Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng
phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn
nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón
nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để
làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi
những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này –
văn hóa nông nghiệp lúa nước.
Không chỉ được thiên nhiên ưu đãi, nằm ở
vị trí Đông Bắc của Việt Nam, Thái Bình còn nằm trong dòng chảy văn hóa
4000 năm lịch sử của dân tộc. Bởi vậy, bên cạnh những đặc trưng riêng
thì Thái Bình còn mang trong mình những đặc trưng văn hóa chung, trong
số những đặc trưng ấy thì dấu ấn của Phật Giáo là rất đậm nét. Dấu ấn
Phật Giáo không chỉ được thể hiện trong đời sống tinh thần của người
dân, mà nó còn được cụ thể hóa thành hình thức bên ngoài - đó chính là
những ngôi chùa. Việc xây dựng những ngôi chùa với mục đích phục vụ tín
ngưỡng tôn giáo, nhưng đồng thời ngoài ý muốn chủ quan nó đã tạo nên một
phong cách kiến trúc rất độc đáo, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong
phú hơn cho hệ thống kiến trúc Việt Nam. Trong số những đóng góp độc đáo
về mặt kiến trúc mà Phật giáo để lại, thì chùa Keo Thái Bình là một
minh chứng điển hình. Được xây dựng dưới thời kì phát triển cực thịnh
của Phật giáo (thời Lý – Trần), chùa Keo Thái Bình được đánh giá là “một
kiệt tác nghệ thuật bằng gỗ, tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thế kỉ
XVII” (Non nước Việt Nam – 2007 – NXB Tổng Cục Du Lịch).
1. Khái quát về lịch sử Phật giáo về sự tích Thiền sư Dương Không Lộ
Quê hương của Phật giáo là Ấn Độ. Người
sáng lập là Thái tử Tất-đạt-đa (Siddhartha). Sau 49 ngày tu luyện dưới
gốc cây Pipal (Boddhi – “Bề Đề”) thì Ngài đã đạt đạo, tìm ra quy luật
của cuộc đời và nỗi khổ đau của dân chúng. Từ đó Ngài cùng 5 người bạn
đi khắp nơi để tuyên truyền tư tưởng của mình. Ngài đươc tôn là Buddha
(đấng sáng tạo, đấng giác ngộ, người Việt gọi là Bụt, Phật) và trở thành
người sáng lập ra Phật giáo.
Đạo Phật du nhập vào nước ta khoảng thế
kỉ thứ II (SCN). Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta, đạo Phật và các nhà sư đã có đóng góp rất lớn, từ các triều đại
vua chúa phong kiến trước đây, cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ vừa qua. Nhiều nhà sư đã cống hiến trọn đời mình cho
nền độc lập, tự do của đất nước và sự bình yên phát triển của dân tộc.
Trong số các nhà sư đó có thánh tổ Dương
Không Lộ thiền sư – người đã có công trong việc xây dựng chùa Keo (Thái
Bình) và hiện nay đang được thờ tự trong chùa.
Theo sử sách: Thiền sư họ Dương, húy là
Minh Nghiêm, hiệu là Không Lộ, người làng Giao Thủy, phủ Hà Thanh nối
đời làm nghề đánh cá. Mẹ người họ Nguyễn ở Hải Dương. Thiền sư sinh ngày
14/09 năm Bính Thìn (1016), xuất thân làm nghề chài lưới, song đức
Không Lộ lại là người có chí hướng đạo thiền. Năm 29 tuổi đi tu, đến năm
44 tuổi (1059) ngài tu tại chùa Hà Trạch cùng các đạo sư Đạo Hạnh, Giác
Hải kết bạn chuyên tâm nghiên cứu đạo Thiền.
Năm 1060 ba ông đã sang Tây Trúc để tu
luyện về đạo Phật. Năm 1061 thời vua Lý Thánh Tông, sư về nước dựng chùa
Nghiêm Quang tiền thân của chùa Keo (Thần Quang Tự) ngày nay.
Từ đó ông đã chu du khắp vùng rộng lớn
của châu thổ Bắc Bộ, dựng chùa, truyền bá đạo Phật và được suy tôn là vị
tổ thứ 9 của phái Thiền Việt Nam. Ông đã có công chữa bệnh cho vua Lý
Thánh Tông và được vua phong làm quốc sư triều Lý. Ngày 03/06/1094 đức
Dương Không Lộ viên tịch, thọ 79 tuổi. Đến 1167 đời vua Lý Anh Tông, nhà
vua xuống chiếu đổi tên chùa Nghiêm Quang thành chùa Thần Quang để
tưởng nhớ đến ngài Dương Không Lộ.
2. Quá trình xây dựng chùa Keo
Căn cứ vào hai tấm bia đá thì chùa Keo
có tên là Thần Quang và có xuất xứ liên quan đến chùa Nghiêm Quang do
thiền sư Không Lộ làm năm 1061 tại làng Giao Thủy-Nam Định, văn bia ghi
lại như sau:
“Nghiêm Quang Tự làm năm Tân Sửu (1061)
đời vua Lý Thánh Tông. Năm 1167 vua Lý Anh Tông ban chiếu sửa chùa và
đổi tên thành Thần Quang Tự”.
Mô tả quang cảnh chùa Thần Quang thời Lý
ở ấp Giao Thủy văn bia còn ghi lại: “nơi thờ Phật nước Nam đâu đâu cũng
có, nhưng chỉ có chùa Thần Quang ở vùng Dũng Nhuệ, làng Giao Thủy (tên
nôm
là làng Keo) là nơi danh thắng bậc nhất từ Bắc tới Nam:
Phía chu tước (trước) dòng Xà Giang chầu vào bao la vạn khoảnh.
Phía huyền vũ (sau) sông Hoàng Giang vòng lại mênh mông ngàn tầm.
Bể Nam Hải uốn quanh từng khúc phô hình giải lụa xanh lam.
Dây rừng cây tua tủa vươn cao như búi
tóc mây sắc lục. Thật là một cõi Tây Trúc trong chốn Tùy Lâm vậy. Nào
ngờ, nước sông lũ lụt tràn đầy, đến nỗi ngôi chùa trôi dạt”.
Nhất định phải có người đại phúc đại đức, kết hợp với đại nhân duyên, đại lực lượng mới có thể xây dựng lại được.
Căn cứ vào văn bia chùa Keo thì chùa Keo
do một vị quan lớn thời Lê-Trịnh đứng ra khởi công xây dựng lại, đó là
quận công Hoàng Nhân Dũng ở làng Tứ Quán, phủ Hải Thanh. Vì lúc bấy giờ
đang có cuộc nội chiến Trịnh-Nguyễn nên chúa Trịnh chỉ cấp cho nhà chùa
100 cây gỗ lim còn tất cả vật liệu khác đều do nhân dân tự đóng góp lên
cả. Chính và vậy Hoàng Nhân Dũng đã phải mất 19 năm ròng đi vận động
quyên góp (1611-1630), đến tháng 7/1630 ông đã mời được 42 hiệp thợ và
khởi công công trình. Chỉ trong vòng 28 tháng toàn bộ công trình đã được
khánh thành (11/1632).
Trải qua gần 400 năm tồn tại, nhưng
những công trình chính của chùa Keo như: tam quan, chùa Phật, gác
chuông, v.v… vẫn còn gần như nguyên vẹn từ thời Lê Trung Hưng đến nay.
Nó đã trở thành nét kiến trúc độc đáo góp phần làm phong phú hơn trong
cơ cấu kiến trúc của Việt Nam.
3. Kiến trúc chùa Keo
Chùa keo là một quần thể kiến trúc bao
gồm nhiều hạng mục công trình. Bên cạnh những hạng mục công trình còn
khá nguyên vẹn, thì do thời gian tàn phá nên nhiều công trình đã được
trùng tu, tôn tạo, thay thế nên mang tính hiện đại hơn. Nhưng dù có sự
biến đổi nó vẫn giữa được những nét đặc sắc riêng của phong cách kiến
trúc một thời. Ở đây chỉ xin tập trung vào những công trình kiến trúc
mang tính tiêu biểu, còn những công trình mang màu sắc hiện đại thì chỉ
mang tính đề cập.
Chùa Keo có một phong cách kiến trúc rất
độc đáo. Với chất liệu chủ yếu bằng gỗ và với những đường nét chạm trổ
rất tinh xảo đã tạo cho nơi đây một phong cách riêng.
Toàn cảnh chùa Keo xây dựng thời đó gồm
21 công trình với 157 gian. Hiện nay chùa Keo còn 17 công trình với 128
gian. Đó là các công trình kiến trúc chính như: chùa Phật, điện Thánh,
gác chuông, hành lang và khu tăng xá, vườn tháp, v.v…
3.1. Hệ thống Tam Quan
Trong kiến trúc các ngôi chùa nói riêng
và nhiều hệ thống công trình khác ở Việt Nam nói chung, thì Tam Quan là
một tiểu công trình không thể thiếu, Tam Quan chính là lối đi nằm ở phía
trước của ngôi chùa, gồm 3 lối đi, nhưng nó không thuần túy chỉ là cái
cửa ra vào, mà nhiều tam quan còn là những kiệt tác kiến trúc.
Hệ thống tam quan chùa Keo được chia
thành hai hệ thống: Tam quan ngoại và tam quan nội. Từ mặt đê theo bậc
tam cấp đi xuống, qua một khoảng sân rộng sẽ đến Tam Quan Ngoại. Đây là
một ngôi nhà ba gian không có tường bao, không có cửa. Toàn bộ hệ thống
công trình được nâng đỡ bởi 4 hàng cột gỗ lim vững chắc, nó tạo nên một
không gian mở, thoáng mát để du khách nghỉ chân trước khi vào lễ chùa.
Đáng chú ý nhất là hệ thống Tam Quan
Nội, đây là một công trình kiến trúc khá độc đáo của riêng chùa Keo.
Thông thường hệ thống Tam Quan hoặc là 4 trụ biểu lớn tạo thành ba lối
đi vào chính diện công trình kiến trúc, hoặc là được xây dựng như một
ngôi nhà với ba cửa vào (như Đại Cung Môn – lối vào Tử Cấm Thành trong
kinh Thành Huế). Nhưng ở Tam Quan Nội chùa Keo, thoạt đầu đứng từ bên
ngoài nhìn thì đây là một ngôi nhà ba gian, có hiên có cửa đàng hoàng,
nhưng khi lên hiên thì thấy ngôi nhà này chỉ có ba hàng cột, toàn bộ
cánh cửa, ngưỡng cửa lắp vào hàng cột cái, hàng cột cái này lại chọi
thẳng vào nóc nhà. Đằng trước và đằng sau chỉ còn một hàng cột, hàng cột
này vừa là cột hiên cũng vừa là cột quân. Vì vậy mà không có long, nhìn
phía nào cũng chỉ thấy cửa, thấy hiên. Đó chính là lối kiến trúc theo
thuyết “sắc sắc không không” của đạo Phật.
Đặc biệt bộ cánh cửa gian giữa Tam Quan,
bộ cánh cửa này gồm hai cánh, mỗi cánh cao 2,2m rộng 1,3m khi khép lại
tạo thành một bức phù điêu hoàn chỉnh, chạm đề tài “lưỡng long mẫu tử
chầu nguyệt”. Chính giữa hai cánh cửa chạm một mặt nguyệt lớn, mỗi bên
cánh cửa chạm một con rồng mẹ và một con rồng con, phía góc dưới chạm
con nghê con tất cả đều đang hướng về mặt nguyệt.
Sự hài hòa được người nghệ nhân thể hiện
ở chỗ: trên phiếm gỗ lim với độ chạm sâu không quá 3cm mà người nghệ
nhân vẫn thể hiện rất chuẩn xác luật xa gần, tối sáng của nghệ thuật
chạm trổ truyền thống. Thân rồng khúc ẩn khúc hiện, bầy rồng con xa con
gần, quyện lấy nhau. Rồng mẹ đầu tóc dữ dội, thân uốn nhiều lần, rồng
con dáng vẻ thảnh thơi núp sau bóng mẹ. Toàn bộ môi, râu, bờm rồng dường
như bốc lửa. Mây ám thân rồng, chỗ bốc lên thành mây lửa, chỗ chúc
xuống thành rừng giáo mác, thân rồng chìm trong biển lửa cháy rực. Đường
chạm sắc sảo, nét khắc tinh vi, bố cục chặt chẽ khiến các con linh vật
vốn không có thật trở nên sống động lạ thường.
3.2. Quần thể kiến trúc bên trong chùa
Quần thể kiến trúc bên trong chùa được thiết kế theo kiểu “nội nhị công, ngoại nhất quốc”.
Khu thờ Phật có 3 tòa nhà: tòa Ông Hộ và tòa Tam Bảo nối với nhau qua tòa Ông Muống thành chữ công (I) thứ nhất (theo chữ Hán).
Khu đền Thánh có 3 tòa: tòa Thiêu Hương và tòa Thượng Điện nối với nhau qua tòa Phụ Quốc tạo thành chữa Công (I) thứ hai.
Hai dãy hành lang mỗi bên 33 gian nối
qua hai tòa tả vu, hữu vu – gác chuông và Tam Quan Nội thành ô chữ Quốc
bao bọc bên ngoài. Mỗi chữ Công thờ một thân chủ, chữ Công phía trước
thờ Phật, chữ Công phía sau thờ Thiền sư Dương Không Lộ. Đó cũng là lối
kiến trúc “Tiền Phật hậu Thánh”.
Trong khu thờ Phật thì tòa Ông Hộ có 7
gian với tổng chiều dài 24m, rộng 6m. Nơi đây mái cao lồng lộng, hệ
thống kẻ tiền chạm trổ công phu, kẻ góc cách điệu thành cá hóa rồng hoặc
chạm rồng phượng. Hệ thống chắn gió chỗ chạm rồng quỳ, chỗ chạm long
ẩn, long ám, long quần. Rồng bay trên mây, rồng vui cùng nghê sấu. Nhiều
tấm chắn gió chạm hoa văn sóng nước cuốn thành hoa dây, song cuốn thành
hoa cúc, hoa sen, thành hình con Dơi theo kiểu “Ngũ phúc lâm môn” cách
điệu. Các đầu dư bẩy, kẻ đều chạm rồng, những đầu rồng to khỏe, mắt tròn
trợn ngược, nanh sắc như mác, miệng ngậm viên ngọc, râu bện vào nhau,
tóc bờm vút về sau như thế rồng bay. So với những con rồng thời Nguyễn
thì những con rồng thời Lê Trung Hưng lúc bấy giờ không có độ mềm mại,
tinh xảo bằng. Nhưng nó cũng đã thể hiện được nét tư duy rất độc đáo của
các nhà kiến trúc xưa.
Tòa Ông Muống và tòa Tam Bảo nhỏ hơn tòa
Ông Hộ, hai nhà này làm theo kiểu “Lòng thuyền tứ trụ, thượng dường hạ
kẻ”. Đường soi nét bào bóng nuật tạo vẻ thanh nhã. Bức cuốn thư gian
trung tâm tạo hình con phượng lớn, mào mỏ phượng cất cao như nhụy sen
cách điệu, đôi cánh xòe ra như hai cánh quạt lồng đan chéo nhau. Dáng
phượng nửa đậu, nửa bay trông thật đẹp mắt.
Cách khu thờ Phật một khoảng sân nhỏ là
khu đền Thánh, nơi đây thờ thiền sư Dương Không Lộ. Nhưng đền Thánh được
xây dựng hoành tráng hơn khu chùa Phật. Riêng bộ mái chia thành 4 loại:
tòa Phụ Quốc mái chảy, tòa Giá Roi theo kiểu hồi riêng, hai tòa Thiêu
Hương, Thượng Điện theo lối chéo đao, tàu góc. Trên bờ nóc chỗ trổ chìm,
chỗ đắp nổi hoa chanh, bờ cánh chỗ tỉa chỗ thủng đường dây hoa thị. Xô
hồi kìm nóc khá đẹp. Ngạc long ôm bờ nóc, râu bờm dựng đứng, nanh nhọn,
mắt tròn, đuôi cuộn ngược.
Trong khu đền Thánh, các tảng đá kê chân
cột đều chạm cánh sen. Các đầu củng, chắn phong đều được chạm trổ hết
sức công phu. Trên các chắn phong rồng mẹ dắt díu đàn con vui đùa với
thú. Thú cưỡi lưng rồng, thú túm râu rồng, thú đu trên chum mây lửa.
Đặc biệt, ở đây tất cả các bẩy, kẻ đều
có con sơn chống đỡ hai đầu. 42 con sơn ngoại chạm 42 con rồng với các
dáng vẻ khác nhau, chỗ này rồng cuộn 4 vòng, 5 vòng quanh con sơn, chỗ
kia rồng tì ngực vào cột dồn hết sức dơ đầu đỡ kẻ. 42 con sơn nội nhỏ
hơn nhưng chạm trổ công phu hơn, cái thì chạm rồng bốc lửa đưa đầu đội
bẩy, cái lại chạm rồng đang khom lưng uốn mình cõng đấu hoặc chạm nghê
thần cõng kẻ, đội hoành, đạp đấu với đường chạm nét rất sắc sảo, tinh
vi.
3.3. Gác chuông chùa Keo
Nói đến kiến trúc chùa Keo không thể
không nói đến kiến trúc của gác chuông, đây được coi là công trình kiến
trúc độc đáo nhất, trở thành điểm nhấn cho ngôi chùa (xét về mặt kiến
trúc).
Từ mặt nền lên đến bờ nóc cao hơn 11m,
được cấu trúc 3 tầng mái tạo dáng hài hòa to đẹp. Khung chịu lực chính
là 4 cột lớn cao 5m, đường kính 0,6m đặt trên 4 tảng đá lớn chạm cánh
sen thắt cổ đồng. Mỗi góc dựng một cột góc và hai cột hiên, liên kết
bằng hệ thống xà ngang, xà nách, kẻ góc tạo thành khung gánh lực vững
chắc. Mỗi tầng trên thu lại so với tầng dới là 0,4m. Liên kết với tầng
dưới qua hệ xà dầm. Riêng tầng 3 thu lại nhỏ hơn, không có cột thông
xuống thềm tầng dưới. Các dàn đấu ăn mộng thước thợ với dầm tầng hai.
Mộng đấu định vị mặt bằng tầng 3 tải trọng bộ mái tầng này. Mái tầng 3
khác với mái 2 tầng dưới, mái được làm dốc hơn, chiều dài phía trên của
mái ngắn hơn chiều dốc.
Từ trên cao nhìn xuống, gác chuông chùa
Keo trông giống như mái nhà Rông của đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Cấu
trúc các tầng nhẹ nhàng, khỏe đẹp. Dưới hệ thống tàu mái của mỗi tầng
xếp 84 cánh rui bay thành 3 tầng, 28 cum lớn liên kết với nhau bằng
những thanh xà mảnh như dàn cánh tay đỡ mái. Hệ thống dàn rui bay này
được được đặt trên dàn đấu củng đối trọng vào bên trong qua 3 hàng tay
đòn thẳng gối tựa xà lách. Ba quả chuông đồng nặng gần 2 tấn treo chính
tâm gác chuông cùng sức nặng của dàn mái tạo lực trọng trường kéo các
mộng luôn gắn kết chặt với nhau tạo thế vững chắc cho gác chuông.
Nhờ tỉ lệ giữa các tầng cân đối, độ thu
trả vừa phải giữa các tầng hiên, tầng mái, cự ly giãn cách giữa các cột
chuẩn xác khỏe về lực, đẹp về dáng. Vì vậy đứng ở bất kỳ vị trí nào ngắm
bất kì góc độ nào gác chuông chùa Keo đều đẹp cả.
Với tất cả những nét độc đáo thì Chùa
Keo (Thái Bình) đã được nhà nước công nhận là danh lam thắng cảnh ngay
từ năm 1960 và hiện nay đã được liệt kê vào danh sách các thắng cảnh đặc
biệt quan trọng của quốc gia.
Trải qua gần 400 (377 năm) tồn tại và
phát triển, trước những thăng trầm của lịch sử, những biến cố của thời
gian, những bất thường của thời tiết trên những chất liệu chủ yếu bằng
gỗ của ngôi chùa thì rất nhiều các công trình trong chùa đã bị xuống
cấp, đặc biệt gác chuông (công trình nổi bật nhất trong chùa). Trước
tình hình đó đòi hỏi các cơ quan chức năng, chính quyền và cư dân địa
phương phải có các biện pháp để trùng tu, tôn tạo giữ gìn sự nguyên
trạng của ngôi chùa để ngôi chùa mãi là “một kiệt tác kiến của thế kỷ
XVII”.
3.4. Biện pháp bảo tồn và phát triển
3.4.1. Người dân địa phương
Người dân địa phương đóng một vai trò
rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của ngôi chùa.
Người dân địa phương chính là kho tàng dân gian – nơi lưu giữa lại những
lễ hội truyền thống đặc trưng của chùa. Đó chính là phần hồn, cái ẩn
sau kiến trúc để tăng thêm phần hấp dẫn của một ngôi chùa. Vì vậy để
phát huy được yếu của cư dân địa phương đòi hỏi các cơ quan quản lí cần
tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức người dân về việc bảo
tồn và phát huy giá trị của ngôi chùa, đồng thời phục dựng, tổ chức lại
các lễ hội truyền thống để thu hút đông đảo sự tham gia của người dân
địa phương và du khách thập phương trên cơ sở đó sẽ góp phần vừa bảo
tồn, vừa phát huy được những giá trị của ngôi chùa.
3.4.2. Các cơ quan chức năng
Nhận thức rõ về tầm quan trọng về việc
bảo vệ và tôn tạo một di tích mang tầm quốc gia, các cơ quan chức năng
đã đưa ra nhiều biện pháp hữu hiệu trong việc trùng tu, tôn tạo và phát
huy những giá trị của ngôi chùa.
+ Trước sự xuống cấp của chùa do thời gian thì các cơ quan chức năng đã nhiều lần trùng tu tôn tạo.
+ Cho đặt những hòm công đức mục đích
kêu gọi lòng hảo tâm của du khách thập phương để tăng thêm nguồn kinh
phí trong việc trùng tu tôn tạo chùa.
Bên cạnh đó để phát huy hơn nữa những
giá trị của chùa Keo thì các cơ quan chức năng cần: Tập trung đưa chùa
Keo không chỉ là nơi tín ngưởng tâm linh với du khách thập phương thông
qua những lễ hội, mà cần phải đưa chùa Keo trở thành điểm du lịch thông
qua việc thiết kế những tua tuyến tham quan liên kết nhiều các di tích
với nhau trong đó có chùa Keo. Trên cơ sở đó góp phần phát huy những giá
trị của chùa Keo làm cơ sở cho việc trùng tu tôn tạo chùa, đồng thời
góp phần quảng bá hình ảnh chùa Keo tới du khách .
Kết luận
Với vẻ đẹp về mặt kiến trúc, sự linh
thiêng về mặt tâm linh thì chùa Keo thực sự trở thành điểm tham quan hấp
dẫn đối với du khách gần xa, đồng thời là niềm tự hào của người dân nơi
đây. Nhưng trước sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên, sự xâm hại
của con người… thì đòi hỏi các cơ quan chức năng và người dân địa phương
cần phải phối kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong việc bảo tồn và
phát huy những giá trị của ngôi chùa, để ngôi chùa mãi là: “Kiệt tác
kiến trúc của thế kỷ XVII”.
Tài liệu tham khảo
- Mai Ngọc Chừ (1999), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
- Trần Độ (1989), Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995, Nxb ban văn hóa văn nghệ Trung Ương.
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tỉnh hội Phật giáo Thái Bình (2007), Sơ lược lịch sử chùa Keo Thái Bình.
- Tổng cục du lịch Việt Nam, trung tâm công nghệ thông tin du lịch (2007), Non nước Việt Nam.
- Trần Độ (1989), Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995, Nxb ban văn hóa văn nghệ Trung Ương.
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tỉnh hội Phật giáo Thái Bình (2007), Sơ lược lịch sử chùa Keo Thái Bình.
- Tổng cục du lịch Việt Nam, trung tâm công nghệ thông tin du lịch (2007), Non nước Việt Nam.
Phần tóm tắt:
Chùa Keo (Thái Bình) với chất liệu chủ yếu bằng gồ, những đường chạm trổ tinh vi, những cấu trúc đường nét sắc sảo kết hợp với lối kiến trúc đặc trưng theo lối “Nội nhị công, ngoại nhất quốc”, đặc biệt là vẻ đẹp của gác chuông Chùa Keo, đó là sự kết hợp hài hòa giữa chất liệu gỗ với những đường cong nét đao tạo nên sự khỏe về lực nhưng đẹp về dáng. Tất cả đã hội tụ lại nơi đây để rồi những điều đó tạo nên một kiệt tác kiến trúc một thời trong lịch sử kiến trúc Việt Nam.
Một số hình ảnh về chùa Keo
Sưu tầm./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét