Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013

Mặt trận Đông Bắc sài Gòn - Nam Hà

 MẶT TRẬN ĐÔNG BẮC SÀI GÒN
ký sự

Kính tặng!
Quân đoàn bộ binh số 4 và sư đoàn bộ binh số 7 - Sư đoàn anh hùng
 

Phần một

HÀNH LANG CHIẾN LƯỢC


                  
I


Cuộc họp của đảng uỷ sư đoàn mở rộng thảo luận nhiệm vụ của sư đoàn trong chiến dịch kết thúc. Niềm vui và lòng tin hiện lên trên khuôn mặt từng người. Trước khi các cán bộ ra về, ông Sáu*, chỉ huy phó mặt trận nói với chính uỷ Liêm:
-   Báo cho các đồng chí trong thường vụ Đảng uỷ, chủ nhiệm chính trị và tham mưu trưởng ở lại. Tôi muốn nói chuyện them.
Chính uỷ Liêm đưa mắt nhìn phó chính uỷ Nguyễn Thái, chủ nhiệm chính trị Thẩm và tham mưu trưởng Thứ. Họ ngồi xuống, lật sổ tay. Sư trưởng Nam Phong liếc nhìn ông Sáu, ông đoán thường vụ sẽ dược biết thêm những việc quan trọng. Một ý nghĩ mới hiện ra rất nhanh, ông quay lại gọi to về phía cán bộ, lúc đó đã ra khỏi hội trường:
- Báo cho ban chỉ huy trung đoàn 14 chờ tôi ở bên nhà.
- Rõ!
- Tiếng của một cán bộ đi sau đáp lại.
Sư trưởng Nam Phong nhìn quanh một lượt khắp hội trường rồi nhìn ông Sáu:
- báo cáo anh Sáu, không còn ai xung quanh.
- Được, ta bắt đầu!
Quân đoàn phó Khắc Vũ rót chén nước đặt trên bàn trước chỗ chỉ huy phó ngồi, ông gật đầu tỏ ý cảm ơn rồi chậm rãi nhìn từng người như muốn biết những người ngồi đây hiểu nhiệm vụ như thế nào, hiểu đến đâu?
Các uỷ viên cũng nhìn ông với ánh mắt chờ đợi, sẵn sang nghe, sẵn sang tiếp thu những ý kiến mới của thủ trưởng cấp trên. Những ánh mắt gặp nhau, trao cho nhau nềm tin và sự thân mật. Chỉ huy phó mặt trận nhìn chính uỷ và sư trưởng lâu hơn, ông hỏi, giọng điềm đạm:
-   Các đồng chíđã nghĩ thêm được những gì, đã hiểu thêm được những gì về tình hình và nhiệm vụ? Tôi ;muốn biết, muốn hiểu cái phần đó của từng đồng chí. Cái phần do trách nhiệm, do kinh nghiệm, do óc thông minh, do sự phán đoán đúng với quy luật. Cái phần mà cấp trên, hoặc vì nguyên tắc bí mật, hoặc vì chưa có ý định phổ biến, hoặc vì phạm vi, nhiệm vụ của từng chiến trường, từng đơn vị, chưa cho các đồng chí biết. Nhưng mọi người lại có quyền suy nghĩ, nhất thiết phải suy nghĩ, suy nghĩ kỹ hơn, suy nghĩ xa hơn. Điều mà chúng ta thường gọi là tìm hiểu nhiệm vụ một cách sâu sắc, nghĩa là hiểu được ý định chiến thuật, chiến dịch và cả chiến lược của trên.

Ông lại nhìn từng người, như muốn biết những người đang ngồi đây có hiểu được ý nghĩa những câu nói của ông không? Ông liếc nhìn tấm bản đồ toàn miền Nam tỉ lệ 1/50.000 treo trước mặt rồi đột nhiên ông mỉm cười:
- Tôi rất bận, các đồng chí cũng rất bận, bao nhiêu công việc khẩn cấp đang chờ chúng ta. Tôi hỏi hơi đột ngột phải không? Tôi không có thì giờ nghe từng đồng chí phát biểu. Thôi được, vì sư đoàn hoạt động độc lập một hướng chiến dịch, tôi thấy cần thiết phải nói thêm với các đồng chí một số điểm để có cơ sở hạ quyết tâm kịp thời, chính xác, không bỏ lỡ thời cơ. Ông nghiêng đầu xuống nhìn chén nước như ngẫm nghĩ, như chọn lọc những điều cần nói, rồi ông ngửng đầu, giọng đều đều:
- Các đồng chí biết rồi đấy, từ năm bốn lăm đến nay vừa đúng ba mươi năm. Cuộc chiến tranh cách mạng nhằm giải phóng toàn bộ đất nước khỏi ách nô dịch của đế quốc cũng vừa chẵn ba mươi năm. Ba mươi năm chúng ta cầm súng, ba mươi năm nhân dân ta hy sinh nhưng không lùi một bước mà ngày càng tiến lên. Các đồng chí hẳn còn nhớ các giai đoạn của cuộc chiến tranh này đã diễn ra như thế nào, và các đồng chí cũng hiểu được giai đoạn này là giai đoạn gì? Năm ngoái, chiến trường chúng ta ở chiến dịch Phước Long. Sư đoàn các đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chúng ta đã tổng kết. Sau chiến dịch Phước Long, nhiều tình hình mới xuất hiện rất có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Năm nay Trung Ương quyết tâm mở chiến dịch tiến công chiến lược với phạm vi và quy mô lớn, chắc chắn sẽ rất lớn.
Ông ngừng lại thăm dò thái độ từng người. Tất cả đều chăm chú nghe, ông nói tiếp , giọng nhanh hơn:
- Nhiệm vụ của sư đoàn vẫn như đã giao, cấp trên yêu cầu các đồng chí phải nhận thức thật đúng, thật tốt  để lãnh đạo và chỉ huy sư đoàn  làm tròn nhiệm vụ một cách xuất sắc. Vì vậy, tôi muốn nói thêm với các đồng chí vài vấn đề. Thứ nhất, tôi muốn nói là vấn đề “Cục bộ và toàn thể”. Cục bộ chịu sự chỉ huy của toàn thể, phục tùng toàn thể, không chỉ bằng trách nhiệm, bằng nghĩa vụ, bằng sự tự giác, bằng kế hoạch mà còn bằng mệnh lệnh và kỷ kuật nữa. Vấn đề đó ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh là một vấn đề hết sức quan trọng. Các đồng chí xem đây.
Ông đứng dậy, cầm cây chỉ bản đồ có bọc vải đỏ ở đầu mút, chỉ lên vùng Tây Nguyên:
-Trong mấy ngày nữa sấm sét mở màn chiến dịch sẽ nổ ra đầu tiên ở đây, thị xã Buôn Ma Thuột. Tại sao trận mở màn lại diễn ra ở đó và tác động của nó đối với chiến trường miền Trung, đối với các chiến trường khác như thế nào thì các đồng chí hãy suy nghĩ và xem xét.

Tôi chỉ lưu ý các đồng chí một vấn đề về quân sự, đó là những cọn đường từ các nơi lên Tây Nguyên. Những con đường ở miền Trung như: Đường 19, đường 21, đường 11 sẽ bị cắt đứt, đường không sẽ bị khống chế. Bọn địch chỉ còn một đường duy nhất là đường 20 từ nam Xuân Lộc ngược lên nối với đường 21 kéo dài quãng gần quân lỵ Đức Trọng. Định Quán là cứ điểm phòng thủ của địch ở đầu quân khu Ba và cuối quân khu Hai trên dải nam Tây Nguyên. Các đồng chí đánh Định Quán, Lâm Đồng tức là trực tiếp phối hợp với các chiến dịch Tây Nguyên, góp sức cùng với các đồng chí ngoài đó giải phòng toàn bộ quân khu Hai từ rừng xuống biển. Thực hiện một cuộc bao vây, chia cắt lớn đối với toàn chiến trường miền Nam. Ông ngừng lại nhìn mọi người rồi nói tiếp:
-Tôi nói vậy chắc các đồng chí nghĩ tới khả năng địch có thể dung đường 20 tiếp viện cho Tây Nguyên. Đó là khả năng mà chúng ta phải dự kiến tới , tuy rằng trong thực tế bọn địch rất khó có khả năng thực hiện được vì đường rất xa, rất hiểm trở, rất dễ bị ta tiêu diệt. Cấp trên cũng không giao cho các đồng chí làm nhiệm vụ như kiểu chốt chặn chiến dịch, nhưng về phía các đồng chí thì cần thêm rằng, các đồng chí chiếm được Định Quán tức là đóng một cái chốt từ xa chặn đứng mọi sự cứu viện cho Tây Nguyên bằng đường 20 nếu có. Các đồng chí phải nắm thật vững nhiệm vụ của sư đoàn là mở hành lang chiến lược, mở đường tiến vào Đông - Bắc Sài Gòn. Vì vậy nếu đánh chiếm nhanh Định Quán  là chúng ta đã mở được đầu mối của một trục giao thông chiến lược. Sau Định Quán , sư đoàn phải giải phóng Lâm Đồng, toàn  bộ đường 20, có thể phát triển lên Tuyên Đức- Đà Lạt, hoàn chỉnh  vùng giải phóng Nam-Bắc Tây Nguyên. Như vậy, ngoài những hành lang chiến lược đã có, chúng ta sẽ có thêm một hành lang chiến  lược mới rất đẹp, rất tốt, chạy suốt từ Bắc chí Nam. Hãy tưởng tượng xem tình hình sẽ phát triển như thế nào khi ta có thêm một hành lang chiến lược tốt như thế? Và có phải mỗi hành lang chiến lược là một dòng sông lớn không? Các dòng sông ấy đều đổ về phía Nam. Cùng với Tây Nguyên là  Trị Thiên, là miền Trung, là chiến trường của chúng ta. Các đồng chí hãy nhớ rằng sự sụp đổ về chiến dịch của địch là tiền đề cho sự sụp đổ về chiến lược. Chúng ta chưa thể dự kiến hết , phán đoán hết mọi diễn biến cụ thể. Nhưng so sánh lực lượng, cái thế quân sự, chính trị, ngoại giao, cái thế chung của chiến tranh đã cho phép chúng ta suy nghĩ, chuẩn bị, hành động và cả tưởng tượng một cách chính xác , có cơ sở, có căn cứ chứ không viễn vông, không phiêu lưu.
-Vấn đề thứ hai tôi muốn nhấn mạnh với các đồng chí là: Chúng ta. một quân đoàn chủ lực, nhưng lại mang thêm tính chất địa phương. Chúng ta ở ngay một địa bàn quan trọng bậc nhất, nơi tập trung các cơ quan đầu não và là hang ổ cuối cùng của địch. Muốn kết thúc chiến tranh, ta phải đánh chiếm và giải phóng Sài Gòn. Vì vậy, ngoài nhiệm vụ chung phối hợp chiến dịch, chúng ta còn có nhiệm vụ cụ thể là mở rộng địa bàn chiến lược, để thời gian tới có khả năng tập kết nhiều binh đoàn lớn. Có nghĩa là quân đoàn chúng ta phải quét sạch các chi khu, quân lỵ, các căn cứ nằm trên trục đường quanh vòng cung Sài Gòn. Như vậy nhiệm vụ sẽ nặng nề hơn. Cuộc chiến đấu sẽ diễn ra với sự mất còn, sẽ vô cùng ác liệt. Bởi vậy, tôi nhấn mạnh một lần nữa vấn đề” Cục bộ và toàn thể”. Nói một cách cụ thể, sư đoàn 7 phải diệt cho được chi khu Định Quán, tuyệt đối không cho địch sử dụng đường 20, giải phóng nó, nhanh chóng mở thêm một hành lang chiến lược mới.
Giọng nói của ông chắc nịch, gieo từng chữ vào tai mọi người, nét mặt của ông trang nghiêm. Ông đưa mắt nhìn từng người rồi nhìn lên bản đồ và yên lặng. Một lát, ông quay lại, giọng trở nên xúc động:
- Các đồng chí thấy đó, chưa bao giờ nhiệm vụ lại đòi hỏi sự nỗ lực cao  nhất của bộ óc chúng ta, trái tim chúng ta, đôi vai chúng ta - Những người chỉ huy – Như bây giờ. Chưa bao giờ kỷ luật chiến trường lại nghiêm ngặt như bây giờ, nhưng cũng chưa bao giờ tình hình lại thuận lợi và hết sức phấn khởi như bây giờ. Bộ đội ta sẽ nhất tề xông lên theo mệnh lệnh của tổ quốc. Họ đòi hỏi những người chỉ huy chúng ta phải thông minh, táo bạo, phải quả quyết. Vấn đề cuối cùng tôi nhắc các đồng chí là sư đoàn độc lập một hướng chiến dịch,việc thỉnh thị, báo cáo phải tuân thủ triệt để, nhưng mặt khác phải mạnh dạn, phải khẩn trương, phải thần tốc khi thời cơ đến.

Chỉ huy phó về chỗ ngồi, uống cạn chén nước. ông mỉm cười, nhìn từng người:
- Thế nào? Các đồng chí có ý kiến gì không? Đồng chí Ba Vũ có ý kiến gì không?
Quân đoàn phó Khắc Vũ nhìn sư trưởng Nam Phong rồi nói:
- Báo cáo anh Sáu, để các đồng chí sư đoàn phát  biểu trước.
Sư trưởng Nam Phong đứng dậy, ông vẫn là một người mau mắn:
- Báo cáo thủ trưởng, bây giờ chúng tôi hiểu rộng hơn, sâu hơn, thấu suốt nhiệm vụ của sư đoàn hơn.
Sư trưởng Nam Phong nhìn chỉ huy phó với cặp mắt biểu hiện sự biết ơn, ông cười như một kẻ có lỗi và nói tiếp:
- Báo cáo anh Sáu, thú thực chúng tôi cũng chưa có thì giờ để nghĩ sâu, nghĩa rộng như vậy, với lại ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi phạm vi nhỏ hẹp của chiến trường.
Chỉ huy phó cười to, quay sang chính uỷ Liêm:
- Thế nào anh Tư?
Chính uỷ Liêm đứng dậy:
- Báo cáo anh Sáu, chúng tôi sẽ tìm mọi cách quán triệt cho cán bộ, chiến sỹ toàn sư đoàn, nhất là khi thảo luận trên sa bàn. Chúng tôi tin tưởng và quyết tâm.
Chỉ huy phó gật đầu, ông quay sang phó chính uỷ Thái:
- Tình hình mới như vậy, chắc công tác chính trị chiến dịch, công tác chính trị chiến đấu sẽ rất phong phú phải không anh Thái?
Phó chính uỷ Thái tươi tỉnh đứng lên:
- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi đã triển khai xuống tận cơ sở, sẽ tiếp tục bổ sung kế hoạch cho từng trận, từng đợt, hợp với sự phát triển chung.
- các đồng chí có đề nghị gì không?
Sư trưởng Nam Phong vừa liếc nhìn quân đoàn phó vừa đụng vào chân ông. Quân đoàn phó hiểu ý, nói luôn:
- Báo cáo anh Sáu, hướng này đang có một khó khăn chưa giải quyết được, đó là thiếu xe vận tải. Hiện nay quân đoàn chỉ có sáu xe, sư đoàn có hai (Quân đoàn phó liếc nhìn sư trưởng Nam Phong, gặp ngay một cái nháy mắt. Chả là sư trưởng Nam Phong hay nói hai chiếc xe tải của sư đoàn không đủ chở phụ nữ trong sư đoàn đi đẻ, lấy đâu chở quân. chở đạn - Thực ra thì phụ nữ cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, nhưng bực vì thiếu xe nên ông nói vậy – Ông sợ quân đoàn phó buộc miệng nói ra câu đó trước cấp trên thì không hay nên mới nháy mắt). Quân đoàn phó Khắc Vũ mỉm cười thông cảm và nói tiếp:
- báo cáo anh Sáu, tất cả có tám chiếc, tám chiếc thì đủ chở đạn.
- Các đồng chí cần thêm bao nhiêu?
Sư trưởng Nam Phong đứng ngay dậy:
-Báo cáo anh Sáu, trước mắt chúng tôi cần bốn chục, như thế mới đủ cơ động sư đoàn đến chiến trường đến chiến trường theo lịch hành quân đã quy định ở trên.

Chỉ huy phó suy nghĩ một chút rồi gật đầu:
- Bộ chỉ huy đã có ý định bổ sung xe cho các đồng chí. Bao nhiêu còn phải tính với Cúc Hậu Cần. Trước mắt, các đồng chí sẽ nhận ba mươi chiếc. Giấy đâu, đưa tôi viết lệnh, các đồng chí định chỗ móc ráp đi.
Chỉ huy phó viết xong, mệnh lệnh được truyền đi. Chỉ huy phó hỏi sư trưởng Nam Phong:
- Bao giờ đồng chí xuất phát?
- Cáo cáo anh Sáu, 15 giờ chiều nay!
- Bằng phương tiện gì?
- Báo cáo bằng hon đa!
Chỉ huy phó gật đầu hỏi tiếp:
- Còn các trung đoàn và các đơn vị phối thuộc?
- Báo cáo 5 giờ sáng ngày 9 tháng 3!
- Phải tuyệt đối giữ bí mật, cả những vấn đề tôi vừa nói. Chú ý hệ thống vô tuyến điện. Phần các đồng chí phải thực hiện tốt chiến lược nghi binh. Còn phần nghi binh chiến dịch quân đoàn và bộ chỉ huy cấp trên tiến hành. Đồng chí đi trước cần kiểm tra cả ba bến vượt sông, nhất là bến phà cho pháo cơ giới và xe tăng. Đảm bảo đúng lịch hành quân, đường hành quân, bến vượt, vị trí tập kết. Kiểm tra thật kỹ việc chuẩn bị đánh chi khu. Định Quán cứng và phức tạp hơn Đồng Xoài nhiều. Phải tiếp tục nghĩ them về cách đánh, cho anh em thảo luận dân chủ, quần chúng có thêm nhiều sáng kiến.
Ông quay sang phía quân đoàn phó:
- Đồng chí Ba Vũ có đi ngay với sư đoàn không?
- Báo cáo anh Sáu, tôi còn sẽ vào quân khu Bảy bàn công việc rồi sẽ lên sau.
Chỉ huy phó nhìn đồng hồ rồi đứng dậy, tất cả cùng đứng lên theo, ông cười vừa bắt tay từng người vừa nói:
- Nói mãi không hết. Cuối cùng tất cả đều từ cái này và cái này - ông chỉ lên đầu và ngực, mọi người đều hiểu ông muốn nói đến khối óc và trái tim - Thôi nhé! Tôi phải về đây, không ở lại được để xem các đồng chí ra quân. Chúc các đồng chí, chúc toàn thể bộ đội khỏe mạnh, vui vẻ, quyết chiến quyết thắng, làm dày thêm truyền thống vinh quang của sư đoàn Chiến Thắng.

* Tức trung tướng Lê Đức Anh, phó chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Miền.

Các uỷ viên tiễn chân chỉ huy phó ra tận đường rồi ai về nhà nấy. Nhiều công việc trước ngày ra quân đang đợi họ.
Sư trưởng Nam Phong trở lại hội trường với tấm bản đồ. Ông đứng, tay chống nạnh, đôi mắt một mí nhìn xoáy vào vùng Tây Nguuyên. Ông vừa nhìn vừa suy nghĩ, đôi mắt lúc nhíu lại, lúc mở to. Trên tấm bản đồ như đang hiện ra các mũi tiến quân và những trận đánh nảy lửa. ông nói một mình:
- Sao  lại không đánh Kon Tum như năm 1972, hoặc không đánh Plây Cu - Sở chỉ huy quân đoàn 2 nguỵ mà lại đánh Buôn Ma Thuột?
Ông ngẫm nghĩ, đôi mắt chiếu từ chiến trường này sang chiến trường khác. Ông lùi một bước, toàn bộ chiến trường từ Sài Gòn trở ra thu gọn trước mắt ông, ông gật đầu tự giải thích:
- Phải rồi, Muôn Ma Thuột là trung tâm của Tây Nguyên rất gần với vùng đồng bằng ven biển khu Năm, nơi có nhiều đầu mối giao thông với các nơi. A…ông gần như reo lên:
- Đúng rồi! Tuỵệt quá, đó là một mũi thọc sườn chiến dịch, một mũi vu hồi chiến lược, điểm đúng mạng mỡ kẻ thù. Cùng với cảnh chiến dịch Trị Thiên, khu Năm. Mũi vu hồi này sẽ thọc ra tận biển, cắt đôi miền Nam, quay quân đoàn 1 và quân đoàn 2 nguỵ lại để tiêu diệt. Hiểm! Các cụ lựa chọn một nơi rất hiểm, hoàn toàn khác chiến dịch năm 1972. Bọn địch sẽ bị bất ngờ lớn.
Sư trưởng Nam Phong gật gù, ông bước nhanh ra ngoài gọi lớn:
- Đồng chí liên lạc đâu, báo cho cán bộ trung đoàn 14 sang gặp tôi ở đây.
- Rõ! Tiếng cậu liên lạc từ xa đáp lại.
Sư trưởng Nam Phong quay vào đứng trước bản đồ tiếp tục những suy nghĩ – ông biết địa bàn đứng chân của các quân đoàn phía Bắc. Với những chỗ đứng chân như vậy, với những gì đã chuẩn bị được từ sau Hiệp định Pari đến nay, nhất là hệ thống đường sá và hậu cần, chắc chắn chiến dịch sẽ nổ ra rất mới, rất lạ, rất đặc biệt. Rút dây động rừng. Trận này chắc chắn rừng sẽ động dữ dội đây. Chỉ huy phó hoàn toàn đúng khi ông chọn lấy một vấn đề, trong hàng loạt vấn đề cần phải căn dặn thêm, đó là vấn đề “Cục bộ và toàn thể”, một mặt trận với toàn bộ chiến trường. Đôi mắt sư trưởng Nam Phong bám theo đường 21 kéo dài từ Buôn Ma Thuột xuống quân lỵ Đức Trọng, ông dừng lại ở cái ngã ba hai con đường gặp nhau, dừng lại ở thành phố Đà Lạt và đường 11 xuống Tháp Chàm, rồi lại tiếp tục nhìn lên Đức Trọng, xuôi theo đường 20 về chi khu Di Linh, thị xã Lâm Đồng, chi khu Định Quán, ngã ba Dầu Dây, rẽ lên Xuân Lộc, rẽ xuống Biên Hoà. Ông im lặng, đôi mắt không hề nhấp nháy, bên tai ông  bỗng lại vang lên câu nói có vẻ văn nghệ của chỉ huy phó”Có phải mỗi tuyến đường chiến lược như một dòng sông lớn không?. Và tất cả những dòng sông ấy đều đổ mạnh về phía Nam” Rõ ràng chỉ huy phó chưa muốn nói hết, nói rõ ý mình, nhưng ông thì ông hiểu rằng”Mỗi tuyến đường đều đổ về Sài Gòn”.

Sư trưởng nam Phong hít mạnh một hơn đến căng lồng ngực. có một cái gì đó đang dội lên trong người ông như là âm hưởng của một lời kêu gọi hào hung bỗng nhiên vang lên:”Tiến về Sài Gòn”
- Báo cáo sư trưởng, chúng tôi có mặt!
Tiếng báo cáo của trung đoàn trưởng Liễu cắt đưta dòng suy nghĩ của ông. Ông quay lại, mặt rạng rỡ hẳn lên:
- Ngồi xuống!
Trung đoàn trưởng Liễu, chính uỷ Danh, trung đoàn phó Quân cùng ngồi một lượt, theo thói quen, họ giở sổ tay ra. Sư trưởng Nam Phong ngồi đối diện với họ. ông cũng giở sổ tay, không hiểu ông nên nói gì thêm, nên hỏi thêm những gì? Những điều chỉ huy phó vừa nói đã dẫn những suy nghĩ của ông vượt ngoài tầm chiến dịch. Ông đang say sưa trong cái tầm chiến lược. Giở đến trang giấy trắng, sư trưởng Nam Phong ngẩng đầu lên, đôi mắt sắc nhìn trung đoàn trưởng Liễu:
- Các anh có tin tức gì thêm về chi khu Định Quán không?
Trung đoàn phó Quân trực tiếp nắm việc chuẩn bị chiến trường vừa nhấp nháy mắt vừa báo cáo, giọng gần như lắp bắp:
-   Báo cáo sư trưởng! Về trinh sát địa hình thì vẫn không sao vượt qua được dãy nhà cuối cùng bên phía đông nam. Đêm nào chó cũng sủa rất dữ. Còn tình hình địch thì có tin sư 18 cho lên một tiểu đoàn của trung đoàn 43. Tên thiếu tá Chánh chi khu trưởng nói với dân là thách Việt Cộng đánh Định Quán. Nó nói nếu chi khu mất, chúng sẽ rút lên các gộp đá cố thủ, dù còn một phần ba quân số cũng đủ sức chống lại hàng trung đoàn Việt Cộng
Sư trưởng Nam Phong hỏi đột ngột:
- các anh có mang theo sơ đồ chi khu không? Giở ra xem nào?
Trung đoàn phó Quân mở xắc cốt lấy ra một tờ giấy dầu trải trên bàn. Bốn mái đầu chụm lại. Sư trưởng chỉ ngón tay lên hình những gộp đá:
- Thằng Chánh bảo chúng sẽ cố thủ ở đây à?
- Rõ! Cơ sở cho biết tin như vậy!
- Sư trưởng suy nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Nếu nó rút lên cố thủ thì các anh sẽ xử lý như thế nào? Mà nó có khả năng làm như thế đấy!
Cũng lại Quân, trả lời ngay:
- Báo cáo, chúng tôi sẽ đánh lấn!
- Đánh lấn?

Sư trưởng nhìn Quân, đôi mắt phát ra một dấu hỏi. Quân hơi lúng túng. Liễu và Danh nhìn sơ đồ rồi lại nhìn sư trưởng. Sư trưởng hơi cau trán lại một chút, ông có vẻ không bằng lòng với cách đánh của Quân. Qua trả lời của Quân, ông chợt hiểu cấp dưới vẫn nhận thức nhiệm vụ với cái tầm hơi cũ như trước đây, họ chưa hiểu được đặc điểm mới xuất hiện, bao trùm, xuyên suốt mọi chủ trương, mọi hành động trong chiến dịch này. Cái nét mới mà chỉ huy phó vừa mới nói, nhưng đã có sức lôi cuốn và thay đổi nếp nghĩ của ông. Ông thấy cần phải làm cho cán bộ trung đoàn 14 hiểu điều đó.
Trung đoàn 14 sẽ đánh trận then chốt, mở đầu chiến dịch cho sư đoàn, cho một hướng chiến dịch. Ông đứng dậy cầm cây gậy bước tới trước tấm bản đồ. Ông quay lại và nói:
- Lần này chúng ta không mở chiến dịch cục bộ, nghĩa là không hoạt động từng chiến trường riêng rẽ theo yêu cầu của mỗi chiến trường như trước. Lần này toàn miền Nam hoạt động theo một kế hoạch thống nhất, một sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất. Các chiến trường đều phải phối hợp chặt chẽ với nhau, dánh theo mệnh lệnh. Chiến trường này tác động và hỗ trợ chiến trường kia. Mỗi chiến trường lại có nhiệm vụ riêng, nhiệm vụ cụ thể của chiến trường mình và phải hoàn thành thật tốt nhiệm vụ đó, như tiêu diệt dinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, mở hành lang chiến lược, nối liền các vùng giải phóng, nối liền các hành lang chiến lược . Tất cả đều nhằm nhanh chóng thay đổi tương quan, thay đổi cục diện chiến trường, tạo ra thời cơ lớn. Vì vậy chiều sâu và chiều dài của mỗi chiến dịch cũng hoàn toàn khác trước. Ví dụ nếu như đơn vị bạn đánh một thị xã ở Tây Nguyên, ở đây sư đoàn ta có nhiệm vụ quét sạch bọn địch dọc đường 20 từ Túc Trưng lên Đức Trọng trên một tuyến đường dài hơn 250 cây số thì các đồng chí sẽ thấy xuất hiện cái gì?
Doanh đứng dậy, giọng run lên vì hồi hộp:
- Rõ! Báo cáo đồng chí sư trưởng, như vậy miền núi của miền Nam sẽ hoàn toàn được giải phóng. Con đường chiến lược số 14 sẽ thông với con đường chiến lược đông Trường Sơn chạy vào tận sông Sài Gòn. Con đường 21 sẽ thông với con đường 20 chạy suốt đến ngã ba Dầu Dây, giáp đường số 1 đổ về Biên Hoà.
-   Vì đặc điểm của Định Quán, trên cho thêm nữa ngày, như vậy trong vòng một ngày rưỡi phải dứt điểm hoàn toàn. Nếu bất đắc dĩ phải đánh lấn thì cũng chỉ trong phạm vị thời gian đó. Còn việc thằng Chánh rút vào các gộp đá cố thủ thì các đồng chí cũng nghĩ cách trị nó đi. Tôi cũng sẽ nghĩ cách trị nó, phải trị bằng được. Các đồng chí thấy thế nào?
Chính uỷ Doanh đứng dậy:
-   Báo cáo sư trưởng, chúng tôi quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
-   Sư trưởng gật đầu, ông nhìn Liễu rồi nhìn Quân:
-   Trận này ai trực tiếp chỉ huy?
Liễu trả lời ngay:
-   Báo cáo! Đảng uỷ phân công đồng chí Quân. Tôi đi chuẩn bị thị xã Lâm Đồng.
-   Sư trưởng suy nghĩ giây lát rồi gục đầu:
- Đồng ý! Trong lúc chờ đợi quyết định điều đồng chí Liễu lên phòng tham mưu thì đồng chí tiếp tục làm nhiệm vụ cũ, hết sức giúp đỡ đồng chí Quân. Hành quân đến nơi là chuẩn bị sa bàn ngay. Cố gắng đắp cho đúng, việc này phải nhờ địa phương giúp. Chúng ta sẽ thảo luận  trực tiếp trên sa bàn. Thôi hết – Sư trưởng Nam Phong đứng dậy - Xếp sổ tay, bước tới hạ tấm bản đồ xuống. Ông vừa cuốn tấm bản đồ vừa nói:
- Sang gặp tham mưu trưởng nhận lệnh hành quân. Các anh sẽ đi trước, nếu làm lộ bí mật là ban chỉ huy phải chịu trách nhiệm đấy.
Sư trưởng liếc mắt về phía ba người, đôi mắt sức của ông không dữ mà vui vui như cười.

II


Sư trưởng Nam Phong ngồi trước tấm bản đồ trải rộng và cuốn sổ tay. Ông nhìn đồng hồ, còn hai giờ nữa cuộc  thảo luận trên sa bàn trận Định Quán của trung đoàn 14 mới bắt đầu. Từ đây xuống nơi họp mất ba mươi phút. Ông còn lại một giờ rưỡi để làm một việc rất quan trọng là tự mình duyệt lại toàn bộ tình hình trước khi sư đoàn bước vào chiến dịch. Theo lệnh trên, đêm 16 rạng ngày 17 tháng 3 sư đoàn nổ súng. Từ hôm nay đến đêm N còn ba ngày nữa, nghĩa là còn đủ thì giờ cho một tư lệnh sư đoàn duyệt lại toàn bộ tình hình. Nhưng những sự việc chuẩn bị cho sư đoàn bước vào chiến dịch thì nhiều không kể xiết. Vì vậy, người chỉ huy sư đoàn phải thường xuyên duyệt lại tình hình. Hướng chiến dịch của sư đoàn đảm nhịêm chưa bắt đầu, nhưng cán bộ và chiến sỹ toàn sư đoàn đã bước vào chiến dịch được một tuần rồi. Đó là cuộc hành quân vượt sông Đồng Nai, sông La Ngà của hàng vạn con người, mang theo tất cả trang bị. Từ khẩu súng trường đến xe tăng T-59 và pháo tầm xa 130 ly. Từ ba cơ số đạn, nữa tháng lương ăn trước mắt, đến nhiều cơ số đạn, nhiều tháng lương ăn bổ sung.
Công việc hàng đầu, công việc nhiều lo lắng nhất đã qua. Mặc dù ngày nào bọn địch cũng cho máy bay trinh sát thường trực trên bầu trời. Nhưng bằng kỷ luật và kinh nghiệm, toàn sư đoàn và các đơn vị phối thuộc đều đã bí mật, an toàn đến nơi tập kết cuối cùng. Các đơn vị đều khẩn trương chuẩn bị.
Sư trưởng Nam Phong nhìn toàn bộ đội hình của sư đoàn trên mặt trận đường 20 qua các ký hiệu ghi trên bản đồ. Ông tự hỏi mình một lần nữa việc sắp xếp lực lượng, bố trí đội hình, tổ chức chiến đấu của bước một chiến dịch còn có vấn đề gì bàn cãi, cần sửa chữa, bổ sung? Như các chiến dịch trước đây, từng chiến trường hoạt động theo nhiệm vụ và yêu cầu riêng thì có lẽ như thế này đã là chu đáo, nhưng lần này, tất cả các mặt trận ở miền Nam đều có sự chỉ huy thống nhất, phối hợp chặt chẽ. Ở Tây Nguyên, quân ta đánh vào Buôn Ma Thuột, giải phóng thị xã. Các căn cứ khác như Đức Lập, Buôn Hồ, Bản Đôn đều bị đánh chiếm. Các con đường đến Tây Nguyên, đến Buôn Ma Thuột đều bị cắt đứt. Bọn Thiệu đổ quân xuống Phước An phản kích lấy lại Buôn Ma Thuột, nhưng mọi cái bẫy đều giăng sẵn. ông đang theo dõi, đang lắng nghe mọi diến biến, đang lắng nghe cái nhịp điệu tuy mới bắt đầu nhưng đã quyết liệt, khẩn trương. Rõ ràng trận đánh Buôn Ma Thuột không phải là một trận đánh bình thường.

Việc lựa chọn mục tiêu tấn công và khu vực đột phá rất mới, rất táo bạo, rất hiểm. Mới có mấy ngày mà đã cài đối phương vào một thế rất hiểm nghèo không sao cựa quậy được. Việc sư đoàn độc lập đảm nhiệm một hướng chiến dịch hoàn toàn khác với việc sư đoàn chiến đấu trong đội hình của quân đoàn. Ở đây, sư đoàn không có sự chi viện thêm về hoả lực và binh lực. Trên cơ sở thực lực hiện có của sư đoàn và những đơn vị đã được phối thuộc, sư đoàn phải làm thế nào sử dụng cho tốt, biến ít thành nhiều, biến yếu thành mạnh, biến khó  thành dễ, đó là nghệ thuật cầm quân. Vì vậy, gần tuần lễ nay sư trưởng gần như làm việc liên tục với hai ban, với các tổ trinh sát mặt đất, trinh sát kỹ thuật. ông lắng nghe mọi tình hình, mọi diễn biến về địch như người thợ săn nghe tăm hơi bầy thú. Ông tin bọn địch sẽ tăng cường phòng thủ Định Quán, chúng có thể đưa lên đó một đến hai tiểu đoàn chủ lực. Với địa hình phức tạp, hoàn toàn có lợi cho việc phòng thủ, địch sẽ tăng thêm sự ngoan cố. Trung đoàn 14 có thể không dứt điểm đúng thời gian quy định. Nếu trường hợp đó xảy ra, quân đoàn 3 có thể phái bọn sư 18, bọn biệt động quân lên cứu nguy Định Quán. Một mình trung đoàn 209 có khả năng diệt gọn bọn cứu viện  cho Định Quán hay không? Bọn cứu viện lên, dù chưa vào được Định Quán cũng có tác dụng củng cố  thêm tinh thần cho bọn thằng Chánh trong chi khu. Như vậy bước một của chiến dịch sẽ trở nên phức tạp, những trận đánh sẽ dây dưa. Sư đoàn buộc phải tung trung đoàn 12 làm nhiệm vụ dự bị cho cả hai hướng, hướng trung đoàn 14 và trung đoàn 209, sẽ phải sử dụng tăng sớm hơn, sử dụng pháo 130 ly sớm hơn. Sử dụng lực lượng dự bị và vũ khí nặng quá sớm là một việc không hay ho gì. Những trận chiến đấu từ nhỏ đến lớn, từ thời đánh Tây đến thời đánh Mỹ đã chứng minh như thế. Chính diện và chiều sâu chiến dịch của sư đoàn đảm nhiệm ở bước một nắm trong phạm vi phòng thủ của quân khu Hai. Điều đó rất có lý và có ý nghĩa khi anh Sáu ví Định Quán là cửa ngõ đầu tiên của địch từ Sài Gòn lên Tây Nguyên bằng đường 20.

Tây Nguyên nổ súng rồi, bằng mọi cách sư đoàn phải đóng chặt cái cửa đó lại, đóng càng sớm càng tốt, càng nhanh càng tốt, cho bọn địch trở tay không kịp. Sư trưởng Nam Phong thấy bật ra hai vấn đề hết sức cấp thiết: Một là phải cùng trung đoàn 14 giải quyết dứt điểm Định Quán đúng kế hoạch,hai là phải thừa hưởng, phải phát huy ngay lập tức chiến quả Tây Nguyên bằng cách tiến nhanh lên giải phóng tỉnh Lâm Đồng, quét sạch một tuyến phòng ngự dài gần hai trăm cây số, đặt ra trước mắt quân khu Ba của địch một sự đã rồi, đặt ra trước mắt quân khu Hai của địch cũng một sự đã rồi. Nghĩa là một vùng quan trọng giáp giới hai quân khu gồm một tỉnh, ba chi khu*, một đường giao thông chiến lược đã lọt vào tay cách mạng. Sư trưởng Nam Phong hít một hơi rất sâu, ý nghĩ của ông bị cuốn hút vào những điều mà ông vừa nghĩ ra. Trong lúc sư trưởng ngồi suy nghĩ, đôi mắt một mí không nhấp nháy, mái tóc rễ tre húi cua dựng ngược cả lên thì ở ngoài một chiến sĩ vệ binh cứ thập thà thập thò. Cậu vệ binh có trách nhiệm dẫn sư trưởng xuông trung đoàn 14, cậu ta  được giao rõ giờ giấc, cậu ta đã đến được 5 phút, nhưng thấy sư trưởng cứ nhìn chằm chằm vào một điểm, mắt không nhấp nháy, cậu vệ binh không dám lên tiếng. Cậu đoán sư trưởng đang suy nghĩ điều gì đó ghê gớm lắm. Đứng mãi chậm giờ lại càng nguy. Cuối cùng cậu ta đành dùng cách thông thường là đánh tiếng, nhưng ho cũng không ra ho, hắng giọng cũng không ra hắng giọng. Nhưng cái tiếng dở này dở kia đó cũng lọt vào tai sư trưởng. Sư trưởng chớp mắt, như người vừa tỉnh ngủ, nhìn xuống đồng hồ gọi:
- Có đồng chí vệ binh nào ngoài đó không?
- Báo cáo thủ trưởng, có tôi!
Cậu vệ binh chớp thời cơ thưa thật to, bước vào.
Sư trưởng đứng dậy nhìn anh chiến sĩ vệ binh:
- Cậu vừa đánh tiếng à?
Cậu vệ binh đứng nghiêm, mặt đỏ lên:
- Rõ!
Sư trưởng Nam Phong gấp bản đồ cho vào xắc cốt.
- Nào đi, đường nhiều dốc không? Phải đi nhanh không thì muộn đấy cậu ạ.
Bóng anh chiến sĩ vệ binh và sư trưởng Nam Phong khuất nhanh trong rừng.

* Chi khu Định Quán, chi khu Di Linh, chi khu Đức Trọng đều nằm trên quốc lộ 20.

Định Quán là một chi khu thuộc loại lớn của quân khu Ba, quân khu Ba lại có tầm quan trọng mang tính chất sống còn đối với Sài Gòn. Nhiều năm trước đây, Mỹ - Nguỵ ra sức xây dựng các chi khu về mọi mặt, biến chi khu thành những cứ điểm kiên cố, chăm lo, vun xới cho cái đầu não của quận huyện.Nơi xuất phát mọi cuộc càn quét, đánh phá phong trào cách mạng ở thôn ấp, thực hiện những chiến dịch bình định khốc lịêt, nơi xuất phát các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng. Mỹ - Nguỵ coi chi khu là những cứ điểm phòng ngự chiến thuật hết sức quan trọng trong hệ thống phòng ngự chung. Định Quán nằm trên địa đầu lãnh thổ quân khu Ba, trên một đường chiến lược tốt nên bọn chỉ huy quân khu Ba đã ưu tiên xây dựng thành một chi khu mạnh.
Khu vực Định Quán có gần hai nghìn tay sung từ dân vệ đến bảo an, kìm kẹp trên ba vạn đồng bào, thưòng xuyên được một chiến đoàn của sư 18 yểm trợ. Chi khu Định Quán thuộc loại có địa hình đặc biệt, được cấu tạo nên bởi hàng trăm gộp đá lớn nhỏ. Gộp lớn có đường kính từ 15-20 mét, gộp nhỏ cũng đến năm sáu mét, gộp cao nhất tới dăm chục mét. Những gộp đá ấy nằm trên một bãi đất rộng hàng cây số vuông phía bắc chi khu như một dải thành trì hết sức kiên cố. Từ chi khu, bọn địch mở đường tới các gộp đá có hang hốc, biến những chỗ đó thành nơi cố thủ cuối cùng, có đường nối liền từ gộp này sang gộp khác. Dưới chân những gộp dá cao, to, địch chăng dây thép gai, trên đỉnh các gộp đá, các lô cốt cũng được xây bằng đá, trong đặt đại liên, trọng liên với cơ man là đạn, lựu đạn. Trong các khe, gộp là kho lương thực, bể chứa nước. Bộn địch ăn ngủ trên đỉnh các gộp đá cả ngày lẫn đêm, canh gác, quan sát, chỉ điểm cho pháo mặt đất, cho máy bay trinh sát. Lúc chi khu bị tấn công thì những hoả điểm đó trở nên vô cùng lợi hại. Bọn địch qua lại các gộp đá bằng thang cao su thành thạo, nhanh nhẹn như lũ khỉ chuyền từ cây này sang cây khác.
Cách chi khu bảy trăm thước có cao điểm 112, trên núi có sẵn hầm hào, công sự. Lúc động, bọn địch điều trước lên đó một vài đại đội bảo an. Đó còn là nơi bọn chủ lực sư 18 thường đóng quân mỗi lần lên Định Quán. Dưới chân núi có trận địa pháo 105 và chỉ huy sở của tiểu đoàn bảo an 367, lực lượng cơ động của chi khu. Bọn bảo an, dân vệ, cánh sát ở Định Quán hoàn toàn tin tưởng vào địa hình hết sức tốt của chúng, tên nào cũng thấy yên ổn, sung sướng khi được ở trong chi khu Định Quán. Vợ tên thiếu tá Chánh không hiểu gì về quân sự, nhưng sau lần được chồng dẫn đi xem hang cố thủ trong lòng gộp đá lớn nhất giữa cả trăm gộp đá, mụ bỗng nảy ra ý định mua chức Định Quán vĩnh viễn cho chồng.

Sau khi tính toán nỗi thiệt hơn, lỗ lãi. Cuối cùng mụ bỏ ra hai triệu đồng, vào tận Sài Gòn mua được chức quận trưởng vĩnh viễn cho chồng. Cơ sở kể rằng, khi ở Sài Gòn về, mụ mở tiệc mừng, mời non trăm khách. Giữa bữa tiệc, tên thiếu tá Chánh hùng hổ tuyên bố:” Có các chiến hữu và những gộp đá kỳ lạ đó, tôi sẽ đánh cho bọn giặc Cộng không còn manh quần, tấm áo. Tôi thách T54, tôi thách đại pháo 130 ly, tôi thách cả sư đoàn Cộng sản”. Sau bữa tiệc, mụ Chánh làm lễ cúng ông Phật trên gộp đá lớn nhất. Xong cái việc lễ lạt, tiệc tùng, mụ lên Phương Lâm, xuống Tà Lài móc ráp với bọn xe be làm gỗ. Vài tháng sau mụ lấy lại hai triệu đồng ngon ơ.
Những nét cơ bản về hình dáng, đặc điểm, hệ thống công sự, hệ thống hàng rào, hệ thống các gộp đá và vật chướng ngại khác của chi khu như phát hoạ ở trên, đều được thu nhỏ lại trên một mảnh đất chừng mười hai mét vuông. Còn những chuyện quanh sự kiên cố, phức tạp và lời thách thức của tên Chánh thì những người ngồi quanh sa bàn ai cũng biết. Họ là cán bộ đại đội của trung đoàn. Riêng đại đội 3, đại đội 7 – Hai đại đội anh hùng có thêm cán bộ trung đội, những người sẽ dẫn đầu các mũi đánh thọc sâu. Họ nhìn hình thù chi khu quân sự trên sa bàn với những cặp mắt nghiêm nghị. Yêu cầu và ý nghĩa thảo luận rồi, bây giờ là lúc bàn cách trị nó, đáp lại triệt để  lời thách thức của tên Chánh. Khác với lần thảo luận trận đánh chi khu Đồng Xoài, lần này mọi người cảm nhận rõ ràng có sự khác thường hiện lên từ những gộp đá màu xám trắng ấy. Họ hiểu giá trị của một công sự gỗ, đất và một công sự bằng các gộp đá. Họ hiểu sự khó khăn phức tạp ngay bản thân địa hình tự nhiên đã gây ra cho họ, chưa nói gì đến việc mấy năm nay bọn địch đã ra sức cải tạo them những địa hình đó.
Trận đánh chưa được dùng xe tăng và pháo 130 ly. Với sự yểm trợ các loại pháo của sư đoàn, trung đoàn không những phải đánh thắng mà còn phải dứt điểm trong một ngày một đêm, nếu không thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển của chiến dịch. Đánh vào chi khu, nghĩa là đánh vào các dãy nhà, vào trụ sở thằng Chánh làm việc thì họ sẽ bí mật bò vào liên kết bộc phá; Nếu không mật tập được, họ sẽ cường tập, đến như chi khu Đồng Xoài, thị xã Phước Long họ còn đánh được, thì chi khu Định Quán, trận đánh chính thức, ác liệt, gay go không phải chỉ diễn ra trong chi khu mà ở hàng trăm gộp đá kia. Khi chi khu bị tấn công mạnh, thấy nguy cơ không giữ được, thế nào thằng Chánh cũng rút ra gộp đá, mỗi gộp đá sẽ là một lô cốt. Thằng Chánh nhìn thấy địa lợi hiếm có đó, nên hắn mới thách thức, chắc chắn hắn đã có kế hoạch chu đáo cho mọi tình huống. Còn vợ hắn cũng có lý khi quyết định mua vĩnh viễn cái chức quân trưởng cho hắn.
Không một cơ sở nào biết được cụ thể giữa các gộp đá ấy có những gì. Những cơ sở lâu nhất, tốt nhất ở khu vực này cũng chỉ biết chung chung đó là khu vực cấm lúc báo động thấy lính lúc nhúc trên các gộp đá, súng đen ngòm.

Sư trưởng Nam Phong đến nơi khi cuộc thảo luận trên sa bàn đã thông qua phần chiến đấu trong chi khu và mới bắt đầu chuyển qua đánh quân cố thủ ở các gộp đá.
Các cán bộ đã nghe trung đoàn phó Quân trình bày dự kiến các tình huống và cách đánh. Họ đang suy nghĩ, chưa ai phát biểu cả.
 Sư trưởng Nam Phong nhận báo cáo của trung đoàn phó Quân, ông cho mọi người ngồi xuống, rồi quay sang hỏi Quân:
- Thảo luận đến đâu rồi?
Quân đứng nghiêm, đôi lông mày rộng rướn lên:
- Báo cáo thủ trưởng, đang thảo luận phần đánh bọn địch cố  thủ trong gộp đá.
- Nhiều ý kiến không?
- Báo cáo, tôi vừa trình bày xong, anh em đang suy nghĩ.
- Tôi cũng đang suy nghĩ.
Sư trưởng Nam Phong cười, ông ngồi xuống rồi nói tiếp:
-Nào ta cùng suy nghĩ, ai nghĩ được gì thì cứ phát biểu. Tôi gợi ý vài điểm xem có đúng với điều các đồng chí quan tâm không nhé. Trước hết, ta phải thừa nhận rằng địa hình Định Quán và các khu vực lân cận đều rất tốt, rất có lợi cho việc phòng thủ của địch. Thứ nhất là địa hình đều phức tạp, thứ hai các địa hình liên hoàn với nhau, tạo thế cho nhau. Các đồng chí xem đây.
-Sư trưởng Nam Phong đứng dậy. Trung đoàn phó Quân đưa cái cây cho ông, ông chỉ vào sa bàn, phân tích từng điểm một.
Ý kiến của ông làm cho các cán bộ hiểu sâu hơn nhiều điểm. Trước hết không nên tách các gộp đá ra, chăm chăm vào đó dù nó có lợi hại đến đâu. Cũng như không nên tách trận Định Quán ra ngoài chiến dịch. Với Định Quán, không những thằng Chánh có các gộp đá, hắn còn có cao điểm 112 và trận địa pháo. Núi Đăng Ca mất, cao điểm 258 mất, trận địa pháo mất thì chi khu và các gộp đá cũng rung rinh.

Xét cái thế của địch ở Định Quáncòn phải đặt nó trong cả dải chiến dịch từ bắc Túc Trưng lên bắc Định Quán. Cùng với trung đoàn 14 đánh Định Quán, trung đoàn 209 sẽ diệt điểm núi Tràn, cùng với một tiểu đoàn của trung đoàn 12 chiếm cầu La Ngà, sau đó sẵn sàng đánh viện ở bắc Túc Trưng. Trung đoàn 12 để hai tiểu đoàn làm dự bị, một tiểu đoàn diệt yếu khu Phương Lâm rồi cùng trung đoàn 209 chiếm cầu La Ngà, cát hẳn một đoạn đường dài hơn năm mươi cây số phía sau Định Quán. Như vậy, vấn đề đặt cho bọn địch ở Định Quán thật rõ ràng: Bọn chúng đã bị đối phương khoanh tròn lại, bị cô lập hoàn toàn. Bọn chúng không thể trông mong vào viện binh của quân đoàn Ba. Dù cho Nguyễn Văn Toàn có ném cả sư đoàn 18 lên đường 20 thì sư đoàn này cũng không thể vượt qua một chặng đường năm mươi cây số để cứu Định Quán được. Con đường 13 năm 1972 đã là một nỗi kinh hoàng, đau đớn với bọn chúng rồi. Lại còn phải tính tới việc bọn quân đoàn Ba, bọn tổng tham mưu nguỵ nghĩ thế nào về mặt trận đường 20 trong các mặt trận của quân đoàn Ba. Theo Toàn, mặt trận Tây Ninh là hướng tiến công chính của ta nên hắn đã điều chiến đoàn 48 của sư 18 sang Củ Chi làm dự bị cho hướng Tây Ninh và hướng đường 13. Dĩ nhiên làm cho Nguyễn Văn Toàn tin ta sẽ tấn công lớn ở Tây Ninh là kết quả rất tuyệt của việc giữ bí mật triệt để ý đồ chiến dịch và hoạt động nghi binh. Trên cơ sở đó, bọn quân đoàn 3 không thể ném cả sư 18 lên Định Quán, và dù chúng có liều mạng ném hai chiến đoàn 43 và 52 của sư 18 lên thì đó là cơ hội rất tốt để ta tiêu diệt sịnh lực. Không có trường hợp nào tốt hơn trường hợp điều địch ra khỏi công sự, lên một vùng rừng núi, ở những địa đoạn phục kích đã chuẩn bị sẵn, ưu thế về mọi mặt thuộc về ta. Còn ta, trung đoàn 209 và trung đoàn 12 với kinh nghiệm chốt chặn đường 13 năm 1972 sẽ làm tốt nhiệm vụ đó. Bọn địch ở Định Quán cũng không thể vượt một quãng đường năm mươi cây số để về Xuân Lộc, cũng không thể vượt một chặng đường một trăm cây số để lên Bảo Lộc được.
Sư trưởng Nam Phong nhìn hết lượt cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội. Tất cả đều im lặng, mắt như dán lên đường 20, nét mặt họ căng thẳng, hoà lẫn với nét rạng rỡ trông rất dễ thương. Sư trưởng hiểu rằng, các cán bộ đã hiểu sự phân tích của ông, bây giờ ông có  thể đặt ra những câu hỏi  thiết thực cho họ. Cái cằm đầy râu của ông hơi hếch, giọng của ông bất ngờ vang lên:
- Nếu các đồng chí đánh nhanh, đánh mạnh, chiếm chi khu thật sớm, thì thằng Chánh có kịp rút ra các gộp đá không? Nếu ra được thì còn bao nhiêu quân? Cứ cho rằng hắn có đủ thì giờ ra gộp đá đi, cứ cho rằng hắn còn một nữa số quân và ưu thế địa hình trong tay hắn. Vậy thì chúng ta có  thể bằng cách nào đấy làm mất cái ưu thế đó được không? Chẳng lẽ, chúng ta lại bó tay chịu để cho hắn sử dụng cái ưu thế đó sao? Hả? Các đồng chí nghĩ sao hả?

Ông đưa mắt nhìn tất cả mọi người, cuối cùng dừng lại ở chính trị viên và đại đội trưởng đại đội 7. Ông lại hếch cái cằm đầy râu cho Đại và Thiệu như một dấu hỏi. Đại đội trưởng Thiệu đứng phắt dậy, đôi môi dày run run, giọng hồi hộp:
- Báo cáo thủ trưởng, chúng ta có cách ạ!
Mọi người nhìn Thiệu, một số gật đầu như đã nghĩ ra. Sư trưởng nhìn Thiệu khuyến khích:
-Cách gì, đồng chí cứ phát biểu.
Thiệu bước ra, sư trưởng trao cái cây cho Thiệu, Thiệu chỉ cái cây vào gộp đá ba chồng, gộp cao nhất trong các gộp đá, giọng đã bớt hồi hộp:
- Tôi có ý kiến, cùng một lúc đánh vào chi khu, đánh cao điểm 112, đánh trận địa pháo, cần có một mũi bén nhọn đánh chiếm các gộp đá này, làm mất trước đi chỗ dựa cuối cùng của thằng Chánh.
Sư trưởng Nam Phong gật đầu lia lịa. Ý của Thiệu đã trúng ý của ông. Ông hỏi:
- Các đồng chí khác phát biểu?
- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi tán thành ý kiến của đồng chí Thiệu, đó là cách tốt nhất.
Sư trưởng tiếp tục nhìn Thiệu và hỏi:
- Đồng chí nghĩ thế nào về trang bị, quân số, hành động chiến đấu của mũi này?
Thiệu trả lời ngay:
- Báo cáo, mũi này chỉ cần một đại đội chừng 35 tay súng, trang bị nhiều thủ pháo, lựu đạn, dây để leo các gộp đá. Bí mật tiếp cận đến phút cuối cùng, lấy gộp đá ba chồng và gộp đá ông Phật làm mục tiêu, vừa tiếp cận vừa phát hiện hầm cố thủ của tên Chánh. Mũi này phải độc đảm, thọc sâu, chia cắt, nhưng phải đánh gọn từng khoảnh, tránh bị địch bao vây, chia cắt lại ta.
Sư trưởng Nam Phong rất bằng lòng với ý kiến của Thiệu. Hôm duyệt phương án đánh Định Quán, ông đã nghĩ phải có thêm một mũi đánh thẳng vào các gộp đá. Nhiệm vụ đó có thể giao cho bất cứ đại đội nào trong trung đoàn. Các đại đội có thể hoàn thành nhiệm vụ với mức độ khác nhau. Nhưng để khỏi lướng vướng, với yêu cầu khẩn trương của trận đánh, ông có ý định chọn đại đội 7 làm nhiệm vụ đó. Các trận đánh từ trước đến nay, đại đội 7 đã lập công xuất sắc trong những trường hợp thọc sâu, độc đảm vấn phát huy được truyền thống đại đội Phan Đình Giót trong chiến dịch Điện Biên. Ông nhìn Đại và Thiệu lâu hơn, gợi ý cho Thiệu phát biểu cũng là do ý định trên đây. Ông tiếp tục nhìn Thiệu như suy tính lại lần cuối cùng quyết định của mình, rồi hỏi:
- Nếu trên giao nhiệm vụ đó cho đại đội 7 thì các đồng chí nghĩ sao?
Chính trị viên Đại đưa mắt nhanh cho Thiệu rồi đứng phắt dậy, giọng rắn rỏi:
- Báo cáo! Đại đội 7 quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ!
Sư trưởng gật đầu, nét mặt ông vui hẳn lên, ông quay nhìn chính uỷ Doanh, trung đoàn phó Quân, trung đoàn phó Ban, hỏi cả ba người:
- Đảng uỷ và thủ trưởng trung đoàn thấy sao?
Chính uỷ Doanh đứng nghiêm:
- Báo cáo đồng chí sư trưởng, chúng tôi nhất trí!

Sư trưởng Nam Phong cảm thấy nhẹ nhõm và phấn khởi khi cấp dưới, là những người chỉ huy các phân đội chiến thuật hiểu được ý định chung chiến dịch, ý định riêng của ông. Họ hiểu được, thế nào họ cũng làm được. Ông đưa mắt nhìn khắp lượt rồi nói tiếp:
-Dùng một đại đội đánh thẳng vào các gộp đá, phá bỏ ngay từ đầu lợi thế của địch, cũng tức là phá bỏ niềm tin của chúng, đó là một đòn hiểm. Đã hiểm tất nhiên sẽ cóa nhiều phức tạp, nhiều khó khăn, vượt qua mọi phức tạp, khắc phục mọi khó khăn thì đòn hiểm sẽ càng hiểm. Tôi tin trận đánh chi khu cuối cùng cũng sẽ kết thúc ở các gộp đá. Các đồng chí phải tích cực giúp đại đội 7 về cách đánh, bàn kỹ thuận lợi, khó khăn, cách yểm trợ, cách phối hợp với nhau, khắc phục thông tin liên lạc, cố gắng thực hiện tốt ý định chiến thuật chúng ta đã bàn. Còn đại đội 7 thì phải có sa bàn riêng, thảo luận kỹ với anh em, động viên anh em, đừng để  thằng Chánh và bọn ác ôn trong chi khu chạy thoát.
Sư trưởng nói xong, vừa ngồi xuống thì một chiến sỹ thông tin mang thư tới. Ông đọc ngay rồi đứng dậy gọi Doanh, Quân và Ban ra ngoài, hội nghị tạm nghỉ mười phút.
Sư trưởng chỉ thị thêm công việc cho ban chỉ huy trung đoàn rồi đi ngay, quân đoàn phó đang chờ ông để làm việc.

III



Trên đường tới sở chỉ huy dã chiến, sư trưởng Nam Phong nhận được tin sư đoàn 18 đã triển khai lực lượng như sau: Đưa chiến đoàn 43 thiếu một tiểu đoàn và một đại đội bảo an trong thị xã Long Khánh lên trực tiếp dự phòng cho khu vực Định Quán. Tiểu đoàn 2/43, đại đội bảo an 377 chiếm giữ khu vực tây bắc chi khu, cao điểm 112. Tiểu đoàn 1/43, một chi đội M113 cùng ban chỉ huy chiến đoàn triển khai từ Túc Trưng đến cầu La Ngà, chủ yếu từ núi Tràn đến cầu La Ngà. Sau lưng chiến đoàn 43 từ Túc Trưng đến Kiệm Tân là chiến đoàn 52 cùng chi đoàn thiết giáp 2/5. Bộ tư lệnh sư 18 từ Long Bình đã lên thị xã Long Khánh. Trong khi tăng thêm cho chi khu Định Quán một tiểu đoàn chủ lực, một đại đội bảo an, chúng lại điều tiểu đoàn bảo an 367, lực lượng cơ động tại chỗ của chi khu, rải quân ra giữ cầu, giữ ấp. Bọn chúng đã ra lệnh báo động, cấm trại, thiết quân luật, tung từng đại đội, trung đội ra các vùng quanh lùng sục, thăm dò, phục kích cả ngày lẫn đêm. Ông còn được tin sư đoàn 9 của quân đoàn đã đánh chiếm được quận lỵ và chi khu Dầu Tiếng. Ở Tây Nguyên sư đoàn 23 gần như đã bị loại khỏi vòng chiến ở khu vực Phước An, cuộc đổ quân phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột đã bị đập tan. Quân ta đang mở rộng tầm chiến thắng bằng việc tiếp tục giải phóng những nơi còn lại của tỉnh Đắc Lắc, uy hiếp mạnh Công Tum và Plây Cu. Lại còn tin địch có khả năng bỏ Tây Nguyên. Liên hệ các bản tin ấy lại với nhau, xem xét việc triển khai binh lực của bọn sư 18 trên đường 20, sư trưởng Nam Phong thấy rõ khả năng bọn địch cứu viện cho Tây Nguyên bằng đường 20 có thể không còn nữa, nếu còn cũng rất ít. Bọn địch chỉ có khả năng ở đâu giữ đó. Sư đoàn chưa nổ súng nhưng bọn địch đã phân tán quân chủ lực, phân tán bảo an giữ dân, giữ đất. Việc phân tán quân chủ lực ngay từ đầu rõ ràng đã bị động, đối phó một cách vội vã, bất ngờ. Tuy trên dải chiến dịch sư đoàn đảm nhiệm, bọn địch có tăng lên vài tiểu đoàn nhưng sẽ không thay đổi được tình hình. Sư đoàn lại có thêm điều kiện tiêu diệt sịnh lực của sư 18, một trong những nhiệm vụ trên giao cho sư đoàn.
Thường vụ đảng uỷ sư đoàn hội ý khẩn trương, tất cả đều nhất trí không thay đổi kế hoạch và quyết tâm. Thường vụ phân công cho các uỷ viên nhanh chóng xuống từng trung đoàn phổ biến tin tức, động viên bộ đội. Sư trưởng Nam Phong trực tiếp báo cáo ý kiến của thường vụ với quân đoàn phó Khắc Vũ. Quân đoàn phó hoàn toàn đồng ý, cho phép sư đoàn nếu cần được sử dụng xe tăng và pháo 130 ly sớm hơn dự định.

Chiều ngày 16 tháng 3 trên đường tiến tới các mục tiêu công kích. Cán bộ, chiến sĩ các trung đoàn bộ binh, các binh chủng, các đơn vị phối thuộc đều nhận được thông tin cụ thể về địch và quyết tâm không có gì thay đổi của bộ tư lệnh sư đoàn.
Khác với những chiến dịch và những trận đánh trước đây, lần này điều mà các chính uỷ, các chính trị viên lo lắng nhất trước khi nổ súng đã không xảy ra: Đó là sự dao động khi nghe địch tăng quân. Lần này, cán bộ và chiến sĩ, những người trực tiếp đánh vào các mục tiêu nhận cái tin địch tăng quân một cách bình tĩnh. Họ không bị bối rối, bị bất ngờ. Bởi vì khi thảo luận nhiệm vụ chung của chiến dịch, nhiệm vụ của từng trận đánh, họ đã hiểu địch có thể điều đến cả một sư đoàn. Họ hiểu trận đánh sẽ dữ dội hơn, ác liệt hơn, có khi phải thêm chút thì giờ, nhưng cuối cùng rồi đâu cũng vào đấy, nghĩa là bọn địch không cưỡng lại được số phận đã giành cho chúng. Phó chính uỷ sư đoàn Nguyễn Thái, người trực tiếp theo dõi tình hình tư tưởng của các đơn vị. Từ trung đoàn 14 trở về sở chỉ huy, chính uỷ Liêm, sư trưởng Nam Phong đang ngồi cạnh quân đoàn phó Khắc Vũ. Thấy phó chính uỷ Thái bước vào, cả ba cùng quay ra. Chính uỷ Liêm rót chén nước đặt trước phó chính uỷ Nguyễn Thái, ông hỏi:
- Có gì khó khăn không anh?
Phó chính uỷ Nguyễn Thái uống cạn chén nước mỉm cười:
- Cho đến lúc tôi trở về thì không có khó khăn gì lắm. Bộ đội đã đến vị trí tập kết cuối cùng, chờ tối là tiến nhập. Hướng tiểu đoàn 1 trung đoàn 14 có địch bung ra phục kích trên đường tiếp cận nên đang cắt đường tránh. Có thể tiểu đoàn 1 sẽ chiếm lĩnh chậm. Quyết tâm của bộ đội vẫn tốt. Ở vị trí phân quân, các chính trị viên tiểu đoàn bắt tay nhau, hẹn gặp lại trong chi khu. Trung đoàn 14 có đề nghị sư đoàn chú ý cho cao điểm 112.
Sư trưởng Nam Phong gật đầu:
- Chúng tôi cũng đã nhận được đề nghị đó bằng điện thoại. Bọn tiểu đoàn 2/43 cho một đại đội lên cao điểm rồi. Chúng nó lên trước mình.
Phó chính uỷ Thái hỏi ngay:
-Các anh định giải quyết như thế nào?
 Sư trưởng Nam Phong chỉ vào bản đồ:
- Phải điều một tiểu đoàn của trung đoàn 12 xuống đánh bọn tiểu đoàn 2/43 và cao điểm 112. Nhưng chưa biết điều bằng cách nào cho nhanh. Đi bằng cơ giới thì chưa có đường, chưa có xe. Đi bộ thì vòng vèo rất xa. Chúng tôi đang tính khi dọn xong đồn, bốt dọc đường, sẽ cho tiểu đoàn 4 hành quân bằng cơ giới xuống đánh chắc kịp, ý kiến anh thế nào?
Phó chính uỷ Thái nhìn bản đồ gật đầu:
- Tôi cũng đồng ý như thế, nhưng phải báo trước cho trung đoàn 12 để kịp chuẩn bị.

Quân đoàn phó Khắc Vũ châm một điếu thuốc, ông hỏi phó chính uỷ Thái:
- Tình hình đại đội 7 thế nào?
- Tôi có gặp cậu Đại chính trị viên, anh em  lo hai điều: Một sợ phải đánh từ xa vì địch bung ra phục kích; Hai không biết mặt mũi thằng Chánh ra sao, sợ nó trốn được, anh em nói sư đoàn có ảnh của nó thì gởi cho anh em nhìn mặt.
Sư trưởng Nam Phong bật cười:
-Mấy thằng nhỏ lém thật, tụi nó gạt nhẹ tôi đấy. Chả là hôm kia tôi bảo đừng để thằng Chánh chạy thoát.
Phó chính uỷ Thái quay sang hỏi quân đoàn phó:
-Trên có thông báo, chỉ thị gì không anh Ba?
-Chỉ thị thì chưa có gì. Quân đoàn có thông báo sư 9 đánh Dầu Tiếng rất tốt, anh năm Thạch nhắc cố gắng đừng để địch vón cục lại, phải nắm chắc tinh thần thừa thắng. Còn ở Tây Nguyên mớí đánh có một tuần nhưng cái nét mới đó nổi lên rất rõ, rất xuất sắc. Theo tin địch, Thiệu đã bay ra Nha Trang họp với Phạm Văn Phú tư lệnh quân đoàn 2. Quảng Trị bị áp lực mạnh, ở khu Năm cuộc phản kích chiếm lại Tiên Phước không thành. Sư 2 của khu Năm đang tiến xuống đường 1. Ở Bình Định, sư 22 địch bỏ cuộc trên đường 19. Tình hình đang diễn biến rất nhanh, rất tốt, rất có lợi cho mặt trận đường 20. Cần thông báo tin tức các chiến trường, các đơn vị bạn cho bộ đội biết. Với người lính, không có tin tức nào hấp dẫn, say mê bằng tin thắng trận.
Phó chính uỷ Thái nhìn cả ba người, ông nói:
- Báo cáo anh Ba, chúng tôi sẽ làm việc này. Tuyên huấn chịu trách nhiệm thông báo thường xuyên cho các đơn vị.
Dưới hầm chỉ huy, chuông điện thoại bỗng reo lên ba hồi dài. Cả bốn người đều nhìn về phía đó, mái đầu của cậu chiến sĩ thông tin nhô lên, đôi mắt long lanh nhìn về phía sư trưởng:
-Báo cáo thủ trưởng, các đơn vị xin làm việc với thủ trưởng.
-Sư trưởng Nam Phong đứng dậy xuống hầm. Ba người đều nhìn đồng hồ, rồi cùng nhìn ra ngoài trời.
Bóng đêm bắt đầu từ sâu trong rừng toả dần lên khoảng không gian phía trên rừng cây, làm mờ dần vầng ánh sáng còn lại. Đêm ở vùng  núi sắp sửa bắt đầu. Đột nhiên tiếng “Đề pa” của cụm pháo Định Quán, cụm pháo Phương Lâm, cụm pháo La Ngà cùng nổi lên một lần. Ba người cán bộ nhìn nhau, rồi lại nhìn ra ngoài rừng. Mắt họ không nhấp nháy, tai họ như cố nghe đạn nổ ở hướng nào. Trước mắt họ, trong những dải rừng đen thẫm ở xa kia, những chiến sĩ của họ đang tiến vào các mục tiêu, chiếm lĩnh trận địa.

Trung đoàn phó Quân lên khỏi hầm chỉ huy đi về phía cây cao trước mặt. Hầm chật, các chiến sĩ vệ binh đang moi cho rộng thêm, mấy cậu thông tin bắt đầu toả mạng, anh ở dưới đó chỉ vướng họ. Anh lên khỏi hầm với ý nghĩ bằng cách nào đó trông thấy đội hình của cả trung đoàn vào chiếm lĩnh. Quân trưởng thành từ chiến sĩ lên, anh đã trải qua rất  nhiều lần cái tâm trạng đặc biệt của người chiến sĩ chờ bóng đêm xuống, nhập vào bóng đêm, ôm súng mang bộc phá mò mẫm từng bước vào đồn địch. Anh hiểu sự căng thẳng kéo dài đối với chiến sĩ từ giờ này cho đến khi nổ súng. Lần này anh không đi vào với họ, anh lùi ra sau, đứng ở hầm chỉ huy theo dõi cuộc tiến nhập. Anh vừa nhìn vừa nghe chó sủa ở đâu? Sủa theo kiểu gì? Bọn địch từ hướng nào bắn ra? Bắn súng gì? Tại sao đèn pin lại loé lên ở đó? Quân bỗng nhận ra rằng anh đang phải chịu đựng sự căng thẳng của tất cả mọi người, mọi hướng. Nhất là hướng tiểu đoàn 1  và hướng đại đội 7. Hướng tiểu đoàn 1 bọn địch đã bung ra phục kích đúng ngay đường tiếp nhận, Quân đã cho tiểu đoàn 1 cắt vòng tránh ổ phục kích. Điều đáng lo nữa là trời tối, không trăng, không sao, tiểu đoàn 1 có thể bị lạc không vào  đúng nơi quy định. Hướng đại đội 7 phải bí mật vòng qua khu vực trận địa pháo, lọt vào giữa, qua mấy dãy nhà dân mới tới được ven các gộp đá. Thời gian gấp nên cả hai hướng vừa phải trinh sát vừa vào chiếm lĩnh trận địa. Đôi mắt Quân hầu như chăm chăm vào hai hướng đó. Quân cứ đứng như vậy cho đến khi một chiến sĩ thông tin tìm được anh, anh mới về hầm chỉ huy. Quân vừa xuống hầm vừa hỏi:
- đã liên lạc được với các tiểu đoàn chưa?
- Báo cáo được rồi. Cậu chiến sĩ thông tin đưa máy cho Quân - Thủ trưởng làm việc đi.
Quân cầm máy, anh cảm thấy hồi hộp, những lo lắng vừa rồi của anh chắc sẽ được giải đáp.
- A lô-Ai đấy? - Tiểu đoàn 2 phải không? Chiếm lĩnh xong lúc 21 giờ 30 à? Sao nhanh thế? Đồng chí đi kiểm tra xem có đúng vị trí đã dánh dấu không? Kiểm tra rồi à? đại đội 6 bắt đầu cắt hàng rào khu vực nhà dân phải không? Không có địch phục kích ở hướng đó à? Thế thì tốt. Vẫn phải tiếp tục kiểm tra, cố gắng làm tốt công sự, tuyệt đối giữ bí mật, chưa nổ súng mà lộ là tiểu đoàn chịu trách nhiệm đấy!

Quân đặt máy nhìn đồng hồ, 22 giờ 30. Vậy là tiểu đoàn 2 chiếm lĩnh được một giờ rồi. Anh cầm tay quay, quay một vòng dài, đưa ống nghe lên tai:
- A lô! Tiểu đoàn 1 đâu? Tiểu đoàn 1 đấy à? Đồng chí báo cáo đi? Tiểu đoàn đã vòng tránh thêm được bọn thứ hai bung ra phục kích à? Đã vào khu vực chiếm lĩnh phải không? Tốt – Bộ đội bắt đầu làm công sự. Nhưng có đúng các vị trí quy định không? Nếu chưa đúng tiếp tục trinh sát nâng lên cho đúng. Nếu không thì ảnh hưởng đến cự ly đột phá đấy. A lô, chú ý nghe đây! Tôi nhắc lại hướng đồng chí có địch nằm ngoài, chúng đã ở sau lưng các đồng chí rồi đấy. Nhắc anh em bình tĩnh, giữ bí mật, gác cả phía sau đội hình, có ngay kế hoạch đối phó khi địch trở về đi vào đội hình. Chú ý – A lô, nghe rõ không? Có gì báo cáo ngay nhé!
Quân lại đặt máy, người anh nhẹ nhõm dần. Anh tiếp tục cầm tay quay, quay ba vòng.
- A lô – A lô - Tiểu đoàn 3 phải không? Bộ đội chiếm lĩnh chưa? Rồi à? Đại đội nào đang cắt rào? Cả hai đại đội à? Đang chuẩn bị liên kết bộc phá phải không? Tốt - Cần kiểm tra ngay cửa mở xem có đúng hướng không? Tôi thông báo cho anh biết tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 2 cũng đã chiếm lĩnh xong, cho đến giờ này đã vào hết vị trí chiếm lĩnh, đang làm công sự, vẫn giữ được bí mật.
Quân đặt máy, anh thở một hơi nhẹ. Sực nhớ ra, anh quay sang chiến sỹ thông tin:
- Còn đại đội pháo? Mắc xong đường dây chưa?
Anh chiến sỹ thông tin cầm tay quay, quay bốn vòng, tay quay nhẹ không, anh ta nhìn Quân:
- Báo cáo thủ trưởng, chưa mắc xong, pháo ở xa!
- Ừ nhỉ! Quân mỉm cười – Tôi sang chỗ đồng chí Doanh đây. Từ giờ trở đi, các đồng chí phải phân công nhau trực máy. Kiểm tra lại các tuyến đường dây, không để đứt liên lạc nghe không?
- Rõ!
Quân lên hầm. Đồng hồ chỉ một giờ đêm. Vậy là chỉ còn hướng đại đội 7 không có tin. Đại đội 7 đánh theo kế hoạch đã hiệp đồng. Từ khi nó tách khỏi đội hình tiểu đoàn 2 đến giờ không có tin gì cả. Hướng đó chó sủa nhiều, không biết anh em có tiếp cận được không?
Quân đứng nhìn về hướng đại đội 7 một lúc rồi mới sang hầm chính uỷ Doanh. Anh định thống nhất tình hình nắm được để báo lên sư đoàn.

Đại đội trưởng Thiệu và chính trị viên Đại đưa đại đội bí mật, an toàn vòng qua trận địa pháo, khoảng cách giữa cao điểm 112 và trận địa pháo, vào sát khu nhà dân cạnh gộp đá. Quãng đường không xa lắm, nhưng vừa đi vừa trinh sát địch, vừa dò mìn nên đã mất đứt sáu tiếng. Chưa trận nào, việc tiếp cận mục tiêu lại  khó khăn, vất vả như trận này. Khắp một dải chiến dịch, hàng mấy ngàn con người đều đang dò dẫm từng bước bò vào các mục tiêu. Chỉ cần một nơi lộ, bọn địch sẽ báo động tức khắc, lính ra hết chiến hào, đèn pha, pháo sáng vọt lên thế là gay. Nội trong trung đoàn, không có đơn vị nào phải tiếp cận sâu như đại đội 7. Tiếp cận được mục tiêu coi như đạt thắng lợi một nữa. Chặng đường vừa rồi tuy khó nhưng còn có cách vượt qua, bây giờ mới là chặng hóc búa đây. Trước mặt Thiệu, dãy nhà dân liền nhau kéo thành một vệt dài, nhà nào cũng có hàng rào dây thép gai. Cơ sở cho biết dãy nhà này toàn gia đình bọn nguỵ quân, nguỵ quyền, gia đình bọn thám báo, ác ôn, nó giống một khu gia binh có cả một trung đội dân vệ canh gác. Nhà nào cũng nuôi chó và nuôi ngỗng, một lũ lính canh  không bao giờ ngủ gật, không phải chỉ huy. Thiệu cho anh em dừng lại núp sau những bờ ruộng, những bụi cây. Anh và Thuận liên lạc đại đội bò lên tìm lối vượt. Chính trị viên Đại cũng bò đi từng tổ, từng mũi, vừa chỉ hướng, vừa động viên anh  em. Đại căng mắt nhìn lên phía trước cố dõi theo cái bóng của Thiệu và Thuận. Có tiếng chó sủa, hay ngỗng kêu là Đại lại nín thở. Đại nhìn đồng hồ, hai cái kim dạ quang hình như quay nhanh hơn, hai giờ sáng rồi ba giờ. Vẫn không thấy Thiệu và Thuận lui về đón. Đại nóng ruột bò qua các tổ dặn thêm anh  em, rồi gọi Thiêm, chiến sĩ thông tin bò theo mình. Đại bò được mọt quãng thì thấy bóng Thiệu. Đại ra tín hiệu, Thiệu nhận được. Thiệu ghé sát vào tai Đại thì thầm:
- Dây thép gai dày lắm. mình không có kéo.
- Thì nhấc cột lên bò qua có được không?
- Đã nhấc rồi, nhưng tụi nó chôn sâu lắm, nhấc không được. Anh  em mình trang bị cồng kềnh, thế nào cũng vướng. đã tìm một cái cửa mở, nhưng có một con chó nằm gần đó, cứ gầm gừ, không có cách gì đuổi đi, vượt chưa được đâu.

Im lặng một chút, Thiệu nói tiếp:
- Giờ G là năm giờ phải không? Mình tính cho anh em sẵn sàng. Khi pháo bắt đầu bắn chuẩn bị, ta cho anh em phóng qua, khoảng một trăm thước thì vào đến chân gộp đá. Rồi còn bọn dân vệ ở khu vực này nữa, không ai diệt nó, nó sẽ đánh từ sau lưng mình, một lúc mình phải đối phó hai mặt. Cậu  nghĩ sao, tính như vậy được không?
Đại nhắm nghiền mắt như muốn khoanh chặt những ý kiến của Thiệu để ý nghĩ khỏi phân tán. Đại cân nhắc hai cách: Một là cứ tìm cách vượt qua một  trăm thước cuối cùng đến chân gộp đá trong điều kiện rất khó giữ bí mật, bọn địch sẽ phát hiện được, chúng báo động toàn diện, có khi phải đánh nhau trong lúc chưa đến giờ G. Hai là cứ cho bộ đội nghỉ tại đây, sẵn sàng có vài tổ đánh bọn dân vệ, diệt ngay từ đầu mối lo đối phó hai mặt, trong lúc đó đại bộ phận sẽ thốc thẳng một mạch theo đoạn ngắn nhất này, đánh chiếm ngay gộp đá lớn đầu tiên rồi phát triển tiếp. Hai cách, cách nào lợi hơn? Đại bỗng thấy yêu cầu giữ bí mật cho đến giờ G là một vấn đề kỷ luật. Đại dứt khoát chọn lựa, Đại ghé vào tai Thiệu:
- Mình đồng ý đề nghị của cậu, nếu chúng ta cứ máy móc để lộ bí  mật thì ảnh hưởng lớn đến trận đánh. Ta cho đơn vị tạm  dừng đây, mình sẽ trực tiếp giải thích và tổ chức bộ đội. Cậu tiếp tục bám địch, chuẩn bị đường cho bộ đội vọt tiến. Đồng ý không?
- Đồng ý!
Thiệu gật đầu, quay lại bò lên phía dãy nhà. Đêm đang đi dần về sáng.

Khu vực sở chỉ huy sư đoàn bỗng trở nên nhộn nhịp, khẩn trương khi kim ngắn và kim dài của những chiếc đồng hồ đeo tay nhích dần con số 5. Dưới các hầm, chiến sĩ vệ binh đổ thêm dầu vào những chiếc đèn bão, thắp sáng lên, ánh sáng  được che kín. Các khuôn mặt trở nên tỉnh táo, vui vẻ, nhưng tin tức từ các hướng được báo cho sở chỉ huy bằng điện thoại, bằng các phái viên trực tiếp mang về. Điều lo ngại cuối cùng của mọi người được trút đi khi Nhung, trưởng ban tác chiến từ dưới hầm điện thoại bước lên, đi về phía hầm sư đoàn. Qua các hầm, Nhưng đều ghé vào báo tin:
- Bọn địch ở núi Tràn vẫn phục kích, nhưng tiểu đoàn 9 đã vòng qua, chiếm lĩnh xong.
- Tốt quá! Thế là tất cả đều chiếm lĩnh được.
Nhung bước xuống hầm sư trưởng, hầm thấp, anh phải cuối lom khom, anh nói nhanh:
- Báo cáo thủ trưởng, tiểu đoàn 9 chiếm lĩnh xong
Sư trưởng Nam Phong ngửng phắt đầu lên:
- Ai báo cáo?
- Báo cáo! Phái viên của trung đoàn đi theo tiểu đoàn 9 về báo cáo!
- Như vậy tất cả đều chiếm lĩnh xong?
- Rõ! Tất cả hoàn thành chiếm lĩnh cách đây mười phút, lúc 4 giờ 30.
- Tình hình liên kết bộc phá ra sao?
- Báo cáo thủ trưởng, chỉ một mình tiểu đoàn 3 trung đoàn 14 đánh trận địa pháo liên kết được, còn tất cả đều dung bộc phá liên tục. Bọn địch bung ra nhiều hướng nên việc chiếm lĩnh chậm hơn so với dự kiến, không kịp liên kết bộc phá.
Sư trưởng ngẫm nghĩ một chút rồi tiếp tục hỏi:
- Tất cả đều giữ được bí mật chứ?
- Rõ! Bọn địch vẫn bắn bình thường như các đêm trước, đài kĩ thuật của ta vẫn mở nhưng chưa có tin gì, chỉ có hướng đại đội 7 chó sủa nhiều.
- Không có súng nổ phía đó chứ?
- Báo cáo! Không!
- Pháo binh sẵn sàng chưa?
- Báo cáo, pháo 105 và 122 đã sẵn sàng, hai khẩu nòng dài bắn thẳng phối thuộc cho trung đoàn 14 chờ nổ súng mới cho ô tô kéo vào trận địa được. Bây giờ tiến  thêm sợ lộ, ban đêm tiếng động cơ ô tô vang xa lắm.
- Còn pháo cao xạ?
- Báo cáo, các đại đội 37 và 57 đều chiếm lĩnh xong, anh  em đang dọn nốt chướng ngại trên các đường cơ động
- Đã báo cáo với anh Ba Vũ chưa?
- Báo cáo, đồng chí tham mưu trưởng đã lên báo cáo và mời anh Ba xuống hầm chỉ huy!
- Mấy giờ?
Nhung xem đồng hồ, giọng tự nhiên hồi hộp:
- Báo cáo 5 giờ kém 15, còn 15 phút nữa là giờ G. Mời thủ trưởng đến hầm chỉ huy. Nhung tránh sát một bên cửa, nhường sư trưởng Nam Phong lên hầm trước.

Trong rừng vẫn còn tối mịt, sương phủ nặng trên rừng đã bắt đầu loãng dần. Xa xa, tiếng nước của con suối đổ xuống sông La Ngà nghe xa hơn, êm ả hơn. Trên những “ốc đảo” xinh xinh trải dài theo dòng suối lớn, mọi người đã có thể nhìn thấy hơi sương bắt đầu đọng lại dưới lá cây những hạt tròn, trong suốt, long lanh. Nước rì rào quanh mình những ốc đảo. bốc làn hơi trắng, nhẹ và như có mùi thơm. Gần như suốt cả cuộc chiến tranh này, chưa có một vị trí sở chỉ huy nào đẹp như ở đây. Sư trưởng Nam Phong bước những bước dài, đầu nhô về phía trước. Trên đường tới hầm, ông gặp quân đoàn phó Khắc Vũ, chính uỷ Liêm, phó chính uỷ Thái, tham mưu trưởng Thứ, chủ nhiệm chính trị Thẩm. Sư trưởng Nam Phong đặt tay phải lên vai tham mưu trưởng, đặt tay trái lên vai chủ nhiệm chính trị, ông cấu vào vai hai người, hỏi lơ lửng:
- Thế nào hai bạn? Tráng miệng chưa?
Chủ nhiệm Thẩm tủm tỉm:
- Báo cáo chưa! Phải xong đợt chứ ạ!
Tham mưu trưởng Thứ cười khà khà:
- Tôi chuẩn bị rồi, lần liên hoan này chúng tôi không kém gì sư trưởng đâu!
Sư trưởng cấu mạnh vào vai tham mưu trưởng dằn giọng:
- Nhớ nhé! Thẩm làm chứng nhé!
Đến cửa hầm, sư trưởng Nam Phong xuống hầm trước, sau đó là quân đoàn phó Khắc Vũ, tham mưu trưởng Thứ, chính uỷ Liêm, phó chính uỷ Thái, chủ nhiệm Thẩm, trưởng ban tác chiến Nhung. Họ ngồi quanh cái bàn bằng cây, xắc cốt đặt trên đùi, đèn pin cầm tay, họ nhìn vào tấm bản đồ trải rộng, có những mũi tên xanh đỏ chồng chéo lên thành một vệt dài trên đường 20. Sư trưởng nam Phong nhìn đồng hồ rồi chìa tay phải về góc hầm. Cậu chiến sĩ thông tin đưa chiếc máy nói cho sư trưởng. Cậu ta đã quen cái kiểu đó của sư trưởng.

- Báo cáo anh Ba, còn năm phút đề nghị anh cho chuẩn bị!
- Đồng ý!
Quân đoàn phó Khắc Vũ móc túi lấy ra một gói “ Cáp tăng” phát cho mối người một điếu.
Sư trưởng Nam Phong đưa máy cho chính uỷ Liêm:
- Anh nói chuyện với các đơn vị trước đi!
Chính uỷ Liêm cầm máy:
 - A lô! Doanh đâu?(Chính uỷ trung đoàn 14); Nghinh đâu?(Chính uỷ trung đoàn 209); Can đâu?(Chính uỷ trung đoàn 12); An đâu?(Trung đoàn trưởng pháo). Các đồng chí sẵn sàng rồi chứ? Giờ nổ súng sắp sửa bắt đầu, cần luôn luôn nắm vững quyết tâm và thời cơ cụ thể, Cần nắm chắc tình hình địch ta, phát hiện kịp thời tình hình mới nhất để bổ sung kế hoạch chiến đấu. Đảng uỷ và bộ tư lệnh sư đoàn chờ đợi chiến công của các đơn vị. Chúc các đồng chí hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Chính uỷ Liêm trao máy cho sư trưởng Nam Phong, sư trưởng lên tiếng gọi, giọng sôi nổi:
- A lô! Quân đâu?(Trung đoàn phó 14). Nhạn đâu?(Trung đoàn trưởng 209); Triệu đâu?(Trung đoàn trưởng 12); An đâu?(Trung đoàn trưởng pháo). Tất cả nhìn vào đồng hồ của mình. An đâu? Pháo nạp đạn chưa? Rồi à? Đủ cơ số cấp tập ngay bên pháo chưa? Rồi à? Tất cả chú ý: Chuẩn bị….
Sư trưởng Nam Phong chú ý lắng nghe, tiếng các trung đoàn trưởng đang trực tiếp ra lệnh cho đơn vị của mình vọng vào máy ông. Những tiếng ngắn gọn, dứt khoát với âm thanh rất đỗi quen thuộc. Ông cảm thấy một cái gì lớn hơn một niềm vui cuộn lên trong lòng ông. Ông liếc nhìn đồng hồ rồi nhìn quân đoàn phó:
- Báo cáo anh Ba, đúng năm giờ, Giờ G. Đề nghị anh cho sư đoàn nổ súng tấn công!
- Bắt đầu!

Quân đoàn phó Khắc Vũ vừa gật đầu, vừa nói, rồi ông đứng thẳng dậy. Tất cả mọi người đều đứng thẳng dậy, mắt hướng về sư trưởng. Sư trưởng Nam Phong cầm chặt máy nói, mắt ông nhìn xoáy vào chi khu Định Quán trên bản đồ. Ông gọi to:
- Quân đâu? Nhạn đâu? Triệu đâu? An đâu? Tất cả nghe lệnh tôi! Màn một: Bắn! Bắn! Bắn!
Ông hô luôn ba tiếng bắn, chờ cho tiếng các trung đoàn trưởng vọng lại trong máy, rồi trao cho tham mưu trưởng Thứ, ông nhìn quân đoàn phó và chính uỷ Liêm:
- Mời anh Ba, anh Tư, anh Thái lên hầm!
Chưa lần nào sư trưởng lên hầm coi pháo bắn. Có thể những trận trước pháo trong tay ông không nhiều. Lần này pháo nhiều hơn, nhưng cái chính là do niềm vui rất mới, rất lạ, rất đặc biệt ông chưa hề gặp trong các trận đánh, các chiến dịch trước đây. Niềm vui mới lạ, đặc biệt và lớn lao đó đến với ông từ ngày sư đoàn nhận nhiệm vụ vào chiến dịch. Ông chưa có thì giờ gạn lọc, tìm hiểu xem nó như thế nào, nhưng ông đã cảm thấy như là kết quả con số cộng của những niềm vui trước kia, ông nảy ra ý mời quân đoàn phó và các đồng chí trong bộ tư lệnh cùng lên hầm coi pháo bắn khi ông thét ba tiếng bắn vào máy nói.
Pháo bắn vào Định Quán, Phương Lâm. La Ngà, núi Tràn, đồi đăng Ca, cao điểm 112. Đạn pháo nổ, bộc phá liên kết nổ, bộc phá liên tục nổ. Tiếng động cơ ô tô kéo pháo 85 vào trận địa. Tiếng súng cối nặng 160 ly, 120 ly nổ. Tất cả các loại tiếng nổ ấy đan dệt vào nhau, xoắn xuýt lấy nhau, cuồn cuộn từ Phương Lâm đến Túc Trưng, suốt một dải dài gần 50 cây số. Tiếng nổ báo cho đồng bào, đồng chí, cho núi rừng, cho kẻ địch biết mặt trận đường 20 đã mở màn.

Các chiến sĩ đại đội 7 sẵn sàng vọt tiến về phía các gộp đá khi loạt đạn pháo thứ nhất của ta rót vào chi khu. Trong những giờ ém lại, các chiến sĩ tranh thủ chợp mắt nên bây giờ ai cũng tỉnh táo. Thời gian pháo cấp tập ba mươi lăm phút. Thiệu ước tính đến phút thứ ba mươi là nổ súng quét bọn dân vệ, thốc thẳng tới đường cũng vừa lúc loạt pháo cuối cùng nổ dứt. Đại nằm cạnh Thiệu, vừa quan sát điểm nổ của pháo vừa theo dõi bọn dân vệ. Thiệu cùng Thuận bò lên xô cánh cổng bằng dây thép gai. Con chó thấy bóng người sủa gắt, vọt vào nhà. Bọn dân vệ nhớn nhác, la hét om xòm, đứa bỏ chạy, đứa chui xuống hầm. Đại nhìn thấy cái hầm lớn. Đại gọi Hoan trung đội phó tới, chỉ cho Hoan. Hoan buộc một chùm ba quả lựu đạn rồi nâng dây thép gai, chui qua hàng rào, Đại dặn theo:
- Lúc nào tớ khoát tay thì bắt đầu.
Hoan gật đầu, Đại vẫy một chiến sĩ mang AK tới chỉ về phía Hoan. Cậu chiến sĩ hiểu ý, đưa súng lên vai sẵn sàng yểm hộ. Trời sáng dần, một số dân từ trong thị trấn ra làm nương hốt hoảng chạy về, có một vài người chạy tới gần chỗ Đại nhưng họ không nhìn thấy. Đại nhìn đồng hồ rồi vẫy tay cho anh em. Các chiến sĩ từ đội hình hang ngang chuyển thành đội hình hàng dọc, một chân quỳ, một chân duỗi, mắt chăm chăm nhìn chính trị viên. Pháo cấp tập lần hai, đạn pháo các loạt từ các hướng lao xuống chi khu, sức xuyên, sức nổ, sức chấn động và lửa cháy. Từng mảng tường, mảng tôn, từng chum dây thép gai tung lên, tiếng nổ dội vào các gộp đá bật ra, ù ù, ầm ầm. mặt đất rung rinh, không khí căng mỏng, cuốn xoáy, những màn sương dày rách tung, những gộp đá hiện ra dần dần. Thiệu nhìn thấy những màu xám trắng của những gộp đá, cái cảm giác đầu tiên nảy ra trong óc anh là những gộp đá ấy có vẻ lầm lỳ, thách thức. Thiệu nhìn đồng hồ lần nữa rồi hất đầu cho Thiêm, chiến sĩ bộ đàm. Thiêm bật công tắc liên lạc với sở chỉ huy trung đoàn:
- Báo cáo với trung đoàn, đại đội 7 bắt đầu đánh!
- Rõ!

Đại khoát tay cho Hoan, Hoan đã cách miệng hầm khoảng năm thước, Hoan nhỏm người lên tung ba trái lựu đạn vào miệng hầm, Hoan cuối đầu xuống. Một tiếng nổ lớn từ miệng hầm dội ngược lại, Hoan nhảy lên lia vào đấy đúng một băng AK, không trở lại lối cũ, Hoan dẫn anh em băng qua các dãy nhà, vừa chạy vừa bắn theo những tên dân vệ đang cắm đầu tháo chạy. Sự xuất hiện bất ngờ của đại đội 7 ở hướng này làm cho mấy bốt dân vệ đóng ở ba gộp đá thấp bỏ chạy, một số tên bị tiểu liên quét gục, một số chạy thoát vào các gộp đá. Thiệu vẫy tay:
- Trung đội 1 đánh gộp đá cao, trung đội 2 vòng bên phải, trung đội 3 yểm hộ.
Trung đội phó Hoan nép mình vào thành đá nhìn lên. Hoan thấy ngay một cái nòng đại liên thò ra ngoài miệng lô cốt đang dịch qua, dịch lại. Hoan hiểu thằng địch trong đó đang tìm mục tiêu. Hoan vẫy một chiến sĩ mang B40 tới cạnh mình, chỉ tay lên gộp đá. Cậu chiến sĩ nâng súng lên chưa kịp bắn thì miệng khẩu đại liên tuôn ra một dòng lửa. Đạn và vào thành đá bắn ra vô số mảnh đá con, một viên đạn cắm vào tay phải cậu chiến sĩ, khẩu B40 rơi xuống đất.
- Chậm hơn nó rồi!
Hoan bậm môi kéo cậu chiến sĩ nép vào thành đá, chộp lấy khẩu B40 bò sang phải
- Tao trị mày!
Hoan nâng khẩu B40 lên, anh phải bắn với góc tà dương 40 độ. Bắn như thế này thì luồng lửa phụt ra sau có thể làm bỏng chân nhưng không còn cách nào khác, Hoan bóp cò. Một vầng lửa chớp lên ở đỉnh gộp đá, khẩu đại liên im một chút rồi tiếp tục rống lên, bọn địch ở trên gộp đá hét to:
- Bên này, có thằng bắn B40 bên này. Chúng vừa hét vừa ném lựu đạn Mã Lai xuống khu vực Hoan đứng, lựu đạn rơi lịch bịch như thị rụng, Hoan nằm sấp xuống tránh mảnh. Dứt một loạt đạn, Hoan vọt sang bên kia gộp đá, bây giờ anh đang ở sau lưng khẩu đại liên:
- Loại đá này cứng khiếp, mất một trái rồi, không thể chơi vội với  tụi nó được.

Hoan nhìn kỹ cái lô cốt, bỗng phát hiện ra chỗ tiếp giáp lô cốt với gộp đá, Hoan đưa khẩu B40 lên:
- Lần này thì mày chết với tao!
Chớp lửa bùng lên, lẫn trong lửa là đám bụi trắng rất lớn trùm kín cả gộp đá. Không còn nghe khẩu đại liên bắn nữa. Hoan rút cây cờ cuộn tròn dắt sau lưng lao tới chiếc thang dây leo lên gộp đá. Khói tan, Hoan đã đứng trên đỉnh gộp đá phất cờ, báo hiệu cho tiểu đoàn 1 đang đánh trong chi khu biết đại đội 7 đã chiếm được một gộp đá cao đầu tiên. Sau những phút bất ngờ, hốt hoảng, bây giờ bọn địch trấn tĩnh lại, bắt đầu bắn mạnh vào đội hình đại đội 7. Đại đội không tiến được buộc phải triển khai đội hình quanh những gộp đá vừa chiếm. Thiệu nhìn đồng hồ, trận đánh được bốn mươi phút, mặt trời đã lên. Súng trong chi khu nổ rộ từng đợt, cả hướng trận địa pháo cũng vậy. Nghe tiếng súng, Thiệu hiểu trận đánh đã bị giảm tốc độ. Trước mắt Thiệu là khu vực đại đội phải đánh chiếm. Sự phức tạp, khó khăn Thiệu nghe nói, Thiệu tưởng tượng trong khi thảo luận trên sa bàn so với thực tế trước mắt chỉ là một phần nhỏ. Hai mục tiêu lớn nhất, mục tiêu cuối cùng đại đội phải chiếm cho bằng được là gộp đá ba chồng và gộp ông Phật thì còn cách Thiệu rất xa. Từ đây đến đó còn vô số gộp đá, hình như gộp đá nào cũng có địch. Thiệu nói với Đại:
- Cái thế bất ngờ chung lúc đầu đã hết, bọn đich tất cả các nơi đều chống trả quyết liệt, mình phải tính cách đánh khác đi Đại ạ. Một hy sinh, bốn bị thương rồi phải không?
- Đồng ý! Phải tiến chắc, đánh chắc, nhưng không thể chậm chạp được. Mất bất ngờ chung nhưng vẫn còn có thể tạo ra bất ngờ cụ thể được.
- Bằng cách nào?
- Vừa đánh vừa nghi binh!
- Đúng!- Thiệu mừng ra mặt – Mình hiểu rồi. Đánh hai cái gộp kia nhé!
- Đồng ý! Mình đi với trung đội 3. Rút kinh nghiệm cậu Hoan đánh vừa rồi, nghi binh chính diện, bí mật vu hồi.
Thiệu gật đầu, mắt sang lên. Thiệu gọi các trung đội trưởng tới. Anh nói với Thiêm:
- Báo cáo trung đoàn, bị địch ngăn chặn, đang tổ chức đánh!
- Rõ! Thiêm nâng cần ăng ten lên, gọi vào máy bằng mật ngữ.

Trưởng ba tác chiến tổng hợp xong tình hình các hướng. Anh xem giờ  rròi lên hầm báo cáo với sư trưởng. Sư trưởng, chính uỷ, phó chính uỷ đã đem bản đồ lên khỏi hầm sau khi bộ binh bắt đầu tấn công.
Sư trưởng Nam Phong vẫn nhìn vào bản đồ, thấy Nhung tới, ông hỏi:
- Thế nào?
Nhung ngồi xuống trải bản đồ lớn ra:
- Báo cáo thủ trưởng, cho đến chín giờ kém mười lăm, tình hình phát triển của các hướng như sau: Hướng trung đoàn 14, tiểu đoàn 1 chiếm được khu phía nam chi khu. Cụ thể là đại đội 1 chiếm được khu chợ, đại đội 2 có một bộ phận đánh sang bắc đường 20, tiến gần nhà quận trưởng, đại đội 3 đánh lên phía bắc liên lạc  được với tiểu đoàn 2, nhưng tiểu đoàn 2 vẫn chưa chiếm được khu quân sự. Đại đội 7 ở gộp đá cũng bị chặn lại, đang tổ chức đánh chiếm từng gộp. Tiểu đoàn 3 vẫn chưa chiếm được trận địa pháo, đại đội 12 bị thương vong nhiều vì xung phong vướng mìn, mất sức chiến  đấu. Bộ đội tạm ngừng củng cố những nơi đã chiếm để tổ chức tấn công tiếp. Về địch,hoả lực súng cối còn ít, hoả lực bắn thẳng vào trận địa pháo 85 và khu chợ, ta thương vong một số.
- Hướng 209?
- Báo cáo, tiểu đoàn 9 đã diệt được điểm núi Tràn, tiêu diệt đại đội 4, tiểu đoàn 1/43, thu được súng, bắt được tù binh. Tiểu đoàn 8 đánh bọn địch phía nam núi Tràn, địch bỏ chạy. Anh em  đang truy lùng diệt số còn lại và chuyển sang phục kích lớn. Tiểu đoàn 7 đang bắt liên lạc với tiểu đoàn 5 chuẩn bị đánh cầu La Ngà.
- Hướng trung đoàn 12?
- Báo cáo, tiểu đoàn 4 trung đoàn 12 sẵn sang cơ động đánh cao điểm 112, tiểu đoàn 5 đang đánh bọn tháo chạy ở ấp 107, còn tiểu đoàn 6 chưa đánh Phương Lâm.
- Tại sao?
Sư trưởng ngửng đầu nhìn thẳng vào Nhung.
- Báo cáo, vì hiểu sai ngày N.
- Hiểu sai à? Sư trưởng cau mày:
- Các anh phải chịu trách nhiệm về việc đó. Đồng chí kết luận tình hình thế nào?
- Báo cáo thủ trưởng, các hướng khác, trừ tiểu đoàn 6 đánh chi khu Phương Lâm đều phát triển thuận lợi, đúng kế hoạch. Hướng trung đoàn 14 phát triển chậm do địch dựa vào công sự vững chắc, dựa vào chướng ngại thiên nhiên. Long Khánh lệnh cho tên Chánh tích cực cố thủ Định Quán, hứa xin tướng Toàn tư lệnh quân đoàn 3 cho thêm mười hai phi vụ, cho trung đoàn 52 ứng cứu. Hắn còn hứa sẽ đề nghị thăng cấp trung tá cho tên Chánh.

- Ý kiến giải quyết của đồng chí?
Trưởng ban Nhung mở to mắt nhìn sư trưởng, trả lời  thực:
- Báo cáo thủ trưởng, tôi vừa tập hợp xong tình hình, chưa kịp suy nghĩ.
Sư trưởng Nam Phong quay sang thảo luận tình hình với chính uỷ Liêm và phó chính uỷ Thái. Thống nhất ý kiến xong, ông nói với những người xung quanh:
- Các anh chuẩn bị thêm ý kiến đi. Tôi nói trước. Ông quay  sang Nhung. Hiểu ý sư trưởng, Nhung rút bút ra:
Sư trưởng Nam Phong vẫn nhìn vào bản đồ, ông nói nhanh như đã suy nghĩ rất lâu, rất kỹ:
- Một: Trả đại đội 3 về cho tiểu đoàn 3 thay thế đại đội 12 rút ra củng cố làm dự bị, lệnh cho tiểu đoàn 3 bình tĩnh tìm cách đánh thích hợp, chiếm kì được trận địa pháo.
- Hai: Lệnh cho Quân xuống tiểu đoàn 2, trực tiếp nắm tiểu đoàn 2 chiếm bằng được khu quân sự, chính uỷ Doanh giữ liên lạc với sư đoàn.
- Ba: Lệnh cho trung đoàn phó Ban trực tiếp nắm tiểu đoàn 1 bắt liên lạc với Quân, vào hẳn trận nội, tổ chức đánh.
- Bốn: Lệnh cho cả Quân và Ban tìm mọi cách chia cắt địch ra, không để cho chúng dồn cục lại. Trận nào cũng bị nhược điểm ấy, phải táo bạo, phải khắc phục cho được.
- Năm: Kéo pháo 85 vào gần hơn, mang ĐK vào diệt lô cốt trên gộp đá. Lệnh cho hai khẩu 37 hạ nòngbắn thẳng vào đỉnh gộp đá, trực tiếp yểm hộ cho đại đội 7.
-  Sáu: Lệnh cho trung đoàn 209 hoàn chỉnh ngay trận địa phục kích, sẵn sàng đánh chiến đoàn 52 từ Kiệm Tân lên. Tuyệt đối không cho một xe, một tên lên quá núi Tràn.
Sư trưởng Nam Phong ngừng một chút, bỗng hỏi:
- Trưởng ban Ba đâu? Lệnh cho trung đoàn thông tin kéo dây vào tận trận nội của trung đoàn 14.
Chính uỷ Liêm nhắc tiếp:
- Vấn đề là cách đánh cụ thể của phân đội! Bây giờ hai bên đã hiểu nhau rồi, ăn thua là ở thủ đoạn chiến đấu. Chính trị viên, tiểu đoàn trưởng phải xuống đại đội tìm hiểu tình hình thực tế rồi tổ chức cho anh em đánh.
- Rõ!
Nhung quay xuống hầm, tiếng Nhung vang trong máy.
Sư trưởng Nam Phong hỏi chính uỷ Liêm:
- Anh thấy bọn chiến đoàn 52 có khả năng lên phạm vi của ta không?
Chính uỷ Liêm lim dim mắt, cái trán cao của ông như bóng thêm, ông nói chậm rãi:
- Cũng khó lên, chúng không thể bỏ trống Xuân Lộc được.
Vừa lúc đó quân đoàn phó Khắc Vũ tới, ông đã nắm được tình hình chiến đấu của sư đoàn qua tham mưu trưởng Thứ, ông cười:
- Khó khăn phải không? Cái chi khu Định Quán này từ thời Tây đến thời Mỹ mình chưa đánh lần nào, thuộc loại hóc hiểm, không đánh nhanh như Đồng Xoài được đâu. Động viên anh em bình tĩnh, dừng đốc anh em nhiều quá làm họ cuống, mà cuống là đánh ẩu, thương vong vô ích. Vấn đề là phải giúp anh em cách đánh, còn chiến đoàn 52 thì không có khả năng lên đâu. Nguyễn Văn Toàn vẫn cho Tây Ninh là hướng tấn công chính của ta nên hắn vẫn giữ chiến đoàn 48 của sư 18 ở Củ Chi. Ở đây chiến đoàn 43 đã bị đánh tan tác, Lê Minh Đảo không thể ném chiến đoàn 52 vào Định Quán để rồi sa lầy và bị diệt nốt ở đó. Với lại chúng cũng đánh hơi được sư 6 của ta vừa thành lập xong, sư 341 đang trên đường tới đây. Vì vậy có ném chiến đoàn 52 vào vòng chiến hay không chúng còn phải tính toán. Cho nên các đồng chí cứ yên tâm. Chúng ta có đủ thì giờ diệt chi khu, giải phóng đoạn đường quan trọng này.
 Sư trưởng Nam Phong nhìn quân đoàn phó:
- Báo cáo anh Ba, chúng tôi đã thông báo cho trung đoàn 209. Sở chỉ huy nhẹ của sư đoàn sẽ tới ngay. Chúng tôi đã gợi ý cách đánh cho anh em. Đang cho tổ chức thực hiện.

Quãng đường ban đêm đi trinh sát chỉ mất một giờ rưỡi, nhưng giữa ban ngày trung đoàn phó Quân phải đi mất gần ba tiếng. Bọn địch trên hòn đá ba chồng phát hiện được lối tải đạn, chuyển thương của ta nên chúng gọi máy bay tới đánh phá liên tục. Dọc đường Quân bị bom vùi mấy lần. Anh và câu liên lạc phải bò, bò cả trong lúc địch ném bom. Một tổ thông tin kéo đường dây đi theo đã hy sinh một. Công việc chuyển đạn vào, tải thương ra bị chững lại. Gần một giờ chiều Quân mới vào được trong khu vực chi khu. Ban và hai tiểu đoàn trưởng đang chờ anh ở đó. Cuộc tấn công tạm dừng lúc mười giờ. Bộ đội đang củng cố công sự, điều chỉnh đội hình, đánh lấn và bắn tỉa. Quân và các tiểu đoàn trưởng bò đi quan sát trận địa địch và ta, phân công mục tiêu. điều ĐKZ và trọng liên lên, tổ chức lại hoả lực.
Trong lúc ở khu vực chi khu Quân đang tổ chức đợt tấn công thứ hai thì ở khu vực gộp đá đại đội 7 cũng tạm dừng. Thêm hai chiến sĩ hy sinh và tám bị thương. Đại đội chiếm được thêm ba mục tiêu, rút ngắn thêm khoảng cách giữa hai đại đội với gộp đá ba chồng và gộp ông Phật, nhưng hai mục tiêu quan trọng vẫn nằm ngoài tầm B40. Đại đội chỉ còn một nữa quân số chiến đấu. Chính trị viên Đại gom hết số anh em  vào khu vực vừa chiếm được, phân tán anh em vào trong các hang hốc để tránh đạn M79, lựu đạn Mã Lai. Điều Đại và Thiệu không ngờ là khu vực này không có lấy một giọt nước. Trời về chiều, nắng rất gắt, nắng dội xuống gộp đá, toả thêm hơi nóng hút hết nước trong người, anh em lâm vào cơn khát ghê gớm. Người khoẻ khát, người bị thương lại càng khát, mắt hoa, tay cầm súng không vững, một vài cậu ngất xỉu. Khu vực này lại không có cây, không có cỏ, khả dĩ có thể nhai nuốt lấy nước. Đại bảo anh em đái ra uống, nhưng nước đái rồi cũng hết.

Thiệu phóng tầm mắt ra khỏi khu gộp đá, mắt anh bỗng sáng lên khi nhìn thấy mấy bụi chuối rừng ở bìa rẫy. Thiệu gọi Đại tới:
- Kìa! Chuối, bằng mọi cách phải đem về vài cây chuối không thì nguy.
Nhìn quãng đường xa, bọn địch trên gộp đá ba chồng sẽ nhìn thấy, đi về chưa chắc trót lọt, nhưng không còn cách nào khác. Đại gật đầu. Thiệu gọi Đức tới chỉ về phí mấy bụi chuối:
- Cậu bò nhé! Nhớ là bò đấy, ra chỗ bụi chuối kia, chui vào giữa bụi ấy. Chú ý bọn địch ở gộp đá ba chồng.  Khi nó không nhìn về phía cậu thì cắt các tàu chuối bỏ xuống, cắt từng tàu một.
- Em hiểu! Đức gật đầu, Thiệu nói tiếp:
- Rồi cắt lấy một đoạn, dài ngắn tuỳ sức cậu, cố mang về đây cho anh em. Phải thật khéo, nhớ đừng bóc vỏ cây chuối, bóc trắng toát là nó thấy ngay.
- Em nhớ!
- Cậu cứ bò đi, bọn mình yểm hộ cho.
Đức nằm xuống rồi nhoài đi. Thiệu bảo Đường, xạ thủ của đại dội:
- Bắn tỉa đi!
Đường kê súng trên gờ đá, mũi súng hướng về gộp đá ba chồng.
Thiệu dán mắt vào bụi chuối. Thời gian như đứng lại, Thiệu nuốt khan nước bọt, chưa bao giờ anh nóng ruột và hồi hộp như lúc này. Cổ anh se lại, đắng ngắt, đau rát lên. Thiệu bảo Đường:
- Nó hạ được chuối rồi, bắn lên gộp đá ba chồng!
- Em không thấy thằng nào cả!
- Không thấy cũng bắn, đánh lạc mục tiêu.
Khẩu súng trong tay Đường nảy nhẹ. Một ánh lửa toé lên ở gộp ba chồng, đạn lia vào đá toé lửa.
- Bắn đều từng phát!
- Rõ!
Đức buộc cây chuối dọc trên lưng, dùng động tác bò thấp. Khoảng cách nhích gần lại. Còn chừng dăm chục thước, cái dây buộc cây chuối đứt, cây chuối lăn xuống. Đức giữ được cây chuối, ngước mắt thấy gần về đến nơi. Nhưng vừa bò được mấy thước thì bỗng một tiếng súng nhỏ vang lên từ gộp ông Phật. Đức gục xuống, cây chuối lăn sang bên người.
Trái tim Thiệu giật thót lên, Thiệu kêu giọng đau đớn:
- Bọn ở gộp ông Phật bắn trúng thằng Đức rồi!
Thuận liên lạc, nhổm người lên:
- Để em ra!
Thiệu nắm lấy tay Thuận:
- Khoan! Nó đang chú ý!
Các chiến sĩ trong đại đội, trừ những đồng chí canh gác, bắn tỉa còn thì ai cũng thấy cái đầu của Đức gục xuống. Cơn khát bỏng như dịu đi
- Trả thù cho Đức!
Tiếng một chiến sĩ nào đó hét lên, xoáy vào tim từng người.
Những chiến sĩ bị thương nghiến răng, không đòi nước nữa, những người khoẻ cũng nghiến răng, nắm chặt súng nhìn đại đội trưởng đợi lệnh. Nhưng rồi nắng cũng bớt dần. Một vài mảng mây bay qua mặt trời làm cho mặt đất im mát đôi chút. Khu vực gộp đá cũng dịu đi phần nào. Thiêm, chiến sĩ bộ đàm bò đến bên Thiệu, trật một tai ống nghe ra. Giọng Thiêm phấn khởi:
- Báo cáo anh Thiệu. Trung đoàn báo cáo, pháo 85 sẽ bắn vào hai mục tiêu của ta. Trung đoàn đang chuẩn bị tấn công. Đại đội sẵn sàng phối hợp.
 Thiệu báo tin đó cho Đại - Đại bò đến tận từng trung đội. Các chiến sĩ như đã quên cơn khát, họ chuẩn bị tham gia đợt tấn công thứ hai.

Đợt tấn công thứ hai trong ngày không thể bắt đầu sớm hơn được. Bọn địch tăng cường gấp ba lần số phi vụ ném bom mà tên tỉnh trưởng Long Khánh đã hứa với tên chi khu trưởng Định Quán sáng nay. Máy bay ném bom A37, F5, AĐ6 bay cáo ngày tầm trọng liên 12 ly 8 và cao xạ 37, không nhào lộn gì, cắt từng chùm bom xuống khu vực trận địa pháo, các đường tiếp đạn, tải thương, các khu vực trận địa ta đã chiếm được. Chiến sĩ phải đào công sự tránh bom, cơ số đạn mang theo đã dùng hết, việc tiếp đạn bị chậm nên trung đoàn phó Quân phải xin phép sư đoàn hoãn đợt tấn công đến 18 giờ với những lý do cho bổ sung đạn dược, chờ máy bay bớt hoạt động và bọn địch có thể chủ quan hơn khi trời sắp tối. Quân báo cáo cả yêu cầu của đợt tấn công này. Theo anh, đợt tấn công này nhằm đánh chiếm hoàn toàn khu vực trận địa pháo, khu quân sự, tạo điều kiện vững chắc để sáng mai dứt điểm hoàn toàn. Vào trong khu vực chi khu anh mới hiểu bọn địch đã sử dụng có kết quả các chướng ngại thiên nhiên như thế nào, nhiều điều cơ sở không biết, các lần đi trinh sát thực địa không phát hiện được. Với đợt tấn công này, anh nắm chắc các đơn vị có thể đánh bật được bọn địch khỏi các điểm còn lại ở khu quân sự nhưng sẽ không tiêu diệt được hết bọn chúng. Chúng sẽ theo đường chuẩn bị sẵn rút vào các hang đá cố thủ. Bọn tù binh đã khai rõ các điểm cố thủ. Vì vậy, việc dứt điểm hoàn toàn phải tới sáng mai.
Để phối hợp với trung đoàn, anh đề nghị cho trung đoàn bạn đánh cao điểm 112 trong đêm nay. Theo anh, tiểu đoàn 2/43 chưa bị diệt thì thằng Chánh còn ngoan cố. Trung đoàn phó Quân đưa tay quệt mồ hôi trán. Gần chục phút báo cáo tình hình, đề nghị kế hoạch tấn công với sư trưởng, Quân đã không bị ngắt lời. Mỗi lần Quân ngập ngừng, sư trưởng còn khuyến khích anh nói tiếp. Anh trình bày xong, anh đợi ý kiến của sư trưởng. Đôi mày rậm của Quân lúc co lại, lúc dãn ra, khi những ý kiến trao đổi của những người ngồi ở sở chỉ huy sư đoàn lọt vào ống nghe. Bỗng một hồi chuông vang lên, Quân áp ống nghe vào tai, mắt không nhấp nháy:
- Có! Tôi là Quân đây. Nghe rõ ạ! Thủ tưởng hỏi có cần xe tăng và đơn vị bạn vào tham chiến không à? Tôi chưa trao đổi với Ban. Nhưng theo tôi thì không cần. Vì sao à? Báo cáo thủ trưởng, khu vực còn lại không rộng lắm, địa hình lại phức tạp, xe tăng không phát huy được tác dụng, còn quân số thì chúng tôi đủ sức đánh, vào thêm sẽ không có chỗ triển khai, mật độ dày, tăng thêm thương vong. Vâng! Xin thủ trưởng ít phút để trao đổi với anh Ban.
Quân đặt máy lên đùi nhìn Ban. Ban nghe rồi nên nói ngay:
- Không cần xe tăng và quân số, cho vào chỉ thêm phức tạp. Xin các cụ ấy thời gian thôi. Chấp nhận đến sáng mai dứt điểm thì phúc đức cho con cháu rồi.
Quân cầm ống nghe:
- A lô! Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi chỉ xin thời gian thôi. Sau đợt tấn công này, chúng tôi sẽ củng cố tại chỗ, xin bảo đảm với thủ trưởng sáng sớm mai dứt điểm. Rõ! – Xin đem cả danh dự trung đoàn 3. Vì hứa với sư đoàn như vậy. Vâng! Vì chúng tôi đã hiểu rõ chúng, đã nhìn thấy những điểm còn lại của chúng và đã tìm ra cách đánh. Vâng! Chúng tôi, cả ban chỉ huy xin chịu trách nhiệm trước sư đoàn.
Quân đặt máy. Anh nhìn Ban, nhìn các tiểu đoàn trưởng rồi mỉm cười:
- Các cụ ấy đồng ý rồi. các cụ thấy không thể bóp vụn các gộp đá vào đêm nay được. Cũng đêm nay, trung đoàn 12 mới đánh Phương Lâm và cao điểm 112. Thôi còn gì bàn nữa không? Không à? Đúng 18 giờ tấn công.

Các tiểu đoàn trưởng về vị trí. Những chiếc máy bay cuối cùng bay khỏi bầu trời, mây mù từ những dãy núi ao mạn bắc là là bay xuống, ánh nắng tắt dần trên mặt rừng, rừng xanh thẫm hơn. Không khí hoàn toàn mát dịu.
Đợt tấn công bắt đầu bằng mười lăm phút chuẩn bị hoả lực. Với sự tham gia của súng cối 120 ly, pháo 85 nòng dài. ĐKZ 75, 82, trọng liên 12 ly 8 giá ngang. Nhờ trinh sát kỹ, có thì giờ chuẩn bị mục tiêu,đánh vào lúc bất ngờ đối với địch. Nên khi hoả lực vừa dứt, các mũi bộ binh xung phong đã vào được khu quân sự. Cuộc chiến đấu bằng lựu đạn và tiểu liên kéo dài suốt một giờ, cuối cùng bọn địch cũng bỏ khu quân sự rút vào các gộp đá. Quân nhảy vào một lô cốt, anh chộp được tên tù binh, anh nắm lấy cổ áo hắn:
- Thằng Chánh đâu?
- Dạ! Dạ thưa ông cán bộ, thiếu tá Chánh vừa rút ra hầm cố thủ.
- Ở đâu?
- Dạ, ở trong những gộp đá kia.
- Mày dẫn chúng tao đi.
- Dạ em không dám, họ rút tới đâu gài mìn tới đó. Đi là chết cả em với giải phóng.
- Chúng mày còn đông quân không?
- Dạ còn hơn một trăm.
- Mày làm gì?
- Dạ em là lính văn phòng của quận.
- Tại sao mày không chạy theo thằng Chánh?
- Dạ, chạy cũng chết, em ở lại đầu hàng các anh.
Quân đấy tên tù binh sang một bên rồi vào nhà quận trưởng. Anh gặp tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 ở đó. Trời đã nhá nhem, trước mặt Quân, các gộp đá bắt đầu sẫm lại. Anh đang tính xem có nên cho bộ đội tiếp tục phát triển vào các gộp đá hay không thì bỗng từ phía đó, bọn đich đã bắt đầu bắn hàng loạt súng cối, M79 và ném cả lựu đạn sang khu quân sự. Quân thấy cần phải nắm thêm tin tức của bọn tù binh để có thêm kế hoạch thật tốt. Anh quyết định cho bộ đội tảo trừ khu vực mới chiếm, để lại hai tổ giữ bàn đạp, còn lại thì rút lui ra ngoài tầm lựu đạn nghỉ ngơi, củng cố. Quân men theo các chiến hào, lô cốt, quan sát thật kỹ khu gộp đá rồi trở về khu hành chính, nơi đặt tạm sở chỉ huy. Trung đoàn phó Ban đã báo cho anh biết tiểu đoàn 3 đã chiếm được trận địa pháo. Bọn địch một số bị bắt, một số chạy ra rừng, một số nhập với bọn tiểu đoàn 2/43 dưới chân cao điểm 112. Đại đội 7 chiếm thêm hai gộp đá, đã tiến sát gộp đá ba chồng và gộp ông Phật, đang giải quyết thương binh, tử sĩ. Quân tổng hợp tình hình thông bào cho Doanh và báo cáo với sư trưởng, nhận chỉ  thị, tính toán công việc đêm nay, tiếp tục trinh sát mục tiêu, tổ chức lực lượng, điều chỉnh đội hình, bổ sung đạn dược, giải quyết thương binh, tử sĩ. Quân dựa vào thành hầm, im lặng. Những gộp đá hiện ra trước mắt anh. Anh đứng phắt dậy đi tới chỗ nhốt bọn tù binh.
Đến bốn giờ sáng, đại đội 7 giải quyết xong hậu quả trong ngày, đưa ba tử sĩ, mười hai thương binh ra ngoài giao cho bộ phận tải thương của trung đoàn, bổ sung đạn dược, nước uống và cơm vắt. Thêm năm chiến sĩ hôm qua còn ở nhà bổ sung ra, nâng tổng số lên hai mươi.
Thiệu và Đại đã từ chối gợi ý của trung đoàn cho thêm một đại đội vào khu vực này, bởi lẽ vào nhiều sẽ thương vong nhiều. Ngoài ba đồng chí trúng đạn hy sinh, phần lớn bị thương do các mảnh đá văng ra, những mảnh đá vụn ấy nguy hiểm hơn đạn ria. Các chiến sĩ đã hồi sức sau khi đã được uống nước và ăn cơm nóng.

Từ gộp đá ông Phật và gộp ba chồng, bọn địch bắn đều đều M79, súng cối 60 vào khu vực đại đội triển khai nhưng không ai để ý, các chiến sĩ vừa nhai cơm vừa thì thầm với nhau. Đại tranh thủ khoảng cách giữa các lần bắn bò đến từng tổ, anh nắm chặt tay từng người, ghé vào tai họ, giọng thân thiết:
- Thế nào cậu?
- Báo cáo chính trị viên, em khoẻ rồi!
- Trong đời em chưa bao giờ khát như hôm nay!
- Ngon rồi chính trị viên ạ! Đồng chí đừng lo!
- Đâu lại vào đấy thôi, thủ trưởng ơi!
- Nghĩa là….?
- Nghĩa là sáng mai chúng em sẽ trèo lên gộp đá ba chồng và gộp ông Phật.
Đại tiếp tục bò đến một tổ khác, anh gọi:
- Hoan đâu? Hoan đâu?
- Tôi đây! Chính trị viên phải không?
- Cờ đâu rồi?
- Ở đây, tôi đã kiếm một cái cán khác, chắc lắm!
Đại sờ lên mặt Hoan, anh không nhìn thấy Hoan, nhưng nghe giọng  nói, anh biết Hoan đang mỉm cười.
- Cậu còn nhớ hôm cắm cờ lên dinh tỉnh trưởng Phước Long không?
- Nhớ! Trận đó đại đội ta chỉ còn muời lăm tay súng sau hai ngày đêm thọc sâu vào giữa đội hình địch, ai mà quên được.
- Ngay mai trung đội cậu đánh gộp ông Phật, đó là cao điểm cuối cùng đấy, cậu phải lên cho được.
- Nhất định tôi sẽ lên được, đại đội đừng lo.
- Thôi, tranh thủ chợp mắt đi một lúc. Trước lúc tấn công phải thật tỉnh táo. Sư đoàn vừa biểu dương đại đội ta. Cậu báo cho anh em biết đi.
Đại về chỗ Thiệu, Thiệu đang ngồi nói chuyện với Thuận và Thiêm. Thấy Đại tới, Thuận và Thiêm lùi sang một hốc đá khác. Đại ngồi cạnh Thiệu:
- Cậu đã nghĩ cách đánh chưa?
- Đang nghĩ, trung đoàn vừa thông báo thằng Chánh và ban chỉ huy chi khu đã vào hầm cố thủ. Khả năng hầm cố thủ có thể ở giữa ba gộp đá lớn: Hòn ông Phật, hòn ba chồng và hòn dài. Đợt tấn công cuối cùng sẽ bắt đầu lúc sau giờ sáng bằng ba mươi phút pháo chuẩn bị. Pháo sẽ bắn trùm lên khu gộp đá. trung đoàn ra lệnh tìm chỗ núp cho anh em. Pháo dứt là công kích ngay.
- Khả năng pháo 85 và ĐKZ bắn trực tiếp thế nào?
Thiệu lắc đầu:
- Nói là trực tiếp chứ cũng xa, bắn thì trúng gộp đá đấy, nhưng không trúng lô cốt.
Đại đập vào vai Thiệu:
- Mình có B41 mà.
- Đúng, mình lại áp dụng cách của Hoan thôi. Bí mật tiếp cận phía sau, bắn vào các kho đạn trên gộp, bắn vào chỗ tiếp giáp giữa gộp đá và lô cốt, đó là chỗ yếu nhất. Trận đánh ngày mai chắc quyết liệt nhưng sẽ không lâu. Trận địa pháo mất rồi, trung đoàn 12 sẽ đánh cao điểm 112, thằng Chánh đã bỏ chi khu. Chúng chỉ còn những gộp đá đã bị vây chặt. Nhất định sẽ thanh toán được bọn này.

Thiệu gật đầu hỏi tiếp:
- Mấy giờ rồi?
- 5 giờ 30.
Thiệu bật dậy:
- Chuẩn bị được rồi. Cậu ở đây liên lạc với trung đoàn, mình xuống trung đội 1.
Thuận từ trong hốc đá bò ra đón đại đội trưởng, cậu ta với đại đội trưởng như bóng với hình.
Khi trời đã bắt đầu sáng, Thiệu đã đưa được một tổ của trung đội 2 tới sau gộp đá ba chồng. Thiệu đi sau, chưa kịp ẩn vào khe đá thì một tên địch trong lô cốt đã nhìn thấy. Tên địch hét lên:
- Việt cộng phía sau.
Thuận tay nó liệng xuống một trái Mã Lai, khẩu đại liên phía sau xả một  tràng dài. Thuận chồm lên nắm được tay Thiệu kéo sấp đại đội trưởng xuống. Quả lựu đạn nổ, Thuận nấc lên một tiếng. Thiệu ôm choàng lấy Thuận, một tia máu nóng từ ngực Thuận vọt ra. Thiệu áp cả tay mình lên ngực Thuận, quay lại cậu chiến sĩ B41:
- Bắn đi!
Cậu chiến sĩ mang B41 nhanh như chớp tạt qua bên kia hốc đá đưa khẩu B41 lên. Thiệu không nhìn thấy chỗ viên đạn nổ nhưng anh bỗng nghe tiếng nước từ trên đỉnh gộp đá ba chồng chảy xuống ào ào. Tiếng một chiến sĩ bảo vệ B41 la lên:
- Trúng bể nước rồi!
Thiệu kêu:
- Bắn vào kho đạn, bên trái bể nước.
Thiệu đã đoán đúng. Sau tiếng nổ của B41 là hàng loạt tiếng nổ kéo dài từng dây. Chốc chốc lại điểm vào một tiếng nổ lớn.
- Bọn địch bỏ lô cốt chạy ra rồi, có thằng nhảy từ trên gộp đá xuống đất. Cậu chiến sĩ nói rất to – Báo cáo đại đội trưởng cho xung phong. Thiệu nhìn đồng hồ, anh kêu to:
- Tìm chỗ núp, pháo cấp tập đấy!
Chiến sĩ trung đội 1 dán mình vào hốc đá. Cũng vừa lúc pháo ta từ các hướng dội xuống. Hôm qua mục tiêu rộng, pháo bắn nhiều nhưng phân tán. Hôm nay mục tiêu nhỏ hơn, số lượng pháo có ít nhưng tập trung, dồn dập hơn. Cùng với pháo cầu vồng, các khẩu 85, ĐKZ bắn thẳng tập trung vào gộp ba chồng và gộp ông Phật. Bọn địch trên gộp ba chồng kêu thét lên, run rẩy, quờ quạng.
Thiệu ôm Thuận lách vào sâu hơn. Thiệu đã băng hết hai cuốn băng nhưng máu còn chảy. Thiệu nhìn chăm chăm vào khuôn mặt cậu liên lạc, anh như bị ngạt, cảm thấy một chỗ nào đó trong ngực rát bỏng lên. Vết thương rất nặng, một mảnh lựu đạn cắm sâu trong ngực. Không chắc Thuận sống được, Thiệu hy vọng Thuận mở mắt để anh hỏi một lời. Bỗng Thuận cựa mình, răng nghiến lại, cơn đau đang dày vò Thuận, Thuận từ từ mở mắt, nhận ra Thiệu, Thuận thều thào:
- Chiếm được….mục….tiêu….chưa anh? Em không sống được nữa. Vĩnh biệt anh và…
Thuận nấc lên mấy cái rồi lả đi.

Thiệu cắn môi nuốt ực một cái, anh dặt nhẹ những ngón tay đen xạm lên đôi mắt Thuận rồi bò ra. Pháo dứt, hai phát tín hiệu đỏ vọt lên trời. Bộ binh bắt đầu tấn công. Thiệu lao tới phía trước gộp đá. Chiến sĩ trung đội 1 từ chỗ nấp chạy tới, nhưng chiếc thang dây của địch pháo bắn đứt rồi, Thiệu hô:
- Trung liên yểm hộ - Chồng người mà lên. Kêu gọi bọn địch đầu hàng ngay.
Tiếng khẩu trung liên và hai khẩu AK nổ rất dòn ba tiếng một. Đạn rà quanh chiếc lô cốt đã bay mất một nữa. Tiếng một cậu chiến sĩ lanh lảnh:
- Chi khu Định Quán đi đứt rồi! Hàng sống, chống chết. Hàng đi! Hàng ngay!
Bọn địch trên gộp đá hoàn toàn thất thế, một tên địch nằm bẹp thò đầu khỏi lô cốt, giơ cả hai tay:
- các anh đừng bắn nữa, chúng em xin hàng!
Tiếng trung đội trưởng trung đội 1 gầm lên:
- Hàng thì ra ngay khỏi lô cốt, bỏ súng lại, giơ tay lên!
Chiến sĩ trung đội 2 người này đứng trên vai người kia làm thành một cái thang trèo lên. Trung đội trưởng đe bọn địch:
- Chúng mày mà giở trò là tao ra lệnh bắn không sót một thằng!
Bọn địch vừa run vừa thưa:
- Dạ, chúng em không dám.

Trong lúc đại đội trưởng Thiệu chỉ huy trung đội 1 đánh chiếm gộp đá ba chồng thì chính trị viên Đại cũng phóng tới trung đội 3 của Hoan, Thiêm, bộ đàm chạy theo Đại. Vì khoảng cách xa hơn gộp đá ba chồng nên chưa tiếp cận được thì pháo đã cấp tập, Hoan buộc phải cho trung đội tránh pháo. Khi pháo vừa dứt, khói chưa tan, Hoan đã dẫn trung đội tiến sát chân đồi. Theo kế hoạch bàn hồi đêm, Hoan cho một bộ phận nghi binh đánh chính diện, số còn lại anh dẫn vòng phía sau, cũng áp dụng lối chồng người leo lên. Chính trị viên Đại đứng ở khoảng giữa quan sát hai tổ. Khi thấy Hoan bắt đầu chồng người làm thang. Hoan khoát tay cho bộ phận chính diện. Một phát B40 phóng lên gộp, khói trùm kín thân lô cốt, đạn AK va vào đá toé lửa. Đại tiếp tục khoát tay, B40 bắn quả thứ hai. Bên kia Hoan đứng được lên vai chiến sĩ cuối cùng, hai tay anh bíu lấy gờ đá đu lên, anh nằm sát gộp đá thò tay kéo Đào lên, Đào quay lại kéo người phía sau. Hoan rút trong bao ra một chùm lựu đạn tung vào sau lưng địch, rồi Hoan quờ tay rút cây cờ giắt sau lưng. Nhưng Hoan chưa kịp phất cờ thì gục xuống, một thằng lính nào đó đã bắn một loạt M16 vào người anh. Tức thì hai quả lựu đạn khác từ trong tay Đào tung ra. Bọn địch xô nhau chạy. các chiến sĩ từ hai phía thành hai gọng kìm vây chặt bọn địch, chĩa lưỡi lê vào ngực từng đá bắt sạch, đại gọi to:
- Đào, phất cờ đi, phất mạnh lên.
Đào cuối xuống gỡ cây cờ trong tay Hoan- Hoan hy sinh rồi nhưng tay vẫn nắm chặt cán cờ- Nước mắt Đào trào ra. Đào nắm cây cờ trèo lên chỗ cao nhất, vừa phất cờ thét lên:
- Trung đội trưởng hy sinh rồi! Các đồng chí ơi, tiến lên, tiến lên!

Trong lúc đại đội 7 đánh chiếm hai mục tiêu cuối cùng được phân công. Ở hướng tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 2 cũng bắt đầu xung phong. Nhưng khi bộ đội vừa tiến sát các gộp đá thì kho đạn lớn phát nổ, mảnh bay như mưa, bộ đội buộc phải nằm lại. Trung đoàn phó Quân đoán chắc bọn địch phá kho đạn chặn ta để tìm đường thoát. Quân thông báo việc đó cho đại đội 7, ra lệnh lùng sục, chặn đường trốn của địch.
Chính trị viên Đại nhận lệnh, dẫn ngay một tổ xông vào ngôi nhà còn ngập khói, khẩu K54 trong tay Đại chĩa thẳng ra đằng trước. Anh đạp đổ cánh cửa. Từ trong nhà, một tên địch cầm một thanh sắt giáng vào Đại. Đại nghiêng đầu tránh được. Anh vẩy ngay một phát, tên địch ngã sấp xuống, anh nhảy vào, một con chó béc-giê chồm lên, anh vẩy phát thứ hai rồi cuối thấp xuống, con chó chồm qua người anh, lao ra sân giãy đành đạch. Tên địch thứ hai định thoát, anh vẩy theo, hắn trúng đạn nằm lăn ra. Đại nhảy tới tì đầu gối lên ngực hắn:
- Thằng Chánh đâu?
- Ông vừa bắn chết đó!
Đại  bỏ tên địch bị thương, chạy tới tên địch đã chết. Anh thọc tay vào túi nó lấy ra một tờ căn cước. mắt anh lướt qua những hàng chữ đánh máy. Đúng thằng Chánh rồi, thiếu tá Chánh. Đại nhìn mặt thằng Chánh trong ảnh rồi nhìn mặt tên địch nằm dưới đất, không giống. Đại quay về phía tên địch bị thương, anh giơ súng lên nhưng một phát súng khác đã nổ trước. Xác tê địch vắt ngang qua tường, hắn định chạy trốn và cậu chiến sĩ đi theo Đại đã kịp thời bắn trúng.
Đại nói với anh em:
- Thằng Chánh còn dưới hầm cố thủ, các đồng chí theo tôi!

Đại quay ra, chộp ngực một tên tù binh:
- Hầm cố thủ đâu, nói ra không thì chết?
- Dạ chỗ kia, em dẫn mấy anh đi.
Đại bắt tên tù binh chạy. Tới nơi Đại đã thấy Thiệu đang tổ chức cho anh em đánh. Một phát B41 phóng vào cửa hầm. Khói tan, Đại nhìn thấy một mảnh vải trắng buộc vào cây thông nòng súng giơ lên. Rồi một cái mặt xạm khói thò ra, Đại hét:
- Tên Chánh đâu? Ra hàng ngay không thì chết!
Dạ! – Tên địch bước ra khỏi hầm run rẩy - Dạ ban chỉ huy chi khu Định Quán xin hàng!
Đại nhìn tên địch  thứ hai rồi nhìn tấm ảnh trên căn cước, Đại nói với Thiệu:
- Đúng hắn rồi, thằng thứ hai!
Thiệu hô anh em:
- Trói chúng lại.
Thiệu bước tới trước mặt chúng, hỏi từng thằng:
- Mày? Cấp chức?
- Dạ! Trung uý cảnh sát!
- Mày?
- Dạ! Thiếu tá quận trưởng kiêm chi khu trưởng!
- Mày?
- Dạ! đại uý quân phó kiêm chi khu phó!
- Mày?
- Dạ! Đại uý trưởng ban 1!
- Mày?
- Dạ! Đại uý trưởng ban 2!
- Mày?
- Dạ! Đại uý trưởng ban 3!
- Ban chỉ huy còn thằng nào không?
- Dạ, hết!
Đại quay ra tìm Thiêm để báo cáo với trung đoàn về việc đã bắt sống ban chỉ huy chi khu Định Quán. Nhưng tìm mãi không thấy Thiêm đâu. Thấy đào, Đại hỏi, Đào nói như khóc:
- Thiêm hy sinh rồi, một quả cối cuối cùng từ hầm cố thủ của thằng Chánh bắn ra rơi trúng Thiêm khi anh dẫn một tổ vào nhà.
Đại thấy mắt cay xè, anh cắn chặt môi:
- Thiêm đang nắm đâu?
- Tải thương đưa ra rồi!
- Cái máy?
- Cũng trúng mảnh cối!
Đại quay phắt về phía bọn thằng Chánh, đôi mắt anh như phát lửa. Bọn thằng Chánh trông thấy đôi mắt ấy vội cụp đầu xuống, mặt tái đi.
Thuận hy sinh, Hoan hy sinh, Thiêm hy sinh, máy hỏng. Đại chưa biết tìm cách nào báo cho trung đoàn biết đại đội 7 đã bắt sống toàn bộ ban chỉ huy chi khu. Sực nghĩ ra, anh bảo một chiến sĩ xuống hầm cố thủ tìm máy. Vừa lúc đó, đại đội 3, đại đội anh hùng đã từ phía chi khu thọc sang. Hai đại đội anh hùng gặp nhau, các chiến sĩ reo lên. đại nhờ đại đội 3 báo cáo về trung đoàn.
Trong lúc đại đội 7, đại đội 3 và các đaị đội khác bắt tù binh, thu vũ khí ở khu vực gộp đá, tiểu đoàn 4, trung đoàn 12 cũng đã chiếm được cao điểm 112, tiêu diệt một đại đội của chiến đoàn 43. hai đại đội còn lại của tiểu đoàn này cùng với đại đội bảo an 377 và bọn tàn quân cụm lại dưới chân cao điểm 112. Trung đoàn phó Quân được lệnh dùng tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 phối hợp với tiểu đoàn 4 trung doàn 12 tiêu diệt nốt bọn này. Bọn địch di chuyển, lẩn trốn, cuộc lùng diệt diễn ra gần hết đêm. Mãi đến tối ngày 20 tháng 3, mặt trận Định Quán mới hoàn toàn im tiếng súng.

Chi khu Định Quán cùng hệ thống đồn bốt địch từ Phương Lâm đến Túc Trưng bị tiêu diệt. Thế là một trong những cửa ngõ kiên cố của địch ở địa đầu quân khu Ba, phía đông - bắc Sài Gòn đã bị phá toang. Đoạn cuối của một hành lang chiến lược mới đã mở được năm mươi cây số, đủ chỗ cho một vài sư đoàn của ta vùng vẫy.
Ở mặt trận bắc Sài Gòn, sau khi mất Dầu Tiếng, suối ông Hùng, ngày 18 tháng 3, tướng  Toàn, tư lệnh quân khu Ba, quân đoàn 3 ra lệnh cho liên đoàn biệt động quân bị cô lập ở thị xã Bình Long cắt rừng về cụm lại ở quân lỵ Chơn Thành. Nhưng biệt động quân về chưa hết, quận lỵ Chơn Thành đã bị tấn công dữ dội, thị xã Tây Ninh bị uy hiếp nặng nề. Vì thế, Lê Minh Đảo, chuẩn tướng, tư lệnh sư 18 có nài nỉ đến mấy, Lê Văn Toàn vẫn không trả chiến đoàn 48 về cho sư 18. Lê Minh Đảo đánh bỏ ý định đưa quân phản kích chiếm lại chi khu Định Quán và năm mươi cây số đường rất quan trọng đã mất, dù hắn vẫn biết rằng cái cửa rất quan trọng đã mất, dù hắn biết rằng cái cửa vững chắc nhất mở đường vào mặt trận hắn chỉ huy đã bị đối phương đập nát. Cửa mở, đường thông, những cây cầu quan trọng nhất như cầu La Ngà được hoả lực cao xạ ba tầng bảo vệ. Hắn đã xin máy bay ném bom phá cầu nhưng bọn phi công đẫ không làm được việc đó. Hắn biết đối phương đang đánh hắn ở Định Quán là sư đoàn 7, một sư đoàn loại cừ. đã có mặt ở chiến trường miền Đông cả chục năm nay, rất nổi tiếng ở đường 13 trong chiến dịch năm 1972. Hắn biết những trung đoàn độc lập rất nổi tiếng của quân khu Bảy. Việt Cộng đã tập hợp lại thành sư đoàn. Bọn thám báo và máy bay trinh sát  còn cho hắn biết một sư đoàn mớí chưa rõ phiên hiệu ở Bắc Việt vào, đang hướng từ bắc Sài Gòn xuống đông Sài Gòn. Bọn phi công báo rằng, ngày nào cũng thấy dải bụi đỏ sẫm cuồn cuộn trên những con đường đất đỏ từ bắc-tây-bắc xuống đông Sài Gòn. Là một viên tướng nên hắn hiểu những dải bụi đó do cái gì tạo nên.

Xa hơn, ngoài quân khu Hai, mặt trận Tây Nguyên thế là tan nát. Cuộc phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột không thành, sư đoàn 23 bị tiêu diệt. Tổng thống trực tiếp ra lệnh bỏ Tây Nguyên rút quân về ven biển miền Trung lập tuyến phòng thủ mới. Thế giới đang theo dõi cuộc rút quân chiến lược mới được tổng thống tuyên bố có vẻ cứng rắn và chủ động đó. Nhưng những tin tức mà Lê Minh Đảo biết riêng thì đó là cuộc tháo chạy đẫm máu chưa từng có. Còn ở đây, mặt trận đông - bắc Sài Gòn, sau Định Quán, đến chi khu và quân lỵ Hoài Đức, chi khu và quận lỵ Giá Rai, căn cứ 2 và căn cứ 4 trên quốc lộ 1 đều bị đánh chiếm.
Ngay lúc này, sự liên lạc đường bộ giữa Long Khánh và Hàm Tân, Phan Thiết đều bị cắt đứt. Phải chăng, những hoạt động rộ lên ở vùng phụ cận và địa đầu quân khu Ba của đối phương là bước chuẩn bị chỗ đứng chân cho những binh đoàn lớn? Lê Minh Đảo cảm thấy không sớm thì muộn Cộng sản sẽ trực tiếp đánh vào Long Khánh. Một sư đoàn đang từ hường tây-bắc hành quân xuống, sẽ thọc vào phía sau Long Khánh, quãng Trảng Bom đến ngã ba Dầu Dây, cắt đứt nốt đoạn đường 1 về Biên Hoà và đánh viện ở đó? Đảo báo cáo với Toàn sự suy nghĩ trên, Đảo lại xin chiến đoàn 48 về nhưng Toàn không cho. Chiều lòng Đảo, tạm thời Toàn điều đến cho đảo thiết đoàn 22 và một tiểu đoàn biệt động chiếm giữ  đoạn đường từ Bàu Cá đến ngã ba Dầu Dây, đầu mối của trục đường 20. Toàn phê chuẩn kế hoạch của Đảo, rút tàn quân của chiến đoàn 43 ở vùng Định Quán về Long Khánh, bổ sung quân số, trang bị trực tiếp phòng thủ thị xã. Triến khai chiến đoàn 52 từ quân lỵ Kiệm Tân đến núi Trâu, Sóc Lu, sẵn sàng cơ động về tăng viện cho trung đoàn 43 ở thị xã.

Tối ngày 20 tháng 3, quân đoàn phó Khắc Vũ và bộ tư lệnh sư đoàn nhận được thông báo về tình hình các chiến trường phía bắc như sau:
 Ngày 17 tháng 3 ta giải phóng Kon Tum, ngày 18 tháng 3 Plây Cu, ngày 19 tháng 3 Phú Bổn và Quảng Trị, ngày 20 tháng 3 thị xã Bình Long. Các cuộc tháo chạy đều bị quân ta truy kích ráo riết. Cuộc truy kích lớn nhất đang diễn ra trên đường 7 và đường 21 ở Tây Nguyên. Các tỉnh ven biển miền Trung đang bị uy hiếp nặng nề từ hai phía: Phía Tây Nguyên xuống, phía bắc vào. Tình hình phát triển có tính chất đột biến rất thuận lợi cho ta, rất bất lợi cho địch. Các chiến trường phải nắm vững thời cơ, thừa thắng xốc tới, phát huy thắng lợi, khuếch trương chiến quả, đấy địch nhanh chóng đến chỗ suy sụp lớn.
 Theo kế hoạch cũ, khi tiêu diệt chi khu Định Quán, giải phóng đoạn đường quy định, sư đoàn có hai nhiệm vụ: Hoặc tập trung lực lượng tiến xuống phía nam Túc Trưng tiêu diệt chiến đoàn 52, hoặc tập trung lực lượng quay lên phía bắc giải phóng tỉnh Lâm Đồng, phát triển lên Đà Lạt góp sức cùng quân đoàn 3 của ta giải phóng hoàn toàn các tỉnh trên dải Tây Nguyên rộng lớn. Nếu quay lên phía bắc thì sư đoàn phải chờ một trung đoàn của sư đoàn 341 xuống, bàn giao lại vùng giải phóng vừa mới mở  rồi mới hành quân lên đánh Lâm Đồng. Nhưng trung đoàn 2 của sư 341 vẫn đang trên đường hành quân. Trong khi chờ đợi trung đoàn 2, bộ chỉ huy quân đoàn thấy thời cơ diệt sinh lực của sư 18 và mở rộng địa bàn đứng chân của sư 341 về phía nam đang rất tốt. Quân đoàn muốn điều sư đoàn thọc nhanh xuống đánh chiến đoàn 52 trước rồi quay ngược lên giải phóng Lâm Đồng sau. Để thực hiện ý định ấy, một mặt quân đoàn ra lệnh cho sư đoàn cơ động gấp xuống nam Túc Trưng, một mặt điện về bộ chỉ huy cấp trên thỉnh thị ý kiến.

Ngày 23 tháng 3, trong khi sư đoàn đang cơ động thì bộ chỉ huy quân đoàn nhận điện trả lời của bộ chỉ huy cấp trên. Bộ chỉ huy cấp trên không chấp nhận ý kiến đó và lệnh giải phóng Lâm Đồng ngay. Tích cực quyết tâm giải phóng toàn bộ quân khu Hai bao gồm các tỉnh miền núi và ven biển, nhanh chóng chia cắt, cô lập quân khu Một của địch, thực hiện ý đồ chiến dịch lớn.
Quân đoàn phó Khắc Vũ truyền đạt mệnh lệnh trên dây cho sư trưởng Nam Phong qua máy điện thoại. Tiếp đó, ông thông báo thêm:
- Cho đến hôm nay thì trên mười vạn quân của địch từ Tây Nguyên tháo chạy về ven biển cơ bản đã bị tiêu diệt ở đường 7, quân ta đang thừa thắng thọc xuống từ hai hướng Phú Yên và Khánh Hoà. Chưa hết hai tuần lễ anh Năm à. Như một giấc mơ phải không anh Năm? Nhưng là sự thực chứ không phải mơ đâu!
Tin chiến thắng to lớn ấy làm ông sung sướng và cảm động, ông gật đầu, giọng chậm rãi:
- Anh Năm à! Chúng ta chưa hiểu suốt ý đồ của trên,”Hành lang chiến lược”, anh Năm nhớ không? Bây giờ hiểu rồi thì khó mấy cũng phải chấp hành ngay, phải không anh? Anh hãy vui vẻ và cho sư đoàn cơ động gấp lên Lâm Đồng, không cho địch biến những tỉnh cuối cùng của quân khu Hai làm điểm tựa. Anh lên trước, lên gấp, gặp ngay bộ phận đã chuẩn bị Lâm Đồng. Phương án đánh không có gì thay đổi. Trung đoàn 14 đang làm nhiệm vụ quân quản ở Định Quán sẽ vu hồi lên tây- bắc thị xã bằng đường bộ. Rất tốt là trung đoàn trưởng 14 đã chuẩn bị đi hướng đó. Anh để một tiểu đoàn của trung đoàn 209 ở lại bắc Túc Trưng duy trì áp lực với chiến đoàn 52, chốt chặn chiến dịch. Hai tiểu đoàn còn lại của trung đoàn 209, trung đoàn 12 và trung đoàn pháo binh 210 sẽ hành quân bằng cơ giới. Anh hãy đem tất cả xe cộ của sư đoàn có và số mới thu được, cộng với số quân đoàn vét cho anh. Chắc đủ để cõng anh em lên Lâm Đồng. Dù một xe ngồi tới sáu  mươi người cũng nhanh gấp mấy lội bộ phải không anh? Tất nhiên là anh sẽ mang theo tiểu đoàn tăng T59 và pháo tầm xa 130 ly. Trận đánh này anh hãy cho họ ra tay, đại thể là như vậy, còn cách đánh cụ thể của cả hướng thì các anh bàn với nhau. Chậm nhất ngày 29 tháng 3 phải giải phóng xong Lâm Đồng.
Quân đoàn phó Khắc Vũ đặt máy, ông quay sang tấm bản đồ trải rộng, cầm bút chì đỏ vạch mấy mũi tên thật đậm.

Nhận lệnh xong sư trưởng Nam Phong hội ý ngay với chính uỷ Liêm và thường vụ Đảng uỷ. Sư đoàn triệu tập một cuộc họp cấp tốc gồm trung đoàn trưởng, chính uỷ trung đoàn 209, trung đoàn 12, trung đoàn pháo, tiểu đoàn xe tăng, tiểu đoàn pháo tầm xa và các đơn vị trực thuộc để phổ biến nhiệm vụ. Kế hoạch đánh Lâm Đồng đã có từ trước, nay bổ sung thêm cho phù hợp với tình hình đang phát triển. Theo kế hoạch mới, sư đoàn chia thành hai cánh tấn công từ hai hướng.
Trung đoàn 14 đảm nhiệm hướng chủ yếu được phối thuộc hoả lực mang vác của sư đoàn, từ Định Quán hành quân bằng cơ giới theo đường xe be. Khi hết đường, xuống xe hành quân bộ theo đường đã chuẩn bị. Vu hồi phía tây- bắc thị xã, 18 giờ ngày 27 tháng 3 phải bí mật chiếm lĩnh xong trận địa. Đến giờ G sẽ đánh chiếm khu vực tiểu khu Lâm Đồng. Trong quá trình chiến đấu sẽ được phối thuộc thêm pháo cơ giới và xe tăng. Sư trưởng Nam Phong, chính uỷ Liêm, tham mưu trưởng Thứ đi theo cánh này. Cánh thứ hai đi theo đường 20 chia làm hai khối: Khối thứ nhất do trung đoàn 209 và tiểu đoàn 4 của trung đoàn 12, được phối thuộc xe tăng, pháo nòng dài 85 ly và cao xạ 37 ly, hành tiến bằng cơ giới. Đánh dọc đường 20 từ cầu Đại Gùi đến một nữa thị xã Lâm Đồng. Trung đoàn 12 còn lại hai tiểu đoàn làm nhiệm vụ dự bị đánh thị xã, phát triển lên chi khu Di Linh. Trước mắt dùng một tiểu đoàn diệt yếu khu Đắc Oai, mở đường cho toàn bộ đội hình. Tham mưu phó quân đoàn, chủ nhiệm chính trị sẽ đi theo cánh này.

Vấn đề bộ chỉ huy sư đoàn băn khoăn là với sự xuất hiện một lúc hàng trăm xe cơ giới chở quân, xe kéo pháo, lại có cả xe tăng thì khó lòng giữ được ý đồ bí mật đánh chiếm thị xã. Dọc đường từ Định Quán lên Lâm Đồng trên một trăm cây số chiều dài đó, địch còn nhiều đồn bốt, có đèo Ba Cô rất hiểm trở, nhưng trước lực lượng của ta, địch sẽ rút bỏ theo lối cuốn chiếu. Bọn địch trong thị xã có thể rút chạy sớm hơn về Đà Lạt, theo đường 2 xuống cụm lại ở Phan Rang. Do đặc điểm địa hình rừng núi nên không thể có một cánh quân vu hồi phía đông – nam thị xã chặn đường rút chạy của chúng được. Để khắc phục tình hình đó, sư đoàn quy định chiều 27 tháng 3, nghĩa là sau khi trung đoàn 14 ở hướng chủ yếu đã chiếm lĩnh xong trận địa thì tiểu đoàn 5, trung đoàn 12 mới nổ súng đánh chi khu Đắc Oai. Và chỉ trong đêm 37 tháng 3, toàn bộ đội hình của cánh này phải quét sạch địch trên chiều dài chín mươi cây số trước mặt để năm giờ sáng ngày 28 tháng 3 tập kết tại cầu Đại Lào tấn công vào thị xã.
Phác xong những nét cơ bản của kế hoạch, sư trưởng Nam Phong, chính uỷ Liêm đi môt tô lên Định Quán giữa ban ngày. Ông gặp trung đoàn trưởng Liễu đi chuẩn bị Lâm Đồng đã trở về. Trung đoàn 14 được lệnh báo động hành quân, hai giờ sau, trung đoàn xuất phát.
Hai giờ chiều ngày 27 tháng 3, từ các vị trí trú quân hai bên đường 20, bộ đội bắt đầu tiến ra các con đường ô tô, nơi tập kết của gần một trăm xe các loại được điều đến suốt ba đêm nay. Xe đậu theo địa hình từng cụm ba chiếc, năm chiếc nấp kín trong rừng. Đủ các loại xe: Zin ba cầu, Hồng Hà,  xe Trường Sơn, xe Đốt, xe Pho, xe GMC lấy của địch, xe tải chở gỗ, xe chở hàng trưng dụng của tư sản, xe ca chở khách..Cán bộ hậu cần sư đoàn, quân đoàn chạy ngược chạy xuôi, không ăn không ngủ, bòn mót mãi mới được chừng đó.

“Cuộc hành tiến bằng cơ giới”, câu nói ấy không hiểu ai nói ra, nói từ ngày nào, nhưng đến lúc này là một câu trên cửa miệng của đoàn quân. Cái câu với nội dung cụ thể, với ý nghĩa đặc biệt, với âm vang oai hùng của nó, đã có sức cuốn hút tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của mỗi người vào trận đánh. Các chiến sĩ ngắm nhìn những chiếc xe với cặp mắt vừa tò mò, vừa bỡ ngỡ. Cuộc chiến đấu của họ từ hôm qua trở về trước có một cái gì khác hôm nay, hay nói đúng hơn cuộc chiến từ hôm nay trở đi dã phát triển mới hơn. Trước kia họ quen nhắm hướng, cắt rừng, tất cả gia tài và trang bị đều đeo nặng trên lưng, đôi chân họ là phương tiện cơ động duy nhất. Chưa bao giờ bộ binh, pháo binh, xe tăng và các binh chủng khác cùng xếp một đội hình, cùng đi chung một đường, lại là con đường nhựa láng bóng, rộng thênh thang. Đó là những điều cụ thể hiện ra trước mắt họ. Họ cũng đã trải qua những cuộc tấn công lớn, những chiến dịch dài ngày, nhưng so với lần này thì vẫn có mọt cái gì đó rất mới, rất lạ. Cuộc tổng tiến công mới có vài tuần nhưng đã rầm rộ ngay từ đầu. Nó như cơn bão dấy lên từ miền này tới miền khác, bão cuộn tới đâu cuốn đi từng mảng lớn đồn bốt, căn cứ, quét sạch từng mảng sinh lực địch, nối liền miền này với miền kia. Cơn bão càng đi càng mạnh lên về độ xoáy, càng rộng hơn về phạm vi, càng nhanh hơn về tốc độ. Các chiến sĩ được thông báo thường xuyên tin chiến thắng từ các miền….Hôm kia, ngày 24 tháng 3, cùng một ngày hai tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Đức được giải phóng. Hôm qua, Huế và Thừa Thiên, hôm nay Quảng Nam. Quân ta đang tiến về Đà Nẵng, đang tiến xuống Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa.
Từng đại đội, trung đội tới nhận xe, cán bộ tranh thủ huấn luyện tại chỗ cho anh em động tác lên xe, xuống xe, phổ biến cách xử trí khi có bom, có pháo, khi gặp địch, cách triển khai đội hình, khi công kích cứ điểm, khi tao ngộ, khi gặp mìn. Các chiến sĩ lắng nghe, vui vẻ, tin tưởng. Họ nóng lòng chờ đợi tiểu đoàn 5 trung đoàn 12 tiến công yếu khu Đắc Oai mở đường.

Họ đợi trời tối để lên xe xuất phát. Hầu như ai cũng nói cười, họ vây lấy những chiếc xe. Có một chiến sĩ vỗ vỗ lên đầu chiếc xe Zin ba cầu hỏi chiếc xe như hỏi một người bạn:
- Chào bác Zin, bác từ đâu tới đấy?
Một chiếc sĩ đứng cạnh trả lời thay, giọng hóm hỉnh:
- A! Tôi cũng xin chào các anh giải phóng, tôi từ Bắc vào đây!
- Nhưng bác đi đường nào? Trường Sơn Đông hay Trường Sơn Tây?
- Đi cả hai đường các anh ạ!
Có chiếc sĩ ngắm hết chiếc xe này đến chiếc xe khác, có vẻ suy nghĩ ghe lắm rồi bất ngờ thốt lên:
- Cha cha! Trăm sông nghìn núi thế mà các cậu cũng bò được tới cái góc này của miền Nam, cùng bọn tớ đi đánh nhau, tớ biết nói thế nào để các cậu hiểu được bọn tớ sung sướng đến chừng nào- Anh ta vỗ vỗ lên đầu chiếc xe rồi cười giòn giã.
Có cậu tò mò đứng ngắm những chiếc xe GMC, những chiếc Pho, Đốt vừa tịch thu của địch, đứng nép dưới tàng cây có vẻ ngoan ngoãn và phục tùng, cậu hất hàm nói với những chiếc xe đó:
- Thế là các cậu từ bỏ bọn chủ của các cậu rồi, các cậu vào hàng ngũ của bọn tớ, hãy ráng hoàn thành nhiệm vụ, đừng có trở chứng nhé!
Có cậu ngắm xong xe rồi đứng dạng chân, đưa ngón tay trở viết lên lớp bụi dày trên mũi xe hai chữ “Chiến thắng “ thật to. Phó chính ủy Nguyến Văn Thái đi lẫn vào giữa các chiến sĩ, nơi thì anh sà vào quàng tay lên vai họ, chuyện trò, hỏi han, thông báo tin tức, nơi thì anh lặng lẽ lùi ra một góc, ngắm không chán mắt như người họa sĩ lùi ra ngắm bức tranh của mình. Anh muốn ghi sâu vào trí nhớ, vào kho tàng kỉ niệm của mình những dáng điệu, những khuôn mặt, sự trong sáng của tâm hồn, cái âm vang của giọng nói, tiếng cười, cái xô bồ sống động của giờ chuẩn bị mà chưa lần xuất kích nào có được.

Bỗng từ giữa cụm rừng gần dường nhất, tiếng tham mưu phó sư đoàn Bùi Tuệ dõng dạc vang lên:
- Chú ý! Tất cả chú ý! Tiểu đoàn 5 trung đoàn 12 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tiêu diệt hoàn toàn yếu khu Đắc Oai trước giờ qui định. Các đơn vị sẵn sàng xuất kích.
Sự im lặng vừa đến lập tức bị xé toang:
- Hoan hô! Hoan hô tiểu đoàn 5! Quyết thi đua với tiểu đoàn 5!
Tiếng reo hò bật ra từ một cụm rồi lan ra suốt dọc đoàn quân. Khu rừng trở nên náo nhiệt. Tiếng hô của cán bộ, tiếng vũ khí lách cách, tiếng lào xào của những bước chân dẫm lên lá khô và cuối cùng là tiếng động cơ dữ dội của những chiếc xe tăng, của hàng trăm xe ô tô cùng rộ lên một lần. Không khí căng ra, mặt đất rung rinh, khu rừng lắc lư như đưa võng. Những chiếc xe bọc thép của trinh sát, xe rà mìn của công binh bắt đầu bò ra mặt đường. Vệt nắng cuối cùng tan trên dải rừng, con đường nhựa đen sẫm lại, sương mú không biết từ đâu sà xuống thay thế những vạt nắng. Hai chiếc máy bay trinh sát cố lượn thêm mấy vòng rồi hậm hực bỏ đi. Tiến sau xe trinh sát, xe công binh là ba chiếc tăng T-59, bao cát đắp quanh tháp pháo trông lầm lầm như một gộp đá con. Các pháo thủ nhô đầu lên cửa, AK báng gập đeo chéo trước ngực. Sau xe tăng là các phân đội bộ binh, thông tin, sở chỉ huy, xe pháo binh, xe hậu cần nối dài hàng ba cây số.
Sau khi yếu khu Đắc Oai bị diệt, nghe tiếng động cơ của đoàn cơ giới, bọn địch ở các cứ điểm từ Đại Gùi đến đèo Ba Cô đều bỏ chạy. Chúng không kịp phá cầu, chúng ném bừa mìn suốt dọc đường, mìn sát thương bộ binh, mìn chống tăng.
Phó chính uỷ Thái nhận được báo cáo của trinh sát về việc địch bỏ chạy. Anh hiểu địch muốn tập trung lực lượng lại ở đèo Ba Cô, dựa vào đường dốc hiểm trở để ngăn chặn ta. Nhưng ở đèo Ba Cô chỉ có cứ điểm của một đại đội bảo an, chúng sẽ không kịp đào chiến hào, chúng có thể đặt chướng ngại, dùng mìn đánh sập cầu ở suối Ba Cô, hoặc đặt mìn vào sườn núi đánh sụt đất cho lấp đường. Phó chính uỷ Thái trao đổi ý kiến với tham mưu phó quân đoàn và sư đoàn rồi ra lệnh cho đại đội pháo 105 tiến lên trước nhanh chóng bắn vào đèo Ba Cô, không cho địch triển khai ý đồ của chúng. Anh ra lệnh cho công binh khẩn trương gỡ mìn trên đường để đội hình sư đoàn tăng nhanh tốc độ.

Tám giờ, máy bay C47 lên thả đèn sáng, bắn súng máy suốt dọc đường từ yếu khu Đắc Oai lên đến đèo Ba Cô, máy bay phản lực cắt từng chùm bom nhưng không trúng đường. Sương mù dày đặc đã hạn chế những trận ném bom của chúng.
Mười lăm phút sau, phân đội đầu tiên của trinh sát bộ binh, đài quan sát pháo binh đã đến chân đèo. Ba khẩu 105 cũng đã triển khai xong ở tầm bắn có hiệu quả, bắt đầu nã những phát hiệu chỉnh, rồi bắn từng loạt ba viên một theo hướng dẫn của đài quan sát. Quả là trận bắn pháo bất ngờ vào đồn bảo an ở Ba Cô đã làm cho hơn một tiểu đoàn bảo an, dân vệ từ Đại Gùi, Đắc Oai và các đồn bốt khác rút về đó bàng hoàng khiếp sợ.
Từ trên xe thông tin, trưởng ban 2 nhảy xuống chạy đến xe phó chính uỷ Thái, anh nhảy lên bậc cửa xe thò đầu vào ca bin nói rất nhanh:
- Báo cáo thủ trưởng, trinh sát kỹ thuật bắt được tin bọn địch ở đèo Ba Cô xin rút. Tỉnh trưởng Lâm Đồng đã chấp nhận, hắn cho một đại đội pháo của tiểu khu xuống Đại Lào yểm hộ cho bọn Ba Cô rút, đồng thời chặn ta lại bên kia đèo bằng phi pháo, đề nghị thủ trưởng xử lý.

Phó chính uỷ Thái đoán trước bọn địch sẽ đối phó như vậy. Bây giờ bắt được tin điện của chúng xác nhận thêm sự phán đoán của anh. Hôm trước nghiên cứu kế hoạch hành tiến, sư đoàn cũng đề cập đến trường hợp này. Lập tức sáu chiến sĩ thông tin cởi ba chiếc Hon đa vượt lên trước. Một cuộc chạy đua của giữa ta và địch bắt đầu. Phân đội trinh sát, phân đội công binh được lệnh xuống ô tô và lên hết trên ba chiếc tăng, xe tăng được lệnh truy kích bọn bảo an. Ba chiếc tăng dận ga, gầm lên, tăng tốc độ vượt dốc, mỗi chiếc chạy cách nhau năm mươi thước, vừa chạy vừa bắn cả pháo và trọng liên 12 ly 8.
Dưới sự yểm hộ của đại đội pháo thứ nhất đang chuyển làn dần theo tốc độ của tăng. Đại đội pháo thứ hai tiếng sau xe tăng lên đến đỉnh dốc, chiếm lĩnh trận địa, nhanh chóng phát hiện trận địa pháo của địch, mở ngay một cuộc đấu pháo, đồng thời yểm hộ cho xe tăng tiến lên. Đại đội xe tăng thứ hai chở bộ binh tiến sau đại đội pháo thứ hai sẵn sàng yểm hộ, thay thế những chiếc tăng đi trước, pháo cao xạ 37 và 57 ly chia làm ba bộ phận, một bộ phận chiếm lĩnh bên này đèo, một bộ phận sau xe tăng chiếm lĩnh bên kia đèo, một bộ phận vừa hành tiến vừa sẵn sàng bắn. Xe của các phân đội bộ binh cứ năm mươi đến một trăm thước một chiếc hành tiến dưới sự yểm hộ của pháo và xe tăng. Các chiến sĩ lái xe dều phải chạy đúng phần đường bên phải, đề phòng nếu hư hỏng, nếu bị địch bắn trúng, vì vướng mìn cũng không bị choán đường, ảnh hưởng đến đội hình chung. Các đơn vị đều hiểu từng phút trong cuộc chạy đua với địch, đơn vị nào cũng vừa tiến, vừa triển khai đội hình theo mệnh lệnh của sư đoàn.
Trời vừa tối, một vầng trăng non không biết từ đâu hiện lên giữa trời, ánh trăng lướt nhẹ trên rừng để dồn xuống mặt đường. Xe không cần phải bật đèn gầm. Một lát sau hàng chục chiếc đèn dù từ máy bay C47 bắn xuống, khu vực đèo Ba Cô sáng trưng, lung linh, huyền ảo. Lớp ánh sáng chiếc đèn này chồng lên lớp ánh sáng chiếc đèn khác, ánh sáng vàng rực xuyên qua những màn sương mù dày và nặng, soi xuống mặt đường, đuổi theo hàng trăm chiếc xe phủ kín lá nguỵ trang đang trườn lên dốc.

Pháo địch từ bắc đường bắc đầu bắn, đạn nổ trong rừng, dưới suối, có quả nổ ngay trên mặt đường, đạn lửa màu tím từ máy bay C47 dài như những dòng nước mưa, tưới xuống theo hình rẻ quạt. Máy bay phản lực trút từng chùm bom. Lửa nháng trên bầu trời, lửa nháng trên mặt đất, cây hai bên đường đổ ào ào. Một trái pháo rớt trúng thùng chiếc Gát, hơn nữa số chiến sĩ ngồi trên thùng hy sinh và bị thương, nhưng không phải trái pháo khoan nên xe vẫn chứ chạy. Mặc bom, pháo, mặc máy bay, mặc đèn dù, các chiến sĩ lái xe nghiến răng, mắt căng lên, hai tay ghì chặt tay lái, đầu nhô về phía trước, trán gần chạm vào lớp kính chắn bụi, như đang đem hết sức đẩy chiếc xe mình vượt đèo. Các chiến sĩ bộ binh ngồi trên xe yên lặng, một thứ yên lặng căng thẳng nhưng có cái gì đó rất trang trọng. Họ lắng hết tâm trí để nghe mệnh lệnh của cán bộ, phân biệt tiếng rít của bom, của pháo. Họ ép người vào thành xe, cố thu nhỏ mục tiêu, như muốn làm nhẹ bớt trọng lượng để xe bò lên dốc nhanh hơn.
Những chiếc tăng đi đầu không gặp một trái mìn nào. Bọn địch chưa kịp chôn mìn, chưa kịp đặt chướng ngại. Những trái pháo nổ rất kịp thời đã xua chúng chạy toán loạn. Bị xe tăng đuổi rát, chúng vứt bỏ trang bị lẩn trốn vào rừng. đại đội pháo thứ hai chiếm lĩnh đỉnh dốc khi những chiếc tăng đi đầu xuống dốc, các pháo thủ bắt đầu ngay một cuộc đấu pháo, chỉ ít phút sau, bọn địch ở Đại Lào đã tháo chạy về Lâm Đồng. Đoàn xe vượt dốc nhanh hơn, hai giờ sáng thì qua đèo Ba Cô, tiến lên cầu Đại Lào, phía nam thị xã. Cầu Đại Lào đầy mìn và những khối thuốc nổ lớn, bọn địch không kịp phá cầu. Trên đường hành tiến từ Đắc Oai lên cầu Đại Lào, suốt dọc hai bên đường non ba mươi cây số, đồng bào Thượng đủ các dân tộc, đồng bào Kinh ở những ấp chiến lược hai bên đường đã nổi dậy cùng lực lượng vũ trang địa phương phá sạch hệ thống đồn bốt kìm kẹp, truy lùng ác ôn và đổ ra đường hoan hô bộ đội. Lửa cháy trên các nẻo đường rừng, lửa cháy suốt dọc đường 20. Lửa của trăm ngàn ngọn đuốc từ tay những người Thượng, những người Kinh mấy chục năm nay sống trong nanh vuốt Mỹ-Nguỵ đã cháy bùng lên.

Ở sở chỉ huy nhẹ của sư đoàn phía tây bắc thị xã Lâm Đồng, sư trưởng Nam Phong và chính uỷ Liêm nhận được tin cuộc hành tiến của sư đoàn trên đường 20 bằng vô tuyến điện. Tổng hợp tình hình, ông hội ý với chỉnh uỷ Liêm rồi ra lệnh cho pháo tầm xa cấp tập vào tiểu  khu Lâm Đồng sớm hơn dự định một giờ.
Bốn giờ rưỡi sáng ngày 28 tháng 3, cánh quân tiến theo đường 20 tập kết ở nam cầu Đại Lào, bắt liên lạc được với một bộ phận của trung đoàn 14 đến trước theo đường vu hồi.
Liên lạc giữa hai cánh quân bằng bộ đàm và điện thoại được móc ráp ngay. Sư trưởng Nam Phong ra lệnh cho toàn bộ các loại pháo cấp tập vào các mục tiêu trong thị xã. Trung đoàn 209 chuẩn bị tấn công chi khu Bảo Lộc, trung đoàn 14 đã ém sẵn từ chiều hôm qua chuẩn bị tấn công vào sân bay, tiểu khu quân sự và toà hành chính. Pháo cấp tập xong theo hiệp đồng, nhưng cả hai cánh quân đều xin pháo cấp tập thêm, trời rất tối, bộ đội  không nhìn thấy đường hướng, mục tiêu xung phong. Sư trưởng Nam Phong nhân được đề nghị, ông cắn môi, lắc đầu. Sở dĩ ông và chính uỷ Liêm ra lệnh tấn công sớm hơn một giờ , vì ông và chính uỷ Liêm tin bọn địch trong thị xã không đủ sức chống cự. Chúng sẽ bỏ chạy sớm hơn dự kiến, bây giờ xin hoãn giờ xung phong thì chắc chắn sẽ vào một thị xã trống không. Ông quay sang chính uỷ Liêm, chính uỷ Liêm nhìn ra ngoài trời. Quả là trời tối thật, lại thêm sương mù, ngã bàn tay không thấy. Bộ đội xung phong ngay bây giờ thì sao? Những bãi mìn không phát hiện được, ranh giới chiến đấu không phân định được, sẽ đánh lầm nhau.

Sư trưởng Nam Phong hỏi chính uỷ Liêm:
- Ý kiến anh thế nào? Chính uỷ Liêm vừa gật đầu vừa nói:
- Có thể phối thuộc xe tăng cho trung đoàn 12 chuyển sang truy kích lên cầu Đại Nga rồi lên Di Linh được không? Tôi đoán chúng chạy phần lớn rồi.
Sư trưởng Nam Phong và chính uỷ Liêm nhất trí lùi giờ xung phong lại hai mươi phút và ra lệnh cho trung đoàn 12 chuyển sang truy kích.
Sáu giờ sáng, từ hai hướng bộ đội tiến vào thị xã Lâm Đồng, bọn địch chống cự yếu ớt, các hoả điểm, các ổ đề kháng lập tức bị dập tắt. Đồng bào trong thị xã và các ấp xung quanh mở cửa chạy ra đường đón bộ đội. Đại đội 7 bỏ qua địch ở vòng ngoài thốc thẳng vào nhà tên tỉnh trưởng, những tên địch cuối cùng còn ở đó giơ tay hàng. Tên tỉnh trưởng đã chuồn từ bốn giờ sáng, trước lúc ba trái pháo tầm xa 130 ly rớt trúng nhà hắn.
Phần lớn bọn địch ở thị xã Lâm Đồng tháo chạy về chi khu Di Linh. Nhưng chi  khu Di Linh cũng bị một đơn vị chủ lực của quân khu Sáu tấn công. Bọn địch bỏ chi khu chạy ra vòng ngoài. Bảy giờ sáng, quân đoàn 2 nguỵ bốc ba đại đội bảo an từ Phan Rang lên đổ xuống khu vực Di Linh, ra lệnh cố thủ, giữ vững phòng tuyến Di Linh-Đà Lạt-Phan Rang. Quân số của bọn địch ở khu vực Di Linh lên đến gần ba tiểu đoàn. Trận địa pháo Đồng Lạc bắn dữ dội về phía cầu Đại Nga. Trung đoàn 12 đang truy kích tàn quân, buộc phải tạm dừng để tổ chức tần công ba tiểu đoàn địch. Năm giờ sáng ngày hôm sau, trung đoàn 12 cùng với xe tăng và pháo binh của trung đoàn pháo 210, sau hai giờ tấn công vô cùng quyết liệt đã quét sạch hoàn toàn bọn địch cố thủ trong khu vực Di Linh. Số tàn quân còn lại của địch bỏ qua quận lỵ Đức Trọng chạy một mạch về Đà Lạt.

Từ hôm được bộ chỉ huy quân đoàn phân công lên mặt trận đường 20, trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo sư đoàn 7 hoạt động độc lập một hướng chiến dịch đến nay, quân đoàn phó Khắc Vũ sống một cuộc sống hoàn toàn khác trước. Đó là một cuộc sống rất dồn dập từ bên ngoài, rất sôi nổi từ bên trong. Sự phát triển rất nhanh, rất mới, rất lạ của cuộc tiến công chiến lược trên khắp các mặt trận thu hút tâm trí ông. Cuộc thi đua chiến đấu để giành chiến thắng ngày càng lớn giữa các chiến trường với nhau, không kịp phát động, tự động nó cũng nảy sinh từ trong tiếng súng liên thanh, trong tiếng trọng pháo, trong tiếng gầm thét của xe tăng, trong tiếng chân truy kích. Nó như lửa, như bão, nó đã tiến lên cao trào. Trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước này, ở miền Nam đã diễn ra ba cuộc tiến công chiến lược lớn. Đó là cuộc tập kích chiến lược tết Mậu Thân. Đó là cuộc chiến công chiến lược năm 1972. Đó là cuộc tiến công chiến lược năm 1975 này. Hai cuộc tiến công trước có  tầm vóc, có bề thế, có màu sắc, có vẻ riêng. Còn cuộc tiến công chiến lược này là sự kế thừa, sự phát triển, sự tổng hợp của hai cuộc tiến công chiến lược kia ở một trình độ cao hơn, một tầm vóc lớn hơn. Công việc cuồn cuộn, công việc ngập đầu, từ trái lựu đạn, khẩu súng trường đến một chi khu, một hướng chiến dịch. Tất cả đều có trong bộ óc của những tư lệnh chiến trường. Dù sao đó cũng là một công việc hết sức quen thuộc. Điều mà quân đoàn phó Khắc Vũ thấy cuộc sống của mình khác trước chính là sự bồi hồi, sự da diết từ bên trong. Sau hai mươi bảy năm, đây là lần đầu ông trở lại chiến trường cũ. Ngày 23 tháng 9 năm 1945 Pháp chiếm lại Sài Gòn, sau đó chiếm lại các tỉnh miền Tây rồi các tỉnh miền Đông. Cuộc chiến đấu phải trường kì. Các chiến khu được thành lập. Đơn vị của ông rút về khu Đ, hoạt động mấy năm liền trong điều kiện hết sức gian khổ.
Chiều ngày 20 tháng 3, nhận được báo cáo của sư đoàn, quân ta tiêu diệt xong tiểu đoàn 2 chiến đoàn 43, chiếm cầu La Ngà. Quân đoàn phó Khắc Vũ ra ngay đường 20, ông đứng rất lâu trên cầu La Ngà. Nơi đây hai mươi bảy năm về trước, ngày 1 tháng 3 năm 1947, trung đoàn 310 của ông đã đánh một trận nổi tiếng. Tiếng vang của nó bay khắp toàn quốc.

Lần đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ, quân ta đánh vận động tiêu diệt một đơn vị lớn quân viễn chính Pháp, bắt tại trận tên quan hai Pháp cùng với mụ vợ trẻ và đứa con nhỏ của hắn. Bọn tù binh được đưa về bến Thanh Sơn. Ở đó, người vợ trẻ  của tên quan hai đã quì xuống trước mặt ông vừa van lạy, vừa khóc lóc:” Thưa các ngài, các ngài có trọn quyền làm chủ thân thể tôi, nhưng xin các ngài đừng giết chúng tôi”
Ông mở to mắt nhìn người đang bà đang quì dưới chân mình, hết sức ngạc nhiên vì câu nói của bà ta. Ông hỏi lại bằng tiếng Pháp” Bà nói gì? Bà sợ chúng tôi giết bà và chồng con của bà à? Không! Chúng tôi không phải là lính lê dương! Chúng tôi là bộ đội cụ Hồ, bà hiểu chưa? Chúng tôi không giết phụ nữ và trẻ con. Chúng tôi không giết tù binh!”
Người đàn bà Pháp ấy  mở to mắt nhìn ông, nhìn những chiến sĩ đứng quanh ông, cũng hết sức ngạc nhiên. Bà ta rụt rè đứng dậy, bước từng bước nhẹ tới bên cạnh chồng con bà ta. Chỉ sau ba ngày ở chung với bộ đội, người đàn bà Pháp ấy đã vừa cười vừa trao đứa con của bà ta vào tay các chiến sĩ, bập bẹ tiếng Việt” Lại pa pa Việt Minh bế đi con” Khi được trả tự do, người đàn bà Pháp vừa khóc vừa nói” Bây giờ tôi hiểu Việt Minh rồi, tôi hiểu các ông rồi. Về Sài Gòn tôi sẽ cố gắng làm hết sức để giúp đỡ các ông”. Lúc ấy, ông nghĩ câu nói đó chỉ là một câu xã giao theo phép lịch sự thôi, nhưng ít lâu sau đơn vị ông  nhận được những gói thuốc Tây, và cả những bộ đồ đắt tiền của người đàn bà Pháp ấy gởi cho. Bà ta đã thành cơ sở, còn chồng bà ta, tên quan hai, sau khi được phóng thích, y xin giải ngũ về Pháp, y viết một bài dài” Việt Minh là gì?” đăng trên báo “Thế giới”;  Ông đọc bài báo ấy trên đường 20 này, bài báo kể lại một cách trung thực những ngày y bị bắt làm tù binh, những gì y đã chứng kiến về Việt Minh. Đó là một bài báo tốt.

Đứng trên cầu, những kỉ niệm hai mươi bảy năm về trước đang dần dần hiện ra như một cuốn phim, không thiếu một hình ảnh, không sót một chi tiết. Hồi đó đơn vị ông, anh em còn đầu trần, chân đất, mã tấu dắt lưng, súng kíp mang vai, nguỵ trang những quả mìn chôn trên đường 20 bằng những đống phân vôi khô. Ông nhớ đánh xong trận La Ngà, cưỡi lên khẩu đại bác 105 ly mà hoa cả mắt. Sau hai bảy năm trở lại, quân đoàn phó Khắc Vũ đã đi với một sư đoàn mạnh, trang bị các loại súng bộ binh tốt nhất thế giới, đem theo cả xe tăng và pháo tầm xa. Ông cuối đầu, ứa nước mắt nhớ tới đồng chí, đồng đội đã ngã xuống. Rồi ông lại mỉm cười ngây ngất khi đoàn cơ giới cuốn bụi mù chạy ầm ầm qua cầu. Quân đoàn phó chợt nhận ra rằng, cuộc chiến đấu đang đưa ông dần dần trở về với những mảnh đất đã sinh ra những kỉ niệm theo thời gian, theo không gian. Chắc chắn nó sẽ đưa ông về nơi xuất phát, nơi nảy sinh những kỉ niệm đầu tiên.
Chiếc xe bọc thép K63 đưa ông từ Định Quán lên thị xã Lâm Đồng lúc 3 giờ sáng ngày 29 tháng 3. Trời hơi lạnh, sương mù dày đặc, màu sữa. Từ hai bên đường những đồi trà liên tiếp chạy dài đấy ắp một màu xanh tươi mát. Trà BLao, xứ trà nổi tiếng, non trăm cây số toàn là đồi trà, nơi đây sẽ trở thành một khu trà quốc doanh nhất nhì toàn quốc. Chúng ta sẽ đầu tư vốn canh tác, đầu tư kỉ thuật, sẽ đưa hương trà đặc biệt ở đây đi khắp thế giới.
 Quân đoàn phó Khắc Vũ vào đến dinh tỉnh trưởng tỉnh Lâm đồng lúc 8 giờ sáng. Bộ tư lệnh sư đoàn cũng đã có mặt đấy đủ ở đó. Sư trưởng Nam Phong tự tay rót một chén trà đạt trước mặt quân đoàn phó. Hương trà bốc lên thơm nức cả gian phòng.
Quân đoàn phó liếc nhìn sư trưởng:
- Trà gì có hương lạ vậy?
- Trà của một bà má cho đó anh Ba ạ! – Sư trưởng Nam Phong đứng dậy xoè tay chỉ một vòng quanh gian phòng.
- Anh thấy không? Tụi nó ăn ở như vua chúa. Cũng dễ hiểu vì sao tụi nó ngoan cố bám đít Mỹ đến cùng như vậy.
Quân đoàn phó gật đầu tán thành nhận xét của sư trưởng Nam Phong, ông nhấp từng ngụm trà và hỏi:
- Tình hình thế nào?
Sư trưỏng Nam Phong gãi đầu, mặt hơi buồn, đôi mắt nheo lại, cái cằm đầy râu đen như một vệt mực. Ông thở dài một hơi nhẹ:
- Tụi nó ngoan cố như An Lộc, như Phước Long cũng mệt. Nhưng tụi nó chuồn nhanh quá cũng mệt anh Ba ạ. Vừa mệt vừa tức. Mệt vì truy kích, tức vì không tóm cổ được bọn chóp bu. Ở đây, tụi nó  tháo chạy từ khi pháo 130 ly bắt đầu bắn. Tròi tối, ngã bàn tay không thấy, không sao truy sát gót được.

Quân đoàn phó mỉm cười, thông cảm bởi tâm sự của sư trưởng Nam Phong, ông nói:
- Ông bà thường nói”Nước chảy về chỗ trũng”. Bọn đầu sỏ ở các nơi đang tháo chạy về Sài Gòn, hang ổ cuối cùng của chúng. Sắp tới chúng ta đánh vào Sài Gòn thì chúng chạy đi đâu? Đi Mỹ à? Số phận của chúng là như thế. Dải đất chúng ta vừa giải phóng lớn hơn nhiều. Thôi, vấn đề đó cho qua đi. Nào! Các đồng chí báo cáo về tình hình mới nhất đi.
Chính uỷ Liêm giở sổ tay, đeo kính vào, liếc qua trang sách rồi ngửng đầu lên:
- Báo cáo anh Ba, chúng tôi đã họp với tỉnh uỷ và tỉnh đội để phân công, phân nhiệm. Việc tổ chức cho bọn nguỵ quân, nguỵ quyền ra đăng ký, trình diện và nộp vũ khí đang tiến hành. Thị xã trở lại bình thường. Bộ đội đang có bộ phận truy lùng tàn binh, có bộ phận đang tiếp tục thu dọn chiến trường, có bộ phận đang làm công tác dân vận. Trinh sát sư đoàn đang trên đường lên Đức Trọng và Đà Lạt.
- Thôi khỏi lên! – Quân đoàn phó khoát tay – Cho người đuổi  theo gọi về nhận nhiệm vụ mới!
Sư trưởng Nam Phong nhổm người lên, nhô đầu về phía quân đoàn phó:
- Chúng tôi không phát triển lên Đà Lạt?
Quân đoàn phó lắc đầu, hỏi lại:
- Bản đồ đâu? Trải ra đây?
Tham mưu phó sư đoàn trải bản đồ lên  bàn, quân đoàn phó đeo kính vào, ông đứng dậy, tay cầm chì đỏ. Tất cả những người đều đứng dậy, quân đoàn phó bắt đầu nói:
- Cái ý định hôm nọ chúng ta bàn, sau khi giải phóng Lâm Đồng sẽ phát triển lên Đà Lạt, xuống Phan Rang, vào Phan Thiết, Hàm Tân, quay về Long Khánh nay không thực hiện nữa. Tình hình đã phát triển khác rồi. Tin mới nhất, ba giờ chiếu hôm qua ngày 29 tháng 3, ba cánh quân ta từ ba hướng hợp vây rất giỏi đã tiêu diệt tập đoàn phòng ngự lớn nhất của quân đoàn 1 của địch ở Đà Nẵng. Trên mười vạn quân phần lớn đầu hàng, tan rã và bị tiêu diệt. Một số theo Ngô Quang Trưởng, tư lệnh quân đoàn chạy ra biển. Cuộc chiến đấu từ khi bắt đầu đến khi kết thúc chỉ không đầy bốn mươi tiếng đồng hồ. Bốn mươi tiếng tiêu diệt mười vạn quân địch, vào hàng lịch sử thế giới đấy chứ!

Như vậy là âm mưu co cụm và phòng thủ ven biển miền trung của Mỹ-Thiệu đã bị cuộc tấn công thần tốc, vũ bão bằng nhiều hướng của ta đập tan từ trong trứng. Quân ta đang tiến vào Qui Nhơn, Phú Yên, Nha Trang, Cam Ranh. Súng đang nổ, việc giải phóng hoàn toàn các nơi đó chỉ trong ngày một ngày hai. Ý đồ lập tuyến phòng thủ vòng cung Lâm Đồng – Đà Lạt – Phan Rang – Phan Thiết của bộ tổng tham mưu nguỵ đã bị các đồng chí phá tung một cánh. Đà Lạt, vị trí cuối cùng của địch trên dải đất Tây Nguyên đang hết sức chênh vênh. Một đơn vị chủ lực của quân khu Sáu đang tiến sát thành phố, một đơn vị bộ đội địa phương tỉnh Ninh Thuận đang tiến ra đường số 11, cắt đứt liên lạc giữa Đà Lạt và Phan Rang, sư đoàn không phát triển lên thì bọn địch cũng bỏ Đà Lạt tháo chạy. Tôi vừa được thông báo, bộ tổng tham mưu nguỵ đã ra lệnh giải tán quân đoàn 1, quân đoàn 2. Quân đoàn phó Khắc Vũ bật cười, những người đứng quanh ông cũng cười, ông nói tiếp:
- Còn gì nữa đâu mà không giải tán, chúng sát nhập Ninh Thuận, Bình Thuận vào quân khu 3, thành lập bộ chỉ huy tiền phương của quân đoàn 3 tại Phan Rang, làm tuyến ngăn chặn từ xa để tổ chức phòng thủ khu vực Sài Gòn và đồng bằng Nam Bộ. Tổng thống Mỹ cử Uây-en, tham mưu trưởng lục quân tới Sài Gòn hôm qua để nghiên cứu tình hình tại chỗ, một cầu hàng không tiếp vận vũ khí Băng Cốc – Sài Gòn được thiết lập. Uây –en và Cao Văn Viên đã bay ra Xuân Lộc. Chúng đánh giá cao vị trí phòng thủ cố tính chất then chốt. Toàn thế giới đang chăm chú theo dõi tình hình. Họ tập trung sự chú ý vào hướng đông-bắc Sài Gòn, nơi tiếp giáp một nửa đất đai vừa mới giải  phóng, nơi đã xuất hiện những binh đoàn lớn, rất hùng mạnh của ta. Còn ở đây, mặt trận đường 20, chúng ta đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ, mở thông và nối liền dải hành lang chiến lược mới. Các đồng chí xem đây.
Ông cuối xuống bản đồ, cây bút chì trong tay ông đặt lên đường 20 kéo lên Đức Trọng, lên ngã ba đường 20 và đường 21 kéo dài rồi đi dần lên Buôn Ma Thuột, lên đường 14 ra tận Kon Tum. ông khoanh một vòng lớn nói tiếp:
- Các đồng chí thấy không? Từ chỗ này, bắc Kon Tum đường 14 đã nối được với hai ngã đường chiến lược: Ngã tây Trường Sơn và ngã đông Trường Sơn. Như vậy  theo đường chúng ta vừa mở và nối liền, những đoàn cơ giới đã có thể từ Hà Nội đi suốt một mạch tới Túc Trưng, tới tây-bắc Xuân Lộc.

Ông im lặng, nước mắt tự nhiên trào ra mờ cả kính đeo mắt, ông nói giọng xúc động:
- Thế là chúng đã có ba tuyến hành lang chiến lược. Tuyến đường 1 đã vào tới Cam Ranh; Tuyến đường 14-21-20 vào tới tây - bắc Xuân Lộc; Tuyến đường 14 vào tới Long Nguyên- Dầu Tiếng- Sông Sài Gòn. Mỗi tuyến đường sẽ là một dòng sông lớn như anh Sáu nói. Chắc chắn cuộc nam tiến vĩ đại nhất sẽ bắt đầu trong những ngày sắp tới.
Nước mắt ông chảy ướt gò má. Tất cả những người đứng quanh ông đều xúc động. Gian phòng hoàn toàn im lặng và trang nghiêm. Mối người đều nghe rõ nhịp đập của trái tim mình. Quân đoàn phó Khắc Vũ nhìn rất kĩ khuôn mặt của từng người. Ông nói từng tiếng một, rõ ràng, minh bạch:
- Do tình hình phát triển như trên nên sư đoàn các đồng chí được lệnh tiến về thị xã Xuân Lộc chiến  đấu trong đội hình của quân đoàn. Chúng ta phải nhanh chóng hình thành mặt trận hướng đông và đông bắc Sài Gòn. Khẩn trương tấn công vào những tuyến phòng thủ mới của địch. Cuộc hành quân phải bắt đầu từ tối hôm nay
Sư trưởng Nam Phong nghe xong, ông quay ngược tấm bản đồ lại, vươn tới khoang một vòng tròn đỏ quanh thị xã Xuân Lộc, ông quay về phía quân đoàn phó:
- Báo cáo đồng chí thủ trưởng, sư đoàn 7 đã sẵn sàng, xin chấp hành mệnh lệnh.

Phần hai

CUỘC CHIẾN ĐẤU Ở XUÂN LỘC

V

Trưa mồng 3 tháng 4, trên đường đưa sư đoàn từ Di Linh-Lâm Đồng tiến về thị xã Xuân Lộc theo lệnh quân đoàn. Bộ tư lệnh sư đoàn nhận được thông báo như sau:
“ Cuộc tiến công chiến lược bắt đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên, tiếp theo là chiến dịch Trị Thiên - Huế, chiến dịch Đà Nẵng - Quảng Nam, diễn ra trong không đầy một tháng đã quét sạch hệ thống phòng thủ kiên cố, to lớn của địch ở quân khu Một và Hai. Ta đã tiêu diệt và làm tan rã sáu sư đoàn bộ binh, có một sư đoàn thuộc lực lượng cơ động chiến lược, hai mươi mốt liên đoàn biệt động và bảo an, có ba liên đoàn thuộc lực lượng chiến lược, mười thiết đoàn xe tăng và xe bọc thép, ba mươi lăm tiểu đoàn pháo, loại ra ngoài vòng chiến đấu hai mươi bảy vạn tên địch. Giải phóng mười sáu tỉnh, năm thành phố, gần mười triệu dân và hai phần ba đất đai toàn miền Nam. Hai âm mưu chiến lược mới của địch là bảo  toàn lực lượng và phương tiện chiến tranh, lập tuyến phòng thủ mới ở dải đồng bằng và ven biển miền Trung nhiều của , đông người đã bị những cơn lốc mạnh của cuộc tiến công đập tan hoàn toàn. Chỉ trong một thời gian ngắn, cục diện chiến trường đã thay đổi nhanh chóng, có bước nhảy vọt lớn, làm thay đổi sự so sánh lực lượng giữa ta và địch. Ta mạnh hơn hẳn địch. Địch suy sụp lớn về tinh thần, tan rã lớn về tổ chức, tổn thất lớn về quân số, vật chất kĩ thuật, lâm vào thế thất bại không thể nào cứu vãn được. Một thời cơ mới vô cùng thuận lợi và tốt đẹp để quân dân ta nhanh chóng nắm lấy, tiến lên giành thắng lợi vẻ vang hơn nữa. Hiện nay bọn địch không còn khả năng phản công, phản kích chiếm lại các vùng trọng yếu đã mất

 Chúng đang ra sức củng cố các tuyến phòng thủ quanh Sài Gòn và đồng bằng Nam Bộ. Hiện chúng đã chia các tuyến phòng thủ ở hướng chủ yếu sau: Tuyến thứ nhất(Tuyến phòng ngự từ xa): Phan Rang – Phan Thiết – Hàm Tân; Tuyến thứ hai: Xuân Lộc- Bà Rịa – Vũng Tàu; Tuyến thứ ba: Biên Hoà – Long Bình – Vũng Tàu. Tình hình đang phát triển cho phép chúng ta đang tiến công chiến lược chuyển sang tổng tiến công chiến lược. Việc trước mắt là phải cơ động gấp lực lượng, hình thành ngay mặt trận mới, khẩn trương đánh mạnh vào các tuyến phòng ngự mới của địch, không cho địch hồi sức, không để địch thực hiện ý đồ và kế hoạch của chúng. Một cuộc chạy đua nước rút đã bắt đầu, Một ngày bằng hai mươi năm. Đây chính là những ngày vinh quang nhất của cách mạng, của đất nước, của dân tộc, của mỗi cán bộ và chiến sĩ. Hãy thần tốc và táo bạo, táo bạo và thần tốc nữa. Sư trưởng Nam Phong và chính uỷ Liêm vừa xem xong thông báo thì  được lệnh tối nay có mặt tại bộ tư lệnh quân đoàn để họp. Thường vụ  Đảng uỷ hội ý. Phó chính uỷ Thái, tham mưu trưởng Thứ, chủ nhiệm chính trị Thẩm triển khai ngay những công việc cần thiết để tối mùng 6 tháng 4 đưa hết đội hình sư đoàn vào vị trí  tập kết.
     Chiều mồng 3 tháng 4, sư trưởng Nam Phong và chính uỷ Liêm lên địa điểm họp. Hai chiếc hon đa chím mươi dừng lại bên bờ suối. Sư trưởng Nam Phong theo lối mòn lên trước, ông thoáng thấy bóng quân đoàn phó Khắc Vũ, ông kêu to:
- Anh Ba, chúng tôi lên rồi, họp ở đâu anh?
Quân đoàn phó quay lại, giơ cả hai tay ra:
- Chào hai anh, họp gần đây thôi. Còn chờ bộ tư lệnh sư 6, sư 341. Vào đây uống nước đã. Này, có mang theo trà ngon Blao không?
Sư  trưởng Nam Phong vỗ vào cái túi dết:
- Không mang rồi anh Ba ơi! Trà của dân vẫn còn, nhưng vội quá không có thì giờ uống nữa.
- Tôi có mang theo – Chính uỷ Liêm hiền lành như một ông cụ từ phía sau bước lên, trao gói quà giấy bạc cho quân đoàn phó. Sư trưởng Nam Phong và chính uỷ Liêm theo quân đoàn phó Khắc Vũ vào chỗ ở. Sư trưởng Nam Phong nhìn chiếc hầm dã chiến và mái lợp lá trung quân có vẻ ngạc  nhiên:
- Anh cũng mới về, sao tạo ra chỗ ở nhanh thế?
Quân đoàn phó lắc đầu:
- Đâu có, đây là thứ cũ của đơn vị bạn, họ nhường cho quân đoàn bộ đấy. Mỹ cút, không có khoản B52 nên công đào hầm cũng ít thôi.

Sư trường Nam Phong ngồi xuống cái ghế ghép bằng tre, ông thở ra một hơi dài:
- Tình hình ngó bộ khẩn trương quá anh Ba, thở không ra hơi nữa, bộ đội cứ gọi là vắt chân lên cổ chạy.
Quân đoàn phó châm thuốc, mỉm cười:
- Rồi còn khẩn trương nữa. Giai đoạn cuối cùng mà!
Quân đoàn phó nhìn sư trưởng Nam Phong, ông mỉm một nụ cười thân mật, ông hỏi:
- Anh đã vào xem nhà máy nào chưa? Chưa à? Chúng ta cũng như cái máy con nối vào máy cái vậy. Bình thường thì máy con cũng đã quay nhanh hơn máy cái rồi. Bây giờ đã đến lúc máy cái quay nhanh dĩ nhiên máy con phải quay tít mù thôi. Mệt nhưng mà sung sướng, phấn khởi. Điều đó thì từ tổng tư lệnh đến binh nhì đều thấy rõ. Đây, trong lúc chờ đợi,các anh hãy đọc bản tin tham khảo này đi, vui lắm.
Quân đoàn phó rút trong xắc cốt ra một tờ bản tin xanh in bằng rô-nê-ô. Chính uỷ Liêm và sư trưởng Nam Phong đeo kính, cuối xuống bản tin:
UPI 30-3:Các nhà phân tích quân sự nói rằng. cuộc tiến công đang làm kinh ngạc cả thế giới của Công sản thực sự đã tiêu diệt năm trong tổng số 13 sư đoàn chiến đấu của Nam Việt Nam
Pi-Tơ Ác-nét, phóng viên hãng AP 30-3:Trong mấy tuần qua, sự sai lầm về quân sự của chính phủ Thiệu đã đưa đến hậu  quả bất ngờ, đến nỗi các nguồn tin phương Tây và Nam Việt Nam đều tin chắc rằng quân đội Thiệu không thể chống lại một cuộc tấn công của Cộng Sản vào Sài Gòn. Cơ sở sức mạnh của Thiệu trong sĩ quan cao cấp đang nhanh chóng tan rã. Bất luận tương lai chính trị như thế nào đối với Thiệu. Cuộc tiến công của Cộng Sản đang tiếp tục xốc tới ở phía Bắc, đã lật ngược lại bức tranh Nam Việt Nam. Các sĩ quan cao cấp tỏ ra kinh hoàng vì những thất bại ở Tây Nguyên và ở vùng phía Bắc”.
Báo Tin Mỹ và thế giới 31-3:”  Với một tốc độ kinh ngạc, trong ba tuần qua, lực lượng Nam Việt Nam đã bị mất hoặc rơi rụng hầu hết các tỉnh lỵ và những cứ điểm vững chắc ở Tây Nguyên và bờ biển phía Bắc. Những tổn thất về đất đai, về thiết bị, về dân số, về quân lính thực ra không làm người ta ngạc nhiên và hốt hoảng bằng cái quá trình dẫn tới những tổn thất đó. Các lực lượng Cộng Sản có thể tung hoành trên lãnh thổ Nam Việt Nam vừa chiếm được. Họ sử dụng con đường dẫn tới các thành phố đông dân khác kể cả Sài Gòn. Những thắng lợi của họ không có gì có thể đảo ngược được

Quân đoàn phó Khắc Vũ chờ cho sư trưởng Nam Phong và chính uỷ Liêm đọc xong bản tin thứ nhất, ông lấy ra bản tin thứ hai:
- Đó là nhận xét và dư luận của các hãng thông tấn, báo chí. Còn đây, lời phát biểu của bọn chính khách Mỹ. các anh đọc tiếp đi.
Mác- Xoen Tay-Lo, cựu đại sứ Mỹ:”Tôi không thể giải thích được cuộc thảm bại hiện nay ở Nam Việt Nam. Đó là một trận Oa-téc-lo của Mỹ. Đáng lẽ Mỹ không được để xảy ra tình trạng tồi tệ, hỗn loạn trong quân đội Nam Việt Nam hiện nay”.
Đin- ra-Xcơ, cựu ngoại trưởng Mỹ:”Tôi theo dõi diến biến ở Nam Việt Nam với một nỗi buồn rầu khó tả. Đó là một tấn thảm kịch của nước Mỹ
Uy-Liêm Bân-đi, cựu trợ lý bộ trưởng quốc phòng Mỹ:”Thế là hết! Những gì làm được chúng ta đã làm rồi. Tình hình không thể đảo lộn được
AP 2-4, Pho, đương kim tổng thống Mỹ:”Đây là một thảm hoạ, một bi kịch với mức độ không tưởng tượng được
AP 2-4, Sơ-le Sinh-gơ, đương kim bộ trưởng quốc phòng Mỹ, trong một cuộc họp báo ở Hoa Thịnh Đốn:”Thực khó mà kìm chế nỗi tình hình đang phát triển từng ngày ở Đông Dương. Sự sụp đổ của Nam Việt Nam ở Cao Nguyên và các tỉnh phía Bắc là một thất bại có tầm lịch sử và hết sức bi đát
AP 2-4:”Không như Pho, các chuyên gia tình báo Mỹ hết sức bi quan về triển vọng của Nam Việt Nam. Các nhà phân tích tình báo nói Cộng Sản có đủ lực lượng để thanh toán quân Nam Việt Nam. Chính phủ Sài Gòn chẳng có mấy thì giờ để ổn định vành đai phòng thủ Sài Gòn và một phần ba đất đai còn lại. Tốc độ và hiệu lực của những cuộc hành quân của Cộng Sản khiến mọi người kinh ngạc và khủng khiếp

Sư trưởng Nam Phong đọc những dòng cuối, ông mỉm cười:
- Tụi nó nhận xét đúng đấy, mình là người trong cuộc mà cũng kinh ngạc nữa là chúng nó, một tháng bằng mấy chục năm. Còn nữa không anh Ba, nghe chúng nó kêu la mình càng khoái.
Quân đoàn phó rút ra bản tin thứ ba:
- Đây! Tình hình Sài Gòn
Sư trưởng Nam Phong và chính uỷ Liêm lại cuối xuống bản tin:
AFP 30-3:” Dinh của Thiệu đã trở thành một cứ điểm quân sự. Cứ ba mươi mét lại có một lô cốt được đắp bằng bao cát, một máy bay lên thẳng UH-1 trực trên sân thượng, nhiều xe bọc thép gắn súng máy nấp dưới rặng cây
UP ngày 1-4:” Nhiều quan chức nguỵ ở Sài Gòn đang cho vợ và gia đình rời khỏi Việt Nam. Một số quan chức cũng đang có kế hoạch chuồn ra nước ngoài. Nhân dân Sài Gòn bao vây các nhà băng để rút tiền ra. Nhà băng Việt Nam Thương Tín đã phải đóng cửa mấy giờ liền vì không lập lại được trật tự
Roi-tơ ngày 1-4:” Các sứ quán nước ngoài ở Sài Gòn cũng đang rục rịch rút đi
AP ngày 2-4:” Bốn sĩ quan không quân của Thiệu và năm mươi hai người khác di tản trên một chiếc máy bay quân sự C-130 đã tự ý rời Việt Nam đổ xuống Sing-ga-po đêm 1-4
AFP ngày 1-4:” Sáu nghìn xe xích lô thường ngày chạy ở Sài Gòn cũng bị Thiệu ra lệnh cấm chạy vì lí do an ninh
UPI ngày 2-4:” Tin đồn về đảo chính lan truyền, trong khi tình hình quân sự xấu đi, hàng ngàn ngoại kiều ở Sài Gòn chen chúc nhau để xin giấy xuất cảnh. Ba công ty dầu lửa lớn tham gia việc thăm dò ở ngoài khơi nam Việt Nam đã rút hoặc đang chuẩn bị rút đi
UPI ngày 2-4:” Những tàn binh sống sót bị đánh bại ở miền Trung chạy về tới Phan Thiết và Bình Tuy đã bắn nhau với lính cảnh sát và lính bảo an. Trong khi đó bộ chỉ huy Sài Gòn xác nhận đã mất liên lạc với Đà Lạt
Thời báo Niu-Oóc, ngày 28-3:” Thiệu đã ra lệnh bắt bảy chính khách và nhà báo vào  sáng ngày 27 tháng 3. Việc bắt bớ này lột trần sự sợ hãi là chế độ của Thiệu đang ở miệng hố của sự sụp đổ trước sự tan rã về quân sự đang lan tràn khắp miền Nam Việt Nam

Chính uỷ Liêm lấy sổ tay ghi lại những thông tin cần thiết. Sư trưởng Nam Phong đứng dậy cởi cúc áo trên ngực, những tin tức làm người ông nóng ran. Ông quay sang quân đoàn phó nói một cách sôi nổi:
- Anh có thấy cả chúng ta và bọn địch đều đang ngồi trên một biển lửa khổng lồ không? Lửa giục chúng ta lên và lửa dìm tụi nó xuống. Mấy chục năm đánh nhau chưa bao giờ sôi nổi như bây giờ. Người lúc nào cũng nóng ran lên anh Ba ạ!
Quân đoàn phó gật đầu đồng tình với cảm tưởng của sư trưởng Nam Phong, ông hỏi:
- Đọc kĩ thông báo chưa?
- Đọc vài lần, đọc ngay trên đường đi, anh Ba ạ!
- Vài ngày nữa sẽ có thông báo chính thức trên đài phát thanh. Hãy tạm coi đó là kết thúc một giai đoạn tiến công. Giai đoạn tiếp theo bắt đầu trong vài ngày nữa. Khẩn trương lắm. hãy chuẩn bị ý kiến phát biểu trong cuộc họp tối nay.
Sư trưởng Nam Phong lắng nghe, trong đầu chen chúc bao nhiêu ý nghĩ. Ông chưa kịp hỏi thì từ ngoài đường chính nhiều tiếng lao xao vọng lại. Sư trưởng Nam Phong nhận ra tiếng anh Năm, tư lệnh quân đoàn. Sư trưởng Nam Phong quay vội ra phía có tiếng nói:
- Báo cáo anh Năm, anh mới sang à?
- Ai đấy? Ai như Nam Phong phải không?
- Vâng tôi đây! Chúng tôi vừa lên. Đến hội trường thôi! Sư 1*, sư 6 lên rồi:
Chính uỷ Liêm nhét vội mấy bản tin vào xắc cốt đứng dậy. Quân đoàn phó Khắc Vũ dẹp ấm trà. Cả ba đi ra ngoài. Tư lệnh quân đoàn Hoàng Cầm, chính uỷ quân đoàn Hoàng Thế Thiện đứng chờ. Sư trưởng Nam Phong xoè cả hai bàn tay nắm chặt lấy tay quân đoàn trưởng và chính uỷ quân đoàn.
- Hai anh vừa sang à? Hai anh có khoẻ không?
Tư lệnh quân đoàn cười rất hiền lành, nước da ngăm ngăm của ông như sạm thêm sau những ngày hành quân. Ông vui vẻ đặt tay lên vai của sư trưởng Nam Phong:
- Khoẻ cả! Các đồng chí thì sao, hả? Cũng khỏe cả chứ?
Chính uỷ quân đoàn cũng đang nắm chặt tay chính uỷ Liêm nói thêm:
- Khoẻ và vui nữa!
Chính uỷ Liêm nói ngay:
- Mới xa các anh hơn tháng, nhưng lúc thấy rất lâu, lúc như lại thấy như mới hôm qua, hôm kia.
Chính uỷ quân đoàn nhận xét:
- Cảm tưởng đó rất thật đấy. Nó chỉ diến ra trong lúc trăm công nghìn việc chất lên đầu, trong lúc tình hình sôi động nhất.
Tư lệnh quân đoàn tiến lên trước, dáng nhanh nhẹn:
- Thôi ta đi.
Sư trưởng Nam Phong nhường lối:
- Vâng! Anh đi trước!.


* Sư 1: Sư đoàn 341, thuộc lực lượng dự bị chiến lược của Bộ được bổ sung vào chiến trường miền Đông Nam Bộ đầu năm 1975 và được biên chế vào quân đoàn 4, gọi tên mới là sư đoàn 1

Tư lệnh quân đoàn Hoàng Cầm, chính uỷ quân đoàn Hoàng Thế Thiện cùng với toàn bộ cơ quan của quân đoàn từ mặt trận bắc Sài Gòn đã chuyển hết sang mặt trận đông bắc Sài Gòn. Sư đoàn 9 trong biên chế của quân đoàn được lệnh tách ra làm nòng cốt cho  binh đoàn 232 dã chiến đang thành lập ở  mặt trận tây-nam Sài Gòn. Quân đoàn được bổ sung sư đoàn 1 thuộc lực lượng dự bị chiến lược của Bộ, sư đoàn 6 thiếu một trung đoàn của quân khu 7, trung đoàn 95B của quân khu 2 từ Tây Nguyên vào. Như vậy biên chế của quân đoàn đã đầy đủ. Quân đoàn đảm nhịêm một hướng chiến dịch trên mặt trận hướng đông Sài Gòn, có nhiệm vụ nổ súng sớm hơn nhằm mục đích: Tấn công vào tuyến phòng thủ then chốt của địch trên hướng đông Sài Gòn là Xuân Lộc-Bà Rịa- Vũng Tàu, tiêu diệt nhiều lực lượng chủ lực tại chỗ. Kéo lực lượng dự bị chiến lược, dồn bộ binh và thiết giáp từ vòng trong ra mà tiêu diệt, làm suy yếu thêm một bước nữa tinh thần và tổ chức của địch. Không cho đich có thì giờ củng cố các tuyến phòng thủ mới, tạo tiền đề cho đợt tổng công kích cuối cùng. Mở ra một cánh cửa lớn để vào Sài Gòn từ hướng đông bắc.
- Mở một mũi vu hồi vào phía sau dải phòng ngự từ xa của quân đoàn 3 nguỵ từ Phan Rang đến Hàm Tân, phối hợp với quân đoàn bạn sẽ tấn công chính diện vào dải phòng ngự đó.
- Thu hút lực lượng và sự chú ý của địch vào hướng đông, thưc hiện một phần kế hoạch nghi binh chiến lược để quân đoàn bạn đang từ phía bắc cơ động gấp lực lượng tới mặt trận bắc và tây bắc Sài Gòn.
Các tư lệnh sư đoàn dự hội nghị, sau khi nghe tư lệnh quân đoàn phổ biến nhiệm vụ đều nhận thức rằng thời kì sư đoàn tự ý lựa chọn mục tiêu tấn công đã không còn nữa. Đây là thời kì chỉ đâu đánh đó, đánh cho một ý đồ lớn, đánh theo một kế hoạch lớn. Vì vậy khả năng chiến đấu đè nặng lên vai từng hướng, từng đơn vị có thể diễn ra từng lúc, từng nơi. Các tư lệnh sư đoàn nhìn nhận những khó khăn, những thuận lợi một cách bình tĩnh, họ hiểu thị xã Xuân Lộc, Phước Long, Lâm Đồng, nghĩa là có tiểu khu quân sự, có bọn bảo an, cảnh sát, có các cơ quan nguỵ quân, nguỵ quyền, có phố xá thì ở Xuân Lộc còn có cả  hậu cứ của một sư đoàn chủ lực địch từ ngày mới thành lập, đó là sư 18. Vì vậy đánh Xuân Lộc tức là đánh vào hậu cứ của sư 18. Họ hiểu thế nào là sự vững chắc về mặt công trình quân sự của một hậu cứ. Điều thứ hai họ hiểu bộ đội của họ sẽ phải chiến đấu trên một địa hình trống trải, bằng phẳng, gần các căn cứ lớn của địch, gần Sài Gòn, nơi bọn địch có ưu thế về hoả lực pháo binh và không quân.

Bộ  đội sẽ phải thọc sâu vào các dải phòng ngự liên hoàn, dần càng xa các căn cứ và hậu cứ của mình. Điều thứ ba họ hiểu, sau khi mất quân khu Một và quân khu Hai. Mỹ - Thiệu đã chọn Xuân Lộc làm vị trí phòng thủ cơ bản ở hướng đông Sài Gòn. Chúng đặt Xuân Lộc vào tầm chiến lược đối với việc phòng thủ Sài Gòn. Uây-en, tham mưu trưởng lục quân Mỹ sang Sài Gòn hôm 28 tháng 3 đã cùng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng nguỵ đến Xuân Lộc. Hẳn bọn chúng rút kinh nghiệm thất bại các nơi khác, đã có kế hoạch phòng thủ rồi. Bọn chúng gọi Xuân Lộc là chiến luỹ thép, bức tường thép, cánh cửa thép đối với Sài Gòn. Dư luận thế giới đang chú ý vào Xuân Lộc và dải phòng ngự mới của Mỹ-Thiệu. Xuân Lộc đã trở  thành sự đánh đố của dư luận. Bọn Mỹ-Thiệu hiểu giá trị và tầm vóc của Xuân Lộc theo cách của chúng. Những người dự hội nghị ở đây cũng hiểu giá trị và tầm vóc của Xuân Lộc theo cách của mình. Cuộc thảo luận nhằm vào mấy vấn đề lớn:” Đánh bằng cách nào để thực hiện nhiệm vụ có lợi nhất, tốt nhất”; “ Dù bọn địch đã chuẩn bị sẵn để đối phó ở Xuân Lộc, nhưng nhất thiết phải tạo ra yếu tố bất ngờ cho chiến dịch”; “ Đánh chiếm thị xã trước hay tiêu diệt lực lượng cơ động trước?”;Hướng phát triển của chiến dịch, của các sư đoàn sau khi giải quyết xong Xuân Lộc…”. Cuộc thảo luận kéo dài đến nữa đêm. Sáng hôm sau, các tư lệnh sư đoàn trở về sư đoàn của mình, bắt tay vào công tác chuẩn bị.

Sau khi phái bộ tiền phương của quân đoàn ra Phan Rang, theo lệnh Uây-en và sự sắp xếp của bộ tổng tham mưu, Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh quân đoàn 3 là nốt nhiệm vụ tiếp theo là ngày 5 tháng 4 hoàn trả chiến đoàn 48 đang đóng ở Củ Chi làm dự bị cho mặt trận Tây Ninh trở về với sư 18. Ra lệnh cho Lê Minh Đảo dùng chiến đoàn 48 giải toả quốc lộ 1, đoạn Xuân Lộc-Hàm Tân, chiếm lại núi Chứa Chan, cho một tiểu đoàn ra giữ Hàm Tân và tỉnh Bình Tuy. Nhận lệnh, Lê Minh Đảo lắc đầu, thở dài. hắn cảm thấy buồn, tình thế đến nước này mà cấp trên của hắn vẫn không ra khỏi cái mâu thuẫn”Tập trung và phân tán”, “ Giữ dân, giữ đất và phòng ngự có trọng điểm”. Cuộc rút lui chiến lược từ Tây Nguyên về đồng bằng ven biển Miền Trung đã bị đánh bại hoàn toàn, là một tổn thất ghê gớm. Nhưng dù sao cũng còn hiểu được vì quân cộng hoà đã rời khỏi căn cứ, đối phương lại có sở trường về đánh vận động. Còn như sự sụp đổ của Ngô Quang Trưởng với mười vạn quân ở ngay trong công sự, trong căn cứ ở Đà Nẵng  thì cho đến nayLê Minh Đảo cũng chưa giải thích được. Vì vậy, Lê Lê Minh Đảo hoàn toàn không tin vào bộ chỉ  huy tiền phương của quân đoàn ở Phan Rang. Hắn nghĩ rằng với một liên đoàn quân biệt động, một lữ dù, một sư đoàn 2 vừa thành lập lại, toàn là loại quân đã chạy dài từ Huế vào, từ Tây Nguyên xuống  thì trung tướng Nghi có thể làm được trò trống gì? Một lưc lượng như vậy làm sao chặn đứng được những đơn vị lớn của Cộng sản đã từng đánh tràn vào Đà Nẵng, quét sạch quân Sài Gòn suốt một dải ven biển miền Trung trong mấy ngày?. Dải phòng ngự mới từ Phan Rang đến Xuân Lộc tuy có dài, có sâu, nhưng bề ngang lại rất mỏng. Đà Lạt mất, quốc lộ 11 Đà Lạt-Tháp Chàm mất, quốc lộ 20 mất. Cả cạnh sườn của dải phòng ngự này hoàn toàn trống, đối phương vu hồi vào chỗ nào cũng được. Trận vu hồi lớn nhất chắc ở Xuân Lộc. Lê Minh Đảo hiểu rằng, mất Xuân Lộc, đối phương sẽ tràn xuống hai hướng: Hướng thứ nhất:-Biên Hoà-Long Bình; Hướng thứ hai: bà Rịa-Vũng Tàu. Vì vậy Lê Minh đảo không chấp hành đầy đủ lệnh của Nguyễn Văn Toàn. Đảo không chiếm lại núi Chứa Chan, không giải toả quốc lộ 1. Chỉ cho chiến đoàn 48 hành quân ra đến suối Cát rồi trở về đóng tại chi khu Tân Phong phía nam thị xã, sẵn sàng ứng cứu cho chiến đoàn 43 trong thị xã.

Tuy Đảo đã nắm trong tay toàn bộ sư đoàn với quân số và trang bị đầy đủ với bốn mươi hai khẩu pháo lớn, với một thiết đoàn xe tăng và xe bọc thép, với lực lượng bảo an, biệt động quân, cảnh sát cũng tương đương quân số một sư đoàn, nhưng Đảo chưa yên tâm chút nào. Đảo không thể rút chiến đoàn 52 đang giữ đoạn cuối cùng của đường 20 từ Túc Trưng đến ngã ba Dầu Dây, co về Xuân Lộc được vì rút đi có nghĩa là tự mình thắt dây thòng lọng quanh cổ mình. Cộng sản sẽ theo đường 20 thọc xuống cắt đứt quốc lộ 1 ở Dầu Dây, cô lập thị xã Xuân Lộc. Nhưng để chiến đoàn 52 ở chi khu Kiệm Tân thì rõ ràng chiến đoàn 52 đã nằm ra ngoài đội  hình phòng thủ của sư đoàn, thực tế nó đã bị cô lập. Đảo từ lâu đã nhìn thấy sự sơ hở đáng sợ của quãng đường số 1 từ Bàu Cá đến ngã ba Dầu Dây, nơi nối liền chiến đoàn 52 ở Kiên Tân với sư đoàn ở Xuân Lộc. Nhưng trong tay Đảo không còn lực lượng nào để trám chỗ trống đó. Đảo đề nghị với Toàn, Toàn đã điều đến cho Đảo thiết đoàn 22 và một tiểu đoàn biết động quân án ngữ quãng đường đó. Nhưng đến cuối  tháng 3 thì Toàn rút thiết đoàn 22 và tiểu đoàn biệt động quân về gò Dầu Hạ. Theo Toàn, ở đó Cộng sản đã mở được một hành lang xuống đồng bằng sông Cửu Long. Quãng đường đó lại bỏ trống. Đảo trình tiếp lên Toàn sự lo ngại đó. Toàn hứa với Đảo khi chiến sự nổ ra sẽ tăng viện ngay lực lượng cho Đảo, bằng bất cứ giá nào cũng sẽ giữ vững đoạn đường Xuân Lộc-Biên Hoà.
Nhìn lại toàn bộ tình hình Xuân Lộc, tuy quân số đông đảo, trang bị tăng cường, tuy có thêm nhiều bãi mìn và chướng ngại vật vừa được thiết lập, tuy đã được Uây-en và Cao Văn Viên chỉ bảo, với lời hứa của Nguyễn văn Toàn, với sự cổ vũ trực tiếp cuả tổng thống Thiệu, nhưng Lê Minh Đảo vẫn không yên tâm. Chiều ngày 8 tháng 4 Đảo lên trực thăng bay nhiều vòng quanh Xuân Lộc. Lê Minh Đảo một lần nữa quan sát các hệ thống phòng thủ. Chiếc trực thăng bay tầm thấp, tầm trên nó, ba chiếc trinh sát L19 đang hướng dẫn ba tốp F5E ném bom ba hướng khác nhau. Nghe những loạt bom nổ, nhìn những cột khói đùn lên từ những dải rừng cao su xung quanh Xuân Lộc, Lê Minh Đảo lắc đầu. Đảo vẫn không thể nào hiểu được Cộng sản sẽ đánh Xuân Lộc như thế nào?

VI

Để tạo điều kiện thuận lợi cho quân đoàn bạn chuẩn bị tấn công chính diện vào dải phòng ngự mới của địch: Phan Rang-Phan Thiết- Xuân Lộc, không để địch tăng thêm quân ra Phan Rang. Trận tấn công vào hệ thống phòng ngự cơ bản của địch ở Xuân Lộc và vùng xung quanh sẽ bắt đầu vào 5 giờ sáng ngày 9 tháng 4, sớm hơn dự kiến mấy ngày. Yêu cầu cơ bản của trận tấn công này nhằm chia cắt làm nhiều mảnh hệ thống phòng ngự của địch, tiêu diệt thật nhiều sinh lực cơ động, đặc biệt là lực lượng cơ động chiến lược, sau đó tìm cách luồn sâu từng trung đoàn, từng sư đoàn vào phía sau Xuân Lộc, chiếm bàn đạp, mở rộng phạm vi kiểm soát, tạo điều kiện vững chắc cho các bước phát triển tiếp theo. Việc giải phóng thị xã Xuân Lộc, căn cứ then chốt của dải phòng ngự sẽ diễn ra ở đầu hoặc giữa, hoặc cuối đợt tấn công, điều đó tuỳ thuộc vào sự phát triển của tình hình. Tóm lại đó là vấn đề thời gian. Trong tư tưởng chỉ đạo chiến dịch, bộ tư lệnh quân đoàn tập trung vào việc tiêu diệt sinh lực địch, đặc biệt là lực lượng cơ động chiến lược nên phương án tác chiến cuối cùng đã được thay đổi như sau:
- Trung đoàn 13 sư 7 làm mũi tấn công chủ yếu vào hậu cứ và sở chỉ huy sư 18 ở hướng đông bắc thị xã. Trung đoàn 209 giải phóng  đường 1 từ suối Cát về ngã ba Tân Phong, đánh từ nam thị xã lên, sẵn sàng đánh quân dù tăng viện cho Xuân Lộc dự kiến sẽ đổ xuống ở hướng này. Trung đoàn 14 sư 7 làm dự bị cho cả hai hướng: Hướng đánh vào thị xã và hướng đánh quân dù. Trung đoàn 3 sư 1 làm mũi tấn công thứ yếu hướng tây bắc thị xã. hai trung đoàn còn lại của sư 1 làm dự bị cho quân đoàn và chia cắt địch từ Xuân Lộc đến núi Thị. Trận tấn công vào thị xã nhắm tiêu diệt các hậu cứ, các sở chỉ huy và sinh lực địch trực tiếp bảo vệ thị xã, với mức độ buộc địch phải điều lực lượng tổng trù bị lên tăng viện. Trung đoàn 4 sư đoàn 6 bí mật cắt qua rừng cao su đánh chiếm ấp Trần Hưng Đạo, đèo Mẹ Bồng Con trên đường số 1 giữa núi Thị và ngã ba Dầu Dây. Trung đoàn 33 sư 6 cũng bí mật cắt rừng bất ngờ đánh chiếm ngã ba Dầu Dây, chia cắt chiến đoàn 52 ở chi khu Kiệm Tân với Xuân Lộc, chặn viện từ Trảng Bom lên tiến tới cắt đứt hoàn toàn quốc lộ 1 Xuân Lộc-Biên Hoà. Sẵn sàng đánh lữ đoàn xe tăng và các chiến đoàn biệt động quân từ Biên Hoà lên mở đường. Trung đoàn 95B làm dự bị cho sư 6, sẵn sàng cùng sư 6 tiêu diệt chiến đoàn 52 khi có thời cơ và giải phóng đoạn đường 20 còn lại.

Chiều mồng 8 tháng 4 quân đoàn phó Khắc Vũ xuống sở chỉ huy nhẹ của quân đoàn đặt gần núi Chứa Chan. từ xa ông đã nhìn thấy những nét quen thuộc của ngọn núi. Cũng như hôm đứng trên cầu La Ngà, những kỉ niệm của hai mươi tám năm về trước lại đột ngột thức dậy. Mắt ông bỗng nhiên mờ đi vì xúc động, lòng dạ ông bồi hồi, xao xuyến không bước được nữa. Ông dừng lại, tựa lưng vào một gốc cây, châm điếu thuốc. Ông nhìn ngọn núi qua làn khói mỏng và bỗng kêu lên với giọng mừng rỡ, như bất ngờ gặp lại một người bạn chí thân:
-  Chứa Chan! Chứa Chan! Chứa Chan!
Ông bật cười, cười giòn giã khiến cho hai chiến sĩ bảo vệ mở to mắt nhìn ông với vẻ ngạc nhiên hết sức.  Ông vẫy tay:
- Lại đây các cậu, ta nghỉ một lát. Này các cậu không hiểu mình cười cái gì phải không? Các cậu thấy hòn núi kia không? Tên nó là Chứa Chan đấy, Chứa Chan! Chẳng biết ai đã đặt tên cho nó và nó mang cái tên ấy từ đời nào? Nhưng cái tên ấy thật là kì, thật là tuyệt. 28 năm trước, mình và đơn vị mình đã chiến đấu mấy năm liền ở vùng này, căn cứ của bọn mình ở trên núi. Hồi đó gian lao, vất vả lắm, lực lượng ta ít, địch lại đông, đói rét, bệnh tật, thiếu súng, thiếu đạn, thiếu tình cảm nhưng bộ đội rất hăng. Vì vậy mới có câu hát” Miền Đông gian lao mà anh dũng”. Ở lâu với núi Chứa Chan, bọn mình gọi mãi thành ra một câu đối” Chứa Chan! Chán Chưa? Chưa Chán!” Mình không nhớ được  ai là người đầu tiên phát hiện ra cách nói lái nhưng lại rất có ý nghĩa đó, “ Chứa Chan cái gì? Chứa Chan tình nghĩa, tình đồng chí, tình đồng bào, tình quê hương, đất nước. Nhưng cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, khó khăn, lắm lúc cũng ngán, ngán cũng như chán, chán quá, chán thật, chán ốm, chán quá trời. Nhưng thật chán chưa? Bọn mình hỏi và tự trả lời: Chưa chán!”. Chưa chán thì tiếp tục chiến đấu, tiếp tục đi theo cách mạng- Quân đoàn phó mỉm cười nhìn hai chiến sĩ, nét mặt ông nom trẻ lại:
- Đúng là chưa chán và không bao giờ chán, các cậu ạ! Sau 28 năm mình đã được trở lại nơi đây, gặp núi Chứa Chan như gặp lại một người bạn thân thiết của những ngày đầu cách mạng. Các cậu hiểu không? Cái câu đối ấy” Chứa Chan! Chán chưa? Chưa chán!” từ bấy đến nay chưa ai đối được. Một dạo có người đối: “Con Cầy-Cây còn-Còn cây”. Nhưng câu đối đó chỉ buồn cười, làm sao cho xứng với “Chứa Chan! Chán Chưa? Chưa chán!”. Thật lý thú, thật tuyệt phải không các cậu? Có lẽ câu đối ấy sẽ không ai đối được, không có câu từ nào đối xứng cả.

Quân đoàn phó kéo một hơi thuốc thật dài, nhả khói mù mịt trông say sưa, ngon lành lắm. Quân đoàn phó nói tiếp:
- Các cậu ạ! Cũng tại nơi đây” Chứa Chan! Chán chưa? Chưa chán!”, tháng 6 năm 1947, hồi đó các cậu chưa đẻ đâu. Đơn vị mình được gặp anh Ba Duẩn, bây giờ là đồng chí Bí thư thứ nhất Đảng ta đấy. Anh Ba từ Trung Ương  vào Nam Bộ. Ạnh người roi roi, da ngăm ngăm đen, hay mặt áo thun cụt tay có sọc xanh ngang như áo thủy thủ, trông rất khoẻ. Anh ở với đơn vị mình trong một cái hang đá rộng, anh nói chuyện chính trị, phân tích tình hình thế giới, trong nước, phân tích tại sao lại phải trường kì kháng chiến? Anh nói đến đâu, bọn mình hiểu ra đến đó, mắt cứ sáng lên. Sau buổi nói chuyện, bọn mình diễn kịch cương cho anh xem. Chính trị viên đơn vị mình gọi anh là “huynh trưởng”. Nghĩ thật buồn cười cho lối gọi đó, nhưng là tấm lòng của bọn mình đối với anh. Bọn mình đưa anh đi tham quan một  trận phục kích đánh xe lửa ở ga Gia Huynh, rồi một trận nữa trên đường Gia Ray đi Võ Đắc. Sau đó bọn mình tổ chức một trung đội trang bị toàn súng tốt lấy được trong hai trận đánh ấy, đưa anh về vùng Tháp Mười. Ôi chao! – Quân đoàn phó thở mạnh- Các cậu đâu có hiểu được những năm đầu của cuộc kháng chiến ấy ở chiến trường này như thế nào? Chưa có một cuốn tiểu thuyết nào viết  về cuộc chiến đấu ấy cả. Hồi đó bọn mình hè nhau đi khiêng những trái bom lép của đồng minh về, nghĩ ra cách làm kíp điện, lắp vào, rồi lại hò nhau đi chôn dưới đường, đánh xe, đánh tàu hoả, nổi tiếng cả vùng. Các cậu biết không? Từ trái bom lép, súng kíp và gậy tầm vông dạo đó, đến bây giờ trong tay có tăng T54, pháo tầm xa 130 ly phải mất 28 năm, 28 năm, các cậu hiểu chưa?
Quân đoàn phó lim dim mắt. Một kỉ niệm khác chợt hiện ra. Sau trận đánh thành công đó, tên ông và tên của Hùng ai cũng biết. Một hôm ông sang chơi bên cơ quan của hội phụ nữ, ông gặp một người con gái khá xinh, cô ta nhìn ông với đôi mắt rất lạ. Cái nhìn của cô ta làm cho ông bồi hồi xao xuyến. Cô ta người Long An, cũng bỏ nhà đi  kháng chiến từ những ngày đầu. Cô ta tên An. Trở về, đi đâu, làm gì ông cũng cảm thấy cặp mắt đó, thậm chí cả khi nằm ngủ. Hôm sau, hôm sau nữa, ông lại sang. Thế rồi hai năm sau, cũng ở ngọn núi Chứa Chan này, đơn vị làm lễ cưới cho ông và cô gái có đôi mắt đẹp ấy. Hai mươi bảy năm! Một nữa đời người rồi còn gì! Bây giờ An ở đâu? 

Quân đoàn phó giật mình, mở mắt như vừa sực tỉnh. Chưa phải lúc để kể những chuyện đó cho mấy cậu nhóc này. Các cậu ấy chưa bằng tuổi con đầu lòng của ông, họ đang nhìn ông với cặp mắt vừa tò mò, vừa ngơ ngác. Ông cười to và đứng dậy:
- Chứa Chan! Chán chưa? Chưa chán! Chào bạn! Tôi đã về đây sau 28 năm. Ha…ha…Chứa Chan! Còn lâu mới “chán”! Vào Sài Gòn rồi tôi sẽ trở ra thăm bạn. Không thể nào quên được đâu Chứa Chan ơi! Ông quay sang hai chiến sĩ đang hết sức ngạc nhiên nghe ông nói, ông khoát tay:
- Nào! Tiến lên các cậu! Xem kìa! Bộ binh ta, xe pháo ta đang tiến nhập trận địa đấy!

Quân đoàn phó Khắc Vũ nguyên trước đây là sư trưởng sư đoàn pháo binh Biên Hoà nên ông rất quan tâm đến các trận địa pháo trong chiến dịch này. Ông hiểu hiệu lực và tác dụng của 42 khẩu pháo mà Lê Minh Đảo đang có trong tay, từ pháo tầm xa 175 ly – Vua chiến trường- đến pháo 105 ly. Có hàng chục khẩu máy bay C-5 của Mỹ vừa chở tới cách đây mấy hôm. Ông biết Lê Minh Đảo đã phân tán 42 khẩu pháo đó  ra làm nhiều nơi, chủ  yếu là các trận địa cơ động để tránh bị chế áp và tiêu diệt từ những đợt cấp tập đầu tiên. Rõ ràng địch có ưu thế về hoả lực pháo binh. Việc phân tán các trận địa  pháo làm cho ta khó lòng cho ta mở các cuộc đấu pháo ngay từ phút đầu. Vì vậy quân đoàn phó luôn luôn gọi điện thoại cho các hướng tiếp tục phát hiện các trận địa pháo của địch, báo ngay về. Khi nổ súng thì lập tức áp sát mục tiêu, hạn chế tới mức thấp nhất thương vong vì pháo.
Ngoài hoả lực pháo binh, địch còn có ưu thế về không quân. Các mặt trận khác chưa nổ súng, Xuân Lộc gần Biên Hoà và Tân Sơn Nhất, với tầm quan trọng của nó trong dải phòng ngự mới, chắc chắn Lê Minh Đảo sẽ được chi viện tối đa về không quân. Vì vậy đến sát giờ nổ súng, ông còn điện thoại nhắc các trung đoàn pháo cao xạ, các trung đoàn pháo mặt đất tổ chức thật tốt các tầm bắn yểm trợ và chi viện cho nhau, đánh thật mạnh, đánh thật đúng ngay từ đầu, hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất về người và vũ khí.
Tư lệnh Hoàng Cầm cũng quan tâm nhiều đến 42 khẩu pháo của Lê Minh Đảo, thỉnh thoảng ông lại gọi điện cho quân đoàn phó. Khi thì thông báo các toạ độ đặt pháo của Lê Minh Đảo vừa phát hiện được, khi thì trao đổi cách bắn pháo của ta. Tư lệnh rất quý kinh nghiệm sử dụng pháo của quân đoàn phó đã áp dụng trong trận đánh vào thị xã An Lộc năm 1972.

Nỗi lo của những người chỉ huy bao giờ cũng lớn và lúc nào cũng nhiều. Nhưng rồi cuối cùng, người chỉ huy cũng dẹp những nỗi lo, những tính toán tưởng như vô cùng đó để ra những mệnh lệnh đầu tiên cho một trận đánh lớn.
Bốn giờ ba mươi phút ngày 9 tháng 4, quân đoàn phó Khắc Vũ báo cáo tình hình lần cuối cùng cho tư lệnh quân đoàn tại sở chỉ huy cơ bản. Năm giờ ông nhận lệnh nổ súng. Ông trực tiếp cầm máy gọi các sư trưởng bộ binh, các trung đoàn trưởng pháo binh. Khi kim đồng hồ chỉ 5 giờ 28 phút, ông ra lệnh cho pháo chiến dịch cấp tập, mở màn trận Xuân Lộc.
Quân đoàn phó Khắc Vũ ra khỏi hầm điện thoại, trèo lên gộp đá, đưa ống nhòm nhìn vào thị xã Xuân Lộc, nhìn lên Tân Phong, nhìn xuống núi Thị, quay sang hướng đường 20. Một dải mặt trận dài mấy chục cây số đang rung lên vì tiếng trọng pháo. Tiếng nổ nhiều nhất ở thị xã Xuân Lộc, ở đó ông nhìn thấy nhiều cột lửa màu cam, nhiều cột khói màu đen ở mặt đất đùn lên, ông hiểu pháo đã bắn trúng kho đạn và các bể nhiên liệu. Ít phút sau pháo địch lên tiếng. Một cuộc đấu pháo dữ dội bắt đầu. Điều  ông chờ đợi đã đến. ông bảo người trực ban tác chiến gọi điện cho các đài quan sát phát hiện thêm các toạ độ pháo của địch, báo ngay cho ông biết. ông nhìn về núi Thị rất lâu, tám khẩu 105 và 155 của địch ở đó vẫn chưa bắn. Núi Thị là một cao điểm lợi hại, đứng trên đó nhìn được rất xa. Đó là trận địa pháo quan trọng nhất của địch vì chi viện được cho tất cả các hướng. ông ra lệnh cho một khẩu 130 đặc trách bắn kiềm chế trận địa pháo núi Thị. Trong khi pháo đang cấp tập thì máy bay đã lên, đủ các loại AĐ6, F5E, A37. Bọn không quân tập trung đánh các trận địa pháo. Pháo cao xạ lên tiếng, từng cụm khói trắng bung ra giữa lưng chừng trời, bao quanh các máy bay địch. Một chiếc AĐ6 bốc cháy, một chiếc F5E đâm theo một đường xuyên xuống đất. Bầu trời và mặt đất Xuân Lộc rung rinh.

Quân đoàn phó Khắc Vũ ngồi im như một pho tượng, nét mặt nghiêm trang. Trước mắt ông cả một quá khứ da diết và cái hiện tại hào hùng đang diễn ra, xoắn xuýt lấy nhau, cuồn cuộn như những đợt sóng.
Đến 8 giờ 30, ông nhận được những tin tức đầu tiên. Hướng sư 7, trung đoàn 12 bị hoả lực bắn thẳng và hoả lực pháo binh ngăn chặn, một xe tăng trúng mìn, địch rải các loại mìn xen kẽ, rất dày. Trung đoàn 209 chiếm được ấp Bảo Toàn trên đường 1. Bốn tiểu đoàn địch từ Suối Cát đến Bảo Toàn rút hết về Tân Phong và Xuân Lộc. Hướng sư 1, trung đoàn 3 đột phá vào khu chợ trong thị xã, đang tiến đến dinh tỉnh trưởng và căn cứ biệt động quân. Hướng sư 6, trung đoàn 4 chiếm được ấp Trần Hưng Đạo và đèo Mẹ Bồng Con. Trung  đoàn 33 chiếm được ấp Hưng Nghĩa và ngã ba Dầu Dây. Chiến đoàn 52 của địch từ chi khu Kiệm Tân rút về ấp Nguyễn Thái Học cách ngã ba Dầu Dây năm cấy số thực hiện co cụm.
Quân đoàn phó xuống hầm điện thoại:
- Cho tôi nói chuyện với sư trưởng sư 6. ông cầm máy, nét mặt phấn khởi:
- Anh Hai phải không? Chúng tôi đã nhận được tin của trung đoàn 4 và trung đoàn 33. Rất tốt, việc hai trung đoàn ra đến đường 1 và chiếm được các ấp trên là thắng lợi bước đầu đấy. Chúng ta đã tạo được một thế chiến dịch rất hiểm. Xuân Lộc bị cô lập rồi. Anh nghe rõ không, anh Hai? Anh nhắc cả hai trung đoàn thiết lập ngay trận địa chốt chặn theo kiểu chốt chặn ở đường 13 năm 1972. trung đoàn 4 không được để chiến đoàn 52 cắt rừng vượt qua đèo Mẹ Bồng Con tiến về Xuân Lộc. Trung đoàn 33 không được để cho bọn thiết giáp lên ngã ba Dầu Dây bắt tay với chiến đoàn 52. Quân đoàn sẽ lệnh cho trung đoàn 95 b hình thành thế bao vây chiến đoàn 52. Cuộc chiến đấu ở phía anh chính thức sôi nổi khi bọn thiết giáp lên. Chúng ta mong chúng nó lên, chắc chắn chúng nó sẽ lên anh Hai ạ! Anh hiểu ý tôi không? Hướng thị xã có khó khăn, những dự kiến lúc đầu đều đúng. Cuộc chiến đấu chắc sẽ kéo dài chừng nào lực lượng tổng trù bị của địch chưa lên. Vì vậy hai trung đoàn của anh sẽ phải đứng lâu trên đường đấy. Vấn đề là công sự và bố trí hoả lực. bài học chốt chặn năm 1972 trên đường 13 bây giờ vẫn còn nguyên giá trị. Hãy động viên anh em tổ chức cho tốt. Khẩu hiệu vẫn là” Không cho một tên, một xe nào lên hoặc xuống”. ông đặt máy, hỏi chiến sĩ thông tin:
- Máy về quân đoàn đâu? Cho tôi nói chuyện với anh Năm. Anh chiến sĩ thông tin đưa máy nghe khác cho ông. Tư lệnh Hoàng Cầm đang ở đầu kia dây  nói:
- Báo cáo anh Năm, tình hình chung chắc anh đã nắm được. Tôi đề nghị hướng sư 1 và sư 7 nên cho đội dự bị bước vào chiến đấu, hướng sư 1 có thể sớm hơn, còn hướng sư 6 đề nghị cho tôi xuống đó. Tôi thấy cần xúc tiến ngay việc giải phóng nốt đoạn đường 20 còn lại và chuẩn bị ngay việc diệt chiến đoàn 52 để có thể rảnh tay bước vào đánh phản kích với bọn thiết giáp sớm hơn. A lô! Các anh cũng có ý kiến giống như vậy à? Thế thì hay lắm. Vâng! Tối nay tôi sẽ có mặt ở sở chỉ huy cơ bản.
Quân đoàn phó rất bằng lòng vì tư lệnh và chính uỷ quân đoàn đều suy nghĩ giống như suy nghĩ của ông.

VII


Chiều ngày 11 tháng 4, sau ba ngày đêm chiến đấu. Ở sở chỉ huy cơ bản quân đoàn có một cuộc họp quan trọng giữa bộ tư lệnh quân đoàn và các tư lệnh, chính uỷ các sư đoàn, các binh chủng. Bộ tư lệnh quân đoàn, ngoài tư lệnh Hoàng Cầm, chính uỷ Hoàng Thế Thiện, quân đoàn phó Khắc Vũ còn có phó chính uỷ quân đoàn Vương Thế Hiệp, cục tham mưu có tham mưu trưởng quân đoàn Hoàng Nghĩa Khánh, cục chính trị có chủ nhiệm Tư Thanh. Mục đích của cuộc họp là nhằm duyệt lại tình hình phát triển giữa ta và địch, dự kiến các tình huống tiếp  theo, định đoạt bước đi của chiến dịch. Diễn biến chiến sự, lực lượng đôi bên được biểu hiện bằng ký hiệu trên tấm sơ đồ lớn. Các phòng chuyên môn của cục tham mưu quân đoàn báo cáo tình hình địch mới nhất, các phòng chuyên môm của cục chính trị báo cáo tình hình bộ đội, các tư lệnh sư đoàn báo cáo tình hình đơn vị mình và địch trong phạm vi phụ trách. Qua phân tích tình hình, mọi người dự hội nghị đều thống nhất rằng: Mỹ-Thiệu sẽ giữ Xuân Lộc đến cùng vì những lí do rất bức xúc, rất quan trọng đang ràng buộc chúng. Về chính trị, sau những cuộc thua trận, rút lui, chạy dài liên tiếp ở quân khu Một, quân khu Hai, tâm lý thất bại, bi quan đang như bệnh dịch lan tràn khắp trong quân nguỵ. Bọn đầu sỏ Mỹ-Nguỵ đang muốn chấm dứt tình trạng nguy hiểm đó. Muốn chấm dứt chỉ có cách là đứng thật vững ở Xuân Lộc. Xuân Lộc sẽ trở thành nơi thí nghiệm, nơi đọ sức mới. Vì vậy Thiệu và Cao Văn Viên đã tuyên bố”Chấm dứt thời kì rút lui”. Chúng sẽ đứng vững ở đây, dựa vào vũ khí Mỹ mới cung cấp, dựa vào những căn cứ có sẵn rất kiên cố, những thiết bị, những chướng ngại vật vừa mới dựng lên, bọn chúng hy vọng chặn đứng các cuộc tiến quân của ta, từ đó mở những cuộc phản công, xoay chuyển tình thế. Dư luận thế giới, nhất là ở nước Mỹ đang chăm chú  theo dõi cuộc đọ sức mới này, họ muốn xem xét lại khả năng quân nguỵ ở vùng cửa ngõ Sài Gòn này như thế nào để họ có thái độ đối với việc xét duyệt viện trợ cho Sài Gòn. Uây-En và Matin đã bắt Thiệu và Cao Văn Viên phải đứng vững ở Xuân Lộc để Mỹ có đủ thì giờ tìm ra một nước cờ chính trị nào đó may ra cứu vãn được tình hình đen tối hiện nay.

Về quân sự, Xuân Lộc nằm trên hai trục đường quan trọng; Trục đường số 1 vào Biên Hoà-Sài Gòn; Trục đường số 2 xuống Bà Rịa-Vũng Tàu, cửa miệng của Sài Gòn. Các nhà chiến lược, các hãng tin của phương Tây nói thẳng ra rằng:” Mất Xuân Lộc, Cộng sản sẽ thiết lập được một vòng cung vững chắc chỉ cách Sài Gòn 60 cây số. Vòng cung đó bắt đầu từ Tây Ninh chạy ra tới Vũng Tàu. Như vậy Sài Gòn sẽ bị thít chặt trong một cái thòng lọng khổng lồ bằng sắt vô cùng nguy hiểm”.
Bọn địch đánh giá cao Xuân Lộc vì lý do quân sự, chính trị, tâm lý- Chính uỷ quân đoàn Hoàng Thế Thiện phân tích tiếp, chúng sẽ không tiếc bom đạn, không kể gì đến tính mạng và tài sản của nhân dân. Chúng sẵn sàng huỷ diệt, sẵn sàng tàn phá để đạt được mục đích bức thiết trên. Vì vậy chúng ta phải tỉnh táo, không để mình bị cuốn hút vào những trận đánh ác liệt trong nội ô thị xã, vì sự phòng thủ thị xã quá cứng, vì địch đối phó quyết liệt, chúng ta không đủ sức giải phóng. Chúng ta có thể tung tất cả lực lượng dự bị của chúng ta vào Xuân Lộc và chúng ta sẽ dứt điểm được, như vậy tất nhiên quân số thương vong sẽ lớn. Nếu theo tình huống đó, bọn địch cuối cùng sẽ bỏ Xuân Lộc, nhưng lực lượng tổng trù bị trực tiếp bảo vệ Sài Gòn vẫn còn nguyên vẹn, còn chúng ta thì đuối sức, thế trận phát triển tiếp theo chưa thiết lập được. Hiện nay kẻ địch đang bị dư luận thách đố, đang cay cú. Biến sự cay cú của địch thành sự sai lầm về chiến dịch của địch đó là nghệ thuật của chiến dịch, chúng ta phải khôn ngoan, sáng tạo cho được. Tôi nhắc lại, Sài Gòn là mục tiêu cuối cùng chứ không phải là Xuân Lộc là mục tiêu cuối cùng. Giải phóng Xuân Lộc bằng thế sẽ hay hơn giải  phóng bằng lực. Có nghĩa là, chúng ta phải thiết lập một thế trận mới thật vững chắc theo tính toán của chúng ta. Đó là việc tiếp tục cô lập hoàn toàn và vững chắc bọn địch trong thị xã ở hai hướng: Hướng đường số 1 Xuân Lộc-Biên Hoà, hướng đường số 2 Xuân Lộc-Tân Phong- Bà Rịa. Đó là  chuẩn bị một cách tốt nhất việc đánh quân tăng viện giải toả cả hai hướng trên. Đó là việc tiếp tục phát triển vững chắc trên đường 1 và đây là điều hết sức quan trọng, hết sức có ý nghĩa để tạo ra thế mới. Cần phải giải thích cho cán bộ và chiến sĩ hiểu vì sao chúng ta không chủ trương tung hết lực lượng dự bị vào Xuân Lộc trong lúc này? Vì sao phải đánh lâu ở Xuân Lộc? Tôi nhắc lại việc đánh quỵ lực lượng cơ động chiến lược của địch dùng để bảo vệ Sài Gòn, ngay trước cửa ngõ Sài Gòn khi chưa tổng công kích vào Sài Gòn quan trọng hơn việc  giải phóng Xuân Lộc ngay tức thì.

Cuộc chiến đấu ngoài Sài Gòn có thể kéo dài chứ cuộc tổng công kích vào Sài Gòn không thể kéo dài được. Chắc các đồng chí hiểu điều đó: Trên đường vào Béc-lin của quân đội Xô Viết trong chiến tranh thế giới thứ hai đã chứng minh điều đó, nghĩa là cuộc chiến đấu của quân đội Xô Viết đã chọc thủng các tuyến phòng thủ quanh Béc-Lin ác liệt, gay go hơn nhiều khi chiến đấu trong nội ô Béc-Lin.
Những phân tích của chính uỷ quân đoàn làm sáng tỏ thêm tình hình. Phòng họp xôn xao một lúc, tiếng cưòi nói râm ran. Tư lệnh quân đoàn đứng dậy, tiếng xôn xao tắt hẳn. Một tấm sơ đồ khác được treo lên, ông chỉ vào tấm sơ đồ, giọng chậm rãi:
- Qua nghiên cứu tình hình, được sự chỉ đạo của trên, quân đoàn quyết định:
Một, trung đoàn 12 sư 7 và trung đoàn 3 sư 1 phải giữ vững những bàn đạp, những mục tiêu đã chiếm được trong thị xã và xung quanh thị xã. Từ 0 giờ đêm nay phải chuyển sang bao vây, phải duy trì mọi áp lực thường xuyên vào những cụm địch còn lại, thực hiện nghi binh, làm cho địch tin rằng ta sẽ tiếp tục tiến công dứt điểm thị xã trong một vài ngày tới.
Hai, trung đoàn 209 thuộc sư 7 bí mật triển khai ngay lực lượng trên dải vòng cung đông-bắc chi khu Tân Phong, sẵn sàng đánh quân dù giải toả. Không cho quân dù tiến qua cầu Gia Liêu bắt tay với chiến đoàn 43 trong thị xã. Trung đoàn 2 sư 1 phát triển về hướng núi Thị. Trung đoàn 1 sư 1 và trung đoàn 14 sư 7 làm dự bị cho cả hai hướng.
Ba, tập trung trung đoàn 95B và trung đoàn 4 sư 6 giải phóng nốt đoạn đường 20 còn lại từ Túc Trưng đến Dầu Dây, bao vây và tiêu diệt chiến đoàn 52.
Bốn, trung đoàn 33 củng cố thật chắc trận địa chốt chặn ở ấp Hưng Nghĩa và ngã ba Dầu Dây, sẵn sàng đánh lữ 3 kỵ binh thiết giáp và biệt động quân lên giải toả quốc lộ 1.
Năm, sư 1 và sư 6 cử một bộ phận cán bộ nghiên cứu Trảng Bom, Hố Nai và Biên Hoà. Chuẩn bị các đường tiến quân, vị trí tập kết và các mục tiêu. Chủ yếu căn cứ không quân Biên Hoà và căn cứ quân đoàn 3 nguỵ.
Sáu, pháo binh có kế hoạch nghi binh tốt hơn, duy trì áp lực thường xuyên đối với thị xã, sẵn sàng yểm hộ và chi viện cho các hướng đánh phản kích, chú ý kế hoạch nghi binh đêm nay. Từ 0 giờ đêm nay ngày 11 tháng 4 các sư đoàn bước vào nhiệm vụ theo phương án mới. Theo tin mới nhận được, bộ tổng tham mưu nguỵ sẽ phái lữ 1 dù, lữ 3 kỵ binh thiết giáp, chiến đoàn 8 sư 5, 2 lên đoàn biệt động quân số 322 và 315 lên tăng viện và giải toả cho mặt trận Xuân Lộc. Có thể bọn dù sẽ đổ trực thăng xuống Tân Phong, còn bọn kia sẽ từ Biên Hoà đánh lên theo quốc lộ 1.
Tư lệnh quân đoàn giao nhiệm vụ xong, ông nhìn các cán bộ với cặp mắt vui vẻ. Nét mặt ông hết sức điềm tĩnh, các tư lệnh, các chính uỷ cũng nhìn ông với những cặp mắt tin tưởng. Họ hiểu giai đoàn tế nhị, sôi nổi và quyết liệt nhất của mặt trận Xuân Lộc đã bắt đầu.

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8 Đồng Văn Đóm buộc phải cho tiểu đoàn dừng lại bên này suối Gia Liêu trong một vườn cây ăn quả. Trận pháo dữ dội kéo dài 45 phút trước lúc trời sáng đã không may trúng vào giữa đội hình đang di chuyển của tiểu đoàn, làm cho mười đồng chí hy sinh và ba mươi đồng chí bị thương. Kể cả chiến dịch chốt chặn rất ác liệt năm 1972 trên đường 13, đến đợt thọc sâu xuống Tân Phú Trung ở Gia Định cuối năm 1972 chưa lần nào tiểu đoàn chịu thương vong bằng pháo lớn  như lần này, thật đau xót. Nhận lệnh triển khai đánh quân dù tăng viện cho Xuân Lộc từ 12 giờ đêm rất khẩn trương, trong lúc một nữa quân số của tiểu đoàn đi lấy gạo, lấy đạn, tải thương. Chính trị viên Khuê đi họp Đảng uỷ mở rộng, chính trị viên phó lo việc thương binh, hậu cần. Buộc lòng tiểu đoàn trưởng Đóm và tiểu đoàn phó Hoà phải dẫn một nữa quân số của tiểu đoàn còn lại xuất phát ngay không thì không kịp chiếm lĩnh trận địa trước lúc trời sáng. Nhận khu vực trận địa trên bản đồ, không có một phút đi trước chuẩn bị, hiệp đồng những điểm cơ bản quan trọng nhất với trung đoàn, với hai tiểu đoàn 7 và 9. Thế là Đóm dẫn tiểu đoàn hành quân suốt 5 giờ đồng hồ. Đóm và một tổ trinh sát, với chiếc địa bàn có dạ quang đặt trong lòng bàn tay, vừa nắm địch, vừa nhắm hướng, vừa cắt đường, vừa tránh pháo. Pháo Tân Phong, pháo thị xã, pháo núi Thị, pháo Trảng Bom, cứ một loạt 10 viên, 12 viên. Cụm này bắn chưa dứt, cụm khác đã bắn tiếp. Pháo phạt quanh từng mảng cao su, từng mảng cây ăn quả, nhựa cây chảy ròng ròng trên mặt, trên cổ. Pháo nổ phía trước, phía sau, bên phải, bên trái, mảnh bay như mưa đá. Thế nhưng Đóm vẫn dẫn tiểu đoàn vượt qua an toàn. Cho đến khi tới suối Gia Liêu, con suối chết tiệt bờ dốc đứng, lòng suối toàn sình, đội hình ứ lại, và một trận pháo chụp trúng đội hình. Với tám lăm tay súng tất cả, đã hy sinh mười, bị thương ba mươi, còn lại bốn lăm. Đồng Văn Đóm không thể nào bỏ bốn mươi đồng chí thương binh và tử sĩ ở lại với dăm bảy tay súng bảo vệ, để đưa mấy chục anh em ra đường 1, ở hai đầu cầu Gia Liêu khi trời sáng bạch và máy bay trinh sát đã bắt đầu hoạt động. Đóm chạy tới Hoà, Hoà bị một mảnh pháo vào ngực đang thoi thóp, Đóm chạy tới Xoa và Hai, đại đội trưởng và chính trị viên của đại đội 8, đại đội mạnh của tiểu đoàn, cả hai đều bị thương. Đóm lắc đầu, anh đứng sững lại, môi cắn chặt. Nhưng không thể không ra cầu Gia Liêu được. Mệnh lệnh chiến đấu! Anh lại bóp chặt tay vào đầu, cúi xuống suy nghĩ, nhưng bỗng anh ngẩng phắt đầu, vểnh tai lên. Các loại máy bay của địch đã lên, chúng liệng vòng rất hẹp ngay trên đầu, rồi bom nổ dậy đất từ phía tiểu đoàn vừa đi qua. Anh kêu lên:
- Bọn địch dọn bãi đổ quân rồi!

Anh quắc mắt lên, quyết định dứt khoát:
- Các đại đội trưởng và chính trị viên lên gặp tôi. Đồng chí Bái, trung đội trưởng thay đồng chí Xoa đại đội trưởng.
Chính trị viên và đại đội trưởng đại đội 5, đại đội 6, đại đội 7, Bái và trung đội trưởng trinh sát, trung đội trưởng thông tin chạy tới. Nét mặt người nào cũng tái đi vì đau đớn và căm thù.
- Các đồng chí!- Đôi mắt Đóm mở to, giọng nói nhanh, hơi lắp bắp của anh thường ngày, hôm nay bỗng chậm lại, rõ ràng từng chữ, từng câu:
- Các đồng chí! - Tiểu đoàn có mười tử sĩ, ba mươi thương binh, một nữa bị thương nặng. Số còn lại chiến đấu được là bốn mươi lăm. Nhiệm vụ của tiểu đoàn phải ra cầu Gia Liêu. Từ đây ra đó còn hơn cây số nữa. Địch đã đổ quân đàng sau và bên trái của chúng ta. Sau dọn bãi, trực thăng sẽ đổ bọn dù xuống. Tình hình khó khăn và khẩn cấp, tôi quyết định đồng chí Bái dẫn trung đội 1 của đại đội 8 ra ngay cầu Gia Liêu đánh phục kích. Còn các đại đội ngay bây giờ gom thương binh về chỗ kia- Đóm chỉ về phía bắc vườn cây ăn quả- Ở đó đã có sẵn một số hầm. Đồng chí Xoa, đồng  chí Hai phục trách bộ phận đó. Số còn lại của các đại đội chia thành các hướng: Đại đội 7 bố trí thành bốn hầm chiến đấu đông vườn cây; Đại đội 8 bốn hầm tây vườn cây, đại đội 6 bốn hầm nam vườn cây. Hầm tiểu đoàn, trợ chiến, thông tin ở gần chỗ thương binh. Mỗi đại đội đào trận địa thành hình tam giác, đội hình tiểu đoàn thành hình chữ nhật lệch. Sau một giờ phải có ngay một nữa công sự chiến đấu, số còn lại phải làm tiếp. Tiểu đội trinh sát cho ba tổ theo 3 hướng nam-tây –đông đi nắm địch, cố gắng bắt liên lạc với tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 9. PRC25 liên lạc ngay với trung đoàn báo cáo tình hình và xin chỉ thị. Số còn lại chôn cất mười đồng chí hy sinh.

Đóm nói suốt một hơi không ngập ngừng, không ngắt quãng. Anh dừng lại, đưa đôi mắt tròn nhìn vào đáy mắt từng người  đứng trước mặt. anh nói tiếp, giọng trầm rắn rỏi:
- Các đồng chí, tiểu đoàn ta có truyền thống chiến đấu độc lập. Một trăm ngày một mình ở đông đường 13 năm 1972, nữa tháng một mình thọc sâu xuống Tân Phú Trung cuối năm 1972. Rất ác liệt, có hy sinh, nhưng lần nào tiểu đoàn cũng hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. lần này cũng vậy, chúng ta sẽ tụ ở đây, đánh địch, bảo vệ thương binh. Trong khi chưa liên lạc được với hai tiểu đoàn bạn và trung đoàn, chưa giải quyết được thương binh thì đây là trận địa cố thủ. Các đồng chí nói cho anh em rõ điều đó. Phải dựa vào nhau mà chiến đấu, đoàn kết với  nhau mà chiến đấu. Sống cùng sống, chết cùng chết. Chúng ta phải tỏ cho kẻ thù biết chúng ta là chiến sĩ của một trung đoàn anh hùng- Trung đoàn Lô Giang. Các đồng chí có ý kiến gì không?
- Nhất trí!
Tiếng hô của các cán bộ rập một tiếng. Nét mặt người nào cũng đanh lại, quyết liệt, căng thẳng.
- Triển khai ngay kế hoạch
Các cán bộ chạy về đơn vị. Đóm và một liên lạc rảo quanh khu vực vườn cây ăn quả. Đóm phát hiện ba phía vườn đều có hàng rào, đoạn bằng cây, đoạn bằng dây thép gai, loại rào giữ trâu bò và thú rừng, còn những chiếc hầm có sẵn là kiểu hầm của đội công tác cơ sở. Anh dự kiến các tình huống chiến đấu, phác kế hoạch hiệp đồng, rồi gọi cán bộ đại đội tới hiệp đồng ngay trên thực địa.
Trong khi Đóm hiệp đồng chiến đấu thì ở ven đường 1, bắc chi khu Tân Phong, trên bãi đất trống bắc rừng cao su, nơi tiểu đoàn đứng chân, tốp trực thăng 15 chiếc đã đổ lữ dù 1 xuống đất trong khói đại bác và khói bom đen đặc cả dải rừng. Hiệp đồng xong, Đóm chạy tới ngay khu vực thương binh. Xoa và Hai đã chia ba mươi thương binh ra làm hai loại. Loại nặng có mười hai đồng chí ở hai hầm phía trong, loại vừa và nhẹ có mười tám đồng chí ở 8 hầm phía ngoài, trong đó 8 đồng chí còn cầm súng được ở 3 hầm ngoài cùng. Xoa bị thương ở chân, ở với số thương binh nặng, Hai bị thương ở vai, ở với số thương binh nhẹ. Đóm đến chỗ thương binh nặng trước, anh cắn môi lại. Mười hai anh em, người mất tay, người mất chân, người trúng ngực, người trúng bụng, các y tá đang cấp cứu cho anh em. Anh em cắn răng lại để khỏi bật ra tiếng kêu. Đóm cuối xuống mặt Hoà, anh đặt tay lên ngực. Hoà từ từ mở mắt, nhìn thấy Đóm, Hà gật đầu, máy môi. Đóm cuối sát xuống, Hoà tìm tay Đóm, nắm chặt. Tiếng Hoà nhỏ, sau to dần:
- Đóm, tao….tao bị thương nặng…tao không sống được đâu…để thuốc, để băng cho anh em, đừng cứu tao nữa vô ích, tao biết,…tao…tao tiếc tao chết sớm quá…Giá như tao được vào Sài Gòn. Hoà thở mạnh, máu trên ngực ứa ra, Hoà nhăn mặt, lặng đi một lúc, rồi lại mở mắt ra nhìn Đóm:
- Sau Xuân Lộc thì vào Sài Gòn…tao tin như thế…Tao vào chiến trường mươi năm rồi…Tao không được vào Sài Gòn cùng anh em…Tao còn có mẹ…..mười năm rồi tao chỉ viết có hai lá thư…chắc mẹ tao giận lắm….Giải phóng miền Nam xong, nếu mày còn sống, mày phải về nhà tao…mày nói với mẹ tao đừng buồn….mày nói rằng bao giờ tao cũng nhớ mẹ, cũng nghĩ đến mẹ…nhưng tao lười viết thư…Mày…Đóm. Tao tiếc tao chết sớm quá…Không được vào Sài Gòn…Hoà nhắm mắt lại, những câu nói cuối cùng chỉ còn là những hơi thở thều thào, Đóm vừa nghe vừa đoán.
Một giọt máu bật ra trên môi Đóm. Đóm đặt nhẹ bàn tay đầy đất và máu lên ngực Hoà rồi sửa cho Hoà nằm thẳng lại. Đóm đưa mắt cho hai chiến sĩ thông tin. Một đồng chí mở ba lô của Hoà lấy ra tấm tăng. Hai đồng chí nâng Hoà lên hầm đưa ra khu vực gần bờ suối.
Đóm nhìn anh em, anh nuốt ực một cái rồi nói:
- Các đồng chí, hãy cắn răng chịu đựng. Địch đã đổ quân, trận chiến đấu sắp sửa bắt đầu. Tất cả sự hy sinh, tất cả sự đau khổ của các đồng chí sẽ được trả thù. Chúng tôi, cả tiểu đoàn, sẽ sống chết với các đồng chí, không bao giờ bỏ các đồng chí. Mười một thương binh nặng đều nghiến răng, môi cắn chặt, mắt ráo hoảnh mở to nhìn Đóm. Anh em gật đầu.
Đóm ra hầm thương binh nhẹ, ở đây anh bắt gặp những nụ cười, những nét mặt bình thản, nét mặt thông thường của người chiến sĩ đã lâm trận, đã ngửi thấy mùi thuốc súng và mùi máu. Đóm nắm lấy tay từng người:
- Còn sức còn đánh. Các đồng chí hãy noi gương đồng đội ở đường 13 và Tân Phú Trung- Đóm nắm chặt tay lại giơ lên- Phải trả thù cho đồng đội, phải bắt bọn lính dù trả món nợ máu này.
Một chiến sĩ bắn B40 bị thương ở đầu lên tiếng, giọng rắn rỏi:
- Nhất định rồi, tiểu đoàn trưởng đừng lo, chúng tôi sẽ đánh đến viên đạn cuối cùng.
Đóm gật đầu, anh tìm Xoa và Hai phổ biến kế hoạch hiệp đồng rồi trở về hầm thông tin. Bộ đội đào xong số công sự chiến đấu quy định, anh em đang hối hả cưa cây, lấp hầm. Anh nhìn anh em, anh lắng nghe. Không có tiếng nói, chỉ có những tiếng động quen thuộc của cảnh đào trận địa hoà tan trong tiếng động cơ râm ran của từng bầy trực thăng vần vũ trên đầu. Các chiến sĩ làm như một cái máy, không ai nhìn máy bay. Phải chạy đua với địch, một phút lúc này là vàng là ngọc, là xương máu. Thấy bộ đội, Đóm thêm vững dạ. Anh ngó theo từng bầy trực thăng, rồi nhìn bao quát một lượt khắp trận địa. Bỗng Đóm bước nhanh tới trước, anh vừa thấy bóng hai chiến sĩ trinh sát ở hướng bắc đang cắt qua lô cao su chạy về. Đóm đón hai chién sĩ ngay bìa rào khu vườn:
- Sao?
Một chiến sĩ vừa thở vừa nói:
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, lính ở trảng đông lắm, chúng tôi đếm được 50 lượt chiếc, có lẽ một tiểu đoàn, toàn bọn dù. Chúng đổ vào sau lưng tiểu đoàn mình. Chúng đang chuẩn bị tiến về hướng bắc.
- Cách đây xa không?
- Báo cáo, hơn cây số. Đóm cau trán lại rồi nói:
- cắt vòng qua trảng móc với tiểu đoàn 7 được không?
- Báo cáo cắt thì đựơc, nhưng chúng tôi chưa biết D7 ở đâu.
- Phía bên kia trảng chừng một cây số, bên trái con đường đêm qua. Các cậu tránh địch mà đi, bắt liên lạc với D7, rồi hỏi D7 vị trí mới của trung đoàn, báo cáo ngay tình hình cho trung đoàn biết. Nhất thiết không để chạm địch đấy.
- Rõ!
Hai chiến sĩ trinh sát lại nhằm hướng cũ lao đi. Đóm vừa quay lại đã thấy tổ trinh sát thứ hai từ hướng chi khu Tân Phong chạy về, vẻ lo lắng, cậu chạy trước suýt nữa đâm sầm vào Đóm:
- Báo cáo, một tiểu đoàn dù chia thành ba mũi đang từ đường cắt thẳng vào đây.
- Xa không?
- Báo cáo anh, khoảng 500 thước.
- Được rồi, về vị trí đi, đằng kia.
Đóm chạy xuống đại đội 6, rồi sang đại đội 7. Bộ đội dẹp ngay cây chưa lấp, lấy lá rải ủ lên nóc hầm nguỵ trang, năm phút sau không còn ai trên mặt đất. Đóm là người cuối cùng từ hầm các đại đội chạy về hầm chỉ huy, tới hầm nào anh cũng gọi xuống:
- Đánh gần, thật gần, thật mãnh liệt, thật chính xác.
- Rõ!
Các chiến sĩ miệng đáp lại anh, tay vẫn tranh thủ moi thêm hầm cho thật sâu, hoặc đắp thêm gờ đất trước cửa hầm, một vài chiến sĩ bò lên tiếp tục nguỵ trang.
Đóm về đến hầm, cậu chiến sĩ bộ đàm mở đôi tai nghe quay lại:
- Báo cáo anh Đóm, trung đoàn đã nhận được báo cáo. Trung đoàn ra lệnh bộ phận ở cầu Gia Liêu đánh một trận thì rút về, sẽ giao khu vực đó cho pháo binh. Trung đoàn thông báo, bọn địch đã đổ cả lữ dù xuống khu vực trung đoàn chiến đấu. Trung đoàn bảo báo ngay toạ độ đứng chân để có kế hoạch với pháo binh. Bảo vệ triệt để thương binh, chờ tối bắt liên lạc về.
Đóm giở bản đồ tìm toạ độ, rồi ngửng đầu nhìn cậu chiến sĩ bộ đàm:
- Dịch đi – Đóm đọc toạ độ và nói tiếp – Báo cáo, một tiểu đoàn dù đang từ hướng chi khu Tân Phong đang cắt thẳng vào trận địa của tiểu đoàn, có ba mũi. Pháo địch bắt đầu bắn cách 500 thước – Pháo địch đang bắt đầu bắn từng loạt tiến dần lên. Đóm vừa quan sát đạn pháo vừa nói tiếp – Pháo Tân Phong thêm một cụm nữa, chắc pháo của lữ dù. Tiểu đoàn đã sẵn sàng chiến đấu, khó nhất là thương binh.
Cậu chiến sĩ bộ đàm nói bằng tiếng mật, thỉnh thoảng cậu ta nhăn mặt, lắng tai, nhiều đài của địch, của ta đang nói, máy rất rè.
 Pháo nổ cách trận điạ 100 thước. Bọn địch bắn thành từng màn, khoảng 15-20 viên cùng nổ một lần.
Đóm đứng ở cửa hầm, mắt nhìn ra phía pháo nổ, miệng ghé vào điện thoại:
- A lô! 6 đâu? 7 đâu? Sãn sàng cả chưa? Nhớ hướng nào có  địch thì hướng đó đánh, tuyệt đối không nổ súng khi hướng mình không có địch. Giữ bí mật  tận điạ giờ nào hay giờ đó. Nhớ tiết kiệm đạn, đánh thật gần để lấy súng đạn địch mà đánh. Nghe rõ cả không? Rõ à! Nhớ vận dụng kinh nghiệm chốt chặn năm 1972.
 Đóm vừa nói xong thì màn đạn pháo nổ ngay hàng rào, rồi vào khu vực của đại đội 6 và đại đội 7. Đóm mong đừng có hầm nào trúng pháo, dù bọn địch đang bắn pháo nổ thông thường sát thương trên mặt đất. Loạt nữa trúng vào giữa khoảng trống của các đại đội. Đóm đợi lạot tiếp theo chụp trúng đầu mình. Tiếng đạn pháo nghe nhỏ và sắc như xé lụa. May quá, màn đạn pháo vọt qua hầm thương binh nổ ngay suối Gia Liêu – Đóm lại đứng thẳng ở cửa hầm, qua màn khói bắt đầu loãng dần, anh nhìn thấy chừng một đại đội dù đang tiến theo hình bật thang vào hướng C7. Đóm ghé vào điện thoại, giọng anh nhỏ hơn:
-Bảy đâu? Chú ý! Bọn chó đã vào trước mặt các anh đó, thấy không? Thấy rồi à? Để cho nó vào sát hàng rào nghe không? Cho nó ùn đội hình lại rồi hãy đánh. Mục tiêu động đặc thì cho một trái B40, mục tiêu vừa thì M79, còn thì đạn nhọn hiểu không? Sáu đâu? Tăng cường quan sát phía trước, có thể có một mũi thứ hai, chú ý, bọn dù sở trường bao vây đấy, một mũi nổi, một mũi chìm.

Đóm quên hết khó khăn, anh trở lại bình thường như những trận trước. Anh rất vừa ý khu vực cố thủ này, thật may có lớp hàng rào, nhưng rồi sẽ ăn pháo nhiều đây, làm sao được, đánh bám trụ là ăn pháo, xưa nay vậy rồi. trung đội đi đầu của địch chỉ còn cách hàng rào năm chục thước. Bọn dù nằm cả xuống, chúng bắt đầu bò.
- Khó rồi! Đóm lẩm bẩm – Chao, nếu mấy quả mìn định hướng không rơi xuống suối thì chúng mày chết.
Mấy tên bò trước đã tới hàng rào, chúng nằm lại quan sát. Trận địa im lặng, đạn pháo nổ xa về phía sau. Đóm thấy một thằng đứng lên nhìn vào trong hàng rào, rồi khoát tay về phía sau, ba thằng mang M79 chạy tới ép người vào hàng rào, tiếp theo hai khẩu đại liên đuôi cá, rồi cả trung đội thứ nhất bò lên.
- Khoan đã! Đóm nói vào máy - Chờ cho đâm thẳng vào trong rào đã. Mình đang cầm M79.
Bỗng phía đại đội 6 súng nổ gắt, có cả B40
- Cánh chìm – Đóm nói khẽ rồi buông máy quan sát. Phía đại đội 7 súng cũng nổ.
Súng nổ ran từ hai  phía, phía ta và địch suốt năm phút rồi im bặt. Đóm hiểu, đúng là bọn dù vẫn không thay đổi cách đánh, chạm súng, nổ thật dữ dội rồi im. Đóm quay về phía đại đội 8 ghé sát miệng vào máy:
- Sẵn sàng đị! Nhớ cách đánh của bọn dù chưa?
- Rõ! Sẵn sàng!
Mũi nổi, mũi chìm đều nổ súng rồi, còn mũi bao vây vu hồi. Cách đánh của bọn dù là như vậy. Không đón chúng sẵn thì dễ bị động từ đầu. Quả Đóm không chờ đợi lâu. Chính trị viên phó đại đội 8 báo cáo đã phát hiện một đại đội địch đang tiến rất nhanh vào chính diện đại đội. Đóm ra lệnh:
- Để chúng vào thật gần, bọn này quen ăn đấy!
Ở phía đại đội 8 có một khẩu đại liên. Đóm tin lắm. Đóm chưa kịp nói thêm thì khẩu đại liên đã dõng dạt tuôn một tràng dài. Đóm xoè hai bàn tay ra chùi mạnh vào quần, rồi cầm ống nói:
- Báo cáo đi! 6, 7!
Tai nghe, nhưng mắt Đóm vẫn nhìn về phía địch.
- Tốt! Ba mươi thằng chết và bị thương à? Chưa bằng số anh em mình bị sáng nay. Sẵn sàng đánh tiếp đi. Hai bên hiểu nhau rồi đấy. Có thời cơ thì lên lấy súng, nhớ không để tụi nó lấy xác, nó lấy được xác là ăn pháo đấy.

Bên phía đại đội 8 ngon hơn cả. Bọn dù quen thói chạy xốc tớí rất đông đã bị cây đại liên, năm cây AK, một B40 phạt ngang sườn. Mấy chục thằng đâm sầm mặt xuống đất cùng một chiều, chết không giẫy được.
Bọn dù chừng như đã hiểu được đối phương. Chúng im lặng rất lâu. Đóm gọi vào máy:
- 6 đâu? 7 đâu? 8 đâu? Theo dõi chặt, chúng nó triển khai bao vây đánh lấn đấy. Phổ biến cho anh em biết, thay đổi cách đánh đi.
Quả là bọn dù đang triển khai rộng ra và bắt đầu đào hầm. đào hầm xong, chúng sẽ dập pháo rồi cùng một lúc đột nhiều hướng, nhiều mũi. Đóm sực nhớ tới trung đội của Bái ở cầu Gia Liêu. Đóm gọi một cậu chiến sĩ thông tin từ hầm bên cạnh sang giao nhiệm vụ. Cậu thông tin bò lên hầm, tụt xuống suối Gia Liêu, men theo bờ suối đi về phía cầu.

Ở sở chỉ huy trung đoàn 209, trung đoàn trưởng Nhạn và chính uỷ Nghinh đang chăm chú nhìn trưởng ban tác chiến lên sơ đồ địch và ta. Theo báo cáo của các tiểu đoàn, của đại đội trinh sát. Khi những ký hiệu màu xanh, màu đỏ hiên lên đầy đủ, trung đoàn trưởng Nhạn đập tay xuống chiếc bàn tre dã chiến kêu lên:
- Bỏ mẹ! Thế là cài chặt vào nhau rồi! Xem lại có đúng với toạ độ các tiểu đoàn đang đứng chân không?
Trưởng ban tác chiến giở sỏ nhật ký chiến đấu đối chiếu toạ độ các tiểu đoàn báo cáo với toạ độ trên bản đồ, anh ngẩng đầu nhìn trung đoàn trưởng:
- Báo cáo rất đúng. Xen kẽ là phải, vì tiểu đoàn 8 không đến được trận địa quy định, nên một tiểu đoàn dù đã lọt vào giữa nơi tiếp giáp của tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn 7.
- Như vậy có nghĩa là tiểu đoàn 8 đã bị hai tiểu đoàn dù chia cắt, còn  tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 9 lại bao vây vòng ngoài của cả ba tiểu đoàn dù?

- Vâng! Đúng như thế.
Trung đoàn trưởng Nhạn đặt một ngón tay lên mũi, khuôn mặt dài ra, đôi long mày giao lại. Anh hỏi chính uỷ Nghinh:
- Anh tính nên xử trí thế nào?
Chính uỷ Nghinh vân vê hai ngón tay. Anh hình dung ra toàn cảnh tiểu đoàn 8 và những khó khăn anh em đang gặp. Nếu không có thương binh, thì với 45 tay súng đó. Đóm có  thể tổ chức cho tiểu đoàn đánh tốt.
Nghinh nhìn Nhạn:
- Vấn đề là tìm cách giải quyết số thương binh. Anh báo cáo lên sư đoàn đi, đề nghị pháo binh tăng cường chi viện, giảm đến mức thấp nhất sức tấn công của bọn dù vào tiểu đoàn 8. Đưa thương binh ra, đem gạo sấy và đạn vào. Mặc khác có kế hoạch cho tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 9 đánh bật đi một hướng, khôi phục lại nơi tiếp giáp bọn dù chen vào. Phải tiến hành ngay trong đêm nay khi bọn dù chưa phát hiện được tình hình.
-Nhạn nhìn trưởng ban tác chiến:
- Ý kiến đồng chí thế nào?
Trưởng ban tác chiến đặt chiếc bút chì mỡ xuống bàn, anh nói:
-Tình hình này diến ra giống như mặt trận đường 13 năm 1972, mình chia cắt nó, nó chia cắt mình thành một vòng tròn lớn. Bọn dù đã có kinh nghiệm, chúng sẽ đem số quân đông rải thật dày, bao vây chặt, dùng hoả lực đánh liên tục, diệt từng hầm. Chỉ có cách không ngừng ép nó, cả đêm lẫn ngày. Tổ chức một mũi thật bén đánh thẳng vào nơi tiếp giáp, nới rộng vòng cung của chúng nó ra. Tôi thấy nên lệnh tiểu đoàn 8 cho trinh sát cắt đường về hướng tây, có thể cắt vào sát khu vực nam sân bay rồi quặt trở lại hướng bắc. Chắc bọn dù chưa vượt qua suối Gia Liêu vì theo tin mới nhận được của tiểu đoàn 8, bọn dù đã bị chặn lại cách suối Gia Liêu 500 thước. Chúng đang đào hầm sau ba đợt tấn công bị đánh lui.
-Trung đoàn trưởng Nhạn gật đầu:
-Tôi tán thành ý kiến các anh. Triệu tập ngay các đầu ngành đến họp, mọi việc phải triển khai xong trước 16 giờ.
Trưởng ban tác chiến quay vụt ra ngoài hầm gọi truyền đạt, trung đoàn trưởng Nhạn xuống hầm gọi điện thoại, chính uỷ Nghinh lật sổ ghi các việc vừa bàn. Thỉnh thoảng anh dừng bút, lắng nghe tiếng súng lúc rộ lên , lúc im lặng ở hướng tiểu đoàn 8. Trên gương mặt anh cả niềm tin và nỗi lo cùng xuất hiện. Những vệt nhăn trên trán lúc hằn sâu, lúc mờ đi, nó biểu hiện những suy nghĩ đang dồn dập trong đầu anh.

VII

Ngày 15 tháng 4, Lê Minh Đảo, tư lệnh sư đoàn 18, tư lệnh mặt trận Xuân Lộc quyết định dời sở chỉ huy sư đoàn lần thứ hai lên bắc chi khu Tân Phong một cây số trong một vườn cây ăn trái. Lần thứ nhất, Đảo ra lệnh rời chỉ huy sở là 9 giờ ngày 9 tháng 4 khi trận pháo bắn dữ dội của đối phương vào thị xã chấm dứt, bộ binh và xe tăng bắt đầu tấn công. Đảo không muốn dẫm lên vết chân và lặp lại số phận của Lê Văn Hưng, tư lệnh sư đoàn 5, Trần Văn Nhật, tỉnh trưởng tỉnh Bình Long mắc kẹt ở thị xã An Lộc, của Lý Tòng Bá- Tư lệnh của sư đoàn 23 mắc kẹt ở thị xã Công Tum trong trận tấn công lớn của Cộng sản mùa xuân năm 1972. Lúc thoát được hiểm nghèo thì các ông bạn đó, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm, chỉ còn là một cái xác.
Lê Minh Đảo không muốn mình kẹt lại trong thị xã Xuân Lộc, hắn lấy cớ"bộ thần kinh của mặt trận" phải được yên tĩnh ngoài tầm pháo để lo nghĩ kế hoạch đối phó, nên mới 9 giờ sáng, hắn đã nhảy ra chi khu Tân Phong. Đúng là ở hướng đó pháo của đối phương ít bắn, cũng không phải là hướng chính của đối  phương, không có dấu hiệu gì tỏ rõ có xe tăng hoạt động. Ba hôm nay mặt trận thị xã gần như yên tĩnh, pháo vẫn bắn đều đều, nhưng bộ binh và xe tăng không thấy tấn công. Đó là một điều lạ. Trong lúc Đảo đang đau đầu về sự yên tĩnh rất khả nghi đó thì ở Sài Gòn, người ta đã nhận định một cách võ đoán và làm ầm lên rằng:"Công sản đã thất bại ở Xuân Lộc", ở tận bên Mỹ, người phát ngôn của Bộ quốc phòng còn nói:"Quân đội Nam Việt Nam đang đảy lùi có hiệu quả cuộc tiến công của Cộng sản ở Xuân Lộc. Họ đã tỏ ra trội hơn và vẫn là một lực lượng chiến đấu đáng tin cậy. Lầu Năm Góc hy vọng rằng họ sẽ đánh bại được Cộng sản".
Lê Minh Đảo không sung sướng gì về những lời lẽ của những tên ngồi bàn giấy, đánh giặc miệng đó. Đảo rất bực mình khi ở Sài Gòn người ta đã cử lên đây một đoàn nhà báo và một đoàn quay phim vô tuyến truyền hình để làm cái việc "khuếch trương chiến quả". Đảo giật mình khi nhớ đến câu nói liều mạng Đảo đã buộc miệng ra với tên phóng viên hãng AP" Tôi sẽ cùng quân lính giữ thị xã này bằng bất cứ giá nào" Khuôn mặt của Đảo, hình dáng của Đảo, giọng nói hùng hồn của Đảo đến nay ai cũng thấy, ai cũng nghe. Khi nói câu nói đó, Đảo có nghĩ đến lời thề độc của Ngô Quang Trưởng"Nếu cần tôi sẽ chết trên đường phố Huế", "Tôi sẽ tử thủ ở Đà Nẵng". Nhưng vừa dứt lời Trưởng đã bỏ chạy. Đảo cố tránh những lời độc địa đó, nhưng lời hứa" Tôi sẽ cùng quân lính giữ Xuân Lộc bằng bất cứ giá nào" thì cũng em em " Sẵn sàng chết và tử thủ" của Ngô Quang Trưởng. "Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy" sách nói không sai. Đảo thấy cô độc, xung quanh không còn ai cao hơn mình, giỏi hơn mình để hỏi họ xem tại sao có sự yên tĩnh này? Nó chứa đựng những gì bên trong?. Đảo biết Cộng sản có thói quen không bao giờ nói trước, không tuyên bố một điều gì cụ thể. Họ cứ lặng le và bí mật làm những việc của họ cho đến khi tình hình nổ toé loe ra thì quân cộng hòa đã đi vào của tử.

Bài học ở Cao Nguyên trung phần còn nóng lắm. Từ sáng ngày 12 tháng 4, khi lữ đoàn dù đến đây, Đảo rất mừng, Đảo có thêm trong tay lực lượng đáng kế. Ở phía nam lữ 3 kỵ binh và chiến đoàn 8 cũng đồng thời theo đường 1 đánh lên Dầu Dây, phối hợp với lữ dù ở hướng đông bắc thành hai gọng kìm trục Cộng sản ra khỏi Xuân Lộc. Nhưng đã ba ngày nay, hơn ba ngàn quân dù đã phải nằm bẹp dưới hầm, trung đoàn 209 của công trường 7 đã vây chặt “Anh Hai” lại rồi. Tuy lữ dù có vây được một tiểu đoàn Cộng sản nhưng chính dù lại cũng bị bao vây. Đã ba ngày Đảo ra lệnh cho dù phá vây, nhưng không phá được. Cái bẫy Cộng sản giăng ra đón dù đã sập xuống. Đảo rùng mình nhớ tới cuộc chiến đấu ở An Lộc, ở đường 13 năm 1972 khi Cộng sản cài sư 18 vào thế xen kẽ, chui rúc dưới đất. Lực lượng cứu hoả của Đảo cũng đang chết dần chết mòn vì lối đánh của Cộng sản thôi. Mấy ngày nay chi khu Tân Phong bị pháo kích liên tục, Cộng sản có vẻ như đang chuẩn bị tấn công vào khu vực này. Vì vậy Đảo phải nhảy ra xa một cây số nữa. Vạn nhất điểm bất hạnh cuối cùng có xảy ra, Đảo vẫn còn ngã đường số 2 để tẩu về Sài Gòn, dù phải lội bộ và cắt rừng.
Lê Minh Đảo  đến sở chỉ huy mới chưa được một giờ thì  nhận đựơc tin tiểu đoàn 3 chiến đoàn 52 đóng ở đồi Móng ngựa đối diện với núi Sóc Lu trên đường 20 bị tấn công mạnh. Đảo giật mình, lật ngay bản đồ ra, hai tay chống xuống bàn. Đảo nhìn chăm chăm vào quãng đường 20 khoảng gần ngã ba Dầu Dây. Mặt  trận này im lặng suốt một tuần nay. Nhìn lên đó Đảo đã đánh một dấu hỏi lớn. Bây giờ thì dấu hỏi tròn vo như con đĩa ấy đã dãn ra. Cộng sản mở mặt trận Kiệm Tân trong khi lữ dù nằm chết tại chỗ, chiến đoàn 8 và lữ 3 thiết giáp không nhích đựơc một bước. Một ý nghĩ loé lên làm cho khuôn mặt đỏ gay của Đảo nhợt ra. Đảo quay lại giằng lấy máy vô tuyến điện, chụp ống nghe vào tai. Đảo hét vào máy:
- Gọi đại tá Dũng tới nói chuyện với tôi!



"Anh Hai": Là cách gọi của bọn ngụy đối với lính dù

Đảo chờ một lúc, rồi hỏi:
- Anh Dũng đâu? Anh Dũng phải không? Anh nói rõ xem lực lượng tấn công là lực lượng nào? Có đông không? Không rõ à? Tại sao không rõ? Chúng nó mặc toàn quần áo chính quy à? Phải nắm ngay xem chúng là lực lượng nào? Ba trung đoàn của sư 7 đang ở Xuân Lộc, ba trung đoàn của sư 1 cũng đang ở Xuân Lộc, hai trung đoàn của sư 6 đang ở đường số 1. Vậy chúng là lực lượng nào? Anh phải tăng thêm quân cho đồi Móng Ngựa ngay, mất nó là anh chết đấy. Đảo bỏ máy, ngồi phịch xuống ghế. lẩm bẩm:
- Mãi đến hôm nay Cộng sản mới tung lực lượng dự bị, lại tung vào mặt trận Kiệm Tân chứ không phải thị xã. Thật không ngờ đựơc - đảo vò đầu, thở dài - Lấy đâu ra lực lượng đi cứu chiến đoàn 52 đây?
Đảo đứng bật dậy, đi đi lại lại, mặt hầm hầm, tay chắp sau lưng, thỉnh thoảng đứng sững lại nhìn thẳng vào mặt tên lính điện đài.
- Có tin gì mới không?
- Dạ thưa chuẩn tướng! Chưa có!
- Hỏi xem họ đang làm gì?
- Dạ thưa vừa hỏi xong, họ đang bị đánh rất mạnh.
Đảo quay sang một cái máy khác:
- Điện ngay cho tướng Toàn tình hình mặt trận Kiệm Tân. Xin không lực và pháo binh yểm trợ tối đa.
Tên lính điện đài chụp ống nghe vào tai, mặt cuối gầm vào bản mật mã dịch điện.
Mười hai giờ, Đảo nhận được tin đồi Móng Ngựa thất thủ, chi khu Kiệm Tân thất thủ, các đồn bốt từ Kiệm Tân đến ấp Nguyễn Thái Học đã di tản hết. Đảo chưa biết làm thế nào thì tên lính điện đài đã ôm máy tới trước mặt Đảo:
- Thưa chuẩn tướng! Đại tá Dũng xin nói chuyện trực tiếp với chuẩn tướng.
Đảo tái mặt, linh cảm điều chẳng lành đang xảy ra:
- Tôi đây! Anh nói đi. Sao? Chính anh cũng đang bị tấn công à? Một cánh quân chừng một trung đoàn bất thần từ hướng ngã ba Dầu Dây đánh lên đúng lúc trung đoàn hướng chính diện chiếm đồi Móng Ngựa phải không? Đảo nhăn mặt, tay ép chặt thêm ống nghe vào tai. Nghe xong, Đảo đấm tay xuống bàn, hét oang oang:
- Xe pháo bị phá mặc kệ, kho xăng, kho đạn cháy mặc kệ. Anh phải cố thủ đến cùng. Tôi đã xin tướng Toàn cho không quân yểm trợ cho anh. Anh phải biết rằng mất đoạn đường đó thì Cộng sản sẽ không thèm đánh vào Xuân Lộc nữa. Chúng sẽ đánh thẳng vào Biên Hoà - Đảo bỗng dịu giọng – Ráng giữ nghe anh Dũng, tôi sẽ trình tổng thống ghi công cho anh.
Đảo bỏ máy, thở dốc ra, ôm lấy đầu, rồi bỗng đứng phắt dậy ra lệnh:
- Trình lên tướng Toàn tình hình mới nhất ở Kiệm Tân. Đề nghị tướng Toàn ra lệnh cho tướng Khôi thúc lữ 3 thiết giáp đánh mạnh lên Dầu Dây cứu chiến đoàn 52.
Ra lệnh xong, Đảo quay lại tấm bản đồ. Lực lượng đánh Móng Ngựa và chi khu Kiệm Tân là lực lượng nào? Chẳng lẽ Cộng sản từ Tây Nguyên đã theo đường 21 và đường 20 vào tới đây sao? Lực lượng từ phía Dầu Dây đánh thốc lên là lực lượng nào? Chẳng lẽ Cộng sản bỏ chốt ở đèo Mẹ Bồng Con đánh lên? Tụi nó bỏ đường 1 à? Đảo quay sang tên lính điện đài thứ ba:
- Hỏi núi Thị xem đèo Mẹ Bồng Con còn địch không?
Tên lính vô tuyến điện gọi vào máy rồi ngẩng đầu lên:
- Dạ thưa chuẩn tướng, còn địch ạ!
Đảo cau mặt:
- Còn địch? Còn địch? Vậy chúng là âm binh sao? Ra lệnh cho tiểu đoàn 2/43 mở một mũi xuống đèo Mẹ Bồng Con. Coi chừng Việt Cộng nghi binh, ra lệnh cho pháo núi Thị bắn tối đa yểm trợ cho đại tá Dũng.
Thời gian như đứng lại. Ruột gan Đảo nóng ran. Phải chăng cái bẫy mới thứ hai của Việt Cộng đã dựng lên và sập xuống?
Mười bảy giờ, tên lính vô tuyến điện lại ôm máy tới trước mặt Đảo:
- Dạ…đại tá Dũng xin gặp chuẩn tướng.
Đảo chụp nhanh ống nghe vào tai, mặt bỗng nhợt nhạt hẳn đi:
- Chúng nó chỉ còn cách chỗ anh không đầy 200 thước phải không? Không còn gì trong tay nữa à? Anh định chạy đi đâu? Cắt rừng về Bàu Hàm à? Thôi tuỳ anh. Thời thế thế thời phải thế. Chúc anh mạnh giỏi.

Đảo bỏ máy, người rũ ra. Đảo nói giọng buồn rười rượi:
- Báo cho tướng Toàn, đại tá Dũng không chống được áp lực rất mạnh của Cộng sản, đã di tản về bàu Hàm. Đề nghị quân đoàn bắt liên lạc, đưa số còn lại của chiến đoàn 52 về hậu cứ cơ bản ở Long Bình để tái bổ sung và tái trang  bị - Đảo im lặng một lúc rồi nói tiếp:
- Báo thêm với tướng Toàn, mặt trận Kiệm Tân từ giờ phút này không còn thuộc quyền chỉ huy của tôi nữa. Theo phán đoán của tôi. Cộng sản sẽ theo đường 20 tràn xuống để chọc thẳng vào Biên Hoà. Đề nghị quân đoàn sẵn sàng đối phó.
Ra lệnh xong Đảo chui vào mầm nằm lì suốt đêm.
Sáng 16 tháng 4, Đảo thức dậy với tâm trạng bồn chồn mệt mỏi, suốt đêm trằn trọc suy nghĩ. Sự yên tĩnh tạm thời ở mặt trận thị xã đã không đúng với dự đoán của Đảo”Vì thương vong lớn nên Cộng sản đang thay thế quân”. Thực ra họ nhằm lúc các đội quân ứng cứu bị kìm chặt, bị sa lầy họ đã bí mật điều chỉnh lực lượng, tung đội dự bị còn sung sức đánh vào hướng Đảo không ngờ tới. Không còn có thể chối cãi và biện bạch được. Sự thực là họ đã thành công. Và điều nguy hiểm hơn, từ nay trở đi không còn hy vọng gì nối lại đoạn đường Trảng Bom-Xuân Lộc. Trước đây còn cả chiến đoàn 52 nằm giữa đã không nối đựơc, chiến đoàn 52 mất, Cộng sản rảnh tay, họ sẽ đẩy lùi lữ 3 thiết giáp đến tận Trảng Bom, đến tận Hố Nai – Biên Hoà. Xuân Lộc hoàn toàn cô lập rồi!
Lê Minh Đảo muốn nhắc lữ 1 dù ra khỏi khu vực đông bắc chi khu Tân Phong để giữ lấy đường số 1, đề phòng một lực lượng khác của sư 7 có thể vượt đường 1 luồn về phía đông nam chi khu Tân Phong, chặn nốt đường số 2 đi Bà Rịa. Nếu tình hướng đó xảy ra - Đảo thấy có có thể xảy ra vì trung đoàn 14 của công trường 7, trung đoàn đã đánh chiếm Định Quán, chưa thấy xuất hiện ở đâu cả - Nếu tình huống đó xảy ra thì Đảo sẽ thật sự giẫm lên vết chân của Lê Văn Hưng, của Lý Tòng Bá, của Trần Văn Nhật, có thể còn tệ hại hơn họ là đằng khác. Nhưng lữ dù 1 như một con trâu đã ngập trong sình, xung quanh toàn Việt Cộng. Việt Cộng đã tăng gấp đôi hoả lực phòng không, việc tiếp tế ngày càng khó khăn. Tuy bao vây đựoc một đơn vị Việt Cộng, nhưng đánh mãi không thanh toán được họ. Trọn bốn ngày bị vây chặt, không được tiếp tế lương thực, đạn dược , nhưng họ vẫn sống, vẫn lấy được súng đạn của dù đánh lại dù. Ở đó chính là nơi dù thương vong nhiều nhất.

Cái điều kì lạ của Cộng Sản, Đảo phát hiện và chứng kiến ở mặt trận An Lộc năm 1972, nay lại thấy xuất hiện ở đây với mức cao hơn. Đảo biết họ chỉ còn vài ba chục tay súng, lại có rất nhiều thương binh, nhưng họ vẫn kháng cự rất giỏi, rất khôn ngoan. Họ trả lới tiếng gọi”Đầu hàng” bằng súng. Bom dội, pháo nghiền, họ vẫn trơ ra. Bốn ngày, bốn lần Đảo  ra lệnh tiêu diệt, nhưng cả bốn ngày Đảo chỉ nhận được con số thương vong của lính dù. Lê Minh Đảo tự hỏi: Phải chăng Cộng sản đánh Xuân Lộc nhằm mục đích kéo lực lượng phòng vệ Sài Gòn ra xa, nhử vào thế trận đã tính toán chu đáo. Quần cho rách nát đi để họ vào Sài Gòn cho dễ? Nếu quả vậy thì họ thành công rồi! Lữ dù 1 và lữ 53 thiết giáp đã tổn thất rất lớn. Hoặc họ nhằm thu hút sự chú ý của quân đoàn 3 và bộ tổng tham mưu vào hướng Xuân Lộc, để có một ý đồ gì đó ở mặt trận bắc và tây bắc Sài Gòn? Hai mặt  trận ấy vẫn cứ im lặng. Sự im lặng đáng lo, đáng sợ biết chừng nào. Các quân đoàn của Cộng sản ở phía bắc bây giờ ở đâu? Sư đoàn 9 của Việt Cộng đang ở đâu? Càng nghĩ càng rối. Lê Minh Đảo cảm thấy ngày rất dài. Mặt trận thị xã thêm một ngày yên tĩnh. Đảo không vui sướng gì về sự yên tĩnh đó. Đảo muốn ra lệnh, muốn điều chỉnh lại lực lượng, muốn có trong tay mấy tiểu đoàn cơ động nhưng không có. Tất cả đều bị gài chặt. Đảo biết có nhiều việc phải làm, nhưng lại không biết làm việc gì cả. Đảo ngồi trước tấm bản đồ, im lặng, trầm ngâm.
Bỗng Huỳnh Thao Lược, đại tá, tham mưu trưởng sư đoàn từ ngời lật đật bước vào đặt trước mặt Đảo một bản tin ngắn. Đảo vồ lấy bản tin đọc rất nhanh” Lữ 3 thiết giáp và chiến đoàn 8 sư 5 bị đẩy lùi đến tận Trảng Bom. Đã phát hiện thấy từng tốp nhỏ Cộng Sản liên tục thâm nhập về hướng Biên Hoà” “Mặt trận Phan Rang vỡ 12 giờ trưa nay. Đã mất liên lạc hoàn toàn với trung tướng Nghi, tư lệnh bộ chỉ huy tiền phương và chuẩn tướng Sang, tư lệnh sư đoàn 6 không quân. Phát hiện thấy nhiều xe tăng, bộ binh cơ giới của Cộng sản bất chấp máy bay liên tục oanh tạc, đã tiến rất nhanh theo đường số 1 vào hướng nam. 16 giờ chiều nay họ đã tới Cà Ná, giáp giới tỉnh Bình Thuận. Với tốc độ tiến quân đó, nội ngày mai 17 tháng 4, tỉnh Bình Thuận và thị xã Phan Thiết sẽ bị trực tiếp uy hiếp: “ Không quân phát hiện thấy trên đường 14 Buôn Mê Thuộc-Phước Long-Đồng Xoài, Buôn Mê Thuộc-Đường 21 kéo dài- Đường 20, xe tăng và bộ binh cơ giới Cộng sản hành quân suốt ngày đêm vào hướng nam”
Lê Minh Đảo ngửng đầu, mặt tái hẳn đi. Đảo nhìn Huỳnh Thao Lược với cặp mắt ngơ ngác, bối rối:
- Tin ở đâu?
- Tin của trinh sát không quân. Tôi vẫn giữ liên lạc thường xuyên với tụi nó.
- đã ai biết tin này chưa?
- Chỉ tôi và thằng vô tuyến điện
- Anh tính sao? Đảo đứng dậy – Bao giờ thì họ vô Phan Thiết? Bao giờ thì họ vô Hàm Tân hả? Họp ngay tối nay.
Đảo ngẩng mặt lên nhìn trời. Trên đầu hắn bóng tối đang tỏa xuống mỗi lúc một dày và nặng.

IX

Bộ đội đào xong công sự thì đã ba giờ sáng. Đi kiểm tra, động viên anh em hết các hầm, tiểu đoàn trưởng Đóm trở về hầm của mình. Anh rất mệt nhưng anh không muốn xuống hầm. Anh không hiểu giờ này, đêm nay, tại sao bọn địch lại không bắn pháo. Đêm thật yên tĩnh, mùi thuốc đạn, mùi máu, mùi xác chết của bọn lính dù phía ngoài hàng rào cũng bị gió đưa đi đâu rồi. Anh thở từng hơi thật sâu, thật mạnh. Anh cảm thấy thèm đến cháy phổi cái không khí trong lành hiếm hoi này. Cuộc chiến đấu trong vòng vây của tiểu đoàn  sắp sửa bước sang ngày thứ sáu, năm ngày qua dài bằng năm tháng. Năm ngày là năm ngày đánh nhau liên tục, hết ngày sang đêm, hết đêm sang ngày. Bảy mươi tám đợt tấn công cả thảy, lúc một trung đội, lúc một đại đội, lúc hai tiểu đoàn, nhưng bọn dù chưa chiếm được một hầm nào cả. Tên lính dù chết gần  nhất cách hầm chỉ có ba mét. Đó là một thằng dù đã lớn tuổi, mặt có những vết chàm ngang dọc, cằm đầy râu, da sần sùi như một thằng bị bệnh hủi. Ban đêm hắn bò vào để ném lựu đạn, hắn mang theo một khẩu M79, một khẩu M16 và một túi lựu đạn 30 quả. Hắn định lọt vào một hố pháo cách hầm có ba thước. Chắc ban ngày hắn đã để ý. hắn định nằm dưới đó, lẳng hết 30 trái lựu đạn vào các cửa hầm, rồi gọi đồng bọn núp ngoài hàng rào nhào vô, nhưng hắn vừa bò tới mép hố pháo thì bị một phát AK trúng ngực. Một chiến sĩ đã theo dõi sát mọi hành động của hắn từ lúc trời còn sáng và đã cho hắn một viên kẹo đồng. Hắn nằm như vậy và chết luôn. Hai khẩu súng đan chéo trên lưng hắn, còn túi lựu đạn thì tuột dây kéo chúi đầu hắn xuống. hai chiến sĩ của đại đội 7 lập tức bò lên lột hết vũ khí của hắn đem về hầm. Bọn dù cay cú, mọi mánh khoé chúng đã dùng hết nhưng không làm sao nhào vô được.
Cái hầm có ba ngách của Đóm đặt ba khẩu hoả lực, ngách phải cối 28, ngách giữa đại liên, ngách trái cối 60 ly. Các pháo thủ, xạ thủ bị thương hết, Đóm vừa chỉ huy các đại đội vừa bắn cối, bắn đại liên chi viện cho cả ba mặt. ba hướng.
Mấy ngày đầu đội hình địch còn xa, địch ném bom và bắn pháo liên tục, nhưng bom pháo không huỷ diệt được. Bọn địch lại dùng cách đánh lấn bằng bộ binh và hoả lực nhỏ mang theo. Đỡ được khoản bom pháo thì phải chịu loại cối cá nhân và cối 60 ly, súng chống tăng M72 phá công sự. Nhưng rồi mặt đất, Đóm chẳng biết nói thế nào cho chính xác - Mặt đất dày, hay đúng hơn là chiều dày của mặt đất đã cứu sống đơn vị. Suốt năm ngày, thêm ba thương binh nặng hy sinh, ba hy sinh trong lúc đánh nhau, mười bị thương tiếp, ba trinh sát đi cắt đường móc hậu cứ không thấy trở lại, còn hai mươi tám tay súng, số thương binh lên tới gần bốn chục. Đóm chỉ huy, Đóm bắn hoả lực, giữa hai đợt tấn công Đóm bò xuống các hầm động viên anh em, Đóm bò hết không sót một hầm nào cho anh em thấy mặt. Thấy mặt nhau là tin, là vui, là quyết tâm được giữ vững.Suốt năm ngày, phía trong Đóm và phía ngoài trung đoàn liên lạc chặt với nhau bằng bộ đàm, hiệp đồng trong đánh ra, ngoài đánh vào nhưng không thủng. Tiểu đoàn thì không có quân để xuất kích, trung đoàn đánh bật địch khỏi mấy lô cao su, nhưng địch đông quá, chúng líp lại. Suốt năm đêm ngoài xoi vào, trong xoi  ra móc ráp với nhau nhưng chỉ gặp hai lần, nhận được gạo sấy, đạn nhọn, còn không làm sao chuyển thương binh ra được dù là một người.

Những người đi xoi, đi móc phải bò qua trận địa của lính dù. Ba ngày đầu, trong lưng còn bảy gói gạo sấy dành cả cho thương binh. Bộ đội đói, pháo bắn nhiều, mít, chuối, ổi rụng xuống, anh em bò ra đem về hầm chia nhau. Nhưng mít, chuối,ổi cũng chỉ được vài ngày. Đóm quyết định trinh sát không di xoi đường nữa mà đi tìm những thứ gì ăn được đem về nuôi anh em. Đêm xuống, trinh sát mò qua suối Gia Liêu, đến vùng gần sân bay kiếm được mít, chuối và cả sắn nữa. Đêm sau có đồng chí bị pháo bắn trúng khi đã mang trên lưng hai bòng chuối xanh. Đóm thật không ngờ khi ta giải phóng hơn một nữa miền Nam, đã tiến gần Sài Gòn như thế này mà tiểu đoàn anh lại phải nhịn đói. Ai nói rằng các trận chiến đấu thường không lặp lại giống nhau, kẻ đó nói chưa đúng. Đóm bảo các trận chiến đấu có lặp lại ở mức độ khác nhau, thường là cao hơn. Anh cũng không ngờ những trận đánh kiểu chốt chặn trong chiến dịch năm 1972 ở đường 13 một lần nữa lại diễn ra ở đây dưới hình thức vây lấn. Đầu óc chiến sĩ và cán bộ để vào từng tất đất, từng viên đạn,rình rập với kẻ địch từng cử động nhỏ. Anh thật không ngờ cái cảnh đào hầm dưới hoả lực pháo bầy ở trận địa Tầu Ô năm 1972 cũng lại diễn ra ở đây, hết bắn lại cầm xẻng, người đánh cứ đánh, người moi cứ moi, dịch dần từng chiếc hầm bị pháo khoan thụt trúng, dịch đi, dịch lại, sau năm ngày những chiếc hầm lại trở về chỗ cũ. Đóm tưởng không bao giờ phải ngồi trong hầm kèo nữa, nhưng chính  bây giờ phải làm hầm kèo để chống pháo khoan. Ngày thứ hai anh xin trung đoàn dùng hết tiểu đoàn đưa thương binh ra, rồi chiếm lĩnh trận địa khác, trung đoàn đồng ý nhưng không ra nổi. Ngày thứ ba một lần nữa anh xin ra, trung đoàn cũng đồng ý, đã tổ chức đánh nghi binh, nhưng cũng lại không ra nổi. Bọn lữ dù muốn giữ chân anh lại, cũng như trung đoàn đã giữ chân tụi nó lại. Chiến đấu có những trường hợp éo le và buồn tình như vậy đó. Ngày thứ tư anh huỷ bỏ ý định rút ra và quyết tâm trụ lại, thương binh ngày càng tăng, đánh để bảo vệ thương binh là chính. Được cái suốt năm ngày năm đêm, trung đoàn vẫn giữ liên lạc chặt chẽ với anh bằng vô tuyến điện, Pháo đã bắn tốt theo yêu cầu của anh. Nhờ vậy nên bọn dù không còn hùng hổ như hai ngày đầu nữa, chúng cũng ê ẩm rồi.

Ban đêm anh mở máy K63 bắt đài Hà Nội nghe tin tức, chưa bao giờ anh cần nghe tin tức như những ngày này. Hình như mỗi cái tin chiến thắng ở các nơi vọng tới có tác dụng làm giảm bớt sức tấn công của bọn địch ở đây, hay đúng hơn là tăng sức chiến đấu của đơn vị. Nghe tin xong, anh lại bò đi từng hầm nói lại cho anh em nghe. Đóm nhận được điện của cả sư trưởng và chính uỷ. Thủ trưởng hỏi thăm anh em, khen anh em đánh giỏi, dặn anh em bình tĩnh, cố gắng vài ngày nữa chờ bạn tới, sẵn sàng đánh phối hợp. Đóm biết không ngày nào trung đoàn không đánh bọn dù ở vòng ngoài để chia bớt gánh nặng cho anh. Anh biết pháo chi viện và yểm trợ ngày càng nhiều, đó là những việc cấp trên đã làm vì đơn vị. Đóm hiểu trong cái thế chung của mặt trận, có lúc một đơn vị nhỏ phải chịu tổn thất, phải gánh lấy gánh nặng lệch vai để các đơn vị khác giành thắng lợi một cách cao nhất. Đóm đã nói hết với anh em những điều anh biết, những điều anh nghĩ. Anh em hiểu, anh em đã thành một khối, chiến đấu bằng một mệnh lệnh suốt năm ngày đêm vừa qua. Trời gần sáng, Đóm đứng dậy xuống hầm. Cậu chiến sĩ bộ đàm đang dịch điện. Đóm dừng lại sau lưng cậu chiến sĩ, anh đọc dần từng chữ”Bạn đang trên đường xuống phía nam, trước mặt anh. Tăng cường quan sát địch. Sẵn sàng đánh phối hợp”. Cậu chiến sĩ dịch xong trao bức điện cho anh. Đóm đọc lại một lần nữa rồi quay ra phía cửa hầm:
- Phía nam là đâu? Trước mặt mình là đâu? Bạn là ai? Đóm vừa nhắc lại từng ý, vừa đặt từng câu hỏi. Tiểu đoàn 7, tiểu đoàn 9 thì không thể rời bọn dù được rồi, trung đoàn 12 đang bao vây thị xã.
- A! Còn trung đoàn 14 – Đóm kêu lên mừng rỡ - Trung đoàn 14 làm dự bị đánh vào thị xã, nhưng khi chuyển sang bao vây thì trung đoàn 14 rút ra củng cố làm nhịêm vụ dự bị tiếp. Chắc chắn trung đoàn 14 sẽ xuống. Nhưng xuống phía nam là xuống đâu? Đóm nhìn lên trời rồi nhìn cả ba hướng. Trước mặt Đóm là chi khu Tân Phong, hướng nam tức sau chi khu Tân Phong, đường số 2 đi Bà Rịa. Đóm lại kêu lên nho nhỏ:
- Đúng rồi! Xuống đường số 2, để từ đó bất ngờ đánh lên, đánh sau lưng bọn dù.
Đóm vọt lên hầm. Anh chạy xuống các đại đội. Trời đã lờ mờ sáng. Cuộc chiến đấu trong vòng vây của tiểu đoàn bước sang ngày thứ sáu.

Đóm về đến khu vực hầm thương binh thì đại bác ở Tân Phong, đại bác của dù, đại bác của núi Thị thình lình ập xuống trận địa. Bọn địch khong cần hiệu chỉnh, chúng bắn như đổ đạn. Đóm lao ra cửa hầm. Nhưng công sự gần nhất của bọn dù cũng trúng đạn pháo. Không có một tên lính dù nào cả, Đóm chợt hiểu, bọn lính dù đã lùi ra xa để tập trung pháo lại đánh rồi mới cho bộ binh lên. Đóm quan sát, nghe ngóng, phán đoán tầm đạn, chớp thời cơ, Đóm lao về hầm chỉ huy. Đang chạy bỗng Đóm nằm nhanh xuống rồi trướn nhanh tới một gốc cao su, Đóm nghiến răng lại, những viên đạn đang nhằm cỗ Đóm lao xuống. Tiếng rít xoáy vào tai sắc như dao, Đóm không nghe tiếng nổ của đạn, anh cảm thấy như có ai xốc người lên rồi ném mạnh xuóng và đấm một quả cực mạnh vào tai trái. Đóm há miệng ra, khói đạn ập vào làm Đóm tức thở. Đóm nằm im, anh mơ màng cảm thấy mình đang trôi trên một mặt sông nổi sóng rồi đột nhiên tụt xuống một cái xoáy nước. Nhưng rồi anh lại cảm thấy cái vật nặng vô hình đè lên ngực đã được nhấc đi và có cái gì giống như nước chảy trên mặt; Đóm từ từ mở mắt, anh thấy tối. Anh chớp mắt và bỗng nhìn ra khuôn mặt của cậu liên lạc.
- Em đây, anh Đóm, anh tỉnh chưa?
- Đây là đâu?
- Anh không thấy à? Hầm chỉ huy đây!
Đóm chống tay ngồi dậy, anh chợt hiểu ra. Cậu chiến sĩ liên lạc đã leo lên kéo anh xuống hầm.
Đóm khạc ra một cục máu, anh đưa tay lên chùi ngang miệng rồi hỏi:
- Sao im thế này?
- Chúng vừa bắn xong đợt thứ hai, sắp sửa đợt nữa rồi!
- Dây điện thoại có đứt không?
- Đường xuống C8 đứt rồi.

- Các đại đội có báo gì về không?
- Có, đại đội nào cũng bị hư công sự
Đóm chống tay đứng lên. Anh nhìn ra ngoài trận địa,mắt anh hoa lên. Anh không nhận ra nữa, những cây cao su còn lại đầu đã bị băm nát, bị phạt tận gốc. Đạn pháo đào bớt nốt những mảnh đất còn lành. Bọn địch bắn toàn loại đạn khoan phá công sự. Anh đang nhìn thì cậu liên lạc nắm lấy chân  kéo anh ngã sấp xuống nằm đè lên người anh, pháo đã lại bắn. Đóm vểnh tai phải lên, anh không còn phân biệt được tiếng nổ đầu nòng, tiếng rít và tiếng nổ của đạn nữa. Tất cả xoáy cuộn vào nhau rền vang như biển động. Đóm đẩy cậu liên lạc  ra, ngồi dậy bò sang ngách hầm đặt máy vô tuyến điện. Cậu chiến sĩ bộ đàm đang quì xuống ôm máy vào lòng, mặt ngoảnh ra cửa hầm. Đóm ghé vào tai cậu chiến sĩ bộ đàm:
- Xin pháo sư đoàn kiềm chế ngay các cụm pháo, báo cho họ biết địch bắn rất dữ vào trận địa.
Cậu chiến sĩ bộ đàm ôm máy, kéo cần ăng ten lên cho chìa ra cửa hầm, cậu ta vẫn đặt máy trong lòng và bắt đầu gọi.
Ba phút sau, Đóm đã nghe tiếng đạn pháo từ phía sau lưng anh phóng tới phía trước, có cả tiếng rít của pháo tầm xa 130 ly. Bọn địch có giảm bớt cường độ, nhưng chúng vẫn bắn lai rai đến tận hai giờ chiều. Đóm đoán chắc bọn bộ binh sắp sửa tấn công, anh gọi ba chiến sĩ thông tin tới ra lệnh:
- Nối dây ngay, ba cậu ba đường cho nhanh.
Ba cậu chiến sĩ thông tin bò nhanh lên hầm. Đóm cầm máy trong tay, mắt chọc qua những cành lá cao su ngổn ngang.
- Anh Đóm - Cậu liên lạc đập tay lên vai Đóm - Bọn dù bắt đầu lên, phía đại đội 6.
Đóm quay máy, đường dây đã nối xong, anh gọi:
- Sáu đâu!Bảy đâu?Tám đâu? Sẵn sàng chiến đấu. Thương vong à? Hầm sập, còn hầm nào đánh hầm đó. Súng kẹt thì đánh bằng lựu đạn. Không sao, phải tập trung đánh ngay đợt đầu tiên.
Đóm bò sang hầm để hoả lực, anh dựng cái nòng cối 60 lên. Cậu chiến sĩ liên lạc bò theo moi đạn từ trong hố ra, lắp ngòi nổ rất nhanh. Còn ba chục trái, Đóm để dành suốt năm ngày nay. Hôm nay Đóm quyết định sử dụng. Hầm sập mất một nữa, giảm một nữa tay súng, bọn dù có thể chiếm hầm.
- Kéo máy điện thoại sang đây.
Đóm đặt đuôi trái cối 60 lên miệng nòng, mắt anh chăm chăm vào hướng đại đội 8, nơi hầm bị sập nhiều. Theo anh bọn địch có thể tấn công mạnh vào hướng sườn trận địa. Cậu liên lạc quì cả hai đầu gối xuống, tựa lưng vào thành hầm, đặt ống nghe vào tai Đóm.
- Bái đâu? Bái đâu? Chú ý hướng của cậu đấy, chúng nó sẽ đánh vào đông đấy. Mình yểm hộ cho, cứ bình tĩnh. Khẩu đại liên hỏng rồi à? Được, mình sẽ dùng đại liên của tiểu đoàn, đừng lo.
Bọn dù đã lên thật. Chúng không đi khom mà bò, cả ba hướng chúng đều bò, thằng nào súng M16 cũng treo cổ, một tay cầm M72, một tay cầm lựu đạn. Trận địa hoàn toàn im lặng, không gian và mặt đất bỗng nhiên nguội lạnh và hoang vắng. Dưới những chiếc hầm lở lói, các chiến sĩ cuối lom khom, lựu đạn bày sẵn trước mặt chỉ chờ lệnh là tung ra. Bỗng từ phía sau đội hình của bọn dù có một tiếng loa điện thét lên, phá tan sự im lặng đến ghê rợn:
- Tiến lên, bọn Việt Cộng đã bị huỷ diệt rồi, vào tảo thanh đi. Giải thưởng một triệu đồng cho tiểu đoàn nào chiếm được trận địa.
Đột nhiên khắp ba mặt, tiếng bọn dù hét lên man rợ:
- Nhào dô – Xung phong – Nhào dô ô ..ô
Đóm nghiến răng, tay anh nhẹ nhàng đưa đít viên đạn cối vào nòng, miệng ghé sát vào máy:
- Khi cối tôi nổ thì cho anh em ném lựu đạn đồng loạt, ném xong bắn ngay.
Đóm ước lượng khoảng cách giữa bọn dù đang vừa hò hét vừa bò vào nhanh hơn với những chiếc hầm ngoài cùng. Anh sẽ không để cho bọn dù ném trước, bắn trước.
Đóm dướn người lên lần mữa rồi thả trái cối vào nòng. Một tiếng “tóc” nhỏ vang lên, anh bỏ viên thứ hai rồi viên thứ ba. Ba cụm khói nhỏ bất ngờ hiện lên giữa đội hình bọn dù ở cả ba hướng. Tiếp theo là một loạt tiếng nổ và khói trắng chụp xuống lớp quân dù gần nhất. Đóm thả thêm sáu trái cối nữa rồi quay sang khẩu đại liên. Anh đứng khom người rà cây đại liên từ góc đại đội 8 sang góc đại đội 6. Tiếng la hét của bọn dù chìm đi trong tiếng súng và tiếng lựu đạn. Nghe tiếng súng của anh em, Đóm hiểu được anh em đã đứng thẳng ơ cửa hầm mà bắn. Trận đánh kéo dài suốt ba mươi phút. Bọn dù ở tuyến thứ nhất đã nằm lại trước công sự chừng ba mươi thước, còn bọn ở tuyến thứ hai bị bật trở lại tuyến xuất phát.
Đóm ôm ghì khẩu đại liên còn nóng hổi, gần chục năm nay chưa trận nào đánh phản kích sướng như thế.

X


Bộ tư lệnh quân đoàn 4 nhận được tin quân đoàn bạn đã đánh chiếm tuyến đầu dải phòng ngự từ xa của địch Thành Sơn-Phan Rang, đang tiến vào thị xã Phan Thiết. Cùng một lúc với việc ra lệnh cho trung đoàn 14, lực lượng dự bị của mặt trận Xuân Lộc bí mật thọc xuống phía nam đường số 1, phía nam chi khu Tân Phong để đánh lữ dù 1 từ hướng nam lên. Tất cả mọi người ở sở chỉ huy quân đoàn, từ tư lệnh, chính uỷ đến anh chiến sĩ thông tin đều phấn khởi. Đã mấy ngày nay, ai cũng mong mặt trận phía bắc nổ súng. Mọi người đều hiểu rằng, Mỹ-Thiệu lập ra dải phòng ngự từ xa một cách vội vàng, cũng chỉ để tranh thủ thời gian củng cố các tuyến phòng ngự vòng trong, nhất là xung quanh Sài Gòn. Nhưng điều bất hạnh ập đến với Mỹ - Thiệu là mặt trận Xuân Lộc, tuyến phòng ngự cơ bản đã bị tấn công ráo riết, bị cắt ra từng mảnh. Lực lượng tổng trù bị đáng lý ra phải dốc vào xây dựng, thiết lập và củng cố tuyến Biên Hoà – Long Bình, thì Mỹ-Thiệu buộc phải ném nó lên Xuân Lộc để rồi bị thiệt hại rất nặng ở đó. Cho đến nay, ngày 18 tháng 4, tuyến Biên Hoà-Long Bình vẫn phải bỏ trống phó mặc chho bảo an, dân vệ. Phát hiện ra sự bất lực và sơ hở đó nên bộ tư lệnh quân đoàn đã ra lệnh cho các đoàn cán bộ của sư 1, sư 6, các binh chủng trinh sát, công binh tranh thủ thâm nhập Biên Hoà, chuẩn bị trước hướng sẽ phát triển. Bây giờ, khi quân đoàn bạn đang trên đường tiến vào giải phóng Phan Thiết thì mọi người nhất trí rằng, thời cơ dứt điểm hoàn toàn thị xã Xuân Lộc đã đến. Bài tính lớn đặt ra cho bộ tổng tham mưu và bộ tư lệnh quân đoàn 3 nguỷơ Xuân Lộc sẽ có đáp số cuối cùng. Mọi người đều tin rằng với đà tiến công đó, chậm nhất ngày 19 quân đoàn bạn sẽ vào Phan Thiết. Các đồng chí ấy có thể rẽ làm hai mũi, một mũi vào Xuân Lộc, một mũi rẽ xuống Hàm Tân rồi men theo bờ biển thọc tới Bà Rịa-Vũng Tàu, mở một mũi vu hồi lớn cho cả mặt trận hướng đông Sài Gòn. Như vậy quân địch còn lại trên mặt trận Xuân Lộc sẽ bị kẹp chặt giữa hai gọng kìm lớn. Thời cơ giải phóng hoàn toàn Xuân Lộc sẽ đến như thế.

Sáng ngày 18 tháng 4, quân đoàn phó Khắc Vũ, tham mưu phó quân đoàn Lê Ngọc Bì xuống sở chỉ huy sư doàn 6 ở ông Quế để tổ chức lực lượng phát triển xuống Trảng Bom. Tối 18 tháng 4, quân đoàn chỉ thị cho sư 7, sư 1, chuyển từ  bao vây sang tấn công dứt điếm thị xã vào tối ngày 20 tháng 4. Ngoài phương án tấn công, các sư đoàn cần có thêm phương án đánh địch tháo chạy: Trung đoàn 14 ở phía nam Tân Phong sẽ từ phương án tấn công sau lưng quân dù, chuyển sang phương án đánh địch tháo chạy, trung đoàn phải nhanh chóng chiếm lộ 2, sử dụng hai hình thức chiến thuật: Phục kích vận động và vận động truy kích. Bộ đội địa phương Long Khánh cũng được lệnh phục kích trên đường 2, quãng Long Giao-Đức Thạnh. Hướng truy kích chính của sư 1 là núi Thị, hướng truy kích chính của sư 7 là lộ 2.
Vào nữa đêm 18 tháng 4, tư lệnh quân đoàn Hoàng Cầm gọi điện cho sư trưởng Nam Phong. Ông vẫn thức từ chập tối đến giờ để theo dõi tình hình. Ông cầm máy, giọng chậm rãi, rõ ràng từng tiếng một:
- A lô! Nam Phong đấy à? Anh có tin gì mới nhất về trung đoàn 14 chưa? Cần phải thúc nó đi nhanh lên không thì không kịp đấy. Tôi biết nó phải đi theo đường vòng cung rất xa, phải động viên anh em thôi. Nó có thể ăn to nếu hiểu được tình hình đang diễn ra rất nhanh. Còn tiểu đoàn 8? Anh đừng cho anh em truy kích, giải quyết ngay hậu quả cho anh em, nghiên cứu bồi dưỡng vật chất cho anh em. Nó đứng mũi chịu sào, công đánh thiệt hại nặng lữ dù 1 thuộc về nó đấy – A lô, anh hiểu ý tôi không? Thôi nhé! Cố gắng lên.
Tư lệnh đặt máy, ông đứng dậy bấm đèn soi  vào bản đồ tìm vùng đông nam Xuân Lộc, ngón tay ông lần theo những con đường đá, những con đường đất, ông gang tay đo từng quãng, vừa tính toán vừa suy nghĩ, ông quay điện thoại gọi trận địa pháo tầm xa. Ông biết Lê Minh Đảo chỉ còn hướng đó để chạy về Long Bình.

Chiều 18 tháng 4, trong sở chỉ huy sư đoàn 18 trong vườn cây ăn quả, Lê Minh Đảo rối ruột rối gan vì tin thám báo mới cho biết là một lực lượng rất đông của Công sản đã vượt sang phía nam đường 1, quãng đường giữa suối Cát và ấp Bảo Toàn. Lập tức Đảo ra lệnh cho bộ tư lệnh lữ dù 1 bỏ ý  định tiêu diệt tiểu đoàn Việt Cộng bị bao vây, rút ngay 1 tiểu đoàn  về phía nam chi khu Tân Phong giữ an ninh cho hướng đường số 2 để bước cùng thì chạy về Long Bình theo đường đó. Vừa ra lệnh xong thì có tiếng trực thăng bay trên đầu. Chiếc trực thăng lượn một vòng hẹp rồi đậu xuống một khoảng đất trống gần sở chỉ huy. Đảo ngó ra thấy đại tá Thọ, trưởng phòng ba của quân đoàn 3 đang từ trong trực thăng bước xuống. Đảo vụt đứng dậy chạy ra, mắt đăm đăm nhìn Thọ, nét mặt hồi hộp, lo lắng.
Thọ siết chặt tay Đảo, nhìn xoáy vào đôi mắt Đảo một chút rồi nói:
- Tôi mang lệnh của tướng Toàn đến cho anh
Mắt đảo mở to, môi Đảo tái đi, động đậy, Đảo hết sức hồi hộp:
- Lệnh gì?
Thọ hơi bĩu môi, phác một cử chỉ tỏ vẻ buồn bực. Chán nản, Thọ buông một tiếng:
- Chuồn! Thọ thở dài tiếp – Di tản! Tuỳ nghi di tản!
Thọ ngồi phịch xuống ghế ôm đầu. Đảo không ngồi, vẫn nhìn Thọ đăm đăm. Sau phút xúc động, Thọ mở cặp lấy ra một bản mệnh lệnh đưa cho Đảo. Đảo liếc nhanh, mặt dần dần tươi lại, đôi mắt trở nên lanh lợi hơn, đôi môi như sắp cười.
 Thọ không chú ý tới vẻ mặt đó- Thọ đăm đăm nhìn ra khoảng rừng cao su:
- Anh biết chưa? Giọng Thọ buồn bã - Cộng sản đã tiến sát thị xã Phan Thiết, nội đêm nay chúng sẽ vào thị xã thôi. Chúng nó tiến như gió lốc, không để cho mình kịp nghĩ cách đối phó.

Thọ rút tấm bản đồ chiến sự trải trên bàn.
- Anh xem đây, sau Phan Thiết nhất định bọn chúng sẽ chia làm hai hướng thẳng vào Xuân Lộc, hướng xuống Hàm Tân, xuống Bà Rịa-Vũng Tàu. Có thể bọn chúng không đâm thẳng vào Xuân Lộc vì ở đây quân đoàn 4 Cộng sản còn mạnh lắm. Chúng sẽ đánh qua Đức Thạnh-Qua Long Thành cắt đường 15.
Thọ thở dài:
- Biên Hoà – Long Bình đang bỏ trống, lữ 3 thiết giáp quỵ rồi. Có tin quân đoàn 1 và quân đoàn 3 của Cộng sản đang tiến vào Đồng Xoài, Chơn Thành, Dầu Tiếng, Củ Chi. Gay go lắm rồi. Anh cần phải di tản sớm, về phòng thủ Biên Hoà-Long Bình ngay.
Thọ lại cuối xuống bản đồ:
- Anh định đi hướng nào?
Đảo cũng cuối xuống:
- Còn đường nào khác ngoài đường số 2.
- Đó là vùng kiểm soát của Việt Cộng.
- Phải đánh ào mà đi thôi, không còn đường nào khác.
- Đường đó thì xa, Thọ lắc đầu - Quả thật không còn đường nào khác. Cộng sản đã thắng mình một keo đậm ở đây khi tụi nó kéo được lực lượng trù bị của mình lên. Thôi, thời thế, thế thời phải thế! Chúc anh may mắn, an toàn.
Thọ chìa tay ra nắm chặt tay Đảo:
- Tôi sẽ đón anh ở Long Bình.
Thọ bước ra, Đảo sực nhớ hỏi thêm:
- A, tổng thống? Có tin gì không?
Thọ quay lại, nhún vai,  hai tay giơ lên:
- Có tin tổng thống sắp từ chức.
- Ai sẽ thay?
- Chắc lão Hương.
- Còn Dương Văn Minh?
- Chưa biết ra sao.
Thọ im lặng cuối đầu xuống rồi ngửng lên:
- Thôi chào anh, tôi đi.
Đảo gật đầu, đứng nhìn cho đến khi chiếc máy bay lên thẳng bay khuất.
Trận tấn công dứt điểm thị xã Xuân Lộc bắt đầu bằng một đợt bắn pháo lâu hai giờ, sớm hơn giờ G ba tiếng vì phát hiện được đich tháo chạy. Từ trong các hầm bao vây, từ các vị trí tập kết, xe tăng dẫn bộ binh tiến vào thị xã. Một số khẩu 105 được lệnh bắn đạn pháo sáng để soi đường cho bộ đội xung phong. Bọn địch trong thị xã tan rã ngay từ những loạt pháo đầu tiên. Cuộc tiến công chuyển sang truy kích. Trong ánh sáng rực trời của hoả châu máy bay địch ném xuống, của pháo sáng đại bác ta bắn lên, bóng một tổ du kích mang cờ lớn khi ẩn khi hiện trong màn khói dày đặc. Họ đang lao vào sở chỉ huy cơ bản của sư đoàn 18.

Phần Ba

TIẾN VÀO SÀI GÒN


Chiều 22 tháng 4, Lê Minh Đảo dẫn tàn quân của sư đoàn mình về đến Long Bình, hậu cứ cơ bản của sư đoàn. Tàn quân của chiến đoàn 52 từ Bầu Hàm về đó từ mấy hôm trước đã được tái bổ sung, tái trang bị. Trực thăng tiếp tục đi nhặt tàn quân của tiểu đoàn 2/43 bị đánh tại núi Thị đang tan tác từng nhóm trong rừng. Nhìn những đám quân không mũ, không giầy, lôi thôi, lếch thếch, mặt mày hốc hác, nhợt nhạt, thoát chết từ những hầm hố ở Xuân Lộc, thoát chết ở đường số 2 lần lượt kéo qua trước mặt. Lê Minh Đảo rất buồn nhưng cũng khấp khởi mừng vì cơn ác mộng coi như  đã qua. Com đường só 2 đã không như con đường số 7 ở Cheo Reo đối với sư 18. Trước sau sư đoàn 18 vẫn là sư đoàn do Đảo chỉ huy, vì vậy khi tháo chạy, Đảo đã cho chiến đoàn 48, chiến đoàn 43 chạy trước rồi đến tiểu khu Long Khánh, sau đó mới đến lữ dù 1 tăng phái. Khi chạy tới Đức Thạnh, Đảo nhận được điện kêu cứu của tiểu khu trưởng Long Khánh và lữ trưởng lữ dù 1, họ bị truy kích sát gót, đang bị pháo tầm xa dập rất mạnh. Đảo đáp lại lời kêu gọi của các chiến hữu bằng cách ra lệnh cho pháo sư đoàn quay nòng về phía Long Giao bắn yểm trợ gọi là chút nghĩa sinh tử với các chiến hữu. Trên đường về Long Bình, Đảo đã nhận được tin tiểu khu trưởng Long Khánh đã bị bắt làm tù binh. Lữ dù 1 xuất phát khỏi sư đoàn ở lại bảo vệ tỉnh Phước Tuy và thị xã Vũng Tàu. Đảo điện ngay  cho lữ trưởng dù 1 biết lệnh đó, Đảo cảm thấy nhẹ người. Đảo không còn băn khoăn gì nữa, đi nhanh về Long Bình. Nhưng Đảo không thể nào cắt đứt và xoá đi những sự kiện vừa xảy  ra  được. Đảo tự hỏi: Tại sao Cộng sản truy kích đến Long Giao - Đức Thạnh rồi quay trở lạ? Câu hỏi ấy cứ chập chờn trong óc Đảo. Cho đến đêm 23, Đảo mới tự trả lời đựơc khi nhận được tin thị xã Hàm Tân thất thủ. Một cánh quân rất mạnh của Cộng sản dang tiến nhanh vào tỉnh Phước Tuy. Họ bất chấp máy bay oanh tạc, bất chấp sự kháng cự tuyệt vọng của quân cộng hoà, bất chấp mọi khó khăn về đường sá, cầu cống. Họ đã tiến sát thị xã Phước Lễ và hình như mục tiêu cuối cùng của cánh quân này là thị xã Vũng Tàu. Họ muốn nhét nút con đường sông duy  nhất từ Sài Gòn ra biển. Một cánh quân khác đang tiến xuống Xuân Lộc bắt tay với cánh quân đã đánh vỡ phòng tuyến Xuân Lộc ba hôm trước. Thế là rõ rồi. Hai cánh quân lớn của Cộng sản sắp gặp nhau ở Xuân Lộc. Chắc chắn họ sẽ từ ba hướng đông bắc, đông và đông nam tiến vào Sài Gòn.

Lê Minh Đảo ngồi trước tấm bản đồ, tự tay vạch những tuyến phòng thủ mới và mũi tên đỏ rất đậm. Đảo làm việc đó theo thói quen chứ trong đầu óc thì tối mịt, lòng dạ rối như tơ vò. Bỗng có tiếng gõ cửa, Đảo ngửng đầu thấy Huỳnh Thao Lược tiến vào. Lược đặt tờ lệnh trước mặt Đảo:
- Lệnh tướng Toàn gởi cho anh.
Đảo cầm tờ lệnh đọc nhanh” Sư đoàn 18 có nhiệm vụ lên thay thế khu vực hành quân của lữ 3 thiết kỵ và chiến đoàn 8 sư 5 ở mặt trận Trảng Bom, đường 1. Chặn đứng mũi tiến quân của Cộng sản vào Biên Hoà theo quốc lộ 1. Quân đoàn rút lữ 3 kỵ binh về làm lực lượng cơ động. Trả chiến đoàn 8 cho sư 5 đang bị áp lực mạnh ở Bình Dương. Việc phối trí thay quân phải xong trước 15 giờ ngày 25 tháng 4”.
Đảo đọc lại một lần nữa rồi hỏi Huỳnh Thao Lược:
- Quân số đâu?
- Họ đã đưa đến cho ta lính bảo an, lính dân vệ và bọn lính phạm tội ở các nhà tù.
- Còn trang bị?
- Trang bị thì không lo, kho sư đoàn còn nhiều, thiếu thì lên tổng kho xin lĩnh.
Đảo thở dài:
- Với lũ lính tạp nham ấy thì đánh đấm cái gì. Xuân Lộc vững chắc là vậy còn không giữ được, làm sao giữ Trảng Bom?
Đảo đứng bật dậy, mặt lúc đỏ bừng, lúc tái đi. Tất cả những dằn vặt mấy ngày nay âm ỉ trong lòng đã đến lúc buột ra. Đảo đấm tay xuống bàn:
- Anh thấy không? Chúng ta chỉ toàn bị động chống đỡ như chống đỡ một toà lâu đài sắp sập. Tôi hỏi tại sao quân đoàn 3 không có kế hoạch phòng thủ trước? Tại sao bộ tổng tham mưu không có kế hoạch phòng thủ trước? Tại sao ông Thiệu lại phê phán chúng ta?  Anh còn nhớ trong cuộc họp các tướng lĩnh hai tuần trước ông ta nói gì không? Ông ta bảo phải hai tháng nữa Cộng sản mới cơ động được lực lượng vào gần Sài Gòn. Ông ta nói như đinh đóng cột rằng trong hai tháng đó ta thừa sức, thừa thời gian để xây dựng những tuyến phòng thủ vững chắc bảo vệ Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long, rằng Cộng sản sau những đợt tiến công vừa rồi đã hết hơi, rằng thời kì rút lại chiến lược của quân cộng hoà đã chấm dứt, rằng thời kì phản công chiến lược chiếm lại những vùng đã mất sẽ bắt đầu. Rằng…rằng….Chúng ta đề nghị rút bớt lực lượng về phòng thủ Sài Gòn thì ông ta phê phán đó là  tư tưởng bi quan chủ bại. Anh đọc các bản tin tình báo rồi chứ? Quân đoàn 1 tổng dự bị chiến lược của Bắc Việt đầu tháng 4 còn thấy ở Ninh Bình-Thanh Hoá, bây giờ đã xuất hiện ở Lai Khê, ở đường 13 rồi. Quân đoàn 3 vừa mới thấy ở Phú Yên, Khánh Hoà đã thấy có mặt ở Trảng Bàng, Củ Chi rồi. Quân đoàn 2 tuần trước đang ở Phan Rang thì nay đã vào đến Xuân Lộc. Sư 9 Việt Cộng đang ở đường 4, Long An, sân bay Biên Hoà bị pháo kích, bị kìm chế. Một sư đoàn mạnh của Cộng sản đang hướng tới Vũng Tàu. Lại có tin các loại Mig của Bắc Việt đã bay trên bầu trời Đà Nẵng, vùng trời cao nguyên trung phần, các tàu chiến của hải quân Bắc Việt cũng xuất hiện ở ngoài khơi bờ biển Trung phần. Chúng ta thật sự bị vây chặt.. Chúng ta sẽ bị đánh tan. Chúng ta không thể nào chống cự nổi một sức mạnh tổng lực như vậy. Ông Thiệu chuồn rồi. Lão già Hương thì được tích sự gì? Nguyễn Bá Cẩn là thằng nào? Một tên vô danh tiểu tốt. Bọn cố vấn Mỹ đang bỏ chạy. Dương Văn Minh đâu? Tại sao không đưa ông ta ra? Còn kèn cựa, còn tính toán gì nữa? Nước đến chân rồi!

Đảo ngồi phịch xuống ôm lấy đầu thở hắt ra. Một lúc Đảo hỏi:
- Anh tính phối trí lực lượng ra sao?
Lược trải bản đồ của mình ra, cầm bút chì chỉ vào từng khu vực:
- Tôi tính bố trí như vầy: Chiến đoàn 48 khá hơn đóng ở đông bắc Trảng Bom, chiến đoàn 52 tây nam Trảng Bom, chiến đoàn 43 nam Trảng Bom, thiết đoàn 5 kỵ binh đóng gần chiến đoàn 43 ứng cứu cho cả ba chiến đoàn.
Đảo nhìn theo đầu bút chì của Lựơc rồi hỏi:
- Chúng ta còn bao nhiêu pháo?
- 26 cây của các chiến đoàn, 18 cây của sư đoàn, 44 cây tất cả một phần ba là 155 ly. Không kể pháo của  quân đoàn ở Biên Hoà.
- Còn sau lưng Trảng Bom? Trảng Bom-Hố Nai có những lực lượng nào?
- Liên đoàn biệt động quân số 33, lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến. lữ đoàn 2 dù, lữ 3 kỵ binh, chiến đoàn 315 bảo an. Đó là chưa kể các tiểu đoàn biệt động quân, các tiểu đoàn bảo an độc lập và lực lượng dân vệ của tiểu khu Biên Hoà.
- Còn hướng đông?
Lược vẫn nhìn bản đồ:
- Ở Long Thành có chiến đoàn 318, lữ đoàn 468 thuỷ quân lục chiến, chiến đoàn 933 bảo an. Còn lữ dù 1 đóng từ Phú Mỹ đến Bà Rịa. Lược ngửng đầu nhìn Đảo:
- Quân số còn rất đông, khoảng 6 lữ đoàn trang bị đầy đủ.
Đảo thở dài nói ngay:
- Đông nhưng ô hợp, đông nhưng vá víu, chắp nhặt, đơn vị nào cũng tái bổ sung, tái trang bị. Đông nhưng không có tổ chức chặt chẽ, không có chỉ huy thống nhất, đông mà tình hình chính trị, quân sự đã nát thế này cũng vô ích thôi anh Lược ạ! Anh xem đấy. Người Mỹ đã chủ quan, chúng ta chủ quan. Từ trước đến giờ chúng ta chưa hề có kế hoạch nào phòng thủ Sài Gòn để đối phó với kiểu tấn công  của Cộng sản như thế này, cả người Mỹ và chúng ta đều cho rằng Cộng sản không đủ sức, đủ tài để mở một cuộc tiến công tổng lực đại qui mô thế này. Vì vậy chúng ta chưa làm gì, hay nói đúng hơn là không làm được gì để chuẩn bị đối phó cả. Bây giờ có phòng thủ kiểu gì thì cũng đã muộn. Không ai còn lòng dạ nào nghĩ đến chuyện khác ngoài bản thân mình, gia đình mình. Nhìn bọ mặt binh lính anh cũng thấy vậy chứ? Còn bọn chính khách ngồi ở Sài Gòn nói mép, đấu đá, tranh giành quyền lợi, địa vị với nhau cũng lần lượt bỏ trốn rồi. Máy bay ở Tân Sơn Nhất không làm nhiệm vụ tiếp tế cho quân lực nữa mà lo chở họ di tản. Tướng Toàn bảo chúng ta chặn đứng Cộng sản ở Trảng Bom à? Ông ta có tài thì ra đó mà chặn. Anh thấy đó, trước ngày 9 tháng 4, cái sư đoàn 18 này còn là một sư đoàn chiến đấu, còn hôm nay thì - Đảo đứng dậy rồi quay mặt đi - Đảo không muốn Lược nhìn thấy sự đau khổ của ình qua những giọt nước mắt. Đảo bước vào buồng, Lược cắn môi nhìn ra ngoài. Tiếng trọng pháo của cả hai bên khắp các hướng quanh Sài Gòn đang rền vang như sấm.

XII


Sau  khi đánh vỡ phòng tuyến Xuân Lộc, giải phóng tỉnh Long Khánh, giải phóng tỉnh Bình Tuy. Nhiệm vụ tiếp theo của mặt trận hướng đông Sài Gòn bao gồm đông bắc, đông và đông nam là: “ Phối hợp với các lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, các lực lượng địa phương, lực lượng chính trị của quần chúng tạo thế bao vây, chia cắt, uy hiếp lớn về chiến dịch ở hướng đông, đông bắc và đông nam Sài Gòn. Cắt đường rút chạy của địch bằng đường biển, đường sông, đường không. Đập vỡ và tiêu diệt các tập đoàn phòng ngự của địch ở đông và tây sông Đồng Nai như Biên Hoà, Long Bình, Vũng Tàu. Đánh chiếm các căn cứ lớn trên sông Đồng Nai, sông Sài Gòn. Đồng thời dùng lực lượng đột kích mạnh tiến công đánh chiếm với tốc độ cao các mục tiêu quan trọng trong nội thành Sài Gòn như: Dinh Độc Lập, đài phát thanh và các mục tiêu quan trọng khác ở quận 1, quận 4, quận 9 của thành phố Sài Gòn”. Căn cứ vào nhiệm vụ chung, nhiệm vụ của quân đoàn 4 cũng khác trước. Sư 7 không phát triển theo đường số 2 xuống Bà Rịa-Vũng Tàu, sư 6 không phát triển sang chi khu Long Thành và đường 15. Quân đoàn được tăng cường và phối thuộc các tiểu đoàn xe tăng, các tiểu đoàn lựu pháo và pháo tầm xa, các tiểu đoàn cao xạ, công binh, các tiểu đoàn ô tô vận tải của bộ tư lệnh mặt trận hướng đông Quân đoàn được tăng cường thêm lữ đoàn bộ binh số 52 của quân khu 5, có nhiệm vụ chiến đấu tập trung trên hướng đông-bắc Sài Gòn, phát triển theo trục đường 1 diệt địch từ Trảng Bom đến Biên Hoà, nhanh chóng đánh chiếm bộ chỉ huy quân đoàn 3, quân khu Ba, sân bay chiến lược Biên Hoà, tiểu khu Biên Hoà. Mở cửa lớn, vượt qua cầu Ghềnh tiến thẳng vào Sài Gòn đánh chiếm phủ tổng thống, đài phát thanh và một số mục tiêu ở quận 1 và quận 2, quận 4.

Quân đoàn 2 chiến đấu trên hướng đông và đông nam Sài Gòn. Một cánh đánh vu hồi xa, nhanh chóng đánh chiếm Bà Rịa-Vũng Tàu, chặn quân địch rút lui ra biển, một cánh đánh chi khu quân sự Long Thành tiến xuống Nhơn Trạch, chiếm khu kho Thành Tuy Hạ, đặt pháo tầm xa đánh phá sân bay Tân Sơn Nhất, vượt sông bằng sức mạnh qua cảng Cát Lái trên sông Nhà Bè vu hồi thẳng vào quận 9 Sài Gòn. Một cánh đánh căn cứ thiết giáp Nước Trong, tiến ra xa lộ chiếm tổng kho Long Bình, theo xa lộ đánh thẳng vào Sài Gòn. Giai đoạn thứ hai, giai đoạn quan trọng nhất của chiến dịch Hồ Chí Minh sẽ bắt đầu bằng cuộc tiến công toàn diện vào tất cả các phòng tuyến cuối cùng của địch.
Bộ đội đặc biệt tinh nhuệ được trang bị thêm súng cối 82, trọng liên 12 ly 8, bí mật thọc sâu đánh chiếm tất cả các cầu quan trọng bắc qua sông Đồng Nai, sông Sài Gòn trên đường số 1 và xa lộ, giữ cầu bằng bất cứ giá nào, đảm bảo đường hành tiến cho xe tăng và cơ giới. Bộ đội công binh sẵn sàng cầu phà, nếu trường hợp địch phá cầu sẽ bắt cầu ngay dưới sự che chở của hoả lực phòng không các tầm cho bộ đội vượt sông bằng sức mạnh. Pháo chiến dịch, các loại hoả tiễn phải đánh tê liệt hoàn toàn sân bay chiến lược Biên Hoà, sân bay Tân Sơn Nhất. Khống chế, tiêu  diệt các cụm pháo binh của địch, chi viện, yểm trợ đắc lực cho bộ binh. Mệnh lệnh chiến đấu kết thúc bằng câu:” Thời gian là lực lượng. Giai đoạn cực kỳ quan trọng của cuộc chiến tranh giải phóng này sẽ là sự mở màn của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, sẽ là cuộc tiến công dữ dội và đồng loạt vào tất cả các tuyến phòng thủ cuối cùng của địch quanh Sài Gòn. Cuộc tiến công sẽ bắt đầu vào 17 giờ ngày 26 tháng 4”

Sáng ngày 23 tháng 4, bàn xong kế hoạch chiến đấu. Tư lệnh quân đoàn mang phương án và quyết tâm lên thông qua bộ tư lệnh mặt trận hướng đông. Quân đoàn phó Khắc Vũ trở lại sở chỉ huy tiền phương triển khai ngay cho các sư đoàn. Chiếc xe “ Bắc Kinh” phủ đầy lá nguỵ trang và bụi đỏ chui qua các lô cao su, đè bừa lên cánh lá ngổn ngang vì pháo bắn, lao ra hướng ngã ba Dầu Dây. Trung, chiến sĩ lái xe nghiến răng nắm chặt tay lái, mắt không chớp, nhìn xoáy vào quãng đường trước mặt, đưa chiếc xe tránh tất cả các hố pháo, hố bom. Quân đoàn phó Khắc Vũ không chú ý tới các con đường, đầu óc ông để cả vào khu quân sự liên hợp Biên Hoà, căn cứ quân sự lớn nhất của địch ở miền nam. Giới tuyến chiến đấu của quân đoàn 2 và quân đoàn 4 đã được phân định rõ ràng. Trục tiến quân của quân đoàn theo đường số 1, quân đoàn 2 theo xa lộ. Muốn vào được Sài Gòn phải tập trung cả quân đoàn tiêu diệt ba sư đoàn địch đang phòng thủ từ Trảng Bom về Biên Hoà. Phải đánh chiếm hoàn toàn căn cứ quân sự liên hợp Biên Hoà, mở một cái cửa lớn. Chiếm được Biên Hoà thì việc vào Sài Gòn chỉ còn là vấn đề thời gian. Vì vậy quyết tâm của bộ tư lệnh quân đoàn dùng sư 1 đánh vào yếu khu Trảng Bom, mở cửa cho sư 6 từ phía nam đường số 1 tấn công vào phía đông Biên Hoà, đánh chiếm sở chỉ huy quân đoàn 3, tiểu khu quân sự Biên Hoà. Còn sư 7 phối hợp với đặc công mở một mũi vu hồi vào đông bắc Biên Hoà, chiếm sân bay chiến lược, chiếm chi khu quân sự Cống Thanh, phát triển qua thị xã, chiếm cầu Ghềnh, củng cố bàn đạp tiến vào Sài Gòn. Sư 1 sau khi đánh chiếm yếu khu Trảng Bom sẽ đánh chiếm các căn cứ ở Hố Nai, phối hợp với sư 6, sư 7 đánh những mục tiêu còn lại ở Biên Hoà, lữ đoàn 52 bộ binh làm dự bị cho quân đoàn. Như vậy sư 6 và sư 7 sẽ phải bí mật vòng qua địch ở Trảng Bom, Hố Nai. Việc cả hai sư đoàn cùng thọc sâu trong khi mục tiêu phòng thủ, các cụm quân lớn của địch đã thu hẹp, đông đặc không phải là chuyện dễ.

Về đến sở chỉ huy, quân đoàn phó Khắc Vũ đến ngay hầm điện thoại. Từ ngoài cửa ông đã nghe tiếng Lê Ngọc Bì tham mưu phó quân đoàn hét oang oang vào máy:
- A lô! Gì đấy? Nhất thiết là không được hoãn giờ tấn công. Anh nên nhớ rằng đó là giờ G của toàn mặt  trận. Quân đoàn phó chưa đến đây, nhưng tôi tin là không ai đồng ý cả đâu.
Tham mưu phó cầm cái máy khác lên:
- A lô! Gì đấy? Đúng, số quân đó bổ sung cho sư 7, ưu tiên cho sư 7, sư 7 sẽ vào Sài Gòn mà. Anh không biết sao?
Tham mưu phó lại cầm cái máy thứ ba:
- Pháo binh phải không? 130 ly à? Anh cứ bắn vào Biên Hoà theo kế hoạch đã bàn đi, chủ yếu là các đường băng, còn các khu kho thì không cần, các khu kho là của ta, anh nhớ chưa? Đường băng, tôi nhắc lại, không cho chúng sử dụng đường băng.
Quân đoàn phó mỉm cười. Cuộc chiến đấu sôi nổi như thế đấy. Quân đoàn phó bước vào, ông ngồi xuống cạnh tham mưu phó quân đoàn, ông chưa kịp hỏi thì một hồi chuông dài réo lên. Tham mưu phó cầm máy rồi đưa máy cho quân đoàn phó:
- Anh Bảy Khánh gặp anh, có gì gấp lắm thì phải.
Quân đoàn phó cầm máy, nghiêng cả người sang một bên để nghe cho rõ:
- Tôi đây! Vũ đây! Đúng là Vũ mà, anh không nhận ra tiếng tôi sao? Đúng, sao? Kế hoạch tác chiến lại thay đổi à? Sao? Bộ tư lệnh mặt trận hướng đông  có ý kiến khác? Anh nói đi – Quân đoàn phó áp chặt thêm ống nghe vào tai, nhắm cả hai mắt để cố nghe cho được tiếng tham mưu trưởng quân đoàn ở đầu dây đằng kia. Một lúc bỗng ông mở mắt, nét mặt hết sức xúc động. Ông nói rất to vào máy, rõ ràng từng tiếng một:
- A lô! Anh Bảy, tôi nghe rõ. Tôi hiểu rõ! Tôi nhờ anh chuyển lời cảm ơn tới tư lệnh và chính uỷ, tôi sẽ cố gắng làm tròn nhiệm vụ các anh giao.
Quân đoàn phó đặt nhẹ máy, thở ra một hơi rất mạnh, ông gục đầu vào đôi cánh tay, một chút, ông ngửng đầu lên, nước mắt lấp lánh. Ông xúc động, tham mưu phó Bì ngạc nhiên  hỏi ngay:
- Có chuyện gì vậy, anh Ba?

- Có, mới lắm! Bộ tư lệnh mặt trận hướng đông không phê chuẩn kế hoạch cũ đánh vào Biên Hoà của quân đoàn. Tình hình chính trị ở Sài Gòn đang hết sức khủng hoảng. Trần Văn Hương vẫn chưa thành lập được chính phủ mới. Bọn Mỹ đã ngừng cầu hàng không tiếp tế vũ khí, chúng xoay sang bắt trẻ con. Di tản cố vấn Mỹ và bọn tay sai ác ôn, chúng đang ráo riết thực hiện âm mưu trì hoãn cuộc tổng công kích của ta vào Sài Gòn. Chúng muốn thương lượng. Mọi phe phái chính trị đều đang ráo riết hoạt động tìm chỗ đứng. Vì vậy phải đập tan mọi âm mưu của chúng, đây là thời cơ chủ quan và khách quan tốt nhất để kết thúc chiến tranh, giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để về tay chúng ta. Quân đoàn sẽ không đánh theo kế hoạch cũ. Quân đoàn sẽ đột kích một hướng, một trục, theo đường 1. Sư 1 được tăng cường một tiểu đoàn xe tăng có pháo quân đoàn trực tiếp chi viện tiêu dịêt ngay yếu khu Trảng Bom, mở đường. Sau đó tiến nhanh đánh chiếm sân bay Biên Hoà. Sư 6 được tăng cường trung đoàn 209 của sư 7 theo đường quân sự làm gấp đánh vào Hố Nai rồi thọc xuống chiến chỉ huy sở quân đoàn 3, tiểu khu Biên Hoà và cầu Ghềnh.
- Còn sư 7? Tham mưu phó nóng ruột hỏi ngay.
- Sư 7 được tăng cường thêm một tiểu đoàn xe tăng T54., một tiểu đoàn ô tô, tổ chức thành đơn vị bộ binh cơ giới tiếp sau sư 6, là mũi đột kích chủ yếu thọc sâu vào Sài Gòn. Tôi được các anh giao cho trực tiếp chỉ huy mũi thọc sâu đánh vào Sài Gòn. Các anh ấy biết tôi từ Sài Gòn ra đi, bây giờ các anh muốn tôi trở về Sài Gòn đầu tiên. Các anh ưu tiên cho tôi niềm vinh dự, cho tôi phần thưởng đó. Anh Ba, còn năm tháng nữa là chẵn ba mươi năm tôi xa Sài Gòn. Tôi ra đi đường nào thì bây giờ tôi trở về đường ấy. Sài Gòn trước mặt kia rồi. Tôi sung sướng quá, nước mắt không cầm được, anh thông cảm.
Tham mưu phó Bì cũng rất xúc động. Hồi cách mạng tháng tám ông ở chiến trường khu Năm. Nhưng hồi tết Mậu Thân, sư đoàn 5 của ông đã đánh vào Biên Hoà và Long Bình. Sau tết Mậu Thân, cuộc chiến đấu đưa ông vào vùng Bảy Núi- An Giang. Bây gờ ông lại trở về đây: Biên Hoà- Sài Gòn.
- Phải triển khai ngay chứ anh?
Quân đoàn phó gật đầu:
- Sở chỉ huy cơ bản đã triển khai cho các tư lệnh sư đoàn. Ta tiếp tục triển khai cho các binh chủng, mọi việc phải xong trước 22 giờ đêm nay.
Tham mưu phó lần lượt cầm các máy điện thoại gọi đi các hướng.

Quân đoàn phó Khắc Vũ chờ cho các chủ nhiệm binh chủng ra về hết mới đứng dậy. Ông nhìn đồng hồ, 12 giờ 15 phút. Ông bước ra ngoài và đột nhiên đứng sững lại. Ánh trăng từ trên cao xuyên qua các lớp lá cao su đã thưa đi nhiều vì bom, pháo, đọng lại trên mặt đất thành từng vũng ánh sáng đầy ắp. Những vũng ánh sáng ấy rải ra không đều, chỗ ít, chỗ nhiều làm cho mảnh đất mất đi cái vẻ nham nhở ban ngày. Ánh trắng đọng lại trên những thân cây đổ gục, lở loác vì mảnh đại bác, ánh trăng chiếu vào những dòng nhựa cao su tròn vo, phát ra những tia sáng phản chiếu long lanh. Ông bước tới một chỗ trống, ngước mắt lên. Mặt trăng tròn vành vạnh, treo lơ lững giữa khoảng  không rộng lớn, đang bay thấp xuống như muốn toả hết ánh sáng về phía mặt đất.
- Trăng rằm! Ông thốt lên nho nhỏ - Rằm tháng ba.
Quân đoàn phó Khắc Vũ cảm thấy bỡ ngỡ trước cái cảnh ban đêm đẹp như thế. Từ ngày bước vào chiến dịch đến nay, hầu như ông không có thì giờ để chú ý đến thiên nhiên, ông đã quên đi ngày tháng âm lịch. Bởi vậy nên khi nhìn thấy mặt trăng rằm. Ông nhớ ngay những kỉ niệm về những đêm trăng trên núi Chứa Chan cách đây 28 năm. Chứa Chan đã ở lại sau lưng ông rồi. Sở chỉ huy tiền phương đã di chuyển lên phía trước theo đà của cuộc tiến công.
Ông nhìn mặt trăng bỗng thấy rất quý cái nguồn ánh sáng thiên nhiên  về ban đêm ấy. Cách đây hai tuần, khi quyết định giờ nổ súng tấn công Xuân Lộc, còn phải giở lịch chọn đêm không có trăng, chọn giờ tốt nhất để bộ đội dễ tiếp cận mục tiêu. Nhưng hôm nay, cuộc chiến đấu bước vào với hình thức và qui mô lớn hơn. Cuộc tiến quân sẽ bất kể đêm ngày cho đến khi cắm cờ được trên dinh Độc Lập, vì vậy ánh trăng ban đêm đã trở nên rất cần cho bộ đội hành quân di chuyển, triển khai tấn công vào các tuyến phòng ngự của địch. Quân đoàn phó thầm cảm ơn mặt trăng đã xuất hiện đúng lúc như là một sự ưu đãi của thiên nhiên đối với con nhà lính. Suốt mấy chục năm đánh nhau luôn luôn lấy đêm làm ngày. Ông mỉm cười sung sướng, đi trong ánh trăng về hầm của mình.

Đến gần chiếc nhà bạt, ông đứng lại nhìn vào. Bên chiếc bàn tre, dưới ánh sáng của ngọn đèn bão, ông nhìn thấy Lương và Hỷ, hai chiến sĩ gái nuôi quân đang ngồi chụm đầu vào nhau, chốc chốc lại  nhìn ra ngoài.
- Ủa, sao giờ này hai con nhỏ chưa đi ngủ, còn ngồi làm gì kia? Ông tự hỏi rồi bước nhanh vào
- A! Chú Ba đã về!
Cả Nương và Hỷ cùng đứng dậy. Nương bước sang phía Hỷ, nhường chỗ cho ông.
Ông vừa ngồi xuống vừa hỏi:
- Sao giờ này còn thức? C ó chuyện gì vậy hai cháu?
Nương hồi hộp rút trong túi vải một cái băng đỏ và một câu khẩu hiệu, rụt rè đưa cho ông.
- Cơ quan phân công hai cháu chuẩn bị băng và khẩu hiệu cho chú – Chú bận suốt ngày.
Ông vui vẻ cầm ngay tấm băng đỏ đeo ngay vào cánh tay trái, quàng chéo khẩu hiệu vào vai.
- Các cháu có băng đỏ và khẩu hiệu chưa?
Hỷ lên tiếng:
- Dạ thưa chú Ba, mấy cháu có đủ rồi!
- Chú cảm ơn mấy cháu. Cơ quan còn ai chưa có băng và khẩu hiệu không?
- Dạ thưa, có đủ cả!
Hỷ và Nương vẫn ngồi ngó trộm ông. Ông hơi ngạc nhiên, hỏi  ngay:
- Còn chuyện gì nữa không? Nếu không hai cháu về nghĩ đi, mai còn làm việc.
- Dạ…Nương ấp úng rồi bỗng bật khóc…
- Nói chuyện gì vậy? Nói đi, chú nghe.
Ông rút thuốc, châm lửa, rít một hơi dài.
- Nói đi hai cháu.
- Dạ…Nương nói trong tiếng nấc – Thưa chú Ba, mấy cháu đi phục vụ sở chỉ huy tiền phương từ chiến dịch Phước Long đến giờ, giải phóng Phước Long mấy chú cũng không cho vô. Đến Lâm Đồng rồi Xuân Lộc giải phóng mấy chú cũng không cho vô….Nương khóc to, Hỷ cũng khóc theo, một lúc Nương mới nói tiếp được, giọng nghẹn ngào:
- Lần này, chiến dịch Bác Hồ….Xin mấy chú cho mấy cháu vô Sài Gòn với.

Nương rút khăn lau nước mắt, Hỷ úp mặt vào vai Nương. Cơn xúc động lúc sáng khi nhận lệnh chỉ huy đánh vào Sài Gòn đột ngột đến với ông. Nước mắt quân đoàn phó cũng lưng tròng, mặc cho nó chảy xuống má, ông cười:
- Mấy cháu cũng được phổ biến chiến dịch mang tên Bác Hồ rồi à ?
- Dạ! - Hỷ thưa – Mấy cháu đã thảo luận rồi.
- Thảo luận nữa à? Tốt lắm. Được, chú đồng ý, các cháu chuẩn bị cho tốt đi. Lần này không vô Sài Gòn thì vô đâu. Chúng ta sẽ vô Sài Gòn.
Nương và Hỷ mở to mắt nhìn ông, miệng nhoẻn cười, nói như reo:
- Mấy cháu xin phép chú Ba, chú Ba đi nghỉ cho khoẻ.
Ông đứng dậy nhìn theo bóng hai chiến sĩ nuôi quân lướt nhanh dưới ánh trăng cho đến khi không nhìn thấy nữa mới quay lại. Ông ngồi xuống, uống một chén trà nóng rồi lên võng. Ông nhắm mắt định ngủ để mai lấy sức nhưng giấc ngủ không đến. Ánh trăng rọi và quanh chỗ ông nằm. Tiếng khóc tức tưởi, tiếng nói nghẹn ngào của Nương, của Hỷ cứ vang bên tai ông:” Lần này chiến dịch Bác Hồ….Xin chú cho mấy cháu đi với. Cho mấy cháu vô Sài ….Gòn”.
- Chiến dịch Bác Hồ.
Quân đoàn phó nhắc lại lời của Nương rồi ngồi nhỏm dậy nhìn ra rừng cao su. Ông bỗng nhớ đến mồng 3 rạng ngày mùng 4 tháng 9 năm 1969. Hồi đó ông đang làm sư trưởng pháo binh Biên Hoà, anh Sáu Tòng làm chính uỷ. Sở chỉ huy sư đoàn đóng trong rừng biên giới Việt Nam – Campuchia. Ông và anh Sáu Tòng cùng áp tai vào chiếc đài bán dẫn nghe đài phát thanh Hà Nội đang truyền đi cho chiến sĩ và đồng bào cả nước, cho toàn thế giới biết Bác Hồ kính yêu đã từ trần hồi 9 giờ 37 phút ngày mồng 3 tháng 9. Chiếc đài bán dẫn trên tay ông rơi xuống. Anh Sáu Tòng khóc, ông khóc, ruột gan như đứt từng đoạn. Hai anh em khóc suốt đêm, sáng ra các chiến sĩ nuôi quân – Không phải Nương và Hỷ bây giờ - Đi qua nghe tiếng ông khóc, các cháu thập thò ngoài cửa, rồi vào hỏi cho kì được. Anh Sáu nói với chúng tin Bác mất. Mấy đứa nhỏ khóc oà lên, khóc rất to, khóc vang cả rừng.
Quân đoàn phó rút khăn đặt lên mắt, ông thì thầm" Bác ơi! Gần sáu năm Bác đi xa, nhưng cả nước đã làm đúng lời Bác dặn. Quân dân ta đã đánh cho Mỹ cút, bây giờ đang đánh cho ngụy nhào. Bác có biết đây là chiến dịch cuối cùng mang tên Bác? Chúng cháu đang đứng trước cửa ngõ Sài Gòn với xe tăng và pháo binh, với các quân đoàn hùng mạnh, với lời thề độc lập ba mươi năm trước, với di chúc thiêng liêng, có cả mệnh lệnh của Bác. Bác ơi! Chúng cháu sắp tiến quân vào Sài Gòn, nơi 64 năm trước Bác đã ra đi tìm đường cứu nước...".

XIII


Ngày và đêm 25 tháng 4

Các loại pháo của địch từ 105 ly đến 175 ly trên các vòng cung Sài Gòn bắn suốt đêm ngày 25 và ngày 26 tháng 4. Vốn là sư trưởng pháo binh nên quân đoàn phó Khắc Vũ hiểu được lối bắn, đoán được chính xác các cụm pháo trên vòng cung phòng thủ của địch. Bọn địch đang dựng lên một bức tường lửa và thép từ thị xã Phước Lễ qua Long Thành- Trảng Bom-Bình Dương, Đức Hoà, Tân Trụ. Tiếng pháo chưa phút nào ngừng, chưa giờ nào ngắt quãng, hết cụm này đến cụm khác, tiếng nổ nối với nhau thành dây chuyền dài vô tận, ầm ì như sóng biển. Chưa đến giờ G nên các trận địa pháo của ta còn im lặng ngoài trận địa pháo tầm xa vẫn pháo kích đều đều vào sân bay Biên Hoà. Đêm vào giữa màn pháo của địch, máy bay C130 vút qua, rải từng chùm bom như những loạt B52 ngắn. Máy bay trinh sát L19 bay suốt đêm, máy bay C47 thả đèn, hàng trăm chiếc hoả châu treo thành tầng, thành lớp trên trời. Ánh trăng mờ đi trong ánh hoả châu.
Quân đoàn phó Khắc Vũ ngồi trước bản đồ, ông nhìn vào dải phòng ngự của địch trên đường tiến quân cuả quân đoàn. Ông nhận ra rằng địch không phòng thủ theo tuyến ngang, không có chính diện rộng, các tuyến phòng thủ đều nằm trên trục đường, mỗi tuyến là một căn cứ, một cụm quân lớn. Trên hướng tấn công của quân đoàn, địch không có chính diện rộng nhưng lại có chiều sâu suốt 50 cây số, theo một con đường vượt qua hai con sông lớn và nhiều sông rạch nhỏ. Cuộc chiến đấu buộc sẽ diến ra trên trục đường. Không tiêu diệt được địch, không có đường cho xe tăng và các loại cơ giới phát triển. Càng vào sâu càng gặp nhiều trở ngại. Cầu Ghềnh và cầu Rạch Cát là cầu sắt cũ, không biết T54 có qua được không? Địch liều mạng phá cầu thì làm sao? Hai bờ sông dựng đứng, toàn sình lầy. Trước đây ông đã chiến đấu ở vùng này, địa hình ông biết, nhưng hồi đó ông đâu có nghĩ ngày trở về sẽ đem theo xa tăng và pháo lớn nên đâu có chú ý nghiên cứu trước. Hàng chục năm nay, Mỹ đã ủi phá, đào bới nghe nói thay đổi nhiều lắm. Các đơn vị đặc biệt tinh nhuệ không thế chiếm cầu quá sớm, một là lộ ý đồ, hai là địch sẽ tập trung lực lượng đánh bật đi. Việc chiếm giữ cầu phải đúng thời cơ. Ông cảm thấy hai con sông và những chiếc cầu như vắt ngang trên ngực.

- Báo cáo anh Ba, sắp đến giờ G, mời anh đến hầm chỉ huy.
Quân đoàn phó ngửng đầu lên, thấy tham mưu phó quân đoàn ôm tấm bản đồ đứng trước mặt. Quân đoàn phó đứng dậy:
- Có chuẩn bị gì uống không anh Ba?
- Có, tôi đã cho pha cà phê.
- Từ hôm nay trở đi cứ coi như không có ngày, không có đêm. Cần thứ đó lắm.
Quân đoàn phó bước vào hầm chỉ huy, ông ngồi xuống nhìn quanh. Một chiến sĩ mang cà phê vào. Ông cầm cốc uống một hớp rồi nhìn đồng hồ: 17 giờ kém 20 phút. Ông uống nốt cốc cà phê rồi quay về phía cậu chiến sỹ thông tin.
- Tôi nói chuyện với sư trưởng sư 1.
Cậu chiến sỹ thông tin quay máy,gọi, rồi đưa ống nghe cho ông:
- Anh Trân đấy phải không? Tôi đây, Vũ đây, sẵn sàng cả chưa anh Ba? Bọn sư 18 trước mặt anh ấy mà. Chúng đã bị sư 1 của anh, sư 7 của Nam Phong đánh quỵ ở Xuân Lộc rồi. Nguyễn Văn Toàn và Lê Minh Đảo vừa o bế lại, chắc chắn nó chưa hoàn hồn, nó xộc xệch lắm. Anh hãy nói với cán bộ, chiến sỹ biết điều đó, không chủ quan, nhưng phải đánh thật mạnh, không cho nó thở. Còn pháo binh anh đừng lo. Anh em đã rút kinh nghiệm ở Xuân Lộc rồi, không bắn phân tán nữa đâu. Ông liếc nhìn đồng hồ rồi nói tiếp:
- Còn năm phút nữa là đến giờ G đó anh Ba. Đồng hồ anh có đúng vậy không? Đúng à? Anh ra lệnh cho pháo sư đoàn bắn đi, pháo quân đoàn sẽ tham gia đợt hai. Pháo chiến dịch sẽ bắn vào Biên Hoà. Chúc anh thắng lợi.
Quân đoàn phó đặt máy. Hầm chỉ huy hoàn toàn im lặng. Nhưng người có mặt đều đang đợi tiếng pháo của ta nín lặng suốt mấy ngày nay sắp sửa lên tiếng. Ngoài những tiểu đoàn pháo cũ đã đánh Lâm Đồng, Xuân Lộc, còn nhiều tiểu đoàn pháo mới đánh từ Trị Thiên, khu Năm vào, những tiểu đoàn pháo dự bị chiến lược từ hậu phương tới, nòng pháo còn đỏ bụi đường. Ngoài pháo có nòng, còn có những tiểu đoàn hoả tiễn 107 ly, 122 ly. Anh em đã tháo giàn võng trên lưng, lọt vào sau các căn cứ của địch để bắn các mục tiêu sâu hơn.
Các cỡ đạn pháo sắp bắn. Đạn sẽ không thiếu. Đạn dành dụm, chắt chiu từ mấy năm nay ở hậu phương, những chiếc Zin ba cầu đi vạn dặm vừa đổ xuống, đạn của Phước Long, Đồng Xoài còn cất trữ, đạn vừa lấy được ở Xuân Lộc, Lâm Đồng, ở Trị Thiên, ở Đà Nẵng, ở khu Năm, đạn cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Ba mươi năm cầm súng. Ba mươi năm hy sinh chịu đựng. Ba mươi năm uất ức căm thù. Ba mươi năm thắt lưng buộc bụng. Ba mươi năm suy nghĩ tìm tòi. Ba mươi năm dồn cho những ngày tháng tư này. Ba mươi năm dồn cho tuần lễ này. Sức mạnh của chúng ta, sức mạnh của dân tộc Việt Nam, sức mạnh của quân đội Việt Nam, sức mạnh của Đảng Việt Nam. Hãy bắn đi tất cả các cỡ pháo! Hãy trút xuống đầu chúng nó tất cả sắt thép của chúng ta, lòng căm thù của chúng ta. Hãy bắn đi! Giờ công kích vào tất cả các tuyến phòng thủ cuối cùng của địch đã bắt đầu.

Từ trong rừng cao su, từ trong rừng hồi, từ trong những đồn điền trồng cây ăn quả, từ dưới chân núi, từ bên đường giao thông, tiếng nổ đầu nòng của những cụm pháo nghe bình bình giống như tiếng trống đại. Mọi người ngẩng đầu lên nghe tiếng đạn nối đuôi nhau hú trên đầu, lao vun vút xuống căn cứ địch. Một vòng cung lửa và thép chùm xuống vòng cung phòng thủ của địch. Lửa cháy! Lửa cháy! Lửa cháy! Tiếng nổ của những bồn xăng, tiếng nổ của những kho đạn, tiếng nổ của những kho bom. Khói và lửa cuồn cuộn trên bầu trời trước cửa ngõ Sài Gòn. Hãy nghe đi Trần Văn Hương! Hãy nghe đi Dương Văn Minh! Hãy nghe đi Cao văn Viên! Hãy nghe đi Matin, Uây-en! Hãy nghe đi Giê-rôn Pho, Sơ-le Sing-gơ, Kit-sing-gơ! Bọn chúng mày, hãy nghe đi…Pháo của chúng tao bắn đấy. Tất cả mọi âm mưu của chúng mày đều đã muộn, tất cả sự giãy giụa của chúng mày chỉ là cơn giãy chết cuối cùng. Chúng mày sẽ đại bại, chúng tao sẽ toàn thắng!
Trong đầu quân đoàn phó cuồn cuộn những ý nghĩ trên đây. Ông bước nhanh khỏi hầm chỉ huy. Người sư đoàn trưởng pháo binh năm trước ấy đang thưởng thức trận bắn pháo chưa từng có trong những năm chiến đấu ở chiến trường này.
Trong khi các tiểu đoàn bộ binh của sư 1 từ các vị trí tập kết ở phía bắc, tây bắc và tây nam Trảng Bom tiến vào vị trí chiếm lĩnh, dưới sự che chở của hoả lực pháo binh đang bắn phá hoại vào căn cứ Trảng Bom, suối Đỉa, dốc Ông Hoàng, Hố Nai, Biên Hoà..Thì ở phía đông Trảng Bom, tiểu đoàn công binh của quân đoàn cũng đang ra sức hoàn thành con đường quân sự làm gấp từ ngã ba Dầu Dây vượt qua đường sắt, băng qua những bìa rừng cao su, men theo suối Tam Buông, chọc xuống phía bắc Hố Nai. Ý định của bộ tư lệnh quân đoàn là cùng đồng thời với sư 1 tấn công chính diện ở Trảng Bom, sẽ dùng sư 6 theo đường quân sự làm gấp bất ngờ tấn công mãnh liệt vào Hố Nai với hai mục đích: Đánh thẳng vào căn cứ then chốt ngoại vi khu quân sự liên hợp Biên Hoà do lữ đoàn thuỷ quân lục chiến 258 và lữ 3 kỵ binh phòng thủ. Chặn đường rút lui của sư 18 ở Trảng Bom, mở đường cho đại quân vào Biên Hoà.
Ra khỏi những bìa rừng cao su, con đường quân sự làm gấp băng qua đồng trống, qua mấy nhánh suối Tam buông. Bọn trinh sát thám báo phát hiện được con đường. Mấy phút sau máy bay lên ném bom, pháo từ Biên Hoà, Long Bình bắn không ngớt xuống khu vực con đường đang vươn tới. Tốc độ mở đường chậm lại. Các chiến sỹ công binh bò dưới làn đạn pháo, kéo những rổ đất lấp hố bom, hố pháo, ngã các cây to, khuân đá làm ngầm. Chưa bao giờ họ phải mở một con đường trong hoàn cảnh ác liệt như thế này.

Ba ngày, hai lần sư trưởng Nam Phong và chính uỷ Liêm nhận nhiệm vụ khác nhau. Lần thứ nhận nhận lệnh bí mật đưa su đoàn thọc sâu vu hồi vào tây bắc Biên Hoà, chiếm sân bay chiến lược, chi khu quân sự Cống Thanh, cầu Ghềnh, củng cố bàn đạp để tấn công vào Sài Gòn. Ông vừa móc ráp với địa phương và tổ chức xong các mũi tiến quân, sắp sửa xuất phát thì lại được lệnh rút, trung đoàn 209 tăng cường cho sư 6 đánh vào Biên Hoà, còn sư đoàn thiếu, tổ chức thành một đơn vị cơ giới hành quân theo sau đội hình sư 6 làm mũi đột kích chủ yếu thọc sâu vào Sài Gòn.
- Sài Gòn chứ không phải Biên Hoà – Tôi nhắc lại - Tiếng tư lênh quân đoàn Hoàng Cầm rõ ràng, rành mạch vang lên trong máy nói - Bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh quyết định trao nhiệm vụ tiêu diệt và đánh chiếm những mục tiêu quan trọng nhất của địch trong Sài Gòn cho quân đoàn chúng ta. Đảng uỷ và bộ tư lệnh quân đoàn quyết định trao nhiệm vụ đó cho sư đoàn các đồng chí. Trong kháng chiến chống Pháp sư đoàn các đồng chí đã cắm cờ quyết chiến quyết thắng lên nóc hầm Đờ- Cát, lần này kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, các đồng chí hãy cắm lá cờ chiến thắng của chúng ta lên phủ tổng thống nguỵ, đánh chiếm bộ quốc phòng, đài phát thanh, bộ tư lệnh hải quân, bộ tư lệnh thuỷ quân lục chiến. Các đồng chí hãy xứng đáng với vinh dự đó. Các mục tiêu trên đều ở trong Sài Gòn. Tôi nhắc lại: Sài Gòn chứ không phải Biên Hoà. Đồng chí nghe rõ chưa?
Những lời nói vừa trang nghiêm của một mệnh lệnh, vừa rõ ràng như một lời chỉ bảo, vừa thân thiết như một lời dặn dò của tư lệnh quân đoàn làm cho sư trưởng Nam Phong bồi hồi, thẫn thờ mất một lúc. Tư lệnh quân đoàn còn cho biết rằng mục tiêu trước mắt và cũng là cuối cùng của 5 quân đoàn đánh vào Sài Gòn là phủ tổng thống nguỵ. Sẽ có đơn vị vào trước, sẽ có đơn vị vào sau. Điều chủ yếu là phải tổ chức chiến đấu cho giỏi, đạp bằng mọi trở ngại trên hướng tấn công của mình để vào thật sớm. Sư trưởng Nam Phong bàng hoàng, sung sướng ôm lấy đầu, ông nhắm mắt lại một chút rồi mở mắt ra, kéo tấm bản đồ đến trước mặt. Thường vụ Đảng uỷ họp ngay trên bản đồ, thảo luận phương án tác chiến, thông qua quyết tâm.
Chính uỷ Liêm gạt mái tóc phủ xuống trán. Ông gầy đi nhiều sau những đêm không ngủ. Ông nói, giọng Thừa Thiên êm nhẹ:
- Các đồng chí có ý kiến đi, chúng ta nên tổ chức chiến đấu thế nào cho tốt?
Sư trưởng Nam Phong cắn môi nhìn vào vùng Hố Nai, đôi mắt một mí lúc sáng lên, lúc tối sầm lại. Phó chính uỷ Thái nghiêng đầu vừa nhìn bản đồ, vừa hí hoáy viết, anh đang thảo lời kêu gọi cho Đảng uỷ và thủ trưởng gởi cho cán bộ và chiến sĩ trong sư đoàn. Tham mưu trưởng Thứ ngồi thẳng lưng, mắt nhấp nháy liên tục. Chủ nhiệm chính trị Thẩm nhìn hết người này đến người khác. Mệnh lệnh đến rất đột ngột, đi trước những suy nghĩ của họ khiến họ không kịp chuẩn bị ý kiến. Họ hiểu rằng xong Biên Hoà thì sẽ vào Sài Gòn, nhưng ít nhất cũng phải mươi lăm ngày, cho nên đầu óc họ để cả ở Biên Hoà, để cả vào cái sân bay chiến lược cỡ lớn ấy.”Thời gian là lực lượng”, câu nói ấy từ Quân Uỷ trung ương bay vào theo các mệnh lệnh tác chiến. Đến lúc này họ mới hiểu hết nghĩa của câu nói nổi tiếng đó.

Sư trưởng Nam Phong đứng dậy, giọng xứ Nghệ nặng trịch:
- Chúng ta không được ỷ lại vào việc sư 6 mở đường. Trong tình hình địch còn rất đông, hệ thống phòng thủ dày đặc, nằm trên một chính diện hẹp, một chiều sâu rất sâu, có thể sư 6 không thể cùng một lúc đánh hết tất cả các mục tiêu. Sư 6 cũng như chúng ta, vừa hành tiến, vừa nắm địch, vừa tác chiến. Chưa ai rõ tình hình cụ thể cách bộ trí của địch ở Hố Nai ra sao. Tình trạng đánh lướt qua các mục tiêu sẽ xảy ra, địch tan rồi hợp, hợp rồi tan. Vì vậy tôi đề nghị đội hình hành tiến của sư đoàn sẽ phải thành ba thê đội. Cụ thể: Trung đoàn 12 được phối thuộc xe tăng, pháo nòng dài 85 ly, cối 120 ly, trọng liên 12 ly 8, là thê đội đi trước có nhiệm vụ phối hợp với sư 6 quét nốt bọn địch còn sót lại chặn đường, chiếm cho được cầu Ghềnh, cả hai phía đông và tây sông Đồng Nai. Trung đoàn 14 được phối thuộc xe tăng và trọng liên, là thê đội đột kích chủ yếu sau trung đoàn 12, khi trung đoàn 12 chiếm được cầu Ghềnh, lập tức cho xe tăng qua cầu đánh thẳng vào Sài Gòn. Thê đội ba gồm trung đoàn pháo và các phân đội phục vụ, có nhiệm vụ dùng pháo yểm trợ, chi viện cho hai thê đội đi trước chiến đấu. Theo tôi, trong toàn bộ chiều sâu phòng thủ của địch thì Hố Nai là quan trọng nhất, ở đó là ngã ba quốc lộ 1 và xa lộ. Đánh vỡ được Hố Nai thì ta sẽ vào Sài Gòn sớm.
Ông vừa nói vừa rút cái cây chỉ bản đồ giống như cần ăng ten đài bán dẫn, chỉ từng điểm trên bản đồ. Mọi cặp mắt đều chăm chú vào bản đồ. Phó chính uỷ Thái đặt bút, hai bàn tay nắm lại với nhau rất chặt, anh nói:
- Tôi tán thành ý kiến anh Năm. Tôi xin nói thêm, các đồng chí địa phương cho biết vùng Hố Nai dài gần chục cây số nằm hai bên ngã ba xa lộ 1, là một vùng công giáo toàn tòng, một vùng công giáo di cư Bùi Chu – Phát Diệm. Hơn hai chục năm nay, hết bọn nguỵ quyền này đến bọn nguỵ quyền khác, cùng bọn phản động đội lốt tôn giáo đã ra sức mua chuộc, dụ dỗ, lừa gạt đồng bào chống phá cách mạng. Đến bây giờ chúng ta đã thấy rất rõ vì sao bọn Mỹ-Diệm lại cắm họ ở một cái ngã ba chiến lược trước cửa ngõ Sài Gòn như thế này. Vì vậy bộ đội ta đánh vào các căn cứ ở vùng đó phải hết sức tỉnh táo, cảnh giác, chấp hành đúng chính sách tôn giáo, nhưng phải kiên quyết, triệt để phân hoá địch và dân thường bị lừa gạt.

Chính uỷ Liêm nghe hết ý kiến của các uỷ viên thường vụ, khi không còn ai ý kiến nữa, ông mới vừa gõ bút nhẹ lên bàn vừa nói:
- Tôi tán thành ý kiến của các đồng chí, theo tôi vấn đề then chốt cơ bản và quan trọng nhất là” Phải tiến vào Sài Gòn, đánh chiếm các mục tiêu trong nội đô Sài Gòn trong bất cứ tình thế nào, bằng bất cứ giá nào”. Chúng ta đều nhất trí rằng có tiến vào Sài Gòn và đánh chiếm hoàn toàn các mục tiêu trong nội đô Sài Gòn thì mới kết thúc được chiến tranh, mới giành được thắng lợi hoàn toàn cho cách mạng. Bởi vậy, Đảng uỷ chúng ta phải lãnh đạo đơn vị hoàn thành triệt để nhiệm vụ được giao. Tổ quốc và Đảng đòi hỏi sự hy sinh, lòng dũng cảm, chí quyết tâm của mỗi một cán bộ, mỗi một chiến sỹ trong thời điểm lịch sử này sẽ cao hơn nhiều so với quá trình của cuộc chiến đấu. chúng ta phải hiểu điều đó và làm cho bộ đội hiểu điều đó”Sẵn sàng hy sinh chiến đấu để giành thắng lợi triệt để và hoàn toàn cho cách mạng, giành lấy vinh quang tột đỉnh cho tổ quốc, cho nhân dân” Đó là khẩu hiệu của chúng ta lúc này.
Cuộc thảo luận nhanh, gọn, thường vụ nhất trí thông qua ý kiến đề xuất của tư lênh sư đoàn. Các uỷ viên chia nhau xuống các trung đoàn triển khai ngay kế hoạch chiến đấu. Thời gian như ngựa phi, cán bộ chạy ngược chạy xuôi, hon đa, xe Gíp, xe Bắc Kinh phóng giữa ban ngày, xe tăng, xe vận tải, xe kéo pháo từ phía bắc lũ lượt tuôn vào, rẽ ra hai bên rừng cao su, đến vị trí tập kết. Xe giao liên đông nghẹt tân binh, quần áo mới toanh chưa giặt lần nào, họ reo hò đến khản cổ mỗi khi có cán bộ đơn vị đến đón về. Pháo bắn, mặc kệ! Bom nổ, mặc kệ! Súng tàn binh nổ đì đẹt, mặc kệ! Ai có việc nấy, hối hả, say mê trong cái guồng quay khổng lồ. Những dải rừng cao su quanh thị xã Xuân Lộc sôi sục cả đêm lẫn ngày.

XIV


Ngày và đêm 27 tháng 4

Trận bắn pháo kéo dài từng đợt, từng đợt suốt đêm 26 nhằm mục đích làm tan rã  thêm một bước nữa tinh thần bọn nguỵ phòng thủ trong các căn cứ vững chắc trên đường tiến quân của quân đoàn, phá hoại bớt sức đề kháng của chúng, chế áp bớt pháo binh địch, tạo điều kiện thuận lợi cho các trung đoàn bộ binh chiểm lĩnh trận địa. Ở hướng đông bắc và tây bắc Trảng Bom, những chốt tiền tiêu dã ngoại của sư 18 đã rút chạy hết về Trảng Bom trong đêm. Năm giờ sáng ngày 27, pháo cấp tập lần cuối cùng. Bây giờ các trung đoàn của sư đoàn 1 có xe tăng đi trước, bắt đầu đánh vào Trảng Bom.
Ở trong sở chỉ huy sư đoàn 18 tại Long Bình, cách Trảng Bom gần 35 cây số - Rút kinh nghiệm Xuân Lộc, lần này Đảo không đưa sở chỉ huy sư đoàn lên Trảng Bom để khỏi kẹt lại lần nữa – Lê Minh Đảo nhận được tin của trung tá Công, chiến đoàn trưởng chiến đoàn 48 qua máy PRC25:
- Báo cáo chuẩn tướng, cuộc bắn pháo đêm qua của Cộng Sản đã làm vợi đi gần một nữa quân số của chiến đoàn, lớp chết, lớp bị thương, đa phần bỏ trốn. Hiện giờ bộ binh Cộng sản có xe tăng dẫn đầu chiếm cách tôi không đến một cây số. Tôi không đủ sức chống lại cuộc tiến công đó. Xin chuẩn tướng lệnh cho thiết đoàn 5 kị binh ứng cứu ngay.
- Tôi sẽ lệnh ngay, anh yên tâm. Cộng sản tiến công, điều đó rõ rồi, nhưng phải chặn chúng lại, không cho chúng tiến nhanh, anh hiểu chưa? Chúng ta phải giành thêm thì giờ để cho một chính phủ khác có thì giờ lên cầm quyền ở Sài Gòn. Phải có một chính phủ mới, may ra chúng ta còn có chỗ đứng sau này nếu không thì chúng ta hết chỗ đứng, anh hiểu chưa? Vì vậy các anh phải buộc họ tiến chậm lại, càng chậm càng hay. Hãy khen thưởng, phong cấp ngay cho những người trung thành nhất. Hê lô…Trung tá Công đâu?...Hê lô…
Đảo không còn nghe tiếng trả lời nữa. Đảo hậm hực ném tổ hợp xuống bàn. Những lời nói của Đảo vừa rồi Công không nghe được, nó đã mất tiêu trong không gian.
 Đảo gục đầu, cuối mặt xuống, đầu nặng trịch, lòng dạ hết sức rối ren. Tối qua, tin của một người bạn thân ở Sài Gòn cho biết, lão già Hương vẫn chưa muốn từ bỏ chức vụ tổng thống, lão đã đến gặp Minh lớn, mời Minh lớn làm thủ tướng thay Nguyễn Bá Cẩn, nhưng Minh lớn không chịu. Minh lớn đòi lão Hương trao trọn quyền cho Minh. Lính đang chết, phòng tuyến đang mất. Cộng sản đang tiến vào từ bốn năm mặt, nhưng các nhà chính khách lại cứ mặt cả với nhau về ngôi thứ, chức tước. Người Mỹ, sau hiệp định Pa ri, rút được quân về nước coi như thoát nợ, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng bây giờ chỉ ba trăm triệu đô họ cũng không thông qua nỗi. Chẳng bù với những năm trước, một lần họ ném vào cả chục tỉ đô la cũng không có ý kiến gì. Những người Mỹ cuối cùng đang lần lượt leo lên trực thăng chuồn nhanh, ông Thiệu, trụ cột của quốc gia, niềm tin của quân lực đã chạy trốn. Cái bè quốc gia đang trôi trên sông dữ, đang bị bão táp đánh cho tơi tả, không có một ai đứng đầu, không có một ai cầm lái. Lê Minh Đảo cảm thấy thất vọng một cách ghê gớm. Đảo tự hỏi nên làm gì bây giờ? Làm một việc chính trị ư?  Đảo không có khả năng. Đảo chỉ là một viên tướng chỉ đâu đánh đó theo mệnh lệnh cấp trên. Làm một công việc quân sự ư? Thì Đảo vẫn đang chỉ huy một sư đoàn đó. Cộng sản đã dồn lực lượng quốc gia vào chân tường. Sài Gòn không thể trở thành một Xích Bích thứ hai được. Hay bỏ trốn về Sài Gòn kiếm một vé máy bay? Đảo sẽ bị bắt ngay, với lại Đảo không có thế lực gì. Đảo không có nhiều tiền để mua môt vé máy bay cho cả gia đình. Thôi đánh mặc cho số phận đưa đẩy.

Gần sáng Lê Minh Đảo nhận được lệnh của Toàn” Bằng bất cứ giá nào cũng phải cầm chân Cộng sản ở Trảng Bom, Hố Nai để có đủ thời gian lập chính phủ mới”. Toàn ra lệnh phải tung những đội biệt kích, những đơn vị gọn nhẹ, đánh vào phía sau đội hình Cộng sản để hãm bớt đà tiến của họ lại.
Đảo giật mình ngửng đầu khi tên lính thông tin mang máy PRC25 tới:
- Gì đó?
- Dạ thưa chuẩn tướng, trung tá Công xin gặp chuẩn tướng!
Đảo vồ lấy tổ hợp:
- Trung tá Công phải không? Sao anh đang nói chuyện với tôi anh lại bỏ máy? Sao? Di tản à? Ai cho anh di tản? Bây giờ anh đang ở đâu? Ga Long Lạc? Anh bỏ mặc đông bắc Trảng Bom cho Cộng sản rồi! Tôi sẽ đưa anh ra toà, hiểu không?
Đảo áp chặt ống nghe vào tai, nét mặt từ tức giận chuyển qua buồn bã. Đảo thở dài đặt tổ hợp xuống. Trung tá Công vừa nói với Đảo rằng Công cũng có vợ con, cũng có một gia đình như Đảo, chết trong lúc này là vô ích, Công cần phải sống nên Công đã di tản về ga Long Lạc. Một trung tá đã đề nghị thăng cấp đại  tá, bây giờ phát biểu như vậy đó.
Đảo nhìn bản đồ. Chiến đoàn 48 rút về ga Long Lạc, như vậy sườn phía đông Trảng Bom đã bỏ trống. Cánh quân của Cộng sản đang di chuyển theo hướng đông nam của Trảng Bom sẽ tiến nhanh hơn. Đảo bước nhanh xuống hầm chỉ huy, trực tiếp quay máy gọi điện thoại cụm pháo sư đoàn:
- Hê…lô Anh hãy rải đều đều những màn đạn vào đông nam ga Long Lạc, đông nam ga Hố Nai một cây số. Chú ý khoảng giữa Long Lạc và Hố Nai.
Đảo bước sang hầm vô tuyến điện, nói luôn:
- Xin tướng Toàn cho máy bay ném bom liên tục vào các toạ độ như sau. Đảo nhìn lên bản đồ và đọc nhanh, tên lính vô tuyến điện ghi những con số toạ độ lên giấy, chụp ống nghe vào tai.
Đảo bước ra ngoài. Tiếng đại bác nổ phía Long Thành, Nước Trong – Xa hơn nữa phía Bà Rịa – Vũng Tàu khong ngừng vọng đến, hoà nhịp với tiếng đại bác nổ ở Biên Hoà, Hố Nai, Trảng Bom, làm thành một tiếng rền khủng khiếp. Chưa bao giờ Đảo thấy Cộng sản lại có nhiều pháo và bắn pháo nhiều như vậy.
Đảo đang đứng thì một tên lính mang máy PRC25 khác đến:
- Thưa chuẩn tướng, đại tá Dũng xin gặp chuẩn tướng.
- Chiến đoàn 52 bị đánh rồi! Đảo suy nghĩ rất nhanh, quay lại bản đồ, cầm tổ hợp, Đảo nhăn mặt:
- Sao? Một trung đoàn Cộng sản lại tấn công? Thiết đoàn 5 kỵ binh đâu? Bỏ chạy qua chỗ anh ư? Tôi sẽ ra lệnh cho họ quay lại chỗ anh. Còn tiểu đoàn 1/48 thì tôi phối thuộc luôn cho anh chỉ huy. Trung tá Công di tản về Long Lạc rồi! Anh Dũng! Khoan, hãy nghe tôi nói. Phải hãm đà tiến công của Cộng sản lại. Hãm lại nghe không? Ở Sài Gòn chưa có chính phủ mới, anh hiểu không? Sao? Anh Dũng, anh làm gì đấy? Tôi đang nói chuyện với anh….
Đảo dịch ống nghe ra, rồi lại áp chặt vào, một chút Đảo bỏ luôn. Ngô Kỳ Dũng đã bỏ máy.

Chiều 27 tháng 4, quân đoàn phó Khắc Vũ từ sở chỉ huy tiền phương đi Hon đa ra bìa rừng sở cao su ông Quế để kiểm tra đội hình hành quân bằng cơ giới của sư đoàn 7. Trời nắng, gió nhẹ, thỉnh thoảng máy bay trinh sát đảo qua một cách vội vàng nhưng lập tức bị pháo cao xạ đánh đuổi. Máy bay ném bom đang chúi đầu xuống Long Thành, Nước Trong, Hố Nai. Pháo địch thì năm mười hoạ mới vọt tới dăm bảy trái.
Từ xa ông đã nhìn thấy thấp thoáng hình thù những chiếc xe tăng, xe bọc thép, xe vận tải, xe kéo pháo, xe chở xăng dầu…đậu thành hàng dài theo bìa lô cao su, xe nào cũng có cờ, cờ đủ các kiểu: Cờ chéo lớn, cờ đuôi nheo, cờ chữ nhật, cờ đỏ hoàn toàn, cờ xanh đỏ, cờ đỏ sao vàng. Bộ đội mặc toàn quần áo mới, băng đỏ đeo tay, khẩu hiệu mang chéo trên ngực, dán trên mũ, dính trên nắp túi áo. Tay chân, mặt mũi cậu nào cũng lấm lem bụi đỏ và khói đạn, tóc dài chưa kịp cắt, không có thì giờ cắt, nhưng mắt cậu nào cũng sáng, tròn xoay, những đôi mắt tuổi trẻ, những đôi mắt linh lợi, những đôi mắt lấp lánh, mọi thứ tình cảm rạo rực, hồn nhiên đều hiện lên trong những đôi mắt đó.
Chiếc Hon đa giảm dần tốc độ. Đôi mắt ông lướt nhanh qua đoàn cơ giới. Trong đời ông, trong cuộc kháng chiến lần thứ hai này, đây là lần thứ ba ông trực tiếp kiểm tra cuộc hành quân bằng cơ giới. Lần thứ nhất trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, khi trên chiến trường miền Đông, lần đầu tiên lực lượng pháo binh cơ giới xuất hiện. Đó là những khẩu pháo, những chiếc xe chiếm được của địch ở chiến trường. Đó là những khẩu pháo, những chiếc xe từ hậu phương vượt qua Trường Sơn trập trùng thăm thẳm lần đầu tiên tới miền đông Nam Bộ. Ông đã nằm sấp trên đường 13, phía bắc chi khu Lộc Ninh để vừa áp tai xuống mặt đường kiểm tra tiếng động cơ ô tô, vừa nghiêng đầu nhìn hình thù những chiếc xe, những khẩu pháo vừa quen, vừa lạ đó. Ông vốn là một người hay xúc động, một hình ảnh, một lời nói, một câu chuyện, một kỉ niệm đều có sức xao xuyến trái tim ông, những giọt nước mắt cứ ứa ra, tự nhiên, không sao ngăn được. Lần đó nước mắt đã nhỏ ướt một ống tay áo. Lần thứ hai, mới tháng trước, ông đứng bên đường 20 kiểm tra sư đoàn 7 hành tiến lên Lâm Đồng, nhìn những chiếc tăng, những khẩu lựu pháo, pháo cap xạ, xe vận tải đã lăn lộn trên chiến trường miền Đông suốt bốn năm nay. Không một chiếc xe, một khẩu pháo nào không mang thương tích. Những người sử dụng chúng, thân thể cũng nhiều thương tích, nhưng đôi mắt vẫn ngời ngời, tâm hồn vẫn sôi nổi. Và đây là lần thứ ba. Phải chăng là lần cuối cùng? – ông chợt nghĩ – Ông quả quyết đây là lần cuối cùng ông đi kiểm tra theo kiểu này, ông tin chắc như vậy. Từ phút này, cho đến khi cắm được cờ lên nóc dinh Độc Lập thì cả cái đội hình hùng mạnh này chỉ có tiến lên. Sau này,nếu có kiểm tra xe pháo thì đó là những lần kiểm tra duyệt binh, đi kiểm tra diễn tập. Nghĩ vậy, ông có ý định nhìn kĩ hơn những chiếc xe tăng, từng khẩu lựu pháo, từng dàn hoả tiễn, từng cỗ cao xạ, từng chiếc xe vận tải. Ông muốn khắc vào tâm hồn mình, vào kho tàng kỷ niệm ba mươi năm chiến đấu của mình những hình ảnh hào hùng, mới lạ đang hiện ra trước mắt ông, chắc chắn không diễn lại lần thứ hai nữa.

Ông xuống xe, bảo Hạnh lái Hon đa:
- Cậu chờ mình ở đây, rồi ta lên đồi Ngô.
- Dạ! Lên đồi Ngô?
Hạnh ngạc nhiên nhìn ông. Ông cười:
- Ừ, lên đồi Ngô. Lên đó rồi cậu sẽ biết.
Hạnh tắt máy, đậu xe dưới một gốc cao su, xốc lại khẩu AK báng gấp đeo trước ngực.
Quân đoàn phó Khắc Vũ sờ lên sườn từng chiếc T54, sờ lên nòng từng khẩu pháo, sờ lên đầu từng chiếc Zin ba cầu. A! Không phải chỉ có những chiếc tăng, những khẩu pháo, những chiếc xe đã lăn lộn trên chiến trường miền Đông, đã xông vào Phước Long, xông lên Lâm Đồng, Xuân Lộc. Rất nhiều chiếc tăng, nhiều khẩu pháo, nhiều chiếc xe mới từ phía bắc tiến vào.
Ông vừa đi vừa hỏi:
- Các đồng chí ở đâu tới,thuộc lực lượng nào?
- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi ở lữ đoàn pháo binh dự bị chiến lược. Xe pháo tốt, cơ số đạn đấy đủ theo qui định.
- Các đồng chí?
- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi ở lữ đoàn xe tăng dự bị chiến lược. Xe pháo tốt, cơ số đạn đầy đủ theo qui định.
Nước mắt ông bắt đầu rưng rưng, ông hỏi tiếp:
- Các đồng chí vừa từ hậu phương tới phải không? Đi bằng đường nào?
- Rõ! Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi hành quân cấp tốc theo đường 1 và cả đường biển.
- Cả đường biển.
Ông mở mắt to nhìn những chiến sĩ xe tăng đội mũ da trẻ măng.
- Rõ, báo cảo thủ trưởng, cả đường biển.
Ông chớp mắt, hai giọt nước mắt rơi xuống và ông mỉm cười:
- Tôi, tôi lạc hậu tình hình. Bây giờ thì tôi hiểu. Cùng với đất liền, chúng ta đã giải phóng vùng biển, giải phóng các cảng quan trọng. Cảm ơn các đồng chí. Hoan nghênh các đồng chí. Cảm ơn hậu phương thân yêu. Các đồng chí đến rất kịp thời, rất đúng lúc.
Ông lại đi, ông gặp rất nhiều bộ phận mới, ông lại hỏi:
- Các đồng chí từ đâu tới?
- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi từ đoàn vận tải quân sự Quang Trung tới.
Ông ôm chầm lấy những chiến sĩ lái xe vận tải:
- Trường Sơn Tây, Trường Sơn Đông! Tôi biết, tôi biết.
Ông lùi ra, bước lên một gò mối, ông vừa cười vừa nói thật to:
- Chào tất cả các đồng chí! Hoan nghênh tất cả các đồng chí! Cảm ơn tất cả các đồng chí! Hôm nay, trên một hướng đông bắc Sài Gòn này cũng đã có mặt tất cả các đồng chí từ mọi nẻo, mọi đường, mọi hướng, từ hậu phương cùng tới đây để tiến vào Sài Gòn. Hoan hô…hoan hô…
Các chiến sĩ xe tăng, chiến sĩ pháo binh, chiến sĩ vận tải, chiến sĩ bộ binh tự động đứng nghiêm. Các chiến sĩ cùng reo lên
- Hoan hô…hoan…hô…hoan hô…..

Sư trưởng Nam Phong, chính uỷ Liêm, phó chính uỷ Thái, tham mưu trưởng Thứ đang đứng nói chuyện bên hai chiếc xe bọc thép K63. Sau lưng họ còn có hai chiếc xe Giép lấy được ở Xuân Lộc và bốn chiếc Hon đa 90. Chiếc sơn xanh, chiếc sơn đỏ mới tinh. Họ đang chờ quân đoàn phó tới để đi kiểm tra. Nghe tiếng hoan hô từ phía cuối rừng cao su vọng tới, tham mưu trưởng Thứ vội chạy ra, một chút quay vào vừa cười vừa nói:
- Mình thì đứng đợi, anh Ba thì đang kiểm tra, anh đang nói chuyện với pháo binh.
Sư trưởng nam Phong mỉm cười:
- Lính pháo binh mà, tình xưa nghĩa cũ. Xuống đón anh Ba lên, muộn rồi.
Tham mưu trưởng Thứ chạy xuống, một lúc sau dẫn quân đoàn phó lên. Từ xa, quân đoàn phó đã vừa cười vừa huơ tay lên:
- Xin lỗi, xin lỗi, mê quá, xem mãi, nói mãi, đứng mãi. Nào ta bắt đầu.
Chính uỷ Liêm bước tới:
- Đề nghị anh Ba đi kiểm tra.
Ông cười:
- Như vậy cũng là kiểm tra rồi. Tôi đã nói chuyện với anh em, tốt lắm.
- Vậy đề nghị anh trao cờ.
- Trao cờ? Cho đơn vị nào?
- Báo cáo anh Ba cho đại đội xe tăng đi đầu của trung đoàn 14 và đại đội 7, đại đội anh hùng.
- Anh em đứng ở đâu?
- Báo cáo, cụm rằng bên trái, phía đầu kia.
- Nào ta đi.
Tay trái ông nắm tay sư trưởng Nam Phong, tay phải ông nắm tay chính uỷ Liêm, ông đi giữa. Phó chính uỷ Thái và tham mưu trưởng Thứ đã chạy lên trước chuẩn bị cho anh em.
Ông vừa đi vừa nói:
- Xong Trảng Bom từ hai giờ chiều. Sư 1 đang tiến xuống ga Long Lạc, sư 6 tiến xuống Hố Nai. Chúng nó bắn pháo và ném bom dữ lắm nên tiến chậm. Cuộc chiến đấu ở đây không giống như ở Tây Nguyên, ở Đà Nẵng, ở đó chúng nó còn Sài Gòn để chạy về. Còn ở đây chúng nó đã bị dồn đến chân tường rồi, đường không, đường biển đều đã bị chặn đứng, bị cắt đứt nên chúng nó giãy dụa điên cuồng. Bọn ác ôn thì một sống một chết, phải thấy điều đó để chỉ huy anh em. Thời gian khẩn trương lắm. Phải chiếm được Biên Hoà trước 24 giờ ngày 29 tháng 4. Bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh quyết định tiến vào Sài Gòn trước ngày Quốc tế lao động.
Tham mưu trưởng Thứ từ phía trước mặt bước tới:
- Báo cáo anh Ba ở đây! Anh em đã sẵn sàng.

Quân đoàn phó đứng lại rồi rẽ vào bìa rừng. Phó chính uỷ Thái cầm hai cây cờ khá to, rất mới đi theo quân đoàn phó. Ông dừng lại trước đội hình của đại đội xe tăng. Khác với ban nãy, ở đây đã có sẵn không khí trang nghiêm mang tính chất nghi lễ. Nhìn các chiến sĩ xe tăng đầu đội mũ da, chân đi giày vải cao cổ, cứ bốn đồng chí đứng thành một hàng ngang trước đầu xe, vững vàng, chắc chắn như những lõi thép, một sự rung động từ trong đáy tim bỗng lan toả khắp người. Ông đặt tay lên mũ chào anh em rồi đứng lại trước mặt ban chỉ huy đại đội xe tăng. Chính uỷ Liêm và sư trưởng Nam Phong tiến đến cạnh ông. Phó chính uỷ Thái đưa cho ông một cây cờ. Ông cầm cờ, giang rộng ra, ngắm lá cờ rồi bước lên một bước:
- Cờ quyết chiến quyết thắng của Bác Hồ đây. Quân đoàn giao cho các đồng chí cắm lên dinh Độc Lập.
Đại đội trưởng xe tăng bước lên một bước, giơ tay chào rồi đón lá cờ trong tay ông. Đại đội trưởng xe tăng lùi một bước, dõng dạc cất tiếng:
- Chúng tôi xin hứa với bộ tư lệnh quân đoàn. Dù phải hy sinh trước giờ toàn thắng, chúng tôi cũng quyết tâm, người trước ngã, người sau tiến lên. Kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ của chiến dịch Hồ Chí Minh.
- Quyết tâm…quyết tâm….quyết tâm….
Các chiến sĩ xe tăng nắm chặt tay, giơ lên ba lần theo tiếng hô rất mạnh, rất đều.
Ông nắm chặt tay các chiến sĩ xe tăng, những bàn tay của họ cũng nắm chặt tay ông, hai làn da tay miết vào nhau, truyền cho nhau quyết tâm và lòng tin.
Ông cùng các đồng chí bộ tư lệnh sư đoàn quay sang đại đội 7 đứng đối diện với đại đội xe tăng.
Chính trị viên đại đội hô”Nghiêm!” một tiếng rồi quay đằng sau, bước tới trước mặt quân đoàn phó:
- Báo cáo đồng chí tư lệnh phó quân đoàn, tôi, Hoàng Cao Đại, chính trị viên đại đội 7, báo cáo: Đại đội 7 có 42 đồng chí đang sẵn sàng đợi lệnh đồng chí.
- Được!
Ông đáp lễ rồi cầm cây cờ thứ hai trong tay phó chính uỷ Thái, bước tới trước đại đội 7,các chiến sĩ quân phục mới tinh, mũ cối đầy đủ, AK đeo chéo trước ngực, B40, B41, cối 60, súng máy đại đội đều sạch bóng, im lìm trong tay.
Ông nhìn hàng quân như kiếm ai rồi hỏi Đại:
- Đồng chí gì tiểu đội trưởng cắm cờ lên dinh tỉnh trưởng Phước Long đâu rồi?
- Báo cáo đồng chí thủ trưởng, đó là đồng chí Hoan. Đồng chí Hoan cắm cờ lên đỉnh gộp đá ông Phật ở Định Quán…đã hy sinh vào phút cuối cùng của trận đánh.
Quân đoàn phó đột nhiên cắn chặt môi để khỏi kêu lên một tiếng đau đớn. Mắt ông nhoè đi. Hoan đã nằm lại ở Định Quán rồi! Hai lần cắm cờ, tiếc quá! Ông nuốt ực một cái, trao cờ cho Đại:
- Cờ quyết chiến quyết thắng của bác Hồ đây! Quân đoàn giao cho các đồng chí cùng các đồng chí xe tăng cắm lên dinh Độc Lập, hoàn thành nhiệm vụ của chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh.
Đại cầm cây cờ giơ cao lên:
- Toàn thể đại đội 7, đại đội anh hùng, xin hứa với thủ trưởng cấp trên, dù còn một người, đại đội 7 cũng kiên quyết làm tròn nhiệm vụ.
- Kiên quyết…kiên quyết…kiên quyết…..
Ông và các đồng chí trong bộ tư lệnh sư đoàn bắt tay anh em.
Bắt tay xong, ông bước ra giữa. Sư trưởng Nam Phong nhìn đồng hồ rồi nói:
- Báo cáo anh Ba, xin cho sư đoàn xuất phát.
Ông gật đầu:
- Cho xuất phát!

Sư trưởng Nam Phong vẫy tay cho một chiến sĩ vệ binh đứng gần đội hình đại đội 7. Ba loạt AK vang lên. Các chiến sĩ nhảy lên ô tô, chui vào xe tăng, trèo lên mâm pháo. Hàng mấy chục xe tăng, hàng mấy trăm ô tô chở quân, ô tô kéo pháo. Ô tô vận tải bắt đầu nổ máy, khói xịt đen nghịt cả dải rừng, không gian rung lên bần bật, mặt đất như đang rạn nứt ra. Quân đoàn phó xiết chặt tay sư trưởng Nam Phong, chính uỷ Liêm, phó chính uỷ Thái. Ông đứng nhìn theo họ cho đến khi họ ngồi khuất trong những chiếc xe bọc thép. Những chiếc tăng của trung đoàn 14 bắt đầu bò ra đường. Hạnh phóng Hon đa tới. Ông ngồi sau lưng Hạnh giơ cả hai tay vẫy về hai phía.
Chiếc Hon đa theo đường dốc băng lên đồi Ngô. Đến đỉnh, ông bảo Hạnh dừng xe lại trước miếu thổ thần. ông quay về phía Sài Gòn, nhìn đồng hồ nói với Hạnh:
- Năm phút nữa pháo ta sẽ cấp tập!
Bằng mắt thường ông cũng thấy được khói ở Trảng Bom, ở suối Đỉa, ở Bầu Cá đang bay lên từng dải, từng dải. Bọn đich đã bỏ chạy trong những dải khói ấy, để lại sau lưng chúng những dải khói ấy. ông chuyển dần tầm mắt vào Hố Nai, vào Biên Hoà. Khói! Ở đâu cũng có khói” Chúng mày muốn khói lửa – Quân đoàn phó rít lên từng tiếng một - Được lắm, thì chính khói lửa đang thiêu chết chúng mày. Ba mươi năm! Một đời người! Mấy thế hệ!”
Bất thình lình từ các cụm rừng xung quanh, các cỡ pháo bắt đầu gầm lên, gầm lên. Một loáng sau, những cột lửa, những cột khói đã dựng lên ở Hố Nai, ở Biên Hoà. Khói càng lâu càng dài, càng lâu càng nhiều, càng lâu càng cao. Một bức tường khói, một biển khói dựng lên dưới chân trời phía tây, cuồn cuộn, cuồn cuộn. Bên trái ông, đoàn cơ giới của sư đoàn bộ binh số 7 đã ra đến đường quốc lộ, rẽ sang đường quân sự làm gấp. Đoàn xe tiến lên để lại sau lưng, để lại giữa khoảng không những dải bụi đỏ sẫm. Đoàn xe tiến đến đâu, những dải bụi đỏ cuộn lên tới đó.

XV

Ngày và đêm 28 tháng 4


Sáng ngày 28 tháng 4, sở chỉ huy nhẹ của quân đoàn di chuyển lên Trảng Bom. Khói cũ ở Trảng Bom chưa tắt thì khói mới đã đùn lên dày đặc. Bọn địch từ Long Bình, Biên Hoà. Hố Nai bắn pháo tới ngăn chặn lực lượng ta, phá huỷ nốt những gì còn lại. Nhà cửa của đồng bào bốc cháy, công sở của nguỵ quyền sụp đổ, các làng công nhân cao su ở xung quanh Trảng Bom tan nát. Xác lính nguỵ vắt lên bờ rào, vắt từng đám hai bên đường. Xác xe, xác pháo bừa bãi, ngổn ngang mũ sắt, giày ống, ba lô, đạn nhọn, đạn pháo rải kín mặt đất, gạo sấy, gạo bì, cá khô, mắm ruốc, đồ hộp vung vãi. Các chiến sĩ công binh làm việc không ngơi. Họ dùng tay, dùng nạng hót những thứ ngổn ngang trên đường ném xuống rãnh. Họ nhảy lên những chiếc máy ủi,máy gạt của địch còn tốt san lấp hố bom, hố pháo, dọn đường cho xe pháo hành quân, cho bộ binh hành quân.
Cuộc chiến đấu nhằm đập vỡ tuyến phòng thủ then chốt của địch ở Hố Nai đang rất quyết liệt. Ngoài những căn cứ có sẵn như hậu cứ của thiết đoàn 18, căn cứ biệt động quân, các đồn bảo an, các trận địa pháo, bọn địch đã biến tất cả các nhà thờ ở khu vực Hố Nai thành những cụm, những ổ chiến đấu. Mỗi gác chuống nhà thờ là một lô cốt. Bọn địch bố trí súng M72, hoả tiễn TOW chống tăng, trọng liên 12 ly7 và cả ĐKZ57 trên những cửa sổ của tháp chuông. Bọn địch đào đường, rải mìn chống tăng dày đặc, chúng huy động nhân dân kéo từng đống, từng cuộn dây thép gai ra đường, tầng tầng, lớp lớp. Chúng phát lựu đạn, súng M16 cho phụ nữ, trẻ con. Xe tăng M48, M41 của thiết đoàn 5, của lữ 3 kỵ binh nấp sau các ụ đất, các hầm bọc bao cát, chĩa nòng pháo ra phía trước bắn như điên dại. Lữ đoàn 258 thuỷ quân lục chiến rải dày từ Hố Nai về Biên Hoà, sư đoàn 18 từ Hố Nai về Long Bình, chiến đoàn bảo an 318 giữ khu vực Hố Nai – Tam Hiệp. Bọn địch chiếm các dãy phố, nhà dân, công sở, trưởng học, bệnh viện, khuân bao cát đắp thành lô cốt. Chúng ở lẫn lộn với dân, dùng dân làm lá chắn, đấy dân chống lại bộ đội. Cái điều khó khăn nhất đối với tư lệnh các sư đoàn không phải quân số địch còn rất đông, toàn là tụi ác ôn, ngoan cố, không phải pháo địch dựng lên những bức tương lửa trước mặt họ, mà chính là việc bọn địch đã trà trộn, đã xen kẽ với dân. Nhìn nhãng dãy phố dài dằng dặc, đông nghẹt địch và dân ấy, các tư lênh sư đoàn chưa thể ra lệnh cho pháo binh, xe tăng, đổ đạn xuống phá huỷ được. Họ biết đồng bào công giáo ở đây đang bị địch lợi dụng triệt để với âm mưu rất độc ác. Việc phân hoá địch và dân trong giờ phút này là một việc rất khó khăn. Bộ đội buộc phải tạm dừng đào công sự, các cán bộ địch vận bò dưới làn đạn địch bắc loa điện kêu gọi. Các tiểu đội trinh sát cải trang thành lính nguỵ tìm cách trà trộn, đột nhập vào các dãy phố để nắm chắc mục tiêu. Cuộc chiến đấu từ cảnh ồ ạt chuyển qua chọn lựa đánh từng mục tiêu, chiếm bàn đạp, đánh rộng ra, cô lập địch và dân.

Tình hình đang khó khăn, khẩn trương nhưng quân đoàn phó Khắc Vũ lại không nắm được tin tức. Sở chỉ huy di chuyển, các tuyến đường dây điện thoại cũng cuốn theo. Phải chờ ít nhất vài ba giờ mới rải kịp đường dây mới. Quân đoàn phó báo cáo tình hình đó về sở chỉ huy cơ bản. Tư lệnh quân đoàn Hoàng Cầm và chính uỷ quân đoàn Hoàng Thế Thiện chỉ thị để sư 6 lại tác chiến ở Hố Nai, lệnh cho sư 1 bỏ Hố Nai vu hồi ngay vào Biên Hoà. Đánh vỡ Biên Hoà, nhất định Hố Nai cũng vỡ. Tư lệnh quân đoàn còn thông báo trên mặt trận hướng đông, các sư đoàn của quân đoàn 2 đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Bà Rịa, căn cứ thiết giáp Nước Trong, chi khu quân sự Long Thành, cắt đứt hoàn tòan đường 15 Long Bình – Vũng Tàu, một sư đoàn đang thọc qua Nhơn Trạch, một sư đoàn đang thọc xuống Vũng Tàu, một sư đoàn đang đánh lên Long Bình. Quân ta lúc này đang chỉ cách Sài Gòn 32 cây số. Tư lệnh quân đoàn thúc phải đánh nhanh vào Biên Hoà, nếu không thì sẽ muộn.
Nhận lệnh, quân đoàn phó xem bản đồ rồi viết lệnh giao cho hai chiến sĩ thông tin đi Hon đa mang tới sư 1. Lệnh chuyển đi rồi, nhưng quân đoàn phó vẫn rất nóng ruột, lệnh viết ra giấy không nói được dài, không nói được kỹ, không biết cấp dưới có hiểu được ý đồ của trên không? Đường điện thoại chưa nối được. Quân đoàn phó đi đi lại lại. Hướng quân đoàn 2 có thuận lợi. Nếu các đồng chí ấy chiếm được Long Bình sớm thì các đồng chí ấy sẽ vào Sài Gòn trước mình. Long Bình – Sài Gòn chỉ hơn hai mươi cây số theo xa lộ, cơ giới đi được cả hai chiều. Quân đoàn phó càng nóng ruột. ông quay lại bàn, thấy một cán bộ đang thập thò trước cửa, ông hỏi:
- Có gì không đồng chí? Điện thoại mắc xong chưa?
Anh cán bộ đứng nghiêm:
- Báo cáo thủ trưởng, có bản tin mới, còn điện thoại tôi không biết.
- Đồng chí ở Cục chính trị à?
- Rõ!
- Bản tin gì đấy?
- Báo cáo thủ trưởng, tin tham khảo lấy được của địch.
- Đâu, đưa đây!

Quân đoàn phó cầm bảng tin, ông đang rất cần biết các tin tức, ông đeo kính vào đọc rất nhanh:
AFP: “ Đêm qua 27-4 quốc hội Sài Gòn họp khẩn cấp. Với 134 phiếu thuận, quốc hội đã thông qua nghị quyết để Trần Văn Hương rút lui. Trao lại chức tổng thống Việt Nam cộng hoà cho tướng Dương Văn Minh. Có 75 nghị sĩ và dân biểu không đến họp mà không có lý do”
- Tụi nó chạy trốn còn đâu. Tất cả đều đã muộn rồi – Ông nói và đọc tiếp:
AP:” Hôm qua, 27-4, cơ quan tuỳ viên quốc phòng  Mỹ ở Sài Gòn báo tin sẽ đóng cửa trong vòng 36 giờ. Chấm dứt chế độ cố vấn quân sự Mỹ kéo dài đã 25 ở nam Việt Nam”.
- Chúng nó cút!
Ông nhếch mép cười một cách chế giễu.
UPI 27-4: “ Sài Gòn đã đặt toàn thể quân đội của họ trong tình trạng báo động 100%, bắt đầu giới nghiêm suốt ngày đêm khu vực Biên Hoà – Long Bình. Tình hình Sài Gòn rất căng thẳng”
AFP 26-4: “ Ngày 25-4, tại sân bay Tân Sơn Nhất, khoảng 2.000 đến 3,000 người, hầu hết là sĩ quan nguỵ và gia đình họ đánh nhau dữ dội để tranh nhau lên máy bay. Quân cảnh bắn chỉ thiên,cố khôi phục trật tự nhưng họ bị ngập trong biển người. Cửa máy bay đóng sập lại khi phi hành đoàn thấy máu bay sắp bị tràn ngập. Sự hoảng loạn giống như tình hình ở Đà Nẵng cách đây ít lâu”
UPI 26-4: “ Nhiều lính thuỷ đánh bộ Mỹ xuất hiện ở sân bay Tân Sơn Nhất là để kiểm soát hoạt động di tản rất căng thẳng này”.
AP26-4:” Ở Sài Gòn chỉ còn ba công ty hàng không tiếp tục tổ chức các chuyến bay cho khách Sài Gòn. Đó là các công ty hàng không Việt Nam, Trung Hoa quốc gia và công ty hàng không Pháp. Họ cho biết họ đã bán hết vé đến ngày 2-5. Công ty hàng không Trung Hoa quốc gai sau ngày 26-4 không nhận ghi tên mua vé nữa”
AP 26-4:” Hai ngân hàng lớn của Mỹ là ngân hàng nước Mỹ, ngân hàng Tsê – xô Man hát tơn đã rút chi nhánh của họ khỏi Sài Gòn. Hành động đóng cửa vội vã của hai chi nhánh này có thể có những hậu quả cựa kì nghiêm trọng. Cùng với việc đóng cửa các ngân hàng nước ngoài tại Sài Gòn, các sứ quán nước ngoài cũng tiếp tục rời Sài Gòn. Sau Anh là Ma-lay-si-a, Úc, Thái Lan”.
Quân đoàn phó Khắc Vũ bỏ qua những tin nói về tình hình Sài Gòn hơi giống nhau, ông giở tiếp trang tin chiến sự cắm cuối đọc:
AP 27-4:” Trước lúc rạng đông, quân Cộng sản đã bất thình lình xuất hiện cách Sài Gòn 5 km, bắn vào quân nguỵ gác một chiếc cầu đi Biên Hoà làm tắc ngẽn giao thông. Cộng sản còn bắn 250 phát súng lớn vào Củ Chi, bản doanh của sư đoàn bộ binh nguỵ số 25”.
UPI 27-4:”Bộ binh và pháo binh Cộng sản siết chặt các thòng lọng của họ quanh Sài Gòn, chu vi phòng thủ đang co lại nhanh chóng. Họ bắn phá dữ dội các căn cứ Biên Hoà, Hố Nai – Long Bình và các căn cứ khác ở ba phía cách Sài Gòn không đầy ba mươi cây số. Việt Cộng xuất hiện gần cơ quan viện trợ Mỹ USAIĐ ở phía bắc thành phố Sài Gòn, chặn đường số 1, không cho ai đi vào hoặc đi ra. Bộ binh nguỵ không đánh bật được Việt Cộng ra khỏi khu nhà của USAIĐ, khu nhà này là một kho chứa đồ tiếp tế của Mỹ”.

- Đặc công vào được rồi. Tốt lắm. Quân đoàn phó châm một điếu thuốc và rít từng hơi dài. Ông đọc tiếp:
AFP 27-4:”Đường số 1từ Sài Gòn đi Biên Hoà đã bị cắt đứt bên kia cầu Long Bình, cách Sài Gòn gần hai mươi cây số. Sài Gòn bị cắt đứt ít nhất là tạm thời với Hố Nai”.
- Thằng Tây này nhầm rồi, đó là xa lộ chứ không phải đường số 1. Đường số 1 qua thị xã Biên Hoà kia.
UPI 27-4:” Lính của một tiểu đoàn dân vệ đựơc đưa từ Sài Gòn lên mặt trận Long Thành đã vứt súng thành đống dọc đường rồi chạy về Sài Gòn khi đạn súng lớn của Cộng sản bắn cách chỗ tiểu đoàn này 400 mét. Các chuyên gia quân sự nói rằng, toàn thể khu vực Long Bình – Biên Hoà có nguy cơ mất đến nơi. Cũng như tình hình Đà Nẵng trước đây, những người dân bị chính quyền bắt di tản đã dồn từ Long Bình xuống phía nam. Rất đông quân nguỵ chạy lẫn vào trong dân chúng. Những tên lính nguỵ bỏ chạy về Sài Gòn này thuộc sư đoàn 18 bị đánh tơi tả ở Xuân Lộc, Trảng Bom”.
UPI 27-4:” Mặc dù lính thuỷ đánh bộ, lính dù, lính biệt động, ba loại quân trước đây là sừng sỏ của Sài Gòn đã cố gắng hết sức để hãm bớt đà tiến công của họ, nhưng lúc chập tối ngày 26-4 Cộng sản đã chiếm Long Thành, Phú Mỹ, Bà Rịa. Họ đang tiến về phía sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, thắt chặt thêm vòng vây quanh Sài Gòn”.
Roi-tơ 27-4:” Sân bay chiến lược Biên Hoà đã bị phá huỷ không dùng được nữa. Sài Gòn đã di tản những chiếc máy bay còn lại về Tân Sơn Nhất và Bình Thuỷ. Bộ binh và xe tăng Cộng sản đang tiến về Sài Gòn từ hai hướng một lúc, hướng đông và đông bắc. Hầu như họ đã hoàn thành việc bao vây Sài Gòn. Đây hình như bắt đầu giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam. Một nguỵ quyền mới ở Sài Gòn chẳng còn gì nữa mà để thương lượng với phía bên kia. Quân đội nguỵ hôm nay người ta thấy trên các ngã đường từ phía đông chạy về Sài Gòn, trông có vẻ không còn lòng dạ nào để chiến đấu nữa. Một số đông quân nguỵ ở đó lẫn trốn vào từng dòng người tị nạn, súng ống đã vứt đi rồi”.
Quân đoàn phó ném mẫu thuốc lá ra ngoài, định rút điếu thuốc khác thì một cán bộ thông tin chạy vào, giọng hớn hở:
- Báo cáo thủ trưởng, đường dây nối xong, mời thủ trưởng xuống làm việc.
Ông vui vẻ đứng ngay dậy, đem theo bản đồ đi về phía hầm điện thoại vừa triển khai xong.

Chiều 28 tháng 4, tuy cuộc chiến đấu ở Hố Nai đang diễn ra quyết liệt, đội hình cơ giới của sư đoàn 7 cũng đang từ đường quân sự làm gấp tiến ra quốc lộ 1. Một bộ phận quân địch không hiểu từ đâu tới, xuất hiện ở tây nam Trảng Bom và ga Song Mây. Một đơn vị của sư 6 được điều động tới, trận đánh diễn ra ngay trước mặt sư đoàn. Các chiến sĩ sư đoàn 7 ngồi trên xe tăng chĩa súng ra hai bên đường, họ theo dõi cuộc chiến đấu của đơn vị bạn và bọn địch một cách tò mò, háo hức và có vẻ thú vị. Trên đường, dân di tản lớp quay ngược lại Xuân Lộc, lớp lại từ Xuân Lộc đi về Hố Nai. Đàn bà, con nít, ông già, có cả thanh niên, họ mang trên mình đủ thứ túi, những tốp đi vào cắm đầu xuống mà đi, thánh giá lúng liếng trước ngực, mắt lấm lét nhìn những chiếc xe tăng lù lù bên đường, những tốp trở lại Xuân Lộc mặt mày rạng rỡ, họ vẫy tay, họ hoan hô. Xuân Lộc và những vùng đất trước mặt họ không còn bom đạn, đã hết chiến tranh. Suốt hai bên đường từ Trảng Bom xuống Hố Nai, làng này tiếp làng khác, xóm này nối xóm kia. Nóc nhà thờ, cái đỏ ối màu ngói, cái trắng xoá màu vôi, tháp chuông ngất ngểu ngoảnh mặt ra đường. Trước sân nhà thờ, trên mái bằng các cửa hiệu, các ngôi nhà giàu có, nhiều lô cốt bằng bao cát đã bị phá tung. Dấu nổ của những chùm thủ pháo, của những trái B40, B41 còn in rất rõ. Đôi chỗ còn dấu vết của những phát ĐK. Có một điều lạ là những ngôi nhà, những mái bằng đều không bị hư hại. Chiến sĩ đã tiếp cận mục tiêu gần tới mức bắn đâu trúng đó. Những dấu vết các trận đánh để lại chứng tỏ bọn đich đã không tháo chạy như Tây Nguyên, chúng chưa chịu đầu hàng, chưa chịu thua ngay, chúng vừa đánh vừa lùi dần từng bước một.
Cửa Hố Nai vẫn chưa mở được. Đội hình của sư đoàn buộc phải dừng lại. Sư trưởng nam Phong lệnh cho các đơn vị phân tán xe pháo ra hai bên đường, các đơn vị cao xạ sẵn sàng chiến đấu. Lệnh vừa phát đi, bộ đội đang phân tán đội hình thì từ hướng Sài Gòn hai chiếc F-5Elao tới. Các khẩu cao xạ lên tiếng. Hai chiếc F-5E lao dọc theo đường cắt bom thành một vệt dài. Khói bom chưa bay hết thì pháo Biên Hoà – Long Bình đã bắn dày dọc hai đường.
Một chiến sĩ thông tin trinh sát kĩ thuật ôm máy chạy tới chủ nhiệm thông tin:
- Báo cáo thủ trưởng, có một cái máy của địch gần đâu đây đang gọi pháo bắn vào đội hình ta.
Chủ nhiệm thông tin lên gặp sư trưởng Nam Phong, ông nói to:
- lệnh cho các đơn vị tổ chức lùng sục ngay.
Trận pháo bắn của địch thật tai hại: Hai khẩu pháo cao xạ 57 ly, hai khẩu 37 ly, một pháo nòng dài 85 ly, 3 xe vận tải bị phá huỷ, gần một trung đội thương vong.
Dứt đợt pháo, chính trị viên Đại từ dưới gầm xe tăng đứng dậy ra lệnh cho chiến sĩ khuân bao cát ở các lô cốt địch chất lên hai bên thành và quanh tháp pháo của xe tăng, vừa làm các bệ bắn, vừa bảo vệ xe tăng.

XVI

Ngày và đêm 29 tháng 4


Dứt loạt pháo kích, Nguyễn Văn Toàn từ dưới hầm bê tông bò lên, chạy ngay ra chiếc trực thăng UH1 đậu sẵn trong cái khung chữ U bằng bao cát cạnh nhà ở.
- Cất cánh!
Toàn ra lệnh, mặt tái đi chỉ sợ loạt pháo kích khác rơi xuống. lần đầu tiên Toàn nếm mùi đại pháo 130 ly.
- Thưa trung tướng, đi về hướng nào?
- Long Bình, sở chỉ huy sư 18.
Mấy sĩ quan hậu cần cũng đã từ trong nhà chạy ra leo vội lên máy bay. Chiếc máy bay cất cánh thẳng đứng rồi bay về Long Bình.
Nguyễn Văn Toàn chuẩn bị chuyến bay sang gặp Lê  Minh Đảo từ đêm qua 28 tháng 4 sau khi đã ra lệnh cho một phần sở chỉ huy quân đoàn di chuyển sang tây sông Đồng Nai bằng đường bộ, nhưng Toàn không sao ra khỏi hầm được. Pháo binh Cộng sản bắn không ngớt. Gần sáng, Toàn được tin các trung đoàn Cộng sản đã xuất hiện ở đông bắc, tây bắc Biên Hoà. Họ tiến dưới sự che chở của hoả lực pháo binh. Một cánh khác đã đánh bật được phần lớn tuyến ngăn chặn then chốt ở Hố Nai mở đường xuống, quặp vào đông nam Biên Hoà. Cũng gần sáng, Toàn nhận được lệnh của Vĩnh Lộc vừa thay Cao Văn Viên làm tổng tham mưu trưởng” Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh bằng bất cứ giá nào cũng phải giữ những phần đất còn lại, thực hiện trì hoãn chiến để liên lạc với phía bên kia để tiến hành thương lượng”.
Cộng sản sẽ chiếm Biên Hoà, điều đó chỉ còn ngày giờ. Vì vậy Toàn phải gặp Lê Minh Đảo để giao nhiệm vụ trì hoãn chiến cho Đảo.
Chiếc máy bay hạ dần độ cao, không lượn vòng, đậu ngay trên sân trước một ngôi nhà. Cửa trực thăng mở, Toàn xách cặp bước xuống, đi thẳng vào nhà. Nghe tiếng trực thăng, Đảo từ trong nhà chạy ra, gặp Toàn ở cửa.
- Chào anh – Toàn nói ngay – Tôi gặp anh có việc gấp. vào phòng làm việc của anh.
Đảo đi trước, mở cửa buồng. Toàn ngồi nhanh xuống cái ghế bành bọc gấm đỏ, nhìn Lê Minh Đảo với cặp mắt thăm dò, Đảo sốt ruột nhìn Toàn:
- Có chuyện gì vậy, thưa trung tướng.
Toàn ngồi ngay lại, hai tay chống lên đầu gối, đầu nhô về phía Đảo.
- Tôi nói thêm với anh một vài tình hình mới nhất của các mặt trận xung quanh Sài Gòn: Ở hướng bắc, tây bắc, tây nam đêm qua Cộng sản đã đánh vào Lái Thiêu, Củ Chi, Hậu Nghĩa. Cũng tối hôm qua một sư đoàn Cộng sản đã thâm nhập vào tây bắc và đông bắc Biên Hoà. Tuyến ngăn chặn Hố Nai bị chọc thủng, ở hướng đông, Cộng sản chiếm Vũng Tàu, Nhơn Trạch, bắn đại pháo 130 ly rất mạnh vào Tân Sơn Nhất, sân bay cuối cùng. Cũng chiều hôm qua Cộng sản dùng máy bay F5, A37 ném bom Tân Sơn Nhất gây chấn động dư luận, ảnh hưởng rất lớn. Nó như là một tối hậu thư buộc tổng thống Dương Văn Minh đi tới quyết định cuối cùng là yêu cầu người Mỹ rút khỏi Việt Nam cộng hoà trong vòng 24 giờ. Tổng thống đã cử người vào Tân Sơn Nhất liên lạc với Cộng sản nhưng chưa có tin gì mới. Tổng thống ra lệnh bằng bất cứ giá nào cũng phải giữ phần đất còn lại, thực hiện trì hoãn chiến để tổng thống và chính phủ Vũ Văn Mẫu có thì giờ liên lạc với phía bên kia tìm một giải pháp thương lượng.

Đảo ngắt lời:
- Xin phép trung tướng cho tôi hỏi, liệu Cộng sản có chịu thương lượng không? Họ đang tiến về Sài Gòn với xe tăng và đại bác, liệu….
Toàn xua tay ngắt lời Đảo:
- Tổng thống đang giương lá cờ của phe thứ ba. Tổng thống có em trai là Cộng sản, tổng thống chống ông Thiệu. Tổng thống là nhân vật mà Cộng sản có thể chấp nhận. Vì vậy phải cầm chân Cộng sản lại, không cho họ vào Sài Gòn sớm. Chúng ta còn cả quân khu Bốn và đồng bằng Nam Bộ. Hình như cảm thấy những lời nói của mình đi quá sang địa hạt chính trị. Toàn quay lại chủ đề chính:
- Mặt trận tây nam, tây bắc và bắc Sài Gòn Cộng sản có ba quân đoàn. Vì vậy bộ chỉ huy quân đoàn phải  dời sang Gò Vấp để chỉ huy phòng thủ. Mặt trận đông Sài Gòn giao cho anh.
- Giao cho tôi? Đảo sửng sốt hỏi ngay, nét mặt gần như lo sợ - Tôi còn gì trong tay để làm nhiệm vụ qua lớn đó.
- Tôi sẽ tăng phái cho anh lữ đoàn thuỷ quân lục chiến 468, chiến đoàn 315, hai liên đoàn biệt động để phòng thủ phía đông nam, hướng Long Bình, chặn Cộng sản từ Long Thành theo hướng 15 lên. Hướng đông bắc tôi sẽ tăng phái cho anh lữ 3 kỵ binh, chiến đoàn 318, lữ đoàn thuỷ quân lục chiến 258. Còn lữ đoàn dù 2 sẽ phân tán ra giữ tất cả các cầu trên xa lộ, quốc lộ 1.
Đảo cuối đầu, tiếng nói của Toàn lọt vào tay này đã chui qua tai bên kia, qua tiếng thình thình của đại bác. Đảo ngửng đầu nhìn Toàn:
- Thưa trung tướng, nhiệm vụ đó quá sức tôi. Tại sao trung tướng không giao nhiệm vụ đó cho tướng Tường tham mưu trưởng hay tướng Khôi chỉ huy trưởng thiết giáp?
Toàn lắc đầu:
- Tôi cân nhắc rồi anh Đảo ạ, ngoài anh ra không ai làm nỗi nhiệm vụ đó. Anh đã giữ vững Xuân Lộc được 12 ngày đêm. Dư luận Sài Gòn đang chú ý đến anh. Anh ráng làm tốt nhiệm vụ. Biết đâu anh sẽ làm được một việc gì đó, góp phần cứu vãn tình thế, cùng quân lực vượt qua cơn hiểm nghèo này. Tôi nói thêm với anh là tướng Viên đã bỏ sang Thái lan trưa hôm qua. Tổng thống đã cử trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức tổng tham mưu trưởng. Nhưng hai ngày nay hầu như bộ tổng tham mưu hầu như không làm việc nữa. Chúng ta tự bảo nhau xoay xở lấy thôi.
Toàn dừng lại, nhớ xem còn cần nói thêm gì nữa không. Toàn liếc nhìn Đảo rồi đứng dậy chìa tay ra:
- Bây giờ là 10 giờ ngày 29 tháng 4, anh chính thức thay tôi chỉ huy toàn mặt trận hướng đông Sài Gòn. Chúc anh thành công.
Đảo đứng lên như một cái máy, nắm lấy tay Toàn, trong mắt đảo lộ vẻ bối rối.
- Tất cả kho tàng của quân đoàn bên này sông Đồng Nai anh có toàn quyền sử dụng. Máy bay yểm trợ không còn nữa, chúng ta chỉ còn pháo binh, anh cho dùng tối đa.
Những lời nói cùng vẻ mặt, cùng cử chỉ của Toàn làm nảy sinh trong óc Đảo một cái gì đó giống như sự hoài nghi. Đảo đứng nhìn theo chiếc máy bay lên thẳng bay về bên kia sông Đồng Nai. Chiếc máy bay bay càng xa, nhưng sự hoài nghi lại càng gần, càng rõ.
Đảo quay vào nhà ngồi xuống ghế, ôn lại những gì Toàn vừa mới nói. Đảo nhìn xoáy vào chỗ Toàn vừa ngồi, lẩm bẩm:
- Trì hoãn chiến để cho tướng Minh có đủ thì giờ liên lạc với phe bên kia - Đảo lắc đầu, sự thất vọng hiện rõ trên mặt – Lá cờ thứ ba, lực lượng thứ ba, chính phủ ba thành phần, đó chỉ là sách lược của Cộng sản khi họ ký hiệp định Pa-ri. Còn bây giờ, khi Sài Gòn đã nằm trong tầm tay của họ thì họ cần gì cái lá cờ thứ ba, cái lực lượng thứ ba đó. Mình ở địa vị của họ thì mình cũng không cần nữa là họ. Giành lấy chiến thắng hoàn toàn về quân sự lại không triệt để hơn hay sao? Đảo nghĩ và cảm thấy chua chát. Tổng thống Thiệu bỏ chạy, bộ trưởng quốc phòng Trần Văn Đôn bỏ chạy, tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên bỏ chạy. Tướng Toàn sang Gò Vấp à? Bên ấy gần Tân Sơn Nhất, tướng Toàn rất quen với bọn không quân. Rồi! Tướng Toàn cũng chạy thôi. Tất cả đều đi đứt. Tất cả đều đã sụp đổ. Tất cả đều đã tan vỡ trong tiếng đại bác của Cộng sản…Tất cả đều đã muộn, dù có muốn làm gì….
Lê Minh Đảo úp mặt vào lòng bàn tay, mái tóc dày rủ xuống đôi vai khép lại, rung lên.

Tiếng trọng pháo nổ gần làm Đảo giật mình. Đảo ngửng đầu lên rồi đi tìm Huỳnh Thao Lược, tham mưu trưởng sư đoàn. Đảo gặp Lược ở sở chỉ huy. Lược hỏi ngay:
- Tướng Toàn đã giao cho anh chỉ huy mặt trận phía đông phải không?
- Đúng, tôi không nhận nhưng ông ta cứ ốp mãi. Nói xong ông ta đi ngay, tôi không kịp hỏi nữa.
- Anh tính bây giờ nên thế nào?
Đảo lắc đầu:
- Mặt trận Long Thành bể rồi, Cộng sản đang tiến về đây, sức đâu mà ngăn được họ. Hố Nai cũng thủng rồi, Cộng sản đang tiến vào Biên Hoà - Đảo lại lắc đầu - Kệ tướng Toàn, kệ họ, tôi chỉ biết có sư 18.
Đảo cuối đầu ngẫm nghĩ, rồi ngững phắt lên nhìn Lược:
- Anh ra lệnh cho pháo các chiến đoàn, pháo của sư đoàn rút dần bên kia sông Đồng Nai từ giờ đến năm giờ chiều. Đóng thành cụm yểm trợ cho sư đoàn sang sông.
Huỳnh Thao Lược mở to mắt:
- Toàn sư đoàn sang tây sông?
Đảo gật đầu:
- Qua đêm nay, qua gấp, lập tuyến phòng thủ mới ở Thủ Đức. Chúng ta không thể chống lại hai mũi dùi của Cộng sản nhằm vào đây một lúc. Sang hết sẽ phá cầu, phá tất cả các cầu. Chỉ có cách đó mới tạm thời cầm chân được Cộng sản thôi.
Huỳnh Thao Lược sáng mắt lên, dạ một tiếng rồi quay ngay vào hầm chỉ huy.

Buổi trưa, trong sở chỉ huy tiền phương của quân đoàn ở Trảng Bom, quân đoàn phó Khắc Vũ đang ngồi theo dõi bước tiến các trung đoàn của sư 1 vu hồi vào tây bắc Biên Hoà thì một trợ lý phòng 2 từ hầm của đài trinh sát kỹ thuật hộc tốc chạy lên, nói không kịp thở:
- Báo cáo thủ trưởng…Báo cáo anh Ba, đài kỹ thuật bắt được một tin quan trọng.
Quân đoàn phó quay hẳn cả người lại, nhìn đồng chí trợ lý:
- Tin gì? Bình tĩnh báo cáo xem.
- Dạ, chúng tôi vừa bắt được tin quân đoàn 3 nguỵ ra lệnh rút sang bên tây sông Đồng Nai.
Cặp lông mày của quân đoàn phó lập tức giao lại với nhau:
- Đồng chí nói sao? Bộ chỉ huy của quân đoàn 3 hay tất cả lực lượng của quân đoàn 3?
Đồng chí trợ lý hơi lúng túng, anh nhớ lại bản tin rồi nói một cách quả quyết:
- Dạ, bộ chỉ huy quân đoàn 3.
Quân đoàn phó gật đầu, ngẫm nghĩ, ông nói:
- Tiếp tục theo dõi đi, tin quan trọng đấy!
- Rõ!
Đồng chí trợ lý quay đằng sau, chạy về hầm.
- Bọn chỉ huy quân đoàn 3 rút về bên kia sông – Quân đoàn phó lẩm bẩm – Hoàn toàn có lý. Cánh tây bắc của ta đã đánh Củ Chi, cánh bắc đã thọc xuống Lái Thiêu, ở đây Nguyễn Văn Toàn đang nằm trong tầm đạn cối và đại liên. Bên ấy dù sao cũng còn rộng đường. Toàn sang bên kia sông là phải thôi. Chúng nó sang bên kia sông. Chúng nó sẽ làm gì?
Quân đoàn phó nghĩ tới đó, lập tức ông cầm máy điện thoại gọi chủ nhiệm pháo binh quân đoàn:
- A lô! Anh nghe rõ không? Chú ý, có tin bộ tư lệnh quân đoàn 3 nguỵ đã chạy về bên tây sông Đồng Nai. Chúng nó rút hết, có thể chúng sẽ phá cầu ngăn chặn ta. Anh biết đấy, với hai con sông lớn đó việc làm cầu quân sự hoặc ghép phà dưới hoả lực của hàng trăm khẩu pháo là một viêc hết sức gay go. Vì vậy tôi ra lệnh dùng hai khẩu 130 ly đặc trách kiềm chế địch ở hai đầu cầu, hai bên cầu, bắn cầm canh, không cho địch phá cầu. Trong lúc bộ binh ta chưa chiếm được cầu  thì pháo phải làm nhiệm vụ đó. Anh rõ chưa? Rõ rồi à? Chấp hành ngay từ phút này.
Quân đoàn phó bỏ máy xuống, nhìn đăm đăm vào khoảng không trước mặt. Nếu bọn địch phá những chiếc cầu lớn ấy thì thật là một điều vô cùng tai hại. Nó sẽ tạm thời chặn được xe tăng, pháo binh, các mũi tiến quân của ta ở bên này sông. 0 giờ đêm nay, ngày 30 tháng 4, cuộc tổng công kích vào Sài Gòn bắt đầu rồi. Phải mở ngay một cuộc chạy đua với địch không thì sẽ khó khăn lớn. Ông đứng lên, lông mày hết nhíu lại rồi giãn ra. Ông bước tới một máy điện thoại khác gọi về sở chỉ huy cơ bản báo cáo tin quan trọng đó và đề nghị ý kiến xử trí. Cuộc nói chuyện bằng điện thoại kéo dài chừng mười phút.
Quân đoàn phó trở lại bàn, nét mặt đỡ lo hơn. Ông ra lệnh triệu tập ngay ba sư trưởng bộ binh và các thủ trưởng đơn vị trực thuộc, các chủ nhiệm binh chủng tới họp khẩn cấp.
Quyết tâm đánh chiếm căn cứ liên hợp Biên Hoà trước 0 giờ đêm nay, ngày 30 tháng 4 để cùng tất cả các mặt trận bắt đầu tổng công kích vào Sài Gòn đã làm cho các sư đoàn trưởng, các trung đoàn trưởng đứng ngồi không yên. Nay cái tin bọn chỉ huy địch sau khi rút bên tây sông có thể phá cầu càng làm cho ruột gan họ như có lửa đốt. Cuộc họp có những ý kiến rất táo bạo, chẳng hạn sư 6 bỏ những vị trí, những căn cứ còn lại ở Hố Nai, tiến bên trái đường số 1, hoặc đường sắt, đánh chiếm ngay bộ tư lệnh quân đoàn 3 nguỵ và cầu Ghềnh, thọc ngay sang bên kia sông chiếm đầu cầu, giữ bàn đạp. Sư 1 chiếm ngay sân bay Biên Hoà. Sư 7 không chờ sang bên kia cầu mới tác chiến mà phải đột phá tiếp từ Hố Nai, đục phăng cái lá chắn của địch ở Tam Hiệp, cố gắng đưa hết đội hình sang tây sông vào đêm nay. Các sư trưởng đều thấy cấp thiết phải tác chiến như vâỵ. Họ trở về ngay sở chỉ huy, triển khai kế hoạch mới. Một giờ sau, bộ đội bắt đầu chuyển đội hình theo kế hoạch mới, nhưng pháo địch từ bên kia sông Đồng Nai đã bắn sang rất dữ dội. Đạn pháo nổ trên trục đường, giữa các khoảng trống, ven các vị trí, các căn cứ. Bọn địch biến vùng Biên Hoà thành cái túi lửa, một toạ độ lửa. Bộ dội dán mình xuống đất tránh pháo. Những chiến sĩ bị thương cũng cố bò lên tìm hầm hố của địch, nằm lại sẽ bị thương tiếp, có khi hy sinh. Họ không còn phân biệt được tiến rú, tiếng rít, tiếng nổ nữa, trước mắt họ chỉ thấy lửa nháng lên, không lúc nào ngừng. Mỗi lần lửa nháng lên họ lại nằm ngay xuống rồi vọt lên, rồi năm ngay xuống. Ai không may trúng pháo thì nằm lại, còn thì phải lao tới các căn cứ địch tầng tầng lớp lớp trước mặt. Suốt cả cuộc chiến tranh này, từ cán bộ đến chiến sĩ, chưa một ai, chưa bao giờ, kể cả mấy năm trực tiếp đánh với lính Mỹ, lính Úc, chưa lần nào họ phải tiến lên trong lưới lửa ác liệt của pháo binh địch như lúc này.

Nghe tiếng pháo ù ù như bão, quân đoàn phó Khắc Vũ đi vào đi ra. Ông đã ra lệnh cho pháo quân đoàn vươn tầm sang bên kia bờ sông chế áp pháo địch. Nhưng việc xác định toạ độ của những ổ pháo mới xuất hiện đâu phải dễ, đâu có thể làm nhanh được khi ta không có trinh sát đường không. Quân đoàn phó nhìn những cột lửa đich dựng lên quanh Biên Hoà bằng cái nhìn sôi bỏng căm thù:
- Chúng nó giãy chết – Ông nghiến răng lại – Chúng nó đang bộc lộ cơn giãy chết cuối cùng.

XVII


Ngày và đêm 30 tháng 4


Trung đoàn thứ ba của sư 6 vừa ra khỏi Hố Nai, tiến về phía nam Biên Hoà thì tiểu đoàn 5, trung đoàn 12 có bốn xe tăng dẫn đầu thuộc phân đội đi đầu của sư 7 cũng bắt đầu vào Hố Nai. Đội hình lọt vào giữa hai dãy phố. Phòng tuyến của địch bị chọc thủng một mảng lớn lúc chập tối, sư 6 phải cuốn đội hình lên theo lệnh khẩn cấp của quân đoàn, nên việc lùng diệt không làm được. Bọn địch vỡ ra như một tổ ong, chúng trà trộn vào trong dân, phân tán thành từng nhóm nhỏ, dùng súng tiểu liên M16 và súng chống xung phong M79 từ trên các toà nhà bắn xuống đường. Sư trưởng Nam Phong lệnh cho trung đoàn 12 tiếp tục quét định hai bên đường trong hành tiến, đảm bảo cho đội hình của sư đoàn tiến nhanh tới cầu Ghềnh, nhưng cuộc hành tiến thực sự bắt đầu gặp nhiều trở ngại. Bọn địch rải nhiều mìn chống tăng, mìn chống bộ binh xen lẫn trong những bãi dây thép gai bùng nhùng và những thùng phuy xăng đựng đầy đất cát dựng ngổn ngang trên đường. Bốn chiếc xe tăng đi đầu không thể vượt lên được. Trung đoàn trưởng Triệu và chính uỷ Can tổ chức một đội phá chướng ngại vật. Bộ đội được lệnh xuống xe đi bộ, tránh pháo địch từ bên kia sông vẫn không ngừng bắn sang. Việc lùng diệt bọn tàn quân còn chống cự lẻ tẻ trên  các tầng nhà và hẻm phố không khó, nhưng việc dọn chướng ngại vật thì thật mất thì giờ. Các chiến sĩ phải chui giữa những vòng dây thép gai bùng nhùng lượm mìn đặt sang bên đường rồi mới kéo dây thép gai đi. Đội hình cứ nhích dần từng bước một. Thỉnh thoảng từng trái pháo sáng cứ vọt lên soi rõ đội hình xe pháo của cả sư đoàn. Sư trưởng Nam Phong và chính uỷ Liêm rất nóng ruột. Bọn địch bắn pháo sáng để phát hiện đội hình của sư đoàn, chúng sẽ báo về bên kia sông, pháo địch có thể bắn trúng đội hình, gây thương vong lớn cho sư đoàn. Sư trưởng từ trong xe bọc thép bước ra, ông đi dọc theo hai hàng xe ra lệnh tăng cường thêm các tổ dỡ phá chướng ngại vật, ra lệnh giấu xe vào dưới hiên các nhà tầng, trong ngõ hẽm. Sau các chướng ngại vật để tránh pháo, chờ trung đoàn 12 mở thông đường sẽ cho đội hình cơ bản thọc nhanh lên.
đến hai mươi ba giờ, bộ phận đi đầu của tiểu đoàn 5 mới ra khỏi Hố nai được  gần hai cây số. Ở đây nhà cửa thưa dần. Trung đoàn trưởng Triệu đã nhìn thấy những khoảng trống và những lùm cây hai bên đường, chướng ngại vật cũng ít hơn. Anh ra lệnh cho bốn chiếc tăng nổ máy vượt lên. Nhưng bốn chiếc tăng vừa tiến một quãng thì bỗng từ hai bên sườn và cả trước mặt nhiều chớp lửa xanh loé lên, từng đường đạn đỏ lừ lao tới bốn chiếc tăng. Triệu kêu lên:
- Bọn địch bắn hoả tiễn chống tăng!
- Cối 120, pháo 85 giá súng bắn trả ngay!
Bốn chiếc xe tăng buộc phải dừng lại, bốn khẩu pháo 85 ly tức thì gầm lên, bốn khẩu đại liên cũng rít từng tràng dài về phía những chớp lửa xanh. Bốn khẩu pháo trên xe tăng chỉ bắn được vài phát thì ba chiếc trúng hoả tiễn bốc cháy. Các chiến sĩ xe tăng còn cố gắng kéo cho hết tràng trọng liên, đến khi lửa táp lên cao mới vọt qua lửa, lăn xuống bên đường. Chiếc xe tăng còn lại đi thụt lùi, nấp vào một gờ đất lớn tiếp tục dùng pháo và trọng liên đánh trả. Trăng đã lên cao, Biên Hoà, Hố Nai không có điện, nhưng qua ánh trăng, qua những đám cháy cao ngất, trung đoàn trưởng Triệu nhìn thấy một tuyến hào chống chiến xa vắt ngang qua đường. Tuyến hào như một cánh cung bao lấy phía trước căm cứ Tam Hiệp. Bộ đội lại buộc phải dừng lại, trung đoàn trưởng Triệu một mặt báo cáo cho sư đoàn, một mặt tổ chức đục phòng tuyến. Sở chỉ huy trung đoàn thiết lập ngay trong một ngôi nhà bỏ trống đã bị đại bác bắn sạt lở. Triệu trải bản đồ trên nền nhà, bấm đèn pin xác định toạ độ tuyến phòng thủ của địch để báo cho pháo binh. Triệu xem xong thì một chiếc Hon đa phanh két trước cửa. Sư trưởng Nam Phong nhảy xuống xe, bước nhanh vào nhà:
- Anh định đánh thế nào? Đã nắm được bọn chó ấy chưa? Một tên tù binh vừa khai rằng trước mặt anh là lữ 258 thuỷ quân lục chiến, chủ yếu là tiểu đoàn 6 và 60 xe tăng của lữ 3 kỵ binh. Lực lượng địch như vậy không thể tổ chức đánh một cách sơ sài được. Nào, anh nói đi, bọn địch đã nổ súng ra sao? Ở phía nào bắn tới? Khả năng xe tăng chúng nó núp ở đâu? hả? Như thế nào?
- Báo cáo sư trưởng - Triệu vừa nuốt nước bọt vừa nói, cổ anh khô cháy đi – Tôi sẽ dùng hai mũi mở rộng hai cánh hai bên đường đánh lên. Vưà tiến, vừa nắm địch, vừa đánh. Tôi sẽ dùng hoả lực bắn thẳng và hoả lực cối chi viện trực tiếp. Xe tăng sẽ xuất kích khi bộ binh ta đã đánh nhau với bộ binh địch. Còn khẩu 85 nòng dài sẽ nhằm vào từng hoả điểm xuất hiện của địch để tiêu diệt.
Sư trưởng Nam Phong gật đầu. Không thể có cách đánh nào khác hơn khi chưa xác nhận đích xác các tuyến bộ binh, ông nói:
- Vậy thì tổ chức ngay đi. Tôi sẽ cho cối 160 ly bắn váo những nơi đã phát hiện được địch. Phải tiến hành khẩn trương, chúng ta không có con đường nào khác để vòng tránh cả, chỉ còn ba tiếng đồng hồ nữa là sáng rồi. Sáng mà không thanh toán được bọn này thì làm sao vào Sài Gòn được.
- Rõ!
Trung đoàn trưởng Triệu lại nhăn mặt nuốt nước bọt, anh chạy lên phía tiểu đoàn 5 tổ chức chiến đấu.

Các chiến sĩ đại đội 7 tản ra hai bên hè phố, theo từng tổ,từng tiểu đội, anh em lợi dụng các bờ tường, các mái hiên, các công sự tránh pháo của dân, tốp đứng, tốp ngồi, nhưng tất cả đều sẵn sàng chiến đấu. Các chiến sĩ chỉ mang theo một bộ quần áo, một chiếc tăng, một chiếc võng, nhưng cái bòng nào cũng căng phồng, rất nặng. Trong bòng, ngoài một ít lương khô, gạo sấy còn lại là đạn, lựu đạn, thủ pháo, thuốc nổ” Để lại tất cả và mang thật nhiều đạn”, đó là lệnh của sư đoàn. Rút kinh nghiệm trận Mậu Thân không tiếp tế kịp đạn dược nên mặc dù còn sung sức, các trung đoàn chiến đấu trong nội ô buộc lòng phải rút ra. “ Đạn cho chiến dịch Hồ Chí Minh”, “Đạn cho trận quyết chiến cuối cùng”, hai câu nói ấy không biết từ đâu phát ra, nhưng trước ngày 25 tháng 4, khi chiến sĩ được phổ biến chiến dịch cuối cùng mang tên Bác thì hai câu nói trên đã rất quen thuộc trên cửa miệng từng người. Bộ đội nhìn trời, nhìn phố xá, nhìn những xác xe tăng, xác xe vận tải bị bắn cháy, nhìn những cột lửa, cột khói đang chớp giật xung quanh Biên Hoà mà phán đoàn tình huống. Tiếng một cậu chiến sĩ đứng gác trên sân thượng một ngôi nhà vọng xuống làm mọi người chú ý:
- Này, các cậu ơi! Đèn điện Sài Gòn vẫn sáng đấy nhé!
- Đâu? Đâu? Hướng nào?
- Phía trước mặt các cậu đấy. Các cậu không thấy trên bâù trời có một vầng sáng đục à? Mênh mông lắm nhé!
Các chiến sĩ đứng cả dậy, họ trèo lên tường, trèo lên sân thượng để nhìn phía Sài Gòn.
Họ đã học thuộc lòng câu”Qua cầu Thị Nghè, theo đường Hồng Thập Tự rẽ phải theo đường Thống Nhất, cứ lao thẳng tới là dinh Độc Lập”. Họ biết Nguyễn Văn Thiệu trốn rồi, nhưng ở dinh Độc lập đã có một bọn mới lên thay Thiệu. Họ phải tiêu diệt hoặc bắt sống bọn chính phủ mới đó, có như vậy mới kết thúc được cuộc kháng chiến trường kì này. Trong tổng số chiến sĩ và cán bộ của đại đội 7, một phần ba bổ sung sau trận Xuân Lộc, một phần ba bổ sung cuối năm 1974,còn một phần ba là số cũ từ năm 1972 còn lại. Ra quân đầu chiến dịch, đại đội có gần 80 tay súng, trải qua những trận chiến đấu quyết liệt, lớp bị thương, lớp hy sinh, cộng với số bổ sung, hôm nay họ vào Sài Gòn với 42 tay súng tất cả. Bốn mươi hai tay súng, chỉ bằng một phần ba quân số biên chế chính thức, nhưng bốn mươi hai tay súng ấy không chỉ là bốn mươi hai chiến sĩ và cán bộ có mặt, họ nhân danh, họ đại diện cho hàng mấy trăm đồng chí trong đại đội đã ngã xuống trên chiến trường, đã bị thương. Từ ngày đại đội đi trong đội hình của trung đoàn của sư đoàn vào chiến trường. Bốn mươi hai đồng chí đều hiểu rằng mấy trăm đồng chí bị thương hoặc hy sinh vừa qua đã đưa họ tiến vào Sài Gòn hôm nay. Họ biết chỉ còn ba mươi cây số nữa là họ vào tới Sài Gòn, vào tới dinh Độc Lập, hang ổ cuối cùng của kẻ thù. Trên đường vào có thể họ sẽ còn phải ngã xuống, ngã xuống trên suốt ba mươi cây số đó, ngã xuống trước cửa dinh Độc Lập, nhưng nhất định những người còn lại sẽ vào được Sài Gòn, sẽ vào bắt bọn đầu sỏ nguỵ trong dinh Độc Lập đầu hàng. Trong những giờ phút chờ đợi để bước vào trận xuất kích cuối cùng này, họ cảm thấy dào dạt, lâng lâng như say rượu. Nhiều chiến sĩ huýt sáo hoặc hát lên khe khẽ” Sài Gòn ơi! Ta đã về đây! Ta đã về đây!”.

Chính trị viên Đại ngồi không yên, khẩu M79 kẹp dưới nách, Đại đi quanh những chiếc xe tăng của đại đội. Anh sửa lại từng bao cát, thảo lụân với đại đội trưởng xe tăng những tình huống gặp địch, những tình huống có thể xảy ra. Các chiến sĩ xe tăng không ra khỏi xe, ai ngồi vị trí đó, xe tăng mở nắp, xe tăng sẽ mở nắp suốt chặng đường ba mươi cây số vào Sài Gòn để các chiến sĩ bộ binh ngồi trên xe tăng dễ liên lạc. Khẩu trọng liên gắn trên xe hướng thẳng mũi ra phía trước, dây đạn đồng vàng choé vắt ngang súng.
Trên đường từ trung đoàn 12 về đội hình của sở chỉ huy, sư trưởng Nam Phong nhìn thấy một cán bộ đang sửa các bệ bắn trên xe tăng, ông dừng xe lại, nhảy xuống hỏi ngay:
- Đại phải không?
Đại nhảy từ trên xe xuống, đứng nghiêm:
- Có! Báo cáo thủ trưởng, có tôi!
- Anh em đâu?
Đại chỉ vào các dãy nhà hai bên đường:
- Báo cáo thủ trưởng, anh em đang tạm nghỉ.
- Nghỉ nhưng phải sẵn sàng chiến đấu, bất kì trường hợp nào cũng nổ súng được ngay.
- Rõ! Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi đã có kế hoạch cụ thể.
Sư trưởng Nam Phong nhìn một lượt theo tay Đại chỉ rồi nói:
- Khi có lệnh hành tiến là phải tiến nhanh, hiểu chưa? Bàn kỹ với các đồng chí xe tăng đi, xe tăng hỏng thì lấy xe địch, bắt chúng nó đưa vào Sài Gòn, không có xe địch thì nhờ xe dân, không có xe dân thì chạy bộ. Bằng bất cứ giá nào đại đội 7 cũng phải vào được dinh Độc Lập, rõ chưa?
- Rõ!
- Thôi được, tiếp tục công việc đi. Bọn địch ngoan cố đang gây khó khăn cho ta. Chúng ta đang khắc phục.
Sư trưởng Nam Phong lên xe, chiếc Hon đa vù đi rất nhanh. Chiếc Hon đa vừa đi khuất thì bỗng một phát ĐK từ phía nhà thờ bên trái nổ ngay bên kia bức tường thấp, tiếp theo đại liên nổ từng tràng vào đội hình của đại đội. Bộ đội bật cả dậy, nấp sau địa hình địa vật sẵn sàng chiến đấu. Đại nhảy lên xe tăng gọi xe trưởng:
- Có một cái lô cốt cạnh nhà thờ, cho pháo bắn ngay. Tôi sẽ tổ chức cho các anh em đánh.
Đại nhảy xuống, anh gọi hai trung đội trưởng tới, môt lát hai trung đội thành hai mũi bò nhanh qua đường, bao vây quanh khu nhà thờ. Khẩu ĐK vẫn bắn ra phía những chiếc tăng, nhưng chỉ toàn bắn trúng tường và gờ đất. Chiếc xe tăng đầu đàn đã phát hiện đựơc khẩu ĐK, nòng pháo 100 ly bắt đầu động đậy, lừ qua lừ lại rồi nổ liền năm phát. Các chiến sĩ bộ binh ập vào, tiếng AK thét lên một chặp rồi im hẳn. Tiếng trung đội trưởng trung đội 1 vang lên:
- Hàng sống! Chống chết! Hàng ngay!
Đại vòng theo bức tường bao quanh nhà thờ chạy lên. Bộ đội dán mình xuống đất tránh mảnh lựu đạn. Bọn địch từ trên gác chuông nhằm vào các dãy tường bắn M79 và lẳng lựu đạn. Đạn bắn thẳng rít từng tràng dài, ghim phầm phập phía sau lưng các chiến sĩ. Đại ngước mắt nhìn cái gác chuông lửa chớp nhì nhằng. Đến nước cuối cùng bọn địch đã biến gác chuông nhà thờ thành lô cốt. Tất cả mọi loại súng bộ binh bắn lên đều khó và không có kết quả, trừ phi dùng pháo 100 trên xe tăng bắn sập tháp chuông. Đại có thể yêu cầu xe tăng làm việc đó, rất hợp lý vì đây không còn là nhà thờ nữa mà là một cứ điểm địch đang ngoan cố đánh lại ta. Nhưng thử nghĩ xem có cách nào hay hơn không? Đỡ phải dùng pháo bắn vào tháp chuông. Đại suy nghĩ một lúc, anh gọi trung đội trưởng trung đội 2 tới thì thầm rồi bò qua trung đội 1. Một lát phía trung đội 2 súng nổ ran. Bọn địch trên gác chuông tập trung hoả lực về phía trung đội 2. Lập tức các chíên sĩ trung đội 1 từng người nhẹ nhàng trèo qua tường tụt xuống sân trong nhà thờ. Các chiến sĩ áp tới cửa nhà thờ, diệt ngay một khẩu đại liên giữ cửa bằng lựu đạn rồi ập vào nhà thờ đánh thốc từ dưới lên. Cuộc chiến đấu kéo dài gần một giờ mới dứt. Hai mươi tên chết và bị thương, 29 tên khác bị bắt sống, toàn bộ lính bảo an, cổ thằng nào cũng đeo thánh giá. Đại nhìn mặt từng tên tù binh đang cuối đầu lủi thủi bước đi, anh hiểu bọn ác ôn này đã đánh nhau với đơn vị anh bằng sự tuyệt vọng.

Cuộc chiến đấu trên ba mặt bắc, đông và nam khu liên hợp quân sự Biên Hoà diễn ra đã bốn mươi hai giờ liền nhưng cả ba sư đoàn: sư 1, sư 6 và sư 7 vẫn chưa thanh toán hết bọn địch trước khu vực chiến đấu của sư đoàn mình. Bọn thuỷ quân lục chiến, bọn lính dù, bọn bảo an ác ôn, bọn biệt kích, bọn lính thiết giáp dựa vào những cụm công sự kiên cố, những khu vực phòng thủ then chốt chống lại một cách quyết liệt. Suốt bốn mươi hai giờ, quân đoàn phó Khắc Vũ hết đứng lại ngồi, hết đi ra lại đi vào. Mỗi giờ trôi qua ông cảm thấy mặt đất ông đang dẫm lên như nóng thêm. Đã mấy lần ông cầm máy điện thoại định báo cáo với tư lệnh quân đoàn xin sử dụng lữ đoàn 52 lực lượng dự bị vào trận chiến đấu, nhưng suy đi tính lại, ông vẫn chưa xin. Cái khó của các sư đoàn không phải thiếu quân số, vũ khí mà chính là sự phức tạp về phòng thủ của khu liên hợp quân sự và sự ngoan cố đến cùng của bọn địch. Trên một khu vực bao la, tầng tầng lớp lớp hàng rào dây thép gai, bãi mìn, hào chống tăng, hào chiến đấu, các cụm hầm cố thủ hết sức kiên cố có từ thời Tây, mấy chục năm nay được Mỹ-nguỵ đổ tiền của ra sửa sang, tu bổ, xây dựng thêm đã làm cho bộ đội khó khăn thêm. Bộ đội phải dùng bộc phá liên tục, phải đánh dần từng khu vực một, địch mất khu này chạy sang khu khác chống cự. Chưa bao giờ bộ đội phải đánh một trận có cường độ cao như vậy.
Trong khi ở sở chỉ huy tiền phương, quân đoàn phó Khắc Vũ đứng ngồi không yên thì ở sở chỉ huy cơ bản, xung quanh chiếc bàn tre dã chiến, tư lệnh quân đoàn Hoàng Cầm, chính uỷ quân đoàn Hoàng Thế Thiện, phó chính uỷ quân đoàn Vương Thế Hiệp, tham mưu trưởng quân đoàn Hoàng Nghĩa Khánh, chủ nhiệm cục chính trị quân đoàn Tư Thanh và nhiều cán bộ khác cũng đang tập trung theo dõi tình hình và chỉ huy các sư đoàn chiến đấu. Tư lệnh quân đoàn Hoàng Cầm gầy đi sau những đêm không ngủ và làm việc liên tục. Từ ngày đầu tiên bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh đến lúc này, hầu như ông ít khi vắng mặt ở hầm chỉ huy, nhất là hai ngày hôm nay, khi nhận lệnh tổng công kích vào Sài Gòn. Ông hiểu những khó khăn, phức tạp mà các đơn vị đang gặp ở khu vực Biên Hoà. Vấn đề ông và những người ở sở chỉ huy cơ bản quan tâm một cách đặc biệt là sự chống cự ngoan cố và dai dẳng của bọn địch ở Biên Hoà, sự xuất hiện của những cụm pháo lớn bắn với tốc độ điên khùng ở tây sông Đồng Nai có âm mưu và ý đồ gì khác ngoài cái lệnh giữ từng tất đất còn lại của Dương Văn Minh hôm kia? Cái âm mưu và kế hoạch”Trì hoãn chiến” để Dương Văn Minh có thì giờ củng cố chính phủ mới, để Mỹ cố tìm ra lối thoát nào đó, để tiến hành thương lượng với đối phương đã được trả lời bằng trận ném bom của không quân ta xuống sân bay Tân Sơn Nhất, đã được trả lời bằng cuộc tổng công kích đồng loạt vào Sài Gòn từ năm hướng. Hẳn Dương Văn Minh và bọn đầu sỏ còn lại của nguỵ quân nguỵ quyền đã hiểu điều đó. Vậy “Trì hoãn chiến” còn có ý nghĩa gì nữa? còn làm gì được nữa? Ông và mọi người ở sở chỉ huy cơ bản đều nhất trí, sở dĩ bọn địch đang chống cự dai dẳng và ngoan cố là vì chúng đã hoàn toàn tuyệt vọng. Tuyệt vọng đẻ ra sự giãy dụa điên cuồng, sự giãy dụa điên cuồng là kết quả của sự phản ứng giai cấp quyết liệt. Bởi vâỵ ông và chính uỷ đã ra lệnh sử dụng thêm hai cơ số đạn pháo các loại để tiêu diệt sự đề kháng cuối cùng của địch,giảm bớt thương vong cho các đơn vị. Mặc khác ông và chính uỷ thường xuyên gọi điện thoại cho các sư trưởng và chỉnh uỷ sư đoàn, cho quân đoàn phó Khắc Vũ ở sở chỉ huy tiền phương, giải thích cho cấp dưới hiểu rằng bọn địch đã dốc hết lực lượng bảo vệ Sài Gòn ra các hướng quanh Sài Gòn để chống trả cuộc tiến công của ta. Ông và chính uỷ nói với cấp dưới đừng có ngạc nhiên về sự chống trả đó, đừng có nóng ruột, phải tỉnh táo nhưng phải thật kiên quyết, táo bạo và không đựơc chùn bước. Ông và chính uỷ nói với các sư đoàn, nói với quân đoàn phó rằng sau khi đập vỡ sự kháng cự của địch ở Biên Hoà thì cứ việc xông thẳng vào Sài Gòn, bọn địch không còn gì để chống cự nữa, mà nếu có chống cự thì cũng không đáng kể, cứ đạp bằng mà đi.

Tuy vậy ông và chính uỷ, cũng như tất cả những người có mặt ở sở chỉ huy cơ bản đều rất lo quân đoàn sẽ vào Sài Gòn chậm hơn các quân đoàn khác. Nhiều năm chiến đấu ở chiến trường này, ông đã nghiên cứu tất cả các hướng để có thể tiến quân vào Sài Gòn. Cũng đã có trên giấy và cả trong đầu nữa, nhiều kế hoạch đánh vào Sài Gòn cho nên ông hiểu hướng đông bắc Sài Gòn - Hướng quân đoàn đang chiến đấu – Là hướng phòng thủ mạnh nhất, vững chắc nhất của địch, là hướng có nhiều chướng ngại thiên nhiên và chướng ngại do địch lợi dụng thiên nhiên tạo nên. Sự lo lắng bấy lâu càng tăng, người bình tĩnh nhất là tư lệnh và chính uỷ, nhưng thỉnh thoảng cũng phải đứng dậy và đi ra ngoài cho đỡ sốt ruột.
Suốt đêm 29 tháng 4, ở sở chỉ huy cơ bản không ai ngủ. Mọi người đều chăm chăm vào những chiếc điện thoại dã chiến và nơi dịch điện của các chiến sĩ cơ yếu. Những cuộc thảo luận sôi nổi, những cuộc trao đổi ý kiến tay đôi, tay ba thì thầm diễn ra hầu như suốt đêm. Không ai để ý đêm 29 tháng 4 đã đi qua lúc nào. Cho đến khi ánh bình minh của ngày 30 tháng 4 hiện lên ở đường chân trời phía đông, rồi toả rộng rất nhanh  trên vòm trời của rừng cao su Xuân Lộc thì tất cả đều đứng dậy và bước ra ngoài. Sự lo lắng, sự căng thẳng suốt cả một đêm chờ đợi tin đánh chiếm khu liên hợp quân sự Biên Hoà như càng tăng lên. Bỗng từ phía phòng Hai, một sĩ quan tham mưu xuất hiện, anh ngước nhìn về phía sở chỉ huy rồi chạy nhanh tới. tất cả mọi người quay vào sở chỉ huy, ai cũng linh cảm có một tin gì đó quan trọng.
Anh sĩ quan tham mưu lao cả người vào cửa, vừa thở vừa nói:
- Báo cáo đồng chí tư lệnh quân đoàn, đài kĩ thuật bắt được tin Lê Minh Đảo và toàn bộ sư 18 bỏ Long Bình từ chập tối hôm qua 29 tháng 4, đã rút hết sang tây sông Đồng Nai lập phòng tuyến mới. Có tin bọn địch ra lệnh phá cầu Mới, còn cầu Ghềnh có khả năng T54 không qua được vì cầu yếu. Báo cáo hết!
Người sĩ quan tham mưu lùi ra thì đồng chí trực ban tác chiến cắp sổ tay bước vào, anh đứng nghiêm trước mặt tư lệnh:
- Báo cáo thủ trưởng, tin các sư đoàn mới báo cáo về như sau:
- Hướng sư 7, trung đoàn 12 đã đột phá được cụm phòng ngự của 60 xe tăng thuộc lữ 3 kỵ binh và tiểu đoàn 6 thuỷ quân lục chiến ở Tam Hiệp, đang tiến vào Biên Hoà.
- Hướng sư 1, trung đoàn 2 đã chiếm được Hốc Bà Thức, đang đánh vào sân bay và bộ tư lệnh không quân.
- Hướng sư 6, trung đoàn 209 và trung đoàn 3 sư 1 đang đánh chiếm sở chỉ huy quân đoàn 3. Cả hai khu vực trên đều đang ở những giờ quyết liệt cuối cùng. Báo cáo thủ trưởng - Đồng chí trực ban ngập ngừng như quá xúc động, một chút mới báo cáo tiếp được:
- Báo cáo thủ trưởng, có tin quân đoàn 2 đã chiếm được căn cứ Long Bình lúc gần sáng, đang thọc ra xa lộ để hành tiến vào Sài Gòn. Báo cáo hết!
Tất cả những người có mặt đều nhìn chăm chăm vào đồng chí trưởng ban tác chiến. Tư lệnh quân đoàn đứng bật dậy, nét mặt cương nghị của ông đỏ dần lên, ông nói giọng chắc nịch:
- Các anh chuẩn bị ý kiến đi. Tôi nói trứơc. Qua tình hình mới nhận được có mấy vấn đề sau:
1. Các sư đoàn chúng ta sẽ chiếm được Biên Hoà ngay trong sáng nay. Cần chỉ định ngay một sư đoàn ở lại Biên Hoà làm nhiệm vụ quân quản và sẵn sàng làm dự bị cho các sư đoàn đánh vào Sài Gòn.
2. Lê Minh đảo và bọn chỉ huy quân đoàn 3 đã qua tây sông. Chúng có thể phá cầu. Cần ra lệnh cho một đơn vị nhỏ tìm cách thọc ra giữ cầu. Lệnh cho pháo tầm xa bắn thêm để chế áp các khu vực quanh hai đầu cầu, đánh dạt bọn địch ra khỏi các cầu.
3. Quân đoàn 2 đã chiếm được Long Bình thì việc các đồng chí tiến vào Sài Gòn sẽ nhanh hơn chúng ta. Tôi đề nghị điện xin bộ tư lệnh hướng đông và bộ tư lệnh chiến dịch cho sư 7 cùng hành tiến vào Sài Gòn theo xa lộ, còn sư 1 hoặc sư 6 vẫn hành tiến vào Sài Gòn theo quốc lộ 1. Các anh cho ý kiến đi.
Chính uỷ quân đoàn giơ tay, ông nói nhanh, giọng rắn rỏi:
- Tôi tán thành ý kiến của anh Năm. Tôi đề nghị để sư 6 ở lại quân quản Biên Hoà và làm dự bị cho cả sư 1 và sư 7.
 Những người có mặt đều nhất trí ý kiến của tư lệnh và chính uỷ. Tư lệnh quay về phía tham mưu trưởng Khánh:
- Anh Khánh và các anh triển khai ngay cho các sư đoàn.
- Rõ!
Tham mưu trưởng Khánh viết lệnh vào sổ và đi ngay tới hầm trực ban. Các đồng chí khác cũng đi ngay tới hầm của mình và triển khai mệnh lệnh.
Tư lệnh quân đoàn đi về phía máy điện thoại bên phải, ông nói với chiến sĩ thông tin:
- Cho tôi nói chuyện với anh Ba Vũ ở sở chỉ huy tiền phương.
- Rõ!
Anh chiến sĩ thông tin quay máy, gọi rồi đưa ống nói cho tư lệnh quân đoàn. Ở sở chỉ huy còn lại chính uỷ. Ông đang chống tay lên chiếc bàn tre, mắt như dán vào tấm bản đồ Sài Gòn đang trải rộng trên bàn. Những tia nắng đầu tiên của ngày 30 tháng 4 đã chan hoà trên nóc nhà dã chiến của sở chỉ huy.

Tám giờ sáng ngày 30 tháng 4, cùng một lúc quân đoàn phó nhận được nhiều tin dồn dập từ các sư đoàn điện về, từ sở chỉ huy cơ bản điện xuống. Quân đoàn phó chưa kịp hệ thống các tin tức thì cậu chiến sĩ thông tin đã mời ông xuống hầm điện thoại nói chuyện với tư lệnh quân đoàn. Sau năm phút, ông bước lên hầm, trải bản đồ ngay trên đất, ông gọi tham mưu phó và các trợ lý tác chiến, thông tin tới, ông nói, giọng nhanh và sắc:
- Các anh, tình hình khẩn trương lắm rồi, anh Năm Thạch và anh năm Thiện vừa thảo luận với tôi. Các anh ghi những mệnh lệnh sau đây của bộ tư lệnh quân đoàn, cho chuyển ngay xuống các sư đoàn, các đơn vị trực thuộc, các binh chủng:
Một: Sư 7 không vào thị xã Biên Hoà, không vượt qua cầu Ghềnh nữa, đến đầu thị xã rẽ trái ra xa lộ, theo xa lộ để vào Sài Gòn cho nhanh. Nhận lệnh tổ chức tiến hành ngay.
Hai: Sư 1 tổ chức ngay một trung đoàn có xe tăng dẫn đầu cố gắng vượt qua cầu Ghềnh để vào Sài Gòn theo quốc lộ 1.
Ba: Sư 6 thanh toán nốt bọn địch còn lại, làm nhiệm vụ quân quản khu vực Biên Hoà, làm dự bị cho sư 1 và sư 7 đánh vào Sài Gòn.
Bốn: Lữ đoàn 52 tiến sau đội hình sư 7 theo xa lộ vào Sài Gòn chiếm quận 10.
Năm: Lệnh thêm cho pháo tầm xa dùng đạn nổ tức thì đánh dạt địch ra khỏi khu vực cầu. Triển khai xong, báo cáo ngay về sở chỉ huy cơ bản.
Ông quay sang trợ lý tác chiến:
- Đồng chí ghi xong chưa?
- Báo cáo xong!
- Đồng chí đọc lại xem?
Trợ lý tác chiến đọc lại, ông nghe, ngẫm nghĩ một chút rồi đứng dậy:
- Cho thông tin chuyển ngay, đi Hon đa cho nhanh. Sau mười lăm phút mệnh lệnh phải được chấp hành triệt để.
Trợ lý tác chiến đem mệnh lệnh tới các chiến sĩ thông tin. Quân đoàn phó nhìn tham mưu phó, mặt ông thoáng buồn:
- Chúng ta chậm mất rồi anh Ba ạ! Anh có nắm được 8 chiếc tăng hỏng ở Trảng Bom sửa chữa xong chưa?
Tham mưu phó Bì nói ngay:
- Chữa xong rồi! Tôi vừa nhận được báo cáo cách đây hai mươi phút.
- Anh ra lệnh điều ngay lên đây, cả 8 chiếc, lên ngay. Phải tổ chức một mũi đột kích nữa tiếp ứng cho sư 7. Còn anh thay tôi ở đây giữ liên lạc với sư 1, sư 6 và sở chỉ huy cơ bản. Tôi sẽ báo cáo với sở chỉ huy cơ bản về việc này. Anh thấy sao? Anh có đồng ý vậy không?
Tham mưu phó kê giấy lên đầu gối viết lệnh điều xe tăng. Quân đoàn phó chạy ra chiếc xe bọc thép của ông, ra lệnh kiểm tra dầu mỡ, sẵn sàng xuất phát.
Tiếng súng các loại ở khu vực Biên Hoà nổ rất gắt. Pháo các loại của địch từ bên kia sông vẫn bắn sang dữ dội.

Nhận được lệnh bỏ quốc lộ 1, quay ngược lên hành tiến ra xa lộ để vào Sài Gòn, sư trưởng Nam Phong thấy như vừa cất được một gánh nặng. Chiếc xe bọc thép của ông và chính uỷ Liêm lách qua đoàn xe lao lên phía trước tìm cán bộ trung đoàn 14. Ông đứng hẳn lên xe, chiếc quai mũ thít lấy cằm. tay phải nắm chặt bao súng, tay trái đặt lên vai cậu chiến sĩ lái xe, đôi mắt một mí trũng sâu nhìn xoáy vào từng chiếc xe. Chiếc bọc thép K63 vượt được chừng 200 thứơc thì ông nhìn thấy Quân, trung đoàn phó trung đoàn 14. Ông cấu vào vai cậu chiến sĩ lái xe. Chiếc xe khựng lại suýt hất ông ra ngoài. Ông đập tay vào bao súng, gọi:
- Quân, quay đội hình ra xa lộ, đại đội 7 đâu? Hành tiến ngay, muộn mất rồi.
Quân hơi lúng túng, ông khoát tay:
- Bắt mấy thằng nguỵ ngồi lên xe chỉ đường, chúng nó không biết thì nhờ dân, nhờ các đồng chí trong nhà tù Tam Hiệp vừa chạy ra đấy. Tổ chức ngay.
Chiếc xe bọc thép lại vựơt lên, ông nhìn thấy chính trị viên Đại…Chiếc K63 giật lên rồi đậu sát chiếc T54, khói xả đen cả một vùng. Sư trưởng Nam Phong ho sặc sụa, ông nhô cả người về phía chiếc T54 chở đầy bộ đội, ông vừa thở vừa nói:
- Đại đội 7 trương cờ lên, quay trái ra đường này phóng ra xa lộ, cứ theo xa lộ mà thọc vô. Năm xe cũng vô, hai xe cũng vô, một xe cũng vô. Rõ chưa đồng chí Đại? Sẽ có xe của trinh sát, xe của tác chiến đi trứơc. Dũng cảm lên, táo bạo lên, giờ lịch sử đến rồi.
Ông nói xong thì Phạm Văn Huệ, chính trị viên tiểu đoàn trinh sát cùng hai mươi chiến sĩ trinh sát ngồi trên một chiếc “Đốt” vừa lấy được của địch đã tới nơi. Theo sau một chiếc “Đốt” thứ hai, Minh, trợ lý tác chiến của sư đoàn và một vài trợ lý nữa. Mấy chiếc xe đậu sát vào nhau. Sư trưởng nam Phong trèo lên nắp chiếc K63 huơ tay một vòng, tiếng ông chìm đi trong tiếng động cơ các loại xe nhưng vẫn rõ ràng, dứt khoát:
- Xe trinh sát đi trước, bắt liên lạc với quân đoàn 2, đến xe của tác chiến. vào Sài Gòn đồng chí Minh, đồng chí Huệ dẫn các phân đội chiếm các mục tiêu được phân công. Tiếp theo là đội hình của đại đội 7 và của trung đoàn 14.
Chính uỷ Liêm đứng cạnh sư trưởng Nam Phong, gió thổi tung mái tóc thưa của ông, ông nhìn các chiến sĩ trinh sát, các chiến sĩ xe tăng, các chiến sĩ đại đội 7 với cái nhìn tha thiết, ông nói giọng to dần lên:
- Cả sư đoàn, cả quân đoàn sẽ hỗ trợ đắc lực cho các đồng chí. Các đồng chí hãy anh dũng xốc tới, hãy đạp lên đầu địch mà xốc tới. Tất cả tiến lên!

Các chiến sĩ trinh sát chĩa súng AK và M79 ra hai bên đường. Huệ, Đạo ngồi trong buồng lái. Minh cũng ngồi ở buồng lái chiếc đi sau, bản đồ trải lên đầu gối, tay lăm lăm khẩu súng ngắn. hai chiếc”Đốt cát” rú ga chồm lên, lao nhanh ra đường. Chính trị viên Đại thò đầu vào trong xe tăng nói gì mới đại đội trưởng xe tăng, rồi ngửng đầu lên khoát tay. Chiếc tăng thứ nhất xịt ra một dòng khói đen, chồm lên mặt đường, húc đổ liền mấy phuy đất, mở lối cho cả đoàn tăng. Các chiến sĩ bộ binh ở trên xe tăng ngồi theo tư thế sẵn sàng bắn, súng kê lên bao cát, thủ pháo, lựu đạn bày sẵn bên cạnh. Các chiến sĩ thông tin chụp ống nghe vào tai, một tay cầm ống nói, một tay bám chặt thành xe, đầu hơi cuối, cần ăng-ten lá lúa xoè ra lắc lư như đang múa. Tiểu đoàn xe tăng đi hết đến các tiểu đoàn ô tô, xe nào cũng đầy nhóc bộ đội.Xe súng cối, xe ĐK, xe trọng liên, xe thông tin, xe công binh, xe trinh sát…chiếc này nối chiếc khác. Xe của sư 7, xe của sư 6, xe của sư 1, xe của quân đoàn, xe quân báo, xe tác chiến, xe xăng dầu, xe đạn, xe gạo, xe quân trang, xe tải thương, tiếp theo là xe kéo cao xạ 57, cao xạ 37, xe kéo các loại lựu pháo 105. 122, xe kéo các dàn hoả tiễn 106, 122 ly, xe kéo pháo tầm xa 130 ly, xe kéo súng cối nặng 160 ly. Xa hơn phía sau là những đoàn xe cầu phà, xe công trình của công binh. Những đoàn xe khổng lồ ngốn hết bề rộng và bề dài của con đường. Xa hơn nữa là những đoàn xe ô tô hạng nặng kéo theo những chiếc tên lửa Sam, mũi nhọn và đôi cánh tên lửa chọc một đường xiên lên bầu trời nghi ngút khói xanh. Trên các trục đường đen kịt những xe. Xe đi hàng đôi, hàng ba, tất cả đều đổ vào Sài Gòn. Xa lộ rộng là thế nhưng lúc này cũng trở nên chật. Nhiều chiếc xe chen lên húc đổ cả tà ly chắn giữa đường. Những chiếc xe tăng đi đầu mở đường vừa phải tiếp tục dọn mìn, tránh mìn, vừa phải húc đổ các ụ chướng ngại nên tốc độ không nhanh. Ra đến xa lộ, chiếc xe đi đầu nghiến lên mìn, một đoạn xích bung ra, các chiến sĩ bộ binh nhảy xuống, chạy lên các chiếc tăng sau, chiếc tăng thứ hai vượt lên đầu, nòng trọng liên quay tròn. Chiều ngược lại, bên kia xa lộ là xe Lam, xe Hon đa, xích lô máy, xe ca, xe Đốt, xe Pho chở đồng bào quay trở ra, xe trở ra, người đi bộ trở ra, các đơn nguỵ tan rã đi lẫn vào dân thành một dòng người dài vô tận. Trên xa lộ dài ba mươi cây số đó đông đặc hai dòng vào và ra. Bộ đội đi vào, dân đi ra. Mấy ngày trước họ chạy vào Sài Gòn, bây giờ họ lại từ trong cái rốn cuối cùng ấy tuôn trở lại Hố Nai, Trảng Bom. Một chiếc xe ca bóp còi inh ỏi, lách đoàn người đi bộ vượt trước, bỗng một tiếng nổ dữ dội phát ra, chiếc xe bị hất bỗng lên trời, đồng bào đi bộ bị chết, bị thương. Theo phản ứng tự nhiên, bộ đội từ trên xe nhảy xuống băng bó cho dân, nhưng băng chưa hết đã có lệnh gọi lên xe. Nhiệm vụ phải vào ngay Sài Gòn.

Trước mắt họ là một con đường rộng mênh mông, dài tít tắp, lượn lên lượn xuống, băng qua các dãy đồi trọc toàn nhà là nhà. Xa lộ Sài Gòn – Biên Hoà là như thế này ư? Họ nghe nói về con đường này từ những năm họ còn ngồi trên ghế nhà trường, họ nghe qua đài phát thanh và đọc trên báo. Bọn Mỹ đã đổ rất nhiều tiền để làm con đường này, con đường hai chiều rộng tới sáu bảy chục thước, lúc cần dọn dãy tà luy ở giữa thì thành một sân bay dã chiến. Biên Hoà – Long Bình là như thế đó. Trước mắt họ vô số cột điện, đường dây tải điện, rồi trại lính, rồi hàng rào dây thép gai, rồi từng khối nhà, từng khối nhà nối nhau. Những chiếc tăng vượt qua cầu Long Bình đã thấy bộ đội đứng gác hai đầu cầu. Bộ đội đặc biệt tinh nhuệ chiếm cầu đêm 28 tháng 4 nên Lê Minh Đảo và sư đoàn 18 phải qua Biên Hoà để rút về tây sông Đồng Nai. Đến lúc này quân đoàn phó Khắc Vũ và sư trưởng Nam Phong hiểu vì sao bọn địch ở Biên Hoà đã chống lại một cách kịch liệt suốt buổi chiều 29 và đêm 30. Vì sai pháo địch lại bắn sang Biên Hoà một cách ghê gớm như vậy. Lê Minh Đảo đã bắt bọn địch ở vòng cung Biên Hoà tử thủ để sư 18 có thì giờ qua sông.
Súng đại liên trên hai chiếc xe “Đốt” của trinh sát và tác chiến thỉnh thoảng lại nổ từng chặp dài vào các dãy lô cốt, vào các trại lính hai bên đường. Qua khỏi cầu Long Bình, hai chiếc “Đốt cát” gặp ngay đội hình xe tăng và bộ binh của quân đoàn 2, đoàn cơ giới của sư đoàn 7 buộc phải nhường đường. Súng nổ nhiều ở Thủ Đức, ở cầu Rạch Chiếc và trên cầu Sài Gòn. Một giờ sau, đoàn cơ giới của sư 7 được lệnh vượt lên, song song cùng tiến với đoàn cơ giới của quân đoàn 2.
Mười giờ sáng, tám chiếc T54 do quân đoàn phó Khắc Vũ trực tiếp chỉ huy vượt cầu Long Bình. Chiếc K63 của ông đi sau ba chiếc tăng, trên xe bọc thép có Thái, chỉ huy xe tăng, Xuân quân báo dẫn đường. Khi qua cầu gãy, ông nắm được tay một nguỵ binh kéo lên xe, hắn hứa sẽ dẫn vào dinh Độc Lập, quê hắn ở Sài Gòn, thuộc sư 18. Quân đoàn phó đứng hẳn lên để nhìn cho rõ, trước mặt ông là cù lao Phố, không còn là một đảo dừa như 28 năm trước, bây giờ toàn nhà là nhà. Dòng sông Đồng Nai lượn dưới ánh mặt trời. Con sông và những kỉ niệm chảy ùa vào trong tâm hồn ông, nhưng ông không có thời giờ để dừng lại ở một kỉ niệm nào cả. Ông còn phải nhìn, phải quan sát, phải xử trí, phải theo dõi đội hình tiến quân của sư 7. Đôi mắt ông mở to như ống kính một máy ảnh mở hết cỡ, đầu óc ông như một cái cửa để ngõ cho tất cả những gì trước mắt nhập hẳn vào trí nhớ.
Đoàn xe tăng vượt hết cầu, trước mặt là Thủ Đức, bên phải là núi Châu Thới. Núi Châu Thới vẫn còn đấy chứ? Vậy mà có người nói bọn Mỹ đã san bằng núi Châu Thới lấy đá làm xa lộ. Ông cố nhìn sang bên núi Châu Thới tìm bóng dáng cầu Ghềnh, cầu Rạch Cát nhưng nhà cửa che khuất, ông không thấy. Ông cố lắng nghe tiếng súng ở Biên Hoà, cố đoán xem sư 6 đã làm chủ Biên Hoà chưa? Sư 1 đã vượt qua cầu để vào Sài Gòn theo ngã đường 1 chưa? Nhưng ông không thể nào nghe được. Tiếng động cơ của hàng trăm, hàng nghìn chiếc xe các loại hoà vào nhau làm thành một tiếng rền kéo dài. Ông quay lại nhìn xa lộ, ngã tư Thủ Đức, hai bên đường đông đặc các sắc lính ngụy: Lính mũ nâu biệt động quân, lính mũ xanh thuỷ quân lục chiến, lính mũ đỏ”Anh Hai dù”, lính bảo an, lính sư 18, lính thiết giáp, lính pháo binh, lính công binh...lớp đi vào Sài Gòn, lớp đi ngược trở ra. Bọn địch sợ hãi nhìn hàng đoàn xe tăng phóng rầm rầm trên đường. Chúng đứng sững lại, mặt thằng nào cũng tái đi, rồi chúng hè nhau ném vũ khí, ném ba lô, ném trang bị xuống lề đường. Bọn địch ngồi bệt xuống đất, tốp cuối đầu ủ rủ, tốp hớn hở tươi cười, tốp nhảy lên reo hò:
- Chiến tranh kết thúc rồi! Hoan hô!
- Hết chết rồi! Hoan hô!
- Hoan hô quân giải phóng!

Ông còn nhìn thấy một tốp giơ ngược súng M16 lên trời kéo cho hết băng đạn rồi ném súng xuống ruộng, có thằng đập gãy đôi súng, ném mũ, ném áo, ném giày, mặc quần xà lỏn, chen lấn nhau cùng vào Sài Gòn. Đi một quãng nữa, ông thấy có đến hai tiểu đoàn dù, quần áo mới toanh đứng thành hai hàng dài, súng ném dưới chân, tay giơ lên trời. Đi một quãng nữa là xe tăng và pháo binh không có  lính điều khiển, ngổn ngang khắp một bãi đất rộng, súng ống, vũ khí, quân trang quân dụng của địch nơi vung vãi, nơi chất thành đống suốt hàng chục cây số. Bọn địch đang tan rã đấy, bọn địch đang đầu hàng đấy, một quân đội tay sai đã bị đánh bại như thế đấy.
- Cha! Cha! Thấy chưa? Quân đoàn phó kêu lên rất sảng khoái – Cái sức mạnh mà bọn Mỹ tin không thể nào đánh gục được thì hôm nay đã bị đánh gục hoàn toàn như thế đấy. Ai-Xen-hao đâu? Ken-nơ-đi đâu? Giôn –xơn đâu? Chúng nó thằng chết già, thằng chết bị ám sát, thằng chết vì hộc máu. Chúng nó không thấy được cái cảnh hôm nay. Còn Ních-xơn đâu? Mác-na-ma-ra đâu? Pho đâu? Kít-sing-giơ đâu? Những thằng còn sống, chúng mày hãy mở mắt nhìn đi, cái quân lực chúng mày đổ tiền, đỏ của, đổ xương máu ra xây dựng, hôm nay đã nát như cám trong tiếng gầm của trọng pháo và xe tăng của chúng tao.
Quân đoàn phó Khắc Vũ nhìn trước nhìn sau. Trên xa lộ dài tít tắp xe vẫn nối nhau lao vào Sài Gòn, không biết cơ man nào là xe. Xe chất đầy bao cát xung quanh, xe phủ nguỵ trang, xe mui  trần, xe mười bánh, xe tám bánh, xe bốn bánh, xe xích, xe mang bụi đỏ Trường Sơn xuống, xe mang bụi xám đường 1 vào, xe mang cát từ biển lên. Xe và cờ, xe và bộ đội, mặt đất rung lên, không gian rung lên, bầu trời như chao đi chao lại trong những dải bụi, trong những dải khói. Bọn địch rã ra hai bên đường, rã ra bên pháo, bên xe, rã ra trong căn cứ. Chúng ta tiến vào Sài Gòn như thế đấy. Trên đời này không có một sức mạnh nào có thể ngăn được đoàn xe này. Nó sẽ nghiền nát tất cả, đè bẹp tất cả để lao vào Sài Gòn, để tiến tới đích cuối cùng, để chiếm lấy tột đỉnh vinh quang. Bọn lính nguỵ từ sợ hãi đến ngơ ngác, ngạc nhiên. Một dòng thép chở đầy bộ đội đang tuôn chảy trước mặt chúng, đang ào ào trước mặt chúng khiến chúng phải ôm lấy mặt.
Tám chiếc tăng của quân đoàn phó Khắc Vũ vượt qua cầu Sài Gòn, mấy chiếc M41 đang bốc cháy. Từ xa ông đã nhìn thấy Sài Gòn qua hình ảnh đầu tiên là dân và cờ. Dân ở hai bên xa lộ đổ ra kín đường, cờ đỏ sao vàng, cờ mặt trận bay múa trên đầu. Dân xô cả ra đường, dân cười, dân nói, dân vỗ tay, dân reo hò, dân tung thuốc lá, bánh kẹo, hoa quả lên xe bộ đội, bộ đội trả lại cho dân, dân lại tung lên. Không còn nghe được ai nói gì, gọi gì. Mỗi cái miệng đều lắp bắp, mối cặp mắt đều lấp lánh nước mắt, mỗi bàn tay đều giơ lên vẫy, mỗi thân hình đều nhô về phía trước, mối mặt người đều bỡ ngỡ, rạng rỡ, tươi vui.
Đoàn xe buộc phải giảm tốc độ. Đồng bào quây lấy từng chiếc xe, đồng bào níu lấy áo bộ đội, đồng bào ôm lấy đầu xe, đồng bào khóc, bộ đội cũng khóc, mừng quá mà khóc, cảm động quá mà khóc.
- Hoan hô…hoan hô….hoan hô….
Tiếng hoan hô dậy lên như những đợt sóng biển từ hai bên xa lộ ập vào giữa đoàn xe. Đoàn xe chìm đi trong biển người, chìm đi trong tiếng hoan hô.

Hai chiếc tăng đi đầu của đại đội 7 dùng sức mạnh húc tiếp hai chiếc M41 bị bắn cháy nằm giữa cầu sang một bên, mở lối cho đoàn xe tiến vào nội ô Sài Gòn. Bốn chiếc xe tăng nhích dần từng thước một. Chính trị viên Đại hô anh em nhảy xuống làm thành mọt hàng rào rẽ đồng bào ra để lấy đường cho xe tiến lên. Đại gào đến khản cả cổ:
- Đồng bào cho chúng tôi đi đã, chúng tôi còn phải làm nhiệm vụ.
Nhưng nhóm này dãn ra theo yêu cầu của bộ đội thì nhóm khác lại từ phía sau len tới vây kín những chiếc tăng. Đồng bào reo lên:
- Dương Văn Minh đầu hàng rồi, các anh giải phóng chiếm dinh Độc Lập rồi, các anh không phải vào đây nữa, đứng lại cho đồng bào coi một chút, mấy mươi năm rồi các anh ơi!
Đại hết sức nóng ruột khi nghe tin Dương Văn Minh đã đầu hàng và có một đơn vị đã chiếm dinh Độc Lập. Nhiệm vụ của đại đội vậy là không hoàn thành rồi. Đại hết sức lo lắng, anh nhảy lên chiếc tăng đầu tiên ghé vào tai xe trưởng nói gì đó, xe trưởng gật đầu. Lập tức bốn chiếc tăng xả ra những luồng khói đen, đồng bào dạt ra, bốn chiếc tăng có đường lao tới. Đại nắm lấy tay đồng chí dẫn đường là một tù nhân ở nhà tù Tam Hiệp  đã lên xe ngồi với anh từ Tam Hiệp, Đaị hỏi:
- Đồng chí nhớ rõ đường chứ?
- Nhớ! Cứ đi thẳng, đây đường Hồng Thập Tự rồi, một xíu nữa gặp đường Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đường rộng, phố xá ít nên người thưa hơn, bốn chiếc tăng tăng tốc độ.
-Quẹo trái, quẹo trái đi. Đồng chí dẫn đường đập vào vai xe trưởng. Chiếc tăng đứng khựng lại rồi quay theo đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đồng chí dẫn đường nói với Đại:
- Sở thú kia rồi! Sắp sửa quẹo phải. Quẹo phải đi! Đại lộ Thống Nhứt đó! Xông tới đi, kia thấy không, dinh Độc Lập đó, xông……. tới……. đi!
Bố chiếc tăng rẽ phải, bốn nòng pháo chĩa ra trước, bốn khẩu trọng liên cũng hạ nòng, dây xích nghiến ken két, bốn chiếc tăng nuốt nhanh từng thước đường. Bộ đội nhô cả về phía trước. Đại đặt tay lên vai xe trưởng, xe trưởng nói vào máy, lập tức bốn khẩu trọng liên nghếch nòng lên trời bắn bốn tràng dài. Xe càng tiến gần dinh Độc Lập, người hai bên đường đổ ra càng đông. Đồng bào vẫy cờ, vẫy tay, trẻ con hoan hô, nhưng Đại không kịp nhìn, không kịp nghe, đôi mắt anh để cả vào toà nhà mỗi lúc một to dần, cây cờ trong tay anh bay phần phật. Xe anh đang lao trên một con đường rất rộng, phẳng lỳ giữa hai hàng cây. Xe anh bắt đầu đi vào giữa vườn cây. Màu xanh của cây, màu xanh của da trời như hoà làm một. Anh nhìn lên nóc toà nhà, thấy một dải đỏ đang bay trên không. Anh thấy tiếp cái nền vàng, anh thấy tiếp cái dải xanh. Đại thở mạnh, vẻ mặt thoáng buồn: Đơn vị bạn vào trước đã cắm cờ lên dinh Độc Lập rồi.
Chiếc tăng của anh lao tới cửa dinh Độc Lập thì dừng lại. Từ trong cửa dinh Độc Lập một chiếc tăng T54 đậu chính giữa cổng, nòng pháo 100 ly chìa ra ngoài, Đại đứng trên xe tăng gọi to:
- Chào các đồng chí, chúng tôi là đại đội 7, sư đoàn 7, quân đoàn 4 có nhiệm vụ đánh chiếm dinh Độc lập. Đề nghị các đồng chí cho chúng tôi vào.
Từ trên chiếc T54 ở trước cửa, cũng một cán bộ đứng trên đáp lại:
- Chúng tôi thuộc lữ đoàn tăng 203 và trung đoàn 66, sư đoàn 304 thuộc quân đoàn 2 đã chiếm dinh Độc Lập rồi. Các đồng chí không phải vào nữa.
Anh cán bộ trên chiếc T54 ở trong sân nhảy xuống chạy ra, Đại cũng nhảy xuống, hai người ôm chầm lấy nhau, các chiến sĩ reo lên. Đại trèo lên đứng trên chiếc xe tăng phát mạnh lá cờ chiến thắng. Tiếng reo từ trong muôn vạn lồng ngực trào lên âm vang cả một vùng.

Đồng bào từ trong vườn cây, từ các ngã đường đổ tới vây lấy những chiếc tăng và các chiến sĩ. Mắt Đại hoa lên, trước mắt anh là một biển người, quần áo đủ các màu sắc, đủ các lứa tuổi, đủ các nét mặt. Họ cười, họ nói, họ chỉ trỏ, họ hỏi chuyện, họ hoan hô. Thế là Đại và các chiến sĩ đại đội anh đã ở giữa Sài Gòn, ở trước dinh Độc Lập. Nguyễn Văn Thiệu gần chục năm ở trong cái nhà kia, hắn trốn chạy rồi, bây giờ ở trong đó còn có một bọn nguỵ quyền khác đã đầu hàng vô điều kiện. Đại thấy người lâng lâng, anh không biết nhìn cái gì, ngắm cái gì, nghe cái gì. Mới hôm qua anh và đồng đội còn ở rừng, hôm nay anh và đồng đội đã vào Sài Gòn. Đám người xung quanh Đại đang chao đi chao lại, có ai đang rẽ đám người đi về phía anh. Đại quay lại nhìn. A! một người nước ngoài. Phóng viên nhà báo chăng? Đại nghĩ thầm và đưa tay sửa cái mũ cho ngay ngắn. Họ sẽ hỏi gì? Và anh sẽ trả lời như thế nào? Đại quay đi quay lại, nhiều đoàn xe tăng, nhiều đoàn xe chở bộ binh khác đã nối tiếp nhau tiến vào đậu thành hàng dài bên lề đường, nhưng Đại vẫn chưa thấy thủ trưởng trung đoàn đâu cả, còn người nước ngoài mà Đại đoán chắc là nhà báo ấy đã tiến sát trước mặt Đại. Anh ta còn trẻ,đeo kính râm, một vai mang máy ghi âm, một vai mang máy ảnh, tay cầm sổ và bút.
- Chào các ông!
Người nước ngoài đột nhiên mỉm cười và chào bằng tiếng Việt rất sõi:
- Vâng! Chào ông! Ông muốn hỏi gi?
Đại tựa lưng vào thành xe tăng nhìn thẳng vào mặt người phóng viên.
- Tôi - Người phóng viên chỉ tay vào ngực mình – Tôi là phóng viên hãng Roi-tơ. Tôi xin tự giới thiệu, tôi xin chào các ông, những người chiến thắng, tôi muốn nói chuyện với các ông.
Nói chuyện với các nhà báo phương Tây - Đại nghĩ rất nhanh - Được, cứ nói, không nói cũng không được, mình là người chiến thắng, cần phải nói. Đại tự tin vào mình, Đại nói:
-Xin mời ông!
- Tôi…Tôi muốn biết tại sao các ông đánh nhanh như thế? Tôi tưởng ít nhất cũng dăm bảy ngày nữa, tôi cứ tưởng phải đến ngày Điện Biên Phủ, hay muộn hơn, ngày sinh Hồ Chủ Tịch. Tại sao thưa các ông? Chính phủ Dương Văn Minh kinh ngạc, chúng tôi cũng kinh ngạc.
Đại chỉ vào câu khẩu hiệu dán trên mũ:
- Ông biết đọc chữ việt chứ, ông đọc đi. Khẩu hiệu của chúng tôi đó, chúng tôi đã đánh theo khẩu hiệu đó.
Người phóng viên phương Tây mở to mắt nhìn câu khẩu hiệu, anh ta đọc to:
- Thần tốc..táo bạo….Vâng, tôi đã đọc xong. Thần tốc…táo bạo. Tôi hiểu, tôi hiểu…Tôi xin hỏi các ông: đánh liên tục như vậy thì ăn uống thế nào?
Đại cười, rút trong bòng ra một bánh lương khô:
- Chúng tôi ăn bằng cái này và uống nước đun sôi. Chúng tôi gọi là lương khô đấy. Tặng ông một bánh làm kỉ niệm.
Người phóng viên đưa cả hai tay đỡ lấy phong lương khô ngắm nghía rồi bỏ vào túi. Anh ta lấy một gói thuốc lá đưa cho Đại:
- Xin cảm ơn các ông! Xin tặng ông gói thuốc này.
Đại lắc đầu:
- Cám ơn, chúng tôi làm nhiệm vụ không hút thuốc
Người phóng viên đút gói thuốc vào túi, rồi lại hỏi:
- Thế các ông ăn uống vào những giờ nào?
- Chúng tôi ăn trong khi hành quân, khi ngồi trên xe, cả trong khi đánh nhau.

- Cảm ơn! Tôi muốn hỏi một câu nữa. tại sao cờ lại nữa đỏ nữa xanh? Lại có cả cờ đỏ sao vàng?
Đại sực nhớ tới một câu thơ của Tố Hữu về lá cờ mặt trận. Đại đọc ngay:
- Lá cờ nửa đỏ nữa xanh, màu đỏ của đất, màu xanh của trời. Một nhà thơ của chúng ta đã nói về lá cờ như vậy. Đó là cách nói của nhà thơ. Còn tôi, tôi hiểu lá cờ tiêu biểu cho đường lối cách mạng của chúng tôi. Ông nhìn thấy những lá cờ đỏ sao vàng kia chứ? Cờ tổ quốc của chúng tôi đấy, cờ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Còn lá cờ mặt trận thì màu xanh là màu hoà bình. Hoà bình thống nhất nứơc nhà, đó là mục tiêu của chúng tôi. Rồi đây tổ quốc chúng tôi sẽ thống nhất, chỉ còn một lá cờ duy nhất, lá cờ đỏ sao vàng. Còn lá cờ nửa đỏ nữa xanh này chúng tôi sẽ để vào viện bảo tàng lịch sử. Bởi vì lá cờ đã làm tròn nhiệm vụ một giai đoạn lịch sử. Tôi hiểu như vậy!
- Cảm ơn ông! Tôi lại xin hỏi thêm một câu nữa. Các ông là người chiến thắng, vào Sài Gòn tại sao các ông không bắn súng? Các ông không vào lấy những thứ trong dinh Độc Lập? các ông không quát nạt ai, kể cả bọn lính chính quyền cũ. Tôi đã đi nhiều, tôi chưa thấy một quân đội chiến thắng nào như các ông cả. Tôi không hiểu?
 Đại cười, các chiến sĩ đứng quanh anh cũng cười:
- Có gì mà ông không hiểu. Chúng tôi chỉ dùng súng để tiêu diệt địch, nay địch đã đầu hàng rồi thì bắn súng làm gì nữa. Bắn nữa chỉ làm rối loạn trật tự, vô ích. Còn chúng tôi quát nạt lính nguỵ làm gì? Họ đã hạ vũ khí, họ đã đầu hàng. Chính phủ cách mạng sẽ có chính sách đối với họ, còn nhân dân, ông xem kia - Đại chỉ tay ra xung quanh – Các bà mẹ, các bà chị của chúng tôi đang chở nước tới, đem khăn mặt tới cho chúng tôi rửa đấy. Ông đã bao giờ thấy cảnh đó chưa?
Đại hỏi người phóng viên:
- Ông có nghe các bà mẹ ấy, các bà chị ấy nói gì không? Các mẹ, các chị bảo chúng tôi rửa mặt đi cho mát mẻ, cho hết bụi đường, cho hết bụi chiến tranh! Ông có nhìn thấy những giọt nước mắt và những nụ cười kia không? Kia, kia nữa. Ông thấy rồi chứ? Ông hãy viết cho đúng sự thật những cảnh đó đi. Ông hãy nói cho độc giả của ông, cho toàn thế giới biết nhân dân đã nổi dậy, đã đón tiếp chúng tôi như thế nào? Và chúng tôi, những người mà các ông quen gọi là Việt Cộng, là Cộng sản đã tiến vào Sài Gòn như thế nào.
Người phóng viên nước ngoài gật đầu liên tiếp, dường như anh ta cũng cảm động. Anh ta cuối đầu, nói chậm rãi, giọng đầy xúc động:
- Cảm ơn các ông. Tôi kính phục các ông. Tôi ở Sài Gòn rất lâu rồi, nhưng bây giờ tôi mới hiểu dân Sài Gòn. Tất cả mọi dự đoán, mọi suy nghĩ của chúng tôi đã bị sự thực hôm nay đảo ngược hoàn toàn. Cảm ơn các ông. Tôi đã được sống một ngày có ý nghĩa nhất cuộc đời tôi. Tôi đã thấy rất rõ. Một lần nữa xin cảm ơn các ông, những con người rất lạ. Vâng, rất lạ….
Đại cũng gật đầu, anh mỉm cười nói thầm với xe trưởng xe tăng:
- Bây giờ thì thế đấy chứ trước đây nó nói xấu mình phải biết. Đồ tư sản!

Đại quay lại, anh thấy một bà mẹ cầm cái khăn dấm nước, hình như chờ anh đã lâu. Đại bước tới:
- Cảm ơn má!
Đại cầm khăn, bà mẹ nắm lấy áo anh, nhìn vào mặt anh, hai dòng nước mắt mẹ chảy xuống, mẹ nói:
- Con, các con ơi! Má, má có thằng út cũng đi giải phóng từ hồi Mậu Thân, không biết bây giờ nó ở đâu, nó có vô Sài Gòn với các con không? Má đi tìm khắp nhưng không gặp, nhưng được thấy các con, má cũng mừng rồi!
Đại chưa biết nói thế nào thì một tốp các má, các chị khác đã khiêng từ trên những chiếc xe Lam xuống, nào cơm, nào hủ tiếu bốc khói nghi ngút. Các má, các chị kéo tay từng chiến sĩ:
- Lại ăn đi các con, ăn đi các em, ăn lương khô không thôi thì chịu sao được! Đánh nhau vất vả suốt đêm suốt ngày.
Các chiến sĩ nhìn nhau không biết xử trí thế nào. Đại bước tới, mắt anh nhoè đi:
- Thưa các má, thưa các chị, chúng con có lương khô rồi, chúng con có cả gạo trên xe nữa. Xong nhiệm vụ chúng con sẽ nấu cơm ăn. Bây giờ chúng con đang làm nhiệm vụ không thể ăn ở đây được. Cảm ơn lòng tốt của các mẹ, các chị, của đồng bào Sài Gòn.
Đại chưa nói xong, anh lại bị một nhóm đồng bào khác ập tới:
- Không ăn cơm thì ăn bánh, ăn kẹo, hút thuốc, uống la-de. Đồng bào thức suốt mấy đêm nay chờ các anh. Chiến tranh chấm dứt rồi, không cần phải lo bom lo đạn, lo chết chóc nữa, ơn các anh biết lấy gì trả, các anh vui với đồng bào một chút gọi là tình quân dân.
- Thưa bà con cô bác - Đại nói to – Xin bà con cô bác đến uỷ ban quân quản. Uỷ ban sẽ nhận và phân phối về cho các đơn vị, còn chúng tôi ở đây đang làm nhiệm vụ, không được phép nhận quà.
- Lạ thiệt- Ai cũng nói như ai-Không sắp nào chịu nhận cả. Uỷ ban quân quản ở đâu? Biết làm sao bây giờ?
Chiếc xe bọc thép của sư trưởng Nam Phong không thể nào lách được đoàn xe đang ùn lại giữa một biển người đang hò reo, hoan hô đến dậy đất. Sư trưởng nói với chính uỷ Liêm:
- Anh giữ liên lạc với quân đoàn. Tôi phải vào trước đây! Nóng ruột quá!
Ông nhảy khỏi xe, cậu lái Hon đa hiểu ý cho chiếc Hon đa tiến sát xe bọc thép. Sư trưởng nói thêm điều gì đó với chính uỷ Liêm rồi lên Hon đa. Chiếc Hon đa vất vả lắm mới lách qua đoàn xe và biển người. Đến cầu Thị Nghè, sư trưởng gặp Minh, trợ lý tác chiến ra đón. Ông hỏi ngay:
- Đại đội 7 có cắm cờ được không?
Minh đứng nghiêm:
- Báo cáo thủ trưởng, quân đoàn 2 đã cắm cờ trước. Đại đội 7 đến sau ba mươi phút. Đúng mười hai giờ, chiếc xe tăng đầu tiên của đại đội 7 đến trước cửa dinh Độc Lập.
- Những đơn vị nào đã vào nội đô?
- Báo cáo trung đoàn 14 vào hết, trung đoàn 12 và pháo đang trên đường vào. Tôi đã đưa một đại đội của trung đoàn 14 đến đài phát thanh, ở đó cũng có đơn vị bạn.
- Còn bộ quốc phòng? Bộ tư lệnh hải quân? Bộ tư lệnh thuỷ quân lục chiến? Ngân hàng?
- Báo cáo, chưa có ai đến. Tôi còn ra đón thủ trưởng.
Sư trưởng nam Phong cau mặt, ông định nói một câu gì nhưng bỗng kìm lại được. Ông mỉm cười, giọng an ủi:
- Thôi đựơc, biết làm thế nào, chúng ta đã mất quá nhiều thì giờ ở Biên Hoà nên muộn. Đồng chí ở đây đón trung đoàn 12 dẫn tới các mục tiêu đã phân công. Tôi vào dinh Độc Lập, có gì gặp tôi ở đó.
Chiếc Hon đa vù đi. Mấy phút sau sư trưởng tới trước dinh Độc Lập. Chính trị viên Đại chạy tới, đứng nghiêm trước mặt ông. Trông nét mặt Đại, ông thấy thương quá, ông cười:
- Đến đựơc thứ hai là tốt rồi, các đồng chí cứ ở đây chờ nhận bàn giao của đơn vị bạn. Đại đội 7 sẽ vào tiếp quản dinh Độc Lập đấy.
Sư trưởng Nam Phong bước vào dinh. Ông không nhìn toà nhà mà đưa mắt nhìn quanh một lượt. Đơn vị bạn đã bố trí canh gác cẩn thận, bọn lính bảo vệ của Dương Văn Minh đã được gom lại một nơi. Vào đến tầng dứơi, bỗng có nhiều người gọi tên ông:

- Nam Phong! Hoan hô Nam Phong!
Ông ngơ ngác nhìn xung quanh, rồi hai ba người chạy tới ôm lấy ông.  Ông cũng kêu lên:
- A! Anh Đan, a anh, chết tôi quên, tôi quên tên – Lính Điện Biên Phủ cả mà. Không ngờ chúng ta lại gặp nhau ở đây. Ông lùi ra một chút ngắm từng người rồi cười – Các anh giành mất phần cắm cờ của chúng tôi rồi!
Tư lệnh phó quân đoàn 2 Hoàng Đan cười to:
- Chúng tôi thuận lợi hơn nên vào trước. Nhưng thôi, thế cũng là vui vẻ cả. Chúng ta đều đã tiến vào Sài Gòn, đã bắt bọn địch đầu hàng, hết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc chiến tranh rồi.
Họ lại ôm chầm lấy nhau. Trên khuôn mặt những người chỉ huy còn hốc hác vì mất ngủ, vì lo lắng, còn sạm đi vì bụi đường, vì khói bom khói đạn, những dòng nước mắt ấm áp chảy ra. Đôi mắt họ ngời sáng, trái tim họ rung lên, mặt họ đỏ bừng như uống rượu.
Đoàn xe tăng tám chiếc của quân đoàn phó Khắc Vũ vượt qua được cầu Thị Nghè thì đã hơn một giờ chiều. Ngồi trên xe, ông nhìn thấy cái cột sắt cao ngất ngểu của đài phát thanh. Xe chạy gần tới nơi, ông thấy có bộ đội đứng gác ở cổng. Ông nữa muốn chạy qua cổng đài phát thanh theo đường Hai Bà Trưng rẽ vào nhưng lại cũng muốn rẽ theo đường Nguyễn Bỉnh Khiêm để được nhìn hai cánh cổng sắt trước cổng Thảo Cầm Viên, hai cánh cửa mà năm 1942, học ở trường bá nghệ, ông và các thợ rèn đã làm ra nó. Xe rẽ vào đường Ngyễn Bỉnh Khiêm rồi rẽ ra đường Thống Nhất, ông ngoái lại, hai cánh cổng còn y nhưng lại không sơn màu xanh mà lại sơn màu xám.
- Đại lộ Nô-Rô-Đôm đây rồi! – Ông kêu to - Thằng địch đổi là đại lộ Thống Nhất. ông mỉm cười - Đường thì mang tên Thống Nhất nhưng chủ trương thì không bao giờ thống nhất cả. Chúng không chịu thống nhất nên phải mất ba mươi năm chiến đấu mới thống nhất được.
Quân đoàn phó cúi rạp người xuống thùng xe để nhìn dinh Độc Lập. Đường đầy xe, đầy
 người nên khó nhìn. Quái! Ông nghĩ thầm – Cái toà nhà kia đâu phải là dinh toàn quyền ngày trước, sao bây giờ trông nó nhỏ thế? Nhưng đúng rồi, đây là đại lộ Nô-Rô-Đôm, bên trái là nhà bưu điện, chiếc đồng hồ vẫn như xưa, tháp chuông nhà thờ Đức bà kia rồi, vẫn màu đỏ gạch như ba mươi năm trước. Chiếc xe bọc thép đậu lại trước cửa dinh. Ông nhảy xuống, người nóng ran, hồi hộp, ông đi nhanh vào sân rồi vào trong toà nhà, nhiều người chạy ra ôm lấy ông. Ông bắt tay Hoàng Đan, quân đoàn phó quân đoàn 2. Ông cười:
- Các anh nhanh quá, các anh cho biết tính hình một chút đi.
Hoàng Đan cười:
- Chúng tôi vào được trước vì thuận lợi hơn các anh. Chúng tôi đang đợi lệnh để bàn giao mục tiêu cho các anh. Quân đoàn 4 làm nhiệm vụ quân quản chứ đâu đến phần chúng tôi. Bọn Dương Văn Minh đang ở tầng hai. Chúng tôi đã cho canh gác cẩn thận.
Quân đoàn phó Khắc Vũ xiết chặt tay từng người:
- Ai cắm cờ cũng được, chúng ta đều vào Sài Gòn cả, các anh, chúng tôi, quân đoàn 1, quân đoàn 3, quân đoàn dã chiến 232, tất cả đều có mặt ở đây rồi. Một cuộc hội chiến lớn lao phải không các anh? Vui quá, sung sướng quá!
Một người nào đó hỏi ông:
- Có tin gì về đồng bằng Nam Bộ chưa? Việc Dương Văn Minh đầu hàng chắc bay đi khắp thế giới rồi!
- Sài Gòn là hang ổ cuối cùng, chúng ta chiếm đựoc hang ổ cuối cùng thì bọn địch ở đồng bằng Nam Bộ cũng sẽ phải đầu hàng. Còn Dương Văn Minh đầu hàng thì các hãng tin phương Tây đang có mặt ở Sài Gòn họ sẽ nói thôi. Một sự kiện lớn như vậy không nói sao được, cả thế giới chắc đang hồi hộp.

Quân đoàn phó Khắc Vũ lách qua mọi người, ông đi tìm thang gác toà nhà rồi leo lên tận nóc tầng cuối cùng. Ông đứng nghiêm giơ tay chào lá cờ đang tung bay trước gió. Ông giang rộng tay ôm lấy cột cờ, ông kêu lên thành tiếng nghẹn ngào:
- Sài Gòn ơi! Chúng tôi đã về đây! Quê hương ơi, những đứa con của người đã về đây! Hỡi toàn thế giới! Hỡi đồng bào! Nhân dân Việt Nam, quân đội nhân dân Việt Nam đã đánh bài hoàn toàn đế quốc Mỹ và tay sai. Hãy nhớ lấy ngày hôm nay, ngày 30 tháng 4 năm 1975, hãy nhớ lấy ngày lịch sử này!.
Ông lùi ra, ngước mắt nhìn lá cờ lần nữa. Cái cảm giác hư hư thực thực làm cho ông xao xuyến, người ông bồng bềnh như đang bay giữa khoảng không. Ông lại giơ tay chào lá cờ, rồi lại đứng lặng mà ngắm. Sài Gòn đây rồi! Đúng là ông đang đứng giữa Sài Gòn, trên nóc nhà dinh Độc Lập. Sài Gòn xung quanh ông đây. Kia là đường Tự Do, kia là đường Nguyễn Huệ. Kia là bến Bạch Đằng, kia là cột cờ Thủ Ngữ, kia là nhà ngân hàng, kia là chợ Bến Thành. Còn tất cả. Chúng ta đã đánh rất nhanh khiến kẻ thù không kịp đối phó, không kịp chống đỡ. Đánh chiếm Sài Gòn, nhưng vẫn cố giữ nguyên vẹn Sài Gòn, giữ Sài Gòn cho nhân dân Sài Gòn, giữ Sài Gòn cho cả nước, chúng ta đánh, chúng ta chiếm và Sài Gòn vẫn còn nguyên vẹn.
Quân đoàn phó thở những hơi rất dài, rất sâu. Ông bắt gặp ngọn gió quen thuộc của Sài Gòn, ngọn gió mang hơi biển pha lẫn với hơi đồng bằng. Ông đứng lặng một lúc rồi xuống thang gác.
Chiếc xe bọc thép nổ máy theo đường Nguyễn Huệ ra bến Bạch Đằng. Đến khách sạn Place ông dừng lại. Mấy ông già  chừng như là công nhân cảng chạy tới, ông xoè cả hai tay ra vẫy:
- Chào các bác, ba mươi năm, hôm nay tôi trở vào Sài Gòn đây. Con đường này tôi đi đã mòn gót, các bác ơi!
Những người công nhân già cầm tay ông lắc mạnh:
- Chào ông giải phóng! Ba mươi năm trước ông cũng ở Sài Gòn à? Sài Gòn có khác gì không ông?
- Có cái khác, có cái không khác, sao? Các bác có vui không? Có sướng không? Thôi chào các bác, tôi phải đi đây.
Chiếc xe ngược lên bến Bạch Đằng, xe tăng T54 đậu thành một hàng dài trên bến tàu, nòng pháo chĩa ra sông Sài Gòn. Những chiếc tăng đang nằm nghỉ sau những ngày đêm lăn xích trên mọi con đường dài. Chiếc xe bọc thép đứng lại trước cửa bộ tư lệnh hải quân nguỵ Ông vừa xuống xe thấy sư trưởng Nam Phong, chính uỷ Liêm, phó chính uỷ Nguyễn Văn Thái, tham mưu trưởng và chủ nhiệm chính trị sư đoàn từ trong sân bước ra. Ông đã sẵn sàng để giang cả hai tay để ôm hôn sư trưởng Nam Phong, nhưng ông thấy sư trưởng Nam Phong lắc đầu, mặc buồn, giọng tiếc rẻ:
- Tôi rất thông cảm với anh nhưng không thể nào vào nhanh hơn được. Chúng tôi phải vòng ra xa lộ, bị ngẽn đường. Ở tất cả các nơi đồng bào đều vây lấy nhất định không cho đi. Rất tiếc anh Ba ạ! Kết thúc kháng chiến chống Pháp sư 7(*) cắm cờ lên nóc hầm Đờ Cát, kết thúc chiến tranh chống Mỹ, sư 304 cắm cờ lên dinh Độc Lập. Những giờ phút lịch sử của dân tộc, của đất nước diễn ra như vậy.
Quân đoàn phó cười:
- Kể ra cũng đáng tiếc, nhưng đánh bằng được Hố Nai, Biên Hoà cũng vất vả lắm rồi. Chúng ta đã mất quá nhiều thì giờ ở đó. Nhưng thôi. Tất cả đều vào Sài Gòn. CHiến tranh kết thúc, bọn địch đã đầu hàng vô điều kiện, đó là điều sung sướng nhất.


(*)Tức sư đoàn 312, sư đoàn vào miền đông Nam Bộ, năm 1966 đổi thành sư đoàn 7

Quân đoàn phó trao đổi một số công việc với sư trưởng Nam Phong rồi lại lên xe bọc thép quay về lại phía ngân hàng. Chiếc K63 chạy dọc theo đường bờ sông, dừng lại trước cửa ngân hàng. Bộ đội của sư 7 đã gác ở đó. Các chiến sĩ không có nhiệm vụ gác chạy tới vây lấy ông, ông ôm từng chiến sĩ vào người, nói với họ:
- Lại đây các cậu, các cậu thấy cái phiến đá kia không? Hồi bằng tuổi các cậu, mình thất nghiệp, ngày đi lang thang, đêm về lăn trên phiến đá kia ngủ đấy. Mấy chục năm rồi, phiến đá vẫn còn, nó đã mòn đi nhiều lắm.
 Rồi ông lại lên xe, lại đi. Sài Gòn của tuổi thơ, Sài Gòn của tuổi thanh niên, Sài Gòn của những ngày tháng Tám sục sôi cách mạng, Sài Gòn của những buổi ra đi. Chiếc xe bọc thép chạy vô quận 5, vòng lên đường Trần Quốc Toản, rẽ ra đường Lê Văn Duyệt. Chiếc xe dừng lại trước cổng bộ tư lệnh biệt khu thủ đô. Sư đoàn 9 có nhiệm vụ chiếm biệt khu thủ đô, không hiểu đã vào chưa? Biệt khu thủ đô! Té ra là thành pháo thủ trước kia của Pháp. Không có gì thay đổi cả. Những cây cột sắt tròn, những ngôi nhà ba tầng, hai hàng cây sao lá xanh um.
- Anh Ba Vũ! Chúng tôi ở đây!
 Có tiếng gọi – Ông quay lại thấy Ba Hồng, Tám Tùng và Năm Tích tư lệnh, chính uỷ và sư phó sư 9 chạy ra.
- Chúng tôi chiếm biệt khu thủ đô hồi 10 giờ 30 phút. Đúng lúc Dương Văn Minh đầu hàng. Vất vả quá anh Ba, đường tiến của chúng tôi dài nhất. Những chiếc xe tăng của cánh chúng tôi cũng tới dinh Độc Lập hội chiến với bạn bè. Anh đã gặp anh em chưa?
Ông ôm lấy từng người, mắt ướt nhưng miệng cười rất tươi:
- Tốt lắm, sư 9 đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Xe tăng ở quanh dinh Độc Lập rất nhiều, không đơn vị nào nhận ra đơn vị nào cả.
Ba Hồng, tư lệnh sư đoàn 9 đưa ông lên phòng làm việc của Nguyễn Văn Minh, trung tướng tư lệnh biệt khu thủ đô. Nguyễn Văn Minh đã bỏ chạy. Trước cửa ra vào vẫn còn nguyên tấm biển đề chữ “Tư lệnh”, dưới có ba ngôi sao đồng. ông vào buồng nhìn thấy ảnh Đỗ Cao Trí, dưới có bốn ngôi sao đồng. Đỗ Cao Trí nguyên tư lệnh biệt khu thủ đô, một tên tướng khét tiếng gian ác. Đồng bào Sài Gòn rất căm Trí. Trí làm tư lệnh quân đoàn 3, theo lệnh Mỹ-Thiệu đem quân càn quét bên Cam-pu-chia. Chiếc máy bay của Trí bị du kích Tây Ninh bắn tan xác. Trí chết, Thiệu mất một cánh tay, Thiệu tri ơn Trí bằng cách phong Trí lên cấp đại tướng. Ông kéo ngăn bàn nhìn lướt qua: một tập thư tình dày cộp, một cái thiếp chúc thọ tổng thống phu nhân, một cái thiệp cảm tạ tang lễ Nguyễn Văn Hiếu, một lá số tử vi của  tư lệnh phó biệt khu thủ đô, lá số đoán rằng năm nay tư lệnh phó sẽ lân cấp tướng. Ông cười:
- Bộ mặt của chúng đấy, chúng chạy nhanh đến nỗi không kịp thu vén mọi rác rưởi này. Ông đóng ngăn kéo, quay lại hỏi Ba Hồng:
- Chú ý các khoản tài liệu, còn nhiều việc chúng ta cần nghiên cứu.
Ngồi nói chuyện một lúc, ông lại từ giã các đồng chí chỉ huy sư 9 ra đi. Ông muốn đi một vòng, vừa kiểm tra, vừa xem xét.

Chiều tối, chiếc K63 đưa ông đến đường Hồng Thập Tự, ông vào đài phát thanh và đài truyền hình. Các chiến sĩ sư 7 đã canh gác ở đó. Chiếc xe rẽ theo đường Hai Bà Trưng vào dinh Độc Lập. Chiếc xe phải lách từng thước một. Trên tất cả các con đường, các vỉa hè, các vườn cây, đông nghịt bộ đội và đồng bào. Đồng bào cầm cờ, cầm hoa, cầm cả ảnh Bác Hồ, có những chiếc ảnh có từ hồ kháng chiến chống Pháp. Mỗi cánh tay chiến sĩ đưa ra hàng chục bàn tay đồng bào nắm lấy. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng hô khẩu hiệu cứ cuộn lên thành từng đợt sóng. Tấm lòng của Sài Gòn đấy. Mặt quân đoàn phó nóng bừng như uống rượu, ông đứng giữa biển người, ông chen lên, ông hít mạnh cái hơi người nồng ấm đang toả ra. Phải mất nữa giờ ông mới vào tới dinh Độc Lập, từ xa ông đã thấy tư lệnh quân đoàn Hoàng Cầm, chính uỷ quân đoàn Hoàng Thế Thiện, phó chính uỷ quân đoàn Vương Thế Hiệp, tham mưu trưởng quân đoàn Hoàng Nghiã khánh, chủ nhiệm cục chính trị quân đoàn Tư Thanh và nhiều đồng chí khác. Ông bước nhanh vào, nắm chặt tay tư lệnh, chính uỷ và những người xung quanh.
- Báo cáo các anh, tôi vừa đi một vòng quanh Sài Gòn bằng xe bọc thép, vừa kiểm tra các mục tiêu, vừa xem Sài Gòn.
- Đã chưa?
Chính uỷ Hoàng Thế Thiện mỉm cười hỏi ông. Ông hút một hơi thuốc, nuốt khói rồi nói:
- Chưa đâu anh Năm. Tôi mới chạy một vài đường phố chính, còn bao nhiêu ngõ ngách, mỗi ngõ ngách là một lô kỉ niệm.
Chính uỷ quân đoàn nhìn mọi người rồi chỉ những chiếc ghế bành bọc gấm đỏ, ông vừa cười vừa nói:
- Đây là phòng khách của các “Ngài tổng thống”. Nhân dân ta, quân đội ta đã kết thúc cuộc đời bán nước và tay sai của các ngài. Bây giờ cái phòng khách sang trọng này, cái toà lâu đài đồ sộ này đã là tài sản của nhân dân. Bây giờ chúng ta là chủ, xin mời các anh ngồi nghỉ một lát rồi ta họp luôn. Quân đoàn ta sẽ nhận bàn giao của quân đoàn 2 về mục tiêu này và chính thức làm nhiệm vụ quân quản Sài Gòn – Chính uỷ cười to – Nào mời các anh ngồi xuống. Sao? Bụi đường à? Bụi chiến tranh à? Không sao cả. Tất cả những người đã tham gia cuộc chiến tranh này đều rất đáng được ở trong toà nhà này, rất đáng được ngồi trên những chiếc ghế bành này.
Tất cả mọi người đều cười, họ ngồi xuống những chiếc ghế rất đẹp, rất sang. Họ lột dép cao su ra khỏi chân cho đỡ nhức. Quân đoàn phó Khắc Vũ quay sang tham mưu trưởng Khánh:
- Tình hình sư 1, sư 6 và lữ đoàn 52 thế nào anh?
Tham mưu Khánh trải bản đồ và nói:
- Sư 1 vào hết nội đô, đã chiếm được các mục tiêu được phân công. Sư 6 đang làm nhiệm vụ quân quản ở Biên Hoà còn lữ đoàn 52 chiếm quận 10. Về cơ bản quân đoàn đã hoàn thành chiếm giữ các mục tiêu trên giao. Chỉ tiếc chúng ta vào hơi trễ, bọn địch ở Biên Hoà ngoan cố thật, còn cái tin cầu Ghềnh, cầu Rạch Cát T54 không qua đựơc là tin vịt. Xe tăng của sư 1 đã vượt qua hai chiếc cầu ấy một cách dễ dàng. Chính cái tin ấy đã làm chúng ta lúng túng phải không anh?

Quân đoàn phó hỏi tiếp:
- Sở chỉ huy cơ bản vào bằng đường nào?
- Xa lộ! – Tham mưu trưởng Khánh kéo một hồi thuốc - Cả một xa lộ đầy người và xe. Người và xe của ta, người và xe của địch, người và xe của nhân dân. Chúng tôi bị nhân dân và cả binh sĩ địch đã đầu hàng, đã giải giáp vây chặt không biết mấy chục lần. Đồng bào cứ nhất định không cho đi, họ muốn nhìn mặt, họ đòi bắt tay, họ bắt nhận quà, bắt ăn cơm. Kì lạ thật, trận chiến đấu này, biết tả thế nào đựơc, anh Ba?
Tư lệnh quân đoàn Hoàng Cầm không ngồi, ông đi đi lại lại phía trước phòng khách rộng lớn, ông không ngó những thứ bày biện trong phòng, ông vừa đi vừa nhìn những chiếc tăng đậu trong khu vực dinh Độc Lập, ông nhìn những chiến sĩ, những người cán bộ đang vào ra tấp nập, đang ra những mệnh lệnh và đang thi hành những mệnh lệnh. Đôi mắt ông lấp lánh những giọt nứơc mắt, đôi vai ông thỉnh thoảng run lên vì xúc động. Người tư lệnh phó sư đoàn trong chiến dịch Điện Biên ấy đã chứng kiến cảnh Đờ-Cát và quân lính của hắn đầu hàng trong buổi chiều ngày 7 tháng 5  ở thung lũng Điện Biên Phủ cách đây gần 21 năm nay là tư lệnh một quân đoàn lại đã và đang chứng kiến cảnh quân nguỵ tan rã, đầu hàng ở Xuân Lộc, Biên Hoà, Sài Gòn trên suốt đường tiến quân của quân đoàn.
Hơn nữa thời gian chiến dịch Điện Biên đến hôm nay, ông luôn có mặt ở chiến trường miền Đông này. Rất nhiều đêm dài ông thao thức, suy nghĩ về cái hang ổ cuối cùng này của kẻ thù và hôm nay ông đã cùng bộ đội của mình vào tận sào huyệt cuối cùng của kẻ thù, cùng với các quân đoàn bạn bắt chúng phải đầu hàng vô điều kiện. Chính uỷ quân đoàn thông cảm với những tâm tư tình cảm của tư lệnh, chính uỷ muốn để yên cho tư lệnh suy nghĩ, nhưng những công việc mới mẻ, khẩn trương, bề bộn đã phải buộc họp ngay. Chính uỷ đến cạnh tư lệnh. Tư lệnh hiểu ý vội tới chiếc ghế bỏ trống.
Tư lệnh ngã bản đồ, chính uỷ Hoàng Thế Thiện trình bày nhiệm vụ, tham mưu trưởng trình bày phương án phòng thủ và tác chiến. Cuộc họp diễn ra chưa đầy ba mươi phút. Tham mưu trưởng và chủ nhiệm chính trị triển khai ngay kế hoạch cho các sư đoàn. Sở chỉ huy quân đoàn tạm thời đóng trong dinh Độc Lập.
Đêm xuống, các chiến sĩ quân nuôi mang cơm lên nhưng không ai muốn ăn. Chờ tư lệnh và chính uỷ sang phòng bên xong, quân đoàn phó Khắc Vũ mới đi quanh cái phòng ông đang ngồi. Ông muốn ngả lưng một chút, nhưng nhìn lui nhìn tới không thấy có cái gì có thể mắc võng đựơc. Nằm giường không quen, mười mấy năm nằm võng còn gì! Ông lắc đầu mỉm cười, đi từng bước rất nhẹ ra ngoài sân. Những ngọn đèn pha quanh dinh bật sáng. Vòi nước phun đều đều, dưới các gốc cây, trên các thảm cỏ, quanh các ngôi nhà nhỏ trong khu dinh. Các chiến sĩ kẻ đứng, người ngồi, có cậu nằm dài lăn qua lăn lại. Có cậu nhìn ra ngoài đường, có cậu nhìn mãi dinh Độc Lập,tất cả các cặp mắt đều có một cái gì đó bỡ ngỡ, lạ lùng, ngạc nhiên và vui sướng đến tột độ. Bất ngờ có tiếng báo cáo làm ông giật mình đứng lại:
-Báo cáo đồng chí tư lệnh phó quân đoàn. Xin chào đồng chí.
Ông mở to mắt nhìn một chiến sĩ đang đứng cách ông năm thước:
- Ai đấy? Đồng chí nào đấy? Cảm ơn, tôi chào đồng chí.
 - Báo cáo thủ trưởng. tôi Hoàng Cao Đại, chính trị viên đại đội 7, trung đoàn 14.
- A!....Đồng chí Đại hoan hô! Chúng ta lại gặp nhau rồi. Đại đội 7 nhận bàn giao của đơn vị bạn rồi à? Đại đội các đồng chí không cắm được cờ trước nhưng các đồng chí lặi được tiếp quản và bảo vệ mục tiêu này. Đó cũng là một vinh dự rất lớn đấy. Phải làm thật tốt nhiệm vụ. Phải tỏ cho họ thấy – ông chỉ tay lên gác 2, nơi Dương Văn Minh và chính phủ Sài Gòn đang bị quản thúc – Cho họ hiểu các đồng chí là đại diện cho một quân đội cách mạng, một quân đội chiến thắng.
- Rõ! Đại đứng nghiêm nói một tiếng”Rõ” thật to. Ông bước tới ôm chặt lấy Đại, cậu chính trị viên đã dẫn đơn vị thọc sâu vào thị xã Phước Long, thọc sâu vào các gộp đá ở Định Quán, và bây giờ đang đứng đây, trong sân dinh Độc Lập.
Ông áp chặt cái cằm đầy râu lên đôi má phúng phính của Đại rồi cười to. Rồi ông lại đi, ông đi hết nơi này qua nơi khác, ngắm nghía, xem xét, đầu óc như một cái máy quay phim. Tám giờ tối, ông vào dinh, leo thang gác, leo lên sân thượng. Ông ngồi xuống nắn hai bàn chân, nắn dần lên hai bắp chân. Trước mặt ông con đường vẫn đông nghịt người, đồng bào vẫn vây quanh những chiếc xe tăng. Gió mát quá, đêm của Sài Gòn không tài nào quên được. tự nhiên ông thấy buồn buồn, Thấy nhớ rừng. Ôi ! Những dải rừng Trường Sơn! Những dải rừng Tây Nguyên!Những dải rừng miền Đông. Hơn 25 năm ở rừng! Ghê gớm thật! Có ngờ đâu cuộc chiến lại dài như thế. Ba mươi năm, một đời người, ba mươi năm không ngày nào, không đêm nào không nghĩ đến kẻ thù, không nghĩ đến cuộc chiến đấu. ba mươi năm, mùa nào cũng có một kế hoạch tấn công, tháng nào cũng có một trận đánh. Hôm nay tới đích cuối cùng của trận chiến đấu suốt ba mươi năm mới thấy dài. Quân đoàn phó xoa bàn tay lên đôi chân còn bết đầy bụi đỏ của rừng cao su. Ôi! Đôi bàn chân! Đôi bàn chân vượt Trường Sơn, đôi bàn chân leo núi, cắt rừng, lội sông, lội suối, biết bao nhiêu cây số đã đi, chắc được một nữa vòng trái đất rồi ấy nhỉ?

- Vậy là ta đã trở về đúng nơi xuất phát- Quân đoàn phó nói nho nhỏ như một lời tâm sự - Cuộc chiến đầu tiên ở đâu thì cuối cùng sẽ kết thúc ở đó. Ta đã đi và ta đã trở về. Quân đoàn phó nhả từng hơi thuốc rồi đứng dậy đi loanh quanh trên nóc dinh Độc Lập. Ông hướng mặt ra bờ sông, gió từ sông Sài Gòn lùa vào chân tóc mát rượi. Đôi mắt ông bắt gặp sông Sài Gòn như một dải lụa trắng hiện lên dưới anh trăng. Trăng sáng quá! Hôm nay là 20 tháng 3 âm lịch, vẫn còn mùa xuân. Trăng lên gọi con nước lên, sông Sài Gòn đầy ắp, lấp lánh. Nhìn sông Sài Gòn, quân đoàn phó Khắc Vũ bỗng nảy ra ý định chốc nữa ông sẽ ra sông, sẽ đi trên bến cảng, sẽ cố hình dung và tưởng tượng xem 64 năm về trước Bác Hồ đã xuống tàu ra đi như thế nào? Đôi mắt quân đoàn phó nhìn vượt sang bên kia sông, nhìn lên những chùm sao trên trời, ông tìm ngôi sao Bắc Đẩu. Những kỉ niệm đưa quân đoàn phó ngược lại 12 năm về trước. Trước ngày đoàn cán bộ trở về miền Nam chiến đấu, Bác tới thăm, một bữa liên hoan được dọn sẵn. Anh em tập hợp đông đủ đón Bác. Bác đến, Bác bước nhanh vào nhà và nói ngay, giọng vui vẻ, ấm áp:
- Các chú ăn cơm đi kẻo đói. Người ta bảo ăn nói mà, vừa ăn vừa nói chuyện cho vui. Ăn cơm đi các cháu.
Các cán bộ ngồi vào bàn, Bác đi hết bàn này đến bàn khác, gắp thức ăn cho từng người như một người Cha chăm sóc đàn con.
Bác dặn nhiều về công tác tổ chức cơ sở, phát động phong trào, xây dựng căn cứ, tích luỹ lực lượng. Bác nói về đường lối chiến tranh nhân dân, về công tác giữ bí mật, về lập trường chiến đấu và lòng trung thành với Đảng, với dân. Bác cười đôn hậu:
- Về Nam các chú phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân vô điều kiện – Bác đưa tay cầm lấy chiếc quân hàm trên vaio áo của một đồng chí ngồi gần, lắc lắc và nói tiếp - Phải làm đầy tớ của dân chứ làm tướng làm tá với dân là không đựơc đâu. Về trong đó gặp bà con nói Bác Hồ gởi lời thăm. Bà con đoàn kết chiến đấu, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, Bác sẽ vào thăm.
 Mái tóc của Bác, đôi mắt của Bác, chòm râu của Bác, dáng điệu của Bác hôm đó hiện ra rất rõ trước mắt ông, giọng nói ấm áp của Bác hôm đó đang vang lên bên tai ông.
“Bác ơi! Quân đoàn phó thì thầm – Bác không còn sống đến hôm nay để vào Nam thăm đồng bào, nhưng chiến dịch cuối cùng mang tên Bác đã toàn thắng. Thành phố mang tên Bác đã trở về trong lòng tổ quốc. Mãi mãi chúng con sẽ làm theo lời Bác dặn, Bác cứ yên lòng”.
Trăng lên đỉnh đầu. Đêm đã khuya, trên các con đường quanh dinh Độc Lập, người xe vẫn ngược xuôi như nước. Sài Gòn không ngủ, đêm nay cả nước không ngủ. Quân đoàn phó nhìn đồng hồ: 1 giờ 30 ngày 1 tháng 5. Một bình minh sắp sửa hiện lên trên bầu trời miền Nam, trên bầu trời Sài Gòn.

HẾT

Không có nhận xét nào: