Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2014

Từ chiến trường khốc liệt (Live from the battefield) - Peter Arnett. Phần 1

Giới thiệu tác giả
 
Tác giả là người Mỹ gốc New Zealand Peter Arnett, phóng viên nổi tiếng của Hãng AP, CNN, người đã có mặt ở miền Nam Việt Nam từ những năm 1962 cho tới 1975, chứng kiến rất nhiều sự kiện lịch sử trong chiến tranh Việt Nam và giờ khắc sụp đổ của chính quyền ngụy Sài Gòn.

Cuốn sách được xuất bản lần đầu tại Mỹ năm 1995, sau đó được tái bản nhiều lần, gây tiếng vang lớn và hấp dẫn độc giả. Dư luận trong và ngoài nước Mỹ đánh giá "Đây là một cuốn tự truyện hay nhất", "Một cuốn hồi ký mẫu mực", "Một tài liệu có sức mạnh hay nhất", v.v,..

Từ chiến trường khốc liệt - cuốn tự truyện - hồi ký mang tính báo chí được ghi chép cẩn thận, công phu, là tập tài liệu lịch sử vô cùng quý giá của một phóng viên chiến trường, gần như dành cả phần lớn thời gian cuộc đời mình viết về đề tài chiến tranh. Ông viết về tất cả những điều cảm nhận, trải qua, chứng kiến ở những nơi chiến sự mà Ông đặt chân tới: VIệt Nam, Lào, Iran, Iraq, Afganistan...

Trong cuốn sách, tác giả ghi lại khá kỹ về những sự kiện Chiến tranh Việt Nam, diễn biến những hoạt động tác chiến ở chiến trường, đặc biệt là những sự kiện dấu mốc như: cuộc đấu tranh, biểu tình của các tăng ni, phật tử ở Huế, vụ tự thiêu của nhà sư Thích Quảng Đức, cuộc đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm, các trận đánh, các chiến dịch lớn giữa quân Mỹ - Ngụy và quân giải phóng miền Nam Việt Nam, cuộc nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, các chiến dịch dẫn tới giải phóng Sài Gòn và cuối cùng là giờ khắc sụp đổ của chế độ ngụy quyền Sài Gòn, .. cùng tâm trạng hoang mang, bi quan, thất vọng của các tổng thống, tướng tá Mỹ, ngụy tham gia điều hành bộ máy chiến tranh trước các sự kiện. Tất cả được tác giả ghi chép và kể lại một cách chân thực, khách quan với tư cách là một phóng viên chiến trường chuyên nghiệp.  Chính những tin, bài, phóng sự của tác giả được đăng tải trên báo chí khi đó đã gây tranh cãi và có tác động ảnh hưởng sâu sắc tới dư luận Mỹ và nhiều nước trên thế giới, làm cho nhân dân Mỹ và nhân dân nhiều nước trên thế giới hiểu đúng hơn về cuộc chiến tranh Việt Nam.  Nhờ đó mà Perter Arnett đã giành được giải thưởng báo chí Pulitzer danh giá vào năm 1966 và rất nhiều giải thưởng khác.

Trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và tháng 3-2003, Peter Arnett đã gây chấn động thế giới bởi những phóng sự nóng hổi được truyền hình trực tiếp trên CNN từ chiến trường Baghdad.  Những sự kiện về Chiến tranh Iraq cũng được phản ánh chân thực trong cuốn sách.

Peter Arnett là phóng viên phương Tây đầu tiên và duy nhất phỏng vấn trùm khủng bố Osama Bin Laden.
Lời tựa

Công việc làm tin chiến trường về Chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng lớn tới 35 năm trong nghề phóng viên quốc tế sau này của tôi.  Khi đến với Việt Nam như một chàng trai trẻ đầy lý tưởng tôi nhận thấy không sự thỏa mãn cá nhân nào quá lớn cho một phóng viên chiến trường bằng việc nói ra sự thật về lòng dũng cảm và những bi thương đồng hành cùng người lính.  Tôi viết về chiến tranh ở Việt Nam từ năm 1962 đến 1975, và tôi đã học được rằng trong chiến tranh hiện đại người dân thường thiệt thòi nhiều hơn những người tham chiến và vai trò của phóng viên chiến trường là phải nói lên câu chuyện của họ.

Đó cũng là niềm tin đồng hành cùng tôi nhiều năm sau này tới Baghdad trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất năm 1991 đã kiểm nghiệm sự ảnh hưởng của lệnh cấm vận đối với 25 triệu người dân Iraq như sự trừng phạt lên người đứng đầu của họ, Saddam Hussein.  Cũng như trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, tôi làm tin truyền hình trực tiếp về các trận đánh bom Baghdad trong suốt chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai vào thảng-2003.  Giống như khi ở Việt Nam trước đó 40 năm, để chứng kiến sự thật ác liệt về chiến tranh của người Mỹ, tôi đã ở lại Iraq hơn 4 năm nữa để ghi lại những hỗn loạn và bi thương dẫn đến án treo cổ dành cho Saddam Hussein năm 2006.

Tôi có nhiều dấu mốc quan trọng trong suốt 50 năm làm tin chiến trường của mình, đó là vào tháng 3-1997, cùng với đội quay phim của CNN tôi đã phỏng vấn trùm khủng bố Osama Bin Laden ở nơi ẩn nấp trên núi của ông ta ở Afghanistan.  Vào thời điểm đó, Bin Laden ít được công chúng biết đến, nhưng ông ta đã bị các cơ quan tình báo quốc tế theo dõi như một người cuồng tín Hồi giáo nguy hiểm với nguồn tài chính cá nhân đáng kể.  Trong bài phỏng vấn cá nhân của mình, Bin Laden tuyên bố một cuộc thánh chiến với Mỹ và hứa sẽ gây ra nhiều xung đột và thiệt hại cho quân đội nhằm xóa bỏ sự ảnh hưởng của phương Tây trong giới Hồi giáo.  Vào thời gian phỏng vấn ông ta, những mối đe dọa của Bin Laden từ những ngọn núi phía xa chỉ là lối nói hoa mỹ rỗng tuyếch.  Nhưng khi cuộc tấn công không tặc mà ông ta tổ chức tấn cống vào Tòa nhà Thương mại thế giới ngày 11-9-2001 giết chết 3.000 người dân đã làm thay đổi trật tự. thế giới

Nhiều năm làm phóng viên quốc tế, tôi hiểu rõ vai trò quan trọng của truyền thông trong thời sự thế giới và đây cũng là thông điệp tôi truyền tải trong bài giảng ở các Trường Đại học Báo chí và các Tổ chức truyền thông trong nhiều năm.

Tôi đã dẫn một nhóm sinh viên của Trường Đại học Shantou (Sán Đầu) ở phía nam Trung Quốc tới thăm Việt Nam trong chuyến đi thực tế viết tin ba tuần đáng nhớ vào mùa hè năm 2007.

Với kinh nghiệm trước đây của tôi ở Việt Nam vào những năm 1960 và 1970 và rất nhiều chuyến thăm sau này, tôi đã giảng bài về chủ đề đó ở Trường Đại học Shantou.  Tôi muốn các sinh viên có cảm nhận về cuộc chiến tranh đó và những người Việt nam đã được sinh ra khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975.  Rất nhiều người quan sát đã viết rằng cuộc chiến tranh không còn ảnh hưởng trong đời sống của người Việt Nam, đất nước đã hòa bình và khôi phục kinh tế là mục tiêu hàng đầu của mọi người.

Dọc hành trình từ Bắc tới Nam, chúng tôi thấy sự tốt bụng và niềm vui trên những gương mặt người Việt Nam với những người khách nước ngoài.  Tôi nhận ra rằng Chính phủ nhấn mạnh tầm quan trọng trong hợp tác kinh tế và chính trị với những kẻ thù trước đây ở phương Tây.

Hầu hết những người Việt Nam chúng tôi gặp ở miền Bắc đều hiểu được những đau thương mất mát trong chiến tranh họ phải gánh chịu và chúng tôi được biết có khoảng 3 triệu người chết.  Chúng tôi tìm thấy rất nhiều tàn tích của chiến tranh ở miền Nam nhưng cũng hiểu rằng đó là miền Bắc đã cung cấp sức người sức của cho miền Nam với khẩu hiệu "sinh ra ở miền Bắc và chết ở miền Nam".  Đó là lời thương xót của những gia đình Việt Nam mất con trong chiến tranh.  Cảm nhận về nỗi đau đã lan tỏa trong Văn học Việt Nam vài thập kỷ qua.

Các sinh viên Trường Đại học Shantou nhanh chóng nhận ra rằng Chính phủ Việt Nam ghi nhận lòng yêu nước và sự hy sinh từ việc dựng lên nghĩa trang Trường Sơn ở khu vực Bến Tắt, Quảng Trị với hơn 10.000 ngôi mộ tôn kínhcho đến nhà tù của Pháp cũ có tên "Hỏa lò" ở trung tâm thủ đô, nơi bộ quần áo phi công còn vấy máu của Jonh McCain ở một trong những phòng nơi những người tù Mỹ bị giam giữ trong nhiều năm.  Bi thương hơn nữa, nhà tù còn phác họa những hình ảnh và mô hình về các hình thức tra tấn dã man mà thực dân Pháp đã sử dụng đối với tù chính trị trong suốt 100 năm thống trị gồm máy chém cao bằng gỗ với lưỡi dao sắc và chiếc rổ đựng đầu vấy máu nằm gần đó.

Có một khung cảnh đặc biệt thu hút sự chú ý của các sinh viên và tôi hy vọng nó sẽ đọng lại lâu trong ký ức của họ.  Đó là một căn phòng lớn trong Bảo tàng Chiến tranh ở  thành phố Hồ Chí Minh với những trưng bày cho các phóng viên nước ngoài, những người đã làm tin về các cuộc chiến tranh chống Mỹ và chống Pháp.  Những khuôn mặt và hình ảnh đều quen thuộc với các sinh viên Shantou bởi vì họ là những đồng nghiệp  trước đây của tôi và tôi thường nói về họ trong các bài giảng của mình, các phóng viên ảnh hy sinh trong chiến tranh như Larry Borrow của tạp chí Life, Henri Huet và Huỳnh Công la của AP và Koichi Sawada của UPI cùng nhiều người khác nữa.  Sự đau thương mất mát của chiến tranh đã không làm mờ đi sự ghi nhận của Chính phủ Việt nam về lòng dũng cảm và sự hy sinh của các phóng viên chiến trường ở các quốc gia đã đấu tranh để nói lên sự thật về cuộc chiến và sự hy sinh của họ.  Đó là điểm nhấn trong chủ đề bài giảng của tôi ở Trường Đại học Shantou rằng báo chí có một vài trò to lớn và đáng giá trong thế giới ngày nay.

Những chuyến thăm trở lại Việt nam, đặc biệt là hành trình cùng với các sinh viên là những chuyến thăm hài lòng trong cuộc đời tôi.  Đó là những chuyến thăm khép lại vòng tròn từ khi lần đầu tiên tôi đến với tư cách là một phóng viên trong một đất nước bị chiến tranh tàn phá vào năm 1962 đến khi từ những tàn tích của một cuộc chiến tranh dài, một đất nước hòa bình, độc lập xuất hiện tự hào trên chính trừong quốc tế.

Peter Arnett, tháng 3-2009

PHẦN THỨ NHẤT: 19324 – 1970

THỜI THƠ ẤU

Tôi trải qua tuổi thơ ở Bluff, một thị trấn lộng gió nằm phía dưới cùng của New Zealand cũng là phía dưới cùng của trái đất.  Bluff đặt theo tên của một mỏm rừng nhìn ra hải cảng.  Từ nơi đó tôi có thể nhìn về vùng đất rộng lớn của Nam Cực.  Băng trôi và những vùng đất bỏ hoang xa xôi với khoảng cách 1.600 dặm nhưng tôi vẫn cảm nhận miền đất đó rất gần với tầm mắt.  Nam Cực luôn hiện ra trong những đợt sóng xô bờ đầy đá mang theo cái lạnh của băng tan và những chú chim cánh cụt mắt vàng nóng tính làm tổ dọc theo phần đất nhô ra của đường biển đập cánh phần phật bày tỏ sự tức giận và lao về phía tôi khi một đứa trẻ tò mò như tôi quấy rầy tổ của chúng.

Từ mỏm đất lộng gió biển khơi, thời thơ ấu của tôi lớn lên chứng kiến những chú cá voi thường hếch mắt lên tìm kiếm vòi rồng để báo hiệu hay bóng đen của loaì cá voi đen khi chúng bơi qua eo biển Foveaux từ tháng 5 tới tháng 8, tìm kiếm vùng trú ngụ sinh sản.

Tôi coi Bluff là quê hương, nhưng tôi sinh ra ở Reverton ngày 13-11-1934 - một cộng đồng nhỏ 14 km về phía tây.  Tôi có nhiều họ hàng sống ở Reverton.  Bố tôi, Eric là người uống bia ít, ông chỉ uống rượu ở mức xã giao vào các buổi chiều thứ bảy.  Ông xử lý mỗi lần say của mình rất tốt, lảo đảo leo lên các bậc bê tông lên cửa sau nhà bên đồi của chúng tôi sau khi các quán rượu đóng cửa và về ngủ sớm.  Bố tôi là người đàn ông hiền lành, làm việc nhiều giờ một tuần với cách sắp xếp đáng phục và luôn trả các hoá đơn của gia đình đúng hạn.  Ông để dành tiền tiết kiệm chính xác như dành những quả trứng lót ổ cho những ngày mệt mỏi sau này.  Jan, mẹ tôi là một người phụ nữ chịu đựng, bà nói rất thích Bluff bởi đó là nơi bản thân bà, bà ngoại và cả cụ ngoại của tôi từng sống.

Thuở nhỏ, tôi tới lớp với thân hình thấp bé.  Sự thiếu hụt về thể chất kéo tôi rời xa sân thể thao.  Mũi tôi bị đấm vỡ trong cả môn đấm bốc và Cricket.  Tôi hồ hởi chứng minh trí tuệ học hành của mình khi giành giải thưởng học tập Kinh thánh của nhà thờ người Anglica ở Bluff 5 năm liên tiếp, nhằm thắng lại điểm yếu về thể chất.  Tôi tham gia vào Đội do thám biển và giành được một số huy hiệu kỹ năng mà tôi tự hào đeo trên tay áo hải quân màu xanh.  Tôi nhận được các chứng chỉ học tập đặc biệt suốt hai năm Chiến tranh thế giới thứ hai từ Khoa giáo dục New Zealand về chiến thắng trồng vườn ở sân sau thuộc một phần tư hecta trong khối tài sản của chúng tôi, được bà ngoại tôi, Nana trồng và làm cỏ, nhưng luôn luôn dành cho tôi.

Khi những con tàu Tự do Mỹ/American Liberty tới hải cảng chở thịt cừu, bò và bơ phục vụ chiến tranh, tôi thường là người đầu tiên lên tầu xin kẹo cao su Juicy fruit và thuốc lá Camel.  Để kỷ niệm ngày chiến thắng phát xít Nhật năm 1945 tôi ăn trộm nguyên một thùng nước ngọt ở lối ra vào cửa hàng rau quả của Willie Wong.  Để chứng minh dũng khí của mình với Johny Jamieson và Owen McQuarrie, tôi trở thành kẻ ăn trộm táo giỏi nhất trong vùng, là nỗi kinh hoàng của những chủ vườn khắp mọi nơi.

Thời gian trôi qua, tôi nhận ra tôi chỉ là người thui thủi một mình chứ không phải là một lãnh đạo, có lẽ bởi tôi quá ích kỷ chia sẻ vinh quang hay không dám mạo hiểm với sự quở trách từ chúng bạn.  Marlon Brando trở thành thần tượng của tôi những năm đầu tuổi hai mươi, tôi mặc áo jacket màu đen, áo sơ mi chấm đen và cà vạt màu trắng mà anh ta yêu thích như một tay cờ bạc Sky Masterson trong phim “Guys and Dolls”.  Tôi quan hệ tốt với bọn con trai và giải quyết tốt với bọn con gái.

Cha mẹ tôi không chia sẻ với những kinh nghiệm cuộc sống lớn dần trong tôi nhưng họ biết thành phố khó khăn này đủ mang tôi ra khỏi đó trước khi tôi trưởng thành quá sớm.  Cha tôi trung thành với Bluff như bất kỳ một người dân nào, phục vụ đội cứu hoả trong nhiều năm và giúp đỡ thành lập Câu lạc bộ Sư tử địa phương.  Nhưng ông lập kế hoạch giáo dục con cái thành đạt hơn bất kỳ ai trong gia đình hoặc thị trấn trước đây.  Ông chọn một trong những trường tư thục tốt nhất trong cả nước, Trường Trung học Waitaki nằm ở Oamaru bở biển phía Đông Bắc tỉnh Otago cho các con theo học.  Tường khu khuôn viên có cây thường xuân bao quanh và những con đường lái xe với hàng tuyết tùng, Waitaki là phiên bản New Zealand của trường học công cộng danh tiếng của Anh, một Eton hòn đảo Nam.

Quyết tâm của cha tôi cho chúng tôi trên con đường học hành cao hơn sau khi chính những cố gắng của ông thoát khỏi xiềng xích của cuộc sống không sóng gió sụp đổ cùng với thị trường chứng khoán cuối những năm 1920.  Ông sinh ra trong thị trấn vùng quê Mataura năm 1903, và giữa tuổi hai mươi ông tìm đường tới thủ đô Wellington, nơi ông mua một cửa hàng nhỏ để kinh doanh bánh kẹo và những đồ không đắt tiền.  Buộc phải quay về do tình trạng sụt giá, ông cưới mẹ tôi năm 1929 và định cư ở Reverton.  Trải qua những năm tháng khủng hoảng, cha tôi cóp nhặt kiếm sống với kỹ năng thợ mộc và lát gạch mà ông học được như người học việc thương mại.  Kinh doanh phục hồi khi sản phẩm thường ngày của New Zealand trở nên quan trọng với một Châu Âu đang lo lắng trên bờ Chiến tranh thế giới thứ hai và việc bùng nổ xây dựng đã cải thiện vận may của gia đình tôi.  Chúng tôi chuyển vào một ngôi nhà bằng bê tông vững chắc ở Bluff mà cha tôi thiết kế xây dựng với cầu thang phía ngoài dốc, dẫn ra hiên rộng và mở, nơi các anh em tôi thích ngủ trong thời tiết có bão vì giống như cắm trại ngoài trời.  Cha tôi ở nhà không tham gia cuộc chiến vì bệnh tim, nhưng ông tham gia đội lính canh gác thị trấn.  Tôi thích đứng gác cùng ông ở ngọn đồi Bluff trông chừng tầu ngầm của Nhật, như cách mà những người ta đánh bắt cá voi canh chừng con mồi một trăm năm về trước.  Cha tôi có khẩu súng bằng gỗ ở vị trí sẵn sàng; những khẩu súng thật tất cả đều ở tiền tuyến.  Khi chiến tranh kết thúc, ông gửi những đứa con đi học, điều mà ông chưa bao giờ có.

Mặc dù tôi rất yêu họ nhưng tôi không bao giờ hối hận vì rời xa họ để bước tiếp những bước đi của anh tôi, trên chuyến tàu dài đến Oamaru và bốn năm học trường nội trú với những hy vọng lớn hơn cho tương lai của tôi.  Tôi mười ba tuổi.  Mẹ tôi than phiền là tôi không khóc ở sân ga như John đã khóc khi anh ấy ra đi.

Trường trung học Nam Waitaki giống như một doanh trại huấn luyện lính thuỷ cho những đứa trẻ ngang ngược.  Trường học thu hút khách hàng là những cha mẹ thượng lưu lo lắng người kế nghiệp của họ lên nấc thang xã hội, những doanh nhân thành công và những người nông dân tìm kiếm môi trường giáo dục tốt nhất cho con trai của họ.  Trường có những nhân viên cảm thông, tài năng, lớp học và khu thể thao là hạng nhất.  Những khu vườn Anh đẹp và mặt tiền bằng sa thạch tráng lệ che giấu quyền lực hà khắc, quyết tâm kiểm soát và ngự trị những điều quá giới hạn của tuổi trẻ.  Cách nhìn nhận này làm tươi sáng cuốn tiểu thuyết “Những ngày tới trường của Tom Brow” nhưng chỉ để đọc chứ không phải để sống với nó.

Tôi nhớ phần tăm tối dữ dội trong những ngày ở trường nội trú của mình.  Lịch sử sẽ cho thấy hầu hết học sinh sống qua những trải nghiệm, và thực tế người ta tin rằng điều đó làm chúng trở thành những công dân và những người đàn ông tốt hơn; họ hối hận đã xoá bỏ những quy định nghiêm khắc trong những năm gần đây.  Tôi thì không.  Trong một trường học điên rồ về thể thao, sự thiếu hụt những kỹ năng đó không làm giới hạn hoạt động toàn diện của tôi, thậm chí tôi làm đội trưởng đội bóng bầu dục năm cuối Nhà Don và giành cúp vô địch sau một dịch cúm nhẹ hạ gục hầu hết cầu thủ của phía đối phương.  Tuy nhiên, tôi đã kết bạn và nhận được điểm A, học tiếng Latinh, tiếng Pháp và mở rộng chân trời của mình khi nghiên cứu nhạc cổ điển.  Tôi tốt nghiệp Trung học Waitaki vào cuối năm thứ ba và chuyển sang năm lớp sáu tiền đại học.  Khi tôi sẵn sàng cho kỳ thi đầu vào đại học thì tôi bị đuổi ra khỏi trường.

Tên cô ấy là Dawn.  Tôi đã vi phạm kỷ luật khi hẹn hò với cô ấy.  Khi tôi kéo lê chiếc túi về nhà, cha tôi sững hồn nhìn tôi.

KHỞI NGHIỆP


Những gì tôi còn nhớ là tờ Southland Times nằm trên bàn ăn sáng của chúng tôi hàng ngày trừ chủ nhật.  Giống hầu hết các tờ báo của New Zealand vào thời đó đều theo khuôn mẫu tờ Times của London, với các mẩu quảng cáo nhỏ trên trang nhất và sau cùng, hầu hết tin chính trị và thể thao địa phương ở phía trong.  Đó là khuôn mẫu đúng đắn cho các bản tin trong ngày không nhạy cảm và không có tên người viết.  Chỉ có một trường hợp ngoại lệ - mục thể thao được gọi là “người xem” do Albie Keast, một trong những nhân vật truyền thông nổi tiếng hiếm có trong vùng viết. Albie đưa tin về môn bóng bầu dục quốc tế do những cầu thủ da đen yêu thích của ông ta chơi, viết về mỗi trò chơi như sự tái hiện của Jesu với tư cách là quan toà phán quyết cuối cùng.  Ông ta là một ngòi bút độc trong những tay viết về môn bóng bầu dục và người ta nói rằng những vấn đề động chạm không tử tế trong mục của Albie có thể giết chết tương lai của những cầu thủ đang lên hay sẽ trở thành cầu thủ.

Anh trai tôi – John làm phóng viên cho tờ báo đó sau khi tốt nghiệp trung học.  Mặc dù cha tôi phàn nàn những tay phóng viên thường chỉ ngồi đâu đó quanh các cuộc gặp gỡ trong thị trấn và nhậu nhẹt quá nhiều, nhưng ông đã gọi điện cho Albie Keast là phóng viên chính của tờ Times nói rằng ông có một đứa con trai nữa cần việc nếu tờ báo có nhu cầu.  Mọi việc được sắp xếp và tôi có cuộc hẹn với Tổng biên tập Grimaldi.  Với giọng nghiêm trọng ông hỏi thẳng tôi có phải là người sẵn sang tuân theo các mệnh lệnh và hướng dẫn không.  Rõ ràng ông ta đã liên lạc qua điện thoại với Hiệu trưởng Trường Waitaki và tôi lo sợ điều tồi tệ nhất.  Ông ta mỉm cười trước sự lúng túng của tôi.  Khi đồng ý thuê tôi, ông ta nói có thể hẹn hò với bao nhiêu cô gái tuỳ thích nhưng không phải trong giờ làm việc.  Tôi bắt đầu làm việc vào ngày 7-1-1951, tôi vẫn nhớ rõ cảm giác vui sướng leo lên xe buýt từ Bluff dọc con đường nông thôn lộng gió tới Invercargill nơi có toà báo.  Tôi trải bước trong ánh nắng chan hoà đường Dee, băng qua vòi nước ở tượng đài chiến tranh, qua mái vòm của khu mua sắm tới toà nhà làm việc ba tầng bằng gạch đỏ và giới thiệu mình với mọi người ở đó.

Thực tế cho tôi thấy tôi có sở trường làm báo.  Cuối cùng tôi cũng được bắt đầu công việc làm tin hàng ngày, những mẩu ghi chú và bút chì gắn với tôi như đôi găng tay.  Tôi viết những sự kiện lặt vặt, những vụ cháy nhỏ, những sự kiện thể thao đơn giản, nhiều lễ kỷ niệm và cuộc họp của hầu hết các tổ chức vô danh.  Đây là tờ báo địa phương và mọi người trong cộng đồng này chỉ cần nhìn thấy tên trên mặt báo.  Albie Keast là người đàn ông rất tỷ mỉ với lịch làm việc nhưng lại ít trí tưởng tượng.  Ông ta luôn giữ một cuốn sổ giao việc khổ Fôlio và mỗi buổi tối ông ta viết vội những công việc giao cho chúng tôi vào ngày hôm sau.  Những người kỳ cựu thề rằng bạn có thể so sánh những cuốn sổ qua các năm mà không bỏ lỡ một nhiệm vụ nào.

Tôi kính trọng người cho tôi công việc đầu tiên nhưng luôn giữ khoảng cách.  Như một đồng nghiệp từng quan sát, vấn đề của Albie là ông ta đối xử với nhân viên như những nô lệ khổ sai, đẩy họ làm việc tối đa sáu ngày một tuần rồi sau đó ông ta thắt chặt hơn khi tỏ ra thông cảm không thành với những người khốn khổ có nợ với nghề viết làm việc cho ông ta.

Khi tôi bắt đầu làm tin, Albie giao thêm cho tôi hàng đống công việc vào cuối ngày khiến tôi phải vật lộn hoàn thành.  Tôi thường làm xong việc vào đêm muộn.  Ông ta hay dò xét từ phía sau và lẩm nhẩm khi tôi ngồi gõ câu chuyện của mình trên máy đánh chữ.  Ông ta thường phàn nàn tôi viết quá chậm, tôi đáp lại vì ông ta giao cho tôi quá nhiều việc trong khi cần thời gian sáng tạo mới làm câu chuyện trở nên thú vị.  Ông ta nói chuyện thân tình trên điện thoại với cha tôi nhưng lại đối xử với tôi như thằng đần tình cờ có được công việc này mà tôi không có lý do nào tốt hơn có được.

Tờ Southland Times trả tôi 30 Shilling một tuần.  Tôi ở chung phòng có một giường và đồ ăn sáng với một qúy ông đẫy đà gần công viên Queen với giá 40 Shilling, vì vậy tôi vẫn cần cha tôi hỗ trợ trong năm đầu tiên và sau đó.  Tiền không quá quan trọng với tôi vì tôi không có nhiều nhu cầu.  Sau khi  xong việc, tôi thường ăn muộn ở quầy hàng rong bán bánh, một cửa hàng di động trên xe phân phát những chiếc bánh nhân thịt không rõ nguồn gốc kẹp cà chua cẩu thả và những hạt đậu đầy mỡ.

Tuy rất bận rộn nhưng tôi cũng không muốn nghỉ ngơi.  Không phải vì Albie Keast làm cho cuộc sống công việc của tôi tồi tệ mà tôi đã cảm nhận báo chí đang ở điểm đầu tiên tại Invercargill.  Tôi nộp đơn xin làm việc ở tờ Standard - tờ báo tuần của phong trào công đoàn ở Wellington.  Tôi được nhận công việc đó vì là người duy nhất nộp đơn.  Tôi không nhớ Albie.  Ông ta có một phòng ở khách sạn Deschler phía bên kia đường đối diện với tờ báo và rất nhiều năm sau đó tôi có tới thăm ông ta.  Ông ta đã nghỉ hưu từ lâu và sau này tôi được biết ông ta bị chứng viêm khớp và tăng cân nhiều nên ít khi có thể đứng đó chào tôi.  Cha tôi nói rằng Albie nói rất nhiều điều tốt về tôi sau khi tôi dời đi nhưng ông ta chẳng thân thiện gì khi gặp tôi.  Làm sao tôi có thể nói rằng người đàn ông có phong cách hà khắc đó đã làm tôi trở thành một nhà báo chuyên nghiệp, thậm chí giúp tôi đối mặt những tính cách mà ông ta không bao giờ tưởng tượng tới?
Albie Keast là sự may mắn cho những người chủ tương lai của tôi.  Chưa ai từng cho tôi những mệnh lệnh hà khắc hơn ông ta, và tôi biết ơn vì điều đó.

Tờ Standard nằm trong toà nhà năm tầng ở trung tâm Wellington.  Tay biên tập viên có dáng người mảnh khảnh Sid Pickering khá thân thiện và ba hoa.  Ông ta thông báo rằng tôi không những là người duy nhất nộp đơn mà còn là phóng viên duy nhất của tờ tuần báo, chịu trách nhiệm làm việc với Liên đoàn Lao động và chính quyền bù nhìn đã hết quyền lực từ ba năm nay của Đảng Lao động nhưng lại muốn thắng vào lần bầu cử tới.  Ông ta dành cho tôi phòng làm việc riêng có điện thoại, gần phòng làm việc của Phó Tổng biên tập.  Đối với tôi những điều này đều vô lý và tôi đủ khôn ngoan nhận ra tờ Standard là tờ báo lá cải, tờ báo tuyên truyền cho những người công nhân tụ tập nhau mỗi tuần bởi một nhân viên gầy gò với tiền lương còm cõi.  Tôi được cử tới hội trường hoành tráng nhà Quốc hội để phỏng vấn lãnh đạo Đảng Lao động Walter Nash và các nhân viên khác của Đảng nhiểu lần đến mức tôi trang bị ngay một thẻ thành viên của Đảng luôn đeo trên cổ.

Tôi có chân trong các chiến dịch khác, một trong các thành viên của Nội các, Bộ trưởng Bộ Y tế Ralph Hanan là anh trai bác sỹ nha khoa của tôi ở Invercargill, Roy Hanan.  Dựa vào mối thâm tình mà ông ta gọi là “mối kết giao đã có”, ông ta dành cho tôi tới các cuộc phỏng vấn và xì ra thông tin về những điều đang xảy ra xung quanh thành phố, nhờ điều đó tôi có được cái nhìn toàn cảnh về tình hình chính trị nơi đây.

Tôi tham gia vào Câu lạc bộ Esperanto, gặp gỡ các cô gái nhưng nhận ra giao tiếp với họ bằng ngoại ngữ thậm chí còn khó khăn hơn.  Tôi thử tham gia Hội Đóng kịch, gia nhập Câu lạc bộ jazz Wellington, bắt đầu chơi bóng rổ và một chút cầu lông.  Nhưng những điều này chẳng mang lại cho tôi cơ hội là bao và tôi chỉ gặp những người bạn trai cũng đến từ Invercargill đều thất bại theo đuổi những cuộc tình lãng mạng.  Tôi thích cảm giác vênh vang làm phóng viên ở thủ đô, tham dự các bữa ăn tối tại nhà Quốc hội vào các dịp Phó Thủ tưởng tới thăm, những buổi trình chiếu phim cá nhân tại Đại sứ quán Nhật và các bữa tiệc cocktail do Đoàn ngoại giao tổ chứciir

Biên tập viên tờ Standard tức giận với việc sa thải một nhà cải cách xã hội, ông ta bảo vệ các bài xã luận nóng bất lợi và đẩy tôi trở thành người chịu báng.  Khi tôi viết về Chính phủ quốc gia nắm quyền đưa ra những quy định an toàn mới cho những người thợ sửa chữa điện, Pickering giám sát khi tôi đánh bài báo, hạn bài đang tới và ông ta giục tôi tăng tốc miêu tả.  Khi bài báo của tôi in ra, chúng tôi buộc tội Bộ trưởng Xã hội.  Nhan đề khủng khiếp của một trang báo vin ngày vào và đưa ra lập luận không đúng sự thật “Án giết người, bản án phải có tội”.  Bộ trưởng rất tức giận và kiện tờ Standard tội vu khống và đó là trường hợp đầu tiên như vậy trong cộng đồng người Anh từ cuối thế kỷ XIX.  Lúc đó tôi còn quá trẻ để hầu toà.  Chúng tôi đã thắng nhờ chi tiết chuyên môn.

Tháng 1-1956, tôi có chuyến đi hai tuần hàng năm tới vùng Waiouru hoang vắng ở trung tâm đảo phía bắc.  Tập huấn quân sự là điều bắt buộc với tất cả thanh niên trẻ.  Tôi ở trong đội pháo, được trang bị những vũ khí bằng sắt han rỉ thường không nổ và tôi rất sợ nếu đi vào chiến trường với chúng.  Nhóm chúng tôi tập hợp lại lều cắm trại ở Baggush, cách sa mạc tám dặm.  Chúng tôi ở lại vùng đồi gập nghềnh gió và bụi trong hai tuần.  Một nhóm những người hướng dẫn quân sự cố gắng xoá đi những khoảnh khắc thờ ơ của chúng tôi nhưng không thành, thậm chí họ doạ chúng tôi có thể chứng kiến chiến sự ở Malaysia, nơi người Anh đang đàn áp các cuộc nổi dậy của những người cộng sản.  Tôi thề rằng không bao giờ tham gia chiến tranh vì bất kỳ lý do gì bởi tôi nghĩ quân đội là trò vớ vẩn.  Đợt luyện tập ngắn ngủi này chúng tôi bị cắt khẩu phần ăn chẳng vì lý do gì, vệ sinh thực phẩm thì kinh khủng và một người mắc bệnh nhiễm khuẩn.  Đó là nơi tồi tệ và sút kém tinh thần tới mức tôi quyết định viết một bài trên tờ Standard.  Khi tôi về Wellington, thiếu tá Healey gọi cho tôi từ văn phòng quan hệ công chúng quân sự cảnh báo rằng bất kỳ câu chuyện không rõ ràng nào đều là “vi phạm bí mật quân sự” và tôi sẽ bị truy tố theo Luật Thông tin bí mật.  Tôi cảm thấy buộc phải thoả hiệp với quân đội và chán tờ Standard.  Vào giữa mùa đông năm 1956 tôi rời tờ báo và bắt đầu một hành trình mới tới Australia.

Con tàu MV Wanganella cập bến Sydney ngày 16-7-1956, mợôn mất 11 tiếng so với hành trình vì gió phương Nam thổi tạt.  Thành phố có tiếng tăm từ xưa.  Người New Zealand cảm nhận về Australia giống người Canada cảm nhận về Mỹ - “Hữu danh vô thực”.  Tôi đi bộ qua năm dãy phố tới văn phòng làm việc của tờ Sydney Sun trên đường Broardway giống các con đường có những toà nhà cao chọc trời đầu tiên tôi nhìn thấy trong đời.  Không có gì để mất, tôi nói thẳng với thư ký toà soạn tôi muốn có một công việc.  Người biên tập không rỗi nên tôi phải chờ phỏng vấn ở góc phòng tin nơi trú ngụ cho cả tờ Southland Times, gồm cả bộ phận in.  Văn phòng của tờ Sun trải dài một tầng toà nhà, ngăn bằng kính giữa phòng quản lý và dãy bàn làm việc cho phóng viên và biên tập, nơi họ đang bận rộn chuẩn bị tài liệu cho tuần báo sắp ra.  Mệnh lệnh thét ra hoà lẫn tiếng ồn của máy telex kêu lách cách cùng tiếng chuông điện thoại reo.  Tờ Sun là tờ báo lá cải tích cực xuất bản nửa tá những ấn phẩm thông tin vỉa hè trong thời kỳ cạnh tranh khắc nghiệt với đối thủ, tờ Syney Daily Mirror.

Tôi được tuyển ngay lập tức với mức lương 6 đô la Úc một ngày.  Biên tập người Australia rất thích những người New Zealand trẻ từng trải qua trường học báo chí phong cách của Albie Keast.  Jack Touhy, biên tập tin giao nhiệm vụ cho tôi viết về những khủng hoảng trong ngày, tìm kiếm những âm mưa giết người đáng nghi trên các đường phố của Paddington.

Tôi chạy xuống tầng dưới, nhảy vào xe ô tô nhân viên cùng một phóng viên ảnh và chúng tôi tiến tới hiện trường.  Tay phóng viên ảnh đoán tôi chưa từng làm loại công việc này và khi tôi công nhận hắn kêu lên “chết tiệt”, ngó ra ngoài cửa sổ khi chúng tôi qua những khu nhà ổ chuột lộn xộn có các quán bar và các cửa hàng cầm đồ ở địa phận Paddington.  Người lái xe phanh gấp ở đoạn đường cắt có đám đông bu lại.

“Anh ta kia” một phụ nữ hoảng sợ hét lên chỉ vào cửa hàng trước mặt bên kia đường.  Máu đầy trên vỉa hè và không có cảnh sát tại hiện trường.  Lúc đó tôi biết cần chớp lấy câu chuyện nhưng mặt tôi bỗng trở nên trắng bệch khi đối mặt với tên giết người bằng rìu vào ngày đầu tiên đi làm.  Trước khi tôi có thể chen vào thì ba cảnh sát đã tới, còi báo động rú lên, tay thanh tra tống cổ tôi xuống đường bởi tôi không có thẻ nhà báo.

Tôi mượn điện thoại và gọi cho phòng tin với chút thông tin it ỏi có được.  Khi tôi trở lại văn phòng, Jack Touhy rất gay gắt: “Này nhóc! Con làm cái chết tiệt gì ở đó vậy?”.  Anh ta cầm tờ báo mới nhất của Daily Mirror đăng đầy đủ lời thú tội của tên giết người bằng rìu với một phóng viên của tờ Mirror ở hiện trường đầy máu.  Tôi phản bác rằng tờ Miror không có ở đó mà họ bịa toàn bộ câu chuyên.  Tay biên tập tin ve vẩy ngón tay trỏ vào tôi: “Này nhóc! Nếu cần phải làm điều đó trong kinh doanh tin tức thì con nên học cách làm đó”.

Tôi đã không có cơ hội để chuộc lỗi với tờ Sun dù họ giữ tôi lại trở thành nhân viên trong ba tháng tiếp theo và trả cao hơn lương thông thường.  Tôi chính là đứa trẻ đã để tên giết người bằng rìu chạy thoát ngày đó.  Cuối cùng một mảnh giấy hồng cùng tiền lương và tôi ra đường không có việc làm.

Sau đó, tôi được một nhà kinh doanh bắt đầu gây dựng tờ báo truyền hình hàng tuần thuê.  Tờ tạp chí Truyền hình Sydney gồm các chương trình truyền hình cho trẻ con và những bài phỏng vấn dài về các ngôi sao.   Một chiều tôi lái xe đến sân bay Kingford Smith tham dự họp báo do Mike Todd và Elizabeth Taylor tổ chức nhằm quảng bá bộ phim “80 ngày vòng quanh thế giới” đang được hâm mộ và đạt doanh thu khổng lồ.  Họ nói rất ít về bộ phim, chủ yếu tranh cãi các vấn đề cá nhân.

Tôi chợt nhận ra Syney dần trở nên nhàm chán.  Đó không phải là hành trình mạo hiểm mà tôi từng khao khát khi dời New Zealand.  Tôi nhớ đến những cuốn sách mạo hiểm đầy kích động do những phóng viên ngôi sao của Fleet Street viết, chúng kích thích tôi muốn thử tham gia.  Nhưng ý nghĩ tôi còn thậm chí không thể dồn bắt tên giết người bằng rìu lại ùa tới.  Myrtle Mackenzie, cô bạn gái đưa ra ý kiến.  Cô ấy tới từ Anh và đã đi du lịch một số nơi, biết một công ty đường biển Hà Lan không chân chính vận chuyển hàng hoá và hành khách tới phương Đông.  Chúng tôi có thể tham gia chuyến đi đó.  Tôi vốn luôn là người dễ bị thuyết phục, nhất lại là với một người phụ nữ mạnh mẽ.

Tháng 3-1958, sau khi xin cha mẹ đủ tiền chi trả cho chuyến đi, tôi thề rằng đó sẽ là lần cuối cùng tôi tấn công ngân quỹ gia đình.  Myrtle và tôi lên thuyền tới Châu Á.

Sự nuôi dưỡng không trang bị cho tôi hành trang cảm nhận về phương Đông, nhất là với một đất nước như Thái Lan, nơi dừng chân đầu tiên của tôi trong hành trình tới Châu Á.  Nếu như New Zealand là màu xanh xám co thắt chống cái lạnh, bốc hơi ẩm thấp của trái đất và mỡ cừu thì Thái Lan là màu vàng đỏ, là chiếc áo jean thấm đầy mồ hôi, men say của hoa quả chín nẫu và cây dâm bụt hoang dại.  Nếu những bữa ăn ở nhà là thịt, rau luộc và bánh mỳ nướng thì giờ là canh khoai xả “Gang tom”, Cà ri cay “Geang phet”. Cơm nếp và xoài.  Tôi lang thang trên những con đường Bangkok, mê đắm cuộc sống đường phố và mùi cay từ những sào huyệt thuốc phiện hợp pháp, cùng những ngôi chùa tráng lệ giống như cảnh tượng bằng sứ trên dòng song Chao Phraya.

Mỗi buổi sáng tôi đều mua tờ Thế giới Bangkok với giá 2 bath.  Tờ báo chỉ có 12 trang, kiểu chữ dày đặc giống như bản in chưa hoàn chỉnh, mực in chưa hoàn chỉnh, mực in bám cả vào tay tôi.  Tờ Thế giới Bangkok là một trong hai tờ nhật báo bằng tiếng Anh của thành phố phục vụ cộng đồng phương Tây và giới trí thức Thái.  Do vậy tôi muốn thử vận may tại đây.

Ông chủ của tờ báo tên là Berrigan nhận tôi vào làm việc với 60 đô la 1 tuần bao gồm việc đặt tiêu đề cho những câu chuyện mua tin, dàn trang và viết bản tin địa phương.
Thời gian trôi đi và tôi bắt đầu viết về những cơ quan sau những cụm từ viết tắt như SEATO, ECAPE, UNESCO, và USOM.  Tôi viết những câu chuyện từ người lái xe buýt công cộng còi cọc hàng ngày tới những câu chuyện về các đền thờ hẻo lánh và những thành phố thưa thớt.  Tôi viết rất nhiều về các lễ hội ở Bangkok như lễ hội té nước, đua thuyền chuối, lễ hội cày lúa.  Tôi tìm kiếm những câu chuyện về văn hoá nông trại, văn hoá ngư nghiệp và các loại văn hoá tôn giáo…

Khi phóng viên thường trú AP, David Lancashire, đề nghị tôi làm cộng tác viên vào đầu năm 1959, tôi chộp ngay lấy cơ hội đó, kiếm thêm khoảng 50 đô la một tháng viết những câu chuyện ngắn gọn về kinh tế và chính trị khi anh ta đi khỏi thành phố.

Tờ Thế giới Bangkok đang thành công và tôi cảm thấy có thế đẩy mình thoát khỏi cám dỗ đầy ma lực của Berrigan.  Tôi đang ngẫm nghĩ tới lời đề nghị từ nơi khác lạ hơn, làm chủ bút một tờ báo tuần ở Lào.  Chức vụ có vẻ lớn lao nhưng thực chất không hẳn vậy.  Tôi sẽ phải đảm đương toàn bộ từ biên tập tới xuất bản.

Sau cuộc hành trình dài bằng tàu qua những vùng đất sét đỏ bụi rậm, qua con sông Mê Kông đầy bùn phù sa, tôi tới Viêng Chăn, thủ đô Vương quốc Lào, cái tên dịch sang có nghĩa là “thành phố của Mặt trăng”.

Tôi được trả 90 đô la một tháng làm cộng tác viên AP ở Lào, nhưng ngoài ra tôi lặng lẽ thoả thuận làm thay phóng viên UPI vì anh ta đang ở thăm Bangkok,  Tôi cũng có thoả thuận giúp đỡ phóng viên Bruce Russell của Hãng tin Reuters ở Sài Gòn, người đang tìm kiếm vô vọng vị trí thay thế cho một cộng tác viên đã nghỉ việc.  Sự kiện “Hoàng tử đỏ”, biệt danh người Mỹ dành cho Suphanuvông trốn thoát đã cho tôi cơ hội làm tin thể hiện trách nhiệm với AP, UPI và Reuters.  Ngày hôm sau, tôi được AP chúc mừng là người đầu tiên trước 8 phút so với tất cả các hãng khác viết về câu chuyện trốn thoát.  Tiếp theo là từ UPI phàn nàn tôi chậm trễ có câu chuyện đầu tiên nhưng cung cấp thông tin đầy đủ hơn.  Và Reuters cảm ơn tôi đã giúp đỡ họ.

Tờ Thế giới Viêng Chăn được xuất bản lần đầu tiên vào ngày 9-4-1960.  Thế giới Viêng Chăn là cố gắng khiêm tốn nhưng là của tôi.  Yêu cầu mỗi tuần lấp đủ 25 chuyên mục với tin tức địa phương ngốn hết sức lực của tôi.  Và tôi không có kế hoạch để tờ Thế giới Viêng Chăn liên quan đến các vấn đề xã hội và chính trị lớn lúc đó bởi thực tình tôi không có khả năng cung cấp loại báo chí đó.

Ngày 8-8-1960, Đại uý Kong Le bất ngờ chỉ huy Tiểu đoàn lính dù quân đội Lào tiến hành cuộc đảo chính tại thủ đô.  Tôi viết vội câu chuyện cho AP và chạy tới phòng gửi điện tín.  Vô ích.  Một xe tăng chắn ở cửa vào toà nhà và một đội lính đẩy tôi đi với báng súng của họ.

Những người lính trung thành của Tiểu đoàn lính dù 2 giờ đã kiểm soát sân bay, tất cả các toà nhà Chính phủ trong thành phố và trạm xăng.  Sư đoàn thiết giáp ở Doanh trại quân sự Chainaimo và hàng trăm tiểu đội hỗ trợ đã bị những kẻ nổi loạn đánh bại và họ đang hưởng thụ quyền lợi chiến thắng.  Tôi không thể tưởng tượng điều gì là động lực cho Kong Le đứng ra để tìm hiểu.  Đây là câu chuyện lớn nhất trong đời tôi từ trước đến nay và tôi phải tìm ra bất cứ nơi nào để gửi nó đi.

Hy vọng duy nhất cho tin sốt dẻo đó nằm ở bờ sông Mê Kông bên phía Thái Lan.  Tôi đi tìm thuyền và thấy rằng lính nhảy dù tham gia vào hành trình trốn thoát xếp hàng dọc bờ sông và biển.  Tôi chạy dọc đường bờ sông về phía Sala Khoktane, câu lạc bộ bơi và chèo thuyền do Kaye Ando làm chủ và được cộng đồng nước ngoài ở đây yêu thích.  Chẳng có thuyền cũng như chẳng có người lính nào.  Quản lý và nhân viên ngạc nhiên khi tôi tự nhảy xuống sông từ boong, nước ngập lên tới ngực và cổ, câu chuyện viết cho AP đã được đánh máy. Hộ chiếu và hoá đơn 20 đô la kẹp ở răng tôi.

Dòng chảy nhanh và ấm đưa tôi tới quán bar đầy cát ở trung tâm dòng sông, tôi bò lên, vẫy và ra hiệu về phía bờ đối diện.  Một chiếc thuyền ba ván có động cơ, kiểu dáng đẹp do một cảnh sát Thái điều khiển nhấc tôi lên.  Khi vào bờ, tôi nhận ra lính quân đội đang nằm trong rừng tre, súng của họ hướng về Viêng Chăn.  Chính quyền Thái Lan lo lắng về tiến trình chính trị ở bờ bên kia sông và lưỡng lự để tôi đi, tôi đồng ý đưa họ bản sao phần tin của mình và nhanh chóng lên đường.

Tôi đi nhờ xe đến phòng điện tín gần nhất ở Udorn Thani, trên một xe tải chở gỗ, ngồi nhét vào chỗ của người lái xe cạnh hai cô gái nông dân trẻ bùn ruộng bám lên cả đùi trần và nụ cười tinh nghịch trên khuôn mặt của họ khi xe xóc và quẹo trên đường đi.  Tại trại điện tín, tôi gửi bài, đưa cho nhân viên ở đó một trăm đô la để chuyển thông điệp và trong vài giờ, một số tờ báo buổi sáng của Hoa kỳ mua tin của AP đã có câu chuyện của tôi về vụ đảo chính, thậm chí có báo còn lịch sự để cả tên của tôi.

Tôi lặp lại hành trình vào hôm sau, mang theo không chỉ những bài viết của mình mà rất nhiều cuộn phim cho AP, 18 trang tư liệu từ Tillman Durdin cho tờ Thời báo New York và một câu chuyện của Jame Wilde cho tạp chí Times, hai phóng viên đã tới Lào sau vụ đảo chính.  Họ nghĩ tôi thần kinh khi bơi qua sông nhưng điều đó lại có ý nghĩa với tôi.  Tôi phải chuyển câu chuyện ra ngoài càng nhanh càng tốt.

Khi đại uý Kong Le sẵn sàng cho buổi phỏng vấn, anh ta tuyên bố mình bị buộc làm đảo chính vì anh ta và lính bị lợi dụng bởi một Chính phủ không có gì khác ngoài việc chỉ lo làm giàu cho bản thân ở Viêng Chăn trong khi những người lính đang chết dần trong rừng.  Dù động cơ của anh ta là gì đi nữa thì tay đại uý nhỏ bé sẽ bị những lực lượng lớn hơn từ cánh tả nuốt chửng.  Một hôm anh ta gọi tôi vào văn phòng ở Dinh Quốc gia tuyên bố một cách hối tiếc rằng tờ Thế giới Viêng Chăn sẽ bị đóng cửa vì CIA ngừng cung cấp tài chính.  Tôi cũng không có ý phản đối.  Đó không phải là lý do những người Viêng Chăn mà tôi biết đã không còn như vậy nữa.

Năm 1961, AP đã thuê tôi trở thành phóng viên thường trú cho họ ở Jakarta, Indonesia.  “Trong tổ hợp vô khối của tổ chức tin tức Mỹ, tôi là một trong những cái cựa nhỏ nhất của con gà trống” do vậy mà tiền lương cũng khiêm tốn, 87,5 đô la một tuần.

Tôi cố gắng đáp ứng mong đợi của AP ở Indonesia và cách duy nhất tôi biết là nỗ lực hơn bất cứ ai.  Trong cuộc chạy đua hàng ngày tôi tìm kiếm các thông tin từ PIA, Antara – các hãng thông tấn của Chính phủ Indonesia và từ các báo địa phương.

Các bản tin đầu ra của chúng tôi tập trung vào Sukarno.  Một vị Tổng thống trung niên, là nhân vật sáng chói trên chính trường quốc tế với áo quân đội, gậy sỹ quan và chiếc mũ pitjik màu đen ngộ nghĩnh trên đầu.  Tổng thống Kennedy gọi Sukarno là “George Washington của Indonesia” và tặng ông một chiếc trực thăng cho mục đích sử dụng cá nhân.

Tôi viết về mọi hoạt động công khai của Sukarno, đặc biệt là sự xuất hiện tại các buổi gặp chính trị, luôn là nhan đề tốt cho các câu chuyện.

Chuyến thăm của Robert Kennedy tới Indonesia có sức thu hút lớn đối với trụ sở chính AP.  Sự xuất hiện công khai đầu tiên của ông ta là Trường Đại học Indonesia nơi Robert Kennedy đối mặt với nhóm sinh viên hỗn loạn bằng sự hài hước, thẳng thừng và duyên dáng.  Từ vị trí cạnh sàn sân khấu, tôi quan sát thấy một thanh niên gầy xen vào tìm lối đi qua đám đông ném một vật vào mũi của Kennedy đang ngạc nhiên.  Ông ta dừng ở giữa bài phát biểu.  Nhân viên an ninh tiến vào đẩy gã thanh niên trẻ đi, dành thời gian cho người phát biểu đang run lên lấy lại bình tĩnh kết thúc bài phát biểu của mình.  Bài viết của tôi bắt đầu “Robert Kennedy, anh trai của Tổng thống bị tấn công vào mặt bằng một quả trứng rán nguội khi ông ta bắt đầu chuyến đi dài hàng tuần ở Indonesia hôm nay với bài phát biểu tại phòng thính giả của Trường Đại học đông đúc”.  Thông điệp từ văn phòng New York vào sáng hôm sau công nhận mức độ rộng rãi bài tin của tôi.

Kết thúc chuyến thăm Indonesia của Kennedy, tôi viết: “Robert và Ethel Kennedy kết thúc chuyến đi Indonesia hôm nay với chuyến thăm nhanh chóng quần đảo Bali truyền thuyết nơi những cô gái nông thôn ngực trần vẫy tay các xe diễu hành của họ từ những cánh đồng bên đường cao tốc”.  Bài viết của tôi gây sốc với phóng viên ảnh Fred Waters vì thông điệp từ New York: “cần một số bức hình về các cô gái người Bali ngực trần lập tức” và anh ta không có.

Fred bực mình gửi thư tới New York rằng chẳng có cô gái ngực trần nào vẫy tay với Robert Kennedy và thách đố tôi tranh cãi chuyện đó.  Bị bôi nhọ về lòng tin luôn dày vò tôi, sau này khi Fred đã rời khỏi thành phố, tôi bay tới Bali với chiếc máy ảnh Rolleiflex cũ kỹ, tôi đã chụp những phụ nữa Bali ở nhiều tư thế không mặc áo.  Ở chợ Denpasar tôi bấm máy những phụ nữ bán heo con mà họ cho chúng bú sữa của mình để tăng cân, trên đường hướng ra những khách sạn mới trên biển tôi chụp nhiều nhóm lao động nữ trẻ, vén trang phục lên để tránh bẩn khi họ bận rộn sử dụng búa đập đá làm đường và trên cánh đồng lúa những phụ nữ trẻ duyên dáng rõ ràng để ngực trần.  Tôi đóng gói ba cuộn phim và gửi tới New York.

Sau đó một năm, AP tăng lương cho tôi 50 đô la một tháng.  Trong tập san hàng tuần ngày 4-1-1962, tôi được “giới thiệu” với nhân viên còn lại khắp toàn cầu.  Tôi vui mừng vì vừa được tăng lương, vừa được ghi nhận.

Ngày 6-2-1962, tôi viết một bài phân tích tới tất cả các báo thành viên của AP với đoạn văn mở đầu “Người chống cộng sản cay đắng trở thành người kế thừa tiếp theo của Tổng thống Sukarno và là nhân vật có quyền lực thứ hai ở nước Indonesia xã hội chủ nghĩa bởi vì xung đột West New Guinea.  Sukarno đã buộc phải nhường lại quyền lực to lớn của mình cho Bộ trưởng An ninh quốc gia, Tướng Abdul Haris Nasution, để đảm bảo sự hậu thuẫn đầy đủ như ngòi nổ với Bộ Ngoại giao của Subandrio, người cũng được xem là người đàn ông của tương lai.  Subandrio tức giận gọi tôi trên điện thoại, cao giọng, “Mọi người liên kết vì Irian Barat (West New Guinea) làm sao cậu lại cho chiến dịch được sử dụng với mục đích thăng tiến cá nhân của vài người Indonesia?”.  Sự tức giận của ông luôn có quyền lực luật pháp.

Tôi tiếp tục đổ thêm dầu vào lửa khi viết bài phân tích quan trọng từ tập hợp những thông tin chính xác” “Tổng thống Sukarno của Indonesia đã dành quá nhiều tiền bạc và thời gian trong chiến dịch quân sự tại West New Guinea trong khi nạn đói càn quyét qua quốc gia lại không được chú ý.  Trong nhiều tháng, Sukarno nói với người dân của ông ta rằng chiến dịch quân sự chống lại Hà Lan là ưu tiên hàng đầu dù khó khăn trong nước ra sao”.

Hậu quả của bài báo đập lên tôi tơi bời.  Tôi bị trục xuất khỏi Indonesia và văn phòng AP tại Jakarta trong tương lai sẽ chỉ được viết những gì lãnh đạo nói công khai.

Những gì tôi không tính đến là sự giận dữ của một tổ chức tin tức bị khinh miệt.  AP bao bọc tôi như một trong những con chiên bị bỏ rơi của chính nó.  Chủ tịch AP, Frank Starzel tuyên bố: “Sự thực khi anh ta nói ra điều đó, những bài tin của anh ta là chính xác nhưng Chính phủ phẫn nộ với mức độ lan truyền thông tin”

Tôi nhận ra rằng nghề nghiệp với AP vẫn còn khi gặp Don Huth ở văn phòng và anh ta nói: “Pedro, cậu nghĩ cậu chịu khó phải không? Tôi vừa có một chỗ cho cậu đấy.  Việt Nam!”
PHẦN THỨ HAI
1962-1975


SÀI GÒN

Tôi bắt đầu thực hiện nhiệm vụ tại Việt Nam ngày 26-6-1962.  Tôi đến Sài Gòn từ Viêng Chăn trên chuyến bay  của Hãng Hàng không Việt Nam ngày thứ 3, biến khỏi sân bay trong chiếc xe buýt cũ kỹ sau trận mưa như trút trên các đại lộ.  Tôi nhận phòng tại Khách sạn Caravelle nhìn ra Quảng trường Lam Sơn và Khách sạn Continental; toà nhà Quốc hội màu trắng duyên dáng ngay phía dưới cửa sổ phòng tôi.

Hoàn cảnh của tôi bây giờ khác nhiều so với lần đầu tiên tới thăm Sài Gòn cùng Myrtle trước đó bốn năm như một khách du lịch không xu dích túi.  Lần này tôi với tư cách phóng viên của một hãng tin quốc tế và cũng có chút tiền chi tiêu.  Tuy nhiên bốn năm cũng có giá phải trả, tôi đã trở thành kẻ nghiện thuốc lá và chung sống với chứng đau dạ daỳ kinh niên.  Hút thuốc thường xuyên và những bữa ăn đầy gia vị tàn phá hàm răng mà tôi tìm kiếm vô vọng phương pháp chữa trị.

Mọi thứ tôi sở hữu chỉ trong hai chiếc va li méo mó gồm một bộ đồ màu xanh sẫm cũ kỹ vải Pôliexte, một áo khoác cotton màu be, hai chiếc quần thể thao, một số áo sơ mi cộc tay, cùng hai con dao găm Kris, tượng phật bằng đồng thiếc loại nhỏ tôi đào từ đống đổ nát ở Ayuthya, trung tâm vương quốc Thái cổ phía bắc Bangkok, và một thanh kiếm nghi lễ bộ lạc có tua màu đỏ tôi mua ở Lào, treo trong phòng khách sạn.  Tôi cũng không có ý định ở đây lâu.  Tôi vẫn nhớ chuyến thăm đầu tiên của mình vẫn còn những đặc trưng về đất nước và con người nơi đây được viết ra dưới những nhan đề các bài báo từ thời gian đó như những âm mưu đảo chính chống lại chế độ gia đình trị và những cuộc chiến tranh du kích dữ dội mà các sự kiện hỗn loạn tôi đã chứng kiến trong khu vực lân cận Thái Lan, Lào và Indonesia nếu so sánh thì chẳng thấm vào đâu.  Bạo lực nơi này làm tôi hoảng sợ.  Hàng nghìn người chết và bị thương được thông báo hàng tháng vào năm 1962.  Tôi chỉ mới nhìn thấy một người đàn ông bị giết, đó là một người tù ở Viêng Chăn bị còng cả tay và chân nhảy xuống từ phía sau xe quân đội, cố gắng trốn thoát qua khoảng sân nhà thờ, đi tập tễnh kiệt sức qua những bụi cây trong vườn.  Tôi chứng kiến từ bên kia đường khi một người bảo vệ mặc thường phục thong thả chĩa súng trường bấm cò, người đàn ông đó ngã xuống đất, máu vấy đầy những bụi hoa hồng.  Những bạo lực như vậy xuất hiện thường xuyên ở Việt Nam.  Tôi tự vấn bản thân liệu có đủ can đảm để bơi tiếp trong vùng nước hỗn loạn này hay có thể làm nên những đột phá huyền thoại như những phóng viên thường trú nước ngoài mà tôi đã đọc.

Một lý do nữa khiến tôi không muốn ở đây lâu.  Đó là tin đồn phóng viên thường trú chủ chốt của AP, Malcolm Browne điều hành văn phòng ở Sài Gòn như một sỹ quan được huấn luyện.  Browne có sự hậu thuẫn của Trưởng ban nhân sự Wes Gallagher ở New York và anh ta luôn tận dụng điều đó.  Những bài viết của anh ta luôn khác lạ về chi tiết.  Dịch vụ bán tin luôn yêu cầu ngắn gọn còn riêng anh ta được cho phép khá dài.

Sáng sớm thứ 4 tôi đi gặp Browne, qua bốn khu phố tới văn phòng tại đại lộ Pasteur, đầu tiên đi dọc đường Tự do qua Khách sạn Continental nơi những thanh niên trẻ đầu húi cua mặc áo sơ mi mà tôi đoán là các cố vấn quân sự Mỹ đang uống cà phê trên tầng thượng.  Sau này tôi được biết đó được gọi là “Continental Shelf”.  Văn phòng ở số 158/D3 đại lộ Pasteur tầng 1 trong căn hộ ba tầng, cách Dinh Gia Long một khoảng ngắn, nơi Tổng thống Ngô Đình Diệm đang sống.

Khi tôi bước vào, Browne đang đánh máy với tiếng gõ hai ngón tay trên máy Remington cổ.  Anh ta không thèm nhìn lên cho tới khi tôi giới thiệu mình với Bill Hà Văn Trần, người quản lý văn phòng, một người Việt Nam mũm mĩm tóc húi cua với phong cách đĩnh đạc.  Khi nghe tên tôi Mal rời khỏi bàn, đứng lên tiến về phía tôi, vòng tay mở rộng.  Anh ta hướng về phía tôi, kêu lên với nụ cười toe toét “Chào mừng một con cừu hèn nhát nữa”.  Tôi nghĩ anh ta nhân cách hoá vì tôi đến từ New Zealand nơi cừu nhiều hơn người, nhưng Mal giải thích chính quyền địa phương luôn coi phóng viên là những kẻ mang bệnh dịch truyền nhiễm và tránh xa họ.  Tôi có cảm xúc mãnh liệt khi tiếp xúc với Mal, ngọn lửa loé lên trong mắt anh ta, sự thẳng thắn đối lập với những quan điểm dễ dãi của những phóng viên Mỹ mà tôi đã gặp tới thời điểm đó.

Mal là người hiếm có của AP, một thành viên trong tổ chức ủng hộ những người phía Nam và Trung Bắc Hoa kỳ đôi khi thiếu thành tích trí tuệ.  Anh ta quẳng cho tôi cuốn sách bìa mềm 24 trang khi quay lại với máy đánh chữ.  Đó là tài liệu anh ta viết và sao bằng máy rô-nêo cho các nhân viên tới thăm có tên là Hướng dẫn làm tin ở VIệt Nam với những kiến thức thu lượm từ những năm anh ta ở văn phòng Sài Gòn.  Tôi đã nghe về tài liệu này ở hệ thống thông tin mật của AP.  Những lời bình luận thường là chê bai, đặc biệt những phóng viên kỳ cựu cho rằng họ chẳng cần học gì ở đó cả.

Tôi ngồi trên chiếc ghế mây bắt đầu đọc phần giới thiệu.  Phần đó nói rằng “làm tin ở Việt Nam cần gây cấn, tài xoay sở và đôi lúc tác nghiệp không phải là bám sát những gì được gọi là thông minh chuyên nghiệp.  Bạn nhận được rất ít sự giúp đỡ từ các nguồn tin Chính phủ và khai thác nguồn tin này rất khó khăn.  Tuy nhiên, người Việt Nam rất thân thiện và dễ chịu, các nguồn tin cá nhân cần được gây dựng.  Do vấn đề chính trị nên bảo vệ nguồn tin là điều quan trọng sống còn, đặc biệt là với những người mang quốc tịch Việt Nam.  Một số phóng viên ở Việt Nam đã tiết lộ nguồn tin một cách vô lý, điều đó sẽ phá hoại nghề nghiệp của chính họ hoặc tệ hơn thế.  Những nguồn tin từ quân đội Mỹ cũng nên được bảo vệ tương tự.  Chúc may mắn, bạn sẽ cần điều đó”.

Phần nội dung gồm các mục từ vấn đề sức khỏe, tiền nong tới nhiệm vụ tác nghiệp rồi cách thức giải quyết với bạn bè và kẻ thù.  “Đừng tin bất cứ thông tin nào nhận được khi chưa kiểm tra bằng cách tốt nhất có thể, kể cả những thông tin trong cuốn sách này.  Bạn sẽ nhanh chóng nhận ra hầu hết “thực tế” ở Việt Nam ít nhất dựa vào một phần những thông tin sai lệch hoặc hiểu lầm”.  Mal khuyên những người mới đến “tránh xa đám đông.  Nam phóng viên và nữ phóng viên đến Việt Nam hàng trăm người và họ có xu hướng tụ tập ở các quán bar, trong các văn phòng, trong các chiến dịch, v.v…”.  Anh ta cảnh báo những người tới thăm, “Văn phòng AP tại Sài Gòn là một văn phòng nhỏ, đông đúc và luôn trong tình trạng làm việc quá tải.  Bạn luôn luôn được chào mừng nếu bạn muốn làm nên câu chuyện, nhưng nếu bạn đến chỉ để hít thở thì bạn đang liều mạng với chính mình”.

Cuốn sách của Mal được xây dựng trên khuôn mẫu viết cho nhân viên quân sự nhưng đưa ra những lời khuyên hữu ích về cách đưa tin cuộc chiến tranh và danh sách hàng tá những vật dụng cần thiết khi đi làm tin về chiến trường, tất cả gói gọn trong ba lô của lính bộ binh có thể mua ở chợ đen Sài Gòn cùng một số thứ nêu ra như: màn ngụy trang chống muỗi, đồ nấu ăn cắm trại, dao xếp, thức ăn đóng hộp đủ loại, đệm không khí bằng cao su và nệm trải, một số đồ lót và tất, giấy vệ sinh, đèn pin nhỏ, chăn nhẹ, dụng cụ cứu thương, thuốc làm sạch nước uống, thuốc, một cái bản đồ thích hợp, tiền, giấy tờ chứng minh, bao cao su, súng lục bỏ túi và các đồ cần thiết khác.

Nguyên nhân cần súng lục được giải thích “nếu bạn đi cùng chiến dịch của Chính phủ thì bạn sẽ là mục tiêu của kẻ thù, chính xác như khi bạn là lính tham chiến.  Nếu bạn bị thương trong đoàn hộ tống hoặc ở vị trí đã bị chiếm đóng bạn có thể bị bắn chết.  Trang bị vũ khí cá nhân là có ích nếu đi cùng một đơn vị nhỏ mà lại rơi vào cuộc tấn công lớn thì mọi người đều phải tham gia chiến đấu để tránh bị nuốt chửng.  Mang theo súng lục về mặt hình thức không được chính quyền Việt Nam hay Mỹ chấp nhận nhưng các sỹ quan Mỹ đồng ý về mặt cá nhân.  Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng nên cố gắng thoát khỏi Việt Cộng nếu bạn đơn phương.  Họ luôn luôn có số lượng nhiều hơn và thường mang theo súng tiểu liên”.

Còn mang theo bao cao su được giải thích như sau” “khi băng qua suối, kênh đào hoặc hào, cổ thường chìm sâu dưới nước và bùn.  Mọi thứ cần được bảo vệ để khỏi ướt.  Máy ảnh phải được giơ cao trên đầu hoặc ném cho người bên kia bờ trước khi vượt sang.  Những dụng cụ nhỏ bỏ túi như diêm, giấy tờ chứng minh và phim có thể được giữ khô bằng dụng cụ ngừa thai GI.  Những vật này đặt trong bao cao su và nút chặt đầu.

Trong mục có nhan đề “Một số lời khuyên về thông tin Chính phủ”, Mal vẽ ra chân dung khung cảnh địa phương tràn đầy tính hai mặt và xuyên tạc.  “Không Chính phủ nào bóp méo hoặc che đậy thông tin phục vụ cho mục đích cuối cùng, nhưng ở Việt Nam thực tế này đang thách thức những người làm tin.  Hầu hết các nguồn tin Chính phủ không chỉ từ chính quyền Sài Gòn và các cơ quan thông tấn mà những nguồn tin nước ngoài cũng không đáng tin cậy.  Con số tử vong và các báo cáo liên quan tới quân đội đặc biệt bị bóp méo.  Khi đưa tin liên quan đến quân đội, bạn nên đếm số người trước khi chấp nhận bảng kết quả đưa ra.  Trong mọi trường hợp, kiểm tra chéo bảng tin tử vong của Mỹ và người Việt, thường có sự khác biệt rất lớn.  Cẩn thận với các thông tin chiến thắng từ phía quân đội.  Đây không phải là cuộc chiến tranh mà chiến thắng thực sự thường dành về một trong hai bên.  Sài Gòn và Hà Nội thường quá khích và cường điệu về những thông tin này”.

“Cẩn thận sự giống nhau trong các bản báo cáo chính thức của người Mỹ về những điều này.  Người Mỹ thường chẳng báo cáo gì ngoài những lời phàn nàn của người Việt Nam dù điều này đã giảm vì các cố vấn Mỹ đã báo cáo một cách hiệu quả hơn.  Đặc biệt chú ý bất cứ thông tin nào có được từ một số viên chức cụ thể đều có thể được xếp vào loại nói dối 180 độ.  Danh sách những viên chức này và mức độ tin tưởng của họ đều có ở văn phòng AP.  Thật không may là một số người của họ giữ vị trí khá cao.  Nhìn chung nên lưu ý bất kỳ thông tin nào được tiết lộ từ chính quyền Sài Gòn đều là công cụ tuyên truyền và sẽ không được đưa ra nếu không có hiệu quả tuyên truyền”.

“Về cơ bản hãy dựa vào các nguồn tin cá nhân và những nguồn tin đến tự phát ngoài khu vực Hà Nội.  Thậm trí ở chiến trường, cẩn thận những ấn tượng từ những điều do các sĩ quan chỉ cho bạn.  Nếu được mời đi xem một thôn bị thảm họa và được các sĩ quan đưa đi thì rõ ràng họ muốn chỉ cho bạn theo cách họ muốn.  Bạn không có ai ngoài bản thân tự suy xét xem đó có phải là thôn bị thảm sát đặc biệt hay không.  Cũng đừng quá hoài nghi vì như vậy bạn tự động chối bỏ những thông tin và đầu mối.  Kiểm tra từng cái một, đôi khi sự thật sẽ làm bạn ngạc nhiên”

Browne gợi ý tôi tự mình ra ngoài làm tin, bản ghi chú anh ta đưa cho tôi vài hướng dẫn những cơ hội có sẵn “Nguồn tin ở các Đại sứ quán nhìn chung rất có ích.  Các cuộc phỏng vấn tại văn phòng, hẹn ăn trưa hay tiệc cocktail có thể ghi âm.  Một phóng viên thường trú tại Sài Gòn thường được mời ba đến năm tiệc cocktail hàng tuần, đôi khi nhiều hơn.  Đi càng nhiều càng tốt dù các khuôn mặt hay chủ đề các cuộc nói chuyện không thay đổi nhiều, nhưng những người bạn không thể phỏng vấn thì bằng cách khác vẫn khai thác được ở các tiệc chiêu đãi”.

“Đây là một số nhận xét chủ quan về giá trị thông tin từ rất nhiều Đại sứ quán ở Sài Gòn: Đại sứ quán Mỹ, rất đa dạng, vị trí càng cao thì thông tin càng mù mờ.  Đại sứ quán Anh, nhìn chung rất ít tiết lộ nhưng thông tin hoàn tòan có ích và là nguồn tin tuyệt vời.  Đại sứ quán Pháp, ngoại trừ là ngài Đại sứ chẳng bao giờ tiết lộ gì, thì thông tin nghèo nàn và luôn nghi ngờ giới báo chí.  Đại sứ quán Đức, là nơi hợp tác tốt, những bữa chiêu đãi báo chí tuyệt vời nhưng chẳng có giá trị về thông tin.  Đại sứ quán Nhật, nhìn chung thông tin đầy đủ nhưng lại lo lắng khi trao đổi thông tin với các phóng viên thường trú.  Đại sứ quán Indonesia thông tin ít, nói rất nhiều nhưng không chính xác.  Đại sứ quán Philipin, thông tin nghèo nàn và chủ yếu chỉ quan tâm tới thúc đẩy quan hệ với chính quyền Việt Nam.  Đại sứ quán Ba Lan, tiệc tốt, ít thông tin”.

Tôi đọc xong và ngắm nghía cách bài trí văn phòng nhỏ của AP tại Sài Gòn.  Những gì khiến tôi chú ý là đôi bàn tay người bị đốt cháy được tìm thấy trong một trận đánh do phóng viên ảnh bán thời gian của AP tên là Lê Minh Trang mang về.  Một ống nước bằng tre nhuốm màu đỏ sẫm.  Bill Hà Văn Trần giải thích đó là máu người.  Mal vẫn đang gõ máy đánh chữ.

Phóng viên ảnh Horst Faas của AP đến cùng ngày với tôi, bay từ Bangkok trong chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên giải quyết những trở ngại trong tác nghiệp điện báo truyền ảnh.  Faas là người Đức hơn tôi một tuổi và có tiếng làm tin gây cấn ở Cônggô và Algeria.  Tôi cũng từng làm việc với anh ta ở Lào.  Anh ta rất cá nhân và cạnh tranh thô bạo.  Khi tôi khen ngợi một trong những bức ảnh ở Châu Phi, anh ta đáp lại đơn giản bằng giọng nhấn mạnh “Những nhiếp ảnh gia lớn không phải tự nhiên sinh ra, họ chỉ thức dậy vào sáng sớm”.

Trong những năm đó, những hình ảnh đi vào lòng người là những bức ảnh đen trắng trên trang nhất của các tờ báo và tạp chí Life, Look và Ap đã cạnh tranh tin ảnh một cách nghiêm trọng như đã làm với tin viết.  Năm 1962, nhiều quân tới miền Nam Việt Nam hơn và mọi người trên thế giới quan tâm nhiều hơn tới điều đó, AP muốn những bức ảnh báo chí ở Sài Gòn tương đương với các bản tin.  AP gần đây đầu tư hệ thống bán tin ảnh cho phép chuyển ngay lập tức những bức ảnh đen trắng từ bất kỳ nơi nào bằng đường điện thoại quốc tế.

Horst trình bày những cải tiến kỹ thuật.  Hầu hết phóng viên ảnh Mỹ chỉ mới được sử dụng từ máy ảnh khó sử dụng Speed Graphíc trong chiến tranh Hàn Quốc tới loại máy ảnh Rolleifex ngu ngốc nhỏ hơn.  Horst đã dụng đến lọai Leica 35 mm, những chiếc máy ảnh động cơ tốt và nhỏ anh ta đeo quanh cổ như vòng hoa cuốn cổ của người Hawaii.  Tại bữa sang đầu tiên của chúng tôi trong thành phố, Horst nói New York đang kêu ca những sản phẩm ảnh báo chí từ Sài Gòn trong những tháng gần đây thiếu sự đa dạng và anh ta được chỉ đạo cải cách điều đó.  Cuối ngày hôm đó, Horst phát hiện phóng viên ảnh Lê Minh Trang sử dụng lại phim mà anh ta đã chụp ở những chiến dịch quân đội trước đó bằng việc cắt xén bản âm từ những cái đã được gửi đi.  Horst phát hiện ra khi thấy cùng hình ảnh các cố vấn quân sự Mỹ xuất hiện trong nửa tá những chiến dịch quân sự khác nhau.

Horst tuyên bố anh ta sẽ thiết kế một phòng  ở Sài Gòn để đảm bảo tính trong sạch của những sản phẩm ảnh.  Không may cho tất cả chúng tôi là khoảng trống duy nhất để làm điều đó cũng là nơi có vòi nước và là nhà vệ sinh nhỏ bé của văn phòng.  Horst đã biến nó thành phòng tối vĩnh viễn với lôn xộn đồ đạc – bình đựng dung môi và dung dịch, kẹp treo phim kim loại được treo lên dây phơi quần áo, máy sấy, và máy cắt xén bản in.  Vậy là, khâu tráng phim rửa được ưu tiên hơn cả những nhu cầu cần thiết của con người.  Bill Hà Văn Trần lẩm nhẩm Faas là kẻ bắt nạt, nhưng quan điểm này không được một nhân viên Việt Nam khác ủng hộ.  Phạm Văn Huân, cậu thanh niên nhỏ bé của văn phòng được Faas phân công ở phòng tối.  Huân là người Việt Nam theo đạo Thiên chúa giáo có một đại gia đình với mức lương ít ỏi và rất vui được đảm nhiệm thêm công việc này để tăng thu nhập.

Sau  khi nói chuyện với Conrad Fink, một phóng viên thường trú AP đang tới thăm từ văn phòng Tokyo, anh ta bước vào văn phòng đầy bùn, đầy những câu chuyện tào lao về trận đánh ở đồng bằng sông Mê Kông.  Faas không còn đủ kiên nhẫn để tham gia chiến trường tác nghiệp.  Horst đồng ý một số câu chuyện tào lao của Fink với một số chuyện của chính anh ta.  Nhiều tháng trước đó, những người lính Katang ở Cônggô đã buộc anh ta phải ăn thẻ nhựa nhà báo Liên Hợp quốc.  Anh ta nói mang thêm một chai nước sốt Tabasco ở ba lô trong trường hợp bị bắt làm điều đó một lần nữa.

Khi công hàm của Chính phủ đến vài ngày sau đó, Mal gợi ý chúng tôi đi thăm Tây Nguyên nơi CIA đang tuyển mộ đàn ông dân tộc tham gia lực lượng dân quân địa phương.  Chúng tôi đi trên chiếc C-47 tới thủ phủ Buôn Ma Thuột, một cộng đồng nông thôn bụi bẩn và xa xôi, nơi những con đường gập nghềnh và con người lôi thôi, lãnh đạm.  Chúng tôi ở lại một khách sạn bằng gỗ hai tầng nhỏ nhắn có phòng tắm cuối hành lang và trà nóng trong bình sứ tại các phòng.  Horst rất thích sự đạm bạc đó.  Anh ta nói điều đó nhắc anh ta nhớ tới Cônggô.

Chúng tôi hướng xuống con đường chính dẫn tới khu cố vấn quân sự Mỹ đặt tại nơi trú ngụ bằng gỗ tếch rộng lớn của vua Bảo Đại trước kia.  Trước khi chúng tôi tới được đó, một phóng viên thường trú nổi tiếng người Australia, Dennis Warner ngăn chúng tôi lại và nói các cố vấn đang tổ chức Ngày 4-7 và những ai không phải người Mỹ thì không được mời.  Chúng tôi đành bước vào một quán bar nhếch nhác chỉ phục vụ mỗi loại bia 333.  Horst đã kể những câu chuyện về Cônggô và tôi tham gia bằng vài câu chuyện của mình ở Indonesia.  Tối muộn hôm đó, Horst hơi say và bắt đầu kể những ngày đầu với AP với tư cách là phóng viên ảnh thể thao ở Đức nơi thường bị điều đi xa và lái xe với tốc độ nguy hiểm để thực hiện nhiệm vụ của mình.  Tôi hỏi anh ta cảm giác sống ở Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ hai ra sao và anh ta bắt đầu nói về thời gian phục vụ trong Phong trào giới trẻ Hitler.  Horst nhận thấy phản ứng của tôi và giải thích “Này, lúc đó tối mới chỉ chín tuổi thôi”.

Là phóng viên ảnh khu vực, Horst tự do đi lại những nơi anh ta muốn còn tôi thì bó buộc với các bản tin hàng ngày, và phải viết một hoặc hai câu chuyện mỗi ngày.  Khi anh ta khám phá các thung lũng cỏ lau cao tới đầu vùng bờ biển miền Trung cùng các anh lính thủy đánh bộ người Việt thì tôi đang mải mê đọc những thông cáo của Chính phủ và phỏng vấn các nhà kinh tế ở Sài Gòn.  Khi Horst trở về cháy nắng từ đồng bằng sông Mê Kông bùn dính tới vai và những câu chuyện tào lao về hành động gan dạ của các cố vấn Mỹ, tôi chỉ có thể đưa ra những câu chuyện về các vụ tấn công khủng bố nhỏ ở các khu chợ trong thành phố và một buổi tối trong một thôn thảm sát ở ngoại ô cùng những người lính Việt Nam trẻ tuổi, những người còn sợ bóng tối hơn tôi.  Những công việc hàng ngày buộc tôi phải hiểu những lực lượng chủ chốt làm việc trong đất nước này, vào lúc đó không phải là cuộc chiến do Việt Cộng gây ra ở vùng nông thôn mà chính là Chính quyền Ngô Đình Diệm.

Tổng thống Ngô Đình Diệm là một người đàn ông nhỏ, mập mạp, ít cười.  Ông ta lên cầm quyền năm 1954, coi thường lời tiên đoán của một người xem bói rằng ông ta sẽ chỉ giữ được chiếc ghế của mình trong sáu tháng.  Tôi tham dự lễ kỷ niệm Tổng thống của ông ta vào ngày 7-7, bước tới Dinh Gia Long, dọc các con đường sài Gòn cờ đỏ sọc vàng bay phấp phới cùng những khẩu hiệu yêu nước.  Những công dân khá giả cũng diễu hành qua các đại lộ, mua những vật rẻ tiền từ những người bán rong vỉa hè hay dừng tại các cửa hàng bán kem ở trung tâm thành phố.  Một nhóm khách du lịch nước ngoài ở khách sạn Caravelle ngạc nhiên chứng kiến cảnh tượng hòa bình long trọng và linh đình của thành phố trong khi họ đã nghĩ sẽ thấy những cảnh hỗn loạn tan tác của chiến tranh.  Lính Mỹ mặc thường phục nhưng không mang vũ khí.

Tôi được phép tham gia nhóm các nhà ngoại giao nước ngoài và các nhóm thể thao chuyên nghiệp khác được mời tới Dinh bày tỏ sự kính trọng với Tổng thống.  Diệm trong bộ đồ mầu đen gọn gàng ôm sát phần giữa, đang lặng lẽ mỉm cười khi ông ta đón nhận lời chào mừng từ đám đông.  Từ năm 1954 có nhiều lời đồn đại về một nhóm đảo chính chống lại ông ta.  Chính vì vậy, ông ta luôn cố gắng kiểm soát tình hình, sống sót ít nhất ba lần trong bốn cuộc binh biến có vũ trang và rất nhiều âm mưu chống lại chính quyền ông ta cả trong và ngoài Việt Nam.

Phía sau hình thức nghi lễ chính là cú đấm thép của nhà độc tài nhằm thanh trừng những kẻ thù chính trị và tấn công bằng quân sự.  Ở một số điểm thì Diệm sáu mươi tuổi được xem là một trong những người đàn ông có kỷ luật cao nhất và đó cũng là một trong những lý do Mỹ đã “chọn” ông ta để chống Cộng tại miến Nam.  Nhưng ông ta mơ hồ và xa rời với những hoạt động thực tế của chính quyền và luôn sẵn sàng giao lại quyền điều hành cho anh em của mình, những người được bổ nhiệm vào những vị trí quyền lực.  Em trai của ông ta, Ngô Đình Nhu là cố vấn thân cận cao nhất.

Diệm là kẻ độc thân.  Bà vợ hấp dẫn, cá tính của cố vấn Nhu là đệ nhất phu nhân không chính thức của miền Nam Việt Nam.  Bà ta là chủ đề của những cuộc bàn tán không ngớt.  Người ta đồn rằng bà ta lộng quyền và giật dây người anh chồng mình.  Người Sài Gòn gắn biệt danh cho bà là “con rồng cái”.  Madame Nhu làm việc tích cực với vai trò cố vấn cho Quốc hội và người đi đầu phong trào “Phụ nữ Liên đới”, người phát ngôn đứng đầu cho quyền phụ nữ ở Việt Nam Cộng hòa và người chỉ trích Mỹ gay gắt.  Một ngày trong gió, tôi quan sát thấy bà ta diễu hành cùng các thành viên trong tổ chức, cơn gió thổi tung vạt áo dài màu xanh thẫm bám sát thân hình để lộ chiếc quần satanh thót ống nhưng chưa thấm tháp so với kiểu tóc quăn bóng nhoáng của bà ta.

Madame Nhu cấm khiêu vũ trong các câu lạc bộ đêm thành phố bằng cách buộc Quốc hội thông qua Sắc lệnh đơn giản “Nếu người Mỹ muốn khiêu vũ thì họ có thể đến Hồng Kông”, bà ta tuyên bố, thậm trí dọa bắt bất cứ ai cả gan nhảy nhót ở chính nhà họ.  Chuyện bé xé ra to làm cho một số tin bài của AP sống động nhưng dù sao tôi cũng không phải là người thích thú chuyện nhảy nhót.  Nửa đêm, giờ giới nghiêm, một số câu lạc bộ vẫn khóa trái cửa và để mọi người vào bên trong nhảy nhót tới sáng.

Một tối, Horst và tôi tới Bar Papillon ở Catinat cuốn vào cùng đám chè chén trong phòng với chín cô gái bar và một anh chàng phục vụ sẵn sàng thực hiện công việc của mình.  Horst đang cao hứng uống rất nhiều rượu Scotch và nhảy nhót.  Còn tôi vẫn bia 333, một thứ thuốc độc nhiều người tin được pha chế với hóa chất  formaldehyde, có phản ứng giảm ham muốn tình dục.

Sau đó chúng tôi nhớ rằng đã được sắp xếp  bay với một người bạn phi công tới Sóc Trăng ở đồng bằng sông Mê Kông trong ngày.  Sáng sớm tinh mơ chúng tôi lếch thếch tới sân bay.  Tại Sóc Trăng chúng tôi được biết 28 máy bay ném bom bị rơi xuống sông Mê Kông cách đó vài dặm và chúng tôi lên một chiếc trực thăng tìm kiếm máy bay mất tích.  Tôi động viên Horst tham gia vào cuộc tìm kiếm lội qua rừng ngập mặn bên dưới trong khi tôi trở lại căn cứ không quân truyền tin qua điện thoại và nhanh chóng chui vào lều tre ngủ suốt thời gian còn lại trong ngày.  Horst thấy tôi nghỉ ngơi thư thái và ăn tối trong khu của sĩ quan còn anh ta lấm đầy bùn rất tức giận vì sự láu cá của tôi.

TRẬN ĐÁNH ĐẦU TIÊN

Tôi thức dậy sáng sớm ngày 29-8-1962, để viết tin về diễn biến trận đánh đầu tiên của mình.  Chiếc sơ mi đẫm mồ hôi khi tôi bò ra khỏi chiếc màn chống muỗi mắc trên chiếc võng quân sự.  Tôi vốc nước lên mặt từ chiếc bình chứa treo trên cột lều và xếp hàng ăn sáng theo chế độ quân sự.  Tôi ăn cùng “Rathrun’s Ridge Runner”, đội trực thăng 163 của Quân đoàn Lính thủy đánh bộ Mỹ được cử tới Sóc Trăng, một thị xã nhỏ ở Đồng bằng sông Cửu Long.  Đại tá Robert L.Rathbun, cựu phi công trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và Hàn Quốc đã cho tôi một lều ngủ qua đêm.

Dọc đường băng là những chiếc trực thăng H34 xếp thành hàng ngang, cái tên “Marine” được sơn màu trắng ở phần đuôi.  Các đội ngồi cạnh chiếc máy bay trong bộ đồng phục rằn ri và mũ kaki mềm tiện lợi.  Tôi quan sát những hàng lính Việt Nam nhốn nháo của Sư đoàn Bộ binh 21 tập trung bên cạnh máy bay.  Hầu hết đội mũ kim loại và đồng phục kaki cotton nhẹ.  Họ được trang bị súng tiểu liên, Garand M1s, ống bơm mỡ và đủ các loại vũ khí cũ hơn mà tôi cũng phân biệt được.  Họ nói chuyện liên mồm với nhau trong bộ dạng không lo lắng mặc dù biết rằng sắp bị ném vào trận đánh.

Những người lính cười toe toét khi thấy tôi đến, làm tôi cảm thấy mình lạc lõng.  Tôi đội chiếc mũ của người Australia, vành khâu đính lược một bên, chiếc quần mầu nâu xám tôi đã mua ở Sài Gòn, áo sơ mi cộc tay bằng vải kaki và đôi giầy chiến trường bằng da mới.  Ba lô của tôi gồm những vật dụng mà Browne ghi chú trong cuốn sách giới thiệu ngoại trừ súng lục, vì tôi nghi ngờ mình có thể sử dụng được dù trường hợp tồi tệ nhất xảy ra.

Để giết thời gian, tôi đọc mục “Những lời khuyên trong chiến tranh du kích”  trong sách giới thiệu của Brown.  “Khi ở trong trận chiến , bạn nên hành động như một người lính, làm mọi điều để sống sót và không bị thương.  Cố gắng trong tình trạng sức khỏe tốt để hành quân hoặc chạy ở khoảng cách an toàn.  Về mặt nào đó bạn sẽ an toàn nếu làm được điều này.  Bạn nên biết bơi vì các kênh rạch và mương rạch đều ngập quá đầu.  Nếu nghe thấy tiếng súng không phải từ phía mình thì đừng đứng dậy mà hãy nhìn xung quanh xem nó đến từ hướng nào, tiếng súng thứ hai có thể hướng tới bạn.  nằm sấp xuống đất và chỉ di chuyển bằng phần bụng.  Tìm nơi che chắn và di chuyển về phía đó.  Khi đi cùng đoàn không nên đi gần người đi đầu đội hình hàng dọc hoặc người đi đầu đội hình.  Lính chuyên nghiệp được trả lương để làm điều này.  Không nên đứng hoặc đi cạnh người mang radio hoặc nhân viên cứu thương vì họ là mục tiêu hàng đầu của kẻ thù.  Hãy bám sát người chỉ huy vì họ luôn ở vị trí an toàn nhất.  Bạn sẽ học được nhiều điều ở người chỉ huy hơn bất kỳ ai”.

“Mục đích chính làm tin về trận chiến là lấy được thông tin và hình ảnh về chứ không phải đóng vai trò một người lính.  Khi đi qua lãnh địa của kẻ thù hãy chú ý bước chân.  Chông gai, mìn, hố ngụy trang và bẫy mìn ở khắp nơi.  Hãy bước chính xác theo người lính đi trước bạn vì nếu anh ta không bị nổ tung thì bạn cũng không.  Nếu bạn mắc kẹt ở hàng rào súng cối hoặc trong trận tấn công không quân về phía bạn thì nơi tốt nhất là ở dưới hào.  Những cái hố không tốt hơn điều gì cả.  Hầu hết lều của người Việt Nam đều có hầm bên trong là nơi trú ngụ rất tốt.  Nếu bạn đi bằng chiếc xe bọc sắt M113 thì đừng ngó đầu ra khỏi cửa khi xe trong vùng bắn phá.  Chỉ có người bắn súng làm vậy vì đó là nhiệm vụ của anh ta.

“Đừng nhặt cờ Việt Cộng hay các đồ vật khác ở các đống cỏ, cành cây hay các cột.  Chúng thường là bẫy lựu đạn.  Đừng bao giờ là người đầu tiên bước vào lều.  Hãy cẩn thận với trâu nước.  Khi chúng bị kích động sẽ cuồng loạn và có thể gây sát thương.  Lực lượng lính Việt Nam Cộng hòa bị tổn thất nhiều vì trâu nước.  Đừng bị đánh lạc hướng bởi những đứa trẻ đùa chơi trên lưng trâu.  Trẻ em và trâu là bạn với nhau”.

Tôi rất vui thú với những hướng dẫn của Brown.  Chẳng điều gì đề cập đến lòng dũng cảm, điều quan trọng là sống sót và mang tin tức trở về.  Tôi quan sát cánh quạt bắt đầu quay và lính thiết giáp người Việt bắt đầu nhảy lên.  Tới lượt tôi, tôi đi cùng với một sỹ quan tuyên úy.  Ông ta đội mũ sắt sơn hình thánh giá màu trắng phía trước, bộ đồng phục kaki có hình thánh giá khâu ở cổ áo và ông ta mang theo súng ngắn 12 li.  Ông ta nói “Đừng nghĩ rằng tôi sẽ sử dụng nó nếu không bắt buộc phải làm vậy”.  Theo quy định, trang bị vũ khí cá nhân thường là bất hợp pháp đối với các cố vấn Mỹ tại Việt Nam, tôi nghĩ cần đặt câu hỏi về những người đàn ông của chúa vào bất cứ thời điểm nào.  “Đôi khi Việt Cộng không bắn chúng ta vì họ biết chúng ta chỉ buộc phải bắn trả lại.  Tôi chỉ đang giúp chúa canh chừng chúng ta!”.
Cánh quạt thổi tung lớp bụi ở đường băng đầy cát ngạt thở, tôi đóng cửa vào khoang của những người lính Việt nam đang cầm vũ khí.  Tôi sẽ không đi theo họ ở mặt đất mà sẽ tiến theo bộ chỉ huy sâu hơn vào vùng đầm lấy ở cà Mau.  Vị sỹ quan tuyên úy tự thu xếp một chỗ cạnh cửa sổ, đẩy cò bang súng và ngắm súng một cách chuyên nghiệp.  Tôi lắng nghe cuộc sống bay qua khi trực thăng uốn lượn và nghiêng mình gia nhập đội hình nới rộng cùng hàng tá chiếc khác khi cách mặt đất khoảng một nghìn thước.  Tiếng rú chói tai và liên hồi của chiếc Sikorsky-34 làm cho mọi suy nghĩ tắt ngấm.  Mal đã quên đề cấp tới tai nghe trong danh sách những vật cần có của anh ta.  Tôi nhìn qua cửa mở nơi ba người lính Việt Nam ngồi đung đưa chân như ngồi bên bờ suối.  Tôi cảm nhận thấy những ruộng lúa bên dưới lần lượt nhường chỗ cho những khoảng đất ngập cây đước đánh dấu vùng bán đầm lầy.

Chúng tôi đáp xuống một khoảng đất khô nhỏ trong vùng hạ cánh chiến trường, làm nhào lộn cả ruột gan và đẩy máu dữ dội làm tim tôi nhói đau.  Ba chiếc trực thăng trên mặt đất đang thả lính, những chiếc khác đang lượn vòng quanh chờ tới lượt.  Máy bay của chúng tôi bay cách đó vài thước trên mặt đất.  Lính đổ ra vào các bụi cỏ bạt gió, một số nhảy xuống đứng vững bằng chân, một số cắm mặt hoặc mông xuống đất.  Sau đó chúng tôi lại cất cánh bay trên những rừng đước và cây hoang cằn cỗi.  Chúng tôi bay qua bãi đất trống khác có kênh hẹp bao quanh.  Tôi ngộp thở.  Cách hai trăm thước phía dưới là nhóm người mặc áo đen đi chân trần đang vận chuyển vũ khí, trốn chạy vào các bụi cây hoặc nhảy xuống nước ở kênh.  Chúng tôi làm náo loạn một trung đội Việt Cộng.  Tôi liếc nhìn tay sỹ quan tuyên úy, ông ta vẫn đang ngắm mục tiêu qua bang súng lục, nhưng không bắn và chúng tôi nhanh chóng thoát ra khỏi khu vực đó tới gần điểm đến của tôi, Cà Mau.  Đó là trung tâm quân sự tỉnh An Xuyên, một ngôi làng nhỏ có tường bao cát, hàng rào thép gai và vọng gác bao quanh.

Bên trong dinh chỉ huy, tôi được Đại tá Phạm Văn Đông, Tổng Tham mưu Quân đoàn III của Quân đội Cộng hòa chào đón.  Đó là tay đại tá nhã nhặn, là sợi dây liên lạc duy nhất của chúng tôi ở Sài Gòn với chỉ huy quân sự tối cao phía Việt Nam Cộng hòa, tổ chức thường tiếp giới báo chí một cách miễn cưỡng.  Ông ta  đón tiếp chúng tôi bằng những ly trà xanh, hai hoặc ba lần một tuần cung cấp những thông tin hạn chế hoặc một ít con số thống kê.  Chiến dịch hiện tại đã được hai tuần và là chiến dịch lớn nhất từ trước đây trong vùng chỉ huy của ông ta và ông ta lấy tư cách cá nhân mời chúng tôi tới.  Browne đã ở đó vài ngày trước đấy.  Chiến dịch này có tên “Đại bình định”.  Theo Đại tá Đông, khoảng bốn nghìn lính thiết giáp Việt Nam tham gia vào chiến dịch này.

Dù gì thì đây là cơ hội hiếm có được chứng kiến một trận đánh thực sự và rất nhiều phóng viên khác cũng đi theo hành trình vất vả này.  Một trong số họ là Michel Renard, tay báo ảnh tự do to cao bgười Bỉ có thái độ hung hăng và cũng lang thang trong văn phòng của AP.  Hắn đang mặc bộ quân phục rằn ri vấy bùn, có vỏ để dao rất to treo ở thắt lưng và tay cầm một đống hộp phim mà hắn mang về Sài Gòn chiều hôm đó.  Renard đi cùng lính Việt Nam vì hắn nói tiếng Pháp và thường đùa cợt ra lệnh họ như một sỹ quan quân sự thực dân.

Renard là nguồn gốc của những khôn ngoan bất ngờ về chiến tranh và thường giải khuây cho chúng tôi bằng những câu chuyện mạo hiểm gần đây như cuộc viễn chinh vài ngày trước đó cùng với một đại đội biệt kích người Việt.  Mục tiêu là ngôi làng tranh ngập nước vùng đầm lầy được cho là nơi trú ẩn của Việt Cộng.  Khi lính biệt kích lội qua đầm lầy họ gọi trực thăng hỗ trợ bắn phá ngôi làng.  Renard nói rằng anh ta nhìn thấy một bé gái khóc hoảng loạn trong đống dổ nát, trong khi hai tay đang bịt lỗ tai.  Cô bé chạy về phía đê cuối làng, gào gọi “Cha! Cha”.  Một người đàn ông bước ra khỏi bụi cỏ cao, một tay cầm súng trường chĩa về những người lính, tay còn lại níu lấy bé gái.  Nhưng một loạt súng đã hạ gục ông ta.  “Tôi đã ghi lại tất cả trong cuộn phim này, Ap chắc phải trả khá cho vụ này”, Renard kêu lên.

Peter Kalischer của CBS cũng ở Cà Mau, không ngừng giục giã Đại tá Đông cung cấp phương tiện cho chúng tôi ra mặt trận.  Người quay phim của ông ta đang sử dụng chiếc máy quay to và nặng hiệu Oricon cùng thiết bị phụ để dễ mang ra chiến trường hơn. 

Cuối cùng Đại tá Đông cũng bố trí đưa chúng tôi đi cùng Đại đội trực thăng vận 57 của quân đội Mỹ vận chuyển lính vào trận đánh.  Chiếc trực thăng H36s đáp xuống đường băng bụi nhỏ.  Những chiếc trực thăng to nhất trong bản kê quân sự đang vút khỏi mặt đất trong tiếng gầm gào của cánh quạt.

Tôi bò lên sau hàng tá lính thiết giáp Việt Nam, chen qua lối cửa hẹp và cố gắng giúp tay camera với một đống đồ nặng lên boong.  Chiếc trực thăng nhảy lên giống như con trâu đực khi nó vào vị trí cất cánh, tròng trành về phía trước để lấy đà vút lên đường chân trời.  Trong khoảng vài phút chúng tôi bắt đầu hạ xuống.  Lần này tôi đi ra ngoài cùng lính chiến để tận mắt chứng kiến cuộc chiến.

Lính thiết giáp người Việt nhảy xuống trước, băng qua vài thước chạy tới đám cỏ phía dưới, họ dốc sức đối mặt gió tạt từ cánh quạt khi di chuyển về phía rừng thưa.  Sau đó tới nhóm phóng viên của CBS và đến lượt tôi.  Tôi cảm thấy bùn rỉ chân mình khi chạm mặt đất.  Kalischer thét lên “đường này" khi anh ta chạy lên phía trước bám theo lưng người lính, nhưng tay quay phim cùng đống thiết bị nặng đã bước phải hố nước và bị nhấn chìm tới tận nách.  Hai người lính phải tới cứu anh ta.  Tôi thấy vui vì sự tác nghiệp nghề báo viết của mình khi được đi cùng nhóm chỉ huy và bỏ xa những đồng nghiệp truyền hình cồng kềnh ở phía sau.

Không có lối thoát ở vùng đầm lầy sâu trũng.  Bùn ngập tới đầu gối ở khu rừng thưa, giờ đã lấp đến bụng khi chúng tôi bơi qua rừng đước trên đường tới mục tiêu đầu tiên, một ngôi làng nằm ở phía trước một dặm.  Khi chúng tôi luồn vào khu rừng tre nhỏ rậm rạp, mọi thứ còn tồi tệ hơn và mỗi đơn vị được phép nghỉ một trăm thước một lần.  Lính thở bì bõm trong nước trong vài phút còn tôi thì quá đỗi mất sức.

Cuối buổi chiều chúng tôi đã tới ven làng, cuối cùng cũng được đi bộ qua những khu vườn đang trong mùa vụ, sau đó là những hào sâu có cắm cọc tre vót nhọn.  Không có sự phản kích nào cả khi đội quân tiến vào, nhưng thật ngạc nhiên vì có nhiều biểu ngữ bằng vải màu trắng với khẩu hiệu sơn màu đỏ bằng tiếng Việt bắc qua những ngôi nhà mái lá, kêu gọi tấn công chính quyền và kháng chiến chống Mỹ.  Bên trong là những tờ rơi tuyên truyền của cộng sản và bức hình nhà lãnh đạo Hồ Chí Minh treo trên tường khung kết bằng hoa.  Chúng tôi chỉ phát hiện có một người dân ở đây là một ông già đàn trốn trong hố và được phép thả tự do.  Cộng đồng ở đây là bức tranh minh chứng cho việc mở rộng tấn công của Việt Cộng.

Được chỉ đạo tiến hành tàn phá toàn bộ những thôn đã được kiên cố, những người lính thực hiện nhiệm vụ một cách nhiệt tình, tay cầm dao đi lùng soát một cách thành thạo.  Chúng tôi bỏ lại những đống lửa phía sau lưng trong buổi hoàng hôn, tìm nơi cắm trại cho buổi tối.  Đơn vị chỉ huy quyết định dựng trại trên một bãi đất khô gần con sông nhỏ, và vừa lúc ổn định vào chập tối thì tôi đã hứng chịu trận bắn phá đầu tiên trong đời mình.  Một tay bắn tỉa mở màn vào đội chỉ huy, đạn bay rào rào vào những bụi cây quanh chúng tôi.  Màn đáp trả chói tai của toàn bộ đơn vị phản công trở lại.  Khi bị một tay Việt Cộng bắn tỉa bám sát, người chỉ huy ra hiệu cho một trực thăng chiến đấu dạy cho anh ta một bài học: hai chiếc T-28 ném bom oanh tạc và thả bom nê pan dọc bờ sông gần đó suốt một tiếng đồng hồ, khuôn mặt chúng tôi héo úa, để lại khoảng không đen ngòm đầy khói. Tôi nghĩ chẳng thứ gì có thể sống sót.  Vào 4h30 sáng, sau một đêm ẩm ướt và không được nghỉ ngơi gói gọn trong một tấm ni lông, tôi bị một tay bắn tỉa đánh thức khi tiếp tục bắn phá nơi cắm trại của chúng tôi.  Những người lính của Việt Nam Cộng hòa cũng quá mệt mỏi để đáp trả.

Chúng tôi lại tiếp tục lên đường vào bình minh.  Không có dấu hiệu các cuộc tấn công du kích nhưng có vô số kiến lửa cách nhau vài centimét trên cây và bụi trên chặng đường chúng tôi hành quân.  Kiến rơi, bò vào quần áo, rúc sâu trong người, cắn cổ, ngực.  Đội hình hàng dọc thường xuyên dừng lại khi những người lính nhờ nhau loại bỏ những con vật đáng ghét đó.  Cuối buổi chiều tôi đã đủ thấm mệt.  Một chiếc trực thăng hải quân viện trợ đến mang theo pin cho thiết bị bộ đàm và tôi xin đi nhờ trở ra vì đã kiệt sức, người lấm đầy bùn và đói.

Tôi học được rất nhiều thử thách trực tiếp đầu tiên với chiến tranh Việt Nam.  Tôi thấy cuốn sách hướng dẫn của Mal thật vô giá.  Tôi cũng nhận thấy dù bộ quần áo tôi mặc khác lạ hay tôi không có chút kinh nghiệm nào, thì những người lính Việt Nam trong chiến trường và những cố vấn Mỹ đều rất thân thiện và luôn sẵn sàng hỗ trợ.  Tôi nhận ra những tóm tắt sơ sài tại các tổng hành dinh không thấm tháp gì so với những thực tế trong chiến trường.  Tôi không bị kích động bởi những hành động giơí hạn đã nhìn thấy. Tôi chỉ cảm thấy xa vời những điều đó khi quan sát.  Không giống như những người lính, tôi có thể rời bỏ bất kỳ lúc nào muốn.  Đó là bài học đầu tiên khi lâm trận.

ẤP BẮC

Vào thời điểm tôi đến Việt Nam năm 1962, nước Mỹ tiêu tốn hơn một triệu đô la một ngày với hy vọng giành chiến thắng bằng cách bắn phá trên chiến trường.  Không khí lạc quan với khẩu hiệu không chính thức “chiến thắng vào năm 1964”.  Những nhà chiến lược quân sự mà tôi nói chuyện ở Sài Gòn đều thuyết phục rằng cách thức bắn phá tiêu tốn, thử nghiệm của họ sẽ đảo ngược được phong trào “chiến tranh nhân dân” đang lên cao.

Mức độ can thiệp của Mỹ cũng được thể hiện ở những ngôi sao trên vai hàng tá những vị tướng kinh nghiệm được giao nhiệm vụ chỉ huy những nhiệm vụ phức tạp ở Sài Gòn vào cuối năm đó.  Thiếu tướng Joseph W.Stilwell chỉ huy đội quân cứu trợ Quân đội Mỹ với một thế hệ mới những máy bay chiến đấu.  Stilwell là con trai của tướng “Vinegar Joe”, Stilwell lừng lẫy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và ông ta thích đưa tôi đi cùng khi trực tiếp lái và nhắm bắn khu du kích Việt Cộng với khẩu súng máy 50 li từ trên trực thăng lên thẳng của mình.

Những tướng Mỹ khác thường điều hành một đơn vị, cố vấn cho Lực lượng Không quân Cộng hòa và lập kế hoạch điều hành chỉ huy.  Vào thời điểm đó ở Việt Nam cứ một nghìn cố vấn Mỹ thì có một tướng.  Tướng phụ trách Chỉ huy Trợ giúp Quân đội Mỹ được gọi bằng ngôn ngữ quân sự là COMUSMACV, là một tướng bốn sao, Paul D.Harkins, tốt nghiệp West Point với cặp mắt xanh.  Ông ta phục vụ cùng tướng George S.Patton, Jr trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai và từng là Tổng tham mưu của Quân đội 8 suốt Chiến tranh Triều Tiên.  Harkins chỉ một phần trông giống sỹ quan chỉ huy vì luôn mặc thường phục, thường phì phèo xì gà to.

Sự đồng lòng của chỉ huy tối cao Mỹ là những nỗ lực họ đang cố gắng ở Việt Nam nhưng chiến thắng thường xa hơn những điều thấy trước được.  Nhìn chung các phóng viên ủng hộ quan điểm đó và tôi chẳng thấy ai nghi ngờ xem cuộc chiến có đáng để chiến đấu vậy không.  Mal Browne tin tưởng chiến thắng sẽ tới và các bài phân tích AP của anh ta đều phản ánh quan điểm đó nhưng anh ta không có chút ảo tưởng về cách thức sẽ dễ dàng và đoán rằng đó sẽ là chiến dịch lâu dài và ác liệt cần thêm những điều chỉnh trong tiến trình chiến tranh.  Mặc dù giới truyền thông và bộ máy quan liêu năm 1962 đều thống nhất cần cách thức khôn ngoan triển khai cuộc chiến nhưng chúng tôi chiến đấu như những con mèo bị nhốt trong bao khi tác nghiệp.  Vấn đề trọng yếu là chính quyền Kennedy sẽ tham gia chiến tranh ở miền Nam Việt Nam mà không cần công bố điều đó, họ cố gắng không nói với ai và che đậy việc xây dựng lực lượng, tăng cường máy móc trang thiết bị và che đậy việc xây dựng lực lượng, tăng cường máy móc trang thiết bị và gánh vác những gì họ đang phải chịu đựng để đạt được mục đích.

Tôi chỉ ngạc nhiên là các hoạt động chiến thuật nhạy cảm này lại là những chi tiết mà giới báo chí Sài Gòn cho rằng chẳng việc gì phải che đậy.  Thực tế, Mal khăng khăng rằng nhiệm vụ của chúng tôi là phải tiết lộ chúng và những con tem bí mật không có tác dụng vì nếu chúng tôi theo dõi những chuyến tàu quân sự tới hay việc dàn quân thì kẻ thù cũng có thể làm vậy.  Ủng hộ chính sách tối mật của Mỹ là chính sách hà khắc chính trị của người Việt Nam dẫn đến việc không tin tưởng bất cứ ai sẵn sàng dọa nạt giới báo chí nước ngoài.  Bất kỳ bản báo cáo nào chúng tôi đưa ra câu hỏi về tiến trình của chiến tranh đều bị chính quyền Diệm kiểm duyệt.  Ngoài ra, chính quyền còn muốn dập tắt những bài viết của chúng tôi về những xung đột văn hóa giữa những tay lính Mỹ cứng đầu với người dân địa phương bảo thủ.  Họ mong đợi chúng tôi đưa ra bức tranh ngọt ngào và sáng sủa về các vùng chiến sự đang bùng nổ khi có mặt của quân đội Mỹ cùng với những xung đột hỗn hợp về mặt xã hội đang ngày càng gia tăng.

Tôi viết theo chỉ dẫn của Mal Browne, một người không bị đè bẹp.  Còn hơn cả người điều hành nhân viên, Mal chỉ huy cả cuộc sống nghề nghiệp của chúng tôi.  Ngay tuần đầu tiên tới Việt Nam năm 1961, Mal đã gây ra sự phẫn nộ cho giới chức ở đây.  Từ đầu anh ta nhận thấy sự can thiệp của người Mỹ lớn hơn những gì mong đợi.  Với một chút xào xáo, anh ta phát hiện ra phi công Mỹ tham gia cuộc chiến chống lại Việt Cộng trong những lần bay thả bom cấp cho lính Việt là những máy bay huấn luyện.  Mal từ chối giữ bí mật theo như yêu cầu của Đại sứ quán Mỹ và chính quyền Sài Gòn.  Anh ta chuyển sự ngốc nghếch của mình sang tôi.

AP không phải là hãng tin duy nhất nghiên cứu cẩn thận cuộc chiến tranh đang tiến triển.  Trong suốt nhiệm vụ 6 tháng, Homer Bigart người giành giải thưởng báo chí Pulitzer, khuấy lên làn sóng nghi ngờ những nỗ lực của người Mỹ bằng những bài báo và bài phân tích cay đắng, sâu sắc cho tờ Thời báo New York.  Ba mươi năm làm phóng viên nước ngoài biến anh ta thành ký giả chiến trường hàng đầu vào thời đại của mình.  Ngay khi tôi mới tới Sài Gòn thì cũng là lúc Bigart kết thúc nhiệm vụ.  Tại bữa tiệc chia tay anh ta, tôi gặp Francois Sully lần đầu tiên, một người Pháp dễ chịu, yêu đời và hiểu biết về những gì đang diễn ra ở đây hơn bất kỳ phóng viên thường trú nào, Sully là phóng viên thường trú cho tờ Newsweek, và trong một phần của sự thật nào đó, anh ta muốn nói anh ta nghĩ những can thiệp ngày càng tăng của người Mỹ là sự khởi đầu thu nhỏ những thất bại của người Pháp trước đó 10 năm.

Chính quyền không hiểu sao chúng tôi không ủng hộ những cố gắng chiến tranh như những phóng viên đã làm trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và trong Chiến tranh Triều Tiên.  Lúc đầu họ mất kiên nhẫn với Sully và từ chối cấp lại visa cho anh ta.  Toàn bộ giới báo chí Sài Gòn gửi điện phản đối tới Tổng thống Kennedy nhưng không có hiệu quả.  Sully bị buộc tội “chống lại một cách hệ thống” trong các bài báo của anh ta và anh ta phải dời sang Hồng Kông ngày 9-9.  Chúng tôi ra sân bay tiễn và tự hỏi không biết ai sẽ là người tiếp theo phải đi.  Đến lượt Jim Robinson, một phóng viên kinh nghiệm của NBC, chúng tôi ghen tị với cách ăn mặc cuốn hút và hào hoa của anh ta.  Anh ta thiết kế bộ quần áo lên hình, kết hợp hoàn hảo giữa áo rộng và quần âu mà trở thành bắt buộc với tất cả phóng viên truyền hình trong phần còn lại của chiến tranh.  Điều này làm giàu cho một thợ cắt may vô danh Sài Gòn mà chúng tôi gọi trân trọng là ông Minh.  Robinson sở hữu trang phục với mười màu và mười chất liệu khác nhau.  Tội lỗi của anh ta không phải ở chuyện xa hoa trong cách ăn mặc mà ở lời nhận xét bất cẩn về Tổng thống Diệm trong những cuộc phỏng vấn nhàm chán.  Trước sự có mặt của quan khách, đó là sự coi thường không thể tha thứ.  Robinson bị trục xuất ngày 1-11 cho chúng tôi thấy rằng Đại sứ quán Mỹ thờ ơ với tự do báo chí và ngày càng trở nên đa nghi.  Chúng tôi tiếp tục công việc, ngày càng cảm thấy bị cô lập, mất hết tinh thần bởi bầu không khí hạn chế bao trùm việc tác nghiệp nhằm tách chúng tôi ra khỏi những vùng chiến tranh quan trọng ở nông thôn.

Chúng tôi nhanh chóng hiểu ra chiến dịch ngăn cản công việc đưa tin được các cơ quan chính quyền ở Washington chỉ đạo và tiếp tay.  Đại sứ quán Mỹ sẵn sàng tuân theo chỉ thị.  Bằng chứng của nỗi sợ hãi là bản thư ngày 19-9 gửi từ văn phòng AP ở Washington thông báo Quốc hội, Lầu năm góc và Đại sứ quán Việt Nam đều phản đối kịch liệt về hoạt động báo chí phương Tây tại Việt Nam.  Ban quản lý AP đảm bảo họ không mua toàn bộ chuyện này nhưng rất lúng túng vì những tóm tắt chính thức ở Washington dường như chĩa vào họ là những đánh giá “ngược 180 độ” của chúng tôi.  Người viết bản ghi nhớ đó được chỉ bảo cá nhân rằng Phó Ngoại trưởng Averell Harriman đã quở trách các biên tập viên tờ Thời báo New York về tin bài và đang dự tính quở trách AP và UPI.

Phản ứng của Brown đối với bản ghi nhớ làm chúng tôi nhận thức rõ cảm giác chống báo chí và tiếp tục nói rằng “trong khi những quan điểm công khai về chiến tranh hoàn toàn khác với chúng ta thì chúng ta cũng đâu có viết chiến tranh đã thua hay hết hy vọng”.  Thật mỉa mai, Mal ca ngợi chương trình ấp chiến lược “dường như có hiệu quả” trong nhiều khía cạnh.  Đối với tôi điều đó như phá vỡ sự lạc quan của người Mỹ.

Cuối năm 1962 thử nghiệm quân sự xã hội trở thành công cụ quan trọng phá vỡ kiểm soát của cộng sản ở vùng nông thôn bằng cách tách dân làng khỏi Việt Cộng.  Một chương trình tương tự đã được áp dụng thành công chống lại các cuộc tấn công của cộng sản ở Malaysia vào những năm 1950.  Hàng triệu đô la Mỹ đổ vào các ấp chiến lược ở Việt Nam.  Mùa thu năm đó, hơn ba nghìn ấp chiến lược được xây dựng là nơi cư trú cho bốn triệu người dân.  Hơn một phần tư số dân đó đang sống trong những nơi định cư nông thôn được bao bọc bằng hào sâu đầy cọc tre nhọn hay bẫy cho những kẻ lạ lai vãng.  Cổng ấp luôn đóng khi mặt trời lặn tới bình minh vì đó là thời gian Việt Cộng dễ hoạt động nhất.

Nơi huấn luyện phi công nằm ở phía Bắc Sài Gòn trong vùng đồn điền cao su gần Bến Cát cạnh một trong những điểm nóng không an toàn của đất nước – Vùng chiến khu D, được đặt tên trong chiến tranh với người Pháp.  Đó là khu vực cẩm, rừng cây rậm rạp trải dài tới những đồi dốc hiểm trở giáp ranh biên giới Cămpuchia và là con đường tiếp viện huyền thoại cho quân cộng sản phía Nam - đường mòn Hồ Chí Minh.  Kế hoạch được gọi là “Chiến dịch mặt trời mọc” bắt đầu tháng 3-1962.  Nơi này trở thành thánh địa Mecca đối với các đại biêủ Quốc hội và các nhà báo đến thăm quan.  Bằng chứng của những khoản tiền viện trợ của Mỹ đang được đầu tư một cách khôn ngoan và hiệu quả.  Khi tôi tới thăm vào tháng 11 nơi này còn rất tan hoang.

Cùng một nhân viên Bộ Thông tin Việt Nam Cộng hòa, tôi lái xe về phía bắc trên con đường 13 qua những ngôi làng còn vết tích các trận chiến tới ấp chính tại Bến Tường.  Đó là hành trình mà Chính phủ cho rằng là minh chứng cho tiến trình chiến tranh.  Những bức tường đắp bùn của ấp chiến lược cắm đầy chông tre sắc nhọn giống như lớp râu lởm chởm trên cái cằm không cạo.  Chúng tôi lái xe vào bên trong qua cổng gỗ đan dây thép gai tới bãi sân đầy bụi xung quanh là những ngôi nhà lợp lá và một văn phòng chính quyền lợp mái sắt kiên cố.  Không khí cẩn trọng giữa những lính Việt Nam đang ngồi uể oải bên trong.  Tất cả đều trang bị vũ khí và tôi nhận thấy cả cố vấn Mỹ cũng có vũ khi trong tay khi họ đang uống bia và nước ngọt trong một quán lá phía trong cổng.

Chỉ bốn trong mười bốn ấp dự định đã hoàn tất trong “ Chiến dịch mặt trời mọc”.  Những ấp khác còn nằm chờ vì khó tập hợp đủ người dân sống trong đó.  Tổng cộng có ba nghìn nông dân và gia đình họ bị di dời từ những ngôi làng cũ tới định cư tại những ấp lập sẵn này, rất nhiều trong số họ chống lại.  Theo con số thống kê miệng thì nữ nhiều hơn nam.  Những người đàn ông vắng mặt bị quy là thành phần Việt Cộng nhưng không ai được thuyết phục từ bỏ trong nhiều tháng vì họ bị chia cắt gia định.  Người hướng dẫn của tôi chỉ ra sự ổn định của người dân như một nhân tố thuận lợi và cho rằng chương trình được viện trợ của Mỹ về nhà ở và thức ăn miễn phí, chăm sóc sức khỏe đang thuyết phục nhân dân dưới sự kiểm soát thành công của Chính phủ.  Sau đó, một cố vấn Mỹ cho tôi xem một bức thư tìm thấy trên người một phụ nữ đang làm ngoài đồng gửi cho chồng.  Có một câu nói rằng: “Đừng lo lắng cho em, chúng ta đều được chăm sóc tốt.  Hãy tiếp tục công việc của mình”.

Tôi viết một bài dài về những ảnh hưởng của “Chiến dịch mặt trời mọc”: mỗi ấp cần một đại đội lính Việt kèm theo đảm bảo sự an toàn vì chính quyền không muốn trang bị vũ khí cho dân tự bảo vệ mình.  Họ sợ người dân sẽ sử dụng vũ khí đó để chống lại họ.  Tôi viết rằng những ấp chiến lược thử nghiệm đó thực tế trở thành những trại giam đắt tiền.  Mục đích đưa ra nhằm tập trung kiểm soát dân vào vùng an toàn hơn.  Chương trình đặc biệt này bị xóa bỏ từng bước.  Câu chuyện “đầu sỏ” của tôi không mang lại tràng pháo tay nào từ giới chức, họ xem đó chỉ như một bới móc khác từ giới báo chí.

Chính phủ nỗ lực hạn chế nguồn tin chảy vào Việt Nam bằng nhiều cách hăm dọa nhưng dường như tất cả đều thất bại.  Điểm yếu của chính sách là người Mỹ trong chiến trường không xem báo chí như tổ chức bí mật của gián điệp.  Những người lính tôi gặp ở đó rất nhiệt huyết và tự tin trong những tháng đầu tiên.  Họ tin tưởng vào nhiệm vụ của mình và cho rằng không có lý do gì phải tiết lộ những gì đang làm.  Lý tưởng của họ không làm tôi ngạc nhiên vì tôi cũng mong đợi điều đó từ những người Mỹ.  Tuổi thơ của tôi cũng chứng kiến bi kịch và chiến thắng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai mà nước Mỹ là người đóng vai trò chủ chốt.  Tôi chia sẻ giấc mơ của họ về một thế giới trở nên an toàn hơn cho tất cả chúng ta và sự đồng cảm này giúp tôi tiếp cận những người lính Mỹ, giành được sự tin cậy của họ dù tôi đến từ đất nước khác.  Thậm chí với những phóng viên khó tính nhất từng có thời gian trải qua cùng các sĩ quan ở Sài Gòn và Washington. Chúng tôi hiếm khi xung đột với những quân nhân trên chiến trường.  Sự thật này luôn đứng đầu cuộc chiến cho tới khi kết thúc.

Với nhứng lính Mỹ ở Việt Nam, những năm đầu là thời gian lạc quan và mạo hiểm.  Nhiệt tình của họ như lây truyền, thường tràn ngập các bài viết của chúng tôi khi theo họ vào chiến trường và chia sẻ kinh nghiệm của họ.  Chúng tôi đặc biệt tán dương những phi công trực thăng.  Trực thăng lên thẳng là cách tin cậy để nhanh chóng tham gia hoặc thoát khỏi cuộc chiến.   Đó cũng là biểu tượng cuộc chiến này khác với những cuộc chiến trước đó.

Tôi nhanh chóng hiểu ra điều đó khi làm bạn với các sỹ quan và binh lính của đơn vị trực thăng thử nghiệm được cử tới Sài Gòn vào tháng 9-1962, Đại đội Quân dụng Cơ động Chiến thuật cái tên hành chính mờ ảo đặc biệt cho cuộc cải cách mới nhất trong chiến tranh từ thời xe Jeep.  Họ bay trên những chiếc Huey UH-1A chạy bằng hơi nước mới của Công ty Bell, một lọai máy bay nhiều chức năng và nhỏ hơn những con vật khổng lồ ồn ào ì ạch kéo trên bầu trời Việt Nam thả lính chiến đấu.  Huey xuất hiện như sự cải cách về định nghĩa không vận sẽ làm chủ tiến trình chiến tranh tương lai.  Trực thăng lên thẳng được trang bị súng máy 30 li và 16 rocket 6,98 cm theo các xe bọc thép vào trận chiến, bắn thả bãi đáp trước khi lính nhảy xuống và bảo vệ việc di chuyển của họ.  Chúng tôi nhận ra trong chiến thuật trực thăng vận điểm ngắm tốt nhất chính là từ trên trực thăng.

Tay chỉ huy đơn vị trẻ tuổi đầy nhiệt huyết là thiếu tá Ivan Slavich người San Francico, California.  Từ lúc anh ta thân thiết và thoải mái với sự có mặt của chúng tôi.  Anh ta rất tự hào về những cải tiến mà đơn vị anh ta đang thử nghiệm vào chiến thuật quân sự.  UTT báo cáo cho Đội cố vấn kỹ thuật Quân sự do một tướng chỉ huy, người chỉ đánh giá các chiến thuật chứ không phải phần viết tin.  Những chiếc Huey trang bị vũ khí nhằm hỗ trợ cho ba đại đội trực thăng vận vận chuyển lính Cộng hòa vào chiến trường.  Chúng tham gia hầu hết các hành động quân sự lớn và luôn có chỗ cho chúng tôi trên trực thăng lên thẳng.

Tôi thích ngồi trên những chiếc máy bay này, thắt dây an toàn, gió thổi vào tóc khi những tay súng trẻ ngó ra ngoài cửa mở máy bay với đôi mắt dõi xuống mặt đất và ngón tay đặt trên cò súng.  Binh nhất John C.Dickerson đặt tên trực thăng lên thẳng của mình là “cái hộp nóng” vì năm người nhồi nhét trong đó khi Việt Cộng đang bắn trả từ mặt đất.  Anh ta nói với tôi “Bụng như lộn tùng phèo khi thấy họ bắn trả vào mình.  Đôi khi đủ gần để cảm thấy độ nóng của viên đạn lướt qua.  Thật không vui chút nào nhưng mình có thể bắn trả.  “Những phi cơ hộ tống bay là là cách mặt đất khoảng 100 thước xếp hàng trên chiến trường xanh bằng phẳng ở Đồng bằng sông Cửu Long.  Dickerson tình nguyện đến Việt Nam và xin thêm thời gian lần thứ hai để hoàn thành những gì anh ta gọi là “thời gian địa ngục của tôi” trước khi về nhà cho những điều tốt đẹp.  Anh ta bị thương và phải về nhà sớm hơn dự tính.  Bởi vì đóng ở Sài Gòn nên các đội Quân dụng Cơ động Chiến thuật (UTT) có thể thăm thành phố.  Chúng tôi thường ăn tối cùng các sỹ quan và lính, đi bar cùng họ để thắt chặt quan hệ hơn.  Lính quân đội thường giao tiếp với giới báo chí.  Đó là ác mộng tồi tệ nhất của bất kỳ nhân viên thông tin quân sự nào, nhưng họ chẳng thể làm được gì ngăn chặn điều đó.  Quân Cơ động Chiến thuật và các sĩ quan của họ là cánh cửa cho chúng tôi vào các cuộc chiến và là những người chỉ dẫn đáng tin cậy về những may mắn của người tham chiến.

Chúng tôi cũng bị lôi cuốn bởi Lực lượng Đặc nhiệm quân đội Hoa Kỳ, “những chiếc mũ nồi màu xanh”.  Tôi đã trải quan nhiều ngày với đội đặc nhiệm A-113, một trong những đội của Đơn vị lực lượng đặc nhiệm được cử tới Buôn Ma Thuột ở Tây Nguyên.  Nơi này địa hình rừng núi hiểm trở, sông suối chảy xiết và là một trong những địa điểm có trò săn bắn đầu tiên ở Châu Á.  Nhưng giờ Việt Cộng đang dò tìm theo những hang báo trong rừng, những vết chân của gấu và tự do đi lại giữa dân tộc Êđê.  Những người lính Mũ nồi xanh được giao nhiệm vụ đảo ngược làn sóng trong vùng, ngăn cản Việt Cộng trên đường tiến.  Họ là những người bí mật, đặc quyền, làm việc dưới sự chỉ đạo của CIA và độc lập với tất cả giới chức quân sự và dân quân trong khu vực thi hành nhiệm vụ.

Đội đặc nhiệm A-133 tới Buôn Ma Thuột năm 1962 trong chiếc C-46 do phi công người Đài Loan lái để xây dựng chương trình bảo vệ làng Êđê, dân tộc miền núi thông minh, tiên tiến và lớn nhất.  Khi bí mật được che đậy, tôi được mời tham gia chứng kiến sự thành công của chiến dịch.  Trong một cơn bão lốc, một đội tám người tổ chức cho dân làng của tám mươi thôn bản.  Họ giám sát xây dựng nhà bằng tre và những nơi trú ẩn dưới đất và huấn luyện quân sự cơ bản cho trai làng, thay thế nỏ và chông bằng 4.500 khẩu súng trường.  Người chỉ huy rám nắng và mảnh khảnh, trung úy Ron Shackleton hướng dẫn tôi xem quanh.

Đầu tiên chúng tôi mở một can bia ấm vì người Mỹ thích sống như những chủ nhà của họ, nguyên thủy, không tủ lạnh hay các phương tiện kỹ thuật hiện đại khác.  Sau đó chúng tôi gặp những người bản địa, già làng râu lơ thơ, phì phò tẩu thuốc bằng tre, những dân quân trẻ thì vui thú vận chuyển vũ khí mới và những người phụ nữ thẹn thùng cười khúc khích trong những bộ quần áo bà ba đen truyền thống bám bụi.  Tôi không gặp tay chỉ huy CIA luôn bí mật biến mất trong lán bất kì khi nào tôi đi qua.

Tôi quan sát đội của Shackleton làm việc tích cực: trung sỹ, bác sĩ Manfriend Baier chữa trị cho mọi người đơn giản nhưng hiệu quả, những người trước đây không được chăm sóc cơ bản về y tế.  Những tay huấn luyện vũ khí, Al Clack và John Lindewald kiên nhẫn hướng dẫn các bài học thực tế sử dụng vũ khí tự động cho những lính mới với ngón tay đã chai lại vì sử dụng dây nỏ, rất khó khăn khi đặt lên cò súng.  Người Mỹ còn mang tới các kỹ năng khác, hai đội nói tiếng Việt và một đội nói tiếng Pháp để để giao tiếp chính xác với dân bản.  Khi trở lại Sài Gòn, tôi đã viết một bài dài và tích cực trích dẫn cả lời của chính quyền quân sự Mỹ nói rằng chương trình Mũ nồi xanh là “chương trình hiệu quả nhất từ trước tới giờ” để ngăn chặn sự lan tràn Việt Cộng đến tận gốc và chỉ đúng khi chiến lược này được tiếp tục thực hiện.  Tôi cũng viết một câu chuyện về những nhân viên CIA đầu tiên ở Tây Nguyên, đến đó từ các năm trước với vỏ bọc là những nhà nghiên cứu thực vật đi quanh Buôn Ma Thuột tìm tổ bướm.  Thông tin này do trung sỹ Shackleton và đội của anh ta cung cấp, sau đó tôi tự hỏi không biết tôi có được xếp là kẻ nói dối trắng trợn khi gây ra lúng túng cho chỉ huy CIA không?

Lính đặc nhiệm Mũ nồi xanh là niềm tự hào của chính quyền Kennedy.  Chính Tổng thống ủng hộ những hỗ trợ đặc biệt cho những chiến dịch bán quân sự và các chiến thuật khác thường mà đội Đặc nhiệm yêu cầu.  Những sĩ quan quân sự thông thường buộc phải tuân theo lối sống bắt buộc nên ghen tị với Đội Đặc nhiệm, đôi khi gọi những chiến binh đội Mũ nồi xanh mỉa mai “Những khẩu súng trường riêng của Jacqueline Kennedy”, phỏng theo tước bậc lực lượng quân dội Anh trong đó có “Những khẩu súng trường riêng của Nữ hoàng”.  Mật độ hoạt động giới báo chí Sài Gòn dày lên vào cuối mùa hè cùng sự có mặt của phóng viên thường trú tờ Thời báo New York, David Halberstam.  Mọi người biết đến danh tiếng của anh ta trước đó.  Horst Faas đã làm việc và được sắp xếp ở cùng nhà với anh ta ở Cônggô.

Horst lạnh lùng bình thường, miêu tả Halberstan với tôi bằng những cụm từ gần như hoang tưởng nào là một tay hào phóng, thích đàn đúm, cạnh tranh và rất chuyên nghiệp.  Khi họ gặp nhau, Halberstam cao lớn ôm trọn Horst bằng cái ôm của gấu và hét lên bằng giọng Đức giả và to lớn “Horst Kaspar Adolf Faas của Đức quốc xã”.  Horst mỉm cười đồng ý.  David sử dụng văn phòng AP như chính văn phòng của anh ta.  Chúng tôi có vài chuyến đi viết bài cùng nhau ở vùng nông thôn, tới thăm Nha Trang, Đà Nẵng và Đồng Bằng sông Cửu Long.  Bài viết của anh ta rất lạ, sâu sắc và chi tiết.  Một cách thân thiện anh ta và Mal trở thành đối thủ của nhau.

Halberstam đến vào thời điểm khi giới báo chí đang rơi vào thời kỳ đặc biệt khó khăn.  Chẳng bao lâu chúng tôi sẽ ngồi trên ghế nóng không giống như trước đây vì cách viết bài của mình.  Cái tên khởi sự đó chính là Ấp Bắc, một nơi bình thường ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ trong mảnh đất không người mọc lên ở Đồng bằng sông Cửu Long có đầm lầy và đồng lúa phía Nam Sài Gòn.  Những mái tranh chụm lại, bụi chuối và chuồng lợn bao quanh là đặc trưng của thôn làng Việt Cộng trải khắp vùng nông thôn, là mục tiêu của các trận rải bom, bắn pháo và oanh tạc thường xuyên của chính quyền bởi vì nó tồn tại ngoài những vùng được gọi là bình định.

Buổi sáng ngày 3-1-1963, Sư đoàn 7 Việt Nam Cộng hòa tập hợp một số tiểu đoàn lính bộ binh và không quân tiến về đánh Ấp Bắc với mục tiêu diệt Đài phát thanh Việt Cộng hoạt động trong vùng lân cận.  Chiến dịch này đã đi sai đường.  Chúng tôi nghe nói về trận đánh này đầu giờ chiều khi nguồn tin của chúng tôi ở Đại đội Không quân quân đội Mỹ đóng tại Sân bây Tân Sơn Nhất gọi nói rằng tám trực thăng bị tấn công và ít nhất bốn lính không quân bị thương.  Tin xấu hơn vào cuối buổi chiều, Browne viết rằng trận Ấp Bắc là tiêu biểu cho sự thất bại nặng nề nhất cho những nỗ lực hỗ trợ của người Mỹ ở miền Nam Việt Nam tới lúc đó.  Halberstam và tôi nhanh chóng ra sân bay nói chuyện với những phi công trở về.  Mười bốn trong mười lăm trực thăng tham gia chiến dịch bị tấn công vởi pháo dưới mặt đất.  Năm máy bay bị lạc trong chiến trường.  Ba người Mỹ chết, hai trong số họ là lính không quân và người thứ ba là trung úy cố vấn bộ binh.  Những tổn thất của lính Việt Nam lên tới con số hàng trăm.

Những bằng chứng về thảm họa càng rõ ràng hơn vào ngày hôm sau khi Halberstam và tôi biết rằng đối thủ của chúng tôi là Neil Sheehan của hãng UPI và Nick Turner của Reuters đã tới chiến trường.  Chúng tôi thuyết phục Steve Stibbens của tờ Stars and Stripes đưa chúng tôi ra mặt trận.  Chúng tôi nài nỉ Steve thay bộ lính Hải quân Mỹ bởi vì chính quyền Việt Nam ngăn cản giới phóng viên đi vào vùng Bắc Đồng bằng sông Cửu Long.  Chúng tôi hướng về phía nam qua Chợ Lớn.  Đường tắc dài, ô tô và xe buýt bị kiểm tra an ninh tại các cầu và làng canh phòng nghiêm ngặt.

Vượt qua Tây An, chúng tôi rẽ phải sang con đường đồng quê lóc xóc đầy ổ gà dài gần một dặm đường đầy bụi tới làng Tân Hiệp chứng kiến cảnh hỗn lọan: xe Jeep. Xe tải và trực thăng đang tranh giành khoảng trống trên con đường nhỏ còn lính thì lại mỉm cười chờ đợi mệnh lệnh tiếp tục hành quân.  Cố vấn cấp cao ngưòi Mỹ của Quân đoàn 4, đại tá Daniel Boone Porter tiết lộ những gợi ý về những tổn thất đầu tiên.  Ông ta giải thích lần đầu tiên Việt Cộng chủ động đứng lại chiến đấu thay vì chống trả và biến mất trong các vùng nông thôn.  Tiểu đoàn Việt Cộng 514 dày dặn kinh nghiệm chiến đấu dù còn thua kém nhiều về khả năng tấn công, đã đương đầu chính xác như những gì cố vấn Mỹ dự đoán.  Họ chờ đợi cơ hội được mang pháo đại bác ra chiến trường từ lâu.  Nhưng đó là lực lượng Việt Nam Cộng hòa đã đảo ngược tình huống.

Dave và tôi đi một trực thăng để quan sát trận chiến.  Chúng tôi nhìn thấy xác chết ngổn ngang ở phía dưới trong bùn, trên cánh đồng và dòng xe bọc thép Việt Nam Cộng hòa đã tới thôn tăng cường lực lượng và đang trên đường trở lại.  Việt Cộng trốn thoát một cách dễ dàng, để lại sáu mươi lăm lính Cộng hòa chết, một trực thăng bị hạ và cảm giác bại trận cho các cố vấn quân sự Mỹ.

Sau đó Sheetan lảo đảo bước ra từ một trực thăng đầy bùn và run rẩy nói rằng anh ta bị pháo binh tấn công trong khi tới thăm chiến trường.  Lính Việt Nam Cộng hòa đã hết hy vọng đến mức cố vấn Vann đã tập hợp sáu mươi nhân viên cố vấn Mỹ của ông ta gồm cả đầu bếp và nhân viên văn phòng và gửi họ đi thám thính Việt Cộng.  Hầu hết Việt Cộng đã biến mất.

Ấp Bắc là câu chuyện lớn nhất mà tôi viết trong suốt sáu tháng ở Việt Nam.  Những điểm yếu được phô bày rõ ràng ám ảnh những người lập kế hoạch quân sự Mỹ hình thành đồng minh trong các cuộc chiến.  và câu chuyện cũng nhấn mạnh sự thông minh của Việt Cộng, một lối đánh du kích thâm hiểm.  Trận chiến làm cho giới báo chí Sài Gòn tin rằng hoặc là do chính quyền không nhận thấy mức độ đầy đủ của cuộc tấn công hoặc những điều này bị chúng tôi tiết lộ.  Sự khác biệt này trở thành khoảng cách lòng tin và ngày càng lớn hơn sau này.

BỊ BẮN CHẾT


Trận Ấp Bắc là dấu hiệu rõ ràng cho các sĩ quan Mỹ sẽ phải đảm nhận nhiệm vụ chỉ huy nếu muốn miền Nam Việt Nam tồn tại.  Đó cũng là thời điểm làm tin chiến tranh bước vào thời kỳ đỉnh cao.  Các nhan đề bùng nổ và các bài bình luận được đưa lên trang nhất vẫn giữ vị trí hơn mười năm.  Chúng tôi tiết lộ các quyết định chính sách mà Washington muốn giữ kín về những hỗ trợ quân sự ngày càng tăng và mở rộng can thiệp cuộc chiến yêu cầu binh lính Mỹ phải sử dụng vũ khí.  Nhưng quyết định này đã đẩy Hoa Kỳ dẫn sâu hơn vào cuộc chiến.  Đó là một cuộc chiến gay go và kéo dài.  Chính quyền muốn tiến hành chiến tranh trong bí mật nhưng chúng tôi không để họ làm như vậy.  Cố vấn John Paul Vann bị khiển trách vì tiết lộ thông tin cho phóng viên, cuối cùng anh ta cũng rời bỏ quân ngũ.

Các quan chức Mỹ rất tức giận khi báo chí nhắm vào những hành động có hại với Chính quyền Ngô Đình Diệm.  Trong một bài phát biểu giữa tháng 2, Đại sứ Frederick Nolting quở trách chúng tôi và kết luận “Với những bình luận vô công rồi nghề, những nhận xét ác ý hay những lời đồn đại lan tràn hoặc là xuất phát từ cộng sản hoặc rơi vào tay cộng sản”.  Chính quyền Sài Gòn ngày càng nghi ngờ những hoạt động của chúng tôi và thật mỉa mai họ tin rằng sĩ quan Mỹ cũng tiết lộ nhiều cho chúng tôi.  Quan hệ của chúng tôi với Đại sứ quán Mỹ rất tệ hại.  Nguồn tin thuận lợi nhất cho chúng tôi là ở bên ngoài thành phố tại các tỉnh lị hay huyện lị nơi cuộc chiến đang diễn ra.

Tìn trạng lộn xộn tiếp diễn giúp cho cộng đồng phóng viên thường trú đi chung một con đường và tất cả đều chuẩn bị cho những gì diễn ra sau đó.  Hồ sơ phóng viên của tôi ngày càng nhiều lên.  Don Huth nói rằng Wes Gallagher đồng ý lời đề nghị tôi được trở thành nhân viên chính thức của AP. Có các quyền lợi như được trả tiền về thăm nhà ba năm một lần, một năm được nghỉ phép một tháng.  Giờ tôi an toàn hơn trước đây.  Mal Browne là thuyền trưởng của chiếc thuyền, còn tôi là người bạn kỹ thuật đầu tiên.  Horst Faas vẫn là chuyên gia kỹ thuật có tài, tay lúc nào cũng nhiều máy ảnh, bộ đồ dụng cụ và ống kính tập trung vào cuộc chiến.  Tôi thích thú làm việc cùng Mal, Horst và David Halberstam.  Nhưng David thường dành nhiều thời gian thăm thú thành phố cùng Neil Sheehan của UPI hơn.  Cũng không lâu sau đó anh ta đóng gói máy chữ và chuyển ra khỏi văn phòng của chúng tôi.

Chúng tôi luôn cố gắng có cuộc sống tình cảm đúng đắn.  Vợ và gia đình của Mal không ở cùng anh ta ở Sài Gòn.  Anh ta ngụ ý chuyện hôn nhân đã kết thúc.  Anh ta bắt đầu hẹn hò một người phụ nữ Việt Nam hấp dẫn tên Liễu làm việc cho Phòng Thông tin Chính phủ.  Đó cũng là người sau này anh ta lấy làm vợ.  Neil Sheehan và David Halberstam hay hò hẹn bất chính với các phụ nữ địa phương.  Horst ở cùng cô vợ chưa cưới người Đức, Ursula.  Tôi gặp Nina Nguyễn, cô giáo người Việt Nam lanh lợi và nhỏ nhắn tại bữa trưa do Frrancois Sully tổ chức để giới thiệu với chúng tôi “một vài cô gái đáng kính thay đổi không khí”.  Tôi chạy theo hộ tống Nina tới ghế, chỉ để đánh bại người đồng nghiệp người New Zealand, Nicholas Turner của hãng Reuters.  Nina mới trở về từ Mỹ tốt nghiệp dược sỹ ở Đại học Bắc California.  Gia đình cô ta là dân Bắc di cư vào miến Nam năm 1954 và cha cô là Trưởng phòng hành chính của Quốc hội Việt Nam cộng hòa.  Tôi hoàn toàn chết mê cô ấy.

Mối quan hệ của chúng tôi không tiến triển nhanh.  Mùa đông năm 1963, báo động toàn quốc bao trùm cuộc chiến và chống lại giới báo chí trong xung đột mới với chính quyền Hòa Kỳ và Việt Nam.  Tranh luận mang đến cái nhìn quốc tế khác về Việt nam và thiết lập lại những nỗ lực của Mỹ mà vẫn còn gây tranh cãi ba mươi năm sau đó.

Cuộc khủng hoảng bắt đầu một trong những thành phố yêu thích của tôi, tại cố đô Huế, nơi có dòng sông Hương chảy qua nằm ở miền Trung Việt nam.  Tôi đã tới đó nhiều lần và rất thích vẻ đẹp của Hoàng thành cố kính với những bức tường bao quanh bằng gạch dày, cao và hào rộng xung quanh, do một kỹ sư Pháp Xây dựng cách đây 200 năm.  Cung điện và tường thành bao quanh đặc biệt rất đẹp và người ta nói rằng đó là bản sao thu nhỏ Tử Cấm thành ở Bắc Kinh.  Những ngôi mộ hùng vĩ của các vị vua lớn lấy theo mô hình của người Trung Quốc.  Dòng sông Hương thanh bình bắt nguồn từ những ngọn đồi thấp thoáng phía xa, chảy qua Huế, một thành phố nổi với nhiều nhà thuyền cho thuê và những chiếc thuyền ba lá bán đồ ăn, uống cùng với sự lãng mạn.

Huế cũng là ngôi nhà của dòng họ Ngô, nơi em trai Tổng thống Diệm, Ngô Đình Cẩn thống trị khét tiếng.  Một người anh em nữa là Ngô Đình Thục, là Tổng Giám mục Thiên Chúa giáo.  Diệm là một Tổng thống theo đạo Thiên Chúa giáo ở một đất nước 80% theo đạo Phật hoặc đạo Khổng.  Sự oán giận và thiếu lòng tin trong nhân dân ngày càng lớn khi những người theo đạo Thiên Chúa di cư vào nam giữa những năm 1950 sau khi người Pháp thua trận và lòng oán giận càng tăng khi Thiên Chúa giáo thịnh vượng hơn đạo Phật.  Vì người theo đạo Phật không được tham gia giáo dục, thăng tiến quân sự và chia đất công bằng từ chính quyền do chính họ dựng lên.
Chính quyền Mỹ không quan tâm nhiều tới tình hình tôn giáo, chỉ biết trang bị vũ khí cho chính quyền Diệm chống lại cộng sản và tính toàn bộ dân số tham gia ủng hộ cuộc chiến.  Giới báo chí chúng tôi cũng ít quan tâm tới tôn giáo có lẽ bởi vì chúng tôi cho rằng đạo Phật ít mang tính chính thống và chỉ là vấn đề của suy nghĩ.  Những giao tiếp của tôi với các vị sư ở Thái Lan và Lào đều là rất thú vị nhưng tôi lại có ấn tượng rằng giáo lý đạo phật là sự lựa chọn tổng hợp nhiều màu sắc.  Một vị sư từng nói với tôi ông ta đảm bảo mỗi buổi sang xin đủ thức ăn “vì mọi người biết rằng một người đối thì không nhận thức được luật lệ” và điều đó khiến họ đáp ứng nhu cầu hơn là bỏ rơi.  Ở Việt Nam, tôi quan sát có rất nhiều chùa ở các ngôi làng và tôi thường tới thăm, đi vào bên trong nhìn những bàn thờ trang hoàng và ngửi mùi hương thơm khói tỏa xung quanh, nhưng tôi không cố gắng tìm hiểu nhiều hơn.

Ngay sau đó, chúng tôi nhanh chóng hiểu rằng đạo Phật hoàn toàn tham gia vào Chính trị ở Việt nam với các tổ chức thanh niên, trường học, bệnh viện và các trại trẻ mồ côi, hoạt động một cách thầm lặng trong cả nước.  Những người lãnh đạo và sự thù hận chính quyền Diệm đang chờ cơ hội bùng nổ.

Tại chùa Từ Đàm, trung tâm đạo Phật, tổ chức lễ hội ngày Phật Đản ngày 8-5.  Chính quyền yêu cầu tất cả cờ Phật phải hạ xuống đồng thời cấm căng dải băng năm màu truyền thống vào ngày Phật sinh.  Phật tử phản kháng dữ dội hơn bởi vì những banner Thiên Chúa giáo vẫn bay phấp phới trong rất nhiều cộng đồng Thiên Chúa giáo người Việt.  Những đám đông giận dữ tập hợp lại nghe những vị sư đứng đầu thuyết giảng, không phải bắt đầu từ ngày đầu của chính quyền Diệm lên nắm quyền mà đó là nghi lễ thông thường trước đó cả thập kỷ.  Hàng nghìn phật tử theo sau những vị sư áo vàng diễu hành từ chùa dọc con đường chính ở Huế và yêu cầu được bước vào đài phát thanh để phát những lời thỉnh nguyện của họ.  Một sĩ quan an ninh địa phương, thiếu tá Đặng Sỹ mất bình tĩnh và yêu cầu lính ngăn những kẻ biểu tình lại.  Hai loạt lựu đạn do quân lính ném ra.  Kết quả cuộc hốn chiến là những xe bọc thép tham gia giải tỏa đám biểu tình, 11 người chết gồm một số trẻ em và phần lớn bị thương.

Chúng tôi ở xa hiện trường, trong văn phòng tại Sài Gòn và đầu tiên lấy tin từ chính quyền - sự kiện đó do các phiến quân Việt cộng kích động và một tên phản động đã ném lựu đạn sát hại nạn nhân.  Trong vài ngày, sự thật câu chuyện về sự đồng lõa của Chính phủ được làm rõ từ những nhân chứng tới văn phòng chúng tôi với đầy đủ chi tiết.  Chính quyền Diệm không bao giờ trao đổi thẳng thắn với giới báo chí nước ngoài trước đây và giờ cũng không muốn làm việc đó vào lúc này.  Toàn bộ sự kiện đã được quên lãng nếu các Phật tử không đến gặp chúng tôi trực tiếp.  Họ nhận ra chúng tôi là đầu mối quan trọng đến dư luận quốc tế và chúng tôi miêu tả cuộc khủng hoảng như vấn đề nhân quyền.  Khi những bản tin của chúng tôi được phát lại bằng tiếng Việt từ đài phát thanh quốc tế, những người tham gia biểu tình càng nhiều lên.  Chính quyền Diệm không chấp nhận trách nhiệm đàn áp đẫm máu, trừng phạt những kẻ thủ phạm và bồi thường cho các nạn nhân.  Suốt đêm đó, cờ Phật đã trở thành điểm dẫn đường cho những người tham gia biểu tình chống chính quyền.  Đàn ông và phụ nữ không tham gia các hoạt động ở chùa trong nhiều năm giờ bắt đầu tụng những câu kinh bị quên lãng đã lâu và diễu hành trên các đường phố, thách đố những tay lính có vũ trang và cảnh sát, những người thường bắt họ cho lên xe tải.
Giới chức sắc Phật giáo gọi cho báo chí Sài Gòn cùng những thông tin tiết lộ, và vào ngày 11-6 chúng tôi được tin một cuộc diễu hành khác sẽ được tổ chức ở Sài Gòn.  Những sự kiện như thế này bắt đầu trở nên phổ biến.  Chỉ Malcolm Browne và Bill Hà Văn Trần, quản lý văn phòng người Việt của AP tham dự sự kiện buổi sáng.  Như thường lệ, xe cảnh sát dẹp đường trước cho những vị sư diễu hành thầm lặng khi họ rời một chùa nhỏ và hướng lên đường Phan Đình Phùng.  Một ô tô mui kín màu xám dẫn trước đoàn điễu hành dừng lại bất ngờ trước Dinh Ngoại giao Cămpuchia.  Ba nhà sư bước ra khỏi xe, vài trăm người diễu hành xếp thành vòng tròn giữa đoạn đường giao nhau.  Sau đó vị sư già Thích Quảng Đức tự mình ngồi trên một cái đệm, thu chân lại và hai người đi theo ông tưới xăng lên đỉnh đầu, đẫm ướt bộ quần áo màu vàng.  Ông tự đốt diêm để trong lòng, sau đó chắp tay theo thế đài sen khi ngọn lửa bốc cháy quanh mình.  Browne bấm máy cẩn thận khi một vị sư khác thét lên truớc đám đông bằng tiếng Anh và tiếng Việt “Đây là cờ phật.  Ông chết là vì lá cờ này.  Thích Quảng Đức tự thiêu vì lá cờ này”.  Bức ảnh vị sư già bốc cháy trong khói lửa làm chấn động cả thế giới.

Các Phật tử tiến lên công khai.  Tại chùa Xá lợi ở Sài Gòn, sinh viên và Phật tử trẻ giúp các vị sư in ấn, sản xuất tờ rơi, biểu ngữ phân phát cho các cơ quan báo chí và cả nước.  Chúng tôi thường được một vị sư sang trọng, người nhỏ nhắn tên là Thích Đức Nghiệp tóm tắt tình hình tại chùa.  Ông nói thành thạo tiếng Anh, thường mời trà chúng tôi tại văn phòng tầng trên của mình.  Ông ta nhồi nhét cho chúng tôi những kiến thức về triết học và tuyên truyền.  Những vị sư trụ trì nói, chúng tôi là nguồn hy vọng duy nhất của họ để chuyển những thông điệp ra thế giới và đổi lại những người dân địa phương sẽ làm hết khả năng để giúp đỡ chúng tôi.

Horst được mời vào một ngôi nhà người Việt ở độ cao quan sát được cuộc nổi loạn trên ban công tầng trên, nơi có vị trí thích hợp chụp ảnh.  Anh ta không ở đó lâu.  Đám đông bên dưới làm hỏng việc chụp ảnh khi reo hò điên cuồng mỗi khi anh ta định bấm máy.  Tôi dừng lại một cửa hàng sau cuộc nổi loạn tối Chủ nhật để mua một số thực phẩm.  Câu hỏi được đưa “Anh có ở đó không” Anh có gửi những bài viết đó ra nước ngoài không? Những tay báo ảnh có mặt ở đó không?”.  Người chủ cửa hàng vỗ lưng tôi, những người làm của anh ta vây quanh tôi và cười.

Chính quyền Diệm phản đối kịch liệt việc làm tin của chúng tôi và tất nhiên những tờ báo do chính quyền điều hành cũng lu loa quan điểm đó.  Tôi bị hành hung bên ngoài chùa Ấn Quang ở ngoại ô phía bắc ngày 7-7.  Trong khi đang làm tin về một nhóm người biểu tình dâng cao thì tôi bị kèm vào một ngõ nhỏ bởi hai cảnh sát mặc thường phục, họ thụi vào mặt và xô tôi ngã.  Họ đã làm hơn thế nếu Halberstam không tới bảo vệ tôi.  Anh ta nhẩy vào những kẻ tấn công và phân tán họ.  Tôi bị choáng và máy ảnh của tôi bị đập, nhưng Browne đã chụp ảnh tôi và khuôn mặt đầy máu được in rộng rãi, khi Đại sứ quán Mỹ từ chối đứng ra bảo vệ, hội đồng nghiệp gửi thông điệp được bảo vệ tới Tổng thống Kennedy.

Cảnh sát vẫn chưa để chúng tôi yên.  Ngày thứ hai, Mal và tôi được mời tới trụ sở cảnh sát Sài Gòn vì vụ hành hung bởi hai cảnh sát mặc thường phục liên quan tới cuộc ẩu đả ở chùa.  Sau bốn tiếng chất vấn chuyển sang thảo luận và yêu cầu làm đơn kiện những tay tấn công, chúng tôi yêu cầu bồi thường cho chiếc máy ảnh bị hỏng.

Những đối đầu thô bạo trên đường phố làm tê liệt thành phố, đe dọa các nỗ lực chiến tranh và trở thành những chủ đề hàng đầu trên thế giới.  Tổng thống Kennedy thay thế Đại sứ Nolting, người đi nghỉ cùng gia đình ở Hy Lạp bằng Henry Cabot Lodge, Jr.  Khi trở về Nolting có buổi gặp cuối cùng với Tổng thống Diệm.  Diệm hỏi Nolting xem có phải việc bổ nhiệm Lodge có nghĩa chính sách của Mỹ đang thay đổi và vị Đại sứ chuẩn bị lên đường khuyên ông ta không nên lo lắng, một quan điểm mà sau này ông ta thông báo với Quốc hội Mỹ.  Các sỹ quan cố vấn ông ta từ cấp cao nhất, như một bản ghi nhớ cho Tổng thống để đảm bảo với Diệm không có sự thay đổi nào trong chính sách của Mỹ.  Ngô Đình Diệm đã sống sót qua gần một thập kỷ khủng hoảng chính trị và quân sự nhưng thực tế chính sách của Mỹ giờ đang thay đổi, cùng những khủng hoảng đạo Phật và những bài viết của chúng tôi.

ĐÀN ÁP PHẬT TỬ

Giữa tháng 8, biểu tình của các Phật tử lôi cuốn hàng nghìn người tham gia, người tham quan lẫn vào đám Phật tử trung thành ở tiền sảnh mở một bên tại chùa Xá Lợi, bước đi cẩn thận quanh vài trăm người cầu nguyện, hầu hết là phụ nữ trong những bộ áo dài bằng lụa sặc sỡ đang quỳ lạy trước một bàn thờ có trái tim đã cháy thành than của Hòa thượng tự thiêu Thích Quảng Đức đựng trong một bình thủy tinh.  Trong sân quanh tòa nhà, các vị sư đang phát những bản đánh máy mới nhất của “tờ báo” Phật tử có viết chuyện về cha của Madame Nhu là Đại sứ ở Wasshington miệng nói, vỗ vào cổ tay của bà vì ăn nói bất kính về Phật tử.  Một quầy trong góc sân râm mát bày bán các bài báo, sách và tranh tôn giáo về vụ tự thiêu của Hòa thượng với giá khiêm tốn nhất do một vị sư đứng chào mời.  Trong hành lang một tòa nhà, những vị sư áo nâu tiếp tục những công việc hàng ngày tụng kinh gõ mõ trong mùi hương trầm hòa lẫn mùi rác thải.  Trên đường bên ngoài chùa trước đó một tuần đã được cài dây thép gai.  Các phóng viên đến, gật đầu với nhân viên an ninh, trở nên quen biết nhau sau những vụ ẩu đả thường xuyên tại các cuộc diễu hành.  Một người bán bật lửa rong có trang trí cờ ở cả hai mặt, một mặt là cờ Phật giáo năm màu còn mặt kia là cờ quốc gia.  Người bán hàng giải thích “Làm sao biết được ai sẽ thắng những có cờ cả hai mặt chúng ta không thể thua”.

Sự thờ ơ của Đại sứ Nolting đối với đạo Phật là do ông ta tin phong trào có tính chất chính trị chứ không phải tôn giáo “Có thể được gọi là việc hiểu sai trên chính đất nước chúng ta và trong các nước khác như ở Châu Âu, canada hay nơi nào khác, bề mặt giống như một cuộc nổi loạn thực sự chống lại chế độ Thiên Chúa giáo”.  Nolting nghĩ rằng họ đang cố gắng đào mồ chế độ Sài Gòn, bối cảnh làm lo ngại mối quan tâm của người Mỹ.  Ông ta động viên Diệm tại buổi họp cuối cùng “để giải quyết vấn đề này một cách đơn giản, đi tới thỏa hiệp chính trị và thực hiện lời hứa người Việt Nam sẽ không có hành động bạo lực chống lại Phật tử”.  Theo Nolting “Không có lí do ghi ngờ lời nói của Diệm, ông ta luôn thành thật với tôi và tôi hoàn toàn thành thật với ông ta”.  Có mặt tại bữa tiệc chia tay vị Đại sứ sắp lên đường là người em trai khó hiểu của Tổng thống, Ngô Đình Nhu.  Đó là người đàn ông mà Nolting đã cố gắng để xây dựng mối quan hệ. dành nhiều giờ nói chuyện với ông ta trong những thảo luận triết học.

Dịêm không tới sân bay đưa tiễn mà em trai của ông ta đi thay.  Tôi quan sát ông Nhu có phong cách nhẹ nhàng khi nói chuyện với Đại sứ.  Tuy nhiên, đôi má hóp, gò má nhô cao và trán nhăn cho thấy một tính cách buồn rầu.  Thực tế, Nhu là một người cô đơn, ít bạn và ít xuất hiện trước đám đông hơn cả người anh trai - Tổng thống điều khiển từ xa.  Nhu không giữ chức vụ bầu cử trong Chính phủ nhưng lại đứng đầu các tổ chức cảnh sát bí mật và Đảng Cần lao, một mạng lưới mật thám quốc gia.  Ông ta cũng điều hành phong trào “Thanh niên Cộng hòa” và chỉ đạo chương trình các ấp chiến lược quan trọng.  Nhưng vị trí quan trọng nhất mà Nhu nắm giữ là cố vấn chính trị cho Tổng thống, anh trai mình, một người đàn ông mà ông ta điều khiển cả thế xác và tinh thần theo như những câu chuyện đồn đại ở Sài Gòn.  Nolting khó mà lường trước rằng người tâm giao triết học đưa tiến ông ta ở sân bay Sài Gòn vào ngày 15-8 đang bí mật lập kế hoạch sử dụng thời gian trống điều động giữa các Đại sứ Mỹ để tiến hành hang loạt cuộc tấn công dã man chưa từng có vào những nơi cầu tụng linh thiêng nhất.

Khi tôi trở lại văn phòng từ sân bay, Mal muốn tôi ra Nha Trang viết về những hậu quả sau sự hy sinh của vị sư đầu tiên.  Tôi vui vẻ đi ra khu nghỉ mát nổi tiếng với cát trắng, tôm hùm và những chiếc bikini nhỏ nhắn.  Một cuộc biểu tình đang diễn ra ở Nha trang khi chúng tôi đến.  Xe tăng và quân đội dàn trên đường để dập tắt biểu tình.  Tôi nhận ra rằng chính quyền đón nhận thi hài của vị sư và tổ chức một lễ tang sơ sài.

Tôi ẩn mình trong nhà hàng và khách sạn Francoise trên biển, một dấu ấn còn lại từ thời đại của người Pháp để xem xét lại những phương án của mình.  Sáng sớm Chủ nhật, tôi thuê xe đạp đi theo đường bờ biển tới Ninh Hòa.  Những người lính không cho tôi vào làng, họ bắt tôi quay trở lại Nha Trang.  Tôi cố gắng tới thăm Chùa Hội bị phong tỏa, nơi các sư đòi trả lại thi hài của vị sư đã hy sinh, nhưng một lần nữa những người lính không cho tôi vào.  Những người chứng kiến ném cái nhìn tức giận vào lính, không quan tâm tới hơi ga cay đang tỏa ra.  Trên điện thoại, Mal nói với tôi rằng Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn đang nổ ra biểu tình sau một vụ tự thiêu khác, lần này là một vị sư ở Huế.  Tôi nói rằng một nhân viên Chính phủ tin cậy thông báo “Chúng tôi có khả năng giải quyết những vụ biểu tình xa hơn nữa”, nhưng Mal nói với tôi “Đừng tin điều đó.  Toàn bộ nơi này đang dâng cao”.

Anh ta đã đúng.  Phong trào bùng nổ đêm thứ hai ngày 21-8.  Trước ngày đó các vị sư chùa Xá Lợi tiết lộ lo lắng Đại sứ Lodge đến Sài Gòn muộn ba ngày báo hiệu điềm gở cho hoạt động của họ.  Thích Đức Nghiệp nói với Mal rằng Chính phủ đang chơi xấu họ: ví dụ một vụ ám sát nhằm vào Lodge để đổ tội cho Phật tử hay một vụ đảo chính giả mạo.  Mal quan sát những vị sư trẻ kéo những chiếc ghế qua sàn nhà chứng minh như những vật chướng ngại.  Nhưng chùa Xá Lợi trông vẫn bình thường, chữ “vạn” vẫn sáng đèn neon màu xanh, một biểu tượng của Phật giáo từ ngọn tháp của tòa nhà chính xung quanh cùng ánh đèn màu sắc treo trên mái vòm phía trong vườn.

Khoảng 11 giờ đêm hôm đó, sư Thích Đức Nghiệp gọi điện tới căn hộ của Browne nói rằng vừa nhận được tin của cảnh sát có lệnh phong tỏa chùa Xá Lợi.  Khoảng 12h 20 phút ông ta gọi lại “Cảnh sát đã đến.  Họ đang ở cổng.  Hãy nói với đại sứ Mỹ nhanh lên”.  Sau đố đường dây tắt và khi Mal tới hiện trường vài phút sau đó, anh ta thấy vài trăm lính đặc nhiệm Mỹ được huấn luyện, cảnh sát và lính gác Dinh mặc quân phục đã thổi tung cánh cửa sắt chùa Xá Lợi.  Phóng viên bị đuổi khỏi khu vực bằng những khẩu súng lục chĩa vào khi những vị sư bị kéo ra vườn, đưa lên xe tải lúc 1giờ 30 phút sáng.  Toàn bộ chùa, nơi có các chức sắc Phật giáo hàng đầu Việt Nam trống rỗng.  Chỉ có hai vị sư thoát được nhờ cạy bức tường bê tông nối liền với khu vực cưú trợ Mỹ (U.S AID Mission) bên cạnh.

Cảnh tượng như vậy xảy ra khắp miền Nam Việt Nam.  Tất cả những ngôi chùa then chốt đều bị tấn công, các nhà sư bị bắt và tra tấn.  Giường nằm, đồ đạc và cửa bị đập, phá nát bằng lưỡi lê.  Chuyện đó cũng xảy ra ở Nha Trang nhưng tôi bị cách li khỏi chùa chính.  Tôi bay về Sài Gòn.  Đến lúc này, hơn một nghìn sư bị bắt, lệnh thiết quân luật được công bố trong cả nước và quân đội chiếm đóng những trung tâm viễn thông và các vị trí then chốt khác.  Sẽ có những cuộc đàn áp, kiểm soát báo chí cứng rắn và những hạn chế khác nữa.  Tôi có thể đưa ra những câu chuyện thể hiện sự tức giận của quân nhân Mỹ chứng kiến những cảnh hành hung chuyện đó xảy ra.  Một đại úy quân đội Mỹ nói với tôi ở Nha Trang “Trong một đêm Diệm làm hỏng hết những gì chúng tôi xây dựng ở đây trong suốt 18 tháng qua”.  Một sỹ quan Mỹ khác nói, anh ta vừa từ một cuộc tuần tra bốn mươi ngày ròng rã và mệt mỏi ở Tây Nguyên về, phàn nàn với tôi tại nhà hàng Francois “Chúng tôi cố gắng tối đa giành được lòng dân cho chính quyền Sài Gòn ở vùng núi thì lại mất họ ở các thành phố".

Các phóng viên lo ngại chúng tôi sẽ là mục tiêu tiếp theo.  Trong vòng 3 tháng, câu chuyện về các Phật tử luôn ở trang nhất.  Chính quyền Sài Gòn ghét chúng tôi.  Mal và tôi bàn nhau chuyển khỏi căn hộ của chúng tôi vào ở trong khách sạn Caravelle cho an toàn.  Một số phóng viên thường trú cũng chuyển vào ở nhờ nhà giới ngoại giao Mỹ vài ngày.  Một hôm phóng viên thường trú người Australia Dennnis Warner tới thì thầm với tôi “Peter, giờ cậu nằm trong danh sách tấn công hàng đầu bởi chuyến đi Nha Trang của cậu đấy”.

Kiểm duyệt chặt chẽ tách chúng tôi với thế giới.  Chúng tôi phải chạy đua hàng giờ với các đối thủ để tuồn bài viết ra bên ngoài.  Đại sứ quán hứa hợp tác với chúng tôi để chuyển tin tức nhưng chỉ ưu ái cho UPI và bỏ rơi AP.  Mal rất tức giận vơi tay ngoại giao William Trueheart, người cho rằng những câu chuyện của chúng tôi đang bị chặn  lại ở Washington.  Lúc này chẳng có con sông Mê Kông nào để cho tôi bơi qua.

TÂN ĐẠI SỨ HOA KỲ

Herry Cabot Lodge đến trong khung cảnh rộng mở đón chào.  Chúng tôi bắt tay thân thiện.  Vấn đề suy luận giữa các nhà báo là Nolting sẽ “bị nhấn chìm hay bơi cùng với chính quyền Ngô Đình Diệm” đang được thay thế bằng quan điểm đòi hỏi hơn nữa quyền con người, tự do chính trị, tiềm lực quân sự và trách nhiệm giải trình.

Những đồng nghiệp của tôi cho rằng nếu ai có thể vực dậy được tình hình thì đó sẽ là Lodge, Halberstam và Sheethan, cả hai đều sành sỏi, hiểu biết đã cười vào chiếc xe được hộ tống của chúng tôi qua những con đường im lặng hướng ra sân bay để đưa tin Đại sứ tới.  Bổ nhiệm Lodge là một thách thức với chính quyền Cộng hòa vì “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn”.

Lodge trả lời bộ đàm từ trên máy bay rằng sẽ không tuyên bố gì cả.  Nhưng dáng người cao lớn xuất hiện trên chiếc máy bay DC-C bước xuống lanh lẹ đã không làm cho chúng tôi thất vọng khi ông ta nhìn thấy đèn truyền hình và vài chục gương mặt vui mừng hướng lên.  Ông ta có vài lời thân thiện về dân chủ Mỹ, vai trò cần thiết của báo chí và nói về những ngày làm việc với tờ New York Herald Tribue khi lần đầu tiên tới Việt Nam với tư cách một phóng viên trẻ.  Ông ta hứa giúp đỡ công việc của chúng tôi và dành đôi chút thời gian cho người vợ của mình, Emily.

Chẳng có thông tin gì mới trong tuyên bố của Lodge nhưng cũng an ủi: Việc đảm bảo hỗ trợ của ông ta cho thấy sự cô lập của chúng tôi đã chấm dứt.  Với cử chỉ thiện chí, ông ta cho phép bốn phóng viên đi cùng máy bay từ căn cứ không quân Tachikawa, một trong số họ là Robert Eunson, Giám đốc điều hành AP ở châu Á.  Eunson dẫn tôi ra một bên nói rằng “Đại sứ đứng về phía chúng ta” và sau đó giới thiệu tôi với một trong những phụ tá của Lodge, thiếu tá John Michael hay “Mike” Dunn gật đầu đáp lại.

Vài ngày sau đó Lodge mời Mal Browne tới dự bữa trưa thân mật và nói rằng ông ta đã nhìn thấy bức ảnh vị sư Thích Quảng Đức tự thiêu của Mal trên bàn Kennedy.  Sau này Mal kể tỉ mỉ cho tôi nghe những gì Lodge nói, “Tôi nhớ khi bước vào Văn phòng bầu dục, có bức hình một người đàn ông già ngồi xếp chân tự thiêu và Tổng thống Kennedy nói rằng “Nhìn cái đó đi! Nhìn những gì xảy ra ở Việt Nam.  Tôi tin tưởng cậu, tôi muốn cậu tới đó xem có phải chúng ta không thể khiến Chính phủ đó xử sự tốt hơn”.

Nếu vào thời điểm đó chúng tôi không quá phóng đại sự đồng tình của Lodge với quyền báo chí thì cũng không phủ nhận ông ta khá thoải mái với báo chí.  Ông ta đến Sài Gòn với mục đích chỉ đạo của Kennedy nhằm thức tỉnh Chính quyền Sài Gòn.  Không giống vô số bài bình luận của chúng tôi, ông ta không hạn chế chúng tôi mà ngược lại động viên các bài phân tích và xem đó là thứ vũ khí khác để thay đổi.

Lodge nhanh chóng hiện hữu có hiệu quả ở Sài Gòn.  Buổi sáng đầu tiên, ông ta lái xe dọc những con đường bị phong tỏa của thành phố qua các đoạn đường giao nhau nơi lính được trang bị vũ khí với lưỡi lê rút ra khỏi vỏ và đi qua những công viên trong thành phố có xe tăng và xe bọc thép đang chờ lệnh. Trên các góc phố, người dân hốt hoảng tụ tập xì xào những tin đồn mới nhất và tự hỏi không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.  Dọc một con đường lớn gần khu Trường Đại học Sài Gòn, hơn hai nghìn xe đạp, xe ga và xe máy xếp trên vỉa hè dưới những cây me, câm lặng chứng kiến việc bắt giữ hàng trăm học sinh và hoạt động tống giam họ liên tục.

Đại sứ tới thăm hai vị sư được bảo lãnh an toàn tại Sở Chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ trên đường Pasteur.  Ngay cuối tuần đầu tiên, ông ta đưa các giấy tờ ủy quyền của mình cho Tổng thống Diệm, gặp Ngô Đình Nhu và nói riêng với các nhà báo rằng ông ta không ấn tượng với cả hai và sẽ tiếp tục khâu sức ép cải cách. Lodge làm cho chúng tôi yêu mến khi đi dạo quanh thành phố cùng vợ và một hay hai phụ tá.

Ngài Đại sứ bất chấp những tay vệ sĩ an ninh của mình, mời mười lăm người trong số chúng tôi đi dạo ngắm cảnh không chính thức, đi qua đại lộ Catinat về phía Dinh Tổng thống và với chiều cao khoảng 1m89 thì cao hơn hầu hết chúng tôi, ông ta trông thư thái trong áo sơ mi mở cổ.  Chỉ trước đó vài giờ, một cuộc biểu tình Chính phủ lớn diễn ra trong khu vực lân cận.  Hàng nghìn người la hét ủng hộ chế độ, những đội lính đứng gác ở các ngả đường liếc nhìn ngạc nhiên nhận ra Lodge.  Những cậu bé bán báo cố gắng mời chào ông ta tờ báo địa phương bằng tiếng Anh - tờ Bưu điện Sài Gòn có bài về cuộc tấn công sắc bén vào Quốc hội Hoa Kỳ. Lodge mỉm cười với chúng nói rằng “không, cảm ơn, tôi có rồi”.  Ông ta dừng lại trước hai lính Mỹ 19 tuổi đang đi dọc đường Catinat hỏi thăm họ và chúc  họ may mắn.  Một viên chức Việt Nam Cộng hòa thò đầu ra cửa sổ xe và thét vào người bán báo” “Cái khỉ gì đang diễn ra ở đây vậy?”.  Anh chàng bán báo trả lời “Một cuộc cách mạng.  Đây là Đại sứ Mỹ đầu tiên từng đi bộ dọc con đường Catinat”.
 
Lodge bắn phát súng đầu tiên cảnh báo Chính quyền Diệm, nhưng Diệm lờ đi sự bảo hộ lớn và những cuộc tấn công.  Khi Đại sứ chính thức phản đối kiểm duyệt báo chí thì chính quyền đơn giản thắt chặt việc kiểm soát.

Sài Gòn thách thức không chỉ việc làm tin của chúng tôi mà cả việc đưa tin ra ngoài.  Hàng rào đầu tiên là văn phòng kiểm duyệt nằm trong tòa nhà chính quyền gần chợ trung tâm nơi chúng tôi được yêu cầu mang toàn bộ bản sao tin và ảnh tới nhân viên kiểm duyệt quân đội và sau đó là nhân viên dân sự để làm rõ thông tin.  Họ bắt bẻ từ những chi tiết nhỏ nhất.

Ngày 27-8, một nhân viên kiểm duyệt cắt xén một trong những bản gửi đi của tôi, họ cho phép viết câu “Chúng tôi đã bước vào ngày thứ bảy Luật Quân sự” nhưng lại gạch chéo bằng bút đỏ đậm câu tiếp theo “Tập trung quân đội trong các khu vực thành thị chủ chốt vẫn dày, đặc biệt khu trung tâm thương mại trước Nhà thị chính thành phố”.  Tôi được phép viết các hàng rào thép gai được dọn đi vào sáng sớm thứ ba từ khu vực trung tâm, nhưng nhân viên kiểm duyệt lại gạch phần còn lại của câu như sau “…ở các khoa Luật, Y và Dược của Đại học Sài Gòn.  Nhiều sinh viên bị cảnh sát bắt ở đó vào Chủ nhật vì họ tụ tập biểu tình”.  Tối muốn nói rằng nhân viên kiểm duyệt dân sự đảm nhận công việc đọc bản tin nhưng tôi lại bị cấm viết rằng rất nhiều người bị bắt đầu tuần được thả tự do.  Nhân viên kiểm duyệt đóng dấu, ký đồng ý và sau đó, ý kiến cuối cùng cần thiết từ văn phòng hội đồng quân sự nơi những con dấu đóng vào từng trang.  Có đến 90% các bản gửi đi của chúng tôi bị cắt xén và đôi khi cả bản bị giữ lại.  Thậm chí họ cắt cả việc miêu tả Tổng thống Diệm là người theo đạo Thiên Chúa.

Chuyển tin ảnh rất khó khăn.  Nhân viên kiểm duyệt cho phép chuyển những bức ảnh Đại sứ Lodge trình giấy tờ ủy nhiệm cho Tổng thống Diệm nhưng sau đó văn phòng Hội đồng quân sự từ chối và không được gửi đi.  Phóng viên phát thanh và truyền hình mất liên lạc trực tiếp với văn phòng tổng đài khi tất cả đường dây điện thoại quốc tế đều bị cắt.  Thậm chí, ông Peter Kalischer, người đại diện cơ quan phát ngôn chính thức của Chỉ huy quân sự Mỹ, tờ Người quan sát, tuyến bố việc kiểm duyệt chặt chẽ hơn cả ở Liên Xô.

Chúng tôi đấu tranh bằng mọi khả năng, gửi những bản chì câu chuyên và những bản in ảnh phụ bằng tay qua những người du lịch, thường là những người phương Tây rời sài Gòn trên chuyến bay chiều tối tới Bangkok, Hongkong và Manila nơi đó hy vọng họ có thể chuyển tài liệu về văn phòng của chúng tôi.  Chúng tôi hối lộ những người đưa thư bán chuyên  với giá 50 hoặc 100 đôla và đề kiện thư là “bó thư gửi cho Bassett” mượn chức danh người biên tập ngọai sự, Ben Bassett.  Chúng thường được gửi đi mặc dù có vài kiện không lọt.  Chuyện đó giống như ném chai được đánh dấu xuống Biển Đông với hy vọng điều tốt nhất sẽ đến.  Đôi khi chúng tôi gửi được rất nhanh.  Mal ghi được cú hích bài tin khi thay thế lời chú thích vô tội của một bức ảnh đã được duyệt về một cảnh trên đường phố bằng một tin gây ấn tượng giật gân về Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mậu đã cạo trọc đầu và từ chức để phản đối những cuộc đột kích chùa.  Bức ảnh và lời chú thích dùng mẹo để được in rộng rãi.  Trụ sở ở New York rất hài lòng với công việc của chúng tôi, đến nỗi họ viết một câu chuyện về nó cho hàng trăm hãng mua tin, trong đó đài tiếng nói Hoa Kỳ đã phát trở lại Sài Gòn.  Chúng tôi chắc rằng chính quyền biết tin, bài và ảnh lậu đang lọt qua sân bay nhưng không thể chặn được chúng tôi.  Có lẽ vì họ muốn tránh những đối đầu lộn xộn.

Có những người thuộc dòng truyền thông chính thống của Mỹ không thích những gì chúng tôi đang làm và kêu ca các tin, bài của chúng tôi đang hủy hoại chính sách quan trọng của Mỹ.  Họ đổ tội sự “không nhạy cảm” của chúng tôi là do thiếu kinh nghiệm.  Joseph Alsop, người phụ trách chuyên mục có ảnh hưởng rất lớn bắt đầu gọi chúng tôi là “những kẻ tham gia thập tự chinh trẻ tuổi” và kêu ca : “vẽ một bức tranh căm phẫn và tăm tối rất dễ khi không cần quan tâm tới thực tế là nếu bỏ qua phần đông người Mỹ thán phục những người Việt nam chiến đấu và chỉ ra một sỹ quan Mỹ trong mười người nghĩ rằng những người nước ngoaì chiến đấu thật tệ”.  Một phóng viên nổi tiếng từ chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Thế gới thứ hai, Marhuerite Higgins cũng thường tới Sài Gòn.  Cô ta nghi ngờ chúng tôi không yêu nước, chĩa những lời nói chua cay vào Halberstam.  Anh ta cũng phản đòn không kém cạnh.  Có tin đồn cô ta nói với những người quen ở sài Gòn, “phóng viên ở đây thích nhìn thấy chúng ta thua trong cuộc chiến để chứng minh họ đúng”.  Tạp chí Time cho rằng chúng tôi là những thanh niên trẻ bị kích động bởi những câu chuyện và sai lầm trầm trọng trong cách làm tin.  Charles Mohr, Trưởng phân xã Time ở Đông Nam Á, bỏ việc trong tức giận cùng tay cộng tác viên của tờ Time ở sài Gòn, Merton Perry.

Vài tuần sau đó, tờ Time tóm tắt những đánh giá bằng một câu chuyện, “Một ngày nào đó sẽ có những cuốn tiểu thuyết về những tên tuổi đắt giá của các phóng viên thường trú Mỹ làm tin chiến tranh ở Việt Năm 1963.  Thử giả tưởng họ sẽ làm cho mọi thứ trở nên rõ ràng và mọi thứ đều trở nên đúng như vậy.  Nhưng ngày hôm nay nói sự thật với giới báo chí Sài Gòn là một việc khó khăn”.  Bài báo tiếp tục nói rằng “Theo quan điểm cá nhân, các phóng viên thường trú nghiêm túc một mặt nào đó về tuổi trẻ, tham vọng, chè chén và yêu công việc.  Họ nhận thức nhiệm vụ rõ ràng”.  Chúng tôi cũng có những người ủng hộ, thường là các biên tập từ các tờ báo Mỹ tới tận mắt chứng kiến những mớ lộn xộn đó và thường làm việc trong văn phòng Sài Gòn của chúng tôi, tham gia làm tin với chúng tôi và những đối mặt xã hội.

Những rắc rối với trụ sở chính AP được giải quyết khi trận ẤP Bắc chứng minh nỗ lực của chúng tôi, gim chặt những công nhận tích cực chính thức của Washington.  Cuộc đấu tranh biểu tình của các Phật tử đẩy câu chuyện lên đầu mọi tờ báo ở  Mỹ, mang lại vị trí mà AP hằng mong mỏi.  Bây giờ chúng tôi được văn phòng chính hoàn toàn ủng hộ.  Hàng ngày báo chí Sài Gòn tấn công chúng tôi bằng tiếng lóng, gọi chúng tôi là cộng sản đang cố gắng phá hoại đất nước cùng những bức tranh biếm hoạ miêu tả các phóng viên thường trú nước ngoài như những kẻ thù chính trị nguy hiểm, xuất hiện thường xuyên, thể hiện tính hoang tưởng và sự hận thù của chính quyền.

Các nhà phê bình dò xét, chú ý tới tuổi trẻ của chúng tôi và cả những con số nhỏ nhoi tới mức độ tràn lan những câu chuyện và sự giống nhau trong cách làm tin để kết luận rằng chúng tôi đều trong một kết cấu.  Nhưng khi câu chuyện tiếp diễn, dành vị trí thường xuyên trên trang nhất thì Luật báo chí thương mại bắt đầu thi hành, các biên tập viên về nhà bắt đầu đánh giá hoạt động của AP, UPI và tờ Thời báo New York.  Tất cả chúng tôi đều mong mỏi là người đầu tiên viết những sự kiện mới nhất hoặc những bài phân tích sâu sắc nhất, nhưng Phòng Ngoại sự luôn nhắc nhở nếu chúng tôi quá chậm.

Phóng viên thường trú có ảnh hưởng nhất là Mal Browne và Dave Halbrstam, cả hai đều viết những bài phân tích gây tranh cãi và đều viết không biết mệt mỏi.  Văn phòng AP luôn luôn đông đúc, Roy Essoyan thường đến từ Tokyo cùng với Ed White để giúp chúng tôi.  Tất nhiên là có Horst với những bức ảnh về chiến sự ở Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên tới các cuộc hỗn loạn ở các đại lộ Sài Gòn.

Chia sẻ suy nghĩ của họ với chúng tôi có Beverly Deepe – phóng viên nữ duy nhất sống ở Sài Gòn vào lúc đó làm cộng tác cho tờ New York Herald Tribune, Francois Nivolon của tờ Le Figaro, người sống trong căn hộ cùng toà nhà với chúng tôi và phóng viên ảnh tự do Maichael Renard.  Bất kỳ lúc nào chúng tôi cũng có thể tập hợp được những người bạn tâm giao giúp chúng tôi viết bài về những sự kiện phức tạp trong thành phố.  Halberstam là tay trụ cột trong nhóm khác gồm Neil Sheehan và Ray Herndon của UPI, Nick Turner của Reuter và Mert Perry cùng các thành viên làm báo thường xuyên tới thăm.

Hai nhóm phóng viên cạnh tranh, những phóng viên tham vọng không tạo ra sư thông đồng.  Chúng tôi cạnh tranh từng ngày và có xu hướng bí mật.  Chúng tôi bảo vệ nguồn tin đặc biệt bên trong.  Bài tin về Thích Quảng Đức tự thiêu của Browne là bài tin quốc tế và tạo nên cơn sốt báo ảnh.  UPI làm tốt hơn chúng tôi với những bài tin đầu tiên về các cuộc tấn công chùa chiền.  Halberstam thì ghi điểm bằng những bài phân tích quân sự sâu sắc.

Sau những cuộc tấn công chùa chiền, chúng tôi nhận thấy UPI, Thời báo New York và Reuter đang trở thành mầm mống trong tranh giành quyền lực ở vương triều báo chí.  Mal xem nhẹ điều đó.

Chính sách của Mỹ như được Lodge đổ dầu thêm lửa khi những phụ tá của ông ta rỉ ra thông tin cuộc gặp với Tổng thống Diệm.  Ông ta không thích phong cách lãnh đạm, cách thí tốt của Diệm và luôn lảng tránh những trao đổi thực tế về những vấn đề cấp bách nhất.  Cảm giác không thích nhau rõ ràng ở cả hai phía.  Madame Nhu miêu tả Lodge như một tay “Thống đốc”.  Tổng thống Kennedy nói với Walterr Cronkite trong cuộc phỏng vấn của CBS mà Chính quyền Diệm “mất sự ủng hộ của người dân”.  Đài tiếng nói Hoa Kỳ trích lời quan chức Washington như lời đe doạ giảm chi phí hỗ trợ trọn gói 1,5 triệu đô la 1 ngày nếu gia đình trị không giảm bớt quyền lực của mình.  Tất cả đều là dấu hiệu Mỹ mong muốn Ngô Đình Nhu và vợ rời khỏi chính trường.

Khi những dấu hiệu phản ứng của Lodge càng trở nên rõ ràng thì bản tin hàng ngày của chúng tôi giáng thêm đòn vào bản cáo trạng.  Trẻ em thuộc tầng lớp trung lưu thành thị cũng tham gia vào những cuộc biểu tình của các Phật tử.  Học sinh bắt đầu biểu tình trong lớp học tại các thành phố lớn trong cả nước.  Lái xe tới đường Đoàn Thị Điểm, tôi thấy vài trăm xe đạp ném lên vỉa hè dưới gốc cây, sau đó được biết chúng thuộc về toàn bộ học sinh Trường nữ sinh Marie Curie.  Binh lính Cộng hoà bắt nữ sinh trên đường tới trường và dồn lên xe tải vì họ biểu tình chống lại chính quyền.  Những người quanh đó chứng kiến cảnh tượng khẳng định những chiếc xe đó mang sao, vạch và còng tay biểu tượng của lực lượng hỗ trợ Hoa Kỳ cho miển Nam Việt Nam.  Chữ “U.S” được in dập khuôn màu đen trên thắt lưng của binh lính.  Cuối buổi chiều, những phụ huynh đang mệt mỏi tìm kiếm xe đạp của con gái họ, trao đổi những việc về tra tấn và các hành động tàn bạo khác.  Giữa những khuôn mặt phụ huynh đầy nước mắt là nhân viên quân đội cấp cao mặc thường phục và nhân viên Chính phủ ăn mặc chỉnh tề.  Tôi không hiểu nổi những đàn áp thô bạo và ngu ngốc của chính quyền đương nhiệm.

Phòng Ngoại sự New York yêu cầu tôi viết một bài phân tích “mùi mẫn” về cuộc nổi loạn của học sinh ngày 14-9.  Ngày hôm sau bài viết xuất hiện trên toàn bộ hệ thống cung cấp thông tin toàn quốc của AP:

“Cậu bé học sinh nhảy chân sáo với chiếc cặp trên vai ở miền Nam Việt Nam đã trở thành biểu tượng phản kháng mới nhất với Chính quyền Ngô Đình Diệm.  Trước đây chưa bao giờ cậu bé chịu nhiều áp lực trong đất nước của mình tới vậy.  Nhưng trong con mắt của người dân Việt Nam cậu này ngày càng trở nên nổi tiếng trong cuộc đấu tranh với lính và lực lượng cảnh sát.  Đến nay, Chính quyền Sài Gòn đã bắt gần ba nghìn học sinh ở trường cậu và ném họ vào nhà tù và trại tập trung.  Hơn một nghìn học sinh vẫn bị giam giữ.  Trong những đêm gần đây, lính và mật thám đã đột kích nhà ở của cậu với danh nghĩa Luật Quân sự, kéo cậu và chị em của cậu đi thẩm vấn.  Sự phản kháng mà một nhà quan sát ngoại quốc đặt cho sự phản kháng “ngu ngốc vẻ vang” vẫn tiếp diễn khi cậu để lại nhiều rắc rối hơn với nhiều trường học hơn.  Khi được hỏi tại sao chống lại Luật Quân sự, cậu ném lọ mực và nghế vào đội lính lưỡi lê và nói: “Chúng tôi là những Phật tử và họ (Chính quyền Diệm) đang cố gắng tiêu diệt chúng tôi”.

Tôi kết luận bài viết nói rằng cuộc nổi dậy của học sinh là kết quả trực tiếp từ sự phản kháng Chính quyền Diệm của các bậc phụ huynh và trích lời một nhân chứng phương Tây không có tên, chứng kiến cuộc biểu tình như một thách thức của cộng sản, vào thời gian đó được xem như lực lượng thống nhất mạnh nhất ở Việt Nam: “Đây là sự biểu lộ thái độ công khai thực sự của dân chúng trong một Việt Nam tự do từ khi Diệm lên nắm chính quyền”, tôi trích lời người quan sát.  Không có một người địa phương nào trong câu truyện của tôi hay một cái tên nào vì những thông tin này có thể dẫn tới một cuộc đàn áp xa hơn.

Roy Essoyan thêm vào một bài phân tích thẳng thắn, sắc bén về tình hình chính trị bùng nổ khi trích lời một trong mười bốn nghìn quân nhân Mỹ ở Việt Nam nói rằng “chúng ta sẽ mất bao lâu nữa để họ xoay vần chúng ta?”.  Một cố vấn khác được trích lời khi kêu ca: “ba tháng trước đây khi tôi tới Việt Nam, vợ tôi nghĩ rằng tôi sẽ trở thành một anh hùng, nhưng bây giờ cô ấy viết thư cho tôi và hỏi xem tôi có giúp đỡ chính quyền Diệm bắt bớ những học sinh không?”  Essoyan nói thêm “rất nhiều người Mỹ ở đây – quân nhân, tướng, bí thư của Đại sứ quán và các nhà ngoại giao bắt đầu cảm thấy cái đuôi của con chó đã vẫy quá lâu và đã đến lúc phải dừng lại.  Câu hỏi lớn đặt ra là bằng cách nào?”.

Nếu chúng ta có thể tin bản báo cáo rò rỉ từ nguồn tin bên trong Đại sứ quán Mỹ thì Lodge đã quyết định sự thay đổi chỉ có thể xảy ra cùng với việc lật đổ Chính quyền Diệm vào thời gian thích hợp.  Quan điểm này chưa bao giờ được công khai chính thức nhưng dường như cài vào  những lời đồn dại có chủ ý.  Sau này Lodge nói với tôi: “Khi lần đầu tiên tôi tới đó có những lời đồn đại đảo chính và làm sao tôi được cử ra khỏi Washington để nhấn nút và gây ra đảo chính.  Thực tế tôi phát hiện ra chả có cái nút nào, chẳng có gì phải mở màn, điều này là một sự lãng mạn.  Các tướng Việt Nam Cộng hoà không sẵn sàng tin tưởng chúng ta vì họ nghĩ người Mỹ nói quá nhiều và rất khó giữ bí mật.  Chính vì vậy mà được gọi là đảo chính đã bay hơi”.

Quan hệ giữa Đại sứ quán Mỹ nằm trên đường Hàm Nghi và Dinh Tổng thống đối diện văn phòng chúng tôi ở đường Pasteur ngày càng xấu đi.  Quan sát về cuộc đảo chính bắt đầu khi chúng tôi nghe thấy tín hiệu khởi nghĩa.  Gia đình trị đã sử dụng những trang báo của tờ Times of Vietnam bằng tiếng Anh do một người bạn người Mỹ của gia đình họ Ngô, Anne Gregory điều hành.  Dưới nhan đề bài viết 5 cột trên trang nhất nói rằng chuyến thăm Sài Gòn của Bộ trưởng Quốc phòng Robert Mc Namara ngày 24-9 là nhằm dọn đường phá hoại chính quyền.  Ngày hôm sau dưới một tít màu đen kích cỡ tương tự, bà Gregory xác nhận CIA đã cố gắng đảo chính hai lần nhưng thất bại, giờ đang tiến hành lần thứ ba.  Những gì thực sự xảy ra khi vào ngày 4-8, Quốc hội đánh điện cho Đại sứ Lodge thể hiện mối quan tâm của người Mỹ với những vị tướng Việt Nam về tình hình hiện thời, một đường dây được hiểu là bật đèn xanh cho cuộc đảo chính.

Madame Nhu đang đi du lich nước ngoài, phát biểu tại cuộc họp báo ở Rome rằng những người lính Mỹ trẻ đóng quân ở miền Nam Việt Nam đang “sử xự một cách vô trách nhiệm và hành động giống những cậu lính nhỏ tuổi”.  Chúnh tôi chuyển những bài đánh máy telex về những lời nhận xét này tới Đại sứ quán Mỹ, kéo Lodge ra khỏi yên lặng phát ngôn của mình.  Ông ta đọc lời phúc đáp được phụ tá báo chí chuyển trên điện thoại cho chúng tôi: “Đó là một tuyên bố gây sốc.  Những sĩ quan trẻ tuổi này đang mạo hiểm cuộc sống của họ hàng ngày.  Một số đã bị giết bởi chính những người bạn Cộng hoà.  Tôi không hiểu tại sao có người lại nói một cách tàn nhẫn như vậy.  Những người này nên được cảm ơn thay vì bị xúc phạm”.

Chiến tranh lời nói luôn đi kèm chiến tranh tinh thần.  Một chiều Mal nói với tôi là anh ta được biết Lodge ngồi tại bàn làm việc cùng khẩu súng đã được nạp đạn bên mình vì mối đe doạ ám sát đã được truyền tới Sứ quán.  Những mối đe doạ từ mạng lưới an ninh chính quyền được cử bảo vệ Lodhe và cộng đồng ngoại quốc.

Cuối mùa thu, có một số người mang trọng trách của Mỹ lại cho rằng Tổng thống Diệm đang xử sự biết điều với những yêu cầu của người Mỹ về thay đổi chính sách.  Ông ta đồng ý bãi nhiệm em trai và em dâu của mình và ông ta chuẩn bị giảng hoà với các Phật tử.  Các sỹ quan của tướng Harkin cho rằng, tình hình quân sự bị quên lãng cũng không tệ hơn và những cuộc cải cách hành chính cần được tiến hành.  Đối với giới báo chí điều đó được tính là sự đầu hàng của Diệm khi Mỹ bắt đầu ngừng viện trợ cho miền Nam Việt Nam.  Chính quyền Kennedy cũng tuyên bố thay đổi rõ nét nhằm ngăn chặn các nhà phê bình trong nước và ngoài nước khi tuyên bố đầu tháng 10 các cố vấn Mỹ sẽ rút an toàn khỏi Việt Nam vào năm 1965 và một nghìn người đầu tiên sẽ được về nhà vào Giáng sinh.  Trong một bài phân tích viết cho AP hôm đó, tôi đã viết:

“Chính uyền Kennedy dường như đã tính toán cả khi dự báo phần lớn nhiệm vụ quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam sẽ hoàn thành vào năm 1965.  Một nguồn tin đáng tin cậy của Mỹ tiết lộ ngày thứ 6 rằng bản báo cáo lạc quan do Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara trình Kennedy nói rằng “phải tính đến những điều không thể lường trước liên quan tới lực lượng vũ trang Việt Nam về khả năng tổ chức đánh du kích mà họ đang sử dụng và mức độ quân sự cũng rất chuyên nghiệp”.

Trong những năm sau đó, chủ trương âm mưu quanh những quyết định của Kennedy khi bắt đầu rút quân vào năm 1963.  Chủ trương đó cho thấy ông ta bị ám sát sau đó bởi những phần tử cực đoan tin rằng những chính sách đó sẽ giao miền Nam Việt Nam cho cộng sản.  Nếu chính sách của Kennedy hoàn thành thì theo tôi không có điều gì nghi ngờ những người cộng sản rơi vào vị trí tự thiết lập chiến tranh cho chính họ, nhưng cũng có lúc tôi tin rằng Tổng thống Mỹ dự định những hành động xúc tiến nếu những yếu tố khác không đảm bảo hoà bình.  Trong câu chuyện của tôi, tôi trích dẫn những nguồn tin cấp cao nói rằng mục đích những hành động quân sự đã hoàn thành của Chính quyền Kennedy là nhằm giảm những cuộc tấn công mà quân đội Việt Nam Cộng hoà phải giải quyết đó là chiến tranh du kích từ phía sau và không thể tổ chức những cuộc tấn công như vậy xảy ra vào đầu năm.


Tôi kết luận” Ấn tượng chung ở Sài Gòn là McManara và Taylor yêu cầu những lãnh đạo quân sự đưa ra dự đoán khi nào Hoa Kỳ rút lui thì thích hợp.  Một nguồn tin cấp cao nói rằng “McManara muốn biết nếu chúng ta có thể thắng, nếu chúng ta có thể chiến thắng cùng Diệm và nếu chúng ta có thể rút lui.  Chính sách mới này đưa ra ba yếu tố trong đầu”.  Nhìn lại tôi thấy Kennedy đang thực hành các lựa chọn chính trị của mình nhằm ám hiệu cho Ngô Đình Diệm ngoan cố rằng Mỹ không cần thiết tham gia vào cuộc chiến tới hồi kết thúc và chỉ cho các nhà phê bình trong nước của Chính quyền Sài Gòn rằng ông ta khá thoáng ở Đông Nam Á.

Vào ngày 5-10, một phụ nữ Việt nam gọi cho vài phóng viên thường trú và cam đoan rằng “hôm nay sẽ có sự kiện xảy ra ở chợ Trung tâm”.  Roy Essoyan đi bộ ra chợ tìm những đội cơ động “chống tự tử” lượn qua các đường trên xe Jeep chở đầy dụng cụ cứu hoả và lính có vũ trang.  Những máy ảnh nhỏ được giấu kín trong túi của chúng tôi.  Phóng viên tờ Washington Post. John Sharkey đã ở đảo giao thông cố gắng không để lộ nhưng không thành công.  David Halberstam đi cùng với Grant Wolfkill của NBC cùng chiwcs máy ảnh hiệu Bolex vững chắc sau lưng.  Các đại diện trong giới phóng viên đủ để làm cho nhân viên an ninh lo lắng và tôi nhận ra một vài gương mặt quen thuộc theo dõi chúng tôi từ phía xa đường Lê Lợi.  Khi giao thông thưa dần sau giờ cao điểm buổi trưa, chúng tôi đoán đã bị bám theo và quyết định ăn trưa trên đường.

Tôi không nhận ra chiếc Taxi Sài Gòn màu xanh đi quanh đảo giao thông, sau đó dừng lại cách tôi 10 thước.  Cửa xe mở và một thanh niên trẻ nhanh chóng xuất hiện, cài một cái gì đó trên cơ thể.  “Chúa ơi, một vụ tự tử”, tôi nghe thấy Essoyan thét lên nhưng nghi ngờ điều đó.  Người đàn ông này cạo trọc đầu nhưng mặc trang phục tôn giáo màu nâu, không phải bộ lễ phục màu vàng của nghi lễ tự tử.

Khi chiếc xe biến mất, người đàn ông kéo một chiếc can nhỏ từ trong túi của anh ta, ngồi theo thế đài sen.  Đôi mắt nhìn xa xăm, anh ta để can vào lòng, lôi chiếc hộp giấu từ tay áo bên phải ra châm diêm.  Ngọn lửa màu vàng bập bùng khi cháy đến quần áo.  Anh ta để tay trên đầu gối và không kêu ca gì hết, thậm chí khi ngọn lửa nhỏ đã bốc quanh mình.  Khi ngọn lửa đã cháy lên mặt, tôi phải đứng xa vì độ nóng.  Tôi nhìn thấy anh ta cau mày và nghiến răng.

Tôi đang nhớ tới những lời miêu tả nói móc máy của Madame Nhu về những vụ tử tự vì đạo Phật như những vụ “nướng thịt”.  Tôi bấm máy vài lần và cố gắng ghi chú nhưng tay tôi run lên hoảng sợ.

Essoyan tái mét mặt cạnh tôi.  Tiếng rên rỉ lớn dần từ đám đông tụ tập.  Tôi nghe thấy một người đàn bà cười điên dại, đứa trẻ bồng trong tay của một người đàn bà khác đang khóc còn đôi mắt của người mẹ thì đang dán vào vị sư bị bốc cháy.  Một thanh niên trong đám đông đập tay vào Essoyan và tôi nói rằng: “Các ông hãy chụp ảnh, viết bài.  Các ông phải nói với Kennedy về những gì đang diễn ra ở đất nước này”.  Một người đàn bà giật áo tôi, nước mắt chảy đầm đìa trên khuôn mặt khi bà ta định nói gì đó nhưng không thành lời.  Bà ta không ngừng chỉ vào vị sư và giật áo tôi khi ngọn lửa đã cháy quanh cơ thể anh ta.  Một cảnh sát giật nón trên đầu một phụ nữ bán rong để dọn đường qua đám đông, cố gắng dập tắt đám cháy nhưng nỗ lực của anh ta chỉ làm bạn với lửa và làm nó cháy cao hơn.  Viên cảnh sát loạng choạng nắm lấy bụng anh ta, tiếng lầm bầm của đám đông lớn dần thành tiếng gầm câm lặng trong tiếng khóc thét và rền rĩ.  Cuối cùng, một người đàn ông mặc quân phục ném chiếc chiếu dày vào thân hình đổ gục nằm xấp và lính cứu hoả xịt bình vào ngọn lửa.  Đội y tế bó thân hình anh ta trong một cái túi, ném vào xe cứu thương chờ sẵn và biến mất.  Tất cả những gì còn lại là đống than trên vỉa hè chất đầy hoá chất cứu hoả.

Đội chống tự tử đã bỏ lỡ cơ hội nhưng nhân viên an ninh thì xua đuổi phóng viên ảnh chỉ trước 1 phút sau khi vị sư châm lửa.  Tôi giấu máy ảnh vào túi hy vọng chuồn đi với vài kiểu đã chụp.  Những kẻ ngu đần đang chú ý vào Grant Wolfkill, cố gắng giật máy ảnh của anh ta, nhưng anh ta cao lớn, giữ nó qua vai và thậm chí trên đầu của những nhân viên an ninh Việt Nam nhỏ bé.  Wolfkill là một cựu chiến binh và bị bắn hạ ở Lào trong một trực thăng vào năm 1961, bị bắn bởi Pathet, và bị giam 6 tháng trong một nhà kho bằng gỗ: anh ta sẽ không từ bỏ phần thưởng của mình một cách dễ dàng.

Tôi nhìn thấy Halberstam và Sharkey chạy tới hỗ trợ, có tiếng thét và những đôi tay vụt quật, tôi chạy về phía họ cho tới khi tôi cảm thấy bàn tay của nhân viên an ninh đang động vào cơ thể mình. Tôi nhận thức rằng phải cứu những bức ảnh và tôi chuồn khỏi họ, luồn lách qua đám đông băng qua chợ khi lính xe tăng bắt đầu kéo tới.  Trên đường Lê Thánh Tôn, tôi chạy nhanh hơn và chạy về phía sau Dinh Gia Long về văn phòng.

Horst gửi những chú giải về trụ sở báo ảnh ở New York tối hôm đó, giải thích những gì xảy ra: “Tôi bước vào văn phòng và Arnett thở hổn hển, “có một vụ tự thiêu khác” và đưa cho tôi hai chiếc máy ảnh.  Chiếc Minolta mà Essoyan sử dụng bị tắc trước khi anh ta chụp được hình.  Chiếc Leica, Arnett sử dụng bị đọng nước bên trong từ chiến dịch quân sự lần trước và tất cả năm bản âm bị mờ.  Với trái tim trĩu nặng, tôi cố gắng làm việc với những bản âm của Arnett, tráng chúng nhanh hơn bình thường và in chúng vào những bìa cứng đặc biệt.  Chúng giống như bản in từ máy quay phim 8mm nhưng có thể sử dụng được.  Khi Essoyan vội vàng viết lời tựa cho bản tin, Arnett chạy ra ngoài và tìm một người chuyển tay chuẩn bị đáp máy bay đi Hồng Kông.  Trong vòng 80 phút của vụ tự thiêu, bồ câu đưa thư đã trên đường.  Chính quyền Sài Gòn chặn việc chuyển ảnh của chúng tôi từ bưu điện nhưng bồ câu đưa thư đã lọt qua.  Và Arnett đã cố gắng đọc trích dẫn ba bức ảnh của bài viết tới Paris bằng điện thoại”.

Essoyan có nhiều điều hơn để nói.  Hàng tá nhân viên áo vải tấn công những đồng nghiệp của chúng tôi.  Họ giật máy quay của Wolfkill, chiếc duy nhất tại vụ tự tử.  Anh ta đã đến giúp chúng tôi trong ngõ hẻm trước đó vài tháng, Halberstam cũng tới giúp Wolfkill, chạy qua những kẻ đần độn.  Tay quay phim bị đâm vào một chiếc xe đỗ nhưng anh ta đã kịp chuyển máy quay cho John Sharkey, người sau đó đã chiến đấu với tay an ninh nhảy lên chiếc vai chắc nịch của anh ta.  Sharkey chuyển qua cho halberstam cố gắng chạy về phía khách sạn gần đó nhưnh bị hạ gục và chiếc máy quay văng trên vỉa hè.  Wolfkill để đôi chân bảo vệ lên dụng cụ nhưng một người đàn ông mặc thường phục đá nó dưới anh ta và ném dây văng vào tay của một cảnh sát khác mà lấy tay nắm nó và biến mất.

Những gã đần đọn bắt đầu đánh nhau.  Khi Sharkey cuí xuống giúp Halberstam đứng dậy trên vỉa hè, một cảnh sát đã đánh bằng gậy gỗ vào đầu anh ta, để lại một vết thương với sáu mũi khâu.  Wolfkill bị đập vào lưng bằng bằng súng lục và nhìn lên để xem một tay cảnh sát đang đung đưa khâu súng lục trước mặt.  Sau này, anh ta nhớ lại điều đó chưa phải là thô bạo bằng việc tức giận mất tin sốt dẻo, “những trái tim tan vỡ vì đáng lẽ có những cuộn phim về một sự kiện nhạy cảm mà lại để bị ăn trộm”.

Đại sứ Lodge ra mặt phản đối.  Sự hy sinh của người đàn ông trẻ tuổi nảy sinh ra sự xung đột khác giữa chính quyền Mỹ và chế độ Diệm, nhưng tệ hơn thế, điều này làm sống lại nỗi ám ảnh về những vụ tự tử hãi hùng.  Những cuộc biểu tình phản đối nhiều hơn và một điều gì đó mà chính quyền đã nhận ra là họ phải dừng tấn công chùa chiền sáu tuần trước.

Nhưng những cố gắng báo chí của chúng tôi không làm cảm động người mua tin.  Một bài xã luận ở báo New York Herald Tribune kêu ca rằng giới báo chí Sài Gòn có những xử sự sai, đáng lẽ chúng ta phải cứu vị sư thay vì để anh ta chết.

Cõ lẽ câu đáp lại của tôi là tôi có thể ngăn cản vụ tự  sát bằng cách chạy tới vị sư và dập lửa đi nếu tôi có mưu kế.  Là một con người tôi muốn làm điều đó, nhưng là một phóng viên tôi không thể.  Nếu tôi cứu anh ta, mật thám quan sát từ xa sẽ bắt anh ta ngay lập tức và mang anh ta đến một nơi mà chỉ Chúa mới biết, và đây là lúc chúng ta tin rằng những vị sư phản kháng bị giết một cách bí mật.  Nếu tôi cố gắng ngăn cản họ làm diều này thì chính tôi đã tự đẩy mình vào tình hình chính trị Việt Nam.  Vai trò của tôi là một nhà báo sẽ bị huỷ hoại cùng danh tiếng của mình.

Trong bài phân tích dễ hiểu mối quan hệ giữa báo chí và quân đội trong suốt cuộc chiến tranh Việt nam của mình, nhà sử học quân sự William M.Hammond trích câu trả lời của tôi nhưng đưa ra chú ý về những lý do của tôi và tuyên bố điều đó bằng cách đưa ra những gì tôi đã cho thế giới thấy thì có nghĩa tôi đã can thiệp vào chính trị miền Nam Việt Nam cứ như  thể tôi  là người châm lửa cho vị sư.  Tôi không nghĩ điều đó công bằng khi đổ lỗi cho người mang thông điệp về nội dung những gì anh ta truyền tải.  Người Hy Lạp thường giết những người báo tin về những đợt thuỷ triều xấu.

VỤ ĐẢO CHÍNH 1-11-1963


Các đám đông tụ tập mọi ngõ ngách đường phố Sài Gòn suốt năm ngày, đầu họ nghển lên trời chờ đợi phép màu đạo Phật một nhà tiên tri dự đoán, hành động của tạo hoá sẽ lay chuyển mặt trời.

Một trong những người lính nhìn lên mặt trời mà nói rằng “thậm trí trời cũng phản đối số phận khốn khổ của những Phật tử Việt Nam”.  “Tôi nghe nói mặt trời đang di chuyển vòng nhỏ hơn trên bầu trời như một dấu hiệu từ trời”.  Binh lính được giao nhiệm vụ ngăn chặn đám đông tụ tập, giải tán những đám đông xem bói bất kỳ nơi nào nhưng chính những nhân viên an ninh cũng đang liếc nhìn mặt trời rơi vào miền tăm tối huyền bí và những phép màu lạ kỳ đang nhiệm màu trên đất nước Việt Nam mê tín.

Nếu gia đình họ Ngô đọc được điều gì từ những điềm báo trên trời thì họ cũng không tiết lộ.  Họ chỉ quan tâm tới lực lượng vũ trang bị lay động bởi những cuộc tấn công của Phật tử và bản chất xấu xa của những cuộc tấn công đó hay không.

Có dấu hiệu khả quan rõ ràng từ phía Mỹ tác động tới những thay đổi của chính quyền, đủ để viết lên tường cho các tướng đọc, rất nhiều nhận xét quan trọng trên đài tiếng nói Hoa Kỳ đe doạ cắt giảm viện trợ, tay “thống đốc” Đại sứ ngu ngốc cắt liên lạc với chính quyền tối đa.  Chúng tôi chỉ có thể đoán những âm mưu đằng sau bức màn và mức độ họ đang làm.  Và chính quyền thì hoang tưởng.

Ngày 30-10, cô Lý Thị Liên mặc áo dài trắng đạp xe qua khách sạn Caravelle ở trung tâm Sài Gòn thì một phóng viên ảnh tờ Newsweek yêu cầu cô đứng lại chụp ảnh với Đại sứ Herry Cabot Lodge.  Cô nữ sinh đang trên đường từ nhà tới trại trẻ mồ côi Thiên Chúa giáo nơi cô sống cùng mẹ mình, đã đồng ý với lời đề nghị làm hài lòng vị Đại sứ dễ chịu khi nói chuyện với cô.  Khi đi được nửa khu phố, một tay mật thám bắt cô và giải đi, để tìm hiểu xem cô đã nói gì với Đại sứ.  Nhân viên Đại sứ Mỹ rất phẫn nộ, tiến hành điều tra ngay lập tức thông qua Bộ Ngoại giao, cô được thả ngay hôm sau và được về nhà.

Những phóng viên phương tây thường là người đầu tiên biết những vụ tự tử công khai hoặc những cuộc biểu tình sắp diễn ra nên thường bị theo dõi nghiêm ngặt.  Mal nhận ra văn phòng và căn hộ của chúng tôi đang bị mật thám theo dõi.  Vì lo sợ sẽ có “vụ đột nhập văn phòng” nên Mal gửi hết hồ sơ cá nhân cho Đại sứ quán Mỹ giữ.  Chúng tôi biết đường giây điện thoại của văn phòng bị ghi âm và mỗi cuộc gọi hàng ngày đều có tiếng động ở đường dây chứng tỏ một người nào đó đang kiểm soát.  Một số người gọi điện tới văn phòng đã bị bắt vì vậy chúng tôi thường trả lời điện thoại: “Đây là Hãng tin AP, đường dây này đang bị kiểm soát bởi nhân viên công cộng. Xin hãy tiếp tục”.  Năm người lái xe riêng cho các phóng viên thường trú nước ngoài đã bị bắt và bị thẩm vấn về những hoạt động của họ.  Nhân viên lễ tân tại khách sạn Caravelle và Majestic nới có nhiều phóng viên thường trú tới ở được hướng dẫn chỉ cung cấp xe và lái xe của Chính phủ cho các phóng viên.

Chính quyền đang theo dõi nhầm người.  Chúng tôi chỉ là người cuối cùng biết những gì thực sự đang diễn ra.  Keyes Beech của tờ Chicago Daily News cho rằng những ý kiến đảo chính đã tàn lụi và anh ta viết một câu chuyện trên báo ngày 30-10 với tiêu đề “Tại sao Mỹ không hất cẳng Diệm”.  Anh ta viết “Thực tế phải được đối mặt.  Người Mỹ có thể sản xuất nhiều ôtô, bồn tắm, điện thoại, lúa mì, ngô cùng hầm dự trữ hơn bất kì dân tộc nào trên thế giới.  Nhưng người Mỹ lại không giỏi việc đảo chính”

Nhưng ngày hôm sau, thứ sáu ngày 1-11, giới phát thanh truyền hình náo loạn vì những lời đồn đại và căng thẳng.  Thành phố trống rỗng và yên tĩnh vì bản nhạc trưa truyền thống khi Herry Cabot Lodge gặp Ngô Đình Diệm cho tiệc chia tay trước khi ông ta khởi hành về Washington kết thúc nhiệm kỳ công tác hai ngày sau đó.  Khi Lodge tạm biệt Diệm thì tôi đang tác nghiệp ở lào và chuẩn bị bay về Sài Gòn.  Tôi thích thú theo dõi tin tức nhưng không nghi ngờ gì về một cuộc đảo chính đang tới gần.  Những năm sau đó Lodge nhớ lại lời nói của Diệm nói với ông ta” “Mỗi lần một vị Đại sứ ra đi là bắt đầu một cuộc đảo chính”.  Lodge còn nói thêm: “Diệm nói với tôi sắp có một cuộc đảo chính xảy ra nhưng tôi không biết là ai sẽ làm điều đó và ở đâu và những tay lập kế hoạch đảo chính lần này dường như thông minh hơn trước đây vì rất nhiều trong số họ tôi không phát hiện ra ai làm chủ mưu”.  Lodge nhớ đã tiễn Tổng Tư lệnh Harry D.Flet đáng kính tại sân bay và trở về biệt thự của ông ta với Harkins, “chúng tôi ngồi ăn trưa thì những tiếng pháo tự động nổ ra, nghe như ở ngay phòng bên cạnh vậy, trực thăng bay phía trên, bắt đầu cuộc đảo chính”.

Một gờ trước đó Mal được thông báo một hoạt động quân sự khác thường sẽ diễn ra xung quanh sở cảnh sát.  Nguồn tin của chúng tôi về những chi tiết an ninh tại Đại sứ quán Mỹ tiết lộ cuộc đảo chính đang diễn ra và Sở Chỉ huy Hải quân mặt trận trên sông đã bị đội quân đảo chính bao vây.  Mal nhảy vào chiếc xe Jeep của văn phòng lái về Sở Chỉ huy Hải quân mất 10 phút.  Anh ta ở cách chốt an toàn nửa toà nhà thì nghe thấy một nhân viên hét lên và phải quay lại.  Trận chiến đã bắt đầu trước khi nghe tiếng bom vang dội lúc 3 giờ chiều.  Những âm thanh hỗn độn của bom oanh tạc Phủ Tổng thống vang vọng trên đường cùng tiếng bắn trả máy bay rùng rợn.  Một tay lính trung thành đã cứu Mal khi kéo mạnh anh ta qua bức tường ra khỏi tầm bắn của súng cối.

Máy bay trở khách của Hàng không Việt Nam đỗ ở Phnôm Pênh đang bay vào địa phận Việt Nam lúc 3 giờ chiều thì phải quay hướng bay trở lại Phnôm Pênh.  Tôi đập mạnh cửa buống lái phi công và nỗi sợ hãi của tôi được Cơ trưởng, người đang nói chuyện với bộ phận điều khiển máy bay dưới mặt đất giải thích: đảo chính đang xảy ra, máy bay ném bom đang oanh tạc trên bầu trời Sài Gòn thổi tung Dinh Tổng thống.  Tôi đã lỡ mất câu chuyện lớn nhất trong cuộc đời mình bởi sân bay Tân Sơn Nhất đóng cửa.

Tôi cầu xin phi công xem xét lại.  Tôi đưa ra những khả năng tồi tệ nhất có thể xảy ra với gia đình của anh ta và gia đình của đội bay trong thành phố.  Tôi cãi rằng máy bay phải có quyền hạ cánh trên chính mảnh đất của nó.  Kì lạ là Cơ trưởng đồng ý.  Khi chiếc máy bay lượn trên bầu trời, anh ta nói với người điều hành bay dưới mặt đất là sẽ hạ cánh bằng mọi cách, dần xuống thấp và xuống hẳn.  Hai mươi phút sau, chúng tôi hạ cánh tại sân bay hỗn loạn ngập xe tăng và xe bọc thép.

Đội mặt đất đã bỏ trốn hết.  Khói đen bao trùm trung tâm Sài Gòn cách đó 3 dặm, pháo và tiếng nổ của các loại vũ khí nhỏ vang dội cả sân bay.  Taxi bị bỏ không.  Tôi mất kiên nhẫn vì chờ đợi.  Một xe buýt sân bay đưa nhanh tôi đến Dinh Tổng thống trước khi người lái xe mất bình tĩnh, thả tôi xuống.  Tôi lảo đảo bước xuống đường Pasteur hướng về văn phòng qua từng cây me.  Tiếng súng vang dội xung quanh tôi.  Tôi nhìn thấy lính bắn phá từ cửa sổ tầng trên ở Dinh Gia Long.  Toà nhà và là căn hộ văn phòng 3 tầng của chúng tôi đã trở thành pháo đài cho binh lính bắn phá vào Dinh từ phía bên kia đường, họ cố thủ sau những bọc cát bằng áo sơ mi ở nơi đỗ xe và ban công tầng một bên ngoài cửa căn hộ của tôi.

Tôi chạy vào văn phòng.  ED White đang ngồi đánh máy một cách yên lặng.  Anh ta ngước nhìn tôi và nói: “Những người khác đang ở khách sạn Caravelle và tôi đang giữ pháo đài, điều mà tôi đã nói rất nhiều lần trước đây giờ đã trở thành sự thật”. Ed nhìn trông thư giãn với tẩu thuốc của mình.  Anh ta nói mọi đường giây liên lạc bình thường hoàn toàn bị cắt khi đảo chính xảy ra nhưng chúng ta đã cố gửi những bản viết thông qua Đại sứ quán Mỹ và Hàn Quốc.  Anh ta nói rằng chúng tôi sẽ thoải mái hơn với những câu chuyện mà chúng tôi có quyền.  Tôi nói anh ta nên rời văn phòng trước khi trời tối.

Trong thời gian tạm vắng tiếng sung tôi đến khách sạn Caravelle.  Mal và Roy Essoyan đang quan sát khung cảnh thành phố từ tầng trên, chỉ cho tôi xem trung tâm các trận tiếp diễn ở Dinh Gia Long, doanh trại lính bị bốc cháy sau khi kho đạn dược bị tấn công.  Chỉ vài phát súng nổ, các trụ sở cảnh sát thành phố, quốc gia và Bộ Quốc phòng cùng Trung tâm Viễn thông và Đài phát thanh bị chiếm giữ trong những phút đầu tiên của cuộc đảo chính.  Sở Chỉ huy Hải quân trên sông đã bị chiếm đóng sau một loạt máy bay ném bom.  Những lời đồn và phỏng đoán vài tháng trước đã trở thành sự thật trước mắt tôi.  Tôi chứng kiến tất cả với một ly Johnnie Walker đỏ hiệu Scotch và một điếu thuốc.

Tôi đi bộ xuống đường Catinat thì bị hai lính Mỹ chặn lại và hỏi đường tới quán Bar mở cửa gần nhất.  Trẻ con đùa nhảy trên vỉa hè, nhặt vỏ đạn khi trời sẩm tối.  Một bà mẹ chơi đùa với đứa con trai nhỏ trên bùng binh giao thông đầy cỏ.  Hai tay say rượu người Mỹ tản bộ qua toà nhà Quốc hội, một tay kêu ca lớn tiếng “Nói với họ phá bỏ nó đi.  Chúng đe doạ mọi người”.  Tôi đi về khách sạn Rex – nơi trú chân của quân đội Mỹ, những sỹ quan cấp cao đang nhìn về phía Dinh.  Nơi đó đông đúc với nhiều lính sợ ra đường.  Họ đang giết thời gian chơi xúc xắc hoặc với các loại máy slot.

Mal nói tôi đảm nhận nghĩa vụ quân sự Mỹ (canh gác) qua đêm và tôi ở lại đường Pasteur cẩn thận.  Có rất nhiều cà phê và bánh trên bàn đủ cho một đêm thức trắng.  Nhân viên gián điệp Mỹ tóm tắt cho tôi vào buổi tối về những gì anh ta được biết - sự trình diễn hào phóng hiếm có đối với truyền thông.

Đài phát thanh tiết lộ cuộc đảo chính do hai sỹ quan nổi tiếng tiến hành là Tướng Trần Văn Đôn và Dương Văn Minh được các chỉ huy lâu năm trong lực lượng vũ trang hậu thuẫn.  Hành động định sẵn chính xác khiến sĩ quan thông tin của chúng tôi bình luận: “Điều đó cho thấy người Việt Nam có thể tiến hành một cuộc chiến tranh khá tốt nếu không tính đến vấn đề chính trị”, và tôi có cảm nhận ông ta đã tập dượt trong đầu các nhân vật trong vở kịch và bước tiếp theo cho những diễn viên mới.

Nửa đêm, doanh trại gác Dinh bị đánh bại sau khi chiếc xe tăng thổi tung cả trung tâm của toà nhà sáu tầng.  Trận đó để lại Dinh Gia Long như một biểu tượng cuối cùng của chính quyền Diệm.  Xe tăng di chuyển từ từ như tốc độ bánh xe cho phép, bò qua những con đường chính từ phía Tây và từ phía sông, chiếm giữ vị trí bên ngoài tường Dinh.  Lúc 4 giờ sáng, cuộc tấn công bắt đầu.  Tiếng nổ đại bác, súng  máy và những loại vũ khí bắn phá tốc độ cao tạo ra tiếng ồn không ngớt.  Những con đường chìm trong bóng tối pha màu lửa đạn vàng xanh như đám mây ngũ sắc do đạn cối tạo ra.  Các toà nhà gần Dinh trở nên rùng rợn.  Quân lính lần theo từng cửa tiến gần hơn đến Dinh Gia Long.  Lính gác tại Dinh dũng cảm chống cự được khoảng hơn hai giờ.  Vào lúc 6 giờ 37 phút sáng, cuối cùng cờ trắng cũng được kéo lên từ Dinh và tiếng hò reo vang dội ngoài đường khi đội hải quân nổi loạn ùa vào trong qua lỗ hổng trên tường bao quanh khu vực chỉ huy nắm lấy phần thưởng của họ.

Tôi trở về căn hộ của mình thấy hai xác người lính ở ban công, máu cua họ chảy lênh láng.  Những mảnh bê tông lớn bị phá toạc khỏi tường nhưng căn hộ và văn phòng chúng tôi không bị tàn phá.  Chúng tôi biết rằng Diệm và Nhu bằng cách nào đó đã trốn thoát ra vùng ngoại ô.  Nhưng ngay buổi chiều hôm đó có thông tin tiết lộ đã thất bại và chết sau đó.

Tất cả chúng tôi tập hợp lại tại khách sạn Caravelle ăn sáng, người đầy bụi, mệt mỏi nhưng hoan hỉ vì mọi chuyện đã kết thúc và chúng tôi vẫn còn sống.  Horst trở về từ  Chiến dịch Đồng bằng sông Cửu Long đúng lúc để tiến vào Dinh cùng đội chiến thắng.  Ngay sau đó chúng tôi lại ra đường chứng kiến những đám đông cuồng nhiệt đập phá những thành quả của gia đình họ Ngô và kéo đổ các bức tượng.  Đêm đó các tướng lập kế hoạch lật đổ Diệm tới câu lạc bộ đêm dự tiệc mừng chiến thắng và mở ra một kỷ nguyên mới.  Tôi góp mặt cùng tướng Đôn và tướng Minh tại Câu lạc bộ La Cigale.

Chúng tôi lắp ráp thông tin cùng nhau về những chi tiết bên trong cuộc đảo chính.  Chúng tôi được nói rằng Đại sứ Lodge đã nói chuyện với Diệm.  Vị lãnh đạo người Việt Nam đã gọi điện cho ông ta từ Dinh vào cuối buổi chiều để thông báo đảo chính bắt đầu.  Ông ta hỏi ngài đại sứ xem ngài định làm gì.  Đại sứ Lodge nói rằng: “Tôi đã nói cho ngài sự thật rằng tôi chẳng có chỉ thị nào cả và bây giờ là 4 gìơ sáng ở Washington nên tôi chẳng có cơ hội nào để nhận được chỉ thị”.  Diệm hỏi tiếp “Vậy à…Ông phải biết đối sách gì chứ!”, tôi đáp lại tôi không biết rõ đối sách nào cho từng hoàn cảnh, và thêm rằng tôi lo lắng về sự an toàn của ông ta và đã sắp xếp cho ông ta ra  khỏi đất nước an toàn.  Tôi cũng nói “Tôi đã sắp xếp cho ngài giữ chức chức vụ đứng đầu Nhà nước, ngài có thể giữ vị trí danh dự và như vậy ngài sẽ an toàn”.  Diệm nói “Ồ, tôi không muốn làm điều đó, tôi muốn khôi phục lại trật tự và tôi quay trở lại làm điều đó bây giờ”, rồi ông ta buông máy”.

Vị Đại sứ Mỹ đã nói dối Diệm, nhà lãnh đạo Việt Nam đã đoán được điều đó.  Đại sứ Lodge nói với tôi là ông ta không biết chính xác thời gian cuộc đảo chính: “Tôi không được xếp vào bức tranh đã được hoàn thành cho đến đêm hôm trước”, ông ta nói.  Tướng Harkins hầu như ở trong bóng tối và khi ông ta được biết điều đó.  Ông ta đã thông báo cho Lodge về đối thủ của ông ta nhưng sau đó không điều gì có thể ngăn chặn được.

Cuối mùa thu năm đó, tướng Trần văn Đôn nói với tôi ông ta đã nhờ Đại sứ Lodge “bật đèn xanh” từ phía Mỹ nhằm lật đổ Diệm, và những người lập kế hoạch đảo chính đã sử dụng một điệp viên CIA đã nghỉ hưu Lucien Conein như kẻ hai mặt.  Conein là nhân vật quen thuộc ở Sài Gòn, một tay nói nhiều, người chắc nịch, thành viên thường xuyên của quầy bar khách sạn Continental và những chốn ăn chơi nhậu nhẹt khác.  Sau này Conein nói rằng, anh ta cùng với những người lập kế hoạch đảo chính mang theo một bộ đàm đặc biệt nhằm giữ liên lạc trực tiếp với Đại sứ quán Mỹ và được nối đường dây trực tiếp với đại sứ.

Chính Conein đã sắp xếp máy bay đưa Diệm và em trai ra khỏỉ đất nước.  Chuyến bay đó chẳng bao giờ cần tới.  Theo mênh lệnh của một trong những tên nổi loạn, Diệm và em trai bị giết trong chiếc xe bọc thép sau khi bước ra từ nơi trú ẩn ở Chợ Lớn.  Lúc đầu chúng tôi chỉ loáng thoáng viết những bài về vụ sát hại đó và cũng mệt mỏi để làm rõ sự việc.  Sự nghi ngờ của chúng tôi được làm rõ khi một thiếu tướng quân đội Cộng hoà đến “văn phòng tạm thời” của chúng tôi tại khách sạn Caravelle cùng những bức ảnh về phần còn lại của hai anh em họ Ngô trong một chiếc xe quân đội.  Anh ta đề nghị bán với giá hai nghìn đô la.  Trong khi Roy Essoyan gọi điện cho trụ sở New York bàn bạc chuyện giá cả thì tay đó biến mất.  Anh ta đã bán cho UPI.

Kết kục đẫm máu của cuộc đảo chính đã không làm Tổng thống Kennedy hài lòng.  Tướng Maxwell Taylor nói với tôi trong một cuộc phỏng vấn sau này rằng ông ta gặp tổng thống tại Nhà Trắng “Như tôi nhớ, một người phụ tá mang điện tín tới, đặt trước mặt và ông ta đọc nó.  Sau đó là khoảng lặng khá lớn xung quanh bàn và rõ ràng Tổng thống bị sốc, đứng không vững và bước ra khỏi phòng không nói gì với ai, ở bên ngoài khoảng vài phút và cuối cùng quay trở lại ghế ngồi, thảo luận như thể tất cả chúng tôi là nguyên nhân gây nên hậu quả”.

Nỗi sợ hãi của các nhà chỉ trích Chính quyền Diệm đã được chứng thực khi các nhà tù được mở ra và hàng nghìn tù chính trị xuất hiện xanh xao vì bị tra tấn và lạm dụng.  Một trong số họ là Hoàng Thị Đông, một phụ nữ 29 tuổi theo đạo Phật và làm việc bàn giấy tại Đại sứ quán Anh đã bị nhân viên an ninh bắt lúc 5 giờ sáng ngày đảo chính.  Cô ta kể, giọng trầm lắng rằng họ bịt mắt đưa cô ra đi trong một chiếc xe jeep tới một căn nhà nơi có những phụ nữ khác bị giam.  Cô ta được dẫn vào một văn phòng sau đó một giờ, khăn bịt mắt bỏ ra, một người đàn ông ngồi ở bàn làm việc nói rằng biết cô ta mang những tài liệu Phật giáo cho Đại sứ quán Anh, đưa chúng cho các phóng viên thường trú nước ngoài cũng như Văn phòng của Liên Hiệp quốc và Phòng Thông tin Hoa kỳ.

Cô Đông nói, vài người đàn ông bước vào phòng khi cô từ chối không biết  nơi những vị sư trốn.  Giọng cô run lên: “Họ bắt tôi ngồi trên ghế và lột quần áo tôi.  Họ bắt tôi nằm xuống, một người trói tay tôi vào phía sau ghế trong khi người kia buộc chân tôi.  Họ nhét giẻ vào mồm và mũi tôi, rót nước vào miếng vải bẩn mà tôi nhìn thấy trên sàn khi bước vào phòng.  Một trong số họ dùng nắm đấm thúc vào sườn tôi và một người khác tát vào má tôi.  Khi họ bỏ giẻ ra một lúc tôi đã thét lên.  Một người nhảy lên nhảy xuống trên người tôi để cho nước ứ ra khỏi miệng và người còn lại dùng gậy đập vào chân tôi và tôi bất tỉnh.  Khi tôi tỉnh dậy, họ bắt tôi ngồi dậy dọn phòng, mặc quần áo và nói rằng tôi sẽ bị tra tấn nữa vào buổi chiều vì họ kết luận tôi là gián điệp của Việt Cộng và phải bị trừng phạt”.

Đông nói rằng, một cô gái trẻ bị mang vào phòng sau cô, và cô nghe thấy tiếng thét của cô ta cùng với âm thanh trực thăng trên trời, xe jeep và xe máy gầm rú trong khu vực lân cận và một người hét lên rằng lực lượng không quân sẽ làm cách mạng.

“Chúng tôi cùng chờ đợi qua buổi tối, qua ngày thứ bảy và nhìn thấy xe tải quân đội đi qua, các nhân viên đốt giấy tờ và chúng tôi cầu nguyện phe Chính phủ sẽ thua vì nếu họ không thua thì chúng tôi chắc chắn chết”.  Cô ta nói rằng cuối cùng những người tra khảo cũng thả họ và xin lỗi vì hành động của mình.

Một sinh viên khác cay đắng nói với Mal rằng: “Người Mỹ phải chia sẻ trách nhiệm vì những điều này.  Các ông đã hiểu họ rất lâu, nhưng các ông nhắm mắt làm ngơ, tiếp tục đào tạo và cung cấp vũ khí cho cảnh sát.  Tôi nghe nói những phóng viên Mỹ đã chứng kiến các trại tập trung của Đức quốc xã và chỉ viết những bài rất hay về những loại hoa họ nhìn thấy trồng bên ngoài”.

Một kỷ nguyên mới đang dựng lên ở Sài Gòn như nhân tố của hy vọng.  Không khí trong thành phố thay đổi kỳ lạ, một loại cảm giác mơ hồ tạo nên bởi nhiều điều nhỏ nhoi, mà quan trọng nhất là sự vắng mặt của sự sợ hãi.  Mọi người không còn liếc nhìn qua vai, không phải ngắt quãng lời nói vì sợ nghe trộm.  Mọi người không còn sợ nói chuyện với người Mỹ nữa.  Các nhà sư áo nâu đi lại trên các ngả đường và người phương Tây không xa lánh họ vì sợ bị liên luỵ nữa.  Sinh viên, giáo viên và các nhà chính trị nói với chúng tôi một nhân tố khác của sợ hãi đã biến mất đó là nỗi sợ hãi gõ cửa lúc nửa đêm bị tống vào các nhà tù Sài Gòn đầy ắp kẻ thù của chính quyền.

Không ai dám tin tự do này chỉ hơn một sự giải toả tạm thời.  Vẫn còn cuộc chiến tranh thực sự ở vùng nông thôn.  Một biên tập lớn tuổi của tờ báo bằng tiếng Việt uyên thâm nói với chúng tôi: “Anh phải nhận ra niềm hân hoan của chúng tôi.  Chúng tôi quá hạnh phúc”.  Con đường chính của thành phố không còn những hàng rào giây thép gai để bảo vệ Diệm và chính quyền của ông ta.

Tương lai nằm trong câu hỏi về vụ ám sát Tổng thống Kennedy.  Điều làm sửng sốt những người Mỹ ở Việt Nam cũng như cả thế giới.  Khi nghe tin đó, tôi đã chạy tới phòng Thông tin Hoa Kỳ tìm hiểu thêm và tôi đã gặp Bob Burn đầy nước mắt, người vừa được phân công từ lào sang Sài Gòn.  Nhận lời chia buồn của tôi, anh ta gạt tôi sang một bên và đáp lại “Khỉ thật, điều đó chưa đủ, cậu không thể hiểu điều đó có ý nghĩa gì với chúng tôi đâu”.  Tối đó tôi viết bài “Mười sáu ngàn cố vấn quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam phản ứng với thông tin choáng váng khó tin lan tràn trong toàn quốc”.  Tôi trích lời tướng Harkins “Quyết định táo bạo của Kennedy tài trợ cho Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống lại Việt Cộng là một trong những điểm nhấn những cụm từ bi kịch viết tắt nhưng nổi tiếng của ông ta như người đứng đầu một quốc gia”.

Ngày hôm sau tôi theo trực thăng bay vào vùng chiến khu D, tham gia cùng Tiểu đoàn biệt kích Việt Nam Cộng hoà trong cuộc hành quân tiến sâu vào rừng.  Cố vấn Mỹ, Đại uý David Thorenson chỉ biết Tổng thống đã chết.  Thông tin đó được chuyền bộ đàm cho anh ta buổi chiều hôm trước từ máy bay chỉ điểm L-19.  Tôi đưa cho anh ta chi tiết về vụ ám sát và anh ta đáp lại cay đắng: “Những người Dallas phải nói gì về điều này?”.  Lính Việt Nam bắt đầu hỏi anh ta: “Làm sao điều này có thể xảy ra ở Hoa Kỳ”, đó cũng là câu hỏi xuất hiện trong đầu tôi.  Thorenson đáp lại: “Tôi không biết phải nói gì với họ”.  Mức độ vỡ mộng chính trị ở Việt Nam được minh chức bằng việc người dân còn quan tâm tới cái chết cuả Tống thống Mỹ hơn là cái chết của Tổng thống họ.
David Halberstam kết thúc nhiệm vụ tại Việt Nam ngày 19/12 và chúng tôi huyên náo tập trung ở sân bay tiễn anh ta.  David ôm chặt chúng tôi trong đôi tay to lớn nói rằng hối hận duy nhất của anh ta là rời Việt Nam trước tướng Harkins, người anh ta ghét cay ghét đắng.  Đó là một bữa tiệc chiến thắng.  David trở về như một ngôi sao trong làng báo bởi vì ảnh hưởng to lớn của tờ Thời báo New York.  Sự xuất chúng của anh ta không bị ghen tị ở sài Gòn.  Tôi có lý do để ngưỡng mộ anh ta khi tới giải cứu tôi trong ngõ hẻm ở chùa Ấn Quang vào tháng 7.  Tôi cũng có nhiều lý do để kính trọng sự dũng cảm uyên bác của David thể hiện trong các bài phân tích về chiến tranh.  Khi anh ta bước lên máy bay quay về phía tôi nói rằng “Tôi lấy làm tiếc vì chúng ta đã không làm việc cùng nhau nhiều hơn, Peter”.  Nhớ lại những chuyến đi trước đó của chúng tôi ở vùng nông thôn, tôi cười và nói với anh ta rằng dù sao tôi cũng học hỏi được từ anh ta.  Năm đó, Halberstam và Mal Browne cùng nhận giải thưởng Pulitzer về những bài báo từ Sài Gòn.

Tôi quyết định ở lại Việt Nam không biết đến bao giờ cùng Mal và Horst sau thời gian thử lửa mười tám tháng.  Trước năm đó, tôi đã sợ bị trục xuất vì những bài viết của mình.  Đó sẽ là lần thứ ba liên tiếp tôi bị từ chối nhập cảnh trong vòng ba năm.  Nhưng bây giờ mọi lo sợ không còn nữa.  Chính quyền mới lãnh nhiệm hiểu hơn về nhu cầu của chúng tôi.  Ba chúng tôi là một đội nhỏ liên kết chặt chẽ, cùng yêu một Sài Gòn oi ả, ngổn ngang và đẹp, nơi cứ một bước chân là có tin, bài hơn bất cứ một nơi nào tôi từng đến.  Browne bị thuyết phục rằng Sài Gòn là nơi hoàn hảo cho những bộ phim thời cổ với những phóng viên thường trú nước ngoài mặc áo đào hầm đóng vai chính.  Tôi nhắc anh ta rằng Sài Gòn rất nóng và trang phục phải là quần kaki, áo thể thao.  Chuyện tìm hiểu Nina của tôi đã trở thành mối quan hệ lâu dài.

Bây gìơ văn phòng của chúng tôi có năm chiếc bàn lớn, với một bức tường do các tủ hồ sơ ngăn ra và những tấm bản đồ từ tường tới sàn với những tấm che bằng nhựa mà chúng tôi đánh dấu những chiến dịch quân sự quan trọng.  Một điện thoại dùng chung có băng dính vì có rất nhiều vết vỡ, những chiếc điện thoại gần như cũng không chịu được.  Mal và tôi cố gắng trang bị điện thoại cho từng căn hộ của chúng tôi trên văn phòng và hầu như ngày nào chúng tôi cũng bị đánh thức bởi tiếng chuông, thường là khoảng 5 giờ sáng.  Những cuộc gọi bao giờ cũng là rắc rối; một vụ đánh bom ở nơi nào đó trong thành phố, một cuộc đảo chính hay một cuộc hành quân bắt đầu.  Chúng tôi có thể tham gia nếu nhanh chân.

Mal có đôi ủng do một cửa hàng da địa phương đóng có bản thép ở đế mà anh ta đặt làm sau khi bước phải bẫy của Việt Cộng ở vùng đồng bằng.  Một chiếc đinh thép đâm qua ủng và cắm vào chân, gây chấn thương khá đau.  Anh ta quảng cáo đôi ủng cao cấp của mình cho tất cả bạn bè và cửa hàng vẫn hưng thịnh cho tới khi một hoặc hơn một trăm năm sau đó anh ta biết rằng ủng của mình là hàng rởm, không có một miếng lót kim loại nào được đặt vào bên trong đó.

Ký giả chiến trường luôn đối mặt với gian khổ nhưng đôi khi cũng thú vị và thường đó là cách duy nhất để có được tin, bài – thông tin từ mặt trận thường rất chậm về Sài Gòn và thường chắp vá.  Chính quyền Mỹ trở nên giúp đỡ hơn một chút khi cho chúng tôi đi cùng trực thăng vào chiến trường.  Đôi khi chúng tôi thuê taxi thành phố màu xanh và trắng đi tới hiện trường gần Sài Gòn.  Mal mua trả góp chiếc Land Rover, anh ta sơn màu đỏ tươi giống màu tất anh ta luôn thích.  Đôi khi chúng tôi nghe những trận chiến từ xa trên hệ thống thông tin mật đài Catinat, Horst và tôi nhảy lên chiếc Karmann Ghia màu trắng của tôi về vùng nông thôn, tìm kiếm những trực thăng đang bay mà có thể đi theo cho tới khi nghe thấy tiếng súng, đi qua những người lính đã chết, bị thương và những người dân trên đường.

Chúng tôi trẻ, đầu óc minh mẫn và tham vọng, thậm chí làm việc bảy ngày một tuần, và một trong chúng tôi luôn ở trong chiến trường, trong khi những người khác ở sài Gòn viết những thông tin chính trị.  Phương tiện liên lạc đơn giản, không có máy đánh chữ telex trong văn phòng vì các tổ chức tư nhân không được phép sử dụng thiết bị riêng.  Những thông tin gửi đến cho chúng tôi hàng ngày qua người đưa thư của Chính phủ và ban đêm họ đập cửa căn hộ chúng tôi.

Browne và tôi sống đơn giản trong căn hộ giường đơn.  Cả hai chúng tôi đều thuê những người phụ nữ già gốc Hoa để làm công việc giặt là, chợ búa, nấu ăn và dọn dẹp với mức lương 30 đô la một tháng, mức lương hàng đầu ở Sài Gòn lúc bấy giờ.  Tôi không nấu ăn và thường ăn ở các nhà hàng Pháp, Việt Nam và Trung Quốc của Sài Gòn.

Năm 1964, tôi 30 tuổi và bắt đầu nghĩ đến việc cần ổn định và sinh con như bố mẹ tôi đã làm và rất nhiều những người bạn của tôi cũng đang suy tính vậy.  Nina là người thích hợp và tôi yêu cô ấy, nhưng viễn cảnh mất tự do độc thân đang đe doạ tôi.  Khi tôi hỏi cưới cô ấy, tôi hoảng sợ với lời cầu hôn mà cô ấy đã được thuyết phục rằng tôi đang nói với cô ấy sự lãng mạn của chúng tôi đã kết thúc và cô ấy sẽ bật khóc tới khi tôi nhắc với cô ấy là tôi muốn nói điều ngược lại.
KẾT HÔN


Cuối năm 1964, Chính quyền Johnson chuẩn bị vận động chiến dịch leo thang, đáp lại những cuộc tấn công của Việt Cộng vào các căn cứ Mỹ bằng các đợt tấn công trả đũa không quân đánh phá miền Nam Việt Nam, và đảm bảo hỗ trợ cần thiết đầy đủ nhất với Chính quyền Sài Gòn.  Áp lực làm tin tăng lên với chúng tôi.

Mal, Horst và tôi giờ thành một đội.  Chúng tôi tự coi nhau như “tổ bộ binh chiến đấu” cùng một chiến trường trong nhiều năm.  Chúng tôi biết điểm mạnh và điểm yếu của nhau.  Trong khi mọi việc vẫn tiếp diễn, tôi đã kết hôn.  Hôn lễ tổ chức ở Hồng Kông để tìm kiếm sự bảo đảm của Chính quyền Anh và tránh những thủ tục rườm rà, phức tạp của Việt Nam.  Nhiều người phương Tây nói những điều đặc biệt về người Việt Nam sau khi bị tính gan góc của đất nước và con người nơi đây chinh phục.  Tôi là người sau cùng bị sự thông minh sắc sảo và dung nhan sáng ngời của Nina bỏ bùa mê.  Tôi biết rằng cố ấy sẽ là người vợ và người mẹ dịu dàng.  Gia đình thượng lưu của cô ấy nuôi dưỡng và sẵn sàng bỏ qua những xử sự vụng về của tôi.  Trong con mắt họ, tôi bắt đầu hiểu ra li gián chính trị và xã hội ngấm ngầm đang nổi lên trên bề mặt của Việt Nam và sẽ ăn sâu vào gốc rễ.

Nina không may sinh ra trong một đất nước có nhiều thay đổi, trong một gia đình mà vị trí ưu tiên của họ đã bị lãng quên.  Khi còn nhỏ, cố ấy sống ở Tuyên Quang, nơi đó cha cô là nhân viên hành chính cho Chính phủ Pháp và mẹ cô là giám sát của bệnh viện phụ sản tỉnh.  Khi người Nhật hất cẳng người Pháp, mang lại độc lập cho người Việt Nam, cha của Nina đưa gia đình về thành phố quê hương ông – Vĩnh Yên và làm một chân trong Hội đồng Đại biểu Nhà nước mới.  Sự nghiệp chính trị của ông ngắn.  Người Pháp giành lại sở hữu thuộc địa cũ của họ vào năm 1946 và chiến tranh nổ ra.

Cha của Nina ủng hộ lực lượng kháng chiến.  Hồ Chí Minh lúc đó chưa hoạt động công khai và phong trào giành độc lập chủ yếu dựa vào bên ngoài và hạn chế.  Gia đình cô trốn đi từ năm 1947 khi lính lê dương chĩa mũi nhọn cuộc tấn công của người Pháp vào thành phố.  Kháng chiến với nhiệm vụ tiêu thổ chống giặc đã buộc họ đốt nhà và tài sản của chính mình.  Họ chứng kiến nhà cháy khi chạy trốn qua cánh đồng lúa, mỗi người chỉ mang theo một túi đồ dùng cá nhân.

Cộng sản không tin cha cô ấy vì thân thế lúc sinh thời của ông.  Người anh cả của cô ấy bị giết trong chiến tranh.  Chị gái đầu tham gia trường Quân y của Cộng sản và gia đình mất thông tin của chị trong nhiều năm.

Mất lòng tin vào phong trào giành độc lập, Nina và chị mình Miriam trốn về Hà Nội đã bị Pháp chiếm giữ, sau đó bố mẹ và anh em sinh đôi cũng về đó năm 1954.  Năm 1955, sau khi đất nước bị chia cắt, họ vào Sài Gòn trong chuyến bay di cư của Mỹ.  Người chị gái chọn ở lại và hai người em đã bỏ lỡ cơ hội đi cùng.  Trong những năm đầu tiên gia đình họ còn được trao đổi thư từ với những người ở bên kia giới tuyến, nhưng sau đó thậm chí những liên lạc tối thiểu cũng bị cắt giữa hai vùng.

Hai chị em của Nina tới tham dự lễ cưới của chúng tôi ở Hồng Kông.  Chúng tôi ở trong căn hộ của Michael Renard nhìn ra Causeway Bay và những người bạn của tôi từ Sydney, Bangkok và John Cantwell là phù rể.  Cờ báo hiệu nguy hiểm bay quanh cảng vì cơn bão Tilda trong khu vực.  Chúng tôi bắt taxi tới toà Thị chính thành phố.  Nghi thức đám cưới rất đơn giản.  Người làm thủ tục dẫn chúng tôi tới một cái bàn, bảo chúng tôi ký vào một tờ giấy.  Nina nhìn lên tôi, cô ấy thất vọng nói, “Việc này giống như hoàn trả tấm séc”.  Nhưng sau đó người làm thủ tục đưa chúng tôi tới một phòng trang trọng và rộng, bảo Nina và tôi ngồi xuống cạnh nhau bên một bàn lớn có nhân chứng ngồi đối diện.  Anh ta bảo chúng tôi nhắc lại lời thề và chỉ vào những phần trang trọng của giấy kết hôn, bảo tôi đeo nhẫn cho Nina và chúng tôi được công nhận là vợ chồng.  Chúng tôi tổ chức tiệc cưới đêm đó trong phòng Jade sang trọng ở khách sạn Hilton Hồng Kông.

Nina hiểu công việc của tôi.  Chúng tôi sẽ sống trong căn hộ nhỏ phía trên văn phòng cạnh căn hộ của vợ chồng Mal Browne và Lê Liễu.  Nina nhanh chóng có bầu.  Gia đình AP cũng ngày càng phát triển: John Wheeler và Ed White đến với nhiệm vụ dài hạn.

Chủ tịch mới của AP, Wes Gallagher tới thăm Sài Gòn lần đầu tiên vào năm 1964 để gặp đội ngũ phóng viên mặt trận của ông ta và có vài lời khuyên thẳng thừng cho tôi.  “Tiếp xúc với các tướng và sĩ quan hàng đầu một cách lịch sự và cậu sẽ làm tốt.  Không quan trọng là cậu sẽ viết gì về họ mà là thái độ cá nhân của cậu mà họ sẽ nhớ và đánh giá cậu chứ không phải những câu chuyện của cậu”.  Lời khuyên của ông ta có ý tốt nhưng đã lỗi thời từ khi nhân viên kiểm duyệt quân đội chỉ đơn giản cắt bỏ những phần gây tranh cãi của những bài tin.
Một vài ngày sau khi Gallagher tới, ông ta phải đương đầu với tình hình chiến tranh ngày càng xấu đi và những mâu thuẫn của nó.  Điều đó thử thách sức chịu đựng của ông ta.  Horst Faas bước vào văn phòng sau bốn ngày ở chiến trường với một vài cuộn phim khủng khiếp nhất kể từ khi Mal Browne chụp nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu một năm trước đó.

Fass nói theo cách của mình về một cuộc hành quân bộ binh thiết xa vận của Sư đoàn Bộ binh 7 Cộng hoà ở cánh đồng sậy, vùng đầm lầy khủng khiếp nhất năm đó.  Nhưng mùa này là mùa khô nên bùn đóng lại thuận lợi cho những cuộc hành quân nhanh.  Mục tiêu là vùng các thôn hoang sơ, những ngôi làng mái tranh và những hàng cây khô héo nằm trên biên giới với Cămpuchia ở phía bắc Đồng bằng sông Cửu Long.  Chính quyền Sài Gòn chưa bao giờ áp đặt kiểm soát lâu dài trong khu vực này và thường do phía Cộng sản chiếm giữ.  Chính vì vậy, đây là trò chơi công bằng cho những nhà chiến lược quân sự.  Horst đi cùng một xe bọc thép, trong hai ngày không có sự kiện diễn ra nhưng đến ngày thứ ba đội quân gặp phải cuộc tấn công du kích của Việt Cộng.  Họ bắn phá từ các bụi cây phía dưới và sau đó rút qua một làng về phía biên giới.  Một cố vấn quân sự Mỹ ngồi cùng xe với Horst gọi máy bay cứu viện tấn công để chặn những kẻ trốn chạy, và trong vòng vài phút, bom nổ và bom napan dội xuống những ngôi nhà.  Dòng xe bọc thép tiến về phái trước trong khi trực thăng rú vang lần theo dấu Việt Cộng qua làn khói và những ngôi nhà bốc cháy.

Horst ở lại phía sau.  Đây là lần đầu tiên anh ta ở lại trong làng ngay sau vụ tấn công không quân.  Anh ta sốc với sự tàn sát ngay trước mắt mình.  Tối đó, khi bước vào văn phòng anh ta nói với tôi đó là lần tồi tệ nhất mà anh ta đã chứng kiến trong ba cuộc chiến tranh.  Khi những tấm ảnh in ra, tôi hiểu anh ta muốn nói.  Trong một bức ảnh, một người nông dân ôm chặt đứa con hai tuổi của mình trong tay.  Quần áo của đứa trẻ bị cháy bởi bom napan và những mảng thịt cháy xém từng mảng.  Trong một bức ảnh khác, một người nông dân ôm cơ thể đứa con bị thương đưa lên cho những người lính liếc nhìn vô cảm từ phía trên chiếc xe bọc thép.

Sau đó Gallagher bước vào sau cuộc phỏng vấn với Đại sứ Lodge.  Gallagher nói rằng các biên tập viên ảnh ở Mỹ muốn biết làm sao những điều như vậy có thể xảy ra khi quân nhân Mỹ đã nhúng tay vào.  Ông ta nói tình tiết cần cân bằng để tránh sự phẫn nộ của các nhân viên Chính phủ ở Washington đang nghi ngờ chúng tôi thiên vị.  Điều đó có nghĩa chúng tôi phải chỉ ra Việt Cộng cũng chịu trách nhiệm cho những hành động tương tự như vậy.

Theo yêu cầu của ông ta, tôi viết một bài về những bức ảnh chỉ ra cả hai bên đang xây dựng kho vũ khí đạn dược và chiến tranh đã bước vào tiến trình mới khốc liệt.  Tôi trích lời một quan sát viên: “Lòng căm thù lớn dần lên ở hai phía.  Nhiều kế hoạch được lập ra hơn” và tôi muốn nói rằng những người dân ở trong tình trạng nguy hiểm hơn bởi Chính phủ sử dụng lực lượng dội bom napan.  “Vấn đề khó xử về đạo đức chúng ta đối mặt ở đây cũng giống như những gì chúng ta đối mặt ở Triều Tiên hay bất kỳ cuộc chiến tranh nào chúng ta tham gia”, tôi trích lời cố vấn Mỹ, người đã nói chuyện với Horst ở chiến trường.  “Chúng tôi không muốn nhìn thấy người dân bị giết và họ bị giết vì đó là hậu quả tồi tệ của chiến tranh”.

Vào tháng 1, vài trăm Việt Cộng đã vào huyện Bến Cầu ở Tây Ninh.  Tỉnh trưởng yêu cầu hàng rào pháo binh san bằng ngôi làng giết rất nhiều kẻ thù nhưng cũng liên quan tới nhiều người dân vô tội.  Tôi chỉ ra vụ giết Việt Cộng bốn ngày trước đó ở tiền đồn Nhi Bình cách Sài Gòn hai mươi dặm về phía Nam, nơi những người có liên quan đến lính miền Nam Việt Nam - phụ nữ và trẻ con bị đâm chết bằng lưỡi lê.  Tôi lưu ý vụ đốt cháy làng Cao Đại ở Phú Mỹ vào tháng 9 bởi vì người dân từ chối công nhận Chính phủ và vụ chém đầu nông dân ở tỉnh Kiến Hoà vì từ chối đóng thuế Việt Cộng.

Gallagher hài lòng với danh mục những tàn khốc chiến trường mà chúng tôi đề cập từ viễn cảnh tới nỗi sợ hãi.  Cả hai bên đều tàn khốc.  Nếu sự thật là một bức tranh đáng giá hàng nghìn lời nói thì tôi nghĩ tôi nghi ngờ những giải thích cặn kẽ của chúng tôi làm giảm bớt những ảnh hưởng từ những bức ảnh của Horst.

Bấy giờ cuộc chiến được những tay nhiếp ảnh tự do khám phá.  Những người mạo hiểm cả cuộc sống của mình để đổi lấy những bức ảnh 15 đô la mà Horst trả cho họ.  Đôi khi từ ngữ không thể chuyển tải bằng những bức ảnh.  Mal Browne chớp được một bức ảnh một lính Việt Nam đang cố gắng xiết cổ một nông dân bị thương khi buộc cổ anh ta vào cột.  Một cộng tác viên mang về bức ảnh một tù nhân Việt Cộng bị kéo tới chết bằng sợi dây buộc phía sau chiếc xe bọc thép đi chệch choạng trên đầm lầy.  Một cộng tác viên khác bán cho chúng tôi bức ảnh một lính hải quân Cộng Hoà mang ba chiếc đầu du kích Việt Cộng đầy máu.

Tháng 10-1964, phóng viên ảnh tự do Jim Pickerell đi cùng tiểu đoàn biệt kích Cộng hoà tới gần biên giới Cămpuchia để bắt ba người dân bị tình nghi liên quan đến vụ mai phục tuần trước.  Người tù bị trói sau lưng, lính dùng hình thức tra tấn bằng nước để bắt họ khai, bắt họ quỳ xuống rồi dội nước vào giẻ đắp lên mặt họ.  Hậu quả giống như chết đuối vậy, và gây ra cái chết bị sặc nước.  Jim chụp đủ các loại ảnh về chủ đề man rợ: một trong những người tù bị dúi đầu xuống một bình nước to trong vài phút trước khi được kéo ra khi gần chết đuối. 

Mal dường như muốn truyền tải sự man rợ này, viết một bài bình: “Khủng bố và chống khủng bố là chủ đề thường xuyên của lịch sử quân sự và chính trị Việt Nam trong nhiều thế kỷ và nó đang tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong cuộc chiến tranh khốc liệt ngày càng đẫm máu nơi đây”.  Anh ta miêu tả tra tấn và kết luận những nạn nhân còn sống được là may mắn: “Cơ hội sống sót trong các cuộc thẩm vấn chiến trường là rất hiếm hoi.  Những cái chết của tù nhân dưới bánh xe bọc thép, chém đầu hoặc bị chảy máu tới chết hay tay bị chặt hoặc một viên đạn xuyên qua đầu.  Tất cả đều là một phần của chiến tranh ở miền Nam Việt Nam”.

Lúc đó một người nhận xét rằng Hiệp Định Giơnevơ chưa bao giờ được dịch sang tiếng Việt và đó là lý do không ai kiểm chứng được nó.  Thật buồn cười.  Thực tế, mọi người chỉ đưa ra lời nói đầu môi đối với Luật Quốc tế về Chiến tranh và đổ lỗi cho bên kia vì vi phạm nó.  Những bản tin của chúng tôi có xu hướng nhấn mạnh vào phía chính quyền vì chúng tôi không có cơ hội viết về những người Việt Cộng bí mật.  Chúng tôi chỉ thấy phản ứng từ phía họ: những xác chết hay những tù nhân ở chiến trường hoặc những tàn phá của những cộng đồng mà họ tấn công.

Phóng viên Mỹ không mong muốn trở thành công cụ phản đối quốc tế, nhưng đang bị kéo vào tình trạng khó xử.  Chúng tôi không lập nền tảng hoàn hảo để lờ đi thực tế của chiến trường và nhắm mắt làm ngơ sự thật là chính sách của Mỹ đang thất bại.

Giữa tháng 12, trong chiến dịch phòng thủ mới đặc biệt, những người cộng sản bắt đầu tiến hành những cuộc tấn công với mức độ hai tiểu đoàn mỗi ngày chống lại những ngôi làng đã được củng cố và những đơn vị bộ binh khá thành công.  Chỉ trong một tuần, tôi viết về những hậu quả đẫm máu sau ba cuộc tấn công như vậy ở phía nam Sài Gòn.  Đỉnh điểm là cuối năm đó tại một làng lánh nạn Thiên Chúa giáo ở Bình Giã cách sài Gòn 40 mươi dặm về phía đông.  Horst là người đầu tiên có mặt tại hiện trường cùng với lính thuỷ đánh bộ Cộng hoà đã giải phóng thị trấn sau khi Việt Cộng trấn giữ ba ngày.  Tôi phải mất một ngày mới tới đó.  Phóng viên ảnh Henri Huet cố gắng đi nhờ trên một trực thăng nhưng không được nên đành sử dụng chiếc Ghina Karmann trắng của tôi.  Chúng tôi lao qua những chiếc xe quân đội, xe ngựa và những người đi bộ cho tới khi nhìn thấy những lính bị thương đầu tiên đang được chữa trị trên đường cao tốc.
 
Màn đầu tiên của trận đánh đã kết thúc.  Khung cảnh nhắc tôi nhớ trận Ấp Bắc trước đó hai năm khi một tiểu đoàn Việt Cộng quyết địnhk ở lại chiến đấu và giành chiến thắng.  Tại Bình Giã, một tiểu đoàn lính Cộng hoà tấn công một trung đoàn Việt Cộng và bị đánh tan tác.  Chúng tôi quan sát vài nghìn lính đang được đưa vào chiến trường.  Họ nói cho chúng tôi biết tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ cùng các cố vấn Hoà Kỳ đã đi vào một trong những rừng cao su của Pháp gần đó để tìm kiếm tàn tích của chiếc trực thăng bị bắn rơi bốc cháy cùng bốn người Mỹ trên đó.  Suốt đêm đó chúng tôi nghe thấy tiếng vang dội của trận chiến cách đó nửa dặm khi lính thuỷ đánh bộ gặp phải Việt Cộng.  Sáng hôm sau Huet và tôi đi bộ về phía rừng cao su, bước vào cảnh hoang tàn.  Tôi đã viết:

“Bình Giã, miền Nam Việt Nam, ngày 2-1.  Trung uý lính thuỷ đánh bộ Hoa Kỳ lần đầu tiên nhìn thấy Việt Cộng qua ống nhòm cách dó khoảng một nghìn thước: có một số nhóm quân mặc đồ kaki có vũ khí và đội mũ sắt, Việt Cộng đã di chuyển gần hơn, chậm rãi ẩn mình qua từng gốc cây trong rừng cao su sau một trận càn bởi lực lượng Không quân Cộng hoà và nhiều súng máy trực thăng bắn phá”.

“Đây không phải là lính du kích, họ là lính chính quy”, sĩ quan lính thuỷ đánh bộ hét lên trên bộ đàm của anh ta với đội chỉ huy bay phía trên hàng cây cao su trong trực thăng.  Anh ta thét “bổ sung lực lương không quân vào đây”.  Đó là lần cuối cùng đại tá John B. Wadsworth nói rằng “Tất cả những gì chúng tôi biết dưới kia là địa ngục chiến trường” và “chúng tôi biết nó tồi tệ như thế nào”.

Lời nhận xét của ông ta được chứng minh đúng vào ngày thứ bảy.  Rừng cao su vốn lạnh lẽo, yên tĩnh, nay càng thêm lạnh lẽo bởi những xác lính thuỷ đánh bộ.  Những hàng xác lính nằm trong ánh nắng mặt trời trang nghiêm bên cạnh một chiếc trực thăng, lá chuối được ném phủ lên họ.  Những lính khác tiếp tục chuyển những thi thể ra khỏi rừng trên những chiếc cáng thô sơ.  Phóng viên giật bắn với một lính biệt kích bị thương trốn trong bụi cùng những viên đạn ở chân anh ta.  Anh ta đã ở đó từ khi một tiểu đoàn lính biệt kích bị tiêu diệt vào thứ ba tuần trước.  Ba trung uý lính thuỷ đánh bộ Mỹ uể oải bơ phờ bên bộ đàm chiến trường, một trong số họ giọng tức giận trên loa: “Cậu nói bao nhiêu? Bao nhiêu? được rồi 67”.  Quay sang một phóng viên, anh ta bình luận: “Đó là con số bây giờ chúng ta có, con số tổn thất.  Chúng ta cũng tìm thấy thi thể của bốn người Mỹ”.

Đó là cuộc tìm kiếm bốn người Mỹ bị bắn hạ, bốc cháy trong một trực thăng trên những hàng cây cao su đêm thứ tư, dẫn tới việc di chuyển của Tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ 4 vào rừng cao su gây nên thảm hoạ.  “Chúng ta phải đưa những người Mỹ này ra”, một sĩ quan Mỹ nhận xét ở Bình Giã.  Cái giá phải trả quá cao - khoảng 250 lính thuỷ đánh bộ tử trận, một nửa tiểu đoàn.  Một số sỹ quan Mỹ nói rằng lính thuỷ đánh bộ tìm kiếm rắc rối khi đứng lại chờ mười bốn tiếng trước khi họ hướng vào tìm kiếm tàn tích.

Đại tá Wadsworth nói:  “Các cố vấn lính thuỷ đánh bộ của chúng tôi nói họ có thể rơi vào bẫy của Việt Cộng.  Chúng tôi đã hết sức cảnh giác”.  Nhưng cảnh giác vẫn chưa đủ.

Trận Bình Giã đánh dấu một năm tồi tệ nhất chiến trường Việt Nam, mở ra một thời kỳ đổ máu tồi tệ hơn, một thập kỷ chiến đấu đưa người Mỹ vào họng súng của Việt Cộng và đặt Mỹ vào đống hỗn độn.  Đối với chúng tôi là những phóng viên, kỹ năng quân sự của lính Việt Cộng và sự dũng cảm của họ thật ghê gớm.  Tuy nhiên, chúng tôi thường bị ngăn cản miêu tả kỹ năng chiến trường thiện chiến của họ.

Một thông điệp gửi văn phòng Sài Gòn từ biên tập viên ngoại sự Ben Bassett của AP đưa ra các quy định.  Bassett viết: “Chúng ta đang tiến tới sàn diễn mà nếu chúng ta chưa tới được nơi những bản thảo của chúng ta bị các nhân viên góp ý về bất cứ dòng nào nói bi quan hoặc được coi là mang giọng xã luận.  Điều này không cần thiết chặn trước những câu chuyện nói đúng sự thật chúng ta quan sát, hãy tiếp tục những công việc cao cả của các bạn nhưng chúng tôi muốn bản thảo chúng ta được đọc lần thứ hai để đảm bảo cho sự an toàn cũng như sự phát triển của chúng ta.  Tôi lưỡng lự chỉ ra một ví dụ vì có thể ảnh hưởng tới tất cả chúng ta nhưng tôi kêu gọi mọi người chú ý vào đoạn cuối trong câu chuyện Sài Gòn của John Wheeler vào ngày 6-8 nói rằng: “huấn luyện tốt và nồng nhiệt cống hiến là nguyên nhân Việt Cộng đưa ra mọi chỉ dẫn cho những chiến thắng liên tiếp cùng những phương pháp mà đến giờ vẫn rất thách thức”.  Tôi không nghi ngờ những từ ngữ và văn cảnh là thật nhưng chúng ta có thể tránh những thiên vị vô dụng đối với một phía hoặc bên kia và đặc biệt tránh những dự đoán chúng ta hoàn toàn không có đầy đủ cơ sở thông tin.  Trong khi  tiếp tục viết những câu chuyện như những gì được xem là tích cực hoặc khả quan theo quan điểm của Hoa Kỳ.  Nói cách khác, đừng hạn chế viết các câu chuyện nhưng phải đảm bảo chúng ta đang nói một cách đầy đủ”.

Trong ghi chú làm tin cho Trưởng phân xã của chúng tôi, Bassett viết: “Tôi chắc anh hiểu những gì tôi đang nói.  Đó chỉ là vấn đề truyền tải triết lý cho toàn bộ nhân viên.  Đã đến lúc cho những cái đầu lạnh và sự phản ảnh về những bản copy của chúng ta nếu bị thách thức.  Tôi đã gửi cho anh một bản copy về câu chuyện của Wheeler, chỉ ra một số cú ngữ được thay đổi mà không làm nhạt đi những điểm quan trọng của một câu chuyện hay.  Không một điều gì ở đây chứng tỏ thiếu lòng tin vào anh và nhân viên của anh.  Tôi biết một số bản copy ra khỏi Sài Gòn vào những giờ nhạy cảm phải được kiểm duyệt không gây nhiều chú ý.  Chúng tôi sẽ cố gắng làm phần việc của chúng tôi”.
TIẾP CẬN


Khi chiến tranh Việt Nam bắt đầu trở thành vấn đề trầm trọng ở Mỹ, tôi cố gắng vận dụng lời khuyên của Gallagher là tiếp cận các vị tướng Mỹ.  Như một binh nhì trước đây, tôi luôn kính trọng quyền lực của những ngôi sao bạc trên quân hàm của các tướng lính.  Nhưng kinh nghiệm đầu tiên không may mắn của tôi là với một sỹ quan Mỹ vào loại thâm niên lâu năm, tướng Paul D.Harkins, Tổng chỉ huy Quân đội Hoa Kỳ thời Diệm.  Ông ta xem các cơ quan báo chí Sài Gòn như những thằng đần nguy hiểm.  Trong vài dịp đối mặt với ông ta, tôi nghĩ ông ta nói dối tôi triệt để.  Khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, chúng tôi đều cho rằng những ngày của Harkins chỉ còn đếm trên đầu ngón tay.  Khi ông ta nghỉ hưu vào tháng 6-1964, chúng tôi vui mừng bắt đầu trang mới với người kế nhiệm, tướng William Westmoreland.  Tôi tới sân bay Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn cùng các hãng báo chí ngóng đợi khi một sỹ quan 50 tuổi tóc hoa râm, gầy với danh tiếng một chỉ huy năng động đến.

AP nghĩ họ có thế lực với Westmoreland vì Wes Gallagher từng một lần cứu Westmoreland khi xe jeep của ông ta lao vào rãnh bên đường trong chiến dịch Bắc Phi trong Chiến tranh thế giới thứ hai.  Gallagher giữ liên lạc với Westmoreland như hai người bạn thân và cả hai đều thăng tiến trong những công việc đáng kính của mình.  Chúng tôi chẳng nhận được sự ưu ái đặc biệt nào từ tổng chỉ huy nhưng Westy cho phép Roy Essoyan đi cùng trong chuyến đi thực tế chín tiếng xung quanh vùng chiến và nói với anh ta về sự cấp thiết phải đoàn kết chính phủ và nhân dân ngoài những nỗ lực quân đội.  Essoyan viết một tiểu sử sơ lược tâng bốc Westmoreland như rất nhiều đồng nghiệp của tôi đã làm.  Nhưng tôi chả bao giờ tiếp xúc đủ thân mật với ông ta để viết một bài và khi chiến tranh leo thang tôi cảm thấy vị chỉ huy cấp cao của Mỹ không ưa tôi.  Tôi biết tôi không thực hiện được mệnh lệnh của Gallagher khi ông ta thông báo Robert Tuckman, Trưởng phân xã AP ở Sài Gòn tới sau: “nhiệm vụ của anh ta là tiếp cận các tướng, hãy để Arnett và những người khác ra ngoài làm tin”.

Chính quyền quân đội muốn chúng tôi miêu tả Việt Nam như một đồng minh đáng tin cậy và có giá trị của Mỹ.  Nhưng điều đó không phù hợp với những gì chúng tôi chứng kiến: giới lãnh đạo thiếu quyết tâm, tham nhũng tràn lan và đất nước đang chìm vào nhánh sông của chính nó đào ra.  Trong những cuộc chiến tranh của Mỹ trước đó, nhận thức về mục đích quốc gia và kiểm duyệt luôn tạo ra không khí làm việc êm ái giữa quân đội và truyền thông.  Ở Việt Nam thì chả có mục đích quốc gia hay kiểm duyệt gì.  Chính quyền mới không thể tạo ra được điều thứ nhất và cũng không vui vẻ áp dụng điều thứ hai.

Dù Westmoreland cố gắng tiếp cận giới báo chí một cách nghiêm túc và đáp lại, chúng tôi cũng dành cho ông ta sự nỗ lực chân thành để làm hài lòng ông ta nhưng rất khó tiếp tục nói những điều tốt đẹp.  Các sự kiện liên tiếp cần được viết và phân tích, và chúng tôi buộc lòng phải đặt câu hỏi miền Nam Việt Nam có thể được cứu vãn bởi chính nhân dân không và đưa ra phỏng đoán giải pháp chính trị là không thể và không cần thiết.  Chiến tranh đã leo thang bằng khủng hoảng chính trị suốt năm 1964 khi các sỹ quan quân đội tranh chấp chiến lợi phẩm từ sự sụp đổ của chính quyền Diệm, họ tổ chức một số cuộc đảo chính vớ vẩn và những trò chơi quyền lực khôi hài.  Mưu đồ chất chứa của những nhà lãnh đạo quân sự Việt Nam Cộng hoà vừa không thích hợp vừa gây ra sự lộn xộn không đáng có.  Niềm phấn khích khi kéo đổ toà nhà của Diệm được thay bằng sự chia rẽ mối đoàn kết dân tộc.

Chúng tôi lao vào các cuộc chíên với sổ ghi chú và máy ảnh, vượt qua những con đường nguy hiểm, chứng kiến các con chiên Thiên Chúa giáo chiến đấu với các Phật tử, học sinh đánh nhau, cảnh sát và quân đội cũng “quần” nhau ra trò.  Trong một bản tốc ký gửi New York ngày 31-8, Mal viết: “Vào cuối tuần trước, nhân viên AP ở Sài Gòn râu không cạo, bẩn thỉu, đói và gần như kiệt sức.  Quần áo dính đầy bùn, thấm ướt và mỗi nhân viên đều có hàng tá vết cào xước thâm tím.  Có rất nhiều cuộc gọi cho chúng tôi, lần theo những bờ tường để tránh đạn và đá, chạy nhanh nhất có thể để thoát khỏi những kẻ du thực truy đuổi trong các ngõ nhỏ và bên đường”.

Browne viết rằng Horst đang đứng cạnh một quay phim truyền hình người Đức, Gens Uwe Scheffler cùng một trong những người biểu tình Thiên Chúa giáo bên ngoài trụ sở Bộ Tổng tham mưu khi lính nổ súng, hạ gục Scheffler bằng một viên đạn qua chân.  Fass kéo anh ta tám mươi thước về phía sau ranh giới an toàn, khi trở lại với chiếc xe thuê chiều tối hôm đó anh ta thấy một người biểu tình ở ghế sau cơ thể đầy máu và anh ta đã thả xuống ở một trạm xăng gần đó trước khi lái đi.  Trong một cuộc khủng hoảng lạ lùng, lực lượng an ninh Sài Gòn quay lại doanh trại của họ và những đứa trẻ đường phố làm chủ khắp các đường chính với những rào chắn trong nhiều ngày bảo vệ vùng đất của chúng bằng gậy đinh và cọc tre vót nhọn.

Buổi tối,  Sài Gòn lắng xuống, hàng nghìn con chuột cống chạy vào từ cống rãnh tràn ra đường phố bới rác.  Vào tinh mơ khi trên đường trở về nhà, tôi luôn giữ khoảng cách với đám chuột đang kêu nhốn nháo tìm kiếm thức ăn trong bóng tối còn vương lại với ánh sáng nhá nhem của đèn đường.  Cảnh tượng này còn thêm lũ gián nhiệt đới rời chỗ ẩn náu và khe hở để nhấm nháp không khí lạnh buổi tối, chúng bò qua những bức tường, cầu thang và rúc vào trong giày của chúng tôi giống như bỏng ngô.  Một đêm rượu luý tuý, tôi loạng chọang nghĩ rằng ánh sáng đèn đường đã tắt vì chiếc cửa sắt nơi làm việc rất tối, khi tôi đẩy vào nắm cửa, tôi nắm phải một nắm gián đang bò lồm ngồm.  Toàn bộ dinh thự đầy gián.

Đó là thời gian nguy hiểm và dũng cảm.  Những bài viết của chúng tôi phản ánh điều đó khi đưa ra câu hỏi về đồng minh châu Á của Mỹ và làm nguội đi ủng hộ công chúng của chính quyền Johnson muốn mở rộng chiến tranh.  Trong chiến dịch tranh cử tổng thống của ông ta với ứng cử viên của Đảng Cộng hoà Barry Goldweter, Tổng thống đã hứa sẽ không mở rộng chiến tranh và những cậu bé Mỹ sẽ không bị ném vào cuộc chiến xa xôi mà đáng nhẽ những cậu bé châu Á phải làm điều đó.  Tôi quan sát các bản tin nói về sự quyết đoán của Johnson từ chiếc máy in telex của AP trong văn phòng và tôi không có lý do gì để không tin ông ta.  Sự cẩn trọng của ông ta phản ánh trong những bài bình luận công khai của giới chỉ huy cấp cao Mỹ ở Sài Gòn và bởi chính Westmoreland.

Nhưng những gì mà Tổng thống Johnson và phụ tá của ông ta cùng các quan chức chủ chốt bàn bạc bí mật tại nhà Trắng sớm hay muộn cuối cùng cũng được tiết lộ ở Việt Nam.  Khi Johnson chuẩn bị tung ra những cuộc tấn công lớn, để tạo bàn đạp, ông ta cố gắng dàn xếp các tổ chức báo giới của Mỹ, dụ dỗ các biên tập viên và nhân viên báo chí tô màu sản phẩm của họ theo sắc màu của ông ta, cùng những ép buộc quân đội thực hiện kiểm duyệt như các vị tổng thống khác từng ép buộc nhân viên tuân lệnh.  Gallagher thách thức quan điểm đó khi đồng ý chấp nhận kiểm duyệt nếu làm hộ những thông tin quân đội chính xác về vụ tấn công không quân bắt đầu chống lại miền Nam Việt Nam từ căn cứ không quân Đà nẵng, nhưng đề nghị của ông ta bị xếp xó, vì vậy chúng tôi đứng chờ kết thúc các trận không kích, xem những người thả bom hạ cánh và đếm khi họ trở về để xem những ai bị bắn hạ.

Sau đó, Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk cho rằng ông ta không sẵn sàng tạo ra những gì ông ta gọi là “sự quá khích quốc gia” bằng cách thực hiện sự kiểm duyệt trong các trường hợp khẩn cấp.  Nhân viên dưới mặt đất ở Việt Nam cho rằng những kiểm soát thực tế là không thể vì nếu cần thiết những nhân viên Cộng hoà sẽ tham gia vào tiến trình và một số lượng lớn phóng viên từ rất nhiều nước sẽ gặp khó khăn quan sát.  Sau này Westmoreland viết trong hồi ký của mình rằng ông ta đã xem xét nhưng bị từ chối, một số hình thức kiểm duyệt báo chí trên mặt đất không thi hành được.  Ông ta chọn lựa hướng đi thay vì tin rằng “những lợi ích lớn hơn có thể bị mất từ những chính sách thực tế tối đa”.  Tình huống chín muồi cho tranh luận, hiểu lầm và oán giận, tạo ra không khí bất hoà, giảm mối quan hệ của chúng tôi với quân đội, biến báo chí trở thành cậu bé khơi mào những thảm hoạ sắp tới.

Các nhân viên Mỹ có mặt tại Sài Gòn quá nhạy cảm với những bản tin khiêu khích mà chính sách của Westmoreland thoái thác như những gì phóng viên Jack Foisie của tờ Thời báo Los Angeles miêu tả như “sự thật tối đa với việc hoàn thành tối thiểu”.

Tháng 3-1965, tôi bắt đầu tìm hiểu việc sử dụng chất gas không gây sát thương trong những cuộc hành quân của quân đội Cộng hoà.  Tôi lần theo lời đồn đại của một cố vấn hỗ trợ dân sự Mỹ ở tỉnh Bình Long và tôi đã lưu giữ được khá nhiều tư liệu cho những tham klhảo sau này.  Tôi cũng nhìn thấy bộ đồ kỳ lạ đang được giới thiệu đúng vào chiến tranh Việt Nam cho những tay mật thám tìm tù nhân Việt Cộng tới “những người dùng ma tuý” giúp cho các trực thăng sử dụng mùi nước tiểu lần theo sự di chuyển của các đơn vị Việt Cộng trong rừng sâu.  Từ những chuyến đi của tôi dọc những con đường nằm ngoài Sài Gòn với những cố vấn dân sự và quân sự, tôi bắt đầu lắp ghép câu chuyện về những chất hoá học đang được sử dụng ở Quân đoàn 2 vùng cao nguyên và Quân đoàn 3 xung quanh Sài Gòn.  Một loạt khí gas gây phản ứng nôn mửa hoàn toàn, loại khác làm giãn ruột, còn một loại thứ ba gây ra mù tạm thời.  Loại phổ biến nhất là CS, một hình thức của khí cay.

Tư liệu của tôi ngày càng dày lên và tôi quyết định đến thăm sỹ quan thông tin liên lạc, Đại uý Richard Bryan ở văn phòng Quân đoàn Biên Hoà.  Chúng tôi thường ăn trưa ở Sài Gòn và tôi nghĩ quan hệ của chúng tôi rất tốt nhưng anh ta phủ nhận những nhận xét của tôi về hoá chất và trở nên kích động khi anh ta bị tôi ép trả lời.  Anh ta hứa sẽ hỏi cấp trên, một số cố vấn lâu năm cho Quân đoàn 3, Đại tá Jasper Wilson.  Nhưng chính quyền chẳng bao giờ trả lời và tôi đoán toàn bộ chuyện này được giấu kín.  Tôi vẫn tìm hiểu về nó và đoán rằng Việt Cộng cũng vậy và chẳng có lý do gì để ỉm tin cả.  Câu chuyện về khí gas được viết trong sổ ghi chú của tôi nhưng không có bài kiểm tra đối chứng: tôi hay bất kỳ người nào ở AP không nhìn thấy nó xảy ra và cho tới khi chúng tôi làm điều đó thì nó đã không còn tồn tại nữa.

Horst bắt được dịp may.  Vào ngày 20-3, một cố vấn Mỹ qua nhà mời anh ta tham gia chiến dịch lính bộ binh Việt Nam Cộng hoà ở tỉnh Hậu Nghĩa sáng hôm sau.  Anh ta tiết lộ điểm mới của chiến dịch: những người lính sẽ thử nghiệm các chất hoá học! Tôi nôn nóng đợi Horst quay về văn phòng.  Horst đã xuất hiện vào chiều tối, chiến thắng rạng ngời trên khuôn mặt ướt mồ hôi của anh ta khi đặt những cuốn phim lên bàn.  Khoảng một nửa số lính ở tiểu đoàn Việt Nam Cộng hoà được trang bị mặt nạ khí gas bằng cao su, hộp chứa gas với mệnh lệnh là bắt buộc nổ chúng nếu bị Việt Cộng tấn công.  Những chất hoá học này tuy không được sử dụng ngày đó nhưng các sỹ quan hay nói về chúng.  Họ còn lưu ý trực thăng và những máy bay ném bom Hoa Kỳ đã được trang bị những thùng lớn đặc biệt để giữ khí gas ở thể lỏng cùng vòi phun trên các chiến trường.  Nó đặc biệt có tác dụng hạ gục những tù nhân bỏ trốn.

Chúng tôi quyết định sử dụng chi tiết này ngay lập tức mà không cần tìm thêm những lời bình luận từ chính quyền quân sự vì họ đã thờ ơ với những yêu cầu trước đây của tôi.  Tôi đánh máy lời dẫn câu chuyện và chỉ cho Horst xem: “Hoa Kỳ đang thử nghiệm chất gas chiến tranh chống lại Việt Cộng, một nguồn tin khá tin cậy đã nói hôm nay.  Nguồn tin thông báo, cả lực lượng Mỹ và Cộng hòa đã sử dụng khí gas để chống lại cộng sản. Một số thử nghiệm đã thành công, một số thất bại và họ sẽ tiếp tục làm.  Rất nhiều loại gas không gây sát thương đã được sử dụng chống du kích Quân khu 2 và 3 Cộng hoà.

Horst gật đầu khi tôi tiếp tục đánh máy chi tiết những loại hoá chất được và chỉ ra chúng tấn công vào mắt, mũi và tạo ra sức đốt cháy lớn trong cổ họng, phổi và hạ gục bất cứ ai khi trốn chạy.  Tôi viết rằng Fass đã sát cánh cùng với lính Việt Nam Cộng hoà ở một trong những chiến dịch thử nghiệm đặc biệt tại chiến trường.  Tôi trích lời một sỹ quan Việt Nam Cộng hoà: “Đó là cách thức nhân đạo để dọn sạch khu vực của kẻ thù nơi phụ nữ và trẻ em đang bị bắt giữ”, đặc biệt khi họ phát hiện những hầm trú ẩn là nơi ẩn náu mà Việt Cộng ưa thích.

Tôi đưa quan điểm phản diện từ phía người bạn cố vấn của Horst rằng việc sử dụng những loại gas này chỉ trong giai đoạn thử nghiệm và không được chứng minh có hiệu quả “Mặc dù những chất sử dụng ở đây không gây sát thương và không có ảnh hưởng lâu nhưng ý tưởng đó mang lại sự hồi tưởng về Chiến tranh thế giới thứ nhất và việc sử dụng hơi độc i-pê-rit”.

Câu chuyện có ảnh hưởng hơn những gì tôi viết.  Đó là tin sốt dẻo được chứng nhận đầu tiên của tôi.  Đã  nổ ra tranh luận từ Matxcơva tới Tokyo.  Đó cũng là vấn đề được tranh cãi ở Quốc hội Anh và dấy lên phong trào phản đối chiến tranh ở bán đảo Scandinavia.  Những nhà bình luận này tỏ mối nghi ngại ở Hoa Kỳ.

Chỉ huy quân sự Hoa Kỳ ở sài Gòn bế tắc.  Đối thủ cạnh tranh của chúng tôi đang đập cửa các phòng thông tin yêu cầu cũng cấp những tư liệu cho các câu chuyện về những gì chúng tôi đã viết ra.  Các quan chức Washington đưa ra tầm quan trọng của cuộc thử nghiệm, thậm chí khi họ công nhận những hoá chất đó đã được sử dụng ở ba dịp khác nhau.

Tôi tranh luận nếu chỉ huy Hoa Kỳ đáp lại các yêu cầu giải thích vào những tuần trước đó thì tôi đã đưa quan điểm của họ trong câu chuyện của mình.

Chính phủ Hoa Kỳ quyết định tước bỏ quyền hạn của Westmoreland sử dụng hoá chất trong nhiều tháng tới tận khi cuộc tranh luận lắng xuống và những loại vũ khí khác nhau như bom napan gây tranh luận hơn.

Sau này, Westmoreland viết rằng, cuộc tranh luận về việc sử dụng chất gas không sát thương là một “trong những cuộc tranh luận ngu ngốc về chiến tranh Việt Nam” và ông ta gọi những hoá chất đó là “một trong những vũ khí nhân đạo nhất tuỳ ý sử dụng”.
Câu chuyện của tôi không mang cho tôi thêm người bạn nào trong việc thiết lập mở rộng quan hệ ngoại giao với giới chức quân đội Hoa Kỳ, những người đang đảm nhận mở rộng cuộc chiến và cố gắng làm mềm mại hình ảnh mà họ tạo ra.  Tôi được thông báo vào những ngày đầu chiến tranh rằng các phóng viên được mong đợi nhấn mạnh những điểm tích cực khi viết về những người lính để gia đình họ ở quê nhà không lo lắng.  Vào đầu năm 1965, những người mẹ có con trai tham chiến ở Việt Nam mua những tờ báo địa phương ngày 4-3 và đọc câu chuyện của phóng viên George McArthur của AP về sự mạo hiểm của con trai thân yêu của họ ở sài Gòn đang phải đối mặt.  Một lính Mỹ dừng lại đùa vui cùng một cậu bé người Việt Nam “có thể bị 6 hoặc 8 đứa trẻ vây lại xô ngã, cướp đồng hồ, ví, đôi khi cả ủng của anh ta, tất cả chỉ trong vài giây trước khi những đứa trẻ bỏ trốn”.  Những kẻ móc túi rất nhanh, cảnh sát thường kêu ca, “đồng phục lính của các anh có phần không thích hợp, túi quá nông và không có cúc và đôi khi tôi còn nhìn thấy ví của các anh lòi ra ngoài”.  Lính là con mồi dễ dàng cho những phụ nữ đàng điếm móc túi, hai hoặc ba trong số họ dụ dỗ một anh lính vui vẻ say đắm trong những quán bar hoặc những con đường tối.  Khi mọi chuyện kết thúc, anh ta trở thành một gã trai nghèo”.

Một kỹ sư quân đội Hoa Kỳ tóc đã điểm mầu muối tiêu phàn nàn với tôi ở Biên Hoà rằng “Tôi được trang bị thời Chiến tranh thế giới thứ hai tốt hơn bây giờ” và anh ta đưa ra một số ổ đạn han rỉ được cấp vài ngày trước đó mà anh ta rất sợ sử dụng.  Anh ta nói rằng trước khi lên đường tham gia chiến tranh, anh ta được cấp thắt lưng, súng lục Chiến tranh thế giới thứ nhất và ba lô hành lý đã cũ, “và lần này tôi được biết Bộ Quốc phòng nói người Mỹ ở Việt Nam được trang bị là lính chiến đấu tốt nhất từ trước tới giờ khi tác chiến ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ.  Họ phải chỉ cho tôi thấy điều đó”.  Một cố vấn lính thuỷ đánh bộ Hoa Kỳ than phiền anh ta được cấp những viên thuốc lọc nước uống “nhưng khi tôi thử dùng thì phát hiện chúng đã bị hỏng, vón lại thành từng cục”.  Tôi tìm được một trung uý quân đội nói rằng: “Tôi biết, nếu tôi đi tới Sở Chỉ huy quân sự Hoa Kỳ và cãi lộn tôi sẽ được cấp áo pon sô và những hiện vật khác tôi đang thiếu nhưng tôi mãi mãi chỉ là trung uý trong suốt cuộc đời mình”.

Mối quan hệ của chúng tôi với Sở Chỉ huy quân sự rất căng thẳng khi tôi viết câu chuyện đó.  Tôi đã cảnh báo văn phòng Washington khi gọi đến Lầu Năm góc nhưng tôi quyết định không chờ thêm lời bình luận công khai.

Westmoreland rất tức giận.  Một trong những phụ tá của ông ta gọi điện cho Mal kêu rằng câu chuyện đó nhạy cảm và không đại diện cho sự thật nhưng chúng tôi đều đứng về phía nó.  Mal cảnh cáo tôi đang ở trong “chuồng chó” của chỉ huy cấp cao và sẽ không có nhiều sự hợp tác trong tương lai từ họ và một phần nào đó tôi bắt đầu khốn đốn bởi những phản ứng gay gắt mà những câu chuyện của tôi đang khuấy động.  Tôi cảm nhận sự đối đầu khác đang lớn dần từ chân trời, gom thành cơn bão đe doạ nghề nghiệp của mình.  Nhưng hơn lúc nào hết, tôi cảm thấy mình vững vàng trong chuyên môn về những câu chuyện về Việt Nam.  Ba năm là trường học hoàn thiện kỹ năng báo chí dưới sự dạy dỗ của AP, Mal Browne và Dave Halberstam đã giúp tôi chuẩn bị cho những cuộc đối dầu sắp tới.  Vào tuổi 30, tôi vẫn còn cái huênh hoang của tuổi trẻ, giúp mình vượt qua những nỗi sợ hãi của chiến tranh và cho phép mình tham gia vào những trận chiến này, những đơn vị lính thuỷ đánh bộ mới đến và những cố vấn Mỹ đang chuẩn bị bước vào hành động cùng quân đội Việt Nam Cộng hoà.

Tôi biết sẽ không bao giờ được mời lên trực thăng của tướng Westmoreland, nhưng có rất nhiều cách đi lại ở Việt Nam.  Vào những ngày chiến tranh tạm lắng xuống, tôi không đi ra hiện trường bằng máy bay vận chuyển lực lượng không quân Hoa Kỳ hay trực thăng quân đội, tôi lái chiếc Ghia Harmann thể thao màu trắng của mình thăm thú vùng nông thôn.  Nhân viên AP ở Việt Nam ngày càng đồng, tôi được một chút độc lập và có thể thăm những điểm tôi thích.

Đôi khi tôi lái xe rất nhanh trên đường cao tốc Hữu nghị Mỹ tới thành phố giao lộ của Biên Hoà, nhận thấy những đội tuần tra giao thông là thiếu vắng của chiến tranh.  Những dấu hiệu đáp lại công trình quân sự của người Mỹ: người dân nông thôn dựng những quán giải khát bên đường thu hút lính qua đường và bán rong Coca Cola, Fanta trong chai ướp lạnh bằng những thanh đá bụi.  Ngoài ra, còn có những dịch vụ khác.  Xe tải quân đội Mỹ ầm ầm rúc vào những lều quán tạm bợ để rửa xe và thưởng thức dịch vụ massage, nơi những thanh niên vui tính bận rộn với những chiếc xe cồng kềnh bằng các chậu xà phòng ngầu bọt và vòi nước trong khi đám phụ nữ giải khuây sự thèm khát và cô đơn của những tay lái xe ở phía sau nhà.

Qua Long Bình là con đường 15 có những trạm lính gác người Việt và những toà nhà canh gác nơi những người lính làm phiền xe tôi và sau đó vẫy cho qua chỉ để đảm bảo tôi không mang sự nguy hiểm an ninh nào và nếu họ làm phiền, tôi sẽ khua chiếc thẻ báo chí của mình và kiêu ngạo bằng tiếng Việt “báo chí, báo chí”.  Sau đó tôi đến rừng cao su của Long Thành nằm hai bên đường cao tốc, những hàng cây xếp thẳng trải dài ra phía xa là những con đường thuận tiện cho du kích Việt Cộng mai phục. đôi khi họ nhảy xuống đường, súng loé sáng trong cuộc phục kích đẫm máu.  Tôi hiếm khi lái xe một mình vào ban đêm.  Người ta thường nói đêm thuộc về Việt Cộng bởi vì người miền Nam hiếm khi đi vào đêm.

Tôi lo lắng khi Washington công bố ngày 7-3-1965 rằng ba nghìn lính thuỷ đánh bộ của Mỹ sẽ dặt chân vào Đà nẵng sáng hôm sau.  Một số cố vấn quân sự Mỹ thích nói họ tức giận với đồng minh Việt Nam và tất cả những gì cần làm là dọn sạch Việt Nam cho tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ vào mũi Cà Mau và sau đó hành quân tới vĩ tuyến 17, điểm ranh giới chia cắt miền Bắc và miền Nam năm 1954.  Điều đó có thể có hiệu quả nếu du kích Việt Cộng chiến đấu với cụm 2 hoặc cụm 3 người, nhưng bây giờ họ được tổ chức tốt, theo từng đơn vị đông bằng những tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ.

Tính bốc đồng của nhà báo trong tôi tràn đầy và tôi đặt nó cạnh những mối quan tâm của mình.  Những người lính chiến đấu đầu tiên của Mỹ tới miền Nam Việt Nam là điểm hấp dẫn cho tất cả chúng tôi.  Tôi cùng một số phóng viên đi về phía Bắc, tới Đà Nẵng viết về lính thuỷ đánh bộ.  Lính Mỹ vào thời điểm đó làm tôi rất ấn tượng về kinh nghiệm và sự trưởng thành của họ.  Họ đều là những sỹ quan chuyên nghiệp và những người đàn ông có tên được tuyển chọn đặc biệt cho những nhiệm vụ với người Việt Nam.

Những thiếu uý lính thuỷ đánh bộ mới được đề bạt ở Đà Nẵng đầu húi cua trông bạo dạn và trẻ hơn.  Họ không giống những kẻ gây gổ đường phố, họ tới để chiến đấu.  Đội tuần tra lính thuỷ đánh bộ đầu tiên mà tôi đi cùng vào tháng 4 tự tin, phấn khích và có lần một số người dân  nghĩ rằng quân đội Pháp đã quay trở lại.  “Vive les Francais”, một người đàn ông già  người Việt Nam mặc áo lụa đen quần trắng thét lên khi trung đội lính thuỷ đánh bộ đi lại khó khăn trên con đường quanh đồi ở An Suk.  Tiếng thét vang dội quanh những kho bê tông thành hàng trên những ngọn đồi, những tàn tích đổ nát tưởng nhớ về nỗ lực duy trì ở Đông Dương không thành công của người Pháp cách đây một thập kỷ.

“Ông già đó muốn gì? Candy?”, một lính thuỷ đánh bộ trẻ tuổi hỏi khi chất những đồ dùng quân sự nặng trong cái nắng gay gắt.  “Nghe như có vẻ ông ta nghĩ chúng ta là những người Pháp.  Thật buồn cười”, một người khác nói: “Họ thua, còn chúng ta sẽ không như vậy”.

Họ ở Tiểu đoàn 2, Trung đoàn lính thuỷ đánh bộ 3, và đang nhún nhẩy.  Những lời nói của Tổng thống Johnson về việc miễn thuế mới cho quân nhân phục vụ ở Việt Nam vừa mới tới họ.  “Tôi chỉ hy vọng tôi sống để sài những gì tôi tiết kiệm”, một cai đội nhận xét.  Những người lính đó đã từng một lần tham gia đi tuần ngoài căn cứ không quân Đà Nẵng và hôm nay họ đang hăm hở cho cuộc chiến.  “Tôi biết tôi sẽ bị thương bằng cách này hoặc cách khác trước khi ra khỏi Việt Nam.  Tại sao không phải là hôm nay?”, một người bình luận.  Người khác đáp lại: “Tại sao không phải là tôi bị bắn, các cậu, tôi phân vân không biết điều đó như thế nào?”

Sự tranh luận sôi nổi tăng lên tới hơn 100 độ C trước buổi trưa.  “Chúng ta có cả một đám các cậu bé cùng chúng ta”, một chỉ huy đại đội, Đại uý Peter Yard, trông giống một người cha dẻo dai.  Cái gì anh ta cũng nói rằng người đàn ông to như súng cối 81mm nhấc những chiếc ống nặng và đạn dược đã tiêu thụ gần hết nước của họ  trước buổi trưa.  “Điều đó quá tệ.  Họ có hai căngtin để nuôi họ một ngày.  Đó là tất cả những gì họ có”.

Cái nóng càng trở nên gay gắt.  Trung đoàn 2 đi chậm lại và trung đội trưởng lo lắng.  Anh ta đã ở ngoài tầm liên lạc bộ đàm vì họ ở quá xa nhưng đã lên được tới đường, đầy bùn, đầm đìa mồ hôi và họ đã va chạm với du kích Việt Cộng đầu tiên trong cuộc bắn phá ba mươi phút và một người bị thương.

“Tôi biết họ chắc bối rối với điều gì đó, trung đội trưởng là người quá tốt để đi khổ sai”, tay Đại uý nói hài lòng.  Anh ta sẽ nhận đươc một trái tim hồng, người lính bị thương lẩm bẩm.

Trong khi đội pháo nhìn thấy vài điều kích động, chụp lấy một người đàn ông Việt mặc đồ màu đen, mang theo súng lục có dây đeo giống Việt Cộng.  “Chúng tôi chặn anh ta thật nhanh”, Hạ sỹ Nieto nói, nhưng họ đã để anh ta di bởi vì anh ta là quân nhân Lực lượng Cộng hoà, có quyền mặc quần áo đó và mang súng.

“Rắc rối ở quanh đây”, Đại uý Yardllowsky nói, “cái quái gì vậy?”.  Hàng nghìn người Mỹ khác sẽ hỏi những câu hỏi tương tự và còn nhiều cuộc hành quân còn bi kịch hơn trong cái nắng gay gắt mà Tiểu đoàn 2, lính thuỷ đánh bộ 3 đang chịu.
SÔNG BÉ

Mối quan tâm về những người Mỹ trở nên bức thiết đến mức những bài viết của chúng tôi về nỗ lực quân sự của người Việt giảm hẳn.  Những tờ báo ở hậu phương nước Mỹ quan tâm tới những câu chuyện về những người lính quê nhà của họ hơn.  Các biên tập viên tận dụng góc cạnh địa phương, giờ thông cảm hơn với những bài tin chiến trường của chúng tôi mà những chàng trai Mỹ liên quan trực tiếp.

John Wheeler, Ron Deutsch, Ed White, George Esper, Bob Poos, Hugh Mulligan và tôi giúp hệ thống bán tin AP làm việc với “những người ở nhà” rằng bất kỳ chúng tôi viết gì về những người đàn ông hay phụ nữ đó ít nhất phải được xuất bản trong báo địa phương của họ và được những người họ hàng gửi trả lại Việt Nam cho họ đọc.

Tôi hiểu việc nhấn mạnh vào người Mỹ nhưng tôi hối hận điều đó.  Tôi làm quen rất nhiều bạn ở các quân đoàn sĩ quan của các đơn vị lính thuỷ đánh bộ người Việt và lính nhảy dù.  Họ luôn nuôi dưỡng tán dương tôi và dẫn tôi về nhà mà không lo sợ.  Các sĩ quan Mỹ làm cố vấn cho các đơn vị này chỉ tầm tuổi tôi hoặc trẻ hơn một chút.  Tôi thích đi cùng họ, nói chuyện về chiến tranh.  Tôi vẫn cố gắng tìm kiếm những cơ hội có thể.

Viết về những đơn vị tham chiến Mỹ cần có kế hoạch.  Tôi đã quen với việc phóng đi bất kỳ nơi nào tôi muốn đi.  Hành trình lang thang trên đất nước Việt Nam làm tôi hứng thú, cảm nhận được khung cảnh và con người ở đây.  Có một suy đoán rằng tất cả những người Việt Nam không ở trong rừng với Việt Cộng đều đứng về phía chúng tôi.  Tôi nhìn thấy họ hàng ngày, và tất cả đều thân thiện dù có dáng vẻ mệt mỏi dưới những nón lá vành rộng, đạp xe hối hả qua thành phố tới trường, cửa hàng và văn phòng hay kiếm sống bằng bán đu đủ, xoài, bưởi và na ở chợ hay làm vú em cho con chúng tôi và người giúp việc cho các gia đình.

Nhưng không phải tất cả người Việt Nam đều vậy.  Khi tôi xuống thị xã Sóc Trăng đầu năm 1965 nhiều người đang nói chuyện về một người phụ nữ 34 tuổi ở vùng gần đó làm công việc giặt là những bộ quần áo lấm bùn và mồ hôi cho phi công Mỹ và dọn dẹp doanh trại bừa bộn của họ.  Cô ta trở thành một thiết yếu của lính Mỹ trong vòng sáu tháng cho tới một ngày, cô ta đến với cái bụng phình to đáng nghi ngờ.  Một lính Mỹ phát hiện ra những tài liệu an ninh rơi ra khỏi váy người giặt quần áo và lôi ra một chuỗi chất nổ bằng nhựa từ dưới áo lót của cô ấy.  Sau đó họ giải cô ấy tới trạm quân sự gần đó để thẩm vấn.  Một giờ sau, hai người lính dẫn cô ta ra cánh đồng, bắn chết và vứt xác ở đó.  Phi công Mỹ không quan tâm về sự công bằng chiến trường nhiều như sự trung thành của 70 phụ nữ địa phương được thuê tại căn cứ quân sự, rất nhiều người trong số họ có sự quý trọng tương tự như cô gái giặt là thuê mà đã xác đang mục rữa trong cánh đồng xanh cuối đường băng.  Câu chuyện đó không phải là duy nhất: Bạn có thể nghe những câu chuyện tầm phào tương tự xung quanh nhiều căn cứ quân sự Mỹ mọc lên như nấm.  Tính hai mặt và sự tàn ác trở thành chủ đề trên khắp miền Nam Việt Nam cùng sự bốc đồng của người Mỹ.

Tôi vẫn có cơ hội để viết về phía Việt Nam trong chiến tranh thường là khi những thảm hoạ xảy ra.  Tôi đi về phía bắc tỉnh Phước Long cùng Horst vào một buổi sáng tháng 5-1965 sau khi chúng tôi biết thị xã Sông Bé đã bị Việt Cộng chiếm đánh.  Chúng tôi đi nhờ máy bay Caribou của lực lượng Không quân Việt Nam Cộng hoà tới Bến Cát, sau đó đi bằng trực thăng vận chuyển lính Cộng hoà vào để tái chiếm thành phố.  Chúng tôi đáp xuống đường băng bẩn thỉu đầy bùn vào đầu buổi chiều, cẩn thận đi bộ ba dặm vào Sông Bé cùng một tiểu đoàn lính đặc nhiệm Cộng hoà.

Tất cả chúng tôi đều sợ bị mai phục.  Không gian yên lặng tới mức tôi có thể nghe thấy ngọn tre vít vào nhau trong gió.  Sau đó chúng tôi hướng ra khúc rẽ cong nhô cao trên đường, nhìn xuống thành phố ngập trong khói đen.  Thành phố trải dài bên bờ sông trong một thung lũng nằm thấp phía trước chúng tôi.  Tiếng súng nổ, nhưng không phải hướng vào chúng tôi, mà quét qua những mái nhà gạch ngói đen ở khu hành chính trong trung tâm thành phố.

Chúng tôi bì bõm tiến vào tỉnh lỵ, Sông Bé, cố gắng theo kịp sự hộ tống của đội biệt kích đang nhanh chóng lao về phía trước, bước vào những gì còn lại của trụ sở thành phố đã bị san bằng bởi chất nổ đi-na-mít.  Đống đổ nát một phần bao phủ những cơ thể vỡ nát của mười lăm lính phòng vệ.  Tôi nghe tiếng vang của trực thăng và Horst nói một cách hiểu biết, “B-57s” và ngắm vào chiếc Leica của anh ta khi hai máy bay thả bom màu đen bóng xuất hiện từ phía sau núi Sông Bé.  Máy bay tiến dần xuống mục tiêu trong rừng cao su về hướng tây dội bom và oanh tạc bằng súng 20mm trước khi vút đi.  Theo sau chúng là ba trực thăng khai quang bằng chất cháy.

Một sỹ quan người Việt nói với chúng tôi 100 lính Cộng Hoà đã bị giết và bị thương.  Cuộc tấn công của Việt Cộng bắt đầu vào sáng sớm, kéo vào Sông Bé suốt cả ngày và kẻ thù tập hợp bên ngoài thành phố cho cuộc tấn công lần thứ hai.  Sỹ quan yêu cầu đưa chúng tôi ra khỏi thành phố.  Horst và tôi đều đồng ý, tình hình rất nguy hiểm nhưng chúng tôi cũng cảm thấy câu chuyện cần một trong hai chúng tôi ở lại.

Tôi tình nguyện ở lại và Horst quay trở về bằng chiếc xe jeep ra đường băng đợi máy bay.  Xe trở lại cùng phóng viên ảnh, Trung sỹ Al Chang của tờ Stars and Stripes với điếu xì gà to như thường lệ.  Tôi tóm tắt cho anh ta về những nguy hiểm, anh ta gợi ý chúng tôi nghỉ qua đêm tại khu cố vấn quân sự Mỹ, nơi chúng tôi sẽ an toàn và chúc may mắn bằng chút bia lạnh.  Ở đó không phải vậy.  Hàng rào bảo vệ thép gai đã bị bắn phá vào sáng sớm bởi một nhóm Việt Cộng cảm tử đã giết chết năm trong ba mươi cố vấn Mỹ, làm thương những người khác và xoá sổ khu nghỉ ngơi, phòng ăn tập thể.  Sau này tôi đã viết:

“Sông Bé, Việt Nam, ngày 13-5.  Họ tìm thấy một trung sỹ chết vào sáng ngày thứ ba, tay dang ra phía sau cửa phòng ăn đầy máu trong nhà ăn tập thể của đội cố vấn Mỹ.  Tay phải anh ta giơ lên cầm một con dao.  Anh ta là Trung sỹ Horance E.Young ở Fayetteville, Bắc Carolina, một trong năm người Mỹ bị giết trong cuộc tấn công của Việt Cộng ở thị xã Sông Bé cách saì Gòn 74 dặm về phía bắc.  Bác sỹ quân y, trung sỹ William D.Benning ở Cincinnati, bang Ohio chết trong khi cố gắng cứu một tá những những người bị thương, cả đồng đội Mỹ lẫn Việt Cộng.  Một đội cảm tử đỏ tấn công vào Benning khi anh ta làm việc trong phòng ăn tập thể và nổ lựu đạn.  Benning chết ngay tức thì và hai người cạnh anh ta cũng vậy nhưng chưa được công bố vì người nhà của hai người chưa được thông báo.  Người thứ năm chết là trung uý Johnnie K.Culbreath ở Callison, bang Nam Carolina bước ra từ hố cá nhân gần phía Tây cuối doanh trại Mỹ.  Anh ta thét lên “Chúng đến tấn công những người bị thương”.  Những du kích bên trong bắn qua cửa giết chết anh ta khi viên trung uý chạy về phía nhà ăn tập thể”.

Đại tá Mitchell Sakey chỉ cho chúng tôi xem sàn nhà ăn tập thể đầy máu khô trải đầy băng vải.  Chiếc tủ lạnh bị bắn thủng với những lỗ đạn làm rơi đồ lạnh lên sàn.  Một người sống sót giấu tên nhanh trí trao cho tủ lạnh huy chương chắn đạn trái tim hồng, một sự trang trí được vẽ bằng son môi trên cánh tủ.  Đại tá Sakey đồng ý cho chúng tôi ở lại đêm đó. nhận xét rằng đó là tự nguyện và có những bản báo cáo về Việt Cộng đa số trong tư thế vác súng cho một cuộc tấn công khác.  “Tôi sẽ phải dồn hết sức vào nhiệm vụ.  Tôi sẽ cần hai cậu giúp đỡ trong trận phòng thủ tối nay”, ông ta nói với chúng tôi.

Tôi nhìn Al Chang gật đầu một cách cam chịu.  Sau chiến tranh Triều Tiên, anh ta nghĩ mình đã đổi súng lấy máy ảnh vĩnh viễn.  Đại tá Sakey đẩy vũ khí vào tôi nói rằng: ” Cầm lấy khẩu súng các bin này và nhặt lấy ba trăm viên đạn ở kho vũ khí, đi bảo vệ tay bắn súng cối ở trên hào phía Tây”.  Tôi cảm thấy trái tim trùng xuống và biết rằng mình sẽ làm điều đó nhưng tôi bình luận một cách lấy lệ: “Tôi biết ông chịu trách nhiệm nơi này, ông là một người lính lão luyện.  Vậy còn về Hiệp Định Giơnevơ cấm những công dân tham gia vào điều này thì sao?”.  Ông ta nhìn tôi đáp: "Cậu có muốn tin rằng Việt Cộng sẽ kính trọng vai trò công dân của cậu tối nay không hả cậu bé?”.

Tôi nhét đạn đầy túi áo và túi quần, loạng choạng trong bóng tối cùng Chang tới hầm pháo cối để hỗ trợ tay bắn súng.  Khi đôi mắt của tôi bắt đầu quen với bóng tối lờ mờ, tôi nhận thấy bức tường bao cát xung quanh vị trí của tôi đã bị bắn tung toé trong trận tấn công trước.  Tôi nhìn xuống đường dốc qua những đống bùng nhùng còn lại của hàng rào thép gai tới những bụi cây dưới rãnh.  Trong ba năm ở Việt Nam, tôi chưa bao giờ bị trơ trụi với mức độ nguy hiểm cá nhân như vậy.  Và nếu có con đường xa lộ sáu làn đường mở ra cho một đội tấn công cảm tử thì chính là đây.  Tôi thì thào với Al bằng một câu hỏi nguy cấp về chiến thuật: Tôi sẽ phải làm cái chệt tiệt gì đây khi những tay kia tấn công lên từ đường dốc? Anh ta nói điều gì đó về đặt súng các bin ở chế độ tự động, nhắm mặt lại và bấm cò.  Nếu tôi bỏ vị trí và trốn dưới gầm bàn trong phòng ăn tập thể khi trái tim tôi đang mách bảo làm điều gì đó thì tôi sẽ rất bẽ mặt vào sáng mai đến nỗi sẽ không bao giờ có đủ can đảm giáp mặt ở vùng chiến nữa.

Tôi quan sát những khẩu súng nổ giống như trình diễn sao băng khi những chiếc C-47 cũ được trang bị các loại sung nhỏ mới và đèn hồng ngoại.  Những chiếc Puff này là máy bay Magic Dragon bắn phá vào những mục tiêu ở phía trước tối đen như mực.  Súng của kẻ thù bắn trả trên bầu trời.  Người bắn súng cối của Al bắn rất nhiều băng đạn vào bụi trong rừng phía sau chúng tôi, những viên đạn lao vút trên đầu khi tôi nằm sóng soài với khẩu súng trên vai.  Cuộc tấn công mặt đất mong đợi chẳng bao giờ xảy ra.  Vào buổi sáng cơ thể tôi cóng lạnh, chính tôi đã hiểu ra một điều tôi vẫn có thể đảm nhận nhiệm vụ mặc dù sợ hãi và sẽ sẵn sàng mạo hiểm để có được một câu chuyện hay.

THIẾU TÁ NORMAN SCHWARZKOPF


Khi hàng nghìn quân lính Mỹ tới, số phận của họ đã được định ra đâu đó ở Việt Nam.  Tổng thống Johnson và tướng Westmoreland chao đảo bên hố thẳm chiến tranh trong nhiều tháng.  Mặc dầu vẫn tiếp tục gia tăng lực lượng quân sự nhưng lính Mỹ vẫn nằm ngoài những trận đánh giống như Sông Bé.  Tuy nhiên điều đó cũng đồng nghĩa với việc Westmoreland sẽ nhanh chóng được phép sử dụng lính của ông ta tham gia vào các trận đánh.

Chúng tôi đưa ra cách để chiến thắng đối thủ bán tin, UPI.  Họ cũng có đội phóng viên như Ray Herndon và Mike Malloy bị áp lực bởi những tay tân binh liều mạng ở nhà.

Chúng tôi suy xét rằng điểm nóng xa ở gần  biên giới Cămpuchia có tên Đức Cơ có thể là một mồi lửa cho cuộc chiến mở rộng.  Nó nằm trên con đường thâm nhập của lính cộng sản trước đây và tiếp tế qua những con đường nhỏ trong rừng nơi có ít người sinh sống.  Nó bị chiếm đóng hai tháng nay và những người bảo vệ nó đã  kiệt sức.  Tôi tình nguyện đi xem tình hình.  Tôi đi nhờ đội hộ tống viện trợ Việt Nam theo đường 19 lên Plâycu và nhảy vào cabin xe tải chở đạn dược to chỉ có người lái xe.  Khi chiếc xe tải lắc lư trên đường dốc chân đồi, người lái xe đội mũ sắt và chỉ về phía đoạn cuối nơi con đường dốc lộng gío biến mất chỉ còn bụi rậm và đồi.  Anh ta vạch quần chỉ cho tôi một vết sẹo lớn, nói bằng chút tiếng Pháp ngắt quãng giải thích anh ta bị mai phục vài năm trước đó tại điểm giống vậy và lo sợ chuyện đó xảy ra lần nữa.  Tôi lo sợ khi một vài người có vũ trang xuất hiện bên đường, một vài người mặc quần áo đen và đội mũ cao bồi, số khác mặc áo đỏ gõ vào xe tải của chúng tôi và những chiếc xe khác vẫy chào chúng tôi đủ thân thiện để biết rằng họ ở phía chúng tôi.  Theo người lái xe, họ là quân do thám của một tiểu đội lính biệt kích Cộng hoà cắm chốt trên đồi.  Con đường cao tốc bị đóng từ lâu - Việt Cộng đã phá huỷ tất cả cầu.  Tôi chú ý một tấm biển bằng kim loại ở công trình bằng bê tông lớn có ghi “1957-1958 U.S.A”.  Phía xa trước mặt, sau An Khê là đèo Mang Yang nơi đầu những năm 1950, đơn vị quân đội của Pháp, đội cơ động 100 đã bỏ mạng trong đợt mai phục dữ dội của Việt Minh với những cuộc tấn công dũng cảm.  Tôi nghe  kể rằng xác người Pháp được chôn trên mấy ngọn đồi quanh đèo Mang Yang.  Theo yêu cầu, xác của họ được chôn đứng, mặt hướng về nước Pháp.

Chiếc xe hộ tống của chúng tôi di chuyển chậm chạp qua đèo khi chúng tôi leo trên đèo xuống sang phía bên kia sườn dốc.  Có một trận bắn phá trên không từ nơi nào đó trên đồi nhưng chúng tôi không bị tấn công.  Tôi xuống xe ở doanh trại Holloway nơi tiểu đoàn không quân 52 của quân đội Hoa Kỳ đóng quân.  Doanh trại nằm cuối sân bay Plâycu cũ, những chiếc trực thăng Huey của đơn vị nằm thẳng hàng ngăn nắp ở đường băng.  Trời đã muộn, họ cho tôi nghỉ qua đêm trong lán của các đội trưởng, mời tôi tới một lán nhỏ tên là Swamp.  Nhạc đồng quê phương Tây, bia nhiều và lạnh - những phi công đã làm rất nhiều điều ở Việt Nam và họ xứng đáng được trao phần thưởng.  Tôi hỏi một viên sỹ quan chỉ huy mới cho chúng tôi đi nhờ tới Đức Cơ càng sớm càng tốt, nhưng anh ta cười nói với tôi: “Nơi đó đã bị chiếm tính đến hôm nay được 60 ngày và những người chúng tôi đưa tới là nộp cho tử thần.  Đó là tài sản thực sự duy nhất trong tay chính phủ giữa Plâycu và biên giới Cămpuchia nó cách chúng ta 40 dặm”.  Tôi nghĩ một lúc rồi nói rằng tôi vẫn muốn đi.  Anh ta gợi ý tôi nên kiểm tra những cơ hội bay vào buổi sáng nhưng hãy thưởng thức bia tối bởi vì sẽ không có ở Đức Cơ.  Tay đại tá còn nói “Tôi nghe nói ở đó còn không có cả nước”.

Sau đó một phóng viên của Reuters bước vào, Dick Myercoff, một tay “nông dân” - đồng nghiệp của tôi trong những ngày ở Jakarta được cử đi nhiệm vụ tạm thời trong vùng chiến muốn đi cùng tôi.  Tôi đã hy vọng mình là người duy nhất nhưng tôi không có lý gì để can ngăn anh ta, vì vậy cả hai chúng tôi cùng lên máy bay vào lúc rạng sáng dày sương, bay qua cánh đồng và những rừng thông xơ xác nhìn thấy từ xa.  Viên phi công nói với chúng tôi họ làm nhiệm vụ bay khẩn cấp đón nhận xác chết, người bị thương và cố gắng bay tới Đức Cơ một ngày một chuyến vào những lúc tình hình tạm lắng để duy trì lòng tin việc chiếm giữ có thể lấy lại được.  Những phi công của chúng tôi nói rằng một chuyến mỗi ngày là quá nhiều.

Tiểu đoàn không quân 52 nổi tiếng liều lĩnh.  Một trong những phi công của chúng tôi đội mũ vành rộng, có phù hiệu lạ đính vào chiếc áo khoác và anh ta tự hào vân vê bộ râu xồm xoàm của mình khi chuẩn bị bay.  Những người khác đã ở trong quán Bar với tôi đêm hôm trước, trông như vẫn còn say.  Nhưng khi lên không trung, họ đều thuần thục mọi thao tác điều khiển cỗ máy kêu lạch cạch.  Phía sau là thành phố Plâycu, bầu trời đã sáng hơn một chút và chiếc Huey của chúng tôi đã cất cánh.
Mầu xanh thẫm của cao nguyên trải dài tới chân trời lô xô núi non, vài con đường viền lên vẻ đẹp.  Tôi nhìn thấy một ngôi nhà nổi trên nền những ngôi nhà thảnh thơi của những người chủ rừng chè.  Một lúc sau, cao nguyên đã bỏ lại phía sau và chúng tôi nhanh chóng hạ xuống phía rừng cây gỗ cứng như bức tường ngăn chúng tôi.  Tôi nhìn thấy cột khói ở phía xa, thấy một phi công gật đầu với người khác chỉ về phía Đức Cơ khi chúng tôi lao về đó.

Đoạn cuối cùng của hành trình là sự tra tấn của động cơ rú vang khi tăng tốc.  Những phi công lựa chọn con đường hạ cánh an toàn nhất xuống tiền đồn đã bị bao vây.  Chúng tôi hạ cánh dần xuống một rừng tre đã được phát quang, làm khuấy động bầy chim làm tổ ở đó.  Tôi hiểu ra những vũ khí chống máy bay được giấu đâu đó ở dưới cánh rừng.  Tôi cảm thấy ngán, hoảng sợ cho đến khi liếc nhìn lớp đất bị bắn tung màu đỏ của đường băng, những hàng rào thép gai và hàng rào bao cát của trại Đức cơ, tôi mới thở phào nhẹ nhõm.  Tôi là người xuống đầu tiên, rõ ràng đi bằng máy bay lên thẳng an toàn hơn.  Nhưng ngay lập tức đạn bay quanh chúng tôi.

Myercoff đi bên cạnh tôi có ý nghĩ bẩn thỉu khi anh ta hất mặt lên và nói, “Tôi ra khỏi đây bây giờ đây, tôi đã có được câu chuyện của mình.  Máy bay tới và những viên đạn bắn.  Chúng ta đã phá vỡ vòng vây phải không?”.  Cơ trưởng ném viện trợ y tế xuống sau cùng và Dich nhảy lên boong.  Tôi đeo ba lô xem máy bay rú lên trên những hàng cây.  Tôi cảm thấy vừa thú vị vừa tức giận.  Tôi đã bị người bạn cũ lấy mất tin sốt dẻo, không nghi ngờ anh ta sẽ viết một câu chuyện nhạy cảm bịa cho tờ Nhật báo Luân Đôn, anh ta sẽ ngồi uống bia ở quán bia ngay tối hôm đó và khoác lác về chuyến đi trong khi tôi phải đi tìm quán nước uống ở Đức Cơ.

Đạn ngừng bắn khi trực thăng bay đi và tôi đoán đường băng ở trong tầm ngắm của những khẩu súng trường của Việt Cộng trong rừng.  Tôi bước đi thận trọng, phủi lớp bùn trên quần áo và nhận thấy lính nhảy dù cộng hoà ló đầu từ hố cá nhân dọc theo đường băng.  Tôi nhanh chóng băng qua hàng rào thép gai đầy bụi lôn xộn và bước vào chiếc cửa gỗ kéo kẹt mà một lính nhảy dù người Việt mở cho tôi.  Vài viên đạn đã tấn công vào bên trong.  Những lính bị thương nằm dựa vào tường, sơ cứu đầu tiên đang được tiến hành và những người khác được kéo về phía có bao cát.

Tôi rút máy ảnh từ ba lô, chụp một vài kiểu trong số họ, một người bị băng bó nẹp chân phải – cơ thể anh ta thả lỏng khi cố gắng tập tễnh cùng chiếc mũ sắt lệch một bên trên đầu.  Anh ta dựa vào một người lính to lớn trong bộ quần áo dã chiến nhiều túi và chiếc mũ ka ki mỏng, đang cúi xuống giúp anh ta, làu bàu thốt ra câu chào ngắn gọn khi đi qua tôi.

Khung cảnh đẫm máu nhưng kỷ luật.  Tôi đoán họ không cần sự giúp đỡ của tôi.  Tôi theo sau một người Mỹ, đi qua đoạn hào bảo vệ có những bao cát phía trên trong đoạn đường rút tới trạm cứu thương.  Toà nhà bằng gỗ mỏng manh đầy những lính bị thương, hầu hết là bị thương ngoài.  Hai bác sĩ quân y đang gắp những mảnh đạn từ chân và tay những người lính bị thương bằng chiếc kẹp fooc-xép và ném chúng vào rổ.  Một phụ nữ Việt Nam đang giúp họ, cô nổi bật với mái tóc dài tới vai cột sau lưng khi tắm cho những người bị thương, giúp họ mặc quần áo, mỉm cười vui vẻ.  Tôi hỏi tên những cô lờ tôi và tôi quay sang một tay Mỹ to lớn vừa trở về cùng một lính bị thương và đang trên đường đi ra.  Tôi rút tập ghi chú, đi theo anh ta, giới thiệu bản thân và gợi ý ra ngoài nói chuyện.  Anh ta dẫn tôi tới boong chỉ huy, cho tôi nụ cười đảm bảo và nói rằng anh ta là Norman Schwarzkopf, Thiếu tá quân đội Hoa kỳ, cố vấn cho đơn vị không vận Cộng hoà ở Đức Cơ, và quê anh ta ở phía đông Orange, bang New Jersey.

Vị Thiếu tá đẩy ngược chiếc mũ để lộ mái tóc cắt sát theo kiểu West Poin (West Poin là trường quân sự nổi tiếng của Hoa Kỳ).  Anh ta lau mồ hôi trên lông mày, rất vui vì có người nói chuyện.  Bộ trang phục của anh ta đã nhàu nát ở Đức Cơ.  Anh ta buồn, lo lắng và phân vân không biết tôi đang làm gì ở đó vì anh ta thấy rất ít phóng viên xuất hiện trong những ngày này.  Tôi nói anh ta nên chọn nơi nào dễ chịu hơn nếu anh ta muốn viết bài.  Anh ta cười nói rằng anh ta đã quên thế nào là sự thoải  mái.  Vị Thiếu tá đẩy ngược chiếc mũ để lộ mái tóc cắt sát theo kiểu West Poin (West Poin là trường quân sự nổi tiếng của Hoa Kỳ).  Anh ta lau mồ hôi trên lông mày, rất vui vì có người nói chuyện.  Bộ trang phục của anh ta đã nhàu nát ở Đức Cơ.  Anh ta buồn, lo lắng và phân vân không biết tôi đang làm gì ở đó vì anh ta thấy rất ít phóng viên xuất hiện trong những ngày này.  Tôi nói anh ta nên chọn nơi nào dễ chịu hơn nếu anh ta muốn viết bài.  Anh ta cười nói rằng anh ta đã quên thế nào là sự thoải  mái.  Thiếu tá Norman Schwarzkopf tức giận vì lực lượng không vận Cộng hoà do anh ta cố vấn đã cố gắng lấy lại nơi chiếm đóng nhưng thất bại.  “Chúng tôi đã có một trận chiến đấu quỷ tha ma bắt”, anh ta nói với tôi, miêu tả trận tấn công bằng trực thăng trước đó ba ngày gần doanh trại và cố gắng ngày hôm sau để phá vòng ngoài về phía bắc và phía đông nhưng đã bị Việt Cộng mai phục và phải rút về Đức Cơ với tổn thất nặng nề trong một trận bắn phá tới tấp.

Anh ta kêu ca “Sự thật là chúng tôi đang ngụp lặn ở đây”, “Việt Cộng có thể hạ gục chúng tôi bất kỳ lúc nào”, như thể chứng minh cho những lời nhận xét của anh ta, súng cối nổ rất gần đoạn hào của họ trong rừng nghe rõ mồn một, theo sau là tiếng hét “xung phong”.  Boong chỉ huy chen chúc lính Cộng hoà và lính Mỹ chạy vào trong vài giây trước tiếng nổ ầm.  Chúng tôi ngồi trên sàn nhà bẩn, nghiến răng toát mồ hôi trong sự ngột ngạt và lắng nghe tiếng nổ như sấm dậy của đạn rơi.  Người điều hành bộ đàm nói chuyện bình tĩnh với trung tâm chỉ huy ở Plâycu, gọi lực lượng tấn công không quân tới giúp, “đây là lần thứ ba trong ngày hôm nay”, Schwarzkopf nói với tôi dứt khoát.

Trong khi đợi máy bay ném bom tới, tôi nói chuyện với Đại uý Edwards.  Trong ánh đèn mờ, tôi có thể nhận ra sự mệt mỏi đang chuyển động trên môi anh ta và thần kinh anh ta sắc như  dao cạo râu.  Tôi biết mình đang nếm trải những gì anh ta chịu đựng trong suốt 60 ngày qua và tôi nói tôi hiểu nhưng anh ta cười.  “Không có cách nào để mọi người có thể hiểu nếu không ở đây.  Chúng tôi hoảng sợ, nhưng chúng tôi phải học cách chung sống.  Chỉ đóng sầm cửa lại hoặc hét to những từ bất kỳ và chúng ta sẽ bơi tiếp hoặc chạy thoát, đó là bản năng đầu tiên của chúng ta, bản năng sinh tồn.  Nhưng khi triệu chứng đầu tiên đó qua đi chúng ta bắt dầu suy nghĩ, chúng ta sẽ làm chủ được chính mình”.

Có một tá lính đặc nhiệm Mỹ đóng tại trại Đức Cơ bị mắc lại, sống trong một doanh trại nhỏ tạm thời.  Tài sản đi cùng là 300 lính dân tộc được huấn luyện nghèo nàn và một trăm dặm biên giới để bảo vệ.  Vài năm trước đây, chiến lược này rất tốt khi kẻ thù là du kích Việt Cộng; bây giờ quân chính quy miền Bắc Việt Nam đang tham chiến và trở thành cuộc chiến đúng nghĩa ở Đức Cơ.  Richard nhìn lên Schwarzkopf và nói rằng anh ta vui vì lực lượng không vận Cộng hoà đã tới bởi một nửa lực lượng người đân tộc của anh ta đã bỏ đi và sự trung thành của những người còn lại vẫn là câu hỏi.  Hầu hết họ ngại chiến đấu, loanh quanh trong trại, hiếm khi rời khỏi những hào báo cát và các boong bởi sợ đạn bắn.

Khi trận chiến tạm dừng, tôi đi ra ngoài nhìn xung quanh.  Chẳng có một mống nào.  Trung sỹ tham mưu Henry Allickson đi cùng và khuyên tôi nhanh chóng rời khởi nơi này.  Cách đây vài ngày, năm lính đi tuần quanh Đức Cơ đã bị thương ở đầu do những tên bắn tỉa trốn trong rừng gần đó.

Allickson nói rằng anh ta tình nguyện dẫn đoàn đi tuần bên ngoài hang rào thép gai mỗi tối để cân bằng chiến sự, thúc giục vài lính dân tộc lưỡng lự tham gia cùng anh ta.  Anh ta tuyên bố trách nhiệm đáng sợ của mình: “Tôi sẽ bắn người đầu tiên bỏ trốn và tôi sẽ đuổi những người còn lại về trại”.  Tôi ngửi thấy mùi cay trong không khí, hỏi anh ta về nó, tay trung uý khịt mũi, cau mày nói: “Những xác chết đang thối rữa ngoài kia có lẽ là của chúng ta bởi vì Việt Cộng đã lấy dược những xác chết của phía họ”.

Như lo lắng cho chính mình, Allickson rúi chiếc ví trơn bóng từ túi ra, chỉ cho tôi xem bức hình vợ và năm đứa con ở Mỹ mà anh ta rất nhớ.  Tôi phân vân không biết gia đình anh ta có biết chút gì về những ngày tháng anh ta đang phải trải qua hay không.  Trung sỹ mời tôi tới nơi yêu thích của anh ta, một góc có bao bọc cát của doanh trại nơi anh ta dành hàng giờ ngắm mục tiêu bằng chiếc súng trường sát thương cao.  Tôi nhìn qua những bao bọc cát và chẳng thấy gì ngoài rừng rậm, rằng không nghĩ có người ở đó.  Trung sỹ cười, lên cò súng và bảo tôi bắn thử vào bụi cây.  Sau một lát lưỡng lự, tôi thử, siết chặt cò súng khi nhắm về phía thân cây rậm lá của bụi chuối rừng.  Một người nào đó bắn trả lại, không phải bằng vũ khí cá nhân mà là súng trường bắn không giật, đạn bay một cách vô hại trên đầu chúng tôi.  Tôi hét lên ngạc nhiên “Chúa linh thiêng”.  Allickson đồng tình bằng tiếng cười.  Anh ta nói “Một ngày không chút nhạy cảm của Victor Charlie”.

Trong boong chỉ huy đêm đó là cuộc nói chuyện về thức ăn tệ mà chúng tôi bỏ vào những hộp sắt từ chiếc nồi nấu ăn to và nhai một cách khó khăn.  Đầu bếp người Việt giải thích bằng vốn tiếng Pháp nghèo nàn đó là dăm bông.  Đó là phần chính của bữa tối trên bàn ăn Đức Cơ nhưng với tôi nó có vị giống như thịt dăm bông hầm.  Tôi mời cả nhóm uống rượu cô-nhắc trong chai bẹt đeo bên mình và cảm thấy tốt hơn so với những gì tôi đã chịu đựng ngày hôm đó.

Khi boong đầy khói thuốc lá, mọi người lắng nghe những âm thanh đáng sợ, những người ở đội  Đặc nhiệm kêu ca nhiều hơn về những dự đoán.  Một người tức giận nói: “Có ai thực sự quan tâm rằng chúng ta đang ngồi đây, mạo hiểm cuộc sống từng phút chỉ để nắm giữ một chút tài sản nhỏ nhoi?”.  Tôi cố gắng giải thích rằng Đức Cơ là nơi thử nghiệm giải pháp quân sự Mỹ và nếu tình hình thực sự tồi tệ hơn thì lực lượng Hoa Kỳ sẽ giải cứu giống như chàng kị binh trong “Cô ấy đeo chiếc nơ mầu vàng”.  Một người hỏi mỉa mai “tệ hơn ư?”.  Những tiếng ồn ào bất đồng ý kiến vang lên quanh phòng.  Allickson cười và nói, “họ đã vào để giúp Việt nam tạo ra một trận chiến khác”.  Một trung sỹ khác yêu cầu sự bảo vệ của lính nhảy dù.  Anh ta lấy một trang giấy viết được giật ra từ một cuốn ghi chép.  Sáng sớm hôm đó anh ta đi cùng đội tuần tra bên ngoài doanh trại, một số lính của anh ta đã bị thương khi rơi vào ổ mai phục.  Trong lúc anh ta núp mình dưới làn đạn để đi về phía người lính bị thương ở chân, người lính trẻ bắt đầu viết trong cuốn ghi chú và đưa cho anh ta một trang và anh ta đọc những dòng chữ nguệch ngoạc: “Bảo vệ tự do trong nguy hiểm luôn luôn chỉ có tôi và anh.  Tôi tên là Fam-En”.  Câu chuyện đó làm chấm dứt mọi lời phàn nàn về người lính Cộng hoà và những cuộc bàn luận, cả đại đội buông xuôi.

Tôi tham gia tuần tiễu cùng thiếu tá Scharzkopf và những sỹ quan nhảy dù Cộng hoà vào các buổi sáng tại hào phía đông doanh trại.  Liếc qua bức tường hào họ đoán tuýp pháo cối dựng lên cách phía họ 500 thước trong rừng và Schwarzkopf bàn bạc tăng cường lực lượng tấn công không quân vào những vị trí nghi ngờ.  Trong màu ảm đạm sau hoàng hôn, Đức Cơ giống như một đống rác tội nghiệp: mái nhà lán bằng gỗ bị toạc, những hàng rào bằng bao cát bị phá nát và bục đổ vung vãi khắp nơi.  Tôi chụp ảnh khi pháo cối bắt đầu đáp lại và chúng tôi hướng về phía boongke chỉ huy.  Tiếng kêu răng rắc của súng máy cho thấy khả năng có một cuộc tấn công mặt đất của Việt Cộng.  Trung sỹ Allickson nói, “Họ có thể làm lúc nào họ muốn nếu họ muốn tăng thêm tử vong” và tôi đang cầu nguyện điều đó không phải lúc này.  Tôi quan sát cuộc tấn công từ bên trong boong chỉ huy an toàn, lắng nghe người chỉ huy bộ đàm truyền thông tin về Sở chỉ huy ở Plâycu.  Schwarzkopf biến mất và tôi nghĩ anh ta đang cùng lính của mình ở gần hố cá nhân để chống trả cuộc tấn công mặt đất.

Có lúc tôi bò ra ngoài để xem có thể tìm thấy anh ta không nhưng tôi không thể di chuyển được.  Tôi liếc nhìn trực thăng không quân Mỹ rít lên tầm thấp phía trên những hàng cây.  Chúng thả bom giống như những con bọ cánh cứng Volkswagen tấn công phía xa.  Tôi thấy Đại uý Richard ở phía đông đang giục lính của mình nạp đạn pháo.  Họ đang dựa vào hàng rào kéo cò súng các bin và nhanh chóng nạp những băng đạn mới.  Họ như nhận được thông điệp rằng đây đó có thể là cuộc chiến kết thúc.

Schwarzkopf xuất hiện ở xa, thân hình to lớn của anh ta chuệch choạng dọc theo hàng rào boong, anh ta rẽ ngoặt vào trung tâm chỉ huy, giật lấy bộ đàm từ Hunt thét lên: “Chúng tôi đang bị đánh ở phía tây, đông và nam và một đội tuần tra di chuyển về phía bắc đang bị chặn đánh”.  Anh ta lại chạy ra ngoài, cùng với Richard và rất nhiều lính mũ nồi xanh Mỹ hội thảo nhanh và sau đó hô hào mệnh lệnh.  Tôi có cảm tưởng họ đang chuẩn bị tiến hành một cuộc phản công.  Tôi ra khỏi chỗ, chạy về trạm cứu thương ngập lính bị thương.  Tôi xắn quần áo cho một số người và cố gắng làm họ cảm thấy thoải mái khi bác sỹ quân y đang cứu những người bị thương nặng nhất: Một người lính dường như bị mất cả hai mắt và một lính khác bị thương nặng ở cột sống.

Một lúc sau âm thanh trận chiến di chuyển cách đó khoảng một dặm, Schwarzkopf đi kiểm tra lính bị thương.  Khuôn mặt anh ta xúc động nhưng cũng thể hiện nụ cười chiến thắng khi ca ngợi quân lính nhảy dù đã giữ được trận địa.  Khi Richard bước vào, Schwarzkopf vỗ phía sau anh ta và nói với tôi đầy cảm xúc: “Tôi rất tự hào là một người lính Mỹ hôm nay.  Mọi người trong Lực lượng Đặc nhiệm nỗ lực không một chút ích kỷ khi giúp đỡ chúng ta.  Sự bình tĩnh của họ thật đáng khâm phục”.

Tôi đã có câu chuyện của mình cùng những bức hình và tôi muốn rời khởi đây cho kịp số báo ra ngày Chủ nhật, nhưng chuyến đi bằng trực thăng lên thẳng như đã định bị hoãn và tôi phải chờ chuyến tiếp theo vào ngày hôm sau.  Tôi trở lại trạm y tế có cô ý tá Việt Nam xinh đẹp đang nghỉ ngơi.  Tên cô ấy là Liên Hương.  Cô ấy là con gái của một mục sư.  Lính Mỹ bảo vệ cô ấy rất cẩn thận, đối xử với cô ấy như người bảo mẫu.

Doug Britt, một thành viên của đội Lực lượng Đặc nhiệm nói với tôi: “Không có chuyện yêu đương ở đây, nhưng nếu có thì tôi cũng sẽ không tán tỉnh cô ấy vì cô ấy là cô gái độc thân duy nhất trong doanh trại có hàng tá đàn ông và điều đó sẽ làm tổn thương những người kính trọng cô ấy”.  Tôi không hiểu có phải anh ta đang đùa tôi không.  Tôi hỏi Liên Hương xem cô ta có gặp rắc rối với những người đàn ông đó không thì cô ta kể có một hôm một sỹ quan Cộng hoà đã gạ gẫm cô ấy, nhưng người bạn Mỹ đã doạ anh ta.  Cô ta thích những người Mỹ “Vì họ rất tốt với tôi và họ sẽ không bao giờ làm tổn thương tôi”.

Một trong những bệnh nhân của cô ta, người lính bị thương xương sống ngày càng tệ và thiếu tá Schwarzkopf quyết định gọi trực thăng khẩn cấp.  Anh ta quay sang tôi và nói: “Cậu cũng lên đó đi”.  Vào tối muộn, một chiếc trực thăng lên thẳng tới và thiếu tá buộc tôi đi cùng anh ta và vài người khác trên đường băng với một chiếc dèn pin giúp lên máy bay.  Thật sự là quá nguy hiểm khi trở thành mục tiêu cho những tên bắn tỉa ẩn nấp xung quanh.  Bất kỳ ai trong chúng tôi đều có thể bị bắn chết tại nơi chúng tôi đứng.  Schwarzkopf nói với tôi nhiều năm sau này, khi anh ta đã đeo sao tướng, rằng hôm đó người phi công gọi bộ đàm xuống bảo lắc đèn pin để anh ta biết chính xác chúng tôi đứng ở đâu.  Khi những lời chỉ dẫn này được kể cho tôi, tôi đã` đáp lại rằng: “Tôi không biết về các anh nhưng đèn pin của tôi đã lắc từ khi chúng ta ra đường băng đấy”.

Ngay đêm đó tôi gửi câu chuyện đầu tiên về cuộc bao vây, và cũng chuẩn bị vài câu chuyện khác về chuyến thăm Đức Cơ, về Norman Schwarzkopf, Liên Hương và đội Lực lượng Đặc nhiệm.  Những câu chuyện đó được báo đài sử dụng rộng rãi.  Sau đó những phóng viên AP khác đến viết về vụ phá vòng vây và sự khởi hành của Đội không vận Cộng hoà của Schwarzkopf tới các trận chiến khác.  Sau một vài ngày nghỉ ngơi ở Plâycu, tôi viết câu chuyện cuối cùng về y tá Liên Hương cho báo vào ngày 13-8.  Đó là một câu chuyện ướt át không hề xấu hổ mà tôi đã viết, một bài tán tụng cho sự hy sinh quên mình, đức hạnh và một tình yêu không được đáp trả. 

“Đức Cơ, miền Nam Việt Nam.  Khi màn đêm buông xuống, đạn súng cối bắt đầu  bắn vào doanh trại Lực lượng Đặc nhiệm, một dáng hình gầy yếu của một cô gái lướt qua những bóng hình đang bị nổ tung.  Giống như một con ma xanh xao, Liên Hương đang tìm kiếm những người lính bị thương.  Có thể cô ấy đang khóc khi bò từ boong này tới boong khác khiến chiếc mũ sắt lắc lư trên đầu.  Mặc dù Liên Hương chứng kiến nhiều lính chết và nghe những câu đau đớn của những người bị thương, nhưng cô chẳng bao giờ quen với sự chịu đựng đó.  Đôi mắt rớm nước mắt, chiếc áo bờ lu dính đầy bùn, Liên Hương bò lại boong chỉ huy nói với bác sỹ quân y người Mỹ bằng giọng tiếng Anh nhát gừng rằng, một lính bị thương nặng và bò ra ngoài với hộp băng cứu thương.  Sau khi cuộc tấn công kết thúc và những người bị thương được tập hợp lại, cô cùng những bác sỹ quân y Mỹ đẫm mồ hôi giúp đỡ họ chiến đấu giành sự sống cho những người  đang hấp hối, làm cho những người bị thương cảm thấy thoải mái.  Liên Hương chỉ tròn 20 tuổi vào tháng 2 năm ngoái, tình nguyện làm y tá ở Đức Cơ 20 tháng trước đây.  Không chỉ trải qua nhiều đêm là những trận bắn phá doanh trại của Việt Cộng, Liên Hương còn phải chịu đựng cái rét của Đức Cơ cùng sự điềm tĩnh bên trong, làm ngạc nhiên những người lính Lực lượng Đặc nhiệm nơi đây khi họ nói rằng, Đức Cơ làm họ già đi sau một đêm.  Liên Hương chịu sự tàn phá của công việc cực nhọc thường xuyên và sợ hãi.  Mái tóc dài ngang eo luôn mượt óng.  Khuôn mặt sáng sủa và mềm mại dù chẳng bao giờ trang điểm vì cô sống ở vùng nông thôn hẻo lánh.  Đôi mắt cô e ấp trước điều cô đã chứng kiến.  Sự hy sinh tận tuỵ của Liên Hương không làm lu mờ những gì cô ấy bỏ lỡ trong thế giới.  Cô mong mỏi một bộ quần áo đẹp nhưng biết rằng Đức Cơ chẳng có cơ hội nào để mặc.  Cô chưa bao giờ tới Sài Gòn và mong được tới đó.  Cô nhớ một trung sỹ trẻ là lính nhảy dù người Việt, người cô đã yêu khi anh ta đóng tại Đức Cơ nhưng đã không gặp anh ta ba tháng rồi và có thể chẳng bao giờ được gặp lại.  Liên Hương có một triết lý rất đơn giản: “Tôi muốn ở đây và giúp đỡ.  Tôi quý những người lính và muốn ở lại cùng họ bởi vì họ cần tôi.  Tôi sẽ ở lại đây cho tới khi họ rút đi.  Nếu Việt Cộng đánh bại chúng tôi, tôi sẽ đi tới doanh trại khác”.

Ed White gợi ý tôi nên đặt câu chuyện là “Thiên thần của Đức Cơ”.  Tôi thích bất kỳ nhan đề nào có Con chim Florence trong đó và chúng tôi để tuỳ các biên tập viên sử dụng cả hai ý kiến trong tiêu đề.  Bạn đọc gửi cả đống quần áo và mỹ phẩm cho Lầu Năm góc để nhờ họ gửi cho nữ y tá đó.  Khi tôi trở lại Sài Gòn, John Wheeler trêu tôi về sự uỷ mị.  Horst nhận xét câu chuyện một cách vui vẻ và công khai, “đó là những gì xảy ra khi tôi để anh ta một mình trong chiến trường đêm đó”.

LỮ ĐOÀN 173


Lực lượng quân đội Mỹ tập trung gần sài Gòn, nơi tràn ngập phóng viên và nhiếp ảnh.  Chúng tôi lái xe ra khỏi thành phố về doanh trại Lữ đoàn Không vận 173 của quân đội Hoa Kỳ ở Biên Hoà mất khoảng nửa giờ, xóc nảy qua đoạn cuối con đường bụi bẩn, đi qua nghĩa trang cũ của người Việt với những bia mộ khắc màu đỏ.  Những chiếc áo ponsô màu ô liu nâu xám treo giữa những tấm bia che lính gác khỏi ánh nắng chói chang.  Đường lán doanh trại trải dài trên khoảng bằng phẳng nhỏ hướng ra căn cứ không quân Biên Hoà đông đúc để bảo vệ lữ đoàn đã dàn quân.  Lính nhảy dù có tiếng trong lực lượng quân đội Hoa Kỳ và tôi rất mong muốn chứng kiến cách họ thao tác chống lại du kích Việt cộng.

Chỉ huy lữ đoàn trưởng Tướng Ellis W. William, có mái tóc hoa râm, dáng gầy và được đặt biệt danh sau lưng là “Butch”.  William xuống máy bay cùng lính giống như Tướng McArthur lội vào bờ ở Leyte trong Chiến tranh thế giới thứ hai.  Trung sỹ thông tin của đơn vị, Don Pratt được người phát ngôn chính của Westmoreland, đại tá Ben Legare cảnh báo tránh căng thẳng: “Nhắc nhở tướng của anh trước khi báo giới làm điều đó, và đảm bảo ông ta biết nhấn mạnh tính tất yếu bảo vệ nhiệm vụ của mình.  Lữ đoàn 173 ở đây để bảo vệ căn cứ không quân và không phải gây ra chiến tranh.  Nhắc ông ta biết điều đó”.  Nhưng Pratt đã bỏ qua lời William ở sân bay và vị tướng đó nói với báo giới rằng ông ta tới Việt Nam để tham gia Chiến tranh thế giới thứ ba.

Trung sỹ Pratt thuyết phục tôi viết những điều mà anh ta hứa sẽ là câu chuyện độc nhưng 20 phóng viên khác cũng biết.  Đôi khi báo giới nhiều hơn cả lính.  Pratt là người đàn ông thật thà, người đồng hành tốt bụng và là người chủ hào phóng.

Lính nhảy dù đến Việt Nam với lòng tin họ biết một số điều về chiến tranh trong rừng: Họ luyện tập ở Okinawa và một số nơi ở Thái Bình Dương.  Tôi chờ đợi những đụng độ đầu tiên, nhận thấy lính thuỷ đánh bộ Hoa Kỳ ở Đà Nẵng đang gặp nhiều khó khăn trong việc thích nghi với sức nóng và học cách hiểu người Việt Nam.  Theo những tuyên bố của Chính phủ Hoa Kỳ, Trung sỹ Pratt công khai nhấn mạnh vai trò bảo vệ của Lữ đoàn nhưng bản thân anh ta lại cho rằng điều đó là vớ vẩn và đơn vị sẽ vào trận chiến chống lại Cộng sản ngay khi những vũ khí lợi hại tới.

Viết tin về lính bộ binh không phải là cuộc rong chơi.  Việc đi lại đôi khi khó khăn gian khổ vì phải băng qua rừng rậm, đầy bùn dính và sâu - mọi người phải nắm tay nhau để khỏi bị lạc.  Dây rừng và bụi rậm dưới chân cào vào vũ khí, quần áo và luôn có một người chỉ huy đi theo từ  hàng đầu tới cuối với khẩu hiệu: “kiểm tra lựu đạn, kiểm tra lựu đạn”.  Lính phải đảm bảo dây rừng không bật lấy an toàn vỏ lựu đạn.  “Đó giống như cắt sợi mì qua bát mì”, một người nói.  “Ước gì nó dễ dàng như vậy, Tarzan chẳng bao giờ có khó khăn đó”, một người đáp lại.

Vào giữa buổi trưa, mặt trời cũng không xuyên qua được lớp lá dày đặc.  Chỉ có ánh sáng mờ lúc chạng vạng.  Điều đó không bao giờ thay đổi và không dễ chịu gì.  Chỉ khi bạn biết không thể đi thêm được nữa, có một vết châm bất ngờ bởi một vật mát mềm trong đùi và biết rằng một con đỉa đen nghé thăm, bò lên chân từ những giọt nước rỉ ra ở gót chân, đang trở nên béo múp bằng máu của bạn tới lần dừng chân tiếp theo khi xắn quần lên và đốt kẻ thâm nhập vào lãng quên bằng bật lửa.

Rừng được xem là sự hăm doạ, nhưng vùng nông thôn có dân cư sinh sống lại có một loại rắc rối khác: con người có thể nguy hiểm hơn những sợi dây lộn xộn hay bùn có đỉa.  Đây là cuộc chiến không mặt trận và không an toàn.  Tôi có thể thấy những bất bình thường ở Việt Nam ảnh hưởng tới những lính trẻ, những người đào tạo để chống lại kẻ thù mặc đồng phục để bảo vệ những mục tiêu đặt ra rõ ràng.

Tôi đi cùng đoàn trinh sát bằng xe bọc thép và những khẩu súng tự động 90mm hướng về phía bắc căn cứ doanh trại dọc đường số 1, nơi những báo cáo của do thám Cộng hoà nói rằng có tới một nghìn du kích Việt Cộng đang tập trung tấn công người Mỹ.  Lính nhảy dù thận trọng khi xuống khỏi đường cao tốc và vui mừng khi họ đi qua cộng đồng người lánh nạn Thiên chúa giáo của Hố Nai, nơi đó hàng trăm người dân địa phương chạy ra khích lệ họ.  Thêm vài dặm lên đường cao tốc không khí thay đổi: có các hố cá nhân và mương rãnh đào bên đường, những người đi bộ đội và nông dân trên cánh đồng quay mặt đi.  Một chiếc xe ô tô bấm còi không kiên nhẫn và một chiếc mui kín nhỏ của Pháp theo đường vòng qua hàng xe bọc thép, một người châu Âu cầm lái và hai người phụ nữ ăn mặc sang trọng trên xe.  Khi chiếc xe vượt lên đằng trước, lính nhảy dù sẵn sàng chiến đấu nhìn nhau ngạc nhiên.  Chiếc xe ô tô xuất hiện từ rừng cao su phía trước.

Phía sau rừng cây, đường cao tốc cản trở xe quân đội bởi những hào sâu.  Những người lính nhảy xuống bụi rậm, dựng súng cối và súng máy sẵn sàng cho mọi chuyện trừ một nhóm người Việt bất ngờ xuất hiện vây quanh họ, một số mặc quần áo rách rưới và đầu tóc rối bù với cái nhìn lạ lẫm, hoang dại của những người rừng.  Những người khác đang đánh xe bò cùng những đứa trẻ lôi thôi, lếch thếch.  Cảnh sát Cộng hoà đi cùng đội tuần tra nói rằng họ vô hại.

Tiến ra khỏi bụi cây, đội lính chỉ vào một người mặc quần áo màu đen ở xa thích hợp với miêu tả về Việt Cộng và họ đuổỉ theo.  Họ thấy một người phu nữ chặt tre bằng liềm.  Cô ta thét lên hoang dại và không ai có thể hiểu những gì cô ta muốn nói nhưng cảnh sát kiểm tra chứng minh thư và để cô ta đi.  Cồng chiêng vọng ra đâu đó trong bụi cây khi những người lính di chuyển về phía trước, theo sau là hàng xe bọc thép đè bẹp những bụi cây.  Sau đó chúng tôi đi song song với đường sắt Sài Gòn – Hà Nội, con đường đã không sử dụng trong nhiều năm và chúng tôi biết ơn vì nhờ nó có thể trở lại Trảng Bom và theo quốc lộ 1 về nhà.  Trong một ngày lính nhảy dù đã chứng kiến một Việt Nam huyền bí và mâu thuẫn, những gì gọi là tập dượt quân sự của họ trước đây giờ thành vô ích khiến họ thấy là những người lạ trên mảnh đất của người ngoài hành tinh.

Những hạn chế trong chính sách của Tổng thống là Lữ đoàn 173 hoạt động ở mức độ hành quân thấp trong tháng đầu tiên tới độ làm mất tinh thần của vị tướng tham vọng.  William không còn kiên nhẫn.

William muốn đưa ra những nhận xét báo chí tốt và nhạy cảm với những thông tin phản ánh về lữ đoàn trong những gì ông ta thấy như ánh sáng mờ.  Ông ta có nhiều điều để bực bội.  Có 3500 lính dưới sự chỉ huy của ông ta và khoảng 60 phóng viên, nhiếp ảnh bất kỳ lúc nào cũng lượn lờ quanh đó.  Đặc biệt AP nằm dưới ngọn lửa của ông ta vì ngày nào chúng tôi cũng ở đó và viết hầu hết những hoạt động lính nhảy dù bảo vệ vòng ngoài căn cứ.

Hort đi cùng một đội tuần tra bộ binh hỗ trợ tấn công không quân được cho là tấn công vị trí của Việt Cộng trên đồi phía trước.  Anh ta đi cùng trinh sát kiểm tra mục tiêu và nhìn thấy một hàng người đang đi về phía họ.  Họ cầm súng.  Khi những người đó tới, lính Mỹ nhìn thấy những bộ quần áo màu vàng và nâu của các vị sư.  Một số quần áo của họ dính máu và sáu người được khiêng bằng cáng.  Khi nhóm người đó ra hiệu chào kiểu Phật giáo, lính chạy về phía trước giúp đỡ.  Các sư trong một ngôi chùa bị tấn công nhầm trong một trận không kích.  Tôi viết một câu chuyện nói rằng nhóm tôn giáo “đã trở thành nạn nhân của sự nhầm lẫn thường xảy ra trong chiến tranh Việt Nam”.  Tướng William gào lên.

Một tiểu đoàn lính bộ người Australia chuyển vào cạnh lính đánh bộ ở Biên Hoà.  Họ là những lính kinh nghiệm, thân thiện, rất thích giao tiếp với những người Mỹ nhưng lại sợ sự cấm đoán của William về việc uống bia ở căn cứ hay ở những quán bia trong thành phố.

Chính tôi cũng là người uống bia, thường thể hiện cảm thông với những người đàn ông bằng một vài câu chuyện hay đùa rằng những lính đánh bộ khó khăn, vất vả đủ hào phóng để giải quyết vài chai bia sau khi trở về từ rừng.  Vị tướng không ngạc nhiên khi Bộ trưởng Quốc phòng Australai vận động hành lang thành công chỉ huy tối cao Hoa Kỳ bãi lệnh uống bia.  Tình hình trở nên xấu khi một nhóm người đi nhà thờ ở Texas đọc những câu chuyện của tôi về việc đó, họ đã gửi tới sỹ quan tuyên uý lữ đoàn năm trăm móc khoá nhà thờ mở bia.  Vị sỹ quan tuyên uý quảng cáo rằng bất kỳ ai tham dự bài giảng nhà thờ ngày Chủ nhật tới sẽ nhận được một cái mở bia.  Ông ta đã phá vỡ kỷ lục tham dự.

Tháng 8 – 1965 khi vị tướng cử hai trong những tiểu đoàn của mình hành quân 5 ngày tới phía đông nam Sài Gòn và  trở về tay không, tôi viết một đánh giá về chiến thuật quân sự của ông ta.  “Có một phản ứng giây chuyền của những lỗi lầm mà không thể tạo nên thành công trước khi điều hành thực sự theo đúng cách.  Rất nhiều nhà quan sát cảm thấy chỉ huy cấo cao Hoa Kỳ có thể dính vào chiến thuật đem lại sự thất bại cho lực lượng Cộng Hoà trước đây và có thể mang lại sự thất bại cho lực lượng Hoa Kỳ bây giờ”.
Ngay sau đó , Tướng William cho rằng ông ta đã lãnh đủ từ những bài viết của tôi, triệu tôi đến Sở chỉ huy  lữ đoàn.  Don Pratt khẩn nài tôi lịch sự với vị Tướng và đồng ý chịu trách nhiệm trước bài giảng sắp tới.  “Ông ấy không có đầu mối như những gì anh có, như vậy chỉ cần làm hài lòng ông ấy thì công việc của tất cả chúng ta sẽ dễ dàng hơn”.

Tôi lái xe ra căn cứ lữ đoàn vào giữa buổi sáng và đi bộ lên khu vực chỉ huy.  Khi đi qua Pratt, anh ta làm cử chỉ họng xẻ dọc với tôi và tôi cũng búng tay đùa lại.  Tướng William ngồi ở đó khi tôi bước vào và vẫy tôi lại ngồi chiếc ghế tại bàn ông ta.  Ông ta tập hợp vài viên sỹ quan lâu năm của mình để giáo huấn.  William dựa vào phía sau, mắt nhìn tôi.  Mặc dù tôi tự nói với mình phải bình tĩnh, giải pháp của tôi phải nhẹ nhàng, nhưng chỉ trong chốc lát tôi cảm thấy mình giống như tân binh đi báo cáo tè dầm.  “Anh và những phóng viên thường trú khác không viết được cái gì hơn ở lữ đoàn 173 ngoài những câu chuyện về sự lảng tránh của Việt Cộng à? Anh không biết rằng Việt Cộng là những kẻ nhát gan, họ chỉ chiến đấu về đêm và khi chúng tôi bắt được một nhóm thì họ bỏ chạy.  Khi anh nói rằng chúng tôi không thể tìm thấy Việt Cộng, điều đó làm chúng tôi giống như đồ bỏ đi và chúng tôi không phải như vậy”.  Tôi nhận thấy các sỹ quan cấp dưới tỏ thái độ thoải mái và tôi chắc họ đã nghe những điều này trước đây.  Vị Tướng tiếp tục: “Tại sao cậu không thể viết những điều tích cực về chiến tranh.  Đó là cách duy nhất thay đổi thuỷ triều ở đây và để người Mỹ ủng hộ những hành động của chúng ta trong đất nước này.  Nếu chúng ta muốn những người lính trở về nhà thì phải thuyết phục mọi người, phải làm cho những đại biểu Quốc hội biết về sự thành công mà chúng ta đang tạo ra ở đây.”

Tôi phản kháng rằng chúng tôi đang làm hết sức, viết về các sự kiện một cách khách quan và đánh giá cao sự hiếu khách mà lữ đoàn ông ta dành cho chúng tôi.  Vị tướng không ấn tượng.  Ông ta đứng dậy và “sủa” vào mặt tôi: “Điều đó chưa đủ, chúng tôi muốn anh trở lại hàng ngũ”.  Tôi đã nghe điều đó trước đây.  Tôi cố gắng giải thích rằng AP là một hãng tin quốc tế với những trách nhiệm vượt ra ngoài đất nước Hoa Kỳ và thậm chí có những người thuộc phía bên kia cũng muốn mua tin, trong đó có TASS (cơ quan thông tấn Liên Xô cũ).

William nhìn tôi nghi ngờ.  “TASS hả? Đó là một tổ chức chết tiệt”.  Cuộc thảo luận cuối cùng cũng kết thúc và khi tôi rời đi, William nói với nhân viên thông tin ở lại và đọc cho anh ta nghe Đạo luật Ngăn ngừa chống phá trật tự khiến tôi tới nơi đâu cũng bị từ chối.  Pratt bước vào văn phòng ngày hôm sau, kêu lên “anh không giữ lời hứa” và nói tôi không còn được chào đón cùng lữ đoàn nữa.

Tôi đáp lại “Khốn thật, tôi sẽ viết về Big Red số 1 (Sư đoàn lính bộ đầu tiên của Hoa Kỳ) và những lính thuỷ đánh bộ”.

“Chết tiệt, không có cách nào khác đâu, William căm ghét cú húc của anh nhưng nếu ông ta hài lòng với những tiêu đề mà anh viết thì tôi sẽ cho anh tham gia vào những trận chiến.

Pratt qúa thành thật.  Anh ta luôn báo cho tôi biết những chiến dịch chống trả tôi của Tướng anh ta.  Tại một cuộc họp ở Nha Trang với hai nhân viên thông tin Chính phủ từ Washington đến, đại tá Roger Bankston và Dan Henken, William nói với họ là tôi đã thú nhận với ông ta tôi viết để làm hài lòng TASS và theo ý đó của ông ta thì tôi thuộc loại chống phá nên bị nghi ngờ.  Đập vào mặt bàn, ông ta tuyên bố những phóng viên không hợp tác sẽ bị trục xuất và những phóng viên nhấn mạnh lỗi lầm của Mỹ ở Việt Nam là “không có năng lực hoặc có xu hướng chống phá”.

Những người lính của William là những người tôi viết và họ thích thú vì sự quan tâm của tôi.  Những quan sát của tôi về sự lẩn tránh của Việt Cộng và những thất bại của chiến tranh là những điều xuất hiện trong những bức thư của họ viết về nhà, vì vậy họ không phàn nàn về tôi.  Mong muốn của họ là tôi duy trì khả năng viết về những hành động của lính nhảy dù, như một cách thách thức lại lời chỉ đạo của Tướng William.

Một ngày Don Pratt lái xe tới văn phòng của chúng tôi với thông tin Tiểu đoàn 1 sẽ bắt đầu tấn công chống lại khu vực căn cứ được bảo vệ và là điểm “nóng” của Việt Cộng ở phía bắc Sài Gòn.  Anh ta muốn tôi đi cùng để tác nghiệp mặc dù điều đó không được phép “bởi vì tôi nợ anh về vụ cho chúng tôi được uống bia lại” – Don Pratt nói.  Phụ tá văn phòng người Việt đưa tôi đến điểm tập kết trực thăng gần căn cứ lữ đoàn trước hoàng hôn và tôi bò qua hàng rào an ninh, tham gia cùng Pratt và một số người bạn của anh ta từ trung đội của đại dội A.  Với bộ quần áo dã chiến màu xanh mua ở chợ đen và mũ sắt, tôi lẫn vào đám đông.  Tôi là sự ghen tị của nhóm vì tôi đã mua được đôi ủng đi rừng có bàn giằng đi lại dễ dàng hơn trong bùn so với những đôi đế trơn cấp cho lính nhảy dù.  Trung đội trưởng cũng đồng thuận với chúng tôi, nhập tôi vào một trực thăng chở lính với một trong những đội của anh ta, khi nhân viên lữ đoàn lâu năm kiểm tra việc cất cánh.
Chúng tôi rời căn cứ không quân Biên Hoà, nơi có đông dân cư xung quanh, bỏ xa những thị trấn khi khói bếp toả ra từ những ống khói, đi qua cánh đồng lúa ngập nước, bay lên những rừng cao su, và bỏ xa cả những con đường dầy bụi và những mái lá của vùng nông thôn nghèo nàn.  Chúng tôi tới một dải đất vùng đầm lầy và rừng rậm được gọi là Vùng chiến khu D từ chiến tranh thuộc địa.  Trực thăng của chúng tôi nhanh chóng hạ xuống một bãi đất trống rộng rãi.  Lính nhảy dù bổ nhào xuống, thậm chí trước cả khi máy bay phanh lại, tiếp đất thăm dò.

Tôi cảm thấy tay của Pratt đặt trên vai mình, sau đó là cả hai chúng tôi nhảy xuống.  Tôi căng thẳng khi thấy mình rơi vào đống nhớp nháp nhày nhụa, bốc mùi thực vật mục rũa.  Tôi bị lún sâu tới đùi trước khi giữ được cân bằng và di chuyển theo sự chỉ dẫn của lính.  Tôi đẩy mình qua đám cỏ lau màu vàng che khuất tầm nhìn thấy Pratt đang chờ mình tại thùng xe bò.  Anh ta cũng bẩn như tôi.  “Ít nhất Victor Charlie không biết chúng tôi đang tới”, anh ta nói “Bởi vì ở đây vẫn chưa có liên lạc”.  Cách anh ta cười với tôi làm tôi nhớ tới diễn viên nam Dane Clark từ một bộ phim chiến tranh tôi xem hồi nhỏ.  Khi tôi nói với anh ta như vậy, anh ta đáp lại: “Khỉ thật, không đâu, tôi là John Wayne, hãy di chuyển đi”.

Tôi đi cùng nhóm chỉ huy đang nghiền ngẫm tấm bản đồ bằng nhựa được đánh dấu bằng những đường bút chì xanh, đỏ đậm và chữ viết nguệch ngoạc.  Bộ đàm tại bộ chỉ chỉ huy định vị sự có mặt của một trung tâm truyền thông Việt Cộng trên khu vực cao cách vài dặm về phía tây và ra nhiệm vụ hạ nó, gây thiệt hại càng lớn càng tốt.  Chỉ huy đại đội, Đại uý Walter Daniel đưa ra những mệnh lệnh thì thào cho trung đội của anh ta di chuyển cẩn thận và cảnh giác: “Đây là đất nước của Victor Charlie, đừng quên điều đó và hãy cẩn thận”.

Trung đội 3 đi theo một chỉ huy trẻ qua những bụi cây mọc rối rắm mà tầm nhìn chỉ khoảng 50 mươi bước chân.  Tôi nghe anh ta phàn nàn với bạn là anh ta đã lỗi thời vì có quá nhiều tân binh được đưa đến thay thế nhưng đã tử vong trên chiến trường hoặc mắc các loại bệnh nhiệt đới.

Ngày đầu chúng tôi vượt qua một đầm lầy nhiều dây rối rắm mà Việt cộng đã biết cách tránh.  Chúng tôi mất cả ngày chỉ đi được có 3,2km.  Chúng tôi trải qua một đêm không thoải mái trong những bộ đồ ướt và tiếp tục đi lúc bình minh.  Sau một giờ, trung đội 3 thông báo họ đã tới đỉnh đồi và sau đó Việt Cộng lộ diện tấn công.  Khu rừng vang lên tiếng súng máy bắn phá cả khoảng rừng, hạ gục bảy lính Mỹ đầu tiên và ngăn đường đi của những người còn lại.  Tôi cúi xuống khi những viên đạn rơi uỵch vào thân cây gần đó và bay vút lên đầu.

Những người lính gần đó bắn trả bằng những khẩu M-16.  Tôi nhìn lên thấy Don Pratt cùng vị giáo sỹ của lữ đoàn, Frank Vavrin đã nằm sóng soài và trước khi chúng tôi nhận thức được  đầy đủ những chuyện gì đang xảy ra.  Vài trăm thước trước mặt, Đại đội 3 đã bị mai phục và đang chiến đấu cho sự sống còn.  Những viên đạn tấn công gần chúng tôi nảy bật ra.  Một giọng thét lên: “Dừng bắn, các cậu đang bắn vào chính người của mình!” và tôi bò về phía đội chỉ huy  của Đại uý Daniel.  Anh ta co dúm trên bộ đàm.  Một giọng khẩn cấp: “Chúng tôi bị tấn công nặng nề, chúng tôi bị tấn công dữ dội, chúng tôi đã bị chia cắt và gim lại”.  Daniel đáp lại nghiêm túc: “Không có cách nào đâu, các cậu là Trung đội 3, các cậu không bao giờ bị gim lại”, nhưng giọng nói đó khẩn khoản và nhanh chóng thông báo rằng trung đội trưởng đã nhận một viên đạn vào đầu.

Daniel tự mình đi xem tình hình và tôi theo sau anh ta, nửa bò, nửa trườn xuống đường dẫn đến một con suối nhỏ.  Khu rừng nghiêng ngả trong tiếng vũ khí tự động kêu to đến điếc tai.  Đại uý tiếp tục đi, đẩy đám cỏ bông sang một bên, lội qua bùn tới khi những viên đạn tới tấp bắn đến.  Anh ta ngã xuống đất và tôi nghĩ anh ta đã bị hạ gục.  Tôi bò tới vị trí thuận lợi quan sát thấy chiếc cằm anh ta chạm vào đất bẩn để nhìn thấy khoảng trống nhỏ.  Ở đó, cơ thể đầy máu của một trong những người lính nhảy dù của anh ta đã bị tay súng máy Việt Cộng bắn gục.

Có hai thi thể lính Mỹ ở khoảng trống và những gì còn lại là của Trung đội A phía trên đồi phía trên, không nhìn thấy nhưng không có âm thanh trong bụi rậm.  Daniel trườn xuống đồi, qua dòng suối quay lại chỗ người cầm bộ đàm.  Anh ta nửa đề nghị, nửa cầu xin cấp trên ở căn cứ giúp đỡ.  “Chúng tôi đã từng chiếm bất kỳ quả đồi nào ở Việt Nam trước đây, nhưng tôi không nghĩ chúng tôi có thể chiếm được lần này.  Chúng tôi phải mang tiểu đoàn còn lại về”.

Đại uý Daniel di chuyển lên Trung đội 2 tìm cách tốt nhất phá vòng vây cho những người còn sống sót của Trung đội 1 và Trung đội 3, do vậy những người lính bò qua chúng tôi cùng vũ khí sẵn sàng.

Những cố gắng giải cứu của Trung đội 2 tạo ra đường thoát, cho phép những người bị thương đến được với nhóm chỉ huy.  Đại uý Daniel đưa thêm vài lính như hàng rào bảo vệ mỏng xung quanh chúng tôi và những bác sỹ quân y làm công việc của mình.  Ba trong số họ giúp một lính nhảy dù bị thương nặng.  “Tiếp tục ép ngực anh ta, giữ cho tim đập”, một bác sỹ quân y giục một người khác đang hô hấp nhân tạo.  Họ ở đó hàng giờ dù những viên đạn liên tục bật nảy xung quanh họ cho đến khi người lính nhảy dù chết.

Don Pratt, sỹ quan tuyên uý Vavrin và tôi làm hết sức để giúp những người bị thương cảm thấy dễ chịu hơn, kiểm tra băng bó cho họ bằng vải ướt.  Có hơn 30 người bị thương nằm đó vào lúc trưa, gồm trung sỹ Gerald Mahoney - người đã bị bắn vào đầu gối và ngón tay cái trong đợt tấn công đầu tiên.  “Tôi sẽ 19 tuổi vào ngày 17-10 và tôi sẽ phải tổ chức sinh nhật trong bệnh viện.  Tôi không thích điều đó”, anh ta nói.  Giáo sỹ Vavrin xoa đầu anh ta và nói với tôi: “Chúng là những cậu bé dũng cảm và tôi vui vì ở đây hôm nay” rồi sau đó ông ta bò tới xoa dịu một lính hôn mê bị thương ở đùi.

Đầu buổi chiều, dù tất cả đều cố gắng hết sức nhưng hai trong những người lính bị thương nặng ở ngực đã chết và một bác sỹ quân y đẫm mồ hôi trong chiếc áo khoác dính máu nói ra điều mọi người đang nghĩ đến: “Chúng ta cần trực thăng đưa những người này ra.  Chúng ta không thể có trực thăng sao?”.  Vấn đề là khu rừng đó như một bức tường chắn 3 phía, cao khoảng 60 m trên đầu chúng tôi.  Chúng tôi phải phá tung nó ra bằng Dynamite và sẽ rất mất thời gian.  Cuối buổi, đại đội kỹ thuật đã đào một vùng đất đầy cây gãy, gốc bị bật và hướng ra một lối thoát trong bức tường chắn để lọt những tia nắng đầu tiên.  Vùng đất trở nên quá nhỏ cho trực thăng quân đội hạ cánh, một chiếc đã thử vào và bị đập cánh quạt trên cây.  Chiếc HH-43s nhỏ hơn của lực lượng không quân có thể lọt vào, Pratt và tôi giúp đưa người bị thương lên.

Vào đầu buổi tối, tiểu đoàn trưởng, Đại tá John Tyler bổ sung thêm hai đại đội tăng cường lực lượng từ vị trí phía sau Việt Cộng.  Họ kiểm tra ngọn đồi và tìm thấy hào, đường hầm cùng xác của 11 lính Việt Cộng.

Vị Đại tá không vui khi nhìn thấy tôi.  Anh ta nói với Pratt, “Tướng William đã nói với chúng ta gã này không được chào đón ở đây” nhưng rồi anh ta cũng nói với tôi.  “Đây là nguyên nhân vì sao mà nó được gọi là vùng chiến khu D.  Không có cách gì có thể đánh tan được nó.  Chúng ta đã ở đây và bây giờ chúng ta sẽ quay trở lại.  Nếu họ muốn đánh nhau kiểu này, chúng ta sẽ chiến đấu”.

Tôi chỉ cho đại tá 11 lính nhảy dù đã bị giết, 40 người lính bị thương và tiếp tục đánh nhau có nghĩa là thiết lập tỷ lệ tử vong 1-1 mà không hứa hẹn điều gì tốt đẹp.  Vị đại tá mỉm cười tự tin: “Nhìn này con trai, chúng ta lợi thế ở trận này vì Việt Cộng yếu thế hơn”.  Đầu buổi tối, Pratt và tôi trèo lên trực thăng cuối cùng đi ra.  Quần tôi ướt – tôi phát hiện chúng tôi đang ngồi trên vũng máu nhỏ đọng lại ở chỗ trũng trên sàn kim loại từ người chết và bị thương trong những chuyến bay trước.

Tối muôn đêm đó tôi viết câu chuyện của mình.  Bởi vì chúng tôi bị hạn chế đưa ra chi tiết những con số tử vong và bị thuơng cụ thể, tôi chỉ đề cập rằng đơn vị đã chịu tổn thất nặng nể, vì gần như một nửa đại đội bị thương.  Ngày hôm sau, tại cuộc họp nhanh hang ngày của các nhân viên quân đội Cộng hoà và Mỹ ở Sài Gòn, mà chúng tôi gọi tiếng lóng là “Hành động ngu ngốc lúc 5 giờ”, các nhân viên quân sự cãi nhau với các con số của tôi và miêu tả tổn thất là nhẹ.  Khi tôi phản đối, họ giải thích rằng sự mất mát thực sự một đơn vị đại đội là lớn nhưng khi so sánh tuơng quan lực lượng chống lại cả một tiểu đoàn thì được xem là nhẹ và đó là cách họ nhìn nhận.

Tôi rất tức giận với những mánh khoé đó và không có cách gì ngăn được nó về sau.

ĐỘI TIẾP TẾ 21


Chính quyền Johnson trở nên cảnh giác với những tin tức viết về Việt Nam và cố gắng hạn chế điều đó.  AP là mục tiêu hàng đầu.  Những bản tin chiến trường đầy hình ảnh và những câu chuyện về các thử nghiệm tấn công bằng khí gas trong các đợt hành quân, thất bại lắp đặt quân sự và sự thiếu thốn vũ khí trong các đơn vị chiến đấu của quân đội Hoa Kỳ làm tức giận Washington tới mức Tổng thống Johnson yêu cầu FBI chọc vào cuộc sống của tôi và cố gắng tìm ra cái gì đó bẩn thỉu để bịt miệng tôi.  Trụ sở AP chỉ nắm được tình hình chung và rất lâu sau này chúng tôi mới biết những điều sâu xa trong sự không hài lòng của Nhà Trắng.

Thư ký báo chí Bill Moyers quan sát trong một lần ghi chú năm 1965 nói rằng tin bài của phóng viên CBS Morley Safer và tôi là “vô trách nhiệm và thiên kiến” bởi chúng tôi sinh ra ở nuớc ngoài nên chúng tôi không có “mối quan tâm cơ bản trong tim của người Mỹ”.  Moyers hứa “thận trọng những điều đó hơn” và Johhn viết nguyệch ngoạc “tốt” trên bản ghi nhớ.  Phụ tá của tổng thống, Jack Valentin viết một bản ghi nhớ cho Johnson trước cuộc họp với Wes Gallagher và các nhân viên khác của AP: “Các anh có thể đưa ra vấn đề của Peter Arnett, người trở nên có hại với nước Mỹ, có hại hơn cả một tiểu đoàn Việt Cộng: Những câu chuyện của anh ta về những thiết bị do thám, máy bay cổ, việc sử dụng khí gas độc hại”…

Wes Gallagher được mời tới cuộc họp Nhà Trắng và ông ta đã chuẩn bị đối mặt với những lời nhận xét của Tổng thống, mang theo một va li đầy những hình ảnh và sự thật ủng hộ cho những câu chuyện gây tranh cãi nhưng Johnson không hề đả động đến chiến tranh hay tác nghiệp của AP và cuối cùng Gallagher quyết định tự mình nêu vấn đề.  “Thưa Tổng thống, tôi hiểu ngài đã nhận xét về một số những câu chuyện của AP từ Việt Nam”.  “Ồ không”, Johnson đáp lại khi ông ta vỗ vai Gallagher từ phía sau.  “Tôi nghĩ là AP đang làm tốt công việc”.  Gallagher không thách thức ông ta khi nói: “À, tôi chỉ muốn ngài biết, thưa ngài Tổng thống, AP không chống lại ngài hay chỉ ủng hộ ngài”, tới đó Johnson đáp lại: “Đó không thực sự là cách mà tôi thích”.

Trong một bản ghi nhớ dành cho Wes Gallagher ngày 16-8, trưởng phòng nhân sự AP, Keith Fuller giải thích rằng mọi người ở AP phải cẩn thận hơn trong việc cân bằng làm tin vì điều đó có thể tạo ra “vấn đề đặc biệt cho Peter Arnett vì anh ta không phải là một người Mỹ mà lại tình cờ trở thành một phóng viên chiến trường năng động nhất của chúng ta, điều đó rất dễ làm cho các quan chức tức giận, trút giận vào anh ta”. Fuller nói anh ta đã nghe phong phanh thông tin về một chiến dịch và nhờ tôi kiểm tra giúp.  Tôi không phản dối cung cấp cho AP tất cả những thông tin mà họ yêu cầu.  Những năm sau này đại tá Dan Baldwin đã nghỉ hưu nói với tôi rằng anh ta dành một tháng của năm 1965 bay vòng quanh nước Mỹ cùng một nhân viên CIA trong chuyến bay của Chính phủ để phỏng vấn những nguời quen của tôi, những người trở về từ Sài Gòn và luôn cố gắng buộc tội tôi là Việt Cộng.

Câu trả lời của Gallagher đối với mê cung những luật lệ và quy định mà Chính phủ Hoa Kỳ ở Sài Gòn áp dụng lên báo giới là hãy phản công mạnh.  Ông khuyên chúng tôi trong một bức thư ngày 14-6-1965: “Tôi nghĩ câu trả lời tốt nhất lúc này là sự công kích với vai trò của tất cả các bạn như đã làm trước đây và không bị cản trở bởi những hạn chế”.  Gallagher đang “bật đèn xanh” cho những liều lĩnh của tất cả chúng tôi và chúng tôi đáp trả những thách thức của ông ta.

Ngày 18-8-1965, Eddie Adams, một phóng viên báo ảnh của AP thông báo với chúng tôi rằng chiến dịch quân sự lính thuỷ đánh bộ Hoa Kỳ lớ sẽ bắt đầu ngày hôm sau và anh ta sẽ bay ra Huế với chỉ huy lính thuỷ đánh bộ, Thiếu tướng Lewis Walt.  Eddie nói có một chỗ đi nhờ trên trực thăng quân đội Hoa Kỳ đóng tại Đà Nẵng do Đại uy Irwin Cockett lái, một trong những người bạn của chúng tôi.  Tôi đang chạy vội về nhà đóng gói hành lý và đi nhờ trên chiếc C-130 của Lực lượng Không quân Hoa Kỳ chở túi đựng xác tới Đà Nẵng.  Bình minh lên trước khi chúng tôi tới nơi.  Đại uý Cockett đang uống cà phê ở nhà ăn tập thể Quân đội Không quân.  Anh ta nói cuộc hành quân thực tế ở đảo Vân Tường phía nam Đà Nẵng.  Anh ta nhảy lên trực thăng và chúng tôi bay qua những tia nắng mặt trời đang lên đi về phía chiến trường.

Tới đường băng tại sân Chu Lai bị chặn cát, chúng tôi nhìn thấy khói toả lên từ bán đảo rừng về phía nam.  Một đợt hành quân lớn vẫn đang tiếp diễn.  Cockett thả tôi ở gần ba chiếc trực thăng lên thẳng CH-34 mà quạt gió đã quay và tôi nhảy lên môt chiếc chất đầy khí gas.  Sau đó là Tim Page, một tay báo ảnh tự do, người cũng được tiết lộ đi về phía nam, nhảy lên máy bay.

Chúng tôi nhanh chóng đảo quanh trên bán đảo, cơ trưởng hét vào tai tôi rằng phi công đang tìm chỗ thả hàng.  Chúng tôi bắt đầu xoắn xuống mặt đất chiến trường.  Tôi liếc nhìn hàng xe bọc thép phía dưới.  Page và tôi giúp cơ trưởng lăn những thùng ga xuống đất và nhận ra một tá lính thuỷ đánh bộ lăn lê lao về phía chúng tôi, một số bị thương và nột nửa được những người bạn mang đến.  Tôi nghe cơ trưởng thét lên trong micro: “Chúng ta đang ở nơi chết tiệt nhầm nhỡ”.  Chiếc trực thăng lên thẳng chồm lên giống như con hươu rồi sau đó đáp lại khi những lính thuỷ đánh bộ bị thương lên boong, bám vào một vật gì đó bằng kim loại khi nó lảo đảo bay đi.

Page và tôi ở lại phía sau, một mình trong khoảng rừng thưa nhìn về những bụi cây phía sau tới những bóng to lớn của những chiếc xe lội nước im lìm trong cánh đồng lúa bị ngập cách đó gần 50m.  Khi tới chỗ họ, chúng tôi nhìn thấy vỏ ngoài bằng thép vỡ ra từng mảnh và tàn tích với những vụ nổ, trở nên nóng rát với cái nóng gay gắt của buổi sáng.  Tôi nhìn vào mặt nước sợ hãi, trừng lại tôi là đôi mắt không nhắm của một lính thuỷ đánh bộ đã chết, khuôn mặt cách mặt nước 3cm.  Tay phải của anh ta vẫn nắm chặt con dao chiến trường K-bar của lính thuỷ đánh bộ.  Page gọi tôi tới phía sau một xe bọc thép nơi một người lính khác chết nằm co lại giống như một đứa trẻ và chúng tôi nhìn thấy nhiều xác chết nữa trong nước.

Chúng tôi nghe tiếng kẽo kẹt của chiếc cửa bằng thép mở ra và một cái đầu bù xù thò ra: “Đưa cái chệt tiệt vào bên trong đi, Việt Cộng ở khắp nơi” và anh ta vẫy chúng tôi vào bên trong xe.  “Chúa ơi, chúng ta cần cứu nơi của khỉ này”, Page đáp lại.  “Nếu có người nào khác còn sống, đưa ngay ra ngoài cùng với vũ khí của họ”.

Tay lính thuỷ đánh bộ kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện đau đớn.  Chiến dịch Starlite là một cuộc tấn công quân sự lớn nhất của Mỹ tới thời điểm đó tại Việt Nam.  Đơn vị mà chúng tôi tìm thấy là Đội tiếp viện 21 gồm 5 xe đổ bộ, mỗi chiếc nặng 35 tấn và hai xe tăng M-48 hộ tống.  Hành trình dẫn đến sự huỷ diệt của nó bắt đầu cùng sự lúng túng.  Khi họ đặt chân tới, họ không thể định vị mục tiêu và bắt đầu đi tìm.  Lạ nước, những chiếc Amtrack to lớn điên dại lội từ cánh đồng lúa này sang cánh đồng lúa khác.  Vào lúc 11 giờ sáng, họ bắt đầu gặp rắc rối nghiêm trọng.  Những người lính Việt Cộng nguỵ trang mọc ra từ những hàng cây, đầm lầy và tấn công bằng súng trường, lựu đạn.  Cai đội Richard Pass nói rằng chiếc Amtrack đổi hướng khi vụ nổ tàn phá xung quanh nó.  Chiếc xe tăng dẫn đầu bị tấn công bằng lựu đạn bọc thép.  Những cánh đồng lúa màu mỡ là khó khăn chiến thuật cho những người lính tiếp tế không được huấn luyện, ba trong năm chiếc Amtrack quay trở lại trong cánh đồng sâu và bị sa lầy.  Hai chiếc còn lại theo hướng những chiếc xe tăng vụng về tìm chỗ ẩn náu nhưng một chiếc không làm được và bị một lính Việt Cộng hạ gục khi ném lựu đạn vào cửa, giết hai người Mỹ bên trong và làm bị thương những người khác.  Pháo cối thổi tung những chiếc xe và một súng đại bác đặt ba lỗ trong chiếc xe tăng.  Người lái xe bị bắn chết khi anh ta cố len qua cánh cửa thoát hiểm rộng 46cm bên dưới xe.  Một hạ sỹ nói anh ta nhìn thấy lính Việt Cộng với dây đeo súng, bộ quần áo đen và mũ sắt nguỵ trang di chuyển về phía một chiếc Amtrack cách anh ta 27m bên tay trái và giết một trong những người lái xe khi anh ta mở cửa và cố gắng trốn thoát.  Một lính thuỷ đánh bộ khác đang lội qua cánh đồng, tay cầm con dao thì bị hạ gục với vũ khí vẫn nắm chặt trong tay.

Khi chiếc Amtrack thứ ba bị hạ gục, chỉ còn lại hai người sống sót, họ bắn trả như một tên bắn trả cừ khôi qua lỗ ngắm phía trên xe.  Tất cả họ đều bị thương ở mức độ nào đó.  Họ nói một hạ sỹ trẻ thét lên: “Được rồi, chúng tôi là lính thuỷ đánh bộ, hãy làm công việc của mình”.  Anh ta bắt đầu thò ra khỏi xe nhưng không bao giờ đặt được khẩu súng lên vai - một viên đạn bắn trúng giữa hai mắt anh ta.  Vào cuối giờ chiều sau khi một trung uý bị giết, lực lượng tấn công không quân gần đó tới giúp giảm mức độ lo lắng nhưng những người sống sót đã có một đêm không dễ dàng và họ vui sướng hơn khi trực thăng của chúng tôi đến trở những người bị thương vào buổi sáng.  Tất cả được đưa đi vào đầu gìơ chiều, được một đại đội bộ binh hộ tống nhưng những chiếc xe bọc thép bị phá huỷ vẫn nằm lại như những kỷ niệm cho trận chiến lính thuỷ đánh bộ đầu tiên với Việt Cộng.

Tôi bay về Sài Gòn chiều hôm đó với tin sốt dẻo không ngờ tới.  Tôi viết suốt đêm, lăn ra giường vào giữa trưa sau 48 tiếng không ngủ.  Những tờ báo ở Mỹ và trên thế giới đều muốn sử dụng câu chuyện và ảnh của tôi.  Quân đoàn Lính thuỷ đánh bộ Mỹ không thể dễ dàng chấp nhận công việc của tôi vì Chiến dịch Starlite được xem là thắng lợi tuyệt đối trước khi tôi trở về từ hiện trường.  Kết quả là câu chuyện của tôi bị từ chối thẳng thừng và Đội tiếp viện 21 được nói là không tồn tại.  Tôi cố gắng đưa một số bức ảnh của mình tới cuộc họp “Những tên ngốc lúc 5 giờ” nhưng phát hiện ra không ai tin vào lời nói của lính thuỷ đánh bộ và đoán rằng tôi đang viết đúng sự thật.

Vài tháng sau đó, tôi nhận được một bức thư từ Hạ sỹ Guilford nói rằng câu chuyện của tôi làm vợ anh ta lo lắng nhưng rất vui vì tôi đã đến hiện trường và viết phần việc của mình vì những lính Mỹ không nhận được những gì chứng nhận cho sự hy sinh của họ ở Việt Nam.  AP bị ảnh hưởng từ câu chuyện trong nhiều tháng vì Chỉ huy Lính thuỷ đánh bộ - Tướng Wallace Greence nói công khai rằng Đội tiếp viện 21 là một sự bịa đặt.  Gallagher chỉ có thể chặn miệng ông ta bằng cách mời ông ta tới cuộc họp ban lãnh đạo hàng năm của AP ở New York và năn nỉ ông ta xem bài thuyết trình slide tất cả những bức hình của tôi.  Ông ta từ chối.

Dù đó không phải là trách nhiệm của ông ta nhưng Việt Nam ngày càng chiếm nhiều thời gian của Gallagher hơn.  Ông ta đã vẽ hành trình hiểm trở cho chúng tôi từ cách đó hơn 10 nghìn dặm và thấy rằng khi nguy hiểm của chiến tranh ngày càng nhiều, những nhân viên trẻ mà ông ta giục giã đang bước giữa bờ vực của sự sống và cái chết.  Ông ta cũng biết Tổng thống Hoa Kỳ có máy in tin AP trong văn phòng riêng và thường xuyên tham khảo, chửi mắng nhân viên quan hệ báo chí khi ông ta đọc được những câu chuyện không hài lòng – mà điều này lại xảy ra thường xuyên.  Tương lai xán lạn của Gallagher đang nằm trên chính đôi vai những phóng viên của ông ta.  Bởi vì ông ta tin vào quyền được biết của công chúng.  Gallagher cho chúng tôi tự do nhưng không tin rằng công chúng có quyền biết mọi thứ.  Đó là Horst, người kiểm nghiệm những giới hạn của sự buông thả.

Horst là người đồng hành tốt trên chiến trường.  Những người lính thoải mái quanh dáng hình to lớn hoà nhã của anh ta và cảm thấy thư giãn, thậm chí khi những chiếc Leica của anh ta hoạt động.  Lính ở Tiểu đoàn 2 Không vận 502 không lạ gì Horst và đã dẫn anh ta đi trong 3 ngày nóng tháng 12.  Anh ta đi cùng họ trong đợt tuần tra trong rừng năm 1965.  Những lính này nằm trong lực lượng tinh nhuệ của quân đội Mỹ và luôn sẵn sàng chứng minh điều đó.  Tiểu đoàn 2 mang theo một chiếc rìu nhỏ sắc như vật tổ của họ.  Nhưng Horst nhận thấy nó có ý nghĩa hơn một biểu tượng, nó là một loại vũ khí lễ nghi.  Một nhóm gồm 3 hoặc 4 lính luyện tập chiến thuật cùng nhau, chặt không khí bằng những tiếng tách của cổ tay.

Khi đội tuần tra đi qua khu rừng ở phía bắc Sài Gòn, một quả lựu đạn thô bạo nổ trên đường đi làm bị thương bốn người lính.  Những người bạn của họ gào lên tức giận và Horst nhìn thấy hai nhóm ném vũ khí xuống, chạy vào rừng cùng những chiếc rìu của họ.

Horst chờ, một trong số họ trở về mang theo một đầu người còn chảy máu.  Họ chuyền tay nhau cầm lấy làm mẫu cho Horst nhảy múa xung quanh tới khi đại đội trưởng, Đại uý Thomas Taylor tới và yêu cầu họ dừng lại ngay.  Anh ta là con trai vị Đại sứ Hoa Kỳ mới ở Việt Nam, Tướng Maxwell Taylor.  Ngày rùng rợn đó chưa qua đi.  Tiểu đoàn trưởng, Trung tá Hank Emerson ghé qua bằng trực thăng của mình khi nghe tin đó và năn nỉ đào đầu lên cho anh ta xem.  Anh ta hứa một thùng wiskey cho đao phủ đầu tiên.

Horst cảm thấy khó chịu và tức giận.  Những người lính thờ ơ với sự có mặt của anh ta và không quan tâm tới việc đang bị chụp ảnh.  Trong khi anh ta không trực tiếp nhìn vụ chặt đầu nên sợ rằng nạn nhân bị chặt sống.
 
Chúng tôi quyết định ném quả bóng vào lòng New York.  Tôi viết về những đội quân dùng rìu dưới tên của Horst và anh ta gửi 3 bức ảnh bằng radio.  Chúng tôi gửi một thông điệp nhờ Wes Gallagher xem lại toàn bộ bài đó.  Chiều hôm sau chúng tôi nhận được lời đáp, cảm ơn về một câu chuyện hoàn hảo, và khuyên chúng tôi nên hoãn những bức ảnh đó lại, đoạn miêu tả đuổi bắt và giết nạn nhân một cách hung bạo bị bỏ ra khỏi câu chuyện.  Chúng tôi chấp nhận quyết định của Gallagher không một lời phàn nàn nhưng chúng tôi bị những đội dùng rìu căm ghét vì đưa ra ý kiến cá nhân cho chỉ huy cấp cao Hoa Kỳ kỷ luật đơn vị.  Nhiều tuần sau đó tôi được thông báo những chiếc rìu đã bị cấm.

Những năm sau này Gallagher nói rằng anh ta không nhớ sự việc nhưng lúc đó buộc phải quyết định như vậy “vì nó có sức nặng”.  Trong xu hướng tin tức hiện nay, ông ta nói có thể sẽ để toàn bộ câu chuyện nhưng bỏ ảnh.  “Ý thức thị hiếu đã thay đổi và chiến tranh Việt Nam đã mang đến rất nhiều điều mà có thể không bao giờ có”, ông ta nói.

Những kiểm duyệt trực tiếp như vậy ít khi xảy ra với trụ sở AP.  Trong chiến tranh sau này, khi điều đó xảy ra, tôi ít phải chịu đựng hơn rất nhiều.

THÁCH ĐỐ SỐ PHẬN

Gallagher lo lắng chúng tôi đang mạo hiểm cuộc sống của chính mình.  Ông ta viết về Sài Gòn: “Tôi bận tâm về sự nguy hiểm của các cậu và nhận thức đầy đủ mức độ nguy hiểm của chiến tranh, nhưng những bài tin đầu tiên về các chiến dịch hành quân là những mạo hiểm không cần thiết.  Cuộc sống, khả năng của Peter và Horst quá đáng giá để sử dụng vào những bài viết như vậy.  Đôi khi những bài tin đầu tiên là quan trọng nhưng những thông tin chính trong mười câu chuyện chúng ta cần là từ những người sống sót của những chiến dịch đó nói.  Tôi biết không có quy định cụ thể nào đưa ra ở đây nhưng tôi muốn Horst và Peter biết rằng tôi cảm thấy họ nên thổi còi theo con số nhị phân chứ không phải phần trăm”.

Tôi biết Gallagher nói rất đúng, tôi hiểu điều đó và ông ta có lý do để lo lắng.  Trước tiên là một lời cẩn trọng, sau đó là mệnh lệnh.  Chúng tôi dường như hoài nghi những lời khẩn nài này.  Cạnh tranh, không cẩn thận, quy định.  Chúng tôi tin rằng chúng tôi là những người làm công việc tốt nhất nhưng đôi khi UPI lại chạy thoát với một câu chuyện và Phòng Ngoại sự sẽ lại cáu tiết với những mẩu tin “rocket” yêu cầu chúng tôi phải theo kịp đối thủ.  Khi Joe Galloway giành được nhan đề trên trang nhất với những bài viết từ thung lũng La Drang tháng 8-1965, Ben Bassett, biên tập viên ngoại sự AP giục giã chúng tôi với những yêu cầu đáng ghét để bắt kịp.  Chúng tôi thường nói đùa với nhau rằng không cần viết những câu chuyện nguy hiểm - nếu UPI không ở đó đầu tiên.

Chuyện đó xảy ra ở La Drang, Neil Sheehan sau này làm cho tờ Thời báo New York và tôi là người đầu tiên có mặt ở đó cùng Joe Galloway đưa ra một chuỗi bài về những minh hoạ chiến trường tàn khốc vào cuối tuần đó.  Việc này cho tôi thấy đối với dịch vụ cung cấp tin tức, bạn không phải là người đầu tiên duy nhất có câu chuyện mà bạn phải là người đầu tiên có câu chuyện hàng ngày.

Xung quanh là cái chết, chúng tôi xấu hổ khi nói về cái chết của chính mình và đôi khi chỉ nói đến chủ đề đó một cách bề ngoài.  Frank McCuloch của tạp chí Time nói với tôi nhân viên của anh ta tranh luận một vấn đề: Một bên thì cho rằng sự mạo hiểm mỗi ngày mới đều giống nhau, còn bên kia thì phản bác sự rủi ro ngày càng leo thang.  Tôi chắc rằng sự mạo hiểm lớn hơn với các phóng viên ảnh, chỉ trong vài tháng của năm 1965, Horst trải qua một loạt những gì anh ta gọi là “không dễ chịu”.  Horst tác nghiệp trong bộ quần áo quân sự mua ở chợ đen Sài Gòn vì anh ta không muốn đứng lạc lõng khỏi những người lính và anh ta đội một mũ sắt nhặt được ở chiến trường.  Nó nặng và nóng nhưng là phao cứu hộ.  Anh ta ba lần nằm dưới làn pháo, hai lần cùng những người lính bị  trực thăng Mỹ đánh bom nhầm, một lần trong vụ rơi máy bay và trong ba lần đi cùng các đơn vị lính bộ binh Cộng hoà ngay sau khi anh ta đi, họ bị Việt Cộng tấn công quét sạch.  Anh ta bị ghìm lại bốn lần bởi những trận bắn phá trên cánh đồng lúa.

Horst nghiệm ra rằng trong các nhiệm vụ tấn công bằng trực thăng, đi chiếc đầu tiên là tốt nhất để có được những bức hình đẹp nhất vì mất từ mười đến hai mươi giây cho những tay súng cối Việt Cộng bắn từ trạm mặt đất.  Điều đó cho anh ta đủ thời gian nhảy xuống và chụp ảnh những chiếc trực thăng lên thẳng còn lại đang bay tới.

Tôi thêm vào sự khác nhau.  Một ngày tôi đề nghị chúng tôi đi nhờ trên chiếc trực thăng đầu tiên vào vùng chiến và xuống cùng với lính ở khu vực hạ cánh và nếu như không có đợt tấn công ngay lập tức thì chúng tôi có thể đi nhờ chiếc cuối cùng để ra.  Đôi khi có đến 3 hoặc 4 đợt tấn công trực thăng trong một buổi sáng để hiểu được những gì chúng tôi gọi là “bãi đáp nóng” và lấy được câu chuyện cho ngày hôm đó.  Horst hạnh phúc nhất khi làm việc một mình với những người lính.  Anh ta viết trong Tập san của AP tháng 4-1965: “Tôi luôn đi trong những vùng dường như hứa hẹn nhất trên mặt đất và ở lại cùng những đội quân tới tận khi họ hoàn thành.  Thường những bức ảnh chỉ xuất hiện sau một vài ngày đi bộ, bò, hoặc khi rất tức giận và sự kiên nhẫn đã hết”.

AP đang tập hợp một đội những tay nhiếp ảnh cừ khôi để tham gia cùng Fass, nhưng anh ta vẫn giữ đức tính thống trị.  Nhân viên AP Dan De Luce từng nói về Horst: “Từ rất lâu anh ta đã hiểu được bí mật khuôn mặt con người là bản sao thú vị nhất.  Tôi có thể lấy bất kỳ bức ảnh nào của anh ta về chiến trường, cho anh ta nhìn cận cảnh khuôn mặt – và anh sẽ không phải nhìn phần còn lại của quang cảnh.  Khuôn mặt chính là một điều gì đó, là linh hồn của bức hình”.  Horst giành giải thưởng Pulitzer và những phần thưởng cao quý khác cho công việc của mình năm 1965 nhưng những cái ôm hôn không làm anh ấy lùi bước.
Eddie Adam là đối thủ duy nhất của anh ấy.  Một phóng viên ảnh gầy guộc của Quân đoàn lính thuỷ đánh bộ trước đây đến từ bang Pennsylvania cũng tầm tuổi chúng tôi.  Anh ta thất vọng vì chiến tranh Triều Tiên đã kết thúc trước khi anh ta bước vào chiến dịch và tới Việt Nam để viết về những lính thuỷ đánh bộ mới đang tới, cũng sốt sắng như bất kỳ ai trong số họ và sẵn sàng chứng tỏ mình như một phóng viên ảnh chiến trường.  Eddie là tay ưa thích của văn phòng New York.  Anh ta chậm thực hành mệnh lệnh và tự xem mình tương đương với Horst.  Tôi nhận thấy họ làm tốt hơn khi hai người ở hai đầu đất nước.  Eddie thích ở Đà Nẵng cùng những lính thuỷ đánh bộ ưa thích của anh ta hơn bất kỳ nơi nào và trở thành bạn thân của sỹ quan chỉ huy, Thiếu tướng Lewis Walt.  Anh ta nhanh chóng có tính cách của một phóng viên được ưa thích ở vùng đó, đôi khi được gọi để hoà giải những tranh cãi gay gắt giữa đồng nghiệp báo chí tự do đi lại và những nhân viên lính thuỷ đánh bộ bảo thủ điều hành chiến dịch báo chí.

Eddie thích đề cao những bức hình của mình khi có cơ hội.  Khi những lính thuỷ đánh bộ đầu tiên đặt chân đến sân bay Đà Nẵng, anh ta nhận ra một hàng nữ sinh trung học Việt Nam trong những bộ áo dài bằng lụa trắng đứng chờ bẽn lẽn trên bờ biển cùng Thị trưởng thành phố, tất cả đều cầm vòng hoa đeo cổ chào đón.  Eddie và Dirck Halstead của UPI dàn xếp để một cô gái lội xuống nước và đặt vòng hoa vào cổ một lính thuỷ đánh bộ.  Tất cả các cô gái khác đều nhúng mình sâu vào nước, áo ướt trong sóng làm “sốc” viên chỉ huy lính thuỷ đánh bộ.  Ông ta thét lên trong cơn phẫn nộ với những phóng viên ảnh: “Các cậu làm hỏng hết rồi, các cậu làm hỏng hết rồi”, khi những lính thuỷ đánh bộ lộn xộn trong sóng vỗ cùng những cô gái địa phương đáng yêu.  Eddie, Halstead và những tay phóng viên ảnh khác bấm máy một cách nhiệt tình.  Eddie nói với vị Tướng: “Mọi chuyện đều ổn”, “Hãy nghĩ về những bức ảnh” và vị Tướng đáp lại: “Đó chính xác là những gì tôi đang nghĩ đây”.  Một bức ảnh Eddie chụp vị Tướng không mỉm cười với một vòng hoa nhiệt đới quanh cổ được sử dụng rộng rãi trong các tờ báo ở Mỹ vào sáng hôm sau.

Một lần khi anh ta chụp ảnh tôi bị một cảnh sát quân đội Hoa Kỳ chĩa súng bên ngoài chùa ở sài Gòn, Eddie thét lên “Cố lên, bắn tên chết tiệt đó đi, điều đó sẽ làm bức ảnh hay hơn”.  Con mắt và cái đầu Eddie không chỉ nhắm vào trang nhất của tờ Nhật báo New York mà cả những mục chính của tạp chí Life.

Eddie bị lung lay bởi cuộc đụng độ ở Hoài Châu dọc bờ biển miền Trung gần Quảng Ngãi.  Đại đội lính thuỷ đánh bộ bị bắn trên đồi bởi những tay súng Việt Cộng núp trong bụi cây nguỵ trang ở những mũi đất cách đó gần 100m.  Có rất nhiều người chết và bị thương.  Anh ta ủ ê về Hoài Châu trong nhiều ngày và khi về Sài Gòn anh ta nói với tôi rằng anh ta không trấn tĩnh được và muốn về nhà trước khi bị giết.  Tôi gợi ý anh ta nên uống vài viên R&R để nghĩ về điều đó nhưng anh ta nói đã quyết định rồi và nhờ tôi giúp anh ta viết một bức thư cho Wes Gallagher giải thích những gì anh ta cảm thấy và đề nghị được chuyển lại về New York.  Gallagher viết lại ông ta thán phục sự thành thật của Eddie và anh ta có thể về nhà bất kỳ khi nào muốn.  Khi anh ta lên máy bay vào giữa tháng 5, Horst nghĩ rằng đó là lần cuối cùng nhìn thấy anh ta.

NHỮNG LỜI CÁO PHÓ


Chỉ có hãng UPI mới cạnh tranh với AP ở từng câu chuyện.  Các tờ báo và các tạp chí khác thường có ít người hơn.  Văn phòng AP Sài Gòn có một nhân viên trọng yếu và chúng tôi thay nhau viết về những lính thuỷ đánh bộ ở Đà Nẵng.  Mặc dù chúng tôi vượt quá ngân sách thì New York cũng đồng ý các nhiệm vụ tới Anh Khê và Plâycu ở Tây Nguyên nơi có hai sư đoàn lính bộ Mỹ đóng doanh trại.  Sau này AP là hãng tin lớn nhất và có ảnh hưởng nhất trong kinh doanh tin tức vượt ra ngoài nước Mỹ vươn tới năm châu với hàng triệu bạn đọc, người nghe đài bằng những thứ tiếng phổ biến nhất.

Đó cũng là trách nhiệm xen lẫn hành động và quan điểm.  Chúng tôi thách đố số phận nhưng mất thăng bằng bởi những cái chết của đồng nghiệp.  Chúng tôi cần bào chữa cho mất mát của họ - cho chính chúng tôi, cho gia đình đau thương của họ và cho những người tin rằng sự mạo hiểm chúng tôi đang dấn thân là điên rồ.  Khi một người lính chết trong chiến trường thì những người sống sót an ủi sự hy sinh của anh ta là vì nhiệm vụ, danh dự và đất nước.  Cái chết của một người lính được đánh dấu bằng lòng tôn kính, quan tài đắp quốc kỳ kéo qua hàng lính danh dự ở sân bay và một đám tang theo nghi lễ quân sự ở nhà.

Không có lá cờ nào cho những nhà báo ở chiến trường Việt Nam và không có bất kỳ vòng hào quang nào.  Chúng tôi tự tổ chức những đám tang và gửi họ về nhà bằng máy bay vận chuyển hàng hoá.  AP có một danh sách danh dự treo trên tường ở tiền sảnh chính của văn phòng trung tâm ở New York, một danh sách bằng kim loại ghi tên những người đã ngã xuống – đó chỉ là một sự công nhận hữu hình.  Chỉ những người lính chiến trường chúng tôi đi cùng và chia sẻ nguy hiểm cùng họ mới đo được điều đó.  Họ luôn tò mò vì sao chúng tôi lại chọn hành trình nguy hiển như vậy và sau đó chỉ để kết luận khi họ nhìn thấy công việc của chúng tôi là ghi lại tư liệu sống của họ trong chiến tranh.

Những an ủi động viên thường xuyên từ trụ sở của chúng tôi nhằm tránh những nguy hiểm nghiêm trọng là đặt trách nhiệm lên chúng tôi khi một đồng nghiệp bị giết hoặc bị thương.  Trong chúng tôi luôn có xu hướng giải thích số phận như sự ngẫu nhiên đã định hoặc lỗi lầm đánh giá hoặc chỉ đơn thuần là sự ngu ngốc.  Chúng tôi cảm thấy thông cảm cho những gia đình của những đồng nghiệp đã chết, những người không chỉ chống chọi với nỗi đau mà cả cố gắng đem lại công lý cho người đã khuất – Nhà Trắng đang cố gắng tạo ra tự do báo chí.

Bernard Kolenberg tham gia cùng chúng tôi vào cuối tháng 9 -1965.  Tôi nhớ anh ta nhảy cẫng trong văn phòng Sài Gòn buổi sáng anh ta tới, ném phịch túi máy ảnh nặng xuống và thét lên: “Thật tuyệt vì được trở lại”.  Tay phóng viên ảnh cao lênh khênh đó đã dành cả tuần ở Việt Nam trong mùa hè chụp ảnh cho tờ Thời báo Albany Union và giờ tình nguyện với nhiệm vụ vô thời hạn cùng AP.

Anh ta thuyết phục Horst cho ra chiến trường ngay sáng hôm sau và sau đó nằm sóng soài ra chiếc ghế trường kỷ của văn phòng thay vì thuê một phòng khách sạn, ngủ đủ 10 tiếng hồi sức sau chuyến đi không nghỉ qua Thái Bình Dương.  Bernard là người đàn ông có biệt tài tới được những chỗ cần bằng những câu chuyện cười mà đội bay và nhân viên mặt đất không thể nhịn nổi.

Tôi gặp lại anh ta ba ngày sau tại thị trấn thung lũng bị bao vây cô lập của Bồng Sơn dọc bờ biển miền Trung.  Anh ta đang nói chuyện với cố vấn quân sự cấp cao Mỹ về khu vực Quân đoàn 2.  Anh ta có hai máy ảnh Nikon đeo quanh cổ và chiếc mũ tai bèo trên đầu.  Chiếc áo vét ngoài nhiều túi chứa đầy phim, anh ta nhìn lên bầu trời.  Anh ta chỉ cho tôi những quả đồi gần đó.  “Tôi đã ra đó sáng nay ở đèo Phu Cu”.

Tôi đã chụp một lính thuỷ đánh bộ chết được mang đi trong cuộc di chuyển máy bay, có thể anh  cần sử dụng chúng”, anh ta nói rồi đưa tôi hộp phim.  Anh ta muốn ở lại Bồng Sơn vài ngày vì “Tôi thích ở đây, lực lượng đặc nhiệm rất tốt với tôi.  Tôi đang bay cùng nhiều trực thăng y tế và tôi không phải cạo râu thường xuyên”, anh ta cười, búng tay vào chiếc cằm lởm chởm của mình.

Khi khởi hành về sài Gòn, Kolenberg nói cho tôi về kế hoạch của anh ta cuối tuần đó.  Anh ta sẽ trở lại Quy Nhơn bay cùng những người bạn cũ, những phi công nhảy dù A-1E người Mỹ, những người đánh bom vị trí Việt Cộng trên núi trong nhiều tuần.
Bức tranh di tản đau thương như anh ta miêu tả và được đánh điện bằng rađio về New York tối hôm đó.  Đó cũng là đầu tiên và cuối cùng của anh ấy mà chúng tôi nhìn thấy.  vào thứ Bảy, Bernie giữ cuộc hẹn với những lính nhảy dù, đi cùng máy ảnh của mình ở ghế sau máy bay ném bom chiến đấu diễn tập cho một cuộc tấn công tốt xa hơn vào vị trí Việt Cộng ở vùng núi Bình Định thì bất ngờ lao vào chiếc máy bay khác.  Kolenberg là người đầu tiên của AP chết trong chiến tranh và cái chết của anh ta làm chúng tôi sợ.  Anh ta mới thực hiện nhiệm vụ được một tuần trong khi chúng tôi đã dấn thân vào những mạo hiểm tương tự trong nhiều năm và chúng tôi vẫn còn sống.

Horst luôn tìm kiếm những tân binh cho những gì chúng tôi gọi là “quân đội của Fass”, một nhóm cộng tác viên dũng cảm có mặt trên những con đường bị tấn công tan tác và những trận chiến nóng bỏng chỉ để lấy vài đô la cho một bức ảnh kèm với tin tức hàng ngày của AP chuyển về New York.  Cương lĩnh của Horst là bạn không thể có quá nhiều người chụp quá nhiều ảnh.  Anh ta đặc biệt ấn tượng với một trong những cộng tác viên của chúng tôi, kỹ thuật viên âm thanh của CBS Huỳnh Công La, và Horst dụ dỗ thành công, thuê anh ta làm nhân viên chính thức đã làm cho nhân viên âm thanh người Việt Nam khác tên là Hà Thúc Cần rất phẫn nộ (người sau này trở thành người quay phim ưa thích của Morley Safer).  Công La có thân hình nhẹ nhàng, đặc trưng của những người đàn ông Việt Nam: bề ngoài mềm yếu nhưng ẩn chứa năng lượng dồi dào.  Tôi thích đi vào chiến trường cùng anh ta vì anh ta có khiếu hài hước và giành được sự tin tưởng của quân đội Việt Nam và nhân viên dân sự.  Anh ta dũng cảm hơn tôi nhiều.  Anh ta băng qua rừng cùng người dẫn đầu đại đội trong khi tôi ở vị trí khá an toàn của đội chỉ huy và những cố vấn Mỹ.  Đôi khi anh ta bò trở lại chỗ chúng tôi trong suốt trận bắn phá khốc liệt để nói “Có quá nhiều đạn ở đằng đó” và lại bò về vị trí cũ trong thời gian ngừng bắn.  Horst huấn luyện anh ta công việc chụp ảnh và phân tích những bức ảnh của anh ta.  Dần dần cùng những lời khuyên về cách đặt khung máy và nội dung, anh ta nhanh chóng tiến bộ trong kỹ năng của mình.

Những bức hình chiến trường của Công La và sự khốc liệt luôn giúp chúng tôi tạo ra một khoảng cách cạnh tranh với UPI.  Một ngày anh ta nhặt được chiếc mũ sắt méo mó từ chiến trường, vẽ chữ AP đằng trước bằng mực đen và luôn đội nó mỗi khi vào chiến trường, nhiều khi nó lắc lư trên đầu anh ta.  Công La có cuộc sống thú vị với bốn năm làm tin chiến trường cho CBS và AP mà không một vết xước trên cơ thể.  Nhưng Công La đã nếm mùi chết chóc trong một ngày tháng 5 bùn lầy ở Đồng Bằng sông Cửu Long khi bị một tay bắn tỉa hạ gục.  Anh ta bò lên bờ ruộng chụp hình, những viên đạn lao vào bắn nát cánh tay của anh.  Trước khi bất tỉnh, anh ta yêu cầu một người lính chụp lại nơi anh ta nằm.  Cuốn phim đó được rửa trong văn phòng ngày hôm sau, đó là tấm hình Công La bất tỉnh trong vũng máu của mình trên nền xanh non của ruộng lúa quê hương.  Điều đó có thể làm chùn bước một người đàn ông khác, nhưng mối quan tâm lớn nhất của Công La là những bài báo về vết thương của anh ta sẽ thu hút sự chú ý của ban quân dịch mà anh ta đã tránh trong nhiều năm làm công việc văn phòng.  Anh ta đổi tên mình thành Huỳnh Thành Mỹ.

CBS đề nghị trả gấp ba mức lương 100 đô la 1 tuần hiện tại để anh ta trở lại với họ làm người quay phim nhưng Thành Mỹ từ chối.  “Tôi cũng không thích máy quay phim, quá to”, anh ta nói với chúng tôi, thích thú gõ vào những chiếc máy ảnh nhỏ 35mm của AP mà anh ta mang.  Anh ta được nghỉ xả hơi một ngày tháng 10 và tự hào khoe những bức hình về đứa con trai bảy tháng tuổi khi Eddie Adams phải bỏ nhiệm vụ đi cùng Tiểu đoàn Đặc nhiệm 44 Việt Nam để làm những công việc văn phòng.  Thành Mỹ nài nỉ được viết câu chuyện đó, nói rằng tiểu đoàn đó có những người bạn của mình và sau đó anh ta về lấy mũ sắt và nhảy lên một chiếc máy bay đi Cần Thơ.

Horst trở về văn phòng từ chuyến đi thực tế trước đó hai ngày khi chúng tôi nghe những lời đồn đại gây sốc rằng Thành Mỹ có thể đã bị thương nặng và thậm chí còn tệ hơn nữa là anh ta đã chết  trên chiến trường đầy bùn phía nam Cần Thơ.  Trong khi Horst đi an ủi gia đình Thành Mỹ, Ed White tới thành phố Cần Thơ để hỏi về xác của anh ta.  Ed thuật lại sụ việc cho chúng tôi khi về.  Lính đặc nhiệm 44 bị tấn công dữ dội đầu buổi chiều và Thành Mỹ bị thương vào vai, di chuyển về phía sau chờ máy bay y tế tới chuyển đi.  Vào buổi tối, trước khi có sự giúp đỡ tới, Việt Cộng mở một trận tấn công lớn, chiếm đóng điểm tập kết và Thành Mỹ bị bắn chết bởi một viên đạn vào cổ.  Cả văn phòng buồn rầu trong nhiều ngày, đặc biệt là Horst.  Anh ta không ngừng nói “Chúng ta phải có được những bức hình, đó là nhiệm vụ của chúng ta nhưng cách duy nhất tôi có thể cho các phóng viên ra ngoài nếu tôi cũng tiếp tục tự mình đi”.

Đám tang của Thành Mỹ đưa anh ta rời khỏi căn nhà vào cuối buổi sáng, đi qua ngõ theo yêu cầu của mẹ anh ta và theo con đường ba làn mà anh ta thường đi trên đường tới văn phòng AP, dừng lại một lúc bên ngoài văn phòng trong sự tưởng nhớ 17 tháng làm việc với tư cách là phóng viên ảnh chiến trường.  Toàn bộ văn phòng AP ở đó, cùng với Ed White, Hugh Mulligan, George McArthur và Horst và tôi.  Rất nhiều người bạn khác đi đưa tiễn anh vì những ngày đó giới báo chí còn chưa rộng nên cảm nhận sự mất mát của đồng nghiệp vô cùng sâu sắc.

Các nhà sư trong những bộ áo nâu bước đi cùng chúng tôi, tụng kinh gõ mõ và đốt hương.  Người goá phụ 19 tuổi của phóng viên ảnh bị giết  mặc áo xô truyền thống, vịn tay sau xe tang.  Những thành viên khác trong gia đình theo sau đều đội khăn tang trắng trên đầu, một người họ hàng cầm khung hình Thành Mỹ trong tư thế tự hào nhất, mặc bộ đồ kiểu phóng viên chiến trường với tên trên áo khoác và chữ “AP” đính dưới tên.

Gần nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, một trong những người em gái của anh ta thả tiền giấy trên đường theo nghi thức đạo Phật để linh hồn anh ta có thể tìm đường về nhà một ngày nào đó.  Tại nơi chôn, một đĩa thức ăn, một chai nước và một bát cơm được đặt trên một chiếu tre tiễn anh ta trên hành trình về với tổ tiên.  Người vợ đau buồn hôn bức ảnh của chồng ba lần khi những que hương cuối cùng bốc cháy, sau đó cô ta bị ngăn lại khi muốn lao mình theo chồng xuống mộ khi quan tài hạ huyệt.

Khi chuông buổi trưa rung lên ở nghĩa trang thì một thanh niên trẻ mặc quân phục chạy lao qua đám đông những người chia buồn, quỳ gối trước mộ.  Người mẹ và người vợ lại thổn thức khi họ an ủi, người em trai đang ở chiến trường và không biết đến số phận của trai mình tới khi đọc báo sáng hôm đó.  Người bạn ở CBS trước đây là Hà Thúc Cần đẩy tôi sang một bên và thầm lặng rủa Horst “Hắn giết anh ta, hắn giết anh ta.  Nếu Công La ở lại với tôi thì hôm nay anh ta vẫn còn sống”.  Tôi nhớ đến Thúc Cần về sự bí ẩn của anh ta và nghĩ một người lính có thể may mắn biết bao khi họ có thể trả thù cho cái chết của người bạn còn chúng tôi chỉ tìm thấy sự an ủi.

Horst đã làm hết sức mình để an ủi người góa phụ đau đớn.  Một thanh niên trẻ có đôi mắt u buồn giật tay áo anh ta và giới thiệu tên anh ta là Út, em của Thành Mỹ.  Horst nói với anh ta “Tốt nhất là cậu nên về nhà” nhưng anh ta đáp lại dứt khoát: “Bây giờ AP là gia đình của tôi, tôi cũng muốn chụp hình” và Horst quay về phía tôi với cái lắc đầu và nói với anh ta: “Đi, lớn lên rồi sau đó tới gặp tôi”.  Út thường hay lui tới văn phòng, nhắc cho chúng tôi nhớ tới người anh trai hay cười trong bức hình ở trên tường. Chúng tôi gọi cậu bé là Nick Út và cậu ta bắt đầu với những công việc lạ kỳ trong phòng tối cho Horst.  Năm tháng trôi qua, Horst dạy cậu ta cách sử dụng máy ảnh và cử đi một vài nhiệm vụ trong thành phố và cuối cùng để cậu ta vào chiến trường vì sau này Nick Út là gã thanh niên khoẻ mạnh và Horst không thể cản anh ta được nếu anh ta muốn.

Một buổi chiều xuân muộn năm 1972, tôi ở trong văn phòng cùng với Horst thì Nick Út đầy mồ hôi lái xe trở về từ Củ Chi cùng những tấm hình về một ngôi làng bị đánh bom napan, những con ngưòi hoảng loạn và một cô bé trần truồng, quần áo đã bị bốc cháy khỏi cơ thể, la hét chạy trốn trên con đường làng.  Nick Út nhận giải thưởng Pulitzer cho những bức ảnh của anh ta trong năm đó.

ĐỒNG NGHIỆP

Khi Mal Browne bỏ AP năm 1965 anh ta giải thích anh ta tức giận vì những tá nghiệp của chúng tôi không ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ.  Anh ta nói đất nước đang chìm đắm vào chiến tranh mà không cần biết những sự thật đang diễn ra hàng ngày.  Anh ta tin can thiệp quân sự sẽ lâu dài, đẫm máu và rốt cuộc chỉ là thất bại.  Anh ta cũng tin rằng báo in không còn diễn đạt những câu chuyện ở Việt Nam một cách hiệu quả nữa và quyết định tham gia vào hãng tin ABC như phóng viên thường trú.  Anh ta cao gầy với mái tóc màu vàng và nụ cười thân thiện - một vẻ đẹp điển hình kiểu Mỹ.  Đôi khi tôi gặp anh ta đâu đó trên đường phố Sài  Gòn với nhiệm vụ mới cùng đội truyền hình, tự giác tác nghiệp bài thuyết trình của anh ta hoặc “đứng dậy” khi họ được gọi, khi mọi người tò mò tới.  Không ai có thể thay thế được sự dũng cảm thông minh và những kỹ năng tác nghiệp của anh ta không ai bằng trong chiến trường.  Sự cống hiến của anh ta với nghề báo không mệt mỏi.  Tôi buồn khi anh ta rời AP vì anh ta là người tôi luôn ngưỡng mộ và học hỏi.

Horst cũng không vui khi Mal ra đi.  Mal là sự chuyển đổi đầu tiên của Horst sang nghề nhiếp ảnh.  Mal là người chụp bức ảnh vị hoà thượng tự thiêu năm 1963 được giải Pulizer sau khi nhận chiếc máy ảnh từ Horst một tuần trước đó.

Chúng tôi phân vân không biết tương lai của Mal với truyền hình ra sao.  Chúng tôi không ấn tượng với phương tiện truyền thông mới.  Kỹ thuật khổng lồ đang lấn chiếm.  Phim nhựa đen trắng chuyển qua đường hàng không từ Sài Gòn về New York và được phát vài ngày sau đó.  Chúng tôi cảm thấy tivi là sự cạnh tranh rất lợi hại với báo in.

Chúng tôi thường đùa những lĩnh vực thương mại của tivi.  Khi phát thanh viên của CBS Walter Cronkite tới thăm Việt Nam tháng 6, anh ta dành một ngày với Tiểu đoàn 1 Lữ đoàn Không vận 173 trong vùng chiến khu D sử dụng hai trực thăng đưa đội sáu người của anh ta và thiết bị tới đồn trú chỉ huy.  Trung sỹ Pratt nói rằng lính bị thu hút với một nhân viên ánh sáng của CBS, người mang theo súng nạp năng lượng mặt trời để giữ khuôn mặt của phát thanh viên khỏi bị bóng - thật mỉa mai trong vùng chiến nơi những người lính phải dùng mọi nguỵ trang phức tạp để che khuôn mặt mình.

Pratt kể về phần này: “Chúng tôi tập diễn vài cảnh quyến rũ về những người lính “di chuyển ra” từ trong rừng, và sau đó Cronkite phỏng vấn tiểu đoàn trưởng, một thiếu tá.  Họ đi bộ cạnh nhau về phía máy quay nói chuyện, theo con đường qua lán che có đường hầm.  Một vũng nước lớn trên đường và vị tướng giống như bất kỳ ai biết nhận thức đi vòng quanh nó.  “Cắt”, Bonn thét lên, chỉ đạo cho Crokite.  “Bây giờ hãy quay trở lại và đi qua vũng nước”.  Thiếu tá nhìn tôi kỳ lạ, tôi nhún vai nhưng ông ta cũng làm theo lời tay quay phim và tôi nghĩ về Tướng Douglas McArthur đã phải lội vào bờ vô số lần ở Lyete để có được hình ảnh chuẩn.  “Anh trông phẫn nộ, trung sỹ”, sau đó Bonn nói với tôi và tôi đáp lại: “Tôi không có ý để lộ ra vậy”.  Bonn giải thích một cách kiên nhẫn, “Đây là những gì chúng ta gọi là sản xuất thực tế.  Khi được cắt chỉnh và biên tập ở New York, nó sẽ là sản phẩm tuyệt vời”.

Wheeler đã có câu chuyện hay nhưng Safer làm tốt hơn vì anh ta và đội của mình ở tại hiện trường tập hợp hình ảnh và âm thanh có sức lay động lòng người.  Safe là một trong những tác giả kịch bản tốt nhất của truyền hình và kịch bản đánh máy của anh ta được đọc đêm đó trên chương trình tin tức của CBS.  Hai ngày sau đó câu chuyện truyền hình hoàn thiện được phát đi khi bộ phim thương tâm đó tới New York.

Câu chuyện của anh ta gây tranh cãi gay gắt trong cả nước và Tổng thống Johnson rất buồn.  Những lính thuỷ đánh bộ trở nên nghi ngờ Safer vì quốc tịch Canada của anh ta.  Có một điều mà tôi hoàn toàn đánh giá cao vì một số hình ảnh là giả.  Tôi đã dành cả thập kỷ tác nghiệp ở Việt Nam để trở thành một kẻ bị bỏ rơi trong giới quân đội Mỹ còn Moley Safer cũng đạt được vị trí tương tự chỉ trong một chiều.

AP đã chọn Ed White thay thế Mal làm trưởng phân xã.  Tác nghiệp của chúng tôi mở rộng nhanh như quân đội.  Tất cả chúng tôi đều hoan nghênh sự chọn lựa Ed vì anh ta là một trong những “Cậu bé” ở tuổi 42, khôn ngoan hơn cả thập kỷ và có nhiều kinh nghiệm hơn.  Anh ta đã làm việc ở phòng ngoại sự ở trụ sở New York và đã giúp đỡ chúng tôi thường xuyên từ đầu những năm 1960 trong nhiệm vụ tạm thời ở văn phòng Tokyo.  Ed điềm đạm, ngậm tẩu thuốc và là sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học Báo chí Missouri.  Anh ta thích tiệc tùng, quan tâm tới đàn bà và giống như hầu hết chúng tôi đều dành thời gian cho cả hai.  Chiến tranh leo thang, nguy hiểm và lo lắng mang đến cho chúng tôi những lý do để trác táng.  Sài Gòn đáp ứng mọi nhu cầu của quân đội đóng nơi đây.  Chúng tôi nguỵ biện cho sự vượt quá giới hạn của mình khi nói rằng những say sưa bù khú chủ yếu dành cho những người lính đã giúp chúng tôi ở chiến trường và chúng tôi mời lại họ ở Sài Gòn để thư giãn.  Chúng tôi hiểu rằng tất cả điều này là một phần truyền thống lâu nay của ký giả chiến trường.  Tôi ngày càng dành ít thời gian ở nhà cho Nina và con trai hơn, Andrew sinh vào tháng 12-1964.  Tôi dành nhiều thời gian hơn cho những cậu lính trẻ.
Hal Boyle, người phụ trách chuyên mục của AP dành sáu tháng cùng chúng tôi ở Việt Nam viết những câu chuyện hậu phương đầy sức sống về “phương diện con người” của chiến tranh.  Hal là một tâm hồn nhẹ nhàng, người đã viết trong trang Sài Gòn của mình, “Bất kỳ phóng viên nào có thể làm điều công bằng cho một trận cháy báo động cấp độ bốn thì đều có thể làm tốt cuộc chiến chỉ có ngọn lửa lâu hơn ảnh hưởng con người”.  Thói quen uống rượu nặng góp phần thăng hoa tính sáng tạo của anh ta.  Đôi khi đêm muộn, anh ta vẫn chìm đắm trong men rượu và chúng tôi thường cá cược xem anh ta có thể làm xong trang theo dự kiến không.  Vào buổi sáng tôi luôn thấy dưới nhà mình câu chuyện ba trang mà anh ta để ở đó từ lúc nửa đêm và bình minh.

Hal giành giải thưởng Pulitzer với những bài viết về mặt trận châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai.  Một lần, tôi hỏi anh ta kỷ niệm điều đó thế nào và anh ta nói anh ta ghé thăm một nhà thổ ở trung tâm nghỉ ngơi và sáng tạo quân đội ở Bỉ, “và khi Bob Eunson gọi điện nói tôi đã giành được giải thưởng Pulitzer thì tôi kỷ niệm bằng một nhiệm vụ khẩn cấp khác”.

Tin, bài của Hal được xuất bản trong hàng trăm tờ báo trên cả nước, cho thấy nhu cầu thích đọc những bài cổ vũ chiến tranh mà tôi không góp phần.  Khi Hal trở về New York, Hugh Mulligan, một phóng viên cựu chiến binh từ Phòng Phóng sự thay thế anh ta.

Mulligan là tác giả phóng sự nổi tiếng và những câu chuyện của anh ta luôn được các biên tập viên yêu thích trình bày cả trang.  Anh ta dí dỏm làm người khác không kìm nén được và có sở thích rất Naponeon, thích sải bước quanh chiến trường với một tay đút túi quần trước.  Khi được mời ăn trưa gặp một vài nguồn tin của chúng tôi tại một nhà hàng Việt Nam, anh ta giả vờ lưỡng lự: “Tôi không thích cari với những người địa phương”.

Trong suốt chuyến thăm Việt Nam, anh ta kết bạn với đội đồng ca gợi cảm trẻ trung của một đoàn kịch tới thăm có tên Đoàn xiếc Quốc gia Đức và trong nhiều tuần bị đoàn tuỳ tùng xinh đẹp theo sau mọi nơi trong thành phố.  Anh ta đưa họ tới những bữa tiệc nơi những bà vợ của chúng tôi không có mặt, và nói chuyện với họ về những cuộc tình lãng mạn.  Một nửa số họ phải lòng anh ta nhưng Mulligan vẫn chung thuỷ với cô vợ Brigitte ở Forests Hills, New York.  Sự kiềm chế bản thân là thế mạnh của báo giới và rất nhiều phóng viên cô đơn ngày nay không mắc vào điều này.

Giống như Boyle, Mulligan cũng có quan điểm rằng bất kỳ điều gì người Mỹ đang làm ở Việt Nam đều đúng.  Tổng thống Johnson đảm bảo với đất nước rằng sự can thiệp quân sự là hợp lý, công bằng và được giới hạn về mức độ, thời gian và đó là hậu quả không tránh được của Chiến tranh lạnh.  Cần cảm thấy rằng nếu có những người lính Mỹ chết trong chiến trường thì họ đang hy sinh cuộc sống cho điều đáng giá.  Mulligan ủng hộ sự hy sinh của họ.  Một hôm Hugh nói với tôi anh ta có một niềm tin không thể dập tắt “Phần thú trong con người có thể cứu chữa được.  Cậu nhìn thấy nhiều người tốt hơn những người tệ nhất và chiến tranh mang đến người tốt nhất”.

Tôi triết lý ít hơn.  Tầm nhìn khác nhau của chúng tôi được minh chứng trong những câu chuyện chúng tôi viết về những hậu quả sau trận chiến tại thung lũng La Drang tháng 11/1965, trận đánh đẫm máu nhất trong chiến tranh tính đến thời điểm đó.  Mulligan viết về sự trở về căn cứ An Khê của một đơn vị: “Những cậu bé dũng cảm đã để lại tuổi xuân phía sau cuộc chiến cay đắng ở thung lũng La Drang trở về nhà giống như những người đàn ông ở Doanh trại Sư đoàn Không quân đổ bộ 1, tối Chủ Nhật” và anh ta trích lời quan chức cấp cao nói rằng họ đã đối đầu với “kẻ thù chuyên nghiệp, mạnh bạo và các bạn đã trả đòn.  Các bạn đã xứng đáng và sẽ không bao giờ bị lãng quên, đất nước tự hào về các bạn”.  Mulligan kết thúc câu chuyện đó: “Sẽ có những tiếng cười, nhậu nhẹt ở Tiểu đoàn 2 tối nay và cũng có cả nước mắt.  Nước mắt cho những ngưòi bạn bỏ lại phía sau trong rừng bông lau ở thung lũng La Drang, nước mắt cho những người bạn trong những bao xác bằng cao su trên hành trình trở về quê nhà nước Mỹ”.

Hôm đó Mulligan viết câu chuyện của anh ta về La Drang, tôi đang ở Plâycu cách đó khoảng 161km.  Tôi viết về trận chiến thực sự và tôi viết một bài phân tích về một chiến dịch tương tự.  “Một thế hệ trẻ của Mỹ bị ném vào khói lửa ở chiến trường miền Nam Việt Nam.  Họ đang phát hiện ra chiến tranh không khác về bản chất bởi nhiều người bị nó tàn sát và nó cũng tàn bạo như những cuộc chiến tranh khác mà sách lịch sử đã ghi lại.  Với những đại đội ở La Drang, đó không phải sự hoan hỉ của chiến thắng khuấy động họ khi trận chiến kết thúc mà đó là sự hoan hỉ vì họ vẫn còn sống”.

“Đôi khi chiến tranh mang đến những điều xấu xa nhất của con người.  Một người lính thanh toán mọi kẻ thù bị thương khi đơn vị anh ta dọn sạch chiến trường, bởi cách đó hai ngày anh ta nghe thấy ba tù nhân Mỹ được tìm thấy bị trói chân tay, bị bắn vào đầu.  Và chính xác là anh ta đang trả thù.  Điều đó lấy hết lòng chắc ẩn trong con người cứu trợ kẻ thù bị thương sau trận đánh tàn sát ở La Drang và cũng không có lòng trắc ẩn còn lại”.

Cả hai câu chuyện của chúng tôi đều được AP sử dụng cùng ngày.  Các biên tập viên chắc đã thông cảm khi nghĩ rằng chúng tôi viết những cách khác nhau về chiến trường.  Phòng ngoại sự AP cũng không hỏi văn phòng Sài Gòn về sự khác nhau trong những câu chuyện đó, để cho các biên tập viên đánh giá chọn những phần họ thích.  Họ sử dụng của Mulligan nếu họ cảm thấy Việt Nam là cuộc chiến mà những người lính cảm thấy đáng để chiến đấu, họ sử dụng của tôi nếu họ nghi ngờ điều đó.

Dười sự che chở của AP, mọi điều từng viết về chiến tranh Việt Nam đều xuất hiện trên dịch vụ cung cấp tin tức, chúng tôi chịu đựng những ý kiến khác nhau về chiến tranh.  Chúng tôi hướng bản năng cạnh tranh về phía UPI chứ không phải giữa chúng tôi.  Tôi ngưỡng mộ tính hài hước và sự hào phóng của Mulligan và tôi kính trọng tài năng của anh ta.

Nhưng những tranh luận về những tin, bài buộc trụ sở AP tăng cường thêm nhiều bàn tay trưởng thành hơn.  Tom Reedy đã gần tuổi nghỉ hưu, một phóng viên Chiến tranh thế giới thứ hai, cũng là cựu chiến binh và là Trưởng Phòng ngoại sự, có tiếng nói âm vang như sấm và có tài kể chuyện tào lao bên những ly Schotch trong buổi tối muộn.  Ông ta thích nhớ lại những khám phá của mình trong cuộc chiến tranh “lớn” và ủng hộ không nao núng về sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam.

Tôi không tranh luận với Reedy vì tôi không có quan điểm thế giới về chiến tranh.  Tôi bám vào những quy định làm tin chỉ viết về những gì mình nhìn thấy.  Nhưng Reedy bận ở bàn làm việc.  Vài tuần trôi qua tôi có ấn tượng sự ủng hộ của ông ta bắt đầu rò rỉ trong những bản tin tóm tắt hàng ngày.  Ông ta thậm chí bắt đầu thích gọi  những người lính là “lính bộ Mỹ”, một cụm từ phổ biến trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và đôi khi viết về những chiến thắng mà chẳng có ở đâu cả.  Gồm cả chiến dịch quân sự của Lữ đoàn Không vận 173 của quân đội Hoa Kỳ trong vùng chiến khu D mà tôi đã viết nơi tiểu đoàn dẫn đầu bị bao vây trong hai ngày tại một ổ phục kích của Việt Cộng và chỉ tiến lên đi tiếp được khi kẻ thù đã bị hạ.  Reedy miêu tả đợt tập dượt này như “một chiến thắng khác của lính Mỹ” trong câu chuyện của ông ta và tôi thách thức ông ta.  Tôi cảm thấy ông ta truyền tải sự kiện sai lệch.

“Con trai” ông ta cười chua cay nói với tôi: “Ta đã làm điều này rất lâu trước khi con sinh ra”.

“Ông”, tôi đáp lại giận dữ, “Tôi sẽ làm điều này rất lâu sau khi ông chết”.  Ông ta nhìn tôi choáng váng, nói lầm bầm bằng tiếng Scot của mình.  Sau chuyện đó, Reedy không nói chuyện nhiều với tôi.  Ông ta trở về nhà đúng dự định nhưng trả thù bằng những câu chuyện văn phòng tầm phào.  Mal Brown đã từng điều hành một văn phòng thận trọng không tai tiếng nhưng giờ New York nghe nói nhiều chuyện về chính trị văn phòng, những thói quen xã hội của chúng tôi và không thích điều đó chút nào.

Trong khi hội đồng nội bộ AP tranh cãi về năng lực của tôi, Wes Gallagher ủng hộ và biến tôi thành một ngôi sao. Ông ta đã yêu cầu Ted Boyle ở Phòng phát triển bắt đầu chiến dịch cùng một bản tiểu sử ngưỡng mộ 1800 từ Hugh Mulligan viết gửi cho các báo Mỹ.  Nó có đoạn “Máy ảnh của Arnett luôn được đổi mới, sổ ghi chú bằng bìa nhựa, anh ta mang theo những mệnh lệnh đánh máy cho phép anh ta bay tới bất kỳ nơi nào trong vùng chiến sự, anh ta luôn luôn là một phóng viên chiến trường số một”.

Ngày 13-11-1965, trong tờ Biên tập viên  và Nhà xuất bản, cuốn kinh thánh của ngành báo chí, tôi nhìn thấy một bài viết dài trên trang 8 và 9, một phóng sự có ảnh đen trắng tôi để đầu trần, đi ủng chiến trường, mặc một chiếc áo mưa đi dọc một con đường bị đánh bom ở miền Trung Việt Nam cùng một đại đội lính thuỷ đánh bộ Cộng hoà.  Bài viết có nhan đề in đậm: “Một nghìn ngày…một trăm trận đánh: Peter Arnett của AP ở Việt Nam”.

Đoạn trích dẫn của bức hình: “Peter Arnett tới Việt Nam tháng 7-1962 viết về một cuộc chiến nhỏ bẩn thỉu.  Bây giờ nó ngày càng mở rộng và chết chóc.  Tháng 10 cuộc chiến đã lấy mạng hai phóng viên ảnh của AP, Bernard Kolenberg và Huỳnh Thành Mỹ.  Trong một nghìn ngày Peter Arnett một mình đi qua một trăm cuộc chiến từ đồng bằng có những trận mai phục tới những tiền đồn bị cô lập ở cao nguyên.  Điểm đến trong hành trình của anh ta là Sông Bé, Đức Cơ, Vùng chiến khu D, Anh Khê, Biên Hoà, Chu Lai và nhiều hơn nữa.  Peter Arnett giống như những nhân viên khác của AP ở Việt Nam tin rằng nơi có tin tức và những bức hình gắn liền với bước đi của lính chiến đấu.  Để làm được điều này anh ấy có sự can đảm, sáng kiến và kỹ năng tác nghiệp theo truyền thống nghề nghiệp. AP. Tên của sự độc lập”.

Một hôm Mulligan nói với tôi anh ta được biết AP đang gửi một số câu chuyện năm 1965 cho giải thưởng Pulizer về ký sự quốc tế và chúc tôi may mắn, nhưng anh ta cũng cảnh báo tính cạnh tranh rất gay gắt.  Tôi nhận thấy Hugh che giấu tham vọng đạt giải Pulitzer của chính mình và tôi đoán những câu chuyện của anh ta cũng tham gia cuộc thi, chúng là phần viết về những cậu bé Mỹ trong cuộc chiến và được các biên tập viên ưa thích.  Năm 1965 cũng là năm tốt nhất của tôi.  Tôi cảm thấy tôi đang trưởng thành và những câu chuyện của tôi là sự thật.  AP đặt rất nhiều áp lực lên các biên tập viên để hình thành dòng tin chảy về trụ sở và từ những câu chuyện bắt đầu của tôi được viết lại đáp ứng những yêu cầu văn phong.  Nhưng trong những năm trước đó tôi nhận thấy nhiều tư liệu gốc của tôi đang được nâng cấp.  Biên tập ngoại sự ban đêm của AP, Haris Jackson nói với tôi rằng một nhân viên từng thử cắt một phần mềm trong những câu chuyện dài của tôi xuống 300 từ và Jackson la lên: “Nếu cậu không biết cách cải tiến thì đừng động vào” và toàn bộ 1700 từ được sử dụng rộng rãi.  Kể từ đó tôi cố gắng đặt toàn bộ câu chuyện của mình trên bàn của Jackson.

Một trong những câu chuyện của tôi sống sót nguyên vẹn qua phòng biên tập đầu năm 1965 và nhan đề của nó gây ra tranh luận về phong cách viết trong cộng đồng báo chí và để lộ ra các biên tập trong cả nước xem những bài viết của chúng tôi nghiêm ngặt và họ cũng sẵn sàng tách nó ra khỏi nhau như thế nào.

Đầu buổi tối Huỳnh Thành Mỹ đang diễn hề trong văn phòng, giả vờ là một ngôi sao điện ảnh.  Sau khi giải thích bằng vốn tiếng Anh chắp vá của mình, chúng tôi biết rằng chúng tôi đã có câu chuyện.  Những người bạn trong quân đội ở Mỹ Tho đã nói với anh ta một phần Sư đoàn lính bộ 7 Việt Nam đang được cử tham gia vào bộ phim.  Chúng tôi khởi hành sáng hôm sau trong chiếc Ghia Karmann màu trắng theo quốc lộ 1 trên cao tốc Mỹ Tho, qua Tân An, chúng tôi chứng kiến một xe khách chật chội dừng lại thình lình khi tiếng súng máy bay phá vang dội đâu đó trong cánh rừng bên đường.

Một đám hành khách nhảy xuống mương nước, nhớ rằng những tay bắn tỉa phổ biến trên đường Sài Gòn - Mỹ Tho, chúng tôi tham gia cùng với họ.  Những lái xe nhìn ngó lo lắng về phía rừng nơi những đám khói xanh đỏ toả ra.  Trận bắn liên hồi nhưng nghe có vẻ buồn cười giống trận tập dượt.  Tôi bò lên khỏi mương, đi về phía một người đàn ông không lo lắng duy nhất mà tôi nhìn thấy, một sỹ quan quân đội Mỹ trẻ đang hút thuốc thong thả trong chiếc xe jeep đậu bên đường.  “Bình tĩnh” anh ta nói một cách đơn thuần, “đây không phải là trận chiến.  Tôi nghĩ tôi đang tới đây để cố vấn cho lính.  Họ lẽ ra nên gửi tôi đến Hollywood”.

Trong cánh đồng phía xa những hàng cây, chiến tranh Việt Nam đang được quay phim màu 35mm trong một dự án của Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ.  Một hàng lính đội mũ sắt diễn tập cảnh chiến đấu đứng trên bờ ruộng và bắn vào tầm trung khi những chiếc máy quay lăn bánh.  Những lính khác bảo vệ để những Việt Cộng không nhảy vào cảnh phim.

Các nhà sản xuất rất ngạc nhiên khi thấy chúng tôi, nhưng không có quyền đuổi chúng tôi đi và chúng tôi lượn quanh đó xem “Tuyệt vời phải không”, một sỹ quan USIS, áo xắn tay bình luận khi khói từ hàng tá lựu đạn toả ra trong cảnh màu kỹ thuật dày đặc để cho những lính Cộng hoà tiến vào những “kẻ thù” không nhìn thấy.

Tôi nghe một người nói: “Đừng nói khi họ sử dụng đạn thật, sẽ hỏng mất âm thanh tự nhiên”.  Đó là giọng một đạo diễn phim người Mỹ, chần chừ giới thiệu anh ta hay nói một điều gì về dự án.  Vào lúc đó những người xem trên đường cao tốc Mỹ Tho thấy lính Cộng hoà đã bắt một làng “kẻ thù” ở phía bên kia cánh đồng.

“Được, giống như trong Battle Cry, làm sao tôi nhìn họ làm điều đó thật”, một cố vấn Hoa Kỳ nhận xét khi quay xe jeep trở lại và tiến về đường băng Tân Hiệp.

Nhân viên thông tin Hoa Kỳ, USIS trở nên thân thiện với tôi khi đoàn sản xuất bắt đầu đóng gói đồ đạc.  Một nhóm 3 người được thuê ở Washington sản xuất chương trình 30 phút trình chiếu quốc tế.  “Chúng tôi muốn chỉ cho thế giới biết nhứng điều thực sự đang diễn ra ở đây”, anh ta nói.  “Những gì chúng tôi tìm kiếm là thực tế.  Hai ngày trước đây chúng tôi diễn một cuộc tấn công lớn với một tiền đồn nhỏ.  Chúng ta có những người đàn ông bảo vệ nó giống như những anh hùng và những người phụ nữ băng bó vết thương cho họ.  Chúng tôi không chiếu bất kỳ cuộc tấn công nào của Việt Cộng vì nếu làm vậy thì không một ai xem phim sẽ tin điều đó”.

Trong ba tuần làm phim thì có những trận đánh thực sự trong vòng bán kính 80,4 km của sài Gòn nhưng người cung cấp thông tin cho tôi lại tuyên bố: “Chúng tôi không muốn trình chiếu những điều tàn ác như xác chết.  Chúng tôi muốn chỉ ra người Cộng hoà chiến đấu như một dân tộc”.  USIS nhận xét về những câu chuyện và những bức hình mô tả sự kinh hoàng của cuộc chiến như lính Cộng hoà tra tấn tù nhân.  Bộ phim sẽ nhấn mạnh “những nhân tố tích cực”.  Nhưng những nhân viên USIS ở Sài Gòn từ chối nói về bộ phim thực tế tích cực của họ tốn bao nhiêu.

Tôi lái xe tới Mỹ Tho, tới một trường học cũ nay trở thành nơi ở cho đội cố vấn quân đội Hoa Kỳ và thấy rằng họ rất tò mò về dự án của USIS nhưng cũng hơi căm ghét.  Một cố vấn tiểu đoàn nói với tôi, “Nếu họ muốn vài hình ảnh về chiến tranh thì thỉnh thoảng đi với tôi.  Nếu họ muốn khắc hoạ chiến tranh thì hãy làm một cách thích hợp hoặc không gì cả”.  Một cố vấn khác nói: “Chúng tôi được nói rằng không có đủ lính dự phòng để bảo vệ nhiều thôn đơn độc và bị đe doạ ngoài kia.  Nhưng lính cho một dự án như vậy lại tìm thấy quá nhanh”.  Khi trở lại văn phòng AP, Horst lầm bầm: “Tôi hy vọng họ không kết thúc bằng việc tự rơi vào bẫy mai phục của họ”.

Tôi viết câu chuyện theo phong cách tường thuật sự kiện mà tôi nghĩ phù hợp với những dữ kiện, chứ không phải nhồi nhét thông thường.  Bạn phải đọc vài đoạn trong câu chuyện trước khi thực sự hiểu được vấn đề.  Tôi đoán một số biên tập viên chưa nắm được ý đó.  Một số báo đưa nhan đề của câu chuyện lên trang nhất nhưng nhiều tờ không đăng và phàn nàn về tin, bài của AP viết không đủ mạnh.  Carl Rowan, Giám đốc của USIS đọc bài của tôi trên tờ Washington Post và yêu cầu ngừng ngay việc làm phim và bộ phim bị phá sản.

Những biên tập viên đưa ra những đánh giá cuối cùng cho giải thưởng Pulitzer nằm trong số những người tranh cãi về câu chuyện của tôi.  Holliwood ở sông Cửu Long rõ ràng nằm trong mục giải thưởng của tôi cùng Đội cứu trợ 21, câu chuyện khí gas cay và những bài phóng sự từ thung lũng La Drang.  Mulligan nói đó là một danh sách mạnh như những chú lùn được thuê để thì thầm vào tai những tướng La Mã chiến thắng rằng ngọn lửa đang qua nhanh.  Anh ta cảnh báo rằng những phóng viên tốt nhất nước Mỹ cũng tham gia giải thưởng, rất nhiều trong số họ tôi từng làm việc ở Việt Nam như Jack Foisie của tờ Thời báo Los Angeles, Jimmy Breslin của Tờ New York Herald Tribune.  Anh ta nói cơ hội của tôi là mong manh.  Giải thưởng Pulitzer được công bố tại Trường Đại học Columbia vào thứ 3 đầu tiên của tháng năm.  Vào đêm công bố của giải thưởng, tôi đi ngủ sớm khi được đồng nghiệp AP đảm bảo nếu tôi giành được chiến thắng tôi sẽ được văn phòng ở New York thông báo.  Bob Moorefied trực tối hôm đó, một phóng viên của AP lớn tuổi hơn, đến từ Midwest.

Cõ lẽ Moorefied rất tốt đã để cho tôi ngủ hoặc có thể anh ta ra ngoài tìm một gái bar vui vẻ nên lỡ mất đoạn tin trên máy telex, nhưng anh ta cũng không gọi điện vào sáng sớm với bất kỳ tin tức nào.  Rạng sáng tôi bình thản quay sang Nina nói rằng luôn luôn có giải thưởng cho năm sau.  Tôi thậm chí đã ngủ lơ mơ khi chuông điện thoại reo.  Đó là Moorefied.  “Hãy để tôi là người đầu tiên chúc mừng anh…”.  Cảm xúc dâng trào, nghẹn ngào tràn lên và Nina nhìn những giọt nước mắt chảy ra từ mắt tôi.  Tôi chưa bao giờ chiến thắng được điều gì trong đời và tôi đoán giải thưởng Pulitzer là sự khởi đầu tốt đẹp.  Moorefied muốn tôi viết một bài bình luận cho hãng tin và tôi mất một lúc lâu mới kéo được mình ra khỏi cảm xúc này để có được vài dòng.

Ngay sau đó có tiếng gõ cửa căn hộ của tôi.  Mal Browne bước vào cùng chai sâm banh đầy bọt.  Trên đường tới cơ quan, tôi thấy Charlie Mohr của tờ Thời báo New York, một đối thủ giải thưởng năm đó, người năn nỉ mời bữa trưa chúc mừng Mal, Horst và tôi, những cậu bé AP của Sài Gòn.  Đầu năm đó Charlie mời tôi về làm cho tờ Thời báo New York và tôi đã được anh ta tâng bốc có chủ ý nhưng tôi nói tôi đã “cưới” AP cho tới lúc cái chết chia lìa chúng tôi, một sự khẳng định cường điệu mà chỉ có ở tuổi trẻ.

Một đống Telex và điện báo đang chờ tôi ở văn phòng và những thư từ khác gửi đến từ các đồng nghiệp khắp nơi trên thế giới.  Wes Gallagher có thông điệp nói rằng: “Trong những người được giải thưởng Pulitzer của AP thì không một ai xứng đáng hơn hoặc cho tôi sự hài lòng hơn cậu bởi những khó khăn mà cậu đã trải qua”.  Sau đó ông ta viết: “Tôi không thể vui hơn được nữa vì cậu đã giành giải thưởng Pulizer, điều đó có nghĩa một sự quét dọn sạch sẽ cho bộ ba Mal, Horst và chính cậu.  Tôi đặc biệt vui mừng vì điều đó cho thấy những phóng viên hàng đầu trong đất nước này xứng đáng được ghi nhận trên cả quốc tịch.  Tôi mong Chính phủ sẽ làm như vậy, điều đó là sự mong đợi quá nhiều của bất kỳ Chính phủ nào”.

Tôi được mời tới dạ tiệc kỷ niệm Pulitzer lần thứ 50 tại khách sạn Plazza ở thành phố New York.  Đứng trên bục trong phòng khiêu vũ của khách sạn Plaza giữa những người được nhận giải thưởng Pulitzer, nghe Jame Reston và Archibald MacLeish nói về những trách nhiệm đi cùng giải thưởng, tôi đã hiểu những gì Mal Brrowne, David Halberstam và Neil Sheehan đang tìm kiếm để hoàn thành ở Việt Nam.  Tôi mong muốn được trở lại công việc.

Tôi lái xe tới Mỹ Tho, tới một trường học cũ nay trở thành nơi ở cho đội cố vấn quân đội Hoa Kỳ và thấy rằng họ rất tò mò về dự án của USIS nhưng cũng hơi căm ghét.  Một cố vấn tiểu đoàn nói với tôi, “Nếu họ muốn vài hình ảnh về chiến tranh thì thỉnh thoảng đi với tôi.  Nếu họ muốn khắc hoạ chiến tranh thì hãy làm một cách thích hợp hoặc không gì cả”.  Một cố vấn khác nói: “Chúng tôi được nói rằng không có đủ lính dự phòng để bảo vệ nhiều thôn đơn độc và bị đe doạ ngoài kia.  Nhưng lính cho một dự án như vậy lại tìm thấy quá nhanh”.  Khi trở lại văn phòng AP, Horst lầm bầm: “Tôi hy vọng họ không kết thúc bằng việc tự rơi vào bẫy mai phục của họ”.

Tôi viết câu chuyện theo phong cách tường thuật sự kiện mà tôi nghĩ phù hợp với những dữ kiện, chứ không phải nhồi nhét thông thường.  Bạn phải đọc vài đoạn trong câu chuyện trước khi thực sự hiểu được vấn đề.  Tôi đoán một số biên tập viên chưa nắm được ý đó.  Một số báo đưa nhan đề của câu chuyện lên trang nhất nhưng nhiều tờ không đăng và phàn nàn về tin, bài của AP viết không đủ mạnh.  Carl Rowan, Giám đốc của USIS đọc bài của tôi trên tờ Washington Post và yêu cầu ngừng ngay việc làm phim và bộ phim bị phá sản.

Những biên tập viên đưa ra những đánh giá cuối cùng cho giải thưởng Pulitzer nằm trong số những người tranh cãi về câu chuyện của tôi.  Holliwood ở sông Cửu Long rõ ràng nằm trong mục giải thưởng của tôi cùng Đội cứu trợ 21, câu chuyện khí gas cay và những bài phóng sự từ thung lũng La Drang.  Mulligan nói đó là một danh sách mạnh như những chú lùn được thuê để thì thầm vào tai những tướng La Mã chiến thắng rằng ngọn lửa đang qua nhanh.  Anh ta cảnh báo rằng những phóng viên tốt nhất nước Mỹ cũng tham gia giải thưởng, rất nhiều trong số họ tôi từng làm việc ở Việt Nam như Jack Foisie của tờ Thời báo Los Angeles, Jimmy Breslin của Tờ New York Herald Tribune.  Anh ta nói cơ hội của tôi là mong manh.  Giải thưởng Pulitzer được công bố tại Trường Đại học Columbia vào thứ 3 đầu tiên của tháng năm.  Vào đêm công bố của giải thưởng, tôi đi ngủ sớm khi được đồng nghiệp AP đảm bảo nếu tôi giành được chiến thắng tôi sẽ được văn phòng ở New York thông báo.  Bob Moorefied trực tối hôm đó, một phóng viên của AP lớn tuổi hơn, đến từ Midwest.

Cõ lẽ Moorefied rất tốt đã để cho tôi ngủ hoặc có thể anh ta ra ngoài tìm một gái bar vui vẻ nên lỡ mất đoạn tin trên máy telex, nhưng anh ta cũng không gọi điện vào sáng sớm với bất kỳ tin tức nào.  Rạng sáng tôi bình thản quay sang Nina nói rằng luôn luôn có giải thưởng cho năm sau.  Tôi thậm chí đã ngủ lơ mơ khi chuông điện thoại reo.  Đó là Moorefied.  “Hãy để tôi là người đầu tiên chúc mừng anh…”.  Cảm xúc dâng trào, nghẹn ngào tràn lên và Nina nhìn những giọt nước mắt chảy ra từ mắt tôi.  Tôi chưa bao giờ chiến thắng được điều gì trong đời và tôi đoán giải thưởng Pulitzer là sự khởi đầu tốt đẹp.  Moorefied muốn tôi viết một bài bình luận cho hãng tin và tôi mất một lúc lâu mới kéo được mình ra khỏi cảm xúc này để có được vài dòng.

Ngay sau đó có tiếng gõ cửa căn hộ của tôi.  Mal Browne bước vào cùng chai sâm banh đầy bọt.  Trên đường tới cơ quan, tôi thấy Charlie Mohr của tờ Thời báo New York, một đối thủ giải thưởng năm đó, người năn nỉ mời bữa trưa chúc mừng Mal, Horst và tôi, những cậu bé AP của Sài Gòn.  Đầu năm đó Charlie mời tôi về làm cho tờ Thời báo New York và tôi đã được anh ta tâng bốc có chủ ý nhưng tôi nói tôi đã “cưới” AP cho tới lúc cái chết chia lìa chúng tôi, một sự khẳng định cường điệu mà chỉ có ở tuổi trẻ.

Một đống Telex và điện báo đang chờ tôi ở văn phòng và những thư từ khác gửi đến từ các đồng nghiệp khắp nơi trên thế giới.  Wes Gallagher có thông điệp nói rằng: “Trong những người được giải thưởng Pulitzer của AP thì không một ai xứng đáng hơn hoặc cho tôi sự hài lòng hơn cậu bởi những khó khăn mà cậu đã trải qua”.  Sau đó ông ta viết: “Tôi không thể vui hơn được nữa vì cậu đã giành giải thưởng Pulizer, điều đó có nghĩa một sự quét dọn sạch sẽ cho bộ ba Mal, Horst và chính cậu.  Tôi đặc biệt vui mừng vì điều đó cho thấy những phóng viên hàng đầu trong đất nước này xứng đáng được ghi nhận trên cả quốc tịch.  Tôi mong Chính phủ sẽ làm như vậy, điều đó là sự mong đợi quá nhiều của bất kỳ Chính phủ nào”.

Tôi được mời tới dạ tiệc kỷ niệm Pulitzer lần thứ 50 tại khách sạn Plazza ở thành phố New York.  Đứng trên bục trong phòng khiêu vũ của khách sạn Plaza giữa những người được nhận giải thưởng Pulitzer, nghe Jame Reston và Archibald MacLeish nói về những trách nhiệm đi cùng giải thưởng, tôi đã hiểu những gì Mal Brrowne, David Halberstam và Neil Sheehan đang tìm kiếm để hoàn thành ở Việt Nam.  Tôi mong muốn được trở lại công việc.

DẶM TRƯỜNG ĐẪM MÁU


Năm 1966 tôi như cháy mình trong máu lửa nóng bỏng của cuộc chiến tranh đang leo thang từng ngày.  Tôi không bao giờ tự hỏi, rằng cuộc chiến tranh tàn khốc là đúng hay sai và cũng chẳng bao giờ đưa ra các câu hỏi trong các cuộc trò chuyện với người lính hay đồng nghiệp bởi tất cả chúng tôi đều ở trong tầm tay của những hành động chiến tranh.  Quá nhiều người bạn của chúng tôi đã chết, chúng tôi không vui vẻ khi viết về sự hy sinh của họ.

Chính quyền quân đội Mỹ ở sài Gòn tuyên bố chiến thắng là chắc chắn, không tiết lộ dấu hiệu nghi ngờ nào.  Người dân Việt Nam trong các thành phố biết rất ít về những gì quân đội Mỹ đang làm và thậm chí còn không quan tâm, thoải mái khi biết rằng quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới đang đưa những dưa con của mình vào cuộc chiến và sẽ bồi thường đặc quyền cho chúng.

Sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ kèm theo sự hỗ trợ kinh tế thừa thãi.  Kinh doanh địa phương trở nên thịnh vượng hơn bao giờ hết.  Sự sa sút thứ hạng của quân đội Cộng hoà là do lính quân dịch đến từ vùng nông thôn.  Những người giàu có lo lót cho con cái của họ thoát khỏi nghĩa vụ quân sự và tìm cho chúng những công việc nhàn hạ ở các đơn vị chỉ huy.

Lính Mỹ không hiểu hết những điều tự nhiên trong xã hội Việt Nam.  Họ như những người tù trong không gian hẻo lánh của chính họ, chiến đấu vì cuộc sống của họ ở trong rừng hoặc bị cô lập trong những căn cứ quân sự.  Chiến dịch của Westmoreland kêu gọi lực lượng lính Mỹ hoàn toàn độc lập, không cần một cánh quạt, một quả chuối hoặc một lát bánh mỳ từ nền kinh tế địa phương.

Tôi thường tới thăm Lữ đoàn 3 lính “Big Red 1” đóng ở Lai Khê gần Bến Cát.  Tinh thần đồng đội thuyết phục họ gắn kết với nhau.  Những sỹ quan muốn nói chuyện về chiến tranh và thích nói về rừng cao su Lai Khê bị bỏ hoang nơi họ đang cắm trại.  Năm 1962 tôi đã tới thăm để viết về chiến dịch mặt trời mọc khi Hoa Kỳ muốn nắm dân ở nông thôn bằng cách đẩy họ vào những ấp chiến lược.  Khi kế hoạch thất bại, vùng dất bị bỏ hoang và mặc nhiên rơi vào tay Việt Cộng.  Bây giờ quân đội đang làm nơi trú ngụ cho khoảng 3500 lính trong đống lộn xộn cây bụi chen lẫn cây cao su yếu ớt của một nông trường đổ nát với những toà nhà làm kho.  Thực tế, Lữ đoàn 3 trở thành căn cứ doanh trại hình mẫu với nhà ăn tập thể ngăn nắp, dịch vụ giặt là và nhà di động cho sỹ quan cao cấp, thậm chí phòng xây bằng bê tông với 75 cô gái bar ăn mặc loè loẹt thường giở mánh lới với lính để lấy 5 đô la trong căn phòng nhỏ khu vực bếp.  Bác sỹ quan quân y lữ doàn phải kiểm tra sức khoẻ thường xuyên cho họ.

Một chiều, Horst và tôi tới đó để uống.  Chúng tôi cười đừa với những cô gái Bar thì tôi đọc được một bảng màu trắng có ghi: “Gái có mác là hàng sạch” và một cái khác “Gái không có mác là bệnh”.  Cô gái đang ngồi trên lòng tôi không có mác và tôi thả cô ta xuống như thả một quả lựu đạn sống!

Khi căn cứ doanh trại đó được dựng lên thì Việt Nam được gọi là “Cuộc chiến không mặt trận” vì Việt Cộng có thể ghé thăm bất kỳ nơi nào, nhưng tại An Khê những cuộc viếng thăm của họ có thể đoán trước được.  Hầu hết là mọi đêm những viên đạn bắn tỉa lao ra từ bóng tối những hàng cây cao su già, rơi uỵch vào trong nhà và nơi trú ẩn của vị chủ nhà mới.

Trung sỹ Douglas Warden kêu ca với tôi khu vực này không đạt tiêu chuẩn mong đợi, với những quy định quân đội.  “Những cuốn sách nói về những boong ke rộng rãi và những thứ tương tự như vậy.  Những boongke của chúng tôi không đủ rộng.  Chúng tôi quá nhỏ và chúng tôi chỉ có thể sử dụng chúng làm vị trí chiến đấu, không thể ngủ ở đó”.

Căn cứ doanh trại Lai Khê có một bể bơi trong rừng dừa nhỏ do những người chủ khu rừng cũ xây dựng nhưng người Mỹ không thể sử dụng được vì văn phòng đầu ngành không quân ra sắc lệnh nước ở đó không đạt tiêu chuẩn an toàn.  Tôi giải quyết giúp họ bằng cách thuyết phục người chị dâu là Huyền Châu làm dược sỹ đi mua Clo để tẩy nước.  Những điều thoải mái như vậy thường không có ở Lai Khê hay nơi nào khác trong vùng chiến.  Trong khi những tiền đồn ở hậu phương được trang bị những điều xa xỉ thì tiền tuyến ngược lại.
Nhân sự không thể thiếu trên bảng phân công của bất cứ lữ đoàn nào là những tên ăn cắp – tay lính có kỹ năng luồn lách chế độ quan liêu và nhiều quy định đặt ra để tranh thủ mà không câu hỏi nào được đặt ra.  Tay ăn cắp ưa thích của tôi là Đại uý Cosmo M.Barone của Đại đội C, Tiểu đoàn Bảo dưỡng kỹ thuật 701, một gã sinh ra vốn tự tin có nhiệm vụ mang đến sự thoải mái cho lính ở Lữ đoàn 3.  Barone khoe anh ta có thể sửa, nắm được hoặc ăn cắp bất cứ thứ gì và một ngày anh ta chứng minh rất thuyết phục với tôi khi bước vào văn phòng Sài Gòn và tuyên bố anh ta có được 25 máy điều hoà và 15 tủ lạnh cho đơn vị anh ta.  Đó là một điều ngạc nhiên tài ba: Cái nóng được xem là kẻ thù lớn hơn Việt Cộng.  Mát mẻ là điều ao ước hơn cả tình dục.  Tay Đại uý giải thích anh ta có cách tiếp cận bộ phận hậu cần quân đội gần sở chỉ huy Hoa Kỳ.  Được trang bị một can sơn đen và một cái chổi, anh ta chỉ đơn giản vẽ ra vài cái tên của những đơn vị chủ đích và sơn vào địa chỉ Lai Khê ở đơn vị anh ta.  Ba tuần sau, đội hậu cần chuyển tới những đồ vật quý giá cùng lời chào đón vui mừng tại sở chỉ huy Lữ đoàn.

Tiểu đoàn lính bộ tốt nhất ở lai Khê là Tiểu đoàn thứ hai của Trung đoàn 28.  Những lính mặc quần áo rằn ri đen với niềm tin tự hào.  Chỉ huy Tiểu đoàn, Đại tá George Eyster, là người đàn ông gầy, gọn gàng nhắc tôi nhớ tới Gary Cooper.  Eyster, là người tốt nghiệp West Point sống ở bờ biển Cocoa, Florida và thích cho tôi xem những bức hình gia đình và vợ anh ta.  Cha anh ta là một thiếu tướng, trưởng sỹ quan thông tin ở chiến trường Châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

Eyster mời tôi tham gia nhiều cuộc hành quân nhưng tôi chưa bao giờ đi được.  Tôi tình cờ chạm trán Tiểu đoàn sư tử Đen và Eyster khi Horst và tôi tham gia cuộc hành quân lính bộ Cộng hoà và  tại Mỹ tại Trung lập, phía Tây Sài Gòn.  Nhiệm vụ của cuộc hành quân là đánh bật những tay bắn tỉa Việt Cộng từ các đường hầm và boongke trong rừng cao su và các bụi cây xung quanh Củ Chi.  Chúng tôi đi cùng với những con sư tử Đen và Eyster hứa hẹn chúng tôi một ngày hành động.  Đại đội C của anh ta là đơn vị chỉ đạo, “và họ biết cách giải quyết vấn đề”.

Bình minh, chúng tôi bò ra khỏi túi ngủ, ăn sáng với khẩu phần đóng hộp. Eyster và Đại uý George F.Dailey đang lập kế hoạch hành quân trong ngày.  Dailey gợi ý lính của anh ta di chuyển dọc theo lối đi có thể nhìn được khu cây bụi và rừng cao su thông thoáng.  Thậm chí anh ta còn đoán rằng khu vực này bị đào hầm và những tay bắn tỉa có thể quan sát chúng tôi từ những cửa hầm nguỵ trang.  Anh ta chấp nhận đó là một trò chơi, “Nhưng đây cũng chính là cách tôi có thể sử dụng những cây súng trường bắn không giật 106 đặt trên xe jeep của tôi và tôi có thể thổi tung bất kỳ boongke có người nào mà tôi tìm thấy”.

Eyster gật đầu.  Anh ta kêu ca bị cảm lạnh nặng đêm hôm trước.  Mắt mũi anh ta chảy nước và anh ta cuốn một chiếc khăn kaki quanh cổ nhét quanh áo.  Tôi ở lại cùng Đại tá khi Horst di chuyển cùng lính bộ theo hành trình ra ngoài vùng đóng trại đêm ngoài trời.  Ngay sau đó có tiếng hét cảnh báo, “Claymore, Claymore” vị Đại tá và tôi di chuyển nhanh lên đường.  Eyster gọi tay lính ướt đẫm mồ hôi cúi trên quả mìn “cắt dây, đừng giật chúng” và chúng tôi xem anh ta gỡ quả mìn được giấu gần gốc cây.

Những người lính bắt đầu tìm kiếm những bụi cây để kiểm tra an toàn khi Eyster và Dailey bàn thảo bản đồ hành quân chi tiết.  Tay bộ đàm đứng bên đường phía sau họ và tôi tới gần hơn để nghe cho rõ.  Vai tôi chạm vào vai của Eyster khi âm thanh những tiếng nổ giật chói tai ở phía trước và tôi cảm thấy vai anh ta chao liệng và nghe thấy anh ta thở dốc.  Tôi biết rằng anh ta đã bị bắn.  Tôi bò sát xuống đất tự cứu mình.  Eyster ngã xuống cách đó vài mét, tay anh ta ấn vào ngực kêu rên một cách lặng lẽ “George, tôi bị trúng”, anh ta lẩm nhẩm với chỉ huy đại đội, người đang nằm trên chân anh ta, không chú ý đến tay bắn tỉa và hét lên: “Đại tá đã bị thương, đại tá đã bị bắn.  Đưa bác sỹ tới đây, đưa bác sỹ tới đây”.

Eyster mặt tái mét nằm trong bụi rậm, đôi mắt nhắm, khuôn mặt xám và một vết thương trên cổ.  Bác sỹ quân y chạy tới, mặc dù sau này anh ta có nói với tôi là anh ta nghĩ đại tá chết ngay sau đó và biết rằng cứu sống là vô vọng nhưng anh ta vẫn làm những gì có thể, nhẹ nhàng băng bó vết thương quanh cổ cho đại tá.  Đôi mắt của Eyster mở to, anh ta đã trải qua cuộc tấn công kinh hoàng đầu tiên bằng ý chí.  Trái tim anh ta dường như run rẩy đập trở lại, sắc thái khuôn mặt hồng hơn và tỉnh lại.  Anh ta the thé: “Tôi bị bắn chỗ nào, có tệ lắm không?”.  Horst tới xem Eyster hô hào anh ta chụp ảnh, “Horst, đừng bị bắn, đừng bị bắn” và sau đó anh ta rơi vào bất tỉnh.

Tôi quay phim hiện trường bằng chiếc camera gia đình 8mm.  Tôi chỉ về phía bụi cây cách đó gần 50m và nói với Horst, “Tôi nghĩ tay bắn tỉa đã ở đó.  Anh ta nhảy ra khỏi hố chui vào đó”.  Những người lính không thể định vị được lối ra của hào và di chuyển sâu hơn vào các bụi cây.  Bác sỹ đi theo tiểu đoàn ngồi xuống kiểm tra cho Eyster.  Anh ta quay sang Dailey và nói: “Tôi sẽ cho anh ta thêm 50 phút để sống nếu chúng ta không thể đưa anh ta ra khỏi đây”.  Khi anh ta vừa dứt lời, tiếng súng trường nổ ngay gần đó và Đại uý Dailey yêu cầu bốn tay lính đang chờ lệnh đưa sỹ quan lên cáng có chai truyền huyết thanh.  Trực thăng không thể tìm được nơi đỗ và Dailey mệt mỏi ném những hộp khói màu vào khoảng trống, thét trong bộ đàm tới khi chiếc máy bay xuất hiện và sau đó hạ xuống bốc người lên.

Chúng tôi tiếp tục tuần tra vào lúc 9 giờ sáng, trời nóng gay gắt.  Chúng tôi tham gia cùng đơn vị từ đại đội B.  Đội trưởng chỉ lối đi và nói: “Việt Cộng cố dụ chúng ta vào đó vài gìơ trước bằng cách nhảy ra đường vẫy cờ đen.  Chúng ta phải mang thêm pháo cối vào cho chúng”.

Lúc 11 giờ, một binh nhì tháo mìn khi di chuyển sang bên phải chúng tôi.  Anh ta nhìn thấy vật cháy và thét lên cảnh báo khi nằm xuống đất.  Tiếng nổ kinh hoàng.  Horst và tôi đứng hoảng sợ như trời trồng khi khói bụi bay quanh.  Khi khói bụi lắng xuống, chúng tôi nhìn thấy xác trung sỹ trung đội của anh tan ngay trước mặt gần như bị chia đôi bởi hàng nghìn mảnh đạn.  Một người lính khác nằm thở hổn hển trong đau đớn, những mẩu thép cắm vào mông anh ta.  Kỳ lạ là tay binh nhì không bị thương. Anh ta bò về phía trung đội trưởng đang nằm chờ chết trong đám cỏ lau.  Tôi nhìn thấy một bức thư kẹp bên trong mũ của anh ta được mở ra.  “Đó là bức thư của vợ anh ta”, một người lính thì thào với tôi.  “Anh ta vừa nhận được sáng nay và định đọc nó vào chiều tối”.

Đại uý Dailey thét đội quân của mình: “Cẩn thận! Coi chừng! Đừng đi quanh những người mang bộ đàm!”.  Họ là mục tiêu đầu tiên.  Người giữ bộ đàm đang vẫy Dailey.  Có một cuộc gọi từ cấp trên nơi tiếng súng nghe rõ.  Trung đội trinh sát đã xuống một boongke bằng bê tông và họ bị súng máy tấn công.  Dailey nói với họ là di chuyển nhanh và đeo mặt nạ khí gas.  Anh ta gọi bộ đàm cho một chiếc trực thăng được trang bị rocket và khí gas độc tấn công bắn vào boongke và vô hiệu hoá kẻ chiếm giữ.

Chúng tôi đeo mặt nạ khí gas.  Thiết bị cao su bám vào mặt chúng tôi chặt như da.  Khí gas bay về phía chúng tôi và chúng tôi cám ơn vì đã có sự bảo vệ, những khi di chuyển về phía trước thì một quả mìn thứ hai bất ngờ nổ tung khi một người lính động vào đám cỏ bên đường.  Hai trung sỹ bị hạ trong vụ nổ và bác sỹ quân y đang xé quần áo của họ để trị vết thương.  Tôi hầu như không thể nghe tiếng họ khóc qua chiếc mặt nạ chặn từ mũi.  Một người đàn ông đang cố gắng tháo bỏ chiếc mặt nạ.  Đại uý Dailey thét bác sỹ chú ý cẩn thận, cứ dể quần áo của họ như vậy “vì khí gas có thể đốt cháy da của họ”.  Vào giữa trưa, chúng tôi đi được một dặm và được lệnh trở về Trung Lập.

Tôi viết câu chuyện về Đại đội C những con Sư tử đen sáng hôm sau.  “Đó là dặm trường đẫm máu.  Đó là địa ngục của Dante, của lửa đạn và lưu huỳnh.  Cuộc tấn công khí gas lan ra trong rừng, đốt cháy khi chạm vào da người đổ mồ hôi.  Những người bị thương trông giống như quái vật trong những chiếc mặt nạ khí gas kỳ cục màu đen vô cùng thê thảm trên mặt đất.  Đó là đoạn đường đi bộ nơi thần chết ẩn nấp trong rừng, nơi những người Việt Cộng bắn tỉa ẩn nấp và dưới lòng đất là những quả mìn”.

Tôi không nhắc đến Eyster trong câu chuyện của mình để chắc rằng gia đình anh ta không đau lòng khi nghe câu chuyện đó.  Chúng tôi thấy Đại tá trong một căn phòng bệnh viện không điều hoà, ảm đạm màn tránh muỗi.  Cổ và ngực anh ta băng bó nặng, tay trái đeo băng và da thì xám xịt.  Horst đã in những bức hình của đội tuần tra đưa cho anh ta.  Eyster mỉm cười rên rỉ lời chào và nhìn vui thú vào những bức hình, thì thào: “Tôi đã thoát một cách may mắn, tôi gần như không thể vượt qua được”.  Tôi hỏi thăm anh ta, “Tôi ổn”, anh ta nói.  “Tôi đã yêu cầu vị tướng viết cho vợ tôi sáng nay, nói với cô ta và các con chuyện gì xảy ra.  Vết thương này không đủ nặng để đánh điện cho cô ấy và tôi không muốn cô ấy lo lắng”.

Nhưng Horst và tôi thì lo lắng.  Buổi chiều hôm sau,  chỉ huy Lữ đoàn 3 điện George Eyster đã chết.  Horst và tôi được mời tới lễ tưởng niệm ở Lai Khê nhưng chúng tôi có nhiệm vụ ở lại Trung Lập tham gia cùng những con Sư tử đen bởi vì câu chuyện của tôi và những bức hình của Horst nhận được sự quan tâm của báo chí và Phòng Ngoại sự AP muốn chúng tôi viết thêm.  Ba ngày sau đó, tôi viết lời cáo phó của Đại tá Eyster: “Anh là con trai một vị tướng, tốt nghiệp West Point và là chỉ huy trưởng một tiểu đoàn.  Nhưng Đại tá George Eyster đã chết như một người lính chiến trường.  Đó có thể là do quân hàm trên cổ áo hay tấm bản đồ cầm trong tay hoặc chỉ là cơ hội không dễ dàng có được mà tay bắn tỉa Việt Cộng đã chọn Eyster từ 5 người chúng tôi đang đứng trên đường trong rừng rậm đầy bụi”.  Harriet Eyster đọc câu chuyện của tôi ở tờ Orlando Evening Star và viết cho tôi: “Anh đã cho những đứa con của anh ấy một tài sản kế thừa mà không ai khác có thể làm khi viết về sự dũng cảm và anh hùng của anh ấy, nó sẽ sống cùng bọn trẻ và là niềm động viên mãi mãi cho chúng”.

Nhiều sỹ quan chết ở Việt Nam hơn những cuộc xung đột trước, gấp bốn lần so với chiến tranh Hàn Quốc.  Đại uý Dailey của đại đội C bị chết bốn tháng sau đó là nạn nhân của cuộc đánh bom nhầm của máy bay Hoa Kỳ.

Nhưng Việt nam không giống như những cuộc chiến tranh khác.  Đối với nhiều người lính, sống sót không phải là chiến thắng mà là mục tiêu.  Mục tiêu của họ là làm được điều đó trong một năm.  Các nhà bình luận nói nghĩa vụ một năm trồng lên những hạt giống thờ ơ.  Những người lính nghĩ rằng vậy là quá lâu.  Họ  dán những bức ảnh người đẹp trong khoảng chữ 365 ngày và đánh dấu từng ngày, chờ đợi “Ngày Deros” thần kỳ, ngày có thể về nhà, ngày lên máy bay Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, “con chim tự do” cười với tiếp viên hàng không, đồ uống tự do và chuyến đi kết thúc ở Mỹ.

CUỘC CHIẾN VỚI WESTY

WESTMORELAND

Cuộc chiến Việt Nam, được ủng hộ đầy đủ hơn bao giờ hết vào mùa hè năm 1966 khi Tướng Westmoreland kết luận ông ta có thể chiến thắng cộng sản ở chiến trường.  Ông ta đi về vùng nông thôn tuyên bố Hoa Kỳ sẽ trụ vững ở đó cho đến ngày hoà bình lập lại.  Khi Westmoreland chứng kiến lực lượng tăng cường, viện trợ căn cứ quân sự và chiến trường nhiều hơn thì ý tưởng về một hoà bình thương lượng bắt đầu mờ dần.  Giờ là sức mạnh tối đa nằm trong tay ông ta – máy bay chiến đấu tấn công tàu hải quân ở biển vịnh Bắc Bộ, máy bay B52 ném bom ở Guam, máy bay lực lượng không quân ở các căn cứ quân sự Thái Lan và miền Nam Việt Nam, sức mạnh quân sự tăng cường và vượt qua con số vài trăm nghìn – ông ta dần dần bị thuyết phục rằng mục tiêu chiến thắng là có thể.  Khó mà không hài lòng với cỗ máy chiến tranh Westmoreland đang tập hợp.

Tổng thống Johnson đã “bật đèn xanh” cho Tướng Westmoreland thực hiện kế hoạch “tìm và diệt”, sử dụng chiến thuật trực thăng vận và tấn công trên chiến trường.  Westmoreland thoải mái nhìn nhận những cuộc tấn công du kích “ngu ngốc”.  Ông ta lên kế hoạch thay thế cuộc chiến truyền thống bằng cách chống lại quân đội cộng sản dọc biên giới Việt Nam.

Sỹ quan chiến dịch của Westmoreland, Thiếu tướng William DePuy, thích sự mạo hiểm hiểm, chốt pháo binh và không quân phòng hộ.  Đôi khi tôi nhìn đạn nổ trong khu vực hạ cánh và chỉ vài phút trước khi máy bay thả lính.  DePuy chỉ huy sư đoàn lính đánh bộ thét trong tiếng kêu động cơ với tôi “Arnett, mẹo là sự lựa chọn đúng lúc”.  DePuy đề ra những quy định cứng nhắc cho sư đoàn của mình.  Máy bay chỉ huy của ông ta thường bay lượn lờ về phía đơn vị, quan sát những gì đang diễn ra bên dưới.  Ông ta không chịu đựng sự tầm thường hay tha thứ cho những tay chỉ huy tiểu đoàn, đại đội và trung đội vì những lỗi vi phạm nhỏ.

DePuy khen thưởng sáng kiến và sắp xếp những sỹ quan trẻ nhất thăng tiến nhanh chóng.  Trung tá Alexander M.Haig là người được yêu thích, có cơ hội thăng tiến trở thành lữ đoàn trưởng sau khi tiểu đoàn anh ta làm  tê liệt một trung đoàn Việt cộng tấn công trong trận Ấp Gù. DePuy khao khát chỉ huy sư đoàn tốt nhất trong quân đội và không giấu diếm điều đó.

DePuy khẳng định chiến thắng luôn thuộc về bên có khả năng tập trung lực lượng vào nơi đặc biệt tại thời điểm đặc biệt trong chiến trường.  Chiến thuật này là quy luật chính yếu của Việt Cộng, luôn có những đơn vị không bao giờ tấn công nếu họ không dồn được lực lượng tốt hơn.  Với khả năng di chuyển cả một tiểu đoàn lính bằng trực thăng từ bất kỳ nơi đâu vào bất kỳ chỗ nào trong chiến trường, ông ta bảo vệ ý kiến, chỉ huy Mỹ có thể chỉnh sửa tỷ lệ lực lượng theo ý họ.  Ông ta nói, nếu theo phương pháp này thì lính Mỹ đã giành chiến thắng trong trận Điện Biên Phủ.  DePuy là người nói rất thuyết phục và sự tự tin của ông ta đầy ấn tượng.  Vào mùa thu sau một loạt can thiệp mức độ rộng trong vùng chiến khu C và D, ông ta tuyên bố đạt được thành công chiến thuật quan trọng và đã tiêu diệt toàn bộ lực lượng phản kháng của kẻ định trong vùng hành quân của mình.  Westmoreland nói ông ta đang trên đường tới chiến thắng.

Mỹ có sức mạnh quân đội to lớn và DePuy đang sử dụng nó một cách phi thường.  Nhưng chiến lược tiêu hao sinh lực địch chỉ có thể thành công nếu đánh gục được ý chí của kẻ thù và rõ ràng là điều đó sẽ không xảy ra.

Westmoreland thường mang theo phóng viên trong các chuyến đi thực tế dài ngày để họ nắm được quan điểm của ông ta.  Họ thường bay bằng trực thăng và máy bay nhỏ tới những vùng xa xôi như Hàng Tân, Phước Vinh hoặc Bảo Lộc, nơi sỹ quan Cộng hoà và Mỹ đứng xếp hàng đón ông ta và nói chuyện về tình hình địa phương.  Những câu chuyện về kết quả rõ ràng là nịnh bợ, những bài ca mừng chiến thắng không có đối với sự tinh thông quân sự của ông ta.

Những người viết bài phải góp nhặt để làm nên những miêu tả khác thường về những gì luôn là tình huống bình thường.  ông ta là sỹ quan được chụp ảnh nhiều nhất trong thời đại của mình.

Tom Reedy, người chịu trách nhiệm viết bài trong một chuyến đi như vậy cho AP đã viết “Đi dạo cùng Tướng William C. Westmoreland, chỉ huy chiến tranh ở Việt Nam 51 tuổi trong những dịp đặc biệt cho một gã khổng lồ mà những người lùn không hợp”.  Tác giả cũng miêu tả vị Tướng như “người gầy cao 1m8, cằm nhọn, có sức mạnh của một chiếc xe tăng và đôi bàn tay của một nghệ sỹ Piano”.  Thậm chí một tay quan sát chua chát như Hugh Mulligan đã bị những “tinh hoa phát tiết ra ngoài” của Westmoreland mê hoặc.  Sau khi nghe cuộc nói chuyện của ông ta với những sỹ quan thiết giáp 11, Hugh viết: “Lời động viên cùng những cảm thông của một bài phát biểu trong phòng kín trước khi trò chơi Hải quân – Quân đội bắt đầu, sự chân thành trong giọng nói, loé sáng niềm tự hào trong đôi mắt sâu thẳm mà bằng cách nào đó làm cho bài phát biểu cảm động và đáng nhớ”.

Tôi chưa bao giờ được đi cùng Westmoreland và tôi chẳng bao giờ đề cập tới chuyện đi cùng ông ta.  Ông ta nói rõ trong bài tóm tắt cá nhân với những nhân viên rằng kiểu viết bài chiến trường như tôi là không thể chấp nhận được.  Ông ta kêu ca lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh, những tin, bài đến trực tiếp từ những người lính thuỷ đánh bộ tới giới công chúng Mỹ trước khi người chỉ huy khu vực biết chuyện gì đang diễn ra.  Westmoreland phản bác giới báo chí Sài Gòn phải nhạy cảm với nhuệ khí của lính ở chiến trường và công chúng ở nhà và cách tiếp cận tích cực phải được kiểm duyệt trong những tin, bài chuyển đi, tránh cung cấp cho kẻ thù về những ý định của Mỹ hoặc giảm lòng tin về khả năng của Mỹ trong mắt đồng minh.  Tôi nghĩ ông ta đang cho chúng tôi quá nhiều quyền năng nhưng tôi cũng nhận ra danh tiếng cá nhân của ông ta có thể bị ảnh hưởng bởi những bài báo của chúng tôi.

Thương vong của giới báo chí tăng lên khi trận chiến ngày càng dữ dội.  Phóng viên ảnh Charlie Chellapah từ Singapore bị giết trong lần đi tuần cùng Sư đoàn lính bộ 25 của quân đội Hoa Kỳ ngày 12-2.  Sam Castan, biên tập viên lâu năm của tạp chí Look, chết vào ngày 21-5 cùng lính của Sư đoàn thiết giáp 1 Hoa Kỳ trong cuộc hành quân “con ngựa điên”.  Tác giả người Pháp Bernard Fall chết vì bẫy ngày 21-2-1967 khi tham gia đi tuần với lính thuỷ đánh bộ Hoa Kỳ dọc bờ biển miền Trung phía bắc Huế, nơi anh ta biến nó nổi tiếng với cái tên “Con đường không có niềm vui” trong một cuốn sách về chiến tranh ở Pháp.  Phóng viên thứ 9 chết là phóng viên ảnh tự do Ronarld G.Gallagher, chết ngày 11-3-1967 tại rạch Kiên ở Đồng bằng sông Cửu Long cùng Sư đoàn lính bộ 9 quân đội Hoa Kỳ.

Những sỹ quan hộ tống lính thuỷ đánh bộ bắt đầu yêu cầu những phóng viên chiến trường mặc áo chống đạn nặng 9kg, đội mũ sắt của lính bộ Hoa Kỳ và chúng tôi không phản đối khi đi nhờ trực thăng vào các vùng tiền đồn phía trước gần vùng DMK (phi quân sự) dưới những trận bắn phá, thường phải ngồi bên những thùng đạn dược và trườn từ boongke bằng bao cát này tới boongke nọ qua mương bùn ngập đầu gối chẳng bao giờ khô dù nắng nóng như thiêu xen lẫn gió mùa.  Ra khỏi những chỗ như vậy rất đau đầu, một trò chơi đợi chờ bởi những chuyến hàng ưu tiên cho một số trực thăng đi vào là những phóng viên nhưng lại là những người cuối cùng đi ra sau những lính bị thương và luân phiên.

Những nơi gíông như Cồn Tiên bắn phá dữ dội về biên giới phía bắc Việt Nam, không nhiều hơn lời cảnh báo hai giây về viên đạn đang tới và phóng viên ảnh AP Henri Huet thậm chí còn không nghe thấy tiếng nổ của viên đạn ngắt quãng qua tay và chân mình khi đang chụp những tay súng lính thuỷ đánh bộ đáp trả bắn phá pháo binh.  Huet bị giết khi đang làm nhiệm vụ năm 1971.

Phóng viên ảnh AP John Nance đang bì bõm qua ruộng lúa đầy bùn dọc sông Sài Gòn cùng Sư đoàn Lính bộ 1 thì súng cối đập tới, bắn vào cánh tay anh ta và làm anh ta ngã sóng soài khi một súng máy xả vào đội đi tuần giết chết nhiều lính xung quanh.  Nance đặt chiếc hộp đựng máy ảnh bằng sắt nặng của mình trên bờ ruộng làm lá chắn bảo vệ và một tay súng Việt Cộng nghĩ rằng nó quan trọng nên liên tục bắn vào, sáu viên đạn nổ tung qua mảnh sắt và trên đầu Nance.

John Wheeler đi cùng một trung đội chỉ huy ở Sư đoàn lính bộ 25 tại Củ Chi thì bị kẹt vào một trận bắn phá dữ dội, sau đó bị thương khi một lính Mỹ ném lựu đạn bật trở lại từ một cái cây, làm chết người lính cạnh anh ta và làm Wheeler bị thương ở bắp dưới tay trái.  Tay phóng viên AP đó trở về Sài Gòn với dải băng chiến trường và gõ câu chuyện của mình trên máy đánh chữ ở văn phòng, khi máu còn rỉ qua vết băng dày.

Nhà sử học quân sự cũng là cựu chiến binh S.L.A. Marshall đã chọn mùa thu năm 1966 để đánh vào tính chính trực và lòng dũng cảm của giới báo chí Việt Nam trong một bài báo ở tạp chí New Leader: “Sự thất bại báo chí ở Việt Nam – phóng viên chiến trường chờ mồi của Mỹ”.  ông ta kết luận  những nhà báo ở Việt Nam trình diễn “Tính dở hơi bất cần đạo lý” và không viết chiến trường thực tế bởi vì “Đa số phóng viên thường trú Hoa Kỳ ở Sài Gòn không nói điều chết tiệt về họ hoặc thờ ơ với chiến tranh và không muốn phơi bày sự vô tội của họ, hoặc sợ mặt trận mà họ không chịu nổi suy nghĩ sống chung với nó”.  Ông ta nghi ngờ các phóng viên cố gắng “chộp được giải thưởng Pulitzer khi viết về những cuộc biểu tình, phản đối, tai nạn hoặc bất cứ thứ gì có hình ảnh làm cho mặt trận ở nhà lúng túng”.  tạp chí Time dành hẳn một trang cho những lời buộc tội của`Marshall mà không cần đưa ra những quan điểm công bằng, đồng thuận với những phỉ báng về giới báo chí Việt Nam.

Chúng tôi kinh ngạc với những lời buộc tội của Marshall.  Ít người có thể nhớ đã từng nhìn thấy ông ta ở Việt Nam.  Thực tế Marshall có dành hai tháng ở Sư đoàn Bộ binh 1 ở căn cứ quân sự An Khê, tại khu chỉ huy VIP cùng phó chỉ huy Sư đoàn, đi lại bằng trực thăng và chẳng bao giờ đặt chân lên chiến trường.  Tài liệu của ông ta về bài báo quan trọng đó và cuốn sách sau này ông ta đặt tên là “Chiến trường vùng gió mùa” hoàn toàn xuất phát từ những cuộc phỏng vấn sau chiến sự.  Chúng tôi chỉ có thể kết luận rằng người từng là tác giả của những cuốn sách về chiến tranh Triều Tiên bán chạy nhất như Pork Chop Hill đang cố gắng xuất bản dựa vào chi phí của chúng tôi.  Chính điều này sau đó được đại tá nghỉ hưu David Hackwork người đồng hành cùng ông ta trong chuyến thăm Việt Nam tiết lộ và sau này một nhà sử học đã biến sự trở về không thành công của mình vào danh sách bán chạy nhất.  Wes Gallagher là một trong rất nhiểu người đáp trả phẫn nộ với bài báo của New Leader.
Mặc dù những gì Westmoreland nghĩ, tôi không phải muốn gây khó khăn cho những chiến lược quân sự.  Tôi thích mối quan hệ công việc tốt với rất nhiều sỹ quan cao cấp.  Nhưng điều này không phải luôn luôn đạt được.  Tôi quen thân với Thiếu tướng John Norton khi ông ta còn là nhân viên của Westmoreland và rất vui khi ông ta được giao nhiệm vụ chỉ huy Sư đoàn lính bộ 1 ở Tây Nguyên, đơn vị lựa chọn cho những nhà báo tìm kiếm những câu chuyện chiến trường bi thương.

Tôi viết về chiến thuật tìm và diệt của Westmoreland.  Đó là chiến thuật liều mạng và táo bạo: thả một vài đơn vị nhỏ lính bộ Mỹ trong rừng làm mồi và sau đó nhảy ra tóm những kẻ tấn công và tiêu diệt chúng khi chúng mắc bẫy.  Tướng Norton giải thích với tôi rằng thủ đoạn lừa gạt đó là cần thiết để tìm ra lượng kẻ thù lớn hơn “trước khi chúng hiện nguyên hình”.  Norton lắng về mối nguy hiểm với quân lính của mình nhưng tin chiến thuật như vậy là cần thiết.  “Chỉ là một người dẫn đường cho trung đội và đại đội của anh ta và cũng có thể là người đầu tiên bị giết khi hành động”, ông ta giải thích, “Sau đó là một trung đội và đại đội dẫn đường cho một tiểu đoàn và một lữ đoàn”.

Nhưng tính chất nguy hiểm không thể chối bỏ.  Tuần trước đó một tiểu đoàn lính bộ bị tấn công và toàn bộ lính bị giết hoặc bị thương trước khi lính thiết giáp tới cứu họ.  Một sự kiện thứ hai trong tuần sau đó buộc tôi phải nêu chi tiết chiến thuật của vị Tướng trong một bài tin.  Đại đội lính bộ 1 đang làm nhiệm vụ “chim mồi” ở thung lung La Drang khét tiếng thì bị lực lượng Việt Cộng nhảy tấn công từ ba phía.  Pháo binh chờ sẵn ở gần đó xả hàng nghìn viên đạn vào những kẻ tấn công, sau đó là không quân yểm trợ.  Một lực lượng giải cứu đã vào trận, giải tán kẻ tấn công và kéo những xác chết ra cùng với họ.  Chiến thuật đó bề ngoài thành công nhưng đại đội làm mồi đã trả giá rất đắt.  Ít nhất 50 lính Mỹ thiệt mạng hoặc bị thương trong trận đó.

Tôi về Sài Gòn thì Tướng Norton triệu tôi trở lại An Khê.  Tôi đủ nhiệt tình để tham gia chuyến đi dài ngày.  Khu nhà ổ chuột nối liền với căn cứ quân sự An Khê là nơi khủng khiếp nhất Việt Nam với những thợ thiếc và những cửa hàng vàng, những bán buôn mặc cả, những cửa hàng bia và những cô gái bar.  Một năm trước đó, An Khê chỉ là bến chờ xe khách trên đường Plâycu với khoảng 1 nghìn người sinh sống trong ngôi làng nhỏ.  Bây giờ là một thị trấn bùng nổ có mức sống cơ bản cho 20 nghìn lính Mỹ cô đơn của Sư đoàn bộ binh.

Văn phòng chỉ huy của Tướng Norton nằm bên sườn đồi ở vị trí quan sát toàn bộ căn cứ quân sự trải dài 50 km2, với những căn lều xanh thẫm, những toà nhà bằng gỗ và hàng dặm đường.  Một phụ tá trẻ nhảy ra bất ngờ và chào khi tôi gõ cửa, bước vào.  Ngay sau đó tôi thấy vài sỹ quan sư đoàn cấp cao vận bộ đồng phục cứng nhắc.  Tôi biết hầu hết bọn họ nhưng họ nhìn tôi không thoải mái và rất ít nói.  Tôi đoán rằng sắp có phiền phức.  Khi chúng tôi bước vào văn phòng của Norton, họ chào và hô lên khẩu hiệu của sư đoàn: “Tất cả đã vào vị trí, thưa chỉ huy”.

Norton đứng dậy khỏi bàn làm việc, bắt tay tôi nhưng không mời ngồi.  Chủ đề câu chuyện là bài viết về mồi nhử Việt cộng của tôi.  Tôi nói rằng tôi đã viết nó cách đây ba tuần và hầu như đã quên bẵng nó.  Ông ta nhấc một tờ báo kẹp trên bàn làm việc và đưa cho tôi.  Đó là một bản copy nhàu nát câu chuyện của tôi ở tờ Columbus Ledger, tờ báo từ căn cứ sư đoàn ở bang Georgia.  Ông ta nói “chết tiệt”, “Charlie Black không viết một câu chuyện như thế này”.  Black là một phóng viên của Columbus đã từng dành nhiều tháng ở căn cứ An Khê viết về sư đoàn.

Tôi bảo vệ rằng câu chuyện của tôi là hoàn toàn chính xác.  “Chính xác không phải là vấn đề ở đây, cậu viết  điều chết tiệt làm hoảng sợ những người ở nhà”, Norton đáp lại.  Ông ta đưa ra một số giấy tờ nói rằng đó là một bức thư dài từ vợ ông.  “Cậu biết những gì cô ta nói với tôi rằng vợ của những người lính này ở đây và những người khác đọc bài báo đã bị sốc, chết tiệt.  Họ nghĩ rằng tôi đang cố gắng giết chồng của họ với cái trò bẫy chết tiệt này và tôi không cho phép điều đó”.

Tôi tuyên bố sự thật rằng chiến thuật dùng bẫy là nguy hiểm tới tính mạng con người nhưng vị Tướng không muốn đề cập tới vấn đề đó.  Ông ta không muốn tranh luận với tôi.  Ông ta chỉ muốn tôi biết rằng ông ta ghét cay ghét đắng tôi vì làm những thân nhân ở nhà hoảng sợ và rằng tôi sẽ không làm được điều đó một lần nữa trong khu vực hành quân của ông ta.

Westmoreland rất bị thuyết phục về tính hiệu quả của Cav 1, Big Red 1 và sáu sư đoàn bộ binh Mỹ khác đang đóng ở vùng nông thôn miền Nam Việt Nam.  Binh lính Mỹ đang vượt qua giới hạn, mang trên mình gánh nặng đầy đủ của cuộc chiến chống lại những trung đoàn lính Bắc Việt.  Quân đội Sài Gòn đảm nhận nhiệm vụ thứ hai là bình định, đảm bảo an toàn cho các thành phố và làng mạc.

Việt Nam vẫn là đầm lầy của những quan tâm đặc biệt, lòng ghen tỵ, căn bệnh tham nhũng đào mồ cho cuộc chiến chống cộng sản.  Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ là người mới nhất trong rất nhiều quân nhân leo lên quyền lực từ vụ đảo chính Ngô Đình Diệm.  Ông ta là người cứng rắn để làm một điều gì đó.  Trong một cuộc phỏng vấn, ông ta xác nhận “Khả năng lãnh đạo và nhận thức nhiệm vụ” của Adolf Hitler nhưng “không phải phương pháp vô nhân đạo của ông ta”.  Kỳ không ngừng nói rằng muốn chiếm miền Bắc Việt Nam khi bạn không thể lái xe 20 phút từ Sài Gòn đi bất cứ hướng nào mà không nguy hiểm tới mạng sống.  ông ta là người hạnh phúc nhất trong vai trò một phi công, thích thắt dải lụa nhỏ mùi Oải hương ở cổ và vận bộ bồ bay màu đen.  Ông ta thích tiệc tùng và tôi chứng kiến ông ta ở buổi dạ hội tại khách sạn Continental giới thiệu mình với Jayne Mansfield.

Uy thế của Kỳ thể hiện trong sự kình địch chính trị làm mất đi tính hiệu quả của quân đội Cộng hoà.  Toàn bộ sư đoàn lính bộ binh chống lại chính quyền Trung ương.  Những cố vấn Mỹ chỉ định các sư đoàn Cộng hoà chủ chốt xung quanh Sài Gòn “quan sát” với các chỉ thị cảnh báo cho chỉ huy tối cao Mỹ nếu một tiểu đoàn xuất hiện trên đường cao tốc hướng vào thành phố.  Một số người chứng kiến tất cả sợ rằng lính Mỹ trẻ đang bị ném vào cuộc chiến được cho là việc của người Việt Nam.

Người phê bình gay gắt nhất là John Paul Vann, một cố vấn quân sự, người thổi còi về sự bất tài trình diễn ở trận Ấp Bắc năm 1963.  Ông ta từ chối chức vụ đại tá và trở lại Việt Nam như một nhân viên dân sự với chương trình bình định nông thôn.  Ông ta tin rằng các quan chức quân sự đang vấp sâu hơn vào cuộc chiến không cần thiết của người Mỹ.  Ông ta kinh thường những tướng chỉ huy trong các câu lạc bộ điều hoà dành cho các sỹ quan ở Sài Gòn để những điều này xảy ra.  Đóng tại tỉnh Hậu Nghĩa, phía tây Sài Gòn, Vann dành nhiều đêm ở chiến trường.  Đôi khi ông ta ở trong những tiền đồn quân sự Việt Nam, nơi những người lính hoảng sợ, mất nhuệ khí, có khả năng đào ngũ.  Sự có mặt của ông ta rõ ràng kích thích nhuệ khí và gây sự chú ý của giới lãnh đạo quân sự tới những vùng ít được ưu tiên này.

Vann là người đầy nhiệt huyết và là kẻ không biết sợ gì.  Đôi khi tôi căng hết thần kinh khi đi cùng ông ta trong chiếc xe jeep nảy xóc trên những con đường lún sâu tới những vùng được cho là của Việt Cộng kiểm soát.  Đối với sự an toàn của mình, Vann thích sử dụng lựu đạn hơn là súng ngắn.  Ông ta giải thích bằng giọng quả quyết và dễ cáu: “Nếu cậu chỉ cần giơ một trong những thứ này lên trong tay thì những kẻ xấu sẽ chạy mất.  Chúng luôn biết lợi hại của những thứ này”.  Ông ta đặt những trái lựu đạn M1 trong lòng khi lái xe, chúng nảy lên khi tôi ngồi cạnh ông ta ở ghế trước.  Ông ta thích chơi đùa với cái chết nhưng lại cười bất kỳ khi nào tôi lưu ý ông về điều này, một lần ông ta vỗ ngực và tuyên bố không dễ gì bị tiêu diệt.  Ông ta nói với tôi: “Tuần trước tôi bay trong một máy bay định vị tới Biên Hoà.  Trời nhiều mây và chúng tôi không nhìn thấy rõ đường đi, khi cố gắng hạ cánh chúng tôi vướng phải mớ đường dây điện.  Đối với người khác thì sẽ chết nhưng phi công của tôi đã trượt được qua lớp dây và hạ cánh an toàn”.

Tôi thán phục Vann.  Ông ta biết nhiều về chiến tranh hơn bất kỳ ai khác ở đây với những mối liên quan tới cả chỉ huy cao cấp của Việt Nam và Mỹ.  Tôi đánh giá cao giá trị những thông tin và ý kiến của ông ta.  Ông ta không giấu quan điểm ủng hộ chính sách diều hâu của mình.  Ông ta tin cuộc chiến đấu sẽ thắng lợi nhưng hoàn toàn phản đối chiến thuật tìm và diệt của Westmoreland.  Ông ta nhận xét chiến thuật đó là tàn bạo và tự diệt.  Ông ta cho rằng con đường duy nhất dẫn đến thắng lợi là thông qua người Cộng hoà.  Ông muốn Hoa kỳ tăng cường sức mạnh quân đội Việt Nam, ít phụ thuộc vào binh lính Mỹ hơn và khẳng định nếu vẫn tiếp tục những phản kháng của chính quyền Sài Gòn thì Mỹ nên đảm đương trách nhiệm cho cả nước để hình thành mọi nấc thang chiến tranh và tận dụng lực lượng Cộng hoà tới mức tối đa.

Một hôm ông ta hỏi tôi: “Tại sao chúng ta phải đối xử với một đất nước Việt Nam nhỏ bé, đơn giản một cách rón rén, thận trọng trong khi chúng ta không làm điều đó với những cảm nhận của nước Anh trong Chiến tranh thế giới thứ hai?”.  Tôi lắng nghe mọi thứ Vann nói.  Những lời kết của ông ta thường bị đả phá và một số ý kiến là không thực tế nhưng đó là một cách có thể đưa ra hướng đi thoát khỏi đầm lầy đẫm máu và huỷ diệt.  Vann rất vui được nói tới trong giới chính sách mặc dù ông ta ít được vậy.  Ông ta biết không có sự tin tưởng còn lại nào với giới quân sự cấp cao Hoa Kỳ.  Ông ta nói rằng một tướng quân đội Mỹ muốn thuê ông ta làm trợ lý thì được Westmoreland nói, “nếu thực sự muốn có anh ta ông ta có thể có nhưng ông ta đang tự chuốc vạ vào thân”.  Sau đó Vann đưa ra quan điểm ảnh hưởng tới Nhà Trắng.  Ông ta thường liên lạc với Harry McPherson, một phụ tá của Tổng thống Johnson và hy vọng sử dụng nhóm người quen ngày càng mở rộng của mình trong Quốc hội và những mật vụ tiếp cận được Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara.

Vann bị thuyết phục rằng McNamara đang nhầm hướng bởi những trận bão tuyết thông tin thống kê trong hệ thống phân tích.  Ông ta tin rằng nếu Bộ trưởng Quốc phòng nhận thức được rất nhiều số liệu đó là không đáng tin cậy, ông ta sẽ đánh giá lại những ủng hộ của mình với những chính sách của Westmoreland.

Tôi không chia sẻ sự tự tin của Vann với Bộ trưởng Quốc phòng.  Tôi đã viết về những chuyến đi tới Việt Nam của MacNamara đầu những năm 1960 và thấy rất ít nhiệt tình trong vai trò của ông ta để đối mặt những thực tế không vừa lòng.  Ông ta điều chỉnh những thay đổi chính trị thường xuyên ở Sài Gòn.  Ông ta ủng hộ nhiệt tình với bất kỳ ai chiếm giữ Dinh Tổng thống của Sài Gòn vào thời gian chuyến thăm của mình.  Ông ta đặc biệt phải lòng Thiếu tướng Nguyễn Khánh, kẻ vô liêm sỉ nhất trong rất nhiều kẻ tìm kiếm quyền lực tổng thống, vào đầu năm 1964 lật đổ nhóm quân sự tước đoạt quyền lực của Ngô Đình Diệm.

Tướng Khánh đưa đất nước vào một năm hỗn loạn quân đội và chính trị mà McNamara dự định đi dọc Việt Nam cùng ông ta, cố gắng ủng hộ sự nổi tiếng của vị Tướng này.  Đôi khi Đại sứ Maxwell Taylor đi cùng, họ diễu hành qua những chợ, quảng trường ở Huế, Đà Nẵng và những thành phố khác, giơ tay mạnh lên đầu, những ngón tay quấn vào, thét lên “Việt Nam muôn năm”.  Vị Bộ trưởng Quốc phòng lạnh lùng lại trở nên uỷ mị trong buổi gặp như thế này, nhưng tôi nhận thấy rất ít phản ứng từ đám đông tụ tập quanh đó do chính quyền địa phương tổ chức và tôi đoán có nhiều điều không chuẩn khi người phiên dịch chuyển ngữ.  Cuộc họp báo khởi hành của McNamara ở phòng họp VIP tại sân bay Tân Sơn Nhất, Sài Gòn tràn đầy lạc quan, những tập huấn kiến thức của ông ta có lẽ còn nhiều hơn thế.

Tại cuộc họp báo vào đầu năm 1965, tôi có hỏi McNamara là ông ta phản ứng thế nào với những lời buộc tội rằng Việt Nam đang trở thành “cuộc chiến tranh của McNamara”.  Ông ta nhìn trừng tôi một giây, sau đó lấy tay vuốt mái tóc óng mượt của mình, chỉnh lại kính, thẳng vai và đáp rằng: “Cuộc chiến tranh của MacNamara ư? Tôi sẽ phải cho anh ta biết rằng tôi tự hào khi có tên mình cùng sự kết hợp này, tự hào vì điều đó, tôi nói để anh ta rõ” và sau đó ông ta khởi hành, những phụ tá hối hả, tiếng cửa đập và tiếng động cơ máy bay hướng về một chuyến bay dài trở lại Washington.

Tôi cảm thấy McNamara là con người không thể hiểu hết được.  Tôi nhìn thấy những vị tướng mạo hiểm tính mạng của mình và một số nhỏ nước mắt khi một người lính chết ở chiến trường.  Tôi không thể tưởng tượng McNamara có thể khóc vì những điều này dù ông ta trở nên uỷ mị khi biểu lộ lòng yêu nước một cách nhiệt thành.  Tôi nói với Vann, tôi nghi ngờ McNamara.  Vann dù sao vẫn cứ làm, quyểt định tiếp cận McNamara trực tiếp, sử dụng một nhân viên trước đây, một người đàn ông trở thành người bạn đồng hành yêu thích của Vann, một sỹ quan lính thuỷ đánh bộ mưu mô và thông thái tên là Daniel Ellsberg.

Lần đầu tiên tôi chạm trán Daniel Ellsberg vào tháng 1-1967 tại thị xã Rạch Kiên cách Sài Gòn 32 km, nơi đặc biệt của những cộng đồng nông thôn từng giàu có bị bỏ hoang vì số phận trở thành mặt trận chiến tranh.  Bây giờ Rạch Kiên trở thành một thị xã hoang tàn.  Tôi lái xe cùng Horst và John Nance, đi qua những chiếc xe ngựa chở tài sản gia đình và hai chiếc xe chở khách han rỉ, kẽo kẹt.  Một số dân không có nơi cư trú trở về từ những trại tỵ nạn.  Trong chương trình bình định mới, Rạch Kiên được khôi phục và họ hy vọng có thể trở lại cuộc sống trước đây.

Một vài chiếc bàn kê trong khu chợ trên đường đi bộ, những người bán hàng chào mời những sản phẩm dư thừa của Đồng bằng sông Cửu Long.  Một đội lính bộ binh Mỹ đang ngồi với áo dã chiến, tay áo xắn, đang uống những chai Coca Cola.  Đây là lần thứ ba trong sáu năm chính quyền Sài Gòn cố gắng tái sinh tại Rạch Kiên và những vùng huyện lân cận, mỗi lần như vậy tiêu tốn vài triệu đô la Mỹ.  Chúng tôi đang tìm nhóm chỉ huy thì nhìn thấy vài người lính trong một căn nhà bỏ hoang và dừng lại để hỏi đường.

Khi chúng tôi bước vào thấy một cô gái nông thôn gầy, dễ thương chỉ ở độ tuổi chớm xuân đang bị một tên lính Cộng hoà hăm doạ.  Tay cô ta bị trói giật sau lưng, mắt hoảng sợ khi tên lính lắc con dao và hướng về phía cô ta, dừng lại cách ngực chỉ vài centimét.  Anh ta gầm gừ những câu hỏi về tên, thân thế và cô bé lắp bắp trả lời thì thào trong khi những gã lính Cộng hoà khác cười chế nhạo.

Tôi hỏi một anh lính Mỹ trẻ đang đứng không thoải mái về chuyện gì xảy ra? Anh ta nói đoàn tuần tra của anh ta tìm thấy cô bé đang làm việc trên cánh đồng gần thị xã và mang về đây vì cô ta không có thẻ chứng minh.  Họ giao cho cô ấy cho lính Cộng hoà được cử làm việc cùng một đơn vị do thám tỉnh, một phần trong kế hoạch chỉ huy đặc biệt PRU, được lập ra để tìm ra gián điệp Việt Cộng.  Những đơn vị đó trở nên khét tiếng.  Trên những túi áo rằn ri, lính PRU đeo biểu tượng sọ người, hình xương chéo và họ thường là những tên tội phạm trước đây hoặc những Việt Cộng đào ngũ, những người xăm trên ngực dòng chữ “Sát cộng” để ngăn họ trở về với lòng trung thành cũ.  Horst Fass tìm thấy một đơn vị PRU sử dụng một cậu bé 12 tuổi làm đao phủ.  Họ mặc cho đứa  bé bộ đồng phục may cùng mũ cao bồi, trang bị một khẩu súng lục mà cậu bé tự hào đeo trên bao súng quanh eo.  Khi Horst chụp ảnh thì cậu bé đã xoá sổ 13 người trên nòng súng của mình.

Chúng tôi thuyết phục lính Mỹ đưa cô gái trẻ hoảng sợ đi cùng về căn cứ của họ trong một trường học bằng bê tông cũ ở phía khác của thị xã.  Đôi khi điều này có nghĩa như một sự thoả thuận giữa những người hàng xóm cùng chung chiến hào.  Đôi khi có nghĩa là lấy lại con gà bị ăn trộm.  Ở Rạch Kiên, người Việt Nam không phgải lúc nào cũng đủ nhanh để tham gia những nỗ lực tạo ra hoà bình.  Lính Cộng hoà mang trở lại một vài thứ nhiều hơn những con gà trong buổi rong chơi buổi sáng của họ.  Họ mang về bốn đầu người vẫn còn rơi máu, vết tích của những người đồng loã với Việt Cộng mà họ giết lúc sáng.  Chúng tôi nhìn thấy những chiến tích được treo lên cọc ở phía nam thị xã, một lời cảnh báo ghê tởm cho cư dân trở lại Rạch Kiên.

Sau đó chúng tôi gặp lại Ellsberg trong bộ đồng phục chiến đấu và mũ mềm kaki, ở trong ruộng lúa sâu đến thắt lưng, trườn qua đám bùn bẩn, một khẩu súng tiểu liên bên phía tay trái.  Anh ta đang thét lên gọi lính bộ binh Mỹ chậm chạp: “Tiến lên đây, chết tiệt”.  Họ dường như lưỡng lự chuyển về phía trước, và một trung uý giải thích với chúng tôi, “Anh ta không phải một trong chúng tôi, anh ta đến từ Đại sứ quán và ở đây đùa giỡn với lính”.  Một viên đạn xượt trên đầu chúng tôi từ nơi nào đó đằng trước và chúng tôi nhảy vào bùn, bò về phía Ellsberg đang ngắm qua những viên đạn từ ruộng lúa và rất nhiều bụi cây phía trứơc, tìm kiếm kẻ bắn tỉa.

Đội lính bộ di chuyển về phía trước nhóm chúng tôi trong vùng đầm lầy đầy cỏ nơi Ellsberg đang thư giãn.  Vann nói cho tôi nghe rất nhiều về Ellsberg, nhà chiến lược của Bộ Quốc phòng và sau đó tình nguyện tới Việt Nam, tham gia làm nhân viên của Thiếu tướng Edward G.Lansdale, một chuyên gia phản công.  Tôi hỏi Ellsberg xem một dân sự có vũ trang tham gia vào mặt trận có bình thường không, và anh ta nói: “tôi đang cố gắng thử xem điều này có tác dụng không và cách nào tốt hơn để tìm ra nơi diễn ra điều đó”.

Khi tôi thông báo cho anh ta về huy chương đẫm máu, anh ta trở nên tức giận, tuyên bố rằng toàn bộ chiến dịch bình định là để tránh tổn thương nhân dân và tránh xa lánh họ.

Chúng tôi rời đơn vị lính bộ thao tập trong ruộng lúa đầy bùn, trở lại thị xã.  Ellsberg giơ khẩu tiểu liên của mình, tạo dáng chụp ảnh dưới cổng vòm mới được dựng lên cho buổi tiệc sắp tới.  Rõ ràng anh ta vẫn có chân trong quân đội.  Anh ta thét lên với Horst: “Đừng quên gửi cho tôi vài tấm ảnh đó, tám nhân mười” khi chúng tôi bước vào xe rời Rạch Kiên về nhà.

Vann và Ellsberg thoả thuận đó là cách duy nhất để thuyết phục McNamara về lỗi trong cách của ông ta đưa ra lý lẽ chi tiết rằng chính sách chiến tranh của Hoa Kỳ về việc sử dụng lính Mỹ giữ gánh nặng chiến đấu là một sai lầm.  Họ biết rằng liên hệ với những nhân viên xung quanh để rỉ tai ông ta, và Ellsberg làm điều đó khi sử dụng mối liên hệ của mình lên chuyến bay của McNamara trong chuyến thăm Việt Nam tiếp theo.  Vị Bộ trưởng sẽ là thính giả bị giam cầm cho chuyến đi 30 tiếng tới Việt Nam.  Vann tạo ra những thay đổi nhanh chóng trong trái tim McNamara về cuộc chiến một phần nhờ những nỗ lực của Ellsberg.

Tôi đưa ra những quan điểm của Vann trong những bài phân tích của mình.  Tôi viết bài đánh giá không tâng bốc về Westmoreland cho báo ngày 27-1-1967 và bài đó được sử dụng rộng rãi.  Tôi chỉ ra trong ba năm ông ta ở Việt Nam, cuộc chiến đã thay đổi rất nhiều, đó là cuộc chiến tốn kém hơn 57 lần mỗi ngày mà những tổn thất người Mỹ tăng lên gấp 50 lần và vị Tướng bốn sao nhận được sự ủng hộ của Tổng thống Hoa Kỳ, người luôn tin tưởng ông ta sẽ mang lại lời hứa chiến thắng.

Tôi trích lời những nhà phê bình phàn nàn Westmoreland trình diễn tham vọng tàn nhẫn, tăng cường sức mạnh của ông ta khi kêu gọi dàn thêm nhiều đợt lính Mỹ trong khi nhiệm vụ lúc đầu của ông ta là xây dựng khả năng của Việt Nam chiến đấu cho chính cuộc chiến tranh của họ.  Câu chuyện đùa loanh quanh thành phố rằng ông ta có tham vọng trở thành “thế giới C trong C” nghĩa là tổng chỉ huy thế giới.

Mối quan hệ của chúng tôi với Westmoreland ở điểm thấp nhất khi tôi được cử đi cùng Kelly Smith viết hộ một câu chuyện dài cho Phòng phóng sự AP, so sánh một ngày trong đời sống chỉ huy quân sự với một người lính đặc biệt,  Kelly phải ăn sáng với vị Tướng và dành cả ngày với ông ta, còn tôi được giao nhiệm vụ ra chiến trường tham gia cùng một đại đội lính bộ ở Sư đoàn lính bộ 25 hành quân về phía tây bắc Sài Gòn.  Câu chuyện dường như ổn với chúng tôi.  Bản cuối cùng như sau:

“Bình minh mở ra trên thành phố đang ngủ, những tia nắng màu hồng đầu tiên sơn lên mái nhà ngói đỏ ở vùng ngoại ô và phủ mái vườn của những khách sạn cao tầng nằm dọc bờ sông Sài Gòn.  Giao thông vẫn đều đặn trên những con đường rợp bóng, một chiếc trực thăng cánh quạt thổi lùa gió lạnh buổi sáng, kêu vo ve hướng về những ngọn núi của phía bắc”.

“Trong lâu đài sơn trắng ở số 19 Đoàn Công Bửu, toà nhà đặc biệt trong những toà nhà do người Mỹ chiếm đóng ở Sài Gòn, một người đang ngủ trở nên mệt mỏi với tiếng ồn nhưng không thức dậy.  Sau đó Tướng William.C. Westmoreland với tay tắt đồng hồ báo thức, đã là 6 giờ 15.  Một phụ tá gõ cửa phòng để chắc rằng ông chủ đã thức giấc.  Vị Tướng có khuôn mặt gầy rám nắng thức dậy, đánh răng và cạo râu”.

“30 dặm phía tây bắc qua những cánh đồng lúa kênh đào bừng sáng ánh nắng ban sớm, trung uý William Howard ở Corlebe bang Georgia bò ra khỏi nhà xí thấp đào trên đường nông thôn.  Anh ta phủi lớp bùn đóng trên bộ quần áo dã chiến ướt và ngáp”.

Đây là điểm trung lập của Kelly trong câu chuyện làm buồn vị tướng. "Giờ là 2 giờ chiều ở Cercle Sportiff, pháo đài cuối cùng trong chuỗi câu lạc bộ ngoại ô, một nơi nghỉ ngơi thoải mái cho lối sống vương giả ở vùng biển buồn tẻ. Westmorejand đến chơi tennis khoảng 50 phút ở sân số 5, một trong 15 sân của câu lạc bộ. Khi Westmoreland phát cú giao bóng đầu tiên cho người hướng dẫn Việt Nam, thì chiếc xe đầu tiên trong 92 xe tải đoàn hộ tống đang trên con đường độc hành 40 dặm về phía tây bắc Sài Gòn dính lầy và trong vòng vài phút toàn bộ đoàn hộ tống bị sa lầy, ném toàn bộ kế hoạch hành quân của sư đoàn lính bộ 25 vào thế mất cân bằng, đe dọa sự thành công của rất nhiều cuộc phản công lập ra vào ngày hôm đó và ngày Chủ nhật".

Khi câu chuyện của chúng tôi đăng lên các báo ở Hoa Kỳ, Lầu Năm góc kêu gào chúng tôi vì đề cập tới việc chơi tennis của ông ta. Một vài tuần sau đó, tôi đang chờ Phó Tổng thống Hubert H.Humphrey tới trong chuyến thanh tra căn cứ đóng ven Đồng bằng sông Cửu Long thì Westmoreland tới bắt chuyện với tôi.

"Được đấy, ông ta tuyên bố, cậu sẽ vui khi biết rằng tôi đã bỏ Cercle Sportiff và tennis". Tôi thực sự ngạc nhiên. Tôi không nhịn được và thốt ra rằng, tôi đã tham gia câu lạc bộ đó. Westmoreland nhìn tôi mắt nheo lại và nói: "Có lẽ họ sẽ cho cậu chỗ của tôi" và biến đi.
Merton Perry của tờ Newsweek, đã nghe đoạn hội thoại của chúng tôi và gửi đúng nguyên văn về tờ báo của anh ta, đăng trong mục buôn chuyện tuần sau đó. Nhân viên báo chí của Westmoreland, đại tá Winant Sidle thông báo với tôi rằng vị chỉ huy nghĩ tôi dàn xếp nói chuyện và không muốn có điều gì liên quan tới tôi một lần nữa.

Mùa thu năm 1967, Tổng thống Johnson chọn mục tiêu quân sự trên bản đồ trong phòng chiến tranh của Nhà Trắng và yêu cầu trực thăng chiến đóng trên biển và mặt đất để thả bom vào những vị trí đó. Ông ta cũng bắt đầu những đợt tấn công chống lại các nhà phê bình. Từ Sài Gòn xa xôi, chúng tôi nghe nói Johnson là đối thủ đáng gờm nhất của chúng tôi, đang nghiền ngẫm những miêu tả về cuộc chiến của truyền thông đằng trước những chiếc ti vi về mạng tin tức, kiểm tra ba máy telex truyền sản phẩm của AP, UPL và Reuters và nghiên cứu kĩ lưỡng hàng tá những tờ báo quan trọng mỗi buổi sáng.

Johnson không ngại gây áp lực với các biên tập chần chừ tham gia vào “đội của ông ta". Tay ông ta dài với tới cả mặt trận, nơi những cuộc điện thoại, tin tức truyền đi tới văn phòng ông ta và nhân viên thân cận điều chỉnh dòng chảy thông tin hàng ngày. Nếu giới báo chí vượt ngoài tầm với của ông ta và nhân viên không làm được điều đó thì ông ta sẽ trút sự khó chịu của mình lên họ.

Trưởng phòng thông tin của ông ta ở Sài Gòn là Barry Zorthian, một nhân viên thông tin có kinh nghiệm của Hoa Kỳ, thêm gia vị nói với những đồng nghiệp về một cuộc chạm trán hèn mọn với Lyndon Johnson tại cuộc họp nhân viên Nhà Trắng vào năm 1965 được triệu tập để thảo luận về việc đưa tin chiến trường.

Trước khi Zorthian trình bày bài phát biểu của mình, người phát ngôn Bill Moyers thì thầm vào tai ông ta: "ông chủ muốn gặp anh trên tầng ngay bây giờ". Hai người tiến về trụ sở gia đình nơi Johnson đang ngồi trên giường. Khi nhìn thấy Zorthian, Johnson "bắt đầu giảm bớt giới báo chí trong vở kịch độc bạch không ngừng" và sau đó quay sang Zorthian “Chết tiệt, có chuyện gì với cậu vậy? Tại sao cậu không thể giải quyết với giới báo chí ngoài kia một cách tốt hơn? Tại sao cậu để cho họ viết điều đó? Tại sao không loại bỏ sự dốt nát ra khỏi đầu họ...". Zorthian quay xuống tầng dưới, lắc đầu.

Tổng thống Johnson muốn Zorthian và những nhân viên khác ở chiến trường viết những gì mà chính ông ta không sẵn sàng gây ảnh hưởng, một sự kiểm duyệt không chính thức hình thành cho những bài tin gửi đi để chiều theo quan điểm của ông ta về cuộc chiến nên được tiến hành như thế nào. Johnson đôi khi can thiệp vào việc đưa tin như can thiệp vào nhiệm vụ ném bom, đôi khi nghe những buổi họp của “Những tên ngốc lúc 5 giờ" ở Sài Gòn được truyền về Nhà Trắng qua điện thoại vào buổi sáng sớm và không lưỡng lự can thiệp nói vọng vào quan điểm của ông ta sau đó.

Một ngày, người phát ngôn Jack Steward "không bình luận" một câu hỏi của giới báo chí về sự phát triển chính trị Sài Gòn. Tổng thống tức giận "Ai là thằng ngốc chết tiệt nói "không bình luận" giống như một con vẹt vậy?", ông ta nói với người trợ lý. Ngày hôm sau Steward nhận được thông tin từ cấp trên tại Cục Thông tin Hoa Kỳ yêu cầu thuyên chuyển ngay lập tức tới Léopoldville ở Công gô. Khi Steward chống lại quyết định, Giám đốc Cục Thông tin Hoa Kỳ nói cho anh ta nghe về phản ứng của Tổng thống và không thể làm được điều gì thay đổi điều đó Steward dọa sẽ đưa ra công chúng lời phàn nàn của anh ta và sự thuyên chuyển xếp xó.

Tôi có rất ít việc liên quan tới những nhân viên thông tin và ngược lại. Đối với Stewart, Zorthian và những người khác đang cảm thấy hơi thở nóng của Tổng thống và tôi là ác mộng kinh hoàng nhất của họ: một phóng viên chiến trường đưa ra những thông tin gây tranh cãi vượt ra khỏi tầm kiểm soát của họ, và khi những điều đó được đăng báo thì chắc chắc có nghĩa những lời khiển trách từ Nhà Trắng dành cho họ. Zorthian và tôi cũng tiếp xúc với nhau vài lần khi anh ta tới Sài Gòn năm 1964 để thành lập chiến dịch thông tin Đại sứ quán Hoa Kỳ và anh ta là người đàn ông rất hiểu biết. Nhưng mối quan hệ của tôi với anh ta chua xót khi tôi viết câu chuyện của mình về bộ phim chiến tranh giả và tệ hơn nữa là câu chuyện về thử nghiệm khí gas không sát thương của quân đội Cộng hòa. Chúng tôi chỉ giữ mối quan hệ xã giao với nhau sau đó. 

Vào đầu năm 1966, tôi phàn nàn với Zorthian về việc bị quân cảnh Mỹ đuổi đi, anh ta cười chế nhạo như thể thích thú trước sự bất lợi của tôi. Suốt cuối tuần của cuộc biểu tình Phật tử chống chính quyền trên các đường phố Sài Gòn, hai xe quân đội Mỹ kèm một nhóm phóng viên và yêu cầu chúng tôi rời hiện trường. Tôi cùng Bob Schieffer sau này làm cho tờ Fort worth Star Telegram và Bob Keatly của tờ Wall Street Journal nói với cảnh sát: "Chúng tôi là phóng viên, để chúng tôi yên". Một trong số họ trả lời: "Tôi biết nhưng mệnh lệnh của chúng tôi là dọn sạch những người Mỹ khỏi đường phố gồm các phóng viên. Đó là mệnh lệnh của chúng tôi". Chúng tôi phản đối căng thẳng, nhận thấy sự an toàn của Sài Gòn nằm trong tay của cảnh sát Cộng hòa và quyền hạn của người Mỹ chỉ mở rộng tới lính Hoa Kỳ và các kho quân sự.

“Tôi không phải người Mỹ", tôi nói, “tôi đến từ New Zealand" và khi được hỏi chứng minh điều đó tôi đáp lại: "Giọng nói và kiểu tóc của tôi không đủ hay sao?". Eddie Adams nói: "Anh không có quyền yêu cầu phóng viên Mỹ rời khỏi đường phố, anh không có quyền hạn với chúng tôi". Tay cảnh sát suy nghĩ một phút rồi lái xe đi.

Ngay sau đó họ quay trở lại. “anh đi với tôi", một người nói với Adams. "Tất cả những người Mỹ rời khỏi đường phố". Tôi lại phản đối rằng tôi không phải người Mỹ và tay cánh sát tức giận lôi ra khẩu súng lục 45mm màu đen, chĩa vào hông của Adams, Keatley và sau đó là Schieffer, vẫy nó về một số phóng viên ảnh của tạp chí Life gần đó và sau đó tập trung vào tôi. "Các anh đi với tôi", anh ta nói thêm. "Anh là một người Mỹ".

Bob Keatley xen vào: "Tôi là người Mỹ nhưng anh không có quyền đuổi tôi ra khỏi chỗ này. Chỉ huy Hoa Kỳ không có quyền hạn với tôi". Vào lúc này cuộc đối thoại càng nóng lên, rất nhiều lời lẽ tục tĩu thốt ra cùng với khẩu súng lục của những quân cảnh lưỡng lự chĩa vào chúng tôi. Khi hai cảnh sát Cộng hòa bắt gặp, họ từ chối can dự. Cuộc tranh cãi chỉ được giải quyết khi một nhóm quân nhân Mỹ vui vẻ tại một nhà thổ phía trên một quán bar gần đó phải rời khỏi bởi một đám đông biểu tình và toán quân cảnh chạy đến giải cứu họ.

Zorthian nghe câu chuyện của tôi và nói: “anh nói rằng một cảnh sát quân sự Mỹ rút súng lục chĩa vào anh? Không thể nào xảy ra". Tôi đưa ra một đống ảnh 8 x 10 do Eddie Adams chụp về vụ xô xát. "Nhìn đi", tôi yêu cầu, "Anh sẽ làm gì về điều đó”

“ừ, Zorthian đáp lại, anh thật lợi dụng và độc ác. Có lẽ chúng tôi sẽ buộc tội anh tấn công vào người cảnh sát quân sự đáng thương đó, một cuộc tấn công bằng bút và bút chì". Anh ta vẫn còn cười khi tôi đi khỏi, nhưng tôi đã có nụ cười cuối cùng. AP phát bức ảnh tôi bị chĩa súng và tờ Washington Post vào sáng hôm sau đã sử dụng nó trên ba cột trang trong. Ngoại trưởng Dan Rusk không được vui.

Không tù nhân nào bị bắt vì những khó khăn, sự phức tạp thông tin chiến tranh và những nghi ngờ ở cả hai bên. Khi David Halberstam tới thăm Sài Gòn năm 1967, anh ta nói với tôi, Zorthian đã nói với một số đại biểu quốc hội rằng tôi là cộng sản. Halberstam nói rằng anh ta sẽ gọi cho Zorthian về chuyện đó. Điện thoại nhanh chóng đổ chuông. Zorthian nói rằng Halberstam ở trong văn phòng ông ta. "Tôi muốn nói với anh, Peter, tôi đã gọi anh bằng nhiều từ, thậm chí là "đồ chó cái" nhưng tôi chưa bao giờ gọi anh là một tên cộng sản bởi tôi không tin điều đó".

Mối bận tâm chính của Zorthian chính là phải có những câu chuyện tích cực, ông ta khuyên những nhân viên mới đến là: “Nói sự thật nhưng đừng bộc lộ hết mọi thứ anh biết." Anh ta là thành viên của hội đồng nhiệm vụ Hoa Kỳ, nhóm những nhân viên cao cấp thảo luận và đưa ra chính sách. Zorthian cố gắng đưa mối lo lắng của chính phủ vào những câu chuyện của tôi, và đôi khi anh ta mắng nhiếc tôi: "Peter, cậu phải đưa quan điểm về nhiệm vụ trong những bài phân tích chiến tranh của mình, cậu nợ chúng tôi điều đó. Chúng tôi biết về những gì đang xảy ra nhiều hơn cậu". Tôi đáp lại rằng tôi thu thập thông tin cùng nguồn với chính phủ và những đánh giá của tôi có giá trị như của họ.

Những mánh khóe truyền thông bắt đầu len vào năm 1967 khi chi phí chuyển lính Mỹ tới Việt Nam không thể tiết lộ được. Chiến lược chiến tranh là không hợp lí, đẫm máu và tàn sát cùng những người lính vào chiến trường rất khó để bào chữa. Zorthian và đội thông tin của anh ta ngập tràn tin xấu. Họ không có đủ tay để chọc vào mọi con đê rò rỉ. Những câu hỏi đưa ra hàng ngày về chiến thắng gần như thế nào mà lực lượng Hoa Kỳ đã tham gia hành động được hai năm và đã đảm đương chiến trường từ người miền Nam Việt Nam. Thậm chí tướng Westmoreíand cứng lưỡi: "Không thể nói được là cuộc chiến sẽ kéo dài bao lâu. Tôi không thể nhìn thấy trước được kết cục", ông ta nói với một phóng viên AP đầu mùa xuân.

Bắn phá là chiến thuật đầu tiên của Mỹ. Lực lượng Mỹ bắn phá hơn 1 triệu đạn pháo binh mỗi tháng, và ném bom oanh tạc lớn nhất trong lịch sử không quân với những máy bay B-52 thả bom ở cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Chỉ huy lính bộ binh với những chỉ dẫn cứng nhắc đảm bảo mạng sống cho lính Mỹ đã kêu gọi tấn công không quân và pháo binh oanh tạc, thậm chí chỉ với một tên Việt Cộng bắn tỉa.

“Đây là cuộc chiến tranh đầu tiên dùng bộ binh hỗ trợ không quân và pháo binh", chỉ huy đại đội Sư đoàn 1 nói với tôi sau hành động tức giận nơi đơn vị anh ta chờ hàng giờ hỗ trợ không quân và bị mất dấu kẻ thù. Anh ta nói thêm: "Đuổi theo lực lượng cộng sản phía sau bức tường bắn phá giống như chọc vào một quả bóng bởi vì bạn đẩy họ ở vùng chiến khu D thì họ lại phình ra ở chiến khu K hoặc chìm lặn trong chiến khu C".

Ném bom không hạn chế ở một số vùng gây những tai nạn không thể tránh được. Vào ngày 4-3-1967, thông cáo quân sự đưa ra danh sách những cuộc tấn công sai lầm vào cộng đồng người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng không đưa ra vụ đánh bom và phản lực sai lầm của hai chiếc máy bay hai ngày trước đó vào ngôi làng hữu nghị Làng Vây phía đông bắc Đà Nẵng, nơi phóng viên Bob Gassaway của AP thông báo 100 người dân bị giết và 175 người bị thương trong những đống đổ nát. Máy bay được xác nhận sau đó là trực thăng Mỹ, và người điều khiển đã nhầm hướng.

“Chính sách tiêu thổ" là công cụ yêu thích của những người lập kế hoạch trong những vùng ngoài sự kiểm soát của chính phủ và những bài báo đầy màu sắc về thành quả của nó dội gáo nước lạnh vào xương sống cho những nhân viên phái giải trình. John Wheeler trích lời một lính thuộc sư đoàn lính bộ 25 kêu la suốt cuộc hành quân ở Giồng Dinh phía bắc Đồng bằng sông Cửu Long: "Chúa ơi, vợ tôi sẽ ngất nếu biết những gì tôi đang làm ở đây. Giết Ole Charlie là một chuyện, giết chó con hoặc vịt con thì cũng giống như vậy nhưng con người là điều khác".

Đơn vị được yêu cầu san bằng một làng và Wheeler lưu ý đôi mắt đầy hận thù của những người dân nông thôn Việt Nam khi người Mỹ đốt nhà của họ và cả bàn thờ gia tiên, tiêu diệt trâu lẫn gà. Khi Wheeler miêu tả quang cảnh cách 4 dặm về phía tây nơi "Những đôi mắt đầy hận thù, ủ rũ chứng kiến sự tàn phá một ngôi nhà nông thôn. Những thành viên da cháy nắng, để râu của đơn vị Sư đoàn 25 vây quanh một xác chết bị bắn của Việt Cộng. Du kích cộng sản mặc đồ đen xuất hiện từ một đường hầm, tay giơ lên đầu hàng. Khi lính bộ Mỹ tiến lại gần, người Việt đó bất ngờ rút lựu đạn từ hông và tháo kíp giữa đám người bắt mình, một tiếng nổ, tiếng của một khẩu súng trường và sau đó là sự im lặng chết chóc.

"Cuộc chiến bẩn thỉu, khủng khiếp, những tay cộng sản bẩn thỉu và khung khiếp", một sĩ quan kêu ca. Gần đó một tay súng trường quỳ trong bụi rậm lưng quay về hiện trường, một tay che mắt, một tay ôm họng vì anh ta cố gắng kiềm chế cảm xúc. Vài phút sau đó, một tay súng trường kéo xác bị bắn của Việt Cộng và ném vào kênh chia sẻ nấm mộ đầy nước với xác những con vật bị người Mỹ giết trước đó.

Có cả sự tàn sát tập thể và cá nhân. Quân đoàn Lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ công bố án tù cho một lính trẻ thú nhận đã giết một công dân Việt, cắt tai anh ta bởi vì anh ta nghe về cách hành xử này trong trại huấn luyện lính thủy mới tuyển và nghĩ "Đó là điều phổ biến để làm ở Việt Nam". Đội của anh ta di chuyển qua một làng gần căn cứ lính thủy đánh bộ Chu Lai thì nhìn thấy một người Việt và bắn ông ta, thậm chí ông ta không có vũ trang, không cho thấy sự tấn công nào với họ. Người lính bị tuyên án mười năm tù.

Vài tuần sau đó quân đoàn lính thủy đánh bộ tiết lộ một sự kiện tương tự, họ tuyên án một hạ sĩ lao động khổ sai chung thân vì giết một bà già. Tay lính thủy đánh bộ đã hỏi cậu bạn, "Cậu nghĩ cái lỗ to như thế nào nếu tớ bắn vào đó?" và bắn vào bà già với khẩu súng lục 4.5, sau đó anh ta ngắm và bắn lại, rồi phát thứ ba và viên đạn cuối cùng vào bên phải đầu của bà già. Những tay lính chất rơm lên xác và đốt.

Một tranh cãi khác là sự tàn phá những thôn làng ở những vùng có dân cư bên ngoài khu vực kiểm soát của chính phủ được gọi là "vùng bắn phá tự do" khi những người lính lúng túng hoàn thành chiến thuật tìm và diệt của Westmoreland đang dịu bớt đi bởi những chỉ trích quốc tế. Tôi chứng kiến một lần trong cuộc hành quân của Sư đoàn thiết giáp 1 cùng Michel Renard và phóng viên ảnh tự do người Pháp Catherine Leroy ở vùng rạn vết chân chim biển miền Trung, quân lính bắt đầu đốt một làng dù những mệnh lệnh đặc biệt không phải từ chỉ huy đại đội, đại úy Nelson Newcombe. Khi anh ta nhìn thấy những dải khói cuộn lên trên những ngôi nhà mái nâu ở thôn An Hữu, vị đại úy không cạo râu đeo kính thét lên trong bộ đàm: "Tên chết tiệt nào đốt những ngôi nhà đó? Không đốt phá gì hôm nay, đó là mệnh lệnh".

Chỉ ngày trước đó trung đội của anh ta đốt một số ngôi nhà không bị đánh bom còn sót lại gần thôn Linh Hội, một sự kiện do phóng viên UPL đưa tin đưa ra hồi chuông cảnh báo yêu cầu những giải thích từ Washington. Tôi hỏi Newcombe chuyện gì xảy ra và anh ta giải thích rằng chỉ thị từ trụ sở chỉ huy Sài Gòn tuyên bố đốt phá nhà dân là bị cấm. Quan điểm từ sở chỉ huy sư đoàn là chỉ những ngôi nhà được chứng minh là có Việt Cộng có vũ trang chiếm đóng thì mới được đốt trong khi lữ đoàn cho phép lính đốt phá bất kì ngôi làng nào hoặc thôn nào có tiếng súng.

Trong những cuộc chiến tranh trước đây, vấn đề kiểm duyệt quân sự có thể bị trì hoãn hoặc hủy bỏ những câu chuyện tiêu cực vì chúng có thể làm ảnh hưởng khí thế ở nhà nhưng ở Việt Nam, cả Nhà Trắng hay Bộ quốc phòng sẵn sàng đối mặt những trách nhiệm kiểm duyệt này. Zorthian và đoàn kịch của anh ta có ít sự lựa chọn nhưng phải thử và cố gắng đối mặt tốt nhất với những gì đang diễn ra.

ĐÀ NẴNG

Mùa hè năm 1967, Horst và tôi tổ chức kỉ niệm năm thứ năm ở Việt Nam bằng một buổi tiệc với 300 khách tại Khách sạn Royale, một khách sạn cũ kỹ nằm ở góc giao đường Nguyễn Huệ và đường Nguyễn Thiệp, cách hai khu phố từ cơ quan chúng tôi. Trong những ngày hoàng kim những năm 1920 và 1930, Khách sạn Royale thu hút quan chức thuộc địa người Pháp tới quán bar dễ chịu để nhâm nhi rượu apxin hay sâm panh lạnh, những món ăn thượng hạng phục vụ trong phòng ăn. Trong phòng khách tầng trên, những chủ đồn điền người Pháp từ vùng nông thôn hẹn hò bí mật những cô tình nhân người An Nam và đôi khi lợi dụng chính họ cho việc bào chế thuốc phiện bí mật.

Horst và tôi biến Khách sạn Royale thành nơi ẩn dật của mình, mặc dù những gì còn lại của kỉ nguyên thực dân là những tấm ván sàn kẽo kẹt, hệ thống nước kêu ầm ĩ, bức hình chân dung cũ của lính lê dương Pháp. Sự tồi tàn của quán bar bảo tồn tính thanh bình trong một thành phố bùng nổ câu lạc bộ, gái bar và những người Mỹ chè chén. Nhà hàng cũng không hấp dẫn, thực đơn chỉ có phi lê "Flétan a la moutarde" và súp cá cùng “palourdes", nhưng mang phong cách Corsian béo ngậy nhiều dầu liu và tỏi. Danh sách rượu là những loại Algery rẻ tiền đến mức được thể hiện không những ở năm mà còn là ngày tháng đóng chai và chỉ uống được khi pha loãng với nước khoáng xenxe.

Sự xuống cấp của Royale song song với người chủ, Jean Ottavi, một người đàn ông Pháp nhiều tuổi ăn mặc hoàn hảo trong chiếc áo sơ mi trắng và cà vạt. Ông Ottavi đi tập tễnh quanh khách sạn bằng chiếc gậy mà ông ta đập xuống sàn hống hách khi nhân viên Việt không thực hiện mệnh lệnh hoặc chậm phục vụ khách hàng. Ông Ottavi cho phép chúng tôi, ăn tối muộn hơn giờ đóng cửa và vào một số dịp đặc biệt, ông ta cho đầu bếp chuẩn bị những món ăn đặc biệt theo sự chọn lựa của chúng tôi. Tại bữa tiệc, nhân viên khách sạn đi quanh phòng tiệc phục vụ thịt cừu, dê nướng và những loại hoa quả, rau đặc biệt.

Một vài đồng nghiệp người Mỹ không hiểu tại sao chúng tôi lại thích vẻ đẹp mờ nhạt của Khách sạn Royale khi những nơi khác tốt hơn. Khách sạn Aterbea ở ngay cùng đường và Khách sạn Guillaume Tell ở trên đường Trịnh Minh Thế và những nhà hàng ở Khách sạn Caravelle và Majestic đều có thức ăn và đồ uống cao cấp hơn. Nhưng phong cách kín đáo và vị trí khách sạn mà chúng tôi đang ở rất thuận lợi cho việc gặp gỡ những nguồn tin nhạy cảm. Trung tướng Julian Ewell đôi khi lái xe vào Sài Gòn từ sở chỉ huy lực lượng chiến trường 3 của anh ta ở Long Bình để ăn tối với chúng tôi tại Khách sạn Royale, điều kiện duy nhất của anh ta là không để lộ tung tích của mình trong bộ đồ thường phục và ăn tối bí mật phía sau bức bình phong ở một góc yên tĩnh của nhà hàng.

Vào giữa năm 1967, giới báo chí Sài Gòn tăng dần lên với hơn bốn trăm người, hầu hết ở những căn hộ đơn, chung hoặc sống trong khách sạn. Một số thường trú lâu dài ở chiến trường cùng với lính. Khoảng 20 hoặc 30 người có vợ ở Sài Gòn. Đó là, R.Vw. Apple, Tom Buckley của Thời báo New York, Maynard Parker và William Tuohy của tờ Newsweek, Lee Lescaze và Robert Kaiser của tờ Washington Post, Robert Pisor của tờ Detroit News, Joe Fried của tờ New York Daily News và tôi.

Cuộc sống khá thoải mái trong những ngôi nhà thuê kiểu thuộc địa có người phục vụ và đầu bếp, có những bữa tiệc cooktail ngoại giao, những bữa ăn tối, tiệc báo chí và những buổi chiều ở Câu lạc bộ Cercle Sportiff và thậm chí trượt nước ở sông Sài Gòn, một môn thể thao được nhiều người ưa thích.

Bạn có thể vẫn vờ như thành phố đang thanh bình, chiến tranh chưa từng xảy đến với Sài Gòn. Nhưng nó có thể vang lên bất kỳ trong những vụ nổ khủng bố mà đôi khi oanh tạc qua thành phố trong tiếng la hét của trực thăng, tiếng nổ của đạn pháo binh, trận tấn công không quân từ những vùng nông thôn lân cận. Những tin, bài thảm họa nhất luôn được tìm thấy ở chiến trường nhưng Sài Gòn là ngôi nhà thoáng đãng cho tất cả mọi thông tin, đánh giá về chiến tranh và những chương trình bình định cả tiếng Việt và tiếng Anh.

Âm mưu to lớn của chỉ huy cấp cao là nắm bắt được dòng chảy tin tức không chỉ trong vùng chiến mà ở mọi bữa tiệc cooktail và những buổi tụ tập ăn tối. Những lời nhận xét vô tư về những tức giận của chiến tranh luôn tìm được trong những bài phân tích tin và những bài tạp chí vào buổi sáng. Thành phố rò rỉ giống như Washington thu nhỏ. Một dòng chảy những chi tiết tai hại dưới những thông tin xấu từ chiến trường rằng chiến tranh rơi vào bế tắc và tệ nhất là đang thua, rằng chiến lược của Westmoreland tập trung vào những căn cứ quân sự rộng lớn và tốn tiền, những kho vũ khí quân sự phức tạp, thực hiện những chiến dịch tìm và diệt, không nhằm kết thúc chiến tranh nhanh chóng cũng không mang những người cộng sản tới bàn đàm phán hòa bình. Tuy nhiên hiểu rõ những gì đang diễn ra không có nghĩa dẫn tới những giao tiếp rõ ràng. Johnson của Nhà Trắng tiếp tục thuyết phục cuộc chiến đang thắng lợi và rất nhiều người ở Hoa Kỳ vẫn sẵn sàng ủng hộ Tổng thống. 

Giới báo chí Việt Nam chủ yếu dành cho nam giới. Một quan điểm phổ biến rằng chiến tranh là cuộc chiến giữa đàn ông với đàn ông và đàn bà không nên tham gia vào đó. Một số phóng viên nữ xuất hiện trong cuộc chiến là Georgie Anne Geyer, Liz Trotta, Gloria Emerson và Beverjy Deepe. Quân đội chỉ ưu tiên hơn chút ít với những nhu cầu cá nhân đặc biệt của phóng viên nữ và phóng viên báo  ảnh. Chúng tôi, những phóng viên có xu hướng dèm pha khả năng buôn chuyện và những mối quan hệ của họ không thích giúp đỡ họ với chính quyền. 

Phụ nữ được lính chào đón nhất trong chiến trường là những người hành động giống như đàn ông. Sau khi phóng viên ánh nổi tiếng Dickie Chapelle tử thương ở một bẫy nổ cuối năm 1966, Hugh Mulligan trích lời một chỉ huy quân đoàn: "Bất kì khi nào có một phóng viên nữ khác tới đây, chúng tôi sẽ điều một đại tá ra khỏi phòng anh ta vì phòng của anh ta có toilet riêng. Nhưng không phải Dickie Chapelle. Cô ấy không bao giờ đòi hỏi sự ưu tiên nhỏ nhất nào chỉ vì giới tính của mình. Cô ấy lội chiếc áo ponsô của mình trong bùn giống như những người đàn ông và ăn cơm bằng hộp sắt mà ai cũng cố nuốt. Trong bộ quần áo rằn ri và mũ sắt, tôi không thể phân biệt cô ấy với những người lính. Cô ấy luôn theo kịp mặt trận tốt nhất".

Phóng viên ảnh tự do nhỏ bé người Pháp Catherine Leroy bước vào văn phòng AP năm 1967 và ngay lập tức được liệt vào danh sách cộng tác viên trong đội quân của Faas với lời hứa 15 đô la cho 1 bức ảnh có thể sử dụng mà bất kì ai khác có. Cô ta có đủ tiền để thuê một cán hộ khép kín ở khu vực đông dân của Sài Còn.

Tôi đi cùng cô ta đến căn cứ mặt trận Lính thủy đánh bộ Mỹ ở Đông Hà khi nhân viên báo chí cố gắng khuyên can cô ta không nên tham gia cùng một đại đội lính thủy đánh bộ do thám trong nhiệm vụ nhảy dù ở vùng biên giới. Nhiệm vụ này rất hạn chế với giới báo chí nhưng Cathy không bị từ chối. Những lời báng bổ đầy giận dữ mà phóng viên ảnh 85 pound thốt ra làm tôi xấu hổ vì rút lui và đã làm tức giận sĩ quan lính thủy đánh bộ đến mức anh ta phải phàn nàn với sở chỉ huy.

Catherine cuối cùng cũng giành được sự kính trọng miễn cưỡng của lính thủy đánh bộ và danh tiếng thế giới về những bức hình kinh hoàng của mình. Trong một lần thực hiện nhiệm vụ, cô ta bị thương nặng ở bụng nhưng vẫn kịp ném cuộn phim đầy máu vào tay một lính thủy đánh bộ trước khi bất tỉnh. Ở trong bệnh viện, cô ta biết rằng những bức ảnh chiến trường của mình làm tên tuổi cô ta nổi tiếng khắp thế giới.


Hầu hết các phóng viên của AP đều độc thân và họ cùng ở một căn hộ rộng do phóng viên ảnh Al Chang thuê, to bằng tòa nhà văn phòng. Chúng tôi gọi nó là Căn hộ Dứa theo xuất thân Hawaii của Al. Đó là căn hộ được trang trí đơn giản với ba giường ngủ đôi, vài chiếc ghế, bình lạnh để bia, khung cảnh nhìn ra quảng trường Lam Sơn. Một số bản nhạc "Tinh Bubble" hoặc "Blue Hawaii" hoặc một số giai điệu thường được bật lên cho những người nhớ nhà. Một số bàn để máy ảnh và ống kính, dọc theo tường là những ba lô quân sự, dụng cụ chiến trường và những bộ đồng phục bẩn.

Căn hộ cũng là ngôi nhà thứ hai cho những người lính chúng tôi làm quen trong chiến trường ghé qua Sài Gòn để ở trọ một hoặc hai đêm và tiếp đãi họ. Họ đến, người đầy bụi bặm, mồ hôi, lao vào tắm nước nóng và sau đó vớ một chai bia lạnh, ôm bất kì ai hoặc tất cả những người có mặt ở đó. Không giống như bar của Sài Gòn có lệnh giới nghiêm. Một người lính hoặc một phóng viên mới trở về từ chiến trường có thể uống trong sự lãng quên hạnh phúc và không gặp phải phiến phức gì.

Chúng tôi hiếm khi phá vỡ quy định, ra khỏi nhà vào giờ giới nghiêm buổi sáng để đưa những lính có nhu cầu tình dục tới nghĩa địa ở Chợ Lớn, vì đây là nơi trú ngụ của những cô gái điếm không có chỗ nào khác để hành nghề. George MCarthur, người kinh nghiệm nhất trong số chúng tôi về vấn đề này nài nỉ được lái xe làm người chỉ đường, nhưng tay lái xe này say rượu và khi những cô gái xuất hiện giữa họ, chiếc xe lắc lư và George bị văng lên mui xe. Ed Meade, đến từ Erie, Pennsylvania đã học được cách cứu thương khi còn là cầu thủ bóng đá ở trường đại học, đỡ George dậy và đưa anh ta về Khách sạn Caravelle mà không để xảy ra một sự kiện nào nữa. may mắn là một trong những người quen của chúng tôi, bác sĩ quân y Tom Durant thỉnh thoảng ghé thăm để kiểm tra người bị thương và cuối cùng yêu cầu anh ta tới bệnh viện phẫu thuật.

Một buổi sáng sớm khi tôi đang nghỉ ngơi trong căn hộ với những đồng đội còn lại thì phóng viên ảnh AP Rick Merron đi từ văn phòng cùng với vài tấm ảnh có được từ tạp chí khiêu dâm mà ai đó mua được ở Hồng Kông. Rick dán hình trước cửa Khách sạn Caravelle bên kia đường cùng hai câu chuyện treo trên tường cao, nơi thu hút sự chú ý của cảnh sát Sài Gòn - những người đang làm nhiệm vụ an ninh ở quảng trường phía dưới.

Sự thân thiện vô tư báo trước điềm gở. Hoạt động văn phòng AP vẫn diễn ra suôn sẻ không có cạnh tranh nhỏ nhen và đố kị trong nhân viên dù mức độ là những tranh cãi do căng thẳng của chiến tranh. Hai Boyle viết về một trong những lí do dẫn đến điều này là "Việt Nam là một câu chuyện trong thế giới, nơi có nhiều điều cho mọi người. Bạn không phải lo lắng bất kì ai ăn trộm câu chuyện của mình vì những câu chuyện hay hơn đang chờ đợi ngoài kia".

Mỗi một ngày chúng tôi gửi 8 đến 15 bản trên máy telex của văn phòng về New York, 40 hoặc 50 trang của bản copy gồm những cuộc điện thoại từ các phóng viên viết về lính thủy đánh bộ ở Đà Nẵng phía bắc, hai sư đoàn lính bộ Hoa Kỳ ở Plâycu, Tây Nguyên cộng với Sài Gòn có các bản chỉ thị sở chỉ huy và các khủng hoảng chính trị.

Nhưng còn một lí do khác giúp cho tình bạn của chúng tôi thêm gắn bó đó là nếu một ngày nào đó một đồng nghiệp bị thương hoặc bị giết bởi cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình, bạn có thể tha thứ rất nhiều trong những hoàn cảnh này.

Khi Ed White về nhà, người được thay thế làm Trưởng phân xã là Bob Tuckman, một cựu chiến binh lực lưỡng tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai và chiến tranh Triều Tiên, clúng tôi tổ chức buổi kỉ niệm nhỏ sự thay đổi lãnh đạo. Tôi bày một trò, làm vương miện đội lên cái đầu hói của Bob, còn Horst thì đưa cho anh ta "cây trượng" của mình là chiếc gậy tre của Việt Cộng, vật được đưa cho Mai Browne những năm trước đó sau một vụ mai phục đẫm máu, vật gợi nhớ khi Sài Gòn chỉ là văn phòng một người, không phải văn phòng 30 nhân viên như bây giờ.

Những biểu tượng và vật cổ khác nhắc nhở người lãnh đạo mới về gánh nặng của mình và những vinh quang trong quá khứ: một cục vữa nhớ về Ngô Đình Diệm, được lấy vào đêm ông ta bị lật đổ từ những ngày khi nhân viên đều có tố chất đảo chính và một khẩu súng bazoca Horst tìm thấy ở vùng chiến trường C năm 1964.

Ed White được tiễn ra sân bay cùng một ban nhạc Trung Hoa mà Horst và Al Chang thuê sáng hôm đó. Tuy nhiên, cuộc trình diễn phải dừng lại ở cửa sân bay vì tay trưởng ban nhạc có dáng vẻ giống Hồ Chí Minh. Chúng tôi tiến hành chia tay ngay tại chỗ, rót sâm oanh khi tắc xi chờ đưa Ed ra máy bay. Đêm đó Bob Tuckman đánh vật với quyết định Trưởng phân xã đầu tiên của mình: Làm sao để giải trình cuộc biểu diễn hai giờ của ban nhạc Trung Hoa vào khoản chi phí văn phòng!

Trong thời gian này, Gallagher viết cho Horst và tôi yêu cầu những nhiệm vụ khác. “Các cậu đang bước sang năm thứ năm ở Sài Gòn, đó là một thời gian dài trong bất kì vùng chiến sự nào, đặc biệt là chiến tranh tàn khốc như ở Việt Nam. Tôi muốn biết xem các cậu có muốn đổi nhiệm vụ ở nơi nào khác không, ít nhất là trong một khoảng thời gian. Tôi biết các cậu muốn ở nơi phải có hành động nhưng có vẻ như cuộc chiến này còn diễn ra rất lâu".

Tôi mất vài tháng để trả lời bức thư của Gallagher vì tôi không xem xét nghiêm túc lời đề nghị của ông ta nhưng khi ông ta giục tôi trả lời thì tôi đã viết: "Về mặt thể chất tôi rất ổn và đã không nghỉ ốm một ngày nào từ khi tôi tới đây. Về mặt tinh thần tôi thích nghĩ bây giờ tôi đứng vững như tôi đã từng làm vậy. Về mặt chuyên môn tôi cảm tưởng rằng công việc tốt nhất đang chờ tôi phía trước".

Tôi thú nhận rằng Nina và tôi đã bàn tới việc rời đi nhưng tôi đã nói với Gallagher rằng tôi muốn ở lại thêm vài năm nữa.

Sài Gòn là thành phố của sở chỉ huy, có thể tác nghiệp và vui thú trong mối quan hệ riêng tư không như Đà Nẵng nơi những tổ chức tin tọc mạch va đụng với sự tức giận của quân đội tại các trung tâm thông tin hải quân. Dường như mọi đại biểu quốc hội, nhân viên thông tin từ Hoa Kỳ, thậm chí những nhà hoạt động nhân quyền tới thăm thành phố này chỉ vì hải cảng cũ đã được xây lại như sở chỉ huy hải quân Hoa Kỳ và trở thành cửa ngõ cho chiến tranh phía bắc. Đi ra Đà Nẵng, họ có thể nói họ đã tới thăm mặt trận mà thực tế không phải như vậy.

Tôi thường xuyên bay ra Đà Nẵng trên chiếc C-130 của Không quân Hoa Kỳ. Văn phòng Hải cảng Không quân 12, một tòa nhà bằng gỗ mới được dựng lên, là nơi dừng chân của binh lính từ Hoa Kỳ tới bắt đầu nhiệm vụ tại Việt Nam và đó cũng là nơi họ được khởi hành về lại quê nhà một năm sau nếu sống sót trong cuộc chiến.

Nếu may mắn tôi sẽ được một xe jeep chờ ở trung tâm báo chí do một lính thủy đánh bộ thân thiện lái hướng ra khỏi cổng chính để ngắm quang cảnh Đà Nẵng, trong khi anh ta phải bấm còi inh ỏi để luồn lách qua những con phố ồn ào, đông đúc và xe ba gác bán rong, xe khách chở quá tải có nguy cơ đâm vào nhau. Chúng tôi đi dọc theo dòng sông trong thành phố và thường rẽ quanh bảo tàng Chăm, một kiểu kiến trúc đẹp gồm nhiều hình điêu khắc khéo léo trên đá cẩm thạch Hindu là những gì còn lại của một dân tộc cách đó năm thế kỷ.

Phía sau điều hoành tráng thường là điều nực cười, một nhà nghỉ lợp mái tôn xiêu vẹo trong hàng rào cao. Cổng chính do một người Việt nhàu nhĩ gác mà chúng tôi gọi là Lùn. Một biển màu vàng đỏ treo ở cổng "Trung tâm báo chí 111 MAF”, từ viết tắt của Lực lượng lính thủy đánh bộ 3. Ở trung tâm là một bể nước cao và bên dưới là một boong ke. Ở đoạn cuối sông là một lán hình A được gọi là nhà Tưởng niệm Chapalle Dickie, không phải là nhà thờ nhưng lại là trung tâm của các chiến dịch nơi lính thủy đánh bộ đưa ra các thông cáo chiến tranh và các phóng viên có thể thu thập thông tin nếu họ hiểu được những cú điện thoại gọi về cho các văn phòng Sài Gòn.

Phía sau lán ở bờ sông là bến tàu bằng gỗ ọp ẹp, xung quanh có hàng rào thép gai bụi bặm và phía dưới là sông Hàn bình yên. Bên kia bờ sông là bóng dáng đồ sộ của những tòa nhà trụ sở chỉ huy của lính thủy đánh bộ, phía xa nữa là biển Đông và những bãi cát hiện ra, màu nước trong lành ấm áp.

Lán AP như chúng tôi gọi, nơi chỉ có những chiếc giường đơn dành cho 3 người luôn không được dọn dẹp, khăn trải giường bẩn thỉu kéo lê trên sàn nhà bụi bặm nằm giữa đống lộn xộn can bia và những chai rượu whisky trống rỗng cùng những mẩu thuốc lá. Khu trại lính có dịch vụ dọn dẹp nhưng chẳng bao giờ sử dụng vì thường có người ở trên giường và khóa trái cửa để trốn tránh những chuyến hành quân cực nhọc hoặc say rượu.

Trung tâm báo chí Đà Nẵng do các nhân viên lính thủy đánh bộ quản lí. Đôi khi chúng tôi tự hỏi không biết những người này làm gì và không biết tại sao họ lại ở vị trí đó. Rõ ràng họ làm việc với chúng tôi là không thích hợp vì chẳng ai có kinh nghiệm làm việc với giới báo chí cả. Nếu như điều chết tiệt trên thế giới này đẩy một nhân viên lính thủy đánh bộ vào thời chiến thì chính là đây. Không giống như lính thủy đánh bộ, chúng tôi thường ngủ muộn, hiếm khi cạo râu, thường ăn mặc luộm thuộm, không có kỉ luật và thường say vào chập tối cãi lộn, đánh nhau vì những chuyện không đâu. Họ nhận xét chúng tôi là những người không yêu nước khi đang xảy ra chiến tranh và khi nói về vai trò của lính thủy đánh bộ.

Thiếu tướng Joel Martin, một nhân viên trung tâm báo chí trước đây, người chỉ huy lính ở chiến trường khi tức giận với giới truyền thông của mình từng nổ súng bắn vào máy bán hàng tự động trong một quán bar và chửi: "Nhận lấy điều này, Morley Safter, mày là đồ chó cái”. Tôi thông cảm với Martin và sau những cuộc cãi nhau ầm ĩ giữa ông ta với tôi và các đồng nghiệp của tôi, đôi khi chúng tôi thường ngồi uống bia trên bến tàu bằng gỗ vào đêm khuya và nói chuyện về chiến tranh, khi cơn giận đã dịu đi và hơi men làm chếnh choáng anh ta lại ngâm nga bài hát “tôi thuộc về Glasky" làm khuấy động cả mấy con chó đi tuần ở sở chỉ huy lính thủy đánh bộ bên kia sông.

Eddie Adams đã trở lại Việt Nam cố gắng làm dịu vùng nước khuấy động của trung tâm báo chí Đà Nẵng bằng cách mở một câu lạc bộ ngu ngốc mà anh ta gọi là TWAPS. Anh ta thu lệ phí năm đô la từ các đồng nghiệp chủ chốt, bắt họ đeo một chiếc mở nắp chai Gl quanh cổ khắc những chữ Head Twap, và yêu cầu những dấu hiệu bí mật và mật khẩu từ các thành viên. Anh ta quyết định kết nạp một thành viên danh dự, chỉ huy lính thủy đánh bộ, Thiếu tướng Lewis Walt người được biết đến như một tay chơi thể thao cừ khôi.

Eddie tổ chức một bữa tối bít tết trên bờ sông Hàn với những chiếc bàn ở nhà hàng của trung tâm báo chí trải khăn bằng vải lanh trắng xếp theo hình chữ U lớn. Tướng Walt đến muộn và khi ông ta đến cùng hai nhân viên cấp dưới, trời đã tối, hầu hết giới báo chí đã say và náo loạn, bầu trời phía trên ngọn núi đá cẩm thạch ở khoảng trung đang lóe lên những vệt sáng trắng khi những trực thăng bắn phá du kích Việt Cộng.

Eddie mặc chiếc áo khoác màu đỏ bằng vải satanh cài hàng tá huy hiệu quân đội rẻ tiền mua ở chợ đen Đà Nẵng, chiếc mũ sắt của anh ta chụp xuống. Anh ta yêu cầu tướng Walt đứng dậy giơ tay phải lên và nhắc theo anh ta: "Khi bị bắn tôi phải thét lên “Báo chí" (từ tiếng Việt cho các nhà báo)", vị tướng làm theo một cách gượng ép và Eddie tiếp tục: "Khi tôi mắc một loại bệnh xã hội tôi phải thông báo cho tất cả các thành viên khác của TWAPS tên người lây bệnh". Vị tướng cười với câu này nhưng Eddie với khuôn mặt tỉnh bơ tuyên bố: “điều này rất quan trọng". Sau đó Eddie đưa ra một kẹp cà vạt bằng vàng có khắc biểu tượng TWAPS mà ông ta hứa sẽ đeo với niềm tự hào. Chúng tôi bắt tay vị tướng đêm đó mặc dù không có sự cải thiện ngay lập tức trong mối quan hệ của chúng tôi với nhân viên trung tâm báo chí nhưng tất cả đều thưởng thức bữa tối miễn phí một cách ngon lành.

Năm 1967 dường như có hai cuộc chiến về Việt Nam đang diễn ra, một cuộc chiến trong những tòa nhà chỉ huy có điều hòa ở Sài Gòn, Long Bình và Đà Nẵng và một ở Lầu Năm góc khi những nhân viên bắt tay với những tay chó săn trơ tráo cùng bảng thống kê đã dược điều chỉnh về tỉ lệ thương vong, đảo ngũ, các chương trình bình định và số lượng tấn bom. Trong những con số dự đoán bí mật đó là khúc khải hoàn chiến thắng đang lôi kéo Tướng Westmoreland, vị đại sứ mới Ellsworth Bunker và Tổng thống Hoa Kỳ công bố với một dân tộc đang lo lắng rằng "ánh sáng ở cuối đường hầm và những cậu bé Mỹ sẽ nhanh chóng trở về nhà”.

Và sau đó là một cuộc chiến khác ngày càng đẫm máu, ác liệt của những chiến trường đạn bom dội đi dội lại vẫn trên những ngọn đồi và thung lũng đó, với những quan tài phủ cờ trở lại quê hương được những người thân đón nhận với đôi mắt u buồn, của những thùng napan kinh hoàng dội trên những ngôi làng lợp mái lá, của những người tù bịt mắt và những cánh đồng của người nông dân không còn chỗ của một dân tộc thách đố chiến lược tiêu hao sinh lực của Mỹ...

AP viết về những cuộc chiến tranh này và tôi thường lo lắng những câu chuyện của chúng tôi sẽ làm cho độc giả lúng túng như thế nào. Những đánh giá của tôi xuất hiện trên những trang nhất của các báo cùng “những bài" phóng sự của AP về những quan điểm tích cực về chiến tranh từ quốc hội Mỹ, từ Lầu Năm góc và những bài phát biểu thường xuyên trên truyền hình của Tổng thống Johnson. AP không can thiệp các dòng tin tạp nham. Nhưng có một khoảng cách lòng tin to lớn ngày càng hiện thực hóa mà chắc sẽ hủy hoại danh tiếng của một người nào đó.

Mùa xuân 1967 tôi theo chiến dịch "Junction City" đến vùng chiến khu C nơi có Sư đoàn Lính bộ 1 của Tướng Depuy và Sư đoàn Tia chớp Nhiệt đới 25 tập hợp cho nhiệm vụ quân sự lớn nhất của cuộc chiến, huy động tới 45.000 lính Mỹ ở vùng rừng rậm tìm kiếm sào huyệt chỉ huy Việt Cộng. Khi nhiệm vụ kết thúc, Thiếu tướng Jonathan Seaman nói với chúng tôi tại cuộc họp báo: "Chúng tôi không bắt được Mcnamara của họ nhưng ít nhất cũng ở bên ngoài Lầu Năm góc của họ". Phép loại suy của ông ta để lộ một vấn đề đang xuất hiện mà thậm chí một cuộc hành quân hùng mạnh quân đội Mỹ từ trước tới giờ cũng không thể đánh dấu những chiến thắng mang tính chất quyết định đối với phía cộng sản, và không một thao tác thống kê nào có thể tính toán hết thất bại đó.

Tướng Seaman là một sĩ quan đáng kính luôn động viên chúng tôi khi làm tin và tôi muốn tin ông ta tuyên bố cái chết của 143 lính Mỹ trong chiến dịch "Junction City" là đáng giá vì họ đã xuyên thủng nơi ẩn náu của cộng sản và giết 1.243 binh sĩ Việt Cộng. Westmoreland phát biểu trong cuộc phỏng vấn với AP rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục "thảm sát họ tới khi Hà Nội tỉnh ngộ rằng họ làm đẫm máu đất nước của họ tới một thảm họa quốc gia cho nhiều thế hệ". Điều đó trở nên rõ ràng mặc dù trong chiến dịch rộng lớn này- và trong các chiến dịch khác đều tiến hành và đi theo điều đó - thậm chí nếu số thương vong của kẻ thù là chính xác thì sự hy sinh của người Mỹ rõ ràng đẩy mục tiêu chiến tranh lên phía trước.

Tất nhiên, John Paul Vann và những người quan sát khác cũng cho rằng Hoa Kỳ đang mạo hiểm chính mình nếu như mục tiêu chiến tranh còn tiếp tục. Cuộc tranh luận của Vann là có cơ sở: phía cộng sản đang lôi kéo lực lượng Mỹ vào chiến trường và sẵn sàng chấp nhận thương vong nặng nề, mục tiêu của họ là ván bài sinh tử với Mỹ để làm thất bại lòng tin về cuộc chiến tại chính quốc. Vann đưa ra một biểu đồ cho thấy những trung đoàn Bắc Việt và Việt Cộng đang chọn thời gian và địa điểm cho chiến trường. Khi tổn thất của họ cao, họ trở lại những căn cứ trong rừng gần biên giới Lào và Cămpuchia nơi họ gây dựng lại lực lượng và lại xuất hiện vài tháng sau đó.

Vann kết luận rằng khi một trung đoàn Bắc Việt vào trận chiến ở miền Nam, thì việc tăng quân cho trận chiến tiếp theo đã sẵn sàng rời Hà Nội hướng theo đường mòn Hồ Chí Minh. Đó là những người lính tin rằng cách mạng sẽ thắng lợi và họ "sinh ra ở miền Bắc để chết ở miền Nam". Dòng người Nam tiến không ngừng và ngày càng đông đảo.

Những biểu đồ ớn lạnh không thể chối cãi. Mặc dù các chiến dịch dội bom dữ dội ở miền Bắc và sử dụng vũ khí bắn phá oanh tạc ở miền Nam ngày càng dày đặc, nhưng số lính Việt Nam bị giết vẫn ít hơn số các bé nam sinh ra. Theo Vann, cuộc chiến đang tiếp diễn là vô hạn nếu không được mở rộng tới mức độ có thể là không chấp nhận được với những người Mỹ hoặc cách tính toán về cơ bản phải sửa đổi. 

Vann, người đã nghiên cứu trong vòng một năm để trình bày những quan điểm của mình cho Robert Mcnamara nghe và nói với tôi anh ta đã thành công vào tháng 7-1967 trong một chuyến đi tìm hiểu ít thực tế cuối cùng của Bộ trường quốc phòng tới Việt Nam. Vann tiết lộ rằng người bạn Dan Ellsberg của anh ta đã đi cùng chuyến bay với Bộ trường tới Sài Gòn và trình bày với ông ta về một chính sách sửa đổi. Chúng tôi ngạc nhiên khi biết rằng Mcnamara đang mất dần nhuệ khí cho cuộc chiến và ông ta từ chối thực hiện yêu cầu của Westmoreland muốn một đợt tăng quân khác với lực lượng 466.000 lính đã được tập hợp và ông ta muốn lực lượng Cộng hòa tham gia nhiều hơn vào các cuộc hành quân.

Nhưng những "con chó" của chiến tranh mà Mcnamara tháo xích đã lâu sẽ không dễ bị bịt mõm bởi suy nghĩ thứ hai của ông ta. Chúng cũng không được Nhà Trắng giữ lại kiểm soát khi bước vào một năm bầu cử. 

Mùa thu năm 1967, tôi viết một bài về sự bế tắc của chiến trường. "30 tháng của cuộc chiến gian khổ và không mang lại kết quả”. Việt Nam buộc các chỉ huy quân sự Mỹ phải nhận ra thực tế quan trọng: nếu lực lượng quân lực Cộng hòa không có nhuệ khí, không trở thành nòng cốt thì lính Hoa Kỳ sẽ bị chốt chặt ít nhất một thập kỉ chỉ giữ được cái mũ của Việt Cộng trên khắp cả nước". Tôi nói rằng Westmoreland đã thử để chuyện đó tự diễn ra, "Để quân đội Cộng hòa tự nỗ lực khi kẻ thù bị lính thủy đánh bộ và bộ binh Hoa Kỳ đè bẹp" nhưng những chiến thuật này bị sức dai dẳng của cộng sản phá ngang. Hy vọng về một chiến thắng thần tốc đã "đào mồ cùng gần 13 nghìn lính Mỹ đã chết".

Sự tham gia của tôi chỉ là cơn gió nhẹ trong luồng gió nhận xét bao trùm toàn cầu về Việt Nam nhưng tôi muốn tin rằng nó hàm chứa một vài nét quan trọng. Nhiều nơi trên thế giới đang đặt câu hỏi về vai trò của Mỹ ở Việt Nam cũng như rất nhiều người ở Hoa Kỳ không tin Việt Nam đáng là nơi để Mỹ phải đổ máu và tiền bạc. Tôi không phản đối cuộc chiến nhiều nhưng tôi cần sự chính xác. Tôi tin rằng sự thật được tìm ra ở chiến trường chứ không phải ở trong các phòng chỉ thị.

Tôi tiếp tục theo những lính Mỹ vào chiến trường cùng đám đông không kiên nhẫn, các phóng viên đều tranh luận về các câu chuyện. Tướng Depuy chỉ cho tôi một hiện tượng mà ông ta thấy rõ trên chiến trường rằng cuộc chiến có đặc điểm do những chu trình hành động của cộng sản lên tới đỉnh điểm rồi biến mất nhưng mỗi một cho trình mới thì đỉnh điểm cao hơn chu trình trước.

Ở Đắc Tô, vùng cao nguyên xa xôi vào một ngày mưa tháng 11, đỉnh điểm đã lên tới mức cao nhất và trở thành kinh nghiệm mất nhuệ khí nhất trong cuộc đời tôi trận chiến Đồi 875.

Bắc Việt chọn thời gian, địa điểm chiến trường và chiến lược của Westmoreland đưa ông ta vào cuộc chiến ở đó theo chu trình khi mùa mưa luôn sau mùa khô.

Vùng thung lũng Đắc Tô và địa hình quanh đó, xa vùng biển đông dân cư, đặc biệt dành cho những kẻ săn mồi lớn thích một vụ mùa săn các động vật hoang dã như báo, hổ, báo đen, voi và bò rừng. Các nhà côn trùng học tìm kiếm những loài bướm quý hiếm và say sưa với những chu trình côn trùng; các nhà nhân loại học viết những nghiên cứu thực nghiệm về các tộc người ban sơ sống ở đó như người Gia Lai, Mèo, Êđê, K’ho và người Vân Kiều. Sự hẻo lánh đã biến vùng này thành thành trì giá trị cho những hoạt động phản kháng chống lại thực dân Pháp. Cũng chính sự biệt lập này đảm bảo làm nơi sử dụng cho lực lượng miền Bắc tiến vào Nam.

Hai năm trước đây, cộng sản phá vỡ hai chốt duy nhất của chính phủ ở vùng thung lũng, thị trấn của Tou Morong và doanh trại Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ ở Đắc Sút và họ vẫn là mối đe dọa đối với một số nhân vật khác của chính phủ vẫn còn bám trụ.

Westmoreland tuyên bố trước công chúng về hiệu quả của chiến thuật tìm và diệt kẻ thù của ông ta. Miền Bắc Việt Nam đáp trả những lời huênh hoang của ông ta bằng cuộc chiến ở mạn và đỉnh đồi Đắc Tô. Dưới những nơi trú ngụ của khu rừng mái che ba chiều, ngoài tầm ngắm, Việt Cộng đào những boongke mở rộng và hệ thống hầm hào dẫn tới các hang có sẵn bằng gốc cây và những bức tường đan bằng tre. Mỗi hệ thống boongke lên đỉnh đồi đều được xây để chịu được những trận bom oanh tạc dữ dột nhất, một số được thiết kế giúp người cư trú chống thứ vũ khí kinh hoàng nhất sử dụng ở Việt Nam: Napan.

Chiến dịch tìm và diệt của Westmoreland dẫn ông ta vào những cái bẫy đã được gài sẵn. Con đường duy nhất dẫn tới chiến thắng ở Đắc Tô là con đường chính xác, đối mặt trực tiếp kẻ thù và tiêu diệt chúng, những người cộng sản đã chuẩn bị trận địa và sau đó họ cài bẫy, một trận mai phục nhỏ bắt đầu từ một rừng tre rậm nhất chống lại một trung đội lính nhảy dù Mỹ đầu tháng 11 thu hút sự chú ý của chỉ huy cấp cao. Lá bài đó được sử dụng vào ngày 6-11 khi họ giết và làm bị thương hầu hết một đại đội lính nhảy dù của Lữ đoàn Không vận 173. Westmoreland nắm lấy con mồi, lệnh cho Sư đoàn lính bộ 4 của quân đội Hoa Kỳ tham gia vào cuộc xung đột dưới sự chỉ huy của Tướng William R.Peers, người đang chờ đợi đến mất kiên nhẫn những dấu hiệu của cộng sản và muốn chiến đấu.

Tôi bay tới Đắc Tô vào giữa tháng 11, cùng đội phóng viên AP đã tập trung ở đó. Lúc này bốn trung đoàn bộ binh Bắc Việt xuất hiện ở các ngọn đồi xung quanh với khoảng 12 nghìn quân, lớn nhất từ trước tới giờ tập trung để chống lại người Mỹ và tôi kinh hoàng chứng kiến khi đường chân trời quanh tôi vang dội tiếng súng pháo binh trong khói và các cuộc phản công không quân chống lại họ. Các đồng nghiệp nói với tôi về những trận chiến trên đồi khốc liệt đang nuốt chửng các đại đội bộ binh. Nhưng tin tức về cuộc chiến rất khó tiếp cận vì cộng sản có thể chuyển những người bị thương về tuyến sau, thậm chí dành toàn bộ trận chiến đó là cái bẫy để lôi các đơn vị Mỹ ra khỏi các vùng dân cư để tiêu diệt.

Vào ngày 18-11, chúng tôi biết ba đại đội lính nhảy dù từ Tiểu đoàn 2 của Lữ đoàn Không vận 173 bị đánh vào sườn phía tây và phía đông gần đỉnh đồi 875 và họ chịu tổn thất nặng nề. Buổi sáng hôm sau, phóng viên AP, Lew Simons, Al Chang và tôi đi nhờ trên một chiếc xe jeep tới sở chỉ huy chiến trường của lữ đoàn, một cụm lán cách đường băng khoảng 2 dặm. Những giọt sương đọng lại và bụi bay lên khi chúng tôi đi nhanh dọc con đường bẩn thỉu, làm những thanh niên người dân tộc đang đi trên đường chạy toán loạn. Chúng tôi dừng lại bên ngoài một lán có bản "PIO" sơn trên một chiếc hộp đựng khẩu phần ăn, văn phòng thông tin công cộng. Bên trong là một đội của CBS đang cố gắng truyền thông tin về bằng điện thoại của chiến trường, một phóng viên không kiên nhẫn tức giận nói oang oang những thông tin mới nhất về cuộc chiến.

35 phóng viên và nhiếp ảnh tập trung lại khi một sĩ quan thông báo với chúng tôi rằng tình hình xấu hơn ở đồi 875. Cộng sản ở các boongke liên tục bị ném bom, một đơn vị Mỹ đang chiến đấu giành sự sống và trận dội bom nhầm của một máy bay không quân đã giết chết 20 lính bị thương trước đó. Tám chiếc trực thăng bị bắn hạ khi cố gắng di chuyển những người bị thương khác vào sáng hôm đó. Không có cách nào để đưa những lính bị thương hoặc bất kì ai ra khỏi chiến trường.

Lữ đoàn đang tìm cách giải cứu và gửi vào thêm ba đại đội bộ binh ở Tiểu đoàn 4 đi bộ qua rừng với nhiệm vụ tìm đường tới phía sườn đồi. Ba người trong chúng tôi có thể đi cùng nếu muốn đi. Khi sĩ quan đưa ra thông báo đó, tôi biết rằng tôi phải tham gia cùng với họ. Tôi đứng xếp hàng đòi quyền lợi của mình như một đại diện của AP khi một sĩ quan cao cấp hỏi. Tom Cheatham của UPL yêu cầu được đi, và sau khi một số người càu nhàu, nhóm cũng đồng ý cho một phóng viên truyền hình tự do người Việt là người thứ ba tham gia. Tôi nhìn thấy biểu hiện ghen tị trên vài khuôn mặt đồng nghiệp của mình nhưng nói chung hầu hết đều đồng ý.

Ba chúng tôi lên một trực thăng đợt sẵn và bay về Căn cứ Pháo 16, một vị trí pháo binh ở thung lũng, một mặt là rừng xa Đắc Tô cách biên giới Cămpuchia hai dặm nơi không khí bốc mùi thuốc nổ không khói tỏa ra từ sườn một đồi phía nam. “đồi 875 đang cháy", một trung sĩ đi cùng chúng tôi nói.

Chúng tôi đi bộ về nhóm chỉ huy lữ đoàn đang rà soát trên bản đồ trải trong boongke bằng bao đựng cát và thay vì một lời chào chúng tôi nghe thấy câu “Các cậu đến quá muộn", từ vị chỉ huy lữ đoàn, người đang vẫy tay về phía đồi. "Họ đã rời đi cách đây một giờ".

Tôi biết rằng Lữ đoàn trưởng, Tướng L.H.Schweiter, người đã chỉ huy đơn vị suốt ba tháng tỏ ra thân thiện với phóng viên và tôi mong sự giúp đỡ của ông ta. Ông ta đồng ý cử một lính nhảy dù hộ tống chúng tôi trên con đường rừng tương tự mà những người lính bạc mệnh đã đi những ngày trước đó và sau đó là một đội giải cứu đã đi theo họ. Chúng tôi đi như chạy: giờ đã là trưa và còn phải đi vài dặm nữa.

Vượt xa căn cứ pháo, con đường biến mất sau khe núi. Chúng tôi đến đỉnh núi có những hàng tre mọc dày đặc và những bụi cây thấp làm cho việc đi lại khó khăn. Chúng tôi tiếp tục đi và đến chiều. Chúng tôi vấp ngã và phải bò theo đường đuổi theo những thành viên còn lại của đội giải cứu. Người tôi ướt đẫm mồ hôi, cổ họng khát khô nhưng lưỡng lự uống bình nước của mình vì nơi chúng tôi đang đi không có chỗ lấy nước.

Chúng tôi tìm được nhóm chỉ huy đại đội, nơi sĩ quan bàn bạc ý kiến trên bộ đàm với các đơn vị phía trước và bắt đầu trèo lên một cách cẩn thận lo sợ bị mai phục.

Vào cuối chiều, khung cảnh thay đổi trong rừng sâu với những cây gỗ tếch, cây dái ngựa, và chúng tôi bước qua những cành cây bị đốn ngã do đạn H & I bắn và nhằm ngăn cản sự di chuyển của các đơn vị pháo binh Mỹ. Khi trời tối chúng tôi vẫn còn hai dặm nữa thì tới đồi 875. Đại đội dẫn đường tìm thấy một đường mòn nhỏ và tất cả năm trăm người chúng tôi di chuyển theo hàng đơn, sợ bị mai phục và nắm lấy thắt lưng nhau để khỏi bị lạc trong đêm tối. Những tay súng mai phục nổ hàng loạt đạn rú lên quanh chúng tôi. Chúng tôi ẩn mình vào các bụi cây, ôm lấy mặt đất và chỉ tiếp tục đi khi mọi thứ lắng xuống.

Bóng tối dày đặc tới mức tiểu đoàn trường gọi pháo sáng từ Căn cứ Pháo binh 16 và chúng tôi tiếp tục hành trình còn lại trong sợ sệt nhờ những vệt sáng chiếu qua vòm cây phía trên. Vào lúc 9 giờ, chúng tôi đã tới sườn đồi 875, sử dụng những dây leo trên cây phía trên dẫn đường. Phía trước khu rừng vang dội bom đạn, những thân cây bị xé toạc vẫn đứng trơ trụi trong ánh trăng.

Chúng tôi bắt đầu nhìn thấy các xác chết xung quanh mình và một người lính đứng gần tôi khóc thét lên, "ôi hãy nhìn những người kia, tất cả đều đã chết". Khi định hình rõ ràng tôi nhận ra đó không phải là những xác chết người Việt mà là người Mỹ, nạn nhân của trận chiến hôm trước vẫn nằm lại đó, những bộ quân phục, giày và vũ khí đã bị Việt Cộng lấy đi. Vào lúc mười giờ, đại đội tăng cường của chúng tôi đã tới nơi những người còn lại của Tiểu đoàn 2, chúng tôi bước đi vài trăm thước cuối cùng thận trọng hơn và trong im lặng, tất cả đều nhận thức đang ở trong khu vực giết chóc trên quả đồi bị bỏ rơi.

Chúng tôi tiến lên phía trước và hiểu ra những gì nhìn thấy: những xác lính nhảy dù nằm sõng soài nơi họ đã ngã xuống và phía sau những cành cây đáng thương là những người bị thương. Có một vài nhóm, một số bị thương ở đầu, ở ngực, băng bó rất nặng còn số khác bị thương ở chân, ở tay không được chăm nom, máu thấm qua tay áo và quần họ.

Một người thì thào hỏi nước và tôi đưa cho anh ta chai nước. Anh ta nói với tôi rằng đã nằm ở đó được 36 giờ và chờ được chuyển đi. Anh ta đã chứng kiến trận đánh bom nhầm giết chết 30 người bạn của anh ta và 11 trong số 12 bác sĩ quân y đã bị giết chết khi đang giúp những người bị thương. Anh ta chắc rằng mình sẽ chết.

Những người lính vẫn có thể sống sót nếu họ biết cách tập hợp nhau tránh xa boongke của người Bắc Việt trong bán kính 46m. Lính làm nhiệm vụ giải cứu mà tôi đi cùng hứa đưa một trực thăng vào và hạ cánh bên ngoài khu rừng trong buổi sáng để đưa những người bị thương ra nếu lính Bắc Việt ở vị trí bắn phá cách đỉnh đồi không quá 90m.

Tôi tìm thấy một khoảng đất trống và mượn dụng cụ đào hầm của một người lính bắt đầu đào một hố nông để qua đêm nhưng một xác người đã được chôn ở đó bởi vụ nổ ban sáng lộ ra với những mảnh sắt bám vào da thịt. Tôi sợ hãi, bước lùi lại vấp phải cái gì đó mềm và phát hiện ra đó là một cánh tay thò ra từ một cái xác khác. Tôi nhìn mình và cảm thấy choáng váng. Tôi là kẻ xâm hại và tọc mạch trên mảnh đất kinh hoàng đó. Tôi tự hào về sự suy xét độc lập trong nghề nghiệp của mình nhưng giờ cảm thấy xấu hổ với thái độ trung lập của mình, vô dụng với những cuốn ghi chú, máy ảnh và chai nước. Tôi thậm chí không mang theo một khẩu súng do vậy chỉ là cái nợ đối với những người đang chiến đấu một mất một còn.

Tôi cố gắng ngủ trong một cái hố nông bới bằng tay. Khi tỉnh dậy, mùi xác chết tỏa ra nồng nặc không khí. Tôi vừa dụi mắt thì nghe thấy tiếng súng cối gần đó, và những âm thanh vang trời của vụ nổ kinh hoàng xung quanh chúng tôi. Lính chạy vào boongke trú ẩn. Tôi nhìn thấy một người bị thương đang bò về phía cây và đống bẩn thỉu. Những mảnh đạn bay trên đầu khi tôi nằm xuống mặt đất. Một nhóm lính mà tôi vừa chào buổi sáng cách đây vài phút đã không gặp may. Họ đang bị thương quằn quại trong đống rác.

Bắn phá vẫn tiếp tục buộc tôi bò vào một boongke, nơi ba lính nhảy dù đang gập cong người. Một trong số họ là binh nhất Angel Flores đến từ thành phố New York. "Nếu chúng tôi chết như những người ngoài kia, chúng tôi không phải lo lắng về những điều vớ vẩn này", anh ta lẩm bẩm như nói với chính mình, ngón tay đẩy chuỗi hạt bằng nhựa xung quanh cổ và hôn nó một cách tôn kính. Một trong những người bạn của anh ta hỏi: “cậu làm vậy để lấy may à?" và người binh nhất trả lời, "ừ, tớ vẫn còn sống". Người bạn anh ta đáp: "Khỉ thật, tay sĩ quan tuyên úy cho cậu tràng hạt đó chết hôm Chủ nhật rồi" và Flores gật đầu nhưng vẫn tiếp tục hôn tràng hạt.

Tiếng pháo cối dừng, rocket rít qua rừng cây và tôi đẩy mình ra khỏi boongke để nhìn xung quanh. Tôi đi cùng chỉ huy trung đội, trung úy Bryan Macdonough ở tại boongke của anh ta nhìn về phía đồi. Anh ta nói rằng 8 sĩ quan cấp dưới đã chết, 8 người khác bị thương và giờ chỉ còn lại 9 người. Họ đang ở trong những vị trí bắn phá xung quanh, chờ đợi lực lượng tăng cường mang súng phun lửa vào và từ chối làm trách nhiệm cuối cùng lên ngọn đồi. Trong khi ngồi cùng họ thì một trực thăng cố gắng hạ cánh trong khu vực lân cận chúng tôi và một súng máy tạt vào nó cách đó 46m từ trên đồi và một lính thét lên kích động "Chúng ở đó, chúng tiến gần hơn" và đáp trả bắn phá bằng khẩu M-16.

Trung úy gọi về chỉ huy ở Căn cứ Pháo binh bằng bộ đàm, gọi thêm không quân tấn công - điểm chết đầu tiên ngày hôm đó - hạ cánh sát trên đầu chúng tôi, dội napan và bom vào người Bắc Việt mà không nhận thấy rõ hậu quả. Khi máy bay cất cánh, đạn lại tiếp tục bắn phá và số người chết lại tăng lên.

Tôi trở lại boongke của binh nhì Flores và nhận thấy mái boongke rất mỏng. Trong lúc đợt tấn công không quân phân tán kẻ thù, tôi trèo ra ngoài cùng chiếc xẻng đào một hố nằm khác. Tôi chứng kiến chiếc máy bay A-3 lao xuống thấp và nhìn thấy hai luồng đen lao ra từ trái bom nổ giống như những gã nặng 113kg. Tôi chờ chúng bay qua đầu nhưng chúng vẫn tiếp tục lao về phía tôi. Chính lúc này tôi biết mình đang nhìn thấy thần chết trên khuôn mặt và tôi không có thời gian để hoảng sợ mà chỉ phân vân thi thể của mình sẽ trông như thế nào, vỡ tan thành hàng nghìn mảnh khi nổ?

Hai quả bom rơi cùng một lúc, một rơi cách xa phía bên tay phải tôi trong một boongke trống và nổ vô hại. Trái còn lại đáp ngay trước mặt tôi cách khoảng 14m vào rễ một cây già. Thật kì diệu là nó không nổ.

Cheatham, tôi và tay đồng nghiệp người Việt quyết định di chuyển xuống đồi tới vùng hạ cánh ra khỏi khu rừng khi đã "lĩnh đủ”. Những người bị thương tập trung thành những hàng dài, hầu hết bị thương nặng được các bác sĩ quân y băng bó cẩn thận bằng áo ponsô (loại áo choàng bằng một tấm vải to có khe hở ở giữa để chui đầu qua). "Chết tiệt, thật xấu hổ họ vẫn chưa mang chúng ta ra khỏi nơi này", một trung sĩ gào khóc, anh ta đã nằm trên đồi 50 tiếng với vết thương nghiêm trọng ở háng. Những người khác không ngừng kêu rên, máu thấm qua băng và đôi mắt họ trở nên vô hồn. Những trực thăng cứu viện đang đến và đạn vẫn tiếp tục bắn.

Trong lúc chờ đợi để được ra ngoài, chúng tôi phải nhồi nhét nhau trong một hố nhỏ. Tôi đang cầu nguyện để được sống và ra khỏi đồi an toàn sau những gì được chứng kiến. Cuối cùng chúng tôi cũng được gọi, lao tới nơi có một trực thăng lên thẳng đang bay trên đầu chúng tôi. Người phi công thét gọi: "Đây là chuyến cuối cùng trong ngày. Chúng tôi đã vận chuyển 140 người bị thương, 90 người chết và 3 phóng viên ra khỏi nơi này". Tôi vẫy anh ta cảm ơn và leo lên trực thăng, nằm vật trên sàn khi trực thăng lên thẳng và ở nguyên vị trí đó một lúc bởi tôi đang khóc.

Chiếc trực thăng thả chúng tôi xuống phía cuối đường băng Đắc Tô. Tôi nhìn những căn lều và những bức tường bọc cát hàng rào sở chỉ huy quen thuộc thầm biết ơn. Trong đó sẽ có võng ngủ, nước uống và đồ ăn cho tôi.

Khi chúng tôi tới hàng rào thì nghe thấy ai đó thét lên: "Xung phong!" và tiếng nổ vang trời. Chúng tôi đang trong trận pháo cối tấn công từ các đồi. Có tiếng nổ, va đập. Lại một lần nữa tôi tìm nơi trú ẩn, trong đêm đặc biệt này tôi sống sót để chứng kiến tất cả, tôi bước tới boong ke gần nhất tham gia cùng những người lính đang túm tụm bên trong.

Đêm đó, tôi gặp phóng viên AP John Lengel tại lán báo chí Sư đoàn 4 và anh ta nói với tôi việc liên lạc với Sài Gòn là không thể vì tắc nghẽn điện thoại. Tôi thậm chí chẳng cố gắng để liên lạc.

Tôi thức dậy lúc bình minh, đi bộ tới hàng máy bay nằm dưới lớp sương mù phủ trùm như tấm rèm che các đồi lân cận. Tôi nhìn thấy phần còn lại của hai máy bay chuyên chở phía cuối đường băng, những nạn nhân của vụ bắn phá chiều hôm trước.

Trong vòng một giờ một trực thăng tiếp tế C-130 của lực lượng không quân Hoa Kỳ lượn qua những dám mây và vươn lên với tiếng rú thả kiện hàng - những thùng đạn dược. Cánh quạt tiếp tục quay và không đủ kiên nhẫn, rời khu vực trong vội vàng. Tôi giơ thẻ báo chí cho cơ trưởng khi leo thang lên máy bay. Anh ta tháo tai nghe, thét lên "Cậu không muốn biết chúng tôi sẽ đi câu à”, và tôi trả lời “tôi không quan tâm, chỉ cần đưa tôi tới nơi nào có điện thoại".

Chúng tôi hạ cánh tại Quy Nhơn, trung tâm tiếp tế bờ biển cho Tây Nguyên, nơi tôi biết có một văn phòng thông tin quân sự. Tay trung sĩ phụ trách cho tôi mượn máy đánh chữ và tôi ngồi đó khá lâu, suy nghĩ không biết sẽ miêu tả thảm kịch đã chứng kiến ở đồi 875 như thế nào, và nên đánh giá ra sao về sự thật của cuộc chiến. Tôi bắt đầu đánh máy và gọi trung sĩ vào giúp gọi điện cho văn phòng AP ở Sài Gòn và đọc chính tả câu chuyện của tôi từng trang một để kịp hạn nộp bài vào buổi trưa. Anh ta buộc phải đọc trang đầu tiên trên điện thoại trong khi tôi bắt đầu viết trang thứ hai.

"Chiến tranh quét lên một sắc màu ảm đạm và nhợt nhạt đối với cả người sống lẫn người chết trên đồi 875", tay trung sĩ bắt đầu đọc "Cách duy nhất để phân biệt người sống và người chết giữa những người đàn ông kiệt sức là khi chứng kiến pháo cối của kẻ thù dội vào. Người còn sống đổ xô không một chút xấu hổ vào những boongke bé nhỏ được đào trên đỉnh đồi, người bị thương thì quằn quại bò tới ẩn nấp sau những bụi cây đổ xuống đất. Chỉ có người chết là không cử động, đứng sững trong các boongke hoặc nằm sõng soài trên đất nơi họ bị đạn hạ gục".

Tôi nghe thấy trung sĩ há hốc miệng khi đọc bài của tôi nhưng anh ta cũng kiên nhẫn đọc hết mười một trang đánh máy. Ngay sau đó tôi trở lại sân bay, tìm cách quay về Sài Gòn cùng đống phim ảnh của mình. Chuyến bay đầu tiên chở 100 xác lính ở Đắc Tô đựng trong những chiếc túi bằng cao su màu đen. Tôi là hành khách duy nhất còn sống, ngồi phía trước gần ca bin chở hàng. Những chiếc túi xê dịch trên sàn. Khi máy bay bắt đầu hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, chất nhờn từ những túi xác tràn lên mắt cá chân tôi.

Tôi vẫy một chiếc taxi bên ngoài sân ga. Người lái xe nghĩ rằng tôi là lính đang tìm vui thú ở Sài Gòn liền mời mua một túi cần sa với giá 5 đô la. Khi tôi từ chối, anh ta gợi ý gặp em gái anh ta. Anh ta bắt đầu đùa cợt vẻ ngoài nhếch nhác của tôi nên tôi trả đũa bằng cách chửi thề vài từ tiếng Việt mà tôi biết vào tai anh ta. Tôi nhận ra mình bị căng thẳng bởi những gì xảy ra ngoài mong đợi.

Ed White và John Lengel ở lại cùng câu chuyện đồi 875 và viết "ngọn đồi cuối cùng cũng thuộc về lính Mỹ vào buổi trưa ngày lễ Tạ ơn nhưng phải trả giá bằng 120 mạng người tìm thấy và chỉ có một xác lính bắc Việt còn lại trên đỉnh đồi".

Chiến dịch Đắc Tô tiêu hao sinh lực lính Mỹ nhiều hơn bất kì sự can thiệp nào vào cuộc chiến trước đó nhưng chính quyền vẫn đánh dấu đó như một chiến thắng khác, tăng giá trị cho thông điệp mà Tướng Westmoreland gửi tới Câu lạc bộ Báo chí quốc gia ở Washington vào cuối tháng 11 khi tuyên bố năm 1968 "sẽ là năm kết thúc chiến tranh".

Merton Perry của tờ Newsweek ghé thăm văn phòng chúng tôi vào dịp Giáng Sinh và đã bị sốc. Anh ta nói rằng nhận được hầu hết chỉ thị tích cực nhất trong 5 năm ở Việt Nam từ sở chỉ huy Lực lượng Tác chiến 2 quân đội Mỹ tại Long Bình. Một vị tướng lâu năm quả quyết tất cả các đơn vị lớn của kẻ thù ở vùng rộng lớn xung quanh Sài Gòn đã bị phân tán và chạy sang Cămpuchia, tình hình an ninh được cải thiện rất nhiều. .

AP yêu cầu tôi cung cấp bản đánh giá cuối năm, tôi miêu tả như cuộc chiến tranh trên hành tinh khác. Khi nhìn lại năm đó và những trận mà tôi đã viết, những cuộc đàm thoại với John Paul Vann và một số sĩ quan quân đội thẳng thắn, tôi kết luận rằng năm 1967 là màn dựng lên cho ván bài quân đội kết thúc ở Việt Nam vào năm 1968.

Tôi trích dẫn lời những người Mỹ nắm bắt tình hình dự đoán năm tiếp theo "Những trận đánh lớn nhất và đẫm máu nhất vẫn còn diễn ra mặc dù một năm dài đầy chiến dịch từ đầu đến cuối đất nước". Tôi viết rằng cả hai bên đều lạc quan, "Từ cách nhìn của họ cho thấy chỉ huy Mỹ vẫn còn phân tích Việt Nam dựa vào Chiến tranh thế giới thứ hai, còn những người cộng sản phân tích tình hình dựa vào cuộc chiến hất cẳng Pháp những năm 1950".

Han sonBaldwin, phóng viên chiến trường xuất chúng của tờ Thời háo New York cũng viết một bài đánh giá về cuộc chiến. Anh ta thân cận, gần gũi với Westmoreland và bài viết đương nhiên phản ánh sự tự tin ngày càng tô hồng của vị chỉ huy tối cao.

Đêm giao thừa là đêm ngừng bắn cơ bản với chiến trường và bình yên với các đơn vị hành chính ở thành phố. Những người Mỹ trẻ ở đại sứ quán và các cơ quan Hoa Kỳ khác tổ chức bữa tiệt "ánh sáng ở cuối đường hầm" tiêu khiển bằng nhiều trò vui ma mãnh thể hiện công khai sự lạc quan, tự gọi họ là “những bông hoa của Sài Gòn" trên những giấy mời in cẩn thận.

Nina, tôi và các chị gái cô ấy đến một biệt thự đại sứ quán rộng rãi số 47 đường Phan Thanh Giản ở phía cầu Biên Hòa. Bữa tiệc diễn ra tốt đẹp. Một ban nhạc Việt Nam ở một quán bar vùng ven trung tâm chơi điệu nhảy fox-trots, các sĩ quan với khuôn mặt sáng ngời đang nghỉ phép từ những chốt ở vùng ngoại ô đang má áp má với các thư ký của đại sứ quán trong thành phố. Vài đại diện của chính quyền mới của Nguyễn Văn Thiệu đang lả lướt theo điệu nhạc trong đám đông.

Các nhà báo tụ tập tại bar quanh Barry Zorthian, người vận chiếc áo Hawaii màu sáng và trong lối đi quanh John Paul Vann, người đi cùng một nhân viên lâu năm ở đại sứ quán. Tôi tự hỏi, dù sao buổi tiệc cũng đã được tổ chức nhưng làm sao có nhiều nhân vật then chốt lại tụ tập một cách thoải mái trong khi chiến tranh vẫn đang diễn ra ở Sài Gòn? Nhưng chính tôi cũng phủ nhận, tôi uống, khiêu vũ qua đêm cùng với những người khác và vào buổi sáng chính tôi cũng muốn tin ánh sáng ở cuối đường hầm.

Không có nhận xét nào: