Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Sóng chìm - Đình Kính

Cuốn sách này lấy sự kiện tàu không số đã từng chuyển vũ khí vào Vũng Rô bằng đường biển trong những năm kháng chiến chống Mỹ làm bối cảnh, nhưng toàn bộ câu chuyện đã được tiểu thuyết hóa. Bởi vậy, nếu có sự trùng khớp nào với tên đất, tên người đều là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Rất mong được bạn đọc thông cảm.
NXB CAND

Chương một

I

Sóng từ biển như một gã lười nhác ềnh ra mặc gió xô vào bờ, lừ đừ lăn qua lăn lại một cách nhẫn nhịn nơi mép nước.
Đêm đặc sánh. Không gian nhức nhối, ngột ngạt như sắp có giông. Phía biển, mây đen phủ kín bầu trời, thỉnh thoảng một ánh chớp loằng ngoằng rạch dọc xé ngang vẽ lên không trung những hình thù kỳ quái…. Sông Thạch Bàn hệt dải lụa đen thẫm, dẻo quẹo ôm lấy làng Cát. Cái làng giống con ve sầu lột xác sau hè, một chiều tựa vào biển, chiều còn lại ngả ngốn ngửa ra áp vào dòng sông và phần đầu húc vào thị trấn Lân Cồ; đêm về nặng nề, thấp thỏm y như người đàn bà goá sắp đến ngày trở dạ, ngủ không đẫy giấc. Tiếng sóng rời rạc mài lên bãi vọng vào và ánh sáng mỏng mảnh từ thị trấn hắt về tạo cảm giác buồn thảm. Có cái gì đó bí bức giống quả bóng cao su bơm căng, chực bục…
Căn nhà lợp lá dừa cuối xóm lù mù đèn dầu. Chưa đầy chục khuôn mặt chụm lại trên chiếc chiếu mộc trải xuống nền đất, hướng về phía ngọn đèn. Sáu Sinh ngồi kề đó, ánh sáng vàng nhợt hắt lên khuôn mặt, trông ông bợt bạt, mắt trũng sâu, cằm dài ra. Không khí nén lắng. Mọi người háo hức chờ đợi. Linh cảm mách bảo rằng, Sáu Sinh sắp nói điều gì đó hình như có liên quan đến sự mất còn của cái làng ven biển này. Ông vốn cẩn trọng. Đâu phải ngẫu nhiên mà cùng lúc triệu tập cán bộ, du kích làng Cát cụm vào một nơi. Vùng này chỉ còn bấy nhiêu người, đếm không hết mười đầu ngón tay, là lực lượng sót lại sau nhiều lần địch cào đi, cuốc tới; mất số này, coi như trắng cán bộ, trắng du kích.

Sáu Sinh cũng căng thẳng, ý thức được điều mình sắp trình bày khiến ông thấp thỏm, hồi hộp. Một lát ông nói, giọng xúc động:
-   Thưa các đồng chí! Hôm nay tôi thay mặt lãnh đạo tỉnh về đây để thông báo với các đồng chí điều hệ trọng rằng, chúng ta sắp có vũ khí. Rất nhiều vũ khí…-Không gian lặng phắc. Mọi người nín thở. Gần chục đôi mắt hướng về phía ngọn đèn. Có người cố dịch lại gần ông nghển lên để nghe cho rõ. Vũ khí là nỗi bức xúc, là niềm khát khao bấy nay của nhiều người, nên hai tiếng đó như thể ma lực đối với họ…- Cuộc họp này, tôi chỉ phổ biến sơ bộ… Như các đồng chí đã rõ, vũ khí đang trở thành vấn đề sống còn của cách mạng miền Nam. Vũ khí đang là đòi hỏi bức thiết không phải chỉ tỉnh ta mà toàn Liên khu… Trung ương đã cố gắng chi viện nhưng con đường bộ mới vươn tới các tỉnh phía bắc Khu Năm, mà cũng rất khó khăn. Rồi đây Trung ương sẽ tìm cách đưa vũ khí vào. Nhưng để thực hiện được việc ấy phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, phụ thuộc vào chính chúng ta, trong đó có làng Cát… Làng Cát, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tiếp nhận súng đạn.
-   Đề nghị đồng chí Bí thư nói rõ hơn được không? – Xã đội trưởng Mười Bàng dường như nóng lòng, kìm không nổi, bật ra…
-   Vậy người làng Cát phải làm gì, thưa anh Sáu? – Bí thu Ba Tánh đệm theo.
-   Tiếp nhận vũ khí là việc lớn, việc hệ trọng và cũng hết sức bí mật. – Sáu Sinh nói tiếp - Bởi vậy, phải làm từng bước rất cẩn thận, tiến hành đến đâu tỉnh sẽ phố biến đến đó… Chúng ta khẩn trương nhưng không được nóng vội… Tôi nhắc lại, đây là việc ảnh hưởng đến toàn bộ chiến trường của tỉnh, của liên khu… Hôm nay, tôi chỉ có thể nói với các đồng chí bấy nhiêu thôi. Chúng ta hãy chuẩn bị tinh thần thật tốt, trước mắt xin phổ biến mấy bước cần chuẩn bị gấp như sau…

Chợt tấm liếp chắn ở cửa bật mở. Không ai hô, hết thảy những người có mặt đều quay lại. Một bóng con gái hốt hoảng lách vào.
- Chú Sáu! Tám Phụng đã chiêu hồi, đang dẫn lính tới... - Cô gái nói một cách khó khăn. Hình như sau thông báo đó, cô mới thật nhận ra nỗi nghiêm trọng của sự việc. Cô thở gấp gáp.
- Bình tĩnh, rồi nói lại coi, Sáu?
- Chú ơi, Tám Phụng đang dẫn lính vào làng Cát.
- Tám Phụng phản bội?
- Lẹ lên chú ơi, bảo an và dân vệ đã vô tới bãi...
- Có việc đó thiệt sao?... - Tiếng Sáu Sinh bật ra tựa một hơi thở dài.
- Lính đông lắm, lão Trần Nhũng chỉ huy...
Sáu Sinh đứng như chôn chân giữa nhà. Mọi người nhìn ông, chờ đợi.
- Lại có việc đó sao!... Chừ tính vầy... - Sáu Sinh nói - Tạm thời giải tán cuộc họp. Chia ra, rút thiệt êm... Ai quen biết Tám Phụng thì lánh một thời gian hoặc rút lên cứ nghe...
Ngọn  đèn  vụt  tắt.  Nhiều  bóng  người  lách  ra  khỏi  nhà,  lẫn  vào đêm. Trời tối đen. Không một sợi gió. Giữa làng, tiếng chó sủa rộ lên. Làng Cát tỉnh giấc. Quả bóng cao su như thể chạm vào gai nhọn, vỡ ra. Lính túa vào mọi lối.
Xã trưởng Trần Nhũng hí hới dẫn một trung đội bảo an và dân vệ hối hả đổ về ngôi nhà lợp lá dừa cuối xóm. Lão thấy chộn rộn. Tóm được Bí thư Tỉnh ủy Trần Sinh là bọn theo đóm Cộng sản vỡ hết. Sẽ chẳng còn kẻ nào dám giơ tay múa chân ngo ngoe. Làng Cát sẽ yên. Lão có thể vểnh cằm, chỉ tay năm ngón, kê cao đầu lên cặp đùi trắng mập như nõn chuối của mụ vợ ba mà ngủ... Lão kêu người đàn bà vợ lão bây giờ là mụ ba, bởi sau khi Ba Hương, má của Trần Hoàng qua đời, lão cưới thêm người đàn bà khác, sống với nhau được mấy năm, nghe nói người này không chịu thấu sức lực Trần Nhũng bèn trốn tiệt theo bà con vào Sài Gòn sinh sống, khi đã chạm tuổi năm mươi, lão lại tậu thêm bà ba này...
Song xã trưởng bị hẫng. Khi lão và đám lính lố nhố lần tới, ngôi nhà trống trơn. Trần Nhũng sững lại. Lão biết mình vồ trượt. Con mồi lão săn lâu nay lủi mất tăm. Trần Nhũng trơ ra một lúc.
- Thưa, cho xăm hầm? - Có tiếng hỏi.
Trần Nhũng phẩy tay. Lão rõ mình phải làm gì trong tình huống này.
- Chúng ngu chi chui hầm nơi đây. Chia ra, vây kín mọi ngả ra, vô làng. - Lão lệnh - Bọn này chưa thể lủi xa... Ai bắt được Bí thư cộng sản Sáu Sinh sẽ có thưởng. Thưởng lớn.
Lính tản ra. Mọi ngả đường đều được ém chặt. Xã trưởng vẫn gọi cách vây ráp này bằng cái tên nôm na: sục ao bắt cá. Nghĩa là giăng lưới vòng ngoài, sục quậy vòng trong, khi cá sặc bùn, đành liều nhảy ra, lập tức mắc vào lưới. Có lúc cao hứng, lão gọi là chiến thuật nhện giăng tơ bắt mồi. Nhiều con mồi, Trần Nhũng khoái kêu là mồi bự, đã rơi vào tay lão nhờ cách đó. Bởi vậy thỉnh thoảng xã trưởng làng Cát lại được xe nhà binh về tận nhà rước đi “truyền thụ kinh nghiệm” cho nhiều nơi...
Có tiếng súng nổ. Trần Nhũng chạy về hướng đó, hét lớn:
- Biểu bắt sống, sao nổ súng?
- Có hai người đi vô bãi dương...
- Sục cho ngạt, khắc nó vọt ra... Không bắn!
... Trần Sinh và Sáu Quyên loay hoay trong bãi dương. Phía nào cũng mắc lính. Lưới của Trần Nhũng giăng ra mỗi lúc một thít vào.
Sáu Quyên kéo tay Sáu Sinh:
- Chú vô xóm nhờ thím Tư đưa qua sông, về cứ nghe.
- Không được... Cháu cũng phải...
- Cháu có cách. Lẹ lên kẻo kẹt!
Cô gái vọt về hướng biển. Lập tức lính của Trần Nhũng hô nhau rượt theo.
Trần  Sinh  bươn  qua  bãi  dương  nhào  vào  xóm.  Ông  lần  vườn chuối bước đến ngôi nhà thím Tư Đởn.
- Chị  Tư!  Chị  Tư!  -  Sáu Sinh  ngoái  nhìn hướng mình vừa  qua, gọi gấp...
Nhận ra tiếng người quen, thím Tư vùng dậy. Linh tính báo cho thím  điều  chẳng  lành  rồi!  Hồi  hôm  tới  giờ  chó  sủa  inh  làng,  biết  là lính đang quây, ôm chặt cu Nhặt vào lòng, vỗ vỗ cho thằng nhỏ khỏi thức giấc, thím thấp thỏm dỏng tai nghe chừng. Mọi lần Sáu Sinh đâu có gọi giật vậy. Thím đặt nhẹ đứa con trai mới chừng tám tháng tuổi xuống chiếu, vấn vội mớ tóc, hấp hả bước ra:
- Chú Sáu hả? - Thím quờ tay mở chốt cửa, giọng run run.
Sáu  Sinh không lách vào  như  mọi lần, đôi  mắt  dáo dác  nhìn ra phía đường cái.
-  Nguy  rồi  chị  Tư.  Tụi  bảo  an  có  dân  vệ  dẫn  đường  đang  rượt theo.
- Chú vô lẹ lên... Để tôi mở nắp hầm.
- Không! Tôi phải đi.
- Đi ngay?
- Có đứa làm phản. Chúng quây cuộc họp. Có lẽ một số anh em đã hi sinh...
- Lạy phật!
- Chị đưa tôi qua sông nghe!
- Vào giờ này? - Thím Tư nhìn nhanh về phía chiếc giường, nơi có thằng con trai chưa đầy tuổi đang ngủ say - Nước cả lắm!
- Thằng Tám Phụng chắc  đã khai ra nhiều chuyện... Xuồng của chị vẫn để ở bãi Chò chớ...
- Chú vừa bảo Tám Phụng làm sao?
- Nó phản rồi!
Tư Đởn bàng hoàng. Nhưng thím không có thời gian nghĩ nhiều. Phía đầu xóm có tiếng súng nổ, tiếng chó sủa gắt và tiếng quát tháo vọng lại. Thím quay vào lần chiếc chăn đơn, đắp ngang bụng cu Nhặt, rồi đẩy con vào sát vách. Cẩn thận hơn, thím cuộn thêm chiếc chiếu, chắn phía mép giường, rồi quay ra:
- Đi, chú!
Hai người như hai cái bóng lách ra khỏi làng. Tới gần mép sông, chợt nghe phía sau tiếng nhiều bước chân chạy huỳnh hụych, rồi ánh đèn pin hất tới hất lui, kế đó là tiếng lão xã trưởng:
- Vừa thấy hai bóng người đi ngả này!
Mũi Trần Nhũng rất thính, lão đã đánh hơi ra... Thím Tư dừng lại, sợ hãi ngó nghiêng.
- Xuồng để gần đây không, chị Tư? - Sáu Sinh hỏi. - Ta đi thôi. Chị cứ bình tĩnh. - Sáu Sinh cúi xuống, nhặt một hòn đất ném vào bụi rậm cách đó không xa, rồi kéo thím Tư chạy về hướng thím vừa chỉ.
- Bọn nó ra bờ  sông!  - Tiếng xã trưởng đuổi  phía sau. Hòn đất của Sáu Sinh không đánh lừa được cái mũi, đôi tai tinh khôn của lão. Tiếng súng chí chát. Bờ sông thoáng chốc náo loạn.
- Không được  bắn. Để  bắt sống! - Trần Nhũng tỏ ra đắc thắng, lão ra lệnh. Nhưng một lần nữa lão lại chậm. Khi tốp lính nhào tới mí nước,  chiếc  xuồng  của  Tư  Đởn  và  Sáu  Sinh  đã  trườn  ra  được  một quãng xa. Xã trưởng nhìn theo, giậm chân:
- Đuổi theo, mau!
Bọn lính tìm được chiếc xuồng cạnh đó, nhảy xuống. Nhưng vì không  biết  chèo  nên  chiếc  xuồng  cứ  chòng  chành  quay  tròn.  Xã trưởng rối ruột đi lại trên bờ. Lão cay cú nhìn theo, hậm hực hô:
- Bắn!... Bắn bỏ...
Đạn rắc xuống sông như mưa. Những đường đạn rạch dọc, rạch ngang, đan vào bóng đêm. Nhưng chiếc xuồng đã mất hút trong bóng tối, trên dòng sông.
- Nhà Tư Đởn thiệt to gan - Giọng xã trưởng rin rít. Rồi lão hô: Xăm nền! Đốt nhà!...
Có lẽ lúc đó thím Tư không nghe rõ tiếng hét bất lực mà tai vạ đó. Chiếc xuồng vẫn gấp gáp bươn sang sông. Bầu trời đen kịt. Chớp vẫn loằng ngoằng xé mây ra từng mảng. Những tia sáng bất chợt soi rõ bóng thím, nhỏ nhoi đang rạp xuống mái chèo...
Nhưng khi chiếc xuồng đã sang sông, nằm yên bên một mô đất, thím Tư quay lại nhìn thì, trời ơi, thím thất sắc, hoảng loạn đến không hay biết gì nữa. Rất bản năng, thím nhào xuống nước, tưởng như thế là có thể sang ngay được bên kia bờ. Sáu Sinh vội vã nhào theo.
- Chị Tư!
Phía bên ấy, sau vệt đen thẫm của những hàng cây, một cột lửa bốc cao, liếm vào màn đêm, cháy rần rật.
- Thằng Nhặt... Con tôi! - Thím Tư gào không ra hơi và cố vùng ra khỏi đôi tay Sáu Sinh...

Làng Cát náo loạn. Sáng sớm, lính từ thị trấn ngồi trên những cái xe tải túa về vây kín các ngả. Lệnh ban ra: Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Không  một  ai  được  ra  khỏi  làng.  Người  lớn,  trẻ  con  chỉ  biết  tựa  cửa ngóng ra. Thấp thỏm. Sợ hãi. Chẳng rõ rồi điều gì sẽ xảy đến. Trâu bò chồn chân, lạch cạch cọ sừng vào chuồng, lộp cộp gõ móng xuống sàn đất.
Phía  bờ sông, lính dàn hàng ngang tiến vào. Chiếc  xe Jeep chở đại úy Ba Hoàng, con trai xã trưởng Trần Nhũng vọt lên. Đến rìa làng, chiếc  xe  dừng  lại.  Trần  Nhũng  và  Nguyễn  Xấn,  chỉ  huy  dân  vệ,  từ ngôi nhà kề đó vọt ra. Ba Hoàng bật khỏi thùng xe, trung sĩ Độ, vệ sĩ của  gã  nhảy  ra  theo.  Nguyễn  Xấn  sán  tới,  hình  như  định  nói  gì  đó, nhưng gã đại úy xua tay:
- Khỏi thanh minh. Tôi rõ cả rồi.
- Thưa đại úy!
- Thưa gửi chi nữa... Để xổng mất Sáu Sinh là tội rất lớn. Đã có chỉ điểm, đã tăng cường lực lượng mà... Mấy ông làm ăn như cứt...
- Ba đã hết sức... - Trần Nhũng cố vớt vát.
Ba Hoàng im lặng. Gã nhìn khắp lượt làng Cát, rồi không quay lại, nói:
- Bằng mọi giá, phải bắt cho được Trần Sinh và đồng đảng. Cần cày nát cái làng này lên cũng làm. Mệnh lệnh được thực thi.
Chưa bao giờ làng Cát bị trận càn nào lớn đến vậy. Các ngõ lối đen đặc lính. Chúng chia làm nhiều tốp, kéo vào từng nhà lục lạo. Nền nhà,  chuồng  trại,  vườn  tược  bị  xới  lên.  Xuyến  đồng  xăm  không  sót chỗ nào. Làng Cát tróc lở như người vảy nến đang kì phát bệnh.
Ba Hoàng có trung sĩ Độ và đám lính hộ tống, theo sau là Tám Phụng đi vào nhà ông Năm Bào. Năm Bào ở xóm dưới, nhà Ba Hoàng ở  xóm  trên.  Hồi  nhỏ,  viên  đại  úy  từng  nghe  ba  hắn  kể  rằng  những người như Năm Bào đã vặt trụi râu ông nội, đấu tố cho đến chết, và sau đó thì chia nhau ruộng đất, của nả trong nhà. Họ không từ một thứ gì, kể cả chiếc bát mèo ăn. Những kẻ như Năm Bào dẫu là người làng, dẫu là có hơi hướng họ hàng, với gia đình hắn đời đời kiếp kiếp không thể đội trời chung.
Đứng dạng chân giữa sân, Ba Hoàng gọi, giọng kẻ cả:
- Ông Năm!
Từ  trong  nhà,  Năm  Bào  thấy  Ba  Hoàng  đang  hướng  về  phía nhà mình, biết có chuyện nhưng ông làm bộ không hay, vờ lúi húi cho heo ăn, chỉ thỉnh thoảng mới lé nhìn, khi nghe tiếng gọi, ông luýnh quýnh chạy ra, ngơ ngác.
Ba Hoàng chỉ Tám Phụng:
- Ông biết người này chớ?
Năm Bào giật mình, miệng cứng lại. Ông khẽ lắc đầu. Ba Hoàng cười khẩy:
- Không nhớ thiệt sao? Đồng chí Tám Phụng, Huyện ủy viên, đã từng cùng Bí thư Tỉnh ủy Sáu Sinh ẩn nấp trong hầm bí mật ở ngôi nhà này mà...
Tám Phụng! Sao Năm Bào lại không hay! Lúc cao điểm tố cộng, ông đã từng nuôi người này. Hồi đó Tám Phụng là cán bộ cỡ nào, ông đâu rành. Máy chém lê khắp nơi, không nên biết nhiều, biết nhiều càng dễ chết. Ban ngày Sáu Sinh và Tám Phụng náu dưới chiếc hầm bí mật vợ chồng ông đào xiên chéo xuống chuồng heo. Đêm đến, sau khi xem chừng động tĩnh, Năm Bào mở nắp để hai người rờ rẫm chòi lên. “Yên chớ  chú  Năm?”  “Hôm  rày  đi  lối  Bà  Quẹo  nghe.  Trước  quán  mụ  Tư Chung có lính bảo an phục đó.” Họ chỉ kịp trao đổi có vậy. Sáu Sinh và Tám Phụng đi rồi, vợ chồng Năm Bào nằm trên chõng tre, giương mắt nhìn bóng tối nơi trần nhà, lòng dạ không yên, thấp thỏm như đi trong bãi mìn... Gần sáng, có tín hiệu đập bên vách, biết Sáu Sinh và Tám Phụng an toàn trở về mới nhè nhẹ thở hắt ra... Sau nay, khi bà Hai Hậu, vợ của Năm Bào bị bệnh qua đời, ông vẫn một thân một mình nuôi giấu họ. Dịp đó là thời kỳ địch mở chiến dịch tố cộng. Làng xã ngộp ngạt, nơm  nớp.  Ra  đường  chẳng  dám  nhìn  thẳng  vào  mặt  nhau.  Không  ai dám  tin  ai.  Chưa  tối  mọi  nhà  đã  cài  chặt  cửa,  tắt  đèn  dỏng  tai  nghe ngóng. Phấp phỏng. Lo âu. Ai rõ được ngày mai nhà nào có người lên máy  chém.  Chỉ  một  chỉ  điểm  vu  vơ,  hàng  chục  người  bị  giết.  Mạng người  không  bằng  con  cóc,  con  ngóe.  Các  quan  chức  chính  quyền chẳng tuyên bố: giết nhầm còn hơn bỏ sót đó sao!... Vào một đêm tối trời, sấm chớp đì đùng, Năm Bào đang nằm vểnh tai nghe chừng thì có tiếng gọi: “Chú Năm!”. Nhận ra tiếng Tám Phụng, Năm Bào trở dậy, lần ra cửa. Tấm liếp vừa mở, Tám Phụng run rẩy lách vào. “Sáu Giáo đâu?” - Ông Năm chèn tấm liếp, quay lại hỏi. “Ra cứ rồi!” “Tưởng chú cùng đi?” “Được phân công ở lại nắm tình hình...” - Tám Phụng chán chường đáp.

Đêm hôm sau, rồi đêm hôm sau nữa vẫn không thấy Tám Phụng trở lại. Có người bảo Tám Phụng đã tự động lần lên cứ. Hôm nay con người Ba Hoàng kêu là Huyện ủy viên đó đang lù lù đứng trước mặt ông. So với trước, Tám Phụng gầy hơn, da mặt nhăn nheo, còn thần sắc thì giống cái xác chết đuối dưới sông vừa được vớt lên.
-  Trí  não  ông  Năm  dịp  này  không  được  minh  mẫn  nghe  -  Ba Hoàng  nói  -  Tui  gợi  cho  mà  nhớ  lại.  Hồi  chín  năm  chính  đồng  chí Tám Phụng tự tay chia cho ông cái nồi đồng rộng miệng, phải đến hai người khiêng của nội tôi. Nhớ chưa? Tôi còn bé xíu vẫn không quên lúc đó ông cười đến chảy nước mắt... Đúng không Tám Phụng?
Tám  Phụng  không  nói,  cúi  mặt  tránh  cái  nhìn  của  Ba  Hoàng, tránh  cái  nhìn  của  ông  Năm.  Tám  Phụng  vốn  có  cái  cụp  mắt  lảng tránh như  thế. Thời  còn chui lủi trong ngôi nhà  này, Tám  Phụng cứ thèm  một  bữa  được  ăn  thiệt  no.  Đêm  nào  về  cũng  ghé  sát  tai  ông Năm, thỉ thảo: “Nhà còn gì không chú, đói quá!”. Biết tính, ông Năm thường để phần bát canh rau tập tàng. Canh nấu với muối trắng mà cứ xuýt xoa khen ngon. Cái hôm ông Năm kiếm được nửa lon gạo, nấu cháo, đêm về Tám Phụng đánh liền hai tô, ăn luôn cả phần Sáu Sinh... Lúc đó Tám Phụng cũng cụp mắt xuống tránh cái nhìn của ông như hôm nay...
- Ông rõ tội chứa chấp Cộng sản là tù mọt gông chớ? - Ba Hoàng vẫn dạng chân như chiếc com pa chôn giữa sân, và nói - Nể tình người làng, lại có chút họ hàng xa, bắn đại bác không tới, tôi sẽ tha. Nhưng phải biết điều. Chỉ cần ông hất hàm chỉ chỗ Sáu Giáo ẩn nấp, tôi để ông tự do. Hứa danh dự. Một cái hất hàm là êm mọi sự.
Quả giữa Năm Bào và Ba Hoàng nghĩa nào đó có họ hàng xa. Bà Hai Huệ, vợ ông và Ba Hương, người vợ trước của Trần Nhũng, má của Ba Hoàng là chị em con dà con dì. Thời Ba Hương sinh ra thằng ác ôn này, một mình vợ ông túc trực bên cạnh chăm bẵm, săn sóc. Chị em con dà con dì nhưng quý nhau như cùng một người sinh ra. Khi trở dạ, Ba Hương nhất định đòi kêu cho được chị Hai Huệ tới. Chính bà Hai Huệ vợ ông là người đã cắt rốn cho thằng trời đánh này. Khi mới lọt lòng, Ba Hoàng không có nét gì của Trần Nhũng, nó giống má như tạc. Dáng cao, da trắng, mỏng và mịn. Hai Huệ nhìn đứa cháu mà bây giờ nó nói với Năm Bào là bắn đại bác không tới, cười rất tươi khen rằng thằng nhỏ có nước da và đôi mắt to thiệt đẹp, lớn lên nhất định thông minh, học hành sáng láng. Và cũng chính vợ ông nói rằng dù thằng này là  con  cả, nhưng  để  dễ  nuôi, nên hạ  nó  xuống một  cấp. Trần  Nhũng thấy phải, mới cho gọi con là Ba. Nó có cái tên Ba Hoàng bởi thế. Rồi khi nó mới hai tuổi, má nó, dì Ba Hương chẳng may qua đời, lại vợ ông vuốt mắt, lo lau rửa và nghe những lời trăng trối nhắn gửi cuối cùng của người em họ xấu số. Vậy mà khi bà Hai Huệ lâm bệnh trọng, ba con Trần  Nhũng,  Trần  Hoàng  không  một  lần  hỏi  han,  khi  bà  mất  cũng chẳng nén nhang tới viếng, còn đánh tiếng rủa rằng sống thân Cộng sản, ăn lộc Cộng sản chết cũng là ma của Cộng sản, ai thương... Cái thằng, trông mẽ ngoài dễ coi, mặt mũi sáng sủa giống như người có chữ, phom dáng cũng thư sinh mà sao tâm địa đen thui vậy?
Thấy Năm Bào im lặng, Ba Hoàng lại hạch:
- Sao ông Năm, còn nghĩ ngợi chi, chỉ lẹ lên.
- Tui không thể chỉ vu vơ...
- Ai biểu chỉ vu vơ... Chỉ chỗ Sáu Sinh ẩn nấp chớ... Lòng kiên nhẫn của tôi có giới hạn nghe... Tám Phụng, ông nói gì với ông già đi chớ.
- Tôi đâu biết Tám Phụng là ai...
- Tám Phụng là đồng chí của Sáu Sinh.
- Tám Phụng là đồng chí của Sáu Sinh thì ông đại uý phải hỏi hắn chớ.
- Tôi muốn chính ông trả lời, ông bác họ ạ. Hầm bí mật ở đâu?
- Nhà tôi chỉ có hầm tránh pháo.
- Ông không biết? Vậy để đồng chí Tám Phụng giúp.
Ba  Hoàng  quay  qua  Tám  Phụng,  hất  hàm.  Tám  Phụng  như  thể chạm  vào lửa, giật mình. Y chật chưỡng bước vào nhà, lảo đảo như thể  đang  đi  trên  boong  tàu  chòng  chành  giữa  đại  dương.  Hoàng  gạt ông  Năm,  bước  theo.  Tám  Phụng  lấm  lét  ngó  quanh,  rồi  hệt  người câm, lão run run chỉ vào chuồng heo.
- Khui! - Hoàng ra lệnh.
Trung  sĩ  Độ  hất  hàm,  tên  lính  lập  tức  vớ  cái  cuốc  cạnh  đó,  bổ xuống. Có tiếng bùng bục. Lưỡi cuốc nảy trên mặt gỗ. Tên lính ngước nhìn. Hoàng hơi lùi ra xa, hô:
- Bậy nắp!
Tấm ván bết phân heo được cậy lên. Một khoảng trống lộ ra, tối om. Như chiếc lò xo, tên lính bật khỏi miệng hầm. Ba Hoàng quay về phía Năm Bào:
- Đây là hầm tránh pháo?
Năm Bào không đáp, đánh mắt nhìn qua Tám Phụng. Tám Phụng xoay người, vờ như không biết ánh mắt đang xoáy vào mình... Hoàng quay hỏi Năm Bào:
- Sáu Sinh trong đó chớ?
- Nếu mấy ông nghĩ Sáu Sinh dưới ấy thì biểu Tám Phụng xuống gọi lên.
Ông Năm đã bình tĩnh trở lại. Ông rõ là Tám Phụng chỉ điểm hú họa. Đã lâu Sáu Sinh không tới nhà ông. Mỗi lần về làng, Sáu Sinh náu ở đâu ông cũng chẳng hay. Năm Bào thấy mừng. Nếu Sáu Sinh qua đây, hôm nay sập bẫy là cái chắc. Tám Phụng chung quy vẫn là một thằng ngu!
- Phá hầm!
Sau  mệnh lệnh  đó,  nhiều  nhát  cuốc  bổ  xuống.  Chiếc  hầm  được đào công phu xiên chéo qua  chuồng heo, trống trơn, phả  ra  mùi ẩm mốc.
Ba Hoàng thất vọng. Viên đại úy lẳng lặng bước ra sân:
- Giải đi!
- Giải đi! - Trung sĩ Độ nhắc lại như một cái máy.
Hai cánh tay bị giật mạnh về phía sau, một sợi dây ni lon thít chặt quanh người, ông Năm Bào bị lính xô tới, ẩy đi.


Sóng biển uể oải liếm lên bãi, mệt mỏi và chán chường. Về trưa, càng  nặng  nhọc,  nghe  rời  rạc  đơn  điệu  như  hơi  thở  của  người  lâm bệnh trọng. Gió lặng. Nước đứng nên không khí ngột ngạt, bí bức.
Trên khu đất trống cạnh đó, hơn hai chục người dân làng Cát bị dồn  tới,  vón  vào  nhau.  Người  đứng,  kẻ  ngồi  lổn  nhổn.  Tám  Phụng khẳng định rằng trong số này, không nhiều thì ít, đều có liên quan tới Sáu Sinh và du kích.
Xã trưởng Trần Nhũng mặt lạnh tanh, bước  qua, bước lại trước đám đông do lính của lão và con lão giải tới. Khác với dáng vóc cao ráo  đẹp  mã  của  thằng  con,  người  lão  ngắn  ngủn,  thấp  tè.  Chiếc  mũ rộng vành mới tậu hồi vào Nha Trang cùng mụ vợ ba “thay đổi không khí”  chụp  trên  đầu.  Hai  tay  chắp  đít,  lưng  hơi  gù  xuống,  trông  lão giống như con sên di chuyển trên thân gỗ ẩm.
Thói quen bước tới, bước lui nhằm khẳng định uy lực, có từ thời lão được cất nhắc lên làm xã trưởng. Hồi ấy lão như kẻ phát cuồng. Và lão cũng thị uy quyền lực của mình trước dân làng Cát bằng điệu bộ như hôm nay. Khác chăng là khuôn mặt thời đó không lạnh tanh và bực bõ mà phồng nở hết cỡ như hạt bắp rang muối với tất cả sự đắc thắng  của  kẻ  vừa  lật  ngược  thế  cờ,  đã  mãn  nguyện trong  ý thức  trả thù. Lão  không  những  thỏa  ước  giật  lại  toàn  bộ  đất  đai  ruộng  vườn của gia đình lão bị cướp đi trong thời “chín năm” dưới chính thể Cộng sản, mà điều khiến lão khoái trá, thỏa lòng là những kẻ đã chen xô vào nhà lão giật đi từng chiếc bát sứt, chiếc cối đá thủng, đã từng chỉ mặt gọi tên bố lão là thằng này, thằng nọ, vặt râu đấu tố, nay trở nên xun xoe, nịnh nọt một điều ông xã trưởng, hai điều ông hội đồng... và lại cầu cạnh để được làm thuê, để được cuốc mướn. Ra đường gặp lão thì khúm núm, sợ hãi, len lén chẳng dám ngẩng cao mặt... Lão khoái điều ấy và rất ý thức về quyền uy ấy. Chỉ cần lão chỉ vào ai đấy, kêu họ là “Việt  Cộng”,  hôm  sau  người  đó  lập  tức  bị  lôi  xềnh  xệch  lên  máy chém,  nhẹ  cũng  là  vào  bao  thả  trôi  sông  hoặc  nhốt  trại  tập  trung. Quyền lực ở cái làng Cát sát biển này gom hết vào tay bố con lão... Nhưng khuôn mặt phồng nở như hạt bắp rang muối ấy không kéo dài được  lâu. Chẳng rõ sao nảy nòi ra Sáu Sinh. Ngỡ  lão thầy giáo này theo đồng đội đi tập kết, ai ngờ vẫn lẩn khuất lúc ẩn lúc hiện quanh làng. Sáu Sinh làm lão điên đầu. Cấp trên đã tư giấy về thông báo rằng Sáu Sinh là hiểm họa lớn, Sáu Sinh là người đứng đầu Cộng sản vùng này. Một dạo không thấy Sáu Sinh xuất hiện, Trần Nhũng vơi lo, lão cho rằng, vì không chịu được sự quẫy sục của lão, Sáu Giáo đói ăn, khát uống đã chết rục đâu đó... Nhưng cấp trên lại thông báo rằng vụ phục kích chỗ này, vụ nổi loạn chỗ kia đều do Trần Sinh cầm đầu..., lão lại nơm nớp. Biết vậy lão đã triệt từ khi Sáu Sinh còn là thầy giáo trường làng. Nhưng mọi sự đều biết trước đã chẳng là cuộc sống... Ai dè, kẻ mà con lão và cả lão một thời kính nể vòng tay “chào thầy” bây giờ là hiểm  họa. Sự  đời cứ như trò đùa. Có Sáu Sinh lão không thể sống  yên  lành,  mà  có  lão  nhất  quyết  không  thể  tồn  tại  Sáu  Sinh. Khuôn mặt lão hôm nay đóng băng, bởi vậy.
- Bà con nghe cho rõ đây! - Một lát, Trần Nhũng mở miệng. Lão cố lấy giọng bình tĩnh. - Tôi được mật báo rằng, tối qua tên trùm Cộng sản Sáu Sinh đã vào làng ta. Thiệt tình tôi đâu muốn làm khó dễ bà con. Nhưng là dân của một chính thể, mọi người phải có bổn phận với quốc gia chớ? Nếu bắt được Sáu Sinh, tôi lập tức ra lệnh thả bà con liền. Suy nghĩ đi...
Một phụ nữ lên tiếng:
- Dân đen chúng tôi tối ngày cắm mặt ngoài ruộng, làm sao biết Sáu Sinh là ai để giúp Quốc gia đây...
- Thiệt không rõ Sáu Sinh là ai chớ? - Trần Nhũng sán lại gần, rồi hỏi.
Người phụ nữ nhìn lão:
- Thầy giáo Sáu Sinh cả làng này ai chẳng rõ. Nhưng Sáu Sinh trùm Cộng sản quả không ai biết...
-  Không  biết  thiệt?  -  Trần  Nhũng  giễu,  rồi  bước  tới,  lôi  Tám Phụng đến trước người phụ nữ. Lão chỉ tay vào Tám Phụng:
- Người này cũng không biết?
- Người này thì... Hình như đã gặp rồi. - Người phụ nữ ngước lên, nói thong thả. Mọi ánh mắt lo lắng đổ dồn vào chị.
- Đó! Tôi rõ mọi người biết người này mà... Là đồng chí của Sáu Sinh, phải chưa? - Trần Nhũng nói.
- Tôi vẫn thấy người này ngày ngày liếm lá bánh ngoài chợ. Còn có làm Cộng sản không, chẳng rành nữa...
Trần Nhũng cáu. Lão đưa chiếc gậy vẫn cầm ở tay, chỉ vào mặt người phụ nữ:
- Đây là việc đại sự quốc gia, không phải chỗ đùa bỡn.
- Thì tôi đâu có đùa. Thấy sao nói vậy...
- Con mụ này... Sáu Sinh ở đâu?
- Không biết!

Có  tiếng  súng  nổ.  Người  phụ  nữ  hơi  rướn  lên,  rồi  ôm  ngực  đổ xuống. Đám đông sợ hãi lùi lại. Ba Hoàng nhảy xuống xe, thổi khói nơi nòng khẩu súng ngắn, bước tới, tay gạt con sên Trần Nhũng sang bên:
- Đừng nhu nhược vậy!
Khẩu súng trong tay Hoàng tiếp tục nhả đạn. Ba người nữa oằn oại... Chờ đám đông định thần lại, Ba Hoàng rê rê súng trước mặt họ:
-  Lời cuối  cùng nghe:  Nếu không  chỉ ra  chỗ ẩn  nấp của  Bí thư tỉnh  Sáu  Sinh,  mạng  các  người  coi  như  bỏ...  Tôi  chưa  bao  giờ  nói giỡn.
Năm Bào cảm thấy ngạt thở. Ông cố nhoài người đứng lên. Hai tay  bị  trói  vặt  sau  lưng,  nên  ông  hơi  lảo  đảo.  Ông  rướn  về  phía  Ba Hoàng:
- Thích bắn thì bắn tao đây nè... Dân làng có tội tình chi mà bắn họ... Người phụ nữ mày vừa bắn, thời má mày bệnh đã tự tay đặt má mày vào võng, khênh đòn càn trên vai đưa lên tận Lân Cồ nhằm chữa chạy, mày quên rồi sao? Mày làm càn vậy không sợ vong linh má mày bất an, Ba Hoàng?
- Không được  phép lôi má tôi  ra  đây nghe... Đồng chí  Năm  Bào thích chết thay cho đồng chí Sáu Sinh? Không dễ vậy đâu... Bắn đồng chí tôi thấy tội nghiệp cho viên đạn của mình... nên chờ dịp khác. Với nữa, riêng đồng chí thì phải sống để nhìn thấy sự đổi thay ở cuộc đời này... - Ba Hoàng lạnh lùng gõ gõ nòng súng vào lòng bàn tay. - Cái gì cần quên thì quên... Nhưng có những điều, ví như cuộc cướp tài sản hồi chín năm của Cộng sản... phải nhớ chớ. Lúc hớn hở nhặt từng cái bát mẻ trong nhà tôi về làm của riêng, các đồng chí có sợ vong linh má thằng này bất an?... Sao?... Lý do gì để bây giờ đồng chí Năm Bào không muốn sống nữa, hả?
Khẩu súng trong tay Ba Hoàng bất thần chĩa vào người đàn ông đứng bên cạnh Năm Bào. Một tiếng nổ khô khốc. Người đàn ông nảy lên,  đổ  xuống.  Năm  Bào  trừng  mắt,  nhổ  bãi  nước  bọt  vào  mặt  Ba Hoàng. Viên đại úy chậm rãi móc túi lấy khăn, lau, rồi bất ngờ dùng cùi chỏ, thúc mạnh vào ngực Năm Bào. Ông Năm oằn người lảo đảo, nhưng vẫn cố đứng thẳng lên:
- Còn lâu chúng mày mới bắt được Sáu Sinh...
- Để rồi xem ai to gan hơn... - Hoàng vẫy tay, tốp lính đứng cạnh chiếc xe lập tức bước tới. Những khẩu AR.15 lên đạn. Tiếng khóa cò nghe đanh, vụn tơi. Nhiều mũi súng chĩa vào người làng Cát. Hoàng ngoắc vòng cò khẩu súng ngắn vào ngón tay, quay quay hệt những kẻ cao bồi tìm vàng trong phim Mỹ, hai chân mở ra chôn trên cát.
-  Tôi  sẽ  đếm  từ  một  tới  ba...  Ngậm  miệng  nghĩa  là  thi  gan  với súng đạn đó... Một! Mạng Sáu Sinh đáng để đổi mạng hai mươi con người này sao? Hai! Nào, chỉ cần một cái chỉ tay, một cái hất hàm... Đừng dại dột chết thay cho Cộng sản. Nghĩ chín đi nghe... Một phút nữa... B...a!
- Không được bắn!
Ba Hoàng và tốp lính cùng quay lại. Thím Tư Đởn từ phía hàng dương  bươn  bả  bước  tới.  Trông  thím  bợt  bạt.  Khuôn  mặt  xọm  hẳn. Thím gạt mũi súng, xấn đến trước mặt Ba Hoàng:
- Đừng giết dân làng... Các người muốn biết thầy giáo Sinh ở đâu phải không?
- Chào thím Tư! - Ba Hoàng dùng mũi súng đẩy ngược lưỡi trai chiếc mũ, cười giễu - Đã lâu không gặp... Chắc thím có tin tốt lành?
- Đêm qua tôi đã đưa Sáu Sinh qua sông... Hãy thả dân làng ra...Họ không liên lụy.
Có báng súng thúc mạnh vào lưng thím, Trần Nhũng từ phía sau nhảy tới.
- Thì ra Sáu Sinh đã sang sông... Chính mụ - Lão tát mạnh vào mặt  thím  Tư  Đởn,  rít  lên -  Con  mụ... đúng là  nòi  Cộng  sản... Được lắm... Lính, trói lại.
Bọn lính xông vào quặt mạnh hai cánh tay thím Tư về phía sau. Ba Hoàng vẫn chôn chân một chỗ, hất hàm:
- Đẩy lên xe, đưa về đồn...
... Chẳng hay bằng cách nào, từ khi trời chưa sáng rõ mặt người, thím Tư như một cái bóng, đã thất thả bước thấp bước cao lặng lẽ đi vào làng. Lính giăng kín đặc, thím vẫn lần được về nền đất ngôi nhà của mình. Trông thím lúc đó phờ phạc, rũ rượi, nhếch nhác giống kẻ mất  trí,  mới  qua  một  đêm  mà  khuôn  mặt  hóp  hắt,  già  hẳn.  Thím  đi một vòng quanh nơi trước đây mấy giờ còn là ngôi nhà, lúc này chỉ là đống tro, miệng lẩm bẩm như thể gọi ai. Rồi thím sà xuống chỗ thím biết chắc trước đó mình kê chiếc giường gỗ, hối hả dùng bàn tay trần bới bới lớp tro, tìm kiếm, miệng tặc tặc:
- Nhặt ơi, nóng lắm phải không con?... Tại má! Tại má! Lỗi là ở má...
Cuối cùng, thím xé áo, bốc một nắm tro, gói lại và ngồi lặng, đôi mắt đục dại mở to, nhớn nhác nhìn ra đâu đó. Nhìn mà như thể không nhìn, ngơ ngáo vô hồn giống đôi mắt kẻ tâm thần. Thím lặng đờ tựa một tượng đá, khuôn mặt lạnh đanh...

Đã  bao  năm  Tư  Đởn  sống  một  mình  trong  ngôi  nhà  này.  Khi chồng thím và thằng Thanh, đứa con cả theo ông đi tập kết, thằng em nó, thằng Thành sống với thím. Nhưng chỉ mấy năm, nó lèo nhèo đòi theo thầy giáo Sáu Sinh lên cứ. Nó rứt rả không để thím yên. Sáu Sinh hỏi:
- Chị tính sao?
- Tính sao, chú nghĩ tôi gàn được nó? Thằng Thành đã quyết vậy, tôi chỉ còn trông vào sự chăm nom của chú. Coi như tôi gửi chú nuôi giùm đứa con trai.
-  Vậy là  chị  đồng  ý rồi  nghe. Nhưng  không  phải tôi  nuôi, cách mạng nuôi.
Thằng Thành đi rồi, lọi trọi một mình trong ngôi nhà, thím thấy trống trải chơ vơ quá. Buồn hơn thời ông Tư và thằng Thanh đi tập kết lận. Lại lo nữa, đêm nào cũng thấp thỏm về đứa con trai. Nghe tin có trận càn đâu đó, hoặc những lời đồn thất thiệt dân làng vẫn rỉ vào tai nhau, thím lại không ngủ được, mong mong ngóng ngóng Sáu Sinh có dịp qua làng ghé vào để hỏi thăm. Rồi thím quen dần. Mà không quen cũng  phải  ráng. Với  nữa  nghĩ  thằng  Thành  đi  với  Sáu  Sinh  thím  có phần an tâm, trong sự cô đơn, thím cũng thoáng chút bằng lòng, con nó biết đi con đường của ông Tư là điều đáng mừng.
Vậy rồi chẳng rõ run rủi thế nào, theo cách nói của thím, trời phật lại ban cho Tư  Đởn thêm  mụn con trai nữa. Như thể  định mệnh, khi địch càn vào làng Hiệp Hưng, thím đang có công chuyện đi ngang qua đó. Tiếng nổ của các cỡ súng váng óc, dậy đất. Mảnh đạn, mảnh bom rắc như vãi thóc. Lửa đỏ trời, cháy ngùn ngụt suốt đêm, kéo sang cả sáng hôm sau. Không một ngôi nhà nguyên vẹn. Làng Hiệp Hưng bỗng chốc biến thành đống tro. Đến chuối cũng sém cả ngọn lẫn gốc... Cuối trưa, khi tiếng súng đã yên, vẫn chưa hoàn hồn, thím lóp ngóp chui từ bờ mương lên, ngó trước ngó sau đặng thoát nhanh ra khỏi chốn thím đã bất đắc dĩ khổ sở, hãi sợ ẩn nấp suốt một ngày qua. Đang nghênh ngó tìm hướng chợt thím nghe đâu đó, gần lắm, như thể có tiếng tiếng trẻ nhỏ khóc. Tư Đởn chững lại. Không phải! Sao có thể là tiếng trẻ lúc này. Thím định bước, nhưng trong không gian đang hầm hập nắng nóng và ngột ngạt khói rõ ràng có tiếng khóc của trẻ sơ sinh. Tiếng khóc tắc nghẽn, đứt nối, hụt hơi. Chẳng lẽ đầu óc thím đã mụ lỵ?
Tư Đởn lại dóng tai nghe. Quả có tiếng khóc thiệt! Sao vô lý vậy được hở trời? Thím Tư đánh bạo lần về phía đó, phía thím nghĩ đang phát ra cái âm thanh ứ ứ như là tiếng mèo kêu. Và, trời ạ, thím giật mình.  Nơi  mấy  thi  thể  đàn  ông  có,  đàn  bà  có,  người  nằm  nghiêng, người nằm ngửa đã cứng queo, bê bết máu và bùn đất có một vật gì đó nho nhỏ đang ngọ nguậy. Thím Tư như không tin vào mắt mình nữa. Một đứa bé chừng hai tháng tuổi, đang cố rướn ra khỏi vòng tay người mẹ một cách bản năng, bất lực và yếu ớt. Người mẹ chắc chưa đầy ba mươi,  có  khuôn  mặt  tròn  tròn,  hai  môi  xám  ngắt,  méo  xệch,  và  đôi mắt chưa chịu khép, vẫn he hé mở ra nuối tiếc nhìn trời. Tư Đởn bàng hoàng,  chân  tay  bủn  rủn,  phải  đến  mấy  phút  sau  mới  định  thần  lại. Đứa bé nhỏ xíu, tươm tả trông như một con mèo gặp mưa, mặt bầm tím đang bị cánh tay khô khấc, vô cảm của người mẹ kẹp chặt. Nó thở mệt nhọc và thỉnh thoảng lại bật ra thứ tiếng như thể tiếng khóc. Tiếng oa  oa  rất  mỏng,  đứt  nối  của  nó  khiến thím  Tư  bừng tỉnh.  Thím  run rảy, xiêu vẹo bước tới. Và thím cúi xuống, lập cập gỡ tay người đàn bà, rồi đỡ đứa bé lên...
Từ đó Tư Đởn có thêm một đứa con trai. Thím bận bịu với nó và cũng nhiều niềm vui nơi nó. Nghe tin Tư Đởn có thêm thằng nhỏ, cả làng háo hức tới thăm. Ai thấy vậy cũng mừng. Ông Năm Bào nói rằng nên đặt cho nó cái tên là thằng cu Nhặt. Tên xấu thì khỏi sợ ma qủy bắt đi. Cả làng đồng tình. Cu Nhặt được thím Tư và bà con làng Cát chăm bẵm, hay ăn chóng lớn. Chỉ ngày mấy bữa nước cháo, với thỉnh thoảng bú rình chòm  xóm  tí  chút, mà  cu cậu cứ  vậy nhỉnh  dần. Lại ít  quấy. Người làng đi qua ghé vào thăm đều khen kháu, khen ngoan. Chưa đầy năm mà biết đủ thứ. Biết vỗ tay khi có người dạy. Biết phân biệt người lạ, người quen... Cu Nhặt bám rịt thím Tư. Đêm đêm gối đầu lên cánh tay mẹ  nuôi, ngủ ngon lành. Từ  ngày có cu Nhặt, dân làng bảo rằng thím Tư nom lại khỏe ra, trẻ ra. Có cu Nhặt vất vả, nuôi bộ ai nhàn, nhưng  đỡ  hưu  quạnh,  mà  vui.  Chẳng  mấy  nữa  cu  Nhặt  sẽ  biết  nói. Trong nhà có tiếng trẻ thơ bi bô thích biết mấy!... Vậy mà... Trời ơi, sao lại có thể... Thằng Nhặt con thím vẫn chưa được trọn năm...
Thím Tư ôm nắm tro vào lòng, ngồi lặng, thỉnh thoảng cúi xuống
lẩm bẩm nói một mình, giọng xám hối như kẻ cầu kinh:
- Cu Nhặt ơi, cu Nhặt xá tội cho má nghe... Tất cả là tại má... Tại má...
Vừa  lúc  đó  có  tiếng  súng  nổ  ngoài  bãi  dương  vọng  vào.  Tiếng
súng khô khốc vang lên trong sự im ắng ngột ngạt của làng Cát sau trận càn như thể là tiếng quạ kêu khi đã tìm ra xác chết khiến Tư Đởn giật  mình,  choàng  tỉnh.  Thím  ngước  lên,  ngơ  ngác  nhìn.  Rồi  có  lẽ nhận  ra  điều  gì,  thím  vội  vã  gói  gọn  nắm  tro,  cho  vào  một  góc  và quýnh quáo bước khỏi nơi vốn là ngôi nhà của mình. Thím đi về phía có tiếng súng nổ, đi về phía bãi dương...

II


Sau  lần địch càn, làng  Cát  nham  nhở, tang thương  hệt trận bão lửa  vừa  tràn  qua.  Những  gia  đình  có  người  chết  nuốt  hận  vào  lòng, lặng lẽ đào huyệt chôn cất kẻ xấu số. Bà con đến thăm viếng, chẳng rõ nên an ủi thế nào, chỉ nhìn nhau, gật đầu thông cảm. Quả bóng làng Cát xì hơi, chùng xuống, nhợt nhão...
Song sự sinh tồn không chỉ thói quen cố hữu, một tất yếu, còn là bản năng, còn là vô thức dần dà kéo làng Cát về với nhịp sống thường nhật. Người ta vẫn phải tồn tại, vẫn phải ăn và vẫn phải duy trì mọi sự...  Lại  lo  toan.  Lại  chạy  chợ.  Lại  bươn  bả  ra  đồng,  xuống  biển... Công việc  chen lấn, đan cài. Cuộc  sống như  con tàu lăn trên đường ray, theo đà vẫn cứ trôi...
Hôm nay Tư Nhâm ở chợ về muộn. Chị đẩy cổng bước vào nhà. Từ ngày cho con gái xuống dưới quê sống với bà ngoại, mỗi lần ở chợ hoặc đi đâu đó về, chị cảm thấy trống lạnh, căn nhà như rộng ra, thiếu thiếu cái gì. Hồi đầu mới vắng con, nghĩ rằng chỉ một thân một mình, chị sà vào quán, ăn qua quýt thứ gì đó, nhiều lúc chỉ là tấm bánh, tối về chỉ việc tắm rửa, nghỉ ngơi. Nhưng rồi Tư Nhâm nhận ra sinh hoạt như vậy không ổn. Căn nhà không có hơi lửa chẳng những lạnh lẽo, mà còn như thể là sự tạm bợ, buông trôi. Bởi vậy đến bữa, chỉ cho già lẻ gạo vào nồi, chị vẫn buộc mình phải bận rộn.
Tư  Nhâm  thu  dọn  quang  gánh  gọn  vào  một  góc  rồi  lẳng  lặng xuống  nhà  ngang.  Chị  đong  gạo  ra  rá,  tìm  thêm  chút  bận  bịu  bằng cách bới tìm những hạt thóc còn sót lại. Chị nhóm bếp. Và ngồi lặng. Trông chị như một cái bóng. Nhìn  ngọn  lửa  liếm  quanh  chiếc  nồi  nhôm  bé  xíu  mới  sắm,  Tư Nhâm thấy nhớ con quá chừng! Hồi chưa về sống với ngoại, bé Thảo thường hét om sòm và tất tả chạy ra đón mỗi lần chị về. Rồi cúi xuống lục lạo thúng mủng xem hôm nay mẹ mua những gì làm quà. Đã hơn mười  tuổi  vẫn  hí  hớn  như  trẻ  nít. Vớ  được  quả  mận,  quả  ổi là  chùi ngay  vào  áo  đưa  lên  miệng  cắn.  Vừa  ăn  vừa  nói,  vừa  phô  chuyện. Vắng  mẹ  mới  nửa  buổi  mà  như  đã lâu lắm. Lúc  chị nấu cơm, Thảo ngồi  bên  cạnh,  phụ  giúp  nhặt  rau,  làm  cá,  hoặc  lăng  xăng  chạy  ra, chạy vào. Thảo khoái được mẹ sai vặt. Căn nhà ở cuối bãi, gần như tách biệt với xóm láng và chỉ hai mẹ con mà không thấy cô đơn, vẫn vui,  vẫn  ấm  cúng.  Hồi  mua  mảnh  đất  này  dựng  nhà,  có  người  hỏi: thiếu đàn ông, sao không tìm chỗ giữa xóm ở, đỡ trống? Lập tức có người dè bỉu trả lời hộ: bởi thiếu đàn ông nên cần chỗ vắng vẻ để các loại giống đực dễ vo ve. Tư Nhâm không tỏ ra phật lòng, cũng không phản đối. Chị cười đau, nhẫn nhịn, cam chịu.
Dưới con mắt thóc mách soi mói của không ít người rỗi hơi ở làng Cát, chị  thuộc  hạng đàn bà  chẳng ra  gì. Không chồng  mà  chửa  cũng thường tình, nhưng cứ nhơn nhơn ưỡn vú, cặp mông mẩy dồ ra nhẩy tành tạch, lúc nào cũng háo, lúc nào cũng như có ý mời chào, quyến rũ đàn ông thì khó chấp nhận. Hồi Tư Nhâm mới ôm con về sinh sống ở làng Cát, dò ra biết đây là kẻ lang chạ, không chồng, mấy bà mấy chị hết sức cảnh giác. Họ nơm nớp lo lắng, và rỉ vào tai nhau rằng căn nhà cuối  bãi  là  cái  bẫy, là  hiểm  họa.  Người  đàn  bà  còn  trẻ, đẹp,  lúc  nào cũng phây phây, lại chỉ sống với một đứa trẻ non dại, nơi ngôi nhà vắng đó khác gì miếng mồi thơm. Gái một con nom mòn mắt! Bọn đàn ông thì cha nào không khoái hà hít mùi lạ. Mật ngọt khắc chết ruồi... Mà cái ngữ ấy sao không về quê sinh sống, cớ chi ưỡn ẹo dẫn xác tới làng Cát này chớ? - Nhiều bà lo lắng đặt câu hỏi. Trời ơi, không chồng mà vẫn có con sao dám về quê. Về đó rồi họ hàng người ta không tụt quần ỉa vào mặt. Có là đeo mo. Đàn ông nhà mình thì mình phải giữ thôi. Để bọn ấy chui được vào cái rọ đó, coi như mất. - Có người giải thích.
Nghe những lời như vậy, Tư Nhâm thấy tủi; chị cố co mình lại. Với đàn ông, càng giữ gìn. Ra đường gặp họ, đâu dám ngẩng lên chào to, chỉ nhi nhí cho phải phép rồi cụp mắt lủi thật nhanh. Nhưng sự cố gắng ấy càng như thể là cái cớ để đám đàn ông làng Cát tò mò, muốn khám phá. Đã không ít kẻ khát của lạ vờn ve quanh ngôi nhà, có ý thử cái điều dân làng vẫn xì xèo bàn tán. Xã trưởng Trần Nhũng cũng đã mấy lần ngất nghểu dẫn xác đến. Lão ngồi lì hàng giờ, ánh mắt cắm vào cặp mông rắn tròn như hai quả bóng bơm căng của người đàn bà một con, hỏi đủ chuyện. Và gạ gẫm. Gạ rất sỗ. Gạ bằng quyền uy thế lực  của  mình  và  điểm  yếu  của  người  đàn  bà  ngụ  cư  thân  cô  thế  cô không chốn nương tựa...
Sự dị nghị của đám đàn bà và sự cợt nhả của Trần Nhũng cùng đám đàn ông làng Cát, Tư Nhâm chịu được. Chị chịu được vì có chỗ bấu  víu,  dẫu  sự  bấu  víu  ấy  chỉ  một  mình  chị  hay,  song  đó  là  chiếc phao  để  không  chết  ngạt  trong  dư  luận,  thậm  chí  lắng  nhẹ  chút  tự mãn. Nhưng những câu hỏi thơ dại của đứa con gái khi đêm đêm mẹ con đã ôm nhau nằm trên giường mới thực sự là những mũi kim đâm vào da thịt.
- Má ơi, thiệt là con có ba hả? Má không được nói dối con nghe.
- Con tin má hay nghe lời nói bậy của mấy đứa nhỏ? Không có ba, sao sinh được ra con?
- Chúng nhiếc con là đồ con hoang. Con hoang tức là không có ba...
Tư  Nhâm  xiết  bé  Thảo  vào  lòng,  nước  mắt  ứa  ra.  Vừa  thương con, vừa nhớ chồng. Đã hơn mười năm qua, không một tin tức của Tư Lăng. Chị thấp thỏm, chơ vơ ngóng đợi như chiếc thuyền con trôi lạc giữa đại dương, chỉ mong thấy bờ. Khi chia tay để theo ô tô ra Quy Nhơn xuống tàu đi tập kết, Tư Lăng ráng nán lại ít phút, vụng về xoa bàn tay thô ráp vào bụng vợ, dặn: “Con trai hay con gái cũng đặt tên là  Thảo,  nghe  em.  Thảo  là  thảo  lảo,  thảo  hiền,  là  hiếu  thảo...”.  Tư Nhâm  cầm  tay  chồng  cà  lên  mặt, nén  nước  mắt  vào lòng,  “dạ”  một tiếng  rất  mảnh.  Đấy  là  hình  ảnh  cuối  cùng  về  Tư  Lăng  lắng  lại  nơi chị... Đã gần bốn ngàn ngày... Hồi đó, giá anh ở thêm ba hôm nữa, Tư Lăng sẽ được nhìn thấy mặt con. Vậy mà...
- Con có thương má không, Thảo? - Tư Nhâm xoay qua con gái, hỏi nhỏ.
-   Con thương má, thương ngoại bằng trời.
- Vậy từ rày đừng vấn má chuyện đó nữa nghe. Ba con là người tốt, thiệt tốt. Con nhớ chưa?
- Sao ba không về với má, với con?
- Ba còn bận việc. Ba phải đi xa... Lớn chút nữa rồi con hiểu.
- Ba già hay trẻ, má? Tư Nhâm bật cười, chị lấy tay lau nước mắt. Mười năm rồi chẳng rõ Tư Lăng có đổi khác, còn ngày ấy, trẻ khỏe, nhanh nhẹn như một con sóc...
- Con giống ba hả má?
- Giống! Soi vào gương con khắc gặp khuôn mặt ba.
- Vậy mà ba cứ đi miết.
- Ngủ đi! Má biểu không được hỏi nhiều mà.
- Con cũng có ba... Con có ba thiệt, má nhỉ.
- Thiệt! - Tư Nhâm vỗ vỗ vào lưng con, và không sao ngủ được nữa. Những lần như vậy, đêm thật dài.

Những ngày đó, khi trăng lên, Trần Nhũng thường mon men tới. Lão gượng gạo rặn cái cười trên đôi môi dày nên trông khuôn mặt bì bì  dưới  ánh  đèn  dầu,  cứ  như  mếu.  Chẳng  là  vui,  cũng  chẳng  phải buồn. Cái  bụng phưỡn ra tọa trên ghế  không làm lão mặc  cảm. Lão khoe rằng đã trên sáu mươi nhưng vẫn ăn khỏe, ngủ khỏe. Mụ vợ ba, mắt ti hí, người ngầu ngậu vậy mà cũng xin chào thua, đêm đêm trốn lão, ra  phòng  ngoài  nằm.  Lão  cười  hì  hì, hai  con mắt  híp lại  hướng vào cặp đùi Tư Nhâm, ánh nhìn đó như thể mũi dao lách vào cơ thể, phơi trần chị ra. Những lần như vậy, Tư Nhâm sợ hãi, kêu bé Thảo tới và ôm chặt con vào lòng. Bé Thảo là bùa hộ mệnh của chị.
- Đừng ngại! Mụ nhà này không ghen... Đêm đêm không quậy, mụ càng khỏe... Tư đồng ý thì tui kêu người sửa lại ngôi nhà này cho đàng hoàng... Tư cũng khỏi đi chợ... Hai má con tiêu pha đáng là bao, để tui chu cấp... Không cần sống chung với mụ ba nhà này, má con cứ ở đây...
Chị ậm ừ, chẳng ra đồng ý, cũng không hẳn từ chối. Chị tìm cớ hoãn  binh. Quyền  thế  Trần Nhũng  vùng  này lớn lắm, để  mếch lòng lão là gieo tai họa. Bố con lão có từ ai mà không vu vạ, ăn tươi nuốt sống người ta...
Đang xoay xở  nghĩ cách ứng đối với Trần Nhũng thì Tư  Nhâm gặp  Hai  Rạng,  cũng  tại  làng  Cát  này.  Cuộc  đời  sao  lắm  ngẫu  nhiên vậy chớ! Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Tư Nhâm quen thân Hai Rạng từ ngày hai người còn nhỏ xíu. Nhà Tư Nhâm cách nhà Hai Rạng chỉ ba mảnh vườn. Khi Tư  Nhâm  còn thò lò mũi, Hai Rạng đã biết cắp sách tới trường. Về chiều, mỗi lần Hai Rạng ra bãi đổ dế, Tư Nhâm lẽo đẽo gằn chân chạy theo. Phát hiện ra hang dế mới, Tư Nhâm hí hở gọi: “Anh Hai! Anh Hai!” váng bãi. Rồi chụm đầu hì hụi đổ nước, hí húi  đào. Khi  dế  vọt ra  khỏi lỗ, cả  hai cùng co cẳng rượt. Vồ không được dế mà vồ vào tay nhau... Hai Rạng chơi dế giỏi nhất vùng. Cuộc chọi nào, dế của Hai Rạng cũng đứng đầu. Những con dế quán quân đó,  gã  trai  thường  mang  về  tặng  Tư  Nhâm.  Cô  nuôi  nó  trong  bao diêm, đêm đêm hé mở một lỗ nhỏ để dế ăn sương. Một buổi sáng, mở bao diêm ra thấy con dế cụ cứng đơ, nằm không cựa quậy, Tư Nhâm hốt  hoảng  bật  chạy,  đạp  qua  mấy  mảnh  vườn,  tới  đứng  ngấp  nghé trước cổng nhà Hai Rạng.
- Anh Hai! Anh Hai ơi! - Tay run run cầm bao diêm, Tư Nhâm gọi to và khóc tức tưởi.
Nhà Hai Rạng nuôi nhiều chó. Đánh hơi thấy người lạ là chúng xồ tới, nhe nanh, nhe vuốt gầm gừ dọa. Nên mỗi lần có việc đi qua đó, Tư Nhâm hãi lắm, run rén như kẻ trộm, hoặc ngó trước ngó sau rồi ba chân bốn cẳng chạy thật nhanh. Vậy mà lần này dám đứng ngay trước cổng, réo gọi. Từ trong nhà, Hai Rạng hơ hải chạy ra. Hai Rạng xua đàn chó rồi bước tới. Tư Nhâm chìa bao diêm.
- Làm sao? - Hai Rạng hỏi.
- Con dế... chết rồi!
Hai Rạng mở bao diêm ra xem.
- Thiếu không khí! Để tìm cho Tư con khác, đá còn hay hơn...
- Nhưng tội nghiệp nó!
- Thương hả? Chúng mình làm đám ma cho nó nghe.
Cạnh gốc cây xoan trong mảnh vườn xế đó, bao diêm như chiếc quan tài tí  hon được  Hai  Rạng  và  Tư  Nhâm  đặt  xuống  một  hố  nhỏ. Đất và mấy chiếc lá phủ lên.
Chiều  ấy,  Tư  Nhâm  xách  chiếc  xô  méo  xẹo  bằng  sắt  tây,  bước thấp  bước  cao,  lẵng  nhẵng  theo  Hai  Rạng  ra  bờ  sông.  Con  dế  đực kiếm  được  lúc  xế  chiều,  quả  như  Hai  Rạng  nói,  đá  rất  diệu  nghệ, chẳng dế nào thắng nó. Thằng bạn trạc tuổi Hai Rạng ở xóm trên, ham chọi dế như nghiền thuốc phiện, nì nèo gạ đổi chiếc gụ bằng gỗ ổi, khi chơi,  xoay  tít  mù,  Hai  Rạng  lắc  đầu.  Hai  Rạng  kiếm  hộp  giấy,  vốn dùng đựng thuốc tây, trổ mấy cửa nhỏ, bỏ dế vào đó, cầm sang cho Tư Nhâm. Song, dế cũng chỉ ở với cô được năm ngày. Lần này tự tay Tư Nhâm chôn cất. Mộ nó được đặt cạnh mộ con dế cụ lần trước.
- Đừng bắt dế chọi nhau nữa, anh Hai. Tội lắm!
Một lần Tư Nhâm bảo, Hai Rạng nhìn cô, cười rất người lớn:
- Tư đa cảm hệt má anh!
Lớn  lên,  gặp  kì loạn  lạc, Hai  Rạng  và  Tư  Nhâm  phiêu  bạt  mỗi người mỗi ngả. Cô theo ba lên cứ, và từ đó bặt tin Hai Rạng. Mãi sau này, khi hòa bình lập lại đã vài ba năm, có lần, cô nghe ai đó nói rằng Hai  Rạng  hiện là  sĩ  quan  trong  quân lực  cộng  hòa. Cái  thông tin tơ nhện ấy, thoảng đến vô tình, rồi tắt ngay như lửa nến trước gió, không mảy may ấn tượng. Hình ảnh Hai Rạng nhòa dần theo năm tháng, và khi  Tư  Nhâm  lấy  chồng,  gần  như  không  còn  chỗ  trong  bộ  nhớ  của cô... Vậy mà, như thể sự sắp đặt có tính định mệnh của tạo hóa, Tư Nhâm gặp lại Hai Rạng trong trạng huống éo le này...
Từ  ngày  có  tin  đồn,  ngôi  nhà  cuối  bãi  đang  được  thiếu  tá  Hai Rạng để mắt tới, đám đàn bà làng Cát nhẹ người, thở hắt ra như trút được  vật  nặng  vẫn  canh  cánh  đeo  trên  vai...  Biết  ở  đó  có  mật  ngọt nhưng đám đàn ông đâu còn nghĩ chuyện sẽ nếm thử. Muốn sập bẫy cũng không dám. Xã trưởng Trần Nhũng biết là mồi ngon, thèm, vẫn cố nuốt ực nước bọt vào họng, cay đắng nhịn...
Tư Nhâm sống yên hơn, nhưng sao rõ đó là họa, hay phúc!

*

Một mình một bóng, Tư Nhâm ngồi lệch bên bàn, chị uể oải lùa cơm vào miệng và lại nghĩ đến bé Thảo. Chị đâu muốn xa đứa con gái bé bỏng, gắn bó với mình như hình với bóng. Bé Thảo không chỉ là niềm  vui,  nỗi  an  ủi,  còn  là  nguồn  lực,  chỗ  tựa  để  chị  bíu  vào  đặng không  bị  chìm  trong  hoàn  cảnh  chơi  vơi  này... Để  bé  Thảo  về  dưới quê là chị cố tình gạt bỏ mọi che chắn, như con thuyền liều lĩnh chặt đứt  dây  neo,  chới  với  chống  chọi  giữa  đại  dương  phúc  họa  khôn lường... Nhưng ở  vào  hoàn cảnh  chị, chẳng thể  khác... Thiếu tá  Hai Rạng  vẫn  kiên  nhẫn  với  tình  cảm  mà  chị  rõ  là  hết  sức  chân  thành. Bằng  nhạy  cảm  của  người  phụ  nữ,  Tư  Nhâm  nhận  ra  tình  yêu  nơi anh... Kỷ niệm cũ xưa và hoàn cảnh hiện tại là cái cớ thuận chiều để người  đàn  ông  này  có  lý  nghĩ  về  một  kết  cục  có  hậu...  Và  nữa, chẳng đã có lúc chị giật mình mặc cảm rằng, nói dối mãi con người với tình cảm chân thành này như thể là có lỗi. Không hẳn trong chị đã không có những khoảng thời gian thoáng chút bối rối, nơm nớp lo  lắng  về  một  tai  họa  mơ  hồ  nào  đó.  Và  chị  sợ...  Con  người  chị vốn yếu đuối... Rồi với  những nhận biết về tâm trạng lo sợ ấy nơi mình, chị đã mấy lần đề nghị với Sáu Sinh cho chị được ra cứ. Đó là  giải  pháp  chị  nghĩ  hữu  hiệu  nhất.  Nhưng  mỗi  lần  chị  nằn  nèo trình bầy, Sáu Sinh chỉ lần lữa hứa... Thời gian không ủng hộ. Hầu như  tối  nào  Hai  Rạng  cũng  tới...  Anh  van  vỉ,  cầu  xin...  Vụng  về nhưng chân chất, cảm động...
Lần gặp Sáu Sinh gần đây, chị đã nói như là khóc:
- Chú ơi, chú không thương con sao? Sáu Sinh thở dài:
-  Chú  thấu  nỗi  khó  xử  của  mày...  Nhưng...  Khó  quá  ha...  Thôi được, cứ cho bé Thảo về dưới quê, rồi chú tính...
- Dạ! - Tư Nhâm như chết đuối vớ được cọc.
- Mày nghĩ mày ở trong tình trạng này, chú không khổ tâm sao, Tư?... Công việc sắp tới rất cần đến cháu...
Chị rõ tâm trạng người Bí thư Tỉnh ủy chớ! Dễ gì có được một cơ sở với vỏ bọc ngon lành như Tư Nhâm ở làng Cát, vùng chiến lược ven biển này... Khó khăn lắm, công phu lắm chú Sáu mới cài được chị về đây. Chị chưa làm  được gì cho tổ chức, nhưng như  chú Sáu nói, nuôi quân ba năm chỉ cần dùng một lần...
Sáu Sinh đi rồi, Tư Nhâm thừ ra, thương chú, lại thương cho hoàn cảnh éo le của mình... Và trong nỗi bất định ấy, chị luýnh quýnh sắp xếp để con gái về quê sống với mẹ... “Được ra cứ là êm xuôi mọi chuyện” - Chị thở dài và nghĩ.
Tư Nhâm lùa nốt bát cơm rồi đứng lên thu dọn. Chị rõ tối nay Hai Rạng lại tới. Chị luống cuống không thật rõ mình mong chờ hay lo sợ. Nhưng điều này thì chị biết, từ ngày Hai Rạng xuất hiện, cuộc sống của chị hình như có xáo trộn. Chí ít con người này đã đánh thức, làm sống dậy trong chị cả một quãng tuổi thơ ngộ nghĩnh và vô tư, chân trần lăng tăng trên cát, hơ hải trước gió, trước nắng... Dòng sông, khu vườn, và cả đàn chó vẫn xồ ra nhe răng trêu Tư Nhâm, tất cả ngỡ đã quên, bỗng chốc hiển hiện thành kỷ niệm...
Nghe tiếng động cơ xe máy dừng trước cổng, Tư Nhâm khẽ thở dài.
- Tư ở nhà không? - Giọng người đàn ông xởi lởi cất lên. Chị vuốt nhẹ mái tóc, bước ra:
- Chào thiếu tá! - Chị nói, cũng nhận ra giọng mình không thật. Nó lạc lạc thế nào...
Hai Rạng dựng chiếc Hon đa sát hiên nhà, bước vào:
-  Thiếu tá! -  Anh  cười, nụ cười rất tươi  và thỏa  mãn. -  Tôi  nói nhiều  lần  mà  em  đâu  có  nghe.  Gọi  bằng  thiếu  tá  xa  lạ  và  kỳ  quá... Sáng nay tôi cũng qua mà em đi vắng.
- Thiếu tá cũng có nhiều thời gian vậy sao?... Tôi đi viếng mấy người chết do lính của thiếu tá bắn đó...
- Chiến tranh mà, khó tránh... Nào có ai muốn vậy... Nhưng... Tôi cũng  buồn  lắm.  Bản  tính  tôi,  chắc  em  rõ.  Hai  đứa  đâu  mới  quen nhau...  Chúng  mình  đã  có  một  thời  tuổi  thơ...  Ta  nói  chuyện  khác nghe Tư.

Tư  Nhâm  im  lặng. Chị ngồi  xuống phía  bên kia bàn, trước  mặt Hai Rạng, lúng túng rót nước.
- Em còn nhớ thời lẽo đẽo chạy theo bọn con trai ra bãi bắt dế nữa không?... Vậy mà đã bao nhiêu là thời gian rồi. Đời người thiệt ngắn... Không có loạn li, không có chiến tranh khiến mỗi đứa một nơi, cảnh ngộ chúng mình chắc đã khác... Những năm kế đấy tôi vẫn có ý tìm em suốt đó chớ.
Tư Nhâm cố nén hơi đang dồn lên lồng ngực để khỏi bật ra:
- Đã mấy chục năm... thiếu tá nhắc lại chi...
- Người ta có số cả, là tôi nghĩ thế. Thời trước ông già có ý cho tôi học trường “Bách nghệ”, ai dè lại vô lính, rồi đi học trường võ bị, loay hoay thế nào lại về đây và gặp em... Định mệnh cả, đúng không? Đời tôi vẫn còn may mắn.
-  Thiếu  tá  cứ  giễu  hoài...  Loại  đàn  bà  không  chồng  mà  có  con đáng giá gì!
-  Tuổi  trẻ  ai  chẳng  có  lúc  bồng  bột,  vấp  váp.  Đàn  bà  như  em, được mấy người... Tôi ái mộ là ái mộ thiệt lòng, muốn được cùng em làm lại cuộc đời, phải đâu hạng lừa lọc, chơi bời... Chẳng rõ sao khi gặp em, tôi lại muốn có một gia đình...
- Thiếu tá đừng nói vậy... Phụ nữ đã mất danh tiết...
-  Trước  đây  em  đâu  là  người  mặc  cảm  cố  chấp  hoài  vậy,  Tư? Chuyện đã qua thì cho qua luôn. Chỉ cần tôi hiểu em, tôi thông cảm, thương em là đủ... Mà bé Thảo cũng phải có người đàn ông để nó kêu bằng ba chớ.
Tư Nhâm khẽ rùng mình. Rất nhanh, có cái gì đó như thể là nỗi lo sợ vô cớ ập tới, len vào, tỏa ra... Hình ảnh Tư Lăng với bàn tay vụng về xoa xoa lên bụng vợ hôm anh đi tập kết cách đây hơn chục năm như một cuộn băng được tua lại. “Con trai hay con gái cũng đặt tên là Thảo nghe, em”... Tư Nhâm thoáng bối rối. “Bé Thảo có ba chớ. Ba bé Thảo là người đàn ông tốt” - Chị tự nói với mình để trấn an...
- Sao em làm thinh vậy... Tôi nói không đúng sao? Tôi yêu quý bé Thảo và muốn làm ba nó, vậy mà em luôn ruồng rẫy, xua đuổi tôi. Tại sao vậy, Tư? Tôi đã làm gì để em coi thường? Có phải lỗi của tôi
là quá si mê em? Nếu vậy xin em nói một câu, chỉ cần em nói rằng tôi là kẻ xấu xa, không xứng với em, tôi sẽ đi ngay...
“Trời  ơi!”  -  Tư  Nhâm  khẽ  lắc  đầu  một  cách  vô  thức.  Nhưng giọng chị lại khác, tỉnh queo:
- Thiếu tá nặng lời rồi... ở vùng này, ở thị trấn này nhiều cô gái trẻ  đẹp  muốn  được  thành  hôn  với  thiếu  tá  mà...  Tôi  là  gái  lỡ  lầm... Thiếu tá đừng theo đuổi nữa...
- Không theo đuổi nữa? Tại sao? Tại sao chớ? Hay tôi không phải là một thằng đàn ông?... - Hai Rạng nhìn Tư Nhâm, ánh mắt vừa như cầu xin, lại có cái gì bực bõ. - Em nói đúng, ở cái thị trấn này, ở cái làng Cát này, chỉ cần tôi nhẹ búng tay, nhiều cô gái sẽ chạy theo. Tôi có  thế.  Tôi  có  quyền.  Nhưng  tôi  không  thể...  Quên  em  ư?  Phải,  giá như tôi may mắn có cái khả năng ấy... Trời hành mà... Tôi có lỗi gì chớ?... Em mặc cảm về mình, vậy em nghĩ tôi cao giá lắm sao? Tôi cũng là thằng đàn ông đã từng có một đời vợ... Một mụ đàn bà lăng loàn, đỏng đảnh... Bởi đã từng sống với người đàn bà như thế nên tôi mới thực sự rõ giá trị em có...
Tư Nhâm nói như kẻ vô hồn:
- Nói chi những điều ấy, thiếu tá...
- Khi người đàn bà đó vơ mọi thứ trong nhà, bỏ đi theo trai, mà theo ai, theo thằng đại úy bạn thân của mình mới đau chớ, tôi đã thù ghét  đàn  bà... Tôi  túc  trực  ý thức  coi thường,  khinh  bỉ... Để  đỡ  đau lòng, tôi xin chuyển đến vùng cát ven biển này... Ai dè tôi gặp lại em. Em đã đánh thức những gì nhân hậu trong tôi... Em là cứu cánh của tôi, Tư ạ... Em rõ em có ý nghĩa thế nào đối với cuộc đời tôi không? Vậy  mà  tôi  đưa  quà  nhờ  em  có  dịp  biếu  ngoại  bé  Thảo,  em  trả  lại. Tặng em vật kỷ niệm, em từ chối... Tôi muốn được em cho về dưới quê chào ngoại bé Thảo, em không nghe... Tôi biết làm gì để em vui đây, Tư?
- Thiếu tá thỉnh thoảng ghé lại thăm, với gái này đã là hân hạnh...
Tư Nhâm buông một câu sáo mòn vô hồn, trơn tuột, cũng không thật rõ mình nói gì. Chị giống cái máy lắp sẵn chương trình, ấn nút liền buột ra những lời vô cảm.
Mỗi lần Hai Rạng tới rồi nuối tiếc, khó hiểu và thất vọng ra về, Tư  Nhâm giống cái bóng ngồi lặng trên ghế, mệt mỏi như  một diễn viên không chuyên vào vai thiếu thuần thục, buộc phải lên sàn diễn. Nhiệm vụ của chị là đọc những lời thoại khô cứng, áp đặt, không phù hợp trong một kịch bản tồi. Đã từ lâu chị không được sống đúng như bản tính mình nữa. Chị là diễn viên, cuộc  đời là sân khấu. Chị phải tuân thủ, phải ý thức vai trò đó. Có những lúc chị hoang mang không phân định được một cách rành mạch những cuộc đối thoại của chị với Hai Rạng là thật hay giả. Đó là đời hay vai diễn. Điều nghiệt ngã là giữa đời thường và sự nhập vai cứ đan cài trộn lẫn, khó phân biệt rạch ròi để rồi buộc người ta đáng ra có thể sống thật hơn, đơn giản hơn, cởi mở hơn lại phải giữ miếng, lừa nhau. Hoàn cảnh đã tạo nên những nhầm lẫn thật trớ trêu...
Những đêm vắng con, khi Hai Rạng đã ra về, trằn trọc một mình trên giường, Tư Nhâm không sao ngủ được. Chị nghĩ mông lung đủ điều. Và cuối cùng, bao giờ cũng vậy, dù đã cố kìm chế bằng vai trò thực tại mình đang cõng trên vai, người đàn bà trong chị với bản năng giới tính mạnh mẽ bị kìm nén lại có cơ bị đánh thức. Vẫn có một tiềm ẩn nào đó, giống như mạch nước ngầm âm ỉ bấy nay cứ xuyên qua cơ thể, đòi hỏi, thúc ép, khiến chị choáng váng, máu dồn lên mặt, nhức buốt...  Chị  vật  vã,  giải  tỏa  bằng  những  kỷ  niệm  chắp  nối  rời  rạc. Nhưng  hình  bóng  Tư  Lăng  cường  tráng  liều  lĩnh  chỉ  kịp  giật  tuột chiếc quần, mạnh mẽ đổ vào chị đam mê cuồng dại trong những đêm hai người gặp nhau vội vã sau lần anh đi đâu đó về cách đây đã lâu lắm, mờ nhạt, không lấp kín những khát thèm bản năng rát bỏng. Tư Nhâm chống chếnh, bải hoải, thân xác cứng đờ, lại nhão ra. Chị liền liều  lĩnh  tưởng  tượng  tới  những  điều  cụ  thể,  gần  gũi  hơn  đâu  đó, nhưng sự nghĩ ấy, hệ quả của một ước thèm, cũng xa vời, mông lung không làm mờ tan những đòi hỏi rắc rối chập chờn, nhưng có thật... Chị ương ngạnh chống chọi, cố xua đi những ảo giác, gắng quay về với  hoàn  cảnh  thực,  trong  vai  trò  chênh  vênh  của  mình,  nhưng  bản năng tiềm ẩn sức mạnh khó lường lại có bóng tối và nỗi cô đơn làm đồng minh nên ít khi chị thành công. Chị vẫn bị hành hạ... Những lúc chới với mệt  mỏi trong cuộc  giằng co bất lực  đó chị vùng dậy, một mình đi lang thang hành xác ngoài bãi, tự phơi thân dưới ánh trăng, hoặc  lột  bỏ  quần  áo, ngâm  mình  xuống  nước  nhờ  sóng  vuốt  ve, mà nghĩ về những điều không có thật để hôm sau lại nhập vai trong thói quen đã thành ý thức...

*

Dân trong vùng gọi Lân Cồ bằng cái tên nôm na: chợ Cá. Gọi vậy có lý bởi mấy thứ người làng Cát kiếm được từ biển, hết thảy đều mang lên chốn này bán. Muốn sắm bộ quần áo, cái giường, cái rổ, cái rá, thếp giấy... phải lên đó. Chỗ mua bán thì gọi là chợ. Cũng có người kêu Lân Cồ là thị trấn. Nhưng trong bản đồ hành chính, Lân Cồ được định danh bằng cái tên chẳng ra ta cũng không phải tây tầu: Thị tứ. Lân Cồ không rộng, nhưng nằm kề quốc lộ, tiện giao thông, lại khít bên làng Cát, một làng biển có nghề đánh bắt hải sản lâu đời nên người tứ xứ khôn ngoan kéo về đây sinh cơ lập nghiệp. Họ thu gom tôm cá chất lên xe chở đi và tha lôi đủ thứ đồ nhựa, đồ ni lông và vô số mặt hàng làm từ bên Mỹ, Thái Lan, Phi Luật Tân... về. Từ ngày có tiểu đoàn Rồng Biển, tiểu đoàn lính chính quy của thiếu tá Hai Rạng đóng quân, Lân Cồ càng sầm uất. Nhiều quán giải khát, quán bar, phòng nhảy mọc lên. Gái tứ chiếng đánh hơi được có chỗ kiếm ăn cũng hấp hởi đua nhau lượn đến. Lính có nhu cầu gì, những người chuyên kinh doanh thính nhạy đáp ứng liền. Có cầu khắc có cung. Tối đến Lân Cồ náo nhiệt. Âm thanh từ những chiếc loa thùng mới tậu được vặn hết cỡ tràn ra đường. Đèn xanh đèn đỏ nhập nhòa. Các quán nhậu gần như mở thông đêm. Khách vẫn là lính Rồng Biển, bảo an, dân vệ...
Hai  Rạng  về  tới  đồn,  trời  đã  khá  khuya.  Anh  vừa  dựng  xe  bên phòng thì gã hạ sĩ công vụ chạy tới:
- Thưa, có đại úy Ba Hoàng vẫn chờ thiếu tá tại phòng khách...
Hai Rạng không đáp, anh lẳng lặng đẩy cửa bước vào. Ba Hoàng vội đứng lên:
- Thưa thiếu tá...
- Có việc gì gấp vậy? Khuya rồi... Ngồi đi!
Hai Rạng vào phòng trong, thay bộ Pi-za-ma, bước ra.
- Làng Cát lâu nay không an toàn, nếu xuống đó, thiếu tá cần cẩn thận, và nên đi bằng ôtô.
- Đó là chuyện riêng của tôi. - Hai Rạng ngồi xuống ghế, đối diện
với Ba Hoàng, giọng không mấy vui. - Đại úy gặp tôi chắc không phải vì việc đó!
- Dạ đúng, thưa thiếu tá... Mụ Tư Đởn...
- Sao?
- Mụ ấy chết rồi...
- Chết rồi?... Tắc trách, hết sức tắc trách! Tôi đã nói hoài mà mấy ai nghe. Họ là dân đen, họ không phải đối tượng... Mục đích đâu phải mấy người đàn bà đó mà là những kẻ cầm đầu, những kẻ nguy hiểm...
- Thưa thiếu tá, loại người như Tư Đởn cũng hết sức nguy hiểm, phải dằn mặt. Đành rằng tụi lính của tôi có quá tay, nhưng...
- Quá tay! Tính mạng một con người mà dửng dưng vậy sao? Đại úy đã nghe câu này chưa, tạo ra lửa, lửa sẽ liếm mặt... Vụ bắt bớ, tàn sát ở làng Cát vừa qua chắc cũng vì quá tay? Đại úy đã nghe dân làng Cát đang réo Quốc gia là bất nhẫn chớ? Muốn thắng trong cuộc chiến này phải được lòng người.
- Dân làng Cát vốn có thâm thù với Quốc gia...
- Bởi sao? Bắn giết vô cớ. Bởi coi mạng người quá nhẹ. Đại úy chớ cài thù riêng vào sứ mệnh Quốc gia nghe. Đôi bên càng đua nhau giết hại càng thêm oán thù.
- Với loại cứng đầu phải có biện pháp rắn... Thưa, tôi định sáng mai  đưa  xác  mụ  Tư  Đởn  về  làng  Cát,  nhân  đó  răn  đe...  Muốn  trình thiếu tá.

- Răn đe? Đó đã phải biện pháp hay?
-  Tôi  là  người  làng  Cát,  nên  tôi  rõ  người  làng  Cát.  Càng  nhu nhược, dân ở đó càng lấn tới, và nhờn.
- Không đơn giản như đại úy nghĩ đâu. Triết lý phương Đông là lấy nhu chế cương...
- Nếu thiếu tá cho phép... Biện pháp nào phục vụ lý tưởng Quốc gia hữu hiệu đều cần thực thi.
-  Câu  đó trong  kinh thánh là:  để  đạt  được  mục  đích, biện  pháp nào cũng tốt!
Ba Hoàng đi rồi, Hai Rạng ngả người ngồi lặng trên ghế. Thằng cha cà trớn, dựa thế là người của đại tá Hưng nên hay làm càn - Hai Rạng bực bõ nghĩ. Hai Rạng vốn không ưa những biện pháp bạo lực một cách thái quá mang tính vô chính phủ, hằn học, trả thù cá nhân. Mục đích của Hai Rạng rất rõ ràng, bổn phận là phụng sự lý tưởng tự do của Quốc gia và sự phồn thịnh của dân tộc trong ý thức văn hóa và nhân văn. Với Cộng sản phải kiên quyết tiễu trừ, vì đó không chỉ là mầm họa trước mắt mà còn là mầm họa lâu dài nhằm bảo vệ sự tồn tại chính  đáng  của  chính  thể  cộng  hòa  theo  đường  lối  tự  do  trong  một lãnh thổ độc lập, nhưng như vậy không có nghĩa phách lối, dọa nạt và có những hành vi vô luân với dân thường. Dân bao giờ cũng là gốc của mọi sự. Vừa phải cải hóa họ vừa phải biết dựa vào họ. Không ý thức được điều đó khó bề giành thắng lợi trong cuộc chiến dai dẳng giằng co này. Đã nhiều lần Hai Rạng trình bày quan điểm của mình trước thượng cấp và đồng nghiệp. Nhiều người ủng hộ, nhưng không ít  kẻ  dè  bỉu  cho  rằng  Hai  Rạng  nhu  nhược,  thiếu  tư  chất  mạnh  mẽ quân nhân và sự quyết đoán cần thiết nhiều lúc buộc phải nhẫn tâm của một sĩ quan quân lực cộng hòa. Tuy vậy cấp trên và cả các chiến hữu đồng liêu, đồng niên không ai không thừa nhận Hai Rạng là một sĩ quan có học, hăng hái  và  mẫn cán. Ngay Ba Hoàng, phó của  Hai Rạng không mấy ưa cách  xử sự nhiều khi thiếu kiên quyết, nửa  vời của  viên  thiếu  tá,  nhưng  trong  thâm  tâm  kẻ  vô  chữ  này  vẫn  có  chỗ giành để quy phục, nể trọng. Không hẳn vì Hai Rạng là cấp trên trực tiếp của y, mà bằng những nhận biết bản năng vô thức, Ba Hoàng rõ rằng Hai Rạng là người hết lòng vì lý tưởng Quốc gia. Con người này am tường nhiều điều và biết áp dụng những kiến thức đó trong điều hành,  trong  chỉ  huy.  Và  nữa,  Ba  Hoàng  quá  rành  rằng  Hai  Rạng  là người đàng hoàng, dửng dưng với những nhu cầu vật chất. Không cầu cạnh,  không  ham  hố  quyền  chức,  cũng  không  trai  gái, cờ  bạc,  rượu chè như phần đông các sĩ quan khác. Thời Hai Rạng mới được điều về đây, viên đại úy hết sức ngạc nhiên khi thấy những lúc rảnh rỗi, Hai Rạng tự giam mình trong phòng và chỉ làm một việc là chúi mũi vào sách vở. Hai Rạng nghiền sách như người khác nghiện ma túy, nghiện gái...
... Hai Rạng đổ người ra ghế, với tay lấy cuốn Bàn về chủ nghĩa duy vật vẫn để cạnh bàn. Viên thiếu tá có thói quen đọc một cái gì đó trước khi đi ngủ. Nhưng khác với mọi bận, tối nay những con chữ chỉ lướt  qua  một  cách  vô  hồn, vô  nghĩa. Mắt  dán vào  trang  giấy  nhưng đầu óc Hai Rạng lại mông lung nghĩ đến chuyện khác. Hình ảnh Tư Nhâm,  rồi  hình  ảnh  người  đàn  bà  đã  công  khai  đoạn  tuyệt  với  Hai Rạng thậm chí ngang nhiên đi theo viên đại úy dù to con chập chờn chắp nối hiện lên, lướt qua... Cuộc  đời cứ như trò bỡn cợt tinh quái của thượng đế, ngỡ rối rắm ngẫu nhiên, nhưng xét kỹ thì không phải thế, mọi sự  ở  đời  có lẽ  đã  được  sắp đặt sẵn trong  một trình tự  định mệnh bởi bàn tay nhào nặn vô hình có quyền năng tối thượng nào đó. Tình cờ gặp lại Tư Nhâm tại làng Cát, viên sĩ quan cho rằng đó cũng là sự sắp xếp thú vị có chủ ý của số phận. Và Hai Rạng tin vào kết quả của sự sắp xếp đó. Con người Tư Nhâm, bằng những gì Hai Rạng cảm nhận hình như đã tạo nên một trường lực làm xáo trộn, làm thay đổi cuộc  đời  vốn  đơn  điệu  có  cái  gì  đó,  nói  như  bạn  bè  vẫn  giễu,  nhàn nhạt và bất cần nơi anh. Hai Rạng cũng ngạc nhiên nhận ra sự khác lạ trong  mình.  Chưa  bao  giờ  anh  có  tình  cảm  mãnh  liệt,  say  mê,  đắm đuối dằn vặt đến khổ sở như thế. Ngay cả lần yêu đầu tiên, tình cảm ấy hình như cũng chỉ là một tia chớp tựa sự ngẫu hứng nhất thời, một bản năng đã trở thành thói quen vốn hình thành ở con người trong quá trình tiến hóa. Nhưng tình yêu đối với Tư Nhâm khác hẳn. Nó vừa là nhu cầu tự thân, vừa là định mệnh. Nó đan xen giữa những kỷ niệm, những tình cảm  đã  có đến lúc trỗi dậy và  những tình cảm  mới  hình thành do va  đập và trải nghiệm. Nó hòa  trộn giữa sự khát thèm  bản năng giống đực trước con cái có nhiều khả năng gợi mở nhu cầu đực cái cộng ý thức người lượm lặt qua sách vở. Tình yêu của Hai Rạng vừa ẩn chứa nét lãng mạn vừa mang sắc thái đời thường. Đau khổ và hy vọng. Thấp thỏm và lo lắng. Tư  Nhâm  càng có ý ngại ngần mặc cảm, Hai Rạng càng cuống quýt, mê cuồng... Tình yêu là gì, Hai Rạng không thể lý giải. Trước khi gặp lại Tư Nhâm anh chưa bắt gặp tình cảm  như  vậy.  Thời  Thiện  Trang  bỏ  Hai  Rạng  theo  người  đàn  ông khác, nói rằng không đau, không đúng, nhưng chỉ thời gian rất ngắn anh đã nguôi ngoai, lấy lại được thăng bằng. Sự không chung tình của người vợ khiến Hai Rạng trở nên lạnh lùng dửng dưng, chán ghét đàn bà trong ý thức tự trọng chứ không hành hạ anh về mặt tinh thần cũng như thể xác. Thậm chí có lúc anh quên rằng mình đã từng có một đời vợ. Tình cảm dửng dưng ấy phải chăng bởi giữa anh và Thiện Trang có  quá  nhiều sự  khác  biệt  trong  lối  sống  hay  vì tình  yêu  đến  chóng vánh  nên  ra  đi  cũng  vội  vàng?  Những  năm  đó,  lúc  còn  đồn  trú  tại thành phố biển Nha Trang, Hai Rạng là một sĩ quan trẻ, hào hoa. Anh có khuôn mặt đượm buồn hao hao khuôn mặt các thi nhân thời trung cổ và ánh nhìn ngơ ngác ngây thơ. Nhưng nét ngu ngơ ấy lại gây được sự chú ý của phái đẹp. Các cuộc vui ở câu lạc bộ quân nhân, nhiều cô, nhiều bà muốn được anh mời nhảy. Hai Rạng có bước đi đẹp, cái hất mặt điệu đà gây ấn tượng, phong thái lịch lãm. Những lúc vắng anh trên sàn, người ta cảm giác như hôm đó thiếu thiếu cái gì...

Anh  và  Thiện  Trang  gặp  nhau  trong  một  lần  anh  mời  cô  nhảy. Đúng hơn là cô gợi ý để buộc anh phải mời cô. Hai người làm quen rất nhanh. Hết điệu tăng gô anh đưa Thiện Trang lại bàn và gọi cho cô sôđa, còn mình uống một ly nhỏ rượu nhẹ. Thời gian uống hết ly nước và  những  câu  chuyện  chắp  nối  đủ  tin  cậy  để  Thiện  Trang  nhờ  Hai Rạng đưa mình về. Họ đi dọc bãi biển. Bàn chân lún trên cát. Đêm về nước đứng, sóng lười nhác mài lên bãi, âm thanh nhè nhẹ tựa hơi thở mệt  nhọc,  cảm  giác  đại  dương  đang  liu  thiu  ngủ.  Thiện  Trang  thú nhận rằng cô để ý đến anh đã lâu. Hai Rạng cười, cho rằng người đẹp giễu mình.
- Yêu nhiều rồi mà không hiểu tâm lý phụ nữ.
- Yêu ư? Đời lính tội nghiệp mà.
- Xạo... Người như anh các quý mợ ở phòng trà lại buông tha?
- Nghĩa là sao?
- Anh chưa đến với đàn bà thiệt?
Hai  Rạng  không  hiểu.  Anh  dừng  lại,  nhìn  ra  biển.  Ngoài  xa, thuyền câu mực đỏ đèn như sao sa.
- Trả lời đi chớ!
- Trả lời?... Tôi là kẻ vô duyên...
Câu chuyện nhấm nhẳng không đâu vào đâu đại loại như vậy đưa họ đi hết bãi biển. Đến mút con đường, Thiện Trang chủ động vòng trở lại. Hai Rạng ngoan ngoãn bước theo.
- Nhà Thiện Trang ở đâu?
-  Anh  vội?...  Em  muốn  đi  suốt  đêm  nay...  Biển  đẹp  quá...  Anh không thấy vậy sao?
... Sau ngày cưới, hình như hai người vẫn chưa hiểu hết về nhau. Đêm tân hôn Hai Rạng lóng ngóng hệt một gã trai mới lớn. Khi nhìn thấy cơ thể lăn lẳn của Thiện Trang không một mảnh vải trên người trắng hồng, thành thạo và chủ động phơi dưới ánh đèn ngủ, anh ngợp, thở  gấp,  run  lên  luống  cuống.  Máu  dồn  lên  đầu,  anh  hấp  hả  quờ quạng,  rồi  líu  ríu  trườn  lên.  “Không  phải  vậy!  Không  phải  vậy!”  - Thiện Trang sợ hãi la to. Nhưng cô đã không cứu vãn được tình thế. Sự phấn khích thái quá trong nỗi ham muốn ít chuẩn bị của người đàn ông nơi Hai Rạng khiến khúc dạo đầu thất bại. Hai Rạng đã ném đá vào chỗ không người. Thiện Trang nhanh chóng hiểu điều gì xảy ra. Cô  thất  vọng  vùng  dậy,  khoác  vội  chiếc  áo  liền  váy  mỏng  tang,  và mặc cho Hai Rạng lỉu xỉu ngơ ngác, cô chán chường rời giường ngủ và bực bõ đổ xuống chiếc xa lông. “Đụt!” - Từ cổ họng Thiện Trang vô thức buột ra một tiếng. “Anh xin lỗi. Anh sẽ...” - Hai Rạng buồn bã nói, tỏ ra là người biết lỗi và gượng gạo mon men lại gần vợ. Thiện Trang khẽ thở dài, không để ý đến sự vò đầu bứt tai hối lỗi của anh, cô  với  cốc  nước  trắng  rồi  lẳng  lặng  bước  ra  hành  lang,  nhìn  xuống biển... Nhưng những hôm sau tình thế khác hẳn. Thiện Trang đã khôn ngoan và kinh nghiệm biến Hai Rạng thành con gấu dũng mạnh sung sức.  Anh  lấy  lại  được  phong  độ  một  con  đực  khỏe  mạnh,  đam  mê. Song mọi nỗ lực cũng chỉ đáp ứng được phần nhỏ sự ham muốn có cái gì đó thái quá ở người vợ trẻ. Hai Rạng hết sức ngạc nhiên về sự đòi hỏi của Thiện Trang. Trời phú cho người phụ nữ này năng lực ít thấy. Nhu cầu của cô gần như vô tận. Cô không chấp nhận có khoảng trống nghỉ ngơi. Đêm nào Thiện Trang cũng vần vò và hành hạ Hai Rạng bã bời. Anh đã gắng, nhưng mọi sự cố sức chỉ là muối bỏ bể. Sáng ra anh tã tượi liêu xiêu ra khỏi nhà, đó là khoảng thời gian Thiện Trang thư giãn nghỉ ngơi hồi lại sức để đêm đến chủ động thả phanh làm con cái hung dữ...
Cuộc  sống  gia  đình  dịu  ngọt,  hạnh  phúc.  Tối  tối  hai  người  đưa nhau đến quán trà, đến câu lạc bộ. Thời đó Nha Trang vẫn yên ả. Tin tức về những cuộc đụng độ đâu đó với Việt Cộng vọng tới không làm thành phố mất đi những cuộc vui. Bãi tắm vẫn đông khách. Quán bar tấp nập người vào ra. Câu lạc bộ quân nhân ít khi vắng mặt các sĩ quan. Và đường phố vẫn vờn ve, dìu dặt gái điếm... Hai Rạng vốn ít có nhu cầu, anh bằng lòng với cuộc sống dung dị của mình. Thiện Trang lại khác, hình như vẫn có cái gì đó chưa thỏa mãn. Cô mua sắm ngày mỗi nhiều. Vài ba hôm lại tậu một bộ quần áo, loại xịn, đắt tiền. Giầy, dép không còn chỗ cất... Và thích xuất hiện ở các vũ trường. Hầu như đêm nào cũng bắt Hai Rạng đưa tới. Giờ nghỉ giữa hai cuộc nhảy cô không uống sôđa nữa. Cô khoái rượu mạnh. Hai Rạng có những dấu hiệu mệt mỏi. Anh đề nghị mỗi tuần chỉ đến vũ trường hai lần. Anh muốn có thời gian đọc sách. “Em đành đi một mình vậy.” Mọi chuyện nảy sinh từ đó. Gã  đại  úy  dù  đầu  tiên  chỉ  xuất  hiện  trong  câu  chuyện  kể  của  Thiện Trang.

- Lão ấy mời em nhảy, rồi mời đi dạo bãi biển... - ở vũ trường về Thiện Trang tụt váy áo ra sàn, hăm hở khoe - Trông bộ ga lăng lắm.
- Em đang nói tới ai? Bạn mới phải không? Và hôm sau:
- Hắn nói rằng hắn biết anh!
- Ai?
- Cha đại úy dù. Hình như hai người cùng học ở trường võ bị... Lão mới chuyển qua Nha Trang, làm công tác tham mưu ở quân đoàn Hai...
- Vậy à? - Hai Rạng đặt cuốn sách xuống xa lông - Em biết anh ta học khóa mấy không?
- Lão có cái tên rất điệu đà, Nguyễn Long Trần Hùng.
- à, thằng Hùng cồ. Cao to và tán gái rất mả...
- Coi bộ cũng dễ thương...
Những hôm  kế đó mãi gần sáng Thiện Trang mới mò về. Khác với mọi lần, cô không hành Hai Rạng nữa, thậm chí khi anh có ý hỏi chuyện, cô mệt mỏi ngáp:
- Ngủ nhé... Em mệt lắm.
Thiện Trang thiếp đi rất nhanh. Sau đó là chuỗi ngày Hai Rạng chong đèn chờ vợ nhưng Thiện Trang không về. Cô có nhu cầu đi cách đêm...
Chừng tháng sau, buổi chiều, khi Hai Rạng vừa ở nhiệm sở về đã thấy Thiện Trang ngồi ở phòng khách có ý chờ. Cạnh cô là mấy chiếc va ly khá to. Hai Rạng ngạc nhiên:
- Em định...?
Thiện Trang không mảy may bối rối, cô chỉ chiếc ghế:
-  Anh  ngồi...  Em  muốn  nói  chuyện  với  anh...  Em  không  thích biến mình thành kẻ dối trá. Anh không đáng phải chịu như vậy. Em sẽ đi khỏi đây...
- Thằng Hùng phải không?
- Chẳng ai có lỗi trong chuyện này. ừ, cứ cho rằng em là kẻ phiêu lưu... Nhưng cuộc đời ngắn lắm... Em thừa nhận mình ích kỷ. Em chỉ sống cho bản thân, chỉ nhằm thỏa mãn mình... Em không rõ rằng đó đã  phải  tình  yêu  chưa,  nhưng  thấy  hợp,  thấy  không  thể  thiếu  con người đó. Em cần người đàn ông ấy... Anh thứ lỗi nhé.
Giọng Thiện Trang ráo hoảnh. Sau này khi đã an bài, Hai Rạng có  thù  hận  nhưng  cũng  thầm  cám  ơn  sự  sòng  phẳng  trung  thực ở người phụ nữ đa tình này.
Hai Rạng trốn khỏi Nha Trang vì nhiều lẽ. Anh muốn ẩn mình. Anh muốn quên quãng thời gian ngắn ngủi có nghĩa và vô nghĩa vừa qua. Hai Rạng cần tập trung tâm lực vào công việc phụng sự lý tưởng Quốc gia... Ai dè... Nếu mỗi cuộc đời đều đã được định sẵn thì rõ ràng việc gặp lại Tư Nhâm ở làng Cát là nằm trong sự sắp đặt ấy. Nó làm đảo lộn tình cảm và cuộc sống của Hai Rạng thì đó là lẽ hiển nhiên... Hai Rạng tin như thế.

III



Khu rừng có cái tên là lạ, rừng ẩn. Có người kể, xưa kia đây là chốn cư ngụ ẩn nấp của nhiều loài thú dữ, chúng thường về làng quậy phá, gây lắm  hiểm  họa. Thậm  chí đã có kẻ mất mạng. Lại có người nói khu rừng là nơi ẩn náu của bọn đạo tặc, thảo khấu, bọn tội phạm chống  đối  triều  đình.  Ban  ngày  chúng  ẩn  trong  những  hốc  cây  hẻm núi, đêm về túa ra đường cái cướp bóc. Dân trong thị tứ Lân Cồ thì giải thích, hồi đánh Chiêm Thành, Lê Thánh Tông đã bí mật lấy khu rừng  nay  làm  điểm  giấu  quân,  ẩn  tướng  nên  mới  có  tên  rừng  ẩn.  ở làng Cát vẫn lưu truyền câu chuyện rằng, thủa xửa xưa khi làng Cát và Lân Cồ chưa mang tên, còn hoang sơ, chỉ là đám bùn lầy lội, có đôi vợ chồng trẻ nọ từ đâu xa lắm kéo tới lập nghiệp. Năm tháng qua đi và họ sinh hạ được hai cậu con trai rất khôi ngô tuấn tú. Chồng làm nghề
chài lưới, ngày ngày ra biển kiếm tôm bắt cá. Vợ khai khẩn đất hoang, trồng  cây  gieo  lúa  và  chăm nom  con  cái...  Nhưng  cuộc  sống  hạnh phúc ấy không kéo dài được lâu, một ngày nọ nhà Vua đã lần ra manh mối hai người và phái lính tới bắt để dẫn giải về kinh. Người vợ chính là công chúa, con gái út đức kim Hoàng thượng, còn chàng trai là gã đánh cá chiều chiều vẫn thả trôi thuyền dọc sông, và ngồi trên mũi thổi sáo.
Tiếng sáo của chàng như có ma lực khiến mây ngừng trôi, chim ngừng bay, và cây cỏ râm ran hòa theo. Mỗi lần tiếng sáo réo rắt cất lên đất trời một vùng xao động... Chiều về, công chúa đứng trên lầu thổn thức, chờ đợi lắng nghe tiếng sáo. âm thanh dìu dặt lúc bổng khi trầm phát ra từ đoạn sáo trúc lan tỏa khiến con gái út đức Vua xao xuyến. Công chúa cảm tiếng sáo, rồi đem lòng yêu chàng ngư dân. Thỉnh thoảng nàng vẫn lẻn ra sông, cùng lên thuyền, theo chàng đi dọc bờ cho tới tận lúc trăng mọc. Hay tin, nhà Vua nổi cơn thịnh nộ, ngài Ngự lệnh đuổi chàng trai biệt xứ, không được đánh bắt cá trên dòng sông này nữa... Chiếu chỉ chưa kịp thực thi thì đêm hôm ấy, công chúa ôm khăn gói cùng người tình trốn khỏi kinh thành. Họ đã đến vùng cát ven biển này... Khi triều đình hay tin, sai quân lính tới, gia đình chàng ngư phủ bèn dắt díu nhau chạy lên rừng. Họ ẩn ở đó. Mấy lần quan quân truy bức, nhưng mỗi lần như vậy, thú dữ nơi đây lại làm rào chắn che cho vợ chồng con cái gia đình nhà nọ... Từ đấy họ yên ổn ẩn trốn. Chẳng rõ câu chuyện có liên quan gì đến cái tên của khu rừng?
Rừng ẩn chếch về phía tây và cách Lân Cồ chừng ba bốn cây số. Đêm đêm đứng trong rừng vẫn có thể nhìn thấy quầng ánh sáng mỏng mảnh nơi thị tứ hắt lên. Từ đây qua sông Thạch Bàn đi tắt về làng Cát không quá một canh giờ. Xưa kia đàn ông vùng này vẫn dắt dao sau lưng lom khom lần lên kiếm củi, hái thuốc. Họ quan niệm rằng rừng ẩn là chốn linh thiêng, là nơi huyền bí, ai có tâm có phúc đều được thần linh nơi đấy che chở, phù hộ... Đường lên núi gập ghềnh, khó đi, nếu không thành tâm sẽ khó lần ra lối về, dễ làm mồi cho thú dữ...
Biết rừng ẩn là căn cứ du kích Việt Cộng, mấy lần binh lính Quốc gia được lệnh càn lên, nhưng rừng ẩn mịt mờ, đường đi lối lại ngoắt ngoéo dễ vào khó ra, u u minh minh thiên la địa võng, Việt Cộng lại ẩn hiện khôn lường, bởi  vậy kéo quân đi rồi lại tơi tả chán nản kéo quân về. Đánh vào rừng ẩn khác nào đấm vào bị bông.

Mấy ngày qua  rừng ẩn ẩm  ướt trĩu nặng. Mây sà thấp vờn trên ngọn cây. Rồi mưa. Nước trên đồi cao đổ về không ngớt. Những con suối mùa khô co lại, dịp này phình nở, chảy ầm ầm...
Trong hang đá lưng chừng núi, chiều nay có cuộc họp của cán bộ làng Cát. Sau ngày Tám Phụng làm phản và sau trận càn gần đây, hết thảy cán bộ chủ chốt và du kích của làng đều lánh lên cứ. Ai cũng ý thức rằng đây là biện pháp tình thế, biện pháp tạm thời. Phương châm là phải bám dân, bám địa bàn... Hơn  chục  con  người  ngồi  quanh  chiếc  bàn  ghép  bằng  nứa.  ánh sáng từ cửa hang hắt vào mờ mờ... Bí thư chi bộ Ba Tánh nhìn khắp lượt mọi người:
- Ta bắt đầu nghe. Tôi triển khai nhanh để các bộ phận còn vào việc. Tình hình thế nào các anh biết cả rồi. Âm mưu của địch là tìm cách triệt phá cho bằng hết đảng viên, cán bộ, du kích và cơ sở ở làng Cát. Sự phản bội của Tám Phụng đã gây ra không ít tổn thất. Các anh Nguyễn Đình Thanh, Lương Thúc, Đinh Hiệt, Đào Khắc Độ, Nguyễn Bách, Hoàng Mai... người thì bị giết, người bị bắt...
-  Tôi đề nghị tìm cách thịt Tám Phụng! - Xã đội trưởng Mười Bàng chợt  nói to. Anh nhấp nhổm trên ghế  như người ngồi đúng tổ kiến lửa.
-  Chuyện đó rồi tính! - Ba Tánh nói - Nhưng cảnh cáo Tám Phụng không dễ nghe. Từ ngày chiêu hồi Tám Phụng ru rú trong đồn của Ba Hoàng suốt...
- Không diệt Tám Phụng thì diệt Trần Nhũng...
- Anh Mười để tôi nói hết đã... - Ba Tánh ngắt lời xã đội trưởng. Tuy bằng tuổi lại ở cương vị bí thư nhưng lúc nào Ba Tánh cũng tôn trọng Mười Bàng. Anh rõ Mười Bàng nóng nảy nhưng là người bộc trực, tốt tính và hăng hái; còn dũng cảm thì khó ai bì. Từng một mình một súng xông vào làm náo loạn hội đồng xã khiến Trần Nhũng và đàn em xanh mặt. - Tôi nhất trí với ý kiến anh Mười, để lấy lại lòng tin cho dân, một mặt ta phải củng cố lực lượng, mở rộng cơ sở, mặt khác phải cảnh cáo một số tên ác ôn...
- Chuyện đó chúng tôi lo được!... - Mười Bàng sốt sắng.
- Không quá dễ như thọc túi lấy quả mận quả ổi đâu, nhưng phải làm... Kế hoạch cụ thể tôi đề nghị anh Mười chủ động bàn thêm với anh  em  du  kích.  Nhưng  nhớ  đấy  cũng  là  biện  pháp  trước  mắt,  chủ trương lâu dài, tỉnh chỉ thị phải có nhiều trận đánh lớn.
- Ai chẳng khoái đánh lớn, nhưng tìm đâu ra vũ khí, anh Ba?
- Anh hỏi tôi, tôi hỏi ai?
-  Bí  thư  về  bảo  sắp  có  súng  đạn  mà  mong  hoài  vẫn  bằn  bặt... Định đánh địch bằng cùi chỏ sao?
-  Điều  ấy tỉnh biết, huyện biết  và  đang tìm  cách  gỡ... Mấy  ổng còn lo hơn anh em mình... Chuyện tiếp nhận súng đạn là chuyện dài dài, tiến  biến tới  đâu trên phổ  biến đến  đó... Có  cơ  sở  vững, có lực lượng mạnh mới nói tới việc nhận vũ khí được... Hôm rồi Sáu Sinh có nhắc lại rằng trong khi chờ đợi, làng Cát phải hành động. Lấy vũ khí địch đánh địch và tận dụng mọi thứ có trong tay.
- Khó lắm! Mấy khẩu moi ở đất lên, khi bóp cò, đạn không nổ. Tôi ngán cách nói tận dụng mọi thứ trong tay quá trời...
Mười Bàng có cái lý của Mười Bàng. Anh đã nhiều phen len lỏi vào tận sào huyệt bọn trùm ác ôn, tưởng đã ăn chắc, ai dè khi bóp cò, súng không nổ, lanh trí  đưa  được  cái mạng thoát ra khỏi chốn hang hùm ổ sói đã là may. Những lần vậy Mười Bàng bực bõ, vò đầu bứt tai tiếc hùi hụi.
- Chẳng lẽ mình cứ ngồi chờ...
- Không chờ..., là nói để lường cho hết.
- Bây giờ tôi chuyển qua chuyện trước mắt... - Ba Tánh nói tiếp. - Ngay trong đêm nay tôi đề nghị huy động bà con làng Cát đấu tranh chôn cất thím Tư cho chu đáo. Đây là việc nghĩa việc tình và cũng là cách biểu thị thái độ của chúng ta...
- Chuyện thím Tư, nhỏ Ba Thành biết chưa, anh Ba? - Có người hỏi.
- Việc đó anh Sáu Sinh khắc có cách, khỏi lo đi...
- Ba con thằng Ba Hoàng là lũ nhẫn tâm. Hồi nhỏ thằng chó này vẫn lê la tới nhà thím Tư chơi với thằng Thanh thằng Thành đó chớ. Đồ phản phúc! Tôi mà có súng...
- Khỏi dài dòng nữa, anh Mười. Chuyện ba con Trần Nhũng có nói suốt buổi cũng không hết. - Ba Tánh ngước lên. - Sắp tối rồi, các bộ phận chuẩn bị còn qua sông về làng cho kịp. Nhớ không quá khích gây tổn thất nghe.

... Đêm đó trời tối thui. Làng Cát đông cứng trong nỗi thấp thỏm. Nơi bãi dương đoàn người kéo thành một vệt dài lặng lẽ bước. Bóng họ liêu xiêu hắt lên nền trời đen đặc. Đám đàn bà con gái đi trước. Kế đó là những người  khênh quan tài. Đàn ông chốt hậu. Mọi người  đi chậm. Qua bãi dương. Qua trảng cát. Cuối cùng dừng lại bên gò đất trống. ở đó một hố sâu đã được đào sẵn.
Sáng hôm trước, từ Lân Cồ hai chiếc xe nhà binh vội vã cắn đuôi chạy về làng Cát. Chiếc xe Jeep dẫn đầu. Phía sau là chiếc xe tải. Thi thể thím Tư Đởn, thằng con trai Trần Nhũng cho đặt trên đó. Đến sát bãi dương hai chiếc xe dừng lại. Ba Hoàng từ chiếc Jeep nhảy xuống. Viên  đại  úy  vẫy  tay,  bọn  lính  lập  tức  xúm  vào  khiêng  xác  thím  Tư. Người thím quắt hóp, bê bết máu, cứng khô. Ba Hoàng chọn một chỗ đất cao và lệnh đặt thím lên đó. Rồi thằng đại úy hô:
- Vô làng lùa dân ra. Già trẻ lớn bé gì xua hết!
Gần trưa lính Ba Hoàng cũng đưa được hơn chục người, đa phần là ông bà già và trẻ con ra mô đất trống gần bãi dương, nơi có thi thể người đàn bà làng Cát. Viên đại úy nhìn khắp lượt mọi người, ánh nhìn hăm dọa, rồi y nói:
- Các người nhìn cho thiệt rõ để làm gương nghe. Theo Cộng sản, tiếp tay cho Cộng sản số phận sẽ là vậy... Ai có ý chôn Tư Đởn cũng sẽ bị phơi nắng như Tư Đởn đó.
Nhiều tiếng sụt sùi. Có người lau nước mắt.
- Các người cứ nhìn cho kỹ nghe!
Nói rồi Ba Hoàng vẫy tay, đám lính nhâng nháo nhảy lên chiếc xe tải. Hai chiếc xe lại cuốn bụi hướng về phía Lân Cồ.
Xác thím Tư phải qua hai ngày nằm phơi dưới nắng, tối nay mới được  dân  làng  mang  đi  táng.  Khi  mọi  người  chuẩn  bị  hạ  huyệt,  từ trong làng hơn chục dân vệ do Nguyễn Xấn chỉ huy hò nhau chạy tới. Gã chỉ huy dân vệ chững lại trước đám đông, hô:
-  To  gan!  Ai  cho  các  người  chôn  cất  mụ  Cộng  sản  này.  Đã  có lệnh trên là phơi nắng đến khô...
Ông Năm Bào bước lên:
- Nói vậy mà không sợ phải tội sao ông dân vệ? Thím Tư cũng là người làng Cát như ông đó.
- Mụ đã che chở cho Sáu Sinh, trùm Cộng sản vùng này.
- Ông chớ quên ông giáo Sáu đã từng dạy chữ con ông nghe...
- Không lý luận. - Nguyễn Xấn quát - Anh em dân vệ, đưa xác Tư Đởn về chỗ cũ.
Đám lính rấn vào chỗ chiếc quan tài. Mấy người đàn ông vội cản lại.
- Các chú chớ làm vậy, thất đức.
- Bọn này chỉ biết làm theo lệnh.
- Không được! - Ông Năm Bào đưa tay, huơ con dao bài to bản trông như cây đao của Quan Vân Trường, đứng chắn trước quan tài, nói  to.  -  Kẻ  nào  đụng  vào thím  Tư  Đởn  hãy  bước  qua  xác  lão  đây. Sống ngần này tuổi cũng đủ rồi!
Bọn lính chùn lại. Nguyễn Xấn giẫm chân:
- Định làm loạn phải không?... Gô cổ Năm Bào...
Bọn dân vệ  lại xông vào.  Đám  đông dân làng cũng ào lên. Đôi bên giằng co... Một phụ nữ nói to:
- Anh em dân vệ! Bọn họ giết người mà không cho chôn cất, xét về đạo lý anh em thấy có được không? Cùng là người làng anh em nên để bà con lo cho thím Tư mồ yên mả đẹp...
Có báng súng thúc mạnh vào bụng Năm Bào, ông ối một tiếng, quặn người lảo đảo. Nguyễn Xấn giật khẩu cạc bin trên tay một dân vệ, định bắn, nhưng  đám  đông đã  kịp vây  quanh  ông Năm, Nguyễn Xấn chới với giữa đám người... Trong lúc đang lộn xộn, những người ở gần quan tài đã nhanh trí đưa được thím Tư vào huyệt, và tùa nhanh đất xuống. Nguyễn Xấn bứt ra khỏi đám đông, chĩa súng lên trời, bóp cò. Tiếng nổ vang đanh trong đêm. Mọi người giãn ra.
- Ai dám phản loạn sẽ bị trừng trị. - Nguyễn Xấn nói to - Đừng tưởng người cùng làng nên tụi này chùn tay nghe.

Dân làng đứng im nhìn gã chỉ huy dân vệ. Người phụ nữ lúc nãy bước tới:
- Ông Xấn, ông chớ quên mình cũng là người làng Cát... Người làng mình sống có nghĩa tình. Ác quá sợ rồi chết lại không có đất chôn...
- Mụ dọa ta hả?
- Không ai dọa ông... Nhưng ông cứ ngẫm đi...
Nguyễn Xấn lúng túng, ngó trước nhìn sau, thấy đám dân vệ trơ ra, bèn nói to:
- Các người tự gây họa thì ráng chịu nghe. Ngày mai liệu mà ứng phó với lính của Ba Hoàng... Đi tụi bay.
Cũng tối ấy, Ba Thành và Sáu Quyên ngồi trên chiếc thuyền nhỏ, vượt sông Thạch Bàn về làng Cát. Mùa này dòng sông rộng ra, nước đỏ lừ, chảy cuồn cuộn. Vừa nhảy lên bờ Ba Thành đã có ý nhào vào làng.
-  Chú  Sáu  dặn  dò  sao,  em  quên  rồi,  Ba? - Sáu Quyên làm bộ nghiêm vội giữ Ba Thành lại.
- Chị ơi, chị cho em  được nhìn mặt má  em lần cuối... - Rồi Ba Thành chợt khóc to: Má ơi, sao má khổ thế... Con về với má rồi nè... Con ở gần má mà... Sao chúng nó ác quá vậy... Má có tội tình gì?...
Sáu Quyên thấy mủi, hai mắt cũng rưng rưng, nhưng cố gắng nuốt nước mắt vào trong, làm bộ cứng:
- Thôi mà... Chị can... Để tụi đó biết em và chị về làng nguy hiểm lắm... Nghe chị.
Ba Thành không  đáp,  ngồi  hướng  mặt  vào  rặng  cây,  khóc  tức tưởi. Sáu Quyên cũng khóc theo, có điều cô kìm không để bật to thành tiếng.
Biết tính Ba Thành, chiều nay Sáu Giáo đồng ý cho anh về làng nhưng ông cử Sáu Quyên đi kèm. “Việc đã rồi, dù thế nào cũng phải bình tĩnh nghe - Ông dặn - Chú cho Sáu Quyên theo. Và Sáu Quyên là người chỉ huy. Nhất nhất cháu phải nghe lời. Rõ không?... Xong mọi việc, khi dân làng chôn cất má và đã về làng, chị em mới được vô... Thắp hương cho má xong phải qua sông trong đêm... - Giọng ông Sáu nghèn  nghẹn -  Chú  chưa  về  được, cháu  thay  chú thắp thêm  cho  má nén  nhang...”. Nước  mắt  người  Bí thư  Tỉnh  ủy  rịn  ra. ông  vội  quay mặt sang chỗ khác, rồi ra hiệu cho Sáu Quyên và Ba Thành lên đường. Với  thím  Tư,  Sáu  Sinh  có  quá  nhiều  điều  để  nhớ  và  chịu  quá nhiều ơn huệ. Thời chín năm, khi còn dạy học ở làng Cát, thím Tư là người duy nhất biết Sáu Sinh được tổ chức cử về đây nắm địch, gây dựng phong trào. Hồi ấy Sáu Sinh ốm nhách, lại đau yếu luôn, trái gió trở trời là ôm ngực ho sù sụ. Mỗi lần thấy vậy, Tư Đởn lo lắm. Thím sốt  sắng  lần  lên  Lân  Cồ  lấy  thuốc,  tự  tay  sắc  rồi  sai  anh  em  thằng Thanh, thằng Thành mang sang. Có miếng gì ngon, thím giấu nhịn để, như thím vẫn nói, dành cho thầy giáo sắp nhỏ. Có dạo Sáu Sinh nằm bẹp tới mấy ngày như người cảm hàn; ông lang hành nghề bốc thuốc trên Lân Cồ thím mời về sau khi xem mạch người bệnh, lắc đầu, lạnh lùng buông một tiếng:
- Khó!
Thím Tư hốt hoảng:
- Không còn cách chi sao, thầy?
- Chị đủ tiền bạc theo chăng?
Tư Đởn hoang mang. Thím đào đâu ra tiền bạc! Kiếm đủ để nuôi hai thằng con đã khó... Thím ẩn tiếng thở dài, bối rối nhìn Sáu Sinh hệt giải khoai héo đang nằm trên giường, lại nhìn người thày lang có khuôn mặt bí hiểm vô hồn như khuôn mặt các pho tượng vẫn để nơi đình chùa. Một lát Tư Đởn tuông vào buồng, lục lọi trong chiếc rương gỗ rồi mang ra một hộp nhỏ được bọc kỹ qua nhiều lần vải, mở ra. Đó là đôi khuyên vàng ba má tặng hồi thím lấy chồng. Đôi khuyên từng được Tư Đởn cất giữ, coi như đồ gia bảo.

- Bấy nhiêu đủ không, thày? - Tư Đởn hỏi.
Ông lang xoay qua  xoay lại hai vật bằng kim loại óng ánh trên tay, không tin là đang cầm của báu, ngước lên:
- Chị bán thiệt? Đồ hiếm đó.
- Mạng người quý hơn chớ...
Những năm gần đây ngôi nhà nhỏ giữa xóm của thím là nơi Sáu Sinh thường xuyên qua lại. Sau nhiều năm bằn bặt, hôm Sáu Sinh lần tới ngôi nhà đó và cất tiếng gọi nhỏ, Tư Đởn ngơ ngác như thể người nằm mơ vội rón rén bước tới tâm liếp, hé nhìn rồi tròn mắt thốt lên:
- Trời phật, chú Sáu Giáo?
Sáu Sinh lách nhanh vào nhà.
- Chị cho lánh tạm nghe - Sáu Sinh ngó quanh ngôi nhà, nói nhỏ.
-  Tưởng  chú  theo  tỉnh  theo  huyện  ra  Bắc  tập  kết  chớ.  -  Giọng thím Tư chưa hết run. - Mà bấy lâu ở đâu?
Sáu Sinh vặn nhỏ ngọn đèn:
- Trên biểu phải có người ở lại với bà con... - Suýt nữa Sáu Sinh buột  mồm  phô  rằng  những  ngày  qua  ông  và  Tám  Phụng  ẩn  dưới chuồng heo nhà Năm Bào - Lần này tôi lại quay về làng Cát quấy rầy bà con.
-  Đừng  nói  chuyện  quấy  rầy.  Có  các  chú  là  bà  con  an  tâm  rồi. Cách mạng vẫn ở bên cạnh mình mà...
Lúc cao điểm tố cộng, đêm đêm lính tuần tra nện gót giày rầm rập diễu khắp làng. Nằm dưới hầm Sáu Sinh thấp thỏm không yên và ông rõ rằng trên nhà, thím Tư cũng đang dỏng tai phấp phỏng nghe chừng. Thời đó bọn dân vệ cắm tấm biển “gia đình Cộng sản” ngay trước ngõ nhà thím. Gia đình nào có người thân đi tập kết đều có “bảng đen”, danh sách đen như vậy. Những người thuộc diện thân cộng, vài ba ngày lại bị gọi lên hội đồng xã thẩm vấn... Không khí trong làng ngột ngạt, căng thẳng, cái sống cái chết cách nhau chỉ sợi tóc... Những ngày đen tối ấy thím Tư lặng lẽ nuôi giấu Sáu Sinh trong nhà. Người trong vùng không hay đã đành mà cán bộ làng Cát cũng chẳng ai biết...
Sáu Sinh nhìn theo Ba Thành và Sáu Quyên đi khuất xuống núi mới quay vào lán...  Ngồi  với  Sáu  Quyên  chờ  đợi  bên  mép  sông  Thạch  Bàn,  Ba Thành thấy thời gian trôi đi sao chậm chạp. Chiều nay chú Sáu mới báo cho Thành biết mọi chuyện... Cu Nhặt chết cháy cùng ngôi nhà, và má bị chúng nó bắt, tra tấn đến kiệt sức, rồi đưa về làng phơi sương phơi nắng... Chết rồi mà má vẫn chưa được chôn cất, sao vô lý vậy hả ông trời! Má ơi, con thương má  quá! Cả một đời sống nhân hậu, cả một đời làm phúc cho hết thảy những người gặp rủi ro khó khăn, má có làm mếch lòng một ai bao giờ. Đến con sâu cái kiến má cũng ngại ngùng, không nỡ giết hại... Biết trong nhà ngày mai chẳng còn cái bỏ vào nồi, hôm nay có người túng bấn cần giúp vẫn vét lẻ gạo cuối cùng mang sang cho họ. Một đời tần tảo lam làm hết nuôi chồng lại nuôi con, chưa một ngày má được thanh nhàn. Sao đời má lại tội vậy, má ơi! Lấy chồng chưa trọn tháng đã phải chia tay. Hồi chín năm ba đi biền biệt, hết chiến dịch này tới chiến dịch nọ. Họa hoằn lắm có ghé về cũng chỉ ở vài ba ngày, như chuồn chuồn đáp nước rồi mặc má vò võ một mình, lại ra đi. Năm này qua năm khác, vừa lận đận nuôi dạy chúng  con,  vừa  làm  phúc  làm  đức,  má  vừa  ngong  ngóng  lo  âu  cho chồng. Hòa bình lập lại, ba về, ngỡ lần này được đoàn tụ, nhưng niềm vui của má chỉ thoảng như tia chớp, mấy hôm sau ba bảo rằng mình sắp theo tàu thủy ra Bắc. Lần này ba đi thiệt xa, còn kéo theo luôn cả anh Thanh cùng đi. Má lại thấp thỏm chờ, thấp thỏm đợi. Cuộc đời má là chuỗi ngày trông ngóng khôn nguôi.  Mong  chồng,  lo  lắng  cho chồng lại mong con, lo lắng cho con... Khi con lên cứ, ngỡ có thêm cu Nhặt má đỡ hiu quạnh, đỡ buồn. Vậy mà ai ngờ... Má ơi, sao má lại khổ thế... Con biết mình phải làm gì đây? Má đi rồi mà con vẫn không được nhìn thấy mặt lần cuối. Muốn khóc to cũng gìm lại, không dám. Gầm trời này sao nhiễu nhương quá vậy chớ...
Chợt có tiếng súng từ phía cồn cát đưa lại. Tiếng nổ hậc lên trong đêm khiến bóng tối như bị xé loãng ra. Sáu Quyên và Ba Thành cùng đứng lên.

- Chúng... - Ba Thành sợ hãi thốt ra.
- Để xem chừng đã... - Sáu Quyên nói - Chắc bọn dân vệ bắn dọa nhằm ngăn không cho bà con hạ huyệt thím Tư.
- Chị cho em tới đó nghe... Em sẽ liều mạng với chúng nó.
- Không một tấc sắt trong tay em định làm gì?... Chờ động tĩnh thế nào rồi chị em mình tính...
- Má ơi!... Má ơi! - Ba Thành nấc khẽ, tiếng nấc bất lực tắc nghẽn nơi cổ họng.
Đêm mông lung. Dòng Thạch Bàn trải ra lờ nhờ bàng bạc. Gió từ mặt sông mang theo hơi nước và không khí ẩm ướt thổi lên rất nhẹ. Về khuya tiếng sóng cạp bờ nghe  mỗi rõ... Trên không trung những con chim ăn đêm bay qua bật ra tiếng kêu chéc chéc. Tiếng chim nằng nặng, tanh mùi biển. Người làng Cát cho rằng khi những con chim bắt cá đêm  ngoài khơi trở về  bất chợt cất tiếng kêu thường báo hiệu có điềm gở...
Khuya, Sáu Quyên và Ba Thành lần về phía trảng cát, nơi họ biết thím Tư được chôn cất ở đó. Sáu Quyên đi trước, Thành thấp thỏm bám phía  sau.  Vừa  đi  vừa  quan  sát.  Hàng  ngày  vào  giờ  này,  Nguyễn  Xấn thường cho dân vệ phục ở các bãi dương giáp bờ sông đón lõng du kích từ rừng ẩn về. Nhiều đêm Sáu Quyên suýt mất mạng khi vào làng bắt liên lạc. Đêm nay xem ra yên yên. Có thể bọn dân vệ nghĩ là thím Tư đã được chôn cất, nên du kích không lần xuống nữa...
Qua bãi dương, hai người nhao đến trảng cát. Đêm yên tĩnh. Chỉ tiếng  gió  lao  xao  nơi  bãi  dương  vọng  lại.  Và  trên  không  trung,  vẫn những tiếng chéc chéc khô khan báo điềm gở của những con chim bắt cá đêm. Tới  ngôi  mộ  mới  đắp  còn  nham  nhở,  Sáu  Quyên  và  Ba  Thành cùng thụp xuống. Nước mắt Sáu Quyên giàn giụa. Cô gìm tiếng khóc trong họng, miệng gọi tên thím Tư, rồi kể lể... Lúc này Ba Thành bình tĩnh hơn. Anh bật lửa, đốt nhang cắm xuống phía trước ngôi mộ, lẩm bẩm khấn:
- Má ơi, con là thằng Ba Thành, con về với má đây nè... Con về mà chẳng chút hoa quả tiền vàng, chỉ có nắm nhang nhỏ thắp lên mộ cho má... Tháng trước khi con lẻn về thăm, má giữ ở lại một đêm và đã dặn rằng gắng giữ gìn, mũi tên hòn đạn nó không từ một ai, đừng để má cô quạnh, má buồn... Vậy mà nay má bỏ con ở lại một mình, má ơi. Sao chúng nó độc ác quá vậy chớ? Con nhớ hôm đó má rờ nắn khắp lượt người con, cười mà nước mắt trào ra, rồi bảo: rắn rỏi, má mừng lắm... Ai hay đó là đêm cuối con được ngủ cạnh má và cu Nhặt. Má đặt cu Nhặt nằm giữa con và má. Thằng em nuôi thỉnh thoảng lại thức giấc, quờ tay tìm, biết má vẫn nằm cạnh, nó chóp chép miệng yên tâm ngủ tiếp... Thằng Nhặt chưa đầy năm, có tội tình chi mà bọn chúng giết?... Má ơi, tuần nhang này con thắp giùm chú Sáu, chú Sáu gửi lời thăm má đó. Má nghe rõ con nói không má?...
Giọng  Ba  Thành  nghẹn  lại,  rồi  khóc  thút  thít  như  trẻ  nhỏ. Sáu Quyên thỉnh thoảng lại nấc to... Cồn cát tối mò, bóng hai chị em nhòa vào  phần  mộ.  Xa  xa  có  tiếng  sóng  biển  mài  lên  bãi  vọng  vào,  âm thanh rời rạc, buồn tênh.
-  Em  chào  thím  lần  nữa  rồi  còn  đi,  Thành.  Trời  sắp  sáng  đó. - Tiếng Sáu Quyên nghẹn ngào, cô cúi xuống vái ba vái. - Con đi nghe thím... Sống thím ở với làng Cát nay thác xuống cùng tổ tiên thím lại về với cát mà... Thím cứ an giấc nơi đây, thỉnh thoảng về làng con lại ghé thăm... Con đi...
Ba Thành gục xuống phần mộ, chưa muốn đứng lên. Sáu Quyên nhắc:
- Nào, đừng yếu đuối vậy thím Tư buồn... Ba Thành bật khóc thành tiếng:
- Má ơi, con đi! Khổ thân má quá, sao má lại phải lạnh lẽo nằm đây một thân một mình hả má... Con đi rồi con sẽ về với má...
Có tiếng chó sủa trong làng vọng tới. Sáu Quyên ngẩng nhìn, kéo vội BaThành:
- Lẹ lên, em!
Hai  người  lần  về  chỗ  bãi  dương.  Sáu  Quyên  ấn  Thành  ngồi xuống:
- Nè, ra bờ sông và chờ chị ở đó nghe...
- Chị?...
- Vô làng một lát rồi ra ngay mà...
- Cho em đi cùng!
Không trả lời Ba Thành, nhanh như con sóc, Sáu Quyên bật khỏi những thân dương, thoáng cái đã mất hút vào bóng đêm. Cô lần về phía ngôi nhà cuối xóm của Tư Nhâm...

*

Đêm yên tĩnh. Sau những ngày mưa dầm dề bầu trời nơi rừng ẩn ráo mây, quang đãng trở lại. Nằm trên chiếc võng vải, Sáu Sinh trông rõ những ngôi sao đang nhấp nháy sau kẽ lá. Ông hít một hơi thật sâu
vào lồng ngực, khép nhẹ mắt, cố tạo thoáng thư giãn nghỉ ngơi. Ông đang  vui.  Chiều  nay  bộ  phận  quân  sự  đã  báo  cho  hay  tổ  điện  đài Trung ương cử vào đã được đón và đưa về cứ. Sáu Sinh liền tuông tới. Hóa ra toàn anh em quen biết, đều người tỉnh nhà ra Bắc tập kết thời năm tư. Ôm lấy nhau mà nước mắt giàn giụa. Mừng khôn xiết! Sáng qua nghe báo cáo rằng bộ phận công tác đặc biệt vẫn chưa bắt liên lạc được  với  tổ  điện  đài  từ  ngoài  cử  vào,  đang  ngồi  trên  chiếc  ghế  dài ghép bằng nhiều cây vầu trong ngôi lán dựng nơi khu rừng, Sáu Sinh bật dậy hệt chạm phải sâu róm. Ông lặng đi một lát rồi nói, giọng cáu bẳn:
-  Chưa  đón  được  anh  em  coi  như  chưa  hoàn  thành  nhiệm  vụ... Các đồng chí biết đây là việc hệ trọng liên quan đến một chủ trương chớ?
Người đội trưởng lúng túng;
- Chúng tôi ý thức được... Và đã lần tìm khắp các bãi, các vũng...
- Vô lý!... - Chợt Sáu Sinh quay lại và hỏi. - Đã ra vịnh Xuân Đài chưa?
- Báo cáo, chúng tôi nghĩ Xuân Đài là nơi địch thường tập trung quân nên...
Sáu Sinh ngắt lời:
- Đêm nay bố trí ra đó coi... Rất có thể anh em mình lợi dụng yếu tố bất ngờ khi địch cậy đông nên chủ quan...
- Rõ!
- Vịnh Xuân Đài rộng lại trống trải nên cần phối hợp với du kích làng Cát... Nhưng phải tuyệt đối bí mật... Có khả năng anh em mình trà trộn vào thuyền của dân.
Sáu Sinh đã đúng. Mấy hôm rồi chiếc thuyền của tổ điện đài có giấy tờ làm  ăn hợp pháp nên đã vào vịnh Xuân Đài, giả bộ như thể thuyền đánh cá của bà con ngư dân vùng bên bị lạc, ghé lại tìm nước ngọt và mua thực phẩm. Ban đêm họ lẻn lên bãi, tìm chỗ đào cát chôn giấu máy móc rồi tỏa đi bắt liên lạc. Đêm đầu không thấy ai đón, đành chờ. Đêm thứ hai phát hiện ra người cần bắt liên lạc nhưng lại phải lẩn trốn, không dám lộ diện. Nghe chuyện, Bí thư Tỉnh ủy xúc động lặng đi.  Cuộc  chiến  này  có  những  điều  thật  thần  kỳ.  Chuyện  là  vậy  mà nghe như không phải vậy... Trong mấy du kích làng Cát phối hợp với
tổ công tác đặc biệt của tỉnh đi đón “mấy anh cán bộ của khu về gây dựng  phong  trào”  có  Hai  Liên,  người  yêu  của  tổ  trưởng  Xuân.  Từ trong  hốc  đá,  phát  hiện  ba  bóng  người  đang  có  ý  dò  tìm,  Xuân  hất hàm cho một tổ viên ra hỏi ám hiệu. Nhưng anh vội kéo người tổ viên trở lại. Phía tốp người có tiếng con gái nghe quen quen: “Thuyền ai mà  mấy  hôm  rày neo  hoài  nơi  đây  vậy ta?  Hay là  thuyền  bọn thám báo,  anh  Mười?”.  Tiếng  ai  như  tiếng  Hai  Liên?  Chẳng  lẽ  lại  có  sự ngẫu nhiên kỳ lạ như vậy? “Không, tụi thám báo tới chi vùng này. - Người đàn ông đáp - Chắc mấy cha mạn trong đi đánh cá bị lạc dạt vô... Chừ vầy, chia ra, anh Sánh vòng sang núi Dừa, tôi đi dọc bờ, còn Hai Liên đi vô mạn Hòn Chồng nghe.” Hai Liên! Trời ơi, đúng cô ấy rồi... Hai  Liên, anh, Bảy  Xuân... Bảy  Xuân  đã  về  quê  đây nè... Trái tim  trong  lồng  ngực  Bảy  Xuân  đập  rộ  lên...  Nhưng  lúc  đó  có  tiếng người chỉ huy cất lên bên tai: “Nhiệm vụ này vô cùng quan trọng. Bởi vậy bí mật là yếu tố hàng đâu. Nếu lộ ra, Trung ương khó bề chỉ đạo...Về  quê, nếu  gặp  người  quen,  phải tránh.  Không  một  ai  biết  sự  xuất hiện của các đồng chí và nhiệm vụ của các đồng chí ở vùng này...”.

- Sao nhấp nhổm vậy, anh Xuân? - Người tổ viên ngạc nhiên hỏi.
- Chờ đã. Người... quen...
Tổ trưởng Xuân vốn là người trên Thượng Nghĩa. Làng Thượng cách thị tứ  Lân Cồ  cả chục  cây số... Hồi  sắp đình chiến Xuân  đóng quân tại làng Cát và đem lòng yêu Hai Liên, cô gái được coi là xinh nhất làng, hát hay nhất làng. Những hôm bộ đội và thanh niên đốt lửa trại gần bãi dương liên hoan văn nghệ, Bảy Xuân và Hai Liên thường hò đối đáp. Mỗi lần đôi trai gái cất tiếng, mọi người lặng phắc lắng nghe.  Giọng  Hai  Liên  trong,  cao  vút;  giọng  Xuân  lại  dày,  trầm  ấm. Hai giọng hát quyện vào nhau lan trên cát, tan vào gió biển có cái gì đó gợi nhớ, gợi thương, khó quên. Không đi bậu nhắc bậu trông - Đi thì lại sợ Cù Mông Xuân Đài - Cù Mông là một, dốc chùa Rởi là hai - Dốc Giăng dốc Quýt dốc Xuân Đài là Năm... Anh nguyện với em tại bữa trăng rằm - Ai làm nên nỗi con tằm xa dâu?... Hòa bình trở về, đơn vị Xuân có lệnh đi tập kết. Hôm gần lên đường Xuân hẹn gặp Hai Liên nơi bãi dương giáp biển, là chỗ họ vẫn cầm tay nhau hát dân ca.
- Đi thiệt à? - Hai Liên hỏi, cô bước chậm lại.
- Mai có lệnh hành quân rồi.
- Không nhớ?
- Nhớ chớ!
- Vậy mà cầm lòng...
- Nhiệm vụ... Chưa đi đã thấy nhớ...
- Xạo... Ra ngoài đó gặp con gái Bắc lại quên...
- Thề!
- Thề... Nếu lời thề hiệu nghiệm thì đã chẳng còn mống đàn ông nào trên đời... - Hai Liên chợt thở dài - Con gái có thì...
- Lần trước bảo cưới không chịu nghe...
- Lần đó chưa biết phải xa... - Hai Liên dừng lại, đôi mắt như có lửa chiếu vào Bảy Xuân... - Hôm nay... cưới được không?
- Trời đất...
 - Em muốn làm vợ trước khi anh đi... Chúng mình vô bãi dương nghe...
... Khi hai người mệt mỏi và thỏa mãn gối đầu lên tay nhau nằm xoài trên cát, Hai Liên nói:
- Bây giờ em không còn giữ anh nữa... - Rồi cô xoay qua, xoa tay lên bộ ngực trần của Bảy Xuân - Ra ngoài đó được tự do... Muốn đến với ai cũng mặc.
- Anh đã là chồng em và em đã là vợ anh... Với anh chỉ em mới có ý nghĩa...
Hai Liên trườn người, sung sướng hôn vào đôi mắt Bảy Xuân:
- Thiệt nghe.
- Nếu có một người đàn ông trên cõi này biết tôn trọng lời thề, đó là anh...
Và Bảy Xuân đã thực hiện như vậy. Hơn mười năm sống trên đất Bắc  lúc  nào  anh  cũng  đau  đáu  nghĩ  về  làng  Cát. Cái đêm chồng vợ cùng Hai Liên trên bãi xế vạt dương ám ảnh khôn nguôi... Khát thèm, nhớ nhung, mong ngóng... Vậy mà lúc này Hai Liên chỉ cách có gang tấc, vẫn không sao quờ tới, không sao gặp được. Xuân biết cô cũng đang đi tìm anh, đang tìm “người cán bộ quân khu về xây dựng phong trào”...
Đêm thứ ba, tổ điện đài gặp được tổ công tác.
...  Sáu  Sinh  trở  người  ngồi  dậy.  Bóng  đêm  đặc  quánh,  gió  vờn trên vòm lá rất nhẹ. Đâu đó từ những con suối bao quanh căn cứ có tiếng nước chảy vọng tới. Tiếng suối về đêm nghe rầm rào như lời kể chuyện đơn điệu rời rạc của người già... Hôm nay với Bí thư Tỉnh ủy là ngày đặc biệt. Nhiều niềm vui đến với ông. Buổi sáng Ba Tánh cho người lên báo cáo rằng việc chôn cất thím Tư  Đởn ở làng Cát đúng như dự kiến; trước áp lực và lý lẽ của dân làng, bọn dân vệ đã phải chùn  tay...  Rồi  tin  tức  của  Tư  Nhâm  và  A.5 thu  lượm  được  do  Sáu Quyên báo về khiến ông an tâm... Cuộc họp sắp tới ông sẽ báo cáo và đề nghị với Khu ủy cho tiến hành mở bến chuẩn bị tiếp nhận vũ khí. Các yếu tố gần như đã chín mùi. Vấn đề còn lại là mở bến ở khu vực nào thuận lợi và an toàn nhất... Điều này sẽ được Khu ủy quyết định trong hội nghị tới...
Sáu Sinh đứng lên, ông bước vào ngôi lán lợp lá ẩn dưới mấy gốc cây lớn. Chiếc đèn dầu nơi bàn được vặn to... Từ ngôi lán khít đó, Ba Thành bước sang.
- Khuya rồi, chú. - Thành nói.
-  Cháu  cũng  chưa  ngủ  à?  -  Sáu  Sinh  ngước  lên.  -  Ngồi  xuống đây...
- Cháu pha cho chú ấm trà nghe.
- Khỏi!... Chú có câu chuyện muốn bàn với cháu. - Sáu Sinh nói khi Ba Thành đã ngồi đối diện trước mặt ông. - Chú sẽ đưa cháu sang bộ phận trinh sát... ở đó có điều kiện tiến bộ hơn. Cháu thấy sao?
- Nếu được vậy cháu vui lắm ạ... Cháu có nguyện ước đã lâu. Chỉ lo cháu đi rồi lấy ai chăm sóc chú.
- Việc đó đã có mấy anh bên tổ chức... - Sáu Sinh nói - Nhiệm vụ của cháu là gắng lập công để thỏa mãn vong linh má...
- Sang đó cháu có điều kiện trả thù cho má cháu...
- Không phải vậy... Trả thù cho má đâu ở chỗ diệt mấy tay ác ôn... Phải chung sức để có những thành tích lớn hơn...
- Dạ!... Bao giờ cháu...
- Chú đã bàn với mấy anh bên đó. Cháu có thể sang bất cứ lúc nào.
... Ba Thành đi rồi, Sáu Sinh mở sổ viết mấy nội dung chính ông có ý định báo cáo trong cuộc họp Khu ủy sắp tới. Trọng tâm vẫn là chuyện mở bến đón vũ khí từ ngoài Bắc đưa vào. Lực lượng. Bến bãi. Tổ chức cất giấu. Bảo vệ...
Đêm ở rừng mông lung; không khí dường như đặc hơn. Về khuya sương xuống dày, ngàn ngạt, khó thở. Từ trong hốc đá có tiếng tắc kè vọng ra. Vào giờ này con tắc kè bảy năm tuổi quen thuộc vẫn bò ra điểm nhịp. Sáu Sinh buông bút, nhìn đồng hồ rồi lần tới chiếc võng buộc sẵn nơi gốc cây... Đêm yên ả trôi.

*


Xế  thị  tứ  Lân  Cồ,  cạnh  con  đường  đi  về  làng  Cát  có  một  quán giải khát nhỏ. Quán không mấy rộng nhưng lúc nào cũng nhộn nhịp đông vui. Khách phần lớn là lính. Người ta khoái  đến đây bởi  quán gần đường cái, bán nhiều chủng loại: rượu bia, nước hoa quả tươi có, đóng  chai  có,  giá  bình  dân.  Nhưng  điều  này  mới  hấp  dẫn,  đàn  ông thường sà tới chốn này bởi chủ quán Năm Hồng là người phụ nữ dễ dãi,  xởi  lởi.  Gần  chạm  tuổi  bốn  mươi  nhưng  trông  vẫn  còn  nuột  nà ngon  mắt,  cứ  như  khúc  giò  nạc,  thoáng  nhìn  đã  muốn  cắn.  Cặp  vú bánh dày ở tuổi hồi xuân sau lần áo mỏng không quen đeo phần đỡ gần như chẳng hề nhão xệ qua năm tháng, núng nính nhảy tưng tưng trên ngực theo bước đi như thể mời chào khiến khối người ngồi uống rượu mà mắt liếc vẹo cả cổ. Mỗi khi Năm Hồng bận chiếc áo trễ cổ, cái rãnh sâu nơi ngực  được tạo nên nhờ  hai gờ thịt nhô cao gợi mở nhiều tưởng tượng trong những cái đầu luôn háo thèm của lạ của đám đàn ông. Khách đến đây không những được cợt nhả tán tỉnh nói tục thoải mái mà khi cơ hội thuận lợi còn có thể sàm sỡ vuốt nhẹ vào cặp mông căng tròn gợi cảm lúc nào cũng hằn lẳn chiếc quần trong loại trễ, tạo nhiều liên tưởng của bà chủ...
Lính Rồng Biển của thiếu tá Hai Rạng lúc nhàn cư to nhỏ rằng người đàn bà này trời phú cho năng lực đặc biệt. Năm Hồng chưa bao giờ có khái niệm  “no xôi...”. Sự  ham  muốn đực  cái  nơi chị là  chiếc thùng không đáy. Người ta kháo rằng một đêm Năm Hồng có thể chấp cả một tiểu đội lính tơ. Không tin cứ bỏ tiền ra cá cược. Năm ngoái, nghe  đâu  đã  có  hơn  chục  chàng  trai lún  phún  ria  mép  mới  vào  lính góp nhóp được một số tiền và hồi hộp rủ nhau đến quán thử cho biết. Cuối  cùng  thua.  Chị  Năm  mới  ưỡn  mình  vặn  người  vài  ba  chiêu, những  trai  tơ  khỏe  mạnh  đã  không  thể  kìm  giữ, thèm  khát  và  hưng phấn vội vã đổ thống đổ tháo. Ra khỏi phòng cậu chàng nào cũng tặc lưỡi thòm thèm tiếc rẻ... Còn chị Năm cứ tô hô phơi cơ thể phốp pháp trắng mịn trên giường, giọng rất tỉnh: “Ngoài đó có em nào vô nốt để chị còn rửa ráy một thể”.
Vùng Lân Cồ nay chỉ một người duy nhất khiến Năm Hồng phải phục,  coi  là  đàn  ông  thứ  thiệt.  Đó  là  Mười  Bàng.  Da  ngăm  ngăm, người chắc như cây lim, tay chân cứng hệt sắt nguội, Mười Bàng có lần vần cho Năm Hồng bã bượi, phải thở bằng tai... Hôm ấy đã khuya, đang liu thiu Năm Hồng lờ mờ cảm thấy có bàn tay ai đó sờ vào chân mình, rồi như thể biết bò, bàn tay giống con sên mơn man men dần lên đùi...
- ối giời ôi!... Ai thế? - Năm Hồng khoái trá kêu khẽ khi những ngón tay ranh mãnh luồn vào quần thuần thục sờ sịt moi móc chỗ ngã ba giữa hai đùi và bụng dưới... Rồi Năm Hồng đuỗi người chộp lấy bàn tay ấy, đờ dại làm đồng minh miết qua miết lại...
- Ngoan nào, Mười Bàng đây.
- Ngoan chớ, đang háo... Mình giết người ta cho kỳ chết nghe... Quần áo nhanh chóng được chủ động tuột bỏ. Khối thịt ngẫn ngà lồ lộ sáng bừng trong đêm. Người đàn ông lập tức đổ ụp xuống. Kế đó là xoáy xiết trào dâng những đợt sóng. Mê mụ. Cuồng si. Riết rít... ào ạt dồn dập cuồn cuộn cứ như nước biển đập vào bờ đá hôm trời bão... Miệng rên ư ử, mũi thở hào hển, Năm Hồng đê mê ưỡn cong người hưởng ứng, sau đấy là cảm giác nhũn nhão, tan chảy như cục nước đá gặp nhiệt...
- Khiếp, sao có cái giống đàn ông quý thế!... - Xong mọi sự, Năm Hồng no nê và mãn nguyện thả lỏng người xệp ra giường, khen ngợi, giọng sung sướng. - Người ta cài then cửa chặt vậy cũng mò vô được.
- Du kích mà!
- Cô ả nào vớ được anh làm chồng thiệt có phúc... Khi nào hứng lại tới nghe.
Mười Bàng gật đầu nhưng sau đó đã lặn một hơi không sủi tăm... Nghe nói chuồn lên “rờ”. Có người phong thanh biết chuyện rỉ vào tai Năm Hồng:
- Mười Bàng là du kích Việt Cộng đó.

Năm Hồng thản nhiên:
- Cái giống quý ấy của Việt Cộng khác Quốc gia sao? Người trần mắt thịt làm sao tôi phân biệt được...
Bẵng đi mấy tháng, vào một đêm tối trời, Mười Bàng lại lẻn đến.
- ác! Cho người ta nếm mùi rồi bỏ đi biệt tăm... - Mắt Năm Hồng sáng lên, miệng lào thào. - Nhớ thấy mồ.
- Mấy đứa giúp việc đâu không thấy?
- Hồi chiều chúng xin về dưới quê... Đêm nay ở lại nghen.
- Nhưng Năm phải giúp một việc đó.
-  Cứ làm  sướng  như  hôm  nọ  đừng  nói  chi  một  việc, mười  việc cũng ưng.
- Năm biết Ba Hoàng hôm nay đi đâu không?
- Hai vợ chồng đánh xe lên Tuy Hòa từ chiều... Hình như dự lễ sinh nhật đại tá Long tại câu lạc bộ.
- Chắc chớ?
- ở vùng này cu thằng nào to, cu thằng nào dài tôi còn rành nữa là...
- Cám ơn nghe! - Nói rồi Mười Bàng tuông đi...
- ủa, không ở lại? - Năm Hồng tiếc nuối nhìn theo.
- Thưởng sau, Năm!
Đấy là hôm Mười Bàng đưa du kích làng Cát đánh vào câu lạc bộ sĩ  quan  ở  Tuy  Hòa  nhưng  không  thành...  Mấy  ngày  sau  lính  Rồng Biển vào quán uống rượu kể với nhau rằng Ba Hoàng và đám sĩ quan trên  Tuy  Hòa  cao  số, lựu  đạn  Việt  Cộng  rơi  ngay  dưới  chân  nhưng chẳng rõ vì nguyên do gì  không nổ. Có người bảo  vì chôn dưới đất lâu, bị xịt. Thoát chết, Ba Hoàng ba hoa trước đám sĩ quan trong câu lạc bộ rằng sẽ càn lên núi ẩn và quyết hót chẳng sót một bóng cộng quân nào...
... Ba Hoàng ít khi ra quán này uống rượu. Hôm nay là một ngoại lệ. Cái chết của Trần Nhũng khiến viên đại úy bị xốc. Ba Hoàng xốc không hẳn bởi Trần Nhũng là cha đẻ của mình, mà gã bất an bởi nhiều sự. Du kích Việt Cộng đã táo tợn luồn vào tận nhà gã và bắn chết ông già ngay tại bàn uống nước, một hành động mang tính trả thù, khiến gã choáng. Ba Hoàng chưa bao giờ nghĩ tới tình huống ấy. Dân vệ rào kín  vòng  trong  vòng  ngoài,  và  ông  Hội  đồng  là  kẻ  tinh  quái,  biết lường  trước  mọi  điều,  hôm  ngủ  trên  giường  dì  ba,  hôm  lên  gác  và nhiều đêm ra trụ sở xã nằm chen giữa đám dân vệ, vậy mà... Hôm qua nếu Hai Rạng không gàn, thậm chí quát lên như ra lệnh, Ba Hoàng đã đưa lính về làm cỏ làng Cát... Nhất định đã có kẻ thông tỏ đường đi lối lại, biết quy luật sinh hoạt của ông hội đồng và chỉ điểm...
- Mẹ khỉ! - Hoàng vô thức buột tiếng chửi và dốc ngược ly rượu vào họng.
- Đại uý uống nhiều rồi! - Trung sĩ Độ, gã vệ sĩ thân tín của Ba Hoàng, vẫn lẽo đẽo theo viên đại úy như cái bóng, nhìn Ba Hoàng và gàn.
- Cho xị nữa nghe, chị Năm! - Ba Hoàng quay vào quầy, gọi to,giọng đã phê phê.
Người chủ quán dạ nhẹ một tiếng, đánh cặp mông mẩy như hai tảng bánh đúc được bó chặt sau lần vải mỏng trông rất bắt mắt, cầm xị đế lướn phướn bước tới.
- Năm Hồng làm với tụi này một ly nghe... - Ba Hoàng cầm tay người đàn bà, kéo xuống... Trung sĩ Độ vội vàng với chiếc ly để cạnh, rót rượu.
- Xin chia buồn với đại úy... - Năm Hồng ngước nhìn Ba Hoàng và đưa ly rượu viên trung sĩ mới rót lên ngang mày - Ly này mong cho ông Hội đồng mát mẻ nơi chín suối... Du kích Việt Cộng táo bạo quá! Đôi mắt đỏ ngầu, viên đại úy chạm mạnh chiếc ly của mình vào chiếc ly của Năm Hồng.
-  Táo  bạo  mẹ  gì...  Tôi  sẽ  cho  quân lên  núi  ẩn  quét  sạch... Tiêu diệt hết... Đây là trò của lão Sáu Sinh, và Mười Bàng chớ ai... Mẹ khỉ, nhất định trong làng Cát có kẻ giấu mặt. Khui được, tôi băm nát nhừ... Năm Hồng thấy đứa nào khả nghi, cứ báo nghe. Có thưởng.
- Ông Hội đồng chết thảm quá!... Tội.
Câu nói của Năm Hồng thổi phồng nỗi đau của Ba Hoàng, viên đại úy dốc cạn chỗ rượu trong ly, ngồi lặng. Đôi mắt vằn đỏ, lờ đờ. Đúng là ba gã chết tang thương quá. Khi được báo, từ trên đồn Ba Hoàng tuông về, xác Trần Nhũng vẫn nằm trong vũng máu, ngay giữa nhà. Ba vết đạn xuyên qua ngực trổ ra phía sau loe mở như ba chiếc phễu. Lưng nát bấy. Tờ giấy viết nguyệch ngoạc: “Cách mạng cảnh cáo những kẻ làm tay sai cho giặc” úp trên mặt. “Thằng nào?” - Ba Hoàng gầm một tiếng, xé vụn tờ giấy, rồi đứng lặng như chôn chân giữa nhà, cằm bạnh ra, hai hàm răng cắn vào nhau nổi lên những múi thịt, rung rung...
Người vợ ba của Trần Nhũng ngất xỉu, mềm nhũn hệt bị thịt chúi vào một góc, khuôn mặt trắng bạc như người chết đuối vừa vớt ở sông lên nghe tiếng gầm của con trai chồng chợt tỉnh, lập cập bò ra, đôi môi lắp bắp:
- Họ... Chúng có ba đứa... Rất sợ...
- Sao phải sợ! - Ba Hoàng hét - Mọi lần cãi nhau với chồng bà to mồm lắm mà...
- Đã kêu... Nhưng... họ có súng...
- Đúng là lợn cái - Ba Hoàng rủa rồi quay qua Nguyễn Xấn lúc ấy đang  lấm  lét  và  run  rẩy  đứng  ngơ  ngáo  bên  cạnh  -  Các  ông  canh phòng gác xách vậy đó?
- Thưa...
- Hay là chính dân vệ các ông có người dẫn đường? Sắp tới lượt ông rồi... Liệu mà mua quan tài trước.
Nguyễn  Xấn ngước  lên nhìn, đôi  môi  dẩu ra  mấp  ma  mấp máy giống như đít gà cái lúc vừa đẻ trứng, chẳng rõ lão nói gì...
-  Mà  sao lão  Nguyễn  Xấn  ngu  vậy  chớ...  -  Ba  Hoàng  tự  tay  rót rượu vào ly của mình, lại rót rượu vào ly của Năm Hồng - Khi nghe súng nổ lại ngỡ ba tôi bắn chơi... Mẹ khỉ, sao có loại dốt nát thậm tệ... Quả ba tôi thỉnh thoảng có chĩa khẩu côn lên trời bắn vài phát giải sầu. Nhưng  phải  phân  biệt  được  tiếng  cạc  bin  với  tiếng  súng  ngắn  chớ... Năm  Hồng  nhớ  nghe,  tôi  đâu  đã  cho  qua  vụ  này.  Ba  Hoàng  là  Ba Hoàng, Hai Rạng là Hai Rạng. Khác nhau chớ. Đụng vào cha con Trần Nhũng,  Trần  Hoàng  là  tụi  du  kích  vuốt  râu  hùm  rồi...  Uống  đi  Năm Hồng.  Uống  với  tôi  ly  nữa  nghe...  Có  ly  rượu  vào  trông  Năm  Hồng ngon quá ha. Hai má đỏ hây hây. Đẹp! Ngồi thêm với kẻ đang buồn này chút nữa...

- Mất mát gì mà không ngồi. - Năm Hồng đưa cặp mắt sắc được kẻ một vệt đen dưới mi rất điệu nghệ liếc nhìn Ba Hoàng. - Chỉ sợ cô đại úy hay, lại tới phá quán, kẹt đường làm ăn...
-  Đã  có  Ba  Hoàng  bảo  lãnh  còn  sợ  chi  ai...  Nếu  có  người  đến quậy cứ báo cho trung sĩ Độ hay. Trung sĩ Độ biết là Ba Hoàng biết... Nào, cạn... - Chợt Ba Hoàng đặt mạnh ly rượu xuống bàn, đôi mắt như hai hòn than hướng về cửa ra vào. - ủa, ai như là cô Tư Nhâm... Đúng Tư Nhâm rồi. Trung Sĩ Độ, kêu cô Tư tới luôn... Đúng là có duyên. Đang định gặp cô Tư thì cô Tư tới.
Từ  cửa, Tư  Nhâm lúng túng bước vào. Tình huống hơi bất ngờ khiến chị bối rối...
- Chào đại úy, chào trung sĩ, chào chị Năm.
- Cô Tư ngồi! -Trung sĩ Độ kéo thêm chiếc nghế. Tư Nhâm nhẹ nhàng thả mình xuống.
-  Mời  cô  Tư  một  ly!  -  Ba  Hoàng  đưa  cho  Tư  Nhâm  ly  rượu.  - Hôm đám ông già tôi thấy có cô Tư đến viếng, cám ơn nghen.
- Nghĩa tử là nghĩa tận...
-  Mấy  lần  về  làng  Cát  có  ý  định  ghé  vô  nhà  chơi  mà  cô  Tư  đi vắng hoài.
- Tôi mải chạy chợ...
- Chỉ hai má con cũng cực vậy sao cô Tư?
- Thì cướp được của ai đâu mà không phải làm...
- Lại nặng lời rồi... Nghe nói cô Tư từ chối việc thiếu tá Hai Rạng chu cấp...
- Sao đại úy lại ngoèo ông thiếu tá vô đây?
- Vậy không có việc ấy thiệt sao?... Nghĩ tức cười, một thiếu phụ trên ba mươi tuổi, xinh đẹp, chín nẫu như  quả  lựu trên cây, lúc nào cũng có thể rụng, nếu không chờ ai đó hoặc hứa hẹn với ai đó thì phải lấy chồng chớ. Cớ gì để ông thiếu tá năn nỉ hoài...
- Tôi đã trót dại một lần nên đành cam chịu. - Tư Nhâm thong thả đáp
- Thiệt vậy sao?... Năm Hồng, chị có tin điều ấy không?
- Đại úy hôm nay uống hơi nhiều... - Năm Hồng đáp.
-  Nghĩa  là  Năm  Hồng  biểu  tôi  say?  Tôi  không  say...  Hai  Rạng mềm  yếu  cả  tin, nhưng  Ba  Hoàng  thì  khác.  Ba  Hoàng  không  tin  bé Thảo  là  con  hoang.  Người  như  cô  Tư  đây  làm  sao  có  khả  năng  ấy. Muốn trăng hoa đâu dễ. Lẳng lơ cũng phải có mác chớ, đúng không người đẹp Năm Hồng? Để có đứa con ngoài giá thú phải bản lĩnh lắm. Đến tay chơi cỡ vợ tôi hay Năm  Hồng đây cũng chỉ dám  nhảy múa vờn ve  vòng ngoài, đâu có cái gan mang bầu. Hả, tôi nói đúng chớ, Năm?
- Suy diễn là quyền của đại úy. -Tư Nhâm đứng dậy - ... Xin lỗi, tôi đang có việc bận.
-  Cô Tư  đừng  đi  vội... Phụ nữ  có lòng  chung  thủy,  một  dạ  chờ chồng, không chịu thành  hôn với  ai  kể  cả người  có quyền thế trong quân lực cộng hòa, đáng nể đó... Nói vậy cho vui chớ tôi tin cô Tư. Bao giờ làm lễ cưới nhất định Ba Hoàng sẽ có quà mừng. Quà lớn... Bây giờ cô Tư cứ ngồi chơi, tôi đi... Tôi còn phải tìm cho ra mấy đứa gan to mật lớn dám giết ba tôi. Nếu phát hiện ra manh mối cô Tư giúp tôi nghe.
- Đàn bà con gái như tôi biết gì.
- Chà, khéo quá ha. Chào...
Ba Hoàng xiêu vẹo đứng lên, chật chưỡng bước.
- Bao nhiêu chị Năm? - Trung sĩ Độ vội hỏi.
- Thôi mà. Hôm nay đại úy có chuyện buồn, tôi khuyến mãi.
- Cám ơn nghe.
Hai Độ chạy ra đường cái, rất thành thạo tót lên xe. Chiếc Jeep nổ máy, chạy về thị tứ Lân Cồ.
- Cha Đại úy thấy em đâu là gây sự. - Tư Nhâm nhìn theo chiếc xe. - Kỳ thiệt!
- Cô mới là kỳ... - Năm Hồng thu dọn cốc đĩa trên bàn - Lão thiếu tá  nó  mê  thì  lấy  phắt  cho  xong.  Coi  ra  hắn  cũng  là  thằng  đực  khỏe mạnh. Cứ vò võ một mình, thiếu đàn ông mà cô chịu được. Cô không đòi  hỏi,  không  ham  muốn  cái  thứ  đời  thường  đó  à?  Phụ  nữ  như  cô thiệt lạ.
- Em không có cái quyền dành cái không phải của mình...
- Cái gì là không phải của mình? Sinh ra đàn ông trên cõi này là để làm sướng phụ nữ chúng ta. Ta có toàn quyền...
-  Với  nữa  hoàn  cảnh  em, chị tính... Rồi  con chung, con riêng... em ngại lắm.
- Ngại thì đừng đẻ thêm nữa. Cô học tôi đây nè, thằng nào háo tôi cho uống nước tuốt. Mất gì. Hao gì. Có mòn đâu mà sợ. Nhưng phải là  những gã  khỏe  mạnh, biết cách;  chớ rượu vào rồi nhấp nhấp như con chuồn chuồn đạp nước làm mình thêm ngứa ngáy tôi đạp ra khỏi giường liền.
Tư Nhâm nhìn Năm Hồng, khẽ thở dài.
- Những thằng nát rượu như Ba Hoàng vợ nó theo trai là phải. - Năm Hồng nói tiếp - Đêm về nằm ườn xác ra ngáy, đàn bà nào chịu thấu. Thằng chồng trước bị tôi quẳng qua cửa sổ cũng bởi vậy. Mình rửa ráy xong, ưỡn ra tơ hơ chờ, nó đi về không kịp thay quần áo, ặt ra ngủ, lại chóp chép miệng nói mớ, mồm sặc hơi rượu nữa chớ... - Năm Hồng  hạ  giọng,  nhìn  Tư  Nhâm  bằng  ánh  mắt  thông  cảm.  -  Đàn  bà không có đàn ông tưới tắm, khác gì cái cây không có nước, lúc nào cũng háo cũng cằn cõi, khô héo khổ lắm cô ạ...

Tư  Nhâm  ngồi  im,  nghe  mà  như  không  nghe.  Đôi  mắt  nhìn  ra đường cái giống đôi mắt kẻ vô hồn. Sao chị lại không rõ nỗi khổ nơi người  đàn  bà  khi  vắng  thiếu  đàn  ông!  Cũng  da  thịt  ấy,  cũng  những nhu cầu ham muốn đời thường ấy, chớ đâu là gỗ đá. Có ai hay đêm đêm  một  mình  chị  bã  bời  trong  nỗi  khổ  sở  chống  trả  quyết  liệt  với những đòi hỏi nhức buốt cứ rình cơ hội nhoi lên hành hạ... Và đã bao lần chị thở dài với ý định buông xuôi bỏ cuộc. Đời người ngắn, đời con gái càng ngắn, sức chịu đựng có hạn, vở kịch lại không rõ bao giờ mới đến hồi cuối, hồi kết thúc. Chị quá mệt mỏi với vai diễn này rồi...
Nhưng có cái gì đó rất khó gọi tên khiến những tháng ngày qua  chị phải trụ và đã trụ được. Chị vẫn làm tốt vai trò của mình trong hoàn cảnh  éo le  và  hết  sức  cô đơn... Chính  chị  cũng  ngạc  nhiên  bởi  điều ấy... Phải chăng bên cạnh ý thức, cái ý thức bắt nguồn từ gốc gác gia đình hình thành từ khi Tư Nhâm còn bé xíu, cái ý thức được cài nắn tự nhiên vô thức trong những ngày ở cứ, là những ý niệm mơ hồ có tên nhiệm vụ, những quan hệ cụ thể, là thói quen và sự ràng níu vô hình của những sức mạnh kỳ bí không tên khác?... Và có lẽ còn là điều cụ thể này nữa: đại úy Ba Hoàng. Viên sĩ quan này đã khiến Tư Nhâm quá bận tâm đối phó mà quên đi những đòi hỏi đời thường như Năm Hồng nói. Mối hiểm họa luôn rình rập là sự quan tâm đầu tiên của con người. Lâu nay, bằng trực giác nhạy cảm buộc phải có ở những người sống  trong  hoàn  cảnh  như  chị,  Tư  Nhâm  cảm  nhận  được  rằng  Ba Hoàng đã bắt đầu manh nha một điều gì đó, có thể là những nghi ngờ đối với mình. Gã rình rập, cho người bí mật theo dõi và mỗi lần gặp lại huyên thuyên cố tình khiêu khích... Hễ rỗi rãi, hay những lúc nằm một mình trên giường, khuôn mặt có nước da trắng mịn như trứng gà bóc và đôi mắt luôn mở to với cái nhìn đa nghi soi mói của viên đại úy lại hiện lên. Mỗi khi đụng chị, gã nhệch cặp môi mỏng như lá lúa xéo sang một bên như thể là cười khiến Tư  Nhâm  chột dạ. Nụ cười nửa miệng hết sức tinh quái giễu cợt ấy như thể bảo rằng: đừng phù phép  nghe,  đừng  nghĩ  tôi  không  hay  bà  là  người  của  Việt  Cộng  cài lại!...  Chẳng  hẳn  không  có  lúc  Tư  Nhâm  giật  mình  tự  vấn,  hay  là thằng mật vụ cà trớn này đã nhìn thấy chút sáng của cây kim vẫn giấu trong bọc?...
Chị  nhớ  hồi  cuối  năm  ngoái, cũng  tại  quán  Năm  Hồng,  khi  Tư Nhâm đang vô tình cầm tờ báo lên coi, một kẻ lạ mặt chừng trên bốn mươi tuổi đã lân la tới, tự  nhiên ngồi xuống cạnh, thả nụ cười ruồi, hỏi:
-  Xin  lỗi,  trông  cô  quen  quen...  Trước  đây,  hình  như  cô  có  ở K5...?
- K5? K5 là cái gì, thưa ông...
- Cô không nhớ K5, thiệt sao?
- Làm sao tôi biết... Tôi chỉ là người quê mùa...
- Chà, quê mùa mà cũng quan tâm tới thời sự ha?...
- Tôi chỉ quan tâm tới giá cá hàng ngày.
- Thấy cô có đọc báo mà.
- à, thấy thằng nhỏ tội tội, mua một tờ chơi.
- Cô có thể...
- Ông muốn đọc báo hôm nay phải không, tôi biếu ông...
Về tới nhà, lục lạo trí não mãi chị mới lờ mờ nhớ ra kẻ lạ mặt nọ. Hôm đó chị đi bán hàng trên chợ Lân Cồ. Buổi sáng, người mua kẻ bán khá đông... Một chú bé bán báo vặt từ phía phố, ôm xấp báo trên tay, vừa chạy vừa rao:
-  Báo  đây,  báo  đây!  Tin  chiến  sự  mới  nhất...  Tiểu  đoàn  dù  đã đụng độ với một đơn vị quân Việt Cộng, và đã tiêu diệt hoàn toàn... Báo đây! Báo đây!
Đi qua chỗ Tư Nhâm, chú bé dừng lại:
- Mua tờ Cộng hoà ngôn luận, dì Hai?
- Sáng ra, dì chưa mở hàng! - Tư Nhâm đáp.
- Không có tiền, dì tặng con con cá nhỏ, con về nướng cho mèo.
Tư  Nhâm  cười:  “Cái thằng!”, rồi  chị  nhặt  con  cá  bằng  bàn tay, xâu vào dây, đưa cho chú bé. Chú bé cảm ơn và biếu Tư Nhâm tờ báo, lại  vụt  đi,  miệng  rao  dẻo  quẹo...  Tư  Nhâm  nhìn  theo,  thấy  vui...  Ai ngờ hành động của chị và chú bán báo không lọt qua mắt người đàn ông mặc thường  phục, đeo kính mát đang ngồi trong quán giải  khát gần đó.
- Nhóc! - Người đàn ông vẫy ngón tay trỏ.
- Ông mua báo? - Cậu bé bước vào, hớn hở hỏi - Nhiều tin hay lắm!
- Nè, tao muốn mua con cá mày cầm trên tay.
- Ông muốn mua con cá này? - Cậu bé nhìn người đàn ông, mắt mở to ngạc nhiên.
- Đừng tròn mắt vậy... Để con cá lại... - Người đàn ông rút ví, đưara tờ giấy bạc - Cầm lấy, và xéo đi!

Chú bán báo vừa ra khỏi cửa, người đàn ông vội đặt con cá lên bàn, móc túi lấy con dao nhỏ, cẩn thận rạch ngọt một đường... Tư Nhâm nhớ
ra con người này bởi khuôn mặt lão khi thất vọng nhận ra trong bụng cá
không có  những thứ  lão hoài  nghi  cứ  là  lạ, nó  méo xệch,  nhăn  nhúm giống như miếng thịt bò ế phơi nắng... Lão đâu ngờ cái lão cố tìm nằm ở con cá khác. Lúc lão đang loay hoay với con cá trong quán giải khát, có một người phụ nữ ăn mặc chải chuốt, trang điểm đẹp, đeo kính gọng to, đang đứng trước hàng của Tư Nhâm. Người này hóa trang khác lạ tới mức chị cũng ngạc nhiên.
- Cá này nấu cháo ngon lắm cô Ba... - Tư Nhâm ngẩng lên nhìn người phụ nữ, chào mời. - Tôi đã làm sạch.
Người phụ nữ nhanh chóng cho con cá vào làn, kiêu kì lôi từ ví
đầm ra xấp tiền, rút một tờ, thả xuống rổ cá...
- Cám ơn cô Ba ! - Tư Nhâm xởi lởi - Lần sau cô Ba lại tới mua giùm nghe.
Người phụ nữ nguẩy mông, đi thẳng. Đó là Sáu Quyên. Và trong bụng cá là những thông tin về tiểu đoàn “Rồng Biển” của thiếu tá Hai Rạng... Nhưng lão mặc thường phục trong quán đâu đã hết nghi ngờ. Lão lách nhách đến chỗ Tư Nhâm.
- Ông mua cá? - Tư Nhâm hỏi.
- Cô cho tôi coi qua tờ báo được không? Và cũng như hôm nay, Tư Nhâm dễ dãi:
- Tôi biếu ông...
Mình đang bị người của Ba Hoàng theo dõi, trên đường về, Tư Nhâm bất an nghĩ. Khi Tư Nhâm nói lại với Sáu Quyên những lo lắng của  mình,  người  liên  lạc  của  chú  Sáu  điềm  tĩnh  khuyên:  “Chị  khỏi ngại. Hai Rạng còn theo đuổi chị, Ba Hoàng chẳng dám đụng vào sợi tóc”. Tư Nhâm thừ ra, nén tiếng thở dài. Tức là chị vẫn phải dựa vào cái bóng của viên thiếu tá để làm bình phong che chắn cho mình. Sao oái  oăm  trớ  trêu vậy  chớ!  Sáu  Quyên thỉnh thoảng đảo  qua, vội  vội nhận tin, vội vội chỉ thị mấy điều ngắn gọn, rồi lên cứ đâu thấu nỗi khổ tâm, mà không hẳn lúc nào cũng dễ phô ra của chị...
... Thấy Tư Nhâm ngẩn mắt ngồi xị như kẻ thua bạc, Năm Hồng phán:
- Tôi không ưa những người làm bộ cao đạo nghe. Thích thì bảo
rằng thích và tìm cách mời mả để đáp ứng. Chẳng con đực nào từ chối khi con cái lên mùi đánh tín hiệu. Tin tôi đi. Chuyện này tôi rành hơn cô... Lẳng lơ thì cũng ra ma. Mà cô chính chuyên với ai chớ? Mình đâu trinh nguyên gì cho đặng... Tự hãm mình, hành hạ thân vậy ích gì...
Tư  Nhâm  không  đáp.  Chị  không  thể  sống  như  Năm  Hồng... Người chủ quán có thể tự do buông mình trong bản năng khát thèm vốn  là  sức  mạnh  cũng  là  niềm  kiêu  hãnh  đàn  bà.  Năm  Hồng  có  lối sống của chị ấy và không hẳn không có lý. Trời phú cho cái năng lực tiềm tàng giống cái và Năm Hồng đã không mảy may mặc cảm vượt qua những thói nghĩ thông thường nhằm triệt để tận hưởng... Âu cũng
là  một  thứ  lộc... Lúc  nào  chị  ấy cũng  phơn  phớn  vô lo vô  nghĩ, coi việc ngủ với đàn ông như một lần vào toa lét. Sáng ra người ta bỏ đi, chị  cũng  quên  ngay  để  đêm  sau  nếu  ai  đó  có  nhu  cầu  và  chị  thấy sướng lại dễ dãi bằng lòng để họ toài lên bụng...
- Hay dọn tới đây bán hàng với tôi! - Năm Hồng gạ - Ăn nhiều chớ ở mấy... Không thích lão Hai Rạng tôi tìm cho đám khác. Người như cô lượm đâu chẳng được thằng đàn ông ưng ý. Bọn háo gái dùng chổi quét ba ngày không hết.
- Em về, chị Năm...
- Có việc gì không?
- Đi qua ghé vô coi chị làm ăn sao thôi.
- Vậy hả. Năng tới nghe


Trong căn lán xế suối Phấn nằm sâu trong rừng ẩn sáng nay có cuộc họp của Thường vụ Liên khu ủy. Các anh Năm Phô, Bí thư Liên khu;  Sáu  Sinh,  Bí  thư  Phú  Yên;  Nguyễn  Phương,  Phân  khu  trưởng; YBLốc,  Phó  Tư  lệnh  Liên  khu.  Bí  thư  một  số  tỉnh  ven  biển  miền Trung  đều  có  mặt.  Mọi  người  đã  được  thông  báo  về  nội  dung  cuộc họp trước đó, nhưng Bí thư Liên khu vẫn nhắc lại rằng hội nghị chủ yếu nghe báo cáo về công tác chuẩn bị đón vũ khí từ ngoài Bắc đưa vào và bàn cách tiếp nhận.
Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên đang phát biểu thì một người lính bảo vệ lách vào và nói gì đó với ông. Sáu Sinh vội xin phép bước ra.
- Có chi mà tìm chú gấp vậy, Sáu? - Sáu Sinh hỏi khi thấy Sáu Quyên  bước  qua  bước  tới  trên  đám  cỏ  xế  chỗ  họp,  khuôn  mặt  bồn chồn, lo lắng.
- Chú ơi, có tin quan trọng, biết chú đang bận nhưng cháu phải báo kẻo trở tay không kịp... Chị Tư Nhâm và A5 vừa cho hay, ngày mai tiểu đoàn Rồng Biển của  Hai Rạng có không quân yểm  trợ  càn lên núi ẩn. - Sáu Quyên nói. - Lần này chúng huy động đến ba đại đội và...
- Chà... Nó muốn tróc mình ra khỏi vùng này đây... Cháu cứ về, trưa nay qua chỗ chú nói lại cho kỹ nghe.
Cô gái dạ một tiếng rồi bước đi. Sáu Sinh chui vào túp lán nhỏ. Chiếc lán vốn là chỗ ở cũng là nơi làm việc của Bí thư Liên khu Năm Phô. Nhưng anh Năm ít khi có mặt tại đây, anh thường xuống các địa bàn chỉ đạo phong trào, gặp đâu  mắc  võng  ngủ đó,  lúc sống  với  du kích, lúc ở cùng cơ sở nơi mấy xã vừa giải phóng...
- Ta tiếp tục làm việc nghen! - Bí thư Liên khu nói và hướng đôi mắt thiếu ngủ về phía Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên. - Mời anh Sáu, anh đang trình bày công tác chuẩn bị tiếp nhận vũ khí...
- Báo cáo anh Năm với mấy anh, tôi xin nói tiếp. - Sáu Sinh hắng giọng. - Báo cáo để mấy anh an tâm, tổ điện đài Trung ương cử vô đã tới cứ an toàn. Hôm qua đã có phiên liên lạc thử, kết quả rất tốt... Như vậy là vấn đề thông tin với trên trong quá trình chuẩn bị tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc đưa vào bằng đường biển đã giải quyết ổn. Việc còn lại cần làm là nhanh chóng xác định chính xác vị trí tàu vào rồi báo cáo ra ngoài đó để Trung ương cho ý kiến...
- Xác định vị trí đặt bến là việc hệ trọng! - Anh Năm Phô gật gù.
- Hết sức hệ trọng!... Vũ khí vô được trót lọt hay không và vô được lâu dài hay không chủ yếu ở khâu này, bởi vậy tôi đề nghị các anh cân nhắc thiệt hơn và bàn cho kỹ. Nếu cuộc họp này ta chưa thống nhất, có  thể  quyết  định  ở  cuộc  họp  khác.  Phương  châm  là  khẩn  trương nhưng không nóng vội... Tôi tin nếu chúng ta bàn chín, Trung ương sẽ nhất trí... ở cuộc họp trước, ta đã đưa ra mấy địa điểm để cùng xem xét, đó là  vịnh  Xuân  Đài, Vũng  Hẻo, Vũng  Rô... nhưng  chưa  thống nhất. Tôi đề nghị hôm nay ta bàn tiếp... Mời các anh.
- Báo cáo anh Năm và các anh! - Anh Nguyễn Phương nói. - Sau nhiều lần khảo sát, chúng tôi thấy vịnh Xuân Đài đủ những yếu tố để có thể tiếp nhận vũ khí. Một là, nơi đây nước sâu, tàu vài ba trăm tấn vô được. Hai là vịnh Xuân Đài có chỗ cho tàu ẩn nấp. Ba là các xã quanh vịnh phong trào cách mạng khá mạnh, ta đã làm chủ liên hoàn, việc vận chuyện vũ khí nhiều thuận lợi...
- Yếu tố để có thể vận chuyển vũ khí đi nhanh tới các tỉnh là một trong những điều đầu tiên phải xem xét nghe. - Bí thư Năm Phô nói thêm. - Mời các anh khác.
Phó tư lệnh Liên khu YBLốc phát biểu:
- Những điều anh Phương trao đổi về mặt thuận của vịnh Xuân Đài,  tôi  nhất  trí.  Đúng  là  Xuân  Đài  có  nhiều  điều  hay.  Tôi  chỉ  băn khoăn là,  hành  lang  phía  sau  vịnh  Xuân  Đài  hẹp,  nếu  huy  động  lực lượng đông, khó có chỗ tập kết, việc chuyển vũ khí đi các tỉnh trong khu  sẽ  gặp  khó  khăn.  Vũ  khí  đưa  vào,  nếu  không  chuyển  kịp  nguy hiểm lắm... Đề nghị các anh cân nhắc.
-  Khó  có  một  vị  trí  nào  hoàn  hảo  như  ta  mong  muốn.  -  Anh Phương  quay  lại  và  nói.  -  Được  cái  này  lại  mất  mặt  khác...  Nhưng nhìn tổng thể, Xuân Đài so với các nơi nhiều yếu tố thuận lợi hơn...
Bí thư khu ủy Liên khu dứng đậy, anh bước tới tấm bản đồ treo bên
vách. Mọi người bước theo, và cùng hướng lên.
- Xuân Đài đây, Hòn Hẻo đây và Vũng Rô nằm đây... - Năm Phô chỉ lên bản đồ và nói. - Trong ba vị trí này, Vũng Rô nằm sát đường quốc lộ Một hơn nên tạm thời ta loại ra cho dễ lựa chọn...
- Báo cáo anh Năm - Sáu Sinh nói - tôi lại muốn chọn Vũng Rô làm vị trí để tàu vào... Mọi người cùng quay lại, ngạc nhiên nhìn.
- Vũng Rô? - Năm Phô bật ra.
- Dạ, Vũng Rô!
Năm  Phô  rà  tay  chỉ  vào  Vũng  Rô  như  có  ý  để  mọi  người  tập trung vào. Rồi anh bước lại bên bàn và ngồi xuống. Mọi người ngồi theo. Năm Phô nhìn khắp lượt các thành viên thường vụ như có ý dò hỏi.
- Vũng Rô có nhiều ưu điểm hơn Xuân Đài. Nước sâu hơn, kín hơn, có vách núi chĩa ra, giấu tàu rất thuận lợi. - Anh Phương nói. - Chúng tôi cũng đã khảo sát. Ngặt một  nỗi Vũng Rô nằm ngay chân đèo Cả, vị trí địch đang kiểm soát, mạn Tu Bông, Đại Lãnh địch đóng quân đông...
- Đề xuất Vũng Rô chắc anh Sáu đã có chính kiến? - Năm Phô hỏi
Sáu Sinh đứng lên, giọng tự tin:
- Báo cáo các anh - Ông nói chậm - Quê tôi ở đây nên tôi thuộc vùng này. Vũng Rô không chỉ nước sâu, mà sóng cũng rất êm. Phía bắc  vũng  có  nhiều  hang  đá,  nếu  vũ  khí  đưa  vô  chưa  có  điều  kiện chuyển ngay, có thể tạm thời giấu vào các hang ở đấy. Từ Vũng Rô ta có  hành lang  tương  đối  an toàn,  đó là  Hiệp  Hóa, Hiệp Xuân  ở  phía tây; làng Cát ở mạn đông... Từ Vũng Rô vũ khí chuyển qua các tỉnh hoặc lên cứ rất tiện. Điều các anh băn khoăn có lẽ là bọn địch nơi đèo Cả. Quả có thế. Nhưng biết che mắt địch, Vũng Rô thuận hơn Xuân Đài trên nhiều phương diện...
- Mạo hiểm! - Có tiếng ai đó ngồi phía sau buột ra.
Mọi người lại đưa mắt nhìn nhau như thăm dò, cũng là để xem chừng.
- ý kiến anh Sáu có nhiều hợp lý. - Bí thư Năm Phô sau một lúc trầm  ngâm,  lên  tiếng.  -  Cầu  toàn  quá  e  khó  tìm  ra  bến.  Nhưng  nếu chọn Vũng Rô, ngoài vấn đề che mắt địch ở đèo Cả, trong khi chờ vũ khí vô, nhiệm vụ của các xã bao quanh Vũng Rô, kể cả làng Cát, phải đẩy  mạnh  phong  trào  du  kích, phá  thế  kìm  kẹp  của  địch,  phát  động nhân dân vùng lên làm chủ làng xã để mở rộng hành lang an toàn và huy động nhân lực khi cần... Rồi đào thêm hầm bí mật, đào địa đạo để có thể sống và chiến đấu... Đề nghị các anh, đặc biệt là Phú Yên chỉ đạo việc này tỉ mỉ...

YBLốc chăm chú nghe, rồi anh phát biểu:
- Từ ngày nhận được chỉ thị của Trung ương đi tìm bến bãi để đón tàu vô, chúng tôi đã mấy bận đến Vũng Rô. Và thú thực, đã muốn nhắm chỗ này. ý anh Sáu trùng với dự kiến bên quân sự chúng tôi. Vũng Rô sát quốc lộ Một, lại nằm ngay dưới chân đèo Cả. Đó là khó khăn nhưng cũng là thuận lợi. Nói thuận lợi tức chúng tôi muốn đề cập đến yếu tố bất ngờ. Cho tàu vào Vũng Rô là lợi dụng yếu tố ấy. Kẻ địch khó lường rằng tàu của ta lại vào được đó... Anh Sáu nói đúng, vấn đề không chỉ ở chỗ vị trí tàu vào, mà còn là quá trình vận chuyển vũ khí đi các nơi. Về điểm này, không đâu hơn hành lang Hiệp Hòa, Hiệp Xuân... Hoạt động
ở đây đã lâu, tôi rõ... Mạn Sông Cầu không bằng mạn Tuy Hòa. Sáu Sinh nhìn mọi người rồi nói:
-  Nếu  thường  vụ  nhất  trí  chọn  Vũng  Rô,  tôi  xin  thay  mặt  Liên khu đảm nhận nhiệm vụ tổ chức bến, tổ chức hành lang tiếp nhận súng đạn, cất giấu và vận chuyển...
- Dù không chọn Vũng Rô, lâu nay thường vụ cũng đã có ý ấy. - Năm Phô nói vui.- Từ nay gọi Bí thư Sáu Sinh là bến trưởng bến Vũng Rô nghe.
Mọi người cùng cười.
- Ai có ý kiến gì nữa không? Mời các anh bàn thêm cho kỹ... Không còn ý kiến tức là ta thống nhất nghe. Vậy tôi xin tạm kết luận. Thường vụ nhất trí hai điểm, một là chọn Vũng Rô làm bến đón tàu từ ngoài vào. Hai là cử anh Trần Sinh, ủy viên Thường vụ Khu ủy, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên thay mặt Thường vụ đảm nhận công tác chỉ đạo tổ chức bến. Nếu các anh thấy hợp lý, tôi sẽ điện ra xin ý kiến Trung ương...
- Báo cáo anh Năm, còn một việc nữa muốn xin ý kiến chỉ đạo của Thường vụ... - Sáu Sinh nói - Tôi vừa nhận được tin ngày mai địch cho lực lượng khá lớn càn lên khu vực này...
- Địch càn? Có việc đó sao không nói sớm, anh Sáu?
- Tôi cũng vừa nhận được tin...
- Địch nó càn ngẫu nhiên hay đã manh nha đánh hơi ra điều gì ta?
- Theo tôi địch càn là muốn quét lực lượng các cơ quan khu và tỉnh ra khỏi cứ... Chúng chưa thể phát hiện ra chủ trương ta chuẩn bị nhận vũ khí từ ngoài Bắc vô...
- Nên tính sao, anh YBLốc?
- Đứng về tương quan, ta không nên bộc lộ lực lượng. - YBLốc nói. - Để chuẩn bị cho những việc lớn hơn, trước mắt là nhiệm vụ đón tàu chở vũ khí vô, nên làm cho kẻ địch bị hẫng...
- Nghĩa là cho lực lượng rút lui...
- Thời điểm này tránh đụng độ tốt hơn. Trước mắt cần bảo vệ an toàn cơ quan Khu ủy và các tỉnh...
- Có lý! - Năm Phô nói - Nếu các anh đồng ý phương châm đó thì cần triển khai ngay... Phải có kế hoạch hành động trong đêm... Chúng ta còn rất ít thời gian...
... Đêm ấy sau khi theo bộ phận trinh sát rút sâu nữa lên miền Tây, mắc võng nằm dưới cánh rừng già, Sáu Sinh trằn trọc không ngủ được. Ông  cứ  băn  khoăn  mãi  về  câu  nói  của  Sáu  Quyên  hồi  trưa:  “Chú  à, trường hợp chị Tư kể cũng tội. Hay chú cho chị ấy rút lên cứ... Hai Rạng cứ đeo đuổi miết, làm sao giờ?”. Lúc đó ông nói gì chớ? Phải rồi, ông đã buột ra theo thói quen: “Động viên Tư Nhâm gắng chịu ít lâu nữa... Công việc sắp tới rất cần thông tin của Tư Nhâm...”. Lúc này nghĩ lại, ông rõ rằng nói vậy có cái gì đó chưa ổn, tức mới nghĩ một chiều. Đặt mình vào trường hợp Tư Nhâm, ông thấy quả là khó. Làm thế nào để vừa bảo đảm nhiệm  vụ, vừa  giữ  được lai lịch mình, lại  vừa  chống đỡ  với tình cảm ngày mỗi gắn kết của Hai Rạng? Động viên Tư Nhâm duy trì mối quan hệ với Hai  Rạng  để  làm  vỏ  bọc  cho  mình  tức  đã  đẩy  Tư  Nhâm  vào trường hợp hết sức trớ trêu, khó xử và khó lường. Với nữa chẳng thể kéo dài mối quan hệ như hiện nay mãi được. Sự kiên trì của Hai Rạng chắc có hạn. Sớm muộn gì Hai Rạng, nếu không thỏa mãn tình cảm, điều tự nhiên là sẽ sinh lòng hoài nghi, và một cái gì đấy có thể một dấu hỏi treo lửng trong đầu về Tư Nhâm là điều khó tránh. Xét bề ngoài, Tư Nhâm đồng ý yêu cầu của Hai Rạng là phải lẽ. ở góc độ tình cảm đơn thuần mà suy, họ đến với nhau là hợp lý. Hai người vốn quen biết từ nhỏ, đã từng có những kỷ niệm của thủa mới lớn, mà kỷ niệm thời bắt đầu nhận biết hằn sâu vào trí não người ta như dao khắc trên đá. Họ cùng độc thân và không thể nói là không muốn có một gia đình... Vậy lý do gì cả hai chẳng đến với nhau? Không chỉ Ba Hoàng, mà bất kể ai có chút suy diễn đều cho rằng Tư Nhâm từ chối Hai Rạng là điều không bình thường... Nhưng đưa Tư Nhâm ra cứ tức Tỉnh ủy đã tự chặt tay, bịt mắt mình... Để có mối liên kết giữa Sáu Quyên - A5 - Tư Nhâm, ông đã mất bao công phu, bao công sức. Chặt đi một mắt xích đó là phá bỏ một đường dây nội tuyến quan trọng, đường dây không chỉ phục vụ cho công việc tiếp nhận vũ khí sắp tới mà còn là vấn đề chiến lược lâu dài... Đành rằng Sáu Sinh đã có lần hứa với Tư Nhâm rằng, hãy cho bé Thảo về ngoại và sẽ bố trí đưa Tư Nhâm ra cứ, nhưng hình như đấy chỉ là chút tình cảm bột phát, sau đó thì tình thế và sự bức bách của công việc lại khiến ông phải cân nhắc, suy tính... Nếu Tư Nhâm lên cứ, ai là người thông tin cho ông hay có trận càn này? Khó nghĩ quá!... Để Tư Nhâm ở lại, liệu ông có ích kỷ quá không? Quyền lợi của cách mạng là trên hết! Tư duy giáo điều ấy cũ quá rồi, nhưng xét trong hoàn cảnh cụ thể hình như nó vẫn mang đầy đủ tính hợp lý nào đó. Trường hợp Tư Nhâm, chắc lại phải quay về với quan niệm ấy.
Phải, quyền lợi của cách mạng là trên hết, cuối cùng Sáu Sinh đành tặc lưỡi trấn an và an ủi mình bằng câu khẩu hiệu ông vẫn cho rằng sống sượng, có cái gì chương chướng đó...
Sáu Sinh vốn là bạn của Bảy Cường, ba Tư Nhâm. Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, lúc Sáu Sinh vừa dạy học vừa gây dựng phong  trào  ở  làng  Cát,  Bảy  Cường  theo  tổ  công  tác  lên  Tây  Nguyên. Những năm cuối cuộc chiến, Bảy Cường được lệnh về đồng bằng, ông đưa con gái cùng ra cứ. Vào thời gian ấy Sáu Sinh cũng được lệnh rời làng Cát và ông biết Tư  Nhâm  bởi vậy. Hồi  đó Tư  Nhâm gầy nhẵng, thoạt trông thơ  dại  như  cô  bé vẫn xách lẵng vào rừng nhặt  quả  thông trong câu chuyện của một nhà văn Nga, nhưng ẩn sau cái bề ngoài ấy, cô có phẩm chất của một chiến sĩ quân báo: sáng dạ, nhanh nhẹn, tháo vát và cũng là tay thiện xạ có hạng. Hồi đó có khẩu hiệu mỗi viên đạn là một quân thù, và người thực hiện hiệu quả nhất là cô con gái Bảy Cường. Khi mới vào cứ người ta phân công Tư Nhâm làm liên lạc, giúp việc trong cơ quan, rồi do bộ phận quân báo thiếu người, Tư Nhâm được chuyển qua. Cô đã từng theo đồng đội vào hậu cứ địch nắm tình hình và làm công tác dân vận. Nhiều người khen cô khôn khéo, biết ứng phó... Nhiều lần thoát chết không hẳn chỉ do may mắn, mà nhờ biết khai thác triệt để những điểm mạnh của hoàn cảnh...
Sáu Sinh cũng là người tác thành cho Tư Nhâm với Tư Lăng để họ thành vợ thành chồng. Sau khi Bảy Cường hy sinh, Sáu Sinh quý Tư Nhâm như con, và không ai khác, chính ông đã giữ Tư Nhâm ở lại, rồi bố trí về làng Cát hoạt động. Ai hay thiếu tá Hai Rạng, tiểu đoàn trưởng Rồng Đen lại là người quen biết cũ của Tư Nhâm... Cuộc đời nhiều ngẫu nhiên, nhiều những thứ không thể đoán định trước, kỳ lạ như thể có bàn tay vô hình nào đấy cố tình sắp đặt, nhào nặn...
Sáu Sinh trở mình. Trời gần sáng. Khu rừng yên tĩnh. Mọi người
đang ngủ sau một chặng đường hành quân vượt núi khá dài. Tiếng gió lướt trên vòm lá rất khẽ, Sáu Sinh cũng chìm dần vào giấc ngủ...
Khi mặt trời chiếu những tia nắng đầu tiên vào khu rừng, Sáu Sinh choàng thức. Phía cuối rừng ẩn có tiếng động cơ máy bay vọng lại và kế đó là tiếng nổ dồn dập của các loại bom. Mọi người đứng dậy và cùng hướng về phía ấy.
- Chúng càn lên rồi!
Sáu Quyên đứng phía sau Sáu Sinh buột ra. Sáu Quyên là người đầu tiên biết sẽ có trận càn này. Đúng hơn cô là người đầu tiên được Tư Nhâm báo cho hay.
Nghĩ đến Tư Nhâm, Sáu Quyên thấy thương chị quá chừng. Mỗi lần gặp, cô thường giả bộ mang vẻ mặt dửng dưng và hay nói cứng để Tư Nhâm khỏi yếu mềm nhụt chí, mà làm vậy Sáu Quyên còn muốn động viên và “làm tư tưởng” cho cả mình, nhưng trong thâm tâm, cô hết  sức  hiểu  và  thông  cảm  với  hoàn  cảnh  của  chị...  ở  tình  cảnh  Tư Nhâm, sự chịu đựng trên nhiều phương diện là quá sức. Nhiều lúc Sáu Quyên tự hỏi, nếu đặt vao cảnh huống như chị, liệu mình có trụ được? Trước đây là Trần Nhũng và bây giờ là Hai Rạng. Đến cây tre cây nứa tán mãi còn đổ nữa là... Nhưng nỗi khổ tâm đâu phải chỉ vậy. Được chú Sáu giao nhiệm vụ là người duy nhất bắt liên lạc và nhận thông tin từ Tư Nhâm chuyển qua, Sáu Quyên hiểu tâm trạng người phụ nữ này. Đã hơn mười năm nay không một tin tức của chồng, sự chờ đợi của  chị  khác  nào  đêm  đêm  người  ta  hướng  vào  mặt  trăng  gọi  Cuội, niềm  hy  vọng  mỏng  tang  như  bọt  bóng  xà  phòng  chơ  vơ  bay  trước gió. Nhưng vẫn phải cắn răng chờ. Nó là đạo lý, là tình cảm và còn là một cái gì cao hơn thế... Sáu Quyên biết Tư Nhâm khổ tâm và không phải là không dằn vặt. Nỗi chồng, nỗi con, những đối phó và nhiệm vụ. Làm thế nào để không đánh mất mình mà vẫn làm trọn công việc chú Sáu, đúng hơn là tổ chức giao đâu hẳn dễ dàng... “Dựa vào Hai Rạng, chị khỏi lo mối hiểm họa từ Ba Hoàng”, Sáu Quyên thường nói với Tư Nhâm vậy, nhưng thực tình cô đâu muốn. Dựa vào Hai Rạng khác nào dùng con dao hai lưỡi và ai mà lường được hậu quả sau đó... Nhưng trong tình thế hiện nay, chẳng còn cách nào khác. Chỉ mong sao sớm qua cái đận này, mọi sự êm êm, để chú Sáu đưa Tư Nhâm ra cứ..

Sáu Quyên ngồi tựa gốc cây, hướng mặt về phía có nhiều tiếng súng nổ...
- Qua chỗ chú có việc nghe, Sáu! - Sáu Sinh nói.
- Dạ! Sáu Quyên bước tới chỗ Bí thư Tỉnh ủy. Hai người lần xuống con suối gần đó.
- Hôm qua cháu đề xuất việc để Tư Nhâm ra cứ, chú băn khoăn mãi. - Sáu Sinh vào chuyện. - Mà không phải hôm nay. Chú nghĩ đã mấy tháng qua... Khó ha!
- Cháu thấy chị Tư kẹt vào tình thế khó xử quá.
-  Chú  biết  chớ...  -  Sáu  Sinh  nhìn  ra  xa,  nơi  có  những  cây  lành lạch mọc chồng lên nhau, kết lại như những đụn rạ, giọng Sáu Sinh nhỏ xuống. - Cháu rõ hôm qua Thường vụ Khu họp chớ?
- Dạ.
- Thường vụ đã quyết định chọn Vũng Rô làm bến để tiếp nhận vũ khí...
- Vũng Rô? - Sáu Quyên ngạc nhiên quay lại, khuôn mặt hớn hở như trẻ nhỏ được mẹ cho quà.
- Làm gì la lên vậy?... Tuyệt mật đó nghe...
- Cháu ngỡ mình nghe nhầm... Thiệt có việc ấy sao chú?
- Bởi vậy chú cứ nghĩ hoài tới việc của Tư Nhâm...
- Dạ, cháu hiểu...
- Đặt mình vô chỗ của Tư Nhâm  mới thấy tội... - Sáu Sinh khẽ thở dài. - Mà cháu thấy Hai Rạng là người ra sao?
- Hai Rạng khác Ba Hoàng, viên thiếu tá này có học, hiểu nhiều, cũng là con người ga lăng, văn hóa, không hung hăng, nhưng hai kẻ đó giống nhau ở một điểm là chống Cộng sản đến cùng.
Sáu Sinh im lặng. Rồi ông chợt buông tiếng thở mạnh...

*

Quán Năm Hồng hôm nay đông hơn mọi bận. Đám lính Rồng Biểnvừa càn trên núi về được nghỉ, tranh thủ tới xả hơi. Căn nhà ồn ã tiếng người và sặc mùi bia rượu. Một xị đế với miếng khô cá là đủ cho người
ta vung tay trương gân cổ la hét coi trời bằng vung và có thể công kênh nhau lên tận tít trên sao hỏa. Rượu quả là một trong những phát minh vĩ đại nhất mà con  người  may  mắn  có  được. Nếu thiếu  thứ  nước  nồng nồng cay cay ấy, chẳng rõ nhân loại hiu quạnh buồn tẻ vắng lặng và vô nghĩa đến dường nào. Vui cần đến rượu mà buồn người ta cũng cần đến thứ đó. Đám ma đám cưới không có rượu, nhạt thếch. Thất tình, mất của, vợ theo trai..., nếu không có rượu lấy gì làm cứu rỗi? Rượu quả là tri  âm  tri  kỷ.  Rượu  làm  cho  người  ta  khùng,  dũng  cảm  hơn  và  cũng khiến người ta thật hơn, bộc bạch hơn. Chẳng một điều gì trong lòng không  lôi  tuột  ra  phơi  bày  giữa  thanh  thiên  bạch  nhật  khi  rượu  vào. Rượu là kẻ thù của đàn bà, nhưng là ma lực để đàn ông có những giây phút thăng hoa; phàm đã sinh ra làm thằng đực, khó ai bước qua...
- Các cha biết tại sao mấy hôm rồi chúng ta vô rừng đổ đạn đánh Việt Cộng nhưng lại đuổi thỏ chớ? Không rành hả? Vậy tới đại úy Ba Hoàng giảng giải cho nghe.
- Không bỏ mạng, vác được con giống về là quý rồi cha nội ơi.
- Mẹ kiếp, mình lên núi thì Cộng sản lại mò xuống... Nghe tin gì chưa? Nguyễn Xấn chỉ huy dân vệ làng Cát đêm qua lại bị du kích đột nhập vô bắn chết tại nhà. Bọn dân vệ sợ mất vía chạy té đái lên Lân Cồ xin cứu viện bị Ba Hoàng tức giận cho ăn bạt tai...
-  Bọn  ngu...  Không  chống  nổi  thì  mặc,  cớ  chi  phải  lên  Lân  Cồ cho khổ xác...
- Du kích vô làng như vô chỗ không người... Cho thêm xị nữa chị Năm...
Tại chiếc bàn xế góc, một gã trông vẻ bặm trợn, bộ râu quai nón chưa kịp cạo tủa tủa hai bên má lởm chởm như lông heo làm không kỹ bắt chước giọng Chế Linh, lè nhè: Tôi thề tôi chẳng yêu ai, vì người ta cứ phụ tôi hoài... Tôi thề tôi chẳng yêu ai...
Cô gái chàng ta nhặt được đâu đó rồi mang vào đây cùng uống rượu lườm ngang:
- Hát chi rầu vậy cha nội... Đã có em nè.
-  Ngày  mai  anh ra trận, em  cũng  bai anh thôi, anh  rành đàn  bà mà... Tôi thề tôi chẳng yêu ai... Chỉ có chị Năm là người đàn bà bậc nhất chung tình với tụi lính chiến này thôi, phải vậy không chị Năm? - Gã nói và quờ tay vuốt nhẹ cặp mông tròn căng vổng cao khơi gợi của người chủ quán, mắt rực lên...
- Có sức không mà ham hố vậy cha? - Năm Hồng quay lại, đôi mắt sắc như dao cứa lên mặt gã, lại cứa lên mặt cô gái ngồi cạnh. - Biết nuốt không trôi mà cố dễ sặc nghen.
- Sặc? Hôm nào chị Năm cho thử được không? Coi bộ vậy nhưng tôi còn dai sức ha. Gã cười, rồi choàng tay qua vai cô gái, hôn nhẹ vào má.
- Trời ơi, ợ ra sặc mùi rượu... Hôi thấy mồ! - Cô gái điệu bộ phẩy tay.
- Sao, hôi thấy mồ? Rượu là đặc ân thượng đế ban mà nói hỗn... - Gã đứng dậy, đưa ly lên - Nào, uống cạn nghe, anh em.
Gần chục cái ly sóng sánh rượu châu vào nhau.
- Dô! - Gã hô.
Đám  lính  hô  theo,  rồi  những  khuôn  mặt  đỏ  lựng  ngửa  lên,  dốc ngược chiếc ly cầm ở tay vào miệng.
- Đời chỉ còn một thứ có nghĩa. - Gã ngoẹo cổ, ặt vào vai cô gái, chuyếnh  choáng.  -  là  đàn  bà,  còn  lại  vô  lý  ráo.  Chức  quyền,  phù phiếm; tiền tài, chẳng nghĩa gì. Chết là hết... Vậy mà người ta cứ xỉa súng,  xỉa  dao  nhọn  vào  mặt  nhau,  người  ta  thích  giết  nhau...  Cộng quân nói Cộng quân đúng, Quốc gia bảo Quốc gia phải... Tai họa lớn nhất của nhân loại là ở chỗ ai cũng cho rằng mình đúng... Mẹ khỉ, thế nào là đúng, thế nào là sai... Vô nghĩa... Nào rót đi... Chỉ rượu và đàn bà là muôn năm đúng...
- Nói ba láp Ba Hoàng xích cổ vô cột đá nghe.
- Ba láp?... Không ba láp... Nói đúng phóc hết. - Gã lại hát, giọng sên sến. - Phải ra dáng một người đàn ông - Hãy sống cho hôm nay, ngày mai còn xa lắm...
Có  tiếng  phanh  xe  rít  gấp  gáp,  mọi  người  cùng  nhìn  ra.  Chiếc Jeep khựng ngay cửa quán. Đại úy Ba Hoàng nhảy xuống, trung sĩ Độ xuống theo.
-  Mấy  anh  ở  đội  nào,  làm  loạn  phải  không?  -  Hoàng  hằm  hằm bước vào và hỏi, đôi mắt khó chịu nhìn lướt khắp lượt đám lính.
- Thưa đại úy, hôm nay được tự do nên đến quán cùng vui. - Gã có râu quai  nón buông  cô  gái, đưa  tay ngang  vành  mũ, tiến lên, hai chân liêu xiêu... Đại úy uống với tụi em một ly nghe?

- Say xỉn cả rồi!
- Chưa xỉn và cũng chưa say, thưa đại úy... - Gã cầm chai rượu, run run bước tới. Ba Hoàng gạt ra:
- Về đơn vị ngay! - Viên đại úy bực bõ ra lệnh - Tất cả về đơn vị!.
- Thưa... Tại sao phải về?
- Chống lệnh hả?... Đừng để lần thứ hai tôi nhìn thấy bộ mặt lè phè và đỏ như mào gà chọi của anh nữa nghe.
- Không chống lệnh. Quân lệnh là sơn, là núi, là keo, là xà bông... Đã lệnh! Vậy thì về!
Đám  lính  ngơ  ngác  nhìn  nhau,  cuối  cùng  cũng  lẳng  lặng  đứng lên, thanh toán tiền và len lén rút ra khỏi quán.
- Rượu vào chỉ huyên thuyên tuyên truyền không công cho Cộng sản...  -  Ba  Hoàng  càm  ràm,  không  có  ý  nói  cho  ai  nghe  cả,  gã  nói phóng thiên; rồi lầm lầm bước ra, tót lên xe không cả quay lại gật đầu chào Năm Hồng. Hai Độ như một cái bóng nịnh bợ hấp tấp chạy theo. Thực  ra  Ba  Hoàng  không đến  đây  dẹp  đám  lính.  Gã  đang  bực, đang khó chịu trong lòng, giống như người ta tức đái, chưa có chỗ thải, vớ  đống  cỏ  rác,  vậy  là  xả  luôn.  Đám  lính  chính  là  đống  cỏ  rác.  Ba Hoàng bực tới mức quên chào cả Năm Hồng. Mọi lần, có chuyện buồn gã thường tới đây làm  vài ly để được  tán tỉnh và  ngắm  ngó bộ ngực mướt mát, cặp đùi căng, hai mông mẩy bó chặt trong chiếc quần may chật của người chủ quán. Biết Năm Hồng đa tình lại đã đến với già nửa đàn ông trong vùng, xổ ra phải một rổ cái thứ của quý mà mỗi lần ngà ngà men, nửa nằm nửa ngồi trên chiếc ghế tựa, lim dim mắt nhìn cái cơ thể mẩy lẳn gợi cảm của người  đàn bà  này, cái  vật  kề  bụng dưới  cứ nóng ran và đầu óc lại quay đảo trong những tưởng tượng thân xác... Gã coi đó như những phút thư giãn, nhằm lấy lại thăng bằng. Nhưng hôm nay Ba Hoàng không chỉ buồn mà đang tức, đang hận, đang rối trí. Gã không muốn gì cả, chỉ thấy cáu giận... Mấy ngày nay dồn dập những chuyện không hay. Cuộc hành quân lên núi ẩn thất bại. Du kích lộng hành ở làng Cát. Nguyễn Xấn bị giết. Lại còn chuyện Tám Phụng nữa chớ. Mẹ khỉ, chẳng rõ sao thằng cha bỏ Cộng sản theo Quốc gia này cứ khật khờ hệt cái bóng không hồn, hỏi gì cũng gật, gật rồi bất chợt ngoác cái mồm rộng như mồm cá ngão ra nhăn nhở cười. Có lúc cười to đến phát ho, kéo theo cả rắm rít. Hắn muốn gì nữa chớ? Quốc gia không chỉ tha mạng sống, còn đối xử như khách, cho ăn ngon, cho mặc đẹp, cho chỗ ở đàng hoàng, lại có lính gác cửa chẳng khác gì nhà tướng Long nơi  Tuy Hoà. Vậy mà  lão cứ  héo quắt, da  mặt  bủng xanh như  cái lá khoai môn bị mấy bà bán cá ghé đít chuầy chòa ngồi cho nhàu nhĩnh. Còn đôi mắt lúc lóe lên tia nhìn hoảng loạn, rồi giáo giác nhìn ra xung quanh; lúc lại lờ đờ, thiếu sinh khí như kẻ đã nằm trong quan tài... Có người bảo rằng lão bị ma ám. Ba Hoàng không tin. Nếu có ma thật Ba Hoàng đã bị vật chết lâu rồi. Xóm dưới cuối làng Cát có một chốn được coi là linh thiêng, đó là đền Cả. Ngôi đền giáp Mả Ma này xây từ bao giờ chẳng ai hay, thờ ông tướng cụt đầu có công đánh giặc từ xa xưa, nghe nói rất ứng nghiệm. Ai có việc gì uẩn khúc, oan ức đến đó cầu khấn đều được giải. Thậm chí nhiều người chết mười sống một đến xin quẻ, về nhà đốt giấy hòa vào nước uống thay thuốc, đều khỏi. Vậy mà Ba Hoàng đã đầu têu bọn trẻ trong làng làm một việc động trời. Chính ngọ, bọn ôn dịch này, dân làng Cát sau đó gọi chúng như thế, dám vác búa  ra  đập  tượng  ông  hộ  pháp  canh  cửa  đến  vụn  tơi.  Hay  tin,  Trần Nhũng sợ xanh mặt, chân tay rụng rời, nói không ra lời, vật xuống tựa người cảm gió. Chỉ một mống con trai, phen này chắc mất. Mà tại sao cái thằng trời đánh này đổ ngu đổ dại ra vậy chớ. Rầu ruột quá!... Có người mách phải sắm lễ tạ tội suốt trong ba ngày. Trần Nhũng sợ hãi làm theo. Đêm thứ hai, Ba Hoàng đi đánh trận giả ngoài bãi dương về, đói bụng, liền lẻn vào, trèo lên bệ thờ vơ hết hoa quả, xôi oản ra chia cho đám trẻ. Ăn xong chúng còn thi nhau đái cầu vồng vào sân đền xem đứa nào đái cao, đái dài nhất. Vậy mà Ba Hoàng cứ sống nhăn nhăn cho tới bây giờ... Chẳng có ma nào hết, nếu là ma thì kẻ đó chính là Tám Phụng. Nhiều lúc thấy lão nghệt ra như gà mái rặn đẻ rồi phá lên cười ngặt ngẽo, sau đó ôm mặt khóc hu hu, miệng lảm nhảm “ác địa, ác địa”, Ba Hoàng cũng hoang mang: hay chính lão là ma? Tám Phụng ma hay người  mặc  xác  lão,  nhưng  hắn  đã  khiến  Ba  Hoàng  và  Hai  Rạng  bất
đồng. Có lần viên đại úy đề nghị:
- Khử thôi, Tám Phụng hết tác dụng rồi.
Hai Rạng không những không nghe, còn cự nự:
- Quốc gia khác Cộng sản chỗ đó. Không được vắt chanh rồi bỏ vỏ, dẫu sao ông Tám đã giúp ta rất nhiều việc.
- Không khử thì để lão tự do.
- Ra khỏi đây Tám Phụng lập tức bị Cộng sản làm thịt, như vậy ai còn muốn về với chính nghĩa quốc gia?

Ba Hoàng ấm ức, nhưng cũng rõ mình đuối lý, nên im lặng. Song, cuộc trò chuyện sáng nay với Hai Rạng mới thật sự khiến gã khó  chịu.  Viên  đại  úy  không  mảy  may  nghi  ngờ  Hai  Rạng chểnh mảng trong cuộc chiến tiễu trừ Cộng sản. Hơn ai hết gã rõ ý thức triệt để phụng sự lý tưởng Quốc gia của viên thiếu tá. Không có mối thâm thù truyền  kiếp từng  bị  Cộng  sản cướp  phá  nhà  cửa tịch thu  đồ đạc ruộng vườn như gia đình gã, Hai Rạng theo Quốc gia một cách tự giác trên cơ sở niềm đam mê muốn xây dựng một xã hội tự do, bác ái, vì con  người  cần  lao.  Nhưng  nhược  điểm  của  Hai  Rạng  là  quá  nhu nhược, quá tin người bởi vậy, theo Ba Hoàng, đã đánh giá sai Cộng sản và thiếu cảnh giác. Sáng nay trong phòng làm việc của Hai Rạng, Ba Hoàng có ý nghi ngờ nguyên nhân thất bại của cuộc hành quân lên núi ẩn, đã tâm sự:
- Cả một kế hoạch hành quân bài bản, được tạo dựng trên cơ sở những phân tích tình báo chuẩn xác, vậy mà đã diễn ra theo một kịch bản được khớp nối như thể đôi bên có duy nhất một bàn tay đạo diễn... Thật không hiểu nổi.
Hai Rạng không những không thông cảm còn trách cứ:
- Không có gì khó hiểu! Lỗi là ở CIA các ông. Các ông nắm tình hình không chắc, lại quá tự tin.
Ba Hoàng vẫn nhã nhặn:
- Tôi lại có ý nghĩ khác, thưa thiếu tá. Tôi đồ rằng rất có thể bàn tay Việt Cộng đã thò vào cạnh sườn chúng ta.
- Đại úy mắc bệnh nghề nghiệp, hoặc bệnh hoang tưởng rồi. - Hai Rạng nhìn Ba Hoàng và giễu.
- Bệnh nghề nghiệp, vâng, có thể... Một kế hoạch bí mật tới vậy mà Việt Cộng vẫn biết trước, thậm chí biết rất chi tiết, biết rất cụ thể, từ lực lượng đến ngày giờ xuất quân và đã khôn ngoan lừa chúng ta,
làm cho chúng ta bị lỡm, bị tưng hửng. Chúng ta dàn quân ra và đã đấm một quả đấm mạnh vào bị bông. Chẳng  lẽ  đó  là  một  ngẫu nhiên?... Phải có ai đó, nhất định phải có ai đó biết kế hoạch, lấy được thông tin và tuồn ra cho Cộng sản.
- Nè đại úy, hay là tôi...?
- Thưa, xin thiếu tá đừng nặng lời. Tôi đâu dám hồ đồ tới mức ấy. Lòng trung thành của thiếu tá đối với chế độ, hơn ai hết tôi là người rành chớ.
- Hay là cô Tư Nhâm? - Hai Rạng làm bộ nghiêm - Nghe nói lâu nay đại úy vẫn cho người theo sát cô ấy? Cần gì đại úy cứ hỏi tôi nè, theo chi cho mệt. Tôi rành Tư Nhâm như rành tôi vậy.
- Thưa thiếu tá, nhiệm vụ của tôi là...
- Đại úy chớ độc quyền yêu Quốc gia nghe. Chính thể này không phải chỉ có Ba Hoàng biết bảo vệ.
Ba Hoàng uất tím mặt, gã ra khỏi phòng, vẫy Hai Độ. Hai thầy trò lên xe... Và đám lính ở quán Năm Hồng đã tội nghiệp làm bia để Ba Hoàng xả uất ức.
- Thưa, về doanh trại? - Hai Độ ướm hỏi hỏi khi chiếc xe gần tới Lân Cồ.
- Về nhà tôi!
Hai Độ đánh vô lăng, chiếc Jeep cua nhẹ, rẽ vào con đường nhỏ, và cuối cùng dừng lại trước ngôi nhà có sân trồng nhiều hoa lý.
- Ba về! Ba về! - Hai đứa nhỏ, một bé trai chừng mười tuổi, bé gái chừng tám tuổi từ trong sân hớn hở ào ra đón.
Ba Hoàng nhảy xuống, vui vẻ bế bé gái vào lòng, dắt bé trai đi cạnh. Bà giúp việc từ trong bếp bước tới:
- Cậu đã về! - Bà chào, người hơi cúi xuống, khuôn mặt tỏ sự lễ phép, cam chịu.
- Nhà tôi đâu? - Ba Hoàng hỏi.
- Dạ thưa, mợ có dặn lại rằng trưa nay không về. Mợ có việc vô Nha Trang mấy hôm.
- Nha Trang?
- Ba ơi, thiếu tá Tư Sum từ dưới đó đưa xe về rước má đi. - Đứa con lớn nói thêm.
- Má đi công chuyện đó mà... - Ba Hoàng trấn an con trai, cũng là để trấn an mình rồi quay về phía Hai Độ. - Hai giờ chiều đón tôi vô doanh trại nghe.
- Dạ!
Mâm cơm đã được người giúp việc dọn sẵn. Ba Hoàng thay quần áo và cùng hai con ngồi vào bàn. Gã làm một cử chỉ âu yếm, thơm nhẹ lên má cậu bé, lại thơm lên má cô bé.
- Chỉ còn hai đứa là niềm vui của ba đó... Các con ăn ngoan, ăn nhiều cho chóng lớn nghe.
Ba Hoàng rất yêu con. Gã cho rằng tài sản lớn nhất ở đời là con cái, bởi vậy dẫu không bằng lòng với thói trăng hoa của vợ, lâu nay gã đã gắng chịu đựng, và cho qua nhiều chuyện tằng tịu của người đàn bà này với đám sĩ quan trên phố. Ba Hoàng không muốn có điều gì ảnh hưởng đến hai đứa nhỏ. Nơm nớp như vậy nên gã thường nói với vợ:
“Em gian díu với ai mặc lòng, nhưng không được để bọn trẻ buồn bỏ học đó”. “Bộ chỉ anh biết thương con sao?” - Vợ gã đáp. Ba Hoàng coi câu trả lời của vợ như một thỏa ước ngầm giữa hai người. Ai ngờ hôm nay thị công khai đi với người tình trước mặt con. Ba Hoàng cố thanh minh với lũ nhóc rằng má đi có việc, nhưng gã rõ vợ đi đâu và đi  làm  gì...  Tối  qua,  lúc  đã  khuya  khuya,  người đàn bà xoay  người
sang và bảo:
- Em cần một số tiền...
- Quần áo, giày dép và mỹ phẩm em khuân về như vậy chưa đủ? - Gã nói.
Người đàn bà vùng dậy, bước tới bên của sổ, nhìn ra:
-  Anh  không  nghĩ  rằng  đàn  ông  luôn  để  cho  vợ  hỏi  xin  tiền  là đáng xấu hổ sao? Gã uể oải đáp:
- Anh mệt mỏi với cách tiêu pha của em rồi. Người đàn bà quay nhanh về phía Ba Hoàng:
- Vậy hả? Đáng ra anh nên nói sớm hơn.
- Em cần bao nhiêu? - Ba Hoàng xuống nước. Gã lo sợ một cuộc to tiếng khiến các con thức giấc.
- Hai ngàn đô!
- Có nhiều quá không?
- Đàn bà có những nhu cầu mà người đàn ông chân chính không nên xía vô.

Ba Hoàng thua, nhưng bây giờ thì gã rõ đó là món tình phí của vợ dành  cho  thiếu  tá  Tư  Sum  trong  vài  ba  hôm  hai  người  nghỉ  mát  nơi những biệt thự sang trọng ven biển Nha Trang. Người đàn bà này đã quá táo tợn và bất chấp... Ba Hoàng chẳng lạ gì Tư Sum. Hắn là tên Sở Khanh  có  tem  mác  chuyên  đi  lừa  đàn  bà  và  moi  tiền  của  họ.  Điều không thể giải thích là chẳng hẳn những con cái bị lão nhử vào tròng không ý thức được điều ấy, nhưng lão có ma lực bùa phép gì đó mà hễ người đàn bà nào đã dính vào, khó có thể rời. Họ tự nguyện biến mình thành nô lệ, đồ chơi, trò tiêu khiển và sẵn sàng đi lừa những gã đàn ông dại gái khác để cung phụng lão... Một hôm Ba Hoàng nói với Tư Sum:
- Bỏ cách móc túi đàn bà đi. Hãy làm thằng đàn ông.
Lão cười rất mãn nguyện:
- Đàn ông đích thực là biết làm cho đàn bà sướng, họ theo. Bọn lại cái sao gọi đàn ông!
Ba Hoàng giật mình, gã nhớ đã có lần người đàn bà gã kêu là vợ cũng đã nói với gã một câu tương tự. Đó là hôm  Ba Hoàng đi nhậu trên Tuy Hòa về, và đã không kịp thay quần áo, đổ xuống giường tựa cái giẻ rách, ngủ thiếp. Đang đêm chợt gã giật mình: vợ gã bỗng dưng chồm dậy nhanh như mèo vồ chuột và để nguyên quần áo ngủ, tuông ra khỏi nhà. Chân nam đá chân chiêu, Ba Hoàng vội vã đuổi theo:
- Anh xin lỗi... chúng nó chèo kéo...Người  đàn  bà  quay  khuôn mặt lúc  bấy  giờ  nóng ran như  người sốt cao, nhìn vào mắt gã và nhiếc:
- Anh là đàn ông hay loài lại cái?
Lại cái, sao Ba Hoàng có thể là loài lại cái! Chẳng hẳn mỗi lần ra quán Năm Hồng, mới khẽ chạm mắt vào cánh đồng cỏ chắc chắn là phì nhiêu nơi cái ngã ba mênh mông nhiều liên tưởng của người đàn bà ấy, Ba Hoàng đã rạo rực nóng ran khắp trên dưới sao! Vợ gã đòi hỏi điều gì nữa chớ. Tiền không thiếu, chiều hết cỡ, và so với đám sĩ quan  cùng  lứa  gã  là  một  đực  rựa  khỏe  mạnh... Tư  Sum  hơn  ở  điểm nào?... Nếu không vì hai đứa con, Ba Hoàng đã phá tan cái gia đình này, lành làm gáo vỡ làm muôi và vào doanh trại sống như Hai Rạng từ lâu... Điều trớ trêu là hình như vợ gã biết yếu điểm đó nên càng làm già...
- Anh hứa... - Ba Hoàng dìu vợ vào nhà, dịu giọng.
-  Đã  từ  lâu  anh  không  coi  tôi  là  một  con  cái  nữa...  Tôi  đi  chạ, đừng oán nghe...
Vợ gã có thể đi chạ, chạ với bao nhiêu con đực khác cũng được, Ba Hoàng chai với điều ấy rồi. Ba Hoàng ngấm ngầm chấp thuận. Với nữa, người đàn bà đó đi với trai thì người đàn ông này đi với gái. Có tiền khắc có của lạ. Nhưng lấy tiền gã gom góp nhằm nuôi con và mua tương  lai  của  chúng  để  bao  trai, Ba  Hoàng  quyết  không  để  yên... Nhiều người bảo rằng với lính, và cấp dưới quyền Ba Hoàng là một sĩ quan cứng rắn, gã  gia trưởng, quyết  đoán, nóng nảy và bởi  vậy chớ dại dột làm điều gì trái ý để viên đại úy phải khùng. Khi đã cáu giận là bất chấp, trời lúc đó cũng nhỏ. Còn với Việt Cộng, Ba Hoàng có nhiều thâm thù nên hết sức hằn học, nhẫn tâm, gã không mảy may do dự, không  chút  chùn  tay  xả  súng  vào  đầu  bất  cứ  kẻ  nào  gã  cho  là  Việt Cộng hoặc liên quan đến họ. Phương cách ứng xử của Ba Hoàng phù hợp với ý định của quốc gia: giết nhầm còn hơn bỏ sót... Nhưng điều khó  hiểu là trong gia  đình, gã là  kẻ  hèn kém,  một  người  chồng nhu nhược, biết vợ cắm sừng lên đầu vẫn cay đắng nhẫn nhịn chấp nhận, thậm chí còn coi đó như  quy trình tất yếu của  sự sống: để  đạt đượcđiều gì đấy ắt phải trả một cái giá nhất định... Đám sĩ quan rỉ tai nhau rằng Ba Hoàng cố tình làm thấp mình xuống chỉ vì con cái. Họ có lý. Gia tộc họ Trần toàn độc đinh. Ông nội Ba Hoàng chỉ sinh được một mình  Trần  Nhũng.  Lấy  ba  vợ,  nhưng  cộng  con  chính  thức  lẫn  đám ngoài giá thú Trần Nhũng cũng chỉ có Ba Hoàng, nói như lão hồi còn sống, trời cho để nối dõi tông đường. Và đến lượt Ba Hoàng, gã cũng chỉ một trai một gái. Phải chăng bởi vậy gã muốn yên phận mà giữ lấy dòng giống họ Trần?
- Hai con ăn nhanh để dì Tư đưa tới trường nghe. Ba Hoàng nói rồi bước ra phòng khách.
Chiều đó Hai Rạng đến chỗ làm việc tìm Ba Hoàng. Hai khuôn mặt đã dịu lại. Đúng hơn là viên thiếu tá có lẽ nhận ra điều gì hơi quá lời trong cách ứng xử sáng nay nên muốn dàn hòa.
- Tôi muốn bàn với đại úy cách ứng phó ở làng Cát. - Hai Rạng vào chuyện. - Đây là việc khó... Để Việt Cộng làm chủ làng Cát, tức vành đai chiến lược bao quanh quốc lộ Một bị lỗ thủng lớn. Và vết thủng ấy rất có thể theo phản ứng đô-mi-nô loang rộng ra... Điều quan tâm không chỉ ở chỗ du kích Việt Cộng đêm đêm vẫn lẻn về, mà bằng những thông tin thu góp được và bằng trực giác của mình, tôi linh cảm như họ đang sắp có một ý đồ gì đấy, có thể là chuẩn bị tấn công vào Lân Cồ, cũng có thể đánh giao thông trên đường Một...
- Thiếu tá có những nhận định rất chuẩn xác... Tôi cũng cảm thấy như vậy.
- Nhưng đấy là việc lớn, sẽ bàn kỹ sau... Tôi tới là muốn nói chuyện khác. Tôi muốn đại úy hiểu hơn về quan hệ giữa tôi và Tư Nhâm... Có thể đại úy cho rằng mối tình đó không bình thường. Phải, không bình thường theo lối nghĩ một chiều. Tôi yêu Tư Nhâm bằng tình cảm thật của mình như bất cứ người đàn ông chân chính nào khác. Cô ấy chưa ưng thuận có thể do mặc cảm, và cũng có thể do quan niệm về cách nhìn nhận các mối quan hệ xã hội... Tôi thật không hiểu tại sao người Việt lại hận thù người Việt và phải một mất một còn để rồi những người như tôi, như Tư Nhâm trở nên xa lạ, khách sáo mặc dù không phải kẻ thù. Mỗi lần tới nhà chơi, cô ấy kêu tôi bằng thiếu tá, ngỡ như hiển nhiên, nhưng xét kỹ thấy đau lắm. Sao Tư Nhâm không thân thiện, vồ vập gọi tôi là anh Hai như thời còn bé chớ? Cuộc chiến này có cái gì đấy hết sức trớ trêu, đại úy thấy vậy không?

- Đó là một trong những thuộc tính của chiến tranh...
-  Đúng,  chiến  tranh  kéo  theo  nhiều  mất  mát!  Nhưng  tại  sao  cứ nhất thiết có chiến tranh? Phải chăng bởi ông Các Mác nói rằng lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp nên Cộng sản đã  bám  vào đó như  một liều thuốc  duy nhất, một bảo bối tuyệt hảo để ham hố phát động cuộc chiến này, coi như quy luật phát triển?
- Họ gọi đó là cuộc cách mạng giai cấp... Tôi không bao giờ quên gia đình tôi ba đời bị Cộng sản giết hại, thưa thiếu tá...
- Tôi chia sẻ tâm trạng ấy của đại úy... Xin lỗi, chúng ta lại lạc đề rồi. Tôi đang nói về mối quan hệ giữa tôi và Tư Nhâm... Tại sao tôi yêu người đàn bà đã có một con đó, lại là một đứa con, người làng Cát gọi là con hoang?...
- Thiếu tá chắc bé Thảo là đứa con ngoài giá thú của Tư Nhâm?
- Vậy đại úy không rành chuyện sao?
- Thưa thiếu tá, thiếu tá vẫn chẳng nói cô Tư là người đoan trang và thiếu tá mến cô ấy còn bởi lý do đó...
- ý đại úy là... Nhưng người ta cũng có thể lầm lỡ chớ...
- Và nhầm lẫn...
- Nhầm lẫn là bản tính con người. Và thích sinh sự cũng là bản tính  con  người,  Fơ  -  Rớt  gọi  đó  là  bản  năng  xâm  kích,  tệ  hơn  con người còn coi sự ấy như một nhu cầu... Kỳ thiệt! Nói như vậy là muốn kể chuyện này: làng tôi có hai nhóm người sinh sống, một nhóm theo lương, một nhóm theo đạo. Họ chẳng thân thiện gì. Luôn hiềm khích và  tìm  cơ  hội  tiêu  diệt  nhau.  Chuyện  ấy  ảnh  hưởng  đến  bọn  nhóc chúng tôi... Trẻ con đạo và trẻ con lương thường vót những chiếc cọc nứa thiệt dài thiệt nhọn và đánh nhau suốt. Một lần tôi bị đám nhỏ bên đạo rượt, bèn chạy vô nhà Tư Nhâm. Cô ấy luống cuống bắc thang để tôi trèo lên trốn trên ràn trâu. Khi tụi trẻ thù địch với tôi  ào tới, Tư Nhâm sợ hãi chạy ra, hớt hải dang hai tay cản lại nhưng đôi mắt lại ngoái nhìn vào chỗ tôi trốn, miệng la to: anh Hai Rạng, anh Hai Rạng không có ở đây! Tức cười, làm vậy khác chi báo cho chúng biết tôi đang nằm run rẩy trên ràn trâu. Giữa tôi và Tư Nhâm có rất nhiều kỷ niêm...  Gặp  lại  nhau  là  duyên  phận...  Với  nữa...  Tư  Nhâm  đẹp  chớ, hả?
Ba Hoàng đưa mắt nhìn Hai Rạng. Tư Nhâm là một phụ nữ đẹp, Ba Hoàng sao không hay! Người đàn bà này vừa rực rỡ vừa có nét duyên thầm, một nét đẹp thuần khiết, đằm lắng. Nếu Năm Hồng là loại cô nhắc mà dân nghiền thoáng ngửi hơi đã thèm, cuống quýt muốn uống ngay thì Tư  Nhâm  hấp  dẫn  như  loại  vang  nho  Pháp,  không  xốc  không  nồng, không làm cho người ta khùng nhưng nếu uống sẽ ngấm, sẽ say lâu và khó bỏ. Chẳng một thời Trần Nhũng háo khát đi mòn con đường dẫn đến ngôi nhà nơi rìa xóm đặng tìm kiếm chút hương trời đó sao! Và lấp ló đâu đấy trong đầu Ba Hoàng không phải không có lúc đã từng thoáng những tưởng tượng thèm muốn với người đàn bà này... Đàn bà vẫn cứ là đàn bà và họ mãi mãi làm khổ đàn ông! Nhưng phải có lý trí. Phải, lý trí. Ba Hoàng cho rằng Hai Rạng thật thà, thiếu sự nhạy cảm cần thiết và dễ bị lợi dụng.
- Xưa nay mỹ nhân đã làm sụp đổ bao triều đại. - Ba Hoàng nói bóng gió - Đúng vậy không, thiếu tá?
Hai Rạng chợt cười to:
- Đại úy coi tôi là vua sao? - Hai Rạng đùa nhưng trong giọng nói nhè nhẹ đó ẩn chứa cái gì như thể sự răn đe. - Tuy vậy, ai đụng đến Tư Nhâm là coi thường Hai Rạng này nghe... Nếu đại úy thấy chuyện của tôi mệt mỏi rồi, qua chuyện khác. Ta quay về với mối hiểm họa của Cộng sản trong vùng...

Chương hai

I

Biển trải ra ngăn ngắt, ngút tầm nhìn. Những con sóng đùa bỡn va vào nhau tạo nên những ngấn trắng trông như thể có đàn cò đang đua nhau sà xuống mặt nước. Phía xa xa, một nét sắc lẹm giống sợi chỉ căng ra ngăn cách hai màu, màu xanh đậm và màu xanh nhạt. Đó là  đường  chân  trời.  Trước  sự  mông  lung,  rộng  lớn  của  trời  và  biển, con  tàu  trở  nên  đơn  lẻ  nhỏ  nhoi,  chỉ  là  chấm  bé  xíu  mờ  mỏng  dập dềnh giữa mênh mông đại dương...
Con  tàu  đang  đi  về  hướng  Bắc.  Mặt  trời  chói  chang  đổ  nắng xuống boong rát bỏng. Thuyền trưởng Thanh đứng đầu mũi, chiềng khuôn mặt sạm nâu ra đón gió. Anh cảm thấy vui và muốn dành cho mình vài ba phút thực sự yên tĩnh để thư giãn. Như một thói quen, mỗi lần đưa vũ khí vào “trong đó” trở về, khi con tàu vượt qua vĩ tuyến quân sự tạm thời, anh mới thực sự thanh thản, thực sự an tâm và lúc ấy mới lại giao tay lái cho thuyền phó Thơm để bước ra vị trí này buông lỏng trí não, mặc cho gió phả vào mặt, một mình thảnh thơi nhìn xuống biển. Thói quen ấy tựa tựa tiếng thở phào khi người ta thấp thỏm gắng làm một việc gì đó mà nguy cơ thất bại là không thể nói trước nhưng đã được đền đáp bằng kết quả ngoài mong đợi.
Con tàu lắc qua lắc lại, chòng chành trôi trên biển. Không chỉ thuyền trưởng Thanh, các thành viên trên tàu đều như vừa trút được gánh nặng của những ngày căng thẳng để lúc này họ mới thật sự an lòng và  cho phép mình nghỉ  ngơi. Dẫu chưa  tới căn cứ, về đến khu vực biển miền Bắc là hoan hỉ coi như đã về nhà. Lạ thật, cũng biển ấy cũng trời mây ấy mà với một chỉ giới vô hình, cái chỉ giới không ai nhìn thấy, không có thật do con người quá khôn ngoan lọc lõi biết lừa mình tự đặt ra đã là hai thế giới cách biệt, thế giới của “bên này”, thế giới của “bên kia”. Cách ngăn. Xa xăm vời vợi... Những ngày cho tàu đi trong thế giới “bên kia” là những ngày lo âu phấp phỏng, luôn đề phòng, luôn đối phó, nơm nớp tai vạ.
Đâu phải lần đầu Thanh đưa con tàu chở nặng súng đạn lặng lẽ luồn được vào vùng đước Cà Mau và trở về trót lọt. Anh đã đi nhiều chuyến như thế, song mỗi lần con tàu nhẹ bẫng quay trở lại biển miền Bắc, khi vượt qua vĩ tuyến mười bảy tâm trạng anh rất lạ. Xen giữa niềm  vui, niềm  vui rất lớn cả tự  hào và  nỗi  sung  sướng  nữa  là lãng đãng mỏng mảnh một nỗi buồn rất khó gọi tên nhưng anh biết có thật, ẩn đâu đó rất sâu, rất xa hun hút nơi tiềm thức... Hôm qua anh đã đi trong vùng biển quê mình. Từ tàu nhìn vào, thậm chí không cả thấy vệt mờ đất liền, nhưng trong mênh mang không gian trời nước vẫn có cái gì đó, có thể là bằng hoài niệm mơ hồ cũng có thể bằng những linh cảm  không  hẳn  dễ  giải  thích,  anh  nhận  ra  đặc  trưng  hơi  hướng  quê hương không mấy khó khăn. Quanh quất đâu đó hình như vẫn là ngọn gió chát lợ rin rít muối mặn thường hào phóng thổi về Tu Bông, Đại Lãnh,  Xuân  Đài,  Vũng  Rô...,  vẫn  ngai  ngái  mùi  vị  như  thể  hương chượp  nồng  đượm  mạn  An  Hòa,  An  Phú,  làng  Cá...  Quay  một  góc chín mươi độ, chạy dăm ba giờ là từ trên tàu có thể trông rõ hòn Đá Bia uy nghi như một mũi lao chĩa lên thách thức trời đất trên đỉnh núi nơi đèo Cả. Đá Bia là đặc ân trời ưu ái phú cho người dân vùng này. Đá Bia cũng là đặc trưng không thể lẫn để nhận biết biển quê anh với vùng biển nơi khác. Không cần hải đăng, ra khơi vào lộng, hễ ngước lên còn nom rõ Đá Bia là dân chài Tuy Hòa an lòng. An lòng về mặt tâm linh và cả an lòng về mặt thực tế, đời thường... Và Đá Bia còn là niềm tự hào của dân Phú Yên. Những đêm trăng, trong tiếng sóng rì rào nô đùa đuổi nhau từ biển vọng vào, các cụ già làng Cát vẫn hể hả giọng mãn nguyện rỉ rả kể lại với con cháu rằng xa xưa, khi vua Lê Thánh Tông bình Chiêm Thành, Người đã từng đi qua vùng đất này. Quan quân giấu mình, lập thế trận trong rừng ẩn. Một hôm nhà Vua ngước  nhìn  về  phía  đèo  Cả,  chợt  Ngài  bàng  hoàng  khi  phát  hiện  ra trên đỉnh núi cao nhất vùng xuất hiện một tảng đá khá lớn trông như mũi mác chĩa thẳng lên trời. Nhà Vua cho rằng đây là điềm lạ. Quả nhiên đêm đó Người thấy thần thổ địa vùng này báo mộng cho hay, muốn thắng giăc cần có khí thiêng trời đất nơi những ngọn núi quanh đeo  Cả. Người  hiểu ra, hôm  sau liền  mang  gươm  báu  và  dẫn  tướng lĩnh  hăm  hở  trèo  lên  đỉnh  núi.  Núi  cao,  dốc  ngược,  cây  cối  rậm  rì, chằng chịt nhưng nhà Vua đi băng băng, hình như sau lưng Người có gió đẩy và dưới bàn chân như thể có ai nâng. Trên cao gió lộng, đứng đây có thể phóng tầm mắt về bốn hướng, nhìn rõ như thể nhìn vào bàn tay mình. Nhà Vua cho bày hương án cạnh tảng đá có hình mũi mác để làm lễ khấn trời đất. Hương vừa được thượng lên, cả một vùng âm ầm gió nổi và mây ngũ sắc từ bốn phương tám hướng lập tức ùn ùn tụ về  kết  thành  từng  mảng  như  bông...  Nhà  Vua  phấn  chấn,  liền  qùy xuống  vái lạy và  cầu  xin được  chọn  ngày lành tháng  đẹp xuất  quân diệt giặc đặng mang lại yên bình cho muôn dân. Lời cầu vừa dứt, trời chợt vén mây, cả một vùng bừng lên sáng lòa và bát hương bỗng hóa, cháy ngùn ngụt... Ngọn lửa cũng có hình mũi mác... Biết trời đất linh thiêng ưng thuận và chở che, sau khi thắng giặc trở về, lúc đi qua đây nhà  Vua  cho  quan  quân  dừng  lại.  Người  ăn  chay  ba  ngày  rồi  thân chinh  lên  đỉnh  núi  bày  lễ  vái  tạ.  Khi  hương  đã  tàn,  Người  bèn  ứng khẩu mấy vần rồi dùng tảng đá làm bia, vẩy bút lông đề thơ lên đó. Bài  thơ  còn  lưu  truyền  cho  tới  sau  này,  đại  ý  rằng:  Đi  mở  cõi  trời Nam, lòng người thuận, trời đất thuận; giang sơn gấm vóc này trời đất ban, ông cha tạo dựng; đất Việt của người Việt, cùng chung sức giữ lấy; hợp lẽ đời phải đạo trời, non sông mãi của ta. Từ đó dân làng Cát, và dân Phú Yên gọi tảng đá trên đỉnh núi nơi đèo Cả là hòn Đá Bia và ngọn núi cao nhất vùng ấy được mang danh núi Bia... Trước đây đã một lần thầy giáo Sinh dẫn học trò lên hòn Đá Bia và từ trên chênh vênh  hun  hút  gió  ấy  thầy  say  sưa  kể  chuyện  các  vua  Trần,  vua  Lý. Chuyện Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, chuyện Huyền Trân công chúa phải gả cho Chế Mân, chuyện phiêu dạt của đức Lê Thánh Tông, chuyện về công lao mở cõi của Người... Thời đó Thanh nghe nhưng chưa mấy hiểu, là lạ như thể nửa hư nửa thực... Tuy vậy những câu chuyện thú vị đó cứ lẵng nhẵng theo Thanh suốt một quãng đời ấu thơ.

Từ làng Cát chỉ đi chừng nửa buổi đường là tới núi Bia. Nhưng với Thanh hòn núi ấy là cả một thế giới khác đầy bí ẩn và xa lạ! Chiều chiều, những khi mây tạnh, ngước lên hướng tây chỉ thấy một vệt xa mờ như trong thần thoại, hư ảo không có thật. Vậy mà có lần Thanh đã đi được tới đó, đúng hơn là đã gần tới núi Bia. Quê má trước đây vốn ở miệt ấy, một xóm nhỏ lèo tèo mấy nóc nhà nép dưới chân núi. Hàng năm như một điều cần phải vậy, má vẫn sắm lễ thấp thửng lần về vùng đó cúng giỗ. Năm ấy má cho Thanh theo, đường xa lại gập ghềnh nên nhiều lúc để đi được nhanh, Thanh bắt má cõng. Má khoe con  trai  với  họ  hàng,  mọi  người  xoa  đầu  Thanh,  lấy  làm  quý  lắm. Thanh trở thành trung tâm của bữa cỗ. Thịt luộc và lòng heo được mọi người ưu ái gắp đầy chén. Ăn rồi còn được chia nắm xôi, miếng thịt và một trái chuối. Đấy là phần của em Thành. Sáng ấy Thành cũng đòi đi, nó mè nheo khóc lóc, dẫm chân xuống nền nhà đành đạch, nhưng làm sao một lúc má có thể cõng được cả hai đứa, chỉ hứa là sẽ mang quà về. Thằng Thành đành cam chịu đứng tựa cửa ngóng theo, nước mắt lưng tròng. Nó nuối tiếc và nó nhớ... Anh em Thanh giống nhau ở sự  yếu đuối  ấy, hễ  má  đi  vắng nửa  ngày, nếu mải  chơi mà  quên thì không  sao,  nhưng  sực  ra  là  tủi  thân  lại  ngẩn  ngẩn  ngơ  ngơ,  có  lúc khóc toáng lên, mếu máo: “Má ơi, về với con”...
Từ dạo nghe theo lời ba má, ông bà ngoại chuyển về giáp biển kề làng Cát sinh sống, hàng năm đến ngày giỗ tết, má khỏi phải về trên xóm  núi dưới  chân Đá  Bia. Ngoại  ở cách làng Cát một  khúc  đường nên có dịp như vậy hai anh em đều được má cho đi cùng. Trước đó mấy  hôm,  hai  đứa  đã  háo  hức  đếm  ngày  và  mong  đợi  như  thể  sắp được đi lễ hội to lắm. Cúng xong cỗ được bày trên những chiếc nong vẫn dùng phơi lúa trải xuống nền sân. Con cháu nội ngoại quây quần xúm xít tranh nhau bốc bải. Cỗ cúng chỉ xôi và thịt heo luộc mà sao ngon thế, vui thế! Ăn xong mỗi đứa còn được vắt một nắm xôi bằng hột vịt và một lát giò...
Những ngày thơ ấu sống bên cạnh má là những ngày đậm ngấm tình mẫu tử, khắc sâu trong trí não thật khó quên. Đã biết cắp sách đến trường để thầy giáo Sinh dạy chữ nhưng hễ tới giờ ra chơi là hai anh em lại co chân chạy về rồi vội vội vén áo má lên, mỗi đứa ôm một bầu vú và đua nhau bú chùn chụt. Mút mát cho đỡ thèm đỡ nhớ chứ phần vì làm lụng vất vả phần vì con đã lên bảy lên tám má làm gì còn sữa! Rồi khi tiếng kẻng dóng lên báo tiếp tục vào giờ học, Thanh và Thành lại  tiếc  rẻ  buông  vú,  cuống  quýt  lao  về  lớp.  Biết  chuyện,  tụi  bạn thường đón đường chế giễu: “Êu ôi, không biết xấu hổ, lớn ngộc còn
rờ vú má”. Thằng Ba Hoàng cháu lão chánh tổng bĩu môi: “Đàn ông suốt ngày bám vú má lớn lên bốc cứt mà ăn”. Cũng ngượng nhưng đôi vú của má có sức hấp dẫn và có ma lực như thể ma túy, anh em Thanh giống con nghiện đã bập vào quá sâu khó có thể rời. Bị đám trẻ la hét, nhưng  đêm  đến  anh  em  Thanh,  Thành  lại  choàng  tay  qua  bụng  má, mỗi đứa rúc ngậm một bên vú rồi khìn khịt ngủ lúc nào không hay... Hai anh em thường thức giấc khi mặt trời đã lên quá cây sào. Ra hiên sau, sục vào lu nước tớp vài ba ngụm ục ục súc miệng, vào nhà vớ củ khoai má để sẵn trên bàn rồi không kịp bóc vỏ, vừa chạy gằn đến lớp vừa tống vội tống vàng vào miệng. Có hôm đến trễ, thầy giáo bắt cả hai đứng quay mặt vào vách suốt giờ thứ nhất. Tan học, bọn trẻ nhìn hai anh em và ê a đồng thanh hát: Ăn khoai cả vỏ, ăn chó cả lông, đi học trễ giờ, bị thầy phạt đứng... Bực, không biết trách ai, về nhà thằng Thành trút vào má: “Sao má không kêu tụi con?”. “Má gọi hoài nhưng hai đứa nào có chịu dậy... má thì còn phải ra chợ.” - Má thanh minh... Thằng Thành cự nự: “Hôm mai kêu không được má múc nước lạnh đổ vào người con nghe. Đến lớp trễ ê lắm...”. Nhưng không cần phải dội nước  vào người, những ngày kế đó, hễ má  dậy là hai đứa  cũng lồm cồm  bò ra  khỏi  giường. Thầy Sinh  khen:  “Dịp rày hai trò Thanh  và Thành  tiến  bộ  ha”.  Đang  tuổi  mải  chơi,  mải  học  nên  thời  ấy  Thanh đâu đã thấu nỗi vất vả khó nhọc của má. Ba đi kháng chiến biền biệt, họa  hoằn lắm  nửa  năm  mới  đảo qua  nhà  một lần, mọi  chuyện trong gia  đình  chỉ  mình  má  cáng  đáng  lo  toan,  từ  việc  chăm  sóc  ông  bà ngoại đến việc nuôi hai đứa ăn học. Ngoài công việc trồng tỉa mấy sào vườn, thời gian còn lại tranh thủ chạy chợ. Má mua chợ trên, tất tả về bán chợ dưới, lúc mớ tôm, hôm mớ tép, và những thứ tạp nham không tên khác. Vốn không, phương tiện không nên má chỉ biết nhặt nhạnh lắt vặt, thứ gì thấy có thể lãi vài ba xu, kiếm thêm lẻ gạo dù vất vả má cũng làm.
Căn  nhà  giữa  xóm  không  có  đàn  ông,  chỉ  đàn  bà  và  trẻ  nít  nên tuyềnh toàng, xiêu vẹo, mái dột rách cũng chẳng có người chằm vá, bởi vậy ban đêm khi mưa xuống, ba má con lại cắp chiếu chạy vòng quanh, lo co ngồi tựa lưng sưởi ấm cho nhau. Hồi ba về để chuẩn bị đi tập kết, ngồi ăn cơm trong nhà ngước lên thấy cả sao trên trời, ba tự trách mình đoảng rồi quyết định chằm vá lại. Hôm sau mấy ba con lăn lội lên mãi hòn Hống chặt lá dừa chở về rồi cùng xúm vào đan, lợp... Mất hơn ba ngày mọi việc mới xong. Thấy căn nhà được vá xíu tươm tất hơn, má mừng lắm, hôm “khánh thành”, má lên tận Lân Cồ mua mấy lạng thịt bò về nấu dấm khế gọi là bồi dưỡng cho ba ông thợ, cũng là làm bữa ăn tươi chuẩn bị tiễn hai ba con đi ra Bắc... Vậy mà đã hơn mười năm... Giá có đôi cánh để Thanh bay về làng Cát thăm má, thăm thằng Thành một lát! Sao mỗi lần tàu đi qua vùng biển Phú Yên lại da diết nhớ má nhớ em đến vậy chớ?... Từ vị trí con tàu trên biển về quê gần lắm, chỉ chừng chưa quá nửa ngày đường mà sao cảm thấy cách trở xa ngái vời vợi...
Con tàu vẫn đi về hướng Bắc. Sóng không lớn nên nó chạy khá êm, chập tối đã tới vùng biển Thái Bình. Ngày mai khi trở về đơn vị, thể nào Thanh cũng xin phép lên phố thăm ba. Trời ơi, nếu biết Thanh vừa chở vũ khí vào Nam và đã từng đi qua vùng biển Phú Yên, chắc ba mừng lắm, ngạc nhiên lắm. Ai ngờ cuộc chiến này có những khúc ly kỳ như huyền thoại chỉ có thể là chuyện trong tưởng tượng chứ chẳng phải sự thật! Sau này nếu có điều kiện viết lại rằng một thời của chiến tranh có những con người, những con tàu không mang theo số hiệu đã từng xuyên qua biển Đông vẫn lặng lẽ chở hàng trăm tấn vũ khí cho miền Nam chiến đấu chắc gì đã có người tin! Ba ơi, rồi có một ngày nào đó con sẽ kể với ba, và cả kể lại cho má và em Thành nghe nữa. Lúc đó thể nào ba cũng ngạc nhiên và hỏi: “Có chuyện vậy thiệt sao?”. Còn má chắc là gạt nước mắt trách rằng qua gần nhà mà không cả ghé vô thăm má một lần, tệ quá. Còn bây giờ thì con không thể nói ra những điều ấy. Và con tin ba thông cảm được. Ba là người kín đáo. Đã bao giờ tò mò hỏi công việc cụ thể của con! Vốn là bộ đội nên ba rất ý thức về nhiệm vụ quân sự. Nhiều lần chính ba khuyên: “Việc quân sự, làm gì, đi đâu con đừng khoe với bạn bè nghe, phải biết giữ bí mật”. Thời mới ra Bắc, khi  còn  đang  theo  học  trường  miền  Nam  ở  Hải  Phòng,  một  lần  gặp đoàn xe quân sự chạy qua, thấy nhiều, con tò mò đếm chơi, lúc ấy ba đã ngăn lại: “Con không nên biết những chuyện không phải của mình”...

... Đêm mông lung. Biển mịt mùng trải ra nhìn vào tựa như một khối đen khổng lồ đặc quánh vô tận. Về khuya gió Nam nổi lên khá mạnh khiến con tàu chao lắc. Thanh bước vào buồng lái. Hùng đứng bên vô lăng quay qua:
- Thuyền trưởng không xuống khoang nghỉ một lát?
- Tàu ở khúc nào rồi?
- Với tốc độ này trưa mai ta có thể về đến Hải Phòng.
- Để mình cầm lái nhé, Hùng tranh thủ ngủ đi!
- Tôi mới thay ca... Vùng biển này quen rồi, thuyền trưởng cứ nghỉ.
- Không mệt?
- Về tới đây là quên cả mệt nhọc.
Thanh thấy vui. Anh bước ra boong. Trời đặc sao, chòng chành. Đêm dìu dịu. Các thủy thủ chưa đến ca trực túm tụm người nằm kẻ ngồi ngả ngốn giữa boong tán chuyện. Có chàng ngửa mặt lên trời nhìn sao ti  tỉ hát một mình. Không có người nghe, nhưng lấy làm khoái, gào rống say sưa lắm. Cạnh đó thuyền phó Thơm đang kể chuyện. Chẳng rõ anh nói những gì, chỉ thấy đám lính bá vai nhau cười ngất. Thơm giỏi bịa, trên trời dưới biển, chuyện gì cũng tỏ ra am tường nên đám lính trẻ khoái và ham lắm. Hễ Thơm ngồi đâu là họ sán lại. Anh có sức cuốn mọi người như nam châm hút mạt sắt. Nhấp nhỉnh ba lăm, nói như đám thủy thủ vẫn giễu, một mảnh tình vắt vai không có nhưng anh sống vô tư, hồn nhiên và hình như không mấy để tâm đến “tìm hiểu”. Chuyện vui  chuyện buồn, chuyện gì  anh cũng xởi lởi phô ra, nhưng “chuyện đó” lại là két sắt hàn kín, đố ai cậy mở được. Nếu chàng lính trẻ nào đấy có ý định bật nắp, anh chỉ cười, hoặc đánh trống lảng bằng cách xoay qua chuyện khác. Chẳng ai, kể cả láu cá như Hùng hàng hải cũng vò đầu bứt tai thừa nhận: “Lão gắn xi rất chặt, không có cách gì bậy ra được.  Rắn  lắm!  I  nốc  lắm!  Hay  thuyền  phó  Thơm  không  phải  đàn ông?”. “Râu lão mọc nhanh như cỏ dại gặp nước đái bò, hai ngày không cạo đã đâm tua tủa, còn món kia lủng la lủng lẳng như quả mướp treo giàn... không đàn ông là thế nào?” - Hậu thông tin cãi. “Chắc khó tính, cầu toàn quá nên chưa tìm ra đối tượng” - Thiền, thủy thủ bàn góp...
Chuyện riêng của Thơm, ở tàu này chỉ Thanh rõ. Với mọi người, riêng tư của anh là cái két sắt hàn xi kín bưng nhưng với Thanh thì đó là chai sâm banh, đã bật nút là sùi bọt hết cỡ...
Thanh ở Tuy Hòa, Thơm quê ở Sông Cầu, hai huyện cách nhau cả chục  cây số, nhưng ra Bắc vẫn là đồng hương. Thơm  hơn Thanh gần chục tuổi nhưng hai người thân nhau như anh em, phần vì người cùng tỉnh, phần vì hợp tính, với nữa tuy là cấp trưởng song Thanh rất tôn trọng Thơm. Thanh được học hành, Thơm có kinh nghiệm đi biển, thuộc luồng lạch, thuộc địa hình... Hai người hỗ trợ cho nhau và trở thành cặp thuyền trưởng thuyền phó ăn ý.

Dáng vẻ bề ngoài và tính tình xởi lởi của Thơm khiến nhiều người mới gặp nghĩ rằng anh hời hợt tào phào vô lo, ngược lại, Thanh biết anh là người hết sức sâu sắc, đa đoan, đa cảm... Chuyện tình của anh không như đám lính trẻ nghĩ. Anh có nỗi đau riêng nhưng biết nén vào trong... Anh không chỉ yêu mà còn yêu rất sâu nặng. Người ấy tên Hiệp, ở cùng làng. Dễ coi, mau mồm, mau mắt. Đôi má lúc nào cũng hồng đỏ mịn mát như trái mận mới hái. Cặp mông tròn, hai vú cũng tròn. Đi lại nhanh nhẹn hoạt bát... Khối gia đình trong làng có ý nhòm nhỏ chấm cho con  trai  mình. Lưng chữ gụ vú chữ tâm, háng rộng mông nở, đàn bà như vậy quý tướng, mắn con, dễ sinh, dễ nuôi. Nhưng cuối cùng Thơm thắng. Anh chiếm được cảm tình của người đẹp chẳng phải tài cán gì, thậm chí còn không biết cả tỏ tình, không biết tán tỉnh, nói những lời, như đám thanh niên vẫn gọi là những điều có cánh. Cô gái người làng ấy yêu anh chỉ vì anh là bộ đội chủ lực. Hồi đó bộ đội chủ lực có giá lắm. Ai may mắn vớ được là vinh dự, là điều đáng tự hào và hãnh diện. Với nữa anh thật thà, trung thực. Lại dát  gái.  Những  dịp  gặp  nhau,  không  rủ  đi  chơi,  chỉ  ngồi  nhà  nói chuyện, thậm chí thời mãn tìm hiểu, tiền hôn nhân, việc cưới xin đã có bàn  định  mà  chưa  một  lần  dám  cầm  tay  người  yêu.  Điều  “phi  giới tính” ấy khiến Hiệp vừa mừng cũng lại không hẳn bằng lòng. Con trai gì mà vừa chạm khẽ vào người yêu đã run lên như dẽ. Nhưng gia đình thì cho rằng người không suồng sã vậy là quý lắm. “Điều quan trọng nhất ở người phụ nữ là lấy được thằng chồng tử tế con ạ!” - Bố mẹ vẫn khuyên Hiệp như vậy và trong thâm tâm cô cũng cho rằng duyên phận mình không đến nỗi nào... Còn bạn bè vẫn ghen tị nói với cô dâu tương lai: “Lành quá, nhưng đàn ông đứng đắn như lão đốt đuốc tìm cả  năm  không  ra.  Lấy  được  người  đó  thật  đáng.  Số  mày  có  phúc”. Nghe những điều như thế, cô đỏ mặt cúi xuống cười ngượng. Chẳng rõ sung sướng hay xấu hổ...

Không mấy ai có tình yêu sâu nặng như Thơm. Từ ngày yêu Hiệp gần như anh chẳng hề biết đến người phụ nữ nào khác nữa. Anh dành tất cả tình cảm cho cô. Có tấm vải dù thu được lần máy bay Pháp ném hàng xuống Tây Nguyên, anh vuốt gấp cất kỹ trong ba lô, chờ có dịp sẽ tặng. Ngày nhớ, đêm mơ, hầu như lúc nào hình bóng cô gái người làng cũng tối thượng ngự trị trong lòng... Mấy tháng trước khi kết thúc chiến tranh, anh được qua nhà hơn tuần lễ, cô gái đột nhiên chủ động đề nghị cưới. Anh ngỡ mình nằm mơ. Người mà anh yêu hơn cả bản thân, cô gái xinh đẹp nhất làng, niềm ao ước của bao chàng trai sắp trở thành vợ anh! Trời ơi, số phận thằng lính chiến nay sống mai có thể chết, không vụn nhỏ tương lai sao may mắn làm vậy! Gã đàn ông chỉ biết cầm súng với một chút mỏng mảnh danh hão còn mong gì hơn là có một người vợ như Hiệp! Thần hạnh phục đã gõ cửa sao lại có thể bỏ lỡ!... Các thủ tục được hai gia đình vui vẻ, mãn nguyện và hài  lòng  nhanh  chóng  thu  xếp...  Nhưng..., lại  nhưng...  Cuộc  đời  oái oăm và trớ trêu, thậm chí gây ra biết bao bi kịch phiền nhiễu bởi cái chữ nhưng ngất ngưởng khốn khổ khốn nạn ấy... Nhát búa có lẽ quá nặng đã đột ngột tàn nhẫn bổ xuống đầu khiến Thơm chưa chuẩn bị chống đỡ nên choáng váng. Trước hôm cưới, lần đầu tiên đêm đó hai người rủ nhau ra bãi ngô giáp bờ sông ngồi nói chuyện. Qua ngày mai nữa  họ đã là vợ  là chồng rồi. Tối ấy Hiệp chủ động gục  khuôn mặt mát mịn và lúc nào cũng đỏ hồng như trái mận chín mới hái vào vai Thơm.  Anh lặng  đi trong  niềm  hạnh phúc  ngoài  cả  sự tưởng tượng. Và lần thứ nhất trong đời anh mạnh bạo bộc lộ bản tính đàn ông nơi mình, chủ động xoay lại, tìm tay người yêu và run rẩy làm động tác tỏ ý muốn được hôn cô. Song thời điểm anh nghĩ  rằng  mình  đang  là người tột cùng sung sướng ấy, cô gái lấy tay tránh né cặp môi nóng rức của anh: “Cho em nói điều này đã”. Và không chờ anh phản ứng, với giọng bình thản có vẻ như đã chuẩn bị trước, cô mạch lạc nói rằng mình đã có thai được ba tháng... Mới nghe lời thú nhận tỉnh queo từ miệng người yêu thốt ra,  anh ngạc nhiên không hiểu gì cả, lại còn tưởng  cô  đùa. Cái gì có tên gọi là thai ba tháng?...  Nhưng  sau  mấy phút bàng hoàng, hình như sự nhạy cảm đàn ông mách bảo, và trước thái độ của cô gái, anh hiểu dần mọi lẽ. Một thứ gì đó không hẳn chỉ là nỗi đau, buốt nhói lan khắp cơ thể! Anh rùng người, cảm thấy chơ vơ như không chỗ bấu víu bỗng dưng tuột tay rơi vào vực thẳm. Chới với, lơ  lửng.  Mọi  cảm  giác  đều  trở  nên  không  thật  nữa... Có  những điều hãi hùng bỗng chốc khiến người ta tan chảy như băng gặp lửa, có nỗi  đau  quá  đột  ngột  làm  người  ta  khó  hiểu  trơ  chai  hóa  đá.  Thơm trong trường hợp này đang hóa đá...

- Em không muốn lừa anh! - Cô gái nói tiếp, giọng rất tỉnh. - Em có lỗi, nhưng em yêu anh, vâng, rất yêu anh và bởi yêu anh nên em không thể không nói ra...
Khi kể lại với Thanh, Thơm bảo rằng lúc đó có cảm giác rất lạ, ý thức tình cảm bị xúc phạm khiến anh như thể chai lỳ, lạnh băng, nghe chuyện  mình  lại  ngỡ  đang  nghe  chuyện  người  khác.  Anh  chợt  hỏi:
“Với ai?”, và lặng đờ như tượng gỗ. Anh hỏi chỉ để hỏi, hỏi như một phản  xạ  tự  nhiên,  một  thói  quen  tự  ái  pha  chút  tò  mò  bật  ra  trong những  trường  hợp  như  vậy.  Hỏi  không  hẳn  để  chờ  câu  trả  lời.  Mọi giải thích lúc này còn có nghĩa gì!... Cô gái giấu mặt xuống hai đầu gối nghẽn khóc rồi thanh minh rằng chưa lúc nào cô không yêu anh, nhưng cô đã yếu đuối, nhẹ dạ và bởi vậy trở thành kẻ dại dột, có lỗi. Cô không mong anh tha thứ. Cô cũng chẳng nghĩ rằng mình được như vậy...  Ban  đầu  cô  có  ý  định  khác,  nhưng  khít  ngày  cưới,  cô  thấy không  nỡ,  không  thể...  Người  chất  phác  trung  thực  như  anh  không đáng  phải  chịu  lừa  gạt...  Cô  sẽ  nuôi  con  và  cuộc  đời  còn  lại  quyết không lấy chồng,  chỉ  dành để  mãi  nhớ  đến  anh và  coi  đấy như  một động thái chuộc lỗi lầm.
Anh câm nín giống như hòn sỏi đang cầm trong tay, nghe mà không hiểu gì cả. Sau nỗi choáng váng, là sự hoài nghi và sợ hãi tới mức không thật rõ tâm trạng mình. Thương cô? Trách cô? Nuối tiếc và căm thù? Đủ cả, trong anh là sự hòa trộn giằng xé của rất nhiều trạng huống tình cảm được đan giăng, móc ráp... Anh không gặng hỏi gì thêm, anh thấy mình không nên làm điều gì vô nghĩa nữa, không nên móc lôi nỗi đau đã rồi của cả hai ra nhấm nháp. Cái thai trong bụng là của ai còn có nghĩa gì... Nhưng cô lại khác, hình như ở vào tình thế ấy, tình thế người con gái biết chắc sắp vĩnh viễn chia tay người đàn ông, nên trong nỗi bàng hoàng ân hận người ta muốn nói hết, nói tất cả. Nói ra không chỉ để giãi bày, để được thông cảm sẻ chia, mà trước hết là nhu cầu tự thân. Cô cần phải như vậy. Cô muốn anh nghe cô một lần cuối nữa, một lần để rồi mãi mãi anh là quá  khứ, dẫu rằng anh không xa cô thì cô cũng không thể đến với anh...

Phải, hôm đó là phiên chợ huyện. Cứ nửa tháng lại có một phiên chợ như thế. Xế chợ, sát ngay cổng ra vào có cái quán thợ rèn, khách khá đông. Lão thợ cả tay chân to như hộ pháp vừa đập búa lên mặt đe vừa đưa đôi mắt như hai con ốc nhồi nhìn ra có ý tìm cô. Lão biết tuần chợ nào cô cũng có mặt. Cặp đùi dài, đôi mông mẩy nhún nhẩy theo nhịp bước như khiêu khích khiến lão để ý từ những phiên chợ trước đó. Cô cũng cảm nhận được từ nơi lò bễ đang phun lửa đôi mắt ốc lồi vẫn hướng vào cô như muốn xé từng mảnh vải trên người mình ra. ở tình thế ấy sẽ chẳng có chuyện gì nếu cô lảng đi lối khác hoặc không tò mò len lén khoái trá đưa mắt nhìn vào để lại gặp đôi mắt đó và như thể đánh tín hiệu đồng tình. Song cô lại không làm được thế. Đôi mắt đĩ thõa của lão thợ rèn cũng là một thứ ma lực. Cô bị hút vào và dần dà, chẳng rõ tại sao đâm nghiện. Tuần nào không đi chợ để gặp cái nhìn cháy da cháy thịt của gã đàn ông to con ấy, cô cảm thấy như tuần đó thiếu thiếu cái gì. Bởi vậy, dù không có nhu cầu mua sắm cô cứ ngong ngóng tính ngày chợ phiên. Và đã lên chợ là thể nào cũng cố tình diễu qua quán thợ rèn. Người đàn ông khỏe mạnh, bắp tay cuồn cuộn và ánh nhìn đa tình mời mọc đó khiến cô đêm đêm thức giấc khổ sở khó chịu. Rồi những khi lười ngủ đã dễ dãi thả lỏng mặc cho đầu óc tự do tưởng tượng ra bao điều... Cô ngạc nhiên không giải thích được tại sao mình lại như thể bị ma làm và những lúc lửa  bùng  lên  trong  người  đâm  thù  ghét,  khinh  bỉ  bản  thân.  Nhưng  cô không có khả năng cưỡng lại dục tính vốn là bản năng tự nhiên mạnh mẽ chẳng hẳn ai tạo hóa cũng phú cho và những dích dắc ma mãnh nhiễu sự của cuộc đời. Rồi cái gì phải đến đã đến. Hôm đó trời lất phất mưa, chợ vắng. Lão thợ rèn phố huyện đã có chủ định giăng bẫy từ trước hớn hở đón cô ngay đầu cổng chợ. Khi cô cúi xuống mua  nải  chuối  xanh rồi ngẩng lên, đôi mắt ốc nhồi với cái nhìn như tia lửa khiến cô phải vật vã hằng đêm đã ở ngay cạnh. Khuôn mặt lão hôm nay khá dễ coi. Lão cười, nụ cười cũng duyên và hiền:
- Hiệp vô quán nghỉ chút kẻo ướt hết.
- Sao biết tên? - Cô giật mình ngước lên nhưng không từ chối ánh nhìn của lão. Cô bối rối hỏi nhỏ, đôi mắt đưa ngang ngó quanh, và hai má nóng ran.
-  Quan tâm mà... Hôm nay cho thợ nghỉ, vào quán uống nước nghe, tôi ở nhà một mình...

Cô e ngại nhìn lão, cũng có cảm giác hoảng sợ, và cả ngạc nhiên nữa, nhưng trước nụ cười như thể có cái gì cầu xin, mời gợi, chẳng rõ sao lại có sức thôi miên khiến cô không điều khiển được  mình nữa. Một thoáng lưỡng lự rồi giống cái mạt sắt cứ bị nam châm hút, phút chốc cô lẵng nhẵng như một sự tò mò vô thức không định trước, bước theo lão về quán.
Ngăn cách cái bễ thụt lửa là một tấm vách lớn. Phía sau tấm vách vốn là giường ngủ của gã thợ rèn... Tâm điểm cái bẫy là chỗ đó. Đầu óc nóng ran, cô rối tinh, chới với quay cuồng trong sự lẫn lộn giữa những liên tưởng đêm đêm với thực tại đang diễn ra và cuối cùng sập bẫy không mấy khó khăn...
- Anh ơi, đó không phải là tình yêu... - Cô gái cố gìm lời kể, nhưng giọng uất ức nghèn nghẹn hết sức khổ tâm. - Em không giải thích được... Vâng, không sao giải thích được... Ngay cả khi đó, khi em như một cái xác không còn cảm giác phản ứng, sợ hãi và bàng hoàng đồng lõa để lão làm gì thì làm, em vẫn nghĩ đến anh... Em thề... Em vẫn yêu anh lắm!...
-  Thôi!  -  Thơm  hét  to  và  làm  một  cử  chỉ  hết  sức  phũ  rồi  đanh khuôn mặt, vốn hiền lành, lúc này nom sợ hãi như khuôn mặt của kẻ làm ở lò sát sinh, nghiến chặt hàm răng khiến cái cằm bạnh ra, đứng dậy hoảng loạn chuyếnh choáng rời khỏi ruộng ngô. Phía sau lưng vẫn kìm nén tiếng khóc tức tưởi nuối tiếc và ân hận của cô gái.
Tiếng khóc tức tưởi đau đớn và tiếc nuối ấy lẵng nhẵng theo anh suốt hơn chục năm qua. Và anh đã phải tự bọc tình cảm của mình, gắn xi giấu kín trong lòng. Đêm đó Thơm không ngủ, sáng hôm sau anh đeo ba lô trở về đơn vị. “Vì công việc đột xuất, đành phải hoãn ngày cưới, con xin lỗi ba má.” Trước sự ngạc nhiên của ông bà già, Thơm giải thích và tuông đi như thể chạy trốn. Mấy tháng sau, anh nhắn về quê rằng, đã theo đơn vị ra Bắc tập kết. Thời gian ít nên không thể qua nhà tạm biệt ba má được...
Thơm không nói nhưng Thanh biết bi kịch tình cảm nơi anh là ở chỗ thời gian không làm cạn nỗi đau đáu nghĩ tới người phụ nữ đã phụ bạc mình. Anh không có cái bản lĩnh cần thiết đặng vượt qua sự ích kỷ và lòng tự trọng để tha thứ cho người phụ nữ ấy, nhưng tình cảm yếu mềm hay đúng hơn có cái gì đó rất số phận khiến anh không thể quên cô. Nỗi đau của mối tình đầu theo anh đi suốt những tháng năm qua làm anh trơ chai, nhiều lúc tỏ ra ngớ ngẩn trước mọi sự giới thiệu mai mối của bạn bè, dửng dưng như thể “hay là không phải đàn ông” mà đám thủy thủ vẫn giễu...

... Đêm đã khuya. Thanh không thấy buồn ngủ. Anh nhìn xuống biển. Sao chòng chành nghiêng ngả. Chùm  Thần Nông như thể ông già kiên nhẫn ngồi câu cá bên sông mỏi lưng, đang cúi gập xuống. Ngày trước, trong những đêm hè nóng bức, Thanh và Thành vẫn khênh chiếc chõng tre ra sân ngồi hóng gió và ngửa cổ đếm sao trên trời. Má vẫn đố hai đứa tìm ra chùm Bắc Đẩu và sao Hôm. Thành bao giờ cũng nhanh trí hơn, má dạy một lần là nhớ, bởi vậy nó thường tìm thấy  những  ngôi  sao  đó  trước  Thanh.  Một  lần  má  nói  rằng  những người đánh cá trong vùng khi lạc biển phải nhờ hai ngôi sao đó để tìm đường về. Khi đó Thanh chưa mấy hiểu, ai dè bây giờ anh là người vẫn phải nhìn hai ngôi sao ấy để dò hướng đi... Nếu lúc này má hỏi, thằng  Thành  có  nhanh  bằng  ông  anh  thuyền  trưởng?...  Những  đêm như thế hai anh em mãi nhìn sao rồi ôm nhau ngủ lúc nào không hay. Khuya,  má  phải  bế  từng  đứa  vào  giường.  Sáng  ra  thằng  Thành  vẹo mồm ngáp rồi hỏi: “Đêm qua con và anh Thanh ngủ ngoài chõng mà”. Má giải thích: “Muỗi nó khênh hai đứa vô giường đó”. Thằng Thành ôm chim chạy vội ra vườn. Đái xong, một tay cầm cái của quý ấy lắc lắc, tay kia dụi dụi mắt bước vào nhà hét toáng lên: “Vở em đâu, anh Thanh?”. Má mắng: “Thằng Thanh là hầu của con sao? Đi học về chỉ mải chơi...”. Nó không đáp, vớ mấy cuốn để trên bàn hơ hải chạy tới lớp. Thằng Thành rất sợ muộn giờ bị thầy giáo phạt...
- Có điều gì phải suy nghĩ hay sao mà không chịu ngủ? - Thơm bước tới ngồi xuống cạnh Thanh và hỏi - Hay là nhớ em Lý?
- Thời đi học anh Thơm đã bao giờ bị thầy giáo bắt quỳ thớt mít chưa? - Thanh nói - Gai nhọn đâm vào đầu gối đau lắm nghe.
- Quỳ trên vỏ mít thì chưa nhưng bị thước gõ vào các ngón tay thì nhiều. Cớ chi tự dưng hỏi chuyện đó?
Thanh cười:
- Thấy nhớ thằng em! Chẳng rõ chục năm rồi hắn sống ra sao, có biết thương má không?
- Nè, các cụ trong làng mình nói rằng mỗi con người đều ứng với một ngôi sao trên trời, chẳng rõ có đúng. - Thơm nhìn theo ngôi sao như một vệt sáng đang lao xuống biển và nói.
Thanh nhìn ra, không đáp.
Con tàu vẫn lầm lũi đi trong đêm...

*

Dòng sông xanh ngắt lượn quanh mấy ngọn núi đá mấp mô nhiều hình thù kỳ quái, từ trên cao nhìn xuống có cảm giác chòng chành, hun hút. Đám lính kháo nhau rằng nơi đây là vùng đất dữ, xưa kia vẫn có con thuồng luồng lớn ẩn dưới mặt nước chuyên lật thuyền bè qua lại. Ngôi miếu bé nhỏ thời gian làm cho mốc thếch cũ kỹ giáp bãi tập kề dòng sông dưới chân núi, người bảo dân quanh vùng xây để thờ thần sông, kẻ lại nói ngôi miếu cất lên nhằm tưởng nhớ những oan hồn không may bỏ xác dưới nước. Các cụ trong làng sau chân núi, nơi đơn vị đặc công thủy đóng quân kể rằng trước đây, khi ngọn núi chưa bị đào bới, cây cối còn um tùm, đêm đêm vẫn nghe từ đó tiếng gào rú khóc lóc thảm thiết vọng tới. Những hôm tối trời, hàng đàn ma cụt đầu lướt trên mặt nước vút vào làng quậy phá đòi ăn. Ngôi miếu được xây bởi vậy. Chuyện thực hư không rõ, nhưng người trong vùng chưa ai dám một mình lên núi lượm củi hay chèo thuyền qua khúc sông này. Núi cao, sông sâu, địa thế ngoằn ngèo hiểm trở tạo cảm giác rờn rợn, nơm nớp sợ hãi... Nhiều người liều lĩnh nên đã phải bỏ mạng. Bà Cả Xớt, đang trưa trèo lên lưng chừng núi tìm lá thuốc, không thấy về. Chị  Thước con dâu ông Tùng có việc ra bờ sông, mất tích luôn... Mấy đứa trẻ đúng ngọ rủ nhau men ra bãi tắm, khi người nhà lo lắng tuông tới, thấy đứa nào cũng nằm úp mặt xuống nước, từ mặt sông râm ran vọng tới tiếng ca i ỉ giống như tiếng bọn trẻ vẫn hát đồng dao...
Từ ngày đơn vị đặc công nước về đóng quân và lấy đoạn sông làm  thao trường luyện tập, người trong  vùng đỡ sợ, mỗi lần lên núi hay có việc phải đi qua sông thấy vững dạ hơn.
Sáng sớm, Tư  Lăng dẫn phân đội ra bờ sông. Sau khi phổ biến mục đích yêu cầu của buổi tập, anh cho đơn vị cởi bỏ quần áo, ngậm ống thở và xuống nước. Hôm bơi dọc sông, hôm bơi qua bơi lại, tùy theo giáo án. Những ngày mới về, nghe chuyện các cụ trong làng kể, đám lính trẻ mỗi lần xuống nước cũng chờn chợn. Có người đề nghị phân đội trưởng cho được thắp hương nơi ngôi miếu trước mỗi buổi tập.  Ban  đầu  Tư  Lăng  ngại  nhưng  cuối  cùng  đồng  ý,  anh  đơn  giản nghĩ rằng làm vậy để các chiến sĩ bước đầu đến với sông nước an tâm hơn. Ai ngờ bị phê bình. Hôm họp cán bộ toàn tiểu đoàn người ta chì chiết anh hữu khuynh, thiếu quan điểm, lạc hậu, duy tâm và a dua theo quần chúng... Từ đó không một bóng bộ đội nào ra miếu thắp hương nữa.

Tư Lăng không chỉ là cán bộ phân đội, anh kiêm luôn giáo viên huấn luyện, vừa bơi vừa hướng dẫn chiến sĩ tập. Anh vốn biết bơi từ nhỏ. Đấy cũng là lý do đang làm thủy thủ trưởng trên tàu cấp trên lại điều về đơn vị đặc công nước này. Thời còn nhỏ sống ở quê ngày nào Tư Lăng cũng ra Lung Giang vẫy vùng, có hôm trăng lên mới rủ nhau về. Nhiều đêm trốn ba má cùng bạn bè ra ngâm mình trong nước tới khuya.  Dòng  sông  quê  anh  không  giống  như  những  con  sông  khác, thượng nguồn thường là từ núi cao đổ xuống, sông Lung như thể một nhát cắt của tạo hóa tách vùng đất này thành cù lao lớn. Hai đầu nhát cắt là cửa Đang và cửa An Hóa. Lung Giang là con sông duy nhất nối biển với... biển. Bởi vậy quê anh là xứ sở của nước lợ, của cát, cát cuốn vun thành từng nổng, chạy suốt chiều dài làng; là xứ sở của trảng, của vũng; là nơi chỉ có cỏ cụm, lông chông, và xương rồng; một vùng đất nghèo, tối ăn khoai đi ngủ, sáng ăn củ đi làm... Từ thôn này qua thôn kia cát bỏng rộp chân, con gái phải gập chúi về phía trước mà nhấc từng bước, cái dáng đi thật thương! Nơi đây mùa khô hạn, mùa mưa thì úng. Người quê anh tay chai dây gầu, vai bầm đòn gánh để sinh tồn. Một gốc lúa phải đủ trăm gánh nước mới có cơ trổ bông. Sáng sớm thức dậy, việc đầu tiên là quẩy gánh hàng trăm đôi gầu nước tưới. Đất nóng, cát xốp háo nước uống ừng ực. Tháng tám làm lúa cũng phải đai đôi gầu trên vai mà chăm từng gốc. Thương nhau thương cả đôi gầu là thế. Nhưng người biết yêu cát thì cát không phụ. Ở vùng nước nhỉ này trồng khoai khoai tốt, gieo đậu, đậu xanh. Lúa cấy trên cát, lúa vẫn mượt. Khoai lang quê anh nức tiếng khắp vùng. Đã ăn một lần, vị ngon ngọt thơm bùi sẽ đọng mãi nơi đầu lưỡi...
Mỗi lần ra sông tập, Tư Lăng lại nhớ về Lung Giang. Con sông ấy với anh có quá  nhiều kỷ niệm. Tuổi thơ, tình yêu, tình vợ  chồng đều được phong giữ ở đó... Thời chưa lên cứ, mỗi lần nước cường, Tư Lăng ra sông đóng cọc quây lưới. Nước rút, cá mắc vào, chỉ việc gỡ xách về cho má. Nước sông không mấy ngọt nhưng sẵn tôm cá. Đến mùa sinh sản chúng hí hở đua nhau đẻ rào rào. Thức ăn của làng dựa hầu hết vào đó. Hồi đã là bộ đội Miền, mỗi lần về làng thăm ba má, Tư  Lăng  không  qua  sông  bằng  thuyền,  anh  vo  tròn  quần  áo  đội  lên đầu, lội xuống bơi. Sau này khi Tư  Nhâm  có thai  sắp đến ngày đến tháng, tổ chức cho về làng sinh nở, những lần về với vợ, cũng lại bơi.

...  Khoảng  thời  gian  giải  lao  giữa  hai  lần  tập,  đám  lính  thường ngả ngốn nửa nằm nửa ngồi tụ quanh bãi sỏi sát bờ sông hít thuốc lá, loại  rẻ  tiền  mỗi  tháng  một  người  được  phân  phối  hai  bao  và  nuốt những câu chuyện Tư Lăng kể. Độc chiêu của anh là chuyện tình yêu với Tư Nhâm, hứng lên xởi lởi lôi cả khoái cảm sinh hoạt vợ chồng ra phô... Ngày  nào  cũng  điệp khúc  ấy mà  không  thấy  nhàm. Có  người bảo mười năm vò võ vắng vợ, Tư Lăng nhớ quá không biết trút vào đâu đành giải tỏa ra mồm... Khi anh kể đến khúc thỉnh thoảng lỉnh bơi qua sông về thăm vợ, đám lính đỏ mặt, có kẻ nuốt nước bọt hét toáng lên rằng phân đội trưởng đầu độc khiến đầu óc chiến sĩ mụ mẫm rối tinh lên cả rồi, nhưng chưa thấy chàng nào bỏ đi, hết thảy đều nghếch mõm lên sung sướng nghe. Thậm chí còn hứng khởi khuyến khích anh kể lại nhiều lần. Anh vẫn tuếch toách kể rằng những dịp đi công tác tranh thủ tụt tạt ghé qua nhà thoáng chốc, nơm nớp nhất là nỗi lo Tư Nhâm  không có nhà. Háo thèm  mong nhớ  nửa  năm trời  để  được  xả phanh  một  đêm  mà  vợ  đi  vắng  hẫng  hụt  khác  nào  rơi  xuống  vực thẳm... Mới chạm đầu làng đã cuống quýt chộn rộn chân nọ ngoằng vào chân kia, thấp thỏm hơn cả khi công đồn. Cái của nợ khó bảo kia cứ  cương  lên  nhấp  nhỉnh  đòi  hỏi, thuồn  thuỗn,  cứng  ngắc...  Tay  gõ vào tấm liếp nhà mình mà run rẩy hồi hộp như vào nhà người lạ. Mũi nín thở, tai lắng  nghe.  Khi  có tiếng  vợ  hỏi  vọng  ra  mới  thật  sự  yên tâm, thở phào mừng vui. Nỗi khoái cảm tích góp từ lâu nhói lên chóp đầu chạy suốt sống lưng, dồn đổ vào khúc cuối, nóng rần rật. Những lúc như vậy Tư Lăng ào vào, không kịp để vợ định thần vội vã nhấc bổng Tư Nhâm lên, dằn xuống giường rồi quờ tay bóp nắn, miết mát. Háo  thèm  như  kẻ  phàm  ăn  bị  kìm  nén  bỏ  đói  lâu  ngày...  “Rửa  đã, anh!”  -  Tư  Nhâm  sung  sướng  hưởng ứng nỗi  khát  muốn nơi  chồng, nói hào hển. “Tắm... ở sông rồi, không chờ... được nữa” - Tư Lăng lắp bắp đáp chiếu lệ rồi run rẩy kéo quần vợ... Khuôn mặt đờ đực luống cuống úp xuống, nhuầy nhòa. Tấm thân cường tráng tỏ ra am tường suồng  sã  trườn lên...  Kế  đó  mặt  đất  chòng  chành  chuyển  động.  Căn nhà  nhỏ  cuối  xóm  rung  lên  bần  bật  từng  đợt  từng  đợt  như  đang  có bão...  Thế  gian  vào  thời  điểm  ấy  chỉ  còn  lại  hai  người.  Họ  hà  hít, nghiến ngấu, xoắn bện...
Qua  mỗi  lần  như  vậy,  đêm  đêm  nằm  trên  võng  trong  cứ  nghe muỗi vo ve  vờn quanh, Tư  Lăng không ngủ được, nhớ  vợ  đến chảy gan bỏng ruột...

... Mười năm sống trên đất Bắc, rất nhiều cô gái ở những nơi anh từng đóng quân biết gã đàn ông duyên ngầm này đã có vợ trong Nam vẫn đem lòng yêu, không ít cô dòng dòng thèm khát gạ rất sỗ, nhưng Tư  Lăng đều dửng dưng tế nhị từ chối khéo. Anh bảo con gái miền Bắc xinh, mềm mại hấp dẫn song chẳng ai thay được Tư Nhâm, cũng không ai có thể san sẻ tình cảm với vợ nơi anh... Những lúc “chồng vợ” với Tư Nhâm tuyệt hảo quá, ấn tượng quá, miếng ngon nhớ lâu, như thể dao khắc vào đá, khó nhòa khó phai, nên khó quên...
- Hồi lên đường ra Bắc tập kết, nhớ Tư Nhâm quá mình liều trốn về một tiếng. Lúc đó bụng vợ đã chửa vượt mặt, thèm mà đành cắn răng ráng chịu. - Hôm nay Tư Lăng kể sang đoạn khác. - Chẳng lẽ trả bằng cái giá có thể bị kỷ luật lại chịu trắng tay, nghĩ vậy mình khép hờ tấm liếp, rồi sà tới ngồi bên vợ, nhưng cũng chỉ dám sờ sẹt chút đỉnh cho đỡ khát. Ai ngờ làm vậy lửa bốc lên, càng háo. “Một chút chụt, được  không  em?” - Mình gạ. Có lẽ thấy khuôn mặt khổ sở đờ đẫn ngây thộn của chồng, Tư Nhâm thương hại nên nàng gật đầu: “Dạ! Nhưng nhẹ nhẹ thôi kẻo đau con nghe, anh”... Lúc ấy là ban ngày, hòa bình mới trở lại nên người ta đi qua đi tới để thăm viếng nhau đông như kiến. Mặc, vợ đã bằng lòng mở đường, phải tranh thủ... Hôm đó dúc dắc nếm náp được... hai lần. Sao, liều hả? Đúng là liều. Vợ sắp sinh mà vẫn còn tòm tem, bậy quá... Nhưng còn đời các cậu đấy. Không ai nói mạnh được nghe... Trước khi đi, mình xoa tay lên bụng vợ lần nữa và dặn rằng, con trai hay con gái cũng đặt tên là Thảo. Mình khoái cái tên đó... Năm nay cháu hơn mười tuổi rồi. Sắp thành thiếu nữ mà vẫn chưa biết mặt ba...
Giọng Tư Lăng chùng xuống. Hình như sau những câu chuyện vui làm cho buổi tập đỡ căng thẳng, hay như đám lính ước đoán là để giải tỏa, vẫn nhận ra râm rỉ đâu đó nơi anh một nét buồn cố hữu... Khuôn mặt nghiêm trở lại, anh hô:
- Các bộ phận tiếp tục tập nghe!

Hàng năm, khi kết thúc  mùa  huấn luyện, đơn vị đặc công nước đưa bộ đội hành quân về phía Nam và bàn giao cho các mặt trận. Số chiến sĩ này được bổ sung về các đơn vị đặc công Khu Sáu, Thủ Đức, Rừng Sác, và các tỉnh thuộc Trung Bộ, Nam Bộ... Đến giáp giới tuyến, “khung” cán bộ tiểu đoàn sau khi chia tay anh em liền trở ra tiếp tục làm nhiệm vụ tuyển quân và huấn luyện. Tư Lăng đã ba lần đưa bộ đội hành quân tới những cánh rừng giáp bờ Bắc sông Bến Hải rồi quay trở ra. Những lúc như vậy anh thấy buồn, lại nhớ quê, nhớ vợ vô chừng. Nhiều lần Tư Lăng làm đơn gửi các cấp xin tình nguyện trở về Nam chiến đấu, nhưng được giải thích rất có lý rằng, tham gia chiến đấu ở chiến trường hay làm nhiệm vụ ở hậu phương đều quan trọng, tổ chức biết khả năng từng người mà sắp xếp để có lợi cho cách mạng nhất. Cần an tâm công tác và hoàn thành tốt nhiệm vụ mình được giao. Tư Lăng thua. Họp chi bộ hàng tháng, khi đến phần kiểm điểm nhận thức, anh được đánh giá là: “Chính trị tư tưởng tốt, lập trường vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào chủ trương đường lối của trên, không so đo tị nạnh, nhưng có khuyết điểm là nhiều lúc chưa thực sự an tâm với nhiệm vụ tổ chức phân công”... Tư Lăng không mấy để ý tới những nhận xét đại loại như vậy, như một thói quen anh trở về với cương vị của mình, hàng ngày dẫn phân đội lính mới ra sông huấn luyện. Anh hướng dẫn họ tập bơi, tập lặn, tập cài thuốc nổ vào thân tàu, tập ngụy trang... và khi nghỉ giữa giờ lại vui vẻ tiếp tục cò cưa những câu chuyện “chồng vợ” đã từng kể không biết bao lần cho đám chiến sĩ lớp trước nghe...
Trưa  hôm  đó,  phân  đội  của  Tư  Lăng  mải  tập  nên  về  chỗ  đóng quân muộn. Đang ăn cơm, anh được cậu liên lạc thông báo cho biết rằng thủ trưởng tiểu đoàn cần gặp anh ngay... Có việc gì nhỉ? Tư Lăng thấy  mừng,  hay  là  nguyện  vọng  trở  về  Nam  chiến  đấu  đã  được  cấp trên xem xét? Phấn chấn, anh vội vã buông bát đũa, tuông đi. Người tiểu đoàn trưởng có khuôn mặt rất khó đoán tuổi co một chân lên ghế, chiếc tăm vẫn ngậm nơi miệng, rót nước ra chén.

- Quê Phú Yên rõ rồi, nhưng cậu ở vùng nào nhỉ? - Ông đẩy chén nước còn nóng về phía Tư Lăng, đánh chiếc tăm tạnh tạch lên răng và lơ đãng hỏi.
Tư Lăng thấy chộn rộn, trả lời rất nhanh:
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, tôi sinh ra ở huyện Sông Cầu ạ. Xã Tân Thanh...
- Ờ... Hình như trước đây cậu từng làm thủy thủ trưởng trên tàu?
- Báo cáo, hơn ba năm. - Anh đáp.
- Vậy đúng đối tượng rồi... Thế này đồng chí Lăng nhé, Bộ Tư lệnh quyết định điều đồng chí về trên đó công tác. - Khuôn mặt khó đoán  tuổi  nói  bằng  giọng  đầy  vẻ  quan  trọng.  -  Thời  gian  gấp  lắm. Ngay chiều nay bàn giao công việc cho đồng chí Thế rồi xuống quản lý làm thủ tục thanh toán. Về trên đó nhận nhiệm vụ càng sớm càng tốt...
- Báo cáo, tôi có thể...
- Việc quân sự... Tôi cũng không được cấp trên nói về nhiệm vụ của đồng chí sắp tới. Chỉ biết trên có lệnh... Thế nhé. Về sắp xếp cho kịp...
Trưa  ấy  phân  đội  đặc  công  nước  không  ngủ.  Cái  tin  phân  đội trưởng đột ngột đi nhận nhiệm vụ mới khiến họ khó hiểu. Có người nói rằng có lẽ Tư Lăng được cử đi học ở nước ngoài. Người lại đoán hay  là  được  vào  “trong  đó”  chiến  đấu  như  nguyện  vọng  của  anh? Nhưng anh là một chiến sĩ đặc công giỏi, nếu vào chiến trường phải theo đội hình tiểu đoàn chứ! Nhiệm vụ gì mà gấp thế?
Ngày  hôm  sau  Tư  Lăng  có  mặt  ở  Bộ  Tư  lệnh,  ở  đó  anh  được thông báo rằng theo yêu cầu nhiệm vụ, tổ chức bố trí anh đi học lớp đào tạo cán bộ thuyền cấp tốc. Tư Lăng thấy hẫng. Hy vọng có một ngày nào đó được theo anh em bộ đội đặc công trở về Nam chiến đấu tan biến. Lại đành an ủi rằng phải an tâm công tác, tổ chức biết sắp xếp mình vào đâu để có lợi cho cách mạng nhất...

II

Tàu  của  Thanh  nép  dưới  chân  ngọn  núi  cao  có  cái  tên  rất  điệu đàng: núi Vạn Hoa. Trước đây, khi người Pháp còn ở Hải Phòng, ngọn núi có tên “La Poong”, nghĩa là chấm hết, ý muốn chỉ rằng đây là ngọn núi  cuối  cùng  của  bán  đảo  Đồ  Sơn  đổ  ra  biển.  Trên  núi  có  một  nhà nghỉ, người Pháp cũng gọi là “Hôten La Poong”. Dân Đồ Sơn nói rằng ngôi nhà được cất bằng tiền trúng giải độc đắc trong một lần mua xổ số của bà vợ hai viên quan ba Pháp. Ngôi nhà tọa ở một vị trí đẹp, xây rất hiện đại và chắc chắn. Mấy năm gần đây những người lính đoàn “tàu không số” được phép tận dụng khách sạn La Poong làm kho chứa súng đạn. Đêm đêm từng hòm vũ khí lần lượt được đưa xuống tàu để rồi từ đây theo con đường biển bí mật vào các chiến trường Nam Bộ... Thanh đã đi những chuyến như vậy. Mỗi lần lên đường là một lần xác định không trở về. Mọi giấy tờ, thư từ đều gửi lại đơn vị. Nhìn anh em lẳng lặng trao thẻ  Đoàn, thẻ Đảng cho chỉ huy rồi lặng im  như  những cái bóng lần lượt xuống tàu, Thanh cũng ở trong số đó vậy mà vẫn có cái gì nhói lên hết sức xúc động, không cầm được nước mắt... Giây phút ấy chẳng  rõ  sao  nhớ  ba,  nhớ  má  và  nhớ  thằng  Thành  nao  cả  lòng.  Và thương Lý nữa. Nếu anh không còn trên cõi này, người đau nhất trước hết là ba, bởi lẽ ba là người nhận được  tin đầu tiên.  Kế đó sẽ là Lý. Người chết thiệt thòi, nhưng người sống mới thực bất hạnh gánh mọi đau buồn. Hồi còn sống trong khu tập thể Sở Công nghiệp, có lần ba đã kể cho Thanh nghe câu chuyện xảy ra thời đại chiến thế giới thứ hai. Ba kể rằng khi bọn phát xít Đức càn vào ngôi làng và bắt được hai bố con người du kích nọ, liền lôi ra bắn. Viên sĩ quan chĩa súng vào đầu người bố và  hỏi: “Mày muốn bắn mày trước  hay bắn con  gái  mày trước?”. Người du kích bình tĩnh trả lời: “Tao muốn chúng mày bắn con gái tao trước”. Viên sĩ quan ngạc nhiên lại hỏi: “Tại sao?”. Người du kích đáp: “Vì tao không  muốn con  gái tao phải  chết  hai lần”. Câu chuyện đơn giản có vậy chẳng rõ sao cứ ám ảnh Thanh mãi. Mỗi lần xuống tàu để cùng anh em vào trong đó anh lại nhớ đến và thương ba, thương má vô chừng... Trong tư duy của ba, không có chỗ dành cho câu chuyện như thể huyền thoại rằng chính con trai của ông vẫn chỉ huy con tàu vượt biển đưa vũ khí cập vào các bến bãi trong Nam. Với ba và với rất nhiều người, điều ấy nằm ngoài trí tưởng tượng. Mỗi lần Thanh có dịp ghé qua nhà, ông chỉ hỏi: Dịp này tàu của con thường tập ở vùng biển nào? Khi Thanh có ý lảng sang chuyện khác, ông thôi gặng. Ông vẫn ý thức rằng không nên thóc mách vào việc quân sự. Nếu ba biết Thanh đang làm một nhiệm vụ đặc biệt, hết sức nguy hiểm chẳng rõ ông vui hay lo?... Thanh nhớ trước đây, mỗi lần ba có dịp tranh thủ tạt về nhà, má vẫn hỏi, có ý trách: “Ông đi những đâu mà biền biệt thế, đến nửa năm nay  im  hơi  lặng  tiếng”.  Ba  gạt  đi:  “Ơ  hay,  việc  nhà  binh,  việc  cách mạng bà thóc mách chi... Bà nuôi thằng Thanh thằng Thành được vầy là tôi hàm ơn rồi...”. Và ở nhà mấy hôm, ba lại đi. Thực tình má cũng không mấy rành công việc của ba. Chỉ hiểu một cách chung chung rằng chồng mình đang tham gia vào việc cách mạng... Bây giờ đến lượt ba cũng chỉ biết một cách chung chung rằng thằng con trai cả của mình là sĩ quan hải quân, nó gắn với tàu, với biển... Ba ơi, khi nước nhà thống nhất, biết được công việc của con và đồng đội đang thực hiện chắc ba ngạc nhiên lắm...

Nước biển Đồ Sơn không xanh mà lờ đục như được pha thêm bột đất, sền sệt giống nước sông Hồng mùa mưa lũ. Con tàu màu xỉn bậu vào chân núi, lẫn vào nước, từ xa nhìn vào nhỏ nhoi tựa chú cánh cam bám cành cây đang liu thiu ngủ...
Thanh đã tắm xong và đang chuẩn bị đi Hải Phòng. Đã sáu tháng nay  anh  chưa  có  dịp  lên  phố  thăm  ba,  thăm  Lý.  Đồ  Sơn  cách  Hải Phòng hai mươi cây số nhưng không hẳn lúc nào cũng có thể về. Phần vì công việc bận, phần vì đi lại không mấy dễ. Từ đây lên đó chỉ một phương tiện duy nhất là xe đạp. Đầu năm ôtô của Đoàn xuống đón cán bộ tàu về đơn vị họp, Thanh tranh thủ tạt qua thăm ba được mấy bận. Nhưng những lần như vậy rất vội, chỉ kịp hỏi lơ sơ sức khỏe của ông rồi ra xe... Lần này anh đã báo cáo đơn vị, xin ngủ lại Hải Phòng một đêm...  Từ  hôm  qua  anh  đã  lên  chương  trình  cho  mình.  Thanh  sẽ  đi chợ, và tự vào bếp làm cơm. Tối ấy gọi Lý tới ăn. Sau đấy sẽ cùng cô đạp xe lượn một vòng quanh phố... Lý vẫn thích thế mỗi khi hai người gặp  nhau.  Thời  gian  còn  lại  là  của  hai  ba  con...  Thanh  vốn  có  khả năng nấu ăn từ lúc còn đi học. Hồi ba rời bộ đội chuyển qua làm công tác cải tạo tư bản tư doanh, hai người sống trong khu tập thể của Sở Công nghiệp. Gọi là khu tập thể nhưng chỉ là dãy nhà ngang cấp bốn được ngăn làm mấy phòng nhỏ dành cho cán bộ xa nhà. Phòng cuối dùng làm bếp chung. Nơi đó mỗi gia đình kê một bếp dầu, một chạn ăn bằng gỗ tự đóng. Tất cả đều đơn giản. Ban đầu hai ba con Thanh báo ăn ở bếp cơ quan, nhưng ông Tư bị đau dạ dày, sau bữa lại ôm bụng nhăn nhó nên các chú cùng công tác khuyên tự nấu lấy, hợp hơn. Ông nghe theo. Ba bận việc cơ quan, nên bếp núc hàng ngày hầu như Thanh phải đảm nhận. Một buổi đi học, thời gian còn lại dành để đi chợ, nấu ăn. Đầu tiên thấy bối rối, dần dà rồi quen. Các bác các chú trong cơ quan khen rằng Thanh là con trai mà đảm đang, nấu nướng giỏi như con gái.

Thời mới theo ông Tư ra Bắc, Thanh học ở trường dành cho con em cán bộ miền Nam tập kết, vẫn gọi là trường  học sinh  miền  Nam. Ăn chung, ở chung. Được Nhà nước cưng chiều, một số học sinh nảy ý thức công thần thường quậy phá, đánh nhau với học sinh miền Bắc. Những ngày nghỉ, từng tốp vài ba cậu tràn ra phố gây náo loạn Hải Phòng. Thanh không mấy khoái trò đó nên đã về sống với ba rồi xin sang trường khác học... Lý cũng vậy, sau một thời gian học ở “trường học sinh miền Nam”, cô xin ra học trường ngoài. Ba Lý và ba Thanh làm cùng cơ quan, hai người lại học một trường nên thân nhau rất nhanh. Sáng sáng Thanh chần chừ trước cổng, vừa bốc xôi ăn vừa có ý chờ Lý. Mặt trời chưa mọc bà hàng xôi đã ngồi ngay trong sân Sở Công nghiệp. Thanh mua cho ba một nắm, mua cho mình một nắm. Lý thường đi học trễ. “Sao chậm thế?”- Thanh trách. “Sáng ra bao nhiêu việc. Con gái không thể vừa đi vừa bốc xôi cho vào mồm như Thanh được” - Lý đáp rồi hai người vội vội cùng đi bộ đến trường. Có hôm ba cho Thanh mượn xe đạp. “Oai nhỉ, lại đi học bằng xe cơ đấy” - Lý giễu nhưng cũng vui vẻ nhảy lên, ngồi phía sau. Cô học  dưới Thanh một lớp, họ quy định ai hết tiết thì về trước, không chờ nhau. Thanh học nhiều môn nên hôm nào cũng ra khỏi trường muộn hơn. Về tới nhà, vất cặp vào bàn, nhảy xuống bếp đã thấy Lý đứng
ở đó.
- Nhặt rau và rửa rau cho Thanh rồi đấy. Lần sau đừng mua loại muống thả đầm nhé.
Thanh vội vã châm bếp dầu, hỏi lại:
- Làm sao phân biệt thế nào là rau đầm?
- Rau đầm cuộng dài, nhiều rễ, lại ít lá.
- Chiều nay nếu ra chợ, Lý mua hộ nhé.
- Không, cùng đi rồi Lý hướng dẫn cho, vài lần là quen. Hồi Thanh nhập ngũ, anh nói:
-  Thỉnh  thoảng  giúp  ba  Thanh  nhé,  nếu  nấu  cơm  cho  gia  gia nước, ba Thanh đau dạ dày.
Lý lườm ngang:
- Sao phải dặn những câu thừa thế?...

Nhiều lá thư gửi cho Thanh trong những ngày anh đang huấn luyện tại đơn vị, ba thường nhắc đến Lý. Lần về phép sau ba năm được đào tạo tại Trường Sĩ quan hải quân, khi đã ăn cơm xong, ông Tư bảo: “Cái Lý nhắc đến con luôn. Con nên đến thăm nó”. “Lý hiện làm ở đâu, ba?” - Thanh hỏi. “Học xong lớp kế toán, bác Hoành xin cho về làm tài vụ ở xí nghiệp Tân Sinh. Vưa rồi hai ba con được Nhà nước phân cho căn hộ trong khu tập thể Cầu Tre. ở gác ba nhưng thoáng mát lắm. Hôm bác ấy và Lý chuyển nhà, ba có đến chơi.” - Ông Tư Đởn nói rồi đưa tay đỡ ngực, ho sù sụ. Thanh nhìn ba, lo lắng. Sức khoẻ của ba đã sút nhiều. Khí  hậu  miền  Bắc  không  hợp  với  ông.  Năm  nào cũng  vậy,  hễ  chớm đông là bệnh dạ dày, bệnh hen lại tái phát. Đêm về, ba rất ít ngủ. Hồi chưa vào bộ đội, có hôm thức giấc Thanh vẫn thấy ông quấn chăn, lưng tựa vào tường. Ngồi vậy dễ chịu hơn. “Bệnh hen vẫn không thuyên giảm sao, ba?” - Thanh hỏi. “Bác sĩ bảo trường hợp của ba mãn tính rồi... Không sao mà, ba đã quen... Hôm nọ bác Hoành và Lý đến chơi có cho ba một ít thuốc ngoại, hình như của người bà con làm cán bộ to trên Hà Nội được phân phối, uống vào thấy đỡ... Có tuổi, yếu đi là đúng quy luật... Con biết khu tập thể Cầu Tre chứ. Gần trường học của con và Lý.
Tối hôm đó Thanh tìm đến căn phòng trên gác ba khu tập thể. Anh ngạc nhiên về sự đổi thay nơi người bạn học. Hai bím đuôi sam dài quá lưng được tết bện công phu mỗi sáng vẫn vung vẩy theo nhịp bước đã không còn, thay vào đó là mớ tóc được uốn cong, bông lên, chỉ chạm bờ vai. Khuôn mặt Lý đã tròn càng tròn hơn. Chưa đầy bốn năm không gặp, lúc này trông Lý như một người khác. Cô nở nang, nhiều đường cong hằn rõ sau bộ quần áo may hợp. Không còn nhận ra đây là cô học sinh cấp ba rụt rè, ít nói vẫn lúi húi nấu nướng nơi căn bếp chung chật chội cuối dãy nhà cấp bốn trong Sở Công nghiệp nữa. Cô đã thành một thiếu nữ xinh xắn, hoạt bát... Thấy Thanh, Lý vui mừng reo to:
- Ôi anh Thanh, anh về khi nào vậy? Chững chạc quá, suýt nữa em không nhận được.
Tiếng anh, tiếng em buột ra một cách hồn nhiên khiến Thanh thấy vui.  Đã  bao  giờ  trong  những  ngày  cắp  sách  tới  trường  Lý  một  lần xưng hô với Thanh như vậy đâu. Có cái gì đó chộn rộn, anh nói, cũng nhận ra giọng mình thoáng chút bối rối:
- Lý cũng khác... Xinh ra, đẹp ra...
- Thật thế à, anh?
- Cứ như có phép lạ.
Lý sung sướng tủm cười, một chút phấn khích khiến hai má đỏ ửng. Tối ấy hai người nói chuyện tới khuya. Thời còn ở chung trong một khu tập thể, cùng đi học, có nói với nhau cũng chỉ là những câu nhát  gừng  rời  rạc.  Sau  bốn  năm  xa  cách  lúc  này  gặp  lại  sao  nhiều chuyện thế! Thời gian cứ vun vút. Lý kể chuyện học ở trường trung cấp, chuyện cơ quan, chuyện những người bạn mới. Gần như việc gì cũng phô. Rồi hỏi. Những điều liên quan đến Thanh cô đều muốn biết. Khi chia tay, Lý bảo:
- Chiều mai anh đón em ở cơ quan được không? Có chuyện này hay lắm. Chúng mình đi xem phim nhé?

Ngày Thanh chưa nhập ngũ cũng đã đôi ba bận hai người cùng vào rạp. Hồi ấy mua được chiếc vé xem phim khó lắm. Thỉnh thoảng cán bộ trong cơ quan Sở Công nghiệp được phân phối vài đôi. Ông Tư và ông Hoành nhường sự ưu ái đó cho hai đứa trẻ. Vừa xem phim, hai người vừa tí tách cắn hạt bí. Thỉnh thoảng Lý thúc nhẹ khuỷu tay vào sườn Thanh. Anh quay lại. Nhúm  hạt bí trên bàn tay bé  nhỏ chìa ra trước mặt. Thanh rụt rè nhón mấy hạt rồi lại ngây ngô hướng khuôn mặt thuồn thuỗn lên màn ảnh. Anh chưa đủ từng trải, bản lĩnh và sự nhạy cảm để có cái cử chỉ ân cần thậm chí mạnh bạo cần thiết ở những người đàn ông trưởng thành trong trường hợp này. Anh coi Lý cũng như bạn bè cùng  lứa  khác. Và chỉ vậy thôi. Nhưng ở nữ giới hình như chuyện tình cảm phát triển sớm  hơn, họ nhìn nhận vấn đề cũng rõ ràng và cụ thể sâu sắc hơn. Sau mỗi buổi đi xem phim về, Lý thường xa xôi nói rằng Thanh là gã trai đoảng, vô tâm. Rồi suốt quãng đường  đi  học  ngày  hôm  sau,  cô  làm  mặt  giận,  không  nói  câu  nào. Thanh vô tư trách:
- Hôm nay Lý làm sao thế? Lý ngúng nguẩy:
- Từ ngày mai cứ đi học trước, không phải chờ nữa.
- Làm sao?
- Sao trên trời! - Lý đáp và bước rất nhanh... Sự giận dỗi vô cớ đó cũng qua đi để rồi cách đó vài tháng họ lại được hai ông bố nhường cho đôi vé để cùng vào rạp.
- Dịp này mua vé xem phim dễ vậy à? - Thanh hỏi.
- Em có đứa bạn làm tại rạp chiếu bóng. ở đó đang có bộ phim của Ba Lan hay lắm. Anh vẫn thích xem phim nước ngoài mà. Anh đi nhé.
Đêm ấy, khi chuẩn bị đi ngủ, ông Tư Đởn chợt hỏi con trai:
- Con thấy Lý là cô gái thế nào?
- Ba hỏi vậy nghĩa là sao ạ? - Thanh ngạc nhiên hỏi lại.
- Ba  và  bác  Hoành  thỉnh  thoảng  có  nói  với  nhau  về  hai  đứa. Nhưng quyết định vẫn là ở các con... Hai đứa đã quá hiểu nhau... Lý là cô gái nết na, trung thực... Những ngày nghỉ vẫn đến thăm ba...
Thanh  không  đáp,  nhưng  bắt  đầu  nhận  ra  tình  cảm  nơi  anh  đối với Lý đã có một cái gì khác lạ, không gọi được tên, nó chẳng còn hồn nhiên  như  trước  nhưng  gần  gũi,  thân  thiết  và  gắn  bó.  Lên  đơn  vị Thanh vội vã viết thư cho Lý, và cô trả lời rất nhanh. Trong thư Lý lại kể  đủ thứ  và  cuối  cùng,  bao  giờ  cũng là  câu:  khi  nào  anh  về  chúng mình lại đi xem phim nhé...

Tình yêu của anh và Lý đến tự nhiên, như thể sinh ra duyên phận hai người đã được định như thế, dẫu chưa một lần cầm tay và chưa một lần nói rằng anh yêu em hoặc em yêu anh, nhưng cả hai đều hiểu họ đã thuộc về nhau. Mỗi lần Thanh có dịp ghé qua Hải Phòng, Lý sung sướng và sốt sắng chăm lo cho anh bằng tình cảm của  người đang yêu đã đành, còn là tình cảm của người mẹ, người chị. Trước khi anh đi, Lý chu đáo dúi vào ba lô đủ thứ, từ con dao nhỏ, chiếc khăn mặt đến chiếc cúc áo, bộ kim chỉ... Và nhiều khi cả tiền... Thanh lặng lẽ đón nhận tình cảm đó một cách mãn nguyện, tự hào... Lý có những ý thích rất thú vị. Mỗi lần rủ anh đến chơi nhà bạn bè, cô muốn anh phải mặc quân phục. “Em khoái lính à?” “Chúng nó réo em là người của bọ nước, em vui lắm”. “Bộ đội khô khan.” “Anh ơi, chiều nay chúng mình đạp xe ra ngoại thành chơi nhé. Em muốn khoe anh với một người bạn. Mấy lần nó trách rằng anh về mà giấu biệt, hay là sợ người ta cướp mất... Vườn nhà nó rộng lắm.” Ngồi sau xe đạp để được Thanh đưa đi đây đi đó, thậm chí không cần một địa chỉ cụ thể nào, chỉ  lòng vòng phố này qua phố khác với Lý là niềm vui, là hạnh phúc...
... Thanh nhìn ra biển. Nơi Hòn Dáu, sương giăng mờ. Hòn đảo vốn có tên là Hòn Dấu. Người Đồ Sơn nói chệch đi thành Hòn Dáu. Nơi đây là chốn linh thiêng của ngư dân trong vùng. Mỗi lần ra khơi vào lộng, họ thường cho thuyền ghé vào, lên đảo thắp tuần nhang xin điều lành. Trên đảo có đền thờ Lão Đảo Đại Vương, còn gọi là Nam Hải Đại Vương. Ngài là vị thần trông coi vùng biển Đông Bắc. Người Đồ Sơn nhiều đời truyền nhau rằng, đã lâu lắm, vào một ngày nọ có vị tướng đi đánh trận bị giặc chém cụt đầu trôi dạt về hòn đảo nhỏ này. Dân làng vớt lên rồi cho người về báo triều đình. Nhưng đêm đó, vạt đất nơi vị tướng nằm, mối đùn lên tạo thành ngôi mộ lớn. Dân làng biết đây là người trời bèn lập đền thờ. Từ đó nhờ ngài phù hộ nên thuyền bè ra biển không gặp tai hoạ nữa. Dân làng lấy ngày vớt được thi thể ngài lên làm ngày lễ hội Hòn Dáu... Mỗi lần tàu đi qua chốn này Thanh vẫn lặng lẽ lên boong, hướng mắt vào đảo và thầm khấn rằng mong thần phù hộ cho con tàu chở vũ khí vào chiến trường được trót lọt...
Thanh định vào phòng ngủ thay quần áo chợt nhìn thấy một chiếc xe đang lách qua con đường đá mới mở, lắc lư hướng về phía con tàu. Anh dễ dàng nhận ra đây là chiếc “U oát” treo biển đỏ. “Lại có việc rồi!” - Thanh chợt nghĩ. Chiếc xe chạy chậm rồi dừng lại. Một sĩ quan bước ra, đi nhanh về phía tàu. Anh ta làm hiệu xin lên boong. Thông tin khá bất ngờ: Thủ trưởng Bộ Tư lệnh cho gọi thuyền trưởng, chính trị viên và thuyền phó tàu T.35 lên Bộ Tư lệnh họp.
- Ngay bây giờ à? - Thanh hỏi.
- Rất đông người, có cả thủ trưởng Bộ Tư lệnh đang chờ. - Người sĩ quan đáp.
“Có việc gì khẩn vậy ta?” - Thanh nghĩ rồi tuông đi báo cho chính trị viên Chiêu và thuyền phó Thơm hay.

*

Đã khuya nhưng đường phố vẫn đông người. Công nhân từ cảng đi làm về, từ nhà máy Cá Hộp đổ ra. Từng tốp, áo lấm bụi vắt vai, vừa đi vừa ngáp, vừa trò chuyện. Họ bước rất nhanh và nói rất to. Nhiều người rủ nhau sà vào hàng phở gánh toạ trên vỉa hè. Xương bò ninh với thảo quả và nhiều thứ khác bốc hơi toả hương vị đặc trưng cùng với những túm hành rửa sạch trắng phau, những chùm ớt tươi đỏ mọng treo lủng lẳng khiến đã bước tới là khó cưỡng. Miệng tiết dịch vị và dạ dày nôn nao đòi hỏi buộc đôi chân không thể không dừng lại. Sì sụp bên bát phở nóng và được hưởng vị thơm ngon bốc lên từ chính bát phở đó là thói quen cũng là nhu cầu của những người làm ca đêm. Trên con đường giáp cổng cảng, những chiếc xe ba gác gắn nối với nhau bằng vô số tấm thép dày, dài đến chục mét đang được mấy người thợ oằn lưng xuống kéo. Họ gập người, nặng nhọc nhích từng bước. Ngực trần. Chân xỏ đôi giày vải rách bám chặt vào mặt đường nhựa. Người kéo, người đẩy đều lặng thinh. Năng lực dồn hết vào đôi vai và hai cánh tay. Họ làm việc suốt đêm...
Chiếc xe của Thanh và Lý vòng qua cổng cảng thì ngoặt về đường Hồ Xuân Hương. Hai người thích đưa nhau qua con phố mang tên nữ sĩ này bởi nơi đây tĩnh lặng có cái gì đó rất gợi, quyến rũ. Về khuya, thỉnh thoảng lắm mới có một bóng xe đạp lướt qua... Vào mùa hè, hoa sữa từ những khu vườn quanh các biệt thự toả hương hắc nồng, mới ngửi thì khó chịu, nhưng đã quen lại đâm nghiện. Mỗi lần gặp nhau, dù lòng vòng mãi đâu, cuối cùng họ lại vô thức trở về với con phố quen thuộc, đã thành kỷ niệm... Đường phố không ồn ào nên cả hai đều có thể tự do say sưa kể với nhau rất nhiều chuyện, những câu chuyện không đầu không cuối, không chủ đề nhưng chẳng bao giờ cạn. Song hôm nay những câu chuyện kể nối nhau của Lý hình như không được Thanh hưởng ứng. Tâm trí anh đang mãi nghĩ đâu đâu. Cô nhận ra điều đó lúc hai người dắt xe ra ngõ, nhưng đã tự biện bạch rằng đường phố ồn ào, chuyện của cô có thể anh không nghe rõ. Còn lúc này tại sao cũng chỉ ầm ừ, chẳng để tâm...
- Anh chán nghe em nói rồi, đúng chưa? - Lý hỏi, giọng buồn buồn. - Nếu vậy ta về.
Thanh đạp xe chậm lại:
- ừ... Anh nghe đấy chứ... Một lát nữa anh đưa em về... Em đang nói chuyện cái Hằng phải không? Như vậy thì tội quá.
- Hằng nào? Anh sao vậy?
- Anh nghĩ nếu họ không hợp nhau thì chưa nên cưới.

Lý nhảy phắt xuống xe. Cô hậm hực đi ngược lại hướng Thanh đang đạp... Mấy phút sau Thanh giật mình nhận ra đã không còn có Lý ngồi phía sau, anh vội vã vòng trở lại. Bây giờ thì Thanh ý thức được tầm nghiêm trọng của sự việc. Lỗi là ở anh. Quả anh đang mải nghĩ đến chuyện khác. Cuộc họp chiều nay ở Bộ Tư lệnh với những quyết định bất ngờ, đột ngột ngoài mong đợi vẫn bám níu khiến anh nao nao, không còn tâm trí lưu ý đến những điều Lý kể... Dù trí tưởng tượng của Thanh phong phú đến mấy, anh cũng không nghĩ đến việc mấy ngày nữa mình sẽ chỉ huy tàu T.35 bí mật chở vũ khí về quê. Vũng Rô, Đá Bia, Hòn Nưa, làng Cát..., những cái tên hằn sâu trong tâm thức chợt sống động hiển hiện ra. Chuyện thật mà hệt giấc mơ. Sau thông báo của Tư lệnh, anh như người bị choáng, không còn tin vào những điều vừa nghe, đến mức đã bật dậy hỏi một câu hết sức ngớ ngẩn: “Báo cáo Tư lệnh, Vũng Rô ở Phú Yên quê tôi phải không ạ”, khiến Tư Lệnh và mọi người phì cười. “Đồng chí chẳng là người làng Cát đó sao?” - Tư lệnh nói. “Vâng, có lẽ bởi tôi vui quá, mừng quá đấy ạ.” Trời ơi, sao Thanh lại không mừng không vui và không ngạc nhiên được! Vũng Rô nằm dưới chân núi Đá Bia chính là quê ngoại của Thanh, nơi má sinh ra và có một thời thơ ấu lận đận vất vả cùng với ông bà nhọc nhằn bươn bả kiếm sống. Thanh biết nhiều về vùng quê ấy qua chắp nối những câu chuyện của má và qua những bận lẽo đẽo theo má về quê ngoại giỗ tổ, hoặc thăm ông bà... Và thầy Sáu Sinh cũng có lần đưa lũ học trò trèo lên chót vót đỉnh Đá Bia, nơi có người gọi là cửa trời để nhìn ra biển... Những chuyện ấy xa đã hơn chục năm nhưng nó hằn khắc vào trí não làm sao Thanh quên được... Vậy mà niềm vui lại không thể san sẻ cùng ai. Giá anh phô ra được với Lý, như cô vẫn hí hớn bộc bạch và khoe ra với anh mọi điều... Lý đã không hiểu, cô giận là phải... Thanh dắt xe đuổi theo. Anh nở nụ cười làm lành:
- Anh xin lỗi!... Cô dỗi:
- Em đi bộ về được.
- Lý, nghe anh nói đã... Anh mừng quá...
Thanh bỏ xe đổ xuống đường, đứng chắn trước mặt cô, rồi bất chợt choàng tay ôm Lý vào lòng, xiết mạnh.
- Lý ơi, anh yêu em, anh rất yêu em... - Thanh thổn thức nói và cúi xuống lần tìm cặp môi người yêu.

Lý bàng hoàng. Cô chưa chuẩn bị tinh thần để tiếp nhận tình thế này. Có cái gì đó hết sức bất ngờ khiến cô luống cuống, bối rối và hãi sợ. Nhưng trạng huống ấy qua rất nhanh, ý thức được hoàn cảnh, cô hướng lên, sung sướng đón nhận cách thể hiện tình cảm vụng về của gã đàn ông... Lần đầu tiên hai người hôn nhau, nên sau cử chỉ hưng phấn đó hình như họ đều cảm thấy chơ vơ và ngượng ngập. Lý nép khuôn mặt nóng ran vào ngực Thanh, nói rất nhỏ:
- Em ghét anh lắm!
Thanh không đáp. Anh cà cằm lên mái tóc uốn sóng bông tơi của Lý và nhận ra tâm trạng rất lạ nơi mình. Hình như đã có cái gì đó thật sự biến đổi trong con người anh. Táo bạo, đam mê. Hưng phấn chân thành. Bột phát, mới mẻ... Những điều ấy khiến anh lạ lẫm, sung sướng và lo sợ. Anh đã chờ cái việc sẽ xảy ra như hôm nay, và nó đã hiển hiện là một sự thật, Lý đang run rẩy nóng bừng trong vòng tay mà sao vẫn ngỡ ngàng như không phải vậy. Hạnh phúc đến đột ngột ngoài dự kiến khiến Thanh bồng bềnh trong cảm giác chênh vênh như đang bay trên không... Lý cũng vậy, cô không thật rõ tâm trạng mình lúc này. Có cái gì đấy lâng lâng ngọt ngào ngấm thấm tràn chảy khắp cơ thể làm cô ngột ngạt, thấp thỏm và hồi hộp... Cả hai đứng như vậy rất lâu. Không còn khái niệm thời gian... Vũ trụ gom nhỏ trong một vòng tay.
- Vừa rồi anh nói rằng anh có chuyện mừng? - Một lát, vẫn không ngước lên, Lý hỏi.
- Anh yêu em! - Thanh thở nhẹ vào tai người yêu.
- Đừng nói dối em nhé...
Thanh im lặng. Anh xiết Lý chặt hơn. Hai người như thể tan vào nhau... Trên đầu, những chiếc lá nho nhỏ mỏng mảnh rơi, chòng chành trước ánh đèn khuya. Tiếng con nước cạp bờ từ sông Tam Bạc đưa tới rất mỏng. Và từ đâu đó xa xa mơ hồ như có âm thanh của những con sóng hào hển đuổi nhau vọng về... Phố yên tĩnh...
... Đêm ấy nằm cạnh ông Tư, Thanh thổn thức không ngủ. Những tình cảm tươi nguyên mới lạ, những đột biến bất ngờ thú vị khiến anh châng lâng như người uống rượu mạnh đến lúc ngấm... Anh xoay qua xoay lại, có cái gì đó rất khó gọi tên khiến đầu óc tỉnh băng. Công việc sắp tới, những tình huống khi trở về quê, tình yêu với Lý... cứ đan cài, lên men chuếnh choáng... Cuộc đời thật thú vị và kỳ lạ. Đó là dòng chảy triền miên với những biến động bất ngờ cuốn con người vào biết bao niềm vui nỗi buồn và những khắc khoải... Thanh chộn rộn thắc thỏm hồi hộp mường tượng ra nhiều cảnh huống khi con tàu T.35 cập vào chân núi Đá Bia. Lúc ấy sẽ thế nào nhỉ? Ai là người anh gặp đầu tiên sau hơn mười năm xa quê? Người đó nói giọng Tuy Hoà hay giọng Sông Cầu? Người quen hay người lạ? Và có ai trong số du kích ra đón tàu là dân làng Cát?... Trời ơi, chỉ nghĩ tới vậy thôi đã thấy chới với nôn nao...

Hình như ông Tư rõ được tâm trạng phấn khích nơi người con trai, ông quay qua và hỏi:
- Con và Lý... Có phải hai đứa đã quyết định điều gì phải không?
- Chúng con còn trẻ mà, ba.
- Bằng tuổi con, ba đã rước má về... Tội nghiệp, đã mấy chục năm mà ba chưa mang lại cho má một ngày vui trọn vẹn...
- Ba! - Thanh quay qua, làm một động tác như thể muốn biểu hiện tình cảm của mình rồi nũng nịu vòng tay ôm lấy ông Tư như thời thơ bé...
Ông Tư nhè nhẹ vỗ vỗ lên bàn tay người con trai đang đặt qua ngực mình, và im lặng. Thanh cũng nằm yên. Lâu nay như thể có một thoả thuận ngầm, mỗi lần gặp nhau hai ba con thường cố tình né tránh nhắc đến chuyện má, chuyện thằng Thành, mặc dù hai người ấy luôn là nỗi đau đáu túc trực nơi họ. Không ai muốn nỗi khắc khoải canh cánh loang ngấm vào người khác. Tình thương, nỗi nhớ gắng nén lại trong lòng. Thỉnh thoảng lắm Thanh buột miệng hỏi: “Hôm rồi lên Hà Nội, ba có nhận được tin tức gì từ Ban Thống nhất trung ương?”. Và khi thấy ông tư lự, khuôn mặt biểu hiện sự thất vọng, anh rõ mọi thông tin về gia đình, làng xã vẫn là chiếc hũ nút kín, vội lảng nhanh sang chuyện khác. Anh kể về những lần ra khơi, những điều kỳ lạ nhìn thấy mỗi khi đi trên biển. Anh nói hồ hởi, say sưa. Ông Tư nghe, cũng hiểu rằng con trai đang cố làm cho mình vui, cố quên những cảnh trớ trêu vô lý trong gia đình...
Những lúc nhàn rỗi một mình, ông thường lu lơ tự vấn về những quyết định cách đây đã cả chục năm. Thời ấy nếu ông không để thằng con lớn đi theo ra Bắc, hai anh em ở lại quê nhà chẳng rõ bà Tư có vui hơn? Rồi ông tự giải thích rằng người mẹ nào muốn xa con, có hai anh em nó quấn quýt nhất định vợ ông đỡ cô quạnh, nhưng bà sẽ áy náy lắm, và canh cánh lo cho ông ở ngoài này trơ trọi một mình và bởi vậy lại chẳng yên tâm, còn khổ hơn. Tính bà ông rõ, có lúc nào nghĩ đến bản thân mình. Được chăm sóc, hi sinh cho chồng con và nhìn thấy chồng con vui là mãn nguyện hạnh phúc rồi. Bà sinh ra như thể để lo cho người khác. Trước đây khi ông có dịp tạt qua nhà, mỗi lần ra đi, bà lại len lén dúi vào túi áo, túi quần những đồng bạc hiếm hoi mà ông biết bà kiếm được rất chật vật. Một thân một mình nuôi hai đứa con dại khờ đang ở tuổi lớn, thỉnh thoảng còn trách nhiệm với ông bà ngoại, cuộc sống đâu dễ chịu. Nhưng nếu từ chối, ông rõ bà sẽ buồn, và tủi thân... Những ngày chui nhủi trong cứ hoặc rỗi rãi trước giờ công đồn, nghĩ đến bà ông nao nao niềm tự hào. Số ông thật may mắn. Chắc trời thương tình nên đã công bằng ban cho điều hạnh phúc. Ba má mất sớm, thân cô thế cô, ngỡ rằng cuộc đời sẽ đơn chiếc trôi dạt vô định. Ai dè ông đã gặp bà và được bà thương. Bà chính là báu vật vùng núi Đá Bia ban tặng cho kẻ côi cút này... Hai đứa con trai được sinh ra sau đấy, một mình bà nuôi, bà dưỡng. Ông như khách, thỉnh thoảng đáo qua ăn rình bữa cơm, ngủ nhờ một tối rồi lại đi. Có lần biền biệt nửa năm mới về. Chuyện nhà, chuyện con cái khoán trắng cả cho vợ. Bà Tư không lấy thế làm phiền lòng, nếu có chút ái ngại băn khoăn thì đó là nỗi lo cho chồng. Bà thường xa xôi: “Mũi tên hòn đạn không kiêng dè ai nghe. Ông cẩn thận kẻo rồi hai đứa nhỏ lại thiếu ba”. Ông đùa: “Thế còn má sắp nhỏ?”. “Tôi không là đàn bà? Ông có làm sao tôi thù đó.” Và ông đã chẳng làm sao cho tới lúc hoà bình. Những ngày sau khi nghe tin đình chiến, ông hí hởn nở từng khúc ruột, ngỡ rồi sẽ được sống bên bà, có điều kiện bù đắp lại những gì thiếu hẫng thời gian qua, ai dè hoàn cảnh éo le tạo ra sự cách biệt còn xa ngái hơn. Trước đây, chí ít nửa năm, ông cũng có thể về thăm nhà một lần, còn bây giờ, đằng đẵng hơn mười năm mà một thoáng đồn thổi vu vơ về vợ con cũng không. Mọi thông tin như mặt nước ao thu đóng băng phẳng lờ, không một gợn toả, một tín hiệu... Khi chia tay, thằng Thanh chỉ trên mười tuổi, lúc này con nó đã trở thành một sĩ quan chỉ huy tàu mà tin tức về má, về em cứ bằn bặt, mu mơ như nhìn vào sương mù khi động biển...

... Thanh nằm im, sung sướng và mãn nguyện đón nhận tình cảm ba mình trong nhịp đập khe khẽ của bàn tay ông... Trời ơi, giá chi Thanh được khoe với ba rằng, ba ơi con sắp về quê, con được lệnh đưa tàu vào Vũng Rô; và rất có thể con sẽ gặp má, gặp lại em Thành, hoặc ít ra cũng biết chính xác tin về hai người... Thanh như muốn la to lên, trong lòng chộn rộn không yên... Cái làng Cát kề khít con sông Thạch Bàn quanh năm nước leo lẻo ấy dẫu xa mười năm, hai mươi năm thì những ấn tượng về nó vẫn chẳng bao giờ có thể quên. Những con đường quanh co lầm cát. Hàng phi lao ven bãi tơi tả, thân ưỡn cong chịu đựng khi những cơn gió từ biển ào ạt thốc vào. Và những bước chân trần to bè nặng chịch bước hối hả mỗi lần thuyền đi khơi về. Tiếng lách nhách trả giá. Và ào ạt tiếng sóng đập ầm ào vào bờ mỗi lần chuyển trời... Chênh chếch giữa xóm cuối làng Cát là ngôi nhà lợp lá dừa nước tuềng toàng gió thốc vào bên này để ào ào thổi sang bên kia. Ngôi nhà đã được ba con Thanh chằm vá lại trước khi lên đường ra Bắc. Chẳng rõ ngôi nhà đã được thay mái mới để mỗi lần mưa xuống má khỏi mất ngủ, đỡ hao sức? Em Thành là gã trai tháo vát lanh lợi, nhất định biết xoay trở không chịu để má khổ. Nó vốn là đứa trẻ ngoan, biết thương má. Nhiều người trong làng bảo rằng nhà Tư Đởn có thằng con thứ hai khôn trước tuổi. Nhỏ người nhưng lanh ý. Ao chuôm nào trong làng sẵn ếch cá nó rành hết, đã ném câu xuống là trưa đó có thứ xâu về. Mỗi lần thuyền bà con trong làng đi biển cập bãi, thằng Thành hấp hổi lần ra, xăng xở giúp việc dỡ cá xuống thuyền, mó tay vào cùng chọn lựa ra từng loại, việc người mà xăng xở y như việc của mình, thậm chí còn nỏ mồm lanh chanh bàn góp nên thế này, nên thế nọ như ông cụ non. Nhưng những điều nó nói phần lớn là đúng, bởi vậy ai cũng quý. Khi ở bãi biển về bao giờ trên tay cũng lủng lỉnh, lúc vài ba con cá, lúc mớ tôm vụn. Những việc đại loại như vậy thằng em ăn đứt thằng anh. Ông bà ngoại vẫn bảo thằng Thành lấy hết khôn của thằng Thanh rồi.
Hồi má lần lên núi Bia kiếm củi về chẳng may gặp mưa bị cảm, nóng ly bì, Thanh sợ cuống cuồng, hết chạy vào lại chạy ra, chẳng biết làm gì, chỉ thỉnh thoảng hỏi: má ăn cháo nghe; nhưng thằng em khác hẳn, nó lần sang nhà ông Năm Bào kể lại mọi sự rồi khi được ông Năm hướng dẫn, nó tuông về, tìm tóc rối chấm vào nước gừng miết mạnh lên lưng má, lại ngồi trên giường sai anh ra vườn kiếm lá nhọ nồi nghiền lấy nước để má uống. Hôm sau má khỏi...

Thằng Thành là đứa khá láu, lũ trẻ trong làng kể cả những tên nổi danh ngổ ngáo hay chơi trội như Ba Hoàng chẳng dễ gì có thể bắt nạt được. Nó vừa khôn khéo vừa nghĩ ra nhiều chiêu nghịch ngầm khiến bọn trẻ phải nể phục, trờn trợn, kiêng dè... Một lần Ba Hoàng rủ mấy đứa bạn ra sông Thạch Bàn tắm, cậy thế to con, nó ngầm chơi thằng Thành một vố. Biết Thành đang tập bơi ở khúc sông cạnh đó, Ba Hoàng liền nháy bọn trẻ, rồi cả lũ lặn sâu xuống, mò tìm cẳng thằng Thành kéo tuột xuống. Bơi kém, lại thân cô thế cô nên hôm ấy thằng Thành bị bữa no nước. Nó uất lắm, nhưng không hề hé răng nói lại, hay chửi rủa mắng mỏ nửa lời, nó nhẫn nhịn lên bờ mặc quần áo và tỏ ra không có chuyện gì xảy ra, im nín như hạt thóc lẳng lặng ra về. Nhưng trong đầu Thành đã nhanh chóng nảy sinh kế hoạch trả thù. Biết bọn Ba Hoàng tối đó rủ nhau ra bãi dương chơi trò đánh trận giả, thằng Thành liền kiếm chiếc nồi đất cũ, đổ nước giải và tro bẩn vào rồi trèo lên treo hờ nơi cành khế trước ngõ nhà ông Năm, sau đấy dong một sợi dây buộc vào hòn đá nhỏ nơi mặt đường tạo thành cái bẫy, chạm nhẹ vào là sập. Thằng Thành phục đấy vì biết chắc bọn Ba Hoàng đi chơi về thể nào cũng qua ngõ nhà Năm Bào. Đêm ấy đã khuya, quả Ba Hoàng dẫn lũ bạn từ bãi dương ngất nghện đi qua. Chúng đâu ngờ tai vạ đang treo lửng trên đầu. Quệnh quạng chân nam đá chân chiêu chúng vấp phải sợi dây, lập tức chiếc nồi đất từ trên cao rơi mạnh xuống. Tro bếp và nước giải bắn tung tóe lên đầu Ba Hoàng và bọn trẻ. Con trai lão Trần Nhũng hận lắm, biết đây là trò ranh mãnh của con rận nhà Tư Đởn, nhưng vô bằng chẳng thể làm gì, đành chửi đổng mấy câu rồi hò nhau lăng tăng xuống sông tắm rửa. Thằng Thành lúc đó nấp trong bụi rậm gần đấy bịt mồm cười vỡ bọng đái.
Thằng Thành thường bị má la bởi những trò đại loại như thế. Nhưng chưa một ai yêu nó hơn má. Dân làng Cát vẫn nói với nhau rằng nếu thiếu ăn, Tư Đởn phải xẻ thịt ra để nuôi con, mụ cũng làm. Thanh và Thành là hai cục cưng, là niềm vui, nỗi an ủi và cũng là niềm tự hào của má... Bây giờ chắc má đã yếu lắm, già lắm! Tính từ ngày ba và Thanh ra Bắc tới giờ đã già chục năm. Mười năm mà lâu như cả thế kỷ! Trong khoảng thời gian ấy có thể đã nhiều biến đổi, biết đâu thằng em láu cá của Thanh đã ma mãnh chộp được một cô gái làng kháu khỉnh nào đó về làm vợ và sinh con. Nếu vậy chắc má vui lắm. Hồi Thanh và Thành còn nhỏ, má vẫn ước ao mong sống cho đến ngày thằng Thanh thằng Thành có vợ có con, lúc đó trời không cho sống nữa, có nhắm mắt xuôi tay cũng thoả... Má ơi, con sắp được về quê, con sắp về với má với em rồi... Thanh chòng chành trong trong những rời rạc chắp nối vui buồn, tủi nhớ...
- Con không ngủ sao, Thanh? - Ông Tư quay mặt qua con trai và hỏi.
- Ba ơi, tại sao làng mình có tên là làng Cát? Có phải vì nhiều cát không?
- Ba cũng không thật rành... Người dân làng mình nhỏ nhoi như hạt cát... Cũng lại cứng cỏi như cát... Mà sao tự dưng con hỏi vậy?
- Quê mình có những cái tên thiệt hay...
- Con nhớ... làng phải không Thanh?... - Ông Tư không nén được, chợt hỏi, rồi như thể cũng nhận ra có cái gì mủi mủi yếu đuối trong giọng nói của mình, liền quay qua chuyện khác. - Ngày mai mấy giờ con phải có mặt ở đơn vị? Ba chuẩn bị cái gì ăn sáng trước khi đi nghe...
Thanh không đáp. Anh ôm ba mình chặt hơn.
Bên ngoài, tiếng gió thổn thức trên cành bàng nghe rỉ rả như lời mấy kẻ hay chuyện, khoái phô những điều vẫn lượm nhặt đơm đó được quanh ngõ xóm...
Đêm đã khuya... Thoảng trong không khí hương hoa sữa từ đâu đấy đưa tới, thơm nồng.

III

Sông Thạch Bàn như một dải sáng lờ nhờ, hắt lên không trung. Mặt nước bình lặng, thơi thả ngửa ra hứng sao từ trời rơi xuống phởn phơ tựa ả đàn bà nhỡ thì mãn nguyện sau cuộc tình. Đêm se lạnh. Gió lặng. Phía bờ sông nơi có con đường nhỏ như sợi chỉ mảnh mai vắt qua nhiều bụi rậm ngoằn ngoèo hướng lên núi ẩn, một con xuồng nhỏ đơn côi kín đáo lặng lẽ cắm sào né mình trong cỏ rậm. Ông Năm Bào thu lu ngồi nơi mũi xuồng đôi mắt chong chóc hướng về phía con đường. Trước cảnh sông nước tiêu điều đêm khuya thanh vắng, trông ông có cái gì phiêu lãng bí hiểm từa tựa các hảo hán Lương Sơn Bạc thời xa xưa bên Tầu chờ đón khách. Ông cắm sào đợi từ chập tối. Thằng Thành hẹn ông đón vào cuối giờ Dậu mà mãi tới lúc này chắc đã quá giờ Tuất vẫn chưa thấy? Việc quân sự lại làm ăn kỳ cục vậy sao! Trên danh nghĩa mấy huyện ven biển Phú Yên đã giải phóng, chính quyền làng xã được gây dựng, cán bộ có thể từ cứ trở về hoạt động công khai trong mỗi xóm, nhưng nhiều nơi vẫn là vùng tranh chấp, ban đêm cách mạng làm chủ, ban ngày quyền ấy thuộc về Quốc gia, làng Cát ở trong tình thế đó, nhưng ai rõ đêm nay trong các bờ bãi không có lính Ba Hoàng túa về vây ráp rình phục?
Ông Năm thấy sốt ruột. Định nghển lên quan sát thì từ bụi rậm trước mặt có tiếng tù và thổi rung rúc tựa cú kêu.
- Thôi, khỏi làm hiệu nữa mày. Xuống đi, trễ rồi! - Ông Năm đứng dậy, nói vọng lên.
Thành từ bụi cây trệu trạo bước tới:
- Chú nhận ra cháu? Không đánh ám hiệu mà đã lên tiếng, mất cảnh giác nghe.
- Được Sáu Sinh cho vô đội võ trang, vô chủ lực nên làm phách, định dạy khôn già này nữa sao?... Có mấy người?
- Một tiểu đội võ trang và một cán bộ bự. Qua được chục người không chú?
- Biểu họ xuống lẹ lên! Tao chờ hoài rồi.
Thành quay trở lại, vẫy tay. Một lúc sau gần chục người lẳng lặng như những cái bóng bước xuống. Chiếc xuồng chòng chành. Ông Năm đứng cuối mũi cố gìm tay chèo. Thành vội nhảy xuống nước, hai tay bám mép xuồng phụ giúp.
- Đủ chưa? - Chờ mọi người ngồi yên, ông Năm hỏi.
- Đi thôi, chú! - Thành nói và chống tay xuống mạn xuồng, hất mình lên.
Chiếc xuồng nhẹ nhàng sang sông. Tiếng nước va vào mạn rất nhẹ. Người Thành kêu là cán bộ bự ngồi giữa, chờ cho xuồng ra xa bờ mới hỏi:
- Trận chống càn vừa rồi du kích làng mình diệt được nhiều địch không chú Năm?
- Ai hỏi đó? Như giọng Sáu Sinh phải không? - Ông Năm vẫn hướng về phía trước, tay chèo rất dẻo, hỏi lại.
- Coi bộ chú còn tinh tường ha!
- Trời đất, chẳng lẽ lẫn tới mức đó rồi sao? Về mà lặng tiếng vậy?
- Đâu có lặng, chú. Làng mình xã mình giải phóng rồi còn gì phải lặng nữa. Không gặp chú đây thì dịp này cũng có ý ghé qua nhà thăm.

- Vậy hả? Cám ơn đồng chí Bí thư nghe... Nhưng giải phóng rồi có cái sướng mà cũng có nỗi cực của giải phóng.
- Cực sao chú Năm? Mình làm chủ mà.
- Phải, được làm chủ, được tự do đi lại chút chút... Nhưng phải chạy giặc liên miên. Dăm ba bữa nửa tháng thằng Ba Hoàng cho lính về càn, lại lùng lại sục. Nhà cũ chúng đốt. Dựng cái khác lên, chúng lại đốt... Cực là cực chỗ đó. Giá chi mấy đứa du kích có đủ súng đạn thì đỡ.
- Cũng sắp sắp rồi chú Năm. - Thành buột miệng tham gia.
- Sắp là bao giờ? Tao nghe nói vậy hoài hoài. Gặp, đứa nào cũng dẻo miệng động viên bảo chờ, gắng chờ. ừ, thì chờ. Chờ cho tới lúc tao xuống mồ luôn...
Sáu Sinh cười. Một lát ông nói:
- Coi bộ chú Năm nóng lòng ha.
- Sao không nóng... Có súng đạn bọn Hai Rạng, Ba Hoàng mới đỡ làm càn. Có súng tao bảo với Mười Bàng một câu và nhảy vô du kích liền.
- Bây giờ chú cũng là du kích rồi chớ bộ... - Sáu Quyên ngồi cạnh Sáu Sinh, cô tham gia.
- Du kích chi? Du kích chẳng có súng tao không màng... - Năm Bào đáp, một lúc sau hạ giọng hỏi. - Dịp này sắp đánh lớn hay sao mà đồng chí Bí thư thân chinh về làng Cát ta?
- Quan trọng hơn cả đánh lớn đó chú Năm. - Thành lại ngứa ngáy mồm, loe xoe. Cậu chàng định nói thêm gì đó nhưng Sáu Quyên ngồi cạnh đã kịp giật giật tay áo, biết lỡ lời nên anh chàng nỏ miệng ngồi im.- Tao cũng ngửi thấy có cái gì đó cựa quậy rục rịch, nhưng chưa nghĩ ra... Nhưng làm gì cũng cho Năm Bào tham gia với nghe, Sáu Giáo. Đừng thấy lão này già mà hất ra ngoài, tội nghiệp.
- Chú chẳng đang tham gia đó sao?
- Nhì nhằng cái chân chèo xuồng này?
- Sắp tới cần rất nhiều xuồng và cũng cần rất nhiều người biết chèo xuồng đó chú Năm.
- Vậy sao? Nhưng chèo xuồng chạy lính Rồng Biển của Ba Hoàng càn lão này không hám nghe... - Ông Năm nói tiếp. - Chẳng rõ đồng chí Bí thư đã rành chuyện này chưa, làng Cát có mấy người chịu không thấu cảnh nay địch ruồng mai địch bố đã bỏ làng đi...
- Số đó nhiều không, chú Năm?
- Xã đội trưởng Mười Bàng bỗ bã nóng nảy vậy, nhưng nó nói đúng phóc.
- Mười Bàng nói sao?
- Tôi phô ra nhưng Bí thư không được phê bình nó tội nghiệp.
- Nói phải củ cải cũng ừ, sao lại phê bình, chú Năm...
- Vậy được. Mười Bàng nói rằng ai sợ địch mà bỏ làng đi lên Lân Cồ là phản bội, là... nói tục chút nghe, là đồ bú cặc cho Ba Hoàng.

Sáu Sinh bật cười to. Mọi người trên xuồng cùng cười theo.
- Mình là người gốc làng Cát thì dù khổ mấy cũng ráng trụ lại mà giữ lấy mồ mả ông bà chớ. Trốn chạy thì sao gọi là người nữa. Tôi nói vậy trúng chớ, ông Bí thư?
- Cũng trúng phóc như Mười Bàng luôn...
- Vậy nói tiếp nghe. Trong làng không ít kẻ dát chết. Nhưng cũng có người, ví như nhà Tư Nhâm chẳng hạn, cô này chuyển lên giáp thị trấn Lân Cồ mua nhà ở vì lý do khác. Người làng Cát nói rằng Tư Nhâm đang ở kỳ ngứa ngáy động đực nên lên đó cho gần lính Rồng Biển. Con người hư thân mất nết ấy là dân ngụ cư ọt ẹt, lang chạ đâu, mặc xác. Cho Hai Rạng hay Ba Hoàng làm đực, không chấp... Nếu con gái nhà này tao xé ra từng mảnh, hoặc dìm sông lâu rồi...
Sáu Sinh thôi cười. Có cái gì nằng nặng bỗng chốc chèn ép trong đầu. Ông ngồi im. Đôi mắt hướng về phía làng Cát thoáng chút hãi sợ thấp thỏm giống cái nhìn của kẻ chờ đợi tòa tuyên. Ông rõ rằng khi bố trí để Tư Nhâm chuyển lên xế Lân Cồ hoạt động là thêm một lần nữa thất hứa, làm khó con người này và đẩy chị vào tình thế trớ trêu, nghẽn tắc...
Trước đó ông đã phải cân nhắc tính tới tính lui, đặt ra nhiều phương án, nhưng cuối cùng bất lực. Vẫn biết trong chuyện này có cái gì vương vướng chưa ổn, nhưng hoàn cảnh đặt vào tình thế cấp thiết không cho phép xử lý theo hướng khác... Làng Cát đã giải phóng. Trên cũng đã thông báo ngày một ngày hai tàu chở vũ khí sẽ vào. Nắm được mọi hoạt động của tiểu đoàn Rồng Biển để kịp ứng phó và quyết định thời gian tàu cập bến là điều hệ trọng bậc nhất lúc này. Nhiệm vụ đó ngoài Tư Nhâm và A.5 ông biết trông cậy vào ai?... Lý là vậy nhưng còn tình? Tư Nhâm đã đưa con về quê cho ngọai với hy vọng sẽ được ra cứ, mà đành lần lữa. “Chú biết mày không trông chờ quyết định này... Nhưng...” “Chú ơi, con ráng được...” Sáu Sinh bối rối, thoáng ngạc nhiên. Không phải ông an ủi Tư Nhâm mà Tư Nhâm đang động viên, gỡ bí cho ông. “Mười năm nay con vẫn vậy, gắng thêm một thời gian nữa chẳng sao mà. Con sẽ tìm cách ứng phó với Hai Rạng. Con người ấy có văn hoá, đó là thế mạnh cũng lại là điểm yếu của anh ta”. Khuôn mặt ông Sáu giãn ra, lắng chút cảm động: “Trời ơi, nếu mày nghĩ được vậy chú mừng lắm... Con có thấu nỗi khổ tâm của chú không, Tư?”. “Con hiểu chớ... Chú áy náy hoài làm con buồn đó. Công việc ấy là nhiệm vụ của con mà. Có chú, có Sáu Quyên luôn bên cạnh là con an tâm rồi... Con nhờ chị Năm Hồng tìm giùm nhà trên ấy nghe. Chị Năm quen biết rộng.” Tư Nhâm nói, tỏ ra bình thản để người chỉ huy yên lòng nhưng chẳng mấy khó khăn ông cũng nhận ra trong giọng cô và cả trong đôi mắt đang hướng về phía ông vẫn thoáng ẩn nỗi buồn vời vợi... Thời gian không ủng hộ. Song Tư Nhâm đã khôn khéo, chủ động giải quyết những việc ông giao nhanh hơn ông tưởng. Một tuần sau trận càn của lính Rồng Biển vào làng Cát, người dân ở đây thấy Tư Nhâm sợ hãi hơ hải gồng gánh “chạy nạn” lên giáp Lân Cồ. Nhiều người bỉu môi khinh miệt lườm ngang, nhưng rồi nói như ông Năm, mặc xác, còn nhiều việc sống chết bày ra hàng ngày đáng bận tâm hơn là xì xầm về chuyện người đàn bà ngụ cư... “Chú ơi, nghĩ cảnh chị Tư cũng thấy tồi tội... Từ hôm chuyển nhà lên gần Lân Cồ, Hai Rạng càng năng tới. Y hí hả, vui lắm...” Một bận Sáu Quyên ái ngại nói, và ông đã gắt lên: “Biểu không bàn tới việc đó nữa!”, nhưng lòng ông rối như canh hẹ. Nếu chẳng hay có sự gì xảy ra ngoài mong muốn, ông có lỗi với Tư Nhâm đã đành còn có lỗi với người đang ở xa... “Con người ấy có văn hoá, đó là thế mạnh cũng là điểm yếu của anh ta...” Sáu Sinh chợt thở dài. Thôi, trước mắt đành tạm bíu vào sợi tơ nhện mỏng mảnh ấy làm phao mà toài qua đận này vậy...

Con xuồng cập bờ. Bí thư Ba Tánh và xã đội trưởng Mười Bàng thu mình ngồi đợi vội chạy ra. Mọi người cùng nắm tay nhau.
- Mạnh chớ, anh Sáu? Nghe tin anh về mừng quá trời! - Mười Bàng bóp mạnh bàn tay thư sinh của Sáu Giáo trong bàn tay thô ráp cứng quẹo của mình, hồ hởi.
- Mọi người đến đủ chưa? - Sáu Sinh hỏi.
- Mấy anh ở các huyện biết anh cùng tổ võ trang về phổ biến và xây dựng bàn đạp Vũng Rô đặng đón tàu từ miền Bắc chở súng đạn vô nên hồi hộp lắm! Thấp thỏm ngong ngóng Bí thư suốt từ chập tối tới giờ...
- Nè, hỏi trước chút, cần huy động chừng năm mươi người, làng Cát có đủ chớ?
- Anh coi nhẹ làng Cát rồi. Không chỉ năm mươi mà cả trăm người cũng có. Mới giải phóng nên bà con khí thế lắm...
- Huy động đông người mà vẫn giữ được bí mật không dễ nghe. Phải chọn những người ưu tú, có ý thức chính trị, có sức khoẻ để thành lập các đội dân công, nhưng phải tự lo lấy lương thực đó... Những điều kiện ấy làng Cát làm được không?
- Báo cáo đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ, chúng tôi làm ngon lành! - Ba
Tánh đáp.
- Đừng chủ quan nghe.
- Còn du kích thì sao, chưa thấy anh Sáu giao nhiệm vụ? - Mười Bàng hỏi.
- Du kích chớ sợ không có việc. Du kích là lực lượng nòng cốt. Phân khu quyết định rút trung đội du kích làng Cát kết hợp với bộ phận võ trang của Phân khu để thành lập đơn vị mới...- Phấn khởi ha... Nhưng xin anh Sáu nói kỹ hơn chút chút được không?
- Vào cuộc họp tôi phổ biến cụ thể...

*

Đêm chống chếnh. Sóng từ biển mài lên cát vọng tới nghe lao xao ầm ì như thể có trận mưa rào đang kéo tới. Về khuya gió thốc trên mái nhà hệt bầy cáo hoang hối hả tìm mồi lướt qua khiến những cọng lá dừa nước lâu ngày đã tơ tướp đập vào nhau phát ra âm thanh lạt sạt. Thỉnh thoảng từ cuối xóm, chỗ giáp Vũng Bầu mơ hồ nghe như có tiếng chim ăn đêm gọi bầy. Ngày trước, nơi đó dương xanh mướt mọc rậm rì như rừng, ban đêm các loại chim bay về trú ngụ, gần sáng vỗ cánh lào rào. Bây giờ đã không thế, họa hoằn lắm mới có đôi ba con quen đường đáo qua rồi như thể nhớ cảnh xưa vội vã kêu vài tiếng cheng chéc và hớt hải bay đi...
Mỗi lần có việc về làng Cát, tâm trạng Sáu Sinh rất lạ. Có cái gì đó vui vui, buồn buồn lại nhớ nhớ làm ông chộn rộn; chuyện xưa, chuyện nay đan cài dặm vá đến nôn nao. Nghĩa tình, nỗi đau, niềm hận và cả những điều riêng tư dẫu đã bị thời gian đẩy lùi đến mấy mươi năm vẫn canh cánh tiếc nuối xót xa trăn trở... Ngày tháng, chức vụ và vị thế chẳng thể đóng băng quãng sống cùng những kỷ niệm lúc nào cũng đau đáu đã thành máu thịt, mà thiếu thứ ấy cuộc đời trở nên khô khốc vụn tơi, đơn điệu.
Nằm trong ngôi nhà của Năm Bào đã trở thành chỗ đi lại quen thuộc nhiều năm nay, Sáu Sinh trằn trọc thao thức quay qua quay tới. Ông mông lung trong những ý nghĩ chắp nối lúc như dòng chảy liên tục của con suối Yên nơi núi ẩn, lúc rời rạc tựa cơm nguội phơi khô... Hận thù đời này qua kiếp khác triền miên và quyền lực hão đã cuốn cái làng nghèo nhách nhỏ bé chỉ cát và cát này vào guồng quay oái oăm trớ trêu nghiệt ngã, vô lý và vô nghĩa. Không ai thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn hãi hùng đó. Nó là chiếc xe lu kềnh càng mà thân phận mỗi con người chỉ là mầm cỏ, cái kiến bám trên đó...
Trời đã khuya lắm. Xa xa hình như có tiếng gà eo óc gáy sáng. Năm Bào cũng khó ngủ, bèn trở mình quay sang Sáu Sinh.
- Sao, trước đây sống chui rúc, khi ngủ cũng co ro nằm ẹp dưới hầm, nay được thảnh thơi nằm trên giường trên phản lại không chợp được mắt, phải chưa? - Năm Bào hỏi.
- Sáng sớm mai anh Năm đi cùng tôi ra bãi dương nghe...
- Ra bãi dương phải đi thiệt sớm đó. Lính Ba Hoàng sục sạo bất thường lắm. Muốn thắp hương cho Tư Đởn hả?
- Thím Tư ân nghĩa... Tôi mang ơn tình con người ấy nhiều như cát.
- Thắp hương cho ai nữa?
- Rồi qua mộ chị Hai Hậu nhà mình...
- Còn ai nữa? - Năm Bào gặng.
Sáu Sinh không đáp. Hai bàn tay đan lại làm gối để dưới gáy, đôi mắt mở to nhìn lên mái nhà lợp lá dừa nước lâu ngày đã ải. Một lát, ông hỏi lại:
- Hình như anh Năm có biết chuyện?
- Mụ nhà này và cô Ba Hương là chị em con dì con dà đó nghe. Hai Hậu là con người chị, Ba Hương là con người em...
- Chuyện đó tôi rành mà, anh Năm.
Sáu Sinh đổi cách xưng hô. Những lúc chỉ có hai người, chuyện trò mang tính tâm tình, Sáu Sinh thường kêu Năm Bào bằng anh. Gọi vậy đúng hơn, Sáu Sinh năm nay gần sáu mươi, Năm Bào chỉ hơn chục tuổi, coi như cùng thế hệ. Thấy bọn trẻ kêu Năm Bào bằng chú, ông quen miệng cũng gọi theo vậy thôi. Với nữa kêu Năm Bào bằng anh còn có nghĩa khác...

- Con dì con dà lại cách nhau cả chục tuổi nhưng Hai Hậu nhà này và Ba Hương quý nhau như hai chị em ruột. Chắc do hợp. Chuyện lớn chuyện nhỏ, chuyện gia đình, chuyện riêng tư đều rủ rỉ tâm sự với nhau...
Nghe Năm Bào nói, Sáu Sinh chợt hiểu ra rằng trong nhiều năm qua chắc Năm Bào, bằng cách nào đó đã hay chuyện tình nghĩa giữa ông và Ba Hương.
- Những điều ấm ách trong lòng nếu kể ra được cho người biết nghe, biết thông cảm cũng là cách trút bỏ, làm vơi vợi chút chút nỗi phiền muộn. - Năm Bào nói tiếp. - Hồi dì Ba lâm chung, người dì vời tới để nhắn gửi những lời cuối cùng là Hai Hậu nhà này... Số dì Ba khổ. Lấy được kẻ giàu có, của nả dư thừa nhưng tâm không an. Lúc chết vẫn còn những điều băn khoăn áy náy... Tội! Những chuyện dì Ba ôm nặng bọc giấu trong lòng, chỉ mở ra một lần cho Hai Hậu hay mãi sau này, khi mụ nhà này biết chắc bệnh tình mình khó qua mới lại kêu tôi tới, thều thả đứt nối kể lại cho nghe. Còn dặn mãi rằng phải giữ kín... - Năm Bào quay qua, chợt hỏi. - Vẫn nghe tôi nói đó chớ?
- Thời gian trôi đi nhanh thiệt, phải vậy không anh Năm? - Sáu Sinh đáp và nghĩ rằng chuyện Năm Bào đang nói cũng chỉ xoay quanh mối tình của ông và Ba Hương. Việc ấy đã lâu và có những điều được giữ kín chỉ trời biết, đất biết và hai người biết. Rồi trước khi qua đời, Hương có lẽ muốn thêm Hai Hậu biết nữa và sau đó người vợ đã trăng trối lại với Năm Bào... Bây giờ gặp Sáu Sinh, điều kiện thời gian thư thả chắc Năm Bào muốn nhắc tới sự biết ấy như một câu chuyện kín đã không còn bí mật...
- Hồi đứa con trai của dì Ba Hương lên hai tuổi, dì bị bệnh quái qủy gì đó không ai hay. Chỉ thấy quằn quại ôm bụng kêu đau. - Ông Năm say chuyện, kể tiếp. - Mấy cha xì xằng làm thuốc trong làng sờ sờ nắn nắn một lát rồi lắc đầu. Không còn cách chi khác, thằng chồng dì ấy đành cuống quýt đặt dì lên võng, kêu người khiêng lên Lân Cồ hi vọng vào nhà thương trên ấy... Đường xa nên mãi gần sáng người và võng mới rồng rắn tới ngã ba Lân Cồ, nơi ngày nay Năm Hồng mở quán nước. Lúc đó dì Ba đã đuối lắm. Dì làm hiệu dừng võng và phào phào nói rằng muốn gặp chị Hai Hậu. Mụ nhà này lúc ấy đứng ngay cạnh liền sà xuống. “Gắng lên nghe em, chỉ quãng nữa tới nhà thương rồi đốc tơ thăm bệnh cho.” Dì Ba run ró quờ tay tìm bàn tay mụ nhà này, đặt vào lòng, nói rất khẽ: “Em sắp đi rồi... Con em còn nhỏ dại... Em muốn nói với chị một việc và trông cậy cả vào chị... Chị ơi, cúi thấp xuống chút nữa để nghe em nói cho rõ nè...”. Nghe xong, khuôn mắt mụ vợ tôi thất sắc, nước mắt trào ra, miệng lảm nhảm như người điên:  “Trời  đất!  Vậy thì  em  phải  sống... Phải  sống.  Em  không  được chết.” Song lúc đó bàn tay lạnh ngắt của dì Ba đã buột ra khỏi bàn tay Hai Hậu... Chuyện cũng đã trên mấy mươi năm rồi đó, Sáu Sinh.

Sáu Sinh gắng nén tiếng thở mạnh. Đôi mắt vẫn mở to hướng lên mái nhà. Phải, chuyện đã hai ba mươi năm có dư và cả Năm Bào, cả Sáu Sinh chưa ai quên. Nó như thể mới xảy ra ngày qua ngày kia lận... Người  xưa  nói hồng nhan  bạc phận, trường hợp Ba  Hương quả  như vậy.  Xinh  đẹp  nhất  làng  và  cũng  lận  đận  bất  hạnh  nhất  làng.  Bị  ép duyên  lấy  chồng  giàu,  thôi  cũng  đành,  nhưng  khi  sinh  hạ  được  đứa con trai ngỡ rằng thế là có chỗ an ủi bấu víu, ai dè con bắt đầu bi bô biết gọi má, lại từ bỏ cuộc sống người đời vẫn cho là sung sướng mà ra đi. Ba Hương mất còn quá trẻ. Năm ấy mới xấp xỉ hai lăm... Nhưng những chuyện ấy mãi sau này Sáu Sinh mới hay. Khi Ba Hương phải mặc áo mới, đội khăn để về nhà người an phận làm vợ, rồi sinh con và qua đời, Sáu Sinh còn ôm hận rúc rủi nơi quê ngoại. Ông lên đó nhằm ẩn trốn nỗi đau, cũng là biểu hiện sự yếu đuối, sự chán nản để rồi suốt cuộc  đời còn lại đành cay đắng cõng mối tình đầu cùng nỗi hận bất lực không cách chi bảo vệ được người yêu níu bám trên lưng...
Mảnh mai như một giải lụa nhưng tâm hồn gợi mở rộng lớn tựa đại dương, Ba Hương là hun đúc kết tinh của những gì tốt đẹp nhất trời đất phú cho vùng cát nóng và nắng rang rang này. Da trắng. Môi mỏng và đỏ. Đôi mắt luôn mở to ngơ ngác. Ba Hương với những gì trời ban tặng như thể không phải sinh ra tại dải cát ven biển gió mặn hun da hun thịt này. Yếu ớt như một cọng rêu, cô dễ tạo cho người đời ý thức che  chở... Hồi đó cậu Sáu cũng bạch diện thư  sinh, nói năng nhỏ nhẹ, thưa gửi lịch sự nên được Hương chú ý. Cô thường lúng túng ngấp nghển giả bộ vô tình tạt qua con đường cậu vẫn đi học, lúc dúi cho gọi kẹo, lúc gửi chiếc khăn... Họ quý mến tình ý phải mặt nhau từ bao giờ, cả hai không hay. Nhưng một ngày không nhìn thấy nhau là xốn xang mong nhớ chẳng yên. Bởi vậy thường tạo ra cớ để được thấy mặt. Và cũng chỉ cần thoáng nom thấy bóng nhau là thoả mãn...
Hôm ấy là đêm rằm, Ba Hương hẹn Sáu Sinh ra bãi biển. Trăng rất sáng, nhóng nhánh dát bạc xuống nước, xuống cát. Sóng cùng ánh trăng nhè nhẹ mơn man vỗ lên bãi, âm thanh ì ao đơn điệu tựa lời hát ru buồn thảm gợi cảm ở những người đàn bà xa chồng khuya về ôm con nằm trên võng cất lên tâm trạng nhớ thèm của mình... ánh sáng mỏng mảnh dìu dịu nhẹ tênh trong đêm khơi gợi cảm giác buông xuôi... Phảng phất đâu đấy vẫn hương vị nồng đượm quen thuộc của các loại cá ướp muối khi lên men. Có cái gì đó chòng chành, cởi mở trong không gian ngàn ngạt gió biển.

Mảnh mai như một giải lụa nhưng tâm hồn gợi mở rộng lớn tựa đại dương, Ba Hương là hun đúc kết tinh của những gì tốt đẹp nhất trời đất phú cho vùng cát nóng và nắng rang rang này. Da trắng. Môi mỏng và đỏ. Đôi mắt luôn mở to ngơ ngác. Ba Hương với những gì trời ban tặng như thể không phải sinh ra tại dải cát đen biển gió mặn hun da hun thịt này. Yếu ớt như một cọng rêu, cô dễ tạo cho người đời ý thức che chở... Hồi đó cậu Sáu cũng bạch diện thư sinh, nói năng nhỏ nhẹ, thưa gửi lịch sự nên được Hương chú ý. Cô thường lúng túng ngấp nghển giả bộ vô tình tạt qua con đường cậu vẫn đi học, lúc dúi cho gọi kẹo, lúc gửi chiếc khăn... Họ quý mến tình ý phải mặt nhau từ bao giờ, cả hai không hay. Nhưng một ngày không nhìn thấy nhau là xốn xang mong nhớ chẳng yên. Bởi vậy thường tạo ra cớ để được thấy mặt. Và cũng chỉ cần thoáng nom thấy bóng nhau là thoả mãn...
Hôm ấy là đêm rằm, Ba Hương hẹn Sáu Sinh ra bãi biển. Trăng rất sáng, nhóng nhánh dát bạc xuống nước, xuống cát. Sóng cùng ánh trăng nhè nhẹ mơn man vỗ lên bãi, âm thanh ì ao đơn điệu tựa lời hát ru buồn thảm gợi cảm ở những người đàn bà xa chồng khuya về ôm con nằm trên võng cất lên tâm trạng nhớ thèm của mình... ánh sáng mỏng mảnh dìu dịu nhẹ tênh trong đêm khơi gợi cảm giác buông xuôi... Phảng phất đâu đấy vẫn hương vị nồng đượm quen thuộc của các loại cá ướp muối khi lên men. Có cái gì đó chòng chành, cởi mở trong không gian ngàn ngạt gió biển.
- Ngồi gần vô chút nữa được không? - Hương nhìn Sáu Sinh và nói.
Hai người đang ngồi bên mép nước, cùng nhìn ra biển. Sáu Sinh ngoan ngoãn dịch người, ngồi sát lại.
- Em hỏi nè, anh thương em thiệt chớ?
- Sao hỏi vậy, ngày nào không gặp nhớ đứt ruột... Thương nhau mới nhớ quằn nhớ quại vậy.
Hương chợt thở hắt ra. Khuôn mặt thoáng nét buồn và lại hướng ra xa.
- Giả dụ bây giờ anh không có em, anh tính sao?
- Chết luôn!...
- Không đúng!...
- Thiệt! Anh thương em nhiều lắm. Nhiều như nước biển lận. Hương buồn rầu:
- Rồi anh sẽ quen. Rồi anh chịu được... Cuộc đời phù phiếm lắm... -
Một lát, lại hỏi: Anh có ý định cưới em không?
- Trời đất, em là đặc ân tạo hoá ban cho, anh sung sướng muốn có em làm vợ chớ. Nhưng thư thả để anh học hết đã...
Lại thở dài:
- Hôm nay chúng mình là vợ là chồng nghe. Em muốn... ngay đêm nay.

Sáu Sinh ngạc nhiên quay qua nhìn Hương. Khuôn mặt cô lạnh khô, buồn rười rượi. Mọi bận cô rụt rè e thẹn, vô tình chạm tay vào người Sáu Sinh đã run lên như dẽ và vui tươi hay nói hay cười, đâu xỉu xo lại nói những câu mạnh bạo như vậy chớ.
- Anh không ưng?... Hay sợ?... Đưa tay đây em bảo.
Sáu Sinh chưa kịp phản ứng, Hương đã chủ động cầm bàn tay anh rồi bất ngờ luồn nhanh qua lần áo mới mở cúc, đặt vào ngực cô. Vừa chạm vào bầu vú căng tròn mát mịn của người con gái, bất chợt Sáu Sinh sung sướng và hoảng sợ rúm người lại tựa chạm vào lửa, rồi run bắn và nóng sực như lên cơn sốt. Anh chưa ý thức chuẩn bị cho tình huống này. Anh hoang mang toan rụt lại nhưng bàn tay đã được Hương giữ chặt. Thêm mấy chiếc cúc áo nữa buột ra. Khuôn ngực trinh nguyên trắng ngần với hai ốc đảo tươi non dồ lên lồ lộ dưới ánh trăng. Đúng hơn khuôn ngực ấy cũng là một vầng trăng. Nó đang toả ra ánh sáng, cũng là thứ ánh sáng dìu dịu mát rượi, trong trẻo đa đoan, gợi cảm tình tứ. Sáu Sinh giật mình choáng ngợp, vừa tò mò vừa ngạc nhiên gần như không hiểu gì nữa. Máu dồn lên mặt nóng phừng. Đầu óc quay rối hoang mang... Nhưng thoáng đó qua đi rất nhanh. ý thức được tình yêu nơi Hương, tình yêu nơi mình cùng sự háo hức đàn ông, Sáu Sinh cuống quýt rồi vụng dại úp khuôn mặt vào vầng trăng ngẫn ngà thánh thiện trong veo như thuỷ tinh đó. Và sau phút thăng hoa ấy anh nhanh chóng trở thành người đàn ông mạnh mẽ, táo bạo và quyết đoán... Hương sung sướng nhận ra sự vụng về trong những cử chỉ e dè mà bạo liệt có cái gì táo tợn đáng ngạc nhiên nơi anh. Cô cũng mạnh dạn dần lên. Có cái gì đó giật dột thúc bách từ những điểm nhạy cảm lan toả khắp cơ thể khiến Hương cũng run rẩy, cuống cuồng. Ngây dại và đam mê trong ý thức và bản năng, cô cà khuôn mặt mình lên khuôn mặt anh. Đôi môi và bàn tay hăm hở lần tìm, lần tìm...
- Của anh, tất cả là của anh đó... đừng ngại. - Hương thấp thả trong hơi thở đứt nối của sự mãn nguyện thực hiện ý định nơi mình.
Đêm ấy hai người đã dành hết cho nhau. Họ chuầy choà trên cát. Ngỡ ngàng. Cuồng nhiệt. Bất chấp. Không có gì phải kìm giữ. Bản năng và ý thức đã thuộc về nhau của hai cơ thể khỏe mạnh khiến họ đam mê, dai dẳng, xoắn bện. Cát bết lên mặt, cát dính vào tóc, cát bám vào mọi ngóc ngách... Hôm ấy bầu trời chỉ còn là một khum tay bé tẹo và biển trở nên đơn điệu vô duyên trơ trẽn. Chỉ còn sự đồng loã của ánh trăng, bãi cát và nỗi khát thèm...

Gần sáng hai cơ thể trong veo bết cát nhoà ánh trăng say đắm dính vào nhau như thể họ đã hoà quyện, kẻ nọ tan ngấm vào da thịt kẻ kia...
Nước bắt đầu cường. Những con sóng nhã nhặn trườn lên vỗ về nhè nhẹ vào hai cặp chân trần như an ủi, đánh thức... Hai cơ thể ướt sũng nước và dấp dính cát co ro và tiếc nuối lặng thinh ngồi bên nhau một lúc nữa. Khuôn mắt Hương chợt trở lại trạng thái xa xăm khó hiểu. Rồi cô nói, giọng rất tỉnh. Có nỗi đau vô phương cứu vãn khiến con người trở nên hoá băng chai sạn tỉnh táo dửng dưng.
- Anh ơi, ngày mai em phải lấy chồng! - Gắng nén nỗi lòng, giọng cô mỏng như hơi thở.
Đó là thông điệp cuối cùng, lời nói cuối cùng của người con gái ở nghĩa nào đấy đã trở thành vợ Sáu Sinh...
“Anh ơi, ngày mai em phải lấy chồng!”, nhiều năm rồi, chưa lúc nào Sáu Sinh bằng yên nguôi ngoai câu nói cuối cùng ấy của người mình yêu. Nỗi đau giằng xé trái tim mềm yếu của Sáu Sinh khiến ông xót buốt nghẽn đắng suốt khúc đời còn lại. Không thể san vơi cùng ai, ông câm lặng chịu dựng, một mình mình biết, một mình mình hay. Nỗi đau càng bị nén như thể càng phồng lên nhức rát... Khi hay tin Hương qua đời, ông chuếnh choáng bàng hoàng như kẻ nhận ra mình đang sa xuống vực. Xót xa, tiếc nuối, ông hối hả thu xếp việc nhà rồi nhanh chóng trở lại vùng cát nhiều đa đoan lắm mưa, sẵn nắng đó làm anh giáo làng. Ông không thật rõ tại sao mình hành động như vậy. Cuộc sống có những điều chẳng dễ lý giải gọi tên... Nhớ tiếc, bù đắp, ân hận, thù giận... và cả những gì nữa ông không thật rõ. Chỉ thấy rằng cứ có cái gì đấy thúc gọi phải về làng Cát, vậy thôi. Ông bọc giữ nuôi dưỡng những kỷ niệm như báu vật. Không cách gì quên được người con gái mảnh mai mềm như dải lụa và cái đêm trăng loã thể toả ánh sáng dìu dịu xuống bãi cát ướt... Nhiều năm rồi, vẫn vậy. Vẫn tươi nguyên nỗi nhớ và tình cảm mơn mởn diệu kỳ ấy...

Cuộc sống dù dư tràn nỗi bất hạnh vẫn không bao giờ dừng lại. Nó là dòng chảy bất tận của thời gian, giống như dòng nước con sông Thạch Bàn về mùa lũ triền miên xuôi ra biển... Năm năm tháng tháng qua đi, cũng như lũ trẻ trong làng, đứa con trai của Hương lớn lên lại long nhong cắp sách đến trường để thầy Sáu Giáo dạy chữ... Thằng bé may mắn thừa hưởng nhiều nét đẹp của mẹ. Cao ráo, khuôn mặt dễ coi, da trắng, mịn. Và đôi mắt to, ánh nhìn tinh nghịch. Chỉ tính nết là giống bố, chưa đầy chục tuổi đã tỏ ra cao ngạo, kẻ cả. Nó thường dựa thế con nhà giàu để bắt nạt anh em nhà Tư Đởn và lũ trẻ cùng lứa... Sáu Sinh không mấy cảm tình với nó, nhưng cũng không ghét bỏ. Ông đối xử bình đẳng công bằng như trẻ khác trong lớp. Học thuộc bài, ông thưởng. Nghịch ngợm, lười biếng và đến lớp trễ giờ, bị phạt. Thằng nhỏ biết thầy giáo nghiêm lại công minh nên cũng kiêng dè, tôn trọng. Nó chỉ quậy nghịch ngoài đường còn khi đã vào lớp biết học chăm chỉ và tỏ ra nghe lời... Ai dè lớn lên, thâm thù cố hữu với những người cùng làng cùng xã, những người nó được tiêm nhiễm rằng đã dựa thời thế mà cướp trắng tài sản ruộng vườn, hành hạ gia đình nó, và vẫn đang tìm cơ hội giành giật những gì bố con nó cũng nhờ vào lợi thế ở giai đoạn mới mà lấy lại được, nó trở thành kẻ tàn nhẫn, cuồng tín và bất chấp...
... Sáu Sinh trở người. Tiếng gà gọi sáng lao xao khắp xóm. Năm Bào cũng bật dậy. Ông bước khỏi giường, ra cửa ngó nghiêng nhìn trời rồi quay vào. Chợt ông hỏi:
- Ở đời cái gì là quý nhất, Sáu Sinh? Lão già này thì cho rằng cái tình đồng chí Bí thư ạ. Chớ không phải vậy sao? Của nả, chức vị, tiền tài... vô nghĩa hết. Chết có mang theo được không?
- Trời sáng rồi hả anh Năm?
- Để tôi tìm bó nhang và hộp quẹt... Thằng khốn đó hung hăng bắn giết nhưng với má nó cũng là thằng con có hiếu. Nó xây mộ má nó to nhất làng Cát.
- Ai vậy, anh Năm?
- Thằng con Ba Hương đó...
- ờ!
- Dì Ba Hương là người hiền lành nhân hậu, nhu mì, sống tình cảm, sao lại sinh ra thằng con chuyên làm những điều thất đức vậy chớ... Dưới suối vàng mà hay chuyện chắc dì Ba buồn lắm... Đồng chí Bí thư cẩn thận giữ mình nghe, nó săn suốt đó.
- Ta đi chớ?
- Sáu Sinh, mặc thêm chiếc áo, ngoài bãi dương sáng sớm sương xuống trời lạnh!

IV

Tư Lăng trùm tấm áo mưa khá rộng lên chiếc ba lô đeo trên lưng, trầy trượt nơi con đường đất lầy lội, đi về phía quân cảng. Trời lất phất mưa. Mấy hôm nay khí hậu đỏng đảnh, tạnh ráo một lát trời lại lắc rắc đổ nước xuống. Các cụ trong làng nơi Tư Lăng và mấy học viên ở nhờ trong thời gian bổ túc cấp tốc lớp cán bộ thuyền gọi là mưa rươi. Mấy hôm rồi chợ bán ê hề, giá lại rẻ. Chị chủ nhà trưa nay xách về nửa cân với dụng ý làm bữa ăn tươi chia tay với Tư Lăng và mấy anh em ngày mai mãn khoá trở về đơn vị. Rươi rửa sạch, đập thêm vài ba quả trứng, vỏ quýt thái chỉ, hành, lá gừng, thìa là, thịt nạc vai băm nhỏ trộn vào, khi rán nức mùi, chưa ăn đã biết là ngon. Bữa rượu chỉ có rươi rán, riêu cá, rau sống và đĩa lạc rang nhưng kéo đến quá ngọ. Người chủ nhà khéo nịnh nắc nỏm khen vợ nấu ăn giỏi. Mấy anh chàng ở cùng nhà với Tư Lăng háo hức uống chén này đến chén khác. Họ biết sắp được xuống tàu chiến nên mừng. Riêng Tư Lăng không mấy vui. Một lần nữa số anh lại hẩm hiu, được cấp trên bố trí về làm thuyền phó một tàu vận tải... Lại đành tự an ủi rằng tổ chức biết sắp xếp sao để có lợi cho cách mạng nhất. Không chờ đến sáng hôm sau, chiều nay anh tạm biệt mọi người, đi nhờ ôtô lớp học xuôi xuống Hải Phòng, từ đó cuốc bộ lần về đơn vị mới...
Mưa vẫn đều đều đổ xuống. Tư Lăng kéo tấm áo mỏng, hơi cúi người tránh nước tạt, hướng về phía bờ sông...
Ngôi nhà làm sở chỉ huy giáp cầu cảng không mấy rộng. Đồ đạc sắp xếp lỉnh kỉnh. Hòm, gói bó buộc chồng xếp lên nhau.
- Sắp phải sơ tán nên cũng hơi luộm thuộm. - Người trung úy tự giới thiệu mình là trợ lý tham mưu đơn vị khi Tư Lăng trình giấy quyết định điều động, kéo ghế mời anh ngồi, rồi thanh minh. Giọng anh rất vui, có cái gì thân tình, xởi lởi - Đã được thông báo có cậu bổ sung về nên bọn mình ngóng suốt... Dân Phú Yên hả? Hay rồi! Từ ngày tập kết có tin tức gì quê hương không? Có vợ có người yêu gì chưa, là mình hỏi trong Phú Yên ấy...
Loạt câu hỏi người trợ lý tham mưu cấp tập bắn ra không làm Tư Lăng mếch lòng, anh thấy ấm áp, dễ chịu.
- Này, mình hỏi thật nhé, từ ngày ra Bắc tới nay đã léng phéng với cô nào chưa? Lính đặc công các ông ẩn hiện bất thường lắm... Đã tập kích đột nhập vào đâu là chắc thắng, khi rút ra biết cách không để lại dấu vết... Khi nào có điều kiện truyền kinh nghiệm nhé.
- Tôi đã có vợ và một cô con gái ở quê.
- Con gái à, tuyệt vời. Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng... Nghe nói phụ nữ Phú Yên xinh lắm. Vợ cậu, con cậu cũng xinh chứ?...
- Tôi chưa biết mặt con mình. Khi xuống tàu để ra Bắc tập kết, vợ mới cận ngày sinh.
- Vậy mà khoe là con gái.
- Mấy anh em xuống tàu đi chuyến sau thông báo cho hay là vợ đẻ con gái.

- Nghĩa là nán lại thêm chút chút sẽ nhìn thấy mặt con. Hiểu rồi... Này, thế đã sẵn sàng nhận công tác được ngay chưa? Dưới đó anh em đang mong cậu lắm.
- Hình như có việc gì quan trọng, lại gấp phải không anh?
- Tắm rửa rồi tối nay về dưới cảng ngủ với mình... Sáng mai xe đơn vị sẽ đưa cậu ra Đồ Sơn. Tàu đang neo đậu ở đó... Nóng lòng hả, về đấy khắc biết... Chúc mừng.
Đêm ấy Tư Lăng nghĩ mông lung. Lão trung uý phổi bò tốt tính này cứ úp úp mở mở đến khó chịu. Công việc vận tải có quái gì quan trọng mà chúc mừng? Một năm vài ba chuyến đưa hàng ra đảo rồi lại về neo tàu ở bến lê la mài đũng quần mòn cả mông trên boong đánh bài và nói bậy tán tục giết thời gian. Làm thuỷ thủ trưởng hơn ba năm, anh còn lạ gì!
Nhưng sau đó thì Tư Lăng sửng sốt và mừng vui đến ngẩn ngơ khi hiểu rằng mọi điều không như mình nghĩ, số anh may mắn hơn anh tưởng, may mắn hơn cả mong đợi. Khi thủ trưởng Đoàn đọc quyết định, trao nhiệm vụ rồi căn dặn những điều cần thiết, anh ngỡ ngàng ngạc nhiên và bàng hoàng như không tin đó là điều có thật. Nằm mơ Tư Lăng cũng chẳng nghĩ tới việc mình được bổ nhiệm làm thuyền phó trên con tàu mà mấy ngày nữa sẽ nhổ neo đưa vũ khí bí mật về quê hương Phú Yên. Không thể tưởng tượng được! Cha trung uý trợ lý tham mưu vậy mà kín. Lão cứ huỵch toẹt ra mấy hôm trước có phải bây giờ Tư Lăng đỡ choáng... Trời ơi, được trở về quê, trở về quê thật! Trở về trở bằng chính con tàu Tư Lăng đang đứng trên đó...
Những ngày chuẩn bị kế đấy Tư Lăng nôn nao đến phát điên. Ban ngày trằn nhoài vào công việc. Nhận dầu, nhận thực phẩm, lấy nước ngọt, bốc xếp vũ khí, và vô vàn những công những việc tủn mủn không tên khác trước mỗi chuyến đi. Nhưng đêm về lại lên boong tủm tỉm ngồi nhìn ra biển. Chỉ còn mấy hôm nữa tàu rời bến mà cảm giác lâu như vô tận. Nỗi mong ngóng ngày lên đường tràn dâng như nước đại dương... Liếc sang cạnh, đốm lửa trên miệng thuyền phó Thơm chốc chốc lại loé đỏ. Người đồng niên, đồng chức và đồng hương cùng huyện Sông Cầu này hồi hộp chẳng kém Tư Lăng. Mấy hôm rồi Thơm cũng ít ngủ, lên boong ôm gối ngồi đốt thuốc suốt. Thỉnh thoảng lại hỏi:
“Lực lượng nhận hàng là bộ đội hay du kích chớ, liệu có gặp ai quen để hỏi han thăm nom một chút không ta? Thả hàng xong là đưa tàu ra khơi ngay sao?”. Người nào cũng có tâm trạng. Thuyền trưởng Thanh còn trẻ, mấy lần chỉ huy đưa tàu vào Cà Mau, đám lính kháo nhau rằng có kinh nghiệm nhưng lần này xem ra cũng thấp thỏm... Anh khuyên mọi người gắng giữ sức khoẻ song lại là người thức khuya nhất tàu. Máy trưởng Quý hễ thấy đám thuỷ thủ túm tụm trên boong là sán vào khoe:
“Nhà mình giáp thành phố Nha Trang nên quanh năm hưởng gió biển. Không mất tiền mà được ở trong khu du lịch”. Hôm Tư Lăng mới về, đấm vai bồm bộp: “Vợ con trong đó cả hí? Vui rồi... Tuy Hoà cách Nha Trang hơn trăm cây số thôi nghe”. Cán bộ tàu, chỉ chính trị viên Chiêu là dân miền Bắc... Anh thường doạ mọi người bằng con ngoáo ộp: “Đã là nghị quyết chi bộ thì cứ vậy thực hiện, không bàn thêm”. Nguyên tắc ấy với anh là bất di bất dịch. Song đó là con người vui tính và trách nhiệm. Anh lo cho chuyến đi đến xọp cả người. Cũng mong ngày lên đường như hết thảy “anh em quê trong đó”...

Rồi ngày ấy cũng đến. Buổi sáng làm thủ tục xuất phát. Những chiếc thẻ Đảng, thẻ Đoàn được bọc gói, từng người lặng lẽ bước lên trao lại cho thủ trưởng Đoàn. Ngắn gọn nhưng trang trọng thiêng liêng.
Xế chiều, chiếc xe của Tư lệnh quân chủng đột ngột xuất hiện nơi cầu tàu. Ông lặng lẽ bước lên boong. Chính trị viên Chiêu lúng túng chưa rõ nên xử trí thế nào, đứng đực ra, miệng lắp bắp lí nhí những câu vô nghĩa. Tư lệnh cười, nói vui:
- Khỏi thủ tục nữa, nghe đồn tàu ta có rượu ngon, lại biết máy trưởng Quý uống rượu như uống nước lã, hôm nay xuống xin một chén chia tay với anh em thôi.
Chiêu gãi gáy, thở phào, lúc đó mới nhếch miệng thoải mái cười theo... Thuỷ thủ nhanh chóng được triệu tập, ngồi quây trên boong. Hình như Tư lệnh quân chủng cũng đang cố nén một điều gì, ông không hề có ý nói tới chuyến đi của tàu T.35. Ông hỏi han chuyện riêng tư từng người.
- Đồng chí thuyền phó mới bổ sung về ngồi đâu nhỉ? - Chợt ông hỏi.
Tư Lăng vội đứng dậy:
- Báo cáo Tư lệnh, tôi, thuyền phó Tư Lăng đây ạ. Tư lệnh làm hiệu để anh ngồi xuống:
- Như vậy trên tàu đa phần là người Phú Yên mình, đúng chưa? Bộ Tư lệnh có ý là muốn chính các đồng chí chở vũ khí về cho quê hương đánh giặc... Vui chớ?
- Báo cáo, rất vui ạ... - Tư Lăng đáp.
- Vợ con rồi chứ, hả? Thời kháng chiến chống Pháp, có thời gian tôi hoạt động ở mạn đó. Xuýt nữa làm rể Phú Yên. Gái Tuy Hoà mặn mà lắm... Này, Tư lệnh xuống thăm mà không có ý định khao gì à, ông Chiêu? Có rượu thì mang ra đây cùng làm một chén trước khi lên đường. Nhưng phải là rượu ngon, rượu có thể đốt cháy... Nếu không có thì Tư lệnh khao lại vậy. - Ông nhìn sang. Người trợ lý vội đưa chiếc cặp. Ông lấy ra chai rượu trắng. - Loại quốc lủi nút lá chuối này mới đáng uống, rượu Tây nhìn thì sang trọng nhưng nhạt thếch. Cho muợn cái cốc, ông Chiêu. Chúng ta uống chung nhé.
Tư lệnh uống trước. Cốc rượu được chuyển vòng qua từng người. Ai cũng nhâm nhi một ngụm. Không khí trở nên thân tình cởi mở.
- Rượu của thủ trưởng ngon quá! - Máy trưởng Quý tấm tắc.
- Biết uống đấy! - Tư lệnh nói.

Tư lệnh thường cặp kè chai rượu trong cặp, lúc làm việc căng thẳng lại mang ra nhấp một ngụm. Thói quen uống rượu có từ thời ông còn trẻ. Ngày đó, cách đây đã khá lâu, ông làm chân chạy long toong sai vặt trong mấy đồn lính Pháp nơi Đà Nẵng. Nhanh nhẹn, tháo vát lại xởi lởi, vui vẻ và biết giao dịch bằng tiếng Tây nên mấy viên sĩ quan khoái ông lắm, đi đâu cũng cho theo, và buổi tiệc nào cũng được gọi đến phục dịch. Thậm chí những lúc hứng khởi, chúng ném cả chiếc chai còn già một phần rượu về phía ông, lúc đó đang đứng khép nép chờ sai bảo nơi góc phòng, và khi thấy chai rượu được ông vươn tay ra đón rất diệu nghệ, đám sĩ quan thích chí, nháy mắt cười hi hí rồi hô: uống! Không cần ly, ông đưa chai rượu lên miệng. Đầu tiên phải uống theo kiểu đó làm ông khó chịu, thậm chí nhiều lúc bị sặc, mặt đỏ bừng... Nhưng được bọn lính khích lệ dần dà đâm quen, thậm chí nghiện, không có lại nhớ... Hồi vào rừng theo kháng chiến đã có lần ông suýt mất mạng vì rượu. Hôm đó đơn vị tổ chức trinh sát đồn La Chà. Ông còn lạ gì cái đồn này, mụ đầm vợ viên quan ba nơi đây đêm nào chẳng vào phòng riêng ườn tấm thân xồ xề trắng như bột lọc trong bộ váy ngủ, rồi kêu ông tới bắt xoa bóp. Phần thưởng thường là nửa chai rượu mác tanh vợ chồng viên sĩ quan uống chưa hết. Chân mụ như hai cái bắp chuối, tay ông cố dõng ra bóp, vẫn không ôm khít. Mỗi lần mụ nằm úp xuống giường, cặp vú thộn thện lài ra cạnh sườn trông như miệng con trai thè lè khi tìm mồi. Mụ khoái vén áo lên để ông đấm đấm bóp bóp quanh lưng. Còn ông thì mỗi lần thế là một lần bị tra tấn. Cặp mông to bè sau lớp vải mỏng vổng lên và cái mùi gây gây của đàn bà xứ Tây lẫn mùi nước hoa hăng hắc làm ông bối rối, khó chịu... Những khi như vậy chẳng rõ sao ông thường dừng lại, dốc ngược cái chai, tớp cạn. Rượu hun cho nóng ran, ông xoa càng dẻo. Mụ đầm khoái chí, lim dim mắt hưởng thụ. Mụ nghiện ông mân mê còn ông khoái nốc rượu của mụ... Lần ấy sau khi tổ trinh sát vẽ xong sơ đồ, đang định rút thì bỗng dưng ông nhận ra hương rượu Tây thơm nồng quyến rũ từ phòng ngủ của viên quan ba đưa tới. Không cưỡng được, ông mon men lần đến bên cửa sổ kiễng chân lé mắt nhìn vào. Thân hình phốp pháp với những ngấn thịt trắng hồng của người đàn bà Tây tênh hênh trên giường giống như những bức tranh khỏa thân các họa sĩ thời Phục hưng vẽ, bọn sĩ quan Pháp vẫn treo trên tường nơi phòng làm việc và chai rượu vật nghiêng cạnh đó đã mở nút khiến ông háo hức nuốt nước bọt. Chẳng rõ ông thèm cái cơ thể nẫn nà của người đàn bà kia hay thèm rượu. Có lẽ cả hai. Một thoáng chần chừ rồi ông quyết định vọt qua cửa sổ, luồn vào phòng...

Đưa chai rượu lên uống, ông uống ực một ngụm. Mụ đầm thấy động, hình như nhận ra điều gì liền thức giấc. Mụ hoảng loạn nhìn ông rồi líu ríu xổ một tràng tiếng Tây. Ông vội ngửa cổ tu hết chỗ rượu, ném chai vào tường rồi toài nhanh qua cửa sổ co chân chạy đuổi theo đồng đội. Sau lưng đạn vãi như lúa giống rắc ruộng mạ. Lần đó ông bị kiểm điểm và người ta có ý đuổi ra khỏi đơn vị, nhưng nhờ trận đánh vào đồn La Chà mấy hôm sau ông đã dẫn đường để đại đội lập công to nên mọi chuyện êm xuôi. Song trận đó đã có một bí mật không ai hay, lại chính ông đã cứu bà đầm đó. Khi tên quan ba Pháp bị bắn chết, mụ vợ hãi sợ giãy lên đành đạch như con cá chuối bị sống dao mấy bà nội trợ đập vào đầu vội chui xuống gầm giường tránh đạn, ông đã lao tới lôi mụ ra, vừa làm hiệu vừa nói nhỏ vào tai bằng tiếng Tây, ý rằng muốn sống đừng cuống lên như vậy, hãy giả vờ chết. Hiểu ý, mụ liền duỗi chân dang tay ẹp xuống sàn nhà, cứng đờ như con gián bị lật ngửa. Còn ông vừa xoạc chân phóng qua, vừa bắn vu vơ và hô xung phong... Biết phô chuyện ấy ra thể nào cũng bị rắc rối và chắc chắn khó tránh khỏi kiểm điểm lập trường và khó thoát kỷ luật nên ông ỉm đi. Chỉ sau này, khi đã là Tư lệnh hải quân, những lúc thư giãn với đám trợ lý ông mới vui vẻ nửa đùa nửa thật mang ra kể. Có người tin có người không tin, chẳng sao, kỷ niệm của một thời ấy mà...
- Đàn ông không rượu như kỳ vô phong... Nói vậy thôi, tuổi trẻ các cậu không nên gần rượu. Hả, để mình làm ly nữa nhé. - Ông nhìn người trợ lý như thể có lỗi rồi đưa ly rượu lên, uống cạn. Ông nói tiếp: “Thế này nhé, tôi chẳng căn dặn gì đâu. Mọi điều mấy ngày qua chỉ huy Đoàn đã làm việc với các đồng chí. Nói thêm là thừa. Hôm nay chỉ xuống chơi và chia tay với mọi người thôi. Đây là lần đầu ta đưa vũ khí vào khu Năm nên Bộ Tư lệnh và tôi lo lắm. Nhưng tôi tin vào bản lĩnh, sự thông minh của hết thảy mọi người trên con tàu này. Tôi hứa khi tàu trở về, sẽ xuống thăm và lúc đó chúng ta sẽ uống thật say. Được không ông Chiêu?”
- Báo cáo Tư lệnh được ạ... Chúng tôi hứa cố gắng hoàn thành nhiệm vụ...

- Mọi người biết câu này chứ, rượu có bạn hiền ngàn chén thiếu, lời mà không hợp nửa câu thừa. Do vậy khi trở về, cán bộ tàu phải chuẩn bị nhiều rượu đấy. Lúc đó nếu không đủ uống là phải phạt nặng.
Tư lệnh nói vui vậy nhưng khi đã ngồi trên xe quay về Bộ Tư lệnh, ông trở nên trầm tư. Hơn ai hết ông rõ khó khăn, những phức tạp của chuyến đi lần này. Bến mới, địa hình lạ, địch nhiều thủ đoạn. Đây thực sự là cuộc đấu trí, ai khôn ngoan hơn, thông minh hơn sẽ thắng. Thế mạnh của con tàu là ở yếu tố bất ngờ. Nhưng không ai dám chắc mười mươi rằng địch đóng trên Đèo Cả chủ quan. Hôm qua ông vẫn nhận được thông tin từ Vũng Rô báo ra: “bến yên”. Song ngày mai, ngày kia và những ngày tiếp sau nữa liệu còn yên? Tin tức cho hay cả một tiểu đoàn quân chủ lực ngụy túc trực quanh khu vực sẵn sàng bao vây khi có động tĩnh. Chỉ cần một lực lượng nhỏ của chúng ém nơi cửa vũng là mọi sự trở nên khó lường... Không ai khẳng định chuyến đi nhất định thành công. Đó chỉ là ý muốn... Sáng nay Tư lệnh đã định xuống tàu để có thể nói chuyện được nhiều hơn với anh em, nhưng ông sợ mình không thắng sự yếu đuối khi chứng kiến cảnh các thành viên trên tàu lặng lẽ trao lại tất cả giấy tờ tuỳ thân cho tổ chức. Việc làm ấy nhằm giữ bí mật, đã đành, nhưng ai cũng rõ đấy còn là hành động tự nguyện, một hình thức làm lễ truy điệu mình trước. Ra đi là xác định cảm tử...
Tư lệnh nhìn ra phía biển qua cửa xe rồi chợt hỏi:
- Ở con người cái gì là đáng quý giá nhất?
- Lý tưởng, phải không ạ? - Người trợ lý ngồi ghế trên đáp.
- Không đúng. Sự sống!
- Sự sống?
- Phải!... Chết là điều tồi tệ nhất... Cho xe dừng lại nhé. Mình muốn được đi bộ một vòng.

Chiếc U oát nép sát biển. Tư lệnh bước xuống. Ông đủng đỉnh như người đi dạo. Rồi ông dừng lại trên cát, mắt hướng ra biển. Gió bật tung mái tóc lưa thưa khiến khuôn mặt ông trông già hẳn... Hình ảnh Vũng Rô chợt hiện ra... Vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, khi làm tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn bộ đội chủ lực Quân khu Năm ông đã nhiều lần dẫn đơn vị luồn lên đường Một tổ chức đánh giao thông nơi Đèo Cả. Đèo Cả khá cao, hiểm trở, một bên nối với Trường Sơn, phía còn lại là biển. Vũng Rô nằm dưới chân đèo. ở đó nước sâu, vách đá đổ ra chênh vênh. Từ trên đèo nhìn xuống, Vũng Rô giống như một cái nong lớn chứa đầy nước, thẫm xanh, ngăn ngắt, lặng phắc có cảm giác như khối nước khổng lồ ấy đặc quánh, dẻo quẹo, có thể xắn ra được. Núi Bia và mũi Mác như hai càng cua ôm lấy vũng nên lối vào rất hẹp, chỉ một tàu địch chắn ngay cửa là tàu ta khó vào... Nhưng quả nơi ấy có địa hình lý tưởng để bốc hàng, lấy hàng, ém tàu... Chọn Vũng Rô, các anh trong đó chắc đã tính toán kỹ... Đưa tàu vào Vũng Rô ngoài những thuận lợi khác, chắc còn muốn khai thác triệt để yếu tố bất ngờ, chủ quan của địch...
- Ta về chứ ạ? - Người trợ lý nhắc.
- ừ, về thôi!
Chiếc xe con ra khỏi Đồ Sơn, trời gần tối. Không khí đã dịu hơn. Tư lệnh uể oải ngả người tựa vào chiếc ghế hàng sau, hai mắt nhắm lại, cố thả lỏng toàn thân cho đầu óc thư giãn. Nhưng có bao điều đan xen chen lấn hiện về... Tư lệnh nhớ hôm ông và đồng chí Cục phó Cục Tác chiến lên báo cáo với Quân uỷ phương án đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của Khu Năm muốn có vài ba chuyến tàu chở vũ khí bằng đường biển vào các tỉnh Trung Trung Bộ, nghe xong Đại tướng Tổng Tư lệnh đã nhắc nhở: “Đường biển là con đường dành cho đồng bằng sông Cửu Long!”. Lúc này ngẫm lại, ông thật sự thấu hiểu điều lo lắng nơi người chỉ huy... Khu Năm dẫu vô vàn khó khăn vẫn còn cơ hội nơi con đường bộ. Con đường xuyên Trường Sơn đang gắng tìm nhiều phương cách để có thể vươn tới khu vực này. Nhưng nếu lộ con đường biển là Nam Bộ hoàn toàn cắt đứt mọi chi viện. Năm ngoái, lúc chiếc tàu gỗ đầu tiên chở hơn ba mươi tấn vũ khí cập bến Cà Mau thành công, ông lên báo cáo với Đại tướng, không ngờ Tổng Tư lệnh mừng vui đến vậy. Đại tướng ôm choàng lấy ông, xúc động: “Cám ơn, cám ơn, vậy là vùng cực Nam không cô lập nữa, trong đó đã có vũ khí...”, và hình như từ khóe mắt ông, dấp dính những giọt nước mắt. Không mừng vui sao được khi một chủ trương được chuẩn bị lâu dài, chuẩn bị công phu với biết bao nhọc nhằn lao tâm khổ tứ, hy vọng rồi thất vọng... đã thắng lợi. Kể từ ngày những chiếc thuyền gỗ của Nam Bộ vượt biển ra miền Bắc xin vũ khí đến khi những khẩu súng đầu tiên được chở vào trong đó, không chỉ tính bằng ngày, bằng tháng mà tính bằng năm. Trong những năm ấy đã có biết bao lo toan, biết bao tính toán và biết bao phương án đã vạch ra; thất bại có, chưa phù hợp có, và nhiều lúc nao núng tưởng chừng như không thể thực hiện được... Trong lãnh đạo không phải đã không có người hoài nghi. Sự hoài nghi ấy có căn cứ. Liệu có mạo hiểm quá khi hải quân ngụy với sự viện trợ của Mỹ dàn hàng ngàn tàu chiến trên biển như lá tre, với rất nhiều phương tiện hiện đại quản lý mặt biển, và liệu những chiếc thuyền nhỏ bé của ta có chống chọi được với sức mạnh biển cả? ấy là chưa kể nơi tàu vào có đủ những điều kiện an toàn và yếu tố địa hình để thực hiện?... Bao khó khăn, bao tình huống... Vậy mà... sau chuyến mở đường thắng lợi, những tháng ngày kế đó vũ khí liên tục vào Nam Bộ, không chỉ chở bằng tàu gỗ, con đường vận chuyển ấy đã có tàu sắt. Không chỉ chở vài ba chục tấn mà đã có thể chở một chuyến vài trăm tấn. Vũ khí nhỏ và cả vũ khí loại lớn. Vũ khí đánh bộ binh và cả vũ khí đánh xe tăng, xe bọc thép, đánh máy bay trực thăng, đánh đồn bốt... Tư lệnh chợt nhớ lại những ngày đầu, khi manh nha hình thành chủ trương không ít người hoài nghi thì đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: Trong chiến dịch Điện Biên Phủ ta đã thắng thực dân Pháp bằng những chiếc xe thồ thì nay ta sẽ thắng Mỹ bằng những chiếc thuyền gỗ... Vũ khí cho chiến trường Nam Bộ đang là đòi hỏi có tính cấp thiết, một yêu cầu mang tính sống còn của cách mạng vùng này.

Tư lệnh rõ rằng để hình thành con đường vận chuyển trên biển, quyết tâm của Bộ Chính trị, của Quân ủy rất cao. Sau chuyến ra khơi của chiếc tàu gỗ xuất phát tại Quảng Bình với ý định chở năm tấn vũ khí vào vùng biển Hải Vân hồi năm sáu mươi thất bại, Trung ương đã chỉ thị cho các tỉnh ven biển Nam Bộ tiếp tục chuẩn bị bến bãi, và cho thuyền vượt biển ra Bắc vừa để báo cáo tình hình vừa để trinh sát, nắm địch trên biển. Những chiếc thuyền ấy đã tới hậu phương và đó là tiền đề cho những chuyến chở vũ khí vào Nam sau đó.
Làm một con tính đơn thuần những người khó tính dễ hoài nghi cũng có thể thấy ngay hiệu quả lớn lao của những chuyến vượt biển đưa súng đạn vào Nam Bộ. Trong lúc con đường bộ vượt Trường Sơn khó khăn lắm, kỳ công lắm, chật vật gian nan lắm vào thời điểm này cũng chỉ mới men tới ngã ba biên giới, còn khả năng vươn tới Khu Năm, miền Đông là không thể định thời gian. Còn để vào được Nam Bộ là điều hoang tưởng, không một ai dù hăng hái nhiệt tình tới mấy khó có cơ sở để mơ tới... Mà con đường bộ Trường Sơn kết quả rất hạn chế. Do sử dụng phương cách vận chuyển thô sơ nên hiệu quả không cao. Mỗi chiến sĩ gắng hết sức cũng chỉ gùi được 20 ki lô gam hàng. Muốn chở 10 tấn hàng cần có năm trăm cán bộ chiến sĩ, ấy là chưa kể ốm đau, bệnh tật, địch đánh phá và số người phục vụ cho năm trăm con người đó, và những tổn thất do nhiều nguyên nhân không tên khác. Vậy muốn chở một trăm tấn hàng, một ngàn tấn hàng, một vạn tấn hàng phải cần bao nhiêu nhân lực và phải tiến hành trong vòng bao nhiêu năm? Song, khi thông con đường biển, để có một trăm tấn vũ khí cho Nam Bộ, chỉ cần mười lăm thủy thủ trong khoảng thời gian không quá một tuần là vùng cực Nam đất nước có súng đạn. Đó là bài toán không phải trong tưởng tượng mà đã trở thành hiện thực. Những con tàu của hải quân đã làm được cái điều thần kỳ không dám mơ tới ấy... Thắng lợi vượt ngoài cả dự kiến, vượt ngoài mong đợi...

Súng đạn đã vào được Khu Chín, Khu Bảy và sắp tới sẽ là Khu Năm. Hơn ai hết ông rõ những phức tạp, những khó khăn khi cho tàu bí mật chở vũ khí vào khu vực này. Cung đường so với nơi mút cùng đất nước có ngắn hơn, song việc chọn bến rất không thuận. Suốt dải đất miền Trung không chỗ nào có kênh rạch và cây um tùm phủ xuống như ở Nam Bộ. Tàu muốn vào, chỉ có thể cập vào bãi ngang. Bãi ngang thường thoai thoải cát, nước cạn, gần bờ sóng to, địa hình trống trải nên nếu vì nguyên nhân nào đấy tàu phải ở lại, rất dễ lộ. Chưa kể nơi đây giáp vùng giới tuyến, giáp Quốc lộ Một nên địch canh phòng gắt... Càng nghĩ càng thấy việc chọn Vũng Rô làm bến là thuận về nhiều mặt. Đã từng hoạt động ở vùng này, ông có thể hình dung địa hình quanh khu vực. Vũng Rô khít Quốc lộ Một, đó là khó khăn cũng là thuận lợi. Vũ khí bốc lên bờ, vượt qua đường Một là có thể tỏa vào rừng an toàn. Chọn Vũng Rô làm bến là rất táo bạo, cũng lại là một cân nhắc rất khôn khéo...
Tư lệnh ngồi thẳng người, nhìn ra ngoài. Gần đến Hải Phòng, người trợ lý quay qua:
- Thủ trưởng về thẳng nhà chứ ạ? - Anh hỏi.
- Không. Đưa mình về cơ quan.
Bên ngoài yên tĩnh. Thành phố đã lên...
... Đêm đó con tàu được lệnh nhổ neo. Nó lặng lẽ trườn ra cửa sông rồi xuôi về hướng Nam.
Biển trải ra mông lung. Bầu trời tối nhờ nom từa tựa một tấm bánh đa khổng lồ chi chít những hạt sao, chòng chành đung đưa. Sóng đập vào mạn khiến con tàu lắc nhẹ... Tư Lăng và Thơm ngồi đầu mũi nhìn ra. Thơm bập từng hơi thuốc. Tư Lăng hướng về phía chân trời lúc đó đã nhoà vào bóng tối.
- Nghĩa là ông vẫn chưa được nhìn thấy mặt con gái mình? - Thơm không quay lại, chợt hỏi. - Cuộc đời lạ lắm ông ạ, cách đây một tuần tôi mơ thấy mình về quê, vậy mà thật. Hồi tập kết, nỗi đau bị phụ bạc nơi thằng đàn ông khiến tôi tự ái, nên đã không về làng chào ông bà già trước khi đi, hận quá. Ngỡ chỉ hai năm, ai dè biền biệt cả chục năm.

- Thuyền trưởng Thanh nói rằng anh vẫn yêu người phụ nữ đó lắm...
- Nè, xã ông giáp chợ huyện, đúng không?
- Kề sông Lung chớ.
- Ờ, tôi nhớ rồi, xã ông ở mạn tây Lung Giang, tôi ở mạn đông. Người làng tôi vẫn chèo xuồng chở khoai lang qua sông sang bên ấy bán.
- Khoai lang làng anh ngon nức tiếng khắp vùng...
- Chỉ trồng trên cát mà khoai thơm, mềm lại ngọt vậy đó...
- Chỉ cách một con sông mà hồi đấy sao tôi không biết anh hè?
- Mình vô chủ lực từ năm mười tám tuổi. Vô chủ lực sớm nên mới được nhiều con gái mê. Hồi đó bộ đội chủ lực có giá lắm.
- Cỡ tuổi đó tôi cũng bỏ làng lên cứ... Giáp hòa bình thì lấy vợ. Tư Nhâm dịp đấy cũng đang ở trên cứ. Khi cô ấy có chửa, tổ chức bố trí cho về quê. Thỉnh thoảng nhớ, tôi lại bơi qua sông trốn về thăm... Thú thật, mấy năm đầu ở trên đất Bắc nhớ vợ phờ phạc như thằng ốm, chỉ ước có đôi cánh mà bay ngay về... Đêm nằm cứ bực bõ nghĩ sao
cuộc đời vô lý vậy chớ...
- Từ ngày ra Bắc tới giờ không một tin tức gì?
- Có dò hỏi mấy lần nhưng biệt vô âm tín. Cách đây hai năm, nghe tin mấy anh em người Phú Yên vượt tuyến ra Bắc, tôi xin nghỉ mấy ngày lên Hà Nội tìm gặp. Nhưng họ cũng không rành. Nóng lòng thì xuống ao úp nơm vậy thôi, cũng biết là khó...
- Lần này liệu có ai người Sông Cầu ra nhận hàng không nhỉ?... Nghe nói mạn đó đã được giải phóng, có chính quyền rồi, nhưng địch càn dữ lắm. Ông bà già mình nếu còn năm nay đã cụng bảy mươi chớ bộ... Con gái cậu cũng hơn mười tuổi rồi...
Tư Lăng không đáp. Chuyến đi này đâu dám nghĩ tới chuyện gặp vợ gặp con, nếu may lắm biết được chút gì đó tin tức về họ đã là mừng. Mà cũng không dám chắc. Thời gian xa cách đã lâu, chiến sự lại triền miên dai dẳng nên có biết bao biến động xáo trộn xảy ra. Được tận mắt nhìn thấy quê hương, nghe giọng nói quê hương, và được đặt chân lên bãi cát quê hương là mãn nguyện rồi... Tư Lăng cũng chỉ ước ao có thế.
Sóng vẫn lao xao vỗ hai bên mạn. Trước biển con tàu trở nên quá nhỏ nhoi. Chỉ là chấm bé mỏng như hạt cát trong mênh mông bạt ngàn sa mạc nước. Hai người như hai cái bóng lặng thinh ngồi trên boong, họ đang nghĩ về một thời, đang trở về với dòng sông, rặng cây, ngôi nhà, phiên chợ huyện... và xôn xao bao kỷ niệm.

*

Nói cứng với Sáu Sinh rằng mình đã có cách ứng đối với tình cảm Hai Rạng, lại nói Hai Rạng là kẻ ít nhiều có văn hoá, không dễ làm càn, nhưng chống chếnh trong ngôi nhà mới, Tư Nhâm không khỏi hoang mang, lo sợ. Có cái gì đó trống vắng cô đơn hơn hồi còn sống ở làng Cát. Tất cả đều lạ lẫm. Đêm về Tư Nhâm gần như không ngủ. Chị nằm nghe tiếng sóng từ biển mải miết mài lên bãi và thấp thỏm đếm từng đợt xe nhà binh chốc chốc lại hú còi hớt hải chạy trên đường. Căn nhà của người bà con Năm Hồng chuyển đi ở chỗ khác chị mua lại gần đường cái hơn và cũng gần biển hơn. So với chỗ ở cũ, nơi đây thuận nhiều bề. Việc buôn bán cũng dễ dàng, đi già cây số là đến chợ Lân Cồ. Sáng sớm xuống bãi lấy cá, quá buổi đã có thể xoạc chân ngồi bày bán ở chợ. Nằm xế thị trấn nhưng căn nhà khá thoáng đãng, rộng rãi. Có nhà ngang, có vườn lại có cả một hàng cây cao bao bọc xung quanh. Hôm mới chuyển đến, Năm Hồng tới chơi, đáo một vòng, khen kín đáo nhưng lại phán rằng đơn chiếc một thân một mình sống nơi đây không hợp.
- Nè, hay là cô chuyển lại cửa hàng tôi ở có chị có em cho vui, căn nhà cứ khoá cửa để đó. Nơi đây âm âm u u giống cái nhà mồ, cô quạnh một mình buồn chết. Chỗ tôi lúc nào cũng đông đúc... - Năm Hồng tuyệch toạch. - Nếu thêm thằng đàn ông nào nó khoái mình và mình cũng thích nó, ngả ngớn với nhau hay lắm. Tôi dành sẵn cho cô một buồng, của ai người đó xài. Không ảnh hưởng tới nhau. Ưng chưa?
- Mỗi người có một phận. Em đâu muốn cướp đi cái duyên bán hàng của chị... Với nữa chị đã có mấy người phụ giúp. Họ cũng đã thạo việc...
- Cô nghĩ đám đàn ông năng lui tới đó nhậu vì cái gì chớ? Mấy năm nữa tôi nhăn nheo, vú teo tóp, hông và mông không còn nở có mà ma tới.
- Chị còn duyên mà, còn nhiều người theo.
- Cô thấy vậy à?
- Gái mười tám đôi mươi chắc gì đã ăn đứt chị.

Năm Hồng hớn hở típ mắt cười, khuôn mặt giãn ra, lại nhún mông đi thêm vòng nữa quanh căn nhà. Rồi đứng trước chiếc gương con treo nơi cột nhà, nghiêng ngó tự ngắm khuôn mặt mình.
- Nhưng mà vắng lặng thế này đêm về thiếu thằng đàn ông lạnh lắm...
Tư Nhâm kín đáo khẽ thở dài. Điều ấy chị rõ hơn Năm Hồng. Những lúc tắt nắng, trời bắt đầu xẩm tối, khu vườn và căn nhà như rộng ra. Nỗi cô đơn do vậy cũng phình nở. Chị rất sợ thời khắc ấy. Những nhu cầu nơi người đàn bà ban ngày bận bịu quên đi, lúc đó lại có cơ được đánh thức. Càng ít ngủ càng bị hành. Đã có hôm bất chấp nỗi sợ hãi, chị vùng dậy lang thang nơi sân, nơi vườn trong đêm như một kẻ mất trí. Chút nguôi ngoai do bị đánh lừa ấy qua đi rất nhanh, chỉ là tạm thời, đòi hỏi bản năng cứ âm ỉ như than trấu ủ nóng bên bếp lúc nào cũng chực bùng lên...
- Mà cô cũng kỳ, chuyển nhà lên đây chi cho cực. - Năm Hồng nói. - Dưới làng Cát dù sao cũng quen hơn...
- Chị tính, bom đạn liền liền còn làm ăn sao...
- Kỳ thiệt, cùng là người Việt lại chia làm hai phe rồi hì hụi tậu súng đạn đánh nhau miết. Họ tranh giành, giựt giật cái gì chớ? Chỉ làm khổ dân lành. Kẻ nào nắm quyền chẳng được. Việt Cộng là ai, Quốc gia là ai? Đều máu đỏ da vàng cả. Việt Cộng hay Quốc gia thì cũng là con người, cũng giống nhau ở chỗ chẳng ông nào cao đạo, đều ham hố cái chuyện ấy... Trời ơi, ham hố thứ đó mới đáng ham hố chớ... Bình yên để đàn ông đàn bà quặp nhau cho sướng có hơn không. Tôi chẳng phân biệt ai đỏ ai vàng. Cứ giống đực mà mình khoái là cho... Cô cũng nên học cách sống vậy kẻo rồi chẳng mấy nữa già, lại tiếc... Không cần học ai, bắt chước chị Năm đây nè.
Những điều Năm Hồng nói khác gì dầu đổ vào lửa, đêm đến lại bùng lên hong nỏ Tư Nhâm. Cũng có lúc chị đau đớn buông xuôi với ý đình hoá thân làm cọng củi khô để được cháy theo ngọn lửa. Nhưng hình như vẫn có mãnh lực vô hình và hữu hình nào đó làm nguồn nước lạnh dập tắt những gì đang rừng rực trong lòng khiến người đàn bà bừng tỉnh, kéo chị ra khỏi những ham muốn chơ vơ... Đó là thời khắc gắng gượng chống trả quyết liệt, thậm chí viện cả chồng con và những điều hết sức to tát ra đánh đổi.

Rồi Hai Rạng lại đến. Con người ấy vừa có khả năng tạo ra lửa, nhưng do hoàn cảnh hết sức trớ trêu cùng những điều ý thức được qua lời giáo huấn nhiều năm vẫn túc trực trong tâm thức Tư Nhâm, nên lại là nước.
Từ khi Tư Nhâm chuyển lên giáp Lân Cồ, Hai Rạng lấy làm vui. Anh không nghĩ rằng người đàn bà ấy tới ở gần chỗ đóng quân của tiểu đoàn Rồng Biển là biểu hiện những tình cảm thân thiết gần gũi nào đó với Hai Rạng. Anh không ngây thơ và ngộ nhận thế. Nhưng trong thâm tâm, vẫn hy vọng những gạch nối mỏng mảnh bắt đầu bằng chuỗi kỷ niệm và chút tình cảm thủa ấu thơ dịp này sẽ được đắp đầy để có thể hình thành một cái gì khác. Dù bận chỉ huy đơn vị, rồi hành quân liên miên, từ ngày Tư Nhâm chuyển nhà viên sĩ quan năng lui tới hơn. Anh đến bất chợt, ban ngày, lúc mặt trời đã xuống và có lần đi công chuyện tiện đường ghé qua. Hai Rạng không có gì phải xấu hổ khi tự thú rằng mình rất yêu Tư Nhâm, cần Tư Nhâm. Càng ngày anh càng nhận ra khó có thể thiếu người phụ nữ không hẳn dễ tìm ấy. Đó là đặc ân tình cờ nhưng đầy định mệnh thượng đế đã dành cho. Trong những câu chuyện mỗi lần gặp nhau, anh đã ý tứ tế nhị hơn, không sấn sổ nói những lời cầu hôn vội vã thẳng thắn bộc trực như hồi mới gặp lại nữa. Anh đã biết chờ đợi, anh hi vọng vào thời gian và sự chân thực của mình. Anh kể tùm lum, chuyện xã hội, chuyện nhà và hay nhắc tới những kỷ niệm ngày xa xưa khi hai người còn bé tẹo. Lạt mềm thường buộc chặt. Mưa dầm dễ ngấm... Điều ấy khiến Tư Nhâm hãi sợ. Chị vừa nơm nớp e ngại vừa như thể mong ngóng viên sĩ quan xuất hiện. Tối tối căn nhà có tiếng đàn ông quả đỡ tẻ hơn. Và Tư Nhâm thấp thỏm lo lắng, lại thoáng chút bằng lòng nhận ra rằng mình đã bắt đầu quen quen với sự có mặt thường xuyên của Hai Rạng trong căn nhà này. Chị nhìn viên thiếu tá không như kẻ xa lạ cách biệt nữa, thậm chí nhiều lúc nhìn anh cười chị bất chợt nhận ra dáng vẻ hết sức quen thuộc của Hai Rạng ham mê chọi dế ngày xưa khoái chí la lên khi thắng cuộc. Nhiều năm rồi nụ cười hồn nhiên dễ ưa ấy gần như không thay đổi. Trong câu chuyện, bởi vậy không hẳn suồng sã bỗ bã nhưng đã chẳng mấy giữ kẽ, có cái gì đấy chân tình hơn...

- Lâu nay Tư ít về làng phải không? Tôi cũng vậy. Từ ngày ông bà già chuyển lên Sài Gòn làm ăn chỉ có mỗi một lần đảo qua. Ngày trước thấy làng Cọt và bãi cát giáp bờ sông, nơi tụi mình vẫn ra đổ dế rộng thênh thang, cứ như đó là cả thế giới, nay có dịp quay lại, cảm giác bé tẹo. Cây đa đầu làng bí hiểm, tối đến bọn trẻ đâu dám đi qua một mình, nay bị đạn phạt mất ngọn, chỏng chơ chỉa lên trời tội nghiệp như bàn tay cụt. Tôi nhớ có lần gặp Tư mếu máo nơi đó, phải chưa, hỏi ra thì bảo rằng thương con dế quán quân vừa mất...
- Lần ấy khóc không phải vì con dế... Xuống ngoại cúng, mải chơi nên má về trước, liền khóc oà rồi chạy đuổi theo...
- Ờ, phải rồi, chắc tôi nhớ nhầm... Khi tôi dắt Tư về, thím Bảy Bương la là con gái chi mà mau nước mắt, suốt ngày bám váy má lớn lên làm được trò gì. Rồi thím ra vườn hái khế ngọt cho hai đứa ăn. Cây khế đó còn không, Tư?... Hồi ấy tôi hỏi sao khế ngọt vậy, em giải thích rằng trước đây có một lần ngoại đến chơi và chôn xuống gốc xác con mèo đen, nên khế chua thành khế ngọt...
- Ô, anh nhớ kỹ ha, đã bao năm rồi...
- Nhưng có thiệt khế chua có thể trở thành khế ngọt được không?
- Hai Rạng chọi dế có thể trở thành sĩ quan quân lực cộng hoà thì khế chua cớ chi không trở thành khế ngọt được.
Viên sĩ quan cười:
- Tư nói hệt giọng Cộng sản ha!... Ngày xưa em hiền lành, đa sầu đa cảm, đâu đáo để vậy... Có con dế chết, khóc thương mấy ngày liền.
- Hoàn cảnh tạo nên tính cách, chẳng có lần anh nói thế sao.
- Vậy gắng làm cho hoàn cảnh tốt lên... Phụ nữ ở tuổi em sống thiếu đôi lứa là phi tự nhiên nghe. Sống như thể không phải với những gì trời cho.
- Đáo để nhằm tồn tại... Mà tại sao con trai, hồi nhỏ thích tiêu khiển bằng trò bắt dế để chọi... Lớn lên hình như lại khoái đánh nhau.
- Không ai muốn, nhưng tình thế buộc phải vậy. Nếu dân làng Cát cứ yên phận theo Quốc gia mà làm ăn, lính Rồng Biển đâu phải nay xuống dẹp, mai xuống bình định.

- Thiếu tá lại sắp kéo quân về đó? Càn vậy vẫn chưa đủ sao? Dân làng Cát oán lắm...
- Chiến tranh có những nghiệt ngã phi lý phải chấp nhận. Nhưng lần này không là làng Cát. Dân trên Sông Cầu đang làm loạn... Mà em quan tâm tới ba cái chuyện đó chi cho mệt. Chiến tranh không phải việc của đàn bà.
- Đàn bà cũng phải chạy loạn hoài hoài.
- Em tới được vùng kiểm soát của Quốc gia là an toàn rồi...
Câu chuyện thường nghẽn tắc ở khúc đó, khi Tư Nhâm trở về với con người ý thức của mình. Nhưng dù luôn túc trực là con người ý thức, Tư Nhâm vẫn là một người đàn bà với nhiều đa đoan và yếu đuối...
Một lần đang có mưa, Tư Nhâm rỗi rãi nằm sấp trên giường, úp mặt xuống gối vẩn vơ trong những liên tưởng chập chờn, bỗng dưng Hai Rạng xuất hiện. Anh không đường đột bước vào nhà mà đội mưa đứng ngoài sân gọi. Trời ơi, sao tới không đúng lúc vậy chớ, Tư Nhâm đỏ ửng mặt, khẽ thở dài rồi vùng dậy, bối rối vuốt lại mớ tóc, bước ra. Cũng như mọi lần, thấy chị, Hai Rạng cởi mở nở nụ cười. Anh ngồi xuống ghế, xo ro như thể bị lạnh. Tư Nhâm nhìn Hai Rạng trong bộ “sơ vin” giản dị chẳng ra dáng một người lính, cũng thấy có cái gì đó ái ngại.
- Đang mưa tới chơi chi cho cực! - Chị nói và với chiếc bình thuỷ, rót cốc nước nóng đẩy về phía Hai Rạng. - Uống chút cho đỡ lạnh nghe.
Kế đó chị vào nhà trong, giật chiếc khăn mặt, bước ra:
- Anh cầm lau đỡ.
Hai Rạng cảm động ngước lên nhìn, tỏ sự cám ơn. ánh mắt nhiềungụ ý của viên thiếu tá như thể đọc được tâm trạng Tư Nhâm khiến chị lúng túng, hai má nóng phừng.
- Không nghĩ là mưa. - Hai Rạng lau nước trên mặt, nói hồn nhiên. - Đi được già đường trời mới đổ nước xuống. Hôm nay rỗi tới thăm Tư, với nữa có cuốn sách hay mang để em đọc cho đỡ buồn. Chạy chợ nhưng cũng có lúc rảnh rang chớ. Thời gian rỗi nên tiêu vào sách. - Hai Rạng lôi trong người ra cuốn Hội chợ phù hoa và đặt lên bàn. - Toàn chuyện tình cảm, hay lắm!

Tư Nhâm liếc nhanh lên bìa sách. Đôi nam nữ trên đó đang hôn nhau. Chị vội nhìn ra sân, nén tiếng thở mạnh.
- Giáp tháng tám mà trời cứ mưa hoài... - Chị nói bâng quơ, hai mắt như thể lơ đãng vẩn vơ hướng ra màn nước.
- Tháng bảy mưa ngâu mà...
- Phải, mưa ngâu.
- Em rõ chuyện tại sao trời mưa ngâu không, Tư?
Tư Nhâm im lặng. Chị biết chuyện đó chớ. Hồi nhỏ, lúc còn sống dưới làng với má, những ngày trời sụt sùi thế này, bên rổ ngô rang má vẫn kể để chị nghe câu chuyện tình nhỡ nhàng của cặp nam nữ đó. Tội nghiệp, một năm mới gặp nhau một lần nên sướt mướt suốt. Nhưng chuyện tình cảm yêu đương nói ra lúc này e vô duyên. Chị lại nhìn vào màn mưa và cố tình lảng sang chuyện khác.
- Chuyện chàng Ngưu Lang và nàng Chức Nữ chắc cũng có thật... - Hai Rạng nhìn Tư Nhâm và nói.
- Mưa vầy biển sẵn cá lắm nghe.
Hai Rạng ngồi yên. Một lát anh kéo ghế dịch sát lại phía Tư Nhâm.
- Tư nè...
- ...
- Tư nè, tôi hỏi thiệt và Tư cũng phải thiệt lòng nghe...
- Người ta bảo mưa có bong bóng nổi lên là còn mưa lâu đó.
- Em thiệt tình không thương tôi, hay còn lý do khác?
- Sao anh... thiếu tá lại hỏi vậy? - Tư Nhâm giật mình, phản xạ theo thói quen, và lập tức chui vào vỏ, trở lại vai diễn của mình. Song hình như người đàn bà trong chị ở thời khắc này là kẻ bướng bỉnh nên chị cảm thấy có điều gì đó chống chếnh lo sợ. Tư Nhâm toan đứng lên nhưng Hai Rạng đã kịp cầm lấy tay, rồi cúi xuống, gục khuôn mặt lạnh ngắt lên hai đầu gối chị.
- Tư à, tôi thương em thiệt lòng mà... Cớ gì em cứ lẩn trốn tình cảm đó? Tôi không tin em chẳng có mảy may cảm tình nào đối với tôi. Tư Nhâm, em nhìn thẳng vào mắt tôi nè và hãy nói thực lòng mình... Hay Tư đã có nơi có chốn hoặc đang chờ đang đợi ai? Nếu vậy hãy nói với tôi một lời... - Hai Rạng choàng tay ôm qua người Tư Nhâm, rồi riết chặt chị vào lòng. - Đừng dửng dưng vậy tội nghiệp mà. Chúng mình đâu còn thơ dại, đúng không? Anh thiệt tình yêu em, Tư à...

Tư Nhâm run lên, bàng hoàng. Như người ngạt thở, chị không thật rõ cảm giác của mình lúc đó. Mặt nóng bừng và toàn thân cũng nóng bừng. Hình như những gì kìm nén tựa liều thuốc nổ được châm ngòi, bung ra, chị đờ đẫn mặc cho Hai Rạng nắm lấy hai bàn tay của mình, lần hít khắp cơ thể. Và vẫn trong trạng thái bải hoải đó, chị nhũn nhão không còn sức lực chống cự, cũng không mảy may phản ứng để mặc Hai Rạng mạnh mẽ và cuồng nhiệt bế thốc vào giường. Lơ mơ bên cạnh là hơi thở gấp gáp. Mùi đàn ông. Trần nhà. Và cái vật thể cương nóng rắn cứng nơi người đàn ông ma sát vào đâu đó... Tư Nhâm chùng xuống, lịm đi... Nhưng vào phút đó, thời khắc bàn tay Hai Rạng nóng như lửa vội vã và táo bạo chạm được vào phần nhạy cảm nhất của người đàn bà, như có một sức mạnh thần bí tiềm ẩn khó hiểu đâu đó đến lúc hồi sinh, phần bản năng đàn bà trong Tư Nhâm hoá thân thành người ý thức. Rất nhanh, hình ảnh Tư Lăng không một mảnh vải trên ngưòi, cường tráng ụp vào chị cái đêm anh vượt sông về qua nhà và ánh mắt lưu luyến lúc hai người chia tay cách đây đã hơn chục năm, rồi tia nhìn thơ ngây hồn nhiên của đứa con gái, khuôn mặt Sáu Sinh, Sáu Quyên, khuôn mặt bà Bảy Bương cùng nụ cười hơ hớ giễu cợt trên khuôn mặt trắng mịn của Ba Hoàng cứ xoay tròn, méo mó, chùng chập, lờ mờ lúc ẩn lúc hiện gồng chị choàng ra khỏi cơn mê. Hoảng loạn, bất định, chị toài ra được khỏi giường, chuệnh choạng bước ra phòng ngoài. Chị đổ xuống ghế, thở gấp. ý thức về vai trò diễn viên kéo chị trở lại với bộ mặt nghiêm nghị không thật nữa của mình.
Hai Rạng như người phát khùng vừa qua cơn hoảng loạn, xấu hổ vì bất lực thua cuộc, lón nhón bước tới cạnh Tư Nhâm.
- Xin lỗi... Nhưng tôi yêu em thiệt tình...
- Không ai có lỗi... Thiếu tá ngồi!
- Nhưng tại sao, tại sao... Tôi không hiểu. Em giải thích đi, Tư Nhâm...
- Tôi lấy đỡ thiếu tá cốc nước lọc nghe.
Tư Nhâm không ngẩng lên, nói rất tỉnh. Chị nhập vai không đến nỗi nào, khuôn mặt giả bộ vô cảm, và giọng dửng dưng như không...
Bên ngoài trời vẫn rả rích mưa.

Sáng hôm sau, Tư Nhâm không ra chợ. Đêm qua là quãng thời gian dài vô tận, chị vật vã trên giường, không sao đè nén những hoang dại thèm muốn cứ mỗi lúc lại bùng lên, cuối cùng đành trốn chạy bằng cách dầm mình trong mưa để những sợi nước quất vào người cho tới lúc lạnh cóng, mới sũng sượt rã rượi vào nhà. Gần sáng gây gây lên cơn sốt, chị mệt mỏi dán mình trên giường...
Đang mê man nửa ngủ nửa thức thì có tiếng phanh xe rin rít, kế đó là tiếng loang choang như mảnh sành va vào nhau từ sân gọi vào:
- Cô Tư có nhà không?
Ba Hoàng! - Tư Nhâm nghĩ nhanh rồi với khuôn mặt phờ phạc, chị chuếnh choáng rời khỏi giường, lần ra phòng ngoài. Ba Hoàng có trung sĩ Độ tựa cái bóng bám lẽo đẽo phía sau, bước vào.
- Có việc gì mà đại uý và trung sĩ đến sớm vậy? - Tư Nhâm uể oải kéo chiếc ghế mời hai người ngồi và hỏi.
- Qua ngõ nghĩ rằng cô Tư có nhà, ghé vô chơi chút thôi. Coi bộ cô Tư không được khoẻ...
- Cám ơn!
- Chà, ngôi nhà vắng vẻ nhưng được cô Tư dọn dẹp tươm tất ha... Mà con nhỏ đi đâu lâu nay không thấy, cô Tư?
- Cháu về ngoại...
- à, cô Tư đưa nó về dưới đó chắc để được rảnh rang... Mà cớ chi từ làng Cát cô Tư phải chuyển lên đây ở chớ, có phải để được gần thiếu tá Hai Rạng? Nếu đúng vậy thiệt mừng ha.
- Việc đó cũng liên quan tới đại uý sao?
- Liên quan chớ, cô Tư. Trong thâm tâm, Ba Hoàng này vẫn coi cô Tư là người nhà, là bà thiếu tá nay mai... Nè, ông thiếu tá của tôi thề sẽ không lấy vợ nếu người đó không phải là cô Tư đây. Đàn ông như vậy kể cũng kỳ. Kỳ hơn nữa là nhiều lúc ông tương tư đến ngẩn ngơ... Một mối tình thiệt hay, thiệt đáng quý. Cô Tư chờ chi nữa mà không ưng thuận?
- Việc riêng của tôi đại uý xía vô chi. Ông lo chuyện nhà mình chưa đủ?
- Chuyện của cô Tư và của thiếu tá Hai Rạng đâu còn là chuyện riêng của hai người. Tôi là cấp dưới cũng có bổn phận chớ... Cô Tư nè, Lân Cồ là vùng Quốc gia kiểm soát, nhưng Việt Cộng vẫn xuống quấy nhiễu và thậm thụt về lấy tin tức. Nói vậy là tôi có ý lo cho cô và giữ uy tín của thiếu tá Hai Rạng. - Giọng Ba Hoàng khiêu khích - Kẻo rồi khi xảy ra chuyện lại biểu Ba Hoàng không biết điều... Mà đến nước đó, Hai Rạng cũng khó đỡ được.

Tư Nhâm giật mình. Chị biết lâu nay Ba Hoàng vẫn mong manh ngờ ngợ, việc chị chuyển lên Lân Cồ, càng khiến hắn có cái gì đấy nghi vấn, khó hiểu và càng để ý. Viên đại uý thường xuyên cho người theo dõi, bám sát. Bán hàng nơi chợ, nhưng Tư Nhâm rõ rằng vẫn có đôi mắt trong quán giải khát gần đó canh chừng hướng về phía chị, và mọi động tĩnh đều đến tai Ba Hoàng. Nhưng không ngờ hôm nay hắn doạ dẫm sát sạt vậy. Hay hắn đã đánh hơi ra điều gì? Liệu mấy lần Sáu Quyên qua chỗ chị có bị người của hắn nắm được? Chắc là chưa. Nếu lộ, thằng mật vụ ranh mãnh này đâu chịu để yên. Hắn đang nhăm nhăm tìm bằng chứng và khi đó thì như hắn doạ, Hai Rạng cũng không đỡ được...
- Ông đại uý nói chi đâu tôi thiệt không hiểu! - Tư Nhâm cố trấn tĩnh rồi nói. - Tôi lên đây để được yên ổn chạy chợ, quan tâm chi đến Việt Cộng với Quốc gia.
- Là tôi cứ lường trước vậy... Nhân đây thông báo với cô Tư chuyện này nữa. Cô Tư biết Tám Phụng chớ, Tám Phụng Huyện uỷ viên Việt Cộng đã chiêu hồi về với Quốc gia mấy tháng trước đó. Lão treo cổ tự vẫn rồi. Thiệt ngu. Cơm có người hầu, ở có người canh phòng, sướng như một sĩ quan cao cấp của quân lực lại không biết hưởng, cớ chi chết uổng chớ. Lão dùng dây thừng ngoắc mình lên cửa sổ. Người Lân Cồ đang hiếu kỳ xúm xít bàn tán như chuyện lạ... Cô Tư rảnh cũng nên lên đó nghe cho biết. - Ba Hoàng chợt quay về phía gã vệ sĩ: Trung sĩ Độ!
- Có tôi, thưa đại uý!
- Nếu cô Tư đây muốn lên Lân Cồ, bố trí xe để cô Tư đi nghe.
- Dạ rõ, thưa đại uý...
- Tôi đâu có thì giờ dính mũi tò mò vào ba thứ chuyện lăng nhăng đó... Tôi còn phải xuống bãi nhặt cá đây, đại uý thông cảm nghe...
- Cô Tư đuổi khéo tôi sao? Được, Ba Hoàng đi. Nhưng Ba Hoàng còn quay lại thăm cô Tư đều đều... Vậy chào cô Tư.
Thầy trò Ba Hoàng vừa bước ra cổng, Tư Nhâm kiệt lực bải hoải thả mình xuống ghế. Chị ngồi thừ ra, thấy trong người rổng rểnh óp ải, rã rời như vừa gắng làm cái gì quá sức...
Bên ngoài, những giọt nước mắt của đôi tình nhân đã thôi nhỏ xuống. Bầu trời quang quạnh. Và tiếng sóng từ biển lại rì rầm vọng vào, đều đều...

*

Chưa bao giờ làng Cát chộn rộn như hôm ấy. Có cái gì đó náo nức, nén ép vừa phô mở lại như vừa kìm giữ. Chưa tối, đường làng đã hối hả bước chân. Tiếng thanh niên nam nữ nhi nhới gọi nhau:
- Hoà ơi, đi chưa?
- Ngũ, trễ rồi, lẹ lẹ lên chút...
Ở một hẻm khác:
- Con đi nghe má.
- Tụi mày không kịp ăn gì sao?
- Nhiệm vụ đặc biệt mà, má.
- Đặc biệt thì cũng phải no cái bụng đã. Chẳng rõ có việc gì quan trọng mà đứa nào cũng hấp ha hấp hởi như ma làm vậy chớ...
- Rảo cẳng lên kẻo Mười Bàng lại la hét um sùm nghe. Đến trễ là lão Trương Phi xả bậy bạ ra như hắt nước vào mặt đó.
- Không rõ đi bao nhiêu ngày, hồi chiều vét đến lon gạo cuối cùng của má rồi, liệu có đủ ăn.
- Thiếu gạo thì ăn rau rừng. Bộ đội chỉ nhai hột mít đánh giặc đã sao. Được tham gia việc cách mạng là khoẻ rồi.
- Mà đi đâu, làm việc gì cũng phải phổ biến truớc một câu chớ. Cứ như chơi trò bịt mắt bắt dê...
Nơi bãi cát xế rìa làng, gần năm chục nam nữ thanh niên túm tụm trên đó. Người đứng kẻ ngồi. Lổn nhổn những bị, những ba lô. Xã đội trưởng Mười Bàng đang điểm quân số. Anh lầu bầu nói tục khi có người báo rằng thôn Ba chưa đủ quân.
- Lần sau biểu mấy cha đó cắt cu để lại nhà cho nhẹ nghe. Nếu kêu ra đây cho ngủ với gái lại không đạp lên nhau mà chạy chí chết... Khỉ, giờ với giấc! Rậm rà rậm rờ cứ như đàn bà vừa đi vừa rặn đẻ...
Từ phía sau, ông Năm Bào chen mọi người, rướn lên.
- Mười Bàng, mày xạo nghe. - Ông đứng trước xã đội trưởng và nói.
- Lần trước hứa sao? Vậy mà trong dach sách đi làm nhiệm vụ không có tên già này. Mày giải thích coi?
- Trời ơi, bộ chú khùng hay sao, chú Năm. Lần này chỉ điều động thanh niên thôi.
- Nghĩa là hạng như tao già yếu rồi không có ích nữa phải không? Được, hôm nay tao thử sức vóc với mày. - Ông Năm làm động tác đứng tấn, hai gối chùng xuống, lòng bàn tay nắm chặt, mắt hướng thẳng về trước. - Nào, mày cậy khoẻ hơn, nhào vô thử coi...

Đám thanh niên thấy vậy cười ồ. Mười Bàng cũng cười:
- Biết là chích đầu gối chú Năm vẫn còn máu, nhưng...
- Tao không khoái chữ nhưng nghe mày. - Ông Năm không thay đổi thế đứng, ngắt lời. - Thì cứ nhào vô một lần cho biết...
- Chuyến này đi xa, đi dài ngày đó, chú Năm.
- Xa, dài tao cũng tham gia... Tụi hoi hoi cười cái gì? - Ông quay về phía đám đông, lúc ấy đang ôm nhau ngặt nghẽo. - Tao không ngán đứa nào nghe. Thay Mười Bàng thử một hiệp, nếu thua, tao chịu ở nhà!... Còn không đứa nào dám thử sức, không có tên, tao cũng theo. Tụi bay cậy thế để độc quyền làm cách mạng, tao kiện lên Sáu Sinh đó...
Bí thư xã Ba Tánh đứng cạnh đành xuống nước:
- Thôi được, mời chú tham gia. Chú ở tổ Ba nghe. Nhưng chú đã chuẩn bị lương thực chưa? Phải tự túc trong một tuần.
- Chuyện nhỏ. Chẳng lẽ bọn trẻ có ăn lại bỏ già này đói. Không có gạo thì đào củ, kiếm lá rừng mà ăn. Chết đói dễ vậy đâu còn là dân làng Cát...
- Vậy mời chú đứng vô hàng... - Ba Tánh nhìn mọi người rồi nói.
- Thưa các đồng chí, Đảng có nhiệm vụ quan trọng đặc biết. Và làng Cát ta vinh dự được tham gia... Đây là công việc tối mật, nên ai được phân công việc gì chỉ biết việc đó, không tìm hiểu, không dò hỏi, không để cho bất cứ ai biết việc mình làm. Xong nhiệm vụ mới được về. Trong thời gian ấy, nghiêm cấm ra khỏi nơi mình đang công tác... Ai vi phạm sẽ kỷ luật nặng. Chúng ta có làm được không?
Nhiều tiếng đồng thanh đáp:
- Làm được!
- Vậy hoan nghênh... Việc ăn ở sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng tin rằng với tinh thần quật cường của làng Cát, chúng ta biết khắc phục để hoàn thành nhiệm vụ. Có ai ý kiến hoặc thắc mắc gì không?
- Bao giờ lên đường mà dền dứ hoài vậy, ông Bí thư? Chúng tôi nóng ruột nóng gan lắm rồi... - Trong hàng có người lên tiếng.

- Tụi tôi không sốt ruột sao? Nhưng việc gì cũng có thời điểm... Ngay bây giờ, ngay đêm nay chúng ta lên đường đi làm nhiệm vụ...
Ba Tánh vừa nói xong, đám đông chợt ô, a lao xao bàn tán.
- Đề nghị trật tự nghe nói hết đã. Trên đường đi, phải hết sức kín đáo. Không được qua bãi cỏ tranh. Đốn cây phải đốn xa đường. Và không chặt một chỗ. Cành cây lá cây phải giấu kín, đừng để máy bay lượn qua phát hiện ra lá héo... Rõ cả chưa?
- Rõ! - Mọi người lại đáp.
- Dặn hoài như trẻ con... - Có người nói.
- Xã đội trưởng Mười Bàng sẽ dẫn đường. Các đội, xuất phát!
Mười Bàng đi đầu, đoàn người theo hàng một, thứ tự ra khỏi làng. Họ đi về phía núi Bia...
Gần sáng, dân quân du kích làng Cát có mặt ở Vũng Rô. Từ Đèo Cả nhìn xuống, quanh khu vực Vũng Rô yên ắng như chốn hoang lạnh. Nơi đây bốn bề núi chắn, chỉ một lối duy nhất nối thông ra biển. Nghe nói trước kia vùng này có con quái vật đầu người mình rắn vẫn ẩn hiện. Lại có người bảo quanh Vũng Rô là chốn mê cung, nhiều tà khí u u mê mê, đã vào không có ra. Bởi vậy đã từ lâu, chẳng ai có gan đùa giỡn với sự nguy hiểm, dại dột bước vào vương quốc của tà ma ám khí... Thỉnh thoảng lắm mới có chiếc tàu nhỏ của quân đội lè vè lượn một vòng lấy lệ, rồi cũng vội vã quay mũi rút nhanh ra khỏi chốn hoang vắng này. Nơi đây chưa bao giờ có tiếng người...
Nhưng mấy hôm nay quanh Vũng Rô rậm rịch. Thanh niên từ các xã đổ về khá đông. Họ đốn cây dựng lán, sửa đường, bắc cầu cảng... Công việc tiến hành lặng lẽ, nhưng khẩn trương. Sát mép nước, nơi phần việc làng Cát đảm nhiệm, Bí thư Ba Tánh và Xã đội trưởng Mười Bàng như con thoi. Đốc thúc, chỉ đạo, hò hét. Hai người quát tháo khản cả tiếng.
Ngày thứ ba, trời vừa bén tối, thanh niên làng Cát dưới sự chỉ huy của xã đội trưởng nhanh chóng khiêng những khối gỗ lớn cùng những tấm ván mới xẻ từ núi xuống bãi cát. Họ có nhiệm vụ hoàn thành cầu cảng trong đêm. Người dầm mình dưới nước đóng cọc. Người lặn xuống nạo bùn, vần những tảng đá ngầm chuyển đi nơi khác... Mười Bàng ngâm nửa người dưới nước, đỡ tấm ván từ trên bờ lao xuống, dặn người bên cạnh:
- Buộc sao cho ván chìm dưới nước nghe, nhưng khi tháo dây ra, cầu cảng nổi lên để tàu cập vô.
- Tụi tôi rành rồi mà, anh Mười. Sáng mai bảo đảm mặt nước nơi đây vẫn êm như tờ...

Đến lúc này thì gần như mọi người đều hiểu rằng họ đang làm cái công việc cuối cùng nhằm đón tàu chở vũ khí từ miền Bắc vào, nên hết thảy đều phấn khởi. Điều bí mật đã không còn bí mật nữa.
- Lẹ tay lên, trời sáng mà công việc chưa xong là kẹt nghe. - Mười Bàng nói.
- Cũng muốn lẹ nhưng cái bụng cồn cào nên cái tay nó run. Tối nay lót dạ chỉ lưng lửng chén cơm ghế củ.
- Phải hăng hái nhiệt tình như khi nhấp nhổm trên bụng đàn bà chớ. Sao những lúc đó mấy anh hùng hục hăng say mải miết vậy?
- Cái tí hỉn lum khum của các mụ đó nó hấp dẫn, có ma lực, có sức hút mạnh lắm Xã đội trưởng ơi.
- Việc cách mạng không có ma lực sao? Cứ coi công việc đang thực thi như khi toài trên bụng đàn bà lạ mà làm cho hăng.
- Có đàn bà lạ ườn ra mời chào cho không biếu không nhưng bụng đói cũng đành nuốt nước bọt chào thua.
- Vậy phải coi công việc đang làm trên cả việc đó...
- Có chuyện gì hay hay kể nghe cho đỡ mệt, anh Mười.
- Đời này chỉ có mỗi một chuyện hay hay, có thể quên mệt là chuyện tí tởn với đàn bà.
- Nghe nói anh Mười thỉnh thoảng vẫn ngó nghiêng thậm thụt ghé qua quán Năm Hồng thưởng thức chút của lạ...
- Năm Hồng đâu của riêng ai mà phải thậm thụt?...
- Cái ấy của Năm Hồng phổng phao, khác lạ, không giống như những người đàn bà khác, đúng không anh Mười?
- Tò mò thì tới đó chạm tay vô một lần cho biết. Nhưng làm thằng đàn ông để đàn bà coi thường cho rằng chỉ loen quen, lấp nhấp không đủ gãi ngứa rồi bị họ đạp xuống giường thì đừng vác mặt tới nghe...
- Tôi làng nhàng vậy nhưng coi bộ dai sức đó, anh Mười.
- Dai sức thì cố làm lẹ lên...
Đám người cười rộ...

Cách mép nước không xa, trong lán chỉ huy mới dựng nơi lưng chừng đồi, Bí thư Tỉnh uỷ Sáu Sinh đang nghe các đơn vị báo cáo công việc.
- Báo cáo anh Sáu, chúng tôi đã cho dựng đủ ba mươi tám lán tạm, có chỗ ở cho hơn trăm người. - Một cán bộ nói.
- Cố gắng dựng thêm, tối mai tối kia quân số sẽ đông hơn...
- Kẹt một nỗi là..
- Lại vấn đề lương thực phải không? Tôi đã thông báo rằng các đơn vị tự lo. Phải khắc phục thôi.
- Vâng, tưởng là tỉnh giúp cho ít nhiều... Đành vậy.
- Còn làng Cát, cầu tàu đêm nay xong chớ?
- Báo cáo Bí thư, đã thực hiện hơn hai phần ba kế hoạch. - Ba Tánh nói. - Đêm nay xong.
- Động viên anh em gắng nghe... Tiện đây phổ biến luôn, tôi vừa nhận được thông báo, tàu chở hàng đã xuất phát... Các điểm chốt cần theo dõi địch thường xuyên, lơ là rồi trở tay không kịp...
- Việc đó anh Sáu yên tâm... - Một người nói - Bữa ăn chỉ có cơm với rau rừng chấm muối nhưng biết được tham gia việc lớn nên hết thảy anh chị em đều phấn khởi hồ hởi lắm... - Người này chợt chùng giọng. - Hình như bên Hiệp Hoà có chuyện gì đó phải không, anh Sáu. Thấy mấy đứa cứ xầm xì?
- Không tò mò, các anh về lo công việc bộ phận mình đi.
... Khi mọi người đã ra khỏi lán, một mình ngồi bên ngọn đèn dầu, Sáu Sinh thấy oải. Chuyện vừa xảy ra ở Hiệp Hoà như vết dao chém vào cơ thể chưa đủ thời gian lên da non, lại nhói buốt. Ông ngồi lặng tựa hòn đá mới mọc, nghĩ mông lung. Công việc không đơn giản như mọi người đang phấn khích vẫn nghĩ. Tình hình phức tạp hơn nhiều.

Ông lờ mờ cảm thấy có cái gì đó hết sức chênh vênh, bất ổn. Mới triển khai công việc vài ba hôm mà mọi sự đã rối lên, trắc trở. Từ nay cho tới lúc tàu cập được vào chốn này còn chuyện gì có thể xảy đến nữa đây. Rất nhiều việc nằm ngoài dự kiến, nằm ngoài tư duy đã nghễu nghện mò tới. Điều đó khiến ông lo lắng, sợ hãi, thậm chí hoang mang. Đêm qua ông đã không hề chợp mắt. ám ảnh trách nhiệm và nỗi khổ tâm trong câu chuyện xảy ra ở khu vực du kích Hiệp Hoà đảm nhiệm hành hạ khiến ông day dứt, quặn thắt... Người thanh niên ấy không đáng phải chịu hình phạt như vậy! Cậu ta chưa đầy hai hai tuổi, sức trẻ còn tràn trề, vậy mà... Trời ơi, sao lại có thể trớ trêu, vô lý thế được chứ! Chuyện thật mà ngỡ như không phải... Chiến tranh quả đã gây ra bao tai vạ không sao hiểu nổi, tàn ác, nhẫn tâm... Con quái vật khổng lồ ấy có từ ai, nó nhe răng ra ngoạm vào bất cứ người lương thiện nào. Sự nghiệt ngã thật khó lường... Khi nghe ngưòi cán bộ xã Hiệp Hoà hớt hải, khuôn mặt đau đớn xanh tái báo cáo lại sự việc, ông bàng hoàng hoảng loạn như thể đang ngồi bên bờ vực mà dưới đó là ma là quỷ... Ông đau đớn thấy tội cho người chết mà cả tội cho người sống! Chưa đầy hai ngày sau sự việc ấy, tóc người cán bộ xã đã bạc trắng... Nếu ở tình thế như người cán bộ Hiệp Hoà, ông xử trí thế nào?... Nơi tiếp nhận vũ khí là khu vực tuyệt mật. Không một ai được vào đã đành nhưng đã vào đó cũng chẳng vì nguyên cớ gì để trở ra. Điều ấy có lý, bởi bến bị lộ, địch sẽ càn và con đường vận chuyển vũ khí trên biển với bao công sức tạo dựng coi như bỏ... Bí mật “bến” được hết sức chú trọng, được coi là yếu tố hàng đầu... Vậy mà chàng trai trẻ ấy đã không chịu được nỗi kham khổ, lại quá nhớ người yêu cứ tìm cách để nằng nặc đòi về. Khuyên giải, phân tích, đe nẹt tựa nước đổ lá môn. Chàng ta ậm ự tỏ ra nghe lời nhưng đang đêm lỉnh ra khỏi “bến”. Cái tin ấy làm chỉ huy xã thất thần. Trong cơn hoảng loạn, lo sợ, xã đội trưởng Hiệp Hoà đã ra lệnh cho một tổ gồm ba du kích vác súng đuổi theo, nếu không bắt được thì... bắn. Và họ đã... bắn. Sau vụ ấy, người ra lệnh chùng xuống như tàu lá úa. Chỉ hai đêm đã không còn nhận ra. Hốc hác, sọm sẹo, méo mó. Hình thể chẳng khác môt cái xác không hồn. Tội nghiệp! Trong tình thế ấy biết làm sao chớ... Lộ bến, lộ con đường là toàn mặt trận không có vũ khí... Chiến tranh, khủng khiếp quá! Trớ trêu và nghiệt ngã quá!... Đã đành là phải hy sinh cái trước mắt vì những lợi ích lớn hơn. Nhưng chuyện đó sao mà đau, sao mà buồn! Người cán bộ phải làm vậy cũng là tình thế bắt buộc. Người mất mạng thiệt, nhưng chỉ chết một lần, còn người thực thi còn đau hơn, phải dằn vặt, chết dần dần... “Nó chỉ nhỉnh hơn thằng con tôi hai tuổi mà, anh Sáu...”. Câu nói buốt xót như mếu của người xã đội trưởng ám anh Sáu Sinh mấy ngày qua... Ông bước ra khỏi lán, ngước lên bầu trời cố xua đi những lởn vởn quanh cái chết phi lý của người thanh niên nọ...
Một du kích hớt hải chạy tới. Sáu Sinh quay ra hỏi:
- Có gì vậy, Năm? Người du kích ấp úng:
- Báo cáo chú Sáu...
- Cứ nói!
- Báo cáo chú... Thưa chú, tổ của Ba Thành vừa qua sông thì bị lính Ba Hoàng phục kích. Hai du kích hy sinh, Ba Thành bị thương và... bị bắt.
Sáu Sinh giãy nảy như vừa uống phải thuốc độc. Ông thả người xuống bãi cỏ, khuôn mặt thừ ra, lặng ngắt...
... Đêm ấy “tàu không số” của thuyền trưởng Thanh nhận được điện từ Sở Chỉ huy: “Giảm tốc độ, tiếp tục đánh cá ngoài hải phận quốc tế. Bến động”.

*

Đại uý Ba Hoàng ngồi đốt thuốc sau chiếc bàn được dọn gọn và sạch trong phòng làm việc của mình. Đối diện là Ba Thành, bạn học thủa thiếu thời của y. Bắt được Ba Thành khiến Ba Hoàng khoái chí. Kẻ cùng làng này là chiếc chìa để có thể mở bung những gì viên đại úy lờ mờ cảm nhận qua những thông tin cũng hết sức mu mơ về một chiến dịch nào đó của Cộng sản trong vùng tiểu đoàn Rồng Biển kiểm soát.
Bởi vậy Ba Hoàng muốn đích thân mình hỏi cung. y cố tỏ ra kiên nhẫn, thong thả rít từng hơi thuốc, nhưng ánh mắt không giấu được sự nôn nóng. Với những gì đã biết về tính cách Ba Thành và chuyện y hành xử với gia đình nhà Tư Đởn, Ba Hoàng không có ý dùng tình cảm ngọt nhạt mang tính phủ dụ như những kẻ bị bắt khác. Hy vọng vào sự sợ hãi, hoang mang của Ba Thành để từ đó con người này quy thuận là ảo tưởng. Phải “duya rếch”, ngửa bài ngay từ đầu. Với ý thức ấy, Ba Hoàng cố nén sự hí hửng. Vất chiếc tóp thuốc xuống nền nhà, đôi mắt mở to nhìn thẳng vào kẻ đang ngồi trước măt, y tỏ ra chủ động.
- Anh tưởng bọn tôi không rành Việt Cộng sắp đánh lớn sao? - Ba Hoàng giả bộ thủng thẳng. - Tôi chỉ muốn thêm thông tin để biết đích xác họ đang ém quân ở mạn nào, vậy thôi. Rất đơn giản, đúng không? Chỉ cần anh nói một câu, tôi ra lệnh thả liền. Hứa danh dự... Anh còn lạ gì tính tôi...
Ba Thành cũng ngước lên, chiếu tia nhìn vào Ba Hoàng.
- Tôi chỉ là anh du kích quèn, làm sao biết những chuyện động trời đó!
Ba Hoàng đứng dậy, cười khẩy:
- Tôi rất thiện chí, nhưng anh vẫn xạo... Anh nghĩ tôi ngu lắm hả? Anh tưởng bọn tôi không rõ anh là liên lạc, là người giúp việc thân tín của Bí thư Tỉnh uỷ Trần Sinh?
- Tôi biết ông Sáu hồi ông còn là thầy giáo ở làng... Còn sau này ổng làm gì, đâu rành.
- Đừng gạt bọn này nghe, Ba Thành... Nể tình người làng, lại một thời trẻ nít từng học với nhau, tôi chỉ hỏi riêng anh. - Hắn hạ giọng. - Chuyện anh nói ra chỉ tôi và anh biết... Nếu như anh sợ Việt Cộng trả thù, tôi sẽ bố trí để anh thoát một cách êm ả... Coi như anh trốn...
- Tôi làm sao nói ra những điều tôi không rõ...
- Được, vậy tôi bật mí để anh suy nghĩ nghe, thanh niên làng Cát, thanh niên các xã Hiệp Hoà, Xuân Hoà... kéo nhau lên rừng, anh cũng không biết?
- Tôi đâu phải chỉ huy!

- Vậy tôi nói để anh hay... Quân chủ lực Việt Cộng về, chúng cần nhiều người tải đạn, tải gạo... vậy đó...
- Mấy ông đã rõ, còn hỏi chi?
- Anh chỉ cần nói hai tiếng. - Hoàng cúi xuống sát mặt Thành. - Phải, chỉ hai tiếng địa danh nơi đó, một phút sau, anh tự do...
Ba Thành im lặng, anh thấy mừng. Công việc quan trọng anh và mọi người đang thực hiện, với bọn Ba Hoàng vẫn là ẩn số, chúng chưa mảy may hay biết. Có thể đánh hơi ra một chút gì đấy nên Ba Hoàng đoán già đoán non rồi mang sự phỏng đoán lờ mờ ra doạ. Điều ấy khiến Ba Thành nhẹ người. Anh cảm thấy yên tâm.
Ba Hoàng ngẩng phắt lên:
- Lòng kiên nhẫn của tôi có giới hạn nghe... Đừng để bọn lính nó dùng nhục hình cậy miệng anh ra... - Hoàng lại cúi xuống: Anh nói nhỏ thôi... Nào, bộ đội đang tập trung ở đâu? Rừng ẩn? Đại Lãnh? Vũng...
Thành giật mình... Anh ngẩng lên nhìn Hoàng...
- Hay Vũng... Hay vịnh Xuân Đài... Hay ở Hoà Xuân?
- Tôi đâu rõ ba chuyện đó. - Ba Thành thở phào - Có lẽ các ông nhầm...
- Phải, tao đã nhầm. - Hoàng túm lấy cổ Thành. - Đáng ra tao phải giết mày và thằng anh Cộng sản của mày từ thời còn con nít... Tao nhầm, đã bỏ lọt, nên thằng anh mày mới theo mấy cha Cộng sản ra Bắc... Hoàng hất hàm ra cửa: Dẫn hắn đi!... Xuống đó suy nghĩ thêm nghe...
Hai thằng lính đã túc trực sẵn, xông vào, giật tay Thành ra phía sau, lôi khỏi phòng. Ba Hoàng mệt mỏi và bất lực thả mình xuống ghế.
Những lúc cảm thấy bất an, bực bội, Ba Hoàng thường kêu trung sĩ Độ và hai thầy trò lại ra quán Năm Hồng uống rượu. Y muốn có những phút, như y nói là giải toả để đỡ căng thẳng. Năm Hồng và quán rượu là chỗ xả phiền muộn, đặng lấy lại thăng bằng hợp nhất. Lần trước, sau khi Tám Phụng, chẳng rõ vì nguyên do ngu muội gì thắt cổ tự vẫn, Ba Hoàng bị Hai Rạng ca trách rằng canh gác hời hợt, thiếu lương tâm, y bực, cũng ra quán Năm Hồng và hôm ấy, lần đầu tiên vừa uống rượu vừa sờ mó, vuốt ve mông và đùi người đàn bà mãi tận khuya mới liêu xiêu về tới nhà... Lâu nay Ba Hoàng chẳng mấy quan tâm đến việc vợ có nhu cầu đòi hỏi, nhu cầu giường chiếu nữa hay không. y chai lỳ và buông xuôi trước sự đó. Vợ đi với người tình cũng chẳng bực bõ để tâm. Vợ y cũng vậy, Ba Hoàng say hay tỉnh, mặc lòng. Khi sự ham muốn nhục cảm đã có chốn để thoả mãn bão hoà, người đàn bà trở nên dửng dưng với chồng. Đêm đêm họ, giống hai cái bã, trở về nhà chỉ còn là nhu cầu của thói quen.

Ba Hoàng ra quán Năm Hồng không chỉ vì rượu. Rượu nơi đâu chẳng có. Nhưng ở quán Năm Hồng có một thứ đầy huyền bí ma lực. Ba Hoàng ngày càng nhận ra người đàn bà này phong giữ những bí ẩn hấp dẫn hơn y tưởng. Không hẳn là ở cặp mông căng tròn, đôi chân với phần giáp đùi hằn lộ mây mẩy, hai vú mềm mại uyển chuyển, mà còn có một cái gì là lạ nữa rất đàn bà, rất giống cái, rất phong tình người phụ nữ khác không có khiến bản năng giống đực nơi đàn ông được đánh thức, cường tráng, thúc nén... Điều ấy khó gọi tên cụ thể, chỉ cảm được... Từ ngày hết ham muốn với vợ, Ba Hoàng năng lui tới chỗ Năm Hồng. Y thường ngồi góc khuất, lia mắt vào những đường nét trên cơ thể người chủ quán rồi buông lỏng cho trí tưởng tượng mặc sức tung hoành. Ba Hoàng khoái như vậy. Những điều chỉ nghĩ ra chưa có cơ với tới khiến những tưởng tượng thêm phong phú, càng huyền bí mênh mông và bởi vậy sự ham muốn càng lên men kích thích...
Hôm nay Ba Hoàng uống ít rượu. Y muốn khám phá. Cũng phải biết người đàn bà này có cái gì khác lạ hấp dẫn mà hút đàn ông tới vậy chớ. Hương thơm trời cho mất gì chẳng nếm, chẳng thưởng thức!
Chờ Năm Hồng bước tới gần, Ba Hoàng cầm tay người đàn bà, kéo xuống.
- Năm chiếu cố ngồi xuống chút được không?
- Đại uý cũng có thời gian rỗi sao?... - Năm Hồng thả người xuống ghế bên cạnh.
- Với Năm Hồng, có thể rỗi cả đêm luôn. - Y sẽ sàng đặt bàn tay người đàn bà trong lòng bàn tay nhỏ nhắn thư sinh của mình, đôi mắt đỏ như hòn than, suồng sã cắm vào giữa cặp đùi, vị trí khơi gợi nhiều thứ nhất...
Năm Hồng rụt tay lại:
- Còn sức không mà nói mạnh vậy?
- Nhìn thấy Năm là người cứ rậm rật nôn nao...
- Thật sao?
- Thật chớ. Mới ngửi hơi thôi đã thèm... Năm Hồng cứ như có bùa phép. Ngày càng nõn nà... Cho chút được không?
- Được! Đại uý về xin phép vợ và nếu cô đại uý đồng ý, hôm nào ra thử nghe.
- Năm khỏi lo. Tôi ngán con người đành hanh ấy tận cổ rồi... Mụ đã có người khác săn sóc. Mẹ kiếp, nếu không vì hai đứa nhỏ tôi đã bai từ lâu...

- Người đàn bà đi với người đàn ông khác bởi người đàn ông của mình bất lực... Trong quan hệ vợ chồng, chuyện làm tình quan trọng bậc nhất. Nếu đại uý dư tràn sức lực cô đại uý đâu phải kiếm tìm thêm cho mệt.
- Nghĩa là Năm coi thường, chê tôi kém cỏi phải không? Được, hôm nay tôi sẽ chứng tỏ để Năm biết thế nào là Ba Hoàng nghe... - Ba Hoàng kéo sát Năm Hồng vào người, mơn trớn vuốt ve.
- Đại uý, khách đang nhìn đó!
- Nếu Năm Hồng thích, tôi có thể đuổi tất cả lũ này ra khỏi đây ngay lúc này.
- Biết đại uý dư sức rồi... Đại uý về thể hiện sức mạnh với cô đại uý coi... - Năm Hồng nói và đứng dậy, bước ra chỗ quầy.
Ba Hoàng liu riu mắt nhìn theo, rồi đưa ly rượu lên miệng, tớp cạn.
- Về!
Tối đó Năm Hồng đóng cửa sớm. Chị dọn hàng, vào nhà tắm, rồi không mảnh vải trên người, trần truồng bước vào phòng ngủ. Chị đứng trước tấm gương treo cạnh cửa, khoái cảm ngắm ngó cơ thể lằn lẳn nhiều đường nét và mờ ảo những mảng tối sáng của mình. Chị vẫn có thói quen như vậy, những hôm biết rằng đêm nay không có ai vuốt ve thì trước khi đi ngủ, tự ngắm ngó vuốt ve... Năm Hồng xoay qua quay lại, nâng nâng cặp vú, miết tay vào mông, vuốt vào đám cỏ rậm rạp và khi đã thoả mãn, chị chui vào bộ váy ngủ bằng lụa mỏng tang, mỏng như không thể mỏng hơn được nữa, rồi lên giường...
Đang mơ mơ màng màng thì cảm được có bàn tay cứng như gỗ thành thạo sờ soạng vào bẹn... Năm Hồng tỉnh giấc, nhận ra hơi thở quen quen của Mười Bàng.
- Trời đánh, lần nào cũng đột nhập như ma. - Năm Hồng khoái chí, rạo rực rên khẽ. - Cửa cài chặt vậy mà vẫn vô được, kỳ tài! - Rồi sung sướng cầm bàn tay người đàn ông, đưa lên miệng cắn mạnh.

- Ối! Đau thế?
- Đau à? Ai biểu làm khổ người ta... Chui nhủi mãi đâu mà cả tháng trời mới ló mặt đến? Không nhớ?... Hôm nay phải suốt đêm cho bõ đó.
- Đừng giả bộ thiếu thốn nghe. - Mười Bàng thổi hơi nóng vào tai người chủ quán.
- Không thiếu, nhưng bọn lại cái yếu ẹt, chẳng đã...
- Mấy đứa giúp việc có ở nhà?
Năm Hồng hất bàn tay cứng quẹo của Mười Bàng ra khỏi bàn tay mình, vùng vằng:
- Lần nào tới cũng hỏi lũ trẻ ranh ấy, kỳ vậy? Thèm à?
- Sợ vật nhau huỳnh huỵch, lại kêu rống lên như mèo, tụi nó biết...
Năm Hồng cười:
- Khỏi lo! Chúng quen cảnh ấy rồi... Đưa tay đây, miết vô khởi động đi...
Bàn tay cứng như gỗ của Mười Bàng được bàn tay nóng tựa hơ trên lửa của Năm Hồng hoa tiêu, luồn vào ngực, lại luồn vào chiếc váy mỏng, men từ đùi đến giáp bụng dưới...
- Năm biết chuyện Ba Thành làng Cát chưa? - Mười Bàng chợt hỏi.
- Đang thích tự dưng hỏi chi ba thứ đó. Đừng làm mất hứng nghe... Bỏ quần áo ra!
- Nó bị Ba Hoàng bắt...
- Người của Việt Cộng à?
- Du kích!... Sợ Ba Hoàng hành xử như đối với thím Tư Đởn trước đây.
- Người cùng làng mà đánh nhau hoài, kỳ thiệt... Nào, trườn lên...
- Phải cứu hắn ra... Năm giúp một tay nghe.
- Chuyện đó rồi bàn... Trời ơi, đang khoái lại nói chuyện đâu đâu... - Năm Hồng rối rít - Nào, bắt đầu đi... Đó... ôi, giỏi!...
Chiếc giường rung bần bật. Năm Hồng vặn vẹo như nằm trên sỏi trên đá. Mắt lim dim, miệng ư ử giống tiếng chó con mới tách đàn. Rồi lảm nhảm những câu hết sức vô nghĩa... Người mướt mát mồ hôi, Mười Bàng biểu hiện sức mạnh đàn ông bằng những chiêu quái đản khiến người đàn bà thỉnh thoảng giật nảy, hộc lên, be be như dê bị chọc tiết. Hai cơ thể xoắn bện, tan chảy vào nhau...
- Ngon! - Khi đã lưng lửng, Năm Hồng nằm ườn ra giường nhấm nháp và nói. - Bây giờ nhờ đi, muốn cứu con trai nhà Tư Đởn phải làm gì?
- Thở... Thở chút đã... - Mười Bàng đứt quãng...
Năm Hồng đưa tay vuốt nhẹ hai bên má người đàn ông:
- Mệt à?
- Mấy hôm nay ăn đói...
- Trời ơi, sao không nói trước. Khổ!
Năm Hồng chồm dậy, không khoác áo cũng không mặc quần, ngỗn ngện bước tới chiếc tủ lấy ra hộp bánh.
- Ăn tạm cho có sức... Rồi tiếp tục, cưng... Hôm nay không dễ dàng tha đâu...
- Năm biết Ba Hoàng nhốt thằng Thành ở đâu chớ? - Mười Bàng tống miếng bánh vào miệng, gần như nuốt chửng, rồi hỏi.
- Biết!

Năm Hồng đáp rất nhanh. Chị nói cứng vậy bởi chiều nay Tư Nhâm tới quán chơi và úp úp mở mở vô tình phô ra. Chuyện ai bị bắt, Quốc gia và Cộng sản đánh nhau ở mạn nào, thiệt hại ra sao, Năm Hồng đâu để tâm. Chị chỉ có hai niềm vui, bán hàng và tìm cảm giác lạ nơi đám đàn ông vẫn lui tới, bất biết họ cộng quân hay Quốc gia. Lúc này Mười Bàng hỏi, người chủ quán mới nhớ ra. Hồi chiều, đang ngồi trò chuyện, chợt Tư Nhâm thừ mặt thở dài rồi nói:
- Nhà thím Tư Đởn vậy mà đen, chết chưa xanh cỏ, nay thằng con trai lại bị Quốc gia bắt...
- Cô quan tâm tới ba chuyện đó chi... Cái đáng quan tâm thì không quan tâm...
- Em đâu để ý, sáng nay Hai Rạng tới chơi, hết chuyện nọ xọ chuyện kia kể ra mới hay, em buồn, nói lại với chị vậy thôi... Chuyện Quốc gia và Cộng sản thù oán hơi sức đâu lo cho mệt... Nghe nói Ba Hoàng giam Ba Thành phía sau khu nhà ngang trại lính và vặn hỏi dữ lắm.
- Làng Cát đến ngày mạt rồi, anh em bạn bè cũng hận thù và đánh nhau... Cô tránh xa chuyện của họ ra... Vẫn đi chợ đều chớ?
- Ế ẩm lắm, chị Năm.
- Biểu tới đây cùng bán hàng đâu có nghe...
Tư Nhâm về rồi, Năm Hồng cũng quên luôn những gì vừa nghe, vừa nói, ai ngờ những chuyện tào lao giải sầu đó lúc này có giá để mặc cả với Mười Bàng.
- Đã biểu quanh vùng này, chuyện to chuyện nhỏ gì Năm Hồng cũng rành mà. - Năm Hồng nói.
- Tuyệt! Đáng công chui vô đây.
- Ăn đi, làm xong phận sự đàn ông rồi đâu có đó...
- Vẫn chưa đủ?
- Nhằm nhò gì... Miếng ngon ăn mãi không chán... No một lúc lại thèm. Phải thông đêm nghe.
- Được... Hôm nay không bùng như lần trước nữa...
- Ngoan lắm!... Không bùng thì nằm giáp vô...
Mười Bàng trở người và bàn tay thô ráp với những ngón xù xì tựa quả chuối hột như thể có mắt lại khôn ngoan tiếp tục sờ sẩm chu du khắp gò nổi, đồng cỏ, ao chuôm nơi thân thể người đàn bà... Và hai khối thịt, một đen thủi đen thui, một trắng ngần ngận đó lại xoắn bện chập vào làm một.
Chiếc giường khốn khổ dồi lên dằn xuống như thuyền đi biển gặp sóng lớn...
Khuya hôm sau có mấy chiếc xe máy của tiểu đội quân cảnh lướt nhanh trên đường phố Lân Cồ, rồi bất ngờ ngoặt tới khu nhà ngang trại lính tiểu đoàn Rồng Biển...
Sáng sớm, Ba Hoàng cúi gầm trước mặt Hai Rạng chịu trận.
- Đã biết Ba Thành là thân tín của Sáu Sinh mà lơ là, không có phương cách canh phòng, để du kích cướp ngay trong trại... - Hai Rạng nhăn nhó. - Tôi đã nhắc hoài, nhắc hoài mà đầu óc các anh tăm tối quá... Phải biết tính, phải biết nghĩ chớ... Đâu phải bắn nhiều, giết nhiều là đắc sách...
- Thưa... Nhất định trong trại có nội ứng...
- Nội ứng! Nghe câu đó hoài rồi... Người bị chỉ trích la rầy là tôi... Du kích làng Cát, du kích Hoà Xuân, biệt động Lân Cồ làm mưa làm gió, rồi chủ lực Việt Cộng về Hiệp Hoà, rừng ẩn... cũng lại tôi chịu trận. Mấy anh chỉ hung hăng nhưng đầu óc rỗng không...

CHƯƠNG BA

I

Đêm. Từ trên cao nhìn xuống, Vũng Rô tối nhờ, mông lung u tịch giống như cái chảo nước khổng lồ lặng phắc mờ nhoà trong sương khuya. Nhưng ở cuối vũng, nơi bãi Chình giáp chân núi vốn tứ thời hoang lạnh, không khí nhộn nhịp, náo nức. Con tàu tựa khối đá đen trũi đã nghếch được vào giáp bờ cát. Kề mũi tàu, một cầu cảng ghép bằng gỗ dềnh lên trên mặt nước.
Dân công, du kích và bộ đội đổ tới. Bãi cát nơi mép biển phút chốc sôi động. Người đứng trên tàu, người ngâm mình dưới nước. Kẻ nâng. Người đỡ. Rộn rạo, lao xao. Những hòm nặng vũ khí được thuỷ thủ và thanh niên chuyển từ hầm tàu xuống bãi, xuống xuồng... Điều ngỡ chỉ có trong tưởng tượng đang hiển hiện trước mặt. Như trong thần thoại, con tàu tựa có phép lạ từ xứ sở xa xăm nào đó bỗng dưng xuất hiện. Nó mang theo nhiều hòm, nhiều bó với những súng những đạn... Người Phú Yên đã thực sự đang cầm khẩu súng trên tay mà vẫn chưa dám tin đó là thật. Ông Năm Bào ngồi bệt, cúi xuống ấp người trên một thùng đạn, cười mà nước mắt trào ra, miệng lẩm bẩm:
- Đây là súng, là đạn thiệt sao?
- Chú Năm, tàu to hè? Mấy anh đưa được vô đây, giỏi quá.
Năm Bào không quay lại, say say tỉnh tỉnh:
- Từ khi cha sinh mẹ để tới giờ mới thấy cảnh này là một... Mười Bàng đứng trên một tảng đá giáp mép nước hô lớn:
- Theo kế hoạch, các bộ phận vô việc nghe. Lẹ lên! Tranh khủ khi còn tối trời.
Khuya, thung lũng càng rậm rịch. Du kích đổ tới ngày mỗi đông. Người vác. Người gùi. Nguời khiêng. Không gian trở nên chật chội, bé nhỏ. Mười Bàng chạy chỗ này, la hét chỗ kia, miệng quát tháo:
- Số này đưa đi cầu Cây Khế... Đội Hai hả, cho hàng xuống bãi Tiên. Cứ tới đó, đội kho có người tiếp nhận.
Bên mạn tàu, những chiếc xuồng chất đầy hàng, lặng lẽ khua mái chèo cắt nước. Xuồng ra, xuồng vào hối hả.
Trên con đường từ bãi Chình sát mép nước tới Bãi Môn, Bãi Tiên, núi Bia, dốc Cọ... đặc người. Đi ra. Đi vào. Những khuôn mặt hơn hớn, thoả mãn. Nơi sườn đá chênh vênh, người đứng dưới phải nâng hòm hàng lên cao cho kẻ ở trên đỡ. Người này đạp lên đầu kẻ kia... Năm Bào vừa chuyển thùng hàng cho Sáu Quyên, chợt trượt chân lăn xuống dốc...

- Chú Năm! - Sáu Quyên bỏ thùng đạn, tuột theo. Ông Năm nằm nghiêng, nơi trán có vệt máu.
- Để cháu dìu chú về lán.
- Khỏi, mày vác thùng đạn đi lẹ lên kẻo tắc đường... Tiếng Mười Bàng choang choác ngay cạnh:
- Chịu bao hiểm nguy, tốn bao công sức mới đưa được khẩu súng, viên đạn vô tới đây, cẩn thận nghe bà con... Ủa, chú Năm, sao vậy nè...
Ông Năm gượng đứng lên:
- Còn xa ruột mà...
- Trời ơi, chú ở đội thuyền, tới chi đây. Leo trèo là phần việc của thanh niên. Chú về đội thuyền cho tôi nhờ.
- Mày đuổi tao, Mười?
- Không đuổi, mà mệnh lệnh...
- Mệnh lệnh hả? Vậy được, tao chấp hành. Tao cũng rành kỷ luật nhà binh chớ bộ.
Từ dưới chân núi có tiếng con gái hát vọng tới: Anh ơi giữ chí cho bền - Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai. Kế đó là gịong con trai: Anh về báo nghĩa sinh thành - Chừng nào bóng xế rủ mành sẽ hay...
Thuyền trưởng Thanh đang đi về phía lán chỉ huy của Sáu Sinh, nghe tiếng hát, chợt dừng lại. Cách chỗ anh không xa, tiếng ai đó rất quen, đúng là giọng người làng Cát, tỏ ra sành nghe: “Hát sai nhịp. Luyến láy chưa đúng...”. Tiếng người khác: “Hai Liên, sao nẫu hát hay nẫu không chịu hát, chê chi...”. Tiếng chao chát đáp lại: “Tao giã chạt vào mặt mày. Lên đây chở súng chở đạn chớ lên để thử giọng sao?”. Thanh run người, lặng đi. Hơn chục năm mới lại được nghe hai tiếng nẫu, giã chạt, đặc trưng ngôn ngữ Phú Yên. Quen quá, thương quá! Bình dị, hồn hậu, chất phác mà gần gũi làm sao!... Có cái gì đó rất đỗi thân thiết rạo rực khiến anh xúc động, chỉ chực khóc. Trời ơi, quê hương đây thật rồi mà choáng ngợp như thể nằm mơ... Lúc cho tàu chạy chậm trong Vũng Rô, Thanh hồi hộp nơm nớp, và kế đó được gặp lại thầy giáo Sáu Sinh, lại ngạc nhiên bàng hoàng, nhưng anh không khóc, sao lúc này nước mắt lại ứa ra vậy chớ.

Không đi bậu nhắc bậu trông - Đi thì lại sợ Cù Mông Xuân Đài - Cù Mông là một, dốc chùa Rởi là hai - Dốc Giăng dốc Quýt dốc Xuân Đài là Năm... Anh nguyện với em tại bữa trăng rằm - Ai làm nên nỗi con tằm xa dâu?... Giọng người con gái có tên Hai Liên vừa trách ai đó hát sai nhịp chợt cất lên, trong veo. Tiếng hát vút vào không gian, quyện vào núi đồi, lan trên cát, tan trong gió biển có cái gì gợi nhớ gợi thương, da diết...
- Hai Liên vẫn là người hát hay nhất làng mình. - Có tiếng đàn ông tấm tắc.
Thanh tần ngần một lát rồi gạt nhanh những giọt nước mắt vừa rịn ra, bước vào ngôi lán của Sáu Sinh. Có chừng năm sáu cán bộ trong Ban chỉ huy bến và chính trị viên Chiêu, thuyền phó Thơm đang chờ ở đó. Thanh ngồi xuống, bóc bánh lương khô chia cho mọi người.
- Mời chú Sáu, mời các anh!
Ba Tánh đón thanh lương khô, mắt sáng lên:
- Đã mấy hôm rày không còn gạo, anh em mình chỉ ăn trái sung...
- Rồi bẻ miếng lương khô, cho vào miệng nhai ngon lành.
- Quê mình cũng thiếu lương thực vậy sao? - Thanh ngạc nhiên hỏi.
- Phú Yên có mấy khi thiếu ăn, nhưng lệnh của anh Sáu là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Với nữa địch làm găng lắm, mọi ngả đường đều bị ém chặt.
Người ngồi cạnh tham gia:
- Nay có súng đạn miền Bắc đưa vô, bọn tôi sẽ mở rộng địa bàn. Có dân khắc có cái ăn.
- Báo cáo chú Sáu và mấy anh - Thanh nói - Thời gian không nhiều, hàng còn non nửa. Làm sao bốc hết trong vài giờ đây?
Khuôn mặt Sáu Sinh nhíu lại. Một lát, ông nói:
- Mấy anh có kinh nghiệm, đề nghị cho ý kiến trước...
- Báo cáo anh Sáu - Chính trị viên Chiêu mau mồm - Theo chỉ thị của trên, tàu phải rời bến trước ba giờ sáng...
- Kẹt ha... Nghĩa là sắp tới giờ mấy anh cho tàu nhổ neo? - Có ai đó hỏi.
- Thưa các anh, tàu còn vũ khí mà phải ra khơi chúng tôi cũng ái ngại lắm. - Chiêu nói tiếp - Mất bao công sức mới đưa được con tàu vào được đây. Nhưng... lại phải tính tới công việc lâu dài... Không ra tới vùng biển quốc tế trước khi trời sáng, tôi sợ rằng...
- Tàu ở lại rồi nép vô sát chân núi và ngụy trang cho kín không được sao? - Người vừa hỏi, hớp háp.
- Phải đó! Mỗi khẩu súng, mỗi viên đạn đối với dân Khu Năm và dân Phú Yên chúng tôi là... sinh mạng. Tôi đề nghị cho tàu ở lại, tiếp tục lấy hàng, đêm mai ra khơi. Được không mấy anh? - Ba Tánh tham gia.

Thanh lúng túng đưa mắt nhìn qua Chiêu. Người chính trị viên ngồi lặng. Anh cũng thấy phân vân. Cho tàu nhổ neo hay ở lại, lý nào cũng có cái thuận và không thuận.
- Lệnh trên là vậy, nhưng tàu đã vô đây, đề nghị anh Sáu cho ý kiến cuối cùng. - Chiêu đưa đẩy.
Người bến trưởng gõ gõ ngón tay lên khúc gỗ dùng làm chỗ ngồi, rồi ông nói, giọng chùng xuống:
- Trên đã có chỉ thị vậy, ta chấp hành thôi...
Thuyền phó Thơm ngồi ở góc khuất, đứng lên, bước tới gần chỗ Sáu Sinh.
- Thưa anh Sáu và mấy anh - Thơm nói, giọng xúc động - Tôi, thuyền phó, cũng là chi uỷ viên chi bộ tàu xin được phát biểu. Tôi nhớ trong lần dặn dò trước lúc vô đây, Tư lệnh hải quân có nói rằng trong trường hợp xảy ra những việc ngoài dự kiến, cho phép chi uỷ cùng bàn bạc với chỉ huy bến rồi tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định, đừng cứng nhắc quá... Vậy nên ý kiến của tôi là, nên cho tàu ở lại, gắng lấy hết hàng trong đêm nay, gần sáng ta đưa tàu tới chân núi, nguỵ trang thật tốt, đêm mai quay ra biển... Tàu còn súng đạn mà phải trở lại miền Bắc xót xa lắm, tiếc lắm... Tôi xin hết.
Ý kiến của Thơm tựa chiếc chìa khoá mở ra một lối thoát khiến mọi người xôn xao.
- Ngay bãi Chùa có vũng nước sâu, quanh đó là núi đá...
- Mình cho tàu nép vô rồi đẵn cây, chặt lá tấp lên là ăn.
- Nhưng phải canh gác cho ngặt, không để người qua lại.
- Trời ơi, ở Bãi Chùa xưa nay có ma nào dám bén mảng tới. Du kích làng Cát xin bảo đảm việc canh gác, được không anh Sáu? - Ba Tánh phát biểu như thể mọi việc đã định đoạt...
Cuối cùng, sau khi cân nhắc trao đổi hết lẽ, mọi người nhất trí phương án của thuyền phó Thơm. Ai cũng thấy vui, phấn chấn. Sáu Sinh nói:
- Bây giờ vầy, mọi người về đơn vị, động viên lực lượng gắng lấy hết hàng trong đêm. Gần sáng ta cho tàu ém vô bãi Chùa. Các anh trên tàu thấy vậy đã ổn chưa? ổn thì ta thực hiện.

Sau này, khi sự việc đã xảy ra, mặc dù trên đánh giá rất cao thắng lợi của việc hàng trăm tấn vũ khí đã vào được mặt trận Phú Yên cùng mấy tỉnh Khu Năm, song nghĩ lại Sáu Sinh không khỏi áy náy và nhức nhối dằn vặt. Về đại cục, đã đành là thắng lợi, thắng lợi trên cả dự kiến. Có súng đạn, mạn Tua Bông, mạn đèo Nhông quân ta đã đánh nhiều trận lớn, tiêu hao nhiều sinh lực địch. Nhưng xét trên bình diện riêng tư, có những mất mát không khỏi không băn khoăn...
... Khi cùng chính trị viên Chiêu xuống tàu gặp gỡ và động viên thuỷ thủ, chợt có ai đó cất lên phía sau:
- Tiếng ai quen quen... Cho hỏi, có phải chú Sáu Sinh không? Trần Sinh quay lại, ngạc nhiên:
- Ủa, ai hè? Sao biết tên tôi vậy cà?
- Đúng tiếng chú Sáu rồi! - Người ấy reo to - Con là Tư Lăng, chồng của Tư Nhâm đây mà, chú Sáu!...
- Hả, Tư Lăng thiệt sao?
- Dạ phải, Tư Lăng vẫn theo chú đi đánh đồn Hòn Rọng đây!
- Trời đất! - Ông Sáu xúc động choàng tay ôm lấy Tư Lăng. - Chuyện cứ như trong mơ, hí.
- Được đưa vũ khí về quê, con nôn nao, mấy đêm rồi thao thức không sao ngủ được... Có phải chú là người phụ trách lấy hàng ở đây không?...
- Được về quê, ai không mừng... Tư Nhâm dò hỏi, và nhắc luôn đó... Trời ơi, cứ như không phải chuyện có thật
- Vợ và con con thế nào, chú? Nóng lòng quá.
- Tư Nhâm khoẻ! Tội, bao năm nay bị o ép, vẫn kiên gan cắm sào chờ chồng. Biết tin mày, mừng lắm đây.
- Còn bé Thảo, con của con, chú?
- Lúc đi nó chưa sinh phải không? Bây giờ bé Thảo sắp thành một thiếu nữ rồi. Cháu giống mày hồi nhỏ như đúc.
- Vậy hả chú Sáu?
- Chuyện tình cảm còn dài, ta nói sau, bây giờ tập trung vào công việc lấy hàng, hí. Nom khoẻ, lại rắn rỏi ra nhiều lắm... Tao sẽ gắng bố trí để vợ chồng gặp nhau...
- Thiệt nghe, chú Sáu!
Sau này Sáu Sinh cũng nhận ra rằng vào thời điểm ấy, tình cảm của ông đã lấn lướt lý trí để khi sự đã rồi, những lúc rảnh rang ông lại ngẫm nghĩ mà vấn mình rằng chẳng rõ làm vậy đúng hay sai.
Khi lên bờ, Sáu Sinh cho người tuông đi gọi Sáu Quyên:
- Chú cho tìm con? Trời sắp sáng đó, chú. - Sáu Quyên tới, hớt hải nói.
Kéo Sáu Quyên ra một góc, giọng Sáu Sinh rất nhỏ:
- Mày về Lân Cồ kêu Tư Nhâm ra đây, gấp lên... Nhưng phải cẩn thận nghe.
- Có việc gì quan trọng vậy chú? - Sáu Quyên ngạc nhiên.
- Trên cả quan trọng! - Sáu Sinh thầm thì - Tư Lăng, chồng Tư Nhâm đi trên “tàu không số”...
- Mèng ơi, có chuyện ấy thiệt hả, chú?
- Lẹ lên một chút. Thời gian không có nhiều đâu.
- Bao năm nay chị Tư mong, chị Tư chờ... Trời có mắt... Con đi ngay đây.
- Nè, đừng lộ ra nghe, hết sức cẩn thận.
- Dạ, con hiểu.

*

Hai người, Trần Sinh và Hai Thanh ngồi trên tảng đá sát mép n- ước. Phía sau họ, con tàu ém dính vào chân núi được ngụy trang nom như chú nhím đang xẹp lông vào để ngủ. Ngoài tấm lưới tựa một lùm cây che phủ phía trên, nơi boong tàu, nhiều cây dứa dại đựợc cắm xuống.
Chuyện của mười năm nhiều nhiều như nước biển, nhưng sao khó nói. Cả hai đều dè chừng, không dám nhắc tới những điều mà lẽ thường, trong hoàn cảnh này được quan tâm. Gần sáng. Phía đằng đông, nơi giáp nối trời và biển, một mảng tím nhờ mỏng mờ ửng lên...
Cuối cùng Thanh chủ động lên tiếng:
- Tối qua tới giờ, con hỏi chuyện gia đình mà chú Sáu lần lữa hoài...
- Thì cũng định cho xong xuôi công việc... lựa lúc thảnh thơi đã... Còn thuốc không Thanh?
- Trước đây đâu thấy chú xài.
Thanh móc bao thuốc, Sáu Sinh tỉa một điếu, gõ gõ lên bàn tay:
- Những lúc căng thẳng, bập vài hơi... Nè, ông già ngoài đó khỏe chớ?
- Dạ, dịp này cũng đỡ. Nhưng nhớ quê lắm. Ba con ước ao một lần được về lại Phú Yên, về lại làng Cát... Ông đâu rành giờ này thày trò mình đang ngồi trên bờ đá Vũng Rô...
- Kỷ luật chiến trường mà... Thanh nè, nhưng phải bình tĩnh nghe...
- Chú Sáu khỏi áy náy... Chuyện má hy sinh, hồi hôm anh Ba Tánh đã cho con hay... Con thương má con lắm... Thời còn ở nhà, má chiều con với em Thành quá trời...
Sáu Sinh buông tiếng thở dài:
- Thím Tư thiệt là người phụ nữ ít ai bì...
Hai người lại ngồi yên. Một lát, Thanh hỏi:
- Sao tối qua con không thấy Ba Thành tham gia lấy hàng, chú Sáu? Lại cũng đã có chuyện gì phải không?
- Có chuyện... Song ổn rồi...
Thanh lo lắng quay sang. Sáu Sinh rủi rải:
- Mấy hôm trước, Ba Thành không may bị địch bắt... Nhưng du kích làng Cát đã phối hợp với cơ sở của ta giải thoát...
- Hèn chi... Em Thành giờ ở đâu, chú Sáu...
- Đã được đưa về nơi an toàn... Có bị tra tấn. Cũng không nặng lắm...
- Chú ơi, con có thể...
- Ta đã nghĩ tới chuyện đó, nhưng thời gian chẳng còn nhiều... e không kịp... - Ngừng một lát, ông Sáu nói tiếp - Mười năm mà lâu lắc như cả trăm năm, phải chưa?

- Dạ! Mười năm ba tháng... - Thanh nói nhỏ. - Hồi con theo ba đi tập kết, em Thành còn nhỏ xíu...
- Lúc này đã là một cán bộ chững chạc của cách mạng rồi...
Thanh lặng im, nhìn ra biển. Anh rõ rằng ông Sáu chưa bố trí để hai anh em gặp nhau được chắc vì điều kiện không thuận. Ông vốn là người hết sức tình cảm và tâm lý. ông cũng là người biết nên làm gì và chưa nên làm gì. Rành vậy nhưng sao lúc này thấy nhớ, thấy thương thằng em quá chừng! Nó với Thanh không chỉ là cùng khúc ruột của má rứt ra mà còn là hình là bóng của nhau. Thời còn nhỏ sống ở làng, có bao giờ thằng Thành rời Thanh nửa bước. Những ngày tết ngày giỗ, nếu Thanh có việc, nó đâu chịu một mình theo má sang ông bà ngoại, hoặc nếu đi cũng trong thoáng lát là nhớn nhác mắt trước mắt sau giục má, đòi về. Nó sợ Thanh ở nhà một mình buồn, mà không có Thanh bên cạnh nó cũng buồn. Nhà ngoại có xa ngái gì, chỉ cách nhà Thanh có cánh đồng và con kênh nhỏ. Một lần má sai Thanh sang bên đó biếu ngoại mấy quả mướp đầu mùa. Thanh định bụng chạy ù rồi về kẻo thằng Thành mong. Ai dè sang đến nơi thì mưa như cầm chĩnh mà trút. Trời đất âm u, sụp sập. Nước ngập tràn con kênh, láng trắng cánh đồng. Tối đến mưa cũng chẳng dứt. Thanh đành ngủ lại. ở nhà, thằng Thành thao thức, trằn trọc xoay qua xoay tới. Quờ chân tìm hơi ấm của Thanh, không thấy, nó không ngủ được. Nửa đêm, đợi má thiêm thiếp, nó lén dậy lấy nón, khoác áo tơi, đội mưa, lểnh khểnh lội nước lần mò trong đêm sang nhà ngoại. Ông bà và Thanh hối hải bùng dậy khi nghe tiếng thằng Thành gọi ở cổng. Ngoại lo ngại, ngỡ rằng đêm hôm má ốm đau gì cho thằng Thành sang kêu, luống cuống châm đèn, chập chờn chạy ra. Nhưng khi vừa trông thấy Thanh thì thằng Thành nhếch cặp môi bợt trắng vì lạnh ra cười. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, nó nói gọn lỏn, tỉnh không: “Con sang ngủ với anh Thanh!”. Đêm ấy hai anh em ôm nhau ngủ một giấc đến sáng bảnh mới lồm cồm bò dậy.
Hồi thày giáo Sáu Sinh trở về mở trường dạy chữ, má cho hai đứa theo học. Cùng học có hơn chục trẻ trong làng, toàn những thằng nghịch như quỷ. Tan học, ra khỏi lớp là thể nào cũng trêu chọc, chia bè, phân cánh đánh nhau. Thằng Thành ít tuổi hơn nhưng lúc nào cũng kè kè bên Thanh. Nó sợ rời nó ra, Thanh bị bọn bạn cùng học bắt nạt. Và điều ấy đã xảy ra đúng hôm Thành bị cảm, phải nghỉ.

Trong lớp, thằng Ba Hoàng là đứa hay ăn hiếp bạn học. Cậy thế con nhà giàu nên đứa nào không làm nó vừa ý là tìm cách gây sự. Mỗi buổi học Ba Hoàng bắt một đứa tìm lá khoai lang và nhọ nồi để nó chùi cái bảng đen vẫn đeo lẹt phẹt bên hông. Lá khoai lang vò nát, xát đậm nhọ nồi rồi phết lên bảng gỗ thì trơn, mịn, đen, viết phấn trắng vào rất ăn nên rõ lắm. Hôm đến lượt Thanh, anh không mang. Chẳng hẳn Thanh quên. Mấy luống khoai má mới trồng đang mơn mởn vươn những cái mầm măng tơ, ngắt đi sao đặng. Ba Hoàng nhìn Thanh, hất hàm:
- Sao, bộ nhà mày vụ này đất để cho chó ỉa mà không trồng khoai?
Thanh cự:
- Khoai chưa có lá. Nhà mày có, sao không hái? Ba Hoàng trừng đôi mắt to nhìn Thanh:
- Cãi tao là hối không kịp nghe mày.
Chắc hắn ngạc nhiên vì con nhà Tư Đởn rách rớt lại dám tẩy cái điều vốn đã thành lệ trong lớp. Trên đường về, thằng Hoàng đi sau cứ lầu bầu nói cạnh khoé. Rồi chốc chốc đưa chân ra ngáng để Thanh vấp. Mỗi lần thấy Thanh loạng choạng chúi người về phía trước, thằng con nhà Trần Nhũng cùng bọn trẻ cười ồ. Đến ngã ba nơi có con đường dẫn vào nhà Thanh, thằng Ba Hoàng đá vào chân anh khi bước. Thanh bị hẫng, ngã úp mặt xuống đất. Không nén được, Thanh vớ hòn đá bên cạnh ném vào người Ba Hoàng. Chờ có vậy, thằng con nhà giàu giáng một quả đấm vào mặt Thanh. Không chịu lép, Thanh rướn lên, cũng tống mạnh quả thụi vào ngực nó. Lập tức thằng Hoàng ôm lấy Thanh, vật xuống và cứ thế nện túi bụi. Biết mình sức yếu, khó đánh lại Ba Hoàng, nên Thanh chỉ gắng chống cự, tránh những đòn hiểm. Cuối cùng thằng Hoàng to khoẻ thắng thế, nó lật ngửa Thanh và ngồi lên bụng. Đám học trò gan sứa đứng ngoài xem, có đứa sợ liên lụy đã lảng ra xa. Đang lúc Thanh thất thế, từ lối rẽ về nhà, thằng Thành lũn cũn trong chiếc áo mặc thừa của ba rộng thùng thình đầy những mụn vá lao vút ra... Không nói một câu, rất nhanh, nó húc mạnh đầu vào người thằng Hoàng. Hoàng bị choáng, lại bất ngờ, ngã nhào xuống đường. Hình như thấy vậy vẫn như chưa đủ, thằng Thành liền nhào tới, ôm lấy đầu Ba Hoàng, rồi cắn mạnh vào bả vai. Thằng Hoàng chắc đau, kêu ré lên, đành bỏ Thanh. Nhưng để trả đũa, nó vớ nửa cái bát vỡ cạnh đường giáng mạnh vào đầu thằng Thành, rồi bất chấp hậu quả, vùng dậy chạy biến về nhà. Thằng Thành ngã vật xuống ôm mặt quằn quại. Máu từ đầu chảy xuống hai bên má. Nhưng Thành không kêu, không rên la, chỉ nghiến hai hàm răng vào nhau. Thanh vội xốc em lên lưng, xiêu xiêu vẹo vẹo bươn về. Bọn học trò sợ hãi tản nhanh vào các lối. Thanh thương em lắm, chắc nó đau. Máu trên đầu hắn rơi xuống cổ khiến cuống họng Thanh tắc nghẽn. Thành không khóc nhưng nước mắt Thanh trào ra. Anh bíu chặt hai bắp đùi thằng Thành, cố chạy thật nhanh. Thằng em bám trên lưng, ngắt quãng phả hơi nóng vào gáy Thanh: “'Em đã biểu anh... đừng đi một mình... bọn nó ăn hiếp...”

Hai anh em quý nhau vậy tưởng được ở bên nhau mãi. Ai ngờ hoàn cảnh đưa đẩy để rồi bây giờ, sau hơn mười năm xa cách, nay đã cùng ở trên một vùng cát mà cũng khó gặp...
Một ngày cuối năm năm tư, ba từ trên huyện về. Ông nói:
- Trên phân công tôi đi tập kết đó, bà nghĩ sao? Má đáp:
- Tính sao! Trên phân công, ông cứ đi! Ông đi hai năm rồi ông về chớ lâu lắc gì. Chẳng đã có những lần ông đi biệt đến ba, bốn năm lận.
- Tôi đi đã đành... Là tôi muốn nói đến thằng Thanh, thằng Thành...
Má tặc lưỡi:
- Thì thằng lớn đi với ông, thằng nhỏ ở nhà với tôi...
Nghe vậy, Thành bỏ củ khoai đang bóc dở vào rổ, lại ngồi bên anh, nũng nịu:
- Không, con không cho anh Hai đi... Má không nghe, con theo ba luôn đó.
- Vậy em định để má ở nhà một mình cho tụi nó bắt nạt sao? - Thanh nói.
- Nhưng em không muốn xa anh.
Nói là nói vậy, nhưng sau khi bàn đi tính tới, ba má quyết định thằng anh theo ba ra Bắc, thằng em ở lại với má, thằng Thành có buồn nhưng thấy hợp, phải nghe. Hai anh em đâu muốn ba ra ngoài đó một mình, càng không thể để má lẻ loi cô quạnh ở nhà.
Hôm lên đường, thằng Thành cởi chiếc áo đang mặc đổi cho Thanh:
- Ngoài Bắc lạnh đó, anh Hai.
Rồi hai má con cứ bước gằn theo Thanh và ba hoài. Ba giục mấy bận, má tìm cách lựa:
- Cho má con tôi đi thêm đoạn nữa, biết đến khi nào mới được gặp lại.
Ba thua. Thằng Thành nắm tay Thanh chạy lắt thắt bên cạnh, lúc lúc lại dặn:
- Đi hai năm rồi về nghe, anh Hai. Anh Hai hổng được ở ngoải lâu...
- Được! Nhưng em nhớ chăm học... Đừng đánh nhau để má phải buồn.
- Nhưng thằng Ba Hoàng cậy thế ăn hiếp, em không chịu.
- Em không nghe má vẫn nhắc, một sự nhịn là chín sự lành sao? Thằng Thành nói lảng:
- Bao giờ cây ổi nhà mình có quả, em sẽ để phần anh và ba những quả to nhất. Cây ổi độ năm nữa bói...

Đến con đường rẽ ra biển, ba dừng lại, nói:
- Hai má con có gì dặn dò ba con tôi nữa không... Nếu không, về kẻo xa.
Má dừng lại, rồi ôm lấy ba, ôm lấy Thanh, nước mắt mờ nhoè:
- Cha con đi mạnh giỏi!
Thằng Thành quấn lấy Thanh, không muốn buông, hai tay sờ sờ lên hàng cúc áo ngực của anh, bịn rịn hết mức...
Đi được một đoạn, Thanh quay lại vẫn thấy má và em đứng lặng nhìn theo. Thanh ứa nước mắt, nói to:
- Má ơi, hai năm rồi con về! Hai năm anh về nghe, Thành. Ở nhà đừng để má buồn...
Lúc ấy thằng Thành ra chiều hiểu ý. Nó đưa tay áo bạc phếch quệt ngang mày, gật gật đầu. Thanh quay nhanh và cũng gạt nước mắt, quệnh quạng bước theo ba.
Đêm ấy chưa có tàu, Thanh hơ hải lẽo đẽo chạy một mạch hơn chục cây số về nhà. Tới nơi, khoảng nửa đêm. Mới lần tay lên then cửa, chưa kịp gọi, đã nghe tiếng thằng Thành từ trong nhà la to:
- “Má ơi, má ơi, anh Hai con về. Con biết thể nào anh Hai cũng về với con bữa nữa mà...”.
Kế đó là tiếng lạt xạt mài trên đất của đôi chân trần đang vội vã lao tới. Cánh cửa liếp bật mạnh. Thằng Thành choàng lấy cổ Thanh, đu lên. Hắn hà hít mùi mô hôi chua loét của Thanh như thể anh em xa nhau đã lâu lắm...
Thanh chỉ ở nhà với má với em một lúc, sáng đó đã phải xuống tàu. Tưởng hai năm thì về, ai dè đã mười năm có dư vẫn chưa được gặp lại em, gặp lại má. Trong quãng thời gian đằng đẵng đó, có lúc nào Thanh nguôi thương má, nhớ em. Chẳng lúc nào quên hình ảnh thằng Thành bám níu trên cổ, nói đứt nối: “Em đã biểu... anh đừng đi một mình... chúng ăn hiếp...”.
Thanh gắng nén tiếng thở dài, nhìn ra xa. Mặt biển sáng sớm trong veo, thanh thản và mãn nguyện trải rộng khoan khoái tựa một người ngủ đẫy giấc, bừng thức. Những con sóng lấp loá ánh mặt trời ban mai lướt thướt đuổi nhau, xô nhẹ vào bờ lao xao như lời chào mời vui vẻ nhiều thiện ý trong phiên chợ sớm. Màu tím nhạt nơi chân trời đang chuyển thành màu phớt hồng. Biển xanh dần... Chợt đâu đó trong thinh không có tiếng ầm ì lẫn trong âm thanh của sóng. Rồi tiếng động cơ rõ dần. Sáu Sinh vội ngẩng lên.

- Chà, cớ chi hôm rày bọn trinh sát lượn lờ sớm vậy hè? - Ông nói và nhìn theo chiếc máy bay từa tựa con chuồn chuồn đá đang vè vè trên nền trời, vòng quanh Vũng Rô. ánh mắt người Bí thư thoáng chút lo lắng. - Ngồi đây nghe Thanh, để kiểm tra coi vũ khí đã chuyển vô hang tới đâu.
Ông Sáu đi rồi, ngồi lại một mình Thanh cảm thấy cô đơn lạ. Thay cho niềm vui hồi hôm khi đưa được vũ khí về quê là nỗi buồn của sự mất mát. Theo Ba Tánh kể lại thì má chết thảm quá. Trời ơi, sao ba con thằng Trần Nhũng, Trần Hoàng ác vậy chớ! Tụi nó học ở đâu cách hành hạ con người nhẫn tâm thế? Người làng Cát có câu: trông mặt mà đặt hình dong... nhưng mặt mũi thằng Ba Hoàng đâu đến nỗi. Khác với Trần Nhũng, da bì bì, trán ngắn tủn, người thấp tè như cây nấm, khuôn mặt Ba Hoàng sáng sủa, mắt to, tinh nhanh. Da mịn và trắng như da con gái. Môi mỏng và đỏ. Nhiều người nói rằng hắn được thừa hưởng những điều đó ở người mẹ. Lại cao ráo, dáng dấp thư sinh như một cậu giáo. Trông bề ngoài không ai nghĩ rằng Ba Hoàng là con trai Trần Nhũng... Thừa hưởng hình thức của má, người phụ nữ được coi là dịu hiền xinh đẹp nhất làng Cát, sao mày không thừa hưởng tâm hồn của bà, Ba Hoàng? Cớ chi tâm địa thúi thiu, đen ngòm vậy?... Má ta có tội gì? Bà là người phụ nữ rất mực nhân hậu, chưa hại đến con sâu cái kiến. Cả cuộc đời chưa một ngày sống cho mình, sống vì mình. Coi việc quan tâm chăm nom đến người khác như
là bổn phận, như là căn duyên ở đời. Với chòm xóm láng giềng hết sức chu tất vị tha. Vậy mà...
Má ơi, con là thằng Hai Thanh, con trai của má đây. Mười năm rồi con mới có cơ hội được đặt chân lên đất quê ta. Con mừng lắm! Trên đường vượt biển trở về con thấp thỏm mong ngóng ước ao rồi cầu trời khấn phật cho sự may mắn ấy nhân lên: con được gặp má, dù chỉ trong chốc lát... Gặp để sà vào lòng má mà hưởng chút hơi ấm và nũng nịu như thuở thơ dại; để được má xoa nắn hai bên bả vai mà hỏi han mà trách móc, dặn dò... Nhưng cay nghiệt quá, má ơi!... Má không còn, con thấy mình như kẻ bộ hành chơi vơi chới với trên đường đời. Phía trước là gì, mấp mô đá nhọn hay sình lầy cạm bẫy, không có má lấy ai là người đồng hành chỉ dắt con, đặng đo lường lượng sức để bước thấp bước cao?... Hồi ra đi, con mới chỉ là chàng thiếu niên bé dại, nay con trai của má đã là thuyền trưởng, chỉ huy một con tàu rồi. Nhưng đối với má lúc nào con cũng cảm thấy mình là đứa trẻ nít nhỏ dại khờ khạo cần được dạy dỗ bảo ban, cần được ủ che, ấp đỡ... Má ơi, cách chỗ má nằm chỉ vài tiếng đi bộ mà con không có cách chi đến được để thắp cho má nén nhang. Con thật có lỗi, con thật bất hiếu, con thật vô tích sự... Má tha lỗi cho con nghe má! Tối nay con đã phải ra biển để trở lại ngoài đó, nơi ba và con mười năm qua sống trong đợi chờ lo lắng, sống trong thấp thỏm và nỗi đau đáu khôn nguôi mong ngóng tin tức của má, của em Ba. Con xin má điều này nữa, má chớ trách cứ nếu như khi trở lại miền Bắc con đành nói dối. Ba yếu lắm rồi, đêm nằm cạnh, con biết ba rất ít ngủ, phần vì thắt thẻo thương nhớ má, nghĩ về má, phần vì bệnh hen không thuyên giảm, ba vẫn ho sù sụ, bởi vậy ba sẽ không chịu thấu nếu hay tin dữ này. Ba thương má vô chừng. Người vẫn nói với con rằng đời ông trở nên có ý nghĩa và làm vài việc gì đó có ích là bởi may mắn được trời ban cho điều vô giá, làm bạn với má. Nếu có kiếp sau ba nhất quyết vẫn đi cùng trời cuối đất tìm má để xin được làm chồng... Không nói ra nhưng con biết ba vẫn giấu kín điều băn khoăn nhức buốt rằng chẳng rõ sức khoẻ có cho ông ở tới ngày nước nhà thống nhất để được gặp má, sống bên má trong khoảng thời gian còn lại của tuổi xế chiều... Ai dè sự đời trớ trêu, má lại bỏ ba mà đi trước, má ơi!... Đêm nay con ra khơi, sống khôn chết thiêng má phù hộ cho con thuận lợi mọi bề má nghe. Từ Vũng Rô này con xin hướng về làng Cát vái vọng hương hồn má để tạ tội. Con hứa không làm điều gì thất đức đặng xứng là đứa con ngoan của má... Hoà bình trở lại, con sẽ về quê để được ở bên má...
Gió từ biển thổi mạnh, đẩy sóng đập vào chân núi tung bọt nước phủ bạc trắng những tảng đá ven bờ. Mặt trời hồng rực tựa chiếc mâm đồng nung lửa từ biển nhô lên khiến cả một vùng sáng bừng... Đại dương phô mình trong sự sảng khoái mạnh mẽ giống như chàng trai cường tráng no giấc vươn vai hớn hở đón bình minh. Không khí ban mai thoáng đãng trong lành có cái gì đó hết sức gợi cảm... Thanh ngồi thêm một lát rồi nhảy từ tảng đá này qua tảng đá khác đi về phía hõm núi, nơi anh em thủy thủ đang nghỉ tạm chờ đợi ở đó...

II

Chiếc xe Jeep cua gấp một vòng, lượn xuống chân đèo. Mặt biển thấp thoáng phơi mình trong nắng, xanh ngăn ngắt... Chưa đâu biển xanh như vùng biển dưới chân đèo Cả. Xanh đến ngỡ ngàng. Xanh đến bâng khuâng. Khó có thể không hướng mắt nhìn ra xa, nơi mặt trời đang nhấp nhánh phả nắng xuống thảm nước biêng biếc, bao la, nơi gió mặn đưa lên mát rượi. Đèo Cả uốn lượn trong mênh mang hư thực của trời, núi và biển, của nắng và gió... Khác với lệ thường, mỗi lần có công chuyện chạy qua khúc lộ này, Hai Rạng đều chiềng mặt qua cửa xe hứng nắng hứng gió và ngắm ngó cái khối nước khổng lồ kỳ ảo mênh mông trải ra phía dưới, hôm nay anh không thế.
- Đi gấp, nhưng phải cẩn thận nghe!
Hai Rạng nhắc người lái xe rồi bỏ mũ, đeo kính mát, đổ người ra chiếc ghế sau, lim dim mắt ngồi lặng. Cú điện thoại gấp gáp từ Bộ chỉ huy Quân đoàn sáng nay gọi tới vẫn ám ảnh khiến anh không yên lòng. Vừa bước chân vào phòng làm việc, đã nghe chuông điện thoại giục giã đổ liên hồi. Kế đó là tiếng của đại tá Hưng, Phó Tư lệnh Quân đoàn Hai oang oang khi ống nghe vừa nhấc lên:
- Vũng Rô đã không thuộc quyền kiểm soát của tiểu đoàn Rồng Biển từ bao giờ vậy, ông thiếu tá?
Hai Rạng không hiểu, ngớ ra:
- Thưa đại tá, Vũng Rô thuộc địa phận Phú Yên... Và chúng tôi... Người nói trong máy ngắt lời:
- Tôi bất biết nó thuộc tỉnh nào, khu nào... Tôi chỉ nói rằng các anh hình như đang thoả mãn, không rành quản lý...
- Thưa...
- Ngay chín giờ sáng nay anh phải có mặt tại Sở chỉ huy Quân đoàn. Tới đó sẽ rõ. Nên nhớ, tôi không ưa sự trễ nải nghe...
- Thưa đại tá, thời gian gấp quá... E rằng...
- Đó là việc của anh!
Sau đấy là tiếng tút liên hồi trong ống nghe. Biết thượng cấp đang bực, đã bỏ máy, Hai Rạng vội vàng gọi xe.
- Vô Nha Trang! Đi lẹ nghe.
Anh nhào vào xe, thả người xuống chiếc ghế sau và ra lệnh. Chiếc Jeep trườn nhanh khỏi doanh trại. Bây giờ nó đã vượt qua đèo Cả và đang tăng tốc độ. Gió từ biển tạt vào hai bên sườn ràn rạt và những chiếc xe chạy ngược chiều hối hả cứ như đi hôi của, phải cướp thời gian, vun vút lướt qua. Hai Rạng nóng lòng xem đồng hồ rồi lại ngả người về phía sau, khuôn mặt nhăn nhó tựa kẻ bị bệnh đường ruột buồn đi tháo. Chẳng rõ đã có việc gì khẩn mà cấp trên triệu anh vào Sở chỉ huy Quân đoàn gấp vậy. Tin tức tình báo cho hay, Việt Cộng đã rục rịch điều động quân, nhưng địa dư nằm trong khu vực tiểu đoàn của Hai Rạng có trách nhiệm kiểm soát so với trước yên tĩnh hơn, không có những dấu hiệu bị đe doạ. Chẳng lẽ lại là sự cố tên du kích thân tín của Sáu Sinh được du kích giải thoát khiến cấp trên không hài lòng? Chắc không phải. Việc đó Hai Rạng chưa hề báo cáo, với nữa xảy ra đã mấy hôm và không nặng nề tới mức khiến đại tá Hưng phải giận dữ nói theo kiểu dằn mặt trong điện thoại. Vậy việc gì ta? Chẳng lẽ nỗi nghi ngờ rằng người làng Cát và vùng quanh đó hớn hở đi tiếp tế cho Cộng sản đã làm cấp trên bực bội? Nhưng lấy gì làm chắc họ đi công vụ cho Cộng sản? Đó chỉ là những phỏng đoán vu vơ, thường là bệnh nghề nghiệp, nhìn đâu cũng thấy địch của Ba Hoàng và đám sĩ quan cộng tác với CIA. Hai Rạng đang gắng làm rõ sự việc để tường trình lên trên. Thôi, mặc. Không giận dữ quát tháo và luôn quan trọng hoá kể cả những chuyện đơn giản như một gã lính nào đó chẳng may bị bệnh giang mai, đâu còn là đặc trưng của cấp trên. Chỉ là viên đại uý quèn, Ba Hoàng còn luôn nhặng xị la rầy với cấp dưới huống hồ những người nhiều bông mai hơn... Nghĩ thế để trấn an song Hai Rạng vẫn thấy canh cánh, không bình tâm. “Tới đó anh sẽ rõ... tôi không ưa sự trễ nải nghe.” Viên thiếu tá khẽ thở dài rồi cố lục lại những chi tiết có liên quan tới lời đe doạ sáng nay trên điện thoại của người sĩ quan được giao làm công tác quân báo... Nhưng nghĩ không ra. Hình như đã có cái gì đó rất khó hiểu trong việc này... Hai Rạng nhắm mắt, cố xua đi những phán đoán. Anh đã làm hết phận sự. Anh đã phụng sự Quốc gia hết mình với ý thức chống chủ nghĩa Cộng sản tuyệt đối. Nếu có những điều ngoài ý muốn thì đó là do lực bất tòng tâm. Thế của Cộng sản đang lên, và quân lực Quốc gia bị tổn hao là bởi thời vận. Khổng Tử đã nói, người quân tử phải biết chữ thời. Không ai nằm ngoài vòng tròn vận hạn!...

Gần tới Nha Trang xe chạy mỗi lúc một nhanh. Hàng dừa bên đường lướt qua loa loá. Và biển lại hiện ra. Màu xanh bao la trải rộng, ngút tầm nhìn. Gió hào phóng mang muối mặn của đại dương phả vào mát dịu. Sự thoáng rộng trong lành của không gian nơi đây hình như phần nào làm vơi tan những băn khoăn của Hai Rạng. Anh nhìn ra, hít thật sâu không khí vào lồng ngực và thấy dễ chịu hơn. Đã khá lâu Hai Rạng không về lại Nha Trang. Nơi đây với anh ám ảnh những kỷ niệm buồn, nhưng dẫu sao đó vẫn là thành phố du lịch kề bãi biển đẹp, thơ mộng và dịu dàng. Từ ngày gặp lại Tư Nhâm, hình ảnh về người phụ nữ này như những tín hiệu điện tử không có tạp âm đè chồng, làm lu mờ mối tình xưa trong cuốn băng quãng đời trước đây khiến Hai Rạng đã không còn mấy mặc cảm với thành phố biển này nữa. Tư Nhâm không một biểu hiện phô bày, cô lặng lẽ, thỉ thảo như mạch nước ngầm mát ngọt trong lành, nhỉ nhả tự nhiên nhưng vô thức ngấm thấm hết sức bạo liệt vào cuộc đời anh. Hai Rạng ngày càng ý thức rõ ràng điều hệ trọng đó, điều anh vẫn gọi là duyên phận may mắn của mình. Sau những gì xảy ra trong cái ngày mưa tầm mưa tã ấy ở nhà Tư Nhâm, Hai Rạng chạnh buồn nhưng lại thấy yêu Tư Nhâm hơn, trân trọng và quý mến cô hơn. Tư Nhâm với những gì anh cảm nhận và chứng kiến quả là báu vật. Mấy ngày liền sau cái buổi anh không kìm chế nổi tình cảm đã tỏ ra suồng sã ấy, Hai Rạng mặc cảm, anh cố gìm giữ tình cảm, không lui tới căn nhà hết sức hấp dẫn gần gũi có khu vườn khá rộng, kín đáo đó nữa. Anh muốn có thời gian để tĩnh tâm nhìn nhận hết thảy mọi điều, cộng với đấy là công việc người lính trong chiến tranh, lại ở vị thế như anh không mấy nhiều thời gian...
Rồi một hôm anh chợt thấy nóng lòng và như thể có một linh cảm nào đó mách bảo rằng Tư Nhâm đang gặp chuyện chẳng lành, gạt công việc sang bên, anh tuông tới. Tư Nhâm bị cảm từ cái ngày mưa gió ấy. Nhìn chị gầy xọp, võ vàng, Hai Rạng tự trách mình vô tâm, cố chấp. Anh thấy lo lắng, rồi để chuộc lỗi, đã tự mình ra chợ mua thực phẩm, chui vào bếp nấu cháo, và làm những việc vặt vặt trong nhà. Một sĩ quan từng quen có người phục vụ, nay phải làm những việc như Hai Rạng đang làm là quá sức, nhưng anh vượt qua được. Những ngày Tư Nhâm còn yếu, hầu như tối nào anh cũng tới và chăm sóc hết sức chu đáo. Anh mua sữa, mua hoa quả, ép ăn. Một lần anh bảo:
- Chị Năm Hồng nói đúng, em sống một mình trong ngôi nhà mà
chòm xóm khá xa thế này rất không tiện. Hình phạt lớn nhất của con người là sự cô đơn...
- Đã mười năm nay... quen rồi...
- Tư giống má anh, cái gì đã ngoắc vào đầu là khó gỡ ra... - Hai Rạng nói và đưa cho cô cốc nước cam anh vừa vắt. Tư Nhâm đỡ lấy, cảm động nhìn.
- Anh tốt quá, Hai Rạng ạ... Nhưng anh có biết như thế là làm khổ em không?... - Cô nói, rồi đặt cốc nước cam xuống bàn, ngồi lặng, mắt rơm rớm.

Hai Rạng ngạc nhiên. Nhưng anh thấy sung sướng. Đã mấy chục năm kể từ ngày còn cởi trần bắt dế ở làng, Hai Rạng mới lại nghe Tư Nhâm xưng hô với mình như vậy. Tiếng “em” ngọt lịm bật ra một cách vô thức từ miệng người phụ nữ khiến Hai Rạng ngất ngây. Có cái gì rạo rực lâng lâng trào lên trong lòng khiến anh sững sờ, anh ngây thộn nở nụ cười thoả mãn. Anh rõ đây cũng là lần đầu tiên Tư Nhâm thật lòng với tình cảm của mình.
- Anh và em... Có lẽ chúng ta không có duyên phận đâu. - Tư Nhâm nói, chắc cô đã gắng lắm mới bật ra được như vậy, bởi nói xong câu ấy khuôn mặt cô thừ ra, đọng một nét gì đó hết sức khổ tâm.
- Có chứ!... Thượng đế chẳng đã cố tình bày đặt sao? - Hai Rạng vẫn hết sức vô tư - Anh tin vào sự có lý đó.
- Thượng đế bày đặt ư?... Trời ơi, nếu như có thượng đế!... Nhưng tại sao Thượng đế lại thích đùa, gây ra nhiều phiền toái rắc rối như vậy? Thượng đế không để con người được yên, được thanh thản. Em không tin có thượng đế. Từ nhỏ, em đã được người ta răn dạy như thế... Không có thượng đế. Không có...
- Cộng sản vô thần. Họ chỉ chấp nhận cái đã biết mà không có khả năng chấp nhận cái chưa biết. Bởi thế họ cứng nhắc, sai lầm và trở nên hết sức nguy hiểm.
Tư Nhâm khẽ thở dài, đôi mắt lơ đãng nhìn ra ngoài.
- Ví thử em là kẻ vô thần, anh có đối với em thế này không? - Cô chợt hỏi.
Hai Rạng cười thành tiếng:
- Anh yêu một Tư Nhâm cụ thể, cô gái có đôi bàn chân bé xíu, không giầy dép đã từng lon ton chạy theo anh bắt dế trên bãi cát, nơi hai đứa có thời thơ dại rất đẹp... Cô bé đó đa cảm, biết mủi lòng trước cái chết của một con dế, sao vô thần được...
Tư Nhâm không trả lời, cô ngồi lặng, tư lự cười buồn.
- Anh thương em thực lòng mà, Tư... - Một lát, Hai Rạng nói.
- Đừng nói vậy nữa... Anh không hiểu gì cả... Không hiểu gì cả. Em xin anh đừng chăm sóc, lo lắng cho em nữa... Đừng làm khổ em thêm.

- Nghĩa là sao, anh vẫn không rành...
- Em là một phụ nữ đã có con... Đã có con. - Tư Nhâm bỗng dưng nói to. - Anh là người đàn ông thông minh cơ mà... Trời ơi, tại sao anh cứ không chịu hiểu vậy?
- Anh hiểu chớ...
- Hiểu cái gì? Anh không hiểu gì cả, anh không biết gì cả... Anh là gã ngốc, về đi...
Tư Nhâm chạy thốc vào giường, ôm mặt khóc nấc lên. Hai Rạng bối rối đứng như chôn chân giữa nhà... Lúc này nghĩ lại quả anh vẫn không rõ đã có điều gì đã khiến Tư Nhâm ứng xử khó khăn đến thế... Anh chấp nhận quá khứ, tự nguyện chấp nhận sự lỡ làng của cô kia mà! Anh yêu cô và sẽ yêu những gì thuộc về cô, kể cả bé Thảo. Chính Tư Nhâm vì quá mặc cảm và tự trọng nên đã chẳng chịu hiểu anh...
... Nha Trang đã hiện ra trước măt. Hai Rạng lại nhìn đồng hồ.
- Đến Bộ Chỉ huy Quân đoàn.
Chiếc xe ngoắt trái, lượn sát mép biển, cuối cùng dừng lại bên toà nhà khá lớn. Hai Rạng nhảy vội xuống, bước nhanh vào phòng làm việc của đại tá Hưng. Đã vài ba sĩ quan có mặt ở đó, họ ngồi quanh chiếc bàn lớn. Đại tá Hưng ngồi đầu bàn, đang chăm chú ngó nghiêng vào mấy tấm ảnh cầm trên tay...
- Thưa, tôi, thiếu tá Nguyễn Văn Rạng có mặt theo lệnh đại tá.
Mọi người ngước lên. Đại tá Hưng nhìn đồng hô đeo ở tay, rồi nhìn anh:
- Mời ngồi!
Hai Rạng vẫn chưa hiểu điều gì sắp xảy ra, e dè thả mình xuống chiếc ghế đại tá Hưng chỉ.
- Thiếu tá biết chuyện xảy ra ở địa phận do tiểu đoàn của ông kiểm soát chớ?
- Thưa,... xin đại tá nói rõ hơn...
- Có những nghi vấn ở chân Đèo Cả, tập trung là Vũng Rô... Thiếu tá coi mấy tài liệu máy bay trinh sát mới chụp sáng nay đi. - Đại
tá Hưng nói rồi đẩy về phía Hai Rạng mấy tấm ảnh. Không mấy khó khăn anh nhận ra địa hình những khu vực trong ảnh. Hình chụp từ trên cao, nhưng khá nét.

- Thưa, đây là ảnh chụp ở Vũng Rô...
- Điều ấy hẳn rồi... Thiếu tá hoạt động ở đấy lâu, không phát hiện ra điều gì mới lạ sao?
- Thưa, tôi vẫn chưa hiểu ý đại tá...
- Đại uý Cường có thể trình bày để thiếu tá Rạng rõ hơn. Người đại uý có tên là Cường bước tới đứng sau Hai Rạng.
- Đây là ảnh chụp Vũng Rô hôm mười lăm tháng hai. - Viên đại uý cúi xuống chỉ vào một tấm ảnh và nói, rồi chỉ tiếp tấm thứ hai. - Còn ảnh này máy bay trinh sát chụp được lúc sáu giờ sáng nay. Thoáng nhìn, hai bức giống như nhau, nhưng nếu quan sát kỹ, bức ảnh chụp sáng nay khác bức ảnh chụp hôm qua một chi tiết nhỏ. Đó là ở cuối Vũng Rô, chỗ kề bãi Chùa bỗng dưng xuất hiện một mỏm núi nhỏ nhô ra bên vách đá, chính điểm này... - Viên đại uý di ngón tay lên một vị trí trên tấm ảnh đã được phóng to quá cỡ. - Theo chỗ phòng Hai biết, nơi đây thuyền đánh cá của dân quanh vùng ít vào... Mà giả dụ có vào, là thuyền đánh cá sao phải nguỵ trang...
- Thiếu tá nhận rõ chứ? - Viên đại tá hỏi.
- Thưa, tôi sẽ điện về cho người xuống đó xác định...
Đại tá Hưng phẩy tay:
- Vào được Vũng Rô không dễ. Đấy là vùng hoạt động của du kích. Với nữa chờ người của thiếu tá xác định sẽ mất tính kịp thời... Tôi kêu thiếu tá tới không phải vì việc ấy. Xác định vật mà đại uý Cường gọi là “mỏm đá lạ” bên không quân đảm nhận. Máy bay đã xuất kích và bom xăng sẽ được thả xuống. Mọi nghi ngờ rồi sáng rõ khi có thông tin báo sang...

Chừng mười giờ sáng có cuộc họp khẩn cấp tại sở chỉ huy Quân đoàn Hai. Dự họp có tướng lục quân Mỹ Uyliam và nhiều sĩ quan cao cấp thuộc khu vực miền Trung, không quân, hải quân, pháo binh... Sự mẫn cán và tinh nhạy của các sĩ quan quân báo và tính khẩn trương, kịp thời của không quân được đền đáp. Mở đầu, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn Hai chủ trì cuộc họp thông báo:
- Kết quả thả bom xăng của không quân vào khu vực bãi Chùa đã thiêu trụi nhiều cây cỏ, khiến “mỏm đá lạ” lộ nguyên hình là một chiếc tàu. Chiếc tàu bị phát hiện là chiếc tàu vận tải giả dạng tàu cá, dài khoảng một trăm ba mươi “phít”, có lượng giãn nước chừng một trăm tấn. Nó xuất phát từ một cảng ở miền Bắc mấy ngày trước đó. Lộ trình của nó là, ngược lên phía Bắc nhằm nghi binh, ra đến vùng biển quốc tế thì vòng xuống phía Nam, giống hành trình một chiếc tàu đánh bắt hải sản. Khi ngang qua Hải phận Việt Nam cộng hoà, nó lựa thời cơ, bất ngờ chuyển hướng, lợi dụng yếu tố bất ngờ ban đêm, táo bạo đâm vào bờ. Và đã vào được Vũng Rô. Phải công nhận rằng thuỷ thủ đoàn trên tàu Bắc Việt là những người rất lão luyện, thuộc luồng lạch. Về điều này, hải quân Việt Nam cộng hoà chưa thể bằng... Mục đích thâm nhập của chiếc tàu là bí mật tiếp tế chiến cụ cho Việt Cộng khu vực miền Trung và Tây nguyên. Phát hiện này khẳng định một điều rất quan trọng đã ngờ vực từ lâu rằng, hình như có một con đường ma nào đó đã hình thành trên biển của Cộng sản nhằm vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam, việc xuất hiện nhiều loại vũ khí, cả vũ khí hạng nặng quanh các mặt trận nơi đồng bằng sông Cửu Long và quanh miền Đông Sài Gòn nói lên điều đó, nhưng chưa đủ bằng chứng. Bởi vậy để làm sáng tỏ cụ thể mọi điều về con đường này, vấn đề cấp bách là tìm cách chiếm tàu, thu hồi vũ khí và tài liệu... Nhiệm vụ cụ thể và huy động lực lượng, Bộ chỉ huy quân đoàn giao cho đại tá Hưng... Mời đại tá!
Viên đại tá nặng nề đứng dậy. Cũng có thể lão cố tình như vậy. Kết quả của việc phát hiện ra tàu Bắc Việt ở Vũng Rô khiến lão hưng phấn. Lão nói chậm rãi, sau một thôi giải trình những điều trùng lặp mà Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn đã nói, đại tá Hưng cho rằng việc phát hiện ra tàu vận tải ở Vũng Rô là một chiến tích rất to lớn có ý nghĩa chiến lược của cơ quan quân báo. Ai cũng rõ rằng viên đại tá này phụ trách cơ quan ấy.

- Trọng trách của chúng ta là bắt giữ con tàu đó cùng vũ khí nó chở vào. - Cuối cùng, đại tá Hưng chỉ lên bản đồ khu vực Vũng Rô và hí hửng. - Được uỷ quyền của Trung tướng Tư lệnh, tôi yêu cầu tiểu đoàn Rồng Biển bao vây chặt các triền núi phía bắc khu vực Vũng Rô. Đồng thời cho một đại đội đi theo hai tàu SLM. 405 và DCB.08 của Hải quân tiến vào bãi Chùa, bãi Chình bằng đường biển. Cần khép chặt mọi con đường ra vào nơi đây. Quân đoàn sẽ tăng cường một tiểu đoàn của sư 23 phong toả từ đèo Cả trên quốc lộ Một đến Tuy Hoà. Lực lượng đặc biệt sẽ do máy bay trực thăng đổ xuống khu vực Đại Lãnh. Không quân sẽ yểm trợ tối đa. Nhiệm vụ của người nhái, của Hải quân, tiểu đoàn Rồng Biển và những đơn vị phối thuộc nơi Đèo Cả là bắt sống tàu Bắc Việt, truy tìm chiến cụ quanh khu vực. Để vũ khí lọt vào tay Việt Cộng, địa bàn miền Trung và Tây Nguyên sẽ hết sức nguy hiểm... Các anh ý thức được chớ? Phải vào Vũng Rô trước khi vũ khí được chuyển đi.
- Rõ, thưa đại tá! - Hai Rạng chợt bật dậy và nói. - Chúng tôi sẽ phối hợp để triển khai ngay.
- Tôi nhắc lại, vấn đề không phải ở chỗ tiêu diệt, mà là bắt sống. Bắt sống tàu vận tải Bắc Việt và thu hồi số vũ khí con tàu ma đó chuyên chở vào. Phương án tác chiến và hợp đồng sẽ được soạn thảo ngay lúc này, tại đây.
- Thưa rõ!

*

Cuộc họp của chỉ huy bến Vũng Rô với cán bộ chỉ huy tàu diễn ra cùng thời điểm có cuộc họp tại sở chỉ huy Quân đoàn Hai ngụy. Sáu Sinh nói:
- Tình hình thế nào, các đồng chí rõ cả rồi. Tàu chở vũ khí ngoài Bắc vào đã bị lộ. Không ai lường được hết mọi sự. Nhưng sự đã đến lại phải tìm cách đối phó. Địch có thể dùng máy bay, tàu thuỷ, pháo và bộ binh cùng đánh vào. Phương châm chỉ đạo của Tỉnh uỷ lúc này là tìm mọi cách đưa gấp số vũ khí đêm qua chưa chuyển kịp ra khỏi khu vực Vũng Rô. Chiến đấu đẩy lui địch để bảo vệ tàu, bảo vệ vũ khí. Trường hợp không chuyển kịp, khi có lệnh sẽ phá huỷ. Kiên quyết không để lọt vào tay địch. Tình hình gay go đó, đề nghị các đơn vị có phương án cụ thể khẩn trương thực hiện theo phương châm vừa nêu...
- Báo cáo anh Sáu - Ba Tánh nói - tôi cho rằng không cần chờ trời tối, ta cho triển khai chuyển hàng ngay...
- Đúng thế, chẳng còn gì bí mật nữa. Chúng ta ngửa bài. Nhưng đề phòng máy bay nghe. Tôi đề nghị làng Cát, Hiệp Hoà, Hoà Xuân... kết hợp với bộ đội K.83, K.84 chuyển vũ khí. Chuyển cả ban ngày và ban đêm. Lực lượng còn lại triển khai chiến đấu. Máy bay có thể quần, K.60 lấy súng mười hai ly bảy mới chuyển vào để đánh trả. Lực lượng du kích chốt chặn ở bãi Chùa, bãi Chình, và những con đường vào Vũng Rô, không cho bộ binh địch nống tới...
- Thưa chú Sáu - Thuyền trưởng Thanh nói - Cán bộ chiến sĩ trên tàu đề đạt hai việc. Một là cần hủy tàu gấp kẻo xử trí không kịp, địch chiếm được. Việc này đã có trong phương án ở mỗi chuyến đi. Hai là anh em thủy thủ có mang theo vũ khí, xin được cho tham gia chiến đấu bảo vệ hàng.
- Việc huỷ tàu các anh cứ chủ động, cần gì bến sẽ hỗ trợ. Tôi nhất trí để thuỷ thủ tham gia chiến đấu với du kích làng Cát, du kích Hiệp Hoà nhằm bảo vệ các bãi không cho tàu hải quân từ biển ủi vào đổ bộ...
- Rõ!
- Vậy ta triển khai nghe.

Cuộc chiến đấu ở Vũng Rô diễn ra quyết liệt. Mười một giờ máy bay ném bom vào bãi Chùa, bãi Chình và các lán trại, các điểm quanh khu vực. Khói bụi mù mịt khắp vùng. Vũng Rô vốn tĩnh lặng hoang vắng bỗng chốc rầm rĩ tiếng động cơ máy bay. Bom đạn trút xuống ầm ào. Nhiều cột nước dựng lên bao quanh khu vực con tàu neo đậu. Nơi sườn núi, hai khẩu mười hai ly bảy và súng bộ binh hướng lên nhả đạn...
- Địch có ý đồ bắt sống tàu của ta thiệt... Chúng chỉ rải bom đạn xung quanh. - Sáu Sinh nói. Ông và chính trị viên Chiêu cùng thuyền trưởng Thanh đang đứng nơi một hốc núi nhìn ra, quan sát.
- Đề nghị chú Sáu cho huỷ tàu gấp. Trên tàu đã cài sẵn thuốc nổ nhằm phá tàu khi cần thiết. Chỉ cài kíp rồi hẹn giờ...
- Tôi nhất trí!
Mười một giờ ba mươi, tổ phá tàu do thuyền phó Tư Lăng phụ trách lách qua các khe đá tiến vào bãi Chùa. Một quả bom nổ gần, họ vội nằm xuống. Đất cát phủ lên người. Máy bay vòng ra xa, Tư Lăng vẫy đồng đội rồi bật dậy vọt qua các bụi rậm, qua các tảng đá lớn. Họ tới được mép nước. Nhưng một sự cố đã xảy ra. Bom dội xuống khiến chiếc tàu nghiêng lệch sang một bên. Tư Lăng lo lắng, cảm được có cái gì đó bất ổn. Và linh tính của anh đã đúng. Khi bơi ra bám được vào thành tàu, đu người lên boong rồi lần lại buồng máy, buồng lái, các cánh cửa sắt những nơi đó bị ngậm chặt, một nửa đã nằm dưới nước. Tổ phá tàu loay hoay mãi vẫn không có cách gì mở được. Tư Lăng thần mặt, rồi nói:
- Ta lặn xuống phía dưới, tìm cách bậy...
Một lát, ba người ngoi lên, họ vuốt nước trên mặt, nhìn nhau, thất vọng.
- Các cánh cửa đều kẹt cứng - Máy trưởng Quý nhìn Tư Lăng và nói - Không phá được, chúng sẽ cướp tàu...
Tư Lăng không đáp, ra hiệu bơi trở lại bờ.
- Báo cáo chú Sáu và mấy anh - Tư Lăng nói khi tới hốc đá, nơi tổ vừa xuất phát. - Bom nổ gần, tàu nghiêng, cánh cửa các khoang đều bị đóng chặt, không thể vào phía trong...
Trần Sinh lặng đi, ông hỏi:
- Chúng ta có thể áp bộc phá vào, cho nổ tàu được không?
- Báo cáo, chỉ còn cách ấy. Nhưng bộc phá...
- Tôi sẽ điều ngay...

Người cán bộ của Bí thư tỉnh đứng bên chợt lên tiếng:
- Báo cáo anh Sáu, có thuốc nhưng dây cháy chậm...
- Sao?
- Đêm qua đã cho chuyển hết về Bừng Bàn.
- Vậy nữa?... - Sáu Sinh thừ ra suy tính một lát rồi nói: Tình hình gấp rồi, ngay bây giờ anh tổ chức để đưa dần một tấn thuốc nổ ém sát tàu, chú ý an toàn, đồng thời cho người của K.60 lên Bừng Bàn lấy kíp và dây cháy chậm. Đi ngay, nội trong đêm nay phải có mặt tại đây. Mệnh lệnh khẩn cấp đó.
- Rõ!
Đêm ấy đã xảy ra một việc mà sau đấy Bí thư Tỉnh uỷ Sáu Sinh, chính trị viên Chiêu, và thuyền trưởng Hai Thanh đều hết sức bàng hoàng, ân hận. Chính trị viên Chiêu thậm chí bị xốc, choáng váng hoảng loạn như kẻ tội nhân biết mình sắp bị ném vào vạc dầu... Khi bộc phá vận chuyển tới và đã áp được vào tàu, dây cháy chậm đã điểm hoả, tất thẩy mọi người đều hồi hộp, lắng đợi, nhưng chẳng rõ vì lý do gì, chờ mãi vẫn không nghe tiếng nổ. Chính trị viên Chiêu là người phụ trách trực tiếp công việc điểm hoả khẳng định rằng đã không có sai sót.
Mọi người thấp thỏm nhìn ra. Bom đạn vẫn xả xuống quanh tàu không ngớt và ngoài xa, hai chiếc tàu của hải quân ngụy trưng đèn dập dình chờ cơ hội tiến vào.
- Trên tàu còn rất nhiều tài liệu, hải đồ hành trình chưa kịp huỷ...
Có ai đó nói bâng quơ. Hình như mọi người hiểu điều hệ trọng ấy nên cùng im lặng nhìn về phía bãi Chùa...
- Liệu dây cháy chậm có bị ẩm? - Một lát Tư Lăng hỏi, giọng lo lắng.
- Để tôi ra kiểm tra... - Chiêu ngó trước ngó sau rồi lò dò bò trong bóng tối. Một lát, anh quay lại, giọng run run, không được tự nhiên:
- Một mảnh đá do bom ném vào chân núi văng ra đã vô tình chặt đứt dây cháy chậm. Tôi đã nối lại... và điểm hoả...

Mãi những năm sau này, cả lúc hoà bình đã trở lại, Chiêu vẫn không thôi day dứt về những gì xảy ra trong thời khắc rất ngắn ngủi đó. Những năm tháng còn lại của cuộc đời, anh sống trong nỗi dằn vặt mỗi khi nghĩ tới đêm hôm ấy ở Vũng Rô, cái đêm khốc liệt, cái đêm định mệnh, cái đêm đầy thử thách, là nơi bộc lộ bản lĩnh mỗi cá thể trong chiến tranh, trước cái chết và sự sống...
Quả có một mảnh đá sắc như dao văng tới, cứa mạnh đã khiến dây cháy chậm bị đứt, nhưng vị trí đó quá gần con tàu, nếu điểm hoả lại, người thực hiện công việc mạo hiểm ấy khó có khả năng không tan ra cùng con tàu. Chí ít cũng bị sức ép và mảnh vụn của sắt thép gây thương vong. Sự sống sót chới với tựa hòn đá lớn treo trên sợi tóc mảnh. Bởi vậy Chiêu đã chần chừ, đã buông xuôi, đã tặc lưỡi rồi mặc hậu quả sau đấy, trong lòng đầy những sợ hãi, lập cập bò trở lại. Trước cái sống và cái chết con người chợt trở nên vị kỷ và thấy cần phải toan tính, cần phải cân nhắc đo đếm. Không ai dửng dưng trước sự mất còn của tính mạng mình. Mà sự toan tính cân nhắc đó chỉ ngắn ngủi diễn ra trong vài tích tắc. Sống cũng trong mấy giây mà chết cũng trong thời gian của hai ba cái nháy mắt. Vào thời điểm ấy Chiêu tự dưng thấy cái chết trở nên vô nghĩa, vô lý nên đã quyết định rất nhanh. Sẽ không ai hay điều đó, (nhưng lương tâm Chiêu thì soi rõ)... Mọi sự hèn nhát vị kỉ đều để lại những hậu quả khôn lường, những bi kịch dây chuyền, nối tiếp nhau, giống như trò chơi đô mi nô, bi kịch này kéo theo bi kịch khác, trở thành chuỗi dài thảm hoạ...
Tư Lăng nóng lòng nhìn sang, nhận ra chính trị viên Chiêu biểu hiện sự lóng ngóng đồng thời cố tình đánh mặt, lảng tránh ánh mắt mình, thấy chột dạ. Hình như đã có điều gì bất ổn, nghĩ vậy, vừa lúc ngớt đợt bom, Tư Lăng bật dậy.
Mọi người chưa kịp ngăn lại, Tư Lăng đã nhào vào bóng đêm, hướng về phía con tàu. Bóng anh nhoà vào biển, nhoà vào núi... Rồi mấy phút sau, một cột lửa hình nấm bùng cao, kế đó là tiếng nổ lớn. Không gian bung nở, nóng sực... Mọi người lặng ngắt, cùng hướng về phía có tiếng nổ, hết sức bàng hoàng. Chính trị viên Chiêu đứng lặng như cây nêu trồng nơi sân đình làng, khuôn mặt đẫn đờ, khô dại. Một lát, có tiếng ai đó nấc lên:
- Thuyền phó Tư Lăng! Trời ơi... Sao lại có thể như vậy!

Mọi người cùng nén tiếng thở dài, hiểu điều gì đã xảy ra...
Vào thời khắc ấy, thời khắc ngắn ngủn nhưng bao điều đã chồng xếp lên nhau, Sáu Quyên đang đưa Tư Nhâm hí hới đi tìm Sáu Sinh.
- Chú Năm, thấy chú Sáu mạn nào không? - Cô hỏi khi đi qua bãi Chình, thoáng nom thấy Năm Bào đang nhấp nhổm trên bãi rê rê khẩu AK hướng mặt ra biển...
Ông Năm quay lại:
- Bom đạn rắc như vãi phân, bộ mày chán sống hay sao mà chạy loăng quăng vậy?
- Cháu tìm chú Sáu có việc...
- Tao đâu quản ông Bí thư... Ai đi cùng vậy, Sáu?
- Việc quân sự, không tò mò nghe...
- Chà, bọn trẻ lúc này, đứa nào cũng xí xởi lên mặt dạy người già... Sáu Sinh ở chỗ vừa có tiếng nổ đó...
- Cám ơn chú Năm nghe!
Sáu Quyên nói rồi bước gấp về phía bãi Chùa. Tư Nhâm kéo chiếc khăn che mặt, hấp hởi bước theo. Sáu Quyên đâu ngờ rằng sự sốt sắng của mình đã đẩy Tư Nhâm vào hoàn cảnh tột cùng của bi thương và đưa Bí thư tỉnh ở vào thế bối rối như thể bị dẫm phải than củi. Những ngày kế đó, Sáu Quyên luôn ám ảnh bởi hình dáng Tư Nhâm, tựa một cái bóng không hồn, rủn rưởi trong đêm, lần tới từng người hoảng loạn dồn hỏi, giọng thoảng thốt: “Đồng chí ơi, chồng tôi đâu?... Chú ơi, chồng con đâu?... Mọi người ơi, ba bé Thảo đâu?”. Sáu Quyên cũng bị choáng, chỉ khi Sáu Sinh lay vai cô, nói như van nài, giọng tắc nghẽn: “Sáu ơi, con giúp chú đưa Tư Nhâm trở lại nghe”, cô mới tỉnh ra... Sáu Quyên cũng không thật rõ rằng bằng cách nào, ngay trong đêm hai chị em đã dìu díu đưa nhau về lại được Lân Cồ...

*

Từ bãi Chình nhìn ra, biển sẫm đen. Sau tiếng nổ lớn khiến mặt nước cồn lên, nóng sực, lúc này lại giống như con thú no nê thu mình lại lim dim ngủ. Nhưng gần sáng, biển bị khuấy động. Từ giữa Vịnh, hai con tàu đổ bộ nổ máy lừ đừ đi vào. Bên mép nước, các tay súng của du kích làng Cát, du kích Hiệp Hoà lặng lẽ rê nòng về hướng đó. Khi tàu địch vào gần, Mười Bàng hô bắn. Hơn chục khẩu súng các loại nhất loạt nhả đạn. Những vết đạn đan chéo vào nhau như hoa lửa. Hai chiếc tàu địch chững lại, khạc đạn lên bãi đáp trả. Mười Bàng hét to:
- Nằm nguyên vị trí nghe. Trời tối, chúng không dám vào gần đâu.
Từ phía Đèo Cả, pháo hiệu, pháo sáng thi nhau vọt lên. Cách đấy không xa, nhiều bóng người vác những thùng gỗ lớn nối nhau vượt qua Quốc lộ Một. Có tiếng ai đó hối:
- Nhanh lên mấy đứa, đạn dưới bãi còn nhiều...
Kế đấy là một tiếng “ối”, người vừa nói trượt chân, dúi dụi ngã. Ba Tánh đi bên cạnh vội cúi xuống, đỡ lên. Có tiếng động cơ máy bay. Trên không bung ra chùm pháo sáng. Ba Tánh ngẩng nhìn, hô lớn:
- Tất cả đứng yên, không vượt qua đường nữa!
Có người theo lệnh, nhưng không ít người vội tản vào các bụi cây cạnh đấy. Pháo sáng tắt, Ba Tánh lại hô:
- Vượt!
Từ các hốc núi, bụi rậm, từng tốp người túa ra, hối hả băng qua con lộ. Chỉ thoáng sau họ mất hút vào các khe núi, đi về phía Tây... Vũ khí lần lượt được chuyển về cứ.

Cũng đêm ấy, tiểu đoàn Rồng Biển hạ trại nơi lưng chừng núi,
cách Vũng Rô không bao xa. Khuya khuya, thiếu tá Hai Rạng nhận được điện đàm từ Bộ chỉ huy Quân đoàn. Đại tá Hưng không hài lòng, cho rằng tốc độ hành quân của tiểu đoàn quá chậm. Rồi viên đại tá lệnh cho Hai Rạng phải cướp thời gian tiến vào các vị trí mà theo nhận định là chỗ cất giấu vũ khí tạm thời của Việt Cộng. Mờ sáng hôm sau, lính Rồng Biển đổ xuống núi. Cùng lúc, pháo từ biển bắn vào, rốc két từ may bay xỉa xuống. Bãi Chình và khu vực xung quanh khói bụi mịt mù. Anh em thuỷ thủ và du kích làng Cát dưới sự chỉ huy của Xã đội trưởng Mười Bàng nấp trong các hốc đá, nhìn ra. Mười Bàng lách từ chỗ này qua chỗ kia, nói luôn mồm:
- Để chúng vào thiệt gần mới bắn nghe. Ngớt bom, ngớt đạn là nó
đổ quân đó.
Ông Năm Bào ôm khẩu súng trường, mắt vẫn hướng ra biển:
- Bộ tụi tao không rành sao mà nhắc hoài, mày.
- Chú ý tụi bộ binh trên núi đó, chú Năm...
- Tao rành bọn Rồng Biển này, mày yên tâm!...
Từ chân núi phía sau, bộ binh địch dưới sự chỉ huy của đại uý Ba Hoàng bất chợt đánh úp vào bãi Chình... Năm Bào quay nòng súng, lia một loạt, la lớn:
- Chúng xuống đó!
Đạn du kích bắn tới. Lính Ba Hoàng nằm rạp xuống... Nhân đó, hai tàu từ ngoài vịnh tiến vào. Mười Bàng nói:
- Tổ một đánh địch ở chân núi. Tổ hai kết hợp với anh em thủy thủ đón đánh địch đổ bộ từ biển.
Ông Năm và Hai Liên nép sau một mô đá, bắn từng loạt. Thằng Hoàng nấp dưới một cái hốc, nhòm lên. Khẩu súng ngắn nhăm nhăm trong tay. Sau hắn, thằng lính thông tin đeo bộ đàm, nói liến thoắng:
- Chim sẻ gọi chim ưng! Chim sẻ gọi chim ưng! Yêu cầu yểm trợ... Chim sẻ đang kẹt...
Lập tức, đạn pháo từ biển lại rót vào bãi Chình. Đất đá văng khắp nơi. Một quả đạn rơi gần thuyền phó Thơm, mảnh bắn ra, cắm vào chân anh. Người thuyền phó ối lên một tiếng. Mười Bàng quay lại:
- Đưa anh ấy vào hốc đá!
Hai du kích, người cõng, người đỡ, dìu Thơm đi. Đá vẫn văng rào rào xung quanh. Hết pháo, Ba Hoàng vẫy tay, bọn lính tràn lên... Chúng bắn như mưa. Một thuỷ thủ trúng đạn. Anh xỉu xuống, khẩu súng tuột khỏi tay... Hai Liên quay lại, la lên:
- Có anh thuỷ thủ...
Mười Bàng và Hai Thanh cùng nhào tới.
- Anh Quý, tỉnh lại đi! - Hai Thanh gọi.

Người máy trưởng mở mắt, giọng rất nhỏ:
- Thuyền trưởng... Tôi đi đây...
Nói rồi, anh ngoẹo đầu, tắt thở trên tay Hai Thanh...
Thi thể máy trưởng Quý được chôn sát chân núi. Chính trị viên, thuyền trưởng và vài ba thuỷ thủ ngồi lặng bên phần mộ. Đôi mắt thẫn thờ, Thanh rầu rầu:
- Anh Quý ơi, anh đang nằm lại trên đất Tuy Hoà đó. Từ đây vào Nha Trang không bao xa. Hoà bình trở lại, chúng tôi sẽ vào để đưa anh về quê. Xin vĩnh biệt...
Phía sau núi, tiếng động cơ máy bay trực thăng chở quân đổ bộ xuống Vũng Rô nghe rất rõ. Thanh ngẩng nhìn rồi nói:
- Anh em về vị trí tiếp tục chiến đấu!
... Đêm thứ ba, du kích và thuỷ thủ được lệnh rút khỏi bãi Chình. Mười Bàng phân công:
- Thương binh và thuỷ thủ đi trước, du kích bảo vệ phía sau...
- Rút hả, anh Mười? - Có ai đó hỏi.
- Tàu nổ rồi, vũ khí chuyển gần hết, ở đây chi.
Đoàn người lặng lẽ rời bãi. Các thủy thủ đi đầu. Thuyền phó Thơm được thuyền trưởng và chính trị viên dìu, lắc nhắc bước. Qua khỏi bãi Chình, toán người gặp du kích, dân công từ hang Vàng ào tới. Nhiều người trên vai vẫn vác đạn, hối hả vượt lên. Hai tay bám vào vai Thanh và Chiêu, thuyền phó Thơm hỏi:
- Có ai đồng hương Sông Cầu đó không?
- Anh xã nào, tôi người Sông Cầu đây! - Một du kích từ hướng hang Vàng tới, bước đến cạnh và đáp.
- Tôi ở Hoà Thanh, còn anh? - Thơm hỏi.
- Tôi sinh ra ở Hoà Xuân, nhưng mấy năm rồi chuyển về Hòa Thanh sinh sống... Anh ra Bắc lâu chưa?
- Năm tư... Nè, cho hỏi chút, sống ở Hoà Thanh, anh biết gia đình ông bà Cót chớ?
- Năm nay chừng bảy mươi?...
- Đúng rồi!

- Vẫn còn mạnh. Anh là... Có phải con trai ông bà Cót? Nghe nói ông bà có người con ra Bắc tập kết.
- Trước khi đi, tôi... ngu quá, đã không tạt qua nhà chào ba má một câu... Với nữa hồi đó nghĩ chỉ hai năm rồi về... Nghĩa là ba má tôi vẫn khoẻ... Biết được vậy là mừng quá rồi!... ở Hoà Thanh, anh còn biết một người có tên là Hiệp nữa không?
- Hoà Thanh có những ba người tên Hiệp lận. Một Hiệp cà nhắc, một Hiệp đã hi sinh sau trận càn năm ngoái, anh Hiệp nữa lên cứ từ sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính...
- Không, phụ nữ... Năm nay trên ba lăm, có lẽ gần chạm bốn mươi...
- Vậy chắc là cô Hiệp ở ấp Bốn, người phụ nữ xinh đẹp nhất làng. Cô ấy đã có con, năm nay nhỏ đó đã mười tuổi...
- Con gái hay con trai?
- Hỏi thiệt đừng tự ái nghe. Có phải anh là bố đứa trẻ?
- Cô ấy nuôi con một mình hay sao mà hỏi vậy?
- Nghe dân làng thóc mách rằng trước đây cô Hiệp yêu một anh bộ đội người cùng làng. Họ đã định tổ chức đám cưới nhưng chẳng rõ lý do gì, lại hoãn. Anh bộ đội đi ra Bắc được nửa năm thì cô Hiệp ở nhà sinh con. Từ đó ở vậy... Cũng nhiều người muốn làm bạn nhưng cô không nghe. Hình như vẫn nấn ná, có ý chờ người trai cùng làng... Có cái gì gợi mở dội lên đánh thức, Thơm im lặng. Người du kích hỏi:
- Có phải anh thuyền phó hy sinh khi phá tàu đêm qua cũng là người Sông Cầu mình?
- Anh Tư Lăng người xã Tân Thanh...
- Tội, về đến đất quê lại chết...

Chính trị viên Chiêu đang bước chợt vấp phải hòn đá, dúi về phía trước. Người du kích huyện Sông Cầu vội chạy tới:
- Anh để tôi dìu đỡ đồng hương một lúc... - Nói rồi vắt tay Thơm lên vai mình, bước đi. Một lát lại hỏi:
- Anh ấy có vợ con chưa?
- Ai?
- Người phá tàu ấy...
- À, có rồi... Nè, hai mẹ con cô ấy vẫn sống ở quê?
- Anh hỏi mẹ con cô Hiệp hả? Vẫn sống ở quê. Hai mẹ con giống nhau như đúc... Hỏi thiệt, là con anh, phải chưa?
- Không!
- Sao biết rõ cô ấy và quan tâm dữ vậy...
Phía hang Vàng, dội tới tiếng nổ lớn. Mọi người cùng dừng lại, quay nhìn. Mười Bàng nói:
- Ba Tánh đã cho huỷ vũ khí chưa chuyển hết ở đó. Ta đi lẹ kẻo sáng nghe, bà con...
Đoàn người lại bước tiếp. Một cô gái khoác trên vai tới ba khẩu súng hỏi người thuỷ thủ cũng lặc lè mấy khẩu AK trên người đi bên cạnh:
- Em thứ ba nè, còn anh tên gì?
- Tôi là Hùng, Hùng hàng hải.
- Hùng hàng hải, tên kỳ cục vậy? Mấy nữa các anh ra lại miền Bắc?
Hùng đùa:
- Bao giờ cô Ba hết gạo, tụi tôi đi.
- Phú Yên là vựa lúa của miền Trung đó anh ơi.
- Vậy thì ở lại dài dài.
- Ra Bắc, mấy anh tính lội bộ?
- Cô Ba có ý bố trí để tụi này cưỡi máy bay? Tiếng Mười Bàng thúc phía sau:
- Nhanh chân chút nghe. Sáng trời là máy bay tới đó.

*

Lính Rồng Biển thất thểu khênh những chiếc băng ca có người bị thương và nhiều xác chết lử đử đi về phía mép biển. Nơi đó tàu “há mồm” đã chờ sẵn để chở vào Nha Trang. Vũng Rô lại yên tĩnh như thể những ngày qua nơi đây chưa hề có chiến sự xảy ra. Từ trên cao, mấy con diều hâu thính mũi chờn vờn lượn quanh. Trời nắng gắt. Đâu đó đưa tới mùi lờm lợm, tanh tưởi của thứ thịt nhiều đạm đã thối rữa. Thiếu tá Hai Rạng đi phía sau, thỉnh thoảng nhìn từng tốp lính đang mệt mỏi lê bước trên cát. Bản thân Hai Rạng cũng thấy oải. Mấy ngày mấy đêm không hề chợp mắt. Đã vậy đại tá Hưng còn gọi tới la chửi om xòm, trách cứ rằng vô dụng, bất lực. Thất bại trong mục đích thu thật nhiều vũ khí của Việt Cộng để đưa vào Sài Gòn triển lãm nhằm khuếch trương chiến tích phát hiện ra con đường biển của Bắc Việt chở vũ khí tiếp tế cho Việt Cộng không đạt được như ý muốn khiến các cấp chỉ huy cáu giận. Hai Rạng lau mồ hôi, dừng lại nghỉ một lát. Ba Hoàng đi cạnh đó đưa chiếc bình tông nước:
- Họ táo bạo hơn ta tưởng. - Viên đại uý nói rồi hướng đôi mắt thiếu ngủ lờ đờ nhìn ra biển.
- Trước những kẻ khôn ngoan, liều lĩnh như vậy, nếu đại tá Hưng thân chinh chỉ huy cũng trở nên vô dụng và bất lực... - Giọng Hai Rạng uể oải. Một lát sau, nói thêm: Cái còn lại của cuộc chiến này là gì vậy? Chẳng là gì ngoài hận thù...
Ba Hoàng không đáp. Hơn ai hết gã thấm điều ấy. Trần Nhũng bị giết bởi hận thù. Và Ba Hoàng bao phen chết hụt cũng từ hận thù... Qua mỗi lần đụng độ, dù thắng hay thua, Cộng sản và Quốc gia càng nghĩ ra nhiều mưu kế để tiêu diệt nhau... Không thể hoà thuận, không có một gầm trời chung cho đôi bên... Nếu không tiêu diệt Cộng sản, Cộng sản sẽ tiêu diệt lại...
Sau sự kiện phát giác tàu Bắc Việt thâm nhập Vũng Rô, tiểu đoàn Rồng Biển được tăng cường thêm hai đại đội để càn xuống Làng Cát, Hiệp Hoà, những vùng quanh khu vực Vũng Rô và càn vào núi ẩn, nơi Bộ Chỉ huy Quân đoàn Hai cho là đầu não Cộng sản khu vực miền Trung, nơi bắt đầu những hiểm hoạ... Chiến sự liên miên, sống chết bất định nên được giây phút rảnh rỗi nào, lính Rồng Biển lại kéo nhau ra phố, ra quán xá. Địa chỉ hấp dẫn nhất vẫn là chỗ Năm Hồng.

... Hôm nay quán đó chật lính. Những kẻ vừa thoát chết đưa nhau đến để mừng rằng mình còn may mắn sống, còn hiển hiện trở về. Gân cổ kéo căng, họ tranh nhau xả hơi rượu vào mặt người ngồi xung quanh. Gã nào cũng muốn hét thật to. ồn ĩ. Nhộn nhạo. Chẳng rõ khi ra trận có hăng hái như vậy...
- Thằng Ba Tân chết thảm quá, một mình ăn trọn một băng đạn của du kích. Xác hắn tướp tơi...
- Nhìn thằng Bảy Tép không còn chân, lềnh phềnh nổi lên mặt nước, ghê quá.
- Ăn trọn băng đạn rồi chết ngay là may. Sa vào bãi chông, ngoắc ngoải không sống cũng chẳng chết mới là kinh hồn.
- Không nói chuyện chết chóc nghe. Mang được cái xác chân tay còn biết ngo ngoe về ngồi đây và còn được nhìn thấy mông đùi với bẹn chị Năm Hồng là đại phúc rồi... Chị Năm, cụng với tụi này một ly!
Có tiếng phanh gấp của chiếc Jeep. Hai Độ, vệ sĩ của Ba Hoàng từ ngoài xộc vào, hét to:
- Tất cả nghe đây, lệnh của đại uý, hai tiếng nữa có mặt tại trại để chuẩn bị hành quân. - Nói rồi, Hai Độ biến nhanh như khi xuất hiện.
- Tức là hai giờ đồng hồ kế theo chắc chắn chúng ta vẫn sống. Còn sau đó thì... phó mặc trời... Nào, dô, chị Năm... Trông chị Năm ngày càng ngon ha...
- Nói gì bi quan vậy? - Năm Hồng bước tới và vui vẻ cụng ly với những người lính ngồi quanh chiếc bàn xế góc quán.
- Chị Năm không rõ, Việt Cộng táo tợn lắm... Không phải bi quan mà sự thật... Tụi này chỉ lo chết trẻ, chưa biết mùi đời, uổng phí...
- Thiệt chưa biết? - Năm Hồng lườm ngang. - Về chuyện này mấy chú còn táo tợn hơn Cộng sản ngoài chiến trận...
- Chị Năm nói vậy tội nghiệp, chưa biết thiệt mà...
- Vậy tranh thủ biết đi! - Năm Hồng chớm chơ, rồi suồng sã uống cạn ly rượu, và lại bước về phía quầy.
- Nào anh em, hãy sống cho hôm nay, ngày mai còn xa lắm. Trăm phần trăm nghe.

Những chiếc ly chụm vào nhau. Rượu được dốc vào họng tựa trẻ con múc nước đổ lỗ dế. Một gã đập tay xuống bàn làm nhịp rồi ngoác miệng gào rống lên như bò cái đến ngày động đực, cả tốp lè nhè hát theo. Giọng kim. Giọng trầm. Và giọng mũi. Những khuôn mặt đỏ mọng lắc lư.
... Diệu vợi là diệu vợi ơi - Ngày mai tôi chết hết đời tình tang...
Một gã trẻ tuổi mon men tới bên quầy Năm Hồng, cười nịnh.
- Chị ơi, em chưa hề biết đến đàn bà thiệt, mà mấy tiếng nữa đã phải ra trận rồi... - Giọng sường sượng, gã gạ, có thể rượu đã khiến chàng trai trở nên dũng cảm. - Nghe nói chị Năm rộng rãi hào phóng lắm...
- Cậu người ở đâu vậy?
- Em ở Hòa An.
- Làng nào?
- Đại Đoá. Giáp con sông Cầm.
- Khít bên quê ngoại tôi... Tên gì? Năm nay bao nhiêu rồi?
- Em tuổi con khỉ, sắp mười tám... Em thứ tư, tên Khang.
- Ai biểu với cậu rằng tôi rộng rãi? Toét miệng cười ngượng:
- Nghe mọi người kháo vậy.
- Đã đánh nhau với Việt Cộng trận nào chưa?
- Trận này là lần đầu. Em sợ lắm...
- Sợ bom đạn hay sợ chưa biết đàn bà đã bỏ xác nơi trận mạc?...
- Cả hai... - Lại cười: Chị Năm à, em còn trinh nguyên mà.
- Tội nghiệp ha... Muốn... thiệt chớ?
- Thiệt! Nếu được chị Năm... cho.
- Ngay bây giờ sao?
- Ngày mai chắc gì đã còn được trở về để trông thấy chị Năm... Mấy đứa đồng hương Hoà An đi vô núi ẩn lần trước chết ráo trọi rồi... Chiến tranh, sợ thiệt...
Năm Hồng thương hại nhìn chàng trai:
- Nghe nói cũng thấy mủi... Nè, cậu vô phòng tôi trước đi. Giao việc cho nhân viên rồi tôi chiều.
Khi Năm Hồng bước vào phòng ngủ, và bảo chàng lính trẻ bỏ quần áo ra, cậu ta đỏ mặt, run rẩy, lóng ngóng và luống cuống hệt cậu học trò chưa thuộc bài lại đến lớp trễ bất ngờ bị thầy giáo gọi lên bảng. Nhưng lúc nhìn thấy hình hài Năm Hồng ngồn ngộn, trắng phau phau như bẹ cây chuối mới bóc, nhấp nhô những vùng tối sáng phơi ra trên giường thì con người mới lún phún lông kín này lại háo hức khát thèm giống kẻ bị bỏ đói lâu ngày thấy mâm cỗ đầy phè, hăm hở đòi ăn.

- Từ từ đã... đừng vội. - Năm Hồng vỗ về khi thấy cái cơ thể nóng rực như hòn than vừa lấy trong lò ra ấy thở đứt nối và khác với phút giây sợ hãi ban đầu, cuống cuồng, xấn xổ đòi hỏi. - Nghe nè, cậu nhắm mắt lại và nghĩ tới việc gì khác đi đã...
- Nhưng em không chịu được nữa... Chị ơi, chị cho nghe...
Hệt con thằn lằn, chàng trai cuống quýt trườn lên bụng Năm Hồng, nhưng cái phần nhạy cảm chưa kịp chạm vào bờ giếng râm rì sâu hun hút để người đàn bà cùng nhận biết được sự bung nở cường tráng giống đực ở người đàn ông đã rủn rảo đổ thống đổ tháo, tự đánh mất tinh lực và sức mạnh mình. Nhuệ khí, sự hung hăng ban đầu phút chốc tan chảy như tảng băng gặp nhiệt độ cao.
... Diệu vợi là diệu vợi ơi - Ngày mai tôi chết hết đời tình tang...
Bên ngoài, những gã nát rượu vẫn gào ầm quán...
- Chị ơi... hết mất rồi! - Xọp xẹp như quả bóng bơm căng phút chốc bị xì hơi, chàng trai nuối tiếc rên rỉ.
- Biết!... Tại cậu vội vã, không nghe lời, để hưng phấn quá... Sao lại khóc?
- Tiếc!
- Làm lại được không? Nếu gắng được tôi chiều lần nữa.
- Nhưng phải có thêm chút thời gian... mà em đến giờ phải về trại rồi...
- Vậy hả! - Nhận ra chàng trai đã xỉu xìu, Năm Hồng thương cảm. - Thì nhòm vô đó chút cho đỡ...
Một lát, người lính trẻ nhổm dậy, thở dài:
- Đẹp quá!
- Cái gì đẹp, cậu bé?
... Diệu vợi là diệu vợi ơi - Ngày mai tôi chết hết đời tình tang. Tình tang là cái tính tàng - Ra trận tôi chết nàng thời chơ vơ. Chơ vơ ơi cái thờ ơ - Tôi không về nữa em chờ đợi chi. Du di là cái dù dì -
Tôi không còn nữa em thì cho ai... Của em tựa đoá hoa nhài - Mai tôi xuống mộ xin cài lên bia..

Mấy ngày sau đám lính thất trận của Ba Hoàng lại rệu rạo, xuyệch xoạc kéo vào quán và kháo nhau rằng chàng trẻ tuổi có tên Tư Khang đã tử nạn ở núi ẩn. Một viên đạn xuyên qua bụng và con người bất hạnh đó chỉ kịp hực lên một tiếng: “má ơi”, rồi cong người, loạng choạng đổ vật xuống bìa rừng. Hay chuyện, Năm Hồng thở dài:
- Khổ, vẫn chưa biết hết thế nào là mùi vị đàn bà đã phải chết. Thiệt đáng thương!
Từ đó, hễ chàng lính trẻ nào chưa vợ đến quán có ý muốn nếm chút hương đời trước khi ra trận, Năm Hồng đều dễ dãi lựa cơ hội để... cho. Chị làm điều ấy với tất cả sự nhân hậu hồn nhiên giống cái, cộng với tình cảm như thể tấm lòng bao dung của người mẹ. Lại còn coi đây là sự ban ơn, làm phước. Có người biết chuyện, trách rằng sự dễ dãi của chị đã làm hư đám lính. Năm Hồng thật thà giải thích, chị không hề dẫn dụ, không gạ gẫm, song ít ra cũng đã biết làm một việc có ích, biết dành cho những con người xấu số ấy cái mà mình có khi họ háo thèm để giả dụ nếu như chẳng may trước mũi tên hòn đạn họ không còn cơ hội trở về, bỏ xác một cách vô nghĩa ở chốn nào đó, chị không những đỡ day dứt áy náy, ân hận mà còn cảm thấy như có chút gì đấy được an ủi... Còn trẻ nhưng đám này cũng là đàn ông với đầy đủ nhu cầu bản năng giống đực. Chị hào phóng ban phát sự ấy với ý thức người chứ không vì bản năng con. Hầu như trong số choai choai này đều chẳng mảy may kinh nghiệm, lại thiếu bản lĩnh, chưa kịp đến cửa chợ đã hết tiền, nhưng chị không trách cứ. Chị thấy thanh thản sau mỗi lần những người trẻ tuổi ngượng ngùng và xấu hổ ra khỏi phòng, mặc dù có lúc họ khiến chị ngứa ngáy, khó chịu, bực mình cáu giận vô bờ. Suy cho cùng chẳng mất gì hao gì mòn gì, nếu có mất, chỉ là một khoảng thời gian nho nhỏ. Chị coi đó như việc thiện, việc nên làm, vậy thôi. Thật đơn giản, rất tình, rất người...

Rồi những gã lính trẻ được chị cho mút mát để biết thế nào là đàn bà trở về ngày mỗi ít. Điều ấy cũng khiến Năm Hồng cảm thấy có cái gì đó vô lý, và thoảng buồn. Chiến tranh chẳng khác gì ngọn gió độc, chỉ lăm nhăm làm khô héo những chồi non mới nhú. Chị thường giao quán cho đám nhân viên và la cà đến nhà Tư Nhâm chơi. ở Lân Cồ chị chỉ thích giao du với con người không có đàn ông này. Chị biết Tư Nhâm dịp này nghỉ, không ra chợ và cũng đang buồn. Sau cái chết của người mà Tư Nhâm nói rằng ông bác họ dưới quê, Tư Nhâm suy sụp hẳn. Mắt thâm quầng, thiếu sắc khí, da mai mái, xanh rớt, trông rất mệt mỏi... Cũng là hạng đa sầu đa cảm! Đa sầu đa cảm nên mới phải nghĩ ngợi nhiều. Có lần Năm Hồng khuyên:
- Người chết đã chết rồi, có sầu não cũng chẳng thể sống lại. Phải lo cho cái thân mình, em ạ. Dịp này trông cô chẳng khác gì vỏ con ve sầu sau khi lột... Có ăn được không?
- Em buồn lắm, chị Năm ơi.
- Buồn, hẳn rồi. Mấy đứa nhỏ mới biết sơ sơ, thậm chí còn chưa thuộc tên, nay nó ra trận rồi chết, tôi cũng buồn nữa là. Nhưng phải sống cho mình nữa chớ.
Dưới con mắt Năm Hồng, Tư Nhâm là kẻ đáng thương. Những ràng níu vớ vẩn tựa cái rọ trói chặt con người này đến khô héo, cô đơn. Năm Hồng cũng cô đơn nhưng chị biết sống cho mình, không để những khoảng trống vô nghĩa kịp len vào hành hạ... Hơn ai hết chị ý thức được cuộc đời này chỉ là thoáng chốc, chỉ gang tấc nên phải biết tận dụng, tranh thủ. Không dưới vài ba lần chị truyền cái kinh nghiệm sống ấy cho Tư Nhâm, nhưng như thể nước đổ đầu vịt, những gì đã ăn sâu vào con người này thật khó bật ra...
- Hay em có vấn đề về giới tính hả Tư? - Một lần Năm Hồng hỏi. Tư Nhâm giương đôi mắt thiếu ngủ lên nhìn, ngạc nhiên:
- Là sao hả chị?
- Còn sao nữa. Hỏi thiệt, em còn ham muốn đàn ông không? Cái ấy của em tịt rồi à?
Tư Nhâm ngồi lặng nhìn ra, một lúc sau mới thật thà đáp, đáp rất khó khăn:
- Em vẫn là đàn bà... Em khổ lắm chị ơi...
Nói rồi, nước mắt rơm rớm. Năm Hồng thở dài, có thể chị chưa mấy rõ tâm trạng người phụ nữ này, nhưng nghe giọng nói sầu não của cô cũng thấy mủi.
- Cô thiệt khó hiểu... Cớ chi tự mình làm khó mình chớ.

*

Tư Nhâm không là người khó hiểu. Nhưng quả đã tự mình làm khó mình. Hoàn cảnh đẩy chị vào tình thế ấy... Khi Sáu Quyên hớt hải bươn tới rồi quên cả hiểm nguy, ló khuôn mặt nở tựa cái bánh bao vào cửa hớn hở thông báo rằng Tư Lăng trở về, chị không tin vào tai mình nữa. Chuếnh choáng như người uống quá nhiều rượu, chị cố tình cấu vào đùi và khi nhận ra rằng mình vẫn còn cảm giác biết đau, mới ngỡ ngàng vừa vui mừng vừa sợ hãi trước phép lạ bất ngờ, ngoài tưởng tượng Sáu Quyên đưa tới... Chị kéo nhanh cửa cổng, chân nọ ngoằng vào chân kia, hơ hải gằn theo Sáu Quyên, tâm trạng bồng bềnh như trôi trên mây... Có thật là Tư Lăng, chồng chị đi trên “tàu không số” trở về? Cuộc đời vẫn còn những may mắn kỳ diệu vậy sao? Đã không uổng phí công em đợi, công em chờ, Tư ơi. Hơn mười năm qua có phút giây nào em không nghĩ đến anh! Hễ nhớ tới những kỷ niệm của chúng mình em lại nao cả lòng. Rồi em thổn thức chơi vơi trong mỏng tang hy vọng rằng sẽ có ngày nào đó, thể nào cũng biết được chút tin tức về anh. Nếu có vậy đã thoả, đã là đặc ân rồi chớ đâu dám mơ là còn có hôm nay. Vâng, không dám! Nó lớn lao quá, hạnh phúc quá! Đột ngột quá! Mà đúng anh về thiệt chớ, anh Tư? Đời vẫn nhân hậu, vẫn còn cái để mà tin, để mà hi vọng, để mà bấu víu đặng đủ sức nổi chìm trong nhiều khốn khó nhiễu nhương diệu vợi này, phải không anh?... Thấp thỏm, hồi hộp, Tư Nhâm quýnh quáo bước. Sáu Quyên đi trước, chị như cái bóng lật đật theo sau. Đầu óc rối mù. Vui buồn. Háo hức mong ngóng. Và thon thót lo sợ... Con đường từ Lân Cồ tới Vũng Rô hôm đó sao dài thăm thẳm vậy chớ... Gặp anh, phút giây đầu tiên sẽ sao đây, ông trời? Mười năm về lại trong ít phút, không được khóc nghe!... Tư Lăng sợ nhất nước mắt đàn bà. Hồi chia tay, nước ứ tràn mi mà Tư Nhâm đâu dám sụt sịt, phải làm bộ cứng kẻo mềm lòng người đi. Vậy mà, trời ơi... Chưa có cái cảm giác được gặp chồng sau mười năm, anh đã ra đi. Ra đi mãi mãi. Ra đi vĩnh viễn... Không nhắn gửi, không ánh nhìn, không cả ấn tượng cuối cùng... Sao lại trớ trêu nghiệt ngã làm vậy chớ! Giá như không có cảnh huống này để Tư Nhâm cứ sống trong phấp phỏng đợi chờ, sống trong hy vọng thì đỡ biết bao...
Nỗi đau quá lớn sau cái chết của Tư Lăng như thể là điều không có thật, lại phải lặng thầm chịu đựng và ngày một ngấm lắng khiến chị hụt hơi. Vết thương không được thổ lộ san vơi chia sẻ, cứ canh cánh lặn nặng trong lòng càng tấy đỏ, mưng mủ, xót buốt. Cái đêm ở Vũng Rô trở về, Tư Nhâm không thật rõ cớ sao mình vẫn đủ sức chịu được, và vẫn tồn tại. Sau thông báo của Sáu Sinh, chị choáng loạn chống chếnh có cảm giác chơi vơi như thể bíu trên sợi dây mảnh mỏng lơ lửng giữa trời mà phía dưới là cồn dựng sóng dữ đại dương. Chị không thật rõ rằng lúc ấy mình đã làm gì, nói gì, còn sống hay đang chìm trong chiêm bao. Mất cảm giác, chị như một cái xác vô hồn, cứ thế, trong trạng thái mộng du, theo Sáu Quyên lảo đảo trở lại Lân Cồ. Sáu Quyên kéo đi đâu, bước tới đó...
Mấy ngày kế theo, khi còn lại một mình và đã tỉnh táo trở lại, ngước nhìn lên chiếc bàn có hoa có quả, có khói hương mà Sáu Quyên vội vã lập nên để thờ, chị mới thật sự thấy xốc, thấy hẫng hụt vô lý, chơ vơ. Mới tin chắc là Tư Lăng đã không còn nữa. Nỗi đau lúc ấy thắt lắng vào trong, để mà ý thức hết bất hạnh nơi mình...

Nỗi bất hạnh càng phồng rộp, khó chịu khi mấy ngày sau đó Hai Rạng tới chơi, buộc Tư Nhâm lại phải đối phó, phải diễn. Lúc Hai Rạng ngạc nhiên hỏi: “ủa, nhà mình đang thờ ai vậy ta?”. Tư Nhâm trơn tuột buột ra: “Có ông bác họ dưới quê mới qua đời. Khi ba mất, được ông nuôi nấng, nên coi như cha đẻ”. Tư Nhâm cũng không ngờ mình ứng đối nhanh và giảo hoạt đến vậy... Lời nói dối bật ra tự nhiên tới mức chị cũng sững sờ về sự thuần thục trong vai trò diễn viên của mình. Thông tin đó làm Hai Rạng cảm thấy như người có lỗi. Anh tự trách mình vô tình. “Trời ơi, vậy mà lâu nay đâu có hay. Ông đi lâu chưa?”. Tư Nhâm cố ghìm không để nước mắt ứa ra: “Mới đi được mấy hôm”. - Tư Nhâm nói nhát gừng, giọng không mấy mặn mà.
“Vậy mà tôi vô tâm quá. Em cho tôi thắp nén nhang nghe. Người có công nuôi mình cũng như có công đẻ... - Hai Rạng lẩm rẩm: Ông cho phép kẻ hậu sinh này được vái ba vái, gọi là chút lòng thành của người may mắn có quen biết gia đình.” Nhìn Hai Rạng thành tâm thắp hương cắm lên bàn thờ, khấn khứa, Tư Nhâm đã cố nén, vẫn không ngăn được tiếng nấc nghẹn ngào. Chị thấy trớ trêu, tủi phận, vừa thương cho hoàn cảnh mình, lại thương chồng... “Coi bộ em nhiều tình cảm với người quá cố?” - Hai Rạng quay lại nhìn Tư Nhâm, tỏ ra ái ngại. “Thuở ở bên ông, được ông chăm ẵm như con, tình cảm lớn lắm.” Hai Rạng ngồi xuống ghế: “Buồn quá hí! Có nói lời an ủi với em lúc này, việc cũng đã rồi... Người ta sinh ra có hạn, nhưng tử bất kỳ... Em gắng giữ sức khoẻ.” Tư Nhâm lơ đãng ngó ra ngoài, buông một câu hết sức khách sáo: “Cám ơn thiếu tá đã an ủi”.
Sau cái chết của Tư Lăng, lòng trĩu nặng đau buồn, Tư Nhâm bỗng thấy xa lạ, và có cái gì đó như thể khó chịu với viên thiếu tá. Vẫn biết rằng, suy cho cùng Hai Rạng cũng chỉ là nạn nhân của vòng xoáy định mệnh trớ trêu trong cuộc chiến và không hẳn chị đã nghĩ anh ta là tác nhân trực tiếp của bi kịch, song vẫn bị ức chế, bực bội. Con người này vô cớ trở nên đáng trách, đáng giận. Những tình cảm cởi mở và chân thật, tịnh tiến dần tới sự hồn nhiên tựa những ngày ấu thơ được vun vén trong thời gian qua tự khắc biến mất, trôi tuột như phấn hoa sau trận mưa rào. Còn lại, lại là sự ngăn cách, mặc cảm, phân chia. Lại là hai ranh giới. Lại là sân khấu, khán giả và vai trò người diễn.
Không phải Hai Rạng không ngạc nhiên nhận ra điều ấy, nhưng anh đơn giản nghĩ rằng có lẽ nỗi mất mát đột ngột đã khiến con người cả nghĩ đa sầu trong Tư Nhâm trở nên khó tính, bởi vậy càng thương hơn, càng quan tâm tới hơn. Sau “sự kiện Vũng Rô“, Hai Rạng triền miên gắn trói vào các cuộc hành quân, nhưng có quãng hở thời gian nào lại tranh thủ lần đến ngôi nhà ẩn trong khu vườn khá rộng. Anh đâu nghĩ tình cảm chân thật của mình lại khiến Tư Nhâm thêm khổ tâm, khó xử, và càng bực bội, càng mặc cảm tìm cách né tránh. Sự ngăn cách khác biệt giữa hai người như càng nặng nề, phình rộng hơn. Mỗi lần Hai Rạng tới, Tư Nhâm, với vai trò đã trở thành thói quen vẫn tiếp, vẫn đẩy đưa câu chuyện nhưng trong lòng dửng dưng nguội lạnh... Có lần Hai Rạng nói rằng hai kẻ cô đơn nên xích lại sưởi ấm cho nhau để sống, anh rất cần sự chăm sóc của người phụ nữ, và cũng rất muốn có điều kiện chăm sóc Tư Nhâm nhiều hơn; hãy đưa anh về quê thăm thím Bảy Bương, và bé Thảo để thưa chuyện. “Tư à, anh muốn được xin cưới em làm vợ. Đồng ý nghe, Tư?” - Hai Rạng chợt quỳ xuống, ngước đôi mắt tội nghiệp lên nhìn, giọng van nài: “Tôi thương em thiệt tình mà, Tư. Tôi van em... Tôi xin em đó... Đừng làm khổ tôi và đừng tự làm khổ mình nữa... Anh không chịu thấu khi nhìn em vò võ đơn côi như vầy...”. Trong lòng vô cớ cáu giận, nhưng Tư Nhâm đành ậm ờ tìm lý do từ chối. Và chị đã có cái điều hợp lý: “Tôi đang có tang, thiếu tá!”. Nói vậy, nhưng khi viên thiếu tá bước ra khỏi cửa, chị cảm thấy cơ thể mình nhũn rão, bải hoải. Mệt lử và tủi thân, chị gục xuống bên bàn thờ, nước mắt lại ứa ra: “Tư ơi, em khổ quá!”.

Hôm đó, hôm Hai Rạng đặt vấn đề xin cưới cũng là đêm Sáu Sinh và Sáu Quyên liều lẻn vào Lân Cồ. Khi nghe tiếng Sáu Quyên hớt hải gọi nơi ngõ, Tư Nhâm vội chạy ra. Sáu Quyên ngó trước nhìn sau, giọng quan trọng:
- Chị à, chú Sáu tới!
- Có việc gấp hay sao mà chú Sáu về?... Em ở ngoài canh chừng nghe...
Sáu Sinh bất ngờ hiện ra ở sân:
- Khoẻ chớ, Tư?
- Chú vô nhà!
Tư Nhâm khép nhẹ cửa, và vặn nhỏ ngọn đèn...
- Hai Rạng lại tới, phải không? - Sáu Sinh hỏi.
Tư Nhâm ngồi xuống bàn, và chợt oà khóc. Hình như bao uất nghẹn, tủi hờn nay mới có dịp bộc lộ, chị nấc lên, giọng nghẽn tắc:
- Chú ơi, con cực lắm...
- Thôi, đừng khóc nữa mà, chú cũng rầu... Mày cực ra sao chú biết, Tỉnh uỷ biết...
Tư Nhâm cố nén để không khóc thành tiếng, nhưng vẫn nức nở... Rồi chị ngước lên, chị đã có ý trước đó, nếu gặp Sáu Sinh nhất định lại xin ra cứ, chị cảm thấy mình không chịu đựng thêm được nữa, chị mệt mỏi quá rồi, sau cái chết của Tư Lăng, ở vào hoàn cảnh chị, chắc Sáu Sinh sẽ không nỡ từ chối. Chỉ ra ngoài đó mới thực sự được tự do, được sống đúng mình, được khóc Tư Lăng thiệt to... Nhưng nhìn khuôn mặt Bí thư Tỉnh uỷ quắt hóp, thần sắc bợt bạt, đôi mắt ẩn chứa sự mệt mỏi của người nhiều nghĩ ngợi, chị lại mủi lòng, không nỡ nói ra điều định nói. Chị biết trong chuyện này ông Sáu cũng nghĩ lung lắm và rất lúng túng, xin ra cứ tức là chị đã làm khó cho ông, là đẩy ông vào tình thế hết sức bối rối, khó xử. Trời ơi, quả đây là gánh nặng, thì cớ chi chị không đưa vai vào gánh đỡ với ông... Công việc nhiều, biết bao điều phải lo, phải nghĩ, phải toan tính, bắt ông bận tâm chi chuyện này của chị nữa cho cực chớ! Thôi đành lại hy sinh thêm chút nữa, gắng chịu thêm chút nữa... Nghĩ vậy, Tư Nhâm ngồi lặng, nhưng nước mắt tủi cực vẫn rơi lã chã... Sáu Sinh nén tiếng thở dài, rồi như rõ được tâm trạng Tư Nhâm, ông nói:
- Chú biết mày khổ, chú thương mày... Thân gái ở một mình, nhiều thằng chọc ghẹo... Nhưng lúc này đang nước sôi lửa bỏng... Chú chưa nhắm được người thay. Vả lại kiếm được người quen việc, quen địa hình đâu dễ...

- Hai Rạng đã mấy lần đòi cưới con đó, chú... - Tư Nhâm tấm tức.
Tiếng thở dài đã cố nén vẫn bật ra, và Sáu Sinh nói, ông nói như thể không phải giải thích với Tư Nhâm mà nói với mình:
-... Có được người hoạt động hợp pháp, giá trị lớn lắm, chẳng thể đo đếm được. Vừa rồi không có A.5, không có Tư Nhâm, Tỉnh uỷ biết đối phó thế nào với những cuộc hành quân càn quét lớn của tụi Rồng Biển đây... - Sáu Sinh tới bên bàn thờ, thắp một nén nhang cắm vào bát hương, đôi mắt như thể nhìn vào cõi xa xăm nào đấy. - Tư Lăng, mày sống khôn chết thiêng phù hộ cho Tư Nhâm hoàn thành nhiệm vụ nghe...
Nhìn cái dáng đã trở nên lòng khòng của Sáu Sinh, tự dưng Tư Nhâm mặc cảm như thể mình là người có lỗi. Chị đỡ Bí thư tỉnh ngồi xuống:
- Chú ơi, chú lại đây con rót nước để chú uống đã... Trông chú dạo này... hình như không được khoẻ.
Sáu Sinh lặng lẽ thả mình xuống ghế.
- Sau vụ phát hiện tàu ta vô Vũng Rô, địch làm căng lắm...
- Anh em mình trên cứ ra sao chú?... Lần trước nghe Sáu Quyên nói đã vét đến lon gạo cuối cùng để nấu cháo...
- Du kích đã đành nhưng mấy anh trên “tàu không số” đau ốm, sốt rét không thuốc men, lại ăn đói, nhịn khát, tội lắm. Môn dốc, rau rừng đã vặt trụi rồi. Tao lo mấy anh không qua được đận này. Không chết bom, chết đạn, để các anh ấy chết đói thì ân hận quá!
- Con tưởng hôm rồi Sáu Quyên đã tổ chức mang ra được ít thuốc, ít gạo.
- Thất bại rồi! Chúng rào kín mọi lối. Ai mang một lon gạo ra khỏi thị trấn, bị bắn liền. Dọc hai bên bờ sông Thạch Bàn lính rải ra như kiến... Mấy đứa nữ du kích giả bộ cặp bồ với hai thằng lính để chúng lai hon đa ra khỏi phố, nhưng chẳng rõ sao thằng Ba Hoàng, phó của Hai Rạng đánh hơi được, liền cho lính đuổi theo. May mấy đứa tinh ý, quẳng bịch thuốc xuống khe núi, chạy thoát...

- Bây giờ tính sao, chú Sáu?
- Suốt đêm qua thường vụ Tỉnh uỷ đã họp bàn, tính hết nước rồi... Bí quá, chú đành lẻn vô đây hỏi xem mày có cách không?
- Con thì giúp được chi!...
Sáu Sinh như thể định nói điều gì, nhưng cảm thấy bối rối, ông im lặng và lại thở dài...
Từ ngoài, Sáu Quyên hốt hoảng bước vào:
- Chú ơi, có lính đang đi về hướng này! Tư Nhâm vội đứng dậy nhìn ra:
- Chắc có kẻ đã đánh hơi và báo với Ba Hoàng... - Tư Nhâm nói...
- Chú ra cửa sau... Sáu đưa chú tắt qua vườn bà Hai Rỗng nghe. Lẹ lên.
- Dạ! Chị đối phó cho khéo. Ba Hoàng tinh hơn con cáo đó.
- Này Tư, cứ thử nghĩ xem có cách chi không! - Sáu Sinh nói thêm rồi cùng Sáu Quyên lẫn vào bóng đêm...
Tư Nhâm vặn to ngọn đèn. Chị rõ sau vụ tàu chở vũ khí vào bị lộ ở Vũng Rô, Ba Hoàng trở nên đa nghi hơn và đã cho người theo dõi rất chặt căn nhà này. Mọi động tĩnh nơi đây đều không qua mắt gã. Có thể nhiều điều nghi vấn không giải thích được khiến viên đại uý đã nghi ngờ càng nghi ngờ thêm. Và để làm sáng tỏ, gã đang cố tìm cho ra bằng cớ. Có bằng cớ mới ra tay hành động. Chưa có điều ấy mà đụng vào Tư Nhâm cũng đồng nghĩa với việc khiêu khích Hai Rạng.
- Cô Tư! Xin chào cô Tư! - Ba Hoàng bước vào nhà, tự tin cười giễu. Theo sau gã vẫn là Hai Độ. Một tiểu đội lính lố nhố ngoài sân.
- Chào đại uý! Ông và mấy ảnh vô đây chắc có việc gì?
- Không! Đi qua, thấy đèn còn đỏ, biết cô Tư ở nhà, rẽ vào thăm chơi thôi. Căn nhà vắng vẻ quá! Cô Tư không đưa con nhỏ về ở cho vui?... Mà cô Tư thờ ai vậy hè?
- Việc này lần trước đại uý hỏi, tôi đã trình báo... Ông bác họ tôi dưới quê vừa qua đời...
- À, ông bác họ! Phải, tôi nhớ cô Tư lần trước có nói... Chưa già mà đâu óc đã lú lẫn!... Cô Tư nè, cô có thấy cuộc đời này nhiều sự trùng hợp thiệt ngẫu nhiên không? Ông bác họ cô Tư qua đời đúng vào hôm tàu Cộng sản Bắc Việt chở vũ khí cho Việt Cộng nổ ngoài Vũng Rô. Hay thiệt! ờ, mà cũng có thể vậy lắm chớ. Cuộc đời mà! Nó giống như những cái vòng tròn, cứ loay quay rồi lại loay xoay, và trong số vòng tròn đó, có những cái chồng khít lên nhau...

- Đại uý nói chi tôi không hiểu.
- Là tôi đang nói đến sự ngẫu nhiên của những cái vòng tròn trong cuộc đời, là tôi nói mụ vợ tôi...
- Đại uý, tôi nghĩ là đêm đã khuya rồi...
- Tôi và mụ ấy trước đây vốn là đồng môn, học một trường. Sau đấy mỗi đứa trôi dạt một nơi. Rồi loay quay thế nào lại gặp nhau và bập vào nhau, cũng giống như thiếu tá Hai Rạng và cô Tư, hơn hai mươi năm lưu lạc, mỗi người một ngả, chừ lại gặp nhau. Ngẫu nhiên mà. Cuộc đời này thiệt nhiều ngẫu nhiên... Nói vậy chớ giả dụ cô Tư thờ mấy cha thuỷ thủ Bắc Việt cũng chẳng sao. Cùng máu đỏ da vàng với nhau. Có cái tình vậy cũng đáng quý.
- Ông đại uý nói lạ. Tôi quen biết chi họ mà thờ với cúng. Đừng gắp lửa bỏ tay người nghe!
- Chỗ ấy cô Tư rõ hơn tôi! Tôi không nói điều gì sai nếu không nghĩ rằng mình nói sai.
- Đại uý say hay ông doạ tôi?
- Đâu có! Cô sắp trở thành bà thiếu tá, tôi đâu dám!
- Tôi đã nói nhiều lần rằng chuyện riêng của tôi xin đại uý đừng xía vô...
- Cái kim trong bọc lâu ngày cũng thòi ra... Mà cô Tư biết chuyện này rồi chớ? Mấy đứa từ Bắc Việt vô đói rét, bệnh tật đang kêu cứu trên núi... Hay thiệt, gạo không, rau rừng cũng không, cầm cự được mấy ngày nữa... Nói để cô Tư hay, bọn tui vây đường lên núi thêm vài ba hôm nữa là lũ ấy không cần trúng đạn cũng chết, chết đói. Không đánh mà chết mới đáng nói chớ...
- Mai tôi còn phải ra bến cá sớm, đại uý thông cảm nghe...
- Cô Tư không muốn tiếp chuyện nữa thì tụi này bai nghe. Đi anh em...
Khi đã ngồi lên xe, Ba Hoàng hỏi Hai Độ và đám lính:
- Không thấy dấu vết gì sao?
- Thưa đại uý, chúng tôi đã sục khắp khu vườn.
- Chẳng lẽ thằng Ba Sánh báo sai. Nó khẳng định có hai bóng người... Nè, trung sĩ Độ, anh có nghĩ rằng Tư Nhâm đang thờ ông bác họ?... Không, không có ông bác nào cả... Phải lần cho ra con người khó hiểu này đang hương khói cho ai...
Trong nhà, Tư Nhâm đứng lặng trước bàn thờ chồng, rầu rĩ, mệt mỏi:
- Tư ơi, vai diễn này với em nặng quá, hãy giúp em...

CHƯƠNG BỐN

I

Đêm đã khuya, Tư lệnh Hải quân vẫn ngồi lặng bên bàn. Công việc, những tính toán cân nhắc khiến ông cảm giác thời gian quá ngắn. Tại sao thời khắc một ngày không là năm sáu mươi giờ, mà chỉ hai bốn tiếng?... Sau sự kiện xảy ra ở Vũng Rô, con đường vận chuyển vũ khí trên biển chi viện cho chiến trường không còn là một bí mật nữa, hình như đã khiến tóc của Tư lệnh bạc thêm. Ông thức khuya hơn và làm việc nhiều hơn. Ông rõ rằng địch chẳng mấy khó khăn để hiểu ra mọi điều. Và chúng đã nhanh chóng có hàng loạt biện pháp để đối phó. Kế hoạch “34.A” nhằm đánh phá miền Bắc, ngăn chặn con đường xuyên Trường Sơn; kế hoạch mang biệt danh “Desoto”, nhằm đưa hạm đội 7 vào Biển Đông và kế hoạch có tên “Maket Timơ” nhằm phong toả vùng biển miền Nam, ngăn chặn sự chi viện của ta bằng đường biển được thực hiện... Nhiều lực lượng mang tên các đội đặc nhiệm được thành lập: Lực lượng đặc nhiệm số 71 gồm Binh đoàn tàu sân bay, lực lượng đặc nhiệm số 115 gồm các tàu khu trục hộ vệ, tàu quét mìn, tàu đổ bộ chiến xa, tàu ven bờ... Từ vĩ tuyến 17 đến vịnh Thái Lan, chúng cho máy bay có thiết bị điện tử hiện đại trinh sát. Ngoài ra có thêm hàng chục trạm ra đa ngày đêm kiểm soát... Phải thừa nhận kẻ địch phản ứng nhanh, phương tiện hiện đại và có tổ chức chặt chẽ. Để tiếp tục đưa vũ khí vào chiến trường là một bài toán khó, không hẳn ngày một ngày hai đã có cách giải. Ông nhớ hôm lên Bộ báo cáo với Tổng Tư lệnh về việc tàu bị lộ ở Vũng Rô, Đại tướng không vui, ông lặng đi rất lâu, song cuối cùng vị chỉ huy cũng an ủi, không có vụ Vũng Rô này tất có vụ Vũng Rô khác, vũ khí vào chiến trường ngày mỗi nhiều, làm sao bí mật mãi được. Rồi Đại tướng chỉ thị, vấn đề lúc này là tập trung vào việc tìm ra đường đi mới, phương cách vận chuyển mới để tiếp tục đưa vũ khí vào chiến trường trong điều kiện con đường đã lộ. “Giai đoạn vận chuyển bí mật đã chấm dứt. Bây giờ là lúc chơi bài ngửa, đúng không? - Đại tướng nói - Trong trường hợp này ai kiên gan hơn, thông minh hơn, mưu trí hơn, tài giỏi hơn sẽ thắng. Con đường đã lộ nhưng bí mật ở mỗi chuyến đi vẫn còn...” Câu nói nhiều hàm ý của Tổng Tư lệnh ám ảnh Tư lệnh suốt. Ông đã cho quán triệt ý định và quyết tâm của cấp trên đến từng cán bộ đoàn “tàu không số”... Cơ quan tham mưu đã nhanh chóng triển khai công tác nắm tình hình địch trên bộ, ngoài khơi và cả hành lang hàng hải quốc tế, nghiên cứu đường đi xa bờ, bí mật bất ngờ đột nhập bến... nhưng xem ra hiệu quả vẫn thấp. Nhiều chuyến đi đã phải quay trở lại... Dừng việc vận chuyển là thua. Nhưng tiếp tục cho tàu xuất phát lại phải tính toán, cân nhắc kỹ. Tìm cách đưa hàng vào các bến, rất cần sự dũng cảm, sự táo báo, nhưng cũng rất cần mưu mẹo... Đã có nhiều đề xuất, ngoài việc đưa hàng vào khu Chín, khu Sáu, vẫn tìm cơ hội đưa hàng vào khu Năm. Nếu bến lộ mà dừng việc vận chuyển, chiến trường sẽ thiếu vũ khí... Hôm nay ông đã quyết định giao cho cán bộ đoàn “tàu không số” lập kế hoạch tiếp tục đưa vũ khí vào khu Năm để trình lên Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh, nhưng vẫn có cái gì đó chưa thật yên lòng...
Đêm tĩnh lặng. Đâu đó nghe như có tiếng còi tàu vào thương cảng thả hàng vọng tới. Tư lệnh bước lại bên cửa sổ nhìn xuống. Đường phố vắng người, thỉnh thoảng lắm mới có chiếc xe đạp đi qua, và từ đó đưa lên hương hoa sữa hắc nồng... Tư lệnh quay vào bàn, ông nhấc máy, quay số:
- Cho tôi nói chuyện với Chính uỷ!

II

Hoàn cảnh ngày mỗi khốc liệt của cuộc chiến và tình thế éo le đã buộc Tư Nhâm nhích dần tới bi kịch. Khi có điều kiện để tỉnh táo ngẫm lại mọi sự, chị cũng không thật rõ sao ngày đó mình có thể làm được những điều tưởng không vượt qua nổi như vậy. Tuy thế cũng nhận ra rằng thời gian không chỉ nhe hàm răng sắc nhọn gậm nhấm dần tuổi trẻ người đàn bà nơi chị, mà cùng với họa, dù ít ỏi và luôn nơm nớp, chị cũng có những phút giây được sống thực, được làm người phụ nữ theo nhiều nghĩa...
Dịp này Tư Nhâm rất ít ngủ. Chị thường nằm yên và dỏng tai nghe tiếng sóng nơi mép nước vọng về. Âm thanh của biển rầm rào tựa tiếng mưa đầu mùa triền miên trút xuống, khiến chị thêm phấp phỏng. Chị vẫn thao thức như vậy, thức để đề phòng lính Ba Hoàng rình phục, và thức là có ý chờ tín hiệu Sáu Quyên. Biết dịp này Sáu Quyên ít có điều kiện về, vẫn mong... Cô ấy là chỗ dựa duy nhất, là sợi dây duy nhất nối chị với tổ chức. Có Sáu Quyên thỉnh thoảng bất ngờ tạt qua, chị thấy yên lòng...
Hôm đó đã khuya lắm, Tư Nhâm vẫn trằn trọc. Chợt có tiếng Sáu Quyên hối nơi cổng. Tư Nhâm vội vùng dậy:
- Có việc, phải không Sáu? - Tư Nhâm lo lắng hỏi khi hai người quýnh quáng bước vào nhà.
- Lính Rồng Biển đã bắn chết anh Mười Bàng và chị Hai Liên người làng Cát rồi.
- Trời ơi!
- Ba Hoàng đang cho lính kéo xác hai người về bêu nơi cửa chợ Lân Cồ để răn đe những người tiếp tế cho du kích...
- Có chuyện ấy thiệt sao?
- Mười Bàng đóng sĩ quan quân cảnh, Hai Liên làm tình nhân ngồi sau hon đa. Thuốc tây và gạo được bỏ trong túi xách. Khi tụi lính hô dừng lại, Mười Bàng rú ga chạy, chúng bắn theo...
- Khổ quá!... Nghe nói Hai Liên cũng có người yêu đi tập kết ngoài Bắc.
- Họ mới được gặp nhau trên cứ. Anh ấy trở về đã mấy tháng nay để chuẩn bị cho “tàu không số” chở vũ khí vô. Tư Nhâm buông tiếng thở dài:
- Tội nghiệp... Chú Sáu rõ chuyện này chưa?
- Chú biểu vô hỏi chị có cách chi tiếp tế ít thuốc tây không. Có thêm gạo càng tốt.
- Vậy chừ tính sao?
- Em cũng chẳng biết nữa. Rối quá!
- Chị có cách này được không, Sáu? Chị cũng thấy là liều... Nhưng đành vậy... Chị có quen mấy cha lái xe nhà binh, chị sẽ nhờ chở giúp vài ba tạ gạo, một ít thuốc men cho má chị ở dưới quê, rồi em thông báo với anh em trên cứ biết để đêm về lấy, được không?
- Chị đơn giản quá! Tính vậy khác chi lạy ông tôi ở bụi này. Không xong đâu, chị.
- Chẳng lẽ chịu để mấy ảnh... Cùng lắm, chết như Hai Liên chứ sao!
- Chết như Hai Liên dễ quá ha! Chị không tính đến mạng mình, nhưng còn công việc chung... - Sáu Quyên thở dài - Em thương mấy ảnh trên “tàu không số” ngoài Bắc vô quá! Không một hạt gạo, hạt muối, không một viên thuốc, họ vượt rừng, vượt núi trở về Bắc sao đây?... Không có súng, có đạn, còn đói dài, còn chịu cực. Chỉ có súng đạn mới làm cho những thằng như Ba Hoàng bớt hung hăng... Em đi nghe chị Tư.
- Chị hỏi đã... Anh em mình hết gạo và không có thuốc chữa trị thiệt sao, Sáu?

- Nếu còn, Mười Bàng và Hai Liên đã không chết thảm vậy. Chú Sáu nhắc chị cẩn thận, đối phó cho khéo và không được manh động... Sáu Quyên đi rồi, còn lại một mình, Tư Nhâm thấy chơ vơ, lòng dạ ngổn ngang như đứng trước mớ tơ rối mà không có cách gỡ... Chị thần người. Tiếng Sáu Sinh như vẫn vẳng bên tai: “Môn dốc, rau rừng đã vặt trụi rồi. Tao lo mấy anh không qua được đận này. Không chết bom, chết đạn, để các anh ấy chết đói thì ân hận quá!”. Chị ngước lên bàn thờ. Tư Lăng như đang ngồi trên đó mỉm cười với chị. Tư Nhâm châm một nén nhang cắm lên.
- Hãy tha lỗi cho em... Chỉ anh là người hiểu em, phải không Tư?
... Cuộc giằng co đấu trí giữa Tư Nhâm và Ba Hoàng trở nên gay cấn. Sau mỗi keo vật chị cảm thấy đuối sức và để chiến thắng, chị đã có những quyết định táo bạo. Sự trớ trêu trong những quyết định mang tính sống chết ấy không hoàn toàn ý thức, còn là cái gì đó nữa của bản năng được đánh thức trước hiểm hoạ...
Tư Nhâm đành nhận lời đưa Hai Rạng về quê thăm má. Và chiếc xe đó đã bị du kích phục, chặn lại. Đồ đạc trên xe bị cướp. Hai người thoát chết và trở lại Lân Cồ. Sau việc đó, Tư Nhâm sống trong tâm trạng bất yên. Chị thấy có lỗi với chồng, đã đành, còn mặc cảm với Hai Rạng bởi nghĩ rằng mình đã lợi dụng và lừa con người cả tin, thật thà này. Hai Rạng không đáng chịu như vậy. Dẫu đeo lon thiếu tá quân đội Quốc gia, Hai Rạng là người đàn ông chừng mực, có văn hoá, biết phải trái, không lừa lọc. Cũng như chị, hoàn cảnh đã đẩy anh vào trạng huống ấy. Mỗi lần Hai Rạng đến thăm, cái cảm giác ngường ngượng khiến chị mất tự nhiên, còn Hai Rạng lại vui, cho rằng dù sao đó là một kỷ niệm đáng nhớ của hai người. “Tư nè, hôm rồi em cho tôi về thăm ngoại bé Thảo, chuyện không thành, lại chút nữa bị du kích lấy mạng cả hai, tôi thiệt không đành lòng... Tôi sẽ gắng bố trí một lần khác... Sau chuyện đó, em không giận tôi chớ?” “Cái số của thiếu tá và tôi chắc không tới được với nhau... Hay là để tôi giới thiệu với thiếu tá người khác.” “Giới thiệu người khác! Sau bao năm lưu lạc nay mình lại được ở bên nhau, đó chẳng là số mệnh sao? Tôi yêu em thiệt lòng và chỉ muốn em hạnh phúc. Giới thiệu ai? Em đừng nói chuyện đó nữa, tôi buồn...”

Nhưng nỗi khổ tâm của Tư Nhâm chưa dừng lại ở đó. Chẳng rõ sao chuyện chị đưa Hai Rạng về quê đến tai bà Bảy Bương. Một hôm bà và ông Năm Hùng, cậu chị, đùng đùng lên Lân Cồ và lần hỏi ra nơi ở mới. Nghe có người đánh tiếng ngoài cổng, chị vội chạy ra và không khỏi sững sờ khi thấy má và cậu mình cắp túi đứng đó chờ. Ngạc nhiên nhưng chị thấy vui, vội xoắn xuýt chào hỏi. Nhưng bà Bảy Bương không nói câu nào. Bà cúi mặt, lăm xăm bước vào nhà, thả mạnh người xuống ghế. Chị vội vàng rót nước mời, nhưng bà Bảy xua tay gạt đi:
- Nước nôi gì! Hôm nay tao nhờ cậu Năm đưa lên đây, chỉ để hỏi mày một câu. Hỏi xong, tao về.
Ông Năm kín đáo ngó quanh ngôi nhà, giọng dịu hơn:
- Má mày bực lắm đó. Tao cũng bực. Có chuyện ấy thiệt không Tư?
Tư Nhâm biết má và cậu cự gì rồi, nhưng chị vờ lảng đi.
- Mời má, mời cậu uống nước đã!... Má và cậu đang bực chuyện gì ạ?
Bà Bảy nhướng đôi lông mày:
- Đừng giả bộ nữa, cô! Cả làng đang đồn ầm lên rằng con gái Bảy Bương sắp thành bà thiếu tá. Chà, nhà Bảy Bương lại có cái diễm phúc vậy sao? Tuần trước mày định rước Hai Rạng về quê ra mắt má mày và họ hàng, nhiều người nói vậy, có không?
- Má và cậu cứ ngồi chơi, con kiếm cái gì để má và cậu ăn tạm...
- Khỏi! Tôi no rồi. Tôi đang tức ứ lên tận cổ đây... Chuyến đi ấy nếu không có mấy đứa du kích phục cướp xe, chắc tôi đã được gặp con rể tương lai. Cả làng ai cũng tò mò hỏi thăm... Có con rể làm đến cấp thiếu tá, sướng thiệt... Sướng thiệt!
- Má, má hiểu cho con... Không phải vậy đâu má... Con khổ lắm... Con đâu muốn...
- Cậu Năm, nó nói nó khổ, nghe lọt cái lỗ tai không? Cậu nói đi, nó khổ hay tôi khổ?... Con gái mày mấy ngày qua khóc sưng cả mắt lên đó. Có đứa bạn nào thèm chơi với nó nữa. Nó tủi, nó hận mày... Ông Năm đẩy về phía bà Bảy Bương cốc nước:
- Chị cứ bình tĩnh để cháu nó trình bày. Có thể chỉ là tin đồn... Tư Nhâm, chuyện người ta nói thực hư ra sao?
- Cậu ơi, cậu thương con, con không làm điều xấu đâu! Ba con vì đâu chết, cậu nghĩ con quên được sao?
- Nhưng chuyện mày định đưa Hai Rạng về quê, có không?... Thiệt khó hiểu.
Bà Bảy Bương cướp lời:
- Tôi sinh ra nó, tôi còn không hiểu, cậu làm sao hiểu... Vậy là rõ rồi, cậu đưa tôi về... Ngồi đây tôi thối cái lá gan lắm. Coi như tôi không sinh ra nó. Về cậu!
- Con xin má, con xin cậu hiểu cho con... Lòng dạ con ra sao có trời biết, có nhà con biết... Con có sung sướng gì...

Bà Bảy đứng phắt dậy như thể chạm vào than nóng vừa gắp ở lò ra:
- Mày dám lôi cả thằng Tư Lăng vô chuyện này nữa sao? Nó ở ngoài miền Bắc chắc vui lắm đây. Có người vợ lấy được sĩ quan cao cấp của chính quyền cộng hoà sao không vui!...
- Má ơi! Má cứ rầy con, chửi con, nhưng xin má đừng bỏ con...
Cậu Năm, con xin cậu... Có những điều không thể nói ra được mà cậu..
- Đàn bà tới cái lúc rửng mỡ nứng nưởi thèm đàn ông làm sao nói ra được... Cậu Năm, cậu có đưa tôi về không? Nghe nó nói thêm, ngứa cái lỗ tai quá, tôi điên mất.
Ông Năm tỏ ra thông cảm, giọng khuyên can:
- Vẫn chưa muộn đâu con. Bình tâm mà nghĩ lại...
- Nào con đã có ý định gì đâu cậu... Con mới đi với người ta một đoạn đường...
- Mày thiếu suy xét, để má mày buồn, con mày tủi, làng xã bà con xì xèo... Lỡ rồi... Thôi, tao sẽ nói má mày cho qua. Nhưng cẩn thận kẻo lại hối không kịp. Đàn bà tuổi mày ở một mình không ổn đâu. Về quê sống với má, với con...
- Dạ, để rồi con tính...
- Tính cái gì? Tính ngày cưới à?... Tôi hỏi lần nữa, cậu có về không?... - Bà Bảy cắp nón ngủi ngẩy bước ra sân. - Tôi đi một mình vậy...
Ông Năm nán lại:
- Má mày nóng, nhưng vẫn thương. Một mẹ một con không thương mày thì thương ai. Liệu thu xếp về dưới quê ở. Má cũng yếu lắm rồi. Thôi, cậu về nghe. Tao đi kẻo má mày la...

Tư Nhâm ra cổng định chạy theo bà Bảy, nhưng ông Năm Hùng gàn:
- Má mày đang nóng, để cậu khuyên giải cho... Mày cứ vào đi... Nhớ lời cậu dặn là được.
Tư Nhâm đành tựa cửa nhìn theo. Thấy bà Bảy lắt thắt bước trên đường, tấm lưng nhỏ đã bắt đầu có dấu hiệu còng xuống, nước mắt lại trào ra, chị thấy thương má vô chừng. Chị đứng lặng bên cổng, chơi vơi, rã rời... Má ơi, xin má hiểu cho con, con xin thề không làm điều gì xấu để tổn hại đến vong linh ba và phiền lòng má... Tới lúc nào đó con tin má sẽ hiểu con gái mình...
Những uẩn khúc khó xử, Tư Nhâm chẳng biết thổ lộ cùng ai, đành nén lắng vào lòng chờ Sáu Quyên. Lần ấy người liên lạc của Bí thư tỉnh vừa vào nhà, chị đã le te:
- Má chị và cậu Năm la chị quá trời. Má giận việc đưa Hai Rạng về quê... Tội má quá!... Chị biết làm thế nào đây, Sáu?... Nỗi khổ này chồng chất lên nỗi tủi kia... Chồng vừa chết mất xác, nay má hiểu lầm, con gái khinh rẻ. Em nói đi, chị phải sống sao đây?... Cậu Năm chị nói đúng. Chỉ còn một cách là về quê sống với má, sống với con gái... Em có hiểu cho chị không, Sáu?
Lần ấy Sáu Quyên đã bật mở một thông tin khiến chị đang ỉu ìu chợt thấy xốn xang:
- Chú Sáu rất rõ nỗi khổ tâm của chị... Và thương chị lắm... - Giọng Sáu Quyên nhỏ xuống - Chị nghe nè, chú đã có ý định, sau đợt

này sẽ đưa chị ra cứ, chị ráng chịu khổ thêm ít nữa...Tư Nhâm như thể người bị nạn có cơ được cứu; vui mừng, chị gần như la lên:
- Chú Sáu hứa sẽ cho chị lên cứ thiệt sao?
- Chú Sáu đâu có nói giỡn. Nhưng chị ơi, vấn đề sống còn lúc này là vũ khí và lương thực. Có vũ khí, có lương thực mới tính chuyện lâu dài được.
- Chị hiểu chớ!
- Chú Sáu giao cho chị em mình và A5 phải nắm chắc tình hình bố phòng, qui luật hoạt động của địch. Bằng mọi giá phải mở lại bến đón tàu vô. Ngoài Bắc các anh Hải quân đã sẵn sàng, chị em mình phải ráng sức thôi.
- Chị sẽ ráng... Trời ơi, sau đận này chị được ra ngoài đó, đúng vậy không Sáu?... Chị cũng kiệt sức rồi. Hy sinh như Hai Liên còn được dân làng thương tiếc, đến ngày giỗ, còn có nắm nhang... Còn chị... Em coi, từ bữa ngồi xe với Hai Rạng rồi bị du kích phục đến nay, dân trong vùng có coi chị là người nữa đâu... Nhiều kẻ thấy chị trên đường, họ tránh vòng qua lối khác như sợ gặp hủi. Có người nhổ nước bọt, không muốn nhìn mặt nữa. Bày hàng ra bán, chẳng ma nào mua... Ai hiểu cho nỗi khổ này?...
- Chú Sáu nói với em, có được ít gạo và thuốc để mấy anh thuỷ thủ trên “tàu không số” trở lại miền Bắc, công chị hàng đầu... Cách mạng đâu quên công lao một ai... Vui lên chị nghe. Được ra đó chị em mình tha hồ tâm sự, khỏi phải thì thào như vầy nữa...
Ai ngờ đó là lần cuối cùng Tư Nhâm gặp Sáu Quyên, và cũng không thể ngờ kể từ hôm ấy hoàn cảnh đã đẩy đưa để rồi cuộc đời chị ngoặt sang hướng khác, họa và phúc lẫn lộn...
Sáu Quyên vừa ra khỏi ngôi nhà, Ba Hoàng, Hai Độ và gần một tiểu đội lính đã xô cổng xộc vào. Khác với mọi lần, Ba Hoàng rất tự tin, ngạo mạn. Gã không úp mở vờn ve mà tỏ ra xấc xược, đắc thắng.
- Chào cô Tư Nhâm... Cô khoẻ chứ?... - Giọng giễu cợt, Ba Hoàng nói và đưa mắt quan sát người đứng trước mặt - Nè cô Tư, cô vẫn cho rằng Ba Hoàng là kẻ hay đặt điều. Ba Hoàng ngay thẳng, đâu là hạng như vậy. Nói cái gì, làm cái gì phải có bằng chứng chứ. Vậy hôm nay tôi muốn chỉ ra bằng chứng đây: Tôi được thông báo rằng có một Việt Cộng cỡ bự vừa vào nhà cô Tư. Chà, chắc họ lại đặt điều, vậy nên nếu cô Tư cho phép, tôi xin tìm ra tên Việt Cộng đó để làm rõ mọi lẽ... Được chớ cô Tư?
Hai Độ sốt sắng:
- Thưa đại uý, cho lục soát?
- Nếu tôi không đồng ý? - Tư Nhâm vẫn cố tình kéo giãn thời gian.
- Sao lại vậy, cô Tư... Phần vì công việc, phần vì danh dự và uy tín của thiếu tá Hai Rạng và cô, nên dù cô Tư không bằng lòng, bọn lính của tôi cũng buộc phải thi hành nhiệm vụ. Nào có ai muốn vậy...
- Đại uý ức hiếp dân thường quá đó!..
- Nhưng quả trong nhà này có che giấu Việt Cộng, lỗi đó đâu phải ở tôi. - Nói rồi, Ba Hoàng phẩy tay, ra hiệu lục lọi.

Chẳng rõ có phải do duyên phận và định mệnh như Hai Rạng vẫn quan niệm, hay do cuộc đời đầy những ngẫu nhiên, với nhiều vòng tròn quay quay rồi chồng khít lên nhau như Ba Hoàng thường liến thoắng, mà khi lính Rồng Biển đang có ý xới tung ngôi nhà, viên thiếu tá bỗng dưng xuất hiện.
- Nghiêm! Chào thiếu tá!
Sau tiếng hô của Hai Độ, mọi người sững sờ cùng quay lại. Hai Rạng đã đứng ngay giữa cửa ra vào.
- Có chuyện gì ở đây vậy, đại uý? - Hai Rạng hỏi, ý chừng cũng đã hiểu ra mọi điều, nên đưa mắt nhìn khắp lượt đám lính.
- Thưa thiếu tá, chúng tôi đang thi hành công vụ. - Ba Hoàng đáp.
- Công vụ? Tôi nghĩ đại uý đã nhầm địa chỉ. Đại uý rõ đây là nhà của ai chớ?
- Thưa thiếu tá, chúng tôi rõ. Nhưng có tin mật báo, trong nhà này đang có một tên Việt Cộng ẩn nấp, việc nhỏ không dám phiền đến thiếu tá... Chỉ mời thiếú tá nán lại chứng kiến cho rõ.
- Đại uý chưa đến nỗi hồ đồ?
- Cũng như thiếu tá, bổn phận của tôi là bảo vệ chính thể cộng hoà... Ngoài lý tưởng ấy ra, không còn điều gì khác... Có một Việt Cộng vừa lén lút vào đây.
- Đại uý dám chắc?
- Thưa, người của tôi đã nhìn thấy tận mắt.
- Vậy sao? Người của ông tinh tường đó... Nhưng nếu tôi không cho phép?
- Bổn phận tôi là...
- Tôi rõ bổn phận của đại uý rồi... Bổn phận của đại uý là làm mất uy tín tôi!
- Thiếu tá đã nặng lời... Nhưng thưa thiếu tá, nếu trong nhà này quả có Việt Cộng...
- Đại uý định doạ tôi? Tôi không cho phép ông làm điều nhảm nhí đó tại đây, trước mặt tôi...
- Vâng, xin tuân lệnh... Vậy xin phép thiếu tá. Đi tụi bay.
- Khoan đã!... - Tư Nhâm bước tới và nói. - Tôi đề nghị thiếu tá cứ để đại uý khám xét. Lâu nay đại uý Ba Hoàng vẫn nghi ngờ và đang muốn có bằng chứng để kết tội tôi có liên hệ với Việt Cộng mà... Ông đại uý, mời ông...
- Kìa, Tư Nhâm... - Hai Rạng kêu khẽ.
- Cứ để ông đại uý thi hành phận sự, cho rõ trắng đen.
- Thiếu tá cho phép chứ ạ?...
- Đây mà là cơ sở của Việt Cộng? Đại uý điên rồi... Nhưng cô Tư đã nói vậy, tôi đồng ý... Rồi đại uý sẽ phải trả lời tôi nhiều điều đó!
Việc khám soát ngôi nhà không đưa lại kết quả như mong muốn khiến Ba Hoàng vừa tức vừa ngượng. Ngỡ đã nắm chắc phần thắng trong tay, cuối cùng thua. Chẳng lẽ Cộng sản có phép biến hoá. Không hẳn được chỉ điểm mà chính Ba Hoàng cũng nhận ra những dấu hiệu của việc có một tốp du kích thâm nhập Lân Cồ, trong đó có người lẻn vào ngôi nhà này. Dứt khoát tốp Cộng quân chưa thể ra khỏi khu vực thị tứ. Hoạ là có cánh. Nghĩ vậy, mặc dù bị Hai Rạng giễu, và cũng cảm thấy bẽ mặt với Tư Nhâm, Ba Hoàng quyết không bỏ cuộc. Gã cho vây ráp khắp bãi biển, dọc bờ sông Thạch Bàn, nơi viên đại uý rõ rằng Việt Cộng thường lủi về hướng đó...

Sự mẫn cán có cái gì như thể cay cú thái quá của Ba Hoàng đã có kết quả. Chưa đầy ba mươi phút gã đại uý với nét mặt hí hở, hốt hải tuông vào nhà Tư Nhâm.
- Trình thiếu tá - Ba Hoàng đắc thắng nói - Chúng tôi đã bắt được con Sáu Quyên và một du kích từ trên núi xuống. Một thắng lợi ngoài dự kiến. Hiện giờ con Sáu Quyên còn im lặng, nhưng xin thiếu tá yên tâm. Đã vào tay Ba Hoàng nhất định con Việt Cộng này phải mở miệng. Nó là nhân vật nguy hiểm. Bắt được nó, sẽ làm sáng rõ về đường dây hoạt động của Việt Cộng ở vùng này.
- Đại uý chắc cô gái này là mắt xích quan trọng trong mạng lưới của Việt Cộng chớ?
- Thưa, tôi có bằng chứng.
- Bằng chứng?
- Và rất thú vị - Ba Hoàng đắc chí - Thú vị đến bất ngờ... Mới một trận đòn, thằng du kích đã vội vã xin tha chết và phun ra hết...
Tư Nhâm chột dạ. Nhìn vẻ mắt hớn hở mãn nguyện và ánh mắt hướng về phía chị như có ý khiêu khích của Ba Hoàng, chị rủn người, cảm thấy lo lắng. Linh cảm mách bảo rằng có điều chẳng lành đã xảy ra... Sáu Quyên bị bắt, rõ rồi, nhưng còn ai nữa đây, và anh ta đã khai báo những gì? Đầu óc Tư Nhâm rối lên, căng tựa sợi dây đàn... “Tư Lăng ơi, sống khôn chết thiêng, hãy giúp em...”.
- Thưa thiếu tá, thằng này nói rằng nó có nắm được kế hoạch tiếp nhận vũ khí của Cộng quân do tàu Bắc Việt thời gian tới sẽ đưa vào, hắn cũng nói rằng biết chỗ cất giấu vũ khí và chốn ẩn náu thường xuyên của Sáu Sinh... Và, còn có một điều hết sức quan trọng nữa đã làm sáng tỏ những nghi vấn lâu nay của tôi...
- Không ép cung chớ?...
- Không, thưa thiếu tá, không hề...
- Nó khai sao?
- Nó khai... Thiếu tá cho phép nói chứ ạ?
- Sao lại hỏi vậy? Đại uý cứ làm phận sự!
- Thưa thiếu tá cùng cô Tư, điều này nói ra có thể làm thiếu tá không vui lòng, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Dạ, mời thiếu tá nghe. Thằng du kích đó khai rằng, trong số những thuỷ thủ trên tàu Bắc Việt chở vũ khí vào Vũng Rô bị chết, có... xin thiếu tá thứ lỗi, có một tên là chồng của cô Tư đây.
- Nói bậy! Ba láp! Bắn bỏ thằng du kích ấy cho tôi! - Hai Rạng cáu. Thông tin của Ba Hoàng khiến viên thiếu tá bị bất ngờ và có cái gì đó như thể bị xúc phạm.

Tư Nhâm cũng giật mình, cảm thấy điều bất hạnh đã tới, cái vỏ bọc của chị sắp bị cởi bỏ, mọi sự sẽ bị lột trần ra... Nhưng chẳng rõ sao chị vẫn giữ được bình tĩnh, chị bước tới đứng trước mặt Ba Hoàng, làm bộ cứng:
- Đại uý thù oán chi tôi mà đặt điều vậy? - Chị nói, và không khỏi ngạc nhiên nhận ra mình vẫn tỉnh táo.
- Đại uý, hãy cẩn trọng trong mọi nhận định. Không thể vô lý vậy được! - Hai Rạng nhắc.
- Thưa thiếu tá, xin thiếu tá bình tâm. Tôi cũng nghĩ là vô lý... Nhưng điều đó trùng hợp với việc không sao giải thích được vì cớ gì bao năm nay cô Tư tuổi đã cao vẫn không chịu lấy chồng. Phải chăng cô Tư vẫn chờ ai... Với nữa, việc lập bàn thờ cúng ông bác họ cũng rất đáng nghi. ổng chết đúng vào ngày tàu Bắc Việt nổ ngoài Vũng Rô...
- Đời tư và việc riêng của cô Tư không phải là điều để đại uý thóc mách. Hãy vào việc công.
- Thưa thiếu tá, việc công là lời khai của tên du kích Việt Cộng. Chẳng lẽ nó cũng thù oán cô Tư sao? Thiếu tá có cần đối chất không ạ?
- Đối chất?
- Tôi nghĩ thiếu tá nên tự mình tra xét để nghe những điều ấy từ miệng nó nói ra. Đâu phải ngẫu nhiên một người như thiếu tá bao năm nay theo đuổi, vẫn bị cô Tư từ chối... Phải có nguyên do chớ.
Đời người thường có những hành động đột biến mà chính sau này, khi có điều kiện ngẫm lại vẫn không thể giải thích rành mạch, rõ ràng và cặn kẽ rằng tại sao lại có thể quyết đoán một cách táo bạo mau
lẹ như vậy.
Đúng vào lúc Ba Hoàng, ngoài mặt cố tỏ ra bình tâm để che giấu nỗi hí hửng trong lòng thì Tư Nhâm đã lật lại thế cờ mau tới mức cả Ba Hoàng và Hai Rạng đều sửng sốt.
- Đại uý đã nhầm. - Tư Nhâm nói, nói trơn tuột và hết sức tự nhiên. - Sau vụ đụng độ với Cộng quân tuần trước, tôi định sẽ cùng thiếu tá Hai Rạng bàn tính chuyện sẽ làm lễ thành hôn vào tháng tới. Chúng tôi đến với nhau là định mệnh. Tôi có ý gây sự bất ngờ, nhưng hôm nay đại uý đã buộc tôi phải nói ra...
Ba Hoàng đang thắng thế, tự nhiên chưng hửng. Khuôn mắt gã méo xệch như người trúng gió độc đột ngột. Gã hẫng hụt, nhìn Tư Nhâm, lúng túng lắp bắp:
- Hả? Trời ơi, một chuyện tốt đẹp... Tai tôi chắc không nghe nhầm? Xin có lời chúc mừng thiếu tá và cô Tư trước. Nhưng xin hỏi lại, cô Tư nói thiệt hay nói chơi?
- Chuyện hôn nhân của đời người đâu có chuyện nói chơi, đại uý. Hai Rạng không nén được nỗi mừng và ngạc nhiên. Viên thiếu tá quay qua Ba Hoàng, khuôn mắt rạng lên như trẻ nhỏ được món quà bất ngờ:
- Đại uý thấy thế nào về sự đa nghi và việc lấy những lời khai ba láp? - Hai Rạng giễu.
- Lại bất ngờ! Rất bất ngờ và thú vị. - Ba Hoàng bối rối nói, gã vẫn trong trạng thái chưa thật sự định thần, vẫn hoang mang, vẫn chưa mấy hiểu điều gì đang xảy ra và tại sao lại xảy ra như vậy. - Có lời xin lỗi thiếu tá... Chào thiếu tá! Chào thiếu tá phu nhân. - Gã nói tiếp và ê chề rút lui. Gã cũng rõ trong ván bài này, một lần nữa phần thắng lại thuộc về người phụ nữ gã tin mười mươi có liên quan đến Cộng sản...

*

Tư Nhâm rơi vào trạng huống gần như hoảng loạn. Sau quyết định chị cho là cần thiết và không thể khác trong hoàn cảnh toàn bộ đường dây nội tuyến và kế hoạch “tàu không số” tiếp tục đưa vũ khí vào Khu có nguy cơ bị lộ, chị thấy mình suy sụp và kiệt lực. Càng hoang mang, rối bời hơn khi ít ngày sau đó hay tin Sáu Quyên đã hy sinh trong nhà tù. Chị biết việc buồn ấy nhờ nối dán những thông tin nhặt lượm được trong những mẩu chuyện rời rạc lúc đám lính Rồng Biển đã lỉn xỉn ở quán Năm Hồng, và chính từ miệng Hai Rạng vô tình buột ra. Dịp này gần như ngày nào Hai Rạng cũng đến, anh đã tự nhiên hơn và hay chuyện hơn. Chuyện gì cũng muốn phô, muốn kể. Thấy Tư Nhâm không được khoẻ, Hai Rạng hết sức áy náy. “Sắp đến ngày vui mà em yếu ợt à. Anh mua mấy con chim cu để em hầm...” - Hai Rạng nói, rồi đi xuống bếp. Tư Nhâm vội bước theo: “Để em...” - Chị lúng túng giật hai con chim trên tay Hai Rạng, thấy ngổn ngang, rối bời. Hai Rạng vẫn vô tư: “Em thiệt có bản lĩnh, một quyết định mừng vui đến vậy mà cũng giữ bí mật đến cùng... Nè, em biết chuyện này chưa, cô gái Ba Hoàng bắt hôm nọ đã chết trong nhà lao...”.
Tư Nhâm như thể hẫng chân, thấy lảo đảo. Chị quay mặt, kín đáo thở dài.
... Sau cái chết của Sáu Quyên, Tư Nhâm bơ vơ tựa đứa trẻ lạc mẹ. Cái cảm giác mình đang chới với ngồi trên con thuyền mảnh mất lái lềnh phềnh trôi dạt giữa đại dương mênh mông, không biết đâu là bến là bờ khiến chị sợ hãi... Những ngày trước lúc cưới, trong trạng thái châng lâng không thật rõ tâm trạng mình, rằng đây là cuộc sống thật hay đang trong mộng mị chiêm bao, chị hay la cà ở quán Năm Hồng. Tới đó nhưng cũng không thật rõ mình muốn gì. Có thể là để tan vào chỗ đông người đặng có cơ tìm lại cảm giác thật nơi mình. Cũng có thể nhằm nguôi ngoai mọi sự. Cái nhu cầu muốn thổ lộ, muốn giãi bày, chuyện trò tâm sự cùng ai đó cũng cháy rát như người bị bỏ đói lâu ngày thèm ăn... Nhưng hình như không ai đồng cảm và hiểu chị, kể cả Năm Hồng. Mỗi lần trông thấy Tư Nhâm, người chủ quán tốt bụng tỏ ra hí hớn: “Nè, chị hay tin rồi nghe. Mừng cho cô. Em quyết định vậy là phải, Tư ạ. Đàn bà chúng mình có thì. Hai Rạng cũng là thằng đàn ông tử tế. Sắp tới cần gì, chị giúp... Nhưng cô phải giữ sức. Mạ già ruộng ngấu, háo thèm, mạnh mẽ lắm đó... Chị rành mà, thì cũng là đàn bà, lòng vả cũng như lòng sung... Thài lài gặp phải cứt chó mới tốt mới tươi...”. Tư Nhâm thấy rỗng rễnh, chênh vênh. Lại tủi thân và buồn. Và cuối cùng, đành về với chính mình trong ngôi nhà của mình. Người hiểu hoàn cảnh này, chị cho rằng không ai khác, cuối cùng vẫn là Tư Lăng, chồng chị. Anh là chỗ dựa duy nhất, người có khả năng an ủi duy nhất lúc này. Khuya khuya chị chỉ còn biết gục bên bàn thờ than thở: “Tư ơi, em đi lấy chồng đây!... Em rơi vào tình thế buộc không thể làm khác... Hoàn cảnh éo le đưa em vào sự nghiệt ngã ấy... Tổ chức có ý định cho em ra cứ, nhưng giờ thì đã lỡ, lỡ hết rồi... Và em đành phụ anh!... Em chẳng còn đủ sự dũng cảm để gặp má, gặp con gái chúng mình nữa... Anh ơi, em khổ lắm... Sống khôn, chết thiêng, anh hãy vì em mà phù hộ cho má khoẻ mạnh, con gái trưởng thành, biết nghĩa và biết đi theo con đường của cha... Anh ơi, tội em lắm!... Em sắp phải mặc áo cưới, lên xe hoa... Trớ trêu là phải lấy người mà bà con cô bác vẫn kêu kẻ thù. Dưới đó anh có buồn không, anh?... Em không muốn mình được tha thứ đâu... Anh cứ trừng phạt em, nghe anh. Cứ trừng phạt em thật nặng...”.
Tư Nhâm nức nở cho đến khi mệt lử, thiếp đi...

Mấy ngày kế đó chị hay tin má mình đổ bệnh. Chị rõ tại sao má không khoẻ, nhưng đành nén nỗi đau trong lòng, rấm rứt khóc, không dám về. Sẽ giải thích với má, với bà con sao đây?... Má ơi, con biết má thương con, lo cho con, nhưng con đâu làm điều tệ hại, con cũng vì hoàn cảnh bắt buộc, vì nhiệm vụ... Lúc này giá chi con được gục mặt vào lòng má như thời con còn nhỏ mỗi lần có điều gì ấm ức, và lại được rủ rỉ kể hết sự tình để được má an ủi, khuyên giải, vỗ về... Lúc ấy con tin má sẽ không giận mà còn thông cảm và thương con bội phần... Má vốn là người bao dung, hiểu lẽ đời... Đã lâu rồi con không được ôm ngang người má, không được ngửi hít vị mồ hôi đặc trưng thơm nồng rơm rạ đồng mùa thân quen nơi má. Con như thể đã biến thành người khác, không được thật mình, không được sống cho đúng bản tính mình, không được làm những gì mình muốn, không được thổ lộ hết tình cảm mình có. Con đang tồn tại mà lại như thể đóng thế, như thể sống giả... Má ơi, má có hiểu cho con không?
Và bé Thảo nữa. Thảo ơi, má chẳng đã từng nói với con rằng ba con là người tốt, thiệt tốt. Khi con hỏi, sao ba không về với má, với con, má đã giải thích rằng ba bận việc, ba phải đi xa... “Con giống ba hả má?”
“Giống! Soi vào gương con khắc gặp khuôn mặt ba”. “Sao ba cứ đi miết, má?” “Ngủ đi! Má biểu không được hỏi nhiều mà.” “Con cũng có ba... Con có ba thiệt, má hí.” “Thiệt!” Vậy mà... Trời ơi, bây giờ làm sao giảng giải với con cho nó hiểu? Nghe nói mấy ngày qua bé Thảo bỏ ăn, khóc sưng cả mắt và tủi phận, luôn miệng kêu rằng má ơi, con xin má đừng bỏ con mà đi lấy chồng, tội nghiệp lắm... Má vẫn nói ba con là người thiệt tốt, không bao giờ má quên được ba kia mà... Tư Nhâm chập chờn trong những ý nghĩ rời rạc chắp nối, thấy mình bất lực, mệt lử...
Hôm cưới, chị xỉu xìu, mềm oặt như một sợi bún. Lòng rối như tơ vò, không thật rõ rằng mình đang diễn kịch hay cuộc đời vốn vậy, đang chơi trò hai mặt với mình. Chị làm theo sự hướng dẫn của Năm Hồng như một phản xạ bản năng. Sau này khi có điều kiện nghĩ lại, chị cũng không sao nhớ hết trình tự lớp lang ngày đó. Chỉ mang máng rằng khá đông người, chị có cười, hình như lại có uống rượu, rồi lên xe và vẫn trở về ngôi nhà cũ đã được sửa chữa lại khá tươm tất của mình... Duy điều này thì chị nhớ, nhớ rất rõ, hôm đó Hai Rạng lặng phắc tựa một bức tượng ngồi bên bàn đốt thuốc suốt đêm. Và chị nằm còng queo trên giường, cũng thức trắng. Chị không khóc, hình như đã có cái gì đó quá ngưỡng khiến chị trơ chai, trống rỗng. Không cảm xúc, không háo thèm như Năm Hồng vẫn bảo và không cả buồn phiền. Hai Rạng là người nhạy cảm, mặc dù không giải thích được mọi sự nhưng cũng nhận ra cái điều không bình thường trong mối quan hệ này. Ban đầu anh cho rằng Tư Nhâm vẫn còn mặc cảm, có thể chị xấu hổ với quá khứ đã qua,
có chút thái quá nhưng dù sao cũng là người biết tự trọng, và bởi vậy, đáng quý... Rất yêu Tư Nhâm và như bất cứ người đàn ông nào, anh thấp thỏm, hồi hộp, thèm muốn chờ đợi đêm tân hôn, nhưng lại biết kìm chế, chút văn hoá chụp trên đầu khiến anh không thể sỗ sàng, không thể làm điều gì tổn hại đến tình cảm hai người. Anh biết tôn trọng chị. Và chờ đợi...

Thời gian như liều thuốc có thể làm thay đổi dần mọi tình cảm con người, kéo người ta thích nghi và quen với nếp sống mới, hoàn cảnh mới. Cuộc sống êm trôi, ngày tháng cận kề, quen hơi bén tiếng khiến Hai Rạng và Tư Nhâm thấy gắn kết và hiểu về nhau, hợp nhau hơn. Đúng như Hai Rạng quan niệm, có một cái gì hết sức định mệnh đã khiến họ chập vào nhau, không còn là sự ép nải, đóng kịch mà là cuộc sống thật, với không chỉ có trớ trêu cay đắng mà rất nhiều niềm vui, sự ngọt ngào và thú vị. Khó mà nói rằng họ không bằng lòng với những gì đang có, đang hiển hiện. Sáng sớm, Hai Rạng vào doanh trại, trước khi ra khỏi nhà không quên hôn vợ, Tư Nhâm dọn dẹp nhà cửa, nấu nướng và đã hình thành thói quen, hễ quá trưa là ngong ngóng có ý chờ. Những lúc anh về trễ, chị thấy nóng lòng, và cả nơm nớp, vô cớ lo sợ. Ma lực cuộc sống gia đình với nhiều điều mới mẻ, thoả mãn khiến có lúc Tư Nhâm bẵng đi vai trò của mình. Và chị chợt giật mình, thậm chí thoáng gợn chút xấu hổ. Những lúc như vậy chị thường thừ người, tư lự ngồi thở dài, nghĩ mông lung, có cái gì như thể bẽ bàng chơi vơi, lại như thể chán nản tiếc nuối...
- Ước mơ của người phụ nữ hết sức đơn giản. Muốn được yên bình ở bên chồng, bên con và chăm sóc họ, mà sao khó thực hiện... Ước gì nhân loại không có chiến tranh... -Một lần Tư Nhâm nói khi hai người ngồi bên mâm cơm.
- Em giống hệt má anh... Được chăm nom chồng con với má cũng là điều hạnh phúc. - Hai Rạng nói, rồi nhìn Tư Nhâm và cười. Nét cười của người cảm nhận được rằng mình rất hạnh phúc. Một lát, anh nắc nỏm: Hôm nay em nấu canh cá lóc ngon quá! Đã lâu rồi không được ăn món canh ngon như vậy. Hồi nhỏ má cho ăn một lần và nhớ mãi... Cuộc sống gia đình thật tuyệt... Từ ngày gặp em rồi có em, anh thấy đời mình tựa như một giấc mơ...
- Giấc mơ? Có thể là một giấc mơ.... - Tư Nhâm lơ đãng nhìn ra ngoài và hình như gắng nén tiếng thở mạnh. - Giá cuộc chiến này cũng chỉ là một giấc chiêm bao, chỉ diễn ra trong mộng mị...
- Anh đang nhờ Ba Hoàng tìm một người giúp việc. Anh thấy những ngày qua em vất vả quá... Anh muốn em có nhiều thời gian hơn để đọc sách và làm những việc khác.
- Công việc trong gia đình là thiên chức của phụ nữ... - Tư Nhâm nói. - Với nữa anh đừng nhờ vả Ba Hoàng... Con người đó... Em cứ có cảm giác không an tâm.
- Anh rõ chớ, Ba Hoàng là người của CIA, là mật vụ. Hắn còn theo dõi cả anh... Nhưng chẳng làm gì được Hai Rạng này. Hắn là cấp dưới, muốn vượt mặt, khó đấy...
- Em cứ thấy lo lo...
- Em khỏi băn khoăn, với Ba Hoàng, anh đã có cách...

Nỗi lo lắng của Tư Nhâm không phải vô cớ. Mấy ngày sau quả Ba Hoàng đến nhà.
- Đại uý tìm nhà tôi phải không? - Tư Nhâm nói, không lạnh nhạt mà cũng không vồ vập. - Nhà tôi vừa vào trại... Nếu việc công, đại uý vô đó.
- Thiếu tá Hai Rạng hẹn tôi tới đây mà. Với nữa tôi tới thăm không được sao, thưa bà thiếu tá...
- Vậy mời ngồi!
Ba Hoàng nhìn quanh và nói bâng quơ:
- Ngôi nhà đẹp quá ha!... Nhìn vào cách bài trí, biết ngay chủ nhân là người rất ngăn nắp, cẩn thận... Thiếu tá Hai Rạng thiệt hạnh phúc... Sau ngày cưới, tôi thấy cô Tư đẹp ra, khoẻ hơn...
- Cám ơn!...
- Thiếu tá Hai Rạng có nhà tầng trên phố, sao hai người không chuyển lên đó sống cho hợp với công việc của thiếu tá?... Chắc căn nhà này có nhiều kỉ niệm với cô Tư.
- Đại uý chẳng vừa khen ngôi nhà đẹp đó sao!
- Phải, tôi có nói thế... Nhưng tôi dám chắc ngôi nhà trên phố đủ tiện nghi hơn... Thiếu tá Hai Rạng có phàn nàn với tôi là cô Tư không có ý chuyển. Chắc có lý do.
- Tôi đã quen sống kề biển...
- Tôi biết...
- Điều ấy làm đại uý khó chịu?
- Xin lỗi, tôi là kẻ lẩn thẩn, cứ thích tìm hiểu những chuyện không đâu, vậy thôi...
Từ ngày Hai Rạng cưới Tư Nhâm, nhiều lúc Ba Hoàng cũng cảm thấy hoang mang. Chẳng thể phủ nhận Hai Rạng và Tư Nhâm sống với nhau không hạnh phúc. Cũng chẳng thể nói rằng cả hai đang đóng kịch. Ba Hoàng không tin họ sống thủ đoạn, sống phù phép, giả vờ. Họ gắn kết thật sự. Thậm chí nhiều lúc gã nảy nòi chút ghen tị, cho rằng số viên thiếu tá đâm ra lại gặp may, giá như vợ gã, người đàn bà thường bỏ chồng con đi hoang có được một chút tế nhị nết na và biết đối xử, ăn ở mặn mà như người đàn bà của Hai Rạng! Điều đó khiến gã mất tự tin. Song bệnh nghề nghiệp và chút linh cảm của kẻ vốn đa nghi, hiếu thắng khiến gã thiếu an lòng, vẫn ngờ ngợ, vẫn rình phục, chờ cơ hội...
- Chắc đại uý tới vì việc hôm trước nhà tôi nhờ... - Tư Nhâm hỏi.
- Tôi nghĩ mình phải có trách nhiệm với thiếu tá Hai Rạng và cô Tư đây...
- Công việc trong nhà tôi vẫn đảm đương được. Phải bận bịu mới đỡ buồn...
- Thiếu tá Hai Rạng là người chu đáo...

Vừa lúc Hai Rạng bước vào nhà. Ba Hoàng đứng dậy, chào và giải thích rằng mình đang trao đổi với Tư Nhâm về người giúp việc.
- Chuyện đó bàn sau... Có việc này rất gấp. - Hai Rạng quay về phía Tư Nhâm. - Xin lỗi em! - Tư Nhâm biết ý, đi vào nhà trong. Hai Rạng chỉ chiếc ghế và hai người cùng ngồi xuống. - Tôi trễ hẹn với đại uý vì có việc. Mấy hôm rồi Cộng quân làm dữ, chúng tấn công cứ điểm Chóp Chài, Dương Liễu, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát... Trung đoàn Hai chủ lực có thể vận động phục kích ở Đèo Nhông, Đèo Cả và tuyến hành lang Quốc lộ Một. Đại tá Hưng vừa có lệnh, để phá kế hoạch Việt Cộng từ trong trứng, tiểu đoàn Rồng Biển kết hợp với lực lượng quân đoàn đóng ở Bình Định, Phú Yên mở cuộc hành quân lớn vào Tuy Hoà, Khánh Hoà. Mục tiêu chủ yếu của tiểu đoàn là cứ điểm núi ẩn.
- Thưa, núi ẩn từ trước tới nay vẫn được coi là đầu não của Cộng quân ở khu vực Phú Yên, Tuy Hoà...
- Đại uý chuẩn bị mọi phương án và cùng đại uý tham mưu trưởng chuẩn bị làm ngay kế hoạch hành quân, cả kế hoạch hiệp đồng, càng sớm càng tốt... Tám giờ ngày mai có mặt tại phòng làm việc của tôi bàn cụ thể.
- Rõ!
- Cộng quân còn tồn tại ở núi ẩn, coi như thua. Đại uý rõ ý tôi chớ?
- Tôi đã rõ, thưa thiếu tá... Bọn Việt Cộng trên núi đang đói...
- Không được chủ quan! Kế hoạch phải hết sức chi tiết và cụ thể. Trong ba ngày chúng ta phải báo lên Quân đoàn.
- Thưa, có nghĩa là thứ ba tới?...
- Tuyệt mật đó nghe.
- Tôi ý thức được, thưa thiếu tá. Còn người giúp việc cho thiếu tá và cô Tư, tôi đã dự kiến, hôm nay tới là để thưa với thiếu tá...
- Đại uý rõ đấy, nhà tôi không được khoẻ, nên rất cần có người giúp việc... Nhưng không thể thuê người ngoài. Nhà tôi không muốn thế, tôi cũng vậy. Một ngày chỉ cần đảo qua xem vợ tôi có cần gì thì giúp. Thậm chí tuần tới vài ba lần cũng được...
- Tôi đã báo cho trung sĩ Độ, anh ta sẽ giúp bà thiếu tá. Đó là một người rất cẩn thận.
- Trung sĩ Độ?... - Hai Rạng chợt như ái ngại - Không có ai khác sao?... Thôi cũng được!

Ba Hoàng về rồi, Hai Rạng ngồi suy nghĩ bên bàn. Có phải gã đại uý cố tình cài người của mình vào ngôi nhà này? Hình như gã vẫn chưa muốn cho Tư Nhâm được yên thân. Nghĩ vậy nhưng khi Tư Nhâm cầm cốc sữa từ phòng trong bước ra, rồi đặt xuống bàn và ép Hai Rạng uống, anh cố tình giấu tâm trạng của mình, làm bộ vui:
- Dịp này em thấy trong người thế nào? Sức khoẻ của em là tài sản chung của chúng ta nghe. Anh đã nhờ Ba Hoàng tìm người giúp việc cho em đó.
- Việc nhà có đáng là bao, em làm được mà. Mình bày vẽ ra người giúp việc chi.
- Cần có người đỡ đần em những việc nặng chớ. Hôm nọ em chẳng bảo em cần sửa lại vài ba thứ trong nhà sao...
- Nhưng em không muốn Ba Hoàng dính vào việc này...
- Điều đó thì em có lý... Để anh tính... Tối đó trung sĩ Hai Độ thập thò ở cửa:
- Trình thiếu tá, theo lệnh của đại uý Ba Hoàng, tôi có mặt.
Hai Rạng quay lại, và sự cáu giận đối với Ba Hoàng có cớ trút cả lên đầu gã trung sĩ.
- Anh biết việc của mình rồi chớ? - Hai Rạng hỏi, giọng không vui.
- Thưa thiếu tá, đại uý đã giao nhiệm vụ...
Hai Rạng nhếch mép:
- Giao nhiệm vụ à? Nhiệm vụ gì? ở đây, việc của anh là giúp nhà tôi những công việc cần thiết, ngoài ra không có nhiệm vụ nào cả. Bao giờ nhà tôi cho gọi mới được tới, rõ chưa.
- Thưa rõ!
Tư Nhâm ngồi cạnh đó, nói thêm:
- Bây giờ anh có thể về. Nhưng thứ tư tuần sau nhớ tới để tôi nhờ một việc. Có thể anh phải giúp tôi lau chùi, sửa sang lại một ít đồ dùng.
- Thưa bà thiếu tá, thứ tư tôi sẽ qua. Chào thiếu tá, chào bà.
- Nhớ thứ tư nghe!
Hai Rạng nhìn theo Hai Độ, tỏ vẻ khó chịu:
- Em phải hết sức đề phòng thằng này, nó là người tâm phúc của Ba Hoàng đó.
- Em nghĩ là đại uý Ba Hoàng muốn theo dõi anh.
- Có thể! Thằng này cáo lắm, nhân cớ mình cần người giúp việc, nó cài người của nó vào... Được lắm! Em phải đề phòng du kích, lại phải chú ý đề phòng thằng CIA này nữa nghe.

*

Tư Nhâm quen dần với cuộc sống mới của mình. Một cuộc sống nhiều nỗi niềm và cũng nhiều bù đắp. Đành rằng đã trót thì phải trét nhưng nghĩa nào đó, những ngày tháng kế theo của cuộc đời chị, xét trên khía cạnh thuần tuý gia đình cũng thấy có phần dễ chịu. Chị thực sự được làm vợ, được làm người đàn bà... Hai Rạng là gã đàn ông tế nhị, biết chiều vợ. Anh yêu Tư Nhâm hơn Tư Nhâm nghĩ. Nhiều khi chị quên hẳn vai diễn để sống cho hết tình cảm mình. áy náy có chăng là đêm đêm, lúc lên giường với Hai Rạng, vẫn nơm nớp cái cảm giác không bình yên. Hình như có đôi mắt ai đấy cứ chòng chọc nhòm vào. Và chị dễ dàng nhận ra đó là ánh nhìn của Tư Lăng. Những lần như vậy chị hoảng hốt, mất cảm hứng, đành ườn ra, chới với cam chịu trong vai trò thụ động của người vợ... Sáng hôm sau, khi Hai Rạng ra khỏi nhà chị vội thắp nén nhang, cắm lên bàn thờ cầu xin và tạ lỗi.
Dần dà việc ấy cũng thành quen. Mặc cảm theo thời gian, mất dần; đêm đêm Tư Lăng đã không còn xuất hiện, hoặc có cũng nhạt mờ và Tư Nhâm thật sự được sống những giây phút hoàn toàn cho mình, vì mình... Nghĩ đến Năm Hồng, Tư Nhâm đã bắt đầu nhận ra rằng những quan niệm và cách sống của người đàn bà ấy không hẳn không có lý... Bản năng giống cái nếu được đánh thức và được đặt đúng chỗ trong hoàn cảnh hợp lý, sẽ khiến người phụ nữ như được lột xác, bay lên, về với chính mình. Con người đang có xu hướng bứt bỏ khỏi những ràng buộc cột trói do chính họ tạo nên. Những niêm luật dần dà bị phá vỡ và người ta muốn quay lại với bản năng vốn bị ý thức đè nén. Những đặc tính của người đàn bà trong Tư Nhâm thức dậy, chị dịu dàng mà cuồng nhiệt. ý tứ nhưng không vờ vĩnh. Không buông thả song cũng chẳng kìm giữ... Chị biểu lộ bản năng tình cảm thật như mình có, mình muốn...

Nhưng cuộc sống không hẳn đã an bài. Điều khổ tâm vẫn bám níu hàng giờ. Một ngày nọ ông Năm Hùng, vai đeo bị cói đứng ngó nghiêng trước ngôi nhà, giọng tỉnh queo:
- Xin hỏi, đây có phải nhà của ông bà thiếu tá Hai Rạng?
Tư Nhâm bỏ công việc, chùi tay vào tạp dề luýnh quýnh chạy ra:
- Ôi, cậu Năm! Con cứ ngỡ là ai. Mời cậu vào trong này.
- Chào bà thiếu tá! Bây giờ thì bà còn nhận ra ai. - Ông Năm nói và ngơ ngáo bước vào nhà.
- Cậu kêu vậy con khổ lắm. Cậu ngồi xuống để con lấy nước mời cậu.
- Không dám! Tôi đứng cũng được. - Ông Năm đưa cặp mắt mệt mỏi ngó quanh. - Ngôi nhà của bà thiếu tá khác trước nhiều quá.
- Con xin cậu! Cậu ngồi xuống đi... và uống nước... Để con cất đỡ cái bị nghe...
- Bà thiếu tá cứ cho tôi được tự nhiên... Người ta cũng dễ thay đổi. Từ một cô gái buôn bán vặt, vụt cái thành bà thiếu tá. Nhanh thiệt... Làm phu nhân thiếu tá ăn sung mặc sướng, ai chẳng thích...
- Cậu ơi, cậu cứ mắng, cứ chửi vào mặt con cho đã giận. Nhưng xin cậu đừng nói như vậy. Má con không cho con về quê, bà con làng xóm hắt hủi khinh rẻ, con đã khổ lắm rồi...
- Khổ à? Ăn ngon, mặc đẹp, ở nhà cao cửa rộng, cớ gì bà thiếu tá phải khổ? Bà khổ hay má bà, con bà khổ? Họ không những khổ trong tâm, mà còn tủi và nhục với bà con làng xóm nữa kia. Bởi không chịu được nhục nên con gái bà đã bỏ nhà đi hơn chục ngày nay. Nó đi đâu, có trời mà biết.
- Sao? Con gái con bỏ đi hả cậu? - Tư Nhâm chợt như la lên, rồi thấy tủi thân, khóc oà. - Trời ơi, con gái tôi... - Giàn giụa nước mắt, chị ngẩng nhìn ông Năm. - Hôm trước bé Thảo có lên phố, nhưng trông thấy con nó lánh. Con gọi mãi, nó không thưa. Nó cố tình không muốn nhìn mặt con nữa. Con khổ quá cậu ơi.
- Còn má bà, do không chịu được tai tiếng lại suy nghĩ nhiều, đã đổ bệnh mấy tháng nay. - Ông Năm vẫn đủng đỉnh. - Bả không chịu ăn uống gì, nguy kịch lắm. Sợ bà không qua khỏi đận này... Tư Nhâm lại gục xuống, nức nở:
- Má ơi! Con biết làm gì bây giờ?
- Bà chị tôi nhất quyết không cho kêu bà thiếu tá về, nhưng nghĩ nghĩa tử là nghĩa tận nên nhân có việc lên trên này, tôi mạo muội tới đây để thưa chuyện với bà thiếu tá.
Tư Nhâm nấc lên:
- Má ơi, con bất hiếu mất rồi! Cậu ơi, con biết làm thế nào hả cậu? Cậu cho con theo về nghe?...
- Tôi đâu có quyền đó...
- Tư Nhâm, cháu của cậu đây mà, cậu ơi, cậu thương con... Má con mệnh hệ gì, con chết mất... Cậu chờ con kiếm ít thuốc rồi cùng về...
- Tôi đi qua và tiện thể thông báo vậy thôi. Nhưng tôi khuyên bà không nên về dưới quê, phần vì nơi đó không hợp với cách sống của bà, bẩn thỉu hôi hám và ruồi muỗi, phần vì tôi sợ rằng, trông thấy bà, bệnh bà Bảy Bương nặng thêm đó... Chào bà, tôi đi.
Ông Năm Hùng bước qua cổng rồi mà Tư Nhâm vẫn chới với như người không biết bơi đang chìm dần xuống biển. Chị ấm ức, tức tưởi khóc:
- Má ơi!... Con biết làm gì đây?... Cậu Năm, cậu chờ cho con gửi ít thuốc...

Nhưng Tư Nhâm đâu chỉ chịu sự quở phạt từ phía gia đình, mối hiểm hoạ thường xuyên vẫn là Ba Hoàng. Sau cuộc hành quân với quy mô lớn vào căn cứ và các huyện Tuy Hoà, Ninh Hoà, Diên Khánh... không thành, đặc biệt tiểu đoàn Rồng Biển bị thiệt hại nặng ở núi ẩn, một lần nữa Ba Hoàng lại cho rằng có thể đã có người làm việc cho Việt Cộng trong hàng ngũ quân đội Quốc gia. Nghe thấy nhàm, Hai Rạng nổi đoá:
- Nè, ông mật vụ, đại uý ám chỉ ai vậy? Hay định tố cáo Hai
Rạng này? Có phải đại uý đã cài trung sĩ Độ để theo dõi tôi?
- Không, thưa thiếu tá, xin thiếu tá đừng nặng lời. Tôi đâu đã ngu dại tới mức ấy. Lòng trung thành và sự tận tụy của thiếu tá đối với chế độ, thì tôi rõ... Nhưng... có những điều quanh chúng ta rất đáng ngờ...
- Hay ông định nói rằng vợ tôi là Việt Cộng?
- Điều đó thì... nếu tôi có bằng chứng.
- Xấc xược! Càn rỡ!
- Xin lỗi thiếu tá... Nhưng...
- Đại uý chớ quên rằng ở đây tôi là chỉ huy cao nhất. Tôi mới là người chịu mọi trách nhiệm.
- Tôi rõ, thưa thiếu tá.
Đêm đó nằm cạnh Tư Nhâm, Hai Rạng đã không mấy vui kể lại chuyện đấu khẩu hồi chiều, rồi anh nói:
- Thằng cha mật vụ cà trớn! Nó dựa thế là người của đại tá Hưng để làm càn. Nhưng đại tá Hưng cũng đã tới lúc thất sủng rồi. CIA bất lực trong việc cung cấp thông tin tình báo nhằm ngăn chặn sự thâm nhập bằng đường biển của Bắc Việt. Vũ khí từ miền Bắc vẫn được tuồn vào các cửa biển, các kênh rạch. Đúng là họ có phép mầu. Tàu của họ đi trong bất kỳ thời tiết nào và có thể cập vào bất cứ đâu họ muốn. Họ táo bạo hơn đại tá Hưng tưởng.
Tư Nhâm thường chăm chú lắng nghe, thậm chí lấy làm sung sướng và hạnh phúc khi Hai Rạng vẫn thủ thỉ kể những câu chuyện không đâu vào đâu, những câu chuyện không chủ định khi hai người sắp đi ngủ, song lần này lại giả bộ dửng dưng như thể những chuyện ấy chẳng hợp với mình, nhưng trong lòng không khỏi lo lắng. Ba Hoàng đã đánh hơi ra nhiều điều và nhất định gã không chịu bỏ cuộc, buông xuôi. Nếu những thông tin chị thông báo với A.5 lọt vào tay gã, hậu quả khó có thể lường...

Từ ngày không còn nữa sợi dây Sáu Quyên nối chị với Sáu Sinh, Tư Nhâm và cả A.5 đều thấy chơ vơ trống trếnh... Hai người như chiếc thuyền thúng mỏng mảnh bé nhỏ đứt dây xoay tròn giữa đại dương... Và sự chơ vơ trống trếnh ấy chưa kịp khỏa lấp, đã lại thêm biến cố khác ập tới.
Hôm đó Tư Nhâm đang chuẩn bị bữa tối thì chuông điện thoại đổ ở phòng ngoài. Chị nghe rất rõ tiếng Hai Rạng tỏ ra hốt hoảng, không bình thường.
- Thưa, tôi rõ. Tôi sẽ điều lực lượng tới ngay Hòn Tròng... Thưa rõ! Vâng, tôi ý thức được sự hệ trọng của công việc. Chào đại tá.
Rồi Hai Rạng quay máy:
- Tôi cần nói chuyện với đại uý Ba Hoàng... Chào đại uý! Chưa ăn tối phải không? Có việc rất gấp, trên quân đoàn vừa gửi điện khẩn xuống, có một tàu vận tải của Bắc Việt chở chiến cụ cho Việt Cộng có khả năng cập bến Hòn Tròng đêm nay. Lệnh Quân đoàn là điều toàn bộ lực lượng tiểu đoàn Rồng Biển ra đón lõng tại Hòn Tròng. Nếu thuỷ thủ đoàn cho nổ tàu và lên bờ, cần bắt sống. Đại uý tới ngay doanh trại, và cho xe tới rước tôi nghe. Mấy phút nữa toàn bộ sĩ quan có mặt tại sở chỉ huy... Phải, toàn bộ tiểu đoàn...
Khi Tư Nhâm ra tới phòng ngoài, Hai Rạng đã mặc xong quần áo.
- Mình lại phải đi à? Tối rồi, có việc gì nữa?
- Việc nhà binh mà, em...
- Em dọn tạm cái gì để mình ăn đỡ đã.
- Khỏi. Gấp lắm. - Hai Rạng bước tới, âu yếm hôn vào má Tư Nhâm. - Anh đi đã nghe, đêm nay anh không về, em ngủ ngon và đừng mong.
- Dạ!... Anh nhớ cẩn thận giùm em.

Hai Rạng đi rồi, quay lại với vai trò của mình, Tư Nhâm hết sức lo lắng. Quân đoàn Hai đang dồn lính ra Hòn Tròng, các anh ấy cho tàu vào đó là sập bẫy. Làm thế nào để báo cho chú Sáu hay đây? Tư Nhâm thấy rối, ruột gan như có lửa đốt. Chị ngồi xuống, lại đứng lên, bồn chồn không yên; bứt rứt tựa trên người có ngàn vạn con kiến li ti đang bò. “Không có súng, có đạn, còn đói dài, còn chịu cực. Chỉ có súng đạn mới làm cho những thằng như Ba Hoàng bớt hung hăng...” Ai nói như vậy ta? Đúng rồi, Sáu Quyên đã nói câu ấy. Sáu Quyên, phải, Sáu Quyên!... Hình ảnh Sáu Quyên hiện lên loé ra tia hi vọng, nó như thể chiếc chìa khoá có khả năng gỡ rối trong hoàn cảnh hiện tại... Tư Nhâm chợt nhớ, một lần, người liên lạc của Bí thư tỉnh có dặn rằng, trong tình thế khẩn cấp và hết sức cần thiết, nếu không còn khả năng bắt liên lạc, hãy tới hiệu thuốc nằm trên đường Cộng Hoà nơi thị tứ Lân Cồ, nói mật khẩu, nếu nhận được đúng ám hiệu, thì đưa thông tin cho người đó... Nhưng công việc hôm nay đã phải là việc khẩn thiết? Và nếu chị tới đó, có sai nguyên tắc? “Nếu không là việc cấp bách, tuyệt đối chị không được tới đấy, dù một lần nghe.” Tư Nhâm cũng rõ lên Lân Cồ và tới hiệu thuốc trong đêm là hết sức nguy hiểm. Người của Ba Hoàng theo Tư Nhâm từng bước... Có thể sự sốt sắng của chị sẽ làm hỏng cả một đường dây... Rối quá, làm sao đây hả ông trời? Thời gian đâu cho phép Tư Nhâm nghĩ nhiều, mỗi phút qua đi đồng nghĩa với việc tai hoạ lại đến gần... Không nhanh là xoay trở không kịp...
Tư Nhâm bước tới bên chiếc điện thoại, chị run run quay số. Những lúc khẩn cấp, cần quyết đoán.
- A lô, thiếu uý Hoằng đó phải không? Dạ... Tôi, Tư Nhâm vợ thiếu tá Hai Rạng... Vâng, phải đó... Nhờ thiếu uý nhắn giùm trung sĩ Độ rằng nhà tôi bận việc, tôi đang bị đau, trung sĩ cho xe tới ngay nhà chở tôi tới bệnh viện. Thưa phải!... Cám ơn thiếu uý nhiều.

*

- Tình báo các anh làm ăn rất tồi, rất thối. Bị đối phương họ nỡm. Khi chúng ta dàn quân bao vậy Hòn Tròng thì tàu Bắc Việt ung dung đổ vũ khí vào Vũng Rô... Cả một con tàu vận tải chở vũ khí thâm nhập vào vùng kiểm soát của quân lực Việt Nam cộng hoà như vào chỗ không người...
- Thưa thiếu tá, phải thừa nhận chúng ta đã thất bại. Thất bại ê chề, cay đắng. Nhưng...
- Đại uý, tôi ngán điệp khúc cũ ấy lắm rồi. Tôi không muốn nghe đại uý nói mãi rằng trong hàng ngũ chúng ta có tình báo Việt Cộng... Năng lực CIA của các anh rất kém, nên đã thất bại...
- Thưa, nhưng còn có một sự thật...
- Sự thật là các cơ quan tình báo nói như đinh đóng cột rằng có tàu Bắc Việt vào Hòn Tròng...
- Tôi e những thông tin đó đã rò rỉ ra ngoài.
- Lại phỏng đoán, lại nghi ngờ!...
- Thiếu tá thứ lỗi, tôi xin hỏi, bà nhà giờ này đi đâu ạ?
- Đại uý vẫn chưa thôi ý định làm hại cô ấy, sao vậy? Tôi cảnh cáo đó.
- Mong thiếu tá bớt giận... Người của tôi đã nhìn thấy bà nhà đi ra phía bãi Nưa cùng một tên Việt Cộng có hạng ở vùng này, Bí thứ Tỉnh uỷ Sáu Sinh.
- Ông đang có hành động xúc phạm tôi đấy, đại uý! Và tôi không để yên việc này đâu... Lộng hành quá rồi...
Ba Hoàng không đáp, gã quay số điện thoại nhà riêng của Hai Rạng. Trong máy chỉ có tiếng chuông đổ.
- Thưa thiếu tá, quả không có người nhấc máy. Xin thiếu tá bình tĩnh. Khi lính của tôi nổ súng, Sáu Sinh đã khôn ngoan tách ra, thu hút các mũi súng về phía ấy. Còn bà nhà thì biến mất... Trung uý Sâm!
- Có tôi, thưa đại uý!
- Đã tìm ra bà thiếu tá chưa?
Tư Nhâm với khuôn mặt hớn hở từ cửa đi vào phòng làm việc của Hai Rạng.
- Tôi đây, đại uý. Ông tìm tôi có việc gì? - Chị nói, và nhìn Ba Hoàng với vẻ mặt tự tin.
- Trời ơi, đêm khuya thế này, súng đạn bắn quá trời em còn đi đâu? - Hai Rạng ngạc nhiên - Mà tới đây chi?
- Còn đi đâu nữa, thưa thiếu tá! Vậy là tôi đã rõ... Tôi có bằng chứng...
- Bằng chứng về tôi? Bằng chứng gì vậy, đại uý? Chẳng nhẽ tôi đau, tôi kêu xe đưa vô bệnh viện không được sao? - Tư Nhâm quay nhanh về phía Hai Rạng. - Mình ơi, em sợ lớn tuổi rồi sẽ gặp trắc trở, nhưng bệnh viện nói rằng thai nhi phát triển tốt... Thì em đâu có hay. Thấy đau bụng, ngỡ là đau ruột thừa, em sợ nên đã kêu xe, đến bệnh viện mới phát hiện ra đã có bầu. Mừng quá nên vào đây báo cho mình...
Hai Rạng quay qua Ba Hoàng, viên đại uý bực bõ, cố tình tránh cái nhìn của cấp trên. Vừa lúc có kẻ mặc thường phục, con người vẫn chuyên theo dõi Tư Nhâm bước vào và nói với Ba Hoàng điều gì đó. Viên sĩ quan hí hửng, vội nhào ra khỏi phòng làm việc của Hai Rạng.

*

Bí thư tỉnh Sáu Sinh và ông Năm Bào không còn con đường nào khác đành chạy về hướng sông Thạch Bàn. Sau khi hay tin lính Quân đoàn Hai đổ ra Hòn Tròng, Sáu Sinh đã thay đổi phương án, cho tàu chở vũ khí từ miền Bắc vào, cập bến Vũng Rô. Một quyết định táo bạo, bất ngờ và có hiệu quả. Phần lớn vũ khí đã được bốc lên bến an toàn, rồi nhanh chóng chuyển đi ngay trong đêm. Nhưng trên đường về cứ, Sáu Sinh bị chỉ điểm. Lần này Ba Hoàng quyết bắt bằng được người mà gã cho rằng trùm Cộng sản vùng này. Tóm được Sáu Sinh mọi điều tất sáng rõ. Lính túa đi các ngã. Sục sạo. Phục kích. Vây ép... Nhóm vũ trang đi theo Sáu Sinh tan tác. Người bị lạc. Người hy sinh. Mấy người còn lại nghi binh, đánh lạc hướng đặng giải thoát cho Bí thư tỉnh. Lính Ba Hoàng biết có tốp Cộng quân lủi về phía làng Cát, lập tức hùa nhau dồn đuổi. Nhân đó Sáu Sinh và Năm Bào vọt qua trảng cát, lần ra bờ sông.
Nhưng chẳng rõ mọi sự đang diễn ra là ngẫu nhiên, tình cờ hay đây là sự bày đặt như thể một ác ý mang tính định mệnh tạo hoá đã cố tình dùng quyền năng của mình để chơi trò số phận? Trong cái phút chập chờn lưỡng lự, mạch máu hai bên thái dương giật căng tựa kẻ uống quá nhiều rượu say say tỉnh tỉnh, Ba Hoàng như linh cảm được điều gì, cũng có thể đây lại là trò bỡn cợt, lại là sự xui khiến chọc ghẹo con người của đấng tối cao, gã đã không bị lừa, rất nhanh, vội vã vẫy hai tên lính, rồi hối hả chạy ra sông Thạch Bàn.
Trời đã gần sáng, nhưng mặt nước nơi con sông vẫn im ỉm, ngon giấc tựa như người đàn bà vừa thoả mãn cơn làm tình cuồng say, mệt lử nên vẫn buông thả phanh phô nguyên cơ thể, chìm sâu vào giấc ngủ. Hai bên bờ lặng phắc. Không một gợn gió. Không khí ẩm ướt, đặc sánh sương đêm. Bầu trời sà thấp, đen đúa và tróc lở, nhìn lên loang lổ tựa tấm da báo mới lột được căng một cách cẩu thả. Mây từng mảng xếp chồng lên nhau nặng nề như những tảng đá khối, chỉ chực rơi. Không gian bí bức, bị ép nén, có cái gì đó rất khó gọi tên nhưng tạo cảm giác bức bối ngột ngạt giống như cảm giác trước mỗi cơn giông...
Và giông bão đã nổi lên... Đó là giông bão tận cùng bi kịch của chiến tranh.

Sáu Sinh quay nhìn về phía sau, thoáng chút thoảng thốt:
- Có lính đuổi theo, giờ tính sao, chú Năm?
- Bơi qua sông! Sáu Sinh, bơi được chớ? Qua bên đó là ổn...
Ba bóng đen vừa nhả đạn vừa áp sát. Sáu Sinh khom người, chĩa mũi khẩu súng ngắn về phía đó, bóp cò. Có tiếng la tắc nghẽn nơi cổ họng và kế đấy một bóng người vặn vẹo oằn xuống. Sáu Sinh tiếp tục bắn. Nhưng đã không có tiếng nổ... Biết súng hết đạn, ông vội nhào tới bờ sông, thả mình lội xuống nước.
Vừa lúc Ba Hoàng đã đứng ngay trên bờ, chĩa súng xuống.
Nhanh tựa một tia chớp, ông Năm Bào nhào tới, cầm lấy nòng khẩu AR.15 của Ba Hoàng, quay qua hướng khác:
- Đừng bắn, Ba Hoàng, đừng bắn! - Ông la to.
Ba Hoàng đắc thắng, cười khẩy:
- Sao ông Năm? Ông không nghĩ rằng Sáu Sinh cũng có ngày hôm nay, đúng chưa?
- Giết con người ấy mày sẽ ân hận đấy. Không được bắn!
Dưới sông, Sáu Sinh cố lội ra xa.
- Dừng lại! Và lên bờ! - Ba Hoàng hô.
Sáu Sinh rướn người, toài trên mặt nước, sải tay bơi... Súng nổ. Ông chới với rồi như thể đã đuối sức gục xuống, chìm dần. Quanh chỗ Sáu Sinh, máu loang thẫm mặt nước.
Năm Bào hoảng loạn nhào xuống. Ông lội nhanh ra, ôm lấy Sáu
Sinh, lúc đó đã nhũn nhùn như một khối thịt nhão, kéo lên bờ. Khó khăn lắm Năm Bào mới đặt được cái xác bê bết máu, ướt sũng nước xuống bờ cát. Hai tay ôm lấy đầu người vừa bị bắn, Năm Bào gọi to:
- Chú Sáu! Chú Sáu Sinh!... Sáu Sinh, đừng chết... Tôi muốn nói chuyện này đã... Điều tôi giấu kín trong lòng bao năm nay... Đừng chết... Trời ơi, Sáu Sinh!...
Sáu Sinh cố hé mắt nhìn Năm Bào, hình như cũng muốn nghe, muốn nói điều gì, nhưng sức đã kiệt, nên chừng mấy giây sau ngoẹo cái đầu với mớ tóc sũng sỉnh nước sang một bên, tắt thở...

- Sáu Sinh! - Năm Bào hực lên tựa như có mũi dao vừa đâm vào cổ, rồi ông gục xuống, rên rẩm: “Trời ơi, sao chú lại chết, Sáu Sinh? Cớ chi vô lý vậy hả ông trời? Kiếp trước chú ăn ở sao mà kiếp này chịu thảm hoạ lớn đến thế? Tôi hận mình không phô ra những điều mà Ba Hương trăng trối lại sớm hơn. Trời ơi, cuộc đời sao lắm nhộn nhạo trớ trêu, lắm bi kịch và tai hoạ vậy chớ. - Ông quay qua Ba Hoàng, lúc ấy đứng như trời trồng, vừa mang vẻ mặt mãn nguyện, lại vừa biểu hiện sự cay cú. - Mày sờ vào khuôn mặt mày rồi nhìn lại khuôn mặt người xấu số này coi...
- Thôi đi ông Năm, lải nhải vậy đủ rồi.
- Mày biết mày vừa bắn ai không, Ba Hoàng?
- Người thông minh ý thức được việc làm của mình.
Năm Bào bỏ Sáu Sinh, đứng thẳng dậy, hướng khuôn mặt hoảng loạn về phía viên sĩ quan:
- Người bị mày giết là ba mày đó...
- Ngậm cái miệng thối của ông lại! - Ba Hoàng đá mạnh vào khèo chân Năm Bào, ông Năm như một bao muối đổ xuống, lăn long lóc.
- Mày giết ba mày không sợ trời phạt sao? - Ông đánh khuôn mặt về phía Ba Hoàng và gào to.- Trùm Cộng sản Sáu Sinh là ông nội các người đó, tiếc thì cho mang về làm ma...
Ông Năm gượng đứng lên, lấy tay lau vệt máu quanh miệng, bước loạng choạng, hai mắt mở to nhìn thẳng vào mặt Ba Hoàng.
- Chuyện này quả mày không biết thiệt... Vậy giỏng tai lên tao nói cho hay... Sáu Sinh mới chính là ba đẻ của mày... Mày mang họ Trần Văn, chớ không phải Trần Quang như vẫn tưởng.
- Cái gì? Ông đang sủa cái gì vậy? Chán sống lắm rồi sao?
- Đúng, tao đã chán sống rồi... Cuộc đời nhiễu nhương thất đức này có gì để nuối tiếc! Nghe cho kỹ đây thằng con bất hiếu... Thằng con tàn nhẫn... Mày vừa bắn ba mày đó. Trần Sinh là cha đẻ của mày!...

Ba Hoàng trừng mắt, bước tới túm áo nơi ngực ông Năm, đôi tròng tựa hai con ốc nhồi lồi ra khỏi khung mắt, chiếu xoáy vào người đối diện, và hàm răng cắn chặt vào nhau khiến cái cằm bạnh ra.
- Cái gì? Nói lại coi... Cho nói lại lần nữa đó. Ông có ý thức được điều ông nói không, ông bác họ bắn ca nông không tới?
- Mày muốn biết hả? Mà cũng đã đến lúc cần phải biết, con ạ. Vậy rạch tai ra tao nói cho hay... Trần Nhũng chỉ là ba nuôi. Mày mới chính giọt máu rơi của Trần Sinh. Mày không thể biết điều đó. Phải, mày không thể biết. Nhưng tao thì tao rành.
- Tôi cắt lưỡi ông ném cho chó ăn đó nghe...
- Việc gì mày cũng có thể làm, kể cả sai lính cắt lưỡi tao. Nhưng mày có cắt được sự thật không?
- Láo!... Nói láo... - Ba Hoàng rít lên, giọng run run. Cánh tay đang túm áo ông Năm cũng run run. - Ông nói láo!
- Mày không tin cũng phải thôi... Nhưng cuộc đời này khốn nạn vậy đó. Có những điều ngỡ như không phải vậy mà lại vậy... Chuyện này chỉ trời biết, đất biết, người đàn bà xấu số là má mày đang nằm dưới đất biết... Không tin, mày có thể kêu bả lên mà hỏi.
- Ông rõ những điều ông đang nói chớ, Năm Bào? Ông chưa khùng, đúng không?- Người má mày yêu thương không phải là Trần Nhũng mà là Giáo Sinh. Nhưng Trần Nhũng đã dùng quyền thế để ép bả phải làm vợ hắn. Trước khi buộc về ăn ở với thằng chồng khốn nạn, má mày đã giành cái qúy giá nhất của đời con gái là trinh tiết cho người tình. Trần Sinh thực sự là ba đẻ của mày đó... Tin tao đi, thằng khốn. Mày không nhận ra rằng nước da của mày, cái dáng của mày hao hao Trần Sinh?
- Không đúng!... Không đúng! - Ba Hoàng gào to, mồm méo xệch, khuôn mặt tái xạm. Hình như viên sĩ quan định nói điều gì nữa, nhưng đôi môi bợt bạt chỉ đủ sức mấp máy giống như đít ngỗng khi ỉa, mà không thành lời. Hai chân gã loạng choạng. Ba Hoàng có cảm giác chới với như đang rơi xuống cái hố sâu hoắm, chòng chành, chao đảo.
- Miệng thối!... - Mãi sau viên đại uý mới mệt mỏi, gắng kêu lên một tiếng. - Câm cái miệng thối lại...
- Trước khi về thế giới bên kia má mày đã kể hết với dì ba. Người sắp chết không bao giờ nói sai... Tao đã cay đắng giữ kín chuyện này trong nhiều năm, nhưng nay thì không thể... Mày vừa hạ thủ ba mày đó, thỏa mãn chưa, thằng vô đạo? Gọi ba mày một tiếng đi... Gọi đi!
Máu dồn lên mặt phừng phừng, Ba Hoàng trống trếnh, vừa tức giận vừa sợ hãi tựa kẻ lạc rừng bất chợt gặp thú dữ. Trong sự hoảng loạn bất định, gã lập cập chĩa khẩu súng vào Năm Bào, nghiến hai hàm răng, bóp cò.
- Không đúng! Nói láo! - Mỗi viên đạn vọt ra khỏi nòng, gã lại hét lên làm điệp khúc phụ họa cho những tiếng nổ.
Năm Bào giật nảy, rồi đổ xuống nằm sóng soài bên bờ cỏ, thi thể bê bết máu.
Đầu gục, tay cầm khẩu súng buông thõng, đôi mắt đã thôi lồi ra mà cụp xuống, ti hí như thể bị khâu dính lại, Ba Hoàng nhương nhướng nhìn vào xác Năm Bào, miệng lảm nhảm: “Không đúng!... Khô...ông đúng!”. Gã cứ đứng vậy, tơ tướp, lặng phắc bên con sông bị đánh thức bằng hàng loạt tiếng sấm và ánh chớp nhì nhằng...
- Trời hỡi trời! - Cuối cùng viên sĩ quan gầm to một tiếng đau đớn như con thú bị kẹp vào bẫy sắt, rồi nhũn nhão đổ ụp bên bãi cát. Trời sập xuống, đổ mưa.
Đó là thời điểm tàu không số đã ra tới vùng biển quốc tế và đang đi về hướng bắc.

III

Bảy năm sau.
Tiếng xe tăng rì rầm đâu đó vừa xa lại như thể rất gần và tiếng pháo nổ dồn đêm đêm khiến Tư Nhâm thao thức không sao ngủ được. Chị ôm cậu con trai lên sáu vào lòng dỏng tai lắng nghe và nghĩ lan man. Hồi hộp, thấp thỏm, nôn nao. Qua tin tức hàng ngày chị rõ Quân Giải phóng đang thắng lớn, chẳng mấy nữa sẽ vào tới đây. Bao mong đợi, ngày giải phóng cũng đã tới... Chị vui, hẳn rồi, song vẫn chạnh chút băn khoăn ngơ ngác...
Dịp này Hai Rạng ít về nhà. Anh bận trực ở Sở Chỉ huy. Chiến sự càng tới gần, Hai Rạng càng không còn thời gian dành cho vợ con. Một hôm Hai Rạng tạt qua và Tư Nhâm dễ dàng nhận ra có cái gì đó hết sức buồn nản, tiếc nuối và thất vọng trong đôi mắt mệt mỏi của anh.
- Tây Nguyên thất thủ rồi, ông Thiệu đã lệnh tùy nghi di tản. - Anh nói, giọng chán chường - Việt Cộng cũng sắp vô tới Lân Cồ, em và con thu xếp hành lý, chuẩn bị rời khỏi đây nghe.
Ban đầu Tư Nhâm chưa mấy ý thức hết về điều đó, niềm hân hoan hồn nhiên vốn ẩn trong tiềm thức lấn át mọi suy tính, nhưng hôm nghe tiếng đại bác nổ dồn nơi ngoại vi thị tứ và thấy từng tốp lính bất chấp Ba Hoàng hò hét, cởi bỏ quân phục trốn chui nhủi khắp xó xỉnh, rồi Hai Rạng thúc gói nhanh đồ vào vali, để cùng anh và con ra nước ngoài, chị mới hoang mang, bất định. Hai Rạng hứa rằng bất luận trường hợp nào cũng không để chị và con phải khổ. Nhiều năm sống bên con người đó, chị rõ bản tính Hai Rạng. Những gì anh nói là chân thành... Nhưng Tư Nhâm ra nước ngoài ư? Chẳng lẽ hoàn cảnh đã lại một lần nữa đẩy chị vào buớc ngoặt không hề có trong tư duy như vậy?... Tiếng súng càng gần, Tư Nhâm càng bối rối. Mấy ngày qua Hai Rạng vẫn kiên trì thuyết phục. Tuy nhiên, điều khiến chị mềm lòng không hẳn là tình cảm chân thực và tình yêu của anh đối với chị, mà là ánh mắt trẻ thơ của đứa con lên sáu tuổi. Mấy ngày qua cu Đức luôn miệng: “Má đi với ba, với con nghe má”. Và cuối cùng chị chấp nhận lời cầu khẩn của Hai Rạng như một thắng thế của bản năng yếu đuối nơi tình mẫu tử trước ý thức...

Buổi sáng hôm đó, đang ngồi thừ bên cửa sổ đưa đôi mắt ngẩn ngơ ngóng ra thì cu Đức hãi sợ chạy vào:
- Má ơi, sao mãi giờ ba chưa về, con sợ lắm! Họ chạy hết rồi.
- Họ chạy kệ họ! Con không phải sợ. Vô nhà đi, chớ ra đường. Nghe lời, má yêu.
- Con thấy mấy người lính lên xe chạy ra biển... Sao mãi ba không về?
- Ba đây! - Vừa lúc Hai Rạng ập vào. Anh vốn điềm tĩnh song lúc này trên gương mặt thoáng lộ sự hốt hoảng. Anh ngồi xuống, dang rộng hai cánh tay và như mọi lần, cu Đức lập tức sà tới, ôm ngang cổ.
- Ba ơi, nhà mình sao chưa đi? Mấy đứa bạn con lên xe từ hôm qua... Con sợ tiếng súng lắm.
- Nhà mình cũng sẽ đi, con đừng sợ. - Hai Rạng âu yếm xoa tay lên đầu con rồi quay qua Tư Nhâm, và khi thấy chị chưa tỏ ra đã sẵn sàng, anh ngạc nhiên:
- ủa! Em chưa chuẩn bị gì sao? Gấp lắm rồi. Họ chỉ còn cách thị tứ hai mươi ki lô mét.
- Dạ dạ, em sẽ thu xếp. - Tư Nhâm lơ đãng đáp, đáp như một thói quen, và bước tới bên chiếc tủ đứng.
- Quần áo em cho vào vali to, ít thôi. Chủ yếu là nữ trang và vàng. Tiền cũng vứt lại, vứt hết. Tiền ấy sang bên đó, làm sao tiêu? Thời gian không còn nhiều đâu. Lẹ tay lên!
- Dạ... em đang thu xếp...
- Anh tới doanh trại lấy thêm mấy thứ rồi quay lại đón má con. Em gắng lẹ chút.
- Ba về sớm nghe ba! - Thằng Đức chạy theo Hai Rạng, dặn với.
Tiếng súng nổ mỗi lúc một gần. Bên ngoài, người xe ngược xuôi nhốn nháo, náo loạn. Người ta thúc nhau, tranh giành gì đó. Hối hả. Vội vã. Cuống cuồng và sợ hãi... Hoàn toàn vô thức, Tư Nhâm lẳng lặng xếp quần áo vào vali, nhưng khi nhìn đồ đạc ngổn ngang trong nhà chị có ý định vất bỏ lại, chợt có cái gì đấy như thể là thoảng thốt, chị giật mình nhận ra sự vô lý trong hành động của mình. Sao lại phải bỏ trốn? Tư Nhâm chẳng vẫn ngong ngóng mong cho tới ngày hôm nay đó sao? Tự dưng bỏ lại mồ mả ba má mà đi ư? Mà trốn ai chớ, chẳng lẽ trốn “đằng mình”, chạy trốn những người đồng đội của Tư Lăng, cũng là đồng đội của chị?... Tư Nhâm như kẻ vô hồn ngồi thừ ra, hoang mang. Bây giờ chị mới thực sự thấy mình hoảng loạn, lo sợ...
- Má ơi, cho con mang theo con gấu bông nghe! - Tiếng thằng con trai thốt lên ngay cạnh khiến Tư Nhâm bừng tỉnh. Chị ậm ờ:
- ừ, con có thể mang theo cái gì con thích...
Con trai chạy đi rồi, Tư Nhâm lại phân tâm, không thật rõ tâm trạng mình, chị ngơ ngác ngồi lặng nhìn căn phòng bừa bộn đồ đạc. Tại sao cuộc đời lúc nào cũng dồn chị vào tình cảnh éo le, ép chị vào thế như thể ngưòi đứng ở ngã ba đường, luôn phải chọn lựa vậy chớ? Trớ trêu và vô lý quá! Tại sao chị lại phải rời nơi đây? Chẳng lẽ bắt đầu từ hôm nay sẽ phải xoá bỏ hết tất cả những gì đã có trên mảnh đất này, mảnh đất chị sinh ra, cho chị những kỷ niệm vui buồn sướng khổ, mảnh đất mà vì nó chị đã chịu bao tủi nhục, hiểu lầm để sắm vai một người khác?... Chưa bao giờ ý niệm quê hương lại cụ thể đến vậy, đó là ba má, là cánh đồng, những ngày ấu thơ, chân trần cắp sách đến trường làng, xục trong cát bỏng bên bờ sông và cả những ngày gian khổ nhường nhau từng mẩu sắn khô trong cứ... Chẳng lẽ mất hết... Nhưng nếu chị ở lại? Quyết định ở lại là đồng nghĩa với việc phải chấp nhận điều hết sức đáng sợ, vĩnh viễn xa đứa con mới lên sáu tuổi của mình. Thần kinh căng lên, bao toan tính cân nhắc, bao hãi hùng khi nghĩ tới hậu quả chị sẽ gánh chịu...

- Má à, má cho con mang theo con hươu bằng tre được không?
Bạn con nói bên đó không có tre... Lại không có cả rau muống nữa. Không có rau thì mình trồng, má nhỉ?
Tư Nhâm kéo con vào lòng, ôm chặt, nước mắt tự dưng ứa ra giàn giụa.
- Bên ấy thiếu nhiều thứ, con ạ... - Và chị buột thốt lên: Tại sao lại đặt tôi vào cảnh huống này hả ông trời?
- Má ơi, sao má khóc... Má nhớ à?... Con cũng nhớ.
- Má hỏi nè, sang bên ấy, nếu có ai đó hỏi rằng quê ở đâu, con trả lời sao?
- Con nói quê con ở miền Nam!
- Không đúng! Con phải nói quê con ở Việt Nam. Nhắc lại má nghe coi!
- Con là người Việt Nam! Quê con ở Việt Nam!
- Giỏi lắm!
Tư Nhâm hôn nhẹ vào má cu Đức rồi riết thằng bé vào lòng chặt hơn. Bên ngoài tiếng xe tăng nghe như đã áp sát ngay cạnh. Khói bụi bay mù mịt... Rồi có tiếng xe phanh gấp và Hai Rạng hơ hải chạy vào:
- Má con xong rồi chớ? Việt Cộng đã vào tới rìa thị tứ. Ta đi thôi, em.
Người lái xe hỏi:
- Thưa trung tá, cho đồ ra xe?
- Anh xách giùm chiếc vali to và cho cháu ra trước.
- Thưa rõ!
Thấy Tư Nhâm chưa có ý rời căn nhà, Hai Rạng thúc:
- Em còn nuối tiếc chi nữa?
Tư Nhâm vẫn ngồi lặng, nước mắt lưng tròng:
- Mình ơi!
- Nhanh, kẻo trễ, em!
- Mình ơi, em muốn nói chuyện với mình một lúc!
Hai Rạng chạy ra, ném chiếc vali nhỏ vào thùng xe, bước vào:
- Nói chuyện! Em nghĩ lúc này là lúc nào chớ? - Hai Rạng đứng sững giữa nhà, nhìn Tư Nhâm, rồi đưa tay nhìn đồng hồ.
- Nhưng đây là cơ hội để em có thể nói hết tất cả mọi điều. Em phải nói và em cần được nói ra... Xin mình đừng ngắt lời em. Dù là gấp cũng phải cho em được giãi bày, rồi sau đấy chúng ta sẽ quyết định...
Người lái xe chạy vào:
- Thưa trung tá... Việt Cộng đã...
- Anh ra xe và chờ ở đó!
- Những điều em sắp nói có thể khiến mình ngạc nhiên, nhưng xin mình thứ lỗi, đã đến lúc em không thể im lặng được nữa... Sự thật dẫu chua chát, vẫn là sự thật... Em là người của cách mạng, phía mà mình và người của mình vẫn gọi là Việt Cộng...
Hai Rạng quay nhanh lại, ngạc nhiên nhìn thẳng vào mặt Tư Nhâm.
- Cái gì? Em đang nói nhảm gì vậy?
- Mình hãy bình tĩnh cho em nói hết... Em được tổ chức bố trí cài lại để hoạt động hợp pháp. Em cần những tin tức tình báo nhằm phục vụ cho cách mạng, cho những con “tàu không số” chở vũ khí cập vào vùng này. Em lấy mình trước hết là nằm trong kế hoạch đó...
- Nói nhảm! Em ý thức được điều mình đang nói chớ?... Không đúng! Tôi không tin. Em cũng rõ là tôi cần em và yêu em như thế nào... Tôi không tin! Tôi không tin!
- Phải, có thể mình không tin... Nhưng sự thật là vậy. Ban đầu em lấy mình vì nhiệm vụ. Nhưng mình cũng biết là trong quá trình chung sống, em đã làm tròn bổn phận một người vợ. Chúng ta cũng đã có với nhau đứa con trai. Và dần dà thú thực em rất quý mình. Chúng ta đi hai con đường, nhưng em nhận ra rằng ở phương diện khác, mình là người chồng tốt, thương vợ, quý con... Nếu không ở trong hoàn cảnh éo le chúng ta đã trải qua, làm vợ mình, em chẳng có gì phải phàn nàn. Trời ơi, giá mà...

- Em im đi! Tôi không hiểu và không muốn hiểu gì cả. - Giọng Hai Rạng trở nên đắng chát. - Vợ tôi, Tư Nhâm là tình báo của Việt Cộng sao? Quá nực cười và vô lý... ừ mà cũng có thể... Phải rồi... Chẳng đã nhiều lần tôi thoáng thấy có điều gì đó khó giải thích. Nhưng tôi không dám đi đến tận cùng. Tôi cố đánh lừa mình và không dám đi đến tận cùng vì sao em rõ không? Vì tôi sợ, tôi sợ mất em... Tôi yêu em mà, Tư Nhâm. - Hai Rạng chợt sà xuống bên vợ, nước mắt cũng chảy ra. - Tôi yêu em mà...
- Điều đó thì em hiểu! Và không có gì phải nghi ngờ...
- Sao lại trớ trêu đến vậy? Tại sao chiến tranh lại trớ trêu đến vậy, ông trời? Tôi không hiểu gì cả! Không hiểu gì cả!
- Chiến tranh đã tạo nên những cảnh huống ngặt nghèo. Em đau lắm, cũng nhiều nỗi khổ tâm lắm! Nhưng chiến tranh sắp qua rồi. Chúng mình có thể bắt đầu lại từ đầu... Chúng ta sẽ sống bên nhau, không cần phải dối trá, không phải đóng kịch nữa... Chúng ta dũng cảm chấp nhận sự thật phũ phàng đã qua để bắt đầu một cuộc sống khác, có thể không mấy nhẹ nhàng, nhưng thật hơn...
- Em chớ quên rằng tôi là một sĩ quan trong quân lực Việt Nam cộng hoà... Tôi là một trung tá ngụy... Tôi ở trận tuyến khác... Phải, em nói đúng, chúng ta sẽ dũng cảm bắt đầu một cuộc sống mới. Để bắt đầu cuộc sống ấy, anh và em và con phải rời khỏi đây. Nơi đó, người ta chỉ biết Tư Nhâm là vợ của Hai Rạng, không ai hay Tư Nhâm là tình báo của Việt Cộng. Cũng không ai biết Hai Rạng là một trung tá. Chúng ta là những người bình thường...
- Mình ơi, nhưng em không thể... Em trốn ai? Và tại sao em phải chạy trốn? Chúng ta hãy cùng nhau ở lại. ở đất này, trên quê hương chúng ta, cũng có thể làm người bình thường, không thù hận được mà. Cơ hội đó đã đến...
Hai Rạng khó chịu:
- ở lại! Em xui tôi ở lại để Việt Cộng thoả mãn ý thức trả thù sao? Tôi đã từng cầm súng chống lại họ... Tư Nhâm, ta đi thôi em... Thời gian không còn đủ để đắn đo suy tính nữa đâu. Cấp bách lắm rồi. Đây là chuyến tàu cuối cùng.
- Mình ơi... Em xin mình... Đất này là quê hương chúng ta mà...
- Trời ơi, tôi biết làm thế nào bây giờ? - Hai Rạng chợt quỳ xuống trước mặt Tư Nhâm: Tôi van mình, hãy vì tôi, vì con. Hãy vì chúng ta... Ra xe đi mà mình!
- Em đâu muốn xa mình, xa con. Nhưng em không thể...! Mình hãy hiểu cho em.
- Em điên rồi! Mà không phải em điên, tôi đang điên... Tôi đang điên... Mà cho dù em là Việt Cộng, là Cộng sản hay gì gì, tôi cũng không thể mất em. Tôi không muốn mất em... Thà tôi tự tay giết em!
- Mình hãy làm điều gì mình cho là đúng... Mình bắn em đi nếu thấy như vậy thanh thản, dễ chịu hơn.
- Trời ơi! Giá mà tôi đủ sức làm được điều đó... Tư Nhâm, em thật độc ác... Em không nghĩ đến tôi, nhưng còn thằng Đức, còn con của chúng ta? Anh xin em! Anh xin em, Tư à!
Tư Nhâm xót buốt nói trong nước mắt:
- Có người mẹ nào lại muốn xa đứa con mình rứt ruột đẻ ra... Mình nghĩ em không đau sao?... Thôi mình và con đi kẻo nhỡ. Còn em... Rồi em sẽ liệu...
- Tư Nhâm!... Mình... không thể...
Từ ngoài, người lái xe hốt hoảng chạy vào:
- Dạ thưa trung tá, gấp rồi...
Hai Rạng rũ xuống như một tàu lá héo, anh lúng túng. Bên ngoài, đã nghe rõ tiếng xe tăng nghiến xích trên đường:
- Thôi cũng đành! Em rõ đó, anh đâu ở lại được... Anh đi... Anh đi trước nghe Tư... Em nhớ bảo trọng...

Hai Rạng ra xe rồi, Tư Nhâm thấy mình chếnh choáng hoảng loạn. Chị bàng hoàng trước quyết định của mình. Bủn rủn, chị qụy xuống bên bàn và khóc to. Khi nghe tiếng cánh cửa ôtô sập lại, kế đó là tiếng động cơ nổ giòn, Tư Nhâm nhận ra nỗi đau đang cào xé trái tim mình, chị tuông ra cổng. Xe chuyển bánh, chị chới với ngóng theo và nhận ra khuôn mặt buồn thảm của Hai Rạng, và đôi mắt của đứa con lên sáu phía sau lớp kính dày đang đau đáu hướng về phía chị. Và chị nghe rất
rõ tiếng thằng Đức mếu máo, quẫy lên trong xe: “Má ơi, má đi với con, má đừng bỏ con...”.
Tư Nhâm những muốn đuổi theo chiếc xe nhưng chẳng rõ sao hai chân chị như thể cứng lại, chị khuỵu xuống, hoảng hốt chới với hướng về phía làn bụi cuốn sau chiếc xe.
- Anh Hai, đừng bỏ em... Con ơi!... Đức ơi!... Đừng bỏ má. - Chị nghẹn ngào, giọng tắc nghẽn, rồi chị rên rẩm. - Vậy là tôi lại mất đứa con! Tôi mất cả rồi...
Khi Tư Nhâm không hay biết gì nữa, choáng loạn như người lơ lửng trên mây, không xác định được những gì đang xảy ra là thật hay chỉ là một giả định trong tưởng tượng, thẫn thờ lết vào nhà, thì như thể tình huống kịch, vừa lúc Ba Hoàng xuất hiện. Gã mặc thường phục, đôi mắt nhớn nhác giống kẻ ăn trộm gà, len lén chỉ sợ chủ nhân nhìn thấy. Nhưng khi đã lọt được vào căn nhà, gã tự tin hơn.
- Chào bà trung tá! - Gã lên tiếng.
Tư Nhâm ủ rũ bên bàn, không ngẩng lên.
- Đại uý Ba Hoàng, ông đến đó sao? - Không niềm nở, không sợ hãi, không hốt hoảng, Tư Nhâm nói mà không thật rõ đó có phải tiếng của mình, giọng chị giống như của người đang trong mộng mị hay ở thế giới bên kia vẳng tới. Dửng dưng, vô cảm.
- Tôi với bà còn một món nợ chưa trả được... Bà là Cộng sản nằm vùng! Là tình báo của Việt Cộng!
Tư Nhâm vẫn ngồi lặng.
- Vậy à? Bây giờ đại uý Ba Hoàng mới rõ, muộn rồi phải không?
- Chị không quay lại, nói đủng đỉnh.
- Chưa đâu, thưa bà. Bà có thể mê hoặc lão trung tá si tình chứ thằng Ba Hoàng này thì không... Ba Hoàng chưa bao giờ chịu là kẻ trắng tay, thua cuộc!
Tư Nhâm khẽ ngước lên và khi thấy nòng khẩu súng ngắn đang chĩa vào mình, chị nhìn xoáy vào đó, nói một cách bình thản:
- Đừng run tay nghe, Ba Hoàng. Nào, bắn đi! Bóp cò đi!... Tới lúc rồi đó!
- Ba Hoàng! Dừng lại!
Có tiếng gọi giật phía sau. Ba Hoàng vội đảo mắt quay nhìn. Nòng khẩu AR.15 đang chĩa vào gã, gần lắm. Viên sĩ quan thất sắc, chới với. Rồi gã lắp bắp:
- Hả? Mày... Mày cũng là Cộng sản?
- Bỏ súng xuống, quay lại và bước khỏi đây... Bước!
Ba Hoàng lấm lét. Có lẽ gã vẫn chưa đủ thời gian định thần để hiểu được điều gì đang xảy ra. Đôi mắt ẩn chứa sự khó hiểu, gã nhìn cái nòng súng đang rê về phía mình, đành thả khẩu côn xuống đất rồi chuệnh choạng, luống cuống bước thụt lùi ra khỏi ngôi nhà.
- Cám ơn anh Độ! Cám ơn đồng chí A5... - Tư Nhâm nói một cách khó khăn và chị lảo đảo đổ xuống chiếc ghế, đầu óc quay đảo.
- Tôi biết hắn thế nào cũng tới đây. - Hai Độ nói.

*

Những ngày chiến sự xảy ra giáp Lân Cồ, quán Năm Hồng thưa vắng khách. Súng nổ tứ bề, tâm trí đâu rỗi hơi ngồi nhậu. Tối tối hoạ hoằn lắm mới có vài ba người tạt qua, gọi cốc gì đó, uống rất vội và bước ra cũng rất vội. Song không vì vậy mà Năm Hồng đóng quán. Chị vẫn bày hàng. Việc ấy vừa là thói quen, vừa là sự ham thích.
Khuya khuya, chờ cho người khách hiếm hoi cuối cùng ra khỏi, chị sai người làm đóng cửa rồi bằng thói quen những ngày gần đây, bước tới bàn thờ mới lập treo bên vách, thắp hai nén nhang cắm xuống hai bát hương. Từ ngày hay tin Mười Bàng bị lính Ba Hoàng bắn chết trên Lân Cồ, chị cảm thấy hẫng hụt, trống trếnh như thể mất mát cái gì lớn lắm. Thương cảm, nhớ tiếc đã đành, nhưng chị còn nhận ra nơi mình thứ tình cảm là lạ chưa hề có đối với những người đàn ông khác. Và điều này mới kỳ, đêm đêm, khi đã liu thiu ngủ, chị vẫn thấy Mười Bàng, như một cái bóng lách qua cửa, vào giường. Thậm chí khi nằm với gã trai khác, để thêm hưng phấn, chị lại nghĩ đến người đàn ông đó. Mười Bàng với sự mạnh mẽ và cách làm tình tuyệt chiêu cứ ẩn hiện chấp chới trong tâm trí. Để tưởng nhớ người đã khuất, chị thuê đóng tấm gỗ, lập bàn thờ. Trên bàn thờ chị đặt hai bát hương, một dành cho Mười Bàng, và một, như chị nói, dành cho những chàng trai xấu số ít nhiều đã có chung đụng với chị. “Một khắc nên nghĩa”, nếu ai đó hỏi, chị đơn giản giải thích... Việc Năm Hồng vẫn thắp hương cho Mười Bàng không làm đại uý Ba Hoàng bằng lòng, một lần viên sĩ quan tới, mở chân theo hình chữ V úp ngược, đứng giữa quán, nhìn lên bàn thờ, kháy: “Việt Cộng vô thần, họ không khoái thờ phụng. Mà Mười Bàng là trùm chỉ huy Việt Cộng làng Cát, làm vậy Năm Hồng không sợ hệ luỵ sao?”. Năm Hồng nói cứng: “Tôi đâu thờ Việt Cộng, tôi cũng chẳng thờ Quốc gia, tôi chỉ tưởng nhớ tới những người đàn ông từng có lúc ngủ với mình. Đa phần là lính của đại uý đó. Với nữa Quốc gia hay Việt Cộng thì cũng từ một bọc sinh ra. Đồng bào mà xử tệ với nhau vậy sao đặng...”. Ba Hoàng khó chịu, trước khi rời quán buông một câu:
“Muốn làm ăn, nghiêm cấm dính líu tới Cộng quân. Không nghe, tôi cho lính hót quán đó”. Biết Ba Hoàng đe mình nhưng Năm Hồng đâu ngán, chị đưa cặp mắt sắc tựa dao cứa lên mặt viên sĩ quan, nửa đùa nửa thật: “E rằng lúc ấy người hối tiếc nhất lại là đại uý Ba Hoàng”... Viên đại uý bực, bỏ đi, từ đấy ít thấy qua lại. Vậy mà hôm nay, vừa định đi nghỉ, chợt Năm Hồng nghe có tiếng gọi gấp ngoài cửa. Chị nhận ra đó là tiếng Ba Hoàng.
- Cô đại uý đã cho phép hay sao giờ này đại uý còn mò tới? Súng đạn đang bắn quá trời! - Năm Hồng mở then cửa, ngạc nhiên nhìn vẻ hơ hải của viên sĩ quan khi gã hoảng hốt bước vào quán, giễu cợt.
- Tụi Ba Tánh, Ba Thành đang dẫn người lùng bắt. - Ba Hoàng không để ý đến thái độ chẳng mấy mặn mà của chủ nhà, nài nỉ: Năm Hồng cứu tôi nghe.
- Trước đây đại uý cũng sục họ gắt lắm... Đại uý hành thím Tư Đởn vậy, Ba Thành nó thù là phải... Ba Hoàng lấm lét ngó ra ngoài:
- Nói chi chuyện đó nữa. Gấp rồi, Năm Hồng tìm cách giúp với. Tôi đội ơn. Tụi nó rượt sắp tới nơi...
- Ai ngờ đại uý Ba Hoàng cũng có khi gặp cơ sự này...
- Sông có khúc, người có lúc.
- Vẫn còn hiểu được vậy sao?... Vào buồng ngủ của tôi và chui xuống gầm giường!
- Gầm giường?
- Đại uý chẳng vừa biểu tôi tìm cách giúp? Hay định để Ba Tánh gô cổ giải đi? Tuỳ!
- Cũng đành... Tôi phó mạng mình cho Năm Hồng đó.
- Vậy lẹ lên.

Ba Hoàng theo Năm Hồng vào phòng trong. Sau cái chỉ tay của người chủ quán, tuy thoáng chút chần chừ, song cuối cùng gã đại uý cũng nằm mẹp xuống sàn nhà và tựa con lươn lúc gặp mưa, trườn nhanh vào cái xó tối thấp tè ẩm mốc chừng hơn mét vuông chằng chịt màng nhện.
- Nhớ nằm yên đó!
- Những gì không phải trước đây coi như bỏ nghe, Năm Hồng. - Ba Hoang dán mình xuống sàn đất, cố ngoi cái cổ dài ngước lên nói vọng ra.
Năm Hồng không đáp, chị thúc chân vào người Ba Hoàng như có ý bảo rằng toài sâu vào rồi quay xuống nhà dưới, gọi:
- Tư!
- Dạ!
- Lên dì biểu!
Một thanh niên chừng mười bảy tuổi, hàng ngày vẫn làm công chạy hàng cho chủ nhà, đôi mắt đỏ như còn ngái ngủ, xộc tới.
- Dì Năm cho gọi?
- Biết làm đàn ông chớ?
- Con chưa rõ ý dì Năm.
- Ngủ với đàn bà lần nào chưa?
- Con chưa... Nhưng...
- Nhưng sao?
- Di Năm đừng quở nghe, cũng đã mấy bận, khi dì lục sục với đàn ông trên giường này, khó chịu không ngủ được, con có vạch liếp lé mắt lén nhòm...
- Cái thằng... Tưởng ngu ngơ chớ... Vậy bây giờ cởi quần áo rồi lên giường nằm.
- Dì Năm...
- Khoái nhòm trộm đàn ông hú hí với đàn bà là trưởng thành rồi, biết làm đàn ông rồi. Lẹ lên!
- Dạ!... Dì Năm chiều con thiệt?
Năm Hồng cũng tuột bỏ hết quần áo, vặn liu riu ngọn đèn và cùng lên giường.
- Đưa tay đây, vân vê chỗ này trước nè...
Một lát, chàng trai chợt dừng tay, nghển tai lắng nghe và sợ hãi thì thào:
- Hình như... Hình như có con gì lục cục dưới gầm giường, dì Năm.
- Thây kệ! Miết vô chỗ này nữa... Chà, coi bộ cũng rành ha... Chàng trai hì hì:
- Thấy những người ngủ với dì hay làm vậy, con bắt chước...
- Giỏi!

Chợt từ ngoài sân có nhiều bước chân vội vội nện tới, kế đấy là tiếng Ba Tánh choang choang tựa chiếc hũ sành vừa bị ném xuống nền đá:
- Năm Hồng ngủ chưa vậy?
Rồi không chờ chủ nhà lên tiếng, cánh cửa phòng ngoài hình như bị ai đó xô mạnh, tung ra. Chàng trai với tâm trạng lạ lẫm đang khoái cảm mân mê hai múm vú nơi bộ ngực trần mềm ấm của ngừơi đàn bà, chững lại, và tựa như con chuột nhìn thấy con rắn, theo bản năng, phản xạ hết sức tự nhiên, co rúm toàn thân; rồi sau đó lại giống chiếc lò xo bị nén được hất ngược, hoảng hốt chồm dậy. Song đôi tay trắng như hai chiếc ngà voi của Năm Hồng đã nhanh chóng kịp vít đầu cậu ta xuống khuôn ngực ngồn ngộn của mình.
- Ai đó, đêm hôm có việc gì mà tới chẳng đúng lúc vậy hè! - Vẫn không đổi thế nằm, hai cánh tay thuần thục đan xoắn ghì chặt xuống để cơ thể chàng trai úp trọn trên người, giọng Năm Hồng tỉnh khô.
Ba Tánh và đám người lăm lăm súng trong tay xộc vào. Tới cửa phòng ngủ thì sững lại. ánh đèn dẫu không mấy sáng cũng đủ để họ nhận ra trên giường, hai cơ thể, một đàn ông và một đàn bà trần như nhộng, nòn nõn những thịt đang chập dính, nhoà vào nhau.
- Xin lỗi nghe... Thấy ác ôn Ba Hoàng chạy về hướng này nên... - Ba Tánh hơi lùi lại, và hỏi. - Hắn có vô đây?
- Ba Hoàng con nhà Tư Nhũng làng Cát?... - Năm Hồng vẫn bện chặt cơ thể chàng trai trong vòng tay, trả lời tự nhiên.
- Phải! Năm Hồng nhìn thấy thằng ác ôn ấy, đúng chưa?
- Đại uý Ba Hoàng có vào... - Dưới gầm giường chật hẹp chợt có tiếng động cựa như là tiếng chuột gặm gỗ, Năm Hồng hắng giọng và nói tiếp: Nhưng thấy tôi đang... vầy, liền nhủi xuống trảng cát rồi.
- Xuống trảng cát? Thằng này ngoan cố thiệt... Nhanh chân, các đồng chí!

Chờ đám người ra khỏi phòng, chàng trai nhũn nhùn tựa quả sung chín nẫu rã rượi rụng khỏi bụng người đàn bà, miệng thều thả như kẻ sắp chết:
- Dì... dì cho con dậy nghe. Con sợ.
- Đàn ông lúc nào cũng lăm nhăm cúp càng vào như con cáy còn làm nên trò trống gì.
Chàng trai kêu Năm Hông bằng dì lí nhí câu gì đó trong miệng, lấm lét toài ra khỏi giường, vội vội quơ bộ quần áo và như ma đuổi, lủi nhanh xuống nhà dưới.
Năm Hồng lỏng người, vẫn không mảnh vải che thân, thuồn thuộn thừ ra, chán nản thở hắt. Chẳng rõ chị chán chường bởi sự vô tích sự của gã trai mới lớn hay chán chường bởi tình cảnh vô nghĩa vớ vẩn đang diễn ra buộc chị phải chứng kiến, phải tham gia.
- Ra được chưa, Năm?
Tiếng Ba Hoàng từ gầm giường nhợt nhão lăn ra càng kiến chị thất vọng, khó chịu. Chị bắt chéo hai chân khép cặp đùi che chỗ kín và vẫn nằm tênh hênh trên giường, cộc lốc:
- Ra!
Hệt con rùa, viên đại uý từ từ ló cái đầu có mớ tóc bù xù dính bết màng nhện khỏi khung gỗ, rồi khó nhọc tuồi dần tuồi dần toàn thân ra hẳn chỗ gã được cứu sống.
- Cám ơn nghe! - Viên đại uý vừa nói vừa phủi bụi quanh người. - Sẽ có lúc Ba Hoàng tôi đền đáp nghĩa cử này.
- Đền đáp... Tôi đâu cần ba cái thứ nhảm nhí đó.
- Dẫu sao Năm cũng đã nhọc lòng cứu tôi... Mà cứ tô hô vậy sao? Giúp tôi coi tụi Ba Tánh, Ba Thành đã biến chưa để còn liệu.
- Chẳng đã có lúc đại uý Ba Hoàng khoái của lạ, xin được một lần nhòm như vầy...
- Trời ơi, tính mạng đang tròng trành như chiếc lá me trước bão, tâm trí đâu nghĩ tới chuyện đó...
- Vậy xin lỗi nghe... - Năm Hồng xoay người, với chiếc váy ngủ may bằng thứ lụa mỏng như giấy pơ luya, khoác vào người, mặc mà như thể không mặc, rồi luẩy nguẩy hất cặp mông nung núc trắng ngộn bước ra nhà ngoài. Chị đảo mắt ngó quanh, đánh tiếng:
- Ba Tánh còn đó không, vô tôi biểu cái này...
Phía trước yên vắng. Trời đen thui, bóng tối quánh đặc như trong cái hũ sành nút lá chuối. Năm Hồng quay vào.
- Rút rồi... Giờ đại uý tính đi đâu? - Chị uể oải ngồi xuống và hỏi.
- Còn đi đâu nữa. Tôi đã gửi vợ con xuống tàu từ hôm trước...
- Có làng, có quê không ở, đua nhau sang nước người ăn nhờ ở đậu chi cho cực.
- Nó bắt phải vậy, nó buộc phải vậy...
- Ai?

- Cuộc chiến này!
- Thì cũng tự người mình gây ra...
- Phải, người mình... - Da mặt Ba Hoàng chợt bợt bạt, xám ngoét như da mặt kẻ vừa bị treo cổ mới được hạ xuống, rồi hỏi: Năm Hồng biết Sáu Sinh chớ?
- Người giáo làng ấy đứng đầu một phe, đối địch với phe Ba Hoàng, phải chưa?... Nói điều này đại uý đừng giận, nhìn từ phía sau, cái dáng đi của đại uý y trang dáng đi của ổng.
- Chết rồi!
- Sáu Sinh cũng chết rồi? - Vẫn ngồi bên mép giường, Năm Hồng sửng sốt quay lại. - Mỹ quốc hay Bắc Việt ở đâu không hay, chỉ thấy người làng Cát bắn giết người làng Cát, kỳ lạ!
Ba Hoàng không để ý đến đôi mắt ngạc nhiên của người chủ quán, nói tiếp, giọng tựa kẻ đang trong cơn mơ:
- Năm Bào biểu Sáu Sinh là ba đẻ của tôi...
- Đại uý nói sao?...
- Cuộc chiến này oái oăm khốn nạn vậy đó... Không sang bển, tôi còn dám ở lại mà sống nơi cái làng này nữa không?...
Năm Hồng như hiểu, chợt lại hắt tiếng thở mạnh. Chị thẫn thừ ngồi lặng như hoá băng, đôi mắt mệt mỏi hướng ra ngoài nhưng lại không nhìn vào đâu cả, tưng tửng thả một câu:
- Thiệt ngu!
Không biết là chị nhiếc ai, nhiếc cái gì.
Sau này, chẳng rõ do đâu có dăm ba người làng Cát, hình như cũng mang máng đánh hơi ra chuyện Năm Hồng đã từng cứu Ba Hoàng, nên lúc dư dư chén rượu, buông lời bàn: “Khi nguy hiểm, chỗ ẩn trốn bí mật nhất, an toàn nhất là đũng quần đàn bà!”. Còn vào giờ đó, lúc gã đại uý ngó trước nhìn sau rồi dẫu vẫn biết người phụ nữ vận chiếc áo ngủ mỏng đang khinh bỉ nhìn mình, lò dò truồi vào bóng tối, đã non non đêm. Đấy là thời khắc giao nối giữa ngày hôm trước và ngày hôm sau...

*

Lân Cồ được giải phóng, và Sài Gòn cũng đã được giải phóng. Điều ấy khiến nhiều người vui sướng, vui sướng một cách thái quá, nhưng cũng không ít kẻ choáng váng ngỡ ngàng...
Một hôm, Hai Độ đánh tiếng và đẩy cổng bước vào nhà. Tư Nhâm vội chạy ra.
- Anh Độ... Trời ơi, mấy hôm rày cứ mong anh hoài.
- Cô Tư mong tôi?
- Mọi việc đã kết thúc, phải không anh Độ? - Tư Nhâm mệt mỏi hỏi
- Kết thúc ư? Chưa đâu, bọn họ đang nhao nhác ra biển... Họ giành nhau xuống tàu để đi nước ngoài.
Tư Nhâm ngồi bất động. Hình ảnh thằng con trai mếu máo sau tấm kính cửa xe chập chờn trong đầu...
- Giải phóng rồi mà sao cứ thấy cô đơn, hiu hắt lạ. Anh có nhận ra vậy không, đồng chí A.5? - Một lát, Tư Nhâm nói.
- Tôi sắp rời khỏi Lân Cồ... Hôm nay tới là có ý chào cô Tư để chuẩn bị lên đường.
- Hả, anh cũng bỏ quê hương, anh Độ? - Giọng Tư Nhâm buồn bã. Chị nhìn thẳng và mặt Hai Độ.
- Đâu có! Hôm trước người ta gọi tôi ra trình diện. Tôi tới và họ thông báo rằng chuẩn bị đi vào trại.
Tư Nhâm ngạc nhiên, ngước lên, nói chậm rãi:
- Vào trại? Trại nào, anh Hai?
- Tôi vào trại cải tạo!
- Vào trại cải tạo? Anh phải đi cải tạo? Sao vậy được?
- Sao không, cô Tư? - Giọng Hai Độ trầm xuống, đau xót. - Tôi chẳng là một thượng sĩ trong quân lực Việt Nam Cộng hoà mặc áo Mỹ, cầm súng Mỹ đó sao?
- Trời ơi! Nhưng...
- Nhưng là người của cách mạng cài vào hàng ngũ địch, cô Tư định nói vậy phải không? Khéo mà mắc thêm một tội nữa đó. Ai giao nhiệm vụ? Sáu Quyên chết trong nhà tù, chú Sáu Sinh đã hy sinh. Hay cô Tư đứng ra bảo lãnh cho tôi? Vợ một trung tá ngụy đi bảo lãnh cho một lính ngụy, nghe tức cười...
- Phải, hoàn cảnh là vậy...
- Không ai tránh né được hoàn cảnh... Nhưng chẳng sao mà, cô Tư. - Giọng Hai Độ có cái gì chua chát. - Đất nước được yên hàn, mình cực nhiều rồi, nay chịu khó vào trại vài ba năm nữa để nghe giảng giải về lòng yêu nước, về lập trường, về Tổ quốc càng thấm nhuần, đúng không?
Tư Nhâm nhìn ra đâu đó và chợt không gìm được, thở hắt ra, có cái gì đấy rất khó giải thích, buồn mêng mang...
- Cô Tư còn khổ, còn chịu nhiều điều tai tiếng hơn tôi chớ. Đành vậy thôi! Ta gắng làm một con người tốt, hữu ích, chỉ cần lòng ta hiểu cho ta là đủ...

Hai Độ đi rồi, ngồi lại một mình trong ngôi nhà rỗng không, vắng hơi chồng, hơi con, ngẫm lại, Tư Nhâm không khỏi giật mình lo sợ khi ý thức hết hoàn cảnh. Quả chị đã trắng tay, đã bị cắt đi mọi liên hệ với tổ chức. Một lần nữa lại chơ vơ, giống như thân cây bật mất rễ, trước bão gió không còn đất bấu víu...
Rồi cuộc sống kế theo càng khiến chị ngấm hơn sự đắng chát, nghiệt ngã, trớ trêu nơi hoàn cảnh mình. Thời gian sau đó, thường xuyên chị bị chính quyền gọi lên. Một câu hỏi thường trực được đặt ra là tại sao chị không theo chồng con đi di tản, ở lại với mục đích gì? Tư Nhâm biết trả lời sao đây! Thì đành nói rằng mình và viên trung tá không hợp.
- Không hợp mà có con với nhau? - Người thẩm vấn có khuôn mặt non choẹt, nhưng lúc nào cũng làm bộ căng thẳng, luôn tỏ ra quan trọng, ngước lên nhìn chị và tra vấn. - Hôm trước chị bảo rằng chị không thể rời bỏ quê hương, hôm nay lại trả lời khác, sao vậy chị Tư? Chúng tôi không ngây thơ nghe... Thôi, chị có thể về, lúc nào cần chúng tôi cho gọi.
Tư Nhâm thấy mình đuối lý. Chị cúi xuống luống cuống tránh cái nhìn của người cán bộ có khuôn mặt non choẹt nhưng cố làm vẻ đạo mạo, lúc nào cũng tỏ ra bận rộn và quan trọng, rồi cắp nón đứng lên, ấp úng chào và thấp thửng bước ra khỏi công sở. Hai chân nặng tựa đeo đá. Sự ấp úng và thiếu nhất quán trong những lần trả lời thẩm vấn của chị là cái cớ để nhà chức trách dành cho mình được quyền nghi ngờ, cảnh giác... Tư Nhâm bị giám sát chặt hơn thời còn Ba Hoàng.
Nhưng điều khổ tâm không chỉ chỗ ấy. Sau ngày Lân Cồ giải phóng, mỗi lần ra đường hay có việc đến chỗ đông người, chị thường bắt gặp những ánh nhìn tò mò, khó chịu, thương hại, thậm chí khinh bỉ. Tình thế đẩy đưa khiến chị phải nhập vai làm diễn viên, sống khác mình để đến lúc này, sự éo le lại xô chị vào trạng huống không còn cái khả năng quay về với chính mình được nữa. Chị đã thành người khác. Ngày ngày cố sắm vai đóng lại chính mình mà nhạt nhoà, không giống. Nhiều lúc hoang mang, chị thẫn thờ tự hỏi mình là ai, nhưng không có câu trả lời. Và cũng không thể trả lời. “Chỉ cần ta hiểu cho lòng ta là đủ”, đó là câu Hai Độ nói để an ủi Tư Nhâm và an ủi cả anh ấy. Hôm đành liều tiễn Hai Độ lên xe đi vào trại cải tạo, nhìn vào đôi mắt có cái gì lạ lẫm, thoáng chút bàng hoàng và buồn rượi nơi anh, chị rõ Hai Độ cũng xót buốt và khổ sở lắm. Bàn tay giơ lên vẫy, miệng nhếch cười, mà khuôn mặt nhíu lại, cay cực như thể là đang mếu...
Tuy vậy chẳng rõ vì nguyên cớ gì, Tư Nhâm vẫn nuôi nơi mình một mỏng tang bâng quơ hy vọng và vẫn có ý đợi chờ. Cũng không thật rõ hy vọng và đợi chờ cái gì, song ngày ngày cứ thấy vẩn vơ, xốn xang tâm trạng thấp thỏm mong ngóng...
Một ngày nọ, thoáng thấy bóng người mặc quân phục ra dáng cán bộ cách mạng ngấp nghển nơi cổng có ý dò hỏi, chị mừng rỡ, chân thấp chân cao hớp hởi chạy ra. Chị hồi hộp chào hỏi và mời người đó vào nhà. Nhưng cuộc viếng thăm của vị khách, là cán bộ cách mạng không mời mà đến ấy lại khiến chị thêm khổ sở, thêm buồn phiền và tủi phận.

- Xin lỗi, anh là... - Tư Nhâm rót nước mời và khấp khởi hỏi.
- Tôi chỉ là kẻ qua đường bình thường. - Khách đáp - Qua đây muốn ghé vào hỏi thăm...
- Hỏi thăm? Anh quen biết ai vùng này sao?
- Tôi có một món nợ, dẫu rõ rằng không thể trả hết, song cũng muốn chí ít giúp mình được thanh thản phần nào...
- Tôi ngỡ những người chiến thắng chỉ biết đi đòi nợ? - Tư Nhâm như thể đã hiểu ra vấn đề, chán chường hỏi lại.
- Xin lỗi, chị cho hỏi, chị có biết một người tên là Tư Nhâm, vợ một thuỷ thủ trên “tàu không số” đã hy sinh khi con tàu đó chở vũ khí cập vào vùng ta?
Như thể chạm vào than nóng, Tư Nhâm giật mình, có cái gì đó bất thường khiến chị thất sắc. Nhưng vốn đã quen ứng phó với nhiều cảnh huống bất chợt ngoài dự kiến, chị nhanh chóng lấy lại bình tĩnh.
- Tư Nhâm, vợ một thuỷ thủ trên “tàu không số” à? - Chị đáp, dừng lại hít sâu không khí vào lồng ngực và nói tiếp: Có, tôi có biết, nhưng... vợ Tư Lăng chết rồi!
Tư Nhâm nói với giọng tỉnh không, dửng dưng như thể người ngoài cuộc, dửng dưng như thể mình chỉ là kẻ qua đường, vô tình biết chuyện, không hề can dự vào những gì đã xẩy ra. Hình như cuộc sống và thời gian với nhiều bất hạnh đã lắng đọng tạo ra nơi chị lối ứng xử như thế...
- Chết rồi? Chị ấy chết rồi! - Người khách thoảng thốt. - Trời ơi, vậy là tôi đã tới trễ.
- Phải, đã quá trễ. Tư Nhâm đã không còn sau cái chết của Tư Lăng một trăm ngày.
- Tội quá! Xin lỗi, chị có thể cho biết rõ hơn, chị ấy đã hy sinh như thế nào và trong trường hợp nào?
Tư Nhâm vẫn như thể người vô cảm, chị nói và cũng nhận ra sự lạnh lùng trong giọng mình:
- Cái chết rất kì quặc. Chết mà vẫn sống, sống như đã chết. Có những cái chết trong chiến tranh rất khó xác định. Con người trong chiến tranh lạ lắm.
- Chị nói đúng. Ngay cả cái sống cũng vậy, rất kỳ quặc. Đã dành phần sống của người khác thì dù tồn tại, cũng coi như đã chết... - Người khách tỏ ra thất vọng. - Thế là món nợ đó tôi lại đành cõng theo trên lưng suốt đời... Tôi đã gắng về đây với hy vọng được san vơi ít nhiều, vậy mà...
- Anh đã làm gì để đến nỗi phải mắc vào món nợ đó?
- Có giải thích, chị cũng không rõ... Chị chẳng vừa nói, con người trong chiến tranh lạ lắm đó sao!
- Vậy mong anh chóng lấy lại được sự bình tâm, thanh thản...
- Khó! Tôi đã gắng, nhưng hình như càng gắng càng bị dằn vặt. Sau chuyến đưa vũ khí vào vùng biển này bị lộ và phải cho nổ tàu, tôi đã đòi được đi thêm nhiều chuyến nữa. Những chuyến đi nguy hiểm. Sóng gió. Kẻ thù. Không ít lần chúng tôi đụng độ với địch. Lạ là tôi đã không còn sợ chết. Nói điều này có thể chị không tin, nhưng quả vậy, đã nhiều lúc tôi thậm chí mong có một viên đạn xuyên qua người mình. Thế là được giải thoát, và mọi việc kết thúc. Lạ thay, đạn kẻ thù đã cố tình tránh tôi. Sau mỗi chuyến đi, tôi được tâng bốc như một người anh hùng, và huân chương, cấp bậc, địa vị theo đó mà đến... Họ đâu biết tôi biểu hiện cái gọi là dũng cảm ấy chỉ vì muốn chuộc lại chút nợ. Tôi chỉ vì mình...
- Có lẽ tôi hiểu và thông cảm được phần nào tâm trạng của anh! - Giọng Tư Nhâm đã dịu trở lại.
- Cám ơn chị, xin được hỏi thêm câu nữa, chị có rõ cháu Thảo, con gái của Tư Lăng và Tư Nhâm giờ sống thế nào?
Tư Nhâm thoáng lắng đi một lát. Hình như chị cố gắng nén tiếng thở mạnh.
- Tôi cũng không thật rành. - Chị nói - Có người bảo đã từng gặp cháu trong rừng, nhưng lại có người cho hay đã gặp một đứa hao hao giống cháu làm ở quán bar trong Sài Gòn...
- Tôi nghĩ cô gái đó chắc sẽ chọn con đường của ba má... Tự giới thiệu với chị, tôi là thượng tá Đàm Quang Chiêu, trước đây vốn là chính trị viên trên “tàu không số”, con tàu Tư Lăng từng làm thuyền phó... Xin lỗi, còn chị là...?
- Tôi là ai ư? - Có cái gì gợn lên chút chua chát, ngậm ngùi, nhưng giọng Tư Nhâm vẫn rành rẽ. - Tôi là vợ một sĩ quan cao cấp trong quân đội Việt Nam cộng hoà mà các anh vẫn gọi là sĩ quan ngụy...

*

Ngày tháng qua nhanh, Tư Nhâm cam đành lặng lẽ sống trong nỗi cô đơn, nhiều trắc trở của số phận mình. Chị quen dần với những gì đã đến, đang đến... Và để vượt qua những cay cực, chị vẫn an ủi rằng so với Sáu Quyên, Sáu Sinh, Mười Bàng, Hai Liên... và nhiều người khác, chị vẫn may mắn hơn. Một lần chị nói ý ấy với Hai Độ, người thượng sĩ mới đi cải tạo về gật gù:
- Cô Tư nói đúng!... Những ngày ở trong trại, tôi ngẫm ra nhiều điều lắm. Giá chi đừng có hiềm khích, đừng đánh nhau! Máu đỏ da vàng cả mà...
Từ ngày đi cải tạo về, dường như Hai Độ đã nhận ra được điều gì, bởi vậy mà anh ít nói hơn, và cũng ít đến thăm chơi với Tư Nhâm. Bẵng đi không thấy Hai Độ tới, Tư Nhâm có ý mong. Còn ai hiểu chị, rõ hoàn cảnh chị hơn anh nữa!
- ở Lân Cồ này chỉ còn anh và chị Năm Hồng là chỗ thân quen. Vậy nên năng tới thăm nghe, anh Hai! - Một lần Tư Nhâm nói.
Hai Độ nhếch mép cười buồn:
- Cũng muốn tới cô Tư chơi luôn luôn cho đỡ sầu, nhưng vẫn nơm nớp sợ mấy đứa cán bộ sau bảy lăm nó nghi bọn mình tụ tập cấu kết phá phách chi đó nên cũng ngại. Là tôi giữ cho cô Tư, còn tôi... Bọn đó đang thích lập công nhằm phô diễn lập trường mà.
Tư Nhâm thở hắt ra, ngồi lặng.
Thỉnh thoảng buồn, chị tới chỗ Năm Hồng chơi. Người chủ quán vô tâm bất biết Tư Nhâm là Việt Cộng hay ngụy, vẫn xởi lởi tốt tính như xưa. Sau ngày giải phóng, lính miền Bắc vào đông, coi ra chị đông khách hơn, làm ăn còn khấm khá hơn. Chẳng rõ sao, thời gian không làm nhạt phai nhan sắc nơi chị. Năm Hồng vẫn phây phây, vẫn ngon mắt như khúc giò lụa, thoáng nhìn đã muốn cắn. Và vẫn không ít kẻ háo thèm, ngoài mặt thì làm bộ cao đạo, cố tỏ ra người đứng đắn, nhưng trong lòng lại rạo rực khát háo, và đêm đêm vẫn trốn đồng đội lén đến lên giường với người đàn bà này.
- Bọn đàn ông vẫn hám, và bản thân chị cũng còn thích, trước thì bên nọ nay lại bên kia, bên nào thì cũng là người Việt ta cả... Nhưng có tuổi rồi cô ạ, không được như trước. Với nữa toàn bọn xa vợ, lại bị cấm kỵ nên mỗi lần gặp, hung lắm. Giá như trước đây được thế! - Có lần Năm Hồng toét miệng cười, tâm sự, rồi vẫn như ngày nào, lại khuyên: Hay là cô tới đây làm với tôi, mình nuôi mấy đưa choai choai là đủ sống. Lính xa nhà chúng nó háo... Mà cô ngu quá, cớ chi để Hai Rạng tót sang bên đó một mình chớ. Hay thằng ấy có vấn đề về đàn ông? Mà vấn đề đàn ông sao có con được? Nè, người đàn bà có thể bỏ chồng chứ không ai bỏ con... Cô thiệt kỳ.
- Nhắc chi chuyện đó nữa thêm buồn, chị Năm... Giá mà má em còn, em về dưới đó sống là khoẻ.
- Lâu nay nhận được tin tức gì bên ấy gửi về không? - Năm Hồng hạ giọng.
Tư Nhâm không đáp, chị cũng không thật rành rằng mình có ngóng tin Hai Rạng. Nhưng điều này chị rõ, đêm đêm, ôm gối nằm một mình, chị nhớ thằng Đức đến thắt thẻo, đến khô héo, hễ nghĩ tới hình ảnh thằng con trai chơi vơi sau cửa hậu chiếc xe, mếu máo gào khóc: “Má ơi, má đừng bỏ con”, chị lại ứa nước mắt, thao thức nhói buốt không sao ngủ được, và những lúc như vậy hình như chị có chờ, có đợi, có ý ngóng một điều gì đấy...

Dịp này Tư Nhâm thường hay lui tới đài tưởng niệm tàu không số địa phương mới xây dựng. Chị ra chợ mua hoa, lặng lẽ đi bộ đến đó rồi đứng lặng hồi lâu. Hôm ấy chị rời tượng đài chưa mấy bước, thì có nhóm thiếu nhi ào tới. Lúc sau nghe một giọng trẻ nít từ phía đó:
- Vứt hoa của người kia đi. Không cho bả để chung với hoa của tụi mình. Lính của lão trung tá chồng bả đã bắn chết anh Hai tao. Tao ghét bà ấy lắm!
Đã quen với những trường hợp tương tự, Tư Nhâm không quay lại, chị lẳng lặng đi xuống bờ biển.
Gần đây chị có thói quen, thích đứng lặng hồi lâu bên mép nước thẫn thờ ngóng ra xa, thật xa. Cũng chẳng rõ rằng mình mong đợi điều gì ở biển.
Tiếng sóng rầm rào đơn điệu dội tới buồn rượi, khắc khoải tựa hơi thở dài. Dưới ngàn vạn con sóng triền miên nối nhau uể oải đổ vào bờ ấy, chị dễ dàng nhận ra còn có những con sóng khác nữa, những con sóng chìm.

TÁC GIẢ: ĐÌNH KÍNH

HẾT

Không có nhận xét nào: