giúp cho.
Lý công tử gật đầu.
- Ồ, việc này có sá chi. Vậy đi đâu và chuyển cho ai, cứ nói cho tôi biết, tôi sẽ trực tiếp chuyển hộ cho.
Người đàn ông nhìn đăm đăm vào Lý công tử. Trên nét mặt của Lý công tử tuy có ít nhiều đượm nỗi buồn nhưng bao giờ cũng tỏ ra một phong độ cao thượng và đáng tin cậy.
- Từ trấn này đi ra phía cửa bắc, chỉ có một con đường cái lớn. Cứ men theo con đường này đi lên phía bắc khoảng hai trăm dặm sẽ đến một thung lũng gọi là thung lũng Đông Hải. Đi vào thung lũng Đông Hải, sẽ thấy có ngọn núi tên là Thiên Nhân sơn, không có ai là không biết tên ngọn núi này. Về phía tây nam của ngọn núi có ba gian nhà tranh. Muốn tìm đến người chủ nhân của ba gian nhà tranh này, sẽ gặp trước hết một ông cụ già họ Ly. Đại nhân trao bức thư này cho ông cụ già thì sẽ gặp được người tôi cần gặp. Vì muốn nhờ đại nhân giúp cho một việc khó khăn như vậy, nên chưa kịp nghe những lời nói tốt đẹp của đại nhân mà đã vội hấp tấp đưa ra lời thỉnh cầu như vậy thật là có lỗi.
Đến lúc này, Lý công tử mới hiểu được nỗi lòng người đàn ông vì sao đã giữa chừng cắt ngang câu chuyện mình đang nói.
- Tôi hiểu rồi. tôi sẽ chuyển bức thư này rồi quay trở lại. Nhưng bây giờ tôi phải quay trở về quán trọ thưa lại với Hoàng thúc. Sáng ngày mai tôi sẽ lên đường.
- Công việc nguy hiểm lắm. Tôi đã không biết xấu hổ đi nhờ đại nhân giúp cho một việc khó khăn như thế này…
- Xin đừng bận tâm. Bây giờ tôi đến gặp Hoàng thúc, một chốc sẽ quay lại. Hiển huynh cứ nằm yên điều dưỡng cho chóng lành.
Lý công tử tạm biệt Tiêu Vĩnh Vạn, hối hả trở về quán trọ.
CHƯƠNG 5: VỊ ĐẠO SĨ VÀ NẤM MỒ LỚN
Về đến quán trọ, Lý công tử đem câu chuyện Tiêu Vĩnh Vạn thuật lại tỉ mỉ với Hoàng thúc và xin Hoàng thúc cho phép sáng ngày mai lên đường. Hoàng thúc vui vẻ thuận lời và bản thân cũng muốn đi cùng. Thời gian qua ở quán trọ suốt ngày buồn tẻ, nên Hoàng thúc quyết định đi cùng cho khuây khỏa.
Buổi tối ngày hôm ấy, Lý công tử ra lấy hành lý của Tiêu Vĩnh Vạn về để lo liệu. Sáng hôm sau hai người lên ngựa sớm, phóng về phía cửa bắc, thúc ngựa chạy được khoảng hơn hai trăm dặm thì trông thấy thung lũng Đông Hải. Nhưng hai người không đi vào thung lũng Đông Hải mà rẽ sang bên phải, đi được hơn ba mươi dặm nữa thì trông thấy một ngọn núi lớn. Trên lưng chừng núi, mây phủ trắng, cây cối rậm rạp một màu xanh ngắt. Mới nhìn qua cũng thấy đầy vẻ bí ẩn.
Ánh mặt trời hạ tuần tháng năm từ sáng đã bắt đầu nóng. Cây cỏ một màu xanh mướt làm thư thái tâm hồn của kẻ đi đường. Bên dưới chân núi, bầy chim họa mi đua nhau hót líu lo khắp đó đây, Lý công tử cảm thấy khoan khoái trong lòng:
- Lâu lắm chúng ta mới được ra ngoài đồng vắng, thật thư giãn đầu óc quá.
Hoàng thúc ghìm cương ngựa, mỉm cười hỏi:
- Thời gian qua, cứ nằm bẹp trong quán trọ, bây giờ đến một nơi sơn thủy hữu tình như thế này, tự nhiên cảm thấy lòng yêu cuộc sống lại bừng lên.
Hai người vừa thúc ngựa vừa đi xuống dưới núi, lần hồi chỗ này chỗ nọ để tìm ra ngôi nhà tranh. Bỗng từ trên núi có một người đi xuống.
Khoảng cách thu hẹp dần lại, hình ảnh người đó càng hiện lên rõ nét. Người đó đi về chỗ hai người đang đứng. Đó là một người trạc hơn năm mươi tuổi, ăn vận quần áo đạo sĩ. Lúc người đó sắp đi qua chỗ Hoàng Thúc, Lý công tử liền nói:
- Khí không phải với quý nhân. Bên dưới ngọn núi này nghe nói có ba gian nhà tranh, không rõ ở chỗ nào, xin phiền quý nhân chỉ bảo cho biết.
Người khách đi đường chau vầng trán, nheo mắt nhìn Lý công tử nói với giọng trách cứ:
- Này, anh là người còn trẻ, muốn hỏi đường người già phải xuống ngựa mà hỏi chứ.
Lý công tử thấy mình có phần khiếm lễ, liền nhảy xuống ngựa, đi về phía trước người đó, cúi người xin lỗi.
- Xin lỗi quý nhân. Đã hai ngày nay chúng tôi đi ngựa từ đường xa đến đây, người mệt mỏi nên có điều thất lễ.
Lúc này, người khách đi đường mới cười ha hả mà bảo rằng:
- Được, được. Phải thế chứ. Biết làm theo điều lễ là tốt. Còn gian nhà tranh vừa nói, các ông leo lên đến hết dốc núi, nhìn xuống sẽ trông thấy rất rõ.
Vừa nói, ông già vừa đưa tay phải chỉ lên ngọn núi phía đối diện và chăm chú nhìn Hoàng thúc:
- Quý ông định lên núi tìm ai?
Lý công tử nắm chắc cương ngựa trong tay, lễ phép đáp lại:
- Dạ thưa, được biết trên núi có một vị đạo sĩ, có đúng không ạ?
Người khách lắc đầu, nói với giọng yếu ớt:
- Các ông định đi tìm vị đạo sĩ ấy à? Thật uổng công các ông đến đây. Có đi tìm cũng không gặp được. Hơn mười ngày trước đây tôi đã đến để tìm gặp vị đạo sĩ nhưng cũng không tìm được. Tôi đã chờ ở ngôi nhà tranh đó, nhưng không gặp được, giờ phải quay trở về.
Lý công tử tỏ vẻ ngạc nhiên.
- Thế vậy ư? Vị đạo sĩ ấy làm việc gì mà khó gặp đến vậy?
Người khách đi đường cười lớn.
- Đạo sĩ làm gì ư? Vị đạo sĩ ấy làm công việc tu hành. Tôi không gặp được nên phải về đây. Nhưng nghe nói vị đạo sĩ ấy là một vị chân tu đã hóa rồng, tạo ra mây. Không có chỗ nào là không có mặt nhưng không cố định chỗ nào. Vị đạo sĩ ấy cho rằng tất cả các vương, hầu, khanh, tướng dưới thiên hạ này đều là những kẻ hèn hẹ, nên dù có tôn vinh đạo sĩ và đến xin gặp, đạo sĩ cũng không gặp. Đó thật là một vị đạo sĩ chân tu thanh khiết biết bao.
Nghe lời nói đó, tai Hoàng thúc như căng ra, tâm hồn cuốn hút theo câu chuyện. Bởi lẽ vị đạo sĩ này cũng giống như những vị đạo sĩ hay yêu thích trăng sáng trong rừng sâu và những cảnh nước mây sông núi mà bản thân Hoàng thúc đã đọc thấy trong các sách xưa.
- Thế vị đạo sĩ đó tu hành đạo gì vậy?
Nghe Hoàng thúc nêu ra câu hỏi bất ngờ, người khách đi đường mỉm cười, đáp:
- Tôi làm sao biết được. Có lẽ đạo tiên chăng.
Người đó trả lời như vậy và nhìn về hướng tây, định thúc ngựa rảo bước, còn nói với lại một câu:
- Mặt trời đã xuống núi rồi, tôi đi đây. Đằng nào các ông cũng đã đến rồi, nhanh mà đi xem một chút.
Người khách đi đường giơ tay chỉ ra phía sau làm dấu rồi quay ngựa theo đường của mình.
- Xin cảm ơn quý ông đã ân cần chỉ bảo cho chúng tôi.
Lý công tử nói xong liền bước lên ngựa. Người khách đi đường nheo mắt quay lại nhìn rồi đi thẳng. Một chốc sau, hai người đã lên hết con đường dốc. Từ trên đỉnh đèo nhìn xuống, quả thật có ngôi nhà tranh nằm trong khe núi quay về hướng nam. Hai người lại theo một lối mòn khá dốc đi xuống và đã đến được trước mặt ngôi nhà. Các cây đại thụ xung quanh ngôi nhà hiện lên một màu xanh thẳm. Có biết bao nhiêu kỳ hoa dị thảo đang nở rộ đua khoe sắc thắm. Giữa lúc ấy ở phía sân trước ngôi nhà có một ông cụ già râu tóc bạc phơ đang vun xới cho hoa cỏ.
Lý công tử bước xuống ngựa, đi bộ đến trước mặt cụ già, lễ phép cúi đầu chào.
- Xin chào cụ ạ, tiện nhân có đôi lời xin thưa với cụ.
Cho đến khi Lý công tử bước đến đứng bên cạnh mình, ông già vẫn làm ra vẻ như không trông thấy, chỉ mải mê chăm sóc hoa. Đến khi nghe Lý công tử nói vậy, ông mới giơ tay trái lên đấm đấm vào lưng.
- Úi dào, cái lưng này… Có gì nói đi.
- Hai chúng tôi có việc khẩn cấp, muốn xin đến gặp đức đạo sĩ ạ.
Ông cụ già ngước mắt nhìn Hoàng thúc và Lý công tử một lát rồi nói:
- Chà! Không biết có việc gì gấp thế. Gặp đạo sĩ khó lắm. Dù sao các ông cũng đã đến đây, xin mời lên nhà.
Ông cụ vừa nói vừa mở cánh cửa giậu bện bằng những cây muồng nhỏ, bước vào trong sân. Hoàng thúc và Lý công tử buộc ngựa vào gốc cây, bước theo sau.
Ông già bước lên nhà trước, vào ngồi ở chỗ góc bếp, và mời khách ngồi ở phía trên.
Lý công tử mời Hoàng thúc ngồi, nhưng Hoàng thúc đến ngồi bên cạnh cụ già còn Lý công tử thì ngồi cạnh Hoàng thúc.
- Các ông đã cưỡi ngựa đến đây, đúng vậy chứ gì. Nhưng trước các ông cũng đã có nhiều người không quản đường sá xa xôi tìm đến để gặp đạo sĩ, và họ đã ở trong căn nhà này đến mấy tháng, nhừng chờ mãi không gặp được, họ đành phải quay về.
Hoàng thúc hiểu được ý nghĩa câu nói của ông già.
- Không phải thế đâu cụ ạ. Tất nhiên gặp được đạo sĩ thì đó là nguyện của chúng tôi. Nhưng vì có một vật phải chuyển gấp cho đạo sĩ nên chúng tôi mới phải đi ngựa đến tìm.
Ông già tỏ ra không quan tâm gì đến lời nói của Hoàng thúc, mà cứ nói theo cách suy nghĩ của mình:
- Nhiều người đến đây cũng đều nói muốn liên lạc với đạo sĩ. Nhưng đạo sĩ không muốn gặp ai cả. Bây giờ các ông đến đây lại nói muốn trao đồ vật gì đó. Không khéo tôi lên thưa với đạo sĩ rồi lại bị quở trách cũng nên.
Lúc này, Lý công tử lấy ra một bức thư dày cộp và một chiếc bọc, mang đến đặt trước mặt ông già.
Vốn nét mặt lạnh lùng, ông già nhận các thứ đồ vật và đặt ở chỗ ngồi gần cửa bếp.
Hoàng thúc đưa mắt nhìn về phía chiếc hoành phi treo ở vách dưới. Trên bức hoành phi có viết một thứ chữ gì đấy lần đầu tiên nhìn thấy, nên đành chịu, không sao hiểu được.
Hoàng thúc nghĩ mãi mà không ra, bèn hỏi ông già.
- Thưa cụ, chữ viết trên tấm hoành phi kia là chữ gì vậy?
Ông già ngoái cổ về phía bức hoành phi, và nói:
- Chà, tôi cũng không biết nữa. Đó là chữ của vị đạo sĩ viết ra và treo lên đó. Có lẽ là thứ chữ của nước Bột Hải cũng nên.
- Vậy Bột Hải là nước man di có phải không?
Ông già đáp lại bằng giọng bâng quơ:
- Chà, thế sự xoay vần tôi cũng chẳng biết, mà chữ nghĩa tôi cũng chẳng hay, nên không thể nói được gì.
Hoàng thúc cảm thấy không yên trong lòng. Việc lưu lại nước Kim trên đường đi qua đã rất thấp thỏm. Nếu chữ kia do ông đạo sĩ viết ra thì… chắc ông ta là người nước Kim. Nếu vậy thì không chừng chúng ta sa vào cạm bẫy của dân man di rồi cũng nên. Hơn nữa nghĩ đến con người có tên là Tiêu Vĩnh Vạn, thấy anh ta một mình đánh nhau với mấy chục tên khác, chắc cũng có thể anh là tên cầm đầu một toán cướp. Theo lời anh ta nói, anh không phải người nước Kim, cũng không phải người nước Tống. Đây cũng là điều đáng nghi hoặc. Ngày xưa khi còn ở trong nước, đã có lần nghe các sứ thần Trung Quốc sang nói rằng ở nước Kim, không riêng quân sĩ mà cả đến người dân thường đều là giống dã man, là bọn "man di" tàn ác khét tiếng.
Không khí trong phòng trở nên trầm uất. Lý công tử cũng cảm thấy không yên trong lòng, chỉ còn biết liếc nhìn ảnh mắt của Hoàng thúc.
Ông già đứng dậy mang bức thư và bọc đồ vật ra ngoài.
Hoàng thúc và Lý công tử không nói được gì, chỉ biết đưa ánh mắt cảnh giác nhìn bốn xung quanh. Trong gian phòng nhỏ bé, tao nhã, không có gì bài trí. Chỉ có thời gian trầm lặng trôi qua. Hoàng thúc và Lý công tử vẫn không sao bỏ qua được cảm giác lo lắng, như thể số phận hai người đang được quyết định tại nơi đây.
Thời gian trôi đi khoảng một lúc lâu, ông già quay trở về cùng với một đứa trẻ.
- Nãy giờ các ông đợi sốt ruột lắm phải không. Tôi đã trình lên đạo sĩ thư và gói đồ vật các ông mang đến. Đạo sĩ liền bảo đưa hai người đến đó và đã cho đứa trẻ này xuống đây. Nào, các ông hãy lên gặp đạo sĩ đi.
Ông già lại quay sang đứa trẻ:
- Các vị này là những vị khách đến để xin gặp đạo sĩ, cháu hãy mau đưa khách lên đi.
- Vâng ạ…
Đứa trẻ trả lời xong, đến trước mặt hai người, cúi chào lễ phép.
- Các quý khách không quản đường sá xa xôi, tìm đến gặp đạo sĩ chúng tôi như thế này vất vả quá. Đạo sĩ cho tiểu đồng đến đây, để mời quý khách lên, tiểu đồng xin được chào quý khách.
Hoàng thúc và Lý công tử cũng đứng dậy theo. Những động tác của họ đã trở nên chậm chạp, có lẽ họ cảm thấy có phần e ngại, không yên trong lòng do quá lo nghĩ về gốc gác của chiếc hoành phi trên vách.
Ông già nhìn vẻ chậm chạp của hai người, bèn lắc lắc đầu tỏ ý không vui.
- Nào, hai vị lên nhanh đi chứ. Đạo sĩ đã cho cháu bé xuống đây mời khách lên núi. Quả thật lần đầu tiên tôi được biết có sự việc như thế này, kể từ khi tôi đến đây.
Ông già có tính bộc trực nghĩ sao nói vậy.
Lúc này, Hoàng thúc mới đáp lại:
- Vâng, chúng tôi đi đây. Xin cảm ơn cụ.
Lý công tử thấy Hoàng thúc quyết chí đi, bản thân cũng thêm vững dạ.
Theo sự hướng dẫn của đứa trẻ, hai người ra khỏi nhà, bước đi theo một lối mòn.
Hoàng thúc và Lý công tử đi theo sau đứa bé, nhưng vẫn không sao xua tan hết cảm giác rờn rợn trong lòng.
Ánh mặt trời chiều chiếu xuống sườn núi đầy hoa thơm cỏ lạ và cây cối um tùm. Nhiều giống chim rừng không biết tên cất tiếng hót líu lo. Song những cảnh thần tiên nên thơ đó chẳng làm khuây khỏa được những nỗi lo âu thấp thỏm trong lòng Hoàng thúc và Lý công tử. Đứa trẻ dẫn hai người đi lên một con đường dốc rồi lại dẫn xuống, cuối cùng họ tới một thung lũng.
Thung lũng này trông khá lạ mắt, bốn bề có núi bao bọc, ở giữa là một khoảnh đấy bằng phẳng, yên tĩnh. Nơi chính giữa có ba gian nhà nhỏ lợp bằng một thứ giống như vỏ cây.
Đứa trẻ đi ngang qua gian nhà tranh thứ nhất, đưa khách vào gian nhà giữa.
Hai người dù sao cũng đã đến đây rồi, đành nghe nó bảo sao làm vậy. Họ đến trước ngôi nhà tranh ở giữa.Cửa bốn bề mở toang. Trông thấp thoáng có một bóng người mờ mờ, ảo ảo, ngồi bên trong sau chiếc mành làm bằn những thân cây lau mảnh mai. Từ bên trong nghe văng vẳng tiếng đàn thập lục vọng ra.
Đứa trẻ đưa khách vào trong phòng và nói:
- Xin các vị chờ ở đây một chốc ạ. Đạo sĩ chúng tôi hiện nay đang ngâm thơ. Khi nào xong, tiểu đồng xin đưa các vị sang gặp.
Hoàng thúc và Lý công tử ngồi xuống. Hai người lắng tai nghe những vần điệu trầm bổng như đang khóc than cho khe núi sâu yên tĩnh này, khóc than cho số phận của hai người đành phải rời bỏ tổ quốc ra đi, chịu đựng bao nỗi đau khổ ê chề, giải thoát họ khỏi những nỗi ngờ vực căng thẳng từ khi họ đến đây.
Những âm điệu trầm bổng qua tiếng đàn của đạo sĩ vẫn tiếp tục đều đều. Thỉnh thoảng có tiếng hát điểm thêm theo cung bậc của tiếng đàn. Lời hát không chỉ khóc than cho số phận của Hoàng thúc và Lý công tử, mà còn như khóc than cho số phận của những con chim trong rừng sâu… Những âm điệu trầm bổng đó đã lan tỏa ra trong khe núi, làm cho cả cỏ cây cũng thổn thức rưng rưng. Cả Hoàng thúc và Lý công tử đều chìm đắm trong cảnh mơ màng thoát khỏi nơi trần thế, cảm thấy mình đã hóa thành thần tiên, cưỡi trên những âm thanh trầm bổng bay lượn trong không trung như những cánh chim. Nỗi lo ngải vẩn vơ đã được xóa tan đi hết. Cả hai người bình tâm trở lại. Đứa trẻ mang trà đến.
- Quý khách chắc đã mệt, xin đợi thêm cho một chốc nữa. Sắp xong rồi đấy ạ. Xin mời quý khác dùng trà.
Đứa trẻ đặt hai chén trà trước mặt Hoàng thúc và Lý công tử rồi bước ra ngoài.
Những âm điệu trầm bổng vẫn tiếp tục ngân lên. Cảm giác mơ màng và những nồi buồn dâng lên, tưởng chừng như oan hồn của A – hoàn – vinh – vinh, con gái vua Nghiêu đang khóc than nức nở trên sống Tiêu Tương cũng về nơi thung lũng này.
Hai người đưa chén chè lên miệng nhấp nháp, trong lòng cảm thấy thư thái hơn. Đây là chè của thần tiên, hương thơm phảng phất. Lúc này âm thanh trầm bổng đã ngưng lại, ánh nắng của vầng tịch dương soi vào bức mành che nơi cửa sổ phía tây đang mở rộng, chiếu những tia nắng vàng yếu ớt vào trong gian nhà.
Đứa trẻ nghe thấy tiếng đàn đã chấm dứt, bèn lặng lẽ bước vào gian nhà của đạo sĩ.
- Ông nội ơi, cháu đã mời khách vào rồi, hiện nay khách đang ngồi chờ ở phòng khách ông ạ.
Đứa trẻ cầm lấy chiếc đàn thập lục của đạo sĩ bước vào thư phòng.
Vị đạo sĩ từ từ ngồi dậy, cuốn bức mành treo, nhìn sang phòng khách, bắt gặp ánh mắt của Hoàng thúc và Lý công tử.
Vị đạo sĩ đầu tóc bạc phơ, mình mặc đạo phục màu trắng, đôi mắt ôn hòa, hiền hậu. Hoàng thúc và Lý công tử cảm thấy hư bị thu hút bởi một vẻ uy nghiêm nào đó. Nhưng không phải thế. Hình ảnh đầy nhân hậu của vị đạo sĩ giống như một vị sứ trời, giờ đây như đang xoa dịu hai người trên bước đường lưu vong gian khó…
Vị đạo sĩ mỉm cười, nói với Hoàng thúc và Lý công tử:
- Để khách chờ lâu thế này thật không phải. Xin mời quý vị lên đây.
Hoàng thúc và Lý công tử đứng dậy, bước vào phòng theo sự hướng dẫn của đạo sĩ.
- Xin có lời thăm sức khỏe đạo sĩ. Tiểu nhân là Lý Long Tường của nước Đại Việt.
- Tiểu nhân là Lý Quân Tất theo phò Hoàng thúc nước Đại Việt.
Muốn nói lên thân phận riêng của mình mà không đợi ai hỏi. Đó cũng là tấm lòng ngay thật của Hoàng thúc và Lý công tử.
Vị đạo sĩ cười vui vẻ:
- Các vị đi đường sá xa xôi, chắc vất vả lắm. Đặc biệt còn giúp đỡ Tiêu Vĩnh Vạn nữa, rất cảm ơn. Tôi là Yaryun Su, một người bình thường, không tên tuổi, đang sống những năm tháng nơi chốn rừng sâu này.
Hoàng thúc trấn tĩnh trong lòng, đưa mắt nhìn đạo sĩ. Đạo sĩ mỉm cười đầy phúc hậu, đưa mắt nhìn lại Hoàng thúc. Hai mắt Hoàng thúc lại quay nhìn xuống đất. Một lát sau, Hoàng thúc ngước nhìn lên:
- Xin cảm ơn đạo sĩ đã dành thì giờ tiếp, chúng tôi vốn chỉ là những thân phận nhỏ nhoi trên cõi đời này. Nhờ có Tiêu đại nhân, chúng tôi mới được đến đây bái yết đạo sĩ, thật lấy làm vinh hạnh lắm.
Nghe Hoàng thúc nói, đạo sĩ gật gật đầu.
- Thật là con người nhân phước. Người thấy điều nghĩa mà không né tránh mới là người quân tử. Nhưng con người ta ở đời muốn làm được điều sở nguyện khó lắm. Tôi xem thư của Tiêu Vĩnh Vạn, và đã hiểu rõ lai lịch của hai vị. Vậy các vị định sang nước Cao Ly có phải không?
- Thưa vâng… Đất nước của mình có, bờ cõi của mình có, thế mà lại không ở được phải đi phiêu bạt tấm thân. Đạo sĩ đọc trong thư chắc đã rõ. Nghe nói nước Cao Ly là một đất nước tốt đẹp, nên chúng tôi muốn sang đó gửi thân.
Lúc này, đứa trẻ bước vào nói với đạo sĩ cơm tối đã sửa xong.
Vị đạo sĩ nhìn đứa trẻ:
- Cháu mang tất cả vào đây. Các vị khách chắc đã quá bữa.
Trong phòng, bóng hoàng hôn đã buông xuống. Đứa bé thắp nến lên đặt bốn góc phòng.
Gian phòng sáng hẳn lên. Hoàng thúc đưa mắt nhìn khắp lượt, thấy trống vắng, không bày biện một thứ gì.
Mâm rượu được đặt ở chính giữa. Vị đạo sĩ ngồi một bên, bên đối diện là Hoàng thúc. Lý công tử ngồi ngay ngắn phía trái Hoàng thúc. Đứa trẻ ngồi thu mình lễ phép bên cạnh đạo sĩ.
- Ông nội ơi, cháu rót rượu nhé.
- Ừ, phải đấy. Cháu ngồi bên cạnh mời rượu quý khách nhé…
Đứa trẻ tỏ vẻ thích thú, ngồi đối diện với Hoàng thúc, hai tay bưng lấy chén rượu mời Hoàng thúc xong lại mời Lý công tử. Vị đạo sĩ thấy các chén rượu đã được đặt trước mặt mọi người, bèn đưa mắt nhìn khắp một lượt và nói:
- Nơi đây vùng sơn dã chẳng có chi, chỉ vài thức nhắm đạm bạc và rượu, xin mời các vị.
Đứa trẻ đưa hai tay cầm lấy bầu rượu, rót vào chén của ba người.
- Ông nội ơi, ông nội uống rượu đi. Có thế các vị khách mới uống.
Vị đạo sĩ cầm chén rượu đưa lên uống. Hoàng thúc và Lý công tử cũng cầm đưa lên uống cùng. Trên bàn rượu, có mấy chiếc đĩa để thức nhắm. Chủ và khách cùng uống rượu và ăn các thức nhắm. Cả rượu và thức nhắm đều đượm hương vị thơm nồng ngọt ngào…
Lý công tử nhìn đứa trẻ.
- Chà, rượu này là rượu gì mà uống vào thấy bừng bừng cả người. Trời đất, rượu gì thế nhỉ?
Đứa trẻ cúi đầu chào, cung kính đáp:
- Dạ, rượu này là rượu nhà cất để mời ông nội uống, gọi là "Bất lão tửu", làm bằng sâm núi và nhiều vị thuốc quý khác.
Hoàng thúc thấy Lý công tử quá để ý đến rượu, chau mày lại. Nhưng nghe nói "Bất lão tửu" bên nâng lên uống hết một chén. Vị đạo sĩ nhìn thấy vậy liền nói:
- Nào hãy uống nhiều đi. Vị khách trẻ tuổi này thế mà khá đấy! Có tốt nói tốt, có xấu nói xấu thế mới gọi là "nhân chi thường tình", lẽ thường của người đời chứ.
Nói xong đạo sĩ bật cười thoải mái.
Một tuần rượu đã qua.Vị đạo sĩ đặt chén xuống, uống chậm rãi từng ngụm nhỏ.
Hoàng thúc và Lý công tử lúc này mới nhớ lại những đắn đo khi nãy. Lý công tử buột miệng nói:
- Thưa đạo sĩ, lúc nãy tiện nhân thấy có chữ đề trên bức hoành phi treo ở thảo đường phía dưới kia, có hỏi vị chủ nhần và được biết đó là chữ của nước Bột Hải. Dạ thưa, không biết chữ đó có nghĩa gì vậy?
Vị đạo sĩ cười to một lát rồi nói.
- Đúng rồi. Chữ đó do tôi viết đấy. Nhưng không phải chữ của nước Bột Hải mà là chữ của nước Kim đấy. Nghĩa của nó là Minh đức.
Lúc này, Hoàng thúc cũng muốn xóa đi mọi sự ngờ vực, dù là chỉ trong thoáng chốc thôi cùng với nỗi lo trong lòng, bèn hỏi:
- Thưa đạo sĩ, đạo sĩ giỏi chữ của nước Kim man di ấy phải không?
Trước câu hỏi đó, đạo sĩ không giấu nổi mối hoài cảm trong lòng, bèn thở hắt ra một hơi dài rồi nói chậm rãi:
- Tôi vốn là người của nước Cao Cù Ly. Cũng giống như các vị, nước mất nhà tan, phải ra đi tìm cuộc sống lưu vong. Số phận của tôi cũng giống như số phận các vị. Các vị đã cứu thoát Tiêu Vĩnh Vạn, lại còn muốn sang nước Cao Ly, mẫu quốc của tôi để sinh sống. Bây giờ tôi biết nói gì với các vị đây. Tổ tiên của tôi vốn là kẻ bầy tôi bao đời trung thành phụng thờ nước Cao Cù Ly. Về sau Cao Cù Ly mắc mưu nhà Đường, nên đã bị suy vong, và nước Tân La (Shila) ra đời. Tất cả trung thần của nước Cao Cù Ly đều hoặc là chết, hoặc bị bắt làm tù binh, đưa sang mảnh đất này. Nếu họ không chết một cách thê thảm thì cũng chịu chung số phận nô lệ. Số người này ước tính có đến mấy mươi vạn. Lúc ấy may thay có nhiều người đã tránh được cơn tao loạn, rời bỏ mảnh đất của cố quốc, tìm đường lánh nạn, trai gái trẻ già bồng bế nhau đi về phía tây bắc của nước Cao Cù Ly. Lúc bấy giờ ông cụ tổ của tôi là một tướng lĩnh của nước Cao Cù Ly. May thay vì đi về phía bắc, nên đã nhận được sự giúp đỡ và phaâ phát cho quần áo lương thực, nên đã đưa được đoàn người tị nạn đến tận biên giới của nước Mạt Cát 1. Nhưng còn nhiều dân tộc của Cao Cù Ly, họ biết đi về đâu. Họ chỉ có một lòng trung thành mong khôi phục lại đất nước. Kết cục, cụ Yaruyn, tức cụ tổ của tôi, đã liên kết với nhiều trọng thần cũ, xếp lại hành trang, nằm gai nếm mật, tụ nghĩa tại vùng biên giới của nước Mạt Cát với cố quốc để tiến hành cuộc đấu tranh nhằm giành lại độc lập cho cố quốc. Lúc bấy giờ không có người kết thừa huyết thống của Hoàng đế Cao Cù Ly, và mọi người chỉ biết sát cánh lại bên nhau để giành lại độc lập cho đất nước. Dần dần sức mạnh của họ được nhân lên và mở rộng ra, tiến tới sáp nhập nước Mạt Cát vào làm một và lập nên "nước Bột Hải". Tất nhiên đây cũng là kết quả công lao do máu xương và mồ hôi của tổ tiên chúng tôi xây đắp nên. Tuy cùng một dân tộc, nhưng nước Bột Hải này đã trở lại thù địch nước Tân La, còn Tân La thì lại xây dựng quan hệ chủ tớ với nhà Đường vốn là một nước thù địch. Về sau Tân La suy vong và nước Cao Ly ra đời. Song cũng giống như trước đây, Cao Ly tại tiếp tục có quan hệ chủ tớ với Đường rồi đến Tống, và đem lòng thù hận với Bột Hải và nước Kim vốn dĩ cùng chung huyết thống với mình. Đó là điều rất đáng thương tâm. Tất nhiên mưu kế của cả Đường và Tống đều rất nguy hiểm. Họ tự cho mình có quyền thống lĩnh thiên hạ, và coi các nước láng giềng là man di, mọi rợ. Nếu các nước này muốn hòa hợp lại thì chúng tìm cách ly gián, tách nhau ra, nước nào có quốc lực mạnh lên, chúng tìm cách áp đặt chiến tranh làm cho suy yếu. Từ trước đến nay, chúng đều dùng mưu kế đó để thống trị các nước lân cận. Nước Bột Hải vừa mới ra đời, do nhiều duyên cớ, nên cụ tổ của tôi thấy khó giành lại độc lập cho đất nước Cao Cù Ly nên đành đến sống ẩn dật ở vùng sâu này, đến nay đã mười lăm đời.
Hoàng thúc và Lý công tử cảm thấy những điều vị đạo sĩ gặp phải cũng giống như tấm lòng trắc ẩn của bản thân mình; cả hai người có lẽ đến hôm nay mới hiểu hết nguyên do vì sao mình lại có những cảm nghĩ như vậy đối với nước Kim. Hoàng thúc mỉm cười nói:
- Nghe lời của đạo sĩ, có thể hiểu hết được tinh thế trong thiên hạ. Bản thân nước chúng tôi cũng mắc vào mưu thâm của nước Tống nên vương triều đã thay đổi, và chẳng phải đã suy vong đó sao.
- Tất nhiên sức mạnh của mỗi nước là điều quyết định, song nhiều khi bị nghiêng ngửa bởi mưu kế hung ác của nước lớn.
- Thưa đạo sĩ, đạo sĩ ở đây tu luyện đạo phái gì?
¬Đạo sĩ mỉm cười trước câu hỏi của Hoàng thúc và trả lời:
- Đạo gì cơ? Sống là cũng đạo rồi còn gì.
Hoàng thúc có vẻ như chưa xóa hết được nỗi hoài nghi trong lòng, bèn nói:
- Đạo sĩ quá khiêm tốn. Đạo dưỡng sinh là đạo cao nhất trong các đạo. Những vùng phụ cận xung quanh đây nức tiếng đồn rằng đạo sĩ đã tu luyện thành công một đạo rất kỳ diệu.
Đạo sĩ nghe qua, tỏ vẻ thờ ơ:
- Những điều người ta nói trên đời này, tất cả chỉ là những lời đồn nhảm nhí. Tu luyện đạo của thần tiên hay tu luyện một đạo phái nào đó là do con người đi tu quyết định. Còn tôi, thì tấm thân này đã gắn với cảnh trời mây non nước, làm sao tôi không yêu nó được. Hiện nay cứ nhìn thế sự trong thiên hạ thì biết. Nhà Tống trị nước bằng Nho giáo, nhưng lại khuyên nhiều nước như Cao Ly, nước Đại Việt, hay Mông Cổ, Nhật Bản sùng bái đạo Phật. Đó là tấn trò được bày đặt ra. Rất đáng ngẫm suy. Hiện nay nước Tống đang khốn khổ vì nạn xâm lược của nước Kim. Thực ra Kim đánh Tống để giành lại đất đai bị mất của mình. Người nước Tống đang kêu lên Hoàng Hà là "Hoạn Hà!" Để xoa dịu và áp chế nước Kim, Tống đã cử sứ thần cầu hòa sang Mông Cổ, hàng năm đưa nhiều gái đẹp sang đó. Cùng lúc họ ra sức truyền bá đạo Phật. Xem ra một ngày không xa nữa, họa lớn ắt sẽ đến. Liệu có ai dám lớn tiếng nói rằng sẽ không rời vào tình thế "nuôi hổ trong nhà, chuốc họa về sau".
Điều cơ bản của đạo là sự đại đồng tiểu dị mà. Nhưng suốt cả thời gian lịch sử từ Đường đến Tống, các học giả trong Khu mật viện đều nghiên cứu phân tích kỹ điều này, và từ đó họ đi đến quyết sách đẩy tất cả các đạo khác vào rừng núi để cách ly, chỉ giữ lại Nho giáo. Một khi con người ta học theo đạo Phật rồi thì họ sẽ từ bỏ nghĩa vua tôi, cấm những đạo nuôi dưỡng tình cha con và quan hệ trong tương sinh giữa vợ chồng, từ bỏ lục căn, tức là sáu cảm giác của con người như mắt, mũi, tai, lưỡi, thân thể, ý nghĩ để đi tìm một sự quy tịch về cõi Niết Bàn. Đó chính là cái nguyên nhân làm cho đạo Phật không thể chung sống với Nho giáo là đạo lấy tứ lý 2 làm gốc, xác lập theo các chuẩn tắc tam cương, ngũ thường 3. Rốt cuộc đó là một kế sách nhằm dẹp những đạo khác vào trong rừng núi, và truyền bá đạo Phật sang nước láng giềng để làm hao mòn quốc lực của các nước đó. Bởi vậy họ chỉ cho tu hành đạo Phật ở những nơi sơn cùng thủy tận, còn bản thân họ thì tự động tung các thế lực truyền giáo sang các nước khác và lợi dụng điều đó một cách khôn khéo. Đó mới chính là mưu kế của những kẻ được gọi là "trị giả". Mặt khác, đạo của Mạc Tử 4 lạ#i xem khinh Nho giáo vì đã tạo ra những thủ tục phức tạp rườm rà như phép tắc, lễ nghi cho các đế vương bao đời dựa vào đó cai trị muôn dân, và dùng các phép tắc lễ nghi đó để phân biệt trên, dưới, sang, hèn. Như vậy, đạo của Mạc Tử chủ trương các phép tắc nuôi dưỡng muôn dân phải chất phác giản dị, phải theo triết lý nhàn cư thì làm sao hợp với ý của những kẻ trị giả đó được.
Giãi bày được một lúc, đạo sĩ cầm chén rượu đặt trước mặt mình lên uống một ngụm.
Hoàng thúc nghe câu chuyện của đạo sĩ về tình hình ở phương Đông, lại nghĩ đến đất nước mình.
- Xin đạo sĩ cho biết tình hình nước Đại Việt chúng tôi sắp tới sẽ như thế nào.
Đạo sĩ nhìn Hoàng thúc, mỉm cười nói:
- Ông đã rời bỏ cố quốc của vua nhà Lý, nay có thể sang sống bình yên ở nước Cao Ly. Đã gọi là thế lực, thì thịnh suy là lẽ tự nhiên. Chính trị cũng có lúc mờ lúc sáng. Thôi đừng nghĩ đến những ngày đã qua của vương triều Lý nữa. Ngày xưa có một câu danh ngôn như thế này: "Đừng nuôi ngựa gày, đừng dạy múa hát cho kỹ nữ". Ngựa nếu nuôi tốt, béo lên, chất lượng con ngựa được nâng cao, sẽ thành ngựa quý. Kỹ nữ nếu được dạy hát, dạy thanh luật, thì có thể múa hát được. Thế nhưng chỉ mấy năm sau, con ngựa đó và người kỹ nữ đó sẽ thay đổi chủ từ người này sang người khác. Con ngựa đó, người kỹ nữ đó dù có yêu mến người chủ mới, cũng sẽ để lại một quá khứ đau thương cho người chủ cũ năm xưa. Và người chủ mới đó ít lâu sau chắc gì sẽ lại không thay đổi. Nước Đại Việt của các ông cũng giống như vậy thôi. Vương triều Lý đã thương yêu họ Trần là bày tôi của mình, đưa lên làm phò mã. Nhưng phò mã cũng chẳng khác gì người kỹ nữ hay con ngựa kia, đã làm cho triều Lý suy vong và nghiễm nhiên bước lên ngôi báu. Nhưng một ngày không xa, rồi cũng sẽ gặp phải cảnh tượng như ông bây giờ. Nghĩ lại những ngày đã qua mà làm gì.
Vì chưa xua tan được nỗi lưu luyến mong trở lại cố quốc, nên Hoàng thúc sau khi nghe những lời nói lạnh lùng đó của đạo sĩ, vẫn im lặng, đầu cúi xuống, ánh mắt xót xa. Như để xoa dịu nỗi đau đớn xót xa của Hoàng thúc, Lý công tử bèn hỏi đạo sĩ một câu bâng quơ:
- Tại sao đạo sĩ lại gắn bó đời mình vào nơi đây?
Đạo sĩ cười sang sảng.
- Đúng vậy, còn nguyên do vì sao, sau này tôi sẽ nói để hai ông biết.
Lúc này đứa trẻ rót những giọt rượu cuối cùng vào chén và bưng đưa Hoàng thúc cùng Lý công tử.
Đêm đã về khuya. Hoàng thúc lễ phép chào vị đạo sĩ, tỏ ý cao lui.
- Đạo sĩ tuổi cao, chắc đã mệt. Tối nay, chúng tôi đã được nghe những lời nói tốt đẹp và thưởng thức rượu ngon.
- Tôi không hề gì. Chỉ sợ các vị khách đi đường sá xa xôi, chắc đã mệt. Tối nay mời hai vị nghỉ ngơi cho khỏe. Sáng mai chúng ta sẽ nói chuyện tiếp.
Vị đạo sĩ đứng dậy. Hoàng thúc và Lý công tử cũng đứng dậy theo.
Vị đạo sĩ quay lại phía đứa cháu.
- Cháu đưa quý khách vào phòng nghỉ, để quý khách được nghỉ ngơi bình yên.
- Vâng ạ.
Đứa trẻ đưa Hoàng thúc và Lý công tử vào phòng khách nơi hướng đông.
Sáng ngày hôm sau, ánh mặt trời đã lọt qua khe cửa sổ chiếu vào trong phòng. Hoàng thúc và Lý công tử ngồi dậy, mỗi người uống một bát nước lạnh để ở trên đầu chỗ nằm, cảm thấy người sảng khoái. Tuy hôm qua có uống nhiều rượu, nhưng đã hết cơn say.
Hoàng thúc mở toang cửa sổ, nhìn ra ngoài, ở nơi thung lũng êm đềm này, ông mặt trời đã nhô lên đỉnh núi phía đông tự bao giờ. Khắp nơi đó đây, các loại kỳ hoa dị thảo nở rộ, đang đua thắm khoe tươi, cây cối trên núi có ánh nắng mặt trời trở nên tràn đầy sức sống. Các loài chim, vui hát những bài hát líu lo theo từng loài. Những khúc hát của riêng từng loài đó không hiểu sao đã tạo nên một sự hòa hợp như tiếng đàn trầm bổng của vị đạo sĩ chiều hôm qua.
- Đây quả là nơi tiên cảnh!
Hoàng thúc chỉ nói riêng với mình thôi, nhưng đứa trẻ ở phòng bên cạnh đã nghe được. Nó có vẻ như đang chờ các vị khách thức dậy…Nó chạy đến trước mặt Hoàng thúc, lễ phép vái chào và vấn an:
- Thưa quý khách tối hôm qua có được an giấc không ạ. Xin mời đi cùng với tiểu đồng ra rửa tay. Đạo sĩ có dặn là khi quý khách thức dậy sẽ đưa quý khách ra ngôi lăng ở phía trước kia.
Hoàng thúc và Lý công tử đi theo đứa trẻ ra bờ suối phía trước sân. Dòng suối trong lành chảy từ trong khe núi ra phát lên tiếng reo róc rách. lấy nước mát rửa mặt rồi xoa lên tay chân, lòng cảm thấy nhẹ nhõm lâng lâng. Song vì mới là đầu mùa hạ, nước còn lạnh nên không xoa được lâu.
Theo sự hướng dẫn của đứa trẻ, hai người trở lại nhà, đã thấy đạo sĩ ngồi trên chiếc ghế trong sân chờ khách. Hoàng thúc và Lý công tử bước đến phía trước, chào đạo sĩ:
- Xin chào đạo sĩ. Tối hôm qua được nghe đạo sĩ nói nhiều lời hay ý phải, chúng tôi nghe rất thích thú.
Thấy Hoàng Thúc và Lý công tử đến chào, đạo sĩ liền bắt chuyện vui vẻ.
- Đâu dám. Sáng nay tôi định cùng các vị đến chỗ lăng phía trước kia, nên đang ngồi chờ.
Hoàng thúc và Lý công tử nghe nói rất đỗi vui lòng, vội cúi người chào, Hoàng thúc nói:
- Thật phiền đạo sĩ. Đạo sĩ đã dành sự đón tiếp ân cần như thế này cho chúng tôi..
Đứa trẻ mang theo một chiếc đàn tranh và một cái rổ làm bằng sợi dây muồng, trong xếp mấy cái bát, đi trước dẫn đường.
Đạo sĩ khoác tấm áo choàng của người tu hành dệt bằng vải gai, đi theo sau. Hoàng thúc và Lý công tử đi theo hai bên cạnh.
Cả đoàn bước đi những bước lặng lẽ. Họ trèo lên một con đường dốc rồi lại đi xuống. chẳng mấy chốc họ đã có mặt ở chỗ lăng. Có tám sống núi nối liền nhau tạothành tám con rồng, khi hoà quyện lúc đối đầu nhau, bao bọc một khoảng đất bằng phẳng, bốn phía nhìn ra chừng ba nghìn bước, nằm chình giữa là một ngôi mộ lớn.
Nguồn nước trong vắt từ trong dãy núi bát sơn chảy ra, hợp lưu ở phía Đông Bắc của ngôi mộ lớn, giống như nguồn nước trời tinh khiết hợp lại, rồi chảy vòng theo khe núi phía đông.
Hoàng thúc ngày trước thích môn toán số nên có theo học và cũng có cả kiến thức về môn địa lý, nên đã đưa mắt nhìn bao quát địa thế xung quanh. Ngôi lăng này xây dựng theo hình Bát sơn, các cốt núi hợp lại với nhau, nguồn nước trời tinh khiết chảy ra từ trong cốt lõi của núi đã hợp lưu lại. Bởi vậy mới nhìn qua đã thấy được đây là thế đất cao để chọn các bậc vua chúa.
Ngôi lăng ở giữa giống như hình của một đỉnh núi. Trên lăng cỏ mọc đều tăm tắp. Xung quanh lăng các loại kỳ hoa dị thảo nở rộ tươi tốt. Các giống chim vô danh đang vui hót líu lo khắp tám hướng xung quanh. Tất cả những cái đó đã tạo nên cảnh thần tiên trong cảnh thần tiên vậy.
Nhìn thấy Hoàng thúc đăm chiêu ngắm nhìn với vẻ nghiêm túc, đạo sĩ gật đầu nói:
- Hoàng thúc nước Đại Việt hình như cũng giỏi về môn địa lý?
Đạo sĩ đến trước lăng, lần đầu tiên dung cách xưng hô tôn kính với Hoàng thúc.
- Thưa vâng. Tôi cũng có biết ít nhiều. Ngôi lăng này quả thực là nơi kỳ địa để để dành cho bậc đế vương.
Lý công tử không hiểu toán số địa lý nên chẳng hiểu gì về câu chuyện trao đổi giữa hai người. Lúc này đứa trẻ mang chiếc rổ đến đặt trước tấm bia đá lớn dựng trước lăng và bày mâm cúng lễ. Cháu lấy một chén sạch múc ít nước trong suốt nơi chỗ hợp lưu của dòng nước trời tinh khiết đặt lên mâm và thắp hương. Xong cháu trải một chiếc chiếu ra phía trước, và đạt chiếc đàn thập lục lên trên. Cháu đến chỗ ông đang đứng:
- Nội ơi, mọi việc sắp đặt xong rồi ạ.
Vị đạo sĩ gật gật đầu, dáng chừng như đã hiểu, đoạn kéo Hoàng thúc đến phía trước giới thiệu. Hoàng thúc đến phía trước chiếc bia đá. Trên bia chỉ khắc một dòng chữ" Đông bia chi lăng", ngoài ra không còn thấy một dòng chữ nào ghi lại, đây là lăng mộ của ai, người nào xây, xây vào lúc nào, xây như thế nào. Hoàng thúc suy nghĩ một mình: phải chăng đây là ngôi lăng làm sẵn để sau này an tang đạo sĩ khi đạo sĩ qua đời.
- Ngôi lăng này phải chăng do đạo sĩ lập nên?
Với vẻ mặt tràn đầy hoài cảm, đạo sĩ đáp:
- Không phải đâu. Đây là ngôi lăng này do cụ tổ mười lăm đời của tôi phụng lập nên đó. Đây là một ngôi lăng thấm đầy máu và nước mắt.
Hoàng thúc có vẻ ngạc nhiên.
Nếu vậy chẳng hay ngôi lăng này là ngôi lăng đã chôn cất một vị nào đó rồi chăng?
Vị đạo sĩ nhìn lên phía trên lăng, rồi thở ra một hơi dài. Cụ đưa mắt thẫn thờ nhìn ra bốn phía và chậm rãi nói:
- Trong lăng này đã chọn cất hai mươi vạn bộ hài cốt. Sau khi nhà nước Cao Cù Ly uy vong, rất nhiều người bị bắt về Đường và bị giết một cách thảm thê hoặc bị hành hạ mà chết trong các nhà ngục; và cũng không biết bao nhiêu người nằm sương gội tuyết đấu tranh không mệt mỏi cho nhà nước Cao Cù Ly và đã ngã xuống…Hài cốt của các vị ấy đã được thu nhặt và đem về đây chôn cất. Ôm lấy mối hận thù ghi xương khắc cốt, các vị ấy đã vĩnh biệt cõi đời rồi mà không thể quay về cố quốc, kết cục đành phải gửi nắm xương tàn nơi đất khách quê người. Ông cụ tổ mười lăm đời nhà tôi biết rõ cảnh ngộ này. Ông cụ chẳng quản tấm thân mình là người hoàng tộc đã từ bỏ mọi nỗi vương vấn với đời, về sống thầm lặng ở nơi đây. Từ Đường đến Tống cụ đã đi khắp mọi nơi thu nhặt hài cốt đem về đây chôn cất. Từ sau đó trở đi, tổ tiên của tôi đời này qua đời khác đã lưu lại nơi đây trông coi ngôi lăng. Cháu bé này là cháu nội của tôi. Bố của cháu cũng như Tiêu Vĩnh Vạn là người được các ông cứu giúp, đã tránh né con mắt của bọn quan lại, đi các nơi thu nhặt hài cốt đem về. Lần này bố cháu vào trong kinh thành nước Kim, không bao lâu nữa sẽ quay về.
Hoàng thúc và Lý công tử nghe câu chuyện của vị đạo sĩ rồi, mới biết được lai lịch bi thảm của ngôi lăng, biết được cuộc đời của đạo sĩ và Tiêu Vĩnh Vạn
- Thưa đạo sĩ, nếu nước Cao Cù Ly giành lại được độc lập và khôi phục lại những vùng đất đai đã mất, chắc phải chuyển ngôi lăng này về cố quốc đẻ chôn cất lại
Nghe Hoàng thúc nói, vị đạo sĩ chỉ lắc đầu
- Hoàng thúc không biết rõ sự tình nên mới nói vậy thôi. Nước Cao Cù Ly chúng tôi đã suy vong rồi. Nay không còn ai để kế thức tinh thần đó, và sau này chắc cũng không.
Nghe lời nói đó Hoàng thúc cảm thấy ái ngại trong long.
- Nếu vậy thì…
- Biết làm sao được. Phải đợi đến tám trăm năm nữa, khi cả ba nguồn nước"Thiên thuỷ", Địa thuỷ", và "Quốc vận thuỷ" hợp lại nhau thì mới…
Vị đão sĩ nói đến đây, bỗng ngập ngừng yên lặng.
"Vạn lý tha hương", muôn dặm xa quê, một khắc lâu tưởng chừng ba thu, thế mà còn phải đợi tám trăm năm nữa. Câu nói nghe như chết lặng trong lòng. Sau này dù ta đã vùi thân nơi đất Cao Ly rồi thì những linh hồn đang yên nghỉ trong ngôi lăng này, sẽ mãi mãi, mãi mãi chẳng bao giờ có thể trở về được nơi cố quốc. Nghĩ như vậy, vị đạo sĩ lại hướng về nấm mồ, lầm rầm đọc những câu khấn vái không ai nghe hiểu mà chỉ nghe hiểu được những lời lõm bõm như – Hoàng thúc Lý Long Tường và hoàng tộc Lý Quân Tất của nước Đại Việt.
Cho đến lúc này, cả hai người mới hiểu rõ, vị đạo sĩ gọi mình là Hoàng thúc, Hoàng tộc trước lăng và cả hai ngươi đều nghĩ rằng sở dĩ như vậy là vì họ đã được đón tiếp như quốc khách trước ngôi lăng này.
Vị đại sĩ đến trước bia mộ thắp hương và dâng lễ bái. Hoàng thúc và Lý công tử cũng làm theo đạo sĩ thắp hương và dăng lễ bái. Đó là do Hoàng thúc và Lý công tử xuất phát từ tấm lòng thành của mình chứ không phải do đạo sĩ hay ai khác khuyên bảo họ làm như vậy.
Quay về phía Hoàng thúc, sau khi dâng lễ xong. Người vẫn còn phủ phục trước nấm mộ, vị đạo sĩ nói:
- Xin cảm ơn quý vị. Các linh hồn của tổ tiên chúng tôi chắc sẽ vui lòng nơi chín suối vì Hoàng thúc của nước Đại Việt đã đích thân đến đây dâng lễ bái, tỏ nguyện tấm lòng thành.
Hoàng thúc không cầm được hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi như những giọt châu.
Trên khuôn mặt của Lý công tử đứng bên cạnh cũng đầm đìa nước mắt.
Đạo sĩ lặng lẽ đến trước chiếc đàn, ngồi cuống bãi cỏ, đặt chiếc đàn lên đầu gối so dây. Một lúc sau các cung bậc bắt đầu réo rắt. Mặt trời nhô lên đằng Đông như cố ý chỉ chiếu xuống xung quanh đạo sĩ, những âm thanh trầm bổng bay chập chờn cung quanh lăng rồi vút lên tám đỉnh núi xung quanh. Không, nhưng âm thanh đó dường như đang luồn qua các khe núi và tan dần vào trong rừng cây.
Các âm thanh réo rắt, khi dài khi ngắn, khi to khi nhỏ, lúc rầm rộ lúc nỉ non, khi du dương thổn thức, lúc gào xé cõi lòng. Cả núi rừng chung quanh như đang khóc than cùng tiếng nhạc.
Ông già đạo sĩ thỉnh thoảng đưa mắt rời khỏi dây đàn nhìn về phía ngôi lăng
Những đàn hạc bay trên không cũng xà xuống ngôi lăng kêu lên những tiếng kêu thổn thức rồi bay đi.
Vô số những linh hồn đang yên giấc ngủ sâu trong lăng cũng như đang than khóc
Những ngón tay trắng trẻo của đạo sĩ như đang nhảy múa trên các dây đàn.
Một chốc sau, đạo sĩ mới đặt cây đàn xuống, lấy tay trái chống xuống vạt cỏ rồi đứng lên
Đứa cháu nhanh nhẹn cất cây đàn và các đồ tế lễ vào trong chiếc rổ
Hoàng thúc và lý công tử lau nước mắt đứng bên cạnh.
Vị đạo sĩ đã làm cho cả vạn vật trong thung lũng sụt sùi rơi lệ, giờ đây đang chậm rãi bước tới chỗ Hoàng thúc, nói với vẻ thảnh nhiên:
- Chà… các vị đứng lâu chắc mệt. Bây giờ chúng ta xuống núi ăn sáng đi.
Hoàng thúc lấy tay phủi những lá cỏ bám sau lưng đạo sĩ
- Nghe tiếng đàn hát của đạo sĩ. Mọi nỗi đau buồn trong lòng chúng tôi đều tiêu tan.
Vị đạo sĩ nhìn Hoàng thúc cười, nói:
- Đó là tiếng khóc của kẻ trượng phu!
Đứa bé đi trước, Hoàng thúc đi theo sau. Được một chốc, Hoàng thúc quay lại nhìn phía sau, bỗng sững người lại, cảm thấy hết sức ngạc nhiên, đưa mắt ngơ ngác nhìn xung quanh. Lý công tử thấy khác bèn hỏi:
- Hoàng thúc ơi, sao thế? Chúng ta đi chứ.
- Lạ quá, rõ ràng hoàn toàn không còn nhận ra con đường lúc chúng ta đến là con đường nào và cũng không còn biết ngôi lăng nằm ở chỗ nào nữa.
Đến đây, Lý công tử như sực nhớ ra điều gì, bén quay lại nhìn về phía lăng, nhưng cũng không còn nhận ra gì nữa
Vị đạo sĩ hiểu ý, bèn quay lại cười, nói:
- Không có gì ngạc nhiên đâu. Con đường đi đến lăng là con đường người phàm trần khó tìm thấy. Chỉ có tôi và đứa cháu dẫn đường mới tìm ra được
Hoàng thúc và Lý công tử chừng như cũng hiểu, nên cảm thấy yên lòng. Phải rồi nếu nơi yên nghỉ của những linh hồn cao cả nhưng cô đơn kia bị giày xéo dưới gót giày của bọn quan quân nước ngoài thì sẽ hệ trọng biết chừng nào. Một lát sau họ đã trở về ngôi nhà tranh.
Ăn sáng xong, mặt trời đã đứng bóng. Được một lúc, Lý công tử nói với Hoàng thúc:
- Thưa Hoàng thúc, chúng ta rời quán trọ được ba ngày rồi. Bây giờ ta nên trở về thôi.
Thời gian trôi qua lúc nào không hay. Hoàng thúc cũng đã trở về với thực tại của mình, bèn chép miệng mỉm cười nói với đạo sĩ:
- Thưa đạo sĩ, chúng tôi xin phép trở về. Hai hôm rày được nghe nhưng lời quý báu của đạo sĩ và đã làm phiền đạo sĩ rất nhiều.
Hoàng thúc nói xong đứng dậy, Lý công tử cũng đứng dậy theo.
Với vẻ buồn đầy lưu luyến, đạo sĩ nói:
- Ước gì các vị ở chơi thêm mấy hôm nữa thì hay quá, nhưng ở đằng ấy còn có nhiều người đang trông mong các vị nên tôi không dám giữ.
Hoàng thúc và Lý công tử vái chào đạo sĩ và bước ra sân. Đứa trẻ đã dắt ngựa và chờ sẵn từ lúc nào. Đạo sĩ cũng theo ra tiễn chân.
Hoàng thúc và Lý công tử vái chào đạo sĩ một lần nữa
- Xin kính chúc đạo sĩ ở lại bình yên. Chúng tôi xin phép trở về.
Hoàng thúc lễ phép cúi chào đạo sĩ nhiều lần.
Đạo sĩ đưa tay lên vẫy vẫy với lời chào tử biệt
- Các vị ra đi, tôi mong nhớ nhiều. Đường xá xa xôi, chúc các vị thượng lộ bình an. À, khi về gặp Tiêu Vĩnh Vạn xin nhắn giùm tôi, nhờ Tiêu Vĩnh Vạn đưa các vị sang đến đất Cao Ly.
Được lời như cởi tấm lòng, Hoàng thúc nói:
- Xin cảm ơn đạo sĩ, chúng tôi xin nói lại với Tiêu đại nhân.
- Hoàng thúc ăn ở rất có nhân đức, sang đất Cao Ly hẳn sẽ được đón tiếp nồng hậu. Nhưng trên con đường đời, đâu phải đi đến chỗ nào cũng gặp sự thái bình an lạc. Có thể ở nước Cao Ly, rồi đây trong một ngày không xa nữa cái hoạ khôn lường sẽ ập đến.
Đạo sĩ cuối cùng căn dặn như vậy.
Hoàng thúc và lý công tử một lần nữa bái biệt đạo sĩ và lên ngựa ra đi. Đạo sĩ vẫn còn đúng đó nhìn theo cho đến khi bóng hai người khuất sau đỉnh đèo.
Mãi đêm hôm đó hai người mới về đến quán trọ Thanh Châu. Đêm đã khuya không liên lạc được với ngoài thuyền. Đến ngày hôm sau, Hoàng thúc và Lý công tử mới ra được đến thuyền đậu ngoài khơi.
Vừa trông thấy Hoàng thúc và Lý công tử,các tráng đinh đứng trên mạn thuyền đều mừng rỡ đón chào như trẻ con vui mừng gặp lại bố mẹ.
Đã lâu mới gặp các tráng đinh, Hoàng thúc vui vẻ uý lạo mọi người. Lý công tử vội vã bước trước vào trong khoang thuyền, nhìn thấy Tiêu Vĩnh Vạn rất đỗi vui mừng reo lên:
- Tiêu huynh chắc sốt ruột lắm phải không? Tôi đã đưa Hoàng thúc đến gặp đạo sĩ, mãi đến tối khuya hôm qua mới về đến quán trọ. Các vết thương của Tiêu huynh thế nào rồi?
Tiêu Vĩnh Vạn cũng hết sức vui mừng, vùng đứng dậy reo lên:
- Các vị đi đường xá xa xôi chắc vất vả lắm… Thật quá bất ngờ. Nhờ thuốc tốt, nên các vết thương của tôi gần như lành hẳn rồi.
Lúc này Hoàng thúc bước vào khoang thuyền, Lý công tử mời Hoàng thúc ngồi vào ghế trên và giới thiệu với Tiêu đại nhân:
- Vị này là Hoàng thúc của chúng tôi.
Tiêu Vĩnh Vạn đáp lại với một thái độ cung kính:
- Xin kính chào Hoàng thúc. Tiểu nhân tên là Tiêu Vĩnh Vạn. thật không ngờ các vị đã cứu sống sinh mạng của tiểu nhân, lại còn vì một chút việc nhờ vả nhỏ mọn của tiểu nhân, đã không quản đường xá xa xôi vất vả ra công giúp đỡ. Tiểu nhân cảm thấy thật xấu hổ trong lòng.
Nghe nói vậy Hoàng thúc vội đỡ lời:
- Không có gì đâu, về lai lịch của quý công tử, được sự giới thiệu của đạo sĩ chúng tôi đã hiểu rõ. Các vết thương đã đỡ chưa?
Tiêu Vĩnh Vạn một lần nữa, lại một lần nữa co duỗi tay chân của mình như cốt để cho mọi người nhìn thấy và nói:
- Thưa vâng. Nhờ ơn chăm sóc nên các vết thương hầu như đã lành hẳn.
Lý công tử ngồi bên cạnh kể lại tường tận câu chuyện đi tìm vị đạo sĩ mấy ngày qua.
Một lát sau Hoàng thúc nói với vẻ hài long:
- Nếu không có quý công tử, làm sao chúng tôi có thể gặp được một vị đạo sĩ siêu phàm như vậy.
- Thưa đâu dám ạ.
Lý công tử mỉm cười nói như nài nỉ:
- Đạo sĩ có bảo với chúng tôi, nói lại với Tiêu huynh thế nào cũng nhờ Tiêu huynh đi cùng dẫn đường cho chúng tôi đến nước Cao Ly.
Hoàng thúc cũng khẩn khoản nói thêm:
- Thế nào quý công tử cũng cố giúp cho.
Tiêu Vĩnh Vạn nghiêm chỉnh, vui vẻ nhận lời:
- Thưa vâng. Tiểu nhân cũng đã nghĩ như vậy. và đạo sĩ cũng đã có lời. Tiểu nhân sẽ đưa quý vị sang đất Cao Ly.
Giữa lúc ấy, người lái thuyền bước vào khoang nói:
- Thưa Lý công tử, hôm nay chúng ta phải nhổ neo vào lúc có con nước tối.
Lý công tử nhìn Tiêu Vĩnh Vạn nói:
- Tiêu đại nhân. Hôm nay chúng ta phải nhổ neo vào con nước tối, không có việc gì chứ?
Tiêu Vĩnh Vạn nhìn ra biển một lúc rồi nói:
- Tối hôm nay có gió tây bắc, được đấy.
Người lái thuyền ra ngoài lo công việc xuất phát. Trong khoang còn lại ba người.. Lý công tử quay vế phía Tiêu Vĩnh Vạn nói:
- Thưa Tiêu đại nhân, nhờ có sự hướng dẫn của đạo sĩ, chúng tôi đã đến viếng lăng Đông Tiên. Tiêu đại nhân thu nhặt được nhiều hài cốt như vậy thật vất vả quá. Lần này nghe nói Tiêu đại nhân đi sang kinh thành nước Kim và đang trên đường trở về, có phải thế không?
Câu nói gợi lên trong lòng Tiêu Vĩnh Vạn bao nhiêu bồi hồi xúc cảm. Anh nói:
- Hai vị đã đến viếng lăng Đông Tiên. Thật quý hoá quá. Tôi đã cùng với con trai vị đạo sĩ ra đi rồi trở về. Nhưng sự đời đâu phải lúc nào cũng theo ý chúng ta. Không còn cách nào khác, vị ấy đã đi sang nước Mông Cổ. Và chỉ còn có tôi trở về một mình. Đến giữa đường thì xảy ra cơ sự thế này.
Qua câu nói, Hoàng thúc có vẻ nghĩ ra điều gì, bèn hỏi:
- Vị đạo sĩ đã kể cho nghe và tôi cũng biết được đại thể đôi điều. Thế ra quý công tử cùng con trai vị đạo sĩ đã đến được vùng biên giới và đã sang cả đến đất Mông Cổ rồi ư? Vậy tình hình ở đó thế nào?
Tiêu Vĩnh Vạn đáp:
- Vâng ạ. Nhà Tống bề ngoài làm ra vẻ hoà thân với nước Kim nhưng bên trong lại kích động Mông Cổ đánh nhau với nước Kim và nước Cao Cù Ly. Còn ở Mông Cổ thì dòng họ Yaryun của nước Liêu do có bất hoà với nước Kim nên đã sang Mông Cổ họp bàn với nước này giành lại độc lập cho cố quốc của mình. Do vậy vị đạo sĩ đã cho con trai của mình sang nước Mông Cổ thuyết phục nhưng họ không nghe.
Qua câu chuyện, Hoàng thúc càng hiểu tình hình chính trị phức tạp của Bắc quốc.
- Nghe lời của đạo sĩ, tôi đã hiểu được tình hình và rất khâm phục dân tộc Cao Cù Ly đã đấu tranh ngoan cường bền bỉ để giành lại độc lập và những đất đai đã bị mất.
Nghe vậy, Tiêu Vĩnh Vạn bèn thở dài:
- Nếu mọi việc đều do số phận an bài thì đành chịu. Nhưng đằng này mọi cái lại do con người ta. Mưu kế sâu hiểm của những kẻ thống trị Đường, Tống là muốn nắm trọn thiên hạ trong tay.
Được lời như cởi tấm lòng, hoàng thúc bèn nói them:
- Đúng vậy. Vị đạo sĩ cũng đã nói."Pháp gian tắc thương dân. Giáo dục tắc thương quốc". Đạo pháp mà gian tà thì gây đau thương cho nhân dân, nếu truyền bá những giáo lý dung tục cho trăm họ thì sẽ làm tổn hại cả đất nước. Cứ bằng vào sự thật lịch sử mà xem xét thì thấy các nước giáp biên giới với họ như chúng ta thì thấy triển vọng sau này không lấy gì làm sang sủa.
Giữa lúc ba người đang say sưa câu chuyện, quên cả thời gian thì người lái thuyền bước vào:
- Thưa Lý công tử, chúng ta sắp rời bến rồi ạ.
- Đã đến giờ rồi sao?
- Vâng. Đã đến giờ rồi. Nước thuỷ triều đang dâng lên kia.
- Được rồi.
Lý công tử bước ra khỏi khoang thuyền, nhìn xung quanh. Mặt trời đã khuất sau rặng núi phía tây. Hình ảnh của trấn Thanh Châu bao phủ trong ánh hoàng hôn mỗi lúc một mờ dần trong bóng tối, chỉ còn tiếng sóng vỗ bì bọp hai bên mạn thuyền. Bóng dáng lờ mờ của trấn Thanh Châu không phải là quê hương nơi cố quốc nên cũng chẳng có gì phải để phải nặng tình lưu luyến, và nơi sắp đến là nước Cao Ly còn nhiều mới lạ, biết có ai người vui mừng ra đón tiếp ta? Con thuyền vẫn vô tình lướt trên ngọn sóng. Cùng với bóng tối, cái mất đi lại là nỗi lẻ loi hiu quạnh. Biển Đông mênh mông, muôn vàn những đợt sóng to nhỏ xô tới như đang mừng vui chào đón người khách tha phương. Lý công tử đưa mắt đăm đăm nhìn ra biển khơi xa xăm, đắm chìm trong nìêm suy nghĩ miên man.
Chú thích
(1)Một nước cổ xưa nằm ở vùng giáp ranh giữa đất Mãn châu – Trung Quốc và Siberi ngày nay (ND)
(2)Tứ lý: trung, hiếu, tiết, nghĩa (ND)
(3)Tam cương: ba cặp quan hệ: quân – thần (vua – tôi); phụ – tử ( cha – con); phu – thê (vợ – chồng ). Ngũ thường: năm đạo lý làm người: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (ND)
(4)Một phái trong Bách gia chư tử thời Xuân Thu – Chiến quốc ở Trung Quốc (ND)
CHƯƠNG 6: NGƯỜI NGAY MẮC NẠN
Lúc bấy giờ vào năm Cao Tông thứ 12, đời vua 23 của triều đại Cao Ly (dương lịch 1225). Dưới triều đại Cao Ly có một vị quyền thần tên là Thôi Trung HIếu, nắm quyền bính trong tay. Chính sách cai trị đất nước của họ Thôi đến lúc đó đã duy trì được 60 năm. Cách kinh đô Khai Thành của nước Cao Ly khoảng hơn 200 dặm về phía tây có một miền đất gọi là Ủng Tân thuộc An Tây đô hộ phủ (nay gọi là Hải Châu). Quan huyện cai quản xứ này là một người tên gọi Lý Hoàn Khuê thuộc hàng ngoại thích của Thượng tướng quân Lý Chi Chính.
Ủng Tân không phải là một huyện lớn nhưng là một miền đất thanh bình nằm trên bờ biển phía tây, núi sông tươi đẹp, mặt biển phía trước có rất nhiều đảo lớn nhỏ. Vốn dĩ nơi đây chỉ có những người dân địa phương sinh sống yên lành với nhau, nhưng mấy năm gần đây đã có nhìều người nước ngoài lui tới. Có lẽ họ là người lánh nạn từ nước Tống, nước Kim hoặc dân lái buôn đến buôn bán.
Trên đảo Xương Lân nằm ngoài khơi Ủng Tân, có một người tên gọi Chu Nhật Thường từ nước Tống sang định cư và sinh sống bằng nghề chài lưới. Người này thỉnh thoảng sang nước Kim hoặc quay lại nước Tống mua bán những đồ vật quý giá và khéo đối xử với quan lại địa phương nên đã thu phục nhân tâm khá thành công. Chu Nhật Thường có quan hệ giao tiếp rất thân mật với các quan lại địa phương vùng này.
Viên thừa lại họ Trương từ sau khi quen biết với Chu Nhật Thường, của cải mỗi năm một tăng lên, nay đã trở nên một kẻ giàu có đếm được trên đầu ngón tay của huyện thành Ủng Tân này. Quan tri huỵện Ủng Tân không phải không biết việc đó. Năm ngoái họ Trương đã xây cất một tư dinh khá to đập vào mắt mọi người ở bên dưới núi Quảng Đại Sơn. Một hôm quan tri huyện Ủng Tân cho gọi Trương thừa lại đến, nghiêm giọng bảo với anh ta:
- Này Trương thừa lại, nhà anh có phép màu gì mà kiếm được nhiều tiến thế?
Trương thừa lại ít nhiều bị choáng trước câu hỏi đó, bèn cung kính chắp hai tay trả lời:
- Bẩm quan, tiện nhân đâu có biết kiếm tiến. Tiện nhân chỉ bán một khoảnh đất nhỏ đủ gieo một đấu giống do tổ tiên để lại để xây một căn nhà thôi ạ.
Nghe vậy, viên quan huyện Lý Hoàn Khuê bèn vuốt chòm râu dài, nhìn xói vào dáng người và bộ mặt của viên Trương thừa lại. Họ Trương mặt choắt, người phì nộn, to ngang, da mặt xạm đen, hai xương lưỡng quyền nhô lên, trán ngắn, quanh mồm lưa thưa mấy sợi râu đỏ hoe. Mới nhìn qua cũng đã biết đấy là bộ mặt của kẻ gian tham, chuyên ăn của đút lót. Bị quan huyện nhìn xoáy vào mặt, Trương thừa lại cụp mắt xuống, cúi đầu.
Quan huyện chép chép miệng, nuốt nước bọt đắng ngắt:
- Người ta đồn về nhà ngươi nhiều lắm rồi đó. Liệu liệu mà tu tâm sửa tính, làm việc cho liêm chính.
- Bẩm quan, tiện nhân chẳng biết có việc gì khác. Chẳng lẽ tiện nhân lại không trung thành phụng sự công vụ hay sao?
Câu nói dối của Trương thừa lại nghe đến chối cả tai
Quan huyện không nói gì, đến một chốc sau bèn bảo:
- Thôi được rồi đó. Nhà ngươi lui đi!
- Bẩm vâng.
Nói xong Trương thừa lại bước ra ngoài.
Quan huyện mấy ngày mới đến huyện đường một lần, còn thì ông vẫn ở thư phòng nhà mình.
Mọi công việc lớn nhỏ của một quan chức địa phương, hầu như ông chỉ nghe báo cáo của các viên chức thừa lại rồi đưa ra các mệnh lệnh tại nhà mình.
Trương thừa lại từ chỗ quan huyện đi xuống, bước vào phòng làm việc của mình, bỗng nghe thấy người sai gia hô lớn: "Quan lớn hồi gia!"
Trương thừa lại cúi xuống liếc mắt nhìn, trông thấy quan bước xuống các bậc tam cấp của huyện đường, theo hướng về nhà quan, bèn lẩm bẩm một mình:
- Mẹ kiếp, tội tình gì nào? Người ta cất nhà to, kiếm được tiền hay không thì việc gì đến mày mà cứ lảm nhảm. Chẳng nhẽ tiền tao kiếm được lại bảo đưa cho mày à?
Người sai nah đi ngay ngang qua bên cạnh, ngỡ là Trương thừa lại trông thấy mình nên lầu bàu điều gì đó, bèn hỏi:
- Thưa quan thừa lại có lời gì vậy?
Trương thừa lại nét mặt hầm hầm nhìn người sai nha, nổi cáu quát to:
- Thằng này, ai khiến mày, cút đi!
Người sai nha đã có tuổi, bị mắng cụt hứng, lủi thủi bước đi. Giữa lúc ấy, có một người sai nha khác chạy xộc tới, nói với viên thừa lại họ Trương:
- Thưa quan thừa, chủ nhân Chu Nhật Thường ở đảo Xương Lân đến tìm quan thừa.
Trương thừa lại đang cau có mặt mày, nghe được tin đó bỗng mừng ra mặt, bèn đáp:
- Vậy bảo ông ta vào đi.
Một chốc sau, Chu Nhật Thường đến trước mặt thừa lại họ Trương, cúi gập lưng chào:
- Xin chào Trương thừa lại.
Trương thừa lại vừa trông thấy Chu Nhật Thương, tưởng như chờ đã lâu lắm:
- Lâu quá rồi nhỉ. Đang định đến thăm Chu chủ nhân thì Chu chủ nhân đã đến.
Chu Nhật Thường liếc nhìn khắp lượt bên trong huyện đường một chốc rồi nói:
- Thôi hãy dừng công việc lại đã. Chúng ta ra ngoài một chốc đi. Ngồi trong huyện đường nói chuyện e không tiện. Ta đi kiếm chỗ nào làm một chén nói chuyện cho vui.
Hai người bước ra khỏi huyện đường đi vào một quán rượu có tên "Thủ Hải quán" nằm trong một con hẻm phía sau huyện đường.
Người nữ chủ quán mau mồm mau miệng, đon đả ra gặp Trương thừa lại và Chu Nhật Thường đưa vào phòng lớn.
- Quan thừa lại lâu rồi chẳng đến quán của thiếp. Lâu nay chắc bận lắm chứ gì. Chu chủ nhân cũng lâu lắm không thấy lại. Chắc ở nơi khác có chỗ tươi mát hơn phải không nào?
Người nữ chủ quán Thu Hải này mới khoảng ba mươi, khá nhan sắc nên rất nổi tiếng trong làng tửu quán lại ăn nói rất có duyên nên Chu Nhật Thường cứ trông thấy chủ quán là thèm đến rỏ dãi, chân tay ngó ngoáy không yên.
- Tôi mà không đến với cô chủ thì còn biết đi đâu. Lâu nay hơi bận nên không đến được.
Nữ chủ quán túm gấu váy bước lên sàn gốc, mở toang cửa, mời hai người lên. Bước vào phòng, hai người chụm đầu vào nhau, định nói chuyện kín hở gì đấy/
Nữ chủ quán liếc mắt nhìn Chu Nhật Thường rồi lại nhìn Trương thừa lại, mỉm cười nói:
- Úi chao, quan hệ giữa hai vị thật thắm thiết. Cứ gặp nahu lúc nào cũng thấy thầm thì to nhỏ đến say sưa.
Nữ chủ quán nói xong bước ra ngoài, có lẽ muốn để cho hai người nói chuyện với nhau được tự nhiên. Chị ta gọi Ba-uy, người làm thuê, đến và bảo:
- Này Ba-uy, sửa soạn ngay mâm rượu. Hôm nay có khách quý đến, nhớ làm cho thật đặc biệt nghe.
Đến lúc này, Trương thùa lại mới lái câu chuyện sang hướng khác:
- Chu chủ nhân này, tình hình nay khác rồi. Lão già tri huyện gặp cứ bảo tôi có tài kiếm tiền.
Vẻ mặt của Trương thừa lại trông đến thiểu não, căng thẳng. Chu Nhật Thường sau khi nghe trường thừa lại nói vậy, bèn cười hì hì bảo:
- Quan thừa lại mà cũng lo lắng như vậy sao. Lão ấy dù có hỏi làm sao kiếm được nhiều tiền thì cũng là để biết vậy. Cái chính là mình phải mang đến cho lão một ít. Thế thì có gì mà phải lo. Cái đáng lo là đã đâm lao thì phải theo lao.
Trương thừa lại nghe Chu Nhật Thường nói vậy, tỏ vẻ không đồng ý, bèn nói:
- Chu chủ nhân biết đấy, tôi thì làm gì có tiền. Nếu có tiền cho lão ấy, thà đi mua đất còn hơn.
- Chà quan thừa có lòng tham hơi quá đấy. Món tiền bọ ấy, lại làm một chuyến là xong thôi mà.
Trương thừa lại có vẻ như vẫn chưa yên lòng vì câu nói của quan huyện.
- Chắc là lão ta đã nghe kẻ nào ton hót điều gì.
Chu Nhật Thường dằn giọng bảo:
- Thôi đừng có lo lắng nữa!
Nhưng Trương thừa lại vẫn thấp thỏm:
- Thực ra trong lòng tôi vẫn còn một nỗi chưa yên. Khi tôi đến mà ông già họ Trịnh trong hẻm núi Nhật Tiền Hoa để thúc nợ, thấy thái độ của ông già có hơi khang khác.
Ông già Trịnh có tên là Trịnh Nhân Hưng. Ông sống bên ngoài cửa Đông, và cũng là chỗ khá quen biết với Chu Nhật Thường.
- Cái gì? Lão ấy làm sao?
- À không. Có lẽ lão già ấy đã thậm thụt bẩm báo gì đó với lão quan huyện cũng nên.
- Cái ông già chết tiệt ấy đã nói những gì khiến quan thừa phải sợ như vậy?
- Không phải thế đâu. Tại tôi thúc nợ lão ghê quá. Tôi bảo với lão nếu không trả được nợ, thì gán đứa con gái cho tôi. Lão già phát khùng lên, bảo với tôi: Không được, nếu thế thì ông hãy cắt cổ tôi đi!
Nói xong, Trương thừa lại cúi mặt nhìn xuống đất. Thấy vậy, Chu Nhật Thường bèn nói:
- Quan thừa lại làm quan trị vì xứ sở này, thế mà lão già dở hơi ấy chỉ nói có một câu như vậy đã cuống lên. Lão già chết tiệt ấy để tôi trị cho. Còn đứa con gái, quan thừa cứ chiếm đi.
Trương thừa lại nghe nói có vẻ bùi tai.
- Nhưng mà Chu chủ nhân có diệu kế gì vậy?
- Diệu kế gì à? Cho lão ta về chầu Diêm vương! Không cần phải tốn kém ma chay làm gì. Cứ vứt lão xuống biển tây, thế là xong. Cái biệt tài ấy chưa phải là ngón cao nhất của Chu Nhật Thường này đâu nhá!
Nhưng Trương thừa lại lắc lắc đầu:
- Chà, phải làm như thế nào kia à?
"Nếu Chu Nhật Thường giết người bố, đứa con gái sau này biết được sự thật sẽ không thể quên được mối thù cha và sẽ không theo ta". Nghĩ như vậy nên Trương thừa lại tỏ ra chần chừ.
Hiểu được điều đó, họ Chu bèn nói:
- Quan thừa không phải bận tâm. Tôi sẽ làm gọn lão ấy đến quỷ thần cũng không hay biết. Quan thừa cứ yên tâm chiếm lấy đứa con gái. Hãy làm tới lên.
Lúc này Ba-uy mở cửa và bưng mâm rượu vào.
Mâm rượu đặt ở giữa, hai người ngồi đối diện nhau, vừa uống được vài tuần rượu. Chu Nhật Thường bèn kề tai họ Trương thì thầm điều gì đó.
Một chốc sau, Trương thừa lại mới mỉm cười. Bộ mặt y lộ vẻ nham hiểm. Y mở miệng nói:
- Rất tốt. Quả là mưu cao bậc nhất.
Chu Nhật Thường rung đùi đắc ý:
- Việc này vốn dĩ không phải bổn nghiệp… Nhưng thôi, quan thừa đừng bận tâm.
Cả hai tên thế là đã bày xong kế ác.
Núi Hoa Sơn tuy không cao nhưng phong cảnh hữu tình nên thơ, nằm ở phía đông, gần huyện thành ủng Tân, nên người dân ở đây đều xem như là ngọn núi sau làng của mình, thường hay lên xuống vui chơi, giải trí. Bên dưới núi Hoa Sơn có một ngôi nhà ngói lớn. Người chủ của ngôi nhà này khoảng ngoài năm mươi tên là Trịnh Nhân Hưng. Ông Trịnh là người giàu có trong huyện này. Đây là ngôi nhà của một gia đình có học thức, do tổ tiên bao đời truyền lại cho. Nhưng chẳng biết nó đã hết thời vận rồi hay sao mà người trong gia định hay đau ốm luôn, cửa nhà ngày một sa sút. Ông cụ tổ ba đời của họ Trịnh vốn là người trên đảo Giang Hoa, làm quan to trong triều, sau về sống ở quê nhà, vui với cuộc đời còn lại trong cảnh trăng hoa tuyết nguyệt. Không biết có phải vì quen với nếp sống của tổ tiên hay không mà ông già Trịnh sáng nào cũng leo lên núi Hoa Sơn rồi lại ra bãi biển thưởng thức phong cảnh thiên nhiên.
Lòng người trên cõi đời này thật khó lường; thấy nhà người ta phẳng lặng thì muốn ném sóng gió vào, thấy người ta khá giả lên thì lòng dạ bứt rứt. Có lẽ tại số kiếp hay chăng mà mấy năm lại đây thuyền của nhà ông Trịnh đi đánh cá cứ ra đến biển là bị hư hại. Nhưng đâu chỉ có thế. Họa vô đơn chí! Nợ của chỗ bạn bè thân đã trở thành mầm gây họa. Mọi cơ ngơi gia sản của ông đã bán sạch chỉ còn lại gian nhà để ở. Một mảnh đất còn lại cũng rơi vào tay Trương thừa lại mà vẫn chưa trả hết nợ. Với lòng tham vô đáy, ngày nào Trương thừa lại cũng đến thúc nợ. Cả nhà ông Trịnh vất vả lắm mới kéo dài được cuộc sống thường ngày. Mấy năm trước đây, bà vợ ông đã qua đời. Ông già chỉ còn một mụn con gái có tên là Anh Cơ. Anh Cơ mười chín tuổi sống trong cảnh cô nam, độc nữ nên gia đình rất đỗi quạnh quẽ. Ngày ngày ông dạy cho con gái học chữ nghĩa, học các lễ nghi, lấy đó làm nguồn vui lúc tuổi già. Toàn bộ gia sản của ông đã bị Trương thừa lại cướp sạch mà hắn vẫn còn chưa thỏa lòng. Hắn đòi phải gán con gái làm vợ lẽ cho hắn. Ông già nghe hắn nói vậy phẫn uất như muốn phát điên. Một cái thằng thừa lại nhãi ranh, mấy năm trước đây còn chưa dám ngồi trước mặt ta, thế mà bây giờ hắn dám ngạo mạn bảo ta nộp con gái yêu quý của ta cho hắn. Cơn phẫn uất của ông già không nén chịu được nữa đã nổ tung nữa.
Song mỗi khi nhìn thấy cô con gái Anh Cơ, ông già họ Trịnh lại quên hết mọi nỗi ưu phiền. Ngôi nhà ngói to như tấm lưng con cá voi mà các gian bên trong đều trống trơn. Chỉ có gian ngoài hiên và gian lớn là hai bố con ở, cảnh càng vắng vẻ thê lương. Tiết trời tháng sáu giữa hè, suốt ngày ông già Trịnh ngồi đọc sách ở gian nhà ngoài, đến tối bụng đói, mới vào nhà trong.
Nghe tiếng ho của bố, cô con gái Anh Cơ đang làm cơm tối trong bếp, ngoái đầu ra ngoài cửa.
- Bố ơi, đã quá bữa rồi.
- Bố đã đói đâu con.
Ông bố vừa nói, vừa lấy tay phải đấm đấm sau lưng, bước vào nhà trong.
- Bố ơi, bố đợi con một tý. Con sẽ bưng mâm lên để bố dùng cơm tối.
- Ừ, ừ.
Ông già Trịnh đăm chiêu nhìn chiếc áo đặt trong phòng do con gái khâu lấy.
Đây là chiếc áo của con. Cũng là áo lụa mà sao trông thương tâm quá.
- Thương tâm quá con ơi. Nếu mẹ con còn sống chắc không đến nỗi này. Ta không sắm nổi được bộ áo tươm tất cho đứa con gái một của ta… Thật là khốn khổ cho cái thân ta!
Trong lúc ông già than thở thì Anh Cơ đã bưng cơm tối lên đặt trước mặt, và mời bố:
- Mời bố dùng bữa tối ạ.
Bữa cơm tối có một con cá song nướng và ít rau rừng.
- Rau rừng ở đâu mà ngon thế con?
- Hôm nay, con lên núi Hoa Sơn hái về để bố thưởng thức đấy ạ.
- Thôi con đừng lên núi nữa. Tình hình gần đây đã khác trước rồi. Có nhiều kẻ lạ mặt thường tụ tập về xứ huyện này. Con lên núi như vậy, sẽ làm gai mắt bọn chúng đấy.
Ông lão họ Trịnh nghĩ đến thái độ bất lương của viên thừa lại họ Trương, trong lòng cảm thấy lo lắng.
- Bố ơi bố đừng lo lắng làm gì.
Anh Cơ mở nắp bát cơm.
- Bố ơi, mời bố xơi cơm. Đã quá bữa rồi.
- Ừ, bố con ta cùng ăn đi con.
- Để con thắp cây đèn dầu lên bố nhé.
Trong nháy mắt, giữa lúc Anh Cơ châm đóm thắp đèn vừa định đặt xuống mâm cơm, bỗng nghe bên ngoài sân vang lên một tiếng "xoảng"!
Ông già Trịnh đang và miếng cơm, cảm thấy có điều không bình thường, bèn to tiếng hỏi:
- Ai đấy?
Anh Cơ sợ hãi đến ngồi sau lưng bố.
Vừa lúc ấy, ở ngoài sân nghe có tiếng người lào xào. Một bọn người lấy khăn tay bịt kín mặt, chỉ chừa hai con mắt, ào vào nhà.
- Cái gì thế này? Các người là ai?
Bọn bất lương đến túm gáy ông già họ Trịnh đang định đứng dậy bước ra. Chúng hô lớn" Đứng yên không được động đậy!"
Tên cầm đầu bọn bất lương che kín mặt uy hiếp ông già Trịnh xong, bèn quay lại nhìn lâu la, ra lệnh:
- Bọn bay đâu, vào trói lão già và đứa con gái kia lôi đi cho ta!
- Dạ!
Ông già họ Trịnh chẳng hiểu đầu cuối làm sao, vội kêu lên:
- Này các người! Phận tôi sao cũng đành, nhưng không được động đến con gái của tôi. Tôi chẳng có tội tình gì. Các người hãy tha cho chúng tôi một lần này.
- Đứng im. Bố con nhà mày đã mắc tội lớn không sống được đâu!
Bọn lâu la không chút nể nang, dùng dây chão trối gô ông già Trịnh và cô con gái lại rồi lôi hai người ra nhét vào trong một chiếc kiệu được phủ kín.
- Bố ơi!
Bọn ác ôn lấy khăn tay nhét vào mồm Anh Cơ đang kêu khóc thảm thiết và mồm ông già Trịnh vẫn chưa hết nỗi bàng hoàng, khiến hai bố con đến thở còn không nổi chứ đừng nói chi đến chuyện kêu to.
Một chốc sau, hai người bị đưa đến bến thuyền. Chúng chuyển hai người lên thuyền, không biết chở đi đâu.
Nằm trong chiếc kiệu phủ kín mít chở trên thuyền, miệng, tai bị nét giẻ, mắt bị bịt lại, cả ông lão Trịnh và cô con gái đều mê man bất tỉnh. Tên đàn ông đeo mặt nạ, ra lệnh với giọng rắn đanh:
- Chèo thuyền ra khơi nhanh lên!
- Dạ.
Cùng với tiếng mái chèo khua bì bõm, chiếc thuyền vượt sóng lớn tiến đầu ra biển khơi.
CHƯƠNG 7: CUỘC CHẠM TRÁN BẤT NGỜ
Ánh trăng rằm tháng sáu tối hôm nay tỏa vầng sáng khác thường lên mặt biển tây.
Thuyền bọn cướp cách đảo Xương Lân không còn xa nữa. Bọn chúng đứng trên thuyền, trọng tâm nhìn của chúng đã phát hiện ra có một chiếc thuyền cũng tiến dần về phía đảo này. Đó là một chiếc thuyền cực lớn có giương buồm. Một tên trong bọn chúng kêu to lên:
- A… Đằng kia có cái thuyền to đang tới!
Nghe thấy thế, ánh mắt của bọn chúng đều đổ dồn về phía đó. Trong đêm trăng, chiếc thuyền tuy nhìn không được rõ, nhưng hình dáng của nó là một chiếc thuyền lớn, có cột cờ cao to, có vẻ thuyền buôn của nước ngoài hoặc thuyền của các quan chức đi tuần tra. Bọn cướp nghĩ vậy, thấy lo lắng. Tên cầm đầu ra lệnh:
- Lấy tấm chiếu che trước kiệu lại!
Bọn lâu la mang cái chiếu trải trong khoang thuyền ra phủ lên cái kiệu.
Thuyền đằng kia đi tới, phát hiện ra thuyền bên này, bèn quay mũi thuyền lao tới như một mũi tên.
Thuyền lớn càng đến gần, các đợt sóng càng mạnh, xô vào chiếc thuyền bên này khá dữ.
Có hai ba người đứng trên mũi của thuyền lớn, nhìn về phía bên này, đưa tay lên vẫy vẫy và gọi to:
- Này, xin cho hỏi, đảo này là đảo gì vậy?
- Đây là đảo Xương Lân, nằm ở vùng trước mặt huyện ủng Tân nước Cao Ly.
Nghe từ phía thuyền của bọn cướp trả lời như vậy, một người trên thuyền lớn bước vào khoang, chỉ còn lại hai người đứng nhìn về phía bên này.
Lúc này, từ phía thuyền của bọn cướp có tiếng hỏi lại:
- Thuyền của các ông từ đâu đến đấy?
- Thuyền của chúng tôi từ nước Tống tới đây.
Nghe nói thuyền từ nước Tống đến, tên cầm đầu bọn gian tặc vội nở mày nở mặt. Hắn cởi bỏ mặt nạ. Thì ra tên này không phải là ai khác mà chính là Chu Nhật Thường. Hắn lớn tiếng hỏi:
- Này, thuyền đằng ấy đi về đâu đấy?
- Đi về ủng Tân.
Giữa lúc câu chuyện đang trao đổi qua lại như vậy thì hai thuyền đều bỏ neo xuống đảo Xương Lân.
Hai thuyền đồng loạt thả neo, giống như đã hẹn nhau trước, nhưng đều không có ý định lên bờ. Bên này cũng lo cảnh giác phía bên này và định sẽ chờ trời sáng để vào trấn ủng Tân. Một chốc sau, ba người trên thuyền lớn bước xuống một chiếc xuồng nhỏ và chèo vào bờ. Họ ghé nhìn vào thuyền bên này. Tên cầm đầu bọn cướp nhìn thấy lá cờ đúng là cờ nước Tống. Hắn cảm thấy có phần khác ý, bèn hỏi:
- Các ông sống ở nơi nào trên nước Tống, sao không đến đảo Giang Hoa mà lại đến đây?
- Vâng, chúng tôi ra đi từ Nam Kinh nước Tống. Nhưng thật ra chúng tôi là người của Đại Việt nam quốc, muốn đến xứ này để sinh sống.
Tên cầm đầu bọn ác ôn nghe biết giọng nối này là giọng nói của nước Cao Ly, âm điệu mạnh mẽ, nói năng trôi chảy, không phải giọng nói của người nước Tống hay nước Kim. Nếu họ không phải là người của nước mình là nước Tống, thì dù là nước Đại Việt, nước Cao Ly hay nước Kim, tất thảy đều phải giết sạch, cướp lấy thuyền và của cải. Trong bụng nghĩ vậy, nên hắn vờ thân mật đáp:
- Thế vậy à? Tôi là người sống trên đảo này. Nếu các ông muốn vào ủng Tân, thì tối hôm nay các ông cũng nên nghỉ tạm một đêm ở đây; sáng mai các ông liên hệ với chính quyền rồi xin vào.
Nói xong hắn cúi rạp người chào khách. Nhưng thuyền bên kia không biết bên này là thuyền cướp biển, nên không ngần ngại trả lời với vẻ mừng rỡ:
- Mới lần đầu gặp gỡ, có điều thất lễ. Tôi tên là Tiêu Vĩnh Vạn.
- Không dám. Vậy những người đi trên thuyền quý ông chắc là những người nước khác. Tôi tên là Chu Nhật Thường.
Tiêu Vĩnh Vạn được đoàn lữ hành của Hoàng thúc cứu sống trong lúc nguy cấp ở Thanh Châu, nay dẫn đầu đưa đoàn đến đây. Chu Nhật Thường lộ vẻ gian ác. Trước hết hắn tìm hiểu số thuyền viên đi trên thuyền lớn, bởi nếu thuyền viễn đông, việc thực hiện mưu gian của chúng sẽ gặp khó khăn. Hắn buột miệng hỏi:
- Các vị đi trên thuyền của quý ông có bao nhiêu?
Tiêu Vĩnh Vạn cảm thấy hơi khác ý trước câu hỏi đột ngột về số thuyền viên. Tên Chu Nhật Thường này nói tiếng Cao Ly nhưng cái lưỡi của hắn không uốn cong lên được nên không giống tiếng nói của người vùng này. Dù không biết được y làm nghề gì trên đảo này, song nhìn qua nét mặt, cặp mắt của y cũng như các hiện tượng khác, dễ chừng đây là một lũ cướp biển cũng nên. Nghĩ vậy nên Tiêu Vĩnh Vạn chỉ trả lời:
- Vâng khoảng độ năm sáu người.
- Một chiếc thuyền to như thế này mà chỉ có sáu thuyền viên!" Chu Nhật Thường nghĩ vậy, bèn mỉm cười nói:
- Nếu vậy, các vị hẵng vào nghỉ tạm trong nhà tôi cũng được.
Tiêu Vĩnh Vạn về ngay khoang thuyền của mình.
- Thưa Hoàng thúc, những người này trông có vẻ lạ lắm. Do vậy chỉ cần năm người của ta đi theo họ. Số còn lại sẽ ở lại trong thuyền để theo dõi động tĩnh.
Hoàng thúc cũng cho rằng những suy nghĩ của Tiêu Vĩnh Vạn là đúng.
- Phải rồi, nếu họ biết thuyền của chúng ta có hai mươi người, họ sẽ tìm cách đối phó khác.
- Dù sao thì giọng nói của Chu Nhật Thường vẫn là giọng của người nước Tống. Ngoài ra còn có một điều khả nghi nữa là hắn lại hỏi nhân viên trên thuyền có bao nhiêu. Biết vậy nên tôi chỉ đáp lại độ khoảng năm sáu người thì hắn lộ rõ vẻ hí hửng ngay. Hắn không mời chúng ta nghỉ tại đây mà lại bảo về nhà hắn ở. Rõ ràng bọn chúng giống như một bọn cướp.
Nói đoạn Tiêu Vĩnh Vạn lại nhìn Lý công tử:
- Vậy xin Hoàng thúc và Lý công tử ở lại đây, để một mình tôi đi, xong tôi lại về.
Lý công tử tỏ vẻ lo ngại, nói:
- Không. Việc này tôi cũng phải cùng đi mới được.
Tiêu Vĩnh Vạn mỉm cười, quay về phía Hoàng thúc nói thêm:
- Không sao đâu. Lý công tử hãy ở lại trên thuyền cùng với Hoàng thúc nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Tôi đi xem sự thể ra sao rồi sẽ về thôi mà.
Hoàng thúc chau mày, tỏ vẻ lo lắng:
- Một nơi nguy hiểm như vậy, làm sao tôi có thể để Tiêu đại nhân đi một mình được.
- Không hề gì đâu ạ. Tôi là người đã từng sống suốt ngày đêm trong hang hổ ấy mà.
Nhìn thấy vẻ mặt đầy tự tin của Tiêu Vĩnh Vạn, Hoàng thúc và Lý công tử có phần vững dạ. Hoàng thúc lại nói:
- Nếu vậy cả ba người chúng ta cùng đi xem tình hình ra sao rồi còn uống với nhau chén rượu chứ.
Lý công tử cũng tỏ ra tự tin, bèn gọi đội trưởng Hồ đến, chỉ thị chỉ để một người ngồi trên mũi thuyền theo dõi động tĩnh xung quanh, sau đó dắt theo hai tráng dinh nữa, vị chi năm người, bước xuống thuyền con để vào bờ.
Về phía Chu Nhật Thường, hắn nghĩ mọi việc đều theo mưu kế sắp sẵn của hắn nên càng nở ruột nở gan. Hắn quay lại nhìn bọn lâu la trên thuyền ra lệnh:
- Chúng mày đâu, mau khiêng kiệu ra đây.
Một tên lâu la đứn cạnh rỉ tai Chu Nhật Thường:
- Thưa Chu đầu lĩnh, nếu bọn kia đoán biết được, e sẽ xảy ra việc lớn.
- Mày bảo việc lớn gì? Những thứ kia chỉ trong nội đêm nay, tao sẽ cho xuống biển tất…
Tên lâu la rụt vai lại.
- Ái chà, thế là làm ăn có lãi rồi.
Lúc này, Hoàng thúc và cả đoàn sau khi lên bờ, đi bộ đến trước mặt Chu Nhật Thường. Tiêu Vĩnh Vạn nhỏ nhẹ bắt chuyện:
- Thưa chủ nhân, xin được nhờ chủ nhân một tối hôm nay.
- À, có đáng gì đâu.
Chu Nhật Thường liếc mắt nhìn đoàn người do chính hắn đi đầu. Tiếp theo sau là đoàn người của Hoàng thúc.
Cách quãng một đoạn về phía sau có bốn tên lâu la khiêng một cái kiệu, ngoài ra còn có hai tên lâu la nữa đi theo sau. Lúc bấy giờ vào khoảng trung tuần tháng sáu, ánh trăng sang vằng vặc chiếu xuống mặt biển khơi quanh đảo Xương Lân.
Con đường trên đảo lởm chởm những đá nhỏ to, nếu không phải đêm trăng, người đi bộ sẽ cực than không biết đến mức nào. Đi được một chốc, Tiêu Vĩnh Vạn vấp phải một viên đá đâm nhọn, dây buộc giày tung ra.
- Ái dà, chiếc giày chết tiệt.
Nói đoạn, Tiêu Vĩnh Vạn cúi xuống nhặt vứt viên đá và buộc lại chiếc giày. Mấy tên khiêng kiệu đi sau thấy Tiêu Vĩnh Vạn cúi xuống lom khom, bỗng giật mình kêu lên:
- Ai đấy?
- Xin lỗi, chiếc giầy bị bung ra, tôi đang buộc lại.
Nhung chúng không định vượt lên trên mà cứ đứng tần ngần ra đóm trông vẻ khác thường.
Tiêu Vĩnh Vạn cố ý dềnh dàng để xem sao. Lúc ấy trong kiệu có tiếng rên yếu ớt của một người con gái vọng ra:
- Trời ơi, bố ơi…!
" Không biết chừng bọn cướp bắt cóc đàn bà con gái nhà ai đây cũng nên". Tiêu Vĩnh Vạn nghĩ vậy, bèn quay lại nhìn chiếc kiệu, thấy bốn tên khiêng kiệu ra dáng mệt nhọc, nên đoán trong kiệu ít nhất có trên hai người. Tiêu Vĩnh Vạn giả vờ không biết, nói ướm thử:
- Các chú có vất vả không? Đưa đây tôi đỡ cho một chốc.
Một tên trong bọn họ hoảng quá:
- À, không, không sao.
Lúc ấy, Chu Nhật Thường đang đi phía trước quay lại nhìn, có vẻ hoảng hốt:
- Nào, xin mời quý khách đi nhanh cho.
- Xin lỗi.
Tuy nói vậy, nhưng Tiêu Vĩnh Vạn vẫn cố ý lần khần, kéo rê bước chân đi chậm lại. Chu Nhật Thường dụ khéo:
- Xin quý khách đi nhanh cho, các vị đã quá bữa. Nào chúng ta đi nhanh lên còn…còn về ăn cơm chứ.
Lý công tử đứng bên cạnh Chu Nhật Thường mắt nhìn kỹ bộ dạng y, miệng nói:
- À không. Chúng tôi đã ăn cơm trên thuyền rồi.
- Nếu vậy, chúng ta cũng phải uống với nhau chén rượu chứ.
- À, gì chứ rượu thì chúng tôi có thể uống được.
Đến lúc này, Tiêu Vĩnh Vạn mới tới nơi.
- Xin lỗi các vị, chân tôi đau quá không đi nhanh được.
Chu Nhật Thường có vẻ hơi bực nói:
- Vị này đi nhanh lên chứ, sao cứ lừng khừng thế này.
Tiêu Vĩnh Vạn không trả lời thẳng mà kêu lên:
- Ái chà, cái chân tôi…
Nói đoạn bèn cúi lưng xuống, lấy tay đập đập vào chân.
Hoàng thúc và Lý công tử biết Tiêu Vĩnh Vạn đã nhận ra được điều gì đó nên cố ý giả vờ chân đau. Hai người từ hai phía đưa hai tay ra nâng đỡ giúp Tiêu Vĩnh Vạn.
Chu Nhật Thường nghĩ thầm trong bụng: "Tốt rồi, thằng cha này ốm thế thì càng được việc cho ta." Trong đầu hắn đang loay hoay tìm cách khử cả năm người này. Hắn bước đi, mắt nhìn xuống đất. Hắn đang nghĩ phen này mà thành công thì hắn sẽ vơ gọn tất cả tài sản đưa lên tàu lớn chở về nước mẹ của hắn và hắn sẽ sung sướng một đời. Nghĩ vậy, trong long hắn càng thêm phởn chí. Một lúc sau, mọi người đã đến nhà Chu Nhật Thường.
CHƯƠNG 8: QUÉT SẠCH BỌN CƯỚP BIỂN
Nhà của tên Chu dưới ánh trăng trông sơ sài, hoang dã. Đó là một căn nhà tranh lụp xụp, xung quanh không có cây cối. Họ Chu ân cần mời mọc. Cả đoàn người bước lên ngồi vòng tròn trên nền nhà thuộc gian phía trong. Chu Nhật Thường vào trước, ngồi xuống và mời mọi người:
- Nào xin mời các vị an tọa. Nhà cửa lúi xùi quá, mời khách vào thế này, cảm thấy rất áy náy. Hà, hà, hà…
Tiêu Vĩnh Vạn nhìn thấu ruột gan của Chu Nhật Thường đang lớn tiếng cười hô hố, bèn nói:
- Đâu phải thế. Chúng tôi lâu lắm mới bước lên bờ, được vào nhà ngồi như thế này đã cảm thấy mình trở lại với cuộc sống thanh bình.
Một chốc sau, người hầu mang một mâm lớn vào đặt ở giữa nhà.
Chu Nhật Thường lớn tiếng ra lệnh như để tỏ rõ uy thế của một chủ nhân:
- Nào chúng mày đâu, hôm nay nhà ta lần đầu tiên có nhiều khách quý đến. Chúng mày phải sửa soạn mâm rượu cho chu đáo nghe!
Tiêu Vĩnh Vạn bèn đứng dậy, làm trò khôi hài.
- Mới gặp nhau lần đầu mà đã cảm phiền chủ nhân, thật là không phải. Xin lỗi, nhà đi cầu ở chỗ nào?
Chu Nhật Thường thấy bộ dạng của Tiêu Vĩnh Vạn có vẻ chướng mắt, bèn ra hiệu bảo:
- Nhà cầu ở đằng trước kia kìa.
Tiêu Vĩnh Vạn có ý dùng tay phải nắm lấy lưng quần, đứng dậy:
- Xin thất lễ một chốc.
Nói đoạn, bước ra ngoài, vào cầu tiêu ngồi đưa mắt quan sát xem bọn khiêng kiệu đã khiêng về cái gì.
Nhưng cả bọn chúng vẫn còn ngồi nguyên tại chỗ. Ngồi trong nhà xí một chốc, mùi thối cứ xộc vào mũi không sao chịu được. Tiêu Vĩnh Vạn phải lấy tay bịt mồm bịt mũi, chịu cho muỗi đốt khắp người.
Một lát sau, bọn khiêng kiệu đặt chiếc kiệu ở chỗ phía sau chân, rồi vặn lưng cho đỡ mỏi. Một tên thốt lên:
- Ái dà, suýt chết!
Một tên khác nhìn đồng bọn của chúng:
- Mẹ kiếp, chẳng khử cho nhanh đi còn chờ cái gì. Có ai trông thấy mà sợ.
Bọn khiêng kiệu mở cửa kiệu, lôi từ trong ra hai mạng người và mang vào trong phòng phía đông cầu tiêu.
Từ trong cầu tiêu nhìn qua khe cửa, Tiêu Vĩnh Vạn thấy rõ cảnh tượng ấy, bèn từ từ đứng dậy đi ra và quay trở vào nhà.
- Xin lỗi các vị. Tôi thất lễ quá.
Chu Nhật Thường mở to mắt liếc nhìn Tiêu Vĩnh Vạn, nói:
- Vị khách này trông có vẻ đau bụng thì phải.
- Bụng đau, chân đau, tôi thật mang bệnh đầy người, khổ quá!
Chu Nhật Thường cười hì hì, mời rượu mọi người:
- Nào các vị khách đã quá bữa. Xin mời quý vị một chén.
Nói đoạn, như để mọi người yên tâm, y cầm chén rượu đặt trên mâm lên uống cạn một hơi.
Hoàng thúc và Lý công tử nhìn Tiêu Vĩnh Vạn. Tiêu Vĩnh Vạn nháy mắt ra hiệu cứ yên tâm uống đi không sao.
- Xin phép chủ nhân.
Tiêu Vĩnh Vạn nói đoạn, đưa chén lên uống cạn một hơi, xong đưa chén đó mời chủ nhân:
- Xin mời chủ nhân một chén. Rượu ngon quá.
Chu Nhật Thường nhận chén rượu nói:
- Rượu này là rượu cao lương đấy. Uống vào không sợ nhức đầu đâu.
Hoàng thúc nghe nói rượu cao lương, cảm thấy lạ tai, bèn cầm chén rượu đặt trên mâm lên nhìn và nói:
- Tôi đến đây được uống rượu cao lương và được sống.
Chu Nhật Thường không trả lời câu nói đó mà liếc mắt nhìn Tiêu Vĩnh Vạn:
- Giọng nói của ông hoàn toàn khác với giọng nói của nước Đại Việt. Chẳng hiểu vì sao vậy?
Chu vừa nói vừa hấp háy cặp mắt.
Tiêu Vĩnh Vạn trả lời:
- Vâng, tôi sinh ra ở nước Đại Việt, nhưng đã sống khá lâu trên đất nước Cao Ly này.
- Thế à.
- Nghe giọng nói của chủ nhân, chúng tôi đoán có lẽ là người nước Tống. Có phải không ạ?
- À, à…
Chủ nhân ấp úng không trả lời, bèn rón rén đứng dậy nói:
- Tôi … ra ngoài một tý sẽ trở lại. Xin mời quý khách cứ tự nhiên.
Tiêu Vĩnh Vạn đoán rằng tên ác ôn này bắt đầu hành động, bèn giả vờ say, mắt hấp háy, khoát tay nói:
- À, xin mời chủ nhân cứ yên tâm đi, chốc sau trở lại nhé.
Sau khi tên Chu đầu lĩnh đi ra ngoài rồi, Tiêu Vĩnh Vạn bèn rỉ tai Hoàng thúc và Lý công ty điều gì đó.
Lúc này, người hầu mang thêm rượu và thức ăn vào sắp đầy lên mâm.
Người hầu lấy rượu vốn đặt sẵn trên bàn đưa xuống gầm bàn dọn đi mấy đĩa thức nhắm cũ sau đó mới đem rượu và thức nhấm mới đặt lên bàn rồi định bước ra.
Tiêu Vĩnh Vạn nhắm mắt lim dim, đưa một chén ra nói:
- Này cậu kia ơi, rót cho tôi một chén đi.
Nhìn diện mạo của người này có thể thấy rõ hắn là một tên đao phủ chứ không phải một người hầu rượu. Thân hình hắn vạm vỡ, to béo, hai mắt xếch ngược, trông người gân guốc dữ tợn.
- Dạ vâng, tiện nhân xin rót rượu mời quý khách. Xin quý khách uống thoải mái.
Nói đoạn, hắn rót rượu vào chén của Tiêu Vĩnh Vạn, rồi lần lượt rót đầy các chén đặt trước mặt mọi người. Xong hắn đảo mắt nhìn một lượt khắp bàn rượu và nói:
- Chà… Xin mời quý vị uống rượu. Vị chủ nhà chúng tôi sắp vào rồi đấy ạ.
Nói xong hắn cúi đầu chào và đi ra ngoài.
Từ gian nhà này đi về phía đông khoảng một trăm bước, có một mỏm đá nhô ra. Bên dưới mỏm đá, bọn người ở đây đã đào một cái hầm lớn, bên trong xây một nhà hầm, rộng khoảng một trăm pyrong 1. Bốn tường xung quanh nhà hầm thắp đèn sáng trưng.
Tiết trời tháng sáu nóng nực. Chu Nhật Thường mình trần chỉ mặc độc cái quần đùi. Y tập hợp khoảng hơn ba mươi lâu la đến để ra oai. Bọn chúng rải chiếu trong nhà hầm, mạnh đứa nào đứa nấy ngồi duỗi chân la liệt. Tên Chu cho tay chân đổ thuốc độc vào trong rượu và bưng đến mời đoàn năm người của Hoàng thúc uống xong quay về đây ngồi chờ để bắt giết họ. Chờ mãi không thấy Son Chin, tên mang rượu và thức nhắm đến cho khách quay trở về. Chu Nhật Thường có vẻ sốt ruột.
- Thằng Son Chin sao chưa về? Cứ mang rượu đến bày lên đó rồi về nhanh, còn ba hoa cái trò gì ở đấy nữa?
Một tên lâu la ngồi trước mặt vụt đứng dậy.
- Thưa đầu lĩnh, để tiểu đệ xin đi ra xem sao.
- Không được. Chúng mày cứ đi lại vô tích sự, đánh động chúng nó biết hết. À nhưng mà chúng nó là một lũ chuột một mắt, ta có thể làm gọn.
Đúng vào lúc đó. Son Chin mang chiếc mâm không xuống, mở cửa nhà hầm bước vào.
Chu Nhật Thường vừa nhìn thấy Son Chin bước vào đã quát to:
- Sao lâu thế? Mày lại ba hoa cái gì ở đó chứ gì.
- Thưa không ạ. Bọn họ đã say mèm cả rồi, trông thấy tiểu đệ lại còn đòi rót cho mỗi người một chén to rượu nữa, nên mới về muộn.
- Thế được đấy! mấy thằng điên ấy, ta sẽ sớm ném chúng xuống biển làm mồi cho cá.
Tiếng khóac lác một mình của Chu Nhật Thường vang lên đập vào bốn bức vách của căn hầm. Không ai nói câu gì. Bọn cướp của giết người nào cũng thế, chúng chỉ tỏ ra nghiêm túc với công việc cướp đi mạng sống của con người ta. Không khí trở nên trầm lặng. Tên Chu lại ra lệnh:
- Thằng Son Chin đâu, mày ra xem động tĩnh của chúng nó thế nào rồi về đây báo cho ta!
- Vâng ạ.
Son Chin lại vào phòng khách. Hắn bước đi rón rén, lặng lẽ đến cửa sổ phía sau nhìn vào trong nhà quan sát.
Trong phòng, những ngọn đèn dầu cáy loe lét. Trên bàn rượu mấy đĩa thức nhắm mà hắn mang đến đều hết nhẵn, các chén rượu nằm chỏng chơ. Như vậy rõ ràng bọn người này đã ăn uống sach. Không những thế, cả đám người say rượu nằm lăn quay, ngổn ngang chỗ này mấy mống, chỗ kia mấy mống. Thừa lúc khách nằm vật ra yên lặng, một con mèo nhảy lên bậu cửa đứng kêu "meo, meo". Nó nhìn xem động tĩnh trong phòng như định ăn trộm các thức nhắm còn thừa, nhưng bất ngờ nó bắt gặp ánh mắt của Son Chin từ khe cửa liếc nhìn vào, thế là nó biến mất ra sân.
Son Chin nhìn thấy cảnh tượng giống như những xác chết nằm thẳng đờ, hắn cảm thấy lo lắng như có điều gì chẳng lành đang ập đến. Mặt hắn bỗng tái nhợt. Hắn ù té chạy.
Son Chin nhảy bổ vào căn nhà hầm.
- Thưa đầu lĩnh! Xong hết cả rồi a.
Chu Nhật Thường ngồi mé dưới gần bếp trong căn nhà hầm trợn tròn mắt:
- Thằng này, mày bảo xong hết cái gì?
- Dạ thưa, rượu và thức nhắm tiểu đệ bưng lên lúc nãy, họ đã ăn uống hết ráo, rồi nằm lăn quay ra hết.
Nghe nói vậy,tên Chu tỏ vẻ yên tâm, bèn đứng dậy.
Hắn đã lập kế gian định quẳng những người nằm quay lơ kia xuống biển. Trước hết hãy cho lấy dây thừng trói chặt họ lại rồi ném xuống nước thế là xong. Mấy thuyền viên còn lại ngoài biển, sẽ cho bọn lâu la ra diệt nốt. Như vậy, hôm nay mọi việc sẽ vạn sự đại thành. Hắn nghĩ vậy và cảm thấy hí hửng trong lòng.
- Bây giờ chúng mày hãy đến lấy dây thừng đi trói những thằng đã ngã lăn ra trong phòng, xong đem ném xuống biển sâu cho ta, rồi về đây báo cho ta biết.
Bọn lâu la trong nhà hầm không biết nghĩ thế nào, đã định mang mã tấu và giáo mác đi theo.
Nhìn thấy thế, Chu Nhật Thường tỏ vẻ không hài lòng.
- Này, đi trói những thằng ốm, thằng chết mà chúng mày vác giáo mác đi làm gì.
Bọn lâu la nghe vậy, cười nhăn nhở. Chúng đặt giáo mác, mã tấu cuống, đi tay không ra ngoài. Tên Chu có vẻ nghĩ ngợi điều gì, cũng đi ra ngoài, vượt lên trước, bước vào phòng khách. Hắn nhìn thấy cảnh tượng đúng như lời Son Chin nói, tất cả đều nằm. Hơn ba mươi tên lâu la đi theo sau bước vào. Vừa lúc định lấy dây thừng ra trói, bỗng từ phía ngoài vang lên những tiếng kêu thất thanh: "Ối! ối!". "Ối! ối!.", giống tiếng nhiều người bị đánh nằm gục kêu la.
Bọn lâu la trong phòng thấy xảy ra chuyện bất ngờ, vội hốt hoảng quay lại nhìn phía sau.
Đúng vào lúc đó, trong phòng cũng vang lên tiếng kêu rống "Úi giời ơi". Trong khoảng khắc đó, cả trong nhà và ngoài sân đều đã trở nên náo loạn đấm đá túi bụi. Hơn ba mươi tên lâu la bị đánh ngã gục. Những tên còn lại không còn đường thoát thân, bí quá đành cắm đầu xuống sàn nhà để tránh đòn sấm sét, giống như những con chim chính bị chim ưng săn đuổi.
Chu Nhật Thường ở trong phòng bị một nhát dao găm của Lý công tử đâm vào vai, máu chảy lênh láng, định nhảy trốn ra cửa sau, bỗnh nhanh như cắt. Tiêu Vĩnh Vạn chạy đến, bằng miếng võ cao cường đá thốc vào bụng hắn, kiến hắn bay lên không trung rồi ngã chúi cổ xuống con suối ở phía sân sau.
Lý công tử cùng với Tiêu Vĩnh Vạn và các tráng đinh, tất cả đều chạy tới, lấy dây thừng do bọn cướp mang đến, trói gô chúng lại. Thật đúng như câu ngạn ngữ "dây ông trói tay ông".
Hơn hai mươi tên lâu la bị bắt trói được dẫn đến.
Các tráng đinh mang những cây đèn dầu và nến ở trong phòng ra thắp sáng cả khoảng sân rộng.
Cùng với ánh trăng chênh chếch về tây, các ngôi sao cũng nhấp nháy tỏa sáng xuống đảo Xương Lân. Gió từ biển thổi vào, làm dịu đi đêm hè oi ả.
Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử vào khám xét căn nhà hầm của bọn cướp.
Hai người sực nhớ tiếng rên của người con gái mà họ đã nghe thấy ở bến thuyền.
Họ bước vào một phòng xép phía sau, mở toang vửa ra. Lý công tử rọi chiếu đèn nến vào, thấy có hai người bị trói chặt bằng dây thừng đang thoi thóp.
"Hình như đang còn sống".
Tiêu Vĩnh Vạn đến gần thấy có một ông già trạc khoảng trên năm mươi và một cô gái trẻ khoảng hai mươi tuổi. Tiêu Vĩnh Vạn đến mở trói cho họ. Bọn cướp đã trói thít họ lại không chút thương xót.
Nhưng họ vẫn chỉ kêu rên quằn quại.
Tiêu Vĩnh Vạn đưa hai tay ôm lấy ông già dìu đứng dậy, nói:
- Chúng ta hãy bế họ vào phòng lớn kia. Có lẽ bọn cướp đã làm cho họ quá hoảng sợ, hồn vía bay hết lên mây rồi. Nhưng không bị thương, chắc không sao đâu.
Lý công tử cũng đặt cây nến cầm trên tay xuống, bế cô gái đưa vào phòng.
Hoàng thúc nhìn thấy họ tỏ vẻ xót thương.
- Tội nghiệp quá, nhưng hình như chưa việc gì.
Lý công tử nhìn họ vẫn nằm nguyên trên sàn gỗ rên rỉ, bèn nói:
- Vâng, không có việc gì đâu ạ. Có lẽ một chốc nữa họ sẽ tỉnh lại thôi.
- Ta xuống thuyền lấy thuốc lên cho họ uống đi.
Lúc này, Lý công tử mới nhớ ra, bèn gọi một tráng đinh đến ra lệnh:
- Nhà ngươi về thuyền mang gói thuốc để trong khoang và gọi năm người nữa lên đây. Nhà ngươi bảo với số còn lại đêm nay không được ngủ, phải trông giữ thuyến cẩn thận cho đến sáng ngày mai, nghe rõ chưa.
- Vâng ạ.
Người tráng đinh trả lời xong vội chạy đi.
Hoàng thúc ngồi trông coi ông già và cô con gái. Còn Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử đi lôi tên đầu sỏ toán cướp Chu Nhật Thường về.
Hai người xét hỏi tên đầu sỏ và bọn lâu la, kết quả đã biết rõ được đầu đuôi sự việc.
Họ biết được có một nhân viên công vụ giữ chức thừa lại của huyện này đã dính líu vào vụ việc này như thế nào, và còn biết được sáng ngày mai, viên thừa lại họ Trương sẽ đến sào huyệt của bọn cướp.
Họ thức suốt đêm, lấy thuốc bôi vào các vết thương của bọn cướp, chữa chạy cho chúng xong trói chúng lại và đưa chúng vào nhà hầm.
Nhà hầm chỉ có một cửa ra vào độc nhất, nên nhốt bọn cướp vào trong này rất thuận tiện chi việc canh gác.
Sáng ngày hôm sau, qua lời khai của bọn cướp, Hoàng thúc biết được sự thật, càng thương xót cho cảnh ngộ của hai bố con ông già.
Ông già họ Trịnh và cô con gái nằm trong phòng đã tỉnh lại. Cô con gái vừa khóc thút thít, vừa lấy tay xoa bóp lên những chỗ bầm tím trên người bố do dây thừng bọn cướp thít chặt. Nhưng ông lão họ Trịnh vẫn còn đau buốt khắp người, chưa cử động được.
- Bố ơi, bố có làm sao không bố ơi.
Ông già Trịnh hai mắt lim dim, nói vớ cô con gái giọng yếu ớt:
- Bố đã già rồi không sao đâu. Con có làm sao không?
- Con cũng không sao bố ạ.
Bên ngoài cánh cửa mở toang, có hai người tráng đinh đang đứng gác, nên hai bố con sợ sệt chỉ dám thì thầm nói chuyện với nhau.
Cả ba người Hoàng thúc, Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử cùng bước vào phòng. Tiêu Vĩnh Vạn mỉm cười.
- Hôm qua, lão nhân và quý cô nương đau đớn quá. Nay bọn cướp đã bị bắt gọn toàn bộ rồi, xin lão nhân và quý cô nương yên tâm.
Nhưng hai bố con chưa hết nỗi bàng hoàng, không hiểu đầu đuôi sự thể ra sao, nên chỉ biết hết nhìn Hoàng thúc lại nhìn Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử, theo dõi cử chỉ của họ và giữ im lặng.
Hoàng thúc từ ngày còn ở trong nước đã có học tiếng Cao Ly, dù nói không được lưu loát, giọng còn trọ trẹ không được tự nhiên, vẫn cố biểu đạt tình cảm:
- Thưa… lão nhân đừng e ngại, chúng tôi không phải là những người xấu.
Ông già Trịnh Nhân Hưng là người có học thức rộng, có phẩm đức. Ông nhìn mọi người và qua giọng nói cũng như diện mạo, cử chỉ của họ, ông cảm thấy có phần vững tâm, bèn cuối rạp người nói:
- Chúng tôi có tội tình gì mà lôi chúng tôi đến đây như thế này. Xin quý đại nhân tha cho chúng tôi lần này và cho chúng tôi về nhà.
Giọng ông già nghẹn ngào, xen lẫn với tiếng rên rỉ. Tiêu Vĩnh Vạn cảm thấy rất thương tâm, đã chân thành an ủi ông để ông yên tâm.
- Không phải thế đâu ạ. Những kẻ đã đưa lão trượng đến đây là bọn cướp Chu Nhật Thường. Cả bọn chúng nay đã bị bắt giam trong căn nhà hầm ở phía sau kia. Còn đây, vị này là Hoàng thúc của nước Đại Việt, muốn sang sinh sống ở nước Cao Ly chúng ta.
Đến lúc này, ông lão Trịnh mới hiểu ra tất cả, bèn ngồi dậy chào.
- Thưa Hoàng thúc, xin cảm ơn Hoàng thúc, Hoàng thúc đã cứu sống hai cha con chúng tôi như thế này, công ơn đó chúng tôi biết lấy gì đền đáp.
Hoàng thúc chỉ còn biết nhìn hai bố con ông già đầu cúi rạp, Tiêu Vĩnh Vạn đứng bên cạnh bèn lựa lời an ủi:
- Xin lão trượng đừng lo lắng gì. Thừa lại họ Trương của xứ huyện này sắp đến bây giờ. Bắt được tên này, chúng ta sẽ cùng nhau đến gặp quan tri huyện.
Tiêu Vĩnh Vạn giãy bày hết mọi điều từ đầu đến cuối, ông lão họ Trịnh đã thực sự yên lòng. Lúc này người tráng đinh đứng gác bỗng hớt hải chạy vào nói:
- Thưa Lý công tử, có một chiếc thuyền đã cập bến.
- Ta biết rồi.
Tiêu Vĩnh Vạn mói đoạn, bèn đứng dậy quay về phía Hoàng thúc.
- Thưa Hoàng thúc, có lẽ tên thừa lại họ Trương đã đến. Tôi xin một mình đi ra bắt hắn lô về đây.
Lý công tử theo Tiêu Vĩnh Vạn bước ra ngoài, còn quay lại nhìn Hoàng thúc và nói:
- Thưa Hoàng thúc, tôi cũng xin đi cùng Tiêu đại nhân ra xem sao. Để Tiêu đại nhân đi một mình, không yên tâm.
Hoàng thúc mỉm cười suy nghĩ. Tiêu Vĩnh Vạn là người võ nghệ cao cường, lại có tài xuất quỷ nhập thần như vậy thì bọn Thừa lại họ Trương chỉ một dúm kia, ăn thua gì. Nhưng để Tiêu Vĩnh Vạn đi một mình là không phải đạo. Hơn nữa, nếu xảy ra chuyện gì bất trắc thì hối hận sao kịp.
- Phải đấy. Lý công tử cũng phải đi theo chứ.
Lý công tử dắt hai con đoản đao vào hai bên thắt lưng, đi theo sau Tiêu Vĩnh Vạn.
Sau khi tiễn Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử đi rồi, Hoàng thúc bước vào phòng.
Các tráng đinh mang cơm sáng vào và lúc này ông già họ Trịnh cùng cô con gái Anh Cơ đã ăn xong.
- Sao lão nhân và quý cô nương ăn cơm ít vậy.
Giọng nói nhỏ nhẹ của Hoàng thúc bằng tiếng Cao Ly dù chưa sõi lắm, vẫn là giọng nói ân cần đầy tình nghĩa.
Ông già Trịnh tỏ vẻ rụt rè.
- Nhờ ơn phù hộ. Các vị đã cứu sống bố con tôi. Chúng tôi lại còn làm phiền quý vị như thế này thật là không phải lắm.
- Không có gì đâu. Cứu giúp nhau trong lúc hoạn nạn cũng là lẽ thường tình của con người ta ở đời thôi mà.
Ông già Trịnh đưa mắt liếc nhìn Hoàng thúc đang ngồi nói chuyện nhỏ nhẹ, cảm thấy Người là một bậc quý nhân chứ không phải chỉ là một người thường, bởi phong độ cao thượng của người, bởi ấn tượng và tiếng nói ôn hòa, ấm áp mà thanh cao của Người.
Cô con gái Anh Cơ đang ngồi khép nép một bên cũng trộm nhìn Hoàng thúc. Người là ân nhân đã cứu sống hai bố con mình. Cô nghĩ vậy, nên đối với cô, có lẽ Người không giống như một người nước ngoài, một người xa lạ.
Vào lúc ấy, đôi mắt của Hoàng thúc và đôi mắt của Anh Cơ tình cờ gặp nhau. Hoàng thúc bỗng tỏ ra bối rối.
- "A…"
Cả ông già và cô con gái đều đưa mắt nhìn về phía Hoàng thúc. Ông già có phần lo lắng hỏi:
- Lạy trời đất, chẳng hay Hoàng thúc có điều gì không được an tâm vậy?
Vẫn chưa hết nỗi bàng hoàng, Hoàng thúc đáp:
- À, không có gì.
Ông già và cô con gái cảm thấy có điều gì khác thường, khiến họ nghĩ đến điều chẳng lành. Phải chăng ông này đang hối hận là đã cứu sống chúng ta.
Song có vẻ như hai bố con ông già đã xóa đi tất cả những mặc cảm ấy, bởi lẽ những gì diễn ra chẳng phải đã hết sức rõ ràng đó sao. Hai bố con cúi đầu, mắt nhìn như dán xuống nền nhà.
Hoàng thúc như đọc đuợc những ý nghĩ trong lòng của hai bố con.
- Điều hiện giờ làm cho tôi ngạc nhiên là hình ảnh của quý nương sao mà giống như hai giọt nước với hình ảnh của một tiểu thư mà tôi đă từng quen biêt ở đất nước chúng tôi. Đúng như vậy, nên lần đầu gặp gỡ, tôi cứ ngỡ mình nhìn lầm.
Nghe nói vậy, hai cha con thở phào nhẹ nhõm. Lúc ấy, ánh mắt của Hoàng thúc và của cô gái lại bắt gặp nhau. Cô gái mỉm cười, cúi nhìn xuống đất. Chao ôi, hình ảnh của nàng sao mà giống hệt hình ảnh của Ngô Anh Cơ, một tiểu thư mà ta đã tùng bịn rịn chia tay ở Thuận Hoá làm vậy! Đúng rồi không sai, đây là hoá thân của Ngô Tiểu Thư.
Trong gian phòng chỉ còn lại sự trầm lặng. Cô gái nhìn bố nói giọng nhỏ nhẹ:
- Bố ơi, bố có làm sao không?
- À, bố không việc gì. Bố không bị gãy chân, gãy tay, thế là may lắm rồi.
Hoàng thúc nhìn những chỗ bị dây thừng thít chặt trên cánh tay, trên ống chân còn để lại những vết máu ứ tím bầm như sực nhớ ra điều gì, bèn móc trong túi lấy thuốc ra, đặt trước mặt ông già.
- Lão nhân hãy lấy thuốc này đắp vào những chỗ ứ máu, sẽ khỏi ngay thôi.
- Thế này thật phiền quý vị quá.
Ông già đưa hai tay ra đỡ gói thuốc và chuyển cho Anh Cơ.
Anh Cơ vẫn cúi mặt nhìn xuống, đưa hai tay đỡ lấy gói thuốc bố đưa cho.
Giữa lúc ấy, ngoài phía cổng có tiếng người nói lao xao.
Một lát sau, Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử bước vào sân, theo sau là ba con người bị trói do tráng đinh giải về.
Ba tên bị bắt quỳ xuống sân.
Tất cả ánh mắt trong phòng đều đổ dồn về phía đó.
Bằng một giọng nghiêm khắc, Tiêu Vĩnh Vạn ra lệnh:
- Thằng bất lương kia, mày hãy ngước đầu lên nhìn ông già.
Chúng không cất nổi thân mình đã bị trói chặt. Khó khăn lắm chúng mới ngước nổi đầu lên. Ánh mắt của tên thừa lại họ Trương vấp phải ánh mắt của ông già.
Gã họ Trương và hai tên sai nha vừa nhìn thấy ông lão vội cúi gằm mặt xuống đất. Ông già Trịnh đưa ánh mắt oán hận nhìn y. Ông nhéch mép như tự nói một mình: "Đồ quân ăn ở bất nhân!"
Vì Hoàng thúc chưa hiểu rõ hết sự thể đầu đuôi, nên Tiểu Vĩnh Vạn phải kể lại câu chuyện để Hoàng thúc nghe:
- Viên thừa lại họ Trương này đã thoả thuận với Chu Nhật Thường, sáng ngày hôm sau hắn đưa tên sai nha tâm phúc đến dò xét động tĩnh nhà ông lão họ Trịnh thì thấy đúng như mưu đồ do chúng sắp xếp. Hai bố con bị mất tích, ngôi nhà lớn trở nên trống trơn. Mọi việc đã diễn ra nhanh gọn, ngay đến nhà bên cạnh cũng không hay biết. Nếu mọi việc diễn ra theo đúng mưu kế của Chu Nhật Thường thì giờ đây có lẽ thân ông già Trịnh đã chìm sâu dưới đáy biển rồi. Còn Anh Cơ thì đuợc Thừa lại họ Trương vớt lên cứu sống, lẽ tự nhiên sẽ phải về ở với hắn và hắn sẽ nghiễm nhiên cướp gọn cả gia tài của ông họ Trịnh. Cả ngôi nhà lớn kia cũng sẽ nằm gọn trong tay hắn…
Hắn mơ tưởng như vậy và chạy ra đảo Xương Lân…không ngờ ăn phải nắm đấm như trời giáng của Tiêu Vĩnh Vạn, nên hắn mới phải cụp tai như thế kia.
Bình nhật, Hoàng thúc rất điềm đạm. Nhưng hôm nay lại nghe tường tận câu chuyện, Người không nén nổi cơn phẫn nộ, bèn quay sang Lý công tử.
- Lý công tử hãy sai hai tráng đinh sang lôi cổ tên Chu Nhật Thường về đây để đối chất với tên kia.
- Thưa vâng.
Hai tráng đinh được lệnh vội chạy về phía căn nhà hầm. Một chốc sau họ đã lôi Chu Nhật Thường ra sân.
Tên Chu không nén nổi đau đớn nơi các vết thương trong đêm qua, mặt nhăn nhó, đến quỳ xuống phía trước mặt Thừa lại họ Trương cũng đang quỳ ở đó.
Ánh mắt hai bên vừa gặp nhau, Chu Nhật Thường tỏ vẻ vẫn còn muốn theo đuổi kế hoạch nào đó để được sống sót. Hai mắt hắn ứ lệ, chảy lăn xuống mặt. Còn Trương thừa lại, thường ngày hay to tiếng quát tháo, đồng loã với Chu Nhật Thường tiến hành những vụ cướp biển, và bản thân hắn cũng đã từng đi ăn cướp một mình may mà còn được vô sự. Bây giờ hắn tỏ vẻ buồn bã, coi như ngày tàn của hắn sắp kết thúc. Đầu hắn cúi gầm xuống đất. Nhìn cảnh tượng đó, Tiêu Vĩnh Vạn hỏi:
- Trong chúng mày, đứa nào chủ trương đi ăn cướp trước?
Tên Thừa lại và Chu Nhật Thường vẫn cúi gục đầu xuống đất im lặng.
Tiêu Vĩnh Vạn đã nghĩ ra rồi. Xét tất cả các mưu gian mà chúng đã bày ra tối hôm qua thì có nhiều chứng cớ cho thấy Chu Nhật Thường là thủ phạm, còn Thừa lại họ Trương là đứa đồng loã với mưu gian lường gạt của tên kia.
- Chu Nhật Thường, đầu tiên chính mày đã lừa phỉnh tên thừa lại họ Trương kia để bày trò ăn cướp, có phải không?
- Dạ thưa, không phải thế.
Tên thừa lại họ Trương nghe Chu Nhật Thường nói vậy, bèn ngước đầu lên nhìn hắn với cặp mắt căm thù.
Hoàng thúc lắc đầu nói:
- Tướng mạo của tên kia trông rất bất nhân. Thừa lại họ Trương, nhà ngươi ăn bổng lộc của nhà nước, mà không biết phận trung thành đã là có tội rồi. Đằng này làm sao nhà ngươi lại đang tâm cấu kết với bọn cướp tàn ác vô đạo, đi ăn cướp của lương dân như vậy?
Thừa lại họ Trương cúi đầu gập xuống đất van lơn:
- Thưa, tội con đáng chết, chỉ dám mong được tha cho lần này.
- Ta không có quyền gì để tha hay không tha tội của nhà ngươi. Ta chỉ là người muốn đến sống ở đất nước nhà ngươi. Thế nhưng, tội của nhà ngươi và của tên kia là quá nghiêm trọng, cho nên ta phải tâu lên triều đình xem xét.
- Thừa lại họ Trương chừng như đã hiểu tất cả, đầu hắn cúi gằm xuống đất, nín im thin thít.
Hoàng thúc nhìn Tiêu Vĩnh Tường đang đứng bên cạnh nói:
- Tiêu đại nhân, thế này thì ta phải đưa nhanh tất cả bọn cướp lên thuyền và chở vào trấn Ủng Tân ngay thôi.
- Thưa vâng!
Lý công tử cũng quay sang Tiêu Vĩnh Vạn:
- Tiêu huynh xem, chúng ta có cần để lại một số tráng đinh của chúng ta trên đảo này không?
- Vâng đúng thế, chúng ta cần để khoảng năm người để canh gác nơi đây.
Các tráng đinh áp giải Chu Nhật Thường, Thừa lại họ Trương và khoảng hơn ba mươi tên lâu la lên thuyền, đứng canh giữ chúng đồng thời đưa ông già và Anh Cơ vào khoang trong.
Sau khi mọi công việc sắp xếp xong xuôi, thuyền nhổ neo, nhằm hướng trấn Ủng Tân xuất phát.
Mặt trời tháng sáu từ phía đông nhô lên tỏa chiếu xuống mặt đất, cái nóng đã bắt đầu bốc lên hầm hập. Đó đây, dưới bóng cây trong các sân nhà, trẻ con cởi trần trùng trục, chơi đùa say sưa với các trò chơi của chúng. Những con chó nằm cạnh đấy lè lưỡi thở hổn hển, chứng tỏ mới sáng sớm mà trời đã nóng như một cái nồi rang.
Thông thường quan huyện Ủng Tân không ra công đường vào những ngày nắng nôi như thế này. Nhưng hôm nay quan huyện lại ra xem xét các công việc lớn nhỏ còn đọng lại chưa xủ lý xong.
Quan huyện cho gọi một sai nha đến hỏi:
- Thừa lại họ Truơng chưa đến à?
Người sai nha quỳ phủ phục, đầu gục xuống.
- Dạ thưa quan lớn, chưa đến ạ.
Quan huyện chau vầng trán, khiến cho khuôn mặt của ông vốn đã nhăn nheo càng nhăn nheo thêm.
- Tại sao bây giờ chưa đến? Bây đâu, đến nhà thừa lại họ Trương xem sự thể ra sao rồi về báo cho ta biết!
- Bẩm vâng.
Người sai nha trực phiên cử một anh lính đi thăm dò.
Vừa lúc ấy, một người lính đưa một bà lão đến trước mặt người sai nha trực phiên.
Bà lão này là người bà con với ông già họ Trịnh. Bà ta đến thăm nhà ông già, nhưng nhà vắng teo, đang lo không biết ông bố và cô con gái đi đâu, thì có một ông lão ở cách nhà ông gìa Trịnh không xa nói rằng ông ta thấy đêm hôm qua có một toán người ăn vận giống như một lũ cướp đã bắt ai đó nhốt lên kiệu rồi khiêng đi.
Bà cụ già họ Hồng này không giấu nổi nỗi lo lắng, đã đem chuyện này kể lại cho người lính tuần đi ngang qua, và tiếp tục tìm kiếm tứ phương. Nhưng lạ lùng thay, không thể nào biết được hành tích của bố con ông lão họ Trịnh, do đó bà đã đến cửa quan để bẩm báo việc này.
Người sai nha trực phiên sau khi nghe hết đầu đuôi câu chuyện đã trình lên quan huyện.
Quan huyện rất đỗi sửng sốt.
- Nhà ngươi nói cái gì?
- Hiện nay bà lão họ Hồng đang chờ ngoài kia là chỗ bà con với nhà ông lão Trịnh, đã cùng với một lính tuần tra họ Kim của huyện đường chúng ta đi tìm khắp mọi nơi, nhưng vẫn không tìm ra tung tích ông già và cô con gái. Theo lời một ông già nhà bên cạnh, thì hai bố con ông lão đã bị một bọn cướp bắt cóc mang đi rồi.
Quan huyện nghe đến đây, bỗng có một dự cảm khác thường. Tại sao thừa lại họ Trương vẫn chưa thấy đến."Con quạ vừa bay, quả lê đã rụng".
Việc này thế tất có liên quan đến những lời đồn đại về quan hệ tài sản mờ ám giữa y với ông già Trịnh mà quan huyện đã nghe được và đã có lần nhắc nhở y. Nếu ngộ nhỡ hắn mang danh một quan chức nhà nước mà làm điều thất đức với bố con ông lão, thì… Quan huyện suy nghĩ miên man rồi ra lệnh cho quan đô giám họ Phác, là người có theo dõi về những lời dị nghị này phải dò tìm tung tích của hai bố con ông già họ Trịnh.
Thời gian từng khắc, từng khắc trôi qua, nhưng không một người nào tìm ra được tung tích của họ.
Giữa lúc Quan huyện không còn cách nào khác, đã dứt khoát quyết định dán yết thị khắp nơi và trình báo việc này lên An Tây Đô hộ phủ, thì viên nha lại trực phiên chạy đến:
- Thưa quan lớn, có một vị là Lý Long Tường, Hoàng thúc của một đất nước có tên Đại Việt Hoàng quốc đã đưa theo hai mươi mốt người thân nhân đi thuyền đến xin cư trú vĩnh viễn tại xứ sở của chúng ta. Hiện nay thuyền đang đậu ở cửa lạch trước. Các vị ấy đã tìm đến xin gặp và báo với quan lớn nhiều sự việc.
Trước việc này, quan huyện cảm thấy rất khó nghĩ. Giữa lúc có việc rắc rối xảy ra bất ngờ, đang phải dốc sức vào đây như thế này, nếu không phải là Quốc khách, ai đến cũng không thích: Nhưng dù sao thì việc cũng đã rồi.
- Nhà ngươi nói vị ấy là Hoàng thúc của Hoàng Quốc Đại Việt đến đây xin định cư à?
- Thưa đúng như vậy.
Quan huyện tỏ vẻ không sốt sắng gì, bèn chép miệng nuốt nước bọt đắng nghét.
- Vậy đưa các vị ấy vào đây.
Người sai nha hướng dẫn ba người khách đến trước mặt quan huyện.
Tiêu Vĩnh Vạn bước đến trước mặt quan huyện lễ phép cúi chào.
- Xin vấn an quan lớn. Ngài Lý Long Tường, Hoàng thúc của nước Đại Việt cùng công tử Lý Quân Tất và các vị trong hoàng tộc muốn xin đến quý quốc để sinh sống. Rất mong quý quốc bao dung cho đuợc định cư.
Quan huyện chăm chú nhìn họ. Vẻ mặt và hình dáng của những người ngày trong giống người nước Cao Ly. Chợt nghĩ ra điều gì, quan huyện nói:
- Các vị đi đường xá xa xôi chắc vất vả lắm. Tôi đuợc biết Hoàng Quốc Đại Việt là một nước ở phía Nam xa xôi. Xin muốn biết Đức Hoàng thúc tôn quý sao lại tìm đến tận nước chúng tôi.
- Xin lỗi cùng quý vị. Tôi là Lý Long Tường, Hoàng thúc của nước Đại Việt. Ở nước chúng tôi giờ đây Vương triều nhà Lý đã suy vong, được thay bằng triều đại nhà Trần. Không còn cách nào khác, tôi đành phải rời bỏ cố quốc ra đi. Tôi đã quyết tâm đến đây, gởi thân nơi quý quốc, một đất nước mà tôi hằng ngưỡng mộ bấy lâu nay.
Lý công tử cũng tiến lên phía trước chào quan huyện:
- Tôi là Lý Quân Tất.
Quan huyện vuốt vuốt bộ râu, hết nhìn người này lại quay sang nhìn người khác.
Rõ ràng vị Hoàng thúc có diện mạo đoan chính, phong độ cao thượng đáng để nhiều người chiêm ngưỡng.
Quan huyện có thói quen không bỏ đuợc là khi nói chuyện thường hay vuốt râu. Ông vuốt vuốt bộ râu dài một chặp, ho khan một tiếng rồi nói:
- Xin mời Hoàng thúc lên đây ngồi.
Ông mời Hoàng thúc ngồi lên ghế trên bên cạnh mình.
Người lính hầu mời Hoàng thúc ngồi trên tấm đệm bọc lụa.
- Xin cảm ơn sự hậu đãi của quan huyện.
Hoàng thúc bước lên chỗ ngồi, lễ phép quay sang quan huyện, mỉm cười bày tỏ niềm kính trọng.
- Không có gì đâu. Hoàng thúc quá lời.
Tiêu Vĩnh Vạn bước lên phía trước nói với quan huyện.
- Bẩm quan lớn, chúng tôi xin đến quý quốc sống nhờ cố nhiên là điều quan trọng. Nhưng có một chuyện khẩn cấp xin được thưa ngay cùng quan lớn.
Quan huyện nghe nói vậy bèn nghĩ đến chuyện khẩn cấp đang đè nặng trong lòng. Nếu không tìm ra được tung tích bố con ông già họ Trịnh và chỗ ẩn náo của Trương thừa lại, thì bản thân mình là người cai quản địa hạt này bị mất thể diện đã đành lại còn phải chịu trách nhiệm nặng nề. Nỗi khổ tâm ấy lại dấy lên dày vò tâm can ông.
- Quý ông có nói đến chuyện khẩn cấp, vậy là chuyện gì? Có yêu cầu gì không?
- Không ạ. Chúng tôi không có yêu cầu gì. Chỉ xin hỏi ở địa hạt này, có ai là thừa lại họ Trương và có người nào tên là Trịnh Nhân Hưng không?
Đó là những việc trọng mà bản thân quan huyện đang cố sức tìm cách để nắm biết. Ông tỏ vẻ sốt ruột bèn nói:
- Vâng có đấy. Thế ra các ông biết những người đó à.
Tiêu Vĩnh Vạn thuật lại những việc mà họ đã làm đêm hôm qua và cho biết hiện nay toàn bộ bọn tội phạm đã bị trói lại đưa lên thuyền áp giải về đây; và ông già họ Trịnh cùng cô con gái đã được cứu thoát.
Quan huyện bất ngờ nghe được những điều do Tiêu Vĩnh Vạn kể lại, tỏ vẻ rất áy náy. Ông trút một hơi thở dài nhẹ nhõm.
- Tiểu quan có thiếu sót, suýt mang hoạ lớn. Cũng may nhờ có quý nhân từ nơi xa xôi đến cứu giúp cho, nếu không nỗi bất hạnh chắc khó lườn. Sự việc xảy ra quá đột ngột, đã làm cho cả huyện trấn suýt bị náo động lên. May nhờ có quý vị giúp đỡ hộ cho một việc lớn lao như vậy. Công ơn to lớn đó biết lấy gì để đền đáp lại quý vị.
Hoàng thúc nhìn viên quan huyện:
- Thưa đâu dám. Chúng tôi là những người xấu số, xin đến nương nhờ quý quốc, thấy xảy ra những chuyện chẳng lành mà lòng cứ bức rứt không yên.
Tiêu Vĩnh Vạn nói với Hoàng thúc:
- Thưa Hoàng thúc, bọn cướp nay còn ở trên thuyền, vậy xin cho dẫn độ chúng đến đây để trao lại cho quan huyện, có đuợc không ạ?
Quan huyện thấy Hoàng thúc còn đang chần chừ chưa biết nói thế nào, bèn buộc mồm thỉnh cầu Hoàng thúc:
- Xin Hoàng thúc hãy có lời chỉ bảo. Xin Hoàng thúc hãy giao lại bọn cướp cho bản quan. Được thế bản quan lấy làm cảm ơn lắm lắm.
- Quan huyện khiêm nhường quá.Tất nhiên chúng tôi áp giải bọn chúng đến đây cũng là để đuợc giao lại cho quan huyện.
Hoàng thúc lại nhìn Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn:
- Theo lời của quan huyện, vậy hai vị hãy đi cùng với các vị quan viên trong huyện đường ra bến thuyền bàn giao bọn cướp.
Quan huyện không giấu nổi nỗi vui mừng, song cũng biết rằng sau khi việc mong đợi của huyện mình đuợc đáp ứng rồi, không thể không nghĩ đến việc phải đối xử như thế nào với những người ngoại quốc đến xin cư trú ở đây.
Quan huyện quay về phía Hoàng thúc nói:
- Tôi thật có nhiều điều thất lễ với các vị quý khách từ nơi xa xôi đến đây. Chỉ mãi lo bàn đến những việc khẩn cấp của bản quan mà quên khuấy đi mất những điều bận tâm của quý khách.
Nói đoạn, quan huyện gọi một người nha lại đến ra lệnh:
- Nhà ngươi đi nhanh đến nhà khách ngoài cửa đông, sửa soạn phòng để 21 khách ở, nhà người còn phải dọn dẹp thật sạch sẽ phòng sang để chuẩn bị đón Hoàng thúc đến đó. Nghe rõ chưa?
- Bẩm vâng!
Quan huyện lại gọi Phác đô giám trông coi trại lính đến ra lệnh:
- Còn thầy, hãy đưa 30 lính đi cùng với hai vị khách này lên thuyền tíêp nhận toàn bộ bọn cướp mang về đây cho ta.
Phác đô giám cúi đầu:
- Xin tuân lệnh!
Vừa lúc Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn đang định đứng dậy đi theo Phác Đô Giám, thì một đứa tiểu đồng bưng vào một cái khay, trong để một chiếc bát đẹp đựng nước mật ong tới đứng bên cạnh.
Quan huyện nhìn Hoàng thúc nói:
- Đón tiếp một vị thượng khách như thế này thì quá sơ sài, bản quan rất lấy làm áy náy trong dạ. Dám xin Hoàng thúc lượng thứ cho. Trời nóng nực, xin mời các vị hãy uống một ngụm nước mật ong này cho mát người. Xin mời quý vị ngồi.
Họ vừa định ra đi, phải quay trở lại. Đứa tiểu đồng chần chừ, vẫn bưng chiếc khay trong đặt bát nước mật ong đứng nguyên tại chỗ. Tiêu Vĩnh Vạn nhìn lên quan huyện:
- Xin cảm ơn quan huyện. Công việc gấp quá, nếu cứ đứng thế này thì thật là thất lễ.
Nói đoạn, bèn bưng lấy bát nước mật ong uống ừng ực một hơi hết sạch.
Lý công tử vốn tính e dè vì có Phác đô giám đứng bên cạnh, nay thấy thế cũng bắt chước Tiêu Vĩnh Vạn cầm lấy bát nước mật ong, đứng uống hết một hơi rồi đi thẳng ra ngoài.
Quan huyện nhận thấy họ là những người tài trí, chất phác và đáng tin cậy như vậy nên rất hài lòng. Ông nhìn đăm đăm về phía họ, rồi quay sang nhìn Hoàng thúc nói:
- Hoàng thúc có được những vị tùy tướng tốt quá. Vượt qua được quãng đường dài hàng mấy vạn dặm, đến được nơi đây an toàn thế này cũng là nhờ có những con người tài ba thao lược như vậy.
- Quan huyện quá khen.
Một đứa tiểu đồng cầm chiếc quạt to đến, quạt sau lưng Hoàng thúc và quan huyện.
Từ nãy đến giờ do mải mê công việc, họ đã quên đi cái nóng oi bức, nay có gió từ chiếc quạt tỏa ra, họ mới bắt đầu cảm thấy nóng. Có lẽ vì vậy mà những giọt mồ hôi lấm tấm như những giọt châu đã bắt đầu chảy từ trên trán xuống.
Các tiểu đồng dùng bàn tay nhỏ bé đưa những chiếc khăn tay lên lau mồ hôi cho hai vị. Quan huyện lại nhìn Hoàng thúc nói:
- Hoàng thúc chắc nóng lắm. Xin mời uống một bát nước lạnh cho mát.
- Xin cảm ơn.
Hoàng thúc từ từ cầm bát nước mật ong đưa lên uống mấy ngụm. Trên đất nước quê nhà, có nước dừa cùng nhiều loại hoa trái nhiệt đới khác mang lại hương vị thơm ngon, nhưng đến đây được uống nước mật ong, cảm thấy mát và có hương vị đặc biệt.
- Chà, nước mật ong ngon quá.
Quan huyện cầm bát nước mật ong lên uống hết một hơi, dáng chừng muốn bắt chước cách uống của Tiêu Vĩnh Vạn.
"Chà… mát quá." Quan huyện lẩm bẩm một mình, bỗng chợt nghĩ ra điều gì, bèn quay sang phía Hoàng thúc:
- Việc Hoàng thúc định sang sinh sống nơi đất nước chúng tôi, chắc là Triều đình sẽ hoan nghênh. Tất nhiên đó là điều mà bản quan cũng như trăm họ xứ này tha thiết mong muốn, khỏi phải nhắc lại đến lời thứ hai. Hoàng thúc vừa mới đến miền đất này mà đã làm được bao điều tốt đẹp. Tất cả mọi việc này nếu không phải ý trời sắp đặt thì làm sao có được. Tuy nhiên, một việc trọng đại như thế này không thuộc quyền sở định của bản quan, không thể tự quyết định theo ý mình. Sau khi thu xếp xong công việc của ông già Trịnh Nhân Hưng và Trương thừa lại, bản quan sẽ làm tờ sớ trực tiếp mang lên tâu với Triều đình. Bản quan sẽ gặp quan đại giám Tấn dương hầu 2, thưa lại mọi việc để Tấn dương hầu tâu lên với đại vương Cao Tông, mong được đức vua hạ cố cho phép.
Hoàng thúc nghe những lời phân trần đó của quan huyện, ít nhiều có phần lo lắng, đưa mắt lơ đãng nhìn xuống đất. Nếu mệnh lệnh của triều đình bảo không ở được nơi đây thì liệu quan huyện sẽ làm gì được hơn. Nghĩ vậy, Hoàng thúc nói với quan huyện:
- Xin cảm ơn quan huyện. Nhưng liệu Triều đình có cho phép một kẻ xấu số như tôi được ở lại nơi đây không?
- Xin Hoàng thúc đừng lo lắng. Đức đại vương Cao Tông của chúng tôi rất nhân từ rộng lượng. Bản quan sẽ tâu lên Đức vua một cách tỷ mỷ phẩm đức cao quý của Hoàng thúc cùng nhiều các việc làm khác nữa nên chắc rằng đức vua sẽ cho phép. Mặt khác quan đại giám Tấn dương hầu là chỗ quen biết, Tấn dương hầu rất yêu quý bản quan nên xin Hoàng thúc đừng ngại. Chỉ vì thủ tục của phép nước là như vậy, nên chúng ta phải làm cho đầy đủ mà thôi.
- Dù sao thì mạng sống của mấy chục con người chúng tôi đều nằm trong tay quan huyện cả. Muôn sự xin nhờ ơn quan huyện.
Hoàng thúc cũng thừa hiểu thủ tục phép nước là phải như vậy, nên ít nhiều Người đã vững dạ hơn trước những lời nói có thể hiểu được là xuất phát từ sự chân tình của quan huyện. Người ngước nhìn lên nét mặt của quan huyện, qua diện mạo và phong độ của ông có thể đoán chắc ông là người có thể tin cậy được, không có điều gì đáng ngờ vực.
Lúc này, người nha lại đi lo sắp đặt nhà khách đã trở về.
- Bẩm quan lớn, theo lệnh của quan lớn, chúng con đã quét dọn nhà khách sạch sẽ, chuẩn bị mọi thứ xong xuôi, nay xin trở về đợi lệnh.
- Vậy phòng đón khách quý đã chỉnh trang xong toàn bộ chưa?
- Thưa, xong hết tất cả rồi ạ.
Từ đáy lòng mình, Hoàng thúc hết sức biết ơn quan huyện. Người đã vững dạ tin rằng tấm lòng của quan huyện chân thành đối xử với mình sau này cũng sẽ không thay đổi.
- Chúng tôi thất cơ lỡ bước sang nương nhờ quý quốc, được quan ngài lo toan chu đáo như thế này thật cảm thấy áy náy trong lòng quá.
- Hoàng thúc nói quá lời. Sức lực có đến đâu, bản quan xin làm hết mình đến đấy. Sau này bản quan cũng sẽ không quản khó nhọc, xin hết lòng vì Hoàng thúc.
Nói xong, quan huyện bèn quay sang nhìn người nha lại.
- Nhà ngươi hãy rước Hoàng thúc về nhà khách nghe!
Nói đoạn, quay sang Hoàng thúc:
- Thưa Hoàng thúc, Hoàng thúc nay đã mệt, vậy xin hãy về nhà khách nghỉ ngơi. Tôi đi xử lý xong bọn cướp, sẽ xin đến thăm Hoàng thúc.
- Vậy tôi xin về nhà khách trước. Việc công vụ ở huyện đường thật là rất bận.
Hoàng thúc vừa đứng dậy, quan huyện cũng đứng dậy theo. Quan huyện bảo người nha lại:
- Nhà ngươi mời Hoàng thúc lên chiếc kiệu bốn người khiêng của ta nghe.
- Bẩm vâng!
Hoàng thúc quay về phía quan huyện lễ phép vái chào. Trên khuôn mặt người vẫn còn đượm vẻ ưu tư, chỉ mong sao quan huyện lo toan cho để được định cư trên miền đất này.
Quan huyện càng nghĩ xót thương Hoàng thúc.
- Hoàng thúc chắc đã mệt. Xin mời Hoàng thúc về nhà khách trút bỏ hành trang đi đường vất vả, yên tâm nghỉ ngơi. Mọi việc đã có bản quan, dù sức mọn cũng xin cố gắng hết lòng lo mọi việc.
Những lời nói của quan huyện là tiếng nói đáng tin cậy xuất phát từ tấm lòng chân thành.
- Vậy xin quan huyện ở lại thu xếp công việc được tốt.
- Xin chào Hoàng thúc nghỉ ngơi bình yên.
Chú thích
(1)Một pyrong tương đương 3,3m2
(2)Một chức vụ ngang như tể tướng
CHƯƠNG 9: LƯU LẠI ỦNG TÂN
Sau khi tạm biệt quan huyện Ủng Tân, Hoàng thúc bước ra sau huyện đường. Một người lính hầu đã vén sẵn bức rèm trúc của chiếc kiệu bốn người khiêng, chờ Hoàng thúc bước lên. Ánh mặt trời vẫn trút sức nóng xuống chói chang, Hoàng thúc định bước lên kiệu, song nghĩ thế nào lại quay lại; quan huyện vẫn đứng ở dưới bậc tam cấp của huyện đường tiễn đưa Hoàng thúc. Với tấm lòng biết ơn, Hoàng thúc cúi người chào tạm biệt. Quan huyện cũng cúi người đáp lại, và vẫn đứng dưới trời nắng tiễn đưa Hoàng thúc.
Hoàng thúc vừa bước vào ngồi trong kiệu, viên sai nha đứng trước kiệu lần cất tiếng hô dõng dạc: "Đức Hoàng thúc nước Đại Việt dời bước!"
Những người lính khiêng kiệu cũng hô rập theo như đã thuộc lòng, và họ nhấc đòn khiêng lên vai, bắt đầu rảo bước. Các quan chức cao thấp đứng xung quanh, đều cúi rạp người chào Hoàng thúc.
Hoàng thúc hết sức cảm kích. "Người ta nói nước Cao Ly ở phương đông là một nước rất trọng lễ nghi. Điều đó quả đúng như trong sách đã viết, thật là danh bất hư truyền. Kỷ cương nghiêm túc, trên dưới phân minh, sang hèn cách biệt chẳng đã rất rõ ràng đó sao". Suy nghĩ như vậy, Hoàng thúc ngồi trong chiếc kiệu đung đưa, qua các khe hở của mành trúc, ngắm nhìn khung cảnh bên ngoài. Dù tầm mắt hẹp, vẫn nhìn thấy những túp nhà, những con đường được bố trí theo một trật tự ngay ngắn. Người qua lại trên đường đều mặc áo trắng sạch sẽ, diện mạo đoan trang. Mỗi lần chiếc kiệu đi qua trước mặt họ, tất cả đều cúi rạp người cúi chào. Cảnh tượng đó đã tạo nên một ảo giác, cứ ngỡ như một Hoàng thúc triều đình nhà Lý đang trên đường về quê hương của mình.
Đang giữa lúc miên man trong ảo giác như vậy, thì chiếc kiệu đã về đến trước nhà khách.
Tại nhà khách, đã có mấy chục quan viên ăn mặc chỉnh tề, căng lều che nắng, đứng đợi sẵn trước cửa nhà khách để đón Hoàng thúc nước Đại Việt.
Khi chiếc kiệu vừa đặt xuống trước lều che nắng, người sai nha liền gân cổ dõng dạc hô lớn: "Đức Hoàng thúc của hoàng quốc Đại Việt đã đến".
Tiếng hô to đến buồn cười của người sai nha gần như trở thành một quân lệnh, tất cả mọi người đều nghe theo, cúi rạp mình kính lễ. Trong số nhiều người đó có những cô quan kỹ 1 trang điểm trông giống như những cô dâu. Họ mặc những chiếc váy dài màu hồng đến tận ngực, bên trên mặc chiếc áo dài tay ngắn thân màu xanh lục với vòng cổ hình trái tim màu trắng, kèm theo dải núi dài duyên dáng đính trước ngực phía phải. Họ dắt một bên vạt váy dài vào dưới nách trái, chân đi giày vải đính hạt cườm, lặng lẽ, lặng lẽ bước đi những bước chầm chậm đến trước mặt Hoàng thúc, nhẹ nhàng ngồi xuống, cúi đầu vái chào. Hình ảnh đó làm cho Hoàng thúc không khỏi hoa mắt.
- Quan kỹ Kim Minh Nguyệt xin kính chào đức Hoàng thúc nước Đại Việt. Theo lời truyền của quan huyện, các tiểu nữ thị tòng xin đợi lệnh Hoàng thúc.
Hoàng thúc từ trên kiệu bước xuống, nhìn quang cảnh đó, trong lòng rất đỗi cảm kích.
- Một tấm thân phiêu bạt cô đơn, khi phải rời bỏ đất nước ra đi lưu vong chỉ chia tay được với một Ngô Anh Cơ, giờ đây đến nước Cao Ly nơi tha hương muôn dặm lại được tiếp đón ân cần nồng hậu như thế này, làm sao không khỏi xúc động.
Song đối với Hoàng thúc, những nét phong lưu và mọi sự hào hoa đó là điều đã được từng trải trong cuộc sống ngày xưa, nên không có gì mới lạ.
Hoàng thúc đưa mắt nhìn Minh Nguyệt, cô quan kỹ có khuôn mặt trắng như ngọc, đôi môi long lanh như ngôi sao mai, hai cánh tay khép lại duyên dáng như không còn nhìn thấy đôi vai, có lẽ đến Dương Quý Phi cũng cảm thấy mình còn thua kém. Hoàng thúc mỉm cười, gật gật đầu.
- Thế tên nàng là Minh Nguyệt?
- Thưa vâng ạ.
Minh Nguyệt lặng lẽ đứng dậy, dáng chừng muốn làm người dẫn đường cho Hoàng thúc, bèn tựa người nhẹ vào bên trái Hoàng thúc, dìu lấy cánh tay Người.
Hoàng thúc hầu như tỳ hết cả tấm thân mệt nhọc của mình vào Minh Nguyệt, đi theo nàng bước vào phòng khách.
Hoàng thúc nhìn đôi vai Minh Nguyệt không khỏi thán phục.
- Người đời có thơ rằng "Mỹ nhân vô kiên", có nghĩa là "Người đẹp không vai". Minh Nguyệt quả thực là người đẹp. Làm sao mà nàng có được thân hình đẹp làm vậy!
- Đức Hoàng thúc nếu quá khen tiện nữ, chẳng khác gì như chế giễu tiện nữ, tiện nữ chẳng thích đâu.
- Ồ, không phải thế đâu.
Phòng khách là một gian phòng nền lát giấy quang dầu bóng, rộng rãi, bốn bề cửa mở toang. Trên chiếc đệm ngồi cao còn bọc thêm một lớp vải sợi gai. Hoàng thúc ngồi vào chỗ theo sự hướng dẫn của Minh Nguyệt.
Minh Nguyệt cởi mũ áo của Hoàng thúc đưa cho tiểu đồng đem đi cất và dùng hai bàn tay xinh đẹp của mình cầm lấy quạt phe phẩy cho Hoàng thúc.
- Hoàng thúc chắc nóng lắm phải không ạ?
- À không, làm sao nóng hơn so với nước chúng tôi.
Lúc này, tiểu đồng đã mang nước mật ong mát ra. Minh Nguyệt rút từ trong vạt áo ngực của mình ra chiếc khăn tay, lấy tay trái thấm những giọt mồ hôi cho Hoàng thúc xong bèn nói với người:
- Xin mời Hoàng thúc uống một ngụm nước mật ong.
Hoàng thúc kề miệng vào chiếc bát nước mật ong do Minh Nguyệt cầm hai tay đưa lên uống một ngụm, và nói:
- Chà, mát quá. Nào, Minh Nguyệt cùng uống một ngụm đi cho mát.
- Xin cảm ơn Hoàng thúc. Nhưng hương vị nước mật ong so với nước dừa thế nào ạ?
- Hương vị nước dừa cũng thơm ngon. Còn nước mật ong và nước dừa, mỗi thứ có hương vị riêng của nó.
- Vậy xin Hoàng thúc cho tiện nữ được thưởng thức một chút hương vị của nước dừa với.
Minh Nguyệt mỉm cười nũng nịu. Hoàng thúc thở ra một hơi dài.
- Nếu tôi được trở lại đất nước quê hương, tôi sẽ đưa Minh Nguyệt đi theo, và mời Minh Nguyệt uống nước dừa ngon nhất thiên hạ.
Nói đến đây, nét mặt Hoàng thúc đượm vẻ buồn. Người đưa mắt nhìn về ngọn núi xa xa.
Minh Nguyệt là cô gái nổi tiếng có đôi mắt nhạy cảm, đoán biết được Hoàng thúc đang buồn nhớ quê hương, bèn gọi tiểu đồng lại bảo:
- Nước tắm cho Hoàng thúc đã sắp đặt xong chưa em?
- Vâng, thưa cô đã sắp đặt xong rồi ạ.
Minh Nguyệt mỉm cười:
- Thưa Hoàng thúc, trời nóng quá. Xin mời Hoàng thúc tắm nước lạnh. Nước của nhà khách này là nước thuốc đấy ạ. Người mà tắm nước này thì bách bệnh đều khỏi.
- Thế à.
Hoàng thúc đứng dậy theo tiểu đồng đi ra cửa sau.
Mặt trời đã lặn, chỉ còn để lại vầng ráng chiều vàng thẫm nơi chân trời phía tây. Cái nóng giữa mùa hè dài lê thê vẫn còn hầm hập. Nhà tắm là nơi có con suối từ lòng đất phun lên ở sân sau. Một bức tường màu trắng sạch sẽ đã được xây vây quanh nơi dòng suối trong mát chảy ra để làm nhà tắm. Ngâm mình trong bể nước một chốc đã thấy lạnh không chịu nổi. Lúc Hoàng thúc từ trong bể nước bước ra đã có tiểu đồng đứng đợi sẵn để lau khô cho người. Thời gian trôi qua lúc nào không hay, Hoàng thúc đã mặc xong áo và bước vào phòng khách. Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn cũng đã về đến nơi. Không ngăn nổi niềm vui dào dạt trong lòng, Hoàng thúc ân cần thăm hỏi:
- Chà, các vị về khi nào vậy? Tôi cứ lo mãi. Sốt ruột, tôi đành đi tắm một mình. Hai vị cũng đi tắm đi. Đúng nước tắm là nước thuốc thật đấy, chữa khỏi được bách bệnh.
Lúc này, Minh Nguyệt mang bộ quần áo Cao Ly dệt bằng sợi gai đến đặt trước mặt Hoàng thúc:
- Thưa Hoàng thúc, đây là bộ quần áo mùa hè của nước chúng tôi do ngài quan huyện gửi đến. Xin mời Hoàng thúc thay áo.
- Làm phiền quan huyện thế này, tôi thật khó nghĩ quá!
- Hoàng thúc cứ bận tâm nhiều quá. Người ta thường nói "mọi việc theo ý chủ nhân". Đây là áo do quan huyện là chủ nhân của xứ này gửi đến, xin mời Hoàng thúc mặc vào ạ.
Mọi người ngồi nghe lời nói nũng nịu của Minh Nguyệt đều phá lên cười.
Thấy tiểu đồng bước vào, Minh Nguyệt liền bảo:
- Này tiểu đồng, nhà ngươi đưa hai vị ra nhà tắm nghe!
- Vâng ạ.
Minh Nguyệt mỉm cười, nhìn Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử:
- Xin mời hai vị đi tắm. Trời nóng nực thế này, phải tắm sạch mồ hôi rồi mới ăn cơm. Có lẽ một chốc nữa, quan huyện cũng sẽ đến.
Hai người ngồi vã cả mồ hôi, nghe lời khuyên của Minh Nguyệt, bèn nói:
- Vâng, chúng tôi đi ngay đây!
Tiêu Vĩnh Vạn vừa đứng dậy, Lý công tử cũng đứng dậy theo.
Họ đi về phía nhà tắm.
Minh Nguyệt thấy Hoàng thúc tuy mặc quần áo Cao Ly, nhưng lại mặc cuộn cao quần lên và mặc áo lộn ngược, đã không nhịn được, phá lên cười rũ rượi.
- Ui chao, Hoàng thúc mặc áo trái rồi. Tiện nữ xin bày cách. Xin mời Hoàng thúc đứng dậy.
Hoàng thúc lại phía sau bình phong, mặc lại quần xong mới ra. Minh Nguyệt đến kéo quần lên, xong lấy dải thắt lưng buộc lại và buộc một chiếc túi màu dưa hấu vào dây thắt lưng. Sau đó lấy tay vuốt phía trước phía sau một chốc để tạo cho Hoàng thúc dáng vẻ của một vị thân sĩ ăn mặc chỉnh tề. Minh Nguyệt vốn nhanh mắt khéo tay, lại lấy hai tay buộc chiếc dải áo vào bên dưới ve cổ áo hình trái tim và buộc thêm một chiếc dây túi nữa.
- Xong rồi ạ, xin mời Hoàng thúc soi gương xem thử.
Hoàng thúc cầm lấy chiếc gương để bên cạnh lên soi. Một bộ quần áo vải gai trắng muốt, mịn màng, thấp thoáng chiếc túi đeo bên sườn, trông ra dáng một nam phi phong nhã hào hoa. À không, không chỉ phong nhã hào hoa mà còn giống như một vị thần tiên hoặc một sứ nhà trời.
- Quả thực y phục nước này thật cao sang. Sao mà nhẹ nhàng, thanh thoát và sạch sẽ đến vậy!
Lúc này Tiêu Vĩnh Vạn, Lý công tử tắm xong đã trở về, trông thấy Hoàng thúc đang ngắm soi bộ quần áo trước gương liền thốt lên:
- Chao, Hoàng thúc mặc bộ quần áo này trông rất hợp. Trông có dáng quá.
Minh Nguyệt nhìn thấy Lý công tử có vẻ ước ao, bèn nói:
- Quần áo biếu các vị khách, quan huyện đã gửi đến rồi, xin đừng lo. Xin mời các vị thay quần áo mới đi.
Minh Nguyệt lấy trong bọc ra hai bộ quần áo đưa cho hai người.
Hoàng thúc nhìn Minh Nguyệt nói:
- Minh Nguyệt cũng nên bày cho các vị này cách mặc quần áo đi. Có thế trông mới đẹp.
- Hoàng thúc cứ khen như vậy, các cô gái nhà này sẽ phổng mũi hết mất!
Tất cả mọi người đang ngồi nghe Minh Nguyệt nói như vậy đều bật cười ồ lên. Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn tự thay quần áo xong, từ phía sau bức bình phong bước ra. Nhờ có sự khéo tay của Tiêu Vĩnh Vạn nên Lý công tử mặc khá đẹp, trông rất có dáng. Minh Nguyệt nhìn thấy rất đỗi ngạc nhiên:
- Chao ôi, hai vị cũng đã mặc xong rồi này…
Tiêu Vĩnh Vạn vờ không biết, bèn hấp háy đôi mắt nói:
- Chúng tôi chưa trông thấy Hoàng thúc mặc thế nào, nhưng chẳng nhẽ tất cả mọi người chúng tôi đều không biết mặc quần áo!
Hoàng thúc ngồi bên cạnh cười khì. Thì ra Tiêu Vĩnh Vạn đã cải trang làm người nước Đại Việt để dẫn đường sang nước Cao Ly. Hoàng thúc chợt nhớ ra điều gì, bèn nhìn Tiêu Vĩnh Vạn hỏi:
- Tiêu đại nhân, mọi việc hôm nay chu tất cả rồi chứ?
- Thưa vâng.
Minh Nguyệt hiểu ý bèn đứng dậy cúi chào và bước ra ngoài.
Chú thích
(1)Kỹ nữ nơi quan đường, biết múa hát và tiếp khách
CHƯƠNG 10: ÔNG GIÀ HỌ TRỊNH ĐỀN ƠN
Ba người ngồi chụm đầu vào nhau điểm lại mọi chuyện xảy ra trong ngày hôm ấy. (Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn cùng với Phác đô giám lên thuyền bàn giao tất cả bọn cướp xong liền tiến hành xét hỏi cung bọn chúng thì được biết: Bọn chúng vốn là một toán cướp biển thường hay cướp bóc các thuyền buôn qua lại vùng biển miền trung thuộc biển tay của nước Cao Ly. Chúng đã tìm cách lôi kéo viên thừa lại họ Trương vào những hành vi tội ác hãm hại dân lành trong huyện Ủng Tân. Việc chúng đồng mưu với viên thừa lại, cướp đoạt nhiều tài sản của ông già họ Trịnh đã gây ra bao hành vi tội ác tối hôm qua. Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn là những người làm chứng cho tội ác đó của bọn chúng. Không còn cách nào khác, bọn tội phạm đã cúi đầu nhận tội. Sau đó, chính quyền huyện đã lập hồ sơ về toàn bộ bọn cướp và giam chúng vào nhà ngục. Còn ông già Trịnh và cô con gái Anh Cơ thì đưa về nhà. Cả Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử còn kể lại tỉ mỉ việc quan huyện đã đích thân đứng ra chỉ huy xử lý vụ cướp cùng mọi việc có liên quan trước và sau đó).
Nghe được một lúc những lời thuật lại của Tiêu Vĩnh Vạn, Hoàng thúc lo lắng hỏi thăm:
- Vậy ông già Trịnh và cô con gái có bị thương nhiều không?
- Cũng không có gì đáng gọi là thương nặng. Chỉ có điều tối hôm qua bị bọn cướp trói chặt, cả người đau ê ẩm nên vẫn còn rên rỉ.
Nghe nói đến ông già họ Trịnh, Lý công tử không giấu nổi ngạc nhiên, nói thêm:
- Cho đến khi chúng tôi về đến đây thì cô con gái đã về nhà; chỉ có ông già ở lại, nói là có lời muốn thưa với quan huyện.
Tiêu Vĩnh Vạn đã quen thân với ông già họ Trịnh từ lúc nào, nên hình như biết rõ nội dung việc này, bèn nói thêm:
- Có lẽ ông già họ Trịnh muốn xin bày tỏ lòng biết ơn đối với quan huyện cũng như với Hoàng thúc chúng ta.
Cả Hoàng thúc lẫn Lý công tử đều gật đầu tỏ vẻ đồng ý với lời nhận xét đó của Tiêu Vĩnh Vạn.
Bao sự việc phức tạp, éo le trong ngày đều được báo cáo với Hoàng thúc. Mọi người đều mải mê nên thời gian qua nhanh mà không biết.
Trong nhà khác, đã đến giờ ăn cơm.
Cơm nước xong được một lúc thì quan huyện cùng với ông già họ Trịnh đến thăm. (Ngày hôm ấy, quan huyện ngồi ở huyện đường trực tiếp chỉ huy việc điều tra rành mạch vụ án của Trương thừa lại và hành vi cướp biển của bọn Chu Nhật Thường. Đặc biệt quan huyện đã ra nghiêm lệnh đối với những việc có liên quan đến Trương thừa lại, dù việc nhỏ đến đâu cũng không được bỏ qua. Bởi vậy đến tối, toàn bộ vụ án cũng như tất cả tội ác của chúng đã được lôi ra ánh sáng. Trương thừa lại thú nhận mấy năm qua hắn đã dùng đủ mọi mánh lới để lừa đảo, chiếm đoạt nhiều tài sản của ông già họ Trịnh. Chắc chắn kỳ này, các tài sản bị cướp đi của ông già sẽ được trả lại).
Hoàng thúc vội bước ra sân đón quan huyện và ông già họ Trịnh.
Ánh trăng sáng vằng vặc như ban ngày. Nhà khách do có khách quý nên bên dưới vòm mái cong bốn góc nhà, những chiếc đèn lồng xanh thắp sáng rực rỡ đã được treo lên để làm tăng thêm sự trân trọng.
- Xin chào quan huyện, quan huyện đến thăm như thế, làm chúng tôi xúc động quá. Hôm nay quan huyện rất vất vả. Xin mời quan huyện ngồi chỗ này.
- Không có gì đâu ạ. Để Hoàng thúc phải chờ lâu như thế này, thật lấy làm áy náy. Nhờ ơn quý vị, đã quét sạch được bọn cướp, do đó trăm họ nơi đây từ nay sẽ được sống trong thái bình yên ổn.
Hoàng thúc tỏ vẻ khiêm nhường nói:
- Quan huyện quá khen, chúng tôi đâu dám nghĩ thế.
Hai người vừa chào hỏi nhau xong, thì ông già họ Trịnh bèn cúi sụp người xuống trước mặt Hoàng thúc, vái chào:
- Hoàng thúc đã cứu sống bố con tôi, tôi biết lấy gì để đền đáp công ơn trời biển đó.
Hoàng thúc hết sức bối rối, vội đỡ ông già họ Trịnh dậy.
- Thưa lão trượng, lão trượng dạy có điều không phải. Có lẽ mọi việc đều nhờ công lao đức cả của quan huyện, nhờ thần linh, đất trời phù hộ cho.
Quan huyện rất cảm phục phẩm đức khiêm tốn cao cả đó của Hoàng thúc.
- Tôi xin có lời muốn nói với Hoàng thúc. Chả là ông cụ già họ Trịnh này có lời thỉnh cầu với bản quan xin được đón Hoàng thúc và cả đoàn lữ hành về ở tại nhà mình. Vì vậy mới mời Trịnh lão nhân cùng tôi đến đây.
Hoàng thúc đã nghĩ rồi. Làm sao chỉ vì một chút may mắn cứu được bố con ông lão mà lại đưa hơn hai mươi người đến ở nhà ông, gây bao phiền hà cho gia đình ông, đó là điều không nên làm.
Nghĩ vậy, Hoàng thúc quay về phía ông già họ Trịnh, nói với vẻ chân thật:
- Xin lão trượng đừng lo lắng gì cho chúng tôi. Chúng tôi có được sống trên đất nước của quý quốc hay không vẫn còn là điều chưa được định rõ. Thời gian qua, ở trong nước ra đi, chúng tôi cũng mang thu được ít nhiều tài sản, đủ để bù đắp cho chi dùng ở nhà khách này. Mặt khác, hơn hai mươi tráng đinh kia còn có một chiếc thuyền, họ có thể dùng thuyền đó đi làm thuê làm mướn hoặc đi đánh cá, chẳng lẽ không đủ sống sao.
Nhìn thấy thái độ không lay chuyển của Hoàng thúc, ông già họ Trịnh buồn bã nhìn quan huyện, ánh mắt ông già họ Trịnh đượm vẻ van vỉ.
Quan huyện hiểu được tấm lòng khiêm tốn của Hoàng thúc, và cũng hiểu được mong muốn thiết tha của ông già họ Trịnh. Ông nghĩ nên khuyên Hoàng thúc một lần nữa:
- Hoàng thúc ạ, bản quan cũng nghĩ như vậy và cũng đã nhiều lần nói lời khuyên nhủ với ông già họ Trịnh về việc muốn giữ Hoàng thúc ở lại. Nhưng tình hình nhà cửa ông già họ Trịnh lại đòi hỏi Hoàng thúc và đoàn tùy tùng phải thiết lưu lại ở đó. Trước hết, một ngôi nhà to rộng như thế mà chỉ có hai người ở nên không những cảm thấy quanh hiu mà sau khi xảy ra vụ bắt cóc như vậy, lại càng lo sợ không dám ở. Còn tất cả những chi phí ở nhà khách mà Hoàng thúc vừa nói đến, thì bản huyện sẽ chu cấp, mong Hoàng thúc đừng lo lắng. Mặt khác, nhà ông già họ Trịnh lần này cũng thu được nhiều ruộng đất, nhưng không có người trông coi, người làm. Do vậy, nếu Hoàng thúc và các tráng đinh ở lại nhà đó, thì càng thuận lợi cho ông già họ Trịnh. Mong Hoàng thúc đừng nghĩ gì khác mà hãy chấp nhận lời mời của ông cụ.
Tiêu Vĩnh Vạn ngồi cạnh tỏ ý muốn chấp thuận. Ông già họ Trịnh lấy tay bấm bấm vào chân Tiêu Vĩnh Vạn. Quan huyện liếc nhìn thấy cảnh tượng ấy nháy mắt ra hiệu cho Tiêu Vĩnh Vạn. Tiêu Vĩnh Vạn biết là quan huyện nhìn mình và muốn bảo hãy thêm lời khuyên Hoàng thúc.
- Thưa Hoàng thúc, ngài quan huyện và cụ già họ Trịnh nói đúng đấy ạ. Tất nhiên chúng ta ở lại tại nhà khách này cũng tốt. Nhưng nếu vậy thì huyện đường phải cử lính đến nhà cụ Trịnh để bảo vệ. Mặt khác, quan huyện với tấm lòng ưu ái đã dùng kinh phí nhà nước để trả cho nhà khách. Làm cả hai việc cùng một lúc như vậy, huyện nhà chẳng phải sẽ khó khăn thêm hay sao. Chi bằng chúng ta chỉ mượn tạm nhà cụ Trịnh để ở, còn việc ăn uống và chi dùng khác, chúng ta sẽ tự lo lấy, có lẽ là thượng sách đấy ạ.
Hoàng thúc cũng cho ý kiến của Tiêu Vĩnh Vạn là đúng song còn nghĩ đến ở như vậy có vẻ quá lúi xùi, nên vẫn cố suy nghĩ thêm.
Lý công tử cũng đứng về phía Tiêu Vĩnh Vạn nói thêm vào:
- Thưa Hoàng thúc, quan huyện cũng đã có lời phân trần. Hạ cấp nghĩ rằng đó là phương sách tự sống tốt nhất giúp chúng ta có thể sống được mà không phải gây nhiều phiền hà cho cụ Trịnh và quan huyện.
Hoàng thúc vẫn còn như đang suy nghĩ điều gì, chưa trả lời.
Quan huyện cho đây là dịp tốt, bèn khuyên thêm:
- Thưa Hoàng thúc, ý kiến của các vị ở đây đã như vậy, lời mời của ông lão Trịnh cũng hết sức tha thiết. Mong Hoàng thúc hãy tạm như vậy đã.
- Vẫn biết thế…
Ông lão Trịnh nghe Hoàng thúc nói vậy, đoán biết Người đã có phần xiêu lòng, bèn ngồi dịch lại phía trước nói:
- Thưa Hoàng thúc, lời thỉnh cầu của lão nhân, thế nào cũng mong Hoàng thúc chấp nhận cho. Hoàng thúc mà chấp nhận cho lời thỉnh cầu này của lão, coi như Hoàng thúc đã cứu sống bố con lão một lần nữa. Nếu không được như vậy, ngày mai bố con lão đành phải bỏ hết tất cả gia cơ tài sản, rời khỏi xứ này.
Sự việc đã đến nước này, Hoàng thúc dường như không còn cách nào khác.
- Quan huyện cũng như các vị đã có lời như thế, và tình hình của Trịnh lão trượng nếu quả thực như vậy, thì hãy theo như lời Tiêu đại nhân. Chúng ta sẽ chỉ mượn tạm nhà một thời gian và đến lưu lại ở đó.
Được Hoàng thúc chấp thuận, cả quan huyện và ông già họ Trịnh đều tỏ vẻ vui mừng hẳng lên.
Ông già Trịnh không giấu nổi niềm sung sướng, đưa mắt nhìn khắp lượt tất cả các vị đang ngồi, cúi rạp người xuống nói:
- Xin cảm ơn đức quan huyện. Bản nhân biết lấy gì để đáp ơn đức này. Bản nhân muốn nói thêm mấy lời tạ lễ nữa, nhưng ở nhà chỉ có một mình cháu gái, nên mạn phép xin về trước trông coi cửa nhà. Xin các vị thứ lỗi cho.
- Đâu dám. Xin mời lão trượng về trước trông nom nhà cửa.
Trong khi mọi người đứng dậy để tiễn ông già họ Trịnh, thì Tiêu Vĩnh Vạn, vốn biết được tình hình nhà ông, bèn thỉnh cầu Hoàng thúc:
- Thưa Hoàng thúc, nhà lão Trịnh rất vắng vẻ quạnh hiu, xin Hoàng thúc cho phép cắt ba tráng đinh ra ở trước.
- Tiêu đại nhân liệu thu xếp cho tốt.
Theo lệnh của Hoàng thúc, các tráng đinh đang ở trong phòng khách đã đưa ông già họ Trịnh về nhà.
Sau khi ông già họ Trịnh đi rồi, mọi người quay về ngồi lại trong phòng.
Quan huyện đưa mắt nhìn khắp một lượt Hoàng thúc, Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử.
- Sáng ngày mai, tôi phải lên kinh thành xem sao.
Nghe câu nói bất ngờ, mọi người ngồi đó đều rất ngạc nhiên. Hoàng thúc tỏ vẻ lo lắng:
- Chẳng hay quan huyện có việc gì phải lên kinh thành đột ngột đến vậy?
Quan huyện hiểu được nỗi lòng lo lắng của Hoàng thúc, bèn nói:
- Trước hết, cần nhanh chóng tâu lên triều đình việc của Hoàng thúc, để Hoàng thúc sớm ổn định mọi bề. Còn một việc khác nữa, đó là Chu Nhật Thường đã có những hành vi cướp biển, nay đã bị bắt giam. Trong số những người bị hắn hãm hại có một người thuộc trong số những nhà buôn lớn sống ở kinh thành. Phải xử lý nhanh chóng vụ này mới có thời gian để vui cùng Hoàng thúc.
Hoàng thúc cảm ơn tấm lòng chân thật của quan huyện. Người trịnh trọng đáp:
- Để quan huyện phải bận tâm thế này thật là không phải. Không sống được ở nước mình nên chúng tôi mới phải lưu vong sang đây. Chúng tôi đã được quan huyện đối xử hết sức ân cần.
Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử đều cúi đầu cảm tạ quan huyện.
Lúc này Minh Nguyệt bước vào xin được bưng mâm rượu vào. Mọi người đều ngồi dịch ra phía sau, chừa khoảng trống ở giữa.
Mâm rượu được đưa vào. Trên chiếc bàn tròn lớn thấp chân được làm bằng gỗ tử đàn, một thứ gỗ quý màu đỏ tía, bày đủ các thứ nhắm được đựng trong những chiếc đĩa sứ đầy màu sắc. Hoàng thúc và quan huyện ngồi đối diện với nhau, giữa là bàn bày đầy rượu và nhiều thức nhắm thơm ngon. Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử ngồi hai bên.
Tiếp theo sau, ba cô quan kỹ bước vào. Các cô cúi đầu sát đất vái chào.
- Tiểu nữ là quan kỹ, tên gọi là Thu Nguyệt ạ.
Thu Nguyệt khép nép đứng dậy, đến ngồi bên cạnh quan huyện, rút chiếc quạt ở thắt lưng ra quạt phe phẩy cho quan huyện.
- Tiểu nữ là quan kỹ, tên gọi Hạ Nguyệt ạ.
Hạ Nguyệt cúi chào đến ngồi bên cạnh Lý công tử.
- Tiểu nữ tên là Hương Lan ạ.
Hương Lan đến ngồi bên cạnh Tiêu đại nhân. Các cô đào lần lượt ngồi xuống mỉm cười, lấy quạt phe phẩy các vị khách, trông thật dịu dàng dễ mến.
Một tiểu đồng trong quán khách mang một chiếc bình đựng rượu bằng bạc ra. Minh Nguyệt cầm lấy bình rượu, theo thứ tự rót đầy vào các chén bạc cho Hoàng thúc, quan huyện và các vị khác xong cất lời mời:
- Xin mời Hoàng thúc dùng ngự tửu.
Quan huyện cầm chén rượu của mình lên, nhìn Hoàng thúc và mọi người đang ngồi.
- Chà, chúng ta hãy uống vui với nhau một chén đi.
Mọi người đều cầm rượu lên uống. Hoàng thúc và quan huyện chén thù chén tạc mới nhau được mấy tuần, người bắt đầu chếnh choáng hơi men. Lý công tử sau khi uống được mấy chén mới thưởng thức được hết hương vị.
- Chà, rượu này có hương vị thật là thơm ngon. Chẳng hay là rượu gì vậy?
Hạ Nguyệt ngồi bên cạnh mỉm cười đáp:
- Thưa, rượu này là loại rượu nổi tiếng của Cao Ly, pha chế bằng nhân sâm đấy ạ.
Thu Nguyệt cười tủm tỉm:
- Lý công tử sao quá vô tình. Rượu ngon thế mà nỡ ngồi im lặng uống một mình, chả cho Hạ Nguyệt ngồi bên được một chén.
Mọi người trong cuộc vui đều vỗ tay cười ồ và mời rượu các quan kỹ ngồi cạnh mình.
Lúc này Minh Nguyệt đưa bàn tay nhỏ nhắn ra cầm chén rượu nâng lên nói với Hoàng thúc:
- Thưa Hoàng thúc, xin cho phép tiện nữ mời Hoàng thúc một chén theo kiểu "cấu vào mạng sườn nhắc nhẹ để xin được một lời chào ạ".
- Cuộc gặp gỡ hôm nay rất vui, tôi đã uống nhiều rồi.
Minh Nguyệt cầm chén rượu kề lên môi Hoàng thúc, tay trái đưa ra giữ bờ môi bên dưới như sợ có giọt rượu nào rơi xuống.
Một chén rồi hai chén, rượu mời nhau đã uống được mấy tuần. Mọi người trong cuộc đều có vẻ đã say.
Quan huyện ngồi dựa vào Thu Nguyệt, đưa mắt nhìn Hạ Nguyệt đang ngồi canh Lý công tử nói:
- Hạ Nguyệt này, hãy hát một bài hát thật đặc sắc cho vui nào.
Hạ Nguyệt đột nhiên đứng dậy. Hai cánh tay đưa lên rồi lại chống xuống đất, giống như đám lính trong nhà các quan mỗi lần bẩm báo với quan trên.
- Lệnh của đức quan huyện, tiện nữ đâu dám không tuân. Tiện nữ dù thân phận hèn mọn cũng xin hát một bài để mua vui.
Quan huyện và cả những người ngồi trong cuộc đều ôm bụng phá lên cười.
Hạ Nguyệt vờ như không biết.
- Minh Nguyệt này, mày đánh trống nhá!
- Ừ.
- Thu Nguyệt này, mày gảy đàn thập lục nhá!
- Ừ.
- Hương Lan này, mày mời rượu các quý khách nhá!
- Dạ xin tuân lệnh. Tiểu nữ xin cố gắng ạ.
Mọi người lại vỗ tay cười phá lên trước màn hài kịch ngắn của Hạ Nguyệt.
Các cô quan kỹ, ai theo việc của người ấy.
Người đánh trống, người đặt đàn thập lục lên đầu gối so dây.
Đêm đã khuya, gần đến giờ tý. Mặt trăng trung tuần tháng sáu, treo lơ lửng trên đầu chòm sao Chu tước trên núi Lam sơn.
Tiếng trống, tiếng đàn so dây chưa hòa quyện được vào nhau, tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp.
Những ngọn đèn nến được thắp sáng cầm trên các đế đèn cao lêu nghêu đặt bốn góc, lặng lẽ cháy tỏa sáng khắp gian phòng. Chỉ có những sinh vật nhỏ bé khờ khạo như những con hù du, con thiêu thân là dám liều lĩnh bay vào phòng, chao đảo đập cánh vào ngọn nến và cháy vèo rơi xuống. Các tiểu đồng rộn ràng chạy vào nhặt xác của chúng vất ra ngoài.
Minh Nguyệt và Thu Nguyệt dáng chừng đã sẵn sàng, đang chờ Hạ Nguyệt cất tiếng hát.
Hoàng thúc muốn nghe bài hát của nước Cao Ly, bèn mời Hạ Nguyệt một chén rượu.
- Này, nàng hãy uống đi. Uống vào người lâng lâng tiếng hát càng say đắm.
- Thưa Hoàng thúc, tiểu nữ đâu dám. Nhưng nếu người say thì tiếng hát cũng say theo rượu, khó lên xuống những đỉnh cao réo rắt cung theo bậc ạ.
Mọi người trong cuộc lại một lần nữa phá lên cười vui vẻ trước những lời đối đáp của Hạ Nguyệt. Nhưng nàng vờ như không biết, và bắt đầu hát theo tiếng đàn réo rắt đệm theo.
"Núi Việt Thanh muốn thuở một màu xanh,
Nước sông Thê Anh lững lờ trôi về nơi đâu,
Trăng ơi, dù trăng khi khuyết khi tròn,
Vẫn lặng lẽ xoay vần ngàn vạn năm không thay đổi,
Cảnh sắc giang sơn một dải bao la vô tận,
Đời người ngắn ngủi như kiếp phù du,
Chiếc thuyền câu thấp thoáng nơi cửa lạch,
Buồn thương thay Vạn Tích em ơi,
Đứa tiểu đồng trong trắng ngây thơ…"
Tiếng hát của Hạ Nguyệt hòa theo tiếng nhạc, vang lên khắp gian phòng, đã làm thổn thức tâm can các bậc trượng phu ở đây, càng gợi lên nỗi mong nhớ quê hương tha thiết trong lòng Hoàng thúc. Tối hôm ấy mọi người mải vui với nhau đến quá khuya, không biết thời gian trôi qua từ lúc nào. Ngày hôm sau quan huyện khởi hành lên kinh đô.
Sáng hôm sau, Hoàng thúc ngủ dậy muộn, Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn dậy từ sớm, đang chờ Hoàng thúc thức giấc.
Bên cạnh giường, Minh Nguyệt đang đổ mồ hôi, lặng lẽ cầm quạt phe phẩy cho Hoàng thúc đang mệt nhọc chìm trong giấc ngủ.
Ông già Trịnh hôm nay mời mọi người ăn cơm ở nhà mình, nên định sẽ đưa toàn bộ số tráng đinh còn lại trong nhà khách về hết nhà mình. Còn đối với Hoàng thúc, chờ đến khi ngủ dậy sẽ rước bằng kiệu bốn người khiêng do huyện cấp về tại gian ngoài của nhà mình nay được dùng làm thư phòng.
Hoàng thúc đã thức dậy, nhưng Minh Nguyệt vẫn ngồi cạnh giường quạt mát cho Hoàng thúc.
- Chà, nàng vất vả quá.
- Dạ không ạ. Hoàng thúc chắc mệt. Xin mời Hoàng thúc uống ngụm nước lạnh cho mát.
Minh Nguyệt lấy hai tay bưng bát nước đã lấy sẵn từ lúc nào đưa lên Hoàng thúc. Người lặng lẽ không nói gì, cầm lấy bát nước uống một hơi, cảm thấy tinh thần sảng khoái.
- Chà, thật là hay! – Người vừa nói vừa ngồi dậy.
Lý công tử, Tiêu Vĩnh Vạn và ông già họ Trịnh đều đến vấn an Hoàng thúc.
- Hoàng thúc đêm qua ngủ có ngon giấc không ạ.
Hoàng thúc nhìn ông già họ Trịnh, vui vẻ chào:
- Lão trượng đã đến, quý hóa quá.
Người quay sang nhìn Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử mỉm cười. Người vặn mình vươn vai rồi nói:
- Tối hôm qua say quá.
Minh Nguyệt mỉm cười nói:
- Hoàng thúc bảo uống rượu quá say, chứ thức ra mấy đêm nay Hoàng thúc ngủ không được yên giấc nên cảm thấy trong người lao đao vậy thôi. Quan huyện sai đưa Hoàng thúc lên giường nằm, tiện nữ phải nhờ Lý công tử và Tiêu đại nhân giúp sức mới đưa được Hoàng thúc lên giường.
- Thế vậy ư, tôi thật thất lễ nhiều. Chắc là còn gây ra nhiều điều không được đẹp mắt khác đối với quan huyện.
- Không phải thế đâu ạ. Hoàng thúc là người có nhân phẩm cao quý, dù say thế nào chăng nữa cũng không thể nào có những việc như vậy.
Lý công tử nói:
- Thưa Hoàng thúc, chúng ta phải đến ngay nhà cụ Trịnh ạ. Ông lão đã thân hành đến chờ chúng ta. – Nói đoạn quay sang nhìn ông già họ Trịnh.
Hoàng thúc nói vẻ nghiêm chỉnh:
- Phiền Trịnh lão trượng nhiều quá.
Trước lời nói ôn tồn đó của Hoàng thúc, ông già họ Trịnh đáp:
- Nhà cửa của lão sợ quá lụp xụp, các vị sang đấy chỉ sợ không được thoải mái.
Minh Nguyệt mang áo lại cho Hoàng thúc và nói:
- Nhà cụ Trịnh là ngôi nhà to nhất trong xứ huyện này đấy ạ, trông trang nhã và đẹp hơn nhiều so với nhà khách này.
Sau đó, Hoàng thúc và đoàn tùy tùng cũng theo ông già họ Trịnh đi về phía ngôi nhà ở chân núi Hoa Sơn.
Ngôi nhà này do ông cụ tổ ba đời của ông già họ Trịnh, làm đến chức Đại tư hiến, nhưng đã treo ấn từ quan về định cư ở đây xây dựng nên. Đây là ngôi nhà ngói lớn gồm hơn một trăm gian. Phía trước phía sau nhà đều có vườn trồng các loại hoa cỏ đủ mầu sắc, tạo nên cảnh trí tuyệt vời.
Ông già họ Trịnh và cô con gái sống ở gian chính giữa. Nhưng mấy năm gần đây, do số chẳng may, gia đình ông đã liên kết với Trương thừa lại, vay tiền của hắn để đi đánh cá ở biển Vĩnh Bình nhưng năm nào cũng thua thiệt, phải bán sạch cả đất đai ở quanh nhà. Có lẽ những thua thiệt trong làm ăn đã là nguyên nhân dẫn đến nông nỗi này. Cứ mỗi lần đưa thuyền ra biển đánh cá là biệt tích tăm hơi, không bao giờ còn thấy thuyền trở về. Đây chính là mưu gian của bọn Chu Nhật Thường và Trương thừa lại, chúng đã bí mật tung bọn cướp biển ra bắt các thuyền đánh cá này. Bị mắc vào mưu gian đó, nợ nần mỗi ngày một chồng chất ngay cả ngôi nhà này cũng lọt vào tay Trương thừa lại, đến nỗi ông già họ Trịnh không còn chỗ nương thân.
Bọn chúng đã dồn ông già vào chỗ khốn cùng rồi mà vẫn thấy chưa đủ, lại còn bắt cóc cả hai bố con ông. Cũng may đất trời phù hộ, nên Hoàng thúc đã cứu được bố con ông. Đã gặp may lại được thêm phúc – quan huyện đã đòi lại tài sản bị bọn Trương thừa lại và Chu Nhật Thường cướp đi và trả lại cho ông. Do vậy, công ơn của Hoàng thúc đối với hai bố con ông là công ơn trời biển, không sao nói hết được bằng lời.
Ông già họ Trịnh mời Hoàng thúc và Lý công tử cùng Tiêu đại nhân ở tòa chính điện, còn hai mươi tráng đinh thì cho chia nhau ra ở trong các phòng. Chỉ riêng một tòa chính điện đã có ba phòng lớn, nên Hoàng thúc ở thoải mái. Hoàng thúc định rước các bài vị của các đại vương thuộc tám đời vua nhà Lý cùng các đồ tế lễ vào trong thảo đường ở phía sau nhà ông già họ Trịnh.
Đã lâu lắm, nay mới có dịp chỉnh đốn lại bài vị của các tổ tiên và các đồ tế lễ, nỗi nhớ thương cố quốc càng trào dâng mãnh liệt trong lòng Hoàng thúc. Mảnh đất của cố quốc quê hương xiết bao thương nhớ mãi mãi không bào giờ có thể quay lại được nữa, càng cố quên đi bao nhiêu, càng nhớ thương da diết bấy nhiêu. Không những vợ con yêu dấu mà còn cả bao nhiêu sự việc của những ngày qua lại hiện lên rõ nét trong tâm trí Hoàng thúc.
Những giờ phút cuối cùng rời cố quốc đi trên cửa biển Thuận Hóa, hình ảnh Ngô Anh Cơ đau khổ khóc than thảm thiết… những ký ức đó càng sống lại bao nhiêu càng làm cho trái tim của Hoàng thúc như thắt lại bấy nhiêu.
Ông già Trịnh, Lý công tử cũng như Tiêu Vĩnh Vạn, ngày nào cũng tìm hết cách an ủi Hoàng thúc, nhưng nỗi nhớ thương da diết ấy trong lòng Người vẫn không nguôi quên được chút nào.
Có một điều luôn luôn vấn vương trong tâm trí của Hoàng thúc. Đó là sự lạ lùng không sao cắt nghĩa nổi về người con gái của ông già họ Trịnh sao lại giống nhau như hai giọt nước với Ngô Anh Cơ, người con gái đã nặng lòng lưu luyến chia tay Hoàng thúc ở Thuận Hóa, mảnh đất nơi phương nam của tổ quốc thân yêu.
"Làm sao nàng lại giống Ngô Anh Cơ làm vậy? Hay nàng chỉ là một ảo ảnh của Ngô Anh Cơ mà ta đã tưởng lầm?" Hoàng thúc tự nhủ thầm trong lòng như vậy. Nếu triều đình Cao Ly cho phép ta được định cư vĩnh viễn nơi đây thì hay biết bao… Chỉ hiềm một nỗi quan huyện đã lên kinh đô năm, sáu ngày mà vẫn chưa thấy về, không thể không lo lắng.
Hoàng thúc đang phải sống những ngày buồn tẻ và chờ đợi tin tức tốt lành do quan huyện mang về. Có một đêm, Hoàng thúc ra thăm thảo đường, nơi đặt các đồ thờ cúng.
Thảo đường tuy đơn sơ nhưng các bài vị của các bậc đại vương qua các đời đã trị vì hơn 220 năm hoàng quốc Đại Việt được rước về đây, và các đồ tế lễ được xếp đặt ngay ngắn, nên trông cũng trang nghiêm. Các ngọn nến được thắp lên, gian phòng rực sáng.
Hoàng thúc không nén được nỗi đau thương trong lòng òa lên khóc nức nở. Tiếng khóc đau thương của Hoàng thúc xuyên qua màn đêm vang ra bên ngoài.
Phía nam của thảo đường này còn có một thảo đường khác nhỏ hơn, dùng làm phòng học của Anh Cơ, con gái ông già họ Trịnh. Anh Cơ năm nay hai mươi tuổi. Tại thảo đường này, nàng đã được bố dạy học chữ, học đàn nhạc và thư nghệ. Nhưng, mấy năm qua, gia sản bị khánh kiệt, nên việc học hành cũng bị bỏ dở. Nay, sau khi thu hồi lại được tất cả tài sản, Anh Cơ bắt đầu học chữ trở lại.
Đang ngồi đọc sách, Anh Cơ bỗng nghe văng vẳng bên tai tiếng khóc đau buồn nức nở của Hoàng thúc.
"Chao ôi, tội nghiệp cho Hoàng thúc quá".
Anh Cơ không ngăn được nỗi xót thương trong lòng, đã gấp sách lại, cầm lấy đàn thập lục gảy nên khúc nhạc bi ai.
"Chàng ơi đừng khóc làm chi,
Nếu chàng mà khóc, thiếp thì khóc theo.
Chàng mà mang thiếp lên trời,
Về nơi mẹ thiếp một đời ngàn thu."
Những điệu nhạc buồn da diết đó vang lên khiến cho những con chim đang ngủ cũng cất cánh bay, và anh linh của các bậc đại vương qua tám đời của nước Đại Việt dường như cũng đang thổn thức.
Hoàng thúc đang suy sụp, lạy than và khóc trước bàn thờ bỗng lắng tai nghe tiếng đàn thập lục từ đâu vọng đến.
Tiếng đàn nghe lạ lùng lắm. Có phải các bậc thần tiên đang cố ý chế giễu ta hay an ủi ta đây. Miên man trong niềm suy nghĩ đó, Hoàng thúc lặng lẽ rón rén bước ra ngoài của, tìm đến nơi có tiếng đàn lạ lùng kia.
Người bước đi một bước, rồi hai bước… cuối cùng đã đến trước gian thảo đường nho nhỏ.
Nhìn vào mới biết, bên trong thảo đường là một mỹ nhân đẹp như tiên, đang vừa đàn vừa hát.
"Nếu chàng mà khóc thiếp thì khóc theo…"
Lời hát ấy chính là lời an ủi ta. Nhìn vào bên trong thảo đường qua khe cửa mở… Chao ôi, nàng không phải là ai khác mà chính là Ngô Anh Cơ của tổ quốc.
Nhưng định thần lại, Hoàng thúc thấy đó chỉ là ảo giác, Anh Cơ làm sao có thể đến được nơi vạn lý tha hương này!
Hoàng thúc nhìn kỹ vào bên trong nhà, quả là Ngô Anh Cơ không sai. Những giọt lệ như những giọt châu đang lăn trên má nàng. Những âm thanh trầm bảng vẫn tiếp tục.
"Chàng mà mang thiếp lên trời…"
"A, Anh Cơ…!". Hoàng thúc bỗng dang rộng hai tay khóc òa lên.
Nghe bên ngoài có tiếng động, người con gái lặng lẽ đứng lên đưa mắt nhìn ra mới biết là Hoàng thúc.
- Thưa Hoàng thúc, xin Hoàng thúc đừng quá buồn phiền.
- A, Anh Cơ sao thế?
Cố nhiên Anh Cơ không hề biết gì về chuyện quá khứ giữa Hoàng thúc và người con gái có tên Anh Cơ khi Người giã từ tổ quốc ra đi. Còn Hoàng thúc, người đã cứu thoát hai bố con nàng sau lần gặp mặt ngắn ngủi đầu tiên, đã cảm thấy có sự xúc động khác thường, và sau đó, qua những người gia đình mới được biết tên nàng.
Người con gái lặng lẽ bước ra ngoài vui vẻ đón chào.
- Xin mời Hoàng thúc vào nhà. Đây là phòng học của tiện nữ ạ.
Đến lúc này Hoàng thúc mới bình tĩnh khỏi cơn hoang tưởng, nhưng đã quá muộn. Cô con gái ông già họ Trịnh mà Người đã nhìn thấy một lần hôm nào chính là đây. Hoàng thúc cũng biết phong tục tập quán của nước Cao Ly "nam nữ hữu biệt", thế mà lại bất chấp lễ giáo, đang đêm đường đột tìm đến thư phòng người con gái thì sao cho tiện. Thế nhưng Hoàng thúc với một mối tình bị dồn nén trong nỗi cô đơn và đau buồn, vẫn mang trong lòng mình một niềm hoan tưởng đối với Ngô Anh Cơ ở đất Thuận Hóa. Người nhìn Trịnh Anh Cơ, hiện thân của niềm hoan tưởng đối với mảnh đất cảu tổ quốc mà không sao có thể quay gót bỏ đi.
Trịnh Anh Cơ lặng lẽ cúi chào.
- Công ơn cao dày của Hoàng thúc đã cứu sống bố con tiện nữ, tiện nữ tha thiết mong có dịp được gặp và thưa với Hoàng thúc một lời tri ân, nhưng vì "nam nữ hữu biệt" nên không gặp được, mãi đến hôm nay, nhờ ơn trời đất, tiện nữ mới được gặp, thật lấy làm áy này trong lòng.
Hoàng thúc nhìn Anh Cơ:
- Nàng ơi, nàng nói gì vậy. Chính chúng tôi mới là những người không biết xấu hổ, đã đến xin nhờ vả gia đình nhà ta, thực là không phải.
Anh Cơ vội vã đỡ lời:
- Thưa Hoàng thúc, xin Hoàng thúc đừng nghĩ như vậy.
Hoàng thúc nhớ ra rồi, tên người con gái này hình như là Anh Cơ. Nhưng Hoàng thúc vẫn muốn xác nhận lại.
- Tên nàng là…?
- Hoàng thúc mà chế giễu tiện nữ, tiện nữ chẳng thích đâu. Chẳng phải Hoàng thúc đã từng gọi tiện nữ là Anh Cơ đó sao.
Hoàng thúc gật đầu. Song người cảm thấy không thể thổ lộ với người con gái trong trắng ngây thơ này về những ngày đau thương đã qua của bản thân mình. Người vờ như không biết:
- Thế mà tôi…
Người lặng nhìn người thiếu nữ với thái độ nghiêm trang. Dáng của nàng sao mà giống Ngô Anh Cơ như hai giọt nước, đến cả tên gọi cũng giống, thật lạ lùng và cũng thật đáng yêu.
- Hoàng thúc sống trong cảnh cung cấm thềm cao chín bậc, có lẽ không biết đến cuộc sống dân dã; nay đến ở trong căn nhà thấp hèn của bố con tiện nữ chắc là khổ lắm ạ.
Hoàng thúc nhìn xuống đất im lặng. Anh Cơ nghĩ có lẽ mình đã lỡ lời khiến Hoàng thúc buồn lòng:
- Thưa Hoàng thúc, tiện nữ xin dạo một khúc để Hoàng thúc giải khuây.
Anh Cơ đặt chiếc đàn thập lục lên đầu gối và bắt đầu dạo. Đây là khúc nhạc diễn tả cảnh các nam nữ tay nắm tay xô kéo nhau. Vốn có sức tưởng tượng trời phú, Hoàng thúc có cảm giác như đôi vai đang rung lên, hai tay choàng ra phía trước cùng với đôi chân nhún nhảy theo điệu múa, trong lòng rộn lên niềm xúc động muốn ôn cô gái vào lòng.
- Bài này thuộc khúc điệu nào thế?
- Đây là khúc nhạc "Dương tản đạo" ạ.
- Chao ôi điệu này hay quá.
- Ai nghe khúc nhạc này đều có thể quên hết mọi nỗi ưu phiền ngang trái trên cõi đời.
- Nàng bảo tôi nếu nghe điệu nhạc này sẽ quên hết mọi điều. Nhưng mà…
Nhìn Hoàng thúc vẻ đăm chiêu tư lự, lời nói ngập ngừng, người con gái cảm thấy ái ngại.
- Nhưng mà có điều gì đó nữa, sao Hoàng thúc chưa nói ạ?
Hoàng thúc hơi có vẻ lưng túng.
- À… không có gì.
Hoàng thúc muốn có Anh Cơ ngồi bên cạnh gảy đàn, nhưng đã cố ghìm lại, không nói ra lời. Còn Anh Cơ thì lại nghĩ theo các của mình, muốn nghe những lời không được thổ lộ của Hoàng thúc.
- Vậy tiện nữ xin gảy một khúc nhạc nữa để Hoàng thúc nghe. Nhưng mà Hoàng thúc phải nói cho tiện nữ được biết những điều Hoàng thúc đang giấu kín trong lòng. Nếu không, tối hôm nay tiện nữ sẽ không sao chợp mắt được.
Anh Cơ lại dạo thêm một khúc nữa.
- Hoàng thúc ơi, sau này có gì Hoàng thúc cũng nói cho tiện nữ được biết với nha.
Anh Cơ ngồi bên cạnh gảy đàn cho tôi được nghe khúc nhạc đó, thì tôi sẽ quên hết mọi ưu phiền, và hạnh phúc biết bao!
Anh Cơ nghe câu nói đó, mặt đỏ bừng, không nén nổi những xúc động trong lòng. Như được tiếp thêm sức mạng, Anh Cơ bạo dạn nói:
- Xin cảm ơn Hoàng thúc. Tiện nữ muốn được gảy khúc nhạc này bên cạnh Hoàng thúc trong suốt cả cuộc đời mình.
Tiếng nói run run của Anh Cơ tràn đầy tình cảm mãnh liệt. Trong phút giây như tỉnh như say, Hoàng thúc dương như đã mất lý trí, lấy tay vuốt lên lưng Anh Cơ.
- Chao ôi, nếu Anh Cơ ở bên cạnh tôi suốt đời thì tôi có thể quên đi tất thảy.
- Hoàng thúc ơi…
Nhưng Hoàng thúc lòng vẫn còn nặng trĩu mối lo âu. Nếu quan huyện tâu lên triều đình mà triều đình không cho phép thì biết làm thế nào. Nghĩ vậy, Hoàng thúc bèn đáp:
- Nhưng mà…
Hoàng thúc không nói được nữa, chỉ biết im lặng thở dài.
Anh Cơ nhìn dáng điệu của Hoàng thúc, càng chạnh lòng thương mến:
- Hoàng thúc ơi, đã thưa sẽ xin đi theo cùng Hoàng thúc suốt đời, vậy thì còn ngại điều gì trắc trở?
Anh Cơ nói như tha thiết van nài.
- Tôi rất hiểu tấm lòng đáng trân trọng của Anh Cơ. Nhưng nhỡ triều đình ra lệnh cho tôi không được sống ở nơi đây thì… …
Anh Cơ ngả người vào đầu gối của Hoàng thúc, khóc nức nở:
- Hoàng thúc ơi, triều đình chẳng nỡ hắt hủi những người nhân từ như Hoàng thúc.Vạn nhất có thế nào chăng nữa, tiện nữ cũng quyết đi theo Hoàng thúc, dù có nghìn vạn dặm nữa, tiện nữ cũng cam lòng.
Đôi vai của Anh Cơ rung lên theo tiếng khóc, Hoàng thúc vuốt ve an ủi người thiếu nữ:
- Nàng ơi, chắc sẽ không phải thế. Vì rằng như vậy chăn nữa, nếu được sống cùng với Anh Cơ, dù ở đâu tôi cũng cảm thấy mãn nguyện.
Lúc này Anh Cơ đã quay người ngồi lại ngay ngắn.
- Hoàng thúc ơi, đêm đã khuya rồi, xin Hoàng thúc về nghỉ. Tiện nữ xin đưa Hoàng thúc về.
Sau khi đưa Hoàng thúc về gian chính điện, Anh Cơ trở về phòng riêng của mình.
Từ hôm ấy trở đi, tình yêu của hai người mỗi ngày một thêm thắm thiết.
CHƯƠNG 11: VUA CAO TÔNG HIỂN MỘNG
Lúc bấy giờ, đức đại vương Cao Tông, đời vua thứ hai mươi ba của triều đại Cao Ly, kế vị phụ vương là Khang Tông, trị vì thiên hạ đã được mười ba năm trong triều đình, Tấn vương hầu Thôi Trung Hiếu liên tục nắm quyền chính qua năm đời vua Minh Tông, Thần Tông, Hy Tông, Khang Tông và Cao Tông. Đến đời con của Thôi Trung Hiếu là Tấn dương hầu Thôi Di thì thiết lập thể chế hành chính mới gọi là "Chính phòng" ngay tại nhà mình. Tấn dương hầu Thôi Di ngồi tại nhà điều hành mọi công việc chính sự đến nay đã được một năm.
Lúc đầu dưới triều vua Minh Tông, Tấn dương hầu Thôi Trung Hiếu đặt ra thể chế hành chính "Trọng phòng" gồm Nhị quân, Lục vệ, đã loại bỏ Lý Nghĩa Văn là một quan võ bất chấp phép nước đã làm điều gàn dở. Về sau con của Lý Nghĩa Văn là Lý Chí Vinh, chạy trốn về An Tây (Hải Châu ngày nay), nắm quyền An Tây đô hộ phủ, cướp đoạt nhiều tài sản của các quan chức và dân chúng địa phương, gây nên bao nỗi oán hận. Trước tình hình đó Tấn dương hầu đã cử tướng hàn Hưu về quét sach bọn loạn tặc mang lại bình an cho dân lành. Đến đời Thần Tông, nhà sư Vạn Tích đã cùng với các nhà sư khác như Diên Phúc, Thàn Phúc, Vi Triều Di, Tiêu Tam, Hạo Tam… tụ tập nhau tai chùa Hưng Quốc. Họ bàn nhau: Làm gì có chuyện tướng tay của hoàng hậu khác với chúng ta là những nhà sư hèn mọn, thay vị chỉ biết sống hết đời như cái cây ngọn cỏ, phải đứng lên giết Thôi Trung Hiếu đi để nắm lấy quyền chính và họ đã lập mưu tạo phản. Nhưng việc không thành, bị Thôi Trung Hiếu phát hiện, hơn một trăm người đã bị bắt ném xuống sông làm mồi cho cá.
Kế tục thân phụ lên nắm quyền, Thôi Di được coi là một nhân vật đặc sắc, chữ viết rất đẹp, một trong bậc kỳ tài của đất nước.
Ông lập ra chế độ "Chính phòng" ngay tại nhà mình, và định ra các chức vụ như "thư đề", "thượng thư’… tương đương như các chức vụ chủ nhiệm, bộ trưởng ngày nay vậy.
Bộ máy chính quyền trung ương là như vậy. Còn công việc chính sự ở điah phương quan trọng cũng phải thông qua văn phòng chính sự là Tấn dương phủ đặt tại tư dinh của Thôi Di rồi mới được tâu lên nhà vua để xin quyết định.
Quan huyện Ủng Tân trước hết lên gặp văn phòng chính sự của Tấn dương phủ báo cáo đầu đuôi sự việc Hoàng thúc nước Đại Việt lưu vong sang nước Cao Ly, cùng các hành vi tội ác của Chu Nhật Thường và Trương thừa lại.
Tấn dương hầu Thôi Di quyết định Tấn dương phủ sẽ xử lý tội cướp biển tây của Chu Nhật Thường, còn việc Hoàng thúc nước Đại Việt lưu vong xin định cư thì tâu lên đại vương Cao Tông.
Do vậy quan huyện Ủng Tân tạm phải nán lại nhà khách ở kinh đô để chờ quyết định cho phép của nhà vua.
Lúc bấy giờ đại vương Cao Tông cùng với vương hầu An Huệ đang sống những ngày tháng yên bình nơi cung cấm. Có một đêm, đức vua Cao Tông nằm ngủ trong nội cung mơ thấy một điều kỳ lạ.
Nhà vua mơ thấy một con hạc rất to từ phương nam bay tới đến làm tổ ở miền đất ủng Tân.
Điều mộng rất khác thường nên ngày hôm sau nhà vua lâm triều cho gọi viên quan nội giám đến, và bảo đi tìm nhà bác học Thái Du Cảnh, nhà bói toán nổi tiếng thời bấy giờ đang trông tư thiên đài đến để giải mộng.
Công việc chính trị của đất nước hầu hết đều do Tấn dương phủ điều hành. Chỉ có những việc quan trọng hoặc những việc cung nội mới phải xin phép đức vua. Do vậy vương cung rất nhàn nhã, không có gì phải bận rộn. Quan nội giám đưa Thái học sĩ đến yết kiến nhà vua.
- Kẻ hạ thần Thái Du Cảnh, làm nghề bói toán ở Tư thiên đài xin có lời vấn an lên đức đại vương.
- Ờ, khanh hãy lại gần đây!
Đại vương Cao Tông đích thân mời Thái học sĩ đến ngồi bên cạnh mình. Thái học sĩ cúi đầu lạy tạ.
- Xin đội ơn đức đại vương.
Ông cúi khom lưng từ từ đến trước mặt đại vương cúi đầu thi lễ xong rồi ngồi xuống.
- Trẫm cho gọi khanh đến là có chút việc như thế này. Đêm qua trẫm nằm mơ thấy có điều khác thường nên cho gọi khanh đến thử đoán xem sao.
- Dạ muôn tâu đại vương, chẳng hay đại vương nằm mộng thấy điều gì ạ?
- Đêm hôm qua vào khoảng giờ sửu, trẫm nằm mộng thấy có một con chim hạc lớn từ phương nam bay tới đậu và làm tổ ở miền đất Ủng Tân biển tây nước ta.
Thái học sĩ nghiêng nghiêng đầu sang một bên, bấm bấm các đốt ngón tay; một lúc sau mới thưa rằng:
- Muôn tâu đức đại vương, đây là điềm mộng lớn hết sức tốt lành đấy ạ. Sách xưa có nói rằng mỗi khi thánh hiền xuất hiện, thì người ta thấy kỳ lân hoặc chim phượng hoàng bay lượn. Trong giấc mơ, đức đại vương thấy có chim hạc lớn bay tới, đó là điềm lành cực kỳ đấy ạ.
Vừa lúc ấy Tấn dương hầu dẫn các quan viên trong văn phòng chính sự đến sụp lạy trước mặt nhà vua;
- Muôn tâu đức đại vương, kẻ hạn thần Tấn dương hầu Thôi Di kính lời vấn an lên đức đại vương.
Nhà vua trông thấy Thôi Di bên tươi cười hớn hở nói.
- Trẫm đang định gặp Tấn dương hầu đây. Đã cho quan nội giám đi gọi. May quá Tấn dương hầu đã đến.
Thôi Di lại cúi đầu lễ phép thưa:
- Xin đội ơn bệ hạ. Kẻ hạ thần vừa lúc định đến bái yết đại vương thì nhận được chỉ của đức đại vương.
Đại vương Cao Tông lấy hai tay vuốt vạt áo lông bào, vui sướng nhìn Tấn dương hầu và Thái học sĩ, nói rằng:
- Trẫm hôm nay sở dĩ muốn gặp Tấn dương hầu và Thái học sĩ là vì thời gian qua mọi công việc chính sự của quốc gia đều do Tấn dương hầu chăm lo vẹn toàn, đất nước thanh bình thịnh trị. Nay trẫm có một điều muốn bàn với Tấn dương hầu.
- Xin đội ơn bệ hạ. Dù không như vậy, kẻ hạ thần cũng có một việc quan trọng, đang phải trình bái tâu lên đức đại vương.
Thôi Di hai tay cầm tờ biểu ghi lại tỉ mỉ việc Hoàng thúc nước Đại Việt sang xin lưu vong và những hành vi của Chu Nhật Thường, dâng lên đức vua, đức vua xốc lại áo long bào, cầm lấy tờ biểu của Thôi Di đặt lên long án. Lúc này Thái Du Cảnh đứng cạnh đã thuật lại cho Thôi Di nghe câu chuyện giấc mộng đêm qua của đại vương. Nghe xong câu chuyện, Thôi Di gật gật đầu, ra vẻ nghĩ ngợi rồi nói:
- Lời giải mộng của Thái học sĩ rất đúng.
Thái học sĩ nghe thấy quan Tấn dương hầu Thôi Di là người cầm quyền lúc bấy giờ khne mình giải mộng đúng, rất lấy làm hãnh diện và phấn khởi, Tấn dương hầu quay về phía đức vua:
- Tâu đại vương, hạ thần đã nghe Thái học sĩ giảng giải điềm mộng của đức đại vương đêm qua, hạ thần rất lấy làm cảm phục.
- Tấn dương hầu cũng có suy nghĩ về điềm mộng của trẫm như vậy ư. Nếu Tấn dương hầu và sự giải mộng của Thái học sĩ là giống nhau thì quả đây là một điềm mộng lớn.
- Muôn tâu đức đại vương, hạ thần có một điều định tâu lên đức đại vương. Sự việc như thế này: Vương triều Lý của nước Đại Việt đã suy vong, có một Hoàng thúc tên là Lý Long Tường muốn tìm đến một đất nước của bậc thánh hiền ở miền Đông Hải, nên đã dẫn hai mươi mốt gia đình dùng thuyền vượt sóng trùng dương đến lưu lại ở đất ủng Tân, vùng bờ biển phía tây của nước ta và muốn tâu lên đức đại vương xin phép được định cư tại đó. Điềm nằm mơ trông thấy của đức đại vương như vậy là điềm lành hết sức lớn lao đấy ạ.
Đại vương hài lòng bèn hỏi lại với vẻ nghiêm chỉnh:
- Vậy nội dung của tờ sớ chính là thế ư?
- Muôn tâu đức đại vương quả đúng như vậy.
Nhà vua Cao Tông cầm tờ sớ mở ra đọc, tỏ vẻ ngạc nhiên, nói:
- Điều mộng của trẫm thật quả kỳ lạ. Người có tên Lý Long Tường của nước Đại Việt đến nước ta là điềm tốt vậy.
Tấn dương hầu nghe nói thế thì thấy làm vui sướng trong lòng, bèn tâu với đức vua:
- Hạ thần cũng nghĩ như vậy ạ: theo báo cáo của quan huyện Ủng Tân, thì bọn cướp biển Chu Nhật Thường đã bị đoàn tùy tùng của Hoàng thúc nước Đại Việt bắt sống và đã giao cho quan huyện Ủng Tân. Bọn chúng hiện nay đang bị giam giữ trong nhà giam.
- Thật vậy ư? Thế ra họ là những người trí dũng và chân thật như vậy?
- Theo lời quan huyện Ủng Tân, vị Hoàng thúc đó là người rất có nhân đức.
- Thế thì quý hóa quá. Đây không phải là công đức của trẫm mà do Tấn dương hầu hết lòng chăm lo việc nước, nên trời đã biết mà gửi người lành xuống cho đấy.
Tấn dương hầu Thôi Di cảm kích cúi đầu:
- Tâu đại vương, đại vương quá khen, khiến kẻ hạ thần cảm thấy còn phải cố gắng nhiều. Việc này là việc đại sự quốc gia. Hạ thần dám mong đức đại vương ban cho thánh chỉ.
- Trẫm cảm thấy hài lòng mà ý của Tấn dương hầu cũng là như vậy. Ta cho được định cư ở nước ta là điều tốt.
- Xin đội ơn đức đại vương. Hạ thần xin phụng mệnh thánh chỉ, sẽ hết sức lo liệu để cho vị ấy định cư ở đất nước ta. Chỉ có điều muốn để cho vị ấy định cư ở đất nước ta thì không thể để cho vị ấy sống như thường dân được. Do vậy hạ thần trộm nghĩ đức đại vương chỉ trao tặng cho vị ấy một thực ấp và một tước vị nào đó thì tiện hơn cả.
- Ý kiến của Tấn dương hầu quả là sáng suốt. Trẫm mong tất cả mọi việc Tấn dương hầu sẽ xem xét lo liệu cho tốt.
Nhà vua Cao Tông không chịu nổi cái nóng giữa mùa hè, mồ hôi chảy ròng ròng trên long nhan của Người. Các thị nữ mang quạt đến quạt, nhưng không sao xua đi được cái nóng oi bức.
Tấn dương hầu cảm thông trước điều đó bèn thưa:
- Tâu đại vương, hạ thần xin lui bước. Kính mong thánh thượng hồi cung tĩnh dưỡng.
- Trẫm cũng vào nội cung đây. Tấn dương hầu đại giám cũng nên về sớm để tránh bớt cái nóng.
Nhà vua Cao Tông nói xong, được các thị nữ đưa vào nội cung. Quan đại giám Thôi Di trở về Tấn dương phủ.
Tại Tấn dương phủ, đủ mặt các sắc khanh lớn nhỏ trong văn phòng chính sự đang đừng đợi.
"Quan đại giám Tấn dương hầu đã về!"
Theo hiệu lệnh của người sai nha, tất cả mọi người cúi đầu chào.
Thôi đại giám trở về, bước lên thượng tọa, gọi một sắc khanh tên là Biện Đạt Thụ đến và nói:
- Sắc khanh hãy mau gọi quan huyện Ủng Tân đến đây.
- Bẩm vâng.
Sắc khanh họ Biện bước ra ngoài. Một chốc sau quan huyện Ủng Tân đến. Sau khi bước vào trong cửa, quan huyện cúi gập lưng, bước theo sau Biện sắc khanh, đến trước Thôi đại giám, cúi rạp mình thi lễ.
- Tri luyện Ủng Tân Lý Hoàn Khuê xin kính lời vấn an lên đức đại giám.
- Quan huyện Lý đấy à. Vụ cướp biển Chu Nhật Thường thế nào rồi.
- Bẩm quan lớn, theo lệnh của quan lớn, chúng tôi đã hợp lực với phủ cấm vệ điều tra kỹ việc này. Sự thật quả đúng như vậy.
- Quan huyện Lý vất vả nhiều. Do công lao lần này, triều đình sẽ có thưởng cho quan huyện. Còn về vị có tên là Lý Long Tường, Hoàng Thúc của nước Đại Việt, theo ý của quan huyện Lý, ta đã tâu lên đức đại vương và đã được đức đại vương cho phép.
- Xin muôn vàn đội ơn đức đại vương, đại giám.
Quan huyện Lý cúi đầu chạm xuống đất, không giấu nổi niềm sung sướng.
Sau một chốc Tấn dương hầu nói:
- Quan huyện Lý này……, về việc ấy, ta đã tâu lên đức đại vương, và đức đại vương đã cho phép vị khách ấy được định cư suốt đời. Đức đại vương còn lệnh sẽ cấp cho thực ấp và tước vị nữa. Vậy quan huyện Lý trước hết về Ủng Tân đón được vị gọi là Hoàng Thúc ấy lên đây.
- Thưa vâng… Tiểu quan xin làm ngay theo lệnh của quan đại giám.
Thôi đại giám nét mặt tràn đầy niềm vui, nhìn về phía quan huyện Lý nói:
- Quan huyện Lý ở Ủng Tân đã được mấy năm rồi?
- Thưa quan đại giám, đã được ba năm.
Thôi đại giám như nghĩ ngợi điều gì một chốc rồi nói với một giọng trìu mến:
- Theo ta nghĩ rằng, viên phủ sứ của An Tây đô hộ phủ làm việc không ra gì, dọc vùng bờ biển phía tây, tình hình khá lộn xộn. Vụ việc vừa rồi cũng nói lên sự yếu kém của An Tây đô hộ phủ. Do vậy ta định trong dịp chọn án sát sứ cho đô hộ phủ, quan huyện Lý sẽ là người hợp ý ta đấy. Kỳ này ta định thăng cấp cho quan huyện lên chức án sát sứ đô hộ phủ. Nhưng chỉ biết vậy thôi, không được để lộ ra ngoài. Nào về đi rồi trở lại.
- Thưa quan đại giám! Xin đội ơn quan đại giám. Quan đại giám đã quá quan tâm đến kẻ tiểu quan còn được toàn vẹn này.
Tấn dương hầu Thôi Di có mối tình cảm tốt đẹp với quan huyện Lý là người có diện mạo thật thà và nhân phẩm chính trực, nên đã quyết định thăng cấp cử đi làm án sát sứ của An Tây đô hộ phủ. Do vậy trong những ngày lưu lại ở kinh đô, quan huyện Lý đã thảo ra các bản tường trình nhiệm vụ của mình phải thực hiện gửi đi các phủ, bộ có thế lực như Bộ Hình pháp, Bộ Cải huấn để các cơ quan trên xem xét năng lực. Quả vậy, đối với công việc nào, quan huyện cũng đều tỏ ra là con người nhạy bén và chính trực.
CHƯƠNG 12: NIỀM VUI ĐÃ ĐẾN
Lại nói về Hoàng thúc, gần đây ít nhiều tâm tư của Hoàng thúc đã lắng dịu đôi chút. Bốn mươi tuổi đời, lớn lên trong cung thất, nay phải rời bỏ cố quốc ra đi, đặt chân đến một xứ sở xa lạ, vạn lý tha hương quả thực không phải là một điều dễ dàng. Phải hiểu biết về phong tục của nước đó, của địa phương đó, phải chiếm được tình cảm của mọi người, phải biết dựa vào các quan chức địa phương. Muốn vậy phải học hỏi các phong tục của nước Cao Ly. Do đó, hằng ngày có biết bao nhiêu là việc phải làm.
Cũng may, nhờ có quen biết với Anh Cơ, cô con gái của ông lão họ Trịnh, nên cũng mang lại niềm an ủi cho Hoàng thúc ít nhiều.
Tuy vậy cũng chưa phải đã có được mối tơ duyên yêu đương với Anh Cơ.
Lòng con người ta ai cũng vậy, càng lâm vào cảnh cô đơn bao nhiêu, càng muốn nương nhờ một ai đó bấy nhiêu. Từ đêm gặp Trịnh Anh Cơ ở thảo đường đến nay, đêm nào Hoàng thúc cũng muốn gặp nàng. Đối với Người, có thể nói đó là niềm vui lớn nhất.
Nhưng Hoàng thúc cũng phải nghĩ đến thể diện của mình. Đã ngót bốn mươi rồi mà nay lại định kết nghĩa trăm năm với một người con gái năm nay mới hai mươi tuổi tròn là một điều cảm thấy e ngại. Song cảnh ngộ của Hoàng thúc trong tình thế hiện nay quả thực không còn nhiều sự lựa chọn.
Mà làm sao giấu được với bên ngoài. Thông thường đối với những chuyện như thế này, người ta nhạy cảm lắm. Họ đoán biết được hết. Hơn nữa lại là những người sống cùng trong một ngôi nhà, thì không có lý gì không biết. Từ Lý công tử cho đến Tiêu Vĩnh Vạn, ông già Trịnh, thậm chí ngay cả những gia đinh trong nhà đều đoán biết được hết. Nhưng Hoàng thúc vẫn vô tình, tưởng điều bí mật đó chỉ có một mình mình hay, nên cứ đêm đến, Người lại ra nơi thảo đường gặp gỡ trò chuyện với Anh Cơ, sống những giờ phút ngọt ngào vui sướng. Lúc đầu Người đi ra miếu đường khóc thương, nhưng giờ đây, người không còn khóc được nữa. Người chỉ đáo qua một chốc rồi tìm đến phòng có Anh Cơ ngồi nói chuyện đến một hai giờ đồng hồ và coi như một niềm vui lớn nhất.
Nhưng tiếc thay, đêm mùa hè quá ngắn ngủi, có một hôm Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn sau khi bàn bạc với nhau xong, bèn tìm đến phòng ông già Trịnh, định sẽ thưa chuyện với ông già và quyết định luôn một thể. Nào ngờ hai bên ngồi trực diện với nhau, lại cảm thấy e ngại phải nói lên những điều đường đột như thế. Trước hết Tiêu Vĩnh Vạn ở đầu câu chuyện.
- Thưa lão trượng, như thế này chúng tôi làm phiền lão trượng nhiều quá, thật không phải với lão trượng.
Ông già Trịnh nghe nói giẫy nảy lên, đáp lại với giọng thực thà:
- Tiêu đại nhân nói đến điều ấy làm gì, nghe lạ quá. Tiêu đại nhân với Lý công tử với chúng tôi chẳng phải là trong gia đình hay sao. Xin đừng khách sáo.
Lý công tử gãi gãi đầu, cảm thấy rất áy náy:
- Thưa đâu có phải thế.
Ông già Trịnh hết nhìn người này đến nhìn người kia, đôi mắt sáng luôn chớp chớp:
- Các vị cứ nói như thế vậy, càng làm cho tôi cảm thấy xót xa hơn.
Tiêu Vĩnh Vạn thấy khó nói quá. Khó nói là vì lúc đầu định nêu câu chuyện giữa Hoàng thúc và cô con gái của gia chủ nhưng do mở đầu câu chuyện lạc hướng nên bây giờ không biết làm thế nào để lái câu chuyện trở về với đích chính của nó.
Ông già Trịnh nhìn thấy hai người có phần lúng túng, bèn cố gắng lái đầu mối câu chuyện:
- Mà thôi, các vị đừng suy nghĩ làm gì nữa. Các vị hãy phò tá Hoàng thúc cùng chung sống với chúng tôi đi. Tình hình này, hai vị cũng phải tìm cô gái nào ngoan ngoãn xinh xắn, định nơi định chốn đi mới được.
Tiêu Vĩnh Vạn không bỏ lỡ dịp may:
- Nhưng mà Hoàng thúc của chúng tôi phải lấy vợ trước đã.
Ông già Trịnh nghe nói, mỉm cười:
- Với Hoàng thúc thì không phải lo. Chắc hai vị cũng đã có tính rồi. Anh Cơ, đứa con gái của tôi còn trẻ người non dạ. Nếu Hoàng thúc chê em nó, thì cũng phải tìm chỗ khác vậy thôi.
Qua câu nói biết ông già Trịnh đã chấp thuận, Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn không sao ngăn nổi niềm vui tràn ngập trong lòng. Như vậy xem ra sau này nếu được phép ở lại đây thì sẽ không có khó khăn gì nữa.
- Quan huyện lên kinh đô hơn mười mấy hôm nay rồi sao chưa thấy về. Hay là công việc của chúng ta không được trôi chảy. Có thể thế cũng nên.
Ông già Trịnh nghe Tiêu Vĩnh Vạn nói, ít nhiều cũng cảm thấy có phần lo lắng:
- Biết làm sao được…
Cả ba người cùng ngồi yên lặng với nỗi lòng trống trải, đăm chiêu suy nghĩ theo cách riêng của mỗi người giữa cảnh tượng buồn vui chen lẫn.
Ông lão Trịnh một lần nữa dường như để tỏ rõ quyết chí của mình, bèn nói:
- Việc đó xin quý vị đừng bận tâm. Quan huyện miền đất chúng tôi vốn là người thông tuệ, bất cứ việc gì cũng biết lo liệu kết thúc chu toàn.
Lý công tử ngồi dịch lại về phía trước mặt ông già Trịnh.
- Như chúng tôi đã thưa với lão trượng. Gần đây nỗi lòng của Hoàng thúc đã có vẻ lắng dịu đôi chút. Như vậy nên…
Nói đến đây, Lý công tử cảm thấy tắc nghẹn, không sao nói được nữa, hai mắt nhìn xuống đất. Thấy vậy, ông già trịnh hiểu ý:
- Tôi biết rồi. Tôi cũng đã quyết chí từ lâu. Nếu Hoàng thúc không ở được nơi đây, mà phải đi nơi khác thì bố con tôi dự định Hoàng thúc đi đâu, bố con tôi đi theo đó.
Thấy ông già Trịnh đinh ninh một tấm lòng son sắt không thay đổi, Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử tự mình cũng cảm thấy hổ thẹn chưa xứng đáng với tấm lòng nhân hậu của ông già. Họ đành kết thúc câu chuyện, chuyển sang chủ đề khác. Lý công tử đưa mắt nhìn lên quyển sách trên án thư:
- Thưa lão trượng, quyển sách kia là sách gì vậy?
- À, quyển sách nói về nghi lễ trước đây tôi hay đọc ý mà.
Lý công tử gật đầu, như nghĩ ra một điều gì đó.
Tiêu Vĩnh Vạn cảm thấy không còn gì để nói thêm, bèn đứng dậy.
- Xin lão trượng ngồi chờ ở đây một chút. Chúng tôi đi vào huyện đường xem tình hình thế nào xong sẽ quay về.
Ông già Trịnh cũng đứng dậy theo:
- Vậy các vị đi đi nhé. Quan huyện hôm nay sẽ về. Quan huyện đi đã được hơn mười ngày rồi còn gì.
Sau khi hai người đi vào huyện đường, ông già Trịnh bèn ra ngoài ngồi nhìn quanh nhà.
Chỉ mới hơn mười ngày trước đây thôi, căn nhà này còn quạnh hiu vắng vẻ, không một ai tìm đến thăm hỏi. Những người đến làm thuê cũng bỏ đi mất hết, nhà chẳng còn ra hồn nhà nữa. Ngay cả những người hàng xóm cũng nói ra nói vào:
"Nhà cụ Trịnh tư hiến sắp tiêu đời đến nơi rồi", "Ông già ấy sau này không biết đi đâu về đâu".
Qua những lời dị nghị đó, người ta còn nghe thấy tiếng gà kêu chó sủa. Thế gian có câu "lòng người ở đời lạnh lùng chẳng khác gì rắn độc". Qua đây có lẽ càng hiểu rõ thêm câu nói đó.
Nhưng rồi sau, Trương thừa lại bị giam trong tù, nhà ông già Trịnh đòi lại được tất cả tài sản bị mất. Câu chuyện quan huyện quan tâm đến nhà ông già Trịnh lan truyền khắp nơi. Lại còn chuyện Hoàng thúc và các tráng đinh lưu lại nhà cụ Trịnh trông nom việc ruộng nương và chăm sóc nhà cửa cho cụ cũng đã làm cho lòng người ngả theo một hướng khác.
Những người đi ở, làm thuê đã từng bỏ đi khi ngôi nhà lâm vào cảnh sa cơ thất thế nay đều quay trở lại dọn dẹp nhà cửa. Ông già Trịnh vốn tốt bụng, tuy có chê trách họ nhưng cũng im lặng cho qua đi.
Bản thân ông già Trịnh một ngày mấy lần đi khắp chỗ này chỗ nọ tỏ rõ uy phong của mình, đôn đốc kẻ hầu người hạ trông nom nhà cửa. Ngôi nhà của cụ Trịnh khá lớn, phía trước phía sau đều có sân. Những lớp cỏ dại mọc đầy trên sân đã được dọn sạch tự lúc nào. Mọi người đang tấp nập chuẩn bị cho vụ thu hoạch mùa thu, vụ mùa duy nhất trong năm. Cụ già Trịnh đứng ở sân trước, nhìn ra bốn phía, cảm thấy cuộc sống giờ đây mới thực sự là cuộc sống.
Ông già miên man với những cảm xúc khoan khoái trong lòng, tự lẩm bẩm một mình: "Chắc vụ mùa năm nay, lúa thu hoạch về sẽ chất đầy sân trước sân sau…"
Tiết trời hạ tuần tháng sáu nắng chang chang, tỏa ra cái nóng nung người. Ông già Trịnh buột miệng một mình: "Gớm, trời nắng quá thế này".
Ông đến ngồi bên một bóng cây. Một con ễnh ương nhảy vọt ra, mắt nhìn ông già hau háu. Con ễnh ương không hề biết sợ sệt trách móc, cứ dương hai mắt nhìn thao láo.
"Này, con ranh còn này!"
Ông già Trịnh thấy ngứa mắt, đưa chân định đá. Con ễnh ương trông thấy liền ngoạc mồm kêu "Ô ộp" một tiếng rồi nhảy biến mất.
Ông già Trịnh trở về gian nhà ngoài, thấy Hoàng thúc còn đang ngủ.
Ông biết rõ, ban đêm Hoàng thúc nói chuyện khuya với Anh Cơ, con gái ông, nên ban ngày ngủ bù.
Ông già rất quý nể Hoàng thúc, ánh mặt trời buổi chiều lọt qua khe cửa chiếu vào, hắt cả cái nóng vào bên trong phòng. Hoàng thúc vẫn ngủ yên lành.
Sợ động đậy làm Hoàng thúc tỉnh giấc, ông già định đi vòng đến chỗ có ánh nắng chiếu vào và hạ tấm rèm trúc xuống. Không ngờ ông bước hụt chân, người mất thăng bằng, ngã lăn xuống dưới bậc thềm.
Nghe thấy tiếng rơi "uỵch", Hoàng thúc tỉnh giấc, nhìn ra ngoài cửa thấy ông già ngã giúi dụi, vội vã ra đỡ ông dậy.
- Rõ khổ, suýt nữa thì xảy ra việc lớn. Lão trượng có bị thương ở đâu không?
Ông già Trịnh sợ đánh động, làm Hoàng thúc thức giấc, cố tìm cách tránh thì lại làm Hoàng thúc thức dậy.
- Tôi lại làm Hoàng thúc tỉnh giấc mất rồi. May không bị làm sao đâu.
- May quá, xin mời lão trượng lên nhà.
Giữa lúc Hoàng thúc và lão già Trịnh định bước vào nhà thì Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử lên huyện đường đã trở về.
Họ đã hỏi thăm tin tức về quan huyện lên kinh đô nhưng chưa có được tin tức gì. Hai người uể oải trở về, trông thấy Hoàng thúc và ông già Trịnh bước vào gian ngoài, vội chạy đến đón.
Ông già Trịnh thấy họ trở về, cứ ngỡ thế nào họ cũng mang tin tốt lành, bèn hỏi:
- Trời nắng thế này, hai vị vào huyện đường trở về chắc là vất vả lắm. Quan huyện có lẽ chưa về có phải không?
Tiêu Vĩnh Vạn lấy khăn lau mồ hôi trên trán, nói:
- Vâng,… vẫn chưa có tin tức gì, ngày mai huyện đường sẽ cử người lên kinh đô xem sao.
Hoàng thúc nghe mấy câu trả lời của Tiêu Vĩnh Vạn đã có thể biết được họ đi đâu trở về.
- Nào, mời các vị vào nhà đi. Việc quan bận rộn nên ngài quan huyện chưa về sớm được đấy thôi.
Ông già Trịnh vừa nói dứt câu, bỗng từ con đường lớn phía sau nhà vang lên tiếng nhạc ngựa giòn giã. Nghe tiếng nhạc ngựa, mọi người đều hồi hộp, họ quay về hướng có nhạc ngựa phát ra, lắng tai nghe.
Rõ ràng là tiếng nhạc ngựa nhà quan đang chạy về phía này. Theo phong tục của nước Cao Ly thời bấy giờ, ngoài ngựa nhà quan hoặc ngựa dùng cho công vụ, các loại ngựa khác đều không được đeo nhạc to. Và khi chạy những công việc khẩn cấp, có thể đeo từ hai đến ba quả nhạc. Dựa vào số nhạc, có thể phân biệt được mức độ khẩn cấp của công vụ. Ông già Trịnh nghe một hồi bỗng đứng phắt dậy:
- Đúng rồi, có lẽ là ngựa công vụ đeo ba quả nhạc to. Có việc gì thế nhỉ?
Mọi người ngơ ngác bước ra sân. Con ngựa chạy đến chui vào nhà ông già Trịnh. Nó quay người đến dừng lại trước cửa tòa nhà ngoài. Tiếng nhạc ngựa huyên náo hình như cũng đánh động cả những người dân làng đang yên tĩnh.
Qua tiếng nhạc ngựa, ông lão họ Trịnh biết quan huyện đã về.
- A, quan huyện đã về…
Trẻ em chạy ùa đến xem, vui mừng như mẹ đi xa về. Ông già Trịnh cùng tất cả mọi người đều mừng rỡ chạy đến nghênh tiếp.
Hoàng thúc bước đến chào quan huyện.
- Quan huyện sao về sớm thế?
- Vâng… mấy hôm nay Hoàng thúc có được bình yên không? Tôi đã từ kinh đô đi một ngựa một mạng về đây mong sớm gặp lại Hoàng thúc. Tôi đi thẳng đến đây mà chưa kịp ghé lại huyện đường.
Ông già Trịnh hết sức vui mừng. Chỉ nhìn dáng vẻ của quan huyện cũng đủ biết tình hình sáng sủa. Ông già đoán quan huyện không về huyện đường mà đi thẳng về đây chắc để báo tin vui, nên trong lòng rất đỗi hồi hộp sung sướng.
- Xin mời quan huyện vào nhà. Giữa mùa hè nóng nực oi bức mà quan huyện đi ngựa gấp về thế này chắc là vất vả lắm.
Lý công tử vào nhà trong tự lúc nào bưng nước lạnh pha mật ong ra mời quan huyện. Mọi người tất bật mang chậu nước lạnh ra để quan huyện rửa mặt, rửa tay. Còn Tiêu Vĩnh Vạn thì tháo yên ngựa, chải bờm, xong mang buộc dưới bóng cây và lấy nước lau mồ hôi khắp mình ngựa.
Hoàng thúc và ông già Trịnh chờ quan huyện rửa tay. Ông già Trịnh có vẻ cảm thấy như vậy vẫn chưa đủ, bèn cầm lấy quạt quạt phía sau lưng quan huyện và nói:
- Trời nóng thế này, quan huyện vất vả quá. Đi kiệu bốn người khiêng vẫn còn nóng, huống chi cưỡi ngựa đi đường dài đến ba trăm dặm…
Ông già Trịnh rất muốn nhanh chóng nghe quan huyện nói. Nhưng quan huyện không đáp lại ngay mà vẫn ung dung lấy khăn lau mặt.
- Rõ đến khổ, tin tức cần truyền đạt nhanh cho Hoàng thúc, nhưng đường thì xa. Lúc đến trạm ngựa cũng không kịp nghỉ, phải lên ngựa phi luôn.
Theo cách nghĩ của mình, Hoàng thúc cảm thấy rất áy nháy trước lời than phiền của quan huyện vì mình mà phải đi ngựa đường xa thế này.
- Xin lỗi quan huyện. Một con người vô dụng lại đến làm phiền quý quốc, khiến quan huyện phải chịu nhiều cực khổ giữa lúc nắng nôi thế này…
Quan huyện nghe nói bỗng giãy nảy lên:
- À, không phải thế đâu. Xin Hoàng thúc đừng nghĩ vậy, ở triều đình, cả đức đại vương và Tấn dương hầu Thôi đại giám đều rất hoan nghênh.
Nghe nói vậy, không chỉ có Hoàng thúc mà tất cả mọi người đều biểu lộ một nỗi vui mừng khôn xiết.
Nhưng Hoàng thúc vẫn không quên đáp lễ:
- Được như thế này cũng là nhờ ơn của quan huyện tâu lên với triều đình những lời tốt đẹp về con người gặp bước không may này. Nếu như niềm vinh quang ấy có được dành cho tôi, thì cũng chính là công ơn của quan huyện vậy.
Quan huyện nhìn Hoàng thúc đăm đăm nghe nói vậy bèn khiêm tốn đáp.
- Tôi đâu dám nghĩ thế.
Quan huyện lại ngồi vào chỗ của mình. Mọi người ngồi vây quanh quan huyện, ngước mắt lên nhìn mong được nghe tin tức cụ thể hơn.
Quan huyện Lý kể lại tỉ mỉ những công việc đã trải qua sau khi lên kinh đô, chỉ trừ mỗi việc bản thân ông được thăng cấp lên An Tây đô hộ phủ thì không nói…
- Như vậy sáng ngày mai chúng ta sẽ phải đi sớm. Xin Hoàng thúc lo liệu xong mọi thức và nghỉ ngơi được bình yên.
Hoàng thúc quá đỗi vui mừng không nói sao cho hết. Sách xưa có nói cuộc sống con người là cao nhất. Điều đó phải chăng đã được tái hiện qua sự việc ngày hôm nay? Mang thân là Hoàng thúc của một nước mà phải ra đi tìm đường lánh nạn, nay được sang định cư ở đất nước này. Đó cũng là điều đáng mừng lắm chứ sao. Miên man trong niềm suy nghĩ đó, Hoàng thúc không khỏi chạnh lòng thương xót cho thân phận của mình.
- Hoàng thúc ơi, không phải lo lắng gì cả! Đức đại vương và Thôi đại giám đều rất nhân từ, quan tâm cả đến tương lai của Hoàng thúc nữa, nên chắc sẽ dành ơn đức lớn cho Hoàng thúc.
Quan huyện an ủi Hoàng thúc. Hoàng thúc hết sức cảm kích, rơm rớm nước mắt. Một lúc sau quan huyện về nhà.
Đêm hôm đó cả nhà cụ Trịnh đều tất bật lo liệu để ngày mai Hoàng thúc lên đường sớm. Hoàng thúc chưa biết cách mặc lễ phục của nước Cao Ly nên định mời Minh Nguyệt, cô quan kỹ ở Nhà Khách đến để chỉ cách mặc áo nhưng không được. Không biết tìm đâu ra người, Anh Cơ hôm ấy đành phá vỡ tục lệ "nam nữ hữu biệt", đến trước mọi người để chỉ cách mặc áo.
Ngày hôm sau, Hoàng thúc theo quan huyện Lý lên kinh đô.
Dọc đường đi, được nhìn thấy phong cảnh đất nước Cao Ly tươi đẹp, non sông gấm vóc một màu, đường quan lộ được chỉnh phẳng phiu, quả là đất nước của thần tiên không sai. Hơn nữa đi đến đâu cũng thấy ruộng nương thẳng hàng thẳng lối, mọi người đều rất hiền hòa, trọng lễ nghi, đi lại trên đường họ đều nhường nhau, thái độ khiêm tốn trông rất đáng cảm mến.
Từ hôm đó, Hoàng thúc lên kinh đô của nước Cao Ly bấy giờ là Tùng Đô, lưu lại tại một nhà khách có tên Tùng Đào quán.
CHƯƠNG 13: LỄ PHONG TƯỚC HOA SƠN QUÂN
Lý công tử gửi lên kinh đô hai chiếc hòm trong số nhiều hòm bảo vật quý giá mang theo khi rời Tổ quốc ra đi. Một hòm để tiến dâng lên đại vương Cao Tông, một hòm nữa để kính biếu Thôi đại giám.
Quan huyện đã ra cửa hàng ngoài chợ để mua hai tấm lụa lớn gói hai hòm bảo vật.
Hòm bảo vật được gói bọc cẩn thận. Sáng hôm sau, Hoàng thúc theo quan huyện đi về phía Tấn dương phủ nằm ở cửa đông kinh thành.
Ngày hôm ấy vẫn còn giữa mùa hè nóng nực. Mới buổi sáng trời đã nắng chang chang như thiêu như đốt.
Từ sáng, Tấn dương hầu Thôi đại giám đã triệu tập các tướng lĩnh và quan viên lớn nhỏ của văn phòng chính sự để lo liệu chu đáo lễ tấn phong tước vị cho Hoàng thúc.
Thông thường lễ nghi nhà nước được tiến hành tại Tấn dương phủ, nhưng trường hợp của Hoàng thúc thì theo lễ nghi cung đình, được cử hành tại cung điện nhà vua.
Theo sự hướng dẫn của quan huyện Ủng Tân, Hoàng thúc bước vào Tấn dương phủ và sau đó theo hướng dẫn của các quan chức trong phủ đường, Hoàng thúc vừa định tiến thêm mấy bước nữa thì Tấn dương hầu Thôi đại giám đã bước ra nghênh tiếp. Nhờ có quan huyện Ủng Tân rỉ tai mách nhỏ, Hoàng thúc biết đó là Thôi đại giám bén lễ phép vái chào trình diện.
- Bản nhân tên là Lý Long Tường, gặp bước không may nên đến nương nhờ quý quốc, được Thôi đại giám dành cho nhiều ơn đức. Bản nhân rất biết ơn. Nghe lời quan huyện Lý, bản nhân đã xin đến đây. Dù biết như vậy là quá đường đột vô lễ, bản nhân cũng cố mạo muội đến xin gặp Tấn dương hầu đại giám, dám mong đức quan bỏ quá.
Quan đại giám Thôi Di đáp lại với nét mặt nghiêm trang:
- Hoàng thúc quá khiêm nhường. Ngược lại về phần mình, chúng tôi nghĩ rằng đất nước chúng tôi đã có vinh dự được đón tiếp một vị khách quý có từ tâm. Trên đường đến với đất nước chúng tôi từ xa xôi muôn dặm, Hoàng thúc đã có công lớn dẹp tan bọn cướp biển Chu Nhật Thường. Không những bản thân tôi mà cả đức đại vương đều hết sức vui mừng trước điều đó.
Hoàng thúc và Thôi đại giám cúi người chào nhau, hai bộ áo mũ lễ phục to sụ cũng nâng lên cúi xuống theo.
Thôi đại giám đứng lên trước mời Hoàng thúc ngồi vào chỗ xong, Thôi đại giám bèn kể lại tỉ mỉ câu chuyện nằm mơ của đức vua Cao Tông và những nội dung mà quan huyện Ủng Tân đã báo cáo lên và nói:
- Để Hoàng thúc có thể sống lâu dài trên đất nước chúng tôi cần phải trao tước vị và phong cấp thực ấp cho Hoàng thúc. Do đó hôm qua, tôi đã lên bệ kiến đức vua và tâu với đức đại vương về việc này. Do đó Hoàng thúc đã được cấp thực ấp và phong tặng tước vị. Tại buổi hành lễ hôm nay, đức đại vương sẽ đích thân đến dự và phong tặng.
Hoàng thúc vô cùng cảm kích trước sự tiếp đón cực kỳ thân thiết như thế này, đã xóa đi những mặc cảm bấy lâu trong lòng.
- Xin lạy ơn phúc đức. Một tấm thân bèo bọt mà làm cho đức đại vương phải bận tậm, làm cho đức đại giám phải nhọc nhằn, thật không biết phải thưa thế nào cho phải.
Lúc ấy quan huyện Ủng Tân bước lên phía trước, đặt hai hòm bảo vật trước mặt Thôi đại giám.
- Bẩm quan đại giám, Hoàng thúc có chút lòng thành xin mang đến hai hòm bảo vật và có lời thưa rằng: một hòm để tiến dâng lên đức đại vương, một hòm nữa xin kính biếu quan đại giám.
Thôi đại giám nhìn hòm bảo vật thốt lên:
- Ấy, sao lại thế. Hoàng thúc gửi cho lễ vật… thế này thì chúng tôi áy náy quá.
Quan đại giám thực sự tỏ vẻ áy náy. Hoàng thúc hiểu được nỗi lòng của Thôi đại giám, nên cũng có phần hơi ngượng.
- Thật lấy làm xấu hổ với quan đại giám. Chút ít vật mọn vô tình mang theo lúc từ giã cố quốc, dám mong quan đại giám hiểu cho đây chỉ là biểu hiện cho tấm lòng thành của bản nhân và nhận cho. Cũng xin quan đại giám giúp tâu lên đức đại vương để đức đại vương ngự nạp cho. Được như vậy bản nhân rất lấy làm vinh dự.
Lúc này một quan chức của văn phòng chính sự đến trước Thôi đại giám thưa:
- Bẩm quan đại giám, việc chuẩn bị cho cuộc hành lễ hôm nay đã xong, xin mời xuất phát.
- Được!
Thôi đại giám nhìn sang Hoàng thúc và mời:
- Xin mời Hoàng thúc đến dự cuộc hành lễ.
- Xin đa tạ.
Thôi đại giám và Hoàng thúc đứng dậy, bước ra ngoài.
Các chức sắc quan võ cùng các chức sắc quan văn gồm trên mấy trăm người mặc các trang phục với nhiều màu sắc đỏ, xanh, vàng rực rỡ đứng xếp hàng ở sân trước cửa Tấn dương phủ. Họ là những quan viên hôm nay được mời về đây để tham dự buổi hành lễ.
Bên dưới chín bậc thềm của Tấn dương phủ đã đặt sẵn hai chiếc kiệu tám người khiêng khổng lồ được thêu bằng hai màu xanh đỏ. Thôi đại giám và Hoàng thúc bước đến bậc thềm cuối cùng, các lính lệ mở cửa kiệu đứng sẵn liền mời Thôi đại giám vào kiệu trước, mời Hoàng thúc vào kiệu sau. Tám người lính khiêng mặc quần áo sặc sỡ, theo hiệu lệnh đưa kiệu lên vai từ từ đi về phía cung điện nhà vua. Phía sau hai chiếc kiệu tám người khiêng là các quan viên lớn nhỏ đi theo cùng.
Làn sóng người tấp nập trên đường phố kinh đô, chẳng kể già trẻ trai gái đều xúm lại xem Hoàng thúc Lý Long Tường của nước Đại Việt. Họ đứng dọc hai bên đường cái lớn dẫn đến cung vua, háo hức chồm ra mặt đường để được xem tận nơi. Mỗi khi thấy chiếc dùi sáu cạnh của lính vệ sĩ huơ tới, họ lại giạt ra. Những anh lính lệ đứng ở phía trước, mỗi khi thấy đám rước đi qua, bèn nheo mắt hô lớn:
"Hoàng thúc nước Đại Việt đã đến!"
Theo hiệu lệnh đó mọi người đều cúi mình kính lễ.
Ngồi trong kiệu, nhìn thấy quang cảnh ấy, Hoàng thúc hết sức cảm kích.
Các quan chức và thị dân, tất cả đều mặc những bộ quần áo rất chỉnh tề, trắng muốt như ngọc, thể hiện phẩm chất thanh cao. Từ dáng đứng đến các cử động, họ đều rất từ tốn, trật tự nề nếp, trông khác nào một bức tranh.
Bản thân ngồi kiệu mà còn vã mồ hôi, chỉ muốn trút bỏ bộ quần áo phiền toái này đi, thế mà quốc dân ở đất nước này từ quan đến dân nhất nhất đều mặc áo đội mũ chỉnh tề mới chịu được.
Hoàng thúc tự nhủ: "Nước Cao Ly quả là đất nước của lễ nghi."
Cuối cùng đám rước đã đến cung điện nhà vua. Tại phòng khánh tiết đã tề tựu đông đủ hầu hết bá quan văn võ của triều đình. Nhà vua chưa đến, các quan chức Bộ Lễ mặc những bộ quần áo sang trọng ra tiếp Hoàng thúc.
Buổi lễ ngày hôm ấy do quan Lễ bộ thượng thư Triệu Thành Tam đảm trách. Ông tự mình chạy đây chạy đó tiến hành các thủ tục lễ Tân trong phòng khánh tiết. Mệnh lệnh của ông thể hiện qua hoạt động của đôi tay đôi chân của ông. Các quan viên Bộ Lễ đều dựa vào đó răm rắp làm theo.
Cung vua đồ sộ cao to bao gồm nhiều lớp cửa, được gọi là Cung điện chín lớp, ánh nắng không thể xuyên vào được bên trong, nên giữa mùa hè nóng nực vẫn mát mẻ dễ chịu.
Bên dưới ngai vàng của đức vua và hoàng hậu đã bố trí một ngự tọa rực rỡ sang trọng trên một lễ đài năm bậc mới làm xong.
Lễ đài năm bậc này được bọc bằng gấm và bốn phía đều có vẻ tranh.
Có lẽ do cao kiến của Thôi đại giám, một nhà thư pháp giỏi nhất đương thời, nên đã tạo ra khung cảnh một buổi hành lễ nơi cung vua biểu trưng cho giấc mơ của hoàng đế Cao Tông.
Mặt phía đông của ngự tòa là hình cây tùng lớn, phía nam là hình con hạc, phía tây vẽ một bức tranh sơn thủy thể hiện một tài năng nghệ thuật điêu luyện.
Theo hướng dẫn của quan thị lang, Hoàng thúc ngồi vào phía trước lễ đài.
Buổi nghi lễ hôm nay, chỉ các quan chức trong nội cung và các quan viên từ tứ phẩm trở lên mới được dự, thế mà phía trong cung điện nguy nga đồ sộ kia đã kín hết chỗ.
Một chốc sau, từ phía ngoài cửa đông của cung điện, có ba tiếng chuông lớn "boong, boong, boong" gióng lên. Cùng với ba tiếng chuông là ba tiếng trống cũng vang lên. Bên trong cung điện, tất cả mọi người đứng nghiêm, lúc này, những người lính vệ sĩ đứng chờ ngự giá của đại vương bên trong cung điện hô to:
"Đức đại vương đã đến."
Tất cả bá quan văn võ trong cung điện đều cúi rạp người kính lễ. Theo sự hướng dẫn của các thị nữ hai bên tả hữu, đức vua và hoàng hậu bước lên ngai vàng.
Ngai của đức vua và hoàng hậu cao mười hai bậc. Quan Tấn dương hầu Thôi đại giám ngồi ở bậc thứ chín bên dưới bèn đứng dậy bước đến chỗ đức vua phụng tâu mọi thủ tục lễ tiết hôm nay.
Đặc biệt có hòm bảo vật của Hoàng thúc tiến dâng lên đại vương đã được Bộ Lại thẩm tả và lập bảng kê các lễ vật có mang chữ ký và dấu triện: "Đại Việt quốc Hoàng thúc Lý Long Tường".
Hòm bảo vật đã được trực tiếp tiến dâng vào nội cung. Bảo vật đại để gồm các loại trân châu, bảo ngọc mà phụ nữ thường mơ ước. Thôi đại giám nói khẽ những gì đó với đại vương Cao Tông, và đại vương theo sau Thôi đại giám bước xuống bên dưới. Theo sau đức vua là tướng Khương Lai Quán, tổng quản ngự lâm quân, làm nhiệm vụ bảo vệ đức vua Cao Tông, càng tôn thêm uy phong của đức vua.
Đức vua bước xuống hết mười hai bậc lại được Thôi đại giám hướng dẫn bước lên lễ đài năm bậc từ phía đông là phía có vẻ bức tranh để ngồi quay mặt về phương nam. Còn Thôi đại giám ngồi ở vị trí trước mặt đức vua, chếch về hướng tây, mặt quay về hướng bắc.
Theo hướng dẫn của Trịnh thượng thư Bộ Lễ, hoàng thúc nước Đại Việt Lý Long Tường bước lên lễ đài từ phía nam, nơi có vẽ bức tranh con hạc, ngồi đối diện với đức vua Cao Tông. Từ hai bên tả hữu, các cung nữ chắp tay giơ lên cúi đầu thi lễ.
Trong cung điện im phăng phắc. Chỉ một mình hoàng hậu ngồi trên bảo tọa cao ngất nhìn xuống quang cảnh trang nghiêm bên dưới.
Với giọng nói trầm lắng, đức vua Cao Tông mở đầu buổi lễ:
- Hôm nay cùng với quần thần bá quan văn võ gặp gỡ Hoàng thúc nước Đại Việt Lý Long Tường, trẫm chân thành hoan nghênh Hoàng thúc và thực sự vui mừng trước việc Hoàng thúc sang chung sống trên đất nước của trẫm. Hoàng thúc không quản ngại đường xá muôn dặm, đã tìm đến đất nước Cao Ly chúng tôi. Hoàng thúc từ lâu đã hâm mộ đất nước chúng tôi, nghĩ về đất nước chúng tôi với một mối tình cảm tốt đẹp, tin rằng nơi đây là đất nước của những vị thánh hiền phương đông và đã học biết được ngôn ngữ của đất nước chúng tôi. Như vậy là Hoàng thúc đã có đủ những điều kiện để sống chan hòa với chúng tôi. Xem xét từ nhiều mặt có thể chung sống hòa hợp với nhau như vậy, trẫm chiếu theo những luật lệ dựa trên những quy định về hoàng thất của đất nước trẫm, nay tấn phong tước vị Hoa sơn quân cho Hoàng thúc nước Đại Việt Lý Long Tường và tước vị Bình hải quân cho Lý Quân Tất trước sự chứng kiến của quần thần. Mặt khác, ở đất nước của trẫm, theo thông lệ từ xưa, đã có tước phải có lộc, cấp lộc đi đôi với phong tước. Vậy nay trẫm cấp thực ấp là vùng đất của triều đình ở Ủng Tân, coi đó như thuộc lộc để cả những người trong tộc họ của Hoa sơn quân có thể sống đầy đủ.
Đại vương Cao Tông long trọng phát biểu trao tặng tước vị vừa dứt, Hoa sơn quân vô cùng cảm kích bái tạ đức vua.
- Kẻ hạ thần tài hèn sức mọn vô cùng xúc động được bái kiến đại vương Cao Tông của đại Cao Ly quốc, lại được đại vương ban cho niềm vinh dự lớn lao như thế này, khiến kẻ hạ thần chẳng biết nói gì hơn, chỉ xin cúi đầu lạy tạ đức đại vương tại nơi ngự tiền, kẻ hạ thần sau này sẽ cùng với tất cả các vị đại quan tận trung báo quốc.
Hoa sơn quân nói tiếng Cao Ly lưu loát như nước chảy không chút ngập ngừng khiến đức vua và các quần thần có mặt trong buổi lễ vô cùng thán phục. Hoàng hậu An Huệ một mình ngồi trên ngai vàng nhìn xuống quang cảnh buổi lễ cũng rạng rỡ tươi cười, tỏ vẻ hài lòng.
- Hoa sơn quân nói tiếng Cao Ly, phát âm rất đúng, thật là tuyệt vời! Trẫm vui mừng được trời ban cho một nhân tài quý hóa.
Đại vương cầm lấy ngự bài và các văn tự xác nhận việc trao tước vị và thực lộc ở ngự tiền trao cho Thôi đại giám. Thôi đại giám đưa hai tay cầm lấy và chuyển cho Hoa sơn quân.
Hoa sơn quân đón nhận tước lộc, bước ba bốn bước đến trước nhà vua cúi đầu bái tạ.
- Đức đại vương đã quá hậu đãi, ban cho hạ thần tước lộc nhiều thế này. Ơn đức trời biển này kẻ hạ thần biết lấy gì đền đáp.
Lúc này các thị nữ bưng ra chiếc bình ngự tửu, một đặc sản của đồ sứ Cao Ly nổi tiếng với những chén vàng lớn đặt trước ngự tiền.
Đại vương cầm lấy chiếc bình ngự tửu, và nói:
- Hoa sơn quân lên đây, trẫm muốn ban cho Hoa sơn quân một chén rượu.
Hoàng thúc cúi đầu xuống sát đất, kính cẩn thưa:
- Xin đội ơn đức của đại vương.
Hoa sơn quân quá xúc động, không sao nhấc nổi người. Đức vua hiểu được nỗi lòng của Hoa sơn quân, bèn truyền cho các thị nữ đứng bên cạnh:
- Các ngươi hãy đưa Hoa sơn quân lên đây!
Theo lệnh truyền của đức vua, các cung nữ vội chạy xuống xốc nách dìu Hoa sơn quân lên trước ngự tiền.
Hoa sơn quân vừa tới nơi, đại vương Cao Tông bèn nhấc bình ngự tửu lên.
Các cung nữ lặng lẽ trao cho Hoa sơn quân một chén vàng.
Đại vương định rót rượu ra chén thì ống tay áo long bào vướng vào chén rượu. Các cung nữ vội lấy hai tay đỡ lấy ống tay áo.
- Kẻ hạ thần xin bái tạ đức đại vương.
Hoa sơn quân hai tay cầm lấy chén rượu nâng lên, mặt quay về hướng bắc, uống cạn.
Các cung nữ bắt đầu hát theo điệu nhạc cung đình:
"Xin mời chàng uống đi
Xin mời chàng uống hết chén rượu của đại vương ban cho.
Để được sống lâu muôn tuổi.
Chàng ơi, xin mời…"
Tiếng nhạc tươi vui hòa cùng với lời ca chuốc rượu lan khắp không gian cung điện, tạo nên đỉnh cao của sự hài hòa ca ngợi sự gắn bó đức vua với các quân thần. Lời hát đó cũng vượt qua các lớp cửa của cung điện nguy nga, lan tỏa khắp xứ kinh kỳ, ngợi ca sự hòa hợp giữa quan với dân.
Hoa sơn quân rất đỗi cảm kích, không ngăn được tình cảm trung hiếu trào dâng lên trong lòng mình.
Nếu anh linh của các đấng tổ tiên bao đời đến được nơi đây, nhìn thấy cảnh cháu con đang hòa hợp cùng muôn dân của đất nước Cao Ly này, chắc hẳn cũng thỏa lòng nơi chín suối…
Lúc này, Thôi đại giám đến trước đức vua Cao Tông thì thầm tâu lên điều gì.
Đức vua tỏ vẻ hài lòng, bèn hạ lệnh cho Khương tướng quân là tổng giám ngự lâm đang đứng ở phía sau.
Quan tổng giám ngự lâm dõng dạc hô lớn:
"Đức đại vương có lệnh truyền quan huyện ủng Tân Lý Hoàn Khuê lên trước ngự tiền chờ lệnh!"
Quan huyện Lý của sứ ủng Tân mới là quan chức ở hàng ngũ phẩm, chưa đủ tư cách tham dự buổi hành lễ, nhưng theo sự chỉ bảo của quan đại giám Thôi Di, đã đến đứng ở vị trí sau cùng của hàng ngũ các quan, hồi hộp chờ đợi. Nghe lệnh đức vua truyền xuống, quan huyện vội rẽ đám đông, cung kính bước lên lễ đài. Vừa đến trước ngự tiền, quan huyện sợ quá, quỳ xuống sụp lạy, ríu cả lưỡi.
- Muôn tâu đức đại vương, kẻ hạ thần là quan huyện ủng Tân Lý Hoàn Khuê, xin đợi lệnh đức đại vương.
Quan huyện chỉ nói được có vậy rồi lắp bắp những gì một mình không ai nghe rõ.
Đức vua nhìn xuống quan huyện với nụ cười hiện trên nét mặt.
- Nào, nhà ngươi hãy ngước đầu lên nhìn trẫm đi!
Quan huyện ủng Tân khó nhọc lắm mới dám ngước đầu lên báo kiến đức vua.
- Kẻ hạ thần xin bái yết đức đại vương.
Qua việc đề cử của quan đại giám Thôi Di, đại vương Cao Tông cứ tưởng đâu là quan huyện là người chính trực, cảm đảm, có đủ nhân cách để đảm đương công việc trị an với chức vụ án sát ở An Tây đô hộ phủ, nay gặp mặt, nhà vua cảm thấy phong thái quan huyện quá yếu đuối nên có ý muốn nhìn lại gương mặt quan huyện.
Còn quan huyện ủng Tân, khi nghe lệnh đức vua bảo ngước mặt lên, bỗng giật nảy mình, cứ thế ngửng mặt thét to chẳng kịp suy nghĩ gì. Không ngờ lời thưa đó của quan huyện lại tạo nên phản ứng tốt, đức vua tỏ vẻ an tâm, nhìn lại diện mạo quan huyện, quả đúng là con người có đức độ, khí thế.
- Tấn dương hầu Thôi đại giám cũng đã có lời tâu lên với trẫm về việc thăng chức cho quan huyện… Việc quan huyện gặp Hoa sơn quân, và xử lý mọi việc một cách chân thành tận tụy khiên trẫm rất đỗi vui mừng. Sách xưa có viết rằng: "Việc chọn người hiền ra giúp nước là một việc tốt mà chỉ có những người hiền mới làm được. Ai cũng bảo có thiện nói ác, có ác nói ác. Song phân biệt cho được cái thiện và cái ác là một điều cực kỳ khó khăn. Người ta chỉ biết căn cứ vào tình hình của riêng mình để bày đặt ra các chế độ khoa cử hoặc làm những điều gây tổn thương cho người khác. Những việc như vậy đã diễn ra không phải chỉ một đôi lần. Còn quan huyện thì giữ nghiêm phép nước, thừa hành công việc tốt, nên hôm nay đất nước mới thu nhận được người tài Hoa sơn quân. Công lao của quan huyện là lớn đó. Do vậy, trẫm đặc cách thăng chức cho quan huyện ủng Tân Lý Hoàn Khuê từ hàng ngũ phẩm lên hàng tam phẩm, làm án sát sứ ở An Tây đô hộ phủ".
- Muôn tâu đức đại vương, kẻ hạ thần chỉ sợ không đảm đương nổi chức vụ quá lớn lao.
Lúc đầu quan án sát sứ định nói một câu gì đó, nhưng cứ lúng búng mãi trong miệng không nói ra được thành lời. Nhưng sau này có lẽ do cảm động được thăng quan tiến chức, nên đã phát biểu được một câu như vậy.
Đức vua trao cho quan đại giám Thôi Di chiệc ngự bài án sát sứ của An Tây đô hộ phủ, quan Tấn dương hầu đỡ lấy trao lại cho án sát sứ Lý Hoàn Khuê.
Buổi hành lễ đên đây kết thúc, đức vua lại lui về nội cung. Tất cả bá quan văn võ đều đến chúc mừng Hoa sơn quân.
Các nhân vật có tên tuổi đương thời như phủ sư Khu mật viên Thôi Hương và tướng quân Trịnh Hưng Ưu… tất cả đều đến chào Hoa sơn quân. Ngày hôm ấy sau khi kết thúc buổi lễ, mọi người tấp nập chuẩn bị để hôm sau rời khỏi kinh thành được sớm sủa.
Thời bấy giờ, đối với mỗi chuyến đi của những người có tước vị được triều đình phong cho hoặc những người làm quan to, phía trước phía sau kiệu đều cắt đặt lính đi kèm và một đội nhạc kèn hoặc sáu người hoặc mười hai người, gọi là phong nhạc để tấu nhạc suốt chuyến đi.
Chuyến đi của Hoa sơn quân cũng được bố trí như vậy và hợp lưu đi cùng với chuyến đi phó nhiệm của án sát An Tây đô hộ phủ nên quy mô càng đồ sộ, hình thức càng long trọng. Thôi đại giám đã có chỉ thị đặc biệt phải bảo vệ tốt Hoa sơn quân.
Án sát sứ Lý bố trí một chiếc kiệu chuyên dùng cho Hoa sơn quân. Sau khi hoàn tất mọi công việc chuẩn bị cho chuyến đi của Hoa sơn quân, ông cũng khẩn trương lo liệu để về Ủng Tân.
Chuyến đi của Hoa sơn quân phải mất ba ngày mới về đến ủng Tân. Ông già họ Trịnh cũng với Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn hớn hở ra đón tiếp.
CHƯƠNG 14: TÌNH YÊU TRÊN ĐỈNH NÚI
Chuyến đi của Hoa sơn quân rời khỏi Tùng Đô, kinh đô của nước Cao Ly đã diễn ra một cách rầm rộ quá sức tưởng tượng.
Nhiều người đứng dọc hai bên đường cái quan chào mừng Hoa sơn quân.
Hoàng thúc vốn là người rất khiếm tốn, mỗi khi đi qua các huyện trấn dọc đường, bao giờ cũng cho dừng kiệu lại, để tìm gặp các quan địa phương hoặc những cụ già cao tuổi để bày tỏ lời thăm hỏi thân thiết.
Vị Hoàng thúc của nước Đại Việt là một người nhân đức, đã quy nhập nước Cao Ly, được đức vua dành cho ân sủng đặc biệt, phong tặng tước vị. Đây là sự kiện lần đầu tiên trong lịch sử đất nước. Quân dân nước Cao Ly, muôn người như một, không ai phản đối quyết sách này, mà ngược lại khắp nơi đâu đâu cũng lan truyền những lời ca tụng, xem đây là việc làm tốt thuận theo ý trời.
Dĩ nhiên trăm họ của xứ huyện ủng Tân, bao gồm tất cả già trẻ, gái trai đều vô cùng hồ hởi đón tiếp Hoa sơn quân trở về.
Án sát Lý Hoàn Khuê và các quan huyện mới được bổ nhiệm Phác Khuê Hòa cũng cùng về trong chuyến này, nên mức độ long trọng của đám rước Hoa sơn quân là điều có thể hiểu được.
Các quan chức mới và cũ của xứ này đều nghĩ mình là thân phận đi tháp tùng Hoa sơn quân hôm nay đã cho bố trí nghi lễ chào mừng tại sân trước nhà ông lão Trịnh Nhân Hưng là nơi ở của Hoa sơn quân.
Mọi người truyền nhau huyện nhà hôm nay có niềm vui lớn nên ai cũng náo nức kéo về đây đông như một biển người.
Trên chiếc sân rộng các đoàn lính lệ khẩn trương lo dựng lên các tấm che nắng lớn.
Nhiều người được chia rượu và thức ăn. Trong số người đã ngà say, có người cất cao giọng ngêu ngao hát những bài dân ca quen thuộc của quê mình, có người đeo mặt nạ múa các điệu múa "Bông san" độc đáo của miền này. Tất cả đã tạo nên khung cảnh mừng vui hớn hở của ngày hội.
Sau khi lễ chào mừng kết thúc, các quan huyện cũ và mới đều lần lượt ra về. Hoàng thúc được ông già họ Trịnh, Lý công tử đón vào nhà. Đến giờ đây mọi người trong gia đình mới được dịp quây quần bên nhau, nỗi vui mừng không sao kể xiết. Hoàng thúc Lý Long Tường của nước đại Việt được phong tước vị Hoa sơn quân, mình mặc áo cẩm bào màu đỏ, thắt đai có thêu hình con hạc, trông rất đạo mạo chỉnh tề.
Hoàng thúc Trịnh trọng kính lễ ông gia họ Trịnh, và lần lượt đến chào Tiêu Vĩnh Vạn và nhiều người khác. Sau đó Hoàng thúc từ tốn nói với ông già họ Trịnh:
- Thưa lão trượng, mấy hôm vừa rồi nhà ta vẫn bình yên? Tại triều đình, đức đại vương đã phá vỡ tục lệ bấy nay, không những gặp bản nhân mà còn phong cho tước lộc nữa. Bản nhân nghĩ rằng được như thế này, có phần lớn nhờ ở sự thành tâm của lão trượng.
Hoàng thúc nói xong bèn trao lại các giấy tờ chứng chỉ và các ngự bài được đức vua ban cho.
Ông già họ Trịnh đưa hai tay đỡ lấy, quả thật không ngờ đó lại là những văn kiện phong cấp tước vị và bổng lộc. Lòng tràn đầy niềm cảm kích, ông già không giấu được nỗi vui mừng.
- Đức đại vương giàu lòng nhân ái quá, ơn đức trời biển này biết lấy gì đền đáp.
Lý công tử ngồi cạnh cũng đưa mắt ngắm nhìn với vẻ mặt và tấm lòng thành khẩn. Chỉ có Tiêu Vĩnh Vạn vừa vui mừng nhưng cũng tỏ vẻ rất thản nhiên, không vồ vập. Không biết ông già họ Trịnh và Lý công tử có thấu hiểu chăng, chứ Hoàng thúc vốn xem cảnh vinh hoa phú quý chẳng khác gì cát bụi. Hiểu thấu được nỗi lòng của Tiêu Vĩnh Vạn, Hoàng thúc bèn nói với vẻ nghiêm trang:
- Tiêu đại nhận quả là con người siêu phàm, chẳng màng danh lợi. Thời thế long đong lận đận nên đành phải thế chứ không phải tôi chỉ cốt mong được như vậy. Ngặt một điều, tôi còn có bao người trong gia đình đi theo, phải nuôi sống họ, biết làm thế nào được.
Tiêu Vĩnh Vạn cảm thông với nỗi bận tâm đó của Hoàng thúc, bèn nói:
- Hoàng thúc nói đúng đó. Sách xưa có câu "Thánh nhân tòng thế tục". Dù có là thánh đi nữa cũng phải theo tập tục nơi trần thế. Hiện thực là đáng buồn, nhưng không thể xoay chuyển được. Có những việc không thể suy nghĩ bằng phẩm đức cao quý của Hoàng thúc được. Chỉ dám mong Hoàng thúc yên lòng, quá khứ thì cũng đã như vậy rồi, đừng nghĩ là gì về những ngày đã qua mà chỉ nên nghĩ về cuộc đời trước mắt thôi.
- Tôi cũng đã quyết sẽ làm theo như lời Tiêu đại nhân nói.
Ông già họ Trịnh không hiểu câu chuyện trao đổi giữa hai người với nhau, còn Lý công tử đến bây giờ mới hiểu hết, bèn đưa mắt nhìn Hoàng thúc rồi lại nhìn Tiêu Vĩnh Vạn.
Tiêu Vĩnh Vạn lái câu chuyện sang hướng khác.
- Hoàng thúc được triều đình phong tước vị và cấp cho thực ấp. Nỗi vui này làm sao lại chỉ có là của chúng ta thôi? Bởi vậy, nhân dịp này, ta nên bàn với cụ già Trịnh mời tất cả những người có chức phận không những ở huyện này, mà cả những người ở các miền lân cận đến tiếp đãi họ, có lẽ hay chăng?
- Tiêu đại nhân nói chí phải, việc làm này hay đấy.
Ông già họ Trịnh ngồi cạnh nghe nói rất lấy làm đắc ý với ý định đó của Tiêu Vĩnh Vạn. Ông già bàn với Hoàng Thúc:
- Thưa Hoàng thúc, ta làm theo ý của Tiêu đại nhân có lẽ tốt đấy.
Hoàng thúc sợ làm vậy sẽ gây quá nhiều phiền hà cho ông già họ Trịnh nên còn phân vân:
- Chỉ ngại nếu làm sẽ gây nhiều phiền hà cho lão trượng.
Hiểu được nỗi e ngại của Hoàng thúc, ông già họ Trịnh đáp:
- Hoàng thúc mà cũng nghĩ vậy ư? Đây là việc đại khánh hỷ, làm sao ta lại cứ ngồi im. Hơn nữa bố con tôi cũng nhờ công ơn của Hoàng thúc và các vị trong đoàn mà được cứu sống; tài sản đã được trả lại; cả gia đình chúng tôi không còn phải lo lắng gì về cái ăn cái mặc nữa. Xin Hoàng thúc đừng ngại ngùng gì cả.
Tuy vậy, Hoàng thúc vẫn còn do dự. Tiêu đại nhân hạ quyết tâm khuyên Lý công tử:
- Lý công tử này, lão trượng đã có lời như vậy, và phía chúng ta cũng do nhiều hoàn cảnh đặc biệt, nên dứt khoát phải làm thôi.
Đến lúc này, Lý công tử cũng quyết làm, bèn nói:
- Thưa Hoàng thúc, chúng ta cũng đã có chuẩn bị ít nhiều, mức chi phí này có thể kham nổi. Xin Hoàng thúc đừng ngại. Chúng ta nên làm thôi, thưa Hoàng thúc.
Tuy vẫn có phân vân điều này điều nọ, nhưng đến đây Hoàng thúc cũng đồng ý, bèn nói:
- Thôi được rồi, cố gắng làm cho tốt nhé.
Kể từ hôm ấy, cả nhà một mặt lo chuẩn bị rượu và thức ăn, mặt khác bắt đầu phát giấy mời các vị chức sắc không những ở trong địa hạt huyện nhà mà cả các xứ huyện lân cận trong vòng bốn năm mươi dặm. Để chuẩn bị cho những buổi tiệc tùng lớn, chi phí hết sức tốn kém như vậy, ông già họ Trịnh cũng phải vất vả ngược xuôi rất nhiều. Có một hôm vào buổi sáng, giữa lúc ông đang cầm giấy mời của Hoàng thúc định đem gửi đi, thì có một người tên gọi Lâm Thành Cơ, một viên tướng của An tây đô hộ phủ đến chuyển cho Hoàng thúc một bức thư của quan án sát của phủ này.
Nội dung bức thư nói rằng được tin Hoàng thúc mở tiệc lớn xin gửi biếu ba trăm thúng gạo trắng và một phần chi phí.
Hoàng thúc cảm thấy khó nghĩ quá, nhưng ông già họ Trịnh ít nhiều cảm thấy hãnh diện và thảnh thơi hơn trong lòng, tin rằng công việc tiệc tùng lần này chắc sẽ được như ý.
Cuối cùng thì mọi công việc chiêu đãi cũng đã diễn ra theo như mong muốn. Quan án sát sứ An tây đô hộ phủ cũng đến dự. Các bữa tiệc đã tiến hành trong hơn mười ngày, mời nhiều người thuộc nhiều địa phương đến dự. Thế gian có câu: "Lòng người từ trong hũ gạo mà ra." Quả đúng vậy, lúc bấy giờ khắp các vùng lân cận đều loan truyền câu chuyện Hoàng thúc là một bậc đại nhân có lòng nhân từ. Mặt khác quan án sát sứ ở An tây đô hộ phủ ngay từ đầu đã tham gia góp phần vào sự thành công của công việc chiêu đãi này nên cũng được tiếng thơm là vị quan có lòng hảo tâm.
Ở đây người ta đã chịu khó chịu khổ đi đầu trong tất cả mọi việc, người đi trước dẫn đường, phấn đấu quên mình vì nghĩa cả khi bước chân tới chốn này chính là Tiêu Vĩnh Vạn. Nhưng anh ta lại trở về Thanh Châu. Hoàng thúc và Lý công tử cố nài ép thế nào cũng không được. Anh ta buộc phải về vì có sứ mệnh riêng của mình.
Thời gian qua, do bận rộn với nhiều công việc, nên không còn đầu óc đâu để nghĩ về tổ quốc. Nhưng khi tiệc tùng đã tan, mọi người đều đã ra về, Lý công tử và ông già họ Trịnh thì suốt ngày bận rộn với công việc đồng áng, từ sáng sớm đã phải ra đồng chỗ này chỗ nọ để theo dõi đôn đốc công việc, nên ở nhà chỉ còn mỗi một mình Hoàng thúc sống những ngày buồn tẻ. Không hiểu tại sao trước đây đêm nào Hoàng thúc cũng có thời gian để gặp gỡ Anh Cơ chuyện trò, thế mà vừa qua, do có việc tiệc tùng, mọi người bận rộn túi bụi, các nếp sinh hoạt cũ bị đảo lộn, nên cả gương mặt của nhau cũng không còn nhìn thấy nữa, đừng nói chi đến gặp gỡ.
Trong những ngày đó, nỗi buồn nhớ quê hương vốn âm ỷ nơi sâu kín trong lòng Hoàng thúc lại có dịp bùng lên. Nỗi niềm nhớ mong tổ quốc lại trỗi dậy trong tâm khảm của Hoàng thúc. Càng đắm chìm trong những suy nghĩ đó, những sự việc của ngày qua nơi cố quốc càng hiện rõ trong đầu óc của Hoàng thúc. Để khuây khỏa, Hoàng thúc bắt đầu dò đường bước đi từng bước một leo lên đỉnh núi Việt Thanh sơn.
Việt thanh sơn không cao lắm nhưng rất tươi đẹp, cảnh sắc thanh tú, trên đỉnh nói có một tảng đá có tên Việt Thanh nham. Leo lên tảng đá ấy có thể nhìn bao quát cả biển Tây.
Nhìn ra biển khơi xa xa, nỗi niềm nhớ mong về nơi tổ quốc ở phương nam càng trào dâng lên nhức nhối trong lòng Hoàng thúc.
Những chiếc thuyền buồm lướt qua đầu những ngọn sóng xanh man mác như đang đi về nơi tổ quốc xa xăm, còn những con thuyền từ phía nam đến có vẻ như đang mang đến những tin tức của quê nhà. Nhìn thấy cảnh các thuyền buồm tới lui trên biển cả, Hoàng thúc không ngăn được nỗi niềm xúc động trong lòng. Người như muốn bay qua đầu của vô vàn những ngọn sóng xanh kia và tìm đến các phu thuyền, ôm chầm lấy họ hỏi han tin tức quê nhà.
Những giọt nước mắt như những giọt châu tuôn rơi lã chã. Hoàng thúc ngoái nhìn ra xung quanh không thấy có ai theo dõi mình, chỉ có ánh nắng chiều vẫn còn tỏa nóng như muốn rấm chín cả vạn vật. Từng bầy chim núi bay lượn đó đây, cất lên tiếng hót trong trẻo, chỉ càng làm buồn lòng thêm Hoàng thúc mà thôi.
- Phụ vương ơi, hãy tha thứ cho đứa con bất tài vô lực này, phụ vương ơi! Giờ đây con đang sống nơi đất khách quê người cách xa muôn dặm, song con vẫn một lòng hướng về anh linh của đức phụ vương đang ngự trị nơi cố quốc dưới gầm trời phương Nam.
Giọng nói thảm thiết nức nở của Hoàng thúc vang lên quanh ngọi núi Việt Thanh sơn đang đắm chìm trong tĩnh mịch. Tiếng khóc than tha thiết ấy như đang vượt qua con đường đầy chông gai trắc trở giữa muôn trùng biển rộng núi cao, bay về nơi quê cha đất tổ, bay về nơi chân trời phương nam xa xôi…
Lòng đã định sống dài lâu trên mảnh đất này mà vẫn chưa an cư lạc nghiệp được. Nghĩ về những ngày đầu đầy đau xót đã qua, có lẽ khó yên lòng với những gì đang ập tới trong ngày mai đây.
Lòng miên man suy nghĩ hết chuyện này, chuyện khác đến nỗi mặt trời đã lặn xuống biển tây từ lúc nào mà Hoàng thúc vẫn không hay biết. Kể từ sau đó, ngày nào Hoàng thúc cũng leo lên núi Việt Thanh sơn, sống ở đó từ sáng tới tối, trăn trở với biết bao điều suy nghĩ như một mối tơ vò trong lòng.
Ông lão họ Trịnh và Lý công tử cứ mỗi buổi tối thấy Hoàng thúc về đến nhà với cặp mắt sưng mọng và ngấn nước mắt vẫn còn in trên hai khóe mắt, đã hiểu được nỗi lòng của Người.
Quả thực, gần đây ai cũng thấy Hoàng thúc gầy đi nhiều.
Có một hôm vào buổi sáng, ông già họ Trịnh gọi con gái Anh Cơ đến phòng mình. Anh Cơ bước vào phòng, chào bố.
- Con chào bố, bố ngủ có được ngon giấc không ạ?
Ông già họ Trịnh nhìn con gái, nét mặt lộ vẻ lo lắng:
- Ừ, con ngồi xuống đây. Bố có đôi lời muốn nói với con, nên mới bảo con vào.
Anh Cơ im lặng, mắt nhìn xuống đất như thể đang chờ nghe bố nói tiếp.
- Gần đây con không gặp được Hoàng thúc có phải không?
Anh Cơ vẫn im lặng. Thời gian qua, ông lão họ Trịnh có được biết chuyện đêm nào con gái mình cũng gặp Hoàng thúc trò chuyện, cảm thấy có phần không được hợp lẽ. Mặt khác thấy Hoàng thúc ban đêm không ngủ đủ giấc, nên ban ngày phải ngủ bù ở gian ngoài cũng không tiện. Nhưng cũng không thể bảo con gái không nên gặp ban đêm mà chỉ gặp ban ngày. Do vậy, ông chỉ nghiêm giọng nói với con: "Nam nữ hữu biệt, sao con lại gặp Hoàng thúc vào buổi tối?"
Anh Cơ tuy hiểu được nỗi lòng của bố, song cảm thấy xấu hổ, nên từ sau đó đóng cửa phòng khuê không ra ngoài nữa. Ông già hiểu được tấm lòng cực kỳ hiếu nghĩa của con gái, nên sau khi đắn đo, đã nó với con:
- Anh Cơ con này, con nghĩ rằng bố không hiểu hết nỗi lòng của con sao. Như có lần nào đó, bố đã nói với con, nhờ ơn Hoàng thúc nên bố con ta mới được cứu sống. Cho nên bố đã quyết. Con cũng đến tuổi rồi. Trước đây, Tiêu đại nhân lúc ra đi có khẩn khoản căn dặn lại bố thế nào cũng phải giúp cho Hoàng thúc và con trở thành đôi lứa.
Anh Cơ có vẻ xấu hổ, đầu càng cúi thấp hơn, nói với giọng run run:
- Con chẳng biết đâu, tùy ở bố thôi.
Ông lão Trịnh chăm chú nhìn con gái rồi nói:
- Ừ, thế con nhé. – Ông gật đầu, nói tiếp: - Gần đây Hoàng thúc ngày nào cũng lên núi Việt Thanh sơn, đến tối mịt mới về. Mắt sưng mọng và người gầy đi rất nhiều. Đúng là Hoàng thúc đã quyết ở lại đây sinh sống, nên nỗi nhớ về lại càng da diết, có lẽ Người đau buồn lắm.
Anh Cơ đoán có lẽ bố đã từng nói "không được gặp ban đêm", nên bây giờ nghĩ lại, bố thấy hối hận.
Anh Cơ tỏ vẻ lo lắng, lặng lẽ ngước mắt lên nói với bố:
- Bố ơi, Hoàng thúc…
- Ừ, gần đây Hoàng thúc trông thật đáng xót xa. Hôm nay có lẽ Người lại lên núi rồi.
Cô con gái lại cúi đầu đăm chiêu suy nghĩ. Ông già họ Trịnh đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, như nói một mình: "Khi Tiêu đại nhân còn ở đây, quyết định nhanh đi, bây giờ có phải đã ổn định rồi không".
Ông già lẩm bẩm một mình như có phần hối hận.
Cô con gái hiểu được nỗi lòng bứt rứt của bố. Ông già họ Trịnh không thể nói vì Hoàng thúc đáng thương quá mà phải vội vã đứng ra hối thúc, lại không thể vì thế mà cứ kéo dài mãi theo năm tháng, phó mặc cho thời gian. Anh Cơ an ủi bố về những điều mà bố đang băn khoăn.
- Bố ơi, bố đừng quá lo nghĩ làm gì.
Nghe con trả lời thế, ông bố cảm thấy như sắp có điều gì đó tốt đẹp, bèn nhìn thằng vào con. Nhưng Anh Cơ đã đứng dậy và nói với bố:
- Bố ơi, con về phòng của con đây.
Ông già thấy không còn cách nào khác, có phần khó nghĩ, bèn bảo con:
- Ừ, thôi con về phòng đi.
Sau khi trở về phòng mình, cô con gái hạ quyết tâm. Nghĩ đến hình ảnh Hoàng thúc đang khóc lóc xót xa, tự nhiên Anh Cơ cũng thấy cay cay khóe mắt. Trong trí tưởng tượng của nàng, hiện lên hình ảnh Hoàng thúc khóc than vật vã một mình trên núi Việt Thanh sơn. Không thể phó mặc cảnh ngộ của Hoàng thúc trôi đi theo dòng thời gian như vậy được. Nàng liếc nhìn lên chiếc gương treo bên cạnh, thấy hai mắt mình lã chã tuôn rơi những giọt lệ nóng. Lấy khăn tay lau nước mắt, soi lại gương, bản thân cũng không biết mặt mình đã đỏ bừng lên từ bao giờ. Hoàng thúc đang lang thang trên núi Việt Thanh sơn, cất tiếng gọi: "Anh Cơ ơi!" Trong tâm trí, nàng hoang tưởng, cảm thấy như Hoàng thúc đang gọi đến tên mình.
- Ôi, ta điên rồi sao! Hoàng thúc là ân nhân, đời nào lại đi yêu đương!
Nàng lẩm bẩm một mình, bỗng chạy ra ngoài, bản thân nàng không tự chủ được nữa. Nàng đến chân núi Việt Thanh sơn rồi mới hay là mình đã đến. Mặt nàng lại đỏ bừng lên, nhìn ra bốn phía, may mà không có ai. Đã lâu lắm rồi nàng mới lại ra núi. Cỏ cây trên núi và trên cánh đồng đang lung lay múa may theo chiều gió như vui mừng chào đón nàng. Nàng bước rón rén từng bước nhè nhẹ như sợ làm sây xước những cây con vạt cỏ mọc trên núi, rồi lần theo con đường dốc leo lên. Những khóm dâu mọc riêng một mình trong khe đá ra quả sum sê như đang chờ có người hái, nhìn nàng với vẻ vui mừng. Nhưng nàng đi lướt qua những bụi dâu đó, các cành dâu vướng vào gấu váy của nàng. Nàng đưa bàn tay xinh đẹp nhẹ nhàng gỡ các cành dâu khỏi gấu váy. Các cành dâu bật trở lại có vẻ như giận dỗi. Bụi dâu bị rung, có mấy chùm dâu chín mọng đỏ ối như son rơi xuống đấy lăn lông lốc.
Trông thấy thế, nàng thấy tiếc thương cho quả dâu, cúi xuống hái mấy chùm bỏ vào miệng, tô thắm thêm đôi môi xinh đẹp của mình, và bước tiếp lên theo con đường dốc. Cuối cùng nàng đã đến được phía sau tảng đá Việt Thanh nham.
Để tránh ánh nắng oi ả, Hoàng thúc chọn bóng râm của phiến đá, ngồi quay mặt về phía tây, thẫn thờ dõi nhìn về phía biển Nam xa xa.
Nàng cố ý tránh ánh mắt của Hoành thúc, núp vào sau một cây thông mới lớn chăm chú theo dõi. Bỗng một con rắn mối từ dưới chân nhảy bổ ra làm nàng giật mình thét lên: "Ối mẹ ơi!" và lùi về phía sau một bước.
Hoàng thúc đang chìm đắm trong nỗi buồn nhớ quê hương, bỗng giật mình nghe thấy tiếng kêu to của một người con gái, bèn quay lại nhìn về phía sau, thì ra người con gái xinh đẹp đó không phải ai khác mà chính là Trịnh Anh Cơ.
- A, Anh Cơ, làm thế nào lên được nơi đây…
Anh Cơ hoảng hốt vì con rắn mối, vừa hoàn hồn thì nghe được tiếng nói quen thuộc của Hoàng thúc. Cô gái đỏ mặt, có phần bối rối chẳng nói được lời nào.
Hoàng thúc đi mấy bước đến chỗ Anh Cơ đang đứng, và nói:
- Anh Cơ đã lên đây rồi, xin mời lại chỗ bóng râm này.
Với vẻ ái ngại. Hoàng thúc mời Anh Cơ đang đứng dưới ánh nắng chói chang vào chỗ mát.
Nàng im lặng bước theo vào ngồi trong bóng râm.
Hoàng thúc hiểu được rằng Anh Cơ lên đây thăm mình.
- Xin cảm ơn Anh Cơ đã lo lắng cho tôi và đến thăm tôi.
- Bố lo lắng rất nhiều về Hoàng thúc đó. – Anh Cơ tủm tỉm cười.
- Vì tôi mà để cụ và nàng phải lo lắng nhiều thế này… Đã vậy, lâu nay không gặp được Anh Cơ…
Không nói được hết lời, Hoàng thúc cúi nhìn xuống đất.
Anh Cơ nhìn thấy Hoàng thúc như vậy bèn òa lên khóc.
- Hoàng thúc cứ buồn rầu thảm thiết như vậy, Anh Cơ vui được nào! – Cô gái quay mặt đi khóc nức nở.
- Nào, tôi đâu có phải thế, Anh Cơ ơi!
Hoàng thúc đưa tay lên xoa xoa đôi vai đang rung lên theo tiếng thổn thức của Anh Cơ. Nhưng tiếng khóc của Anh Cơ càng nức nở, tưởng như không dứt được.
Hoàng thúc lấy hai tay vuốt lại mái tóc buông xõa của Anh Cơ và vuốt ve lên lưng nàng, cảm nhận mùi thơm ngây ngất của da thịt nàng, Hoàng thúc không kìm được mình bèn ôm lấy nàng. Nàng thấy mình đã nằm trọn trong vòng tay của Hoàng thúc, nhưng nàng không có cam đảm vùng ra khỏi vòng tay đó, mà chỉ còn biết úp mặt vào lòng Hoàng thúc.
Hoàng thúc vốn nhân từ hiền lành, nhưng giờ đây khi đã ôm được vào lòng mình cô gái rất dịu dàng nết na mà mình yêu thương hết mực, tình cảm bị dồn nén bấy lâu nay đối với nàng bỗng bùng cháy lên dữ dội trong lòng. Giống như một con sư tử dũng mãnh lao tới, ôm ghì lấy Anh Cơ và lặng lẽ tìm đến đôi môi của nàng…
Bỗng từ trong khe núi, có tiếng hát vọng tới.
Họ giật mình vội buông nhau ra.
Tiếng hát văng vẳng vọng tới với âm điều buồn buồn:
"Ta lên núi, ta đào ngọc,
Ngọc ơi tên đẹp lắm
Ôi, sơn ngọc đây rồi?"
Trên đỉnh núi cao yên tĩnh, Hoàng thúc chẳng nghĩ đến khuôn phép gò bó, đã ôm lấy Anh Cơ, hôn nàng thắm thiết và ghì chặt lấy nàng vào lòng mình. Hoàng thúc bây giờ bỗng trở nên tươi tắn hẳn lên, tưởng như đã quên đi bao nhiêu nỗi buồn nhớ quê hương mà chỉ mới giây lát trước đây thôi, mình vẫn chưa sao quên được. Hoàng thúc thấy hai người cứ đứng im như vậy đã lâu, có phần hơi ngượng cho nhau, bèn cất tiếng hỏi:
- Anh Cơ ơi, tiếng hát ấy là tiếng hát gì vậy?
Nàng mỉm cười trong khóe mắt chan chứa yêu thương:
- Hoàng thúc chưa biết đâu. Đó là một khúc đồng dao.
- A khúc hát đồng dao, Anh Cơ ơi, người ta thì đào được ngọc quý. Còn tôi thì tìm ra được nàng.
Hoàng thúc vừa nói, vừa cười khúc khích. Anh Cơ mặt đỏ dừ, liếc mắt sang một bên:
- Hoàng thúc cứ nghĩ vậy, thiếp chả biết đâu.
- Ai hát bài đó, Anh Cơ có biết không?
Hoàng thúc đưa mắt nhìn về phía thung lũng có tiếng hát vọng ra.
- Hoàng thúc ơi, đó là những trẻ mục đồng trong làng lên núi kiếm củi đấy.
Đến lúc ấy Hoàng thúc mới tin hình bóng hai người bên nhau vẫn chưa lọt vào mắt ai, nhưng dù sao vẫn lúng túng, có phần ngượng ngập.
Mặt trời đã dần dần lên trên đỉnh đầu, bóng râm của phiến đá cũng bị thu nhỏ lại. Hoàng thúc kéo tấm cói trải dưới đất đến phía trước phiến đá, ngồi xuống và mới Anh Cơ cùng ngồi.
Anh Cơ đến ngồi bên Hoàng thúc, nhìn về phía biển Nam xa xa mịt mù. Nàng đưa bàn tay mềm mại chỉ về phía xa xăm và nói:
- Hoàng thúc ơi, đất nước phương Nam nơi chân trời xa thẳm kia là cố quốc đấy phải không?
Không hiểu sao, Hoàng thúc cảm thấy khi đã có Anh Cơ ở bên cạnh, mình chỉ thích nhìn lên khuôn mặt nàng hơn là nghĩ về tổ quốc và dõi nhìn về phía xa xăm đó.
- À không, nàng ơi, quê hương giờ đây chẳng phải là mảnh đất này ư, mảnh đất có Anh Cơ đang sống ấy mà…
Nàng rất yêu mến dáng vẻ thật thà trong sáng như một đứa trẻ đó của Hoàng thúc.
- Hoàng thúc ơi, từ nay Hoàng thúc đừng lên đây nữa nhé. Anh Cơ này sẽ không bao giờ rời xa Hoàng thúc đâu.
- Được thế thì còn gì bằng.
- Từ ngày mai, Hoàng thúc đừng lên đây nữa, mà phải ở nhà để tiếp đón khách khứa đến thăm nhé.
- Nhưng mà đã có ông, có Lý công tử, dù không có tôi đi nữa thì cũng chẳng có gì phải lo lắng.
Anh Cơ rất tha thiết muốn Hoàng thúc sống gắn bó với gia đình nhà cửa bèn nói một cách nghiêm trang:
- Không được đâu, Hoàng thúc định sống ở xứ sở này, thì Hoàng thúc phải biết hết mọi phong tục tập quán của địa phương, biết được lòng người dân đang suy nghĩ gì và phải hòa hợp cùng với họ.
Hoàng thúc nghe những lời nói thẳng ngay đáng tin cậy như của một người lớn nói ra từ miệng một cô gái mới trạc đôi mươi, trong lòng rất cảm động. Người nhìn đăm đăm lên khuôn mặt nàng và nói:
- Anh Cơ ơi, nàng đã hiểu thấu hết mọi lẽ trên đời này rồi đó.
- Bố cũng lo lắng như vậy Hoàng thúc ạ.
Hoàng thúc gật đầu mạnh mẽ.
- Vậy thì ngày mai nàng nhất định muốn tôi ở nhà. Nhưng mà…
- Nếu Hoàng thúc làm theo như thế, thì thiếp sẽ không bao giờ rời xa Hoàng thúc. Nhưng mà Hoàng thúc không được thức khuya ban đêm và ngủ bù vào ban ngày đâu đấy nhé.
Tuy là hoàng thân của một nước, nhưng Người đã quay mặt đi với hết thảy mọi sự để có thể sống được cho tới giờ. Đến lúc này Người mới hiểu lý do vì sao lâu nay Anh Cơ đã không gặp mình.
- Vậy từ hôm nay, tôi sẽ làm theo lời khuyên của Anh Cơ. Nàng hãy bảo cho tôi biết những gì cần thiết.
Anh Cơ cười chúm chím:
- Tiện nữ em chẳng biết gì đâu.
Hoàng thúc lấy tay vuốt ve những ngón tay nhỏ nhắn dịu dàng của nàng, cảm thấy lòng tràn ngập hạnh phúc vì được ở bên nàng.
Người cảm thấy hạnh phúc còn vì Người nghĩ rằng anh linh của các bậc tổ tiên nơi tổ quốc xa xôi cũng đang dõi trông theo mảnh đất lành chim đậu được dành cho cháu con này. Trong lòng Người trào lên một niềm suy nghĩ mãnh liệt rằng nơi không có tình yêu thì dù là giang sơn gấm vóc hoa lệ đến đâu cũng chỉ là một bãi sa mạc hoang vu vắng vẻ.
Bởi vậy câu chuyện ngày xưa ở nước Việt, Phạm Lãi đã làm đến chức tể tướng rồi mà còn bỏ cả sự nghiệp lên thuyền cũng với tuyệt thế giai nhân Tây Thi, vượt sóng trùng dương ra đi không hề luyến tiếc là điều có thể hiểu được. Mặt trời đã chìm dần xuống biển Tây. Anh Cơ đứng dậy, những ngón tay nàng vẫn còn nằm trọn trong lòng bàn tay của Hoàng thúc.
- Bây giờ chúng ta xuống núi thôi Hoàng thúc ạ.
Hoàng thúc cũng đứng dậy cùng với cánh tay nàng kéo lên theo.
May sao hai người về đến nhà mà không gặp phải ánh mắt nào của người làng.
Kể từ hôm ấy, Hoàng thúc bắt đầu một cuộc sống mới.
Lý công tử hằng ngày trong nom công việc đồng ruộng trên vùng đất được nhà vua ban cho làm thực lộc. Đối với các tráng đinh, thì phân công một số đi làm ruộng, số còn lại đưa thuyền ra biển đánh cả. Công việc được cắt đặt đâu vào đấy.
Hoàng thúc ngồi ở gian thư trai bên ngoài, bàn luận công việc với ông lão Trịnh, tiếp đón những người đến thăm, và đến thăm nom giúp đỡ những người gặp khó khăn trong việc làm lễ thành niên cho con cái, lễ cưới xin, lễ ma chay, lễ cúng giỗ tổ tiên…, hòa hợp gắn bó cùng với mọi người và đã trở thành chủ nhân thực sự của miền đất này.
Lý công tử đã bàn với ông già họ Trịnh mùa thu năm ấy, sau khi gặt hái xong sẽ làm lễ thành hôn cho Hoàng thúc và Anh Cơ.
Hoàng thúc yên tâm phấn khởi, một mặt xây dựng cơ sở cho cuộc sống mới, mặt khác bàn bạc với ông lão Trịnh tìm nơi chốn lo tính việc trăm năm cho Lý công ty đã dành, mà còn cho cả hơn hai mươi tráng đinh đã theo mình sang đây, lo liệu đất đai nhà cửa cho họ, giúp họ tạo nên cuộc sống tự lập. Người ta đổi tên đất tên sông nơi đây bằng tên đất tên sông của Việt nam. Người đổi Việt Thanh sơn thành Hoa sơn. Các miền đất xung quanh huyện trấn cũng được đổi thành tên Việt Nam như làng Đình Hải, làng Việt Nam, làng Giao Chỉ. Sông Ủng Tân cũng được gọi theo tên của một con sông nơi tổ quốc là sông Thê Anh.
Đất thực ấp của nhà vua ban cho nằm ở vùng ngọai vi cuả huyện trấn, là một vùng đất mầu mỡ được ban cấp vĩnh viễn cho Hoa sơn quân, nên tòan bộ ruộng lúa cũng như ruộng mầu, cả gia tộc họ hàng của Hoàng thúc ăn tiêu đầy đủ vẫn còn dư dật.
Hoàng thúc nước đại Việt mới đến định cư, tinh thần phấn chấn, sức sống dồi dào, cùng với họ hàng của mình thật thà làm ăn xây dựng cuộc sống nên đã dễ dàng hòa hợp với mọi người dân nơi này.
Tuy nói là sống nơi đất khách quê người cách xa nghìn trùng, nhưng hòan cảnh cuộc sống nơi đay chẳng khác gì khi còn ở tổ quốc.
Nhà của Hoàng thúc bây giờ lấy tên là nhà của Hoa sơn quân nước Đại Việt, được gọi là Hoa sơn quân. Con đường đi lên đi xuống núi dạo chơi được gọi là Hoa sơn đạo.
Dù còn cảm giác lạ lùng, song chẳng khác gì như sống ở cố quốc.
Hơn nữa Hoàng thúc còn gặp được Trịnh Anh Cơ và lấy nàng làm vợ. Trịnh Anh Cơ lại có hình dáng giống hệt Ngô Anh Cơ là cô gái đã lưu luyến tiễn biệt Hoàng thúc khi Người giã từ tổ quốc ra đi. Đó chẳng phải là điều may mắn bất ngờ đó sao.
Bình hải quân Lý công tử cũng có lời an ủi Hoàng thúc.
- Hoàng thúc ơi, giờ đây chúng tôi được theo cùng Hoàng thúc ra sức xây dựng cuộc sống mới trên mảnh đất này mà chẳng thấy có gì mất tự do so với khi còn ở nơi tổ quốc. Được như vậy cũng là trời phù hộ cho tấm lòng nhân đức của Hoàng thúc.
Hoàng thúc nghe nói vậy, bèn lấy tay vuốt bộ râu dài và nói:
- Không phải thế đâu, tất cả là do ân sủng của đức đại vương Cao Tông ban cho đấy.
- Khi còn ở nơi tổ quốc, Hoàng thúc đã ngưỡng một nước Cao Ly, đồi hồi mong nhớ về đất nước này, cho nên đức vua của nước này nỡ lòng nào không quan tâm. Sách có câu "Tâm thành tắc ứng", ở hiền gặp lành chẳng phải vậy sao.
Hoàng thúc lặn yên không đáp lại, đưa mắt nhìn về phía ngọn núi xa xa.
Những ngọn núi hiện lên ở phía đông… những ngọn núi trùng điệp chồng chất lên nhau, trên núi lại có núi, tạo nên hình ảnh lớp lớp sánh nhau cao thấp dưới bầu trời.

Không có nhận xét nào: