Thứ Năm, 15 tháng 2, 2018

Những giai thoại về các vị tướng anh hùng


ĐỒNG CHÍ ẤY LÀM NHƯ VẬY LÀ ĐÚNG

Tướng Nguyễn Sơn - thời được giao nhiệm vụ Tư lệnh Quân khu Bốn nổi tiếng là một viên tướng rất quý anh em văn nghệ. Xứ Thanh thời kháng chiến chống Pháp được xem như là một “thủ đô” của giới văn nghệ, quy tụ được những tên tuổi từ khắp nước một phần rất lớn vì ở đó có Tướng - Văn nghệ Nguyễn Sơn. Nhớ về một thời còn ở kháng chiến, nhạc sĩ Phạm Duy kể: Tướng Nguyễn Sơn là một người nghiện thuốc lá. Lúc nào trong túi ông cũng có một bao “3 số 5”. Một hôm, ông cùng người lính cần vụ đi qua một trạm gác. Tuy là tướng, là viên Tư lệnh lừng danh, quân ta nghe thì hãnh diện, địch nghe danh thì khiếp sợ nhưng ít khi ông mang quân phục. Người gầy khô, mặt xạm nắng, tóc rễ tre, tứ thời chỉ thích mặc quần sọc, nên chả ai mới gặp nghĩ là tướng. Anh lính gác cũng vậy, thấy một ông cán bộ ăn mặc loàng xoàng, nom bề ngoài cũng không có dáng vẻ gì lại phì phèo điếu thuốc thơm của “đế quốc thực dân” bèn chặn đường quát: 

- Đồng chí kia, đứng lại! Ai cho phép đồng chí hút thuốc của kẻ địch? Nói rồi giằng lấy điếu thuốc từ miệng viên tướng, tiện thể tịch thu luôn cả bao “3 số 5” trong túi quần ông. 

Thấy vậy, anh lính cận vệ vội chạy lại quát: 

- Đồng chí kia! Đồng chí không biết đây là ai à? Tư lệnh Quân khu đó. 

Người lính gác nghe vậy vô cùng ngạc nhiên và hoảng sợ. Thấy vậy, tướng Nguyễn Sơn ôn tồn bảo: 

-Không sao, đồng chí ấy làm như vậy là đúng! 

Và ông tự nguyện nộp bao thuốc lá vừa hút một điếu cho người lính gác. 

TƯỚNG QUÂN VÀ BÀI THƠ LÊN CAO BẰNG 

Trung tướng Phùng Khắc Đăng –Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam kể, hồi ông còn làm Phó Tư lệnh Quân khu I có một lần đến làm việc với Hội Phụ nữ tỉnh Cao Bằng. Công việc xong xuôi chị em có nhã ý muốn mời tướng quân ở lại ăn bữa cơm “ rau dưa’’cùng cơ quan hội. Gọi là cơm “ rau dưa” nhưng là cơm khách nên phải có rượu, mà rượu ở Cao Bằng thì thôi rồi! nam nữ gì gì cũng hết mình. Uống bằng bát, uống chéo tay, uống đôi khi không say không về 

Là Phó Tư lệnh một quân khu, lại là quân khu sơn cước nhưng cái khoản rượu chè bia bọt đối với ông có phần “yếu kém”. Không biết được tạng ông như thế nên chị em thay nhau chuốc tưóng quân hết bát này đến quai khác. Biết được tửu lượng của mình nên uống với chị nào ông cũng chỉ nhấp môi, bị lộ và bị phạt phải uống chéo tay, uống trăm phần trăm. Không uống được phải hát. Tình thế thật là nguy nan bởi khả năng hát hò với ông cũng không hơn gì chè rượu. Những bài hát mà ông thuộc được chỉ là 12 bài do quân đội quy định, bắt buộc mọi quân nhân phải hát được. Những bài ấy hát ở chỗ ăn uống thì lại sao được! Tính đi tính lại mãi Phùng tướng quân đành liều xin đọc thơ 

Là người con của làng Phùng Xá- quê hương Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan lại đã từng là cán bộ làm công tác nghiên cứu KHXH ở một học viện nên ông rất yêu văn chương và có nhiều bạn bè là văn nghệ sĩ. Ông đã từng làm thơ và cũng đọc cũng thuộc khá nhiều bài, nhưng trong bối cảnh này thì đọc bài nào đây, phải có cái gì là gắn với chị em, gần với đất và người Cao Bằng chứ? Nghĩ một thoáng, sau mấy cái hắng giọng ông đọc luôn mấy câu: 
Lên Cao Bằng không sợ dốc
Đèo Giàng, Đèo Gío đã lùi xa
Lên Cao Bằng không sợ đói
Nước trong, gạo trắng sẵn từ lâu
Lên Cao Bằng không sợ ốm
Chợ bày ngải cứu bán thay rau… 

Đọc đến đây thì tướng quân quyên béng mất câu cuối của bải thơ gốc, ngập ngừng một lúc ông quyết định phóng tác hai câu kết:
Lên Cao Bằng anh rất sợ
Em quên mất anh rồi, tối anh ngủ ở đâu? 

Thế là những đợt pháo tay vang lên cùng đó là những trận cười nghiêng ngả…Chị em bắt nhà thơ đọc lại, có chị rút bút ghi lia lịa. Chờ cho vãn tiếng vỗ tay, dứt hẳn tiếng cười Trung tướng mới có mấy lời “ đính chính” rằng đó không phải là thơ của ông mà là thơ của nhà thơ Vương Trọng, và rằng hai câu cuối là do ông quên mất nên tự nghĩ ra, ông nói thêm ông có lời xin lỗi tác giả bài thơ ! 

Khi được nghe kể lại chuyện này, Phùng tướng quân chỉ cười và bảo:” Cho đến bây giờ tớ vẫn chưa được nhìn thấy văn bản bài thơ. Hôm ấy vô tình trên đường lên thị xã Cao Bằng, lúc xe qua chợ, vượt đèo chú lái xe cứ ngâm nga những vần thơ ấy , tớ thuộc và thế là tương kế tựu kế …” .Để kết thúc câu chuyện xin phép nhà thơ Vương Trọng và bạn đọc được chép tướng quân Phùng Khắc Đăng nguyên văn bài thơ Lên Cao Bằng của thi sĩ họ Vương:

LÊN CAO BẰNG

Lên Cao Bằng không sợ dốc
Đèo Giàng, Đèo Gío đã lùi sau 
Lên Cao Bằng không sợ đói
Nước trong gạo trắng sẵn từ lâu
Lên Cao Bằng không sợ ốm
Chợ bày ngải cứu bán thay rau… 

Lên đến Cao Bằng anh chỉ sợ
Em không còn đó biết tìm đâu!

MIỀNG KHÔNG MANG THEO GIẤY TỜ CHI CẢ 

Ngôi nhà số 4 - phố Lý Nam Đế (Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội) trụ sở Toà soạn Tạp chí Văn nghệ quân đội là một địa chỉ quen thuộc đối với bạn đọc cả nước, quen thuộc với nhiều thế hệ các nhà văn Việt Nam cũng là địa chỉ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh thường xuyên lui tới. 

Lui tới không phải trên cương vị một Đại tướng, một thủ trưởng cấp cao mà trong tư cách một người bạn, một người anh, một người đồng chí, đồng đội, ... Vì vậy, thường là ngoài giờ hành chính và không cần bất cứ môt nghi thức đón tiếp nào, ông cũng có thể đến với anh em văn nghệ “nhà số 4”. 

Nhà văn Hải Hồ nhớ lại "Các đồng chí lãnh đạo Bộ, lãnh đạo Tổng cục Chính trị thường đến với ngôi nhà của Tạp chí Văn nghệ quân đội. Người hay đến nhất là đồng chí Nguyễn Chí Thanh. Đến bất ngờ và không báo trước, với bộ bà ba nâu, rất nông dân, rất dung dị. Có một lần đồng chí lững thững cuốc bộ đến. Ngày đó, phố Lý Nam Đế còn đặt trạm barie gác ở hai đầu. Muốn vào Văn nghệ quân đội phải qua trạm gác trước cổng nhà số 2. Thấy một người quần áo nâu sồng muốn vào, chiến sĩ đứng gác hỏi giấy tờ. Đại tướng nói: “Miềng không mang theo giấy tờ chi cả”. 

- Thế thì không được, bác đứng chờ tí nữa có ai qua tôi nhắn gọi người bác cần gặp ra cho. 

- Ồ! Thế thì nhờ đồng chí nhắn giùm, tôi là Nguyễn Chí Thanh muốn gặp Thủ trưởng Văn Phác. 

Đồng chí Văn Phác là Chủ nhiệm tạp chí VNQĐ lúc bấy giờ nghe tin có “thủ trưởng” tới chơi bèn ra đón. Thế là phòng của Chủ nhiệm tạp chí trở thành phòng tiếp khách chung của tất cả các nhà văn. 

NHỮNG CHUYỆN VỀ VỊ ĐẠI TƯỚNG ĐỘI MŨ MỀM 

Đại tướng Văn Tiến Dũng được giao trọng trách chỉ đạo trực tiếp nhiều chiến dịch lớn: từ chiến dịch Đường 9 Nam Lào (1971), Trị Thiên (1972), Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên (1975), Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh (4/1975)... Cũng bởi thế, ông là vị tướng đã để lại khá nhiều kỷ vật cho Bảo tàng Quân đội Việt Nam. Mỗi kỷ vật ông để lại, là một câu chuyện giản dị nhưng đầy ý nghĩa. Tướng ra trận mang theo... nồi 

Sinh ngày 2/5/1917, ở xã Cổ Nhuế (Hà Nội), ngoài cái tên Văn Tiến Dũng, ông còn có bí danh Lê Hoài. Hoạt động cách mạng từ thời còn đang là anh công nhân của Xưởng dệt Hà Nội. Sau này, có lần ông tâm sự: “Chuyện tôi theo cách mạng cũng là chuyện tình cờ. Thời ấy, Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939) sôi nổi lắm, phong trào công nhân đấu tranh đòi tự do, dân chủ càng mạnh, nó cứ hút mình vào...”. Ông trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương khi vừa tròn 20 tuổi. Nhìn cái vẻ thư sinh của chàng trai gốc Hà Nội, không ai nghĩ, cậu thanh niên Văn Tiến Dũng lại là một người Cộng sản gan lì có tiếng. Trong đời hoạt động của ông, hơn ba lần bị giặc Pháp bắt giam, từng bị chúng kết án tử hình vắng mặt... 

Đầu những năm 1990, một số nhân viên Bảo tàng Quân đội đến nhà ông xin số ảnh ông chụp chung với Bác Hồ để trưng bày. Gạ mãi, ông dẫn chúng tôi đi thăm phòng lưu giữ những kỷ vật suốt thời kỳ hoạt động cách mạng: từ những kỷ vật thời kỳ ông làm Uỷ viên Thường vụ Uỷ Ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ (Bộ Tư lệnh Quân sự miền Bắc Đông Dương), thời kỳ chỉ đạo vũ trang giành chính quyền ở các tỉnh Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá tháng 8/1945... đến những kỷ vật của thời kỳ ông là Cục trưởng Cục Chính trị Quân đội Quốc gia Việt Nam, Phó bí thư Quân uỷ Trung ương. Và nhất là những kỷ vật thời kỳ đầu năm 1948, khi ông được phong quân hàm thiếu tướng, lúc mới 31 tuổi. 

Mỗi kỷ vật của ông, đều gắn với một câu chuyện đời thường nhưng đầy ý nghĩa. Chỉ tay vào hai chiếc nồi, ông kể: “Cuối năm 1974, đầu năm 1975, ăn tết xong, tôi trực tiếp đi thị sát chiến trường Tây Nguyên, để chuẩn bị cho chuyến đi, người cần vụ mang theo hai chiếc xoong (một xoong có cán, một không). Vào đến Quảng Bình thì người dân tặng tôi một con gà mái làm thịt, chú cần vụ định giết thịt luôn, nhưng tôi bảo “chú đừng thịt mà cứ mang theo”. Chú cần vụ cho gà vào lồng xách. Trên đường vào chiến trường, lúc đi xe, khi đi bộ. Dừng chân ở đâu thì cần vụ lại cho gà ăn, để nó đẻ trứng. Trong khẩu phần ăn ở chiến trường hồi đó, dù mình là Đại tướng, Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh nhưng cũng chỉ toàn lương khô và thịt hộp. Nên gà đẻ trứng nào thì cần vụ lại hấp trứng với cơm, coi như đó là một bữa ăn tươi”. Con gà mái đẻ ấy là nguồn sản sinh trứng bồi dưỡng cho Đại tướng trong suốt chiến dịch Tây Nguyên. 

“Tướng mũ mềm” 

Những người ở gần ông thường thấy tướng Dũng gắn bó rất chặt chẽ với chiếc mũ lưỡi trai mềm: kể cả khi đi họp, lúc ở chiến trường...thì ông đều đội. Bởi thế, có người vẫn thân thiện gọi ông là “Tướng mũ mềm”. Khi ông đã nghỉ, nhân viên bảo tàng đến hỏi xin chiếc mũ mềm mà ông vẫn thường đội về trưng bày, ông bảo “đó là vật bất li thân, làm sao cho được”. Rồi ông kể: “Năm 1965, máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc, ông đi thăm các đơn vị bộ đội pháo cao xạ ở Khu 4. Nắng Khu 4 cháy bỏng, nhưng bộ đội trực chiến phải ngồi trên mâm pháo, dưới cát nóng, trên trời nắng cháy, nhưng chiến sỹ lại phải đội trên đầu mũ sắt. Hỏi “anh em đội mũ sắt có nóng không?”, anh em bảo cũng nóng, lại hỏi “thế có chịu được không?”, trả lời “chịu được!”. Sau chuyến đi ấy, hình ảnh những người lính pháo binh phải đứng giữa trời chống chọi với cái nóng cứ ám ảnh ông mãi. “Tôi cứ day dứt, phải nghĩ ra cái gì đó bọc chiếc mũ sắt cho anh em đỡ nóng”, ông tâm sự. Ông liên tưởng đến chiếc mũ mềm, có lưỡi trai cứng bên ngoài của quân đội Pháp. Rồi quân đội của một số nước cũng có chiếc mũ lưỡi trai kiểu như vậy. Nghĩ vậy, ông gọi Cục quân trang lên hỏi: “Các anh xem có thể cải tiến được cái mũ không?”, rồi ông gợi ý những kiểu mũ có lưỡi trai của quân đội các nước. Cục quân trang về may một chiếc mũ cho ông đội thử, ông khen: “Thế này là tốt, chỉ cần chỉnh sửa chút ít và gắn sao vàng phía trước là đẹp”. Đội bình thường cái lưỡi trai có thể che nắng phía trước đỡ chói mắt, còn khi cần chỉ cần quay lưỡi trai ra phía sau thì sẽ che nắng được sau gáy. Từ đó, khắp các chiến dịch Tây Nguyên, Hồ Chí Minh, đi đâu ông cũng đội mũ mềm. Tại Đại hội Anh hùng chiến sỹ thi đua toàn miền Nam 1966-1967, chiếc mũ mềm bắt đầu được sản xuất hàng loạt cho bộ đội. Chiếc mũ được giữ trong quân đội đến năm 1992, thì được thay bằng mũ kêpi. 

Và đôi giày vạn dặm 

Chị Trần Thanh Hằng, nhân viên Bảo tàng Quân đội kể rằng, trong một lần đến xin tướng Dũng những đôi giày mà ông đã đi trong các chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh về làm vật trưng bày, mới nghe được câu chuyện khá thú vị: trong suốt những chiến dịch ấy, Đại tướng chỉ sử dụng đúng một đôi giày, do chính ông đặt một người thợ ở Hà Nội đóng. Hỏi vì sao? ông nói: “Vì kiểu chân tôi hơi khác loại, nên không đi được giày theo cỡ chung mà phải đặt đóng”. Cũng chính thế, ông rất quý đôi giày đó. Trong suốt các chiến dịch mà ông trực tiếp chỉ huy, đôi giày đã được ông thay đế đến 5 lần. Cứ mòn đế ông lại đóng lại. “Chúng tôi phải năn nỉ mãi, Đại tướng mới “rút ruột” mang đôi giày tặng bảo tàng”, chị Hằng nói. 

Trước khi mất, tướng Dũng còn tự tay mang tặng Bảo tàng Quân đội khẩu súng ngắn K59, do Liên Xô viện trợ giúp Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, được Bộ Tổng tham mưu trang bị khi ông làm Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Khẩu súng ấy được ông dùng từ năm 1970 để tự vệ trên đường đi công tác tại các chiến trường. Ông bảo: “Tuy khẩu súng được ông mang theo trong suốt các chiến dịch, nhưng chưa khi nào ông phải dùng nó”. Một lần, nhân ngày 30-4, ông đến Bảo tàng mang theo bộ quân phục, còn nguyên cả quân hàm Đại tướng tặng Bảo tàng. Sau đó một năm thì ông mất...

VỊ ĐẠI TƯỚNG MÊ ÂM NHẠC VÀ LÀM THƠ

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người anh cả thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ "chấn động địa cầu" và đại thắng mùa xuân năm 1975. Đại tướng có tài văn, võ, trí, dũng song toàn, giàu tình thương với binh sĩ và dồi dào chủ nghĩa nhân văn. 

Chuyện kể rằng: Sau chiến thắng biên giới (1950) trên chặng đường từ Đông Khê về Cao Bằng, đêm ấy, lần đầu kể từ ngày đi chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp bỗng cảm thấy mệt, đầu óc nặng trĩu. Trước đó, Đại tướng đã từng thức trắng 11 đêm không ngủ (nhiều đêm ngồi trên lưng ngựa) để cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch tập trung trí tuệ, mưu lược, quyết tâm đánh thắng quân xâm lược. Bất chợt, Đại tướng nghe từ một bản nhỏ bên đường vẳng ra tiếng đàn ghi-ta, khiến: "Tôi ngỡ ngàng cứ như lần đầu nghe thấy những âm thanh này. Những âm thanh thật kỳ lạ. Những mệt mỏi tiêu tan, đầu óc trở nên sáng suốt. Nó giống như một lần leo lên sườn dốc đứng ngột ngạt từ Khuôn Chu lên tới đỉnh Tam Đảo, bỗng được tắm mình trong hơi sương mát lạnh và luồng gió lành đầy sinh khí nơi non cao. Cũng từ đó tôi yêu âm nhạc. Hình như Pythagore, một nhà hiền triết Hy Lạp ở thế kỷ V trước Công nguyên đã nói âm nhạc có khả năng thanh lọc tâm hồn con người, thậm chí tác động tới tất cả những bệnh tật trong cơ thể con người". Thế là Đại tướng cho dừng ngựa, rồi bàn với các chiến sĩ đi theo vào bản tìm nhà dân để nghỉ lại đêm nay, sáng mai dậy sớm đi tiếp và dặn cố tìm bằng được người vừa đánh đàn. May quá, chẳng bao lâu anh em đã tìm được người chiến sĩ trẻ yêu văn nghệ ấy. Anh ôm cây đàn ghi-ta bước vào lán, chào mọi người rồi cất lên tiếng đàn du dương để Đại tướng và các chiến sĩ cùng thưởng thức. Tiếng đàn đã mang lại niềm vui và sự thư giãn thoải mái cho các tướng sĩ sau những ngày chiến đấu căng thẳng, quyết liệt sống mái với quân thù ở các mặt trận Thất Khê, Đông Khê vừa qua. 

Có lẽ chính vì niềm say mê âm nhạc ấy mà sau này, dù bận trăm công ngàn việc Đại tướng đã có lúc dành được thời gian để tập chơi đàn piano và thưởng thức những bản nhạc tuyệt vời của thế giới. 

Điều đáng chú ý nữa là trong cuộc đời binh nghiệp của mình, đã có lần Đại tướng Võ Nguyên Giáp ứng khẩu làm thơ. 

Lần ấy vào khoảng giữa năm 1948, sau khi về làm việc xong với các vị lãnh đạo Liên khu 10, Đại tướng đi thẳng đến huyện Cẩm Khê (Phú Thọ) để gặp gỡ các cán bộ, chiến sĩ thuộc các ban Tuyên truyền xung phong vừa mới được thành lập để chuẩn bị tiến vào 4 tỉnh Tây Bắc nhằm xây dựng cơ sở lập chỗ đứng chân, mở rộng căn cứ Tây Bắc, mở đường quốc tế sang Lào, chuẩn bị sau này để tiến vào Nam. Nhìn những cán bộ, chiến sĩ trẻ măng đang hăng hái, sẵn sàng lên đường vào vùng địch tạm chiếm, gương mặt rạng rỡ của mọi người ánh lên niềm tin tưởng ở thắng lợi, Đại tướng suy nghĩ rất lung. Gian khổ, hiểm nghèo, bệnh tật, đói rét đang chờ họ. Đại tướng đã nói chuyện, tiếp thêm cho anh em sức mạnh mới, trước khi "qua miền Tây Bắc" giải phóng đồng bào các dân tộc thoát khỏi ách đọa đày dưới gót giày xâm lược, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ xây dựng tốt cơ sở quần chúng, cắm bằng được lá cờ đỏ sao vàng trên đất Điện Biên Phủ. 

Chính trong không khí của buổi chia tay, lưu luyến tiễn đưa anh em lên đường vào nơi xa xôi, nguy hiểm ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã xúc động làm mấy câu thơ sau đây tặng các chiến sĩ: 

Sông Đà, sông Mã uốn dòng
Ghềnh rêu, thác bạc ghi công anh hào
Con vàn (*) tung cánh bay cao
Ngọn cờ chỉ hướng, ngôi sao dẫn đường 

Tâm hồn một vị tướng tài ba thật quả là dạt dào, phong phú... 

(*) Tên loài chim như con vạc.

CUỘC GẶP GỠ GIỮA ĐẠI TƯỚNG VÀ NHỮNG NGƯỜI GIÚP VIỆC

Giữa hai ngày lễ lớn của đất nước Việt Nam – Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 và Quốc khánh 2/9 – có một ngày lưu lại trong tình cảm của đông đảo người dân Việt. Đó là ngày sinh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. 

Một nhà văn và nhà nghiên cứu ngoại quốc đã viết: Ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại An Xá, Lệ Thủy, Quảng Bình đã ra đời một cậu bé mà sau này đã tác động đến dòng chảy lịch sử thế giới. 

Đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng huyền thoại văn võ toàn tài, đức độ tài năng trọn vẹn, người học trò gần gũi xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị tướng của nhân dân và là người Anh cả quân đội... 

Cũng như mọi năm, văn phòng Đại tướng cho biết, ngay từ đầu tháng Tám, đã có nhiều đoàn cựu chiến binh, đoàn thể, đồng chí, đồng bào ở Trung ương, Hà Nội và các địa phương đăng ký đến mừng Đại tướng Thượng thọ. Tuy nhiên, năm nay do tuổi tác và sức khỏe, gia đình và văn phòng phải hạn chế bố trí khách đến mừng thọ so với mọi năm. 

Riêng chúng tôi, một số anh em đã có những năm tháng gần gũi, phục vụ Đại tướng từ những ngày chống Pháp, chống Mỹ đến những ngày xây dựng hòa bình... được gặp mừng thọ Đại tướng vào sáng ngày 26 tháng 8 năm 2007 – ngày đầu tiên Đại tướng bước vào tuổi 97. 

Các đồng chí văn phòng cho biết, tuy năm nay thời gian tiếp khách hạn chế, nhưng đến cuối ngày có gần 40 đoàn đến chúc thọ Đại tướng. Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Mặt trận: Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Thị Doan, Nguyễn Sinh Hùng, Phạm Gia Khiêm, Nguyễn Thiện Nhân, Phạm Thế Duyệt; các đồng chí lão thành Nguyễn Văn Trân, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Văn An; các tướng lĩnh quân đội; đồng chí Nông Đức Mạnh đang đi công tác địa phương đã gửi lẵng hoa chúc mừng mà đài , báo đã đưa tin khá đầy đủ... 

Cụ Nguyễn Văn Tứ ở thành phố Vinh, lão thành các mạng, năm nay 88 tuổi đời, 60 tuổi Đảng, cán bộ tiền khởi nghĩa, trước ngày 25 tháng 8 một tuần đã gửi thư về văn phòng Đại tướng cho biết là từ đầu 2007, cụ đã 3 lần viết thư thăm hỏi Đại tướng và gia đình. 

Trong dịp này cụ có ước vọng được gặp Đại tướng dù chỉ 5,7 phút, cụ đã nói: “Đó là nguyện ước to lớn và đã trở thành khát vọng trước lúc đi xa” và cũng là để lại kỷ niệm cho các thế hệ con cháu sau này. Văn phòng Đại tướng đã giúp cụ thực hiện ước nguyện này. 

Trở về Vinh, cụ đã gọi điện báo tin về đến nhà an toàn. Cụ và gia đình rất mãng nguyện, sung sướng được trực tiếp gặp Đại tướng và tối qua cụ đã yên lòng ngủ một giấc suốt từ tối đến sáng... 

Nhiều đoàn cựu chiến binh ở các tỉnh trong đó có đoàn cựu chiến binh tiểu đoàn phòng không anh hùng, đoàn Bảo hiểm Thái Bình đến từ sáng sớm ngày 24 tháng 8. 

Đặc biệt chiều ngày 25 tháng 8, đoàn nữ cựu chiến binh gồm hơn 30 chị em đại diện cho câu lạc bộ nữ Trường Sơn ở Bắc Giang đã vô cùng xúc động được gặp Đại tướng. Có chị kể lại là trong những năm ở Trường Sơn, các chị chốt ở đèo Pu – la – Nhích, được tin Đại tướng đến thăm, nhưng không gặp được Đại tướng, nhiều chị em đã khóc. 

Hôm nay, sau mấy chục năm chờ đợi, ước mong, được gặp Đại tướng, chụp ảnh chung với Đại tướng, chị em rất xúc động, có chị đã òa lên khóc. 

Đại tướng cũng rất xúc động, cầm tay chị em, cảm ơn chị em đã chiến đấu ở các chiến trường ác liệt, hy sinh tuổi trẻ, tuổi đẹp nhất cho sự nghiệp giải phóng đất nước, nay đã làm tròn nhiệm vụ người mẹ, người bà, gương mẫu trong sản xuất, trong đời sống cho con cháu noi theo, lại đến thăm Đại tướng. Đại tướng rơm rớm nước mắt... 

Văn phòng Đại tướng cũng cho xem bức thư chuyển phát nhanh của cụ Trương Quang Phúc – Chủ nhiệm Câu lạc bộ Hán Nôm Quảng Bình, gửi đến văn phòng đúng trưa ngày 25/8, 4 câu thơ “Cõi trăm năm – kính chúc Võ Đại tướng Thượng thọ” viết bằng chữ Nôm và chữ quốc ngữ: 

“Thế giới nghìn xuân mấy tướng tài 

Trường sinh đắc thọ chỉ mình ngài 

Quảng Bình linh địa sinh nhân kiệt 

Thấu cõi trăm năm nghĩa rộng dài...” 

Có rất nhiều đoàn, nhiều câu chuyện xúc động và tình cảm của cán bộ, nhân dân, chiến sĩ với Đại tướng mà chúng tôi không thể kể hết ở đây. 

Khoảng 9 giờ sáng ngày 26 tháng 8, anh em chúng tôi đã có mặt, ngồi đông đủ trong phòng tiếp khách của Đại tướng, được trang trí những bức trướng, câu đối, bài thơ, ảnh chụp, ảnh thêu, phù điêu, tượng mừng công lao và chúc thọ Đại tướng. Đặc biệt năm nay, ngoài những lẵng hoa, cây cảnh do các cá nhân, đại diện đoàn thể tặng, nổi bật có: 

Bức chân dung bằng gốm sứ của nghệ nhân Phạm Tiến Khang (Bát Tràng) tặng Đại tướng rất đẹp. 

Bức phù điêu tứ linh bằng đồng bóng loáng của nghệ nhân làng nghề Đồng Sâm do đoàn bảo hiểm Thái Bình tặng. 

Nghệ nhân Triệu Hoàng Giang được một nhà điêu khắc nước bạn truyền nghề cho khi đi học nước ngoài, đã 9 năm khắc 20 bức tranh bằng đá về Bác Hồ đem về trình bày để Đại tướng xem. 

Đây là tập tranh khắc đá tuyệt diệu đầu tiên với chủ đề “Bác Hồ” được trình bày để tham khảo ý kiến, rút kinh nghiệm, sau đó dự kiến phát triển qua các đề tài khác... 

Chúng tôi ngồi quây quần quanh chiến bàn lớn, vui vẻ chờ Đại tướng và chị Đặng Bích Hà (phu nhân Đại tướng). 

Đúng 9 giờ 30 phút, Đại tướng vào phòng họp trong bộ quân phục giản dị, mang quân hàm Đại tướng và lấp lánh trên ngực Huân chương Sao vàng và hai Huân chương Hồ Chí Minh, hai Huân chương Quân công hạng nhất. 

Tất cả đứng dậy vỗ tay dào dạt, rộn ràng. Đại tướng giơ tay chào và ra hiệu cho mọi người ngồi xuống. Đại tướng lần lượt nhìn anh em và vui vẻ nói: “Rất mừng thấy các đồng chí đều mạnh khỏe, và vẫn trẻ như xưa”. Tất cả lại vỗ tay và ồ lên cười vui vẻ. 

Mở đầu, đồng chí Đại tá Nguyễn Huyên, trợ lý của Đại tướng phụ trách văn phòng, báo cáo với Đại tướng thành phần và ý nghĩa cuộc gặp mặt “tình nghĩa sâu nặng” năm nay. Đông chí thay mặt anh chị em từng làm việc, phục vụ, gần gũi Đại tướng qua các thời kỳ, kính chúc Đại tướng bước sang tuổi 97 mạnh khỏe, minh mẫn. Trước mắt mạnh khỏe để đón chào 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội và sống lâu hơn nữa, sống trên trăm tuổi... Tất cả vỗ tay, cười vui thoải mái. 

Có đồng chí thêm vào: Phải nói là mừng Đại tướng bước sang tuổi 97 dương lịch và tuổi 98 âm lịch – tuổi mụ. Có đồng chí vui mừng thốt lên: Xin mừng Đại tướng thọ đến 120 tuổi. 

Nhận bó hoa tươi thắm và những lời chúc mừng, Đại tướng tươi cười: “Cảm ơn lời chúc tốt đẹp của các đồng chí! Tôi xin phấn đấu đến 121 tuổi, vượt mức lời chúc của các đồng chí một tuổi! Các đồng chí đồng ý không?”. Tất cả lại cười ồ lên vui vẻ. 

Đồng chí Huyên thông báo, năm nay sức khỏe Đại tướng, theo quy luật tự nhiên, có sút kém hơn trước, đi lại có khó khăn hơn. Do đó văn phòng phải bố trí người đi sát giúp đỡ Đại tướng đi lại, sinh hoạt, đề phòng bị sảy chân ngã thì sẽ sinh đau yếu. Điều rất mừng là tuy lớn tuổi, gần tuổi 100, Đại tướng vẫn minh mẫn, tư duy sáng suốt... 

Đại tướng cho biết, tuy hai hôm nay tiếp khách có mệt, nhưng sức khỏe vẫn bình thường, tối qua ngủ một giấc ngon, đến nửa đêm có tỉnh giấc rồi lại ngủ tiếp đến sáng. Trông Đại tướng vui vẻ, hồng hào, tất cả đều vui mừng, hồ hởi. Đồng chí Việt Phương, nguyên Thư ký của anh Tô (anh Phạm Văn Đồng) cũng đến tham dự. 

Anh Văn quen thân anh Việt Phương từ lâu. Anh Việt Phương kể: “Anh Văn có cái nhìn xa và lòng bao dung, đã sớm thấy rõ những khó khăn và triển vọng của quá trình đổi mới tư duy, đã động viên tôi khi tập thơ “Cửa mở” gặp rắc rối trong xuất bản và biểu lộ lòng tin ở sự phát triển sau này. 

Hôm nay xin phép anh Văn được tiết lộ bài thơ anh tặng trong dịp sinh nhật tôi năm 1988 mà anh gọi là: “Mấy vần thơ buông tặng Việt Phương”. Trong đó có những câu tôi nhớ mãi: “Tôi chúc anh trẻ mãi không già.Hai ba mươi năm nữa vẫn còn xuân phơi phới. “Cửa đã mở” rồi! Hoa thơm, hoa đẹp bốn phương đưa lại. Hoa nở thành thơ từng chùm, từng chùm... Nhìn về tương lại, ung dung tiến bước. Tương lai thuộc về chúng ta. Trẻ mãi, trẻ mãi, trẻ mãi...”. Tôi đã xin phép và được anh Văn đồng ý cho công bố rộng rãi bài thơ này trong tập sách sắp tới của tôi”. 

Xúc động trước tình cảm ấm áp của buổi gặp mặt, Trung tướng Hồng Cư đã đọc to bài thơ anh vừa sáng tác, trong đó có đoạn viết: 

Trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung. Anh toàn vẹn 
Dĩ công vi thượng một tầm cao 
Danh tướng thời đại Hồ Chí Minh, nêu gương sáng 
Danh tướng của muôn đời, hạnh phúc sao!
Sống mãi với non sông 
Sống mãi với sử sách 
Sống mãi trong lòng dân 
Sống mãi với đồng bào! 

Nhiều anh em còn muốn nói lên tình cảm của mình với Đại tướng nhưng thời gian không cho phép. Đồng chí Huyên mời Đại tướng có đôi lời với anh em. Đại tướng nói đại ý: Xin cảm ơn tất cả các đồng chí qua các thời kỳ đã giúp tôi hoàn thành những nhiệm vụ mà Đảng, Bác Hồ, nhân dân giao phó. 

Năm nay, theo tuổi tác, sức khỏe tôi có hạn chế hơn nhưng tinh thần vẫn minh mẫn, vẫn thấy trách nhiệm theo dõi, nắm bắt tình hình để tiếp tục có những đóng góp vào sự nghiệp của toàn dân tộc theo tư tưởng của Bác Hồ. 

Trong đà phát triển của đất nước, chúng ta vui mừng tự hào với những thành tựu của sự nghiệp đổi mới toàn diện; nhưng phải thấy đất nước ta vẫn còn nghèo, còn nhiều yếu kém, nhiều hạn chế, nhiều tệ nạn bức xúc mà các nghị quyết của Đảng và báo chí đã nêu, nên tuyệt đối không được chủ quan, tự mãn, dừng lại. 

Đặc biệt là đất nước càng phát triển, đời sống càng đi lên, đảng viên, cán bộ càng gương mẫu, phải nhớ là làm đúng theo lời Bác “dĩ công vi thượng”, chống chủ nghĩa cá nhân, chống bè phái, hẹp hòi chống quan liêu tham nhũng, phải tăng cường đoàn kết, thực hiện dân chủ, tăng cường sâu sát, gần dân, hết lòng vì dân. 

Những điều đó chính là cốt lõi của tư tưởng đạo đức Bác Hồ. Vừa rồi trong những bức xúc của đất nước, tôi quan tâm đến vấn đề giáo dục đào tạo, quốc sách hàng đầu của sự nghiệp phát triển. 

Tôi đã suy nghĩ, phân tích, viết thư kiến nghị gửi lên Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ mong góp ý kiến vào một vấn đề lớn của đất nước, của dân tộc hiện nay. Vừa qua, các đồng chí lãnh đạo đến thăm tôi đều cho biết là đã nhận được và thư nêu ý kiến sâu sắc, đang gửi đến các cơ quan nghiên cứu. 

Hiện nay còn có một vấn đề lớn nữa liên quan đến cuộc sống lâu dài của người dân Việt Nam. Đó là vấn đề môi trường. Môi trường của chúng ta ngày càng xấu đi, càng bị ô nhiễm nghiêm trọng. 

Nhất là vấn đề chất thải, rác, bụi, ô nhiễm không khí và nguồn nước ở các thành phố lớn. Đặc biệt nạn phá rừng đang làm ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái của cả nước. Trước hết tôi sẽ góp ý kiến với Hà Nội và sau đó góp ý kiến với cả nước về vấn đề này. 

Chúng ta đã góp sức, góp tài trí cho sự nghiệp giải phóng và bảo vệ đất nước, nay còn sức, còn tài trí, phải đóng góp cho sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như mong muốn của Bác Hồ. 

Xin chúc các đồng chí khỏe, hẹn năm sau gặp lại vẫn đông đủ, vui vẻ. Xin gửi lời chúc các chị và các cháu mạnh khỏe, hạnh phúc. Nhớ quan tâm động viên các cháu rèn luyện, học tập để trở thành nhân tài đóng góp cho sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu. 

Đại tướng giơ tay chào mọi người. Những lời dạy của Đại tướng thật thấm thía, một phút lặng đi, sau đó nở òa thành tiếng vỗ tay. 

Đại tướng và chị Hà đã chia tay với anh chị em nhưng không khí trong phòng vẫn dạt dào... Tất cả cất lên những bài hát kháng chiến để nhớ đến những ngày chiến đấu hào hùng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bài “Quảng Bình quê ta ơi”, nhớ đến mảnh đất địa linh nhân kiệt đã sinh ra cho đất nước người con trung hiếu suốt đời vì nước, vì dân.

KỈ NIỆM VỀ CHA TÔI

"Không biết ở cơ quan như thế nào, còn khi về nhà lúc nào cũng thấy ba cười, thanh thản và chiều chuộng mọi người ... Ông lúc nào cũng cười, tự tin và lạc quan hết mức". Đó là hình ảnh của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh trong mắt cô Nguyễn Thanh Hà - con gái Đại tướng. 

Năm nay, tôi được Nhà nước cho về hưu, các em tôi bảo: “Thôi nay chị đã nghỉ rồi, giao nhiệm vụ phải viết một bài về ba mẹ, không lẽ chúng mình cứ im lặng mãi?”. Tôi nhận lời với các em, nhưng khi ngồi vào bàn mới thấy viết về một con người như vậy thật khó khăn, không phải vì ông là một đại tướng, mà vì trong tôi, ba đã trở thành một ký ức thiêng liêng. 

Ngày giải phóng thủ đô, gia đình tôi về Hà Nội, ở nhà số 1 đường Thanh Niên, một ngôi nhà cổ kính ven hồ Trúc Bạch. Vài năm sau chuyển về nhà 34 Lý Nam Đế, một ngôi biệt thự rộng rãi và có vườn hoa rất đẹp. Sau khi gia đình tôi chuyển về đó ít hôm, Bác Hồ đến thăm. Khi ra về Bác bảo: Nhà đẹp, gọn gàng như vậy là tốt, nhưng nên trồng thêm rau, cây ăn quả trong vườn. Thế là ngày hôm sau, cả nhà cùng các chú cảnh vệ xoay trần ra trồng rau, cây ăn quả... Đặc biệt ba tìm không biết ở đâu mấy cây dừa miền Nam trồng ở trước và sau nhà. 

Đến năm 1967, khi ông chuẩn bị vào Nam lần thứ 2 thì bói lứa quả đầu, ba cho hái mấy quả, quả đầu tiên đưa lên cho mệ (bà nội), còn lại bổ lấy nước mấy cha con uống. Uống xong, ông khà một tiếng thật sảng khoái rồi nói: “Chà, nước dừa ngon quá, uống được một hớp thế này chết cũng sướng”. Vài hôm sau thì ba mất. Căn nhà 34 Lý Nam Đế gia đình tôi ở đến năm 1989 thì trả lại cho Tổng cục Chính trị, làm trụ sở Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Nay mỗi lần đi qua đó, không lần nào chúng tôi không nhớ lại tuổi thơ và những năm tháng tươi đẹp, khi xung quanh còn ba, còn mẹ, còn một đại gia đình, và cả 4 chị em tôi đều lớn lên ở đó. 

Ngày trước, ai đi qua cửa nhà chúng tôi cũng thấy một bà già lắm rồi, tóc bạc trắng như cước, khi nào cũng đứng ở trên lan can gác 2 nhìn xuống đường - đó là bà nội tôi, ở nhà gọi là mệ. Mệ chính là người nuôi dạy và bảo ban ba đi làm cách mạng, bàn tay phải của mệ chỉ còn 4 ngón, do lấy tay bịt nòng súng của quan ba Pháp không cho nó chĩa vào mặt, bị nó bắn cụt mất ngón tay... Khi ba từ Việt Bắc về Hà Nội đưa mệ từ Thừa Thiên ra ở cùng. 

Có lần ba cùng mấy người bạn đồng hương ngồi nói chuyện quê hương, cứ mong ước được về Nam đánh giặc giải phóng quê hương, mệ đi qua nghe được, hứ một tiếng rồi nói: “Mấy thằng bay toàn đánh giặc mồm, có giỏi thì vô Nam mà đánh, ngồi đây mà nói chuyện đánh đấm làm chi rứa?”. Sau này được Bộ Chính trị và Bác Hồ cử vào Nam đánh Mỹ, có lẽ ba không bao giờ quên câu nói đó của mệ, và đến đầu năm 1967, khi ba từ miền Nam ra, gặp mệ đầu tiên, mẹ chỉ cười rồi nói: “Mi giỏi!”. 

Trong gia đình, cả 4 chị em tôi đều kính trọng và nghe lời mẹ - hình như cả ba cũng vậy. Về chuyện của ba và mẹ đã có nhiều người kể - đó thực sự là một tình yêu lớn và hết mực thủy chung. Có một câu chuyện thật cảm động chúng tôi được nghe ba mẹ kể lại: Năm 1947, Bình Trị Thiên vỡ mặt trận, mọi người mạnh ai nấy chạy, thương vong hy sinh rất nhiều. Mẹ nghe người ta nói ba bị Pháp bắn chết rồi ném xác xuống sông, ba thì nghe mẹ qua sông bị pháo bắn chết trôi mất xác rồi. 

Ở Thừa Thiên có một tập tục, ai chết đuối không tìm được xác thì người nhà phải chạy dọc bờ sông, gọi tên người đó thì xác mới nổi lên được. Thế là ba mẹ mỗi người một bên bờ sông Hương, vừa chạy vừa gào tên nhau, “Thanh ơi”, “Cúc ơi” - vấp ngã đứng lên chạy tiếp, gào tiếp... Thế rồi hai vợ chồng nghe tiếng gọi tên, rồi nhìn thấy nhau, mừng quá lội ào ra ôm nhau giữa sông. 

Ba khi nào cũng yêu thương và nghe lời mẹ trong chuyện gia đình. Mẹ rất nghiêm khắc và ít khi bộc lộ tình cảm, nên chúng tôi không hiểu được tình yêu mẹ dành cho ba như thế nào. Chỉ sau khi ba mất, và đến cuối đời mẹ hơn 10 năm sau chúng tôi mới hiểu, mười mấy năm đó mẹ sống trong nỗi đau thầm lặng vì nỗi tiếc nhớ ba không gì bù đắp nổi, không quên đi được dù 1 phút 1 giây. Cuộc sống của mẹ những năm sau đó chỉ để nuôi dạy các con. 

Nói về ba và gia đình, không thể không kể đến một thành phần rất quan trọng đó là các chú, các cô. Họ là những người cùng sống, làm việc với ba mẹ, nhưng lâu quá, gần gũi quá nên đã trở thành những thành viên trong gia đình, như những người ruột thịt. Hình như ở miền đất nào, chiến trường nào ba cũng tìm thấy những người thân thiết như vậy, rồi tất cả những người đó dần dần tụ họp lại với nhau, gắn kết với nhau xung quanh ba và mẹ thành một đại gia đình đoàn kết, quý mến nhau. Như chú Chắt bảo vệ, cô Hiền ở chiến trường Trị Thiên, đến cô Bảo, chú Chương, chú Duy, cô Mỹ thư ký, cô Toản bác sĩ, cô Mộ La phiên dịch, chú Cổn chăn ngựa, chú Thái nấu cơm, cô Mười bế em... ở Việt Bắc, chú Mai Quang Ca, chú Vũ thư ký, bác Diệp nấu cơm, chú Nghĩa lái xe, cô Phúc phục vụ... ở Hà Nội, chú Thuận bác sĩ, anh Thái bảo vệ ở chiến trường miền Nam... Ba mẹ đã sống với những người đồng chí thân cận đó, và cả gia đình họ như với những người anh em ruột thịt. 

Một điều hạnh phúc và may mắn nhất của gia đình tôi là được Bác Hồ yêu thương và thỉnh thoảng được gặp Bác. Bác đã đến nhà tôi mấy lần, và cứ mỗi lần như vậy cả gia đình tôi vui như ngày hội, đến cả tháng sau vẫn còn náo nức. Cũng như đối với tất cả mọi người dân Việt Nam khác, Bác là thần tượng của ba, nhưng có một cái gì đó rất thân thiết, gần gũi và cảm thông. Hồi đó ba hay vào báo cáo công việc với Bác, mỗi khi ra về ông thản nhiên đút bao thuốc hút dở của Bác vào túi, và Bác coi như không để ý - thế là hôm đó các chú ở nhà lại được một bữa vui, ba về chia thuốc cho mọi người hút, ngồi say sưa kể chuyện về Bác - lãnh tụ tối cao của dân tộc nhưng thân thiết, gần gũi và bao dung làm sao. 

Khi ba từ miền Nam ra, cả nhà được báo trước đứng chờ ba ở cửa - mệ, mẹ, mấy chị em và tất cả mọi người. Chờ mãi không thấy, sau lâu lắm mới thấy ông về, ba bảo: “Ba phải vào thăm và báo cáo tình hình với Bác trước hết, rồi mới về nhà được”. Mấy tháng sau, vào hôm trước khi ông lên đường vào Nam lần thứ 2, cả nhà chờ cơm rất muộn, hỏi ra mới biết, ba được Bác gọi vào ăn cơm chia tay, cơm xong phải đi gặp một vài người bàn nốt công việc. Sau đó không hiểu sao, ông lại quay vào Phủ Chủ tịch, ngồi dưới nhà sàn, lưu luyến mãi không muốn về. Ông nói với chú Vũ Kỳ: “Tôi đi lần này chắc sẽ hoàn thành việc Bác giao, chỉ băn khoăn một điều là sức khỏe của Bác...”. Không ngờ sáng sớm hôm sau ba mất, không thực hiện được ước mơ của mình là đưa Bác vào Nam thăm đồng bào chiến sĩ... 

Sau khi ba mất, hằng năm gia đình tôi đều được Bác gọi vào, cho ăn cơm, hỏi thăm tình hình sức khỏe của mệ, công việc của mẹ, học hành của trẻ con... - khi ra về Bác cho mỗi đứa mấy cái kẹo, riêng thằng Vịnh, em tôi thì phải hôn hai má Bác, kêu thật to mới được về... Những kỷ niệm ấy, suốt đời chúng tôi không quên được và biết rằng chúng tôi thật may mắn và hạnh phúc... 

Cùng với ba tôi, quây quần xung quanh Bác thời đó là các bác, các chú trong Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương. Chúng tôi có may mắn là cũng được biết, được gặp họ nhiều lần. Sau khi ba tôi mất, mỗi năm đến ngày giỗ ba, các bác các chú đều đến nhà tôi, thăm hỏi gia đình rất thân tình, giản dị... Ấn tượng về họ rất mạnh, vì họ đều là những con người kiệt xuất, tài giỏi nhưng rất ân tình. 

Không biết ở cơ quan như thế nào, còn khi về nhà lúc nào cũng thấy ba cười, thanh thản và chiều chuộng mọi người. Sau này lớn lên chúng tôi mới biết, khi còn sống, ba cũng có những thời điểm rất khó khăn, cũng rất nhiều lần ba phải dằn vặt, trăn trở suy nghĩ trước khi đưa ra những quyết định rất khó khăn cho chính bản thân mình, hay đóng góp cho Đảng và quân đội những ý kiến có ý nghĩa sống còn cho sự nghiệp chung của Đảng và dân tộc... Tuy vậy, không bao giờ chúng tôi thấy điều đó thể hiện trong cuộc sống gia đình của ba. Ông lúc nào cũng cười, tự tin và lạc quan hết mức. 

Ba là đại tướng, chúng tôi khi đó chưa hiểu gì về sự nghiệp và tài chỉ huy quân sự của ông. Chỉ có một điều mà ai cũng biết: quân đội là sự nghiệp, là lẽ sống, là máu thịt, là niềm say mê và là tình yêu của ông. Mẹ là bộ đội, 3 chị em gái tôi đều vào bộ đội khi vừa tốt nghiệp lớp 10. Còn thằng Vịnh, từ khi 4 tuổi ba đã thêu trên ve áo nó 2 miếng phù điêu đỏ không sao không gạch - ba gọi chức của nó là “binh bét”, và luôn bảo rằng khi lớn lên con đường của nó là đi bộ đội. Có hôm ngồi chợt nhớ anh Trường Sơn (anh trai đầu của chúng tôi, đã mất từ năm 47), ba chặc lưỡi nói: “Chà, thằng Sơn bây giờ còn sống thì đã hai mươi tuổi, đã vào Nam đánh Mỹ được rồi, không khéo làm đến hạ sĩ, cán bộ trung đội chứ chẳng chơi...”. Sau này khi vào Nam đánh Mỹ, ba đã lấy bút danh “Hạ sĩ Trường Sơn” trong các bài bình luận nổi tiếng về cuộc chiến tranh chống Mỹ, giải phóng dân tộc. 

Ngoài công việc, ba rất thích về nông thôn. Vì ông cũng vừa bỏ được phận cố nông hơn chục năm đó thôi, nên mỗi khi đi như vậy, chúng tôi thấy ông sảng khoái, thanh thản vô cùng - như con cá được xuống nước vậy. Ông có biệt tài gợi chuyện những người nông dân, hình như họ không tin được ông là một cán bộ cao cấp, mặc dù lúc ấy những người đi xe Volga về nông thôn ít lắm. Họ kể chuyện cho ông nghe, phàn nàn với ông về những điều chưa được, cười nói với ông khi kể về chuyện làng xóm, chuyện hợp tác xã, chuyện gia đình... 

Tôi còn nhớ một lần vào năm 1961, được theo ông về thăm một hợp tác xã nông nghiệp ở Quảng Bình, ông không làm việc với Ban quản trị, mà tìm đến một gia đình hai vợ chồng vừa thoát cảnh cố nông. Bước vào nhà ông hỏi: “Thế nào, trong gia đình ta có cái gì nào? Tài sản có gì cho xem cái chơi nào”. Người chồng chẳng biết ông là ai, trả lời thủng thẳng: “Hai vợ chồng, 1 cái nhà, 1 nồi một, 1 nồi hai, 1 mâm thau chén bát, 1 cái giường, 1 cái phản. Ngoài chuồng có 1 gà mẹ 10 con, lợn thì có chuồng rồi nhưng chờ hợp tác xã đẻ sẽ bán cho 2 con”. Ông hỏi: “Nhà có 2 vợ chồng, tại làm sao có 1 giường 1 phản, thế tối ngủ chung hay ngủ riêng?”. “Báo cáo ngủ riêng, vì có mang 8 tháng rồi”. Ông cười rất tươi, bảo: “À thế thì được, cầm lọ dầu bao giờ vợ đẻ mà dùng. Thế cuộc sống thế nào, đối với Đảng có đề nghị gì không?”. Chị vợ tranh lời: “Úi chào, đề nghị gì nữa, đến chết thôi chừ cũng tin Đảng hung rồi. 5 năm nữa thì sướng hung rồi”. Ông hỏi chị vợ: “Thế hai vợ chồng hạnh phúc chứ?”. Hai vợ chồng nhìn nhau tỉm tỉm cười... Họ nói chuyện y hệt những người nông dân với nhau vậy. Chưa bao giờ tôi thấy ông vui như lần ấy, và tôi nhìn thấy trong tận cùng của ba vẫn là một người nông dân, một anh cố nông được Đảng đổi đời, cũng như vợ chồng anh cố nông kia vậy. 

Là một người cha nhân hậu và hết mực thương yêu con cái, nhưng ba là người rất nghiêm khắc. Những lá thư gửi từ miền Nam ra cho chúng tôi, không bao giờ thấy ông chúc may mắn, thành đạt... mà chỉ dặn là khiêm tốn và chăm lao động. Ba hiền lắm, từ nhỏ chưa bao giờ ba nặng lời, hoặc đánh mắng chúng tôi, nếu có gì sai ba nghiêm khắc bảo ban, nhưng cũng hay xuê xoa để mẹ không mắng mấy chị em. Nhưng có những điều ba rất “kỵ”, và không bao giờ bỏ qua. 

Tí đến tận bây giờ vẫn nhớ lần bị ba bắt quỳ giữa sân vì nói hỗn với chú bảo vệ. Vịnh lúc đó còn bé tí, nhưng có lần bị xách tai đau điếng, vì tranh nhau mấy cái kẹo với thằng Phúc con chú Chắt bảo vệ. Đấy, ba dạy chúng tôi như thế: mọi sai lầm khuyết điểm đều có thể tha thứ, và đều có thể sửa chữa được - nhưng có những điều không thể bỏ qua, đó là hỗn láo với mọi người xung quanh, thứ đến là giả dối, lười biếng, ích kỷ và đua đòi. Bây giờ khi nhớ lại những chuyện nhỏ như vậy, chúng tôi mới hiểu tình thương của ba đối với chúng tôi như thế nào... 

40 năm sau khi ba mất, tình cảm không còn đầy đủ như khi ba mẹ còn sống, và cuộc sống cũng có khi này khi khác - nhưng chúng tôi luôn thanh thản, tự hào và hài lòng với cuộc sống của mình. Còn đòi hỏi gì thêm nữa, khi mình được sinh ra và lớn lên trong một gia đình như vậy, có một người cha như vậy!

THƯỢNG TƯỚNG HOÀNG MINH THẢO: “Ở NHÀ, TÔI NHƯ ANH LÍNH HỌC VIỆC”

Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thần thánh của dân tộc thành công không chỉ nhờ tài chỉ huy quân sự của các vị tướng lĩnh mà còn có sự góp công, góp sức của “hậu phương”, của những người mẹ, người vợ. Dưới đây là câu chuyện cảm động về cuộc sống phía sau cuộc chiến của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo qua lời kể của phu nhân 

Phu nhân Thượng tướng Hoàng Minh Thảo: "Chồng tôi không biết chiều vợ" 
* Kể từ khi cưới nhau, thời gian ông bà sống bên nhau thực sự được bao lâu?

- Chúng tôi tổ chức lễ cưới vào năm 1949, khi đang tản cư ở Nam Định, đến nay cũng gần 60 năm. Tuy nhiên, thời gian sống gần nhau không nhiều, bởi ông ấy là Tư lệnh Quân khu 4 nên suốt ngày ở đơn vị chỉ huy. Cưới hôm trước, sáng hôm sau ông ấy lên đường trở lại khu 4, khi ấy tôi mới 19 tuổi. Đánh Điện Biên Phủ xong, chúng tôi có thời gian ở với nhau nhiều nhất khoảng 5 ngày, khi ông ấy làm Hiệu trưởng Học viện Lục quân. Năm 1965, ông ấy nhận nhiệm vụ của Trung ương vào chiến trường Tây Nguyên và ở riết trong ấy đến khi giải phóng. Vợ chồng chẳng mấy khi gặp nhau. Thi thoảng, ông ấy ra Bắc nhận mệnh lệnh hay họp hành thì mới được ở gần nhau khoản nửa tháng. 

* Thời gian đằng đẵng nuôi con một mình là thời gian đầy nước mắt?

- Hầu như tôi chưa bao giờ khóc, dù đó là những lúc cơ cực nhất không có chồng bên cạnh đỡ đần, một nách ba con trai đang tuổi ăn, tuổi lớn. Ngay từ ngày lấy ông ấy, tôi đã xác định việc gia đình chỉ có mình tôi lo. Vì thế, nếu khóc lóc thì càng làm rối việc quân của ông ấy. 

Tôi và ông ấy đến với nhau do chú tôi mai mối, tôi chỉ biết ông ấy là lính cụ Hồ ở trong Khu 4, chứ có biết là Tư lệnh gì gì đâu. Khi ấy, tôi có cảm tình với người thanh niên có đôi mắt sáng quắc, phong thái uy dũng nhưng lại hiền khô. Khi chuẩn bi cưới, tôi nghe bố tôi nói ông ấy làm cái gì to lắm, sau tôi mới biết là Tư lệnh Quân khu 4, bởi khi đó, ông ấy còn quá trẻ, mới có 28 tuổi. 

* Trong suốt thời kỳ chiến tranh ấy, đâu là thời kỳ nào là hạnh phúc nhất của ông bà?

- Vẫn là thời kỳ ông ấy là Hiệu trưởng học viện Lục Quân, vì chúng tôi được bố trí ở ngay trong khu tập thể gần đấy nên ông ấy cứ sáng đi tối về, trừ những ngày họp hành công tác.

* Làm vợ một vị tướng hẳn là “sướng” hơn vợ một người lính?

- Tôi chẳng thấy sướng hơn mọi người. Vì tôi vẫn ăn cơm tập thể của đơn vị, vẫn tăng gia bằng việc nuôi lợn, nuôi thỏ mang ra chợ Bưởi bán, cũng xếp hàng đi mua hàng hóa, thực phẩm như mọi người. 

* Bà còn nhớ thời kỳ vất vả nhất?

- Có lẽ là thời kỳ chồng tôi đi Tây Nguyên. Bốn mẹ con nuôi nhau, hết chạy lên Tam Đảo (Vĩnh Phúc) lại về Hà Nội sau mỗi lần giặc Mỹ ném bom Hà Nội. Có lần đang sơ tán trên Tam Đảo, nhận được điện của Tổng cục Chính trị gọi về ngay Hà Nội, lúc ấy tôi nghĩ chắc anh Thảo có chuyện gì chằng lành đây. Đấy là những lúc yếu lòng, nhưng vấn không khóc. Nghĩ lại hình ảnh, mẹ thì yếu con mới lên tám tuổi khiêng thùng nước đi chênh vênh leo bậc thềm mà thương con lắm. Nhưng tất cả phải cố gắng thôi, vì người ở ngoài chiến trường còn chẳng biết sống chết ra sao nữa là... 

* Xa nhau, ông bà thường liên lạc bằng thư từ?

- Rất ít, bởi việc liên lạc không dễ như bây giờ. Khi nào có người vào, người ra thì mới gửi được. Mà viết thư hồi ấy chỉ động viên nhau thôi. Vợ viết cho chồng nào là “anh yên tâm đánh giặc, mọi việc ở nhà đã có em chu toàn, con cái ngoan ngoãn...”. Chồng viết cho vợ cũng là “anh vẫn khỏe, ta càng thắng lớn, thống nhất đất nước, anh sẽ về..”. Nói thật, chúng tôi chẳng có những lời lẽ nhớ thương như bây giờ. Bởi hậu phương có vững, tiền tuyến mới chung lòng đánh thắng giặc được. 

* Bà còn nhớ kỷ niệm đẹp nào dành riêng cho hai người?

- Ấy là khi ông ấy đến nhà tôi lần đầu. Chiều hôm ấy, ông ấy mạnh dạn rủ tôi đi dạo xung quanh bờ ao trước nhà. Chúng tôi đều kiệm lời, nhưng cảm nhận được hạnh phúc và linh cảm được sự gắn bó với nhau. Bởi đây cũng là mối tình đầu của cả hai người. Sau này có vài lần chúng tôi đi nghỉ hè bên nhau, nhưng thời khắc lần đầu gặp mặt ấy vẫn đọng lại trong tôi thật hạnh phúc mỗi khi nghĩ đến. 

* Những ngày ở bên nhau có khi nào ông nấu cơm cho bà không?

- Cái này thì chưa bao giờ nhưng có lẽ ông ấy là người dễ tính nhất trong việc ăn uống. Ông ấy suốt ngày viết sách, tổng kết chiến tranh, nghiên cứu các học thuyết quân sự... 

* Có bao giờ hai người to tiếng với nhau?

- Điều này tuyệt đối không. Cưới nhau gần 60 năm nhưng chúng tôi chưa bao giờ cãi nhau hay to tiếng mặc dù nhiều lúc tôi cũng lâm vào hoàn cảnh trớ trêu lắm chứ. Ông ấy hiền nhưng chẳng biết chiều vợ như nhiều người khác. Tác phong nhà binh mà. Tuy vậy, chẳng thấy ông ấy bắt bẻ vợ con điều gì. 

* Bà theo dõi bước tiến của chồng mình như thế nào trong những ngày tháng Ba Tây Nguyên rực lửa?

- Tôi và con cứ nghe đài rồi nhìn lên bản đồ để xác định chồng đang ở đâu. Đài đưa tin đã thắng lợi ở Buôn Mê Thuột, tôi lại lấy bút chì chấm đổ ở đấy để theo dõi những chiến công của quân giải phóng và chồng mình. Nhiều đêm nằm nghe bản tin cuối ngày của Đài tiếng nói Việt Nam, đài báo tin đã thắng ở Nha Trang, tôi bật dậy chấm đỏ vào đó rồi rưng rưng nước mắt khi ngày đoàn tụ đã đến gần, đất nước sẽ thống nhất, gia đình sẽ được sum vầy bên nhau. Thói quen này theo tôi đến tận những ngày chiến dịch Hồ Chí Minh thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam. 

* Trong cuộc sống gia đình, bà là người có đề ra một nguyên tắc nào không?

- Nguyên tắc lớn nhất là tin tưởng và chung thủy với nhau. Đó cũng là niềm tin lớn nhất khi hai người ở hai nơi. 

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo: Việc gia đình đều do vợ tôi quyết 

* Cho đến giờ, nếu tự mình đánh giá lại, ông thấy mình có "khuyết điểm" gì với vợ, thưa Thượng tướng?

- "Khuyết điểm" lớn nhất của tôi với vợ con là "dành" công việc gia đình cho vợ "quyết". Từ xây nhà ra sao, sắp xếp đồ đạc trong nhà thế nào cũng một tay bà ấy làm hết. Chỉ huy chiến đấu thì tôi làm được, nhưng quản lý việc nhà thì tôi chỉ như anh lính học việc. 

* Gần 60 năm qua, vợ ông luôn là hậu phương vững chắc cho ông nơi hòn tên mũi đạn. Có bất chợt khi nào đó trên chiến trường, trước mũi tên hoàn đạn, ông sợ vợ mình thay đổi?

- Đấy là điều tôi thực sự yên tâm nhất ở vợ tôi. Ngay từ khi mới gặp nhau, tôi đã cảm nhanạ được sự thủy chung ở vợ tôi. Tôi chưa băn khoăn bất cứ điều gì về vợ tôi cả. 

* Ông viết sách rất nhiều. Có quyển nào ông viết vợ mình?

- Chủ yếu là tôi viết sách về lý luận quan sự được tổng kết qua thực tiễn đấu tranh dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc, cũng như chính bản thân mình qua hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại là chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Vì thế, sách của tôi toàn là về cách đánh, chỉ huy chiến lược, thế và thời trong chiến tranh là chủ yếu. Duy nhất tôi chỉ nhắc đến gia đình trong sách đó là trong "Hồi kí chiến đấu ở Tây Nguyên", xuất bản năm 2005. Đó là năm 1974 khi tôi ra Bắc họp với Trung ương về kế hoạch giải phóng miền Nam năm 1975. Thế nhưng họp xong tôi phải đi ngay vào Nam chuẩn bị cho chiến dịch mở màn giải phóng hoàn toàn miền Nam là chiến dịch Buôn Mê ThuộtKhi đi thì đã áp tết, chỉ còn 5 ngày là tới Tết Nguyên đánnhưng vẫn phải lên đường. Trong lòng trào lên cảm giác bâng khuâng khôn tả vì bao nhiêu cái Tết không được sum vầy bên vợ con, nay cận ngày mà vẫn ra đi vì nhiệm vụ lớn của dân tộc. 

* Bao nhiêu năm ở chiến trường Tây Nguyên, trong những "khoảng lặng" của trận đánh, có bao giờ ông nhớ đến bà da diết?

- Thực sự với mỗi người lính chúng tôi thời bấy giờ, nhiệm vụ chung được đặt trên tình cảm riêng. Những mùa mưa dầm dề chuẩn bịcho các trận đánh vào mùa khô, chúng tôi cũng không mấy khi dám nghĩ về gia đình vì còn bao nhiêu thứ phải lo nghĩ để giành thắng lợi nữa chứ.
Viết thư cũng phải có dịp, không phải lúc nào cũng có điều kiện, vì phục thuộc vào đường xá, thời tiết, rồi nhiều khó khăn không thể lường trước được của cuộc chiến tranh kéo dài với người được xác định là "đi B dài" như chúng tôi.

TRUNG TƯỚNG - ANH HÙNG PHI CÔNG NGUYỄN VĂN CỐC: "NẤP" SAU CÁNH GÀ XEM VỢ HÁT

Trung t­ướng Nguyễn Văn Cốc, nguyên là một phi công bắn rơi 9 máy bay Mĩ, đ­ược tặng thư­ởng 9 huy hiệu Bác Hồ. Những chiến công của ông đã làm rạng danh Không quân Việt Nam. Những ng­ười lính Phòng không – Không quân thư­ờng nghe nói đến cái sự “nghi ngơ” đãng trí rất đáng yêu của ông. Và sự “nghi ngơ” trời phú ấy nhiều khi đã đem đến những tình huống thật hài h­ước và không kém phần thú vị, đặc biệt là trong tình yêu những ngày đầu tiên. Tôi đã đ­ược nghe chính bà Đới Thu H­ương, phu nhân của Anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc kể lại những mẩu chuyện ngộ nghĩnh của cái thuở ban đầu.. 

“QUÊ ĐỒNG CHÍ Ở ĐÂU?”

Năm 1966, Đoàn văn công Quân chủng Phòng không – Không quân về biểu diễn phục vụ tại Đoàn Không quân Sao Đỏ – đơn vị đầu tiên của Không quân Việt Nam. Nguyễn Văn Cốc đang là phi công chiến đấu tại đây. Theo phân công thì mỗi đại đội chỉ đ­ược xem một đêm. Trong buổi đại đội mình đư­ợc đi xem, Nguyễn Văn Cốc đã “phát hiện” ra ca sĩ Thu H­ương và cứ ngồi sát cánh gà xem cô hát. Đến hôm sau, dù đã hết l­ượt đại đội của ông đư­ợc xem như­ng vẫn thấy Nguyễn Văn Cốc “mò” ra ngồi sát cánh gà. Khi Thu Hư­ơng hết phần biểu diễn, ông lân la làm quen. “Đồng chí H­ương ơi, thế quê đồng chí ở đâu?” “Quê tôi ở Thanh Hoá đồng chí ạ” – Cô ca sĩ trả lời rất xã giao. Một lúc sau lại thấy ông hỏi: “Đồng chí H­ương ơi, quê đồng chí ở đâu?” “Ơ, tôi vừa nói với đồng chí rồi mà, quê tôi ở Thanh Hoá...” Chàng phi công trẻ đứng ngẩn ra, nh­ưng một lát nữa Nguyễn Văn Cốc vẫn lặp lại câu hỏi này khiến cô văn công trẻ không khỏi... ngỡ ngàng. Ông đã làm quen với ngư­ời vợ của mình như­ thế.

Sau đó, thi thoảng có dịp về Quân chủng là ông lại “tụt tạt” vào thăm bà ở khu nhà dành cho diễn viên Đoàn văn công. Bà ở tập thể nên tất cả khách khứa đến chơi đều chỉ ngồi trên gi­ờng. Nguyễn Văn Cốc cũng không là ngoại lệ. Và tất cả những buổi viếng thăm đó, thời gian đều đ­ược ông dùng để... cấu vào chiếc chiếu trải gi­ường. Kết quả là sau mấy lần ông đến chơi, chiếc chiếu bị rách cả một mảng mà chuyện tình cảm thì chư­a có tiến triển gì. Đến năm 1969 ông và bà cùng đ­ược đi dự Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua của Quân chủng Phòng không – Không quân. Ông là chiến sĩ Quyết thắng có thành tích lẫy lừng bắn rơi 9 máy bay Mỹ. Bà là chiến sĩ thi đua tiêu biểu, 1 trong 5 đại biểu nữ. Việc qua lại giữa hai ng­ười vẫn chỉ là thân quen chứ chư­a có gì xa hơn. Vì bà ngày đó cũng có rất nhiều “anh tài” theo đuổi, cả anh hùng phi công, anh hùng xe tăng và nhiều nhân vật tiếng tăm khác. Còn ông, tuy cũng là dũng sĩ diệt máy bay, đ­ược Bác Hồ khen ngợi và là thần t­ượng của biết bao cô gái đẹp như­ng với bà vẫn ch­a thật sự ấn t­ượng. Nh­ưng như­ là duyên phận, 8 năm sau kể từ tối xem văn công đầu tiên, ông và bà đã chính thức làm lễ cư­ới sau những năm tháng qua lại, với nhiều thử thách từ chính bản thân mỗi ngư­ời. 

Năm 1971, tr­ước khi đi Liên Xô học tiếp, ông có nhờ đồng chí Vũ Thành, ở Ban cán bộ Quân chủng mai mối với bà. Nhận đ­ược lời mai, bà vẫn chư­a trả lời dứt khoát mà chỉ giữ quan hệ thân mật. Bà khẳng định là ch­ưa có ng­ười yêu, còn có yêu ông hay không thì... không nói. Thời gian ông đang học tại Liên Xô, hai ngư­ời vẫn giữ liên lạc. Một sự kiện đã làm thay đổi “cục diện tình tr­ường” trong bà. Ấy là năm 1972, khi Điện ảnh Quân đội xây dựng và công chiếu bộ phim “Bay lên từ mặt đất” làm về anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc (năm 1969 ông đ­ược phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND). Khi bộ phim đ­ược chiếu tại Trư­ờng dự khoá bay, gần nơi Đoàn Văn công ở, bà có đi xem. Phim quá hay và cảm động, khắc hoạ đầy đủ chân dung ng­ười anh hùng ra đi từ đồng quê với hoàn cảnh đầy khó khăn vất vả, bố lại mất từ khi mới 5 tuổi. Hình ảnh mẹ ông đến đơn vị thăm con, và ông lái máy bay cho mẹ xem vô cùng ấn tư­ợng. Bà thực sự xúc động và tự nhiên thấy... yêu th­ương ông biết bao. 

Năm 1974, đang học ở Liên Xô ông đư­ợc về phép, tới nhà bà chơi. Nhà bà lúc đó ở số 10 – phố Thuỵ Khuê (Hà Nội). Mẹ bà bảo con gái: “Tao chư­a thấy ai nhiều mối như­ mày, như­ng trong tất cả những “thằng” đến đây tao thấy thằng Cốc là đ­ược nhất, mày lấy nó đi.” Và bà đã đồng ý lời cầu hôn của ông. Tư­ởng rằng từ từ, hai năm sau ông học xong về nư­ớc mới tổ chức cư­ới, ai dè “đ­ược lời như­ cởi tấm lòng”, ông tức tốc lên báo cáo Bộ t­ư lệnh Quân chủng và “cư­ới liền tay” trong sự ngỡ ngàng của rất nhiều anh tài xung quanh bà và sự ngẩn ngơ của biết bao cô gái đẹp coi ông là thần t­ượng. 

ĐĂNG KÝ KẾT HÔN Ở... ĐỒN CÔNG AN
Xoay quanh đám c­ưới của ông bà cũng có nhiều chuyện khôi hài. Hai ngư­ời rủ nhau đi đăng ký kết hôn. Đúng hẹn ông đến, và ông dẫn bà tới... đồn công an Ba Đình để đăng ký. Cả hai xúng xính trong quân phục mới. Bà sung sư­ớng nắm tay ông bư­ớc... vào đồn. Đến nơi ông bà thấy rất đông ng­ười đứng ngồi ở đó cùng với quanh gánh, xe cộ. Hai ng­ười vào ghế ngồi chờ. Ông chỉ vào mấy bà có vẻ quê mùa, nhiều tuổi bảo, quái sao mấy bà kia già thế mới đi đăng ký kết hôn nhỉ. Bà cũng bảo, ừ nhỉ, sao già thế mới cư­ới nhỉ. Chờ mãi không thấy gọi tên, ông lại bảo, hôm nay sao đông thế, mãi không đến l­ợt. Mãi đến 11 giờ tr­ưa, khi những ông bà già cùng với thúng mủng, xe cộ cũng đã xong việc, vẫn không thấy gọi đến tên mình. Lúc đó có một đồng chí công an đến hỏi, xin lỗi các đồng chí đến đây có việc gì ạ? Ông bảo: Chúng tôi đến để... đăng ký kết hôn. Anh công an và mọi ngư­ời ở đó mới cư­ời ầm lên trư­ớc con mắt ngơ ngác của đôi uyên ­ương. Anh bảo, đăng ký kết hôn thì phải đến Ủy ban nhân dân Ph­ường chứ đồn công an không làm việc này, và chỉ dẫn cho ông cặn kẽ. Lúc đó hai ng­ười mới ớ ra, thì ra cả buổi sáng họ toàn ngồi với mấy ông bà buôn lậu bị bắt vào đồn công an và cứ kiên nhẫn chờ đến l­ượt... giải quyết. 

Thế nh­ưng sau đó ông đư­ợc vào đồn công an thật. Trư­ớc hôm cư­ới, ông có về đơn vị bên Nội Bài lấy tiêu chuẩn bánh kẹo đơn vị cho để phục vụ lễ cư­ới. Ông đi một chiếc xe máy mang từ Liên Xô về. Khi từ Nội Bài trở lại Quân chủng, đến Cầu Đuống, công an thấy ông chở một bọc thuốc lá, bánh kẹo thì nghi là buôn lậu nên giữ lại. Ông chẳng mang thứ giấy tờ gì trong ngư­ời, thế là phải vào đồn chờ giải quyết. Ở nhà bà và mọi ng­ười chờ dài cả cổ. Mấy ng­ời bạn thì cứ ra vào than vãn, quái sao thằng Cốc về đơn vị từ sáng mà chẳng thấy lên. Mãi đến 1 giờ đêm ông mới đ­ược thả cho về chứ cũng chả trình bày, xin xỏ giải thích gì. Bởi thế, anh em trong Không quân vẫn đùa ông và một số phi công là “ng­ười giời” vừa bởi các ông bay giỏi, đánh địch trên không giỏi như­ng cũng để ám chỉ cái sự “lãng đãng mây gió” của một số phi công trong đời thường. 

Tuy có vài sự cố nhỏ như­ vậy nh­ưng rốt cục thì đám c­ưới của ông bà vẫn đư­ợc tổ chức vui vẻ và đầm ấm tại nhà khách Bộ Giáo dục, 24 – Quang Trung – Hà Nội (thuộc cơ quan của Cha bà). Phù dâu là hai cô văn công - đồng nghiệp của bà; phù rể là hai anh phi công Phạm Phú Thái và Hoàng Quốc Dũng - đồng đội của ông. Hai ng­ười ở với nhau đư­ợc một tháng thì ông hết phép, lại lên đ­ường sang Liên Xô học tiếp. Khi đã về n­ước hẳn ông cũng rất bận rộn với công việc của một phi công, một cán bộ làm công tác quản lý tại các sân bay, lúc xa, lúc gần, vì vậy thời gian ông bà đ­ược sống bên nhau không nhiều. Thỉnh thoảng, sự “nghi ngơ” của ông lại đư­ợc thể hiện trong sinh hoạt, nh­ng bà coi đó như­ một “đặc tính của ngư­ời trời” khi ở mặt đất nên ông bà vẫn sống hoà thuận và êm ấm. 

TÌNH YÊU CỦA THƯỢNG TƯỚNG

Chị Xuyến kể: “Tôi làm việc ở văn phòng nên thường xuyên tiếp xúc với anh Thiện. Tính anh ít nói, thường suy nghĩ đăm chiêu. Thời gian này anh Thiện rất hay đi công tác ban đêm, có hôm mờ sáng về đến cơ quan thì lại bắt tay ngay vào công việc. Thỉnh thoảng, anh có nhờ tôi vá lại chiếc áo hay đơm hộ chiếc khuy bị tuột. Chúng tôi sống hồn nhiên lắm, tất cả chỉ quan tâm đến công việc chứ không nghĩ đến chuyện riêng tư...

HUY BẢO

Những năm mặc áo lính, tôi thường được nghe đồng đội kể nhiều chuyện tình mang nặng màu sắc huyền thoại về một vị tướng có tên Đinh Đức Thiện. Lính ta rất khoái những câu chuyện này, thường vỗ đùi nhau cười ha hả: “Tướng thế mới là tướng chứ”. May mắn thay, mùa xuân này tôi có dịp gặp bà Trịnh Thị Xuyến, người bạn đời của tướng Đinh Đức Thiện và được nghe bà kể về tình yêu của mình… 

Kỷ niệm không quên: Tiếp xúc với các cụ bà trước đây đã từng tham gia phụ nữ cứu quốc thành Hoàng Diệu hoặc nữ tự vệ chiến đấu đầy gian khổ của những ngày đầu dựng nước ấy đã trở thành kỷ niệm không quên trong cuộc đời họ. Bà Trịnh Thị Xuyến là một trong số người ấy. Xuất thân từ một gia đình công nhân (Bố lái xe ở xưởng Avia) cô nữ sinh Hà Nội dáng thanh mảnh đã lao mình vào dòng nước xiết của cách mạng. Hàng tuần, cô mang gạo đến ở tập trung tại trường Hoài Đức (cạnh đền Hàng Trống - Hà Nội) để tập quân sự. Khi các đội tự vệ thành lập, chị Đàm Thị Loan là vợ tướng Hoàng Văn Thái và là thầy dạy quân sự cho các cô, chuyển công tác khác, Trịnh Thị Xuyến được cử làm trung đội trưởng trung đội Minh Khai. Toàn quốc kháng chiến cả hai bố con cùng chiến đấu trong lòng Hà Nội. Người cha đã ngã xuống trong trận chiến đấu quyết liệt ở phố Nhà Thờ, còn cô con gái thì dũng cảm vượt qua bom đạn len lỏi khắp trận địa Liên khu I. Cô ở đội tuyên truyền nên phải có mặt ở những nơi nóng bỏng để uý lạo các chiến sĩ và lấy tin tức cho báo “Chiến thắng”. Có một điều kỳ diệu nhưng ít được nói tới là trong những ngày lửa đạn ấy, báo “Chiến thắng” ra đều đặn mỗi ngày một số. Chính trong những ngày này, cô nữ sinh Trịnh Thị Xuyến đã được kết nạp Đảng. Sau khi rút qua gầm cầu, để lại phía sau một “Hà Nội cháy, khói lửa ngút trời…” Trịnh Thị Xuyến theo đồng đội qua đường Sơn Tây lên Phú Thọ và được điều về làm việc tại văn phòng Phụ nữ Trung ương. Được một thời gian thì Tây nhảy dù Bắc Cạn, Trịnh Thị Xuyến được “hạ phóng” về văn phòng phụ nữ tỉnh Phúc Yên nhưng chuyên phụ trách ở xã Xuân Bảng. Những tưởng cả đời sẽ gắn bó với công tác phụ vận, nào ngờ lại có quyết định điều Trịnh Thị Xuyến về Cục Dân quân rồi chuyển sang Cục Vận tải. Đây là sự sắp xếp của số phận hay chỉ là sự tình cờ ngẫu nhiên? Thật khó tìm ra câu trả lời, chỉ biết rằng Cục trưởng Cục Vận tải là đồng chí Đinh Đức Thiện lúc ấy chưa đến ba mươi tuổi. 

Đường cách mạng - Đường tình yêu: Chị Xuyến kể: “Tôi làm việc ở văn phòng nên thường xuyên tiếp xúc với anh Thiện. Tính anh ít nói, thường suy nghĩ đăm chiêu. Thời gian này anh Thiện rất hay đi công tác ban đêm, có hôm mờ sáng về đến cơ quan thì lại bắt tay ngay vào công việc. Thỉnh thoảng, anh có nhờ tôi vá lại chiếc áo hay đơm hộ chiếc khuy bị tuột. Chúng tôi sống hồn nhiên lắm, tất cả chỉ quan tâm đến công việc chứ không nghĩ đến chuyện riêng tư. Bọn con gái Hà Nội chúng tôi đi kháng chiến ngày ấy mỗi khi có ai nhắc đến chuyện chồng con thì đều trả lời là đợi kháng chiến thành công. Thế rồi một hôm, anh Thiện nói với tôi: “Anh chưa có gia đình, em có đồng ý làm vợ anh không?” Tôi trả lời: “Em còn suy nghĩ đã, mà cũng phải hỏi ý kiến mẹ em”. Anh Thiện lại nói: “Được thôi, nhưng phải suy nghĩ nhanh lên!” Thế rồi đến Đại hội Đảng khu Việt Bắc tổ chức ở chân núi Tam Đảo, tôi được triệu tập lên phục vụ Đại hội. Ngày liên hoan bế mạc Đại hội, không hiểu trước đó anh Thiện nói gì và trả lời những gì mà được các anh tuyên bố là ngày lễ thành hôn của tôi và anh. Trở về Cục Vận tải, đơn vị làm cho một căn nhà nhỏ để chúng tôi ở riêng. Nhiều đêm, anh Thiện đi công tác, tôi nằm nghe tiếng rừng xào xạc mà sợ run lên. Có buổi sáng thức dậy, dân bản bảo là đêm qua có hổ về bắt lợn… 

Thời gian này chị Xuyến 24 tuổi, anh Thiện hơn chị mười một tuổi. Người con gái đầu lòng đã ra đời tại ngôi nhà hạnh phúc nơi núi rừng xa xôi ấy. 

Hạnh phúc đời thường: Ngay trong tiểu sử, Thượng tướng Đinh Đức Thiện cũng là vị tướng có nhiều đặc điểm đặc biệt. Từ Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, ông được điều sang làm Thứ trưởng Bộ Công nghiệp rồi đi chỉ huy xây dựng khu gang thép Thái Nguyên. Máy bay Mỹ ném bom miền Bắc, ông trở lại quân đội với cương vị Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, vào ra chiến trường như con thoi. Sau ngày đất nước thống nhất, ông làm Bộ trưởng Bộ cơ khí luyện kim, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải rồi Bộ trưởng Bộ Dầu khí. Người ta đồn rằng cứ nơi nào trì trệ, ách tắc là cấp trên điều ông đến và mọi việc sẽ thông đồng, bén ngọt. Tất nhiên, ông không phải là nhà khoa học giỏi tất cả mọi ngành nhưng ông đã điều hành công việc bằng sự công tâm, biết lắng nghe lời nói phải và điều quan trọng nhất là tất cả vì lợi ích chung của nhân dân, của đất nước. Tôi hỏi:
- Thưa chị, nghe nói anh Thiện là người nóng tính?
Chị Xuyến gật đầu:
- Vâng … Tính anh ấy nóng lắm!
Tôi lại bạo gan hỏi:
- Em nghe người ta kể là có lần đi công tác, anh Thiện đã cách chức hàng loạt cán bộ khi kiểm tra thấy họ làm việc không tốt…
Chị Xuyên cười ngất:
- Họ đồn đấy, anh Thiện chẳng cách chức ai đâu. Anh ấy rất nghiêm khi kiểm tra công việc của cán bộ cấp dưới nhưng đặc biệt với lính thì anh ấy rất thương yêu.
Vâng, điều này tôi được nghe nhiều người lính đã từng chiến đấu ở Trường Sơn kể lại. Với trách nhiệm của người chỉ huy cao nhất trong ngành hậu cần, ông phải lo sao cho chiến trường luôn có đủ vũ khí đạn dược và bộ đội thì phải luôn được ăn no mặc ấm. Hằng đêm, tướng Đinh Đức Thiện ngủ rất ít. Ông thường trằn trọc rồi trở dậy uống trà hút thuốc, suy nghĩ trầm ngâm. Biết bao kế hoạch đã ra đời, sau những đêm mất ngủ ấy để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, trì trệ. Với gia đình, tướng Đinh Đức Thiện là người rất tình cảm. ông đi nhiều, nhưng mỗi khi có dịp ở nhà ông thường tìm cách săn sóc vợ con. Có lần ông đưa vợ đi hiệu may và nằng nặc yêu cầu họ may cho bà chiếc áo như ý của ông. Ông thường răn dạy các con phải sống tình nghĩa, nhân ái với mọi người. Ông là vị tướng liêm khiết (ngoài lương ra không có một khoản thu nhập nào) nên khi giữ chức Bộ trưởng mà con cái ông đi học trong xuất cơm trưa mang theo, thức ăn thường xuyên là cá mắm. Cả bốn người (hai trai hai gái) đều học giỏi, tất cả đều tốt nghiệp đại học trong nước dù có người đủ điểm đi học nước ngoài. Và noi gương bố mẹ, cả bốn người con đều qua thời gian rèn luyện trong quân ngũ. 

Tiễn chân tôi, chị Xuyến cười hiền hậu:
- Anh nhớ là đừng viết gì thái quá nhé!
Hơn một lần tôi hứa để chị yên tâm. đã có một chuyện xảy ra trong thời gina chị làm việc ở nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội. Dạo ấy chị là chiến sĩ thi đua và có một nhà báo khi viết về chị đã vẽ thêm khá nhiều chân cho rắn khiến chị xấu hổ đến mấy tháng trời. Tôi đã viết theo lời chị kể một cách dung dị bởi vì tôi cho rằng thế hệ đã góp phần bảo vệ và xây dựng nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã sống thật dung dị. Họ toàn tâm toàn ý cống hiến đời mình cho cách mạng và trên con đường đầy máu lửa ấy, họ đã bắt gặp tình yêu.

VỊ TƯỚNG GIÀ VÀ CHÀNG LÍNH TRẺ 

Tư lệnh cười vang, cười đến giàn giụa nước mắt. Rồi ông lóp nhóp đánh xuồng về tàu. Con tàu bấy giờ đang bập bềnh buông neo ngay bên ngoài mép san hô. Và thật bất ngờ, lát sau, ông trở lại với chiếc xẻng còn mới coóng. - Đây! Xẻng đây! Không phải mượn đâu. Tớ tặng luôn cậu đấy để cậu giấu đảo...

Trần Đăng Khoa

Tôi đã tới cái hòn đảo "Nói một chữ là hết" ấy. Nó chỉ là một vũng cát lờ phờ, to chừng một cái nong phơi thóc, vừa đủ chỗ để dựng một cái lều bạt dã chiến. Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương cũng đã đến đây, đã ngủ một đêm trên hòn đảo này trong một chuyến đi tuần biển. 

- Vất vả không, các cậu? 

Tư lệnh hỏi một cậu lính trẻ, tóc đỏ quạch như tôm luộc, da đen cháy, người chắc nịch như một thỏi sắt đã tôi qua lửa. Cậu lính trẻ cười khì khì: 

- Báo cáo bố, cũng tàm tạm thôi ạ! 

- Ở đây thì mọi thứ đều thiếu thốn rồi. - Giọng Tư lệnh bùi ngùi - Nhưng cái gì cần nhất, cấp thiết nhất, các 
cậu cứ nói thẳng với mình. Bộ tư lệnh sẽ tạo mọi điều kiện giúp đỡ các cậu. 
- Thế bố cho con được nói thật nhé! 
- Ừ, thì phải nói thật chứ! - Tư lệnh mỉm cười. - Chả lẽ tớ già thế này, còn lặn lội vượt sóng gió ra đây với các cậu, để rồi rốt cuộc, lại nghe các cậu nói dối à? 
- Nhưng bố không được phê phán con lãng mạn cơ… 
- Cái thằng! Tao còn lãng mạn hơn mày ấy! 
Anh lính trẻ nhìn mái đầu bạc trắng của Tư lệnh, cười hồn nhiên: 
- Thế thì, con đề nghị bố thế này nhé! Bận sau nếu bố ra đảo, bố chịu khó giắt lưng cho chúng con vài cô gái… 

Anh lính trẻ bỗng bối rối trước cái nhìn ngỡ ngàng của Tư lệnh. "Thì con đã vòi bố trước rồi, là bố phải tha thứ cho con, không được phê phán con lãng mạn". 

- Chúng mày muốn nghe hát hả? Muốn xem văn công hả? 
- Không, không! - Anh lính bỗng luống cuống. - Con đâu dám có voi đòi tiên! Văn công xem ra xa vời quá! 

Chúng con chỉ muốn bố mang ra đây vài cô nuôi quân thôi! Các cô ấy chẳng phải hát hò gì. Chỉ mặc tấm áo phin trắng, cái quần lụa đen, đi phơ phất trên đảo, để chúng con ngắm, chúng con "chỉnh" mắt. Chứ mắt mũi chúng con, bố thấy đấy, sang vành hết cả rồi!... 

Tư lệnh cười ha hả. Anh lính trẻ cũng cười. Chưa bao giờ tôi được nghe cuộc đối thoại kỳ lạ như thế. Sau đó, quả như niềm ao ước của anh lính trẻ, các cô gái lần lượt ra thăm đảo. Không phải cánh nuôi quân mà các cô văn công mặt hoa da phấn hẳn hoi. Trông cô nào cũng đẹp, cũng thơm phức và lộng lẫy như những nàng tiên cá. Các cô múa hát và khâu vá cho chiến sĩ. Nhiều anh áo quần còn mới nguyên, cũng bí mật xé ra, rồi nhờ các cô vá. Thế là từ đấy, lần nào Tư lệnh ra đảo, các chiến sĩ cũng được dự những bữa tiệc mắt linh đình. Nhưng đó là chuyện sau này, còn chiều ấy, ngồi bên Tư lệnh trên mặt cát nóng bỏng như rang, mặc dù mặt trời đã lặn xuống biển lâu rồi, anh lính trẻ quê xứ Nghệ thực sự coi Tư lệnh như một người đồng đội thân thiết. Anh lắc lắc đầu gối Tư lệnh: 

- Bố thấy Vương quốc của chúng con thế nào? 

Tư lệnh đưa mắt nhìn suốt rẻo cát trống trơn, rồi lại nhìn cái lều bạt dã chiến cứ hộc lên trong gió tựa hồ một con ngựa bất kham, đang lồng lộn như muốn rứt tung mấy sợi xích sắt căng ghì xuống đảo mà phóng đi cùng bầy gió hoang dã. 

- Đẹp, nền nếp. Đúng quân phong quân kỷ. ở đây mà giữ được như thế này là tốt lắm rồi. - Giọng Tư lệnh bỗng bùi ngùi. - Tất nhiên là vất vả! Chúng mày rất vất vả! Tao biết! Nhưng khổ nỗi đây lại là Tổ quốc, là đất đai hương hỏa của ông cha, thì dù chỉ có đá sỏi gió cát thế này, ta cũng phải canh giữ, một tấc không đi, một ly không rời, dẫu có phải đổi bằng xương máu… 

- Vâng, con hiểu! Con hiểu, bố ạ! 

Tư lệnh ôm lấy đôi vai trần cháy khét nắng gió của người lính trẻ xứ Nghệ. Đôi mắt ông bỗng cay xè, ầng ậng nước. Anh lính trẻ cũng nắm chặt bàn tay xù xì thô ráp của Tư lệnh: 

- Bố đừng lo! Chúng con ở đây quen rồi! Khổ mấy chúng con cũng chịu được! Nhưng đúng như bố nói đấy. Rất vất vả, cực nhọc. Nhiều lúc mệt quá, con liều nghĩ, hay là ta cứ tạm giấu quách đảo đi! 

Tư lệnh ngạc nhiên: 
- Giấu đảo à? Mày nói gì lạ thế? Giấu thế nào? 
Anh lính trẻ vui vẻ: 
- Bố cứ cho con mượn tạm cái xẻng. Chỉ ba tiếng là con giấu xong đảo thôi! Mà không đến ba tiếng đâu. Chỉ tiếng rưỡi đồng hồ là con xúc xong chỗ cát này cho xuống biển, đố kẻ thù nào nhìn thấy đảo, có muốn cướp đảo cũng chịu! 

Tư lệnh cười vang, cười đến giàn giụa nước mắt. Rồi ông lóp nhóp đánh xuồng về tàu. Con tàu bấy giờ đang bập bềnh buông neo ngay bên ngoài mép san hô. Và thật bất ngờ, lát sau, ông trở lại với chiếc xẻng còn mới coóng. 
- Đây! Xẻng đây! Không phải mượn đâu. Tớ tặng luôn cậu đấy để cậu giấu đảo! 

Cứ tưởng anh lính trẻ sẽ lắc đầu quầy quậy. Nào ngờ anh vồ vập đón chiếc xẻng từ tay Tư lệnh. Và sáng sớm hôm sau, khi Tư lệnh đánh xuồng trở lại đảo thì thấy anh chàng đang cởi trần, sì sụp lặn ngụp cùng với chiếc xẻng của Tư lệnh. Nhưng anh không xúc cát đổ xuống biển, mà lấy cán xẻng khẽ bẩy từng tảng đá san hô chìm sâu dưới mấy mét nước, rồi lụi cụi khuân lên, đắp quanh chân đảo, giữ cho cát khỏi bay. 

- Mày làm cái gì thế này? Giấu đảo à? 
- Dạ, báo cáo bố, con mở mang bờ cõi ạ! - Anh lính cười khục khục, gương mặt nhấp nhóa nước. - Mà, mà, đúng ra, đúng ra con chỉ "buông neo" cho Tổ quốc khỏi bị trôi dạt thôi!

XỎ VÀM TRÂU CỐ

...Rồi anh tung roi quất vun vút, đàn trâu lao cả xuống nước, bơi ra giữa dòng. Ký cầm dây mây, nhảy dây chuyền qua lưng từng con trâu, tới con trâu cổ. Trâu cổ bơi giữa mấy chục con chen nhau như nêm. Ký hai chân kẹp cổ nó, nằm vươn dài lên đầu trâu, tay cầm chặt cặp sừng của nó rồi nắm mũi trâu, đâm một cái thật mạnh qua mũi nó ... 

Năm 1940, các chiến sĩ cách mạng bị giam ở Tà Lài bên sông Đồng Nai đang tìm cơ hội phá ngục. Mọi chuẩn bị đã ổn, chỉ khó là làm thế nào để vận động bà con dân tộc Mạ che chở. Nói miệng thì đồng bào không hiểu, cần có một hành động gây ấn tượng mạnh. 

Nhà bên sông cạnh trại giam có một bầy trâu chừng ba chục con, chỉ một con duy nhất không có vàm. Đó là “anh” trâu cổ, vai to như cái thùng bia, sừng dài chừng hai gang, nhọn hoắt. Nó hung dữ quá nên chủ đành nuôi chỉ để làm hai việc: nhảy cái và giữ cọp. Ông chủ luôn phàn nàn: Giá mà xỏ vàm được cho nó để nó đi kéo cày thì nhiều tiền lắm. Nhưng bao nhiêu thợ vàm trâu, bao người dày dạn kinh nghiệm đến gặp nó đều phải… “bó tay”. 

Bữa ấy, đám tù bắn tin sẽ vàm được con trâu khiến ông chủ mừng lắm vội đến xin cai Tây cho đám tù tới giúp. Người xử lý con trâu bất kham là Tô Ký, vừa tròn 19 tuổi. Ký lên đường, đầu trần, lưng trần, mặc xà lỏn, tay cầm một sợi mây vót nhọn. Hỏi “trị” trâu cách gì, anh chỉ cười: 

- Yên tâm, chắc như ba bó một giạ! 

Vào cuộc, Ký cho dắt toàn bộ 30 con trâu ra bờ sông. Mọi người vẫn chưa hiểu anh làm cách nào, riêng con trâu cổ vẫn vênh sừng thách thức. Bỗng Ký quát to:

- Lùa hết trâu xuống sông! 
Rồi anh tung roi quất vun vút, đàn trâu lao cả xuống nước, bơi ra giữa dòng. Ký cầm dây mây, nhảy dây chuyền qua lưng từng con trâu, tới con trâu cổ. Trâu cổ bơi giữa mấy chục con chen nhau như nêm. Ký hai chân kẹp cổ nó, nằm vươn dài lên đầu trâu, tay cầm chặt cặp sừng của nó rồi nắm mũi trâu, đâm một cái thật mạnh qua mũi nó làm vàm. Trâu lồng lộn, điên cuồng định hất người xuống, dùng sừng húc, chém. 
Nhưng đang ở giữa sông, chân nó không chạm đất, xung quanh lại đầy trâu bầy nên nó không sao ngúc ngoắc được. Nó đành chịu trận. Ký ung dung rời mình trâu cổ, thoăn thoắt nhảy qua lưng từng con trâu, lên bờ an toàn trong tiếng reo hò của đồng bào Mạ. 

Mấy tháng sau, Ký và đồng đội vượt ngục, qua sông an toàn nhờ sự chở che của đồng bào Mạ. Sau này, người tù vàm trâu ấy chính là Thiếu tướng Tô Ký, nguyên Chính ủy Quân khu 7, một vị tướng trung kiên và nghĩa hiệp.

BUỒN HUNG, THANH TỊNH ƠI!

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và nhà thơ Thanh Tịnh hay đến với nhau vì công chuyện - một là Đại tướng Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, một là Đại uý Phó chủ nhiệm Tạp chí Văn nghệ quân đội tức là một cấp trên, một cấp dưới. 

Cũng có nhiều khi hai người đến với nhau vì tình đồng hương, đồng tuế - cả hai đều quê “Bình - Trị Thiên khói lửa”, cả hai đều sinh vào thập niên đầu thế kỷ XX (Thanh Tịnh sinh năm 1911, Nguyễn Chí Thanh sinh năm 1914) Người ta kể rằng, có tối Đại tướng đi bộ từ nhà riêng mãi trên mạn Cổ Ngư, Quan Thánh đến chơi với nhà thơ. Hai người nằm khoèo trên sàn gỗ chuyện trò, tâm sự. Đại tướng nói với nhà thơ: 

- Buồn hung Thanh Tịnh ơi. Chiều nay miềng bị mạ mắng. 
- Mắng răng? - nhà thơ hỏi bạn 
Mạ nói: “Thanh ơi, mi mần đến Đại tướng mà có mỗi một việc đưa mạ về thăm quê mà không mần được!”- Đại tướng xúc động thuật lại. 

Thì ra, hai người con xứ Huế - một nhà thơ, một đại tướng không lúc nào là nguôi nhớ về quê hương đang còn chìm trong khói lửa chiến tranh. Bấy giờ có câu: “ngày bắc, đêm nam” là vậy.

CHUYỆN VỀ CÁC VỊ TƯỚNG RÈN NHAU 

Thiếu tướng Nguyễn An, trong hồi ức để lại, có kể một câu chuyện như sau: Tháng 7-1950, anh Trần Đăng Ninh được Trung ương Đảng cử vào Tổng Quân ủy, phụ trách Chủ nhiệm Tổng cục cung cấp. Cuối năm ấy, chiến dịch Biên giới nổ ra, từ Văn phòng Trung ương, tôi cũng được cử vào phục vụ ở cơ quan này. 

Trong thời gian ở đây, tôi thấy đồng chí Trần Đăng Ninh có cách giao nhiệm vụ gây ấn tượng khác thường. Tôi còn nhớ, hôm ấy vào khoảng 10 giờ sáng, anh Ninh gọi điện thoại trực tiếp cho anh Đinh Đức Thiện, Cục trưởng Cục Vận tải, yêu cầu lên ngay Tổng cục, mà không nói rõ lý do triệu tập. Khi ấy, Tổng cục ở vùng Yên Thông, còn Cục Vận tải ở vùng Phố Đu, cách nhau hàng chục ki-lô-mét đường rừng. 

Anh Thiện vào, mới chào hỏi xong thì anh Ninh tự mình đi vào buồng bưng ra một đĩa sứ to, đặt phịch lên bàn, trước mặt anh Thiện: “Đây, mời anh “văng” hết cả ra đây cho tôi! Tôi là người phụ trách anh, vậy là tôi phải tiếp nhận chứ không phải là cán bộ, chiến sĩ dưới quyền anh phải chịu đựng!”. Anh Thiện thấy sự việc có vẻ khá nghiêm trọng, nhưng cũng chưa đoán ra là chuyện gì đã xảy ra và thông tin nào đã đến tai Chủ nhiệm. Tôi và anh Ngô Vi Thiện đã biết sự tình, cứ bấm nhau cười thầm, nhưng không dám ló đầu ra. Lần này anh Ninh sắp giao nhiệm vụ cho anh Thiện đi đại diện cho Tổng cục ở một hướng chiến dịch, cho nên trước khi đi xa, ông anh muốn sửa sang đôi chút cho ông em đây! Về tuổi tác mà nói, anh Thiện kém anh Ninh ba, bốn tuổi, nhưng cũng là bạn tù cũ với nhau, nên cũng có lúc anh Thiện nói đùa vui đôi câu với anh Ninh, tuy cũng rất nể anh. Anh Thiện gãi gãi tai, cười nhẹ: “Có gì đâu mà đưa ra ạ! Mà cái đĩa của anh cũng... to quá!”. Anh Ninh cau mặt nói: “Anh là chúa hay nói tục tĩu! Anh hay văng những “chất đạm” vào tai anh em! Tôi là thủ trưởng trực tiếp của anh, tôi chẳng chịu thì còn ai?”. 

Anh Thiện thấy chiến thuật “nửa nạc nửa mỡ” của mình có vẻ khó trôi, liền đổi thái độ: “Vâng, quả là đôi lúc tôi có nóng nảy với anh em, hôm nay xin lỗi anh, sau này tôi sẽ cố gắng sửa”. 

Thấy anh Thiện đã nhận khuyết điểm, anh Ninh gạt cái đĩa sang một bên, nói thân mật với anh Thiện: “Trưa nay có anh ở lại ăn cơm với tôi, tiện có chai nước mắm ngon, bên Văn phòng Trung ương mới gửi cho”. 

Chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến việc ăn uống, dù biết là anh Ninh rất chân tình, có chai nước mắm cũng mời ăn như những ngày xưa, khi còn ở trong nhà tù đế quốc, anh Thiện vội cáo từ ra về. Anh Ninh tiễn anh Thiện ra, vừa đi vừa nói chuyện thân mật, đợi anh Thiện lên ngựa mới trở vào. 

Đúng là sau vụ này, anh Thiện có cố gắng sửa chữa nhiều về thái độ và lời lẽ. Thỉnh thoảng có “bột phát”, nhưng lại cố gắng tự kiềm chế, vì buổi gặp gỡ ngày đó đã để lại trong anh những dấu ấn sâu sắc.

CHUYỆN Ở QUÊ TƯỚNG NGUYỄN CHÁNH

Trong hồi ký của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhắc đến tướng Nguyễn Chánh như sau: "Anh qua đời, quân đội mất đi một vị tướng tài năng, tôi mất đi một người bạn chí thiết". Đó không phải là lời "ai điếu" đơn thuần mà xuất phát từ một tấm lòng quí trọng thật sự của vị Tổng Tư lệnh đối với thuộc cấp của mình.

Năm 1957, một cơn đau tim đột ngột đã khép lại cuộc đời của vị tướng thao lược này ở tuổi43, nhưng những gì mà ông để lại cho quân đội cũng như giới văn nghệ sĩ trên đất Liên khu V thời kháng Pháp thì vẫn trinh nguyên như ngày nào. Ngày 5-8 tới đây, tướng Nguyễn Chánh tròn 90 tuổi. 

* Giai thoại 

Sau Hiệp định Genève 1954, có một viên tướng người Pháp tên là De Beaufort nhờ Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho ông ta gặp bằng được người chỉ huy đánh bại chiến dịch At-lan-te trên chiến trường Tây Nguyên năm 1953-1954. Tướng Giáp đã đồng ý và sắp xếp một cuộc gặp riêng giữa tướng De Beafort và Nguyễn Chánh. Viên tướng bại trận người Pháp đã không tin rằng ngồi trước mặt mình là "một vị tướng đã làm cho tôi điêu đứng trên chiến trường" - như hồi ký sau này ông ta đã thuật lại. Nguyễn Chánh giản dị và khiêm nhường đến không ngờ. Chia lửa với Điện Biên, quân ta giải phóng Kon Tum và bắc Tây Nguyên, đánh bại xụi chiến dịch At-lan-ta, tiêu diệt toàn bộ binh đoàn cơ động số 100 - binh đoàn tinh nhuệ bậc nhất của quân viễn chinh Pháp rút về từ Triều Tiên. Người chỉ huy trận đánh "để đời" ấy là tướng Nguyễn Chánh - vị thủ lĩnh của đội Du kích Ba Tơ từ ngày còn trứng nước, quê ở xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. 

Lâu nay, rất nhiều cuốn sách viết về tài thao lược của vị tướng lừng danh này. Vì vậy, nhiều người chỉ biết ông với tư cách là nhà chiến lược quân sự nhưng Nguyễn Chánh còn là một người rất am tường về văn hóa, nhất là cách hành xử đối với anh em văn nghệ sĩ. Ai đã một lần tiếp xúc với ông là cả đời không quên được. Nhà văn Nguyên Ngọc là một trường hợp như thế. Ông kể rằng chính Nguyễn Chánh là người nâng đỡ ông ngay từ khi còn chập chững bước chân vào làng báo! Là Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu V nhưng Nguyễn Chánh vẫn dành rất nhiều thời gian cho văn nghệ. Có lần ông xin với Đoàn tuồng Liên khu V cho ông đóng một vai tuồng. Anh em nghệ sĩ khuyên ông không nên làm việc này vì rất mất công. Cuối cùng ông xin được cầm chầu trong đêm diễn. Người cầm chầu phải là người rất am tường về tuồng tích của vở diễn, thế mà Nguyễn Chánh, không hiểu ông đã thuộc tuồng từ bao giờ, buổi diễn hôm ấy, tiếng trống chầu của ông đã làm cho không ít nghệ sĩ phải ngỡ ngàng! 

* Ở xóm Vạn đò 

Ông Nguyễn Ngoan, nay đã 77 tuổi, gọi tướng Chánh bằng chú ruột, chỉ ra phía sau vườn - nơi có ngôi nhà sinh ra 8 anh em Nguyễn Chánh, nói: "Ông nội tôi chỉ có cái ao sau nhà là đáng giá nhất thôi". Tôi hỏi: "Vậy, ổng lấy gì để nuôi 8 người con?". "Ổng làm thợ xe nước". Một cụ ông hàng xóm góp chuyện: "Dân xe nước ở đất Sơn Tịnh này, ai mà chẳng biết ông Nguyễn Hàm Chức. Ổng là một thợ xe nước bậc thầy". Ngay tại bến đò xóm Vạn từng có một bờ xe nước mang tên ông. Hàng năm, cứ sau vụ gặt, những người có ruộng được hưởng nguồn nước từ bờ xe này đã nộp thóc cho chủ xe. Cái bờ xe nước ấy đã trở thành nguồn thu nhập chính cho cả gia đình. Nó đã góp phần nuôi Nguyễn Chánh và nuôi luôn những đồng chí của ông hoạt động cách mạng. 

Trong ký ức mù sương của ông lão Nguyễn Ngoan vẫn còn nguyên hình bóng của các nhà cách mạng tiền bối như Nguyễn Nghiêm, Phan Thái Ất, Tôn Diêm… vẫn thường lui tới căn nhà này. Đến sau khởi nghĩa bốn lăm, ngôi nhà tranh ấy đã thành tổng hành dinh của các nhà lãnh đạo Khu V. Tuy không phải là người giàu có trong làng nhưng ông Nguyễn Hàm Chức là người rất có uy tín. Thuở trai tráng, ông từng là nghĩa quân của Lê Trung Đình. Cuộc khởi nghĩa của họ Lê bị dìm trong bể máu, ông trở về quê rồi gắn đời mình với các bờ xe nước sông Trà và kỳ vọng vào lớp con cháu, trong đó có người con út Nguyễn Chánh. Và cái xóm Vạn đò bên bờ sông Trà - nơi người cha đã từng lỡ vận vì việc lớn ấy đã thành bến đỗ cho các nhà cách mạng. 

* Trong ký ức của người thân 

Cụ Ngoan nhớ lại: "Chú Chín (tên thân mật thuở nhỏ của Nguyễn Chánh) là người điềm đạm, lành tính nhưng rất quyết đoán. Ông làm việc gì cũng đến đầu đến đũa, lại là người có tài hùng biện, ăn nói lưu loát, thấu tình đạt lý nên ai cũng phải nghe". Mười sáu tuổi, Nguyễn Chánh đã đến với cách mạng. Các nhà tù đế quốc đã thành trường học lớn rèn luyện cho ông. Một tài năng thiên bẩm cộng với môi trường khốc liệt của các nhà tù đế quốc và cuộc chiến tranh thần thánh của nhân dân đã làm nên vị tướng thao lược sau này. 

"Lúc ấy tôi khoảng 9 tuổi, cha tôi từ nhà tù ở Huế về, ghé qua đêm thăm gia đình rồi lên luôn Ba Tơ. Ông cứ thoắt ẩn thoắt hiện bằng những chuyến đi-về như thế, anh em tôi chẳng biết ông làm gì. Mãi sau này, tôi mới biết ông làm cách mạng". Ông Nguyễn Chí Trực - 68 tuổi - con trai đầu tướng Chánh hồi tưởng về người cha mình bằng những ký ức đứt nối như thế. Ông nói: "Cha tôi là người giàu tình cảm. Ông ít khi ở nhà, song mỗi lần về là ông ôm tất cả anh em vào lòng, hỏi han từng đứa rất kỹ lưỡng. Em gái tôi - Giáo sư Tuyết Minh - là người được ông cưng nhất. Chả là, lúc mẹ tôi ở tù tại nhà lao Quảng Ngãi, bà bế em tôi theo luôn trong tù. Mấy người bạn tù cứ trêu em tôi rằng mày là con ông "bảy đáp" (mổ heo). Không ngờ những lời trêu chọc ấy đã ám ảnh cô bé đến lúc cách mạng thành công rồi, cha tôi về xưng "ba" với nó, nó vẫn không cho bế! Thương yêu con cái nhưng ông cũng là người cực kỳ nghiêm khắc với con. Có lần ông thấy tôi mặc chiếc áo xa xị màu nâu vải ngoại, ông buộc tôi phải cởi ra và đốt giữa sân nhà. Ông nói: "Ba đang hô hào toàn dân Khu V "bài" hàng ngoại, con mặc áo vải ngoại như thế, ai còn nghe ba nữa!". Đó là hồi kháng chiến chống Pháp, nhà nước mình hô hào chống hàng ngoại nên mới có tình trạng ấy". 

Gần 50 năm kể từ ngày tướng Chánh tạ thế nhưng hình bóng người cha vẫn nguyên vẹn trong lòng người con trai trưởng: "Tối hôm ấy (1957), ông dặn với người cần vụ rằng sáng hôm sau ông đi Quảng Ninh, nhân tiện ghé thăm mấy đứa em tôi đang học ở trường học sinh miền Nam. Nhưng chuyến thăm những đứa em của cha tôi vĩnh viễn không bao giờ thực hiện được. Bốn giờ sáng hôm ấy, trái tim ông đã ngừng đập, khép lại một chặng đường đầy gian nan nhưng cũng rất hào hùng của ông". 

* Một chút băn khoăn 

Trước khi mất, Nguyễn Chánh giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục cán bộ Quân đội, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông mất trước khi Nhà nước phong quân hàm cho các tướng lĩnh nên chưa một ngày cầu vai trên áo ông được lấp lánh ngôi sao. Ông đã đóng góp một cách xuất sắc vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp trên chiến trường Khu V. Công lao ấy hoàn toàn xứng đáng để Nhà nước đầu tư xây dựng tại làng ông một nhà lưu niệm. Ông Trực, con trai trưởng của ông thông báo với tôi rằng ông đã sưu tầm trên 100 hiện vật gồm thư từ, hình ảnh, tư trang liên quan đến cuộc đời hoạt động của Nguyễn Chánh nhưng cho đến nay (cuối tháng 7-2004), vẫn chưa biết sẽ trưng bày vào đâu (?). Năm 2000, tỉnh Quảng Ngãi có đầu tư 100 triệu để xây nhà lưu niệm cho ông nhưng sau 4 năm rồi, hàng cau trước nhà đã cho quả, song nhà thì vẫn trống huơ trống hoác. Mới đây, tỉnh lại rót tiếp 300 triệu nữa để "hoàn thành" nhà, song một "núi" tiền như thế mà nhà lưu niệm của vị tướng vẫn rất vá víu, chẳng tương xứng chút nào với số tiền đầu tư. 

Ngày 5-8 năm nay là kỷ niệm 90 năm ngày sinh Nguyễn Chánh nhưng đường về nhà ông thì vẫn gập ghềnh như thuở còn ở chiến khu Nước Lá - Ba Tơ. Tôi nghe nói tướng Chánh là người rất ghét hình thức, song không vì thế mà chúng ta hời hợt với tiền nhân, nhất là một vị tướng lừng danh như ông.

SÚNG THẦN CÔNG DƯỚI NHÀ ĐẠI TƯỚNG CHU HUY MÂN 

Trong số tướng lĩnh Việt Nam, Đại tướng Chu Huy Mân có niềm tự hào riêng, ông là vị tướng duy nhất có “thâm niên” tuổi Đảng trùng với “thâm niên” của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng bao nhiêu tuổi, tuổi Đảng của ông cũng bấy nhiêu năm. Chuyện ông phát hiện được khẩu thần công ở ngay dưới ngôi nhà mình cũng là cả một câu chuyện kỳ thú... 

Từ cái đận, nhà văn Chu Lai cho ra đời tác phẩm “Hà Nội Phố”, người dân Hà Nội vẫn thường gọi phố Lý Nam Đế là “phố nhà binh”. Nhiều năm nay, Đại tướng Chu Huy Mân và gia đình đã sống với cái vui, cái buồn của con phố nhỏ này. Nhà ông ở số 36, Lý Nam Đế. 

Năm 2001, gia đình ông đang sửa nhà để chuẩn bị cho lễ mừng thọ lần thứ 90 của vị tướng già. Buổi sáng ngày 25 tháng 5, tốp thợ đào đường ống cũ sau nhà, đến độ sâu 80 cm, phát hiện một vật gì rất rắn, họ lấy xà beng chọc xuống không nhầm nhò gì. Họ càng đào, càng thấy vật này khá dài bèn báo với gia đình. 

Tốp thợ tiếp tục đào rộng ra. Đến khi chiếc hố đào rộng ra, chu vi dễ gần đến 2 mét, thì vị tướng già phát hiện đó là một khẩu thần công. “Tôi gọi anh tổ trưởng, tổ chức hơn 10 người dùng chão, ròng rọc đưa lên khỏi mặt đất rồi khênh ra đây, rửa sạch. Tôi loay hoay tìm trên súng có đặc điểm gì không? không thấy chữ gì, lâu quá, súng han gỉ, không còn nhìn ra chữ gì nữa...”, Đại tướng nhớ lại. 

Người dân Lý Nam Đế biết chuyện ai cũng ngỡ ngàng: súng thần công của các bậc tiền bối để lại ngay dưới lòng đất, thuộc khuôn viên ngôi nhà của đại tướng, ở “phố nhà binh”. Phải chăng các bậc tiền bối đã ban cho đại tướng súng thần công này (?). 

Còn con trai ông, dự định sẽ rửa sạch khẩu thần công, xây một bệ đá thật đẹp ở trước cửa rồi đặt khẩu thần công lên đó, để mọi người đến đây có thể chiêm ngưỡng nó. “Nhưng buổi trưa ăn cơm xong, tôi bật ti vi xem bản tin thời sự của Đài truyền hình Việt Nam thấy Quốc hội đang thảo luận về Luật Di sản Văn hoá. Tôi nghĩ đây là tài sản quốc gia, mọi người dân phải có trách nhiệm đóng góp hiện vật cho bảo tàng, để giữ gìn, bảo quản được lâu dài, phát huy tác dụng trong công tác nghiên cứu và giáo dục. Tôi nghĩ ngay đến chuyện phải chuyển ngay khẩu súng thần công này đến Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam) theo Luật di sản. Đầu giờ buổi chiều, tôi lập tức gọi điện cho anh Lê Mã Lương, Giám đốc bảo tàng, để anh ấy cử cán bộ tới chuyển về bảo tàng trưng bày”, đại tướng nói. 

Chị Trần Thanh Hằng, nhân viên được Bảo tàng cử đến nhận khẩu súng thần công kể: “Chiều đó, ông đưa chúng tôi tới góc vườn, nơi khẩu súng thần công đã được đưa lên khỏi mặt đất và được rửa sạch bùn đất. 15 giờ 30 phút cùng ngày, khẩu súng thần công được cẩu lên xe chuyển về bảo tàng, được đặt trưng bày dưới chân kỳ đài Hà Nội. 

Trước khi đưa ra trưng bày, Bảo tàng mời các chuyên gia về súng thần công của Bảo tàng Lịch sử và Viện Khảo cổ học đến xác định niên đại. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào hình dáng cấu tạo, chất liệu, cỡ nòng, độ dài đưa ra kết luận: Súng thần công được chế tạo từ thời Nguyễn có niên đại khoảng cuối nửa thế kỷ XIX. Khẩu thần công này có khả năng các cụ xưa dùng bảo vệ thành Hà Nội.Sau đó ít lâu, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Đại tướng Chu Huy Mân đến thăm Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam đã chụp ảnh lưu niệm cạnh khẩu thần công này. 

ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH VỚI THỂ THAO 

Sau đại thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơnevơ được ký kết, hòa bình được lập lại. Một thời kỳ mới của đất nước ta bắt đầu. Với tầm nhìn xa thấy rộng của người lãnh đạo, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị lúc đó, đã ký chỉ thị thành lập một Đội công tác thể dục thể thao quân đội. Chấp hành chỉ thị ấy, ngày 23 tháng 9 năm 1954, đội được thành lập gồm 23 cán bộ, chiến sĩ, hình thành ba đội: bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ tại trường Lục quân Việt Nam - một đơn vị có điều kiện và phong trào TDTT tốt nhất toàn quân hồi đó. 

Đội được biên chế và trực thuộc Tổng cục Chính trị và bộ đội quen gọi tắt là Thể Công. 

Dù bận nhiều công việc lớn, đồng chí Nguyễn Chí Thanh vẫn rất quan tâm, dành nhiều thời gian và tâm trí chỉ đạo đội, từ tổ chức lực lượng đến phương hướng, phương châm hoạt động. 

Đồng chí chỉ thị cho các đơn vị phát hiện những người có năng khiếu thể thao trong toàn quân, gửi về Thể Công kiểm tra, nếu đủ tiêu chuẩn thì báo cáo để Tổng cục Chính trị ra quyết định điều động. 

Nhờ vậy, đội được bổ sung rất nhanh. Các anh Tý Bồ ở địch vận, Hồ Ngọc Thái, Tý Đường, Nguyễn Phú Đại ở pháo binh, Phạm Tất Thắng ở sư đoàn 312.. lần lượt có mặt vào cuối năm 1954, đầu năm 1955, Nhất là sau khi các đơn vị miền Nam tập kết thì các anh: Tống Viết Khánh, Trương Ngọc Ngàn, Hồ Quách Quới, Huỳnh Văn Len, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Sinh, Nguyễn Ngọc Hạng, Trương Tấn Bửu, Trương Tấn Nghĩa… đã về hội quân để không những kiện toàn vững mạnh đội hình 3 đội bóng vốn có mà còn lập thêm hai đội điền kinh, bơi lội và từ đây được gọi là Đoàn Thể dục thể thao quân đội. 

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh rất quan tâm đến việc giao trách nhiệm và gây hứng thú thể thao cho đội ngũ cán bộ chủ trì. Đồng chí thường nói vui: “cán bộ nào thì phong trào ấy!”. 

Nhân dịp hội nghị quân chính toàn quân, đồng chí đề xướng: tổ chức thi đấu bóng đá của cán bộ cao cấp dự hội nghị. 

Thế là cứ ngoài giờ họp, công việc chuẩn bị cho trận đấu được luận bàn sôi nổi. 

Trận đấu được diễn ra tại sân vận động Cột Cờ - Hà Nội, trước sự chứng kiến của các đồng chí trong Quân ủy Trung ương và đông đảo khách mời. 

Các tướng lĩnh từ khắp miền đất nước cùng dắt tay nhau ra sân. Các đồng chí Lê Trọng Tấn, Đàm Quang Trung, Bằng Giang, Vũ Yên… bên cạnh các đồng chí Trần văn Trà, Đồng Văn Cống, Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Văn Sĩ… bước theo nhịp nhạc quân hành và trong tiếng reo vui hân hoan của hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ cơ quan Bộ Quốc phòng. 

Luật lệ được châm chước, mỗi hiệp chỉ 25 phút, thay cầu thủ như chơi bóng rổ. Trận đấu sôi nổi vì có nhiều pha bóng “vui” và không khí cực kỳ sảng khoái của người xem đã để lại ấn tượng sâu sắc, có ý nghĩa lớn đối với việc cổ vũ phong trào. 

Chiều chiều, lúc rỗi việc, đồng chí Nguyễn Chí Thanh thường ra xem hoặc chơi bóng với các chiến sĩ. Có một lần, anh em ở Tổng cục Chính trị chia đôi đấu tập. Đồng chí mặc sơ mi, quần soóc, đứng sau cầu môn xem. Giữa chừng, đồng chí nói với thủ môn (vốn là người giúp việc): - “Cậu để tớ vào giữ gôn một lúc!”. Rồi đồng chí lén vào thay. Trọng tài và cả hai đội đều không biết. Đội bạn tấn công rồi sút bóng, đồng chí ra đón bị lỡ đà, suýt thua quả đó. Khán giả cười ầm lên. Một chiến sĩ trẻ, tiền đạo đội nhà, chưa biết đó là thủ trưởng mình, hét to: - “Ai bảo ông này làm gôn! ấm ớ thế mà cũng vào…! Thôi, ra đi!”. Đồng chí chỉ cười: - “Yên chí! không thua đâu, mình sẽ sửa chữa!”. Khi chiến sĩ trẻ biết đó là Chủ nhiệm Tổng cục, thì đỏ dừ cả hai tai. 

Bình sinh, đồng chí luôn gần gũi và hòa mình với cấp dưới. Thỉnh thoảng đồng chí “đột kích” đến thăm Thể Công và thường chỉ đi một mình, ngồi nói chuyện với bất cứ ai. 

Hồi ấy Trương Tấn Nghĩa mới 19 – 20 tuổi, là cầu thủ trẻ nhất lại đá hay và là con của danh thủ Trương tấn Bửu. Hai cha con mới tập kết ra, được đồng chí rất yêu mến. Nghĩa thường được bác Thanh gọi lại ngồi gần mỗi khi trò chuyện. Đồng chí thường nói với Nghĩa: - “Ráng lên sẽ có ngày về thi đấu ở sân Vườn Ông Thượng – Sài Gòn – như ba cháu trước đây”. 

Rồi đồng chí kể chuyện bóng đá của mình (đồng chí vốn là chân sút đáng kính nể) … “Mình mê bóng đá lắm. Nhưng con nhà ngèo, học hết tiểu học đã phải đi làm thuê ở đồn điền trồng chè bên Phong Điền. Ngày công 3 xu! Nhưng hễ rỗi là đá bóng. 

Trưởng thành mình đi hoạt động cách mạng, bị bắt, Tây nó giam ở nhiều nơi rồi đầy lên Buôn Ma Thuột. Trong tù khổ lắm. Nhưng muốn giữ vững ý chí, rất cần có sức khỏe để chịu đựng, sống và tiếp tục đấu tranh. Bọn mình xác định thế nên bảo nhau tìm cách giữ gìn và rèn sức. Hễ có bóng đá là xông vô liền. Ở Buôn Ma Thuột, ngày lễ, ngày tết, mình lập đội bóng “tù nhân” và rủ nhau chơi. Anh em đá hăng, đá hay. “Tây, Đầm” ra xem có khi cũng phải “bravo” (hoan hô) những quả bóng đẹp của bọn mình. 

Cũng nhờ bóng đá mà bọn cai ngục phần nào nể nang bọn này hơn và có lúc lơ là, sơ hở. Bọn mình bàn nhau bày thêm món tẩm quất rồi rủ rê bọn lính tham gia. Được đấm bóp, giãn xương cốt, đỡ mệt mỏi, chúng khoái lắm. Thế rồi một hôm đi lấy củi , 3 đứa mình hè nhau “tẩm quất” cho tay lính gác một bữa mê ly, đoạn trói lại, giải thích cho nó, rồi trốn thoát! 

Hồi kháng chiến cũng vậy. Công việc bận, đời sống vật chất kham khổ, lại phải phân tán xa nhau, tránh máy bay… Nhưng tập luyện cho khỏe và chơi thể thao cho vui thì không lúc nào ngưng trệ. Khi mặt trận Huế mới vỡ, tình hình rất gay go, khốc liệt. Bình - Trị Thiên khói lửa ngút trời! Vậy mà tết đến, anh em trong cơ quan xứ ủy vẫn đá bóng. Các anh Hoàng Anh, Hà Văn Lâu cùng bọn mình lập thành một đội. Thanh niên quanh vùng đón cả một số cầu thủ cũ bị kẹt trong vùng tạm chiếm của địch ra, cùng đấu". 

Đôi lần, đồng chí nhận lời dùng bữa cơm thường nhật với anh em. Hồi ấy, các cầu thủ Thể Công ăn cùng chế độ với chiến sĩ đơn vị, vì chưa ai biết tính mức dinh dưỡng và xác định tiêu chuẩn thế nào. Do đi sát và nắm chắc tình hình, đồng chí đích thân nêu vấn đề và ký chỉ thị để cơ quan hậu cần nghiên cứu. Mức ăn được nâng lên “trung táo” (tiêu chuẩn ăn của cán bộ trung cấp) rồi ít lâu sau được nâng lên “tiểu táo” (tiêu chuẩn ăn của cán bộ cao cấp lúc bấy giờ). 

Khi Thể Công thi đấu, nếu có điều kiện là đồng chí đi xem. đồng chí còn nhắc các cơ quan trong Tổng cục Chính trị viết thư động viên, gửi quà khích lệ. Quà tuy nhỏ, thường chỉ là cân đường, hộp sữa, túi cam, nhưng người nhận luôn được sưởi ấm bởi tình đồng đội, đồng chí qua những dòng chữ và thái độ yêu mến chân thành. 

Sau trận đấu thành công, đồng chí biểu dương. Lúc có sai lầm, khuyết điểm, đồng chí nhắc phải kiểm điểm kỹ, tìm cho ra nguyên nhân mà sửa. Một yêu cầu trước sau không thay đổi của đồng chí đối với Thể Công là phải luôn luôn xứng đáng “người lính của Bác Hồ” trên lính vực TDTT. 

Từ năm 1959, Thể Công chuyển sang trực thuộc Bộ Tổng tham mưu. 

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh thụ phong hàm Đại tướng, rồi ít lâu sau nhận nhiệm vụ ở Ban Công tác nông thôn của Đảng. Và sau nữa, khi được Bác Hồ và Trung ương cử vào Nam chỉ đạo chiến đấu cho đến lúc qua đời. 

Hơn 40 năm đã qua, với giọng Huế chắc nịch, vừa ấm áp, vừa sôi nổi và truyền cảm, những lời dạy của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vẫn vang vọng và khắc sâu trong tâm khảm những người làm công tác TDTT trong quân đội như những lời dặn dò và những kỷ niệm đẹp đẽ không thể nào quên.

ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP DƯỚI GÓC NHÌN CỦA NGƯỜI VIẾT SỬ 

Kể từ khi tôi tham gia công tác của Hội Sử học VN, tôi càng có nhiều cơ hội gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp và càng bị ông cuốn hút không phải chỉ ở một sự nghiệp quá đồ sộ của một nhà cách mạng, một vị Tổng tư lệnh mà còn ở một phẩm cách của một nhà sử học lớn. 

Ông kể cho tôi một đôi ký ức thời trai trẻ rồi đọc thuộc lòng.những vần thơ hừng hực chí khí yêu nước của Phan Bội Châu. Ông kể lại những kỷ niệm về các nhân vật lịch sử mà ông từng tiếp xúc như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Trần Huy Liệu. Ông đọc thuộc từng bài trong sách giao khoa thư đã nhen nhóm trong lòng ông những bài học đầu tiên dạy làm người. Rồi những bài học lịch sử trên bục giảng ở trường tư thục Thăng Long... 

Ông muốn nói rằng lịch sử là tri thức tạo nên tư cách của một con người có ý thức về xã hội. Năm 1998. Ông cho phép tôi được có mặt trong buổi ông cùng gia đình tiếp con trai cố Tông thống Mỹ J.Kennedy. Hôm đó tôi thực sự nhận ra phong cách của một ông thầy dạy sử. Châm rãi và mạch lạc, ông nói với anh bạn trẻ tuổi tác cách ông đúng một nửa thế kỷ về lịch sử mối quan hệ Việt-Mỹ. 

Ông nói về những mối giao lưu đầu tiên giữa hai xứ sở cách nhau một đại dương mà vị tổng thống từng là người khởi thảo Tuyên ngôn độc lập Mỹ đã say mê các giống lúa ở Đàng Trong của Đại Việt, đến mối quan hệ Việt - Mỹ khi còn là đồng minh chống phát xít Nhật. 

Ông chỉ tấm ảnh chụp chung với Bác Hồ treo trên tường nhà mình mà nói rằng: “Tấm ảnh kia mấy người bạn đồng minh Mỹ chụp cho tôi”... Hàm ý vị đại tướng đánh bại quân xâm lược Mỹ muốn nói với những người Mỹ trẻ tuổi rằng quan hệ giữa hai nước không chỉ có những trang sử đen tối của chiến tranh, và trang sử đang được viết tiếp phải là những trang sử tốt đẹp. Anh con trai của cố tổng thống Kennedy rất cảm động khi nghe vị đại tướng gợi lại hình ảnh khi cậu ta mới 4 tuổi đã dự đám tang cha của mình bị ám sát, và anh ta nói rằng những gì nhận được sau chuyến đi thăm VN và đặc biệt là trong buổi gặp đại tướng sẽ rất có ích cho bước đường sắp tới khi anh ta dự định bắt đầu bước vào chính trường... 

Tôi cũng được quan sát từ khoảng cách rất gần hai cuộc tiếp kiến giữa đại tướng với cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ McNamara ở Hà Nội (1995 và 1997). Tính thuyết phục của vị đại tướng VN đối với một nhân vật mà nước Mỹ từng tôn sùng là một “bộ óc điện tử” chính là trọng lượng của những bằng chứng lịch sử đanh thép và thấm thía. Ông không quên từng chi tiết nhưng luôn đặt mọi lý lẽ của mình khớp với những gì lịch sử đã lên tiếng. 

Khi nói chuyện với chúng tôi, những người làm công tác sử học hay đặc biệt là với giới trẻ, ông rất hay nhắc đến câu diễn ca mộc mạc của Bác Hồ: “Dân ta phải biết sử ta...”. Ông kể rằng đứng trước khả năng phải bắt buộc cầm súng đánh thực dân, Bác Hồ sai người đi tìm cuốn Việt Nam sử lược của Lệ Thần Trần Trọng Kim, khi đó là cuốn sách duy nhất biên soạn mạch lạc về lịch sử nước nhà để trao cho các vị lãnh đạo cuộc kháng chiến đọc. Không chỉ chí khí của người xưa mà nhiều bài học về cách đánh và cách thắng của ông cha chúng ta đem lại những tri thức rất bổ ích cho cuộc chiến đấu ở thế kỷ 20. 

Khác với nhiều nhà hoạt động cách mạng khác, khi buông dần những công việc chính trường, ông thật sự dành tâm lực cho việc tổng kết lịch sử và lấy chính trải nghiệm của mình để tìm ra những bài học. 

Không kể tới những công trình chính luận đóng góp vào tổng kết sự nghiệp cách mạng mà ông là một yếu nhân, đặc biệt là tổng kết chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc mà ông là tổng tư lệnh, đại tướng Võ Nguyên Giáp dành rất nhiều công sức để viết hồi ức của mình, điều mà mọi chính khách hiện đại đều làm. Nhưng khác mọi người, ông viết hồi ức với tất cả tình tiết riêng tư, kể cả những rung động tình cảm của mình nhưng lại để nói đến cả một dân tộc, một thời đại và một con người mà ông luôn coi là người thầy vĩ đại của mình: Chủ tịch Hồ Chí Minh. 

Viết lịch sử hay hồi ức ông đều luôn đặt lên hàng đầu tính trung thực. Ông có cả một “bộ tham mưu” là những người hoạt động khoa học và thực tiễn trong và ngoài quân đội sẵn sàng góp ý kiến, sưu tập tư liệu cho ông. Một tinh thần tập thể cao cộng với một trí tuệ lớn lại luôn cầu thị của ông làm cho các tác phẩm ký tên ông trở thành những công trình hoàn chỉnh và có phong cách không trộn lẫn. 

Viết sử ông luôn luôn lấy sự đoàn kết là mục tiêu như chính trong thực tiễn cách mạng. Tôi không quên một kỷ niệm: những chương đầu của cuốn sách Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng được ông cho phép đăng trên tạp chí Xưa & Nay của Hội Sử học VN (1995) trước khi sách công bố năm năm. Ở chương kết thúc ông điểm không thiếu một ai đã tham gia sự kiện lớn của lịch sử. Ông rất hài lòng khi chúng tôi chọn một tấm ảnh minh họa là lúc tổng tư lệnh chia tay tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng lên đường vào chiến trường. Hình ảnh hai vị tướng thân mật đứng bên một cây đào đang nở hoa làm ông rất hài lòng. Sau này khi sách in ông cũng tìm đúng tấm ảnh ấy dường như muốn nói lên một điều gì đó... 

Từ nhân dân mà ra, Những năm tháng không thể nào quên, Chiến đấu giữa vòng vây, Điểm hẹn Điện Biên... cho đến Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng là gần trọn vẹn cả đời ông. Từ Điện Biên Phủ (1954) đến đại thắng mùa xuân (1975) còn một khoảng trống mà ông sẽ phải lấp đầy. Cộng với những tác phẩm mang tính tổng kết về chiến thắng Điện Biên Phủ và tư tưởng Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp là một tác gia kiệt xuất đã để lại một di sản thật sự đồ sộ về thế kỷ 20 hào hùng đầy thử thách. Và chính thế kỷ ấy lại mang dấu ấn của ông như một trong những gương lớn nhất làm thay đổi lịch sử. 

Người nước ngoài khi đánh giá về đại tướng Võ Nguyên Giáp thường so sánh ông với những nhân vật lớn trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là lịch sử chiến tranh. Họ có sự tinh tế mà ít khi ta chú ý tới, ví như Bách khoa toàn thư của Mỹ khi nói về quân hàm của ông luôn viết rằng Võ Nguyên Giáp là “đại tướng 5 sao” để nói đến một phẩm hàm tột đỉnh, mặc dù trên vai ông luôn luôn là quân hàm mang bốn ngôi sao năm cánh như nhiều vị đại tuớng VN khác. Giới sử học VN tự hào có một vị tổng tư lệnh là chủ tịch danh dự hội nghề nghiệp của mình.

Hôm ấy-một ngày cuối tháng 2-1954-chiếc xe cuối cùng của đơn vị chúng tôi vừa ngụy trang xong thì trời cũng đã hửng sáng. Mọi người tranh thủ chợp mắt để lấy sức tối còn đi tiếp. Các đồng chí quản lý, anh nuôi thì tranh thủ đào bếp Hoàng Cầm để lo bữa ăn cho đơn vị.

Suốt cả đêm căng thẳng mệt mỏi, phải tranh chấp từng đoạn đường với “con đầm già” (loại máy bay trinh sát cánh quạt của Pháp hồi đó mà cánh lính nhà ta hay gọi là “con đầm già”). Cứ hễ nó lượn vòng lại thì phải tắt máy, tắt đèn, đứng chờ nó lượn sang vòng khác mới đi tiếp… Khi gặp một đoạn đường bị bom làm sụt lở hoặc đường đèo quá hẹp, chúng tôi cứ phải chờ xe bên kia đèo sang hết mới đi được. Suốt đêm căng thẳng vất vả chỉ đi được mấy chục ki-lô-mét trên tuyến đường trọng điểm này, để tối còn kịp đi tiếp vào giao hàng cho phía trước. 

Đơn vị chúng tôi vận chuyển xăng, nên khi đến chỗ giấu xe phải hạ 12 phuy xăng trên xe xuống lăn đi cất giấu phân tán ở các hốc đá, ngách đất và ngụy trang cả xe và hàng rồi mới yên tâm ngả lưng chợp mắt được… Đang lúc mơ màng, tôi bỗng nghe có tiếng quát tháo ầm ĩ từ phía mấy chiếc xe giấu ngoài bìa rừng: “Đoàn xe nào đây? Ai lái xe này? Ai chỉ huy?”. 

Chỉ nghe tiếng quát, không nghe tiếng trả lời đáp lại. Chắc anh em mình sợ nên không dám lên tiếng chăng? Tôi nghĩ vậy và nhổm dậy nhìn về phía có tiếng quát. Đúng là ông Đinh Đức Thiện, Cục trưởng Cục Vận tải rồi! Ông đang đi về phía xe tôi, vừa đi vừa quát tiếp: “Chúng nó đâu cả rồi? Dậy ngụy trang lại mau, hay để máy bay địch ném bom đốt trụi cả khu rừng này?”. 

Chuyến này đến lượt đơn vị mình “ăn” kỷ luật đây! Tôi thầm nghĩ vậy và sẵn sàng để chống đỡ những lời quát tháo của ông. Ông đi thẳng đến trước mặt tôi và hỏi: “Ai lái xe này?”. Ông nhìn tôi vẻ ngờ ngợ dường như đã gặp tôi ở đâu rồi. Chắc ông nhớ lại gần 4 năm trước (tháng 5-1950) khi chúng tôi về Cục Vận tải gặp ông để nhận công tác. Tôi nghĩ vậy và trả lời ông: 

- Báo cáo, tôi lái xe này ạ! 
Ông tỏ vẻ giận dữ, bực bội, khó chịu, cau có nhìn tôi và chất vấn: 
- “Ngụy trang như thế này à? Đi từ xa đã nhìn rõ cả mấy bánh xe”. 
Tôi bình tĩnh chống chế: 
- Máy bay trên trời nhìn xuống thì thấy thế nào được cả bánh xe như người đi bộ nhìn thẳng từ ngoài vào ạ? 

Tôi tưởng “lý lẽ” của tôi được ông chấp nhận, nhưng không ngờ tôi lại làm ông giận dữ thêm: “Lại còn cãi à! Có đi ngụy trang lại không hay muốn ăn kỷ luật? Ai chỉ huy đơn vị này thì bảo nó đúng 13 giờ vào Binh trạm kiểm điểm và nhận kỷ luật…”. 

Ông nói xong rồi bực bội bỏ đi ngay khiến tôi không kịp giải trình gì thêm nữa. Tôi đã biết tính ông ngay từ hôm đầu tiên về nhận công tác tại Cục Vận tải (5-1950) nên nghĩ là tuy ông nóng thế thôi nhưng ông nhắc nhở như vậy là đúng! Khi nghe tiếng quát tháo ầm ĩ, anh em toàn đơn vị cũng tỉnh dậy cả và được chứng kiến cuộc “đối thoại” ngắn ngủi và căng thẳng giữa tôi và ông – người nổi tiếng là nóng như lửa. 

Không ai bảo ai, mọi người tự động đi ngụy trang lại xe và xăng. Cả đơn vị ái ngại cho tôi về việc chiều nay phải vào Binh trạm nhận kỷ luật. 

Buổi chiều hôm ấy, cả đơn vị tranh thủ kiểm tra kỹ thuật và chuẩn bị xe, rồi hội ý rút kinh nghiệm đồng thời bồn chồn chờ đợi kết quả tôi vào Binh trạm gặp cấp trên. 

Thế rồi đúng 13 giờ tôi vào đến Binh trạm bộ. Lúc này tôi được biết thêm là đồng chí Đinh Đức Thiện và một số cán bộ đi kiểm tra công tác chuẩn bị hậu cần chiến dịch trên toàn tuyến và hôm nay đến tuyến Binh trạm này. Cán bộ các đơn vị trong khu vực thuộc tuyến Binh trạm về họp đông đủ. Chiều nay không khéo đơn vị mình được “bêu danh” giữa “chốn ba quân” này đây! Tôi nghĩ vậy và lặng lẽ đi vào phòng họp. Không ngờ vừa nhìn thấy tôi, Ông lại quát tiếp: 

- Cán bộ chỉ huy đâu mà lái xe phải đi họp thay? 
- Báo cáo, tôi là chỉ huy đơn vị mà sáng nay đồng chí đến kiểm tra đấy ạ! 
Ông bị bất ngờ về câu trả lời của tôi, ngạc nhiên hỏi thêm: 
- Đồng chí là lái xe cơ mà? 
- Vâng! Vì chiều qua khi đoàn xe chuẩn bị lên đường thì có thông báo đồng chí nào trong đơn vị là chiến sĩ thi đua (CSTĐ) năm 1953 thì quay về Cục họp tổng kết. Vì đơn vị không có lái xe dự bị, nên tôi đã lái thay cho đồng chí lái xe CSTĐ được về Cục họp. Chính chiếc xe mà sáng nay đồng chí đi từ xa đã nhìn rõ cả bánh xe đấy ạ. 

Ông nhìn kỹ tôi một lần nữa và hỏi: “Ai để các đồng chí đói mà gầy gò, hốc hác, xanh xao thế này”. 

Nghe giọng nói, cử chỉ lúc này của ông, tôi biết ông đang xúc động. Đây cũng là một điều hoàn toàn bất ngờ đối với tôi, vì thái độ ân cần, tình cảm của ông khác hẳn với sáng nay khi ông đến kiểm tra đơn vị: 

- Báo cáo đồng chí! Tôi thong thả trình bày – Chúng tôi đã thức suốt đêm trên đường cả tháng nay rồi. Ban đêm thì căng thẳng vì đường đèo dốc chật hẹp, khó đi, trên trời thì máy bay thường xuyên bay lượn mà cái lo nhất là kế hoạch vận chuyển lần này lại chở xăng phuy, nếu một xe bị trúng đạn là có thể cháy cả đoàn xe. Ban ngày thì chúng tôi chỉ chợp mắt được một lúc lại phải dậy để chuẩn bị cho chuyến đi tiếp, vả lại máy bay cứ vè vè trên đầu, nằm không yên nên anh em vừa căng thẳng, mệt mỏi, vừa thiếu ngủ hàng tháng nay ạ. 

Ý kiến trình bày của tôi đã làm cho ông-vốn tính tình nóng nảy-mà lúc này xúc động ngồi nghe tôi nói… Ông ân cần dặn dò tôi phải chăm lo sức khỏe cho anh em, chiến dịch còn dài ngày, và nhắc nhở anh em dù vất vả mệt mỏi, căng thẳng cũng không được coi thường địch, phải ngụy trang xe, hàng chu đáo nhất là xăng cất giấu xa nơi giấu xe. Nói xong, ông ra lệnh cho chỉ huy Binh trạm bắt con lợn to nhất trong chuồng và cử người khiêng ra đơn vị bồi dưỡng cho anh em lái xe. 

Tôi ngồi họp mà cứ miên man suy nghĩ về trách nhiệm và tình nghĩa của ông đối với chúng tôi. Mới sáng nay ông còn giận dữ quát tháo ầm ĩ cả bìa rừng, thế mà bây giờ lại nhẹ nhàng bảo ban tôi như vậy, và còn bồi dưỡng cho anh em lái xe cả con lợn. Ôi! Phong cách thật đáng quý của chỉ huy cấp trên-đối với công việc thì dứt khoát nghiêm túc, nhưng đối với quan hệ đồng chí đồng đội, cấp trên cấp dưới… thì nhân ái nghĩa tình như anh em trong một gia đình. 

Họp xong, trên đường về tôi vừa đi vừa xúc động suy nghĩ cho đến khi về đến đơn vị. Lúc này, anh em đang chuẩn bị xe và sốt ruột chờ tôi đi họp về. Từ xa, có đồng chí đã nhìn thấy 2 người khiêng một con lợn khá nặng, oằn cả đòn, vất vả theo sau tôi. 

Chuyện gì lạ thế này? Ai nấy đang xì xào bàn tán về kỷ luật mà bây giờ lại thấy tôi đi họp về có cả người khiêng lợn đi sau? Anh em chạy lại vây quanh tôi và hồi hộp chờ nghe tôi thông báo kỷ luật… Tôi-nét mặt vui tươi phấn khởi-nói: 

- Chúng ta nhận kỷ luật con lợn. 
Mọi người chưa hết ngạc nhiên, tôi nói tiếp: “Giao cho các đồng chí quản lý, anh nuôi kỷ luật con lợn ngay buổi chiều này. Đồng chí lái xe và phụ xe nào chuẩn bị xong xe rồi thì đến giúp anh nuôi một tay. Bây giờ đã hơn 3 giờ, cần khẩn trương giải quyết xong trước 5 giờ chiều để còn kịp lên đường đi tiếp”. 

- Ôi, tình huống thật bất ngờ, không bị kỷ luật mà còn được cấp trên bồi dưỡng cho con lợn-Cả đơn vị reo lên sung sướng. 

- Này! Đừng có tưởng là cứ ngụy trang sơ sài để lần sau lại nhận kỷ luật con lợn nữa đâu, mà lúc đó là kỷ luật con người đấy – Tôi nhắc nhở và uốn nắn đôi lời như vậy. 

Có tiếng nói to đáp lại: “Vậy lần sau chúng tôi sẽ ngụy trang tốt hơn để được nhận kỷ luật con lợn to hơn ạ”. Cả đơn vị cười xòa, vui vẻ rồi mỗi người một việc khẩn trương chuẩn bị để tối còn lên đường đi tiếp vào tuyến trước của chiến dịch. 

Hồi ký tập thể - dấu ấn của một nhân cách 

Nói đến dấu ấn nơi ông thì hầu như ai cũng biết đó là một nhà chỉ huy kiệt xuất, một nhà nghiên cứu khoa học và nghệ thuật quân sự. Nhưng Hoàng Minh Thảo còn để dấu ấn điển hình một con người nhân hậu đầy tình nghĩa. 

Sau chiến thắng 1975 ít lâu, cấp trên có đề nghị tư lệnh các mặt trận chủ chốt xúc tiến làm hồi ký chiến tranh. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân gợi ý tôi - lúc đó vừa tốt nghiệp Học viện Quân sự - chấp bút giúp Tướng Hoàng Minh Thảo, vị Tư lệnh nổi tiếng của chiến dịch Tây Nguyên có trận đột phá mở đầu Buôn Ma Thuột. Buôn Ma Thuột không chỉ là trận đột phá chiến dịch mà như sau này cho thấy, nó cũng chính là đòn đột phá chiến lược: Cửa mở tung từ đây để quân ta một mạch tiến đến đích cuối cùng Sài Gòn. 

Giúp việc ông, tôi đã không chỉ một lần hỏi: Ai quyết định đánh Buôn Ma Thuột? Phải có một người cụ thể đưa ra ý kiến đầu tiên chứ? Nhưng với câu hỏi tưởng như rất dễ ấy tôi đã không thể vượt qua. Bao giờ ông cũng thong thả bảo, đó là ý kiến tập thể, không với một chỉ dấu khiêm tốn nào cả. 
Sau này, khi được biết không ít nhà chỉ huy, trong hồi ký của mình hay qua một kênh nào đó, đã cho thấy rằng chính họ là người đã "tiến cử" Buôn Ma Thuột, tôi thông báo với ông. Vẫn từ tốn, ông nói: "Thế à? Nó chỉ càng giúp lý giải câu hỏi tại sao chúng ta thắng Mỹ". 

Rồi sau này nữa tôi mới đọc thấy trong cuốn hồi ký gần nhất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Trong một lần làm việc với anh Hoàng Minh Thảo, với nhân quan một nhà nghiên cứu khoa học quân sự, anh nêu ý kiến: "Khi đã chọn hướng chiến lược Tây Nguyên thì trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột vì đây là thị xã lớn nhất, là nơi hiểm yếu và cũng là nơi địch sơ hở nhất. Khó khăn còn lại phải vượt qua là thiếu đường hành quân và thiếu nước…". Tôi rất tán thành". ("Tổng hành dinh trong Đại thắng Mùa Xuân, NXB QĐND, năm 2000). 

Lại nói về hồi ký của ông. Tôi ban đầu háo hức với công việc bao nhiêu thì sau đó thất vọng bấy nhiêu. Cả với hồi ký ông cũng bảo viết sao để đây sẽ là một hồi ký... tập thể! Tôi cũng chẳng biết viết sao nữa khi ông chỉ say sưa nói đến những phát triển về nghệ thuật quân sự (điều mà tôi đã đọc nhiều lần trong các sách của ông cũng như trong các tổng kết chiến tranh) và chấm hết. 

Nhưng ngay cả với điều này ông cũng không cho thấy đâu là những trăn trở tư duy, những vận động biện chứng, sự tiệm tiến và bùng phát, ở đâu, khi nào, tại sao, chứ đừng nói đến mạch chảy của cuộc đời là những hồn cốt tạo nên cái gọi là hồi ký, một loại hình văn học. Ông bảo những cái ấy ông không nhớ cụ thể, lâu quá quên rồi... Ông không muốn nói về mình. 

Phải bằng những con đường khác, cuối cùng tôi cũng chỉ hoàn thành giúp ông được một phần của hồi ký, mà là phần sau rốt (với phần này thì dễ thực hiện hơn vì vẫn còn nóng hơi thở chiến trường)(*). Mãi cho đến rất gần đây, qua sự chấp bút từng phần của nhiều người, cuốn Hồi ký của ông mới được hoàn thành với cái tên giản dị: "Chiến đấu ở Tây Nguyên". 

Nhưng bởi chính những nguyên nhân mà tôi đã đề cập, Hồi ký ấy đã bớt đi tính hấp dẫn vốn phải có của thể loại này - và nhất lại là Hồi ký của một vị tướng huyền thoại như ông. Đó là điều đáng tiếc nhưng mặt khác lại là dấu ấn của một nhân cách, nhân cách Hoàng Minh Thảo. 

Nói đến dấu ấn nơi ông thì hầu như ai cũng biết đó là dấu ấn một nhà chỉ huy kiệt xuất, dấu ấn một nhà nghiên cứu khoa học và nghệ thuật quân sự có tài và đầy tâm huyết, dấu ấn của một người lãnh đạo với những cư xử văn hoá… 

Nhưng có lẽ những người gần ông đều phải thừa nhận điều này, ở một phương diện dường như hoàn toàn khác, Hoàng Minh Thảo còn để dấu ấn điển hình một con người nhân hậu đầy tình nghĩa. Ông thương người, yêu dân. Bạn bè ông, cán bộ và chiến sĩ từng chiến đấu bên ông, đồng bào từng đùm bọc ông đều nói điều này: Hoàng Minh Thảo không quên một ai! Nhất là với những cảnh đời khó. 

Thương người , yêu dân

Ông không quên cả những người một thời đồng đội rồi vì một lẽ nào đó và vào một lúc nào đó, dường như bị ruồng khỏi xã hội như Đinh Công Niết, như Tạ Đình Đề. Hoàng Minh Thảo từng có một đồng đội vốn là một linh mục. Gia đình này trở nên cực kỳ bi đát khi người cha mất đi ít lâu thì cả hai người con đều bị tâm thần. 

Tướng Thảo không chỉ chạy xin vào trại để có được cơ hội chăm sóc, điều trị cho những người con này mà mười mấy năm nay, ông vẫn cố gắng đều đặn chu cấp thêm cho họ với đồng lương có hạn của mình. 
Tài Thầu, trong một gia đình ở Lạng Sơn đã đùm bọc cách mạng những năm tiền khởi nghĩa. Sau này con ông vì một tội nhỏ đã dính vòng lao lý trong lúc gia cảnh đang nhiều gian truân. Gia đình dường như đành buông xuôi. Biết chuyện, ông Thảo - lúc này tuổi đã cao, đi lại khó khăn - vẫn trực tiếp không chỉ một lần đến gặp địa phương, thuyết phục có lý có tình những người cầm cân công lý. Và người kia được trở về gia đình, bây giờ đang là một công dân tốt. Thử hỏi mấy ai trượng nghĩa như ông? 

Nguyên lang đạo xứ Mường Đinh Công Niết từng cảm kích thốt lên: "Nếu có sự đúng đắn ở người cộng sản thì đó là Hoàng Minh Thảo!" 

Cho đến bây giờ, Hoàng Minh Thảo vẫn xem tin tức qua chiếc tivi từ đời lâu lắm, vẫn nằm trên chiếc đệm nhàu có từ hơn ba chục năm nay, vẫn viết trên cái bàn nhỏ với chiếc ghế gỗ xoàng xĩnh, nhưng sự sẻ chia cho người khó hơn mình ở ông thì dường như khôn cùng. 

Anh Khang, người lái xe trung thành của ông từ nhiều năm nay nhớ mãi một kỷ niệm. Lần ấy, sau khi tham dự hội nghị tổng kết ở một địa phương phía Nam, đến Thanh Hóa ông ghé vào thăm gia đình một chiến sỹ công vụ đã nhiều năm gắn bó với ông hồi ở chiến trường. 

Gia đình người đồng ngũ này rất nghèo lại đang gặp bước khó khăn. Còn bao nhiêu tiền trong túi, ông lấy ra đưa hết. Vẫn áy náy, ông cởi chiếc áo còn mới đang mặc trên người nhất định đưa tặng khiến cả nhà quá cảm động và bối rối. Vài tháng sau, nhớ ngày sinh nhật của thủ trưởng, người lính công vụ năm xưa mang một con dê từ Thanh Hóa ra. Ông giữ lại nghỉ rồi lẳng lặng nói người nhà đem con dê đi bán. Hôm sau, khi người đồng đội cũ cáo từ trở về, ông đưa lại tiền bán dê cộng thêm gấp đôi nữa là tiền của ông, rồi bảo: Bữa trước trong túi không còn tiền. Lần sau đừng mừng ông to như vậy. Một nải chuối từ quê hương là tình nghĩa rồi... 

Những năm gần đây, nhiều lúc ông hay bần thần nghĩ ngợi. Cảm như mình bất lực. Chỉ một chuyện đất đai ở Tây Nguyên, ông cứ luôn hỏi thăm tin tức sao rồi. Ôi Tây Nguyên, nơi ông biết thế nào là đồng bào. Không có đồng bào, không có chiến thắng hôm nay. Ai nhớ, ai quên? 

Ông bảo: Ừ thì làm công nghiệp, ừ thì sản xuất lớn tập trung; ừ thì quy luật thị trường: Người có tiền vác đến mua đất, mua rừng, dân không tiền thì bán. Nhưng rồi sao? Phải gần dân, hiểu dân, từ lòng dân mà đề ra và điều hành chính sách. Tâm không ở ngước lên, tâm không ở nói nhiều. Nó ở trong đầu và trong tim ấy....
Hôm nghe tin nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt mất, ông trầm ngâm: "Buồn quá. Những người tận dân, tận nước như ông Kiệt, phải lâu lắm mới lại có một..."
Hôm nay thì ông cũng đã đi rồi. Phải bao lâu mới lại có một người như ông? 

Giáo sư, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo: 88 tuổi vẫn trăn trở "quân cơ, quốc sự" 

14 giờ chiều ngày 26-8-2008, tôi được Thượng tướng Hoàng Minh Thảo tiếp tại nhà riêng. Tôi bày tỏ nguyện vọng muốn được phỏng vấn ông về con đường binh nghiệp, về nhân tình thế thái và cả những câu chuyện đời thường của một vị tướng lẫy lừng trận mạc, đồng thời cũng là một nhà lý luận quân sự nổi tiếng của Việt Nam. Ông cười thật hiền, rồi chậm rãi trả lời những câu hỏi của tôi. Cuối buổi chiều, ông tiễn tôi ra về và hẹn sẽ tiếp tục câu chuyện sau khi tôi đi công tác Bắc Kạn trở về. Vậy mà... ông đã đột ngột đi xa !
Ngày 23-8,Ban liên lạc cựu chiến binh Trung đoàn 95 - Tây Nguyên khu vực miền Bắc tổ chức gặp mặt tại Hội trường Học viện Quốc phòng nhân kỷ niệm 63 năm ngày truyền thống (23-8-1945-23-8-2008). Hàng trăm cựu chiến binh từ 18 tỉnh, thành phố khu vực miền Bắc về dự đã rất phấn khởi khi được đón Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, nguyên Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên đến dự. Tranh thủ thời gian chờ đợi trước khi bắt đầu buổi gặp, tôi xin phép được thưa chuyện cùng Thượng tướng và trình bày: "Cháu là phóng viên của báo Quân đội nhân dân, được "gặp ông" qua rất nhiều tác phẩm lý luận, nghệ thuật quân sự nhưng mãi hôm nay mới được gặp trực tiếp. Có rất nhiều vấn đề mà thế hệ trẻ trong quân đội muốn hỏi, ông có thể dành thời gian cho cháu không ?". 

Thượng tướng nheo mắt, đoạn ông ghé sang Trung tướng Nguyễn Quốc Thước đang ngồi ghế bên cạnh, nói vui: "Nhà báo trẻ của quân đội vẫn quan tâm đến cánh già đấy nhé"; rồi ông bảo tôi: "Đồng ý. Chiều 26-8, tôi rảnh, anh có thể đến nhà riêng của tôi ở 69 - Phùng Chí Kiên, ta sẽ nói chuyện cho được nhiều".
Tôi hơi lo, vì theo kế hoạch hàng tuần, chiều 26-8 là thứ 3, giao ban phòng, nếu xin nghỉ thì e không tiện. Nhưng nghĩ đến chuyện được nghe Thượng tướng, nguyên Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, tác giả cuốn hồi ký "Chiến đấu ở Tây Nguyên" mà tôi đã đọc nhiều lần - kể chuyện, tôi đã nhận lời hẹn. Thật may là ngay sau đó, tôi được thông báo là chiều 26-8, hoãn giao ban vì phòng tập trung lo một bài viết quan trọng đăng vào ngày hôm sau. 

Đúng 14 giờ chiều 26-8, tôi bấm chuông, đích thân Thượng tướng ra mở cửa. Tôi hơi bối rối vì không thể nghĩ rằng, vị tướng có quân dung oai phong với đôi "lông mày Quan Vũ" được truyền tụng khắp các thế hệ bộ đội lại giản dị, gần gũi đến thế. Tôi quan sát nhanh phòng khách: một bộ bàn ghế cũ nhưng được lau chùi cẩn thận, hai tủ sách đầy, được sắp xếp rất gọn. Chính giữa căn phòng treo Bằng chứng nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh do Chủ tịch nước ký tặng ông về Cụm công trình nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Được ông cho phép, tôi gọi ông là "ông" và xưng "cháu" cho tiện trao đổi. Câu phỏng vấn đầu tiên, tôi hỏi: "Ông vừa là một người trực tiếp chỉ huy chiến đấu, vừa là một nhà lý luận quân sự; những trận đánh nào đã góp phần hình thành nên tư duy lý luận nghệ thuật quân sự Hoàng Minh Thảo ?". 

Có lẽ, ông hơi ngạc nhiên về câu hỏi của tôi nên ngẫm ngợi hồi lâu. Tôi nhớ có lần đọc trong cuốn "Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng", Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Trong một buổi làm việc, anh Hoàng Minh Thảo với nhãn quan một nhà nghiên cứu khoa học quân sự đã nêu khi đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột, vì đây là một thị xã lớn nhất, là nơi hiểm yếu và cũng là nơi địch sơ hở nhất và có khả năng phát triển xuống đồng bằng". "Thắng địch bằng mưu, bắng kế" là luận điểm ông theo đuổi trong suốt cuộc đời làm tướng. Trận đánh nào, ông cũng đề cao mưu kế lừa dụ địch, nên để lựa chọn những trận đánh điển hình, góp phần tạo nên lối tư duy quân sự của ông, có lẽ hơi khó. Ông cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi bằng câu trả lời đi thẳng vào nội dung câu hỏi: 

"Sau mỗi chiến dịch, tôi đều tự mình nghiên cứu, đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm về cách đánh. Một số chiến dịch điển hình là: Chiến dịch Đắc Tô mùa đông năm 1967. Đây là chiến dịch áp dụng chiến thuật "vận động tiến công kết hợp chốt" đến độ hoàn thiện. Ta cho đơn vị pháo binh đánh khêu ngòi dụ địch, địch cho bộ binh ra đánh, kết hợp dùng máy bay đổ quân xuống phía sau đội hình đơn vị khêu ngòi để bao vây tiến công. Lực lượng đổ bộ đường không này bị ta mai phục, tiến đánh; chúng lại đổ tiếp quân vào sâu hậu phương ta đánh phá hòng cắt đứt liên hệ giữa bộ đội đang chiến đấu với hậu phương. Ta tính trước được điều này nên đã tiến công chủ động. "Vận động tiến công kết hợp chốt" là chiến thuật giúp bộ đội ta đánh liên tục, dài ngày dưới phi pháo ác liệt của địch. Đây là lần đầu tiên, ta đã dùng mưu lừa được 2 lữ đoàn quân xâm lược và một lữ đoàn quân Nguỵ ra nơi chọn sẵn để tiêu diệt". 

Tiếp đó, ông kể cho tôi nghe về trận Đắc Xiêng năm 1970. Ta dùng kế gọi địch ở Tân Cảnh ra cứu, rồi tổ chức đánh quân cứu viện. Ta tiêu diệt hoàn toàn một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 42 của địch, bắt sống chỉ huy, thu toàn bộ vũ khí. Tên Trung đoàn trưởng của địch ngồi trên máy bay thấy cảnh quân mình bị đánh mà chịu bó tay vì ta vây tròn, vây chặt cả 4 mặt, nên địch không thoát vây được. Ông bảo: "Từ trận này, tôi cùng đồng đội hình thành chiến thuật "vận động bao vây tiến công liên tục", lúc ban đầu, chúng tôi gọi là "bao vây công kích". Đây là một hình thức chiến thuật mới"... 

Để thêm phần tự tin trước khi đến gặp Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, tôi đã đọc lại cuốn hồi ký "Chiến đấu ở Tây Nguyên", đồng thời đọc thêm hơn 20 bài viết của ông về nghệ thuật quân sự. Sau đó vào mạng Google, gõ chữ "Hoàng Minh Thảo", thấy có tới gần 14.000 tin, bài tìm thấy sau 0,25 giây; tôi được biết thêm khá nhiều thông tin về ông. Vậy mà, khi nghe ông kể tỷ mỷ, phân tích kỹ càng nghệ thuật tác chiến của từng trận đánh, tôi vẫn bị bất ngờ về trí nhớ minh mẫn đáng kinh ngạc của vị tướng đã vào tuổi 88. Phu nhân của thượng tướng cũng cùng ngồi nghe, thấy ông dừng lại để nói kỹ cho tôi về tình hình địch, địa hình, mưu kế lừa dụ địch...Bà cười rất tươi và nói nhỏ với tôi: "Anh nghe thấy cái gì cần thì bảo ông kể tiếp, chứ ngồi nghe ông phân tích thì biết bao giờ mới hết câu chuyện". Tôi biết là hàng ngày, vẫn có rất nhiều tướng lĩnh, cán bộ cấp cao, học viên của Học viện Quốc phòng đến xin ông "chỉ giáo" thêm kiến thức nghệ thuật quân sự để phục vụ cho nhiệm vụ học tập, công tác của họ. Tất nhiên là ai cũng muốn nghe ông kể kỹ về cách cài thế chiến lược trong chiến dịch giải phóng Tây Nguyên năm 1975 do ông làm Tư lệnh. Khi tôi hỏi ông về các mưu kế trong chiến dịch này, ông cười sảng khoái, nói rất to: "Lịch sử đánh giặc của dân tộc ta là lịch sử đánh và thắng giặc bằng mưu kế. Mưu cao nhất là mưu lừa địch, kế hay nhất là kế điều địch. Điều địch để giành chủ động mà chủ động luôn là mạch sống của tác chiến. Đến đầu năm 1975, thế và lực của chúng ta đã mạnh lên rất nhiều nên Quân ủy Trung ương đặt ra yêu cầu tiêu diệt chiến lược với phương châm: đánh chỗ yếu, tránh chỗ mạnh, nhưng chỗ yếu phải là nơi đầu não của địch. Nhìn vào chiến trường miền Nam lúc bấy giờ thì rõ ràng rừng núi là nơi địch yếu hơn, do vậy ta chọn Tây Nguyên, và chọn đánh vào một trong những vị trí đầu não của địch ở Tây Nguyên là Buôn Ma Thuột". 

Giọng nói của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo trầm mà uy. Đấy là suy nghĩ của tôi vì nghe ông nói, tôi cảm nhận được chất " thép" của vị Tư lệnh nhưng cũng rất trầm hùng, ấm áp, truyền cảm, dễ đi vào lòng người. Có lẽ, sự kết hợp giữa phẩm chất của một vị tướng trận mạc và một nhà sư phạm mẫu mực đã làm nên điều đó. Bằng chất giọng đó, ông giúp tôi hình dung về thế trận trong chiến dịch giải phóng Tây Nguyên. "Ta chủ trương kìm chân hai sư đoàn quân ngụy ở lại đồng bằng, bằng cách điều Sư đoàn 2 về mặt trận Tây Huế và Sư đoàn 4 về mặt trận Đồng Nai. Thế là địch buộc phải hút theo hai sư đoàn này. Về phía ta, để cho chắc thắng, ta tăng cường cho Tây Nguyên 2 sư đoàn, trước đây đã có 3 sư đoàn, tổng cộng là 5 sư đoàn để tạo thành một “quả đấm chiến lược” áp đảo. Biết tập trung binh lực, và có khả năng để tập trung binh lực cho những đòn đánh chiến lược chính là một trong những điều then chốt nhất của nghệ thuật cầm quân... Ta đã nghi binh lừa địch ở Plâyku; tập trung lực lượng đánh Buôn Ma Thuột. Địch đánh hơi Buôn Ma Thuột có dấu hiệu bị tấn công vội điều Trung đoàn 45 về Buôn Ma Thuột nhưng ta lại đánh mạnh Plâycu nên địch lại phải kéo “thằng 45” về Plâycu ứng chiến. Hành động lừa địch này phải rất bí mật. Chia cắt chiến lược và chiến dịch Tây Nguyên thành các cụm cô lập, không ứng cứu được nhau. Triển khai mưu kế này ta nghi binh bằng làn sóng điện và cho một Sư đoàn đánh vào Plâyku. Đòn này rất có giá trị..." 

Dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh Hoàng Minh Thảo, ta đã giải phóng Buôn Ma Thuột trong vòng 30 tiếng đồng hồ. Thấy tôi hiểu được đôi chút về chiến dịch này, Thượng tướng rất hài lòng. Rồi ông tranh thủ "chuyển" chủ đề câu chuyện sang các vị tướng khác với tư duy tác chiến riêng của từng người; rồi những kỷ niệm từ thời trai trẻ, kỷ niệm về tình yêu chung thuỷ mà "bà ấy dành cho tôi"...Bất chợt, ông bảo: "Tôi nói thế đủ chưa, nhà báo". Tôi thưa rằng, còn nhiều điều muốn hỏi lắm, nhưng thời gian ông dành cho đã nhiều nên chỉ hỏi thêm vài câu nữa. Trước hết, tôi xin ông dành cho thế hệ sĩ quan trẻ trong quân đội chúng tôi một lời khuyên trên con đường binh nghiệp ! Ông suy nghĩ một chút rồi bảo: "Đời tôi chọn binh nghiệp làm nghề là do đòi hỏi khách quan của đất nước. Khi mất nước, toàn dân làm lính để đứng dậy đánh giặc, cứu nước. Còn thế hệ của các bạn bây giờ, cũng như các cháu của tôi thôi, các bạn có nhiều cơ hội chọn lựa nghề nghiệp. Nhiều bạn không chọn nghiệp binh là lẽ thường của một đất nước có hoà bình. Còn nếu đã chọn thì phải say mê, phải thực sự tiến lên chuyên nghiệp, thực sự giỏi. Dẫu có là chiến tranh công nghệ cao thì cũng phải chuẩn bị lực lượng chu đáo, công nghệ nào, kỹ thuật nào thì cũng phải "đánh nhau bằng cái đầu", phải biết mưu mẹo lừa dụ địch". 

Dừng một chút, ông hỏi tôi có hay đi cơ sở không, hay dự diễn tập với bộ đội hay không. Tôi báo cáo lại với ông về một số cuộc diễn tập gần đây mà tôi tham gia ở các đơn vị. Ông sôi nổi hẳn lên, nói rằng: "Bộ đội thời bình thì cách luyện quân tốt nhất là phải diễn tập. Gặp anh em đang tại ngũ, tôi cứ nhắc đi nhắc lại điều này nhưng dường như ở một số đơn vị, việc diễn tập trở nên ngày càng thưa. Tôi hỏi nguyên nhân thì một số anh nói rằng, diễn tập bây giờ tốn kém quá, lấy đâu kinh phí để lo xăng dầu, vật chất mà diễn tập cho nhiều". 

Nói đến đây, ông dừng lại, gương mặt thoáng ưu tư rồi ông nói: 

"Cái chuyện thiếu thốn thì đâu phải bây giờ mới xảy ra. Thời chúng tôi có khi còn khó hơn ấy chứ. Nhưng nếu vì nhiệm vụ, vì chất lượng huấn luyện thì người chỉ huy phải nghĩ ra cách. Tôi lấy ví dụ: Bây giờ toàn quân đang thực hiện Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Năm nay thì tập trung vào thực hành tiết kiệm. Vậy thì tại sao mỗi đơn vị không đặt ra chỉ tiêu năm nay tiết kiệm lấy ngần này tiền, rồi lấy tiền ấy phục vụ cho diễn tập. Học Bác Hồ là học cách làm. Mà Bác thì luôn đặt ra mục tiêu cụ thể cho mỗi công việc, rồi từ mục tiêu ấy mới nghĩ đến phương pháp để đạt mục tiêu. Đằng này, theo dõi một số nơi tổ chức Cuộc vận động, tôi thấy lãnh đạo họ cứ hô hào "hãy làm theo, hãy tiết kiệm" nhưng không nói rõ cần tiết kiệm bao nhiêu, số tiền tiết kiệm được dùng vào việc gì, chỗ nào có thể tiết kiệm..."

Câu chuyện giữa Thượng tướng và tôi lại xuay sang một chủ đề mới. Đến khi đồng hồ treo tường điểm 5 giờ chiều, ông vẫn nói rất say nhưng tôi xin tạm dừng vì sợ ông mệt. Ông tặng tôi một bài viết có tiêu đề "Về phương pháp luận nhỏ đánh lớn, ít địch nhiều", đánh máy khổ A4 rất đẹp. Đó là bài báo ông vừa viết xong theo "đơn đặt hàng" của một Tạp chí. Tiễn tôi ra về, ông hẹn tiếp tục câu chuyện vào một buổi khác. Tôi thưa: "Ngày mai, cháu có kế hoạch đi công tác ở Bắc Kạn chừng một tuần. Sau khi về, cháu sẽ gọi lại cho ông". Ông gật đầu, nháy mắt với tôi thay cho câu trả lời... 

Chiều 8-9, trời đã sang thu se se, đi công tác về, tôi đột ngột nghe tin ông ra đi. Tràn ngập lòng tôi nỗi da diết nhớ ông. Thế là từ nay, nền khoa học-nghệ thuật quân sự Việt Nam trống vắng một cây đại thụ. Xin ghi lại những dòng này, thay nén nhang, bày tỏ lòng ngưỡng mộ, khâm phục của thế hệ chúng tôi với ông: Thượng tướng Hoàng Minh Thảo - Một người "lính Cụ Hồ" mẫu mực - Một vị tướng trận mạc can trường, khả kính.

Sưu tầm

1 nhận xét:

Angelika nói...

Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple@gmail.com)