LỜI NÓI ĐẦU
Binh đoàn Hương Giang thành
lập ngày 17 tháng 5 năm 1974, là một trong những Binh đoàn
chủ lực cơ động đầu tiên của các lực lượng vũ
trang nhân dân ta, sự ra đời và trưởng thành lớn mạnh
của Binh đoàn Hương Giang thể hiện sinh động quy luật
về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng; đánh dấu một bước phát triển
quan trọng của quân đội ta.
30 năm xây dựng,
chiến đấu và trưởng thành, Binh đoàn Hương Giang đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt nhiều thành tích to
lớn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ
- xây dựng Tổ quốc. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Binh
đoàn đã tiến công phá vỡ tuyến phòng thủ kiên cố
của địch ở Đông - Nam Sài Gòn, tổ chúc lực lượng
đột kích cơ giới đánh chiếm "Dinh Độc Lập",
bắt sống Tổng thống và toàn bộ nội các chính quyền
Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975 góp phần vào thắng lợi
cuộc kháng chiến của dân tộc.
Vừa bước ra từ
khói lửa cuộc chiến tranh giải phóng, Binh đoàn Hương
Giang đã kịp thời có mặt ở những mặt trận nóng bỏng
của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Bước vào giai
đoạn mới, trên cơ sở quán triệt sâu sắc nhiệm vụ
của cách mạng, cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn Hương Giang
không ngừng phát huy cao độ truyền thống "Thần tốc,
táo bạo, quyết thắng" xây dựng Binh đoàn ngày càng
hùng mạnh, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Năm 1994,
nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Binh đoàn, Bộ tư
lệnh Binh đoàn Hương Giang đã cho xuất bản cuốn "Lịch
sử Binh đoàn - Tập 2" và Tập 1 sách văn học gồm
văn, thơ với tựa đề "Binh đoàn mang tên một dòng
sông". Hai cuốn sách trên đã phát huy tốt giá trị,
tác dụng giáo dục truyền thống, động viên tinh thần
cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn phấn đấu vươn lên hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong thời gian
qua.
Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Binh
đoàn, Thường vụ Đảng ủy – Bộ Tư lệnh Binh đoàn
Hương Giang đã chỉ đạo biên soạn và xuất bản sách
văn học "Binh đoàn mang tên một dòng sông" bao
gồm các phóng sự, bút ký, truyện ngắn, thơ của một
số nhà văn, nhà báo, các đồng chí cựu chiến binh từng
là cán bộ, chiến sĩ đang học tập, công tác tại các
cơ quan, đơn vị trong Binh đoàn.
Với đặc điểm
thể loại và bản thân các tác giả đều là người đã
và đang sống, chiến đấu, học tập, công tác tại Binh
đoàn ở nhiều cương vị và thời kỳ khác nhau, cuốn
sách đã phản ánh một cách sinh động và chân thực sự
kế thừa tiếp nối cuộc sống, chiến đấu, công tác và
học tập của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn
hôm qua và hôm nay. Bên cạnh giá trị cơ bản là khắc
họa chân dung, in đậm dấu ấn truyền thống lịch sử
của Binh đoàn Hương Giang anh hùng qua 30 năm xây dựng,
chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng vẻ vang, cuốn
sách còn biểu hiện ý chí và tâm hồn, đồng thời chứng
minh tiềm năng sáng tạo văn học - nghệ thuật của các
thế hệ cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn qua các thời kỳ
lịch sử là hết sức dồi dào, ngày càng phong phú và
không ngừng phát triển, trực tiếp góp phần bồi đắp,
nâng cao hơn nữa giá trị thẩm mỹ và đời sống văn
hóa - tinh thần cho bộ đội.
Tuy nhiên, do yêu
cầu về đề tài, thể loại cũng như phạm vi, quy mô của
cuốn sách, nên không sao tránh khỏi những hạn chế,
khiếm khuyết, nhất là về nội dung. Đặc biệt, tác giả
của các bài viết và tác phẩm trong cuốn sách phần lớn
là những cây bút không chuyên và đây là những tác phẩm
đầu tay của họ, do đó về mặt giá trị nghệ thuật
chắc chắn sẽ có nhiều bài viết mới chỉ đạt ở mức
độ nhất định.
Nhân dịp cuốn sách "Binh đoàn
mang tên một dòng sông" ra mắt bạn đọc, Thường vụ
Đảng ủy – Bộ Tư lệnh Binh đoàn Hương Giang chân
thành cảm ơn các nhà văn, nhà báo, các đồng chí cựu
chiến binh từng lãnh đạo, chỉ huy Binh đoàn, chiến sĩ
đang học tập công tác tại các cơ quan, đơn vị trong
Binh đoàn - những cây bút đã rất hăng hái, nhiệt tình
sưu tầm, sáng tạo các tác phẩm hưởng ứng cuộc vận
động sáng tác văn học; cảm ơn Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân đã tạo điều kiện thuận lợi để xuất bản
cuốn sách, đáp ứng kịp thời nhu cầu học tập, nghiên
cứu của đông đảo bạn đọc vào đúng dịp kỷ niệm
30 năm ngày truyền thống Binh đoàn (17-5-1974 - 17-5-2004).
Rất mong nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến xây
dựng của các đồng chí và các bạn.
THƯỜNG VỤ
ĐẢNG ỦY - BỘ TƯ LỆNH
BINH ĐOÀN
HƯƠNG GIANG
CAO TIẾN LÊ
THÁNG TÁM Ở SƯ
ĐOÀN VINH QUANG
Ghi chép
Chúng
tôi gặp trung tá Phạm Quang Thệ ở con đường dẫn ra
bãi tập huấn luyện chiến thuật quay vòng cấp phân đội.
Gió sớm le le trên những tàu lá chuối qua nhiều ngày đêm
trăn trở không còn nguyên vẹn, nhưng vẫn giữ sắc thái
đậm đà của vùng đất trung du.
Sau một giây quan
sát, Thệ bước tới đưa cả hai tay nắm chặt lấy tay
tôi.
- Cứ ngỡ là khách lạ, không ngờ được gặp
anh lần thứ ba.
Tôi cũng xác nhận:
- Đúng ... lần
thứ ba.
Lần thứ nhất là hồi năm 1974. Thệ làm
cán bộ tiểu đoàn dẫn một mũi tấn công vào Thượng
Đức. Vất vả gian nan, nhưng với quyết tâm cao, phát huy
truyền thống quyết chiến quyết thắng lập thành tích
chào mừng Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, sau hơn
một tuần lễ chiến đấu đoàn Vinh Quang đã làm chủ
được Thượng Đức, ghìm chân lữ đoàn dù số 3 ngụy
tạo thế thuận lợi góp phần cho toàn mặt trận miền
Trung Trung Bộ hoàn thành nhiệm vụ.
Lứa tuổi
tháng tám năm ấy không những gắn vào lá cờ Quyết
thắng thêm nhiều huân chương mà còn rút ra kinh nghiệm
cuộc sống: "Trong những giờ phút gay go khó khăn, tự
chủ là phẩm chất dự trữ cuối cùng và mạnh nhất của
con người".
Lần thứ hai gặp Thệ ở dinh Độc
Lập khi anh đang loay hoay với việc đã từ chối lúc
Dương Văn Minh xin phép được bắt tay người chỉ huy một
cánh quân cách mạng đầu tiên tiến vào Sài Gòn. Thệ
tuyên bố. "Quân ngụy Sài Gòn đã thất bại hoàn
toàn. Ông phải đầu hàng vô điều kiện". Thệ đưa
Dương Văn Minh lên đài phát thanh. Không kịp báo cáo với
cấp trên...
Bây giờ trông khuôn mặt Thệ sắc nét
hơn, hoàn chỉnh hơn bởi lông mày rậm, mặt vuông và
bước đi chắc nịch.
Thệ đưa tôi vào nhà, kéo
ghế mời ngồi, vừa rót nước vừa nói :
- Chúng tôi
đã hoàn thành tốt giai đoạn một của năm huấn luyện
1982, và đã bước sang giai đoạn hai.
- Hoàn thành xuất
sắc chứ? Tôi hỏi.
- Vâng, cũng khá. Thệ trả lời
và báo cáo tiếp bằng một bản thành tích đã đánh máy
sẵn.
Tôi nghe nhưng không chăm chú theo dõi mấy.
Chẳng phải vì tôi không hiểu công việc quân sự. Tôi
đã có hàng chục năm say mê vất vả với huấn luyện,
sầy da, chảy máu toát mồ hôi để nâng phân đội mình
chỉ huy đạt yêu cầu lên khá. Tôi tin những bản báo
cáo này lắm, tin những người như Thệ chỉ nói thiếu
chứ không bao giờ nói thêm thành tích. Nhưng giờ đây
tôi muốn nhanh chóng rút ngắn thời gian làm việc với
các cấp chỉ huy để xuống tận từng đại đội cơ sở.
Tôi muốn mắt thấy chiến sĩ sống, tai nghe chiến sĩ nói
để mình kết luận.
Nguyễn Chiến Trọng, phó đoàn
trưởng về chính trị, bước vào, giọng vui vẻ gây
không khí đầm ấm người nhà ngay từ đầu.
- Biết
các anh xuống nhưng tôi đang bận hướng dẫn cho đảng
viên học tập Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ
5.
- Đã đến giờ nghỉ rồi à? Tôi hỏi.
- Chưa.
Nhưng cho nghỉ sớm hơn một chút. Tôi ngại cái lối làm
việc cứ ép cho họ nghe, khi mình đang phân tán tư tưởng.
Chuông điện thoại đổ hồi. Thệ bước tới cầm
ống nghe, trả lời gay gắt.
- Hai cậu ở vệ binh đưa
xuống đấy à. Được rồi, bắt lại giao cho bên tham mưu
xử lý ... mà này, hai thằng ấy là con cưng của ông
Trọng đó ...
Trọng vẫn giữ nguyên tư thế ngồi,
bình thản trả lời:
-Con cưng ông Trọng nhưng lại là
cháu ruột ông Thệ.
Tiếng Thệ vẫn vang vang ở góc
nhà.
- Nhắc nhở ông "ngựa trưởng" kiểm tra
xe pháo chu đáo chuẩn bị bước vào giai đoạn huấn
luyện hai.
Khi Thệ quay trở lại tôi cố giữ nét
mặt bình thường để khỏi tỏ ra mình đang khó chịu.
Bước sang giai đoạn huấn luyện hai rồi mà chiến sĩ
còn vi phạm kỷ luật. Cán bộ cấp trên không nghiêm
chỉnh gì cả, cứ đùa tếu với chiến sĩ "con con,
cháu cháu" lại còn "ngựa trưởng". "Ngựa
trưởng là cái gì?" Tôi tự hỏi nhưng bật ra thành
tiếng, làm Thệ tưởng là hỏi Thệ anh vội vàng trả
lời:
- "Ngựa trưởng" là tiểu đoàn
trưởng.
- Các anh hơi quá đáng, gọi tiểu đoàn
trưởng là ngựa.
- Chuyện hay lắm và thông minh
lắm.
Tôi cắt ngang:
- Thôi anh nói tiếp đi.
Tiếng
Thệ rõ ràng:
- 100% A bộ binh bắn tập đạt loại giải
kỹ thuật vận dụng trong chiến thuật tốt ...
Tay
tôi như một bộ phận riêng lẻ ghi hết những nội dung
Thệ báo cáo. Còn óc tôi nghĩ đến chuyện khác, nghĩ đến
truyền thống tốt đẹp của Sư đoàn Vinh Quang mà tôi là
người lính đầu tiên ở ngày thành lập sư đoàn trên
mảnh đất lịch sử Lam Sơn, Thanh Hóa.
Tháng tám
của những năm đánh Pháp chúng tôi đã thắng địch ở
các chiến dịch Hoàng Hoa Thám,Quang Trung, Hòa Bình, Điện
Biên... Trước mắt tôi hiện lên những lớp trẻ bạn bè
của tôi trong trận công đồn bị thương, đầu quấn
băng trắng máu khô đọng cứng chân tóc còn vẫy tôi lại
nhắc nhơ kinh nghiệm trận đánh vừa rồi mà bản thân
anh rút ra được.
Lớp trẻ bây giờ ra sao, có
còn giữ vững và phát huy truyền thống ấy không? Tôi
nhớ hôm vừa xuống xe đang tìm đường rẽ vào khu vực
cơ quan đoàn bộ đóng quân thì thấy một bà già khoát
tay vời tôi lại, như muốn nói một điều hệ trọng
lắm.
Tôi bước tới, bà nói ngay:
- Đằng kia có
hai chú lính đang bán mấy cái bát sắt tráng men.
- Sao
họ lại bán bát hở bà?
- Còn sao nữa. Bát phát cho
để ăn cơm hàng ngày mang bán đi thật là quá đáng. Chú
lớn tuổi rồi phải nhắc nhở lớp trẻ.
- Vâng, cháu
sẽ góp ý với anh em.
Tôi đi tới mấy quầy bán
hàng bên đường, được họ cho biết, đúng là có hai
người lính vừa bán hai chiếc bát tráng men mới toanh,
sau đó họ mua hai chiếc bát cũ thay thế để thừa tiền
mua thuốc lá. Họ vừa đi xong.
Cái bà lúc nãy chờ
tôi trở lại và nói ngay:
- Chân chú không bắt được?
-
Vâng. Không bắt được.
- Họ nhanh lắm chú ạ. Họ
tạo ra lắm chuyện bất ngờ đến quỷ quái. Vừa ghét
lại vừa thương họ. Chú cũng đi về phía này à. Ừ thì
đi cho vui.
- Bà đưa cháu xách chiếc túi cho.
- Quý
hóa quá. Này chú ạ. Nhà tôi ở gần chỗ bộ đội tập
luyện họ đi ngang về tắt xe pháo cứ ù ù suốt ngày.
Chú nào cũng quen nhưng tôi không biết tên, bởi vì tất
cả trông mây mẩy xinh đẹp cả. Của đáng tội, ngoài
những sơ suất nhỏ như làm gãy vài cành sắn, tàu lá
chuối, vỡ cái bờ ruộng, thì họ chẳng gây trở ngại
gì cho chúng tôi cả. Còn vui nữa là đằng khác.
...
Vừa huấn luyện vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa huấn
luyện vừa hoàn thành mọi kế hoạch phương án chiến
đấu tại chỗ, triển khai xây dựng cái cơ sở dự bị
để khi cần thiết toàn đoàn rời khỏi vị trí tập
trung.
"Đã làm được ba bãi tập huấn luyện
quay vòng giữa chiến thuật, kỹ thuật cho cấp phân đội.
Bài bắn tập trong chiến thuật trong cấp đại đội, tự
túc bãi tập lái xe tăng trị giá 300.000 đồng. Tự túc
toàn bộ đồ dùng học tập bộ binh... " . Tiếng Thệ
rõ ràng rành rọt nêu lên thành tích của đơn vị. Tôi
hình dung một bãi tập rộng lớn chạy qua các triền đồi
thưa thớt nhà dân và trong óc tôi tiếng bà già kia tái
hiện:
Họ đùa vui và phát ra những điều hết sức
bất ngờ. Cái hôm đại đội đóng quân ở làng bên liên
hoan văn nghệ. Cũng chẳng có sân khấu, họ diễn ngay
giữa sân phơi của hợp tác xã, xung quanh cây lá qua ánh
trăng thả bóng xuống nên rất mát mẻ. Họ đệm đàn và
hát những bài hát mới đã hay nhưng khi nghe hát chèo
lại càng hay hơn. Một chú cải trang con gái đóng vở
tiễn đưa chồng lên đường nhập ngũ. Chà cái đoạn
"sử rầu" lúc chia tay nghe đến chảy nước mắt.
Người chồng ra đi người vợ trở về. Nghĩa là người
vợ đã rời sân hợp tác xã đi sâu vào hàng cây xoan
phía sau nhà, chèo tưởng như sắp hết. Chợt cô ta chạy
hớt hải ra giữa sân hét to: "Con hổ anh ơi!".
Bà con ngồi xem nhổm hẳn dậy. Có người định
chạy, vì ở làng chúng tôi lâu lâu lại có một con hổ
mò về bắt lợn và có lần suýt vồ người, nên nghe nói
đến hổ là ai cũng hốt hoảng. Nhưng may quá không phải
là hổ thật mà cô ta chuyển từ giọng hét to hạ xuống
điệu hát văn trầm bổng: "Con hổ anh ơi. Lọ dầu
con hổ anh ơi, anh mang theo để phòng khi gió trời".
A, thì ra cô ta quên đưa cho chồng lọ dầu con hổ, nên
vội vàng chạy theo. Tất cả cười ầm lên, lớp trẻ
đấm vào lưng nhau thùm thụp. Các chú phụ trách đêm văn
nghệ gào to đến rát cổ vẫn không lấy lại được
trật tự. Lớp trẻ càng về sau càng nảy sinh những ý
nghĩ mới mẻ chú ạ, ngay con gái tôi cũng vậy thôi. Mình
già rồi mình không hiểu chúng nó, cứ bắt chúng nó theo
ý mình.
Trong phong trào thi đua chúng tôi đã tổ
chức chấm điểm hàng ngày trên bảy mặt công tác cho
trung đội, tiểu đội, hàng tuần cho đại đội và hàng
tháng cho tiểu đoàn. Trong sáu tháng đầu năm đã nổi
lên những tấm gương xuất sắc như Nguyễn Minh Đức,
Đỗ Vũ Quang, Hoàng Công Mậu, Phạm Văn Bình...
(chúng tôi đặt vấn đề học tập và chỉ huy đơn vị
như thế nào khi chính quy chưa theo kịp hiện đại? Phải
học tập bằng lối Việt Nam...).
Tôi bật lên một
tiếng cười. Thệ ngừng báo cáo nhìn tôi hỏi: Anh không
tin là phải học tập theo cách Việt Nam à?
Tin chứ.
Nhưng mình cười là nhớ tới một mối quan hệ khác. Mối
quan hệ giữa chiến sĩ với nhân dân.
Ở lại đơn
vị Phạm Quang Thệ chỉ huy - tức là một trung đoàn
thuộc Sư đoàn Vinh Quang - tôi mới hiểu thấm thía thêm
về mối quan hệ hiện nay, và điều tôi có thể rút ra
là: người ta thường hay sống bằng những cảm tính,
hoặc chỉ dừng lại ở cảm tính, dừng lại ở những
nhận xét bên ngoài sử dụng những lời nói bằng cách
nhắc lại những lời của người khác chưa thật chín
chắn, và thế là sự không chính xác càng lan rộng ra...
Với cách nghĩ này đã vội vàng kết luận: bộ đội ta
hiện nay kém trước.
Con tàu xình xịch chạy qua khu
vực đóng quân của đại đội 6. Khói trắng bốc thành
từng cuộn rải vẩn vơ lên khu rừng cây xanh thắm. Nhiều
màu áo lấp ló ở khung cửa và đột nhiên tiếng còi tàu
gióng giả nổi lên như kêu gọi, như thôi thúc một sự
ra đi. Chính tôi mới xa Hà Nội chưa đầy nửa tháng đã
muốn lên tàu, sự lên tàu không phải vì muốn về Hà
Nội mà muốn đi đâu đó muốn nhanh chóng rời khỏi nơi
mình đang dừng. Tiếng còi tàu đã gây ra một tâm lý như
vậy.
Tôi nhìn xung quanh, những chiến sĩ mới xa
nhà bảy tám tháng, vài ba năm sống trên miền đất trung
du thầm lặng nay hẳn không thể tránh khỏi sự xao xuyến
khi một tiếng còi tàu cất lên. Hơn nữa, năm 1982 là năm
có nhiều biến động, nửa số quân hết hạn nghĩa vụ,
lớp mới thay thế vào.
Không. Không có ai để ý
đến tiếng còi tàu cả. Họ đang mải mê với công việc
của mình. Những chiến sĩ quê ở Bình trị Thiên đã hết
hạn nghĩa vụ quân sự theo yêu cầu của chuyên môn ở
lại thêm thời gian nữa, giúp anh em mới vào hiểu được
kỹ thuật chiến thuật làm chủ vũ khí hiện đại. Họ
đang đan các loại bia chuẩn bị cho những đợt bắn tập
giữa giai đoạn huấn luyện hai. Họ đưa bia lên ngắm,
đặt bia xuống sửa, miệng lẩm bẩm "cố nội cái
thằng nứa lô ô ni phơi lâu khô, khó đan dữ". Lòng
bàn tay thành chai, vuốt qua rét chực từng múi lạt, như
người thợ lành nghề của công ty xuất khẩu.
Xa hơn nữa, một tốp chiến sĩ, người cởi trần,
người mặc áo, lưng đầy sọc nắng nhấp nháy, đang kỳ
cọ, moi trong các cạnh xe lau rửa hết bùn đất do đêm
hôm qua báo động sẵn sàng chiến đấu dính vào. Cạnh
đó là nhà xe ghi rõ quy tắc chuẩn bị kỹ thuật khi niêm
cất xe:
- Nhiên liệu đầy đủ.
- Không có hỏng hóc
nhỏ.
- Giãn cách đúng quy định.
- Trong ngoài sạch
sẽ.
- Cố định chắc chắn.
Và quy tắc mở
niêm cất xe :
- Mở các vị trí niêm phong.
- Lắp cáp
điện vào bình điện.
- Kiểm tra nước, nhiên liệu,
áp suất.
- Quay máy bằng tay từ 10 đến 15 vòng.
-
Nổ máy kiểm tra các chế độ làm việc của động cơ
và các đồng hồ.
- Tháo mễ xe cho xe lăn bánh.
Vài
chiếc mũ sắt che lấp hết mái tóc và nửa đầu phía
sau của tổ thông tin nhưng tôi vẫn nhận ra dáng dấp quê
hương từng người trên khuôn mặt họ. Dù trong chiếc mũ
sắt, mũ cối, mũ nan, mũ vai hay mũ rơm vẫn nhận ra đặc
điểm người Hà Nội. Mới đầu bằng cảm tính, bằng
kinh nghiệm rồi chuyển qua phân tích khoa học. Tôi đi tới
ngồi xuống bãi cỏ cùng với họ. Một chiến sĩ tháo mũ
sắt, gỡ cáp đeo bên tai rồi rút thuốc lá vàng ươm
cuốn bằng giấy báo, mời tôi, giọng hồ hởi:
- Sắp
đến mùa hoa sữa rồi anh nhỉ. Hết tháng tám, sang tháng
chín là hương hoa sữa trùm lan khắp thành phố, nhất là
dọc con đường Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Mai Hắc
Đế... Hồi ở nhà sao em ghét hoa sữa thế, thơm đến
nhức đầu, nhưng đi rồi thì nhớ ơi là nhớ... Họ bảo
đó là đặc điểm của hoa sữa.
- Này các bạn trẻ
ạ, nhớ hoa sữa nhưng không được bỏ về Hà Nội ngửi
mùi hoa sữa đâu nhé.
Người chiến sĩ trẻ mở rộng
mắt nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên.
- Anh cứ như trên
trời rơi xuống. Chiến sĩ 1982 mà tụt tạt à. Không hiểu
tình hình thực tế...
Tôi nghe chiếc cáp bỏ thõng ở
tai cậu ta vang lên tiếng gọi:
- Một, hai, ba bốn. Sông
Lô gọi Sông Hồng nghe rõ không trả lời.
Bắt tay tôi
cậu ta xin lỗi:
- Đến giờ liên lạc, không lơ mơ với
tiểu đoàn trưởng Nguyễn Xuân Kỳ được đâu. Nhà em ở
sát chùa Quan Hoa, đến giữa Cầu Giấy rẽ phải, em là
Nguyễn Văn Thông... Anh nhớ vào chơi cho thầy mẹ em mừng,
vào trước 2 - 9 nhé.
Vòng về phía bên phải đồi,
tôi vào đại đội 12 - đại đội cối 82 mi li mét của
tiểu đoàn, sự đến thăm bất ngờ buộc tôi phải dừng
chân chờ qua đi khoảng thời gian sinh hoạt sáng của
họ.
Thiếu úy trung đội trưởng Nguyễn Ngọc Đam
đang tập họp trung đội thành hàng ngang trong nhà sau
tiếng hô nghiêm nhỏ gọn dõng dạc: "Đồng chí Quang
làm chuẩn, nhìn bên trái thẳng". Đam giao nhiệm vụ:
"Kiểm tra nội vụ sớm nay, nội dung thứ nhất: chăn,
màn, ba lô. Nội dung thứ hai: giầy, dép. Sau đây dưới
quyền chỉ huy của tiểu đội trưởng".
Một
binh nhất theo lệnh tiểu đội trưởng bước lên ngắm
xem hàng chăn màn đã thẳng và vuông góc chưa.
Nắng
sớm rọi qua những song cửa làm không khí dịu mát sau
cơn áp thấp nhiệt đới kéo liền ba ngày. Trên tấm bảng
đen trước nhà cán bộ đại đội ở còn lưu lại lời
nhận xét qua trực ban ngày hôm qua: "Tác phong nhanh, kỷ
luật nghiêm, nội vụ gọn, vũ khí sạch, số quân làm
công tác đủ. Xếp loại một gồm các tiểu đội: 1, 4,
5. Cá nhân khá trong ngày, trung đội 1: đồng chí Dân,
trung đội 2: đồng chí Thế, Niên". Dưới ghi tên
trực ban: Văn Bản.
Nơi ở của đại đội 12 mới
chỉ bằng lá gồi lợp trên những khung nhà do anh em tranh
thủ vào rừng lấy về dựng nên. Nó thiếu cái mặt bằng
của doanh trại chính quy, nhưng mọi người hiểu ra là
phải chăm phải lợp cho có một nơi ở, mùa không dột,
bão không lay, không bị những cơn nắng rát đe dọa.
Trong căn nhà bằng lá ấy nóc không dột, nơi ở sạch se
ngăn nắp. Đầu mỗi giường nằm ghi tên chức vụ rõ
ràng: "Hoàng Đức Đạt binh nhất, chiến sĩ; Lê Văn
Thế, hạ sĩ, chiến sĩ". Sự gọn gàng ngăn nắp, làm
cho căn nhà phong quang sạch sẽ hơn. Con người cảm thấy
thoải mái dễ chịu, muốn làm việc.
Thượng úy
phó tiểu đoàn trưởng về chính trị Nguyễn Lan đã nói
với tôi bằng cái giọng ri rỉ nhát gừng của người
Nghệ Tĩnh:
- Cái gì ở đây cũng rách anh ạ. Nhà
rách, quần áo rách, da thịt rách. Vất vả quá, sáu tháng
huấn luyện rồi còn chi nữa. Tui đã nói với anh em: "Đói
cho sạch, rách cho thơm". Nhà rách dột, thì dọi lại,
quần áo rách thì vá lại, da thịt rách thì rịt thuốc
vô. Chỉ cần có một nơi không rách đó là trái tim. Trái
tim người lính và nhất là những người lính năm 1982
phải luôn luôn khỏe mạnh.
Tiểu đoàn 6 đã dùng
mọi thời gian có thể của tiểu đoàn tập trung vào việc
nâng cao đời sống cho anh em. Từ năm người nằm trên ba
tấm ván đã làm được mỗi người một giường. Chỉ
riêng việc có đủ hàng trăm chiếc chiếu để trại nằm
cũng là một công trình lớn, khi cấp trên chưa kịp cấp
phát. Nuôi gà, nuôi vịt, nuôi lợn, trồng rau, nhà đọc
sách, có đàn ghi ta xuống đến trung đội, lập lò rèn,
rèn lấy kéo cắt tóc, dao cạo và mọi đồ dùng khác cho
tiểu đoàn. Chiến sĩ rèn của tiểu đoàn coi thợ rèn
xung quanh khu vực đóng quân là xoàng. Không những hơn thợ
rèn bên ngoài về kéo, mà cả dao thợ bên ngoài cũng khó
địch nổi.
Chẳng có sách vở mang đi theo nhưng
Nguyễn Lan nói với tôi vanh vách từng chiến sĩ trong tiểu
đoàn của anh, nhập ngũ tháng, năm nào, quê ở đâu, học
lớp mấy, tình hình gia đình ra sao, có hoa tay gì, đã bắn
tập mấy lần, biết sử dụng loại súng gì, nét xấu
đẹp trong tính tình từng người và hiện nay họ muốn
gì.
Lan kể cho tôi nghe ở tiểu
đoàn anh lưu truyền câu chuyện ông thủ trưởng đến
giảng dạy một bài học chính trị. Ông thao thao bất
tuyệt với những ví dụ trên thế giới những nhà bác
học phương Tây... không đáp ứng được điều mọi
người đang mong muốn. Hết giờ dạy, ông ra ngoài đón
hỏi một chiến sĩ:
- Bài nói chuyện của tôi hôm nay
các đồng chí có thích không?
- Dạ , thích ạ ?
-
Thích nhất là đoạn nào?
- Thích nhất là đoạn sau
cùng ạ ?
- Đoạn sau cùng như thế nào, đồng chí nhắc
lại.
- Dạ, đoạn sau cùng là thủ trưởng nói: "Tôi
nói đến đây là hết".
- Chiến sĩ bây giờ họ
trả lời trực diện, bộc lộ sự thật ra ngay không ấp
a ấp úng vòng vèo. Mình cũng đừng cho là họ vô lễ mà
tìm cách phê phán trù úm. Phải tạo sự gần gũi giữa
cán bộ, chiến sĩ, làm cho họ thấy đây là gia đình của
họ, họ có trách nhiệm giữ gìn chăm sóc, từ giường
nằm, sân chơi, nơi ngồi nghe đài, nghe âm nhạc... họ là
người chủ không nên ghìm họ trong một dây cương quá
ngắn.
Lan nói rất kỹ với tôi về việc chú ý đến
tâm tư tình cảm riêng của từng người. Kể cả lúc họ
phạm kỷ luật. Ví như tự ý bỏ về nhà, tự ý bỏ về
nhà là có tội, nhưng mình nghiên cứu kỹ xem tội ấy
liên quan tới những đâu. Có chiến sĩ cả tháng học tập
rất tốt, việc gì cũng làm, thức khuya dậy sớm rèn
luyện bắn súng giỏi, ấy mà, cuối tháng bỏ về nhà,
tìm nguyên nhân mới biết là gia đình hứa hẹn: "Con
đi bộ đội, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ cứ mỗi
ngày gia đình trợ cấp cho năm nghìn. Cuối tháng gửi
tới". Hết tháng, không thấy gia đình gửi tiền, xin
phép chưa chắc cán bộ đã cho, đành bỏ về vài
ngày.
Cũng có trường hợp một chiến sĩ bỏ về
trong một đêm sau đợt huấn luyện chiến sĩ mới ba
tháng. Nghe thì đáng ngạc nhiên. Nhưng chuyện xảy ra thật
đơn giản. Hết ba tháng huấn luyện, cán bộ phụ trách
bảo: "Ngày mai các đồng chí nghỉ để ngày kia
chuyển đi học hạ sĩ quan". Vậy là đêm đến họ
rủ nhau đi khỏi đơn vị, họ không muốn đi học hạ sĩ
quan. Tròn một tuần cho qua đợt đi học rồi họ lên.
Nhiều trường hợp do cán bộ mình duy trì không chặt
hoặc thiếu trách nhiệm lơ là trong lãnh đạo đơn giản
hóa công việc nên sinh ra rắc rối, khắc phục mãi không
xong. Cán bộ phải có trách nhiệm cao, cấp nào cũng thế,
nhưng trước hết là cấp tiểu đội trưởng.
Tiểu
đội trưởng là một cán bộ chủ chốt, là đầu mối
tiếp xúc với người lính. Nếu người lính có những
thay đổi như hôm qua nằm màn tuyn hôm nay nằm màn vải,
hôm qua chỉ một chiếc áo mới hôm nay hai áo mới, hôm
nay đội chiếc mũ khác hút thuốc lá ngoại, nhận một
lá thư, một câu chuyện bâng quơ một tiếng thở dài,
một mối quan hệ mới nảy sinh là tiểu đội trưởng
phải nghe hết, nhìn thấy hết tìm ra nguyên nhân tức
khắc những thay đổi ấy, có biện pháp ngăn chặn kịp
thời. Tiểu đội trưởng là cửa ngõ dẫn mọi sai đúng
vào quân đội. Nếu cửa ngõ đó được kiểm soát chặt
chẽ, được thực hiện đúng mọi chế độ thì ở các
phân đội cơ sở sẽ không xảy ra chuyện gì đáng tiếc.
Tôi nói:
- Quá chú trọng xây dựng hàng ngũ tiểu
đội trưởng lại bỏ quên một số cán bộ khác.
Lan
cắt ngang:
- Tôi biết anh định nêu trường hợp cụ
thể nào rồi. Đây là đồng chí phó đại đội trưởng
về chính trị của đại đội 12. Trong tiểu đoàn cũng
chỉ mỗi đồng chí này là yếu kém. Thực ra thì đồng
chí ấy cũng không phạm kỷ luật gì, chỉ là làm việc
chưa thật hăng hái, không muốn ở bộ đội, muốn chuyển
ngành.
- Nhưng mà tác động lớn đến chiến sĩ chứ.
- Không tác động đến chiến sĩ, hoặc có cũng chỉ
là rất ít. Tôi khẳng định với anh như vậy. Đó cũng
là điều mới mẻ của chiến sĩ năm 1982. Họ thường
xuyên học tập gương đảng viên, gương cán bộ, chiến
sĩ thi đua, các gương điển hình những điểm chung nhất,
nhưng họ không học tập, không làm theo một người cụ
thể nào để rồi người ấy sai lầm, người ấy hỏng
mà mình "bơ vơ" mất phương hướng, hỏng theo.
Điển hình nào cũng được họ phán xét, tự họ kết
luận điểm tốt để noi theo. Chiến sĩ bây giờ làm việc
theo chức tránh quân nhân, hành động theo điều lệnh từ
đó tạo cho họ một yêu cầu làm việc, một nhiệm vụ
phải hoàn thành, một phương hướng để phấn đấu. Đến
đại đội 12 anh thấy rõ điều đó rồi chứ. Cán bộ
chính trị của đại đội, ngày xưa gọi là linh hồn của
đơn vị - linh hồn của đơn vị mà yếu kém thì đơn vị
còn ra cái gì nữa. Nhưng bây giờ khác rồi. Đại đội
12 vẫn khá, khá toàn diện từ bắn súng, chiến thuật
đến trật tự nội vụ, điều lệnh, đời sống, văn
hóa văn nghệ .... Tinh thần làm chủ tập thể trong quân
đội là ở chỗ đó, ở chỗ mình biết ghép mình vào kỷ
luật, không phải chờ người khác có kỷ luật mình mới
có kỷ luật. Còn đồng chí đại đội phó chính trị ở
đại đội 12, nếu không chuyển biến, sẽ có biện pháp
xử lý.
Nghe Nguyễn Lan nói đến kỷ luật, làm tôi
nghĩ tới mấy lâu nay đi các đơn vị trong Sư đoàn Vinh
Quang, đơn vị nào cũng cho biết họ không có người đào
ngũ. Cả Sư đoàn Vinh Quang thực sự không có ai tự ý bỏ
về nhà ư? Khi Sư đoàn Vinh Quang hiện nay không đứng
"đầu sóng ngọn gió" như bảo vệ biên giới
hoặc bảo vệ thủ đô, chỉ là đơn vị xây dựng huấn
luyện bình thường trong toàn quân. Vậy lấy gì để động
viên, lấygì khơi dậy niềm vinh quang. Họ giấu giếm
chăng? Hay họ có một phương pháp lãnh đạo tối ưu nào?
Tôi hỏi :
- Tiểu đoàn 6 có người đào ngũ
không?
Nguyễn Lan nhìn ra dãy nhà thư viện của tiểu
đoàn nơi một số chiến sĩ đang bước vào mượn sách
với câu trả lời tôi ngỡ như anh né tránh điều tôi
hỏi:
- Sau ba tháng huấn luyện chiến sĩ mới. Chiến
sĩ nào cũng xác định được rõ ràng rồi đây mình làm
gì? Sẽ đi học sĩ quan, hạ sĩ quan, chuyên môn, hay chỉ
hết hạn nghĩa vụ quân sự rồi về. Bởi vì chúng tôi
phổ biến cho chiến sĩ biết các tiêu chuẩn. Ví như học
sĩ quan cần phải có trình độ chính trị, văn hóa,
tuổi đời, thể lực, kỹ thuật chiến thuật như thế
nào... Về chuyên môn cũng có yêu cầu riêng. Ai đủ tiêu
chuẩn là được gọi đi. Ai không muốn đi hoặc không đủ
tiêu chuẩn thì phải hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quân
sự ... Ngày xưa chúng tôi nghe nói ở Liên Xô đi nghĩa vụ
ngày nào và về ngày nào là từng người họ biết trước
gia đình ra ga đón. Nghe như một chuyện xa lạ. Còn ở ta
ngày nay cũng thế thôi. Tính đến hết ngày nghĩa vụ
quân sự là ra về, không kéo thêm thời gian.
Trong
thời gian làm nghĩa vụ quân sự, anh bị một lần cảnh
cáo là xóa đi hai tháng nghĩa vụ. Một lần bỏ về nhà
cũng bị cảnh cáo và kéo dài thêm sáu tháng nghĩa vụ,
hai lần bỏ đơn vị kéo dài một năm. Bị thêm nữa hoặc
bị nặng hơn kỷ luật cảnh cáo, sẽ đưa đi cải tạo
lao động, cho đến bao giờ tiến bộ mới đưa về làm
tiếp nghĩa vụ quân sự. Cao hơn nữa sẽ phạt giam, đưa
tòa án quân sự xét xử.
Cảnh cáo ai, trường hợp nào
là chi ủy kết hợp chính quyền nghiên cứu đủ hồ sơ
thông qua trước chi bộ, đảng ủy tiểu đoàn xét và
đảng ủy trung đoàn kiểm tra kỹ lần nữa mới phê
chuẩn. Sau đó chuyển hồ sơ cho ban quân lực lưu trữ.
Hết hạn nghĩa vụ mọi người biết mình ra về, hay còn
phải ở thêm bao nhiêu lâu nữa.
Chiến sĩ mình ngày
nay mang theo nhiều chất công nghiệp, thích sống có luật.
Cứ theo luật mà làm. Cái luật ấy ban hành cụ thể
xuống đến đại đội. Ví như giai đoạn huấn luyện
đầu năm để súng gỉ, trật tự nội vụ kém, lời thề
không thuộc, kỹ thuật, chiến thuật à uôm, la cà trong
nhà dân... sẽ bị cảnh cáo và xin mời ở thêm hai tháng
nữa. Còn chiến sĩ thi đua những người hoàn thành nhiệm
vụ xuất sắc sẽ được cấp trên thưởng cho đi phép.
Cho nên toàn đoàn không ai đào ngũ cả là vì đã có
luật. Luật nghĩa vụ quân sự ban hành và được triển
khai thực hiện nghiêm chỉnh.
- Theo đồng chí chỉ
cần có luật là người lính hoànthành được nhiệm vụ?
- Luật nghĩa vụ là điều cơ bản đối với người
lính, nhưng để thực hiện được luật còn bao gồm
nhiều mặt khác nữa. Ví như công tác Đảng, báo chí đã
nói rất nhiều rồi. Tôi thấy còn một điều quan trọng
nữa là công tác Đoàn và quan hệ quân dân. Hai điểm này
chúng tôi cũng làm tốt, nhưng chưa tốt bằng bên Trung
đoàn 68 - pháo mặt đất.
Đại úy Trần Vũ, trợ
lý thi đua của Đoàn Vinh Quang, có dáng dấp như một học
sinh vừa tốt nghiệp trung học phổ thông. Anh đi cùng
chúng tôi xuống các đơn vị và ở đâu anh cũng bổ sung
thêm những đặc điểm của con người mới gặp, hoặc
đơn vị mới đến làm cho buổi tìm hiểu có hồn và
sinh động hẳn lên.
Nói chuyện với Nguyễn Lan
xong, Trần Vũ hỏi tôi:
- Anh đánh giá Nguyễn Lan như
thế nào?
- Một cán bộ khá, có năng lực lãnh đạo,
rất chặt chẽ trong công việc. Khi anh ta đề ra công việc
rồi sẽ làm đến nơi. Cấp trên cũng không dễ gì bác
bỏ.
- Đúng. Nguyễn Lan biết suy nghĩ, chịu khó suy
nghĩ và quyết đoán. Song con người đâu phải mặt nào
cũng nghĩ được hoàn chỉnh.
- Nguyễn Lan có chuyện
gì à?
- Anh có hỏi chuyện gia đình cậu ta không?
-
Có. Một vợ, một con, quê ở Đô Lương, gần con đường
Truông Bồn, một trọng điểm trong những năm chiến tranh
phá hoại miền Bắc cửa giặc Mỹ. Vợ chồng hạnh
phúc.
- Về Sư đoàn Vinh Quang lần này có thời gian các
anh nên đi sâu vào phần tâm tư tình cảm của sĩ quan. Họ
cũng lắm vấn đề đấy anh ạ. Không phải mình biết để
chê trách gì họ, mà biết để hiểu cuộc sống của họ
không bình lặng, họ đã vượt qua những khó khăn về
nội tâm về gia đình.
Trường hợp cậu Lan,
anh biết nó lấy vợ thế nào không? Lấy vợ khi nó chưa
biết mặt vợ, vì ở nhà bố mẹ sắp chết, mà bà ta
lại muốn nhìn thấy mặt con dâu trước khi nhắm mắt,
hơn nữa lâu nay bà đã ướm sẵn cô gái cạnh nhà cho
con trai, nên đã cưới chạy. Khi về nhà cậu ta nghe nói
mình có vợ liền sững người, cứ ba lô trên vai, mắt
đăm đăm nhìn vào người gọi là vợ mình.
Lan nghĩ
tới hoàn cảnh gia đình neo đơn, công việc tiểu đoàn
đang mùa huấn luyện, sự hồn nhiên và nỗi buồn của
cô gái hàng xóm ... cuối cùng Lan đặt ba lô xuống
giường, nói gọn một câu: "Thôi, tớ lấy cậu
vậy?”.
Con người chu đáo kỹ càng trong công tác
đơn vị mà lại dễ dãi, đơn giản trong riêng tư. Thực
ra không phải là đơn giản mà cái chính là mình phải
biết dẹp gọn lại phần nào đó cuộc đời mình chưa
được hoàn chỉnh.
Tôi đứng trong căn nhà tiểu
đoàn bộ tiểu đoàn 6 làm theo hình chuôi vồ, hút gió
suốt mùa hè, chợt nhận ra trước sân các đại đội
trong tiểu đoàn đều rực rỡ những vườn hoa có tay
người chăm chút. Màu trắng của hoa nhài, hoa đơn, màu
vàng của hoa cúc, hoa chuối nước, hoa mướp, màu đỏ
của hoa hồng, hoa phấn, hoa tiên... Rạng rỡ thanh lịch,
đỏ thẫm, nhỏ nhoi nhưng vẫn dễ nhận ra đó là hoa
liễu leo năm cánh rải đều trên một thân cây nhẹ
nhàng. Điều gì đã giảm đi cái nắng trưa tháng tám
quang mây, đã làm tâm hồn tôi thanh thản. Phải chăng đây
là những vườn hoa trên đồi cao đất cằn đá sỏi, hay
những con người tạo đất cằn đá sỏi thành vườn
hoa? Những sắc hoa tuổi trẻ.
Hôm chúng tôi xuống
Trung đoàn 68 pháo mặt đất, không may là cán bộ chủ
chốt đi vắng hết chỉ mỗi đồng chí chủ nhiệm chính
trị ở nhà nhưng lại bận lên lớp Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ 5 cho tiểu đoàn 10.
Không nghe
được báo cáo tình hình chung, chúng tôi đi thăm các phân
đội nhỏ. Đấy là một buổi sáng mát mẻ, sau đêm mưa
gió thổi tung những quần áo anh em gửi treo ở phòng may
vá. Hạ sĩ Trần Văn Đãi quê ở Đan Phượng, Hà Nội
đang chăm chú vào từng đường may, thấy chúng tôi tới
anh ngẩng đầu lên nở một nụ cười rất tươi để lộ
đôi răng cửa có khe hở trông vui vui và cũng như chứng
minh khuôn mặt chỉ thành công trong một nghề chuyên môn,
không mơ ước xa xôi.
Sau lưng anh là một bản quy
định thời gian làm việc lịch nhận may vá, trả quần
áo cắt tóc và bán hàng căng tin. Về may vá, dù vá mấy
miếng cũng chỉ lấy năm hào tiền công một bộ quần
áo. Riêng về sửa chữa hoặc may quần áo mới mỗi bộ
năm đồng.
Cắt tóc quy định:
"Bí thư chi
đoàn phải thường xuyên nắm được Những đồng chí
tóc rậm, căn cứ lịch, đề nghị có lệnh của chỉ huy
bố trí cho anh em lên cắt tóc. Khi đi có người phụ
trách. Quân nhân chuyên nghiệp và sĩ quan trả hai hào, hạ
sĩ quan chiến sĩ, giá một hào". Dưới ký tên: Chủ
nhiệm chính trị - đại úy Nguyễn Xuân Thanh.
Cái
mạnh của Sư đoàn Vinh Quang hiện nay là công tác thanh
niên. Thanh niên đã làm chủ trên mọi lĩnh vực. Chưa bao
giờ Đoàn thanh niên mạnh như bây giờ, trụ cột như bây
giờ. Mạnh hơn cả những năm đánh Mỹ. Bởi vì bây giờ
lực lượng quân đội ta rất trẻ. Không những trẻ từ
chiến sĩ mà trẻ cả chỉ huy. Cán bộ trung cấp trẻ đã
đành, cán bộ cao cấp cũng rất trẻ. Cán bộ chiến sĩ
Sư đoàn Vinh Quang, những người đang giữ nhiệm vụ chủ
chốt hiện nay đều vào sinh ra từ sau Cách mạng tháng
Tám, kể cả các đồng chí mang quân hàm trung tá, thượng
tá. Tháng tám năm l945, cha mẹ họ còn là những thanh niên
đi trong đội ngũcách mạng, nổi dậy cướp chính quyền.
Cha mẹ họ hồi ấy chưa biết nhau, chưa yêu nhau, chưa
lấy nhau. Rất nhiều đồng chí hiện nay thành sĩ quan,
tính ra hồi tháng tám năm 1945 cha mẹ họ còn là thiếu
nhi.
Sư đoàn Vinh Quang là một sư đoàn rất trẻ, bởi
thế nơi đây đã nảy sinh khẩu hiệu đầy tự hào chứa
chất sức mạnh: "Có chúng tôi, tuổi trẻ sư đoàn!".
Tuổi trẻ phải làm chủ lấy tuổi trẻ, và phát huy
truyền thống của các thế hệ trẻ đi trước. Sĩ quan
cấp thượng úy và đại úy hầu hết lại sinh sau ngày
thành lập sư đoàn (1950). Có đồng chí còn sinh sau ngày
đế quốc Pháp thất bại cút khỏi Đông Dương (1954).
Đối với họ sự phát huy truyền thống là một điều
rất thiêng liêng, rất xúc động, và như ta thường thấy
những người càng xa lịch sử bao nhiêu càng muốn tìm
hiểu lịch sử và quý mến lịch sử bấy nhiêu.
"Có
chúng tôi tuổi trẻ sư đoàn?” bao gồm bằng những
chương trình cụ thể, đã hành động thành côngnhiều
năm nay rồi và rực rỡ nhất là giai đoạn huấnluyện
năm 1982.
Chúng tôi gặp trên khuôn mặt cán bộ,
chiến sĩ Trung đoàn 68 những nét thoải mái, vừa lòng,
những cách nhìn coi thường khó khăn và phảng phất thêm
nét nào đó như lưu luyến.
Phải rồi, đoàn viên
thanh niên Trung đoàn 68 đã xung kích giành hai điểm cao
thắng lợi: một là huấn luyện giỏi công tác tốt, hai
là kỷ luật nghiêm, nếp sống đẹp. Để đạt hai điểm
cao đó họ đã đạt được 5 nhất: huấn luyện giỏi
nhất, kỷ luật nghiêm nhất, an toàn cơ động nhất, bảo
quản tốt nhất, bảo đảm đời sống vật chất tốt
nhất.
Đi đôi với đạt thành tích cao nhất về
huấn luyện trong giai đoạn một Trung đoàn 68 còn thực
hiện được những điểm riêng:
- Mỗi đoàn viên lao
động ngoài giờ 50 viên gạch mộc, chuyển lên sân trung
đoàn để dựng 5 lò gạch, châm lửa đốt vào ngày mừng
công.
- Củng cố xây dựng và phát triển khu hoạt
động thanh niên, gồm thư viện, cắt tóc may quần áo,
căng tin, sân chơi bóng bàn, bóng chuyền, bóng đá...
-
Xây dựng xong con đường Thanh niên dài 2 kilômét phẳng
lỳ, đẹp mắt, uốn cong trên đường vàotrung đoàn.
-
Xây dựng đồi cây lưu niệm làm râm mát nơi trú quân và
bảo vệ đất đai không bị xói mòn thoái hóa. Khu đồi
phía trước dành cho chiến sĩ ra quân hàng năm trồng cây
lưu niệm, khu đồi phía sau dành cho khách đến thăm đơn
vị trồng cây lưu niệm.
- Dưới chân đồi đào ao
thả cá, có phân định từng lớp nước cho các loại
cá.
Những con số khô khan, khép tròn người chiến
sĩ trong mọi kế hoạch, như tăng gia sản xuất, toàn sư
đoàn đã thu được 87.131kg rau xanh, 94.610kg sắn tươi,
116.000kg đậu các loại, 2.00kg thịt, 2.698kg cá tươi,
6.758kg cây dược liệu, 95.000 viên thuốc các loại.
2.397.000 viên gạch, 265 tấn vôi, 30.000 viên ngói cải
tiến, 932 mét khối cát, 532 mét khối sỏi đá, 185 mét
khối gỗ, 2. 000 mét vuông nhà ở tạm... Những con số
hết sức khô khan nhưng phải làm nên con số đó mới tự
mình nuôi sống mình, mới xây dựng được đơn vị,đáng
quý bao nhiêu trong hoàn cảnh này làm ra một cân lương
thực cho đất nước, đáng quý bao nhiêu bằng hai bàn tay
trắng dựng nên cả một cơ ngơi. Đáng quý bao nhiêu vừa
huấn luyện quân sự vừa xây dựng kinh tế, đáng quý
bao nhiêu chỉ 6 tháng đầu năm, 190 đoàn viên trở thành
đảng viên và hết năm 1982 cũng có thêm một lực lượng
xấp xỉ như thế bước vào đội ngũ Đảng cộng sản
vinh quang.
Thêm những mối quan hệ làm vững chắc
đơn vị, Sư đoàn Vinh Quang đã đỡ đầu trường con em
liệt sĩ mang tên anh hùng Hoàng Văn Miện. Hàng tháng, hàng
năm đoàn đến với trường và trường đến với đoàn,
mối quan hệ thắm thiết ấy đã nâng thêm trách nhiệm
của người anh, người chú, của người cháu, người
em.
Mặc dầu gấp gáp trong mùa luyện quân, mới hai
tháng của giai đoạn một, toàn sư đoàn đã góp mỗi
người một viên gạch (tính thành một đồng) gửi lên
Trung ương Đoàn thanh mền cộng sản Hồ Chí Minh, ủng hộ
xây dựng khách sạn Khăn Quàng Đỏ.
Sư đoàn còn
mời các huyện, các quận có con em đang làm nghĩa vụ
quân sự tại sư đoàn tổ chức những đoàn đại biểu
đến thăm góp sức vào xây dựng đơn vị.
Nổi
bật lên là mối quan hệ với quận Lê Chân, thành phố
Hải Phòng. Quận Lê Chân đã về một đoàn gồm đại
biểu ủy ban nhân dân, cơ quan quân sự, công đoàn, thanh
niên, phụ nữ cùng đi, có đội ca khúc chính trị mang
theo tặng phẩm đến dự ngày hội tuổi trẻ báo công
của toàn sư đoàn. Các chiến sĩ của quận Lê Chân đã
gặp riêng đoàn đại biểu báo cáo kết quả học tập
của mình và hứa hẹn khắc phục những thiếu sót. Quận
Lê Chân đã mời những đồng chí hoàn thành nhiệm vụ
xuất sắc nhất trong giai đoạn huấn luyện một về dự
đại hội tổng kết 6 tháng đầu năm của quận. Cách
làm như thế, mỗi chiến sĩ đều thấy công việc của
mình gắn liền với tập thể, với quê hương.
Sáng
thứ hai hàng tuần như thường lệ, tiếng kèn gióng giả
nổi lên từ phòng chính trị cũng là lúc tiểu đoàn tập
họp đông đủ nghiêm chỉnh tại khu vực đóng quân của
mình. Sáu khi chào cờ, đọc mười lời thề, nhận xét
ưu khuyết điểm tiểu đoàn trưởng thông báo tình hình
thời sự thế giới, trong nước, trong tuần mà ban tuyên
huấn đã ghi tin đọc chậm qua đài Tiếng nói Việt Nam
phát vào ngày thứ bảy cộng với những nhận định bổ
sung của tuyên huấn xoáy vào thời sự nóng bỏng như
Palextin, Libăng... gửi xuống các đơn vị.
Sự đoàn
Vinh Quang đã thực hiện quy tắc giáo dục mới, thông báo
tình hình thời sự vào sáng thứ hai, học chính trị hai
giờ vào sáng thứ ba, thứ sáu. Mỗi chiến sĩ của Sư
đoàn Vinh Quang phải thường xuyên nắm vững kẻ thù của
ta hiện nay là ai, bạn của ta là ai và ta là người như
thế nào, vị trí của ta ra sao.
Không nhận ra thù,
bạn, mình sẽ gặp phải một cuộc sống luẩn quẩn, mất
phương hướng, thụt lùi, tiêu cực ...
Sinh hoạt
đầu tuần xong, các đơn vị ùn ùn kéo ra bãi tập chiến
thuật, mở đầu cho giai đoạn huấn luyện hai.
Chúng
tôi đi trên chiếc xe con của trung tá Phạm Quang Thệ và
thiếu tá Nguyễn Chiến Trọng. Phía trước đoàn xe tham
dự buổi tập đang lùi lũi vượt qua đồi núi trung du
yên tĩnh. Nắng tháng tám đã có vẻ dịu đi vào buổi
sáng không kịp làm tan những dải khăn sương lãng đãng
trên các rừng cây phía xa.
Đến bãi tập cơ bản, đoàn xe đi trước dừng
lại. Tôi bắt gặp những khuôn mặt trẻ trung rạng rỡ,
đấy là các kíp xe Đỗ Vũ Quang, Hoàng Công Mậu, Nguyễn
Văn Tỉnh, Nguyễn Minh Đức, Đoàn Bá Khâu... Pháo thủ
Phạm Xuân Mạch, Nguyễn Thọ Thược... Trắc thủ Nguyễn
Viết Dũng, Nguyễn Công Bằng... Chiến sĩ thông tin Nguyễn
Văn Thông...
Khuôn mặt chiến sĩ bộ binh đẫm mồ
hôi, hồng hào, trang nghiêm trong chiếc mũ sắt, khuôn mặt
chiến sĩ lái xe, pháo thủ rắn rỏi trong chiếc mũ công
tác có máy thông tin gắn liền với thành xe.
Nhìn
đội ngũ hôm nay không biết ai đã hết hạn nghĩa vụ
quân sự, không biết ai đã nhập ngũ tháng 2 năm 1982. Bởi
vì ai cũng say mê học tập. Thượng sĩ Đỗ Vũ Quang
ba năm liền chiến sĩ thi đua, một lái xe tin cậy
của mọi cấp chỉ huy, hết hạn nghĩa vụ quân sự từ
năm trước, sáu tháng vừa rồi vẫn được cấp bằng
khen về tinh thần tích cực xây dựng đơn vị.
Kia
là kíp xe Hoàng Công Mậu, cả kíp đã đoàn kết giúp đỡ
nhau, kíp trưởng, lái xe, pháo thủ đều trở thành đảng
viên.
Tuổi trẻ có thể loạc choạc phần nào khi
bước chân vào quân đội, nhưng qua giai đoạn huấn luyện
một họ đã đồng hóa được trình độ kỹ thuật,
chiến thuật, chính trị và tư tưởng.
Có thể nói
thêm đôi điều về lái xe Nguyễn Minh Đức Anh quê Sơn
Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ Tĩnh, vào bộ đội
ngày 16 tháng 11 năm 1978, vào Đảng ngày 4 tháng 5 năm
1980, cấp bậc thượng sĩ.
Đức có dáng người
tầm thước, khuôn mặt hiền, con người thoải mái, gây
một sự cảm tình ban đầu và càng lưu luyến hơn khi gặp
anh trong bộ quần áo đã bạc màu, mái tóc bay lơ phơ,
tất cả như muốn nói không bao giờ anh quan tâm đến
riêng tư.
Nghe tiếng máy là Đức biết được tình
trạng xe và có thể biết tức khắc nếu trong xe cháy một
bóng đèn hoặc hỏng một cầu chì. Là chiến sĩ lái xe
nhưng Đức thường xuyên làm nhiệm vụ phó đại đội
trưởng về kỹ thuật, chẳng hề ngại khó dù đang chuẩn
bị đi chơi, nhưng nghe tiếng bạn gọi là lăn mình vào
sửa chữa, sẵn sàng chia sẻ gian nan cùng bạn mà không
hề tính toán riêng tư.
Xe quân sự là loại xe tương
đối hoàn chỉnh, nhưng Đức vẫn tìm ra chỗ cần phải
cải tiến. Ví như, bình thường người lái nhìn bảng số
thấy có một bóng điện tắt, đây là báo hiệu bộ binh
đã lên xe xong. Đức đặt ra câu hỏi, nhỡ có trường
hợp hỏng hóc kỹ thuật bóng đèn ấy bị cháy và mình
không biết, cứ tưởng bộ binh đã lên xe rồi thì
nguy hiểm xiết bao, nên Đức có sáng kiến đấu thêm vào
xe một chiếc còi. Khi bộ binh lên xe xong thì đèn tắt và
còi kêu.
Đã có lần một cán bộ quân sự cấp cao về tận
cơ sở kiểm tra, trong đoàn có những chuyên viên xe máy.
Họ ngồi lên xe của Đức, nổ máy cho xe chạy. Xe đi
qua các sườn đồi chênh vênh, nghệ thuật như một
diễn viên trong rạp xiếc. Người không hiểu chuyên môn
nhìn thấy lo sợ tưởng có thể vỡ tim, khi nghĩ đến
khối thép khổng lồ kia trượt xích mất thăng bằng lăn
nhào xuống suối. Sau đó họ cho xe vượt qua 11 vật cản
trên đường dài 4,5 kilômét chỉ mất 15 phút, đạt tiêu
chuẩn giỏi.
Người chuyên viên quân sự kia đỡ
nắp trên xe bước ra, đưa khăn lau mồ hôi trán giữa
tiếng hoan hô rào rào không ngớt của toàn thể cán bộ,
chiến sĩ có mặt hôm đó. Ánh mắt người chuyên
viên lộ vẻ tự hào lướt nhìn các chiến sĩ lái trẻ
tuổi với câu nói thách thức: "Các bạn có ai lái
được như tôi không?".
Đức im lặng bước ra
khỏi hàng quân, mặt lạnh tanh.
Xung quanh nhiều
tiếng lao xao: "Đừng tự ái, phải lường được sức
mình. Định múa rìu qua mắt thợ ư?".
Đức
nhẹ nhàng giao nhiệm vụ cho các chiến sĩ trong kíp xe,
dặn dò thêm pháo thủ rồi báo cáo với người chỉ huy
xin phép thực hành.
Xe nổ máy từ từ bò lên dốc,
khói đen phụt ra thành từng vòng luẩn quẩn quanh xe.
Những người có mặt hôm đó tưởng như mình cũng đang
cầm lái, nên thần kinh căng thẳng, nhịp tim dồn hơn,
chân, tay run run như lúc nào cũng xuýt ôm lấy đầu nhận
thất bại.
Đức bình tĩnh lắm, xe đã bắt đầu
vào khu vực có 11 vật cản. Xe qua vật cản thứ nhất là
tránh hai cọc hạn chế, mọi người ào lên một tiếng
nhẹ nhõm, xong rồi!
Vượt vách hụt - tiếng xuýt
xoa: đạt yêu cầu!
- Lên dốc 35 độ, xuống dốc 35 độ
- Được!
- Tránh 5 cọc hạn chế - tốt!
- Vượt cầu
vệt - Hay quá!
Tiếng đệm theo về sau càng bình tĩnh
hơn và về
sau nữa trở thành tiếng cổ vũ.
- Vượt
bãi mìn - Khá!
- Vượt bãi lái tổng hợp - Giỏi!
-
Vượt cầu chống lầy - Ưu tú!
- Tránh vách hụt đứng
- Tuyệt vời!
- Vượt qua hào chống tăng 8 mét - vô
địch!
- Tiêu diệt mục tiêu xuất hiện - Hoan hô.
Thời
gian hết 10 phút 30 giây.
Cả thao trường rộn lên
tiếng hoan hô. Những người lái xe tự hào với thành
tích đồng đội, gọi tên đồng chí thân yêu bằng nhiều
cách. Những người chỉ huy rơm rớm nước mắt, những
giọt nước mắt sung sướng, chứa đựng gian nan vất vả,
chịu khó mày mò kiên nhẫn tiến lên. Những giọt nước
mắt tự hào.
Người chuyên viên xe máy của phái
đoàn quân sự cấp cao có cái nhìn thách thức Đức lúc
nãy đã xô tới đưa hai tay nâng Đức lên cao quá đầu
ông. Ông thực lòng sung sướng: Hoan hô thế hệ trẻ.
Trên
bãi tập sớm nay các chiến sĩ xe tăng đang lấy lá ngụy
trang đột nhiên dừng lại hò la vẫy gọi. Tôi nhận ra
họ vẫy chào đoàn xe tiểu đoàn công binh 17. Dẫn đầu
đoàn là phó tiểu đoàn trưởng về kỹ thuật Trịnh
Đình Thân.
Nhớ hôm đến thăm tiểu đoàn, Trịnh
Đình Thân đã nói với chúng tôi: "Trong lúc đang đói
mình phải làm sao cho anh nào cũng chạy được. Anh xem,
đưa hai mươi tấn thép lên cao hạ xuống bằng mấy sợi
dây cáp nhỏ như ngón tay cái, để biến thành một chiếc
cầu cho xe tăng qua sông. Sợ quá? Khi nhận những trang bị
mới này về, chúng tôi hoa mắt, trố mắt, trợn tròn
mắt, ngơ ngác, bàng hoàng... Mình phải chỉ huy phải sử
dụng những trang bị hiện đại như thế này ư? Trên chỉ
thị: "Giao cho trang bị gì thì phải chiến đấu bằng
trang bị đó". Chúng tôi bắt đầu tính chi li từng
đức tính của người lính. Yếu gì, bổ sung gì. Cán bộ
phải bám sát chỗ yếu, chỗ bổ sung đó. Tất cả phải
trải qua thực nghiệm.
Giờ đây Trịnh Đình Thân
ngồi thoải mái trên chiếc xe thứ hai, khuôn mặt toát
lên vẻ đã làm chủ được khoa học kỹ thuật đưa tay
vẫy vẫy chào các chiến sĩ xe tăng hứa hẹn một đợt
diễn tập hợp đồng binh chủng vào cuối mùa huấn luyện
giai đoạn hai.
Một xe xích khác từ bên trái đồi
vọt lên. Trên xe một đại úy đưa tay ôm lấy nòng pháo,
tư thế toát lên toàn vẻ mơ mộng của đời học sinh.
Tôi nhận ra đại úy đó là tiểu đoàn trưởng tiểu
đoàn 5, Nguyễn Xuân Kỷ, người điều khiển buổi học
tập hôm nay. Kỷ nhảy xuống đưa tay lên mũ chào Thệ,
chào tôi, rồi chạy tới ôm chầm lấy tôi: Bỗng chốc
mới đó mà đã 8 năm rồi anh nhỉ!
Kỷ là trợ lý
tác chiến của Trung đoàn 66, hồi ấy anh như một học
viên thực tập đã đi cùng tôi tìm hướng đánh, cách
đánh cho tiểu đoàn 8, tiểu đoàn 9 mở đột phá khẩu
vào Thượng Đức. Bây giờ trông Kỷ gầy đen, sốt rét
chưa tan hết, trên đôi môi thâm, đôi mắt quầng. Trông
anh vẫn còn mang nhiều dáng dấp của người lính đánh
Mỹ.
Chưa đến giờ học tập nên vẫn giữ không khí
trò chuyện thoải mái thân mật, dù giữa cấp trên và
cấp dưới. Phạm Quang Thệ đi tới, giọng vui vẻ:
-
Thế nào, "ngựa trưởng" bố trí quân xanh và các
điểm bộc phá nổ xong chưa. Bảo vệ an toàn tuyệt đối.
Chú ý giữ gìn bờ ruộng cho dân, mất nước là cày bừa
gay lắm.
Thệ chỉ tay về phía mấy đám ruộng, chúng
tôi nhìn theo thấy một ông già vác cuốc đi đi lại lại.
- "Ngựa trưởng" nhớ cho công binh đắp bờ
ngay khi xe vừa chạy qua.
Tôi nói với Kỷ: .
-
Mình không ngờ ngày nay cậu có biệt hiệu là "ngựa
trưởng".
- Lỗi tại cái cô nhân viên của đoàn
đấy anh ạ. .Con gái ngày nay thật là bạo mồm, trả đũa
ngay tức khắc.
Trần Vũ hỏi tôi:
- Anh chắc chưa
biết chuyện "ngựa trưởng"?
- Chưa.
Số
là tiểu đoàn trưởng Kỷ cũng hay vênh mặt lên ra vẻ
phớt đời trước hàng ngũ con gái. Chất lính đánh Mỹ
là thế. Nhưng cô nhân viên của ban tuyên huấn chúng tôi
cũng không vừa. Hôm sinh hoạt cơ quan tham mưu có cả Kỷ
ở đó nữa, nhân góp chuyện vui cô ta mới kể rằng có
anh bộ đội về nhà. Lại nhờ vợ giặt giúp quần áo.
Người vợ lục tìm trong túi áo thấy có tấm giấy phép
ghi chức vụ chồng mình là D trưởng. D trưởng là chức
gì? Hay chồng mình chỉ huy một trại nuôi dê nên gọi là
dê trưởng. Có lẽ thế. Thôi thì thời buổi kinh tế khó
khăn này chỉ huy một đàn dê cung cấp thực phẩm cho đơn
vị cũng là quý lắm rồi. Nghĩ vậy, nhưng cô ta còn chút
phân vân là chồng đi mười năm rồi mà chỉ chỉ huy một
đàn dê thì chậm tiến quá!
Hôm sau mấy người bạn
đến chơi, liền hỏi thẳng là anh ấy đi bộ đội đã
tiến bộ như thế nào, giữ chức vụ gì. Ý nghĩ chỉ
huy đàn dê nhỏ quá trở lại nên cô ta định đặt cho
chồng một chức vụ gì cao hơn, buộc mấy cô bạn kia
phải khâm phục. A cô ta nghĩ ra rồi, oai hơn dê, cao hơn
dê, đông hơn dê và cũng rất cần thiết cho quân đội.
D là ngựa. Anh ấy chỉ huy đàn ngựa. Đã gọi D trưởng
thì cũng có thể gọi “ngựa trưởng". Cô ta thoải
mái trả lời bạn: "Chức vụ của chồng mình là
"ngựa trưởng".
Kỷ thua cuộc đấy. Da đen
mà vẫn nhìn rõ nét mặt đỏ bừng. Anh thấy các chiến
sĩ gái Sư đoàn Vinh Quang táo tợn và thông minh chưa. Hôm
nào tôi sẽ đưa anh đi xem nơi họ làm ngói, làm gạch,
làm thuốc đông y... Toàn con gái thôi nhá.
Từ dưới
sườn đồi bò lên một chiếc xe con vòng qua chỗ xe xích
rồi dừng lại giữa bãi phẳng. Hai đồng chí mang cấp
bậc thượng tá nhảy xuống gọn gàng như lứa tuổi
thượng úy. Đó là Phúc Thanh sư đoàn trưởng Sư đoàn
Vinh Quang và Lê Hồng Hải phó sư đoàn trưởng về chính
trị. Phúc Thanh thoăn thoát bước tới chỗ cán bộ đang
tập trung. Phạm Quang Thệ hô nghiêm và anh chạy tới báo
cáo với sư trưởng. Trong mấy phút, bãi tập như lặng
ngắt, xe tăng không nổ máy, con người đứng nghiêm như
bất động... Phúc Thanh đáp lễ, chỉ thị mấy câu ngắn
gọn. Bãi tập ồn ã trở lại.
Lê Hồng Hải bắt
tay tôi nói:
- Đang phát động đợt thi đua lập thành
tích chào mừng ngày Quốc khánh 2 tháng 9. Anh có thể nói
chuyện cho chúng tôi nghe về Cách mạng tháng Tám và Quốc
khánh 2 tháng 9 được không?
Tôi trả lời:
- Đấy
là một đề tài dễ nhất nhưng cũng khó nhất vì mọi
chuyện mình nói ra người ta biết hết rồi, sổ sách ghi
chép đầy đủ cả rồi... Tôi thường né tránh những
buổi nói chuyện như vậy.
Hải nêu ý kiến:
-
Thuở Cách mạng tháng Tám thì tôi và anh Phúc Thanh đều
chưa ra đời, nên nói chuyện không hấp dẫn tí nào cả.
Còn anh, anh cứ nói những chuyện mắt thấy tai nghe. Lúc
ấy anh ở đâu làm gì, bọn Nhật cầm chân những người
chỉ huy của ta đang diễn thuyết giữa sân Đô Lương kéo
xuống như thế nào, quần chúng ồ ạt và cũng có những
anh cuốn cờ cho vào ngực bỏ trốn ra sao. Hay quá chứ
anh. Hấp dẫn vô cùng. Tiện thể anh nói chuyện về ngày
thành lập Sư đoàn Vinh Quang trên đất Vinh Lộc ...
Có
sự gợi ý của Hải lòng tôi cũng thấy rộ lên không
khí cướp chính quyền. Tuy hồi đó tôi còn là một chú
bé chạy lon ton theo bố, nhưng mà giờ đây tái hiện tất
cả, khẳng định tất cả.
Trước khi bước vào tổ
chức buổi tập, Nguyễn Xuân Kỷ vẫy vẫy, tay chỉ ông
cụ đang vác cuốc đứng phía mấy đám ruộng lên chỗ
mình rồi nói:
- Cụ ơi chúng cháu sẽ bảo đảm hoàn
toàn các bờ ruộng. Mời cụ lên trên này kẻo chốc nữa
ở đấy bộc phá nổ, không an toàn.
Kỷ quay sang
nói với chúng tôi: .
- Mời các anh đến dưới cây mít
của căn nhà ở bìa đồi kia cho có bóng mát. Hôm nay đang
tập phân đoạn, sai đâu sửa đó. Đợt một tập đến
đây tạm dừng, các anh sẽ thấy hết.
Chúng tôi
kéo nhau đến đứng gọn dưới bóng cây mít cạnh nhà
dân lợp gianh, vách đất. Trong nhà qua cửa sổ nhỏ như
lỗ châu mai, tiếng một bà già vẳng ra nhắc nhở con cái
làm tiếp các công việc.
Phía sườn đồi bên kia
Nguyễn Xuân Kỷ đã tổ chức xong đội hình huấn luyện.
Anh đi tới đâu chiến sĩ thông tin vội vàng bê máy chạy
theo tới đó. Xe tăng, xe chiến đấu che lá ngụy trang kín
mít như một đồi cây. Không gian yên lặng, tiếng máy
thông tin mở sẵn kêu vo vo đợi lệnh tiểu đoàn
trưởng...
Kỷ ra lệnh ngắn gọn:
-
Xe H91 xuất phát!
- H93 xuất phát!
- H95 xuất
phát!
Rừng ran lên tiếng nổ, đất chuyển động,
tai mọi người âm u. Xe tiến thành hàng dọc và lần lượt
thực hiện theo mệnh lệnh của tiểu đoàn trưởng.
-
H91 tản sang trái 50 mét!
Không cần phải to tiếng
nhưng chiến sĩ thông tin cũng gào lên như muốn tiếng
mình vang to ngang tầm cỡ với tiếng máy xe tăng.
- H91
sang trái 50 mét!
- Vượt vật cản!
- Chú ý vượt
vật cản!
- Pháo ngăn chặn! Quân xanh đâu? Pháo ngăn
chặn? Sao chậm thế?
Tiếng những người làm quân
xanh trả lời thu rõ trong máy chỉ huy.
- Ai bảo chậm.
Còn chờ bộ binh lên đã chứ. Này thằng Thông đừng bép
xép cạnh thủ trưởng...
Bộc phá nổ! Những tiếng
nổ rền, sức nổ mạnh, cộng với tro bụi, làm không
gian trùm lên một khoảng trắng, khét lẹt.
Trong nhà
gianh vẳng lên tiếng nói:
- Mẹ ơi cho con một nắm
tro.
- Trong bếp ấy, cứ vào mà lấy.
Tôi nhìn
lại thấy một chiến sĩ tay cầm cờ quân xanh, bưng đầy
thúng tro chạy ra, liền hỏi:
- Xin một nắm, sao lại
bê cả thúng?
Tiếng bà già vẳng ra:
- Không việc
gì, cứ cho chúng nó lấy.
Chiến sĩ quân xanh toét môi
cười:
- Phải cho khói lửa mù lên, như đánh trận
thật sự, để còn chụp ảnh quay phim nữa chứ.
Nói
xong anh băng băng chạy qua đồi cây vút thẳng đến hướng
bộc phá đang liên tục nổ.
Xe chiến đấu thành
đội hình hàng ngang, lùi lùi tiến, tiếng gầm rú như đe
dọa kẻ thù. Bộ binh tiến trước xe 50 mét. Bộ binh băng
qua ruộng lên đồi hỗ trợ cho xe tăng, xe tăng hỗ trợ
cho bộ binh. Đội hình tuyệt đẹp, tuyệt hiên ngang. Quân
đội ta mãi mãi là bách chiến bách thắng.
Nguyễn
Xuân Kỷ lệnh ngừng tập 15 phút rút kinh nghiệm.
Trong
căn nhà gianh bà già lễ mễ bưng ra một nồi nước chè
xanh. Bà nói:
- Giỏi quá. Các chú tập giỏi quá. Ngày
xưa tôi đã được xem Pháp đổ bộ. Các chú giỏi hơn
Pháp nhiều.
Ông già vác cuốc lúc nãy đi tới, mặt
hầm hầm:
- Bà này thật là... Đem ví quân ta với quân
Pháp. Tôi nói cho bà biết cái thứ như thằng Pháp đã bị
lớp người như chúng tôi đánh thua rồi (chúng tôi
đã đuổi cho chúng chạy re ở Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Điện
Biên).
Tôi hỏi:
- Bác trước ở bộ đội?
- Vâng.
Bộ đội đánh Pháp (ở cái trung đoàn Ký Con thuộc Đại
đoàn 304). Chà, thời trẻ của chúng tôi cũng oai hùng lắm
các chú ạ. Chèo thuyền ra biển để đánh nhau với tàu
chiến Pháp. Nó phải dùng đến đại liên mới bắn được
ghìm thuyền chúng tôi. Thuyền đắm chúng tôi bơi vào bờ
bàn cách đánh khác. Mỗi lần nghĩ lại máu trong người
tôi ran lên... Biết các chú lập bãi tập ở đây tôi đi
xem.
- Cháu cứ tưởng bác sợ hỏng mất bờ
ruộng.
- Vớ vẩn. Cái bờ ruộng có nghĩa lý gì. Nhìn
thấy quân đội ta trưởng thành ngỡ như mình thêm sức
sống trẻ lại mươi tuổi. Năm nay tôi bảy mươi...
Bà
già lúc này bưng nước mời anh em uống nhận ra tôi,
nói:
- Chú cũng đến đây à? Mời chú vào nhà chơi. Đi
sát gần tôi bà hạ giọng. Cái chú "con hổ anh ơi?"
kia kia. Đi với chiếc xe tăng thứ hai. Chú ấy lội nước
nhanh thế, vượt được xe tăng. Trông nét mặt chú ấy
nghiêm thế mà đóng kịch hay đáo để.
Tôi hỏi :
-
Bà có thấy người bán hai chiếc bát tráng men không?
-
Không thấy. Có lẽ họ ở đơn vị khác, đơn vị tập
tành nghiêm trang đứng đắn thế này làm gì có người
tính toán nhỏ nhen. Vả lại nếu có thì cũng nên tha
thứ, đời người ai chẳng một lần sai phạm, nhất là
những người mới vào đời.
Sai phạm thì phải
nhận kỷ luật. Thệ đi tới nói vậy và thêm: Hai người
mang bát ra phố bán hôm nọ là ở đơn vị này đấy bác
ạ. Đang cải tạo lao động. Rất tiếc rằng sai phạm ấy
không thuộc anh em chiến sĩ mới 1982 mà lớp cũ...
Trước
mắt tôi là trời xanh, mây trắng ùn lên từng cuộn đông
đặc. Trời càng xanh, mây càng trong và lòng người càng
mênh mang. Sự mênh mang ấy như hát lên trong lòng tôi về
"Tháng Tám mùa thu xanh thẳm". Tôi chợt nhớ đến
câu một nhà thơ đã viết:
"Mây nhởn nhơ bay, hôm
nay ngày đẹp lắm. Mây của ta trời thắm của ta ...
".
14-8-1982
C.T.L
VƯƠNG TRỌNG
THÁNG TƯ TA GHÉ BINH
ĐOÀN
Bút ký
Có tiếng gì gióng giả âm vang làm tôi
tỉnh giấc. Tỉnh giấc chứ chưa thể tỉnh ngủ vì đôi
mắt vẫn nhắm nghiền, chập chờn suy nghĩ chưa thể xác
định được mình đang nằm ở đâu. Làm anh nhà báo hết
xuôi Nam lại ngược Bắc, hết lên rừng, xuống
bể... thời gian ngủ trên giường khách nhiều hơn ngủ
trên giường nhà mình, không có trạng thái lạ giường
khó ngủ, nhưng những phút chập chờn thức dậy lúc bình
minh thường khó xác định được mình đang ở đâu?
Chính cái âm thanh gióng giả kia đã lôi tôi ra khỏi giấc
ngủ và thả vào trạng thái lâng lâng, trôi nổi. Tôi khe
khẽ trở mình và nhận ra mình đang nằm trên đệm ấm.
Lại thoang thoảng mùi nước hoa! Ở đâu nhỉ, tất nhiên
là không phải ở nhà mình, vì không gian vắng lặng không
hề có tiếng xe cộ và âm thanh phố phường. Tôi quờ
tay chạm phải chiếc công tắc đèn ngay đầu giường và
vội vàng bật đèn lên: cô gái mặc đồ tắm trên tờ
lịch chào tôi bằng nụ cười cố định. Đây là đâu
nhỉ? Tôi nhìn lên bức tường phía đầu giường và gặp
ngay một chiếc áo quân phục có cài sẵn quân hàm thượng
tá! Đến lúc đó tôi mới trở lại trạng thái tỉnh táo
hoàn toàn và xác định được mình đang nằm trên chiếc
giường của thượng tá Nguyễn Thanh Tùng, Lữ trưởng Lữ
đoàn pháo binh 164.
Căn phòng bên cạnh vẫn còn vang
vọng tiếng ngáy khá sôi nổi của "bố già"
Khoa. "Bố già" Khoa chính là thần đồng thơ Trần
Đăng Khoa đấy? Mới ngoài ba mươi lăm tuổi nhưng Khoa
khi nào cũng tự coi mình là "bố già". Đó là
Khoa tự trào về mình đấy thôi, sự thật Khoa vẫn còn
trẻ trung lắm.
Chiều qua, khi tới Lữ đoàn phòng
không 673, Khoa liền từ bỏ cái vai "bố già" anh
vẫn thích đóng để trở lại chính mình, hơn thế nữa
lại là cái chính mình cách đây hơn hai mươi năm với
đôi mắt mở tròn ngỡ ngàng và những câu hỏi hồn
nhiên trước cảnh quan khoáng đãng và những công trình
xây dựng hiện đại, đẹp đẽ của khu vực này. Không
chỉ nhà của lữ đoàn bộ, nửa giống khách sạn, nửa
giống như một ngôi nhà nghỉ mát dành cho cán bộ cấp
cao và nhà của chiến sĩ các tiểu đoàn đều đàng hoàng
sạch đẹp. Nhìn cơ ngơi tiểu đoàn, ngay những phút đầu
tiên, khách có thể hiểu được nền nếp của đơn vị
cũng như khả năng của các cấp chỉ huy. "Chỉ có
thời bình bộ đội ta mới có những ngôi nhà như thế
này!". Khoa tấm tắc khi ngắm nhìn ngôi nhà hai tầng
của lữ đoàn bộ ngự trị trên đỉnh đồi, từ kiểu
cách xây dựng đến vật liệu, màu sắc đều hiện đại,
hài hòa. Tôi bổ sung: "Chỉ có thời bình cộng với
cơ chế kinh tế thị trường thì mới có ngôi nhà như
thế này, chứ nếu chỉ dựa vào kinh phí trên cấp thì
làm sao có được". Thiếu tá Trần Xuân Thái, phó
tham mưu trưởng lữ đoàn xác nhận điều bổ sung của
tôi và nói rõ thêm:
- Kinh phí quốc phòng trên rót
xuống cho việc xây dựng doanh trại chỉ một phần thôi,
đủ bảo đảm cho lính có nơi ăn chốn ở, còn muốn đẹp
đẽ và tiện nghi thì đơn vị phải bỏ thêm tiền vào,
chứ không có cách nào khác.
Khoa hỏi ngay:
- Số
tiền đó "các bác" lấy ở đâu?
Và Khoa cứ
nhìn thẳng vào mặt tham mưu phó như muốn nói rằng "nếu
ông không nói rõ điều này thì tôi không chịu nhìn đi
nơi khác". Nhưng thiếu tá Thái có định lảng tránh
câu trả lời đâu, anh nói:
- Thời gian huấn luyện,
tất cả đơn vị phải tập trung, còn thời gian khác, trừ
quân số thưởng trực sẵn sàng chiến đấu, chúng tôi
sắp xếp cho một số chiến sĩ đi lao động, xa là vùng
than Quảng Ninh, gần là làm gạch ở Bố Hạ, số tiền
thu được ngoài việc cải thiện bữa ăn thường ngày
cho anh em, số còn lại đem vào sửa sang doanh trại, tóm
lại là để cải thiện ăn và ở mà thôi.
Cứ mỗi
lần tới một căn phòng đàng hoàng của chiến sĩ, Khoa
lại nhắc tới đời sống của các chiến sĩ hải quân ở
đảo cách đây mười mấy năm mà anh đã từng sống với
họ. Chiếc nhà chòi trên đảo chìm Thuyền Chài, nơi võng
lính mắc thành từng tầng như những con dơi ngủ ngày,
phía dưới, ngay trên mặt đảo những con cá mập lượn
lờ, sẵn sàng đớp những con mồi, bất kể từ phương
nào lại. Khoa bảo rằng, lính ta đã làm quen với những
con mập thường đến kiếm ăn dưới chân chòi, đặt tên
cho từng con để phân biệt, còn khi cần việc phải bơi
mà thấy chúng thì nhớ bơi đứng, cá mập không bao giờ
đớp đâu?
Khi theo thiếu tá Thái lên dốc để thăm
trận địa phòng không, Khoa vẫn còn nuối tiếc quay lại
nhìn những ngôi nhà to đẹp, miệng lẩm bẩm: "Lính
bây giờ ăn ở sướng thật!".
Sau khi từ giã
Lữ đoàn phòng không 673, chúng tôi đến Lữ đoàn pháo
binh 164. Khi thấy dòng chữ "Đoàn pháo binh Bến Hải"
khắc nổi trước hội trường, Khoa quay sang hỏi tôi:
-
Lại pháo binh à? Sao quân đoàn này sẵn pháo thế?
Tôi
hiểu ý Khoa là muốn tới một đơn vị khác, chẳng hạn
như bộ binh, xe tăng... nhưng do thời gian không cho phép,
chúng tôi không thể tới các đơn vị đó trong dịp này.
Đó cũng là nỗi lo của tôi... Nhận trách nhiệm viết
một bài bút ký về quân đoàn mà thời gian thâm nhập
lại rất ít ỏi, sự hiểu biết hạn hẹp, thì làm sao
lột tả được cái thần? Thôi thì, ta như người làm
công việc quy hoạch rừng mà mới biết được một vài
thứ cây thì cứ nói lên, người nghe cũng có thể hiểu
đôi nét về khu rừng. Nhưng những cái cây – lữ - đoàn
này cũng không dễ gì hiểu được, nó không phải là cây
mà là một khu rừng nhỏ nằm trong khu rừng lớn, mà
chúng tôi mới mon men chạm tới bìa rừng, đang nhờ cậy
những người dẫn đường có kinh nghiệm. May mắn thay,
người dẫn đường cho chúng tôi là một trong những
người phụ trách, trung tá lữ đoàn phó Dương Hồng
Niệm. Bây giờ thì anh đang tập thể dục với cán bộ
và chiến sĩ trên sân với những tiếng hô đều đặn,
khỏe khoắn, còn tôi đang nằm nhớ lại những gì anh đã
tâm sự với mình, về truyền thống của lữ đoàn, về
nỗi niềm của sĩ quan và chiến sĩ.
Gọi tên Lữ đoàn pháo binh 164 thì ít người biết
hơn tên Đoàn pháo binh Bến Hải, bởi chiến công thời
chống Mỹ từng làm nức lòng cả nước, đặc biệt nhân
dân hai bờ sông Bến Hải. "Tự lực tự cường, đánh
giỏi, bắn trúng" là truyền thống của Đoàn tạo
nên từ ngày ấy. Đã từng tham dự 2.784 trận, riêng trận
tập kích vào căn cứ Dốc Miếu của Mỹ ngày 20 tháng 3
năm 1967 thì toàn lữ đoàn không một ai không biết,
dù mọi người trong lữ đoàn bây giờ, kể cả các sĩ
quan trong ban chỉ huy, ngày đó chưa ai nhập ngũ cả. Hơn
một ngàn lính Mỹ bị tiêu diệt, hàng phục khẩu pháo
và xe quân sự, nhiều kho xăng, kho đạn bị phá hủy, bọn
tướng tá Mỹ ngụy không tài nào hiểu được, trên vùng
đai trắng Vĩnh Linh, đất không còn cây, làng không còn
nhà, trên bầu trời lúc nào cũng có máy bay trinh sát
thay ca túc trực, thế mà pháo binh của ta có thể bí mật
kéo vào, ngụy trang bí mật đến giờ nổ súng, làm
chúng bất ngờ không thể trở tay! Sau ngày đất nước
hòa bình, năm 1985 và 1992 tôi có hai lần tiếp xúc nói
chuyện với nhà thơ Mỹ Bruce Weigl, giáo sư đại học,
vốn là lính Mỹ từng chốt giữ tại Cồn Tiên, Dốc
Miếu. Khi chuyện trò vui vẻ, tôi hỏi: "Năm 1967, khi
pháo binh của chúng tôi tập kích vào đó, ông thấy thế
nào?". Bruce Weigl nói: May quá, lúc đó tôi được
chuyển về Khe Sanh rồi! Nhưng sự khủng khiếp của trận
tập kích đó thì lính Mỹ chúng tôi ở nơi nào cũng
biết"!
Tôi đã lần đọc lại những trang sử
của lữ đoàn ghi lại chi tiết trận tập kích này và
xem những tấm ảnh trong phòng truyền thống. Những bức
ảnh đen trần ở màu thời gian có sức hấp dẫn ghìm
chân người tham quan dừng lại. Trần Đăng Khoa chăm chú
nhìn tấm ảnh chụp một cô dân quân mặc quần đen, áo
gụ, đội mũ cài lá ngụy trang đang nạp đạn cho pháo
giữa trận địa mịt mù khói lửa. Bức ảnh đó có dòng
chữ chú thích:
Dân quân Vĩnh Giang (Bến Hải) phối hợp
chiến đấu cùng cùng đơn vị đánh địch ở Dốc Miếu
năm 1967.
Sau một hồi yên lặng. Khoa thốt lên lời
hỏi bâng quơ: "Không biết cô gái này bây giờ ở
đâu? Chắc đã thành bà rồi!". Không một ai ở lữ
đoàn này có thể trả lời được câu hỏi đó cũng như
không một ai biết được đại đội phó trinh sát Lê
Ngọc Trường bây giờ ở đâu,nhưng hình ảnh anh trinh
sát trận địa địch, điều chỉnh cho đạn pháo ta rơi
trúng đích thì quá quen thuộc với cán bộ và chiến sĩ
lữ đoàn này. "Chúng tôi hết sức quan tâm tới công
tác giáo dục truyền thống cho đơn vị. Truyền thống
giúp chiến sĩ tự hào về quá khứ, thêm sức mạnh cho
hiện tại và tương lai". Trung tá Niệm nói thế khi
dẫn chúng tôi xem từng tấm ảnh như lật lại từng
trang truyền thống của lữ đoàn ...
Mùi nước hoa
thơm nhè nhẹ đưa tôi trở lại với căn phòng lữ trưởng
Tùng. Không may, tôi đến đơn vị anh công tác thì anh lại
đi công tác Hà Nội, tôi được ngủ trên giường của
anh nhưng không được trò chuyện cùng anh. Thế nhưng qua
lời kể của trung tá Niệm, tôi hình dung ra anh rõ lắm!
Anh là một lữ trưởng có năng lực trong việc lãnh đạo,
tổ chức đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ như
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, cải thiện đời sống
bộ đội. Anh là người yêu thơ, yêu nhạc và yêu hoa.
Việc cải tiến bước đầu chế độ tiền lương cho sĩ
quan đã có tác dụng thiết thực cho cán bộ yên tâm công
tác, gắn bó hơn với đơn vị. Nếu chỉ có thế hoàn
toàn chưa đủ. Đặc điểm chung của sĩ quan ở lữ đoàn
này cũng như nhiều đơn vị trong quân đoàn là có vợ
con ở quê xa, vài ba tháng anh em mới có dịp thăm nhà vài
hôm còn hầu hết thời gian sống với đơn vị ở doanh
trại. Bởi thế nơi ăn chốn ở phải đàng hoàng. Bộ
đội không những giỏi trồng rau mà phải biết trồng
hoa và thưởng thức hoa. Lữ trưởng Tùng nghĩ thế và
được nhiều sĩ quan, chiến sĩ tán đồng. Luống hoa đủ
loại, đủ màu sắc ngoài sân và ảnh của những cô gái
đẹp trên tường làm cho cuộc đời người lính bớt khô
khan, thêm vui, thêm đẹp.
Buổi tập thể dục đã
kết thúc, tiếng hô: "Rèn luyện thân thể... "
vang vọng một vùng trung du. Thế mà tiếng hô đó không
hề có ảnh hưởng gì đối với tiếng ngáy của "bố
già" Khoa. Đêm qua tôi mải mê chơi cờ tướng với
một sĩ quan pháo binh cao cờ, đặc biệt sử dụng rất
linh hoạt và hiệu quả đôi pháo, còn Khoa nói chuyện thơ
với anh em đơn vị, kể cả số sĩ quan của lữ đoàn
đang dự lớp tập huấn. Khoa có hàng chục bài nói khác
nhau đối tượng nào cũng có bài phù hợp. Đêm qua anh
giới thiệu, bình giảng thơ viết về người lính qua các
cuộc chiến tranh. Giọng nói rủ ri, từ tốn của Khoa
không những cung cấp cho người nghe lượng kiến thức
đáng kể, mà đối với người lính, điều đáng kể hơn
là giúp cho họ tiếng cười sảng khoái. Tin chắc rằng,
nhiều chi tiết Khoa cung cấp, đối với anh em mấy tháng
sau còn được nhắc lại như nhắc lại một chuyện tiếu
lâm.
Đại tá Tư lệnh phó quân
đoàn Phạm Xuân Thệ niềm nở đón tiếp chúng tôi tận
hành lang. Sau cái bắt tay rất lính, anh dẫn tôi và Khoa
vào căn phòng làm việc Anh tự tay rót nước mời từng
người và hỏi han công việc mấy hôm chúng tôi đến các
lữ đoàn. Ngồi đối diện với anh, tôi có dịp quan sát
tướng mạo con người mà báo chí và đài phát thanh đã
bao lần nhắc đến với sự ngưỡng mộ lớn lao. Tóc
dày, mày rậm, cằm vuông, với giọng nói hào hứng
và khỏe khoắn. Thầy tướng Khoa thì thầm: "Tướng
ông này rồi còn làm rất to". Không hiểu sao từ khi
bước vào căn phòng này là tôi cách ly hiện tại để
sống lại không khí những ngày cuối tháng tư năm 1975.
Mười chín năm nay, anh đã từng tiếp hàng trăm nhà báo,
anh đã tường thuật bao lần trận đánh trên đường
tiến vào Sài Gòn, những câu chuyện đã xảy ra ở Dinh
Độc Lập và Đài phát thanh vào buổi trưa lịch sử 30
tháng 4 đó. Thế nhưng mỗi lần kể lại, chính bản thân
anh được sống lại những ngày tháng không thể nào
quên, anh trở lại tuổi đời hai bảy, cấp bậc đại
úy, chức vụ phó trung đoàn trưởng Trung đoàn bộ binh
66 thuộc Sư đoàn 304. Anh tâm sự:
- Hồi đầu chiến
dịch, chỉ là một đại úy trung đoàn phó tôi chưa hiểu
được toàn cục, tầm chiến lược còn hạn chế nên sau
khi giải phóng thành phố Đà Nẵng tôi chưa thể hình
dung được tình hình có thể diễn biến nhanh như thế!
Ngày 16-4 chúng tôi được lệnh hành quân về phía nam,
theo đường quốc lộ 1. Trung đoàn tôi đi đầu đội
hình quân đoàn. Ngày 19 giải phóng Phan Rang, đêm 21 giải
phóng Hàm Tân. Đêm 23 chúng tôi đã hành quân đến đồn
điền ông Quế cách Sài Gòn chỉ 60 cây số...
Đại
tá Thệ hào hứng nói về những cuộc hành quân và những
địa danh vừa mới được giải phóng. Tôi nhớ lại
những ngày đó, tôi, Duy Khán, Gia Dũng đang bị kẹt ở
Huế vì xe ùn ùn vào Nam nhưng đang lúc ưu tiên chở lính,
chở đạn vào đánh trận cuối cùng hơn là chở mấy nhà
thơ tạp chí Văn nghệ quân đội vào để bổ sung cho Văn
nghệ quân giải phóng. Ban đêm tôi nghe đài BBC mô tả
chi tiết từng cánh quân hùng mạnh của Binh đoàn 2 tiến
theo đường 1, ban ngày theo các đồng chí cán bộ thông
tin của thành phố liên tiếp tô đỏ những tỉnh vừa
được giải phóng. Sáng nào chúng tôi cũng kéo đến chất
vấn đồng chí phụ trách đoàn giao liên về chuyện chưa
bố trí được xe để chúng tôi theo kịp chiến dịch.
Tôi hỏi anh Thệ:
- Các anh tiến quân như vậy
không có sự kháng cự nào đáng kể của đối phương à?
- Không phải thế - đại tá lắc đầu - Đành rằng
ta tiến nhanh tiến mạnh, nhưng bọn chúng cũng không dễ
dàng gì đầu hàng đâu. Chúng ta còn phải đổ máu ngay
trước cửa Dinh Độc Lập. Tôi nói tuần tự để anh
biết. Ngày 25 - 26 chúng tôi đi trinh sát và bọn địch đã
phát hiện ra ta, chúng liền gọi máy bay ném bom và pháo
tập kích. Ngày 26, E9 đánh căn cứ Nước Trong, không giải
phóng được, bị thiệt hại đáng kể. Ngày 27, trung đoàn
chúng tôi kết hợp với E9 mới giải phóng được Nước
Trong rồi tiến về Long Thành. Lúc này binh đoàn mới
quyết định thành lập mũi thọc sâu để khoan vào Sài
Gòn gồm trung đoàn chúng tôi, lữ đoàn thiếu 203, một
tiểu đoàn pháo, một tiểu đoàn cao xạ và lực lượng
công binh, đặc công... Chúng tôi được lệnh đánh để
vào Sài Gòn, cho phép bỏ qua những lực lượng địch
chống cự hai bên đường. Năm mục tiêu của mũi thọc
sâu này là Dinh Độc Lập, Đài phát thanh, Bộ tư lệnh
Hải quân, Tổng nha Cảnh sát và Ngân hàng Đông Á.
-
Địa hình thành phố Sài Gòn "các bác" đã được
học kỹ từ trước à? Thần đồng thơ hỏi.
- Không,
không - Đại tá cười rồi giải thích – Chúng tôi chỉ
có tấm bản đồ hành chính Sài Gòn do anh Đinh Quang Thành
ở Thông tấn xã tặng sau khi anh lấy được ở Đà lạt.
Thời gian chúng ta không nhiều, tôi bỏ qua một số trận
dọc đường để kể hai anh nghe từ trận đánh cầu Sài
Gòn. Đi đầu mũi tiến công của ta là xe tăng, hai bên xe
tăng buộc nhiều cây cao su, bao gạo cho bộ binh cầm AK,
B40, B42... sẵn sàng nhả đạn. Chúng tôi đến cầu
Sài Gòn lúc bảy giờ sáng. Địch dùng ụ cát, thùng phi
xây dựng các vị trí phòng . thủ. Hỏa lực của chúng
từ lô cốt, xe tăng và pháo từ những chiếc tàu trên
sông bắn vào đội hình của ta. Mũi tiến công của ta bị
dừng lại. Có xe tăng bị sa lầy, tiểu đoàn trưởng Ngô
Xuân Nhỡ hy sinh ngay khi đang chỉ huy xe tăng của mình.
Chúng tôi được lệnh dùng pháo bắn thẳng vào lô cốt
và xe tăng địch. Một chiếc xe tăng M.41 của địch cháy
ngay giữa cầu, đạn trong xe nổ ầm ầm, lửa bốc lên
chế ngự mặt đường. Lợi dụng có cơn gió thổi bạt
ngọn lửa về một phía, và biết đạn trong xe đã nổ
hết, xe tăng và bộ binh của ta lần lượt qua cầu. Đến
ngã tư Hàng Sanh, đoàn đang lúng túng thì thấy những
người dân hé cửa nhìn quân giải phóng và chỉ cho lối
rẽ vào cầu Thị Nghè. Một ông già vác lá cờ Giải
phóng từ Thảo Cầm viên chạy ra, tự nguyện leo lên xe
dẫn đoàn tiến về dinh Độc Lập. Lúc này bọn lính dù
còn cố thủ ở đây bắn tỉa vào đội hình của ta.
Chiến sĩ Nguyễn Huy Hoàng trúng đạn ngã từ trên xe tăng
xuống hy sinh ngay trước cửa dinh Độc Lập. Sau ba chiếc
xe tăng của ta húc cổng vào trong dinh thì xe Jeep của tôi
vào, tập trung lính dù ngồi lại một góc. Ngay sau đó
thì quân ta và các nhà báo ùa vào rất đông...
Khi vào đến dinh Độc Lập, ai cũng muốn cắm cờ
để chứng tỏ rằng mình đã đến cái đích cần đến
nên dọc lan can anh em ta cắm rất nhiều cờ. Một người
to béo bệ vệ thấy tôi vào thì đứng nghiêm nói: "Báo
cáo cấp chỉ huy, tôi là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh
...Tổng thống Dương Văn Minh đang có mặt trong phòng, đợi
các ông vào để bàn giao...". Lúc đó chúng tôi không
ai mang quân hàm, nhưng có lẽ ông Hạnh thấy tôi cầm
súng ngắn nên nghĩ tôi là cấp chỉ huy. Tôi vào, Dương
Văn Minh đứng dậy đưa tay ra để bắt tay nhưng tôi từ
chối. Tôi bảo: "Các ông phải đầu hàng vô điều
kiện và sang Đài phát thanh để kêu gọi binh lính hạ vũ
khí". Dương Văn Mình xin được làm thủ tục đầu
hàng ngay tại dinh Độc Lập vì sợ trên đường đi sang
Đài phát thanh không được an toàn. Tôi dùng chiếc xe
Jeep của mình để đưa Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu sang
Đài phát thanh, tôi và ông Minh ngồi cùng ghế, ông ta
ngồi phía trong, tôi ngồi ngoài. Lúc đó nhân viên đài
phát thanh nghỉ hết, có người phải đi gọi. Tôi viết
lời đầu hàng để ông Minh đọc nhưng do tôi viết tháu
quá, ông Minh không đọc được, ông đề nghị tôi đọc
để ông ấy chép. Tôi đọc ông ghi đến câu: "Tôi,
Dương Văn Minh, đại tướng, tổng thống chính phủ Việt
Nam cộng hòa... " thì ông dừng bút bảo: "Thưa
ông, chỉ đề là đại tướng thôi, chứ tổng thống thì
tôi chỉ mới nhận vài ngày... Tôi bảo: Dù một giờ
cũng là tổng thống... ".
Tôi hỏi đại tá
Thệ:
- Hồi tháng 5 năm 1975, khi vừa mới giải phóng
Sài Gòn tôi có về công tác tại Lữ đoàn xe tăng 203 của
Quân đoàn ta và có làm việc với trung tá chính ủy lữ
đoàn Bùi Tùng. Anh Tùng có kể chuyện bắt Dương Văn
Minh đầu hàng và báo chí của ta cũng in lại chuyện này.
Anh nghĩ như thế nào về điều đó?
Đại tá Thệ
giải thích:
- Về chuyện này, có nhiều tình tiết tôi
và anh Bùi Tùng chưa thống nhất với nhau. Còn điều tôi
kể với anh là kể những gì tôi đã chứng kiến vào
buổi trưa lịch sử đó. Khi Dương Văn Minh chép xong lời
tôi đọc thì tôi thấy một người đứng tuổi, to cao,
da ngăm đen hỏi tôi :
- Anh là ai?
Tôi liền giới
thiệu họ, tên, chức vụ, cấp bậc của mình. Người ấy
nói: .
- Tôi là Bùi Tùng, trung tá, chính ủy lữ đoàn
203.
Lúc ấy tôi chỉ là đại úy, nên phần tiếp
nhận lời đầu hàng của Dương Văn Minh thì do anh Tùng
thảo và đọc trước đài...
Sau khi làm xong thủ
tục đầu hàng ở Đài phát thanh, tôi lại đưa Dương
Văn Minh và Vũ Văn Mẫu trả lại dinh Độc Lập. Có người
còn dọa bỏ tù tôi vì tội tự tiện mang ông Minh đi đâu
mà không xin phép. Tôi thì nghĩ đơn giản: Ông Minh tuyên
bố đầu hàng sớm phút nào thì máu người Việt Nam
ngừng đổ sớm phút ấy.Chỉ tiếc là mảnh giấy tôi
viết và mảnh giấy ông Minh chép lại, bỏ trong túi áo
tôi đã giặt mất ngày đi tiễu phỉ ở Tây Nguyên. Hơn
nữa, mình đâu có ý thức bảo tồn,bảo tàng và không
ngờ về sau lại có chuyện phức tạp quanh vấn đề này!
Nhân dân Thái Bình vẫn tự
hào về bốn người con của quê hương cùng thuộc lực
lượng vũ trang, cùng lập được những chiến công như
đánh dấu cái mốc của những giai đoạn lịch sử. Bốn
người đó đã có dịp đứng kề nhau trong một tấm ảnh
đó là Nguyễn Thị Chiên, Tạ Quốc Luật, Phạm Tuân và
Bùi Quang Thận. Người anh hùng lực lượng vũ trang
đợt đầu tiên,người bắt sống tướng Đờ Cát ở
Điện Biên Phủ, nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Việt
Nam và người cắm cờ trên nóc dinh Độc Lập trưa 30
tháng 4 năm 1975. Một trong bốn người đó, anh Bùi Quang
Thận, hiện là thượng tá trưởng phòng Tăng - Thiết
giáp của Binh đoàn 2. Đầu tháng 5 năm 1975, tôi tìm đến
Lữ đoàn 203 để gặp anh ở Long Bình nhưng không lần
nào gặp được vì hết nhà báo này lại đến đoàn làm
phim nọ liên tục kéo anh vào dinh Độc Lập để nghe anh
tường thuật, ghi tiếng, ghi hình. Anh em ở đơn vị còn
bảo tôi rằng, anh Thận mấy lần đi xe Jeep về Sài Gòn
bị các loại xe khác va quệt, thế là có lần anh dùng xe
M113 chiến lợi phẩm để vào thành phố. Mặc dù đã
trông thấy ảnh anh in trên sách báo nhiều lần, thế
nhưng khi ngồi đối diện với anh, tôi không khỏi ngỡ
ngàng. Đó không chỉ là cảm tưởng của tôi và Khoa mà
hầu hết những người đã nghe chiến công của anh, khi
gặp anh đều có sự ngỡ ngàng như thế. Ở anh Thận, ta
không thể tìm thấy nét gì đặc biệt ngoài sự biến dị
có pha chút quê mùa từ mái tóc khuôn mặt đến cử chỉ
và đặc biệt là giọng nói. Nhắc tên tôi, anh nhận ra
ngay vì anh biết năm 1975 tôi đã mấy lần đến tìm anh ở
đơn vị. Không vì thế mà anh vồn vã, vồ vập. Ở kiểu
người như anh, yêu quý ai thì chỉ giấu trong lòng, nhưng
nếu có điều gì không bằng lòng với người khác, kể
cả cấp trên mình, thì hay nói thẳng. Nói chuyện với
anh chúng tôi phải hỏi liên tục, vì với một câu hỏi,
người khác có thể kể một chuyện dài, nhưng anh chỉ
nói một vài câu, khi nhắc lại một chuyện gì cảm động
anh thường lặng đi, mắt nhìn xuống mặt bàn. Đó là
khi anh nói đến sự hy sinh của Ngô Xuân Nhỡ, tiểu đoàn
trưởng tiểu đoàn một. Anh và Nhỡ vốn ở hai tiểu
đoàn khác nhau nhưng cùng chung một mũi tiến công, 7 giờ
sáng ngày 30 tháng 4 đã đến cầu Sài Gòn. Nhỡ đứng
nhô nửa thân ra khỏi cửa xe tăng chỉ huy xe của mình và
các xe khác trong đơn vị bắn vào những ổ hỏa lực của
giặc thì bị một viên đạn AR.15 bắn đúng vào giữa
trán. Nhỡ hy sinh, gục đầu lên thành xe, chân vẫn đứng
nguyên vị trí nên đồng đội ngồi trong tăng không
hềbiết anh hy sinh, mà cứ theo mệnh lệnh của anh phát
ra trước đó. Hạ hết mục tiêu này đến mục tiêu
khác, một lúc sau không nghe anh ra lệnh tiếp hoặc nói
một câu nào mới phát hiện ra anh đã hy sinh trong thế
đứng chỉ huy của mình. Điều cảm động là nhiều đồng
đội không cầm được nước mắt, sau ngày đất nước
giải phóng, vợ anh mới viết thư vào cho anh, khoe rằng
chị đã sinh một đứa con trai thật giống anh! Đứa con
đó không phải do kết quả một lần anh về phép mà do
chị lặn lội từ quê hương Hiệp Hòa, Hà Bắc vào thăm
anh tận nới đóng quân của anh ở Quảng Trị vào mùa hè
năm 1974, vào dịp thành lập Binh đoàn 2. Chị biết đâu
đứa con trai chẳng bao giờ được thấy mặt bố và khi
lá thư của chị tới đơn vị thì anh đã vĩnh biệt cuộc
đời. Nhớ thương anh, chị nguyện nuôi con khôn lớn và
cho nó đi theo con đường của anh. Năm ngoái chính chị đã
đưa con lên đơn vị cũ, Lữ đoàn 203 và xin cho con được
nhập ngũ làm lính xe tăng... Trần Đăng Khoa rất muốn
gặp người lính trẻ, chắc Khoa dự định làm một bài
thơ, nhưng vì thời gian quá ít, quãng đường lại xa nên
đành chịu, trí tưởng tượng của nhà thơ gánh lấy
phần thiếu hụt của tai nghe, mắt thấy. Anh Thận và hai
chúng tôi lặng đi một lúc lâu rối trí óc lại quay về
quãng đường từ cầu Sài Gòn đến dinh Độc Lập. Tôi
nhớ chuyện đại tá Phạm Xuân Thệ kể, chiếc xe Jeep
của anh Thệ vào dinh Độc Lập sau ba chiếc xe tăng, nghĩa
là khi anh Thệ đến nơi thì đã thấy ba chiếc xe tăng
trong sân dinh Độc Lập, chứ không thể biết được
những chiếc xe đó đến từ khi nào. Và anh Thận cho biết
ba chiếc đó vào dinh thời gian cách nhau khá xa. Tôi hỏi:
-
Khi qua cầu Sài Gòn, xe của anh dẫn đầu đoàn nên vào
dinh được sớm nhất phải không?
Anh Thận lắc đầu:
-
Đến ngã tư Hàng Sanh, xe của tôi vẫn còn đi thứ ba sau
hai chiếc xe của tiểu đoàn một. Lại phải đánh nhau
với bốn chiếc M113 của địch, rồi chiếc đi đầu cứ
thế đi thẳng, chiếc thứ hai rẽ theo đường vào cầu
Thị Nghè, tôi quyết định cho xe mình đi theo chiếc thứ
hai. Chiếc xe đi trước xe tôi bị địch bắn cháy ngay ở
cầu Thị Nghè, chúng tôi tiêu diệt hai chiếc M.41 vượt
qua cầu rồi tìm đường về dinh Độc Lập. Hỏi dân, họ
bảo, cứ qua bảy ngã tư, rẽ trái là đến...
- Anh nghĩ như thế nào khi cho
húc đổ cổng sắt?
- Nói thật với hai anh, khi trông
thấy dinh Độc Lập đứng sừng sững, tôi muốn ra lệnh
bắn một phát đạn vào chính diện cho hả giận, vừa
trả thù cho đồng đội mới hy sinh vừa uy hiếp bọn
lính dù lúc đó còn lẻ tẻ bắn tỉa. Rủi thay và may
thay, rủi là với ý nghĩ thời điểm đó, xe tăng tôi
không còn viên đạn nào nữa? Tôi và Khoa nhìn nhau. Hú
vía, nếu những viên đạn xe tăng bắn thẳng vào dinh,
khi mà ông Dương Văn Minh và nội các còn ở trong đó thì
tình hình diễn ra có lẽ phức tạp hơn nhiều. Phải tặng
thưởng huân chương cho người nào quyết định cơ số
đạn mang theo ngày hôm đó!
- Thế là anh húc đổ cổng
để thị uy, xích xe thay thế những phát đạn. Ai giao cho
anh nhiệm vụ cắm cờ?
- Nhiệm vụ cắm cờ quân đoàn
giao cho đại đội 3 của tiểu đoàn một, vốn là đại
đội anh hùng, nhưng lúc này xe họ chưa vào dinh. Phải
làm cái gì đó để chứng tỏ mình chiếm được dinh Độc
Lập rồi chứ? Khi xe tăng dừng lại, tôi nghĩ ngay chuyện
cắm cờ và lấy luôn cái cờ giải phóng, cỡ mét hai
nhân tám mươi phân vốn buộc trên cần ăng-ten của xe,
chạy vào dinh...
Rồi anh kể về sự lúng túng của
mình khi tìm đường lên nóc dinh. Anh đang phân vân không
biết đi lối nào thì gặp một người to béo, hình như
là ông Nguyễn Hữu Hạnh, chuẩn tướng ngụy quân Sài
Gòn, dẫn anh tới thang máy. Cũng như hầu hết cán bộ và
chiến sĩ ta, lúc đó anh chưa biết thang máy là gì nên
khi thấy người đàn ông kia ấn nút cho thang mở và mời
anh vào thì anh cảnh giác lui lại, bảo ông ta vào trước
đi. Khi hai người đứng trong thang, ông kia định đưa tay
ấn nút cho thang chạy thì anh nghĩ đó là một hành động
ám muội nên dùng bàn tay mình chộp lấy mu bàn tay múp
míp kia, làm cho ông ta phải dừng lại và giải thích.
Cờ
ngụy khác xa cờ ta và cách buộc cờ của họ cũng khác.
Khi kéo lá cờ ba que trên cột cờ xuống, định gỡ nó
ra, anh đã chú ý điều đó. Họ không luồn dây vào cờ
như ta quen làm mà dùng nhiều đoạn dây thép ngắn buộc
chặt vào dây, làm cho công việc tháo gỡ mất rất nhiều
thời giờ, khi thời gian phải tính bằng giây, bằng phút.
Tháo được hai nút dây thép, nhìn số nút còn lại khá
nhiều, anh ghé răng vào cắn rồi xé lá cờ đó rách dọc
theo mép dây, treo lá cờ Giải phóng lên, sau khi ghi tên
mình và thời điểm 11 giờ 30 phút. Lá cờ ngụy anh vất
trên sân thượng, đi một đoạn, không hiểu sao, anh quay
lại nhặt, gấp lại cắp vào nách thanh thản đi
xuống.
Vâng, chuyện cắm cờ của anh lịch sử đã ghi
nhận và vinh quang đó không chỉ của mình anh mà của Lữ
đoàn 203, của Binh đoàn Hương Giang. Bắt tổng thống
ngụy quyền Dương Văn Minh đầu hàng và tiếp nhận sự
đầu hàng của ông ta ở Đài phát thanh cũng là chiến
công của Binh đoàn 2. Cuộc hội thảo khoa học do binh
đoàn tổ chức năm 1990 đã kết luận:
Phạm Xuân Thệ
là người bắt Dương Văn Minh ở Dinh tổng thống, đưa
sang Đài phát thanh còn trung tá Bùi Tùng là người đã
đại diện cho Quân giải phóng, chấp nhận sự đầu hàng
đó.
Trời sắp tối, chúng tôi phải chia tay Bùi
Quang Thận. Khi lên xe trở về Hà Nội, Khoa nói với tôi:
Rất tiếc là ta chưa biết gì về đời tư anh Thận.
Vâng, tiếc thật, bạn đọc muốn biết rất nhiều thứ
xung quanh chiến công những người anh hùng. Hẹn dịp sau
ta lại lên thăm binh đoàn, trò chuyện với các anh lâu
hơnvà thế nào cũng tìm đến Lữ đoàn 203, nghe họ kể
chuyện mà sống lại những ngày tháng Tư lịch sử, mà
gặp mặt với người lính trẻ tại đơn vị của người
cha đã hy sinh ở cửa ngõ Sài Gòn. Và để cho chuyến đi
có thêm nhiều ý nghĩa, ta sẽ thăm quân đoàn vào tháng
Tư hàng năm như lần này ta đã ghé thăm...
V.T
LÊ LỰU
NĂM THÁNG VÀ ĐỒNG
ĐỘI
Ghi chép
Chúng tôi ngồi nhũng
nhẵng trong chiếc "oát" nhảy chồm chồm
trên những đoạn đường bụi mịt mù đùn ra từ những
xe chở đạn, xe kéo pháo, xe chỉ huy chạy phía trước để
"tiến vào trận địa". Tóc, mi mắt trắng bụi.
Mồm sàn sạn cát và người đau như bị đánh. Nhưng mà
vui. Cuộc diễn tập thực binh có bắn đạn thật của Sư
đoàn B25 xốn xang gợi lại không khí trận mạc. Nôn nao
nhớ những đêm Trường Sơn, xe đi trong dòng sông bụi
"tăng cung vượt chuyến", nhớ những đoàn quân
"thần tốc", "táo bạo" ùn ùn pháo xe để
đi "tổng tiến công" trên đường quốc lộ 1.
Rồi những chuyến đi Mèo Vạc, Đồng Văn, Thanh Thủy, Vị
Xuyên, Lạng Sơn và Tiên Yên, Ba Chẽ... đã có bao nhiêu
là kỷ niệm, vô vàn là những gian nan từng nếm trải
cùng đồng đội. Vậy mà cộng cả cái đã làm được
và cả cái phần quá khứ thêm thắt cho mình cũng không
đủ sức leo lên chỗ lấp lóa hai nhà bạt trên đỉnh
đồi lởm chởm cây và đất sỏi. Nắng cuối đông hanh
khô đổ xuống thung lũng màu vàng như lửa cháy từ các
ruộng tua tủa gốc rạ đến chân các điểm cao 134 và
283.
"Hay là ta quay lại sở chỉ huy đoàn đã".
Anh Thư - thiếu tá, trợ lý của binh đoàn đi cùng như
đọc được ý nghĩ của chúng tôi, anh nói ngập ngừng
rồi quả quyết: "Sắp đến giờ ăn trưa, mà các
"cụ" lại có tuổi. Thôi, mời các "cụ"
lên xe".
Cái mệnh lệnh ấy thật mát rượi,
nhưng cũng hơi xấu hổ và chột dạ vì cái sự nhàu nhĩ
trên khuôn mặt mình quả đã già cũ lắm rồi sao! Mười
năm trước, chúng tôi leo lên cao điểm 500 ở Lạng Sơn
cũng vào cái giờ sắp ăn cơm trưa và nắng cuối mùa khô
gắt như thế này mà vẫn thản nhiên, vẫn nói cười hăm
hở. Bây giờ, đã trên dưới năm mươi (tất nhiên nhà
thơ Anh Ngọc còn trẻ hơn tôi rất nhiều), đã đuối sức
quá so với các anh đoàn trưởng Trần Đại Loạn, tham
mưu trưởng Thiều Chí Đình, chủ nhiệm chính trị Phạm
Quang Tách. Các anh ấy có người chỉ kém bọn tôi bốn
năm tuổi vẫn leo lên, leo xuống các điểm cao vài ba lần
một ngày. Cứ thản nhiên như đi dạo. Thèm quá. Cách
nhau bốn năm tuổi đã là một khoảng cách. Một khoảng
cách không rõ ràng nên cứ lầm tưởng mình còn trẻ
trung lắm, cứ hí hửng mình còn dư thừa sức lực còn
làm được nhiều việc lắm. Ai ngờ? Vài tháng trước
tôi phạm luật đi đường qua ngã tư đèn đỏ. Anh công
an rất trẻ huýt còi, nghiêm mặt, phảy tay ra hiệu cho xe
tôi dẹp vào lề đường. Một tay giơ lên chào, tay kia
nhanh chóng rút chìa khóa điện, anh yêu cầu tôi xuất
trình giấy tờ. Xem xong, khuôn mặt anh dịu đi đột ngột,
miệng tủm tỉm cười.
- À, à... Bố thì con có biết.
Thế năm nay bố sáu mấy nhát rồi?
Chắc là anh ta
nhầm. Tôi nghĩ và mủm mỉm cười:
- Sáu bảy nhát.
Chỉ
vào bà vợ tôi đã vào "trạc ngoại tứ tuần",
giọng anh thân tình sởi lởi.
- Bố nhá. Bố sáu bảy
nhát, là bố có chết cũng là được rồi. Nhưng bố còn
phải lo cho con gái bố ngồi ở đằng sau nữa chứ. Thế
bố không nghĩ đến "tương lai con em chúng ta" à?
Con đề nghị bố, một là, bố phắn con honđa này đổi
con city. Hai là, bố để con gái bố lai bố. Bố rõ
chưa.
- Rõ.
Một thoáng buồn lúc ấy thoảng
qua.
Một thoáng đứng ở bờ ruộng nhìn con đường
cheo chênh vênh lên đến chót vót điểm cao lúc này lại
thấy nỗi bất lực mênh mông hiện ra rõ ràng trước mặt
mình. Ngỡ chuyện bỡn cợt chỗ ngã ba, ngã tư xô bồ ầm
ĩ là nhầm lẫn, đến đây, hóa ra nó là "các cụ có
tuổi" thật.
Đêm. Thung lũng như dâng lên
trong sương mù. Không trông thấy gì. Chỉ nghe thấy tiếng
lép bép của những cọng rạ đổ rập dưới bước chân
người. Bộ đội đã vào vị trí chiến đấu. Sau ba ngày
"vào tình huống", họ giấu quân ở bãi Chua đến
mười tám giờ hôm qua được lệnh bôn tập vào vị trí
chiến đấu ở thung lũng này. Hai mươi ba giờ đêm, hầu
hết các đơn vị đã vượt qua chặng đường đồi và
dốc, suối và sông dài trên hai mươi kilômét đến địa
điểm quy định. Đến sáng nay, lúc chưa rõ mặt người
họ đã đào xong hào giao thông, hố cá nhân và ngụy
trang. Buổi trưa, khi chúng tôi đến "nhà khách"
là chiếc lán bạt thì cả thung lũng ắng lặng, chỉ nghe
tiếng xe trâu kĩu kịt chở lúa. Chốc chốc có tiếng ì
ì xa xa rồi vang lên ầm ầm của xe kéo pháo, xe tải đạn
kín lá ngụy trang chạy trong bụi cuốn tung mù mịt. Những
đám bụi tản ra dần và tan đi theo gió, lại nhìn rõ
những nhuốm khói bay lên từ những mái nhà tranh
thấp tè thưng tường đất xung quanh. Tiếng roi tre quất
đen đét vào những con trâu đang quần rơm ở giữa sân
của những người vợ trẻ xen với tiếng pháo "địch"
bắn cầm canh nghe ập ình xa xăm. Tiếng trẻ con khóc ré
lên và tiếng những người cha quát dọa con giữa sự im
lặng nghiêm trang của trung đoàn đang giấu mình dưới
các thửa ruộng tua tủa gốc rạ, bên một sườn đồi
hay giữa điểm cao! Giữa tiếng "vắt vắt . . . lắt
tắt, này này diệt này, hò họ" vớinhững tiếng
súng các loại từ AK, AR15 đến B40, 41, ĐK và các đại
bác tầm gần tầm xa sẽ gầm rú vào sáng ngày mai... Tất
cả vẫn rất là hồn nhiên, như là nửa vời như là cẩu
thả không nghiêm ngặt giữa các tình huống rất nghiêm
ngặt.
Từ đêm qua bộ đội đã bí mật chiếm lĩnh
trận địa. Nấu không có khói, nói không có tiếng và
giấu mình hết sức kín đáo để kẻ "địch" ở
điểm cao cách họ chưa đầy một cây số đường chim
bay không thể phát hiện nổi. Vậy mà lúc nhập nhoạng
tối lại có bà cụ cầm đèn đi qua rào sang trận địa
pháo "xin chú bộ đội tí lửa vào đèn". Và tham
mưu trưởng hỏi đội trưởng bảo vệ qua máy điện
thoại như sau:
- Trong khu vực trường bắn sáng mai nhân
dân đã sơ tán hết chưa?
- Báo cáo, bà con bảo: chết
đói mới sợ. Không sợ đạn lạc. Bộ đội họ bắn
trúng lắm.
- Tôi nhắc lại: đây là mệnh lệnh chiến
đấu. Phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho dân, anh
hiểu không?
- Báo cáo tham mưu trưởng, chúng tôi cũng
đã giải thích và các đồng chí ở địa phương cũng
rất kiên quyết nhưng đồng bào cứ thản nhiên bảo, bộ
đội tập đấy không có "địch" đâu. Lúc nào
có thằng địch thật đồng bào cũng phải đánh nó, ai
để bộ đội đánh một mình.
- Nhưng chúng ta sẽ bắn
đạn thật, không để bất cứ ai trong khu vực đạn
rơi.
- Bà con bảo: bắn vào giờ nào bộ đội cứ nói
trước để bà con thu dọn. Lúc nào bắn, đi trước một
lúc thôi, đi lâu mất việc, không ai cho trâu, cho lợn ăn,
nó đói.
Đang trong tình huống bí mật bất ngờ,
lại đi thông báo trước giờ nổ súng! Tham mưu trưởng
buông máy, trút ra một hơi thở, hai cánh môi hơi nhếch
lên như có một chút chán chường trước một tình huống
như là đùa bỡn. Thật là vô lý. Tưởng anh sẽ nói thế.
Nhưng anh lại bảo chúng tôi:
- Bà con cũng có cái lý
của họ. Sơ tán từ đêm nay người ta ngủ ở đâu. Còn
trẻ con, ông già, bà già rồi đồ đạc lợn gà trâu bò
ai trông nom chăm bẵm. Với những ý nghĩ ấy chắc rằng
tham mưu trưởng của đoàn sẽ phải có phương án cho sớm
ngày mai vừa bảo đảm tình huống cho các đơn vị, vừa
giữ được an toàn tuyệt đối cho dân chỗ pháo rơi, đạn
nổ.
Giữa một cuộc sống bình yên đến lặng tẻ
của dân với sự luyện rèn cho một cuộc chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc quyết liệt có thể sẽ xảy ra chen lẫn
vào nhau, chồng chéo lên nhau tưởng như có cái gì đấy
không khoa học, không nghiêm túc, như một khuyết tật,
không thể nào đưa một đội quân tiến lên hùng mạnh.
Những kẻ thù xa và gần, lâu dài và trước mắt
trong tay nắm những phương tiện hoàn hảo nhất thế
gian, gian ngoan và mưu mẹo thâm hiểm nhất thế gian có
rất nhiều mánh khóe dò la biết rõ những khuyết tật
của ta, biết tỉ mẩn có khi chúng ta là người trong cuộc
không biết hết. Vậy mà sau cuộc chiến tranh Việt Nam đã
gần hai mươi năm có hàng nghìn tổ chức và cá nhân với
những bộ óc lý tưởng nhất vẫn chưa lý giải được
câu hoi: vì sao nước Mỹ chỉ biết ngửa mặt lên giời
lại bị thua trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Việt
Nam, dân tộc chỉ biết yêu thương bạn bè. Chỉ khát
khao được yên hàn. Nhất quyết phải có những tình yêu
nồng nàn, đem đến sự tôn trọng và bình đẳng thật
sự chân thành mới khám phá nổi cái tiềm ẩn sâu xa và
biến hóa đến khôn lường.
Nếu không như thế, dù
có dò la, rình rập biết tất cả, tưởng tất cả là
thế, nhưng khi vào cuộc, tất cả lại không phải thế.
Tất cả đều bất ngờ, luôn luôn bất ngờ đến bàng
hoàng trước mọi điều tưởng đã nằm sẵn trong lòng
bàn tay. Thậm chí, có lúc có nơi, có một người hoặc
nhiều người nhẹ dạ cả tin và mềm yếu đến mức "nỏ
thần vô ý trao tay giặc”, thì cũng không phải vì thế
mà những kẻ gian ngoan lừa lọc, kẻ đầy sức mạnh
"lấy thịt đè người" có thể quên được bài
học khi họ đóng vai tên xâm lược đến dân tộc
này.
Những bước chân bộ đội di chuyển vị trí
và cái ấm nồng nàn còn hăng hăng tỏa ra từ những gốc
rạ dưới lớp chiếu trải ở ruộng lúa mới gặt khiến
tôi trằn trọc không ngủ được. Buổi chiều đã hẹn
với đại đội 14 pháo 120 ly là đêm nay sẽ đến hàn
huyên với họ, mà trời tối lắm lắm. Định nhờ Hà,
chiến sĩ vệ binh phục vụ "nhà khách" mượn hộ
đèn pin nhưng Hà vừa đặt mình xuống đã ngáy đều đều
nghe rất ngọt, rất say trên chiếc chiếu không lót ni
lông, gốc rạ lởm chởm quanh người. Từ lúc mười giờ
rưỡi đến giờ, tôi thấy chưa có một phút nào Hà được
ngơi tay. Một mình cắt rạ, cắm lều bạt, bê chăn chiếu
đồ dùng cho mươi người khách. Rồi lội qua suối, đi
tắt cánh đồng hàng cây số bê cơm, gánh nước, lấy
nước sôi pha trà, rửa dọn... rồi lại phải theo "tình
huống" mới di chuyển "nhà khách" đến chỗ
khác xa hơn. Lại cắt rạ. Lại đi gánh nước, lấy cơm,
làm liên lạc giữa khách và sở chỉ huy, mời người đến
làm việc, dẫn khách đi đơn vị. Hơn mười giờ đêm,
qua ánh sáng của ngọn đèn dầu tôi nhìn thấy Hà lách
miếng vải bạt bước vào. Định đợi cậu thay quần áo
rồi nhờ một vài việc. Ngẩng đầu, đã nhìn thấy
chiếc chăn mỏng quấn quanh người, màn cá nhân vo tròn
đắp lên mặt. Và, tôi lại phải nằm im nghĩ cách định
hướng để lần mò đến đại đội 14.
Sẽ vô cùng ân hận nếu tôi
không đến đại đội. Uyên đại đội trưởng cao gầy,
đại đội phó chính trị tên là Nhân lởm chởm râu trên
khuôn mặt cháy hốc hác. Hai trung đội trưởng Trung và
Xô còn rất trẻ trông bẽn lẽn như con gái. Cả bốn
người đều ngồi trong lán chạm đầu vào tấm ni lông
căng ở trên được ngụy trang bằng cành cây và phía
dưới cũng là lành cây xếp xuống làm giường. Họ chờ
tôi quanh khay nước chè đặc như nước đậu đen, một
chiếu điếu cày, và bao thuốc Du lịch.
- Cháu vừa đi
kiểm tra các phần tử bắn về, thấy anh em bảo các chú
đến. Cháu tiếc ngẩn cả người. Nhưng thấy bảo đến
tối chú quay lại, mừng quá chú ơi Thôi thì.... Đại đội
trưởng Uyên vừa nói vừa lặng lẽ đưa tay ra phía sau
rờ rờ bi đông rượu: Báo cáo với ông chú là chúng
cháu không nghiện. Nhưng lúc vui quá dứt khoát phải có
một vài chén. Thôi thì...
- Thôi thì... mình không uống
được.
- Ấy ấy ông chú chơi chữ cháu rồi. Thôi
thì... ông chú chiếu cố đến anh em chúng cháu.
- Một
chút gọi là để chúc mừng ngày mai.
- Báo cáo ông
chú cứ ở đây xem. Bảo đảm ngày mai chúng cháu bắn
đẹp.
- Các cậu đã bắn ở địa hình này chưa.
-
Dạ, đây mới là lần đầu.
- Sự quả quyết của đại
đội trưởng có...
- Có căn cứ là chúng cháu đã tập
trong mọi địa hình, mọi thời tiết và tất cả những
tình huống phức tạp. Điều quan trọng là anh em chỉ huy
chúng cháu đã uốn nắn rèn luyện cho từng người, biết
rất rõ sự tiến bộ các mặt của anh em chiến sĩ. Nào
thôi. Cạn hết chén rồi chú kể chuyện với anh em chúng
cháu.
- Để anh em nghỉ lấy sức.
- Báo cáo nhà
báo. Chúng em thức trắng cả tuần lễ nay. Đêm hành
quân. Ngày đào công sự, hào giao thông. Nhân nói. Đêm
nay chờ đợi giờ nổ súng chúng em chộn rộn quá. Em vừa
đi xem lại các khẩu hiệu ở công sự và trên mũ các
chiến sĩ nhắc anh em tranh thủ ngủ mà bản thân cứ thấy
háo hức như thể chờ đón giao thừa.
- Còn cháu lại
thấy như cái đêm chờ ngày mai mình cưới vợ ấy chú
ạ.
- Đại đội trưởng thổn thức cái đêm chờ
cưới ấy đã lâu chưa?
- Mới đầu năm nay thôi chú.
Nhưng có kết quả ngay. Cháu được nghỉ phép mười lăm
ngày. Tổ chức xong, còn lại có mười một ngày. Cháu
hỏi: "Em có thích có con ngay hay để thư thư?".
"Tùy anh", "Nếu có con ngay em có thích không?",
"Anh thế nào thì em thế". Nói vậy nhưng cháu
biết là nàng rất muốn có đứa con cho chắc ăn. Cháu
lại hỏi: "Nếu hết phép, chưa ăn thua gì, có lên
chỗ anh không?", "Có, nhưng em sợ...", "Sợ
quái gì. Lính bọn anh cứ là thoải mái. Chỗ anh có ông
chủ nhiệm pháo ba mươi sáu tuổi chưa vợ. Bọn anh bảo
nhau: cùng binh nhưng thằng nào có vợ đến thăm cho mượn
vài buổi đưa lên hội trường, mắc micrô cẩn thận để
ông ấy tán thử rồi anh em góp ý bổ sung. Không làm thế
ông ta đến ế mất". "Bộ đội các anh tán như
quỷ em không đi đâu”. "Ừ, không thì thôi".
Đến
hôm trước khi đi, cháu vẫn giả vờ im lặng buộc nàng
phải thốt ra lời trước "Thế anh bảo lên đơn vị
thì định bao giờ?". "Anh định thế, em bảo chả
thích đi nên anh thôi ý định ấy". Liếc nhìn thấy
mặt cháu vẫn tỉnh bơ thế là chú ơi... Bỗng giọng anh
vút lên, anh hát: - "Đôi mắt vốn mơ màng huyền ảo
như khói lam chiều giăng giăng trùng điệp nơi ải biên
cương bỗng hai hàng lệ tuôn rơi làm cho cháu đây thấy
tái tê đau đớn ở trong ờ ờ ờ nòng. . . òng. . . ".
Cái câu cải lương đổ xuống rất mùi nhưng lại ngọng
nên Ơû công sự khẩu đội nào đó cách dăm mười mét
bỗng tóe lên những tiếng cười. Nhưng Uyên vẫn say sưa
tiếp :
- Nó phức tạp quá chú ơi.
- Phức tạp nên
mới phải lên đây hàng tháng để giải quyết tư tưởng
đấy nhà báo ạ.
- Thằng nào đấy? Giờ này vẫn chưa
ngủ?
- Em cứ thổn thức như ngày cưới vợ ấy đại
trưởng ạ.
- Láo. Nhưng mà được. Lên đây tao thưởng
cho điếu Du lịch.
Lập tức có đến ba bốn cậu
lính trẻ măng nhảy từ công sự bẽn lẽn đưa cả hai
tay, mỗi cậu rút một điếu thuốc. Xong, các cậu đều
giống nhau: dắt thuốc vào mang tai, vê điếu thuốc lào
châm lửa bằng miếng giấy báo vụn, hít một hơi rõ
dài, ngửa mặt lên nhưng lại nuốt khói vào trong. Nhưng
khuôn mặt ấy đỏ rân rân, hai mắt lim dim, miệng anh nào
cũng cứ cười cười, rút thuốc từ mang tai châm lửa
hút rồi lặng lẽ quay về công sự. Đại đội trưởng
quát đuổi theo:
- Hút xong, ngủ đi nhé.
- Rõ. Cả
bốn người cùng đáp nghe gọn, có cảm giác đáp xong
miệng anh nào cũng vẫn tủm tỉm cười.
Đã viết văn mươi mười lăm năm nay, nhưng tôi vẫn
không bỏ được thói quen của anh làm báo thời quân khu,
quân đoàn. Lẽ ra phải xin phép đại đội cho mấy anh em
chiến sĩ ngồi lại chuyện trò tâm tình với tôi và cứ
để cho Uyên tán thả sức, may ra mới ghi nhận được tí
chút gì đó về tâm trạng, tính nết và cái không khí
đầy sức sống của người lính trong lần diễn tập
này. Nhưng tôi lại giở sổ ra yêu cầu: "Chúng ta làm
việc nhé".
- Cháu cứ tưởng từ nãy đến giờ
chú làm việc được ối ra rồi.
- Thôi đừng tán nữa.
Cho mình hỏi: Nhiệm vụ chủ yếu của đơn vị các bạn
là gì?
Uyên đưa mắt nhìn đại đội phó chính
trị. Từ nãy đến giờ Nhân và hai trung đội trưởng
chỉ nghe rồi cười rồi gật đầu phụ họa sự tán
tỉnh của Uyên, bây giờ anh ngồi ngay ngắn và giọng nói
trịnh trọng hẳn:
- Báo cáo nhà báo, nhiệm vụ chủ
yếu của đơn vị hôm nay là giáo dục cho cán bộ chiến
sĩ luôn luôn đề cao cảnh giác vượt qua mọi thử thách
khó khăn rèn luyện trong mọi tình huống phức tạp đoàn
kết hiệp đồng giành thắng lợi trong bất cứ hoàn cảnh
nào và kiên quyết giữ từng tấc đất thiêng liêng của
Tổ quốc, bảo vệ vững chắc...
- Thôi được, anh nói
cụ thể hơn đi. Kể chuyện về những điển hình, cho
tôi những số liệu cụ thể trong các mặt...
Nhân
xin phép lách mình vào phía trong lục ba lô tìm cuốn sổ
mà các trang đã nhàu và hơi phồng lên, hình như anh đã
chuẩn bị từ lâu để báo cáo cung cấp cho các nhà
báo các cán bộ tham quan và kiểm tra nhiều lần rồi. Anh
đọc làu làu, có chỗ phải nhìn vào sổ, có chỗ anh nói
"bộ" nhưng rất chính xác và đầy đủ.
Tôi
cặm cụi ghi chép rất mải miết, rã cả tay. Đến gần
hai giờ sáng cả khách và chủ đều giấu giếm nhau quay
về phía sau lấy tay che miệng ngáp tôi mới ra về. Nằm
trong lán "nhà khách" cứ hí hửng với mười lăm
trang sổ tay ghi nguệch ngoạc vội vã, mẩm bụng sẽ viết
được cái gì đó sau cái chuyến đi "cưỡi ngựa xem
hoa". Nào ngờ... Về nhà đọc lại sổ tay cách đây
đúng ba mươi năm, năm 1963 tôi đến một đơn vị pháo
binh dân quân ở Hải Phòng cũng ghi những điều giống
hệt như hôm nay. Cũng hỏi câu hỏi ấy. Cũng trả lời
những câu trả lời ấy. Cũng nhiệm vụ chủ yếu và
những "điển hình". Cũng thành tích các mặt và
những khó khăn thử thách phải vượt qua.
Đã là
người chiến sĩ, dù dân quân hay bộ đội, ở trong Nam
hay ngoài Bắc thì ai mà không cảnh giác, ra sức tập
luyện để lúc ra trận phải đánh thắng.
Hăm hở
đi. Vội vàng ghi chép. Về đến nhà nhăn nhó trằn
trọc viết cả đêm. Sáng ra thằng con trai đang học
lớp 9 đọc trộm bản thảo của bố rồi: "Con thành
thật góp ý với bố nhớ. Con đã đọc ối bài như bài
của bố viết. Nhưng người ta còn hay hơn. Thôi bố bỏ
đi đừng tiếc bố ạ".
Thế là phải bỏ chứ
biết làm thế nào. Có những điều viết ra chỉ người
lớn mới hiểu, hoặc trẻ con thích, còn người lớn lại
thấy nó tầm thường. Nhưng viết ra, trẻ con đã thấy
nhạt thèo thẽo và giống ở mức thấp kém những cái nó
đã biết thì tiếc làm gì mà không xé.
Đi Binh đoàn
Hương Giang hứa hứa, hẹn hẹn với anh Rinh, anh Sơn, anh
Sự và bao nhiêu người rằng sẽ viết cái nọ, cái kia
mà về nhà hàng tuần lễ, tòa soạn giục năm bảy lần
cũng không xong bài báo dăm bảy trang ở mức trung bình
thấp. Cũng là điều phải nghĩ ngợi lắm.
Cái sức
lực của chúng tôi chỉ thực sự được kiểm tra chính
xác vào sáng ngày hôm sau. Ba giờ sáng bộ đội đã chiếm
lĩnh xong vị trí chiến đấu, chuẩn bị nổ súng. Hà bê
xoong cơm gọi chúng tôi dậy. Hầu như cả Thư, Anh Ngọc
và tôi đều mất ngủ nhưng hoặc phải cố tỏ ra, hoặc
đã tỉnh táo thực sự, chúng tôi và vội bát cơm rồi
vội vàng bước theo Hoàn trợ lý tác chiến leo lên cao
điểm, chỗ hai lều bạt lấp ló trên đỉnh chót vót,
trưa hôm qua chúng tôi phải quay xe lại vì "các cụ
có tuổi". Bây giờ lại hăng hái bước thập thõm
trong mịt mù sương đêm. Con đường từ "nhà khách"
đến chân điểm cao chừng vài kilômét có thể đi ôtô
đến đó rồi chỉ cần leo chừng dăm bảy trăm mét là
tới sở chỉ huy tổng diễn tập. Chúng tôi yêu cầu Hoàn
cố gắng bảo đảm an toàn. Hoàn bảo chúng tôi đi bộ
đi đường vòng. Nó dài ra gấp đôi, và phải qua mấy
con suối, lên xuống bốn ngọn núi đều có độ cao tương
đương với ngọn có hai lều bạt. Là vì đường cấm? -
Hoàn nói thế. Cấm sao xe cấp cứu đi được? Là vì để
"các cụ" đi cho biết địa hình! Chỉ cần đứng
ở một điểm cao nhìn qua ống nhòm là biết tất cả,
biết rất rõ việc gì phải hành nhau thế nào. Nhưng vì
cái "vì" cơ bản là do lúc đầu lò dò theo Hoàn
chúng tôi cứ nghĩ anh trợ lý tác chiến đã dẫn đi chắc
phải là con đường ngắn nhất, vừa an toàn vừa dễ
dàng để anh em đỡ mệt nên hăm hở theo. Chỉ đến khi
cởi cả áo bông, cởi cả áo bludông, mồ hôi vẫn tóa
ra đầm đìa, hơi thở đứt ra gấp gáp như không thể
thở được nữa, ngồi bệt xuống bất cứ chỗ nào để
khỏi ngã vật ra tôi mới tự đặt bao nhiêu câu hỏi ấm
ức ở trong đầu mình. Thư đi theo sau cách Hoàn độ vài
chục mét. Anh Ngọc cách Thư khoảng gấp đôi. Còn tôi,
mỗi lần leo được một đỉnh núi lại ngồi vật ra,
mọi người nén bực bội để kiên trì chờ tôi. Còn tôi
nén bực bội vì cảm giác như bị mắc lừa, như Hoàn đã
đi lạc đường. Biết đâu đấy. Ngày xưa nhà văn Nguyễn
Minh Châu có một dạo làm trợ lý tác chiến của Trung
đoàn 64 cũng đã dẫn sư trưởng đi lạc vào đồn địch
đấy thôi. Có khi ông tướng này cũng nghệ sĩ như thế,
chưa biết chừng. Hay là cái "chất lính" trong tôi
đã thiếu hụt? Hay là đã quá lâu không giáp mặt với
bao nỗi vất vả gian nan. Và sự kiên cường của người
lính trong những năm quyết liệt vừa qua? Hay là, tình cảm
và sự hiểu biết của mình đã có gì hời hợt nhạt
nhòa? Vì những bực bõ ấy, những anh "lính chiến"
muốn nhìn ngắm chân dung anh lính "bàn giấy” xem
tình cảm và trí lực đến đâu, rồi ra anh sẽ nói nàng
viết lách như thế nào, hay là cứ bịa đặt véo von
thánh thót bốc lên như gió bốc bụi cuốn mù mịt qua
đầu chúng tôi.
Cái sức lực của chúng tôi chỉ
thực sự được kiểm tra chính xác vào sáng ngày hôm
sau. Ba giờ sáng bộ đội đã chiếm lĩnh xong vị trí
chiến đấu, chuẩn bị nổ súng. Hà bê xoong cơm gọi
chúng tôi dậy. Hầu như cả Thư, Anh Ngọc và tôi đều
mất ngủ nhưng hoặc phải cố tỏ ra, hoặc đã tỉnh táo
thực sự, chúng tôi và vội bát cơm rồi vội vàng bước
theo Hoàn trợ lý tác chiến leo lên cao điểm, chỗ hai lều
bạt lấp ló trên đỉnh chót vót, trưa hôm qua chúng tôi
phải quay xe lại vì "các cụ có tuổi". Bây giờ
lại hăng hái bước thập thõm trong mịt mù sương đêm.
Con đường từ "nhà khách" đến chân điểm cao
chừng vài kilômét có thể đi ôtô đến đó rồi chỉ
cần leo chừng dăm bảy trăm mét là tới sở chỉ huy tổng
diễn tập. Chúng tôi yêu cầu Hoàn cố gắng bảo đảm
an toàn. Hoàn bảo chúng tôi đi bộ đi đường vòng. Nó
dài ra gấp đôi, và phải qua mấy con suối, lên xuống
bốn ngọn núi đều có độ cao tương đương với ngọn
có hai lều bạt. Là vì đường cấm? - Hoàn nói thế. Cấm
sao xe cấp cứu đi được? Là vì để "các cụ"
đi cho biết địa hình! Chỉ cần đứng ở một điểm
cao nhìn qua ống nhòm là biết tất cả, biết rất rõ
việc gì phải hành nhau thế nào. Nhưng vì cái "vì"
cơ bản là do lúc đầu lò dò theo Hoàn chúng tôi cứ nghĩ
anh trợ lý tác chiến đã dẫn đi chắc phải là con đường
ngắn nhất, vừa an toàn vừa dễ dàng để anh em đỡ mệt
nên hăm hở theo. Chỉ đến khi cởi cả áo bông, cởi cả
áo bludông, mồ hôi vẫn tóa ra đầm đìa, hơi thở đứt
ra gấp gáp như không thể thở được nữa, ngồi bệt
xuống bất cứ chỗ nào để khỏi ngã vật ra tôi mới
tự đặt bao nhiêu câu hỏi ấm ức ở trong đầu mình.
Thư đi theo sau cách Hoàn độ vài chục mét. Anh Ngọc cách
Thư khoảng gấp đôi. Còn tôi, mỗi lần leo được một
đỉnh núi lại ngồi vật ra, mọi người nén bực bội
để kiên trì chờ tôi. Còn tôi nén bực bội vì cảm
giác như bị mắc lừa, như Hoàn đã đi lạc đường.
Biết đâu đấy. Ngày xưa nhà văn Nguyễn Minh Châu có một
dạo làm trợ lý tác chiến của Trung đoàn 64 cũng đã
dẫn sư trưởng đi lạc vào đồn địch đấy thôi. Có
khi ông tướng này cũng nghệ sĩ như thế, chưa biết
chừng. Hay là cái "chất lính" trong tôi đã thiếu
hụt? Hay là đã quá lâu không giáp mặt với bao nỗi vất
vả gian nan. Và sự kiên cường của người lính trong
những năm quyết liệt vừa qua? Hay là, tình cảm và sự
hiểu biết của mình đã có gì hời hợt nhạt nhòa? Vì
những bực bõ ấy, những anh "lính chiến" muốn
nhìn ngắm chân dung anh lính "bàn giấy" xem tình
cảm và trí lực đến đâu, rồi ra anh sẽ nói nàng viết
lách như thế nào, hay là cứ bịa đặt véo von thánh thót
bốc lên như gió bốc bụi cuốn mù mịt qua đầu chúng
tôi.
Còn ngọn núi cuối cùng, cái nấc kiểm tra
cuối cùng đã xác nhận sự bất lực của tôi. Hoàn, Thư
và Anh Ngọc đã leo đến sở chỉ huy. Tôi vẫn đang ngồi
tựa vào mỏm đá ngửa mặt lên trời thở dốc ở sườn
ngọn núi thứ ba. Cơn buồn ngủ ập đến. Có cảm giác
không thể gượng dậy. Rất thèm được nghỉ một mạch
đến ba bốn giờ chiều. Mặt trời đã chớm nóng ran rát
vào mặt. Có lẽ sắp đến giờ nổ súng rồi. Ngước
sang ngọn núi "chỉ huy" thấy bốn năm người lố
nhố gần mỏm đưa tay đưa mũ vẫy vẫy. Chắc là họ
gọi tôi. Không nghe thấy tiếng mọi người, nhưng tôi
cũng cố bật dậy. Nếu không dồn hết sức lực và lòng
tự trọng tối thiếu để sang đỉnh bên kia thì kỳ cục
quá. Thật lạ lùng. Tôi chạy xuống dốc rất nhanh. Rồi
lại leo lên mỏm cuối cùng cũng rất nhanh. Khi các anh chủ
nhiệm chính trị và tham mưu trưởng đoàn B25 nắm lấy
tay tôi, nói những lời ái ngại như là xin lỗi thì tôi
còn đang thở như đứt hơi. Không nói được gì. Cũng
không nhìn thấy cái mặt của mình sượng sùng đến mức
nào. Các anh có vẻ không bằng lòng hỏi tại sao Hoàn
không đưa chúng tôi đi đường ôtô đến chân cao điểm
theo đường thoải lên? Hoàn báo cáo là bộ đội đã sẵn
sàng nổ súng, anh rất sợ đi đường ôtô không an toàn.
Mà lệnh của thủ trưởng là phải bảo đảm thật an
toàn cho các nhà báo.
Thì ra, không phải chỉ "nhàn
cư vi bất thiện". Trong lúc bí bách, mệt mỏi cũng
"vi bất thiện", ngờ vực người khác bằng những
ý nghĩ không thiện cảm. Tôi muốn đến bên Hoàn xin lỗi
và nói: "Tại bọn tôi cũng yêu cầu Hoàn phải đi
"đường nào thật an toàn bảo đảm. Mà đã muốn
hoàn toàn được bảo đảm an toàn thì phải đi đường
vòng, biết làm thế nào". Chưa nói được gì, Hoàn
đã có lệnh đi làm việc khác. Các cán bộ chỉ huy tham
mưu các cấp, các sĩ quan đạo diễn,. phục vụ đã tất
bật ra vào lán nhận chỉ thị, xin ý kiến và những mệnh
lệnh ngắn đã được truyền đi. Sau chén nước trà và
điếu "Vina” anh Tách chủ nhiệm chính trị trao cho,
tôi thấy người mình đã tỉnh táo, đã thấy trở nên
lạc lõng vô tích sự nếu như không giở quyển sổ ra
ghi ghi, chép chép. Tham mưu trưởng Đinh giơ tay nhìn đồng
hồ, anh quay sang tôi:
- Mười lăm phút nữa là nổ
súng. Nhà báo viết nội dung thế nào thì viết nhưng bên
ngoài "cụ" cứ phải nói đến Binh đoàn Hương
Giang. Còn bên trong là đoàn B25 tổ chức diễn tập thực
binh có bắn đạn thật. Cho nó thật kêu vào.
- Nếu
lát nữa bắn nó lại tịt?
Tôi đã có cớ để bắt
chuyện với các anh cho khỏi ngượng.
- Ấy, cứ nói về
cái "tịt" ấy vì lý do đít đạn nó mềm quá
hoặc là đạn tồn kho cũng hay lắm. Tán thế nào cho nó
hay người ta xúm vào mà đọc là được rồi.
- Có lẽ
chính anh viết nó còn có sự lạ và chân thật, còn có
nhiều người đọc hơn tôi.
- Đúng đấy. Hồi bảy
nhăm tôi cũng ngồi kể chuyện cho một anh viết đăng hẳn
một bài mang tính quốc gia đàng hoàng.
- Thế anh ký
tên gì?
- "Tác phẩm" của mình mà người ta
viết thì người ta muốn đề là gì thì đề. Cho mình
được chữ: Thiếu Chí Đinh vào đấy là quý quá rồi
còn gì nửa.
- Báo cáo tham mưu trưởng, các điểm bảo
vệ báo về dân đã sơ tán hết.
- Họ ngồi xem kia
kìa. Dân mình cũng gan thật. Tham mưu trưởng vừa nói vừa
ra khỏi lán hô:
- Đồng chí trung đoàn trưởng Trung
đoàn 18 thực hiện tình huống một như mệnh lệnh đã
giao.
- Rõ.
Trinh, trung đoàn trưởng mặc quần
áo rằn ri đội mũ sắt đứng trong công sự hô dõng dạc.
Tiếng anh vang vang truyền qua hệ thống phát thanh:
-
Quân địch đang ồ ạt tiến vào trận địa của chúng
ta. Trung đoàn hạ lệnh tất cả các đơn vị hỏa lực
có nhiệm vụ nổ súng làm tan rã đội hình địch không
cho chúng triển khai trận địa, tạo điều kiện cho bộ
binh tiến lên.
Trung đoàn trưởng dứt lời, tất
cả các đỉnh núi, sườn đồi khe suối quanh nơi chúng
tôi đứng đồng loạt những tiếng hô: mục tiêu, cự
ly, tầm, hướng...
Những tiếng nổ vang lên
đột ngột, những viên đạn lao vào mục tiêu khói mù
mịt. Xe tăng cháy, giữa tiếng reo hò ầm ầm của nhân
dân cũng đứng trên các sườn núi ngoài khu vực bắn để
xem, để vỗ tay reo hò và kêu lên: "Tuyệt. Tuyệt,
cháy rồi, cháy rồi. Giỏi. Giỏi ơi là giỏi. Giỏi quá".
Trong khi các loại pháo ĐK, B40, B41 bắn phát đầu tiên
trúng mục tiêu, gần như không ai bắn chệch thì tim tôi
hơi thót lại. Đại đội 14 pháo 120 của tôi đáng lẽ
phải bắn trước tiên thì vẫn im lặng. Nhìn dãy núi mờ
sương bên kia suối mục tiêu của đại đội 14 sẽ phải
bắn pháo, mắt tôi như nhòa đi. Bỗng "ùng ùng"
tiếng nổ đầu nòng và tiếng reo: "Một trăm hai mươi
lên tiếng rồi". Tôi chưa nghe hết tiếng reo ấy thì
một, rồi hai đụn khói ùn lên ở dãy núi bên kia suối
và tiếng reo của chính các đạo diễn, của các cơ quan
binh chủng cấp trên đứng quanh tôi nghe như hét: Trúng
rồi, trúng ngay lá cờ, trúng nữa. Như đi xem phim.
Cả tám phát đạn pháo 120
của đại đội 14 bắn vô cùng đẹp. Anh Đinh quay sang
tôi:
- Ngay những viên đầu tiên nó bị đạn tồn kho
làm tịt nhưng quan sát qua ống nhòm tôi thấy bản lĩnh
của chỉ huy và lính của nó giỏi thật anh ạ. Điềm
tĩnh xử lý một cách nhanh chóng mà thận trọng. Trông
mặt mũi anh nào cũng lý lắm. NÓ bắn đâu trúng đấy là
phải. Tôi muốn kêu lên: Tại sao lại để anh em bắn
những viên đạn "tịt" ấy? Một thoáng bực bội.
Lại một thoáng nghĩ lại. Đêm qua Trung, trung đội trưởng
trẻ măng bảo tôi: "Chúng cháu tập luyện và bắn
đều phải nhẩm tính xem mỗi viên đạn là bao nhiêu tạ
thóc và - bố mẹ mình ở nhà một năm làm ra được bao
nhiêu tạ. Cái đó nó cứ tự nhiên đến như thế chú ạ.
Không nghĩ, nó cứ chợt đến bằng một phép tính nhoáng
qua đầu óc mình. Quê cháu cũng ở Hải Hưng. Nghe ở
nhà bảo năm nay được mùa to. Lần đầu tiên trong lịch
sử toàn tỉnh đạt: 1,2 triệu tấn. Mừng quá chú ơi.
Nhưng mà lúc bắn thì vẫn có con tính: một viên đạn là
bao nhiêu tạ thóc. Nó như một dấu hỏi.
Trước
mặt, cách chúng tôi đứng chừng năm chục mét đường
chim bay là hai khẩu đội 12 ly 7. Mỗi lần nghe khẩu lệnh
bắn, những viên đạn đỏ lừ vun vút lao đi và trong
nháy mắt đã thấy nhưng viên đạn đỏ lừ ấy quấn
quít bọc lấy "quân địch nhảy dù" như là một
thỏi nam châm khổng lồ hút tất cả mọi viên đạn vào
đấy. Đẹp quá. Đẹp như đang xem một đoạn phim màu.
Nhưng lạ thay, mỗi tiếng "bắn" của đại đội
trưởng phát ra thì chỉ có một khẩu đội nổ còn một
khẩu đội "tịt". Tôi thất vọng nhưng không dám
hỏi.
Anh Đinh bảo tôi, đại đội 12 ly 7 đánh cũng
đẹp. Tôi ngập ngừng chữ "nhưng" thì anh đã
hiểu ý giải thích:
- Cứ một viên đạn thật phải
có một viên đạn giả, con nhà nghèo mà anh.
- À,
vâng. Đúng là con nhà nghèo tiêu pha bất cứ việc gì
cũng phải tằn tiện. Tuy không "bằng anh, bằng em"
nhưng nó cứng cáp từng trải. Có thể tự chống đỡ
hết thảy mọi bão bùng lụt lội. Con nhà nghèo sớm khôn
là thế.
Các loại cối 82, 61, ĐK, B40, B41 và điểm
xạ của AK đều đẹp quá, đạt khá giỏi cả. Cái kết
quả trăm phần trăm mục tiêu bị tiêu diệt, mà vẫn
tiết kiệm đạn là cốt cách của những con người biết
chắt chiu rèn luyện cho bản sắc riêng của người chiến
sĩ quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng dày dạn bền
vững.Có người hỏi tôi sau chuyến đi này thấy những
nét gì mới của cán bộ chiến sĩ hôm nay. Tôi không nhìn
thấy cái mới trong bữa cơm, đã có chút đậu, chút
thịt, lính ăn no nê cơm gạo mới. Tôi cũng không thấy
những bộ quần áo có kiểu dáng gì mới. Cũng chưa thấy
bộ đội dùng những súng nhỏ, súng to khác lạ với
những gì chúng ta đã có. Cái mới mà tôi nhìn thấy
ngày hôm nay lại là cái cũ, cái bản chất truyền thống
cũ của một quân đội biết chịu đựng hy sinh được
quán triệt để phát huy giữa ào ạt cơ chế thị trường
như sóng xô vào cuộc sống người lính. Sự thiếu thốn
khó khăn bên cạnh một khó khăn thiếu thốn khác thì chỉ
còn một nửa. Nếu bên cạnh nó là sự xa hoa đàng điếm
phung phí thì khó khăn thiếu thốn tăng lên gấp bội
phần. Ngỡ tưởng điều đó như một quy luật nhưng nó
lại trở nên vô nghĩa trong bữa cơm trưa nay ở đại đội
pháo 120. Vẫn cái lán ngồi chạm đầu vào mái nilông
nóng hầm hập, trưa nay có thêm Dũng tham mưu, Thái trợ
lý pháo binh, Anh Ngọc và tôi. Tám người cả chủ
và khách ngồi quanh một đĩa quân dụng thịt mỡ xào và
hai bát canh rau cải để ăn mừng đại đội bắn đẹp,
mừng kết thúc diễn tập thắng lợi. Đến chén rượu
thứ hai Nhân mời Anh Ngọc và tôi cùng uống với anh. Cầm
chén lên định chạm nhưng nghe anh nói và tôi phải "đối
thoại" thành ra mỏi cả tay mà vẫn cứ phải cầm.
- Em biết nhà thơ, nhà báo chiếu cố đến chúng em
mới ở lại ăn bữa cơm lính.
- Chúng mình rất hạnh
phúc được những lúc như thế này.
Bỗng nét mặt
hốc hác của Nhân nghiêm lại, hai mắt anh vằn lên nhìn
vào mặt tôi.
Một giây qua đi, anh đặt chén rượu
xuống đưa cả hai bàn tay ôm lấy tay tôi:
- Cháu xác
nhận. Nhà báo còn "lính" lắm. Cháu thì không có
văn hay chữ tốt bằng nhà thơ, nhà báo nhưng cháu nói
thật: không gì sung sướng cho bằng sống có tình cảm
thoải mái vô tư.
Uyên rót rượu vào các chén khác
nói chen:
- Thì người ta được bao nhiêu thứ khác,
mình chỉ được mỗi cái tình cảm thoải mái vô tư lại
chả nhất.
Nhân:
- Thế mới là cuộc sống đa
dạng và phức tạp.
Uyên cầm chén rượu hướng về
hai nhà pháo binh cấp trên.
- Nào các anh, cùng nhau ta
uống mừng cuộc sống phong phú phức tạp.
Tất cả
chúng tôi chạm chén và uống cạn một hơi. Nhân vứt
chén lăn ra bên cạnh, hai tay lại như ôm lấy tay tôi.
-
Sướng lắm nhà báo ạ. Chúng cháu không ngờ có cuộc
gặp gỡ này. Tiếc quá. Chúng cháu lại phải cho bộ đội
hành quân ngay. Nhà báo đưa bát cháu xới cơm. Ăn no luôn
với chúng cháu ở đầy nhé. Thỉnh thoảng nhà báo lại
đến với lính. Thoải mái vô tư lắm nhà báo ạ.
Và
miếng cơm vào miệng, tôi như nuốt cả vào lòng mình
những cử chỉ, lời nói vô cùng thật, vô cùng xúc động
của anh em. Đã lâu lắm cái tình cảm hời hợt nhạt
nhẽo của mình mới lại thấy xốn xang ấm lên như lúc
này.
Đến khi các anh cho bộ đội luồn đòn ống
vào thừng khiêng bàn, khiêng nòng pháo, chúng tôi ôm lấy
nhau, nắm thật chặt bàn tay của nhau để rồi các anh
cùng bộ đội đi thập thõm trên những thửa ruộng tua
tủa gốc rạ, quành lên sườn đồi, khuất sau những mái
nhà lúp xúp... tôi vẫn ngơ ngẩn nhìn theo mà không thấy
gì. Chắc là họ đã đến chỗ lội qua suối, sẽ lại
lên dốc, sẽ lại vượt qua đèo, sẽ lại... Những người
lính đã đi xa rồi. Tôi lững thủng quay về lán "nhà
khách" của đoàn. Những tiếng gốc rạ đổ ra dưới
chân tôi nghe lép đép. Tiếng rào rào của bầy chim mồng
bay về dãy núi bên trường bắn, nơi buổi sáng tôi đã
nhìn thấy chúng bay đi. Tiếng trẻ con đùa, lẫn với
tiếng những người mẹ trẻ đang ghì thừng kéo trâu đi
vòng quanh quần lúa. Tiếng người cha đứng ở cửa bếp
gọi con về ăn cơm. Và từ đấy những nhuốm khói bay
lên làm cho cái nắng cuối đông gay gắt như mơ màng như
dịu đi. Tất cả vẫn đang là bình yên. Tất cả vẫn
mãi là năm tháng và đồng đội của tôi.
20 tháng 11
L.L
NGUYỄN BẢO
ÁNH SÁNG KHÔNG TẮT
Truyện ký
Cùng ngồi ăn với tôi ở nhà
khách sư đoàn có một thiếu tá trẻ, vận quân phục mùa
đông. Hai mắt kính sáng quắc, cập rập rời bàn vội
vã. Chiều trung du, chút ánh sáng muộn mằn trong ngày
nhuộm tím trong màu xanh ngút ngàn của rừng núi. Anh bước
đi dò dẫm. Sợ anh ngã, tôi đến dìu anh:
- Anh không
nhìn thấy gì sao?
- Ờ hờ.... Có chứ ! Tôi đi được
mà. Anh thảng thốt luống cuống.
Cũng là người
không muốn phiền lụy đến người khác đây - tôi nghĩ
và nói:
- Tôi ăn xong rồi. Ta về phòng uống nước.
Hình như mắt anh có kém phải không?
- Bây giờ thì còn
lờ mờ. Đợi tí nữa là không thấy gì sất. Tôi có
mang theo thuốc nhỏ mắt. Thuốc này của Nhật, nhỏ vào
sáng được bốn tiếng. Nhưng cũng chỉ dùng khi làm việc.
Nhỏ nhiều hại mắt lắm.
Khi đã ngồi đối diện
với nhau ở bàn trà, tôi mới biết anh là Lê Duy Ứng -
một họa sĩ một nhà điêu khắc mà tên tuổi đã có lúc
vang lên như một huyền thoại. Cảm thấy cuộc đời anh
có nhiều điều bổ ích đối với những ai đang lận đận
đi tìm lẽ sống trong cuộc đời đầy chông gai, bão tố
này, tôi xin chép ra đây những điều tôi đã ghi được
về anh.
Ứng nhập ngũ lúc còn là sinh viên năm thứ
ba trường đại học Mỹ thuật. Anh yêu nghề, học giỏi,
nhưng lại tình nguyện vào bộ đội. Chuyện ấy bình
thường như vô số những thanh niên khác lúc bấy giờ.
Sau một thời gian luyện tập anh được phân vào tiểu
đoàn trinh sát. Trưởng phòng tổ chức động viên hỏi
anh: "Trước đây đồng chí làm nghề gì?". "Học
vẽ". "A, thế vào trinh sát". Vậy là anh thành
lính trinh sát. Chỉ thưa đầy một năm ở chiến trường
Bình - Trị - Thiên khói lửa anh đã được kết nạp
Đảng. Kết nạp trên chiến hào. Với Ứng, đấy là một
kỷ niệm, một niềm tự hào đi suốt cuộc đời
mình.
Ứng gặp Lê - người vợ anh gọi là tuyệt
vời, vào năm 1973. Thời gian đó, hai bên bờ sông Thạch
Hãn, ta và địch đang hòa hoãn với nhau. Một số cô gái
Hà Nội đại diện cho các cơ quan xí nghiệp thủ đô vào
thăm đơn vị. Với anh, trong tất cả các cô túa lên đồi
sim chiều hôm ấy đòi anh vẽ chân dung, Lê là người
thương mến nhất. Gương mặt cô tròn, đôi mắt to sáng,
hai mi mắt rất nét. Đôi bím tóc dài mượt ôm lấy cái
cổ cao ba ngấn trước khi đổ xuống bộ ngực căng tròn,
tràn trụa sức trẻ. Thời gian Lê ở Đông Hà không nhiều
nhưng âu cũng là duyên số dành cho anh. Đêm ấy trước
khi Lê đi Cồn Tiên thăm một đơn vị khác, anh bị ngã
sái chân, Lê hớt ha hớt hải, tái mặt đi tìm thuốc.
Thuốc chữa của cô là một quả đu đủ xanh nướng
lên, bổ đôi ấp vào chỗ đau. Cô xuýt xoa thổi phù phù
vào chân ứng: "Nóng quá không anh? Mẹ em bảo càng
nóng, vết thương càng chóng khỏi". Nào Ứng có cảm
giác nóng lạnh gì nữa đâu. Lòng thương cảm của một
người phụ nữ đôi khi xoay chuyển cả một tình thế.
Ứng thấy lòng nghiêng ngả, muốn được xả thân, muốn
được chinh phục tức thì. Bộ tóc mượt mà, thơm thoảng
của Lê đang ở ngay dưới cằm anh. Ứng run lẩy bẩy,
đầu anh bỗng dưng cứ thấp dần xuống, thấp dần
xuống. Hai ba này, cứ liều cái xem sao? Anh nghĩ, mắt hoa
lên, người nóng rực. Làm như vô tình, đôi môi anh chạm
khẽ vào chiếc gáy trắng lộ ra giữa hai bím tóc. Lê làm
như không hay biết gì. Đã thế, không thể giả bộ được
nữa, Ứng nâng đầu Lê lên, hôn vào má cô. Lê để yên.
Anh hấp tấp ôm gọn lấy khuôn người nhỏ nhắn của
cô, hôn lên mắt, lên môi... Tất cả chỉ có thế.
Sau lần đó, hai người còn có dịp gặp lại nhau nhưng
chưa ai hứa hẹn một điều gì. Sau này bị thương hỏng
cả hai mắt, ưng vẫn nghĩ: Nếu Lê rút khỏi tình yêu
cũng là bình thường. Chưa có sự ràng buộc gì ngoài nụ
hôn.
Lê trở lại Hà Nội kịp lúc
đơn vị Ứng chuẩn bị giải phóng Huế. Chiến thắng
Buôn Mê Thuột - tạo một cơn bão lớn rung chuyển khắp
các chiến trường. Ứng xin quân đoàn được đi xuống
cơ sở. Bây giờ không ít người coi đó là sự khó hiểu,
thậm chí dại dột. Kệ họ, Ứng không bao giờ ân hận
vì lẽ đó. Anh đi với tiểu đoàn 3 Sư đoàn 325. Anh được
biết trung đoàn này sẽ có những trận đánh then chốt
đầy ác liệt. Quả nhiên, trung đoàn Ứng tiến đánh Đại
Nội, cắm cờ trên Phú Văn Lâu. Ứng hối hả vẽ tranh,
ký họa. Con người, đường phố cảnh vật đổ ào ra
trước mắt anh bao điều mới lạ. Anh coi đó là cơ hội
ngàn năm có một cho những bức tranh, những ký họa của
mình. Đêm trước khi rời Huế, tiến đánh Đà Nẵng, anh
nhào xuống sông Hương tắm táp vẫy vùng và anh mơ tưởng
đến Lê. Đơn vị tiếp tục hành quân vào phía trong. Thủ
trưởng binh đoàn cho Ứng xem thư của đại tướng Võ
Nguyên Giáp. Trong thư có câu "Thần tốc, thần tốc,
táo bạo" với cảm xúc háo hức anh vẽ tranh "Bác
cùng chúng cháu hành quân". Bắt đầu từ đó, đơn
vị ào ào như cơn lốc, tiến đánh Phan Rang, Xuân Lộc và
ưng cứ ao ước "ôi, giá Bác Hồ còn sống". "Một
hôm đơn vị dừng chân ở rừng cao su Xuân Lộc, thủ
trưởng Lê Khả Phiêu bảo Ứng chuẩn bị máy ảnh vào
dự một cuộc họp quan trọng. Cuộc họp này gồm nhiều
cán bộ cấp cao và các tướng lĩnh. Được biết sư 304
sẽ đánh thẳng vào Sài Gòn, Ứng liền xin đi với cánh
quân này. Biết ý định của Ứng, sư trưởng 325 nói:
"Thủ trưởng cấp trên đồng ý rồi, tùy cậu thôi.
Riêng ý tớ cậu nên đi với sư đoàn này. Chậm vào Sài
gòn một phút nhưng chắc. Vào sớm đánh nhau loạn xạ
cậu cũng không làm ăn gì được đâu. Ứng không nghe.
Mình cũng là một người lính, viết, vẽ động viên bộ
đội dũng cảm hy sinh, vậy mà lũi chũi phía sau thì còn
ra sao? Có một cái gì đó thuộc về lòng tự trọng
đằm trong máu lính còn "nặng cân" hơn cả cái
chết. Khi ứng bị thương, sư trưởng đến thăm và
nói: "Tớ có linh cảm ưng đi với 304 sẽ có chuyện
không hay. Giá cứ đi với tớ thì đâu đến nỗi”. Đấy
là chuyện sau này, còn lúc đó Ứng háo hức, người chôn
rộn, phơi phới, ứng gặp chính ủy Trần Bình, xin được
đi cùng đơn vị xe tăng. Trần Bình khuyên Ứng nên đi
với chỉ huy sư đoàn. Ứng không mê tín nhưng đi đâu,
làm việc gì, có nhiều người khuyên ngăn thường chẳng
được may mắn đó chăng? Rời sư đoàn, ứng lặn lội
đi tìm đại đội 8 xe tăng. Lái xe là một chiến sĩ trẻ
măng, tự giới thiệu:
- Tên em là Mạnh, quê Hải Hưng.
Vào dinh Độc Lập, thủ trưởng "tách" cho em một
"pô" làm kỷ niệm...
Xe Ứng đi đầu. Các
xe khác rùng rùng tiến theo. Bộ binh vẫy tay hò reo. Ứng
đứng ngay ở tháp pháo để quan sát. Anh thay mặt cả xe
vẫy chào lại họ. Xe chạy thẳng xuống xa lộ Biên Hòa.
Đấy là cả một đoạn đường khốc liệt. Thép chọi
thép, xe tăng chọi xe tăng. Địch nằm dưới hầm tăng
quạt đạn lên. Bộ đội hy sinh rất nhiều. Sẽ là có
tội nếu trong ống kính không ghi lại được hình ảnh
bộ đội xông lên đối mặt với cái chết trước giờ
thắng lợi. ưng bị ý nghĩ đó thu hút. Chiếc xe tăng của
anh đang ở vị trí rất nguy hiểm. Bọn địch ở đâu đó
đang nã đạn vào chiếc xe. Một luồng lửa nóng rát phụt
vào mắt Ứng. Ứng có cảm giác hai hố mắt bị xé nát,
tóe ra một khối thủy tinh vỡ. Vô số những mảnh thủy
tinh đó là các màu sắc nhiễu loạn, sắc nhọn. Sau đó
đất trời đóng sập, đen ngòm. Ứng ôm lấy mặt. Máu
trào qua những kẽ ngón tay, đầm đìa xối xuống ngực.
Ứng ngã vật xuống sàn xe, lịm dần. Không thể ước
tính được thời gian Ứng ngất lịm đi là bao lâu.
Chỉ biết khi tỉnh dậy, Ứng thấy đầu óc thật tỉnh
táo. Có cảm giác như đang ở một vực thẳm đã đậy
kín. Có một cái gì rất nặng đè lên ngực. Ứng sờ
lên. Một cái chân. Ứng nhớ cạnh mình là chiến sĩ bắn
súng 12 ly 7. Ôi, thế là người cuối cùng chiến đấu
bảo vệ kíp xe không còn. Ứng chưa kịp biết tên anh.
Thôi vĩnh biệt vĩnh biệt đồng chí nhé. Ứng cầm lấy
chân người lính, định nhấc khỏi ngực. Nặng quá,
chiếc chân to đến thế. Chao! Chắc không phải của xạ
thủ 12 ly 7. Anh ta nhỏ con nhất xe. Khi Ứng ngã gục anh
vẫn còn bắn. Anh có hy sinh cũng mới đây, sao chân đã
cóng lạnh thế này. Hay của Mạnh, chiến sĩ lái xe? Thôi
thật rồi, chỉ có Mạnh, Mạnh to lớn chắc nịch. Mạnh
có thể hy sinh trước. Kẻ thù muốn tiêu diệt chiếc xe
bao giờ cung nhằm cái đích đầu tiên người lái, Mạnh
ơi! Thế là cả hai ta không vào Sài Gòn được rồi. Mình
còn nợ Mạnh một pô ảnh, chụp ở dinh Độc Lập . Biết
làm thế nào được. Cũng phải có người nằm lại ở
đầu cầu để quân ta qua cầu chứ Mạnh nhỉ? Bằng sức
lực tối đa, Ứng hất chiếc chân xuống đất. Tay Ứng
nẩy lên vì đụng phải một cái gì đau nhói. Cái gì
vậy? Nó rống lên ầm ầm. A, chiếc xe tăng. Duy chiếc xe
tăng là vẫn còn sống. Ứng đang nằm cạnh nó, chỗ ống
xả đang phun khói. Dưới lưng Ứng là một đoạn xích
xe, vẫn cố bám lấy vành bánh, quẫy lên ràng rạc. Hai
mắt Ứng bỗng nóng ran như ai đó vừa lấy dùi sắt nung
đỏ chọc vào. Ứng đưa tay lên, đụng phải một cục
ươn ướt nhầy nhầy, lòng thòng trên ngực. Con mắt
phải, đúng con mắt phải chưa chịu đứt liên hệ với
hố mắt. Mới đụng vào nó đã nằm vạ. Ứng đau đớn
uốn người lên như tự mình rút tủy rút óc mình ra.
Thôi kệ. Ứng quờ tay sang mắt bên này. Máu vẫn chảy
nóng hôi hổi. Làm gì bây giờ. Quân ta ở đâu? Địch ở
đâu? Ứng biết tỉnh táo thế này là để chết hẳn
đây. Chết đã đành, nhưng sao lại chết trong đơn độc
thế này. Ứng thèm một tiếng nói của đồng đội quá.
Đâu đó vẫn còn tiếng nổ. Như vậy là trận đánh chưa
dứt điểm. Cuộc tấn công đã dừng lại hoặc bị đẩy
lùi. Nhưng có khó khăn bao nhiêu, thương vong bao nhiêu quân
ta nhất định rồi sẽ tiến đến cái đích cuối cùng.
Mình như ngọn đèn sắp tắt rồi. Đang phụt những tia
sáng cuối cùng đây. Có còn góp được chút ít gì vào
trận đánh nữa không? Đột nhiên, Ứng nhớ lại câu
chuyện đã được nghe về một chiến sĩ công binh bảo
vệ tuyến đường Trường Sơn. Tuyến đường bị máy
bay B. 52 rải thảm, đồng đội của anh chiến sĩ công
binh hy sinh hết. Xe ta không còn vượt qua được. Anh là
người cuối cùng bám con đường. Bị thương nặng, biết
mình không thể sống được nhưng cũng không chịu nằm
yên chờ chết, anh dùng dao găm khắc hình Bác trên một
gốc cây cháy trụi. Những nét khắc vội vã của người
chiến sĩ nọ trên cao điểm ác liệt ấy đã làm rưng
rưng nước mắt những chiến sĩ trinh sát đi tìm đường.
Họ quyết định mở lại con đường có chân dung
Bác. Những đoàn xe, đoàn quân sau đó khi vượt qua điểm
cao này như được tăng thêm sức mạnh. Ứng cũng chợt
nhớ đến một họa sĩ bậc thầy. Họa sĩ đã dùng máu
mình vẽ chân dung Bác. Sẽ còn có ích nếu biết sử dụng
những hơi thở cuối cùng vào công việc gì đấy. ứng
quờ tay tìm cặp. Đây rồi. Ứng mở cặp, rút một tờ
trôky, xé một manh áo may ô quấn vào ngón tay trỏ, Ứng
chấm ngón tay vào hố mắt, lúc này Ứng hình dung ra Bác
quá rõ ràng. Chỉ mấy nét đã hoàn thành xong bức chân
dung. Phía dưới bức chân dung ứng ghi: "ánh sáng niềm
tin", Ứng tin đồng đội sẽ qua đây, sẽ nhìn thấy
chân dung Bác và dòng chữ này. Và các chiến sĩ sẽ coi
đây là di chúc của Ứng, của đồng đội Ứng. Những
người đã nằm xuống nơi này vẫn vĩnh viễn tin rằng:
cuộc chiến đấu của mình, của dân tộc mình sẽ toàn
thắng. Bỗng Ứng nghe có tiếng chân người. Tiếng bước
chân thận trọng, cảnh giác. Ứng vội gấp tấm chân
dung cho vào túi áo. Nếu bước chân kia là của địch?
Chúng bồi thêm cho mình viên đạn đã đành. Chúng sẽ xé
nát bức chân dung và lấy đi chiếc cặp cùng máy ảnh. Ở
đó có nhiều tư liệu quý. Anh nằm xuống, nín thở.
Tiếng bước chân ai đó rõ hơn: người mới đến ghé
tai vào nghe mình, ý chừng nghe tim anh còn đập không? Chỉ
có người mình mới làm việc này. Ứng mừng thầm hỏi:
-
Ai thế, tôi còn sống, chỉ bị thương.
- Tốt rồi,
người ấy nói! Em ở 304 đây. Anh chịu đau em đưa anh
đi, chỗ này nguy hiểm lắm.
Ứng vội dặn người chiến
sĩ một số việc, đề phòng không có dịp nói nữa. Anh
chiến sĩ đeo máy ảnh vào người cầm lấy chiếc cặp
và xốc nách Ứng đưa đi. Tiếng nổ bỗng rộ lên xung
quanh. Anh cúi xuống, nâng hai chân ưng lên xốc vào lòng
và chạy băng băng. Bỗng lưng Ứng bị giáng xuống đất,
muốn gãy xương sống. Lập tức, một quả pháo gần cạnh
nổ bung. Người chiến sĩ lúc đó đã đè lên, trùm lấy
Ứng. Ứng biết anh quyết không để Ứng bị thương lần
nửa. Lại một quả pháo, đã nghe tiếng nổ đề pa rồi.
Đất đá phủ lên lưng rào rào. ứng nghiến chặt răng.
Trời ơi! Không biết anh có việc gì không? May thay anh
đang đứng dậy. Anh như đội đất mà lên. Ôm gọn lấy
Ứng, anh lại chạy sầm sập. Đường gập ghềnh. Người
Ứng lúc bồng lên, lúc tụt xuống. Đạn địch vẫn bắn
rát buốt nhưng người lính đã đưa Ứng đến chỗ an
toàn. Anh nhè nhẹ đặt Ứng xuống, tuồn vào một cái
cống. Ứng đoán vậy. Xung quanh sực mùi bùn tanh tưởi.
Anh ngồi ngoài cửa cống, che cho Ứng. Anh thở lấy
được vừa thở vừa rủa bọn địch:
- Mẹ cha chúng
mày, chết đến đít còn làm già...
Sau này tên tuổi
Ứng đăng gần đủ các mặt báo, cuộc triển lãm tranh
tượng của anh mở suốt từ Nam chí Bắc. Hàng trăm nghìn
người đã đến xem tranh tượng của anh nhưng niềm hy
vọng được gặp lại người chiến sĩ ấy gần mù khơi.
Người chiến sĩ ấy đã lẫn vào đất đai, cây cỏ
chiến trường trước ngày đất nước toàn thắng hay đã
lẫn vào hàng nghìn hàng vạn lượt người xem tranh tượng
của chính Ứng mà Ứng không biết. Nhưng dù sao tấm lòng
của người chiến sĩ xả thân vì đồng đội, mãi mãi
là đề tài anh mang nợ đến trọn đời.
Ứng chìm
vào cõi u mê. Hình như sau đó những người lính phía sau
rứt anh ra khỏi cống, đưa anh lên băng ca chuyển đến
một trạm phẫu thuật nào đó. Anh được băng bó, được
chuyển vào một cái hầm nhà.
Hình như anh cựa mình
và động phải những cái xác chết khác, cũng quấn băng
đầy người. Khô nẻ từ cuống họng đến tận mỗi
ngón chân, ngón tay. Anh ú ớ kêu khóc rồi lại lịm đi.
Có ai đó đặt trên mũi anh một dúm bông. Họ kiểm tra
xem trong bốn cái xác ai là người còn sống. Tỉnh lại:
anh nghe một cô gái, giọng còn rất trẻ, ngồi bên anh
kể:
- Anh còn cao số lắm. Em vừa tách anh ra khỏi xác
ba tử sĩ, đưa anh về hầm này thì lập tức mấy quả
pháo giội vào chiếc hầm xác. Ba tử sĩ tan biến.
Vì
mù cả hai mắt Ứng không biết đã ở dưới hầm với
cô gái bao lâu. Sau đó anh lại tắt thở. Những người
lính bó cứng anh vào nilông đưa lên rừng Trai chỗ đã
đào sẵn những cái huyệt. Người chiến sĩ mang anh đi
chôn có cái tên là Hùng. Hùng không vội đẩy anh xuống
huyệt lấp đất ngay. Chắc anh thấy huyệt còn nông và
chưa được đẹp, cần phải sửa sang lại. Hùng đặt
anh nằm trên miệng huyệt, rồi nhảy xuống dùng xẻng
đào, khoét hất đất lên. Ứng nghe đất rào rào đổ
lên mặt, lên người. Nóng như nung. Con người ta ngay khi
đã bị bó tròn trong cái chết vẫn có những phản ứng
rất lạ. Để tránh nắng, tránh đất đổ lên người,
Ứng cứ dũi dần khỏi chỗ đang nằm. Anh nghe lá khô,
rác mục dưới lưng kêu rốt roạt. Dũi mãi, dũi mãi,
cuối cùng anh cũng tới được một cái bóng râm của một
bụi tre. Hùng, sau khi đã đào sâu thêm sửa lại huyệt
vuông thành sắc cạnh như ý mình liền nhảy lên bờ.
"Ô!". Anh kêu lên một tiếng ngơ ngác.
Nhìn
quanh quất tìm kiếm anh reo:
- Trời ơi, đất hỡi, còn
sống chúng mày ơi!
Hùng lại cõng Ứng về. Trên đường
cứ thanh minh với Ứng mãi.
- Cái số anh thế nào. Y tá
kiểm tra mấy lần đều bảo anh chết thật rồi. Kể em
hấp tấp đưa anh xuống huyệt ngay có khốn không? Sư bố
trò đánh nhau, cứ như đùa cợt. Thôi anh bỏ qua đi nhé.
Ngay trong ngày hôm đó, ưng được chuyển về bệnh
viện phía sau. Ứng nghe tin Hùng tiếp tục ở lại với
công việc mai táng tử sĩ và đã hy sinh trước ngày đất
nước toàn thắng.
Theo tuyến điều trị, Ứng dược
chuyển về bệnh viện phía sau. Hoàn toàn anh không hay
biết rằng cùng hành quân với anh còn có chiếc ba lô,
trong đó có hai bộ quần áo bộ đội của anh được
giặt giũ sạch sẽ. Và dưới đáy ba lô là bức chân
dung Bác anh vẽ bằng máu lúc chuẩn bị từ giã cõi đời.
Cô y tá mà anh không biết tên, biết mặt, lẳng lặng làm
việc này. Cô không hay biết sự ra đời của bức tranh,
giá trị của nó. Nhưng nó là tài sản của thương binh
nên cô trân trọng cất giữ. Cô có hay chăng - người con
gái ấy bức tranh mà cô đã không giặt nát, không vứt
bỏ, hiện nay đang nằm trong Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Nó đi từ Nam đến Bắc theo các cuộc triển lãm tranh
tượng của Ứng. Hàng vạn người đã đến xem bức
tranh đó vui lòng ngưỡng mộ, quý trọng. Ứng nói với
tôi: "Không lần nào đi triển lãm tôi lại không nhớ
cô y tá ấy, mong lại gặp cô ta. Nhưng cũng như những
người chiến sĩ đã cưu mang tôi, tôi không có cái may
mắn được gặp họ". Giọng anh buồn, chỉ thiếu
rơi nước mắt...
Sau lần gặp Lê Duy Ứng ở
sư 325, một tháng sau tôi mới có dịp đến nhà anh. Nhà
của anh ngay mặt phố. Đây là ngôi nhà tình nghĩa, quân
đội xây dựng cho anh. Một ngôi nhà thiết kế đẹp
nhưng còn quá bề bộn. Ở hiên nhà, Lê muốn mở quán
hàng khô nên đang cơi nới ra. Gạch cát, vôi vữa ngổn
ngang. Bên trong nhà lỉnh kỉnh những tranh, những tượng
của ứng đang được lôi ra hoàn chỉnh, chuẩn bị đưa
đi triển lãm ở quê Bác. Đúng là gia đình chỉ giàu có
ở cái xác nhà. Tủ, giường chắc của đơn vị nào cho,
gỗ xấu, đóng cũng xấu, bây giờ ọp ẹp, mọt nghiến
cót két nhức cả tai.
Ứng đưa tôi lên tầng hai
nơi anh làm việc không có bàn, chỉ có một chiếc giường
nhỏ cổ lỗ. Tôi và Ứng nằm lên chiếc giường ấy.
Anh có hai đứa con. Con trai đầu tên là Đông Hà (kỷ
niệm lần gặp Lê ở Đông Hà) đang học lớp bảy. Theo
nghiệp cha, cháu đang chí thú học vẽ. Đứa con gái út
tên là Thu Hà. Sau 8 năm mù lòa, mắt anh được chữa sáng
vào mùa thu. Cháu học lớp năm. Cháu có đôi mắt đen láy
dễ thương, đã một lần gặp khó lòng quên được. Biết
bố Ứng chuẩn bị kể chuyện cháu reo:
- A, ở trên
này nghe bố kể chuyện.
- Ấy xuống hết dưới nhà,
để bố và bác làm việc.
- Ứ, nghe bố kể chuyện có
sao mà, ừ đi bố!
Suốt buổi sáng hôm đó, được
bố cho phép, hai cháu nằm nghe im thin thít, trừ đôi tay
có lúc quàng nhẹ vào cổ bố hoặc vuốt vuốt lưng bố,
nước mắt ứa ra vì thương cảm. Đó là những đứa con
ngoan mà cuộc đời Ứng đã là một sự giáo dục hướng
nghiệp hiệu quả. Còn Ứng, tôi cảm như chưa bao giờ
anh nặng lời với hai cháu. Ứng nói với tôi:
- Ngày
mai tôi vào Nghệ Tĩnh đi triển lãm tranh tượng rồi. Ta
tranh thủ làm việc anh nhỉ. Hôm ấy tôi đã kể với anh
những ân nhân của tôi thời kỳ ở chiến trường phải
không? Những con người như thế không thể kể hết được.
Nhưng tôi muốn kể thêm cho anh nghe một người bạn của
tôi nữa - cô Dung, y tá ở bệnh viện Nha Trang. Lê Duy Ứng
có một trí nhớ cực tốt. Nhưng vì luôn rộn với chuyến
đi ngày mai nên anh kể rất nhanh, tôi không ghi kịp được.
Tôi đành nhớ lấy ý chính và sau đó về chép lại:
Ở
bệnh viện Nha Trang, Lê Duy Ứng được tin Sài Gòn hoàn
toàn giải phóng. Anh đã nhảy cẫng lên cùng với mọi
người đón nhận tin vui này. Niềm vui dào dạt trong anh
trôi qua rất nhanh. Mấy ngày sau bệnh viện xác định anh
là thương binh tám trên tám. Sự xác định đó khác nào
tuyên bố anh anh mãi mãi là một người mù. Đối với
một họa sĩ, sự kiêng kỵ nhất trong thương tật là cụt
tay phải hoặc mù hai mắt. Anh đang rơi vào một trong hai
trường hợp khốn nạn. Anh không thể sống mà không làm
việc, không chỉ sống để chỉ phiền lụy đến người
khác. Không ân hận đau khổ vì tất cả những gì đã
đến với mình nhưng quá thất vọng, anh lẳng lặng chuẩn
bị chấm dứt cuộc đời mình. Mỗi lần cô y tá Dung đến
thăm bệnh anh đều kêu mất ngủ. Anh đề nghị mỗi tối
cô cho anh một viên thuốc an thần. Anh biết rằng dồn
được mươi viên là có một giấc ngủ vĩnh viễn. Anh đã
giấu được sáu viên dưới gối, ba viên trên túi áo.
Tối nay anh nhận thêm một viên nữa là đủ liều. Dung
vẫn đến với anh như thường lệ. Cô đưa cho anh viên
thuốc ngủ, nói với anh đôi ba chuyện rồi ra khỏi
phòng. Anh nghe có tiếng kẹt cửa hẳn hoi. Anh ngồi dậy,
lôi chiếc gối ra. Kỳ quặc, không thấy viên thuốc nào
cả. Anh lôi ruột gối ra giũ giũ, chẳng nghe thấy tiếng
rơi. Ngay lúc đó tiếng Dung nghẹn ngào:
- Thôi anh đừng
tìm nữa. Không còn đâu. Em cất đi rồi .
Như một
người vụng trộm bị bắt quả tang, Ứng "ơ"
lên một tiếng. Té ra Dung chỉ giả vờ đi ra, cô đã
quan sát hết mọi việc làm của Ứng.
- Anh giấu sao
được em. Từ nửa tháng nay em thấy anh buồn, em biết
ngay - Giọng Dung bỗng se nhỏ - Em có một anh trai cũng
bằng tuổi anh. Sau giải phóng em chỉ mong một lần được
nhìn thấy anh ấy mù cũng được, cụt chân cụt tay cũng
được, vậy mà có nổi đâu anh. Anh hy sinh ở trên rừng,
xác cũng không còn. Anh Ứng có nhiều thiệt thòi hơn
người khác nhưng so với đồng đội của anh như thế
cũng chưa phải đã mất hết. Hay anh trách giận gì chúng
em?
- Cô Dung này. Nào tôi có oán trách gì ai đâu. Cô
không ở hoàn cảnh của tôi. Giá đổi được cho anh trai
cô tôi đổi liền. Mỗi lần cô dắt tôi đi đánh răng,
rửa mặt, đi ỉa, đi đái, tôi cứ thấy tồi tội cho cô
thế nào. Tôi tâm niệm đã làm xong nhiệm vụ của mình
rồi. Bây giờ là nghỉ. Nghỉ để không phiền lụy đến
ai nữa...
Câu chuyện hai người chỉ dừng ở đó.
Ứng chưa nhụt chí trong việc kiếm tìm một cái chết.
Còn Dung, cô cho rằng thương binh muốn tự tử là lỗi ở
chính cô. Cô không biết động viên an ủi họ. Cô tự
thấy phải làm cho Ứng vui lên, đưa Ứng vào các hoạt
động, để quên đi sự buồn tủi. Đang là mùa hè. Dung
nghĩ ra chuyện đưa Ứng đi dạo bờ biển. Biển ngàn năm
vẫn thế, thét gào khi gió lộng, dạt dào mời gọi lúc
trăng lên. Và buổi sáng lúc mặt trời như chiếc mâm
đồng khổng lồ nung đỏ chạm vành trên mặt biển, sóng
nước bỗng phát ra trăm ngàn màu sắc khác nhau, lung linh
như dát vàng dát bạc. Chiều nào Dung cũng dẫn anh ra
biển. Biển buổi chiều thường khêu gợi sự ngọt ngào
dịu mát. Những lớp sóng bạc đầu từ đâu đó bất
chợt trèo lên giữa cồn sóng, trắng phau. Dung tả cho Ứng
hay tất cả những cái đó. Ứng khen Dung tả giỏi. Được
gần Dung, anh như người sáng mắt. Anh hay cười, vui. Thật
ra, đối với anh, biển chỉ một màu đen kịt. Anh xin
Dung được tắm biển. Anh nói, anh là dân vùng biển. Ngày
còn sáng mắt anh phải bơi cách bờ cả mấy tiếng đồng
hồ. Chiều anh, Dung để Ứng tắm. Những ngày đầu, Ứng
chỉ quanh quẩn gần bờ, dần dà anh bơi xa hơn. Anh nói
với Dung rằng được vùng vẫy ngoài xa, anh cảm thấy
thanh thản thoải mái hơn. Cô y tá đủ thông minh để
nhận ra anh này đang đánh lừa mình. Từ đó, cô không
đưa anh đi biển nữa. Cô nói thương bệnh binh về nhiều
nên cô không thể đi xa. Cô chỉ có thể dẫn anh đi dạo
quanh bệnh viện. Một hôm, đang cùng Dung dạo trên mặt
đường, Ứng bỗng nghe tiếng ôtô sầm sầm lao tới. Ước
lượng đúng cự ly xe sắp tới ngang mình, Ứng lao ra mặt
đường. Bàn tay dịu dàng của cô gái lúc đó bỗng cứng
như một gọng kìm. Dung níu áo anh kéo giật lại. Anh ngã
kềnh bên một bụi rậm. Tối hôm đó, Dung đến ngồi
cạnh Ứng rất lâu, cô nói với Ứng rằng: Khoa học đang
ngày càng một phát triển. Khả năng chữa sáng cho người
mù chẳng bao lâu nữa. Lúc đó Dung sẽ tự nguyện san cho
anh một con mắt.
Đêm ấy chắc đã khuya lắm.
Ứng đoán vậy, thời gian đối với người mù rất vô
nghĩa. Bỗng chợt từ đâu đó vang lên những tiếng hát
éo ẹo. Khó phân biệt người hát là nam hay nữ. Bài
"Suối Lênin" vốn là bài hát anh thích. Vớ phải
người không biết hát thành ra chối tai. Ứng hỏi Dung:
- Ai hát mà nghe buồn cười vậy cô?
- Anh Phương
đấy! Xạ thủ 12 ly 7 ở chiến trường ra. Anh Phương bị
thương, nặng hơn anh nhiều. Hai mắt anh không còn, hai tay
bị cụt. Hàm của anh bị một viên đạn làm gãy xương.
Các cô phục vụ phải đánh răng rửa mặt cho anh ấy. Đi
đái đi ỉa phải cởi quần cho anh ấy. Vậy mà tích cực
học hát ghê lắm. Từ hôm về đây, thuộc đến mười
bài hát rồi. Anh cũng phải học tập anh Phương đi thôi.
Kế hoạch của em là thế này: Bắt đầu từ ngày mai, em
sẽ kiếm giấy bút cho anh tập viết tập vẽ. Rồi anh sẽ
thấy khuây khỏa và sẽ làm được tất cả cho mà
xem...
Những đêm sau đó, Ứng nằm mơ thấy một cô
tiên xinh đẹp từ trời gieo xuống, cho ưng một đôi mắt
ứng viết vẽ bình thường. Nhưng đấy là giấc mơ, còn
sự thực thì gian khổ biết bao nhiêu, ngày nào anh cũng
nhờ Dung đứng xem hộ. Có hôm anh mải mê viết năm sáu
trang liền. Anh đưa Dung đọc, Dung cười rũ rượi. Thì
ra trên giấy chỉ là những nét miết của ngòi bút không
ra mực. Ứng còn giữ được một tập ghi chép trong thời
kỳ đó. Chữ chẳng ra hàng ra lối, lúc lên dốc lúc
xuống dốc, lúc ríu vào nhau như một đàn kiến chạy
lụt. Nhưng đấy cũng chỉ là giai đoạn đầu. Sau đó
anh viết khá hơn. Thời kỳ này anh ghi được đến năm
tập nhật ký.
Tôi đã mượn được trọn vẹn
những tập nhật ký của Lê Duy ứng viết thời gian anh
bị mù. Xin phép anh được trích một vài đoạn trong
những tập nhật ký này.
Ngày ... tháng ... năm ...
Trang danh sách đi điều trị ở tuyến cao hơn, tôi được
chuyển đi 108. Dung nói với tôi: "Thích nhé, chuyến
này anh gặp chị Lê rồi". Tôi không nói gì. Câu nói
ấy chỉ gợi trong tôi nỗi xót xa. Những ngày biết chắc
đôi mắt mình không thể sáng được nữa tôi đã phải
luyện đầu óc rất dữ. Tôi cố quên Lê đi. Khi lên máy
bay. Dung thì thọt bên tai tôi: "Cầu thang khó đi lắm,'
anh để em cõng". "Không sao đâu, có cô dìu thế
này lên trời còn nổi nữa là", "Anh không muốn
chiều em sao? Em cũng chỉ được gần anh vài tiếng nữa
chứ bao nhiêu". Dung nói vậy còn nỡ nào từ chối.
Đây quả là một cô tiên trong đời tôi. Sau này tôi còn
mơ nhiều về cô tiên của tôi.
"Ngày ... tháng
. . . năm . . . Khi chiếc trực thăng bay qua vùng trời Hà
Nội. Tôi nghe tiếng reo: "Cầu Long Biên kia rồi! Tôi
chợt mủi lòng. Nỗi buồn lại dậy lên từ đấy. Mới
một tháng trời chứ đâu xa, tôi còn cùng với Lê đạp
xe trên cầu này đến thăm một người bạn quen. Từ trên
cầu, tôi còn nhìn thấy nước sông Hồng sánh lên một
màu vàng mịn và đôi bờ xanh chóng mặt những vạt rau
đang thời vụ. Xa xa nữa là những chiếc thuyền dong trôi
bồng bềnh. Trên cầu người hối hả xuôi ngược chật
như nêm. Lúc đó Lê hỏi tôi: Anh Ứng chưa có bức vẽ
nào về cảnh này?". - "Sẽ có" – tôi đã
nói với Lê như thế. Tôi đâu chỉ nói cho Lê vui lòng.
Chao ôi! Sẽ không bao giờ có một bức tranh như thế nữa
rồi.
Một thoáng bi quan lại trùm lên đầu tôi. Giá
như từ trên máy bay tôi được phép lao xuống dòng sông
kia... về đến bệnh viện, tôi vẫn không sao khuây khỏa
được, nhưng lỗi lầm có ý định không hay tôi lại
nghĩ đến cô tiên của tôi. Tôi đã tập viết. Cô
tiên đã giúp tôi viết được. Tôi đang tập vẽ, khó
khăn lắm nhưng rồi biết đâu sẽ vẽ được".
"Ngày
... tháng ... năm .... Để không chết chìm chết đắm vào
nỗi buồn tủi, tôi lao vào làm việc. Thường những bức
vẽ, tôi phải nhờ người khác nhìn hộ. Họ không chê
không khen là tôi biết bức tranh dở lắm rồi. Họ không
muốn nói rõ đó thôi. Vậy là cả trong công việc tôi
cũng không có niềm vui. Một hôm, bác sĩ Đoàn Xuân Trà
đứng xem tôi vẽ bỗng thở dài. Cái thở dài ấy gieo
vào lòng tôi một nỗi buồn vời vợi. Bác sĩ cầm lấy
bàn tay tôi bóp bóp và nói: "Đừng buồn Ứng ạ. Bàn
tay của Ứng nhạy cảm lắm. Mình biết ở Liên Xô có
một phụ nữ mù nhưng nặn tượng rất giỏi. Ứng thử
chuyển sang nặn tượng xem”. Khuyên như thế tức là bảo
tôi đừng vẽ nữa. Vậy thì tôi chỉ còn một công
việc khác để thử sức mình là nặn tượng. Tôi nhờ
các bạn ở trường Mỹ thuật mang cho tôi một ít đất
sét. Tượng đầu tiên tôi tập là tượng Bác. Ấn tượng
về Bác in sâu trong trí não, giúp tôi tạo được hình
khối dễ dàng. Lẽ dĩ nhiên trong nghệ thuật không thể
có sự chiếu cố. Vẽ hay nặn tượng phải biểu hiện
được tài năng ở những đường nét. Tôi chau chuốt thể
hiện những đường nét đó. Nặn xong bức tượng, tôi
chưa muốn ai xem. Ban đêm, khi mọi tiếng động đã tắt,
tôi mang tượng ra hành lang phơi gió, định bụng khi có
tiếng gà gáy sẽ cất đi. Không ngờ tối đó tôi ngủ
say quá. Một vài người đã dậy mà tôi vẫn không hay
biết gì. Bỗng có tiếng gắt gỏng trong phòng. Tôi bừng
tirnh, nhận ra giọng của đồng chí bảo vệ bệnh viện:
-
Đồng chí Ứng...Đồng chí nặn gì thì nặn, không được
nặn tượng Bác Hồ. Ai lại nặn tượng Bác Hồ thế
này.
Tôi hốt hoảng. Sao ông này lại cấm mình nặn
tượng Bác? Tôi nhận bức tượng trên tay bác bảo vệ,
rờ lên những đường nét, tay tôi bật run cầm cập, bức
tượng to bè thấp lùn. Tôi thuốn thét lên: “Có kẻ
phá!”. Chỉ có kẻ hại tôi mới làm bức tượng dị
dạng thế này.
- Ai phá? Tôi tự kiểm tra. Ở bệnh
viện này, tôi có làm gì để ai oán giận đâu? Mà oán
giận tôi sao lại làm dị dạng tượng Bác? Không có lý.
Có sự cố gì đó thôi. Thất vọng làm cho màng đen bao
bọc quanh tôi như dày thêm. Tôi hẫng hụt chơi vơi trong
mông lung của đêm trường. Tôi ước ao đến cháy lòng,
một giây thôi, mắt tôi được lóe sáng để biết được
nguyên do của sự trớ trêu này. Tôi lại lần tìm trên
bức tượng. Các đường nét bị dồn cục thô chướng.
Thôi rồi. Đây là kết quả của việc tôi nặn đất
ướt. Khi se khô, bức tượng dần dà tụt xuống. Bao
nhiêu công sức thế là trôi sông, trôi biển. Khi đã tìm
ra nguyên nhân, niềm hy vọng trong tôi lại lóe lên. Bác
bảo vệ vẫn nói róng riết:
- Thôi đừng nặn nữa,
mù còn nặn gì được. Lấy vợ đi. Về nuôi gà, nuôi
lợn giúp vợ là được rồi.
Tôi không thể nói gì với bác bảo vệ. Bác đâu
có hiểu được lòng tôi. Giữa tôi và bác là một khoảng
cách lớn về ước mơ, về lý tưởng. Tôi chỉ buồn.
Nặn tượng tôi cũng bó tay rồi chăng? Cái khó khăn nhất
của tôi lúc này là sự xét đoán. Mỗi bức tượng được
nặn ra lấy gì làm chuẩn thước đánh giá sự thành bại.
Mình chỉ có sự cảm nhận ở đôi tay, ở tâm hồn.
Nhưng nó: đôi mắt lại phán xét sự cảm nhận đó. Sau
sự việc này, tôi quyết định làm việc vào ban đêm. Sẽ
không ai ngó ngàng khi tôi nặn tượng nữa. Thành hay bại
chỉ mình tôi biết thôi. Tôi lại làm việc, lại sửa
chữa, trao gởi vào tượng tất cả sức lực của mình.
Nặn tượng mà không nhìn thấy gì, lại giấu giếm cả
mọi người, vậy thì nặn để làm gì đây? Kệ, tôi cứ
nặn, cứ hy vọng. Hy vọng để sống, không thể sống mà
không làm việc, lần này tôi chọn loại đất khô hơn.
Nặn xong, tôi để nằm xuống. Tôi nặn tượng Bác, tượng
các chiến sĩ, đã ghi sâu khắc cốt trong tâm khảm của
tôi. Một đêm, đang mê mải làm việc, tôi giật thót
nghe công tắc điện đánh "tách" và một tiếng
quát:
- Ai cho anh làm việc ban đêm?
Tôi trấn tĩnh,
nhận ra tiếng cô Xuân. Chắc là ca trực đêm của Cô.
-
Khốn nạn, tôi mù thế này, đêm với ngày có nghĩa lý
gì.
Nhưng sao anh không làm ban ngày. Anh không chấp
hành, tôi sẽ báo cáo viện trưởng. Đây là quy định
chung của bệnh viện. Ơ, anh này mù mà nặn được nhiều
tượng đẹp quá hí.
Ấy thế rồi chính Xuân
là người phá mọi quy định. Cô ơi ới gọi mọi người
đến xem tượng của tôi. Thấy mọi người tấm tắc
khen, tôi biết tôi đã vượt qua được cửa ải đầu
tiên. Bây giờ thì tôi không sợ nữa. Tôi có thể nặn
tượng ban ngày. Tin có người mù nặn được tượng lan
nhanh trong bệnh viện. Mỗi lần làm việc, tôi biết xung
quanh tôi có nhiều người xem. Một hôm, đang nặn tượng,
tôi quờ tay sang bên cạnh, và đụng phải một người
nào đó. Tay tôi đang bê bết đất tôi vội hỏi:
- Ai
đó, xin lỗi nghe?
- Võ Nguyên Giáp đây, Ứng nặn tượng
khá lắm. Tôi đến thăm Ứng với cương vị là đồng
hương của nhau. Tôi yêu hội họa, cũng rất yêu âm nhạc
Ứng ạ. Trong âm nhạc tôi rất thích Bettôven. Những bài
hay nhất của ông: từng biết được sáng tác lúc nào
không? Lúc ông bị điếc.
Chia tay Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, tôi cứ xúc động mãi. Đêm nằm thao thức
không ngủ được. Rõ ràng không có tài, không có chí mới
trở thành người vô dụng. Tôi nhận ra những lời khen
của mọi người chỉ cốt động viên. Cả sự rùm beng
của một vài bài báo về những bức tượng của tôi chỉ
là phục vụ cho một ý định gì đó. May thay, tôi chưa
"hếch" mũi lên. Chưa đặt đít lên chiếc máy
bay giấy. Lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ
là động viên mà còn là đòi hỏi rất gay gắt ở chính
mình nữa đây. Thời gian sau đó tôi làm việc bất kể
ngày đêm. Tôi không chỉ nặn mà còn đục tượng
gỗ. Những ngày đầu, lưỡi đục xấn cả vào ngón tay,
máu chảy ròng ròng. Tôi biết, người sáng muốn có một
bức tượng tốt còn mướt mồ hôi huống chi kẻ
mù...
Tôi đã được xem hai quyển sổ với những
lời ghi cảm tưởng của hàng vạn người xem trong các
cuộc triển lãm tranh tượng của Lê Duy Ứng. Chỉ tính
trong thời gian bị mù anh đã làm đến năm mươi tượng.
Có thể trích ra đây đến vô tận lời của các lãnh tụ
cấp cao, của những họa sĩ, những nhà điêu khắc, những
trí thức, những nông dân, những sinh viên, học sinh, các
cháu nhỏ. Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Phạm
Văn Đồng viết: “Chúc thành công lớn của nghệ sĩ Lê
Duy Ứng". Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghi: “xem những
bức tranh, những pho tượng của nghệ sĩ Lê Duy Ứng, tôi
rất cảm phục. Người đều có thần, cảnh đều có
hồn. Cả đất nước đang đứng lên sống và chiến
đấu vì lý tưởng cao đẹp của Bác Hồ và của Đảng.
Chúc Lê Duy Ứng với tâm hồn trong sáng hiếm thấy và
tài nghệ trong nhiều thể loại có những tác phẩm lớn".
"Tinh thần phấn đấu đã tạo ra trình độ nghệ
thuật hội họa và điêu khắc cao. Chúng ta rất xúc động
về sự cống hiến của nghệ sĩ cho nghệ thuật".
(Lời của giáo sư Thượng tướng Hoàng Minh Thảo). Họa
sĩ Văn Đa ghi: "Anh từng vẽ bằng tâm hồn. Tranh anh
giản dị và đôn hậu do đó để lại trong tôi một ấn
tượng đẹp đáng yêu đáng quý. Là đồng nghiệp cùng
đơn vị với anh: chúc anh ngày càng có nhiều tác phẩm
đẹp hơn... ".
Cũng trong hai cuốn sổ dày cộp
chi chít những dòng chữ như vậy tôi thấy có nhiều ảnh
mầu, anh chụp chung với các đồng chí: Phạm Văn Đồng,
Võ Chí Công, Đỗ Mười, Võ Nguyên Giáp, Lê Khả
Phiêu, Đặng Vũ Hiệp... trong ảnh có cả chị Lê, cháu
Đông Hà và Thu Hà. Tôi nói với Ứng:
- Chắc cái tổ
ấm hạnh phúc này cũng là một trong những nguyên nhân
giúp anh thành công trong điêu khắc và hội họa.
- Đúng
thế - Ứng cười rất đỗi tự hào. Thời gian tôi đục
được nhiều tượng nhất là thời gian tôi cưới Lê, về
ở hẳn nhà Lê. Lê chăm sóc tôi, cổ vũ tôi rất nhiều.
Vậy mà rất nhiều lần tôi đã trốn chạy tình yêu của
Lê.
- Vì sao vậy? Tôi hỏi.
- Đơn giản là tôi không
muốn mình là gánh nặng của Lê. Không biết ai bảo Lê
đến thăm tôi ở bệnh viện 108. Tôi nói thẳng với Lê:
"Giữa chúng ta không còn gì nữa đâu. Lê đi tìm
người khác đi thôi". Sau đó chúng tôi còn giận
nhau, cãi nhau rất nhiều buổi nữa. Lần cuối cùng Lê
nói với tôi thế này:
- Anh không lấy em, anh cũng sẽ
có một người vợ. Nhưng anh sẽ rất thiệt thòi là
không được nhìn thấy người ấy. Với em, dù sao anh
cũng đã nhìn thấy mặt mũi, vóc dáng. Con cái sau này dù
anh không nhìn thấy anh vẫn hình dung ra nó giống em hoặc
giống anh, hoặc giống cả hai người. Lấy người vợ
khác anh mất luôn cả điều ấy.
Lê nói vậy thì
được quá phải không anh? - Ứng hỏi tôi và ngồi dậy
định kết thúc buổi nói chuyện. Tôi chưa kịp trả lời,
cháu Thu Hà đã sà vào lòng Ứng vui vẻ:
- Được quá
đi chớ bố!
- Ồ, cái con chít, mày biết gì? - Nói vậy
nhưng anh lại cười như bằng lòng với lời của con gái.
- Cháu nói đúng đấy anh ạ. Được quá. Chỉ xin hỏi
anh câu cuối cùng: Với cuộc sống hiện tại anh có gì
phàn nàn không?
- Của riêng tôi thôi phải không? Chả
có gì ngoài sự còn nghèo. Anh thấy đấy. Vợ tôi đi làm
bữa đực bữa cái vì cơ quan không đủ việc làm. Đồng
lương thiếu tá của tôi gần như phải bao toàn bộ gia
đình.
- Vậy sao anh không xin ra ngoài? - Tôi hỏi. Không
bao giờ. Trừ phi quân đội không còn sử dụng mình nữa.
Ứng quả quyết - Sau khi bác sĩ Nguyễn Trọng Nhân dùng
mắt tử thi ghép vào mắt hỏng bên phải của tôi,
trả lại cho tôi ánh sáng, việc đầu tiên là tôi xin
được trở lại quân đội. Tôi không thể làm khác. Con
đường mình đã tự chọn vẫn hoàn toàn đúng. Đã đúng
còn phải rẽ ngang rẽ tắt làm gì? Thái độ cửa Lê Duy
Ứng thật quyết liệt. Thái độ đó đúng và cần thiết
cho những ai đang băn khoăn trăn trở trên con đường
chiến đấu cho lý tưởng cua mình. Thành công thất bại
của một đời người, của một dân tộc đôi khi cũng
chỉ tùy thuộc ở thái độ này. Lê Duy Ứng đã thành
công trong sự nghiệp bởi ngay khi mù loà ánh sáng niềm
tin trong anh cũng chưa bao giờ tắt.
Hà Nội, ngày 9 tháng 8 năng 1990
N.B.
KHUẤT QUANG THỤY
TIỆC LÍNH
Truyện ngắn
Kính tặng các chiến sĩ Binh đoàn Hương
Giang
Con đường đất đỏ sục bụi vần lên
như một dòng sông mây đỏ rực. Hãn vừa đánh nhẹ tay
lái, tránh một cái ổ gà vừa văng tục: "Bố khỉ?
Sao lại đi sau mấy cái thằng kéo pháo này cơ chứ!".
Trung đoàn trưởng Thịnh ngồi ở ghế trước, úp chiếc
mũ mềm vào mặt che bụi, nghe thấy vậy liền bật cười
lớn "Tại cái xe thổ tả của cậu đấy chứ. Nửa
tiếng mới nổ được, chậm chân hít bụi là đáng đời
rồi”.Hãn nhăn nhó vặc lại: "Đâu phải tại tôi?
Tại cái xe đã sắp về hưu rồi mà cấp trên vẫn thải
xuống cho trung đoàn ta đấy chứ. Suốt đợt diễn tập
chưa phải nghỉ đường ăn cơm với khỉ lần nào là còn
khá đấy".
Quả có thế thật, cấp trung
đoàn xưa nay chỉ có ngồi ca bin xe tải đi họp mà thôi.
Nay được trang bị cái "oát" chỉ huy, dù có ghẻ
lở cóc cáy cũng thơm chán. Ở binh đoàn này đâu phải
trung đoàn nào cũng được cấp xe chỉ huy. Ư tiên đấy.
Mà trong giấy tờ vẫn chỉ ghi là "tạm thời trang
bị”, nghĩa là bất cứ lúc nào cấp trên vẫn có quyền
lấy lại, chứ đâu phải chuyện đùa!
Ngồi ở
phía sau, các sĩ quan trong ban chỉ huy trung đoàn lèn chặt
như nêm. Đó là tất cả những thằng "hoàn chỉnh”
nhất, chưa có xe máy thì mới phải bám càng xe của chỉ
huy trung đoàn, chứ cãi bọn ,'lính nhà giàu', chúng nó vi
vu cúp kích vọt về trước cả rồi. Tuy đông, chật
nhưng vui. Vui vì nhiệm vụ diễn tập đã hoàn thành,
trung đoàn được cấp trên xếp loại giỏi về chiến
thuật. Các phái viên của Bộ về kiểm tra dù tiết kiệm
lời khen, cũng phải nhiều lần biểu dương Trung đoàn 6.
Thế là được rồi. Với Thịnh cuộc diễn tập này còn
có ý nghĩa đặc biệt. Anh vừa về nhận chức trung đoàn
trưởng được ba tháng. Với cấp trên đã đành, nhưng
điều anh ớn nhất là những cái nhìn của cán bộ chỉ
huy cấp dưới và trợ lý cơ quan. Từ ba tháng nay, những
cái nhìn ấy vẫn bao hàm ý nghĩa "chờ xem ra làm sao
đã". Cuộc diễn tập này thành công tốt đẹp, coi
như anh đã vượt qua thời kỳ thử thách và được chính
thức thừa nhận là một trung đoàn trưởng “đời mới"
xứng đáng với truyền thống của Trung đoàn 6, một
trung đoàn có "thâm niên" chiến trận rất oanh
liệt, có mặt trong hầu hết những chiến dịch quan trọng
nhất trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
từ Quảng Trị đến tận thành phố Hồ Chí Minh. Anh
thuộc vào lớp chiến sĩ có cái may mắn là kịp có mặt
trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Đầu mùa xuân năm 1975 anh được bổ sung cho
chính trung đoàn này, chưa kịp biết mặt biết tên hết
đồng đội và các cấp chỉ huy đơn vị thì trung đoàn
đã vào chiến dịch, rồi cứ cuồn cuộn cuồn cuộn mà
tiến sâu vào chiến trường vừa đánh vừa đi cho đến
tận ngày 30-4. Khi anh vừa làm quen được với khói lửa
đạn bom thì cuộc chiến tranh cũng chấm dứt. Anh trở
thành một trong những người lính vinh dự được có mặt
ở cái đích cuối cùng của cuộc chiến. Trung đoàn trở
thành một đơn vị anh hùng. Còn anh, sau cái ngày vinh
quang ấy ít lâu thì được cấp trên cử đi họe sĩ
quan. Từ đó, anh cứ học miết, hết trường này đến
trường khác, hết trong nước lại ngoài nước, cách đây
bốn năm anh mới thoát khỏi kiếp học đường để về
chỉ huy một tiểu đoàn bộ binh cơ giới của sư đoàn
bạn. Anh đã nhanh chóng trở thành một tiểu đoàn trưởng
giỏi. Và rồi, đùng một cái, anh được điều thẳng về
"trung đoàn của mình” làm trung đoàn trưởng. Điều
đó khiến anh vừa mừng, vừa lo. Mừng vì được trơ về
trung đoàn cũ, một đơn vị có truyền thống vẻ vang. Lo
vì anh sợ mình quá sức: Nếu như cấp trên điều anh về
làm chỉ huy một trung đoàn khác, có lẽ anh không lo lắng
nhiều đến như vậy. Vừa về tới trung đoàn, anh giáp
mặt ngay với Đề, người sẽ là phó trung đoàn trưởng
của anh, người cùng một "xê ry 75", với anh
nhưng khác anh. Đề hầu như liên tục có mặt ở trung
đoàn từ dạo đó đến nay, tham gia rất nhiều trận đánh
ác liệt trên đất bạn Campuchia và cả biên giới phía
Bắc. Đề chỉ rời trung đoàn một năm để đi học một
lớp bổ túc. Tóm lại, Đề dày dạn hơn anh rất nhiều.
"Cậu về đây là rất hay - Đề nói ngay khi hai người
vừa tay bắt mặt mừng - những kiến thức cơ bản của
cậu cộng với kinh nghiệm của tớ nhất định sẽ làm
cho trung đoàn ta mạnh lên rất nhanh". Tuy vậy phải
qua cuộc diễn tập thực binh này, anh mới thực sự tự
tin ở khả năng của mình.
Ở phía sau, mọi người
vẫn đang ồn ào cười nói. Thế - trợ lý tác chiến hét
rất to:
- Hôm nay là thích hợp nhất. Không, nhất định
hôm nay ông Đề phải khao.
- Đúng rồi. Hôm nay thôi.
RTC đấy nhé?
Thịnh cũng quay xuống tuyên bố.
-Lên
kế hoạch rồi. Ra đến thị trấn: có quán cầy tơ nào
thì dừng lại, Hãn nhé.
- Hôm nay mới mồng bốn thôi,
các thầy ạ - Hãn cằn nhàn - ăn bậy ăn bạ có ngày
chết.
- Thằng này mê tín bỏ mẹ? Thôi được, sẽ
cho cậu suất ăn chay, kiêng. Được chưa?
- Này... này
- Bấy giờ mới nghe, Đề lên tiếng – ông Thịnh này
... Trong túi tôi chỉ còn hơn chục ngàn thôi đấy? Để
khi khác đi?
- Tớ sẽ cho cậu vay - Thịnh đập cái mũ
bịt mồm vào thành xe - Khi nào cái Tuyết nó bán lợn, về
lột của nó mà trả. Hay kỳ này về móc túi ông bố vợ
cậu ấy.
- Cứ lấy béng một tháng lương hưu của
ông đại tá là đủ chứ gì. Coi như phạt cụ can tội
gả con gái cho lính. Được chưa? Nếu cụ gây khó khăn,
cứ cho lính về đánh béng dăm cây quất đem ra hà Nội
bán là ăn đủ! Hả?
- Cần gì - Cậu trợ lý tác chiến
lại lên tiếng – Anh Đề về lần này cứ dọa đưa chị
Tuyết và thằng Cún lên "lập nghiệp" ở trên
này là khắc cụ phải hối lộ ngay thôi mà!
- Thôi
được! Xong. Coi như phương án tài chính đã được duyệt
- Đề hăng hái tuyên bố - Tớ sẽ khao và ông Thịnh sẽ
trả tiền!
Chuyện phó trung đoàn trưởng Đề lấy
vợ cũng là một trong những "giai thoại" chắc
chắn sẽ còn được nhớ lâu ở Trung đoàn 6. Hồi đó
anh còn là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1. Ba mươi tám
tuổi, chưa vợ. Nói cho đúng ra, anh đã thử lấy vợ một
lần, nhưng ăn hỏi xong thì phát hiện ra cô dâu đã có
mang được ba tháng. Hú vía! Từ đó đi tìm hiểu cô nào
anh mắc cái tật hay nhìn vào bụng người ta và... hay hỏi
tọc mạch. Thành thử ra, các cô gái tử tế đứng đắn
thấy vậy đều lảng. Còn những cô có “bản lĩnh"
hơn một chút thì chính anh lại sợ họ. Ông Kiệt, hồi
đó còn là sư đoàn trưởng, mỗi lần xuống kiểm tra
tiểu đoàn, thường nói vui với Đề "Này, thôi cậu
làm rể tớ đi cho rồi. Con gái tớ năm này mười tám
tuổi rồi, nó đang học sư phạm mẫu giáo. Chỉ sang năm
ra trường là có thể cưới được"
Đề vái
ông sư đoàn trưởng mà rằng: "Con lạy bố ạ? Bố
chỉ cần một vai thủ trưởng, con đã đủ bở hơi tai
rồi. Dại gì con lại trao thân cho bố vai bố vợ nữa,
để con ra bã à?".
Câu chuyện tưởng chỉ nói đùa cho vui đời lính
thôi ai ngờ năm sau quả nhiên thành sự thật.
Hồi
đó, lính tiểu đoàn 1 toàn là lính cậu Hà Nội, phá như
quỷ. Một lần tụi nó ăn cắp thuốc nổ ra sông đánh
cá, một cậu bị tai nạn bay mất một bàn tay. Sư đoàn
lập tức triệu tiểu đoàn trưởng Đề lên để làm
kiểm điểm. Ai cũng nghĩ phen này ông Đề ra tóp. Đề
lên nhà khách của sư đoàn nằm đã hai ngày chẳng thấy
ai ngó ngàng gì đến đã sốt ruột, lại điên tiết lên,
Đề quyết định xộc thẳng vào nhà sư trưởng.
Ra
sao thì ra, cho xong đi chứ. Cái án cứ cù cưa như dao cùn
cứa cổ thế này, chịu sao nổi. Anh tới phòng riêng của
sư trưởng vào lúc bảy giờ tối, đinh ninh giờ này chắc
cụ Kiệt đang ngồi xem ti vi, có thể gặp được. Ai
ngờ... khi anh vừa xộc vào nhà thì thấy một cô gái đẹp
như tiên sa đang ngồi hí hoáy vẽ chim vẽ cò gì đó trên
cái bàn làm việc của sư trưởng. "Này? Sư đoàn đổi
mới thật? Có công vụ nữ từ bao giờ thế này?"
Nghĩ vậy, anh liền hắng giọng rồi hỏi: "Này đồng
chí lính mới? Thủ trưởng đâu rồi?". "Dạ...
cháu ... cháu không"... cô gái lí nhí đáp, có vẻ hơi
hoảng trước sự xuất hiện đột ngột của một anh
chàng to cao lừng lững như một ông hộ pháp.
- Này,
xưng hô cho đúng điều lệnh nhé!. Quân đội chính quy
hiện đại, không có chú cháu gì hết nhé.
- Dạ...
nhưng cháu ... cháu là ... cháu...
- Cháu? Cháu cái gì.
Tôi hỏi sư đoàn trưởng có nhà không?
- Dạ ...
không... cháu ...
- Lại cháu! Ấm ớ hội tề. Cụ Kiệt
nghiêm khắc lắm kia mà. Thì ra bố già này chỉ nghiêm
với cánh con trai chúng tôi thôi, phải không? Còn với các
nữ quân nhân, xem chừng cụ cũng uyển chuyển lắm,
hả?
- Ai cho phép cậu phê bình thủ trưởng,
hả.
Một giọng trầm vang lên ở phía sau khiến anh
giật bắn người. Không dám quay lại, anh đập gót đứng
nghiêm, báo cáo sư trưởng đại úy Nguyễn Xuân Đề,
tiểu đoàn trưởng xin phép được gặp sư đoàn trưởng
mười phút.
Cô "nữ quân nhân" nhìn thấy
sự thay đổi bộ dạng quá đột ngột của anh liền phá
lên cười. Tiếng cười của cô thật giòn và trong trẻo
khiến anh vô cùng lúng túng.
Sư đoàn trưởng tiến
lên vài bước, đứng ngắm cái dáng cứng ngắc của anh
và cũng phá lên cười ha hả rồi ôn tồn bảo: "Thôi
nào? Ngoài giờ. Tớ đang mặc thường phục đây mà. Ngồi
xuống đấy đi". Rồi ông quay sang cô "nữ quân
nhân" vẫn đang che miệng cười khúc khích. "Tuyết,
đi pha trà cho bố đi con". Anh tiểu đoàn trưởng bỗng
kêu "a" lên một tiếng, rồi bất động. Sư
trưởng Kiệt nháy mắt hỏi: "Sao? Cậu ngạc nhiên
hả? Con gái tớ đấy mà".
Mặc dù bất ngờ,
nhưng Đề đầu óc nghe chừng vẫn tỉnh táo, và máu
"quậy" trong anh đã kịp trỗi dậy.
- Trời
ơi! Nhưng đã có bao giờ bố nói con gái bố xinh đẹp
thế này đâu cơ chứ?
Sư đoàn trưởng Kiệt lại bật
cười lớn:
- Thế nào? Cậu đã hối hận rồi phải
không?
- Về chuyện gì cơ ạ ? Việc mấy đứa đánh
cá bị bay tay thì tôi đã viết kiểm điểm đưa cho phòng
tham mưu rồi. Ngồi chờ đã hai ngày nay, tôi sốt ruột
quá nên mới bò vào đây. Thủ trưởng định kỷ luật
tôi thế nào thì làm liền đi cho rồi. Chờ đợi,
căng thẳng, tôi phát rồ lên mất.
- Về việc đó sáng
mai tôi và tham mưu trưởng sư đoàn sẽ làm việc với
cậu. Kỷ luật là dĩ nhiên rồi.Quyết định phong quân
hàm thiếu tá của cậu đã có rồi, nhưng... trước mắt
phải treo lại cái đã. Vừa rồi,mình hỏi cậu có hối
hận nhưng là hỏi về việc khác kia - Ông khẽ nháy mắt
hất hàm về phía con gái đang loay hoay bên ấm trà - Tôi
đã cho cậu cơ hội, nhưng cậu đã để lỡ mất rồi
...
- Lỡ rồi à? Anh tiểu đoàn trưởng ngơ ngẩn hỏi
lại.
- Là tớ đoán thế. Ai mà biết được - ông lại
nháy mắt thêm một lần nữa.
- Cái đó thì... thủ
trưởng phải biết chứ ạ?
- Có giời biết? Về việc
này tớ không có quyền can thiệp.
- Trời ơi! Một việc
tày đình như thế... thủ trưởng cứ là phải quyết
ngay!
- Cậu này láu cá thật! Thế tại sao khi tớ gợi
ý, cậu lại sợ rằng tớ có thêm một vai nữa để trị
cậu.
Đề nhăn nhó cười:
- Nhưng... nếu ... nếu
tôi biết... mẫu mã thế này thì... chết tôi cũng
chịu.
Cô con gái yêu của sư trưởng bỗng lên tiếng.
-
Bố và chú xơi nước đi ạ. H ai cụ ... nói chuyện gì
mà nghe bí hiểm thế ạ?
- À... - Ông bố cười xòa -
là cái chuyện... cái con bò ở dưới tiểu đoàn 1 ấy
mà! Này con, anh này là thủ trưởng của cậu Toán con dì
Hà đấy.
- Thế ạ - Mắt cô bỗng sáng lên. - Toán nó
ở gần đây không ạ?
- Gần thôi - Ông sư đoàn trưởng
lại nháy mắt với Đề - Ngày mai, bố sẽ cho con đi cùng
với anh tiểu đoàn trưởng này xuống đơn vị thăm nó.
Con đi chứ?
- Dạ ...- Thế thì may quá. Có một lô thư
của bạn nó gửi cho nó đấy bố ạ. Dì Hà cũng gửi
quà cho nó nữa. Thưa chú ... Toán nó có khỏe không ạ?
-
Ờ khỏe!Cậu ấy chơi đàn ghi ta hay lắm phải không?
-
Dạ ... phải đấy ạ. Nhưng... phải cái nó hay nghịch
ngợm nữa.
- Đúng... hay nghịch. Nhưng may mà vừa rồi
nó không dính vào cái vụ đánh cá đấy. Thưa thủ
trưởng, Toán nó là người nhà ... mình... sao thủ trưởng
không để nó ở trên sư bộ cho đỡ.
- Cái cậu này...
láu cá thật - Ông Kiệt bỗng mỉm cười - Nếu nó ở
trên này thì cậu còn khuya mới có được cơ hội. Nói
rồi ông vỗ vai anh cười.
Đề chợt hiểu ra cũng
phá lên cười. Dĩ nhiên cô con gái của sư trưởng cũng
không biết vì sao mà họ cười vui vẻ đến thế.
Hôm sau, Đề nhận cái "án"
kỷ luật một cách "ngon lành". Quả đắng ấy sở
dĩ dễ nuốt vì anh cũng chỉ còn nghĩ đến việc chiều
nay sẽ được cùng Tuyết về đơn vị. Anh đã quyết
rồi, chết thì chết, lần này anh cũng liều.
Cuối
năm ấy Đề trở thành con rể sư đoàn trưởng. Nhưng có
lẽ số anh không được làm rể ông lớn nên vừa cưới
chồng cho con gái xong thì ông Kiệt nhận quyết định về
nghỉ hưu. Nhà ông ở ngoại thành Hà Nội, có nghề trồng
hoa ươm cây cảnh nên ông về hưu nhưng vẫn sống rất
thanh thản, phong lưu. Chỉ hiềm vì ông có mỗi một cô
con gái nên Đề phải chấp nhận để vợ sống với bố
mẹ. Kể ra như thế cũng là điều may cho anh, vì gia đình
anh đông anh em, mỗi người đã mỗi phần, bố mẹ anh
cũng đã qua đời cả rồi: nếu có đưa vợ về quê thì
cũng lại phải bắt đầu từ hai bàn tay trắng.
Trước
khi bước vào cuộc diễn tập này, anh nhận được điện
của ông Kiệt báo tin vợ anh vừa sinh con trai. Lính trung
đoàn 6 nói, ông Đề chậm mà chắc, rồi lại nói anh là
"bìm bịp bắt gà cả bu”. Mặc kệ chúng nó. Nói gì
thì nói anh đang là người hạnh phúc nhất trung đoàn.
Hãn
cua một vòng rất điệu nghệ rồi đỗ xịch trước tấm
biển "A! Đây rồi ... " từ trên xe lần lượt
chui ra hơn chục chàng sĩ quan, anh nào anh nấy đều đỏ
quạch vì bụi đường. Trung đoàn trưởng Thịnh ngạc
nhiên hỏi Đề:
- Quái? Sao mà nhét được lắm người
thế nhỉ? Những mười hai thằng. Ông chủ quán này hôm
nay phát tài rồi!
- Này... - Đề ghé vào tai Thịnh nói
lào phào – Liệu mà gọi nhé. Tôi không có tiền thật
đấy.
- Nhưng cậu vẫn còn con Senkô chém cạnh đó
thôi. Ăn hết cái ấy là mệt!
- Anh đừng có đùa! Đó
là quà tặng của cô Tuyết đấy đem cắm quán thì tôi
toi đời!
Cả bọn ào ào kéo vào nhà hàng. Một bà
sồn sồn và một cô gái quãng hai chục tuổi, không xinh
nhưng giòn và có duyên đon đả chạy ra.
- Chào các
chú! Mời các chú vào phòng trong này.
Cô gái hối hả
dọn bàn rồi bê ra một thau nước.
- Mời các chú rửa
mặt mũi chân tay.
Cánh lính phá lên cười:
- Chúng
tôi lấm như ma trôn thế này mà rửa thì cần phải có
một cái ao, chứ chậu nước của cô thì ăn nhằm gì.
-
Thôi, thế này. - Trung đoàn trưởng Thịnh lên tiếng - Dù
sao các chiến hữu cũng nên rửa qua cái tay. Hôm nay sẽ
có cái để mà bốc chót đấy.
Chỉ một loáng chậu
nước đã đỏ quạch những đất. Cô chủ quán vội bê
ra một chậu khác.
- Dạ mời các chú... dùng thêm ạ!
-
Cô gái này lịch sự quá bọn bay ạ. Nhưng cô em ơi, tay
bọn anh có thể sử dụng được rồi.
Tiếng cười
lại rộ lên khiến cô gái đỏ bừng cả mặt mũi.
Bà chủ quán vội vào chi viện cho con gái.
- Xin lỗi
các chú, cháu nó còn vụng lắm ạ.
- Xem chừng cô ấy
cũng chẳng vụng dại lắm đâu. Bà chủ có định kén rể
lính không đấy!
- Úi dà! "Trai khôn tìm vợ chợ
đông. Gái ngoan tìm chồng ở chốn ba quân". Con gái
tôi mà kén được chồng sĩ quan như các chú thì còn gì
bằng. Chả giấu gì các chú, cháu cũng là con nhà lính
đấy.
- Thế. . . ông nhà cũng là cựu chiến binh à?
-
Dạ vâng... ông cháu là bộ đội chống Mỹ, hòa bình
được vài năm thì cấp trên cho nghỉ hưu. Về quê chẳng
có công việc gì làm. Ruộng thì người ta chia hết cả
rồi. Thế là ông kéo cả nhà lên đây lập nghiệp. Vừa
khai hoang, làm rẫy vừa mở cái quán này. Ông ấy học
được nghề làm thịt chó khi ở lính đấy. Kìa, ông ấy
về kia rồi. Để tôi kêu ông ấy vào tiếp chuyện mấy
chú. Ông ấy vẫn bảo hễ có khách hàng là bộ đội thì
để đích thân ông ấy tiếp.
Ông chủ quán hai tay
xách hai chú cẩu vàng hùng dũng bước vào ném uỵch giữa
nhà.
- Bảo thằng Kha nó xả ngay hai con này bà nhé.
Chiều nay đông khách đấy.
Nhìn vào phòng trong,
thấy lố nhố toàn là lính mắt ông chủ quán bỗng sáng
lóe lên. Chưa cần bà chủ giới thiệu: ông phăm phăm
bước vào, giọng oang oang:
- Chào các chiến hữu!
Trung
đoàn trưởng Thịnh buộc phải đứng dậy.
- Chào ông
chủ - Anh đưa tay ra và bỗng nhăn mặt vì cái bắt tay
quá chặt của ông chủ quán - Bọn tôi nghe danh quán bác,
tiện đường ghé vào nhậu một bữa.
- Hân hạnh! Hân
hạnh. Thiếu tá ngồi xuống đi. Ơ mà chưa có món gì à.
Bà nó đâu? Dọn ra đi chứ. Bộ đội chúng tôi đâu có
nhiều thời gian. Lấy rượu trắng cái can bọc nilông
xanh ấy nhé. Thứ đó mới ngon. Xin chào! Xin chào - ông
vừa nói như máy vừa lần lượt bắt tay từng người.
Đến trung đoàn phó Đề ông chợt sững lại - Anh
chàng này... sao quen quá hả? Hình như... chú là ... - Ông
vỗ vỗ vào trán một hồi rồi bỗng “à” một tiếng
- Thôi đúng rồi. Mày là con rể ông Kiệt phải không?
-
Dạ phải ạ - Đề bỗng lúng túng. - Nhưng... ông là
...
- Tao là Cung, bạn chiến đấu của bố vợ mày chứ
ai.Cái hôm cưới tụi bay, tao chả về ăn cưới là gì.
Thằng này, mày còn trẻ mà trí nhớ kém thế.
- Dạ
thưa... bữa đó, bạn bè của bố cháu về đông lắm,
cháu không thê nhớ hết được.
- Đúng thế. Nhưng tao
thì mày không thể quên được. Hôm đó, tao còn đọc cả
một bài thơ lục bát dài dằng dặc, chúc mừng bố con
nhà mày cơ mà.
- À cháu nhớ ra rồi - Đề bỗng phá
lên cười. – Hôm đó bác say rượu, cứ hát mãi bài hát
"Tiến về Sài Gòn" ... phải không ạ?
- Đúng!
Đúng! Hôm đó tao hơi quá chén thật. Thế thì bác đúng
là có duyên với bố con cụ Kiệt rồi - Thịnh lên tiếng
- Hôm nay, tụi tôi được con rể cụ Kiệt mời uống
rượu mừng vợ vừa sinh cậu ấm đấy ạ.
Ông chủ quán thịt cầy bật cười ha ha:
- Hay!
Hay thật. Đúng là tôi có duyên thật. Này cháu Đề. Ta
với bố cháu thì có nợ với nhau. Ta nợ ông Kiệt cả
cái mạng sống này. Hôm nay cháu có tin mừng, lại đến
mở tiệc khao đồng đội ở ngay cửa hàng ủa ta. Vì vậy
ta tuyên bố, tiệc này là tiệc ta mừng cháu và đồng
đội của cháu. Bởi vì đồng đội của cháu cũng là
đồng đội của ta. Ta vốn là cựu tiểu đoàn trưởng
tiểu đoàn 3 của Trung đoàn. Các anh em đây có lẽ cũng
là lính Trung đoàn 6 cả phải không?
- Thưa tiền bối
- Thịnh cung kính đứng trước ông hủ hiệu thịt chó -
Tôi là Nguyễn Hoàng Thịnh, trung đoàn trưởng đương kim
của trung đoàn. Còn thiếu tá Nguyễn Xuân Đề là phó
trung đoàn trưởng, các anh em đây là sĩ quan trong ban chỉ
huy trung đoàn cả.
- Kỳ ngộ! Kỳ ngộ - Ông chủ quán
gật gù - Vậy thì rất đáng để hôm nay chúng ta say sưa.
Bà chủ đâu, đóng cửa hàng lại. Tôi tuyên bố sáng nay
tôi chỉ tiếp đồng đội binh đoàn Hương Giang của tôi
thôi.
Một lát sau, trên bàn la liệt các món ăn.
Rượu đã rót tràn các ly. ông Cung trịnh trọng nâng ly,
giọng bỗng lắng xuống.
- Các bạn trẻ! Cuộc gặp gỡ
hôm nay thật bất ngờ hú vị nhưng không hoàn toàn ngẫu
nhiên. Tôi và các bạn thuộc hai thế hệ khác nhau của
cùng một đơn vị anh hùng. Năm bảy mươi lăm, tôi chỉ
huy tiểu đoàn tuột đánh vào Đà Nẵng. Lúc đó ông Kiệt
còn là trung đoàn trưởng trung đoàn 6, hình như sau trận
Đà Nẵng, anh Thịnh, anh Đề mới được bổ sung về
trung đoàn. Trong một cuộc hành quân tiến công bằng xe
cơ giới, ông Kiệt đã nhảy lên ngồi trên thiếc xe Jeep
chiến lợi phẩm của tôi để dẫn đầu mũi đột kích.
Đến gần cầu Trịnh Minh Thế thì bọn tôi đụng địch.
Cậu lái xe hy sinh ngay tức khắc, tôi thì bị thương. May
sao ông Kiệt lại là một tay lái giỏi, nên ông đã đưa
được bọn tôi ra khỏi vòng lửa đạn. Thế là tôi bị
loại khỏi cuộc tiến công như bão táp của binh đoàn
thẳng tiến vào Sài Gòn. Đời tôi, có lẽ đó là
điều đáng tiếc nhất. Sau ngày lễ diễu binh mừng chiến
thắng ở Sài Gòn, tôi mới lành vết thương trở về đơn
vị. Thật vô duyên hết sức. Đánh nhau hàng chục năm
trời không hề trầy vi tróc vẩy, đến cái đoạn hay
nhất của đời binh nghiệp thì gãy cầu, các cậu thấy
có cay cú không?
- Còn bọn chúng cháu thì lại gặp may
- Đề vội lên tiếng - Chúng cháu đã kịp xuất hiện
vào những ngày kỳ vĩ nhất của cuộc chiến. Tuy vậy,
chúng cháu vẫn hiểu rằng sở dĩ mình được có mặt
trong ngày vui đại thắng ấy là vì đã có biết bao đồng
đội ngã xuống dọc đường.
- Thôi được rồi, đó
là chuyện của lịch sử - Ông Cung nâng chén rượu lên -
Ai tới được cái đích cuối cùng của cuộc chiến, điều
đó không quan trọng. Điều đáng nói là cuối cùng dân
tộc ta đã tới đích. Uống đi các cháu! Chén rượu này
chúng ta uống để tưởng nhớ những đồng đội đã hy
sinh dọc những chặng đường đi đến thắng lợi cuối
cùng.
- Chén này, xin uống để biểu lộ sự kính trọng
đối với lớp cha anh đi trước.Rượu lại tràn ra ly.
Ông Cung càng uống càng tỉnh. Còn cánh sĩ quan trẻ thì
đã bắt đầu giai đoạn tranh nhau nói. Căn phòng trở nên
ồn ào náo nhiệt lạ thường.
- Nghiêm! Các chiến sĩ
Trung đoàn 6 - Thịnh phải hét lớn để át tất cả mọi
người - Nghe tôi nói đây. Chúng ta quên mất mục đích
của bữa tiệc này rồi. Tôi đề nghị, chén này chúng
ta hãy uống mừng cho con trai của người đồng đội
chúng ta vừa ra đời. Chúc cho thế hệ của cháu được
sống trong hòa bình, hạnh phúc. Mọi người nâng ly uống
cạn chén rượu mừng một cách trang nghiêm. Ông Cung đổ
rượu tràn ra cả bộ râu đã bạc phếch của mình, trên
gò má ông long lanh những giọt nước mắt, hay những giọt
rượu, cũng thật khó mà phân biệt. Rồi bỗng dưng ông
đứng dậy vung tay:
- Các bạn trẻ ... ta hát... át
chứ. Hát... bài ca truyền thống của binh đoàn... các
bạn... Nào, một... hai... chúng ta ra đi từ núi sông
này...
Giọng ông cất lên ồm ồm. Rõ ràng ông
đã chếnh choáng rồi. Các sĩ quan trẻ ồn ào hát theo.
Lúc đầu còn chệch choạc ... rồi người trước đợi
người sau, dàn đồng ca đã ăn nhịp hùng tráng vang lên.
Bà chủ quán và cô con gái từ phía sau hốt hoảng
chạy ra. Trong tiếng hát, vẫn có thể nghe thấy tiếng bà
ra lệnh cho cô con gái "Mau đi chuẩn bị cho mỗi người
một ly chanh đá ... Xin cả một ít vôi về đây nữa...
Không khéo lại say khướt cả rồi" .
Hà Nội, tháng 2
năm 1993
K.Q.Th
VŨ PHƯƠNG HIỀN
CHUYỆN BÊN SUỐI
VÀNG
Dễ đến mười năm
rồi tôi mới có dịp trở lại Suối Vàng. Con đường
độc đạo chạy từ mỏ than Đồng Rì đi Mai Sưu, Đồng
Đỉnh uốn lượn, lên xuống toàn đất đỏ ngày nào nay
đã thay bằng đường nhựa rộng rãi, phẳng lỳ, đẹp
đẽ.
Duy có dòng Suối Vàng trong suốt với những
hạt cát vàng lấp lánh, róc rách, chảy ngày đêm là
không hề thay đổi. Và kia, bãi cỏ rộng, bằng phẳng,
chứa đầy những kỷ niệm, những ngày dã ngoại khai
thác cây giàng cho đơn vị làm vật liệu xây dựng doanh
trại. Cảnh vật hiện ra trước mắt tôi nguyên vẹn như
ngày nào, nhưng sao vẫn có cái gì đó khang khác len lỏi
trong tôi.
Dạo ấy, chừng giáp Tết Nguyên đán, chỉ
còn có hơn tháng nữa là Tết. Rét! Rét như cắt da, cắt
thịt. Ngày nào cũng mưa, mưa dầm dề, dai dẳng. Những
hạt thưa phùn nho như sương cứ lắc rắc rơi, và gió cứ
từng cơn, từng cơn lạnh buốt thốc vào người. Đại
đội 10 chúng tôi, lán trại dựng trên bãi cỏ ven bờ
suối. Ngày ngày len lỏi vào rừng giàng mênh mông, như
con ong cần mẫn, lúc đi thì không, lúc về một vác nặng
trên vai. Đống giàng đầu tiên nhỏ xíu, về sau cứ lớn
dần, to dần lên theo thời gian. Một đống rồi hàng chục
đống như những ngôi nhà uy nghi, cao ngất. Đừng ngỡ cả
rừng cây giàng đấy, cứ thoải mái mà chặt? Không đâu!
Phải tìm cây không to quá vì cây to hay bị ộp, cũng
không được nhỏ quá vì cây non. Phải chọn cây vừa
bằng nắm tay hoặc nhỉnh hơn, lại phải dùng sống dao
gõ vào thân cây nghe tiếng cứng lanh canh. Cây phải có
ngọn chặt cách mặt đất 10 xàng ti mét, bỏ ngọn, lấy
trên bốn mét, dưới sáu mét. Mỗi ngày ba mươi cây.
Thoạt nghe thì cứ ngỡ là nhẹ nhàng, nhưng không đâu!
Khó khăn lắm, vất vả lắm. Càng vào sâu trời càng tối
do các tán lá ken dày, đan chằng chịt vào nhau nên muỗi
nhiều tưởng chừng vốc được. Những cây giàng mọc
dầy, có chỗ thành hàng đều tăm tắp, tạo thành lòng
hang dài hun hút. Không cẩn thận lạc như chơi, loay hoay
chẳng tìm thấy lối ra. Lại có loại dây leo chằng chịt,
từ cây nọ bám quấn vào cây kia. Bởi thế tìm được
cây để chặt đã lâu công, chặt xong kéo cây xuống càng
khó. Có khi lấy hết sức, choãi chân kéo mãi mà không
được. Trời rét là vậy mà mồ hôi nhỏ giọt. Có khi
phải hai, ba anh hợp sức mới kéo được. Cho nên chỉ
huy đại đội phân theo nhóm tổ ba người. Vừa tạo điều
kiện hỗ trợ nhau, vừa để tránh các tình huống xấu
khi bắt gặp. Vì ở đây có rất nhiều tổ ong bò vẽ và
ong đất. Có hôm, anh em đem về đến ba, bốn tổ ong.
Những ngày ấy, đơn vị được món ong rán thỏa
thuê.
Những ngày đầu, chẳng mấy ai bỏ chỉ tiêu
do lấy phải cây ộp, cây non hoặc bị sâu giữa thân
hoặc không đủ kích thước. Nhưng càng về sau, số lượng
càng tăng dần, rồi số người vượt chỉ tiêu mỗi ngày
một nhiều. Do nhiều lần tìm chặt, anh em đã tìm ra bí
quyết. Đó là làm thang, leo lên chặt dây leo, chặt tán
lá. Và càng khai thác, rừng cây càng nhiều lỗ hổng,
nên việc tìm chặt, kéo cây càng dễ dàng hơn.
Chúng
tôi khai thác cây giàng giữa rừng cây bạt ngàn, mênh
mông, nhưng không phải vì thế mà cứ thích chặt chỗ
nào cũng được, mà phải khai thác ở khu vực được
khoanh vùng nhất định, do ủy ban nhân dân xã Đồng Rì
và huyện Sơn Đông cùng PhòngKiểm lâm huyện cho phép.
Để
thắt chặt mối quan hệ, tình đoàn kết quân dân và cũng
là tạo chỗ dựa vững chắc của đơn vị với địa
phương. Lãnh đạo, chỉ huy đơn vị tổ chức hai ngày
giúp dân lao động, sản xuất. Trung đội tôi được chia
làm ba tổ đi ba gia đình. Tôi chỉ huy một tổ bảy người
vào gia đình ông Quang. Nhìn thấy anh em chúng tôi cuốc,
xẻng, dao đi vào, ông Quang, chủ nhà khoảng sáu mươi
tuổi, dáng cao gầy, nước da đen sạm dãi dầu mưa
nắng, bàn tay chai sạn .đang chẻ lạt bước ra, tròn
xoe mắt ngạc nhiên. Không để ông lên tiếng, tôi thay
mặt anh em trình bày lý do. Vừa lúc đó một cô gái từ
trong nhà bước ra:
- Em chào các anh! Ơ! Anh Hiền!
Tôi
cũng nhận ra em, đây là người con gái tôi tình cờ quen
trên đường hành quân hôm nào.
Hôm hành quân từ
Biển Động rẽ vào con đường mòn đi Chợ Lớn. Con
đường như sợi chỉ mảnh, len lỏi xuyên qua khu rừng
rậm rạp, rừng nguyên sinh hai bên đường um tùm cây lá.
Có lúc, chúng tôi phải lội qua những con suối. Dòng nước
trong xanh, lạnh buốt, có anh rụt chân lại, có anh hăm hở
lội qua. Đá dưới lòng suối đầy rêu, làm một vài anh
ngã sóng soài Vậy là rộn lên tiếng cười, tiếng trêu
chọc nhau vang cả một góc suối.
Qua khỏi con suối,
đang điều chỉnh lại đội hình hành quân của trung đội.
Bất chợt có tiếng "huỵch", rồi một bóng người
té ngã. Tôi giật mình quay lại. Một cô gái chừng mười
tám, đôi mươi, một tay chống đất định nhổm dậy,
còn tay kia cầm làn cói. Su hào, bắp cải từ làn bắn ra
lăn tung tóe. Tôi vội vàng lao tới nhặt giúp rau củ cho
em rồi đưa tay cho em vịn đứng lên. Em đứng lên ngượng
ngập nói cảm ơn. Dù chỉ là một thoáng nhìn, tôi vẫn
nhận ra cô gái có nước da trắng ngần, đôi bàn tay với
những ngón tay thon, mềm mại.
Chợt nhìn dáng đi hơi
tập tễnh của em, tôi nói:
- Em bị đau chân rồi!
Thôi! Để anh mang giúp làn rau cho.
- Ấy chết? Ai lại
thế! Em không sao đâu! Em mang được mà!
Tôi phải
nói đến lần thứ ba, em mới chịu để tôi mang giúp.
Dọc đường hành quân, có thêm một cô gái, vui chuyện,
chúng tôi như quên đi thời gian, không gian, quên cả mình
đi đã qua mấy con suối, mấy khoảnh rừng.
Qua trò
chuyện, em nói với tôi là em làm ruộng. Tôi biết em nói
dối, trông dáng người em: có những nét mềm mại, đôi
bàn tay thon mềm thế kia hẳn em phải là cô giáo hoặc
sinh viên. Em nói quê em ở mãi tận Mai Sưu cơ, xa lắm.
Nhưng em và bố lên Đồng Rì làm nương trồng ngô sắn
vì điều kiện kinh tế gia đình khó khăn. Điều này thì
tôi tin ngay và càng cảm thấy kính trọng em hơn.
Tôi
tự giới thiệu tên mình và hỏi em. Cười bẽn lẽn, em
nói:
- Tên em xấu lắm, mai kia anh vào, em sẽ cho biết
tên.
- Nhưng mà làm sao anh biết để đến thăm?
Em
cười bí mật, nói vui:
- Thế em mới đố anh chứ!
Đoạn đường đi cũng đã
hết, chúng tôi dừng lại, triển khai làm lán. Còn em, em
đi tiếp. Trước lúc chia tay, em nói rất nhiều lời cảm
ơn tôi. Từ bữa ấy, mải bận rộn việc khai thác, tôi
cũng dần quên. Nào ngờ hôm nay gia đình mà chúng tôi đến
giúp lại chính là nhà em.
Em đã nghe hết câu chuyện
của chúng tôi với lý do tôi vừa trình bày, em ngỏ lời
từ chối, nói cảm ơn:
- Cảm ơn nhã ý của các anh.
Nhà em nương ít, chỉ hai bố con làm là vừa. Các anh sang
giúp những gia đình khác trong xóm.
Nhưng tôi vẫn
cứ cương quyết với lý lẽ của mình, vừa là nhiệm
vụ, vừa là tình cảm. Mấy anh em sẽ giúp gia đình ít
nhiều.
Rồi chẳng để bố em và em phân giải
thêm, tôi dõng dạc phân công:
- Đồng chí Hải mượn
bò của bác, cày! Đồng chí Thanh, đồng chí Lợi vun
luống, đồng chí Hảo, đồng chí Kỳ bỏ phân, đồng
chí Thân chặt hom, đồng chí Hoàng và tôi đặt hom lấp
đất.
Tần ngần một lúc, sau đó em và bố em cũng
chạy đi chạy lại, chỉ bảo việc nọ, việc kia. Chẳng
mấy chốc, bảy anh em và tôi cùng gia đình đã trồng
xong ba sào đất sắn. Chiều đến, mấy anh em lại tiếp
tục phá hoang, phát cây, dọn cỏ. Sang ngày hôm sau, chúng
tôi lại làm đất và trồng cho gia đình em một mảnh đất
sắn khoảng ba sào. Ngoài ra còn trồng một sào với các
loại rau khác nhau.
Thời gian đã hết và công việc
cũng hoàn tất, khi chúng tôi ra về, bố em cứ xoa tay rối
ni cảm ơn đơn vị cảm ơn chúng tôi, nét mặt bác rạng
ngời niềm vui, xen lẫn niềm hân hoan. Còn em, em cứ nài
nỉ ép chúng tôi nhận cho bằng được bó chè xanh và nải
chuối tiêu chín vàng.
Ngày lại ngày, những chuyến
xe ôtô đã dần dần bốc xếp, chuyên chở những
đống giàng về đơn vị. Còn chuyến cuối cùng cũng là
lúc anh em chúng tôi tạm biệt rừng giàng để lên đường
lui quân. Buổi sáng hôm ấy hai bố con em chỉnh tề trong
bộ quần áo đẹp, ra từ rất sớm, giúp chuyển giàng,
quân tư trang, đồ đạc. Khi chúng tôi lên xe, hai bố con
em bùi ngùi tiễn biệt:
- Chúc các anh đi chân cứng đá
mềm, chúc thượng lộ bình an.
Chúng tôi cũng vẫy
tay chào lại. Xe từ từ chuyển bánh. Hai bàn tay của bố
con em vẫn giơ lên cao vẫy vẫy vừa như muốn đưa tiễn,
vừa như níu kéo chúng tôi.
Đã hơn mười năm trôi
qua, Suối Vàng đã trải cùng bao mưa nắng, thời gian mà
vẫn giữ nguyên dáng nguyên sơ, lạ kỳ thật. Nhìn từ
những ngôi nhà mái bằng, nhà hai, ba tầng nối tiếp
dọc bên suối và hai bên đường đi. Nhìn những cây đào
lá xanh non đang kết trái, những cánh hoa rụng đầy bên
gốc, tôi thấy lòng mình khoan khoái dễ chịu.
Mùa
xuân, với tiết trời xanh tươi, ấm áp. Và kề bên, cuộc
sống cũng đang khởi sắc từng ngày. Tôi bồi hồi nóng
lòng muốn biết sự thay đổi trong gia đình em...
Trại sáng tác văn học
Binh đoàn Hương Giang
Tháng 11 năm 2002
V.P.H
PHÙNG VĂN TIẾN
CUỘC GẶP MẶT
KHÔNG HẸN TRƯỚC
"...Đế quốc Mỹ ngày
một leo thang trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ở miền Bắc
chúng đã điều hàng nghìn lượt máy bay đánh phá các
khu kinh tế trọng điểm, nhằm cắt đứt sự chi viện
cho tiền tuyến. Từ vĩ tuyến 17 trở vào chúng cùng
với ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn liên tục mở các đợt
tấn công tàn sát đồng bào miền Nam ruột thịt,
gây ra không biết bao nhiêu tội ác...".
...
Mạnh
sinh ra và lớn lên ở vùng quê chuyên làm nghề trồng dâu
nuôi tằm, dệt lụa bên dòng sông Dáy. Học xong phổ
thông trung học, cùng một lúc, anh nhận hai giấy
báo: đi du học Ơ nước ngoài và lên đường nhập ngũ.
Còn bao hoài bão chưa thực hiện được cùng người mẹ
già đang tuổi xế chiều, mái tóc bạc trắng khiến mẹ
trông già hơn so với tuổi, bởi đã bao nhiêu năm tháng,
mẹ sống trong nỗi khắc khoải chờ đợi người chồng
đi chiến đấu rồi vĩnh viễn nằm lại ở chiến trường.
Nhìn lên tấm bằng Tổ quốc ghi công trên bàn thờ
cha, lồng trong khung kính bức hình cha chụp lúc còn rất
trẻ (đoán chừng ngoài hai mươi), anh thương mẹ vô cùng.
Mẹ đã tần tảo một mình nuôi anh suốt mấy chục năm,
anh là niềm an ủi, là chỗ dựa duy nhất về tinh thần
của bà, là nguồn động viên bà vượt qua những mất
mát to lớn do chiến tranh gây ra.
... Xoan - người
bạn gái học cùng lớp trên trường cấp III huyện với
anh ở làng bên mấy hôm nay đang bận rộn chuẩn bị cho
chuyến đi du học ở Tiệp Khắc đợt này. Tuy Xoan bằng
tuổi, nhưng trong chuyện riêng tư đã tỏ ra rất ý tứ,
còn Mạnh thì mộc mạc chân thành.
Hôm hai đứa
cùng từ trường về, đi dọc theo con đê quai quen thuộc,
anh đã tâm sự cùng Xoan ý định nhập ngũ của mình vào
miền Nam chiến đấu. Xoan im lặng. Ánh mắt cô nhòe đi,
bàn tay hai người đưa lại gần nhau siết nhẹ, rồi cả
hai thì thầm với bao nhiêu lời hẹn ước ngày chiến
thắng trở về.
... Máy bay Mỹ đánh phá ngày càng
khốc liệt. Các chuyến tầu quân sự vào Nam được bố
trí đón khách ở ga Thường Tín vào buổi tối theo những
thời gian bí mật. Anh vội vã vào thắp nén nhang lên bàn
thờ cha và chia tay mẹ để chuẩn bị hành quân bộ gần
hai chục cây số đến địa điểm tập kết. Bảy giờ
tối, mỗi người được phát một nắm còm kèm ruốc
trước khi lên tầu để ăn điểm tâm cho đỡ đói.
"Tiệc
lính" vừa xong thì đã có tiếng còi tầu vọng từ
xa lại. Mọi người sắp xếp lại tư trang để lên tầu.
Cùng đi đợt này với Mạnh còn bao nhiêu anh em khác. Mỗi
người một quê, một hoàn cảnh khác nhau nhưng thật vui.
Hơn mười tiếng đồng hồ sau, tàu đến ga Vinh.
Đơn vị hành quân tiếp vào mặt trận, vừa đi vừa huấn
luyện. Mạnh được biên chế về một đơn vị trinh sát
ở mặt trận B5. Đại đội của anh có hơn ba chục
người, mỗi người ở một miền quê khác nhau nhưng mọi
người thương yêu nhau như anh em một nhà. Điếu thuốc
chung nhau hút, lá thư cùng nhau đọc, chẳng có điều gì
giấu được. Trong chiến dịch tấn công thành Quảng Trị,
quân Mỹ đã tập trung lực lượng đánh trả ác liệt.
Nhiều đồng đội của Mạnh đã hy sinh trước ngày giải
phóng. Còn Mạnh bị một mảnh pháo xuyên vào phần mềm
phía sau chân phải. Anh em cứu thương đưa Mạnh về điều
trị tại viện quân y tiền phương. Trong những ngày nằm
điều trị, Mạnh đã kiên trì tự nhủ mình phải tập
luyện cho nhanh lành, trở lại chiến đấu, tra thù cho
đồng đội, quét sạch quân Mỹ, ngụy giải phóng miền
Nam để được trở về quê chăm sóc mẹ già.
Ở
quân y viện, Mạnh được sự chăm sóc rất ân cần của
các y bác sĩ. Anh đã gặp Loan - người con gái đất Kinh
Bắc có mái tóc dài, đôi mắt lá răm và nụ cười tươi
tắn, là người luôn thay rửa vết thương và giúp anh
những sinh hoạt hàng ngày. Khi rảnh rỗi, cô thường đọc
truyện và hát dân ca cho Mạnh nghe, để anh quên đi sự
đau đớn do vết thương gây ra và sự thiếu thốn tình
cảm của anh từ thuở bé. Cô đã để lại ấn tượng
sâu sắc về người thầy thuốc trong anh. Chính vì thế
mà anh đã định hướng cho Tâm - đứa con gái của anh và
Xoan sau này đi học ngành y.
Cuộc chiến tranh chống
Mỹ cứu nước thắng lợi. Mười một giờ 30 phút ngày
30 tháng 4 nărn 1975, lá cờ đỏ sao vàng phần phật bay
trên nóc dinh Độc lập, thủ phủ của ngụy quân ngụy
quyền, chấm dứt cuộc kháng chiến trường kỳ của dân
tộc. Những người lính từ chiến trường trở về mang
theo niềm vui thắng trận. Mạnh được đi phép ra Bắc.
Quê nhà lúc này đã thay đổi nhiều lắm. Mẹ anh đã mất
trước đó hơn một năm. Căn nhà nhỏ nơi anh ra đi nay
vắng bóng người. Hàng tuần, Xoan vẫn về thắp nén
nhang cho hai bác. Từ khi trở về nước công tác ở một
phòng kỹ thuật trên cơ quan huyện, Xoan vẫn chờ anh.
Mạnh vừa buồn tủi vừa mừng và thầm cảm ơn cô.
Gần cuối đợt phép, đám cưới của anh và
Xoan được tổ chức. Ngày xum họp chưa qua đã tới ngày
chia tay. Anh phải trở về đơn vị vì đất nước vừa
qua chiến tranh, công việc của người lính vẫn là chủ
yếu trong việc xây dựng lại đất nước.
Năm
tháng trôi qua, Mạnh trở thành một sĩ quan quân đội
công tác tại binh đoàn. Cháu Tâm - con gái đầu lòng của
anh chị nay đã tốt nghiệp Học viện Quân y về công tác
tại Bệnh viện 43. Vợ chồng anh thường đến thăm và
động viên con làm việc sao cho xứng đáng với các bác,
các cô, các chú năm xưa đã cứu chữa cho bố.
Lần
này, anh lên thăm con đúng vào dịp kỷ niệm ngày thành
lập viện. Không khí thật vui, mọi việc chuẩn bị được
tiến hành khẩn trương. Khách mời gồm các thế hệ cán
bộ công tác tại bệnh viện đều về đông đủ. Anh rất
bất ngờ và vui mừng khi gặp lại Loan - cô y tá năm xưa
đã chăm sóc anh trong suốt thời gian anh bị thương, nay
nguyên là bác sĩ chủ nhiệm khoa của viện. Trông chị
già đi nhiều, mái tóc đã thấp thoáng những sợi bạc,
nhiều nếp nhăn xuất hiện trên khuôn mặt làm cho đôi
mắt duyên dáng năm xưa đã bớt đi phần quyến rũ. Chỉ
riêng nụ cười của chị là vẫn giữ nguyên nét tươi
tắn và đôn hậu.
Bắt tay chị, anh mừng vô hạn,
chị cũng nhận ra anh. Một tình cảm đồng chí đồng đội
bỗng trào dâng trong anh. Sau hơn ba mươi năm xa cách do
cuộc chiến tranh phân gián không ngờ nay được gặp
lại...
... Cuộc vui kết thúc. Mọi người ra về
trong nỗi lưu luyến, bịn rịn không thôi. Trong phút chia
tay với chị Loan, còn có cậu sĩ quan trẻ mang lon thượng
úy được giới thiệu là con trai của chị. Anh Mạnh và
chị Loan càng bất ngờ hơn khi biết cậu sĩ quan đó do
Tâm mời sang. Lúc này, hai má Tâm ửng hồng, lời nói cử
chỉ trở nên lúng túng, thiếu tự nhiên hơn. Trộm nhìn
bố và cô Loan, Tâm thấy trên gương mặt hai người rạng
ngời hạnh phúc. Thấp thoáng trong ánh mắt họ một niềm
hy vọng bền vững, thắm thiết.
Bắc Giang, tháng 2 năm 2003
P.V.T
HƯƠNG CHANH
TÌM VẦNG TRĂNG CHO
ĐỒNG ĐỘI
Trời lại thu. Hơi gió heo may
và những con đường trải đầy lá vàng khiến tôi lại
nhớ tới mùa thu năm nào - mùa hội diễn toàn quân tại
Hải Phòng. Hôm ấy, cả đội văn nghệ Binh đoàn 2 đã
tập trung đầy đủ để đi tham gia hội diễn, duy chỉ
có thiếu mỗi mình Mai.
Đã quá giờ xuất phát vẫn
chẳng thấy bóng dáng Mai đâu, càng đợi càng sốt ruột.
Chú trưởng đoàn nghiêm mặt tuyên bố. "Đợi đúng
5 phút nữa nếu Mai không đến thì chúng ta lên đường".
Tôi rất lo cho Mai, nếu không đến kịp, xe chạy thì phải
tự bắt xe xuống Hải Phòng, không những thế mà còn bị
kỷ luật nữa. Một phút... Hai phút... Thời gian như ngưng
lại trong sự nín lặng đến nghẹt thở của chúng tôi.
Phút thứ ba vừa trôi qua thì có tiếng reo "Mai kia
rồi!". Không gian như vỡ ra. Không hẹn, cả đoàn
cùng đổ dồn ánh mắt về phía vọng gác. Mai xuất hiện
trong tư thế rất vội, vai đeo một chiếc túi, tay phải
xách một chiếc ba lô nhỏ, tay trái cầm con ốc biển lao
nhanh về phía chúng tôi. Mai vừa đến nơi mấy đứa bạn
gái đã thi nhau hỏi:
- Sao Mai đến muộn thế?
Bước
vội lên xe, gương mặt còn lấm tấm mồ hôi, hai má ửng
hồng, Mai thả chiếc túi xuống, đưa tay lau bớt mồ hôi
rồi chậm chạp thanh minh.
- Xin lỗi cả đoàn, tôi đến
muộn, vì phải chuẩn bị đồ ăn cho mẹ ở nhà, đi diễn
dài ngày quá, mẹ ở nhà chẳng có ai chăm nom, phải gửi
thực phẩm nhờ hàng xóm mua giúp.
Chả là bố Mai
đã hy sinh năm 1968 tại Quảng Trị, mình mẹ tần tảo
nuôi Mai khôn lớn, nay mẹ lại mắc bệnh khớp đi lại
có nhiều khó khăn. Cả đơn vị ai cũng biết và hết sức
thông cảm với hoàn cảnh của Mai.
- Con ốc biển ai
tặng Mai đấy? - Một giọng nữ hỏi vẻ như trêu
đùa.
Mai ấp úng trả lời.
- Chiếc đèn ngủ đó
mà.
Mai mới nói được vậy thì một câu nói cắt
ngang của cô bạn gái ngồi cùng.
- Chiếc đèn ngủ đó
chính là của anh Hùng, người yêu Mai tặng đó. Anh Hùng
đang công tác tại đoàn văn công của Đảo thuộc Bộ Tư
lệnh Hải quân.
Mai cúi đầu không dám nhìn mọi
người, mặt nóng bừng. Thực ra Mai và Hùng đã mất liên
lạc với nhau gần một năm rồi, không biết vì lý do gì?
Bản thân Mai cũng chưa bao giờ nhắc đến chuyện đó.
Lần hội diễn này, Mai rất mong gặp Hùng để biết được
lý do thích đáng.
Xe vẫn đang chạy, chúng tôi hát
tập thể đủ các bài hát theo nhiều chủ đề khác nhau
nhằm tạo không khí vui nhộn cho các chị em không bị say
xe. Mải hát, xe đã đến lúc nào không hay. Biển Đồ Sơn
đã hiện ra trước mặt, tuy đi xe mệt nhưng chúng tôi
nhanh chóng thu xếp hành lý vào Nhà nghỉ Hương Giang của
Binh đoàn 2 để được ra biển hưởng thụ những làn
gió mát từ biển thổi vào và nô đùa với những con
sóng.
Nghỉ một ngày thật thoải mái, sáng hôm sau
chúng tôi bước vào hội diễn. Đoàn chúng tôi lần này
đã gặt hái được nhiều thành tích xuất sắc, bởi vì
bảy tiết mục đoàn chúng tôi đem đến đều giành bảy
huy chương vàng và là đơn vị có huy chương vàng cao
nhất. Thành tích đó được thủ trưởng đơn vị tặng
cho mười ngày đi biển, thăm các chiến sĩ hải quân ở
các đảo ven biển và thăm thắng cảnh Vịnh Hạ
Long.
Đảo đầu tiên chúng tôi đến là đảo Dáu -
nơi mà anh Hùng, người yêu của Mai đang đóng quân. Chắc
Hùng sẽ rất bất ngờ vì anh không biết Mai ra đảo.
Đồng chí trưởng đội văn nghệ triển khai nội dung
phục vụ văn nghệ và giao lưu. Ánh đèn bật sáng. Mai ra
chào khán giả với bài hát "Bèo dạt mây trôi".
Giọng Mai mượt và êm như gió. "Bèo dạt mây trôi,
chốn xa xôi anh ơi em vẫn đợi... ". Mai thả hồn
theo bài hát mà mắt vẫn tìm kiếm người yêu. Bất chợt,
mắt Mai sáng lên rồi lại lặng đi theo giai điệu gọi
bạn da diết của bài hát. Tiếng hát vừa dứt, Mai vụt
chạy vào trong sân khấu bỏ lại đằng sau những tràng
vỗ tay liên tiếp, và Mai khóc. Thắng là diễn viên kịch
của đoàn theo sát Mai, hỏi:
- Mai, em sao vậy?
Mai nén
giọng trả lời:
- Không có gì.
Rồi Mai lùi vào góc
tối để tránh những khoảng sáng của ánh đèn sân khấu.
Tôi cũng không dám lại gần, nhưng những tiếng nấc của
Mai, làm tôi càng bối rối.
Cả đoàn mải diễn,
thay trang phục giúp nhau, còn tôi thì cứ quanh quẩn bên
Mai. Biết Mai đã có người yêu nên không dám gần gũi,
sợ mọi người bàn tán ảnh hưởng tới Mai. Nhưng trong
lòng thì rất lo lắng cho Mai.
Bỗng nghe có tiếng
gọi.
- Đến tiết mục của Mai rồi.
Tôi vội vào
đỡ Mai dậy nhưng Mai đã xin bỏ tiết mục hôm đó, đồng
chí trưởng đoàn đã chữa cháy bằng tiết mục tấu hài
của tôi, đọc tấu vui mà giọng lại buồn, bởi lẽ tôi
buồn vì nỗi buồn của Mai. Tiết mục không thành công
cho lắm nhưng những chàng lính vui tính đều thưởng thức
thật say sưa. Đêm đó, cả đoàn ngủ lại phòng khách
của đảo. Tôi không ngủ mà ngồi nhìn những ngọn hải
đăng trên biển, và tôi quyết định tìm đến phòng Mai.
Cả phòng đã ngủ. Mai ngồi một mình bên cửa sổ, ngắm
trăng ngoài đảo mà tay vẫn cầm con ốc biển, tôi mời
Mai đi ngắm biển và Mai đã nhận lời. Biển mùa này
thật êm dịu, xa xa là những chiếc đèn của ngư dân
trên biển tạo cho biển có hàng ngàn ngôi sao lấp lánh.
Trăng mùa thu chiếu xuống mặt biển bị các con sóng tách
thành những mảnh trăng khuyết lấp lánh, trông thật là
cô đơn, tội nghiệp. Tôi lên tiếng phá tan bầu không
khí im lặng giữa tôi và Mai.
- Em có thể nói chuyện
với anh được không? Anh luôn coi em như em gái mà.
Im
lặng một lúc lâu, Mai nức nở:
- Anh Thắng! Cái tên
Thắng chính là cha mẹ đặt cho tôi. Anh Hùng em đã có
bạn gái.
- Sao em biết?
- Lúc diễn em đã nhìn thấy
anh Hùng cùng cô bạn gái ngồi hàng ghế thứ hai, họ đã
chụm đầu vào nhau để nghe một bài hát chờ đợi và
nghe một cách thoải mái. Em nhận thấy ánh mắt ấy không
còn là của em nữa, không còn là ánh mắt của chàng trai
Kinh Bắc ngày nào- em dám chắc là anh ấy cố tình như
vậy. Mặc dù đã cố gắng kìm nén nhưng Mai vẫn không
giấu được sự đau khổ của mình qua giọng nói. Tôi
không biết phải an ủi Mai ra sao. Đợi đến khi chia tay
Mai, tôi quyết định tìm gặp Hùng.
Sau tiếng gõ cửa, Hùng xuất hiện trước mặt tôi.
Tôi nói hết câu chuyện về Mai cho Hùng nghe.
Nghe
xong, Hùng đáp lại bằng một câu trả lời tỉnh không:
-
Nhờ cậu nói với Mai là mình đã có bạn gái. Mai đừng
chờ mình nữa.
- Mai có lỗi gì chứ? - Tôi cự lại
Hùng.
- Không hợp, vậy thôi?
- Hùng nên gặp Mai lần
cuối nói chuyện thử xem - Tôi cố thuyết phục.
-
Không cần phải thế, mình không muốn người thứ hai như
Mai phải đau khổ.
Không kìm nổi, tôi đã tát Hùng
một cái rồi bỏ về động viên an ủi Mai nên quên con
người bội bạc đó đi. Mai buồn và trách cho phận mình
tin tưởng vào một tình yêu không có đích. Biết vậy
nhưng tôi vẫn đọc được trong suy nghĩ của Mai. Mai
không sao quên được Hùng đó là mối tình đầu, họ yêu
nhau từ những ngày còn huấn luyện tân binh lại cùng quê
Kinh Bắc. Ngày đó ai cũng bảo Mai và Hùng là một đôi
trai tài gái sắc, tâm đầu ý hợp. Không hiểu sao Hùng
đã thay đổi nhanh như vậy. Tôi mải băn khoăn suy nghĩ
và đã có lúc tôi cho rằng mình thật là vô duyên, tại
sao cứ hay nghĩ chuyện tình của người khác, muốn gạt
bỏ mọi chuyện đó đi, nhưng càng nghĩ tôi càng không
sao quên được. Mặc dù đã hết hội diễn, các diễn
viên trong đoàn đã được thưởng phép và đi nghỉ nhưng
tôi vẫn quyết định tìm đến đơn vị Hùng một lần
nữa. Và lần này tôi đến với mục đích tiếp cận bạn
bè của Hùng trước. Qua tìm hiểu, tôi được biết Hùng
là một đồng chí cương trực, có năng lực, trình độ,
tuy nhiều lúc hơi nóng nảy bất cần. Hùng rất yêu Mai,
tình yêu ấy đã bao năm nay chắp cánh cho Hùng hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ. Nếu có dịp Hùng sẽ xin thủ
trưởng đơn vị cho chuyển công tác về gần người yêu.
Dự định đó của Hùng chưa kịp đề xuất với thủ
trưởng đơn vị thì nhận được lá thư nặc danh viết
về Mai. Nội dung lá thư nói Mai không chung thủy với
Hùng. Hùng không tin được là Mai như vậy. Anh lặng lẽ
về quê và đến đơn vị Mai công tác, nhưng cũng không
gặp được Mai. Mai đã đi lưu diễn gần ba tháng với
đội văn nghệ Binh đoàn. Hùng sinh nghi và quyết định
không liên lạc gì với Mai từ đó. Tôi còn nghe nói hôm
diễn ở Đảo, Hùng đã mượn cô báo vụ ngồi dưới
hàng ghế sân khấu nhằm trả thù Mai chứ hiện nay Hùng
vẫn chưa yêu ai cả.
Biết được chuyện cua Hùng
như vậy. Tôi cứ băn khoăn tự hỏi: có nên nói với Mai
không: có nối lại chuyện tình yêu của họ không, hay im
lặng? Biết đâu Mai sẽ yêu tôi. Bao nhiêu câu hỏi đặt
ra, đeo đuổi, ám ảnh tôi đêm ngày. Mặc dù rất yêu
Mai nhưng tôi vẫn biết rằng đó là tình yêu đơn phương.
Cuối cùng, tôi quyết định viết thư cho Hùng và nói rõ
mọi chuyện về Mai cho Hùng nghe, trong thư có đoạn:
"... Hùng ơi! cậu có biết không, những
tháng ngày lưu diễn của Mai là những ngày Mai buồn và
nhớ Hùng nhất, mỗi ngày đến mỗi đơn vị, ăn uống
theo thực phẩm của từng vùng rất hhó khăn, khổ nhất
là nước tắm, cả đội văn nghệ ai cũng bị ghẻ nước,
ở miền núi nhiều đồi đi tắm cũng phải xa hàng cây
số, những tất cả vì đồng đội vì bà con dân tộc
thiểu số, cả đoàn đã đem đến những đêm diễn thật
vui vẻ.
Mai là một diễn viên sáng giá của đoàn,
đẹp người, đẹp nết, rất nhiều chàng trai theo
đuổi trong đó cũng có mình. Nhưng Mai của cậu cũng
không nhận lời ai cả mà chỉ yêu mỗi Hùng thôi. Hạnh
phúc của mình mà không biết giữ, đến lúc tuột khỏi
tay mình rồi, nhận ra thì... cũng đã muộn. Hiện bây giờ
còn chưa muộn nên mình thư cho cậu, mình nghĩ cậu sẽ
biết phải làm gì. Giá mình là cậu, mình sẽ ôm trọn
vầng trăng mà không bao giờ khuyết..."
Hết
đợt lưu diễn phục vụ các đơn vị trong năm, tôi được
cử đi học nâng cao tại trường Cao đẳng Văn hóa nghệ
thuật quân đội. Ra trường tôi được ở lại công tác
tại trường. Từ đó tới nay đã bốn năm. Tôi mới có
dịp trở lại đơn vị cũ dự ngày gặp mật truyền
thống kỷ niệm ba mươi năm thành lập Binh đoàn. Gặp
lại Mai. Mai vẫn đẹp như ngày nào, và đã lập gia đình
cùng Hùng, họ đã sinh được một cậu con trai kháu
khỉnh. Trong không khí đầm ấm của ngày hội ngộ, Hùng
bắt tay tôi và nói, gương mặt rạng ngời hạnh phúc:
-
Cám ơn cậu đã tìm lại cho mình vầng trăng tròn Kinh
Bắc.
Bắc
Giang, tháng 3-2002
H.C
NGUYỄN QUỐC HƯNG
NỀN TẢNG VỮNG
CHẮC
"... Đó là những vấn đề
mà Đại hội chúng ta cần thẳng thắn, đánh giá bàn
biện pháp thực hiện xây dựng vào đề án Đại hội
nhiệm kỳ.
Sau đây mời Đại
hội chúng ta nghỉ giải lao mười lăm phút..."
Tranh
thủ lúc giải lao của đại hội Ban chấp hành Đoàn xã
Lan Mẫu, là đại biểu của đơn vị kết nghĩa với Đoàn
địa phương tới dự, tôi đang mải mê ngắm nhìn những
giọt sương đêm tinh khiết còn vương trên những cánh
hoa điạ lan tím ngắt, chợt có tiếng người con gái :
-
Mời anh vào trong phòng uống nước.
Tôi quay lại
thì thấy Lan, cô bí thư chi đoàn mà tôi mới biết tên
cách đây được ít phút đang nở nụ cười tươi rói
nhìn tôi.
Lan có dáng người mảnh mai, nhanh
nhẹn, khuôn mặt rạng ngời với đôi mắt đen huyền bí
như cất giấu đi cái tuổi hai tám của người phụ nữ
đã có hai con.
- Vâng! Chị cứ để tôi tự nhiên -
tôi đáp.
Rồi tôi đưa mắt nhìn Lan và hỏi:
-
Lan này? Hình như tôi nhớ không nhầm, thì ngay đám địa
lan này ngày xưa là một cây đa to?
Lan đưa mắt
nhìn tôi có vẻ hoài nghi rồi hỏi:
- Anh mới về nhận
công tác ở đơn vị được thời gian ngắn, mà sao anh
lại biết chuyện ngày xưa của địa phương em? Lại còn
biết cả cây đa ở đây nữa?
Câu hỏi của Lan đã
làm trỗi dậy trong tôi kỷ niệm của những ngày đầu
đời quân ngũ, chính trên quê hương của Lan...
Ngày
ấy, nơi đây, dưới gốc đa này đã từng diễn ra những
buổi giao lưu giữa Đoàn thanh niên của hai đơn vị.
Những câu hò, điệu hát, rồi những buổi hái hoa dân
chủ... những hoạt động phong phú có ý nghĩa đã đưa
cánh trẻ chúng tôi gần nhau, hiểu biết nhau hơn. Rồi
những ngày lao động xã hội chủ nghĩa thật là tưng
bừng náo nhiệt, băng cờ khẩu hiệu, những lời ca tiếng
hát được cất lên xua đi cái mệt mỏi, nhọc nhằn, cái
nắng oi ả của tháng năm. Để những con đường lại
đẹp hơn, bằng phẳng hơn, rộng rãi hơn. Cũng chính từ
những hoạt động này đã nảy nở những tình cảm
lứa đôi... Tôi nhắc lại tất cả những kỷ niệm đó
với Lan. Lan nhìn tôi dò xét:
- Thế anh là...
- Hóa
ra, Lan chính là người yêu của trung đội trưởng chúng
tôi ngày xưa sao? - Tôi hỏi lại Lan, không giấu nổi sự
ngạc nhiên.
- Vâng anh ạ! Lan đáp khẽ, giọng hơi
chùng xuống. Sau những ngày tháng đó, em buồn lắm. Chỉ
vì các cụ nhà em phong kiến quá, lại không muốn gả con
gái đi xa. Còn chúng em thì dù sao vẫn quyết tâm đến
với nhau. Anh Mạnh cũng biết chuyện đó. Anh ấy buồn
ghê lắm. Đến tháng 8 năm 1993 anh ấy chuyển đơn vị
khác. Lúc đầu chúng em luôn thư từ cho nhau, sau thưa dần
và rồi chúng em chia tay nhau trong im lặng như thế.
Rồi
giọng Lan trở nên cứng cáp hơn:
- Thôi! Đấy là
chuyện của ngày xưa! Bây giờ đã khác nhiều lắm rồi
anh ạ! Em đã có hai cháu, một gái, một trai. Cháu gái
đầu năm nay lên tám tuổi đang học lớp hai, còn cháu
trai năm nay lên ba, chúng nó nghịch ghê lắm cơ. Thay mặt
nhà em, lúc nào rảnh mời anh đến chơi với gia đình
em.
- Cảm ơn Lan! Khi nào rỗi, tôi nhất định sẽ đến
thăm gia đình! Thế anh ấy nhà em hiện đang công tác ở
đâu?
Lan đưa mắt nhìn ra xa và thở dài:
- Anh ấy
nhà em hơn em hai tuổi, anh ấy cũng là bộ đội, ngày
trước đóng quân ở tận trên Lạng Sơn. Không hiểu vì
sao em thấy bảo nhà em... anh ấy vì sức khỏe yếu không
thể đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, nên tổ chức đã
cho anh ấy xuất ngũ năm 1997! Cũng là cái may anh ạ!
-
Sao lại là may? - Tôi cắt ngang lời Lan.
- Thì anh bảo,
nếu không có anh ấy luôn ở bên động viên, đỡ đần
cho mẹ con em thì chắc em không có điều kiện, thời gian
để tham gia hoạt động đoàn thể được.
Lan nhìn tôi
cười đầy ẩn ý:
- Không biết thế nào chứ? Ở
bên em anh ấy khỏe vô địch đấy anh ạ...
Tôi
bật cười nhìn Lan và thầm nghĩ... "Đúng là cán bộ
đoàn”.
Lan kể tiếp :
- Chắc anh mới về đơn
vị nên chưa biết đấy thôi. Giữa chính quyền và các
đoàn thể lãnh đạo, chỉ huy đơn vị vẫn giữ được
tình cảm tốt đẹp trên nền tảng ,vững chắc và đang
đơm hoa kết trái anh ạ? Như anh đã biết đó, tuy đời
sống quệ em có phần đã thay da đổi thịt, nhưng nếu
không có được sự giúp đỡ của Đảng ủy, Bộ Tư
lệnh Binh đoàn cũng như sự giúp đỡ của cán bộ, chiến
sĩ K291 thì không biết đến bao giờ bộ mặt một vùng
quê như nơi đây mới mở mày, mở mặt được hả
anh?
Để minh chứng Lan đưa ra những dẫn chứng:
-
Anh biết rồi đấy, con đường từ quốc lộ 13 vào đến
đây ngày xưa hễ mưa là lầy lội, ổ gà ổ voi, ngày
nắng thì bụi bặm, từng chuyến xe vào lấy hàng đi qua
là một luồng bụi đất quấn theo đỏ quạch. Hai bên
đường không thấy màu xanh của lá, của hoa mà chỉ thấy
độ dày của bụi đường. Khổ lắm anh ạ! Nếu cứ
phải đi ra chợ Sàn thì đâu có dám ăn mặc diện như
bây giờ!
- Thiệt thòi cho bọn con gái chúng em. Giọng
Lan trở nên xa vắng, nuối tiếc. Người ta thì như hoa,
như lụa. Còn chúng em thì... Chỉ thấy bụi đường bám
đỏ. Nhưng ngày nay thì hoàn toàn đổi thay rồi. Con
đường huyết mạch đấy thực sự đã tô thắm cho bộ
mặt quê hương em, nó đã làm thay đổi toàn bộ cuộc
sống và cả nếp nghĩ của người dân quê em đấy anh
ạ?
Chẳng đợi phản ứng của tôi. Lan vẫn say
sưa:
- Anh không biết chứ, ngay mới đây thôi. Bằng
công sức, tiền của, đặc biệt bằng tình cảm, tấm
lòng của toàn thể cán bộ, chiến sĩ K291 các anh, đã
trao tạng cho trường tiểu học Lan Mẫu xã em toàn bộ
trang bị nội thất cho các phòng học. Thật là một tình
cảm đáng trân trọng...
Vừa lúc đó, từ trong hội
trường tiếng đồng chí tổ chức Đại hội triệu tập
tiếp tục vào giờ thứ hai. Chúng tôi cùng vào hội
trường, những suy nghĩ trong tôi về Lan, về vùng quê này
trong cuộc sống hiện tại chiếm hết quãng thời gian còn
lại của Đại hội. Ánh nắng ban mai rắc đầy căn phòng
dần xua tan cái lạnh đầu mùa.
Lòng tôi thấy ấm áp
vô cùng.
Tháng 11 năm 2002
Trại sáng tác văn học Binh
đoàn Hương Giang
N.Q.H
BÙI HUY CƯỜNG
NGÀY MAI TRỜI ĐẸP
Tôi đang chuẩn bị cho chuyến
công tác sáng hôm sau thì có tiếng đồng chí Thiền –
tiểu đội trưởng gọi từ ngoài sân:
- Anh Cường ơi!
Anh có thư đây này!
Lướt nhanh ngoài phong bì tôi biết
đó là thư của Hẹn, mặc dù thư không đề tên người
gửi.
- Nó bỏ chung phong bì thư gửi cho em. - Thiền vừa
đưa bức thư cho tôi vừa nói.
Hẹn là chiến sĩ
của đại đội tôi đã xuất ngũ đợt đầu năm 2002.
Đọc xong thư tôi cứ suy nghĩ mãi và nhận ra một điều:
ngay ở nơi khó khăn vất vả vẫn tìm thấy niềm vui từ
cuộc sống, từ công việc.
Thư Hẹn viết có đoạn:
"... Khi còn trong quân ngũ ở Sư đoàn 325 của mình,
em cứ mong từng ngày hết nghĩa vụ để được trở về
quê hương. Nhưng khi đã về địa phương rồi, lại thấy
nhớ đơn vị vô cùng. Giờ đây, em mới hiểu sự mong
mỏi đso không phải vì sự huấn luyện, rèn luyện
chặt chẽ, vất vả, mà là lòng mong muốn làm tròn
nghĩa vụ của người thanh niên với Tổ quốc. Khi em hiểu
ý nghĩa của những năm tháng sống trong quân ngũ, những
tình cảm của các anh, của đồng đội thì cũng là lúc
em phải xa mọi người. Gia đình, bạn bè làng xóm ai cũng
bảo: Thằng Hẹn đi bộ đội về trông chững chạc, chín
chắn hẳn, ăn cơm Nhà nước có khác...".
Những
kỷ niệm theo từng con chữ của Hẹn ùa về trong tôi.
Ngày đó, vào cuối năm 1999 đầu năm 2000, tiểu đoàn 6
chúng tôi có nhiệm vụ tuyển chọn hơn bốn trăm chiến
sĩ mới thuộc bốn huyện của tỉnh Hải Dương. Do đơn
vị thiếu cán bộ, nên cấp trên giao cho tôi làm trưởng
đoàn tuyển quân ở huyện Gia Lộc. Tôi rất lo lắng, vì
mình ra trường mới được một năm, chưa đi tuyển quân
bao giờ, nói gì đến làm trưởng đoàn. Ngoài việc chuẩn
bị đầy đủ các tài liệu văn bản có liên quan, tôi
còn hỏi thêm kinh nghiệm của những người đã đi tuyển
quân nhiều năm. Nghe mọi người nói tuyển quân trong thời
buổi kinh tế thị trường phức tạp lắm, không ít thanh
niên nghiện hút, nhiễm HIV, tôi càng lo lắng hơn.
Ngày
đầu tiên đến để họp hiệp đồng công tác với địa
phương là một buổi sáng mùa đông se lạnh, những tia
nắng mùa đông yếu ớt đang xua đuổi dần đi sự lạnh
giá còn đọng trên những ngọn cỏ, cành cây. Tôi thực
sự bị cuốn hút bởi sự náo nhiệt, hối hả của một
thị trấn miền xuôi. Nó khác hẳn với Chũ - thị trấn
huyện Lục Ngạn nơi đơn vị tôi đang đóng quân. Dòng
người, xe cộ ngược xuôi tấp nập, ai cũng như muốn đi
cho thật nhanh - đúng là thời mở cửa có khác. Tôi thầm
nghĩ. Đang chăm chú ngắm nhìn phố phường, suy nghĩ miên
man, bỗng một giọng nói bên tai:
- Cái chú này? Sao đi
lại nghênh ngang.
Liền đó tôi thấy cánh tay mình
đau nhói, tê đi, cặp tài liệu văng xuống đường. Tôi
quay lại... Ôi... một khuôn mặt nữ sinh với đôi mắt
trong veo, vừa hồn nhiên, vừa tinh nghịch đang nhìn tôi.
Cái bực tức trong tôi bỗng tan biến khi bắt gặp ánh
mắt ấy:
- Ơ... chú. . . à anh có làm sao không ạ? -
Cô bé cười xí xoa.
- Sao húc vào người ta còn bảo
người ta đi nghênh ngang, đúng là nhất quỷ nhì ma.- Tôi
châm chọc và cúi nhặt cặp tài liệu.
- Tại cái ôtô
chứ đâu phải tại em! - Cô bé cự lại.
Trông
khuôn mặt cũng xinh xắn, nhưng sao giỏi cãi thế. Chắc
đành hanh phải biết, đúng là xui xẻo, ngày đầu đi làm
đã không gặp may mắn - Tôi nghĩ thế nhưng không nói
gì.
- Thế anh đóng quân ở đâu cơ ạ? - Cô bé bắt
chuyện.
Thoáng ý nghĩ tinh nghịch, tôi trả lời: .
-
Ở rừng sâu bé ạ !
- Rừng sâu là ở đâu mới được
chứ? - Cô bé gặng hỏi.
- Đã là rừng sâu rồi thì
còn biết ở đâu nữa!
Tôi nhủ thầm sẽ chọc tức
để xem cô bé đành hanh tới mức nào.
- Cái anh này,
đúng là ... thế anh về đây làm gì?
Giọng nói
nghe dịu dàng hơn không còn chanh chua như lúc đầu nữa.
Kể ra cũng dễ thương đấy chứ.
Tôi chợt nghĩ.
-
Anh về đây tuyển quân, em có muốn đi bộ đội không? -
Tôi đổi cách xưng hô.
Em định nói điều gì đó,
nhưng bạn em giục đi sợ muộn học. Em nhìn tôi cười
rồi đạp xe đi. Tôi đọc được trong ánh mắt hồn
nhiên vô tư đó một điều gì khó gọi thành tên. Tôi
cũng cười đáp lại thầm nói - Mong có ngày gặp lại.
Từ hôm đó, khuôn mặt, nụ cười, ánh mắt của em luôn
ám ảnh tôi.
Hội nghị hiệp đồng hôm đó, thành
phần gồm trưởng đoàn tuyển quân các đơn vị về lấy
quân và Huyện đội. Tôi hồi hộp, lo lắng vì có một
mình đeo quân hàm thiếu úy, nhưng rồi những đề nghị,
yêu cầu của tôi cũng được chấp thuận, văn bản được
ký, tôi thở phào nhẹ nhõm, ngày đầu như vậy là
tốt đẹp.
Những ngày tiếp theo, chúng tôi ở trọ
tại nhà dân và đi thâm nhập thực tế. Đó là gia đình
chú Thìn, cô Chải, nhưng chúng tôi quen gọi là chú Thìn
Chải hoặc cô Chải Thìn. Nhà còn có bà cụ đã ngoài
bảy mươi nhưng vẫn minh mẫn và cậu con trai học lóp
bảy rất thích các chú bộ đội. Chúng tôi có sáu người:
Tôi, đồng chí Quân, Ngọc, Phúc - Trung đội trưởng và
đồng chí Cương - Tiểu đoàn phó quân sự phụ trách cả
bốn huyện mà tiểu đoàn tuyển quân. Gia đình cô chú
Thìn Chải làm nghề buôn bán rau quả ở chợ Cuối. Cô
chú dành cho chúng tôi cả một ngôi nhà lầu sáu mươi
mét vuông và một chiếc tủ để làm việc.
Ba ngày
đầu, chúng tôi nghiên cứu hồ sơ, ghi lại những chi
tiết cần lưu ý để đi thâm nhập.
Hàng ngày,
chúng tôi có nhiệm vụ sáng đi xuống xã chiều về báo
cáo kết quả. Mấy ngày đầu trôi qua, kết quả bình
thường, cũng không mấy phức tạp như tôi đã nghĩ.
Tôi
phụ trách khu vực thị trấn. Hôm đó, cũng như mọi ngày
đi thâm nhập. Tôi và hai đồng chí huyện đội bắt đầu
phần việc của mình. Chúng tôi tìm đến gia đình ông
Bình có con trai nhập ngũ tên là Minh. Có mặt lúc chúng
tôi làm việc còn có bà nội của Minh. Tôi ngồi trên
chiếc ghế đã ọp ẹp kín đáo nhìn khắp căn nhà một
lượt. Trong ngôi nhà gạch cấp bốn chưa kịp trát, ở
mấy hàng gạch gần móng đã bắt đầu mọc rêu ấy
không có gì đáng giá hơn là một chiếc xe đạp nam khung
đen bóng mầu sắt chứ không phải màu sơn, ba chiếc
giường gỗ tạp đã nga mầu bởi thời gian và mồ hôi
người.
Vẫn thủ tục quen thuộc, tôi
bắt đầu:
- Báo cáo chú và gia đình, đơn vị cháu là
đơn vị 95 - Sư đoàn 325 - Binh đoàn 2 là đơn vị anh
hùng đã lập nhiều chiến công trong hai cuộc kháng chiến
cứu nước. Hiện nay, đơn vị cháu đang đóng quân tại
huyện Lục Ngạn - Bắc Giang. Là đơn vị chủ lực đủ
quân, nhiệm vụ chính là huấn luyện sẵn sàng chiến
đấu...
Sau phần giới thiệu về đơn vị tôi hỏi
những chi tiết liên quan đến chính trị về gia đình và
bản thân Minh để ghi vào hồ sơ. Khi được hỏi về
nguyện vọng gia đình, ông Bình nói:
- Cháu Minh là con
cả trong gia đình tôi, các em còn đang đi học, mẹ cháu
đau ốm luôn, hiện vẫn đang nằm viện, bà thì đã già
yếu nên tôi phải lấy vợ sớm cho cháu để có người
làm. Gia đình muốn xin cho cháu hoãn nhập ngũ năm nay vì
con nó còn nhỏ.
Chắc lại không muốn cho con
đi bộ đội đây mà - nghĩ vậy nên tôi nói:
- Gia đình
cứ yên tâm, đơn vị và địa phương sẽ xem xét lại
trường hợp của Minh nhà ta, nếu không nằm trong diện
được hoãn hoặc miễn thì vẫn phải nhập ngũ đợt
này.
Chúng tôi chào gia đình ra về. Do phải cất
tài liệu nên tôi ra sau, lúc đó đồng chí Đào - xã đội
phó và đồng chí Phán - trợ lý huyện đội đã ra ngoài
sân. Tôi đứng dậy định đi ra thì bố của Minh níu
lại.
- Anh cố gắng giúp đỡ em nó và gia đình
tôi.
Ông nói rồi giúi vào tay tôi một nắm tiền
loại mười nghìn đồng. Tôi đoán khoảng hai, ba trăm
nghìn gì đó. Tôi thật sự bị bất ngờ, liếc nhìn mọi
người, bà cụ, bố Minh và Minh đều nhìn tôi chờ đợi.
Nhìn khuôn mặt già nua khắc khổ, buồn rầu của bà cụ,
tôi cũng thấy có nét gì đó rất quen. Đúng rồi, mỗi
khi nói đến hoặc phải chứng kiến những chuyện bất
công, những điều trái ngang, bà tôi cũng thường như
vậy. Bà tôi suốt một đời chắt chiu lo cho con cháu, nay
đã gần tám mươi tuổi nhưng có miếng gì ngon vẫn
nhường con nhường cháu. Có lẽ, những người mẹ, người
bà Việt Nam đều như vậy cả . Còn thằng bé trên tay
Minh kia, chắc chỉ bằng thằng Thanh - con anh trai tôi.
Gạt
tay ông Bình, tôi nói:
- Chú không cần phải làm như
vậy đâu, đây là nhiệm vụ, trách nhiệm của chúng
cháu, chú cất tiền đi.
Ông Bình vẫn ngần ngừ, cố
giúi nắm tiền vào tay tôi và nói:
- Gia đình không có
nhiều, biếu các anh mấy đồng uống nước, mong các anh
nhận cho.
Tự nhiên thấy mặt nóng bừng, tôi nói:
-Chú
cất tiền đi, lỡ người ta nhìn thấy hiểu lầm ảnh
hưởng đến bản thân cháu và đơn vị, chú sẽ phải
chịu trách nhiệm đấy.
- Vâng... vâng!
Ông Bình
nói và miễn cưỡng bó nắm giấy bạc vào túi, vẻ mặt
lộ rõ sự thất vọng. Tôi không nói gì nữa, xoay người
định bước ra. Nhưng rồi, nghĩ thế nào, tôi quay lại
nói:
- Gia đình cứ yên tâm, cháu sẽ báo cáo cấp trên
cùng hội đồng nghĩa vụ quân sự xem xét lại trường
hợp của Minh.
- Vâng... Vâng... các anh cố gắng giúp
đỡ, gia đình sẽ không quên ơn các anh đâu. - Ông Bình
rối rít đáp lời.
Mặc dù ông nói vậy, nhưng nhìn
vào mắt ông, tôi thấy hình như ông chưa hẳn tin vào
điều tôi nói.
Tôi ra về mà lòng cứ thấy băn
khoăn, day dứt. Tuy đã nghe nhiều chuyện tiêu cực của
thời kinh tế thị trường, nhưng chẳng lẽ có người
dân lại nhìn bộ đội bằng con mắt như vậy sao? Bao năm
học trong trường sĩ quan, công sức thầy cô dạy bảo,
cả cuộc đời cha mẹ chắt chiu chăm sóc, nuôi nấng ta,
chẳng lẽ chỉ đáng mấy trăm ngàn thôi sao?! Hay mình quá
dại dột, không thức thời, không biết tận dụng cơ
hội? Là trưởng đoàn, tôi biết mình đủ khả năng
gạt một vài trường hợp ở lại mà không ai ý kiến
gì.
Ngay ngày hôm sau ông Bình đến nhà chúng tôi
trọ có vẻ tự nhiên hơn, ông nói rành mạch:
- Các
anh lo giúp em nó, tốn kém bao nhiêu các anh cứ nói để
gia đình lo liệu.
Như có cái gì đó chạy qua thái
dương, nhưng tôi vẫn cố gắng kìm chế. Mấy trăm ngàn
so với những người giầu có chẳng đáng là bao, nhưng
với tôi nó bằng cả tháng lương thiếu úy và chắc chắn
nó có thể nuôi sống gia đình ông cả tháng trời. Bất
chợt tôi thấy rùng mình, nếu tất cả mọi thứ đều
có thể mua bán được thì sẽ chẳng còn gì là quý giá
nữa. Tôi nói với ông, giọng lạnh lùng:
- Chú cứ về
đi, nếu lần sau có gì đề nghị, chú cứ đến cơ quan
Huyện đội, chứ cháu không giải quyết công việc ở
nơi đây.
Ông chào tôi ra về. Nhìn những bước
chân nặng trĩu và dáng đi như tàu lá héo kia, tôi đoán
chắc ông đang nghĩ tôi chê số tiền đó là ít!?
Tôi
đem những băn khoăn báo cáo với đồng chí hướng - Tiểu
đoàn phó quân sự, anh nói:
- Cậu làm thế là đúng
đấy! Chúng ta không thể đánh mất danh dự, sự nghiệp
của mình, truyền thống của đơn vị vì những đồng
tiền đó được, tiền thì bao nhiêu tiêu cũng hết. Nhưng
cậu nhớ kiểm tra lại trường hợp đó xem, nếu khó
khăn quá thay người khác cũng được.
Thế rồi những ngày công tác tại Gia Lộc cũng
hết, quân số đã chốt, chỉ chờ bàn giao. Tối trước
hôm nhận quân về đơn vị, chúng tôi đi chào bà
con quanh xóm.
Về đến nhà thì đã muộn. Đến
cổng tôi nghe tiếng bà cụ gọi:
- Cường ơi! Có cô
nào chờ cháu từ tối đây này!
Tôi hồi hộp tự
hỏi: "Ai vậy nhỉ? Mình có quen ai ngoài Hoài đâu”.
Hoài chính là cô bé đã húc xe đạp vào tôi hôm đầu
tiên đến Gia Lộc. Sau cái "va chạm định mệnh"
ấy, trái tim tôi luôn ấp ủ hình bóng của em. Tình cờ
một hôm đến nhà chú Vần - Trưởng thôn để liên hệ
công tác, tôi gặp lại em. Em là con gái của chú Vần. Từ
hôm đó chúng tôi trở nên thân thiết và tình cảm đến
với chúng tôi rất tự nhiên và trong sáng.
Chắc
không phải là Hoài rồi, vì tôi vừa chia tay em. Ai nhỉ?
Tôi bước vào nhà...
- Bà ơi! Cô ấy đâu rồi?
-
Đó! Bà chỉ người đàn ông đang ngồi ở ghế.
- Thế
mà cháu cứ tưởng thật!
Tôi nhận ra đó là chú Bình,
bố của Minh. Tôi rót nước mời chú rồi chủ động
hỏi.
- Chú gặp cháu có chuyện gì không ạ?
Chú
Bình chậm rãi:
- Nghe cháu Hoài nói ngày mai các anh về
đơn vị, hôm nay, tôi mới dám sang gặp các anh, trước
hết là cám ơn các anh đã cho em Minh hoãn nhập ngũ năm
nay, sau là mong các anh thông cảm về chuyện "tiền
nong” hôm trước.
Nghe nhắc tên Hoài, tôi giật mình
ấp úng.
- Dạ! Thế Hoài là ... ?
Như hiểu được
thắc mắc của tôi, ông giải thích:
- Hoài là cháu họ
nhà tôi! Thế mà tôi đâu có thấy Hoài nói gì?
- Chú
cẩn thận quá, chuyện ấy có đáng gì đâu ạ.
- Gia
đình, đặc biệt bà cụ nhà tôi cứ áy náy mãi vì đã
hiểu sai về các anh bộ đội.
- Thưa chú! Bộ đội
chúng cháu đều là con em của nhân dân, đi đến đâu
cũng được nhân dân đùm bọc giúp đỡ, nên cháu nghĩ,
ở cương vị của cháu chắc ai cũng sẽ làm như vậy
thôi! Được chú, gia đình, bà con hiểu và thông cảm là
chúng cháu mừng lắm rồi. Ông vui vẻ ra về không quên
chúc chúng tôi lên đường mạnh khỏe, công tác tiến
bộ.
Nhìn lên bầu trời với muôn ngàn vì sao lung
linh, tôi bỗng thấy thanh thản lạ thường. Những người
nông dân thật thà, mộc mạc nhưng vẫn sâu sắc
biết bao...
Bỗng có bàn tay ai đó vỗ vào vai tôi.
Tôi quay lại, nhận ra Cường:
- Lại nhớ cái Hoài phải
không? - Cường vừa hỏi vừa nháy mắt trêu.
- Không
hẳn thế anh ạ!
- Thôi, đi ngủ đi, mai còn nhận quân.
Nhiều sao thế này, nhất định mai trời sẽ đẹp! - Anh
Cường nói rồi đi vào nhà.
Tôi theo chân anh Cường
vào nhà, lòng vẫn miên man suy nghĩ ngoài kia, bầu trời
đầy sao lấp lánh.
Trại
sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang
Tháng 11 năm 2002
B.H.C
NGUYỄN VĂN HIỆP
ANH TẤN
Tôi được mời đến dự
lễ kỷ niệm ba mươi năm ngày thành lập tiểu đoàn 32
ôtô vận tải anh hùng.
Thời tiết mấy ngày hôm
nay xấu quá. Trên bầu trời, từng đám mây đen vần vũ,
mưa rơi rả rích, đến sáng nay thì càng xấu hơn. Mưa
tầm tã. Mưa như trút nước. Tuy vậy, trong hội
trường vẫn rất đầy đủ, những mái đầu bạc, những
mái đầu hoa râm và cả những mái đầu xanh kề bên nhau
kín hội trường. Tất cả đại diện cho các thế hệ kế
tiếp nhau từ ngày đầu thành lập tiểu đoàn cho đến
bây giờ. Trong không khí trang nghiêm, chúng tôi cùng nhau
ôn lại những kỷ niệm, những chiến tích và truyền
thống hào hùng qua ba mươi năm xây dựng chiến đấu và
trưởng thành của đơn vị.
Trong dòng hồi tưởng
đó, bỗng có tiếng lộc cộc gõ trên nền đá hoa đều
đều rồi dừng lại nơi cưa vọng vào tai tôi. Tôi ngước
nhìn ra phía đó. Sát sau cô gái tiếp tân là một người
đàn ông cao gầy với chiếc nạng gỗ, mái tóc đã bạc,
làn da đen, đặc biệt nơi đuôi mắt phải có một vết
sẹo to bằng ngón tay làm xếch lên hàng lông mày lưỡi
mác. Trong phút giây, tôi sững người nhận ra đồng đội.
Anh Tấn – đúng! Đúng anh Tấn rồi. Mắt tôi chợt nhòa
đi. Hình ảnh của chiếc nạng gỗ đưa tôi trở về quá
khứ ...
Những ngày cuối năm 1974 đầu năm 1975,
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang bước vào
thời kỳ ác liệt, với khí thế hừng hực "Tất cả
vì tiền tuyến", "Tất cả vì miền Nam ruột
thịt". Chiến trường đang vẫy gọi chúng tôi, những
chiến sĩ lái xe mới ra trường tiếp tục vào bổ sung và
tăng cường trên huyết mạch giao thông mà quân thù đang
điên cuồng chống phá quyết liệt, hòng ngăn chặn sự
chi viện của hậu phương cho tiền tuyến. Tôi và Thủy
cùng quê ở Đông Anh - Hà Nội được điều về nhận
nhiệm vụ ở đại đội 3 - tiểu đoàn 32 Vận tải - Cục
Hậu cần - Binh đoàn 2.
Sau khi làm xong thủ tục, tôi
đi xuống lán ở. Qua những ngày hành quân vất vả,
đặt chiếc ba lô nặng trịch xuống đất, tôi đặt mình
nằm xuống. Lán ở vắng tanh. Tất cả đều đi làm nhiệm
vụ. Trong cái âm u dưới tán lá rừng, cơn buồn ngủ kéo
sập mí mắt tôi lúc nào không biết nửa.
Chợt tôi
giật mình tỉnh giấc. Có tiếng nói cười lao xao rõ dần,
chắc là cánh lái xe đã về. Rồi một giọng cất lên:
-
Này các cậu, cô tiểu đội trưởng thanh niên xung phong
hôm nay xinh đấy chứ?
- Cô nào? Cô nào hả? - Tiếng
lao xao hỏi lại.
- Cái cô dáng cao cao, da trắng, tết
tóc đuôi sam ấy. Dân Hà Nội gốc đấy!
- Cũng được.
Một giọng ồm ồm thổ bùn cất lên - Nhưng so với cô y
sĩ của mình thì còn kém vài chân kính ...
- Thôi, cậu
dừng có nói phét! Cái tướng cậu mà có người yêu xinh
thì cô em "Zin-khơ" của mình chạy bằng nước
lã.
- Không tin hả?- Lại giọng nói ồm ồm cất
lên – Sau này hòa bình thì các tướng sẽ rõ. Tứ đại
mỹ nhân mà nhìn thấy cô em của mình chắc cũng phải
lấy tay che mặt.
Tiếng cười rộ lên. Tôi
cũng thấy vui vui, thầm nghĩ: Anh này bẻm mép thuộc diện
"Một tấc lên trời" đây.
Chợt tiếng anh
trung đội trưởng, người mà tôi gặp lúc mới đến
vang lên:
- Tiểu đội 3 được bổ sung thêm lính mới
nhé. Dân ven đô đấy.
- Đâu? Đâu? Tài mới của tiểu
đội đâu rồi?- Cùng với cái giọng đặc trưng, tôi
thấy một anh bước vào trong lán. Cái bóng cao kều che đi
một phần ánh sáng, tôi thoáng thấy một nụ cười và
hàm răng trắng lóa:
- Ái chà! Trắng trẻo thư sinh quá.
Dáng này thì "dài lưng tốn vải" lắm
đây.
Đó là người đầu tiên của tiểu đội mà tôi
được gặp. Tên anh là Tấn quê ở Hưng Yên.
Chúng tôi nhanh chóng hòa mình
cùng đơn vị mới. Có lẽ trong khói lửa ác liệt của
chiến tranh con người ta sống gắn bó gần gũi, yêu
thương và tình cảm với nhau hơn. Tiểu đội chúng tôi
có mười một chiến sĩ lái xe, phần lớn đã có nhiều
kinh nghiệm. Tôi trở thành đứa em út của tiểu đội
ấy.
Đầu năm 1975, đại đội chúng tôi nhận được
lệnh vận chuyển đạn, gạo từ Cam Lộ vào A Sầu, A
Lưới và Nam Đông dọc theo hướng của chiến dịch. Trên
các con đường quân sự làm gấp, từng đoàn xe hối hả
nối đuôi nhau với quyết tâm “Sống bám xe, bám đường,
chết kiên quyết dũng cảm", "Tất cả để chiến
thắng", "Tuyến trước đạn gạo chưa đủ, chiến
sĩ kho ăn ngủ không yên" cuốn chúng tôi trong những
ngày tăng cung, tàng chuyến, mặt mũi ai cũng sạm lại,
cảm giác đặt đâu là ngủ đấy. Chỉ có ý chí và
quyết tâm mới làm con người ta bền bỉ và dẻo dai đến
thế.
Giữa tháng, giai đoạn chuẩn bị cho chiến
dịch Huế - Đà Nẵng đến thời kỳ cao điểm, tiểu đội
chúng tôi nhận mệnh lệnh chuẩn bị kỹ càng phương
tiện để vận chuyển phục vụ chiến dịch. Đúng vào
ngày mưa tầm tã con đường 10C lầy lội và trơn trượt
bởi cái thứ bùn đỏ quạch. Chúng tôi vận chuyển đạn
dược từ kho K3 vào khu vực Động Truồi, Ngầm Truồi để
tập kết. Xe của tôi đi ở gần cuối đội hình, phía
sau là xe anh Tấn và Thuỷ. Trong cái âm u của đêm rừng,
xe tôi trườn đi chậm chạp, tiếng bánh xe lăn trên bùn
lầy lép nhép. Phía sau ánh sáng vàng ệch của chiếc
đèn gầm, trời tối đen, đặc quánh, căng mắt ra
cũng chẳng thấy gì, cảm giác như có thể cắt ra được
thành từng miếng. Không còn tiếng ầm ì của bom đạn,
những giây phút lặng đi đến rợn người của chiến
tranh như báo hiệu cái ác liệt đang đón chờ phía
trước.
Chợt tôi giật thót người. Có ánh sáng
trắng vút lên bầu trời. Pháo sáng! - Tôi nghĩ, rồi
nghiêng người nghe ngóng. Không có tiếng máy bay, không có
tiếng rít lên của pháo đạn. Có lẽ chúng bắn canh
đường. Tranh thủ ánh sáng ấy, tôi nhấn ga cho xe chạy
nhanh thêm. Bỗng: khục, khục, chiếc xe giật lên, tiếng
máy lịm đi rồi tắt ngấm. "Thôi chết, xe có vấn
đề rồi". Tôi lo lắng thầm nghĩ. Cầm vội chiếc
đèn pin, tôi lao ra khỏi buồng lái, bật tung nắp ca-bô,
hơi nóngtràn lên mặt tôi bỏng rát. Trong ánh đèn đã
bịt đi còn nhỏ xíu, tôi vội lần dây cao áp bật nhẹ
má bạch kim, tiếng cao áp kêu tanh tách, xanh lét mập
đều. Điện tốt! Sao lại thế nhỉ? Tôi loay hoay lần
tìm cuống quýt, mồ hôi chảy ròng ròng nhớp nháp. Ánh
sáng của chiếc pháo sáng chợt run rẩy rồi vụt tắt
trên bầu trời.
- Xe cộ chuẩn bị thế nào mà nằm
chềnh ềnh ở đây, định làm mồi cho địch hả?
Tôi
giật mình quay lại. Mải loay hoay, không để ý, anh Tấn
đã đứng phía dưới từ lúc nào! Tôi quay ra chăng để
ý đến giọng gắt gỏng của anh, mặt nhăn nhó:
-
Chẳng hiểu sao xe đang chạy lại lịm đi như lả đói.
Mà hôm ttrước, em đã kiểm tra và chuẩn bị kỹ rồi cơ
mà ...
- Cơ mà cái gì? Không nhanh lên đến Ngầm Truồi
là dính vào giờ cao điểm thì có nước ăn cám - Vừa
nói anh vừa leo lên bađờxốc - Đưa đèn pin đây cho tao,
đã kiểm tra điện chưa?
- Rồi, điện tốt - tôi đáp.
Anh cúi gập người trên nóc máy một lát chợt hỏi:
-
Sao bơm xăng lại nặng thế này. Hôm trước có kiểm tra
bơm xăng và đường tuy-ô không?
-Có - tôi đáp
-
Kiểm tra trong thùng xăng xem.
Tôi bước về phía
sau, bùn thụt sâu đến lưng ống chân nhão nhoét. Mở nắp
thùng xăng, tôi đưa tay về phía ống hút rồi vuốt sâu
xuống dưới. Tôi chợt sững người, có miếng giẻ to
bằng ngón tay đã bịt chặt lấy miệng ống từ lúc nào.
Tôi liền kéo miếng giẻ đó ra, phải rồi, đây là miếng
giẻ tôi đã dùng để lót nắp thùng xăng, thế nào mà
lại rơi xuống đáy bị hút vào miệng ống. Hôm chuẩn
bị xe, tôi đã chủ quan không xúc rửa, cứ nghĩ là vẫn
tốt. Thế mà...
- Đây rồi anh ạ - Tôi nói vọng lên
- Giẻ bít đường xăng. Em sơ suất quá!
Anh Tấn
kéo sập nắp ca-bô xuống rồi nói:
- Khẩn trương lên
để bám đoàn, còn đứng ngẩn ra đâý à. Tao bơm xăng
rồi đấy.
Tôi lên xe xoay nghiêng chìa khóa điện.
Tiếng máy gầm lên, chiếc xe lại tiếp tục lao đi trong
đêm tối.
Ngầm Truồi đã hiện ra phía trước.
Đây là nơi trọng điểm mà địch thường bắn phá. Có
lẽ vì thế mà cánh lái xe gọi đây là "Ngầm tử".
Xung quanh ngầm chi chít những hố bom, bộ đội công binh
và thanh niên xung phong đã tốn bao công sức và xương máu
để phá bom và san lấp, nhưng ngày nào cũng phải hứng
chịu thêm những quả bom tạ càng làm hoang tàn, chằng
chịt, nham nhở thêm những hố nông, sâu. “Bằng mọi
cách phải vượt qua ngầm". Ý nghĩ đó thoáng qua, tôi
vội rà phanh, đạp ly hợp, giảm số. Chiếc xe chở đầy
hàng nặng nề trườn xuống, ánh đèn ngầm loang loáng
theo gợn nước lan ra. Tiếng xèo xèo từ ống xả,
từ thân máy bốc lên hơi nước nóng hầm hập. Tôi nhấn
ga khi buồng lái đã ghếch lên, một khoảng sáng bờ bên
kia đã tiếp vào bánh trước. Bỗng: “Uỳnh" - Một
cụm sáng bùng lên cách bên phải xe một đoạn, đất đá
văng lên ràn rạt, khói xộc vào trong buồng lái cay xè.
Tiếng gầm rú rít lên như xé toác bầu trời. Tôi giữ
chắc vô-lăng, nhấn ga, tiếng máy gằn lên giận giữ.
Mặc kệ những tiếng nổ chát chúa, xe tôi vẫn lao đi.
Hai tai tôi ù đặc, máu sôi lên, chỉ còn đôi mắt căng
ra nhìn về phía trước để lách xe qua những hố bom.
Chợt tôi thấy mình hẫng đi. Chiếc xe chao nghiêng như
muốn đổ. Ánh sáng chói lòa và một tiếng nổ lớn trùm
lên giật mạnh. Ngực tôi căng tức như muốn nổ tung,
hoa cà, hoa cải như muốn vãi bung trong mắt, miệng sặc
sụa những khói bom. Tôi lao ra khỏi ca-bin. Một mảng bên
phải thùng xe vỡ toác, lửa bốc lên ngùn ngụt. Phải
cửu được hàng! Tôi kéo vội chiếc chăn lao đến trùm
lên chỗ cháy, hơi nóng lan nhanh tiếng lép bép to dần.
“Nguy quá! Không nhanh lên thì làm mồi cho địch tập
trung bắn phá dội bom". Đang nghĩ thế, tôi chợt
thoáng thấy một bóng người lao đến. Anh Tấn. Anh đã
vượt lên từ lúc nào rồi lao vào chỗ cháy, trong tay cầm
chắc chiếc chăn thấm nước. Đám cháy lụi dần... Từ
quần áo và chiếc chăn của anh tỏa ra mùi khét lẹt, mặt
mũi đen sạm, nhem nhuốc. Anh lao xuống quát lên:
- Lên
xe tiếp tục chạy.
Tôi lao lên xe, bỗng thấy tay anh chộp chặt bả vai
tôi giật mạnh, ngã dúi. Người anh đè lên tôi, đúng
lúc đó một tiếng nổ đanh gọn, chát chúa vang lên.
Khói, đất đá trùm lên chúng tôi nghẹt thở. Tôi vội
trồi người lên: Nguy rồi! Người anh Tấn mềm nhũn, anh
đã bị thương vào đùi, máu ra ướt đẫm. Tôi cởi
chiếc áo đang mặc, băng tạm vết thương cho anh. Một
lát, anh tỉnh lại, giọng nói yếu ớt đứt quãng:
-
Để mình nằm đây.... mau cứu xe... cứu hàng!
Tôi ôm
lấy anh không nỡ rời bước. Giọng anh gấp gáp :
-
Sơn ... nghe anh!
Tôi ghé vào tai anh, nghẹn ngào, cương
quyết:
- Anh Tấn ... Em không thể... !
Tôi bế
xốc anh lao đến bên ca-bin. Đặt anh bên ghế phụ rồi
nhào lên tay lái. Chiếc xe rùng rùng lao đi trong lửa đạn.
Lên đến Động Truồi, tôi đưa anh vào đội điều trị
16 của Viện quân y 43. Lúc này, anh đã lả đi mặt
nhợt nhạt. Tôi ôm ghì lấy anh, đôi môi mặn chát.
Giọng
người y sĩ vang lên:
- Anh ấy ở đây đã có chúng
tôi, đồng chí cứ yên tâm mà tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ.
Tôi quay lại nhìn anh, khuôn mặt thân thương
giờ đang thiêm thiếp, rồi vội vã chạy đi...
Chiến
tranh kết thúc, tôi còn ở lại phục vụ trong quân đội
hai năm nữa, sau đó chuyển ngành. Nhiều lúc nhớ đến
anh, tôi vẫn tự vấn mình: "Giá như, giá như...".
Nhưng có bao giờ sửa lại được cái "giá như"
ngày ấy. Đôi lần, tôi có dò hỏi tin tức về anh thì
được biết anh đã chuyển về tuyến sau, rồi đi điều
trị ở một tuyến an dưỡng nào đó.
Lễ mít tinh
kỷ niệm kết thúc, tôi chạy đi tìm anh. Chúng tôi ôm
chầm lấy nhau mừng mừng, tủi tủi rồi cùng nhau ôn lại
những kỷ niệm ngày xưa. Cái tiểu đội có mười
một anh tài ngày ấy giờ chỉ còn lại có mấy người -
Tôi nói:
- Thằng Thủy về cùng đợt với em, giờ ở
Plây Cu. Sau chiến tranh nso về quê lấy vợ, đến năm
1981 thì đi xây dựng vùng kinh tế mới. Còn em thì chuyển
về bên thương nghiệp, năm ngoái thì nghỉ hưu. Em được
hai cháu, cháu trai đầu học đại học mới ra
trường, cháu gái thử hai thì đang học dở ...
Dừng
lại một lát, tôi hỏi:
- Còn anh thế nào?
Anh nhìn
tôi chậm rãi: "Cuối năm 1979, mình xây dựng gia
đình. Vợ mình vẫn là cô y sĩ ngày xưa đã chăm sóc
mình suốt thời gian mình ở trạm. Thú thực đã nhiều
lần mình lẩn trốn tình cảm của cô ấy vì sợ với
cái nạng gỗ kia, mình sẽ thành gánh nặng cho cô ấy
trong suốt cuộc đời. Nhưng cô ấy yêu mình và cô ấy
chấp nhận hết tất cả. Cuối năm 1977, vợ chồng mình
sinh. một cháu gái; năm 1979, sinh một cháu trai. Cả hai
anh em lúc nhỏ thật bụ bẫm, dễ thương. Ai ngờ cử đến
tháng thứ tám, thứ chín là chân tay chúng teo tóp dần,
đầu phình to ra. Đi khám thì bệnh viện kết luận: Vợ
mình bị chất độc màu da cam, cái vết thương ấy còn
đau đớn gấp trăm ngàn lần vết thương ở ngoài da
thịt, cậu ạ! Cách đây năm năm thì cô ấy bị liệt
hẳn".
Anh ngừng lại, giọng nói chợt nghèn
nghẹn:
- Gia đình mình, hai vợ chồng và hai đứa con
giờ chỉ còn lại một bàn chân...
Tôi nắm chặt
tay anh, bàn tay cứng cáp năm nào đã đẩy tôi ngã xuống,
che chở cho tôi trong vòng lửa đạn, giờ gầy gò khẳng
khiu, xương xẩu. Những vất vả khó khăn của cái gia
đình có bốn con người ấy dồn lên cơ thể chỉ còn
một bàn chân khiến hai vai anh rũ xuống. Tôi thầm thán
phục anh. Anh đâu chỉ đứng lên trong cuộc sống này với
một bàn chân ấy, mà đứng lên bằng chính chí ý nghị
lực phi thường của ruột người lính được rèn luyện,
hun đúc trong khói lửa ác liệt của chiến tranh. Người
lính của Binh đoàn Hương Giang anh hùng.
Tôi ôm chặt
lấy anh, chiếc nạng gỗ chợt xiêu xiêu như muốn đổ,
mắt tôi nhòe đi. Tôi thốt lên giọng tắc nghẽn... Anh
Tấn!
(Theo
lời kể của đồng chí Phạm Thanh Sơn, Cựu chiến binh -
Đông Anh - Hà Nội)
Trại sáng tác văn học Binh
đoàn Hương Giang, tháng 11 năm 2002
N.V.H
PHẠM THỊ LOAN
NGHĨA TÌNH ĐỒNG
ĐỘI
Đã lâu tôi mới có dịp rảnh rỗi ghé về thăm
đơn vị cũ đóng quân trên địa bàn xã Dĩnh Trì. Từ
nơi ở đến nơi làm việc của đơn vị cách nhau 1
kilômét. Con đường đất đỏ dẫn chúng tôi đến nơi
làm việc chạy dọc theo xóm Núi, một xóm nhỏ dưới
chân đồi heo hút năm nào nay đã thay đổi đến ngỡ
ngàng. Ngọn đồi cao vợi nay tràn ngập ánh điện bởi
trạm trung chuyển điện cao thế đã được xây dựng đồ
sộ ngay trên nền bạt bớt của quả đồi. Hình ảnh cái
xóm nhỏ chân chất thuần nông, heo hút năm xưa, nay đã
rực rỡ hẳn. Sự thay da, đổi thịt của xóm làng là
công sức của bàn tay, khối óc bao con người dang ngày
đêm vượt lên trên khó khăn của cuộc sống nông nhàn
để vươn lên xây dựng quê hương mình giàu đẹp. Nhìn
dòng người tất bật ngược xuôi, gánh hàng đủ các
loại, đầy ắp trên vai kĩu kịt rảo bước tới chợ
làng, bất giác trong tôi trỗi dậy hình ảnh của anh Kỳ
nơi xóm nhỏ này. Trong một đợt tôi theo đoàn cán bộ
của Viện 43 Cục Hậu cần đến thăm và tặng quà anh
vào dịp tết cuối năm 1996. Cuộc gặp gỡ ấy với những
gì mắt thấy tai nghe là cả một bức tranh sống động
về hình ảnh anh Bộ đội Cụ Hồ trong chiến đấu cũng
như trong lao động, xây dựng, bảo vệ đất nước, vượt
lên khó khăn của gia đình góp phần xây dựng quê hương
mạnh giầu. Hình ảnh đẹp đẽ ấy đã được anh Kỳ
và đồng đội của anh là những cán bộ chiến sĩ Cục
Hậu cần để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người
dân xóm Núi qua câu chuyện mộc mạc anh kể với chúng
tôi.
Anh Kỳ quê Thạch Hà, Hà Tĩnh, xây dựng gia
đình với chị Bằng quê tại xóm Núi. Anh chị ngụ cư ở
đây. Tình yêu của anh chị xuất phát từ sự cảm thông
sâu sắc của hai trái tim mất mát hợp cùng lại với
nhau để gánh vác cho nhau những vất vả trong cuộc
đời.
Anh Kỳ là người đàn ông đã từng có vợ.
Nhưng rồi vợ anh mất, để lại cho anh một cháu trai.
Chị Bằng cũng đã từng lập gia đình. Chồng chị
đi chiến đấu rồi hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ
biên giới phía Bắc tháng 2 năm 1979, để lại cho chị
một cháu gái khi ấy mới vừa tròn một tuổi.
Hai
người góa bụa đơn côi đến với nhau, xây dựng tổ ấm
gia đình sau bao mất mát, thua thiệt mà họ phải gánh
chịu, những tưởng cuộc đời sẽ xuôi chèo, mát mái
nhưng sự thật lại trớ trêu.
Niềm khát khao của
anh chị được có đứa con chung với nhau nhưng chiến
tranh đã để lại trong anh chất độc màu da cam - vậy là
anh, chị không thể có con chung.
Với đồng lương
hưu trung tá 920.000 đồng mỗi tháng, anh chị thuộc diện
có thu nhập cao nhất trong cái xóm nhỏ chân chất thuần
nông này, cũng là niềm an ủi lúc tuổi già đủ ăn, đủ
tiêu. Nhưng cháu gái con anh chị lại mắc bệnh viêm cầu
thận nặng từ năm mười ba tuổi.
Để cứu con
vượt qua căn bệnh, anh lại bắt đầu cuộc sống đầy
khó khăn, bươn chải. Ngoài việc đong thóc, xát gạo kiếm
cám chăn nuôi, nhận thầu hai sào ao nuôi cá, anh còn nhận
thêm những ruộng trũng cạnh ngòi nước (mà dân ở đây
gọi là ùng) những ùng này anh chị cấy lúa một vụ,
khi nước dâng cao, dân làng bỏ cấy, anh chị lại cấy
rau tăng vụ và đánh bắt cá tự nhiên để lấy tiền
thêm thắt vào chữa bệnh cho con. Mặc dù đã đưa đi
khắp các bệnh viện, hết lang nọ thầy kia mà cháu vẫn
chưa khỏi bệnh.
Anh tâm sự với chúng tôi :
-
Nghĩ thương cháu quá, bố mất lúc cháu còn quá nhỏ.
Giọng
trùng xuống, anh nói tiếp:
- Có lẽ đời sinh ra tôi và
run rủi cho tôi gặp cô ấy để cùng nuôi con cho nhau hay
sao ấy!... Thôi thì mọi việc đã sắp đặt, hai chúng
tôi chung mà lại riêng, trái lại riêng mà lại chung.
-
Nói cho đúng ràng: Hai đứa con đều là của chúng tôi -
anh cười đôn hậu. Trên khuôn mặt già nua của anh sáng
lên niềm vui, ánh mắt trìu mến nhìn con gái, anh kéo cháu
ngả đầu vào vai mình. Bàn tay khô ráp chai sần nhùng vất
vả, anh đưa lên vuốt nhẹ mái tóc con. Rồi anh đưa tay
kéo cậu con trai vào lòng mình, tất cả chúng tôi
đều nghẹn ngào xúc động.
Câu chuyện rồi cũng
đến hồi kết thúc bởi cái tết đang từng giờ, từng
phút nhích lại gần, mọi nhà rộn rã gói bánh chưng
xanh. Chúng tôi ra về mà lòng chạnh hỏi: có mấy người
được như anh Kỳ!
Năm tháng qua đi, dân làng xóm
Núi nay đã thay đổi quá nhiều, không biết anh và gia
đình thế nào?
Tôi quyết định ghé thăm anh chị.
Tìm mãi mới ra cái ngõ nhỏ ngày nào. Vẫn đấy, cảnh
xưa người cũ, vẫn khoảng tường trình đất đồi rêu
phong đã phủ kín, thỉnh thoảng có khoang đất bị xói
lởm chởm bởi nước mưa. Căn nhà xưa vẫn vậy, cả anh
chị và cháu gái đều đang ở nhà. Trông anh chị
già hơn, mái tóc anh nay đã bạc đi nhiều. Cháu gái đã
ra dáng một cô thiếu nữ, cười nói rất vui. Tôi hỏi:
- Sắp cho cô ăn cỗ chưa?
Cháu cười nói:
- Bất
cứ lúc nào cô muốn ạ.
Rồi chạy ra ngõ với đám
bạn đến chơi. Anh chị vui mừng mời tôi uống nước và
nói :
- Khổ quá, nó đi mấy tuần nay mới về - bạn
nó đến chơi.
Tôi mừng quá vội hỏi:
- Thế cháu
làm ở đâu? Lương có khá không?
Anh chị vội nháy
tôi:
- Không, cháu đi chữa bệnh đấy chứ làm lụng
gì đâu!
Chị buồn bã phân trần: .
- Cô đi lâu nay
mới về nên không biết, cháu phải đi chạy thân nhân
tạo, nếu dừng hai tuần là cháu chết ngay. Tôi sững sờ
nghe câu "chết ngay" ở miệng anh chị mà tôi cảm
thấy cái chết nó nhanh và nhẹ nhàng làm sao!
Anh kể
tiếp:
- Mấy năm vừa rồi khổ lắm cô ạ. Nhà túng
bấn đến cạn kiệt vì đi các viện đều không chữa
được, nay cháu đi chạy thận nhân tạo. Ngoài tiêu chuẩn
bảo hiểm và tiêu chuẩn ưu tiên con liệt sĩ ra,
cháu còn phải tiêu hết 1.500.000 đồng một tháng vào các
khoản như: Thuê nhà ở, điện nước, tiền ăn, tiền tàu
xe đi lại.
Anh trầm ngâm giây lát rồi nói tiếp:
-
Nghĩ lại cái ngày cho cháu đi chạy thận nhân tạo, tất
cả mọi thủ tục lo lắng như mọi người, chưa biết
đơn từ xin chế độ cho cháu nên cơ cực lắm. Gia đình
lúc bấy giờ dốc hết từ lợn, gà đến thóc lúa, đi
vay mượn hàng xóm, vay cả ngân hàng mà chẳng đủ. Thậm
chí dân làng cũng như mình với vài sào ruộng cấy cộng
thêm chăn nuôi thì lấy đâu ra dư dật nhiều mà cho
vay mãi, thành ra có lúc chẳng vay nổi nữa. Mà bệnh của
cháu dừng lại là cô biết đấy! Chết ngay! Ngày xưa,
trước quân thù chỉ xác định một sống hai chết không
quan trọng, chỉ biết đánh thật hăng. Vậy mà đứng
trước cái sống, cái chết của con kề nhau chỉ trong
gang tấc mà lòng tôi rối bời. Bất chợt tôi nghĩ đến
đơn vị xong cũng mất mấy ngày đấu tranh tư tưởng mãi
mới dám làm đơn xin trợ cấp khó khăn, vì mình về rồi,
mà nhiều người cũng khó khăn chứ không riêng gì mình.
Hơn nữa, ngày xưa còn bao cấp nó khác, nay cơ chế thị
trường, ai cũng có đồng lương cả. Có tí quỹ vốn là
công sức của anh em trong đơn vị lao động suốt cả năm
trời. Xoay đi, tính lại, không biết vơ víu vào đâu nên
anh liều làm đơn gửi Đảng ủy chỉ huy Cục Hậu cần
giúp đỡ. Cô có biết không. Lúc cầm đơn ra đến ngõ
có các ông bạn trong hội cựu chiến binh đến chơi, biết
việc nói:
"- Cũng khó đấy ông ạ, Nhưng thôi cử
đi xem. sao, may ra là phúc cho cháu ". Vậy là anh đi mà
không tin tưởng sẽ có kết quả. Thế nhưng may quá cô
ạ, khi đem lá đơn lên, đọc xong các anh trong lãnh
đạo Cục đồng ý ngay, các anh ấy nói:
- Thôi dù ít,
dù nhiều chúng tôi biết anh và gia đình đang rất khó
khăn. Lúc này anh rất cần đến đơn vị, mà cuộc sông
của cháu đang rất cần chúng ta, vì vậy còn nước còn
tát, đơn vị sẽ hỗ trợ anh gọi là một chút không
nhiều". Một lần nữa: Cháu lại được cứu
sống.
Còn thời gian sau này nhờ có chính sách đãi
ngộ của Đảng và Nhà nước đối với gia đình thương
binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng cho nên
gia đình bớt được một phần khó khăn.
Anh cho
biết thêm: Tất cả khoản lương hưu 920.000 đồng anh
dành trọn cho con gái, còn anh chị và cháu trai bươn trải
thêm đê sinh sống và kiếm tiền chu cấp thêm cho cháu
gái.
Anh nói với tôi rất thật lòng:
- Thôi thì
cháu trai đã lớn và có vợ rồi, cho nên hai vợ chồng
cháu tự lo thu xếp cho nhau. Nghĩ đi thì cũng áy náy lắm
vì vợ chồng cháu cũng vất vả, xong nghĩ lại thì trách
nhiệm mọi mặt mình phải lo cho cháu gái để cháu tiếp
tục sống.
Tôi hỏi cắt ngang lời anh:
- Thế đoàn
thể có ai giúp gì không ạ?
Anh chưa kịp nói thì cháu
đã xen vào:
- Có cô ạ! Cả bà Trương Mỹ Hoa cũng đến
thăm và tặng quà. Cả ông Nguyễn Trọng Nhân bên hội
chữ thập đỏ, rồi cả Bệnh viện Bảo vệ bà mẹ, trẻ
em cũng đến.
Cháu còn ghé sát tai tôi nói: Bà Trương
Mỹ Hoa còn điện thẳng về cơ quan tỉnh Bắc Giang thế
là tỉnh cũng cử người lên thăm và cho quà cháu nhé.
Quay qua anh, tôi hỏi tiếp:
- Thế sau lần trợ cấp
ấy đơn vị mình thế nào anh?
Anh vội vàng nói:
-
Có, có đấy cô ạ! Năm nào Viện 43 Cục Hậu cần cũng
vào thăm và tặng quà cháu nhân dịp tết. Riêng Đảng
ủy, chỉ huy Cục Hậu cần đã xuống thăm và tặng quà
cháu với danh nghĩa là thăm gia đình chính sách khó
khăn. Tôi trân trọng lắm chứ cô: dẫu ít, dẫu nhiều,
tôi thấy cái đẹp đạo đời, nó có trước, có sau, nó
có nghĩa, có nghì, nó sâu nặng nghĩa tình người ở lại,
người về địa phương. Cục Hậu cần đến với tôi nó
còn là tình cảm đồng chí, đồng đội, mà cái nghĩa
tình ấy, sứ mệnh tôi đang gánh vác suốt cuộc đời
với bố cháu là người đã khuất. Đúng lúc tôi gặp
khó khăn nhất thì có đồng đội ở bên!. Đúng lúc cháu
gặp hiểm nguy nhất thì đơn vị đã cứu cháu qua cơn
nguy hiểm...
Chị Bằng cảm động nói thêm:
- Nếu
không có các anh chắc chị không chữa nổi cho cháu đâu
em ạ!
Với lời nói mộc mạc từ sâu thẳm đáy
lòng mình, chị đang thầm cảm ơn anh, cảm ơn đồng đội
của anh đã giành lại cho chị niềm hạnh phúc lớn lao
mà chị tưởng như đã tuột khỏi tay từ lâu lắm rồi!
Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang
P.T.L
VÕ XUÂN TRÍ
TÔI VÀ ANH
Xong khóa huấn luyện tân
binh tại tiểu đoàn 2, đơn vị 9, Sư 304, tôi và một số
anh đã tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm - Đại
học Tổng hợp (nay là Trường Khoa học Tự nhiên và Xã
hội) được trên điều về nhận công tác tại trường
Văn hóa Binh đoàn 2.
Trường ra đời ngay sau
khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta vừa kết
thúc. Trường được xây dựng mãi tận trong Long Bình -
Đồng Nai. Nhiệm vụ của trường là giảng dạy bổ túc
văn hóa gồm các môn: Toán, Lý, Hóa, Văn cho các đối
tượng là cán bộ, chiến sĩ trong binh đoàn chưa học hết
phổ thông trung học, thậm chí phổ thông cơ sở và ôn
tuyển sinh, tạo nguồn đào tạo cho các trường sĩ quan
trong toàn quân.
Được về nhận công tác tại
trường là một vinh dự với chúng tôi. Bởi chúng tôi
biết, mình vừa làm tròn nghĩa vụ với Tổ quốc vừa
được rèn luyện thêm chuyên môn.
Vừa đặt chiếc
ba lô, treo chiếc áo K82 còn đo bụi đường lên móc, đã
nghe tiếng anh Hoàng Khắc Huệ cười đón:
- Xin chào!
Các chú đã về đây rồi à. Đi đường có mệt
không?
Sự cởi mở, chan hòa của anh trưởng ban
khiến tôi thấy bớt đi phần nào nỗi lo lắng, e sợ.
Sau
buổi gặp gỡ chóng vánh, chưa kịp làm quen với các anh
trong ban, chúng tôi đã nghe anh Huệ nêu khái quát sự ra
đời, nhiệm vụ và đặc điểm của trường. Nghỉ ngơi
hai ngày để chuẩn bị, chúng tôi được giao nhiệm vụ
ngay.
Tôi được phân công thay đồng chí Ánh dạy
lớp 10B (hệ bổ túc văn hóa hồi ấy gồm 8, 9, 10A và
10B).
Tôi phân vân:
- Ấy chết, sao lại thế. Báo
cáo anh, em mới ra trường, kinh nghiệm chưa có, anh cho em
vừa kiến tập vừa đảm nhiệm lớp dưới, vì em...
Vẫn
nụ cười sảng khoái, hồn nhiên, cách nói bộc trực của
người con xứ Nghệ, anh Huệ ôn tồn nói:
- Chú
này, thế là không thực hiện đúng lời thề thứ hai,
trong mười lời thề danh dự của quân nhân rồi: Chống
lệnh là kỷ luật đấy nhé !
Anh lại cười to, phá
tan bầu không khí im lặng của căn phòng. Cả bọn chúng
tôi cùng cười theo trước cách vận dụng dí dỏm của
anh.
Tôi biết, mình không còn cách lựa chọn nào
khác, nên bỗng thấy lo lắng trước nhiệm vụ được
giao. Dường như hiểu được nỗi băn khoăn, lo lắng của
tôi, tan buổi họp, anh Huệ động viên:
- Có gì, chú
cứ hỏi kinh nghiệm anh Ánh, anh Khang. Nhưng phải vững
tin ở mình, vạn sự khởi dầu nan mà.
Anh vỗ nhẹ vào
vai tôi rồi cười xòa như muốn nhắc: Hãy cố lên.
Từ
phòng họp, tôi lặng lẽ, đăm chiêu đi về nhà nghỉ.
Chiều hôm đó, mọi người náo nhiệt chơi thể thao, tôi
ngồi thu mình trong căn phòng lợp lá cọ đã mục nát
loáng thoáng mạng nhện. Nên bắt đầu gì đây? Tôi lục
ba lô, lấy ra mấy quyền vở chép tay ở trường, tranh
thủ đọc lại. Chưa yên tâm, tôi mạo muội lên thư
viện, mặc dù đã đến giờ đóng cửa, cố nài chị thủ
thư cho mượn mấy quyển giáo khoa.
Sau một tuần,
vừa tu sửa nơi ăn chốn ở, vừa chuẩn bị giáo án, tôi
cảm thấy đã có thể bước vào giảng dạy được
rồi.
Sáng thứ hai, tôi thức dậy trước cả kẻng
báo thức cố đọc lại giáo án, hình thành trong đầu
từng phần của một tiết học. Keng! Keng! Keng! Dứt ba
tiếng kẻng tôi đi sau anh Huệ, ngập ngừng bước vào
lớp học. Vừa đặt chân vào phòng, tôi bị cuốn hút
bởi lớp học khá đông, toàn là những người bằng tuổi
anh, tuổi chú của tôi. Cố trấn tĩnh, nhưng không tài
nào giấu được bộ mặt bối rối, lúng túng đã đỏ
ửng. Anh Huệ cười, nhìn xuống lớp, tiếng xì xào cũng
lặng dần:
- Tôi xin giới thiệu, đây là thầy Trí -
vừa nói anh vừa chỉ tay về phía tôi - Anh tiếp: Thầy
Trí đây sẽ thay thầy Ánh, đảm nhiệm giảng dạy môn
văn cho đến lúc hết khóa.
Một tràng vỗ tay rào
rào vang lên. Tôi nhìn xuống lớp nở một nụ cười thân
thiện, thay cho lời chào.
Anh Huệ chào lớp rồi đi
ra. Còn lại tôi với hơn bốn mươi học viên lớn
tuổi. Tôi bỗng thấy lúng túng, miệng cứng lại, chưa
biết nên nói câu nào đầu tiên. Lâu sau, tôi nghĩ ra cách
giới thiệu tên tuổi, quê quán, học trường nào. Tôi
không quên nói thêm đặc điểm cá tính, trình độ hạn
chế mong các anh giúp đỡ, góp ý. Giờ học hôm ấy, tôi
chỉ củng cố lại bài của anh Ánh đã lên lớp
tiết trước, đồng thời đề ra một số quy định: Nào
là phải có bằng ấy quyển ghi chép, nào kiểm tra bài
cũ, cho bài tập về nhà. Tôi định, tiết sau mình sẽ
thực hiện đúng quy định đã đề ra.
Đúng như
quy ước, tiết sau, tôi kiểm tra bài cũ.
Tôi gọi
lần lượt ba đồng chí lên bảng, chỉ duy nhất một
đồng chí trả lời được, còn hai đồng chí kia (anh
Hưng và anh Sơn) báo cáo là chưa chuẩn bị bài. Tôi
tỏ ra thất vọng, khá bực mình vì sao lại có chuyện
học viên không thuộc bài, mặc dù câu hỏi của tôi đưa
ra có gì là khó đâu? Tôi không ngần ngại "tặng"
cho họ những điểm kém, coi đó là sự cảnh cáo về
tinh thần học tập của học viên. Sau khi nhận điểm
kém, khuôn mặt của anh Hưng, anh Sơn trông buồn bã và
trầm lặng hẳn.
Giờ học cứ thế trôi qua nặng
nề. Tôi giảng, viết, thuyết trình, nêu câu hỏi gợi
mở. Oái oăm thay, tất cả những câu hỏi tôi nêu ra,
chẳng có ai xung phong xây dựng bài. Tôi buồn lắm, tự
cho rằng: Có lẽ đây là hình thức lớp phản đối mình
đây.
Cuối tiết học, dành ít phút củng cố dặn
dò tôi bộc lộ sự không hài lòng của tôi với lớp và
đồng thời phê bình hai đồng chí không chuẩn bị bài.
Từ lớp ra về, tôi đi thẳng vào phòng trưởng
ban, với vẻ mặt cau có. Thấy anh Huệ đang hí hoáy ghi
chép ở bàn, tôi chào và kể lại ngay sự tình buổi học
hôm nay.
Nghe xong, anh phá lên cười. Bao giờ cũng
vậy, anh hơn chúng tôi là nụ cười sảng khoái, vô tư,
có phần hồn nhiên thái quá:
- Chú đúng là một anh
mới ra trường!
Tôi tưởng nghe xong câu chuyện của
tôi, anh sẽ đứng về phía tôi mà chỉ trích các
học viên lười học chứ. Đằng này, anh lại chê tôi là
giáo điều, sách vở, mới ra trường.
Anh hạ giọng
nói nghiêm túc:
- Chú chưa biết học viên của mình mà
vội đánh giá chụp mũ. Chú không biết đấy thôi. Học
viên của chúng ta là những người lớn tuổi, bỏ học
đã lâu. Họ lăn lộn trong chiến trường, nay hòa bình,
do nhu cầu phát triển của quân đội họ về đây tiếp
tục đèn sách. Với lại lớp chú cũng có mấy trường
hợp rơi vào tình trạng khó khăn đặc biệt.
Tôi
lắng nghe, và đặc biệt chú ý đến: "Có mấy trường
hợp khó khăn đặc biệt". Lẽ nào, hai trong số những
người không thuộc bài sáng nay lại rơi vào hoàn cảnh
đó? Chia tay với anh Huệ, lòng tôi cứ mãi phân vân.
Buổi
tối sinh hoạt xong, tôi xin phép trưởng ban xuống nhà ở
của học viên chơi. Nói là chơi, chứ thực tình tôi muốn
xem các anh học đêm thế nào, nhân tiện tranh thủ tìm
hiểu anh Sơn, anh Hưng.
Từ xa, trong dãy nhà lá cọ,
nằm cạnh đồi bạch đàn, le lói những ánh đèn dầu.
Thấp thoáng, những mái đầu đang mải mê dán mắt vào
sách vở. Tôi nghe nhiều tiếng tranh luận lúc to, lúc nhỏ,
thỉnh thoảng lại có tiếng người cười phá lên xen lẫn
tiếng ho...tiếng ho sặc sụa... Cách nhà ở chừng mười
mét, tôi bước nhẹ lại cố lắng nghe xem các anh tranh
luận điều gì với nhau.
- Anh Lành ơi - em khai căn số
38 sao mãi không được nhỉ, được 6 dư 2 thì đưa nó
vào đâu cho đúng hả anh?
Một anh nào đó hỏi
những người xung quanh đầy khẩn thiết. Tôi nghe tiếng
anh lớp trưởng chậm rãi: Có thế mà chú mày không làm
được, nếu dư 2 thì chú mày xếp vào mâm bảy.
Cả
phòng cười ồ lên với câu nói hài hước, hóm hỉnh của
anh lớp trưởng. Tôi cũng khẽ cười vì cách tính toán
đặc chất lính của các anh.
Tôi bước vào phòng,
lên tiếng đánh động:
- Em chào các anh!
Cả
phòng đang huyên náo, bỗng im bặt. Mọi người vội vã
mặc áo quần, rối rít chào hỏi. Tôi thấy mình tự tin
hơn vì la liệt khắp phòng là những quyển vở đang mở
ra, người thì kê lên hòm, kẻ nằm choài ra giường...Bất
giác tôi liên tưởng, sao giống cái thời mình đi học
thế.
Sau mấy câu chào hỏi xã giao, tôi bày tỏ ý
định của mình với đồng chí lớp trưởng. Nghe xong,
đồng chí lớp trưởng cười kín đáo, rót thêm nước
vào chén cho tôi, chậm rãi kể.
"Đúng là thầy
có hỏi, chúng tôi mới dám bộc lộ. Về việc thầy cho
điểm kém lớp chúng tôi không phản đối vì mình học
yếu, không thuộc bài thì nhận điểm yếu là xứng đáng.
Trường hợp anh Hưng và anh Sơn không thuộc bài cũng có
nguyên nhân cả. Chuyện là thế này thầy ạ:
- Các anh
đó quê mãi Quảng Bình, Quảng Trị. Gia đình các anh đạc
biệt khó khăn: Vợ yếu, con dại. Chẳng may, năm 1985 cơn
bão số tám đổ bộ vào miền Trung gia đình các anh nằm
trong mắt bão. Sau một đêm, cơn phẫn nộ của thiên
nhiên đã đánh sập nhà của, cuốn trôi đồ đạc gia
đình theo dòng nước ra biên. Nhận được tin xấu trên
đã cho các anh về khắc phục hậu quả kèm theo là những
trợ cấp ít ỏi. Thời gian mà thầy Ánh lên lớp bài đó
các anh khôn được nghe thành thử, các anh không thuộc
bài, hiểu bài là chuyện bình thường".
Đồng
chí lớp trưởng nói giọng bùi ngùi, thương cảm. Tôi
nghe mà bỗng cảm thấy hối hận về sự nóng vội của
mình. Tất cả mọi người trong phòng đều im lặng, nghe
rõ tiếng lá bạch đàn ngoài sân xào xạc, tiếng côn
trùng râm ran đâu đó.
- Tôi xin hứa với thầy, lớp
tôi sẽ cố gàng, không để thầy phiền lòng nữa đâu -
Anh lớp thượng hạ giọng.
Đêm đã khuya, tôi chào
các anh ra về. Nằm trên giường, tôi cứ dằn vặt mình.
Sao mình vô tình quá. Sao trước khi làm việc với lớp
mình không tìm hiểu tâm tư, tình cảm, cảnh ngộ các
anh, để rồi ngày đầu đến lớp, đã để lại ấn
tượng không hay trong lòng anh em học viên.
Thời
gian sau đó, tôi nhận thấy không ai khác, chính anh Sơn và
anh Hưng lại là người hăng hái học tập nhất. Hầu như
giờ nào của tôi, các anh đều tích cực đóng góp ý
kiến xây dựng bài. Mỗi lần trả bài kiểm tra, tôi đều
động viên khen ngợi các anh làm tăng không khí của lớp.
Khoảng cách giữa giáo viên và học viên không còn nữa
thay vào đó là mối quan hệ anh em, đồng chí đồng
đội thắm thiết.
Khóa học kết thúc. Các anh về
lại đơn vị tiếp tục công tác theo sự phân công của
tổ chức. Tôi không có điều kiện gặp gỡ đủ gương
mặt anh em trong lớp nữa.
Riêng tôi, từ ấy đến
nay vẫn là người giáo viên của trường Quân sự - Binh
đoàn Hương Giang, vẫn là người chèo đò đưa bao khách
sang sông.
Khi viết lại những dòng này tôi luôn
mong mỏi rồi đây những học viên cũ của tôi sẽ đọc
được, để qua trang sách lại dành ra ít phút cùng tôi
sống lại những ngày là học viên dưới mái trường Văn
hóa – Tân Thanh - Lạng Giang. Những tháng ngày vô giá ấy
sẽ mãi không bao giờ trở lại nữa...
V.X.T
PHAN BA
TRÊN CHIẾC GHẾ ĐÁ
Người đàn ông tập tễnh
bước tới chiếc ghế đá trống trong vườn hoa. Một đứa
bé xách hòm gỗ ào đến.
- Đánh giầy, chú!
Người
đàn ông chỉ vào đôi dép nhựa dưới chân mình. Cả hai
cùng phá lên cười rồi cùng gieo người xuống ghế
đá.
Đứa bé chừng mười hai tuổi đưa bàn tay
khẳng khiu gõ nhè nhẹ vào chiếc hòm gỗ đặt trên đùi,
đôi mắt tinh nhanh phóng về phía người khách hàng hụt
ngồi cạnh, bỗng nó thốt lên:
- Ơ! Cụt mất bàn tay!
Sao vậy chú?.
- Đạn Mỹ! - Người đàn ông trả lời
gọn lỏn.
Đứa trẻ gật gù cái đầu. Rồi với vẻ
quan tâm nó lại hỏi :
- Thế còn cái chân lập bập
của chú?
Chú thương binh chăm chú nhìn cậu bé rồi
cười hiền từ:
- Cũng là đạn Mỹ.
Đứa nhỏ
tròn miệng phát ra tiếng "ồ! ồ!" đầy vẻ thán
phục xen lẫn sự ngạc nhiên.
- Chuyện chiến tranh ấy
mà.
Người thương binh đưa cánh tay cụt lặng lẽ xoa
mái tóc hoe đỏ nắng gió của cháu đánh giầy, rồi chậm
rãi từng lời một.
- Cháu chưa ngày nào được cắp
sách đến trường ư?
Nó quay mặt đi vẻ láu táu
biến mất, chòm tóc hoe đỏ lúc lắc, bàn chân di di trên
những hòn sỏi tạo nên những âm thanh lạo xạo, lạo
xạo.
Rồi đột nhiên, đứa bé ôm chiếc hòm gỗ đứng
vụt dậy.
- Cháu phải đi đây? - Nó nói bằng giọng
buồn bã nhưng đầy quả quyết.
Được vài bước, nó
ngoảnh lại:
- Hôm nào chú đi giầy da, cứ đến chỗ
này cháu đánh cho thật bóng loáng. Cháu không lấy
tiền đâu.
Đến lượt người đàn ông quay mặt
đi.
Trên cao, những chùm lá xanh rờn, lao xao.
P.B
BÙI XUÂN TƯƠI
VƯỢT THÁC
Rầm rầm...
Bụi nước
bắn lên trắng xóa cùng dòng thác cuốn theo chiếc bè vầu
dài chừng hơn hai mươi mét. Bốn đồng chí đứng trên
bè dùng sào chống đỡ để cho con rồng tre khỏi đâm
vào bờ. Tiếng hô tiếng thét chìm vào tiếng thác đổ.
Hai đồng chí đứng phía sau bè cầm sào chạy lên phía
đầu giúp đỡ. Không kịp rồi. Từng mảng bè vầu cứ
nối tiếp nhau cắm vào bờ sông,còn đoạn đuôi bè bị
dòng nước đẩy mạnh ôm ngang hòn đá chắn giữa dòng.
Cả bốn đồng chí Dúng, Loan, Chưng, Hậu bỏ sào sợ hãi
nhảy phắt lên bờ đứng chôn chân nhìn chiếc bè vầu
bị dòng thác phá tan ra từng mảnh, xoong nồi, hoa phong
lan bắn ra trôi theo dòng nước.
Đầu thượng nguồn
con sông Lục Nam, vào mùa cuối năm nước cạn lắm, có
đoạn cạn trơ ra những hòn đá to đen vì rêu bám, có
thể đi bộ được qua sông, mà không ướt chân có chỗ
thắt lại chỉ rộng khoảng hơn một mét làm cho nước
chảy xiết, có đoạn lại phình to ra rộng hơn một trăm
mét, nước trong xanh chảy lững lờ nhìn thấy cả đáy
sông. Sang chiều ngày thứ hai đơn vị chúng tôi gồm sáu
chiếc bè vầu mới đi được hơn hai mươi kilômét đường
sông, từ xã Tuấn Đạo, huyện Sơn Động đến đầu của
xã Đồng Cốc huyện Lục Ngạn, từ phía trước, trên
con thác, Tuấn cho bè của mình từ từ tạt vào bờ và
quay lại gọi với về phía tôi, đại phó ơi bè của anh
Dúng xuống thác bị vỡ rồi. Tuấn - quê ở Huế dáng
người cao, đậm, nước da ngăm đen, là trung đội phó
kiêm chức và là cây văn nghệ của đại đội. Tuấn có
giọng hát xứ Huế rất hay, hồi còn chưa đi bộ đội
Tuấn đã phải theo cha đi rừng nên Tuấn có nhiều kinh
nghiệm đi sông nước.
Năm ấy đơn vị chúng tôi
huấn luyện bộ đội ở nhiều vùng quê khác nhau về đây
song nhiều hơn vẫn là quê Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh và
Huế.
Tôi bàn với anh em trong đơn vị đưa bè sát
vào bờ, nếu để bè ở giữa dòng, khi đến gần con
thác nước chảy xiết hơn thì không xử lý kịp, cho anh
em ghim lại bè xong, toàn đơn vị chạy xuống để
giúp đỡ bè của Dúng. Song tất cả đều bất lực, toàn
bộ bè đã bị bẻ gãy, dòng thác cuộn lên như muốn
nuốt chửng, dấn chìm và phá tan bè vầu của Dúng. Một
ý nghĩ thoáng qua trong đầu. Không thể kéo toàn bộ chiếc
bè tre dài hơn hai mươi mét ra khỏi dòng thác điên cuồng
kia được, phải làm lại từ đầu thôi.
Tôi
cùng mấy đồng chí xuống tháo dỡ con bè rời ra từng
mảng, đưa qua thác xuống dưới đóng lại từ đầu, sau
đó lần lượt đưa từng bè qua thác. Tôi phân công:
Tuấn, Hoàng và Loan đứng đầu bè, dùng sào đẩy, lái
không cho đầu bè đâm vào bờ. Ba đồng chí khác đứng
phía sau, dùng sào đẩy không cho đuôi bè ôm vào hòn đá.
Tôi và hai đồng chí khác đứng ở hòn đá, khi thân bè
áp vào thì đẩy hất ra. Làm cho con rồng tre cứ thế
lồng lên uốn mình lao theo dòng nước. Theo cách đó, lần
lượt năm bè vầu còn lại qua thác an toàn. Thác này,
nhân dân địa phương gọi là “ Thác mắc".
Củng
cố lại bè xong, chúng tôi đi thêm được một đoạn thì
trời chạng vạng tối. Tia nắng yếu ớt cuối ngày đi
ngủ đông, để lại phía sau chân trời những đám mây
đen, vàng loang lổ, tạo ra một thứ ánh sáng hư vô hắt
xuống mặt sông. Những bóng dáng nhỏ bé nhấp nhô cong
lưng chống sào đẩy cho những con rồng tre nặng nề tiến
về phía trước. Tất cả lặng đi chỉ còn nghe tiếng
những cây sào chọc xuống mạt nước nghe lõm bõm, khô
khốc. Từ xa, tôi nhận ra phía trước mặt có một rặng
tre, những làn khói xanh nhẹ bay lẫn trong rặng tre làm
mất đi cái mầu xanh của lá, rồi từ từ lan rộng, hòa
vào khoảng không yên tĩnh. Vẳng nghe xa xăm tiếng lợn
đòi ăn, tiếng của lũ trẻ gọi nhau í ới nhà ai đó.
Tôi cho đơn vị tiến vào khu rặng tre trước mặt ghim bè
lại đó để nghỉ qua đêm. Ở đó là một bản nhỏ chỉ
có năm nóc nhà nằm sát bờ sông. Tôi cho đơn vị dừng
lại và cùng Hoàng lên bờ đi liên hệ cho đơn vị chỗ
nghỉ ngơi ăn tối.
Hoàng quê ở Thanh Hóa, là
trung đội trưởng kiêm chức, Tuổi còn trẻ, song rất có
năng lực trong chỉ huy, là xạ thủ bắn B41 giỏi và là
cây ghi-ta của đơn vị. Chúng tôi vào một gia đình gần
đó, căn nhà làm bằng gỗ lợp ngói máng đã lâu, khói
bếp đã bám vào đen kịt, làm cho nó càng cũ hơn theo
thời gian.
- Chào bác ạ - Tôi lên tiếng.
Không
ai trả lời, mấy đứa trẻ quần áo nhếch nhác mặt mũi
nhọ nhem than bếp nấp sau cánh cửa ngó nhìn chúng tôi
ngơ ngác. Từ trong nhà người đàn ông dáng cao, hơi gầy
bước ra, ông có lẽ khoảng chừng năm mươi tuổi. Lướt
nhìn qua chúng tôi, ông nói bằng tiếng Kinh khá rõ.
-
Các anh hỏi gì đấy.
Tôi nhanh nhẩu trả lời:
- Dạ
thưa bác, anh em bộ đội chúng cháu đóng quân ở thôn Hạ
Long xã Giáp Sơn, thuộc đơn vị 18, Đoàn 325, Binh đoàn
Hương Giang. Do điều kiện đơn vị khó khăn, nhà ở dột
nát hư hỏng nhiều, được trên cử đi khai thác tre vầu
về tu sửa củng cố chống sập, chống dột cho đơn vị,
về đến đây thì trời đã tối, anh em chúng cháu không
thể đi tiếp được, chúng cháu ghé lại đây vào xin
phép bác và bà con thôn bản cho chúng cháu nghỉ tạm một
đêm.
Tôi vừa trình bày xong, ông nói ngay:
- Không
được đâu à. Nhà chật lắm không ngủ được đâu.
-
Thưa bác, anh em chúng cháu chỉ xin được nghỉ ở ngoài
bờ tre kia thôi ạ - Tôi nói rồi chỉ ra phía bờ sông.
-
Không được đâu. Đi tìm chỗ khác thôi - vừa nói người
đàn ông vừa hất tay ra hiệu cho chúng tôi đi tìm chỗ
khác.
Tôi và Hoàng lặng lẽ đi ra phía bờ sông. Sự
mệt mỏi cộng với cái đói cái rét càng làm tăng thêm
nỗi buồn của người lỡ độ đường. Tôi bước đi mà
lòng trống vắng. Nhìn vào khoảng không trước mặt, tôi
cứ thầm hỏi đi đâu bây giờ? Tất cả chỉ là trùng
trùng rừng núi. Đơn vị gần ba mươi đồng chí, người
ngồi ủ rũ, người nằm uể oải rải khắp bờ sông.
Thương anh em lòng như quặn lại. Tôi bàng hoàng như
nghe tiếng trách của đồng đội bên tai, đơn vị tin yêu
gắn cho hai chữ "trách nhiệm" bên mình. Vậy mà
tôi lại để anh em trong hoàn cảnh thế này sao? Tôi quyết
định cùng Hoàng quay trở lại ngôi nhà ấy. Nhìn thấy
ông, tôi nói ngay: "Dạ thưa bác ngày đầu tiên chúng
cháu đi bè trên sông, đường còn chưa thuộc chúng cháu
biết đến đâu bây giờ. Thực lòng ban chiều anh em chúng
cháu đưa bè qua thác, kinh nghiệm không có, bè vỡ hết
cả, phải khó khăn vất vả lắm anh em đơn vị mới đến
được đây. Trời đã tối rồi, đi tiếp thì lại phải
ngồi lại ngoài sông như đêm qua thôi. Đêm qua cả đơn
vị chịu rét suốt đêm, nếu đêm nay cũng vậy thì ngày
mai anh em chúng cháu không còn đủ sức để đi tiếp
được. Bác và bà con trong bản thương tình mà giúp đỡ
anh em đơn vị chúng cháu hoàn thành nhiệm vụ trên giao".
Nói đến đây người tôi run lên, nước mắt như trực
trào ra.
Người đàn ông nhìn tôi như muốn thông
cảm và đo độ tin cậy về những điều tôi vữa trình
bày. Rồi ông bảo:
- Thôi được, anh cho đơn vị nghỉ
ngoài đó nhưng phải đảm bảo an toàn cho chúng tôi. Tôi
vui sướng như trút đi gánh nặng trên vai. Cảm ơn ông
rối rít.
Khụ... khụ... khụ... - Có tiếng cụ già
ho nặng nhọc từ trong nhà vọng ra. Tôi hỏi bác, bác
bảo: "bà ốm mấy hôm nay rồi, cứ về chiều thì
lại sốt đấy".
- Sao gia đình không cho bà đi
viện? - tôi hỏi.
- Đã đi chợ mua thuốc cho bà uống
rồi mà vẫn chưa khỏi.
Ngay lập tức, tôi cho Hoàng
ra gọi đồng chí Toán - y tá đơn vị vào khám cho bà, và
báo cho đồng chí Dúng tập trung toàn đơn vị lên bờ
nhận nhiệm vụ. Đồng chí y tá đơn vị đã có mặt
khám bệnh cho bà cụ kiểm tra, đo huyết áp với động
tác thành thạo về chuyên môn. Toán nói: Bà chỉ bị viêm
phế quan và sốt nhẹ thôi. Tôi nhắc Toán kiểm tra cẩn
thận và cử luôn cậu ta ở lại điều trị cho bà.
Tôi
xin phép gia đình ra tập trung giao nhiệm vụ cho đơn vị.
Tập trung đơn vị, tôi quán triệt công tác tư tưởng,
kỷ luật dân vận, phân công nhiệm vụ tổng dọn vệ
sinh toàn bộ khu vực thôn bản và tổ chức nấu cơm cho
đơn vị. Ai vào việc đấy. Thế là tiếng nói tiếng
cười cứ xôn xao rộn ràng xóm nhỏ. Bà con trong bản đổ
ra xem đơn vị hăng hái quét dọn vệ sinh đường ngõ,
hình như ai cũng mừng vui phấn khởi. Nỗi vui mừng hiện
ngay trên nét mặt mỗi người. Tình cảm bộ đội với
nhân dân như đang được đong đầy vào trong thôn
bản.
Thấy đơn vị đang chuẩn bị dùng ni lông
dựng lán trại nghỉ ngoài bờ sông. Một bà nhanh nhẩu
chạy sang nhà bác chủ, bà vừa đi vừa chỉ tay về phía
bờ sông nói “đừng để cái bộ đội ngủ ngoài đó
rét chết nó à, cho bộ đội nó vào nhà tôi ngủ đi".
Mấy bà mấy chị gần đó cũng thêm vào nhưng họ nói
bằng tiếng dân tộc nên chúng tôi không hiểu gì cả.
Sau đó bác chủ nhà đi đến chỗ tôi, bác bảo tôi -
"Anh cho bộ đội vào các gia đình gần đó để
nghỉ".
Thế là tôi cùng bác đi vào các
gia đình xin phép nghỉ trọ, vào gia đình nào hỏi họ
cũng đồng ý ngay.
Trời đã tối. Mọi nhà đã lên
đèn. Các bộ phận đã hoàn thành xong công việc,
đơn vị chia cơm ăn ngoài sân nhà bác chủ. Bác cẩn thận
thắp chiếc đèn treo ra ngoài hiên nhà cho bộ đội ăn
cơm. Tôi sực nhớ ra hình như vẫn còn ba hộp cá, tôi
bảo Hoàng lấy ra hai hộp đưa vào cho bà và các cháu
trong nhà còn để lại một hộp phòng khi có ai đau yếu
để bồi dưỡng cho họ.
Ăn cơm xong, các bộ phận
cử người canh gác bè và chia nhau về ngu Ơû các gia đình
gần đó. Bác chủ mời chúng tôi vào trong nhà uống nước.
Bác pha trà, lấy thuốc lá ra mời chúng tôi cuốn hút và
vui vẻ tâm sự với chúng tôi. Bác tên là "Tíu"
người dân tộc Sán Dìu, là thanh niên xung phong thời
chống Mỹ, bác tham gia làm tuyến đường Trường Sơn.
Ngày ấy gian khổ vất vả lắm. Nào là mưa rừng, muỗi
vắt, sốt rét. Nhiều người chết vì sốt rét chứ chưa
kê chết vì bom đạn, vì vậy khi nhìn thấy bộ đội đi
khai thác vất vả rét mướt, anh em trẻ chưa quen sông
nước, tôi thấy thương lắm. Nhưng vì sợ như mấy lần
trước, mấy bọn đi bè qua đây cũng ăn mặc quần áo bộ
đội cả, lên bờ tre nghỉ nhưng họ không xin phép ai,
sau đó họ nhổ trộm sắn, khoai, rau, có lực lượng đi
qua còn lén vào bắt lợn bắt gà của dân, nên lúc đầu
chúng tôi chưa dám cho các anh nghỉ nhờ. Đến đây Hoàng
nhanh nhầu xen vào "Thế bây giờ bác tin anh em chúng
cháu là bộ đội thật chưa?" - Bác gật đầu cười
nói: "Tin chứ, nhìn thái độ phong cách cư xử của
các anh chúng tôi tin chứ, thế mới đúng là bộ đội Cụ
Hồ. Bộ đội là con em của dân mà".
Trời đã
về khuya, các bộ phận được phân công về từng gia
đình đã lặng im không còn tiếng rì rầm chuyện trò to
nhỏ. Thôn bản đã chìm trong không gian tĩnh lặng, vẳng
nghe tiếng thác reo rì rào từ xa vọng lại. Gió bấc thổi
nhẹ, thỉnh thoảng có tiếng kêu gọi nhau đi tìm ăn vọng
sâu vào vách núi nghe rờn rợn.
Chúng tôi xin phép
bác đi ngủ, nằm chưa ấm lưng tôi đã chìm sâu vào giấc
ngủ ấm áp tình quân dân. ánh sáng ban mai chiếu qua khe
cửa khiến tôi choàng tỉnh dậy. Gia đình đà chuẩn bị
sẵn mâm cơm thịnh soạn trên bản. Bác Tíu mang rượu ra
mời chúng tôi. Cơm nước xong, đơn vị chia tay gia đình
và bà con thôn bản. Người đi, người ở lưu luyến mãi
không thôi. Thời gian và nhiệm vụ không cho phép chúng
tôi kéo dài cái giờ phút chia tay ấy, bà con trong bản
người cho sắn, cho khoai, cả rau xanh nữa. Bác Tíu vào
nhà lấy bịch thuốc Lạng Sơn và hai cuộn giấy. Bác bảo
chúng tôi mang theo đi đường hút cho đỡ lạnh.
Bà
cụ già được y tá tiêm cắt sốt đêm qua hình như đã
khá hơn, cũng chống gậy ra để tiễn đưa chúng tôi. Bà
bảo chúng tôi đi sông nước cẩn thận và thỉnh thoảng
nhớ về thăm bà. Nghẹn ngào tạm biệt bà con xóm nho,
chúng tôi xuống bè xuất phát.
Mặt trời vừa nhô
lên khỏi ngọn núi phía xa, ánh nắng ban mai dọi sáng cả
khúc sông, nhưng chưa đủ ấm để làm tan đi những giọt
sương đêm đậu dầy như dát bạc trên tầu lá. Gió bấc
thổi nhẹ vào mặt sông tạothành những đợt sóng vỗ
nhẹ vào cạnh bè kêu lách tách, tạo ra những chùm bọt
nước màu trắng đục cố níu bám vào bè vầu chúng tôi.
Bè đã nhổ neo đẩy xa bờ tre xóm nhỏ, bà con chòm xóm
vẫn bồng bế nhau đứng trên đó nhìn chúng tôi cho đến
khi chiếc bè cuối cùng của đơn vị trôi khuất dần ở
đoạn sông uốn khúc. Lòng chúng tôi như mang theo những
người thân yêu ruột thịt của mình trên những chiếc
bè vầu bồng bềnh kiên nhẫn trên sông.
B.X.T
LÊ THU HOÀI
CÓ MỘT NGÀY NHƯ
THẾ
"- Cha bố chị, con gái
gì mà cứ lồng như ngựa vía. Tính lại nghịch ngợm như
con trai. Rồi thì ế thôi con ạ!".
Không biết
bao nhiêu lần mẹ bảo tôi như thế. Nhưng tôi thì chẳng
hề bận tâm đến điều đó. Ngày tôi quyết định làm
đơn xin nhập ngũ, hai mắt mẹ sưng húp và đỏ mọng
nước.
Rất may mắn, học xong trung cấp nấu ăn tôi
được điều động về nhận công tác tại Phòng Bảo
đảm (Cục Hậu cần - Binh đoàn Hương Giang). Bây giờ
tôi là "Lê Anh Nuôi".
Trước khi về đơn
vị, thầy phụ trách nói với chúng tôi: "Bằng cấp
chỉ là một chuyện, kỹ năng và kinh nghiệm mới là vấn
đề". Tôi ghi nhớ điều này như một cẩm nang nghề
nghiệp, và luôn tự nhủ mình không ngừng phấn đấu,
học tập ngay cả khi đã ra công tác. Chắc không cần
phải kể thì các bạn cũng hình dung ra công việc của
chúng tôi là phục vụ ăn uống cho bộ đội. Ấy thế
nhưng ngoài phục vụ thường xuyên tôi rất hay được đi
phục vụ các hội nghị, truyền thống, mừng công, đón
danh hiệu rồi đám cưới, tiếp khách... Hình như tất cả
các đơn vị trong Binh đoàn đều in dấu chân của chúng
tôi. Nhưng có lẽ tôi cảm thấy thích thú, ấn tượng
hơn với những lần đi phục vụ trinh sát địa hình hay
phục vụ diễn tập. Bao nhiêu lần đi là bấy nhiêu tình
huống, chẳng lần nào giống lần nào. Tất cả đều trở
thành kỷ niệm. Còn nhớ hồi mới về phòng, lần đầu
tiên thấy tên mình trong danh sách phục vụ diễn tập tôi
vừa háo hức lại vừa thấy lo lo. Anh Luân (trung đội
trưởng) đưa cho tôi một quyên sổ và bảo:
- Em xuống
kho nhận dụng cụ để chuẩn bị xếp xe nhé!
Tôi liếc
nhanh qua trang sổ giở sẵn thấy đề "Dự trù dụng
cụ cấp dưỡng phục vụ diễn tập... " . Một dãy
dài dằng dặc những danh mục: bát to, bát bé, đĩa lớn,
đĩa nhỏ... thôi thì đủ thứ mà loại nào cũng nhiều.
Tôi đâm hoảng!
- Dạ , nhưng... nhiều thế này... mỗi
mình em....! – Tôi ngập ngừng.
Như đọc được suy
nghĩ cua tôi, anh mỉm cười:
- Được rồi. Em cứ
xuống kho trước rồi anh sẽ cho cậu Tiến xuống phụ
với em.
- Nhưng sao phải mang nhiều dụng cụ và hàng
hóa thế ạ? - Tôi mạnh dạn hỏi anh.
- Lên trên đó
thực phẩm khan hiếm và đắt đỏ lắm, chỉ riêng việc
bảo đảm định lượng rau xanh đã là cả một vấn đề,
lại còn thực phẩm khác... - Anh giảng giải.
Mấy anh
bạn đồng nghiệp của tôi đã từng quen rồi thì tếu
táo :
- Anh em mình cứ phải nắm chắc quy tắc "Tình
yêu 4 M" em ạ! - Phong "hạc" úp mở.
-
Nghĩa là thế nào ạ? - Tôi ngơ ngác.
- E hèm... - Hoan
"giáo sư" lên tiếng - Nghĩa là em phải chắc
chắn rằng "tình yêu của chúng ta" phải hội tụ
đủ bốn yếu tố, đó là "Mắm - Mỡ - Muối - Mì"
... nếu không sẽ phải ly hôn" ... nghề!
Vừa nói
cậu ta vừa khoa chân múa tay khiến mọi người cùng cười
vang.
Sau gần hai giờ đồng hồ, ngược đường 13
(bây giờ là đường 31) chúng tôi đến Trường bắn Quốc
gia khu vực 1 thuộc xã miền núi Cấm Sơn. Chúng tôi tạm
dừng chân để mượn thêm một số đồ dùng và chờ
lệnh.
Buổi chiều, trời mưa tầm tã. Chúng tôi
nhanh chóng xếp dụng cụ và hàng hóa lên xe. Con đường
đất đỏ khi nắng thì bụi mù mịt, đỏ quạch nhưng
mới qua một trận mưa mà những đoàn xe tải, xe kéo pháo
đi qua con đường đã trở nên lầy lội, trơn và nhão
nhoét. Chúng tôi phải đi trong đêm!
Qua khỏi địa
điểm tập kết chừng 12 ki-lô-mét, xe bị sa lầy. "Thầy
tớ" chúng tôi xắn quần, đội mưa bốc bớt hàng
hóa và dụng cụ cho xe đỡ nặng. Chúng tôi dồn sức rồi
cùng hô "Hai... ba... nào!, nhưng chiếc xe vẫn ì ra
đấy. Những bó củi được mang xuống để "Cài cầu"
cho xe nhưng tình hình cũng chẳng khá hơn. Càng cố vượt
ra khỏi vùng lầy thì xe càng bị "pan". Những
tiếng thở gấp gáp. Quần áo ai cũng dính bê bết
và ướt sũng vừa nước mưa vừa mồ hôi, nhưng chắc là
không ai còn tâm trí để ý đến. Đêm càng sâu, càng đen
đặc lại. Thời gian lặng lẽ trôi đi. Thỉnh thoảng lại
có tiếng thở dài trong đêm.
- Nếu không đến địa
điểm quy định trước 3 giờ sáng thì không bảo đảm
bữa sáng ngày mai cho bộ đội. Đồng chí Trưởng phòng
lo lắng.
Một bầu không khí căng thẳng bao bọc quanh
chúng tôi.
- Hay là điện về Sở chỉ huy xin chỉ thị?
- Có ai đó lên tiếng.
Vừa lúc đó xuất hiện một
chiếc xe cẩu hàng. Không biết anh trung đội trưởng của
chúng tôi nói gì với anh lái xe cẩu mà tôi chỉ nghe được
một giọng nói rất vang và ấm:
- Các cậu yên
trí, tránh cả ra để tớ "lôi" nó lên cho. Ngày
xưa tớ cũng đã từng là lính vận tải đấy?
Khi
chiếc xe cẩu đã chạy xa hút rồi chúng tôi mới giật
mình, chẳng một ai kịp hỏi tên anh.
Thế là chúng
tôi đến An Sinh (Đông Triều - Quảng Ninh) lúc 1 giờ 30
phút sáng...
Trời vẫn mưa! Chúng tôi ai vào việc
nấy. Những bó củi chống lầy cho xe giờ dính bùn bê
bết.
Phương vừa rửa củi vừa nấu cơm sáng. Củi
ướt – hai chị em loay hoay nhóm, loay hoay quạt. Mắt cay
xè vì khói. Mặt mũi, chân tay lấm lem vừa bùn vừa nhọ.
Hai chị em nhìn nhau cười mà mắt nhòe nước.
Bắt
đầu một ngày như thế.
Chúng tôi đến Trại Mít.
Gọi là Trại Mít nhưng ở đây chỉ là một mỏm đồi
cao, tịnh không có một cây mít nào. Có lẽ cái tên này
gắn với một sự tích nào đó!
Đường từ An Sinh
đến Trại Mít phải qua tám khúc suối. Con đường do đơn
vị Công binh 219 mới mở. Đó là một lối vừa đủ cho
xe ôtô chui qua dưới tán rừng xum xuê và lởm chởm đá.
Càng đi vào sâu, con đường càng trở nên âm u.
- Nếu
thả mình ở đây chắc là không ra nổi- một cậu lính
trẻ bâng quơ.
Các anh, chị lớn tuổi, mỗi người
dường như đang theo đuổi những ý nghĩ, những trăn trở
riêng.
Phong "hạc" và Nam "béo" ngủ
gà ngủ gật. Tôi bị cuốn vào sự thích thú của cánh
lính trẻ mỗi khi xe lội qua suối hay nghiêng nghiêng theo
triền núi.
- Chị ơi! Hay là chị em mình hát đi - Cậu
Hiệu, lính mới tò te đề nghị.
- Ừ, tôi hưởng
ứng.
- Thế thì em hát trước rồi chị hát theo
nhé.
Không chờ tôi trả lời, cậu ta cất giọng
giả con gái. "Chân em đi trong yêu thương lắm lối
nhưng em chọn lối này, em đây chọn lối này thôi!".
Bất ngờ, chiếc xe chồm lên, dụng cụ va vào
nhau loảng xoảng. Cậu Nam "béo" bị tung hê lên
rơi gọn vào lòng chị Vân Anh!
Chúng tôi được một
trận cười nghiêng ngả!
Buổi trưa ở Trại Mít
trời nắng chang chang. Chúng tôi nấu ăn ở đỉnh đồi
ngay gần một con suối. Bảy cái bếp cơ động đồng
thời phát hỏa càng làm không khí nóng hầm hập. Chúng
tôi, mỗi người được phân công phụ trách một phần
việc. Tôi đảm nhiệm món canh cua. Sau khâu sơ chế (rửa,
nhặt, giã, vắt, lọc), tôi bắt nồi lên bếp đun, nồi
canh bắt đầu sôi thì có lệnh chuyển địa điểm đến
chỗ mới cách đó chừng 1,5 ki-lô-mét. Thế là chúng tôi
hối hả chuyển tất cả lên xe. Tôi kiếm cái chăn bông
quấn kỹ xung quanh nồi canh cua cho đỡ bỏng. Đoạn đường
có 1,5 ki-lô- mét mà sao dài thế, đã vậy lại xóc kinh
khủng. Tôi khư khư giữ xoong canh để nó đỡ bị nghiêng
nhưng đến nơi, mở ra thì nó đã bị sóng ra và hút vào
cái chăn bông gần một nửa! Nước mắt tôi ứa ra.
Đó
cũng là lần đầu tiên tôi biết thế nào là diễn tập
thực binh. Sau hàng loạt những tiếng nổ ùng oàng của
mìn và cả những tiếng đạn xé gió chíu chíu, "quân
xanh" bắt đầu đổ bộ. Từng tốp từng tốp "địch"
chui ra từ cái bụng to tướng của những chiếc máy bay.
Những cảnh này tôi tưởng chỉ có thể nhìn thấy trên
phim hoặc qua những câu chuyện chiến đấu mà bố kể.
Không nén nổi tò mò, tôi ấn đôi đũa đang đảo nồi
thịt cho bữa chiều vào tay Phong nói nhanh:
- Cậu giúp
tớ, tớ đi xem một lúc!
Không chờ Phong kịp phản
ứng. Tôi ào đi. Chọn ruột chạc cây cao nhưng kín trong
vòm lá, tôi vắt vẻo, yên tâm ngồi quan sát. Đang rất
say sưa, chợt tôi nghe có ai đó gọi mình ở phía dưới.
- Cậu ở đâu, Hoài ơi...!
- Em ở đây! Tôi đáp
khẽ và "nhảy dù” xuống đất.
- Úi giời ơi!
Con khỉ... - Chị Anh giật mình, cốc cho tôi một cái đau
điếng rồi nói như ra lệnh:
- Về ngay! Chuẩn bị hành
quân tiếp.
Tổ chức phục vụ bữa trưa xong, không
kịp rửa bát đũa, chúng tôi bốc tất cả lên xe để
đến Hoành Bồ (Quảng Ninh). Đây là lần đầu đến địa
danh này, dọc đường lại thưa dân, chúng tôi vừa đi
vừa hỏi đường. Con đường gập ghềnh, khúc khuỷu.
Chiếc xe liên tục bị chồm lên rồi hẫng xuống, có lúc
lại lắc lư chao đảo. Chúng tôi ngồi sát vào nhau cho đỡ
nghiêng ngả, thế mà thỉnh thoảng những cái đầu lại
“cục" vào nhau kèm theo những tiếng xuýt xoa. Những
dụng cụ bằng nhôm và bằng inôx bị xóc lên dằn xuống
kêu lạch cạch, loảng xoảng. Mấy chị em nữ chúng tôi
bị say xe mỗi người một tư thế. Chị Phương nôn thốc
nôn tháo.Thấy thế, anh -Luân thở dài:
- Thế này thì
lát nữa làm sao nấu được bữa chiều.
Tôi đọc
được trong giọng nói của anh cả sự lo lắng, băn khoăn
vội nói:
- Anh yên tâm, chúng em môi người cố gắng
một chút là sẽ ổn thôi mà.
Đến được địa
điểm mới thì đã 16 giờ 15 phút. Chỉ có 75 phút để
vừa tiếp phẩm vừa tổ chức nấu bữa chiều cho 120
xuất ăn. Chúng tôi nhanh chóng thống nhất phân công mỗi
người một việc. Chị Anh đun nước uống, nước canh và
nấu cơm. Tôi ốp trứng. Nam, Phong, Hoan và hai đồng chí
chiến sĩ nhanh chóng dỡ hàng và dụng cụ để giải
phóng xe đi tiếp phẩm. Anh Luân và Nam đi chợ. Số còn
lại chia đôi, hai người làm rau, hai người bày bàn.
Chúng tôi khẩn trương hối ha trong tư thế "chạy
nước rút" với thời gian. Đến 17 giờ 30 phút mọi
công việc đã hoàn tất. Có điều, sự gập ghềnh, dằn
dỗi của con đường từ Trại Mít đến Hoành Bồ đã
biến xoong thịt kho tàu thành xoong thịt vụn!
Sau bữa
ăn có ai đó nói như trách móc?
- Ừ, hôm nay nhà bếp
cho ăn món đặc biệt: "thịt hộp"!.
Lòng tôi
thoáng nặng trĩu!
Đêm xuống. Một ngày đã qua.
Chắc rằng, những gian khổ, vất vả đang chờ tôi vào
ngày mai, vào những ngày trong đợt diễn tập này.
Thấm
thoát đã 7 năm có lẻ sau cái ngày đầu tiên đi phục vụ
diễn tập ấy. Đã thành lệ, mỗi lần về thăm nhà, tôi
lại kể cho bố mẹ nghe về những miền quê đã đi qua,
những tên người tên đất vừa quen vừa lạ. Tôi còn
nói cho mẹ biết về công việc đã quen, về những chuyến
đi tôi không còn nhớ rõ. Kỷ niệm đã trở thành hành
trang nhưng, sau mỗi chuyến đi lòng tôi lại háo hức chờ
đợi...
- Cha bố chị, Con gái mà giống bố, lúc nào
cũng thích đi! - Mẹ lại "mắng" tôi.
Tôi
gục đầu vào ngực mẹ, lòng cảm thấy nhẹ nhõm, bình
yên.
Tháng
11 năm 2002
Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang
L.T.H
NGUYỄN ĐÌNH TÚ
RẤT DÀI VÀ RẤT
XA...
Nhà âm, đó là một
khái niệm không xa lạ đối với bộ đội phòng không.
Còn tôi vốn quen sống trong "nhà dương", bây giờ
mới có dịp được ngủ trong căn nhà âm trên một đỉnh
đồi không cao lắm, trước cái lạnh đầu đông quả
thật lạ lẫm và đầy cảm hứng tò mò.
Gọi là
nhà nhưng thực chất chỉ có mấy thanh kèo cột được
dựng lên, mái thì lợp tôn và xung quanh là những tấm
cót bao bọc. Quá nửa căn nhà ấy chìm sâu trong lòng đất,
cửa thông với những đoạn hào ngang dọc dẫn ra các
trận địa pháo. Cái "anh" pháo cao xạ bao giờ
cũng vậy, cứ phải chọn đồi cao một tí, đơn độc
một tí, nhưng cứ nhất thiết phải bắt cái bóng kiêu
hãnh của mình xuống núi đồi.
Mỏm đồi mà tôi
đang có mật là trận địa trực chiến phòng không của
đại đội 1. Đại đội này năm 1971 đã được tuyên
dương Anh hùng lực lượng vũ trang. Đại đội 1 lại nằm
trong đội hình của tiểu đoàn 1 . Tiểu đoàn 1 cũng được
phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang vào năm 1973.
Tiểu đoàn 1 nằm trong đội hình của Đoàn Phòng không
S73. Đoàn S73 lại cũng được nhận danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang năm 2000. Hóa ra quanh khu vực Hố Vầu mà
tôi tha thẩn mấy ngày hôm nay tới đâu cũng gặp anh
hùng, đến đơn vị nào cũng là anh hùng, gặp khẩu pháo
nào cũng hiểu là nó mang trên mình đầy chiến công. Và
năm 1973, khi Đoàn Phòng không S73 còn đang đóng quân tại
Quảng Trị đã vinh dự được đón Thủ tướng Cu Ba tới
thăm. Chính trên những trận địa pháo còn sặc mùi thuốc
súng đó, đồng chí Phi đen Catstrô đã giương cao lá cờ
quyết thắng cổ vũ những người anh hùng chống Mỹ cứu
nước, làm nức lòng cán bộ chiến sĩ toàn đơn vị.
Mới đó mà đã mấy thập kỷ trôi qua. Những
người lính pháo gần ba chục năm trước, liệu còn được
mấy ai hiện đang công tác tại đơn vị? Với suy nghĩ
ấy, tôi đã tìm và cuối cùng cũng gặp được một
người lính cựu duy nhất còn "sót" lại. Người
lính cựu ấy bây giờ đã tuổi ngũ tuần, lại giữ một
trọng trách rất quan trọng của Đoàn Phòng không S73, đó
là thượng tá, chỉ huy trưởng Đồng Văn Huế. "Vào
những ngày tháng tư năm bảy nhăm, anh ở đâu và làm
gì?”, tôi hỏi anh Huế và trong đầu cố mường tượng
ra cảnh Binh đoàn Hương Giang cùng các binh đoàn khác đang
thần tốc tiến vào Sài Gòn để tham gia trận quyết
chiến cuối cùng giải phóng miền Nam.
- Khi ấy tôi
mười chín tuổi, bằng tuổi của những tân binh bây giờ
- Anh Huế khẽ kháng tâm sự - Tôi là A trưởng A chỉ huy
của đại đội 27, tiểu đoàn 6, đơn vị 245 Đoàn Phòng
không S73, A chỉ huy của chúng tôi gồm có bốn chiến sĩ
thông tin, bốn trinh sát, hai đo xa, nhiệm vụ của A là
phục vụ trực tiếp người chỉ huy quyết định các
trận chiến đấu cho đại đội. Đại đội của chúng
tôi lúc ấy có bốn khẩu pháo 23 ly do bốn xe kéo, đi
theo mũi Tây Thừa Thiên. Tới Ngầm Truồi, trong khi chúng
tôi đang rải người ra để thực hiện nhiệm vụ thì
một quả lựu đạn pháo 175 từ Phá Tam Giang kích vào hõm
đá, chụp xuống tiểu đội. Lúc ấy tôi đang rải dây
thông tin, sau tiếng nổ lao lên thấy bốn đồng đội của
mình đã hy sinh, thi thể văng mỗi nơi một mảnh, đại
đội trưởng cũng bị mảnh pháo xé nát đầu và ngực,
chết ngay trên tay tôi, toàn thân vẫn còn ấm nóng.
-
Đó là những cái chết đầu tiên mà anh được chứng
kiến kể từ khi vào chiến trường phải không?
- Vâng, lần đầu tiên. Chỉ
có một người là còn nguyên vẹn, bốn người kia phải
ghép những mảnh xương thịt lại để mai táng. Tôi còn
nhớ mãi hình ảnh người đại đội trưởng của tôi.
Anh ấy quê Thái Bình, ba mươi sáu tuổi, chưa có người
yêu, rất to khỏe. Khi tôi ôm lấy anh, hình như anh muốn
nói với tôi điều gì đó mà không còn đủ sức để
nói. Rồi cứ thế anh xấu đi. Pháo địch vẫn tiếp tục
kích tới. Cái loại 175 - Vua chiến trường ấy kinh khủng
lắm. Các lỗ kích gần nhau san sát, chi chít khắp xung
quanh chúng tôi. Chẳng hiểu sao tôi lại sống được? Cho
đến khi tiến vào giải phóng Sài Gòn, A chỉ huy của
chúng tôi là một A thiếu, đơn vị đang thần tốc hành
tiến nên không còn kịp bổ sung nữa. Lúc ấy chúng tôi
cũng không có nhiều thời gian để mà nghĩ ngợi về cái
sống và cái chết. Trong đầu chúng tôi chỉ nghĩ đến
chiến đấu sao cho hiệu quả nhất, thực hiện các mệnh
lệnh của cấp trên sao cho chuẩn xác nhất. Và cứ nghĩ
đến chiến thắng!
- Từ Huế vào đến Sài Gòn bốn
khẩu pháo 23 ly của các anh có nhả đạn lần nào không?
- Nhiều chứ! Qua năm nhăm ngày đêm chiến đấu liên
tục kể từ khi bắt đầu chiến dịch, tham gia giải
phóng Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Phan Rang, Phan Thiết và
cuối cùng là Sài Gòn, Đoàn Phòng không S73 của chúng tôi
trong đội hình tiến công của Binh đoàn Hương Giang đã
đưa 280 xe, 142 khẩu pháo và các phương tiện chiến đấu
khác vượt qua chặng đường dài hơn 1.000 ki-lô-mét, nổ
súng chiến đấu 150 trận, bắn rơi 27 máy bay, bắn cháy
10 tàu chiến, diệt trên 500 tên địch kia mà. Riêng đại
đội pháo của tôi cũng nổ súng nhiều lần. Pháo 23 ly
có tầm bắn hiệu quả từ 2.500 đến 3.000 mét, bắn xa
là 5.000 mét. Nó có chức năng tiêu diệt các loại mục
tiêu trên không nhằm bảo vệ đội hình bộ binh tiến
công và khi được phép thì có thể hạ nòng bắn các mục
tiêu mặt đất, mặt nước. Tôi còn nhớ mãi hôm hai chín
tháng tư. Khi ấy chúng tôi hành quân đến phà Cát Lái.
Các loại pháo của ta đã bắn "dập đầu" pháo
địch, sức đề kháng của chúng gần như tê liệt. Nhưng
rồi bầu trời Sài Gòn bỗng tràn ngập trực thăng địch
chở tàn quân di tản. Thế mà bọn địch ở mặt đất
lại tưởng Mỹ đổ quân vào ứng cứu, chúng liền đồng
loạt ngóc đầu lên. Tàu địch trên sông cũng quay trở
lại bắn vào đội hình đang tiến của ta. Trước tình
huống ấy, bốn khẩu pháo của chúng tói đã hạ nòng
xuống bắn thẳng vào tàu chiến địch, rồi bắn vào các
ổ đề kháng ở bên kia sông, hỗ trợ cho các đơn vị
của ta qua phà tiến vào nội đô Sài Gòn. Mười một giờ
ngày ba mươi tháng tư chúng tôi sang được phà Cát Lái,
cứ thế tiến thẳng đến dinh Độc Lập. Bây giờ nghĩ
lại những ngày hào hùng đó, tôi thấy mình là người
hạnh phúc vì đã được chứng kiến những phút giây
lịch sử thật huy hoàng của dân tộc.
- Và anh tiếp
tục theo đơn vị từ ngày đó đến nay?
- Giải
phóng miền Nam khi tôi vừa bước vào tuổi đôi mươi.
Lúc ấy tôi chỉ nghĩ đến việc mình sẽ được trở
lại quê nhà, được tiếp tục làm ruộng rồi sẽ lấy
vợ như bao chàng trai khác. Nhưng đơn vị lại cử tôi đi
học. Tôi còn tiếp tục tham gia một vài chiến trường,
công tác ở một vài đơn vị khác nữa rồi mới quay trở
lại Đoàn Phòng không S73. Thế là cả đời tôi gắn với
đồi và núi. Cả đời tôi gắn với câu ca Rất dài và
rất xa...
Cả hai chúng tôi đều cười trước ca từ
mà anh vừa dẫn ra. Lính pháo phải cảm ơn nhạc sĩ Phan
Huỳnh Điểu và nhà thơ Bùi Công Minh rất nhiều vì họ
đã để lại một bài ca bất hủ, có thể gọi là "binh
chủng ca" của những chàng trai chân sắt vai đồng.
Tôi quay sang hỏi anh Huế:
- Đoàn Phòng không S73 của
ngày hôm nay có thay đổi gì so với chính nó hai mươi bảy
năm về trước không anh?
Anh Huế lắc đầu:
- Cơ
bản không có gì thay đổi, chỉ rút gọn hơn cho phù hợp
với thời bình thôi. Và chúng tôi không gặm nhấm quá
khứ. Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang mà chúng tôi
vừa nhận là phần thưởng cho thời kỳ đổi mới. Hôm
qua hay hôm nay thì vẫn là không thay đổi bản chất anh
hùng. Phẩm chất ấy không dễ gì có được và cũng
không dễ gì mất đi.
Tôi tiếp lời anh: "Thế
còn những chiến sĩ của anh bây giờ thì sao, có nét
tương đồng nào với chàng trai binh nhì Đồng Văn Huế
năm xưa không?". Anh Huế bảo: "Cái đó thì anh cứ
lên trận địa với anh em, có lẽ anh sẽ cảm nhận được
nhiều hơn những gì mà tôi muốn nói".
... Đó chính là lý do mà tôi
đến với những mỏm đồi cao trên dưới nghìn mét, đến
với căn nhà âm lạnh lẽo chôn nửa mình dưới lòng đất
này. Trăng ló rạng nơi xa xa kia, hắt ánh vàng xuống
những nòng pháo một thời oanh liệt. Dưới chiến hào
tiếng hát của các chiến sĩ trực chiến thuộc trung đội
2 lan trong không gian, theo gió vọng khắp triền đồi. Pháo
anh lên đồi cao nã vào đầu giặc Mỹ, bục giảng dưới
hầm sâu em cũng là chiến sĩ, ngày và đêm xa nhau đâu
chỉ dài và nhớ... Tôi nhìn sang mỏm đồi phía bên
tay phải mình. Ở đó cũng có một ánh đèn leo lét, mờ
nhạt hắt lên từ đâu đó dưới lòng đất. Nơi ấy là
trận địa của đại đội 2. Hôm qua tôi đã leo lên mỏm
đồi đó để xem các khẩu đội tập hiệp đồng chuẩn
bị chiến đấu. Trong giờ nghỉ, khẩu đội trưởng khẩu
đội 3 Trần Hải Vinh hỏi tôi: "Hà Nội đã rét
nhiều chưa anh?". Tôi ngạc nhiên: "Sao Vinh lại
quan tâm đến thời tiết ở Hà Nội?".
Vinh bảo:
"Mùa đông con gái Hà Nội ra đường ăn mặc rất
đẹp". Thì ra vậy. Chàng hạ sĩ này sinh ra và lớn
lên ở phường Thành Công, Ba Đình nên đi xa còn nhớ đến
cả cái rét Hà Nội với những tấm khăn quấn cổ của
thiếu nữ Hà Thành thì cũng là điều đương nhiên dù có
hơi lãng mạn. Vinh sinh năm 1979, đã tốt nghiệp Trung cấp
Tài chính, vào bộ đội được hơn một năm rồi, đã
qua lớp huấn luyện khẩu đội trưởng. Lúc nãy tôi nghe
Vinh nói về khóa nòng, thân pháo, máy nạp đạn, máy
ngắm, máy hãm lùi, máy cân bằng, máy tầm, máy hướng,
bệ pháo, xe pháo, chiếu sáng... tự tin và thành thạo
lắm. Lại nghe Vinh hô khẩu lệnh đâu ra đấy, tay phất
cờ đỏ, cờ trắng dứt khoát, gãy gọn chỉ huy các pháo
thủ vào ra thao tác rất thuần thục từng động tác theo
vị trí của mình. "Gào thét" bên những khẩu đại
bác là thế mà rời khỏi trận địa đã nghĩ ngay đến
con gái Hà Nội "vào đông" thế nào. Tôi hỏi
Vinh: "Tết năm ngoái không được về có nhớ nhà
không?”. Vinh cười: "Ăn tết ở nhà nhiều quá rồi
nhưng tết lính có nhiều cũng chỉ xơi được có ba cái
thôi. Không tranh thủ thì sau này có muốn cũng chẳng còn
có hội".
- Sao lại chỉ có ba cái thôi?
- Thì
khẩu đội trưởng như em thực hiện nghĩa vụ ba năm. Ra
quân em sẽ đi theo cái nghề tài chính mà mình đã được
học. Lúc ấy muốn ăn một cái tết lính chắc gì đã
được?
Vinh thẳng thắn và hồn nhiên quá nhỉ? Mới
ngày nào nhập ngũ, bạn bè còn đưa tiễn theo mấy chục
cây số bằng một "thê đội" xe máy, rầm rộ
như đi hội thể thao vậy. Và trong mắt bạn bè ngày ấy
đứa nào cũng lo cho thằng Vinh thư sinh, mảnh khảnh không
chịu nổi những tháng ngày quân ngũ. Ai ngờ nó lại
thích ứng nhanh đến thế, mới có một cái tết thôi mà
đã hạ sĩ khẩu đội trưởng rồi. "Nếu có điều
kiện thì theo nghề binh chứ?", tôi hỏi. Vinh lắc
đầu: "Em chưa nghĩ đến điều ấy, em vẫn xác định
là mình đang thực hiện nghĩa vụ của một công dân đối
với đất nước thôi". Điều ấy thì hẳn rồi. Dẫu
sao thì sống trong thời bình cũng thật hạnh phúc. Mọi
người có quyền lựa chọn hướng đi cho mình và đâu
phải cứ tại ngũ mới là người lính. Khi đất nước
cần thì mọi công dân đều là người lính kia mà. Vinh
gật đầu đồng tình với tôi điều ấy. Rời trận địa,
xuống tới chân đồi rồi tôi vẫn còn thấy Vinh đang
phất cờ chỉ huy khẩu đội của mình diễn tập bên
tháp pháo. Ngày nào họ cũng mải mê với những khẩu
pháo của mình như thế. Còn bây giờ, dưới ánh trăng
vàng như mật này, bên ánh đèn mờ nhòa hắt lên từ
dưới lòng đất kia có Vinh đang ngồi đấy không? Mỏm
đồi bên này tiếng hát đã tắt rồi. Giờ sinh hoạt đã
hết. Các chiến sĩ của trung đội 2 đã vào vị trí của
mình. Trung đội trưởng Nguyễn Văn Thái đến bên tôi
bảo: "Đêm nay anh thức cùng với pháo chứ?".
Khiếp thật! Pháo mà biết thức cơ à? Như đọc được
ý nghĩ ấy, Thái bảo: "Người thức là pháo thức.
Anh đã thấy những quả đạn đặt bên mâm pháo rồi
chứ? Nếu có mục tiêu cần tiêu diệt, pháo sẽ cất lên
âm thanh của riêng nó".
Chàng thiếu úy trung đội
trưởng này có lối diễn đạt hào sảng quá. Lúc chiều
tôi đã được xem tấm ảnh cô bạn gái của Thái nơi
túi cóc ba lô. Chỉ là một tấm ảnh kỷ niệm thôi, Thái
bảo với tôi thế. Sao lại là kỷ niệm?. "Bọn em có
cảm tình với nhau từ hồi học cấp ba, nhưng khi em chọn
Học viện Phòng không để vào học thì cô ấy có vẻ
buồn. Cô ấy sợ em phải đi xa. Bộ đội có mấy khi
được ở gần nhà. Bây giờ thì quả là em đã ở một
nơi rất xa cô ấy. Khoảng cách địa lý đã làm ngọn
lửa được thắp lên trước đó yếu dần đi ..."
.
Lại một câu chuyện tình man mác buồn thường
gặp ở những sĩ quan trẻ. Tuổi trẻ bao giờ cũng đi
liền với tình yêu. Và tình yêu có mấy khi thôi đỏng
đảnh? Tôi đã không thể "thức cùng pháo" như
lời rủ rê của Thái khi nãy. Tôi chui vào trong nhà âm
tìm chỗ ngả lưng. Vừa chợp mắt được một chút đã
nghe thấy còi báo thức rồi. Tôi cùng những người lính
pháo rời mỏm đồi chưa kịp quên tên, rời căn nhà âm
chưa kịp lưu hơi ấm để bàn giao trận địa trực chiến
lại cho trung đội khác lên thay thế. Trên đường về sở
chỉ huy, tôi thấy từng đoàn bộ đội đang hành quân
lên những mỏm đồi để bắt đầu một ngày huấn luyện
mới. Bóng họ lẫn vào với keo, bạch đàn và vải. Họ
mất hút rất nhanh như thể đã hóa thân vào chút sắc
xanh thưa thớt của núi đồi đang giăng mắc trước
nền trời đông chuyển màu xám trắng. Và tiếng hát của
họ như còn vương lại đâu đó quanh những triền dốc
thoải, quẩn bên những tán keo bông vàng, ngập ngừng bên
những chiến hào đầy hoa cỏ. Bỗng nhiên tôi cũng lẩm
nhẩm hát theo họ, với những câu hát đã xưa cũ nhưng
hôm nay, dường như, lại rất mới mẻ đối với tôi.
Rất dài và rất xa, là tháng ngày thương nhớ...
Hố Vầu, đầu đông 2002
N.Đ.T
ĐỖ BÍCH THỦY
MỘT NGÀY Ở ĐƠN
VỊ XE TĂNG ANH HÙNG
"... Xe tăng 843 do đại
đội trưởng Bùi Quang Thận trực tiếp làm trưởng xe
dẫn đầu, tiếp theo là xe 390 của chính trị viên đại
đội Vũ Đăng Toàn tiến thẳng vào Dinh Độc Lập. Xe 843
húc đổ cổng phụ, xe 390 húc đổ cổng chính, trung úy
Bùi Quang Thận cầm lá cờ giải phóng chạy lên cắm trên
nóc dinh tổng thống ngụy quyền Sài Gòn. Lúc ấy là 11
giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975...".
Hình ảnh
này đã vĩnh viễn đi vào lịch sử oanh liệt của dân
tộc, là niềm tự hào của nhiều triệu dân Việt Nam. Đó
là những chiến công như thần thoại của đơn vị xe
tăng 203 anh hùng. Năm 1975 lịch sử ấy cũng là năm đơn
vị 203 tròn mười tuổi, cũng là năm đơn vị được Nhà
nước trao tặng danh hiệu Anh hùng là đơn vị đầu tiên
của Binh chủng Tăng - Thiết giáp được nhận danh hiệu
cao quý này.
Và hôm nay, hai mươi bảy năm sau đại
thắng mùa Xuân 1975, đơn vị 203 nằm trong đội hình Binh
đoàn Hương Giang lại đang án ngữ ở một vùng phía Bắc
Tổ Quốc. Chiến tranh đã lùi xa, và cũng đã rất
xa chiến trường xưa, những cỗ xe tăng nặng vài chục
tấn vẫn mang trên mình dấu vết một thời đạn bom khói
lửa lại lặng lẽ giấu mình giữa một vùng núi non
trùng điệp, mịt mờ sương khói... Tôi, cũng như nhiều
người ở thế hệ lớn lên trong thời bình, khi đến với
họ thì những vinh quang, oanh liệt một thời đã được
lặng lẽ cất đi Cái phải đối mặt là những nhiệm vụ
trong thời kỳ mới, không phải là nặng nhọc và vô cùng
vất vả...
C26 sửa chữa, một trong 5 đại đội
trực thuộc của đơn vị, một trong những cánh tay không
thể thiếu của kíp xe tăng khi lên đường - đầu giờ
chiều một ngày đầu đông. Ở rừng, mùa đông đến
sớm. Trời hanh và gió nhưng vẫn không át nổi mùi dầu
mỡ sực lên. Trong xưởng có hai chiếc T34 đang được
tháo dỡ bảo dưỡng định kỳ. Trưởng nhóm sửa chữa
chiếc thứ nhất là thiếu úy Nguyễn Ngọc Trường - thợ
sửa chữa cơ tăng. Cùng với Cường còn hai thợ sửa
chữa cơ tăng và một thợ sửa chữa điện tăng nữa là
Trần Văn Phương, Nguyễn Văn Trung và Nguyễn Minh Hùng.
Bốn người là một nhóm để tiến hành tất cả các
khâu của quy trình bảo dưỡng một chiếc xe tăng theo
định kỳ. Bốn người bọn họ, làm việc liên tục cả
ngày nghỉ, trong vòng nửa tháng đến hai mươi ngày thì
hoàn tất ruột chiếc xe. Mỗi năm, chỉ riêng bảo dưỡng
đã có 9 - 10 chiếc xe tăng được đưa vào xưởng. Mỗi
lần bảo dưỡng đều phải trải qua các giai đoạn tháo
dỡ động cơ và các bộ phận khác bên trong xe cạo gỉ
lòng xe, hiệu chỉnh các thông số kỹ thuật, thay các bộ
phận hỏng hóc, xuống cấp. Phương dẫn tôi sang chiếc
xe tăng thứ hai, một nhóm bốn người khác đang làm việc,
chiếc xe này đã được tháo dỡ xong, hai người đang cúi
lom khom trong lòng xe, cạo gỉ bằng một dụng cụ chuyên
biệt. Gỉ sắt rơi thành từng đống dưới nền bê tông.
Phương bảo, cạo gỉ xong phải rửa một lượt bằng
dầu, lượt tiếp theo dùng bàn chải sắt, đánh bằng xà
phòng và nước sạch, xong bằng ấy công đoạn đã mất
đứt ba ngày.
Tôi hỏi thiếu úy Nguyễn Ngọc Trường:
-
Tháo toàn bộ phần "ruột xe" ra thì phải vặn
bao nhiêu cái ốc?
Cả tổ cười rộ lên:
- Ôi trời,
ai mà đếm được. Có mà hàng thúng.
Trường nói
thêm:
- Chỉ riêng số cờ-lê dùng để mở được hết
các con ốc đã lên đến hơn một trăm loại rồi chị ạ.
Có những con ốc ở các vị trí đặc biệt thì phải có
loại cờ-lê chuyên dụng, cờ-lê hình chừ Z hoặc chữ L
mới lách vào được.
Phương chỉ cho tôi xem một
khay ốc mới được tổ bên kia tháo ra. Đúng là "một
thúng" ốc thật. Thế này thì ai mà nhớ được có
bao nhiêu chiếc ốc lớn ốc bé, ốc mẹ ốc con đã từng
qua tay mình. Và phải mất đứt một ngày rưỡi với bốn
người cho phần vặn các con ốc.
Tất cả đều
làm bằng tay, dùng sức người là chính. Tháo ra đã khó,
lắp vào càng vất vả, vì khi lắp còn phải hiệu chỉnh
lại các thông số kỹ thuật cho chuẩn xác. Hình như
do suốt ngày tiếp xúc, hít thở các loại dầu mỡ nên
da dẻ ai cũng xanh tái như người sốt rét. Khẩu trang
cũng không thấy đeo, có người bảo, đeo khẩu trang một
lúc còn chịu được chứ đeo cả ngày khó chịu lắm, mà
ngửi mùi dầu mỡ nhiều năm nay rồi nên cũng quen. Cái
vất vả của người thợ sửa chữa không ai tính được,
số lượng công việc cũng không gạch đầu dòng liệt kê
ra được. Ấy nhưng khi ra trận, khi kíp xe tăng được
ngồi trong khối sắt lừ lừ lao thẳng vào quân địch,
nã pháo ùng oàng thì mấy anh lính thợ lại không được
hưởng cái cảm giác trực tiếp tấn công kẻ thù, đành
ngậm ngùi chịu "phận".
Trường cũng như
Phương, Hùng, Trung đều ít nói. Hỏi đâu trả lời đấy.
Không thấy ai kêu khổ, kêu vất vả Dường như hàng trăm
bộ phận trong chiếc xe tăng này đã quá thân thuộc với
họ. Mỗi chiếc xe tăng ở đơn vị này, dù thuộc loại
nào cũng đều đã kinh qua chiến đấu. Nghĩa là chúng đều
đã mang trên mình một câu chuyện lịch sử có thể giống
hoặc không giống nhau. Chính vì thế mà mỗi khi nhận về
xưởng một chiếc xe tăng là T34 hay T54, T59 mỗi người
trong xưởng đều có một tư thế nâng niu, trân trọng.
Chiếc ghế trưởng xe đã rách một miếng da này có thể
người ngồi trên nó đã hy sinh, ô kính nhỏ hơn bàn tay
trước ghế lái kia có thể vẫn còn vương vài giọt máu
đồng đội trong một trận tấn công quyết liệt nào đó.
Phương kể, nhiều lần, khi tháo dỡ xe bảo dưỡng anh em
thợ vẫn còn nhặt được vài viên đạn các loại giắt
trong các khe, kẽ. Đó là đạn đã được sử dụng trong
một trận đánh nào đó gần ba mươi năm trước còn sót
lại.
Khi kíp xe ở lại doanh trại huấn luyện
tại chỗ thì thợ sửa có việc trong xưởng, khi xe đi dã
ngoại thì thợ sửa cắp "tráp" đi theo, bất kể
mưa nắng, nóng nực hay giá rét thì anh thợ sửa chữa
vẫn như một bác sĩ cơ động, xe trục trặc ở đâu thì
ngả đồ ngay ra đấy mà mổ xẻ. Cũng ở C26
này đã có một sáng kiến giúp ích rất nhiều cho việc
huấn luyện chiến sĩ mới, đó là mô hình mạch điện
thân xe T54. Trước đây, khi huấn luyện cho anh em chiến
sĩ mới, giáo viên phải mô tả bằng cách vẽ lên giấy,
thậm chí phải chui vào xe, thì lần này chỉ cần sử
dụng mô hình này là sau đợt huấn luyện chiến sĩ đã
có thể nắm được toàn bộ mạch điện trên xe, có thể
tháo lắp được các bình điện, sửa chữa khắc phục
các trục trặc trong mạch điện...
Sở dĩ tôi tiếp cận với
cánh thợ sửa chữa nói ít làm nhiều trước khi đến
gặp anh em lái xe là bởi trong thâm tâm tôi vẫn cho rằng,
nếu không có những người thợ này thì những cỗ xe
tăng nặng nề đã có tuổi thọ nhiều chục năm kia hẳn
là không thể còn phát huy được sự dũng mãnh của nó.
Thời gian và khí hậu khắc nghiệt ở nước ta không cho
phép lơ là sự chăm sóc với chúng. Đến cả kính ngắm
đêm và đèn hồng ngoại ở nhiều xe còn phải niêm
phong, dán kín đê tránh sự hủy hoại của thời tiết
miền núi khắc nghiệt. Anh thợ sửa chữa cũng như anh
thông tin đảm bảo liên lạc, dù chỉ là một khoảng
cách ngắn từ trưởng xe tới lái xe, pháo thủ thì cũng
không thể hét lên bằng liệng trong tiếng gầm rú của
động cơ; cũng như anh công binh dọn đường, lo cầu phà;
cũng như anh vận tải chở đạn dược, lương thực thực
phẩm; cũng như anh quân y lo sức khỏe cho từng thành viên
đang ngồi trong lò nướng là chiếc xe tăng kia... đều
không thể thiếu mỗi khi đoàn quân sắt thép này ra trận.
Thậm chí chỉ là khi ra thao trường. Trước mỗi ngày
chiếc xe lăn bánh, xích nghiến ken két trên đường
bêtông, là tất cả năm bộ phận phục vụ này đã phải
hoàn tất công việc.
Có những người đầu tiên
phát minh ra một loại xe dũng mãnh như xe tăng không bao
giờ tưởng tượng được rằng sau này nó sẽ được sử
dụng trong những hoàn cảnh đặc biệt như thế nào. Lần
đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ
xâm lược quân đội ta đưa xe tăng vào cuộc là
trận đánh cứ điểm Tà Mây trong chiến dịch Khe Sanh năm
1968. Xe tăng 555 do trung đội trưởng Lê Xuân Tấu chỉ
huy đã lừng lững xông thẳng vào cổng chính của cứ
điểm mở đường cho bộ binh và công binh tiến vào tiêu
diệt địch. Lần đầu tiên xe tăng xung trận, địch bất
ngờ, bộ đội ta được tiếp thêm khí thế, chúng ta đã
chiến thắng giòn giã. Đây là trận đánh mở màn của
xe tăng đơn vị 203, là trận mở ra một truyền thống
của Binh chủng Tăng Thiết giáp: Đã ra quân là đánh
thắng. Sau này, có người phải thú thật rằng khi xe tăng
ta lần đầu tiên ra trận, trong lòng họ lo lắng không tả
xiết. Lần đầu tiên, bộ đội ta, từ nhân dân lao động
mà ra, tiếp xúc, sử dụng với một loại vũ khí hiện
đại, liệu rồi vận mệnh của trận đánh đầu tiên sẽ
ra sao? Nói dại, nhỡ có thất bại thì những trận sau
tinh thần anh em chiến sĩ sẽ giảm sút đi rất đáng kể.
Sau trận đánh chiếm Tà Mây, bộ đội ta tiếp tục tiến
đánh căn cứ Tà Vây của địch. Lần này những cỗ xe
tăng cồng kềnh nặng nề đã lội hẳn xuống lòng sông
Sê Pôn. Con sông Sê Pôn nhỏ hẹp, quanh co, lòng sông đầy
đá hộc, bờ sông có đoạn dốc đứng, một lần
nữa địch hoàn toànbất ngờ, không thể tưởng tượng
được xe tăng ta có thể vận động được theo hướng
này. Và lần thứ hai tác chiến hiệp đồng binh chủng,
xe tăng 203 lại giành chiến thắng. Cho đến tận ngày
cuối cùng của cuộc kháng chiến, chiếc xe 843 hùng dũng
húc đổ cổng sắt Dinh Độc Lập lại một lần nữa in
đậm và mãi mãi khắc ghi vào lịch sử dân tộc hình ảnh
của một binh chủng đã ra quân là đánh thắng.
Đó
là chuyện hôm qua.
Trong một chiếc T54 mang phiên
hiệu 060 tại đại đội 2, tiểu đoàn 1 có thiếu úy
Đoàn Đình Nghĩa - trưởng xe, chuẩn úy Trịnh Văn Cường
- lái xe, chuẩn úy Nguyễn Văn Dũng - pháo thủ và hạ sĩ
Nguyễn Tiến Anh - nạp đạn. Đây là một kíp xe hoàn
chỉnh. Trong khoang xe chật hẹp, các cửa chưa sập lại
đã thấy đặc sệt mùi dầu mỡ đến nghẹn thở. Khi xe
nổ máy, các của xe đã khép chặt, kín tới mức có thể
ngập trong nước mà trong xe vẫn khô ráo, thì ngay lập
tức cơ thể sẽ phải chịu tác động cùng lúc của:
Bụi, rung, xóc, ồn với cường độ cực lớn và mắt
cũng phải làm việc hết khả năng có thể. Mùa hè, nếu
nhiệt độ bên ngoài 37 độ C thì trong xe phải lên đến
40 độ C, và sau ba giờ đồng hồ trong xe thì ai nấy đã
mặt tái nhợt, có thể sút hàng kg trọng lượng vì mất
nước. Chính vì cường độ hoạt động quá cao mà khẩu
phần ăn của lính xe tăng phải lên đến 12.500 đ/ngày,
cao gấp đôi so với lính bộ binh. Và việc tuyển chọn,
huấn luyện lính xe tăng cũng phải đặt yếu tố sức
khỏe lên hàng đầu. Trung tá Nguyễn Đức Long, Phó chủ
nhiệm Phòng Chính trị đơn vị cho biết, mỗi đợt nhận
tân binh về, sau ba tháng huấn luyện thì chỉ chọn được
15 đến 20 người là cùng, trong số 250 - 300 người. Những
người đã qua tuyển chọn này tiếp tục qua một khóa
đào tạo nữa rồi mới về đơn vị, rồi còn đứng
ngoài ngắm nghía, lý thuyết chán chê mới được leo lên
xe, vào đúng vị trí.
Con đường từ trục đường
chính vào đơn vị chỉ khoảng 3 - 4 ki-lô-mét, đất đỏ
sục lên bụi mù, trời mưa thì ngập ngụa bùn, thứ bùn
vừa dẻo vừa mịn, bám vào lốp xe thì chỉ có cách dắt
bộ. Một sĩ quan đưa tôi từ binh đoàn xuống giải
thích: Chưa làm được đoạn đường này là bởi còn để
cho xe tăng đi. Vì để chịu được độ nặng của xe và
sức nghiến của xích thì ngoài nền đường vững chắc
ra còn phải tăng vật liệu lên gấp nhiều lần so với
đường nhựa hoặc bê tông thông thường, cũng như đòi
hỏi kỹ thuật thi công khắt khe hơn nhiều. Cho đến nay,
mỗi khi xe tăng rời đơn vị lên khu trường bắn cách đó
mấy chục ki-lô-mét đều phải nhờ đến một loại xe
chuyên dụng từ Bộ tư lệnh Binh chủng lên vận chuyển
giúp để không làm hư hại đến đường giao thông chính.
Mỗi chiếc KAMAZ như thế chỉ chở được hai chiếc xe
tăng một chuyến mà cấp đơn vị, binh đoàn vẫn chưa
thể tự trang bị được.
Họ đang giữ một khoản
tài sản quốc gia trị giá nhiều tỉ đồng trong tay, và
dù chỉ một mảnh kính ngắm bằng nửa bàn tay bị nứt
vỡ thì muốn thay cũng phải nhập ngoại. Thiếu úy Trường
tại xưởng sửa chữa cho hay, hầu như tất cả các bộ
phận của xe, nếu muốn thay thế hiện chúng ta đều phải
nhập ngoại (mà nhập ngoại với những loại xe sản xuất
gần đây còn dễ chứ xe cũ, sản xuất cách đây vài
chục năm thì càng khó). Cũng đã có nơi thử sản xuất
xích xe nhưng chất lượng không thể đảm bảo như xích
nguyên bản. Do vậy, áp dụng kinh nghiệm từ thời chiến
tranh, khi xích xe xuống cấp, không đảm bảo độ an toàn
nữa thì cánh thợ nhà ta gỡ tung toàn bộ xích ra rồi
đảo lại vị trí, đặt mắt tốt bên cạnh mắt đã
yếu, xe lại tiếp tục chạy. Việc tháo và lắp hàng
trăm cái mắt xích xe tăng thật không thể đơn giản,
Trường cho biết phải dùng búa loại 10 ki-lô-gam mà quai
lớn mới đánh được các chốt xích tuột ra. Thử làm
một phép tính, mỗi chốt xích phải quai ít nhất ba lần.
Mười chốt xích là ba mươi lần, một trăm chốt xích là
300 lần, hai trăm chốt xích là 600 lần. 600 lần, 800 hoặc
1.000 lần cho một lần tháo gỡ hai tấm xích của một
chiếc xe tăng thì với hàng trăm chiếc, đời một người
thợ khi còn mặc áo lính ở đơn vị xe tăng này sẽ
phải qua bao nhiêu quai búa? Bao nhiêu năng lượng đã tiêu
hao chỉ riêng cho việc quai búa, chưa kể đến độ độc
hại do tiếp xúc trực tiếp với dầu mỡ?
Núi rừng
xanh thẫm đang yên ả bỗng chốc ngả nghiêng, không gian
như bị băm vụn ra bởi tiếng xích sắt nghiến rợn
người xuống mặt đường. Chiếc xe nặng nhọc sục vào
đất đỏ thành từng quầng, từng quầng nối tiếp nhau,
đặc sệt. Tôi đưa tay kéo thử cần lái trong chiếc xe
tăng, chiếc cần gần như không nhúc nhích. Một trong số
những lái xe bảo mỗi lần kéo như vậy là bốn mươi
ki-lô-gam đấy. Một quả đạn pháo cũng nặng gần bằng
ấy, mà mỗi người nạp đạn phải nạp mấy chục quả
mới hết một cơ số đạn.
Họ chỉ còn rất ít
thời gian để chăm cho luống rau, ao cá, vườn cây ăn
quả. Trung tá Nguyễn Đức Long bảo tôi, sang năm, quãng
tháng sáu tháng bảy cô lên thì tha hồ mà ra vườn bẻ
các loại quả. Ở trên cao, thời tiết thất thường, tắt
ánh mặt trời là rét căm căm, nhưng chỉ 8 - 9 giờ sáng,
mặt trời lên là quả đồi trơ trọi lên cao lại hứng
cho bằng hết cái nóng nực hanh khô. Lại có người bên
đại đội quân y đùa, mùa này mà đi chọn vợ là chính
xác nhất, bởi da dẻ các cô có đẹp hay không chỉ đem
"phơi" dưới nắng này một ngày là rõ.
Sau
một ngày đánh vật với chiếc xe tăng ai nấy đều mệt
mỏi, rã rời, bóng đêm xuống sớm, trả lại cho rừng
núi, cho cả đơn vị sự yên tĩnh như chưa hề có những
tiếng gầm rú của động cơ. Ngay sát với con hào cua
doanh trại, bà con người Tày, người Dao, người Hoa vẫn
đang cố vun nốt mấy gốc ngô đang đến độ trổ hoa.
Bầu trời bình yên, mặt đất bình yên, cuộc sống đang
trôi đi theo nhịp điệu đều đều, trôi đi như ngày như
tháng, chỉ có những cỗ xe tăng và những kíp lái đã đổ
mồ hôi bên trong nó là không một phút được ngơi
nghỉ.
Có một giọng hát nào đó lanh lảnh vút lên
giữa ruộng ngô: Anh bay lên trời em cũng đuổi / Anh
trốn vào sao em cũng tìm / Em cũng một mình chờ anh tới
/ Mong đợi phương xa anh đến tìm... giọng hát ngưng
lại một lúc, im bặt, rồi một giọng nam từ trong khu
nhà của đại đội thông tin lại nối theo, khàn khàn: ới
anh bộ đội ơi... nữa chứ! Tiếng cười đuổi nhau lan
xa trên mặt ruộng ngô xanh mướt, lẫn vào đất trời
đang buông rèm...
Binh đoàn Hương Giang
Tháng
11-2003
Đ.B.T
HOÀNG KIM THẤT
DẤU ẤN NGƯỜI
LÍNH ĐƠN VỊ 66 ANH HÙNG
Chúng ta có chung niềm vui, niềm tự hào về bề
dày chiến công oanh liệt hào hùng ngót nửa thế kỷ của
đơn vị 66 Sư đoàn Vinh Quang mà các thế hệ cán bộ,
chiến sĩ đã xây đắp nên.
Ra đời từ những ngày
đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, do yêu
cầu phát triển lực lượng vũ trang lúc bấy giờ. Từ
các đại đội độc lập, hình thành các tiểu đoàn Lê
Lợi, Nguyễn Huệ, Gô Tô (Ký con), Hoàng Diệu. Bằng trận
đánh tiêu biểu vào thị xã Hà Đông ngày 20 tháng 3 năm
1947 đã trở thành ngày truyền thống của đơn vị 66. Là
một trong những đơn vị ra đời sớm, lớn lên dưới sự
lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy sự giúp đỡ của
chính quyền cách mạng, sự tin yêu đùm bọc của nhân
dân các địa phương, dấu chân người lính đơn vị đã
in khắp mọi nẻo đường đất nước và trên đất bạn.
Trong kháng chiến chống Pháp, đơn vị 66 đã tham gia hầu
hết các chiến dịch lớn như Hòa Bình, Trung Lào, Quang
Trung, Trần Hưng Đạo. Đơn vị được Bác Hồ về thăm
năm 1955 và tặng cờ quyết chiến quyết thắng, lá cờ
ấy là nguồn lực vô cùng to lớn, là tài sản tinh thần
vô giá dẫn dắt bước chân cua người lính đơn vị bước
tiếp trên chặng đường chông gai, vượt qua muôn ngàn
thủ thách và chiến công sau lẫy lừng hơn chiến công
trước. Cuộc trường chinh chống đế quốc Mỹ xâm lược,
tên tuổi của đơn vị được đánh dấu bằng những nét
vàng chiến công chói lọi như trận Plây Me 1965 trận đầu
ra quân đánh Mỹ, đơn vị 66 đã cùng các đơn vị đánh
bại lữ đoàn kỵ binh số 1 của Mỹ ở thung lũng Ia
Đrăng trên chiến trường Tây Nguyên. Trận đánh Mỹ ở
Ia Đrăng là trận đánh tiêu biểu vì ý chí quyết thắng
của cán bộ, chiến sĩ đơn vị với tinh thần nắm thắt
lưng Mỹ mà diệt, là ý chí biết đánh và quyết thắng
là chiến công vang dội nhất, oanh liệt nhất, là điểm
đỉnh sáng chói nhất của thời kỳ cả miền Nam đánh
Mỹ. Chiến công của đơn vị là nỗi kinh hoàng của lữ
đoàn kỵ binh số 1 được mệnh danh là Anh cả đỏ của
Mỹ đã gây cho bọn xâm lược nỗi khiếp đảm, mà ngày
nay còn chấn động nước Mỹ. Chiến công của đơn vị
còn gắn với những địa danh Khe Sanh, Làng Vây 1968, đường
9 Nam Lào 1971, Thượng Đức 1974 và chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử 1975. Có mặt ở những thời điểm lịch sử
Mậu Thân 1968, ở mặt trận khốc liệt, nóng bỏng
hè 1972 ở Quảng Trị, thử thách cam go ở Thượng Đức,
cao điểm 1062 Quảng Nam - Đà Nẵng 1974. Cán bộ chiến sĩ
Đơn vị 66 vào chiến dịch Hồ Chí Minh với nhuệ khí:
Thần tốc, táo bạo, quyết thắng. Khí thế của Đơn vị
thọc sâu trong đội hình của Binh đoàn thần tốc dọc
Duyên hải miền Trung. Cán bộ, chiến sĩ đơn vị 66 cùng
Lữ đoàn xe tăng 203, cùng với lực lượng của toàn binh
đoàn vượt qua chặng đường ngót ngàn ki-lô-mét tiến
thẳng vào Sài Gòn, sào huyệt cuối cùng của chính quyền
ngụy. Mũi tiến công của xe tăng 843 do đại đội trưởng
Bùi Quang Thận chỉ huy đến trước húc vào cánh cổng
phụ, xe tăng 390 mang lá cờ giải phóng kéo lên đỉnh
Dinh Độc Lập ngụy Sài Gòn lúc 11 giờ 30 phút ngày 30
tháng tháng 4 năm 1975. Lực lượng thọc sâu do đơn vị
phó đơn vị 66 Phạm Xuân Thệ chỉ huy kịp thời có mặt
tiến vào phòng khánh tiết bắt sống nội các Tổng thống
Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Chính quyền
ngụy Sài Gòn hoàn toàn sụp đổ, miền Nam hoàn toàn giải
phóng, kết thúc cuộc trường chinh giải phóng dân tộc
suốt 30 năm. Cán bộ, chiến sĩ đơn vị 66 một lần nữa
vinh dự được chứng kiến thời điểm lịch sử vinh
quang của dân tộc Việt Nam trong niềm vui đại thắng Tổ
quốc thống nhất.
Chúng ta rất tự hào trong chiến
công chung ấy, đơn vị có 66 tập thể được Nhà nước
tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và
nhiều anh hùng tiêu biểu mà tên tuổi các anh được
nhiều người nhắc đến, đó là anh hùng trong thời kỳ
chống Pháp: Đặng Đình Hồ, Hoàng Khắc Được; anh
hùng trong chống Mỹ: Lê Xuân Phôi, Trần Hữu Bào, Trần
Công Đoàn. Còn có hàng ngàn đồng chí được công nhận
là dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt xe cơ giới, dũng sĩ
bắn máy bay. Với 2.040 đồng chí được tặng Huân chương
Chiến công các loại, 7.667 đồng chí được tặng bằng
khen, giấy khen trong chiến đấu, làm rạng danh tên tuổi
của một sư đoàn thiện chiến.
Chặng hành trình
hơn nửa thế kỷ ấy, lớp lớp các thế hệ người lính
đơn vị tiếp bước dưới ngọn cờ quyết thắng kế
thừa, tiếp thụ những tinh hoa của cha anh đi trước,
chắt lọc kinh nghiệm qua khói lửa của chiến tranh, biết
rèn luyện mình không mệt mỏi, với mồ hôi trên thao
trường cũng đúc lên thành thép đã làm nên chất lính
của đơn vị.
Suốt 50 năm, biết bao thế hệ cán
bộ, chiến sĩ đã đi qua, có người ở đơn vị thời
gian ngắn, có người đã từng chiến đấu dăm bảy năm,
cũng có người đã đóng góp công sức, trí tuệ, máu
xương ngót vài chục năm, còn có người cống hiến trọn
cuộc đời binh nghiệp cho đơn vị. Dẫu ngắn hay dài,
mỗi người lính của đơn vị 66 đều có kỷ niệm của
riêng mình về đơn vị anh hùng trong khói lửa chiến
tranh hay trong hòa bình xây dựng đều có niềm vui, niềm
tự hào là người lính đơn vị, biết trân trọng quá
khứ, thuỷ chung tình đồng chí, trọn tình vẹn nghĩa với
bạn bè, cùng chia sẻ sướng vui, gian khổ cùng đồng
đội, đã không hề tiếc máu xương mà hy sinh phấn đấu
vì danh dự của đơn vị anh hùng. Trong những ngày chúng
ta gặp lại nhau hàn huyên những chuyện của hôm qua,
chuyện về đời thường, chuyện về ngày mai. Trong những
cuộc hội ngộ còn rất nhiều chiến hữu chưa có điều
kiện gặp mặt, nhưng chúng ta không thể nào quên tên
tuổi, địa danh, chiến công của họ, những gương mặt
thân quen của đồng đội, đồng chí chúng ta, cùng vui
buồn sướng khổ sống chết có nhau. Giờ đây, mỗi
người mỗi hoàn cảnh, mỗi cương vị công tác. Dù ở
đâu! Làm gì! Chúng ta vẫn có chung niềm cảm xúc, niềm
tự hào đã từng chiến đấu, xây dựng đơn vị qua các
thời kỳ oanh liệt hào hùng với biết bao chiến công,
bao kỷ niệm không thể phai mờ trong màu xanh quân phục
bình dị, ở đó đọng lại niềm tự hào, nét đặc
trưng chân dung người lính đơn vị 66.
Trong những ngày vui trong không
khí hòa bình đất nước đi lên trong thời kỳ đổi mới,
quân đội ta đang xây dựng chính quy, từng bước hiện
đại, không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu, cán
bộ, chiến sĩ đơn vị 66 ngày đêm ra sức rèn luyện về
mọi mặt để xứng danh người lính Cụ Hồ. Có được
ngày hôm nay chúng ta kính cẩn nghiêng mình bày tỏ niềm
tiếc thương vô hạn các đồng chí của chúng ta đã anh
dũng chiến đấu, hy sinh oanh liệt vì nước, vì dân. Tổ
quốc trong lòng các anh, đồng đội vẫn luôn bên anh, các
anh đã cống hiến tuổi thanh xuân đẹp nhất của đời
mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì thống nhất
đất nước, vì chủ nghĩa xã hội. Tên tuổi của các
anh đã hóa thân vào mùa xuân vĩnh viễn, tên các anh mãi
mãi là bài ca bất diệt mà các thế hệ mai sau không thể
nào quên. Chiến công của các anh ở khắp mọi nẻo đường
đất nước và ở cả đất nước Chăm Pa, đất Chùa
Tháp. Ngay tại mảnh đất Vĩnh Phúc, nơi hiện tại đơn
vị đóng quân, trong chiến dịch Trần Hưng Đạo cách đây
48 năm, trong cuộc đọ sức với quân xâm lược Pháp, các
chiến sĩ của đơn vị 66 đã anh dũng chiến đấu, có
người đã ngã xuống, góp phần tô thắm địa danh giàu
truyền thống này. Còn vô vàn đồng đội chúng ta, có
người để lại một phần cơ thể ở chiến trường, có
người bị chất độc màu da cam của đế quốc Mỹ để
lại di chứng cho bản thân và cho con cái phải gánh chịu,
sự mất mát ấy là vô cùng to lớn.
Chúng ta tự
hào về đơn vị 66 anh hùng, cái nôi đã nâng bước cho
mỗi chúng ta và trong cuộc hành trình đầy gian khổ và
vinh quang với truyền thống oanh liệt hào hùng ngót nửa
thế kỷ qua. Lớp lớp cán bộ, chiến sĩ ta hôm nay hiểu
sâu sắc rằng, thành quả mà chúng ta có được là sự
kết tinh của một chặng đường hơn nửa thế kỷ, ở
đó có cả mồ hôi, máu và nước mắt của các thế hệ
cha anh, là tài sản không gì có thể so sánh được. Lớp
người kế tục truyền thống đơn vị hiện nay xin bày
tỏ lòng ngưỡng mộ công lao to lớn của lớp cha anh đi
trước đã làm rạng danh, tạo dựng cho đơn vị 66 anh
hùng một vóc dáng oai hùng chứa đựng những tố chất
đa dạng, sinh động tựa huyền thoại. Chúng ta bày tỏ
lòng biết ơn cấp ủy, chính quyền, nhân dân các địa
phương đơn vị đã từng đóng quân trên mọi miền đất
nước và trên đất bạn Lào, Campuchia đã cứu mạng, che
chở, giúp đỡ tận tình về mọi mặt và giành cho cán
bộ, chiến sĩ đơn vị một tình Cảm đặc biệt thật
cao quý, thiêng liêng. Lớp cán bộ, chiến sĩ của đơn vị
hôm nay xin nguyện làm tất cả những gì có thể để
không phụ truyền thống đơn vị đã có Thời gian đi về
phía trước để lại quá khứ đáng tự hào mãi mãi
không chút mờ phai. Sự lấp lánh của những chiến công
thực sự có ý nghĩa khi lớp người kế cận hôm nay biết
trân trọng, kế thừa, tiếp thụ để phát triển. Tự nó
sẽ có tác dụng củng cố niềm tin yêu cho thế hệ trẻ,
tiếp thêm sức mạnh mới cho lớp lớp cán bộ, chiến sĩ
đơn vị say mê rèn luyện về mọi mặt vững bước tiến
vào thời kỳ mới với niềm tự hào là người lính của
đơn vị 66 anh hùng.
H.K.T
NGUYỄN ĐÌNH TÚ
KHÔNG CHỈ LÀ KHOẢNH
KHẮC
Sau bộ phim Khoảnh khắc
chiến tranh (kịch bản: Hà Đình Cẩn, đạo diễn: Trần
Phi) ra mắt công chúng và được Giải thưởng Ban Giám
khảo Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 13, nhiều ý kiến
cho rằng chỉ có điện ảnh quân đội làm phim mới điều
được quân đông như thế, mới điều được xe tăng,
pháo binh, tạo cảnh chiến trường thật như thế chứ
các nhà làm phim bên ngoài thì chịu.
Quả là nhờ
có những thước phim như thế, thế hệ hậu sinh mới ít
nhiều hiểu được thế nào là chiến tranh, dù chỉ là
khoảnh khắc, dù chỉ là tiếp cận bằng nghệ thuật,
bằng tâm thế của người ngoài cuộc. Còn tôi sau khi xem
phim xong, cứ tò mò một câu hỏi: Không biết các nhà làm
phim lấy bối cảnh ở đâu? Quân tướng ấy, xe pháo ấy,
núi rừng ấy, khói lửa ấy, tiếng nổ ấy là thật hay
giả, giữa thời buổi đất nước thanh bình này họ lấy
đâu ra được những "chất liệu” ấy đề mà làm
phim?
Và rồi câu trả lời đã có khi tôi biết
đạo diễn Trần Phi đã dẫn đoàn làm phim xuống "nằm"
hằng năm trời ở Trường bắn Quốc gia khu vực I (TB1)
để có được những cảnh quay đậm "sắc màu”
chiến tranh như vậy. Và cũng nhờ điều này mà tôi biết
thêm rằng trên đất nước ta vẫn còn những nơi đang
diễn ra những hình ảnh thu nhỏ của "chiến tranh",
vẫn còn những người lính đang hàng ngày sống bên bom
rơi đạn nổ, vẫn còn những khoảnh rừng ám màu khói
súng, những khoảng trời rền vang âm thanh chiến trận và
chiến tranh không phải là thứ đã bị lãng quên đối
với người lính thời bình.
Trường bắn TB1 thuộc
sự quản lý của Binh đoàn Hương Giang có diện tích rộng
tới trên ba chục cây số vuông nằm trên đất của 84
thôn, 3 xã, 4 huyện, vắt qua hai tỉnh trung du và miền
núi. Chỉ nghe các địa danh thôi đã thấy gợi lên toàn
núi rừng xa xôi, heo hút. Nào Cầu Ma, Đèo Váng, Cống
Lầu, Bản Chu, Bản Piềng. Nào Pò Khưa, Khuổi Bốc, Nà
Danh, Nốc Mỏ, Đồng Cuồm, Suối Cai. Và địa danh ở đây
gắn với rất nhiều "Sơn", như Biên Sơn, Giáp
Sơn, Kim Sơn, Quý Sơn, Thạch Sơn, Sơn Động, Cấm Sơn.
Phải rồi, hai từ Cấm Sơn lại làm người ta liên tưởng
đến những câu thơ của nhà thơ liệt sĩ Thôi Hữu: Tôi
lên vùng Cấm Sơn /Đi tìm thăm bộ đội / Đây bốn bề
núi, núi / Heo hút vắng tăm người / Đèo cao rồi lũng
hẹp/ Ngóng đợi tin xuôi ngược / Chỉ thấy mây xanh bát
ngát trời... Hơn 50 năm trước Thôi Hữu lên Cấm Sơn với
một "tình trai mạnh" như thế. Còn những ngày
này, tôi lên Cấm Sơn, lên với Trường bắn TB1 với cái
không khí náo nức của cảnh tượng: Trùng trùng quân đi
như sóng/ Lớp lớp đoàn quân tiến về... Quả là bộ
đội hành quân ngập các nẻo đường. Họ đang đổ về
các vị trí tập kết, đang lẫn trong sắc lá xanh của
cây rừng, đang thấp thoáng bên những hầm hào công sự,
đang mang vác gánh gồng mọi thứ trên đôi vai của mình.
Họ đang tập dượt một chuyến đi vào chiến trường
và sắp tới, sẽ thực hiện trên các tình huống của
một cuộc chiến tranh giả định.
Trường bắn TB1
là nơi diễn ra những đợt diễn tập của các đơn vị
trong toàn quân với nhiều cấp độ khác nhau. Người lính
không có thao trường chẳng khác gì nhà nông không có
ruộng. Với trên ba chục cây số vuông này, các quân binh
chủng đã có được một thao trường lý tưởng để
“rèn quân luyện cán". Trường bắn TB1 có nhiều ải
bắn dành cho nhiều nội dung diễn tập như xe tăng, pháo
binh, bộ binh, phòng không... Để làm công tác đảm bảo
cho việc diễn tập bắn đạn thật thành công, trường
bắn có nhiều đơn vị làm công tác bảo vệ đường
biên, bảo dưỡng trang thiết bị và nuôi dưỡng môi
trường sinh thái. Những người lính làm nhiệm vụ này
không đơn giản như chúng ta vẫn tưởng. Họ là những
người lính luôn sống bên "khoảnh khắc chiến
tranh". Các đơn vị diễn tập đến rồi đi, còn
những người làm công tác đảm bảo ở đây hầu như
ngày nào cũng sống với tiếng đạn nổ, tiếng quân reo,
tiếng gầm rú của phản lực, tiếng xích sắt nghiến
vào lòng đất, tiếng hô khẩu lệnh, tiếng thu phát tín
hiệu thông tin, cùng với những âm thanh ấy, là những
thắc thỏm lo âu tên sai đạn lạc luôn hằn ám lên từng
khuôn mặt cán bộ, chiến sĩ nơi trường bắn bốn mùa
heo hút gió này.
Tôi đến đại đội tăng ngay sau
khi đơn vị diễn tập vừa rút đi. Hàng dãy xe tăng còn
đang nằm bên vạt đồi chờ bảo dưỡng duy tu để phục
vụ cho những lần bắn sau. Thượng úy Nguyễn Văn Đông,
đại đội trưởng, chỉ vào những vệt xích bám đầy
đất đá bảo: “Anh xem, những con chiến mã già nua của
chúng tôi sau mỗi lần xung trận bẩn thỉu như thế này
đây. Chúng tôi lại phải làm vệ sinh cho nó, vỗ về
chải chuốt cho nó thật bóng bẩy để rồi lại bàn giao
cho đơn vị khác đến diễn tập. Bảo dưỡng duy tu nhưng
anh "chàng" tăng này phải qua những công đoạn
vất vả lắm anh ạ!".
Tôi bảo:
- Thì lấy nước
phun rửa qua là xong, có gì đâu?
Đông cười:
- Không
đơn giản thế đâu. Chúng tôi phải dùng búa tạ đập
xích cho đất đá rời hết ra rồi dùng nước xà phòng
phun rửa, kỳ cọ cho thật sạch cả trong và ngoài. Nhưng
đấy mới chỉ là một công đoạn. Sau đó chúng tôi còn
phải sửa chữa mọi hỏng hóc, bảo đảm cho xe ở
tình trạng kỹ thuật tốt rồi mới tiếp tục đến công
đoạn niêm động cơ và pháo súng. Khi niêm phải nổ máy
cho xe nhiệt độ cao lên. Dầu nhớt phải đun qua cát, sôi
bốn tiếng đồng hồ mới được múc ra để đổ vào
các xy lanh đưa vào các máy. Với súng pháo lại phải kỹ
càng hơn nữa. Chúng tôi phải dùng thông nòng đánh rửa
nòng pháo sạch đến mức đưa vải trắng vào kiểm tra
không còn một vết bẩn nhỏ. Sau đó tuốt dầu bo, rồi
dùng than xoan đánh sạch những chỗ han gỉ (nếu có),
cuối cùng lại dùng dầu bo và mỡ đun qua cát để niêm,
đồng thời làm sạch chích khí. Kỳ công lắm! Đấy là
chưa kể quá trình bơm dầu khí vào hãm lùi đẩy lên của
nòng pháo, rất cực nhọc. Bốn, năm người làm trong hàng
tháng trời mới xong. Có thế khi xung trận nó mới hạ
gục được những mục tiêu cần tiêu diệt chứ.
Đông nói say sưa về các bước
bảo quản xe, đôi lúc hứng chí còn nhảy cả lên tháp
tăng chỉ chỏ từng bộ phận cho tôi xem. Nhìn Đông không
có dáng của một anh lính xe tăng vì anh eo vóc người thư
sinh, mái tóc rẽ ngôi bên hơi điệu đàng, lại cả giọng
nói nhỏ nhẹ như một anh giáo làng. Đông quê ở Hà Tây,
năm nay ba mươi tuổi rồi. Đông bảo: "Năm ngoái có
người đưa ra Chũ tán một cô học Trung cấp Y đang thực
tập ở bệnh viện huyện. Ngay trong buổi nói chuyện đầu
tiên cô ấy đã ngỏ ý là không muốn lấy chồng xa. Thế
là mình đành phải nói dối mình là người Bắc Giang. Ai
ngờ Hai hai tháng mười hai cô ấy mang hoa vào tặng,
tới cổng trường bắn cứ hỏi "Anh Đông Bắc
Giang", mọi người bảo ở đây chỉ có "Anh Đông
Hà Tây thôi". Sau hỏi mãi người ta mới chỉ đến
chỗ đại đội tăng. Hôm ấy thấy cô bé mang hoa đến
tặng mà mặt cứ buồn buồn. Rồi cô ấy giận cho đến
hàng tháng trời. Mãi sau này cô ấy mới bảo: "Ngay
lần gặp đầu tiên anh đã nói dối em, mà bọn em thì
rất tin bộ đội, hôm ấy em thất vọng ghê gớm!".
Mình đành chống chế: "Anh làm thế vì anh đọc ở
đâu đó một câu nói rằng nói dối là tội lỗi nhưng
trong tình yêu thì nói dối có thể được tha thứ".
-
Anh tán gái cứ hay như trong phim ấy. Thế bây giờ chuyện
của hai người tiến triển đến đâu rồi? - Tôi hỏi
.
- Có lẽ đầu sang năm bọn mình sẽ tổ chức. Nhiều
thứ phải lo quá, quê thì ở xa, nhà cửa không có, đồng
lương thượng úy không biết sẽ duy trì được cuộc
sống gia đình ở mức nào?
Suy nghĩ của Đông cũng
là suy nghĩ của rất nhiều sĩ quan trẻ đang phải sống
xa nhà hiện nay, trong đó có tôi người viết bài bút ký
này. Nhưng mà thôi, khó khăn thì lúc nào mà chẳng có. Cố
gắng mà khắc phục. Rồi thì hạnh phúc sẽ đến, mọi
thứ sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn, có tình yêu là may mắn
rồi, có tình yêu sẽ có được tất cả kia mà, phải
không chàng thượng úy thích "tầm chương trích
cú?".
Rời đại đội tăng tôi muốn đến với
những đơn vị bảo đảm còn lại nhưng đại tá chỉ
huy trưởng trường bắn Vũ Đăng Bình bảo: Muốn đi hết
khu vực trường bắn này phải mất hàng năm, ngoài các
đơn vị bảo đảm còn các đơn vị bảo vệ, đơn vị
trồng rừng, chưa kể các đội công tác bám nắm địa
bàn, anh muốn đến với những người lính gác đạn hay
đến với những người lính phủ xanh đất trống đồi
trọc?".
Tôi biết gần chục năm qua các đơn vị
trồng rừng của trường bắn đã trồng mới và khoanh
nuôi bảo vệ rừng rất tốt, trung bình mỗi năm trồng
mới được 300 héc ta, trồng dặm khoanh nuôi rừng tái
sinh được 400 héc ta, gieo ươm hàng vạn cây con các loại.
Nhưng cái việc trồng rừng nghe ra không có gì lạ, còn
cái việc "gác đạn" là thế nào nhỉ?.
"Chúng tôi có hai đơn vị làm công tác bảo vệ
trường bắn - Đại tá Vũ Đăng Bình tiếp tục - Anh cứ
thử hình dung trong mấy trăm cây số vuông này liên tục
có các đơn vị đến diễn tập. Đã diễn tập là có
bắn đạn thật. Đã bắn đạn thật thì có viên nổ,
viên không, viên rơi trúng mục tiêu, viên ra ngoài đường
biên. Làm sao để hạn chế đến mức thấp nhất những
điều không may mắn xảy ra, thì đó là nhiệm vụ của
các đội bảo vệ của chúng tôi".
- Trong khi đó
phạm vi khu vực trường bắn của các anh vẫn còn tám
mươi tư thôn thuộc mười ba xã? Mà như anh nói, có những
trận diễn tập phát triển tiến công chiều sâu tới
hàng chục ki-lô-mét, có xe tăng, pháo binh và các loại
hỏa lực khác tham gia. Thế thì các anh lo bảo đảm an
toàn thế nào được?
Anh Bình không trả lời câu
hỏi của tôi mà bảo: "Bây giờ chúng ta đi đến một
nơi được coi là túi đạn để anh thấy những người
lính của chúng tôi phải thức canh đạn như thế nào?".
Cái "túi đạn" ấy tưởng gần hóa ra cách
sở chỉ huy trường bắn tới bốn chục ki-lô-mét. Mà là
bốn chục cây số đường rừng. Cứ thấy xe lên đèo
rồi lại xuống dốc, quẹo trái rồi lại quẹo phải,
càng đi càng thấy hoang vu, càng thấy núi đồi giăng
giăng trước mặt. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến
được nơi ở của đại đội bảo vệ số 2. Có mình
đại đội trưởng Hoàng Công Cán đang trực ở nhà. Anh
bảo. "Đại đội prải ra đóng ở bốn vị trí khác
nhau, cách nhau tới hàng chục cây số, có thể coi đây là
xê bộ".
Phải rồi, hôm nay là ngày bộ
đội phòng không diễn tập nên cả xê bộ cũng vắng,
tất cả đều đang ở những vị trí canh đạn. Đại đội
trưởng Cán bảo: "Anh em dậy từ hai giờ sáng, ai về
vị trí của người ấy. Ở từng vị trí đảm nhiệm
phải di dân ra khỏi khu vực mất an toàn trước sáu giờ
sáng. Có khi bắn một buổi, có khi bắn cả ngày, có khi
bắn đêm. Có lần nhận được kế hoạch là bắn trong
buổi sáng. Cũng thông báo cho dân thế. Nhưng quá trưa vẫn
chưa bắn xong. Các em học sinh không được chuẩn bị
trước, đói quá, vào đại đội xin cơm. Anh nuôi đành
phải chia cơm cho các em ăn rồi nấu cơm khác cho bộ đội.
Gác dân đã khổ rồi, gác đạn còn khổ hơn. Ở trên
đài quan sát chúng tôi đếm từng quả đạn một. Ví như
cối lần này bắn sáu mươi quả. Lại chỉ nổ có năm
mươi hai quả. Thế là chúng tôi phải đi tìm tám quả
đạn chưa nổ để hủy. Hòn đạn nó đâu có mắt. Tính
khí nó lại thất thường. Nó rơi vào nhiều chỗ rất
oái oăm. Chúng tôi còn để sót một viên đạn nào là
còn ăn không ngon ngủ không yên. Nó có thể gây nguy hiểm
cho dân hoặc các đơn vị đến diễn tập sau. Mà để
mất an toàn là chúng tôi không hoàn thành nhiệm vụ. Để
hoàn thành nhiệm vụ đôi khi chúng tôi phải trả bằng
máu. Công việc của chúng tôi nghe thì có vẻ rất đơn
giản nhưng quả thực nguy hiểm và rất căng thẳng. Anh
cứ ở đây với chúng tôi một mùa diễn tập thì anh sẽ
thấy rõ hơn".
Chả phải ở đến một mùa
diễn tập tôi cũng đã thấy quá rõ những gian lao vất
vả của cán bộ chiến sĩ làm công tác bảo vệ ở đây.
Mấy ngày vừa qua tôi đã lang thang ở nhiều chốt "canh
dân", "canh đạn" và tôi còn thấy nhiều điều
khổ cực khác mà đại đội trưởng Cán chưa nói hết.
Ví như cái chuyện dân chui vào khu vực mục tiêu nấp
trong công sự tự tạo để chờ bắn xong thì ào lên nhặt
mảnh đạn chẳng hạn. Rồi cái chuyện tế nhị vào lúc
hai, ba giờ đêm gõ cửa bảo vợ chồng con cái người ta
đi ra khỏi đường biên mới nhọc nhằn, khốn khó làm
sao. Rồi đạn bay vù vù trên đầu. Rồi đi tuần rừng
không để dân chặt cây lấy củi, đốt cây làm nương
rẫy... Cũng là bộ đội mà có mấy khi được ở trong
doanh trại, toàn ở rừng, ở núi, ngủ tăng, ngủ võng,
lắng nghe tiếng đạn nổ như nhẩm học thuộc bài, canh
dân không vào đường biên như canh kẻ trộm không cho vào
nhà mình, tìm đạn để hủy như tìm rắn tìm rết trong
chăn. Trung úy Thọ, trung đội trưởng trung đội 1 bảo
tôi: "Ngày em tốt nghiệp lục quân, vác ba lô lên đến
đây thấy các anh chỉ huy đại đội đang ngồi uống
nước ngoài trời với ngọn đèn dầu tù mù em ngán quá,
nhìn ngang nhìn dọc chả thấy nhà cửa đâu chỉ lúp xúp
vài căn chòi thấp tịt, xê bộ mà còn như thế thì các
chốt cắm rải rác trong rừng sẽ tạm bợ đến đâu?
May thay, sang tới đầu năm ngoái thì có điện. Và năm
nay thì dãy doanh trại mới đã được xây. Tháng sau sẽ
bàn giao. Thôi thì, sau những ngày ở rừng, về đến xê
bộ được nằm trong cái nhà đẹp cũng thấy ấm lòng".
Tôi nghe Thọ nói mà thấy lòng mình chùng lại. Đấy là
Thọ còn chưa nói đến hành trình về nhà mỗi khi được
nghỉ phép. Phải đi bộ từ tối hôm trước, mất hơn
một tiếng đồng hồ mới ra tới đường cái. Xe thường
chạy từ một giờ đến ba giờ đêm. Lỡ có ngủ quên
bên đường trong khi đợi xe thì lại phải chờ đến đêm
hôm sau mới có xe về. Đường sá như thế, nghĩ đến mà
ngại. Chả lẽ có phép lại không về?
Tôi băn khoăn:
-
Chẳng lẽ một trường bắn tầm cỡ quốc gia thế này
mà cứ để kéo dài mãi cái chuyện "canh dân" hay
sao? Trên đường trở về sở chỉ huy trường bắn, đại
tá Vũ Đăng Bình đã trả lời cái điều mà tôi vẫn
canh cánh trong lòng. "Có rồi, có cách giải quyết
rồi. Chính phủ đã phê duyệt Dự án di dân tái định
cư khu vực trường bắn, đầu năm tới sẽ bắt đầu
tiến hành, dự án lớn lắm, tổng vốn đầu tư lên tới
gần năm trăm tỷ kia đấy".
Tôi ngạc nhiên:
-
Làm gì mà nhiều thế anh?
Chỉ huy trưởng Bình hào
hứng:
- Hiện trong trường bắn vẫn còn 2.421 hộ với
13.176 khẩu cư trú. Bảy mươi phần trăm trong số đó là
dân tộc ít người: Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ. Tính ra có
53 thôn đang cư trú và canh tác trong khu vực trường bắn,
31 thôn dân cư trú ngoài trường bắn nhưng có đất canh
tác trong đường biên. Như vậy dự án di dân này chẳng
khác gì di dân khỏi lòng hồ sông Đà, quy mô và tính
chất mang tầm cỡ quốc gia, chúng tôi chỉ tham gia thực
hiện một phần công việc thôi. Tôi được biết thực
hiện dự án lần này sẽ triệt để hơn và chính sách
đền bù cũng thỏa đáng hơn. Các hộ sẽ được phân
loại, mỗi loại sẽ có cách tính đền bù khác nhau nhưng
nhìn chung mỗi hộ sẽ được cấp từ 200 đến 400 mét
vuông đất ở, một đến hai héc ta đất sản xuất, sẽ
tính giá đền bù về nhà cửa, mồ mả, các vật dụng
kiến trúc khác. Ngoài ra còn có các chính sách hỗ trợ
như cấp tiền sử dụng điện, tiền di chuyển, cấp
lương thực giai đoạn đầu, cấp giống, phân bón, thuốc
trừ sâu để ổn định sản xuất. Rồi tại các điểm
tái định cư sẽ phải xây dựng cơ sở hạ tầng tương
ứng với thiết chế xã hội như trạm y tế, trạm điện,
trường học, chợ, khu thể thao - văn hóa và các công
trình công cộng khác. Dự án sẽ triển khai trong ba năm.
Hy vọng đến năm 2005 cái việc canh dân của chúng tôi sẽ
đỡ vất vả hơn.
Tôi dè dặt hỏi:
- Hình như vẫn
có gì chưa ổn anh Bình nhỉ? Dân vẫn có thể ra vào
trường bắn khai thác các nguồn lợi của núi rừng, quân
ta ít, làm sao rải ra mà ngăn họ được?
Chỉ huy
trưởng Bình cười:
- Vâng, đó chính là suy nghĩ của
chúng tôi khi tham gia đóng góp vào dự án. Chính vì thế
trong lần tu chỉnh cuối cùng dự án đã được bổ sung
thêm phần xây dựng hệ thống đường biên. Khi trường
bắn đã được khoanh lại bằng một đường biên hữu
hình thì có nghĩa là cơ bản đã giải quyết được việc
"canh dân", những người làm công tác phục vụ
bảo đảm như chúng tôi chỉ còn tập trung vào việc làm
sao cho các cuộc diễn tập đạt kết quả tốt. Thú thực
với anh, tôi mong tới ngày được thấy một thao trường
hoàn chỉnh, cũng như người nông dân ấy mà, ai chẳng
mong có một khoảnh ruộng vuông vắn của riêng mình.
Suốt
mấy ngày được đi với chỉ huy trưởng Vũ Đăng Bình
dọc ngang khu vực trường bắn, tôi nhận thấy anh là
người rất sâu sắc tỉ mỉ. Anh nắm rất vững địa
hình, lại rất hiểu nỗi gian khó của những người lính
làm công tác bảo vệ cũng như tâm tư nguyện vọng của
người dân nơi đây. Anh bảo: "Ngày xưa đất đai
sông núi là thứ bị bỏ quên, lại mấy chục năm chiến
tranh kéo dài liên miên, bộ đội ở đâu chẳng được,
huấn luyện chiến đấu ở đâu chẳng xong. Nhưng bây giờ
đất đai đã được sở hữu hóa, người dân vẫn rất
tốt với bộ đội nhưng không thể nào cứ nhập nhằng
lẫn lộn giữa quân với dân được. Tôi biết nhiều đơn
vị thiếu đất để xây dựng thao trường. Cũng mảnh
vườn ấy quả đồi ấy, con sông ấy, ngày xưa bộ đội
hành quân diễn tập qua đó suốt ngày đêm không sao,
nhưng bây giờ sông suối, đất đai, núi đồi đều đã
được thầu, đều đã có một người chủ cụ thể, một
nhành cây một ngọn cỏ cũng đã là tài sản, là đồng
tiền bát gạo của người ta, chẳng thể cứ "mượn",
cứ "nhờ" mãi được. Chắc là Bộ và Chính phủ
cũng đã thấy thực tiễn mới này. Việc Chính phủ phê
chuẩn Dự án xây dựng Trường bắn TB1 là điều rất
đáng mừng đối với chúng tôi cũng như với các đơn vị
về đây huấn luyện. Nói thật với anh, cứ mỗi khi nghe
thấy có tiếng đạn nổ là tôi lại hồi hộp. Chuông
điện thoại reo là tôi lo có sự cố xảy ra. Khi vào trận
diễn tập có khác gì chiến tranh thực thụ, làm sao cân
đong cho hết được các tình huống xảy ra. Ngồi ở sở
chỉ huy nhưng lòng dạ tôi cứ thắc thỏm nghĩ tới cái
nơi được gọi là túi đạn cách mình bốn năm chục cây
số. Rồi tin báo về bao nhiêu quả đạn chưa nổ, bao
nhiêu quả đã tìm được, bao nhiêu quả đã hủy và bao
nhiêu quả còn đang chơi trò ú tim trong từng bụi
cây hốc cỏ. Quả thực, tôi luôn có cảm giác chiến
tranh đang ở rất gần mình".
Thảo nào trông
anh Bình già hơn cái tuổi bốn tám của mình rất nhiều.
Anh có dáng dấp của một cán bộ tuyên giáo tỉnh ủy
hơn là một sĩ quan cao cấp đang từng ngày sống bên thao
trường. Mỗi khi anh nói có cảm giác anh đang tủm tỉm
cười vì những... hai cái răng khểnh đua nhau làm duyên
trên khóe miệng anh. Đúng là chỉ còn nụ cười của anh
chưa già theo năm tháng. Lại chợt nhớ đến hai câu thơ
của Thôi Hữu: Ở đây những mặt buồn như đất/ Bộ
đội cười lên tươi như hoa. Sao nụ cười của anh
Bình giống nụ cười của Đông, của Cán, của Thọ, của
các sĩ quan trẻ mà tôi đã gặp đến thế!
Nếu
không có những nụ cười ấy, có lẽ, người ta sẽ thấy
sợ cái gọi là "khoảnh khắc chiến tranh".
Mà
ở trường bắn này "chiến tranh" không chỉ là
khoảnh khắc!
Trường bắn TB1, 11-2002
N.Đ.T
BÙI HOÀNG HẢI
ÂM VANG DÒNG SÔNG
Tạm biệt quốc lộ 13 tôi
rẽ phải đến thăm Đoàn pháo binh Bến Hải. Đó là Lữ
đoàn M64 nằm trong đội hình chiến đấu của Binh đoàn
Hương Giang. Những đơn vị mang cái tên dịu dàng của
dòng sông miền Trung xứ Huế.
Trước mắt tôi,
những quả đồi lúp xúp nối nhau dài ra mãi. Trên đó là
những cây vải thiều đang vào mùa hoa, cứ thả sức khoe
hương sắc cùng đất trời trung du. Vượt một đoạn qua
khu ruộng trống, trước mắt tôi những ngôi nhà cấp bốn
xen lẫn những ngôi nhà mái bằng một, hai tầng kiên cố,
thấp thoáng ẩn hiện sau rừng cây đó là "đại bản
doanh” của Đoàn pháo binh Bến Hải.
Lữ đoàn mới
nhận tân binh. Các anh cán bộ từ lữ đoàn trưởng đến
trung đội trưởng đang khẩn trương chuẩn bị cho mùa ra
quân huấn luyện. Tiếp đón chúng tôi được ban chỉ huy
lữ đoàn giao cho Chủ nhiệm chính trị Phạm Đình Tuấn.
Tôi biết trong lúc này anh đang bận trăm công ngàn việc.
Sau những lời thăm hỏi xã giao tôi vào thẳng vấn đề:
-
Chúng tôi về đây muốn hiểu thêm truyền thống chiến
đấu của lữ đoàn - Tôi nhìn thẳng vào Tuấn. Còn anh
nâng ấm trà rót thêm nước mời chúng tôi, động tác
kéo thời gian để sắp xếp lại tư duy tìm cách dẫn dắt
vấn đề cho khúc triết.
Có thể nói, đến ngày
nay bất cứ một cán bộ chiến sĩ nào, cũng đều tự
hào mình là lính của Đoàn pháo binh Bến Hải - Tuấn nói
rõ ràng chậm rãi nhẩn nha từng câu chữ rất mạch lạc
- Đặc biệt là truyền thống trong chiến đấu. Truyền
thống ấy đã được các thế hệ sau này phát huy trong
huấn luyện, xây dựng lữ đoàn ngày một vững
mạnh.
Ngừng lại một chút anh kể tiếp. Thành lập
ngày 25 tháng 10 năm 1954 mấy chục năm chiến đấu xây
dựng trưởng thành, chiến công của lữ đoàn gắn liền
với những địa danh lịch sử như Quân khu 4, Mặt trận
Đường 9 Nam Lào, năm 1972 tham gia giải phóng Quảng Trị,
cùng đơn vị bạn giữ vững Thành cổ trong suốt 86 ngày
đêm, rồi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Theo
lời Tuấn kể, tôi bắt đầu thả trí tưởng tượng của
mình theo dấu chân người lính pháo binh. Những người
lính mang biểu tượng: "Chân đồng vai sắt, đánh
giỏi bắn trúng". Dấu ấn của các anh đã in đậm
lên mọi miền đất nước quê hương, từ vùng duyên hải
Quân khu 3 đồng bằng Bắc Bộ đến Điện Biên Phủ,
Thượng Lào, Tây Nguyên, miền Nam Trung Bộ... Tiếng pháo
của các anh là những đòn sấm sét giáng 46 xuống đầu
thù cùng toàn quân toàn dân cất lên bản hòa ca chiến
thắng.
Rồi Tuấn nói tiếp:
- Mỗi trang sử của
đoàn là những chiến công hiển hách - giọng anh trầm
xuống - và gắn liền với nó là thắm đượm mồ hôi
nước mắt và máu của cán bộ, chiến sĩ lữ đoàn.
Tôi
sợ câu chuyện trùng xuống nên cắt ngang:
- Tôi nghe
nói đoàn ta giàu thành tích chiến đấu lắm phải không
anh?
- Vâng! Lữ đoàn đã từng tham gia đánh tầu chiến
và máy bay địch bảo vệ Quân khu 4. Rồi những trận đọ
pháo ở phía nam sông Bến Hải 1967. Cùng với toàn quân,
toàn dân tham dự chiến dịch Mậu Thân 1968, rồi Khe Sanh
cuối 1968. Đoàn lại tiếp tục đánh địch ở bắc Quảng
Trị, Đường 9 (1969 - 1971), chiến dịch Quảng Trị 1972.
Tôi chỉ kể những mốc chính thôi nhé. Chiến dịch Huế
- Đà Nẵng tháng 3 năm 1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử. Vị chi lữ đoàn đã đánh 2.784 trận, diệt và
bắt 34.766 tên địch, phá hủy 2.785 khẩu pháo từ 105 đến
175 ly. Bắn cháy 174 xe tăng, xe bọc thép. Bắn chìm, bắn
cháy 53 tầu xuồng các loại. Bắn rơi 35 máy bay. Đánh
sập 31 sở chỉ huy và bắt sống một xe tăng M41 .
Tôi
thực sự bị chinh phục bởi thành tích chiến đấu của
lữ đoàn. Ngần ấy trận đánh, cả một hệ thống trang
bị khí tài cùng những người lính ngày đêm "xẻ
dọc Trường Sơn" hành quân chiến đấu. Không ít
những cán bộ, chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại nơi
rừng xanh, đất đỏ để tô thắm thêm truyền thống của
lữ đoàn.
Chúng tôi cùng nâng chén uống trà. Phía
phòng bên số trợ lý không ồn ào như trước nữa, họ
cũng đang tâm đắc với câu chuyện của chúng tôi.
Để
minh chứng cho hiệu quả trong hoạt động chiến đấu
Tuấn thống kê khen thưởng cho tôi nghe.
- Lữ
đoàn được tặng thưởng 27 Huân chương Quân công, 132
Huân chương Chiến công cho tập thể, 500 Huân chương
Chiến công cho cá nhân. Lữ đoàn được Bác Hồ tặng cờ
"Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" Đoàn
được tuyên dương "Đơn vị Anh hùng". Có 2 tiểu
đoàn của lữ đoàn được tuyên dương danh hiệu "Đơn
vị Anh hùng" lần thứ hai.
Tôi từ ngỡ ngàng
đến khâm phục người cán bộ chính trị ngồi đối
diện với tôi. Những con số anh thuộc lòng trong đầu.
Anh biết ép thời gian, trình bày khái quát cho tôi nghe
bằng phương pháp thống kê mang tính định lượng.
Tôi
hỏi anh - Phương pháp giáo dục truyền thống của lữ
đoàn đối với chiến sĩ mới?
Anh kể tôi nghe một
loạt vấn đề trong đó có kể chuyện chiến đấu, giới
thiệu chiến lệ trận đánh cho bộ đội nghe.
- Trận
nào thu hút chiến sĩ nhất? - Tôi hỏi.
- Nhiều lắm -
Tuấn cười rất hóm nhìn tôi như hiểu thế nào tôi cũng
đòi anh kể một chuyện - ví dụ như: trận Dốc Miếu,
trận Gio An - Mậu Thân 1968, chiến dịch 72...
Để
có tư liệu cho từng trận đánh tôi đề nghị Tuấn kể
cho nghe một số chuyện chiến đấu cụ thể. Trong đó
đáng chú ý trận Dốc Miếu. Câu chuyện để lại cho tôi
một ấn tượng sâu sắc cho đến tận bây giờ tôi vẫn
còn nhớ như in lời Tuấn kể: Dốc Miếu là căn cứ được
Mỹ ngụy bỏ công sức xây dựng như "một pháo đài
bất khả xâm phạm". Toàn bộ căn cứ cách cầu Hiền
Lương về phía nam 6 ki-lô-mét. Mỹ ngụy đã từng tự
hào đây là con mắt thần của hàng rào điện tử Mắc
Namara. Với 11 lớp rào thép gai xen vào giữa từng lớp có
chiến hào sâu, rộng tới bốn mét cắm chông sắt. Đây
thực sự là chướng ngại cho bất cứ một lực lượng
tấn công nào. Hỏa lực nơi đây được bố trí cực
mạnh gồm 20 khẩu pháo 105 và 175 ly (những "ông vua
chiến trường”) đã từng khét tiếng gây tội ác không
những đối với đồng bào miền Nam mà ngày đêm bắn
phá ra miền Bắc, đặc biệt đối với đồng bào Vĩnh
Linh. Địch cũng đã từng đề phòng khi "gieo gió sẽ
gặt bão" chúng đã tổ chức một hệ thống hầm
ngầm kiên cố, cùng với hệ thống giao thông hào liên
hoàn vững chắc. Từ căn cứ này chúng đã làm nhiều
"cánh đồng quê chảy máu”đối với người dân
xung quanh, nỗi mất mát đau thương càng tăng lên gấp
bội. Ngăn chặn ta, làm tắc nghẽn mạch máu giao thông
chi viện cho chiến trường miền Nam...
Đoàn Pháo
binh Bến Hải nhận lệnh của mặt trận, đại diện cho
pháo binh miền Bắc xã hội chủ nghĩa trừng trị căn cứ
này.
Cán bộ chiến sĩ Lữ đoàn M64 cho đến tận
bây giờ vẫn nhớ bức điện mà Bác Hồ gửi cho
đơn vị tham gia đánh trả pháo binh địch bên kia vĩ
tuyến 17 "Các chú đại diện cho pháo binh miền Bắc
xã hội chủ nghĩa đánh trả hành động leo thang của
pháo binh địch ở bờ Nam vì vậy trận đầu các chú
phải đánh thắng... ". Mệnh lệnh của Bác đồng
thời là nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta. Nhiệm vụ Bác giao thấm vào từng con tim khối óc
của cán bộ chiến sĩ lữ đoàn. Đơn vị vinh dự được
nhận nhiệm vụ trực tiếp là tiểu đoàn 1 và 11 của lữ
đoàn. Đảng ủy đoàn chỉ đạo các đơn vị bước vào
công tác chuẩn bị với phương châm và tư tưởng chỉ
đạo là: "Chuẩn bị thật chu đáo, bí mật tuyệt
đối, nắm chắc thời cơ đánh trúng, đánh mãnh liệt
thể hiện sức mạnh của Pháo binh Quân đội nhân dân
Việt Nam, gây lòng tin tưởng sâu sắc cho nhân dân hai
miền Nam - Bắc".
Trong những ngày đầu tháng 3
năm 1967 từ căn cứ Dốc Miếu, pháo địch bắn trùm ra
xung quanh bất cứ chỗ nào nghi ngờ có quân ta, trong
tầm khống chế của chúng. Vùng đất Vĩnh Linh sau
những tiếng nổ căng như người đập đe từng cụm khói
bốc lên, lửa cháy ngùn ngụt. Nhà cửa tan hoang đất đá
bị cày xới be bét. Có nơi mùi gia súc lẫn với xác
người bị cháy bốc lên khét lẹt. Những hình ảnh đó
càng thôi thúc đoàn Pháo binh Bến Hải bí mật tiến hành
công tác chuẩn bị kỹ càng hơn...
Sau một thời
gian ngắn trận địa pháo của hai tiểu đoàn, bao gồm 22
khẩu đã được triển khai dọc bờ bắc sông Bến Hải.
Phát huy vai trò của chiến tranh nhân dân Đoàn đã cùng
dân quân du kích xã Vĩnh Sơn tổ chức thêm bốn trận địa
giả để nghi binh đánh lừa địch. Các đài luồn sâu
sau một thời gian ngắn bơi sông, lội suối, cắt rừng
đã đến đúng vị trí quy định mà địch không hề hay
biết. Điều bất ngờ đối với địch tổ đài quan sát
bổ trợ được bố trí ngay đỉnh cột cờ cầu Hiền
Lương do trung đội trưởng Trịnh Văn Suất chỉ huy. Từ
các vị trí đài quan sát không phải có “mắt thần, mắt
thánh" mà là những chiến sĩ pháo binh "người
trần mắt thịt" với lòng căm thù giặc sâu sắc một
ý chí quyết tâm giành chiến thắng. Họ không những nhìn
thẳng vào mục tiêu căn cứ của địch mà còn nhìn rõ
tim đen của kẻ thù, hiệu chỉnh từng viên đạn pháo
chính xác cao, hiệu quả đến tuyệt vời.
Dưới
làn bom đạn địch, nhân dân xóm Bàn xã Vĩnh Thủy đã
vác gỗ ván, chặt trong vườn nhà lát đường chống lầy
cùng bộ đội âm thầm lặng lẽ kéo pháo vào trận địa.
Hình ảnh người công nhân giao thông Vĩnh Linh đồng chí
Thuộc bất chấp nguy hiểm dùng máy húc kéo pháo của
tiểu đoàn 1 bị chìm ở bến phà Sa Lung đã anh dũng hy
sinh, một tấm gương có sức cổ vũ cả đoàn vượt lên
giành chiến thắng.
Mọi công việc chuẩn bị cho
trận đọ pháo đã vào hồi kết. Những quả đạn pháo
vàng óng, được các chiến sĩ nâng niu lau chùi cẩn thận,
xếp ngay ngắn bên càng pháo. Những hòm đạn đã được
mở khóa. Nòng pháo thép hiên ngang hướng về phía Dốc
Miếu điềm tĩnh tự tin chờ lệnh trút lửa xuống đầu
thù. Đúng 18 giờ 18 phút ngày 20 tháng 3 năm 1967 được
lệnh toàn cụm pháo đồng loạt nổ súng. Bắn cấp tập.
Một trận bão lửa bất ngờ trùm lên căn cứ Dốc Miếu.
Nhiều pháo thủ của ta lúc này mình trần nạp đạn.
Nguyễn Văn Thuật một mình nạp liên tục 120 quả đạn
với trọng lượng gần 5 tấn qua tay. Sau trận đánh anh
được tặng Huân chương Chiến công hạng ba. Trận đánh
thắng lợi giòn giã, 4 khẩu 175 ly "vua chiến trường",
17 khẩu 105 ly, 57 xe quân sự bị phá hủy. Ba kho xăng dầu
bị đốt cháy. Bắn cháy 5 máy bay trực thăng cùng nhiều
bộ binh Mỹ bị tiêu diệt.
Chiến thắng Dốc Miếu
có ý nghĩa chính trị, quân sự to lớn, có tiếng vang
trên toàn mặt trận, phá tan toàn bộ ý định trận càn
"Đếch Hao" ngay từ trong trứng nước. Sau trận
đánh, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 11 đều được tặng
thưởng Huân chương Quân công hạng ba. Riêng tiểu đoàn
1 còn được Bác Hồ tặng một chiếc máy thu thanh. Đơn
vị được Bác tặng cờ "Quyết tâm đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược". Bộ tư lệnh Pháo binh tặng cờ "Đánh
mạnh, bắn trúng". Đó là phần thưởng cao quý và
niềm tự hào chung cho mọi thế hệ của đoàn Pháo binh
Bến Hải.
Tôi ngồi nghe anh kể mà như bị thôi
miên bởi chiến công của thế hệ đi trước trong lữ
đoàn. Đã đến lúc tôi phải chia tay anh ra về. Đứng
giữa khoảng trời khoáng đạt lộng gió bây giờ tôi mới
có điều kiện ngắm kỹ cơ ngơi của lữ đoàn. Như đọc
được sự băn khoăn trong tôi, anh nói: "Rồi đây lữ
đoàn sẽ chuyển sang khu mới, sẽ xây dựng khang trang
hơn". Đúng cần phải có một cơ ngơi bề thế như
truyền thống của nó trong chiến tranh. "Đánh
mạnh, bắn trúng". Tôi nhớ về dòng sông Bến Hải,
con sông đã từng chứng kiến bao cảnh đổi thay của đất
trời, dòng nước tinh khiết từ lòng đất chảy ra sẽ
còn mãi mãi âm vang tên tuổi và chiến công của một lữ
đoàn.
BÙI HOÀNG HẢI
NHỮNG NGƯỜI LÍNH
THỢ CỦA BINH ĐOÀN
Vào những ngày cuối
xuân đầu hạ tôi đến thăm tiểu đoàn N1 thuộc Cục Kỹ
thuật Binh đoàn Hương Giang. Cảnh vật nơi đây sau cơn
mưa rào đầu mùa sáng bừng lên tươi rói. Từ các khu
nhà mái tôn tiếng búa tiếng đe chen lẫn tiếng máy nổ
ầm ầm vang lên rộn rã cả vùng đồi trung du.
Cách
đây 30 năm ngày mùng 10 tháng 10 năm 1977 ngày khai sinh của
tiểu đoàn trên quê hương Phú Bài - Thừa Thiên - Huế.
Mảnh đất đã từng nhuốm màu khói lửa chiến tranh đã
tạo nên sự rắn rỏi của một tiểu đoàn. Chỉ mới
hai năm sau ngày thành lập các anh đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ trên biên giới Tây Nam. Đến năm 1979 cả Binh
đoàn tạm biệt sông Hương có nhiều duyên nợ và cố đô
Huế giàu cảm xúc mộng mơ "thần tốc" hành quân
ra Bắc. Dấu chân người lính thợ binh đoàn đã từng in
đậm vùng Đồng Bẩm - Thái Nguyên, Đáp Cầu - Bắc Ninh,
Lục Nam - Hà Bắc. Hành quân của tiểu đoàn đảm bảo
kỹ thuật mang tính đặc trưng riêng, nó không giống các
đơn vị bộ binh, binh chủng khác, đến đâu tiểu đoàn
cũng phải tập trung chuẩn bị chu đáo cho các nhà xưởng
để có điều kiện đảm bảo kỹ thuật cho toàn binh
đoàn, điều đó làm cho tôi khâm phục sự rong ruổi của
các anh trên chiều dài đất nước.
Nhìn cơ ngơi,
địa điểm đóng quân của tiểu đoàn vẫn còn in đậm
dấu vết của một thời dã chiến. Doanh trại bộ đội
chen lẫn với làng dân "biên giới" phân chia là
những con đường nhỏ, bờ rào găng, thậm chí ban chỉ
huy tiểu đoàn còn mua lại ngôi nhà ở sát kề của dân
để tiện việc sử dụng. Có phải chăng điều kiện
trên đã tạo cho các anh chú ý xây dựng thế trận lòng
dân. Trải qua những năm xây dựng trưởng thành tiểu
đoàn luôn được nhân dân địa phương tin yêu giúp đỡ
và ngược lại các anh cũng đã từng góp công sức của
mình xây dựng địa phương đảm bảo khu vực an toàn.
Nhiều hoạt động giao lưu văn hóa, kết nghĩa được
tiến hành thường xuyên mang lại hiệu quả. Nhiều anh
lính từ miền xuôi miền ngược về đây "nghe em hát
câu người ơi người ở" cứ ngẩn ngơ trăm mối tơ
vò để cho "lòng anh hóa rễ tựa cây đề" từng
đôi, từng đôi cứ vịn câu ca dao mà nên chồng,
nên vợ. Những người lính thợ lại có điều kiện ổn
định gia đình và toàn tâm cho nghề nghiệp.
Tiểu
đoàn trưởng Nguyễn Bá Cận dẫn tôi đi thăm xưởng.
Tôi đùa gọi Cận là thế hệ "d trưởng" của
thế kỷ 21. Cận sinh năm 1968 từ một cậu học sinh
ham mê kỹ thuật anh đã tìm đến với Học viện Kỹ
thuật quân sự, năm 1990 thi tốt nghiệp ở đó. Về đơn
vị công tác được ít năm anh được cử đi đào tạo
cao học. Với học vị thạc sĩ, nhà khoa học này được
đề bạt tiểu đoàn trưởng vào đầu thiên niên kỷ mới
(2001) . Vừa đi vừa tâm sự tôi biết Cận quê ở An Bình
- Thuận Thành - Bắc Ninh cho tới nay không những một mình
anh mà cả mấy anh trong ban chỉ huy tiểu đoàn vợ con gia
đình vẫn còn ở quê. Anh còn cho tôi biết những người
lính thợ ở đây không giống lính thợ ở các xí nghiệp
của Bộ, của các binh chủng, họ sẵn sàng thay đổi vị
trí liên tục nếu binh đoàn yêu cầu.
Tiểu đoàn
quân số không đông nhưng lại quản lý một khối lượng
trang bị kỹ thuật tương đối lớn. Mọi việc được
tiến hành một cách nhịp nhàng có tính kế hoạch cao.
Hôm nay tiểu đoàn không sản xuất toàn bộ, mà chia một
số thợ phải làm công tác chuẩn bị tập huấn kỹ
thuật cho binh đoàn. Vào phân xưởng ôtô cùng công việc
sửa chữa các anh đang trực tiếp thực nghiệm việc ứng
dụng cải tiến kỹ thuật. Tôi quan sát tỉ mỉ từng
động tác, từng thao tác của các anh nhanh gọn và chính
xác tuyệt đối, trong xây dựng trưởng thành tiểu đoàn
rất chú trọng đến đội ngũ lính thợ, bởi chính bàn
tay của họ đã tạo nên sức sống của một tiểu đoàn.
Tính đến nay có 11 thợ bậc 7/7 còn lại đều là bậc 3
đến bậc 6 với đủ các ngành nghề khác nhau. Điện,
máy, gò, hàn, phay, tiện ... và cũng chính từ bàn tay
người thợ chăm chỉ này có biết bao nhiêu sáng kiến,
đề tài được đơm hoa kết trái phục vụ một cách có
hiệu quả cho huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của binh
đoàn. Tham quan một lượt xưởng, nhà kho điều làm tôi
tâm đắc nhất là Đảng ủy, thủ trưởng tiểu đoàn ở
đây đã biết phát huy cao độ vai trò của từng cá nhân
trong phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật theo phương
châm chung của ngành kỹ thuật, binh đoàn "Công nghệ
chính quy, an toàn tiết kiệm".
Trong thực hiện
nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ nào cũng có những sáng
kiến, tương ứng có những sáng kiến ứng dụng cho toàn
quân như trong công tác huấn luyện. Từ một cái bảng,
trước kia bộ đội ta học tập dã ngoại phải khênh cả
cái bảng lớn ra bãi tập cồng kềnh, phức tạp. Vậy mà
vào tay những người lính thợ tiểu đoàn N1, hình thức
kinh điển của bảng đã bị phá vỡ thông qua nhóm thợ
các anh đã sản xuất hàng loạt bảng học tập phục vụ
cho huấn luyện. Tính hiệu quả của nó là cơ động
thuận tiện, có thể gấp lại gọn nhẹ mang đi, được
mở rộng khi dùng với diện tích sử dụng lớn. Lượng
thông tin lưu lại trên bảng nhiều, ngoài ra còn có thể
treo được cả bản đồ, sơ đồ cần thiết cho giảng
dạy.
Sáng kiến xây dựng mô hình trực quan cho học
tập giúp cho thợ sửa chừa, lái xe hiểu biết bản chất
của nguyên lý hoạt động, tình trạng hoạt động của
hệ thống bôi trơn xe YAZ. Có sáng kiến chỉ đơn giản
vậy thôi mà kỹ sư, lính thợ ở đây đã phải lao tâm
khổ tứ đã từng mất ăn mất ngủ hàng tháng trời cứ
canh cánh trong lòng vì chất lượng của từng sản
phẩm.
Giữa niêm cất và sẵn sàng chiến đấu là
mối quan hệ phức tạp cần được giải quyết ở xe
trực nhiệm vụ A2. Muốn niêm cất tốt đòi hỏi phải
kỹ lưỡng đến từng chi tiết, công phu, tỉ mỉ. Còn
sẵn sàng chiến đấu lại đòi hỏi khi có lệnh phải
thực hiện nhiệm vụ ngay trong thời gian ngắn nhất. Khi
vào trạng thái niêm cất xe cần được kê kích giảm tải
cho lốp, nhíp và được bảo quản theo chế độ sẵn
sàng chiến đấu. Để giải quyết mối quan hệ trên,
trước đây một số đơn vị trong toàn quân đã nghiên
cứu thực hiện song vẫn chưa đáp ứng được, đặc
biệt khi hạ xe phải mất nhiều người để đẩy xe, dễ
gây mất an toàn, thời gian lại lâu phải mất tới 5 - 7
phút mới xong một xe. Cùng một lúc không hạ được
nhiều xe ... Nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu sẵn
sàng chiến đấu đề ra. Tổ đề tài của tiểu đoàn
được sự chỉ đạo của trên đã bắt tay vào
nghiên cứu. Công việc không đơn gian như người ta tưởng.
Lúc đầu các anh chịu nhiều thất bại cả ý tưởng
sáng tạo đến thực nghiệm ban đầu. Song lớp kỹ sư
trẻ cùng những người thợ bậc cao với kinh nghiệm lâu
năm và lòng say mê sáng tạo; yêu nghề các anh đã vượt
lên tất cả. Năm 1977 "Kích hạ nhanh xe ôtô" của
tiểu đoàn đã ra đời với niềm hân hoan của cán bộ,
chiến sĩ những người thợ của tiểu đoàn N1 . Kích có
kết cấu đơn giản chịu tải tốt cho các loại xe trực
A2. Thao tác dễ, sử dụng thuận tiện chỉ cần hai đồng
chí lái xe và phụ xe là có thể cho xe hạ đất an toàn
tuyệt đối, khác với trước đây phải cần đến cả
tiểu đội mới hạ xong một xe. Và cũng chính vì thế
khi có lệnh cùng một lúc nhiều xe có thể thực hiện
mệnh lệnh được ngay. Nếu trước kia là 5 - 7 phút cho
hạ một xe thì ngày nay chỉ 1 phút đã hạ được nhiều
xe (tùy theo mệnh lệnh điều động xe). Sáng kiến "kích
hạ nhanh ôtô" được phòng khoa học công nghệ binh
đoàn đánh giá đạt yêu cầu và cho phép sản xuất hàng
loạt trang bị cho binh đoàn. "Hữu xạ tự nhiên
hương" nhiều nơi trong toàn quân đổ về tiểu đoàn
N1 đặt hàng. Sáng kiến được tặng thưởng của Tổng
cục Kỹ thuật tại Hội nghị tổng kết mười năm hoạt
động khoa học công nghệ môi trường ngành kỹ thuật
toàn quân. Tôi được tiểu đoàn phó kỹ thuật Trần
Ngọc Thêm dẫn ra tận nơi, cả dãy xe xếp hàng thẳng
tắp, những xe trực A2 đang thư thái nằm gọn trên từng
chiếc kích nghỉ ngơi. Chiến sĩ lái xe túm cần giật
mạnh hai thanh sắt tiếp giáp giữa kích và xe bung ra hai
bánh trước tiếp đất nhẹ nhàng đầu xe rung nhẹ theo
nhịp giảm xóc. Quả thật rất nhanh chóng và thuận
lợi.
Các anh còn rất nhiều sáng kiến khác có
giá trị thực tiễn cao trong công tác bảo dưỡng, sửa
chữa, sản xuất như: thiết bị bơm dầu, tời cơ động,
sản xuất nắp đuôi nòng pháo BM41... và còn nhiều sáng
kiến áp dụng trong sửa chữa và sản xuất của đơn vị.
Tiểu đoàn còn tiến hành sửa chữa, cứu kéo
trong hành quân dã ngoại phục vụ huấn luyện, diễn tập
phòng chống bão lụt. Trong thực hiện nhiệm vụ này tiểu
đoàn trưởng Nguyễn Bá Cận kể tôi nghe câu chuyện vào
mùa mưa năm 2000 binh đoàn diễn tập. Hướng hành quân
qua nhiều khe suối. Buổi chiều hôm đó mưa tầm tã, nước
từ trên sườn núi như một mái nhà khổng lồ đổ xuống
suối. Chả mấy chốc nước suối dâng cao, đường đi
đất bùn nhão nhoét. Mệnh lệnh của trên tất cả xe vận
tải, kéo pháo phải đến vị trí tập kết trước lúc
trời sáng. Tiểu đoàn Ni được giao nhiệm vụ bảo đảm
kỹ thuật cho cuộc diễn tập này. Anh đã tổ chức cho
xe cứu kéo của tiểu đoàn phải kéo lùi mới tận dụng
được thời gian, có nghĩa là lúc kéo xe không thể đi
nhanh, khi xe được kéo sang bên này suối thì xe kéo tiến
thẳng sang bên kia suối, đi không kéo nên nhanh hơn. Tôi
chưa dám đánh giá là sáng kiến mà đây là mẹo của các
anh nó bất chợt nảy sinh trong đầu óc giàu tư duy
sáng tạo của những người lính thợ ở binh đoàn. Cái
mẹo đó của các anh đêm hôm ấy đã giúp gần 300 xe
pháo vượt suối an toàn đến đúng vị trí trước lúc
trời sáng.
Phó tiểu đoàn trưởng về chính trị
Thân Đức Phận, tôi cứ ấn tượng mãi với cái họ tên
của anh mà cha mẹ anh đặt cho, nghiệp anh gắn liền với
những người lính thợ. Anh kể tôi nghe thành tích mà
tiểu đoàn đạt được là một sự thừa nhận của trên
về giá trị sáng tạo của tiểu đoàn N1. Trải qua những
năm tháng chiến đấu xây dựng trương thành, đơn vị đã
từng được Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng tặng
thưởng Huân Chương Chiến công hạng ba và 3 cờ thưởng
luân lưu trong sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật.
Được ban chấp hành Trung ương Đoàn tặng Huy chương
Tuổi trẻ sáng tạo. Đảng ủy Bộ tư lệnh Binh đoàn
tặng 33 cờ thi đua, 16 năm liền đạt danh hiệu đơn vị
quyết thắng. Cho tới nay cán bộ, chiến sĩ trong tiểu
đoàn đã có tới gần 200 đồng chí được tặng huân,
huy chương các loại 147 đồng chí được tặng danh hiệu
Chiến sĩ thi đua, Chiến sĩ quyết thắng, cùng nhiều đồng
chí được tặng giấy khen, bằng khen... cứ trên đà này
tôi tin bản thành tích của các anh sẽ còn dài thêm nữa.
Cùng với thời gian tiểu đoàn sẽ góp thêm vào thành
tích chung của ngành kỹ thuật binh đoàn.
Chuẩn bị
chia tay các anh, tôi cùng phó tiểu đoàn trưởng về kỹ
thuật Trần Ngọc Thêu dạo quanh một vòng nơi ăn chốn ở
của bộ đội. Những ngôi nhà cấp 4 còn đơn sơ nhưng
bên trong được chăm chút cẩn thận. Điều làm tôi ngạc
nhiên trước mỗi dãy nhà là hệ thống các loại cây
cảnh có cây tới 10 - 15 năm đang được một số lính
thợ tranh thủ tỉa tót. Mấy cậu trẻ giới thiệu với
tôi: đây là thế tình yêu, thế mẹ chờ con, thế chàng
nàng tâm sự... Thế mới biết các cụ ngày xưa xem cây
cảnh biết cốt cách con người. Còn ở đây mỗi cây
cảnh là ẩn chứa tâm trạng của người lính thợ là
chủ nhân của nó.
Chia tay những người lính thợ
của binh đoàn, bất chợt tôi liên tưởng đến sự tổng
kết quốc tế những giải Nôben hầu hết đều bắt
nguồn từ những nhà khoa học hoạt động tại phòng
nghiên cứu ở xí nghiệp, nhà máy, chứ không ra đời
nhiều ở các vụ, viện nghiên cứu. Rồi đây binh đoàn
sẽ được đón nhận nhiều sản phẩm mới từ bàn tay
khối óc của những người lính thợ tiểu đoàn N1.
B.H.H
NGUYỄN THÁI
TƯ LỆNH NGUYỄN HỮU
AN
Ông sinh năm 1926 tại xã
Trường Yên thuộc đất Cố đô Hoa Lư lịch sử của
tỉnh Ninh Bình.
Năm 1972 - 1974 ông được Nhà nước
và Quân đội cử sang Liên Xô học trường Vô Rô Xi Lốp,
ông đã tận tâm nghiên cứu học hỏi bạn để nâng cao
kiến thức về chỉ huy lãnh đạo các binh đoàn lớn,
chiến đấu binh chủng hợp thành trong chiến tranh hiện
đại. Kết thúc khóa học ông đạt kết quả loại ưu,
đã được Nhà nước và Quân đội Liên Xô cấp bằng đỏ
và phần thưởng danh dự.
Về tinh thần chiến đấu
dũng cảm, nghệ thuật chỉ huy, sự bình tĩnh, tính quyết
đoán và tác phong xông xáo, sâu sát cơ sở tình thương
yêu binh sĩ của ông thì cán bộ, chiến sĩ trong binh đoàn
đã kể cho nhau nghe khá nhiều chuyện cảm động.
Trong
kháng chiến chống Pháp ông đã qua các cương vị chỉ
huy eấp đại đội, tiểu đoàn thuộc các Trung đoàn 115
Phúc Yên. Trung đoàn 74 Cao Bằng và Trung đoàn 174 Cao - Bắc
- Lạng, đã tham gia hầu hết các chiến dịch: Thu Đông
năm 1947. Biên Giới năm 1950... Đến chiến dịch Điện
Biên Phủ, ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn l74 Sư
đoàn 316. Ông đã chỉ huy trung đoàn anh hùng của mình 3
lần tấn công đồi A1, đặt qủa bộc phá bằng 1 tấn
thuốc nổ phá vỡ tung hầm ngầm diệt gọn một tiểu
đoàn âu Phi ngoan cố, đồng thời là hiệu lệnh tổng
công kích đợt 3 tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm
địch, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ
chấn động địa cầu.
Trong cuộc chiến tranh chống
Mỹ xâm lược từ đầu năm 1965, Mỹ ồ ạt đổ quân
vào tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ hòng đè bẹp
sức kháng của Việt Nam. Quân chủ lực ta lập tức chạm
trán với các sư đoàn tinh nhuệ bậc nhất của đế quốc
Mỹ. Trong trận đọ sức đầu tiên ở Ia Đrăng, Plây Me,
trên cương vị là Tư lệnh phó mặt trận B3 được trực
tiếp chỉ huy trận đánh Mỹ vào đầu chiến cuộc, ông
đã cùng với Chủ nhiệm Chính trị Đặng Vũ Hiệp và Bộ
chỉ huy mặt trận lãnh đạo, chỉ huy bộ đội và đồng
bào Tây Nguyện vận dụng linh hoạt nghệ thuật quân sự
độc đáo Việt Nam "Lai vô ảnh, khứ vô tung" bất
thần xuất kích giáng cho Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn Kỵ
binh bay số 1 của Mỹ một đòn phủ đầu sấm sét, khiến
bọn tướng tá Mỹ không kịp định thần đối phó, phải
hốt hoảng thu tàn binh tháo chạy thục mạng không sao
hiểu nổi sức mạnh thần kỳ của quân đội ta.
Thời
gian đã trôi qua hơn 20 năm rồi mà âm vang của "Trận
đòn nhớ đời" ở Ia Đrăng vẫn còn ám ảnh mãi
trong đầu óc của viên trung tướng Mỹ Harôn-Morơ .Năm
1993, ông ta đã cùng phái đoàn Bộ Quốc phòng Mỹ sang
thăm Việt Nam và cố nài nỉ xin Bộ Tổng Tham mưu ta cho
gặp lại viên Tư lệnh quân giải phóng năm xưa đã đánh
tan tác Lữ đoàn "Kỵ binh bay" của ông ta cố tìm
ra lời giải đáp "Vì sao Mỹ thua, ta thắng?".
Trong
cuộc gặp gỡ tranh luận này, lúc đầu Harôn- Morơ còn
hoài nghi trước những câu trả lời của Đại tướng
Chu Huy Mân, nhưng đến khi Thượng tướng Nguyễn Hữu An
rút trong cặp ra tấm sơ đồ trận đánh Ia Đrăng mà đồng
chí còn giữ để làm kỷ niệm và tiếp tục phân tích
cụ thể diễn biến toàn bộ trận đánh thì Harôn-Morơ
mới thực sự nói những lời sám hối "Bộ đội các
ông thật tuyệt vời" và thừa nhận: "Mỹ đã
thua đau cả về chiến thuật và chiến lược".
Ông
được Bộ Quốc phòng điều về làm Tư lệnh trưởng
Quân đoàn 2 vào đầu năm 1975 tại chiến khu Ba Lòng lịch
sử. Ngay từ những ngày đầu về Quân đoàn ông đã lập
tức tìm hiểu nhiệm vụ, nắm vững ý đồ chiến lược
của Bộ Chính trị, của Tổng Quân ủy và phương hướng
nhiệm vụ của Quân đoàn do Đảng ủy đề ra. Ông đã
đề xuất một chương trình xây dựng Quân đoàn chủ lực
cơ động chiến lược mạnh, chiến đấu theo phương
thức: Hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Ông luôn nói
với mọi người: "Ta phải khẩn trương nâng sức
chiến đấu của Quân đoàn lên ngang tầm nhiệm vụ mới.
Mỗi Quân đoàn phải trở thành quả đấm thôi sơn của
Bộ Tổng Tư lệnh mới sớm giải quyết cuộc chiến
tranh lâu dài, gian khổ khốc liệt này".
Trong
cuộc chiến "Mùa Xuân năm 1975" lúc đầu Quân
đoàn 2 được Bộ giao nhiệm vụ: "Cùng quân dân Trị
Thiên tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quân địch mở
rộng vùng giải phóng, giành dân lấn đất, uy hiếp địch
ở Thành phố Huế, phối hợp với chiến trường chính
Tây Nguyên... chuẩn bị điều kiện tiến lên giải phóng
Trị Thiên Huế khi thời cơ tới.
Quân đoàn chủ động chuẩn
bị chiến trường gấp, mở màn chiến dịch giải phóng
Trị Thiên Huế lấy tuyến La Sơn, Tây Nam Huế làm hướng
tiến công chủ yếu kịp thời phối hợp với mặt
trận chính Buôn Ma Thuột. Sư đoàn 324 đã nổ súng tiến
công địch ngày 8 tháng 3 năm 1975.
Đợt 1 ta giành
thắng lợi lớn, tiêu diệt, tiêu hao một số tiểu đoàn,
trung đoàn địch một cách nhanh gọn, thu hút phần lớn
lực lượng của Sư đoàn 1 "Anh Cả đỏ" và Liên
đoàn biệt động quân số 15 tại khu vực đường 14 Tây
Nam Huế, đây là đòn rất hiểm.
Lo sợ bị mất
Huế, địch đã dồn sức chống cự với ta khá quyết
liệt ở đây. Khi ở Buôn Ma Thuột ta đại thắng, địch
hoảng loạn rút bỏ Tây Nguyên, tình hình dẫn đến những
chấn động lớn... Bằng tri thức mẫn tuệ của vị
tướng chiến trường ông nói: "Ta cần chủ động
nắm thời cơ và tạo thời cơ nhanh hơn nữa, trên đã
chỉ đạo, ta cần thay đổi chiến thuật "Từ tấn
công trực diện bằng sức mạnh, nay chuyển sang bao vây
vu hồi lớn". Sư đoàn 325 nhanh chóng cắt đứt đường
số 1, Sư đoàn 324 chỉ để Trung đoàn 3 kìm giữ và tiêu
diệt 303, còn Trung đoàn 1 và 2 tổ chức thành mũi nhọn
thọc sâu xuống đồng bằng rồi vít Chặt Cửa biển
Thuận An - Tân Mỹ và cửa Tư Hiền chặn đứng sự tháo
chạy của địch vào Đà Nẵng.
Quả nhiên trước
sức tấn công như vũ bão của quân ta, địch từ chỗ
chống trả quyết liệt đến hoảng loạn tan rã từng
mảng lớn toan tìm cách "Bỏ đất chạy lấy người"
nhưng chúng chạy đâu cho thoát, tất cả các ngả
đường, dòng sông, cửa biển quân giải phóng (gồm Quân
đoàn 2 và Quân khu Trị Thiên) và nhân dân địa phương
đã hoàn toàn làm chủ. Toàn bộ Sư đoàn 1, Liên đoàn
biệt động số 15 và Lữ đoàn 258 TQLC ngụy đã bị quân
dân ta tiêu diệt và bắt sống tại trận. (6 vạn
tên).
Khi đi cùng đoàn quân vào giải phóng Cố đô
Huế, đến trước cửa Ngọ Môn ông bảo cho xe dừng lại
giây lát. Khi đưa mắt nhìn bao quát một lượt thấy cảnh
bề bộn của chiến trường Thành phố ngổn ngang xe pháo
địch, đó đây tường đổ ngói tan, phố xá, xóm làng,
cầu cống sập đổ tan hoang, đôi mắt hiền từ của Tư
lệnh bỗng thẫn thờ phiền muộn. Ông lâm bẩm nói một
mình:
- Biết bao giờ mới chấm dứt cảnh tượng đau
lòng này - Bỗng khoảnh khắc sau đó mắt ông lại sáng
lên vui vẻ, vội nhảy khỏi xe bước gấp tới nắm chặt
đôi tay đồng chí Phó Chính ủy Sư đoàn 324 Lê Văn Dánh
(1) nói như reo:
- Cảm ơn anh đã dẫn đầu bộ đội
thọc sâu lội Phá Tam Giang, vượt đầm Thủy Tú chốt
chặt cửa Thuận An, Tân Mỹ, Tư Hiền khiến đường tháo
chạy của địch về phía cửa biển đều bị ta chặn
đứng. Hơn 8 vạn quân lính ngụy ở Trị Thiên Huế dồn
lại đây đều bị quân dân ta tóm gọn cả rồi!
----------------------------
Chú thích: Phó
Chính ủy Sư đoàn 324 Lê Văn Dánh sau này là Thiếu tướng,
phó Tư lệnh Chính trị Quân khu 4.
Nhìn hai vị chỉ huy dạn dày
chiến trận nắm tay nhau nói cười hoan hỉ, các chiến sĩ
ta ai cũng thấy rộn ràng, vui sướng vỗ tay, giương súng
hò reo vang dậy.
Đến trưa ngày 25 tháng 3 năm 1975
Thành phố Huế và cả Trị Thiên đã được hoàn toàn
giải phóng.
Ngay sau khi giải phóng Cố đô Huế một
ngày, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 liền nhận được lệnh
của trên "đánh ngay Đà Nẵng".
Với tinh
thần tích cực chủ động, quả quyết, ông nói với các
cấp chỉ huy "Khi quân địch khiếp đảm phải co cẳng
chạy thì ta tức khắc truy sát gót tiêu diệt địch gay,
đó là thượng sách".
Liền sau đó ông đã cùng
Bộ Tư lệnh, cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần tài
trí của mình điều chỉnh lại lực lượng, xếp sắp
lại đội hình tiến công. Lúc này Bộ phái thêm Trung
tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng Tham mưu trưởng và
Trung tướng Lê Quang Hòa - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị vào chỉ đạo và đốc chiến, tạo thêm sức mạnh
và niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 2 tiến lên
lập chiến công mới.
Quân đoàn tổ chức thành 3
cánh quân binh chủng hợp thành đánh vào thành phố
cảng.
Đường số 1 từ Phú Lộc, Thừa Thiên và Đà
Nẵng phải vượt qua 3 đèo dốc lớn: Phước Tường,
Lăng Cô và đỉnh Hải Vân.
Về phía địch, sau thất
thủ Tây Nguyên và Trị Thiên Huế. Thiệu ráo riết đốc
thúc tướng Ngô Quang Trưởng, con trai người anh hùng của
chế độ Cộng hòa tay sai Mỹ rằng: "Phải chặn đứng
Cộng quân ở phía bắc đèo Hải Vân để tử thủ Đà
Nẵng và cho cả dải đất trung phần đủ thời gian thực
hiện "'Co cụm chiến lược”.
Về phía ta, trên
tư thế thừa thắng xông lên, các cánh quân (của Quân
đoàn 2) từ Phú Lộc lên, từ đường 14 vào, từ Thượng
Đức xuống; (Quân khu 5) Sư đoàn 2 từ Quảng Ngãi ra, tất
cả đã hình thành thế hợp vây lớn vượt qua núi đèo
và bom đạn địch, kiên quyết chiến đấu thực hiện
đúng như ý đồ chiến thuật của Bộ chỉ huy và đến
trưa ngày 29 tháng 3 năm 1975, bốn cánh quân ta đã chiếm
lĩnh hoàn toàn Thành phố Đà Nẵng và bán đảo Sơn
Trà.
Khi đứng giữa tòa đại sảnh ở trung tâm
thành phố cảng, với vẻ mặt hân hoan mãn nguyện, ông
nói vui với cán bộ cấp dưới đứng vây quanh:
- Ta
đến đây có lẽ ngoài dự kiến của Trung tướng
Ngô Quang Trưởng đến dăm bữa, nửa tháng các đồng chí
ạ? Giữa lúc mọi người đang vui cười náo nhiệt thì
Đại tá Chính ủy Sư đoàn 325 Lê Văn Dương tiến đến
trước Tư lệnh nghiêm chỉnh báo cáo:
- Thưa đồng chí
Tư lệnh! Nói chung ta thắng lớn quá nhưng cũng thật đáng
tiếc là chúng tôi để sổng mất Ngô Quang Trưởng; khi
chúng tôi tiến vào bán đảo Sơn Trà thì hắn nhảy xuống
biển ngoi ra tầu Mỹ mất. Khi phát hiện ra thì đã quá
muộn!
- Tướng Trưởng liều mạng chạy chốn, ta
không ngờ hắn hoảng sợ đến thế, tình huống này là
bất ngờ ngoài dự kiến, thôi tiếc rẻ mà làm gì, biết
đâu vào Nam Bộ ta lại gặp hắn. Khi đến thăm đại tá
Nguyễn Chơn, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 (Quân khu 5) ông
nói:
- "Hoan nghênh các anh đã đánh giỏi, tiến
nhanh chặn đứng được làn sóng tháo chạy của hơn 10
vạn ngụy quân, ngụy quyền về hướng nam, đỡ cho Nam
Bộ gánh nặng sau này”.
Đồng chí Chơn vui cười đáp
lại: "Chúng tôi vừa đánh "vừa vắt chân lên
cổ" chạy việt giã để kịp đến hội sự với 3
cánh quân của đồng chí đó!"
Mọi người
cười vang tán thưởng lời nói vui của người anh hùng.
Tư lệnh An nói tiếp.
- Thật là anh hùng hội ngộ,
cuộc hợp vây của bốn cánh quân tiến vào Đà Nẵng
diễn ra tuyệt đẹp và đã làm nên thắng lợi diệu kỳ.
Sau ý kiến trao đổi hàn huyên giữa hai người thì có
liên lạc đến mời Tư lệnh An về dự hội nghị quân
chính đột xuất. Vừa về đến nơi chính ủy Lê Linh
liền đứng dậy tươi cười yêu cầu mọi người tĩnh
tâm đón nhận tin vui. Đó là bức điện của Tổng Quân
ủy long trọng tuyên dương công trạng binh đoàn trước
toàn quân lần thứ 2 ... Đọc xong bức điện thiếu tướng
chính ủy nói đại ý "Chiến thắng ở Thừa Thiên
Huế tiếp theo là chiến thắng Đà Nẵng là biểu hiện
tập trung sự sáng suốt mạnh bạo, của trên được dưới
chấp hành rất thông minh dũng cảm. Cán bộ, chiến sĩ ta
vào thời điển lịch sử rất đặc biệt "Một ngày
bằng 20 năm" nên hành động trong chiến thuật chiến
dịch rất thông minh, sáng tạo đồng cảm giữa sự sáng
suốt của trên, tài năng biến hóa ở dưới đã đưa ta
đến thắng lợi rất oanh liệt, vẻ vang".
Sau
lời chính ủy, Tư lệnh nói tiếp: Vừa qua ta đã chủ
động, sáng tạo thời cơ và đón bắt thời cơ khá nhanh
nhạy đã hoàn thành vượt mức nhiệm vụ trên giao, nay
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đề ra tư tưởng chỉ đạo
chiến lược: "Thần tốc, tạo báo, bất ngờ, chắc
thắng!" Với quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền
Nam. Quân đoàn sau hai trận đánh lớn lực lượng vẫn
còn rất sung mãn, nay Bộ có ý muốn tách Sư đoàn 325 và
Lữ đoàn 203 xe tăng bổ sung cho Quân đoàn 1 để ta ở
lại miền Trung làm quân dự bị, tôi thấy ta cần phải
suy nghĩ và kiến nghị với trên một số phương án thích
hợp hơn. Theo ý tôi muốn đề nghị với Bộ cho ta đưa
toàn bộ đội hình Quân đoàn 2 vào tham gia giải
phóng Sài Gòn và Nam Bộ, tiến thẳng theo đường số 1
các đồng chí nghĩ sao? Mọi người, đều vui vẻ tán
thưởng:
- Nhất trí! Nhất trí!
Ngay sau đó Bộ
Tư lệnh Quân đoàn 2 và cả đồng chí Lê Trọng Tấn, Lê
Quang Hòa đồng thời đề nghị nguyện vọng lên cấp
trên và lời đề nghị đó đã được cấp trên chấp
nhận ngay.
Với tầm nhìn chiến lược, với kiến
thức sâu rộng, toàn diện về tổ chức hành quân cơ
giới đường dài của các binh đoàn lớn mà ông học
được ở Liên Xô, khi từ biên giới phía tây tiến sang
giải phóng các nước Đông Âu và công phá Béclin. Trong
đại chiến thế giới lần thứ hai ông đã cùng Bộ Tham
mưu năng động từng trải của mình lập ra kế hoạch:
"Hành quân thần tốc hỗn hợp đường dài" cho
toàn binh đoàn rất khoa học và hoàn chỉnh, trong đó có
kế hoạch vận chuyển bằng tầu hải quân, chở những
xe tăng, xe bọc thép từ cảng Đà Nẵng đổ xuống cảng
Quy Nhơn, nhờ đó mà toàn Binh đoàn đã đến được vị
trí tập kết chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử trước
thời gian cấp trên quy định.
Khi toàn Binh đoàn
binh chủng hợp thành đã đủ mặt tại khu tập kết,
trước hội nghị quân chính binh đoàn ông nhận định:
Lần đầu tiên Quân đoàn tiến hành cuộc hành quân cơ
giới đường dài, với hành động tác chiến rất táo
bạo (đánh địch trong hành tiến) đánh Phan Rang và Phan
Thiết mỗi tỉnh một ngày. Hàm Tân tròn một đêm,
tiêu diệt bắt sống hàng vạn tên địch, bắt sống
tướng Nghi, Sang tại trận, bắt sống hàng chục máy bay
ở Thành Sơn hàng chục tầu chiến ở Phan Rang, Phan Thiết.
Đi tới đâu ta cũng phối hợp chặt chẽ với đơn vị
bạn và địa phương, thực hiện "Đánh địch mà đi,
mở đường mà tiến" tốc độ hành quân có ngày đạt
80 cây số trong đất địch khống chế, nếu đem so với
tốc độ quân đội Liên Xô khi tiến sang "mặt trận
phía Tây" thì Quân đoàn 2 đạt tốc độ kỷ lục.
Nhờ tổ chức chỉ huy hành quân chiến đấu khoa học,
cách đánh nhanh mạnh táo bạo, linh hoạt, cán bộ chiến
sĩ anh dũng hùng mạnh đã đánh cho quân địch không kịp
trở tay. Đây là cái mới lần đầu xuất hiện, rất
đáng mừng trong vận dụng chiến đấu, chiến dịch của
Binh đoàn ta nói riêng và Quân đội ta nói chung.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Quân đoàn
2 vinh dự được Bộ chỉ huy mặt trận trao nhiệm vụ vẻ
vang "Nổ súng đầu tiên mở màn chiến dịch"
đánh thẳng vào hướng Đông - Đông Bắc Sài Gòn. Mục
tiêu chủ yếu ban đầu là "lá chắn thép" - căn
cứ thiết giáp ở Nước Trong. Trong kế hoạch bảo vệ
Sài Gòn, các nhà chiến lược Mỹ, ngụy quyết tâm xây
dựng vùng căn cứ Nước Trong thành "lá chắn thép"
trực tiếp bảo vệ phía Đông Sài Gòn, chúng đã huy động
thêm hai chiến đoàn 318 và 322 cùng các xe tăng, thiết
giáp của Trường thiết giáp gồm 140 đầu xe do tên trung
tướng Nguyễn Văn Toàn khu trưởng vùng 4 chiến thuật
làm chỉ huy trưởng và tên chuẩn tưởng Nguyễn Văn Tám,
Tư lệnh thiết giáp làm chỉ huy phó. Bộ tham mưu
ngụy còn huy động phần lớn các đơn vị thuộc lực
lượng tổng dự bị chiến như các sư đoàn dù, thủy
quân lục chiến. Biệt động quân và sĩ quan các học
viên toàn vùng là những tên ác ôn ngoan cố nhất tập
trung lại đây quyết "tử thủ với đô thành".
Chúng dựa vào công sự, chiến hào kiên cố được
xây dựng từ trước, được không quân, pháo binh chi viện
tối đa (chúng ném loại bom 7 tấn) hòng chặn, phá vỡ
đội hình tiến công của ta. Ngày đầu ta chiếm được
một số vị trí đầu cầu quan trọng nhưng bị thiệt
hại một số xe tăng, có trung đoàn bị tổn thất nặng,
tốc độ tiến quân bị chựng lại. Tư lệnh Nguyễn Hữu
An lập tức cùng phó chính ủy Quân đoàn Nguyễn Công
Trang rời sở chỉ huy cơ bản xuống tại sở chỉ huy Sư
đoàn 304 xem xét tình hình diễn biến chiến đấu, nhận
thấy nếu cứ dùng sức mạnh tăng, pháo đánh vỗ mặt
sẽ không thể nhanh chóng đè bẹp được quân địch. ông
đã bàn với Tư lệnh Sư đoàn 304 và Lữ đoàn trưởng
xe tăng cho một mũi vu hồi đánh võng từ phía trước
rừng cao su thọc vào sau lưng cạnh sườn quân địch, quả
nhiên chỉ vài giờ sau, quân địch lập tức rối loạn,
tan vỡ ta làm chủ hoàn toàn căn cứ thiết giáp. Thế là
suốt hai ngày đêm quần đảo với địch cái "lá
chắn thép" rắn chắc bảo vệ Đông Bắc Sài Gòn của
địch đã bị đập nát vụn vào chiều ngày 28 tháng 4
năm 1975 đáng nhớ. Hướng tiến công của Sư đoàn 325
chiếm các căn cứ Long Thanh, Nhân trạch, Thành Tuy Hạ và
khu mố cầu phía bắc phà Cát Lái, khẩn trương chuẩn bị
vượt sông Nhà Bè đánh phá cản cứ hải quân mở đường
tiến vào nội Đô. Hướng Sư đoàn 3, đánh chiếm xong
vùng căn cứ Đức Thạnh, Bà Rịa tiến thẳng vào chiếm
Vũng Tàu và cửa Cần Giờ chặn đứng sự tháo chạy của
địch ra biển.
Thực hiện mệnh lệnh tổng công
kích của Bộ chỉ huy chiến dịch, các quân đoàn bạn
được các lực lượng tại chỗ phối hợp mở đường
ào ạt đánh vào nội đô.
Quân đoàn 1 chiếm căn
cứ Phú Lợi, Tân Uyên chuẩn bị đánh chiếm bộ tổng
tham mưu ngụy.
Quân đoàn 3 làm chủ căn cứ Đồng
Dù, Trảng Bàng đánh tan tác sư đoàn 25 ngụy, đánh chiếm
cầu Bông, cầu Sáng chuẩn bị đánh chiếm sân bay Tân
Sơn Nhất.
Quân đoàn 4. Sau khi đập nát Xuân Lộc
thừa thắng đánh chiếm Hố Nai, sân bay và thị xã Biên
Hòa.
Đoàn 322 vượt qua sông Vàm Cỏ Đông,
đánh chiếm được nhiều khu cầu phà quan trọng áp sát
vùng ven, tạo điều kiện thuận lợi thông đường cho
quân chủ lực tiến vào Sài Gòn.
Đường hướng
tiến công của Quân đoàn 2 là theo trục đường xa lộ
Biên Hòa - Sài Gòn. Đây là con đường cao tốc hiện đại,
mặt đường rộng, hai bên đường dày đặc các kho tàng,
công trình quân sự, các căn cứ quan trọng nhất là phải
vượt qua hai cầu lớn: Cầu Sông Đồng Nai (Biên Hòa) và
cầu cái Sài Gòn, phải vượt qua hai căn cứ: Nguyễn Huệ
(Thủ Đức) và căn cứ cầu Rạch Chiếc (có E116 đặc
công phối hợp).
Để thực hiện phương châm
"Thần tốc, táo bạo chắc thắng" của Bộ chỉ
huy mặt trận, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 có sáng kiến
thành lập "Binh đoàn thọc sâu" gồm những đơn
vị tinh nhuệ nhất, lực lượng binh chủng hợp thành
mạnh nhất của Quân đoàn để tiến vào nội đô đánh
chiếm Dinh Độc lập. Đích thân Tư lệnh Nguyễn Hữu An
, Phó Tư lệnh Hoàng Đan, Phó chính ủy Nguyễn Công Trang
đi trong đội hình đoàn xe tăng, pháo binh trực tiếp chỉ
huy đè bẹp mọi ổ đề kháng, các khu “tác chiến trì
hoãn" của địch trên đoạn đường hàng mấy chục
cây số đưa đội hình "Binh đoàn thọc sâu” tiến
thẳng vào Thành đô.
Nhìn thấy Tư lệnh và những
tướng lĩnh lừng danh quả cảm của mình ngồi trên xe
tăng điều khiển đoàn quân dũng mãnh tiến công vào Sài
Gòn, chiến sĩ ta hết sức xúc động, náo nức lập công,
sẵn sàng xả thân trước giờ toàn thắng.
Trận
chiến đấu cuối cùng đặc biệt diễn ra ác liệt giằng
co trước cửa ngõ Sài Gòn.
Khi lực lượng "Binh
đoàn thọc sâu" gồm Lữ đoàn 203 xe tăng, Trung đoàn
bộ binh cơ giới 66/304, Lữ đoàn 164 pháo binh, Lữ đoàn
673 cao xạ, Trung đoàn 18/325 (dự bị) với số đầu xe là
400 chiếc dàn thành đội hình hàng dọc tiến tới cầu
xa lộ Đồng Nai, quân địch đã bố trí lực lượng dày
đặc và tự đốt 3 xe M113 chứa đầy chất nổ đạn
pháo các loại, chúng định phá sập cầu lớn này để
chặn đứng quân ta lại. Đúng như nhận định của Bộ
Tư lệnh mặt trận "trong cơn hấp hối nhưng lực
lượng địch vẫn còn đông (trên 40 vạn tay súng) chúng
sẽ rất ngoan cố tung toàn bộ lực lượng còn lại chống
trả ta một cách tuyệt vọng".
Kiên quyết mở thông đường tiến vào nội đô, Tư
lệnh Quân đoàn lập tức điều động tiểu đoàn 4 pháo
hạng nặng tầm xa bắn phá tiêu diệt trận địa pháo
địch ở ngã ba Long Bình rồi chuyển làn bắn kiềm chế
các trận địa hỏa lực của địch ở phía Tây sông
Đồng Nai yểm trợ cho xe tăng và bộ binh đánh chiếm cầu
xa lộ và ngã ba Long Bình. Điều tiểu đoàn 1 xe tăng Lữ
đoàn 203 tiến tới sát cầu bắn nổ tung 3 xe bọc thép
M113 chứa đầy chất nổ nằm án ngữ giữa cầu.
Tiếng
nổ dữ dội nhưng không bị sập cầu. Quân ta tràn lên
chiếm cầu Xa Lộ, địch vội cho xe tăng phản kích xe
tăng D1/203 bắn cháy liền 4 xe tăng địch, chúng hoảng
hốt quay đầu tháo chạy về hướng Thủ Đức- Sài
Gòn...
Tới căn cứ Nguyễn Huệ - Thủ Đức địch
dốc sức chống cự và sát sau lưng chúng là thủ phủ
Sài Gòn. Từ các lô cốt, các ổ đề kháng. Từ các lầu
cao, góc tường ở căn cứ, các c pháo, các hỏa điểm
liên thanh của địch bắn xả vào đội hình tiến công
của ta. Để phá vỡ các ổ kháng của địch, sở chỉ
huy tiền phương của Quân đoàn điều các pháo 85 ly nòng
dài bắn thẳng vào trận địa của địch. Đặc biệt
tiểu đoàn 5 Lữ đoàn 203 xe tăng đã dũng mãnh đột phá
dọc ngang căn cứ đè bẹp nhiều hỏa điểm của tạo
điều kiện cho Trung đoàn 18/325 bộ binh làm chủ căn cứ
, nổi trội nhất là chiếc tăng 707 do Trần Quang Nhàn chỉ
huy đã dùng luôn xe "đuốc sống" của mình lao
thẳng vào đội hình dày đặc hỏa lực ở trung tâm căn
cứ đè bẹp địch xuống, góp phần quyết định vào
trận thắng ở căn cứ Nguyễn Huệ.
Khi bộ phận
đi đầu "lực lượng thọc sâu" cơ giới của
Quân đoàn tiến sát tới cầu Rạch Chiếc - Sài Gòn thì
trên mặt cầu địch đã bố trí sẵn 8 xe tăng và xe bọc
thép xông ra nổ súng ngăn chặn ta. 6 tàu chiến neo đậu
ở Tân Cảng cũng nổ súng bắn xối xả vào đội hình
quân ta khiến 2 xe tăng của ta bốc cháy đại đội 8 của
d8/304 bị thương vong nặng, hàng chục máy bay phản lực
lao tới bắn chéo vào đội hình ta. Để đập tan sự
kháng cự của địch ở đây, Bộ Tư lệnh Quân đoàn hạ
lệnh bộ binh 304 đánh quân phản kích, điều pháo nòng
dài lên trước bắn cháy một số tàu chiến. Lực lượng
cao xạ bắn rơi 2 máy bay A37 tại chỗ. Điều chỉnh pháo
lớn bắn hơn 100 phát trúng khu vực cầu. Nơi đây bầu
trời mặt đất như muốn vỡ tung ra với muôn ngàn tiếng
nổ rung chuyển của đạn pháo lớn, tiếng gầm rú của
hàng ngàn động cơ máy nổ, của xe tăng, cơ giới đang
rú ga xông tới những mục tiêu đã định.
Trước
sức tấn công, đột phá như vũ bão của quân ta, quân
ngụy tan vỡ từng mảng tháo chạy thục mạng về hang ổ
cuối cùng. Đến 9 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975 "Binh
đoàn thọc sâu" Quân đoàn 2 đã tiêu diệt và đánh
tan toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch ở khu vực
cầu Rạch Chiếc và cầu Sài Gòn, phát triển tới cầu
Thị Nghè địch lại cho xe tăng và bộ binh ra ngăn chặn:
Đại đội 4 xe tăng Lữ đoàn 203 nổ súng diệt 4 xe tăng
M41 và M113 rồi cùng Trung đoàn 66/304 nhanh chóng vượt qua
cầu Thị Nghè tiến thẳng vào đường Hồng Thập Tự.
Tiếng gầm rú của xe tăng xen lẫn tiếng nổ của hàng
ngàn hàng vạn qủa bom, đạn, tiếng động cơ chuyển
đất, tiếng hò reo vangdậy khắp bốn phương tám hướng
đang tăng tốc tiến tới những mục tiêu trọng yếu
trong dinh luỹ cuối cùng, đầu não của địch, khiến lũ
ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn hết sức khiếp đảm,
hoảng loạn, chúng vứt súng, trút bỏ quân phục phù
hiệu, cấp hiệu trà trộn trong dân hoặc tháo chạy nháo
nhào vào cả những nơi dơ bẩn nhất.
Được nhân
dân chỉ đường, đoàn xe tăng cơ giới của Quân đoàn
rầm rộ theo đường Hồng Thập Tự tiến lên, chiếc xe
tăng mang số hiệu 390 do Trần Văn Toàn và Lê Văn Phương
phó kỹ thuật, Nguyễn Văn Tập lái xe đột ngột tăng
hết tốc độ dẫn đầu đội hình lao tới húc đổ
"Cánh cổng sắt" chính giữa, lập tức đến
chiếc xe tăng thứ 2 của lữ 203 mang số 843 của C trưởng
Bùi Quang Thận song hành dẫn dắt toàn "Lực lượng
thọc sâu", Quân đoàn 2 tràn tới chiếm lĩnh hoàn
toàn phủ tổng thống ngụy quyền.
Đúng "11 giờ
30 phút ngày 30 tháng 4 năm l975" lá cờ "trăm trận
trận thắng" của Bác Hồ trao cho quân dội nhân dân
Việt Nam anh hùng đã được đồng chí Bùi Quang Thận,
ngòi chiến sĩ oanh liệt của Quân đoàn 2 vinh quang phất
cao trên nóc "Dinh Độc Lập" trước sự reo hò
như sấm dậy của quân dân Sài Gòn-Gia Định.
Trong
buổi tổng kết chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh, đồng
chí Tư lệnh Nguyễn Hữu An đã phát biểu trước đông
đủ cán bộ của Quân đoàn như sau:
"Đây là
chiến dịch vĩ đại nhất, quy mô nhất từ trước đến
nay, ta đánh vào Sài Gòn với 5 Quân đoàn chủ lực mạnh,
bằng nhiều hướng nhiều mũi tấn công, quyết định
trong thời gian ngắn. Địch bị bất ngờ từ: mục tiêu,
địa điểm, hướng tấn công và sử dụng lực lượng
cũng như cách đánh của ta. Từ cách nhận định chủ
quan, khinh thường đối phương lúcđầu, đến khi có biến
động lớn đã dao động hoảng hốt,bị động lúng túng,
tớ thầy mỹ ngụy đã phạm phải hết sai lầm này đến
sai lầm khác và cuối cùng chúng đã bị ta đánh bại
hoàn toàn.
Đứng về chiến lược mà nói thì ta mở
chiến dịch Hồ Chí Minh thì rất kịp thời, rất chính
xác, rất táo bạo. Mặc dầu những ngày tàn địch vẫn
còn co cụm quanh Sài Gòn là hơn 40 vạn quân, nhưng ý định
của Bộ Chính trị, ta luôn muốn giải quyết nhanh ngay
khi Thiệu chạy, Minh chưa ló mặt ta đã đánh xong rồi...
Nhưng thực tế vì phải điều động binh lực lớn về
cả số lượng các binh đoàn cơ sở vật chất kỹ thuật
và các tướng lĩnh... sao cho các lực lượng ta chiếm ưu
thế tuyệt đối áp đảo địch, để dẫu địch có
ngoan cố mấy cũng bị ta tiêu diệt. Riêng Quân đoàn ta
mới tới vị trí tập kết ngày 24 tháng 4 năm 1975 đến
chiều ngày 26 tháng 4 năm 1975 đã phải nổ súng tấn
công. Thời gian chuẩn bị chiến đấu cho cả Quân đoàn
binh chủng hợp thành như vậy là quá gấp nhưng chúng ta
đã làm được, đó cũng là một điều kỳ lạ chưa từng
thấy bao giờ. Hôm nay Thành phố mang tên Bác đã được
hoàn toàn giải phóng mà vẫn giữ được nguyên vẹn.
Hàng triệu các tầng lớp nhân dân nội thành và ven đô
trở lại cuộc sống yên bình. Toàn Nam Bộ đã được
hoàn toàn giải phóng, chiến tranh kết thúc nhanh gọn.
Theo tôi đây là một kỳ công lớn có một không hai của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong thế kỷ 20
này.
Vinh quang đời đời thuộc về Đảng Cộng sản
anh minh, nhân dân anh hùng và Quân đội nhân dân Việt Nam
vô địch trong đó là niềm tự hào chính đáng của mỗi
chúng ta.
Trong những ngày hào hùng sôi động của
chiến dịch vừa qua, hầu hết cán bộ chiến sĩ trong
Quân đoàn ta đã phát huy cao độ lòng yêu nước, chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, chiến đấu dũng cảm, mưu trí,
sáng tạo. Hàng trăm các đồng chí đã anh dũng, xả thân
hy sinh cho ngày toàn thắng. Chúng ta đã góp phần xứng
đáng nhất của mình cùng các cánh quân bạn, cùng quân,
dân Sài Gòn - Gia Định giành thắng lợi quyết định cho
chiến dịch. Kết thúc oanh liệt cuộc chiến tranh cứu
nước trường kỳ suốt 30 năm ròng của dân tộc.
Trong
niềm vui lớn hôm nay và riêng chiến dịch lịch sử nay,
Quân đoàn ta lại vinh dự được Nhà nước và Quốc hội
tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất và Huân
chương Hồ Chí Minh hạng nhì. Những phần thưởng cao
quý, những tấm huân chương lấp lánh ánh hào quang sẽ
mãi soi sáng con đường vinh quang phía trước của chúng
ta. Vinh quang tột đỉnh hôm nay đã khiến chính những
người trực tiếp, làm nên những giờ phút thiêng liêng
lịch sử cũng phải bàng hoàng ngây ngất, nhiều chiến
sĩ ta cứ đứng như trời trồng để mặc cho những giọt
nước mắt sung sướng tự hào chảy tràn hai bên má.
Trước sự mừng mừng tủi tủi và tiếng reo hò vang dậy
sôi sục khí thế chiến thắng của hàng triệu đồng bào
đồng chí mình và chắc những bạn bè cách mạng tiến
bộ ở khắp năm châu bốn biển trên hành tinh này cũng
rầm rộ xuống đường hoan hô mừng thắng lợi của ta
và kẻ thù mới cũ gần xa cũng phải ngơ ngác kinh hoàng
không sao hiểu nổi sự sụp đổ của chế độ ngụy
quyền Sài Gòn lại thảm hại đến thế và cái mốc son
chói lọi ánh hào quang.
11 giờ 30 phút ngày 30 tháng
4 năm 1975.
Quân đoàn 2, một trong 5 cánh quân tiến
về Sài Gòn đã hoàn thành nhiệm vụ một cách đặc biệt
và xuất sắc.
Nó như một mũi tên lao từ đất mẹ
Trị Thiên từ "góc mặt trận Miền Trung" Thừa
Thiên Huế -Đà Nẵng, được cánh tay khổng lồ đầy
xung lượng của Đảng vinh quang phóng đi và điều khiển
nó vượt qua đoạn đường hơn một nghìn cây số, xuyên
thủng các "lá chắn thép" dọc đường và bay
trúng đích cuối cùng là "Dinh Độc Lập" góp
phần kết thúc oanh liệt chiến dịch mang tên Chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại.
N.T
HỮU THỈNH
BỮA CƠM CHIỀU Ở
"DINH ĐỘC LẬP"
Cơm đã chiên nấu bằng bếp điện
Rau muống
xanh hái tự ao nhà ...
Trời còn đầy ắp hoa và pháo
Nhìn nhau chưa vội mở vung ra.
Mâm xanh - sân cỏ
xanh mải miết
Quây quần đồng đội đến vuii
chung
Hàng cây so đũa cùng ta đó
Ăn bữa cơm ở đích
cuối cùng.
Khách thường: thương mấy anh nhà
báo
Theo tăng băng dốc mấy mươi ngày
Sáng chiếm
núi Bông, chiều Cửa Thuận
Vượt đèo Phước Tượng
buổi chiều mây.
Tăng vẫn dàn theo đội hình chiến
đấu
Xích còn vương đất đỏ Phan Rang
Vừa mới
vào mâm anh nuôi bận
Chia - thêm - tổng thống ngụy đầu
hàng.
Kìa gắp đi anh, ai nấy giục
Có gắp chi
đâu mải ngắm trrời
Tự do xanh quá, mênh mông quá
Vượt
mấy ngàn bom mới tới nơi.
Bỏ lại đằng sau bao
trận đánh
Kịp vào thành phố sáng tên Người
Bình
minh theo tăng vào cổng chính
Cờ treo trên đỉnh nước
non ơi.
Ta trẻ như cờ ta trẻ lắm
Ta reo trời
đất cũng reo cùng
Ta no cười nói, say đôi mắt
Bát
canh ngày hẹn cũng mênh mông.
Ngày Sài Gòn giải phóng
H.T
VƯƠNG
TRỌNG
LÁ CỜ VÀ NGƯỜI CHIẾN SĨ
(Tặng cán bộ và
chiến sĩ Binh đoàn Hương Giang
đã cắm cờ lên phủ tổng thống
ngụy quyền)
Cửa sắt chưa kịp
mở
Tăng chồm lên như ngựa tung bờm
Đầu sỏ giặc
xô nhau hoảng sợ
Lùi vào những góc phòng đen
Cờ
giải phóng ôm vào lòng, anh lao tới
Nhanh như quả đạn
rời nòng
Từ mũi xe vút lên gác thượng
Mặt sắc
cầu vồng
Cờ ba que như rọc ra từ một tấm bao
bì
Ố vàng tanh tưởi
Không ai thèm ngó tới
Rủ
buồn mang dáng cờ tang
Đai thép, dây dù không giữ
nổi
Khi cả chế độ tay sai đã cúi mặt xin hàng
Lá
cờ từ lòng anh bay lên
Trời Sài Gòn sáng bừng ánh
nắng...
Cứ bừng lên từ đất, từ cây
Cứ bừng
lên từ những bàn tay
Chân anh dẫm lên lá cờ đã
chết
Đứng chiêm ngưỡng lá cờ vào tuổi thanh
xuân
Lá cờ đã hành quân
Suốt chiều dài đất
nước
Đưa quân đi san bằng đồn bốt
Để sau lưng
quê giải phóng thênh thang
Huế, Đà Nẵng, Nha Trang
Cam
Ranh, Phan Rang, Phan Thiết...
Mang bình minh chạy dọc
đường số 1
Mảnh đạn bay cờ thủng - hóa trời
xanh
Ta vẫn nâng niu mơ ước niềm tin
Tiến về
Sài Gòn quân đi bão nổi
Sáng nay cờ ta đã bay trên
cái đích cuối cùng phải tới
Anh treo cờ mà lòng
tưởng là mơ
Ước là cờ thêm to...
Cho bóng mát
trùm lên thành phô'
Cho nhân dân nhìn lên mặt trời
tươi màu đỏ
Lá cờ này nhuộm lại những màu
da
(Nhợt nhạt mấy mươi năm - một đêm dài bão tố)
Từ
chỗ đứng của lá cờ anh nhìn rất rõ
Những cửa ô
quân giải phóng tràn vào
Tiếng súng in dần thình phố
hóa cờ sao.
Sài Gòn tháng 5 năm
1975
V.T
QUỐC THẮNG
THÌ THẦM
(Tặng những người vợ bộ
đội)
Tháng năm anh mãi đi xa
Ba lô khẩu súng
bài ca quân hành
Người trai một thuở chiến tranh
Tình
yêu sâu kín cất dành tháng năm
Gian nan nào chút băn
khoăn
Anh đi thương nhớ ngập tràn trái tim
Đâu phần
dành để riêng em
Đâu cho con để góp thêm tháng
ngày
Đã là vợ lính em ơi
Đừng quên một thuở nói
lời yêu anh
Dẫu cho đến tận bây giờ
Đồng
lương, bát gạo góp chờ về quê
Một năm vài bận anh
về
Thương em vất vả đồng quê bao ngày
Dẫu nhanh
tay chẳng nắm tay
Nhưng tình yêu vẫn tràn đầy tháng
năm
Thì thầm nói với thời gian
Mong sao gió chuyển
đến em lời này
Ước mơ sẽ có một ngày
Anh về
giục bước trâu cày thay em.
Q.T
TRƯƠNG VĂN KHANH
BÔNG HỒNG
Có người đi thăm mộ
chồng
Đặt tay viếng một bông hồng đỏ tươi
Bông
hồng như trái tim rơi
Xuống mồ để gặp một người
mình thương
Người kia ngã xuống chiến trường
Mong
cho liền dải quê hương một nhà
Mỗi năm lại một
bông hoa .
Mái đầu giờ đã sương sa, trắng trời
Không
còn nước mắt để rơi
Chỉ trái tim cứ bồi hồi xót
xa
Người nằm dưới mộ nhận hoa
Bông hồng cử đỏ
thiết tha như là...
T.V.K
NGUYỄN VIỆT CƯỜNG
THỎA LÒNG CHA
Tôi sinh ra đất
nước đã hòa bình
Cảnh chiến tranh chỉ còn là dĩ
vãng
Nhưng tôi hiểu nỗi gian nan vất vả
Của cha
anh những người lính Cụ Hồ
Qua những trang thơ và
lời văn cô dạy
Cùng lời cha với ước nguyện mai
sau
Khi lớn lên tôi sẽ vào bộ đội
Nối tiếp
nghề cha tôi truyền thống anh hùng
Tôi đã lớn
bằng lời ru của mẹ
Bằng hạt cơm củ sắn của
bà
Bằng mồ hôi chị đổ dưới đồng xa
Và tình
thương của quê hương hàng xóm
Nhớ ngày nào mẹ
tôi thường nói
Cha tôi xưa lính của một binh đoàn
Sinh
ra lớn lên giữa Trị Thiên khói lửa
Giữa dòng sông
Hương với hai bờ nỗi nhớ
Và những câu hò thắm
đượm tình quê
Thỏa ước lòng cha nay tôi là
người lính
Tiếp bước lên đường giữ vững biên
cương
Nơi xưa kia cha tôi đã từng chiên đấu
Và đổ
mồ hôi xương máu đêm ngày
Để ngày mai chúng tôi
thêm vững bước
Viết tiếp thêm những trang sử anh
hùng
Thỏa lòng cha với bao điều mong mỏi
Xứng danh
tên một đơn vị anh hùng.
Lan Mẫu ngày 26-2-2003
N.V.C
HOÀNG THẮNG
NẮNG
THAO TRƯỜNG
Nắng thao trường chắc em đã
nghe
Qua sách qua đài qua báo chí
Nhưng hôm nay trong
dòng nhật ký
Anh gửi cho em chút nắng thao trường
Sáng
nắng ra, nắng vàng ngọn cỏ
Khi chiều về nắng đỏ
ngọn cây
Ôi! Cái nắng tháng năm tháng bảy
Suốt cả
ngày nắng gắt nắng gay
Nhưng ở đây anh thấy rất
vui
Cùng đồng đội cùng nhau luyện tập
Em không
tin nhưng là sự thật
Tuổi hai mươi rất đáng tự
hào.
H.T
NGUYỄN VĂN ÂN
LỜI RU CỦA MẸ
À ơi... !Vvõng
ngủ cho ngoan
Lời ru ngơ ngác bàng hoàng cỏ cây
À
ơi... võng ngủ cho say
Nhớ thương còn khúc ru này gửi
con.
Vầng trăng lặng lẽ khuyết, tròn.
Mẹ ru võng -
Mẹ ru con cuối trời
À ơi ... ! Cánh võng không
người
Rưng rưng tóc bạc, nụ cười héo hon
Tắt
rồi khói lửa đạn bom
Rừng bia mộ, khói hương vờn
mỏng manh
Hận thù, mưa nắng rêu xanh
Đớn đau lòng
mẹ có lành được đâu
Cách ngăn giờ đã sang cầu
Máu
im lặng thấm, xanh màu cỏ xanh.
Con nằm lại phía chiến
tranh
Thắt lời ru, mẹ dỗ dành trái tim!
N.V.Â
NGUYỄN VĂN HIỆP
THEO DẤU XE ANH
"Tặng những
chiến sĩ lái xe tiểu đoàn 32 ôtô vận tải anh
hùng"
Hơn ba mươi năm - thời gian ấy
thật nhỏ nhoi
Đó chỉ là dấu chấm son trong chiều
dài lịch sử
Nhưng với cuộc đời đó là cả những
tháng năm đáng nhớ
Khi nỗi đau chưa thoát khỏi hình
hài
Cha anh chúng tôi - những chiến sĩ lái xe đã thức
bao đêm dài
Cùng bánh xe lăn khắp các tuyến đường
chiến dịch
Những gian khổ hiểm nguy không cản đường
tới đích
Khi mất mát đau thương biến thành nỗi căm
hờn
Nào bom đạn dốc núi đường trơn
Xe ta
băng qua đâu phải bằng xăng dầu sức máy
Mà ta đã
đi bằng trái tim, ý chí
Diệt giặc thù vì đất nước
tự do
Biết bao người đâu hề tiếc máu xương
Đánh
địch mà đi mở đường mà tiến
Lính lái xe khi chưa
tàn cuộc chiến
Là còn dặm dài theo vết bánh xe
lăn...
Chúng tôi sinh ra khi đất nước đã hòa
bình
Không còn thấy cảnh bom rơi đạn nổ
Nhưng
những niềm đau thì vẫn còn đâu đó
Nơi nghĩa trang
bao liệt sĩ vô danh
Những chiếc xe vẫn còn mang vết
bom đạn trên mình
Và thịt da con người đâu phải
bằng sắt thép.
N.V.H
ĐỖ CÔNG HÀ
CĂN NHÀ CỦA MẸ
Kính tặng mẹ Việt Nam Anh hùng: Đồng
Thị Sắc
Căn nhà của mẹ cuối làng
Mái
tranh, tường trình đất thó
Ngõ rêu ngoằn ngoèo đất
đỏ
Ấp ôm một lũy tre ngà.
Sớm hôm tựa bên
bậc cửa
Mẹ ngóng chồng con trở về
Bấm đốt
ngón tay ngày, tháng
Bóng ai về phía triền đê...?
Mẹ
nhìn bức tường đất thó
Có ghi ngày tiễn bước
cha
Ngày anh lên đường đánh giặc
Và ngày chồng
con ... đi xa.
Mẹ ghi khi tóc còn xanh
Đến nay mái
đầu bạc trắng
Một đời buồn vui cay đắng
Bức
tường lưu giữ đầy vơi.
Xã xây căn nhà tình
nghĩa
Giúp mẹ an dưỡng cuối đời
Liếc nhìn bức
tường mẹ lắc
"Không" mẹ ở đây được
rồi.
Năm 2002
Đ.C.H
TRẦN VĂN HẢO
TỰ
HÀO NGƯỜI LÍNH BINH ĐOÀN
Mới hôm nào nhập
ngũ
Nay đã tròn ba năm
Thoạt nhìn thấy quân hàm
Biết
mình là hạ sĩ
Cuộc sống rất giản dị
Bộ quần
áo màu xanh
Chiếc mũ đã sờn vành
Ngôi sao còn đỏ
chói
Trong lòng rất phấn khởi
Nghĩa vụ đã hoàn
thành
Sắp sửa được ra quân
Xây quê hương giàu
đẹp
Nghe tiếng gọi đanh thép
Trên biên giới Vị
Xuyên
Lòng phấn khởi hẳn lên
Được ra nơi tuyến
lửa
Đối mặt với quân thù
Trên địa bàn quân
khu
Mười năm trôi oanh liệt
Với lời thề bất
diệt
Quyết giữ vững biên cương
Cho Tổ quốc hòa
bình
Đàn em thơ ca hát
Ruộng đồng xanh bát ngát
Nhà
máy vang còi tầm
Đất nước rộn trời xuân
Mùng
ngày vui thắng lợi.
T.V.H
LÊ THẾ TÌNH
ÂN TÌNH CỦA ĐẢNG
"Kính tặng các Mẹ liệt sĩ"
Một
ngôi nhà mới khang trang thoáng mát
Cũng ngói đỏ tường
xanh, sao khác nhà người
Có gì đâu mà bếp lửa hồng
tươi
Khiến mắt mẹ cười, nhòa trong dòng lệ
Thắp
nén hương cho con về mẹ hể
... "Các con không về
lòng mẹ thương đau
Có những chiều nhớ con nước mắt
mẹ tuôn trào
Nhưng có Đảng, có đồng bào hợp
sức
Lòng mẹ nguôi vơi dù mất mát vẫn tự hào
Và
một điều kỳ diệu ngỡ chiêm bao
Mẹ được mời ở
ngôi nhà cao cửa rộng
Được tắm giếng khơi, đón
gió lộng mỗi trưa hè
Được chiếu hoa, bàn gỗ,
giường tre
Được vô giá... tình bạn bè cao rộng
Tình
Đảng dân, mẹ được sông đủ đầy
Dù mưa to, gió
lớn, bão lay
Lay sao được ngôi nhà này có "thép
"
"Khối thép đã tôi" khối thép nghĩa
tình
Nhân ngày liệt sĩ thương binh
Xin cảm ơn ân
tình của Đảng
Chúc đất nước ta ngày một rực
sáng.
L.T.T
PHẠM HƯƠNG CHANH
NOI GƯƠNG ANH
(Kính
tặng Đoàn B04 - Binh đoàn Hương Giang)
Trang giấy
trắng cùng dòng máu đỏ
Quyết tâm thư anh viết tại
chiến trường
Trong chiến đấu các anh không lùi
bước
Thượng Đức trận đầu, quyết thắng vẻ
vang
Đơn vị 66 chí sắt gan vàng
Chớp thời cơ kéo
pháo vào trận địa
Cuộc chiến đấu bất ngờ - quân
thù khiếp sợ
Cờ đỏ sao vàng sáng mãi điểm cao
Truyền thông hiên ngang sử vàng ghi lại
Kỷ vật
thiêng liêng lưu giữ tại Bảo tàng
Bao thế hệ ngày
ngày qua lại...
Noi gương anh, nguyện tiếp bước các
anh.
Trại sáng
tác văn học Binh đoàn Hương Giang
Tháng 11 năm
2002
P.H.C
LÊ ĐẮC HẠNH
BÊN BẾN SÔNG
QUÊ
Dấu chân em trên cát,
Lấp lánh ánh
nắng vàng,
Dạt dào con sóng vỗ,
Như tình em mênh
mang.
Em dõi theo ngọn sóng,
Nhớ ngày anh ra đi,
Bến
nước còn ghi mãi,
Với tình yêu bao la.
Khi hè về
mưa lũ,
Nước dâng cao triền đê,
Em ngóng nhìn lo
lắng,
Lại mong anh, ngày về.
Thời gian trôi, năm
tháng,
Câu quan họ ngân nga,
Miếng trầu chưa dám
ngỏ,
Em đợi người đi xa.
Mang theo tình quê
ấy,
Anh hẹn về bên sông,
Cho thỏa lòng em nhớ,
Người
lính pháo phòng không.
Trại sáng tác văn học
Binh đoàn Hương Giang
Tháng 11 năm 2002
L.Đ.H
ĐỖ VĂN CHUNG
GỬI TẶNG EM
Anh gửi
tặng em cái nắng thao trường
Nắng chói trong trưa hè
cháy bỏng
Gửi tặng em làn da xám nắng
Cơn mưa vô
tình làm chậm bước hành quân.
Gửi về em hơi gió
mùa xuân
Trang thư xanh trên thao trường viết vội
Bóc
thư xem đừng mỉm cười bối rối
Đừng trách hoài
sao nỡ chậm thư em.
Gửi về em con đường nhỏ
thân quen
Bao tháng ngày đưa anh tìm nỗi nhớ
Con
đường nhỏ trái tim anh đó
Tặng riêng em và chỉ mình
em thôi.
Đ.V.C
HOÀNG HÀ
TÂM SỰ NGƯỜI HỌC VIÊN
Chúng tôi những
người học viên
Từ khắp mọi miền đất nước
Trở
về đây sum họp thành gia đình
Một gia đình chỉ có
con trai
Sát bên nhau tháng ngày luyện tập
Sáng giảng
đường, chiều thao trường - chiến thuật
Dưới mái
trường xưa cha anh đã đi
Và cuộc đời lại qua những
lần thi
Cho mỗi đứa nâng tầm cao hiểu biết
Bộ
quân phục, một màu xanh thắm thiết
Chúng tôi cùng
mang một ước mơ chung
Dẫu bận nhiều vẫn có lúc ung
dung
Cả đại đội cùng bên nhau trò chuyện
Bao mệt
nhọc sau một ngày huấn luyện
Giờ tan học rồi rộn
rã tiếng cười vui
Điếu thuốc chuyền tay mỗi đứa
một hơi
Quên cái rét ngoài thao trường lạnh giá
Ngày
nắng hạ gió lào khô rát má
Hớp nước chia đều đỡ
khát lúc hành quân
Từ nơi đây chúng tôi lớn lên
dần
Trong tình thương yêu bạn bè đồng đội
Đem
kiến thức vào mùa luyện mới
Bảo vệ vùng trời, giữ
vững đất quê hương.
H.H
NGUYỄN TRỌNG SANG
GẶT LÚA GIÚP DÂN
Tin bão xa, tin bão gần
Đơn vị được lệnh giúp dân gặt màu
Quản chi
rét mướt trời mưa
Tay liềm tay hái, chung đua với
trời
Sức ta biển lấp, núi dời
Quân dân đoàn kết
nơi nơi hiệp đồng
Gặt xong trời đã hừng đông
Mặt
trời thẹn, má ửng hồng quang mây
Chim chuyền ríu rít
cành cây
Bão tan nắng mới, lúa đầy sân phơi.
N.T.S
ĐỨC VỌNG
HUYỀN
THOẠI VỀ MỘT DÒNG SÔNG
Em hỏi tôi huyền thoại
dòng sông đó?
Tôi kể rằng – Bến Hải khí anh
hùng
Đã tạo nên bao chiến công kỳ tích.
Của Vĩnh
Linh - Quảng Trị ngày nào,
Rồi đến trận Dốc Miếu
- Gio An
Làm Mỹ kinh hoàng, bạt vía,
Chân đồng, vai
sắt
Súng đạn đâu có
Có dòng sông nhuốm máu quân
thù
Mang tên Đoàn Pháo binh Bến Hải anh hùng
Đã trở
thành huyền thoại hôm nay.
Ôi! Chiến thắng mùa xuân
68.
Đồng đội tôi người nằm lại với núi rùng
Người
nằm lại với biên cương, hải đảo
Không về nữa
sau tháng ngày chiến đấu
Có nghe chăng tiếng sóng hát
tên mình
Dòng Bến Hải muôn thuở trở màu xanh
Như
sự chuyển mình - hôm nay Bến Hải
Dù hành quân khắp
mọi miền đất nước
Vẫn nhớ về nơi ấy - một
dòng sông!
Trại sáng tác văn học
Binh đoàn Hương Giang
Tháng 10 năm 2002
Đ.V
NHỮ VĂN ĐÔNG
NGƯỜI LÍNH
Chiến tranh
Người
lính
Chết
Không nhắm mắt
Khoảng trời xanh
Lần
cuối
Anh nhìn
Khoảng trời xa
Lần cuối
Anh
tìm
Dáng mẹ.
Hoàng hôn lửa cháy
Người lính
Người
con cuối cùng không trở lại
Mẹ là trầm hương
Thắp
sáng mộ anh.
N.V.Đ
T.N. T
HÁT
VỀ NGƯỜI CHIẾN SĨ HẬU CẦN
BINH
ĐOÀN HƯƠNG GIANG
"Nổi lửa lên em" câu
hát đã quen rồi
Phải em hát cho riêng anh nghe đó
Anh
đứng gác trong đêm nhìn không tỏ
Cứ trông theo ánh
lửa mênh mang
Hẳn đêm nay em có dậy sớm hơn
Trời
mưa rét gió heo may lạnh giá
Em vẫn hát bài ca về ánh
lửa
Tiếng vọng vào nơi anh đứng riết vang
Súng
quàng vai anh đứng giữa đêm khuya
Trời sắp sáng nhìn
sao mai nhấp nháy
Ở nơi đó có tình yêu rục cháy
Bao
nỗi niềm anh gửi trọn về em
Tuổi hai mươi em đẹp
với thời gian
Và tất cả tình yêu đồng đội
Dậy
sớm thức khuya hoàn thành nhiệm vụ
Bên bếp lửa hồng
em hát mãi với thời gian.
T.N.T
BÙI QUANG THỦY
HỒN QUÊ
Mẹ cặm
cụi chang từng luống thóc nhỏ
Mồ hôi rơi cho hạt
lúa thơm giòn
Áo sờn bạc dưới nắng chiều ngày
hạ
Lưng mẹ còng cõng cả thời gian
Kỷ niệm
nhỏ ngày xưa con ghi nhớ mãi
Tuổi thơ xiên hạt bưởi
đốt nến rằm
Để rực cháy hồn quê tháng tám
Đèn
sao cười vang tiếng trông xen
Con khôn lớn trong lời ru
của mẹ
Tiếp bước cha vẫn chân cứng đá mềm
Rất
vinh dự được vào binh đoàn thần tốc
Trọn niềm tin
tốt đẹp ở tương lai
Mẹ dõi theo từng bước con
đi
Đường Chín, Khe Sanh, Dốc Miếu, Cồn Tiên
Những
trận đánh oai hùng trang sử
Hòa bình rồi con không về
nữa
Suối tóc mềm cạn cả với thời gian
Con
sống mãi trong tình yêu của đất
Lịch sử mãi ghi
người mẹ anh hùng
Ngôi nhà rộng khói hương trầm
nghi ngút
Gió đừng về gõ cửa đùa mẹ tôi.
B.Q.T
TRẦN VĂN HẢO
LÊN ĐIỂM TỰA
Đường lên biên giới
Vị Xuyên
Chênh vênh dốc núi bồng bềnh mây bay
Ta
vào thay chốt hôm nay
Không hoa, chẳng rượu mà say lạ
thường
Đường ta đi đẹp vô cùng
Nghìn năm luyện
bước anh hùng đó chăng
Núi cao mây phủ giăng hàng
Xanh
màu áo lính rộn ràng trời xuân
Non xanh mây trắng vô
ngần
Ta đi bảo vệ non sông vững bền.
Vị
Xuyên, tháng 3 năm 1988
T.V.H
TRẦN MẠNH HÙNG
NHỚ
MÃI BINH ĐOÀN
Lịch sử sang trang
Quá khứ khép
lại
Nhưng... trong lòng mọi người còn vang mãi
Thần
tốc, táo bạo, quyết chiến, quyết thắng
Binh đoàn
Hương Giang anh dũng - kiên cường
Ra đời giữa cái nôi
cùng thời máu lửa
Lớn lên trên mảnh đất đầy
những khói bom
Thuở ban đầu còn gặp vô vàn khó
khăn
Bao giọt lệ góa phụ và máu anh hùng đổ
Để
tô thắm lá cờ vinh quang rực đỏ
Để viết lên
truyền thống hào hùng
Binh đoàn Hương Giang
Quả đấm
thép giáng lên đầu giặc Mỹ
Nỗi kinh hoàng của bè
lũ tay sai
Niềm vinh dự - tự hào của bao chàng
trai
Được đứng dưới lá cờ của binh đoàn anh
dũng
Lịch sử đã sang trang
Nhưng trong lòng mọi
người còn nhớ mãi...
T.M.H
HỒNG QUANG
CẢM
GIÁC PHÚT CHIA TAY
Hôm nay chúng tôi chia tay
Những
người lính lặng im không nói
Chỉ ánh mắt nhìn nhau
nóng hổi
Thời gian trôi thổn thức dưới trăng
mờ
Chiếc lá rơi trong không gian
Như kỷ niệm trôi
vào nỗi nhớ
Những người lính ngày thường sôi nổi
thế
Bỗng nghẹn ngào lưu luyến phút chia tay
Ừ
nhanh thật đã hai năm rồi đấy nhỉ
Ngày mới về bỡ
ngỡ chẳng hề quen
Cậu ở đâu?
Tau Thanh Hóa! Còn
mi?
Choa Hà Tĩnh! Còn quân ni?
Thạch Thất!
Cả bọn
quây quần bên ấm trà thơm
Một điếu thuốc chuyền
chưa nửa vòng đã hết.
Qua bỡ ngỡ ngày đầu thành
đoàn kết
Đồng đội bên nhau cùng học cùng rèn.
Nhớ
những buổi học trên hội trường cùng nhau tranh luận
Khản
tiếng vang nhà chẳng chịu thua
Rồi chiến thuật trên
đồi cao sỏi đá
Chân rộp phồng vai áo đẫm mồ
hôi
Da đen sạm mang sắc màu nắng lửa
Vẫn cười
vui tiếng hát rộn thao trường
Quên làm sao những buổi
học đêm
Cả bọn rét run người vì lạnh
Đêm trung
du bàng bạc ánh trăng thanh
Tìm phương vị cắt đồi
mà tiến.
Rồi những buổi hành quân dã ngoại
Trời
bỗng đổ mưa thêm vất vả đường dài
Mưa ào ạt
mưa trắng trời trắng đất
Những dấu giày bấm nát
mặt đường trơn
Mày nặng quá ba lô đâu tao giúp
Đưa
tay đây không trượt ngã bây giờ
Con đường xa thăm
thẳm tiếng mưa
Tình đồng đội giúp chúng tôi đi
tới
Nghỉ giải lao mới thật là vui
Những giây
phút chỉ riêng đời lính có
Ôm ghi-ta cả bọn hát
vang trời
Gõ muôi bát nhảy choi choi không biết chán.
Có
những lúc cả bọn chợt lặng đi
Có đứa nhận
tin quê mùa này bão lụt
Cánh thư nhà chuyền tay nhau
đọc
Đồng đội bên nhau cũng vợi nỗi đau riêng
Chúng
tôi lớn lên trong nghĩa tình thiêng liêng
Chung buồn vui
chia ngọt sẻ bùi
Chung nỗi nhớ niềm đau, chung khát
khao hy vọng
Như đàn chim tung cánh giữa phong ba
Tạm
biệt nhé ngôi nhà đồng đội
Cùng bạn bè vất vả
sớm hôm
Đã chắp cánh cho chúng tôi bay tới
Ngang
cuộc đời và cả trời cao
Tạm biệt nhé chi đoàn kết
nghĩa
Vừa mới quen nay đã phải xa
Buổi lao động
hai chi đoàn mới đó
Hương nắng nồng nàn tất cả
ngỡ như say
Ôi nhớ lắm bát chè xanh em nấu
Miệng
em ca, lúng liêng mắt em tìm
Nhớ da diết câu dân ca em
hát
Mai xa cách biết tìm đâu người hỡi
Hương đồng
gió núi nghĩa tình em trao
Đêm nay chúng tôi chia
tay
Những người lính lặng im không nói.
H.Q
LÊ VĂN KHANH
ĐÊM
GÁC NHỚ NGƯỜI!
Đêm đêm vọng gác sườn đồi
Vai mang súng đạn - sáng ngời núi sao
Nhớ Người ở
những công lao
Dựng xây non nuộc ước ao bao đời
Hòa
bình đã thấy đây rồi
Đánh tan giạc Mỹ ta thời
tiến lên
Tay cờ - tay súng - tay liềm
Vùng lên ta giữ
hai miền non sông
Trải qua mấy chục năm ròng
Giờ
đây non nước đồng lòng hát ca
Những người nay đã
đi xa
Cháu con xum họp một nhà Bác ơi
Đêm tôi vẫn
nhớ Người
Nhớ sao giọng nói nụ cười thiết tha
Sáo
diều vang vọng xa xa
Tựa như giọng nói người Cha vọng
về
Nước non chung một lời thề
Nguyện chắc tay
súng đêm về bình yên
Chiến sĩ ta quyết vươn lên
Làm
theo lời Bác giữ yên quê nhà.
L.V.K
PHẠM ĐỨC
NGƯỜI ƠI, NGƯỜI
Ở...
"Người ơi! Người ở
đừng về"
Muôn năm câu hát còn mê mẩn hồn
Trèo
lên quán dốc chiều hôm
Gốc đa năm tháng đã mòn chờ
ai
Nhớ Trường Sơn những dặm dài
Nghe câu quan
họ qua đài mà say
Thầm mong đến hội hôm nay,
Dù
không hát cũng hẹn ngày tìm nhau
Gặp em cách đó
khá lâu
Cách quê quan họ mấy cầu, mấy sông
Em đi
khai phá ruộng đồng
Gieo câu hát xuống một vùng đất
hoang
Tôi nghe trong nắng chói chang
Đám mây quan họ
mát sang lòng người
Người ơi ở lại người ơi
Câu
em hát để cho tôi, hay là
Cho em quen với rừng xa
Mà
mai đây ấm mái nhà, quê hương
Mà mai đây sẽ vấn
vương
Những câu hát của yêu thương lại về
Người
ơi, người ở đừng về
Như em, tôi gặp vùng quê của
mình!
P.Đ
PHAN BA
CON TÔI ĐÓ!
Tròn mười năm bom đạn
thời chiến tranh
Trở về quê ôm ấp mộng gia đình
Như
mọi người, tôi ao ước những đứa con
Một đứa con
như bao triệu đứa con
Bi ba bi bô vui cửa vui nhà
Lớn
là cột trụ, chỗ dựa tuổi già!
Nhưng trời ơi,
con tôi
Ba tuổi chưa biết nói
Năm tuổi chưa biết
đi
Đầu bẹt không sợi tóc
Mồm méo, răng không
mọc!
Vợ tôi buồn lìa đời
Nỗi đau thêm nỗi
khổ
- "Con ơi! Mẹ chết rồi!".
Ngơ ngơ con
nhe lợi
Chăng biết khóc hay cười?!
Rừng Trường
Sơn trụi lá
Liệu có nẩy mầm tươi ?
Con tôi quái
dị quá
Người không thể thành người!
Ơ
Hi-rô-si-ma!
Còn không bụi phóng xạ?
Chúng diệt nòi
Việt Nam
Bằng chất độc da cam!
Chúng là bọn qủy
xám
Giết bao triệu sinh linh
Trẻ thơ thành quái
dạng
Điêu tàn hóa hành tinh!
Ôm con hỏi trời
xanh
Phép nào lành dị dạng
Kẻ ác gây họa thảm
Nhởn
nhơ mãi thế chăng?
P.B
TRẦN VĂN HẢO
DẤU CHÂN BINH ĐOÀN
Ba mươi năm một
chặng đường
Trưởng thành từ những chiến trường
gian lao
Tình đồng chí, nghĩa đồng bào
Cùng nhau
chung một chiến hào lập công
Viết nên trang sử hào
hùng
Bảo vệ Tổ quốc non sông vững bền
Núi sông
điệp điệp trùng trùng
Đã in dấu những bàn chân
binh đoàn
Ấm tình đồng chí đồng bào
Hậu phương
tiền tuyến biết bao nghĩa tình
Lời thề son sắt đinh
ninh
Xứng danh truyền thống Binh đoàn Hương Giang.
T.V.H
PHẠM THANH SƠN
KỶ NIỆM QUẢNG BÌNH
Nào ai nhớ
Nào
ai mong
Cái thời bom đạn miền trong Quảng Bình
Đêm
Em
mặc áo trắng tinh
Dẫn đường xe vượt rập rình cầu
phao
Ngày em nhuộim khói chiên hào
Người đi chỉ
nhớ câu chào: "Về nghe!"
Tôi là anh lính
lái xe
Cũng từ mái rạ bờ tre bình thường
Hồn tôi
gửi ở chiến trường
Tình tôi gắn với con đường
và ... em!
Một lời nên ngãi nên quen
Một thời
gắn bó nên duyên một thời
"Về nghe!" Em
gửi bao người
Mà tôi ngỡ gửi riêng tôi - một
mình
Phải đâu là kể vô tình
Nên tôi trở lại
Quảng Bình hôm nay
Quả vàng trĩu ngọt cành cây
Đời
vui sao mắt cử cay... lệ nhòa
"Về nghe"! - Anh
đến đây mà
Dù em mãi mãi đi xa không về...
P.T.S
HỒ VĂN ƯU
ANH
CỰU CHIẾN BINH
BINH ĐOÀN 2 ANH HÙNG
Anh về làm
cựu chiến binh
Hăng say công tác nhiệt tình vì dân
Tuy
là sức khỏe kém dần
Mái đầu đã bạc đôi chân đã
mòn
Nghĩ mình vì nước vì non
Ra đi chiến đấu sắt
son lời thề
Sang Lào cho đến vào B
Bom rơi đạn nổ
cận kề hy sinh
Biết bao đồng đội của mình
Giờ
đây thành đóa hoa rừng ngát hương
Biết bao bà mẹ
yêu thương
Miền quê ngóng đợi chiến trường báo
tin
Toàn dân kháng chiến hy sinh
Tự do độc lập hòa
bình hôm nay
Hoàn thành nhiệm vụ chia tay
Gác đời
binh nghiệp, mê say đời thường
Anh là người lính
yêu thương
Nhân dân trong tổ, trong phường kính
yêu
Nghỉ hưu chẳng được bao nhiêu
Phường giao
nhiệm vụ với nhiều chức danh
Sớm hôm cùng với mọi
ngành
Chăm lo xây dựng phường anh đổi đời
Anh
luôn vun đắp cho người
Bản thân liêm khiết cho người
noi theo
Quyết tâm xóa đói giảm nghèo
Anh là người
lính làm theo Bác Hồ
Dù cho sóng dạt bèo xô
Anh là
người lính Cụ Hồ năm xưa.
Ngày 6 tháng 9 năm 2002
H.V.Ư
VŨ THÀNH
ĐƠN
VỊ TRONG TRÁI TIM TÔI
Hôm nay trở lại đơn
vị
Bâng khuâng trước cổng bên hàng cây xanh
Tiếng
vang xa bước quân hành
Lòng tôi ấm lại nghĩa tình năm
xưa.
Đồng đội tôi đến bây giờ
Đứa còn ở
lại, đứa giờ đã xa
Giầu sao những tháng năm
qua
Chứa đầy kỷ niệm thật là khó quên.
Căn
nhà mái ngói đỏ tươi
Ngoài tường vôi trắng công
người tạo ra
Nghĩa tình đồng đội chẳng phai
Cùng
nhau ôn lại một thời đã qua.
Cuộc đời quân ngũ
chúng ta
Vui buồn sướng khổ cũng là lẽ chung
Gặp
nhau tay bắt, mặt mừng
"Gừng cay mặn xin đừng
quên nhau".
V.T
NGUYỄN VĂN KHẢM
VIẾT
VỀ ANH NGƯỜI CHIẾN SĨ
XÂY DỰNG ĐƯỜNG
HẦM
Tặng chiến
sĩ xây dựng đường hầm Đơn vị H19
Người
chiến sĩ làm hầm
Tháng năm với rừng núi
Đêm ngày
với đá sỏi
Khoảng không gian nhỏ hẹp
Hút sâu
trong lòng núi
Ì ầm tiếng nổ vọng
Rộn ràng tiếng
máy xa
Người chiến sĩ làm ca
Như bước vào trận
đánh
Dù nắng cháy trưa hè
Hay đêm đông giá
lạnh
Chẳng nao núng tinh thần
Chẳng quản ngại khó
khăn
Xây đắp những công trình
Lập nên bao chiến
công
Âm thầm và lặng lẽ
Cho Tổ quốc bình
yên.
N.V.K
VŨ TIẾN THỊNH
MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
Xin mẹ đừng ra ngõ tiễn
làm chi
Gió bấc chiều nay về lạnh buốt
Con nhìn mẹ
lòng thêm xa xót
Chiếc áo bông sờn mẹ khoác ngày
đông
Qua mấy cuộc chiến tranh tóc mẹ trắng như
bông
Hình bóng mẹ khắc sâu vào trí nhớ
Mỗi bước
của con đều có bàn tay mẹ
Dắt con đi trong lúc hành
quân.
Con sẽ đi như cha thuở trước
Xin mẹ đừng
ra ngõ tiễn làm chi.
V.T.T
QUANG DŨNG
NHỚ
Nhớ
đến xôn xao từng chặng đường
Một ngày xẻ núi vai
đẫm sương
Đường hầm len lỏi sâu thăm thẳm
Xóm
núi đi về ngát ngát hương.
Gà gáy canh khuya rừng
xao động
Chồn kêu vách núi tiếng còn vương
Nhớ
ơi đồng đội thời xẻng cuốc
Xây những chặng đường
hầm giữ bình yên.
Q.D
NGUYỄN VĂN THỨ
NGƯỜI THỢ THÔNG TIN
Tôi là người
lính thông tin
Tư hào khi được cấp trên cử mình
Trèo
đèo lội suối băng rừng
Tìm đường dây đứt kịp
thời nối thông
Cho dù gió bão mưu giông
Đêm hôm
giá lạnh tôi không ngại gì
Một tay cầm máy cầm
kìm
Tay kia tôi khoác bên mình cuộn dây
Nhịp nhàng
giữa những đồi cây
Đôi chân thoăn thoắt tới ngay
hiện trường
Mọi việc phải rất khẩn trương
Tiếp
cận hiện trường sự thể ra sao
Đường dây thì vẫn
mắc cao
Chỉ riêng một chỗ ấy là khả nghi
Đúng
rồi chỗ ấy đoán chi
Đoạn dây kia đứt cớ gì nó
thông
Mặc trời gió bão mưa giông
Việc ta ta cứ
xông lên mà làm
Kịp thời, chính xác, an toàn
Nối
thông liên lạc ta bàn tính sau.
N.V.T
BÙI QUANG HIẾU
ĐÊM TRÊN SÔNG
(Tặng các chiến sĩ công binh vượt
sông tiểu đoàn 1)
Hoàng hôn tắt lặng phía xa
xa
Màn đêm phủ xuống quyện sương tà
Đêm cuối
đông về trời giá lạnh
Hun hút từng cơn gió cắt
da
Thấp thoáng ánh đèn sáng ven sông
Bếp lửa
nhà ai khói bập bùng
Bên cảnh đời thường trong đêm
lạnh
Mải miết âm thầm lính vượt sông
Mặt
song vắng lặng chốc tan ra
Tiếng máy ca nô tiếng hạ
tời
Nhanh chóng từng khoang phà rời bến
Vỗ bờ
liên tiếp tiếng sóng xô
Đêm nay ta diễn tập vượt
sông
Nào nhanh tay chung sức hiệp đồng
Vượt dòng
nước đến bên bờ chiến thắng
Ta cùng nhau vượt lên
đầu ngọn sóng.
“Mở đường thắng lợi " ta
ca
Giọt mồ hôi trên lung áo mặn mà
Trời giá lạnh
nhưng lòng ta thêm ấm
Cả đêm nay ta thức cùng với
sóng
Mỗi chuyến phà mang theo cả niềm tin.
B.Q.H
HỮU DŨNG
50 NĂM MỘT NGÀY HỘI NGỘ
Ngày gặp lại
sớm thu nay vui quá
Lính công binh về với đơn vị
Những
đôi mắt bồi hồi kỷ niệm
Nhớ thương tình đồng
đội chứa chan.
Đường chinh chiến áo vải thô
chân đất
Phút xa quê lưu luyên tần ngần
Thiếu nắm
gạo chia nhau từng mẩu sắn
Đêm ngủ rừng tìm hơi ấm
bàn chân.
Nhớ tay cuốc mở đường trong chiến
dịch
Nhớ cầu phao đêm pháo sáng địch tìm
Nhớ
giờ vặn kíp bom nổ chậm
Nhớ xẻng xuyên hầm đồi
A1 Điện Biên.
Nhớ đồng đội chân chôn làm trụ
vững
Đỡ đầu cầu lát ván cho xe qua
Cơn lũ cuốn
dòng sông sâu lạnh buốt
Ai trở xe qua sông "Cát
lái" năm nào?
Những sự tích anh hùng trang
truyền thống
Bao tấm gương dũng cảm trước gian
nguy
Những cái chết âm thầm lặng lẽ
Cha, anh nay
chẳng muốn kể về mình
Ngày gặp lại những ai
còn, ai mất
Ai về đây tóc bạc da mòn
Ai về đâu
hội ngộ thiết tha tình đồng đội
Truyền thống
Trung đoàn 50 năm bản hùng ca.
H.D
CHU ĐÌNH THOAN
HÀNH QUÂN ĐÊM
Một mảnh trăng
treo giữa lưng đèo
Nhìn lên chỉ thấy núi cheo leo
Đoàn
xe đom đóm bò quanh dốc
Núi dốc nhấp nhô mũ tai
bèo.
Dừng chân mắc võng giữa ngàn cây
Màn đêm
buông đặc lớp sương dày
Vẳng xa nghe tiếng đàn chim
hót
Róc rách khe tuôn nước ứ đầy.
Ngả lưng
chợp mắt vài giây phút
Muôn nẻo đường xa bỗng với
tay.
C.Đ.T
NGUYỄN ĐỨC THUẬN
CHA LÀ NGƯỜI LÍNH
Tuổi
trẻ của cha đi qua chiến tranh
Đời vất vả bởi cha
là người lính
Mẹ yêu cha không một ngày yên tĩnh
Bão
thổi không ngừng trong nỗi nhớ màu xanh
Ước mơ xanh
những khát vọng trong lành
Cha trăn trở suốt cả đời
tuổi trẻ
Và mẹ con cũng một thời lặng lẽ
Mang
màu xanh theo suốt cuộc chiến tranh
Con ra đời trong mơ
ước màu xanh
Của mẹ của cha suốt cuộc đời trận
mạc
Con còn bé làm sao con hiểu được
Bao đêm dài
chông lạnh giữa mẹ cha
Con lớn rồi cha vẫn ở cách
xa .
Con đừng trách bởi cha là người lính
Có lúc
nào nơi lòng cha yên tĩnh
Để nghĩ về những mơ ước
ngàn năm
Con đừng hỏi và nhìn trong mắt mẹ
Đang
một thời tuổi trẻ của cha.
N.Đ.T
TRẦN BÍCH THỌ
HỌP MẶT
QUÂN
TÌNH NGUYỆN GIÚP LÀO
(Kính tặng đồng chí Ngạn Chủ nhiệm
CLBNYHN)
Kỷ niệm 50 năm quân tình nguyện
Cùng
về họp mặt, hồi tưởng lại ngày xưa
Thật tự
nhiên, mà cũng thật bất ngờ
Anh và em lại cùng chung
chiến hào thuở ấy
Em lính quân y, còn anh thuộc sư
nào vậy
Đến hôm nay mới nhận biết nhau sao
Nghe
gọi tên, em cứ ngỡ người nào
Quay nhìn lại để
chào, hóa ra đồng chí Ngạn
Ôi! Vui quá anh em ta là bạn
Bạn nghĩa quân chí nguyện giúp Lào
50 năm rồi mà
như mới hôm nao
Từ tóc còn xanh, nay mái đầu phơ
bạc
Về gặp nhau để chung vui ca hát
Lòng rộn ràng
tình man mác bao la
Của những chí nguyện quân xông pha
chiến trận
Nay về đây cùng bạn đón nhận huân
chương
Ôi vui quá em chúc anh mạnh khỏe khang cường
Để
anh em mình tuổi già thêm thọ
Đóng góp sức mình cho
con cháu chúng ta.
Ngày 30-10- 1999
T.B.T
NGUYỄN TIẾN LONG
GIỜ NGHỈ THAO TRƯỜNG
Tổ bộ
binh tạm nghỉ cạnh chiến hào
Giọt mồ hôi tròn lăn
trên má
Cành cỏ lau uốn mình óng ả
Nắng chiều
vàng buông lửng dốc ngẩn ngơ
Đôi mắt xa xăm một
anh thầm mơ
Bụi lau này là ngọt ngào sắc lúa
Cánh
đồng quê hương đang vào độ sữa
Mình ôm vào lòng
cho đỡ nhớ mẹ chút thôi
Miệng huýt sáo theo em tu hú
kêu
Một anh chàng thu mình sau phiến đá
Bỗng ngẩn
ngơ có mùi hương rất lạ
Khóm hoa li ti chưa biết gọi
tên gì
Một anh chợt phát hiện phía chân đồi
Hai
cô gái bản bên... ngập ngừng sang suối
Bẻ vội cành
sim khẽ khàng vẫy gọi
Ánh mắt cười tinh nghịch xinh
quá xinh
Mười phút thao trường trôi thật nhanh
Trán
mồ hôi chưa kịp khô lại nhỏ
Đồi cỏ lau vẫn vui
đùa trong gió
Chiến sĩ thao trường lại vui với
"AK".
N.T.L
NGUYỄN PHÚC THỌ
NHỚ QUÊ
Tôi là con
trai Bắc Ninh
Khi đi xa, vẫn nhớ tình quê hương
Nhớ
bến nước, nhớ con đường
Nhớ câu quan họ người
thương đừng về
Nhớ người em gái thôn quê
Người
gieo bao nỗi bộn bề trong tôi
Con tim đập nhịp bồi
hồi
Câu ca mang nặng một đời nhớ nhau
Khen ai khéo
bắc nhịp cầu
Cho cau Thôn Phượng, nhớ trầu Thôn
Đông
Hói người con gái còn không?
Bao năm vất vả
môi hồng vẫn tươi
Gặp nhau cứ nhoẻn miệng
cười
Nhớ ôi là nhớ lúc tôi lên đường
Bao năm
xa vẫn nhớ thương
Bao năm vất vả nắng sương nhọc
nhằn
Nhớ câu hát vẫn ngọt lành
Khi đi vẫn nhớ
quê mình đẹp tươi
Tôi là con trai Bắc Ninh
Giờ đây
lính của Binh đoàn Hương Giang
Ra đi bảo vệ xóm
làng
Miên man câu hát rộn ràng nhớ quê.
Xuân 2003
N.P.T
XUÂN HẢI
VÒM TRỜI THÁP PHÁO
Thắng trận
rồi chúng tôi trở về đây
Phút thảnh thơi quây quần
bên tháp pháo
Đêm buông xuống vòm trời trăng móc
áo
Những vì sao bỗng vui dáng long lanh
Trống trải
dài trên tháp pháo màu xanh
Và trên ngôi sao vẫn bừng
sắc đỏ
Hóa sao trời đêm nay sáng rỡ
Là vì sao
bản tháp pháo chúng tôi
Đánh giặc xong ta ngắm bầu
trời
Càng thấy xôn xao nhiều vẻ đẹp
Sao ở trên
trời sao ngời ánh thép
Ngồi bên nhau thân thiết quá
trăng ơi
Đất nước mình dài rộng cánh chim bay
Có
tự bao giờ giang sơn gấm vóc
Khi nhìn lên lộng lẫy
trăng sao
Có phải lòng ta thêm yêu Tổ quốc
Trời
Tổ quốc là vòm trời rất cao
Trời xe tăng và vòm
trời tháp pháo
Một ngôi sao thức ngàn ngày tháp
pháo
Thắp sáng đường mỗi bước xe qua.
X.H
NGUYỄN THÁI
NIỀM VUI CHIẾN THẮNG
Đêm giới
tuyến tiết trời đông giá lạnh
Đoàn pháo binh được
lệnh xuất quân
Trước 1úc ra đi Tư lệnh đến dặn
rằng:
"Tìm mọi cách bắn tan tầu giặc
Không đế
kẻ thù ngang nhiên gây tội ác
Bảo vệ quê hương cô
bác mẹ cha
Bảo vệ bầu trời mặt biển bao la
Cho
trăm họ muôn nhà làm ăn yên ổn"
Pháo thủ lên xe
trong mưa rào gió cuốn
Ôi ngọn heo nay lạnh ớn quá
chừng
Đường trập trùng trời tối như bưng
Cả vũ
trụ mịt mùng thăm thẳm
Xe hạng nặng trườn qua đồi
cát trắng
Pháo lắc lư thỉnh thoảng lại xa lầy
Gớm
con đường cát lún nơi đây
Cứ lì lợm mà gây khó
dễ
Ôi! May quá có dân quân tự vệ
Từ các xóm thôn
ven biển đến thông đường
Lót bánh xe: Bằng gỗ,
ván, tre, bương
Giúp đẩy pháo khẩn trương vào chiếm
lĩnh
Từng bước nhích lên kiên trì bình tĩnh
Và
cuối cùng đến điểm định giữa đêm
Tới đích rồi
trời vẫn cứ tối đen
Mưa gió cứ triền miên gào
rú
Rét và đói lính ta mệt lử
Nhưng mọi người
vẫn cố động viên nhau:
"Đưa pháo tới nơi là
thắng lợi bước đầu
Cần ráng sức đàomau trận
địa"
Chúng tôi mời đồng bào về nghỉ
Để
anh em đơn vi đợi đánh tầu
Mọi người ra về đã
khá lâu
Mà vẫn chẳng thấy tầu quân giặc
Thời
khắc đợi chờ kéo dài dằng dặc
Màn mưa đêm càng
dày đặc mịt mù
Biển réo vi vu từng đợt sóng vỗ
bờ
Nghe bồm bộp xô bồ vào vách đá
Càng về khuya
tiết trời càng lạnh giá
Gió heo nay vẫn xối xả bay
về
Quần áo ướt đầm, chân tay cóng tái tê
Mắt
chức cay xè, đầu đau choáng váng
Nhiều đồng chí
mệt nhoài chán nản
Nói vung văng: Địch không dám đến
đâu
Chẳng can chi ngồi chờ đợi dãi dầu
Để mưa
gió đổ xuống đầu cho khổ
Nhưng, khoảnh khắc thời
gian sau đó
Tiếng động ngoà i khơi nghe rõ dần dần
Và
kia rồi bốn tầu chiến địch quân
Đang rẽ sóng tới
gần khu trận địa
Chỉ huy trưởng vẫn ung dung đường
bệ
Cầm máy bộ đàm nói rành rẽ mấy câu:
"Giờ
phút lập công sắp sửa bắt đầu
Cử để chúng vào
sâu chút nữa!"
Lòng ai nấy nóng bừng như bốc
lửa
Quyết bắt quân thù đền nợ nơi đây
Pháo
sáng bừng lên thức tỉnh đêm dầy
Đầu ai nấy ngất
ngây căng thẳng
Pháo hạm địch bắn lên bờ lóe
sáng
Đoàn trưởng pháo binh căm phẫn thét lên
"Bắn!"
Những dòng lửa xuyên thủng màn đêm
Lao tới tấp vào
hãm tầu giặc Mỹ
Giữa biển khơi vụt bùng cao cột
lửa
Tiếng hô râm ran tầu nó cháy rồi
Chỉ khoảnh
khắc sau địch bắn trả liên hồi
Hòng cứu chiếc bị
chúng tôi bắn trúng!
Giáp trận lần đầu nhưng lính
ta đã tỏ ra anh dũng
Thấy đạn tầm xa của chúng vượt
qua đầu
Chúng tôi nhắc nhau: Cứ bắn lạnh vào
Thật
chuẩn xác để vít đầu chúng nó
Tiếng đoàn trưởng
hô to: Lại cháy thêm chiếc nữa!
Bắn mạnh nữa lên
cho cả lũ đi đời!
Giữa lúc chúng tôi đang la hét rầm
trời
Bỗng từ phía cũng đồng thời phát hỏa
Công
an biên phòng và dân quân các xã
Cùng bắn liên thanh
xối xả về phía quân thù
Địch sợ cứu nhau sẽ gặp
nguy to
Đã hốt hoảng hét hò nhau chạy trốn
Giữa
lúc tầu giặc chìm - ta reo hò thắng trận
Thì hừng
đông hửng sáng dần dần
Lãnh đạo địa phương cùng
nhân dân tấp nập tới thăm
Bầu không khí càng bội
phần rộn rã
Pháo thủ ôm nhau cười như hoa nở
Và
nhìn lên cổ, nơi đính kết phù hiệu Pháo binh
Càng
rực rỡ lên ánh sáng bình minh
Ai cũng thấy lòng mình
tràn đầy vui sướng
Tôi muốn báo tin vui đi bốn
phương tám hướng
Để mọi người cùng vui sướng
hoan nghênh!
Vẻ vang thay! Binh chủng Pháo binh
"Thần
thánh của chiến tranh" mà Xtalin thường gọi
Giữa
chiến thắng này ta liên tưởng lại
Bốn bẩy năm xưa
(1947) ta đánh bại quân thù
Vang vọng bài ca chiến
thắng Sông Lô
Pháo đã đóng vai trò xuất sắc
Chiến
dịch Hòa bình pháo ta gầm thét
Trận Lạc Song nhiều
tầu pháo tan tành
Đầu năm hai (1952) pháo xuống đồng
bằng
Đoạt chiến thắng Bến Sanh oanh liệt
Trận
Điện Biên pháo đã gây kinh hoàng khủng chiến
Pháp sợ
cuống cuồng vỡ mật tan thây
Miền Bắc hòa bình lập
lại đến nay
Pháo từng phút từng giây không ngừng
lớn mạnh
Nay giặc Mỹ hung hăng mù quáng
Dấn thân
dơ bén mảng đến nơi nào
Miền Bắc, miền Nam hay tới
nước Lào
Pháo lập tức bắn nát đầu chúng nó
Chiến
sĩ Pháo binh không bao giờ khiếp sợ
Sự bạo tàn hung
dữ của địch quân
Họ sẵn sàng cảm tử vì dân
Cho
Tổ quốc ngàn năm rạng rỡ
Vĩnh Linh hôm nay tô thắm
trang lịch sử
Pháo binh ta bắn tầu Mỹ tan tành
Nó
mở đầu cho chiến thắng quang vinh
Của khu Bốn - Vĩnh
Linh những ngày đầu chống Mỹ
Trời biển của ta, ta
quyết tâm bảo vệ
Cho sóng đại dương cứ nhè nhẹ
rì rào
Cho cá biển Đông cứ đi lại xôn xao
Thuyền
dân biển cứ ra vào tung lưới
Cho rừng phi lao reo hò
diệu vợi
Cho thiếu nữ xinh tươi vui tuổi dậy thì
Và
cho bầy em nhỏ thiếu nhi
Lại hớn hở đi về trường
sở
Cho cha mẹ già yên lòng hưởng thọ
Cho các em
thơ yên giấc ngủ trong nôi
Cho cánh diều bay bổng nơi
nơi
Cho tất cả biển trời thanh bình tươi sáng
Và
câu chuyện niềm vui chiến thắng
Kể đến xin tạm
ngừng lời.
Vĩnh Linh ngày 20-12-1964
N.T
ĐOÀN ĐÌNH LỢI
NGÀY GIỖ BẠN
Tôi rì rầm
trò chuyện với anh
Tấm ảnh thờ năm hai mươi mốt
tuổi
Trước đôi mắt u buồn biết nói
Mẹ già như
cây héo tựa vào tôi.
Ngày ra trường không phải
ngày vui
Nam Định sục sôi những cơn báo động
Đạn
cao xạ nhoáng nhoàng chớp sáng
Ba lô chặt căng quân
phục thùng thình.
Những tiếng loa phóng thanh gọi
tôi lên đường
Xe giao liên đưa anh vào binh trạm
Cái
túi nỉ bọc mấy chồng nhật ký
Tôi nhận phần gửi
cho mẹ ở quê.
Có ngờ đâu anh mãi không về
Rừng
Căm Pốt mịt mùng cây lá
Mẹ mất anh sau trận bom
phá
Tên anh vĩnh viễn nằm lại với núi rừng.
Hai
bốn năm mẹ vẫn giữ gìn
Cái túi nỉ bọc mấy chồng
nhật ký
Những dòng chữ không già theo năm tháng
Lần
giỗ nào mẹ cũng mở ra hong.
Vẫn biết gặp tôi mẹ
thêm chạnh lòng
Nhưng ngày giỗ anh làm sao khuây khỏa
được
Tôi đứng lặng trước u buồn đôi mắt
Như
người mắc nợ giữa nhân gian.
Bắc Giang tháng 5-2002
Đ.Đ.L
TRẦN GIA BẰNG
HẠT LÚA QUÊ HƯƠNG
Những
hạt vàng muôn thuở của đồng quê
Như con thuyền chở
tôi qua cơn đói
Với hạt lúa mẩy tròn, chín tới
Tôi
giống trẻ thơ trước bầu sữa căng đầy.
Dạy
tôi yêu cái cuốc, cái cày
Lưỡi mòn vẹt qua mùa vỡ
đất
Cái hái, cái liềm xôn xao mùa gặt
Cha tôi cầm
lấp lánh vầng trăng
Dạy tôi yêu lối ngõ, con đường
Có
vết chân trâu lối về hạt lúa
Dải đê lớn mở rộng
vòng tay cỏ
Con sông dài chia nhánh phù sa.
Những
hạt vàng của sự ấm no
Như lửa ấm đời đời
truyền lại
Nằm ở tay cha lên đồng lên bãi
Nằm
trong tay mẹ lên khói cơm chiều
Nằm trong tay em lên câu
hát dặt dìu
Nằm ở tay anh hóa tình yêu thực chất
Bàn
tay con người mênh mông mảnh đất
Những đường vân
dọc ngang như dé lúa chen dày.
Mùa lúa chín vàng
mang nắng sớm bừng lên
Tiếng chim gáy rủ đất trời
vào mẩy
Tôi đi giữa mùa màng nhiệt đới
Qua trung
du tới Đồng Tháp xa vời
Vẫn chưa hết mùa vàng hạt
lúa
Hạt lúa dài theo đất Việt Nam tôi ...
T.G.B
NGUYỄN DUY ĐÍCH
THĂM
MỘ LIỆT SĨ TRƯỜNG SƠN
Chiều nay đứng
trước Nghĩa trang
Lặng nhìn hàng mộ, ruột gan bồi
hồi
Biết bao đồng đội của tôi
Hiến dâng trọn
cả cuộc đời tuổi xanh
Hôm nay tháng đẹp ngày
lành
Gọi là có chút tâm thành cầu mong
Các anh các
chị yên lòng
Muôn năm bia đá tượng đồng ngàn
thu
Máu xương mất mát khó bù
Non sông đất nước
thiên thu vững bền
Nhân dân Quẩng Trị, Thừa Thiên
Và
khắp đất nước mọi miền nhớ ơn
Ơn cao như núi
Trường Sơn
Nghĩa nặng tựa sóng rập rờn sông
Hương
Gửi bao nỗi nhớ niềm thương
Chúng tôi thắp
một tuần hương viếng người.
Kỷ niệm 20 năm giải phóng Huế
3-1995
N.D.Đ
HƯƠNG CHANH
MẸ
Quê mẹ vùng chiêm trũng
Quanh
năm chỉ một mùa
Lưng còng mẹ tần tảo
Lội đồng
làm sớm trưa
Nào con cua con ốc
Nào cái hến cái
trai
Ngày này qua tháng nọ
Lặn lội bờ mương
quê
Con mẹ đi kháng chiên
Chín năm vẫn chưa
về
Đêm khuya trằn trọc giấc
Mỏi mòn chờ tin
con
Mái nhà tranh xiêu vẹo
Gió bấc lùa suốt
đêm
Co mình bên vách chiếu
Mẹ nằm đợi bình
yên
Đất nước ngày giải phóng
Tin vui chẳng
theo về
Từ đâu, tờ giấy báo
Làm mắt mẹ mờ
đi
Lưng còng giờ chớm gối
Lặng nhìn trời
xa xăm
Nỗi buồn đau nguôi vợi
Nhờ làng xóm
bạn cùng.
Ngày 23 - 11- 2002
Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương
Giang
H.C
VŨ THỊ PHẤN
TUỔI
TRẺ HƯƠNG GIANG
Xa nhà khoác chiếc ba lô
Bước
vào quân ngũ Cụ Hồ Trường Sơn
Mưa bom bão đạn
không sờn
Bắc Nam một dải giang sơn vững bền
Hòa
bình ai đã lập nên
Hôm nay nhớ lại lòng thêm chí
cường
Đời trai chẳng quản gió sương
Quên mình vì
nước noi gương Cụ Hồ
Chân qua bao suối bao đồi
Núi
sông chẳng ngại mồ hôi chẳng sờn
Áo xanh sao mũ sáng
ngời
Bóng anh cao quá gió trời vi vu
Hạ vàng nắng
lại sang thu
Đông qua xuân đến bốn mùa nở hoa
Kính
dâng lên Đảng hiền hòa
Phát huy truyền thống Binh
đoàn Hương Giang
Thanh niên ta hãy sẵn sàng
Quân dân
cá nước xóm làng xanh tươi
Tuổi trẻ phấn đấu bạn
ơi
Gắng công tôi luyện âu đời nở hoa.
Phòng Hậu cần
- Cục Hậu cần
V.T.P
PHẠM VĂN KIẾN
CHỌN MÀU YÊU
Người ta
yêu màu vàng duyên dáng
Người ta yêu màu trắng mộng
mơ
Người ta yêu màu hồng tươi trẻ
Nhưng còn
em,
Em yêu màu áo xanh
Màu bao la của những cánh đồng
xanh
Màu của những chuyến đường xa bụi bặm
Màu
của giọt sương đêm chìm trong im lặng
Khi hành quân
đánh đuổi kẻ thù
Đó là màu của những năm về
trước
Màu của hiện tại, màu của tương lai
Màu
của cuộc đời người lính anh ơi
Không! Không bao giờ
em so sánh
Màu áo anh với bất cứ màu nào
Vì cuộc
đời người lính lắm gian lao
Màu áo anh là màu chiến
thắng
Em sẽ đợi anh về một mùa nắng
Giặt
cho anh chiếc áo đẫm mồ hôi
Bạn em yêu màu áo da
trời
Và hỏi rằng em yêu màu gì nhất
Em sẵn sàng
đáp câu thành thật
Yêu màu áo xanh - màu áo của
anh.
P.V.K
NGUYỄN TRUNG KIÊN
NHÀ THƠ VÀ NGƯỜI LÍNH
Nhà thơ –
người lính thật giống nhau
Trời xanh lộng gió ở
trên đầu
Biển biếc quanh năm ru khúc hát
Cánh buồm
lướt sóng, cánh buồm nâu
Nhà thơ - người lính
thật giống nhau
Người lo tính của để làm giàu
Riêng
cánh lính thơ say góp sức
Bền bỉ âm thầm tựa bể
sâu.
Nhà thơ - người lính thật giống nhau
Cái
ăn cái mặc nghĩ gì đâu
Giản dị, đơn sơ mà cao
khiết
Tình nghĩa yêu thương vốn lẽ đầu.
Nhà
thơ – người lính thật giống nhau
Lộng gió bốn
phương đậm sắc màu
Đôi chân đi mãi còn khao khát
Tầm
mắt xa nhìn cánh hải âu...
N.T.K
HOÀNG HIỂN
ĐỒNG ĐỘI
Đồng
đội của tôi trẻ lắm
Quê hương ở khắp mọi
miền
Lớn lên một sương hai nắng
Cái nghèo đeo bám
triền miên
Rời quê tham gia bộ đội
Tuổi đời
mười chín đôi mươi
Băng đèo, vượt sông, lội
suối
Rừng sâu rộn rã tiếng cười.
Ba lô súng
đạn nặng vai
Trường Sơn tây mưa, đông nắng
Dép
lốp bao lần thay quai
Ngủ hầm bầm da giá lạnh
Đồng
đội của tôi trẻ lắm
Giành nhau đi trước công
đầu
Khi ngã trườn về phía trước
Cho quê hương
rộng dài hơn
Để lại trong chiếc ba lô
Bọc kỹ
tấm hình của mẹ
Lá th ư chưa gửi bạn bè
Chiếc
bút tập thơ nhỏ bé.
Đồng đội bây giờ ở đâu
Ai có thể quên đồng đội
Ai có thể quên rừng
sâu
Những cuộc hành quân bước vội.
H.H
NGUYỄN THẠCH HÙNG
GẶP LÍNH
Lại
gặp đây những màu áo xanh
Những nụ cười tươi trên
môi người lính
Cái nhìn vô tư không chút toan tính
Tâm
hồn không chút vụ lợi thỏ nhen.
Trái tim kia không ý
nghĩ thấp hèn
Chỉ biết yêu bằng tấm lòng chân
thật
Những con người không thể nào đánh mất
Sự
chân thành giản dị vị tha
Gặp một lần chẳng muốn
chia xa
Mong rồi đây gặp những người lính ấy
Tạm
biệt nhau sao bỗng buồn quá vậy
Ta tránh nhìn để
đừng gặp mắt nhau
Màu áo xanh mãi sẽ chẳng phai
mờ
Trong tấm lòng người dân nước Việt
Cao cả
thay những tấm lòng bè bạn
Giã từ rồi ta bỗng thấy
buồn sao.
N.T.H
NGƯỜI LÍNH QUÂN Y
BINH ĐOÀN
Kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Binh đoàn
Có
những vì sao trên cao lung linh
Có nhũng vì sao đêm đêm
vẫn sáng
Bệnh viện vào đêm yên tĩnh
Nhè nhẹ bước
chân
Em gài lại cho anh!
Góc màn căng gió tốc
Và
một phần chăn rơi nghiêng xuống đất
Em đắp lại
cho anh
Giấc ngủ ngon lành
Tiếng nói trong mơ!
Em
hay là hoa mà cho đời tất cả
Hương vị ngọt ngào,
tuổi trẻ ngành y
Yêu quê hương, yêu đồng đội
thân thương
Yêu cuộc sống, yêu con đường em bước
Nước
Hương Giang êm đềrn mà thao thức
Khói lưa Trị Thiên
vang bóng một binh đoàn
Chiến tranh qua đi thời gian
không trở lại
Đất nước mình đã từng bước đổi
thay
Cuộc hành quân thần tốc "Hương Giang"
Nay
trở về với miền quê quan họ
Với người mẹ hiền
ngồi vá áo năm xưa
Viện quân y trong thời kỳ đổi
mới
Vẫn vững vàng và từng bước đi lên
Luôn thu
dung và chữa trị an toàn
Gắn với chương trình quân
dân y kết hợp
Mở rộng thêm phạm vi chữa bệnh
Đoàn
kết hiệp đồng cùng tập thể lập công
Mẹ hiền
ơi! Khi trái gió trở trời
Đã có chúng con chăm lo cho
mẹ
Viện thuốc nghĩa tình cùng tấm lòng người
lính
Như bếp lửa hồng sưởi ấm mẹ giữa đêm
đông!
Bắc Giang, ngày 27 – 2 - 2003
Tập thể cán bộ nhân
viên khoa XNCĐHA Viện QY 43
VŨ VĂN HOÀN
THƯƠNG CHỊ
Những chiến
sĩ mới về
Gọi chị bằng cô
Chị biết
Mình
không còn trẻ nữa
Chiến tranh đã lùi xa
Nhưng hạnh
phúc vẫn chỉ là ước mơ
Một mình
Một mình lặng
lẽ với thời gian.
Nhớ lại ngày xưa
Lúc chị
tròn mười tám
Đất nước đang thời khói lửa
Lấp
những hố bom thành con đường đất đỏ
Nối mạch
máu liền cho những chuyến xe qua
Tuổi thanh xuân chị
vùi trog đó.
Chiến tranh lùi xa
Chị trở về
Để
lại chiến trường những gì ấp ủ
Một thời con
gái.
Lẳng lặng thời gian
Tuổi thanh xuân trôi
cùng năm tháng
Ngày ngắn, đêm dài
Tóc ngả màu
sương...
Một mình
Một mình
Lặng lẽ với
thời gian...
Lạng
Giang, tháng 4 năm 2002
V.V.H
KIM VĂN ĐĂNG
OAI
Giàu nhất
là lính kho
Và cũng cho oai nhất
Nhỏ nhặt từ vẻ
mặt
Đến vóc dáng hình hài
Thứ đến chẳng lai
rai
Như trăm chàng lính khác
Làm việc không lười
nhác
Hết vác rồi lại khuân
Không lần khân chờ
nghỉ
Chẳng bao giờ nghi kỵ
Hay kéo cánh a dua
Nhưng
lại thích vui đùa
Không chịu thua người khác
Học
hành thì rất ác
Mà thi cũng rất cừ
Đồng đội
băn khoăn ư
Đến ngã tư thử hỏi
Gặp ai mà chả
nói
Hãy đến chơi với họ
Những người lính coi
kho.
K.V.Đ
NGUYỄN VĂN HẢI
ĐƯỢC THƯỞNG PHÉP
Con được
thưởng phép thăm nhà
Mẹ cha biết được chắc là vui
lây
Mẹ ơi con ở nơi đây
Con như được sống trong
tay mẹ hiền
Tuần qua con lại có tên
Đơn vị đã
viết con lên hàng đầu
Thi đua nối lại bình bầu
Cá
nhân xuất sắc đứng đầu là con
Tháng trước phụ
cấp vẫn còn
Quà về cho mẹ cỏn con có gì
Con mua
chiếc áo sơ mi
Tặng mẹ đợt phép còn gì vui hơn
Giấy
phép in dấu dỏ son
Chữ ký thủ trưởng còn hơn áo
nhiều
Thủ trưởng nhắ n gửi đôi điều
Những lời
nhắn ấy hơn nhiều quà mua
Từ nay tôi quyết thi
đua
Gian lao vất vả chẳng thưa luyện rèn
Phép tới
tôi sẽ tặng em
Đôi dòng quyết thắng mà em mong
chờ.
N.V.H
NGUYỄN ĐÌNH TIÊN
GỬI MẸ QUÊ NHÀ
Đường
con đi mùa này nhiều hoa đỏ
Vạt nắng sẽ sàng vương
nhẹ đôi vai
Con vẫn đi quên gian khổ, miệt mài
Quyết
huấn luyện đạt đỉnh cao quyết thắng
Mẹ quê
nhà gánh trên vai mùa nắng
Rút nhọc nhằn cho hạt gạo
trắng thơm
Bước cuộc đời nặng trĩu áo vai sờn
Vẫn
xa cách con đường dài bóng mát
Con vẫn đi giữa
bao nhiêu câu hát
Gửi về bên mẹ màu nắng con yêu.
N.Đ.T
NGÔ CHUNG
THÁNG BA
Tháng ba hoa gạo
đó trời
Hoa xoan tim tím một thời tuổi thơ
Người
đi người một dạ chờ
Màu hoa rợp cả đôi bờ yêu
thương.
Tuổi xuân gửi lại chiến trường
Bây
giờ ngồi học tóc sương ngả màu
Bao nhiêu mơ ước
khát khao
Ấp iu ngày tháng ủ vào lặng thinh
Tuổi
thơ sông mãi khôn cùng
Rơi trên trang sách ngập ngừng
cánh hoa...
Học
viện Chính trị - Quân sự 1997
N.C
LÊ VĂN MINH
NHỚ VỀ BINH ĐOÀN HƯƠNG GIANG
Vui buồn nhớ
lúc hành quân
Tháng năm nhớ lúc gian truân chiến
trường
Sông Hương đất Huế thân thương
Binh đoàn
sáng một tấm gương anh hùng
Quyết tâm không đội
trời chung
Đánh Nam, dẹp Bắc ta cùng thi đua
Đánh
cho giặc Mỹ phải thua
Cho quân Pôn Pốt như lùa vào
hang
Thần tốc từ phía Tây Nam
Đổ về phía Bắc
lại càng dẻo dai
Hương Giang là một pháo đài
Quân
thù khiếp sợ tới hai đời liền
Mang tên từ đất
Trị Thiên
Nay về phía Bắc gắn liền Lạng Giang
Giờ
đây lịch sử sang trang
Ba mươi năm ấy lại càng hiểu
sâu
Thức khuya ngắm cảnh đêm thâu
Anh hùng hai chứ
- lại giàu tình thương
Trải qua trên khắp chiến
trường
Dù đi, dù ở muôn thương nhớ về
Binh đoàn
nay đã đề huề
Tháng năm kỷ niệm nhớ về Hương
Giang.
Ngày 28-02 -2003
L.V.M
BÙI ANH ĐỨC
TUỔI TRẺ CHÚNG TÔI
Tuổi trẻ
chúng tôi, cũng từ nơi đây
Ngày đêm vang tiếng
hát
Đồng đội bên nhau, phấn đấu học, rèn
Rồi
ngày mai đây, ra đi khắp miền đất nước
Bảo vệ
quê hương, yêu dấu của ta
Dù phải gian lao, quyết
không lùi bước
Nêu cao truyền thống, anh dũng kiên
cường!
Những bước chân dãi dầu
Đêm sương giăng
mái đầu
Chụm đầu đọc chung lá thư
Ba lô làm
bàn, sách bút theo hành trang
Dẫu gian nguy xá gì
Tâm
tư luôn xin thề
Dù phải xả thân xá chi
Nêu cao giữ
vững, truyền thống vẻ vang của Binh đoàn
Hương
Giang!
B.A.Đ
MAI THẾ HÙNG
TÍN HIỆU ĐI VỀ
"Tặng Bộ đội Thông tin"
Đêm
ào ạt mưa rơi
Vẫn nghe tiếng tịch tà
I ưng đèo
cao gió hát
Mang cánh sóng bay xa
Biên cương xanh
màu lá
Hải đảo ngàn sóng xô
Vượt muôn trùng gian
khó
Tín hiệu nối đôi bờ
Lặng lẽ như lời
ru
Giữa mùa xuân Tổ quốc
Tháng ngày hành khúc
hát
Mang đất nước bay xa
M.T.H
HOÀNG LÂM
CHIẾN CÔNG THẦM LẶNG
Kính tặng thầy cô giáo Trường
Quân sự -
Binh đoàn Hương Giang
Thầy
đúng trên bục giảng
Mái tóc dầy, hoa râm
Cử ngỡ
là bụi phấn
Không! Màu của thời gian
Ba lần từ
đơn vị
Về trường làm học viên
Vẫn gặp thầy
giảng dạy
Dáng thầy rất uy nghiêm
Đôi cầu vai
đã cũ
Cấp hàm vẫn như xưa
Vừa ngạc nhiên tôi
hỏi
Thầy mỉm cười vô tư
Ba mươi năm thầm
lặng
Người lái đò sang sông
Trang bị bao kiến
thức
Bằng tất cả tấm lòng
Tôi trưởng thành
từ đây
Biết ơn thầy dạy dỗ
Trở thành người
cán bộ
Thầy là cả đời tôi.
Bắc Giang
Xuân Quý Mùi năm 2003
H.L
THU BA
KHÚC QUÂN HÀNH
VÀ NGƯỜI
LÍNH HÔM NAY
Vẫn là khúc hát cho anh
Tháng
năm nối tiếp đến thành hôm nay
Bâng khuâng cái buổi
chia tay
Khúc quân hành giục cánh bay giữa trời.
Sức
trai với tuổi hai mươi
Trái tim rộn rã những lời
nước non
Hát lên khúc hát hành quân
Đường ra phía
trước mùa xuân theo cùng
Biên cương rừng núi chập
trùng
Nghe người lính hát xanh từng mắt cây
Đèo
cao, dốc đứng nơi đây
Nghe người lính hát cánh tay
ngang bầm.
Kẻ thù sợ khúc hành quân
Khi người
lính hát vang ngân đất trời
Vẫn là khúc hát muôn
đời
Những người lính hát nối lời cha anh.
2-1987
T.B
THUÝ DUNG
HÁT VỀ ĐỒNG ĐỘI
Sẽ
chẳng bao giờ tôi hát hết được đâu
Những bài ca
về đồng đội
Đêm đông mưa và ngày nắng chín
Khúc
quân hành vang mãi không thôi
Đất nước chưa một
lần bình yên dựng xây
Đồng đội tôi chưa một lần
dừng bước
Nước còn giặc, còn đi đánh giặc
Câu
hát trao nhau vọng đến bây giờ
Sẽ chẳng bao giờ
tôi viết được thành thơ
Nếu không có đồng đội
tôi cầm súng
Những vùng đất xa xôi, những tháng năm
bề bộn
Mà cuộc đời vẫn đẹp với tình yêu
Cuộc
sống còn nhiều suy nghĩ lo âu
Đồng đội tôi vẫn ước
mơ - hy vọng
Tay biết gẩy đàn, biết ôm khẩu súng
Làm
cột mốc biên thùy cho Tổ quốc bình yên
Sẽ chẳng
bao giờ tôi vô ý lãng quên
Khúc quân hành đồng đội
tôi vẫn hát
Bao núi, bao sông... đồng đội tôi đã
vượt
Để bây giờ tôi được hát mê say!
1986
ĐÌNH HIỂN
TRÁI TIM CHIẾN SĨ
Có
cuộc đời nào đẹp như cuộc đời chiến sĩ
Khi chúng
mình mang màu xanh bình dị
Tạm biệt làng quê khoác
súng lên đường
Trong tim mình ấm áp mãi quê hương
Đời
chiến sĩ là cuộc đời đẹp nhất
Phải thế không
em?
Có tình yêu nào đẹp như tình yêu chiến sĩ
Khi
chúng mình gọi tên nhau đồng chí
Tiếng gọi đồng
lòng và chan chứa yêu thương
Thẳng một con đường
trọn vẹn thân thương
Nên chiến sĩ có tình yêu đẹp
nhất
Phải không em?
Có trái tim nào đẹp như
trái tim người chiến sĩ
Một trái tim đã luyện thành
chí khí
Biết yêu thương và căm giận tột cùng
Có
lời thề nào son sắt thế này không
Như lời thề
chiến sĩ?
Khi chúng mình trăm người cùng chung ý
chí
Đứng dưới quân kỳ rực rỡ trang nghiêm
Xúc
động tự hào và trân trọng hôn lên
Màu Tổ quốc
chói lòa ánh sáng.
Và tất cả đồng thanh hô
lớn
"Chúng tôi quân nhân trong quân đội... "
Ôi
lời thề sắt son vang dội
Mà thiêng liêng tự trái tim
mình.
...
Đ.H
LÊ MẬU LÂM
KHÚC HÁT GIỮA RỪNG
Giữa hai chặng hành
quân
Những người lính tạm nghỉ
Nơi đầu nguồn
con suối
Sẵn đá phiến ngả lưng
Giữa rừng sâu
nhen lưa
Qua bữa phong lương khô
Rồi bên nhau họ
hát
Khúc quân hành tháng năm
Cánh rừng mượt
trăng đêm
Mơ màng trong tiếng hát
Nhịp đàn là
tiếng suối
Reo vui bếp lửa hồng
Bài hát đã
trao dâng
Từ lòng người chiến sĩ
Về chặng đường
đã qua
Và chặng đường tiếp nối.
L.M.L
NGHỆ NGUYÊN
ĐI TRÊN ĐƯỜNG 30-4
Có một
con đường mang tên thời gian
Cho hôm nay anh và em dạo
bước
Cho hôm nay anh và em cùng hát
Về con đường
người lính đã đi qua
Năm tháng hy sinh – chiến
đâu - ước mơ
Ai ngã xuống bìa rừng trong cơn sốt
Ai
ngã xuống trước bình minh chiến thắng
Không trở về,
mỏi mắt mẹ chờ trông
Những con đường người
lính đã hành quân
Qua năm tháng gian lao, qua rộng dài
đất nước
Để đến với Sài Gòn - thành phố mang
tên Bác
Để có một con đường 30-4
Trong bình
yên, em nhé chớ bao giờ
Dẫu chỉ một lần ta quên đi
ngày ấy
Ngày người lính cắm cờ cho phố phường
vang dậy
Khúc hát hào hùng "Đất nước trọn liềm
vui"
Đi trên đường 30-4
Ta có cả hôm nay,
ngày mai và hy vọng...
Biết còn lắm gian nan
Nhưng em
ơi - cuộc sống ...
Là điệp khúc muôn lần vẫy gọi
chúng ta!
4-1987
N.N
VỆ SỸ
THỜI GIAN
Ngày
30 tháng 4 năm 1975
Sài Gòn náo nhiệt
Thành phố
không ngủ đâu - cờ bay và tiếng hát
Nước mắt rơi
sau năm tháng mong chờ.
Chuyện người lính cắm
cờ
Chuyện xe tăng vào "Dinh Độc Lập"
Trang
thư gửi về em – để em tin vào sự thật
Ngày mai?
Rất gần! Cuộc sống sẽ đẹp hơn
... Sau năm 1975
công việc vẫn bộn bề
Chuyện lính hôm nay nói sao cho
hết
Có Tổ quốc bình yên đổi bằng bao cái chết
Bát cơm chưa no, manh áo vá vụng về
Đừng trách
anh sao không biết nghĩ suy
Em chờ đợi mà anh thì biền
biệt
Biển cả mênh mông, núi rừng trùng điệp
Chẳng
có gì mà cất giấu riêng tư
Thì cử đi, như thế
tháng năm qua
Bình dị quá cuộc đời người lính
Mọi
cơ hội, mưu mô ... đều hổ thẹn
Trước những điều
người lính có hôm nay
Kẻ thù phía bên kia, ở
ngoài biển xanh này
Đối mặt với đê hèn là trát tim
người lính
Đối mặt với chính mình là niềm tin vô
tận
Là giản đơn chuyện người lính hôm nay
Thời
gian cứ vang lên những âm hưởng vơi, đầy.
Tháng 4-1988
V.S
NGUYỄN TẤT TƯỜNG
XUÂN
VỀ, NGƯỜI LÍNH BIÊN CƯƠNG
Rộn ràng khí
thế Chi Lăng
Đường lên biên giới ánh trăng thượng
tuần
Hoa rừng như níu bước chân
Đẹp sao cả một
mùa xuân đang về
Ở đây cái rét buồn tẻ
Càng
thêm ấm cúng tình quê ngọt ngào
Ở đây tiếng suối
xôn xao
Tưởng như tiếng mẹ ngày nào ru ta
Ngập
ngừng ngắt một đóa hoa
Nhớ câu hò hẹn quê nhà năm
nao
Mưa bay phấp phới chiến hào
Mưa xuân quê mẹ
bay vào lòng con
Xốn xang chim hót véo von
Nhớ
chăng tiếng sáo thuở còn chăn trâu
Mây ngàn trôi giữa
rừng sâu
Mơ màng một cánh buồm nâu xuôi dòng
Thư
nhà đến giữa ước mong
Thư riêng mà lại vui chung mọi
người
Vẫn là điếu thuốc chia đôi
Giòn tan chung
một tiếng cười trẻ trung
Xuân về thế trận ung
dung
Tiếng ca rộn cả một vùng biên cương.
N.T.T
VŨ NHƯ THỈNH
ĐẤT
NƯỚC VÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
Đường
Đất
nước đẹp bởi những con đường
Xanh ngát những hàng
dương
Đường không tự nhiên mà có
Theo bước
người đường mới vươn lên
Đường ngang dọc, khoanh
vùng trời đất
Đường với người tha thiết yêu
thương
Đường viền đỏ chàm tươi ấm hơi người,
đường không nghỉ
Rạo rực cả đêm cùng cả nước
đi đánh Mỹ
Đẹp! Con đường đỏ nâng tầm suy
nghĩ
Ta đi mở đường tháng ngày không nghỉ
Tiếng
mưa rơi rầm rì
Tiếng bom rơi rung trời
Đường vẫn
đi theo người
Qua đèo, qua suối
Mỗi ngày mốc mới,
xốc tới vây chặt quân thù
Tiếp bước cha anh
Ta
tạc lên mình Tổ quốc
Những con đường giữ nước
thân yêu.
V.N.T
VÕ TOÁN
KHÚC QUÂN HÀNH THẦN TỐC
Tặng T.Luận
Chúng tôi đi
Khúc quân
hành thần tốc
Xao xuyến trong lòng hai tiếng VỊ
XUYÊN
Biên giới thân yêu - mảnh đất dịu hiền
Mà
đá trắng
Cây khô
Nước dòng Lô đỏ đục
Chúng
tôi đi
Khúc quân hành thần tốc
Suốt mười lăm năm
chân cứng đá mềm
Thành Cổ kiên cường tám mươi hai
ngày đêm
Vang mãi trong tim
Quãng hòa âm
CHỐT
THÉP!
Chúng tôi đi
Khúc quân hành thần tốc
Từ
cửa ngõ Tây Nguyên xốc thẳng tới Sài Gòn,
Diệt lũ
quỷ mặt người, phóng Công Pông Xom
Cho âm hưởng dân
ca
Ngọt chất đường
Thốt nốt
Chúng tôi
đi
Khúc quân hành thần tốc
Nay lại về đâu với
"Cổ Ích", "Đồi Đài"
Với tất cả
tình yêu thương đất nước
Sẽ lại xây thành
LŨY
THÉP
Vị Xuyên ơi !
Vị Xuyên 8-1988
V.T
HOÀNG KIM THẤT
KHÚC
HÁT MỘT DÒNG SÔNG
Có dòng sông nào đẹp
bằng Hương Giang
Trong sáng như tình thương
Nghĩa
tình sâu nỗi nhớ
Tím thủy chung muôn thuở?
Từ
cội nguồn sông ơi!
Bao tháng ngày vất vả
Chắt
chiu từ mọi ngã
Góp thành dòng Hương Giang.
Em
lớn cùng dòng sông
Hương thơm màu đồng nội
Đẹp
tên anh đồng đội
Tên Binh đoàn Hương Giang
Ai
đặt tên dòng sông
Đi vào trong tiếng hát
Lịch sử
cùng chiến công
Của binh đoàn thần tốc
Ta hát
mãi bài ca
Vang chiến công oanh liệt
Của Binh đoàn
Anh hùng
Đẹp dòng sông Hương Giang.
H.K.T
TIẾN THỰ
HOA CHIẾN
SĨ
Khi mẹ sinh con đất nước quằn quại
trong chiến tranh
Bố mẹ còng lưng dưới bom làm ra hạt
thóc
Nuôi con lớn không
Nuôi con ăn học
Mỗi ngày
con lớn lên, mỗi trang bài con viết
Có vị mặn mòi
của đồng đất quê hương
Để hôm nay con lên đường
trở thành chiến sĩ
Như những chuyện thường ngày bố
kể
Về những năm chiến tranh
Cả nước ra chiến
trường
Cả nước thành chiến sĩ
Như những chuyện
thường ngày anh kể
Dưới đạn bom của thời đánh
Mỹ
Con gái vẫn ra chiến trường
Con vẫn nhớ
hôm con lên đường
Bố không nói chỉ nhìn con im
lặng
Là con hiểu niềm tin sâu lắng
Bố dành cho
con
Nhìn đôi mắt mẹ rưng rưng
Con biệt mẹ thương
con sẽ vào nơi bão táp
Còn như anh nắm tay em ấm
áp
Như trao niềm tin cho thế hệ sau mình
Bây giờ
con khoác áo màu xanh
Mang cả hình hài Tố quôc
Có lẽ
không gì khác được
Nỗi nhớ nhung con biết lắng
trong mình
Con hiểu rằng gian khổ sẽ quang vinh
Tuổi
trẻ chúng con là nơi tuyến đầu Tổ quốc
Con
hiểu nỗi nhọc nhằn của cha
Con thấm thía nỗi gian
truân của mẹ
Nên mỗi việc con làm dù nhỏ bé - cũng
màu xanh quê ta
Bây giờ đang là tháng ba
Tuổi trẻ
chúng con đang mì là thi đua mới
Ở quê nhà chắc gia
đình mong đợi
Con lập chiến công
Xin bố mẹ yên
lòng
Con mãi mãi là hoa chiến sĩ.
T.T
LÊ ANH THỐNG
NGƯỜI LÍNH MÙA
XUÂN
VÀ CÂU QUAN HỌ
Anh có về đâu
mà em hát "Người ơi ... "
Trời phía Bắc sáng
nay mưa nhè nhẹ
Mùa xuân đến cho đất trời thêm
trẻ
Câu quan họ bồi hồi nhắn gửi trong anh
Đồng
đội anh lên từ thuở còn xanh
Tóc đốm bạc vẫn hát
lời "Người ở... "
Một vùng đất, một vùng
trời thương nhớ
Say nồng nàn câu quan họ quê em
Anh
lên đây với trời đất biên cương
Để được gặp
mùa xuân sớm nhất
Để tìm lại trong lời ca em
hát
Niềm tự hào người lính với thời gian
Phía
bên kia pháo giặc vẫn bắn sang
Người lính đứng ở
đây làm cột mốc
Cho xuân đến những chồi non xanh
biếc
Cho ngọt ngào câu quan họ trao duyên
Mùa
xuân và quan họ quê em
Vẹn nguyên mãi cũng đất trời
thương nhớ
Ấm mãi lòng người lính sang xuân.
1986
LÊ DUY VĂN
TỪ THAO TRƯỜNG
Nắng
đến khô người cái nắng tháng năm
Cũng là gió nhưng
gió toàn hơi nóng
Đất trung du chiều nay trong im
lặng
Chỉ riêng lời người lính vẫn tươi
nguyên
Chiến hào dài, chiến hào nối dọc ngang
Nắng
và bụi cho thêm hồng gương mặt
Những người lính ùa
lên từ lòng đất
Và tiếng hô lại loang mãi đất
trung du.
Đây là thao trường người lính phải đi
qua
Hết mùa khô rồi đến mùa mưa rét
Là đất quê
hương trên mỗi bàn chân bước
Là khát vọng tràn đầy
trong mỗi trái tim.
Khi ấy chân trời bất chợt hiện
lên
Những người lính hành quân lên phía Bắc
Những
người lính từ thao trường đi đánh giặc
Đứng bên
nhau thành cột mốc biên thùy.
L.D.V
NGUYỄN TỰ LẬP
KHÚC TÂM TÌNH
I- TRANG SỬ VÀNG
Đã
ba mươi năm
Từ ngày ấy ra đi
Chúng tôi đã qua
bao mùa chiến dịch
Từ Cao Lạng - Hà Tuyên
Đến Tây
Ninh - Đồng Tháp
Qua Lào
Đất bạn Cam-pu-chia
Mỗi
chiến công thêm tô thắm màu cờ
Mỗi thành quả cùng
đơm bông kết trái
Mỗi chặng đường thêm yêu thương
biết mấy
Bao đồng chí ra đi không hẹn ngày về
Những
đồng đội suốt đời mang thương tích chiến tranh
Bao
người vợ mất chồng
Bố mẹ mất con
Ông
bà mất cháu
Máu của chúng tôi - lính binh đoàn đã
chảy
Nào vì hạnh phúc riêng ai?
Giây phút thiêng
liêng
Nén nhang thơm vương tỏa ngát tượng đài
Kính
viếng hương hồn liệt sĩ
Các anh đi xa về nơi yên
nghỉ
Luôn có chúng tôi
Trong mỗi bước đi cho hạnh
phúc cuộc đời
Luôn có các anh đi trong đội ngũ
II-
KẾ TỤC
Chặng đường dài hành quân
Muôn bước
chân không nghỉ
Con tiếp nối cha
Em nối tiếp
anh
Ba mươi năm
Thời gian trôi nhanh
Còn tươi
mãi muôn màu xanh, sắc áo
Còn trẻ mãi bao tuổi xuân
kỳ diệu
Ơi Hương Giang
Hương Giang!
Đất nước
mẹ hiền đã qua cuộc chiến tranh
Mà hải đảo, biên
cương chưa ngừng cơn bão tố
Con sóng biếc
Muôn
rừng xanh núi đỏ
Vẫn đêm đêm thao thức giữa năm
canh
Đất nước tôi đã đi qua chiến tranh
Và
cuộc sống hôm nay đã không còn đói khổ
Nhưng những
gì diễn ra còn bao điều trăn trở
Trong cơn lốc thị
trường
Đất nước tôi
Qua mất mát, đau
thương
Nên mỗi người dân đều trở thành người
lính
Tay mẹ bồng con
Khoác trên lưng khẩu súng
Trẻ
em đi học có mũ rơm
Đất nước ơi trong mỗi bước
đi lên
Cùng đội ngũ có chúng tôi trong đó
Nước
mắt
Và hoa
Tương lai
Trắc trở ...
Người lính
vẫn tiên phong suốt cuộc hành trình
Đất nước tôi
luôn mong muốn hòa bình
Người lính khát khao tình yêu
- hạnh phúc
Như con sông không mang dòng nước đục
Mãi
là ngời biếc, xanh trong
Ba mươi năm
Mỗi bước
trưởng thành
Trong đội ngũ bao lớp người kế
tiếp
Hương Giang
Ơi Hương Giang!
Bản trường
ca bất diệt
Với bao điệp khúc về Anh ...
Hương
Giang
Hương Giang!
Lớp lớp đã sẵn sàng.
Hà
Nội
Ngày 21 tháng 07 năm
2003
N.T.L
NGUYỄN TỰ LẬP
NHỚ
Buổi
anh đi
Theo bạn tiễn đưa
Em hhông khóc mà lệ tròn
khóm mắt
Phút chia tay
Chẳng lo buổi học
Lo đường
dài anh cay mắt, rộp chân.
Thế rồi anh đi, tháng
tháng, năm năm
Ai bảo yêu đâu
Nhưng thương thương,
nhớ nhớ!
Giếng nước trong xanh
Mái trường tươi
ngói đỏ
Những con đường in đậm dấu chân ai?
Thế
rồi anh đi bao mùa phượng đâm chồi
Tu hú gọi
Nhắc
hoài người tri kỷ...
Ơi anh - Người chiến sĩ
Tiễn
anh đi
Nguyện chờ đón anh về
Thương nhớ tháng năm
thành đường chỉ ai xe
Xuân 1974 -
1994
N.T.L
NGUYỄN TRỌNG BÍNH
LÀ KHI
Tặng Liên chiến sĩ thông tin
E463
Là khi thay bạn bị đau
Em ngồi trực
máy đêm sâu núi đồi
Sao Hôm đổi gác Sao Mai
Ngôi
sao thức trong đêm dài là em
Là khi mưa gió triền
miên
Bóng em ẩn hiện những miền gần xa
"Trăm
đứt ngàn nối... ", như là
Phải đâu vì chuyện
riêng ta với mình
Là khi em ngồi đánh gianh
Mắt
anh xao xuyến đan thành mến thương
Lợp nhà, em gái quê
hương
Thì ra em cũng cột rường, kém chi...
Là
khi vượt núi em đi
Vực sâu dốc dựng, máy tì nặng
vai
Gió đưa bối rối tóc mai
Là khi núi rộng sông
dài vẫy theo!
2-9-1974
N.T.B
----------------
Chú thích:
"Trăm
đứt ngàn nối... ": Ý từ câu ca dao:
Đôi ta
như sợi dây thừng
Trăm chắp ngàn nối xin đừng quên
nhau
LÊ DUY VĂN
HÁT VỚI HÔM NAY
"Ta đốt lửa
cho đời thêm ấm mãi"
Hát lên em giữa giá rét
ngày đông
Gió vật vã, cành cây rơi, lá úa
Đón
ngày xuân rạo rực nắng hồng.
Ta đốt lửa cho đời
thêm ấm mãi
Chút lo toan quên lãng giữa niềm vui
Em
xa lạ cũng chính em gần gũi
Nhịp tim nhân hòa nhịp
đất trời
Ta đốt lửa cho đời thêm ấm mãi
Sưởi
bàn tay chai sạn tháng ngày
Chim tránh rét bay về đang
hót
Khúc nhạc nào làm em mê say?
Ta đốt lửa cho
đời thêm ấm mãi
Câu hát ơi nhắn gửi một điều
gì?
Trong lặng lẽ hai bàn tay nắm chặt
Nghe lòng
mình hát với hôm nay.
12 - 1993
L.D.V
ĐÀO DUY NGHIÊM
TIN ĐIỀU CHẲNG MẤT
Thắp một nén
nhang
Trên bàn thờ bạn
Là thông lệ mỗi lần về
phép
Để hồi tâm nhớ thuở bạn bè ...
Tuổi
học trò
Tuổi hoa niên
Cái tuổi mơ màng, bình
yên
Nhưng
Chúng mình chưa một ngày được thế
Có
buổi học đôi ba lần dang dở
Trường lớp ngả
nghiêng những trận bom thù
Rồi tất cả lên đường
mang theo những lời ru
Màu áo xanh hướng theo chiều
súng nổ
Giữ nguyên vẹn những bồi hồi bỡ ngỡ
Một
chấm lệ rơi – Cô bạn cùng trường
Gần hai mươi
năm trở lại đời thường
Bạn bè của chúng mình
thuở trước
Đứa gặp thời, đứa làm ăn được
Thằng
vận đen vất vả trường đời
Nhưng tất cả chúng nó
đều nhớ cậu
Nằm một mình, xa tít cánh rừng
hoang!
Chốn vĩnh hằng cậu có biết hay không
Mái
nhà xưa giờ chỉ còn mình mẹ
Suốt tháng ngày ra vào
đơn lẻ
Đợi một sự bất ngờ
Cầu mong trời
phật
Một ngày kia con mình lại trở về !
Hôm
nay về phép
Thắp một nén nhang
Trên bàn thờ
bạn
Hướng cõi hư vô
Tin điều chẳng mất.
9-1993
Đ.D.N
VƯƠNG TRỌNG
TIẾNG VE TRƯA ẤY
Tặng chiến sĩ xe tăng Lữ đoàn
203
Cắm cờ lên đích cuối cùng
Tăng về
nép dưới bóng rừng nghỉ ngơi
Cửa tròn vừa mới hé
thôi
Nhô đầu ra, ngập một trời tiếng ve
Từng
người cởi mũ lắng nghe
Nhìn nhau: mùa hạ đã về
rồi sao?
Lên xe đang lúc hoa đào
Mùa xuân đưa
tiễn mát vào thép tăng
Con đường số Một giăng
giăng
Thương xe, cành lá núi rừng gửi theo
Trong bầu
- trời - thép thân yêu
Có khi xung trận nhớ nhiều trời
xanh.
Tiếng ve gọi nắng trong cành
Hàng cây thay
lá mát lành lộc non.
Tăng đi đất lở, đá mòn
Ngỡ
dây xích quấn cả con đường vào
Tiếng cờ xé gió
trên cao
Ầm ầm đại pháo, ào ào đại liên
Vẫn
còn những phút lặng yên
Trong tăng nghe rõ nhịp tim
từng người...
Bao nhiêu âm điệu quen rồi
Mà
nay nghe tiếng ve sôi, ngỡ ngàng
Bè trầm, trầm sát đất
bằng
Bè cao, cao vút mấy hàng cây xanh
Tiếng ve
mấy chục năm dành
Hôm nay đọng mật ngọt lành trái
cây...
Thật rồi, mùa hạ về đây
Có nhau đâu,
tiếng ve này, bạn ơi
Bởi mình say trận quá thôi
Trong
tăng quên mất ngoài trời mùa đi!
Thủ Đức 5-1975
V.T
TRẦN ĐĂNG KHOA
KHÚC VUI CA
CỦA LÍNH THỜI
BÌNH
Tặng các
chiến sĩ Quân đoàn 2
Đất nước không bóng
giặc
Tưởng về gần, lại xa
Vẫn gian nan làm bạn
Vẫn gió sương làm nhà.
Bãi hoang thành đô
thị
Ai đi áo dài bay
Còn ta thì đóng gạch
Lấm
lem hơn thợ cày
Trước giặc, là lính cựu
Sau
trâu, là tân binh
Cái nghèo và cái dốt
Bày trận
giữa thời bình.
Trông lâm ly sỏi đá
Lòng ta
mềm cỏ hoa
Nhớ nhà, lên dốc vắng
Dõi một làn
khói xa.
Em vẫn thầm lộng lẫy
Chờ ta như thuở
nào
Lặn lội tìm biết có
Gặp ta trong chiêm
bao?
Và những kẻ thù xưa
Nhìn mặt, giờ quen
cả
Có gì đâu, máu người
Chẳng phải là nước lã
!
Các cậu đến làm bạn
Ô kê! Rượu uống
chơi
Nhảy múa ư? Hảo hảo
Tớ cũng học được rồi
!
Pháo nằm như mơ ngủ
Núi bay dải mây tình
Các
cậu đừng có tưởng
Chúng tớ lính thời bình!
Lạng Giang 4- 1994
Kỷ
niệm ngày thành lập Binh đoàn Hương Giang
T.Đ.K
ANH NGỌC
TRỞ LẠI SƯ ĐOÀN
Kính
tặng Đoàn B25
Binh đoàn
Hương Giang đơn vị cũ của tôi
Giá có ở đây
một đồng đội cũ
Để ngồi bên nhau trong phút giây
này
Tất cả sẽ như hai mươi năm về trước
Cả
sắc trò, dáng núi màu mây
Hai m ươi năm... tất cả
vẫn còn đây
Vẫn còn đây những đồi cao lũng
thấp
Công sự mới và mùi thơm của đất
Những
chiến hào len lỏi giữa sim mua.
Cả tiếng cười
tron trẻo của ngày xưa
Cũng vọng về đây từ môi
người lính trẻ
Chàng đứng đó hòn nhiên tươi tắn
thế
Mắt binh nhì ngơ ngác tuổi đôi mươi
Vầng
trăng quen đã lặn phía sau đồi
Tôi trở về dưới
mái lều lính trận
Đêm cuối thu ngả mình nằm giữa
ruộng
Lại như xưa ngửa mặt đếm sao trời
Vây
quanh tôi vẫn rơm rạ tháng Mười
Vẫn cọng cỏ dưới
lưng mình ram ráp
Nghe rậm rịch chân ai vừa đổi
gác
Con cào cào đập cánh ở đâu đây
Hai mươi
năm ... mới lại có đêm nay
Đêm cuối bãi đầu bờ
lăn lóc
Những người lính màn trời chiếu đất
Ngủ
ngon lành sau một chặng hành quân
Thế là tôi đã
về giữa sư đoàn
Dẫu quanh mình không một gương mặt
cũ
Có sao đâu, đêm nằm năm ở
Sáng mai ra tất cả
lại thành quen.
Đêm dã ngoại
10-11-1993
A.N
Quân đoàn 2 - Bản
trường ca chiến thắng anh hùng
Nhạc
và lời: Thuận Yến
Một sáng tháng năm trước ngày
sinh nhật Bác
Một ngày thiêng liêng lịch sử
Rừng
Ba Nang-Ba Lòng bông lau nở trắng
Từ nơi đây Quân đoàn
2 ra đời
Từ ngày ấy viết thêm trang sử mới về
những sư đoàn và những trung đoàn vượt núi băng
sông,
xuyên qua màn đêm đi dọc miền Trung tiến vào
giải phóng Thượng Đức lập chiến công đầu vẻ
vang
Chiến dịch Xuân hè năm ấy cả nước bừng bừng
khí thế tiến công.
Cả quân đoàn như một dòng sông
tràn về biển Đông ào ào như thác đổ.
Đánh giặc
mà đi!
Mở đường mà tiến đánh chiếm thành Huế,
giải phóng Đà Nẵng thừa thắng xông lên thần tốc thần
tốc! Táo bạo quyết thắng
Tiến vào Sài Gòn quân thù
đầu hàng.
Cắm cờ lên dinh Độc Lập
Vẻ vang thay!
Quân đoàn Hai – Bản trường ca chiến thắng anh
hùng.
Một sáng tháng năm trước ngày sinh nhật
Bác
Một ngày thiêng liêng lịch sử
Rừng Ba Nang-Ba
Lòng bông lau nở trắng
Từ nơi đây Quân đoàn 2 ra
đời
Ngày toàn thắng tiếp thêm trang sử mới
truyền thống quân đoàn điệp khúc quân hành, nào xá
gian lao băng qua Trường Sơn lên tận miền tây giúp bạn
bình yên cuộc sống tình nghĩa bạn bè thẳm sâu!
Có
gì vui bằng xuân ấy
Tổ quốc hòa bình thống nhất
Bắc Nam niềm khát khao chưa trọn niềm vui
bọn giặc
dã man vượt rừng sang đất Việt
Bảo vệ phương Nam,
giữ yên phương Bắc
Đứng trước đầu sóng ở nơi
tiền phương
Tổ quốc yêu thương đánh tan xâm lăng
bảo vệ hòa bình xây dựng quê hương đẹp giàu
Quân
đoàn Hai – Bản trường ca chiến thắng anh
hùng.
---------------------------
Do hình ảnh của
bài nhạc quá nhỏ nên tôi tạm chép lại lời bài hát
như trên, còn nhịp điệu và cách ngắt nhịp của bài
hát như thế nào kính nhờ các bác, các chú... biết bài
hát này chỉnh giúp.
Ơi thân thương
Hương Giang
Nhạc và
lời: Thái Văn Hóa
Dịu dàng ơi tên của dòng sông
tháng năm lẫy lừng bao chiến công
Hương Giang, Hương
Giang thân thương tên gọi mà nghĩa nặng tình sâu ơi
chiến khu Ba Lòng.
Mẹ kể quê mình đây Trị Thiên khói
lửa, sắt son kiên cường mang nặng nghĩa tình dân.
Hạt
thóc nuôi quân bao lần thắm đỏ, để sáng tháng năm lớn
dậy binh đoàn a hà hà hà.
Thượng Đức, La Sơn trận
đầu thắng lợi
quân ta reo mừng mặt mẹ rạng
ngời,
đường mùa xuân như thác đổ giữa thành đô
vang tiếng quân reo.
Hương Giang, Hương Giang, quân ta đi
như muôn dòng sông,
Nghe Hương Giang hát với Mê Công,
Mãi thủy chung tình bè bạn dạt dào như sông nước
quê hương, Hương Giang, Hương Giang
Nghe Hương Giang hát
với sông Cầu nay hiên ngang trụ vững tuyến đầu,
Qua
gian lao bao nghĩa tình vẫn ngọt ngào,
Tên gọi Hương
Giang vẫn ngọt ngào
Tên gọi Hương Giang ơ hờ.
Mãi gọi tên binh
đoàn
Nhạc và lời: Ngọc Toán
Ngược dòng Hương Giang đi
tìm dấu chân xưa
Dốc Miếu, Cồn Tiên Quảng Trị ơi!
Cửa Tùng
Ngược dòng thời gian lần theo năm tháng,
Vẫn
vẹn nguyên khúc hát lính Binh đoàn ...
Quảng Trị ơi
hôm nay ta trở lại lòng bồi hồi vẫn thấy bóng đoàn
quân
Mẹ hiền ơi! Huế của ta ơi! Tình nghĩa nặng sâu
bền lâu kỷ niệm
Một giọng hò trên sông Hương
Cả
cuộc đời ta mang theo
Mỗi bước quân đi mang chiến
thắng trở về
Ngược dòng Hương Giang đi tìm dấu
chân xưa
Dốc Miếu, Cồn Tiên Quảng Trị ơi! Cửa
Tùng
Ngược dòng thời gian lần theo năm tháng,
Vẫn
vẹn nguyên khúc hát lính Binh đoàn ...
Mẹ hiền ơi!
hôm nay con trở lại, lòng bồi hồi bỗng thấy bóng mẹ
ta
Đồng đội ơi! Mãi gọi tên nhau! Trận đánh còn
đây và bao kỷ niệm
Lại gọi đò trên sông Hương
Để
ngàn lần ta mang theo mỗi bước quân đi
Hương Giang
ơi! Hương Giang ơi! Gọi mãi tên Binh đoàn ...
Khúc quân hành chiến
sĩ Quân đoàn Hai
Nhạc và lời: Vũ Trọng
Tường
Chiến sĩ binh đoàn Hương Giang trận đầu
ra quân đã chiến thắng Thượng Đức, La Sơn.
Thần
tốc dọc duyên hải tiến công
Giải phóng Huế, Đà
Nẵng, Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân
Hiệp đồng đánh
lớn chiến dịch Hồ Chí Minh xốc tới giải phóng miền
Nam
Mãi mãi không quên những chiến công lẫy lừng
xe
tăng quân đoàn đã húc tan cửa sắt
cờ giải phóng
tung bay trên nóc Dinh Độc Lập
sáng chói trang sử vàng
truyền thống Quân đoàn Hai.
Thần tốc dọc duyên
hải tiến công
Giải phóng Huế, Đà Nẵng, Phan Rang,
Phan Thiết, Hàm Tân
Hiệp đồng đánh lớn chiến dịch
Hồ Chí Minh xốc tới giải phóng miền Nam
Mãi mãi
không quên những tấm gương anh hùng hy sinh thân mình
quyết đánh tan ngoại xâm
vì giải phóng quê hương xây
đất nước mạnh giàu
hát mãi khúc quân hành chiến sĩ
Quân đoàn Hai.
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét