ĐỀ
TỪ VỀ MỘT THÊ GIỚI CỦA TỘI ÁC VÀ SỰ HỖN LOẠN
Tôi
sẽ không ngạc nhiên nếu có bạn đọc nào đó đón nhận
cuốn sách này - không như mong muốn của tác giả - với
một thái độ thờ ơ, thậm chí là xa lánh. Cũng phải
thôi, đa phần độc giả đều là những người lương
thiện - như tôi, như bạn - khó có thể bắt họ phải
cảm thấy “say mê” khi mà suốt hàng trăm trang sách,
những khuôn mặt hiện ra đều là biểu tượng của cái
ác, sự điên rồ, liều lĩnh, những hành động được
mô tả đều là tội lỗi, gắn liền với những chết
chóc, thù hằn và được thể hiện bằng những cuộc
tranh giành, đâm chém, thanh trừng lẫn nhau một cách tàn
bạo. Tuy nhiên, đó là điều không thể tránh khỏi chứ
hoàn toàn không phải là mục đích của tác giả khi đặt
bút viết cuốn sách này.
Loài
người, trong đó có xã hội mà chúng ta đang sống, tiến
dần về phía tương lai văn minh và phát triển với niềm
tin “nhân chi sơ tính bản thiện” thì đồng thời loài
người cũng phải oằn lưng gánh trĩu và luôn phập phù,
cảnh giác với dục vọng “nhân chi sơ tính bản ác”,
cố nhiên, cũng nảy sinh trong một bộ phận khác của đời
sống xã hội. Cho dù chúng ta ghê sợ, xa lánh và luôn tìm
cách chống lại thì cũng phải thừa nhận: cái ác luôn
tồn tại, loại trừ hay chối bỏ nó hoàn toàn chỉ là
một ước mơ đẹp đẽ nhưng hết sức ngây thơ. Để
phấn đấu cho điều đó, không còn cách nào khác, việc
đầu tiên là phải nhận diện được cái ác, hiểu về
nó một cách tường tận và không ảo tưởng.
Thoạt
kỳ thủy, hai tiếng “giang hồ” được dùng để định
danh một lớp người phiêu bạt, lấy việc hành hiệp
trượng nghĩa, giúp kẻ yếu người cô giành lại sự
công bằng làm mục đích; lấy phô diễn tài năng, hơn
thua cao thấp - chủ yếu về sức mạnh võ nghệ - làm
niềm vui... Với ý nghĩa đó, “giang hồ” được nhìn
nhận như một lối sống, một loại tính cách, đẹp và
mã thượng. Tuy nhiên, cái đẹp ấy chỉ còn tồn tại
trong sách kiếm hiệp đa phần là hư cấu. Theo thời gian,
hai tiếng “giang hồ” đã biến chất, tha hóa hẳn. Đến
nay, nó chỉ còn lại như một khái niệm về tội lỗi và
cái ác, “giang hồ” được hiểu như từ định danh về
một thế giới gồm toàn những kẻ sống ngoài vòng pháp
luật, kết bè kết đảng và thủ lợi bằng con đường
phạm pháp.
Nhưng,
việc phân tích các khái niệm không phải là trách nhiệm
của chúng tôi. Đó là công việc của các nhà xã hội
học. Với cuốn sách này, chúng tôi chỉ muốn khắc họa
lại một cách chính xác những khuôn mặt cộm cán nhất
của giang hồ miền Nam trong thế kỷ XX. Để bạn đọc
tiện theo dõi và nhận diện rõ nét quá trình tha hóa của
thế giới giang hồ, những khuôn mặt trong sách được
sắp đặt theo đúng trình tự thời gian mà họ sống. Bắt
đầu từ Sơn Vương Trương Văn Thoại từ những năm
1930, “người của giang hồ” dù sao vẫn còn giữ được
những nét mã thượng, mục đích giang hồ còn đôi chút
hướng thượng và trọng nghĩa, ít nhiều vẫn phảng phất
đôi nét Từ Hải, Robin Hood - người của tự do. Trượt
dài đến “thời hai tay ba đao” của những năm 60-70,
“giang hồ” đã hoàn toàn biến chất, trở thành một
thế giới ngự trị đầy rẫy những cái ác, ác từ suy
nghĩ đến hành động, với những Đại Cathay, Sơn Đảo,
Lâm Chín ngón, Điền Khắc Kim, Năm Vĩnh v.v... Từ xuất
phát điểm là bạn của dân nghèo, giang hồ đã trở
thành tai họa, nỗi ám ảnh đầy đe dọa của lương dân.
Yếu tố vụ lợi đã làm tha hóa toàn bộ bản chất của
một lớp người. Đến những Năm Cam, Hải “bánh”...
cuối thế kỷ XX thì giang hồ đích thị chỉ còn lại
những bộ mặt quỷ dữ. Đó là tập hợp những tên tội
phạm, những kẻ đâm thuê chém mướn. Dù vậy, giới
giang hồ vẫn có những đặc trưng riêng, luật lệ riêng.
Khi nói đến giang hồ là nói đến những tên tội phạm
- điều đó đúng, nhưng một tên cướp giật, một tên
tội phạm móc túi, trộm vặt mà gọi là giang hồ thì
chắc chắn là sai.
Cho
dù qua mỗi thời kỳ, giới giang hồ mang một đặc điểm
hoàn toàn khác nhau thì thế giới ấy vẫn chưa bao giờ
biến mất hay đứt đoạn. Sơn Đảo của thời hỗn loạn
thập niên 60-70 từng gặp gỡ, bái phục và là một bản
sao không hoàn chỉnh của Sơn Vương - rất ngạo thế
khinh đời thập niên 1930; Năm Cam, Hải “bánh” hung thần
cuối thế kỷ chỉ là một thứ “âm binh mất ma”
học nghề từ những dân chơi trước giải phóng như Đại
Cathay, Sơn Đảo và từng cạnh tranh với những đàn em
của tên hung thần lề phố này như Huỳnh Tỳ, Lâm Chín
ngón... Theo nghĩa đó, cái ác là một khối u ác tính di
căn trong đời sống xã hội.
Nếu
đầy đủ hơn khi nói về thế giới giang hồ, lẽ ra cuốn
sách của chúng tôi phải thêm vào tối thiểu ba nhân vật
nữa, đó là “cọp rừng Sác” Lê Văn Viễn những năm
40-60; là “Vua hắc đạo” Tín Mã Nàm những năm 60-70 và
Năm Cam, trùm “xã hội đen” cuối thế kỷ.
Bảy
Viễn không chỉ là một giang hồ nổi tiếng, ông ta còn
là một nhân vật khuấy nên một phần lịch sử, từng
tham gia kháng chiến chống Pháp rồi trở mặt đầu Tây,
trở thành Thiếu tướng trong quân đội Liên hiệp Pháp,
được Bảo Đại giao trách nhiệm cai quản an ninh toàn bộ
khu vực Sài Gòn - Gia Định. Đã có không ít cuốn sách
viết về nhân vật có tính cách phức tạp và cuộc đời
sôi động, đầy bi kịch này. Dưới ngòi bút của nhà
văn Nguyên Hùng, Bảy Viễn đã hai lần trở thành nhân
vật trung tâm và là chất liệu để tác giả dựng nên
hai cuốn sách dày cộm là “Người Bình Xuyên” và “Bảy
Viễn - Thủ lĩnh Bình Xuyên”. Nếu không gọi là toàn bộ
thì dưới ngòi bút chi tiết của nhà văn Nguyên Hùng,
chân dung Lê Văn Viễn cũng đã hiện ra quá đầy đủ. Có
viết lại, tư liệu của chúng tôi cũng không thể hơn,
chỉ tổ mang tiếng “múa rìu qua mắt thợ”, trong khi
xào nấu lại tư liệu lại là điều mà lòng tự trọng
của người cầm bút không cho phép.
Ngược
lại, với Tín Mã Nàm, trở ngại mà chúng tôi vấp phải
là chưa thể thu thập đủ thông tin. Tên thật là Trần
Hà Tư, đẳng cấp giang hồ là một Thầu Dậu (đầu gà),
nổi tiếng với biệt danh Tín Mã Nàm (con ngựa điên),
nhân vật này đã làm mưa làm gió suốt hai thập niên
60-70, thống lĩnh toàn bộ giới tội phạm người Hoa khu
vực Chợ Lớn. Có nhiều thông tin cho rằng Tín Mã Nàm
chính là kẻ giữ vai trò Hồng Trượng (tức cây gậy
đỏ), kẻ đứng thứ hai, vai vế chỉ thua Hoàng Long (Rồng
vàng), nắm toàn quyền chỉ huy an ninh trong tổ chức tội
phạm Tam Hoàng Hội chi nhánh Sài Gòn - Chợ Lớn, quyền
lực đen và mức độ tàn bạo của tên giang hồ này lớn
hơn rất nhiều so với tầm hình dung của một người
lương thiện. Thế nhưng dù đã gặp được một số
người thân quen của hắn thì với đặc tính kín đáo cố
hữu của người Hoa, chúng tôi vẫn không thể thu thập
được gì chính xác hơn ngoài những câu chuyện truyền
miệng đậm chất giai thoại, khó có thể tùy tiện gọi
đó là sự thật. Vì thế, dù rất tiếc, một chân dung
đầy đủ về nhân vật Tín Mã Nàm vẫn cứ là món nợ
mà chúng tôi đành khất lại cùng bạn đọc.
Nhân
vật thứ ba, Năm Cam, nếu xét về ảnh hưởng xấu thì
thừa đủ để có thể cho vào sách. Tư liệu về y lại
càng không thiếu khi đã có hàng ngàn trang báo phô bày
trong suốt 2 năm đầu của thế kỷ XXI. Thế nhưng, trong
mắt chúng tôi, Năm Cam dù là một tên tội phạm sừng
sỏ, dù đầy tội ác nhưng vẫn không đáng được gọi
là giang hồ. Điều duy nhất mà Năm Cam làm được, hơn
đứt nhiều tên tội phạm khác, là đã mua chuộc được
một bộ phận thoái hóa trong bộ máy công quyền ở nhiều
cấp. Với thế mạnh này, từ một tên gá bạc nhãi ranh,
Năm Cam đã ngoi dần lên trên từng nấc thang của quyền
lực tội ác. Thế nhưng, trước sau Năm Cam vẫn bị giới
giang hồ xem như một trùm xã hội đen sừng sỏ chứ
không hề là một giang hồ có số. Lý do đơn giản, trên
con đường ngoi lên, Năm Cam thiếu hẳn ba tiêu chuẩn: bản
lĩnh cá nhân, cách chơi đúng luật (đen) và ân uy với
đàn em... Xét về cấu trúc, trong giang hồ chỉ có quan hệ
đàn anh - đàn em (được phân ngôi tùy theo đẳng cấp,
trình độ, bản lĩnh chứ không theo tuổi tác), tuyệt
nhiên không có quan hệ chủ - tớ. Với tham vọng biến
thành “vua”, Năm Cam đã biến tất cả những kẻ dưới
trướng thành đầy tớ khiến chúng chỉ sợ mà phục
tùng chứ không nể trọng. Vì thế, Năm Cam chỉ đáng
được xem như một tên trùm tội phạm kiểu xã hội đen
mà không đáng được coi là “người của giang hồ”.
Ngoài
ra, còn một loạt “tên tuổi lớn” khác của giang hồ
mà chúng tôi chưa có dịp đề cập, hầu hết đều xuất
thân từ Trung Hoa đại lục. Họ là những người có công
lớn trong tiến trình hoằng duơng võ học có nguồn gốc
Thiếu Lâm vào Việt Nam. Đó là Lương Vũ Tế, tức Nguyên
Tế Công Đại sư, ông tổ của Vịnh Xuân quyền Việt
Nam; là Trương Tòng Phú, hậu duệ đích tôn 16 đời của
Thái cực Võ Đang Trương Tam Phong, Chưởng môn phái Võ
Đang tại Chợ Lớn; là Đoàn Tâm ảnh vốn là một áp
tiêu lừng danh trên đoạn đường từ núi Côn Luân (Trung
Quốc) đến Hồng Kông, sau qua Việt Nam “phong kiếm qui
ẩn” trở thành Đại lão võ sư Đoàn Tâm ảnh, Chưởng
môn phái Thiếu Lâm Côn Luân (Thủ Đức); là Hạng Văn
Giai, nguyên là thiếu tướng, Quân đoàn phó Quân đoàn
Vân Nam ly khai của Quốc dân Đảng sau biến cố 1.10.1949,
theo nhiều người trước ông từng là Biệt đội trưởng
Biệt đội ám sát của Tưởng Giới Thạch, một trong
những “tác giả kịch bản” của vụ ám sát Uông Tinh
Vệ tại Hà Nội nổi tiếng thập niên 1930...
Cuộc
đời họ đầy sóng gió và bi kịch hẳn sẽ có sức hấp
dẫn lớn đối với bạn đọc. Song, ghép chung chân dung
họ với chân dung những tên “giang hồ tội phạm” tầm
thường e là điều bất nhã và bất kính. Chúng tôi đành
phải gác lại và hẹn bạn đọc ở một cuốn sách khác
viết riêng về họ, cuốn Giang hồ võ lâm Việt Nam mà
chúng tôi đang thai nghén.
Theo
nhận xét của chúng tôi, từ trước đến nay đã có
không ít tác giả viết về giang hồ. Nhưng, do mục đích
tiếp cận khác nhau nên các tác giả này đều chưa phản
ánh đúng chân dung, bản chất và số phận của những kẻ
được coi là “người của giang hồ” mà họ đề cập.
Trước năm 1975 đã có hàng loạt nhà văn, đứng đầu là
nhà văn nổi tiếng Duyên Anh đã cho ra đời hàng loạt
cuốn tiểu thuyết thuộc loại “sách xúi con nít đập
lộn”. Nhân vật chính của những cuốn sách này thường
là những tên bụi đời, du đãng cộm cán sống ngoài lề
phố và bất chấp luật lệ. Vì mục đích “vị nghệ
thuật”, các nhà văn thế hệ này đã đẩy khoảng cách
tâm lý đi quá xa, huyền thoại hóa các nhân vật giang hồ,
xem tội lỗi, các trận thư hùng của chúng như những
chiến tích. Chịu ảnh hưởng của văn học Phương Tây,
kiểu Robin Hood của A. Dumas hay “Thân phận con người”
của A.Malraux, những tác giả này đã quá say sưa đề cao
chất anh hùng cá nhân của những tên du đãng mà quên mất
bản chất đích thực, chúng đích thị là những tên tội
phạm. Trong số đó, cuốn Điệu ru nước mắt của Duyên
Anh tiêu biểu hơn cả, nhất là khi nó được chuyển thể
thành phim Vết thù trên lưng ngựa hoang với bản nhạc
nền cùng tên nổi tiếng một thời.
Sau
Duyên Anh, một loạt ký giả miền Nam trước giải phóng
vẫn mang nặng khuynh hướng huyền thoại hóa, tuy khai thác
người thật, việc thật của một lớp giang hồ như Đại
Cathay, Lâm Chín ngón, Sơn Đảo... song chủ yếu cũng chỉ
khai thác kịch tính của những phi vụ, đẩy các hành
động tội phạm của chúng thành một hình thức đối
lập, biến những tên tội phạm thành lớp “dân chơi”
và “đánh số” chúng theo chuẩn giang hồ chứ không
theo những nấc thang đạo đức của xã hội. Chính chủ
nghĩa hiện sinh giai đoạn thoái trào du nhập vào miền
Nam, chính sự hỗn loạn của xã hội tiêu thụ sống gấp
và chết gấp và ý thức phản kháng thời loạn đã tạo
nên khuynh hướng này. Bản chất giang hồ có bị (hay
được) hiểu sai thì cũng không có gì khó hiểu khi chính
các ký giả - tác giả với nhân vật giang hồ của họ
đều là bạn bè, quen biết nhau và học đòi nhau. Giữa
người nghệ sĩ bế tắc và tên “dân chơi” đập phá
ít nhiều cũng có một điểm chung, đó là ý thức bứt
phá khỏi các ràng buộc, các định chế của một thứ
luật pháp mà họ không tôn trọng; hoặc đơn giản hơn,
một ham muốn tự định vị mình. Bằng cách đó, giang hồ
được vẽ nên như một thế giới hỗn loạn trong một
xã hội hỗn loạn của một thời đại cũng hỗn loạn
nốt.
Sau
năm 1975, suốt một thời gian dài, đề tài giang hồ, du
đãng... hầu như bị quên lãng hoàn toàn trong văn chương,
sách vở. May ra, độc giả chỉ còn biết đến các nhân
vật của thế giới này trong những bài báo - một thể
loại mà tự thân nó, khoảng cách tâm lý đã bị kéo lại
quá gần, gần đến mức thiển cận. Nhân vật giang hồ
được đề cập hầu như chỉ còn trong phạm vi những
thông tin sơ khai của phép cân đối giữa tội lỗi và
hình phạt. Không số phận, không tính cách, không được
đặt trong phức hợp những bi kịch của cuộc sống, nhân
vật giang hồ bị đánh đồng triệt để với hình ảnh
tội phạm mà không ai thắc mắc gì đến điểm đặc thù
của nó. Thậm chí đã có khi, trên mặt báo, người ta
còn né tránh gọi tên những từ định tính như giang hồ,
mafia, vì e ngại cách gọi đó sẽ... bôi đen xã hội.
Nói
tóm lại, vì nhiều lý do khác nhau vẫn còn thiếu hẳn
một cái nhìn đầy đủ, khách quan về một thế giới,
một tập hợp người đã hiển nhiên tồn tại trong đời
sống, nhất là đời sống ở các đô thị lớn. Vậy thì
giang hồ là gì?
Lại
một lần nữa, chúng tôi vẫn không muốn “lấn sân”
phần việc của các nhà xã hội học. Chỉ xin trả lời
vắn tắt: giang hồ là một loại tội phạm có tổ chức,
chủ yếu hình thành qua việc xác định “lãnh địa”
riêng để hoạt động tội phạm - một hình thức sơ
khai của kiểu tội phạm mafia. Nôm na, tất cả mọi người
sinh ra đều muốn vượt lên trên chính bản thân mình,
luôn khao khát định vị mình trong cuộc đời. Nếu được
giáo dục, học hành đầy đủ ở trường học, người
ta sẽ trở thành những nhà chuyên môn có ích. Ngược
lại, nếu “tốt nghiệp” trường đời, nhiều khả
năng người ta sẽ hóa... giang hồ. Như vậy, giang hồ là
một thứ “tay nghề cao”, những “nhà chuyên môn” của
xã hội lề phố, đời sống lề phố. Nhìn ở một góc
độ khác, khát vọng sống, mơ ước vươn lên là những
phẩm chất hình thành nên khuynh hướng dấn thân trong mỗi
cá nhân. Năng lực hành vi càng lớn, khát vọng dấn thân
càng lớn. Đây là một thứ năng lực nội tại, chỉ
tăng hay giảm chứ không lệ thuộc hoàn toàn vào tri thức
được giáo dục. Khi khát vọng dấn thân tích trữ đủ
lượng và bùng nổ thì mẫu người anh hùng cá nhân xuất
hiện. Nếu được định hướng đúng, hướng thượng và
hướng thiện, đủ chất tri thức, con người anh hùng cá
nhân sẽ thăng hoa, thời loạn có thể trở thành nhà cách
mạng, thời bình có thể trở thành khoa học gia, nghệ sĩ
v.v... Dù không được, không muốn hay không có điều kiện
học hành thì trong những cuộc đời tận đáy xã hội,
máu anh hùng cá nhân vẫn cứ tồn tại. Được gắn với
mục đích lệch lạc, tham vọng ngoi lên lệch lạc, tất
yếu nó sẽ biến con người thành một thứ hư vô chủ
nghĩa, thiên hẳn về đập phá, chà đạp lên các giá trị
chuẩn mực về đạo đức, tinh thần và tác oai tác quái
đối với đời sống xã hội. ở mức độ nhẹ hay phạm
vi ảnh hưởng hẹp, con người của chủ nghĩa hư vô sẽ
biến thành tầng lớp giang hồ, tìm cách thủ lợi bằng
các hành vi chống lại luật pháp. Nếu gặp thời loạn,
được hà hơi tiếp sức bằng chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, bằng đức tin tôn giáo cực đoan, tất yếu chúng
sẽ liên kết với nhau để trở thành những tập đoàn
giang hồ quốc tế - cha đẻ của chủ nghĩa khủng bố,
một vấn nạn đầy đe dọa nguy hiểm mang tính toàn cầu
trong thế kỷ XXI.
Cần
nói rõ như thế để thấy rằng, giang hồ là một tập
hợp tội phạm nguy hiểm, có tổ chức chứ không phải
hỗn hợp những hành động tội phạm manh động. Do đó,
để tiêu diệt nó, không đơn giản chỉ là việc “chặt
ngọn” với hình phạt thật nặng cho những kẻ phạm
tội. Ngược lại, cần quan tâm giải quyết vấn nạn
giang hồ ngay từ gốc, không để mầm mống tội phạm có
điều kiện sinh sôi nảy nở rồi sau đó mới áp dụng
hình phạt.
Cốt
lõi hình thành, nuôi sống đội ngũ giang hồ, theo chúng
tôi, là hai vấn đề có quan hệ hữu cơ: nạn cho vay lãi
nặng và việc phân chia lãnh địa để hoạt động phạm
tội. Con người, cho dù là người nghèo thì cũng không
tránh khỏi những lúc phải đối diện với những biến
cố như thiên tai, đau ốm, ma chay... nghĩa là ngay tức
thời cần phải có một khoản tiền lớn để giải
quyết. Đối với người dân lao động nghèo, đó là một
vấn nạn. Tiền mặt: không có, nhà cửa vật dụng thế
chấp để vay ngân hàng: không có, tín chấp: không thể.
Đó chính là cơ hội tốt để các giác hút kinh khủng
của đám cho vay lãi nặng thò ra. Bao nhiêu tiền cũng có,
tất nhiên là với lãi suất cắt cổ. Lãi mẹ đẻ lãi
con, những vòi bạch tuộc sẽ hút kiệt tất cả những
gì người nghèo tích cóp và trói đời họ trong công nợ.
Không trả ư: đã có “luật giang hồ”! Nguồn lợi
nhuận này là những con số khổng lồ, đủ để nuôi
sống cái gọi là giới giang hồ. Nó lớn đến mức việc
tranh giành lãnh địa nhằm bảo kê, cho vay lãi nặng
thường biến thành những cuộc “chiến tranh lề phố”.
Dĩ nhiên, để chuẩn bị cho điều đó thì tất yếu, các
băng đảng tội phạm phải hình thành. Đó là lý do vì
sao, giới giang hồ quần tụ nhiều ở các khu vực bến
cảng, bến tàu xe, các khu chợ đầu mối ở các đô thị
lớn - những nơi tập trung đông đúc tầng lớp vô sản,
dân lao động nghèo, làm thuê là nghề nghiệp chính. Đó
cũng là lý do vì sao trong cuốn sách này xuất hiện thêm
hai nhân vật Lý Long Thân (Đường đời trong lòng tay) và
Lâm Huê Hồ (Huyền thoại về một gánh ve chai). Cả hai
nhân vật này đều không đụng tay đến “dao thớt”,
song với nghề cho vay nặng lãi, họ đích thị là những
“ông trùm” của giới giang hồ. Đặc biệt là nhân vật
Lý Long Thân, toàn bộ quá trình kinh doanh, làm giàu và
ngoi lên đều quan hệ mật thiết với hoạt động của
các băng đảng tội phạm thuộc giới giang hồ, theo một
cách thức sặc mùi giang hồ.
Cuối
cùng, để triệt để giải quyết vấn nạn giang hồ,
chúng tôi nghĩ ngoài việc nâng cao đời sống nhân dân,
tăng cường giáo dục... và nhiều mặt khác, cũng rất
cần có một quỹ tín dụng cho người nghèo. Khi lâm vào
bí bách, người nghèo - với sự xác nhận của chính
quyền địa phương - có thể được vay một khoản nào
đó, đủ để trang trải khó khăn đang vấp phải. Hãy tự
tin rằng, người nghèo, dù nghèo thì vẫn không thiếu
lòng tự trọng, đã vay ắt sẽ trả. Trong trường hợp
xấu nhất, nhà nước có thể mất đi 10, 20, 100 triệu,
thậm chí một tỉ đồng, nhưng chắc chắn xã hội sẽ
bớt đi những danh sách tội phạm dài dằng dặc, khi mà
vòi bạch tuộc hút máu dân nghèo của giới giang hồ đã
mất chỗ bám. Lúc đó, đời sống của lương dân cũng
sẽ bớt phập phù trước những đe dọa, khống chế của
bọn tội phạm. ít nhất, chúng ta sẽ bớt đi được một
phiên tòa như phiên tòa Năm Cam và đồng bọn với hơn
150 bị cáo mà một phần ba trong số đó là
những tên giang hồ chuyên cho vay lãi nặng.
Toàn
bộ gốc và ngọn của vấn đề, những huyền thoại và
bi kịch số phận của “người trong giang hồ” chúng
tôi muốn thể hiện qua cuốn sách này thông qua một số
chân dung giang hồ cộm cán nhất, những kẻ đã từng
được nhiều người biết đến với không ít giai thoại
nửa thực nửa hư. Với tiêu chí đó, mục đích văn
chương bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Hay hay dở, thích
hay không còn tùy vào cách thẩm định của người đọc.
Chúng tôi chỉ hy vọng, với những ai quan tâm đến vấn
đề giang hồ, cuốn sách sẽ là một nguồn tư liệu ban
đầu, một cái nhìn khách quan và gần gũi sự thật để
bạn đọc có thể tham khảo.
Hầu
hết nội dung chính của cuốn sách này đều đã được
đăng tải trên mục “Tư liệu nhiều kỳ” của Báo An
ninh thế giới. Vào sách, tác giả chỉ dụng công bổ
sung tư liệu và thể hiện lại nó dưới dạng truyện để
bạn đọc dễ theo dõi chứ tuyệt đối không có ý định
trau chuốt văn chương. Vì thế, nếu những câu chuyện
này có thể hấp dẫn được bạn đọc thì đó là do sự
hấp dẫn được tạo bởi tự thân những bi kịch số
phận của các nhân vật chứ không hề do tác giả cố ý
sắp đặt hay dụ dẫn. Toàn bộ tư liệu được trình
bày là kết quả thu gom, chắt lọc, kiểm chứng mà chúng
tôi tiến hành trong khoảng 10 năm. Những gì thể hiện
trong trang sách cũng chính là những gì đã diễn ra trong
đời thực. Phần việc duy nhất mà chúng tôi làm là xếp
đặt lại cho câu chuyện diễn ra đúng theo trình tự vốn
dĩ nó có.
1-
QUÁI KIỆT SƠN VƯƠNG
Với
34 năm ngồi tù, trong đó có 32 năm khổ sai ở Côn Đảo,
có lẽ Sơn Vương Trương Văn Thoại là người phải thụ
án lâu nhất Việt Nam. Không chỉ có thế, ông còn là một
nhà văn được hâm mộ, một tên cướp khét tiếng trượng
nghĩa và hào hoa. Cách mạng tháng Tám thành công, ông trở
thành Chủ tịch ủy ban hành chính Côn Đảo. Nhưng do
những tham vọng phiêu lưu, ông tự biến mình thành lãnh
chúa của cái gọi là “Đảo quốc Côn Lôn” để sau đó
lại tiếp tục sống hàng chục năm sau song sắt, cho đến
tận ngày sức tàn lực kiệt. Có thể nói, cuộc đời
Sơn Vương là một lăng kính phản ánh khá trung thực và
đậm nét về khí phách cang cường trọng nghĩa, yêu tự
do, ý chí quật cường hào sảng của người nông dân Nam
Bộ. Quan trọng hơn hết, ông là một nhân chứng sống
của nhà tù Côn Đảo suốt hai thời Pháp thuộc và Mỹ -
ngụy.
1.
Kiếp phong sương ăn quán ngủ đình
Trước
khi đổ ra cửa Tiểu, dòng chảy của sông Soài Rạp đột
nhiên trở nên mạnh mẽ lạ thường. Từ nhiều đời,
người dân làng Bình Nhị (Gò Công) vẫn tự hào bảo
nhau: chính dư ba của trận Rạch Gầm - Soài Mút đại phá
giặc Xiêm đã tiếp sức cho dòng sông tuôn ra biển lớn.
Những câu chuyện truyền miệng hào hùng ấy đã hun đúc
thêm cho những người nông dân xứ này một khí phách
kiên cường, trượng nghĩa và trọng lẽ công bằng.
Ở
trong làng, điền chủ Trương Đình Cung Anh là một người
danh giá, được trọng vọng. Tuy giàu và có học thức
nhưng lòng ông vẫn luôn hướng về phía những người
nông dân khốn khổ, luôn sẵn sàng giúp đỡ người nghèo
và bênh vực kẻ yếu. Khi đã lớn tuổi, ông làm thêm
nghề bốc thuốc Nam giúp dân chúng quanh vùng.
Năm
1909, người con trai thứ năm của vị điền chủ hào hiệp
này chào đời. Lần đầu tiên nhìn thấy mặt con, điền
chủ Trương Đình Cung Anh đã đứng lặng hồi lâu. Trán
rộng, nhân trung sâu, mắt sâu, mũi khoằm, dáng dong dỏng,
đứa bé mang tướng mạo một Kim Thánh Thán, hẳn sau này
sẽ chọc trời khuấy nước nhưng có lẽ suốt đời lận
đận. Ông đặt tên cho con là Trương Văn Thoại.
Ngày
thôi nôi, trước vô số đồ chơi được bày trước mặt,
cậu bé đã vồ lấy và nắm rất chắc hai tay hai món:
một quản bút, một thanh gươm. Nét mặt vị điền chủ
rạng lên nhưng ông vẫn không ngăn nổi một thoáng rùng
mình lo lắng.
Đến
tuổi cắp sách, Thoại tỏ ra thông minh, sức học hơn hẳn
bạn bè cùng lớp. Nhưng, chỉ học hết chương trình
Cours Supérieur (lớp Nhất tiểu học, khoảng lớp 5 hiện
nay) đủ vốn tiếng Pháp để đọc sách Tây, cậu bé đã
bỏ ngang, chuyển sang luyện võ và học thêm chữ Hán.
Thời
gian còn lại, Truơng Văn Thoại vùi đầu vào sách, đọc
toàn kiếm hiệp Tàu và tiểu thuyết Tây viết về những
tên cướp nghĩa hiệp, từ Robin Hood của A. Dumas đến
Carmen của Merimée. Đặc biệt, Truơng Văn Thoại cực kỳ
say mê những cuốn sách của nhà văn bình dân Phú Đức
với nhân vật Bách-xi-ma lái... “Khúc Dồi” phóng như
bay đuổi theo Hoàng Ngọc ẩn đang cưỡi trên... “Điếu
Xì Gà”. Những nhân vật nổi loạn trong sách vở và
truyền thống hào sảng, bất khuất của quê hương đã
thắp dần lên trong lòng cậu bé một ước mơ cháy bỏng
về lẽ công bằng và con đường giúp dân bớt bị bóc
lột, hà hiếp. Nhưng giữa khi nước mất, ách đô hộ
của thực dân Pháp đè nặng, Thoại chưa đủ sức nhìn
thấy con đường sáng, chỉ ngọn lửa tang bồng hồ thỉ
trong lòng là ngày một cháy rực lên.
Cuối
năm 1925, mới hơn 16 tuổi, Truơng Văn Thoại đã quyết
chí bỏ làng lao theo tiếng gọi giang hồ. Anh thanh niên
giàu nghĩa khí đã bỏ ra 6 năm trời lăn lộn khắp các
ngọn núi Thị Vải, núi ông Trịnh, núi Mây Tào vùng Long
Hải, Bà Rịa theo một đại lão sư mai danh ẩn tích học
võ và học đạo. Năm 1931, vị Đại lão sư viên tịch,
Thoại hạ sơn về Sài Gòn, sống lăn lóc cùng giới thợ
thuyền khốn khổ. Anh ở trọ trên căn gác gỗ rộng
chừng 20m2 của tiệm may Nam Chấn Hưng ở số 2 đường
Lefebre (nay là đường Hồ Tùng Mậu, quận 1). Ông Tư
Chiêu, chủ tiệm Nam Chấn Hưng vốn là bạn bè của ông
Trương Đình Cung Anh, cha Thoại. Ngoài sách vở, tài sản
của Thoại chỉ có thêm một chiếc bao kiểu lính thủy
bằng vải kaki. Ban ngày, trải bao bên lề đường, Thoại
hành nghề bán sách. Đêm, chắp thêm hai đoạn dây, bao
kaki trở thành chiếc võng nóp cho kẻ giang hồ chợp mắt
qua đêm.
Những
năm đầu thập kỷ 30, lề đường De la Some (Hàm Nghi)
được coi là nơi tập trung của đủ hạng người. Trên
những tấm đệm bàng 7 tấc, một dãy thầy bói sắp
hàng, kính râm che mắt, bộ bài cáu bẩn xếp ngay ngắn
trước mặt. Bên cạnh đám thầy bói là các văn nhân,
chủ báo, cũng bày “sản phẩm” của mình trên những
vuông chiếu trải cạnh lề đường. Trong số những người
bán báo đó, Trương Văn Thoại đặc biệt chú ý đến
một người: Ông Nguyễn An Ninh, chủ bút tờ La Cloche
Fêlée (Tiếng chuông rè) kiêm thủ lĩnh đảng Thanh niên
cao vọng, hơn Thoại chẵn 10 tuổi. Cảm phục ý chí và
sự nghiệp của Nguyễn An Ninh, Trương Văn Thoại đã dần
dần bước vào nghiệp cầm bút, trở thành một cộng sự
đắc lực của tờ La Cloche Fêlée và nhà cách mạng
Nguyễn An Ninh. Theo chữ Hán, chữ “Thoại” được ghép
bởi ba chữ Sơn, Vương và Nhi. Bút danh Sơn Vương được
Thoại khai sinh từ đó. Ngoài ra, Thoại còn ký tên khác
là Trương Vạn Năng, tự bộc lộ ý chí và tham vọng của
mình.
Chẳng
bao lâu, tên tuổi Sơn Vương đã khá nổi trong nghề cầm
bút. Những bài báo của ông thổi vào công luận một dư
âm lạ, đầy màu sắc bình dân và nỗi cảm thông sâu
sắc tầng lớp bần cùng.
Khoảng
những năm 1932-1933, Sơn Vương Trương Văn Thoại - mới 23
tuổi - đã danh nổi như cồn ở khắp Sài Gòn - Chợ Lớn
và vùng lục tỉnh, chủ yếu nhờ những tác phẩm trung
thiên tiểu thuyết đăng tải trên báo. Có thể xem Sơn
Vương như một người tiên phong có công trong việc cách
tân nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Vẫn là tiểu
thuyết võ hiệp kỳ tình, song tác phẩm của Sơn Vương
đã có sự thay đổi tiến bộ lớn lao về mặt hình
thức. Nhân vật tướng cướp nghĩa hiệp cướp của nhà
giàu chia cho dân nghèo của Sơn Vương đã đoạn tuyệt
hẳn với thanh gươm lưng ngựa, thay vào đó là các trang
công tử lái xe hơi như bay, bắn súng lục bằng cả hai
tay và ném tạc đạn ùng oàng. Đáng kể nhất là ba cuốn:
Luật rừng xanh, Chén cơm lạt, và Tướng cướp hào hoa.
Rất
đông nhà văn, nhà báo thế hệ sau đều ít nhiều chịu
ảnh hưởng của Sơn Vương, cả về khí phách chống
cường quyền, áp bức, ủng hộ dân nghèo lẫn lối hành
văn bình dân trong sáng và giản dị. Nhưng ít ai biết
rằng, tất cả những nhân vật tướng cướp nghĩa hiệp
ấy đều chính là hiện thân của tác giả Sơn Vương.
Thay vì tìm tư liệu để viết, Sơn Vương đã tự... tạo
ra tư liệu. Trong hơn hai năm, từ 1931-1933, Sơn Vương đã
đơn thương độc mã, gây ra hàng chục vụ cướp kinh
thiên động địa nhằm vào các phú hộ, địa chủ gian
ác khắp các vùng từ Đồng Nai đến Sài Gòn, Long An
nhưng tung tích vẫn không hề bị lộ. Người ta chỉ thầm
ngưỡng mộ một Sơn Vương - nhà văn - cao gầy dong dỏng
nói năng nhỏ nhẹ, thường ngồi trọn buổi sáng bên lề
đường với một bộ xá xẩu bằng lụa Tân Châu để
bán sách của chính mình.
Giữa
năm 1933, Sơn Vương dời địa điểm bán sách sang lề
đường Charner (Nguyễn Huệ). Tại đó, ông gặp gỡ và
kết nghĩa huynh đệ với một thanh niên tên là Nguyễn
Phương Thảo, người sau này nổi danh với cái tên Trung
tướng độc nhãn Nguyễn Bình - Tư lệnh các lực lượng
quân sự Nam Bộ những năm đầu cuộc kháng chiến chín
năm chống thực dân Pháp (1945-1954).
Nguyễn
Phương Thảo thua Sơn Vương 6 tuổi, quê ở Yên Phú, Hưng
Yên. 17 tuổi, Thảo bỏ dở năm thứ hai trung học xuống
Hải Phòng, đáp tàu Pélican của hãng Messagering để “hành
phương Nam” lập nghiệp. Vốn khâm phục chất hảo hớn
của người Nam Bộ, Thảo đã nhanh chóng làm quen và mê
sách của Sơn Vương. Được một người thợ cùng chỗ
trọ giới thiệu, anh đã nhanh chóng tìm được tác giả
các cuốn truyện yêu thích. Sơn Vương cũng tỏ ra cảm
kích trước ý chí giang hồ của người bạn nhỏ tuổi,
đồng thời cũng muốn làm quen với một tính cách Bắc
nguyên gốc nên tiếp Thảo khá nhiệt tình. Gặp Thảo,
Sơn Vương khen:
-
Người phương Bắc mến mộ trời Nam, hai mươi năm sau
tất có thêm một tay hảo hớn.
Luôn
miệng tấm tắc “kỳ ngộ! kỳ ngộ!”, Sơn Vương bỏ
dở buổi bán sách kéo Nguyễn Phương Thảo sang một quán
Chệt (quán ăn Tàu) ở đường Colonel Grimaud (Phạm Ngũ
Lão) để đãi một chầu hủ tiếu xí quách. Đó là lần
đầu tiên trong đời, anh thanh niên Nguyễn Phương Thảo
biết đến vị cay của rượu. Nhưng Thảo chỉ uống ba
ly con, phần còn lại một mình Sơn Vương từ từ nốc
cạn.
Mới
vào Nam, việc làm chưa có, Nguyễn Phương Thảo ngỏ ý
nhờ Sơn Vương tìm giúp. Sau một hồi suy tính, Sơn Vương
khuyên người bạn vong niên sang Đa Kao mở tiệm giặt là
phục vụ cho đám công chức, thầy thông, thầy ký. Để
có vốn cho Thảo mở tiệm, Sơn Vương quyết định đi...
cướp, làm một vụ thật đậm...
Để
xác định con mồi, Sơn Vương đã ôm chiếc bao lính thủy
ra góc đường De la Some, chỗ đối diện Nhà băng Đông
Dương ngồi bán sách suốt nhiều buổi. Cuối cùng thì
một con mồi lớn cũng đã lọt vào tầm ngắm của Sơn
Vương. Cứ vào sáng thứ Sáu của tuần đầu tiên mỗi
tháng, René Gaillard, Giám đốc hãng cao su Mimot lại cùng
một tài xế và một vệ sĩ phóng chiếc Peugeot đến Ngân
hàng Đông Dương để lĩnh bạc về phát lương cho công
nhân, số tiền mỗi kỳ lên đến 50.000 đồng. Theo tính
toán, Sơn Vương quyết định sẽ chặn xe cướp vali tiền
khi tên Giám đốc quay trở về. Ông quyết định rủ
Nguyễn Phương Thảo đi theo để biểu diễn cho xem, nhưng
lại tuyệt đối lại không nói một câu với “cậu bé”
về kế hoạch đã định.
Đầu
tháng 7 năm 1933, vụ cướp đã diễn ra đúng như kế
hoạch. Sơn Vương “dụ dỗ” được Năm Đường, tài
xế của một chủ Tây tham gia vào cuộc. Lợi dụng ông
chủ và vợ con về Pháp nghỉ phép, Năm Đường đã
“mượn” chiếc Clément Bayard của chủ và thay biển số
theo Sơn Vương đi cướp. Xe chở Sơn Vương, Năm Đường
và Nguyễn Phương Thảo chạy thẳng theo con đường đất
đỏ dẫn về Tân Sơn Nhất (nay là đường Cách Mạng
Tháng Tám). Đến một chiếc cầu nhỏ ở Bà Quẹo, Năm
Đường cho xe quay lại, dừng ngay trên cầu, vờ hư xe lúi
húi sửa.
15
phút sau, chiếc Peugeot của René Gaillard đã xuất hiện từ
xa, cuốn bụi đỏ bay theo mù trời. Đến nơi, thấy cầu
bị kẹt, Gaillard tức tối nhảy xuống la hét om sòm. Sơn
Vương đầu đội nón nỉ, mang bộ complet trắng, nhàn nhã
như một công tử Bạc Liêu ôn tồn tiến lại, nói bằng
tiếng Pháp:
-
Xin lỗi ông, xe tôi bị panne, ông chờ cho chút xíu.
Đang
bực, Gaillard quát:
-
Muốn sửa, đẩy qua chỗ khác!
Quát
chưa dứt câu, Gaillard đã trợn mắt, bởi Sơn Vương trả
lời rất xấc xược:
-
Được thôi, phiền ông lại đẩy đi!
Nhưng
hắn chưa kịp chửi thề, một họng súng đen ngòm đã
xuất hiện ngay trước mặt, kèm theo là tiếng Sơn Vương
quát khẽ:
-
Giơ tay lên!
Theo
phản xạ, cả chủ lẫn tớ trong xe đều giơ tay quá đầu.
Điềm nhiên, Sơn Vương tiến lại bên chiếc Peugeot giật
lấy cặp tiền vứt vào xe mình cho Nguyễn Phương Thảo
giữ. Ông còn tước luôn khẩu súng của tên vệ sĩ và
quay lại nói với Gaillard mấy câu nhã nhặn:
-
Phiền ông Giám đốc cho mượn đỡ một kỳ lương, tôi
đang có việc cần xài.
Sơn
Vương vừa nói, vừa vứt luôn khẩu súng trên tay vào xe
của Gaillard và nhanh chân tót lên chiếc Clement Bayard giục
Năm Đường chạy thẳng.
Sau
vài phút hoàn hồn, René Gaillard kịp nhìn lại, mới phát
hiện ra rằng khẩu súng mà Sơn Vương “kỷ niệm” chỉ
là súng giả. Cáu tiết, hắn quát tài xế phóng xe đuổi
theo. Nhưng tốc độ của chiếc Peugeot cũ kỹ không thể
đua kịp tốc độ của chiếc Clément đời mới, máy rất
mạnh. Đuổi đến Hòa Hưng thì địch thủ đã biến mất
tăm dạng, Gaillard đành tiu nghỉu quay xe trở lại. Cách
đó không xa lắm, Sơn Vương cũng xách cặp tiền kéo
Nguyễn Phương Thảo đang há hốc ngạc nhiên bước xuống,
giục Năm Đường đưa xe về rửa và thay biển số. Sơn
Vương và Thảo bao nguyên một chiếc xe thổ mộ, giong
thẳng về gác trọ phía Sài Gòn.
Vụ
cướp táo tợn được đồn lan khắp Sài Gòn chỉ sau
đúng một ngày. Dân nghèo được một phen hả dạ, bởi
kẻ bị trừng trị là một “thằng Tây” khét tiếng
tàn ác. Giới lục lâm Sài Gòn - Lục tỉnh cũng thầm
khen tác giả vụ cướp - dù chẳng biết là ai - bạo gan
và chơi rất bảnh, khiến tên chủ Tây vừa mất tiền
vừa bẽ mặt. Nhưng với Sơn Vương, đó lại là tai họa
và là vụ cướp cuối cùng trong cuộc đời ngang dọc.
René
Gaillard - kẻ bị hại, vốn cũng xuất thân từ một tên
cướp khét tiếng của đảo Corse và nước Pháp. Cùng với
tên anh ruột là Charlles Gaillard, hắn đã gây ra hàng chục
vụ cướp của giết người. Bị kết án chung thân khổ
sai, hai anh em hắn đã tìm cách khoét vách ngục La Santé ở
Paris và trốn sang Tân Thế Giới, tiếp tục gây tội ác.
Được ít lâu, anh em Gaillard lại bị tóm cổ, thụ án
khổ sai chung thân tại nhà ngục La Cayen - địa ngục trần
gian của Pháp tại Nam Mỹ. Ngồi tù chưa ấm chỗ, chúng
lại vượt ngục trốn vào Hoa Kỳ. Tại đó, René cùng
anh tiến hành đánh cướp một xe chở bạc. Lần này,
Charlles Gaillard bị bắn chết ngay tại trận. Còn lại một
mình với một đống tiền, René Gaillard trốn sang Đông
Dương, dùng số tiền ăn cướp được mua cổ phần của
đồn điền cao su Terreves Rouges và nghiễm nhiên trở thành
Giám đốc hãng cao su Mimot.
Tuy
đã giã từ nghề thảo khấu nhưng trong huyết quản
Gaillard, máu “đảo Corse” vẫn còn ngùn ngụt. Bị Sơn
Vương cướp tiền và bỡn cợt, hắn không chịu nổi.
Gaillard tuyên bố: Thưởng 5000 bạc Đông Dương - một
phần mười số tiền bị cướp - cho bất cứ ai tìm ra
tung tích thủ phạm. Lúc này, Bazin - tên mật thám khét
tiếng tàn ác sau này - đang là một cò tập sự ở bót
Catinat. Y xua hết mã tà, lính kín dưới quyền ra sức
điều tra, lùng sục, quyết giật cho được món tiền
5000 đồng mà Gaillard đã rêu rao.
Vốn
thông minh, cáo già, lại rành tâm lý người Việt, Bazin
rất quan tâm đến những chi tiết tưởng như nhỏ nhặt.
Y nhanh chóng nhận ra rằng, loại xe hơi Clément Bayard, cả
Sài Gòn chỉ có không hơn 10 chiếc. Do đó, y liên tục
gọi tài xế và chủ nhân của những chiếc xe hơi loại
này lên làm “ăng kết”. Bị tra hỏi quá nhiều lần,
Năm Đường biết chắc sẽ bị lật tẩy nên hoảng sợ
đã ra đầu thú, nộp lại 10.000 đồng được chia sau vụ
cướp đồng thời khai ra tên Sơn Vương. Ngày 16 tháng 8
năm 1933, Sơn Vương bị bắt.
Nhận
được điện thoại của cò Bazin, tên giang hồ đảo
Corse phóng xe tới bót Catinat ngay tức khắc. Được thưởng
tiền, Bazin tỏ ra khá biết điều. Y bảo Gaillard:
-
Giao nó cho ông một buổi, muốn làm gì thì tùy thích.
Cởi
trần, xách roi gân bò vào phòng tra tấn, nơi Sơn Vương
đang bị xích hai tay lên trần nhà, Gaillard nhìn đối thủ
mảnh khảnh từ chân lên tới đầu và bảo:
-
Mày cướp của tao năm vạn, tao tính rẻ, cứ một ngàn
đồng tao lấy lại một roi. Mày tính chịu được mấy
roi?
Không
một chút sợ hãi, Sơn Vương cười và trả lời:
-
Ông thích bao nhiêu cứ lấy bấy nhiêu. Bao nhiêu tôi cũng
chịu, chỉ sợ ông mệt.
Điên
tiết, Gaillard xông vào quật liên tiếp lên người Sơn
Vương. Chỉ sau năm roi, chiếc áo lụa của Sơn Vương đã
bị xé nát, rách tơi tả. Nhưng Gaillard vẫn không ngừng
tay. Sơn Vương oằn oại gồng người vận khí chịu đòn
nhưng không hề hé răng kêu rên nửa tiếng. Đến roi thứ
16, Gaillard đã quá mệt, mồ hôi vã ra như tắm. Thấy
mình mẩy Sơn Vương đã nát bét, máu tuôn ra như suối,
nhưng vẫn không nao núng, Gaillard bèn vứt roi, khen:
-
Mày chịu đòn quá giỏi, tao thua. Số roi còn lại, tao cho
mày nợ.
Khạc
ra một bụm máu, Sơn Vương cười mà miệng sưng vêu, méo
xệch:
-
Khỏi, ông cứ lấy cho đủ. Nếu thiếu, tôi sẽ đi cướp
của những thằng giàu như ông chứ chẳng cần phải vay
nợ ai hết, ông nên đánh tiếp đi, kẻo tiếc.
Đến
đó, René Gaillard chỉ còn biết phục sát đất. Hắn đổi
giọng:
-
Ông đúng là gan dạ hơn dân đảo Corse. Tôi kính phục
ông. Số còn lại, coi như tôi xóa nợ cho ông hết.
Bỏ
ra khỏi phòng, Gaillard nói với Bazin:
-
Tao không kiện nữa, thả nó đi!
Bazin
ngạc nhiên. Hắn bảo:
-
Luật là luật, ông tha nhưng tôi không tha.
Không
thuyết phục được Bazin, tên giang hồ đảo Corse tỏ ra
khá áy náy với Sơn Vương. Hắn lại quay trở vào. Đứng
trước mặt Sơn Vương, hắn hứa:
-
Để tỏ lòng kính trọng ông, ngày mở phiên tòa, tôi sẽ
không đến dự.
Và
hắn đã giữ lời.
Một
tháng sau, Sơn Vương bị Tòa tiểu hình kết án năm năm
khổ sai và bị đày ra Côn Đảo.
2.
16 tháng 8 - ngày định mệnh
Đến
Côn Đảo, Sơn Vương bị tống vào banh II, buồng giam tù
thường án. Vụ cướp táo bạo của Sơn Vương khiến đám
thường phạm nể phục, dù so với đa số bạn tù, ông
ít tuổi hơn nhiều. Lẫn giữa đám đầu trộm đuôi
cướp, Sơn Vương nổi trội hơn cả bởi là người có
học, thuộc nhiều tích xưa chuyện cũ, lại giỏi tiếng
Pháp. Vì vậy, mỗi lần có việc cần đề đạt gì với
bọn gác ngục, cả buồng giam đều phải cậy đến Sơn
Vương. Sau chưa đầy một tháng, Sơn Vương đã được
coi như “sếp” buồng giam. ở các buồng bên cạnh,
nhiều chính trị phạm - cả tù Cộng sản lẫn tù Quốc
dân Đảng - cũng có nhiều người từng quen biết Sơn
Vương trong thời gian viết báo, in sách, đôi người còn
tỏ ý ngưỡng mộ. Thấy ông có uy tín với bạn tù, lại
nói năng nhỏ nhẹ, cử chỉ đĩnh đạc, bọn gác ngục
cũng tỏ ra vì nể.
Cuối
năm 1933, giám thị Nguyễn Văn Liễn (Vệ Liễn) quyết
định tổ chức một cuộc thi chữ đẹp tại tù Côn Đảo.
Kết quả, Sơn Vương giành giải nhất, đẹp hơn cả chữ
của các thư ký trên đảo cùng dự thi. Vệ Liễn bèn vận
động chúa đảo cho ông ra làm thư ký giúp việc tại Ty
Ngân khố của tỉnh đảo Côn Lôn. Kể từ đó, Sơn Vương
không phải ngồi xà lim và làm khổ sai nữa. Ban ngày ông
lo ghi chép giấy tờ ở Ty Ngân khố, buổi tối dạy bé
Nguyễn Thị Kim Hoa, 9 tuổi, con gái Vệ Liễn học đến 9
giờ đêm. Sau đó, ông được cắp chiếu về ngủ cùng
chỗ với các nhân viên của Ty Ngân khố.
Lúc
mới ra đảo, ngoài Nguyễn An Ninh, Sơn Vương tỏ ra ngưỡng
mộ các tù chính trị Quốc dân Đảng. Máu giang hồ của
ông bị mê hoặc bởi gương trung liệt của Nguyễn Thái
Học, và một số chiến công của đảng này. Nhưng dù ở
tù, những người Quốc dân Đảng vẫn thẳng tay khủng
bố những người bất đồng chính kiến với họ trong
đường lối đấu tranh cách mạng. Trước mắt Sơn Vương,
Quốc dân Đảng đã tiến hành một số vụ ám sát, khủng
bố ngay tại Côn Đảo chủ yếu nhắm vào tù Cộng sản.
Trong khi đó, những người tù Cộng sản, dù rất căm
giận vẫn không hề tìm cách trả đũa. Ngược lại, họ
vẫn đoàn kết, nhất trí, luôn tìm cách hòa giải những
mối bất đồng, cố hàn gắn mối đoàn kết giữa tù
Cộng sản và tù Quốc dân Đảng. Thần tượng cũ sụp
đổ, lòng ngưỡng mộ của Sơn Vương dần dần dành hết
cho số tù là đảng viên Cộng sản. Lợi dụng công việc
ở Ty Ngân khố, ông thường tìm cách chuyển giấy, mực
vào và giúp những người Cộng sản liên lạc với nhau.
Năm
1936, nền chính trị nước Pháp biến động mạnh. Nội
các Léon Blum và phong trào Mặt trận bình dân lên nắm
chính quyền, tiến hành hàng loạt cải cách dân chủ ở
Đông Dương, trong đó có cả việc đặc xá tù chính trị.
Tháng 7 năm 1936, một số tù nhân ở Côn Đảo được
phóng thích. Sơn Vương cũng được xét trả về đất
liền, tiếp tục thụ hình tại Hà Tiên.
Cạnh
nhà tù ở Hà Tiên có một khu bungalow(*) dành cho các ông
Tây bà đầm nghỉ mát. Một hôm, tên Giám đốc bungalow
người Pháp bị mất 200 đồng. Nghi cho một anh bồi người
Việt lấy cắp, hắn đã tự tay tra khảo anh dã man. Anh
bồi không nhận bị tên Giám đốc tàn ác đốt đèn cầy
và nhỏ sáp nóng vào mũi. Anh bồi chết, dân chúng kéo
nhau biểu tình. Trong tù, Sơn Vương đã hô hào tù nhân
đập phá khám và la ó dữ dội để ủng hộ. Vì vậy,
chủ tỉnh Hà Tiên đã quyết định đày Sơn Vương ra đảo
Phú Quốc.
Tội
ác của thực dân Pháp đi đâu cũng gặp, tên Tây đoan
(quan thuế) kiêm quận trưởng Phú Quốc đã nhiều lần
tác oai tác quái ức hiếp dân trên đảo. Biết chuyện,
Sơn Vương đã âm thầm thu nhập tài liệu và viết bài,
bí mật gửi về cho một số tờ báo ở Sài Gòn. Các báo
cử người ra điều tra và đăng bài lên án mạnh mẽ.
Tên Tây Đoan khát máu bị đuổi đi nơi khác. Tháng 2 năm
1938, tên quận trưởng mới thay đã đưa trả Sơn Vương
về lại Hà Tiên. Ông bị giam giữ thêm 6 tháng, đến
ngày 16 tháng 8 năm 1938, trùng ngày trùng tháng với ngày
bị bắt, Sơn Vương được thả.
Nhưng,
hình như định mệnh đã trói chặt cuộc đời Sơn Vương
với ngày 16 tháng 8. Đúng một năm sau, ngày 16 tháng 8 năm
1939, Sơn Vương lại bị tống vào tù. Lần này, ông bị
bắt vì một lý do hết sức quái gở. Tại ghi-sê bán vé
của một rạp chiếu bóng ở Chợ Lớn, Sơn Vương bị
một gã người Việt hung hăng đạp giày đau điếng. Ông
đẩy hắn ra, tên này lập tức nhảy vào đánh Sơn Vương.
Cáu tiết, ông xô mạnh, tên gây sự bật ngửa ra sau ngã
chỏng gọng. Rất không may, kẻ gây sự lại là... sếp
mật thám của bót Polo (Chợ Lớn). Bẽ mặt, hắn móc
ngay tu huýt cho lên miệng thổi một hồi. Mã tà, lính kín
lập tức bu lại, còng Sơn Vương dẫn về.
Xuất
thân là một võ sĩ đấm boxe (quyền Anh) có hạng, tên
phó cò bót Polo cũng hung hăng không kém gì sếp chánh. Bất
cứ ai mới bị bắt, hắn cũng đòi phải... đấu tay đôi.
Thông thường, cuộc đấu chỉ dừng lại khi kẻ mới vào
đã máu me bê bết và bất tỉnh nhân sự. Vì vậy, người
ta gọi hắn bằng biệt danh Cọp Lửa.
Thấy
Sơn Vương mảnh khảnh nhưng có vẻ ngang tàng, Cọp Lửa
hất hàm hỏi cộc lốc:
-
Biết võ không?
Sơn
Vương cũng đáp cộc lốc:
-
Chịu đòn được.
Cọp
Lửa đòi đấu. Sơn Vương nhã nhặn từ chối:
-
Đây là bót cò, đâu phải sàn boxe ở hội chợ? Nếu ông
cò muốn, tôi đứng cho ông đấm.
Tên
cò tức lắm, xông vào ngay. Sơn Vương không đánh trả,
chỉ xuống tấn vận nội công chịu đòn. Đấm liên tục
10 phút, Sơn Vương vẫn không nhúc nhích, Cọp Lửa đành
ôm hai tay buốt nhức lỉnh sang chỗ khác.
Ra
tòa, Sơn Vương bị kết tội du đãng, bị đưa đi giam
giữ tại căng Pursat (Campuchia). Nhờ giỏi ăn nói, Sơn
Vương xin được một lưỡi cưa, cưa còng và trốn qua
Thái Lan. Không bao lâu, ông lại bị bắt khi tìm cách về
lại Sài Gòn. Lần này, ông bị kết án 10 năm tù vì tội
vượt ngục, bị tống vào phòng 17 bót Catinat, nơi đặt
máy chém. Đầu năm 1942, ông bị đày ra Côn Đảo lần
thứ hai.
3.
Những năm sôi động
Giai
đoạn 1942-1946, quần đảo - nhà tù Côn Lôn xảy ra rất
nhiều biến động. Đặc biệt, quyền cai trị liên tục
bị thay đổi. Tháng 9 năm 1942, phát xít Nhật đã cho quân
đổ bộ lên đảo lần đầu tiên, nhưng chúng chỉ ở
lại ít hôm rồi rút. Ba năm sau, ngày 6.2.1945, tàu chiến
Nhật đã chĩa đại bác vào quần đảo, yểm trợ cho một
trung đội vũ trang đổ bộ lên, bất chấp sự phản đối
của bọn Pháp trên đảo.
Đám
lính Nhật đổ bộ tiến hành ngay việc khống chế đài
vô tuyến điện và tịch thu toàn bộ radio của bọn Pháp,
ra sức tìm cách tiếp xúc với tù nhân, tiếp tế, cung
cấp thông tin và truyền bá thuyết Đại Đông á cho đám
chính trị phạm thân Nhật. Không dám công khai ngăn cản
lính Nhật, lính Pháp đã tìm cách di chuyển nơi làm việc
của đám tù thân Nhật, ngăn không cho những cuộc tiếp
xúc diễn ra. Bị chúng thẳng tay khủng bố, đánh đập
dã man, những tù nhân thân Nhật đã bóng gió bắn tin đe
dọa bọn giám thị người Pháp, đồng thời ấm ức chờ
gió đổi chiều để có cơ hội trả thù.
Sáng
ngày 9.3.1945, thêm hai tàu tuần duyên Nhật lừ lừ tiến
vào Côn Đảo. Mặc cho đám lính Pháp ngơ ngác, bọn Nhật
đã ngang nhiên chất lên bờ một số thiết bị, khí tài
chiến tranh. Xong việc, hai chiếc tàu tuần duyên không
những không rút lui, lại còn kê tất cả nòng pháo hướng
thẳng vào đất liền. Đánh hơi thấy chuyện chẳng lành,
đích thân Tyssery, giám đốc Nhà tù Côn Đảo đã đến
trại Nhật, yêu cầu được giải thích. Tên sĩ quan chỉ
huy Nhật Bản ngang nhiên trả lời:
-
Chúng tôi đưa hàng lên để lắp đặt một trạm vô
tuyến.
Đồng
thời hắn ra lệnh:
-
Mời ông Tyssery ở lại.
Thực
chất bọn Nhật muốn giam lỏng Tyssery không cho quay về.
Ngay đêm đó, không tốn một phát đạn, Nhật đã tước
hết toàn bộ vũ khí của lính Pháp, chiếm giữ trại
lính, dinh giám đốc, đài vô tuyến và toàn bộ vị trí
phòng thủ trên đảo. Bốn ngày sau, giám đốc Tyssery và
viên đại úy chỉ huy lính Pháp ở Côn Lôn được tàu
chiến Nhật đưa về đất liền. Quyền cai quản nhà tù,
Nhật giao cho phó giám thị Hilaire đồng thời giữ nguyên
bộ máy giám thị Pháp - Việt như cũ.
Chỉ
sau đó ít hôm, máy bay đồng minh đã tiến hành nhiều
đợt oanh kích Côn Đảo. Bom đạn Mỹ đã đánh sập hải
đăng hòn Bảy Cạnh, Nhà đèn, Sở lưới và một số cơ
sở sản xuất trên đảo, giết chết hàng chục tù nhân
đang lao động ở các khu vực này. Một số tù nhân đã
lợi dụng lúc tình hình nhốn nháo, thoát ra khỏi vòng
rào trại giam. Đám tù thân Nhật trong trại cũng bắt đầu
trỗi lên phá phách, gây yêu sách.
Đòi
hỏi của chúng đã được bọn Nhật đáp ứng bằng một
hành động mị dân: trao quyền chúa đảo cho Lê Văn Trà
- nguyên thư ký của Tyssery, đồng thời tiến hành
cái gọi là “lễ trao trả độc lập” và biến quần
đảo Côn Lôn (tiếng Pháp: Poulo Condore) thành cái gọi là
“Quốc gia tự do Nông dân huynh đệ quần đảo Côn Lôn
(Etat libre agricole et fratemel d’ Archipel de Poulo Condore)”.
Trong buổi lễ, Lê Văn Trà đã không tiếc lời ca ngợi
công lao của quân đội Thiên Hoàng và Thống đốc Minoda.
Sau đó, Trà đã công bố đạo dụ của Chính phủ Trần
Trọng Kim về việc các chính trị phạm kể từ ngày này
được Chính phủ Việt Nam trả lại tự do và được coi
như mọi người khác trong nước. Nhưng thực chất, chỉ
có 150 tù thân Nhật là được đi lại tự do và được
phóng thích sau hai tuần. Những người khác, ngay sau buổi
mít tinh đã bị xua trở lại, lại vào khám, tiếp tục
bị giam giữ như cũ.
Ngay
sau khi thoát cũi sổ lồng, bọn tù thân Nhật đã đi ngay
vào cuộc trả thù những cai ngục Pháp - Việt. Chúng cũng
thừa cơ hội khủng bố, hành hạ một số tù nhân Cộng
sản, tù thường phạm dám công khai phản đối chúng. Để
ủng hộ tù Cộng sản, Sơn Vương đã đứng ra vận động
một số thường phạm, công khai âm mưu của bọn tù thân
Nhật, đồng thời vạch mặt tuyên bố nếu đám này có
hành động quá khích, họ sẽ đứng ra chống lại.
Giỏi
ăn nói và có uy tín, Sơn Vương đã được khá đông
thường phạm có lương tri ủng hộ. Do đó, bọn tù thân
Nhật cũng chùn tay, không dám đối xử tàn ác với những
bạn tù khác. Mũi nhọn khủng bố của chúng dồn hẳn
sang hướng đám cai ngục cũ. Một số gác ngục hung hãn
hồi trước như Toustou, Lantali, đã bị đánh trọng
thương, phải vào nhà thương Côn Đảo điều trị. Sau
này, được những người Cộng sản kiên trì thuyết
phục, không ít người trong số họ đã ngả sang chủ
trương liên minh giữa những người Cộng sản và các lực
lượng dân chủ, tiến bộ chống phát xít, bình tĩnh đối
phó với các hành động khiêu khích của đám tù thân
Nhật đang được chính quyền bù nhìn dung túng.
Thấy
uy tín của khối Đại Đông á đang bị rơi rụng dần,
bọn Nhật trên đảo và chính quyền Lê Văn Trà bèn tìm
cách đối phó bằng cách thực hiện một số cải cách
dân chủ. 8 chiếc ghe bầu được gửi từ đất liền ra
để rước đám tù thân Nhật thuộc các giáo phái Cao
Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa giáo, Phật giáo về. Trên đảo,
Trà cho mở lại trường tiểu học và ra tờ báo “Tiếng
nói tự do”. Sợ tù Cộng sản sẽ biến tờ báo thành
diễn đàn chống phát xít, Lê Văn Trà đã giao cho Sơn
Vương phụ trách. Sau khi nhận chức chủ bút, Sơn Vương
đã được đi lại khá tự do. Lấy lý do đảo đã được
tự do, tù nhân cần và được quyền biết tin tức, Sơn
Vương đã thuyết phục được Lê Văn Trà cho tù nhân
được sửa lại một chiếc radio hỏng. Dù không muốn,
song Lê Văn Trà cũng không thể phản đối.
Dưới
sự chỉ huy của Tôn Đức Thắng - người lính thợ nổi
tiếng từng kéo cờ phản chiến trên biển Hắc Hải
trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất - một tốp thợ
tù đã sửa chữa xong chiếc radio, sau đó sửa luôn được
một chiếc canô hỏng. Qua sóng radio, tin cách mạng tháng
Tám đã thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên
ngôn độc lập đã khiến cả đảo hồ hởi reo mừng.
Bọn gác ngục và bọn thân Nhật bắt đầu co vòi lại
không dám lộng hành.
Tối
ngày 16.9.1945, tàu Phú Quốc và 32 ghe bầu chở theo 10 tấn
gạo tiếp tế của Cách mạng đã cặp bến Cỏ ống.
Rạng sáng hôm sau, cờ đỏ sao vàng đã phất phới bay
rực cầu tàu Côn Đảo. Tham tá Lê Văn Trà nộp con dấu
của nhà tù cho chính quyền Cách mạng.
Sau
một tuần lễ sửa chữa, đoàn tàu, thuyền lại quay mũi
ra khơi. 1.800 chính trị phạm được giải thoát đưa về
đất liền. Đến đầu tháng 12 năm 1945, ủy ban hành
chính Nam Bộ lại gửi một đoàn ghe ra Côn Đảo rước
tù do đồng chí Văn Cừ làm trưởng đoàn. Ngày
11.12.1945, dưới sự chứng kiến của phái đoàn Văn Cừ,
Lê Văn Trà đã đứng ra tổ chức một cuộc bầu cử dân
chủ trên đảo. 12 người trong đó có sáu giám thị, sáu
tù nhân đã được bầu vào bộ máy chính quyền mới.
Ngày 15 tháng 12, ủy ban hành chính mới của Côn Đảo
chính thức được công bố, Sơn Vương Trương Văn Thoại
chính thức trở thành Chủ tịch ủy ban.
ở
cương vị mới mẻ này, Sơn Vương tỏ ra là một vị chủ
tịch năng nổ và có khả năng lãnh đạo. Ngay sau khi nhậm
chức, Sơn Vương đã sốt sắng bắt tay ngay vào việc tổ
chức lại sản xuất, từ thu hoạch lúa, đánh bắt hải
sản đến khai thác củi, đá, làm vệ sinh... Ông đã đề
ra một số biện pháp khuyến khích lao động như chia một
phần thành quả cho người làm ra sản phẩm. Mặt khác,
việc lao động sản xuất dưới thời Sơn Vương lãnh đạo
được coi như bắt buộc, cả các thành viên ủy ban lẫn
các công chức, giám thị cũ cũng phải trực tiếp tham
gia. Ông cũng tỏ ra kịp thời và chính xác khi xác định
những việc cần làm cấp bách, giao đúng người đúng
việc, từ tổ chức một tổ y tế vào núi tìm thuốc trị
bệnh đến việc xuất toàn bộ vải vụn trong kho giao cho
tổ phụ nữ may quần áo cộc cấp tốc để phát cho một
số tù nhân thiếu thốn.
Giai
đoạn đầu, uy tín của Sơn Vương khá cao. Khi phái đoàn
Văn Cừ đón tù về đất liền, ông đã đồng ý ở lại,
tiếp tục cùng chính quyền mới khôi phục cuộc sống và
trật tự của đảo, dù trong lòng rất nôn nao mong được
trở lại đất liền. Ngoài tinh thần trách nhiệm, việc
đồng ý ở lại Côn Đảo của Sơn Vương có một phần
níu kéo của một lý do khác: tình yêu. Người tạo ra sức
hút mãnh liệt ấy là Lệ Hoa, tức Nguyễn Thị Kim Hoa,
con gái của Vệ Liễn và là cô học trò nhỏ tại đảo
của Sơn Vương từ hơn 10 năm trước.
Khi
Sơn Vương bị đày ra Côn Đảo lần thứ 2 (1942), cô bé
học trò 9 tuổi ngày xưa đã trở thành một thiếu nữ
18 tuổi, đẹp rực rỡ, được coi như hoa khôi của Côn
Đảo. Có học thức, thích thơ ca, đặc biệt là ngâm
vịnh Kiều, Lệ Hoa tỏ ra cảm phục tài năng của huyền
thoại Sơn Vương. Lúc này Lệ Hoa cũng đang là một cô
giáo tiểu học trên đảo. Cô thường bí mật đem những
thắc mắc trong sách vở nhờ Sơn Vương giải thích giúp.
Là người có chữ, từng đọc nhiều sách chữ Hán, đối
với Sơn Vương, Lệ Hoa hội đủ cả tám tiêu chuẩn của
một mỹ nhân, với “hoa diện” (mặt tươi như hoa),
“nguyệt thần” (thần thái trong sáng như ánh trăng),
“điểu thanh ngôn” (tiếng nói trong trẻo như chim hót),
“liễu thái” (dáng dấp mềm mại như nhành liễu),
“băng tuyết bì” (da trắng như tuyết), “ngọc cốt”
(tinh thần kiên định như viên ngọc), “thu thủy tư”
(tâm hồn tĩnh lặng như nước hồ thu) và “thi thư tiên”
(có học thức, coi trọng chữ nghĩa). Choáng ngợp trước
nhan sắc của cô, Sơn Vương cũng tỏ ra rất hào hứng
khi được đáp ứng các thắc mắc. Tình thầy trò, chú
cháu ngả dần thành tình yêu, dù Sơn Vương hơn Lệ Hoa
13 tuổi. Nhưng vì cuộc đời vẫn phải náu thân sau song
sắt, chí lớn còn lưu nơi đảo vắng, Sơn Vương chỉ
còn biết thổ lộ lòng mình qua mấy câu thơ nuối tiếc
mà ông bí mật nhờ lính gác gửi tận tay ý trung nhân:
Ước
gì kéo được thời gian
Cho
tôi trẻ lại, cho nàng già hơn
Khi
phụ trách tờ Tiếng nói tự do, Sơn Vương lại sáng tác
một bài thơ dài có tựa Vịnh Hai Bà Trưng để thổ lộ
lòng mình với Lệ Hoa. Sợ chưa đủ cho người đẹp hiểu
thấu tâm tình, ông lại bỏ ra cả ngày trời, dùng chiếc
bút máy hiệu Kaolo mang từ đất liền ra tỉ mẩn chép
bài thơ dài hơn 400 chữ này lên mặt sau của vỏ một
bao diêm và gửi cho Lệ Hoa. Quả nhiên, bức thư tình đọc
bằng... kính lúp độc đáo ấy đã khiến trái tim cô hoa
khôi chao đảo. Vài ngày sau, cô học trò xưa đã trả lời
thầy giáo cũ bằng hai hàng chữ nắn nót:
Sa
trường chí nhượng tài trai
Phòng
xuân trỗi gót dặm ngoài có em.
Tình
cảm đã trở nên sâu đậm, nhưng vẫn đang là một người
tù, nên Sơn Vương đành nén lại, chờ đợi. Cuối cùng,
ông cũng đã tìm được thời điểm. Khi trở thành Chủ
tịch ủy ban hành chính Côn Đảo, Sơn Vương lập tức
chỉ định ngay Lệ Hoa làm Hội trưởng Hội phụ nữ của
đảo. Từ đây, người tù đã có thể công khai trò
chuyện với người yêu mà không sợ sự ngăn cấm của
ông bố Vệ Liễn - người gác ngục.
4.
Đảo quốc Côn Lôn và những tham vọng phiêu lưu
Công
bằng mà nói, trong thời gian nắm quyền lãnh đạo quần
đảo Côn Lôn, Sơn Vương đã làm được khá nhiều điều
tốt đẹp, góp phần ổn định cuộc sống và giữ gìn
an ninh trật tự trên đảo. Nhưng đó chỉ là giai đoạn
đầu, khi những người Cộng sản còn có mặt. Ngay sau
khi phái đoàn Văn Cừ trở về đất liền, không còn ai
kiềm giữ, bản chất lục lâm thảo khấu, anh hùng cá
nhân trong con người Sơn Vương mới thật sự bộc lộ.
Đầu
tiên, Sơn Vương cho sửa sang lại phần mộ của nhà cách
mạng Nguyễn An Ninh và tổ chức một lễ tế khá rình
rang. Trước bàn thờ mới lập, khói hương nghi ngút, Sơn
Vương tuyên bố:
-
Từ nay, quần đảo Côn Lôn chính thức trở thành “Quốc
gia trung lập dân chúng quần đảo An Ninh” (Etat neutre des
Insulaire de L’ Archipel d’ An Ninh).
Đồng
thời, ông tự xưng là... Quốc vương của “quốc gia”
mới lập. Không ít người trên đảo tỏ ý không phục,
Sơn Vương tìm cách giải thích bằng cách tung ra luận
điệu:
-
Tên tôi là Sơn Vương, có nghĩa là “Vương” của đảo
Côn Sơn, mệnh ấy do trời định.
Giải
thích xong, Sơn Vương tuyên bố:
-
Bất cứ ai chống lại mệnh trời, người đó sẽ
bị
trừng trị.
trừng trị.
Chưa
hết, dù các ban bệ trên đảo đều được thành lập
bằng con đường bầu cử, nhưng Sơn Vương vẫn cố tình
biến nó thành một thứ triều đình. Mỗi một buổi họp,
Sơn Vương chễm chệ trên chiếc ghế bành kê ở thềm
cao, bá quan văn võ xếp hai hàng ngồi thấp phía dưới.
Trước khi muốn báo cáo, mọi người đều phải tiến ra
giữa hai hàng người chắp tay trước mặt Sơn Vương và
mở đầu bằng câu: “Thưa thủ lãnh..!”.
Sau
ngày 15.12.1945, không còn người tù chính trị nào ở lại,
cả đảo chỉ còn lại toàn thường phạm cũ, cho nên
triều đình phường tuồng của Sơn Vương không bị ai
phản đối. Nhưng, đám lưu manh cũng nhân cơ hội đó
ngóc đầu dậy, hành hung sách nhiễu dân chúng trên đảo.
Cảnh sát trưởng Nguyễn Thành út vốn xuất thân là một
tên du thủ du thực, bị kết án 10 năm khổ sai, đã nhiều
lần ngang nhiên vào nhà dân giở trò cướp bóc, trêu ghẹo
phụ nữ. Biết chuyện, thay vì đưa út ra kỷ luật công
minh, Sơn Vương lại có cách xử sự hết sức quái chiêu
và đẫm chất giang hồ. Trước văn võ bá quan, ông thẳng
tay giáng cho Nguyễn Thành út một tát tai và ném ra lời
thách thức:
-
Tôi với anh giao đấu tay đôi. Nếu thắng, anh muốn làm
gì mặc sức. Nếu thua, tôi sẽ chặt một cánh tay để
anh khỏi làm bậy.
Tự
lượng sức không thắng nổi Sơn Vương, Nguyễn Thành út
đã dập đầu lạy như tế sao, xin Sơn Vương tha tội. Từ
đó, nạn cướp bóc, sách nhiễu dân chúng mới lắng
xuống.
Trở
thành “quốc vương” của quần đảo, Sơn Vương bắt
đầu nghĩ đến việc thực hiện giấc mơ của ông: cưới
Lệ Hoa làm vợ. Ông đặt ra một bài vè tự ca ngợi
mình, bắt trẻ con trên đảo hát, coi đó như “Quốc ca
Côn Lôn quốc”. Trong đó có câu:
Lệ
Hoa đệ nhất Côn Lôn quốc
Trương
Vạn Năng tứ hải vô song...
Tình
thâm của Sơn Vương, con gái người gác ngục không từ
chối. Nhưng Vệ Liễn, cha cô thì vẫn khăng khăng cự
tuyệt, không chịu gả con gái cho “tên tù kẻ cướp”.
Thuyết phục mãi không được, Sơn Vương đành phải lập
kế. Ông cho hàng loạt đàn em thảo đơn tố cáo tội ác
của giám thị Nguyễn Văn Liễn đối với tù nhân của
chế độ trước. Lá đơn tố cáo với hàng chục chữ ký
được đệ trình lên cho “quốc vương” yêu cầu minh
xét. Nắm cớ, Sơn Vương sai Cảnh sát trưởng Nguyễn
Thành út bắt Vệ Liễn tống giam để “điều tra”.
Cha
bị bắt, Lệ Hoa hoảng sợ, vào gặp Sơn Vương khóc lóc,
năn nỉ xin thay cha chuộc tội. Chỉ đợi đến đó, Sơn
Vương liền sai một tay Hội đồng dân biểu là Nguyễn
Văn Đây (Hai Đây) vào khám gặp Vệ Liễn. Hai Đây vạch
cho viên cựu giám thị rõ:
-
Ông chỉ còn một con đường, gả cô Lệ Hoa cho Sơn
Vương, nếu không sẽ chết. Nếu gả con gái, ông nghiễm
nhiên đã là nhạc phụ của chúa đảo, tất nhiên không
ai dám đụng đến ông, mọi tội lỗi xưa coi như xóa
sạch.
Vệ
Liễn suy nghĩ hồi lâu, sau đó xin được gặp con gái và
đem toàn bộ thiệt hơn hỏi ý Lệ Hoa. Dù trong lòng cờ
mở trống giong nhưng Lệ Hoa cũng vờ tỏ ra miễn cưỡng
khi gật đầu, không quên kèm theo lệ chảy hai hàng. Cô
muốn tỏ rõ một sự hy sinh đành nhận lời bán mình
chuộc cha cho thật giống Thúy Kiều, dù trong tim cô không
còn mơ ước nào lớn hơn là được làm vợ Sơn Vương.
Ngày
28.2.1946, đám cưới của Sơn Vương - Lệ Hoa được tổ
chức. Lúc này, trên đảo còn lại 200 bao gạo, một phần
ba trong đó đã mục nát. Sơn Vương cho xuất một phần
số gạo mục này ra xay bột làm bánh hỏi, bún, bánh bò
rễ tre, nấu rượu và cho bắt heo quay làm tiệc đãi
khách. Để xứng đáng với địa vị một quốc vương,
ông sai người dọn dẹp, quét vôi trang trí lại ngôi nhà
của chúa đảo Hilaire để làm tổ ấm hạnh phúc đón
dâu. Chiếc xe Jeep của chúa đảo cũng được sơn lại và
kết hoa để làm xe rước dâu. Xe hoa chở cô dâu chú rể
chạy lòng vòng khắp đảo suốt cả buổi sáng. Trẻ con
trên đảo chạy theo la hét inh ỏi. Trên xe, Sơn Vương
liên tục vẫy tay chào đám “thần dân”. Đến tận
sáng hôm sau, mọi người vẫn tha hồ ăn uống và nhảy
múa. Có lẽ, đây là đám cưới lớn nhất có một không
hai ở Côn Đảo.
Khi
quyết định tổ chức đám cưới linh đình, Sơn Vương
đã gặp không ít lời dị nghị và phản đối. Đang say
cả men tình lẫn men quyền lực, ông vẫn bất chấp. Ngay
sau hôm hôn lễ, có một người là ông già Quýt đã công
khai đứng ra chỉ trích Sơn Vương về hai tội: Thứ nhất,
lạm dụng quyền hành để ép hôn Lệ Hoa. Thứ hai, tổ
chức đám cưới quá thừa mứa và lãng phí, trong khi
lương thực, thực phẩm trên đảo đã cạn kiệt. Đang
ngây ngất, Sơn Vương đùng đùng nổi giận sai thủ hạ
giết chết ông lão. Ngày 26.3.1946, xác ông già Quýt được
phát hiện. Dân chúng trên đảo lập tức kéo nhau đến
dinh chúa đảo, gào thét đòi truy tìm và trừng trị kẻ
thủ ác. Lúc này, Sơn Vương mới bắt đầu nao núng, đành
phải hứa tổ chức điều tra.
Do
không được tiếp tế, Côn Đảo bắt đầu phải đối
diện với nạn đói, thiếu thuốc men, nhu yếu phẩm
nghiêm trọng. Bí thế, Sơn Vương vội cử người về đất
liền xin viện trợ. Nhưng chờ mãi, đoàn sứ giả vẫn
không quay trở lại. Túng quẫn, đám lưu manh lại bắt
đầu lộng hành, tha hồ đào tường khoét vách, bắt cóc
tống tiền không sao dẹp hết. Nhiều người dân trên đảo
không chịu nổi đã liều lĩnh tự đóng ghe, bè trốn về
đất liền. Không quản nổi trật tự, Sơn Vương bèn ban
lệnh: ai tự ý bỏ trốn sẽ bị nhốt xà lim chín tháng.
Vô ích. Số người bỏ trốn vẫn ngày một tăng. Trong
khi đó, radio lại phát ra toàn tin xấu: Pháp đã tái chiếm
Nam Kỳ, chiến tranh đã quay trở lại... Côn Đảo đã bị
cô lập và viễn cảnh bị Pháp tái chiếm đã không còn
xa xôi nữa.
Trong
tình cảnh rối ren đó, Lệ Hoa tỏ ra sáng suốt hơn cả.
Cô khuyên Sơn Vương: nên về đất liền tham gia kháng
chiến hơn là ngồi bó tay chờ Pháp đến nộp mình.
Sơn
Vương đồng ý. Ông thảo công văn gửi Chủ tịch ủy
ban kháng chiến tỉnh Sóc Trăng Dương Kỳ Hiệp ngỏ ý
muốn xin về kháng chiến, đồng thời nhờ ông chủ tịch
tạo điều kiện cho sứ giả của Sơn Vương gặp phái
đoàn Văn Cừ để bàn tính dọn đường về. Đoàn sứ
giả gồm: Trần Phẩm - cựu tù nhân, mã tà 88 Đức và
hai thành viên khác (một nam, một nữ) trong ủy ban hành
chính Côn Đảo. Vào đất liền, hai tuần sau họ mới trở
lại nhưng không bắt được liên lạc. Họ cho biết:
trong đất liền, chiến tranh đã lan rộng, quân Pháp đã
chiếm được nhiều nơi.
Nóng
lòng và hoang mang, Sơn Vương tính nước manh động đánh
bài... chuồn! Ngày 20.3.1946, ông cho hạ thủy một chiếc
thuyền, dự định cùng Lệ Hoa và một số người tin cẩn
bỏ trốn. Nhưng do thuyền đóng vội, vừa xuống nước
đã bị sóng đẩy vào bờ đá và đánh vỡ tan nên dự
định đã bất thành.
Biết
không còn đường rút, ngày 25.3.1946, Sơn Vương đã tập
trung dân chúng để nghe ông đọc một bài diễn văn xin
nhường quyền cai trị lại cho những người Pháp trên
đảo. Nhưng, những người Pháp có mặt đã không nhận.
Ông lại phái thêm 3 người về đất liền đi sứ, yêu
cầu Pháp tiếp tế lương thực cho Côn Lôn, đồng thời
xin cho mình một bộ đồ, 1 súng lục, 1 nón nỉ và 1 xe
đạp. Giấc mơ “định bá đồ vương” trong tuyệt vọng
đã teo lại thành vài món đồ vặt vãnh, song Sơn Vương
cũng không được toại nguyện. Thay vì trả lời, quân
Pháp đã tống giam 3 sứ giả của Sơn Vương vào bót
Catinat và phái tàu chiến ra tái chiếm Côn Đảo.
Ngày
8.4.1946, đại úy Gimbert chỉ huy ba chiến hạm chở 2 đại
đội lính hỗn hợp gồm cả Pháp, Âu - Phi và lính bản
xứ tiến vào Côn Đảo theo đường Bãi Nhà Thờ. Mờ
sáng, nghe đại bác Pháp bắn lên bãi để dọn đường,
Sơn Vương đã dẫn toàn bộ “triều đình” chờ sẵn ở
bậc thềm trụ sở để nghênh tiếp. Nhưng, ông không còn
đủ thời gian để đọc nốt bài diễn văn cuối cùng
của đời mình. Theo lệnh của Gimbert, Sơn Vương và toàn
bộ tù thường phạm còn lại (gồm 400 người) đã bị
tống giam ngay tức khắc. Riêng Lệ Hoa và gia đình cô,
Pháp vẫn cho tự do ở trên đảo.
Khi
ba chiến hạm Pháp vừa tiến vào Bãi Nhà Thờ, một tên
Việt gian là Đinh Công Thành đã bí mật lẻn ra Sở Muối
cung cấp tin tức và dẫn đường cho quân Pháp đổ bộ.
Sơn Vương bị tống ngục, tên Thành mượn gió bẻ măng,
đứng ra tố cáo ông là phần tử nguy hiểm, cần phải
canh gác cẩn thận. Vì vậy, Sơn Vương bị quân tái chiếm
đối xử hết sức tàn tệ, suýt nữa bị đem ra hành
hình tại chỗ. Nhờ có Lệ Hoa và giám thị Toustou đứng
ra xin giúp, ông mới tránh được cái chết đã kề gang
tấc.
Vào
tù, Sơn Vương lại gặp thêm một đại nạn. Bị ông tát
tai sỉ nhục dạo trước, tên lưu manh Nguyễn Thành út
nung nấu chờ cơ hội trả thù. Hắn đã không ngần ngại
bịa ra chuyện Sơn Vương đang giữ bản đồ kho báu của
Gia Long giấu lại trên đảo khi chạy trốn quân Tây Sơn
năm 1783. Tưởng thật, chúa đảo Gimbert và tên cò Pellier
đã tra tấn Sơn Vương hết sức dã man để bắt ông khai
nơi giấu bản đồ. Bị đánh đập quá đau, Sơn Vương
đành nhận bừa là có kho báu và vẽ lại một tấm bản
đồ ma. Vì tội đó, ông lại bị thêm hàng chục trận
đòn dã man khác.
Năm
1947, Sơn Vương bị điệu về Sài Gòn để hầu tòa. Với
hai tội danh mới là cưỡng hôn Lệ Hoa và giết ông già
Quýt, Sơn Vương phải lĩnh thêm một án tù chung thân khổ
sai. Sau đó, ông bị đưa ra lại Côn Đảo để thi hành
án, trở thành tù nhân mang thẻ số 313C, giam tại hầm số
8, khu biệt lập, lao 2. Vào tù, ông viết thư cho vợ Vệ
Liễn, yêu cầu bà thuyết phục chồng về Sài Gòn làm
việc để Lệ Hoa có cơ hội tái giá, và quên hẳn mình.
6 tháng sau, Sơn Vương nhận được thư, một số nhu yếu
phẩm và 2000 đồng do Lệ Hoa gửi người quen cầm vào.
Sau đó, chim trời cá nước, cả hai bặt tin nhau cho đến
tận cuối đời.
Sáu
năm sau, ngày 8.8.1953, trong một buổi được ra ngoài lao
động, Sơn Vương đã bất ngờ chạm trán với Nguyễn
Thành út, kẻ đã vu oan giá họa cho ông trong chuyện “kho
vàng”. Lúc này, út đã được bọn gác ngục cho làm
“cặp rằng” để hành hạ tù nhân. Máu hận thù sôi
lên đẩy Sơn Vương xông tới. Nắm chặt cổ áo tên chó
săn đã vu oan giá họa cho mình, Sơn Vương bảo:
-
Mày là con chó không đáng sống. Nhưng nếu bây giờ tao
giết mày, người ta lại bảo là tao trả thù không quân
tử. Thôi thì tao cho mày cơ hội cuối cùng, mày với tao
quyết đấu. Muốn chơi bằng thứ vũ khí gì, mày hãy
chọn đi.
Không
còn đường trốn tránh, Sơn Vương vừa quay lưng, Nguyễn
Thành út đã vớ ngay một khúc cây, từ phía sau nhắm
thẳng đầu ông bổ xuống. Cú đánh lén không đạt mục
đích. Chỉ một cú xoay người Sơn Vương đã tước được
vũ khí của tên lưu manh mạt hạng. Thuận tay, ông giáng
cho hắn một gậy nằm quay đơ. Vốn căm ghét tên “cặp
rằng” tàn ác, các tù nhân khác đã không can thiệp để
mặc cho Sơn Vương đập nát thây Nguyễn Thành út. Vì tội
mới, Sơn Vương lại phải nhận thêm một án chung thân
khổ sai nữa. Theo qui định, án chung thân hồi đó được
tính là 32 năm. Tổng cộng, đời Sơn Vương đã 4 lần
nhận án gồm 1 lần 5 năm, 1 lần 10 năm và hai án chung
thân (32 năm). Tính tổng cộng, ông phải nhận mức án
những 79 năm tù.
Mãi
cho đến năm 1968, sau đúng 34 năm ngồi tù (từ 1933), Sơn
Vương mới được ân xá. Trước đó, năm 1967, tờ Tin
Sáng và một số tờ báo đối lập ở Sài Gòn đã liên
tục đăng bài điều tra về chế độ hà khắc, phát xít
của nhà tù Côn Đảo. Cũng trong năm này, liên minh Thiệu
- Kỳ đã đắc cử Tổng thống và Phó Tổng thống Việt
Nam Cộng hòa. Để mị dân, Thiệu - Kỳ hứa sẽ tìm hiểu
và cải thiện điều kiện sinh hoạt ở Côn Đảo. Biết
Sơn Vương ngày xưa từng là một nhân vật khá có tiếng
tăm, trong khi hiện tại gần 60 tuổi, đã sức tàn lực
kiệt, không còn khả năng gây nguy hại cho bộ máy quyền
lực Việt Nam Cộng hòa, Thiệu - Kỳ quyết định giải
thoát cho Sơn Vương, hòng lấy lòng dân chúng. Ngày
18.11.1968, ông được phóng thích. Thiệu - Kỳ đã điều
hẳn một chiếc trực thăng quân đội bay ra đảo đón
ông về.
Trở
lại đời thường, Sơn Vương được khá nhiều báo chí
thời đó săn đón. Thiên phóng sự Sơn Vương - người tù
thế kỷ mà ông cho đăng feilleuton trên một số báo chí
chỉ khiến dư luận ồn ào được một thời gian ngắn.
Chiến tranh đang ngày một khốc liệt, người dân miền
Nam còn nhiều chuyện đáng để quan tâm hơn một số phận
Sơn Vương.
Bị
cuộc đời quên lãng, Sơn Vương lặng lẽ lui về sống
ẩn dật ở một ngôi nhà nhỏ trong con hẻm ngoằn ngoèo,
nay là nhà số 137/52 Nguyễn Cư Trinh, quận 1, Tp. Hồ Chí
Minh. Tại đó, ông mưu sinh bằng nghề bốc thuốc Nam gia
truyền. Căn nhà nhỏ có gác gỗ này do bà Phạm Thị Hoa
- người vợ gá nghĩa lúc tuổi đã xế bóng - tậu cho
ông. Năm 1978, Sơn Vương ly dị bà Hoa, tiếp tục gá nghĩa
với Nguyễn Thị Tám, một người đàn bà thua ông 30
tuổi.
Thỉnh
thoảng, một vài người khách, thường là các nhà văn,
nhà nghiên cứu sử học, những người có quan tâm đến
lịch sử nhà tù Côn Đảo có ghé đến ngôi nhà nhỏ
thăm hỏi Sơn Vương. Thời gian còn lại, ông sống trong
cô độc, không bạn bè, không gia đình và không cả hồi
quang quá khứ. Mỗi lúc có khách, ông già Sơn Vương ngày
thường sống âm thầm, lặng lẽ lại tỏ ra hoạt bát
hẳn. Trong những lúc hồi tưởng lại thời quá vãng, Sơn
Vương thường tỏ ý tiếc nuối bởi thời trai trẻ dọc
ngang không gặp được cách mạng, không đem được tài
năng nhiệt huyết cống hiến cho dân tộc. Ông thường
ngửa mặt than:
-
Vì máu anh hùng cá nhân, đời tôi vĩnh viễn chỉ còn lại
là huyền sử quá gần tội lỗi, không còn dịp để bước
vào chính sử như sở nguyện.
Những
lúc như vậy, Sơn Vương thường để khách ngồi lại một
mình bên bàn trà, chạy xuống bếp, xách lên một con dao
yếm. Vén áo, phơi bụng và vận công, Sơn Vương mạnh
tay chém dao bình bịch vào bụng, mặc cho khách trợn mắt,
tái mặt vì kinh sợ và thầm phục. Sau đó, khẽ vuốt
lại những đường lằn nổi đỏ trên khoang bụng, tay
giang hồ tóc bạc lại nở một nụ cười buồn và tự
huyễn hoặc mình, rằng:
-
Bụng vẫn còn cứng!
Năm
1984, Sơn Vương trở lại quê nhà Gò Công và mất tại đó
vào năm 1987.
5.
Và cha và con và...
Giữa
tháng 8 năm 1999, hơn 12 năm sau ngày Sơn Vương mất, bằng
những tư liệu về ông thu thập trong nhiều năm, trên báo
An
ninh thế giới
chúng tôi đã cho đăng một loạt tư liệu nhiều kỳ có
tựa là: Quái kiệt Sơn Vương và 32 năm ngồi tù khổ sai
Côn Đảo. Chưa thật đầy đủ, song loạt bài cũng đã
cung cấp cho người đọc được những nét chính về một
nhân vật giang hồ kỳ lạ và khá độc đáo, một hình
ảnh mang đậm cá tính phóng khoáng, kiên cường của
người Nam Bộ những thập niên đầu của thế kỷ XX. ít
nhiều, loạt bài viết cũng có được khá đông đảo bạn
đọc đón nhận với thái độ quan tâm thú vị. Một số
bạn đọc sau đó còn nhiệt tình giúp chúng tôi tìm thêm
tư liệu hình ảnh về nhân vật, hòng hoàn thiện thêm
bức chân dung độc đáo và khá lãng mạn của một tay
giang hồ quái kiệt.
Một
tháng sau ngày loạt bài ra số đầu tiên, tại một căn
nhà khang trang trên đường Tân Kỳ Tân Quý, quận Tân
Bình, chúng tôi đã may mắn được tiếp xúc và trò
chuyện với một bạn đọc hết sức đặc biệt và bất
ngờ. Đó là một bà cụ chừng 70 tuổi, dáng vẻ khá
lịch lãm, tự tin - phong cách thường gặp ở những tao
nhân mặc khách. Trên khuôn mặt của cụ, tuổi tác vẫn
chưa xóa hết được dấu vết của một người đàn bà
có nhan sắc mặn mà, khi còn trẻ có thể được xem là
mỏng mày hay hạt. Rót nước mời chúng tôi, bà cụ tự
giới thiệu về mình:
-
Tôi là Trương Ngọc Nữ, con gái của nhà văn Sơn Vương
Trương Văn Thoại. Tôi vừa về từ Canada được đúng
một ngày.
Lời
giới thiệu khiến tôi giật mình. Quả thật, người đàn
bà ngồi trước mặt tôi giống Sơn Vương như đúc. Cũng
khuôn mặt nhỏ, thanh tú, cũng sống mũi cao, vầng trán
rộng và đặc biệt là cái miệng với đôi môi luôn mím
chặt... So với ảnh Sơn Vương lúc về già, bà Nữ không
khác chút nào. Không thể nghi ngờ, song tôi hết sức phân
vân, bởi trong quá trình tìm tư liệu về ông kéo dài
suốt nhiều năm, tôi chỉ biết chắc một điều là Sơn
Vương có khá nhiều vợ nhưng chưa bao giờ nghe ai nhắc
đến chuyện tay lãng tử bạc đầu này có một người
con. Mối băn khoăn vừa thoáng hiện ra đã lập tức được
xua tan bởi dòng hồi ức tuôn như suối của bà Trương
Ngọc Nữ...
Khoảng
giữa năm 1930, khi vị Đại sư ẩn danh ở núi Ông Trịnh
bắt đầu lâm trọng bệnh thì việc học võ và học đạo
của Sơn Vương bắt đầu bị gián đoạn. Anh thường hay
rời núi về Sài Gòn tìm thuốc cho thầy, sau đó tìm nơi
ở trọ để tĩnh tâm bắt đầu theo đòi món nợ văn
chương. Chỗ trọ đầu tiên của gã lãng tử là một xóm
nhỏ ở xã Nhị Thành, huyện Hóc Môn. Tại đó, Sơn Vương
đã trót phải lòng một cô hàng xén. Buổi sáng, cứ đúng
giờ Sơn Vương dậy chạy thể dục, luyện công thì đầu
xóm, cô thôn nữ cũng dậy sớm để dọn hàng. Thói quen
giờ giấc đã xui họ gặp gỡ, phải lòng nhau và lén lút
ăn ở với nhau. Trót đa mang một kiếp giang hồ rày đây
mai đó, Sơn Vương không lưu lại lâu dài nơi xóm vắng.
Ngày rời đi, Sơn Vương không hề chia tay với người
yêu, cũng chẳng có lấy một lời thề hẹn hay nhắn nhủ.
Thói mai quán chiều lều đã khiến Sơn Vương không hề
biết rằng có một giọt máu của anh đang hoài thai trong
lòng cô thôn nữ. Khi cô hàng xén trở dạ sinh được một
bé gái kháu khỉnh thì Sơn Vương đã bặt tăm cá nước
chim trời, không một lần lai hồ cố thổ. Một mình Sơn
Vương vô tình nhưng cô thôn nữ thì không. Dù gã người
tình không hề quay trở lại, cô vẫn lấy họ của anh để
đặt cho con gái cái tên Trương Ngọc Nữ.
Ngọc
Nữ càng lớn càng xinh đẹp, giống cha như đúc, được
ăn học tử tế đàng hoàng. Sau này, qua lời mẹ kể, cô
biết mình có một người cha phiêu bạt từ lâu nhưng
hiện ở phương nào thì cô chịu chết. Ngoại trừ cái
tên Trương Văn Thoại, cô không biết gì thêm về cha đẻ
của mình.
Năm
17 tuổi, Ngọc Nữ bỏ nhà vào bưng theo kháng chiến. Nhờ
có học thức, cô nhanh chóng trở thành thư ký của ủy
ban Hành chính kháng chiến Nam Bộ, sau đó trở thành thư
ký riêng của trung tướng độc nhãn Nguyễn Bình. Thời
gian đầu, cô gái trẻ gọi vị tướng bằng chú, không
hay biết chú Bình chính là người em kết nghĩa Nguyễn
Phương Thảo thời trai trẻ của cha mình. Tướng Nguyễn
Bình cũng không mảy may nghĩ đến việc cô thư ký trẻ
trung xinh đẹp cạnh mình lại chính là giọt máu rơi của
người anh kết nghĩa Sơn Vương. Thời kháng chiến, việc
nước ngập đầu, không phải lúc nào người ta cũng có
thời gian để nhận ra một mối duyên riêng tư kỳ ngộ,
dù nó vẫn tồn tại ngay bên cạnh. Trong những lúc trò
chuyện hiếm hoi, cả hai chú cháu cũng chưa bao giờ nhắc
đến Sơn Vương.
Có
thể coi cô gái Trương Ngọc Nữ là một hình mẫu của
típ sinh viên học sinh Sài Gòn xếp bút nghiên theo kháng
chiến, đến với cuộc đấu tranh của cả dân tộc bằng
cả bầu nhiệt huyết lẫn sự ngây thơ lãng mạn. Sự
khắc nghiệt của chiến tranh không hề làm giảm mà ngày
một tăng sự kính phục hóa thành ngưỡng mộ trong lòng
cô đối với Nguyễn Bình - vị tướng oai hùng và cũng
rất hào hoa. Vì thế, trước những lời ngỏ ý gần xa
của các anh Vệ quốc đoàn, cán bộ kháng chiến cùng cơ
quan hay những người vì công tác thường có dịp ghé
ngang khu bộ, cô gái trẻ vẫn không hề lay động. Tất
cả tâm trí, tình cảm, cô dành hết để nghĩ về một
người, không ai khác chính là vị tướng lớn hơn cô 15
tuổi. Dĩ nhiên, tướng Nguyễn Bình không khó gì mà không
nhận ra tấm ân tình mà cô gái trẻ dành trọn cho ông.
Trong thâm tâm, vị tướng cũng hết mực cảm mến, thường
tỏ ra đặc biệt quan tâm chăm sóc cô nhân viên xinh đẹp.
Không biết từ bao giờ, từ chú cháu, hai người đã đổi
sang gọi anh, em trìu mến. Nhưng tất cả chỉ dừng lại
ở mức độ đó, bởi tướng Nguyễn Bình lúc đó đã có
gia đình.
Mối
tình câm của cô học sinh thành thị bỏ nhà theo kháng
chiến đang vào hồi vô vọng thì Ngọc Nữ nhận được
hung tin: tướng Nguyễn Bình hy sinh khi trên đường ra Bắc
công tác. Thương nhớ đã khiến lòng cô hóa đá. Từ đó,
cô bỏ ngoài tai tất cả mọi lời ong bướm của không
biết bao nhiều chàng trai ngưỡng mộ, chỉ khư khư giữ
trong lòng mình một hình bóng Nguyễn Bình mà không hề
thổ lộ cùng ai. Thỉnh thoảng, để nguôi ngoai thương
nhớ, cô lại len lén bày ra một trò mê tín: cầu cơ. Cô
tin rằng đó là cách duy nhất để cô có thể tự do được
trò chuyện, thổ lộ tâm tình với vị tướng đã khuất
mà cô hằng yêu trộm nhớ thầm. Nhiều năm trôi qua, gia
tài quí nhất mà cô giữ khư khư - đến tận ngày nay -
là cuốn sổ dày chép lại hàng trăm bài thơ - “biên
bản” những lần trò chuyện bằng cách cầu cơ giữa cô
với linh hồn đã khuất của tướng Nguyễn Bình. Không
nói thì ai cũng biết, trong những bài thơ ấy, cô cứ mãi
là một Trương Ngọc Nữ vĩnh viễn 17 tuổi.
Năm
1964, khi tuổi thanh xuân đã sắp trôi qua hết, cô mới
chịu lập gia đình. Chồng sắp cưới của cô là một kỹ
sư hàng không dân dụng làm việc tại phi trường Tân Sơn
Nhất. Ngày cưới sắp đến thì báo chí Sài Gòn đua nhau
đăng tin: Tội nhân chung thân cấm cố khổ sai Trương Văn
Thoại, tức nhà văn kiêm tướng cướp Sơn Vương lừng
lẫy một thời sẽ được đưa về Sài Gòn để làm nhân
chứng cho một phiên tòa. Đến lúc này, người mẹ của
Ngọc Nữ mới cho cô hay Sơn Vương chính là cha đẻ của
cô. Chưa kịp mừng vì biết tin cha còn sống, lại biết
thêm rằng ông từng là một nhà văn, Trương Ngọc Nữ đã
cảm thấy choáng váng và xấu hổ khi phải nhìn nhận
mình có một người cha là tên cướp lừng danh. Nhưng
tình máu mủ thiêng liêng đã trở thành sự thôi thúc
mãnh liệt và không thể cưỡng. Nhờ sự tháo vát của
người chồng chưa cưới, Ngọc Nữ đã xin vào được
tận buồng giam để lần đầu tiên được biết mặt
cha. Tất cả chỉ hai lần gặp mặt, mỗi lần 30 phút.
Nước mắt mừng tủi của cuộc hạnh ngộ trùng phùng
không san bằng hết được khoảng cách giữa hai cha con.
Trừ những người trong nhà, Ngọc Nữ không hề kể cho
ai nghe về cuộc gặp gỡ. Trong nhà tù, dù rất muốn, họ
vẫn không hề gọi nhau bằng hai tiếng cha, con, chỉ gọi
nhau bằng chú, cháu. Sơn Vương xấu hổ không dám xưng
cha bởi với con gái ông không hề có ơn dưỡng dục.
Ngọc Nữ thì cố chấp không chịu thừa nhận một tướng
cướp là cha.
Tình
trạng dùng dằng này tiếp tục tái diễn khi Sơn Vương
được trả tự do vào năm 1968. Ra tù, Sơn Vương không về
sống chung với vợ con mà tiếp tục số phận ăn quán
ngủ đình. Vợ cũ của ông, mẹ của Ngọc Nữ đã mất,
giữa hai cha con mối ràng buộc máu mủ cũng không làm mặn
nồng hơn những tình cảm trước ngày gặp mặt nhau. Đôi
lúc, có viếng thăm hay vô tình gặp gỡ, hai cha con vẫn
cương quyết giữ cách xưng hô chú, cháu. Sơn Vương thỉnh
thoảng cũng có viết cho con gái mấy dòng thư, chủ yếu
để giải thích chuyện này chuyện nọ hoặc bày tỏ sự
nuối tiếc với con gái. Cũng có khi ông gửi cho con gái
một vài bức ảnh của mình nhưng lời đề tặng ở mặt
sau lại cố tình ghi chệch đi là “Tặng cháu Ngọc Nữ,
theo yêu cầu của cháu” hoặc một lý do gì đó tương
tự, cố xóa đi mọi vết tích có thể gúp nhận diện
mối quan hệ cha con. Hầu như Ngọc Nữ chẳng bao giờ trả
lời thư ông. Nhưng không hiểu sao, tất cả mọi lá thư
ấy cô đều cất giữ rất kỹ càng. Có lẽ, dù có bộc
lộ hay không thì tình cha con cũng là điều có thật và
không thể chối bỏ.
Sau
năm 1975, bà Trương Ngọc Nữ theo chồng sang định cư tại
Toronto (Canada). Mối liên hệ giữa hai cha con xa cách dần
dần. Thậm chí khi Sơn Vương mất cũng phải nhiều tháng
sau bà mới biết tin...
Tại
Canada, gia đình bà Trương Ngọc Nữ sống tương đối
bình lặng nhưng thành đạt. ít nhiều một chút máu văn
chương và nghiệp cầm bút của Sơn Vương vẫn còn được
lưu truyền trong những hậu duệ của ông đang sinh sôi
nảy nở ở xứ người. Một cô con gái bà Ngọc Nữ, tức
cháu ngoại Sơn Vương hiện đang là chủ bút của tờ Sài
Gòn Toronto, một tờ báo tiếng Việt xuất bản tại
Canada. Chính vì mối quan tâm đối với lĩnh vực thông
tin báo chí nên dù ở cách xa nửa vòng trái đất, gia
đình bà Ngọc Nữ vẫn thường xuyên tiếp xúc được
với không ít sách báo từ trong nước gửi sang. Nhờ đó,
loạt bài viết của chúng tôi về quái kiệt Sơn Vương
đã có dịp khuấy động một chuỗi hồi ức buồn trong
tâm hồn họ. Theo lời của bà Trương Ngọc Nữ thì phải
đến tận lúc đọc loạt bài viết của chúng tôi, bà
mới hiểu rõ được thân thế của người cha đã khuất.
Lần đầu tiên bà nhận ra rằng không chỉ là một tướng
cướp mà danh xưng chỉ gợi lên một khái niệm tội lỗi
hay một sự băng hoại về mặt nhân cách, người cha Sơn
Vương của bà còn là một tay hảo hán thực thụ, coi
thường và căm giận bạo lực áp bức, đầy lòng nhân
ái với người nghèo. Những vụ cướp kinh thiên động
địa của ông không phải chỉ để mưu cầu cho riêng bản
thân một cuộc sống xa hoa mà hướng nhiều tới mục
đích cứu giúp người khốn khó và trừng trị những kẻ
nợ máu, làm giàu trên sự bần cùng và xương máu của
nhân dân. Quan niệm, việc làm vị nghĩa của Sơn Vương
có thể sai lầm về cách thức song rất đáng được trân
trọng. Cũng chính vì những việc làm ấy nên ông mới
phải giam thân hơn 30 năm trời phía sau song sắt nhà tù,
cho nên mới không thể nuôi dạy con cho tròn đạo làm
cha, kể cũng không thể trách. Hơn thế nữa, với một
người cha như Sơn Vương, bà Ngọc Nữ tự thấy mình còn
có thể tự hào, bởi người cha của bà đã ít nhiều dự
phần vào lịch sử, hay nói đúng hơn, đã trở thành nhân
chứng của một thời... Chưa hết, Sơn Vương còn là anh
kết nghĩa của tướng Nguyễn Bình - người đàn ông mà
hình bóng đã khắc sâu vào đáy trái tim bà. Chỉ riêng
điều đó thôi, với bà Ngọc Nữ cũng đã là tất cả.
Đáng
tiếc, hiểu ra thì đã muộn. Người cha mà trong đời bà
chưa một lần được gọi tiếng cha đã hóa người thiên
cổ, tất cả còn lại chỉ là những giọt nước mắt
tiếc nuối.
Không
chịu đựng được nỗi dày vò, ngay sau khi đọc xong loạt
bài trên báo, bà Ngọc Nữ đã vội bay ngay về Việt Nam
để tìm gặp cho bằng được chúng tôi. Qua một người
cháu họ - chị Hạnh, nhân viên tín dụng của Ngân hàng
Vietcombank - bà Ngọc Nữ đã nhất quyết mời cho bằng
được tác giả bài báo tới nhà để bà có thể nói một
tiếng cảm ơn, đồng thời để được chia sẻ niềm
hạnh phúc được thừa nhận có cha, cho dù hạnh phúc ấy
đến với bà đã quá muộn màng.
Dĩ
nhiên, là một người cầm bút, không ai có thể thờ ơ
với số phận nhân vật của mình. Tôi đã thật sự cảm
thấy hạnh phúc khi được trao lại cho bà Ngọc Nữ toàn
bộ những hiểu biết, hình ảnh... về Sơn Vương mà tôi
đã thu thập được. Không ai xứng đáng giữ những kỉ
niệm về một người cha hơn chính một người con. Với
tôi, được làm dấu gạch nối cho cuộc chuyển giao đầy
ý nghĩa này thật sự là một duyên hạnh ngộ vượt
ngoài mong đợi của nghề cầm bút.
Bà
Ngọc Nữ cũng không giấu được nỗi xúc động và những
giọt nước mắt lăn dài. Lần giở cuốn sổ tay ố vàng
chép đầy cả trăm bài thơ, những lần trò chuyện
trong tâm tưởng với vong linh tướng Nguyễn Bình, bà khoe
với tôi cả một xấp hình ảnh, thư từ của Sơn Vương
mà bà vẫn kẹp ở giữa, được cất giữ cẩn thận
suốt mấy chục năm qua. Giữa bề bộn những trang giấy
cũ đã đổi màu ấy, tôi nhìn thấy còn có những bản
sao giấy chứng minh nhân dân, vài trang bản thảo, một số
hình ảnh giấy tờ của Sơn Vương, dăm ba trang báo mà
ông là tác giả được cắt rời, thậm chí còn có cả
một bản sao tờ phán quyết ly hôn của ông với người
vợ thứ ba nữa. Bất cứ thứ gì có liên quan đến người
cha, bà Ngọc Nữ đều cóp nhặt, gìn giữ lại như những
kỷ vật. Những trang giấy cũ kia với bà là cả một gia
tài. Run run lần giở từng mảnh nhỏ, bà khóc.
Theo
hiểu biết của tôi, đến tận lúc chết, hiện hữu trên
khuôn mặt Sơn Vương vẫn là một ánh nhìn với bờ môi
mím chặt đầy khinh bạc. Tin chắc rằng giờ đây, dưới
suối vàng, bờ môi ấy sẽ nhoẻn thêm một nụ cười
thật hiền lành, thật ấm áp - nụ cười của một người
cha khi được nhận mặt con.
2. LÝ LONG
THÂN
Mãi
đến sau này, khi đã là một “hoàng đế không ngai”
ngự trị cùng lúc trên nhiều “vương quốc” như dệt
may, sắt thép, máy nông ngư cụ... Lý Long Thân vẫn là
một kẻ có lai lịch bí ẩn đối với mọi người. Ngay
bạn bè thân cũng chẳng biết gì về Lý, chỉ nhìn thấy
ông ta như một mẫu người tha hương thành đạt, giàu có
và đầy quyền lực, có thể khuynh đảo cả một phần
nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa. Hơn thế nữa, là một
trùm mafia của miền Nam trước ngày giải phóng...
1.
Những cuộc “đảo chính từng phần” của gã làm thuê
Hồ
sơ của cảnh sát ngụy lập nhiều lần về Lý cũng chỉ
sơ sài một vài thông tin cơ bản nhất. Theo đó, Lý Long
Thân sinh ngày 27.8.1918, tại Amoy, Phúc Kiến, Trung Quốc.
Cha mẹ của Lý, ông Lý Ngọc và bà Trương Thị đều là
những nông dân nghèo khó. Đông con nhưng ít ruộng, chật
vật lắm ông bà Lý Ngọc mới nuôi nổi anh em Lý bằng
cháo kê, xá bấu (củ cải muối)... Tuổi thơ luôn thèm
chỉ một bữa no đã đốt lên trong lòng Lý Long Thân khát
vọng về một sự đổi đời.
Năm
1938, Lý Long Thân tròn 20 tuổi. Nghe lời bạn bè rủ rê,
anh quyết định bỏ xứ đi tha hương lập nghiệp. Thu hết
can đảm, Lý nhờ mẹ dẫn đến nhà người chú họ - một
tay phú nông trong làng để vay mượn ít tiền làm lộ
phí. Thay vì móc hầu bao, người chú họ lại móc ruột
móc gan mẹ con gã bằng những câu sỉ nhục:
-
Đồ thối thây, ngữ mày thì đi được đến đâu mà học
đòi bỏ xứ? Sức dài vai rộng thì làm gì mà phải đói.
Về đi! Đừng bước vào đây mà bẩn nhà tao. Nhìn thử
xuống chân xem có đi nổi đến đâu không?
Mặt
đỏ đến tận mang tai, máu chảy giần giật hoa cả mắt,
nhưng Lý vẫn bất giác đưa mắt nhìn xuống. Trong đôi
giầy cỏ đã rách nát, những ngón chân đen đúa, móng
vàng ệch vì lội bùn đang thò ra ngọ nguậy.
Không
thể chịu đựng nổi, Lý kéo mẹ trở về, đi mà như
chạy, vấp ngã, xiêu vẹo trên con đường mấp mô mù
bụi...
Tối
hôm đó, Lý thức trắng đêm. Dưới ánh trăng vằng vặc,
gã xoè rộng hai tay, ngó trân trân vào những đường rãnh
chạy dọc ngang trên đó, đè cả lên những vết chai sần
thô ráp, tự hỏi không biết đời mình rồi sẽ đổ về
đâu.
Về
đâu thì mặc, nhưng dứt khoát gã phải ra đi. Đằng nào
cũng chết, làm trai gã không muốn đời mình chết rũ ở
xó quê heo hắt này.
Không
tiền, Lý và A Chảy - một người bạn cùng xứ - vừa đi
vừa làm thuê, đến giữa năm ấy, cả hai đã có mặt ở
cảng Hải Phòng.
Nhưng
Hải Phòng không phải là miền đất hứa cho những kẻ
tha hương. Mang tiếng là một hải cảng quan trọng, nhịp
thở kinh tế của nó vẫn lèo tèo, buôn bán không phát
triển. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, nước
Pháp - vừa ra khỏi chiến tranh đế quốc chưa lâu - bị
tàn phá nặng nề và trở nên kiệt quệ. Vì vậy chính
sách của Pháp đối với xứ Đông Dương thuộc địa là
tận thu. Than, thiếc, gạo, muối... và nhiều thứ hàng
hoá, khoáng sản khác của xứ Việt Nam nghèo nàn cứ nối
nhau tuôn xuống Hải Phòng rồi chảy vào giữa những
khoang tàu thuỷ đang toang hoác miệng chờ; sau đó được
chở về chính quốc mà không hề có một thứ gì hồi âm
hay gọi là trao đổi trở lại. Xứ Bắc Kỳ quá nghèo,
cuộc sống của người dân chỉ gồm những nhu cầu tối
thiểu, đã bị cắt bỏ gần hết, thành thử hàng nhập
về cảng hầu như biệt bóng. Nhìn toàn cảnh, Hải Phòng
giống như một trạm tiếp hàng cho nước mẹ đại Pháp
- khá tham lam và keo kiệt - hơn là thành phố cảng - một
cửa ngõ thông thương buôn bán. Nhà máy, công xưởng, rồi
bến bãi hầu như không được đầu tư gì mấy, phô ra
giữa nắng mưa một vẻ còi cọc, tiều tụỵ. Giả sử
không có dòng người Trung Hoa cầu thực inh ỏi gọi tìm
nhau trên bến; không có đám du thủ du thực đánh chửi
nhau ngoài cảng và không có những gã nhà quê ngờ nghệch
bị nẫng mất tay nải đang kêu khóc váng lên phía cầu
tàu thì trông Hải Phòng chẳng khác gì một công trường
thủ công của châu Âu thế kỷ XVII, XVIII bị bỏ quên
cho đến tận bây giờ. Có điều, châu Âu thì Lý và A
Chảy chưa đến, chưa nghe bao giờ, kể cả trong mơ, thế
kỷ XVII, XVIII họ cũng chưa từng sống, cho nên những sự
so sánh ấy cả hai đều mù tịt. Lý chỉ thấy cái hải
cảng xa xôi ở phương Nam cũng chẳng khá gì hơn xứ Amoy
của cậu, nghĩa là cũng nghèo khó, lam lũ, không một tí
hứa hẹn gì sáng sủa hơn.
Khó
khăn lắm hai kẻ tha hương mới lách qua được dòng người
chen chúc vội vã, loằng ngoằng những bu gà, rọ lợn, và
vô số những bị, những làn để vọt lên đến bờ. Và
đứng nhìn nhau. Cái ngỡ ngàng của phút đầu tiên đặt
chân lên đất khách quê người không đủ mạnh để xua
đi nét lo âu hằn lên trên khuôn mặt họ. Ngó chiếc ống
khói phía xa xa đang tuôn lên vòm trời đầy bụi những
cụm khói u ám và buồn bã, cả hai cùng khẽ thở dài.
Rồi cuộc đời họ cũng như những cụm khói kia thôi,
tha hồ cho gió đẩy đưa, lang thang vô định, không biết
bao giờ mới được lai hồi cố thổ.
-
Mày tính sao, Lý?
Nghe
A Chảy hỏi Lý mới sực tỉnh. Gã gãi mái đầu bờm
xờm:
-
Tao cũng không biết. Nhưng mà về thì không được, hết
tiền rồi.
Vừa
nói, Lý vừa lần cạp quần. Đếm đi đếm lại bao nhiêu
lần, số tiền vẫn là 17 xu, chẳng hơn. Mặt A Chảy
thượt ra. Lý cười:
-
Kệ! Cứ lên phố rồi tính.
Nhưng
A Chảy không muốn tính toán gì thêm. Quá chán nản với
bước kiếm tìm vô định, A Chảy quyết định ở lại
phụ bán mì với một người quen tình cờ gặp lại khi
cả hai lang thang trên phố. Anh ta không muốn kéo dài thêm
những hy vọng hão huyền về miền đất hứa, chưa chắc
đã có gì tốt đẹp hơn. Còn Lý, nhìn phố cảng chật
hẹp và đầy bụi, lại quá đông Hoa kiều tha phương, gã
thở dài, lắc đầu. Lại lén trốn xuống tàu, lại làm
thuê, Lý lần mò vào được Sài Gòn.
Số
phận bắt đầu mỉm cười với Lý Long Thân khi anh ta tìm
được bang hội Phúc Kiến ở Chợ Lớn. Cùng kiếp bỏ
xứ ra đi, những người Hoa Phúc Kiến đã chia sẻ và cưu
mang Lý. Mắt to, sáng, trán rộng, mặt dài, ăn nói lễ
phép dù rất thẳng tính, Lý Long Thân lọt vào cặp mắt
ưu ái của Bang trưởng Phúc Kiến. Ông bèn bảo lãnh cho
Lý được làm công trong hiệu kim hoàn Kim Thành nổi
tiếng. Lý tỏ ra rất chăm chỉ, cẩn thận và sáng dạ
nên được cả chủ tiệm, người làm công và khách hàng
quí mến. Không ai biết, phía sau nụ cười cầu thân với
tất cả mọi người là một toan tính mưu mô, đầy thủ
đoạn.
Khách
đến hiệu vàng Kim Thành toàn là những ông Đốc, bà
Tham, những nhà buôn lớn, các tay được bạc... lắm tiền
nhiều của, chi tiêu rất hào phóng. Cười rất tươi, Lý
Long Thân nhã nhặn cảm ơn và từ chối những món tiền
pour-boire lẻ tẻ, nhưng lại đưa ra những gợi ý hấp
dẫn về mẫu mã nữ trang, lại sốt sắng chỉ mối, giúp
đổi tiền cho khách, để sau đó ăn chặn được một
khoản khá hơn nhiều.
Dần
dà, Lý trở nên lọc lõi, trở thành một tay môi giới
trong việc mua bán vàng và đổi tiền. Nhờ đó, y giàu
lên rất nhanh. Khi chủ tiệm Kim Thành nhận ra điều đó
thì đã muộn. Ông ta không thể đuổi việc Lý Long Thân
vì trong số vốn liếng của hiệu vàng đã có một phần
là của Lý hùn, hơn nữa anh ta lại là người nắm các
đầu mối hàng quan trọng. Nghiễm nhiên, Lý Long Thân trở
thành một đại lý kiêm nhà môi giới của hiệu Kim
Thành, ăn hoa hồng.
Vốn
thông minh và nhạy bén, Lý nắm bắt kịp thời các thời
điểm lên xuống của giá vàng và nhanh chóng bung vốn của
Kim Thành ra mua bán. Lời y ăn, lỗ (rất ít khi lỗ) hiệu
Kim Thành chịu. Sau năm năm, số vốn của Lý Long Thân cứ
không ngừng phình lên. Y trở thành một trong những người
có phần hùn lớn nhất của thương hiệu kim hoàn uy tín
nhất Đông Dương, từ Sài Gòn - Hà Nội - Viên Chăn đến
Nam Vang, với nhãn hiệu in hình quả núi. Đó là cuộc
“đảo chính” lần thứ nhất của Lý Long Thân, đưa y
từ thân phận một kẻ làm thuê lên hàng ông chủ lớn.
Khi
số vốn đã lên đến bạc triệu, Lý bỏ Kim Thành, đứng
ra lập Công ty môi giới địa ốc TONG YUAN. Sự quen biết
rộng rãi và kinh nghiệm môi giới lúc còn làm cho Kim
Thành đã giúp Lý tiến rất nhanh trong nghề mới, thu về
bạc vạn mỗi tháng. Từ năm 1943, tiền kiếm được
trong nghề môi giới, Lý đem hết vào mua cổ phần của
công ty SAVICO - Địa ốc Thương cuộc. Đến năm 1945, cuộc
“đảo chính từng phần lần hai” của Lý kết thúc với
thắng lợi giòn giã. Với phần hùn chiếm đa số trong
vốn pháp định bốn triệu đồng của SAVICO, Lý được
bầu làm giám đốc công ty. Ngay lập tức, Lý cho mở rộng
thêm mấy chữ “Xuất nhập khẩu” vào sau chức năng
“Địa ốc Thương cuộc” của SAVICO, nhằm triệt để
khai thác các nguồn lợi kinh tế đang tiềm ẩn trong mối
quan hệ dân tộc giữa Hoa kiều Chợ Lớn với Đài Loan,
Hồng Công và Đại Lục mà Lý Long Thân là một mắt
xích.
Kinh
doanh đúng hướng, nhanh nhạy và đầy ắp thủ đoạn, Lý
Long Thân giàu lên vùn vụt, trở thành một nhân vật
quyền lực trong cộng đồng người Hoa. Y cũng lột xác,
vứt toẹt bộ mặt đạo đức siêng năng của một anh
chàng làm công ngày nào, phơi bày bản chất độc đoán,
tàn nhẫn của một kẻ kinh doanh đầy tham vọng và coi
tiền trên hết.
Tháng
12.1947, một nhân viên SAVICO do sơ sót đã làm không đúng
ý Lý Long Thân. Nổi giận, Lý đã xông vào đánh người
nhân viên này gãy tay. Chưa hả giận, y còn đập cả vỏ
chai rượu vào mặt anh ta, gây thương tích nặng. Kết
quả: anh nhân viên xấu số phải đi cấp cứu và tàn phế
suốt đời. Còn Lý, ngày 30.12.1947 phải ra hầu Toà tiểu
hình. Nhờ vung tiền lo lót, Lý Long Thân mới thoát ngồi
tù, nhưng bị phạt 500 quan về tội “vô ý gây thương
tích”!
Có
tiền, Lý Long Thân cũng bắt đầu nổi danh như một tay
ăn chơi khét tiếng. Cứ chiều thứ bảy, y lại diện
comple trắng, nón nỉ Boosalino đội lệch một bên leo lên
một chiếc Peugeot Traction bên cạnh có ba vệ sĩ người
Phúc Kiến đi mô tô hộ tống đến nhà hàng Đại La
Thiên, sòng bạc Đại Thế Giới ăn chơi đập phá. Nhiều
lần cao hứng, ngay trên sàn nhảy, y đã đứng lên tuyên
bố “đãi rượu tất cả mọi người”. Tại Đại Thế
Giới, Lý Long Thân kết thân với nhiều nhân vật có tên
tuổi trong các bang hội Hoa kiều Chợ Lớn như Trương Duy
Nhạc, cha con Điển Nam, Nghiệp Sô... Cũng tại đây, Lý
Long Thân dần dà làm quen với nhiều vị tai to mặt lớn
trong chính quyền, quân đội, trong đó có tướng Bình
Xuyên đầu Tây Lê Văn Viễn (Bảy Viễn) cùng hai tên quân
sư Lại Hữu Sang và Lại Hữu Tài. Biết thực lực Bảy
Viễn còn mạnh, Lý ra sức chiều chuộng lấy lòng “cọp
rừng Sác”. Cuối năm 1954, y đã ném ra cửa sổ một lúc
4 triệu đồng để tổ chức một buổi “nhất dạ đế
vương” khao Bảy Viễn và một số kẻ chức quyền khác.
Tại nhà hàng Đại La Thiên, Lý Long Thân còn độc quyền
bao riêng một cô gái nhảy nổi tiếng là Lý Bing Bing -
người được coi là Hoa hậu Phúc Kiến của Chợ Lớn.
Ngay trong đêm “nhất dạ đế vương”, biết Bảy Viễn
thích Bing Bing, Lý Long Thân đã ép cô gái phải ngã vào
tay Bảy Viễn. Không dám từ chối “ông trùm” đồng
hương và ông “cọp rừng Sác”, cô Hoa hậu đành phải
vâng lời. Sáng hôm sau, Lý Long Thân gọi Lý Bing Bing đến,
không thèm nhìn mệnh giá, ký ngay một tờ ngân phiếu
thưởng cho cô gái. Đám thuộc hạ của cả Lý Long Thân
lẫn Bảy Viễn đều trợn mắt vì cử chỉ coi tiền như
rác này. Họ biết, mệnh giá nhỏ nhất trong tập ngân
phiếu mà Lý mang theo cũng lên đến 50.000 đồng.
Với
“đòn độc” này, Lý đã nắm hoàn toàn Bảy Viễn, tô
phết thêm cho mình chút oai vệ quyền thế để cạnh
tranh trên thương trường, được bảo chứng bằng những
họng súng của đám hàng quân Bình Xuyên đầy chất lục
lâm thảo khấu.
2.
Nâng uy tín trên thương trường nhờ dao súng
Số
tiền “khổng lồ” mà Lý Long Thân ném ra chi cho Bảy
Viễn và thủ hạ thực ra không thấm vào đâu so với
những nguồn lợi vô kể mà y thu được nhờ uy thế của
viên tướng Bình Xuyên vốn dĩ võ biền. Về đầu Tây
được ít lâu, Bảy Viễn được Pháp giao bảo vệ an
ninh tuyến đường Sài Gòn - Vũng Tàu. Ngay lập tức, Lý
Long Thân vạch ra một chương trình đồ sộ nhằm khai
thác kinh tế trình cho Bảy Viễn: lập hãng xe đò Nghĩa
Hiệp độc quyền vận tải tuyến Sài Gòn - Vũng Tàu; xây
dựng một loạt nhà hàng khách sạn ở thành phố biển...
Thấy lợi, Bảy Viễn cũng tham nhưng y ngần ngừ vì không
có vốn. Nghe “cọp rừng Sác” giải bày, Lý Long Thân
mỉm cười, bảo:
-
Khởi đầu bằng 500 lượng, Thiếu tướng thấy sao?
Bảy
Viễn sáng mắt:
-
Nếu vậy, tôi và anh coi như đã có hãng xe đò!
Lý
tiếp tục vờn ông tướng võ biền óc ít:
-
Phần nhà hàng khách sạn, bạn bè tôi ở nhà băng Việt
Nam Thương Tín sẽ đứng sau lưng Thiếu tướng.
Chút
ngần ngừ của Bảy Viễn biến mất khi hai tên quân sư
Tài, Sang cũng góp lời vào. Nói là làm, Lý Long Thân sang
ngay cho Bảy Viễn 500 lượng vàng, nhưng dưới danh nghĩa
của câu lạc bộ Thanh Sơn của người Hoa Phúc Kiến, đặt
trụ sở ở nhà hàng Đồng Khánh.
Khi
đã thu thập đủ vốn, Bảy Viễn lại giao lại toàn bộ
việc thầu xây cất, mua sắm cho Lý Long Thân. Riêng trong
“cú” thầu này, hai hãng TONG YUAN và SAVICO đã thu về
cho họ Lý bạc triệu.
Một
nguồn lợi khổng lồ khác mà Lý thu được nhờ uy Bảy
Viễn là việc khai thác hai sòng bạc Kim Chung và Đại Thế
Giới. Trước đó, hai sòng bạc này do một “xì thẩu”
có máu mặt của người Hoa tên là Lâm Giống cai quản.
Với khoảng 300 tay đao dưới trướng, toàn loại đầu
trâu mặt ngựa tuyển từ Ma Cao, Hồng Công sang, Lâm Giống
tha hồ làm mưa làm gió ở đất Chợ Lớn mà không một
ai dám cạnh tranh. Trong một buổi trà dư tửu hậu ở nhà
hàng Kim Huê, Giống tuyên bố:
-
Khắp Nam kỳ lục tỉnh, may ra chỉ có Bảy Viễn Bình
Xuyên mới đáng mặt được Giống này coi là bậc đàn
anh.
Lý
Long Thân biết Giống nói thật, vì dưới tay Bảy Viễn
còn có cả ngàn tay súng và viên tướng đầu Tây còn nắm
toàn bộ lực lượng Cảnh sát Quốc gia do Bảo Đại giao
phó. Vậy là Lý đút tiền cho Moris Thiên - tay Phòng Nhì
nằm cạnh Bảy Viễn - nhờ tên này thuyết phục. Bảy
Viễn nghe xong lắc đầu:
-
Tiền đâu chịu nổi, riêng thuế đã đến 500 ngàn mỗi
ngày cho một nơi. Thằng Giống có cả đống xì thẩu Tàu
hỗ trợ, tao đâu có ai!
Lúc
này, tên cò mồi Moris Thiên mới tung bài tẩy:
-
Ông Bảy thử hỏi ý kiến ông Lý xem sao?
Tất
nhiên, Lý Long Thân nhận lời, với điều kiện y bỏ tiền
đầu tư, còn Bảy Viễn chịu lấy danh nghĩa Bình Xuyên
ra đấu thầu.
Ngay
sau đó, Moris Thiên được Bảy Viễn và Lý Long Thân sai
đóng vai thuyết khách đến nhà Lâm Giống. Moris Thiên ngỏ
ý:
-
Bình Xuyên có ý nhận đấu thầu đợt tới ở hai sòng
bạc Kim Chung và Đại Thế Giới, vừa tiện bảo vệ vừa
có cơ sở kinh tài để nuôi quân, nay sai tôi tới thưa
lại cùng Lâm xếnh xáng!
Biết
mình yếu thế, Lâm Giống đành lặng lẽ rút lui. Riêng
từ hai sòng bạc này, trừ thuế và chi phí, Bảy Viễn và
Lý Long Thân cũng còn thu lãi tới sáu bảy trăm ngàn mỗi
ngày. Vì vậy, mối giao hảo Bảy Viễn và Lý Long Thân
ngày càng gắn bó.
Tuy
vậy, tham vọng của Lý Long Thân trong việc lợi dụng Bảy
Viễn vẫn chưa dừng lại. Qua mặt Bảy Viễn, y lại ném
tiền ra mua chuộc được Trần Phước, một tay thân tín
của tướng Bình Xuyên để cùng tên này buôn bán thuốc
phiện.
Khi
Bảy Viễn còn là một tay giang hồ trẻ tuổi chưa thành
danh, y là tài xế riêng kiêm cận vệ của ông chủ Trần
Phước. Vào thời đó, Trần Phước tỏ ra biệt đãi và
thường khích lệ Bảy Viễn:
-
Anh Bảy có tướng hổ, lưng gấu, thuộc hàng chọc trời
khấy nước chớ đâu phải hạng tầm thường làm tài xế
kiếm cơm.
Sau
này, khi công thành danh toại, Bảy Viễn tri ân, gọi Trần
Phước về cho làm quản lý hai sòng bạc Kim Chung và Đại
Thế Giới, nắm giữ tay hòm chìa khoá. Lý Long Thân bỏ
tiền ra, giao cho Trần Phước mua lại toàn bộ nguồn
thuốc phiện của Bảy Viễn với giá rất rẻ. Thuốc
phiện từ các nơi được xe quân đội chở về đại bản
doanh của Bảy Viễn bên kia cầu chữ Y, sau đó Bảy Viễn
lại cho xe riêng chở đến cho Trần Phước cất giấu tại
nhà y, số 43 đường Lacaze cạnh Đại Thế Giới. Tại
đó, Lý Long Thân kiểm hàng, giao tiền và giao hết số
thuốc phiện này cho Mã Tuyên, một đại gia ở Chợ Lớn,
tay chân tin cẩn đồng thời là cơ sở kinh tài của anh
em Diệm - Nhu sau này, để Mã Tuyên cung cấp cho mạng
lưới nhà hàng, tiệm hút khắp Sài Gòn - Gia Định - Chợ
Lớn và các tỉnh phụ cận. Hàng chuyển đi, Trần Phước
sai các tên Ngô Kiều, Ngô Lâm, Bách Chúng, Bách Kiều...
những tên võ sĩ lừng danh từ Hồng Công sang áp tải,
tất nhiên cũng bằng xe riêng của “Thiếu tướng Lê Văn
Viễn”! Riêng việc giao nhận hàng, họ Lý chỉ đến
kiểm tra, còn mọi việc đều do Mã Tuyên trực tiếp tiến
hành cho nên Lý Long Thân không để lại dấu vết.
Tốc
độ làm giàu của Lý Long Thân trong giai đoạn này quả
là chóng mặt, khó ai bì kịp nhưng chủ yếu đều nhờ
vào những “cú” làm ăn trong bóng tối. Vì vậy, y nghĩ
đến việc “rửa tiền”. Để làm việc đó, y lại
tung tiền ra mua chuộc đồng thời nhờ uy thế của Mã
Quốc Tuyền - Bang trưởng Phúc Kiến, Điển Nam - Chủ
hãng đóng tàu Nam Hoà Hưng kiêm đại lý Hoa kiều tại
Sài Gòn - Chợ Lớn và Hồng Cảnh Tùng - Phó Tổng lãnh
sự Đài Loan tại miền Nam Việt Nam ép Ban Giám đốc Ngân
hàng Việt Nam Thương Tín phải nhận Mã Tuyên vào làm
chân “Hoa vụ kinh lý” cho ngân hàng này ở Sài Gòn. Bên
cạnh Mã Tuyên, Lý Long Thân đặt thêm một tay túc hạ
tin cẩn là Trang Tôn (tức Trang Trinh Nghi) để tiến hành
các phi vụ ám muội này. Được Mã Tuyên cấp giấy phép,
Trang Tôn liên tục nhận tiền Đông Dương của Lý Long
Thân đổi ra tiền franc Pháp, từ tiền Pháp lại đổi ra
franc Thụy Sĩ rồi lại dùng franc Thụy Sĩ mua dollar Mỹ.
Với loại ngoại tệ này, Lý đem bán lại cho Hoa kiều
Chợ Lớn để họ chuyển về Hồng Công, Trung Quốc mua
hàng hoặc đầu tư, trả lại cho Lý bằng dollar Hồng
Công. Từ dollar Hồng Công, y lại giao cho Trang Tôn đưa
vào Ngân hàng Việt Nam Thương Tín đổi lấy tiền Việt.
Cách buôn tiền này không những giúp Lý Long Thân xóa dấu
vết của các nguồn tài chính phi pháp mà còn giúp y tăng
nhanh số vốn ban đầu.
Những
năm 1950, giới kinh doanh người Hoa ở Chợ Lớn luôn phập
phồng lo sợ sự thay đổi chính sách của chính quyền
đối với người Hoa trên đất Sài Gòn - Chợ Lớn. Họ
rất ít đầu tư vào các lĩnh vực “ngâm vốn” như bất
động sản, kỹ nghệ... mà chủ yếu kiếm tiền
trong lĩnh vực buôn bán, sau đó gửi tiền về Hồng Công,
Đài Loan để đầu tư. Vì vậy, buôn tiền là một nghề
sinh lãi cực lớn. Nghề này bị đặt ra ngoài vòng pháp
luật nên ít kẻ dám làm. Nhờ thế lực hùng mạnh đã
nắm trong tay, Lý Long Thân đã độc quyền thao túng nghề
kinh doanh béo bở này. Không chỉ rửa tiền cho bản thân,
y còn rửa tiền cho rất đông “xì thẩu” Hoa kiều khác
ăn hoa hồng tỷ lệ cao. Kết quả: tiền Việt mất giá,
trong khi dollar Mỹ và dollar Hồng Công lại tăng giá chóng
mặt. Đến thời Diệm - Nhu, chính Ngô Đình Nhu đã chỉ
thị cho cơ quan mật vụ (Sở Nghiên cứu chính trị) của
Trần Kim Tuyến điều tra để phanh phui trừng trị những
tên rửa tiền. Trang Tôn và hàng loạt tên đàn em
khác bị bắt, bị bỏ tù. Tên tuổi Lý Long Thân cũng đầy
chật trong các báo cáo của mật vụ ngụy quyền. Tuy
nhiên, là một tên cáo già, Lý Long Thân đã xoá hết mọi
dấu vết có thể dẫn Cảnh sát Hoạt vụ đến hỏi thăm
ngay trong lúc tiến hành các phi vụ. Thêm vào đó, Mã
Tuyên - đồng sự và là đàn em tin cẩn nhiều ân oán với
Lý Long Thân lại đang là cánh tay kinh tài của Ngô Đình
Nhu và Trần Lệ Xuân cho nên đã kịp thời cứu Lý Long
Thân nhiều lần ngay trong tình thế đường tơ kẽ tóc.
Hồ sơ về Lý Long Thân tuy càng ngày càng dày lên trong
Nha Cảnh sát Sài Gòn, nhưng chỉ dừng lại ở mức độ
chung chung, đại loại: “Có nghi vấn nhưng thiểm nha chưa
thâu thập được bằng chứng cụ thể nào về các tin
tức nói trên của đương sự”.
3.
Ban ngày doanh nhân, ban đêm kẻ cướp
Ngoài
quan hệ thâm giao với Bảy Viễn và Bình Xuyên, Lý Long
Thân còn có quan hệ mật thiết gắn liền cùng các phi vụ
mờ ám với ba nhân vật Hoa kiều tên tuổi khác, đó là
Trương Duy Nhạc và cha con Điển Nam (tự ông Sơ), Nghiệp
Sô (tự ông Tích).
Trương
Duy Nhạc là chủ tiệm sắt Đức Hiệp Hưng, nổi tiếng
giàu có và đầy uy lực. Y có phần hùn đáng kể trong
công ty SAVICO của Lý Long Thân. Cha của Trương từng là
một Bang trưởng Phúc Kiến đầy quyền thế tại Sài
Gòn. Những ngày hàn vi, ngôi nhà số 37Bis, đường Ký Con
của Nhạc cũng là nơi mở rộng cửa cho Lý Long Thân vào
tá túc. Khác với Lý Long Thân xuất thân nghèo hèn, họ
Trương đã liên tục mấy đời là dòng họ danh giá, có
học thức và rất giàu có. Cha con Trương Duy Nhạc đều
giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh và rất thạo nghề buôn bán
lớn.
Khi
Lý Long Thân đã trở nên giàu có thì Trương Duy Nhạc
cũng nhờ uy của bố giành được vị trí Phó lý sự
trưởng bang Phúc Kiến tại Sài Gòn. Đến đây, hai kẻ
đầy mưu mô lại càng bắt tay nhau chặt hơn để cùng
loại các đối thủ Hoa kiều khác ra khỏi các mối
làm ăn, tranh giành lợi nhuận.
Giữa
năm 1955, trước khi rút toàn bộ quân đội về nước
chấm dứt vĩnh viễn sự dính líu quân sự ở Việt Nam,
Pháp thông báo cho thanh lý các vật dụng nhà binh còn lại
với giá rất rẻ. Hoa kiều ở mọi ngành kinh doanh đều
đổ xô vào tham gia cuộc đấu giá này. Thấy lợi lớn,
Nhạc và Thân cùng nhảy vào. Trương Duy Nhạc nhờ uy bố,
Lý Long Thân mượn oai cha con Điển Nam, Nghiệp Sô (bang
Quảng Đông) huy động một nguồn vốn rất lớn, tuyên
bố sẽ “thầu toàn bộ số vật dụng nhà binh thặng
dư” nói trên, bằng cách đi cửa sau không qua đấu giá
công khai. Thấy mất phần, các doanh gia tên tuổi người
Hoa phản ứng. Lý Long Thân lại tuyên bố:
-
Tôi chỉ là người đại diện, còn thầu lô này là ý
định của ông Bảy Bình Xuyên.
Mỗi
lần đi định giá một lô hàng, Nhạc và Thân lại vứt
xe Peugeot ở nhà, leo lên xe cách-cách (xe cam nhông ngắn
đuôi) của Bình Xuyên có đầy lính vũ trang và đích thân
anh em Tài, Sang ngồi cạnh phóng đến. ở vòng ngoài, cha
con Trương Duy Nhạc cũng lịch sự chống ba-toong liên tục
“đi thăm hỏi” các vị bang trưởng các bang người Hoa
ở Chợ Lớn, ngỏ ý “lấy làm tiếc vì sự bất đồng
của anh em” trong vụ “mối hàng cỏn con không đáng là
bao” này. Dù rất hậm hực nhưng biết quyền thế của
gia đình Trương Duy Nhạc quá mạnh, lại sợ dây dưa với
Bình Xuyên nên bang trưởng các bang đều nuốt hận, ra
lệnh ngầm cho người của phe mình rút lui khỏi các cuộc
đấu giá. Kết quả, Nhạc và Thân độc chiếm quyền
khai thác nguồn hàng, thu lãi ròng hơn 5 triệu bạc. Tuy
nhiên Lý Long Thân lại khôn khéo lui vào sau, để quyền
công khai đấu thầu cho một mình Nhạc. Vì vậy, bao nhiêu
oán hận, giới thương nhân Hoa kiều đều trút lên đầu
Trương Duy Nhạc và đám Bình Xuyên mà không để ý gì
tới Lý Long Thân. Có kẻ còn thề sẽ có ngày “trả
thù”.
ít
lâu sau, do chủ quan, cậy thế, Trương Duy Nhạc đã phạm
sai lầm khi áp phe một lô mủ cao su trị giá 8 triệu đồng
mà không thèm lo đủ giấy tờ. Tức khắc, một thương
gia tên là Trịnh Công Quý, cũng hoạt động trong ngành
kinh doanh nguyên liệu cao su, đứng ra tố cáo Nhạc sang
đoạt bất hợp pháp lô hàng này. Chứng cớ rành rành,
Nhạc bị tống giam vào Chí Hoà. Lúc này Bình Xuyên cũng
bị anh em Diệm - Nhu tận diệt. Thừa cơ, đám Hoa kiều
thi nhau gởi đơn tố cáo Nhạc có quan hệ mờ ám với
Bình Xuyên. Sợ liên lụy đến thân, Lý Long Thân vội vã
bung tiền ra thu xếp với các bang Hoa kiều, lo lót với
cảnh sát đồng thời cầu cứu Ngân hàng Việt Nam Thương
Tín đứng ra bảo lãnh cho Nhạc. Cha của Nhạc cũng cầu
cứu lãnh sự quán Đài Loan gây sức ép với chính quyền
Diệm. Nhờ vậy Trương Duy Nhạc mới thoát khỏi hầu
toà, vụ việc bị ỉm đi vì “không đủ chứng cớ”.
Mối
quan hệ của Lý Long Thân với cha con Điển Nam, Nghiệp Sô
cũng khăng khít không kém. Điển Nam cũng là một tay cự
phách có quyền lực ngầm cực mạnh trong bang Triều Châu,
dưới trướng có gần 3000 người. Chính cha con Điển
Nam, Nghiệp Sô đã cùng Lý Long Thân và anh em Lại Hữu
Sang, Lại Hữu Tài vận động Bảy Viễn gây áp lực hậu
thuẫn để đưa Mã Quốc Tuyền lên làm Bang trưởng Triều
Châu, nhằm dễ bề thao túng cộng đồng Hoa kiều, đặc
biệt với giới thương nhân trong các vụ làm ăn sau này.
Điển Nam còn là một trong những người Hoa ở Chợ Lớn
có dính líu nhiều mặt với Quốc dân Đảng ở Đài Loan
và ở Đại lục. Y là kẻ phụ trách các hoạt động bí
mật đem học sinh Hoa kiều về Đại lục bất hợp pháp,
đồng thời là một đại lý chuyển ngân cho Hoa kiều đi
Hồng Công, Singapore, Đài Loan... trong đường dây buôn
tiền của Lý Long Thân. Nghiệp Sô (tự ông Tích), con của
Điển Nam giữ chức Phó lý sự trưởng Phòng thương mại
Hoa kiều. Do đó, y đã thu xếp để nhận Lý Long Thân vào
chức vụ Lý sự vụ của bộ phận này, tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho Lý Long Thân hoạt động rửa tiền và
chuyển ngân phi pháp.
Vốn
dĩ, giới làm ăn Hoa kiều rất tin vào tướng số. Dưới
mắt họ, Lý Long Thân có chân mạng đế vương ắt hẳn
sau này sẽ là một kẻ có tài kinh bang tế thế có thể
lợi dụng được. Vì vậy, cha con Điển Nam, Nghiệp Sô
cũng như khá đông tay có máu mặt khác của người Hoa
đều không tiếc công của giúp đỡ Lý, đưa y leo dần
lên từng nấc thang kinh tế và quyền lực trong bóng tối.
Lý Long Thân biết rất rõ mục đích đó của những người
đồng hương. Y cũng chờ cơ hội để có thể đáp lễ.
Thời
cơ đến với Lý khi cha con Điển Nam, Nghiệp Sô mưu toan
chiếm trọn khu đất Tân Địa Lộ đường Armand Roussau
(Nguyễn Chí Thanh) để chuẩn bị xây nhà xưởng. Khu đất
này có khá đông bà con lao động người Hoa sinh sống. Họ
không chịu dời đi dù Điển Nam, Nghiệp Sô tìm mọi cách
mua chuộc và dụ dỗ. Tháng 1.1955, cha con Điển Nam sai tay
chân đến phá phách, đốt nhà để khủng bố tinh thần
nhằm đuổi dân khỏi khu vực này. Không may cho đám côn
đồ, trong khu lao động Tân Địa Lộ còn có cả hai anh
em Chu Chí Kinh, Chu Chí Vịnh sinh sống. Cả hai đều là
những tay giang hồ hảo hán thời hiện đại, rất giỏi
võ và luôn sẵn sàng “dọc đàng thấy chuyện bất bằng
chẳng tha”. Khi đám côn đồ định ra tay thủ ác, anh em
họ Chu đã kịp thời có mặt đánh cho cả bọn chạy tan
tác. Cha con Điển Nam tức lắm nhưng dưới trướng không
có kẻ nào dám công khai đương đầu với anh em họ Chu.
Việc đuổi dân chiếm đất càng khó khăn hơn khi bà con
lao động tin tưởng, vừa đùm bọc bảo vệ, vừa nghe
lời anh em họ Chu phát đơn kiện cha con Điển Nam, Nghiệp
Sô. Chu Chí Kinh còn cùng với em đi khắp vùng Chợ Lớn
gặp nhiều vị có thế lực và trọng công bằng của các
bang hội Hoa Kiều khác nhờ giúp đỡ để chống lại âm
mưu cướp đất. Không ít người vốn ghét các trò bất
nghĩa của cha con Điển Nam nên đã nhận lời.
Đúng
lúc cha con Điển Nam tưởng phải từ bỏ âm mưu thì Lý
Long Thân mời họ đến. Tại văn phòng công ty SAVICO, Lý
vạch cho “đối tác” thấy rõ: chỉ có tiêu diệt anh
em họ Chu thì mới mong cướp được đất. Lý bảo:
-
Việc đó, tôi xin giúp.
Điển
Nam hứa:
-
Một phần năm khu đất đó sẽ thuộc về ông Lý.
Lý
Long Thân từ chối:
-
Tôi sẽ còn nhờ Điển tiên sinh nhiều dịp, còn chỗ đất
kia, Điển tiên sinh cứ giữ lại cho thêm rộng chỗ.
Nghe
lời Lý Long Thân, cha con Điển Nam chấp nhận đưa vụ
đất đai ra toà, và bỏ tiền ra lo lót.
Trong
khi đó, Lý Long Thân lại mở tiệc chiêu đãi Lê Binh
Nghĩa, trưởng Công an xung phong của Bình Xuyên. Tiệc đến
cao trào, hai ả xẩm xinh đẹp được Lý gọi ra, một ả
nâng chiếc khay có đặt một phong bì dày cộp trao cho
Nghĩa, ả kia tiêm thuốc phiện đưa mời tận miệng. Lúc
này, Lý Long Thân mới ngỏ lời nhờ vả. Đang ngây ngất
vì rượu, vì gái, tiền và khói thuốc phiện, Lê Binh
Nghĩa chắp tay:
-
Việc của Lý tiên sinh là việc của ông Bảy, việc của
ông Bảy thì có chết, tôi cũng không thể chối từ.
Tháng
2.1955, anh em Chu Chí Kinh, Chu Chí Vịnh từ Chợ Lớn đón
xe lên Sài Gòn định gặp ông Lương Tế Phi, Phó lý sự
trưởng bang Quảng Đông mượn 10.000 đồng để đóng
tiền hầu kiện. Khi xe đến dưới chân cầu chữ Y, một
toán công an tự xưng là Công an xung phong chặn xe lại,
lôi anh em Chu xuống đưa đi. Sau đó, họ không bao giờ
xuất hiện nữa. Như rắn mất đầu, số bà con lao động
người Hoa đành rời khỏi lô đất Tân Địa Lộ để
tránh bị bọn côn đồ cướp phá. Một số người có
làm đơn trình bày vụ mất tích của Chu Chí Kinh, Chu Chí
Vịnh nhưng không được trả lời. Lý do: họ bảo anh em
họ Chu bị bắt cóc thủ tiêu nhưng không có ai đứng ra
làm nhân chứng!
4.
Làm vua không được, làm giặc không xong...
Thâu
tóm xong quyền lực chính trị ở miền Nam, Diệm - Nhu bắt
đầu quay sang tấn công tiêu diệt quân đội của các
giáo phái. Đầu tháng 12.1954, Bảy Viễn nhận được
thư của Diệm “mời” vào dinh Độc Lập để “thảo
luận một số vấn đề quan trọng của quốc gia”. Biết
rõ mưu đồ của Diệm - Nhu, Bảy Viễn viện đủ cớ
thoái thác không vào. Dỗ ngọt không xong, cuối tháng
12.1954, Diệm nhờ tướng Mỹ O’ Daniel “ném” tối hậu
thư cho Bình Xuyên: “Nếu Thiếu tướng không chịu về
với quốc gia thì chỉ sau một tuần, quân chính phủ sẽ
giải quyết xong vấn đề Bình Xuyên”.
Bị
đe dọa, Bảy Viễn nổi khùng văng tục và tuyên bố:
-
Bình Xuyên có chiến lược riêng, thích ứng với thiên
thời, địa lợi vùng sông nước Nam Bộ, chẳng việc gì
phải sợ.
Thấy
Bảy Viễn ngoan cố, đầu năm 1955, Diệm ra lệnh đóng
cửa hai sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới, nhằm cắt
đứt hầu bao nuôi quân của Bình Xuyên. Bảy Viễn quay
sang cầu cứu tướng Pháp Paul Ely, nhưng nước Pháp đang
sa lầy ở Algerie nên cũng đành làm ngơ cho Diệm thanh
toán giáo phái. Không chịu khoanh tay chờ trói, Bảy Viễn
lại cho gọi Lý Long Thân bàn bạc kế hoạch: đẩy mạnh
phát hành đồng “Phật lăng Bình Xuyên” giao cho Lý Long
Thân đổi ra dollar Mỹ hoặc franc Pháp, lấy số ngoại tệ
đó mua súng đạn, khí tài và tuyển quân cảm tử để
lập các đội khủng bố đối phó với anh em Diệm - Nhu.
Nghe
đề nghị, Lý toát mồ hôi hột. Rửa tiền cho Bình Xuyên
thì Lý có thể làm được, vì y có mạng lưới chuyển
ngân dày đặc, còn các yêu cầu sau, Lý biết dây vào là
cầm chắc mang tội chống chính phủ quốc gia, không chết
vì ăn đạn cũng khó thoát khỏi tù đầy. Thấy Lý hoảng
sợ, anh em Tài, Sang chơi bài ngửa:
-
Diệm - Nhu diệt xong Bình Xuyên chắc ông Lý cũng khó
thoát khỏi tội chết vì hồ sơ họ đầy ra đó. Còn nếu
Bình Xuyên đủ lương thảo, súng đạn cầm cự, mai mốt
Quốc trưởng (Bảo Đại) về, ông Lý sẽ là bậc công
thần, muốn tự do kinh doanh, Diệm - Nhu cũng không ép nổi.
Ông Lý tính sao?
Đã
cưỡi lên lưng cọp, muốn xuống cũng không xong, Lý Long
Thân đành nhắm mắt gật đầu.
Phải
thừa nhận rằng Lý là tay cực kỳ tháo vát. Chỉ sau ít
ngày, số tiền “Phật Lăng Bình Xuyên” vừa phát hành,
Lý đã tiêu thụ sạch. Có ngoại tệ, Lý cùng Vương Nha
Sinh, kẻ phụ trách tuyển quân của Bình Xuyên đi khắp
nơi chiêu binh mãi mã. Lý đưa ra mồi nhử: bất cứ người
nào tham gia cảm tử quân của Bình Xuyên cũng sẽ được
lãnh trước 10.000 đồng và sau đó người nào làm việc
đắc lực sẽ có thưởng khác nữa. Thấy có tiền, khá
nhiều tên du thủ du thực ở quận 6, quận 8 và vùng Chợ
Lớn ào ào xin đăng ký đầu quân. Nhưng cứ cầm tiền
xong, chúng lại tìm cách bỏ trốn.
Để
trang bị cho đám này, Lý Long Thân lại nhờ mối giao hảo
của một số thương nhân Hoa kiều móc nối với phòng
nhì Pháp xin mua lại với giá thật rẻ một số súng đạn
của quân Pháp ở Việt Nam chưa bị thanh lý hết! Sau đó,
y “hợp đồng” với cha con Điển Nam, Nghiệp Sô để
hai tên này cho tàu của hãng Nam Hòa Hưng chuyên chở vũ
khí, lương thực tiếp tế cho quân Bình Xuyên. Giữa tháng
3.1955, Lý hồ hởi báo với Bảy Viễn:
-
Vào cuối tháng này, Thiếu tướng sẽ có thêm 100 khẩu
tiểu liên Thompson, M3, M1 và Garrand, 4 khẩu cối 60 ly và
khoảng 10.000 viên đạn các loại.
Nhưng,
mọi tính toán và hành động của Lý đều không lọt qua
được con mắt nghề nghiệp lọc lõi của Lý Kai, chuyên
viên á Châu thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà,
thực chất là một mật vụ tin cẩn của Ngô Đình Nhu.
Là một Hoa kiều, Lý Kai cũng có nhiều mối quan hệ khăng
khít với cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn, đặc biệt
là với số người Hoa Quốc dân Đảng Đài Loan. Trong số
đó, không ít kẻ từng bị Lý Long Thân chèn ép trên
thương trường nên luôn tìm cách dò xét mọi hành động
của Lý để chờ dịp hạ địch thủ. Thông qua những
người Hoa này, Lý Kai đã có đủ tài liệu để khép Lý
Long Thân vào tội “hoạt động phiến loạn chống chính
phủ”.
Đánh
hơi thấy nguy hiểm, Lý Long Thân vội vã cầu cứu Bình
Xuyên. Đang cần Lý Long Thân để lo vụ mua súng đạn,
Bảy Viễn liền ra lệnh cho đội cảm tử của Vương Nha
Sinh bắt cóc Lý Kai. Tuy vậy, Lý Long Thân vẫn chưa được
yên. Khá đông nhân vật quyền thế trong các bang hội Hoa
kiều đều khẳng định: Việc Lý Kai bị bắt cóc có tay
Lý Long Thân nhúng vào. Họ dọa tẩy chay và có biện pháp
trừng phạt nếu Lý Long Thân không có biện pháp giải
cứu cho Lý Kai. Không thể chạy sang yêu cầu Bình Xuyên
thả Lý Kai vì như vậy có khác gì thừa nhận mối giao
hảo với “quân phiến loạn”, Lý Long Thân bèn tính một
“đòn gió”: y cùng Ngô Đắc - một Hoa thương tên tuổi
của bang Triều Châu chạy khắp các nơi có thế lực, gõ
cửa cả nhà của trùm mật vụ Mai Hữu Xuân yêu cầu có
biện pháp giải thoát cho nạn nhân của... chính mình.
Mọi
chuyện đang rối như mớ bòng bong thì đêm 29.3.1955, Bình
Xuyên bất ngờ nã pháo vào dinh Độc Lập, chủ động
tấn công quân chính phủ trước. Chỉ chờ có vậy, Ngô
Đình Diệm cho mở ngay chiến dịch Hoàng Diệu “phản
công lại”, giao cho Dương Văn Minh - mới được đặc
cách lên đại tá - chỉ huy. Suốt năm ngày năm đêm, giao
tranh đã xảy ra ác liệt trên dọc tuyến đường Bến
Chương Dương, Hàm Tử từ cầu Nhị Thiên Đường, cầu
chữ Y và kéo dài xuống tận cầu Tân Thuận. Càng đánh
nhau, quân Bình Xuyên càng yếu thế. Bảy Viễn vội thu
quân về rừng Sác, lấy miền rừng ngập mặn làm căn cứ
để “cầm cự chờ Quốc trưởng Bảo Đại về phán
xử”.
Những
ngày đó, Lý Long Thân hoang mang cực độ. Y vội vã gom
góp tư trang tiền bạc, đóng cửa các văn phòng nhà xưởng
nằm yên, vừa run vừa nghe ngóng. Cuối cùng, không thắng
nổi sợ hãi, ngày 14.5.1955, Lý Long Thân tính bài chuồn,
lấy vé định bay sang Hồng Công chạy trốn. Nhưng máy
bay chưa cất cánh, Lý Long Thân đã bị Cảnh sát Hoạt vụ
còng tay lôi xuống.
Rất
may cho Lý, y là kẻ đứng tên hùn vốn trong khá nhiều
đường dây kinh tế của người Hoa. Nếu để y bị Diệm
trừng trị, các cơ sở kinh tế ấy cũng bị vạ lây, bị
cảnh sát tịch biên hoặc đóng cửa. Vì vậy cha con Điển
Nam, Nghiệp Sô, bang trưởng Triều Châu Mã Quốc Tuyền...
vội vã đổ tiền ra để chạy tội cho Lý Long Thân. Ngay
cả quyền Tổng lãnh sự Đài Loan Trầm Tố Tâm cũng đứng
ra bảo lãnh và gây sức ép để Diệm tha Lý. Vì vậy, Lý
mới được tại ngoại điều tra. Suốt bốn tháng trời,
Lý Long Thân đã đổ tiền như núi để bịt kín tất cả
các mối rò rỉ thông tin có thể đưa y ra toà. Đến
tháng 9.1955, Lý mới thở phào: Bảy Viễn và hai tên Lại
Hữu Sang, Lai Hữu Tài đã được Pháp giải thoát đưa
sang Paris lưu vong. Đầu mối quan trọng nhất để buộc
tội y đã bị chặt đứt, Lý Long Thân được đình chỉ
điều tra. Vừa thoát chết, đầu óc nhanh nhạy của Lý
đã nhìn thấy cơ hội làm ăn lớn. Trước mắt Lý, con
đường dẫn đến ngôi “vua” đã bắt đầu rộng mở.
5.
Ông vua hai ngai
Trong
kinh doanh, Lý Long Thân là một kẻ rất nhanh nhạy với
thời cuộc, thông minh, táo bạo và cực kỳ thành đạt.
Để loại trừ thế độc quyền kinh doanh, lũng đoạn
thương nghiệp của giới kinh doanh Hoa kiều, Diệm - Nhu đã
ra sắc luật cấm người Hoa kinh doanh một số mặt hàng
và không được tham gia vào một số ngành nghề khác,
trong đó có vải sợi, sắt thép, máy móc v.v... Không chút
đắn đo, Lý Long Thân bèn xin đổi từ quốc tịch Hoa
sang quốc tịch Việt, nhằm né tránh sắc luật bất lợi
này. Tiếp theo, tháng 3.1959, Lý lại ký quỹ một số tiền
rất lớn vào Ngân hàng Việt Nam Thương Tín để được
ngân hàng này tiếp nhận vào chức vụ Hoa vụ kinh lý -
chuyên trách điều tra tài sản và thu hút vốn của cộng
đồng Hoa kiều. Nhờ vậy, Lý có điều kiện thu hút vốn
mạnh mẽ, cho ra đời hai công ty VINATEXCO (Việt Nam vải
sợi công ty) và VINATEFINCO (Việt Nam vải sợi hoàn tất
công ty) vừa sản xuất vừa kinh doanh xuất nhập khẩu,
thao túng toàn bộ thị trường vải miền Nam Việt Nam.
Riêng tại kho nhiên liệu của Lý ở gần ngã tư Bảy
Hiền, hoá chất phục vụ cho ngành dệt nhuộm cũng luôn
sẵn sàng cung cấp cho sản xuất trong vòng ba năm liên tục
chưa hết. Nghiễm nhiên Lý trở thành một “hoàng đế”
ngự trên “vương quốc” may mặc và vải sợi.
Chiến
tranh ngày càng lan rộng, vũ khí, khí tài quân sự do Mỹ
đổ vào miền Nam cho ngụy quân ngụy quyền ngày càng
nhiều. Theo thời cuộc, một phần lớn những trang bị
này bị loại bỏ trở thành phế liệu. Đánh hơi thấy
nguồn nguyên liệu dồi dào, Lý Long Thân lại đứng ra
thành lập nhà máy cán sắt VISACA, độc quyền tận thu
nguồn nguyên liệu sắt từ các chiến trường. Với giá
thu mua cực rẻ, Lý Long Thân đã có một nguồn nguyên
liệu cực tốt và dồi dào để biến thành những sản
phẩm xuất khẩu giá trị. Ngay cả thị trường Nhật
Bản, Đại Hàn cũng rất chuộng loại thép thành phẩm do
VISACA sản xuất cho nên công ty của Lý phát triển vùn
vụt. Đến năm 1974, vốn của VISACA đã lên tới con số
sáu trăm triệu đồng. Tuy nghiên, nguồn lợi thu được
từ chiến tranh là miếng mồi quá lớn nên lắm kẻ có
tiền, có quyền thi nhau nhảy vào xâu xé. Vì vậy, trong
lĩnh vực sắt thép, phế liệu, dù cực giàu, Lý vẫn
chưa thể làm một ông vua tận chiếm mọi quyền hành.
Để
mị dân, tránh tiếng biến miền Nam thành thị trường
tiêu thụ hàng ế thừa của Mỹ, ngụy quyền Sài Gòn
liên tục đưa ra các khẩu hiệu như “chấn hưng kinh
tế”, “bình định và phát triển nông thôn”, “cách
mạng trong sản xuất lúa gạo”, “thay sức người
bằng sức máy”... Với chiêu bài “ủng hộ chủ trương
của chính phủ”, Lý Long Thân liên tiếp cho ra đời thêm
hàng chục công ty lớn, nhỏ nhằm nhập khẩu ồ ạt các
loại máy móc nông ngư cụ, hàng tiêu dùng cung cấp cho
thị trường. Với những khoản tiền đút lót hậu hĩnh,
với nguồn tài chính hậu thuẫn cực mạnh từ Ngân hàng
Việt Nam Thương Tín, Lý vừa trốn được nhiều khoản
thuế lớn, vừa nhanh chóng và khéo léo lọt qua được
các rào cản lỏng lẻo của luật pháp để làm giàu. Chỉ
riêng một phi vụ nhập máy móc về “phục vụ sản
xuất”, Lý đã cùng Nghiệp Sô - Giám đốc điều hành
VINATEXCO cấu kết với Huỳnh Văn Lang - Viện trưởng Viện
Hối đoái tìm cách trốn thuế khoản tiền lên đến 40
triệu đồng. Lý nhanh chóng trở thành một “vua nông ngư
cụ” với 19 kho hàng và hàng chục nhà xưởng rải khắp
Sài Gòn - Chợ Lớn. Bất cứ lúc nào, dãy kho nông ngư cụ
của Lý ở Phú Thọ Hoà cũng có sẵn hàng trăm chiếc máy
cày hiệu Kohler, Kubota vừa nhập cảng từ Nhật Bản. Tại
đường Mạc Vân bên kia cầu Sài Gòn, các loại hàng tiêu
dùng, phụ tùng xe máy của Lý chất kín trong năm dãy nhà
kho đồ sộ. Ngay tại trung tâm thành phố Sài Gòn, tại
đường Tôn Thất Đạm, cơ ngơi của Lý cũng chiếm ba
dãy nhà là văn phòng của ba công ty lớn: Trường Phát,
Quốc Tế Thương Cuộc và Đông Nam á, với giá trị hàng
hoá của mỗi công ty từ 300 - 600 triệu đồng cho bất cứ
thời điểm nào, đó là chưa kể những hàng hóa là phần
hùn của Lý trong khá nhiều công ty khác, trị giá số
hàng lớn này ở mỗi nơi cũng lên đến vài trăm triệu.
Để
“cai trị” được một tài sản đồ sộ với nhiều
ngành nghề khác nhau, tất nhiên một mình Lý Long Thân
không thể nào lo xuể. Là người khôn khéo, giỏi nhìn xa
trông rộng, Lý Long Thân luôn biết cách tạo ra những
liên minh quyền lực chằng chịt và dày đặc nhưng mọi
mối đều buộc vào một sợi dây nằm trong tay Lý. ở
hai công ty lớn của ngành dệt may thì Lý giữ chức Chủ
tịch VINATEFINCO, Phó chủ tịch ở VINATEXCO trong khi một
“cánh hẩu” khác là Trương Duy Nhạc làm phó ở công
ty thứ nhất và làm chủ tịch ở công ty thứ hai. Riêng
chức vụ Giám đốc điều hành VINATEXCO, Lý giao cho Nghiệp
Sô - một kẻ thâm giao thừa kinh nghiệm lưu manh nắm giữ.
Khác
với truyền thống kinh doanh của người Hoa, thường đưa
con em hoặc thân nhân vào nắm giữ các vị trí then chốt
của guồng máy làm ăn, Lý Long Thân không làm như vậy. Y
từng tuyên bố: “Kẻ nào biết rõ về ta, kẻ ấy thắng
ta một nửa”. Do vậy, Lý chủ trương chỉ tuyển các
tay chân tin cẩn ở ngoài dòng tộc. Những kẻ này đều
quen biết Lý thông qua các phi vụ làm ăn và đều là
những tay sừng sỏ. Trong số đó có Châu Trần Tọa, một
đồng hương Phúc Kiến hơn Lý năm tuổi. Châu là một
thành viên Quốc dân Đảng vào loại “gộc” của Đài
Loan, được Diệm cho phép hoạt động trong chi bộ Quốc
dân Đảng của Trần Y Lịnh, bí thư cơ quan Đại sứ
quán Trung Hoa Dân Quốc tại Sài Gòn. Tọa từng bốn lần
sang Đài Loan mừng thọ Tưởng Giới Thạch với tư cách
khách mời; từng làm Bang trưởng Phúc Kiến tại Chợ
Lớn; từng vượt biên sang Nam Vang tham gia bàn bạc chủ
trương với Phái đoàn kinh tế Việt Nam do Quốc dân Đảng
tổ chức năm 1958. Nhìn thấy “thiên tài” của Châu
Trần Tọa đối với các hoạt động trong bóng tối, Lý
Long Thân đã không tiếc tiền của để kéo Châu về dưới
trướng. Sau vụ đảo chính Diệm - Nhu (11.1963), Mã Tuyên
bị hất khỏi chức vụ Mại bản (compradore) của Ngân
hàng Việt Nam Thương Tín, Lý đã xuất 2,5 triệu đồng
của VINATEXCO để ký quỹ và vận động công ty Tứ Hải
Nguyên xuất thêm 10 triệu đồng bảo lãnh cho Châu Trần
Tọa trám vào chức vụ này. Có được Châu Trần Tọa,
Lý Long Thân càng tha hồ phù phép để buôn tiền và hợp
thức hoá các nguồn tài chính đen để đã giàu càng tiếp
tục giàu thêm.
ở
mỗi công ty, nhà máy, cửa hàng, ngoài các ban bệ bình
thường, Lý Long Thân đều đặt thêm các tai mắt tin cẩn
giám sát công việc kinh doanh và tổ chức các chiến dịch,
phi vụ trong bóng tối. Thực tế, mọi quyền điều khiển
hoạt động kinh doanh, ngân quỹ đều do những kẻ ẩn
danh này nắm giữ và báo cáo trực tiếp với Lý Long
Thân. Trong khi đó, Lý tuyệt đối không cho con cái tham
gia vào việc làm ăn. Hai người con trai lớn là Lee Poon
Leung và Lee Sok Wah được Lý gửi vào Đại học Kowloon
(Hồng Công) ăn học vì “thời thế đổi thay, không học
không làm vua được mãi”.
Một
trong những lý do khiến Lý Long Thân chỉ quan hệ làm ăn
với người ngoài dòng tộc là để khi cần thiết, vì
quyền lợi y có thể “bán đứng” kẻ chung lưng đấu
cật mà không hề thương tiếc. Ngày 1.11.1963, anh em Diệm
- Nhu bị đảo chính. Trước khi bị bắt, Diệm - Nhu có
trốn ở nhà Mã Tuyên ở Chợ Lớn. Anh em Diệm - Nhu bị
thanh toán xong, Mã Tuyên cũng bị phe đảo chính truy nã
gắt gao, phải trốn chui trốn nhủi. Ngày 6.11, Mã Tuyên
trốn được tới nhà Lý Long Thân. Là cánh tay kinh tài
của anh em Diệm chắc chắn Mã Tuyên sẽ không còn cơ hội
thoát hiểm để tiếp tục làm ăn, cho nên sẽ chẳng còn
tác dụng gì với Lý Long Thân. Lựa lời ngọt nhạt, Lý
phân tích thiệt hơn và khuyên Mã Tuyên trốn sang Nam Vang.
8 giờ tối, rời khỏi nhà Lý chưa được 300 mét, Mã
Tuyên đã bị Cảnh sát chờ sẵn bắt đi. Để tránh
tiếng phản bạn và những ánh mắt nghi ngờ từ cộng
đồng người Hoa đổ về mình, ngày 26.11.1963, Lý Long
Thân làm đơn gởi Đô trưởng Sài Gòn xin bảo lãnh cho
Mã Tuyên ra Bệnh viện Grall (nay là Bệnh viện Nhi đồng
II) chữa bệnh. Không ai biết Lý chạy chọt thế nào
nhưng sau đó, đơn của Lý được chấp thuận. Tại bệnh
viện Grall, cuộc thăm hỏi của Lý với Mã Tuyên chỉ
diễn ra trong vòng vài phút. Mã Tuyên từ chối không thèm
nhìn mặt Lý.
Vụ
việc trên cùng với khá nhiều hành vi ám muội khác của
Lý bất ngờ bị tuần báo Hành động lôi tuột ra ánh
sáng vào tháng 3.1964 trong suốt ba kỳ báo. Uy tín, nhân
cách của một “ông vua” bị báo chí quật cho tơi tả.
Cáu tiết Lý Long Thân đâm đơn kiện tờ Hành động ra
Toà tiểu hình. Vụ kiện kéo dài gần năm tháng. Cuối
cùng “tờ báo cỏn con” không chịu nổi sức ép từ
hàng núi tiền do Lý ném ra, đành chịu thất kiện. Lý
đưa ra điều kiện: hoặc đính chính hoặc phải “bồi
thường danh dự” bằng một số tiền khổng lồ. Để
tránh “cái chết” chắc chắn sẽ xảy ra, ngày
26.8.1964, tờ Hành động đành phải đăng bài đính chính.
Công
việc kinh doanh càng phát triển, Lý Long Thân càng thường
xuyên phải xuất ngoại để mở rộng quan hệ. Mỗi lần
xin đi, Lý lại một lần bị điều tra vì trong quá khứ,
y có quá nhiều mối quan hệ mờ ám. Một lần nữa, Lý
lại vung tiền mua khắp bộ máy ngụy quân ngụy quyền,
từ Cảnh sát quận đến Toà áo đỏ (toà thượng thẩm).
Đồng tiền của Lý phát huy tác dụng khá triệt để:
Ngày 13.12.1966, Chư Ngọc Liễn - Phụ tá Tổng ủy viên An
ninh đã ký giấy chấp nhận cho Lý Long Thân “bạch hoá
hồ sơ”. Kể từ đó, “đương sự Lý Long Thân” trở
thành một người “sạch sẽ”, không bị điều tra lôi
thôi tốn thì giờ khi đứng đơn xin đi đâu hay làm bất
cứ việc gì. Nhưng Lý vẫn chưa thoả mãn. Y lại tiếp
tục vung tiền mua chuộc hai viên đại tá ngụy là Trần
Văn Lâm - Tổng giám đốc Việt tấn xã và Tạ Văn Đức
- sĩ quan Tổng cục tiếp vận Bộ tổng tham mưu để hai
viên đại tá này ký giấy “bảo đảm cho bạn tôi, cam
đoan chịu mọi trách nhiệm nếu đương sự có hành vi
sai trái hoặc vi phạm luật pháp...”. Với sự bảo lãnh
của hai viên sĩ quan cao cấp này, Lý Long Thân trở thành
một “công dân lương thiện và đáng kính của xã hội”.
6.
Nhà tư bản cá mập
Càng
giàu có, Lý Long Thân càng ra sức bóc lột công nhân.
Thỉnh thoảng để chiều lòng ngụy quân ngụy quyền đang
tìm mọi cách bắt lính, Lý lại vô cớ tuyên bố sa thải
một số nam công nhân để đẩy họ vào lính. Theo thống
kê, trong ba năm 1962 - 1964, vật giá ở Sài Gòn tăng 48%.
Cũng trong ba năm đó, công nhân ngành dệt may của Lý phải
tăng năng suất lao động lên gần gấp đôi. Công nhân
dệt từ chỗ đứng 25 - 30 máy/ người phải tăng lên
đứng 50 máy/ người. Chưa hết, khẩu phần ăn của họ
còn liên tục bị cắt xén, phòng nghỉ xuống cấp không
được tu bổ, điều kiện vệ sinh rất kém. Vậy nhưng
suốt ba năm, Lý không hề tăng lương cho công nhân. Vì
vậy, ở hai công ty VINATEXCO và VINATEFINCO, đình công đã
liên tục xảy ra. Để phá các cuộc đình công, Lý đã
sử dụng tên Tô Tấn Phiếu - một chuyên gia phá hoại
nội bộ công nhân của Quốc dân Đảng do Châu Trần Tọa
tiến cử. Trong khi mức lương giám đốc công ty chỉ 4 -
5.000 đồng/tháng, Lý đã trả cho Tô Tấn Phiếu tới
8.000, rồi 10.000, sau lên 15.000 đồng/tháng.
Mỗi
lần có nguy cơ nổ ra đình công tại các nhà máy công
xưởng của Lý, Tô Tấn Phiếu lại cùng đám cò mồi đàn
em tìm cách phát hiện chủ trương đấu tranh, nhận diện
người cầm đầu và ban lãnh đạo báo cáo cho Lý. Trong
các cuộc đình công, đám cò mồi cố tình gây ẩu đả,
đập phá để Lý Long Thân có lý do trừng phạt công
nhân, phá rã đấu tranh. Lý thường vu cho những người
lãnh đạo là “Cộng sản nằm vùng”, tạo bằng chứng
giả để đưa cảnh sát đến xưởng đàn áp bắt bớ.
Nổi
tiếng nhất là cuộc đình công đòi tăng lương, chống
chủ đuổi công nhân cho ngụy quân chiếm nhà xưởng xảy
ra đồng lúc ở cả VINATEXCO và VINATEFINCO, nổ ra ngày
29.12.1963. Theo đúng bài bản, Lý cố tình tránh mặt, chỉ
đạo cho giám đốc các xưởng sản suất không nhận
thỉnh nguyện thư vì “không đủ thẩm quyền”. Sau bốn
ngày đấu tranh, công nhân đã tập hợp được hơn 1000
người đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ khá
đông thợ thuyền các giới. Họ bắt giữ Triệu Diêu
Đông - Cố vấn kỹ thuật của VINATEXCO và hai xưởng
trưởng là Triệu Thọ Mậu và Trang Đinh làm con tin. Bàn
ghế, kiện sợi, thùng phi được công nhân ném ra làm
chướng ngại vật để chống lại sự đàn áp của cảnh
sát do Lý Long Thân mời đến. Đến lúc nay, Lý mới hoảng
sợ, hứa sẽ tăng lương nhưng chỉ tăng 4%. Công nhân
không nhượng bộ. Ngày 8.1.1964, thêm hơn 1000 thợ của
các công ty khác tiếp tục kéo đến ủng hộ và tiếp tế
cho công nhân hai công ty đang đấu tranh. Hoảng sợ, Lý
Long Thân liền viết đơn đề nghị chính quyền ngụy
“dập tắt cuộc bạo loạn do Cộng sản xúi giục và
lãnh đạo”.
Ngày
17.1, một đại đội Cảnh sát dã chiến và một tiểu
đoàn Quân cảnh trang bị súng ống, hơi cay, dùi cui xông
vào VINATEXCO và VINATEFINCO đánh đập công nhân dã man, bắt
đi hơn mười người. Liên tiếp những ngày sau, hai nhà
máy đều bị cảnh sát bao vây, bắt thêm một số người
nữa. Đến 21.1.1964, Lương Đệ, Tăng Bôi và toàn bộ đại
diện công nhân đều bị bắt, các nhóm đấu tranh bị cô
lập và tan rã trong khi Lý Long Thân vẫn không đáp ứng
các yêu sách của họ...
Không
chỉ tàn nhẫn với công nhân, Lý Long Thân còn nổi tiếng
tàn bạo trong các cuộc cạnh tranh với những nhà doanh
nghiệp khác. Ngày 12.5.1974, văn phòng công ty Đại Nam của
Lý Long Thân nhận được điện của cơ sở ở nước
ngoài báo tin: lúc 6 giờ sáng cùng ngày, tàu Viễn Đông
đã rời cảng Stockholm (Thụy Điển) chở về Sài Gòn cho
công ty X. 6000 tấn giấy gồm 4000 tấn giấy vở học sinh
và 2000 tấn giấy in báo, đồng thời cũng cho biết luôn
giá giấy trên thị trường thế giới. Đọc xong bức
điện, Lý Long Thân nhanh chóng tính nhẩm ngay ra số lãi
sẽ thu được, dù tàu giấy trên... không phải của y, và
giấy cũng chưa bao giờ là ngành kinh doanh “mặn mòi”
với Lý.
Tức
khắc, Lý quyết định nẫng tay trên món lợi. Y ra lệnh
cho tất cả các cửa hàng dưới quyền mình hạ giá giấy
10%, riêng khu vực quanh Sài Gòn hạ tới 20%. Vài ngày
trước khi tàu Viễn Đông cập bến, Lý lại ra lệnh hạ
giá thêm 20% nữa, riêng khu vực cảng hạ tới 30% đồng
thời đăng quảng cáo rầm rộ sẽ có hai tàu giấy từ
Thụy Điển sắp về Sài Gòn với giấy tốt, giá rẻ.
Thông tin của Lý quá ồn ào, giá bán giấy hạ quá đột
ngột khiến tất cả các nhà in, các tờ báo, các nhà
kinh doanh giấy đều lo ngại không dám tích trữ giấy,
cũng không dám mua vào vì sợ không tiêu thụ được. Đích
thân chủ công ty X. đi chào mời mua giấy nhưng đến đâu,
ông ta cũng chỉ nhận được những cái lắc đầu. Dã
man hơn, Lý Long Thân còn chở giấy ra tận cầu cảng,
phát không cho những người bán quà bánh, hàng rong mỗi
người vài ba thếp trắng tinh. Tàu Viễn Đông về cảng
Sài Gòn, ông chủ hãng X. ra đón thấy giấy trắng gói
hàng vứt vung vãi xung quanh, ông ta quá sức ngạc nhiên.
Hỏi, ông ta được những người bán hàng trả lời:
-
Giấy rẻ như cho, không gói quà thì để làm gì?
Tàu
Viễn Đông về nằm khan tại cảng suốt mấy ngày vẫn
không tìm ra người mua giấy, ông chủ hãng X. ruột gan
như muốn lộn tùng phèo. Đã vậy, hè đã đến, các cơ
sở tiêu thụ lẻ cũng chẳng quan tâm mấy đến giấy vở
vì không biết bán cho ai. Đúng lúc đó, người của công
ty Đại Nam đến đặt vấn đề mua trọn số giấy của
tàu Viễn Đông, dĩ nhiên là theo biểu giá đã hạ 50%. Lỗ
nặng nhưng không bán không xong vì giấy ngoài thị trường
càng ngày càng hạ giá, lại thêm tiền neo đậu bến bãi
của tàu Viễn Đông càng ngày càng nhiều thêm, nhà tư
sản ngành giấy đành phải gật đầu. Đã thua đơn lại
thêm thiệt kép, ông ta còn phải chở giấy đến tận kho
của Đại Nam mà không được tính thêm một xu tiền
cước. Vậy là 6000 tấn giấy nhanh chóng chui vào kho của
Lý Long Thân với giá còn rẻ hơn giá gốc, lại không tốn
đồng chuyên chở nào. Chỉ dăm ba ngày sau, giá giấy lại
dần dần nhích lên. Một số báo chí nhanh nhẩu khám phá
ra rằng vụ “hai tàu giấy đang về Sài Gòn” chỉ là
tin “bố láo”, lại càng khiến giấy tăng giá, đúng
như bài bản mà Lý đã vạch.
Khi
hiểu ra toàn bộ cơn sốt tăng, giảm điên khùng giá giấy
nói trên đều là trò phù thuỷ của “Vua” Lý Long Thân,
nhà tư sản ngành giấy kia chỉ còn biết nước mắt lưng
tròng và ngửa mặt than trời. Vụ “chó ăn xương chó”
này - như cách gọi của báo chí Sài Gòn thời đó - càng
khiến tên tuổi Lý Long Thân lừng lẫy, chứng tỏ quyền
lực lũng đoạn kinh tế ghê gớm của y là không đối
thủ.
Nhưng,
mọi thủ đoạn đều không giúp Lý Long Thân tồn tại
được vĩnh viễn. Những binh đoàn quân giải phóng đã
tiến thẳng vào Sài Gòn trưa ngày 30.4.1975, quét sạch
toàn bộ bộ máy ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn, quét
luôn cả mọi tham vọng và thủ đoạn làm giàu bất lương
của ông vua không ngai Lý Long Thân.
Biết
không còn đất sống cho những thủ đoạn lọc lừa, ngay
sau giải phóng, Lý đã cùng sáu người khác mua thuyền
vượt biên và bị bắt tại Bến Tre. Và chính lúc đó,
mọi quyền hành, mọi thế lực hống hách đều biến
mất, Lý trở lại đúng với bản chất một kẻ trọc
phú - giàu tiền của nhưng nghèo sĩ khí. Trước khi cánh
cửa buồng tạm giam khép lại, Lý đã nước mắt nước
mũi chảy dài và gào toáng lên:
-
Cho tôi ra, cán bộ ơi, cho tôi ra. Tiền của tôi còn nhiều
lắm!
Cũng
như nhiều nhà tư sản mại bản khác, sau đợt cải tạo
công thương nghiệp, Lý Long Thân đã ra nước ngoài định
cư, sống nốt quãng đời còn lại. Hình như ở một góc
nào đó trên đất Mỹ xa xôi, ông già Lý Long Thân, đã
lẫn đi nhiều, vẫn xoè đôi tay nhìn đường đời đan
chằng chịt dọc ngang trên đó và lẩm bẩm:
-
Qua mất rồi... Hết tất cả rồi!
3.
LÂM HUÊ HỒ
Đầu
húi cua, khuôn mặt gầy và khắc khổ luôn chau lại như
kẻ đang lo chạy gạo từng bữa, trông tướng mạo Lâm
Huê Hồ chẳng khác nào một anh đạp xích lô đông con
vất vả. Bà Huỳnh Hương - vợ Lâm - trông bề ngoài cũng
chẳng sang trọng gì hơn. Nhưng bất chấp những nét bần
tướng mà số phận áp đặt, Lâm Huê Hồ vẫn là một
tỉ phú lừng danh khắp Sài Gòn - Chợ Lớn trước ngày
giải phóng, một vua ngân hàng, vua của các vua, trùm chủ
nợ của các tỉ phú khét tiếng khác. Độc đáo hơn,
được tôn xưng là “vua ngân hàng” nhưng Lâm chưa bao
giờ nắm trong tay một ngân hàng nào cả.
Thực
ra, nếu có ai nhìn tấm áo sờn bạc, dáng điệu lam lũ
của vợ chồng Lâm để đánh đồng họ với những tay
ve chai đồng nát thì cũng chưa hẳn đã là sai lầm, bởi
đó đích thực là khúc dạo đầu cơ cực của cuộc đời
Lâm.
Sinh
năm 1923, tại thị trấn Chin Can, tỉnh Phúc Kiến, Trung
Quốc, hơn 20 năm sau sang sinh sống tại Chợ Lớn, Lâm Huê
Hồ cũng chỉ có hai bàn tay trắng. Cái nghèo đẩy bạt
Lâm Huê Hồ ra khỏi quê hương. Đến khi lấy vợ, Lâm
Huê Hồ thậm chí cũng không biết cha mẹ đẻ - ông Lâm
Sa và bà Pho Thị ở Trung Hoa lục địa còn sống hay đã
chết để báo tin. Huỳnh Hương còn khổ hơn, mồ côi cả
cha lẫn mẹ.
Lập
luận của Lâm Huê Hồ khi đến với nghề ve chai đồng
nát quả là đơn giản:
-
Bán bất cứ thứ gì người ta muốn mua, và mua bất cứ
thứ gì người ta muốn bán.
Cần
mẫn, tằn tiện, sau vài ba năm Lâm đã có một số vốn
nho nhỏ. Anh ta quyết định chuyển sang mở tiệm tạp
hóa. Chủ trương mới của Lâm là buôn một triệu tiền
gạo để có một triệu mốt thì khó nhưng mua chai dầu
một đồng đem bán hai đồng thì dễ. Hơn thế nữa, hàng
tạp hóa quay đồng vốn nhanh và chẳng bao giờ sợ tồn
ế hay bị lỗ. Tiền lời từ tiệm này, Lâm gom góp lại
mở thêm tiệm khác để tận thu khách hàng. Đến khoảng
năm 1958, Lâm Huê Hồ đã có trong tay một mạng lưới tạp
hóa phủ khắp Chợ Lớn. Nhưng vốn kín kẽ, không bao giờ
Lâm tiết lộ với ai con số cụ thể mà mình đang nắm.
Khi
cuộc sống đã khá phong lưu, Lâm vẫn tiếp tục làm một
người mua phế liệu, có điều làm chủ thầu chứ không
còn làm vai gánh. Tất cả những thứ vứt đi, Lâm đều
mua tất. Anh ta nuôi một đội quân chuyên phân loại, sàng
lọc và tân trang phế liệu. Không ít món đồ bỏ, sau
khi tân trang Lâm đã bán lại được với tỉ lệ một
vốn bốn... chục lời.
Cú
làm ăn lớn đầu tiên của Lâm diễn ra vào tháng 7.1956.
Tình cờ, Lâm quen biết Ba Phát, một thợ sửa xe đạp ở
Thủ Thiêm và được người này dẫn mối đến trung úy
Nguyễn Thúc Phụng - Chỉ huy trưởng Hải đoàn 24 (Hải
quân) đóng tại Cát Lái. Hải đoàn 24 có một số quân
dụng khá lớn đang định thanh lý. Ban đầu, nhìn dáng
dấp cò con của Lâm, Phụng ngần ngừ. Với một phong bì
khá dày chìa ra đúng lúc, Lâm đã khiến viên trung úy
tươi nét mặt, đồng ý bán cho Lâm 30 tấn sắt, 300 kg
nhôm và 50 kg đồng phế liệu với giá 40.000 đồng tương
đương với giá một chiếc xe hơi loại tốt, giao tiền
tận tay ngay lúc nhận hàng. Lâm thuê ba xe tải loại 6 tấn
đến chở về kho. Kết quả của chuyến làm ăn: lỗ
chổng vó! Chạy đến Thủ Đức, đoàn xe bị nhân viên
Nha Quan thuế chặn lại và tịch thu toàn bộ vì không có
giấy tờ hợp lệ. Sau hơn 10 ngày bị Bộ Quốc phòng
ngụy điều tra, Lâm đành chịu mất thêm 100.000 đồng
đóng phạt mới tránh được ngồi tù.
Tuy
lỗ nặng nhưng Lâm Huê Hồ không nản lòng. Trong đầu óc
nhanh nhạy của Lâm, một hướng làm ăn mới rất béo bở
đã mở ra. Giao hết công việc điều hành kinh doanh tạp
hóa cho vợ, Lâm Huê Hồ bỏ ra gần ba tháng trời ròng rã
đi điều tra chi tiết mọi ngõ ngách của nghề thầu phế
liệu quân đội, làm quen, đãi đằng khắp các mối quan
chức từ nhân viên quan thuế đến sĩ quan các đơn vị
đồn trú có nguồn hàng. Để qua được khâu giấy tờ,
Lâm quyết định rủ thêm một vài dân biểu, tướng tá
hoặc quan chức các nha, ty hùn hạp. “Tiền bạc, ngộ lo
tất” - Lời hứa của Lâm nhanh chóng nhận lại sự đồng
ý cộng tác mà anh ta đang chờ đợi.
Tuy
vậy, suốt 4 năm liền sau đó, Lâm Huê Hồ vẫn không vội
vã. Anh ta chỉ thu mua phế liệu dân dụng, còn phế liệu
quân dụng Lâm tự biết rằng chưa đến lúc. Cẩn thận,
nhưng Lâm Huê Hồ vẫn bị thêm hai lần ra tòa đóng phạt
nữa, vì tội gian thuế và nhập hàng trái phép. Cũng
không đáng là bao, vì lúc này tài khoản của Lâm tại
ngân hàng BFC đã lên đến hai triệu đồng, đó là chưa
kể hai ngôi nhà ở đường Trần Thanh Cần và Trần Chánh
Chiếu cùng với một số xe hơi, xe tải khác trị giá hơn
2 triệu đồng nữa. Lẽ tất nhiên, tên tuổi Lâm Huê Hồ
được xếp vào hàng triệu phú.
Tháng
8.1961, Hãng tàu kéo SATAV đăng báo thanh lý tàu Algol vì đã
quá hạn sử dụng. Lúc này, tiềm lực của Lâm Huê Hồ
đã khá mạnh, ông ta quyết định dự thầu và trúng
thầu. Nhưng dự định đưa tàu Algol về cảng Ba Son sửa
chữa tân trang của Lâm Huê Hồ không thực hiện được.
Sau khi điều tra về Lâm, Nha An ninh quân đội ngụy đã
làm công văn gửi các nha, ty khác đề nghị bãi bỏ quyền
trúng thầu của Lâm, vì lo ngại ông ta sẽ tiếp tục
phạm pháp. Công văn do đại tá Đỗ Mậu, Giám đốc Nha
An ninh quân đội ký ngày 29.8.1961, có đoạn: “Nha tôi e
rằng nếu đứng chủ một chiếc tàu, y có thể sẽ tái
phạm và sẽ buôn hàng quốc cấm trong tương lai”.
Không
cam chịu từ bỏ món lợi béo bở, Lâm Huê Hồ một mặt
tìm người đứng tên khác để tái thầu, một mặt tìm
cách tẩy trắng các tiền sự trong hồ sơ cá nhân. Cho
rằng lót tay 100.000 đồng để được giảm giá bán một
triệu đồng thì ngu mới không làm, Lâm đã không tiếc
tiền đổ ra lo lót. Cuối cùng, chủ thầu Algol không chỉ
mang tên mình Lâm mà còn có nhiều sĩ quan cấp tá, nhà
buôn khác cũng đứng chung, với mục đích mua tàu để
khai thác phế liệu. Mặt khác, hồ sơ về Lâm cũng dễ
coi hơn, vì “tuy từng vi phạm tội gian lận thuế thương
vụ và Quốc phòng nhưng đương sự đã điều đình với
Nha Thuế vụ và Quan thuế đóng phạt đầy đủ”. Do đó,
việc Lâm mua tàu làm phế liệu đã được chứng nhận
là “không trở ngại về phương diện chính trị”. Cuối
cùng, con tàu nằm gọn trong tay Lâm, tuy phần lãi có ít
hơn vì phải chia năm xẻ bảy. Thừa thắng xông lên, Lâm
Huê Hồ mua luôn một hơi sáu chiếc tàu, cũng của hãng
SATAV. Tất nhiên, Lâm chẳng dại gì đem phá chúng ra lấy
sắt vụn. Đó chỉ là lý do để được hưởng giá mua
ưu đãi. Sau đó Lâm đã huy động vốn, biến 6 con tàu
này thành tàu thủy chở hàng. Sợ rằng nếu tự mình
khai thác các con tàu thì khó tránh khỏi tội gian lận
thương mại, Lâm đem bán chúng ngay với giá khá dễ chịu,
nhưng số tiền thu lại vẫn rất khổng lồ. Các vụ mua
bán ấy đều né, không sử dụng cái tên Lâm Huê Hồ.
Với
số lưng vốn đã đến bạc tỉ, Lâm tiếp tục vươn tay
sang thầu phế liệu cho ngành hỏa xa. Gần như toàn bộ
đầu máy, toa xe, đường ray và tà vẹt chế tạo từ
thời Pháp được thanh lý đều lọt vào tay Lâm. Có lúc,
ông ta mua nguyên cả đoàn tàu với giá phế liệu. Nhờ
“lại quả” rất hậu hĩnh, Lâm được khá đông nhân
viên, quan chức ngành hỏa xa tiếp tay làm ăn trong nhiều
năm liên tục. Để có sắt vụn bán cho Lâm hưởng hoa
hồng, nhiều đoạn đường sắt còn tốt, nhiều toa xe
chưa đến tuổi thanh lý đã bị đám quan chức hỏa xa
phao lên bị Việt cộng đặt mìn, bị du kích phá hỏng,
cần thay thế và gọi Lâm Huê Hồ cho xe tải tới chở.
Khoảng
năm 1963-1964, số lượng vụ việc Việt cộng đặt mìn
phá ngành hỏa xa đột ngột tăng vọt khiến An ninh Quân
đội ngụy đâm nghi, phải mở cuộc điều tra. Trong khi
đó, cùng với nhà thầu Du Khê, ngày 22.12.1964, Lâm Huê Hồ
lại trúng thầu toàn bộ phế liệu ngành này. Do vậy,
đầu năm 1965, cả hai bị kiểm tra kho bãi phế liệu và
điều tra. Rất khôn ngoan, phế liệu mua đến đâu, Lâm
bán lại ngay cho các hãng chế biến sắt thép của Lý
Long Thân, Hoàng Kim Quy đến đó nên chẳng có dấu vết
gì lưu lại để kết tội ông ta. Riêng Du Khê chậm chạp
hơn, cả năm 1965 phải liên tục vác chiếu hầu tòa.
Cũng
với thủ đoạn như vậy, Lâm Huê Hồ tiếp tục thầu
phế liệu cho ngành quân đội, trong đó đồng là loại
phế liệu được Lâm quan tâm nhất vì có giá cao hơn cả.
Hỗ trợ cho Lâm tích cực nhất để trúng các mối thầu
là Vĩnh Lộc - một tướng trẻ đang lên.
Khi
Vĩnh Lộc được bổ lên làm Tư lệnh vùng II chiến thuật
trấn giữ miền Cao nguyên, tin tức về chiến sự vùng
này bỗng nhiên tăng vọt. Pháo binh ngụy ở các căn cứ
Đắc Tô, Tân Cảnh, thị xã Kontum được lệnh nã đạn
liên hồi kỳ trận vào các tọa độ “nghi có địch
quân xuất hiện” ngày một nhiều để “ngăn chặn tầm
xa”. Địch quân tổn thất ít hay nhiều e khó thống kê,
nhưng số lượng xe tải do Lâm Huê Hồ gửi lên chở vỏ
đạn về Sài Gòn thì tăng lên thấy rõ. Tuy nhiên, chuyện
xảy ra ở các vùng chiến sự ác liệt quá xa tầm với
của cảnh sát và quan thuế nên Lâm Huê Hồ hoàn toàn vô
sự, tha hồ đẩy nhanh tốc độ làm giàu lên chóng mặt,
mau chóng trở thành một đại tỉ phú khét tiếng của
Sài Gòn - Chợ Lớn.
Dù
vậy, ngành kinh doanh sắt thép, phế liệu, đặc biệt là
phế liệu quân đội, Lâm Huê Hồ vẫn chưa chiếm cứ
được ngai vàng để độc quyền khai thác. Nguồn lợi
của ngành này quá lớn nên rất nhiều kẻ có máu mặt,
trong đó có cả vua vải sợi Lý Long Thân, vua kẽm gai
kiêm thượng nghị sĩ Hoàng Kim Quy... cũng xắn tay áo nhảy
vào chia phần. Không ít lần, mối hàng của Lâm Huê Hồ
đã bị ông nghị Hoàng Kim Quy mượn tay chính quyền và
quân đội nẫng mất. Biết mình yếu thế, Lâm Huê Hồ
đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Cao thủ hơn, để “dĩ hòa
vi quí”, Lâm còn sẵn sàng đứng ra làm nhà cung cấp
nguyên liệu sắt cho hãng dây thép gai của Hoàng Kim Quy.
Sự nhún mình của Lâm đã khiến đôi bên cùng có lợi,
tránh được một cuộc chiến khốc liệt suýt xảy ra
giữa hai ông vua trên cùng “vương quốc” phế liệu.
Gần
như một thứ tập quán, giới làm ăn Hoa Kiều rất ngại
dây dưa với chính quyền, cảnh sát. Những tài xì thẩu
làm ăn lớn, có máu mặt cũng ít khi mở trương mục hay
vay tiền của các ngân hàng tại Việt Nam. Lý do: tài
khoản của họ tại ngân hàng dễ bị phong tỏa khi việc
kinh doanh có vấn đề trục trặc. Vay tiền ngân hàng lại
phải khai báo tài sản, trình luận chứng kinh doanh... vốn
là điều tối kỵ, lỡ có thua lỗ, tài sản dễ bị tịch
biên như chơi. Vì vậy, họ chỉ chủ yếu vay mượn qua
lại trong cộng đồng, lãi suất dễ chịu hơn, lại đỡ
khâu giấy tờ phiền phức. Tuy nhiên, không phải lúc nào
họ cũng có thể tìm ra người có tiền cho vay, còn khi có
tiền nhàn rỗi họ cũng chưa chắc đã dám cho vay vì sợ
khó đòi. Phát hiện ra điều đó, trong tay lại đang có
bạc tỉ, Lâm Huê Hồ quyết định nhảy vào ngành kinh
doanh tín dụng, nhưng không mở ngân hàng.
Chính
sự nhún nhường trong các vụ áp phe lớn nhỏ trước đây
đã tạo cho Lâm uy tín cần thiết để kinh doanh tín dụng.
Khi vay tiền của ai, Lâm thường đáo nợ rất đúng hẹn.
Ngoài tiền lãi thỏa thuận, Lâm còn giữ mối bằng những
khoản lại quả khá hậu hĩnh. Ngược lại, khi có người
nhờ vả, Lâm cũng luôn sẵn sàng giúp đỡ mà không đòi
hỏi hay đặt điều kiện gì quá đáng. Vì vậy, cả
người cần vay tiền lẫn người có tiền dư đều thích
tìm đến Lâm. Tại trụ sở của ngân hàng không đăng ký
đặt tại 70 Trần Chánh Chiếu và 12 Trần Thanh Cần của
Lâm, khách ra vào nườm nượp mỗi ngày. Thủ tục vay rất
đơn giản. Khách chỉ cần ký xác nhận vào một cuốn sổ
ghi nợ do các thư ký của Lâm đưa tới và cam đoan ngày
trả là xong, có thể đếm tiền ra về. Hầu hết cộng
đồng người Hoa, từ tiểu thương buôn bán nhỏ cần dăm
chục ngàn đồng đến các đại gia cần vài trăm triệu
cho một cú áp phe nóng khi tìm đến Lâm bao giờ họ cũng
được đáp ứng đầy đủ. Tất nhiên, lãi suất của
Lâm luôn thấp hơn lãi vay ngân hàng và tùy đối tượng.
Người buôn bán cỏn con, vay ít, Lâm lấy lãi suất thấp,
có khi giúp không lãi. Ngược lại, ai cần giật nóng, số
lượng lớn, lãi cũng lớn, lên đến 2 - 3% mỗi tháng.
Nhưng muốn vay của Lâm dứt khoát phải là những người
quen biết của ông ta, nếu không phải có sự giới thiệu
bảo lãnh của một người quen biết có máu mặt nào đó.
Kể cả các vua như Lý Long Thân, La Thành Nghệ, Trần
Thành, Mã Hỷ cũng đều từng là con nợ của Lâm. Tất
nhiên, với những người uy tín như Trần Thành - Bang
trưởng Chợ Lớn thì lãi suất chỉ tượng trưng độ 1
- 2%, thậm chí có lúc Lâm không lấy lãi. Chính nhờ sự
biết điều như vậy nên dù điều kiện dễ dãi, Lâm
cũng không bao giờ bị trốn nợ. Chính các con nợ sẽ đi
đòi nợ giúp, dù Lâm không nhờ. Khách lỡ thua lỗ hoặc
chưa có tiền, họ chỉ việc nhờ một ông bang trưởng
nào đó nói với Lâm một câu, sau đó thêm một chữ ký
xác nhận tiếp tục vay là đủ, chẳng bao giờ sợ bị
xiết nợ hay phải cầm cố cho Lâm cả. Khách đông, lượng
tiền mặt của Lâm ở mỗi trụ sở không lúc nào hụt
dưới con số 200 triệu.
Để
có tiền cho vay, ngoài số vốn có sẵn, Lâm còn được
sự hỗ trợ tích cực của Mã Tuyên và Trang Trinh Nghi
(Trang Tôn) hai vua rửa tiền của Ngân hàng Việt Nam Thương
Tín trong việc huy động vốn nhàn rỗi. Thay nhau làm mại
bản và hoa vụ kinh lý cho ngân hàng này, Mã và Trang là
người chịu trách nhiệm điều tra tài sản, gọi vốn từ
cộng đồng Hoa kiều cho Việt Nam Thương Tín nên họ nắm
rất chắc danh sách và khả năng của những doanh nhân
người Hoa có tiền dư nhưng không muốn gửi ngân hàng.
Bằng nhiều con đường, tất cả số tiền đó đều chảy
vào quỹ tín dụng của Lâm Huê Hồ, được Lâm phát tán
cho vay lấy lãi. Lâm trở thành một ông vua thực sự,
điều tiết gần như toàn bộ thị trường tiền tệ của
người Hoa Chợ Lớn - Sài Gòn. Vậy là người Hoa vay của
người Hoa, Lâm Huê Hồ hưởng lãi. Có người tháng trước
cho Lâm vay, tháng sau cần tiền lại tìm đến Lâm ký
nợ. Lâm vẫn tươi cười, luôn nhã nhặn, nụ cười vẫn
khắc khổ và lam lũ, sẵn sàng chiều hết mọi yêu cầu
của khách. Không ít người đã tự vay tiền của chính
mình, bằng cách ném tiền vào túi phải của Lâm và móc
nó ra từ túi trái. Tất nhiên, có một ít “bạc lẻ”
đã được rải ra, lót thành con đường tín dụng giữa
hai túi áo của họ Lâm.
Dù
là chủ nợ của hầu hết các vua, song Lâm vẫn ít giao
du hình thức, ít dính líu đến các cuộc tiếp tân tranh
cãi chính trị hay thời thế. Nguyên tắc bảo mật cho
khách hàng do Lâm đề ra đồng thời cũng bảo mật luôn
cho chính tài sản của ông ta. Cũng chính vì dính líu công
nợ chằng chịt với nhiều thế lực tai to mặt lớn nên
quỹ tín dụng của Lâm tuyệt đối an toàn. Không một
đại gia nào dám nghĩ đến việc hạ bệ Lâm Huê Hồ vì
ngại phải đụng chạm đến các ông bang trưởng, nghị
sĩ, các vua đủ mọi ngành nghề. Tài sản của Lâm cứ
thế không ngừng phình lên. Những năm 1970, quyền lực
của Lâm được khắp Sài Gòn - Chợ Lớn nể vì qua câu
so sánh: “Trần Thành, Lý Long Thân có tiếng, Lâm Huê Hồ
có miếng”.
Cuối
cùng, chỉ có Lâm Huê Hồ mới hạ bệ được Lâm Huê
Hồ.
Sau
năm 1975, các vua không ngai vội vã tẩu tán tài sản và
vượt biên. Toàn bộ tiền bạc, tài sản đều bị họ
bán tống bán tháo để mua vàng. Lâm cũng thế, nhưng
không chỉ mua vàng cho riêng mình, Lâm còn tổ chức và
đứng đầu một đường dây đại qui mô nhận tiền mua
vàng và chuyển sang nước ngoài giúp các đại gia, tỉ
phú khác. Lâm phụ trách khâu huy động nguồn tiền, Mã
Tuyên mua vàng, Trần Thanh Hà và Trang Trinh Nghi lo việc
chuyển vàng lậu sang Hồng Kông. Hoạt động ráo riết
của họ khiến giá vàng ở miền Nam tăng với tốc độ
chóng mặt, tạo nên cả một quốc nạn chảy máu vàng
trầm trọng. Khi đánh hơi được những hoạt động phi
pháp ấy sẽ bị bại lộ và trừng trị, Lâm Huê Hồ
cùng đồng bọn quyết định đóng thuyền vượt biên.
Nhưng cơ quan An ninh cách mạng đã nhanh hơn họ. Ngày
10.9.1975, khi Lâm và đồng bọn đang tập trung tại nhà
ông ta ở đường Trần Thanh Cần chuẩn bị xuống tàu
thì công an ập vào. Khám nhà, công an thu được hơn 400
lượng vàng giấu trong giẻ rách nhét trên xà nhà và các
khuôn gạch thông gió. Lâm cùng toàn bộ bảy kẻ đồng
phạm, trong đó có Mã Tuyên, Trần Thanh Hà, Trang Trinh
Nghi, Đào Tắc Kinh (vua xăng dầu)... bị bắt. Tiếp tục
khám kho của Lâm tại 190 Nguyễn Biểu và 203 Dương Công
Trừng, công an tiếp tục thu được mỗi nơi hàng trăm
gói giẻ rách quấn vàng bên trong.
Huyền
thoại về “vua ngân hàng không có ngân hàng” sụp đổ
và kết thúc.
4.
ĐẠI CATHAY
(Kẻ
cầm tinh con giáp thứ 13)
Được
coi là mất tích từ 30 năm trước nhưng tên tuổi của
Đại Cathay vẫn được lưu truyền và vì nể trong giới
giang hồ. Hàng loạt huyền thoại đã được thêu dệt,
biến Đại Cathay thành một ông trùm đầy quyền lực,
một “vua không ngai” của thế giới tội phạm thời Mỹ
- ngụy. Thực chất chiến tích lẫy lừng của hắn chỉ
là những cuộc loạn đả, đâm chém nhau dã man của một
kẻ coi thường luật pháp. Người hứng chịu đau khổ,
không ai khác hơn, chính là những lương dân vô tội. Bài
viết này không nhằm mục đích khai thác những chi tiết
bạo lực đó, chỉ muốn giúp bạn đọc thấy rõ bản
chất tội lỗi của kẻ đứng đầu cái gọi là “Tứ
đại giang hồ” (gồm Đại Cathay, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn
Cái và Nguyễn Kế Thế) từng đua nhau tác oai tác quái
một thời.
1.
Lai lịch một ông trùm
Ngay
cả đám giang hồ cộm cán, đám đàn em tin cẩn cũng
không ai biết hắn con ai, tên thật là gì. Chính Đại
Cathay cũng... không biết tên thật của mình nốt. Hơn
chục lần bị điệu về bót cảnh sát, Đại tự khai cho
mình hơn chục lai lịch khác nhau. Theo đó, cha của hắn
lúc là Lê Văn Cự, lúc lại là Trần Văn Trự... Mẹ của
Đại Cathay cũng khá... nhiều tên, lúc là Hương, lúc là
Duyên, sống hay chết thì “có trời mà biết”. Nói tóm
lại, như Đại Cathay thường tự nhận, gã là một
thằng... con trời có lẽ xuôi tai hơn cả.
Kỳ
thực, Đại tuổi Thìn, sinh năm 1940. Theo tìm hiểu của
chúng tôi, mẹ của Đại tên gì không rõ, chỉ biết
người xung quanh thường gọi là bà Sáu. Còn cha Đại thì
chính tên là Lê Văn Cự, vốn cũng là một tay giang hồ
hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Sau năm 1945, Hai Cự
tham gia kháng chiến, trở thành lính của “Mười ban tự
vệ công tác thành”, sau đó bỏ vào chiến khu rừng Sác
đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Ba Dương
(tức Dương Văn Dương). Đại sinh ra giống cha như đúc
nhưng tuổi thơ rất ít được gần cha. Thuở nhỏ, gã
sống với cha mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội
(nay là Đoàn Văn Bơ, quận 4). Cả cha lẫn mẹ của hắn
đều nghèo, làm nghề chẻ củi thuê cho một vựa củi
nằm bên kia Cầu Mống, cạnh chợ Cũ, quận 1. Đại
thường xuyên trốn học chạy sang chơi với đám trẻ con
bụi đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói dù khuôn
mặt rất ngầu, tính phóng khoáng, rất “lì đòn”,
những đức tính được “thừa kế” đầy đủ từ cha
đã giúp Đại nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh
mến mộ. Mới 10 tuổi, gã đã thường xuyên luồn lách
vào các chợ, sạp hàng xung quanh, ăn trộm dưa, chuối về
chia cho chúng bạn.
Cuối
năm 1946, ông Hai Cự bị địch bắt trong một lần về
công tác nội thành, bị đày ra Côn Đảo và ít lâu sau
thì chết. Cha mất, mẹ lấy chồng khác. Bố dượng Đại
là một tay máu me cờ bạc lại nghiện thuốc phiện nặng
nên gia sản dần dần biến hết. Cáu bẳn vì sinh kế,
ông dượng thường nọc đứa con riêng của vợ ra hành
hạ để hả cơn bực tức. Không chịu nổi, Đại bỏ
học hẳn, sang vườn hoa Cầu Mống đánh giày, bán báo tự
nuôi thân. Khu vực làm ăn của Đại là xung quanh ngã tư
Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) - Nguyễn Công Trứ.
Tại đó có một rạp chiếu bóng mang bảng hiệu Cathay.
Không ngày nào trước cửa rạp hát không xảy ra những
vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi đời. Lì
lợm và liều lĩnh, Đại cứ lăn xả vào đối thủ liên
tục tấn công, dù kẻ đó có cao hơn nửa cái đầu cũng
mặc. Trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng,
dù tay chân, mặt mũi đầy vết rách bầm. Nghiễm nhiên,
hắn trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực
trong khu vực. Cũng nghiễm nhiên, gã được quyền ráp
thêm “tên đất” vào sau tên cúng cơm để trở thành
Đại Cathay, “đại ca” đường Nguyễn Công Trứ. Đó
là năm 1954, lúc Đại mới 14 tuổi.
Trở
thành “anh chị”, Đại được quyền sống mà không mó
tay vào bất cứ việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh
giày, nhưng là để giao cho đàn em “đi làm” mang tiền
về nộp. Mỗi buổi sáng, hàng chục thiếu niên Ba Binh,
Ba Tướng, Ba Gà (hỗn danh để gọi đám trẻ du đãng
chưa có tên tuổi. Ba Binh: kẻ quân sư, chuyên bày mưu
tính kế; Ba Tướng: kẻ thực hiện, thường là những
tên trực tiếp đi đánh nhau với các băng nhóm khác; Ba
Gà: những tên “thuyết khách”, chuyên đi ngoại giao,
thương lượng...) cả trai lẫn gái tụ tập quanh Đại
Cathay nhận công việc và địa bàn do hắn cắt cử, sau
đó túa đi, chiều lại đem tiền về cho Đại. Được
cái, hắn rất hào phóng, Đại Cathay chia hết tiền cho
đàn em, chỉ giữ lại cho mình một khoản nhỏ, đủ cà
phê, thuốc lá cho ngày kế tiếp. Những đàn em không may
bị ế báo, bị mưa ướt thuốc, kẹo phải đền tiền,
Đại Cathay cũng không chửi bới, đánh đập như những
tên “chăn chíp” tham lam khác mà còn lấy của đứa
“trúng mánh” cho thêm. Vì vậy, đàn em rất khoái và
chịu nghe lời “anh Đại”. Tình trạng đánh lộn, tranh
giành khách trong khu vực của Đại Cathay được dẹp yên.
Nằm
ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót Cảnh sát quận
Nhì - thường gọi là bót Dân Sinh - nổi tiếng dữ dằn.
Rất nhiều lần, sau khi dẫn đàn em đi chinh phạt các khu
vực khác hoặc đánh dằn mặt người của các băng nhóm
đến giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị các ông cò bót
quận Nhì xách tai lôi về bót. Hăm dọa, tát tai, đá đít
đủ kiểu, thằng nhóc vẫn trơ trơ không chịu khai tên
tuổi những đàn em tham gia ẩu đả, đám mã tà, phú-lít
lại đành thả Đại về. Hết thuốc, các ông cò nảy ra
đòn độc để trị Đại Cathay, bắt đàn em của Đại
đứng xem. Chúng bắt thằng nhóc quỳ giữa sàn nhà, hai
ông cò hai bên xốc ngược tay Đại lên, cạy mồm thả
vào một con gián sống. Con vật lập tức chui tọt vào cổ
họng lao thẳng xuống dạ dày. Ngứa ngáy, kinh tởm và
nhột không chịu được, Đại Cathay ói ra mật xanh, mật
vàng. Đám Ba Binh, Ba Tướng xung quanh xanh lè mắt, có đứa
hét lên ngất xỉu và đái ra quần. Đại Cathay, sau một
hồi nôn thốc nôn tháo, bắt đầu trấn tĩnh, lại tiếp
tục câm như hến, tuyệt đối không khai. Không còn cách
nào khác, các thầy cảnh sát đành tống Đại Cathay vào
trại tế bần hoặc Trại giáo hóa thiếu nhi phạm
pháp ở Thủ Đức.
Ở
miền Nam trước giải phóng, có bốn nơi được coi là
“lò đào tạo du đãng”. Nơi thứ nhất là Trại nuôi
dạy trẻ mồ côi, cơ nhỡ nằm tại địa điểm nhà hát
Hòa Bình hiện nay. Do nằm gần “Việt Nam Quốc Tự”
nên sau này, nó được dân giang hồ gọi luôn là Trại
“Việt Nam Quốc Tự”. Những đứa trẻ vào đây được
cho ăn học, nhưng lại không được quản lý chặt nên
những đứa hiếu động tha hồ ra vào, trốn đi trốn
lại. Nơi thứ hai, Làng cô nhi Thủ Đức, điều kiện
sống khá hơn nhưng vẫn rất lỏng lẻo, tha hồ cho đám
tiểu yêu phá phách. Những tên nhóc bất trị nhất, hai
trại trên đều không chứa nổi thường bị cảnh sát
lùa vào Trại giáo hóa Thủ Đức. Thực chất, đây chỉ
là nơi nuôi báo cô đám du thủ du thực, chờ chúng đủ
tuổi là đẩy vào quân đội. Nơi thứ tư, Trại tế bần
nằm bên kia cầu Trịnh Minh Thế (nay là cầu Tân Thuận),
là một Trạm trung chuyển giam giữ những tên lưu manh sắp
hết tuổi vị thành niên. Sau nửa tháng bị giam, nếu có
người nhà bảo lãnh, đóng phạt, tên tiểu yêu sẽ được
cho ra. Nếu không chúng sẽ bị nhốt lại, chờ đủ tuổi
là tống vào đội quân “cưỡng bức phục vụ” tức
lao công phục vụ chiến trường. Kẻ nào bị liệt vào
hạng này coi như cầm chắc cái chết. Ngoài mặt trận,
việc của họ là đi trước phát cây, mở đường, đào
công sự, trong khi chân không giày dép, hai người chung một
sợi dây xích chân, muốn chạy cũng không được, mặc kệ
mưa đạn vãi cả trước mặt lẫn sau lưng. Biết trước
số phận “bia thịt” của mình nên đám du đãng vào
trại tế bần chưa ấm chỗ đã tìm cách trốn. Lọt ra
khỏi võng rào các trại, đám nhóc lại lần về với các
băng nhóm du đãng, bụi đời.
Thực
ra, các trại nói trên đều được mở ra với mục đích
tốt đẹp là nuôi dưỡng, chăm sóc và dạy dỗ số trẻ
em mồ côi, cơ nhỡ. Điều kiện cơ sở vật chất tuy còn
thiếu thốn nhưng các trại cũng thật sự trở thành
những mái ấm từ thiện cho những đứa trẻ bất hạnh
lớn lên. Không ít người trong số họ đã ăn học thành
tài, trở thành kỹ sư, bác sĩ, những công dân lương
thiện. Nhưng đối với những tên nhóc tì vô tổ chức,
các trại vì quá đông, không đủ sức kiềm giữ, quản
lý nên chúng thường xuyên tìm cách trốn, vì không chịu
tuân theo kỷ luật và điều kiện sống còn thiếu thốn.
Hầu hết đám giang hồ Sài Gòn nổi tiếng sau này đều
đã từng qua đủ các trại nói trên. Thuộc hàng vào ra
như cơm bữa, Đại Cathay được liệt vào loại “tù con
rạ”, để phân biệt với đám “tù con so” mới nhập
trại lần đầu. ở các trại, Đại Cathay đã làm quen
với những Của Gia Định, Lâm Chín ngón, Hắc Quảy chảy,
Hòa áo thun... những chiến hữu đắc lực sau này trên
chốn giang hồ.
Mỗi
lần vào trại rồi trốn ra, Đại Cathay càng liều lĩnh
hơn, kinh nghiệm hơn, càng “tích cực” lao đầu vào
những trận thư hùng - vốn là thứ năng khiếu nổi trội
hơn cả ở hắn.
Năm
1955, Đại Cathay chuyển sang sinh sống ở khu vực Hãng
phân Khánh Hội cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos. Đám trẻ
con khu vực này tiếp đón Đại Cathay khá nồng nhiệt
bằng những trận hỗn chiến. Một lần nữa, sự lì đòn
của Đại lại giành phần thắng. Toàn bộ nhóc tì khu
vực Khánh Hội, quanh cầu Ông Lãnh, gồm toàn dân bến
tàu, vựa cá, vựa rau cải - vốn có hạng trong nghề dao
búa - đều bị Đại Cathay thu phục qui về dưới trướng.
Dù giang sơn đã rộng, binh tướng đã nhiều nhưng Đại
Cathay vẫn luôn giữ một nét mặt buồn buồn. Bỏ học
từ bé, chữ nghĩa trong đầu Đại đã bị gió bụi lề
đường thổi bay hết cả. Người thân còn lại duy nhất
bên Đại là Phong khùng, vừa là đứa đàn em, vừa là
ruột rà cùng mẹ khác cha. Đại hình như là Lê Văn Đại,
còn thằng Phong, tên nó có phải là Trần Thanh Phong không,
Đại cũng không dám chắc.
Khi
Đại Cathay còn là một cậu bé đánh giày thì toàn bộ
khu vực Cầu Mống - Dân Sinh - Cầu Ông Lãnh mà dân giang
hồ gọi là khu Da Heo, đều do một tay giang hồ nổi tiếng
là Tám Lâu cai quản. ở trần, quần dài vắt vai, đi đứng
nói năng khụng khiệng, nét mặt luôn đằng đằng sát
khí, Tám Lâu bị bà con khu Da Heo coi như một hung thần.
Nghề chính là đạp xích lô, nhưng thực chất Tám Lâu là
kẻ nhận quyền bảo kê thu thuế toàn bộ khu Da Heo, dưới
trướng có hàng chục đàn em. Dưới nệm xích lô, Tám
Lâu luôn thủ sẵn “hàng mã” (mã tấu), sẵn sàng vung
ra bất cứ lúc nào, với bất cứ ai.
Nhiều
lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày dẫn quân đập
lộn, Tám Lâu đâm “chịu” Đại Cathay. Thỉnh thoảng
ngồi nhậu thấy Đại đi qua, Tám Lâu lại ngoắc vào kê
ghế cho ngồi cạnh “mần hơi cho ấm bụng”. Qua những
lần nhậu ké đó, Đại Cathay được Tám Lâu giới thiệu
như một tay tuổi trẻ tài cao đầy hứa hẹn với đám
giang hồ đàn anh: Ba Hội, Cảnh Tượng... Tám Lâu cũng
thường đưa Đại đến các khu Lò Heo (cũ), Chánh Hưng,
hẻm Hai mươi thước để làm quen với các tay anh chị
khu vực khác. Nể tình, Đại Cathay cũng hay ghé đến hẻm
110 Nguyễn Công Trứ để thăm hỏi Tám Lâu.
Tuy
hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải thúc thủ
trước uy thế của anh em Bé Bún, một trùm giang hồ quận
4, khu vực cạnh Hãng phân nơi Đại Cathay trú ngụ. Cậy
đông quân lắm mã (tấu), đám này thường kéo rốc qua
Cầu Ông Lãnh, tràn vào “thu thuế” giựt bà con tiểu
thương chợ vựa Cầu Muối, Tám Lâu không cản nổi.
Một
ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh thở ngắn than
dài, nộ khí xung thiên, Đại Cathay đề xuất:
-
Anh Tám để đó em lo. Phải cho Bé Bún nằm viện, đám
này mới ngán!
Tám
Lâu gạt phắt:
-
Con nít biết gì? Tao còn thua nó, mày là cái
đinh gỉ!
đinh gỉ!
Tự
ái, Đại Cathay bỏ về. Lúc này, đám Ba Binh, Ba Tướng
của Đại cũng đã lớn, toàn thanh niên 17, 18 tuổi, lại
lăn lộn lề đường nhiều nên cũng khá dày dạn. Nghe
lời Đại Cathay, đám này vác dao qua Bến Vân Đồn “chém
bậy” vài tay em của Bé Bún để khiêu khích. Điên tiết,
Bé Bún hô toàn bộ em út tấn công sang khu Da Heo hỏi tội
Tám Lâu. Quân Bé Bún quá đông, khiến Tám Lâu và đám
đàn em hoảng hốt, định bỏ chạy. Nhưng vừa qua khỏi
Cầu Ông Lãnh, băng Bé Bún đã ôm đầu máu chạy ngược
trở lại, kêu la vang trời. Không nói trước với đàn
anh nửa câu, Đại Cathay đã âm thầm cho đàn em của mình
“trải đệm”, bất ngờ “luộc” băng Bé Bún. Dưới
sự chỉ huy của Đại Cathay, đám giang hồ tân binh tả
xung hữu đột lăn xả vào chém quân Bé Bún, xộc thẳng
sang cả bên kia cầu. Nói là làm, Đại Cathay đã xỉa cho
Bé Bún mấy nhát sau đó phải nằm viện thật, không dám
bén mảng sang giành mối ở khu Da Heo nữa.
Sau
trận hỗn chiến, Tám Lâu đâm ớn “tài ba” của Đại
Cathay. Một mặt, Tám Lâu tuyên bố trong khu Da Heo, Đại
Cathay có toàn quyền xử sự, mặt khác y lại lo ngay ngáy
bị Đại Cathay lấy làm đối thủ. Biết ý, Đại tuyên
bố không giành đất, khu Da Heo vẫn của Tám Lâu. Phần
Đại, gã chỉ thu thuế các sòng bài, ổ đề, tiệm hút
trong khu vực. Tiếp đó, Đại vươn tay bảo kê tất cả
các ngành nghề kinh doanh lậu bao gồm xưởng nấu xà
phòng, lò mổ heo, lò rượu... trong khu. Có tiền, có
quyền, Đại dần dần đã khiến các tay anh chị khác
phải dạt ra. Đại Cathay tha hồ ăn chơi và làm mưa làm
gió.
Đầu
những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong trào hippie bắt
đầu thâm nhập vào miền Nam. Các cậu ấm cô chiêu con
nhà giàu tuy được ăn học đàng hoàng nhưng cũng học
đòi nhau, thường xuyên có mặt ở các nhà hàng, vũ
trường, tiệm hút với đủ kiểu quần áo, tóc tai dị
hợm. Đại Cathay tuy ít học nhưng cũng không hề kém cạnh
các bậc trí... giả trong khoản ăn chơi. Nhẵn mặt ở
các nơi đốt tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại
Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với một đám
sinh viên, kỹ sư, bác sĩ con nhà gia thế, trong đó có anh
em Dzách Bửu, Dzì Bửu, Hùng Đầu bò, Hoàng Sayonara (tay
này móc classic bản Sayonara rất “não nùng”)... và nhiều
văn sĩ, nghệ sĩ khác. Đám nghệ sĩ, trí thức cũng nể
Đại Cathay chịu chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm
của gã - trông bụi đời, hippi hơn cả. Chính Hoàng
Sayonara sau đó đã trở thành quân sư hoạch định chiến
lược làm ăn và chinh phạt cho Đại. Nghe lời các quân
sư, Đại Cathay đứng ra cùng với Bảy Si, bà Bảy Trà đá
mở sòng bài lấy xâu ở khu vực Cầu Muối.
Ban
đầu, Đại Cathay không thích mở sòng bài vì dân giàu có
đã có các sòng Đại Thế Giới, Kim Chung... mở nữa e
không cạnh tranh nổi, Hoàng Sayonara vẽ:
-
Không chỉ giàu mới máu me đen đỏ. Các sòng lớn như
Kim Chung, Đại Thế Giới toàn dân quí tộc, chức sắc,
dân giang hồ, người buôn bán ngại vô. Ta mở sòng vừa
vừa kéo khách từ đám này.
Đại
Cathay đồng ý. ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy Si (anh
vợ Năm Cam - ông trùm sòng bạc sau này) đã có sòng bài
sẵn, nhưng khi nghe Đại Cathay đề nghị hùn hạp, Bảy
Si cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại nống ra
cả lĩnh vực làm huyện đề 40 con chung với Hỏi, trùm
khu Cây Da Xà. Hắn mua của Hùng Đầu bò một chiếc
Traction - 15, chiều chiều cho đàn em lái đi khắp các ngả
đường vứt lên từng xấp “phơi” đề cùng với hàng
cọc tiền chở về. Quyền lực được tiền bạc hậu
thuẫn khiến Đại Cathay càng thêm uy thế. Đến năm 1962,
1963, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm khét tiếng.
Gần như hầu hết nhà hàng, khách sạn, động mại dâm,
tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2 đều
chịu sự bảo kê của Đại. Các vũ trường nổi tiếng
như Olympic, Queen Bee, Barcara, Paramouth đều coi hắn như ông
chủ đích thực, Đại Cathay và đàn em tha hồ ăn chơi
nhảy múa mà không một nơi nào dám viết hóa đơn, thậm
chí còn lấy làm vinh hạnh vì được đàn anh chiếu cố.
Nhưng
nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu được lại
không phải là từ tiền thuế bảo kê. Chính giới doanh
nghiệp làm ăn lớn là những kẻ tình nguyện đóng góp
đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả
Đại làm hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật
trên thương trường với kẻ khác. Cả anh em tỉ phú
Hoàng Kim Qui (vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc
Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua
các ngành nghề khác của người Tàu là những người đều
đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy thế của các “vua”,
Đại Cathay cũng làm quen, “chơi chịu” được với khá
đông nhân vật quyền thế và tên tuổi khác.
Chỉ
năm năm sau ngày khởi sự ở khu Da Heo, Đại Cathay đã
trở thành một ông trùm không đối thủ, được toàn
giới giang hồ kiêng dè, sợ hãi. Nhưng vẫn còn ba ông
trùm “lừng lẫy” khác không ưa gì Đại Cathay, đó là
Huỳnh Tỳ, ông trùm khu Lê Lai, Ngô Văn Cái và Ba Thế.
Cho rằng Đại “chơi kèo trên”, giành mối, giành đất,
Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định “hội đồng”
diệt Đại. Hai tên giang hồ họp nhau tại vũ trường
Aristo (sau này là khách sạn Lê Lai, cạnh khách sạn New
World) cùng một giang hồ gộc là Thế Aristo - chủ vũ
trường - có thêm Hùng phốc và Luân - hai giang hồ cộm
cán khác hỗ trợ, mời Đại Cathay đến “bàn công
việc”. Không chút nghi ngờ, Đại Cathay đã bất ngờ bị
Thế Aristo đá lộn cổ trở xuống. Bốn kẻ phục kích
cũng nhất tề rút dao xông vào chém. Đại Cathay vừa đỡ
đòn vừa tìm đường thoát thân, chạy được ra ngoài,
mình mẩy đầy thương tích nhưng may không chết. Những
vết thương chưa kịp kéo da non, Đại đã đơn thương
độc mã giắt dao đi tìm từng tên một trị tội. Cả
năm tên đều lần lượt bị Đại Cathay chém trọng
thương. Cuối cùng, Tám Lâu phải nhờ Cảnh Tượng, Ba
Hội và một số tay đàn anh khác xin lỗi giúp cho năm
tên, Đại Cathay mới nguôi giận, đồng ý “hòa giải”.
Danh xưng “Tứ đại giang hồ” bắt nguồn từ đó, gồm
tên Đại Cathay - kẻ không đối thủ - đứng đầu và ba
tên đối thủ của... “không đối thủ” xếp nối theo
sau. Thực ra, xếp thứ tự trong “Tứ đại giang hồ”
là Ba Thế, một “chiến hữu” rất thân với Đại
Cathay chứ không phải là Thế Aristo - kẻ đã từng dự
mưu chém Đại. Chi tiết này, ngay trong giới giang hồ cũng
nhiều tên nhầm lẫn, vô tình đánh đồng Ba Thế với
Thế Aristo, khiến cho huyền thoại về “Tứ đại giang
hồ” càng thêm gay cấn, ly kỳ.
2.
Đế quốc Đại Cathay
Lẽ
ra, với những thành tích bất hảo chồng chất lên nhau,
Đại Cathay đã ngồi tù mọt gông từ những năm trước
đó. Nhưng xã hội miền Nam đầy nhiễu nhương với bộ
máy quan chức được mua bán bằng tiền đã tỏ ra bất
lực không trị nổi Đại Cathay và đám du đãng, để mặc
kệ cho chúng làm mưa làm gió. Vào thời đó, chức quận
trưởng quận 1 trị giá 30 triệu đồng, trong khi lương
lính chỉ hơn 300 đồng cho nên những kẻ đương chức
chỉ tìm cách vơ vét, làm giàu để bù lại số tiền đã
bỏ ra mua lon tước. Cò Ly, quận trưởng quận 1 còn
cố tình dung túng cho Đại Cathay mở sòng bài, hoạt động
bảo kê thu thuế. Bù lại, hằng tháng, Đại đều có
những khoản riêng béo bở tuồn vào cửa sau cho vợ ông
cò. Mỗi chiều thứ bảy, cò Ly và Đại Cathay lại sánh
vai nhau bước vào các vũ trường nhà hàng sang trọng ăn
chơi, đập phá thâu đêm. Đương nhiên, lương quận
trưởng một năm cũng không đủ chi cho một lần nhất dạ
đế vương nên ông cò chẳng bao giờ phải nghĩ đến
chuyện móc hầu bao.
Có
tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết định bành
trướng xuống Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông
trùm giới Hắc Đạo người Hoa, xưa nay vẫn được coi
là bất khả xâm phạm.
So
với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của
Tín Mã Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn
nhiều. Dưới thời Diệm - Nhu, toàn bộ hoạt động kinh
tài của các bang hội Hoa kiều Chợ Lớn đều có cổ
phần của giới Hắc Đạo. Toàn bộ nhà hàng, sòng bạc,
tiệm hút... đều do giới này quản lý hoặc hùn hạp.
Tuy nhiên, sau đảo chính tháng 11.1963, do tham lam, chính Tín
Mã Nàm đã khiến giới Hắc Đạo suy yếu. Bắt tay với
khá nhiều tướng lĩnh, chính khách thuộc phe đảo chính,
“Con ngựa điên” đã bán đứng một số cơ sở kinh
tài của các bang hội cho chính quyền mới, tố họ là
“cơ sở kinh tài của Diệm - Nhu”. Mặt khác, Tín Mã
Nàm cũng tố cáo và giao nộp cho cảnh sát một loạt tay
giang hồ Hoa kiều không ăn cánh với y như Hỏi Phoòng
Kin, Sú Hồng, Cọp Chảy, Quầy Thầu Hao, Hắc Quẩy
Chảy... nhằm củng cố địa vị “Vua Hắc Đạo” của
mình. Vì vậy, Tín Mã Nàm được trung tá Lê Ngọc Trụ -
Trưởng ty cảnh sát quận 5 trọng dụng và ưu đãi, trong
khi bị nhiều đàn em oán giận và tìm cách trả đũa.
Trong
những kẻ oán Tín Mã Nàm có tay tài pán tên Chó, người
giúp việc cho Tín Mã Nàm quản lý ngành kinh doanh cờ bạc.
Biết được sự chia rẽ đó, Đại Cathay đã sai đàn em
dụ hàng tên này. Chó đã bán đứng Tín Mã Nàm, kéo một
lượng lớn con bạc nặng ký từ các sòng Đại Thế
Giới, Hào Huê... về Cầu Muối cho sòng của Đực Bà
Tiều và Bảy Si thuộc quyền Đại Cathay, đồng thời bỏ
luôn khu Chợ Lớn về theo Đại Cathay mở mang sòng bạc ở
khu Sài Gòn. Biết chuyện, Tín Mã Nàm hạ lệnh cho giới
Hắc Đạo:
-
Chém bất cứ tên đàn em nào của Đại Cathay bén mảng
xuống Chợ Lớn.
Chỉ
chờ có thế, suốt 12 tháng trời, Đại Cathay đã liên
tục đổ quân tập kích xuống các điểm làm ăn của Tín
Mã Nàm ở vùng Chợ Lớn, chém phứa vào bất cứ ai rồi
tức tốc bỏ chạy. Người bị chém thường là dân lành,
khách chơi, chính vì vậy mà họ đâm sợ các điểm ăn
chơi giải trí của Hắc Đạo, không dám lui tới nữa.
Vắng khách, thu nhập thấp, đám cô hồn bảo kê của Tín
Mã Nàm đành túa ra làm ăn lẻ để gỡ gạc, bất chấp
kỷ luật của ông trùm. Nhưng cứ tên Hắc Đạo nào lọt
xuống khu Sài Gòn là tên đó bị đàn em của Đại Cathay
chặn đánh. Đầu năm 1964, biết phe Hắc Đạo đã hết
phong độ, Đại Cathay quyết định đánh trận cuối, Đại
dẫn theo 9 tên đàn em “chiến đấu” nhất, trong đó có
Ba Thế và Lâm chín ngón đi trên 5 xe Goebel bất thình lình
tấn công vào quán cà phê ngay trước rạp Hào Huê đối
diện với Đại Thế Giới. Đây là điểm tụ tập của
các tay đàn em Tín Mã Nàm vào hai buổi sáng chiều.
Cuộc
tập kích thất bại, hai bên đều thiệt hại nặng nề.
Nhưng máu liều của Đại Cathay càng được giới giang hồ
truyền tụng và vì nể. Tín Mã Nàm cũng lo lắng: nếu cứ
để cho Đại Cathay tập kích mãi như vậy, giới Hắc Đạo
chỉ còn nước dẹp hết sòng bài, tiệm hút vì không còn
ai dám bén mảng. “Con ngựa điên” phải kìm cơn điên,
cử người đến mời Đại Cathay lên nhà hàng Đồng
Khánh điều đình. Đàn em cố khuyên Đại đừng vào hang
cọp, e bị “trải đệm” nhưng Đại Cathay nổi máu
yêng hùng, vẫn quyết định nhận lời. Để tài xế
ngoài cửa, Đại một mình tay không lên nhà hàng hội
kiến với Tín Mã Nàm. Cử chỉ ngang tàng này khiến Tín
Mã Nàm thầm phục. Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn
bộ khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại Cathay toàn
quyền. Phần quận 5, Chợ Lớn, đàn em của Đại được
phép hoạt động, với điều kiện không lấn vào những
khu vực đã có sẵn người của Hắc Đạo. Riêng các khu
vực chợ Sắt, chợ Tân Thành, hẻm “dzách bạc hồ hãn”
(hẻm 100), Đại Cathay và đàn em tuyệt đối không được
xâm phạm, vì đó là giang sơn riêng của Tín Mã Nàm, nơi
vợ bé của y sinh sống.
3.
Tiếp tay cho cảnh sát đàn áp tù chính trị
Trong
chiến dịch bài trừ du đãng của cảnh sát ngụy năm
1966, cái tên Lê Văn Đại, tức Đại Cathay được liệt
vào hàng “gian nhân hiệp đảng” đặc biệt nguy hiểm.
Bản phúc trình ngày 15.6.1966 gửi Phó cảnh sát trưởng
Trần Văn On có ghi rõ: “Tên Đại Cathay đã sống không
nghề nghiệp từ năm 19 tuổi. Y đã kết hợp cùng một
số thanh niên cùng tình trạng tổ chức những vụ chém
lộn khắp vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Y đã hai lần tổ
chức chém người tại khu Dân Sinh và Chợ Lớn. Ngoài ra,
y cũng bị chém một lần tại đường Lê Lai. Đặc biệt,
số người bị đánh chém cũng như đã chém y đều thuộc
thành phần lưu manh du đãng...”. Vì vậy, dù không thu
được chứng cứ cụ thể, Đại Cathay vẫn bị điệu ra
tòa tiểu hình với tội danh du đãng đặc biệt và bị
tống giam 45 ngày vào phòng 24 E, khu ED, trại Chí Hòa.
Khu
ED gồm 2 dãy E và D. Dãy E gồm toàn loại anh chị lưu
manh, tù hình sự nổi tiếng hung hãn. Dãy D là nơi giam
giữ chính trị phạm, bộ đội giải phóng bị bắt...
Mục đích của bọn cảnh sát ngụy khi đem giam chung chính
trị phạm với đám lưu manh côn đồ là muốn mượn tay
bọn đầu trâu mặt ngựa để đàn áp, bức bách tù
chính trị. Chúng chọn trong đám lưu manh một số tên
hung hãn nhất cho làm tự quản, được quyền giữ chìa
khóa phòng giam, chìa khóa hành lang, tùy ý cho tù ra, vô
phòng. Cả hai dãy E và D chỉ có một hồ nước lớn, đặt
dưới dãy E. Khi đến giờ anh em tù chính trị, ngoài giặt
giũ, lấy nước, đám tự quản thường khóa các cửa
phòng dãy E lại, đề phòng đám lưu manh tràn sang khiêu
khích đánh đập tù chính trị. Ngoài những tên tự quản,
không một tù thường phạm nào được phép lai vãng vào
giờ nghỉ.
5
giờ chiều ngày 25.8.1966, Đại Cathay đi hầu tòa về.
Thay vì về phòng ngồi, hắn nói với Của Gia Định và
Ngọc Heo, hai tên tự quản đang ngồi ôm đàn nghêu ngao
hát:
-
Trời nóng quá, tao tắm một phát.
Sợ
đàn anh, hai tên tự quản vội vã lấy xà phòng cho Đại
Cathay. Hung hăng, ngổ ngáo, Đại vục luôn cả đầu đầy
xà phòng vào xô nước đang hứng của một bác chính trị
phạm. Người tù chính trị nhỏ nhẹ trách:
-
Nước ít, chú làm vậy coi đặng sao?
Vốn
tính côn đồ, Đại tưởng ai cũng sợ mình. Hắn giang
tay tát thẳng vào mặt người chính trị phạm và gầm
lên:
-
Mày biết tao là ai không mà dám cự nự?
Vài
ba người tù chính trị khác đứng cạnh đó, dằn lòng
không được, xông vào xô Đại Cathay ra. Tay anh chị cộm
cán bộc lộ bản chất côn đồ, vừa đấm đá lung tung,
vừa la toáng lên:
-
Tụi nó đánh tao!
Từ
trên lầu, Của Gia Định và Ngọc Heo nhảy vào trợ
chiến, xông vào đánh những chính trị phạm này. Không
nhịn được nữa, gần 100 chính trị phạm từ lầu 3D
kéo ào xuống, nện nhừ tử ba tên du đãng. Mấy trăm tên
du đãng bị nhốt trong dãy E náo động, la hét inh ỏi.
Không may cho chúng, chìa khóa các phòng đều đang nằm
trong người Ngọc Heo nên đành chịu chết, chỉ đứng
sau song sắt buồng giam nện thình thình và la ó vang trời.
Ban
đầu nghe ồn, tưởng thường phạm đánh chính trị phạm,
bọn cai ngục vờ giả điếc, lúc này mới vội vã chạy
xuống đưa ba tên du đãng đi cấp cứu. Mặt khác, chúng
mở cửa phòng để cho hàng trăm tên thường phạm hung
hãn vác hung khí ùa xuống xông vào đánh tù chính trị.
Quân ít nhưng đoàn kết, anh em tù chính trị vừa đỡ
đòn vừa dìu nhau rút về phòng, khóa chặt cửa cố thủ.
Mảnh lu nước, gạch vỡ được cạy lên ném ra, anh em tù
chính trị đã khiến không tên du đãng nào lọt vào được
dù trong tay chúng có nào cán chổi sắt, gỗ thanh, nào
dao...
Tình
trạng hỗn loạn kéo dài đến tận đêm. Không những
không can thiệp, bọn cai ngục còn cố tình tiếp tay và
xúi giục bọn côn đồ. Chúng mở toang cửa dãy D cho bọn
côn đồ mặc sức tung hoành, đập phá. 9 giờ tối, bọn
giám thị phao lên: Đại Cathay, Của Gia Định, Ngọc Heo
đã chết ở bệnh viện. Lập tức, toàn khám Chí Hòa náo
động. Bọn lưu manh gom hết đèn cầy thắp sáng đêm hò
hét vang trời đòi trả thù. Không nao núng, gần 100 chính
trị phạm vẫn đoàn kết bao bọc nhau, cố thủ và đẩy
lùi toàn bộ các cuộc tấn công hung hăng của gần 800 tù
thường phạm. Đến sáng, khu ED phơi ngổn ngang dưới
nắng một cảnh tượng như bãi chiến trường với gạch
ngói, mảnh lu, vải rách và khá đông người bị thương
của cả hai bên. Lúc này, bọn giám thị mới hoảng hốt,
sợ tù hai bên sẽ phá banh khám. Chúng gọi cảnh sát dã
chiến vào ốp đám thường phạm vào phòng. Bị kích
động, đang say máu, đám thường phạm xông vào đánh
luôn cả cảnh sát dã chiến. Hoảng hồn, những tên cai
ngục phải cho xe lên bệnh viện chở 3 tên du đãng bị
thương về. Khi Đại Cathay, Của Gia Định, Ngọc Heo đầu,
tay quấn băng trắng nhăn nhở cười và bước vào, cuộc
náo loạn mới chấm dứt. Kỳ thực anh em chính trị phạm
chỉ bức xúc vì bị hành hạ nên đánh cảnh cáo chứ
không vì thù hằn, không ra đòn nặng. Chính Đại Cathay
sau đó cũng phải thừa nhận với đám giang hồ:
-
Tụi mình bậy quá. Mấy ổng mà không nương tay, cũng
chơi ác như mình thì ba thằng tao tiêu lâu rồi!
4.
Du đãng đụng... nhà văn
Học
đòi làm sang, Đại Cathay, Phong khùng, Lâm Chín ngón ưa rủ
nhau đến “nằm bẹp” bên bàn đèn của tiệm hút Đông
Kinh, đường Ngô Tùng Châu, quận 1 (nay là đường Tôn
Thất Tùng). Tại đó, Đại làm quen và chơi thân một số
dân văn nghệ như Tâm, con trai bà Bút Trà - chủ bút tờ
Sài Gòn mới, Duyên Anh (tên thật là Vũ Mộng Long - chủ
bút tờ Tuổi Ngọc) và Văn Quang - nhà văn kiêm đại úy
tâm lý chiến - những dân chơi tìm “yên sĩ phi lý thuần”
(từ lóng, đọc trại chữ in inspiration - cảm hứng)
thường trực tại tiệm hút này.
Duyên
Anh là một nhà văn khá nổi tiếng chuyên viết sách “xúi
con nít đập lộn”. Sau nhiều lần “nằm bẹp” (tai)
nghe Đại Cathay kể về cuộc đời du đãng của mình,
Duyên Anh nổi hứng làm thơ tặng và đọc cho Đại Cathay
nghe, trong đó có đoạn:
Mái
tóc nâu vương niềm đau thương
Quần
Blue Jean chung thủy bạc thời gian
Bastos
xanh gắn chặt ngón tay vàng
Mái
tóc bồng rối loạn nét hồn hoang
...
Hè đại lộ Paso dồn dập overnight
Lê
gót giày nghiến trầy lưng phố xá...
Thấy
nhà văn này có vẻ “khoái giang hồ”, tả mình khá
đúng, Đại Cathay ra chiều... cảm động. Để “lấy
le”, tỏ ra ta đây “biết chơi”, Đại Cathay thường
nèo kéo, rủ rê, bao Duyên Anh ăn nhậu, hút sách trước
mặt đàn em tỏ vẻ ta đây hào phóng và biết quí trọng
những người “làm nghệ thuật”. Duyên Anh tán dương
Đại Cathay:
-
Anh mã thượng như một nhân vật bước ra từ trang sách
của Francoise Sagan.
Đại
Cathay nở phồng cánh mũi, dù chẳng hiểu mô tê gì cả.
Lúc về, Đại Cathay quay sang hỏi Lâm Chín ngón:
-
Sagan là... ông nào vậy?
Biết
đàn anh “bé cái lầm” Lâm Chín ngón vẫn không dám
cười, cố tìm cách giải thích cho Đại Cathay hiểu, rằng
không phải là “ông” mà là bà Sagan (!) - nhà văn ưa
viết về đề tài bụi đời của Pháp, từng đoạt giải
Nobel văn học. Nghe xong, Đại Cathay lấp liếm:
-
Ông hay bà gì cũng xong, miễn chịu chơi là được. Phải
có bả ở đây, tao kêu bà đi nhảy đầm. Viết được
về giang hồ, muốn giải gì tao cũng chiều!
Tất
nhiên, bà Sagan thì chẳng muốn nhưng Duyên Anh thì có. Sau
một thời gian nằm hút chung với Đại Cathay, nhà văn
khoái chuyện đập lộn này đã cho ra đời tiểu thuyết
“Điệu ru nước mắt” với nhân vật chính lấy từ
nguyên mẫu con người và tên Đại. Đọc xong cuốn sách,
Đại Cathay bỗng dưng nổi cáu, hắn gầm lên:
-
Thằng cha nhà văn này cà chớn, muốn chơi xỏ tao, viết
bậy viết bạ. Tao làm đếch gì mà phải lụy đàn bà
đến nỗi chết khô cả xác.
Mặc
cho đám quân sư có học tốn công giải thích, rằng nhà
văn họ có quyền hư cấu, Đại Cathay vẫn hằm hằm ra
lệnh cho đàn em tìm Duyên Anh để “luộc”. Mối bang
giao không ngờ kết thúc quá bi đát, Duyên Anh sợ vã mồ
hôi vội cao chạy xa bay, giông tuốt lên Đà Lạt trốn
hơn nửa năm liền. Rất may cho ông ta, cuối năm 1966, Đại
Cathay bị cảnh sát tống ra đảo Phú Quốc và mất tích
tại đó. Lệnh của hắn đương nhiên bị bãi bỏ. Lúc
này, Duyên Anh mới dám quay trở lại Sài Gòn.
Không
chỉ Duyên Anh, không ít nhà văn, nhà báo của chế độ
cũ sau này cũng cố tình bới móc tìm hiểu cuộc đời,
tính cách của Đại Cathay và thổi phồng lên, biến nó
thành huyền thoại về một tên du đãng nghĩa hiệp và
hào phóng, với những cuộc tình hết sức lâm ly bi ai. Bộ
phim và bài hát cùng tên “Vết thù trên lưng ngựa hoang”
khá nổi thập niên 1970 là một ví dụ điển hình.
Thực
tế, sự "hào phóng", "chịu chơi", "nghĩa
hiệp", chỉ là thứ trang sức lòe loẹt mà Đại
Cathay cố khoác lên, đánh bóng cho mình. Tại khu Da Heo,
Đại thường tỏ ra hào phóng với người nghèo, hay móc
tiền quăng cho đám trẻ con đánh giày, bán báo để lấy
tiếng. Bù lại, hắn đã dựng nên cả một hệ thống
bảo kê, trấn lột đòi “thuế” của rất nhiều hàng
quán khắp vùng quận Nhất, quận Nhì, quận Ba Sài Gòn;
đã chỉ huy đàn em gây ra hàng chục, cả trăm vụ loạn
đả, phá phách đánh chém nhau vô tội vạ mà hậu quả
thường chỉ trút lên đầu những người dân thấp cổ,
bé họng không hề có thù oán gì với hắn. Và, số tiền
“từ thiện” mà Đại Cathay ném cho những đứa trẻ
bụi đời trong những cơn cao hứng xem ra chỉ là hạt cát
so với hàng núi tiền mà hắn đã quăng ra cùng đàn em
hút xách, ăn nhậu, đập phá và bao gái trong những đêm
nhất dạ đế vương thác loạn.
5.
Giang hồ không có vua
Mỗi
lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng lại một
phen khiến người đi đường khiếp vía. Như một gã con
trời thứ thiệt, Đại Cathay chễm chệ trên băng trước
chiếc Mustang mui trần do Năm Công lái, có cả chục tên
đàn em phóng xe máy theo sau hộ tống. Xe chạy xả ga, hú
còi vô tội vạ khiến mọi người hốt hoảng chạy giạt
sang hai bên đường, trong khi đám lưu manh tha hồ vỗ tay
cười hô hố. Có lúc cao hứng, Đại Cathay còn thượng
cả hai chân ra trước kính xe hoặc thò ra bên cửa hông
gõ thùng xe loạn xạ...
Sự
ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay khiến
những kẻ tai to mặt lớn và cảnh sát ngụy hết sức
tức tối, nhiều lần tống cổ Đại vào khám. Nhưng bắt
cóc bỏ đĩa, chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng
để giam giữ hắn lâu, đành phải thả. Dùng luật không
xong, nhiều quan chức ngụy tìm cách mua chuộc hắn.
Biết
Đại Cathay đang tuổi quân dịch, viên tướng cao bồi
Nguyễn Cao Kỳ - có lẽ do muốn chơi trội - bèn cho gọi
tên du đãng đến. Kỳ phủ dụ:
-
Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh
không thể trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi,
anh vừa khỏi đăng lính, lại vẫn có quyền hành, muốn
đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán. Anh cứ
suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được.
Tên
du đãng ít học đời nào chịu suy nghĩ những ba ngày. Kỳ
chưa dứt Đại Cathay đã trả lời luôn:
-
Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố.
Phiền nỗi tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ
tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho người khác,
không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp?
Tướng
râu kẽm bầm mặt nhưng vẫn ngọt nhạt:
-
Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc
gia, danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo
thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi đâu thiếu người giỏi.
Đại
Cathay vẫn ngổ ngáo:
-
Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được...
Sau
Nguyễn Cao Kỳ đến lượt tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc
Loan, giám đốc Nha cảnh sát Đô thành. Tuyên bố “Đặt
giang hồ ra ngoài vòng pháp luật”, tuớng Sáu Lèo cho mở
“Trung tâm bài trừ du đãng” đặt ở bên kia cầu Bình
Triệu (quận 9) và lập “Biệt đội hình cảnh” nhằm
tiêu diệt giang hồ do đại úy Trần Kim Chi làm đội
trưởng. Theo lệnh Sáu Lèo, “Biệt đội hình cảnh”
được bắn bỏ bất cứ tên giang hồ nào trên đường
phố nếu chúng gây án và chống lại cảnh sát. Sau một
thời gian hoạt động, “Biệt đội hình cảnh” vẫn
chỉ tóm được một số tên du đãng “tép riu”, tướng
Sáu Lèo bèn quay sang tìm cách mua chuộc Đại Cathay hòng
“dĩ độc trị độc”. Đích thân Mã Sâm Nhơn, phụ tá
của tướng Sáu Lèo đến gặp, đưa giấy mời của
“ngài” chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan cho Đại Cathay.
Cùng một đàn em, Đại Cathay có mặt y hẹn. Nguyễn Ngọc
Loan ra giá:
-
Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty cảnh sát
quận 7. Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải
giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh du đãng.
Đại
Cathay từ chối:
-
Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du
đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi
cũng chết vì thân bại danh liệt.
Nguyễn
Ngọc Loan hạ giá:
-
Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh phải giải
tán băng nhóm, không được lộng hành.
Đại
Cathay đồng ý với điều kiện để cho y và đàn em toàn
quyền làm ăn và cai quản khu cảng Sài Gòn, Khánh Hội,
khu vực chợ vựa Cầu Muối, và hai bên bờ Kinh Tẻ. Thấy
tên giang hồ cứng đầu, Nguyễn Ngọc Loan nổi đóa:
-
Tôi lệnh cho anh giải tán hết, nếu không giang hồ, du
đãng sẽ không còn đất sống!
Đại
Cathay trả lời:
-
Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng
khác được?
Cuộc
mặc cả kết thúc. Tiếng tăm Đại Cathay nổi như cồn
trong giới giang hồ vì “dám vuốt râu kẽm” tướng
Nguyễn Cao Kỳ và từ chối chức tước của Nguyễn Ngọc
Loan ban cho. Đại Cathay càng vênh váo hơn. Nhưng, chính
bằng sự nổi tiếng ấy, Đại Cathay đã tự ký cho mình
bản án tử hình.
Quá
ngạo mạn, lại đang là giai đoạn cực thịnh của băng
Cathay, Đại vẫn không hề biết điều đó, tiếp tục
lộng hành. Không chỉ ngổ ngáo với tướng Sáu Lèo trong
công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức
viên tướng này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu
tâm gì đến sức nặng của cái lon chuẩn tướng và
trọng trách “Chief” ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc
Loan đang nắm giữ.
Vào
thời điểm đó, Sài Gòn ngập trong không khí sống gấp
và hưởng thụ, không cần biết đến tương lai. Một
trong những mốt thời thượng của các nhà buôn giàu
có, các sĩ quan cộng hòa hào hoa, các công tử con nhà gia
thế là công khai có nhân tình nhân ngãi hoặc cặp bồ
với cave, nghệ sĩ trẻ đẹp. Đường đường là một vị
tướng, Nguyễn Ngọc Loan đâu thèm để mắt tới các cô
cave, ca sĩ phòng trà bình thường. Người ta thấy “ông
tướng độc nhỡn” thường xuyên có mặt tại vũ trường
Olympic trên đường Lê Lợi vào mỗi tối thứ 7. Tại đó,
Nguyễn Ngọc Loan là chủ nhân của một vưu vật: ca sĩ
Phương Dung nổi tiếng xinh đẹp và quý phái, người được
mệnh danh là “con nhạn trắng Gò Công”, lấy vũ trường
này làm đất biểu diễn. Mỗi lần đến thăm tình nhân,
viên tướng xách theo cả chục tên vệ sĩ thuộc hàng
thiện xạ, cũng nổi tiếng ngổ ngáo và chịu chơi, phóng
xe Jeep bạt mạng với những đường cua cong lề bạt phố,
đạp phanh cháy cả mặt đường.
Olympic
cũng là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới.
Hơn thế nữa, Thủy Tàu - tài pán vũ trường Olympic còn
là một “mối” rất khoái Đại Cathay. Khác với
viên tướng và đám lâu la bụi bặm, Đại Cathay thường
lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hòa không
khí, choáng lộn và êm ru nhẹ nhàng bơi đến cửa vũ
trường. Loại xe đó, cả Sài Gòn chỉ có dăm ba chiếc.
So
với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại và băng
Cathay luôn sẵn sàng “xài lớn”, rút tiền chẳng bao
giờ đếm, người ngợm cũng “kẻng” hơn, dĩ nhiên là
được các em cave ở đây săn đón nồng nhiệt hơn
nhiều. Bị “gác kèo”, đám vệ sĩ tức lắm, nhiều
lần hậm hực, nhưng Đại Cathay và đám đàn em vẫn phớt
ănglê, coi như “chuyện tép”.
Một
tối, Đại và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín
ngón và Lành Cầu Muối - một tay cảnh sát ăn “rơ”
với giang hồ kéo đến Olympic từ khá sớm. Thấy các đàn
anh, đám cave ríu rít túa ra vây lấy bá cổ níu tay, chí
chóe cả gian bar trên lầu 2. Cả đám “vui vẻ” mới
chừng nửa tiếng, cánh cửa lại xịch mở. Đám vệ sĩ
của Sáu Lèo - không có chủ tướng đi cùng - xộc vào,
cũng cỡ chục tên. Ngồi chờ cả 15 phút, đám vệ sĩ
vẫn không thấy cô cave nào đến săn sóc. Trong khi đó, ở
mấy bàn bên vẫn liên tục vọng sang tiếng cấu véo giỡn
hớt rúc rích của băng Cathay với đám cave như thể trêu
ngươi. Nổi cáu, cả đám vệ sĩ đưa mắt nhìn nhau và
đứng bật dậy. Thiếu úy Hải, một tay nổi tiếng thiện
xạ tiến sang, đứng đối diện với Hải Súng của băng
Cathay, hất hàm:
-
Vui vẻ quá, hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi
không, coi sao đặng?
Vẫn
không buông vai cô “đào nhí”, Hải Súng hất mặt:
-
Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu chậm
phải uống nước đục, trách gì?
Viên
thiếu úy gườm gườm, đưa tay vào bụng đặt lên báng
súng:
-
Đừng chơi quê tụi này chớ!
-
Thì đã sao? - Hải Súng hếch mặt lên. Lúc này băng
Cathay và đám cave cũng đã ngưng đùa giỡn, ngẩng lên
thủ thế. Được khích lệ, Hải Súng tiếp: - Thịt người
tanh không ăn được, đừng dọa nhau, tụi này không
thích!
Bị
khiêu khích, mắt thiếu úy Hải vằn lên. Hắn xấn xổ
chụp lấy tay cô đào nhí kéo về phía mình, tuyên bố:
-
Không thích cũng bắt!
Sợ
hãi, cô cave thét lên. Không nói không rằng, Hải Súng vớ
ngay chai Black and White trên bàn giáng thẳng xuống đầu
đối thủ. Phản xạ nhanh, thiếu úy Hải vội buông cô
cave nhảy vọt sang một bên và móc súng. Hai băng xông vào
nhau. Bàn ghế ly tách bay tứ tán. Đột nhiên, Đại Cathay
hét lên:
-
Tụi nó chơi súng, rút, tụi bay.
Pằng!
Pằng! Pằng! ầm!
Đại
chưa dứt câu, dàn đèn pha lê đã rơi ụp xuống sàn, vỡ
tung tóe, đồng thời một viên đạn cũng nhằm đầu gối
Đại găm tới, xô y gục xuống. Hải Súng vội xô tới
xốc Đại lên bỏ chạy. Trong băng chỉ có Hải và Lâm
Chín ngón giắt súng theo. Cả hai cũng vội móc ra bắn
loạn xạ. Lâm Chín ngón gào lên:
-
Anh em rút đi, để tôi lo!
Lúc
này, đám cave, bồi bàn đã hoảng hồn bỏ chạy hết.
Thủy Tàu khá nhanh trí, vội chạy bổ vào trong sập cầu
dao điện. Bóng tối chụp lấy vũ trường đã hỗ trợ
cho băng Cathay bỏ chạy. Bị thương, Đại Cathay khó khăn
lắm mới được Hải Súng và Ngân Pôcôn dìu được
xuống lầu và kéo thẳng ra đường. Lúc này, Lành Cầu
Muối cũng vừa vặn trờ chiếc Mustang tới, hốt cả bọn
lên xe chạy thẳng. Lâm Chín ngón chạy sau cùng. Sau khi
nhả hết đạn, y cũng vội đu cửa sổ phóng xuống đường
Tạ Thu Thâu cắm đầu chạy luôn một mạch. Sau lưng, đám
vệ sĩ Sáu Lèo vẫn nã đạn theo chíu chíu.
Không
thu phục được Đại Cathay, tướng Sáu Lèo đã ra lệnh
cho “Biệt đội hình cảnh” bắt, bỏ tù hàng loạt đàn
em nhằm cô lập hắn. Núng thế, Đại Cathay đành tìm
cách hoãn binh. Một buổi tối, hắn mua nguyên nhà hàng
Paramouth mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Khi
rượu đã chếnh choáng, Đại Cathay mới ngỏ ý:
-
Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị
bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh...
Viên
đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại
ngang tàng không kém gì Đại Cathay, từ chối thẳng thừng:
-
Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến
đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu.
Nếu
là trước đó mười hôm, máu côn đồ của Đại Cathay
sẽ nổi lên ngay. Nhưng đang yếu thế nên Đại vẫn nhũn
nhặn:
-
ồ, không, không! Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi,
còn hôm nay mời đại úy đến là để anh em vui vẻ. Mời
đại úy cứ tự nhiên, đêm nay toàn bộ nhà hàng này là
chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm
gì.
Viên
đại úy không vui vẻ được lâu, cũng chẳng còn thời
gian để bận tâm lâu hơn nơi cõi thế. Sau buổi tiệc
chỉ nửa tháng, một chiếc xe “be” chở gỗ không rõ
xuất xứ đã “bò” ngang qua chiếc xe hơi CV2 của Trần
Kim Chi khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ.
Đại úy Chi và viên lái xe chết tại chỗ, chiếc xe gây
tai nạn bỏ chạy mất tăm, “không nhận dạng được
biển số”. Giới giang hồ đều cho rằng chính Đại
Cathay đã sát hại Trần Kim Chi để trả đũa.
6.
Trại “Cửu Sừng” và vụ mất tích bí ẩn
Cái
chết của đại úy Trần Kim Chi đã đánh dấu chấm than
cuối cùng cho cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng
8.1966, với tội danh “Du đãng đặc biệt”, Đại Cathay
lại bị tóm cổ. Cùng với một loạt du đãng khác, ngày
28.11.1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47
đưa ra giam giữ tại đảo Phú Quốc.
Gọi
là “Trung tâm hướng nghiệp” nhưng chính xác, đây là
nơi lưu đày những tên lưu manh ngoại hạng dày thành
tích bất hảo nhưng không có chứng cớ để bắt quả
tang, do chính Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập nhằm
“bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn
luật pháp”. Nó chính là một dấu ấn chứng tỏ sự
bất lực của luật pháp ngụy quyền.
Trại
là những dãy nhà dã chiến thấp lè tè nằm trong vòng
rào kẽm gai bịt bùng đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay
tại thị trấn Dương Đông. Gọi “hướng nghiệp” cho
oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp vặt,
đánh mạt chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có
việc gì để làm. Một hôm, đang đánh mạt chược, Đại
Cathay bảo:
-
Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, tụi mình đặt
lại tên cho nó đi.
Cả
bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng có học
đề xuất:
-
Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên
đó.
Đại
Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là “Trung tâm hướng
nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu
Sừng”.
Không
giống như dự định của tướng Sáu Lèo và cảnh sát
ngụy, Trại “Cửu Sừng” chẳng những không “hướng”
được chút “nghiệp” nào cho đám đầu trâu mặt ngựa
mà ngược lại hoàn toàn. Toàn bộ đám du đãng bị bắt
vào đây như Đại Cathay, Hải Súng, Hòa áo thun, Lâm
Chín ngón, Bảy Si, Hỏi Phoòng Kin, Thanh tưa, Quẩy Thầu
Hao... sau này đều là những tên giang hồ cộm cán nhất
của Sài Gòn - Chợ Lớn, càng ngày càng hung hãn hơn.
“Trại Cửu Sừng” như một con dấu chất lượng để
đánh giá giang hồ. Tên nào từng ngồi ở “Trại Cửu
Sừng” sau này đều trở thành đàn anh, được quyền ăn
trên ngồi trốc trên chốn giang hồ.
Ngoài
những huyền thoại về nghề đâm chém, Đại Cathay còn
nổi tiếng nhờ khoản bồ bịch. Khi mới nổi danh, Đại
cưới một cave nổi tiếng của vũ trường La Sarel tên là
Thúy, được một đứa con gái. Sau Thúy, Đại lấy Hằng,
cashier (thu ngân) của một vũ trường nổi tiếng khác ở
Đà Lạt. Được ít lâu, Đại Cathay lại cặp kè với Lệ
Hải, một nữ quái kiệt trong giới giang hồ.
Đám
dân chơi có thời đồn ầm ĩ lên rằng, Lệ Hải si mê
Đại Cathay đến nỗi một ngày chi cho “ông anh” hàng
chục lượng vàng để ăn chơi đập phá, nhằm độc
chiếm trái tim của tên du đãng ngoại hạng. Thực tế
không phải như vậy. Lệ Hải là một cô gái khá ngổ
ngáo, một đàn em của Đại Cathay trong nghề bảo kê đâm
chém. Quan hệ của Đại Cathay với Lệ Hải chỉ là đàn
anh, đàn em, hoàn toàn không có chuyện bồ bịch. Chuyện
Lệ Hải chi cho Đại một ngày hàng chục lượng vàng lại
càng không có nốt! Nguyên nhân của lời đồn chỉ là do
một lần, đang nằm ở tiệm hút Đông Kinh, Đại Cathay
ngẫu hứng muốn khoản đãi đám dân chơi một chuyến du
hí Đà Lạt. Không mang tiền theo, Đại sai đàn em chạy
đi kiếm Lệ Hải, nhà ở gần đó để mượn đỡ. Lệ
Hải có mặt ngay tức khắc và đưa cho Đại Cathay mấy
chục lượng vàng như yêu cầu. Tất nhiên, được phục
vụ đàn anh với Lệ Hải đã là điều diễm phúc, cho
nên công đoạn làm giấy ghi nợ hoàn toàn không xảy ra.
Vậy là thành lời đồn đại.
Người
vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của
Đại Cathay là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng
Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng Thập Tự (nay là
Nguyễn Thị Minh Khai), đối diện với vũ trường Olympic.
Tân, anh trai cô Nhân là một bạn bàn đèn với Đại
Cathay ở tiệm hút Đông Kinh. Sau nhiều lần cùng “nằm
bẹp” tâm sự, Tân mời Đại Cathay về nhà chơi. Thấy
Đại Cathay khen em gái mình đẹp, tỏ ra khá “mết”,
Tân tuyên bố sẵn sàng gả em gái cho bạn. Cô Nhân thuộc
loại tiểu thư con nhà giàu, cũng tỏ ra khoái phong cách
giang hồ ngổ ngáo của Đại Cathay nên gật đầu. Vậy
là nên vợ thành chồng. Đại và Nhân có với nhau một
đứa con gái, nhưng rất ít khi Đại sống với vợ con.
Lấy câu “bốn bể là nhà”, Đại Cathay suốt ngày lăn
lộn ở các vũ trường, tiệm hút và mải mê đâm chém
nhau ngoài đường, chẳng mấy đoái hoài tới vợ con. Là
một dân chơi thứ thiệt, Nhân cũng mặc kệ, chẳng hề
lấy thế làm buồn.
Đại
và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở
lại Sài Gòn, biết chắc rằng loại tù không án như
chồng mình e khó có ngày về. Cô cùng anh trai vung tiền
ra tìm cách cứu Đại Cathay.
Đầu
tháng 1.1967, Nhân có mặt trong đoàn thân nhân ra thăm nuôi
đám du đãng bị nhốt ở Trại “Cửu Sừng”. Gặp
Đại Cathay cô báo cho chồng biết, đã lo cho xong việc tổ
chức cho Đại Cathay vượt ngục. Đám lính gác sẽ làm
ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại.
Một xuồng máy chờ sẵn sẽ đưa đám tù ra khơi, có tàu
hải quân do Nhân bố trí sẵn rước về đất liền. Để
mua chuộc đám lính gác, Nhân đưa cho Đại Cathay một
chiếc áo bluson và dặn dò kỹ lưỡng. Nhìn bề ngoài, nó
chỉ là một chiếc áo lạnh rẻ tiền, sau lưng có một
con rồng ấp quanh bản đồ Việt Nam thêu hai màu, nửa
miền Bắc màu đỏ, nửa miền Nam màu vàng. Loại áo này
bán nhan nhản dọc các tiệm đường Lê Thánh Tôn, trong
chợ Dân Sinh... chủ yếu để đám lính Mỹ sắp hồi
hương mua về làm kỷ niệm.
Khi
chuyển áo cho Đại Cathay, tên lính canh của trại hướng
nghiệp Phú Quốc thấy nó nặng hàng ký nên đâm nghi ngờ.
Lần theo lưng áo hắn sờ thấy giữa hai lần vải có
hàng chục miếng kim loại mỏng được khâu đầy trong
đó. Đoán là vàng, tên lính canh định lôi ra khám xét.
Lập tức cái liếc xéo của tên sĩ quan đứng cạnh đã
ngăn hắn lại. Tên lính đành trả lại áo cho Đại
Cathay mang về phòng.
Theo
lời đồn đại của giới giang hồ thì khi về phòng, Đại
Cathay đã xé chiếc áo lấy ra đúng 62 lá vàng loại 1
lượng khâu trong đó. Với số vàng này, Đại đã mua
chuộc đám cai ngục để chúng bố trí cho lính gác làm
ngơ khi Đại bỏ trốn.
Đi
theo Đại Cathay có khoảng một chục đàn em trong đó có
Xì kíp, Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hải Súng và
Lâm Chín ngón... Đến phút cuối, Đại Cathay nghe theo lời
Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín ngón - gã
đệ tử thân nhất - ở lại. Đại nói với cả đám:
-
Thằng Lâm lóc chóc, dễ làm bể chuyện lắm. Vả lại,
chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nó còn trẻ, tội lắm.
Chi bằng để nó lại, mình thoát rồi lo cho nó về sau an
toàn hơn.
Trước
giờ khởi sự, Đại Cathay gọi Lâm Chín ngón đến và
bảo:
-
Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho mày một
lần cuối cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không
đừng trách.
Đại
đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi đô bình
thường do chính tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một
ít tân dược để tăng nồng độ. Phê thuốc, Lâm Chín
ngón quay ra ngủ say như chết. 12 giờ đêm ngày 7.1.1967,
Đại Cathay dẫn đàn em đào thoát ra ngoài.
Theo
sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia
làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để
nghi binh. Tốp thứ hai, có Đại Cathay và Hải Súng chạy
theo hướng bờ biển. Bất ngờ, khi cả hai tốp vừa vọt
ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Đạn
vãi như mưa, hỏa châu bắn sáng trời. Tốp thứ nhất,
gồm Xì kíp, Hùng Mỏ chuột... bị tóm cổ lại ngay. Đại
Cathay và Hải Súng (tức Võ Văn Hải) vội đổi kế
hoạch, chạy lên phía Bắc đảo, lần vào khu núi Tượng,
nơi có Quân giải phóng hoạt động. Đến đây, không ai
còn tận mắt gặp lại Đại Cathay và Hải Súng. Và hàng
loạt giai thoại giải thích sự mất tích của hai tên du
đãng đầu sỏ bắt đầu xuất hiện.
Giai
thoại thứ nhất kể rằng: Đại Cathay đã trốn thoát
khỏi đảo, cùng Hải Súng bơi ra tàu Hải quân chờ sẵn.
Tàu về đến Cà Mau, bị Quân giải phóng tấn công khi
đang tấp vào bãi bí mật. Sau trận đụng độ, Đại
Cathay bị Cách mạng bắt sống. Được cảm hóa, anh ta
trở thành một Giải phóng quân. Tết Mậu Thân năm 1968,
Đại dẫn đầu một tiểu đội Quân giải phóng tấn
công vào nội đô Sài Gòn từ hướng Tây và bị bắn ngã
trước trại lính dù Hoàng Hoa Thám, gần Ngã tư Bảy
Hiền. Một vài tờ báo chuyên săn tin giật gân ở Sài
Gòn hồi đó còn chua thêm: “Tìm thấy trong tử thi một
hộp quẹt Zippo khắc tên Trần Đại (Đại chuyên dùng
loại quẹt Zippo trang bị cho lính Mỹ), một cuốn nhật
ký mang tên Đại Cathay, trong đó anh ta kể lại đầy đủ
chi tiết về đời du đãng của mình và tự nhận mình là
nhân vật chính trong cuốn “Điệu ru nước mắt” của
Duyên Anh từng nổi tiếng một thời.”
Tuy
nhiên, những chi tiết mà báo chí nêu trên không hề được
bất kỳ ai kể cả phía Cách mạng lẫn phía ngụy quân
đứng ra xác nhận.
Giai
thoại thứ hai nói rằng Đại Cathay đã trốn sang Thái
Lan, sống mai danh ẩn tích ở Băng Cốc, đoạn tuyệt hoàn
toàn với quá khứ.
Giai
thoại thứ ba do Hòa áo thun - cùng ngồi Trại “Cửu
Sừng” với Đại Cathay kể lại, có vẻ hợp lý hơn cả.
Sau chuyến vượt trại của Đại Cathay ít lâu, Hòa áo
thun cũng tìm cách trốn trại khi được ra ngoài lao động.
Trong thời gian lẩn trốn ở núi Tượng, Hòa áo thun đã
bắt gặp hai ngôi mộ còn khá mới có bia mộ đẽo bằng
gỗ mang tên Lê Văn Đại và Võ Văn Hải. Theo lời Hòa,
hắn đã hỏi và được một số người ở núi Tượng
cho biết: Đại Cathay và Hải Súng vì đói đã xông vào
cướp bóc một số nhà xung quanh núi. Vì vậy, chúng bị
du kích đang hoạt động ở đây bắn chết.
Chi
tiết này được đại đa số giang hồ đã rửa tay gác
kiếm xác nhận. Một số còn khẳng định rằng hai ngôi
mộ mang tên Đại và Hải là có thật, họ đã từng đến
thăm khi có dịp ghé ra Phú Quốc sau ngày giải phóng. Tuy
nhiên, hồ sơ về cái chết của hai tên du đãng mà chúng
tôi có được lại mang một nguyên nhân khác hẳn.
Biết
không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên du
đãng làm bẽ mặt, chuẩn tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc
Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại Cathay.
Khi biết cô Nhân - vợ Đại - đang tìm cách lo lót tổ
chức cho Đại Cathay vượt ngục... Nguyễn Ngọc Loan đã
chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch.
Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của
trại hướng nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác
mới ráo riết truy kích đám tép riu, còn Đại và Hải,
chúng cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng. Sau đó,
Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử
Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy
kích Đại và Hải, bắn hạ chúng. Khi đi, toán biệt kích
dù phải thay quần áo bà ba, đội mũ tai bèo, mang dép râu
và sử dụng súng AK.47, giả trang làm Quân giải phóng để
đổ vấy cho việc giết Đại Cathay và Hải Súng cho phía
Cách mạng. Diệt xong, toán biệt kích dù phải đắp mộ,
đề bia tử tế để dễ bề nhận diện và gây dư luận.
Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh
hoang khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở
Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay y đã nổ súng hạ gục
Đại Cathay. Khá nhiều người cũng biết rõ ngọn nguồn
vụ việc, song trước khi ngụy quyền sụp đổ, không một
tờ báo nào dám viết về âm mưu hại địch thủ của
tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vì vậy, lời đồn đại, đoán
non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền
thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay - tên
du đãng ngoại hạng.
5.
LÂM CHÍN NGÓN
Thời
gian gần đây, báo chí đã không ít lần cảnh báo về
cơn sốt tệ nạn vũ trường, ma túy, đặc biệt là thuốc
lắc... Tự gắn cho mình cái “mác” “dân chơi sành
điệu”, một bộ phận thanh thiếu niên đang hằng đêm
ngụp lặn trong những cơn say bất tận của rượu, gái
và ma túy, hoàn toàn không đếm xỉa đến một nguy cơ,
rằng họ đang bước những bước đầu tiên trên con
đường dẫn đến tội lỗi và sự tự hủy hoại bản
thân. Trước sự lo lắng của dư luận, công luận và
toàn xã hội, nhiều con “thiêu thân” đã nhún vai bất
cần:
-
Dân chơi mà! Đã bước chân vào giang hồ là chấp nhận
hết, ngày mai ra sao rồi hẵng hay!
Đáng
thương cho những cái đầu sa đọa, con đường của các
“dân chơi” làm gì còn dài đến “ngày mai”, cũng làm
gì có cái được gọi một cách mỹ miều là “giới
giang hồ”. Khi ma túy tràn lan và luật pháp tỏ ra bất
lực thì quyền lực chỉ đồng nghĩa với bạo lực và
tội ác. Thực chất bức tranh “dân chơi” ngày nay chỉ
là phiên bản của bức tranh Sài Gòn giai đoạn 1968-1975,
giai đoạn lắm “dân chơi”, nhiều “giang hồ” nhất,
ma túy dễ mua và tội ác dễ gặp nhất. Có khác chăng
thì đó chỉ là một sự thay đổi nhỏ trong âm nhạc.
Ngày nay, dưới ánh đèn màu của các bar rượu, sàn nhảy
- đã trở nên loạn sắc và chói gắt hơn - điệu
Pasodobles cuồng nhiệt đã được thay thế bằng những
Hard Rock, Metal Rock chói lỏi, giậm giật hoặc những Rap
điên khùng, rất nghèo chất nhạc nhưng kích động hơn
bội phần.
Không
tham vọng trình bày hết, bài viết này chỉ dừng lại ở
một vài khuôn mặt “cộm cán” nhất trong làng “dân
chơi” thời kỳ đó. Không nhằm mục đích mô tả tội
ác, người viết chỉ mong vẽ lại một “ngày mai” đầy
đen tối và tất yếu - đoạn cuối con đường của các
“dân chơi”. Câu chuyện bắt đầu từ một dân chơi có
số của giới giang hồ Sài Gòn trước 1975 còn may mắn
sống sót đến hôm nay trong cảnh thân tàn ma dại sau hơn
20 năm trả giá trong tù tội. Anh ta tên là Lê Ngọc Lâm,
nổi tiếng trên giang hồ với biệt danh Lâm Chín ngón.
1.
Mọi con đường đều dẫn đến... nhà tù
Lê
Ngọc Lâm sinh năm 1945, tại Hà Tây, trong một gia đình
Thiên Chúa giáo rất ngoan đạo. Năm 1954, dòng thác di cư
đã cuốn gia đình Lâm vào Sài Gòn. Ba năm sau, những biến
cố thời cuộc đã khiến gia đình tan nát, rứt cậu học
trò 12 tuổi Lê Ngọc Lâm ra khỏi vòng tay chăm sóc của
người thân, ném cậu vào làng cô nhi Thủ Đức. Những
đứa trẻ ở làng cô nhi được nuôi ăn học khá chu đáo
nhưng không được cho tiền tiêu vặt. Để “kiếm thêm”,
Lâm và những đứa trẻ hiếu động khác đã nhào ra lề
phố nhập vào đám quân bụi đời, bán báo... Làng cô
nhi dạy cho Lâm biết chữ - gã đã hoàn tất chương trình
tú tài - và lề phố dạy cho Lâm biết... đập lộn để
giành mối, để cạnh tranh. Những trận đụng độ xảy
ra như cơm bữa đã biến Lâm từ một cậu bé sùng đạo,
hiền lành thành một kẻ ngang tàng, bất chấp và rất lì
đòn.
Năm
1963, Lâm thi hỏng tú tài I và bị bắt quân dịch. Không
chịu nổi cuộc sống quân trường khắc nghiệt, buồn tẻ
và vô vọng, gã trốn về Sài Gòn sống lang thang, sau đó
nhập vào đám tiểu yêu mới ngoi lên ở khu Da Heo đường
Nguyễn Công Trứ, quận 1, do Đại Cathay cầm đầu. Vốn
liều lĩnh và to khỏe, Lâm Chín ngón nhanh chóng trở thành
một trợ thủ đắc lực của Đại Cathay trong các trận
thư hùng nhằm tranh giành lãnh địa.
Đầu
năm 1964, Đại Cathay liều lĩnh kéo quân tập kích vào khu
vực rạp Hào Huê, quận 5 - “giang sơn” của giới Hắc
Đạo người Hoa do Tín Mã Nàm làm thủ lĩnh. Không may cho
băng Cathay, quá say máu nên bị giới Hắc Đạo dụ chạy
sâu vào trong các con hẻm, sau đó hạ cửa sắt bít đường
rút đầu các hẻm lại và túa ra phản công. Phe Đại
Cathay chỉ có 10 người, không chống nổi hàng chục tên
Hắc Đạo với dao búa hung hãn nên tên nào cũng thương
tích đầy mình. Trong lúc nguy cấp, Lâm Chín ngón đã liều
chết xông ra chém đứt dây xích cột cửa, mở đường
máu cho Đại Cathay và cả bọn chạy tháo thân. Trong lúc
tả xung hữu đột, ngón cái tay phải của Lâm đã bị
đối phương chém đứt lìa. Biệt danh Lâm Chín ngón bắt
đầu từ đó, do chính Đại Cathay đặt.
Sau
trận này, Lâm Chín ngón còn cứu Đại Cathay thoát chết
một lần nữa. Khoảng giữa năm 1966, vì tranh giành gái
tại nhà hàng Olympic, băng Cathay đã bị đám vệ sĩ của
tướng cảnh sát Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan dùng súng “dạy
cho biết thế nào là lễ độ”. Khi Đại Cathay ăn đạn
vỡ đầu gối, Lâm Chín ngón đã một mình một súng bắn
chận hậu cho Ngân Pôcôn và Lành Cầu Muối dìu Đại
Cathay ra khỏi vùng tử địa. Hết đạn, Lâm vứt súng,
đu cửa sổ phóng xuống đường Tạ Thu Thâu chạy trối
chết. May cho Lâm, khi trận đọ súng nổ ra, tài pán của
vũ trường là Thủy Tàu đã nhanh trí cắt cầu dao điện.
Bóng tối ụp xuống đã giúp Lâm Chín ngón thoát thân an
toàn.
Cuối
năm đó, Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc Nha
Cảnh sát Đô thành mở chiến dịch bài trừ du đãng.
Cùng với Đại Cathay và nhiều tên khác trong băng, Lâm
Chín ngón bị bắt. Ngày 28.11.1966, cả bọn bị lùa lên
máy bay C47 đày ra Trung tâm cải huấn tại thị trấn
Dương Đông thuộc đảo Phú Quốc, nơi được giới tội
phạm gọi bằng cái tên nôm na là Trại Cửu Sừng (một
quân trong bộ bài mạt chược). Chỉ hơn hai tháng, Đại
tổ chức vượt ngục. Không muốn cho Lâm theo, Đại
Cathay đã gọi Lâm Chín ngón tới, bắt gã thề bỏ ma
túy, đồng thời tự tay chích cho Lâm Chín ngón “một
lần cuối cùng”. Đã có chủ ý trước nên Đại Cathay
đã chích cho đàn em một liều gấp đôi đô bình thường
khiến Lâm say ngủ như chết và bị bỏ lại trại. Trong
thâm tâm, Đại Cathay thừa biết chuyến vượt ngục lành
ít dữ nhiều, Lâm Chín ngón lại đã hai lần cứu y thoát
chết nên Đại cảm kích không muốn cho Lâm mạo hiểm.
Mặt khác, Đại có ý phòng xa, y biết Lâm là tên du đãng
có học nên muốn mở ngõ cho đàn em một con đường sống
để còn có cơ hội trở lại tiếp quản “giang sơn”
của mình ở Sài Gòn. Dự đoán của Đại Cathay khá chính
xác. Sau chuyến vượt thoát, Đại Cathay và gần một chục
tên đàn em đã bị Nguyễn Ngọc Loan gửi lính ra đảo
truy đuổi và hạ sát. Còn Lâm Chín ngón, thuộc loại “tù
không án”, chỉ phải ngồi tù thêm nửa năm, sau đó
được thả về đất liền.
Đại
Cathay đã mất tích, băng nhóm cũng không còn, Lâm Chín
ngón không đủ sức xưng hùng, xưng bá để thu thuế, lấy
xâu như trước nữa. Để có tiền tiếp tục ăn chơi
trác táng, Lâm chuyển sang nghề “ăn bay” (cướp bằng
xe máy) và nhanh chóng trở thành một “quái bay” lì lợm
thượng thừa. Sử dụng xe Honda 67 - loại xe tốt nhất
thời bấy giờ - Lâm Chín ngón đã gây ra hàng chục vụ
cướp của những người vừa lĩnh tiền từ ngân hàng
ra. Đi đêm lắm có ngày gặp ma, trong một vụ “ăn bay”
cuối năm 1970, Lâm đã bị cảnh sát ngụy bắt tại trận
và bị tống vào trại giam Chí Hòa. Tại đó, Lâm đã
được “hội ngộ” với hầu hết những “tay chơi cộm
cán” nhất của Sài Gòn trong đó có Cương Võ sĩ (em
ruột trùm bạch phiến Sơn Đảo), Chương khùng, Đức
Không quân, Tuấn đả, Y Càlết v.v.
Vào
thời gian đó, bộ máy cảnh sát, nhà tù của chế độ
Việt Nam Cộng hòa gần như bó tay trước nạn lộng hành
của đám lưu manh du đãng hung hãn được hỗ trợ bởi
ma túy bán đầy rẫy và rẻ như bèo. Vì thế, khối
bêtông hình bát giác của trại giam Chí Hòa chỉ là nỗi
ám ảnh ghê rợn đối với những tên lưu manh hạng “tép
riu” và tứ cố vô thân, không băng không nhóm. Còn với
Lâm Chín ngón và những tên tội phạm sừng sỏ, cảnh
sống trong tù và ngoài đời hầu như chẳng khác gì nhau,
ngoài chuyện bước chân bị giới hạn trong mấy vòng
tường trại. Cửa sắt hành lang các dãy nhà giam không
bao giờ khóa, chúng tha hồ đi lại khắp nơi trong trại,
tha hồ sục vào các buồng giam để “thăm hỏi”, bài
bạc và đập lộn với nhau tranh giành ngôi vị. Giám thị,
cai tù biết cũng làm ngơ. ở ngoài, đàn em, băng đảng
của đám du đãng còn đầy rẫy. Chúng sẽ không ngần
ngại bắt cóc con cái, ném lựu đạn vào nhà họ để
trả thù, nếu trong tù, đám đàn anh bị đối xử nặng
tay. Mặc khác, làm ngơ cho bọn tội phạm còn là cách để
các “nhân viên công lực quốc gia” kiếm thêm tí chút.
Tuy là nhà tù nhưng trong trại Chí Hòa gần như không
thiếu thứ gì. Muốn ăn ngon, những tên tù hình sự cứ
việc xin phép “đàn anh” ra căngtin ở cạnh hồ nước
là có tất, miễn là có tiền. Muốn chơi ngông, nhiều
tên còn đặt tiền trước cho “nhà hàng”, hôm sau những
sơn hào hải vị như yến xào, hải sâm, vi cá, bào ngư...
sẽ được đưa vào tận nhà tù phục vụ, bảo đảm vẫn
còn nóng sốt.
Trong
sân trại Chí Hòa có một chiếc xe tải hư bỏ trống
được đám tù che chắn lại biến nó thành nơi “hành
lạc” có đủ nệm trải drap, quạt máy và có đàn em
canh gác. Chỉ việc giúi vào tay cai tù một xấp tiền là
họ sẽ quay mặt đi, sau đó điện thoại cho các “động”
quen, tối thứ bảy, chủ nhật hằng tuần sẽ có vài ba
cô gái má phấn môi son được điều vào trại, “phục
kích” sẵn trong chiếc xe tải chờ tiếp các “đàn anh”
rửng mỡ.
Để
“kiếm thêm” bù vào số lương công chức còm cõi, đám
cai tù - vừa hèn nhát vừa tham lam - đã tiếp tay cho đám
tù hình sự trong mọi hình thức. Thậm chí, chúng còn bán
cả cái gọi là “giấy đi phép”. Một ngày phải trả
120.000 đồng, cả ngày lẫn đêm 240.000 đồng. Chỉ có
những tên tù thuộc hàng “đại ca” mới được quyền
“đi phép”. Sau khi nộp đủ tiền, chúng sẽ được xe
jeep của cai tù chở ra ngoài, đến địa chỉ chúng yêu
cầu và thả xuống. Hết giờ, chiếc xe jeep ấy sẽ quay
lại chỗ cũ đón “đàn anh” vừa hết phép quay lại
nhà tù. Có tên đã từng liên lạc trước với đàn em
bên ngoài, để chúng chuẩn bị xe cộ, sau đó mua một
giấy phép 12 tiếng, lọt ra ngoài, tiến hành một vụ “ăn
bay” trót lọt xong lại vào tù nằm “dưỡng sức” và
hưởng “chiến lợi phẩm”. Bên ngoài, cảnh sát có tài
thánh cũng không hề nghĩ đến chuyện thủ phạm của vụ
cướp lại là một tên lưu manh đang nằm khểnh trong tù.
Tất nhiên, sau những chuyến “ăn hàng” ngoạn mục ấy,
đám “anh chị” chẳng bao giờ quên dúi thêm cho các
“bác” cai tù ăn rơ năm chục, một trăm ngàn, gọi là
tiền “mua nước hoa cho bà xã”. Món lợi quá lớn, càng
về cuối giai đoạn năm 1972, những vụ “bán giấy phép”
càng diễn ra dày đặc. Mãi đến lúc Biệt đội hình
cảnh ngụy bắn hạ được một vài tên tù “đi phép”
ngay trên xa lộ Đại Hàn khi chúng đang “ăn hàng” PX
(hàng quân tiếp vụ do Mỹ viện trợ), chuyện “bán giấy
phép” mới bị đổ bể và chấm dứt.
Tuy
nhiên, việc mua “giấy phép” để đi cướp chỉ là
chuyện cho vui nhằm đỡ ngứa nghề, còn kỳ thực nguồn
lợi chính của các “đại ca” trong trại “bát giác”
lại là buôn ma túy. Vào lúc cao điểm, trại Chí Hòa có
khoảng 2.000 tên tù hình sự thì cũng gần như có ngần
ấy con nghiện. Hầu như tên tù nào cũng là một dân
“ken” (nghiện côcain), dân “ke” (chích thuốc phiện
nước) hoặc khoái “ném lựu đạn” (nuốt thuốc phiện
sống vo viên). Vì vậy bán thuốc phiện, ma túy trong tù
đem lại cho các “ông trùm” một nguồn lợi cực lớn,
có khi lên đến bốn năm trăm ngàn đồng một ngày
(khoảng 20-25 lượng vàng). Nguồn lợi quá khổng lồ
khiến chúng không ngần ngại vây bè kết cánh để hùng
cứ quyền bán ma túy ở các buồng giam và tranh giành lãnh
địa hoặc hạ bệ nhau, nhằm ngoi lên làm “ông trùm”
để độc quyền thu lợi. Do đó, chiến tranh trong tù vẫn
nổ ra thường xuyên. Bản chất tội ác của cái danh xưng
mỹ miều “giới giang hồ” được thể hiện ngay trong
phương châm xử thế, được những tên tội phạm chích
máu ngón tay viết lên cánh cửa, bức tường của các
buồng giam: “Nhân đạo là tự sát, gian ác mới huy
hoàng”. Tuy hành lang các dãy buồng giam luôn mở toang
hoác nhưng những tên “âm binh mất ma”, “tép riu” ở
dãy AB đố bao giờ dám bén mảng xuống dãy BC nằm kế
bên, bọn ở dãy DE cũng đừng bao giờ mò xuống khu FG mà
mang họa. Là “đàn anh”, như Lâm Chín ngón ở dãy FG
chẳng hạn, có thể tha hồ đi lại giữa các dãy, nhưng
mỗi lần di chuyển gã và các tên đàn anh khác đều phải
có vài ba “vệ sĩ” tháp tùng, nếu không ăn dao là cái
chắc. Mỗi khi lâm trận, những tên du đãng có số này
đều hai tay nắm chắc hai con dao. Con thứ ba giắt ngang
bụng, phòng khi dao trên tay bị đánh rơi hay bị đối
phương tước mất. Hỗn danh “thời hai tay ba đao” bắt
nguồn từ đó - để chỉ giai đoạn 1970-1974 trong trại
Chí Hòa.
Là
cánh tay phải của Đại Cathay, lại từng ngồi trại Cửu
Sừng ở Phú Quốc, khi bị chuyển sang quân lao Gia Định
y lại dám đâm trầy mặt và hạ bệ “tướng cướp cô
đơn” Điền Khắc Kim để giành địa vị ông trùm, sau
đó lại cầm đầu đám tù phạm ở đây vượt ngục,
Lâm Chín ngón trở thành một “cao thủ”, được độc
quyền bán thuốc phiện ở khu FG, đồng thời trở thành
“đại lý” cung cấp “hàng đen” (thuốc phiện) cho
toàn trại Chí Hòa. Quyền khai thác “hàng trắng” trong
dãy này thuộc về Chương khùng, một tên giang hồ có số
khác, kẻ đã từng dẫn đầu hàng chục tội phạm người
Việt xông vào khu AB cướp thùng đựng tiền của đám tù
nhân người Hoa gốc Hồng Công, Ma Cao, Singapore, Đài
Loan... và bị chém trọng thương. Đúng định kỳ, “hàng
đen” từ bên ngoài được đàn em đóng thành bánh dẹp,
chất vào trong thùng gỗ hai đáy đựng đồ thăm nuôi gửi
cho Lâm. Cai tù biết nhưng làm ngơ để được chia phần
(30% lợi nhuận). Vào tù, Lâm bửa ngăn đáy ra, lấy thuốc
phiện cắt thành miếng nhỏ phân phối cho các buồng giam
thu lãi.
Là
một ông trùm kiêm đại lý độc quyền thuốc phiện,
tiền lãi mà Lâm thu được hàng ngày rất khổng lồ. Do
vậy, y trở thành con mồi “bự” khiến hàng chục “đại
ca” khác dòm ngó thèm thuồng và rắp ranh hạ bệ, dù
ngoài mặt vẫn thơn thớt nói cười chuyện “tình nghĩa
giang hồ”.
Tai
họa đến với Lâm bắt đầu từ một ông trùm cùng
ngành nhưng khác món chung dãy FG. Đó là Chương khùng - kẻ
được phân độc quyền “hàng trắng”.
Không
thể chịu đựng nổi nạn lộng hành của đám giang hồ,
cuối năm 1972, ngụy quyền Sài Gòn đã gom hết tất cả
những tên đầu sỏ đang tác oai tác quái trên khắp các
nhà tù miền Nam, từ Quân lao Nha Trang, Trại giam Qui Nhơn,
quân lao Gia Định... về trại Chí Hòa để thanh lọc. Sau
đợt này, những tên thường phạm đã thành án từ 5 năm
đến chung thân, nếu không dính líu đến một vụ án,
một tội danh nào khác sẽ được lùa xuống Tân Cảng,
từ đó sẽ được tàu Hải Quân chở ra Côn Đảo để
đi đày. Bọn giang hồ tìm đủ mọi cách để tránh đi
đày. Thậm chí như ở Quân lao Nha Trang, tên tướng cướp
Năm Vĩnh - kẻ được mệnh danh là “hùm xám miền Trung”
đã không ngần ngại tra tấn một bạn tù cho đến chết
để được ở lại đất liền chờ ra tòa với tội danh
mới là cố sát, tránh bị đưa ra đảo. Tại trại Chí
Hòa, đám tù phạm - con nghiện càng ngày càng trở nên
hung hãn hơn. Nhiều tên tép riu cũng ngoi lên thách thức
đàn anh nhằm tiếm quyền để có điều kiện sống gấp
và chết... khẩn cấp. Nhiều tên đàn anh bị đàn em lờn
mặt đã không chịu nổi, xuống đòn trừng trị rất
nặng tay, khiến trại giam ngày càng trở nên hỗn loạn
hơn bao giờ hết.
Trong
số những đàn anh đang mất dần thanh thế có Chương
khùng - trùm cocain của dãy FG. Sau hiệp định Paris (ký
ngày 27.1.1973), lính Mỹ nối đuôi nhau xếp hàng lên máy
bay về nước hết. Theo chân các chú lính Hoa Kỳ,
“hàng trắng” (cocain, heroin) cũng vắng dần trên đất
miền Nam. Hàng hiếm nên giá rất đắt, dân chơi “hàng
trắng” lục tục rủ nhau quay về với mặt hàng truyền
thống là thuốc phiện. Đám con nghiện ở dãy FG, nhà tù
Chí Hòa cũng bị cuốn theo trào lưu ở ngoài đời, đâm
ra “khoái” thuốc phiện hơn thích ma túy, đâm đầu
sang làm khách hàng của Lâm Chín ngón hết, khiến thu nhập
của Chương khùng tụt xuống thảm hại. Đàn anh đã
nghèo thì đàn em cũng không thèm ngó, quân tướng rụng
dần đi. Chương tức tối chửi bới om sòm, dọa “cho
biết tay” những kẻ bỏ mình phò Lâm Chín ngón. Nghe
Chương khùng chửi bới, một tên ngang cơ khác là Năm
Lương đổ thêm dầu vô lửa:
-
Mày chỉ giỏi võ mồm. Thừa biết thằng nào hạ bệ
rồi, mày có giỏi thử đụng đến nó coi?
Một
tên khác khích thêm:
-
Cũng là đàn anh mà thằng thì chiều nào cũng đếm bạc
trăm gửi nhà băng, thằng suốt ngày chỉ lo chửi bậy!
Bị
kích, Chương khùng nổi cơn khùng. Hắn lấy bộ đồ võ
vận vào người rồi thả vô họng ba viên renoval để
thêm dũng khí, hằm hằm tuyên bố:
-
Tao sẽ tìm thằng Lâm Chín ngón nói chuyện phải quấy.
Đang
chơi bóng chuyền ở sân trại, nghe đàn em cấp báo, Lâm
Chín ngón bỏ ngay để đợi. Gặp nhau, Lâm Chín ngón hỏi
trước:
-
Chương! Nghe nói mày đòi dẹp không cho tao bán thuốc
trong khu FG nữa, phải vậy không?
Chương
khùng hùng hổ:
-
Đúng, tao bảo dẹp. Mày bảnh thì chơi lại tao coi?
Đang
uống nước, sẵn ly cầm trong tay, Lâm Chín ngón không nói
không rằng ném ngay cái ly uống dở vào mặt Chương khùng
và nhào tới. Quá bất ngờ vì không nghĩ đến chuyện
Lâm phản ứng quá mạnh, lại thấy đàn em của Lâm kéo
tới khá đông, Chương khùng hoảng quá vội né người
tránh bị ly nước đập vô mặt rồi... bỏ chạy, mặt
mũi hầm hầm.
Lúc
này nhiều tên đàn anh trong đó có Cương Võ sĩ đang tụ
tập nhau trong dãy BC. Cương võ sĩ, tức Vũ Đình Cương
vốn là một võ sĩ quyền Anh có đẳng cấp, từng nhiều
lần thượng đài khắp miền Trung, miền Nam và Campuchia,
nếu đấu tay đôi sòng phẳng, cỡ Lâm Chín ngón cũng
hoàn toàn không phải là đối thủ. Năm 1970, Cương bị
bắt vì tội buôn ma túy. Là một “cao thủ”, lại là
em ruột của Sơn Đảo, tức Vũ Đình Khánh, trùm ma túy ở
Sài Gòn thời bấy giờ nên uy thế của Cương rất lớn
được đám giang hồ phong làm “đại ca của các đại
ca”, toàn quyền cắt đặt, sai phái toàn bộ giang hồ
trong trại Chí Hòa. Khi các băng nhóm trong trại có xích
mích, chỉ cần Cương đứng ra nói một lời là tất cả
đều răm rắp tuân theo, đố tên nào dám cãi. Tuy nhiên,
Cương ít chường mặt, cho nên y mới được gán cho biệt
danh “Hiệp sĩ trong bóng tối”.
Thấy
Chương khùng vừa chạy qua vừa khóc, Cương bèn ngăn lại
hỏi chuyện. Không lẽ lại thú nhận rằng mình không dám
chơi tay đôi với Lâm Chín ngón, Chương khùng bèn vừa
khóc vừa “tố láo”:
-
Thằng Lâm ỷ đông, nó kéo đàn em đến đòi xử tôi,
cấm không cho tôi bán ma túy nữa!
Nghe
đến đó, máu yêng hùng nổi lên, Cương Võ sĩ chửi thề:
-
Mẹ nó! ở đây tao là đàn anh hay thằng Lâm là đàn anh?
Nó muốn qua mặt tao xử anh em, để tao cho nó một bài
học.
Nói
rồi, Cương bèn dẫn một tốp nửa tá anh chị gồm Tuấn
đả, Năm Lương, Khương Đại, Lễ, Hải Méo... sang khu FG
để “hỏi tội thằng Lâm”. Thấy cả bọn kéo sang,
một số “dân chơi” khác trong dãy lầu 3F bèn kéo ra
cản lại, khuyên Cương “bình tĩnh, chuyện đâu có đó”.
Tỏ mặt đàn anh, Cương Võ sĩ gạt đám lâu la qua một
bên:
-
Mấy em không hiểu chuyện, tránh sang một bên cho qua xử
đàn em.
Phần
Lâm Chín ngón, dù đã đuổi được Chương khùng nhưng
cơn giận bừng bừng vẫn chưa tan. Lúc Lâm đang đấm
thình thình vào tường buồng giam 3F4, dọa “luộc thằng
Chương” thì một tên đàn em chạy vào cấp báo:
-
Anh Lâm cẩn thận. Anh Cương đang dẫn người qua tìm anh
đó.
Vừa
nói, tên này vừa dúi vào tay Lâm mấy con dao lá lúa, dặn:
-
Anh cầm theo để phòng thân.
Lâm
bảo:
-
Một dao đủ rồi.
Và
hắn lập tức chạy ra nghênh tiếp. Khi hai bên đã đứng
đối diện nhau, Cương Võ sĩ dừng lại, hỏi:
-
Lâm! ở đây mày với tao ai là đàn anh(?).
Lâm
chưa kịp trả lời đã bị Cương tung ngay một cú thôi
sơn vào mặt. Khá nhanh, Lâm né đầu tránh được. Cú đấm
quá mạnh nhưng không trúng mục tiêu khiến Cương Võ sĩ
hụt đà chúi thấp đầu về phía trước. Trong giang hồ,
bị một cái tát xem như không còn ngoi đầu lên được,
huống hồ ăn nguyên cú đấm. Máu bốc lên, lợi dụng
lúc Cương Võ sĩ mất đà, Lâm Chín ngón nắm ngay cổ áo
địch thủ lật lên và quơ tay ra sau lưng rút dao... Tất
cả diễn ra quá nhanh nên không ai kịp can. Cương chỉ kịp
hự lên một tiếng rồi ôm ngực đổ vật ra sàn khi Lâm
vừa buông tay. Nghe ai đó kêu lên “Anh Lâm, đừng đâm
nữa”, Lâm mới sực tỉnh, vội buông dao đánh cạch
xuống sàn. Nhát dao đâm trúng tim, Cương Võ sĩ chết ngay
tại chỗ. Lâm Chín ngón mặt tái mét, vội thanh minh trước
khi bị dẫn đi:
-
Tôi không cố ý, tại anh Cương... Thôi, anh em thắp cho
ảnh mấy nén nhang giùm tôi.
Rõ
ràng Cương Võ sĩ không chết vì kém võ nghệ, cũng không
chết vì nhà tù. Y chết vì... sĩ diện hão muốn vỗ ngực
xưng tên. Âu đó cũng là kết cục bi thảm chung trên chốn
giang hồ.
2.
Fami Sơn Đảo
Giống
như tên em ruột, Vũ Đình Khánh - tức Sơn Đảo cũng xuất
thân là một võ sĩ có hạng, thuộc võ đường Hổ Bạch
An - Tân Bình. Hầu hết võ sư và võ sinh của võ đường
này đều xuất thân hoặc gia nhập lính dù - lực lượng
con cưng của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Nhà Sơn ở
gần chợ Ông Tạ, chuyên làm giò chả. Khi lớn lên, Sơn
rủ rê và chỉ đạo những đứa em ruột là Cương Võ
sĩ, Hoàng bệu, Tiềm, bán ma túy, phất lên khá nhanh. Y
bèn bỏ tiền ra bảo trợ cho lò võ Hổ Bạch An, đồng
thời xây dựng luôn một phòng tập cho đám chiến hữu
ngay trong trại lính dù Hoàng Hoa Thám. Cử chỉ hào phóng
này đã được đám sĩ quan binh lính thuộc binh chủng dù
đáp lại bằng cách sẵn sàng hậu thuẫn cho Vũ Đình
Khánh trong các cuộc làm ăn trong bóng tối. Trong số những
kẻ “đỡ lưng” cho Khánh có trung tá Lê Quang Lương,
trung tá Be (Ban 2 dù), thiếu tá Đường (Sư đoàn 3 dù),
trung úy Nguyên con đỡ đầu của tướng Cao Văn Viên...
Được hậu thuẫn mạnh, chẳng bao lâu Vũ Đình Khánh đã
trở thành kẻ cung cấp ma túy cho một khu vực rộng lớn
dọc hai trục đường chính là Trương Minh Giản (nay là
Lê Văn Sĩ) và Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng Tám).
Ngoài ra, trên hai trục đường đó còn có cả chục tiệm
hút, sòng bài thuộc quyền quản lý của Fami (gia đình)
Vũ Đình Khánh.
Năm
1965, Vũ Đình Khánh bị bắt lĩnh án 5 năm tù, bị đày
ra Côn Đảo. Bắt chước tay nhà văn giang hồ đầu thế
kỷ Trương Văn Thoại, khi ngồi tù Côn Đảo đã tự giải
thích bút danh Sơn Vương của mình có nghĩa là “vua của
đảo Côn Sơn”, Vũ Đình Khánh cũng nhân cơ hội này tự
gọi mình là Sơn Đảo và tự nhận “học trò ruột”
của Sơn Vương. Với “chiến tích” nửa thực, nửa bịa
mang về từ Côn Sơn, thế lực của Sơn Đảo càng ngày
càng mạnh lên trong làng giang hồ Sài Gòn.
Nghe
tin em ruột bị giết trong tù, Sơn Đảo lồng lộn lên. Y
càng tức hơn, khi từ Chí Hòa, dân chơi đồn thổi ra:
-
Cương Võ sĩ không chết vì nhà tù, cũng không chết vì
Lâm Chín ngón mà chết vì bệnh... sĩ.
Không
chịu nổi, Sơn Đảo tìm vào tận Chí Hòa tuyên bố:
-
Sẽ lấy mạng thằng Lâm bằng bất cứ giá nào.
Quá
giận, Sơn Đảo không thèm đếm xỉa gì đến những lời
thanh minh xin lỗi của tay đàn em trót dại. Xem như mạng
sống đã bị mua đứt, Lâm Chín ngón hết sức lo lắng,
tìm cách phòng thủ.
Khổ
nỗi, Sơn Đảo có muốn cũng không thể bỏ mặc “fa-mi”
buôn lậu ma túy đang ăn nên làm ra, tự mình gây án để
vào tù kiếm địch thủ trả thù. Gửi sát thủ từ bên
ngoài vào cũng không ổn,vì muốn tiếp cận tìm cơ hội
giết được Lâm Chín ngón, sát thủ phải ngồi tù chung
buồng với Lâm, nghĩa là phải chịu án dài, án nặng nên
chẳng tên nào chịu nhận. Cuối cùng, Sơn đành phải
tính cách nhờ một tay chơi nào đó trong trại Chí Hòa
khử Lâm Chín ngón.
Kẻ
được chọn đầu tiên là Tuấn đả, quê ở xã Hộ Hải,
quận Ninh Hải, Ninh Thuận. Khi bị bắt giam tại quân lao
Nha Trang, Tuấn đả là kẻ từng đâm lòi ruột Sơn Trắng
- xếp sòng quân lao này để tiếm quyền. Máu liều, Tuấn
đả có thừa, nhưng y nhỏ con, khó chơi tay đôi mà thắng
được Lâm Chín ngón. Sơn Đảo chỉ có nước tuồn “chó
lửa” từ ngoài vào tù để Tuấn đả hạ Lâm. Nhưng,
hai lần khẩu súng được ngụy trang gửi vào, Tuấn đả
đều trả lại không nhận. Khi từ quân lao Nha Trang chuyển
vào trại Chí Hòa, Tuấn đả đã từng bị toàn thể đám
đàn anh ở đây cô lập và suýt đánh đòn hội đồng
bởi e ngại “truyền thống” lật đổ của y. Lúc đó,
chính Lâm Chín ngón đã chủ động đứng ra bảo lãnh.
Cảm kích, Tuấn đả đã từ chối “hợp đồng” mà
Sơn Đảo nhờ, kèm lời giải thích:
-
Anh Đại (Đại Cathay) gọi nó là Lâm điên, tao là Tuấn
khùng. Hổng lẽ thằng khùng đi bắn thằng điên(?!).
Mất
gần cả năm trời, Sơn Đảo mới tìm được người thay
Tuấn đả. Gã này tên là Nguyễn Văn Hoàng, tự Hoàng Đầu
lâu (theo hình xăm trên bả vai). Nói về võ nghệ, cả
trại Chí Hòa không ai sánh kịp Hoàng Đầu lâu. Hoàng
mang đai đen tứ đẳng Taekwondo, đã từng hạ hàng chục
cao thủ cả Việt lẫn Miên trên sàn đấu.
Đầu
tiên, biết vợ con Hoàng đang sống khó khăn trong thời
gian chồng ở tù, Sơn Đảo bèn bỏ tiền mua một căn nhà
mặt phố nhỏ đem tặng, sau đó lại sang một sạp vải
ở chợ cho vợ Hoàng đứng bán, làm kế sinh nhai. Đồng
tiền đi trước là đồng tiền khôn, Hoàng Đầu lâu tối
mắt gật đầu bán mình cho Sơn Đảo.
Khổ
nỗi, trong giới giang hồ, Hoàng chỉ thuộc hàng chiếu
dưới, án tù cũng nhẹ, không thể ngồi cùng mâm với
Lâm Chín ngón để có cơ hội tiếp cận và hạ sát địch
thủ. Để tạo cơ hội cho Hoàng, Sơn Đảo đã tốn công
vạch ra một kế hoạch chi tiết nhằm giúp Hoàng Đầu
lâu tăng án, “được” ngồi biệt giam đồng thời nâng
uy tín trong làng dân chơi chứ không vì tăng án mà gây
thù hằn, xích mích với một kẻ nào khác.
Trong
trại Chí Hòa có một cai ngục là trung sĩ Cách, cháu ruột
gọi phó giám thị trại bằng cậu. ỷ thế, tên này rất
“bố láo”, luôn tìm cách ăn chặn, phá phách đồ thăm
nuôi của tù nhân. Đám tù rất ghét nhưng không tên nào
dám ra tay. Một hôm, sau khi nghe các “đàn anh” ta thán,
Hoàng Đầu lâu xung phong:
-
Để em mần thịt nó cho!
Kỳ
thăm nuôi đến. Khi trung sĩ Cách đang săm soi hũ thịt
rim, bẻ đôi từng cái bánh để khám xét thì một tên tù
tự giác đến rót vào tai hắn:
-
Trung sĩ, có người muốn gặp riêng trung sĩ.
Cách
hống hách quát:
-
Thằng nào muốn thì ra đây mà gặp! Bộ nó là ông nội
tao hay sao mà gọi là tao phải ra?
Tên
cò mồi đệm thêm:
-
Có chuyện làm ăn, cần gặp riêng trung sĩ.
Tưởng
sắp được hối lộ, trung sĩ Cách bỏ ngay việc khám xét
theo tên cò mồi đi vào phía trong. Cánh cửa vừa đóng
lại, Hoàng Đầu lâu bước ra ngay. Hôm đó, y giắt một
thanh “hàng” (mã tấu) sau lưng, mặc một chiếc áo jean
rộng thùng thình che kín. Thấy mặt Hoàng đằng đằng
sát khí, trung sĩ Cách hoảng quá vội vã ngoắt người
định tháo lui. Nhanh như chớp, Hoàng Đầu lâu chặn ngay
cửa ra vào và rút mã tấu nhằm mặt trung sĩ Cách vớt
ngược lên. Lát chém quá chính xác, lỗ mũi của tên
trung sĩ bị lưỡi dao bén ngót cắt bay. Máu xối ra, trung
sĩ Cách ôm mặt quằn quại...
Với
“chiến tích” này, Hoàng Đầu lâu nghiễm nhiên trở
thành “dân chơi thứ thiệt”, được giang hồ kiêng nể.
Trong khi đó, tội nặng thêm, y bị tống xuống khu biệt
giam. ở ngoài, Sơn Đảo lại bung tiền lo lót với giám
thị, cai tù. Kết quả là hai tháng sau, Hoàng Đầu lâu đã
ôm giỏ đồ của mình chuyển sang ở cùng một buồng
giam với Lâm Chín ngón.
Ngoài
Lâm Chín ngón, trong buồng giam còn có một chú bé 15 tuổi
tên là Phạm Văn Lý, thường gọi là Lý lắc được Lâm
xin cho ở cùng phòng để phục dịch trà nước và đấm
bóp cho “đàn anh” trước giờ đi ngủ. Chỉ sau hôm ở
cùng phòng ít lâu, Hoàng Đầu lâu đã khiến Lý lắc
sợ chết khiếp. Suốt ngày, Hoàng cởi trần trùng trục
phô chiếc đầu lâu nhe nanh, hết gồng đến tấn lại
đấm bình bịch vào tường, rồi sau đó là đá loạn xạ
ngầu các kiểu, như thể đang tập dượt chuẩn bị thi
Olympic. Bị khủng bố tinh thần, Lý lắc thất kinh,
hỏi Lâm Chín ngón:
-
Bộ anh Hoàng sắp giết ai sao?
Lâm
không trả lời. Kinh nghiệm sống và những lời thì thào
to nhỏ trong đám giang hồ đã giúp Lâm thừa biết Hoàng
sắp giết ai. Muốn tránh cũng không thể, Lâm thở dài và
âm thầm chuẩn bị.
Bắn
tin ra ngoài, Lâm nhờ đàn em kiếm một chiếc quai đeo ba
lô hình chữ X bằng inox, bẻ ra, ấn vào trái bí đỏ
chuyển vào tù cho Lâm. Chờ lúc Hoàng Đầu lâu ra khỏi
phòng, Lâm đập vỡ trái bí, lấy thanh inox ra, mài mỏng
xuống sàn xi măng thành một lưỡi dao nhọn hoắt và sắc
như dao cạo. Sau đó, Lâm nhờ một người có vai vế là
tướng Lam Sơn, nguyên giám đốc Trung tâm huấn luyện tân
binh Thủ Đức, vì tội bắn chết người quản gia nên
phải ngồi Chí Hòa mua cho mình một chai rượu Remy Martin.
Trong tù, được đàn anh chiếu cố, lại có rượu Tây
uống, còn gì bằng, Hoàng Đầu lâu được Lâm mời cứ
thế nốc rượu tì tì. Đã có chủ ý, Lâm chỉ nhấm
nháp đôi chút, chủ yếu rót tràn cho Hoàng. Nửa đêm,
chai rượu cạn đáy, Hoàng Đầu lâu say mèm lăn ra ngáy
pho pho. Lâm Chín ngón bèn bảo đệ tử Lý lắc:
-
Mày nấu cho anh nồi nước, tắm cái cho mát.
Khi
nước sôi sùng sục, Lâm bê nguyên cả nồi đổ ụp
xuống mặt Hoàng Đầu lâu. Hoàng thét lên chói lỏi, quằn
quại, muốn đứng dậy bỏ chạy nhưng không thấy đường,
tay chân quơ loạn xạ. Rút dao đã chuẩn bị sẵn, Lâm
Chín ngón đâm liên hồi vào người Hoàng Đầu lâu. Lưỡi
dao mỏng dính nên máu chỉ ra rịn rịn. Hoàng Đầu lâu
van xin:
-
Anh tha cho em, em có làm gì anh đâu?
Lâm
Chín ngón cười gằn:
-
Nếu để mày “làm gì” thì giờ tao đâu còn có thể
đứng đây!
Giãy
giụa một lúc, Hoàng Đầu lâu chợt cong người lên, ngáp
ngáp mấy cái rồi chết thẳng cẳng. Đến lúc đó, Lâm
mới ngừng tay. Tất cả 37 nhát. Lý lắc kinh hoàng đứng
nép vào góc tường bưng mặt so vai nhưng không dám khóc.
Cuộc
giằng co xảy ra khá nhanh, khá bất ngờ. Hoàng Đầu lâu
hầu như không kịp phản ứng nên tiếng động gây ra
không lớn. Khi Lâm đập ầm ầm vào cửa sắt báo mình
đã giết người, viên cai ngục đang ngủ gà ngủ gật
vẫn không tin. Đến khi chạy vào, nhìn xác Hoàng hoen máu
nằm thẳng đơ trên nền gạch, ông ta mới thất kinh hỏi
Lâm Chín ngón:
-
Sao mày lại giết nó?
Vứt
dao, Lâm đứng thừ người:
-
Tôi không đâm nó, nó cũng giết tôi!
Lâm
nói đúng, chốn giang hồ nếu không chết vì cái ác thì
cũng phải tự mình nhúng tay vào cái ác, hoàn toàn không
có đường thứ ba để chọn lựa.
Lâm
Chín ngón lại bị tống vào biệt giam. ở ngoài, Sơn Đảo
vẫn lồng lộn tìm cách tiếp tục giết Lâm. Nhưng chưa
kịp nghĩ ra cách, chính Sơn Đảo lại bị giết chết.
Cũng như em ruột là Cương võ sĩ, Sơn Đảo cũng bị hạ
vì sĩ diện và bỏ mạng bởi một kẻ thuộc hàng đàn
em: Phạm Bá Y, tức Y Càlết!
Bị
thọt một chân, lại có bệnh kinh phong, mỗi lần lên cơn
là toàn thân co giật liên hồi, Phạm Bá Y được giang hồ
gán cho biệt danh “Y Càlết”. Sau nhiều năm ở tù, hắn
ngoi lên được địa vị trùm ma túy của dãy AH thuộc
trại Chí Hòa. Năm 1972, Y ra tù bắt đầu dựng lại cơ
đồ. Lúc này, Sơn Đảo đang ở giai đoạn cực thịnh.
Biết mình chỉ thuộc hàng đàn em của Sơn Đảo, Y Càlết
không dám nhảy vào địa hạt “hàng trắng” mà Sơn Đảo
đang nắm độc quyền, chỉ dám chỉ đạo đàn em buôn
bán thuốc phiện, “giang sơn” không rộng hơn khu vực
hẻm Cháo Lòng, Xóm Đạo cạnh Bệnh viện Từ Dũ nơi Y
cư trú.
Nhưng
chỉ ít lâu, Mỹ rút, đám “dân chơi” đột nhiên bỏ
“hàng trắng” quay lại với “hàng đen” đã tạo cơ
hội cho Y Càlết phất lên rất nhanh, cả về tiền bạc
lẫn thế lực. Chưa dám mạo hiểm mở rộng đất kinh
doanh ra hướng Tân Bình nhưng Y đã liều lĩnh bắt tay với
hai tên dưới trướng của Sơn Đảo là Châu Gối và Hồng
Toét thâu tóm dần dần quyền cung cấp “hàng đen”. Y
Càlết lên nhanh như diều gặp gió. Trong khi đó, Sơn Đảo
sau cái chết của em tính tình ngày càng hung bạo hơn.
Quyền lực càng cao, thái độ của hắn càng hống hách
càng mục hạ vô nhân. Mỗi lần không vừa ý, hắn thường
không tiếc tay đánh đập, chửi mắng đàn em. Không chịu
được sự ngược đãi vô lý, nhiều giang hồ đã rục
rịch bỏ Sơn Đảo chạy về dưới trướng Y Càlết.
Quyền
lực bị xâm phạm, Sơn Đảo điên hết cả ruột, bắt
đầu tìm cớ diệt Y càlết. Trong giới giang hồ, việc
“đảo chính”, hạ bệ lẫn nhau xẩy ra như cơm bữa.
Nhưng muốn diệt nhau thì phải có cớ, nếu không giang hồ
không phục, có diệt được đối thủ cũng không thể
đạt được mục đích. Vì vậy, dù điên đến mấy, Sơn
Đảo vẫn phải kiên nhẫn chờ thời. Lần này, giọt
nước làm tràn ly là một cô vũ nữ xinh đẹp.
ở
Sài Gòn trước 1975, vũ trường Barcarat nổi tiếng nhờ
màn vũ thoát y. Hằng đêm, đến đoạn cao trào một cô
gái bốc lửa sẽ bước lên sàn pist nhảy múa cuồng loạn
theo điệu nhạc. Lần lượt theo từng bước nhảy, từng
mảnh xiêm y trên mình cô gái sẽ rơi ra. Khi trên mình cô
chỉ còn độc một chiếc “lá nho” che chỗ kín, đám
thực khách sẽ bốc thăm... Kẻ “may mắn” được bịt
mắt sẽ lên sân khấu cùng nhảy với cô, trong khi nhảy,
nếu khách dùng... răng gỡ được chiếc “lá nho”, cô
vũ nữ sẽ thuộc về gã trong đêm thác loạn. Nhân vật
chính của những đêm điên loạn ấy là Trang, cô gái có
thân hình bốc lửa. Biệt danh Trang Barcarat ra đời từ
đó. Khi đã nổi danh, Trang Barcarat bỏ nghề vũ nữ trở
thành một người chuyên tổ chức các buổi party cho các
nhân vật tai to mặt lớn trong quân đội. Nhờ đó, Trang
thường xuyên được một vài ông lớn ủng hộ và che
chở hết mình. Từ Trang Barcarat, cô được giới ăn chơi
phong lên thành Trang Bà Bà - tên nhân vật tú bà trong tiểu
thuyết Kim Bình Mai - cuốn “đệ nhất dâm thư” của
đời Thanh (Trung Quốc).
Xem
ra chưa chắc ăn, để công việc làm ăn tránh được sự
sách nhiễu của những tên đầu bò, đầu bướu, Trang
Barcarat còn chủ động cặp bồ với một số tay anh chị
đang lên. Thời gian đầu Trang cặp bồ với Lộc điên,
một tên cướp khét tiếng lì lợm và hung bạo. Lộc điên
từng nổi danh giang hồ vì biệt tài trốn tù, vượt ngục
kèm câu tuyên bố ngạo ngược trước tòa:
-
Tòa xử thì tòa ở, Lộc tôi không rảnh đâu mà ngồi
tù!
Lộc
điên bị bắt lãnh án chung thân đúng vào hồi cực thịnh
của Sơn Đảo và fami của hắn, Trang lập tức quên ngay
gã tình nhân vừa sa cơ thất thế, tự nguyện ngã vào
vòng tay Sơn Đảo. Khi Y Càlết đã trở nên hùng mạnh,
cô quay sang bá vai bá cổ ve vuốt tên anh chị mới nổi
này.
Một
hôm, Sơn Đảo đến thăm Trang Bà Bà, đúng vào lúc Trang
và Y Càlết đang ngồi với nhau trong phòng khách. Thấy
Sơn vào, Y Càlết chỉ khẽ gật đầu chào mà không thèm
đứng lên, thái độ tự tin như một chủ nhân ông thực
thụ đang ngồi tại phòng khách nhà mình. Bẽ mặt, đồng
thời cũng muốn thị oai trước mặt tình nhân, Sơn Đảo
hất hàm:
-
Ai cho mầy ở đây?
Câu
hỏi trịch thượng của Sơn khiến Y Càlết đâm ra lúng
túng. Cho dù việc “đảo chính” chỉ còn là ngày một
ngày hai nhưng vì chưa đến lúc cho nên ngoài mặt Y Càlết
vẫn phải xếp mình dưới cơ Sơn Đảo. Tật nói lắp
của hắn bắt đầu lòi ra:
-
Dạ... thì tôi đến... chơi... thăm Trang...
Thấy
đối thủ mặt đã đổ chàm, gã đàn anh càng lấn tới.
Thẳng tay giáng cho Y Càlết một tát tai, Sơn Đảo gầm
lên:
-
Không chơi bời thăm viếng gì ráo trọi, nếu không đừng
trách.
Không
đề phòng, Y Càlết lĩnh nguyên năm dấu ngón tay trên
mặt. Mắt vằn lên, nhưng biết mình không phải là đối
thủ tay đôi của Sơn Đảo, hắn không dám đánh lại,
chỉ lắp bắp:
-
Tôi... làm gì... mà... mà... anh... đánh tôi?
Thắng
được người mặt đỏ như vang, Sơn Đảo
hất mặt:
hất mặt:
-
Ưng đánh là tao đánh. Thấy mặt mày tao ghét quá nên đập
cho mầy chừa. Có sao không?
-
Anh là... đàn anh... mà chơi... chơi vậy... là không ngon.
Tôi... tôi... nói thiệt... anh đừng... ỷ... ỷ... lớn.
Vừa
nói Y Càlết vừa lùi dần ra cửa. Sơn Đảo đắc thắng:
-
Đã biết tao là đàn anh thì cút mẹ mày đi. Đứng sớ
rớ thấy ghét, tao lại táng thêm vài cái bây giờ.
Bị
hạ nhục, Y Càlết lên cơn giật kinh phong ngay tại chỗ
và vội vàng lủi ngay như chó ăn vụng bột.
Hả
hê vì trừng trị được kẻ rắp ranh “lấy số” mình,
đi đâu Sơn Đảo cũng đem chuyện bạt tai Y Càlết ra
khoe, tất nhiên không quên thêm mắm dặm muối cho thêm
phần hấp dẫn. Chẳng bao lâu, thông tin về vụ đụng độ
đã lan khắp giang hồ Sài Gòn. Tin chắc Y Càlết đang
nung nấu dự định trả thù, một số dân chơi rục rịch
kiếm Y ngỏ ý sẵn lòng hiệp sức để luộc Sơn Đảo.
Lần nào, với ai, Y Càlết cũng tìm cớ thoái thác:
-
Chỉ là chuyện hiểu lầm, nhỏ thôi mà. Bỏ đi, ảnh là
đàn anh, tao chơi ảnh làm sao được?
Để
Sơn Đảo khỏi nghi ngờ, Y Càlết ngoài mặt tỏ ra nhẫn
nhục chịu đựng nhưng bên trong, y lại ngầm sai tên em
ruột có cái tên khá ngộ nghĩnh là Xã Xệ (tên thật là
Phạm Bá Tiến), một tên giang hồ khá đẹp trai mới 17
tuổi điều tra đường đi nước bước, thói quen giờ
giấc của Sơn Đảo để trả thù. Mang nhục mà không
rửa, đố còn có thể ngẩng mặt lên nổi trên chốn
giang hồ, Y Càlết chẳng bao giờ quên điều đó.
Trận
trả thù diễn ra vào đầu năm 1975. 11 giờ đêm, Sơn Đảo
và gã đàn em tên là Ba Tiến cùng một đám sĩ quan dù
rời vũ trường Crystal trong trạng thái chếnh choáng. Vừa
trèo lên chiếc môtô 125 phân khối định lao theo đám sĩ
quan dù đã phóng đi trên mấy chiếc xe Jeep, Sơn Đảo
phát hiện ra cả hai bánh xe đều xẹp lép. Cắm cảu, y
lệnh cho Ba Tiến - tên đàn em đi chung làm gạc-đờ-co -
dắt xe ra dưới ánh đèn cao áp xem thử. Đúng lúc đó,
một Honda 67 do Tiến Mụn cầm lái chở Xã Xệ trờ
tới. Vừa áp sát, khẩu Colt 45 trong tay Xã Xệ đã xả
nguyên băng đạn vào lưng Sơn Đảo hất y úp mặt xuống
đường. Chiếc Honda 67 phóng vút đi. Ba Tiến chưa kịp
phản ứng đã vội đứng im. Từ yên sau một chiếc xe
Honda 67 khác vừa phóng đến, Y Càlết tay súng lăm lăm
nhảy xuống, vừa khống chế Ba Tiến vừa kiểm tra kết
quả cuộc hành quyết. Khi tin chắc mạng sống của Sơn
Đảo - tên giang hồ cộm cán nhất thời ấy - đã chấm
dứt vĩnh viễn, Y mới trèo lên xe do tên Chánh cầm lái
phóng vụt đi.
Sau
đó, một đám tang rình rang, kinh dị, sặc mùi xã hội
đen đã diễn ra. Hàng chục xe Jeep chở đầy lính dù với
súng tuốt lê trần đã hộ tống xe chở quan tài Sơn Đảo
chạy lòng vòng khắp khu trung tâm Sài Gòn. Khi chạy đến
khu vực Xóm Đạo của anh em Y Càlết, bọn lính dù chĩa
súng lên trời bắn rền hàng chục loạt, thề sẽ lấy
máu Y Càlết, Xã Xệ... để trả thù.
Nhưng
chúng chưa kịp tìm ra được tung tích anh em Y Càlết,
miền Nam đã hoàn toàn giải phóng. Những cuộc tranh giành
đẫm máu và thời kỳ tác oai tác quái của giới tội
phạm đã bị chính quyền cách mạng chặn đứng.
3.
Nghiệp chướng của một ông trùm
Quay
lại với nhân vật Lâm Chín ngón.
Sau
1975, với những tội lỗi đã gây ra, Lâm Chín ngón đã
phải sống một thời gian dài trong nhà tù của chế độ
mới, chuyển qua nhiều trại giam từ Chí Hòa, đi Côn Đảo,
về trại cải tạo Cà Mau (1977), sang Trại Z30D Hàm Tân,
Bình Thuận (1982), lại chuyển qua trại Phú Sơn, Phú
Khánh. Năm 1988, sau hơn 20 năm trả giá trong tù tội, Lâm
được trả tự do, trở về thành phố Hồ Chí Minh, làm
đủ nghề để kiếm sống. Năm 1993, Lâm cưới vợ và
sinh con. Cùng với vợ, Lâm mở một quán thịt chó bình
dân ở số 297, đường 3-2, quận 10, lo chí thú làm ăn,
mong muốn đoạn tuyệt hẳn với giới giang hồ.
Nhưng,
nghiệp chướng đã trót đeo đẳng chưa chịu buông tha
cho Lâm rửa tay gác kiếm, an phận với cuộc hoàn lương.
Một ngày cuối năm 1994, có 3 tên giang hồ mới nổi là
Trúc lùn, Khải nheo, Tùng nhĩ vào quán thịt chó của Lâm
ăn nhậu. Cả ba đều hành nghề bốc vác tại bãi xe Kỳ
Hòa cạnh quán nên Lâm biết tên biết mặt. Rượu vào,
lời ra, Trúc lùn đã kể lại cho Lâm nghe một “hợp
đồng giang hồ” mà chúng vừa thực hiện.
Vợ
chồng Minh Samasa - Phụng trắng ở Vũng Tàu muốn độc
quyền bảo kê các cảng cá Vũng Tàu, Long Hải và Phước
Tĩnh để thu lời. Chúng đã nhờ vợ chồng Đức Năm
Nghệ - Sương L’Amour, trùm “sát thủ” khu vực cầu
Tân Thuận, thành phố Hồ Chí Minh giúp sức để đuổi
các đối thủ cạnh tranh khác trong giang hồ ở các cảng
này đi với giá hàng chục triệu đồng. Nhận lời, Đức
Năm Nghệ - Sương L’Amour đã điều khoảng 50 tên đàn
em, trong đó có Trúc lùn, Khải nheo, Tùng nhĩ, vác mã tấu
xuống Vũng Tàu, tràn vào địa bàn của các tên Phước
Đầu lâu, Hải lộ. Sau trận hỗn chiến, chúng bắt được
tên Thiềng, một đàn em trong băng của đối phương, chặt
đứt ngón tay của tên này gói vào khăn tay đem về nộp
cho vợ chồng Minh Samasa. Giữ lời, Minh Samasa đã thanh
toán “hợp đồng” đầy đủ. Có tiền, đêm đó Trúc
lùn và một số tên ở lại Vũng Tàu phá phách. Bị cản
không cho dắt gái vào phòng, chúng đã bao vây đánh bảo
vệ khách sạn, bị công an tạm giam và tịch thu xe máy...
Nghe
chuyện, Lâm Chín ngón thở dài khuyên đám tiểu yêu hãy
từ bỏ con đường tội lỗi, nhưng lại nhận lời xuống
Vũng Tàu đòi Minh Samasa phải tìm cách lấy lại xe máy
cho đám đàn em.
Ngày
26 Tết năm 1994, Lâm cùng ba tên xuống Vũng Tàu. Là một
giang hồ mới nổi, biết khách là một giang hồ cộm cán,
một đàn anh có máu mặt, Minh Samasa đã tiếp đón Lâm
Chín ngón khá niềm nở. Minh hứa:
-
Nếu không xin lại được xe, tôi sẽ mua xe mới trả cho
anh em. Anh Lâm đã có lời, tôi đâu dám không làm.
Tiếp
đó, Minh Samasa, Dũng Ba lém đã tổ chức nhiều chuyến ăn
chơi, du hí mời mọc đãi đằng đồng thời “mời anh
Lâm xuống Vũng Tàu hợp tác làm ăn”.
Thấy
nguồn lợi quá lớn, đám Dũng Ba lém, Minh Samasa tên nào
cũng giàu sụ, lại quá tha thiết trọng vọng mình, Lâm
Chín ngón đồng ý. Ở Vũng Tàu, sự có mặt của Lâm
Chín ngón đã khiến các băng nhóm lưu manh khác khiếp
vía, dạt ra hết, tạo điều kiện cho Minh Samasa và Dũng
Ba lém tha hồ độc chiếm cảng cá, tha hồ nâng hạ giá,
bán mua tùy ý để làm giàu. Đổi lại, Lâm Chín ngón chỉ
việc chường mặt ra cảng cá nhưng không phải mó tay vào
bất cứ việc gì, mọi chi phí ăn uống chơi bời đều
được “bao cấp”, kèm số lương 5 triệu đồng một
tháng. Minh Samasa, Dũng Ba lém còn sắm cả xe máy cho Lâm
để “đàn anh tiện đi lại làm việc”.
Thấy
đất Vũng Tàu làm giàu quá dễ, Lâm Chín ngón nảy ra ý
đồ làm ăn riêng, quyết không để đám tài phiệt cảng
cá “lợi dụng tên tuổi mình mãi”. Tháng 4-1995, trong
một buổi nhậu tại nhà hàng Thùy Dương (Vũng Tàu), Lâm
tuyên bố dự định “ra riêng” với đồng bọn. Nếu ý
đồ của Lâm được thực hiện, đám Minh Samasa, Dũng Ba
lém xem như sẽ tự rước phải một đối thủ giang hồ
quá mạnh. Chúng tức tốc gọi vợ chồng Đức Năm Nghệ
- Sương L’Amour xuống Vũng Tàu, gây áp lực để đuổi
Lâm Chín ngón.
Tuy
“có số có má” nhưng cô thân cô thế, Lâm Chín ngón
không đương đầu nổi với liên minh giang hồ - tài phiệt
giữa Đức Năm Nghệ - Sương L’Amour với Dũng Ba lém,
Minh Samasa. Sau vài tháng “chiến tranh”, Lâm Chín ngón
đành ngậm ngùi chạy trối chết khỏi Vũng Tàu để giữ
mạng sống và “giữ tiếng trên giang hồ”.
Hai
năm sau, Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ra quân xóa
sổ nạn bảo kê lộng hành trên các cảng cá. Minh Samasa
và nhiều tên trong đám tài phiệt cùng nhau vào tù trả
giá cho những tội lỗi mà chúng đã gây ra. ở ngoài,
thấy địch thủ đã yếu hẳn, Lâm Chín ngón lại rắp
ranh quay lại độc chiếm cảng cá Vũng Tàu.
Nhưng,
vợ chồng Đức Năm Nghệ, Sương L’Amout vẫn chưa bị
pháp luật sờ gáy. Được đám tài phiệt cảng cá đánh
động và cầu cứu, Đức Năm Nghệ bắn tin:
-
Nếu Lâm Chín ngón mò xuống Vũng Tàu, mạng sống của y
và gia đình sẽ không được bảo đảm!
Thấy
trước không chơi lại “đám dữ” mới “sủi tăm”
nhưng đầy hung hãn và không hề biết nể nang, Lâm Chín
ngón đành tạm bằng lòng với vị trí ông chủ quán thịt
chó. Lâm không hề hé môi với bất kỳ ai về chuyện còn
định quay lại nắm cảng cá hay không.
Mọi
chuyện tưởng chừng đã yên, bất ngờ tai vạ bỗng chụp
lên đầu Lâm Chín ngón. Khoảng 8 giờ tối ngày 14.7.1999,
Lâm chở vợ và đứa con trai 6 tuổi đi ăn tối tại quán
Lồi ở cư xá Bắc Hải, quận 10. Khi anh ta vừa dựng xe
cho vợ con bước xuống thì bất ngờ, một tên thanh niên
không rõ mặt nhảy xổ ra tạt thẳng vào mặt Lâm một
ca đầy acid sunfuric đậm đặc sau đó vứt chiếc ca nhựa,
tót ngay lên yên sau một xe máy chờ sẵn bên kia đường
chạy mất. Hét lên một tiếng, Lâm ngã xuống mặt đường
quằn quại.
Trận
đòn thù không rõ lai lịch quá hiểm ác. Tay giang hồ một
thời tác oai tác quái bị cháy và biến dạng toàn bộ
khuôn mặt, hai tai rụng, mũi rụng, cằm chảy ra dính chặt
vào ngực. Hai mí mắt cũng chảy ra dính vào nhau, bịt kín
con mắt. Sau nhiều tháng chạy chữa với nhiều lần phẫu
thuật, lột toàn bộ da mông, da đùi đắp lên mặt, Lâm
Chín ngón mới tạm hồi phục nhưng khuôn mặt vẫn bị
biến dạng khủng khiếp. Hai mắt Lâm gần như lòa hẳn.
Nhiều lần phẫu thuật, các bác sĩ bệnh viện Chợ Rẫy
mới tạm mở được cho Lâm hai hốc mắt nhỏ xíu. Mỗi
lần lấy ngón tay ấn lên từ hai hố mắt đã lòa, những
giọt nước đục như nước gạo lại ứa ra.
Dù
vậy, Lâm Chín ngón vẫn không cho vợ con, gia đình thưa,
báo công an. Chúng tôi đã nhiền lần gặng hỏi, Lâm Chín
ngón vẫn lắc đầu quầy quậy, không hé một lời về
việc ai đã xuống tay hạ gục mình, cũng một mực không
cho biết anh ta có nghi hay không nghi ai là thủ phạm, dù
theo suy đoán của chúng tôi, có vẻ như Lâm biết rất rõ
kẻ đã ra lệnh xuống tay. Trước sau, Lâm chỉ một mực
cho rằng, tai vạ hôm nay chính là nghiệp chướng mà anh
ta đã vay thì phải trả. Thậm chí, anh ta cho rằng kẻ
hại mình còn “nhân đạo”, không hề đụng đến vợ
con Lâm, để cho họ rời khỏi xe một khoảng rồi mới
ra tay nên chỉ mỗi một mình Lâm bị hại.
Thật
ra, Lâm Chín ngón biết rất rõ ai là kẻ đã tổ chức
tạt acid hủy hoại anh ta nhưng vì lo sợ và vì thiếu
chứng cớ nên Lâm không dám đứng ra tố cáo, chỉ cắn
răng chịu đựng. Ngày 12.12.2001, Năm Cam bị tóm cổ. Hai
ngày sau, khi thông tin về vụ bắt giữ Năm Cam đã được
khẳng định rộng rãi trên báo chí, Lâm Chín ngón đã
lập tức tìm đến cơ quan công an và một số tờ báo để
tố cáo: chính Năm Cam là kẻ chủ mưu vụ tạt acid. Đến
lúc đó, toàn bộ sự thật mới được phơi bày.
Năm
1988, Lâm Chín ngón được trả tự do sau hơn 20 năm bị
trói buộc trong vòng lao lý. Biết Lâm là kẻ nhiều lần
vào tù ra tội, chiến tích, uy tín giang hồ khá lẫy lừng,
Năm Cam đã tìm tới tận nhà thăm hỏi, cho tiền, mục
đích là để lấy lòng và dựa dẫm, lợi dụng uy thế
của Lâm để dằn mặt các băng nhóm, đồng thời để
tránh rước thêm một địch thủ thuộc loại dữ dằn.
Tiếp
đó, Lâm lấy vợ, sinh con, cuộc sống không mấy dư dả.
Để mua chuộc Lâm, Năm Cam đã ra lệnh cho Mười Đen, một
tay dưới trướng hiện đang có một cửa hàng điện tử
trên đường Huỳnh Thúc Kháng, quận 1, phải nhường cho
Lâm một phần hùn trị giá hai lượng vàng tại cửa hàng
này. Gọi là hùn, kỳ thực Lâm Chín ngón không phải góp
vốn lấy một xu, nhưng hàng tháng Mười đen vẫn phải
chia lời cho Lâm đúng theo tỉ lệ của người có hai
lượng vàng góp vốn. Trên danh nghĩa, Năm Cam là người
chịu trách nhiệm góp vốn cho phần hùn này để giúp
Lâm. Nhưng, với “anh Năm” thì “bố bảo” Mười đen
cũng không dám từ chối hay đòi hỏi phần góp.
Được
vài tháng, Lâm Chín ngón nảy máu tham, không xì tiền ra
nhưng vẫn đòi hỏi Mười đen phải... nâng tỉ lệ phần
hùn cho anh ta. Đòi hỏi quá quắt của Lâm Chín ngón đã
khiến mâu thuẫn nảy sinh. Năm Cam phải đứng ra can
thiệp, bắt Mười đen phải... trả lại cho Lâm Chín ngón
hai lượng vàng đã “góp vốn”. Cầm số vàng này, Lâm
Chín ngón về quận 10 mua bán thuốc Tây, kỳ thực là bảo
kê khu chợ tân dược đường Lý Thường Kiệt.
Trong
khi đó, Năm Cam lại tiếp tục hùn vốn với Muời đen,
Tư râu và Chín Cam - một cán bộ thoái hóa, biến chất -
thuê mặt bằng tại số 49 Huỳnh Thúc Kháng, mở lại một
cửa hàng điện tử khác. Cửa hàng này làm ăn khá phát
đạt, lại khiến máu sân si của Lâm Chín ngón nổi lên.
Lâm lại mò đến, bảo Mười đen:
-
Tao muốn hùn vốn vô tiệm này, mày tính sao thì tính!
Không
cam chịu thiệt hai lần, Mười đen nổi đóa:
-
Anh đừng quá quắt. Chỗ tôi làm ăn, đâu phải cái chợ
đâu mà hễ anh nói vô là vô, ra thì ra?
Bị
từ chối, Lâm Chín ngón nổi khùng đập vỡ bảng hiệu
của Mười đen. Điên tiết, Nghĩa, con trai Mười đen vác
dao xông ra, định ăn thua đủ với “thằng già bố láo”.
Nghe tin, Năm Cam vội vã lao tới dàn hoà, tránh xảy ra một
cuộc đối đầu toé lửa với tay anh chị hết thời
nhưng còn số má.
Sự
xuất hiện của Năm Cam đã lên dây cót tinh thần cho Mười
đen. Tay này không kiêng dè gì nữa, chỉ mặt Lâm Chín
ngón cảnh cáo:
-
Tiệm này là của anh Năm, muốn hùn hạp gì thì anh cứ
nói với ảnh. Anh Năm đồng ý thì cho anh hùn, không đồng
ý thì anh biến, đừng đến đây gây sự nữa.
Bị
từ chối và dằn mặt, Lâm Chín ngón nổi điên. Nhưng
nhắm đánh nhau với cả đám không lại. Lâm chỉ còn
nước réo Năm Cam chửi đổng cho bõ ghét:
-
Năm Cam là cái chó gì. Nó là thằng cờ bạc, tù tội,
oai đếch gì mà tụi mày tôn sùng, dựa hơi. Coi chừng,
cà chớn thì có ngày tao đập tiệm, Năm, Bảy gì có ngon
ra mà chơi.
Bị
xúc phạm, nhưng là con cáo già, Năm Cam không phản ứng
lại nửa câu, chỉ găm mối hận Lâm Chín ngón lại trong
lòng.
Nghề
bảo kê, buôn bán thuốc Tây ở chợ Trời quận 10 bùng
phát được ít lâu thì xẹp, Lâm Chín ngón nghe lời rủ
rê, mời mọc của đám Minh Samasa - Dũng Ba lém xuống Vũng
Tàu bảo kê các cảng cá. Trong số các đầu nậu bị Lâm
Chín ngón, Minh Samasa dằn mặt tranh mua ép bán có Ba Thế,
tức Nguyễn Hữu Thế Trạch, chủ vựa cá chợ Cầu Ông
Lãnh, quận 1, xuất thân là một kiện tướng bơi lội.
Trạch chuyên mua cá từ nguồn của các tàu Kiên Giang.
Dưới áp lực của đám xã hội đen do Lâm Chín ngón chỉ
huy, Trạch liên tục phải đóng “hụi chết”, mỗi
chuyến tàu phải mất năm đến bay triệu, thậm chí ba
mươi triệu mới đưa được xe đông lạnh ra khỏi cảng.
Đã vậy, lắm lúc Lâm Chín ngón, theo yêu cầu của Dũng
Ba lém, Minh Samasa còn tự ý nâng giá mua, khiến nhiều
chuyến Trạch thiệt hại nặng, có khi tới hai, ba
ngàn đồng một kilôgam cá. Để thoát khỏi tình trạng
này, Trạch đã bàn bạc với mẹ vợ là bà Nguyễn Thị
Mai tìm cách thương lượng với Lâm Chín ngón để điều
đình. Biết Lâm Chín ngón có nhà ở quận 10, là một
giang hồ thứ dữ của đất Sài Gòn, mẹ con Nguyễn Hữu
Thế Trạch đã đem lễ đến nhờ Năm Cam nói chuyện với
Lâm Chín ngón giúp và được “ông trùm” nể mặt nhận
lời.
“Tiên
lễ hậu binh”, một mặt kích động, chia rẽ Lâm Chín
ngón với đám Minh Samasa - Dũng Ba lém, lại xúi giục vợ
chồng sát thủ Đức Năm Nghệ - Sương L’Amour xuống
Vũng Tàu gây sự với Lâm Chín ngón, mặt khác Năm Cam lại
xách rượu tìm đến nhà Lâm Chín ngón tại quận 10 để
nói chuyện thiệt hơn. Vào nhà, Năm Cam bảo Lâm Chín
ngón:
-
Nguồn cá của thằng Ba Thế là nguồn cung cấp cho
vựa Cầu Ông Lãnh. Ở đó, anh em giang hồ đông lắm. Anh
ép thằng Trạch tức là đá bể nồi cơm của anh em, lỡ
lớn chuyện ra thì phiền lắm đó.
Cả
hai đều xuất thân từ khu Cầu Ông Lãnh (Chợ Cầu Muối),
Lâm Chín ngón là đàn em cật ruột của Đại Cathay, xếp
sòng từ thuở xa xưa của nguyên khu chợ vựa, trong khi
Năm Cam là em rể Bảy Si, ông trùm sòng bạc khu Da Heo,
từng hùn hạp nhận Đại Cathay làm bảo kê, cho nên Lâm
Chín ngón biết Năm Cam nói thật. Một mình đối đầu
với toàn bộ giang hồ chợ Cầu Muối là điều hoàn toàn
dại dột không nên. Dù không ưa Năm Cam, nhưng thấy “ông
trùm” đã nhún mình xuống nước tìm đến tận nhà nên
Lâm Chín ngón cũng tỏ ra nể mặt. Lâm nói với Năm Cam:
-
Thôi được, chuyện đó Năm để tôi bàn với chú Trạch
sau.
Một tuần sau
cuộc nói chuyện này, một cuộc nhậu tưng bừng đã được
tổ chức tại nhà hàng Thùy Dương ở Vũng Tàu. Chủ tiệc
là Nguyễn Hữu Thế Trạch và bà Mai, người mời là Lâm
Chín Ngón, trong khi khách là đầy đủ bộ sậu giang hồ
của thành phố cảng, có thêm cả cặp vợ chồng sát thủ
Đức Năm Nghệ - Sương L’Amour từ thành phố Hồ Chí
Minh xuống. Vào tiệc, Lâm Chín ngón chuyển lại cho giang
hồ đất cảng nguyên văn lời cảnh báo của Năm Cam:
-
Cá của Ba Thế là nguồn cung cấp cho chợ Cầu Muối. Ở
đó có nhiều giang hồ sống lắm...
Dĩ
nhiên đã là yêu cầu của Năm Cam thì đám giang hồ Vũng
Tàu không thể làm ngơ. Chúng chấp nhận buông tha, giải
phóng nguồn hàng cho Nguyễn Hữu Thế Trạch.
Chỉ
sau đó vài tháng, thân cô thế lụi, Lâm Chín ngón đã bị
đám giang hồ mới đánh bật khỏi Vũng Tàu khi có ý định
tách khỏi Minh Samasa - Dũng Ba lém để ra riêng. Chạy trối
chết vì chơi không lại, Lâm Chín ngón lại đâm ra hậm
hực, nghi có bàn tay Năm Cam thò vào trong chuyện Lâm bị
truất ngôi. Về thành phố Hồ Chí Minh, đi đâu Lâm cũng
rêu rao thoá mạ, công khai chửi bới, coi thường uy thế
của Năm Cam.
Có
lần, vào năm 1998, Lâm chủ động mời Năm Cam đến một
nhà hàng trên đường Trần Hưng Đạo, quận 5. Khi thấy
Năm Cam bước vào, những tên thuộc hàng đàn em của Lâm
Chín ngón đang ngồi trong bàn đều nhất loạt đứng lên
chào và cầm ly đến gặp “anh Năm” mời mọc, quên
khuấy mất “chủ nhân ông” của cuộc ăn nhậu là Lâm
Chín Ngón. Không nhịn được, Lâm Chín ngón gầm lên:
-
Thằng Năm Cam là cái đếch gì mà tụi bay phải bợ đỡ.
Tao coi nó là cái đinh. Đ.M, thằng nào quị luỵ Năm Cam
thì đừng coi tao là đàn anh nữa!
Vô
cớ bị Lâm Chín ngón chửi bới, hạ nhục, mặt Năm Cam
tái dại đi. Nhưng, cái đầu cáo già vẫn lạnh, Năm Cam
đứng lên:
-
Anh Lâm say rồi! Tôi cũng hơi mệt, thôi anh em ngồi
chơi, tôi về trước.
Nói
xong Năm Cam bỏ về ngay. Máu yêng hùng lấp mất trí khôn,
Lâm Chín ngón không hề biết rằng bằng những lời nhục
mạ Năm Cam, anh ta đã tự biến mình thành cái gai cần
nhổ trong mắt tay gá bạc ốm yếu ho hen nhưng đầy quyền
lực, máu lạnh và đầy nham hiểm.
Ngoài
mặt vẫn thơn thớt nói cười, nhưng trong bụng, Năm Cam
đã bầm gan tím ruột, bắt đầu tìm kế trừng trị Lâm
Chín ngón.
Thế
nhưng, làm được điều đó không dễ. Lâu la dưới
trướng, Năm Cam không thiếu. Đám Cu Nhứt, Bình Kiểm,
Nghĩa Mười đen... đều thuộc loại dữ dằn và sẵn
sàng “phục vụ anh Năm”. Lâm Chín ngón tuy to khoẻ
nhưng dù sao cũng chỉ là “hổ dữ về già”, chơi tay
đôi chưa chắc những thằng sát thủ mới nổi phải
kiêng dè. Ngặt một nỗi, Lâm Chín ngón dù sao cũng
đã có thời lừng lẫy, thuộc hàng đàn anh có số, đám
sát thủ mới nổi ít nhiều cũng nể mặt, chưa chắc đã
chịu động thủ. Bề hội đồng, trải đệm cũng không
ăn thua, vì nếu có diệt được một Lâm Chín ngón, Năm
Cam cũng mang tiếng đắc thời hiếp kẻ thất thời, không
khéo lại chọc giận hàng loạt “sói già” khác để
chúng quay lại “bề hội đồng” thì khó ăn khó nói và
cũng khó đỡ.
Suy
đi tính lại, Năm Cam quyết định chơi trò “ném đá
giấu tay”. Kẻ được ủy thác thực hiện là Vũ Hoàng
Dung, tức Dung “Hà”, quái nữ đất cảng Hải Phòng. ít
nhiều, Dung Hà cũng đã nhiều lần được Năm Cam cưu
mang, giúp đỡ tiền bạc trong những ngày hàn vi, vừa ra
tù, công ty cờ bạc Kiến An (Hải Phòng) đã vỡ, thằng
bồ Hùng cốm đã bị bắn và đàn anh, đàn em thì tan tác
mỗi đứa một phương. Sử dụng Dung Hà, Năm Cam đắc
lợi nhiều mặt. Thứ nhất, giang hồ Bắc là những sát
thủ máu lạnh, dám chơi tới cùng và sẵn sàng xài “hàng
nóng” (súng). Về mặt này, Dung Hà vốn đã khét tiếng.
Trước khi vào tù, chính y thị là kẻ đứng ra tổ chức
một cuộc tấn công qui mô, kéo rốc hàng chục sát thủ
từ Hải Phòng đổ bộ lên Hà Nội chém tơi tả một
loạt đàn em của cả Phúc Bồ lẫn Khánh Trắng, đúng
vào giai đoạn cực thịnh của hai trùm này. Thứ hai, vì
là giang hồ Bắc nên Dung Hà cóc thèm biết đến tiếng
tăm của Lâm Chín ngón, bảo chơi là chơi sát ván. Lỡ có
đổ bể, đàn em của y thị sẵn sàng cao chạy xa bay, Lâm
Chín ngón khó mà lần ra manh mối để trả thù.
Tính
toán đâu vào đó xong xuôi, ngày 11.7.1999, Năm Cam cho gọi
Dung Hà đến nhà riêng. Nghe Năm Cam gọi, Dung Hà đã sai
một tên đàn em là Quân “béo”, tức Nguyễn Duy Quân
chở mình đến ngay. Tại nhà riêng số 107/38 Trương Định,
quận 3, Năm Cam kể cho Dung Hà nghe chi tiết toàn bộ những
mâu thuẫn giữa ông trùm với Lâm Chín ngón và đưa ra đề
nghị:
-
Cô xỉa cho nó vài dao, làm sao cho nó thân bại danh liệt
không ngồi dậy nổi nữa.
Dung
Hà cười lạt:
-
Muốn dằn mặt, cần gì làm vậy. Để em cho nó một ca
acid, khủng khiếp hơn nhiều. Mình diệt một thằng nhưng
cả trăm đứa khác phải ớn, đó mới là thượng sách.
Năm
Cam đồng ý. Y gọi ngay đứa cháu là Nguyễn Văn Thọ
(Thọ Đại úy) đến, bắt Thọ đi mua acid về cho Dung Hà
thử và đưa đường cho Quân béo, Dung Hà lên quận 10 để
nhận mặt Lâm Chín ngón. Lần thứ nhất, acid Thọ mua về
bị nữ quái chê loãng. Thọ lại phải chạy thêm lần
nữa, đem về một can acid đậm đặc, Dung Hà mới đồng
ý, sai Quân béo đem về nhà ở đường Bùi Thị Xuân cất.
Ba
ngày sau, đêm 14.7.1999, Lâm Chín ngón vĩnh viễn trở thành
người tàn phế.
Hơn
một năm sau, 0 giờ 25 phút ngày 2.10.2000, đến lượt Dung
Hà bị bắn chết trong khi thủ phạm vụ tạt acid Lâm
Chín ngón vẫn chưa bị phát giác.
Không
ai khác, bật đèn xanh hạ thủ Vũ Hoàng Dung lại vẫn
chính là Năm Cam. Trò ném đá giấu tay, Năm Cam thực hiện
khá hoàn hảo. Tất cả chỉ bị phanh phui vào hơn một
năm sau nữa, khi Năm Cam và hàng chục con, cháu, rể, đàn
em lần lượt dắt nhau vào trại giam.
Sau
tai nạn, Lâm Chín ngón trở thành một con người khác
hẳn: không nói, không cười, suốt nhiều năm qua chỉ ở
lì trong một căn nhà nhỏ mà ngoài vợ con, Lâm không hề
cho ai biết địa chỉ (trừ tôi - người viết bài này).
Khi chúng tôi đến thăm, anh ta chỉ một mực bảo rằng,
cuộc đời Lâm Chín ngón coi như đã hết, chỉ “nhờ ơn
trên phù hộ cho vợ con được lành lặn và yên ổn”.
Kể từ nay, Lâm Chín ngón không còn tồn tại nữa, đúng
hơn, trên giang hồ không còn hiện hữu cái tên Lâm Chín
ngón. Lâm không hề có ý định sẽ trả thù theo kiểu ân
oán giang hồ.
Tôi
biết, lần này Lâm Chín ngón nói thật, bởi có muốn
khác đi, anh ta cũng không còn đủ sức. Con đường giang
hồ là thế, một con đường trải đầy tội ác, bước
vào thì dễ nhưng không hề có đường ra. Tiếc thay, Lâm
Chín ngón chỉ nhận ra điều đó khi đã quá muộn, đã
trở thành một kẻ tàn phế mù lòa. Trong khi đó, hiện
vẫn còn không ít kẻ - đặc biệt là trong giới thanh
thiếu niên vẫn đang tấp tểnh làm dân chơi, đang lăm le
nhảy vào cuộc sống giang hồ đầy tội ác. Với bài
viết này, chúng tôi muốn vẽ lại bộ mặt thật ghê tởm
của thế giới tàn bạo và đầy tội ác đó, một thế
giới đang có nguy cơ phình ra theo sự mọc lên như nấm
của quán bar, vũ trường, rượu, gái và ma túy. Hy vọng
những kẻ đang rắp ranh ấy, khi đọc bài viết này sẽ
tự rút được cho mình bài học quí, để tránh xa con
đường từ dân chơi đến giang hồ, con đường đầy tội
ác cần phải ngăn chặn và loại trừ.
6.
HÙNG XÁM MIỀN TRUNG
Sau
Đại Cathay, Tín Mã Nàm, cùng thời với những Sơn Đảo,
Lâm Chín ngón, Điền Khắc Kim... ở Sài Gòn, mảnh
đất miền Trung và Cao Nguyên cũng xuất hiện một loạt
tên tuổi đen trong làng dao búa. Nổi bật trong số đó là
tên cướp Năm Vĩnh, kẻ được giới giang hồ mệnh danh
là “hùm xám miền Trung”. Với những người lương
thiện đang sống một cuộc sống an bình, cái danh xưng mỹ
miều ấy vô nghĩa và vô cảm. Nhưng, đối với người
dân lao động nhiều địa phương khoảng những năm đầu
thập niên 70, danh xưng ấy đích thị là một nỗi ám ảnh
kinh hoàng. Với “xã hội đen”, Năm Vĩnh còn nổi tiếng
ở một khía cạnh khác: Hắn chính là kẻ tạo tiền lệ
cho vòng xoay tội lỗi sau này sẽ thành một phong trào:
đăng lính để trốn tù tội, sau đó trốn lính để làm
du đãng, đồng thời sử dụng uy lực của “quân đội
Việt Nam Cộng hòa” để tác oai tác quái và ăn cướp.
Bằng cách đó, Năm Vĩnh và những tên giang hồ mặc áo
lính đã biến sư đoàn 23 ngụy thành “sư đoàn du đãng”,
Vùng II chiến thuật thành “vùng của giang hồ”.
Không
giống như những tên du đãng cộm cán khác thường xuất
thân đá cá lăn dưa, trường học đầu đời là lề phố
hoặc cô nhi viện, Năm Vĩnh có một tuổi thơ khá êm
đềm. Vĩnh sinh năm 1947 tại Quảng Ngãi, đựơc ăn học
đến nơi đến chốn, từng mài đũng quần trên ghế
trường Trung học Bồ Đề, Quảng Ngãi - một ngôi trường
nổi tiếng, đào tạo không ít nhân tài cho rẻo đất
miền Trung.
Học
không tệ nhưng tính tình hiếu động, có phần hung bạo,
tên học trò cà chớn này đã không ngần ngại bẻ vế
thứ nhất của câu cách ngôn “Tiên học lễ, hậu học
văn” thành “tiên học... võ”. Sống đúng như câu
cách ngôn của riêng mình, Vĩnh thường xuyên trốn
lớp để tìm thầy học võ. Vĩnh học qua rất nhiều lò.
ở lò nào, hắn cũng bị đuổi vì thường xuyên đòi
thách đấu với các sư huynh để phân chia cao thấp. Tuy
thế, đến 18 tuổi, trình độ võ thuật của tên học
trò Năm Vĩnh cũng đã khá thượng thừa. Để khẳng định
trình độ, thay vì thượng đài, Vĩnh chọn cách “dân
dã” hơn: gây sự đánh nhau, một mình đánh đôi, đánh
ba ngay trên đường phố, sân trường. Lần nào hắn cũng
toàn thắng, trong khi nạn nhân của hắn toàn là... bạn
học. Vì thế ông Dương Ngô Thống (thường gọi là ông
Dương), thầy giáo chủ nhiệm lớp hắn ở trường Bồ
Đề đã nổi giận táng cho Vĩnh một bạt tai và gọi
giám thị đuổi tên học trò bất trị ra khỏi lớp. Ông
giáo mô phạm tuyên bố:
-
Dạy dỗ anh chỉ tốn công, loại như anh sau này chỉ có
thể làm kẻ cướp!
Ngớ
người ra một lúc, Năm Vĩnh chợt cảm thấy ông thầy
mình nói... chí phải. Không muốn kéo dài sự lo lắng của
thầy và bạn, hắn bỏ học. Chẳng bao lâu, thị xã Quảng
Ngãi bé nhỏ lại có thêm một hung thần. Sự liều lĩnh,
hung bạo và đẳng cấp võ nghệ của Năm Vĩnh đã khiến
đám du thủ du thực tỉnh lẻ bạt vía, đành chắp tay
qui phục, suy tôn Vĩnh làm đại ca.
Cuối
những năm 1960, theo chân của 500.000 lính Mỹ, chiến tranh
tràn khắp, cả miền Nam là một bãi chiến trường. Sự
tuyệt vọng của tâm hồn người dân trong hỗn mang cuộc
chiến chính là mảnh đất màu mỡ cho các loại tư tưởng
triết học du nhập và bén rễ. Sinh viên học sinh
miền Nam bơi giữa vô số dòng chảy tư tưởng từ phương
Tây ồ ạt tuôn vào Việt Nam. Hiền lành như Kali Gibran,
Kan, hoài nghi, đập phá như Nietzsche, chán chường như
Camus, hiện sinh như J.Sartre... loại nào cũng có. Sinh viên,
học sinh, tầng lớp năng động nhưng tâm hồn sớm tổn
thương vì cuộc chiến nhất, dễ trở nên bi quan tuyệt
vọng, nhanh chóng vồ vập với chủ nghĩa hiện sinh và
suy tôn những F.Nietszche, J.Paul Sartre làm ông tổ tinh thần.
Hậu quả của nó là những kẻ đua đòi, thích ăn chơi
đập phá, “ghét Mỹ nhưng thích bắt chước Mỹ”, đã
chìm hẳn giữa dòng xoáy của phong trào hippie với tóc để
dài, ăn mặc chim cò, nốc rượu và nhảy disco giậm dựt.
Loại có học hơn mơ mòng biến mình thành người hùng
với trước tác của Sartre kè kè bên nách; một bộ phận
trong số họ - tích cực hơn - dù chưa thật sự ý thức
đầy đủ về chủ nghĩa cộng sản, về kháng chiến cũng
không ngần ngại xé áo thư sinh lên rừng, quyết sống
tận cùng theo chủ nghĩa dấn thân...
Không
mấy chuyên chú cùng sách vở, nhưng tâm hồn nổi loạn
của Năm Vĩnh cũng ít nhiều bị ảnh hưởng của học
thuyết hiện sinh và chủ nghĩa dấn thân. Ước mơ của
Năm Vĩnh là một sự pha trộn lệch lạc giữa sở thích
thụ hưởng, ăn chơi và hình ảnh người hùng đơn độc,
lấy nguyên mẫu từ hình ảnh gã sát thủ ba Tàu trong
“Thân phận con người” của André Malraux - cuốn sách
gần như duy nhất được Năm Vĩnh đọc trọn từ đầu
đến cuối. Rất nhanh, gã cảm thấy thị xã Quảng Ngãi
nhỏ bé luôn co rúm mình vì lo sợ bom pháo cả hai bên trở
nên ngột ngạt và tù túng không chịu nổi. Đầu năm
1970, Vĩnh quyết định dấn thân, hành phương Nam theo
tiếng gọi giang hồ.
Mảnh
đất đầu tiên tên “hắc đạo” trẻ tuổi chọn lựa
để lấy số lấy má là thị trấn Mỹ Ca nằm bên quốc
lộ 1, cạnh Quân cảng Cam Ranh - căn cứ quân sự khổng
lồ lúc nhúc lính Mỹ và các sắc lính đồng minh. ở đâu
có các chú lính mắt xanh mũi lõ, ở đó các loại tệ
nạn cứ tha hồ mọc như nấm. ở cây số 9 Mỹ Ca, văn
hóa lùi về thời tiền sử, nhường chỗ cho văn minh
hưởng thụ, sống gấp trước khi chết gấp, sặc mùi
lính tráng thời chiến. Với một cây dao chặt đá cây
lưỡi răng cưa lởm chởm nặng trịch, Năm Vĩnh nhanh
chóng đánh bạt bọn ma cô, đầu gấu xứ này, giành
quyền bảo kê thu thuế giựt các phòng trà, tiệm nhảy,
nhà thổ của toàn bộ khu vực phục vụ các sắc lính
trên toàn thị trấn. Tiền bạc bất lương thu vào như
nước biến Vĩnh thành “vua con” của vùng quân cảng.
Ngạo mạn và sa đà, Năm Vĩnh còn ngang nhiên chống lại
cả cảnh sát bài trừ du đãng, cuối cùng “lỡ tay”
chém chết một trung úy quân cảnh ngụy. Do đó, hắn bị
tầm nã ráo riết ngay khi tên tuổi mới lừng lên trên
chốn giang hồ.
Để
tránh rơi vào vòng lao lý với một cái án cầm chắc sẽ
rất nặng, Năm Vĩnh chọn cho mình giải pháp duy nhất:
đăng lính. Với kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, người
Mỹ bắt đầu rút dần quân đội về nước, để lại
cho quân đội Việt Nam Cộng hòa một lỗ hổng lớn, đầu
tiên là về mặt tinh thần. Sự tấn công mạnh mẽ của
quân giải phóng trên khắp các chiến trường đã khiến
cho quân số của ngụy quân, đang rệu rã tinh thần, hao
hụt liên tục. Để bù đắp, ngụy quân ráo riết bắt
lính. Bất cứ một thanh niên lành lặn tuổi từ 18 đến
37 nào cũng có thể nộp đơn xin vào quân ngũ ngay mà
không hề bị xét hỏi lôi thôi. Đặc biệt, đăng lính
vào khoảng từ ngày mồng 10 - 20 hàng tháng thì càng chắc
chắn được các nhân viên tuyển quân dịch gật đầu
ngay. Lý do đơn giản: 10 hoặc 20 ngày lương đầu
tháng của chú tân binh sẽ nghiêm nhiên chảy vào túi các
“thầy” tuyển quân dịch, đó là chưa kể thêm khoản
định mức 400đ/tân binh được quân đội cho hưởng,
thành thử việc thẩm tra, thẩm vấn dại gì phải làm
căng!
Lúc
này, quân chủ lực của vùng II chiến thuật ngụy
(gồm khu vực miền Trung và Tây Nguyên) là sư đoàn 23 bộ
binh với các đơn vị: Trung đoàn 44 đóng ở Sông Mao
(Bình Thuận), trung đoàn 53 ở Bảo Lộc và trung đoàn
45 đóng ở Buôn Ma Thuột. Trong số đó, Trung đoàn 44 là
đơn vị thiện chiến nhất, anh cả của sư 23. Nguyên
thủy, nó là sư đoàn Nùng khét tiếng tàn bạo và thiện
chiến đóng ở Quảng Ninh, thời còn thuộc quân đội
Liên hiệp Pháp, do Đại tá Voòng A Sáng chỉ huy. Những
tên lính Nùng này giỏi trận mạc bao nhiêu thì cũng rừng
rú, hoang dã và bất trị bất nhiêu. Ngoài chỉ huy trực
tiếp, những tên lính Nùng tuyệt đối không thần phục
và nghe lệnh bất kỳ ai khác. Thậm chí khi nổi nóng,
chúng (có thể) còn dám cắt tai cả Tổng thống! Lo sợ
đám kiêu binh làm loạn, Ngô Đình Diệm đã chia nhỏ quân
số Sư đoàn 5 (tên gọi của Sư đoàn Nùng thời Đệ
nhất Cộng hòa), lấy từng bộ phận của chúng để hình
thành nên các lực lượng mới như Lực lượng liên binh
phòng vệ phủ Tổng thống, Liên đoàn Biệt động quân,
Lữ đoàn dù... sau đó tuyển tân binh cho đủ quân số,
lập lại Sư đoàn 5, giao cho Nguyễn Văn Thiệu - đang mang
lon Đại tá - làm sư trưởng, đưa chúng lên tận Đà
Lạt trú quân để đề phòng hậu họa. Sau nhiều thăng
trầm dâu bể, một phần của Sư đoàn Nùng xưa kia lại
tiếp tục tuyển quân, trở thành Trung đoàn 44 thuộc
sư 23 bộ binh ngụy.
Năm
1970, dù là tên tội đồ đang bị truy nã, máu yêng hùng
của Năm Vĩnh vẫn chưa tan. Với tờ khai mang tên giả là
Nguyễn Văn Biên, quê ở Phú Yên, hắn quyết định chọn
trung đoàn 44 nổi tiếng “đầu gấu” để tòng
quân. Lúc này, Trung đoàn 44 đang thuộc quyền chỉ huy của
Trung tá Lầu Cắm Bảo tức Lưu Kim Bảo - một đệ tử
của Voòng A Sáng chỉ huy. Nhưng, chỉ chưa đầy một năm
sau, khi “Chiến dịch Lam Sơn 719” đánh Hạ Lào của
quân đội ngụy vừa mở màn thì gã người hùng đã tái
mặt... đào ngũ ngay.
Đối
với quân đội Việt Nam Cộng hòa, chiến dịch Lam Sơn
719 thật sự là một thảm kịch. Sau hai năm theo đuổi
chương trình Việt Nam hóa chiến tranh, quân đội Việt
Nam Cộng hòa cần có một chiến dịch qui mô để thử
nghiệm thực lực của mình. Dưới sự hối thúc của
người Mỹ, Nguyễn Văn Thiệu đã đồng ý tiến hành một
chiến dịch “tìm và diệt” tấn công vào Tchepone, một
tỉnh nằm ở Đông Lào. Mục đích của cuộc hành quân
qui mô này là tấn công vào các căn cứ tiếp tế của
miền Bắc trên đất Lào và tiêu diệt các đơn vị quân
đồn trú chủ lực, nhằm cắt đứt tuyến tiếp tế
đường mòn Hồ Chí Minh, ngăn chặn từ xa một cách triệt
để sự tiến quân về Nam của bộ đội miền Bắc. Kịch
bản chiến tranh và bản đồ chiến lệ do người Mỹ đưa
ra, nhưng Nguyễn Văn Thiệu - kẻ thực hiện, vẫn gắn
vào nó đầy những tham vọng. Thiệu muốn thông qua cuộc
hành quân, bà đỡ Mỹ sẽ thấy rằng quân đội Việt
Nam Cộng hòa đã thật sự trưởng thành, có thể đủ
sức giành thắng lợi trong những chiến dịch tấn công
qui mô, điều mà từ trước đến giờ hầu như vẫn do
các lực lượng quân đội Mỹ đảm nhiệm. Đó cũng là
nước cờ tuyệt nhất để Thiệu có thể bảo đảm phần
thắng cho mình trong cuộc chạy đua giành ghế tổng thống
sẽ diễn ra trong năm 1971.
Để
tìm kiếm một chiến thắng trọn vẹn, tháng 3.1971 Nguyễn
Văn Thiệu đã cắt 2 sư đoàn thiện chiến nhất gồm một
sư thủy quân lục chiến và một sư bộ binh giao cho tướng
Hoàng Xuân Lãm chỉ huy để ném vào canh bạc. Từ các căn
cứ tập kết tại Kon Tum, 25.000 binh sĩ ngụy đã được
trực thăng Mỹ chở sang Lào và bất ngờ ném xuống các
tọa độ đã định trước thuộc tỉnh Tchepone. Không may
cho Thiệu, chiến sự đã diễn ra hoàn toàn không giống
như kịch bản. Những đợt tấn công ồ ạt của quân
đội Việt Nam Cộng hòa đã vấp phải một sự chống
trả quyết liệt, dũng mãnh, được chuẩn bị chu đáo
của “Cộng sản Bắc Việt”. Chỉ sau 4 ngày giao tranh,
3.000 binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đã nhanh chóng bị loại
khỏi cuộc chiến. ảo vọng “tốc thắng” của các chú
lính Việt Nam Cộng hòa sụp đổ hoàn toàn khi lần đầu
tiên, những chiếc xe tăng T54 của bộ đội chủ lực
miền Bắc xuất hiện, áp đảo hoàn toàn tinh thần chiến
đấu của đối phương. Đòn phủ đầu trở thành thất
bại thảm hại đã khiến viên Tư lệnh chiến dịch Hoàng
Xuân Lãm không dám liều lĩnh, sợ bị sa lầy như một
Điện Biên Phủ thứ hai trên đất Tchepone, các đơn vị
tiền đồn trên đất Lào sẽ bị bao vây không thể chống
giữ, cũng không có khả năng tiếp viện kịp thời. Cay
đắng, Thiệu đành chấp nhận thay đổi chiến thuật,
như Lãm đề xuất, chỉ đánh Tchepone rồi rút ngay, không
đề cập tới chuyện giữ.
Thảm
kịch thật sự xảy ra ngay trên đường rút lui, con số
binh sĩ chết và thương vong tăng quá nhanh, nhanh đến mức
không đủ trực thăng để sơ tán họ về tuyến sau. Đã
thế, “sự quan liêu tai hại của Lầu Năm Góc” - như
lời chỉ trích của Thiệu sau đó - đã khiến cho sự chỉ
đạo và yểm trợ (bằng pháo binh và không quân) của Mỹ
diễn ra không đầy đủ. Hậu quả là một cuộc hành
quân đại bại đã chấm dứt sau 44 ngày, tước mất của
Thiệu hơn 8.000 lính, buộc số còn lại phải giày xéo
lên nhau mà chạy, mong toàn mạng thoát khỏi “tử địa”
Tchepone.
Thất
bại thảm hại của chiến dịch Lam Sơn 719 đã phá nát
phần nhuệ khí của cả quân đội Việt Nam Cộng hòa lẫn
máu yêng hùng của Năm Vĩnh. Những trận đụng độ đầu
tiên, nhìn thấy xác bạn đồng ngũ được trực thăng
bốc về tuyến sau nhiều la liệt, tên du đãng sợ mất
mật đành chọn giải pháp mang trên lưng thêm một lệnh
truy nã về tội đào ngũ nữa để mong được bảo toàn
mạng sống.
Sau
hai tháng trời sống chui rúc cạnh sân bay Nha Trang nhờ
vào sự bao bọc của đám ma cô, du đãng thành phố biển,
Năm Vĩnh nhận ra rằng không thể xưng hùng xưng bá bằng
con đường đơn thương độc mã, chỉ cậy vào võ nghệ
và sự liều lĩnh. Hắn cũng nhận ra rằng, khác với vùng
Mỹ Ca nhỏ bé, ở một thành phố đủ lớn, đủ ô hợp
như Nha Trang thì chẳng ma nào thèm chú ý đến mình, nghĩa
là khó bị luật pháp sờ gáy hơn. Yên tâm với những gì
vừa nhìn thấy, hắn lại tự khai tên là Nguyễn Văn Vĩnh
- một cái tên rất học giả - và chọn trung đoàn 53 để
quay lại làm lính. Tại quân trường Dục Mỹ (Ninh Hòa,
Khánh Hòa), Năm Vĩnh nhanh chóng kết giao với Năm Cao, trùm
mặt rô ở Nha Trang, cũng vào lính để trốn truy nã.
Không biết bàn bạc kiểu gì, nhưng 3 tháng quân trường
vừa hoàn tất, hai thằng Năm lại đào ngũ. Chỉ ít lâu
sau, du đãng Nha Trang đã có một “nội các tam đầu chế”
giữ vị trí ông trùm, thường được giang hồ gọi xách
qué là “băng ba năm mười lăm” gồm Năm Vĩnh, Năm Cao
và Năm Càri, đóng đại bản doanh tại một căn lầu ở
cư xá Sân Bay do Năm Cao mua tặng.
Sau
hơn một năm hùng cứ thành phố biển, tên tuổi nổi cộm
như những hung thần, băng “ba năm mười lăm” tan rã.
Đúng hồi đang ăn nên làm ra, băng “ba năm mười lăm”
đột nhiên có khách đến thăm: một thằng “ngó qua là
biết cô hồn”, tóc dài trùm gáy, người đen đúa, áo
thun đen phủ cẩu thả trên chiếc quần rằn ri nâu của
lính Biệt động quân. Gã xưng tên là Hiệp ruồi, tức
Hiệp Súng sáu, một tên anh chị đứng bến có cỡ của
bến xe An Đông (Chợ Lớn), nhưng lại giấu biệt cái quá
khứ bị “lốc ổ”, phải bỏ của chạy lấy người,
mò ra Nha Trang tìm đất sống.
Hôm
đó, Năm Vĩnh không có mặt, tại căn phòng ở cư xá sân
bay chỉ có Năm Cao và Năm Càri tiếp Hiệp ruồi. Chào
hỏi, xưng danh với nhau đúng lễ giang hồ, xong Năm Cao
mới hỏi Hiệp ruồi:
-
Bạn ghé thăm anh em chúng tôi chắc không phải để nói
dóc chơi. Có gì, bạn cứ nói thẳng.
Hiệp
ruồi không giấu giếm bản chất cô hồn:
-
Ai rảnh đâu mà khi không mò ra đây nói chuyện chơi. Là
tôi nghe anh em đang sống khỏe nên muốn tới hùn vốn làm
ăn. Có vậy thôi!
Câu
trả lời xấc xược của Hiệp ruồi khiến hai thằng Năm
bất giác chột dạ đưa mắt nhìn nhau. Sau vài phút im
lặng, Năm Càri đằng hắng:
-
Chỗ giang hồ, bạn đã có lời, tụi này đâu có chối.
Nhưng xin hỏi thẳng: bạn định góp vốn bằng gì?
-
Tiền không, vàng không - khách bắt đầu giở giọng chối
tai - thằng Hiệp này xưa nay chỉ có nắm đấm và con dao
coi như là vốn. Chịu nhận hùn hay không, anh em cứ nói
đại đi một tiếng, khỏi lằng nhằng!
-
Mày nói cái gì?
Hộc
lên một tiếng, Năm Càri nhổm người vọt dậy, định
lao ngay vào Hiệp ruồi. Nhưng Năm Cao khá nhanh tay, vội
chụp lấy vai hắn giật lại, khiến Năm Càri gần như bổ
chửng xuống ghế. Nếu là ở ngoài đường, chắc chắn
Năm Cao sẽ không cản đồng bọn mà sẽ làm ngay cái việc
là nhảy bổ vào Hiệp ruồi băm kẻ khiêu khích ra trăm
mảnh. Ngặt một nỗi đang ở ngay tại nhà, hắn không
dại gì “đem máu tưới vườn nhà”, vừa mất tiếng
giang hồ, vừa rước thêm rắc rối với cảnh sát. Chờ
một chút cho máu nóng trên mặt tan bớt, Năm Cao mới ngọt
nhạt:
-
Tứ hải giai huynh đệ, bạn đã định hùn, tụi này hết
sức hoan nghinh. Chuyện làm ăn tính sau đi, giờ anh em mình
nhậu cái chơi, coi như tiệc sơ giao vậy.
Thấy
địch thủ nhún mình, Hiệp ruồi không nghi ngờ gì cả,
gật đầu ngay. Cuộc nhậu kéo dài đến quá nửa đêm,
đầy những chuyện gái trai đĩ bợm nhưng tuyệt nhiên
không ai đề cập đến chuyện làm ăn hùn hạp. Tiệc
tàn, chủ và khách đều say bí tỉ, ngủ lăn như chết.
Còn mỗi Năm Cao là tỉnh. Vào khoảng 9 giờ đêm, viện
cớ nhức đầu, muốn “đi tắm cái cho giã rượu”, Năm
Cao lỉnh đi đâu mất.
Sáng
hôm sau, không ai trên đời còn nhìn thấy Hiệp ruồi đâu
nữa. Nhưng cũng trong sáng hôm ấy, cảnh sát đã tìm thấy
trên bờ biển dưới chân núi một chiếc bao bố đẫm
máu, bên trong có một xác chết bị cắt ra nhiều khúc.
Hồ sơ cảnh sát ghi nhận: trước khi bị phanh thây, nạn
nhân say rượu đã bị đâm nhiều nhát bằng lưỡi lê
cho đến chết. Những vết máu còn tươi, chứng tỏ nạn
nhân mới bị giết vào khoảng 2 - 3 giờ sáng. Quay trở
về, nghe chuyện, Năm Vĩnh chỉ còn biết la trời.
Sau
khi tổ chức “luộc” Hiệp ruồi tức Hiệp Súng sáu,
Năm Cao trở nên ngạo mạn và coi thường các băng du đãng
khác. Một lần, hắn đã ngang nhiên xé sòng bầu cua tôm
cá của một đám du đãng mũ nồi nâu (Biệt động quân).
Điên tiết, Năm Cao vừa quay lưng, một tên Biệt động
quân đã rót vào lưng hắn trọn vẹn một băng M.16. Mất
thổ địa, lại bị hàng loạt tên du đãng khác vừa từ
mặt trận trở về dọa “làm thịt”, Năm Vĩnh và Năm
Cao lại vội bỏ Nha Trang lên Cao Nguyên tìm nơi ẩn nấp.
Cái “hang” mà chúng chọn là Liên đoàn 21 Biệt
động quân.
Trở
lại quân đội với trang phục rằn ri nâu, mũ nồi nâu,
vị trí của Năm Vĩnh và đồng bọn đã thay đổi hẳn.
Lính tráng toàn Cao nguyên không tên nào không từng nghe
qua danh xưng “đại ca Năm Vĩnh”, “hùm xám miền
Trung”. Vì thế, chỉ huy các đơn vị của Vĩnh - hắn
thuyên chuyển đơn vị liên tục - cũng vị nể,
chẳng bao giờ bắt Vĩnh và đàn em của hắn phải ra
trận. Bù lại, phần ăn nhậu, hút xách của các “thầy,
các “chú” tự nguyện chung chi đủ, cộng thêm khoản
lương lính của chúng “chẳng đáng là bao”, đến tháng
các sĩ quan cứ việc giở sổ lương mà lấy. Dĩ nhiên
Năm Vĩnh nổi tiếng đến thế thì tung tích hắn không
cần tìm cũng thấy, quân cảnh ngụy không khó gì mà
không tìm ra để tóm cổ tên tội đồ từng giết người
và đào ngũ như cơm bữa này. Nhưng mỗi lần có công văn
tầm nã, sĩ quan các đơn vị lại sẵn sàng báo cáo láo
là “không hề có tên đương sự trong danh sách”, lờ
đi, tiếp tục che chở cho Năm Vĩnh để ăn của đút bằng
cách chuyển hắn sang một bộ phận khác! Cảnh sát cũng
chẳng dại gì mò lên tận tiền đồn để truy nã một
thằng đầu trâu mặt ngựa, lơ mơ ăn đạn của cả hai
bên chưa biết chừng. Thậm chí, một tiểu đoàn trưởng
nổi tiếng, đại úy Tôn Thất Trực, bạn học của tướng
Lê Minh Đảo, còn xúi Năm Vĩnh:
-
Mỗi tháng mày nên về Nha Trang chơi bời ít bữa cho nó...
khỏe, nhớ rủ tao đi với!
Lợi
dụng thế tự do, tên du đãng mặc áo lính dồn hết thì
giờ để tổ chức hai việc: bán ma túy và mở sòng bài
phục vụ cho những tên lính Vùng II sầu đời vừa trở
về sau các cuộc hành quân. Sau Vùng I (từ Đà Nẵng đến
Quảng Trị), Vùng II chiến thuật, đặc biệt là khu vực
Cao Nguyên là chiến trường thường xuyên xảy ra đụng
độ, lính tráng thường xuyên bị ném vào các chiến dịch
qui mô. Để quên cái chết luôn cặp kè bên nách, lính
tráng vùng chiến thuật này đều bạt mạng, hết sức vô
kỷ luật và nhanh chóng ngã vào vòng tay đê mê của ma
túy. Nghề bán thuốc phiện nhanh chóng giúp Năm Vĩnh giàu
nứt đố đổ vách. Có tiền, Vĩnh vãi ra mua chuộc đàn
em trong các sắc lính không hề tiếc. Dĩ nhiên, ai trả
lương cao, người đó được quyền sai bảo. Những tên
du đãng mặc áo lính nhanh chóng trở nên ngoan ngoãn nghe
lời Năm Vĩnh hơn nghe lệnh chỉ huy - những kẻ chỉ có
thể cho chúng chưa đầy một phần mười số lương “anh
Năm” quăng ra, lại còn hay cố tình bớt xén.
Giống
như cây số 9 Mỹ Ca, khu vực ngã ba Diệp Kính dưới chân
căn cứ Hàm Rồng những năm 1970-1972 cũng là địa điểm
tập trung ăn chơi của các sắc lính đóng cạnh thị xã
Pleiku. ở đó có một rạp chiếu phim, một dãy quán xá
và hơn chục nhà thổ, lúc nào cũng đầy nhóc những tên
lính người Việt giày trận đứt tung dây, áo quần đầy
bụi đất đỏ, kéo lê những khẩu AR15, M16. Thay vì nói
chuyện, chúng văng tục. Thay vì vỗ tay tán thưởng giọng
ca, chúng chĩa nòng súng lên trời và quạt nguyên băng...
ở đó, lính tráng tên nào cũng rượu bia say bí tỉ mà
không cần phải đụng đến ly... Ngoài những bộ quân
phục, không một người dân nào dám bén mảng đến khu
ngã ba Diệp Kính vào buổi tối nếu họ không thuộc một
trong hai loại: ma cô hoặc gái điếm phục vụ tại các
quán xá.
Dù
hung tợn, các sắc lính ở đây vẫn cứ phải dè chừng
một cái tên: Năm Vĩnh - “Hùm xám miền Trung”. Băng của
hắn thuộc loại “đụng là chạm, chạm là nổ”. Vào
quán, ăn nhậu xong, thay vì trả tiền, hắn ngoắt chủ
quán tới và đưa cho họ một cái ly cối, trong ly là...
một quả lựu đạn đã rút chốt, loại “chấm đỏ”
M26 hoặc M67, rút chốt ném là nổ ngay. Sau cái ám hiệu
ấy, cả đám cứ việc bỏ đi ung dung, không một chủ
quán nào dám hó hé nửa tiếng. Lần sau, thấy mặt hắn
quay lại là chủ quán hiểu liền, vội xòe ra mấy chục
ngàn để “anh Năm tiêu vặt”, may ra mới được yên
thân.
Đa
phần lính tráng Vùng II đều xuất thân từ các tỉnh
miền Trung. Đời lính buồn và... mau chết, những tên
lính cứ bưng luôn câu ngạn ngữ gốc ruộng “muốn dỡ
chuồng heo thì phải dám seo cột nhà” vào quân ngũ làm
lẽ sống. Rảnh rỗi, rượu còn có người chê chứ bài
bạc sát phạt nhau thì tên lính nào cũng “máu”. Một
chiều mùa Đông năm 1972, khi sòng bạc ở ngã ba Diệp
Kính đang đến hồi cao trào thì cửa phòng bị đạp
tung. Trên ngưỡng cửa xuất hiện hai bộ đồ rằn ri, áo
bỏ ngoài quần, tóc râu tua tủa và nét mặt rất cô hồn.
Giật phắt chốt quả M26 ném keng xuống sàn, một tên
tuyên bố:
-
Bỏ hết tiền, đồng hồ, tư trang xuống bàn!
Dù
cùng là lính tráng, nhưng trái lựu đạn cũng đủ chặn
mọi bàn tay manh động, những tên lính đành ngưng cuộc
sát phạt, líu ríu nghe lệnh gã cô hồn. Khi mọi cái túi
đã được lộn trái, tên kẻ cướp điềm nhiên hô
“biến!”, đồng thời thả trái lựu đạn xuống mặt
bàn và hốt tiền, vàng vào ba lô lộn. Lựu đạn phun
khói xì xì khiến đám con bạc xéo nhau chạy trối chết.
Hốt đầy ba lô, ngẩng lên sòng bạc đã vắng ngắt,
thằng cô hồn ung dung bước ra cửa gọi tên bạn đang
lăm lăm súng đứng cạnh:
-
Dọt mày!
Đúng
lúc đó, gáy bỗng dưng lạnh buốt khiến hắn phải ngoái
đầu lại. Dưới bóng điện mờ mờ, trên một tấm phản
kê tít trong góc phòng có một tên biệt động quân đang
chống tay trái nằm nghển cổ duỗi dài thân nhìn xoáy
vào mặt hắn. Một tấm áo palto lính trải rộng che nửa
thân trên và cánh tay phải của kẻ đang nằm. Quá đỗi
ngạc nhiên, tên kẻ cướp bước lại gần hỏi:
-
Mày là bảo kê sòng này?
Tên
kia không thèm ngồi dậy, trả lời nhát gừng:
-
Nhìn là biết, hỏi chi?
Thằng
kẻ cướp ngạc nhiên lắm:
-
Lựu đạn phun khói ì xèo sao mày không bỏ chạy. Bộ
không sợ chết hả?
Câu
trả lời của thằng kia còn cô hồn và lọc lõi hơn:
-
Ngu như bò! Lựu đạn mà nổ, mày đứng gần chết trước
chứ không phải tao. Nó không nổ mày mới đứng đó được
chứ nổ thì trời xúi, ông già mày cũng không dám, đừng
nói chi mày. Trò con nít của tụi bay cũng đòi hù ông nội
bay sao?
Túi
vàng, tiền trên vai trở nên nặng như đá tảng, tên cướp
cạn chửi thề:
-
Mày ngon, mày tin là tụi tao sắp giết mày không?
Thằng
kia nhếch mép:
-
Tin cái mốc, trước đó tao đã bắn nát sọ mày rồi!
Vừa
nói, hắn vừa hất chiếc áo paltô để lộ một khẩu
colt “đui” đang ghếch nòng trên tay phải... Mặt xanh
như đít nhái, tên cướp cạn líu ríu thả túi hàng xuống
đất:
-
Đại ca cho em biết quý danh?
Thằng
kia hất mặt:
-
Năm Vĩnh. Bộ mày thối tai hay sao mà không nghe?
Ngôi
thứ được đổi ngay sau đó. Hai tên lính chắp tay lạy
như tế sao:
-
Anh Năm tha tội. Tụi em mới hành quân trên Plei-cần về.
Đang nhậu mà vã quá, không đủ tiền trả nên mới liều
mạng.
Năm
Vĩnh gạt đi:
-
Đây là đất của tao, không thằng nào được phá đám.
Để tiền, vàng lại hết. Còn ăn nhậu, chơi bời tối
nay, ngày mai, tụi bây có bi nhiêu thằng, tao lo tất!
Kiểu
hành xử vừa lì lợm, bạt mạng, vừa tỏ ra đàn anh kèm
theo tiền bạc tuôn ra bao bè như suối đã giúp Năm Vĩnh
lấy lòng, thần phục được không ít tên đầu trâu mặt
ngựa trong các sắc lính miền Trung và Cao Nguyên. Giống
như Vĩnh, tất cả những tên này đều mang hai, ba án truy
nã nên đứa nào cũng hung hãn, sẵn sàng lao vào chỗ
chết, miễn có tiền. Một lần, đang nằm ở một trong
những hang ổ của du đãng gốc lính tại suối Đốc Học,
ngoại ô Buôn Ma Thuột, Năm Vĩnh nhận được hung tin: một
số đàn em của y bị quân cảnh túm cổ vì một lý do
hết sức vô duyên. Số là vừa trở về sau một cuộc
hành quân sát biên giới Moldulkiri, thuộc địa phận Đak
Song, Đak Lak, Năm Càri, Mầm Điên và một số tên khác
thuộc lực lượng Biệt động quân đã xả xui, tổ chức
nhậu với Thắng, tay anh chị bên Chiến đoàn Lôi Hổ.
Cuộc nhậu được bày ra hoang dã ngay tại gốc đa Cây số
5, bên rìa thị xã Buôn Mê. Thấy lính tráng tác phong bê
tha, lôi thôi lếch thếch, một toán quân cảnh đi qua đã
tạt vào yêu cầu đám này bỏ áo vào quần, gom ống quần
vào giày và buộc dây đàng hoàng để giữ tác phong quân
kỷ. Câu trả lời là một tiếng lựu đạn nổ “đoành”,
rơi ra từ tay Thắng “Lôi Hổ”, lúc này đang say lử
đử. Thế là không nói gì thêm, toán quân cảnh xông vào
tước vũ khí, còng tay luôn cả bọn.
Nhận
tin, Năm Vĩnh tức khắc gặp viên trung úy đồn trưởng,
bảo:
-
Sáng mai, tụi Năm Càri không về thì cứ thấy thằng quân
cảnh nào trên đường, coi như thằng đó đổ ruột.
Bỏ
về, Vĩnh sai đàn em đi báo tin cho đám tay chân trong các
đơn vị đồn trú lân cận để chuẩn bị. Quả nhiên, 4
giờ sáng hôm sau, đang ngủ vùi sau cơn say, Năm Vĩnh đã
bất ngờ bị quân cảnh ập vào còng tay đưa đi. 7 giờ
sáng, đồn quân cảnh bị nhiều loại quần áo rằn ri
vây chặt, có cả đại liên M60 tham gia “cuộc chiến
tranh”. 7 giờ 15 phút, một trái M79 nổ tung ngay giữa cột
cờ trong sân đoàn quân cảnh. Không còn cách nào khác,
viên trung úy đành phải thả Năm Vĩnh và đến 16 giờ
thì Năm Càri, Mầm Điên, Thắng “Lôi Hổ” cũng vừa
cười, vừa tự do kéo nhau ra khỏi trại!
Tuy
tha hồ huyênh hoang, khoác lác nhưng sau vụ đó, Năm Vĩnh
cũng biết là sự lộng hành của y đã vượt quá giới
hạn. Bỏ cuộc hành quân của đơn vị, hắn chuồn lên
suối Đốc Học nằm khan, sau đó dông tuốt về Nha Trang
sống phè phỡn bằng nghề tuồn thuốc phiện vào quân
lao Khánh Hòa bán cho đám quân phạm đang “nằm ấp”.
Cuối năm 1973, bị lùng sục, hắn lại “lỡ tay”, một
lần nữa giết chết một tay quân cảnh và bị tóm cổ.
Vác
theo một balô vàng - chiến tích còn lại của mấy năm
ngang dọc - Năm Vĩnh được dẫn vào quân lao Khánh Hòa
làm bạn với những gương mặt mốc cộm cán của Vùng
II chiến thuật như Phi Vân, Sơn Trắng, Tuấn Đả, Lực
búa, Cù Đinh... những kẻ trước đó không lâu còn lá
“khách hàng truyền thống” trong nghề buôn thuốc phiện
của Vĩnh. Trong tù, cảnh gây bè, kết đảng đâm chém
thanh toán nhau lại tiếp diễn, cuối cùng Năm Vĩnh được
thừa nhận là một “đại ca trong các đại ca” của
cái quân lao khét tiếng vô kỷ luật và lắm đầu trâu
mặt ngựa này.
Sau
Tết nguyên đán năm 1975, quân lao Khánh Hòa nhận thêm một
tù nhân dáng dấp mô phạm, bị tống giam vì tội “tình
nghi Việt cộng”. Đó chính là ông Dương Ngô Thống,
thầy giáo dạy trường Bồ Đề, Quảng Ngãi, năm nào.
Chuyển lên dạy học ở Đà Lạt, thầy giáo Dương bị
hàm oan. Nguyên trung úy Tình - một sĩ quan Phượng Hoàng -
say mê cô hoa khôi phố núi Xuân Lan nên đã hỏi cưới và
có con với cô gái này, trong khi y đã có vợ có con. Sợ
bị loại ngũ vì tội có vợ bé, Tình đã ép Xuân Lan
phải bỏ con. Là bạn của bà Phụng, cô ruột Xuân Lan,
ông Dương động lòng đã nhận lời giúp bà Phụng, cùng
vợ mình đem đứa bé trốn đi, tránh cho nó bị cảnh cha
ruột hắt hủi. Để trả đũa, trung úy Tình đã vu vạ
và dẫn cảnh sát đến bắt ông vào mùng 8 Tết. Nhờ
quen biết với thiếu tá Nguyễn Văn Hiển, quản đốc
quân lao Khánh Hòa, Tình đã tìm cách tống được ông
Dương vào địa ngục này cho bõ tức. Để dằn mặt
người tù mới, theo yêu cầu của tên trung úy bất lương,
thiếu tá Hiển đã đẩy ông giáo vào chung buồng giam với
tên hùm xám Năm Vĩnh, dự định mượn tay tên hung thần
để hành hạ người tù.
Đã
từng nghe tiếng tên hung thần, ông Dương co rúm mình và
suýt ngất xỉu khi những tên tù tàn bạo dựng ông ngồi
thẳng lưng, bắt phải chứng kiến từ đầu chí cuối
cảnh Năm Vĩnh và một tên đàn em cởi trần trùng trục
tra tấn cho đến chết một quân phạm chung buồng. Xong
việc, Năm Vĩnh đến trước mặt ông cúi người lễ
phép:
-
Thầy nhớ con không? Con là Năm Vĩnh, thằng học trò bị
thầy tát tai gọi là đồ kẻ cướp ở Bồ Đề đây mà!
Suýt
nữa, ông thầy giáo đã ngất xỉu vì tin chắc trận đòn
thù sẽ sắp được tên học trò xưa trút xuống đầu
mình. Quá sợ hãi, ông lắp bắp:
-
Anh... thông cảm, khi xưa tôi chỉ...
Năm
Vĩnh cắt ngang:
-
Dạ không, không. Con cảm ơn thầy vì lời thầy quá đúng.
Đời con chẳng có thể làm được trò trống gì hơn
ngoài một thằng tướng cướp.
Như
một cảnh phim quái gở điên rồ, hùm xám miền Trung thét
đàn em kê nệm, trải drap và đón ông thầy mình lên
“chiếu trên” nằm nghỉ, cơm bưng nước rót hầu hạ
đến tận chỗ nằm. Khi đã trấn tĩnh, ông Dương mới
dám hỏi Vĩnh:
-
Anh là người còn biết giữ chút lễ nghĩa, sao hôm trước
vô cớ lại đánh người ta đến chết?
Triết
lý tàn bạo của lối sống giang hồ được gã học trò
quỷ dữ trả lời sau một giọng cười buồn:
-
Con đã giết hai người, chẳng bao lâu sẽ bị đày ra Côn
Đảo lãnh án chung thân cấm cố. Ra đó coi như là chết,
con phải “mua vé” bằng án mới để tiếp tục bị
điều tra, còn có cơ hội được ở lại đất liền.
Giang hồ hiểm ác, người này sống thì kẻ kia phải
chết, tại số thằng đó... xui thầy ạ!
Nhưng,
Năm Vĩnh đã không còn cơ hội để sống tiếp với cái
triết lý thú vật của đám giang hồ. Gần giữa tháng
3.1975, xe tăng quân Giải phóng ầm ầm tiến vào làm chủ
Nha Trang. Lợi dụng thời cơ, đám quân phạm đã bạo
động giết lính canh, phá quân lao trốn chạy. Bị Năm
Vĩnh ép, ông Dương phải theo chân những tên tù sổng
khám chạy về hướng Phan Rang. Nhưng, cầu Du Long đã sập,
những tên lính mặc áo tù lại lôi ông chạy ngược trở
lại quân cảng Cam Ranh. Trên đường đi, ông giáo mô phạm
đã đau đớn và bất lực chứng kiến cảnh tên học trò
khốn nạn và đám đàn em của hắn mặc sức cướp, hành
hạ những người chạy loạn khốn khổ mà không cách nào
ngăn lại được.
Đến
Cam Ranh, Vĩnh và đám đàn em lại dùng súng, lựu đạn uy
hiếp và cướp được một chiếc tàu, kè theo ông Dương
tiến thẳng ra khơi. Trên tàu, chúng lại tiếp tục giết
người cướp của, dồn vàng, đôla vào 2 balô chặt cứng.
Trên tàu toàn kẻ cướp nên tàu bị từ chối không cho
cặp cảng Vũng Tàu. Năm Vĩnh lại ra lệnh đưa tàu ra
khơi. Đến đảo Phú Quốc, hắn sai đàn em kết ván và
dây thừng thành một chiếc thang dây bảo ông Dương:
-
Trong kia là thị trấn Dương Đông, thầy vào đó chắc sẽ
có cách về được đất liền, tìm vợ con. Còn tụi con,
tội lỗi quá dày, không dám theo thầy cùng về được.
Từ
chối số tiền, vàng Vĩnh cho, ông Dương đu theo thang dây
nhảy xuống nước bơi vào bờ. Đến chiều, ông bất ngờ
gặp lại gã học trò trên đảo. Quá lộng hành, đám
cướp làm loạn đã bị dàn quân cảnh đảo Phú Quốc
khống chế, và tóm cổ đưa vào thị trấn Dương Đông,
trong đó có cả ông trùm Năm Vĩnh. Phiên tòa được tổ
chức ngay và chỉ kéo dài dăm phút với án tử hình dành
cho cả đám. Trước lúc xuống tàu về lại đất liền,
ông Dương đã tận mắt chứng kiến cảnh Năm Vĩnh bị
bắn ngay sau khi kết thúc phiên tòa. Hắn được chôn lại
dưới chân núi Tượng ở thị trấn Dương Đông. Không
mộ chí, nấm mồ bị cỏ quên dần dần vùi lấp. Âu đó
cũng là đoạn kết tất yếu của con đường giang hồ,
con đường tội ác.
7.
ĐIỀN KHẮC KIM
Trong
“bảng phong thần” của giang hồ Sài Gòn trước 1975,
tên tuổi Điền Khắc Kim cũng lừng danh không kém gì Đại
Cathay, Sơn Đảo, Lâm Chín ngón, Y Càlết... những hung
thần lề phố. Nhưng trước sau gì hắn vẫn là một tên
tướng cướp không giống ai, một “tướng không quân”.
Con đường leo lên vị trí đàn anh của hắn hoàn toàn
nằm ngoài qui luật chung của giới giang hồ: không hề
gây bè kết đảng, không xưng hùng xưng bá, không hề tổ
chức những cuộc thanh trừng đẫm máu để tranh giành
lãnh địa.
Điền
Khắc Kim nổi tiếng vì là tác giả của hàng chục vụ
cướp kinh thiên động địa với giá trị tài sản rất
lớn mà nạn nhân tất tật đều là người Mỹ. Cứ cướp
xong là hắn hiếp các nữ nạn nhân, sau đó không quên
ghim lại một mảnh giấy ghi ba chữ: “Điền Khắc Kim”.
Đã là tướng cướp thì chuyện vướng vòng lao lý là lẽ
tất nhiên, nhưng với Điền Khắc Kim, nhà tù chỉ là
chốn “vui thì ở, buồn là đi”, bắt hắn chỉ như bắt
cóc bỏ đĩa. Tất cả những phi vụ kinh hoàng ấy, Điền
Khắc Kim cũng chỉ đơn thương độc mã thực hiện, không
hề có trợ thủ. Vì lý do này, báo chí Sài Gòn trước
năm 1975 mới gán cho hắn biệt danh “Tướng cướp cô
đơn” hoặc “Tướng cướp sôlô”. ít ai biết rằng,
bức chân dung kinh khủng ấy lại được vẽ nên từ
những nét cọ đầu tiên là một chuyện tình buồn trên
một nền khung nghèo khó.
Điền
Khắc Kim tên thật là Lê Văn Minh, con trai thứ hai trong
một gia đình nheo nhóc có bốn anh chị em ở làng Hạnh
Thông Tây, Gò Vấp. Tuổi thơ không êm đềm của hắn
trôi qua dưới một mái nhà rách nát, lợp bằng những
tấm tôn cũ thủng lỗ chỗ, vách là một hỗn hợp gồm
ván ép, mảnh bìa carton, vỏ thùng phuy cũ và vô số mảnh
tôn, thiếc đầu thừa đuôi thẹo khác. Mùa nắng, ngôi
nhà nóng hầm hập. Mùa mưa, nóc dột tứ tung, nền thấp
nên nước mưa từ các đường hẻm, rãnh cứ thi nhau cuốn
rác rều ồng ộc tuôn vào nhà. Bốn chị em hắn tha hồ
gọi nhau lội tứ tung, nhặt nhạnh lại những đôi dép
đứt, giấy vụn, bao nilon đang nổi lều bều giữa nhà
đã thành một bể nước bẩn và thi nhau chổng mông lên
trời khua xô, thùng tát nước.
Cha
mất sớm, toàn bộ gánh nặng mưu sinh đè trĩu lên đôi
vai mẹ hắn. Cứ sáng tinh sương, thằng bé con đen đúa,
mắt đầy ghèn lại bị lôi cổ dậy để ra lò bánh mì
lấy những mẻ bánh đầu tiên đi bán bánh mì “chạy”.
8 giờ sáng, quẳng cái giỏ cần xé đã hết nhẵn, hắn
lại lo chạy về phụ giúp mẹ bán bánh mì “nằm”.
Tuổi thơ vất vả và thiếu thốn nên Minh không lớn nổi,
người cứ loắt choắt, gầy và đem nhẻm, có phần nhút
nhát vì mặc cảm. Việc học hành của hắn vì thế cũng
chẳng bằng ai, chữ vào tai này lại ra tai kia rồi rụng
mất.
Con
nít nhà nghèo thế kỷ trước đói ăn nhưng lại dễ no
đòn. Mỗi lần Minh bị đánh, có một con bé hàng xóm lại
cạy vách nhìn vào trề môi trêu chọc. Con bé tên là
Diễm, Nguyễn Thị Diễm, nhưng dân trong xóm cứ nôm na
hình hài mà gọi nó là Diễm đèo, cũng như gọi Minh là
Minh con bởi cả hai đều gầy quắt như quả dưa chuột
đẹt trồng trên đất cằn bị ong chích. Bị trêu, Minh
con tức lắm, rắp tâm tìm cách trả đũa. Làng Hạnh
Thông Tây có nghề làm pháo gia truyền, hầu như nhà nào
cũng có mâm quấn pháo nên quanh năm làng cứ đầy những
tiếng đì đùng. Không có tiền mua, thằng oắt Minh con cứ
lăn xả vào dưới những bánh pháo đang tóe lửa của các
đám giỗ chạp, cưới hỏi, xô nhau giành giật với trẻ
con hàng xóm để nhặt pháo lép cất dành, chờ Diễm đèo
đi ngang qua đốt ném để “khủng bố”. Ban đầu, Diễm
sợ khóc thét lên. Sau, nó lại ton ton chạy theo Minh nhặt
pháo, miệng cười rổn rảng trong khi mắt nhắm tịt và
hai ngón tay thì bịt chặt hai tai. Lâu dần thành quen, hai
quả dưa chuột đẹt bị ong chích phải lòng nhau lúc nào
không biết.
Con
gái thường mau lớn hơn con trai. 16 tuổi, Diễm đèo trông
phổng phao hẳn lên, mái tóc đỏ quạch đã mượt ra,
nước da cũng trở nên mịn màng chứ không đen đúa, sần
sùi như trước nữa. Đúng thời điểm đó, Mỹ ồ ạt
đổ quân vào miền Nam. Khu vực Hạnh Thông Tây, trại
lính, sở Mỹ mọc lên nhan nhản. Trên các trục đường
lộ quanh cái xóm nghèo của Minh con, Diễm đèo, quán rượu,
nhà chứa, snack-bar cũng thi nhau mọc lên để hứng những
tháng lương lính và bán đi tất tật những gì có thể
bán. Dù chưa phải thiên nga, Diễm đèo cũng không còn là
con vịt trời xấu xí nữa. Chưa kịp ngỏ lời, Minh con
đã phải cay đắng nhìn mối tình đầu của mình lột
xác thành một Hélen Diễm, cô tiếp viên xinh đẹp với
váy ngắn cũn cỡn hằng đêm nằm lọt thỏm trong vòng
tay lông lá của những tên lính Mỹ to con gấp đôi nó
trong snack-bar. Minh cũng không khá gì hơn, nó bỏ học, trở
thành một thằng ma cô dắt mối cho gái điếm. Tháng ngày
của hắn được nối nhau bằng những trận đập lộn
tóe lửa với đủ loại sắc lính, từ biệt động quân,
thủy quân lục chiến, lính dù đến lính bộ binh - những
kẻ thường kéo cả đoàn mò vào xóm Hạnh Thông Tây tìm
gái chơi bời rồi giở trò ăn quịt. Đánh nhau tay không
cũng có mà bằng gậy gộc, gạch đá, dao phay cũng có...
Thằng bé hiền lành ngày xưa biến mất, thay vào đó là
một thằng Minh con ma cô lầm lì, bất chấp với một vết
sẹo dài cỡ hai lóng tay vắt qua má trái, một tay đứng
bến được cả vùng Hạnh Thông Tây - ngã ba Chú ía -
vành đai sân bay Tân Sơn Nhất nhớ mặt biết tên.
Lì
lợm là thế nhưng với Diễm đèo, đúng hơn là với
Hélen Diễm, Minh con vẫn không thể can đảm hơn để nói
được một câu tỏ tình đàng hoàng thành thật. Chỉ duy
nhất một lần, tức quá không chịu nổi, Minh con đã
chặn Hélen Diễm khi cô đang cặp kè với một tên lính
Mỹ, hỏi dấm dẳn:
-
Mấy thằng lông khỉ này có gì hay? Sao cô cứ...
Cơn
ghen của nó bị Diễm tàn nhẫn cắt đứt nửa chừng:
-
Hỏi dzô duyên. Hổng có gì hay, nhưng tụi nó có tiền!
Rồi
cô kéo tên Mỹ trẻ măng đang đứng trố mắt đi một
nước, bỏ lại Minh con đứng trơ như phỗng, ngơ ngác
giữa đường.
Khoảng
cuối năm 1967, một biến cố nho nhỏ đã xô Minh con ra
khỏi nghề dắt gái ở Hạnh Thông Tây: mẹ hắn lấy
chồng. Bố dượng của hắn là một hạ sĩ quan lái xe
người gốc Campuchia nhưng nói tiếng Việt nhuyễn như ăn
cháo, tên là Kalon Rim. Bố dượng cũng cục tính, lầm lì
y như thằng con, được cái cũng không tệ bạc gì với
mấy đứa con riêng của vợ nên Minh con chẳng có lý do
gì mà ghét lão. Nhưng chính vì tử tế nên lão đã nhất
quyết bắt bốn anh em Minh cải họ theo mình để mang
những cái tên rất Miên mà nó không hề thích, cũng chẳng
hiểu nghĩa là gì. Minh con trở thành Kalon Theo, con Hòa em
nó trở thành Kalon Hòa. Những cái tên có vẻ “cà chớn”
khiến thằng ma cô bất mãn. Không nói không rằng, nó bỏ
nhà, bỏ miệt Gò Vấp mò lên sống bụi đời ở trước
khu chợ Dân Sinh, quận 1. Làm đủ thứ nghề, ngày bán
báo, đánh giày, đêm ra lề đường Nguyễn Công Trứ thuê
ghế bố ngủ. Không có tiền thì lót báo cũ nằm vạ
vật. Chưa hề sung sướng bao giờ nên kiếp bụi đời,
với Minh cũng chẳng có gì là khổ sở.
Trước
lúc ra đi, thu hết can đảm, nó mò đến cái snack-bar nơi
Hélen Diểm làm tiếp viên, trong túi là một bánh pháo dài
cả thước. Diễm chưa kịp ngạc nhiên trước sự xuất
hiện bất ngờ, Minh con đã lôi bánh pháo ra, cầm trên
tay trần, giơ cao và rút điếu thuốc trên miệng châm vào
ngòi pháo. Pháo nổ tung tóe khiến gái bán bar và khách
làng chơi cả Mỹ lẫn Việt được một phen nhốn nháo.
Nhưng Diễm thì không. Không nhắm mắt, không bịt tai cũng
không bỏ chạy, cô cứ đứng ngó trân trân dây pháo nổ
điếc màng nhĩ trên tay tên bạn bụi đời. Viên pháo
cuối cùng, Minh con bóp đít búng tung lên trời đúng khi
nó vừa phát ra tiếng nổ. Xong, nó quay lưng đi thẳng, đi
một mạch, không hề nói câu nào, bỏ lại một Hélen
Diễm phía sau đang ngây người, nước mắt ròng ròng
trước lời tỏ tình có một không hai của thằng con trai
hàng xóm.
Khoảng
nửa tháng sau, tháng 4.1968, tình cờ trên mục “đua xe
cán chó” của một vài tờ báo, Minh con đọc được mẩu
tin: “Một cô gái điếm cỡ 18 tuổi bị một toán lính
Mỹ thay nhau hãm hiếp rồi lột truồng vứt xác ngoài bãi
rác ở Gò Vấp”. Lòng điên dại, hắn vứt xấp báo
chạy ngay về Hạnh Thông Tây. Nhưng đã quá muộn: cỗ
quan tài có Hélen Diễm nằm trong đó đã vùi sâu vào đất
lạnh! Mối tình đầu câm lặng kết thúc quá sớm trong
bi thảm, hắn nhờ một cô bạn bán bar cùng với Diễm
mua giúp khẩu Colt 45 với mấy kẹp đạn giắt vào bụng
rồi lặng lẽ bỏ đi.
Ba
năm liền sau đó, báo chí Sài Gòn thỉnh thoảng lại bị
khuấy động bởi những vụ cướp hết sức kinh hoàng,
nghi phạm tỏ ra cực kỳ liều lĩnh, hung hăng như thể đi
cướp để mong được chết, như thể chỉ ngày mai là
tận thế. Nạn nhân của những vụ cướp này đều là
người Mỹ. Kẻ cướp, không ai khác chính là Lê Văn
Minh, hắn đi cướp để trả thù.
Giữa
tháng 2.1968, cùng một tên du thủ du thực khác là Lê Văn
Hùng, Minh con đột nhập vào nhà một kỹ sư công chánh
Mỹ trên đường Trần Quang Khải, dùng khẩu Colt 45 khống
chế bà vợ ông ta cướp đi 5.000 USD và một số nhẫn,
dây chuyền vàng, kim cương trị giá 17 triệu đồng. Đó
là một số tài sản kếch xù, bởi vào thời điểm đó,
giá vàng chỉ có 25.000đồng/lượng và 1 USD thì trị giá
bằng 10 USD theo giá ngày nay. Nhưng vẫn chưa thỏa mãn,
sau khi dồn hết số tài sản của viên kỹ sư vào bao
tải, Minh con còn bắt tên Hùng cảnh giới để hắn lôi
bà vợ Mỹ của ông kỹ sư ra hãm hiếp.
Bảy
tháng sau, kịch bản lặp lại nhưng hung thủ chỉ một
mình Minh con. Lần này, tại một cư xá Mỹ trên đường
Trần Cao Vân, quận 1, gần hồ Con Rùa, Minh con lần lượt
“viếng thăm” và dọn sạch 3 căn hộ, cướp đi một
số tư trang tiền bạc trị giá 11 triệu đồng. Cả 3 bà
vợ Mỹ đều bị hắn giở trò thú vật.
Bảy
tháng sau nữa, tháng 5.1969, đến lượt vợ của tay Giám
đốc hãng sản xuất băng đĩa Columbia, nhà riêng ở Xóm
Chùa, Bình Thạnh trở thành nạn nhân của Minh con. Lần
này, hắn cướp được khoảng 8 triệu đồng và hơn 2 kg
magne dùng để sản xuất đĩa nhạc.
Cả
Sài Gòn nhốn nháo, thất kinh nhưng cảnh sát thì chịu
chết, không tài nào mò nổi tung tích hung thủ, bởi hắn
hành động cực kỳ xuất quỷ nhập thần. Dù không bị
nhận diện danh tánh, bóng ma Minh con cũng trở thành nỗi
ám ảnh kinh hoàng của các bà mệnh phụ giàu có có chồng
là người Mỹ. An ninh tại nhà riêng và các cư xá Mỹ
được tăng cường tối đa, nhưng nỗi khiếp đảm thì
vẫn đeo đẳng. Đúng lúc đó, tháng 11.1969, Minh con lại
đột nhập nhà một gái bán bar hạng sang lấy chồng Mỹ
ở cư xá Đô Thành cướp 6 triệu đồng. Lần này, cô vợ
là người Việt nên Minh con chỉ “đùa bỡn” một chốc
rồi bỏ đi, không cưỡng đoạt.
Quá
ngạc nhiên trước sự may mắn của mình, nàng kiều “me
Mỹ” đã buột mồm hỏi thằng cướp vừa quay lưng bỏ
ra đến cửa:
-
Anh tên gì vậy?
Đến
lượt thằng cướp ngạc nhiên. Không lẽ xưng tên thật,
hắn bèn xưng đại một cái tên vừa chợt hiện trong
đầu:
-
Điền Khắc Kim!
Rồi
còn cẩn thận viết cái tên này ra giấy ném lại cho cô
gái. Trước khi rút lui, không hiểu sao hắn còn giải
thích:
-
Cô may mắn đấy. Tôi chỉ trả thù mấy thằng Mỹ chứ
không trả thù người Việt.
Ngay
tức khắc, báo chí Sài Gòn lại tranh nhau chạy những
hàng tít giật gân về vụ “cướp nhà người Mỹ”,
với đích danh thủ phạm là Điền Khắc Kim, dù chẳng ai
có thể xác định được ai là Điền Khắc Kim giữa
thành phố 4 triệu dân này. Chưa hết, nhiều tờ báo còn
nhanh nhảu tự “điều tra”, gán thêm rất nhiều nguyên
nhân ly kỳ rùng rợn, biện minh cho hành động làm nhục
nạn nhân của Điền Khắc Kim ở các vụ trước đó là
để “trả thù dân tộc (?!)”.
Sau
vụ cướp này, để tránh bị tóm, Điền Khắc Kim đăng
ký đi quân dịch. Với cái tên giả là Lê Minh Hùng, hắn
trở thành một binh nhì mang số quân 71/116964 của Tiểu
đoàn 4, Trung đoàn 48 bộ binh (ngụy). Ba tháng quân trường
vừa kết thúc, máu giang hồ trỗi dậy, hắn lại đào
ngũ về Sài Gòn tiếp tục đi ăn cướp.
Tháng
5.1970, Điền Khắc Kim đột nhập vào nhà một người Mỹ
là Giám đốc Hội cha mẹ nuôi quốc tế trên đường
Trần Quí Cáp (nay là Võ Văn Tần). Đi đêm lắm có ngày
gặp ma, trong khi hắn sắp sửa giở trò đồi bại với
bà vợ ở phòng ngủ thì trong phòng tắm, ông giám đốc
đã cởi được dây trói chạy thoát ra ngoài gọi cảnh
sát. Hoảng quá, hắn vội bắt cóc bà vợ làm con tin và
tẩu thoát xuống quận 8. Sau khi hành hạ bà đầm chán
chê, Điền Khắc Kim đã gọi taxi đưa trả bà về với
ông chồng Mỹ. Vì sự liều lĩnh bỡn cợt này, hắn đã
bị cặp vợ chồng Mỹ kia nhận diện và bị bắt, phải
ra tòa lãnh án 20 năm tù.
Vào
trại Chí Hòa, họp mặt với toàn những tay anh chị đầu
trâu mặt ngựa, Điền Khắc Kim dù không băng đảng,
người không một hình xăm vẫn nghiễm nhiên được đám
tù hình sự xếp vào “chiếu trên”. Sự táo tợn, liều
lĩnh và những cú “trả thù dân tộc” được các báo
lá cải khai thác tối đa đã vô tình tạo cho Điền Khắc
Kim một lai lịch đầy ánh hào quang, khiến những tên du
thủ du thực phục lăn phục lóc. Nhờ có sự hỗ trợ
của những tên đại bàng cộm cán ở Chí Hòa, Điền
Khắc Kim có đủ tiền để mua được một tờ “giấy
đi phép”, tức được phép tự do ra ngoài 12 hoặc 24
giờ, sau đó về trình diện. Lợi dụng “giấy đi phép”,
hắn trốn luôn. Vừa ra khỏi nhà giam, hắn đã mò vào
nhà một tên thiếu tá CIA Mỹ để cướp. Là một quân
nhân quen hoạt động trong bóng tối, tên “xịa” không
dễ gì để bị Điền Khắc Kim bắt nạt, đã kịp thời
móc súng chống trả. Đang loay hoay trèo qua ban công, tính
nhảy từ lầu hai xuống đất, Điền Khắc Kim đã bị
tên thiếu tá CIA quất trúng một viên vào bụng, sụm
ngay tại chỗ và bị cảnh sát ngụy tóm cổ, đưa vào
Tổng Y viện Cộng Hòa (nay là Quân Y viện 175) chữa trị.
Vết
thương vừa tạm bình phục, người còn xanh rớt như tàu
lá, Điền Khắc Kim lại cưa còng trốn thoát. Sau mấy
tháng nằm dưỡng thương, hắn lại lên kế hoạch tấn
công một nhà buôn Mỹ trên đường Công Lý (nay là Nguyễn
Văn Trỗi), cướp được 5.000 USD và 20 triệu đồng. Đúng
lúc hắn đang hành hạ nữ nạn nhân người Mỹ xinh đẹp
thì ông chồng bà ta trở về. Một cuộc đọ súng đã nổ
ra. Trước khi ngã quị vì đạn khẩu Colt 45 của tên
tướng cướp, tay nhà buôn Mỹ cũng đã kịp bấm cò tặng
cho tên tướng cướp một viên vào ổ bụng.
Vết
thương quá nặng, Điền Khắc Kim đã không còn cơ hội
để trốn tù. Lần này, vì là một quân nhân, phạm tội
khi đang đào ngũ, Điền Khắc Kim đã bị tống vào quân
lao Gia Định, nơi giam giữ toàn những tên du đãng xuất
thân từ lính tráng.
Vào
tù, để “giựt le” với đám du đãng đa phần thất
học, Điền Khắc Kim tự khai đã học hết đệ nhị (lớp
11), dù kỳ thực hắn chưa hề học hết trung học đệ
nhất cấp (cấp 2), kiến thức bị gió giang hồ thổi bay
gần hết nên chữ xấu như gà bới. Lờ tịt sự khai man
này, chỉ nhằm lợi dụng uy thế của tên cướp lừng
danh để trị bọn tiểu yêu trong quân lao, đám cai ngục
ở đây đã phong cho hắn cái chức “thư ký quân lao”.
Dù là tên cướp đang ở tù, hắn vẫn ăn mặc tử tế
như một sinh viên với áo sơmi đóng thùng cẩn thận,
trên nắp túi còn giắt thêm một cây viết paker cho thêm
phần trí thức.
Có
một điều kỳ quái là, trong giới giang hồ, ngôi vị cao
thấp thật sự chỉ được phân định rạch ròi khi ở...
trong tù. Là “thư ký đề lao”, nghiễm nhiên Điền Khắc
Kim trở thành vua một cõi. Đó chính là lúc bản chất
lưu manh mạt hạng của tên tướng cướp bộc lộ đầy
đủ nhất. Không có gì để nghi ngờ, việc Điền Khắc
Kim trở thành hung thần, chuyên cướp, hiếp những người
Mỹ giàu có khởi nguồn từ cái chết bi thảm của Hélen
Diễm, mục đích chính là để trả thù. Nhưng, đó chỉ
là những vụ đầu tiên, còn sau này, hắn đi cướp chỉ
vì một mục đích duy nhất: kiếm tiền ăn chơi phè phỡn.
Diễm đèo chỉ là kỷ niệm thoáng qua, một màn sương mờ
cay nồng khói pháo, một gam màu lạ để Điền Khắc Kim
tô vào bức tranh đầy hào quang ảo cho thêm phần thê
thiết. Đích thực, hắn là một tên bệnh hoạn. Mỗi lần
cướp về, hắn thường xổ tung tiền, vàng cho chúng bay
vung vãi khắp nhà rồi nằm lăn lộn trên đó để tìm
khoái cảm. Trong tù, bao nhiêu tiền làm luật hoặc do đàn
em cống nộp, Điền Khắc Kim trải đầy ra dưới tấm
drapp để “nằm cấn lưng nghe kêu rột rột đã tai
chơi”. Đồng tiền được phong thánh thì nhân cách hóa
tên đồ tể. Điền Khắc Kim không tiếc tay đánh đập
đàn em, những tên tù hạng tép riu tứ cố vô thân, để
thị oai và tiêu khiển. Và, khi gặp đúng đối thủ, hắn
sẽ phải trả giá cho điều đó.
Sự
buông lơi kỷ luật đã khiến khối hình sự trại giam
Chí Hòa ngày càng trở nên hỗn loạn; đâm chém, thanh
trừng nhau diễn ra liên miên. Không chịu nổi, cuối năm
1974, nhà tù Chí Hòa đã tiến hành một đợt thanh lọc,
tống những tên đầu bò đầu bướu nhất của trại này
sang quân lao Gia Định để tiện bề quản lý, tất cả
có 32 tên. Vừa đến nơi ngồi tù mới, những tên cộm
cán này đã la ó vang trời tính chuyện “làm reo”. Là
“thư ký đề lao”, Điền Khắc Kim cũng có mặt trong
buổi tiếp nhận những thành viên mới. Muốn thị oai,
hắn xông ra quát:
-
Muốn làm loạn hả? Không biết ông nội bay đang ở đây
sao?
Nổi
nóng, Lâm Chín ngón nhảy xổ ra:
-
Mày là thằng chó nào?
Điền
Khắc Kim tức lắm bảo:
-
Đừng lộn xộn, ông nội mày là Điền Khắc Kim đây.
Lời
hắn chưa dứt, Lâm Chín ngón đã nhảy xổ tới, một tay
kẹp ngang cổ họng, một tay rút luôn cây paker trên túi
áo hắn đâm thẳng xuống đầu kẻ mạnh mồm. Hung hăng
nhưng nhỏ con, Điền Khắc Kim không chọi lại gã hộ
pháp Lâm Chín ngón, cứ quẫy đạp lung tung nhưng vẫn
không thoát, lãnh nguyên nhát đâm vào giữa trán. May cho
hắn, đầu bút chọc trúng vết thẹo cũ do đạn của
Biệt đội hình cảnh trước đây tặng. Thẹo trơn, vết
đâm chệch đi nên Điền Khắc Kim không chết nhưng máu
cứ tuôn xối xả, đỏ lòm khuôn mặt. Đến lúc đó, Lâm
Chín ngón mới chịu buông tay, vứt “thằng oắt” sang
một bên mặc cho hắn kêu la chói lói.
Sau
trận đó, Điền Khắc Kim mới hết ngổ ngáo, tỏ ra biết
điều hơn. Tháng 4.1975, sau khi phân loại, Điền Khắc Kim
và một loạt tù trọng án tại quân lao Gia Định bị đổ
xuống tàu, tống ra Côn Đảo. Tàu cập bến ngày 22.4.1975
thì 8 ngày sau, Côn Đảo giải phóng. Lợi dụng tình hình
lộn xộn, Điền Khắc Kim và nhiều tên tù hình sự khác
đã đánh lính gác, cướp súng chạy thoát ra ngoài.
Vừa
được hít thở khí trời, hắn đã lập tức xông vào
khu gia binh, gây liền hai vụ cướp tại nhà hai cảnh sát
chế độ cũ. Côn Đảo đã giải phóng, “thù dân tộc”
không còn nhưng trò đồi bại thì vẫn tồn tại, tên súc
sinh đã không quên cưỡng đoạt hai bà vợ lính rồi rút
lên núi trốn. Nhưng chỉ ba hôm sau, hắn đã bị lực
lượng quân quản của đảo tóm cổ.
Sau
một thời gian thụ hình tại Côn Đảo, Điền Khắc Kim
được chuyển về trại giam Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.
Tại đây, giữa tháng 5.1978, cùng với tên Nguyễn Ngọc á
- một trí thức ngồi tù vì tội... buôn heo lậu - Điền
Khắc Kim đã cạy vách tôn nhà xí phòng giam trốn trại,
sau đó trốn về Sài Gòn, lén lút trốn tại nhà vợ bé
ở đường Hưng Phú, quận 8.
Trước
khi trở thành tên cướp lừng danh (1968), Minh con đã lấy
vợ - một phụ nữ bình thường nhà ở đường Tôn Đản,
quận 4. Khi vợ sinh con đầu lòng, gió giang hồ đã cuốn
Minh con đi mất, vợ con hầu như chẳng mấy lúc đoái
hoài. Tiền bạc cướp được, hắn chỉ ăn chơi, đập
phá cho kỳ hết, chẳng giúp được gì vợ con. Đã thế,
hắn lại còn đeo thói trăng hoa. Năm 1969, trong một lần
trốn sự truy lùng của Biệt đội hình cảnh (ngụy) tại
khu vực Bến Tàu, quận 8, hắn tình cờ gặp chị Phạm
Thị Dung. Khuôn mặt ưa nhìn của cô gái bán sương sâm
đã khiến tên cướp sa cơ thoáng chạnh lòng. Ngoắt chị
Dung lại, tướng cướp Điền Khắc Kim gọi một lúc 10
ly sương sâm, ngồi tì tì húp. Xong xuôi, hắn chùi mép,
bảo:
-
Đói quá, tôi ăn sương sâm trừ cơm. Bữa nay không có
tiền, em cho tôi thiếu, mai mốt muốn bao nhiêu tôi trả
bấy nhiêu.
Khuôn
mặt hiền lành, khắc khổ, giọng nói có vẻ thành thật
khiến cô gái bán sương sâm nghèo không nỡ làm dữ, chỉ
im lặng thở dài và quảy gánh đi. Độ một tuần sau,
khi quay trở lại chỗ cũ chị đã thấy Minh con đứng từ
xa toét miệng cười. Đưa cho chị một xấp tiền dày
cộm, hắn bảo:
-
Khỏi thối, để đó tôi ăn sương sâm trừ dần.
Rồi
hắn lại bắt chị ngồi múc từ từ đủ 10 ly để hắn
ngồi nhẩn nha ăn, vừa ăn vừa nói đủ chuyện huyên
thuyên chi địa.
Khi
số sương sâm đã đủ với số tiền Minh con đưa thì
cũng đủ thì giờ để cô chủ buông đòn gánh nằm vào
lòng hắn. Hắn bảo:
-
Anh làm công nhân, nghèo, không có tiền đám cưới, em
chịu không?
Thở
dài, chị lại gật đầu. Đã thương rồi thì không đám
cưới với ăn sương sâm thiếu nào có khác gì nhau.
...ở
với nhau được một mặt con, chị Dung mới biết Minh con
đã có vợ có con, nhưng ván đã đóng thuyền, cũng đành
ngậm bồ hòn làm ngọt. Lâu lâu, hắn tạt về, đưa cho
chị một số tiền lớn (vừa cướp được) bảo là mới
“trúng áp phe”, để chị sửa lại cái nhà, sắm thêm
cho mẹ, cho con vài ba tấm áo mới, thế là đủ mãn
nguyện để khoe với xóm giềng. Không ngờ, cuối năm đó,
sau nhiều tháng hắn đi biền biệt, Dung mới ngớ ra: Minh
con - anh chồng hiền lành tử tế - lại là Điền Khắc
Kim, “tướng cướp cô đơn” khét tiếng. Chị khóc,
khóc rất nhiều. Sau ba bốn bận thăm nuôi, chị đành xem
như Minh con đã chết, chỉ câm nín bán sương sâm nuôi mẹ
già và ba đứa con thơ.
Đùng
một cái, thằng chồng dối trá quay trở lại. Hung thần
với ai, tướng cướp với ai, chứ với chị, hắn mãi
mãi là một “anh Minh”, cha của ba đứa nhỏ. Khuyên
không được, chị cũng không nỡ tố giác chồng, đành
nhẫn nhục cưu mang che giấu Điền Khắc Kim, dù chị biết
rất rõ chồng mình là tên tù vượt ngục. Với Điền
Khắc Kim, tấm lòng người vợ chính là nơi trú ẩn cuối
cùng. Vợ lớn của hắn ở đường Tôn Đản, ngay sau khi
hắn bị đày ra Côn Đảo đã bán nhà, ôm con đi biệt
xứ, không còn trông mong gì nữa...
ở
nhà một thời gian, Điền Khắc Kim mò ra đường Hồ Văn
Ngà, tìm một người bạn gái cũ đang sống lắt lay bằng
nghề bán hàng lạc-xoong (đồ cũ) tính cậy nhờ để tìm
sinh kế. Vừa ra đến nơi, hắn đã bị công an phát hiện
và bắt giữ, sau đó bị đưa lên cải tạo tại trại
Tống Lê Chân (Sông Bé). Ngồi trại đến tháng 7.1983, hắn
lại trốn. Con thú dữ sổng chuồng ngày càng liều lĩnh
và hung bạo hơn. Vừa đặt chân trở lại Sài Gòn, hắn
đã một mình gây hàng loạt vụ cướp mới. Lần này, đa
số nạn nhân của tên cướp hết thời đều là đàn bà,
con nít, những kẻ yếu ớt, cô đơn.
Một
lần, vừa cướp được một chiếc xe đạp trên đường
Nguyễn Thị Minh Khai (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) thì hắn
bị công an vây bắt. Cùng đường, hắn kê súng vào bụng
anh công an bóp cò nhưng đạn lép, không nổ nên bị tóm
tại trận.
Trở
vào trại giam, cố hết sức, Điền Khắc Kim vận công,
gồng bụng làm bục vết thương Mỹ bắn ngày nào. Được
công an đưa vào Bệnh viện Bình Dân cấp cứu. 3 giờ
sáng, lợi dụng lúc anh công an gác cửa ngủ gục, hắn
lại bẻ còng trốn thoát. Vì vụ đào tẩu này, dư luận
Sài Gòn lại có dịp ồn lên.
Trong
khi Điền Khắc Kim đang bị truy nã ráo riết thì tại
những quầy sách ở đường Đặng Thị Nhu, quận 1 lại
có kẻ táo gan xuất hiện xưng danh hắn. Ông ta đi tất
cả quầy sách, gom hết những cuốn “Bố già” của
Mario Puzzo mà không hề trả tiền. Nghe xưng Điền Khắc
Kim, các chủ quầy sách thất kinh, vội đi báo công an. Bị
bắt, gã điên này sửng cồ:
-
Để xem Điền Khắc Kim với bố già Victor Don Carléon ai
bảnh hơn ai. Nó ngon, tôi thách nó đấu súng.
Không
thể nhốt một gã điên, công an đành phải cho xe chở
hắn về chỗ cũ. Được thả, hắn phản đối quyết
liệt:
-
Sao không bắt tôi?
Người
ta bảo:
-
Ông có tội gì mà bắt?
Hắn
tỉnh queo:
-
Sao không? Điền Khắc Kim là tôi, kẻ cướp, hiếp, bắn
lòi ruột cả chục thằng Mỹ, sao không có tội?
Tiếng
tăm đen đúa lẫy lừng là thế nhưng đoạn cuối cuộc
đời ngang dọc, Điền Khắc Kim đã tự biến mình thành
một tên lưu manh mạt hạng. Không còn những vụ đột
nhập xuất quỉ nhập thần, không còn các phi vụ rượt
đuổi và đấu súng dữ dội, cũng không vấn vương mùi
thuốc pháo đớn đau hay vị ngọt mát lãng mạn của ly
sương sâm bên bến tàu vất vả, cái còn lại của hắn
chỉ là những vụ trộm cắp, cướp giật vặt vãnh của
một tên hạ lưu bần tiện. Lần cuối cùng, hắn bị dân
phòng phường 12, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh tóm cổ
trong đêm khi đang tẩu tán một chiếc xe đạp và mớ
quần áo cũ do một đàn em là Lê Văn Thanh trộm được ở
một căn nhà bên cầu Rạch Ông, quận 8. Lúc đó là tháng
4.1985. Khi chị Dung dẫn ba đứa con, đứa lớn 15 tuổi,
đứa nhỏ mới lên 3 vào trại giam thăm nuôi, Điền Khắc
Kim đã ngượng ngùng cúi mặt. Và khóc. Hắn biết thời
làm gió làm mưa đã hết. Cái tên Điền Khắc Kim đã
vĩnh viễn không còn ám ảnh hay khuấy động được ai
nữa.
8.
HUỲNH TỲ
(Nhị
ca mất số)
Trong
quá trình ngoi lên trở thành ông trùm của giới tội phạm
Sài Gòn, Năm Cam đã lần lượt thực hiện các bước núp
bóng, lợi dụng rồi hạ bệ hàng loạt đàn anh lớn nhỏ.
Giang hồ sợ nhất Năm Cam ở điểm y không từ bất cứ
ai và sẵn sàng xuống tay cực kỳ tàn bạo để tiêu diệt
tất cả những kẻ cản đường hắn, cho dù người đó
từng là chiến hữu, đàn anh hay có tình đệ tử lâu năm
ân nghĩa với y. Ngoài Lâm Chín ngón trở thành tàn phế
vì acid, Dung Hà bỏ mạng vì ăn đạn, trong danh sách giang
hồ cộm cán bị Năm Cam “lấy số” còn phải kể thêm
Huỳnh Tỳ - kẻ có thời được giang hồ Sài Gòn xem như
nhân vật số 2 chỉ đứng sau Đại Cathay trong nhóm “Tứ
đại giang hồ”.
Lai
lịch một danh xưng
Huỳnh
Tỳ tên thật là Nguyễn Thuận Lai, sinh năm 1944, hơn Năm
Cam 3 tuổi. Có lẽ anh ta là tay giang hồ “có số má”
duy nhất từ nhỏ chí lớn vẫn không thay đổi chỗ ở,
hàng chục năm nay vẫn sống tại nhà số 4/1 Nguyễn Văn
Tráng, quận 1. Tp. Hồ Chí Minh.
Năm
1960, học hết đệ tam (lớp 10) ở trường Nguyễn Bá
Tòng, chú nhóc Nguyễn Thuận Lai nghỉ ngang, theo cha làm lơ
xe đò tuyến Sài Gòn - Nha Trang - Pleiku. Chính nghề lơ xe
đường dài đã khiến tên học trò hiền lành nhanh chóng
tiêm nhiễm đủ mọi thói hư tật xấu của đàn ông con
trai thời chiến. Đến tuổi quân dịch, để tránh bị
bắt lính, Nguyễn Thuận Lai đổi tên thành Huỳnh Tỳ -
một cái tên gắn chết cả đời với nghiệp chướng
giang hồ.
Góc
đường Lê Lai, quận 1 có một rạp hát khá nổi tiếng
là rạp Aristo. Năm 1954, gánh hát Kim Chung của ông
bầu Long di cư vào Nam, lấy rạp Aristo làm đại bản
doanh. Ăn theo gánh hát, những trục đường như Lê Lai,
Gia Long (nay là Lý Tự Trọng), Nguyễn Văn Tráng... quán
ăn, hàng giải khát nổi lên khá náo nhiệt, đồng thời
cũng kéo theo không ít dân trộm cắp, móc túi, trẻ bán
báo, đánh giày qui tụ. Khu vực này lại gần chợ Bến
Thành và ga Sài Gòn. Mỗi lần “móc đổng” (giật đồng
hồ), “ăn kẹp” (móc túi) ngoài chợ xong, đám lưu manh
thường chạy ngay về khu Lê Lai để trốn tránh. Tam giác
Lê Lai - Nguyễn Văn Tráng - Gia Long nhanh chóng trở thành
một mảnh đất màu mỡ để hứng hàng ăn cắp, móc túi
bán giá rẻ và tổ chức các loại dịch vụ như sòng
bài, động chích, tiệm hút, gái... cho đám cô hồn các
đảng này ăn khao bằng tiền trộm cướp. Cùng với hai
tay anh chị khác là Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế, Huỳnh
Tỳ với kinh nghiệm “du thủ du thực” học được trên
những chuyến xe đò đường trường đã đứng ra nhận
bảo kê toàn bộ các dịch vụ nhám nhúa này. Thằng lơ
xe cục tính nhanh chóng ngoi lên vị trí ông trùm, sau hàng
loạt những vụ chém lộn tưng bừng với các băng đảng
khác. Ngoài Ngô Văn Cái và Ba Thế, dưới trướng Huỳnh
Tỳ còn có thêm một loạt đàn em khác như Cu Ba đen, Tâm
vồ, Hùng phốc, Luân sún... Trong gánh hát, bầu Long cũng
thu dụng một loạt tay đao búa từng nổi tiếng một thời
tại Hà Nội để làm chân bảo vệ. Đám này gồm Sinh
càn, Phúc đen, Tâm Ba tai... Ngoài giờ bảo vệ, bọn chúng
thường tụ tập tại quán Kiều Chánh cạnh rạp Aristo.
Ngứa mắt, Huỳnh Tỳ và đàn em đã gây nhiều trận đập
lộn tóe lửa với đám bảo vệ này. Để yên thân, bầu
Long đã khôn khéo đãi tiệc dàn hòa hai bên, thu dụng
luôn cả băng của Huỳnh Tỳ, chấp nhận đặt các ông
tướng gốc Hà Nội vào dưới trướng của y, đồng thời
để cho Huỳnh Tỳ và đàn em ra vào rạp Aristo tùy thích.
Khi
quân đã hùng, tướng đã mạnh, nội các tam đầu chế
gồm Tỳ, Cái, Thế thường tụ nhau bia rượu, bài bạc
suốt ngày tại rạp hát Aristo cho nên được giang hồ gọi
luôn là băng Aristo để phân biệt với băng Cathay do Lê
Văn Đại cầm đầu có khu vực hoạt động là chợ Cầu
Ông Lãnh, cách đó chỉ hơn nửa cây số.
Khoảng
năm 1964, nhờ sự liều lĩnh của Đại Cathay, băng Cathay
bắt đầu mạnh lên. Sau khi diệt băng Bé Bún, quận 4,
đâm tên này đổ ruột, Đại dần dần thôn tính được
toàn bộ khu Da Heo (đường Nguyễn Công Trứ) của tay anh
chị Tám Lâu, thò tay gom luôn cả sòng bạc hẻm 100 của
Bảy Sy (anh rể Năm Cam) rồi vươn ra thâu tóm luôn cả
sòng bạc của Đực Bà Tiều tại Chợ Cầu Muối... trở
thành đại ca có máu mặt nhất của khu vực quận Nhất,
quận Nhì và quận Tư. Lo sợ thế lực của băng Cathay sẽ
“nuốt” mất cả khu Lê Lai, Huỳnh Tỳ bàn với hai phó
tướng Ngô Văn Cái và Thế Aristo tìm cách diệt Đại. Rủ
thêm Hùng phốc và Luân, hai giang hồ cộm cán khác, cả
băng Aristo bày tiệc trên lầu rạp hát mời Đại Cathay
tới giao lưu. Không mảy may nghi ngờ, Đại Cathay tới
ngay. Chưa lên hết cầu thang, Đại Cathay đã chột dạ:
nụ cười đón khách của Thế Aristo đột nhiên thay đổi.
Chưa kịp hỏi, Đại Cathay đã bị Thế đá lộn cổ
xuống thang lầu. Cùng một lúc, Tỳ, Cái, Luân, Hùng bốn
kẻ phục kích nhất tề rút dao xông vào chém tới tấp.
Vừa đỡ đòn, vừa tìm đường thoát thân, Đại Cathay
lết được ra khỏi tử địa, mình mẩy đầy thương
tích nhưng may mắn thoát chết. Khi những vết thương vừa
bắt đầu kéo da non, Đại Cathay đã giắt dao, đơn
thân độc mã đi tìm từng tên một để trị tội. Huỳnh
Tỳ và bốn tên giang hồ đồng mưu lần lượt bị Đại
Cathay chém trọng thương trong cùng một hoàn cảnh, là khi
chúng đang ngồi nhậu tại quán Kiều Chánh. Nhắm thế
không chơi lại Lê Văn Đại, cũng không thể “trải đệm”
tên này, vì băng Cathay quá mạnh, Huỳnh Tỳ đành thay mặt
cả băng bắn tiếng cầu hòa. Đang say máu, Đại Cathay
không nghe, vẫn tiếp tục tìm cả 5 tên để chém. Hoảng
quá, cả 5 tên phải mời bầu Long đứng ra tìm Tám Lâu,
đàn anh cũ của Đại Cathay nhờ nói giúp. Biết tính Đại
Cathay, Tám Lâu lại phải cạy cục nhờ hai tay anh chị
lừng danh là Ba Hội và Cảnh Tượng (đều lớn hơn Đại
Cathay vài mươi tuổi), bày tiệc tại quán Biên Thùy ở
chợ Cầu Muối mời thằng em đến khuyên giải. Nể tình
và nể tuổi tác, Đại mới nguôi ngoai, chấp nhận cho
Huỳnh Tỳ và 4 tên cùng băng đến dập đầu xin lỗi, để
rồi sau đó băng Aristo vĩnh viễn bị xóa sổ, quân tướng
đều qui về dưới quyền sai phái của một đại ca duy
nhất là Lê Văn Đại. Cuộc hợp nhất giang hồ giữa
thập kỷ 1960 đã đẻ ra danh xưng “Tứ đại giang hồ”
Đại-Tỳ-Cái-Thế, với Đại Cathay, kẻ không đối thủ
đứng đầu và xếp phía sau là ba đối thủ của kẻ...
không đối thủ.
Huỳnh
Tỳ bị Năm Cam “lấy số”
Mất
ngôi đầu lĩnh, Huỳnh Tỳ tự an ủi mình với danh hảo
là nhị ca trong “tứ đại giang hồ” hay mỹ miều hơn,
gọi là “tứ đại Thiên Vương”, cung cúc phò tá Đại
Cathay trong các cuộc thanh trừng theo kiểu xã hội đen.
Đáp lại, y được Đại Cathay giao quyền trông coi một
loạt các sòng bài, tiệm hút không chỉ trong địa bàn
khu Lê Lai mà cả địa bàn khu Cầu Muối. Cứ độ 10 giờ
sáng, Huỳnh Tỳ lại có mặt tại các sòng bạc của Đực
Bà Tiều và Bảy Sy để thu xâu nộp cho Đại Cathay nuôi
quân. Còn buổi tối, hắn lại diện đồ “kẻng” theo
đàn anh vào các vũ trường tha hồ đập phá. Thời hoàng
kim của băng Đại Cathay kéo dài đến tháng 6.1966 thì
chấm dứt, khi Đại Cathay bị bắt, băng Cathay tan rã. Vào
thời điểm đó, Năm Cam vẫn chỉ là một tên phá gia chi
tử, thường trộm tiền của Bảy Sy ăn xài vung vít, chưa
có tên tuổi, số má gì trên chốn giang hồ.
Sau
giải phóng, cả Tỳ, Cái, Thế lẫn Năm Cam và nhiều tên
xã hội đen vằn vện khác đều thay nhau vào tù ra khám.
Ra tù, Năm Cam dần dần củng cố thế lực, ngày một
phất lên, đến đầu những năm 1990 đã nghiễm nhiên trở
thành ông trùm của thế giới ngầm. Trong khi đó, hầu
hết các “đàn anh” cũ của Năm Cam đều vì ma túy mà
trở thành dặt dẹo. Ngô Văn Cái quyết cai ma túy bằng
cách uống rượu, cuối cùng chết bất đắc kỳ tử vì
ung thư gan. Nguyễn Kế Thế không chịu nổi mối giày vò
vì lỡ thời phải ăn bám vợ (vốn là chủ một động
tiêm chích), khoảng năm 1985 đã lặng lẽ bỏ lại toàn
bộ tư trang, tài sản và ra miền Trung nương nhờ cửa
Phật, đến nay vẫn không tăm tích. Một cao thủ giang hồ
khác là Đức Raymond không chịu nổi cảnh đói thuốc
phải ngửa tay xin tiền bạn bè, chịu sự khinh miệt, đã
tự xử đời mình bằng thuốc độc.
Huỳnh
Tỳ vốn cũng nghiện nặng. Sau giải phóng, giang hồ không
còn đất sống, Huỳnh Tỳ thường xuyên đói thuốc vã
mồ hôi. Gánh nặng kinh tế gia đình càng chồng chất
thêm khi vợ anh ta mất vào năm 1978, để lại cho Tỳ hai
đứa con nhỏ dại, trai mới 4 tuổi, gái mới 2 tuổi.
Không băng nhóm, không nghề ngỗng, không đủ dũng khí để
tự xử như Đức Raymond hay tiếp tục xưng hùng xưng bá
như Lâm Chín ngón, Huỳnh Tỳ phải xoay sang mánh mung cò
con, từ xóc bầu cua, tổ chức đánh chẵn - lẻ đầu hẻm
đến bán lẻ, chích dạo ma túy để nuôi con và nuôi
thân, chỉ mong được no cả dạ dày lẫn no óc. Hậu quả
là trong vòng 20 năm (1975-1995), Huỳnh Tỳ phải ra vào trại
cải tạo, nhà giam hơn chục bận.
Ngưu
tầm ngưu, mã tầm mã, khoảng đầu năm 1992, Huỳnh Tỳ
đã liên kết được với một số tên giang hồ hết thời
như Minh ba giá (Lương Văn Lâm), Trần Thị Ngàn, Minh bu,
Lý Đôi, Thành đôla tổ chức được một sòng bạc tại
hẻm 98F Lê Lai, gồm cả đánh tài xỉu, chẵn lẻ và xóc
đĩa. Chuyện đến tai Năm Cam. Không kiêng nể xót thương
gì các đàn anh thất thế, Năm Cam ra lệnh dẹp ngay. Huỳnh
Tỳ không nghe, vẫn tiếp tục chơi. Ngay lập tức, sòng
bạc này liên tục bị Cảnh sát Hình sự khám xét và
giám sát, không con bạc nào dám bén mảng. Biết là Năm
Cam ra tay triệt hạ, Huỳnh Tỳ phải mang lễ vật đến
ngọt nhạt năn nỉ, mời Năm Cam hùn vốn và được ông
trùm đồng ý.
Vốn
mà Năm Cam góp vào là Thành Chân, tay giang hồ trẻ tuổi
nhưng lão luyện, có đầu óc, được Năm Cam phái đến
giám sát, tổ chức sòng. Tên thứ hai là Lê Thị Điệu,
vợ Thọ đại úy, được Năm Cam đặc trách cho phép hành
nghề cầm đồ và cho vay nặng lãi tại sòng. Ngoài phần
ăn chia theo tỉ lệ hùn hạp, mỗi tuần Huỳnh Tỳ phải
mang đến nộp cho ông trùm 5 triệu đồng tiền xâu. Kể
từ đó, công việc làm ăn trở nên hanh thông, không bị
băng nhóm khác hay công an đến hỏi thăm nữa. Tự đánh
giá cao vai trò của mình, Năm Cam lại bắt Huỳnh Tỳ nộp
thêm mỗi tuần từ 3 - 5 triệu đồng nữa, gọi là “phí
ngoại giao”, để ông trùm “hương hoa” cho “người
nhà nước”. Dù biết tỏng đây là trò ăn chặn, tiền
đưa ra chỉ chảy vào túi tham của Năm Cam, Huỳnh Tỳ vẫn
phải cay đắng mở rộng hầu bao, không dám hó hé. Mối
quan hệ hùn hạp này kéo dài từ đầu tháng 7 đến tháng
12.1992 thì chấm dứt. Thời điểm này, tên tuổi của Năm
Cam bị khui ra trên một tờ báo. Cho rằng ông trùm sắp
bị bắt, nghĩa là sẽ quay về vị trí thằng nhãi, chẳng
việc quái gì phải sợ, Huỳnh Tỳ bèn ngưng không cúng
nộp tiền xâu và chuẩn bị trục xuất đám đàn em Năm
Cam. Sự “dại dột” lập tức được trả giá: Ngày
6.1.1993, sòng bạc hẻm 98F bị công an bắt quả tang, hơn
10 “nhân viên” của sòng phải tra tay vào còng, xộ
khám.
Vụ
bố ráp này Huỳnh Tỳ may mắn cùng với Minh ba giá thoát
được, nhưng anh ta hiểu ngay đó là đòn trừng phạt của
Năm Cam. Rất dễ hiểu, những kẻ bị bắt đều là chiến
hữu của Huỳnh Tỳ, còn những đàn em của Năm Cam phái
đến hoặc tin cậy như Thành Chân, Minh bu, Lý Đôi, thị
Điệu thì không một ai bị tóm.
Bị
truy nã, Huỳnh Tỳ không còn con đường nào khác, lại
phải đi “bằng đầu gối” đến tạ tội và cầu cạnh
Năm Cam. “Ông trùm” lại gia ân, phái đàn anh đi tổ
chức các sòng bạc khác ở quận 4, quận 8 và Biên Hòa.
Để tỏ lòng trung thành, Huỳnh Tỳ đã “đau xót” tiếp
tay cho Năm Cam trừng phạt dằn mặt một “giang hồ cầm
bút” thường ký tên T.
Trước
giải phóng, T. là một cây bút phóng sự có hạng, chuyên
khai thác đề tài xã hội đen. Giang hồ Sài Gòn rất
kiêng ký giả này vì anh ta rất giỏi võ, từng là một
đai đen nhị đẳng Taekwondo, sau giải phóng lại trở
thành đệ tử chân truyền đời thứ 7 của võ phái Vịnh
Xuân nổi tiếng. Tật xấu của anh ta là nghiện thuốc
phiện, cho nên không tờ báo nào nhận T., ngay cả đại
sư Nam Anh - Chưởng môn phái Vịnh Xuân - cũng phải trục
xuất võ sĩ tài năng này ra khỏi võ đường. Để kiếm
sống T. phải cộng tác với khá nhiều tờ báo, với sở
trường là những phóng sự nóng bỏng về cuộc sống và
mánh lới giang hồ. Anh ta là nhà báo đầu tiên ném tên
tuổi Năm Cam lên mặt báo. Găm hận vào lòng, Năm Cam rắp
tâm dằn mặt T. để trả đũa. Giữa năm 1995, khi ký giả
T. đang phê thuốc phiện tại một động hút của Huỳnh
Tỳ ở đường Lê Lai thì công an ập vào. Bị bắt quả
tang, T. đành khăn gói vào trại, bị cai nghiện bắt buộc.
Khi nồng độ ma túy trong máu anh ta đã loãng thì Năm Cam
bất ngờ ghé thăm. “Trời đất, chỗ anh em không, sao
lại ra nông nỗi này. Để tôi nói với mấy ảnh một
tiếng”. Chả biết Năm Cam nói với ai, nói kiểu gì,
nhưng chỉ vài giờ sau chuyến thăm viếng bất thường,
T. đã được phóng thích. Biết mình không phải đối thủ
của Năm Cam, lại xấu hổ với đồng nghiệp nghề báo,
ký giả T. sau chuyến ấy đã vĩnh viễn gác bút, chấm
dứt một cái tên khá lừng lẫy cả trên mặt báo lẫn
chốn giang hồ.
Sau
vụ giúp Năm Cam dằn mặt ký giả, Huỳnh Tỳ còn tiếp
tục phò tá con cáo già một thời gian, được Năm Cam trả
công nên không bị bắt, dù đang có lệnh truy nã. Tháng
9.1995, tội lỗi của Năm Cam lại bị báo chí phanh phui,
Huỳnh Tỳ lại trở mặt không nộp xâu nữa. Không lâu
sau đó, Năm Cam bị bắt đi cải tạo. Không còn ai bảo
kê, ngày 31.10.1995, Huỳnh Tỳ cũng bị tóm cổ và ra tòa
lãnh án.
Sau
này, khi cả Năm Cam lẫn Huỳnh Tỳ đều đã được trả
tự do, Năm Cam đã “cạch” không cho tên đàn anh này
bén mảng đến sòng bài của y nữa. Bị thất sủng, song
với “nhị ca mất số”, đó lại là điều may, bởi
chính vì “mất số” nên anh ta mới không trở thành bị
cáo một lần nữa trong chuyên án “Năm Cam và đồng
bọn”. Đó là điều an ủi cuối cùng của Huỳnh Tỳ,
kẻ đã từng là một nhị ca lẫy lừng trở thành một
giang hồ dặt dẹo bị chính giang hồ coi rẻ.
9.
LÊ VĂN TUỆ
Bây
giờ, hắn là ông chủ nhỏ của một gia đình, có một
vợ một con, một ngôi nhà nhỏ mọc giữa khoảng vườn
thưa đầy lá rụng. Từ sáng đến tối, hắn cần mẫn
úp mặt xuống đáy sông Tiên (xã Tiên Lộc, Tiên Phước,
Quảng Nam) đãi sỏi bán cho dân thầu xây dựng, kiếm
từng 10 ngàn đồng một để nuôi vợ nuôi con. Những
người quen trong xóm đi qua, nhìn cái dáng lụi cụi, vất
vả và cam chịu của hắn chỉ lặng lẽ thở dài. Đám
trai tráng ria mép chưa kịp cứng thì tròn mắt ngạc
nhiên. Không hiểu nổi có thật là hắn - đại ca Lê Văn
Tuệ khét tiếng, kẻ từng dám tiêu hoang cho đến hết
một lúc hàng trăm cây vàng, kẻ đã từng là nỗi khiếp
hãi của cư dân bất hợp pháp vùng vàng Phước Sơn - đấy
không? Ai tròn mắt, ai ngạc nhiên... cứ việc. Với Tuệ,
tất cả đã thành quá vãng. Cái thời “thò tay vào túi
là đụng phải vàng” ấy đã qua rồi, qua mà không có
gì đáng để nuối tiếc, bởi đó là đoạn đường đầy
những máu hận thù và nước mắt tủi nhục...
Hơn
18 năm trước, Lê Văn Tuệ chỉ là một thằng bé con nhà
nghèo, đến lớp với hai chân hai chiếc dép khác màu. Năm
1986, học hết lớp 12, chán cái cảnh đến lớp với cái
bụng lúc nào cũng óc a óc ách vì... đói, Tuệ xếp sách
vào bao tải treo lên xà nhà, theo bạn bè đi đãi vàng sa
khoáng ở Trà Giốc, Trà My, le lói trong lòng một khát
vọng đổi đời. Nhưng vàng đâu không thấy, chỉ thấy
vàng hai con mắt. Sốt rét rừng quật ngã gục giấc mơ
hiền lành của thằng trai 16 tuổi. Tỉnh cơn nóng lạnh,
Tuệ cùng đám bạn lại lo... chạy, vì bị công an truy
quét liên tục. Túng quá hóa liều, nhóm của Tuệ bàn
nhau đi “chấn”. Tháng 2.1992, Tuệ tham gia phi vụ “ăn
bay” đầu tiên, chấn được 2,6 cây vàng bổi. Số tiền
này, cả bọn không thằng nào dám tiêu, chúng đầu tư
hết vào mua máy, máng xay vàng tại bãi Tiên Hiệp, Tiên
Phước. Không chút kinh nghiệm, chỉ ít ngày sau, số vàng
cướp được đã bốc hơi theo khói máy dầu. Chán nản,
cả bọn dàn cảnh đánh nhau để có cớ rã đám. 12 triệu
đồng bán máy được chia đều cho 7 thằng, mỗi thằng
lận lưng một ít và chia tay nhau. Từ đó, Tuệ bắt đầu
một đoạn đời kinh khủng mà dẫu có muốn cũng không
quên được.
Ngày
18.3.1992, Tuệ ném mình vào giữa bãi đá Saphre Trường
Xuân (Đắc Nông - Đắc Lắc). Bãi vàng hay bãi đá quí
thì cũng như nhau, đều là nơi bạo lực đồng nghĩa với
quyền lực. Đúng hôm Tuệ mò lên thì máng đãi của sáu
thằng oắt con cùng quê Nông Cống, Thanh Hóa vào cầu,
nhặt được dăm bảy viên đá “lốt” (deluxe). Lập
tức, chiến tranh hầm hố xảy ra. Sáu thằng bé con bị
một đám dân anh chị trong bãi tấn công, đòi giao nộp
chiến lợi phẩm. “Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã”, Tuệ
tự động xắn tay áo xông vào trợ chiến. Thấy có người
giúp, bọn nhóc trở nên can đảm hẳn lên, lăn xả vào
trận, đánh cho đám gây hấn tan tác. Để trả nghĩa,
chúng nằng nặc mời cao thủ Lê Văn Tuệ “ở lại với
anh em”. Chưa biết đi đâu, tiền mang theo cũng đã cạn
kiệt, Tuệ gật đầu ở lại làm “đấng chăn dắt”
đám trẻ con thừa máu liều nhưng thiếu kinh nghiệm và
cô thân cô thế. Việc của Tuệ không phải là nai lưng
ra đào đãi mà là “bảo kê”, đứng ra dàn xếp những
mối bất hòa, thậm chí sẵn sàng động chân động tay
khi có kẻ mò đến đòi tiền bãi hay cướp phá. Nghề
này Tuệ khá thạo, nhờ vào chút vốn “võ vườn” học
được từ những năm còn bé. Buổi tối, bọn trẻ lại
vây tròn quanh Tuệ để đại ca chỉ vẽ cho vài thế võ
phòng thân.
Rừng
không hai cọp, đám anh chị trong bãi Saphre cay lắm, quyết
tâm phục kích nhổ bỏ cái gai trong mắt. Biết nguy hiểm
đang rình rập, một hôm Tuệ bảo đám em út đưa cho mình
ít tiền và mò vào thị trấn Gia Nghĩa (Đắc Nông). ở
đó, Tuệ không mua sắm gì, chỉ ghé vào một tiệm tạp
hóa và một tiệm hàn, ăn một tô phở rồi về. Trong túi
áo Tuệ có thêm một thứ “đồ chơi” lạ mắt: một
sợi dây mì đàn ghi ta, một đầu có gắn một cục chì
nặng, đầu kia buộc chết vào một chiếc vòng sắt, nắm
vừa lọt tay, được ông chủ tiệm hàn chế theo thiết
kế của chính Tuệ.
Biết
chắc trận địa phục kích đang đợi mình, Lê Văn Tuệ
nấn ná mãi đến 2 giờ sáng mới quay vào bãi. Vừa qua
khỏi cầu ván thứ nhất, hơn chục thằng cô hồn đã bu
lấy Tuệ với đủ thứ đồ chơi, từ cuốc, xà beng đến
côn nhị khúc. Nắm chắc chiếc vòng sắt, Tuệ múa tít
sợi dây đàn. Đêm đen như mực, “địch quân” không
hề phát hiện được “đồ chơi” của Tuệ là thứ
gì, chỉ nghe tiếng gió rít vù vù, nhanh như chớp, và
tiếng cục chì quật vào đầu, vào lưng lốp bốp. Trận
phục kích chỉ kéo dài chừng dăm phút, hơn chục tên lót
ổ đã thất kinh bỏ chạy, sau khi đã lãnh hàng chục vết
thương. Tuệ không đuổi theo, đúng hơn là không dám đuổi
theo, chỉ vội vã thu sợi dây đàn vào tay và bỏ chạy
về lán, giấu kín nó vào người.
“Vũ
khí bí mật” của Tuệ đã nhanh chóng tạo nên nỗi
khiếp hãi cho đám dân anh chị vùng bãi đá. Chưa phát
hiện được đích thực loại vũ khí mới, đám cô hồn
không dám mạo hiểm tấn công, chỉ lặng lẽ lủi đi,
tránh không để Tuệ gặp mặt. Nghiễm nhiên, Lê Văn Tuệ
trở thành một đại ca đáng kiêng dè trong mỏ đá, thỉnh
thoảng lại được những lán vào cầu đem lễ vật đến
biếu xén, cống nộp để mong “được che chở”.
Được
yên ổn, sự kính trọng của đám trẻ con Nông Cống dành
cho Tuệ đã trở thành nỗi tôn sùng. Gom hết 13 cây vàng
bán đá, chúng giao hết cho Tuệ, nằng nặc yêu cầu Tuệ
đi “tầm sư học đạo” để về lãnh đạo chúng lập
băng, nói trắng ra là đi học nghề... ăn cướp. Những
thắng lợi đầu tiên nhờ máu liều và chút khôn vặt đã
đun sôi máu phiêu lưu trong huyết quản Lê Văn Tuệ. Dù
không biết sẽ phải đi đâu, học cái gì, Tuệ vẫn
không thể phụ lòng đám trẻ con, đành im lặng gật đầu
và cất gói vàng vào túi. Sau gần một tháng lang thang
khắp Tp. Hồ Chí Minh, rồi Sông Bé, Tây Ninh dò hỏi qua
đủ loại xe ôm, dân anh chị bến bãi, cả bọn cô hồn
đủ mọi xó xỉnh, cuối cùng Tuệ cũng tìm được một
chốn có một không hai trên trái đất này, nôm na gọi là
“Trường dạy nghề ăn cướp”. Từ nhà máy đường Cu
Ba (Tây Ninh) đi thêm khoảng 250 mét có một con đường
nhỏ (nay đã là một xa lộ rộng thênh thang dài gần 50
km) dẫn vào xứ Cà Tum, sát với biên giới Việt Nam -
Campuchia, một vùng đất trồng nhiều cây ăn trái và hoa
cảnh. ở đó, có một tướng cướp đã “về hưu”
tên là Mai Sơn Lộc.
Trước
giải phóng, Mai Sơn Lộc là một tướng cướp chuyên “ăn
bay” hàng PX (hàng quân tiếp vụ của Mỹ) trên xa lộ
Sài Gòn - Biên Hòa. Cưỡi trên Honda đời 67 hoặc 72 xoáy
nòng, Mai Sơn Lộc và đồng bọn thường lao theo những
chiếc GMC chở hàng quân tiếp vụ, sau đó nghiêng xe, tăng
tốc chui tọt qua gầm xe GMC, bất ngờ mọc lên trước
mũi xe hàng, rút súng, khống chế tài xế và cướp hàng.
Sự táo tợn, trình độ đi xe máy thượng thừa của các
“quái bay” này đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng
trên xa lộ một thời của các chú lính hậu cần cả
ngụy lẫn Mỹ... Sau giải phóng, nghề “quái bay” không
còn đất sống, Mai Sơn Lộc “đê đầu qui cố hương”
và chẳng hiểu ma nào dẫn lối, đã tự biến cái thẻo
rẫy khuất nẻo của mình thành một trường đào tạo
quái nhất thế gian. Khi Tuệ đến “bái sư nhập môn”,
trường học quái đản này đã nhận trước một học
trò tên là Hoàng Quốc Anh, quê ở Tam Kỳ, Quảng Nam.
Sau
sáu tháng miệt mài, “lão hắc đạo” xuất thân là
lính Liên đoàn 6 Biệt động quân (đóng tại Tam Hiệp,
Đồng Nai) đã dạy cho hai tên học trò đủ mọi cao chiêu
của nghề cường đạo. Về lý thuyết, bài học sâu sắc
nhất Tuệ thọ giáo được là “tuyệt đối không dùng
súng xã hội chủ nghĩa. Lý do, mọi khẩu súng xã hội
chủ nghĩa đều có số, chỉ cần giám định vỏ đạn,
tông tích khẩu súng có thể bị lần ra ngay”. Về thực
hành, Mai Sơn Lộc truyền cho hai tên đồ đệ đủ thứ
tuyệt kỹ, từ cận chiến tay không đến cách sử dụng
đủ loại hung khí. Thêm vào đó, vì đặc trưng của nghề
ăn cướp là luôn luôn phải chạy trốn vì bị săn đuổi
nên Mai Sơn Lộc đã bỏ rất nhiều thời gian bắt hai
thằng học trò học làu làu hai thứ: kỹ thuật tự cứu
thương (dao đâm, đạn bắn) và kỹ thuật đi xe máy trên
mọi địa hình. Giáo cụ cho môn học thứ hai là 200 mét
đường ray được lắp sẵn trong vườn và chiếc Honda 67
cũ mèm ông thầy dựng bên vách chòi rẫy.
Ngày
“hạ sơn”, mọi môn học Lê Văn Tuệ đều xuất sắc
hơn hẳn Quốc Anh nhưng đành chào thua bạn đồng môn cái
món đi xe 67 một lèo với tốc độ cao hết 200 mét đường
ray mà không hề trật bánh. Khoản này, Tuệ không làm
nổi.
Kết
quả là 13 cây vàng mà Tuệ mang theo đã chuyển sang túi
ông thầy. Sau đó, hai trò một thầy, đường ai nấy đi.
Giang hồ là thế, quan hệ duy nhất chỉ một chữ tiền,
mọi khái niệm lễ nghĩa, tình cảm chỉ là mơ hồ và xa
xỉ.
Trở
lại bãi đá Saphre, lang thang tìm đỏ con mắt suốt một
tuần vẫn không lần ra tông tích sáu “thằng em” Nông
Cống là Phúc, Hiền, Ngọc, Thảo, Thắng, Hùng, Lê Văn
Tuệ đành “dặt dẹo” (xin đểu) ít tiền rồi tìm
đường về quê. Trong thâm tâm, thời điểm đó Tuệ cũng
không mong gì chuyện gắn bó với kiếp giang hồ.
Ba
năm sau đó, những kiến thức giang hồ tưởng chừng như
rơi rụng hết khi Lê Văn Tuệ cứ suốt ngày rị mọ với
nghề khoan giếng để kiếm cơm. Lúc này, nghề khoan giếng
đang vào cầu, tay nghề cũng khá nên từ Lăng Cô vào đến
tận Chu Lai rồi lên Quế Sơn, ở đâu Tuệ cũng có mối
mang săn đón. Ngoài cơm rượu đãi đằng, một ngày lao
động cật lực cũng giúp Tuệ đút túi vài ba chỉ vàng
không mấy khó.
Tình
cờ, trong một lần nghỉ lại tại khách sạn Tam Kỳ, Tuệ
gặp lại Quốc Anh. Kéo bạn vào quán, gọi rượu Tây
uống say túy lúy, Quốc Anh mở samsonite và khoe với bạn
những bó tiền đô. Hắn bảo:
-
Nếu theo tao, chỉ cần ba tháng, mày thừa sức kiếm gấp
đôi số này.
Tuệ
hỏi:
-
Làm gì?
Quốc
Anh đáp:
-
Sang K (Campuchia), đi cướp đá quí dọc đường biên giới
Thái Lan - Campuchia ở Pailin.
Lần
đó, Tuệ lắc đầu.
Không
lâu sau đó, nghề khoan giếng bắt đầu tụt dốc thê
thảm vì có quá nhiều kẻ cạnh tranh. Đang lúc chán nản
thì Quyền Đê, một tay anh chị bãi vàng quê gốc Kim Sơn,
Ninh Bình gặp và rủ rê. Lẽ ra, Tuệ đã không đi, Quyền
gãi tai than thở:
-
Mấy thằng em trên bãi bị ức hiếp quá!
Nghe
thế, hắn bắt đầu nóng lỗ tai, gật đầu ngay. Vậy
là, ngày 5.5.1994, Tuệ lại lóc cóc tìm đường lần lên
bãi vàng Phước Sơn, hành lý mang theo là một bình xịt
hơi cay năm tác dụng do Quyền Đê trang bị. Chiếc bình
xịt này, trên thị trường có giá 8,3 cây vàng.
Ngay
trong đêm đầu tiên có mặt tại bãi vàng Phước Thành
(Phước Sơn), Tuệ đã cầm đầu mười tên thợ gốc Bắc
xông vào tấn công một số lán trại của bọn anh chị
hiềm khích, vừa đánh vừa cướp lại tất cả những gì
bọn chúng bị tước mất. Công an xã xuất hiện, Tuệ
tấn công luôn cả công an rồi rút lui, sau khi nhận từ
đám này một mớ tiền công trị giá gần chục cây vàng.
Rút lên bãi Trà Ven (Trà My) đúng lúc bãi này đang ăn nên
làm ra, Tuệ kiếm vàng dễ như bỡn. 11 ngày chặn đường,
dặt dẹo của các lán vào cầu, khi đem ra chia, phần Tuệ
được 63 cây vàng.
Có
tiền cũng là lúc con thú hoang trong lòng Tuệ nổi lên.
Hắn lao vào ăn chơi, đập phá, hút chích. Ngày đi chấn,
tối đánh bạc và hút thuốc phiện, hắn không hề lo
lắng đến tương lai. Tình cờ, một đại ca ở bãi tên
là Chung bị đánh lén, Tuệ nhảy vào giải thoát, từ đó
thành quen. Hai tên giang hồ kết nhau, hùn lại hơn 100 cây
vàng rủ nhau về Hà Nội, quê Chung, ăn chơi đập phá cho
đến đồng bạc cuối cùng.
Khi
tiền sắp cạn, Chung bảo:
-
Tao đã từng đi phụ hồ nhiều năm ở K biết nhiều nhà
giàu lắm. Hay tao với mày sang K, đi cướp cho... vui?
Không
cần suy nghĩ, Tuệ gật đầu ngay, định bụng sang
Campuchia sẽ tìm lại Quốc Anh, lập băng nhóm hoành hành
bá đạo. Nhưng, lang thang mãi vùng đường biên Pailin cả
tháng trời vẫn không gặp được Quốc Anh, Tuệ và Chung
đành lộn xuống Pursat cướp hàng lậu. Dặt dẹo nghề
này không khá, phải mang vác nặng, đụng độ nhiều mà
chẳng kiếm được bao nhiêu, hai tên đâm nản. Chúng quay
về Nam Vang, nhờ một tên giang hồ gốc Kiên Giang tiến
cử vào làm bảo kê cho một nhà hàng của người Việt ở
khu cầu hai tầng. Làm được 1 tháng 17 ngày, Tuệ thấy
nhục quá, vì thực chất, chúng đang tự biến mình thành
những tên ma cô mạt hạng, ăn chặn, bớt xén mớ tiền
còm cõi của các cô gái làm tiền. Hắn gọi chủ quán
đến, bảo:
-
Ăn tiền của gái chướng lắm, tôi có ăn thì phải ăn
tiền của chủ. Đưa đây một mớ để tôi về quê!
Khi
nói câu này, mặt Tuệ đằng đằng sát khí, như thể sắp
sửa đốt nhà. Hoảng quá, chủ quán đành lòi ra một cục
tiền để tống tiễn Tuệ đi. Chung không chịu về, bằng
lòng ở lại Nam Vang làm nghề chăn gái.
Ngày
2.9.1995, Tuệ về đến Đà Nẵng. Lẽ ra, đoạn giang hồ
đã chấm dứt nhưng vì trong túi chẳng còn một đồng
nên Tuệ không thể. Năn nỉ thế nào, tên lơ xe đò cũng
không chịu cho Tuệ đi nhờ xe về Tiên Phước, tiền trả
sau. Tuệ thấy nhục quá bèn thề độc:
-
Phải kiếm đủ 100 cây vàng, sau đó quay lại tìm tên lơ
xe, đãi nó một trận và đánh nó một trận, rồi rửa
tay gác kiếm.
Nói
là làm, Tuệ gọi xe ôm tiến thẳng lên bãi Trà Văn. Như
con thú hoang, hắn lao vào cướp lán, bãi như điên để
nhanh chóng kiếm cho đủ 100 cây vàng. Gặp máng cướp
máng, gặp bãi bật bãi, máng bãi không ăn thua thì cướp
của dân buôn. Khi kẹt quá, hắn cướp luôn cả đồ nghề
của thợ, làm vàng giả và... bán.
Trong
túi hắn, đã có lúc rủng rỉnh một lúc mấy trăm cây
vàng.
Không
gì đáng ngờ bằng lời thề của thằng nghiện. Có tiền,
Tuệ lại ăn, lại hút, lại quên mất ý niệm hoàn lương.
Chẳng
bao lâu sau, hắn nổi tiếng như cồn, ân oán đầy rẫy
rắc khắp vùng vàng rộng lớn và liên tục bị cả công
an lẫn giang hồ truy đuổi.
Vừa
cướp, vừa chạy trốn, đến tết năm 1996, Tuệ cùng
đường. Khi lọt vào bãi thôn 3 xã Phước Thành thì mụn
độc phát lan ăn loét bàn chân, Tuệ không đi nổi nữa.
Đúng lúc đó, hắn gặp cố nhân: Bùi Đình Chuẩn. Trước
đây, bị Tuệ cướp lán nhiều lần, Hiệp, quê người
Nghệ An đã từng thuê Chuẩn thanh toán Tuệ. Với vũ khí
lợi hại là sợi dây contermette đúc chì, Tuệ đã đánh
cho tám tên đàn em của Chuẩn chạy tan tác, sau đó vào
phá tan hoang lán của Hiệp, bắt cả Hiệp và Chuẩn quỳ
gối liếm... gót giày xin tha.
Lẽ
ra, khi Tuệ đã thân tàn ma dại, Chuẩn đã có thể tính
sổ lại món nợ ân oán cũ. Khổ nỗi, lúc này Chuẩn còn
tệ mạt hơn, nghiện oặt xà lai gần như không đi đứng
nổi. Do đó, thay vì tấn công rửa nhục, Chuẩn lại nhìn
thấy cơ hội mượn Tuệ để lợi dụng, nhằm thỏa mãn
cơn nghiện. Vậy là, Chuẩn đem hết những chiến tích
thư hùng của Tuệ ra kể cho đám Đỗ Duy Lệ, Hòa lai...
nghe. Biết Lê Văn Tuệ là tay hung thần, Lệ đổi ngay nét
mặt khinh bỉ ra thái độ niềm nở mời chào. Hàng ngày,
Lệ sai đàn em cõng Tuệ đi chơi khắp đầu non cuối bãi,
tối về hết lòng lo phục dịch rượu bia và chạy chữa
vết thương. Thật ra, Lệ chẳng tốt lành gì (sau này Đỗ
Duy Lệ bị bắt, tử hình vì tội tổ chức giết người,
cướp máng), hắn chỉ cốt lấy lòng, nuôi Tuệ khỏe để
nhờ Tuệ đứng ra làm đầu lĩnh tiến công hạ đối thủ
truyền kiếp là tên Điều “tóc lai”, quê ở Đền
Hùng, Phú Thọ. Tuệ biết hết. Khi bệnh tình khỏi hẳn,
hắn gọi Đỗ Duy Lệ lại bảo:
-
Tao từ nhỏ cho tới lớn có ăn cướp cũng cướp một
mình, không quen băng nhóm. Tụi mày định mượn tay tao
giết thằng Điều, tao sẽ không làm vì với nó, tao không
thù oán. Nhưng công phục vụ của bọn mày, tao cũng không
quịt. Để trả, tao sẽ đi dặt dẹo ba ngày, được bao
nhiêu tụi mày lấy bấy nhiêu, sau đó đường ai nấy đi.
Nói
là làm, Tuệ ở lại đến hết Tết, cướp thêm một mớ
rồi quyết tâm về Đà Nẵng cai nghiện. Hắn đã quá
ngán ngẩm kiếp giang hồ phù hoa, tiền tiêu như nước
nhưng đầy điếm nhục.
Nhưng
trời ạ, chốn giang hồ đầy gió tanh mưa máu, bước vào
thì dễ nhưng làm gì có đường lui. Đã quá nổi tiếng,
dù trốn góc nào, Tuệ cũng bị những tên em út lần ra
và chèo kéo. Tuệ tự huyễn hoặc mình bằng hình ảnh
một tay nghĩa hiệp, chưa thể buông đao thờ Phật vì bọn
đàn em còn bị ức hiếp ở bãi vàng. Vậy là, vừa cắt
cơn nghiện, hắn lại mò vào bãi, lại đánh người cướp
của, lại nghiện oặt xà lai và lại đi cai. Một lần,
hai lần, rồi... mười lần. Nghiệp chướng giang hồ
không buông tha Tuệ mà Tuệ thì cũng không đủ dũng khí
để đoạn tuyệt hoàn toàn. Nếu chịu dừng đúng lúc,
hẳn Tuệ đã giàu lắm. Đầu năm 1998, trong khi tọ mọ
một hầm vàng của dân Đại Lộc bỏ hoang, cả nhóm của
Tuệ đã vơ được 2,3 kg vàng 9999, chỉ sau hai ngày ba đêm
làm cật lực. Ngày 14.1.1998, mang theo số vàng, Tuệ dẫn
cả bọn về Đà Nẵng ăn chơi đập phá và đánh bạc.
Chỉ sau bốn ngày, toàn bộ số vàng này đã tan thành mây
khói. Một mình Tuệ quay lại bãi làm tiếp, mót được
21 triệu đồng. Số tiền này cũng chỉ đủ để hắn
trả tiền xe ôm và tiền một đĩa cơm, còn bao nhiêu lại
dốc cạn vào một đêm cá độ bóng đá. Như con thiêu
thân lao vào chỗ chết cháy, Tuệ tự đề ra khẩu hiệu
cho cả bọn:
-
Đã chơi là phải dốc cạn đồng bạc cuối cùng. Tiêu
không được tiếc.
Giai
đoạn hoàng kim nhất của nghề dặt dẹo bãi vàng là
nguyên cả mùa khô năm 1998. Năm ấy, bãi vàng Phước Sơn
trúng lớn và trúng rộng khắp cho nên những tay đại ca
danh tiếng như Lê Văn Tuệ không cần làm gì cũng dư giả
tiền tiêu. Vừa vào lại bãi thôn 3, Tuệ đã chạm trán
ngay với Điều, kẻ được Tuệ từ chối tấn công đánh
cướp ngày nào. Đang lúc trúng quả nặng đồng cân, Điều
cảm nghĩa xưa, nằng nặc mời Tuệ ở lại lán để anh
ta có cơ hội đãi đằng. Tuệ đồng ý. Việc duy nhất
mà Tuệ phải làm để giết thì giờ là mua các loại
thuốc phiện, heroin về mày mò bào chế để tìm ra liều
chích... phê nhất, bất kể tốn kém, tiền bạc đã có
các chủ lán lo. Với heroin thì đơn giản, chỉ việc bơm
nước cất vào là chích (nghiện quá nặng, đốt giấy
bạc hút không phê). Nhưng, chơi heroin không phải là sành
điệu. Tuệ “lên hương” đến nỗi đã có thể sắm
riêng cho mình một “lái xe” - tay chuyên nghiệp tiêm
thuốc phiện - loại thượng thừa mà không thèm hỏi tên
nó là gì. Khi rảnh rỗi, tên này đã dạy lại cho Tuệ
toàn bộ cao chiêu của nghề “lái xe”.
Đơn
giản nhất là gẩy “cống” - thuốc phiện tinh chất -
vào thìa hoặc nắp bia nấu sôi lên, lọc qua ba đót thuốc
lá sạch, cứ thế trộn vào nước cất chích vào ven.
Cách này sang nhưng với những con nghiện đã đạt đến
“cảnh giới thượng thừa” thì không mấy phê. Muốn
cho đã, chúng bày ra cách trộn thêm tân dược và phụ
gia vào thuốc. Công thức đặc biệt nhất là: “cống”
+ xái 1 + thuốc cảm ABC hoặc Aspirin hoặc Paracetamon + mì
chính (bột ngọt) tán nhuyễn thành bột đem nấu, sau đó
lăn, đánh miếng, cán mỏng để dành hút dần bằng đèn
dầu đậu phộng hoặc nấu, lọc lại đem chích. Cách này
rất kỳ công. Hễ “lái xe” non tay hoặc nấu ẩu là
cầm chắc chích vào sẽ sốt khặc khừ và ói ra mật
xanh mật vàng nên Tuệ cũng không khoái. Để “lên thiên
đàng”, hắn tự sáng tạo cho mình một công thức bí
mật gồm Dolagan + morphin + sedusel tán nhuyễn + nước cất,
chích phê lâu và mạnh hơn cả. Nhưng, dùng liều này rất
đắt, giá mỗi mũi chích đúng đô trong bãi phải tốn
350.000 đồng. Để thỏa mãn cơn ghiền, lúc hoàng kim, Tuệ
chích mỗi ngày gần 15 cữ, tốn sơ sơ chừng 5 triệu
đồng.
Không
phải cướp bóc, dặt dẹo, nằm lán hút chích mãi cũng
nhàm, Tuệ lân la học nghề “đánh hóa”(cách dùng hóa
chất lọc quặng lấy vàng) và nghề tăm vỉa. Đang rộ
mùa thu hoạch, tiền vào như nước nên các chủ lán, chủ
hầm không tiếc, tha hồ cho Tuệ thử. Gần một năm
“nghiên cứu” Tuệ lại danh nổi như cồn, nổi tiếng
như tay “đánh hóa” thuộc hàng cao thủ nhất, “tăm
vỉa” (thăm dò mạch đá có chứa vàng) cũng được liệt
vào loại “cụ”, uy tín cùng mình. Thế là, gần như
không cần phải mó tay vào chuyện động dao động thớt,
Tuệ tha hồ được các lán mời mọc săn đón và trả
công hậu hĩnh với mức lương của một đại chuyên gia.
Giả
sử có máu làm giàu, thời kỳ này thừa sức đưa Tuệ
lên hàng ông chủ tầm cỡ. Khổ nỗi, xưa nay người ta
chỉ bàn chuyện giang hồ chơi, có ai nhắc chuyện giang hồ
làm giàu bao giờ. Tiền kiếm được, Tuệ đổ hết vào
những cuộc chơi theo cách riêng của hắn là ngao du sơn
thủy. Lâu lâu, trong bãi có một tốp thợ vàng quê ở
miền Bắc “về phép”, Tuệ lại đút túi vài ba chục
cây vàng và đòi đi theo để “tham quan cho biết đất
Việt Nam núi rộng sông dài”. Lời đề nghị lãng mạn
của kẻ có tiền chẳng bao giờ làm ai phật ý. Vậy là
Tuệ có dịp rong ruổi khắp nơi, nếm đủ mọi của ngon
vật lạ và cảnh đẹp trên đời. Hầu như không có một
thị trấn nào của vùng trung du Bắc Bộ, một thị xã
nào của vùng núi non Tây Bắc mà Tuệ chưa từng thăm
viếng. Hắn đi nhiều đến nỗi thuộc làu làu tên hiệu,
bảng giá và món độc chiêu của từng khách sạn ở
nhiều tỉnh miền Bắc, dù đó là những khách sạn heo
hút ở vùng sáu tỉnh Cao-Bắc-Lạng-Thái-Hà-Tuyên... Chẳng
có gì ràng buộc, Tuệ chỉ chịu quay về khi túi áo túi
quần đã lộn trái. Dăm bữa nửa tháng, dặt dẹo được
vài chục cây vàng, hắn lại ra đi. Tính ra, riêng trong
mùa khô năm 1998, số tiền Tuệ tiêu hết chắc cũng đủ
nuôi vài ba chục người... suốt cả đời. Chính vì máu
ham chơi, Tuệ đã trở nên đặc biệt thân thiết với
đám lãng tử dân Bắc trong bãi vàng, được chúng đặt
cho một biệt danh khá mỹ miều: “Gã trai xứ Quảng
trong lòng anh em đất Bắc”. Trời ạ, giang hồ cũng có
lúc “sến” phải biết!
Thuở
huy hoàng không kéo dài vĩnh cửu. Đến mùa mưa năm 1998,
thì Lê Văn Tuệ bắt đầu lâm vào cảnh khốn khó. Đầu
tiên, tình hình khai thác vàng bỗng cạn kiệt hẳn. Hàng
loạt hầm máy đào mãi vẫn chẳng tăm ra vàng, chủ hầm
chủ máy nợ chồng chất và lâm vào phá sản (trung bình
mỗi máy + 10 người chi một ngày hết 2 cây vàng), thợ
đào thuê đói hoa cả mắt. Vì thế, nghề dặt dẹo may
lắm cũng chỉ đủ no dạ dày, không đủ no óc (thỏa mãn
cơn nghiện). Đói thuốc, Tuệ và cả chục tên em út vật
vã điên cuồng, cuối cùng làm mồi ngon cho sốt rét rừng,
ghẻ lở và đủ loại bệnh tật vốn tiềm ẩn đầy rẫy
ở chốn ma thiêng nước độc, môi trường mất vệ sinh.
Để cưỡng lại cơn tù quẫn, Tuệ gia tăng xin đểu,
cướp, chấn. Đang lúc thất bát chẳng có chủ hầm, chủ
lán nào chịu nổi cảnh bị sách nhiễu nên hè nhau chống
lại, khiến cả Tuệ lẫn đàn em đều nhiều lần bị
trọng thương. Đã vậy, về Đà Nẵng điều trị thì sợ
công an bắt, lại không đủ tiền nên chúng đành liều
chết trụ lại chốn rừng sâu nước độc. Mùa mưa năm
ấy, số mồ vô danh mọc lên trên những lối mòn bạt
núi dẫn vào bãi vàng Phước Sơn hình như tăng lên rất
nhanh. Đã thế, đề phòng nạn sập hầm, lở đất sụt
bãi gây chết người như mùa mưa năm 1997, công an tỉnh,
huyện lại ráo riết truy quét khiến Tuệ và đàn em cứ
phải bỏ bãi chạy trốn liên tục, vết thương này chưa
kịp kéo da non, vết thương khác lại xuất hiện. Các
băng nhóm khác cũng không nể nang, đùm bọc gì được vì
tình trạng tự thân của chúng thậm chí còn thê thảm
hơn. Băng Thanh sứt, Bắc phò, Hiển bụi khét tiếng vì
đông, mạnh nhất vùng vàng cũng rã đám rồi quay sang đâm
chém nhau. Bị chém 14 nhát trên lưng, Hiển bụi sai
đàn em dùng chỉ may đồ khâu díu lưng mình lại hàng
trăm mũi. Nằm ba ngày, “vã” quá, tên tướng cướp bị
thương lại mò dậy, vác nguyên tấm lưng rách như tấm
chiếu thuốc phiện tiếp tục đi cướp. Kết quả là sau
đó, hàng chục tên thi nhau vào tù...
Lê
Văn Tuệ cũng đành ngậm ngùi tan đàn xẻ ghé với bọn
đàn em để tự cứu mình. May cho Tuệ, đúng lúc khốn
quẫn nhất thì hắn gặp được một tay giang hồ thứ
thiệt: Mông cận.
Mông
lớn hơn Tuệ gần một con giáp, quê ở Võ Nhai, Thái
Nguyên. Vợ Mông là một cán bộ ở huyện Phước Sơn.
Bản thân Mông là một thầy giáo, kính cận dày cộp luôn
đeo trên sống mũi. Nhưng tiếng gọi hoang dã và sự hấp
dẫn của vùng vàng đã kéo Mông ra khỏi bục giảng, trở
thành một chủ hầm vàng. Hầm của Mông toàn là thợ
“chiến đấu” đất Thái Nguyên, tay nghề khai thác rất
cao nên anh ta cũng nhiều lần trúng đậm. Vào bãi, song
xuất thân là thầy giáo nên Mông cận sống rất nguyên
tắc. Lán của “thầy” Mông cận tuyệt đối không có
thuốc phiện, bài bạc, gái... hay bất kỳ thứ tệ nạn
nào bén mảng. Thợ khá đông nhưng kỷ luật của Mông là
dứt khoát không ỷ chúng hiếp cô, không tham gia bất cứ
một trò chèn ép, giành giật nào với các hầm, bãi khác.
ít nhiều, nguyên tắc sống của Mông cũng khiến cho các
cư dân bãi vàng vì nể. Vả lại, võ nghệ Mông cận cũng
khá cao, muốn “sờ” vào cũng không phải dễ.
Nhờ
tổ chức tốt, đầu tư kỹ nên trong khi toàn bộ vùng
vàng lao đao vì đào đãi không đủ chi tiêu thì lán của
Mông vẫn bình chân như vại, không giàu có lắm song đời
sống thợ thuyền vẫn bảo đảm, khai thác có lãi. Chính
vì thế, Mông cận trở thành mục tiêu của lòng tham, gợi
lên trong lòng bọn đao búa vùng vàng ý định cướp hầm.
Kẻ ra tay là nhóm Việt Long, quê Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
Lừa lúc Mông một mình từ bãi vàng về nhà ở thị trấn
Khâm Đức, Việt Long đã tổ chức “trải đệm” định
thịt Mông. Đúng lúc đó, Lê Văn Tuệ đi qua. “Dọc đàng
thấy chuyện bất bằng chẳng tha”, Tuệ dù không biết
Mông cận là ai nhưng cũng múa sợi dây buộc chì xông vào
cứu Mông, đánh cho đám Việt Long tan tác. Cảm nghĩa, lại
biết Tuệ tuy khét tiếng vì chấn, dặt dẹo song chưa hề
gây nợ máu, lại càng không phải hạng kẻ cướp tiểu
nhân, Mông cận đã vui vẻ mời Tuệ về đứng lán cho
mình. Đứng lán thực chất là giữ chức đốc công, vừa
coi sóc thợ làm việc, vừa... bảo kê ngăn chặn những
kẻ tính cướp phá. Nghề này Tuệ khá thạo, lại đang
cơn bĩ cực nên gã nhận lời ngay. Từ 23.10.1998 đến
4.4.1999 là khoảng thời gian thanh thản nhất của Tuệ ở
bãi vàng. Đó là khoảng thời gian không có giành giật,
đấm đá, chỉ có lao động thật sự. Hàng ngày, Tuệ
cũng đánh trần đào đất, đãi đá, vừa làm vừa trông
coi thợ, hùng hục và chu đáo như một bác thợ cả thực
thụ.
Trong
thời gian đó, Tuệ không hề về quê thăm nhà, thăm mẹ.
Nhưng Mông cận thì có. Anh đã nhiều lần đem tiền, quà,
thuốc men về Tiên Lộc, Tiên Thọ thay Tuệ thăm hỏi,
biếu mẹ của gã. Không những thế, Mông còn bỏ nhiều
thời gian tìm hiểu gia cảnh, ước mong của bà mẹ có
đứa con hư phiêu bạt giang hồ. Tuệ không hề hay biết
rằng, sau nhiều lần thăm hỏi ấy, giữa mẹ gã và Mông
cận đã thỏa thuận một giải pháp: cưới vợ cho Tuệ.
Đó là cách duy nhất để buộc chân con ngựa bất kham.
Khi hiểu ra mọi chuyện, Tuệ đã khóc nhiều đêm. Lần
đầu tiên, không hề có một vết thương, không hề có
một tiếng chửi nhưng Lê Văn Tuệ đã rơi nước mắt.
Gã khóc vì tình người, vì hàm ơn Mông cận và vì lần
đầu tiên trong đời chợt đắng cay nát lòng vì thương
mẹ. Khi nghe lời Mông cận - giờ đây thực sự trong lòng
Tuệ đã coi Mông là một người anh - về thăm mẹ, Tuệ
đã khóc thêm lần nữa. Mẹ gã, 75 tuổi, tóc bạc lưng
còng bộc bạch:
-
Vàng bạc mà làm gì con ơi, trên đời chỉ nghĩa tình,
gia đình là đáng trọng!
Và
bà cũng khóc, cũng hết lời khuyên hắn đoạn tuyệt
giang hồ. Bà chỉ mong ngày nhắm mắt - không xa nữa -
được thấy Tuệ cùng con dâu và cháu nội túc trực bên
mình. Nước mắt bà mẹ khiến thằng con hoang dã tỉnh
ngộ. Hắn quyết tâm hoàn lương.
Nói
thì dễ, nhưng làm thì không dễ, bởi những cơn nghiện
vẫn còn đeo đẳng. Ngày 4.4.1998, Mông cận đột ngột
gọi Tuệ lại bảo:
-
Tao đã hứa là không bao giờ để cho ma túy chui vào lán.
Tao biết, mày vẫn hút chích thường xuyên. Giờ có hai
cách để chọn: hoặc là cầm tiền về quê cai rồi ở
lại hẳn, không vàng bạc, thuốc men gì cả, hoặc là mày
ở tao đi.
Giá
là lúc khác, chắc chắn Tuệ sẽ cười vào mặt kẻ mới
dạy khôn gã. Nhưng với Mông, gã không thể. Về quê cũng
không. Sau 13 năm lưu lạc, Tuệ không chịu nổi cái cảnh
tay trắng quay đầu trong bộ dạng tiều tụy vì đói
thuốc.
Nói
là làm, Mông cận không so đo, bỏ lại toàn bộ hầm,
máng, máy móc cho Tuệ rồi dẫn thợ vào sâu trong bãi 45
(xã Phước Hiệp) tìm hầm khác. Bãi 45 là nơi duy nhất
trong toàn vùng vàng Phước Sơn không có ma túy. Tuệ sợ,
gã không dám theo Mông, đành bằng lòng ở lại. Mông vừa
đi khỏi, đám em út cũ của Tuệ từ Thái Nguyên mới vào
đói quá lại tìm đến xin đầu quân. Vừa thương chúng,
lại đang thiếu quân, Tuệ lại gật đầu.
Tốp
thợ cả thầy lẫn tớ đều là con nghiện, kinh nghiệm
quản lý không có, vốn liếng cũng không, đã không moi
được thêm một vảy vàng nào từ lòng đất. Một tuần
sau, Tuệ gọi người bán hết toàn bộ hầm máy của Mông
để lại. Tiền thu được chỉ đủ trả nợ và giúp cả
đám sống thêm mấy ngày. Trong khi đó, mùa mưa lại sầm
sập kéo về. Cả tốp đói rã họng, đành đi tọ mọ
những hầm lán bỏ hoang sống qua ngày. Và, điều kinh
khủng nhất đã đến: sập hầm, một thằng bé trong bọn
bị đá đè giập ống quyển.
Không
đồng xu dính túi, trời lại mưa dữ dội, đưa thằng bé
đi bệnh viện là điều không thể vì chưa ra đến nơi
thằng bé đã chết vì đói thuốc và vì vết thương đang
hoại tử. Không còn cách nào khác, Tuệ đành cắn răng
đóng vai trò bác sĩ (dù mới học chừng hết lớp 9), tự
tay... tháo khớp cho thằng bé. Một đống lửa to được
cả đám trẻ con phiêu bạt đốt lên. Không rửa, không
lột vỏ, một đống củ mì (sắn) vừa xin được trong
rẫy của người Mơ-nông được cả lũ vừa luộc, vừa
nướng lên và tranh nhau ăn cho đỡ đói. Ăn xong, sáu,
bảy đứa, kẻ say, người tỉnh thao láo mắt nhìn
Tuệ vừa khóc vừa làm bác sĩ. Không thuốc tê, không
thuốc mê, Tuệ dùng dây dù trói chặt hết tay chân thằng
bé bị thương xuống sạp tre. Thêm một sợi dây dù to
bản khác thít ngang qua trán cột chặt xuống sạp để
giữ cho nó không ngóc lên hay giãy giụa. Nhặt một thanh
tre, nhét chặt vào giữa hai hàm răng nó, bắt hai đứa
khác đè chặt hai bên, Tuệ bắt đầu rạch ống quần
rách tướp đầy bùn đất của nó. Dụng cụ mổ duy nhất
là một con dao đã mài sẵn từ chiều, được tẩy trùng
bằng cách hơ trên đống lửa. Kiến thức giải phẫu duy
nhất là kinh nghiệm... mổ gà. Cứ thế, Tuệ rạch ngang
đầu gối kẻ bị thương. 5 phút, 10 phút... Nước mắt
ròng ròng, những tiếng kêu bị chặn không vọt ra khỏi
cổ, thằng bé bị trói cứ giật đùng đụng, mồ hôi
túa ra, mắt trợn ngược rồi ngất đi... Sau 30 phút thì
mọi việc hoàn tất, chân thằng bé được cắt cụt đến
đầu gối và được may lại bằng chỉ khâu đồ.
Những
ngày sau đó, Tuệ và những đứa khỏe mạnh hầu như
không ngủ, cứ hùng hục đi đánh hóa thuê cho các chủ
hầm khác. Toàn bộ tiền kiếm được chỉ để mua hai
thứ: thức ăn và heroin. Thứ thuốc men duy nhất mà kẻ
bị thương được hưởng trong giai đoạn hậu phẫu là
heroin. Chính ma túy đã giúp nó sống sót. Khi nào nó đau
quá, Tuệ lại chích cho nó một liều, phần còn lại đem
rắc vào vết thương. Lạ lùng thay, sau đúng 14 ngày thì
vết thương lành hẳn. Bù lại, đô nghiện của thằng
oắt con tăng gấp đôi, gấp ba, suốt ngày nó vật vã sùi
bọt mép vì đói thuốc.
Ca
mổ kinh hoàng đó đã khiến tâm trí Tuệ thay đổi hẳn.
Hắn đâm ra ghê sợ mọi thứ. Ghê sợ kiếp sống giang
hồ và ghê sợ cả bản thân mình. Những ngày đó, những
giọt nước mắt và lời nguyện cầu của người mẹ lại
ùa vào óc, giày xéo tâm can hắn. Sau nửa tháng mất ngủ,
Tuệ quyết định cai nghiện và hoàn lương. Dự định
của hắn được những tên em út tán đồng, bởi chúng
cũng đã hoàn toàn rệu rã. Cả đám thống nhất: sẽ
chia tay nhau vào ngày 30.5.1999. Kể từ đó, chúng thi nhau
làm hùng hục và cố tiết chế cơn nghiện để dành dụm
tiền cho cuộc hoàn lương.
Nhưng
dù tiết kiệm mấy, tiền kiếm được cũng bị đốt hết
vào ma túy nên ngày hẹn đến, cả đám vẫn phải ở yên
tại bãi sau đó tan tác mỗi đứa một phương. Bí thế,
Tuệ đành bấm bụng - lần đầu tiên - ngửa tay xin (chứ
không cướp) của một cố nhân. Dù tử tế đến mấy,
Lê Văn Tuệ vẫn là một hung thần đầy đe dọa nên ý
định rời vùng vàng của hắn dĩ nhiên là rất đáng
được hoan nghênh. Vì vậy, Điều - kẻ tao ngộ năm nào
- đã hào phóng cho Tuệ nguyên cả một mẻ máng, tổng
cộng được 9,3 lượng vàng. Sau một chầu nhậu túy lúy
để chia tay và tuyên bố rửa tay gác kiếm, Tuệ cầm số
vàng này ra thẳng Hà Nội, vào nhà một chiến hữu tên
Cường cạnh bệnh viện Bạch Mai thuê bác sĩ đến để
điều trị cai nghiện. 11 ngày sau, cắt cơn, Tuệ gửi hết
số vàng cho bác sĩ và “lai hồi cố thổ”. Từ tay
trắng ra đi, đứa con hoang lại trở về nơi hai bàn tay
trắng.
Cuộc
sống bình thường, vất vả nhưng thanh thản đã đồng
hành với Tuệ được bốn năm. Hắn đã lấy vợ và đã
có được một cô con gái gần ba tuổi. Mẹ hắn đã rời
bể khổ ra đi. Ngày mất, bà đã nở nụ cười, bởi đã
toại thành tâm nguyện: có con trai, con dâu và cháu nội
quì cạnh bên giường.
Với
Tuệ, những năm qua cuộc sống đã gặp không ít khó
khăn, khi nghề đãi cát, sạn trên sông chỉ vừa đủ để
lo cơm áo cho gia đình nhỏ. May mà gã đã đoạn tuyệt
với ma túy. Nhờ đó, dù khó khăn, Tuệ vẫn cương quyết
không một lần quay lại bãi vàng trong suốt nhiều năm
qua, dù có rất nhiều lời mời chào, chèo kéo, dù gã
biết chắc chỉ cần một chuyến đi mười ngày, nửa
tháng thôi, lúc trở lại túi gã đã có thể có thêm cả
chục lượng vàng. Số vàng đó, bây giờ với Tuệ là
cực lớn, lớn hơn cả giấc mơ, nhưng đơn giản, nó
không phải là do mồi hôi đổ ra, Tuệ sẽ cương quyết
không màng tới. Hơn nữa, dù không phải là mười mà cả
trăm, cả ngàn cây vàng đi nữa cũng không quí bằng mảnh
vườn nhỏ, giấc mơ con và tiếng bi bô con trẻ - hạnh
phúc đơn sơ nhưng rất thật mà Tuệ đang cầm giữ trong
tay. Tuệ không thể và không dám nghĩ tới chuyện mò lên
vùng vàng dù chỉ một lần, bởi “một bước chân sai
nghìn thuở hận”, rất có thể bước chân xứ đó sẽ
sơ sẩy khiến kẻ đã buông đao thờ Phật có nguy cơ rời
xa tổ ấm vô giá của mình.
Mười
ba năm lăn lộn trong kiếp giang hồ, giữa cơ man vàng,
máu, ma túy và nước mắt, Lê Văn Tuệ đã quá đủ kinh
nghiệm để hiểu cái giá phải trả cho hạnh phúc, dù đó
chỉ là một hạnh phúc nhỏ nhoi thường gặp giữa đời
thường.
10.
TRÚC LIÊN BANG
Hai
lần thâm nhập Việt Nam bất thành của Trúc Liên Bang. Tổ
chức thứ ba trong bản đồ tội ác
Nhắc
đến mafia “Made in Asia” (sản phẩm á Châu), trước hết
người ta phải kể đến ba hắc bang hùng mạnh khét tiếng
là Tam Hoàng Hội, Thanh Y Bang và Trúc Liên Bang. Tam Hoàng
nổi tiếng nhờ tuổi thọ cao nhất, hội viên đông nhất,
tổ chức chặt chẽ nhất, trong suốt 200 năm qua đã từng
can dự vào không ít biến cố lịch sử của Trung Hoa đại
lục và các khu vực khác trên toàn thế giới có người
Hoa sinh sống. Thanh Y Bang, ngược lại, khiến người Hoa ở
khắp nơi kinh khiếp vì tính chất hoạt động bí mật,
“lai vô ảnh, khứ vô hình” của nó, kèm theo là sự
tàn độc vô biên. Cả hai tổ chức tội phạm trên đều
bắt nguồn từ Bến Thượng Hải và Hồng Công, nghĩa là
đều bắt đầu nhóm họp và bành trướng thế lực từ
Trung Hoa đại lục. Còn Trúc Liên Bang, nhắc đến nó,
người hiểu biết sẽ nghĩ ngay đến hòn đảo Đài Loan
nhỏ bé.
Tuy
nhiên, vào hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, nghĩa
là từ khoảng năm 1985 lại đây, Trúc Liên Bang đang có
xu hướng nuốt dần thanh thế tội ác của hai tổ chức
đàn anh, bởi sự hoạt động táo tợn, liều lĩnh và bởi
những vụ thanh trừng đối thủ gần như đều được
báo trước và bao giờ kẻ thủ ác cũng cố tình để lại
“chữ ký” chứng tỏ chính Trúc Liên Bang là kẻ đã ra
tay.
Tại
Hoa Kỳ và Canada, xé bỏ nguyên tắc kín đáo - một
đặc tính cố hữu của người Hoa - từ khoảng 1985
- 1989, đám thành viên “Nhicôlai” (trẻ tuổi) của Trúc
Liên Bang đã tự tách bầy, cưỡi trên những môtô cao
phân khối, đeo thêm những khẩu Colt, Uzi vào cạnh con dao
trên thắt lưng để cho ra đời một băng đảng mới khét
tiếng hung thần có tên là “Born to kill”, tức “Sinh ra
để giết” hay “Thiên sanh sát thủ” trong cách gọi
của người Hoa, với lẽ sống là bạo lực, nhãn hiệu
là sự tàn ác và lạm sát.
Tại
Châu á, sự bành trướng của Trúc Liên Bang đồng hành
với giai đoạn mở cửa, cựa mình “hóa rồng” của
các quốc gia trong khu vực. Nói chính xác, từ Đài Loan,
Trúc Liên Bang phát tán như nấm độc sang Singapore, Mã
Lai, Indonesia, Thái Lan, Campuchia... và cả Việt Nam bắt đầu
từ bộ cánh sạch sẽ của các doanh nhân, với “vốn
đầu tư” (chủ yếu vào công nghệ giải trí) là chiêu
bài để rửa tiền bẩn. Mãnh lực cạnh tranh của các
doanh nhân có dính líu đến Trúc Liên Bang không hề thay
đổi, luôn gắn chặt với lưỡi dao và viên đạn; chúng
sẵn sàng xuống tay tước bỏ ngay mạng sống của đối
thủ kinh doanh mà không cần suy nghĩ hay thương xót.
Lần
thứ nhất: Nhà đầu tư và kẻ lưu vong
Đầu
thập niên 90, một số thành viên Trúc Liên Bang, lần đầu
tiên đã tìm được cơ hội trà trộn vào đám doanh nhân
tìm cách thò chân vào Việt Nam. Trong số ít ỏi những
tên tội phạm mặc complet này có Hou Ming Chin. Trong bốn
năm 1993-1997, Hou đã xuất nhập cảnh vào thành phố Hồ
Chí Minh 10 lần cả thảy. Với số “vốn đầu tư” ban
đầu là 120.000 USD, Hou đã góp cổ phần và trở thành
Phó Tổng giám đốc bộ phận sản xuất sàn gỗ thanh của
Công ty Bochang (Đồng Nai). Chỉ sau một năm (1994), thấy
đầu tư ngành này lãi thấp, Hou rút hết vốn và trả
lại chức vụ nhưng vẫn ở lại Việt Nam. Những năm
tiếp đó, Hou đã “thử thời vận” trên nhiều nghề
khác nhưng không trụ lâu dài ở nghề nào cả.
Đầu
tháng 6-1997, để giải sầu, Hou dắt bạn gái là Yang Smu
Mei sang Quảng Đông, Trung Quốc chơi, nghỉ lại tại khách
sạn Đông Hoàn. Gọi là đi chơi, kỳ thực, đó chính là
cuộc hẹn hò giữa Hou với Wang, một tên bạc bịp nổi
tiếng của Trúc Liên Bang. Gặp nhau, Wang giới thiệu với
Hou hai tay anh chị của hắc bang này là Chang và Chien.
Trong lúc ăn nhậu và bài bạc, Wang nói rõ cho Hou biết
mục đích của gặp gỡ, đó là bàn cách thanh trừng hai
tên bạc bịp đồng bang là Chang Po Wen và Wu Wen Yu. Cùng
với Wang, hai tên này đã giở nghề gian lận và thắng
14.000 USD, nhưng chỉ chi cho Wang 1.400 USD rồi ôm tiền chạy
sang Việt Nam trốn. Wang muốn nhờ hai tên anh chị Chang và
Chien sang đòi nợ, yêu cầu Hou giúp sức vì y ở thành
phố Hồ Chí Minh lâu, thông đường thuộc lối. Wang nói
với hai tên là:
-
Nếu chúng không trả, tao muốn chúng bị xử!
Nửa
tháng sau, ngày 22.6.1997, Hou gặp lại ba tên tại khách sạn
Chợ Lớn (174 Sư Vạn Hạnh, quận 5). Thái độ muốn rút
lui của Hou đã bị Chang dằn mặt:
-
Bọn tao sang Việt Nam để xử hai thằng kia. Người ngoài
chỉ có mình mày là rõ chuyện nên mày phải tham gia, cấm
chối.
Biết
quá rõ “kỷ luật” của Trúc Liên Bang, Hou chỉ im lặng
gật đầu.
Lúc
này, tại thành phố Hồ Chí Minh, hai tên đào tẩu Chang
Po Wen và Wu Wen Yu đã thuê nhà C5, đường Nguyễn Hồng
Đào, Tân Bình để sống chung với cô Huỳnh Lệ Hằng,
bạn gái của Chang. Không khó khăn gì lắm, Hou Ming Chin đã
tìm ra được địa chỉ của hai tên này và mời chúng đi
theo cả bọn để “nói chuyện phải quấy”. Dưới áp
lực của bốn tên Trúc Liên thạo nghề đao búa, Chang và
Wu đành phải cúi đầu đi theo chúng.
Lọc
lõi trong nghề phạm tội, bốn tên Trúc Liên đã vạch
một lộ trình cực kỳ lắt léo chạy khắp nội thành
rồi ra Thủ Đức, đi Biên Hòa, trở lại Bình Chánh và
lần lượt ra tay. 0 giờ 30 phút sáng ngày 24.6.1997, tại
bãi phế liệu của Nhà máy cán thép VICASA (Biên Hòa, Đồng
Nai), Wu Wen Yu bị tên Chang bắn chết, sau đó rưới xăng
đốt xác. Ngồi trên xe taxi, thấy ánh lửa, Hou Ming Chin
mở cửa chạy xuống. Chưa kịp thốt ra lời nào, Hou đã
bị tên Chang chĩa súng vào ngực cảnh cáo:
-
Tao xử nó đúng luật giang hồ, đừng ý kiến. Bây giờ
đưa tụi tao đi xử thằng Chang Po Wen.
Lại
thêm hàng loạt đoạn đường theo một lộ trình lắt
léo, 3 giờ sáng hôm đó, chúng lại dẫn tên Chang Po Wen
đến một mương nước nhỏ nằm khuất bên quốc lộ 13
thuộc địa phận xã Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức và bắn
chết tên này rồi hất xác xuống mương. Trước khi rời
“pháp trường”, hai tên Chang và Chien đều cẩn thận
đặt cạnh xác hai kẻ bị hành quyết hai viên đạn chưa
nổ, coi như chữ ký của Trúc Liên Bang trong quyết định
tử hình!
Hai
vụ thanh toán trong cùng một đêm đã khiến dư luận xôn
xao và hoang mang. Hơn một tuần sau, ngày 1.7.1997, Hou Ming
Chin bị bắt tại cửa khẩu Tân Sơn Nhất khi đang cùng
bạn gái làm thủ tục tính bay sang Campuchia lẩn trốn.
Khi hình ảnh cả thủ phạm lẫn nạn nhân được báo chí
đăng lên, rất nhiều người mới ngớ ra: họ đã nhẵn
mặt tất cả những tên xã hội đen này tại các vũ
trường lớn ở thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ ít ngày
trước khi chết, những kẻ bị bắn còn thường xuyên
“ngồi đồng” mỗi tối bên chai rượu và một đám
“em út” tại vũ trường Ceasar trong chợ An Đông, quận
5. Cùng bàn với chúng còn có một đám khá đông người
Đài Loan khác. Nhưng, chúng vừa bị giết thì những kẻ
này bỗng lặn mất tăm, không bao giờ còn thấy xuất
hiện. Cả ba tên Wu, Chang, Chien - những kẻ trực
tiếp thực hiện “lệnh hành quyết” - cũng đã nhanh
chân trốn sang Campuchia trước khi tên Hou bị bắt và biến
mất. Theo kết quả xác minh của PC16, Công an thành phố
Hồ Chí Minh, vào thời điểm đó, tất cả những nhân
vật được đề cập ở trên, kể cả những kẻ lạ mặt
từng ngồi chung với chúng tại Ceasar, phía Cảnh sát Đài
Loan đều khẳng định chúng là thành viên của Trúc Liên
Bang hoặc ít nhiều có dính líu đến bang phái tội ác
này.
Sự
“dính líu” có lúc đồng nghĩa họ là kẻ bị Trúc
Liên Bang khống chế. Theo điều tra của chúng tôi, có một
số doanh nhân có máu mặt đang đầu tư, buôn bán ở Việt
Nam, nhất là những người làm ăn riêng lẻ, không thuộc
các tập đoàn lớn, hàng tháng đều phải “đóng hụi
chết” cho bọn Trúc Liên bang. Lý do: Tại Đài Loan, toàn
bộ gia đình họ đã bị hắc bang này phong tỏa, khống
chế. Nếu người thân của họ ở Việt Nam ngưng đóng
tiền hay báo cho cơ quan an ninh, gia đình họ tại cố quốc
sẽ “có chuyện” ngay tức khắc. Điểm đóng tiền
mua sự an lành thường là các vũ trường đông đúc, ít
gây chú ý, trong đó có vũ trường Ceasar.
Gần
như đồng thời điểm xảy ra hai vụ thanh toán, ngay tại
Ceasar cũng xảy ra một sự cố. Vụ này nhỏ, nhưng rất
có ý nghĩa đối với những ai quan tâm đến hoạt động
của Trúc Liên Bang tại Việt Nam.
Số
là, với trình độ đai đen tứ đẳng Taekwondo, anh X.
(chúng tôi xin không nêu rõ tên), một huấn luyện viên võ
thuật đã được Ceasar ký hợp đồng làm đội trưởng
đội an ninh của vũ trường, có nhiệm vụ ngăn cản sự
quậy phá của khách với vũ trường hay giữa các nhóm
khách chơi với nhau. Trong số các khách quen, có một nhân
vật Đài Loan thường xuyên đi một mình, ngồi một bàn,
không nhảy, không nói gì, chỉ uống rượu rồi về. Anh
ta chẳng bao giờ trả tiền, nhưng đó là việc của bộ
phận khác, X. không bao giờ hỏi. Có điều rất khó chịu:
vị khách này luôn xuất hiện với thái độ nghênh ngang,
xấc láo. Một hôm, anh ta ngang nhiên tiến đến ngồi vào
chiếc ghế giành riêng cho đội trưởng an ninh (được
đặt ở vị trí thuận tiện quan sát toàn bộ sàn nhảy).
Giải thích bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Hoa mỏi miệng,
vị khách vẫn không chịu rời chỗ, còn có thái độ
thách thức nên với nhiệm vụ, X. đành phải cứng rắn
lôi anh ta ra. Y với chai Remy Martin trên bàn giáng thẳng
vào đầu X. Theo phản ứng, X. gạt ngay cú đòn và tống
thẳng một đấm vào mặt khiến tên càn quấy gục ngay
xuống sàn. Một chút náo loạn đã khiến ông chủ Ceasar
phải xuất hiện. Khi nhận rõ mặt kẻ càn quấy thì ông
ta tái mặt để rồi sau đó bảo X.:
-
Nếu anh cần bao nhiêu, tôi cũng sẽ trả, cho anh đi nơi
khác tìm việc!
Không
hỏi, song X. hết sức ngạc nhiên, không hiểu tại sao
mình bị mất việc dù đã làm rất đúng chức năng. Sự
ngạc nhiên này sẽ không xuất hiện, nếu X. biết rằng,
kẻ bị đo ván chính là một thành viên của Trúc Liên
Bang và gia đình một cổ đông của Ceasar tại Đài Loan
đang bị đồng bọn của tên này “ngắm nghía”...
Những
vụ việc nêu trên không phải là cá biệt. Nhưng, sau hai
vụ thanh trừng đêm 24-6-1997, bóng dáng những ông khách
Đài Loan đáng ngờ này ở các nhà hàng, vũ trường đột
nhiên thưa hẳn. Chính những nỗ lực của cơ quan Công an
đã chặn đứng âm mưu thâm nhập lần thứ nhất của
Trúc Liên bang.
Lần
thứ hai: Chiến tranh băng đảng
Không
chấp nhận nổi sự lộng hành của Trúc Liên Bang và bọn
xã hội đen, năm 1995, chính quyền Đài Loan đã mạnh tay
trừng trị, gom hết những tên lưu manh bất hảo ra đảo
Xanh - một hòn đảo nhỏ chuyên giam giữ tù hình sự
trọng án. Số còn lại đành tạm thời nằm im hoặc cao
chạy xa bay sang các nước Đông Nam á khác ẩn náu và gây
dựng lại băng nhóm. Cộm nhất trong số này phải kể
đến hai tên: Trần Khởi Lễ biệt danh Lễ Vịt, ông trùm
Trúc Liên Bang và Dương Quang Nam - Phó bang Tứ Hải. Chạy
sang Campuchia năm 1997, núp dưới mác một nhà thầu xây
dựng có vốn lớn, Trần Khởi Lễ đã bỏ tiền ra mua
hàm Huân tước danh dự và bắt đầu tìm cách lân la kết
giao với các nhân vật tai to mặt lớn trong chính quyền
thành phố Phnompênh và Chính phủ Hoàng gia. Ô dù đã
vững, thoắt cái tiền bạc đã biến ông trùm xã hội
đen này thành một doanh nhân có máu mặt, đứng đắn và
đáng kính, giúp hắn trúng rất nhiều vụ thầu béo bở
trên đất Chùa Tháp. Đến lúc đó, Trần Khởi Lễ mới
bắt đầu nghĩ cách bành trướng thế lực sang thị
trường thành phố Hồ Chí Minh.
Là
một lái súng cáo già, Lễ biết rằng không thể đặt
chân sang thành phố Hồ Chí Minh ở tư thế đồi đầu
với giang hồ bản địa, nhất là lúc này Năm Cam đã ra
tù, đang tìm cách khuyếch trương thanh thế và ôm “mộng
bá đồ vương” thống nhất giang hồ Nam Bắc. Do đó, Lễ
Vịt quyết định chơi trò “công ty”, bắt tay với
giang hồ Sài Gòn.
Quân
sư cho chiến dịch ngoại giao này là Nguyễn Chí Thành,
tức Thành Chân, tay anh chị Hải Phòng nổi tiếng từng
một thời dưới trướng Năm Cam. Năm Cam bị bắt, Thành
Chân cũng đào tẩu bằng đường xuất cảnh sang Anh rồi
lộn về Đài Loan, gia nhập đội ngũ lái súng, trở nên
thân thiết với nhiều nhân vật của Trúc Liên bang.
Dưới
sự quân sư của Thành Chân, Lễ Vịt đã quyết định
trao ấn tiên phong cho Lee Han Shin, tức A Lý, một kẻ đã
chín lần ra vào Việt Nam, khá quen thuộc với những tên
tuổi cộm cán của giang hồ Sài Gòn. Khá tháo vát,
A Lý đã lần lượt qua lại và mua được một số cổ
phần, cơ sở kinh doanh ngành nhà hàng, vũ trường của
giang hồ Sài Gòn, trong đó có cả nhà hàng khách sạn
Cam ở đường Nguyễn Tất Thành của Năm Cam, biến nó
thành nhà hàng Tân Hải Hà, lập đại bản doanh cho Trúc
Liên Bang ngay tại thành phố Hồ Chí Minh mà không hề tốn
công sức đụng độ với giang hồ bản xứ.
Để
tạo vây cánh làm hậu thuẫn cho A Lý, từ Phnômpênh, Trần
Khởi Lễ đã phái sang Việt Nam 7 cao thủ gọi là băng
“Thất tinh Bắc đẩu” đi kè kè A Lý nhằm khuếch
trương thanh thế. Đã có máu mặt, A Lý đã đi thêm những
nước cờ táo bạo: cùng vợ là Diệp Hiểu Vân mua 30%
(240.000 USD) cổ phần vũ trường Metropolis đang phất lên,
sau đó lại đàm phán mua vũ trường Monaco của Năm Cam
với giá 1 triệu USD, thông qua sự môi giới của một cổ
đông khác tại Metropolis là Hồ Việt Sử. Vụ mua bán bất
thành. Không rõ lý do, song A Lý vẫn cho rằng chính Sử
phá đám, nên y găm hận vào lòng chờ cơ trả đũa.
Theo
cách lý giải của giang hồ Sài Gòn, vụ mua bán này bất
thành là do Năm Cam - đang rất cần bán Monaco để
gom tài sản chuẩn bị sẵn sàng đào tẩu khi có biến -
quá hoảng trước một vụ làm ăn lãi cao nhưng quá liều
lĩnh, đẫm máu và ngu xuẩn mà A Lý bị nghi là tác giả.
Vụ này xảy ra vào giữa năm 2001. Lee Ming Shing, một
thương gia Đài Loan bị chặt lìa một cánh tay trên đường
Nguyễn Hồng Đào, Tân Bình. Khi bảo tự chặt, khi nói là
tai nạn, Lee tuyệt đối không khai báo với công an nguyên
nhân và thủ phạm đích thực của vụ “tai nạn”.
Nhưng giang hồ thì vẫn có cách giải thích, nghe rất có
lý: Biết Lee - cũng là một tên xã hội đen - đóng bảo
hiểm nhân mạng rất cao, băng Trúc Liên Bang và A Lý đã
dụ Lee mượn 40.000 USD sang Việt Nam mua nhà lấy vợ, tất
tật đều do đại ca A Lý giúp đỡ. Khi mọi thứ đã
xong xuôi, A Lý lập tức giở trò phong tỏa, khống chế
dọa giết Lee để đòi nợ.
Lee
quyết định bán ngôi nhà mới mua để trả nợ nhưng
không xong. Hễ có khách đến xem nhà, trả giá, A Lý lại
sai ngay vài tên đàn em vằn vện đến chặn họ ngay tại
cửa, buông lời cảnh cáo:
-
Nhà này đã bán cho giang hồ, đừng tranh mua mà rước họa
vào thân.
Để
bảo toàn mạng sống, Lee Ming Shing đành chấp nhận cụt
một bàn tay, lấy mức bảo hiểm 25% là 75.000 USD sang trả
nợ cả vốn lẫn lời cho A Lý.
Với
Năm Cam, cách hành xử quá “tận mạng” của Trúc
Liên Bang ẩn quá nhiều khả năng dẫn vào cửa tử, khó
lòng qua mặt được cơ quan Công an. Do đó, ông trùm không
bán Monaco cho A Lý, tránh dính líu để đề phòng hậu
hoạn.
Đang
điên tiết vì sẩy cú làm ăn lớn, A Lý lại nhận thêm
một hung tin: Thị trưởng Phnômpênh Chaxupaila đã mở cuộc
tảo thanh chống Trúc Liên Bang tại thủ đô, sau khi băng
đảng này bị nghi là thủ phạm giết Lý Chí Hâm, Hội
trưởng Hiệp hội thương mại Đài Loan tại Campuchia. Đầu
tháng 7.2001, với phóng viên kênh truyền hình hữu tuyến
Phnômpênh, sau cái chết của Lý Chí Hâm, Trần Khởi Lễ
đã ngu ngốc ném ra những câu tuyên bố hết sức hớ
hênh và ngạo mạn, rằng:
-
ở Campuchia chỉ cần quẳng ra 300 USD là có thể thuê được
một tay đao búa sẵn sàng giết người.
Và:
-
Để tự bảo vệ, tôi đã tập bắn súng hai tay
như một...
như một...
Sau
đó, y còn khoe trong nhà luôn có sẵn một số... súng đạn
đủ trang bị cho cả trung đội. Kết quả là ngày
8.7.2001, cảnh sát ập vào, lôi ra từ nhà Trần Khởi Lễ
tại biệt thự 62 đường 592, Tây - Bắc thủ đô
Phnômpênh 20 khẩu súng; hơn 2.000 viên đạn, và bắt giữ
y.
Đại
bản doanh của Trúc Liên Bang ở Campuchia tan nát khiến A
Lý mất chỗ dựa. Hắn bắt đầu hoang mang tợn, tính
đánh bài chuồn, dẫn đến một sai lầm chết người cả
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Để thu gom tiền bạc, A Lý đã
kiếm chuyện gây sự với Hồ Việt Sử, vô cớ đòi Sử
phải trả ngay món nợ 40.000 USD, trong khi trên danh nghĩa,
đây là món tiền cầm cố một chiếc xe Mercedes Sử
mượn của ông Vương và bà Hoặc Huệ Nghị, hai người
này không đòi, nợ cũng chưa đáo hạn. Hành động nôn
nóng này đã khiến đám Trúc Liên Bang của A Lý và băng
Hồ Việt Sử lao vào đâm chém nhau, dẫn đến cái chết
của tên Trần Ngọc Hiền vào rạng sáng ngày 12.8.2001.
Dấu tích Trúc Liên Bang lộ ra khá rõ: Trần Ngọc Hiền
chết bởi một viên đạn bắn ra từ một khẩu Flairegun
đặc chủng, chuyên dùng bắn pháo hiệu, ở Việt Nam bói
cũng không ra, trong khi với Trúc Liên Bang thì lại khá
quen thuộc...
Kết
quả là Công an Việt Nam lại ráo riết vào cuộc khiến
đám Trúc Liên Bang mới manh nha đặt được một chân ở
thành phố Hồ Chí Minh phải tháo chạy tan tác. Không còn
Trần Khởi Lễ, dù đã trốn sang Campuchia cũng không còn
nơi nương tựa, bí đường A Lý lại gây thêm tội
ác (bắn chết một cảnh sát Campuchia) rồi “lặn” mất
tăm mất tích. Có tin cho rằng, chính Trúc Liên Bang đã
“thịt” A Lý, hy sinh tên tướng tiên phong thảm bại để
cứu nguy đế chế. Một lần nữa, âm mưu thâm nhập Việt
Nam của Trúc Liên Bang lại bị chặn đứng.
11.
HẢI BÁNH
Vậy
là cuối cùng phiên tòa xét xử “Vụ án Trương Văn Cam
và đồng bọn” cũng đã kết thúc. Sau Năm Cam, kẻ đứng
thứ hai trong danh sách bị can, cũng là nhân vật số 2 của
toàn bộ vụ án lôi kéo được sự chú ý nhiều nhất
của dư luận không ai khác chính là Hải Bánh. Ẩn sau bộ
áo sọc của phạm nhân là một thân hình chằng chịt
hình xăm - dấu tích vừa “lừng lẫy” vừa khốn nạn
của một kiếp giang hồ; ẩn sau khuôn mặt khá điển
trai và bình tĩnh là một cái đầu máu lạnh ẩn chứa
quá nhiều tội ác... Đó chính là Hải Bánh, kẻ có cái
lưỡi vàng đã mở ra toàn bộ chứng cứ để bắt đầu
một vụ án hình sự lớn nhất trong lịch sử tư pháp
Việt Nam. Với giang hồ thì khác, Hải Bánh chính là chìa
khóa mở cửa địa ngục đưa toàn bộ băng tội phạm
của Năm Cam xuống đáy mồ. Câm lặng đi giữa hàng bị
cáo bước vào phòng xử, Hải Bánh dư biết hắn đã trở
thành một kỷ lục: kẻ đã và sẽ còn bị truy nã nhiều
nhất bởi cả công an lẫn giang hồ, cho dù còn sống hay
đã chết.
Tên
thật là Nguyễn Tuấn Hải, sinh ngày 7.11.1967, tên giang hồ
khét tiếng này có một tuổi thơ êm đềm, giản dị ở
nhà số 36, Hàng Cót, Hà Nội. Cha Hải là ông Nguyễn Văn
Bánh. Theo thói quen, người miền Bắc thường gắn tên
cha vào sau tên con trong cách gọi thân mật cho nên hắn
được gọi là Hải Bánh - một cái tên sau này sẽ trở
nên khét tiếng, trong Nam ngoài Bắc đều biết đến.
Sinh
ra đã lì lợm nên Hải không màng gì đến sách vở học
hành. Năm 1982, đang học lớp 8, Hải nghỉ ngang để đi
học nghề thợ hàn và nghề... đâm thuê chém mướn. Làm
thợ thì... phọt phẹt, nhưng nghề đao búa thì Hải Bánh
chẳng kém cạnh gì ai. Khoảng những năm 1982-1985, dân chợ
trời khu vực các Hàng ở Hà Nội đã nhẵn mặt thằng
cu cò Hải Bánh vì cứ sểnh ra món nào là hắn nẫng tay
ngay món đó, nhanh như chảo chớp. Nhưng nhỏ to về hắn,
người ta chỉ dám nói sau lưng còn đối diện thì cạch.
Vô phúc để lọt tai, thằng cu cò sẽ trở thành hung thần
ngay và sẵn sàng nện cho kẻ nhiều chuyện nhừ tử. Đã
thế, sau lưng hắn còn có thêm một đám đàn em đầu
trâu mặt ngựa, thằng nào cũng tiền án tiền sự nhiều
hơn tiền mặt, sẵn sàng coi việc đụng độ, đấm vỡ
mặt người khác là “cái đinh”.
Vì
sự lộng hành và những trận loạn đả gây thương tích,
ngày 12.5.1985, Hải Bánh bị công an quận Hoàn Kiếm tóm
cổ và bị tòa xử 42 tháng tù giam. Trước đó, hắn đã
một lần ngồi tù 24 tháng vì tội trộm cắp. Lương dân
36 phố phường thở phào vì bớt được một hung thần
trên lề phố.
Năm
1987, Hải Bánh ra tù. Có vẻ cu cò đã trở nên lương
thiện, an phận làm một chú thợ hàn tàng tàng và lấy
vợ sinh con đẻ cái. Vợ hắn là Nguyễn Hoàng Hà, sinh
năm 1970, con nhà tử tế, chắc cũng sẽ bảo ban được
thằng chồng. Vậy mà không. Năm 1990, khi Hà sinh được
đứa con gái thì gã chồng lại trộm cắp, lại vào tù.
Hai năm sau, năm 1992, được trả tự do nhưng anh thợ hàn
Nguyễn Tuấn Hải coi như không còn nữa, thay vào đó là
một Hải Bánh đại ca, tên tuổi khá cộm cán trong đám
giang hồ.
Có
vợ có con cũng coi bằng không, Hải Bánh biến mất mặt
và cặp kè với Thủy bồ, một nữ quái sinh năm 1972, bắt
đầu đẩy mạnh việc tác oai tác quái. Vứt chiếc mỏ
hàn vớ lấy con dao hoặc cây mã tấu, Hải Bánh trở
thành một tay bảo kê vằn vện kiêm đại lý thuốc lắc
cho dân chơi của nhiều nhà hàng vũ trường ở thủ đô.
Có tiền, có quyền Hải Bánh bắt tay và thu phục được
khá nhiều chiến binh giang hồ có số ở Hà Nội như Hải
lớ, Hải hấp, Phát lợn, Trường xoăn, Hưng chùa... Trong
số này, thật ra cũng có một vài thằng còn bé lắm, như
Hưng chùa (Nguyễn Việt Hưng) hay Trường xoăn (Nguyễn
Xuân Trường) chẳng hạn. Nhưng mà khổ, đi với ma thì
mặc áo giấy, những thằng bé con mặt búng ra sữa ấy,
theo anh Hải chỉ ít lâu cũng thành sát thủ máu lạnh như
ai, từ từ thiên hạ sẽ thấy.
Những
cuộc thư hùng đẫm máu trên lề phố đã nhanh chóng đẩy
uy tín Hải Bánh lên hàng “sao” trong giới giang hồ Hà
Nội. Hắn lọt vào mắt xanh của các ông trùm xã hội
đen Hà thành lúc bấy giờ như Thắng tài dậu, Sơn bạch
tạng, Khánh trắng, và cả bà chị Phúc bồ, một đàn
chị theo nghĩa giang hồ của Thủy bồ - nữ quái đang cặp
kè với Hải. Đám ông trùm bà trùm vừa nể, vừa ngán
ngại dè chừng tên cận vệ của Diêm vương Hải Bánh.
Tuy nhiên, cao nhân tất hữu cao nhân trị, đến lượt Hải
Bánh lại thầm kinh một kẻ khác, khổ thay lại là một
con mẹ tưởng chừng có thể coi là nữ nhi thường tình.
Không xa lạ gì, kẻ đó là Vũ Hoàng Dung, (tức Dung Hà),
nguyên “giám đốc đen” của công ty cờ bạc Kiến An
(Hải Phòng).
Cú
chào bàn ngoạn mục của Dung Hà khiến Hải Bánh phải
xanh lè mặt là cuộc tập kích táo bạo của băng Hải
Phòng do Dung Hà cầm đầu nhằm tiêu diệt băng Khánh
trắng, ngay sau khi Dung Hà mới ra tù (cuối năm 1995). Lúc
này, Khánh trắng, Phúc bồ... và nhiều ông trùm, bà trùm
khác của Hà Nội đang liên minh với nhau khá chặt, đụng
một băng là đụng toàn bộ anh chị thủ đô nhưng Dung
Hà vẫn không ngán. Vụ tập kích (đổ quân bằng ô tô)
đã toàn thắng trước khi rút lui an toàn đã chứng tỏ
bản lĩnh giang hồ của Vũ Hoàng Dung và bộc lộ rõ ý đồ
“dẹp loạn sứ quân” để thôn tính lãnh địa Hà Nội
của nữ quái này. Vì nể, Hải Bánh đã mò ngay xuống
Hải Phòng ra mắt Dung Hà và được bà chị (Dung Hà chỉ
hơn Hải Bánh một tuổi) tiếp đón nồng hậu. Đế chế
cờ bạc Hải Phòng, hậu thân của công ty cờ bạc Kiến
An có thêm một phó tướng dũng mãnh là Hải Bánh, nắm
đầu dây mối nhợ của đường dây cá độ bóng đá
xuyên quốc gia. Khi Dung Hà di cư vào thành phố Hồ Chí
Minh, năm 1998, tại Hải Phòng công việc của Hải Bánh
vẫn tiếp tục, ngay sau khi y hoàn tất thêm một bản án
45 tháng tù.
Tháng
10.1998, bà Trương Thị Sẩm, chị ruột của Năm Cam, vợ
Bảy Sy mất, giang hồ toàn quốc về viếng khá đông.
Cùng với Hải hấp và Hải lớ, Hải Bánh cũng được
Dung Hà dẫn đến viếng và giới thiệu với Năm Cam - kẻ
đã từng nhận Dung là em kết nghĩa. Đó chính là điểm
mốc của một mối giao tình giang hồ đầy bi kịch và
máu.
Hai
năm sau, Hải Bánh lỗ nặng trong nghề cá độ bóng đá,
xù nợ của giang hồ Hải Phòng - Quảng Ninh hơn một tỉ
đồng, bị đám anh chị đất Cảng tầm nã ráo riết.
Giang hồ Hà Nội cũng không dung kẻ đã bắt tay với cựu
thù, tuyên bố không còn đất cho Hải Bánh dung thân. Lốc
ổ, Hải Bánh phải phiêu bạt về phương Nam, tìm đến
Năm Cam cầu cứu mong tìm chỗ náu thân.
Ban
đầu, Năm Cam không ưa gì Hải Bánh do đánh giá tên hung
thần này rất thấp ở mức độ trung thành. Mặt khác,
ông trùm cho rằng Hải Bánh chỉ là tên hung thần “hữu
dũng vô mưu”, ngại rằng máu liều của Hải Bánh có
thể làm rách toạc vỏ bọc an toàn của đế chế họ
Trương nên không muốn dây vào. Nhưng, Hải Bánh đang thất
thế, nhũn như con chi chi, tỏ ra ngoan ngoãn thần phục nên
Năm Cam đổi ý, chìa tay vớt Hải Bánh để tính bề lợi
dụng, mục đích là sử dụng Hải làm đối trọng với
chính bà chị Vũ Hoàng Dung đang có những biểu hiện lộng
hành nhằm tiếm ngôi đoạt vị.
Nguyên
do để ông trùm đa mưu túc kế và tên hổ tướng ngang
ngạnh xích lại gần nhau là một mỹ nhân mang cái tên
khá đẹp: Hạ Giang (tên thật là Hà Thị Thu Giang).
Khoảng
thời gian 1992 - 1996, đồng thời lúc đang cặp kè Thủy
bồ, Hải đã từng yêu và đầu gối tay ấp với Hạ
Giang, con thiên nga xinh đẹp của giới giang hồ. Nhưng vì
tính nóng nảy, hung hãn, Hải Bánh đã khiến thiên nga
khiếp sợ bay về phương Nam trú bão. Vì hàng loạt trận
thư hùng tóe lửa, Hải Bánh đã tự gây thù chuốc oán
quá nhiều, liên tục bị giang hồ đất Bắc truy đuổi
để phục hận. Khiếp quá, Hạ Giang đành im lặng
trốn người tình bỏ vào thành phố Hồ Chí Minh. Nhờ
nhan sắc trời cho, Hạ Giang nhanh chóng trở thành vợ của
ông R. - một tài phiệt có máu mặt của ngành kinh doanh
xe du lịch hơn... bố Hạ Giang chỉ vài tuổi. Nhung lụa
của đời sống tư sản làm muợt mà thêm đôi cánh thiên
nga, nhan sắc được chăm sóc kỹ lưỡng của Hạ Giang
ngày càng thêm lộng lẫy. Nhưng cô vẫn chưa quên được
người tình hung bạo khi xưa. Khi Hải Bánh mò vào Sài
Gòn, Hạ Giang dù đã có hai mặt con với R. vẫn tức tốc
lao trở lại vào vòng tay của gã. Chưa hết, cả một núi
tiền trong két sắt của R. cũng đã bị Hạ Giang moi ra để
cung phụng cho người tình cũ ăn chơi. Quá đau, R. quyết
phục hận, nhiều lần bỏ cả đống tiền chỉ cốt thuê
côn đồ dần cho kẻ đã cướp khỏi tay mình cả vàng
lẫn cái ngàn vàng. Khổ nỗi, đó chỉ là mối thù vô
vọng. Tất cả những thằng đầu trâu mặt ngựa nhất
của đất Tây Cống (Sài Gòn) đều lắc đầu và trả
lại tiền cho R. khi biết rằng, kẻ mà chúng cần thanh
toán là Hải Bánh.
Cùng
đường, nhà tư sản đành chơi canh bạc chót: nhờ vả
ông trùm Năm Cam. Ông trùm thủng thẳng:
-
Xem như số anh xui tận mạng. Thằng đó (chỉ Hải Bánh)
nó có sợ ai. Cả tôi nó cũng còn coi thường mà đành
chịu. Thôi, anh lo thu xếp đi, để chuyện nhờ vả này
đến tai Hải Bánh thì mạng cũng không còn, nói gì vàng
với vợ.
Hết
cửa, để bảo toàn mạng sống, nhà tư sản (gốc Hoa)
đành lặng lẽ bán tống bán tháo nhà cửa tài sản, mang
theo mối hận sầu đau xót bỏ ra nước ngoài sinh sống.
Độc đáo là ở chỗ, toàn bộ thủ tục, giấy tờ cũng
như mọi chi phí để R. ra đi êm thấm, Năm Cam đã hào
phóng chi tất, coi như trả nghĩa và không phụ sự tin cậy
của ông R. khi đã tìm đến y cầu cứu.
Trong
khi đó, để gây thanh thế, Hải Bánh vẫn cố ý gây ra
một số cuộc loạn đả tấn công một số em út nhà
hàng, vũ trường của Năm Cam. Không những không xuống
tay trừng trị, Năm Cam lại hạ mình gặp riêng Hải Bánh,
lấy điều hơn lẽ phải rót mật vào tai gã con trời.
Nhắc đến Hạ Giang, ông trùm tỏ ra tử tế khuyên Hải
Bánh:
-
Con giun xéo mãi cũng phải quằn, đừng xía vô chuyện nhà
người ta kẻo có ngày giang hồ nó cho ăn đạn. Chỗ anh
em có thiếu thốn gì thì qua anh, anh giúp!
Lời
khuyên ngọt ngào nặng mùi cảnh cáo khiến Hải Bánh ngộ
ra, dần dần tỏ ra biết điều và quy thuận ông trùm.
Mỗi lần Hải Bánh nhẵn túi, ông trùm lại xuất hiện
đúng lúc, dúi cho hắn mươi “vé”. Sau đó lại bỏ
tiền thuê một căn nhà trên đường Thủ Khoa Huân, quận
1 cho Hải mở tiệm gội đầu Vân’s làm kế sinh nhai. Dù
liều mạng nhưng thân cô thế cô, bị giang hồ Bắc truy
đuổi gắt gao và lại đang rất cần tiền, Hải Bánh đã
nhanh chóng bị sợi xích vàng của Năm Cam trói chặt.
Những cuộc tập kích ngông cuồng chấm dứt. Thay vào đó,
Hải nhận lời làm đại diện cho Năm Cam kiêm bảo kê
của nhà hàng - vũ trường Phi Thuyền, mới mở trên đường
Tôn Đức Thắng, quận 1 với mức lương 10 triệu
đồng/tháng.
Nguyên
vũ trường này do một doanh nhân có máu mặt tên là Tống
Việt Hòa, thuê đất đầu tư xây dựng. Không có vốn,
Hòa đã mời gọi được một đám tài phiệt từ Đài
Loan kéo sang hùn hạp. Biết tiếng tăm Năm Cam, lại quá
sành sỏi chuyện kinh doanh về đêm, đám tài phiệt này
ra điều kiện với Tống Việt Hòa rằng, họ chỉ chịu
rót tiền sang nếu Năm Cam chịu “ăn đèn” tham gia cổ
phần. Để dàn xếp, Tống Việt Hòa đã tổ chức một
bữa tiệc chiêu đãi đám tài phiệt tại quán Cánh Buồm,
đường Pasteur, quận 3, vốn là điểm kinh doanh chính của
Năm Cam rồi nhân thể mời luôn anh Năm chủ quán ngồi
luôn cho xôm tụ. Động tác bắc cầu của Hòa đạt kết
quả mỹ mãn: Năm Cam nhận lời tham gia với điều kiện
Phi Thuyền phải lấy ruợu ngoại do Năm Cam cung cấp đồng
thời trách nhiệm bảo kê cho vũ trường sẽ do đàn em
của Năm Cam đảm nhiệm với giá chính thức mỗi tháng
30 triệu đồng.
Chỉ
nửa tháng sau, hơn một triệu USD đã được các cổ đông
Đài Loan - trong đó có anh ruột của ngôi sao phim võ hiệp
lừng danh Lương Triều Vĩ (Tony Lung) rót sang, dựng nên vũ
trường Phi Thuyền (Appolo) xôm tụ nhất thành phố, với
mức lãi ròng hơn 100 ngàn USD/tháng. Đến tháng 8 năm
2000, Hải Bánh đã yên phận với chức danh Security Chief
(xếp an ninh) của vũ trường này. Oái ăm thay, người
giới thiệu Hải vào Phi Thuyền, không ai khác lại là Hạ
Giang, lúc này đã sống như vợ chồng với Tống Viết
Hòa! Tuy nhiên, dù Hạ Giang có ân sâu nghĩa dày mấy thì
đến lúc đó, hình ảnh cô cũng đã không còn tồn tại
trong đầu Hải nữa. Thay vào đó, một nhan sắc khác:
Nguyễn Thị Anh Thư - cô gái được giang hồ mệnh danh là
hoa khôi của những cuộc dạo chơi. Anh Thư sinh năm 1978,
tại thành phố Hồ Chí Minh, quen Hải Bánh vào khoảng
tháng 6.2000 trong một đêm nhảy nhót tại vũ trường
Phương Đông, quận 1. Ngày 8.9.2000, khi khai trương tiệm
uốn tóc, gội đầu Vân’s, Hải Bánh đã đưa Anh Thư
về, giao cho cô quyền quản lý tiệm, trả lương hai triệu
rưỡi một tháng. Từ đó, Hải và Thư sống với nhau tại
tiệm Vân’s như một cặp vợ chồng.
Trong
đời sống giang hồ, sự an lành chỉ là một mỹ từ xa
lạ và xa xỉ, Hải Bánh khai trương tiệm uốn tóc chưa
lâu thì Dung Hà đột nhiên xuất hiện. Là người cưu
mang, che chắn cho Hải khi hắn đang bị tầm nã trên đất
Bắc, Dung Hà cho rằng y thị có quyền đòi Hải phải trả
ơn. Điều mà Dung Hà muốn là Hải Bánh phải nhường lại
toàn bộ tiền lời của tiệm Vân’s, sau đó nâng lên là
phải bán tiệm cho y thị lấy tiền nuôi quân đang ùn ùn
từ đất Cảng kéo vào. Hải Bánh không nghe. Cho rằng tên
đàn em phản phúc, vô ơn, Dung Hà đã nhiều lần đưa đàn
em đến Phi Thuyền quậy, đập phá đồ đạc, đuổi
khách khiến “sếp an ninh” Hải Bánh phải khóc ròng năn
nỉ, nhưng thị vẫn không tha. Dã man hơn, Dung Hà còn sai
đàn em xách một xô phân tạt thẳng vào tiệm Vân’s của
Hải Bánh. Tiếp đó, đêm 29.9.2000, Dung Hà đã dẫn 15 tên
đàn em đến Phi Thuyền để tổ chức sinh nhật với một
ổ bánh toàn... chuột sống, mắm tôm, phân... được thả
ra tung tóe, bẩn thỉu khiến khách chơi trong vũ trường
phải chạy toán loạn.
Sau
cuộc ẩu đả, bảo vệ vũ trường đã bắt giữ một
đàn em của Dung Hà. Không thèm rời ghế, Dung Hà đã cho
đàn em gọi Hải Bánh đến và ra lệnh: Thả
tên đàn em bị bắt ra, đồng thời báo cho chủ vũ trường
và Năm Cam biết là Dung Hà muốn góp cổ phần vào Phi
Thuyền. Phần hùn của Dung Hà chỉ là... một triệu đồng,
nhưng phần chia y thị đòi phải bằng phần hùn của
người góp cổ phần cao nhất, nếu không được đáp ứng
sẽ quậy tiếp!
Hận
nổ đom đóm, nhưng không dám coi thường Dung Hà, Hải
Bánh phải liên tục gọi điện thỉnh ý kiến Năm Cam.
Năm Cam điên lắm. Nguyên tháng 8.1998, khi Dung Hà mới chân
ướt chân ráo vào Nam, Năm Cam đã nhận Dung Hà làm em kết
nghĩa đồng thời đã từng nhiều lần cho Dung Hà tiền
để mở quán bar ở số 17 Bùi Thị Xuân, rồi ủng hộ
30 triệu đồng để Dung Hà mở sòng bạc lụ xây tại
chỗ. Sau đó, thấy chỉ ngay sau ngày đầu tiên hoạt
động, sòng của Dung Hà đã lãi ròng hơn 70 triệu đồng,
Năm Cam chóng mặt ra lệnh dẹp ngay. Tiền vô như nước,
Dung Hà không nghe, tiếp tục gá bạc. Đã thế, y thị còn
ngang nhiên thách thức ông trùm bằng cách nhiều lần dẫn
đàn em ra Biên Hòa, Đồng Nai phá tan hoang sòng của Năm
Cam do Ba Mậu chỉ huy ở số 180, khu tập thể đoàn 45
phường Long Bình, cố ý dằn mặt các đối thủ gây
thanh thế để tranh giành lãnh địa cờ bạc và tranh
quyền bảo kê.
Không
chịu đựng hơn được nữa, Năm Cam ra lệnh cho Hải
Bánh:
-
Chú gặp Dung Hà, nói với nó là chỗ làm ăn của anh em,
đừng quậy phá nữa. Phải điều đình với nó để
sống.
Biết
rõ sự ương ngạnh của Dung Hà, Hải Bánh hơi ngại:
-
Nếu không điều đình được thì sao?
Câu
trả lời của ông trùm chính là lệnh hành quyết:
-
Việc của chú là phải biết làm sao rồi, điều đình
không được thì tự chú tính, nếu xảy ra chuyện gì
dính dáng đến pháp luật, chính quyền để anh lo. Anh
không muốn thấy mặt Dung Hà nữa.
Không
hỏi gì thêm, Hải Bánh lặng lẽ thi hành. Theo lệnh của
Hải, đêm 1.10.2000, hai tên sát thủ Nguyễn Việt Hưng,
Nguyễn Xuân Trường đã im lặng lên đường, mang theo
khẩu rulo với năm viên đạn mượn của Đằng tây, tức
Lưu Tấn Nhơn, ông chủ của quán Karaoke Ca Dao trên đường
Thi Sách. 0 giờ 25 phút ngày 2.10.2000, một viên đạn duy
nhất đã nổ từ trên tay sát thủ Nguyễn Việt Hưng, hạ
gục Dung Hà ngay trước cửa số nhà 17 Bùi Thị Xuân,
quận 1, chấm dứt một cuộc đời đầy tội lỗi của
nữ quái Hải Phòng.
Sau
vụ hành quyết, Năm Cam và Hải Bánh đều lo sợ bị công
an sờ gáy nên tuyệt đối tránh mặt không gặp gỡ nhau.
Cẩn thận hơn, ngay sau đó Năm Cam còn đổi số điện
thoại di động, đề phòng bất trắc. Mãi hai tháng sau,
kẹt quá, Hải Bánh đành liều mạng dắt Hưng, Trường
đến tận nơi gặp mặt, Năm Cam mới chịu ném ra 10 triệu
đồng bố thí, kèm theo những câu nói ỡm ờ:
-
Đề từ từ rồi anh tính.
Thực
tế, điều duy nhất mà Năm Cam tính là tìm cách đưa Hải
Bánh vào chỗ chết, mặc kệ Hải Bánh ngày đêm ngay ngáy
vì vừa lo bị công an bắt, vừa sợ giang hồ Hải Phòng
đang sùng sục đòi lấy máu trả thù. Hắn biết, giang hồ
đất Cảng đã ra giá một ngôi nhà giá 150 lượng vàng
cho bất cứ kẻ nào hạ được Hải Bánh.
Biết
Năm Cam đang tìm cách bỏ rơi mình, Hải hận bầm gan
nhưng không làm gì được, chỉ còn biết chửi đổng:
-
Thằng già chó đểu!
Đang
vỡ mật vì lo thì những tháng sau đó, Hải Bánh lại
liên tục phải chống đỡ với hai băng nhóm lạ hoắc
liên tục thay nhau đến quậy phá vũ trường. Có nằm mơ
tên giết thuê máu lạnh cũng không thể ngờ những kẻ
lạ mặt chính là đàn em của... Năm Cam gửi đến. Mục
đích, ông trùm muốn gây căng thẳng, tạo cớ cho Hải
Bánh nổi nóng, dẫn đến manh động, sẽ sớm vào tù.
Nếu điều đó xảy ra, Hải Bánh vào trước, bàn tay nhám
nhúa của ông trùm sẽ thò vào ngay sau đó để điều
khiển đám đại bàng trong trại thủ tiêu Hải Bánh, bịt
đầu mối.
Hải
Bánh quả thật đã không giữ nổi bình tĩnh. Luôn sống
trong trạng thái phập phồng lo sợ, đầu óc Hải loạn
cả lên. Hắn dễ dàng nổi khùng vì bất cứ lý do nào.
Vì một xích mích rất cỏn con (cãi nhau vì không cho mượn
điện thoại di động), ngày 25.5.2001 tại nhà hàng Tân
Hải Vân, Hải Bánh đã dùng nguyên một chồng đĩa giáng
xuống đầu một khách ăn khác khiến anh này trọng
thương. Vì tội cố ý gây thương tích, Hải bị công an
túm cổ.
Không
giống như dự định của Năm Cam, công an đã đưa ngay
Hải Bánh xuống trại giam Công an tỉnh Tiền Giang, khiến
mưu đồ với tay theo của ông trùm hoàn toàn phá sản.
Sau nửa năm ngồi tù, đủ thời gian để suy nghĩ đầy
đủ về nghiệp chướng giang hồ, về bộ mặt thật và
âm mưu thâm độc của Năm Cam, lại chẳng thấy “anh
Năm” lo lắng được chút nào cả, Hải Bánh quyết định
khai hết. Ngày 5.12.2001, lần đầu tiên tên giang hồ cộm
cán chịu vứt bỏ thái độ lì lợm, khai nhận toàn bộ
chi tiết về vụ hạ sát Dung Hà. Cánh cửa bí mật được
mở toang, đường xuống địa ngục mở ra thông thống,
cuốn toàn bộ Năm Cam và băng đảng vào đáy sâu để
bắt chúng phải trả giá cho những tội ác mà chúng đã
gây ra.
12.
VÀNG
1.
Du mục
Rất
có thể bạn sẽ chẳng tán đồng, nhưng dù sao, tôi vẫn
cứ tin rằng đôi khi những biến cố lớn, những sự
kiện đáng nhớ trong đời lại có khởi nguồn hoặc đến
với chúng ta một cách hết sức ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên,
tôi đến với nghề báo. Ngẫu nhiên, tôi gắn công việc
và thời gian của mình với những chuyến đi... Những lúc
một mình với chiếc xe gắn máy cà tàng rong ruổi qua
từng miền đất lạ của rẻo đất cong cong hình chữ S,
tôi thường cảm thấy lòng dội lên một cảm giác lâng
lâng khó tả.
Lâu
dần thành quen, công việc đã vô tình biến tôi thành một
tín đồ của chủ nghĩa xê dịch, luôn phải đi và muốn
đi. Thú vị là ở chỗ, những lúc rong ruổi đường xa,
tôi lại có cơ hội để gặp lại tuổi thơ trong những
cơn mơ mòng hiệp khách, chủ yếu hình thành từ những
trang sách ngấu nghiến đọc trộm và đam mê khám phá.
Cũng
ngẫu nhiên như thế, năm 1997, cái địa danh “bãi vàng
Phước Sơn” đã tình cờ lọt vào tai tôi và nằm lại
đó như một bí ẩn nhiều sức hút. Năm ấy, mưa lũ
không lớn lắm. Nhưng ở một xứ sở mà cơ sở hạ tầng
còn yếu kém như đất nước thân yêu của chúng ta thì
không cần lớn, thiên tai cũng dư sức gây đại họa.
Riêng tại Quảng Nam, với trận lụt “không lớn lắm”
năm ấy, toàn tỉnh đã có “97 người chết và mất
tích”. Thật ra, “chết” với “mất tích” cần phải
được hiểu chẳng qua cũng chỉ là một! Trước cơn rùng
mình, nổi gai ốc của tôi, Thiếu tá Nguyễn Đức Thành,
Phó phòng PX15 Công an tỉnh đã cay đắng bổ sung:
-
Đó là chưa kể những người đã bỏ mạng tại bãi vàng
Phước Sơn đấy. Dân đào vàng toàn người tứ xứ, sợ
luật pháp nên không ai trình, ai báo. Dù cố gắng mấy,
ngành công an cũng không thể thống kê chính xác được.
Chỉ riêng bãi Nguyễn Văn Ngọc đã có 21 người chết.
Tỉnh phải đem máy xúc lên đào suốt cả tuần mới lấy
được xác các nạn nhân!
Biên
độ chệch chuẩn quá lớn giữa các con số của báo cáo
quan liêu và thực tiễn sống động đã khiến thói quen
phân tích cố hữu của gã nhà báo là tôi mường tượng
ra một đời sống khốc liệt, khốn khổ và đang bị
lãng quên ở vùng vàng. Đối với nghề cầm bút, đó là
một đề tài có sức hấp dẫn ghê gớm.
Cho
đến lúc đó, thông tin mà tôi có đựơc về “miền đất
hứa của những kẻ liều” vẫn không có gì nhiều hơn
đôi dòng vắn tắt: Phước Sơn là một huyện miền núi
phía Tây Quảng Nam, giáp Lào và tỉnh Kon Tum. Cả huyện
có 18.000 dân. Thời chống Mỹ, đó là căn cứ của Cách
mạng, nhiều trận đánh ác liệt tốn nhiều xương máu
đôi bên đã nổ ra, hình thành nên những địa danh huyền
thoại đã đi vào văn chương, sách vở: cao điểm E, Sân
bay Hiệp Đức, ngầm Phước Mỹ, cầu Đắc Xà Ê... v.v.
Nếu chỉ với từng đó thôi, Phước Sơn cũng đã đủ
cuốn hút tôi với bao nhiêu nỗi tò mò. Nhưng hơn thế
nữa, cho dù khuôn mặt đen đúa, không đáng được gọi
là thư sinh, cũng không thuộc vào tuýp người cao quí luôn
tin chắc rằng mình có một tâm hồn lãng mạn thì từ
hơn 10 năm trước, tôi cũng đã trót phải lòng mấy câu
thơ của Trinh Đường:
Sông
Phước Mỹ đổ xuống nguồn Vu Gia
Anh
biết đổ vào đâu quanh năm nước lũ
Xã
Phước Mỹ giáp Gia Lai - Kon Tum
Anh
giáp với ai trong mang mang hoàn vũ
Quá
xã Phước Thành đến huyện Trà My
Quá
lòng anh đến đâu xa xứ
Núi
Xuân Mãi vươn lên thì gặp trời
Anh
vươn lên e cháy đầu nắng lửa
Phước
Sơn có vàng có quế có trầm hương
Anh
chỉ có một bài thơ viết dở...
(Bài
thơ nhờ độc giả huyện Phước Sơn đặt đề)
Hai
mươi bảy tuổi, đã qua lâu rồi cái thời sách vở,
trong tôi không còn mơ mộng những chuyện phiêu lưu hão
huyền, nhưng niềm đam mê kỳ lạ về những vùng đất
xa xôi, những điều lạ lẫm thì vẫn còn nguyên vẹn.
Ngay lập tức, cái địa danh Phước Sơn xa lạ kia trở
thành nơi mà tôi tự nhủ lòng rằng phải đi, phải đến
và phải thấy.
Hùng,
một tài xế có “tay lái lụa” ở Công an Quảng Nam bảo
tôi:
-
Nếu muốn, sắp xếp thời gian lên đây tôi chở ông đi.
Vùng đó, tôi rành như lòng bàn tay. Còn tính đi xe máy
thì quên đi. Khổ không qua nổi đâu. Tôi cam đoan bãi
vàng Phước Sơn không hề giống bất cứ nơi nào mà ông
từng biết.
Tôi
không trả lời Hùng. ở cơ quan hoặc đôi lúc ngồi giữa
bạn bè thân, loại người như tôi vẫn thường được
những người xung quanh xem là điên. Tôi cũng chẳng thấy
cần phải thanh minh, bởi thằng điên nào cũng có cái lý
riêng của nó. Bạn bè, đồng nghiệp và những người
thân của tôi, tất thảy đều tử tế, đáng kính và cẩn
thận. Họ không tài nào hiểu nổi cái lý giản đơn là
những khó khăn, vất vả, thậm chí nguy hiểm nữa, mới
chính là ma túy của những kẻ ưa xê dịch. Thiếu nó,
cuộc sống của những kẻ mang máu ngẫu hứng, “rồ
dại” như tôi xem ra chỉ đáng bỏ đi.
Thế
nhưng, cũng phải hai năm sau đó, tôi mới có cơ hội biến
dự định của mình thành hiện thực. Lại hoàn toàn là
quyết định ngẫu nhiên bởi thật ra, trong kế hoạch ban
đầu, nơi tôi sẽ đến không phải là bãi vàng Phước
Sơn mà là bãi đá saphire Trường Xuân ở Đắc Nông, Đắk
Lắk, cách thị trấn Gia Nghĩa 29km.
Ngày
14.5.1999, mưa tầm tã, tôi vượt một lèo 250 km từ Sài
Gòn lên đến Gia Nghĩa. Thuyết phục, năn nỉ mãi các anh
công an huyện Gia Nghĩa vẫn dứt khoát không dẫn đường,
cũng không cho phép tôi bén mảng vào bãi đá quí. Lý do
đơn giản: nguy hiểm. Bãi đá saphire Trường Xuân từng
được mệnh danh là một “Texas City ở Việt Nam”. Trong
bãi tập trung hầu như không thiếu thứ gì các loại tệ
nạn xã hội. Cư dân của bãi đá này (khoảng hơn 1.000
người) chỉ gồm hai loại: những tên đầu trộm đuôi
cướp trốn lệnh truy nã và những con nghiện oặt xà
lai, thiếu sức sống nhưng thừa máu liều... Không còn
cách nào khác, tôi quyết định gửi đồ đạc lại công
an huyện và bắt xe ôm một mình thâm nhập vào bãi đá.
Để tăng cảm giác tự tin, tôi nhét vào trước bụng một
khẩu rulô có 5 viên đạn hơi cay và hơi ngạt, thứ công
cụ hỗ trợ “làm dáng là chính” được cơ quan cho
phép mang theo (có giấy phép) trong những chuyến công tác
đường dài.
Không
người dẫn đường, không quen biết ai, cũng chưa định...
gặp tai nạn, tôi không thể mạo hiểm đột thẳng vào
khu vực lán trại của dân đào đãi đá dựng lên xung
quanh hai bờ suối Đăk Tol nằm kẹt giữa những ngọn
đồi. Để nâng tầm quan sát, tôi quyết định rúc lên
rừng le mọc kín quanh ngọn đồi phía Tây Bắc con suối.
Chỉ cần có một chút xíu kinh nghiệm đường rừng, bạn
đọc cũng đã có thể hình dung ra tôi đã phạm những
hai sai lầm một lúc. Thứ nhất: chỉ có những kẻ thiếu
hiểu biết mới công không đi rừng vào mùa mưa. Thứ
hai, lớp lá mục của rừng le chính là “thiên đường”
của các loài vắt, con nào con nấy to nần nẫn như ngón
tay cái. Tiếng bước chân đạp lên cành khô, lá mục của
tôi đã khiến lũ vắt đang “ngủ say” thức giấc.
Chúng “nhổm” lên và búng đi nghe rào rào...
“Mưu
sự tại nhân, thành sự tại thiên” hay gọi là “có
duyên nghề nghiệp” thì cũng thế. Thiếu kinh nghiệm
thậm chí có gọi là dốt nát đi chăng nữa cũng chưa
chắc đã là quá tệ. Khi bò lên hết đỉnh đồi có rừng
le, tầm mắt đủ quan sát mọi động tĩnh của vũng bãi
đá, tôi chợt phát hiện ra có 4, 5 người mặc quần áo
như dân lao động cũng đang lui cui chui rúc trong rừng le
như tôi. Lúc này, tôi mới chợt nhớ ra: ở trước dãy
nhà nát là lán trại của Xí nghiệp đá quí Đắk Lắk
dựng gần bãi khai thác, tôi có trông thấy một chiếc xe
Uoát mang biển số trắng 29L..., có lẽ chiếc xe đó là
của những người đang lui cui phía cuối đồi le. Theo suy
đoán, tôi nghĩ rằng họ đang tìm cách phát rừng, tìm
đất để làm rẫy cà phê. Vào thời điểm đó, phá rừng
làm rẫy càphê là phong trào đang rầm rộ ở Đắk Lắk.
Nhưng, mất gần trọn buổi chiều bí mật quan sát, tôi
vẫn không hề thấy họ hạ một khúc cây, đốt một vạt
rừng nào. Bị kích thích bởi sự ngạc nhiên, tôi quyết
định mò đến tận nơi. Nếu họ cũng như tôi, đến bãi
đá saphire mà không phải để đào đãi thì chắc là
không có gì đe dọa, tôi nghĩ thế.
Nhưng,
còn cách tốp người nọ cỡ 100m, tôi đã bị chặn lại
bởi một tiếng quát:
-
Đứng lại! Ông đi đâu?
Giật
bắn mình, tôi thò tay vào báng súng và từ từ quay đầu
lại. Và trợn mắt ngạc nhiên. Hùng, gã lái xe của công
an Quảng Nam đang đứng đó há hốc mồm, y như tôi vậy
(!).
-
Ông đi đâu đây?
-
Vậy anh đi đâu đây?
Thì
ra, những người mà tôi ngỡ đi phá rừng trồng cà phê
kia, không ai khác, chính là các cán bộ của Phòng Cảnh
sát Điều tra Công an Quảng Nam. Họ đang mai phục để
truy bắt những tên tội phạm nguy hiểm do tên Nguyễn Văn
Thanh, tức Thanh “sứt” cầm đầu. Chúng đã gây hàng
chục vụ cướp của hiếp dâm ở bãi vàng Phước Sơn,
sau đó tắt rừng vọt sang Kon Tum rồi mò lên bãi saphire
Trường Xuân trốn tránh. Vô tình, máu mạo hiểm đã đẩy
tôi lọt vào giữa một cuộc truy kích. Cơ hội ngàn vàng,
xin thề là có đuổi tôi cũng không đi! Bất đắc dĩ,
Trung tá Huỳnh Đức Cường, Phó phòng Cảnh sát Điều
tra Công an Quảng Nam, người chỉ huy cuộc truy kích đành
phải chấp nhận cho tôi nhập bọn, đơn giản vì không
thể để tôi rời ra, dễ lộ khiến đối tượng đánh
hơi chạy mất.
Trong
hai ngày sau đó, tôi đã theo chân các anh Cường, Trung,
Dũng, Nhậm, Hùng... tiến hành đột kích xuống khu Bờ
Suối hai lần, bắt giữ bảy kẻ tình nghi. Trong số đó,
có bốn tên: Bắc phò, Tiên nghiện, Lanh và Thanh Hàng
trắng là những tên cướp đào thoát từ bãi vàng, hiện
đang bị truy nã. Riêng Thanh sứt, tên cầm đầu đã may
mắn thoát vòng vây, với một khẩu K54 đầy đạn. Oái
ăm ở chỗ, trên đường chạy, Thanh “sứt” đã vọt
xuống phía dãy lán của xí nghiệp và cuống cuồng chui
vào chiếc... U oát của những người Công an truy đuổi
để... ăn trộm quần áo cải trang trước khi chạy mất.
Tên Thanh “hàng trắng” cũng lao qua đầu những người
truy kích tính lủi vào rừng le. Nhưng không kịp, chỉ
thoáng nửa giây, khẩu súng trong tay Trung tá Huỳnh Đức
Cường đã kịp vẩy theo. Viên đạn duy nhất thoát nòng
găm vào bàng quang đã xô tên tội phạm ngã úp mặt xuống
suối, đành phải tra tay vào còng và được đem đi cấp
cứu.
Trong
hai chuyến đột kích ấy, tôi, vì không phải cảnh sát
điều tra, không có chuyên môn, nghiệp vụ nên được
phân công “lao động giản đơn”, chỉ phải làm duy
nhất một công việc nhẹ nhàng, đó là rút khẩu ru lô
của mình ra và đứng canh không cho những tên cướp đã
bị còng tay từng hai tên một chạy trốn. Dù vậy, cũng
có thể xem như tôi đã “đồng cam cộng khổ”, cho nên
cánh điều tra mặc nhiên coi tôi như một “phe ta”, chịu
chơi và thân thiết. Dự định vào bãi vàng của tôi được
Trung tá Cường và các trinh sát ủng hộ ngay. Cường hẹn:
-
Đúng một tuần nữa gặp nhau ở bãi vàng. Chuyên án này
(chuyên án CD99) mà xong, ông tha hồ tư liệu mà khai thác.
3
giờ chiều ngày 16.5.1999, tài xế Hùng phóng chiếc Uoát
chở tên Thanh về Bệnh viện Chợ Rẫy, thành phố Hồ
Chí Minh rồi trở lại ngay. 2 giờ sáng, anh đã có mặt
trở lại ở công an huyện Đắc Nông để sáng hôm sau
đưa các cán bộ điều tra và những tên bị bắt theo
quốc lộ 14, rẽ quốc lộ 26 rồi xuôi quốc lộ 1A về
Quảng Nam. Tôi không đi theo họ mà tiếp tục ở lại Đắc
Nông thêm một ngày để hoàn tất nốt phần việc của
mình. Ngày hôm sau, chiếc xe máy của tôi đã dừng lại ở
thị xã Plây Cu. Tôi quyết định nghỉ lại ở phố núi
một đêm, kiểm tra xe cộ trước khi “một mình một
ngựa” ngược đường 14 để thâm nhập vùng vàng.
Trước
khi công trình đường Hồ Chí Minh xuyên Trường Sơn được
khởi công, từ Quảng Nam đi lên Kon Tum xem như hoàn toàn
không có đường. Để đến thị trấn Khâm Đức - thủ
phủ của vùng vàng, dân đào vàng thường xuất phát từ
TP. Đà Nẵng hoặc thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam), đi ngược
lên. Đoạn này xa hơn - khoảng 200 km - nhưng còn có thể
gọi là đường, còn có người qua lại, phòng khi bất
trắc. Đoạn từ thị trấn Plei Cần (Ngọc Hồi, Kon Tum)
xuống tuy chỉ dài 130 km nhưng hoàn toàn xuyên trong rừng
già, lại bị chắn ngang liên tục bởi vô số những ngọn
núi có cao độ không dưới 1.400m, hai bên đường hầu
như không có dân cư.
Người
khai sinh ra con đường độc đạo này không ai khác, chính
là Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm là Tổng thống Việt
Nam Cộng hòa thì đúng rồi, nhưng khổ nỗi ông ta lại
là vị Tổng thống có năng lực cai trị của một quan
thanh tra tản mạn. Xuất thân từ tầng lớp quan lại quan
liêu, khi trở thành Tổng thống của cả một “quốc gia
dân chủ”, ông Diệm vẫn mang nặng lối tư duy duy ý chí
mà thiếu trầm trọng những năng lực chuyên môn. Để
“cải thiện dân sinh”, năm 1957, Diệm đã hô hào dựng
lên ở miền Nam hàng loạt khu trù mật, hàng loạt tỉnh
tân lập. Năm sau, 1958, trong tham vọng “nối Cao nguyên
với Duyên hải miền Trung”, ông ra lệnh cho xây dựng
một tuyến đường độc đạo xuyên từ Tây sang Đông
Trường Sơn, nối Kon Tum với Quảng Nam, bất chấp con
đường đó phải xuyên qua vô số rặng núi đá hiểm trở
của vùng Tây Trường Sơn trước khi đâm chéo sang hướng
Đông Bắc - cũng hiểm trở không kém - đổ vào địa
phận tỉnh Quảng Nam. Vào thời bình, với mục đích phát
triển kinh tế, điều kiện thi công thuận lợi, rất có
thể đây là một ý tưởng tốt và khả thi. Khổ nỗi,
ông Diệm lại là một Tổng thống của thời chiến, chỉ
quen cai trị bằng mệnh lệnh nhưng thiếu đầu óc bao
quát và khả năng tư duy trừu tượng nên ông bất chấp.
Theo lệnh của ông, cuối năm 1958, một đại đội công
binh và hai đại đội Bảo an bảo vệ công trường đã
được cắt ra, giao cho đại úy Trần Văn Kha chỉ huy kéo
lên Kon Tum để xây dựng con đường này. Dù đã hết sức
cố gắng đi kèm với hàng loạt phúc trình về điều
kiện an ninh không bảo đảm, Trần Văn Kha vẫn không tài
nào hoàn tất nổi nhiệm vụ được giao. Công tác thi
công gần 200km đường qua một địa bàn toàn rừng rậm,
núi cao và hầu như không có dân cư, làng mạc đã khiến
cho hai đội Bảo an không thể bảo vệ nổi con đường
trước những cuộc tập kích bất ngờ và liên tục của
quân cách mạng. Ngày 21.10.1960, hàng loạt đồn bót, cứ
điểm gồm Dakpet, Daksout, Dakse ở Kon Tum bị “Việt cộng
tấn công ồ ạt và tràn ngập”, Ngô Đình Diệm phải
gửi gấp ba tiểu đoàn dù của Nguyễn Chánh Thi lên cứu
viện. Một tuần sau, ngày 28.10.1960, đại đội bảo an và
đại đội công binh thi công cùng một loạt đồn bót bảo
vệ công trường khác thuộc địa phận Quảng Nam lại bị
tấn công, gây thiệt hại nặng nề: quân lực bị tiêu
hao, phương tiện cơ giới bị phá hủy, đồn bót bị phá
vỡ. Trước đó đúng hai tháng, sân bay Hiệp Đức và căn
cứ bố phòng tại cao điểm (thị trấn Khâm Đức) cũng
bị tấn công dữ dội, một máy bay bị bắn cháy, cao
điểm E bị quân cách mạng chiếm giữ sáu tiếng đồng
hồ liền, toàn bộ hệ thống bố phòng bị phá hủy,
toàn bộ vũ khí bị tịch thu, trước khi quân tiếp viện
kịp tiếp ứng và tái chiếm.
Làm
chưa xong đoạn này, đoạn khác đã bị tấn công phá
hoại, Trần Văn Kha không còn cách nào khác, đành viết
báo cáo xin từ nhiệm. Đến năm 1962, công trình đường
14 “nối dài” của ông Diệm đành phải bỏ dở khi
chưa thể hoàn thành.
15
năm chiến tranh sau đó, đoạn đường 14 này đích thực
là một bãi chiến trường, ta và địch giành nhau từng
mét một. Đó là cửa ngõ duy nhất tiến vào vùng Bắc
Tây Nguyên, là hành lang cho những đoàn xe tăng, pháo binh
quân giải phóng tiến đánh hàng loạt căn cứ Plei Me,
Plei Cần, sân bay Phượng Hoàng, Đắk Tô, Tân Cảnh... từ
đó thọc xuống Kon Tum và Gia Lai. Sau chiến dịch Hạ Lào
năm 1971, mặt đường đã bị bom pháo cả hai bên giã
nát. Gần 1/4 thế kỷ sau sau ngày giải phóng, đoạn đường
độc đạo này hầu như bị lãng quên, không hề được
tu sửa, không có ai qua lại, bởi quá nguy hiểm. Bằng máu
phiêu lưu cá nhân, sau bốn thập kỷ, tôi đã có dịp dẫm
chân lên con đường phiêu lưu chính trị của ông Ngô
Đình Diệm!
Với
những người giàu kinh nghiệm thì đây là con đường chỉ
dành cho hai hạng người: những tên cướp từ bãi vàng
tắt đường trốn sang Kon Tum hoặc những anh công an đang
truy tìm bọn cướp. Khi quyết định chọn ngả “không
thể vượt qua” được này, xuyên từ Tây sang Đông dãy
Trường Sơn, để thâm nhập bãi vàng, tôi đã tự biến
mình thành loại thứ ba, loại người thiếu kinh nghiệm
trầm trọng. Đi là để biết, tôi không muốn chọn cho
mình con đường dễ!
2.
Xuyên Tây Trường Sơn
8
giờ sáng ngày 18.5.1999, từ thị xã Plei Ku còn đúng 24
giờ đồng hồ nữa sẽ chính thức trở thành thành phố,
tôi bắt đầu xuất phát. Ngoài chiếc xe Dream lùn làm
phương tiện, tôi chỉ có duy nhất một “bạn đồng
hành”: một tấm bản đồ đường sá (Nam) Việt Nam do
hãng dầu nhớt ESSO ấn hành năm 1968.
Bản
đồ có vẽ nghĩa là có đường. Có đường thì phải có
người đi. Người ta đi được thì tôi đi được... Cái
tam đoạn luận trình độ tiểu học ấy là niềm tin duy
nhất để tôi dấn thân vào cuộc hành trình. Cứ nghĩ
đến việc được đạp lên những đoạn đường thời
chiến, lửa hăng hái đã cháy lên trong tôi ngùn ngụt.
Đường vắng, nắng nhẹ, sau hai tiếng rưỡi, tôi đã
vượt qua Kon Tum rồi Đắc Tô, Tân Cảnh, sân bay Phượng
Hoàng... và có mặt ở thị trấn Plei Cần, cách Plei Cu
đúng 150 km. Trước mặt tấm biển chỉ đường đã mờ
nhưng vẫn còn đọc được, đề: Ngã ba biên giới -
18km. Đá chân chống xe, tôi níu áo một người đàn ông
đang lùa bò qua đường hỏi một câu rất... oách:
-
Bác ơi, sang Lào đi ngã nào?
Hỏi
chỉ để mà hỏi, kỳ thực tôi không hề có ý định...
vượt biên bằng xe máy.
Bên
tay phải, con đường xuyên Tây Trường Sơn cũng đã hiện
ra. Mặt đường không khác gì một dòng suối cạn, phủ
đầy đá củ đậu, bị nước mưa bào mòn thành vô số
hố rãnh khiến xe máy cứ chồm chồm nhảy từng bước
vài mét một. Sau gần 20 km, khi tay lái đã mỏi nhừ, tôi
gặp trục trặc đầu tiên: xì bánh sau. Nắng như đổ
lửa. Hai bên đường là những bản làng dân tộc thưa
thớt và heo hút, không hề có chỗ vá, lại không mang
theo đồ nghề, tôi đành lặc lè dắt bộ lên dốc xuống
đèo. Điều an ủi duy nhất là cảnh ven đường tuyệt
đẹp. Ngay dưới chân tôi là sông Krông Pôcô, một dòng
sông hẹp nhưng sâu và trong vắt, chảy cặp bên đường.
Giá mà được vứt xe nhảy ùm xuống đó để gột sạch
lớp bụi đường và làm dịu cái nắng cao nguyên đang
thiêu đốt thì hay biết mấy. Nhưng không thể. Bờ sông
là vách đá dựng đứng, sâu cách mặt đường từ 30 -
50 m.
Được
hơn cây số, vị cứu tinh xuất hiện. Sau khi hoàn tất
một miếng vá với giá 25.000 đồng, gã xe ôm vùng sơn
cước tỏ ra áy náy bảo tôi:
-
Không có đồ xơ-cua, đi đường rừng nguy hiểm lắm. Nếu
anh cần, tôi tính giá hữu nghị: 100 ngàn cả hai thứ.
Cái bơm tôi mới xài hai năm. Cái ruột (xe) cũng còn tốt
chán, mới vá có... sáu lỗ.
Dĩ
nhiên, các loại ruột mới vá có sáu lỗ mà vẫn còn tốt
chán không phải là thứ nằm trong ý thích, cho nên tôi
chỉ nhã nhặn cảm ơn và chuồn gấp để bảo vệ sự
tồn tại cho 100 ngàn.
Hơn
một giờ chiều, dừng ăn trưa tại Đak Glei - thị trấn
cuối cùng của tỉnh Kon Tum - tôi gặp thêm người tử tế
thứ hai. Hưởng, như lời tự giới thiệu, tay bưởng thứ
thiệt vừa từ bãi vàng thôn 8, xã Phước Thành mò ra,
nhìn tôi bằng ánh mắt thương hại của một kẻ từng
trải:
-
Quên chuyện vượt đèo Lò Xo bằng xe của ông đi. Thử
tưởng tượng: Ông sẽ phải vượt 65km đường rừng với
vô số đèo dốc và không hề gặp một bóng người. Chỉ
một thân một mình, lỡ ra... Cứ nghỉ lại đây một
đêm. Nếu muốn vào bãi, mai gửi xe lại, tôi đưa ông
vào. Đi một mình như ông đừng hy vọng đến nơi, họa
có khùng!
Không
nên gọi người chưa quen là “khùng” bởi rất có thể
bạn sẽ gặp một tay... khùng thật, lúc đó thì nguy lắm!
Tuổi trẻ cao ngạo và dốt nát, tôi ném cho gã một cái
nhìn khinh mạn:
-
Tôi không có thói quen bỏ cuộc chỉ vì một lời khuyên
xa lạ!
Với
tôi, mối đe dọa trong trí tưởng tượng bao giờ cũng
đáng sợ hơn nhiều so với những đe dọa gặp trong thực
tế. Hưởng không tự ái, chỉ trả lại cho tôi nguyên
vẹn cái nhếch mép:
-
Được, ông cứ đi đi. Cam đoan chiều nay ta lại có dịp
cùng ăn tối tại quán này! Nên nhớ, những kẻ ông gặp
trên đường, không phải thằng nào cũng tử tế như tôi
đâu.
Lại
tiếp tục lên đường. Trời đang nắng đột nhiên tối
sầm rồi mưa quất chéo mặt. Chỉ vài cây số, con đường
đã mất hút giữa rừng già; dốc, cua chóng mặt và không
một bóng người. Toàn đá, đá và đá. Được đôi đoạn
đường đất thì lại trơn kinh khủng. Khẩu hơi cay giắt
trước bụng, cả người lọt thỏm trong chiếc áo mưa
rộng thùng thình của Báo ANTG, tôi gần như chồm người
đè lên guidon để giữ tay lái, mặc kệ cho bánh xe sau cứ
tuột quăng quật ra hai bên. Khoảng một giờ sau, khi vòng
tránh một bãi lầy khổng lồ tôi mới thở phào: con
đường có vẻ như rộng ra, dễ đi hơn. Quá tốt, tôi cứ
cắm mặt cho xe vượt dốc. Cho đến khi một đống hoang
tàn phủ rêu bỗng nhảy ra trước mặt, tôi mới ngớ ra:
lạc đường. Nơi tôi đang đứng là... ngục Kon Tum. Lại
lộn xuống dốc. Hóa ra, bãi lầy kinh khủng kia là ngã
ba, đi thẳng là Quốc lộ 14 về Khâm Đức, còn rẽ phải
là tỉnh lộ dẫn lên ngục Kon Tum!
Mất
hơn 15 phút mới vượt hết bãi lầy bất trắc, tôi lại
tiếp tục lóc cóc tiến sâu vào rừng già. Cách 10 m đã
không nhìn thấy con đường. Rừng già giao tán phủ kín
lối đi. Thỉnh thoảng bánh xe lại khựng lại vì vấp
một cục đá to, hất tôi ngã nhào xuống mặt đường.
Trời
vẫn mưa. Mưa Tây Trường Sơn không lớn lắm nhưng dai
dẳng. Sau hơn chục lần té lên té xuống, tôi mới lần
lên được đến đỉnh đèo Lò Xo. Mới bốn giờ chiều
nhưng rừng đã sụp tối. Tịnh không bóng người, chỉ
mây núi ken đặc luồn qua chân, phả vào mặt lành lạnh.
Khuỷu tay, đầu gối đều trầy trụa và sưng vù, bùn
ngập từ chân lên đến đầu khiến tôi cảm thấy cô
đơn và chán nản ghê gớm. Nhưng tôi không thể quay lại.
Sự lì lợm và cố chấp của tuổi trẻ sẽ khiến tôi
điên mất, nếu quay lại để phải nhận nụ cười độ
lượng và thương hại của gã đào vàng ở thị trấn
Đak Glei. Lúc đó, tôi chỉ có một ao ước hết sức nhỏ
nhoi là mình đang có mặt tại Sài Gòn, được mặc một
bộ đồ khô ráo, rúc mình vào một quán càphê ấm áp
nào đó với một ly đen không đường và mấy điệu
tango dìu dặt...
Những
thách thức vẫn chưa giãn ra. Mưa xói, đoạn đường bằng
duy nhất trên đỉnh dốc bị núi lở chắn ngang bằng một
bãi bùn khổng lồ. Vặn hết ga, tôi cho xe liều mạng vút
qua. Hực một tiếng, người lao vọt qua guidon xe, tôi bị
ném phịch xuống giữa bãi bùn. Bánh trước bị lút sâu
trong bùn nên xe vẫn không ngả, bánh sau vẫn quay tít.
Nhấc
bánh xe trước ấn xuống bùn để xe khỏi ngã, sau đó
lại nhấc bánh xe sau... Thêm gần nửa giờ vật lộn bằng
phương pháp “sâu đo” ấy tôi mới vượt qua được
bãi lầy dài chừng hơn 100m. Đến lúc đó tôi mới cảm
hết nỗi cô đơn, tuyệt vọng và nhỏ nhoi của con người
trước thiên nhiên hùng vĩ. Lại lên xe, nhưng đề, đạp
cả buổi máy vẫn không nổ. Nổi khùng, tôi đá lung tung
vào mây và hét toáng lên những câu tối nghĩa. Không ai
trả lời. Chỉ có tiếng núi âm âm vọng lại. Vài con
bìm bịp - cũng cô đơn như tôi - giật mình bay vút lên!
Có
khóc chắc cũng chẳng ai nghe, tôi bất lực ngồi bệt
mông xuống lòng đường nhão nhoét. Vì lẽ gì tôi lại
phải ném mình vào bãi bùn trên đỉnh núi này? Can đảm
thì chắc là không, vì lúc này lòng tôi chỉ chất đầy
cảm giác lo lắng, chán nản. Vậy thì đam mê, liều lĩnh?
Tôi không biết, chỉ chắc chắn một điều, tôi sẽ
không có mặt ở đây, nếu không trót mang cái chức danh
nhà báo. Công việc tạo ra mục đích, và với chức danh
trót nhận, tôi tin là mình có thể đi đến tận cùng thế
giới.
Nói
như thế, rất có thể bạn sẽ cho rằng tôi thiếu khiêm
tốn. Quả thật, ngoài một trái tim kiêu ngạo, tôi chẳng
còn gì khác. Với những gì đã và sẽ gặp, tôi luôn tin
chắc rằng khiêm tốn thật ra chỉ là đức của những
kẻ thiếu tự tin! Có thể còn có một lý do khác nữa:
Tôi đi vì một ánh mắt. Tại sao gã Đon Kihôtê điên rồ
của xứ Mantra thì luôn có hình bóng một nàng Dulcinea để
mang theo trong những chuyến lang thang mà tôi thì không nhỉ?
Có điều, nàng Dulcinea của tôi chắc chắn không ở làng
Toboso, cũng chẳng phải là “người muối thịt lợn”
ngon nhất xứ. Nàng Dulcinea của tôi là một cô sinh viên
đại học. Lần đầu tiên chìa bàn tay nhỏ nhắn và nóng
ấm cho tôi nắm lấy, em mới 19 tuổi. Ngày tôi đi, em vẫn
19 tuổi. Năm tháng rồi sẽ trôi đi, nhưng tôi biết, nàng
Dulcinea của tôi sẽ vĩnh viễn cứ 19 tuổi. Nhìn vào đôi
mắt trong veo của em, tôi biết mình vẫn chưa đủ phong
trần để đến bên em thay hoa làm quà tặng. Thế là tôi
cứ đi, đi và đi... Khi ngồi bệt trên đỉnh Lò Xo, tôi
chợt nghĩ về em, rất lâu, với một chút hối tiếc: tôi
đã không hề nói với em một câu nào về chuyến hành
trình sắp tới. Biết sao được. Tôi không muốn vì tôi,
mắt em phải nhuốm màu lo lắng.
Có
một điều phi lý: trong bản đồ của hãng ESSO, đỉnh Lò
Xo cao 1448m. Nhưng sau này, ở một bản đồ khác mới xuất
bản mà tôi tìm được ở thị xã Tam Kỳ, cao độ này
lại tăng vọt, những 1.600m.
Đúng
lúc rơi tõm vào tuyệt vọng, lòng tôi bỗng sáng lên:
Trước mặt là một bãi... phân trâu đang bốc hơi nghi
ngút trong mưa. Sự sống!... Nước mắt tôi trào ra, lòng
tôi dội lên một cảm giác hạnh phúc và thân thiết. ở
đâu đó trong sách vở, có lẽ chẳng ai lại ngốc nghếch
để lòng mình thổn thức vì một bãi phân trâu. Cũng
phải thôi, các nhà văn đáng kính, họ có thừa trí tưởng
tượng để viết, cần gì phải trèo lên đỉnh núi
nên làm sao bắt họ cũng phải có cảm giác như tôi?
Và
tôi đã đoán không lầm. Cách đỉnh Lò Xo chỉ hơn trăm
thước có một bản người dân tộc Giẻ Triêng với hơn
một chục nóc nhà heo hắt. Từ trong những túp lều thấp
lè tè và tối nhờ nhờ, những người đàn ông đàn bà
tóc bù xù, ngồi xổm gối chạm mang tai ngó tôi áo tơi
sùm sụp lóc cóc lao xe qua bằng cái nhìn lạ lẫm, dừng
lại hỏi gì họ cũng lắc đầu.
Tiếp
tục cuộc hành trình, tôi cứ lầm lũi cho xe xuyên rừng,
leo dốc. Trên đầu tôi, đường dây 500 KV sừng sững vắt
qua điệp trùng rừng núi. ở bản người Giẻ Triêng duy
nhất ấy, không ai biết đường dây kia là gì cả. Người
già không biết, người lớn cũng không. Chỉ có trí tưởng
tượng của mấy đứa con nít lòi rốn là tỏ ra có hiểu
biết! Chúng gọi đó là những... sợi dây buộc trời!
Khi
tôi đổ dốc đèo Lò Xo thì buổi chiều sắp qua hết.
Trời ngừng mưa và nắng bỗng ửng lên đợt cuối cùng.
Những cánh rừng sũng nước thoắt trở nên vàng rộm,
ngập tràn tiếng vượn hú trượt dài theo những tia nắng
xiên khoai đang rưng rưng chực tắt. Cầu Đắk Chè hiện
ra, đã vỡ mất hơn một nửa. Mặt cầu không hiểu sao
lại nhuộm rực một màu vàng non như hoa cải. Khi bánh xe
tôi lao qua, thảm hoa cải vàng đột ngột tung lên. Sau cú
giật mình, tôi ngừng xe ngây người, lần đầu tiên được
chiêm ngưỡng một vũ điệu rộn ràng với hàng vạn cánh
bướm đang tung bay giữa lòng khe cạn.
Để
vượt qua những chân dốc kinh hồn và khúc khuỷu, không
còn cách nào hơn, tôi đành cho xe bò toàn số 1 và đạp
phanh liên tục. Kết quả: kim đồng hồ xăng tụt
rất nhanh, chắc chắn không đủ xăng để đi nốt đoạn
đường còn lại. Để tiết kiệm xăng, tôi nảy ra sáng
kiến: chỉ nổ máy khi leo dốc, còn lúc xuống sẽ tắt
máy, và đạp phanh cho xe tự trôi. Trả giá ngay tức khắc:
cả người lẫn xe lộn nhào ngay trong cú trượt dốc đầu
tiên. Rừng núi Trường Sơn không dung những trò diễu
cợt. Tôi nằm lăn giữa dốc, tự nhủ lòng: cùng lắm
đành chấp nhận sẽ ngủ qua đêm giữa rừng. Lại lồm
cồm bò dậy, lại đi. Khi trời tối hẳn thì giọt xăng
cuối cùng bị đốt hết, tôi đành dắt bộ. Rừng tối
như hũ nút. Hàng chục cú vấp vào đá khiến những ngón
chân tôi tê dại, đau buốt óc. Vứt xe vào ta-luy dương,
khóa cẩn thận, tôi quyết định đi bộ để tìm xăng.
Nhưng, vừa vượt qua khúc cua, một thung lũng lưa thưa ánh
điện đã hiện ra cách chỗ tôi đứng chỉ chừng 5, 6
km. Đoán chắc đó là thị trấn Khâm Đức, tôi bèn quay
lại dắt xe đi tiếp. Sau đúng một giờ đồng hồ, cả
người lẫn xe mới vượt thêm được đúng 1 km. Dưới
chân cầu Đắc Xà Ê, những người dân đầu tiên tôi
gặp ở vùng vàng tò mò nhìn gã khách lạ dắt xe vào
điểm bán xăng như nhìn một kẻ đến từ hành tinh lạ.
Còn tôi, quá mệt mỏi, cả người đau nhừ, đành phớt
lờ tất cả, tiếp tục lên xe lết tới thủ phủ vùng
vàng, cách đó chừng 4 km.
Tôi
đến Khâm Đức lúc gần tám giờ đêm. Tính ra tôi đã
vượt qua đoạn đường từ Đak Glei đến Khâm Đức dài
65km mất những hơn 5 giờ hồng hồ.
“Đúng
là tốc độ tên lửa”, nhận xét của Thiếu tá Đào
Quang - Phó Công an huyện về chuyến hành trình khiến tôi
tin chắc ở Phước Sơn, tốc độ tên lửa chậm hơn
nhiều so với các nơi khác, chỉ khoảng độ 13km/h!
3.
Đường đến thiên đàng
Thị
trấn Khâm Đức chỉ có 7.000 dân nhưng lại có tới hơn
100 hàng quán đủ loại, chủ yếu phục vụ các thượng
đế vừa mò ra từ bãi vàng. Với một ít hiểu biết sơ
khai do công an huyện cung cấp, tôi nhét vào túi một cục
tiền và bắt đầu lân la hàng quán bắt chuyện với một
số chủ bãi mới mò ra, chìa hẳn thẻ nhà báo cho họ
xem và bắt đầu chơi bài “xì tố”. Tại quán nhậu
kiêm nhà trọ của bác sĩ X., chủ bãi Nguyễn Văn Ngọc
là người đầu tiên tôi tiếp xúc.
-
Nghe nói bãi anh xài thuốc nổ dữ lắm, từng sập hầm
chết hơn hai mươi người một lúc, đúng không?
Câu
hỏi của tôi khiến Ngọc - đang chờ ngày ra tòa - giật
nảy người:
-
Ăn nhằm gì anh ơi, bãi tụi Vinh “tóc dài”, Dũng Lai,
Quốc con... còn chơi bạo hơn nhiều...
Cứ
thế, Ngọc kể cho tôi vanh vách những thông tin về các
vụ phạm pháp của các hầm, bãi khác. Với những thông
tin này, tôi lại tiếp tục chặn những chủ bãi kia và...
tố tiếp. Dù không ưa gì tôi, các ông chủ của vùng
vàng cũng đành nuốt giận bởi không thể tấn công,
trừng phạt nhằm bịt miệng tôi khi họ đang ở ngoài
thị trấn. Vậy là họ lại cố thanh minh bằng cách lôi
tội kẻ khác ra kể cho tôi nghe kèm theo lời nhắn:
-
Không tin bữa nào anh dzô trỏng coi, tụi em chỉ lo làm
ăn, hiền khô à.
Dĩ
nhiên là tôi chấp nhận lời mời của họ một cách vui
vẻ. Đã ngồi chung bàn ở thị trấn thì vào bãi tôi là
khách, họ không thể uy hiếp, đe dọa gì tôi được.
Sau
hai ngày, đã thu thập được hơn chục lời mời vào bãi
làm khách, tôi quyết định bắt đầu cuộc chơi. Mọi
con đường vào các bãi đào đều giống nhau: phải đi xe
ôm, theo đường mòn vào đến điểm tập kết, sau đó đi
bộ cắt núi vào bãi, gần nhất chừng một, hai giờ, xa
nhất khoảng ba ngày đường, nếu thạo nghề leo núi.
Đội
quân xe ôm ở bãi vàng rất đông đảo - lên đến hàng
trăm người - nhưng chỉ độc một loại xe Minsk của Liên
Xô cũ. Tất cả chỉ để phục vụ khách ra vào bãi. Thị
trấn bé như lỗ mũi, đi xe ôm chỉ tổ mất công leo lên
leo xuống.
Gọi
là đường cho oai, kỳ thực tất cả chỉ là những lối
mòn được bạt sơ sài ôm quanh vách núi. “Thiết kế”
và “xây dựng” những con đường này chính là đồng
bào dân tộc Mơ Nông ở địa phương, mục đích để có
cớ thu tiền của những kẻ đào vàng hơn là để phục
vụ việc đi lại. Do vậy, những con đường thường dốc
đứng một cách vô lý, rất dễ khiến cả người lẫn
xe bật ngửa ra phía sau. Đã vậy, mặt đường lại hoặc
trơn trợt, hoặc nhão nhoét. Nhiều đoạn, xe và người
ngập trong “món cốc-tai của Trời”, bùn lút đến đầu
gối. Để vượt qua những đoạn đường như thế, tất
cả xe ôm đều phải gia cố bánh sau. Hai sợi dây xích
nối bằng sên cam xe máy dài đúng bằng chu vi lốp xe,
được nối ngang bằng những đoạn sên cam khác tạo
thành một cái “rọ” xích ôm lấy bánh xe sau, hai đầu
nối với nhau bằng hai đoạn ốc tăm xe đạp. Chỉ với
những chiếc rọ này, bánh xe mới có thể bám vào mặt
đường để leo dốc, vượt lầy mà không rơi xuống vực,
không bị trượt. ở những đoạn lầy lội, xe sau cứ
ngắm thẳng vết bánh xe trước bò qua. Nhiều đoạn, vết
bánh xe bị rọ xích cày thành rãnh, sâu tới 30cm. Người
ngồi sau phải co hai chân lên mới không bị gạt văng mắt
cá. Vào mùa mưa, xe ôm bánh xích cũng chỉ chạy được
từng đoạn. Qua những đoạn quá lầy hoặc quá dốc,
khách được hét xuống lội bùn hoặc đẩy xe mà không
hề được trừ bớt tiền. Đã vậy, các “thượng đế”
cũng chẳng được đối xử nhẹ nhàng gì cho lắm. Chưa
leo lên xe, tôi đã bị Quảng, 31 tuổi, gã xe ôm mà tôi
thuê đe dọa:
-
Ngồi sát vào, ôm cho chặt. Coi chừng bung rọ lốp, xích
văng đứt chân ráng chịu!
Tiếp
đó là:
-
Ngồi yên, nói xuống phải xuống, nói lên là lên, nếu
không, té ráng chịu...!
Để
trả cho hàng loạt sự “ráng chịu” ấy gã lái xe bảo
tôi gọn lỏn:
-
Năm trăm ngàn.
Tôi
trợn mắt:
-
Anh có điên không đấy, chỉ có ba mươi tư cây số?
Lần
này thì gã xe ôm tỏ ra lễ độ:
-
Dạ, không điên. Xe ôm bãi vàng luôn nói đúng giá!
Rồi
tỏ ra không cảm, gã tặng cho tôi một lời giải thích
miễn phí:
-
ở đây người ta không tính cây số, chỉ tính ngày
đường.
Sau
đoạn đường này, tôi tin chắc rằng không ở đâu giá
xe ôm đắt như ở Phước Sơn, nhưng các bác tài xứ này
cũng xứng đáng là các cua rơ giỏi nhất. Nếu được
gọi vào đội tuyển quốc gia môn đua xe đạp đội hình,
tôi cam đoan mùa SEAGAME tới, Việt Nam cứ gọi là đem rổ
mà đựng huy chương vàng!
Hãi
nhất là đoạn men dọc suối Đắk Mỹ, xe và người cứ
len lỏi quanh những đoạn đường hẹp như chiếc thắt
lưng, đầy những vòng cua cùi chỏ, những con dốc như
lao bổ xuống địa ngục. Một bên đường liên tục thò
ra những gốc cây nhọn hoắt, chỉ sơ ý một chút là có
thể bị cắm ngay vào người. Tránh cũng không được, vì
chỉ chệch chừng vài gang tay là lăn ngay xuống vực. Mặt
đường nhão nhoét, thỉnh thoảng lại có một đoạn được
chống lầy bằng những đoạn cây dài chừng 1,2 m lót
ngang. Xe đi nép một bên, sức nặng khiến đầu kia của
khúc cây chốc ngóc lên, có lúc văng hẳn lên trời. Vậy
nhưng, Quảng vẫn đảo tay lia lịa như múa mà không hề
run. Đã vậy, gã còn luôn miệng nói đủ thứ chuyện
trên trời dưới biển. Nhưng tôi không trợn mắt nữa.
Cho tôi một nửa con số 500.000 đồng kia mỗi ngày chắc
là tôi còn huyên thuyên dữ tợn hơn nhiều. Cứ làm xiếc
và huyên thuyên như thế, Quảng lần lượt đưa tôi vượt
hết dốc cổng trời Phước Đức, lầy Phước Chánh,
ngầm Phước Kim và cầu treo Đắk Mỹ được ghép bằng
cả trăm chiếc thùng phuy.
Lúc
qua dốc Bảy Cua ở xã Phước Chánh, đột nhiên Quảng
đánh tay lái cho bánh trước cạ vào vách núi. Gã giải
thích:
-
Côn không nhả, phải cắt ambrayage thôi.
Nói
là làm, gã giở đồ nghề ra... Chưa hết, lúc đang từ
từ đổ dốc, gã bỗng cho xe đổ đèo nhanh như tên bắn
không một lần nhấp phanh. Ngồi sau xe, tôi sợ vã mồ
hôi, không dám nhìn chiếc xe vừa lao vừa đảo như làm
xiếc trên miệng vực. Xuống hết dốc, gã cho xe lao hẳn
xuống lòng suối toàn đá trâu đằm phủ rêu trơn trợt,
nước ngập đến thắt lưng. Đồ đạc, máy ảnh, pin,
đèn mà tôi mang theo, tất thảy đều bị ngâm vào nước.
Xe khựng lại đổ nghiêng và tắt máy. Tôi vọt ngay lên
bờ, vứt túi đồ xuống mặt đất, vớ ngay một cục đá
và lao đến trước mặt Quảng quát:
-
Đồ điên! Định giết bố mày đấy à? Sao không đạp
phanh chạy từ từ?
Bác
tài tỉnh bơ giải thích:
-
Đứt phanh! Anh bảo làm sao tôi chạy chậm được?
Ngán
ngẩm và lạnh toát sống lưng, tôi quăng cục đá, thả
bịch mông xuống phiến đá bên bờ suối. Quảng lúi húi
giở đồ nghề. Trong lúc Quảng sửa xe, tôi tranh thủ đảo
mắt quan sát khắp vùng. Bên kia suối, có một tay “mục
đồng” với ngọn roi trong tay đang lùa cả một đàn gần
30 con heo, mỗi con cỡ một tạ lội qua suối. Chỉ một
mình anh ta, nhưng cả bầy heo vẫn ngoan ngoãn vượt suối
rồi chen nhau chạy lon ton dọc con đường mòn. Núi rừng
mênh mông nhưng đàn heo vẫn tỏ ra hết sức kỷ luật,
không còn nào lủi vào bụi hay rẽ sang đường khác.
Quảng bù lỗ cú “đứt phanh” khi nãy bằng lời giải
thích:
-
Trước khi lùa heo đi, mấy chả lấy lửa đốt hết mi
mắt chúng. Tạt ngang ngửa, đụng phải lá cây là xót
nên bầy heo cứ thế đi thẳng, không chạy lung tung đâu
cả. Nếu không thì còn mệt.
Ra
là thế. Đúng là đi một ngày đàng học một sàng khôn.
Nhưng tôi biết, đến lượt mình tôi sẽ không làm được
thế. Kinh nghiệm sống của con người phần nhiều đồng
nghĩa với sự nhẫn tâm, tôi theo không nổi. Có điều,
vì được Quảng giải thích, tôi chợt đâm ra có thiện
cảm với tên cà chớn.
Khi
bầy heo vừa đi khuất, bác tài lại cho xe nổ máy. Vượt
thêm chừng hai ngọn đồi, gã lại đột ngột cho xe ngoẹo
đầu, dừng lại ngay lưng chừng dốc. Vẫn tỉnh rụi,
Quảng thông báo:
-
Nghe “cạch” một tiếng là tôi đã nghi. Hóa ra cần đạp
số... rớt mất tiêu rồi.
Sau
15 phút quay lại tìm vẫn không thấy, gã lại trả lời
ánh mắt dò hỏi đầy bực bội của tôi bằng cách ngoắt
một xe ôm khác. Tôi tưởng sắp bị giở trò sang xe, té
ra không phải. Dân lái xe ôm xứ này uy tín hơn nhiều. Gã
hỏi mượn “đồng nghiệp” một chiếc kìm con, kẹp
chết vào cốt thay cho cần số và bó chặt lại bằng một
đoạn dây thép nhỏ. Cứ thế, lại leo đèo, đổ dốc,
quá trưa, chiếc Minsk không côn, không phanh với chiếc cần
số có một không hai ấy đã đưa tôi đến trước Trụ
sở ủy ban xã Phước Thành.
Lấy
tiền trả, tôi có cảm giác rất yên tâm vì cái giá
“trên trời” kia là rất “phải chăng”, rất tương
xứng với “con đường đau khổ” mà mình vừa trải.
Chỉ hơi lo: Liên Xô tan vỡ, xe Minsk không còn được
nhập, dân Phước Sơn sẽ đi xe gì để vào bãi vàng? Rất
có thể họ xe mua xe... tăng. Dân bãi vàng thiếu gì tiền.
Những nòng pháo các loại thì họ không cần thật, nhưng
với con đường đầy dốc, đầy bùn này, vòng bánh xích
xe tăng chắc là rất hữu dụng!
Nhưng
gian nan của đường vào bãi, đó chỉ mới là khúc dạo
đầu. Để vào được các bãi Một Nước, Một Khô,
Muối, Thôn Hai, Vinh Tóc dài, Đồi Mafia... dân đào vàng
còn phải đi bộ qua vô số sườn núi lởm chởm và cao
ngất khác. Toàn những con dốc “kinh người”. Mỗi lúc
bò lên - có khi bằng cả bốn tay chân - đầu người phía
dưới cứ ủi thẳng vào... mông người phía trên. Một
lần ai đó bước chệch chân, một tảng đá lở ra, lăn
lông lốc theo đường mòn, đe dọa đập thẳng vào đầu,
vào mặt người đi sau. Muốn tránh cũng không có chỗ.
Người đi sau chỉ có duy nhất một chỗ để đặt chân,
đó chính là dấu chân của người đi trước, đã ăn lõm
vào vách đất, kẽ đá thành những hố sâu hoắm. Leo
chừng 5 phút đã bở hơi tai, nhưng con dốc ngắn nhất,
muốn vượt qua cũng mất không dưới 30 phút. Xuống dốc
càng khổ hơn vì không biết bám vào đâu. Trong giày sũng
nước, ngón chân cứ tõe ra, dọ dẫm lựa thế đặt từng
mũi xuống. Chỉ sau một ngày leo núi, xuống dốc, ngón
chân Giao Chỉ đã hành tôi khốn khổ. Vì liên tục bị
ấn vào mũi giày khi xuống dốc trơn như thoa mỡ, mười
đầu ngón chân tôi bị co quắp và tê dại, hai ngón chân
cái tụ máu bầm đen, đau buốt óc. Sau chuyến đi này,
tôi bị thối mất hai móng chân cái, các kẽ ngón còn lại
đều nứt toác và tróc lở, phải bôi thuốc sáu tháng
trời mới ra móng mới và lành hẳn.
Nguy
hiểm nhất là đường vào bãi thôn 4, xã Phước Kim, đoạn
sau Dốc Gió. Từ trên đỉnh núi đi tắt xuống bãi, chúng
tôi phải áp ngực vào vách núi dựng đứng và đi
nghiêng. Bàn chân đặt từng bước vào các gờ đá, tay
giang rộng để giữ thăng bằng và bám chặt vào các mỏm
đá nhô ra từ vách hoặc các túm rễ cây dài 4 - 5 mét rủ
từ trên cao xuống lòng thòng. Phải mất hơn 20 phút mới
vượt qua nổi một vách núi chỉ dài chừng 150m, chỉ cần
sẩy tay là rớt xuống tan xương. Đi hết đoạn đường,
nhìn lại tôi bỗng rùng mình. ở trên vách đá cao chừng
cả trăm mét, những người “cõng chuyến” với bao hàng
đè trĩu trên lưng vẫn đang đu người bám vách lần
xuống. Tôi chỉ là một kẻ phiêu lưu tìm cảm giác. Còn
họ, đó là cuộc vật lộn mưu sinh, là hành trình tìm
đến miền đất hứa đầy những bụi vàng. Hóa ra, đường
đến thiên đàng gập ghềnh, cheo leo và bất trắc muôn
vạn lần hơn so với trí tưởng tượng. Vậy nhưng, con
đường đó vẫn chật cứng những người... Thậm chí,
vì vàng người ta còn cõng cả những khối thiết bị máy
móc nặng những 70 - 80kg và theo đúng những con đường
bất trắc ấy để đặt chúng vào giữa bãi vàng.
Kể
cũng đúng thôi, để đến được thiên đàng, làm gì có
con đường nào rộng rãi và bằng phẳng!
Vì
đường sá cơ cực và nguy hiểm cho nên giá cả ở các
bãi đắt khủng khiếp,- vậy nhưng vẫn có người mua.
Trong bãi hầu như không thiếu thứ gì, từ bia rượu,
nước ngọt cho đến lọ dầu gội, mỹ phẩm. Dân bãi
vàng tiêu tiền như rác, xài trước trả sau. Dù vậy, dân
buôn bán, người cõng chuyển vào bãi vẫn chẳng ai trở
nên giàu có. Dự, một người cõng chuyến ở bãi Muối
đã tính cho tôi nghe. Cõng được 40 kg từ thị trấn Khâm
Đức vào bãi mất những ba ngày đường. Vừa đi vừa
về, ăn uống tiết kiệm lắm cũng mất 150.000đồng.
Trong khi đó nhiều lắm cũng chỉ lãi được 400.000 đồng,
lại phải tốn hơn 100.000 đồng nữa để vượt qua được
các “trạm gác nhân dân” dựng lên nhan nhản dọc các
thôn, bản trên đường. Tính ra, mỗi ngày chỉ lãi được
50.000 đồng. Một cái giá quá bọt bèo so với giá cả
vùng vàng để đánh đu giữa sự sống và cái chết. Mà
chưa chắc đã thu được tiền: dân bãi vàng có người
trúng quả, người thua lỗ, mua thiếu là chuyện bình
thường. Đó là chưa kể gặp kẻ cướp - trong bãi vàng
Phước Sơn, loại người này nhan nhản - tay chân lành lặn
kể đã là may mắn lắm.
Ngay
cả dân chạy xe ôm, không phải khi nào cũng thu được
tiền! Một lần vào khoảng giữa năm 1998, anh lái xe tên
H. được gọi chở hai “thợ mỏ” từ Phước Thành ra
Khâm Đức. Dù được xốc nách, một người trong số họ
cũng khó khăn lắm mới ngồi được lên xe. “Bệnh!”,
người ngồi sau thông báo gọn lỏn và ôm chặt lấy bác
tài, trong khi suốt đoạn đường đầy đèo dốc, người
ngồi giữa cứ liên tục gật, lắc, vẹo qua vẹo lại
bất chấp như vậy sẽ rất nguy hiểm, và không hề nói
nửa câu. Đến thị trấn, H. hỏi tiền xe. Chỉ con bệnh
đã được đặt ngồi bệt giữa lòng đường, người
kia bảo “nó trả”. H. tiến lại, nắm tay “chủ chi”
lắc lắc. Bàn tay lạnh ngắt. Mũ trên đầu anh ta rớt
xuống, để lộ khuôn mặt trắng bợt, mắt trợn trừng.
Rú lên một tiếng, H. lao lên xe vọt thẳng không dám
ngoái đầu, quên luôn cả đòi tiền. Hóa ra, người ngồi
giữa chỉ là một... xác chết, ít ra cũng hồn lìa khỏi
xác đã hai ngày.
Giá
cả leo thang đã đẩy cuộc sống của đồng bào dân tộc
Mơ Nông các xã có bãi vàng vào chỗ khốn cùng. Nghề
“gia truyền” phát núi trỉa hạt không đủ thu nhập để
duy trì cuộc sống, họ tự đứng ra lập barie ở mỗi
thôn, chia nhau canh gác thu tiền khách qua lại. Đi bộ cõng
chuyến: 5 ngàn/người; xe ôm có khách: 10 ngàn/chuyến. Mỗi
tháng cứ bốn, năm nóc nhà được cắt gác một ngày,
coi như lấy đó làm nguồn thu nhập chính để mưu sinh.
Để dễ đòi tiền, các bô và mâm (bố, mẹ) cứ ngồi
trạm gác với chai rượu và bộ mặt say khướt. Không
móc tiền, barie không được nhấc lên. Xe ôm cứ liều
vượt qua, các bô, mâm sẵn sàng lăn ngay ra đất, lấy
thân chặn trước bánh xe, kêu khóc ầm ĩ. Chỉ khi nào
lấy được tiền, họ mới chịu đứng dậy.
Ngoài
mãi lộ, người Mơ Nông còn tìm thu nhập bằng cách bán
đất, bán nguồn nước. Các bãi vàng vừa lập, khi bắt
đầu đến vỉa, lập tức sẽ có một bố người Mơ
Nông vác chà gạc tìm đến bảo:
-
Đất của ông nội tao để lại!
Vậy
là chủ hầm đành xì tiền ra: ba triệu, năm triệu hoặc
bao nhiêu tùy thỏa thuận. Kỷ lục về số tiền đất
trả cho các “ông nội”, thuộc về Bùi Vinh (bãi Vinh
tóc dài), khai vỉa đầu năm 1997. Để có thể khai thác,
anh ta đã phải trả cho các “ông nội” một lúc 200
triệu đồng.
Xay
đá, đãi vàng, các chủ hầm phải tìm các nguồn nước
chảy ra từ các sườn núi có độ cao tương đối, bắt
ống cao su dẫn về bãi của mình. Thường những đường
ống này dài từ một đến ba km. ông bắt xong, đột
nhiên ngưng chảy. Một thanh niên người dân tộc nào đó
đã chặt nó làm hai khúc, lý do vẫn là “suối của ông
nội tao để lại”. Lại phải tự giác chi ra từ hai đến
năm triệu cho mỗi ống dẫn nước. Nguồn thu này, có thể
nói là khổng lồ, vì chỉ riêng bãi thôn 2, xã Phước
Thành, số máy đang hoạt động cũng đã khoảng gần một
trăm, mỗi máy nhất thiết phải có một ống nước. Của
thiên trả địa, không một chủ hầm nào nghĩ tới chuyện
từ chối trả “lệ phí” khai thác đất và nước của
các “ông nội tao” để lại cả.
Ngày
tôi đến, đồng bào dân tộc ở các xã Phước Đức,
Phước Chánh, Phước Hiệp, Phước Kim, Phước Thành đã
gần như bỏ hẳn nương rẫy, chỉ suốt ngày ngồi nhà
tu rượu, chờ đến dịp thu tiền “chết” của dân vào
bãi. Để hợp thức hóa việc thu tiền, thỉnh thoảng họ
cũng hè nhau phát thêm một vài đoạn đường vào bãi,
hoặc chặt cây lót một số đoạn đường lầy cho người
xe ra vào. Thời gian còn lại, cả làng say khướt. Người
già say, thanh niên say, cả trẻ con cũng say nốt... Bởi
không say, họ không đủ dũng khí để hoạnh họe đòi
tiền. Xem ra, cái lọc lõi con buôn đem lên từ miền xuôi
đang được đáp lễ cẩn thận bằng chất hoang dã rừng
rú của dân miền ngược. Vàng vẫn ẩn sâu lòng đất,
nhưng văn hóa, phong tục tập quán và những gì tốt đẹp
của con người thì đang bị tàn phá và tận diệt dữ
dội. Tất cả đang bày ra trước mắt tại Phước Sơn.
Đó là một hệ lụy tất yếu và đau lòng đi ngay sau sự
xuất hiện và tồn tại của những bãi vàng.
4.
Bóc vỏ trái đất
Không
thể đóng khung số lượng hầm, bãi ở Phước Sơn trong
một “trị tuyệt đối”, bởi lẽ việc bỏ bãi cũ,
lập bãi mới liên tục diễn ra mỗi ngày. Toàn huyện có
khoảng một trăm bãi vàng, trong đó bãi thôn 2 và bãi
thôn 8, xã Phước Thành là lớn nhất, mỗi bãi có từ
100-150 hầm với khoảng từ một đến hai ngàn/người
tham gia đào đãi và buôn bán.
Công
nghệ đào, đãi vàng ở Phước Sơn đã được chính quy
hóa đến cao độ. Đầu tiên là khâu “tăm vỉa”. Hoàn
toàn dựa vào kinh nghiệm, những gã đào vàng tìm đến
các mạch đá ngầm trồi lên mặt đất, sau đó bắt đầu
đục đá đem xay thử. Nếu có vàng, việc dựng lán, khui
hầm sẽ diễn ra cấp kỳ. Gặp được các vỉa đá “tầng
ong” - xốp và lỗ chỗ như tổ ong dân “xúc, lắc”
coi như trúng mánh. Loại này xốp, nhẹ, dễ đào, dễ
xay, hàm lượng quặng vàng rất cao, dễ khai thác. Ngược
lại, gặp phải vỉa đá Bê-rít (?) coi như công toi, vì
vừa cứng, vừa ăn quá sâu, rất khó đào.
Để
lấy được quặng, người ta phải đào hầm từ trên
đỉnh hoặc lưng chừng núi ăn thông xuống. Hầm cạn
nhất cũng phải sâu tới 25 m, còn sâu thì 50, 60 hay 70m vô
chừng. Vỉa đá ăn đến đâu, địa đạo được đào
đến đấy, có những hầm hệ thống địa đạo chồng
lên nhau thành bốn tầng, mỗi tầng thông nhau bởi một
miệng giếng sâu chừng 10m.
Để
khui hầm, toàn bộ cây cỏ trên miệng, trên lối đi dẫn
vào đều bị bóc sạch, đất đá bị lật tung lên, biến
cả quả đồi rậm rạp thành vùng đất chết! Hàng trăm
địa đạo chằng chịt ăn vào khiến cả ngọn núi bị
rỗng chân, có thể đổ ụp xuống bất cứ lúc nào. Đêm
20.7.1997, sau một cơn mưa lớn, bãi thôn 8 xã Phước Thành
do Nguyễn Văn Ngọc làm chủ đã ụp xuống bất ngờ,
chôn sống một lúc 21 người. Tỉnh, huyện, đã huy động
nhân lực đào xới cật lực nhưng cũng phải mất bảy
ngày, xác các nạn nhân mới được đưa lên. Ngày
14.5.1999, tại bãi Vàng Nhẹ (xã Phước Đức), một khối
đá khoảng 50 m2 bị hổng chân đã ầm ầm lao từ trên
đỉnh đồi xuống, đè chết một người và làm bị
thương bốn người khác. Thịnh, một thợ đánh mìn quê
ở Giao Thủy (Nam Định) thoát chết nhờ kịp lao vào hầm,
nhưng cánh tay phải bị khối đá “lướt” qua bóc toàn
bộ da thịt, lòi xương trắng hếu...
Tai
nạn như cơm bữa, nhưng vì vàng, những người thợ vẫn
liều mình đánh đu với số phận. Để giải quyết những
vỉa đá cứng, phương pháp thông dụng nhất là đánh
mìn. Gọi là nhanh, nhưng giỏi lắm một ngày đánh mìn,
thợ vàng cũng chỉ đào sâu xuống được thêm một, hai
mét đá. Để tiết kiệm, họ thường không ngần ngại
cắt ngắn... dây cháy chậm đến mức tối thiểu. Bị
thách thức, thần chết đã nổi giận thường xuyên. Đêm
26.5.1999, sau một tiếng nổ “ục” trong lòng núi, bốn
thợ mỏ người Phú Thọ ở bãi thôn 2, Phước Thành đã
phải đi bệnh viện. Không bị thương, họ chỉ bị ngạt
vì khói mìn. Trên đường đi, một người đã chết.
Với
các ngọn đồi đã bị đào bới, không một thứ cây cỏ
nào có thể tái sinh, bởi tất cả bề mặt đồi núi đều
bị hàng vạn m2 đá vụn hất lên phủ kín. Sau khi khai
thác, không một ai nghĩ đến việc lấp lại hầm hố.
Thợ đào vàng không lấp vì việc của họ là tìm vàng
chứ không phải là cải tạo môi sinh; dân không lấp vì
không có trách nhiệm; nhà nước cũng không lấp - vì
không có tiền. Vậy là những ngọn núi trở thành một
cái “bẫy người” khổng lồ với hàng trăm miệng hố
(nhiều miệng đã bị cỏ dại phủ kín) chỉ cần sẩy
chân là sẽ rơi đứng xuống hàng chục mét.
Quặng
khai thác xong sẽ được cho vào máy nghiền nát, sau đó,
được đem xay nhỏ thành cám và cho theo nước chảy vào
máng đãi. Những lá nhôm tráng thủy ngân sẽ giữ vụn
vàng lại, còn nước và xái cứ vậy trôi đi.
Khi
máng thủy đã “khê”, lớp vàng lấm tấm bám trên thủy
ngân đã dày, người ta sẽ dùng một lá cao su dày, một
mảnh đế dép “tông” chẳng hạn, gom chúng lại. Dùng
“con khò” đốt lên, thủy ngân sẽ bốc hơi, để lại
vàng nguyên chất (vàng 9999). Vì công việc quá tốn kém,
trung bình cứ xuống sâu một mét tốn một triệu đồng
cho nên nếu mỗi ngày một hầm đào được một lượng
vàng, coi như hầm đó mới chỉ hòa vốn. Nhưng, một trăm
hầm thì may lắm chỉ dăm ba hầm đạt được mức ấy,
số còn lại thường chỉ thu được dăm ba chỉ - đủ lo
gạo muối hằng ngày. Dù vậy, dân “xúc lắc” vẫn
không từ bỏ “giấc mộng vàng” của họ. Thần tượng
cho những giấc mơ kia có nơi bấu víu là Bùi Vinh, bãi
Vinh Tóc Dài, thôn 5, xã Phước Thành. Năm 1997, Vinh trúng
lớn. Mỗi ngày, hầm của anh ta lôi lên mặt đất được
trên dưới 1 kg vàng ngân (khoảng 700 gam vàng ròng)!
Nhưng,
lượng vàng lớn nhất vẫn còn nằm trong xái. Vì vậy,
sau máng thủy sẽ là công đoạn đánh bể thoòng. Xái
được gom lại, dồn vào một bể lớn quây bằng nilông,
bơm nước vào và khoắng lên. Cyanur, nitơ lỏng, và một
số phụ gia khác được thả vào sẽ khiến cả vàng lẫn
xái tan thành nước. Nước trong tiếp tục được chắt
sang bể nhỏ, thạp, sau đó thả các thanh nhôm, thiếc vào
cho vàng nguyên chất kết tủa. Sau khi lọc lấy vàng,
lượng nước chứa đầy độc chất này đều tự do tuôn
xuống các dòng suối, đổ ra sông Vu Gia, sau đó hợp lưu
với sông Thu Bồn tuôn xuống đồng bằng. Xem ra, hiện
tượng hàng loạt trâu bò ở Quế Sơn, một huyện nằm
ngay bên thượng nguồn sông Thu Bồn bỗng dưng lăn ra chết
hàng loạt đã tìm ra được nguyên nhân. Đó mới chỉ là
trâu bò, vậy còn người? Không ai trả lời, việc “đánh
hóa” vẫn cứ diễn ra mỗi ngày. Điều đáng nói là,
toàn bộ việc khử quặng này đều được thực hiện
bởi những tay thợ vốn có văn hóa vừa đủ... dốt,
thậm chí có người không biết chữ. Công thức hóa học
của các loại hóa chất, họ mù tịt. Chỉ cần biết gọi
tắt “xi” là Cyanur, vậy là đủ. Liều mạng hơn, để
đề phòng “bể thoòng” bị cướp, thợ “đánh hóa”
còn làm lán bắt ngang trên mặt bể để ngủ canh, liên
tục 72 giờ cho mỗi mẻ lọc, sàn ngủ chỉ cách mặt bể
đúng một mét. Hỏi, họ đáp tỉnh queo:
-
ối dào, vẽ! Cho muối ăn vào rửa tay chân là nó... trung
hòa hết.
Trong
khi chỉ 14 mg Cyanur cũng đủ giết chết một mạng người
thì ở Phước Sơn, loại hóa chất cực độc này được
mua bán công khai mỗi lúc hàng chục kg. Ngày 25.5.1998, tại
bãi thôn 2, xã Phước Thành, tôi đã chứng kiến cảnh
bắt giữ tên Võ Văn Sơn, quê ở Quế Sơn đang cõng vào
bãi một bao 50 kg Cyanur. Cõng bằng lưng trần, dưới trời
mưa như trút. Anh ta khai:
-
Không biết của ai, không biết là chất độc, người ta
thuê thì cõng.
Có
thể là Sơn không biết thật, bởi ở bãi vàng, chỉ có
tiền công mới là điều đáng quan tâm. Tôi chợt rùng
mình: rừng núi cheo leo, đường sá cách trở, nếu gã
“thợ cõng” sơ ý đánh rơi khối chất độc kia xuống
đầu nguồn nước, ắt hẳn 18.000 dân của toàn huyện
Phước Sơn sẽ không một ai sống sót. Nhưng, đó cũng
chưa phải là vụ ghê gớm nhất. Trong đợt truy quét cuối
năm 1997 loại hóa chất cực độc này, công an huyện thu
được những hơn... một tấn!
5.
Trật tự ở chốn vô trật tự
Quyền
lực lớn nhất ở các bãi vàng, tất nhiên là các chủ
bãi, chủ hầm. Có lúc, chủ bãi và chủ hầm là một,
nhưng cũng có lúc nhiều chủ hầm được đặt dưới tay
một chủ bãi. Nổi tiếng nhất ở Phước Sơn, có lẽ là
chủ bãi thôn 8, xã Phước Thành Nguyễn Văn Ngọc. Ngọc
từng là một đại úy, Đội trưởng Đội hình sự Công
an huyện Phước Sơn. Trước khi có chỉ thị 20 của ủy
ban nhân dân tỉnh Quảng Nam về việc cấm đào, đãi
vàng, Ngọc đã xin ra khỏi ngành công an và bỏ ra 400
triệu một lúc để mua 350 mét bề rộng của một quả
núi ở thôn 8 để đào vàng. Tất cả dân làm vàng đều
cho rằng Ngọc phát rồ. Thôn 8 quá heo hút, núi quá dốc,
đi bộ từ ủy ban nhân dân xã đến đó phải mất những
ba ngày đường, chi phí đào đãi chắc sẽ tăng chóng mặt
trong khi chưa chắc đã có vàng.
Chỉ
sau đó ít lâu, những “cao thủ” nghề vàng đã phải
lác mắt, bái phục Nguyễn Văn Ngọc là kẻ nhìn xa trông
rộng. Vùng đất thuộc quyền của anh ta trúng đậm,
thiên hạ ùn ùn kéo tới xin sang nhượng. Ngọc cắt ngang
280 mét đất bán lại cho các chủ hầm khác, thu về một
lúc đúng... một tỉ đồng. 70 mét còn lại, Ngọc tiếp
tục thuê người tự khai thác, có ngày thu được cả ký
vàng ngân (vàng trộn lẫn thủy ngân, lượng vàng nguyên
chất chiếm khoảng 70%). Vậy là cái tên của anh ta đã
được dùng để đặt luôn làm tên bãi của thôn 8, Phước
Thành.
Đang
lên như diều gặp gió nên khi đã có lệnh cấm, Ngọc
vẫn tiếp tục khai thác. Và vụ sập hầm giết chết 21
người một lúc đã xảy ra, không những đe dọa phá sản,
mà còn khiến Nguyễn Văn Ngọc đứng trước nguy cơ phải
đối diện với luật pháp.
Khác
với Ngọc, Dũng lai, Quốc con, Lập Đại liên, các chủ
hầm, chủ đất ở bãi thôn 4, xã Phước Kim đều xuất
thân là dân anh chị có máu mặt ở Đà Nẵng. Đào vàng
với họ chỉ là một cuộc chơi. “Máu” nhất là Dũng
lai. Mỗi lần khai vỉa được dăm ba chục triệu, anh ta
lại xách tiền, vàng ra Đà Nẵng, bao nguyên một tầng
lầu của nhà hàng khách sạn Phương Đông cùng đàn em ăn
nhậu phá phách thả dàn, hết tiền mới chịu quay vào
bãi. Bãi thôn 4 được Dũng, Lập, Quốc biến thành một
vương quốc riêng bất khả xâm phạm với đội bảo vệ
hơn mười người, trang bị đồng phục quần áo rằn ri
và đầy đủ “đồ chơi”. Bất cứ ai lên bãi vào ban
ngày, họ đều bị đội bảo vệ chặn lại xét hỏi.
Đầy đủ giấy tờ, lý do thì cho đi, nếu không thì...
biến. Ban đêm, bãi thôn 4 “đóng cửa”, tuyệt đối
cấm qua lại. Mỗi lúc cần hàng hóa hay vật dụng gì,
Dũng, Lập, Quốc chỉ cần xé vỏ bao thuốc viết mấy
chữ cho người mang đi, ngay lập tức yêu cầu của họ
sẽ được các chủ máy, chủ quán trong khu vực đáp ứng
ngay, không một lần từ chối. Được cái cả ba đều là
“dân chơi” khá đúng nghĩa, không bao giờ ăn quịt hay
o ép ai nên các chủ bãi, chủ lán khác đều vừa sợ vừa
nể.
Đầu
tháng 5.1999, một đoàn chuyên gia Hàn Quốc đã vượt núi
vào Phước Thành khảo sát trữ lượng vàng để lập
luận chứng liên doanh, có ghé vào khu vực bãi thôn 4. Dẫn
đoàn đi, ngoài phiên dịch người Việt còn có thêm một
anh công an huyện đi theo bảo vệ. Đến bữa ăn trưa, đám
chuyên gia Hàn Quốc tỏ ra kẻ cả, trịch thượng, đối
xử với anh công an trẻ không mấy tế nhị, còn tỏ ra
phân biệt. Dù rất giận, nhưng vì nhiệm vụ, anh công an
cố nhịn. Biết chuyện, “tự ái dân tộc” nổi lên,
Dũng, Lập, Quốc quyết định “chơi” cho các tỉ phú
Hàn Quốc “biết lễ độ”. Theo kế hoạch, đoàn Hàn
Quốc sẽ được Dũng, Lập, Quốc mời vào lán và đãi
một bữa cơm với cá khô, chủ khách cùng ăn. Sau đó, ba
thùng “333” sẽ được bưng ra, ba tay giang hồ sẽ lần
lượt bật nắp bia và... rửa chân cho anh công an để cho
những gã tỉ phú hợm mình chiêm ngưỡng... Nhưng, Dũng
lai vì quá nóng nảy nên đã làm hỏng kế hoạch. Đám
chuyên gia vừa tự ý chui vào hầm lôi ra một ít quặng
mẫu, Dũng đã “nổi giận”, hét đàn em bắt trói họ
vì tội “xâm nhập lãnh địa không xin phép”. Hãi quá,
đám chuyên gia phải trả ngay toàn bộ số quặng mẫu,
xin lỗi rối rít và hô nhau... bò (vì xung quanh toàn núi,
không thể chạy). Khi bị công an mời lên hỏi vụ này,
Dũng “lai” chối biến việc có mã tấu và súng AK tham
dự vào vụ uy hiếp, chỉ nhận là “đùa hơi quá trớn”.
Để
“lấy le”, hầu hết các chủ bãi loại “play-boy” đều
kiếm cho mình một cô bồ. ở trong bãi, phụ nữ không
phải là hiếm, gồm đủ mọi thành phần. Một số có
nhan sắc, có vốn vào bãi mở quán bán đủ thứ trên
trời dưới biển và buôn vàng. Nương nhờ bóng vía một
chủ hầm chủ bãi có máu mặt, đó là cách tốt nhất để
tránh bị cướp phá hoặc ăn quịt. Tất nhiên, đã có
qua ắt phải có lại... Các cô chủ quán loại này được
dân bãi gọi là xe biển số trắng, nghĩa là xe tư nhân,
có chủ quyền. Nhìn xe biển trắng có thể đoán được
ngay hiện trạng của người “giữ giấy chủ quyền”.
Khi hầm hố “vào cầu”, xe được gắn đầy vàng lắc,
nhẫn, xuyến, tiền tiêu như nước. Ngược lại, chủ bãi
thua lỗ, phải bỏ hầm bỏ bãi, xe cũng bị “sang tên”,
bị “gán nợ”. ở bãi Một Khô (Phước Thành), có một
chủ bãi tên là Kỷ “niệm”, nổi danh vì từng “sang
tên” và “xiết nợ” xe “biển trắng” không dưới
chục lần. Kỷ khoe: riêng tiền “đổ xăng”, mỗi tháng
cũng tốn không dưới năm triệu đồng. Đó là lúc bình
thường, còn khi trúng mánh, chạy “xe” bạt mạng, số
“tiền xăng” coi như không tính nổi.
Xe
biển xanh - tức gái làm tiền - cuộc sống phập phù hơn.
Cái “nghề” dưới đáy xã hội này, vào bãi càng khốn
khổ. Họ thường dựng lán ở rìa các bãi, biệt lập
nhưng không quá xa để hành nghề. Bất cứ kẻ nào trong
bãi đều có thể hành hạ hoặc đe dọa họ, nhưng khi có
chuyện họ hoàn toàn không được ai bênh vực. Tại bãi
Muối, chúng tôi ghé vào “gara” của một “xe biển
xanh” tên là Đ.T.H.T, sinh năm 1969, tại Hương Điền,
Huế. T. bắt đầu lăn lóc ở bãi vàng từ năm 1992. Ban
đầu, cô dựng “gara” ở Trà My, sau đó chuyển qua
huyện Hiên và cuối cùng dừng lại ở bãi Muối - Phước
Thành.
Lý
do đơn giản: các khách “thuê xe” chuyển bãi, “xe”
cũng phải chuyển theo vì chưa thu hết... nợ. Sau nhiều
năm hành nghề, nhan sắc đã trở nên tàn tạ. Trước, cô
được đánh giá là một “dream”, năm tháng cứ giảm
dần “giá trị mẫu mã”, tụt xuống “win” ,”81”,
“én”, giờ T. đã bị hạ đến mức chỉ còn là một...
mobillet. Để mưu sinh, cô phải kiêm thêm nghề bán bún
nước lèo cho cả hai bãi Muối và Một Nước. Ngày ngày
gánh trĩu trên lưng, chịu bao điều miệt khinh tủi nhục.
Đêm T. quây kín nilông chắn lều, ngồi thu lu trong góc
lán tối om với một cây chùy - một khúc chày gỗ, 1 đầu
cắm đầy đinh - nơm nớp lo một kẻ bất lương nào đó
đột ngột xô lán nhảy xổ vào... Dưới áp lực của
vàng, cả cái tên người chưa chắc gì giữ được. ở
bãi giá cả mọi thứ đều ngày mỗi tăng, chỉ có giá
trị của nhân phẩm là ngày càng giảm.
Ngoài
chủ và “xe”, ở bãi vàng còn rất nhiều hạng người
khác. Những người không vốn, không đủ sức khỏe làm
công thì xin đến các hầm đã khai thác xong, bòn mót chút
quặng thừa đem gửi máy xay đãi ăn chia 6:4 với chủ. Họ
được gọi là dân “tọ mọ”. Bần cùng già yếu hơn
hoặc nghiện ngập, “tọ mọ” cũng không đủ sức thì
làm “dặt dẹo” đi xin. Những chủ hầm đang trúng
không nỡ để dân “dặt dẹo” chết đói, song nhìn họ
bằng nửa con mắt, bởi với các “dặt dẹo” nghiện
ngập, xin chỉ đủ no bao tử chứ không đủ để no “óc”,
họ thường “nhanh tay lẹ mắt” với những hớ hênh
của các máy, hầm và tích cực “cầm nhầm”.
Đổi
ngôi là chuyện liên tục xảy ra ở bãi vàng. Trước năm
1996, Vinh tóc dài (Bùi Vinh) chỉ là một “tọ mọ”
không tên tuổi. Sau lệnh cấm khai thác năm 1997, một số
chủ hầm dỡ lán, bỏ hầm, Vinh mò vào “tọ mọ”
và... trúng đậm. Có tiền, anh ta sắm máy, mua nguyên cả
một quả đồi với giá 200 triệu và trúng luôn 35 kg vàng
ngân (khoảng hơn 20 kg vàng ròng). Cú “vào cầu” của
Vinh tóc dài đã kéo các chủ hầm rầm rập quay trở lạ.
“Chiến tranh” nổ ra, và máu người đã đổ trên bãi
Vinh tóc dài khiến anh ta vừa khánh tận vừa phải vào
tù...
Dù
sao, cái tên Vinh tóc dài cũng trở nên một mơ ước cho
cả vạn người khác, đọng lại trong họ như một niềm
khao khát đổi đời dữ dội để tiếp tục lao theo những
hy vọng hão huyền, bất chấp tận thế có xảy ra ngay
tức khắc, bất chấp thiên đàng và địa ngục chỉ cách
nhau vừa đúng một gang tay.
6.
Sống chung với cướp
Người
bình thường chắc hẳn không ai mơ chuyện tự ném mình
vào bãi vàng. Lọt thỏm giữa núi rừng Phước Sơn, những
số phận mà tôi gặp hầu như đều giống nhau ở điểm
bi đát trong hoàn cảnh sống. Đến vùng vàng, cuộc đời
họ càng khốn khổ hơn bởi mưa gió, bệnh tật, những
thất vọng triền miên cùng số nợ cứ dày lên. Và, một
con đường khác lại mở ra trước mắt họ: nghiện ngập
và phạm tội. Rừng núi điệp trùng cũng là nơi lý tưởng
để bọn tội phạm, trong đó có không ít tên mang hai, ba
lệnh truy nã, lấy làm chốn náu thân và tiếp tục gây
tội ác. Khi tôi có mặt, bãi 5A xã Phước Thành tịnh
không bóng người, dù ở góc lán này vẫn còn chén nước
bốc khói và góc lán kia, mấy thanh củi vẫn còn cháy dở.
Trước mắt tôi, chiếc chiếu giữa lán lỗ chỗ hàng
ngàn vết cháy - một lời tố giác không thể chối cãi
về sự có mặt của thuốc phiện. Đúng vậy, một trăm
phần trăm cư dân của bãi này đều nghiện nặng. Nhác
thấy bóng người lạ dưới chân núi, họ vơ vội bàn
đèn, ống tiêm đồng loạt lao xuống hầm. Khoảng 15 phút
sau, thấy không thành vấn đề, họ lại lục tục trồi
lên, nhe răng cười với chúng tôi, nụ cười bệnh hoạn,
vừa cầu thân lại vừa đầy nghi kị nở vội trên những
cặp mắt vàng võ bủng beo.
Khi
trèo lên đỉnh đồi, tôi biết các cư dân trên đó không
hiền lành như vậy. Đỉnh đồi 5A được mệnh danh là
đỉnh Mafia, bởi hoàn toàn do các ổ trộm cướp chiếm
cứ. Ban ngày chúng trốn vào rừng hút chích, ban đêm tụ
nhau lại đi trộm cướp, sau đó mò về các lán chia nhau.
Nhưng bãi mafia vẫn chưa sợ bằng bãi Vinh Tóc dài, nơi
có mặt nhiều tên cướp lì lợm và hung hãn nhất. Riêng
các tên Nguyễn Hữu Cường (Cường con), Nguyễn Văn Hùng
(Tây điên), Phan Văn Tư (Tư heo) mỗi tên cũng đã gây ra
hàng chục vụ cướp của giết người. Khi dân “xúc,
lắc” hoảng sợ bỏ đi, chúng quay sang bắn giết lẫn
nhau để đoạt hầm, hố, cướp tài sản ăn cướp và
giành quyền hùng cứ khu vực.
Vũ
khí trong các trận thư hùng xem như không thiếu thứ gì,
từ dao gậy, súng, trái nổ. Đáng sợ nhất là các trái
canonbi. Loại trái nổ này được lấy ra từ những quả
bom bi chưa nổ do Mỹ thả xuống còn nằm rải rác trong
rừng núi. Mỗi quả bom chứa hàng ngàn quả canonbi to như
quả ổi, một đầu có hạt nổ, khi ném tim hạt nổ luôn
hướng về phía trước và nổ khi chạm bất cứ vật gì,
dù đó là lá cây hay mặt nước. Từ trong ruột quả
canonbi, hàng ngàn viên bi con sẽ bung ra.
Theo
đánh giá của Công an huyện Phước Sơn, có ít nhất một
phần mười cư dân của bãi vàng từng là kẻ cướp
giật. Trong vòng 2 tháng 4 và 5.1999, chị Nguyễn Thị Hồng,
một dân buôn vàng, quê ở Hòa Định, Tuy Hòa, Phú Yên đã
bị băng Thanh sứt, Hiển bụi cướp những ba lần, lấy
đi hơn 100 triệu đồng. Trần Bút, một chủ quán khác ở
bãi 45 (xã Phước Sơn) cũng hai lần bị cùng một băng
cướp che mặt tấn công chỉ trong nửa tháng 5.1999. Là
con nghiện một trăm phần trăm nên khi ra tay, bọn cướp
vơ tất không chừa thứ gì, từ tiền, vàng cho đến lon
nước, bao thuốc. Oái ăm thay, có lúc người bị hại
biết rất rõ ai là kẻ cướp, nhưng đành... ngậm tăm,
sợ bị tái cướp, bị trả thù. Sau ba lần bị cướp,
để tránh thêm lần thứ tư bị chúng viếng thăm đột
xuất trong đêm, chị Hồng đành bỏ ra năm triệu đồng,
nhờ một tay “có máu mặt” gầy một độ nhậu mời
các tay “lục lâm” nghi vấn đến. Khi rượu đã ngà
ngà, tay anh chị mới chỉ chị Hồng và bảo:
-
Cô em tao đấy, để cho nó sống!
Những
thằng cướp tỉnh queo:
-
Sao không nói sớm? Ai biết!
Sau
đó, thay vì bị cướp, thỉnh thoảng chị Hồng phải rút
ra một triệu dúi cho một tên “cô hồn”, còn những vụ
cướp vẫn xảy ra trong khu vực, chị đành coi như không
nghe, không thấy. Trước khi đút tiền vào túi, thằng “cô
hồn” còn khoanh tay lễ phép:
-
Em xin chị.
Cướp
của không đáng sợ bằng cướp bãi chiếm hầm. Đào mãi
vẫn chẳng thấy có vàng, hai anh em Phạm Hữu Cường,
Phạm Hữu Cảnh bắt đầu tính kế đoạt bãi của hai
anh em Phan Văn Tư, Phan Văn Phong (thôn 3, Phước Thành) đang
ăn nên làm ra. Vốn là những tên cướp sừng sỏ, anh em
Tư, Phong phát hiện ngay ý đồ của địch, ngay lập tức
chỉ đạo thợ tăng cường phòng thủ. Ngày 21.4.1998,
Cường và Cảnh bất ngờ ném hàng chục trái canonbi vào
lán của Tư, Phong. Ngay tức khắc, hàng loạt AK từ trong
lán được Tư, Phong tuôn ra đáp lễ. Hoảng quá, Cường,
Cảnh vội tháo lui. Cường bị sa luôn vào bãi chông của
anh em Tư, Phong cắm sẵn. Vất vả lắm Cảnh mới vừa
chống đỡ với đạn AK, vừa cõng được Cường thoát
hiểm. Thoát chết nhưng máu hung hãn vẫn không mất, khi
vết thương lành lại, Cường lại bày binh bố trận. Lần
này, chúng tấn công một bãi khác. Chờ khi đám thợ đã
chui hết xuống hầm, những tên cướp lập tức xuất
hiện và đổ xuống miệng hầm một... can xăng, sau đó
ném lựu đạn xuống! ở bãi vàng, quả thật người với
người đã thành dã thú, mà không chỉ vì nơi họ đang
có mặt là giữa núi rừng.
Tuy
bị tấn công liên tục nhưng hầu như không một nạn
nhân nào chịu đi trình báo với chính quyền. Đào vàng
là phạm pháp, họ rất sợ sự can thiệp của luật pháp
nên thường tìm cách tự giải quyết lấy. Sau nhiều lần
bị các tên Đỗ Duy Lệ, Lưu Văn Thanh chỉ huy cả chục
đàn em đánh chém cướp quặng xái, hàng chục chủ lán
trại ở bãi 65, thôn 4, Trà Bui đã họp nhau lại bàn nhau
đánh trả. 3 giờ sáng ngày 3.10.1997, theo hiệu lệnh của
một chủ hầm là Lê Xuân Thu quê ở Tam Kỳ, Quảng Nam,
cả trăm chủ hầm, lán và thợ của bãi 65 đã đồng
loạt chia ba cánh tấn công vào lán của đám kẻ cướp.
Cuộc chiến diễn ra khá bài bản: đầu tiên là trái nổ,
lựu đạn khói ném tới tấp, sau đó là cả trăm dao, gậy
ồ ạt xông lên. Cả chục tên trong nhóm cướp bị đánh
tơi tả, số còn lại bỏ chạy tán loạn vào rừng, bỏ
lại một xác chết và một số tên bị thương quằn
quại. Lê Xuân Thu, Phan Văn Vinh, Trần Phong Trắc, Phạm
Văn Lợi đã cướp toàn bộ tài sản trong lán của Đỗ
Duy Lệ và đồng bọn, sau đó châm lửa đốt rụi. Họ
còn bắt tên Chiến, một đàn em của Lệ, đổ nước sôi
lên đầu, cạo trọc lóc và bắt viết giấy gọi Đỗ
Duy Lệ mang tiền đến chuộc...
Không
thể trách lực lượng Công an huyện Phước Sơn và tỉnh
Quảng Nam, bởi họ đã dồn hết công sức, song mọi cố
gắng vẫn không đem lại kết quả mong muốn. Các bãi đều
nằm rải rác trong vùng rừng núi, lại quá nhiều, quá
rộng, khó lòng ngăn chặn được dòng người tắt rừng
băng núi để tìm đến bãi vàng. Hơn 10 đợt truy quét,
trục xuất dân đào vàng trái phép ra khỏi bãi đã được
tỉnh, huyện tổ chức, song kết quả không mấy khả
quan, dù rất tốn kém. Công an, du kích xuất hiện dưới
chân núi, những kẻ đào vàng vẫn đủ thời gian tháo
máy, dỡ trại đưa xuống địa đạo cất giấu, còn
người trốn vào rừng. Lực lượng truy quét rút, họ lại
quay trở lại.
Khi
có tai nạn hoặc bị trộm cướp, không một người bị
nạn, bị hại nào chịu khai báo, rất khó phát hiện.
Trong khi đó, cả thủ phạm lẫn nạn nhân đều là dân
tứ xứ, phải tốn rất nhiều công sức để điều tra,
truy bắt. Bọn tội phạm lại là những tên rất liều
lĩnh. Tháng 5.1999, chuyên án CA 889 của Công an Quảng Nam
đã phá băng cướp do Thanh sứt, Hiển bụi cầm đầu.
Các tên Thanh sứt, Bắc phò, Tiên nghiện, Lanh... bỏ trốn
lên Đăk Nông, Đăk Lăk. Đúng một tuần lễ thức trắng
rúc trong rừng le đầy muỗi, vắt, Công an Quảng Nam mới
tóm được chúng. Còn lại một mình, Hiển bụi trốn từ
Phước Thành sang bãi vàng nhẹ Phước Đức và lập ngay
băng mới chỉ sau đúng ba ngày, tiếp tục thêm bốn vụ
cướp. Bị một nạn nhân che mặt chém trọng thương,
Hiển vẫn không đi bệnh viện mà nhờ đồng bọn dùng
chỉ may đồ khâu giúp, nằm lại bãi dưỡng thương chuẩn
bị cướp tiếp. Rất may, Hiển và cả băng mới lập đã
bị Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh bắt ngay tại bãi
chỉ một tuần sau đó. Khi bị bắt, bọn tội phạm vẫn
ngoan cố bởi hy vọng rằng rừng núi mênh mông, luật
pháp khó tìm ra chứng cứ để buộc tội chúng. Phải mất
hàng tháng trời, Phòng Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh
Quảng Nam mới tìm đủ chứng cứ để kết tội tên
Nguyễn Hữu Cường. Tên Tư heo (Phan Văn Tư) thậm chí còn
cố tình chơi khăm cả công an. Đích thân trung tá Huỳnh
Đức Cường và ba cán bộ chiến sĩ của Phòng PC 16 Công
an tỉnh đã phải lặn ngụp trọn một buổi sáng mùa
đông dưới dòng nước lạnh buốt để tìm vớt khẩu
súng gây án mà Tư khai đã quẳng xuống suối. Kết quả
chỉ công cốc, khẩu súng này đồng bọn của y vẫn đang
giấu và sử dụng để tiếp tục đi cướp.
Dẫn
giải tội phạm cũng là điều không đơn giản. Đường
núi dốc và trơn, đi một người đã khó, huống hồ phải
kèm ba, bốn tên tội phạm. Ngày 21.5.1999, lúc dẫn giải
những tên trong băng Hiển bụi về ngang bãi 45, ba trinh
sát của chuyên án CA 889 đã đành bất lực để cho một
tên chạy thoát. Dù hai tay bị còng, tên cướp vẫn liều
lĩnh ôm đầu và lăn từ đỉnh đồi xuống, theo một lối
mòn đầy rễ cây, cọc nhọn, trốn thoát mang theo cả
còng. Mùa mưa năm 1997, trong khi bị áp giải qua một đoạn
vực, cách mặt nước chừng 20 mét, một tên cướp đã
để nguyên cả còng lao thẳng xuống dòng suối đang chảy
xiết. Không để phạm chạy thoát, càng không thể để
hắn chết, thượng úy Nguyễn Văn Thanh của Phòng Cảnh
sát Điều tra Công an tỉnh đành phải lao theo, vừa bơi
vừa dìu được tên cướp lên một tảng đá giữa suối,
chờ đồng đội quăng dây ra cứu.
Khổ
nhất, bọn tội phạm nghiện ngập thường lên cơn vã,
nằm giãy đành đạch trên đường bị dẫn giải. Để
đề phòng, mỗi lần vào bãi truy bắt tội phạm, các
chiến sĩ công an đều phải thủ theo một gói đường.
Khi đối tượng lên cơn, anh em lại phải cấp tốc tìm
nước pha cho chúng uống vừa để giúp chống vã thuốc,
vừa tăng lực để có thể tiếp tục hành trình. Trong
chuyến bắt băng Hiển bụi tại bãi Vàng Nhẹ, trời mưa
dữ dội, các chiến sĩ Nhậm, Tám, Dũng, Cảnh sát Điều
tra tỉnh đã phải cố nhịn thuốc lá để dành cho bọn
tội phạm, bởi khi lên cơn, không có thuốc hút liên tục,
rất có thể chúng sẽ ngất xỉu và nằm lại giữa
đường.
Để
phục vụ cho những chuyến công tác gian khổ ấy, chế độ
và điều kiện làm việc của lực lượng công an vẫn
hết sức thiếu thốn. Trong khi một cuốc xe ôm vào bãi
là 500 ngàn đồng thì công tác phí cho một chiến sĩ vẫn
chỉ là 20 ngàn đồng một ngày, không hề có một ngoại
lệ nào cả...
Chỉ
một vài ví dụ, đủ thấy lực lượng công an ở vùng
vàng đã cố gắng hết mình. Nhưng để giải quyết triệt
để tệ nạn và tình hình phạm tội ở nơi này, không
thể chỉ trông chờ vào mỗi sự tận tụy, hy sinh của
lực lượng công an. Cái thiếu vẫn là một chính sách
toàn diện và kịp thời, nếu không mọi biện pháp dù
tích cực cũng chỉ là giật gấu vá vai. Cấm khai thác,
địa phương mất nguồn thu lớn, nhưng dân tứ xứ vẫn
không ngừng đổ về, thiên nhiên vẫn bị tàn phá, những
mối nguy vẫn đầy ắp mà không thể ngăn chặn nổi. Đại
đa số chủ bãi, chủ hầm đều mong muốn nhà nước có
một qui chế cụ thể, cho phép họ đăng ký, đóng góp
nghĩa vụ và khai thác. Như vậy, người khai thác sẽ yên
tâm hơn, nhà nước cũng tăng được nguồn thu cho ngân
sách và dễ quản lý hơn. Nhưng theo đúng luật thì việc
cấm là tất nhiên, mà luật thì khó lòng thay đổi. Giải
pháp cho bãi vàng, vì thế, vẫn đang luẩn quẩn trong một
mớ bùng nhùng không lối thoát. Và số phận của những
con thiêu thân lao vào bãi vàng vẫn bị treo lơ lửng.
7.
Vàng đổi người
Tự
coi mình là một thợ mỏ, ngày 25.5.1999, tôi đã thử lần
xuống một miệng giếng ở bãi thôn 5A, xã Phước Thành
của ông bà Hoàng Xuân Điền - Lê Thị Gấm, quê ở Giao
Thiện, Giao Thủy, Nam Định. Mầu, người dẫn đường,
chui vào trước. Theo chỉ dẫn của anh ta, tôi đeo máy ảnh
ra trước ngực và khom người ngồi bệt mông xuống nền
đất. Một cú trượt đã đẩy tôi chuồi sâu khoảng 15
mét vào lòng địa đạo tối như hũ nút, nghiêng chừng
150 và cao không hơn 0,8 mét. Xỏ chân vào miệng gàu - một
can nhựa 40 lít cưa bỏ phần trên và chắp thêm một cầu
ngang bằng gỗ - tôi đu người bám chặt dây tời cho Mẫu
thả xuống hầm. Dây tời nhả khá nhanh khiến chiếc gàu
đung đưa, liên tục va đập vào hai thành giếng. Tụt
khoảng 30 mét, chiếc gàu chạm đất. Tối như địa ngục
và nóng hầm hập, hơi ẩm bốc ngùn ngụt khiến tôi ngộp
thở. Nhìn lên trên miệng giếng, bóng đèn điện tròn vo
và bé tí như hạt đỗ. Có vẻ như tôi sắp rờ phải bờ
vai xương xẩu của thần chết. Mà có thể tôi sắp chết
thật, vì một tỉ lý do. Sụp hầm: chết, đá lở, một
viên rớt trúng đầu: chết, máy thổi khí (máy hút bụi
được chắp ống tizo) ngưng hoạt động: chết, leo lên
đứt dây hoặc tuột gàu: cũng chết. Đó là chưa kể một
cái chết khác, nếu người trên miệng giếng có âm
mưu... Sợ vãi cả linh hồn, tôi giương máy ảnh bấm lia
lịa, cái được cái mất để còn rút. Dưới ánh chớp
đèn flast, tôi nhìn thấy một đôi ủng, vài chiếc cuốc
chim và một chiếc găng tay nằm lăn lóc.
Vội
và vì... sợ, chưa kịp xỏ chân vào gàu, tôi đã giật
giật dây tời. Tưởng đúng ám hiệu, chiếc gàu cứ thế
được tời cao dần lên, để lại một mình tôi giữa
đất đen sâu hun hút với trống ngực nện như búa máy.
Rất may, chỉ 3 phút sau - mà tôi ngỡ là 3 thế kỷ - gàu
lại được thả xuống. Khi trồi lên khỏi mặt đất, bị
lóa mắt bởi ánh sáng mặt trời, tôi mới thở phào tin
chắc là mình còn sống. Cái màu chàm nhợt nhạt trên mặt
Mầu lúc đó mới loãng ra. Anh bảo:
-
Thấy lên gàu không, tôi tưởng anh rớt rồi. Anh mà tiêu
thì tôi bỏ mẹ!
Ông
Điền cười khà khà, chỉ ông Địa trước miệng hầm:
-
Chết sao được, lúc cậu xuống, tôi có thắp hương
cúng!
Trời
ạ, té ra nãy giờ sinh mạng tôi đã được những người
đào vàng gửi tạm vào tay thần thánh. Sau chuyến tham
quan địa ngục này, tôi nghĩ đã có thể xem ông Địa
như một người bạn có trách nhiệm. Tốt, dù hơi bị...
hồi hộp. Nỗi hồi hộp của tôi chỉ kéo dài 5, 10 phút.
Còn họ, những người thợ, đó là cuộc sống, là nỗi
thắc thỏm triền miên hun hút theo năm rộng tháng dài.
Ông
Điền - bà Gấm có 8 người con. Hoàng Xuân Lương là con
trai thứ ba, sinh năm 1972. “Nhâm Tý vi vương”, Lương
không chịu nổi cuộc sống eo hẹp ở quê, 2 sào ruộng
với 26 khoản đóng góp, khoản thu nhập nhỏ nhoi cho 8
miệng ăn không đủ để chắp cánh cho những mơ ước.
Vậy là Lương tìm đến bãi vàng. Hơn một năm trời bặt
tin con, lại chứng kiến không ít bạn bè cùng lứa với
Lương từ bãi vàng mò về với bộ dạng tiều tụy, có
đứa chết vì ốm đau tai nạn, có đứa bị đánh chém
thành thương, hai ông bà đâm hoảng, vội sai hai người
anh của Lương là Biên và Cương vào bãi gọi em về.
Những ước vọng đã biến thành cay cú ăn thua, Lương
dứt khoát không quay lui khi hai tay còn trắng. Chờ mãi đến
hết tiền vẫn không thuyết phục được em, Biên và
Cương đành ở lại luôn, trở thành thợ mỏ của vùng
vàng. Sốt ruột, bà Gấm lần đường tìm vào. Sau nhiều
ngày vất vả, bà tìm được con. Lương đã tàn tạ vì
thuốc phiện, hai chân khẳng khiu xỏ trong hai ống quần
người anh mới đem vào cho. Lúc này, nó đã muốn về,
nhưng đào mãi vẫn chưa thấy vàng, tiền đâu mà về. Bà
Gấm cũng nhẵn túi, đành phải nán chờ con... Một tháng
rồi hai tháng... Đầu tháng 5.1999, ông Điền chờ mãi
không thấy vợ con, lại tiếp tục lần vào.
Bây
giờ, cả gia đình năm người đã “mắc cạn” trên
đỉnh núi. Ngày ngày, khi ba đứa con trai đã mất hút
trong bụng hầm vàng, hai ông bà lại bó gối ngồi trước
miệng hầm, ngay ngáy lo những đứa con sẽ chẳng còn cơ
hội để trồi lên. Để tự trấn an, ông Điền lại
chắp tay vái trước bàn thờ ông Địa lập trước cửa
hầm. Bà Gấm cũng chỉ biết xách hương lên đỉnh đồi,
quì lạy rất lâu trước mộ phần vô danh của những đứa
trẻ cùng tuổi với con bà được bạn bè đào vàng chôn
lại ngay tại bãi. Khi giấc mơ đã khánh kiệt, những
cuộc đời khốn khổ ấy chỉ còn biết đặt hy vọng
vào thần thánh.
Không
lớn hơn Hoàng Xuân Lương là mấy, nhưng thâm niên đào
vàng của Nguyễn Văn Tân thì dày hơn nhiều. Tân sinh năm
1970, quê ở Ca Đình, Đoan Hùng, Phú Thọ đi đào vàng từ
năm 1988. Ban đầu, anh đãi vàng cám ở Bắc Kạn,
năm 1998 mới theo một ông bạn là Nguyễn Ngọc Thanh vào
bãi Phước Sơn. Thanh quê ở Thái Nguyên, sinh năm 1967, bắt
đầu đào vàng từ năm 1991. Đào mãi chẳng thấy vàng
đâu, chỉ tuổi trẻ trai là cứ chôn mãi vào lòng đất.
Thậm chí khi Thái Nguyên tách tỉnh, Thanh cũng chịu, không
hiểu nổi quê nó thuộc về Bắc Kạn hay Bắc Thái. Mùa
mưa năm 1998, thấy bảy, tám người bị núi đè chết
cùng lúc, Tân và Thanh mới thấm hết nỗi khổ phong trần.
Gom được 2 triệu, hai anh em quyết định quay về, không
bao giờ lên bãi nữa. Nhưng chưa xuống hết dốc núi, họ
lại gặp Nguyễn Văn Lượng và một đám trẻ con cùng
quê với Tân lặn lội mò vào. Thương đám con nít 16, 17
tuổi không biết sống chết là gì, Thanh và Tân đành thở
dài quay trở lại để chỉ bảo, đỡ đần cho đám trẻ
con. Hai triệu đồng kia lại phải chia ra để lo cơm nước,
dụng cụ cho đám trẻ, chẳng biết bao giờ mới kiếm đủ
để có thể quay về. Được ít hôm, trời lại mưa, lại
gió, người chết lại được mang đi, đám trẻ sợ hãi
khóc thét lên. Có đứa sợ quá, đêm không ngủ được,
lại bị sốt rét quật ngã gục, cứ la hét và chạy bắn
ra giữa mưa khuya. Sợ chúng lọt hầm, lạc rừng thì
chết, Tân, Thanh lại đốt đuốc đội mưa đi tìm suốt
đêm. Gặp được đứa em, hai thằng anh cũng chỉ biết
đội mưa ngó nhau và khóc.
Đêm
cuối cùng ở bãi vàng, tôi đã ở lại làm khách tại
lán của Tân, Thanh và những cậu bé gốc Phú Thọ, Thái
Nguyên. Suốt đêm đó và cả năm, sáu hôm trước, trời
vẫn mưa như trút. Cũng may, cám cảnh phận người, trời
cũng thương tình chỉ đổ xuống rú rừng những cơn mưa
ấm. Suốt đêm, tôi cứ nằm trằn trọc đếm mưa rơi,
không tài nào ngủ được. Thỉnh thoảng, cơn mơ màng của
tôi lại bị bắn tung lên trời vì một tiếng mìn. Bãi
thôn 2 quá lớn. Gần hai ngàn con người chen chúc nhau giữa
ầm ĩ tiếng máy phát điện, máy nghiền đá nổ như đại
liên suốt ngày đêm. Cả hốc núi hoang vu sáng rực ánh
điện và mù mịt khói xăng, dầu. Cứ khoảng 15 phút,
tiếng mìn phá đá lại dội ngược lên, hất những cơn
mơ chập chờn bắn lên trời. 2 giờ sáng, ngay dưới lưng
tôi, sau tiếng nổ ầm là những bước chân rậm rịch và
tiếng người í ới. Đang chờ thay ca, Tân vội xỏ dép
và lật đật trượt theo dốc núi bò xuống. Lát sau, anh
ta bò lên và bảo tôi bằng giọng khô khốc:
-
Tưởng gì, mìn nổ, bốn thằng bị ngạt, đưa đi viện
rồi. Ngủ đi, ở đây ngày nào không có thằng đi viện.
Nghe
lời Tân, tôi cố cuộn mình trong chăn thật kỹ nhưng vẫn
không thể nào ngủ được. Lúc đó, tôi mới thấy cảm
hết nỗi khốn khổ của những người giàu. Nằm trên
đống vàng, người ta sẽ chẳng bao giờ tìm được một
giấc an lành. Đêm chỉ là những cơn mê phập phù và bất
trắc. Dưới kia, ánh điện tham vọng vẫn sáng rực núi
rừng, nhưng ánh sáng vẫn không đủ để xua đi phần tăm
tối trong số phận của những kẻ liều.
Thợ
khổ, người làm công cũng khổ. Rồi thì cả chủ hầm,
chủ bãi cũng chưa chắc đã sung sướng gì hơn. Để trở
thành một ông chủ ở bãi thôn 4, xã Phước Kim, Nguyễn
Văn Xuân đã phải vay mượn và thế chấp toàn bộ nhà
cửa, tài sản, được gần 200 triệu đồng để khui một
hầm vàng. Ròng rã ba tháng vỉa đá mơ ước vẫn chưa
chịu lộ ra. Hết tiền, Xuân phải nhường bớt một
miệng hầm cho người khác. Một tuần sau, ngày 7.5.1999,
tai nạn đất rơi đã khiến một người thợ của hầm
mới này chết ngay tại chỗ, trong khi ông chủ hầm kia đã
ra Đà Nẵng cách đó mấy hôm. Là chủ đất, Xuân đành
phải vay mượn, gom góp được 10 triệu đồng để người
bị nạn được bạn bè anh ta đưa về quê an táng. Dù
chịu bỏ tiền ra, song cho đến lúc bị công an mời lên,
Xuân vẫn ngớ ra, không hề biết nạn nhân tên gì cả.
Bãi vàng là thế, cái đáng quan tâm là vàng, đâu phải
là số phận một con người (?!).
Rải
rác quanh các lối mòn vào bãi, tôi đã gặp cơ man những
phần mộ vô danh như thế. Số lượng mồ mả có tên và
không tên được đắp sơ sài cứ ngày một dày lên,
nhiều lên, lẫn vào các lùm cây búi cỏ, lẫn vào mưa
nắng và sự khốn khổ của một kiếp tìm vàng. Vượt
qua những chân dốc đầy mồ hoang tham vọng ấy, hàng
ngàn hàng vạn con người lại tiếp tục bạt núi, xuyên
rừng lần đến bãi vàng, không thèm đếm xỉa đến một
ngày chính họ cũng sẽ góp thêm cho núi hoang rừng trọc
một nấm mồ hoang không hương khói. Đào vàng là phạm
pháp, nhưng chưa có sự trừng phạt của luật pháp, những
phận người tôi gặp cũng đã đủ cơ cực, khốn khổ
lắm rồi. Chia tay, tôi cứ bị ám ảnh bởi tiếng anh thợ
Nguyễn Văn Tân nói gần như khóc:
-
Anh thông cảm, đừng chê bọn tôi lỗ mãng. Đã mò vào
đây, có đứa nào dám nghĩ mình là một con người nữa
đâu(!).
Theo
yêu cầu của công an huyện, chủ bãi Nguyễn Văn Xuân
dành tạm gác công việc đào đãi để về tường trình
vụ tai nạn tại hầm của anh. Theo chân Xuân và những
người công an, tôi cũng hạ sơn trở lại đồng bằng.
Đến trước ủy ban nhân dân xã Phước Thành, chúng tôi
ghé lại quán nước của Diễm, cô gái 25 tuổi có đôi
mắt buồn và đẹp - người mà tôi đã có dịp làm quen
trước đó gần chục hôm. Tôi hỏi em, vì lẽ gì mà lại
bỏ đồng bằng tìm đến tận đây, miền sơn cước
hoang dã, có tìm đỏ mắt cũng không kiếm được một
tâm hồn biết trân trọng một đôi mắt đẹp. Em đáp
gọn lỏn:
-
Mưu sinh!
Chao
ôi, đồng tiền ma lực quá. Xin cam đoan, ở Phước Sơn,
chính tiền và vàng mới là sức mạnh vô địch để con
người bạt núi xẻ rừng chứ hoàn toàn không phải tình
yêu. Nhưng khi biết chúng tôi sắp rời bãi vàng, vẻ bất
cần của Diễm hầu như biến mất. Rất yếu đuối, em
hỏi tôi một câu tối nghĩa:
-
Tại sao các anh lại về?
Không
đợi tôi trả lời, mà thực ra hỏi chỉ để mà hỏi
chứ em đâu cần tôi phải trả lời, giọng Diễm chùng
đi trong một câu trách móc:
-
Ai cũng rứa, lên rồi lại về, có ai chịu ở lại với
ai đâu?
Nhoi
nhói trong lòng, tôi đi cúi mặt. Được một quãng xa,
ngoái lại tôi vẫn thấy Diễm tần ngần ôm cột quán
trông theo. Mắt em hun hút, tiếc rằng đôi mắt ấy không
dành cho tôi, không dành cho Xuân, không dành cho bất cứ
ai trong đoàn người đang sắp rời khỏi vùng vàng. Ráo
hoảnh và xa vắng, tôi biết đôi mắt ấy đang đau đáu
dõi theo lầm lũi một kiếp người.
Tự
nhiên tôi lại nghĩ đến con số gần một vạn người
hiện đang đứng nghiêng ngả giữa lằn ranh mong manh của
sự sống và cái chết, của lương thiện và tội lỗi,
của sự tàn phá và nghiện ngập. Con số một vạn ấy,
tôi nghĩ đã quá đủ để lương tâm buốt nhức, đủ để
nghĩ đến việc thay đổi hoặc đề ra một chính sách
phù hợp với thực tế vùng vàng.
Trên
đường trở lại đồng bằng, tôi bắt gặp một nhóm
năm, sáu người ngoại quốc, cả đàn ông lẫn đàn bà
đang đi ngược về phía núi. Hỏi ra mới biết, họ là
những người Mỹ thuộc tổ chức POW/MIA đang ngược
đường lên Trường Sơn tìm kiếm hài cốt những binh sĩ
Mỹ chết và mất tích trong chiến tranh. Họ đi mà không
nói năng gì, chỉ lầm lũi bước, trên lưng là ba lô hàng
to như... quả núi, nặng trĩu. Hiển nhiên thôi, mang cả
một quá khứ trên lưng thì nặng phải biết. Rồi 10 năm,
20 năm và lâu hơn thế nữa, sẽ có bao nhiêu người mẹ,
người vợ, người con trên đất Việt Nam thân yêu của
tôi sẽ phải quay lại chốn này để tìm người thân của
họ, cũng đã bỏ mình nhưng là vì một cuộc chiến khác,
cuộc chiến vì vàng, cuộc chiến chống lại chính bản
thân mình! Tôi không biết, không trả lời được, chỉ
nghe trong lồng ngực trái tim nặng trĩu đập nhoi nhói.
Người
ta bảo:
Trường
Sơn Đông nắng Tây mưa.
Ai
chưa đến đó như chưa hiểu mình
Lần
theo một câu thơ, một khúc hát, tôi đã đến được đầu
nguồn Đăk Mỹ, đã đặt chân đến bãi vàng, đã đến
được với Trường Sơn; mà sao suốt dọc đường về,
lòng vẫn tấu vô hồi những khúc ca không quen biết. Đầy
hoang mang tôi cứ tự hỏi: không biết mình có hiểu nổi
mình không?
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét