Tháng 4 năm 1995, hai mươi năm
sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc, Nhà xuất bản
Random (Random House) đã cho ra mắt bạn đọc Mỹ cuốn
sách: “Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những
bài học về Việt Nam” của cựu Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ Robert S. McNamara.
Sau gần 30 năm im hơi lặng tiếng, kể từ khi rời khỏi Lầu Năm Góc, ông cựu Bộ trưởng Quốc phòng McNamara, người đã tham gia trong Chính phủ của Tổng thống Kennơđi và Tổng thống Giônxơn đã buộc phải cho ra đời cuốn sách mà theo lời ông nói: “Đây là cuốn sách tôi định không bao giờ viết ra”. Nhưng rồi cuối cùng ông vẫn tin rằng cần phải viết ra. Và, ông đã lý giải điều này là vì “cảm thấy đau lòng khi chứng kiến sự chỉ trích cay độc và thậm chí là sự khinh miệt của rất nhiều người Mỹ nhận xét về các thể chế chính trị và những người lãnh đạo...”.
Trong cuốn sách của mình, lần đầu tiên sau bao năm trăn trở, bức bối, ông đã phải công khai thừa nhận rằng: “Chúng tôi ở trong các chính quyền Kennơđi và Giônxơn, tham gia vào các quyết định về Việt Nam... Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp”. Có thể nói rằng đây là lời thú nhận chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ. Cũng trong cuốn sách này, ông cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ còn nêu ra cụ thể những nguyên nhân dẫn tới thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam và những bài học nước Mỹ cần rút ra qua cuộc chiến tranh này. Chính vì vậy, ngay khi mới ra đời, cuốn sách đã gây chấn động dư luận Mỹ và trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất ở Mỹ trong những tháng đầu năm 1995.
Sau gần 30 năm im hơi lặng tiếng, kể từ khi rời khỏi Lầu Năm Góc, ông cựu Bộ trưởng Quốc phòng McNamara, người đã tham gia trong Chính phủ của Tổng thống Kennơđi và Tổng thống Giônxơn đã buộc phải cho ra đời cuốn sách mà theo lời ông nói: “Đây là cuốn sách tôi định không bao giờ viết ra”. Nhưng rồi cuối cùng ông vẫn tin rằng cần phải viết ra. Và, ông đã lý giải điều này là vì “cảm thấy đau lòng khi chứng kiến sự chỉ trích cay độc và thậm chí là sự khinh miệt của rất nhiều người Mỹ nhận xét về các thể chế chính trị và những người lãnh đạo...”.
Trong cuốn sách của mình, lần đầu tiên sau bao năm trăn trở, bức bối, ông đã phải công khai thừa nhận rằng: “Chúng tôi ở trong các chính quyền Kennơđi và Giônxơn, tham gia vào các quyết định về Việt Nam... Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp”. Có thể nói rằng đây là lời thú nhận chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ. Cũng trong cuốn sách này, ông cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ còn nêu ra cụ thể những nguyên nhân dẫn tới thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam và những bài học nước Mỹ cần rút ra qua cuộc chiến tranh này. Chính vì vậy, ngay khi mới ra đời, cuốn sách đã gây chấn động dư luận Mỹ và trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất ở Mỹ trong những tháng đầu năm 1995.
LỜI NÓI ĐẦU
Đây là cuốn sách tôi định không bao giờ viết ra. Mặc dù trong hơn gần một phần tư thế kỷ qua, người ta đã liên tục thúc ép tôi nói ra những quan điểm của mình về Việt Nam, nhưng tôi đã do dự vì sợ rằng mình có thể bị coi là kẻ vì động cơ cá nhân, tự bào chữa hoặc có ý đồ trả thù - điều mà tôi muốn tránh bằng mọi giá. Có lẽ, tôi do dự cũng còn là vì thấy quá khó khăn khi phải nhìn thẳng vào những sai lầm của chính mình. Song có cái gì đó đã làm tôi thay đổi thái độ và muốn nói ra. Không phải tôi đáp lại mong muốn đưa ra câu chuyện riêng của mình, mà là muốn nêu ra trước nhân dân Mỹ tại sao Chính phủ và những người lãnh đạo của họ đã xử sự như họ đã làm và chúng ta có thể học được gì từ kinh nghiệm đó.
Những cộng sự của tôi trong chính quyền Kennedy và Johnson là một nhóm người đặc biệt, họ là những bầy tôi giàu lòng yêu nước, đầy thiện chí, thông minh, trẻ tuổi và khoẻ mạnh của Hoa Kỳ. Tại sao nhóm người đó - “những người giỏi nhất và thông minh nhất” ấy - như sau này chúng tôi được biết đến trong cái cụm từ mỉa mai đầy nghĩa xấu - lại mắc sai lầm về Việt Nam?
Câu chuyện đó vẫn chưa được nói ra.
Nhưng tại sao lại bây giờ? Tại sao sau chừng ấy năm im lặng, nay tôi lại tin rằng tôi nên nói ra? Có rất nhiều lý do; lý do chủ yếu chính là vì tôi cảm thấy đau lòng khi chứng kiến sự chỉ trích cay độc và thậm chí là sự khinh miệt của rất nhiều người Mỹ nhận xét về các thể chế chính trị và những người lãnh đạo của chúng ta.
Có nhiều nhân tố góp phần dẫn đến tình trạng này: cuộc chiến tranh Việt Nam, vụ Warter Gate, các vụ bê bối và tình trạng tham nhũng. Nhưng, suy nghĩ kỹ tôi không cho rằng các nhà lãnh đạo chính trị của nước Mỹ đã bất lực hay không có ý thức trách nhiệm và không quan tâm đến lợi ích của những người dân đã bầu họ và trông cậy ở họ. Tôi cũng không cho rằng họ lại kém cỏi hơn các nhà lãnh đạo ở các nước khác hay các đồng sự của họ ở khu vực tư nhân. Tất nhiên, bản thân họ cho thấy còn xa mới đạt tới mức hoàn hảo, vả lại nhân vô thập toàn. Họ đã phạm sai lầm nhưng hầu hết đó là những sai làm chính đáng.
Đó là những gì làm cho tôi đến nay vẫn bối rối đến đau lòng khi bàn về Việt Nam. Tôi biết rằng tới hôm nay có nhiều nhà lãnh đạo chính trị và học giả ở Mỹ cũng như ở nước ngoài vẫn cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam đã thực sự giúp ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản lan truyền ở Đông và Nam Á. Một số người còn lập luận rằng cuộc chiến tranh Việt Nam đã đẩy nhanh việc kết thúc chiến tranh lạnh. Nhưng tôi lại còn biết rằng cuộc chiến tranh đó tàn phá nước Mỹ ghê gớm. Tôi không hề nghi ngờ điều đó. Không một chút nào. Tôi muốn nhìn lại Việt Nam với những nhận thức mới chứ, không hề muốn làm mờ đi những sai lầm trong đánh giá của bản thân tôi và của người khác, cùng cái giá quá đắt phải trả cho những sai lầm đó. Tôi muốn chỉ cho mọi người biết mức độ của các áp lực cũng như sự hiểu biết của chúng ta ở thời điểm đó.
Tôi muốn đặt Việt Nam trong toàn cảnh.
Chúng tôi ở trong các chính quyền Kennedy và Johnson, tham gia vào các quyết định về Việt Nam, đã hành động theo những gì chúng tôi coi là các nguyên tắc và truyền thống của dân tộc này. Chúng tôi đã ra các quyết định dưới ánh sáng của các giá trị đó.
Nhưng chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp. Chúng tôi mắc nợ các thế hệ tương lai trong việc giải thích tại sao lại sai lầm như vậy.
Tôi thực sự tin rằng chúng tôi đã mắc sai lầm không phải về nhận thức các giá trị và mục đích, mà là về phán đoán và khả năng. Tôi thận trọng khi nói điều này vì tôi biết nếu những nhận xét của tôi lộ ra là để biện minh hay hợp lý hoá những gì tôi và những người khác đã làm, thì các nhận xét đó sẽ mất đi độ tin cậy hơn và chỉ làm tăng thêm sự chỉ trích cay độc của dân chúng. Chính sự chỉ trích cay độc đó làm cho người Mỹ lưỡng lự trong việc ủng hộ các nhà lãnh đạo của minh hành động khi cần thiết, nhằm đối phó và giải quyết các vấn đề trong và ngoài nước.
Tôi muốn người dân Mỹ hiểu tại sao chúng tôi phạm những sai lầm như thế và rút ra bài học từ những sai lầm đó. Tôi mong được nói rằng: “Đây là cái có ích mà chúng ta có thể rút ra từ cuộc chiến tranh Việt Nam và có thể vận dụng cho thế giới hôm nay và mai sau”. Đó là cách duy nhất để dân tộc ta có thể hy vọng đẩy quá khứ về phía sau. Nhà viết kịch Hy Lạp cổ đại Aeschylus có viết: “Phần thưởng cho nỗi khổ đau là kinh nghiệm”. Hãy để cho điều đó trở thành di sản lâu dài của cuộc chiến tranh.
Không phải dễ dàng khi đặt những con người, những quyết định và những sự kiện vào đúng chỗ trong trò chơi xếp hình Việt Nam. Khi quyết định nên xây dựng dàn bài cuốn hồi ký này như thế nào, tôi đã cân nhắc phải cố gắng miêu tả lại một cách toàn diện quãng thời gian bảy năm làm Bộ trưởng Quốc phòng của tôi. Điều này chắc chắn sẽ mang lại cho bạn đọc toàn bộ bối cảnh của các sự kiện và các quyết định mà tôi miêu tả. Nhưng thay vào đó, tôi đã chọn chỉ viết về Việt Nam với một cách đề cập cho phép tôi lần theo quá trình tiến triển của các chính sách của chúng tôi một cách mạch lạc mà nếu làm theo cách khác thì sẽ không có được.
Tôi làm như thế e có thể bị coi là quá giản đơn hoá vấn đề. Một lý do khiến cho các chính quyền Kennedy và Johnson không đưa ra được một cách đề cập theo trình tự và hợp lý cho những vấn đề cơ bản trong cuộc chiến tranh Việt Nam chính là vì chúng tôi phải đối phó với cả một mớ các vấn đề phức tạp khác - nhiều đến mức chóng mặt. Nói một cách đơn giản là chúng tôi bị cuốn hút vào một trận bão của các vấn đề trong khi mỗi ngày chỉ có 24 tiếng đồng hồ. Và thường thì chúng tôi không có thời gian để suy nghĩ cho chính xác.
Tình trạng nan giải này không chỉ là duy nhất đối với các chính quyền mà tôi đã phục vụ, hoặc chỉ đối với nước Mỹ. Nó đã tồn tại ở mọi thời đại và ở hầu hết các nước. Tôi chưa hề thấy một cuộc nghiên cứu chu đáo nào về vấn đề này. Trước đây nó đã tồn tại; ngày nay nó đang tồn tại và nó phải được nhìn nhận và có kế hoạch giải quyết khi đứng ra lập một chính phủ.
Tôi cho rằng những người viết hồi ký rất hay dựa vào những ký ức của mình. Dù ý định của họ có ngay thực đến mấy thì điều này luôn đưa họ tới chỗ chỉ nhớ lại những gì họ muốn nhớ - những gì họ mong đã xảy ra - chứ không phải là những gì đã thực sự xảy ra. Tôi đã cố giảm tới mức tối đa cái nguy cơ thực tế đó của con người bằng cách dựa vào những hồ sơ cùng thời bất cứ lúc nào thấy có thể được. Tuy nhiên, để tránh trình bày một cách máy móc hàng loạt các văn kiện và chứng cớ có liên quan, tôi đã cố gắng sắp xếp tài liệu sao cho trung thành với lịch sử. Đối với những ai cho rằng tôi đã quá nhấn mạnh khía cạnh này mà lờ đi khía cạnh khác thì tôi chỉ xin nói rằng sự miêu tả này đã tiến gần tới sự thật nhất mà tôi nhận thấy trên cơ sở của những thông tin tôi có được cho tới ngày hôm nay. Mục đích của tôi chẳng phải là để biện minh cho những sai lầm, cũng chẳng phải để đổ lỗi, mà là để nhận ra những sai lầm mà chúng tôi đã phạm phải, để hiểu được tại sao chúng tôi lại phạm những sai lầm đó và suy nghĩ xem làm thế nào có thể tránh được những sai lầm đó trong tương lai. Việt Nam và sự dính líu của tôi ở đó đã ảnh hưởng sâu sắc tới gia đình tôi, nhưng tôi không đi sâu vào tác động của điều đó đối với gia đình tôi và bản thân tôi. Thật ra tôi rất ngại nói về thời kỳ này, tôi chỉ là một cá nhân. Có nhiều phương cách mang tính xây dựng hơn để đề cập đến kinh nghiệm của dân tộc ta về Việt Nam, chứ không phải đi tìm hiểu lòng kiêu hãnh, những thành đạt, những nỗi thất vọng và thất bại của riêng tôi.
Khi ngẫm nghĩ về Việt Nam, tôi thường nhớ tới những vần thơ trong một bài thơ mà cách đây 30 năm, trong những ngày hoan hỉ sau khi Tổng thống Kennedy vừa nhậm chức, Marg đã làm cho tôi chú ý. Những vần thơ đó rút ra từ bài thơ “Little Gidding” của T.S. Eliot:
“Không ngừng đi khám phá
và mục tiêu cuối cùng
phải là nơi xuất phát
mới lần đầu nhận ra”.
Tôi vẫn chưa ngừng tìm kiếm, vả lại tôi cũng chưa hiểu hết nơi đó, nhưng giờ đây sau khi tôi đã tự bộc bạch và tự khám phá ra chính mình, thì tôi tin rằng tôi nhìn Việt Nam rõ hơn rất nhiều so với những năm 60. Đó thực sự là điểm xuất phát.
Điều đó đã xảy ra như thế nào? Những bài học gì có thể rút ra từ kinh nghiệm của chúng tôi?
1
CUỘC
HÀNH TRÌNH CỦA TÔI ĐẾN WASHINGTON
NGÀY 9/6/1916 - 20/1/1961
“Trong rừng hai
ngả phân đôi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà theo,
Chọn rồi - ngả ít người vào
Sự đời đổi khác, ai nào có hay”
Biết đâu nẻo đất phương trời mà theo,
Chọn rồi - ngả ít người vào
Sự đời đổi khác, ai nào có hay”
ROBERT FROST “Con
đường không đi”
Một trong những ngày đáng tự hào nhất của đời tôi là các ngày ngay sau lễ nhậm chức của F. John Kennedy. Vào lúc 4 giờ chiều ngày 21/1/1961, tôi cùng chín thành viên nội các khác có mặt tại phòng Đông của Nhà Trắng để làm lễ tuyên thệ. Chúng tôi đứng thành một vòng bán nguyệt dưới dàn đèn chùm pha lê và đối diện với ngài Chánh án Earl Warren trong bộ y phục màu đen. Tôi và các thành viên nội các khác cùng đồng thanh tuyên thệ trước sự chứng kiến của Tổng thống Kennedy và phu nhân, các nhà lãnh đạo Quốc hội và các thành viên trong gia đình của chúng tôi. Sau đó, Tổng thống bước lên và chúc mừng chúng tôi.
Giờ đây, tôi là Bộ trưởng Quốc phòng thứ 8 và là Bộ trưởng Quốc phòng trẻ nhất từ trước đến nay. Mặc dù mới vừa tròn 44 tuổi, songtôi chưa phải là người trẻ nhất trong nội các. Tổng thống mới 43 tuổi; còn Robert Kennedy thì 35 tuổi. Cũng giống như những thành viên khác, tôi đã lớn lên trong những năm giữa các cuộc chiến của Chiến tranh thế giới thứ II. Tổng thống Kennedy biết rằng tôi sẽ đem lại cho quân đội kỹ thuật quản lý của giới kinh doanh giống như điều mà tôi và các đồng nghiệp của tôi ở trường Harvard đã làm khi còn là những sĩ quan kiểm soát thống kê trong cuộc chiến tranh đó. Tôi xúc động khi được gọi trở lại phục vụ cho đất nước.
Con đường dẫn tôi đến phòng Đông bắt đầu từ San Francisco. Ký ức đầu tiên của tôi là một thành phố tràn ngập trong niềm hân hoan. Đó là ngày 11/11/1918 - ngày đình chiến. Khi đó tôi mới 2 tuổi. Thành phố lúc này không chỉ ăn mừng sự kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ I, mà còn chào mừng niềm tin mạnh mẽ của Tổng thống Woodrow Wilson rằng nước Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ đã thắng cuộc chiến tranh này để kết thúc mọi cuộc chiến.
Tất nhiên, họ đã lầm. Thế kỷ XX đang trở thành thế kỷ đẫm máu nhất từ trước đến nay trong lịch sử loài người: 160 triệu người đã bị giết chết trong các cuộc chiến tranh trên toàn cầu.
Năm 1922 tôi vào học lớp 1. Khi đó rất thiếu lớp học do sự bùng nổ về trẻ em sau Chiến tranh thế giới thứ I. Lớp học của tôi là một cái lán gỗ. Các tiện nghi trong lớp thì nghèo nàn, nhưng giáo viên thì thật tuyệt vời. Cứ vào cuối tháng, cô giáo ra bài kiểm tra, và trên cơ sở kết quả bài kiểm tra đó cô sắp xếp lại chỗ ngồi của học sinh. Học sinh nào đạt điếm cao nhất được ngồi ở hàng đầu của dãy bàn ngoài cùng bên tay trái.
Tôi đã quyết tâm phải chiếm chỗ ngồi đó. Lớp học phần lớn là các học sinh người Anglo-saxon theo Đạo Tin lành, song những học sinh ganh đua với vị trí số một của tôi lại là những học sinh người Hoa, Nhật Bản và Do Thái. Sau mỗi tuần miệt mài học tập, tôi dành ngày thứ bảy và chủ nhật để vui chơi với những đứa bạn hàng xóm, trong khi đó những đối thủ của tôi lại đến các trường dân tộc để học tiếng mẹ đẻ, hấp thụ những nền văn hoá phức tạp và cổ xưa và rồi trở lại trường vào thứ hai với quyết tâm đánh bại đứa bạn người Ailen cùng lớp.
Tôi vui sướng mà nói rằng họ rất ít khi làm được điều đó. Tôi mong muốn đạt được vị trí xuất sắc trong học tập vì thực tế là cả bố và mẹ tôi đều không ai được vào trường cao đẳng (bố tôi chỉ mới học hết lớp 8 ). Thế là bố mẹ tôi cương quyết bắt tôi phải học. Quyết tâm của họ đã định hướng cuộc đời tôi.
Con người ta khi nhìn lại quãng đời của mình - trường hợp của tôi là nhìn lại 78 năm - có thể nhận ra những sự kiện quan trọng đã ảnh hưởng đến việc họ trở thành con người như thế nào và tại sao họ lại tin như họ đã tin. Tôi muốn đề cập đến ba sự kiện:
Một là, cuộc Đại suy thoái. Năm 1933, tôi tốt nghiệp phổ thông. Vào lúc đó đúng 25% đàn ông ở nước Mỹ bị thất nghiệp. Bố một người bạn học của tôi đã tự sát chỉ vì ông không thể nào nuôi sống được gia đình. Một người bạn khác, con gái một gia đình giàu có, đã gia nhập Đảng Cộng sản.
Những cuộc bãi công quyết liệt của công nhân nổ ra thường xuyên. Trong thời gian nổ ra các cuộc tấn công của ngành hàng hải ở vùng duyên hải phía Tây vào năm 1934 và 1936, người ta đặt súng máy trên các nóc nhà dọc khu cảng ở San Francisco để ngăn chặn xảy ra đụng độ ở các bến tàu. Có lần, trên phố Macket, tôi chứng kiến một phu khuân vác dồn một người đàn ông vào góc tường vì cho rằng ông này là kẻ phá hoại cuộc đình công. Người phu khuân vác đấm ngã người đàn ông, đè chặt một đầu gối người này vào vỉa hè, còn gót chân để trên lòng đường, rồi cứ thế giẫm mạnh lên ống chân làm gãy xương chân người đó. Cảnh bạo lực đó đã làm tôi kinh hoàng.
Tôi đã trực tiếp hiểu được nguyên nhân khơi mào tình trạng bạo lực khi tôi đến văn phòng giúp tìm việc làm của công đoàn vào mùa hè năm 1935 để xin một việc làm trên tàu biển nhằm kiếm tiền cho khoá học sáu tháng tiếp theo của tôi ở trường đại học. Tôi đã đi biển như một thủy thủ bình thường trên con tàu chở hàng SS Peter Kerr. Tiền công là 20 đôla một tháng; trên tàu không có hệ thống nước ngọt dùng cho nơi ăn ở của thủy thủ; giường ngủ thì rệp nhiều đến mức sáng dậy tôi đã đếm được 19 vết cắn ở một bên chân; còn thức ăn thì không thể nuốt nổi. Sức vóc tôi rất khỏe, thế mà cũng đã tụt mất 13 pao (5,8 kg) trong chuyến đi đó. Chuyển đi đã làm tôi cảm thông với tình trạng khốn khổ của người lao động không có tổ chức mà cho đến bây giờ vẫn còn để lại ấn tượng trong tôi. Là người điều hành trong ngành công nghiệp ôtô, tôi thán phục các nhà lãnh đạo công đoàn như Walter Reuther và khi ở Lầu Năm Góc tôi đã tìm cách tuyển Jack Conway - một quan chức của Liên hiệp các công nhân ngành ôtô, làm trợ lý Bộ trưởng phụ trách công tác nhân sự.
Các sự kiện thứ hai và thứ ba lại liên quan tới nhau - đó là việc tôi vào học ở Trường Đại học California ở Berkeley và cuộc gặp của tôi với Margaret. Tôi đến California vì đó là trường đại học loại một duy nhất mà tôi có thể có đủ tiền để theo học. Học phí là 52 đôla một năm. Berkeley đã mở ra một thế giới hoàn toàn mới mẻ đối với tôi - đó là thế giới của lịch sử, các ý tưởng, các giá trị đạo đức và tinh thần, học vấn và phát triển trí tuệ. Ông hiệu trưởng Robert Golder Sproul và Monroe Deutsch đã làm được điều tưởng không thể có được là: mặc dù trường hoàn toàn phụ thuộc vào một Quốc hội bang bảo thủ và chịu sự khống chế của các nghị sĩ vùng nông thôn để có ngân sách cho trường, song Sproul và Deutsch đã tạo được một bầu không khí tự do tranh luận và tự do trí thức. Bốn năm học ở đó đã làm cho tôi tiếp cận với những khái niệm về công lý, tự do và sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ mà cho đến nay tôi vẫn còn nhớ rõ.
Những quan niệm đó cũng định hình tương lai của tôi theo một cách khác. Trong tuần lễ đầu tiên của tôi ở khu ký túc xá của trường đại học, tôi đã gặp Margaret Mc. Kinstry Craig, một cô gái trẻ, hoạt bát, duyên dáng và thông minh, là người vùng Alameda thuộc bang California.
Bảy năm sau chúng tôi cưới nhau. Margaret đã đem đến sự cân bằng sức mạnh và niềm vui cho cuộc đời tôi. Margaret đã bù đắp cho tôi trên mọi phương diện. Margaret thông minh một cách bẩm sinh: cô thân mật, cợt mở, hiền lành, hoà nhã và được mọi người yêu quý. Nếu không có Marg, có lẽ tôi đã trở thành nhỏ bé.
Tôi chọn kinh tế học là môn học chính, còn triết học và toán học là thứ yếu vì trong đầu tôi chưa có ý niệm cụ thể nào về nghề nghiệp. Nên xét tới hoàn cảnh lịch sử, giờ đây có thể hiểu được là tại sao khi đó môn kinh tế học hấp dẫn như vậy. Tuy nhiên. những giây phút mang tính định hướng trong quá trình học tập của tôi lại rơi vào các buổi học về triết học và toán. Các khoá học về luân lý học buộc tôi phải xác định những giá trị của mình, còn môn lôgic học đem lại cho tôi cách tư duy chặt chẽ và chính xác. Và các thầy giáo dạy toán dạy tôi rằng phải xem toán học như là một quá trình tư duy, một thứ ngôn ngữ dùng để diễn đạt phần lớn, nhưng chắc chắn không phải là tất cả hoạt động của con người.
Đó là một sự khám phá. Cho đến bây giờ, tôi vẫn coi việc xác định số lượng là một thứ ngôn ngữ để tăng thêm tính chính xác cho việc lý giải thế giới. Tất nhiên, không thể vận dụng điều đó đối với những vấn đề thuộc về đạo đức, thẩm mỹ và tình yêu, nhưng nó lại là một thứ công cụ mạnh mẽ thường bị lãng quên. Chúng ta tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói, thâm hụi tài chính hoặc thất bại trong các chương trình y tế của nước Mỹ.
Một sự kiện khác nữa có tác động lớn đối với đời tôi, mặc dù lúc đó tôi ít khi nhận thấy, là việc tôi tham gia Quân đoàn huấn luyện sĩ quan dự bị (ROTC). Trường Berkeley là một trường công được cấp đất và kinh phí hoạt động, vì vậy hồi đó tất cả các nam sinh viên đều phải tham gia ít nhất hai năm huấn luyện quân sự. Tôi đăng ký theo học chương trình huấn luyện hải quân lựa chọn trong bốn năm nhưng bị từ chối vì mắt kém. Do đó tôi đã phục vụ hai năm trong lục quân thuộc Chương trình ROTC.
Có điều tôi nhận thấy là không có ai coi trọng giới quân sự cả. Tôi và các bạn cùng lớp xem nó như là một thứ nghi lễ vô dụng, không thích hợp với thế giới của chúng tôi. Vào cái ngày duyệt binh cuối cùng sau khi đã phải diễu binh trước mặt ông hiệu trưởng, chúng tôi quẳng ngay những khẩu súng trường chết tiệt đó. Tất nhiên chỉ trong vòng ít năm thôi, chúng tôi có quá đủ lý do để thán phục thế hệ các sĩ quan quân sự chuyên nghiệp như George Marshall, Hap Armold, Max Taylor và Dwight Eisenhower, vì họ đã kiên trì đến cùng cuộc đời binh nghiệp vào lúc chẳng ai thèm quan tâm đến nó.
Dù có hay không có suy thoái, những người như Max Taylor đều có thể xuất ngũ và xây dựng được cơ nghiệp vào lúc trước Chiến tranh thế giới thứ II. Nhưng họ đã lựa chọn con đường phụng sự quốc gia. Và khi thời cơ đến, họ đã cứu nguy cho quốc gia đó. Chúng ta sẽ đời đời biết ơn họ.
Học xong ở Berkeley, tôi vào học ở trường Cao học Harvard về quản lý kinh doanh để cố học lấy những kỹ năng cơ bản cần thiết để kiếm một việc làm. Nhiều người theo học môn này xem ra đều cho rằng mục đích của kinh doanh chỉ là để làm ra tiền. Nhưng có một số người khác như giáo sư Ross G. Walker dạy môn kiểm soát tài chính và giáo sư Edmund P. Learned dạy môn tiếp thị lại có cái nhìn rộng hơn. Họ dạy rằng các nhà lãnh đạo kinh doanh có nghĩa vụ phục vụ xã hội cũng như các cổ đông của họ, và rằng một công ty có thể chủ tâm tìm kiếm lợi nhuận, nhưng đồng thời cũng phải làm tròn bổn phận đối với xã hội. Tôi nhớ đến một câu nói về điều này mà có thể Walk và Learned đều thích: “Không có gì mâu thuẫn giữa một trái tim mềm yếu với một cái đầu cứng rắn”. điều này đã trở thành nguyên tắc chỉ đạo đời tôi.
Tôi yêu thích Harvard chừng nào thì tôi cũng nhớ California như vậy. Ngay sau khi tốt nghiệp năm 1939, tôi trở về San Francisco và kiếm được một việc làm với mức lương 125 đôla một tháng. Mùa hè năm sau đó ông chủ nhiệm khoa Wallace Donham ở trường kinh doanh đã đề nghị tôi trở lại trường làm giáo viên trung cấp của khoa.
Ông cần tôi trả lời ngay vì năm học mới chỉ còn sáu tuần nữa là bắt đầu. Nhưng tôi nói một mình tôi không thể quyết định được điều này. Tôi giải thích là tôi đang theo đuổi một cô gái và nếu tôi thuyết phục được cô ta lấy tôi thì tôi sẽ quay về Harvard; còn nếu không thì - câu trả lời là không. Lúc này Margaret đang nghỉ học và cùng với mẹ và dì lái xe đi du lịch quanh nước Mỹ. Tôi lần theo và tìm được họ tại YWCA ở thành phố Baltimore và tại đó, qua nói chuyện điện thoại, Margaret đã chấp nhận lời cầu hôn của tôi. Trên đường quay về California, nhận thấy chẳng còn mấy thời gian để chuẩn bị cho đám cưới, nên từ thị trấn Red Wing, Minnesota, Margaret đã đánh điện cho tôi: “EM PHẢI ĐẶT IN THIẾP MỜI ĐÁM CƯỚI LOẠI IN NỔI NGAY TỪ GIỜ - TÊN ĐỆM CỦA ANH LÀ GÌ?” Tôi điện trả lời: “STRANGE”, đó là tên họ của mẹ tôi thời con gái. Margaret điện trả lời: “ KHÔNG SAO, DÙ HỎI NHƯ VẬY LÀ KỲ CỤC. TÊN ĐỆM CỦA ANH LÀ GÌ?”*.
Chúng tôi thuê căn hộ một phòng ở Cambrige và trong hơn một năm trời, chúng tôi đã sống hạnh phúc bên nhau hơn cả điều mà chúng tôi mơ ước, mặc dù hàng ngày chúng tôi phải rửa bát đĩa ngay trong bồn tắm. Đứa con đầu lòng của chúng tôi sinh ngày 31/10/1941.
_________________________________
* Đây là sự hiểu lầm của Margaret về chữ Strange do điện trả lời của Mc Namara quá ngắn gọn. Strange là tên họ đệm của người, song chữ Strange trong tiếng Anh lại có nghĩa là xa lạ, kỳ cục - ND
Cuộc tấn công bất ngờ của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng xảy ra năm tuần sau đó. Đầu năm 1942, trường kinh doanh đã ký một hợp đồng với không quân Mỹ đào tạo các sĩ quan kiểm soát thống kê. Không quân Mỹ lúc đó đang phát triển mạnh về quy mô. Trước đó, cuộc tấn công chớp nhoáng bằng không quân bắt đầu diễn ra ở châu Âu, không lực Mỹ lúc đó chỉ có gần 1.800 máy bay và 500 phi công. Đến khi Hitle xâm lược Pháp vào tháng 5/1940, Tổng thống Roosevelt yêu cầu phải sản xuất ít nhất 50.000 máy bay một năm. Hầu như chỉ trong có một đêm, quân đội Mỹ nhận thấy phải làm thế nào nắm cho được một trong những ngành công nghiệp lớn nhất và phức tạp nhất của nước Mỹ, và thế là họ quay sang Trường Harvard để tìm kiếm sự giúp đỡ.
Người đứng đầu chương trình kiểm soát thống kê của không quân là một sĩ quan trẻ, táo tợn, đặc biệt có tài tên là Charles B. “Tex” Thornton. Anh ta cộng tác chặt chẽ với Robert A. Lovett, trợ lý Bộ trưởng Chiến tranh phụ trách không quân. Lovett dường như không biết xoay xở ra sao. Trước đó, anh ta từng là một chủ ngân hàng đầu tư nổi tiếng ở New York. Anh ta hiểu rõ để quản lý tốt thì thông tin có tính chất quyết định như thế nào. Nhưng lực lượng không quân anh ta tiếp nhận lại nhỏ bé và thiếu thông tin đến mức anh ta hầu như không có các số liệu để lên kế hoạch và kiểm soát các hoạt động.
Thornton nhanh chóng lập ra một hệ thống kiểm soát thô sơ. Chẳng bao lâu sau mỗi khi không quân cất cánh, những nhân viên được phân công theo dõi các đơn vị có thể ghi lại các số liệu như tình trạng máy bay (sẵn sàng chiến đấu, có thể sửa chữa được, không còn khả năng vận hành, tình hình của phi công, những hình thức huấn luyện đã qua, số thương vong, nhu cầu thay thế) và tình hình hoạt động (số lần bay, loại phi vụ, mục tiêu đã bắn phá, mức độ thành công, thiệt hại về người và trang bị...). Tổng hợp các báo cáo đó, các vị chỉ huy có thể có được một bức tranh mới nhất về các hoạt động - và cả những yếu kém - của không lực Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Thornton không có ý định xây dựng một vương quốc của các nhân viên. Tầm nhìn của anh sâu sắc hơn thế nhiều. Anh ta nghĩ rằng hệ thống này và các dữ liệu nếu được dùng một cách thông minh có thể giúp giành thắng lợi trong cuộc chiến. Đó là nguyên tắc chỉ đạo của việc kiểm soát thống kê và làm cho nó trở nên lý thú khi được coi là một phần trong công việc của nhóm.
Với mong muốn đóng góp vào cuộc chiến này, tôi và một số đồng nghiệp đã chấp nhận lời mời của Trưởng khoa Donham tham gia giảng dạy trong chương trình. Đầu năm 1943. Bộ Chiến tranh đề nghị tôi và một giáo sư trẻ khác là Myles Mace sang làm việc trực tiếp với Quân đoàn không quân số 8 của Mỹ vừa mới được thành lập tại nước Anh. Mặc dù lúc đầu chúng tôi sẽ làm việc với tư cách là những cố vấn dân sự cho Bộ Chiến tranh. nhưng họ nói rõ rằng sau này sẽ đề nghị để chúng tôi được hưởng các chế độ như sĩ quan quân đội.
Myles và tôi được miễn quân dịch vì hai lý do - chúng tôi đang giảng dạy tại một trường quân đội và cả hai chúng tôi đều mới lập gia đình - nhưng chúng tôi đều đồng ý đi sang Anh làm việc. Có lẽ tôi không bao giờ và không thể tình nguyện được nếu không có sự ủng hộ nhiệt thành của Marg - mặc dù phải hy sinh chịu đựng. Nếu tôi bị chết, tình hình tài chính của Marg sẽ rất khó khăn. Đó là mối quan tâm trực tiếp của tôi vì theo kế hoạch tôi sẽ bay đi London trên chiếc Pan American Clipper, và các đồng nghiệp của tôi giục tôi nên mua bảo hiểm sinh mạng vì chuyến bay rất nguy hiểm (quả thực, chiếc máy bay này trong chuyến bay sau đó đã bị rơi ở Lisbon). Tôi phải vay ông trưởng khoa trường kinh doanh 100 đôla để đóng phí bảo hiểm cho hợp đồng bảo hiểm 10.000 đôla.
Ba năm tiếp sau đó, tôi đã phục vụ tại Anh, Kansas, Ấn Độ, Trung Quốc, Washington, D.C. Thái Bình Dương và Ohio. Mặc dù các phương pháp của Thornton không được áp dụng triệt để lắm, nhưng có những lúc chúng đã có tác động quan trọng. Khi rời quân ngũ vào tháng 1/1946 với quân hàm trung tá, tôi đã được Tướng Amold - Tham mưu trưởng Không quân - tặng thưởng Huân chương quân công (Legion of Merit) vì đóng góp của tôi vào Chương trình.
Vào ngày kỷ niệm chiến thắng phát xít Nhật tháng 8/1945, cả Marg và tôi đều phải nằm ở Quân y viện Không quân ở Dayton, bang Ohio vì mắc chứng bại liệt. Bệnh của tôi nhẹ hơn và khoảng sáu tuần sau đó thì tôi ra viện. Còn bệnh của Marg nặng đến mức bác sĩ bảo rằng cô ấy sẽ không nhấc nổi cánh tay hoặc chân lên được. Mùa thu năm ấy, ông trưởng khoa của Trường Y Harvard giúp tôi chuyển Marg đến Bệnh viện trẻ em ở Baltimore, một trong những bệnh viện chỉnh hình tốt nhất. Nhờ sự chăm sóc trong những tháng sau đó, nhờ sinh lực và ý chí mạnh mẽ của bản thân mà Marg đã vượt qua. Nhưng tiền chữa bệnh thì rất đắt.
Trong khi đó Tex Thornton lại có một dự án mới: tập hợp một nhóm các cựu chiến binh từng làm trong văn phòng của anh ta cùng nhau làm ăn ở ngoài dân sự. Ý của anh ta là tìm một công ty lớn có nhu cầu tổ chức lại và hiện đại hoá sẽ thuê anh ta và nhóm của anh vào làm việc: theo hợp đồng cả gói. Đó là một kế hoạch táo bạo đầy cá tính của Tex. Khi Tex đề nghị tôi tham gia với tư cách người chỉ huy thứ hai của nhóm, tôi đã trả lời dứt khoát là không. Tôi nói, Marg và tôi muốn trở lại sống ở Harvard.
Tex cứ theo tôi mãi. Cuối cùng anh ta đã làm tôi phải chú ý khi anh ta nói thẳng rằng: “Bob, anh biết đấy, anh không thể trở về Harvard được đâu. Anh sẽ không bao giờ có đủ tiền để trả viện phí cho Margaret”. Đến lúc đó, Tcex cho rằng anh ta đã tìm được người nhận thuê nhóm làm việc: đó là Henry Ford II - người vừa kế tục ông mình là nhà sáng lập Công ty ôtô Ford làm chủ tịch Công ty này. Tôi vẫn nghĩ kế hoạch của Tex thật viển vông, song tôi nói với Tex là tôi sẽ xem xét nếu chúng tôi cùng đến trụ sở của Công ty Frord ở bang Michigan, gặp cậu Frord trẻ tuổi đó và trực tiếp nghe anh ta nói rằng anh ta cần chúng tôi và có kế hoạch dùng chúng tôi một cách có hiệu quả.
Vài tuần sau, vào tháng 11/1945, vẫn trong bộ quân phục, mấy chúng tôi lái xe đi suốt con đường tới thị xã Dearborn ở bang Michigan. Chúng tôi gặp Henry và ông phó Chủ tịch phụ trách quan hệ công nghiệp. Ông John Bugas. John là nhân viên Cục điều tra liên bang (FBI) phụ trách văn phòng của Cục ở thành phố Detroit. Ông già Ford đã thuê John vào đầu những năm 40 để bảo vệ cho các cháu mình là Henry Frord II và anh em của Henry. (giống như bao người giàu có khác, ông Ford II rất lo sợ sau vụ bắt cóc đứa trẻ nhà Lindbergh mấy năm trước).
Công ty là nơi khá phức tạp. John sau này có kể một chuyện về Harry Bennett, một trong số võ sĩ quyền anh của Hải quân Mỹ. Tay này cũng bắt đầu từ việc làm vệ sĩ cho đám cháu của ông Ford, thế rồi được lên chức và có một văn phòng lớn ở tầng trệt trong toà nhà chính của Công ty. Nhưng anh ta vẫn không thay đổi phong cách của mình. Anh ta thích giữ một khẩu súng lắp đầy đạn trong ngăn kéo bàn làm việc để thỉnh thoảng khi có người đến gặp, anh ta có thể rút súng bắn vào tường qua vai của khách. Năm 1943, Henry trẻ quyết định loạt Bennett ra khỏi Công ty và yêu cầu John sa thải anh ta. John suy nghĩ cách thực hiện điều đó thế nào. Trước khi đi xuống văn phòng của Bennett. John đeo bao súng ngắn của FBI đề phòng Bennett bắn lại để phản đối. Sự ra đi của Bennett đã diễn ra êm thấm.
Khi cuộc chiến tranh kết thúc, John cho rằng chẳng có mấy ai có thể cạnh tranh với anh ta trong cuộc chạy đua tranh giành chức vụ chóp bu của Công ty. Hồi đó chỉ có một vài người tốt nghiệp cao học trong số 1.000 quan chức điều hành cao cấp của Công ty Ford. Vì vậy khi nhóm chúng tôi xuất hiện, anh ta nghĩ chúng tôi là những kẻ cạnh tranh. Anh ta chẳng hài lòng chút nào. Trong buổi chúng tôi gặp Henry, anh ta ngồi im lặng một hồi rồi nói: “Này Henry, nếu anh muốn những người này...”.
Henry cắt ngang: “John, liệu tôi phải nói với anh bao nhiêu lần rằng tôi muốn thuê những người này? Mọi việc đã thoả thuận xong rồi”.
Đối với John, việc đó chưa phải là đã xong. Cuối tháng 1/1946 khi chúng tôi đến trình diện tại trụ sở ở Dearborn để làm việc, John đã đưa chúng tôi đến văn phòng tuyển người làm tại nhà máy River Rouge khổng lồ của Công ty Ford, cách đó khoảng một dặm. Tại đó, họ yêu cầu chúng tôi phải làm các bài kiểm tra trong hai ngày. Họ ra đủ kiểu bài kiểm tra mà tôi chưa từng nghe đến bao giờ: kiểm tra trí thông minh, quá trình thành đạt, tính cách và năng lực lãnh đạo - danh sách các bài kiểm tra còn dài nữa. Rõ ràng, John đang xoi mói để tìm ra những sai sót nhằm chứng minh rằng Henry đã sai lầm.
Làm xong các bài kiểm tra, tôi nghĩ rằng chúng tôi đều đã làm tốt. Theo giải thích của một nhà tâm lý học công nghiệp, kết quả của tôi khá cao và Công ty đã đưa tất cả chúng tôi vào làm việc ở các vị trí điều hành. Nhưng mãi sau này tôi mới rõ là cả nhóm chúng tôi đã làm tốt các bài kiểm tra như thế nào. Bốn người trong chúng tôi đạt điểm 100/100 về khả năng lý giải và tư duy, còn cả mười người đều đạt điểm 100/100 về bài kiểm tra thực hành.
Như vậy ý đồ của John đã bị phá hỏng1.
Vì chúng tôi làm việc có đầu óc và lại trẻ tuổi, nên được mệnh danh là nhóm “Whiz Kids” (những người thành đạt rất nhanh). Nền văn minh công nghiệp ôtô làm chúng tôi choáng ngợp chừng nào thì chúng tôi cũng làm cho nền văn hoá riêng của Công ty Ford bị sốc chừng ấy. Hầu hết mọi người trong nhóm chúng tôi đều tránh khung cảnh xã hội ở thành phố Detroit. Các quan chức điều hành cao cấp của Công ty luôn sống ở những vùng ngoại ô giàu có như Grosse Point hoặc Bloomfield Hills; nhưng riêng hai chúng tôi lại chọn đến sống ở Ann Arbor, nơi có Trường Đại học Michigan để có thể nuôi dạy con cái trong môi trường học tập.
Quan điểm chính trị của chúng tôi cũng không phải là tiêu biểu cho các nhà quản lý của Công ty Ford. Một trong các công việc của John Bugas mà sau này tôi được biết là đi quyên tiền trong số các nhà quản lý chóp bu của Công ty Ford cho đảng Cộng hoà. Tôi từ chối đóng góp. Vào đầu những năm 50, khi tôi trở thành người phụ trách Ford Division - bộ phận lớn nhất của Công ty, tôi cũng lại từ chối khi anh ta đề nghị tôi kêu gọi quyên góp trong số khoảng 1.100 các ủy viên ban quản trị có mức lương cao nhất thuộc bộ phận tôi phụ trách.
Thay vào đó, tôi gửi cho mỗi người một lá thư nói rằng chúng ta sống trong một chế độ dân chủ, chế độ chính trị dựa trên hệ thống mạnh mẽ gồm hai đảng với sự đóng góp tài chính của các cá nhân và tôi hy vọng họ cũng như tôi, có thể đóng góp cho đảng này hoặc đảng kia. Bức thư của tôi nói tiếp rằng nếu họ muốn đóng góp cho Đảng Dân chủ thì họ có thể gửi cho một ông nào đấy, còn đóng góp cho Đảng Cộng hoà thì nộp cho ông Bugas. Không ai biết được họ ủng hộ đảng nào, còn tôi thì mong họ ủng hộ đảng nào cũng được. Những chuyện như thế này làm cho nhiều uỷ viên ban quản trị chẳng yêu quí gì tôi.
Sự bất đồng cũng không quan trọng. Tôi có được một loại hợp đồng không viết thành văn với Henry Ford II là nếu tôi mang lại lợi nhuận cho Công ty thì tôi có thể sống theo kiểu mà tôi thích. Nhóm Whiz Kids đã hoàn thành công việc ông ta thuê chúng tôi làm. Trong vòng 15 năm sau, sáu người trong nhóm chúng tôi đã trở thành những uỷ viên điều hành cao cấp (trong đó có hai người làm chủ tịch). Trong thời gian đó, Công ty lớn mạnh nhanh chóng và giành lại được một mảng thị trường lớn trước đây bị rơi vào tay Công ty General Motors. Giá trị vốn tăng lên mạnh.
Tex Thornton không còn ở trong nhóm nữa. Anh ta làm việc chưa đầy hai năm thì bị sa thải do cãi nhau với Lewis Crusoe, Phó Chủ tịch phụ trách tài chính. Tôi cũng có thể bị sa thải bất cứ khi nào, đặc biệt vì quan điểm của tôi khác với quan điểm của phần lớn những người trong Công ty và trong ngành công nghiệp về những vấn đề có nhiều tranh cãi như an toàn lao động, sử dụng thiết kế chức năng tiết kiệm trong vận hành và giảm ô nhiễm. Nhưng tôi biết cách cộng tác với các đồng sự của mình, và tôi đã được đề bạt liên tiếp bởi vì tôi làm việc có kết quả.
___________________________________
1. John A. Byrne, Whiz Kids (New York: Doubleday, 1993), tr. 98.
Mùa hè năm 1960. Ernest Breech, người thứ hai sau Henry Ford II đang chuẩn bị nghỉ hưu. Tháng sáu, Henry, John Bugas và tôi đi Cologne, Tây Đức để thăm một Công ty của chúng tôi ở đó. Chúng tôi trở về khách sạn vào khoảng 2 giờ sáng. Thang máy dừng lại ở tầng của John và tôi. Phòng của Henry ở tầng trên. Khi chúng tôi chuẩn bị bước ra khỏi thang máy thì Henry nói: “Bob, lên làm cốc rượn nhé!”
- “Tôi không muốn uống. Tôi đi ngủ đây, - tôi nói.
- “Henry, tôi sẽ uống với anh”, - John nói.
- “Tôi không mời anh”. Henry nói với John. “Tôi mời Bob”.
Tôi lên phòng và lúc đó Henry chính thức đề nghị tôi làm Chủ tịch Công ty. Tôi nói sẽ nghĩ về chuyện đó, tôi phải nói chuyện với Marg và sẽ trả lời ông ta trong vòng một tuần. Một tuần sau, tôi nhận lời. Tôi được Hội đồng Quản trị bầu chính thức vào cuối tháng 10.
Sáng sớm thứ năm ngày 8/12/1960, bảy tuần sau khi tôi thành Chủ tịch của Công ty Ford, tôi rời Ann Arbor đi xe tới văn phòng ở Dearborn. Trên đường đi tôi ghé vào nhà máy River Rouge. Khoảng 10 giờ 30, khi tới trụ sở cơ quan, cô thư ký của tôi là Virginia Marshall, đưa cho tôi một danh sách dài các cú điện thoại nhắn tin. Tôi ra lệnh cho cô ta phải tìm cách để tôi trả lời tất cả các cú điện thoại đã gọi đến, kể cả những lời kêu ca phàn nàn, thế rồi không nhìn vào bản danh sách, tôi đưa trả lại cho cô ta và nói “Hãy bắt đầu từ trên xuống!”.
Khoảng nửa giờ sau, cô thư ký thông báo: “Ông Robert Kennedy đang ở đầu dây”. Tôi chưa bao giờ gặp ông ta (bảy năm rưỡi sau tôi phải khiêng quan tài ông ta đến nghĩa trang quốc gia Arlington) và chưa hiểu vì sao ông ta lại gọi cho tôi, thì ông đã nói ngay: “Tổng thống đắc cử sẽ lấy làm cảm kích nếu ông có thể gặp em rể chúng tôi là Sargent Shriver”. Tôi nói rất vui mừng, mặc dù tôi không hề biết Sargent là ai và cũng chẳng có một chút ý niệm gì là tại sao ông ấy muốn gặp tôi. Tôi đề nghị cuộc gặp vào thứ ba tuần sau.
“Không được, không được!” - Robert Kennedy nói. “Anh ấy cần gặp ông trong ngày hôm nay”. Tôi nói bây giờ đã gần 11 giờ rồi. Ông ta đáp: “Ông cứ định thời gian và anh ấy sẽ đến”. Thấy vậy tôi bèn nói “Bốn giờ”. Đúng bốn giờ. Sarge đến văn phòng của tôi. Mở đầu câu chuyện, ông ta nói: “Tổng thống đắc cử chỉ thị cho tôi đến mời anh giữ chức Bộ trưởng Ngân khố”.
- “Ông mất trí đấy à. Tôi không đủ khả năng đảm nhận chức vụ đó” Tôi nói.
- “Nếu anh cứ giữ lập trường như vậy, tôi được uỷ quyền nói rằng Jack Kennedy muốn anh làm Bộ trưởng Quốc phòng”
- “Sao vô lý thế. Tôi không làm được đâu” Tôi trả lời.
- “Thôi được, ít ra thì Tổng thống đắc cử chỉ mong anh đồng ý gặp ông ta tại Washington vào ngày mai”. Sarge nói.
Tôi không thể từ chối được.
Phòng của Henry Ford ngay cạnh phòng tôi. Sau khi Sarge ra về, tôi đi sang định kể cho ông ta nghe nội dung cuộc gặp, trù tính sẽ bảo đảm với ông ta rằng sẽ chẳng có điều gì xảy ra. Nhưng Henry đã đi New York mất rồi. Tôi yêu cầu máy bay của Công ty đưa tôi đến New York để thông báo cho ông ta, trước khi tôi gặp Tổng thống vào ngày hôm sau. Henry sững sờ khi nghe tôi nói, nhưng tôi nhấn mạnh là sẽ không có gì thay đổi sau chuyến đi của tôi tới Washington.
Hôm sau, tôi gặp Tổng thống đắc cử Kennedy tại nhà riêng ở phố N tại Georgetown. Các phóng viên nhiếp ảnh, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình đứng chật đường phố trước ngôi nhà gạch đỏ ba tầng. Nhân viên mật vụ đưa những vị khách không được tiết lộ theo lối sau vào nhà.
Chúng tôi gặp nhau, bắt tay. Khi Tổng thống hỏi liệu tôi có thể giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng được không, tôi đã trả lời như tôi đã nói với Sarge: “Tôi không xứng đáng”.
- “Ai xứng đáng?”, ông hỏi lại.
Tôi đã không nhận ra rằng ý của ông hỏi không phải để tìm câu trả lời. Tôi gợi ý Thomas Gates, Bộ trưởng Quốc phòng đương nhiệm. Quả thực, trên đường đi Georgetown sáng hôm đó, tôi có dừng lại ở Lầu Năm Góc để tìm hiểu xem liệu Tom - người tôi quen từ hồi ở Công ty giấy Scott, khi đó cả hai chúng tôi đều là giám đốc vào những thời gian khác nhau, có muốn tiếp tục phục vụ trong chính quyền mới hay không. Anh ta cho biết muốn tiếp tục ở lại.
Tổng thống cho qua điều đó mà không nhận xét gì. Ông bác ý kiến của tôi nói rằng tôi không đủ năng lực, lưu ý một cách tỉnh khô rằng theo ông ta biết thì không có một trường lớp nào đào tạo các Bộ trưởng Quốc phòng cả và cũng không có trường lớp nào đào tạo ra các Tổng thống. Ông yêu cầu tôi chí ít hãy xem xét đề nghị của ông và gặp lại vào thứ hai tuần lễ sau đó.
Tôi đồng ý nhưng nói rằng tôi tin là câu trả lời sẽ tương tự.
Làm sao Tổng thống đắc cử Kennedy lại giao cho tôi một chức vụ trong nội các? Tôi không chắc chắn lắm nhưng tin là có hai người liên quan chính đến chuyện này là Bob Lovett, người biết tiếng tôi ở Công ty Ford và công việc của tôi thời trong quân đội và John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế theo trường phái tự do trường Harvard. Tôi gặp Ken, người giờ đây đã là bạn thân của tôi trong một chuyến đi dã ngoại của anh ta đến Detroit hồi giữa những năm 50. Lúc đó, Ken đang nghiên cứu về cách quản lý liên hiệp công ty. Anh ta đã tìm gặp tôi bởi vì anh ta có nghe nói một thành viên Ban Quản trị ở Detroit là một người lập dị. Từ lâu tôi đã thán phục văn phong của anh ta và ngày nay vẫn cứ cười thầm mỗi khi nghĩ về câu xôi chấm xôi anh ta viết trong cuốn Xã hội phồn vinh.
Sau này Ken nói anh ta đề xuất tên tôi vì nghĩ rằng Tổng thống cần một nhà kinh doanh có những ý nghĩ sáng tạo. Việc tham gia đảng phái hầu như không liên quan gì đến chuyện này. Cũng như nhiều người, có thế Ken nghĩ tôi là người của Đảng Cộng hoà. Báo chí có đôi lúc đã gọi tôi là như vậy vì hồi 21 tuổi, khi đăng ký danh sách cử tri ở California, tôi đã nghĩ mình là người của Đảng Cộng hoà chẳng có lý do nào khác ngoài việc cha tôi là người của đảng đó.
Marg và tôi đã dành dịp nghỉ cuối tuần để bàn về vấn đề này. Chúng tôi nói với ba đứa con rằng nếu tôi rời khỏi Công ty Frord, chuyện tài chính cửa chúng tôi trong tương lai sẽ đổi khác hẳn. Thu nhập chính của tôi không lớn, nhưng tôi có số cổ phiếu lớn chưa dùng đến và một khoản tổng thu nhập hàng năm hơn 400.000 đôla (tương đương với 2 triệu đôla hiện nay). Nếu chấp thuận đề nghị của Tổng thống đắc cứ, tôi sẽ được hưởng một khoản tiền lương hằng năm là 25.000 đôla.
Bọn trẻ không quan tâm gì đến điều đó. Marg thì chỉ muốn những gì tôi muốn mà thôi. Vì vậy, vào ngày chủ nhật chúng tôi ngồi với nhau trong phòng làm việc của tôi và nhất trí là tôi nên chấp nhận lời đề nghị chừng nào tôi thấy mình có thể làm tốt công việc đó.
Chúng tôi nói chuyện với nhau một lát về điều gì cần phải làm tiếp sau đó. Có hai việc: tôi phải có quyền lựa chọn những cá nhân có năng lực nhất vào nắm giữ những cấp bậc cao trong Bộ Quốc phòng, bất kể người đó thuộc đảng phái chính trị nào – để bù lại sự thiếu kinh nghiệm của tôi. Đồng thời cũng phải làm rõ rằng tôi sẽ không dùng thời gian làm việc để tham gia các hoạt động xã giao ở Washington. Tôi hoàn toàn không biết sẽ phải làm thế nào để người ta hiểu rõ hai điều kiện đó. Xét cho cùng, ai lại đi thương lượng với một vị tổng thống đắc cử về một hợp đồng làm việc bao giờ.
Trong lúc nói chuyện, tôi để ý thấy ngoài trời tuyết đang rơi dày. Chợt trong đầu tôi loé lên một ý kiến. Tôi nghĩ: “Tại sao mình lại không gọi điện cho Tổng thống đắc cử nói với ông ta rằng thời tiết xấu sẽ buộc mình phải hoãn chuyến đi Washington trong một - hai ngày và rằng trong lúc chờ đợi, mình sẽ gửi thư giải thích quan điểm của mình”.
Tôi quay số máy mà Tổng thống đã cho, nhưng ông không có mặt ở Washington. Cuối cùng, tôi lần tìm gọi được cho ông ở bãi biển Palm. Vị Tổng thống đốc cử hoàn toàn thoải mái về việc hoãn cuộc gặp, cho biết ở Washington tuyết cũng đang rơi và ông cũng không thể trở về Washington vào ngày mai được.
Tôi nghĩ cách làm thế nào để gửi bức thư đến tay ông ta. Cuối cùng, tôi quyết định mang nó theo mình khi tôi gặp ông ta vào thứ ba. Tôi lại vào ngôi nhà ở phố N bằng lối cửa sau. Vị Tổng thống đắc cử và Robert Kennedy đang ngồi ở ghế salông. Tôi ngồi đối diện họ và mở đầu câu chuyện bằng cách nói rằng tôi đã viết ra giấy những suy nghĩ của mình và có lẽ cách nhanh nhất để đi vào vấn đề này là để Tổng thống đắc cử đọc lá thư của tôi. Ông đã đọc, không nhận xét gì và đưa cho ông em Robert liếc qua lá thư rồi trả lại. Tổng thống đắc cử hỏi: “Chú thấy thế nào?” – “Em cho thế thật là tuyệt” - Robert Kennedy nói. Tổng thống đắc cử nói: “Anh cũng nghĩ vậy. Nào hãy cùng đi công bố điều đó!”. Ông lấy ra một tập giấy màu vàng và thảo một bản tuyên bố. Sau đó, chúng tôi tiến ra hiên phía trước và phát biểu trước ống kính truyền hình và giới báo chí. Thế là Marg và bọn trẻ hiểu rằng chúng tôi sẽ đến Washington.
Henry và bà mẹ ông ta, bà Edsel Ford sững sờ khi biết về quyết định của tôi. Tôi giải thích rằng mặc dù tôi cam kết trung thành với họ và Công ty ô tô Ford, nhưng tôi không thể đặt lợi ích của họ lên trên nghĩa vụ của tôi phải phục vụ quốc gia khi được yêu cầu. Họ chấp nhận điều đó, nhưng bà Ford thì rất buồn. Bà cho rằng ông bố chồng của bà là Henry Ford đã gây ra cái chết cho chồng bà vì đã để ông ấy làm việc trong một môi trường kinh doanh quá căng thẳng đến mức giết chết ông ấy. Đúng là như vậy. Bà kiên quyết không để cho con trai mình chịu số phận tương tự. Bà trông đợi ở tôi là một lá chắn bảo vệ cho người con trai của bà.
Vài ngày sau khi đồng ý nhận công việc mới, tôi trở lại Washington và bắt tay vào việc tuyển chọn số quan chức cấp cao cho Bộ Quốc phòng. Vì chưa cần chỗ ở, văn phòng, thư ký và nhân viên nên tôi chuyển đến một căn hộ của Công ty ô tô Frord ở khách sạn Shoreham. Chúng tôi không nhận được khoản trợ cấp nào cho giai đoạn chuyển tiếp này. Tôi bắt đầu lên danh sách những người có thể đáp ứng những tiêu chuẩn của tôi về trí thông minh, trình độ học vấn và kinh nghiệm làm việc. Tôi cũng gọi cho Lovett, Galbraith và John Mc Cloy, một luật sư ở New York và là một nhân vật nổi tiếng của Eastem Establishment đề nghị họ giới thiệu người. Đối với mỗi tên người mà họ hoặc người khác giới thiệu, tôi làm cái “card” nhỏ, ghi lên đó tất cả mọi thông tin tôi biết được về từng người. Sau nhiều lần kiểm tra chéo và với sự giúp đỡ của Sarge Shriver và đồng sự của anh là Adam Yarmolinsky (người sau này trở thành Trợ lý đặc biệt của tôi tại Lầu Năm Góc), tôi đã chọn một số người để phỏng vấn. Sau các cuộc phỏng vấn tôi quyết định kiến nghị với Tổng thống đắc cử những người sẽ đưa ra Quốc hội bổ nhiệm. Tổng thống Kennedy không bác bỏ một ai trong số những người tôi đưa ra. Sau quá trình chọn lọc này đã xuất hiện một đội ngũ những người xuất sắc nhất từ trước đến nay để phục vụ cho Bộ Quốc phòng. Trong số họ, có năm người sau này đã trở thành bộ trưởng là Harold Brown, Joseph Califano, John Connally, Paul Nitze và Cyrus Vance.
Quá trình tuyển chọn người làm cho mọi người hiểu thêm về tôi cũng như hiểu thêm về Tổng thống đắc cử Kennedy, bởi vì ông ta đã giữ lời hứa là việc bổ nhiệm vào những vị trí chủ chốt do tôi chịu trách nhiệm và chủ yếu dựa trên công trạng.
Ngay sau khi đến Washington, tôi nghe tin Franklin Roosevelt (Jr.)*, sẽ được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Hải quân. Tôi chưa hề gặp con người này, nhưng những gì mà tôi nghe được về ông ta làm tôi nghĩ rằng ông ta không xứng đáng giữ chức vụ này. Do vậy, tôi không để ý đến các tin tức đó. Tôi không bao giờ nghĩ rằng Franklin D. Roosevelt (Jr.), vì muốn tiếp nối sự nghiệp của cha, đã dàn xếp xong với Tổng thống đắc cử Kennedy, rồi chính ông ta hoặc một trong số bạn học của ông đã tiết lộ chuyện này cho báo để biến nó thành sự thật.
Bốn - năm ngày sau khi đã chấp nhận một số đề nghị bổ nhiệm của tôi. Tổng thống đắc cử gọi điện cho tôi nói:
- “Bob, chưa thấy anh kiến nghị đưa ai vào chức Bộ trưởng Hải quân. Công việc tiến triển đến đâu rồi?”
- “Ngài nói rất đúng. Tôi vẫn chưa tìm được người thích hợp” - Tôi đáp lời.
- “Anh đã nghĩ về trường hợp Franklin Roosevelt (Jr.) chưa ?”
- “Tôi có nghe nói đến tên ông ta, nhưng ông ta là một tay ăn chơi và hoàn toàn không phù hợp” - tôi trả lời.
- “Thế anh đã gặp ông ta chưa?”
Khi tôi trả lời là chưa thì Tổng thống đắc cử nói: “Anh có nghĩ là nên gặp ông ta trước khi đi đến một quyết định cuối cùng không?” Tôi đồng ý sẽ làm điều đó.
Tôi nhớ đã đọc ở đâu đó là Rooscvelt đã từng đi buôn ôtô Fiat, bởi vậy tôi tra tìm Fiat trong những trang vàng của cuốn danh bạ điện thoại. Tôi gọi cho ông ta, tự giới thiệu và mời ông ta đến chỗ tôi. Tôi cảm thấy ông ta gần như buông rơi ống nghe. Sau cuộc gặp, tôi gọi điện cho Tổng thống đắc cử.
Với giọng nôn nóng chờ đợi, Kennedy hỏi: “Anh thấy thế nào?”. “Tôi nghĩ ông ta là một tay ăn chơi và hoàn toàn không phù hợp với công việc đó”, tôi đáp.
Sau một hồi im lặng. Tổng thống đắc cử hỏi: “Bob, anh có theo dõi cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ ở bang Tây Virginia không?”.
Tôi nói với ông rằng vì lúc đó đang ở Detroit nên tôi chỉ biết sơ qua về chiến dịch bầu cử này, nhưng đương nhiên tôi công nhận rằng thắng lợi của ông trong cuộc bầu cử sơ bộ ở Tây Virginia là một bước ngoặt trên con đường đi tới Nhà Trắng. Chính trong cuộc bầu cử đó, với việc đánh bại Hubert Humphrey, một người theo Đạo Tin lành, ông đã chấm dứt một đức tin cho rằng tín đồ Đạo Cơ đốc không thể thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống được.
- “Được”, ông nói nhanh, “Thế anh có biết là nó diễn ra như thế nào không?”.
Khi tôi trả lời không biết, ông nói: “Franklin Roosevelt (Jr.), đã đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của tôi đấy”. (Sau đó tôi mới biết là Roosevelt đã tung ra tin đồn nói rằng Humphrey đã trốn tránh quân dịch trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ II).
- “Tốt thôi,”, tôi nói, “tuy thế ông ta cũng vẫn không thể là Bộ trưởng Hải quân được”.
Một bầu không khí im lặng bao trùm mà tôi tưởng sẽ không bao giờ kết thúc. Cuối cùng, Tổng thống đắc cử thở dài và nói: “Tôi nghĩ tôi sẽ phải lo cho ông ta bằng một cách nào đó vậy”. (Sau đó ông đã bổ nhiệm Roosevelt làm Thứ trưởng Bộ Thương mại). Những cuộc trao đổi như vậy khiến cho tôi cảm thấy yêu mến Kennedy như tôi đã từng yêu mến ông ta.
___________________________________
* Jr. - viết tắt của Junior, nghĩa là “ con” trong tiếng Anh.
Tôi vẫn chưa quyết định được người giữ chức Bộ trưởng Hải quân cho đến khi tôi đưa gia đình đi trượt tuyết vào dịp Lễ Giáng sinh. Tuy vậy, tôi đang tiến gần tới quyết định đó. Cuối cùng, tại Aspen, tôi đã quyết và gọi điện cho Tổng thống đắc cử. Lần này ông ta lại đang ở Florida. Tôi thông báo rằng sau khi điều tra kỹ lưỡng, tôi đã quyết định chọn John B. Connally (Jr.).
- “Ôi hay đấy”, ông nói, “Có thể tôi chưa hề nghĩ tới ông ta. Tuy vậy ở đây có hai người có thể biết Connally rõ hơn tôi. Hãy nói với họ ý kiến của anh, nghe ý kiến của họ, tôi sẽ gọi lại”.
Tôi hỏi tên những người đó thì ông nói: phó Tổng thống đắc cử Johnson và Chủ tịch Hạ viện Rayburn.
Tôi đã quá ngờ nghệch đến nỗi không nhận ra là Kennedy đang đùa. Johnson và Rayburn đều là người bang Texas giống như Connally và cũng đều gần gũi với Connally như với cha đẻ của Connally vậy. Trên thực tế, năm 1960, tại Đại hội Đảng Dân chủ ở Los Angeles, Connally đã tổ chức chiến dịch vận động tại Hội trường cho Johnson để tìm cách đánh bật Kennedy khỏi ghế ứng cử viên của Đảng Dân chủ. Một số người cho rằng chính Connally đã tung tin nói JFK* đã mắc phải căn bệnh Addison.
Khi Johnson và Rayburn nhấc ống nghe lên, họ đã không để lộ điều gì cả. Họ lắng nghe câu chuyện của tôi, nói cho tôi nghe ý kiến của họ, rồi chuyển ống nghe cho Tổng thống đắc cử. Tổng thống nói: “Bob, tôi rất hài lòng”. Mãi sau này tôi mới nghĩ ra.
Tổng thống đã không bao giờ có lý do để phàn nàn về sự lựa chọn của tôi. Connally đã trở thành một trong những người ủng hộ mạnh mẽ nhất cho Tổng thống và tôi. Chúng tôi thấy tiếc khi ông xin từ chức hai năm sau đó để ra ứng cử thành công chức Thống đốc bang.
Đến bây giờ có một điều vẫn làm cho tôi hết sức ngạc nhiên là sự ngờ nghệch của tôi dường như đã không làm Tổng thống Kennedy khó chịu, ngay cả khi nó gây rắc rối cho ông. Trong chiến dịch bầu cử năm 1960, cái gọi là khoảng cách về tên lửa được coi là một vấn đề quan trọng; Kennedy buộc tội Tổng thống Eisenhower đã không quan tâm đến các tuyến phòng thủ hạt nhân của chúng ta, và kết quả là Liên Xô đã giành được ưu thế về số lượng vũ khí tiến công hiện đại nhất là loại tên lửa đạn đạo vượt đại châu mang đầu đạn hạt nhân (ICBMs). Lời buộc tội trên đây dựa trên bản báo cáo của tình báo không quân do Thượng nghị sĩ Stuart Symington (Đảng Dân chủ - bang Missouri, nguyên Bộ trưởng Không quân) tiết lộ cho Kennedy biết. Có điều họ không biết là Cục tình báo Trung ương (CIA) đã không đồng ý với kết luận của lực lượng không quân. (Khi đó chưa có cơ chế nào để các đánh giá trái ngược nhau đến như vậy).
Ngay khi mới bước vào Lầu Năm Góc, tôi đặt ưu tiên hàng đầu là phải xác định cho được quy mô của khoảng cách đó và tìm biện pháp để thu hẹp. Thứ trưởng Roswell Gilpatric và tôi đã mất mấy ngày cùng với Trợ lý Tham mưu trưởng tình báo không quân đích thân xem lại hàng trăm bức ảnh chụp các trận địa tên lửa của Liên Xô vốn được coi là cơ sở cho bản báo cáo của lực lượng không quân. Thật là khó mà giải thích được, nhưng cuối cùng chúng tôi đã kết luận CIA đã đúng còn không quân thì sai. Khoảng cách là có nhưng nó lại có lợi cho nước Mỹ.
Ngay sau đó, ngày 6/2/1961. Arthur Sylvester, thư ký báo chí của tôi nói: “Bob, ông vẫn chưa gặp giới báo chí của Lầu Năm Góc đâu nhé, ông phải gặp họ đi”. Tôi nói với anh ta là tôi không quen biết giới báo chí ở Washington và hoàn toàn chưa được chuẩn bị để gặp họ.
- “Đừng lo”, anh ta nói, “họ là những người dễ chịu và sẽ xử sự tốt với anh thôi”. Thực ra họ là những con cá mập như chính bản thân họ đã thừa nhận.
Tôi nhượng bộ và đồng ý gặp giới báo chí vào đầu giờ buổi chiều hôm đó tại phòng họp bên cạnh phòng làm việc của tôi. Phóng viên đứng chật ních trong căn phòng đóng kín cửa và Arthur đã nêu ra các nguyên tắc cơ bản cho cuộc họp báo. Tôi hiểu là cuộc họp báo này không được công bố, nhưng trước đó Arthur đã nói rõ là nó “có lý do” có nghĩa là phóng viên có thể đưa lên báo những điều họ nghe được miễn là họ đừng có quy hẳn điều đó cho tôi. Lúc đó, tôi không biết được sự khác biệt này.
Câu hỏi đầu tiên là: “Thưa Ngài Bộ trưởng, ngài đã giữ cương vị này được ba tuần. Ngài có cần nói gì về khoảng cách tên lửa không?”.
Tôi trả lời rằng tôi đã coi đây là ưu tiên số một trong chương trình công tác của tôi và cũng đã rút ra được kết luận rằng nếu như có tồn tại một khoảng cách về tên lửa, thì nó lại có lợi cho chúng ta.
Các nhà báo ùa ra cửa lao tới các máy điện thoại. Tôi vẫn còn nhớ những đầu đề của các bản tin đầy kích động trên tờ Washington Evening Star số ra buổi chiều hôm đó. Sáng hôm sau. tờ The New York Times đưa tin nổi bật ngay trên trang nhất. Những đảng viên Đảng Cộng hoà trong Quốc hội và trên khắp nước Mỹ đã tổ chức một chiến dịch phản đối mạnh mẽ. Lãnh tụ phe thiểu số tại Thượng viện là Everett Dirksen (Đảng Cộng hoà - bang Illinois) đã yêu cầu tôi từ chức và với một giọng nhạo báng ông ta đòi tổ chức lại cuộc bầu cử Tổng thống.
Tôi đến gặp Tổng thống Kennedy. Tôi nói: “Thưa ngài Tổng thống, tôi tới đây là để giúp đỡ Ngài, vậy mà tất cả những điều tôi đã làm lại xúi giục đòi Ngài phải từ chức. Tôi hoàn toàn sẵn sàng từ chức”
- “Ồ thôi đi, Bob, hãy quên điều đó đi”. Kennedy nói mà không hề tỏ ra giận dữ chút nào. “Chúng ta đang trong một tình trạng hỗn độn dễ sợ, nhưng cũng có lúc chúng ta nhỡ mồm chứ. Hãy quên ngay đi. Lời nói gió bay mà”. Cuối cùng đúng là như vậy, nhưng tôi không bao giờ quên thái độ độ lượng mà Tổng thống tha thứ cho sự ngu ngốc của tôi.
___________________________________
* John F. Kennedy - ND
Cho đến khi đó, tôi đã thảo ra một danh sách bao gồm hơn 100 chủ đề mà tôi muốn đưa ra nghiên cứu và chuẩn bị những tài liệu về chúng. Trong nội bộ Bộ Quốc phòng nó mang tên hiệu là “Chín mươi chín chiếc kèn Trombon”. Nó đề cập toàn bộ các hoạt động của Bộ Quốc phòng, bao gồm cả các mối đe dọa mà chúng tôi phải đương đầu, một cơ cấu bố trí lực lượng cần thiết để đối phó với các mối đe dọa đó, các hệ thống vũ khí chủ chốt đòi hỏi phải có, và một bản đánh giá về kế hoạch tấn công hạt nhân của chúng ta.
Trong số các vấn đề khác, danh sách “Chín mươi chín chiếc kèn Trombon” đã giúp phát đi tín hiệu nói rằng: “Chúng tôi rất nghiêm túc trong công việc kiểm soát bộ của chúng tôi”. Vào năm 1961, một thập kỷ rưỡi sau khi bắt đầu chiến tranh lạnh, Bộ Quốc phòng đã phát triển thành một bộ máy khổng lồ. Có khoảng 4,5 triệu người làm việc cho Bộ Quốc phòng - trong đó 3,5 triệu là quân nhân và 1 triệu người là dân sự. Điều này làm cho Lầu Năm Góc trở nên lớn hơn tổng số của 25 đến 30 công ty hàng đầu của Mỹ gộp lại. Ngân sách hàng năm 280 tỷ đôla Mỹ (tính theo giá trị đồng đôla năm 1994) lớn hơn ngân sách quốc gia của bất cứ một nước đồng minh NATO chủ chốt nào của chúng ta. Lầu Năm Góc điều hành những tổ hợp khổng lồ về giao thông vận tải, liên lạc viễn thông, hậu cần và bảo dưỡng, cũng như các lực lượng lục quân, các hạm đội hải quân và không quân, đương nhiên kể cả kho vũ khí hạt nhân nữa.
Hiến pháp quy định quân đội Mỹ được đặt dưới sự kiểm soát dân sự có nghĩa là Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng chịu trách nhiệm chỉ đạo toàn bộ các hoạt động của Bộ Quốc phòng. Nhưng có điều là phần lớn những người tiền nhiệm của tôi khi bước vào công việc này với những tham vọng lớn, đã nhận thấy công việc chỉ huy cả một bộ máy quan liêu to lớn đã làm đầu óc họ luôn phải bận rộn với những suy tính. Họ đã thôi không còn làm theo những vị công chức kiểu cũ và các vị tướng, các đô đốc trong những vấn đề chi tiêu ngân sách, thu nhập, chiến lược và đôi khi thậm chí cả chính sách, trong khi thiếu sự hiểu biết đối với các vấn đề đó. Đó là do việc xây dựng quân đội đến lúc này đã phát triển quá phức tạp.
Tôi không đủ kiên nhẫn để nghe mãi câu chuyện hoang đường không thể quản lý được Bộ Quốc phòng. Đó là một tổ chức cực kỳ lớn, song nếu cho rằng đó là một lực lượng bất kham thì thật là vô lý. Tôi đã kinh qua 15 năm quản lý, quyết định các loại vấn đề và thúc ép các tổ chức, mà thường là trái với ý muốn của họ, phải suy nghĩ kỹ lưỡng và thực tế về các phương hướng hành động khác nhau cũng như hậu quả của chúng. Đội công tác của tôi và bản thân tôi đặt quyết tâm phải chỉ đạo Bộ Quốc phòng bằng cách nào đó để thực hiện được mục tiêu mà Tổng thống đề ra là đem lại an ninh quốc gia với cái giá thấp nhất có thể được.
Như tôi đã nói trong cuộc phỏng vấn của Đài vô tuyến truyền hình một tháng sau khi tôi bắt đầu công việc này: “Vai trò của một người quản lý nhà nước rất giống với vai trò của một nhà quản lý tư nhân; trong từng trường hợp anh ta phải lựa chọn một trong hai phương án hành động chính. Anh ta có thể hành động như một vị quan toà, hay như một nhà lãnh đạo... Tôi đã luôn tin tưởng và gắng sức để thực hiện vai trò tích cực của người lãnh đạo, khác với vai trò thụ động của ông qua toà”.
Trong chỗ riêng tư, tôi đã nói thẳng hơn nhiều về ý định muốn cải tổ mọi việc. Tôi đã nói rõ quyết tâm trong việc tự đặt cho mình nhiệm vụ phải làm cho các quyền lợi tổ chức to lớn của những dịch vụ quân đội khác nhau lệ thuộc vào một học thuyết rộng lớn về quyền lợi quốc gia. Tôi muốn thách thức thái độ phản đối của Lầu Năm Góc. Tôi chủ định là mọi quyết định lớn phải được đưa ra trên cơ sở có nghiên cứu và phân tích, chứ không phải chỉ bằng cách kéo dài mãi tình trạng cấp phát cho các cơ quan những bọc kinh phí rồi để tuỳ họ sử dụng khoản tiền đó theo ý của họ.
Chúng tôi đã phải tiến hành những thay đổi rộng lớn để đạt được các mục tiêu trên. Điều này có nghĩa là đưa các quan chức dân sự cao cấp đi vào quản lý các chương trình phòng thủ. Một phần của quá trình này là chúng tôi đã chuyển từ chỗ vạch kế hoạch cho từng năm sang lập kế hoạch cho cả một giai đoạn 5 năm. Sự thay đổi có tính cách mạng này giờ đây được áp dụng cho cả chính phủ. Chúng tôi đã thiết lập Hệ thống kế hoạch hoá, chương trình hoá và ngân sách hoá, nhằm làm rõ những khả năng lựa chọn trong mua bán vũ khí. Hệ thống này có tác dụng buộc các cơ quan phối hợp phải đưa ra những so sánh mang tính lâu dài về chi phí và hiệu quả của các hệ thống vũ khí, cơ cấu lực lượng và các chiến lược. Ngay cả nội dung chính các cuộc họp cấp chóp bu của Lầu Năm Góc cũng phải thay đổi. Các cuộc họp đó không còn mang tính đều đều chiếu lệ, mà ngày càng mang tính định hướng chính sách nhiều hơn trước.
Một trong những việc quan trọng nhất chúng tôi đã làm được là thay đổi một cách thực chất những tuyên bố về lập trường, tức là những báo cáo chính thức hàng năm của Bộ trưởng Quốc phòng gửi cho Quốc hội. Chúng tôi đã bắt đầu mỗi bản báo cáo bằng một tuyên bố về các mục tiêu chính sách đối ngoại của nước Mỹ, rồi trên cơ sở các mục tiêu đó, chúng tôi phân tích các mối đe dọa mà nước Mỹ sẽ phải đương đầu trong quá trình thực hiện những mục tiêu trên, chiến lược quân sự được áp dụng để đối phó với các mối đe dọa đó, cơ cấu lực lượng cần thiết đã thực hiện chiến lược trên và khoản ngân sách cần thiết để duy trì cơ cấu lực lượng này. Việc đưa được chính sách đối ngoại và ngân sách quốc phòng vào báo cáo là cực kỳ quan trọng. Đó là con đường duy nhất đúng để tiến lên. Lúc đó, có nhiều ý kiến chống đối cách đề cập của chúng tôi. Chẳng hạn, nhiều người trong Bộ Ngoại giao cho rằng với việc dự thảo văn bản tuyên bố về chính sách đối ngoại của Mỹ, chúng tôi đang lấn sân của họ. Nhưng đã không hề có một tuyên bố nào như vậy cả. Điều mà họ không biết là tôi đã đề nghị Dean Rusk rà soát từng từ của bản báo cáo trước khi tôi sử dụng nó làm cơ sở cho chiến lược quân sự cũng như các chương trình phòng thủ của chúng tôi.
Tất cả điều này đã phản ánh cách đề cập về tổ chức các hoạt động của con người mà tôi đã nêu ra tại Trường Harvard và áp dụng trong quân đội trong thời kỳ chiến tranh, cũng như sau này tại Công ty Frord và Ngân hàng Thế giới. Nói một cách rất đơn giản là phải xác định mục tiêu rõ ràng cho bất kỳ tổ chức nào mà mình gắn bó, rồi đưa ra kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó và theo dõi một cách hệ thống sự tiến triển trong việc thực hiện kế hoạch. Sau đó nếu thấy chưa có tiến triển thì người ta có thể hoặc là điều chỉnh lại kế hoạch hoặc là thực hiện biện pháp sửa chữa để đẩy nhanh tiến độ. Ngay từ đầu, đối với tôi mục tiêu của Bộ Quốc phòng là rõ ràng: bảo vệ cho nước Mỹ ít bị đe dọa nhất và với giá phải trả thấp nhất, và bất cứ khi nào tham chiến thì tổn thất về người cũng là ít nhất.
Ngay lập tức, chúng tôi đã xử lý một nhiệm vụ rất khẩn cấp, đó là kiểm tra và xác định lại chiến lược hạt nhân của chúng ta. Cuộc tranh luận có từ lâu về chiến lược đã thúc đẩy việc này. Trong những năm 50, bất chấp lời khuyên của một số nhà lãnh đạo quân sự cao cấp như Tham mưu trưởng lục quân, Tướng Maxwell Taylor, chính quyền Eisenhower đã ngày càng dựa vào vũ khí hạt nhân để bảo vệ đất nước. Ngoại trưởng John Foster Dulles đã tóm tắt học thuyết “trả đũa ồ ạt” này khi ông tuyên bố Hoa Kỳ có mục tiêu răn đe xâm lăng bằng cách dựa “trước tiên vào khả năng to lớn có thể trả đũa tức thì bằng vũ khí hạt nhân bằng phương cách và ở những nơi mà chính chúng ta lựa chọn”.
Chính quyền Kennedy thì lo rằng việc dựa vào vũ khí hạt nhân không giúp chúng ta đánh trả được các cuộc tấn công phi hại nhân lớn mà không phạm sai lầm mang tính tự sát. Tổng thống Kennedy nói: chúng ta đã tự đặt mình vào thế buộc phải có sự lựa chọn trong một cuộc khủng hoảng giữa “sự rút lui nhục nhã hoặc sự trả đũa không giới hạn”. Chúng tôi đã quyết định mở rộng diện lựa chọn bằng cách tăng cường và hiện đại hoá khả năng quân sự để đánh một cuộc chiến tranh phi hạt nhân. Điều này đã dẫn tới sự thay đổi trong học thuyết từ trả đũa ồ ạt sang phản ứng linh hoạt, một chiến lược nhằm giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân. Chúng tôi mới chỉ thành công phần nào trong việc nâng cao cái “ngưỡng” hạt nhân. Các đề nghị của chúng tôi đã được NATO tranh luận suốt 5 năm và sau đó đã chấp nhận với những sửa đổi lớn.
Dù sao đi nữa, trong những ngày đầu của chính quyền, chúng tôi đã làm việc miệt mài để phát triển các kế hoạch tăng cường lực lượng của chúng ta. Cuối tháng 3, Tổng thống Kennedy đã trình bày kế hoạch của chúng tôi trong bản thông điệp đặc biệt về quốc phòng trước Quốc hội. Ông xin thêm 650 triệu đôla cho Lầu Năm Góc để chúng tôi có thể triển khai các biện pháp tăng cường khả năng của chúng ta nhằm răn đe hoặc chống lại cuộc xâm lăng phi hạt nhân.
Ba tháng sau lễ nhậm chức của Tổng thống Kennedy, chúng tôi cảm giác như mình vẫn chưa có phương hướng. Tuy vậy, chỉ ít ngày sau khi Tổng thống tường trình bản kế hoạch quốc phòng trước Quốc hội, chúng tôi đã đương đầu với một quyết định cho thấy sự phán xét và may mắn của chúng tôi đều có những giới hạn ghê gớm.
Đầu năm 1960, chính quyền Eisenhower đã ủy quyền cho CIA tổ chức, vũ trang và huấn luyện bí mật tại Trung Mỹ một đội quân gồm 1.400 người Cuba lưu vong để xâm nhập vào Cuba và lật đổ chế độ của Fidel Castro. Castro đã nắm quyền trên hòn đảo này từ một năm trước đó và dường như đang đưa Cuba vào quỹ đạo của Liên Xô. Chính quyền Kennedy đã kế thừa ý đồ này và cho phép tiếp tục lập kế hoạch xâm nhập.
Giờ đây chưa đầy 90 ngày sau lễ nhậm chức, Kennedy đã phải quyết định có nên triển khai cuộc tiến công đó nữa không. Ông đã triệu tập các cố vấn của mình, có lẽ tất cả là 20 người chúng tôi, tới một cuộc họp tại Bộ Ngoại giao và hỏi xem cần phải làm gì. Ông đi vòng quanh bàn và hỏi ý kiến từng người. Chỉ trừ Thượng nghị sĩ J. William Fulbright (Đảng Dân chủ - Arkansas), người có quan điểm bất đồng rất mạnh, còn mọi người trong phòng đều ủng hộ hành động đó. Đó là một chiến dịch của CIA, nhưng tất cả các Tham mưu trưởng liên quân đều tán thành. Ngoại trưởng Dean Rusk và tôi mặc dù không nhiệt tình lắm nhưng cũng nói ủng hộ, cũng như Cố vấn an ninh quốc gia Mc George Bundy và tất cả các thành viên khác của Hội đồng An ninh quốc gia (NSC).
Cuộc xâm nhập diễn ra hôm 17/4/1961 tại Vịnh Con Lợn trên bờ biển phía Tây-Nam Cuba. Như một nhà sử học đã viết, nó nhanh chóng cho thấy là “một thất bại hoàn hảo”. Người của Castro đã được cài kỹ vào đội quân đó, trái với các dự đoán của CIA, nhân dân Cuba đã không ủng hộ cuộc xâm nhập này. Castro đã huy động lực lượng trong vùng đó to lớn hơn và nhanh chóng hơn dự đoán. Sự yểm trợ không quân cho các cuộc đổ bộ đã không được đặt kế hoạch thoả đáng, còn lối thoát vào núi thì phải đi qua 80 dặm trên đầm lầy không tài nào vượt qua được. Bàn tay của Washington trong chiến dịch này, một khi bị phơi bày đã làm dấy lên sự công phẫn trên toàn cầu, danh sách của những sai lầm ngớ ngẩn cứ thế tiếp tục dài ra. Tổng thống Kennedy đã lên vô truyền truyền hình toàn quốc và nhận hoàn toàn trách nhiệm về sự thất bại này. Xem ông làm điều đó đã dậy cho tôi một bài học cay đắng. Tôi bước chân vào Lầu Năm Góc với vốn hiểu biết hạn chế về các vấn đề quân sự và thậm chí còn kém hiểu biết hơn nữa về các hoạt động bí mật. Việc thiếu hiểu biệt này đi đôi với mối bận tâm về các vấn đề khác, và việc tôi chiều theo CIA trong một việc mà tôi coi chỉ là một hoạt động ngầm, tất cả đã dẫn tôi đến chỗ chấp thuận kế hoạch trên một cách không có phê phán. Tôi đã nghe các cuộc tường trình dẫn tới cuộc xâm nhập đó. Thậm chí tôi cũng đã chuyển tới Tổng thống mà không bình luận gì một bản đánh giá mơ hồ của các Tham mưu trưởng liên quân cho rằng cuộc xâm nhập này chắc là sẽ góp phần lật đổ Castro ngay cả khi nó không thành công khi đó. Thực ra là tôi đã không hiểu rõ kế hoạch này và cũng không biết hết thực tế. Thế là tôi đã để cho mình trở thành một người thụ động đứng ngoài cuộc.
Ngày hôm sau, tôi đến phòng Bầu Dục và nói: “Thưa Tổng thống, tôi biết tôi đã ở đâu khi Ngài quyết định tiến hành cuộc xâm nhập. Tôi đã ở trong một căn phòng, nơi mà chỉ trừ một ngoại lệ, tất cá các cố vấn của Ngài, trong đó có tôi đã kiến nghị Ngài hãy xúc tiến. Tôi hoàn toàn sẵn sàng lên truyền hình để nói lên điều này”.
Nghe tôi xong. Kennedy đã trả lời: “Bob, tôi biết ơn vì tinh thần sẵn sàng nhận một phần trách nhiệm. Nhưng tôi là Tổng thống, tôi đã không nhất thiết phải làm những gì mà tất cả các anh kiến nghị. Vậy mà tôi đã làm. Tôi chịu trách nhiệm và tôi cũng sẽ không cố trút một phần lỗi lên anh, Eisenhower, hoặc bất cứ ai khác”.
Tôi đã khâm phục ông vì điều đó, và chuyện đó đã làm cho chúng tôi thân nhau hơn. Tôi quyết định sẽ không làm ông thất vọng nữa.
2
NHỮNG
NĂM ĐẦU
NGÀY 19/1/1961 -
23/8/1963
Chúng ta cần phải sáng
suốt trong những lúc
khởi đầu mọi việc. Vì, khi chúng mới bắt đầu
phát triển tốt, chúng ta thấy không hết mối
nguy hiểm, để đến lúc sự việc phát triển đầy
đủ thì chúng ta không biết chữa chạy bằng
cách nào.
Tiểu luận của MONTAIGNE
khởi đầu mọi việc. Vì, khi chúng mới bắt đầu
phát triển tốt, chúng ta thấy không hết mối
nguy hiểm, để đến lúc sự việc phát triển đầy
đủ thì chúng ta không biết chữa chạy bằng
cách nào.
Tiểu luận của MONTAIGNE
Mọi sự khởi đầu ở trên đời này đều nhỏ bé và câu chuyện về sự dính líu của tôi ở Việt Nam cũng chẳng khác gì. Khi John F. Kennedy trở thành Tổng thống, chúng tôi phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng ngày càng lớn và phức tạp ở Đông Nam Á bằng sự hiểu biết nghèo nàn, kinh nghiệm ít ỏi và những giả thiết đơn giản. Thời gian qua đi. chúng tôi mới nhận ra rằng những vấn đề gây rắc rối cho Nam Việt Nam và Ngô Đình Diệm, lãnh tụ của họ, còn phức tạp hơn nhiều so với như suy nghĩ ban đầu của chúng tôi. Giải quyết những vấn đề này như thế nào thì chúng tôi vẫn không sao nhất trí được với nhau.
Trong suốt những năm dưới thời Kennedy, hoạt động của chúng tôi dựa trên hai tiền đề mà kết cục cho thấy hoàn toàn trái ngược nhau. Một tiền đề cho rằng việc Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản sẽ đe dọa an ninh của nước Mỹ và thế giới phương Tây; còn tiền đề thứ hai lại cho rằng chỉ có người Nam Việt Nam mới có thể bảo vệ được đất nước họ và rằng Mỹ chỉ nên giới hạn vai trò của mình trong việc giúp đỡ hậu cần và huấn luyện. Theo quan điểm thứ hai, năm 1963, thực tế chúng tôi đã bắt đầu lên kế hoạch rút lực lượng quân đội Mỹ theo từng giai đoạn một, bước đi đã bị phản đối quyết liệt bởi những người cho rằng việc rút quân sẽ dẫn tới việc mất Nam Việt Nam và rất có thể cả châu Á nữa. Năm 1961, suy nghĩ của tôi về Đông Nam Á chẳng khác mấy so với suy nghĩ của những người Mỹ cùng thế hệ, những người đã từng phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ II và theo dõi công việc đối ngoại qua báo chí, nhưng không thạo về địa - chính trị và tình hình châu Á. Sau khi bỏ ra ba năm giúp đẩy lùi sự xâm lược của người Đức và người Nhật để chỉ được chứng kiến việc người Liên Xô tiếp quản Đông Âu sau chiến tranh, tôi chấp nhận tư tưởng của George F. Kennan nêu trong bài báo “X” nổi tiếng đăng trong tạp chí Foreign Affairs tháng 7/1947 rằng phương Tây, dưới sự lãnh đạo của Mỹ, phải ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản bằng một chính sách kiềm chế. Tôi xem đây là cơ sở thực tế để đưa ra những quyết định về an ninh quốc gia và nên sử dụng lực lượng quân sự của phương Tây.
Cũng như đa số người Mỹ, tôi coi chủ nghĩa cộng sản như một khối rắn chắc. Tôi tin là người Liên Xô và Trung Quốc đang hợp tác với nhau tìm cách mở rộng bá quyền của họ. Tất nhiên sau này, khi nhìn lại chúng ta mới thấy rõ rằng từ cuối những năm 50, họ không hề có chiến lược thống nhất, mà những rạn nứt giữa họ với nhau từ từ phát triển và ngày càng bộc lộ rõ. Lúc này chủ nghĩa cộng sản có vẻ như vẫn đang ở thế tiến công. Từ 1949, Mao Trạch Đông và những người theo ông ta đã kiểm soát Trung Quốc và đã cùng Bắc Triều Tiên chiến đấu chống lại phương Tây. Nikita Khrushchev đã tiên đoán về chiến thắng của cộng sản qua “những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc” ở Thế giới thứ ba, và ông ta đã nói với phương Tây rằng: “Chúng tôi sẽ đào huyệt chôn các người”. Lời đe dọa của ông ta được người ta tin hơn khi Liên Xô phóng tàu vũ trụ Sputnik vào năm 1957, chứng tỏ vai trò đi đầu của họ trong kỹ thưật vũ trụ. Năm sau, Khrushchev bắt đầu gây không khí căng thẳng ở Tây Berlin và lúc này Castro đã biến Cuba thành đầu cầu của chủ nghĩa cộng sản ở bán cầu của chúng ta. Chúng ta cảm thấy bị bao vây và bị đe dọa. Chính nỗi sợ hãi này đã làm cơ sở cho chúng ta dính líu vào Việc Nam.
Tôi không xem mối hoạ cộng sản là không thể đối phó như cách nhìn của rất nhiều người cánh hữu. Đó là mối đe dọa mà tôi chắc rằng có thể đối phó được và tôi chia sẻ tình cảm của Tổng thống Kennedy khi ông kêu gọi nước Mỹ và phương Tây cùng chịu gánh nặng của một cuộc đấu tranh lâu dài và tù mù. Ông nói trong bài diễn văn nhậm chức: “Hãy để cho tất cả các quốc gia biết rằng dù họ muốn chúng ta khoẻ mạnh hay ốm yếu, chúng ta sẽ trả bất cứ giá nào, chịu đựng mọi gánh nặng, đương đầu với mọi khó khăn, hậu thuẫn bất cứ người bạn nào, chống lại bất cứ kẻ thù nào để đảm bảo sự sống còn và thắng lợi của tự do”1.
Tôi biết đôi điều về lịch sử cận đại của Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam. Tôi biết rằng Hồ Chí Minh, một người cộng sản, đã bắt đầu những cố gắng nhằm giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ I. Tôi biết Nhật đã chiếm đóng nước này trong Chiến tranh thế giới thứ II; tôi biết Hồ Chí Minh tuyên bố nền độc lập của Việt Nam sau khi Nhật Bản đầu hàng, nhưng Mỹ đã ngầm bằng lòng cho Pháp trở lại Đông Dương vì sợ rằng một sự rạn nứt Pháp-Mỹ có thể làm cho việc ngăn chặn Liên Xô bành trướng ở châu Âu trở nên khó khăn hơn. Thực tế là trong một thập kỷ sau đó, chúng ta đã phải bao cấp cho những hoạt động quân sự của Pháp chống lại các lực lượng của ông Hồ, được người Trung Quốc hậu thuẫn. Tôi biết rằng Mỹ coi Đông Dương là một bộ phận cần thiết trong chính sách, ngăn chặn của chúng ta - một bức tường thành quan trọng trong chiến tranh lạnh.
______________________________________
1. Các văn kiện công khai của Tổng thống Mỹ (gọi tắt là Các văn kiện công khai), John F. Kennedy, 1961 (Washington: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1962), tr. 1-3.
Trong những năm 50, hầu như rõ ràng rằng phong trào cộng sản ở Việt Nam có liên quan chặt chẽ với những cuộc du kích nổi loạn ở Mianma, Indônêxia, Malaixia và Philippin. Chúng tôi coi những xung đột này không chỉ là những phong trào dân tộc chủ nghĩa, mà còn là những dấu hiệu của nỗ lực thống nhất của cộng sản giành bá quyền ở châu Á (trong nhận thức sau này thì chủ yếu phong trào này mang tính dân tộc). Lối suy nghĩ này đã làm Dean Acheson - Ngoại trưởng thời Tổng thống Truman, gọi Hồ Chí Minh là “kẻ thù không đội trời chung của nền độc lập bản xứ ở Đông dương”1.
Tôi cũng biết rằng chính quyền Eisenhower đã đồng ý với quan điểm của chính quyền Truman rằng việc Đông Dương rơi vào tay chủ nghĩa cộng sản sẽ đe dọa an ninh của Mỹ. Mặc dù dường như không sẵn sàng đưa các lực lượng chiến đấu của Mỹ vào khu vực, chính quyền này lại lên giọng cảnh cáo về mối đe dọa cộng sản ở đó một cách rõ ràng và thường xuyên. Vào tháng 4/1954. Tống thống Eisenhower đưa ra lời tiên đoán nổi tiếng rằng nếu Đông Dương sụp đổ, phần còn lại của Đông Nam Á sẽ “sụp đổ rất nhanh” như “những quân bài Domino”. Ông còn thêm rằng “những hậu quả có thể xảy ra của mất mát này là không thể tính được đối với thế giới tự do”2. Vào năm đó, đất nước chúng ta thay Pháp đảm trách việc bảo vệ Nam Việt Nam theo đường phân giới 1954. Chúng ta cũng đồng thời đàm phán Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO). Mỹ cam kết sẽ bảo vệ Đông Dương một cách có điều kiện. Và từ 1955-1961, chúng ta đã bơm hơn 7 tỷ đôla viện trợ kinh tế và quân sự vào Nam Việt Nam.
Cuối cùng tôi cũng nhận ra rằng trong những năm ở Thượng viện, John F. Kennedy đã lặp lại những đánh giá của Eisenhower về Đông Nam Á. Trong bài diễn văn được công bố rộng rãi vào năm 1956, ông đã nói: “Việt Nam là hòn đá tảng của Thế giới tự do ở Đông Nam Á. Đó là con đẻ của chúng ta. Chúng ta không thể từ bỏ nó, không thể phớt lờ những nhu cầu của nó”3.
Sau khi tôi trở thành Bộ trưởng Quốc phòng, có hai sự kiện đã củng cố thêm cách nghĩ của tôi về Việt Nam: việc Cuba và Liên Xô tăng cường quan hệ và một đợt sóng khiêu khích mới của Liên Xô ở Berlin. Cả hai tình hình mới này dường như làm rõ thêm ý đồ hiếu chiến của chủ nghĩa cộng sản. Trong bối cảnh đó, nguy cơ mất Việt Nam, và qua việc sụp đổ của các con bài Domino, mất cả Đông Nam Á, làm cho việc tính tới khả năng mở rộng nỗ lực của Mỹ ở Việt Nam dường như là một điều hợp lý.
Tuy vậy, tất cả những hiểu biết đó chẳng hề làm cho tôi gần gũi hơn chút nào với một chuyên gia về Đông Á. Tôi chưa hề đến thăm Đông Dương và cũng chẳng hiểu biết hay đánh giá cao lịch sử, ngôn ngữ, văn hoá hay các giá trị khác của vùng này. Tuy ở mức độ khác nhau, cũng có thể nói như vậy đối với Tổng thống Kennedy. Ngoại trưởng Dean Rusk, cố vấn an ninh quốc gia Mc. George Bundy, cố vấn quân sự Maxwell Taylor và nhiều người khác. Khi bàn đến Việt Nam, chúng tôi thấy mình đang lập chính sách cho một vùng đất không ai biết tới.
Tồi tệ hơn, chính phủ chúng ta lại thiếu những chuyên gia để chúng tôi tham khảo ý kiến nhằm bù lại sự thiếu hiểu biết của chúng tôi. Khi cuộc khủng hoảng Berlin xuất hiện năm 1961 và trong cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba năm 1962, Tổng thống Kennedy đã có thể quay sang những người có trình độ cao hơn như Llewellyn Thompson, Charles Bohlen và George Kennan, là những người am hiểu sâu sắc về Liên Xô. Ở Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại giao lúc bấygiờ không có những quan chức cao cấp có kiến thức như vậy về Đông Nam Á. Ở Lầu Năm Góc tôi chỉ biết một sĩ quan có kinh nghiệm chống bạo loạn ở khu vực. Đại tá Edward Lansdale, người đã từng làm cố vấn cho Ramon Magsaysay ở Philippin và Diệm ở Nam Việt Nam. Nhưng Lansdale còn khá trẻ và thiếu kiến thức rộng về địa chính trị.
Điều mỉa mai là có khoảng trống đó chủ yếu là do những chuyên gia đầu ngành về Đông Á và Trung Quốc ở Bộ Ngoại giao như John Paton, David (Jr.), John Stewart Service và John Carter Vincent đã bị thanh lọc trong cơn cuồng loạn của McCarthy trong những năm 50. Không có những con người như vậy để cung cấp cho chúng ta hiểu biết thấu đáo và tinh tế, chúng ta, tất nhiên có cả tôi, đã hiểu sai thậm tệ những mục tiêu của Trung Quốc và lầm lẫn cho rằng những ngôn từ hiếu chiến của nó hàm ẩn động cơ giành bá quyền khu vực. Chúng tôi cũng hoàn toàn đánh giá thấp khía cạnh dân tộc chủ nghĩa trong phong trào của Hồ Chí Minh. Chúng tôi coi Ông, trước hết là một người cộng sản, rồi mới là một người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc.
Tại sao chúng ta lại thất bại trong việc đánh giá Trung Quốc và Việt Nam theo cách như chúng ta đã coi Nam Tư là một quốc gia cộng sản độc lập với Mátxcơva. Tôi tin là có một số lý do. Titô tỏ ra khác thường. Ông ta và Stalin đã bất hoà một cách công khai. Những ngôn từ cuồng nhiệt của Trung Quốc và Bắc Việt Nam làm chúng ta nghĩ rằng họ đang tìm kiếm bá quyền khu vực. Và việc Cuba gần đây ngả theo Liên Xô dường như minh hoạ cho các phong trào độc lập bề ngoài của Thế giới thứ ba đã nhanh chóng đặt mình vào quỹ đạo cộng sản như thế nào. Bởi thế chúng ta đã không đánh đồng Hồ Chí Minh với Nguyên soái Titô, mà ngang hàng với Fidel Castro.
Những phán xét thiếu cơ sở như vậy đã được chính quyền Kennedy chấp nhận mà không hề tranh luận vì những người tiền nhiệm của cả đảng Dân chủ và đảng Cộng hoà đã làm việc đó rồi. Chúng ta đã không phân tích một cách có phê phán những giả định của chúng ta lúc dó và cả sau này. Những cơ sở nền tảng quyết sách của chúng ta đã có nhiều sai sót nghiêm trọng.
______________________________________
1. Vụ Bản tin quốc gia, 13/2/1950, tr. 244.
2. Các văn kiện công khai, Dwight D. Eisenhower, 1954 (Washington: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1960) tr. 382-384.
3. John F. Kennedy, “Những đóng góp của Mỹ ở Việt Nam”, Các diễn văn quan trọng, ngày 1/8/1956, tr. 617-619.
Còn có những sai lầm khác nữa. Tôi sẽ tìm cách xác định, làm sáng tỏ và chắt lọc từ những sai lầm đó những bài học có thể áp dụng cho tương lai. Hàng loạt cuốn sách đã viết về Việt Nam. Họ mô tả tỉ mỉ cuộc xung đột. Tôi thấy không cần thiết lặp lại công việc của họ. Thay và đó, tôi sẽ tập trung vào 11 sự kiện hay những quyết định chủ yếu và thảo luận về những tác động hoặc tiến trình quyết sách liên quan đến mỗi sự kiện:
- Cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Eisenhower và Tổng thống đắc cử Kennedy ngày 19/1/1961.
- Quyết định của Tổng thống Kennedy vào cuối 1961, rốt cuộc đã dẫn đến việc đưa 16.000 cố vấn quân sự Mỹ tới Nam Việt Nam để giúp huấn luyện người Nam Việt Nam tự bảo vệ mình, chống lại sức ép từ miền Bắc.
- Tuyên bố của Tổng thống Kennedy ngày 2/10/1963, hy vọng sứ mệnh huấn luyện sẽ hoàn tất vào năm 1965 và ông sẽ tiến hành rút các lực lượng huấn luyện Mỹ trong vòng 90 ngày kể từ thời điểm đó (có nghĩa là trước 31/12/1963).
- Cuộc đảo chính 1/11/1963, dẫn đến vụ ám sát Tổng thống Diệm.
- Sự tan rã về chính trị ở Nam Việt Nam trong 12 tháng đầu nhiệm kỳ Tổng thống của Lyndon Johson và phản ứng của chính quyền đối với việc này.
- Những sự kiện ở Vịnh Bắc Bộ vào tháng 8/1964, phản ứng của Tổng thống và nghị quyết tiếp sau của Quốc hội.
- Giác thư bước ngoặt của Mc. George Bundy và tôi gửi Tổng thống Johnson vào cuối tháng 1/1965; và mấy tuần sau thì Mỹ tiến hành ném bom Bắc Việt Nam.
- Quyết định mang tính định mệnh trong tháng 7/1965, đưa 175.000 quân chiến đấu Mỹ đến trước cuối năm đó để bảo vệ Nam Việt Nam và nhận thấy sau này vẫn có thể cần đưa thêm nữa.
- Những cố gắng liên tục, bắt đầu từ cuối năm 1965 và tiếp tục cho tới năm 1967, nhằm chấm dứt chiến tranh bằng cách đưa sáng kiến đàm phán, do chúng ta không có khả năng chấm dứt chiến tranh bằng quân sự.
- Mùa xuân năm 1966, quyết định đưa thêm 200.000 quân tới Việt Nam trước cuối năm; trong khi nhận thấy rằng không thể có khả năng kết thúc chiến tranh sớm.
- Cuộc tranh luận gay gắt trong năm 1967 về cách tiến hành chiến tranh và những đòi hỏi tăng cường hơn nữa lực lượng của Mỹ. Đây là cuộc tranh luận mà cuối cùng dẫn tới việc tôi ra khỏi chính phủ vào 29/2/1968.
Người ta cho rằng chính những báo cáo láo của những người lãnh đạo về chính trị và quân sự, trong đó có tôi, đã tác động tới cả những quyết định của chính phủ và phản ứng của công chúng đối với các sự kiện xảy ra ở Việt Nam suốt giai đoạn này. Tôi sẽ bàn về những lập luận này vào phần sau của cuốn sách.
Lần đầu tiên tôi chạm trán với vấn đề Đông Dương là tại một cuộc họp ngắn ngủi giữa Tổng thống Eisenhower và Tổng thống đắc cử Kennedy. Hôm đó là ngày 19/1/1961, ngày cầm quyền cuối cùng của Tổng thống Eisenhower. Ông và các cộng sự thân tín nhất của mình - Ngoại trưởng Christian Herter, Bộ trưởng Quốc phòng Thomas Gates, Bộ trưởng Ngân khố Robert Anderson và phụ tá tham mưu. Tướng Wilton Persons - đã gặp Tổng thống đắc cử Kennedy, các Bộ trưởng mới bổ nhiệm như Ngoại trưởng Dean Rusk, Bộ trưởng Ngân khố Douglas Dillon, Cố vấn về chuyện giao Clark Clifford và tôi để trình bày những vấn đề cấp bách của quốc gia mà chúng tôi sẽ phải đối phó*.
_______________________________________
* Cuộc họp là minh hoạ cho điểm yếu trong thể thức quản lý chính phủ của chúng ta - thiếu một cách thức hữu hiệu để chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm từ chính quyền này cho một chính quyền khác - và nó cũng cho thấy cái giá nặng nề chúng ta phải trả. Trong chế độ nghị viện, các bộ trưởng của chính phủ mới thường là những bộ trưởng đối lập trong vài năm trước khi họ cầm quyền. Ví dụ, tôi còn nhớ chuyện của Denis Healey của Anh và Helmut Schmidt của Đức trước khi họ trở thành Bộ trưởng Quốc phòng của nước họ thì trên thực tế cả hai đã được đào tạo thông qua việc đảm trách là những lãnh tụ của đảng đối lập và nghiên cứu những vấn đề an ninh của đất nước trong nhiều năm. Trái lại, tôi đến Washington từ cương vị Chủ tịch Công ty ở tô Ford. Cuộc gặp gỡ giữa hai nhóm Eisenhower và Kennedy chỉ là một sụ thay thế tồi cho nhu cầu đào tạo như vậy. John Locke đã đúng khi ông viết: “Kiến thức của bất cứ ai cũng không thể vượt ra ngoài kinh nghiệm của người đó”.
Buổi chiều hôm đó, chúng tôi đã bàn tới một loạt các chủ đề nhưng tập trung vào vấn đề Đông Dương. Tôi có thể chẳng hề tin vào trí nhớ của mình về những gì đã được nói tới; tuy vậy một vài người tham dự, trong đó có tôi đã viết những bản ghi nhớ để làm hồ sơ ngay sau đó. Những tài liệu này và những hồi ký sau này về cuộc gặp đó phản ánh những quan điểm khác nhau đối với những điều Eisenhower khuyên Kennedy về vấn đề then chốt là can thiệp quân sự ở Đông Nam Á.
Trong phần thảo luận đó, thực tế là Eisenhower chỉ tập trung vào Lào chứ không phải Việt Nam. Những người cộng sản Pathet Lào đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng của Phoumi Nosavan được Mỹ ủng hộ để giành quyền kiểm soát đất nước. Đây là những gì mà Clark Clifford đã viết “Tổng thống Eisenhower đã tuyên bố Lào là chìa khoá hiện nay cho toàn bộ khu vực Đông Nam Á. Nếu Lào bị mất vào tay cộng sản sẽ tạo ra một sức ép không thể tin được đối với Thái Lan, Campuchia và Nam Việt Nam. Tổng thống Eisenhower tuyên bố rằng ông coi Lào (và qua đó là Việt Nam) có tầm quan trọng đến mức nếu đến một giai đoạn mà chúng ta không thể thuyết phục các nước khác cùng hành động với chúng ta, thì lúc đó ông sẵn sàng “như một hy vọng liều mạng cuối cùng là tiến hành can thiệp quân sự” (nhấn mạnh trong nguyên bản)1.
Dean Rusk nhớ về cuộc họp này chủ yếu giống như Clifford báo cáo. Ông cho rằng ông đã nghe Eisenhower khuyến nghị có hành động đơn phương ở Lào nếu đó là giải pháp thay thế duy nhất cho việc mất Lào vào tay chủ nghĩa cộng sản2.
Nhưng theo yêu cầu của Tổng thống Kennedy bản ghi nhớ của tôi được viết từ những ghi chép tôi ghi trong cuộc họp, lại cho thấy rằng thực ra Eisenhower đang đưa ra một thông diệp lẫn lộn. Tôi có cảm giác rằng ông ta rất không chắc chắn về hướng hành động thích hợp. Tôi viết: “Liên quan đến Lào. Tổng thống Eisenhower khuyên Mỹ không nên hành động đơn phương”, và tôi cũng nhận thấy rằng Eisenhower không trả lời thẳng câu hỏi của Kennedy: “Vậy có thể làm gì để giữ không cho những người cộng sản Trung Quốc vào Lào?” Tôi viết phần kết luận rằng “Tổng thống Eisenhower tuyên bố không dè dặt là “Nếu Lào tuột khỏi tay Thế giới tự do, trong tương lai, chúng ta sẽ mất cả Đông Nam Á”3.
Hồi ký của Douglas Dillon hoàn toàn phù hợp với bản ghi nhớ của tôi. Thậm chí Dillon còn đi một bước xa hơn, nói thêm về ấn tượng của ông rằng: “Cả Eisenhower và Herter (Ngoại trưởng) đều ngầm hài lòng về việc họ đã chuyển cho Kennedy một khó khăn tiềm tàng khó giải quyết nổi”4.
Theo tôi, cảm giác của Douglas hoàn toàn đúng: Eisenhower không biết phải làm gì ở Đông Nam Á và vui mừng phó thác việc này cho đảng Dân chủ. Tuy nhiên, tôi không thể trách cứ việc giao cho chúng tôi một vấn đề rắc rối mà không hề có hướng giải quyết. Theo cách định nghĩa của cả Eisenhower và chúng tôi, vấn đề Đông Dương là vô cùng khó khăn. Nhưng phải suối cả 14 năm sau đó, đất nước chúng ta mới thấy rõ một cách đau đớn tính nan giải của nó như thế nào.
Còn một bằng chứng cho thấy Eisenhower cảm thấy bế tắc. Sau này có tin rằng ba tuần trước buổi thông báo cho Kennedy, ông đã nói với nhân viên của mình: “Chúng ta không được để Lào rơi vào tay cộng sản, thậm chí nếu cần đến chiến tranh”5. Nhưng tuyên bố đó ngược hoàn toàn với lập trường của ông trong suốt cuộc khủng hoảng Điện Biên Phủ sáu năm trước đó: khi đó ông quyết định chống lại sự can thiệp của Mỹ. Có lẽ Eisenhower đã điều chỉnh quan điểm khi thế giới nổ ra hàng loạt sự kiện. Nhưng tôi không sao điều hoà được hai quan điểm này. Liệu rồi cuối cùng Eisenhower cũng đi đến chiến tranh ở Việt Nam như chúng ta đã làm hay không? Tôi không biết nữa.
Điều tôi biết được là chúng ta đã không nhận được những đánh giá chín chắn về vấn đề này và không hề có tranh luận điều hơn lẽ thiệt về những sự lựa chọn khác để giải quyết nó. Điều duy nhất người ta để lại cho chúng tôi là lời dự đoán gở rằng nếu mất Lào, cả Đông Nam Á sẽ sụp đổ. Do đó, phương Tây sẽ phải làm tất cả những gì cần thiết để ngăn chặn kết cục đó. Cuộc họp đã gây ấn tượng sâu sắc cho Kennedy và tất cả chúng tôi, và ảnh hưởng nặng nề đến cách đề cập của chúng tôi sau này đối với Đông Nam Á.
Trong vòng vài tuần tình hình trở nên rõ ràng là không chỉ ở Lào, ở Nam Việt Nam khó khăn rắc rối cũng đang phát triển nhanh hơn chúng ta dự đoán. Trong tháng 3, Tổng thống Kennedy thành lập một lực lượng đặc nhiệm gồm các quan chức nội các do Ros Gilpatric lãnh đạo để thăm dò các hướng hành động thay thế khác và nêu ra các kiến nghị. Trong báo cáo trình bày ngày 8/5, nhóm này kêu gọi điều mà theo chúng tôi thì hình như đó là việc tăng ồ ạt số lượng các nhân viên quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam, từ mấy trăm lên tới vài ngàn. Tổng thống Kennedy đã cắt giảm lớn kế hoạch này, ông chỉ cho phép tăng một số lượng khiêm tốn gồm 100 cố vấn và 400 quân thuộc Lực lượng đặc biệt để huấn luyện người Nam Việt Nam các kỹ thuật chống nổi dậy.
___________________________________
1. Clark Clifford với Tổng thống Kennedy, Báo cáo tại buổi gặp gỡ giữa Tổng thống Eisenhower và Tổng thống mới được bầu Kennedy và các cố vấn của họ ngày 19/1/1961, ngày 24/1/1961, “Eisenhower, Dwight D., 17/1-9/12/1961”. Hồ sơ Văn phòng Tổng thống, Giấy tờ của John F. Kennedy, Thư viện John Fitzgerald Kennedy (sau đây gọi là JFKL).
2. Xem Dean Rusk nói với Richard Rusk, Như tôi thấy nó (New York: Norton, 1990), tr. 428.
3. Báo cáo gửi Tổng thống, 24/1/1961, in lại trong Tạp chí Lịch sử Nước Mỹ, tháng 6/1963, tr. 363.
4. Trích trong “Eisenhower đã nói gì với Kennedy về Đông Dương? Các chính sách của sự nhận thức sai lầm”, Fred I. Greenstein và Richard H. Immerman, Tạp chí Lịch sử Nước Mỹ, tháng 9/1992, tr. 583.
5. John S. D. Báo cáo của Eisenhower về cuộc gặp gỡ với Tổng thống, 31/12/1960, “Ghi chép của nhân viên - tháng 12/1960”, các Nhật ký của Eisenhower, Hồ sơ Whitman, Thư viện Dwight D. Eisenhower.
Trong khi đó, tình hình ở Lào ngày càng xấu đi. Tới tháng 8, trong một cuộc họp ở Nhà Trắng, Dean Rusk kiến nghị rằng chúng ta cần phải tiếp tục đàm phán ngoại giao nhưng phải sẵn sàng có hành động quân sự để bảo vệ Đông Dương theo kế hoạch do SEATO chuẩn bị. Kế hoạch này đòi đưa 30.000 quân chiến đấu của các nước tham gia Hiệp ước. Trong đó có Anh, Pháp và Mỹ. Nhưng Anh và Pháp đã tuyên bố rõ rằng họ không hề có ý gửi quân tham gia. Và đề nghị của Dean lại đặt ra một vấn đề nữa. Tôi đã nói với Tổng thống Kennedy rằng, trước khi có bất cứ cam kết gì ở Đông Dương, ông ta nên cân nhắc so sánh Lào với các vấn đề thế giới khác. Cụ thể trong đầu tôi là Berlin: căng thẳng đã tăng lên đến mức mà chúng tôi đang dự tính chuyển 6 sư đoàn (khoảng 90.000 quân chiến đấu) đến châu Âu. Tôi lập luận không thể tưởng tượng được rằng chúng ta lại có khả năng làm như vậy và tiến hành một cuộc chiến ở Đông Nam Á mà không có cuộc tổng động viên. Tổng thống kết luận - và Dean đồng ý - rằng chúng ta không được ràng buộc mình với kế hoạch của SEATO mà không xem xét bất cứ một chuyện gì khó có thể xẩy ra trên thế giới1.
Tới mùa thu năm 1961, xâm nhập du kích từ Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam tăng mạnh và Việt cộng tăng cường các cuộc tấn công vào chính quyền Diệm. Tổng thống Kennedy quyết định cử Max Taylor và Walt Rostow, thành viên của Hội đồng an ninh quốc gia, đi Nam Việt Nam để đánh giá tình hình và kiến nghị cách làm. Trong báo cáo của mình, Max và Walt yêu cầu tăng về căn bản sự giúp đỡ của chúng ta đối với Nam Việt Nam, bằng việc gửi thêm cố vấn, trang thiết bị và thậm chí một ít quân chiến đấu. Họ lưu ý rằng những bước đi như vậy sẽ có nghĩa là “một bước chuyển căn bản từ quan hệ tư vấn sang đối tác” trong chiến tranh2.
Ngày 8/11/1961, tôi trình cho Tổng thống Kennedy bản báo cáo được chuẩn bị một cách vội vã, ngắn gọn, trình bày ý kiến về những kiến nghị này. Nó phản ánh phản ứng ban đầu của tôi, cùng với phản ứng của các Tham mưu tưởng liên quân và Thứ trưởng của tôi, ông Ros Gilpatric. Tôi nhận thấy rằng báo cáo của Taylor-Rostow đặt ra hai câu hỏi cơ bản: liệu Mỹ có cam kết với mục tiêu ngăn không cho Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản? Và liệu chúng ta có hậu thuẫn cho cam kết đó bằng việc ngay lập tức đưa thêm nhân viên quân sự tới Nam Việt Nam trong khi đang chuẩn bị tăng chi viện sau đó, nếu việc này trở nên cần thiết? Tôi kết luận bằng cách nói rằng chúng tôi “thiên theo hướng kiến nghị”, chúng ta cần chấp nhận cả mục tiêu và các phương tiện để theo đuổi mục tiêu đó3.
Ngay từ lúc tôi gửi bản giác thư đó tới Nhà Trắng xong, tôi bắt đầu lo rằng chúng tôi đã quá vội vã khi cố vấn cho Tổng thống. Mấy ngày tiếp theo, tôi đào bới sâu hơn vào vấn đề Việt Nam. Càng đi sâu nghiên cứu, tôi thấy rõ hơn tính phức tạp của tình hình, sự không chắc chắn trong khả năng chúng ta giải quyết vấn đề bằng quân sự. Tôi đã nhận ra rằng ủng hộ giác thư của Taylor và Rostow là một thất sách.
Dean Rusk và các cố vấn của ông ở Bộ Ngoại giao cũng đi đến một kết luận tương tự. Ngày 11/11 tôi và ông ấy sau khi suy nghĩ và thảo luận thêm đã trình cho Tổng thống một giác thư chung, phản đối việc đưa quân chiến đấu đi như cách mà Max và Walt đã đề nghị. Trong khi thừa nhận rằng một ngày nào đó những lực lượng như vậy có thể cần thiết, chúng tôi chỉ rõ rằng chúng ta đang đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan: “Nếu người Nam Việt Nam nỗ lực mạnh mẽ, thì có thể không cần đến quân chiến đấu Mỹ; nếu không có nỗ lực đó, quân đội Mỹ không thể hoàn thành sứ mạng của mình trong đám dân chúng thờ ơ hoặc thù địch”4.
Cuối ngày hôm đó, trong cuộc họp ở Nhà Trắng Tổng thống Kennedy đưa ra cả hai bức giác thư. Ông nói rõ là ông không muốn đưa ra một cam kết không điều kiện để ngăn chặn việc mất Nam Việt Nam và thẳng thừng từ chối phê chuẩn việc đưa quan chiến đấu Mỹ vào5.
Thế lưỡng nan mà tôi và Dean nêu lên đã ám ảnh chúng tôi trong nhiều năm. Nhìn lại hồ sơ của những cuộc họp đó, rõ ràng những phân tích của chúng tôi không hề đầy đủ. Chúng tôi đã không nêu ra năm câu hỏi cơ bản: có thật là nếu Việt Nam sụp đổ sẽ kéo theo sự sụp đổ của cả Đông Nam Á? Liệu cái đó có tạo ra mối đe doạ nghiêm trọng đối với an ninh phương Tây? Kiểu chiến tranh gì - thông thường hay du kích sẽ phát triển? Chúng ta có thể thắng nổi cuộc chiến tranh này nếu quân đội Mỹ cùng chiến đấu bên cạnh quân Nam Việt Nam? Chúng ta có cần biết câu trả lời cho những câu hỏi này trước khi quyết định cam kết đưa quân vào?
______________________________________
1. Xem Ghi chép các cuộc nói chuyện, Cuộc họp tại Phòng Nội các ngày 29/8/1961 để thảo luận về Đông Nam Á, “Các cuộc họp với Tổng thống, Tướng lĩnh, tháng 7/1961-8/1961, “Hồ sơ An ninh quốc gia (viết tắt là NSF), hộp 317. JFKL.
2. Báo cáo của đoàn Taylor, ngày 3/11/1961, Bộ Ngoại giao Mỹ, Quan hệ đối ngoại của Mỹ (viết tắt là FRUS), 1961 – 1963, t.1, Việt Nam. 1961 (Washington, Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, năm 1988), tr. 477-532.
3. Báo cáo cho Tổng thống, ngày 8/11/1961, sách đã dẫn, tr. 559-561.
4. Ủy ban quân sự Quốc hội, Quan hệ Mỹ-Việt Nam, 1945-1967 (Washington: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, năm 1971), trước 11, tr 359-366.
5. Xem Ghi chép tại các cuộc họp, Nhà Trắng, Washington, 11/11/1961, 12 giờ 10 phút trưa, FRUS, 1961 - 1963, t.1, tr. 577-578.
Dường như không thể hiểu và tin nổi rằng chúng ta đã không buộc mình phải nhìn thẳng vào những vấn đề như vậy. Vì ngày nay, thật khổ tâm khi gợi lại sự ngây thơ và lòng tin trong cách chúng tôi đề cập lúc đó về vấn đề Việt Nam vào những ngày đầu của chính quyền Kennedy. Chúng tôi biết rất ít về khu vực này, thiếu kinh nghiệm xử lý các cuộc khủng hoảng. Trong năm đầu tiên đó, nhiều vấn đề quốc tế cấp bách khác cũng thu hút sự chú ý của chúng ta. Xin chỉ nêu ba vấn đề: Cuba, Berlin và Cônggô. Cuối cùng, và có lẽ quan trọng nhất là chúng tôi đang đương đầu với những vấn đề mà không có sẵn những câu trả lời khả dĩ. Tôi sợ rằng trong những hoàn cảnh như vậy, nhiều chính phủ và chắc chắn rằng hầu hết mọi người đều chỉ biết cắm đầu vào cát mà thôi. Điều này có thể giúp để giải thích chứ không phải để tha thứ cho hành động của chúng tôi. Mấy hôm sau, vào ngày 15/11, Tổng thống lại nhắc trước Hội đồng An ninh quốc gia những nghi vấn của mình đối với việc dính líu quân sự ở Nam Việt Nam. Ông nói rằng ông sợ sẽ bị cuốn hút cùng một lúc vào hai mặt trận ở hai phía đối lập của thế giới và vạch rõ tình hình ở Việt Nam trái ngược hoàn toàn với cuộc chiến tranh Triều Tiên như thế nào. Ở Triều Tiên, cuộc xâm lược của kẻ thù là rõ ràng, còn ở đây tình hình lại mơ hồ. Ông thấy có một cơ sở mạnh mẽ sẽ chống lại việc can thiệp vào một nơi cách xa 10.000 dặm để giúp đội quân bản xứ 200.000 người chiến đấu với 16.000 du kích. Chúng tôi đã chi vào đây hàng tỷ đôla mà chỉ giành được thành công rất nhỏ bé, nếu có. Ông nghi ngờ khả năng Mỹ sẽ nhận được giúp đỡ về quân sự từ các đồng minh SEATO. Khá rõ ràng là, ông không thích thú gì với tình hình này, nhưng cuộc họp đã chấm dứt một cách lửng lơ, không có kết luận1.
Trong những ngày tháng đầu đó, mặc dù không có sự nhất quán trong cách đề cập về Nam Việt Nam, nhiều người trong chúng tôi - trong đó có Tổng thống và tôi - đã tin rằng chỉ có người Nam Việt Nam mới giải quyết được vấn đề này. Chúng ta có thể cố gắng giúp họ qua huấn luyện và hỗ trợ hậu cần, nhưng chúng ta không thể đánh thay cuộc chiến của chính họ. Quan điểm của chúng tôi lúc đó là như vậy. Giá mà chúng ta bám chắc vào quan điểm đó, thì toàn bộ lịch sử của giai đoạn này đã có thể sẽ khác đi.
Tôi rất chú ý chuyển những tư tưởng của Tổng thống tới các Tư lệnh quân sự - cả ở Lầu Năm Góc và tới các Tư lệnh chịu trách nhiệm trực tiếp đối với các hoạt động của chúng ta ở Việt Nam. Trong bức điện ngày 28/11, tôi đã nói với Đô đốc Hary Felt, Tổng tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương và Tướng Linoel Mc Garr, là quan chức quân sự cao cấp của Mỹ ở Nam Việt Nam: “Chúng ta phải tự điều chỉnh đối với một khuôn khổ chính trị không rõ ràng mang tính lâu dài và đối với… những giới hạn trong hành động quân sự”. Tôi nhắc lại những điểm này với Đô đốc Felt và tướng Mc Garr tại hội nghị đầu tiên của chúng tôi ở Hawaii tháng sau đó, nói với họ rằng quân chiến đấu Mỹ sẽ không được chuyển đến Nam Việt Nam2.
Nhưng vì các vấn đề cơ bản đã không được xem xét thẳng thắn dứt khoát hoặc được giải thích rõ ràng, nên nó vẫn được tranh luận trong chính phủ cho đến lúc Tổng thống qua đời, hai năm sau. Ngày 13/1/1962, các Tham mưu trưởng liên quân đưa tôi một bức giác thư và đề nghị tôi chuyển cho Tổng thống. Trong thư họ lập luận rằng quân chiến đấu Mỹ sẽ có tác dụng hữu hiệu ngăn không để Nam Việt Nam thất thủ, và họ thúc Tổng thống Kennedy cho phép triển khai quân vào. Các Tư lệnh tin rằng hành động như thế sẽ hoàn toàn phù hợp với chính sách của Mỹ. “Mỹ đã tuyên bố rõ ràng... một trong những mục tiêu không thể thay đổi là ngăn không cho Nam Việt Nam rớt vào tay xâm lược cộng sản”. Nhưng họ đã sai lầm: chính quyết định đó đã không được đưa ra.
Tôi chuyển giác thư của họ cho Tổng thống Kennedy hôm 27/1 với một lời bình cô đọng: “Tôi không sẵn sàng phê chuẩn quan điểm của các vị Tham mưu trưởng liên quân cho đến khi chúng ta đã có kinh nghiệm nhiều hơn với chương trình (huấn luyện) của chúng ta ở Nam Việt Nam”3.
______________________________________
1. Xem Ghi chép tại cuộc họp của Hội động An ninh quốc gia (NSC), Washington, 15/11/1961, 12 giờ 10 phút trưa, sách đã dẫn, tr. 607-610.
2. Xem Điện gửi cho Tổng Tư lệnh, Thái Bình Dương (Vùng) và Trưởng phái đoàn cố vấn quân sự, Việt Nam (McGarr), 28/11/1961, sách đã dẫn, tr. 740-741; và Edwin W. Martin gửi Sterling J. Conttrell, 18/12/1961, sách đã dẫn, tr. 742 - 744.
3. Báo cáo 33-62 của các Tham mưu trưởng liên quân (JCS) gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 13/1/1962, Văn kiện của Lầu Năm Góc: Lịch sử Bộ Quốc phòng về việc ra các quyết định về Việt Nam (viết tắt là PP), Thượng nghị sĩ Gravel hiệu đính (Boston: Beacon Press, 1971), t.2, tr. 663-666; và Báo cáo gửi Tổng thống, 27/1/1932, sách đã dẫn, tr. 662.
Trong những tháng đầu năm 1962, Việt Nam chưa hề là vấn đề lớn nhất trong lúc chúng tôi tiếp tục củng cố Bộ Quốc phòng, nhưng không như những vấn đề mà tôi giao phó cho Ros Gilpatric, tôi ngày càng coi Việt Nam là trách nhiệm riêng của mình. Điều đó hoàn toàn đúng vì đó là nơi duy nhất mà người Mỹ đang tham gia cuộc chiến tranh nóng, dù với vai trò cố vấn. Tôi cảm thấy mình có trách nhiệm nặng nề và đã tham gia với hết khả năng của mình vào đó để sao cho có hiệu quả. Điều đó đã dẫn đến cái mà mọi người gọi là Cuộc chiến tranh Việt Nam của McNamara.
Trong năm 1962, khi tôi tiếp cận gần hơn với Việt Nam, tôi đã được biết đến Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tôi đã dự một số hội nghị dài ngày với ông ta dưới những chiếc quạt trần quay tít và những gồ mái nhũ vàng trong văn phòng cơ quan ông ta ở Dinh Gia Long. Tôi nghĩ mục tiêu của Diệm là đưa dân ông tới tự do và dân chủ. Việc ông đã học ở một trường dòng Thiên chúa giáo ở New Jersey vào đầu những năm 50 có vẻ chỉ ra rằng ông chia sẻ những giá trị phương Tây. Tuy vậy, khi chúng tôi càng ngày càng tiếp cận gần gũi hơn tình hình thì chúng tôi lại thấy ngược lại. Mặc dù quanh Diệm và cơ cấu chính trị mà ông ta dựng lên chẳng liên quan đến người Nam Việt Nam, nhưng ông không hề xây dựng mối gắn bó với họ. Chúng tôi đã hoàn toàn đánh giá sai điều đó.
Vì ông ta là một người kín đáo, lại xuất thân từ một nền văn hoá khác nên đối với tôi, và chắc chắn là với mọi người Mỹ đã gặp ông, Diệm là một con người khó hiểu. Tôi không hiểu được ông ta. Ông ta tỏ ra là con người độc tài, đa nghi, bí hiểm và tách biệt với dân chúng. Người ta nói rằng Diệm không quen với sự có mặt của đàn bà ở bên cạnh. Ông ta chưa bao giờ cưới vợ, và người ta tin là ông chưa hề có quan hệ tình dục. Nhưng một trong những người thân tín gần gũi nhất của ông là bà Nhu, cô em dâu của ông. Bà này là vợ của Ngô Đình Nhu, người em trai đa mưu và có ảnh hưởng tới Diệm, nhưng trong thực tế cũng như vợ của Diệm. Bà Nhu an ủi Diệm sau một ngày làm việc, giải thoát những căng thẳng của ông, thường tranh luận với ông và rõ ràng có vai trò quan trọng trong việc hình thành tư tưởng của ông. Tuy thế tư tưởng đó là gì, đối với tôi nó vẫn là một bí ẩn. Thậm chí giờ đây tôi vẫn chưa biết những gì là mục tiêu lâu dài mà Diệm đặt ra cho đất nước và nhân dân ông ta1. Giống như hầu hết những người Mỹ đã đến đất nước này, và theo tôi, cả nhiều người Việt nữa, tôi thấy bà Nhu là một người sáng sủa, mạnh mẽ và xinh đẹp, nhưng cũng độc ác và mưu mô - một mụ phù thủy thực sự.
Dù chúng tôi đã nhận thấy những hạn chế này, nhiều người trong chúng tôi vẫn đồng ý với cách đánh giá chung về Diệm, ví dụ như tờ Newsweek năm 1959, đã gọi ông là “một trong những lãnh tụ tự do có khả năng nhất của châu Á”. Những người thạo tin trong chính phủ, trong đó có Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, nguyên giáo sư về lịch sử Đông Á, rất khâm phục Diệm vì những thành tựu của ông trong thời kỳ quá độ đi đến nền độc lập năm 1954 và 1955. Năm 1963, Mansfield tuyên bố: “Trong giai đoạn đó, lòng dũng cảm, bản lĩnh, lòng quyết tâm và chủ nghĩa dân tộc chính hiệu của ông là những lực lượng trong việc chặn trước sự sụp đổ hoàn toàn của Nam Việt Nam và mang lại một mức độ trật tự và hy vọng từ trong loạn lạc, mưu mô và tham nhũng tràn lan”2.
Chúng tôi đã công nhận một cách đúng đắn rằng, Diệm đang đảm đương một nhiệm vụ vô cùng khó khăn nhằm cố gắng xây dựng một quốc gia từng bị phân chia sâu sắc bởi những bất đồng về tôn giáo và chính trị, và rằng ông đã làm như vậy ngay trong lúc Bắc Việt Nam quyết tâm áp đặt quyền kiểm soát của họ. Dù ông ta có phạm rất nhiều những lỗi lầm thế nào đi nữa, tôi và những người khác vẫn tin rằng triển vọng kiếm được một người khá hơn Diệm chỉ là điều may rủi.
Nhưng liệu những đánh giá của chúng tôi về Tổng thống Diệm có đúng không? Quan điểm của chúng ta về những khó khăn phức tạp đặt ra trước chúng ta có thực tế hay không? Và kế hoạch của chúng ta, nhằm giải quyết những vấn đề này liệu có thành công? Làm sao chúng ta có thể biết được khi mà chúng ta đang vận động trong môi trường xa lạ, cùng với một dân tộc mà chúng ta không thể hiểu được ngôn ngữ, văn hoá của họ; một dân tộc có lịch sử, những giá trị và truyền thống chính trị khác biệt sâu sắc với chúng ta? Chẳng dễ dàng gì để trả lời những câu hỏi đó và hàng loạt những câu hỏi tương tự. Chẳng có ai trong chúng tôi - cả tôi, Tổng thống, Mac và Dean, Max - thoả mãn về những thông tin nhận được từ Việt Nam. Tất nhiên, chúng tôi đã yêu cầu và nhận được những báo cáo thực tế về những hoạt động quân sự của chúng ta và chúng tôi hau háu đọc những phân tích có tính chất tường thuật từ Đại sứ quán của chúng ta ở Sài Gòn gửi về. Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi quyết định cần có những cuộc họp thường xuyên giữa các quan chức quân sự cao cấp của Mỹ ở Sài Gòn và Washington đang giải quyết những vấn đề này. Chính vì vậy mà bắt đầu từ cuối năm 1961, tôi thường có những chuyến công du tới Hawaii và Nam Việt Nam.
Những cuộc họp ở Hawaii được tổ chức tại Tổng hành dinh của Tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương (CINCPAC), nhìn ra Trân Châu Cảng. Năm, sáu mươi người - quân sự và dân sự, từ Washington, Sài Gòn và Hawaii gặp nhau trong một phòng họp như một cái hang, để nghe hàng tràng các thông báo. Không khí chương trình nghị sự đông đặc thường làm cho chúng tôi khó tập trung vào những vấn đề thời sự và đảm bảo là chúng tôi đang nhận được những báo cáo thật và những kiến nghị chín chắn.
_____________________________________
1. Xem Sự hiểu biết của tướng Trần Văn Đôn, được báo cáo trong điện của CIA số 0265. Bộ phận Sài Gòn gửi về Cơ quan Trung ương, 24/8/1963, FRUS, 1961-1963, t.3, Việt Nam, tháng 1-8/1963 (Washington, Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1991), tr 615.
2. Ernest K. Lindley, “Có một đồng minh đáng giá”, Newsweek, 29/6/1959, tr. 31; và Các cuộc Điều trần để đánh giá các chiến dịch tại nước ngoài năm 1964 trước Ủy ban Đánh giá của Quốc hội (Washington: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1963), tr. 90.
Các hội nghị của chúng tôi ở Việt Nam cũng gần giống như thế. Chúng tôi thường được họp mặt ở các Trụ sở quân sự của Mỹ, lần thứ nhất tại một khách sạn từ thời thuộc địa đã được cải tạo ở đường Pasteur, trung tâm Sài Gòn và lần sau tại căn cứ không quân Tân Sơn Nhất ở ngoại vi phía Tây thành phố. Vì những địa điểm này Việt cộng biết rất rõ nên họ thường tìm cách phá rối cuộc họp. Có một lần, vào tháng 5/1964, họ đã âm mưu ám sát tôi bằng cách gài mìn ở dưới chiếc cầu mà họ biết là tôi sẽ đi qua để vào Sài Gòn. Cảnh sát Nam Việt Nam đã phát hiện và tháo gỡ khối chất nổ đó ngay trước lúc xe tôi qua cầu.
Sau này người ta chỉ trích, phê phán chúng tôi về việc tổ chức các cuộc họp như vậy, nhưng họ không biết rằng đây là nguồn thông tin duy nhất của chúng tôi. Tuy còn lâu mới được hoàn hảo, nhưng những cuộc họp ở Hawaii và Việt Nam cho phép những người ở Washington như chúng tôi chuyển những suy nghĩ và mục tiêu của Tổng thống tới các đồng nghiệp ở Việt Nam, và tạo cho họ cơ hội được báo cáo và kiến nghị cho những hoạt động tiếp theo. Tôi tin là chúng ta sẽ rơi vào tình trạng xấu hơn nhiều nếu không tổ chức những cuộc họp này.
Từ Washington, chúng tôi tới các hội nghị này trên chiếc phi cơ được gọi là máy bay Bà già 707. Một trong những hành động đầu tiên của tôi sau khi trở thành Bộ trưởng là hủy tất cả các hợp đồng phí phạm và không cần thiết xin thêm chiếc phi cơ thứ ba của Tổng thống và một số máy bay phản lực Lockheed đắt giá để dùng cho các quan chức lãnh đạo của Bộ Quốc phòng. Thay vào đó, tôi đã gợi ý với Chuẩn tướng George S. Brown (trợ lý quân sự của tôi, người sau này trở thành Tham mưu trưởng không quân và sau nữa là Chủ lịch Hội đồng Tham mưu liên quân) rằng chúng ta không được chi quá -20.000 đôla để thiết kế mấy chỗ ngồi có thể lắp tạm vào những máy bay chở hàng của không quân để các quan chức cao cấp dùng trong những chuyến công vụ đặc biệt.
Chiếc máy bay vận tải kiểu mô phỏng của chiếc máy bay chở dầu KC-135, được lắp những thùng nhiên liệu ở hai cánh có thể bay liên tục từ nơi này đến nơi khác trên thế giới. Trước khi loại máy bay 747 ra đời, chiếc máy bay này đã có thể bay thẳng từ Paris đến Sài Gòn và bay từ Sài Gòn đi Washington chỉ cần dừng một lần. Nhưng chiếc máy bay này có một điểm bất tiện là thiếu hệ thống cách âm, nhưng tôi đã từ chối cấp tiền lắp hệ thống này. Hậu quả là nói chuyện trong máy bay rất khó khăn. Nhưng dù có hệ thống cách âm thì Max Taylor và Trợ lý Ngoại trưởng W.Averell Harriman, hai người thường xuyên đi cùng tôi lại hơi nghễnh ngãng nên họ nói chuyện trên máy bay rất khó bởi vậy họ đành chấp nhận ngồi im.
Cuối cùng, tôi nới lỏng một chút giới hạn chi tiêu và chúng tôi dành một số tiền để lắp thêm mấy chiếc giường và một chiếc bàn làm việc cho thư ký. Từ đó chúng tôi có thể bay đi Sài Gòn hay Honolulu vào buổi tối, ăn tối, viết báo cáo gửi Tổng thống rồi đưa thư ký đánh máy, trong lúc chúng tôi ngủ để hôm sau khi về đến Washington có thể trình Tổng thống.
Hành trình của chúng tôi rất vất vả. Với những cuộc họp ở Hawaii, tôi thường rời Washington vào chiều chủ nhật, đến Honolulu lúc gần nửa đêm theo giờ địa phương, sau một chuyến bay dài 9-10 tiếng, gặp CINCPAC và Tư lệnh bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Việt Nam (COMUSMACV) cả ngày thứ hai, tối thứ hai bay về, ngủ trong khi bay và báo cáo cho Tổng thống vào sáng thứ ba.
Bobby Kennedy nói với anh mình là lịch hoạt động như vậy sẽ làm tôi chết vì mệt. Vì thế, Tổng thống yêu cầu tôi đôi khi phải nghỉ thêm một ngày, đưa Marg đi cùng và dùng phi cơ Tổng thống của ông. Tôi cũng được phép nghỉ ở những biệt thự sang trọng do quân đội quản lý, chỉ dùng cho những nhân vật chóp bu và khách cấp cao ở Pháo đài DeRussy trên bãi biển Waikiki. Tôi chỉ ở như vậy có một lần và kết quả là cột báo của Drew Pearson trong tờ The Washington Post, một tờ báo được lưu hành trong cả nước đã thổi lên thành một vụ bê bối là đã lạm dụng tài sản của chính phủ phục vụ thú vui riêng của Bộ trưởng McNamara! Chúng tôi lại quay về với chiếc Bà già 707.
Như tôi đã nói, những chuyến đi của chúng ta tới Hawaii và Nam Việt Nam cho phép tôi và các cộng sự được trực tiếp nghe từ nhiều đồng nghiệp Mỹ và Nam Việt Nam. Ngoài những cuộc họp đó, chúng tôi thường tham khảo thêm những nhà quan sát độc lập. Đặc biệt, tôi thường nghe những lời khuyên về quân sự của anh hùng quân đội Israel, Tướng Moshe Dayan, và ngài Robert Thompson, chuyên gia về chống phản loạn của Anh. Thompson đã lãnh đạo thành công chiến dịch chống du kích ở Malaixia trong những năm 50, và hiện đang là trưởng phái đoàn cố vấn Anh tại Nam Việt Nam.
Trên cơ sở những gì chúng tôi nắm được từ tất cả những nguồn này, tôi và Dean cùng các cộng sự thường xuyên có báo cáo cho Quốc hội và báo chí. Liệu các báo cáo này có chính xác hay không? Báo cáo là phải chính xác. Nhưng sau này chúng tôi nhận ra rằng lời giải đáp cho câu hỏi trên là những báo cáo về tình hình quân sự, kể cả báo cáo của tôi - thường quá lạc quan. Tuy vậy, những báo cáo của tôi về tính ổn định của các thể chế chính trị - điều mà tôi luôn nhấn mạnh như là một điều kiện tiên quyết cho thắng lợi quân sự - lại chính xác hơn nhiều.
Ví dụ như trong tháng 3/1962, tôi nói với cuộc họp của Hội đồng quảng cáo ở Washington rằng “thắng lợi trong việc chống chiến tranh du kích phụ thuộc phần lớn vào những chương trình và hoạt động về chính trị và kinh tế, chứ không phải vào các chương trình quân sự”. Trong bài trả lời phỏng vấn in trong tờ The Washington Post bảy ngày sau, tôi đã nói: “Đông Nam Á là sống còn đối với an ninh của Thái Bình Dương và Thái Bình Dương là sống còn đối với an ninh của Mỹ, nhưng chỉ dùng lực lượng quân sự không thôi đương nhiên sẽ không đánh bại được những người cộng sản, trừ phi có cải cách nội bộ về kinh tế và xã hội”. Tuy nhiên dưới đây là điển hình của những báo cáo của tôi về hoạt động quân sự của Mỹ.
Ngày 5/2/1962:
Những hoạt động của Chính phủ Nam Việt Nam đang triển khai để chống lại mối đe doạ rất nghiêm trọng là lật đổ, xâm lược, công kích ngầm ở trong nước đang bắt đầu có hiệu quả...
Tôi nghĩ rằng việc kết hợp những hoạt động mà chính họ đưa ra với những hoạt động mà họ yêu cầu chúng ta làm đang cải thiện tình hình, nhưng còn quá sớm để dự đoán kết quả cuối cùng1.
Ngày 23/7/1962:
Viện trợ quân sự của chúng ta cho Việt Nam đã có kết quả. Người Nam Việt Nam đang bắt đầu tiến công vào quân nổi dậy Việt cộng ở những nơi nó bị thương tổn nhất – để lôi kéo dân về phía chính phủ... Quân Việt Nam đang đánh nhau với Việt cộng một cách chủ động và thường xuyên hơn... mốc mới về những vị trí đóng quân là đáng khích lệ và chúng ta hiện đang tìm cách duy trì cái đà này2.
Ngày 9/10/1962:
Tôi nghĩ còn quá sớm để nói rằng con nước đã xoay chiều và để dự tính về kết cục cuối cùng, nhưng trong năm qua chúng ta đã đạt được tiến bộ lớn lao... Chúng tôi vui mừng khi nghe báo cáo về tiến bộ này. Dù có đo bằng tỷ lệ thương vong của quân cộng sản với quân đội Nam Việt Nam thì tến bộ vẫn là rõ ràng3.
Nhìn lại quá khứ, tại sao những nhận xét của tôi về tình hình chương trình ở Nam Việt Nam lại thực tế, trong khi những nhận xét về tiến bộ quân sự lại quá lạc quan? Những báo cáo quân sự phản ánh bức tranh mà các chỉ huy quân sự của chúng tôi đưa ra tại các hội nghị ở Hawaii và Nam Việt Nam. Trong mỗi cuộc họp tôi đều gặp Tướng Paul D. Harkins của COMUSMACV. Harkins là một người cao to, đẹp trai và nói năng mạch lạc. Ông là người được nhà thông thái Max Taylor đỡ đầu. Trong khi ông thiếu tầm vóc tri thức của người thầy của mình, ông ta là một người thẳng thắn và có sức thuyết phục.
Tướng Harkins và các nhân viên của ông báo cáo rằng quân Nam Việt Nam đang đẩy lùi Việt cộng và mở rộng vành đai kiểm soát ở vùng nông thôn. Ví dụ, hôm 23/7/1962, Harkins nói với tôi: “Không nghi ngờ gì nữa, chúng ta đang ở thế chiến thắng. Nếu chúng ta tiếp tục các chương trình này, chúng ta có thể hy vọng hoạt động của Việt cộng sẽ giảm xuống”4. Lúc đó và ngay cả bây giờ, tôi vẫn không tin điều đó đi ngược lại truyền thống và những gì họ đã được đào tạo, bên cạnh đó, tôi còn có những người báo cáo khác để đối chiếu với những gì giới quân sự nói với tôi, chỉ cần kể ra ba cơ quan, đó là CIA, Bộ Ngoại giao và giới báo chí.
Ở đâu cũng thấy những lý do cho sự lạc quan sai lệnh của họ. Giờ đây, điều trở nên rõ ràng là họ đã nhận được những thông tin rất không chuẩn xác từ những người Nam Việt Nam, những người chủ tâm báo cáo những gì mà họ tin là người Mỹ muốn nghe. Như sau này McCone, Giám đốc CIA đã viết:
Những thông tin mà sứ quán và MACV chuyển cho chúng tôi..., liên quan đến hoạt động của Việt cộng ở một số tỉnh và mức độ đối đầu giữa Chính phủ Việt Nam Cộng hoà (Nam Việt Nam ) với lực lượng Việt cộng là không chính xác, vì thực tế là các sĩ quan ở chiến trường đã được các tỉnh trưởng và quận trưởng Nam Việt Nam thông báo sai hoàn toàn... Các tỉnh trưởng và quận trưởng cảm thấy buộc phải “sáng tạo ra các thống kê” để được chính quyền trung tương chấp thuận5.
_________________________________________
1. Họp báo, Lầu Năm Góc ngày 5/2/1962, Các Tuyên bố trước công chúng của Robert S. McNamara, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (viết tắt là PSRSM), năm 1962, t.2, tr. 735-736.
2. Bản tin, Trại H.M. Smith, Hawaii, 23/7/1962, sách đã dẫn, t.4, tr. 1589.
3. Thông cáo báo chí, Căn cứ Không quân Andrews, Maryland, 9/10/1962, sách đã dẫn, tr. 182.
4. Băng ghi âm các cuộc họp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thứ sáu, trại H.M. Smith, Hawaii, 23/7/1962, FRUS, 1961-1963, t.2, Việt Nam, 1962 (Washington: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1990), tr. 546-566.
5. John McCone gửi Dean Rusk, 7/1/1964, FRUS, 1964-1968, t. 1, Việt Nam, 1964 (Washington: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1992), tr. 5.
Giống như nhiều người, ở mức độ nào đó, các Tư lệnh Mỹ cũng thích hão huyền. Hơn thế nữa, họ - và cả tôi - đã hiểu sai bản chất của cuộc xung đột. Chủ yếu là họ chỉ xem đó là một hành động quân sự, trong khi trên thực tế đó là một cuộc đấu tranh dân tộc phức tạp và cốt nhục tương tàn.
Tôi luôn buộc các chỉ huy của chúng ta phải dự đoán diễn biến tình hình xem có tiến bộ hay không. Giám sát tình hình - điều mà tôi vẫn coi là nguyên tắc nền tảng cho việc quản lý tốt - được thực hiện rất tồi ở Việt Nam. Cả tôi và các Tham mưu trưởng liên quân phải chịu trách nhiệm về việc này. Do không chắc phải đánh giá như thế nào kết quả của một cuộc chiến không có chiến tuyến, giới quân sự thường chỉ cố đo tiến bộ của nó dựa trên những con số, ví dụ như số lượng thương vong của đối phương (sau trở thành điều ô nhục là công việc đếm xác chết), số vũ khí thu được, số tù nhân bị bắt, số chuyến bay đã thực hiện... Sau này chúng tôi nhận ra rằng phần lớn những biện pháp này có tính chất đánh lừa và sai lầm. Tôi cố giảm bớt sự lạc quan của giới quân sự về tiến bộ của cuộc chiến trong những lời bình luận công khai, nhưng vẫn chưa đủ.
Tới giữa năm 1962, mục tiêu rõ ràng và được tuyên bố thường xuyên của chính quyền Kennedy ở Việt Nam là huấn luyện cho người Nam Việt Nam tự bảo vệ họ. Với tôi, điều đó có nghĩa là chúng tôi phải đặt ra giới hạn thời gian cho việc Mỹ giúp đào tạo. Tôi lập luận rằng nếu việc huấn luyện tỏ ra thành công thì trong trường hợp đó, chúng ta có thể rút ra, hoặc sau một khoảng thời gian nếu thấy khả năng nó sẽ thất bại, thì trong trường hợp này việc rút ra của chúng ta cũng sẽ được biện hộ.
Với suy nghĩ đó, ngày 23/7/1962, tôi đã hỏi Tướng Harkins ở Honolulu rằng theo ông thì cần bao nhiêu thời gian để tiêu diệt tiềm năng quân sự của Việt cộng. Dự đoán của ông ta đạt khái thế này: một năm sau thì quân đội và lực lượng phòng vệ dân sự Nam Việt Nam có thể tác chiến hoàn toàn và bắt đầu gây sức ép đối với Việt cộng ở tất cả các vùng.
Gắn điều đó cùng với các đánh giá khác, tôi ra lệnh chuẩn bị kế hoạch lâu dài cho việc rút các cố vấn Mỹ theo từng giai đoạn dựa trên giả định rằng sẽ phải mất ba năm để khuất phục Việt cộng. Lúc đó, chúng ta có khoảng 16.000 cố vấn ở Nam Việt Nam1.
Mùa xuân năm sau, vào hôm 29/3/1963, tôi hỏi Ngài Robert Thompson xem có nên giảm số lượng cố vấn. Ông đáp lại rằng nếu duy trì được tiến bộ và có thể quét sạch Việt Nam ở một vùng nhất định của Nam Việt Nam trong mùa hè, thì có thể giảm 1.000 trong số cố vấn của chúng ta2.
Ngày 6/5/1963 tại cuộc họp tiếp sau đó với tôi tại Honolulu, Tướng Harkins vẫn nói là chúng ta đang đạt được tiến bộ trong cuộc chiến. Vì thế tôi chỉ thị cho giới quân sự chuẩn bị kế hoạch rút quân Mỹ theo từng giai đoạn, bắt đầu bằng việc rút 1.000 cố vấn vào cuối năm3.
Vào thời điểm đó, nổ ra cuộc khủng hoảng chính trị và tôn giáo trên toàn Nam Việt Nam. Nổi giận do việc Diệm hạn chế tự do tôn giáo, giới Phật giáo đã tiến hành những cuộc biểu tình phản đối dẫn đến những cuộc trả đũa dữ dội do lực lượng an ninh của Diệm tiến hành. Phản ứng tàn bạo này làm bùng thêm nhiều cuộc biểu tình, trong đó có những vụ tự thiêu ghê người của các nhà sư. Những sự kiện này làm tôi và nhiều người khác ở Washington sửng sốt, kinh hoàng và làm cho sự thống trị của Diệm gặp khó khăn hơn bao giờ hết.
Đến cuối tháng 8, khi các Tham mưu trưởng liên quân đưa kế hoạch rút quân theo yêu cầu của tôi, tình hình vẫn còn hỗn loạn.
Tuy thế, họ tuyên bố rằng họ tin là không nên rút các lực lượng Mỹ cho đến sau khi cuộc khủng hoảng lắng xuống. Họ gợi ý là từ nay cho đến cuối tháng 10, không nên đưa ra một quyết định nào về việc thực hiện kế hoạch rút quân4.
Ý muốn hoãn lại việc quyết định rút quân của các Tham mưu trưởng liên quân làm rõ thêm một bất đồng quan trọng giữa hai phái trong chính quyền. Cả hai phái đều coi sứ mạng của chúng ta là huấn luyện người Nam Việt Nam tự bảo vệ họ. Nhưng một bên tin rằng chúng ta cần ở lại cho đến khi người Nam Việt Nam có được khả năng đó, bất kể thời gian là bao lâu. Còn phái kia nghĩ là chúng ta cần giới hạn việc huấn luyện trong một thời gian nhất định, sau đó rút ra. Nếu Nam Việt Nam vẫn không học được cách tự bảo vệ mình, điều đó có nghĩa là họ là những người không thể đào tạo được. Mối bất đồng tồn tại ngấm ngầm, chưa hề được thảo luận hay giải quyết triệt để. Chính nó sau này đã có ảnh hưởng quan trọng tới một quyết định lớn của Tổng thống ngày 2/10/1963.
__________________________________
1. Băng ghi âm các cuộc họp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thứ sáu, trại H.M. Smith, Hawaii, 23/7/1962, FRUS, 1961-1963, t.2, Việt Nam, 1962 (Washington: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1990), tr. 546-566.
2. Xem Báo cáo các cuộc nói chuyện, Bộ Ngoại giao, Washington, ngày 1/4/1963, FRUS, 1961-1963, t.3, tr. 193-195.
3. Xem Biên bản từ các băng ghi âm cuộc họp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Honolulu, 6/5/1963, sách đã dẫn, tr. 265-270.
4. Xem Báo cáo của JCS 629-630 gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ngày 20/8/1963, sách đã dẫn, tr. 590-591.
3
MÙA
THU ĐỊNH MỆNH NĂM 1963
NGÀY 24/8 - 22/11/1963
Xung đột giữa các Phật tử và chính quyền Nam Việt Nam đã âm ỉ suốt mùa hè. Rồi bỗng nhiên ngày 21/8 chính phủ ra tay đàn áp. Với sự đồng ý của Diệm, Nhu đã ra lệnh cho một đơn vị quân đặc biệt tấn công các ngôi chùa Phật giáo vào sáng sớm. Chúng đạp đổ các cánh cửa cản đường và đánh đập các nhà sư có phản ứng chống lại. Vài trăm người đã bị tống vào nhà tù.
Diệm đã hành động bất chấp lời đảm bảo của chính ông ta với Frederick E. Nolting (Jr.), Đại sứ Mỹ sắp hết nhiệm kỳ, rằng ông ta sẽ không có bất kỳ bước đi nào chống lại các Phật tử. Sự trở mặt xấu xa này làm át cả một diễn biến gây bối rối khác có liên quan tới Charles de Gaulle ở Paris. Hồi đầu mùa hè năm đó, chúng tôi đã nhận được thông báo cho biết Diệm, thông qua em mình là Nhu, đã bí mật thiết lập mối liên hệ với Hà Nội. De Gaulle, người vẫn mong muốn gây lại ảnh hưởng của Pháp tại Đông Dương, cũng đã nhận được tin đó theo các nguồn riêng của mình ở miền Bắc và Nam Việt Nam và coi đây là một cơ hội. Ông ta nhanh chóng đưa ra lời kêu gọi thống nhất và trung lập hoá Việt Nam. Lúc đó chúng tôi không chắc là liệu lời đồn đại trên có đúng sự thật không, và chúng tôi băn khoăn không biết liệu có phải Diệm định tống tiền nước Mỹ vì đã buộc ông ta phải nhẹ tay trong việc đối xử với các nhóm chống đối1.
Quả thực Diệm đã chọn đúng thời điểm để tấn công các chùa chiền. Tuần đó, tất cả những nhà hoạch định chính sách chủ chốt về Việt Nam - Tổng thống Kennedy, Dean Rusk, McGeorge Bundy, John McCone và tôi - lần đầu tiên và là lần duy nhất cùng một lúc đều không ở Washington, theo trí nhớ của tôi. Lúc đó Tổng thống đang ở Hyannis Port, còn Marg và tôi thì đang trong một kỳ nghỉ ngắn nhưng rất cần thiết ở Tetons, Wyoming. Mặc dầu ở chỗ chúng tôi đang nghỉ có điện thoại, nhưng tôi lại không mấy khi ở nhà và đã uỷ quyền cho phó của tôi như tôi vẫn làm khi không ở Washington.
Ngày 24/8, khi những tin tức về vụ bạo lực tới Washington, một vài quan chức còn lại ở Washington thấy đây là một cơ hội để loại bỏ chính quyền Diệm. Cuối ngày hôm ấy, nước Mỹ đã sắp đặt cho một cuộc đảo chính quân sự, mà theo tôi thì đây là một trong những quyết định thực sự cứng rắn liên quan đến Việt Nam trong thời kỳ các chính quyền Kennedy và Johnson.
Người đưa ra sáng kiến này là Roger Hilsman (Jr.), người đã kế nhiệm Averell Harriman làm Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách Viễn Đông. Hilsman là một người thông minh, cứng rắn, hay nói, tốt nghiệp trường West Point, đã từng tham gia chiến tranh du kích trong Chiến tranh thế giới thứ II và sau đó trở thành một học giả. Ông ta và các cộng sự của mình tin rằng với Diệm chúng tôi không thể thắng và do vậy phải loại bỏ Diệm. Hilsman bắt đầu bằng việc thảo bức điện gửi Đại sứ mới của chúng tôi tại Sài Gòn, Henry Cabot Lodge (Jr.). Bức điện bắt đầu bằng lời lên án những hành động của Nhu:
Giờ đây sự việc đã rõ ràng là dẫu quân đội có đề xuất việc thiết quân luật hay Nhu đã buộc họ làm việc đó, thì Nhu đã lợi dụng việc thiết quân luật để phá chùa... Cũng rõ ràng là Nhu đã dùng thủ đoạn để giành cho mình vị trí chỉ huy.
Chính phủ Mỹ không thể chịu được khi quyền lực lại nằm trong tay Nhu. Diệm cần phải có cơ hội để thoát khỏi Nhu và những người thân cận của Nhu và thay thế họ bằng những người tốt nhất hiện có trong giới quân sự và chính trị.
Nếu, bất chấp những cố gắng của chúng ta, Diệm vẫn cứng đầu và từ chối, thì chúng ta chắc chắn phải đối mặt với khả năng là không thể giữ Diệm lại được.
Đồng thời, chúng ta cũng cùng một lúc phải báo cho những người đứng đầu giới quân sự biết rằng nước Mỹ sẽ không thể tiếp tục hỗ trợ chính quyền Nam Việt Nam về quân sự và kinh tế được nữa trừ phi... có những hành động ngay lập tức (thả các nhà sư bị bắt giữ). Chúng tôi thấy cần phải loại bỏ gia đình Nhu ra khỏi cuộc. Chúng tôi mong muốn đem lại cho Diệm cơ hội thích hợp để loại bỏ Nhu, nhưng nếu ông ta vẫn không thay đổi, thì chúng ta sẵn sàng chấp nhận tình huống hiển nhiên là chúng ta không thể ủng hộ Diệm hơn được nữa. Ngài cũng có thể thông báo cho các tư lệnh quân đội biết là chúng ta sẽ trực tiếp hỗ trợ họ trong bất cứ giai đoạn chuyển tiếp nào khi cơ chế chính phủ trung ương bị phá vỡ.
Cùng với những việc trên, ngài Đại sứ và đội ngũ nhân viên sở tại nên khẩn trương xem xét giới chức lãnh đạo có khả năng thay thế và lập kế hoạch chi tiết làm thế nào chúng ta có thể thay thế Diệm, nếu điều này trở nên cần thiết2.
____________________________________
1. Xem FRUS, 1961-1963, t.4, Việt Nam, từ tháng 8-12/1963 (Washington D.C.: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1991), tr. 89-90, tr. 55 chú thích 7; và Ellen J. Hammer, Cái chết trong tháng 11: Mỹ ở Việt Nam, 1963 (New York, Dutton, 1987, in lại có hiệu đính. New York: Nhà xuất bản Trường Đại học tổng hợp Oxford, 1988), tr. 224-230.
2. Điện tín của Bộ Ngoại giao (viết tắt là Deptel) 243, của Ball gửi Lodge, 24/8/1963, FRUS, 1961-1963, t.3, tr. 628-629.
Sau khi Hilsman soạn xong bức điện vào ngày 24/8. Averell Harriman, vừa trở thành Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách các vấn đề chính trị, đã thông qua. Michael Forestal, con trai của vị Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên và là thành viên của Hội đồng An ninh quốc gia (NSC), ngay lập tức chuyển bức điện đến Tổng thống Kennedy đang ở Hyannis Port, cho biết: “Đang đợi sự đồng ý của Ball (George Ball - Thứ trưởng Ngoại giao) và Bộ Quốc phòng... Gợi ý là Tổng thống cho tôi biết nếu Tổng thống muốn... dừng kế hoạch lại”1.
Những người bảo trợ bức điện quyết định chuyển tới Sài Gòn ngay ngày hôm đó. Họ gặp George Ball ở sân gôn và đề nghị ông ta gọi điện ngay cho Tống thống ở Cape Cod. Khi ông ta gọi điện cho Tổng thống thì Tổng thống Kennedy nói rằng ông đồng ý chuyển bức điện đó đi nếu các cố vấn cấp cao của ông cũng đồng ý. Lập tức George điện thoại cho Dean Rusk ở New York và báo là Tổng thống đã đồng ý. Dean thông qua bức điện mặc dầu không mấy nhiệt tình. Trong lúc đó, Averell đang tìm kiếm sự đồng ý của CIA. Vì John McCone đang vắng mặt nên Averell đã nói chuyện với Richard Helms, Phó giám đốc phụ trách kế hoạch. Helms miễn cưỡng, nhưng cũng như Rusk, đã đồng ý vì Tổng thống đã thông qua rồi.
Trong lúc này, Forestal gọi điện cho Ros Gilpatric và kể hết tất cả: Tổng thống và Bộ trưởng Ngoại giao xem bức điện và đã thoáng qua.
Tôi và Ros cùng có một cảm giác: chúng tôi đều lấy làm buồn trước việc đàn áp của chính phủ Diệm ngày càng tăng, nhưng chúng tôi không biết bằng cách nào chúng tôi có thể thay thế nó bằng một chính quyền vừa ý hơn. Chúng tôi đã nghĩ cách tốt nhất là tìm cách thuyết phục Diệm thay đổi. Những cố vấn, thiết bị và tiền bạc mà chúng tôi lúc bấy giờ đang cung cấp cho quân đội của ông ta đã tạo đòn bẩy tương đối cho chúng tôi, và đối với chúng tôi, đó là chìa khoá cho sự ổn định ở Nam Việt Nam. Bằng cách dọa cắt giảm sự giúp đỡ của nước Mỹ, hay thậm chí giảm thực sự, chúng tôi đã nghĩ là với thời gian, chúng tôi có thể thuyết phục được ông ta thay đổi biểu hiện tiêu cực của ông ta.
Mặc dù có những cảm giác đó trong quá trình thông qua, nhưng Ros rốt cuộc cũng đã thông qua. Tuy nhiên, ông ta trở nên lo lắng về ảnh hưởng của bức điện đến nỗi tuy bức điện đã được gửi đi Sài Gòn đêm thứ bảy nhưng ông ta vẫn gửi cho Max Taylor, cố vấn quân sự của Tổng thống, một bản sao.
Max là nhà địa - chính trị khoác quân phục và là cố vấn an ninh thông thái nhất mà tôi đã từng gặp. Ông ta thuộc thế hệ các sĩ quan quân đội đã bắt đầu sự nghiệp của mình trong những thập niên 1920 và 1930 - thời kỳ mà, như tôi đã nói, đất nước chúng ta đã cho rằng không cần có quân đội và nhìn những người lính với ánh mắt xa lạ, nếu không nói là với ánh mắt công khai khinh bỉ. Max đã từng là một anh hùng chiến tranh, đã từng chỉ huy Sư đoàn Không vận số 101 trong Chiến tranh thế giới thứ II và đã nhảy dù xuống vùng Normandy vào sáng sớm ngày D. Ông cũng từng là một học giả biết sáu hay bẩy ngoại ngữ, kể cả tiếng Nhật và tiếng Triều Tiên, và ông đã từng viết hai cuốn sách nổi tiếng về các vấn đề quân sự.
Bức điện của Hilsman đã làm cho Max bị sốc - đặc biệt là trước việc bức điện đã được thông qua và gửi đi rồi. Max biết, điều đó cho thấy một sự thay đổi lớn trong chính sách về Việt Nam của chúng tôi; ngoài ra, nó hoàn toàn không phù hợp với điều mà ông ta tin là phương pháp thích hợp. Sau đó, ông đã phát biểu là bức điện đó lẽ ra sẽ không bao giờ được thông qua nếu phái chống Diệm ở Washington đã không làm cái điều mà ông ta gọi là “một quyết định vội vàng quá đáng” trong khi các quan chức cấp cao đang vắng mặt2.
Tổng thống thấy hối tiếc về bức điện. Năm sau, trong một cuộc phỏng vấn về lịch sử, Bobby Kennedy đã nhớ lại anh trai mình coi quyết định đó là một sai lầm lớn. Bobby đã giải thích: “Tổng thống đã thông qua bức điện một cách vội vã trong kỳ nghỉ cuối tuần ở Cape Cod - Tổng thống cứ nghĩ là bức điện đã được McNamara,Taylor và mọi người ở Bộ Ngoại giao thông qua. Thực ra, đó chính là Harriman, Hilsman và Mike Forestal ở Nhà Trắng, và họ là những người ủng hộ mạnh mẽ một cuộc đảo chính”3.
Tôi không đồng ý với Ros coi bức điện là một quyết định vội vàng. Chúng tôi đều biết rằng Hilsman đôi khi đi vượt ra ngoài các kênh chính thức để tìm cách làm cho các ý kiến của mình thắng thế. Sai lầm này thuộc về những người đã không kiểm soát được ông ta và cũng thuộc về chính bản thân Hilsman. Nhưng cái làm cho tôi bị sốc và buồn rầu là hành động cuối cùng dẫn đến việc lật đổ và cái chết của Diệm đã bắt đầu trong khi các quan chức của Mỹ ở cả Washington và Sài Gòn vẫn còn bị chia rẽ sâu sắc về sáng kiến loại bỏ Diệm; tôi và những người khác đã không nghiên cứu và đánh giá cẩn thận những giải pháp khác cho vấn đề Diệm; chúng tôi đã không tìm cách tiếp cận với Diệm ở cấp cao - với chiến thuật “củ cà rốt và cái gậy” thích hợp - để thuyết phục ông ta sửa chữa. Ngoài ra, chúng tôi đã để cho cuộc tranh cãi về vai trò của Diệm che mất đề xuất của De Gaulle. Chúng tôi chưa bao giờ dành cho nó sự cân nhắc mà nó đáng được hưởng. Trước đó một năm, trung lập hoá đã trở thành giải pháp ở Lào - biết đâu Nhu và người Pháp có thể đạt được điều đó ở Việt Nam? Chúng tôi đã thảo luận vấn đề này một cách qua loa. Vấn đề vẫn không được giải quyết.
_______________________________________
1. CAP 63460, Michael Forrestal gửi Tổng thống, ngày 24/8/1963, sách đã dẫn, tr. 627.
2. Maxwell D. Taylor Thanh gươm và lưỡi cày (New York: Norton, 1972), tr. 292.
3. Robert F. Kennedy Lịch sử truyền miệng, 29/2/1964, tr. 122, JFKL.
Các sự kiện lần lượt xảy ra sau khi bức điện được gửi đến Sài Gòn. Sau khi nhận được điện, Lodge đã triệu tập một cuộc họp tính toán xem nên tổ chức đảo chính như thế nào. Ông ta quyết định không được để lộ bàn tay chính thức của CIA, và do đó đã giao cho CIA chịu trách nhiệm thực hiện sau khi đã được chỉ thị phải phục tùng mệnh lệnh của Đại sứ. Lodge hiểu rằng bức điện ngày 24/8 chỉ thị cho ông ta thực hiện việc loại bỏ Diệm với tư cách là lãnh tụ của Nam Việt Nam* 1
Vào thời điểm đó, Lodge mới nhậm chức được có hai ngày. Ông ta là cựu Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hoà và ứng cử viên của chức phó tổng thống, và tôi khâm phục tinh thần lưỡng đảng sẵn sàng phục vụ chính quyền đối đầu chính trị ở bang Massachusetts trong một sứ mệnh ngoại giao khó khăn và nguy hiểm. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng ông ta là người lưỡng đảng và tự tin đến mức ngạo mạn.
Khi đến Sài Gòn, ông Đại sứ đã lên tiếng phê phán cái mà ông coi là sự đàn áp người dân một cách vô nhân đạo, được minh hoạ cụ thể bằng việc đàn áp các Phật tử. Lodge cũng lo lắng không kém bởi những lời đồn đại về những cử chỉ thân thiện vụng trộm của Diệm với miền Bắc Việt Nam để đưa đất nước ra khỏi ảnh hưởng của nước Mỹ, tiến tới trung lập. Khi nhận được điện, ông Đại sứ đã hiểu đúng ý định của tác giả bức điện: một mệnh lệnh của Tổng thống Kennedy khuyến khích quân đội Nam Việt Nam tiến hành đảo chính. (Thực ra, như chúng ta đã thấy, bức điện đó không chỉ thị rõ ràng cho Đại sứ phải làm chuyện này).
Trước mệnh lệnh của Lodge, trùm CIA ở Sài Gòn đã không để phí thời gian và cử ngay các nhân viên của mình tới gặp Tướng Trần Thiện Khiêm ở Sài Gòn và Tướng Nguyễn Khánh ở Pleiku. Họ đã cho các vị tướng biết là gia đình Nhu phải ra đi nhưng lại để mặc chuyện bắt giữ Diệm cho họ2.
Trong lúc đó ở Washington, mãi một thời gian sau chúng tôi mới đi vào tranh luận xem liệu có nên ủng hộ một âm mưu quân sự chống Diệm hay không. Đó không phải là cuộc chiến giữa phái diều hâu và những người chủ trương hoà bình, mà là một cuộc tranh cãi về tầm quan trọng của sự ổn định chính trị ở Nam Việt Nam và làm cách nào để đạt được điều đó. Những cuộc tranh luận sôi sùng sục kéo dài hàng tháng trời ở hậu trường. Thật lạ là mặc dù các hãng tin ở Sài Gòn đã liên tục viết các bài phê phán Diệm và ngày càng đặt nhiều các câu hỏi về chính sách Việt Nam của chính quyền, nhưng các phóng viên ở Mỹ chẳng đả động gì đến cuộc chiến của chúng tôi cả.
Kennedy là người đặc biệt nhạy cảm với báo chí. Đây là một trong những điểm cho thấy Tổng thống khác hẳn những người tiền nhiệm của ông. Tổng thống thích cánh nhà báo. Ông ưa những cái đầu cởi mở, giàu trí tưởng tượng, gây phấn khích và đôi khi cả tính bài hước nữa. Tổng thống trân trọng sự thông tuệ và hiểu biết của cánh nhà báo, và cho rằng mình phải luôn tính đến điều đó. Và Tổng thống muốn gây ảnh hưởng với họ vì Tổng thống đã nhận thức và hiểu được tầm quan trọng của họ trong xã hội**.
_____________________________________
* Tuy nhiên những năm sau, Lodge đã thú nhận là ông ta đã bị “sét đánh” bởi bức điện và đã nghĩ là bức điện “không được tham vấn đúng đắn”. Nhưng lúc đó ông ta đã không làm ngược lại. Vào ngày 28/8, bốn ngày sau khi nhận được điện, ông ta đã gọi điện cho Dean: “Bản thân tôi hoàn toàn đồng ý với chính sách mà tôi đã được chỉ thị phải thi hành trong bức điện hôm chủ nhật tuần trước”.
1. Xem Nhiều lý do vì sao: Mỹ dính líu vào Việt Nam, Michael Charlton và Anthony Moncrieff (New York: Hill và Wang, 1978) tr. 95-96; và điện tín của Sứ quán tại Sài Gòn (Viết tắt là Embtel) 375, Lodge gửi Rusk, 29/8/1963, FRUS, 1961-1963, t.4, Việt Nam, Tháng 8-12/1963, tr. 21.
2. Xem Bộ phận Sài Gòn gửi Cơ quan Trung ương CIA, 26/8/1963, FRUS, 1961-1963, t.3, tr. 642.
** Thường thường, Tổng thống vẫn hoà mình với các nhà báo. Điều này đã đưa đến một sự việc tiết lộ quá nhiều về con người Kennedy. Một buốt sáng thứ hai, Dean và tôi theo lịch sẽ gặp Tổng thống vào lúc 9 giờ, sau khi Tổng thống đi nghỉ cuối tuần với Jackie tại nhà mẹ vợ ở Newport, Rhode Island. Như thường lệ tôi tới văn phòng lúc 7 giờ, đọc lướt qua tờ tạp chí Newsweek ở trên bàn và tôi đã phát hoảng lên khi thấy trong đó có một bài về vụ tin tức bị thất thoát tồi tệ nhất. Bây giờ tôi không thể nhớ được nội dung bài báo nói gì, nhưng vào lúc đó chỉ có một số người trong chính phủ - Tổng thống, Dean, tôi và hai, ba phụ tá của chúng tôi - là những người duy nhất biết tin gì được đánh giá là thông tin có tính nhạy cảm cao. Tôi nhanh chóng kiểm tra các cộng sự của tôi và biết được là không ai trong số họ đã để thoát tin đó ra ngoài.
Khi tôi đến Phòng Nội các vào lúc 9 giờ, Dean đã ở đó rồi. Tôi nói: “Lạy chúa tôi, Dean, anh bảo chuyện gì đã xảy ra nào?”. Anh ta đáp: “Bob, tôi đã kiểm tra tất cả những người biết tin này và rõ ràng là họ không phải là nguồn tiết lộ tin”.
Đúng lúc đó Tổng thống bước vào. Ông nói: “Dean, thật đáng nguyền rủa, tôi đã cử anh điều hành ở chỗ đó và kết quả là tôi thấy gì đây? Đây là sụ cố để lộ tin trong Chính phủ Mỹ ra ngoài tồi tệ nhất trong bao nhiêu năm nay”.
- “Thưa Tổng thống”, Dean đáp, “Bob và tôi vừa trao đổi về việc đó. Sáng nay chúng tôi đã tiến hành rà soát ở hai bộ phận của chúng tôi và cùng đi đến một kết luận là không ai ở chỗ chúng tôi đã để lộ tin ra ngoài”.
- “Tôi không tin”, Kennedy nói với giọng ngày càng thiếu kiên nhẫn. “Anh được giao nhiệm vụ ở đó chỉ vì một mục đích - đưa kỷ luật vào nơi đó”.
Dean bình tĩnh đáp: “Thưa Tổng thống, trong quá trình điều tra sự việc sáng nay, tôi đã phát hiện là Ben Dradlee (cựu Chánh văn phòng của Newsweek ở Washington và là một người bạn thân của Kennedy) đã rời Newport đêm hôm thứ năm, trước khi số Newsweek mới được phát hành vào ngày thứ sáu”.
Đó là Kennedy chứ nếu phải một vị Tổng thống nào khác chắc Dean đã bị mắng. Thay vì nói: “Thề có Chúa trời chứng giám, ý ngài định nói gì? Rằng tôi đã để lộ tin đó chắc?”, thì Tổng thống lại nói; “Ôi trời ơi!”.
Chính vì thế mà tôi đã càng cảm phục con người này.
Những bài báo về các cuộc tấn công vào chùa chiền là điều đầu tiên Kennedy nói tới tại cuộc họp trong Nhà Trắng ngày 26/8, đây là cuộc họp đầu tiên sau khi bức điện được gửi đi. Tổng thống nói là ông nghĩ rằng Diệm và Nhu, mặc dù về một mặt nào đó không được ưa, nhưng đã làm được nhiều việc theo ý chúng ta. Do vậy, chúng ta không nên đi đến loại bỏ họ chỉ vì “áp lực của công luận”. Max nói là ông phản đối một cuộc đảo chính quân sự. Ông chỉ ra rằng cánh quân sự ở Nam Việt Nam đã bị chia rẽ, và trong bất cứ trường hợp nào chúng tôi cũng không nên để cho quan đội lựa chọn người đứng đầu nhà nước.
Sau đó tôi chuyển sự tập trung sang Đại sứ Lodge, một người hoàn toàn mới mẻ với Sài Gòn đến nỗi mà các cuộc gặp gỡ của Đại sứ với Diệm và Nhu chỉ là những cuộc thăm viếng xã giao. Tôi đã đật ra hai câu hỏi cơ bản:
Đại sứ Lodge nên nói gì với Diệm - tức là, chúng ta mong đợi gì ở Diệm nếu chúng ta “cho phép” ông ta vẫn nắm quyền và những áp lực hay những ảnh hưởng nào có thể làm cho ông ta chấp nhận lời đề nghị của chúng ta.
Theo Lodge thì ai sẽ là người có thể thay thế Diệm, rõ ràng là nếu chúng ta đứng ngoài cuộc và để cho một kẻ yếu thế giành được chức Tổng thống, thì “chúng ta sẽ thực sự gặp rắc rối” (nhấn mạnh trong nguyên bản)1.
Không câu hỏi nào nhận được một câu trả lời đầy đủ, và Lodge đã không nhận được chỉ thị gặp Diệm.
Hilsman nhấn mạnh phải hành động ngay. Nhưng Tổng thống nói ông muốn có một cuộc họp nữa vào ngày hôm sau và yêu cầu cựu Đại sứ Nolting cũng có mặt. Hilsman không thích thú gì điều này. Ông ta than phiền là những quan điểm của Nolting đã thay đổi và rằng Nolting đã dính líu vào tình hình theo cảm tính. Tổng thống đáp lại một cách chua chát: “Có lẽ là hợp lý”2.
Cuộc họp ngày 27/8 mở đầu với một bản báo cáo của chuyên gia CIA về Việt Nam. William E. Colby. Ông ta miêu tả tình trạng ở Sài Gòn là yên tĩnh và nói rằng tình trạng lộn xộn đã không lan ra vùng nông thôn. Trả lời một câu hỏi của Tổng thống, Trung tướng Quân đoàn Lính thuỷ đánh bộ Victor H. Krulak (Jr.), trong Hội đồng Liên quân nói rằng ảnh hưởng của những vụ lộn xộn dân sự đối với chiến dịch quân sự chống Việt cộng là rất ít và không có bất cứ sự xuống cấp nghiêm trọng trong khả năng quân sự của Nam Việt Nam. Dean lưu ý là Lodge vẫn còn phải thảo luận với Diệm và Nhu về những vấn đề ở Việt Nam. Ông Nolting nhắc lại lời nhận định của Max ngày hôm trước là các tướng lĩnh thiếu sự đoàn kết và lãnh đạo thực sự.
Điều này đã làm cho Tổng thống phải lên tiếng là ông không thấy có lý do gì để tiến hành một cuộc đảo chính, trừ phi dường như có khả năng thành công và Tổng thống hỏi liệu có hỗ trợ quân sự nào cho một cuộc đảo chính hay không? Nolting nói là ông ta không thấy có bất kỳ sự hỗ trợ nào cả, nhưng ông ta cho rằng điều này có thể thực hiện được vì CIA đã nói là nước Mỹ muốn loại Diệm và Nhu.
Tổng thống nói rằng chúng tôi chưa thực sự bắt đầu nên cuộc đảo chính không thể bị chậm được. Tôi đề xuất là chúng tôi nên yêu cầu Lodge và Tướng Harkins ở Sài Gòn đánh giá xem liệu một cuộc đảo chính có thành công hay không và chúng tôi đề nghị CIA trong lúc đó cứ để mặc các vị tướng lĩnh. Điều đó lại buộc Hilsman phải lên tiếng. Ông ta nói là chúng tôi càng đợi lâu thì càng khó loại bỏ Diệm. Tổng thống bỏ ngoài tai lời nói đó và hỏi Max xem Harkins nghĩ gì về một cuộc đảo chính. Max đáp là Harkins chưa bao giờ được hỏi đến. Tổng thống kết thúc cuộc họp bằng chỉ thị phải gửi một bức điện đề nghị Lodge và Harkins cho ý kiến xem có nên tiếp tục tiến hành cuộc đảo chính hay rút lui3.
Những cuộc bàn cãi của chúng tôi đã ngày càng mang những sắc thái và tính chất khẩn cấp. Ngày hôm sau, 28/8, chúng tôi lại gặp Tổng thống, đầu tiên là vào buổi trưa và sau đó là vào buổi tối. Trong cuộc họp buổi trưa, tôi gợi ý là chúng tôi nên quyết định chắc chắn xem liệu chúng tôi có mong muốn ủng hộ nỗ lực của các tướng lĩnh nhằm lật đổ Diệm và Nhu không. George Ball nói chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc ủng hộ một cuộc đảo chính, và tôi đã đáp lại là chúng tôi không nên tiếp tục như thể là bị thúc đẩy bởi một động lực nào đó. Tổng thống đồng ý là chúng tôi không nên thực hiện tiếp công việc chỉ đơn giản vì chúng tôi đã đi tương đối xa rồi.
Nolting bày tỏ những nghi ngờ sâu sắc về việc đi ngược lại Diệm. Ông ta nói chúng tôi không thể giả thiết là sẽ dễ dàng làm việc hơn với một chính phủ mới và tạo một sơ sở vững chắc để dựa vào đó mà theo đuổi cuộc chiến tranh. George bác bỏ điều đó và đưa ra ý kiến là chúng tôi không thể chiến thắng trong cuộc chiến nếu Diệm vẫn nắm quyền và do vậy mà cần phải loại ông ta ra. Averell Harriman đồng tình nói rằng chúng tôi đã thất bại trong cuộc chiến ở Việt Nam và sẽ phải rút lui nếu không có một cuộc đảo chính. Hilsman nói thêm là lúc này không nên chặn các tướng lĩnh hành động.
Nolting sau đó nhắc lại một câu hỏi cơ bản mà trước đó chúng tôi đã nêu lên nhưng không bao giờ được xem xét hay trả lời một cách đầy đủ. Tình hình Nam Việt Nam sẽ ra sao nếu cuộc đảo chính thành công? Hilsman thừa nhận là chúng tôi chưa nghiên cứu kỹ xem các vị tướng sẽ có kế hoạch điều khiển đất nước như thế nào nếu họ giành được quyền kiểm soát. Nolting nói rằng chỉ duy nhất có Diệm là có thể thu đất nước tan rã đó về một mối.
______________________________________
1. Đoạn trích này được chép lại từ các cuốn băng ghi âm của Tổng thống tại Thư viện Kennedy (viết tắt là PR, JFKL). Vì không còn bản chép tay nào, nên tôi đã đề nghị mượn cuốn băng ghi âm sao chép lại nguyên văn và đã xin được phép của NSC để trích từ bản chép đó vào cuốn sách này.
2. Biên bản để ghi lại buổi họp tại Nhà Trắng ngày 26/8/1963, FRUS, 1961-1963, t.3, tr.638-641; và PR, JFKL.
3. Xem Biên bản cuộc họp với Tổng thống, 27/8/1963, FRUS, 1961-1963, t.3, tr.659-665.
Trước những ý kiến khác nhau đó, Tổng thống dường như buộc phải triệu tập thêm một cuộc họp nữa vào buổi tối hôm ấy1.
Sáu giờ chiều, chúng tôi lại bắt đầu họp tiếp. Trước tiên Tổng thống gặp Dean, Mac, Max và tôi, rồi mới làm việc với tất cả mọi người. Tổng thống ra lệnh cho gửi ba bức điện tới Sài Gòn: một của Max gửi cho Tướng Harkins yêu cầu ông ta đánh giá tình hình và kế hoạch của các tướng lĩnh, một bức của Tổng thống gửi cho Lodge cũng để tìm kiếm sự đánh giá của ông ta. Bức điện thứ ba được gửi tới cả hai người thông báo về cuộc thảo luận buổi trưa của chúng tôi và nói rõ là Kennedy muốn nhận được ý kiến cá nhân của họ xem nên làm gì - chứ không phải là những phản ứng của họ trước những sự việc họ cho là có thể đã được quyết định ở Washington2.
Dean đã có những câu trả lời của Lodge và Harkins trước lúc chúng tôi họp lại vào ngày hôm sau. Họ nhất trí là cuộc chiến không thể thắng lợi được dưới chính quyền Diệm. Nhưng Harkins lại muốn tách gia đình Nhu ra khỏi Diệm, và Nolting đã đồng ý. Ông ta kiến nghị là “thử một lần cuối với Diệm”. Dean thúc chúng tôi nên quyết định xem có phải chỉ thị cho Harkins hỗ trợ cho các cuộc tiếp xúc với giới tướng lĩnh không. Tổng thống hỏi mọi người xem ai còn có những băn khoăn về kế hoạch hành động.
Tôi đã lên tiếng. Tôi đưa ra ý kiến là chúng tôi nên đề nghị Harkins tìm cách thuyết phục Diệm cách chức em trai mình. Ros đồng ý với tôi. Tôi giải thích quan điểm của tôi: “Tôi không thấy có bất cứ sự lựa chọn khả dĩ nào cả. Giới lãnh đạo quân sự lúc này đang nghĩ đến một ông trùm quân sự, và từ những gì tôi biết về bọn họ, tuy ít ỏi - và tôi nghĩ là tôi biết rõ về bọn họ - họ không có khả năng điều hành chính phủ được lâu”3.
Mac nhắc lại rằng John McCone tin là chúng tôi nên thử một lần nữa thuyết phục Nhu từ bỏ. Nolting chỉ ra rằng Lodge vẫn chưa có được một cuộc thảo luận cụ thể nào với Diệm. Điều mà Nolting đã không nói đến - nhưng tôi nghĩ là ông biết - đó là Lodge không muốn một cuộc gặp như vậy và các cấp trên của ông ta ở Bộ Ngoại giao đã không ra lệnh cho ông ta dàn xếp cuộc gặp đó.
Tổng thống cho phép gửi một bức điện đến Lodge nêu lên hai việc: Harkins nên đảm bảo với các vị tướng lĩnh là các bức điện của CIA thể hiện chính sách của nước Mỹ, nhưng nước Mỹ phải được biết kế hoạch của họ trước khi họ có những hành động cụ thể; và việc tiếp cận Diệm lần cuối cùng vẫn chưa được quyết định.
Như là dấu hiệu của sự không chắc chắn mà Tổng thống cảm thấy, bản thân Tổng thống, Dean, Mac và tôi đồng ý là tiếp sau bức điện này phải có một bức điện thứ hai - mà không một ai khác trong Chính phủ được biết. Trong bức điện mật này, Tổng thống Kennedy có nói với Lodge: “Có một điểm trong những trách nhiệm hiến pháp của bản thân tôi với tư cách là Tổng thống và Tổng Tư lệnh mà tôi muốn nói với ngài:... Cho tới chính lúc có dấu hiệu hành động của các vị tướng, tôi phải giành lại một đặc quyền cho phép thay đổi kế hoạch và rút lại những chỉ thị trước đó”. Tổng thống tiếp: “Mặc dù nhận thức được đầy đủ... về những hậu quả của một sự đảo lộn như vậy từ kinh nghiệm của bản thân, tôi biết rằng thất bại mang tính tiêu cực nhiều hơn là sự thiếu quyết đoán. Lẽ dĩ nhiên, tôi sẽ nhận đầy đủ trách nhiệm vì bất cứ một sự thay đổi nào”4.
Việc những người khác cùng chia sẻ sự không chắc chắn của Tổng thống Kennedy đã trở nên rõ ràng tại cuộc họp ngày 31/8 tại phòng hội nghị của Dean Rusk ở Bộ Ngoại giao để xét xem từ đây liệu chúng tôi sẽ đi tới đâu. Dean mở đầu cuộc thảo luận bằng nhận xét rằng suy nghĩ của chúng tôi dường như đã đi trọn một vòng. Chúng tôi đã quay trở lại vị trí trước khi có bức điện ngày 24/8 cho thấy sự ủng hộ của Mỹ cho một cuộc đảo chính.
Dean gợi ý là chúng tôi nên yêu cầu Lodge nói cho Diệm biết là những cuộc đàn áp của ông ta đã đe doạ sự hỗ trợ tiếp tục của nước Mỹ và đề xuất là chúng tôi nên hỏi Đại sứ xem theo ý ông ta thì những nhượng bộ nào Diệm có thể đưa ra về sự an toàn của các Phật tử và việc ra đi của bà Nhu. Tôi hoàn toàn đồng ý và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập lại mối liên lạc giữa Lodge, Harkins và Chính phủ Nam Việt Nam. Rõ ràng, lẽ ra chúng tôi đã phải làm việc này từ trước chứ không phải sau khi có bức điện ngày 24/8. Tuy nhiên cuộc họp đã kết thúc mà các điểm tôi nêu lên không được cân nhắc thêm và không có bất kỳ một chỉ thị nào cho Lodge và các nhân viên của ông ta hành động5.
______________________________________
1. Xem Biên bản cuộc họp với Tổng thống, 28/8/1963, FRUS, 1961-1963, t.4, tr.1-6.
2. Xem Biên bản một cuộc nói chuyện, 28/8/1963, 6 giờ chiều, sách đã dẫn, tr.12-14.
3. PR, JFKL.
4. Xem Biên bản cuộc họp với Tổng thống, 29/8/1963, FRUS, 1961-1963, t.4, tr.26-31; và CAP 63465, Tổng thống gửi Lodge, 9/8/1963, sách đã dẫn, tr.35-36
5. Xem Biên bản một cuộc nói chuyện, Bộ Ngoại giao, 31/8/1963, sách đã dẫn, tr.69-74.
Giữa lúc lộn xộn này thì ngày 2/9, Đài truyền hình CBS đã đánh dấu việc kéo dài chương trình tin tức buổi tối của đài từ mười lăm phút lên ba mươi phút bằng việc giao cho Walter Cronkite phỏng vấn Tổng thống Kennedy ở sân sau khu nhà của gia đình Tổng thống ở Hyannis Port. Cronkite nói: “Thưa Tổng thống, cuộc chiến tranh nóng bỏng duy nhất mà chúng ta đang tiến hành vào lúc này tất nhiên là cuộc chiến ở Việt Nam, và quả rõ ràng là chúng ta đang gặp khó khăn ở đó” Tổng thống đáp: “Tôi nghĩ trừ phi có một nỗ lực to lớn của Chính phủ (Nam Việt Nam) nhằm giành sự ủng hộ của nhân dân thì mới có thể chiến thắng ở cuộc chiến đó. Rốt cuộc đó là cuộc chiến tranh của họ. Chính họ là những người giành chiến thắng hay thất bại. Chúng ta có thể giúp họ, chúng ta có thể cung cấp cho họ phương tiện, chúng ta có thể cử các cố vấn, thế nhưng bản thân họ, người dân Việt Nam, phải tự giành lấy chiến thắng từ tay những người cộng sản. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là giúp đỡ, và chúng ta đang cho thấy rõ điều đó, nhưng tôi không đồng tình với những ai cho rằng chúng ta nên rút lui. Đó sẽ là một sai lầm lớn”1.
Tổng thống đã không thể nói rõ ràng hơn niềm tin của mình là chỉ có người dân Nam Việt Nam mới có thể giành chiến thắng trong cuộc chiến, và chắc chắn là Tổng thống đã không cho thấy một biểu hiện nào là nước Mỹ sẽ cử quân đội tới để hỗ trợ hay thay thế cho quân đội Nam Việt Nam (Diệm cũng không có biểu hiện hoan nghênh một hành động như vậy).
Tôi trích dẫn lời của Tổng thống Kennedy vì tôi tin là những từ ngữ đó phản ánh những kết luận - cảm nhân sâu sắc của Tổng thống về vai trò của nước Mỹ trong cuộc chiến tranh này.
Tại cuộc họp ngày 3/9, Tổng thống đã dự đoán là nước Pháp tìm kiếm cho Việt Nam cái mà các cuộc đàm phán quốc tế gần đây đã đạt được cho nước Lào láng giềng - trung lập kéo theo việc thành lập một liên hiệp của ba phái tham chiến. Tổng thống tin là trung lập đã không đạt được kết quả ở Lào và nghi ngờ là nó sẽ có kết quả ở nước láng giềng của Lào. Nhưng chẳng phải vào lúc đó mà cũng chẳng phải sau này chúng tôi mới tranh luận kỹ càng về việc một Nam Việt Nam trung lập - nếu có thể đạt được - có thể ảnh hưởng như thế nào đối với nước Mỹ về mặt địa - chính trị. Sở dĩ như vậy, là bởi chúng tôi đã đặt giả thiết là Nam Việt Nam sẽ không bao giờ thực sự trung lập, mà sẽ bị miền Bắc kiểm soát và trên thực tế nó sẽ chứng minh cho thuyết Domino của Eisenhower.
Nhìn lại, chúng tôi đã mắc sai lầm nghiêm trọng vì thậm chí không thăm dò phương án trung lập. Nếu một chính khách phức tạp như De Gaulle đã thấy thích phương án đó, thì ít nhất nó cũng đã xứng đáng nhận được sự chú ý của chúng tôi. Lập trường của chúng tôi đầy rẫy những trái ngược và phi lý. Chúng tôi (đặc biệt là Dean Rusk) e ngại là thế của chúng tôi trong NATO sẽ yếu đi nếu chúng tôi không tôn trọng điều mà ông ta hiểu như là những nghĩa vụ của chúng tôi trong SEATO đối với Nam Việt Nam. Nhưng SEATO gồm Mỹ, Anh, Pháp, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Thái Lan, Philippin và Pakitxtan chỉ liên kết các quốc gia thành viên để “giải quyết mối nguy hiểm chung” phù hợp với “các quá trình pháp lý của từng nước” và để “tham vấn” nhau. Một nghị định thư riêng đã quy định Campuchia, Lào và Nam Việt Nam là những khu vực mà nếu bị đe doạ sẽ “gây nguy hiểm cho hoà bình và an ninh” của các cường quốc tham gia ký. Nhưng một trong những cường quốc tham gia ký là Pháp đã không chỉ cho là mình không có nghĩa vụ gì theo hiệp ước, mà dường như cho việc Mỹ can thiệp đã đi ngược lại những lợi ích chung của chúng tôi. Nếu Pháp - một thành viên hiến chương của SEATO và nước chính được hưởng sự đảm bảo về an ninh đối với NATO của Mỹ - cho rằng một nước Việt Nam trung lập sẽ không làm cho NATO và an ninh ở Tây Âu suy yếu nghiêm trọng, thì lẽ ra tối thiếu chúng tôi cũng đã phải tranh luận về vấn đề này. Nhưng chúng tôi đã không làm thế.
Cuộc họp kết thúc với một thoả thuận là Lodge phải sớm gặp Diệm để thảo luận những chủ đề được nêu lên tại hội nghị ở Bộ Ngoại giao ngày 31/82.
Nhưng khi chúng tôi họp lại vào ngày 6/9, Lodge không thể lý giải được việc vẫn chưa gặp Diệm. Đến thời điểm này, Bobby Kennedy, người đã quan tâm ngày càng nhiều về Việt Nam từ cuộc tranh cãi về bức điện ngày 24/8, đã bắt đầu tham gia một cách tích cực. Ông ta nêu lên băn khoăn của mình là nếu chúng tôi đã kết luận là với Diệm chúng tôi sẽ thua, thì tại sao “bây giờ chúng ta không đứng ra đương đầu” - bằng cách đó, ông ta có ý dọa rút lui.
Điều này đã báo động cho Dean. Ông ta đáp là đe doạ rút lui sẽ “rất nghiêm trọng”, và nói rằng nếu Việt cộng tiếp quản Nam Việt Nam thì chúng tôi sẽ “gặp rắc rối lớn”. Tiếp sau Dean, Max nhắc chúng tôi nhớ lại là chỉ mới ba tuần trước chúng tôi vẫn còn tin là với Diệm chúng tôi có thể chiến thắng và Hội đồng Liên quân cũng có cùng quan điểm đó. Tiếp theo, Dean miêu tả quan điểm hiện tại của chúng tôi - đàm phán với Diệm - như là bước một. Ông ta lưu ý là sẽ không có bước hai nếu chúng tôi rút lui. Ông ta nói: “Trước khi rút chúng ta có thể còn muốn cân nhắc việc tiến hành một cuộc đảo chính” - như thể là chúng tôi vẫn chưa khởi xướng vậy! Thật mỉa mai là trong suốt cuộc tranh luận chúng tôi vẫn không phân tích được cái lợi và cái hại của cuộc rút lui3.
_____________________________________
1. Tài liệu công khai, John F. Kennedy, 1963 (Washington: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1964) tr. 652.
2. Xem Biên bản cuộc họp với Tổng thống, 3/9/1963, FRUS, 1961-1963, t.4, tr.100-103.
3. Xem Biên bản cuộc họp với Tổng thống, 6/9/1963, sách đã dẫn, tr.117-120.
Trong cuộc phỏng vấn ngày 9/9 với hai kỹ thuật viên ghép nối chương trình tin tức buổi tối của Đài truyền hình NBC, Chet Huntley và David Brinkley, suy nghĩ của Tổng thống Kennedy giữa lúc khủng hoảng này được hiểu thấu đáo hơn. Brinkley hỏi: “Thưa Tổng thống, ngài có bất cứ lý do gì để nghi ngờ cái gọi là “học thuyết Domino” cho rằng nếu Sài Gòn sụp đổ thì liệu phần còn lại của Đông Nam Á sẽ khuất phục không?”. Có lẽ là nhớ lại lời cảnh cáo của Eisenhower, Tổng thống đáp: “Không, tôi tin điều đó... Trung Quốc rộng và phủ bóng từ trên cao ngay ở bên kia biên giới đến nỗi là nếu Nam Việt Nam bị mất, thì nó sẽ không chỉ cho bọn họ một vị trí địa lý được cải thiện cho một cuộc tấn công du kích vào Malaixia, mà sẽ còn tạo cảm giác là con sóng của tương lai ở Đông Nam Á là Trung Quốc và những người cộng sản. Do vậy mà tôi tin vào học thuyết đó”1.
Ngày 10/9, những cuộc bàn cãi của chúng tôi lại tiếp tục. Bobby nói chúng tôi nên thảo luận những hành động cụ thể liên quan tới Diệm và Nhu. Tôi đã đáp lại là phương pháp của chúng tôi dường như không thể tồn tại được. Tôi nói: “Chúng ta đang cố lật đổ Diệm, nhưng theo tôi biết, chúng ta lại không có bất cứ một cách nào. Do vậy một mặt chúng ta thấy không thể tiếp tục hợp tác với Diệm và mặt khác chúng ta không xây dựng được một giải pháp thay thế. Chúng ta nên quay trở về với những gì chúng ta thực hiện ba tuần trước đây”.
Averell nóng nảy phản đối. Là một người mà tôi đã ngưỡng mộ sâu sắc, Averell xuất thân từ dòng họ đại diện bởi Nelson Rockefeller và Douglas Dillon, những người được sinh ra trong giàu sang nhưng lại bị cuốn vào ngạch viên chức nhà nước. Ông ta đã từng làm Đại sứ ở Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ II, Trợ lý đặc biệt của Tổng thông Truman và là Thống đốc bang New York vào những năm giữa thập niên 1950. Nhưng ông vẫn muốn trở lại Washington và giúp đỡ vị Tổng thống trẻ sau khi bị thất bại trong cuộc bầu cử thống đốc ở bang New York, đến nỗi mà ở tuổi 65 ông đã chấp nhận chức Đại sứ lưu động chẳng mấy quan trọng trong một chính quyền đầy những người chỉ đáng tuổi con trai ông. Sự hăng hái và những chỉ dẫn của Averell đã nhanh chóng giành được niềm tin của Tổng thống và Tổng thống chỉ định ông làm trưởng phái đoàn Mỹ tại Hội nghị Geneva về Lào, rồi chức Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao phụ trách Viễn Đông và sau này làm Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách các vấn đề chính trị.
Averell không bao giờ che đậy những ý kiến của mình. Ông ta đã tranh cãi không nhân nhượng với tôi về việc loại bỏ Diệm. Ông nói Diệm đã tạo ra một tình thế mà chúng ta không bao giờ có thể đạt được mục tiêu của chúng ta ở Việt Nam khi Diệm còn nắm quyền. Max và John McCone đã đồng ý với tôi. Cuộc họp kết thúc mà bất đồng không được giải quyết2.
Ngày hôm sau, Lodge đã điện cho biết dự đoán của ông ta về tình hình hiện tại ở Nam Việt Nam. Ông ta báo cáo: “Tình hình đang xấu đi nhanh chóng... và đã đến lúc nước Mỹ cần sử dụng những sự trừng phạt hữu hiệu để làm sụp đổ chính phủ hiện tại và thiết lập một chính phủ khác”. Trong cuộc nói chuyện với Dean, Mac có nói là Tổng thống cho là sự đánh giá của Lodgc là sự đánh giá mạnh mẽ nhất về tình hình mà Tổng thống đã từng thấy, trong khi Dean nói là điều làm cho ông ta phiền lòng là Lodge vẫn chưa ngửa bài cho Diệm thấy3.
Vài ngày sau, lại một cuộc họp khác của Bộ Ngoại giao - cuộc họp này có John McCone và hai nhân viên CIA vừa từ Nam Việt Nam trở về tới dự - McCone đã đặt câu hỏi: những ý kiến nào đã làm cơ sở cho kế hoạch đảo chính hiện nay? Các nhân viên CIA đã miêu tả các ý kiến của các tướng lĩnh và nói thêm là: “Cái mà tất cả những ý kiến này còn thiếu là một kế hoạch tiến hành toàn diện”. Sau đó chúng tôi đã thảo luận hai giải pháp cho vấn đề Diệm: phương pháp hoà giải và phương pháp đối đầu. Tôi đề xuất gửi cho Lodge một bức điện nói về phương pháp hoà giải và đề nghị cho biết ý kiến. Dean đồng ý và đã chỉ thị thảo một bức điện như vậy để Tổng thống xem xét4.
_____________________________________
1. Tài liệu công khai, John F. Kennedy, 1963, tr. 659.
2. Xem Biên bản một cuộc nói chuyện, Bộ Ngoại giao, 10/9/1963, FRUS, 1961-1963, t.4 tr.169-171.
3. Embtel 478, Lodge gửi Rusk, 11/9/1963, sách đã dẫn, tr.171-174; và Biên bản cuộc nói chuyện qua điện thoại giữa Bộ trưởng Bộ Ngoại giao với Trợ lý đặc biệt của Tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia, 11/9/1963, sách đã dẫn tr.176
4. Xem Biên bản ghi âm cuộc họp tại Bộ Ngoại giao, 16/9/1963, sách đã dẫn, tr.217-220.
Sau cuộc họp với các cố vấn thân cận của mình vào ngày 17/9, Tổng thống gửi cho Lodge bức điện nêu biện pháp hoà giải, trong đó có đoạn:
CAP 63516. Gửi riêng cho Đại sứ Lodge. Bộ Ngoại giao chuyển ngay. Chỉ chuyển bản sao. Không chuyển cho bất cứ ai khác trong Bộ Ngoại giao. Điện của Tổng thống.
1. Cuộc họp cao cấp nhất ngày hôm nay đã thông qua đề án hành động chung... Chương trình được thiết kế để đạt được những cải cách và thay đổi về nhân sự của Chính phủ Việt Nam (Chính phủ Nam Việt Nam) cần thiết để duy trì sự ủng hộ quan điểm của Việt Nam và Mỹ trong cuộc chiến tranh chống Việt cộng. Bức điện này thông báo về chương trình đó và suy nghĩ của chúng tôi để ngài cho ý kiến trước khi có quyết định cuối cùng...
2. Chúng tôi không thấy có bất kỳ một cơ hội nào để hành động xoá bỏ chính phủ hiện nay trong tương lai gần. Do vậy, như những bức diện gần đây nhất của ngài có gợi ý, lúc này chúng ta phải áp dụng những áp lực sẵn có... Chúng tôi nghĩ rằng sự cải thiện như vậy có thể có ý nghĩa quan trọng, ít nhất là trong tương lai gần. Ngoài ra, một quá trình như vậy là phù hợp với nổ lực lớn hơn khi các phương pháp trở nên có khả năng thực hiện...
3. Chúng ta có cùng quan điểm... rằng việc củng cố vị trí thương lượng tốt nhất của chúng ta trong thời kỳ chuyển tiếp này là bằng chứng rõ ràng là sự giúp đỡ của nước Mỹ chỉ có được khi ngài đồng ý... Ngài được phép trì hoãn bất cứ chuyến giao hàng cung cấp hay chuyển vốn của bất cứ tổ chức nào cho tới khi ngài thấy việc giao hàng là phù hợp với lợi ích của nước Mỹ, luôn nhớ rằng cắt bỏ viện trợ hoàn toàn không phải là chính sách hiện nay của ta... Chúng tôi nghĩ là có thể ngài nên sử dụng thẩm quyền này vào việc hạn chế hay chặn bất cứ và tất cả các hình thức viện trợ và hỗ trợ nào dành cho Nhu, hay thông qua Nhu, hoặc các cá nhân... có liên hệ với ông ta...
4. Theo sự nhận xét và sửa đổi của ngài, bảng liệt kê các hành động có thể có ích của Chính phủ được xếp theo tầm quan trọng tương đối lần lượt như sau:
a. Làm sạch không khí - Diệm sẽ phải đưa mọi người trở lại công việc và làm cho họ tập trung vào việc giành chiến thắng. Ông ta sẽ phải có đầu óc thoáng hơn và thái dộ của ông ta phải thể hiện sự thông cảm đối với những người đã gặp khó khăn, vì những lý do có thể hiểu được, trong tình hình gần đây để ủng hộ ông ta một cách đầy đủ.
Một tinh thần hoà giải thực sự có thể làm những người ông ta lãnh đạo phải ngạc nhiên; một thái độ trừng phạt, khắc nghiệt và chuyên quyền có thể chỉ dẫn tới sự phản kháng mới.
b. Các Phật tử và sinh viên - để mặc họ và không làm phiền họ. Điều này hơn bất cứ điều gì khác sẽ cho thấy sự quay trở lại của một ngày tốt đẹp hơn và tập trung trở lại công việc chính - cuộc chiến tranh.
c Báo chí - báo chí phải được tự do. Diệm sẽ bị phê phán, nhưng sự khoan dung và hợp tác với báo chí trong nước và ngoài nước vào lúc này chẳng mấy chốc sẽ đem lại lời ca ngợi sự lãnh đạo của ông ta. Mặc dù việc đưa tin có dụng ý gây khó chịu, nhưng việc đàn áp báo chí dẫn đến những rắc rối nghiêm trọng hơn nhiều.
d. Mật vụ và cảnh sát chiến đấu - hạn chế vai trò của lực lượng này trong các chiến dịch chống Việt cộng và bỏ các chiến dịch chống lại các nhóm chống đối không phải cộng sản, nhờ đó mà cho thấy rõ ràng là một thời hoà giải và ổn định chính trị đã trở lại.
e. Những thay đổi nội các để tiêm thêm vào dòng máu mới không bị lây nhiễm, xoá bỏ các mục tiêu bất mãn trong nhân dân.
f. Các cuộc bầu cử - phải được tổ chức, phải tự do và phải được quan sát rộng rãi.
g. Quốc hội - Quốc hội phải được triệu tập ngay sau bầu cử. Chính phủ phải trình lên Quốc hội các chính sách và phải nhận được sự tin tưởng của Quốc hội...
5. Những cải cách cụ thể dường như ít có ảnh hưởng nếu không có hoạt động có tính chất biểu trưng mạnh mẽ để làm cho người Việt Nam tin rằng cải cách là có thực. Đây là một vấn đề thực tế nên chúng tôi có cùng quan điểm với ngài là việc này có thể đạt được bằng việc giảm rõ rệt ảnh hưởng của những người theo Nhu, những kẻ không bằng lòng với tất cả những gì họ không thích trong Chính phủ Việt Nam. Theo chúng tôi nghĩ, điều này sẽ phải cần đến việc gia đình Nhu rời khỏi Sài Gòn và dĩ nhiên là cả Việt Nam nữa, ít nhất là trong một kỳ nghỉ dài. Chúng tôi nhận ra khả năng là những áp lực này hay những áp lực khác có thể không đem lại được kết quả này, nhưng chúng tôi tin là cần phải thử...
6. Chúng tôi nhận thấy sự miễn cưỡng của ngài trong việc tiếp tục đối thoại với Diệm cho tới khi ngài có nhiều điều để nói, nhưng chúng tôi vẫn tin là các cuộc thảo luận với ông ta tối thiểu cũng là một nguồn tình báo quan trọng và có thể là một cách gây một ảnh hưởng có tính thuyết phục nào đó, thậm chí trong khi ông ta đang có những suy nghĩ như hiện nay... Bản thân chúng ta có thể thấy được nhiều tác dụng trong nỗ lực dùng lý lẽ để thuyết phục thậm chí một người không biết điều khi anh ta đang trên đà đối đầu...
7. Trong lúc đó, nỗi lo ngại ngày càng tăng về những khía cạnh quân sự chặt chẽ của vấn đề, cả về tiến độ thực của các hoạt động và cả về việc cần đưa ra một trường hợp có hiệu quả với Quốc hội để tiếp tục nỗ lực. Để đáp ứng những nhu cầu này, Tổng thống đã quyết định cử Bộ trưởng Quốc phòng và Tướng Taylor tới Việt Nam vào đầu tuần tới. Cần phải nhấn mạnh rằng đây là một phái đoàn quân sự và tất cả những quyết định chính trị đang được giải quyết thông qua ngài với tư cách là người đại diện cấp cao của Tổng thống…1.
_________________________________________
1. CAP 63516, Tổng thống gửi Lodge, 17/9/1963, sách đã dẫn, tr.252-254.
Cùng ngày trước khi bức điện được gửi đi, Averell đã điện thoại cho Mike Forrestal cho biết ông ta và Hilsman đã “rất thất vọng với bức điện dự thảo”. Ông ta tiếp tục miêu tả chuyến viếng thăm như đề xuất là “một thảm hoạ”, vì “hai người phản đối chính sách của chúng ta (McNamara và Taylor) cộng với một người sẽ không đứng ra thực hiện chính sách đó (phó Vụ trưởng U. Alexis Johnson) sẽ được cử đi” Forrestal đồng ý1.
Sau khi nhận được điện của Tổng thống, ngày hôm sau Lodge trả lời cho biết ông ta phản đối chuyến đi thăm của chúng tôi. Ông ta sợ chuyến đi sẽ là dấu hiệu cho Diệm thấy là chúng tôi đã quyết định “tha thứ và bỏ qua” và sẽ làm giảm những nỗ lực thay đổi chính phủ. Lodge ủng hộ chính sách giữ im lặng với Diệm và tin là chính sách đó đã bắt đầu có hiệu quả, và cho rằng phái đoàn của chúng tôi sẽ làm chính sách đó xấu đi2.
Để đáp ứng những phản bác của ông ta, tôi gợi ý với Tổng thống là Max cùng tôi sẽ gặp Lodge và Harkins ở Hawaii hơn là ở Sài Gòn. Nhưng như Mac đã nói với Dean: “Tổng thống cho rằng anh phải xem xét thì mới thấy vấn đề (tức là, McNamara phải nghiên cứu vấn đề tại chỗ)”. Kennedy đã giải thích điều này cho Lodge trong một bức điện khác vào buổi chiều hôm đó. “Tôi hoàn toàn hiểu vấn đề mà ông nhận thấy ở chuyến đi thăm của McNamara và Taylor. Nhưng đồng thời tôi cũng có nhu cầu rất lớn đối với chuyến viếng thăm này, và tôi tin là chúng ta có thế vạch ra một kế hoạch mà vẫn chú ý tới những mối lo ngại cơ bản của ngài... Trong bất cứ chuyến thăm nào, McNamara cũng cho Diệm thấy là ông ta sẽ nhấn mạnh tới những sự thật nặng nề của những hậu quả về quân sự và những khó khăn hiện nay”3.
Ngày 23/9, Tổng thống đã ký những chỉ thị được viết ra cho tôi như sau:
Có thể có ích nếu nêu trên giấy tờ về sự hiểu biết của chúng ta về mục đích chuyến thăm của ngài tới Nam Việt Nam. Tôi đề nghị ngài đi vì tôi muốn có bản thẩm định tốt nhất ngay tại chỗ về nỗ lực quân sự và bán quân sự để đánh bại Việt cộng. Chương trình được xây dựng sau phái đoàn của Tướng Taylor và được thực hiện dưới sự kiểm soát sát sao của ngài đã đem lại những kết quả phấn khởi, ít nhất là cho tới gần đây. Những sự kiện ở Nam Việt Nam từ tháng năm giờ đây đã đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về cả những triển vọng hiện nay cho việc chiến thắng Việt cộng và về cả hiệu quả trong tương lai của nỗ lực này, trừ phi có thể có được sự cải thiện chính trị quan trọng trong nước. Chính trong bối cảnh này mà lúc này tôi cần việc thẩm định tình hình của ngài. Nếu dự đoán trong bản đánh giá của ngài không khả quan, tôi muốn biết ý kiến của ngài xem Chính phủ Nam Việt Nam nên có hành động gì, và bước đi nào Chính phủ của ta phải tiến hành để dẫn dắt người Việt Nam hành động.
Đại sứ Lodge đã nhiệt tình tham gia ủng hộ phái đoàn này (!) và tôi sẽ trông đợi ở hai ngài về việc trao đổi ý kiến chân thành nhất. Rõ ràng là tình hình chính trị chung và nỗ lực quân sự và bán quân sự được liên kết chặt chẽ với nhau theo tất cả các cách, và khi thực thi trách nhiệm thẩm định vấn đề quân sự và bán quân sự của mình, tôi hy vọng là ngài sẽ tham vấn đầy đủ với Đại sứ Lodge về các vấn đề chính trị và xã hội liên quan. Tôi cũng mong ngài cùng với Đại sứ Lodge xem xét cách thức và phương tiện mà chúng ta giúp cho Nam Việt Nam để các mục tiêu của chính sách đối ngoại của chúng ta sẽ được hỗ trợ một cách chính xác hơn.
Tôi sẽ đưa riêng cho ngài bức thư của tôi gửi Tổng thống Diệm; ngài và Đại sứ Lodge nên thảo luận và ngài Đại sứ phải chuyển lên Tổng thống Diệm khi tới thăm Tổng thống sau khi bàn bạc và thông báo cho tôi, tôi kết luận là nên có một bức thư như vậy.
Theo đánh giá của tôi, vấn đề về tiến triển của cuộc đua ở Nam Việt Nam có tầm quan trọng hàng đầu và trong khi thực hiện sứ mạng này, ngài nên dành nhiều thời gian đi điều tra kỹ lưỡng cả ở Sài Gòn và thực tế.
Khi trao cho tôi những chỉ thị này. Tổng thống đã nói thêm là ông nghĩ rằng tôi cần gặp Diệm hai lần, và nếu Max và tôi đánh giá cần thiết phải có cải cách và thay đổi để có hể giành thắng lợi thì tôi phải nhấn mạnh kết luận này với Tổng thống4.
____________________________________
1. Biên bản cuộc nói chuyện điện thoại giữa Harriman và Forrestal, 17/9/1963, sách đã dẫn, tr.251.
2. Xem Embtel 536, Lodge gửi Tổng thống, 18/9/1963, sách đã dẫn; tr 255.
3. Cuộc nói chuyện điện thoại giữa McGeorge Bundy và Rusk, sách đã dẫn, CAP 63460, Michael Forrestal gửi Tổng thống, ngày 24/8/1963, sách đã dẫn, tr.627, và Deptel 431, Tổng thống gửi Lodge, 18/9/1963, sách đã dẫn, tr.256-257.
4. Giác thư của Tổng thống gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 21/9/1963, tr.278-279; và Biên bản ghi âm cuộc họp, 23/9/1963, sách đã dẫn, tr.280-282
Kennedy coi bức thư là một sự chỉ dẫn cho tôi, nhưng cũng như là một bản tài liệu mà tôi có thể cho mọi người xem và nói rằng: “Đây là điều mà Tổng thống mong muốn”. Nhưng các nhà hoạt động chống Diệm ở Washington tiếp tục hành động đánh từ phía sau của họ. Mac và tôi không biết là Hilsman đã gửi Lodge một bức thư sau khi đọc những chỉ thị của Tổng thống cho tôi. Bức thư có nội dung:
Cabot thân: Tôi nhờ sự tin cậy của Mike Forrestal để chuyển bức thông điệp này... Tôi có cảm giác rằng ngày càng có nhiều người trong thành phố đồng ý với ý kiến của chúng ta (tức là Diệm phải được thay thế bằng một cuộc đảo chính) và rằng nếu các anh ở Sài Gòn và chúng tôi ở Bộ kiên quyết thì những người còn lại cũng sẽ ủng hộ. Như Mike sẽ nói với anh, nhóm những người kiên định ở đây sẽ hết lòng ủng hộ các anh...1
Chỉ thị bằng văn bản của Tổng thống Kennedy cho tôi và thư bằng kênh riêng của Hilsman cho Lodge đã làm cho Chính quyền do dự mất một tháng, trong khi đó, vấn đề quan trọng ngày càng xấu đi và đòi hỏi phải có những hành động được quyết định dứt khoát. Trước khi cho phép tiến hành một cuộc đảo chính lật Diệm, chúng tôi đã thất bại trong việc đối phó với những vấn đề cơ bản ở Việt Nam mà rút cuộc đã dẫn tới chỗ ông ta bị lật đổ, và chúng tôi tiếp tục bỏ qua các vấn đề này cả sau khi ông ta đã bị loại. Nhìn lại, tôi tin rằng mỗi người trong chúng ta đều đã mắc sai lầm:
* Đáng ra tôi phải kiên quyết yêu cầu xem xét, thảo luận và trao đổi các câu hỏi cơ bản như: liệu chúng ta có thể chiến thắng với Diệm hay không? Nếu không, liệu ông ta có thể được thay thế bởi người nào đó mà chúng ta có thể hợp tác tốt hơn? Nếu không, phải chăng chúng ta cần phải xem xét sự họp tác với Nhu và Pháp về vấn đề trung lập hoá? Hay, cách còn lại, là rút quân với lý do tình hình chính trị ở Nam Việt Nam đã rối ren tới mức mà sự có mặt của Hoa Kỳ ở đó trở nên không cần thiết?
* Max đã không thúc đẩy việc giải quyết tình trạng tiếp tục có những bất đồng xung quanh việc có hay không các tiến bộ quân sự tại Nam Việt Nam.
* Dean, một trong những người vô tư và tận tâm nhất trong số những người đã từng phục vụ Hoa Kỳ, đã thất bại trong việc điều hành Bộ Ngoại giao, và kiểm soát Lodge. Ông cũng đã không tham gia một cách tích cực trong các buổi hội đàm với Tổng thống.
* Và Tổng thống Kennedy, người mà tôi chê trách ít hơn cả, người đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề nóng bỏng từ tranh cãi quyền công dân đến tìm kiếm sự ủng hộ của Quốc hội cho hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân trong vũ trụ - đã thất bại trong việc đoàn kết một Chính phủ Mỹ đang chia rẽ. Đứng trước sự lựa chọn giữa những cái tồi tệ, ông ta đã thiếu kiên quyết trong một thời gian dài.
Tôi cần phải nói thêm rằng trong khi Chính phủ chưa bàn luận về sự thiệt hơn trong vấn đề trung lập hoá và rút quân thì vấn đề đó đã bắt đầu được báo chí đề cập tới. Mùa hè và thu 1963, các nhà bình luận Walter Lippmann và James Reston đã đề nghị xem xét vấn đề trung lập hoá. Nhưng nhà báo David Halberstam, người viết bài cho tạp chí New York Times từ Nam Việt Nam trong những năm 60 đã kịch liệt chỉ trích chính sách của chính quyền, đã chống lại cả hai cách lựa chọn trên. Anh ta viết năm 1965:
Những lựa chọn cơ bản cho Việt Nam vẫn giống như năm 1961; chúng không có gì khác nhau, không dễ chấp nhận hơn và vẫn là một cơn ác mộng.
Thứ nhất, có khá nhiều dư luận về khả năng một nước Việt Nam trung lập. Nhưng trong điều kiện hiện nay thì điều này không thành vấn đề nữa, ở đây không hề có khả năng trung lập theo kiểu Thụy Sĩ, Áo, Ấn Độ và thậm chí cả theo kiểu Lào nữa - tức là theo cách nói của các nước này, họ không muốn là bãi chiến trường cũng như không muốn là thành viên của bất cứ phe nào trong chiến tranh lạnh. Không còn nghi ngờ gì nữa, bước đầu tiên để tiến tới một nước Việt Nam trung lập là rút hết quân đội Mỹ và cắt bỏ hoàn toàn viện trợ của Mỹ; và điều này sẽ tạo ra khoảng trống để phe cộng sản, lực lượng có tổ chức duy nhất ở miền Nam có thể lật đổ chính quyền một cách dễ dàng - có thể trong vòng 6 tháng, có thể trong vòng 2 năm. Đơn giản có lẽ là không còn lực lượng nào có thể chống lại họ, và nếu Hà Nội đề nghị chúng ta và Nam Việt Nam một giải pháp trung lập, thì điều này chỉ có nghĩa là để giữ thể diện cho Mỹ.
Còn rút quân thì sao? Rất ít người Mỹ đã từng phục vụ ở Việt Natn có thể nuốt nổi ý kiến này. Điều đó có nghĩa là những người Việt Nam cống hiến hết mình cho Mỹ sẽ phải chịu đựng đau khổ nhiều nhất dưới chế độ cộng sản; trong khi chúng ta, một số ít may mắn với hộ chiếu xanh và ra đi hoàn toàn bình yên vô sự; điều này có nghĩa là một xã hội buồn tẻ, không sức sống và bị kìm kẹp, cho những người đáng lẽ xứng đáng được hưởng nhiều hơn. Rút quân cũng có nghĩa là uy tín của Hoa Kỳ bị hạ thấp trên toàn thế giới, và điều này còn có nghĩa là sức ép của chủ nghĩa cộng sản sẽ tăng lên trên phần còn lại của Đông Nam Á. Cuối cùng, rút quân có nghĩa là kẻ thù của phương Tây trên toàn thế giới sẽ được khuyến khích để thử nổi loạn như kiểu Việt Nam.
Giống như cam kết của chúng ta tại Triều Tiên từ năm 1950 đến nay đã giúp ngăn không cho cộng sản vượt qua biên giới một cách trắng trợn, một chiến thắng chống cộng sản ở Việt Nam có thể sẽ giúp chặn lại cái gọi là những cuộc chiến tranh giải phóng2.
Công bằng mà nói, với Halberstam, quan điểm diều hâu do anh ta bày tỏ đã thể hiện ý kiến chung của đa số các nhà báo thời đó.
_______________________________________
1. Thư, Hilsman gửi Lodge, 23/9/1963, sách đã dẫn, tr.282-283.
2. David Halberstam, Chế tạo một cuộc sa lầy (New York, Nhà xuất bản Random, 1965), tr. 315.
Ngày 25/9, trước khi tôi đi Sài Gòn, Harry Reasoner của chương trình CBS Rerports đã hỏi tôi rằng: nếu người Nam Việt Nam “với sự trợ giúp của chúng ta... có thể giành được chiến thắng trên chiến trường nhưng lại thất bại ở Sài Gòn?”. Tôi trả lời:
Giai đoạn hiện nay là khó đánh giá, hành động của Chính phủ trong mấy tuần qua đã làm tình hình mất ổn định. Hoàn toàn có thể là họ đã làm cho một số tầng lớp quan trọng trong dân chúng xa lánh, và Chính phủ chỉ có thể không thất bại khi hợp tác với dân chúng trong một nỗ lực chung để chống Việt cộng.
Tôi nói tiếp:
Điều quan trọng phải thừa nhận đây là cuộc chiến tranh của người Nam Việt Nam. Thắng hay bại phụ thuộc vào những việc họ làm. Chúng ta có thể cho họ lời khuyên và sự giúp đỡ, nhưng họ phải chịu trách nhiệm về kết quả cuối cùng, và hãy chờ xem họ tiếp tục cuộc chiến này như thế nào1.
Những lời này đã mang tính tiên đoán.
Trên đường tới Sài Gòn, tôi nhắc đoàn cùng đi về mục đích chuyến công tác: đánh giá hiệu quả của cuộc chiến chống Việt cộng ở Nam Việt Nam và xem xét triển vọng thắng lợi. Nếu kết quả tỏ ra không khả quan, chúng ta cần phải tìm hiểu xem Nam Việt Nam phải làm gì, và Mỹ phải làm cách nào để giúp họ làm việc đó.
Tôi nói với đoàn tôi tin là chúng ta cần phải trả lời một số câu hỏi cụ thể trước khi có các khuyến nghị:
* Giải thích ra sao về sự khác nhau trong các bản báo cáo về tình hình quân sự và sự ổn định về chính trị? Báo cáo nào là đúng
* Sự chống đối Diệm trong các giới sinh viên, quân sự, công chức và quảng đại quần chúng nghiêm trọng tới mức nào? Liệu sự chống đối này sẽ tăng lên?
* Ai là người kiểm soát chính trị tại các làng, ấp, thôn quê? Chúng ta có biết cách đánh giá và liệu có thể tin tưởng vào đánh giá đó hay không?
* Phải chăng tình hình sức khoẻ và tinh thần của Diệm và Nhu đã thay đổi? Quan hệ ngày nay của họ so với trước đây ra sao?
* Liệu Diệm có thể giữ được quyền lực chính trị một cách hiệu quả hay không? Phải chăng những thành phần chủ yếu của chính giới Nam Việt Nam đã rời bỏ ông ta?
* Nếu Diệm giữ được quyền lực, liệu các cố gắng quân sự sẽ thành công hay thất bại?
* Nếu ta cho rằng Diệm phải thay đổi, thì đòn bẩy nào - kinh tế, quân sự hay chính trị - ta cần phải dùng để thuyết phục ông ta thay đổi?
Để tìm lời đáp cho những câu hỏi này, tôi cho rằng, chúng tôi phải tiến hành tham khảo ý kiến một cách rộng rãi nhất có thể được: trong tất cả các cấp quân đội Nam Việt Nam, tất cả các cấp quân đội Mỹ, báo chí, đại sứ ngoại quốc, người Nam Việt Nam, các thương gia Pháp và Mỹ cùng các lãnh tụ công đoàn, thành viên Ủy ban kiểm soát quốc tế, các học giả, và giới tăng lữ Thiên chúa giáo. Tôi đã chỉ thị rằng mỗi buổi sáng phải họp một lần để trao đổi ý kiến và rằng sẽ chỉ có một hệ thống báo cáo duy nhất về Washington: mọi ý kiến bất đồng sẽ được trích dẫn trong điện của nhóm gửi về hàng ngày; và nếu có ý kiến bất đồng, thì sẽ được ghi trong báo cáo gửi Tổng thống2.
Trong mười ngày công tác, chúng tôi đã tới hầu khắp các vùng chiến lược ở Nam Việt Nam và đã có hàng chục cuộc gặp gỡ. Tôi thấy có ba cuộc gặp của riêng tôi là đặc biệt rõ ràng và rất đáng lo ngại.
___________________________________
1. Phóng sự của CBS, “McNamara và Lầu Năm Góc”, 25/9/1963, PSRSM, 1963, t.5, tr. 2315-16.
2. Xem Biên bản ghi âm, 23/9/1963, FRUS, 1961-1963, t.4, tr.284-287
Ngày 26/9, tôi gặp P.J. Honey, giảng viên về các vấn đề Việt Nam tại Viện nghiên cứu Phương Đông và châu Phi thuộc Trường Đại học Tổng hợp London. Anh ta nói sõi tiếng Việt và có quan hệ thân thiết với giới chức cả ở Bắc và Nam Việt Nam. Ý kiến của anh ta đã có tác động đặc biệt đối với tôi vì sự hiểu biết sâu sắc của anh ta và vì anh ta trước đây cũng đã từng ủng hộ Diệm.
Trong khi thảo luận, Honey nói rằng vài tuần trước đó, khi tới Sài Gòn, anh ta tin rằng, Mỹ, bằng cách nào đó, vẫn có thể hợp tác với Diệm, thay thế Diệm là một điều nguy hiểm. Nhưng giờ đây anh ta đã thay đổi ý kiến. Ba năm trở lại đây, Diệm già đi nhiều và trí tuệ đã không còn minh mẫn. Giới quân sự và dân sự công khai chỉ trích Diệm. Việc Diệm đàn áp Phật tử đã gây ra một làn sóng công phẫn mạnh mẽ trong nhân dân. Tất cả những sự kiện này khiến Honey tin rằng không thể tự do hoá chế độ hay thay Diệm. Do đó, theo anh ta, Mỹ phải quyết định xem có thể thắng với chế độ này hay không, ý kiến của Honey là không thể, dẫu rằng anh ta đã khẳng định chương trình ấp chiến lược đang được thực hiện tốt, và Việt cộng đã thất bại trong việc lợi dụng tình trạng bất ổn về chính trị của Sài Gòn.
Nhưng phải chăng điều đó có nghĩa là chúng ta phải thay Diệm? Honey tỏ ra lập lờ: anh ta nói mọi xu hướng rời bỏ chế độ này đều là mạo hiểm, và trong trường hợp đảo chính hay ám sát, anh ta cho rằng cơ hội đạt được một cái gì đó tốt đẹp hơn là 50/50.
Cuối cùng, Honey dự đoán nếu cộng sản nắm quyền kiểm soát Nam Việt Nam, thì không lãnh tụ chính trị nào ở châu Á còn tin tưởng vào những lời nói của phương Tây được nữa. Anh ta cho rằng, trên thực tế thì sự mất lòng tin này không chỉ giới hạn ở châu Á1.
Ngày 30/9, tôi gặp đại diện giáo hội, Tổng Giám mục Asta. Ông mở đầu bằng cách nói với tôi rằng dưới cái vẻ yên tĩnh ở Nam Việt Nam là một cuộc “xiết chặt xiềng xích”. Chính quyền đã thành lập một nhà nước cảnh sát và tiến hành đàn áp rộng rãi. Trí thức và sinh viên thấy rằng tất cả những ai đối lập với Chính phủ đều bị thủ tiêu. Một số quay sang với Việt cộng, số đông khác theo chủ nghĩa trung dung. Honey đã khẳng định rằng Hà Nội đã có những tiếp xúc với Nhu thông qua người Pháp, và Tổng Giám mục Asta còn thêm rằng: nếu Nhu nắm được quyền lực thì việc đầu tiên mà ông ta sẽ làm là yêu cầu Mỹ cuốn gói và sau đó thương lượng với cộng sản. Tổng Giám mục kết thúc buông lời chỉ trích mà tôi hoàn toàn đồng ý: Chính phủ Mỹ đã không đạt được một tiếng nói chung ở Sài Gòn; và điều này đã làm phai nhạt chính sách của Chính phủ Mỹ và làm người Nam Việt Nam lúng túng2.
Ngày 27/9 tôi tổ chức cuộc gặp gỡ thứ ba với John Richardson, trưởng phân ban CIA Sài Gòn từ năm 1962. Richardson nói với tôi rằng cuộc khủng hoảng Phật giáo là kết tinh của sự bất mãn to lớn và rộng rãi đã ấp ủ lâu nay. Những cuộc bố ráp sinh viên về đêm và bầu không khí nghi kỵ lan tràn đặc biệt khiến anh ta lo ngại. Anh ta đã mô tả Diệm là một người có lòng yêu nước và tỏ ra khâm phục phẩm chất đạo đức của ông ta, nhưng những người thân cận với ông, đặc biệt là Nhu, đã hủy hoại uy tín của Diệm và đe doạ lật đổ ông ta. Đó là một thảm hoạ.
Richardson báo cáo rằng phụ tá thân cận của Diệm lo ngại là một cuộc khủng hoảng mới nảy sinh có thể sẽ dẫn tới một cuộc đảo chính do các sĩ quan cao cấp của quân đội tiến hành, mặc dù cũng theo Richardson thì cho tới nay vẫn chưa có bộ mặt nào đủ tài, đức để thay thế Diệm. Anh ta kết luận: muốn cứu Nam Việt Nam thì Mỹ phải gây sức ép để Diệm chấm dứt các cuộc đàn áp và buộc Nhu từ chức. Trong trường hợp ngược lại, một cuộc đảo chính sẽ diễn ra và đó sẽ là một thảm hoạ. Anh ta thấy rằng, không còn con đường nào khác và nói: “Thưa Bộ trưởng, tôi xin ngài hãy tỏ ra kiên quyết với Diệm”3.
Cuối cùng, ngày 29/9, Max và tôi đến Dinh Gia Long trên đường Công Lý, cách Sứ quán Mỹ vài khu phố và có một cuộc hội đàm kéo dài ba tiếng đồng hồ với Diệm, sau đó là buổi chiêu đãi chính thức. Lodge và Harkins cùng đi với chúng tôi. Không thấy Nhu xuất hiện.
Với thứ tiếng Pháp đơn điệu và tẻ nhạt, đốt thuốc lá liên miên hết điếu này đến điếu khác, Diệm đọc một bản độc thoại kéo dài hai tiếng rưỡi đồng hồ để trình bày về sự khôn ngoan trong chính sách của ông ta và về những tiến bộ trong cuộc chiến. Trong khi nói, ông ta luôn luôn nhổm dậy chỉ vào bản đồ để minh chứng cho lời nói. Sự tự tin của ông ta làm tôi sốt ruột.
Cuối cùng, khi màn độc thoại tạm dừng, tôi bắt đầu nói. Tôi đã nói với Diệm rằng Mỹ thực sự muốn giúp Nam Việt Nam đánh bại Việt cộng. Tôi cũng nhấn mạnh rằng, về cơ bản đây là cuộc chiến của người Việt Nam và tất cả những gì mà Mỹ có thể làm được chỉ là sự giúp đỡ. Trong khi đồng ý với ông ta rằng có những tiến bộ đáng kể về mặt quân sự, tôi chuyển tới ông ta, một cách mạnh mẽ và có chủ ý; mối lo ngại của Mỹ về tình trạng chính trị bất ổn định ở Nam Việt Nam. Tôi còn nhấn mạnh rằng tình trạng bất ổn và các cuộc đàn áp đã gây ra mối đe doạ đối với các nỗ lực chung trong chiến sự và sự ủng hộ của Mỹ. Do vậy, cần phải chấm dứt đàn áp và giải quyết tình trạng bất ổn định.
Diệm thẳng thừng bác bỏ ý kiến của tôi. Ông ta nói, sự công kích xấu xa của báo chí chống lại Chính phủ và gia đình ông ta đã làm Mỹ hiểu lầm về tình hình thực sự ở Nam Việt Nam. Mặc dù thừa nhận rằng một số báo chí đã đưa tin sai lệch, nhưng tôi cũng nói rằng không thể chối cãi về sự khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng lòng tin vào Chính phủ Diệm đang diễn ra ở cả Nam Việt Nam và Mỹ. Ông ta vẫn không đồng ý. Ông ta đã lên án sự “thiếu chín chắn, thiếu giáo dục và vô trách nhiệm” của sinh viên để bào chữa cho các cuộc bắt bớ gần đây. Ông ta còn nói thêm một cách lạnh lùng rằng mình gánh một phần trách nhiệm về các cuộc bạo loạn của giới Phật tử; ông ta đã “quá tử tế” đối với họ.
Tôi cũng nhắc ông ta về việc bà Nhu. Tôi nói với Diệm rằng một phần không nhỏ những khó khăn của Chính phủ ông ta trước dư luận công chúng Mỹ là do những lời nói đáng tiếc, thiếu cân nhắc của bà ta. Tôi lấy từ trong túi ra một mẩu báo cắt trích dẫn lời bà ta nói rằng các sĩ quan trẻ của Mỹ ở Nam Việt Nam đã “hành động như những chàng lính đánh thuê nhỏ bé”. Tôi nói với Diệm rằng những lời công kích mà ông đã đưa ra, gây nên sự mất lòng sâu sắc trong công chúng Mỹ.
Lần đầu tiên, ánh mắt và cử chỉ của ông ta tỏ ra ông ta đã hiểu ý tôi nhưng ông ta vẫn ra sức bảo vệ bà Nhu. “Điều đó là không thể chấp nhận được”, tôi nói - vấn đề hiển nhiên và nghiêm trọng, chỉ có thể thắng được cuộc chiến tranh nếu giải quyết được những vấn đề này.
Max tóm tắt lại các ý của tôi. Ông ta nhấn mạnh sự cần thiết đối với Diệm là đáp ứng sự lo ngại sâu sắc và chính đáng của Mỹ về những diễn biến gần đây ở Nam Việt Nam. Trong thư gửi cho Diệm hai ngày sau đó, Max viết: “Sau khi đã nói chuyện với hàng chục sĩ quan của cả Nam Việt Nam lẫn Mỹ, tôi tin rằng sự quấy phá của Việt cộng ở các vùng phía Bắc (miền Nam) và miền Trung sẽ giảm đáng kể, chỉ còn lẻ tẻ vào cuối năm 1964, còn vùng châu thổ có thể lâu hơn, nhưng phải xong vào cuối năm 1965. Nhưng để cho những tính toán này trở thành sự thật, thì những điều kiện cần thiết (Ngài Bộ trưởng McNamara đã rõ) phải được thực hiện”4.
Diệm đã chẳng trả lời. Ông ta hoàn toàn không đưa ra lời đảm bảo rằng ông ta sẽ tiến hành các bước đi đáp ứng những điểm mà chúng tôi đã đề nghị. Người ghi biên bản của Mỹ tại cuộc hội đàm của chúng tôi đã viết: “Cử chỉ của ông ta ít ra cũng đã biểu lộ tâm trạng bình tĩnh bề ngoài của người đã bảo vệ ý kiến của mình tới cùng và hy vọng bằng cách đó sửa chữa được những hiểu lầm”5.
______________________________________
1. Xem Báo cáo của Bộ Quốc phòng, 26/9/1963, sách đã dẫn, tr.293-295.
2. Xem Biên bản cuộc nói chuyện của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Sài Gòn, 30/9/1963, sách đã dẫn, tr. 323-325.
3. Báo cáo của Bộ Quốc phòng, sách đã dẫn, tr. 301-303.
4. Thư của Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tham mưu liên quân gửi Tổng thống Diệm, 1/10/1963, sách đã dẫn, tr. 328-330.
5. Biên bản cuộc nói chuyện, Dinh Gia Long, 29/9/1963, sách đã dẫn, tr. 310-321.
Trên đường về Washington, Max và tôi đã cùng nhau phác thảo bản báo cáo gửi Tổng thống, với sự giúp đỡ của Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc tế, William P. Bundy. Vì tính chất quan trọng của bản báo cáo và các sự kiện diễn ra sau đó, những trích dẫn dưới đây là tôi rút ra một cách đầy đủ từ bản báo cáo. Phần tóm lược các kết luận và khuyến nghị của chúng tôi tốt hơn bất kỳ tuyên bố lại nào sau đó:*
Kết luận
* Hoạt động quân sự đã tạo ra tiến bộ lớn và sẽ còn tiếp tục.
* Có sự căng thẳng nghiêm trọng về chính trị ở Sài Gòn (và có lẽ trên khắp Nam Việt Nam) nơi mà Chính phủ Diệm-Nhu đang ngày càng mất uy tín.
* Hoạt động đàn áp vẫn đang được tiếp tục của Diệm và Nhu có thể thay đổi chiều hướng quân sự đang tối đẹp hiện nay. Mặt khác, việc trở lại chính sách ôn hoà hơn trong kiểm soát và chính quyền, dù không thể xảy ra, chắc chắn sẽ làm giảm đáng kể tình hình khủng hoảng về chính trị.
* Chưa rõ các sức ép của Mỹ có làm cho Diệm và Nhu trở nên ôn hoà hơn hay không. Trên thực tế, việc gây sức ép có thể sẽ làm họ ngoan cố hơn. Nhưng nếu không có sức ép thì chắc chắn họ vẫn sẽ tiếp tục các hành động của mình.
* Khả năng thay đổi Chính phủ sẽ làm tình hình tốt đẹp lên có vẻ là vào khoảng 50/50. Ban đầu, chỉ có chế độ độc tài có sức mạnh mới có đủ khả năng để tập hợp Chính phủ và giữ gìn an ninh trật tự. Trong bối cảnh như ngày nay, khi quân đội có sức mạnh chỉ đạo ở Việt Nam, khả năng nhiều nhất là vai trò này sẽ thuộc về một sĩ quan trong quân đội, nắm quyền sau tiến trình chọn lựa của xung đột giữa các đảng phái. Một chế độ quân phiệt như vậy, sau buổi ban đầu mừng vui vì sự ra đi của Diệm/Nhu, sẽ rất có thể theo chiều hướng tiếp tục đàn áp ít ra là như Diệm đã từng làm, tiếp tục tham nhũng như trước thời Diệm, và nhấn mạnh vào chiến tranh hơn là có những cân nhắc trong chính sách xã hội, kinh tế và chính trị, ít ra thì cũng tương tự như chủ nghĩa dân tộc bài ngoại.
Kiến nghị:
Chúng tôi kiến nghị rằng:
* Tướng Harkin bàn với Diệm về những biện pháp quân sự cần thiết để kết thúc chiến dịch ở các vùng Bắc và Trung trong cuối năm 1964, và tại vùng châu thổ vào cuối năng 1965.
* Lập chương trình đào tạo sĩ quan Việt Nam để tới cuối năm 1965 họ có thể đảm nhiệm các trọng trách mà hiện nay phần lớn do sĩ quan Mỹ thi hành. Có khả năng vào thời gian đó, có thể rút phần lớn cố vấn quân sự của Mỹ.
* Để phù họp với chương trình đào tạo gấp rút sĩ quan của quân đội Việt Nam, Bộ Quốc phòng phải sớm lập kế hoạch rút 1.000 cố vấn quân sự của Mỹ vào cuối năm 1963.
* Để Diệm thấy được chúng ta không đồng tình với chính sách của ông, chúng ta sẽ:
+ Ngừng tài trợ cho các chương trình phát triển quan trọng của ông ta.
+ Duy trì mối quan hệ “phải chăng” như hiện nay với giới lãnh đạo cao cấp của Nam Việt Nam.
+ Theo dõi chặt chẽ tình hình để xem Diệm sẽ áp dụng những biện pháp gì nhằm giảm bớt các hoạt động đàn áp và tăng cường hiệu lực của các cố gắng về quân sự. Chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta có thể giải quyết được trong thời gian từ hai đến bốn tháng để chuyển sang những hành động mạnh mẽ hơn.
+ Chúng ta sẽ không chủ động khuyến khích một cách tích cực việc thay đổi Chính phủ.
______________________________________
* Tôi đã thông báo với Tổng thống rằng các thành viên trong nhóm cộng tác của chúng tôi đã có ý kiến trùng hợp, trừ một ngoại lệ duy nhất quan trọng: Trợ lý của Averell Harriman, Bill Sulivan tỏ ý tin rằng “một sự thay đổi chế độ mà không phải chịu nguy hiểm bởi tham vọng to lớn của Nhu để thành lập một chế độ chuyên quyền... chắc chắn sẽ tốt hơn chế độ hiện nay”.
Chúng tôi cũng đặc biệt nhấn mạnh rằng chúng tôi không tin trong thời gian đó sẽ có hành động chuẩn bị đảo chính1.
Chúng tôi về tới Washington sáng sớm ngày 2/10. Và ngay trong buổi sáng hôm đó Max và tôi đã tới Nhà Trắng để báo cáo vắn tắt trong một giờ với Tổng thống về chuyến đi của mình. Chủ đề thảo luận chính là khuyến nghị giảm bớt 1.000 cố vấn quân sự của chúng ta. “Thưa Tổng thống, tôi nghĩ, chúng ta phải có cách rút khỏi khu vực và tỏ rõ cho đất nước ta về điều này”2.
Tối hôm đó, Tổng thống Kennedy đã triệu tập một cuộc họp của Hội đồng An ninh quốc gia để thảo luận về báo cáo của chúng tôi. Ám ảnh bởi sự chia rẽ sâu sắc của những tuần trước, Tổng thống đã trình bày tóm tắt về thế đứng của chúng ta hiện nay. Ông nói chúng ta phải tìm cách thuyết phục Diệm để thay đổi bầu không khí chính trị tại Sài Gòn, nhưng ông còn nhấn mạnh rằng, cuối cùng thì cũng đã có sự thông nhất để đạt được một chính sách của Chính phủ trong vấn đề Việt Nam. Ông nói chúng ta đã có một chính sách và một bản báo cáo được mọi người cùng tán thành.
Mọi người đều nhất trí cho rằng, đây là cuộc chiến tranh của người Nam Việt Nam, và chúng ta có mặt ở đó chỉ là những cố vấn để giúp họ tự bảo vệ mình, và rằng nếu họ không đủ khả năng tự bảo vệ thì cuộc chiến này không thể có chiến thắng. Nhưng đã có một cuộc tranh luận gay gắt xung quanh kiến nghị của chúng tôi về việc Bộ Quốc phòng thông báo kế hoạch rút lực lượng quân sự Mỹ vào cuối năm 1965, bắt đầu của kế hoạch này là rút 1.000 cố vấn quân sự vào cuối năm này. Mặc dù mọi thành viên trong đoàn đều nhất trí về lời lẽ trong bản báo cáo, nhưng khi bắt đầu thảo luận, chúng tôi đã tranh cãi gay gắt về bản kiến nghị. Cuộc tranh cãi đã thể hiện rõ ràng sự thiếu nhất trí hoàn toàn của chúng tôi trong vấn đề chúng tôi đang đứng ở đâu khi tìm cách đạt mục đích của mình.
Một phái tin rằng các tiến bộ quân sự đạt được là tốt và quá trình đào tạo đã đạt kết quả tới mức mà chúng ta đã có thể bắt đầu rút. Phái thứ hai lại không cho rằng chiến tranh đang đạt những tiến bộ tốt đẹp và người Nam Việt Nam đã chứng tỏ sự thành công trong việc học tập. Nhưng họ cũng đã đồng ý rằng chúng ta đã tới lúc phải rút quân, bởi nếu người Nam Việt Nam là “có thể huấn luyện được” thì chúng ta đã ở đó quá lâu để đạt được kết quả, và nếu kết quả đạt được không rõ ràng thì có nghĩa đó là do sự bất ổn định về chính trị. Nhóm thứ ba - đại diện cho ý kiến của đa số - cho rằng người Nam Việt Nam là có thể huấn luyện được, nhưng tin rằng công việc huấn luyện của chúng ta là chưa đủ thời gian để đạt kết quả và do đó nó phải được tiếp tục với mức độ như hiện nay.
Sau cuộc thảo luận dài, Tổng thống thông qua khuyến nghị của chúng tôi về việc rút 1.000 cố vấn cho tới ngày 31/12/1963. Tôi nhớ rằng ông ta làm như vậy mà không có lời giải thích nào. Đề phòng bất trắc, bởi sự chống đối gay gắt và bởi tôi sợ rằng những người khác đang tìm cách để Tổng thống thay đổi quyết định, tôi đã yêu cầu ông tuyên bố công khai quyết định của mình. Đó sẽ là một việc đã rồi.
Không nghi ngờ gì nữa, điều đó đã gây ra một cuộc tranh cãi. Nhưng cuối cùng thì Tổng thống cũng đã đồng ý dù rằng không đồng ý với câu “vào cuối năm”. Ông ta sợ rằng nếu chúng tôi tuyên bố và sau đó không làm được trong vòng 90 ngày, chúng tôi sẽ bị người ta lên án là quá lạc quan. Tôi nói: “Cái lợi của việc rút họ về là chúng ta có thể nói với Quốc hội và dân chúng rằng chúng ta đã có được một kế hoạch giảm bớt sự đối mặt của lực lượng chiến đấu Mỹ với các hoạt động du kích ở Nam Việt Nam - những hoại động mà người Nam Việt Nam phải tạo ra khả năng tự mình dập tắt. Và tôi nghĩ điều này có giá trị lớn đối với chúng ta để đương đầu với các quan điểm mạnh mẽ của Fullbright và những người khác rằng chúng ta đang bị sa lầy ở châu Á và sẽ ở đó hàng thập kỷ (trích dẫn trong nguyên bản)”3.
Cuối cùng Tổng thống đã đồng ý, sau buổi hội đàm, Bộ trưởng Báo chí Pierre Salinger đã đọc bản tuyên bố. Bản thông cáo báo chí của Nhà Trắng có tuyên bố sau:
Bộ trưởng McNamara và tướng Taylor... báo cáo rằng vào cuối năm nay chương trình đào tạo người Việt Nam của Mỹ phải tiến triển tới mức có thể rút 1.000 cố vấn Mỹ tại Nam Việt Nam. Tình hình chính trị ở Nam Việt Nam còn nghiêm trọng... Trong khi đó hành động (đàn áp ở đất nước này) vẫn chưa gây ảnh hưởng lớn tới các nỗ lực chiến đấu, điều đó sẽ làm trong tương lai4.
_____________________________________
1. Xem Báo cáo của Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tham mưu liên quân và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi Tổng thống, 2/10/1963, sách đã dẫn, tr. 336-346.
2. PR, JFKL.
3. Sách đã dẫn.
4. Biên bản nội dung cuộc họp lần thứ 519 của Hội đồng An ninh quốc gia, 2/10/1963, sách đã dẫn, tr. 350-352; Thông cáo báo chí của Nhà Trắng, 6 giờ 52 chiều, 2/10/1963, “Các cuộc họp của Hội đồng An ninh quốc gia,1963”, NSF, hộp số 314, JFKL và PR, JFKL.
Cuộc thảo luận xung quanh bản báo cáo đệ trình Tổng thống của chúng tôi được tiếp tục vào sáng 5/10. Tranh cãi gay gắt hơn, nhưng cuối cùng Tổng thống tuyên bố rõ ràng chấp thuận đoạn nói về kế hoạch đảo chính trong bản báo cáo của chúng tôi. Chúng tôi đã viết: “Trong lúc này, không nên có hành động khuyến khích việc nhanh chóng thay đổi chính phủ. Chính sách của chúng ta là phải gấp rút tìm ra và xây dựng mối quan hệ với giới lãnh đạo sẽ thay thế, nếu có và vào lúc họ xuất hiện”. Tổng thống ra lệnh chỉ thị về vấn đề này gửi cho Sài Gòn theo kênh CIA1.
Quyết định của Tổng thống về việc Mỹ “không nên chủ động khuyến khích nhanh chóng thay đổi chính phủ” được tiết lộ trong vòng vài tuần lễ. Trong điện gửi Mac ngày 25/10, Lodge nài nỉ rằng kế hoạch của các tướng lĩnh Nam Việt Nam đã rất cụ thể, “chúng ta không nên ngăn cản cuộc đảo chính”. Lý do thuyết phục của ông ta là: “Ít ra điều đó giống như một cuộc cá cược thẳng thắn rằng Chính phủ mới sẽ không lộn xộn và vấp váp như Chính phủ hiện tại”. Thay mặt Tổng thống, Mac trả lời rằng tuy không ngăn cản cuộc đảo chính, chúng ta phải giữ quyền được xem xét kế hoạch của các tướng lĩnh và can ngăn mọi hành động ít có triển vọng dẫn tới thành công2.
Trong cuộc hội đàm với tổng thống bốn ngày sau đó, tôi hỏi ai trong số các quan chức của chúng ta ở Sài Gòn chỉ huy kế hoạch đảo chính và nhận thấy rằng Harkins có thể không hay biết những gì mà toà Đại sứ và CIA đang làm. Bobby, với việc xác nhận anh ta đã không đọc hết các điện, nói rằng tình hình hiện nay đối với anh ta không còn nghĩa lý gì cả. Ủng hộ đảo chính có nghĩa là đặt tương lai Nam Việt Nam - thực tế là tương lai của cả Đông Nam Á - trong tay những người mà chúng ta vẫn chưa hay biết gì về lai lịch và ý định của họ. Max đồng ý và nói thêm, thậm chí một cuộc đảo chính thành công cũng vẫn có thể gây ảnh hưởng xấu tới nỗ lực chiến đấu, bởi lẽ một chính phủ mới còn thiếu kinh nghiệm và đang dò dẫm bước đi. McCone đồng tình. Trước đó, ông ta nói “Thưa Tổng thống, nếu tôi là người quản lý một đội bóng chày và có một cầu thủ giao bóng, tôi sẽ không để cho anh ta biết liệu anh ta có là một cầu thủ giỏi hay không”. Dean có cảm tưởng là về lâu dài, nếu Chính phủ Diệm tiếp tục tồn tại thì các nỗ lực chiến đấu sẽ xấu đi. Cuộc họp kết thúc nhưng không đi tới quyết định nào và Tổng thống đề nghị chúng tôi họp lại vào tối hôm đó3.
Tại cuộc họp lúc 6 giờ tối, Tổng thống người chưa bao giờ chia sẽ sự tin tưởng và nhiệt thành của Lodge đối với kế hoạch đảo chính lật Diệm, cho là các tướng lĩnh phải chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc đảm bảo thành công nhanh chóng. Sau cuộc họp, Mac gửi Lodge một bức điện về việc này và chỉ thị cho ông ta đưa cho Harkins xem các bức điện về kế hoạch của tướng lĩnh Sài Gòn và yêu cầu anh ta cũng như cơ quan CIA ở đó đánh giá xem cần phải có hành động gì4.
Sau khi đọc các bức điện, Harkins gửi ngay một bức điện với lời lẽ giận dữ cho Max ở Washington. Anh ta ca thán về việc Lodge đã không thông báo cho anh ta kế hoạch đảo chính và nói anh ta không thấy một lãnh tụ nào có thể thay thế được tính cách mạnh mẽ của Diệm - đặc biệt là trong hàng ngũ tướng lĩnh mà anh ta rất quen biết. Harkins đề nghị: “Chúng ta không nên tìm cách luôn thay ngựa, mà chúng ta nên có hành động thuyết phục làm cho ngựa thay đổi bước đi và hành động của mình”.
Lodge lo sợ với ý nghĩ về ý định của Mỹ ngăn cản cuộc đảo chính. Anh ta trả lời với sự thật vọng rõ rệt: “Đừng có nghĩ rằng chúng ta có thể làm chậm hay ngăn cản một cuộc đảo chính xảy ra”. Tôi hỏi một cách nghiêm chỉnh liệu các tướng lĩnh Nam Việt Nam có tiến hành cuộc đảo chính hay không nếu họ biết rằng Chính phủ Mỹ không đồng tình. Rõ ràng là Mac chia sẻ ý nghĩ của tôi. Vào cuối ngày hôm đó, anh ta điện cho Lodge: “Chúng tôi không chấp nhận lập luận cho chính sách của Mỹ là chúng ta không thể làm chậm hoặc ngăn cản cuộc đảo chính nổ ra... Chúng tôi cho rằng... anh hãy có hành động và thuyết phục các lãnh tụ phe đảo chính dừng lại hay tạm hoãn mọi hành động mà... rõ ràng không có nhiều triển vọng thành công”5.
Lodge có kế hoạch rời Sài Gòn về tham khảo ý kiến ở Wasington vào ngày 1/11. Ngay trước khi lên máy bay, anh ta đi cùng Đô đốc Felt đến chào xã giao Diệm. Trước đó, Diệm gửi công hàm nói rằng ông ta muốn Lodge lưu lại thêm 15 phút sau khi Felt rời khỏi. Lodge đã làm như vậy. Sau cuộc gặp, anh ta đã điện về Washington: “Khi tôi đứng dậy ra về, ông ta nói: Xin nói với Tổng thống Kennedy rằng tôi là một đồng minh tin cậy và ngay thẳng, và rằng thà tôi ngay thẳng và giải quyết vấn đề ngay bây giờ còn hơn là để nói về chuyện đó sau khi chúng ta đã đánh mất tất cả... Xin nói với Tổng thống Kennedy rằng tôi chấp nhận tất cả lời đề nghị của Tổng thống một cách nghiêm chỉnh và thực sự mong muốn thực hiện điều đó, nhưng vấn đề là thời gian”. Lodge bình luận thêm: “Tôi có cảm giác đây là một cử chỉ nữa trong thảo luận mà... Diệm đã bắt đầu tại cuộc gặp với chúng ta tại Đà Lạt ngày chủ nhật (27/10). Nếu Mỹ muốn có một thoả thuận trọn gói, tôi cho là chúng tôi có khả năng làm được điều đó. Thực ra ông ta nói: “Hãy nói cho chúng tôi, các ngài muốn gì và chúng tôi sẽ thực hiện”. Hy vọng thảo luận về vấn đề này ở Washington (nhấn mạnh thêm)6.
Bức điện được chuyển qua kênh thường lệ và cuối cùng đến Bộ Ngoại giao hồi 9 giờ 18 phút sáng (giờ Washington) ngày 1/11. Bức điện tới Nhà Trắng hồi 9 giờ 37 phút sáng. Ở đó chúng tôi đang họp với Tổng thống để tiếp tục thảo luận các diễn biến ở Sài Gòn. Đến lúc đó đã quá muộn rồi - cuộc đảo chính đã nổ ra.
_______________________________________
1. Xem Biên bản cuộc họp với Tổng thống, 5/10/1963, FRUS, 1961-1963, t.4, tr. 368-370.
2. Lodge gửi George Bundy, 25/10/1963, sách đã dẫn, tr. 434-436; và George Bundy gửi Lodge, 25/10/1963, sách đã dẫn, tr. 437.
3. Xem Biên bản cuộc họp với Tổng thống, 29/10/1963, 4 giờ 20 chiều, sách đã dẫn, tr. 468-471; đoạn trích McCone lấy từ Ủy ban Chọn lọc Thượng nghị viện để nghiên cứu các chiến dịch của Chính phủ, Mưu đồ ám sát được khẳng định lôi kéo theo các nhà lãnh đạo nước ngoài (Washington: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1975), tr. 221.
4. Xem Biên bản cuộc họp với Tổng thống, 29/10/1963, 6 giờ chiều, FRUS, 1961-1963, t.4, tr. 472-473; và McGeorge Bundy gửi Lodge, 29/10/1963, sách đã dẫn, tr. 473-475.
5. MACV 2028, Harkins gửi Taylor, 30/10/1963, sách đã dẫn, tr. 479-482; Điện của Bộ phận CIA 2063, Lodge gửi Rusk, 30/10/1963, sách đã dẫn, tr. 484-488; và McGeorge Bundy gửi Lodge, 30/10/1963, sách đã dẫn, tr. 500-502
6. Embtel 841, Lodge gửi Rusk, 1/11/1963, sách đã dẫn, tr. 516- 517.
Hồi 9 giờ 30 phút sáng ngày 2/11, chúng tôi gặp lại Tổng thống để thảo luận thêm về diễn biến ở Sài Gòn. Khi cuộc họp bắt đầu thì chưa ai rõ số phận của Diệm và Nhu ra sao. Vào khoảng giữa cuộc họp, Mike Forrestal xộc vào phòng mang theo bức điện từ Phòng Tình hình. Cơ quan CIA Sài Gòn cho biết họ được các đồng nghiệp Nam Việt Nam thông báo chính thức rằng anh em Diệm, Nhu đã tự sát “trên đường từ thành phố tới trụ sở Bộ Tổng tham mưu liên quân”1.
Thật ra thì sau khi bày tỏ sự sẵn sàng đầu hàng, Diệm và Nhu đã tới chờ tại một Nhà thờ Công giáo trong Chợ Lớn, khu người Hoa nằm ở phía Nam trung tâm Sài Gòn. Tướng Minh, người trở thành Tổng thống sau đó, đã cho hai xe Jeep và một xe bọc thép tới đón họ, Diệm và Nhu bị đẩy vào xe bọc thép, hai tay bị còng sau lưng. Khi đoàn xe đến trụ sở Bộ Tổng tham mưu và cửa xe được mở ra thì Diệm và Nhu đã chết. Cả hai đều đã bị bắn, riêng Nhu còn bị đâm nhiều nhát bằng dao. Tướng Đôn, một trong những người cầm đầu cuộc đảo chính hỏi: “Tại sao họ chết?”
- “Chết thì sao nào?”, Minh trả lời.
Mấy tháng sau hai cái chết này, ông ta đã nói với một người Mỹ: “Chúng tôi đã không có sự lựa chọn nào khác. Họ phải bị giết. Không thể để Diệm sống vì ông ta được những người dân bình thường, cả tin ở nông thôn rất kính trọng”. Trần Văn Hương, một quan chức dân sự, từng là người chỉ trích Diệm và đã bị tù vì can tội chống đối chế độ, nói: “Các tướng lĩnh chóp bu, những người đã quyết định ám sát Diệm và em ông ta, đã sợ chết đi được. Các tướng lĩnh biết rõ rằng không một tài năng nào, không một phẩm chất đạo đức nào, không một sự ủng hộ chính trị nào, có thể giúp họ ngăn cản sự trở về đầy kịch tính của Tổng thống và ông Nhu nếu họ còn sống sót”2.
Khi Tổng thống Kennedy nhận được tin về cái chết này. Ông đã tái người đi một cách thật sự, tôi chưa bao giờ thấy ông xúc động như vậy. Sau này Forrestal đã nhớ lại rằng cái chết này “đã làm cá nhân Tổng thống bàng hoàng”, “ám ảnh ông ta như một vấn đề đạo đức và tín ngưỡng... tác động cả đến lòng tin của ông... về những ý kiến góp ý mà ông nhận được về Nam Việt Nam”. Arthur Schelinger (Jr.) nhận thấy Tổng thống đã “buồn rầu và sửng sốt” và tỏ ra phiền muộn một cách sâu sắc nhất kể từ sự kiện Vịnh Con Lợn3.
Ngay khi có được các tin tức cần thiết, Tổng thống đã bình luận về những tác động nghiêm trọng mà cái chết của anh em Diệm có thể gây ra cho tình hình trong và ngoài nước. Ông tỏ ra nghi ngờ hai người này có thể tự sát vì họ là người Công giáo. Hilsman thì cho rằng, không có gì khó hiểu trong việc Diệm và Nhu tự sát dù rằng họ là người Công giáo - theo tinh thần “đây là trận huyết chiến cuối cùng”, Mac bình luận một cách ngắn gọn rằng điều không bình thường là người ta có thể tự bắn và đâm bản thân mình với hai tay bị trói chặt sau lưng4.
Rõ ràng Tổng thống đã cho rằng sau hai mươi năm cống hiến cho Việt Nam, lẽ ra cuộc đời của Diệm không đến nỗi kết thúc như vậy. Có vẻ như Mao Trạch Đông cũng chia sẻ đánh giá này của Tống thống. Trong cuộc trả lời phỏng vấn với phóng viên Edgar Snow đầu năm 1965, Mao đã đưa ra giả thiết là người Mỹ đã không tin Diệm. Mao còn đi tới chỗ nói rằng cả Hồ Chí Minh lẫn ông ta (Mao) đều nghĩ rằng Ngô Đình Diệm không đến nỗi tồi. Mao nói: xét cho cùng, sau khi ông ta bị sát hại thì chẳng hiểu tất cả mọi sự trong Trời và Đất này có trở nên hoà bình hơn hay không? Tất cả ngụ ý trong đánh giá của Mao về các sự kiện ở Việt Nam nếu Diệm còn sống, thì không thể hiểu hết cho đến khi nào Trung Quốc và Việt Nam tiết lộ các kho lưu trữ hồ sơ của mình nhưng điều đó đã gây ra một loạt các câu hỏi5.
Việc Diệm bị giết hại đã tác động mạnh đến Tổng thống Kennedy; nhưng đó không phải là điều sửng sốt nhất. Điều đáng ngạc nhiên nhất là chúng ta đang đứng trước một khoảng trống về chính trị ở Nam Việt Nam và không có cơ sở để tiếp tục bất cứ một tiến trình nào thích hợp với các mục tiêu của Mỹ.
__________________________________
1. Điện của Bộ phận CIA 22, DTG 020410Z, 2/11/1963, sách đã dẫn, tr. 527, Điện tín của Bộ Ngoại giao (viết tắt là Deptel) 243, của Ball gửi Lodge, 24/8/1963, FRUS, 1961-1963, t.3, tr. 628-629.
2. Trích đoạn trong Cuộc chiến không có kết thúc của chúng ta, Trần Văn Đôn (San Rafael: Nhà xuất bản Presidio, 1978), tr. 111, và Marguerite Higgins, Cơn ác mộng Việt Nam của chúng ta (New York: Harper và Row), tr. 215.
3. Phỏng vấn trước của (chương trình) Giấy trắng NBC, “Cái chết của Diệm”, 22/12/1971; và Arthur M. Schlesinger (Jr.), Một nghìn ngày: John F. Kennedy trong Nhà Trắng (Boston: Houghton Mifflin, 1965), tr. 997-998.
4. Xem Biên bản cuộc họp với Tổng thống, 2/11/1963, NSF, JFKL.
5. Xem Thời báo Chủ nhật (Luân đôn), 14/2/1965.
Cái chết của Diệm không làm mất đi những mâu thuẫn sâu sắc trong nội bộ chính quyền Mỹ về vấn đề Việt Nam. Trong một kiệt tác báo cáo láo, Lodge báo cáo về Washington ngày 4/11 như sau:
Có sự khác biệt giữa chúng tôi và các ngài về ý nghĩa và giá trị của cuộc đảo chính. Sau đây là cách nhìn nhận của chúng tôi:
a) Đối với bất cứ ai đã từng tham gia vào các chiến dịch quân sự hay vận động chính trị, cuộc đảo chính này thể hiện sự thành công đặc biệt có thể trên cả hai khía cạnh...
b) Các nhà nghiên cứu đã từng có ác cảm với đảo chính và đã từng hô hào “với Diệm sẽ thắng” bây giờ lại nói rằng cuộc đảo chính này có nghĩa là chiến tranh có thể rút ngắn đi nhiều (nhấn mạnh của tác giả).
Lodge kết luận, chính ông ta cũng tin rằng đảo chính có thể rút ngắn được chiến tranh và đẩy nhanh đến thời điểm người Mỹ có thể về nước1. Max và tôi đã tỏ ý nghi ngờ. Trước cuộc đảo chính, chúng tôi đã thấy ít có khả năng có được một chính phủ mạnh và có hiệu quả thay thế Diệm, và sau đảo chính chúng tôi cũng chẳng thấy điều đó.
Để cố gắng đạt được sự thật, Tổng thống yêu cầu tôi chủ trì cuộc họp tất cả các bên ở Honolulu vào ngày 20/11. Đó là cuộc họp cuối cùng của chúng tôi về Việt Nam trước khi chúng tôi gặp gỡ với Lyndon Johnson khi ông ta trở thành Tổng thống bốn ngày sau đó.
Cuộc họp này cũng giống như các cuộc họp trước đó và chúng tôi không hề có ấn tượng gì đặc biệt về nó. Nhưng nó có một ấn tượng mạnh đối với Mac Bundy, người chưa bao giờ tham dự các cuộc họp ở Hawaii trước đây. Trước khi chúng tôi giải tán để ra về, anh nói với cuộc họp: “Các cuộc họp của McNamara giống như nơi người ta lừa gạt ông và ông ta cố gắng thuyết phục họ là họ không thể”. Có lẽ điều này là không công bằng đối với giới quân sự, nhưng dù sao nó cũng phản ánh khó khăn mà chúng tôi gặp phải để có được một bức tranh rõ ràng về tình hình và triển vọng của chúng ta ở Việt Nam.
Mac đã rút ra từ cuộc họp một đánh giá rất đúng như điều đã xảy ra. Phát biểu về bức tranh chính trị ở Nam Việt Nam, ông ta nói với những người tham dự rằng trong khi còn quá sớm để biết những người làm đảo chính sẽ đi theo đường hướng nào, điều rõ ràng là liên minh các tướng lĩnh không tồn tại được lâu. Anh ta quả là một nhà tiên tri! Chính phủ quân sự giống như cánh cửa xoay quay tròn với tốc độ chóng mặt trong suốt 18 tháng với nhóm lãnh đạo nọ tiếp theo nhóm lãnh đạo kia2.
Bình luận công khai cuối cùng của Tổng thống Kennedy về Việt Nam là tại cuộc họp báo ngày 14/11, tại đó Tổng thống đã hỏi một cách cường điệu rằng: “Phải chăng chúng ta bất lực ở Nam Việt Nam?”. Tổng thống tự trả lời câu hỏi của mình rằng: “Tất nhiên vấn đề quan trọng nhất là an ninh quốc gia của chúng ta, nhưng tôi không muốn Mỹ phải có quân đội ở đó”.
Trước đó, cũng tại cuộc họp báo này, trả lời câu hỏi: “Ngài có thể cho chúng tôi biết về sự đánh giá của Ngài về tình hình ở Nam Việt Nam hiện nay, sau cuộc đảo chính và mục đích của cuộc họp ở Honolulu?” Tổng thống nói: “Mục đích của cuộc họp tại Honolulu... là nhằm đánh giá tình hình: chính sách của Mỹ phải như thế nào, và chính sách viện trợ của chúng ta ra sao, chúng ta có thể đẩy mạnh sức chiến đấu như thế nào, làm sao chúng ta có thể đem người Mỹ ra khỏi đó. Hiện tại, đó là mục tiêu của chúng ta, đưa người Mỹ về nước, để người Nam Việt Nam tự bảo vệ lấy mình như một đất nước tự do và độc lập (nhấn mạnh của tác giả)”3...
Hai lời bình luận chứa đựng nội dung Tổng thống trả lời Walter Cronkite mười tuần trước đó. Lúc đó Tổng thống nói, theo sự phán xét cuối cùng, đó là cuộc chiến của họ - họ là người sẽ quyết định cuộc chiến thắng hay bại. Kennedy đã không rõ ràng trong vấn đề này. Tuy vậy một tuần sau ông ta nới với Chet Huntley và David Brinkley: “Tôi nghĩ chúng ta phải ở lại. Chúng ta phải sử dụng ảnh hưởng của chúng ta một cách có hiệu quả nhất mà chúng ta có thể... Chúng ta không được rút”4. Nhưng điểm nổi bật trong ý kiến của Tổng thống Kennedy - cả trước và sau cuộc phỏng vấn này, cả công khai lẫn bí mật - là cuối cùng người Nam Việt Nam phải tự mình tiến hành cuộc chiến; Mỹ không thể làm việc đó thay họ.
_______________________________________
1. Embtel 917, Lodge gửi Rusk, 4/11/1963, FRUS, 1961-1963, t.4, tr. 560-562.
2. Xem Báo cáo để ghi âm các cuộc nói chuyện ngày 13 và ngày 22/11/1963, Giao ban hàng ngày của các nhân viên Nhà Trắng, sách đã dẫn, tr. 593-594 và 625-626.
3. Tài liệu công khai, John F. Kennedy, 1963, tr. 846,848.
4. Sách đã dẫn, tr. 652,660.
4
THỜI
KỲ CHUYỂN TIẾP
NGÀY 23/11/1963 -
29/7/1964
Thời kỳ quá độ thường mang theo sự bất chắc, lúng túng và sai lầm. Điều này càng đúng hơn bao giờ hết trong giai đoạn sáu tháng sau khi Tổng thống Kennedy bị ám sát. Tổng thống Johnson, với cách đề cập vấn đề Việt Nam hoàn toàn khác với người tiền nhiệm của ông, đã thừa kế một loạt những câu hỏi chưa có trả lời và những vấn đề còn chưa được giải quyết. Những điều này ngày càng trở nên rõ ràng và phiền nhiễu hơn khi chúng ta ngày càng dính líu sâu hơn vào Việt Nam.
Chiều thứ sáu, ngày 22/11/1963, khi Tổng thống Kennedy đi nói chuyện tại Dallas, tôi gặp các cộng sự cao cấp của mình, Mac Bundy, Kermit Gordon của Văn phòng ngân sách và cố vấn khoa học Jerome Wiesner tại phòng họp gần phòng làm việc của tôi tại Lầu Năm Góc. Chúng tôi đang xem xét lại ngân sách quốc phòng mà Nhà Trắng dự định đệ trình lên Quốc hội vào tháng giêng. Xem xét lại ngân sách là một phần trong cố gắng của tôi nhằm xác định các mục tiêu của Bộ Quốc phòng và bảo đảm để chúng hoà hợp với các mục tiêu đối ngoại của Tổng thống. Sau cuộc họp, tôi dự định sẽ bay đi Hyannis Port cùng với Chủ tịch Hội đồng Tham mưu liên quân Max Taylor để trình bày với Tổng thống những đề nghị của tôi trong những ngày cuối tuần Lễ Tạ ơn Chúa.
Vào giữa buổi thảo luận của chúng tôi - khoảng 2 giờ chiều - thư ký báo tôi có một cú điện thoại riêng khẩn cấp. Tôi rời phòng họp và đi vào phòng riêng của tôi để nghe điện thoại. Đó là Bobby Kennedy, giọng nói nghe xa xăm và đơn độc hơn bình thường. Đơn giản và trầm tĩnh, ông thông báo cho tôi rằng Tổng thống vừa bị bắn.
Tôi sửng sốt. Chậm chạp bước trở về phòng họp và cố kiềm chế giọng nói, tôi thông báo tin trên cho cả nhóm. Thật lạ, không ai giải tán: chúng tôi đều bị sốc và hoàn toàn không biết mình phải làm gì. Sau đó, bằng hết sức mình, chúng tôi cố quay trở lại việc trao đổi.
Cú điện thoại thứ hai từ Bobby vào khoảng 45 phút sau. Tống thống đã chết. Cuộc họp của chúng tôi lập tức được kết thúc trong nước mắt và im lặng bàng hoàng.
Không hiểu được động cơ của cuộc ám sát và điều gì có thể xảy ra tiếp theo, tôi gặp ngay các Tham mưu trưởng liên quân. Chúng tôi thoả thuận đặt quân lực Mỹ trên toàn thế giới vào tình trạng báo động, một hành động thường được tiến hành trong giai đoạn khủng hoảng. Ít phút sau, Bobby lại gọi lại. Ông đề nghị vào cuối buổi chiều Max và tôi đi cùng ông đến Căn cứ không quân Andrews gần đó để đón chiếc máy bay chở thi hài anh ông trở về.
Khi Bobby đến Lầu Năm Góc, cả ba chúng tôi lên trực thăng và bay đến sân bay Andrews. Chúng tôi bay ngang qua sông Potomac. Và lặng lẽ nhìn qua cửa sổ. Tất cả đều trầm ngâm hồi tưởng. Chẳng biết nói với nhau điều gì.
Ít phút sau khi chúng tôi đến sân bay Andrews, chiếc phi cơ Tổng thống màu trắng xanh cũng từ từ lăn bánh đến chỗ đậu, đèn hạ cánh của nó vẫn bật sáng. Bobby quay lại bảo tôi cùng lên máy bay với ông. Cảm thấy đây là một giây phút hoàn toàn riêng tư của gia đình đang trong cơn sốc và đau buồn, tôi từ chối.
Sau khi thi hài được chở đi, tôi trở về nhà, nghĩ ngợi về những điều vừa xảy ra và không chắc chắn về những gì sắp tới. Anh em nhà Kennedy và tôi khởi đầu vốn xa lạ với nhau nhưng dần dần đã trở nên rất gần gũi. Không giống như nhiều chính quyền sau này. gia đình Kennedy đã tạo nên một số cộng sự cho họ, chuyển họ từ đồng nghiệp sang bạn bè. Chúng tôi có thể cười với nhau. Và chúng tôi cũng có thể cùng khóc với nhau. Quan hệ như vậy nên cái chết của Tổng thống càng trở nên đau đớn hơn đối với tôi.
Ở nhà, tôi cố gượng ăn cho xong cơm tối với Marg. Khi vừa ăn xong thì Bobby gọi từ Bệnh viện Hải quân Bethesda nói là Jackie muốn tôi ở bên cạnh bà khi bà đang phải chờ đợi việc khám nghiệm tử thi kết thúc. Tôi đi xe đến ngay bệnh viện và ngồi cạnh Jackie, Bobby và các thành viên, bè bạn khác của gia đình. Sáng sớm, chúng tôi hộ tống thi thể của Tổng thống trở về Nhà Trắng. Chiếc quan tài được đưa vào đặt trên bệ đỡ tại căn phòng trang nhã phía Đông, phủ bởi lá cờ mà Tổng thống đã yêu mến và phục vụ. Những ngọn nến dìu dịu toả sáng cả căn phòng.
Đến lúc này, có bất đồng xảy ra về địa điểm mai táng Tổng thống. Một số khăng khăng rằng đó phải là bang quê hương của Tổng thống ở Massachusetts. Tôi phát biểu rằng Kennedy không phải là Tổng thống của Massachusetts, mà đúng hơn là của 50 bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, và do vậy phải được yên nghỉ tại thủ đô.
Tôi đi một vòng để tìm một vị trí thích hợp. Nghĩa trang quốc gia Arlington nằm dưới sự quản lý của Bộ Quốc phòng và tôi bắt đầu từ đó. Đó là một buổi sáng mưa phùn ảm đạm và nghĩa trang bị che phủ bởi một làn sương mỏng. Người quản lý nghĩa trang đến chào tôi và chúng tôi cùng đi cạnh nhau qua những khoảng đất tuyệt đẹp được trang điểm bởi những nấm mộ đá trắng đơn giản, đánh dấu nơi yên nghỉ của vô số các quân nhân Mỹ đã phục vụ Tổ quốc trong chiến tranh và thời bình như Tống thống Kennedy. Tôi dừng lại khi chúng tôi đi đến một điểm ngay dưới chân nhà tưởng niệm. Từ đó tôi có thể nhìn qua Cầu Tưởng niệm tới chân tượng đài Lincoln ở phía xa, ngay cả lúc này, khi trời đang mưa và mù sương. “Đây chính là địa điểm chôn cất”, tôi khẽ nói.
Cuối ngày, người ta giới thiệu với tôi một nhân viên trẻ của Công ty công viên, người đã tháp tùng Kennedy khi ông thăm Arlington vài tuần trước đó. Khi tôi nói với anh ta địa điểm tôi đã chọn, anh ta gật đầu: “Khi Tổng thống Kennedy thăm nơi đây vài tuần trước, ông đã dừng lại ở đúng chỗ đó. Ông nhìn ra phía các tượng đài và tôi nghe ông nói rằng đây là một cảnh đẹp nhất ở Washington”.
Quyết định chọn địa điểm cuối cùng được Jackie đưa ra khi bà đi cùng với tôi đến nghĩa trang vào cuối buổi chiều. Thời tiết vẫn ảm đạm khi chúng tôi đi ngang qua mênh mông những nấm mồ. Khi chúng tôi tới địa điểm tôi đã chọn, Jackie chấp thuận ngay lập tức. Bà cũng được mai táng tại nơi này vào năm 1994.
John F. Kennedy không phải là một người hoàn hảo. Chẳng người nào được như thế cả. Ông là một nhà chính trị thực dụng. Thỉnh thoảng, những lối hoạt động chính trị - đặc biệt của các cộng sự của ông - có những hình thức rất bê bối. Một trường hợp xảy ra minh hoạ cho hiện tượng này.
Một hôm tôi nhận được một cú điện thoại của một cộng sự cũ, ông Rod Markley, Phó Chủ lịch Công ty ôtô Ford phụ trách quan hệ với Chính phủ. Ông nói ông biết được một số điều mà chắc tôi cũng rất muốn biết. Ông nói rằng Red Duffy, Phó Chủ tịch của Công ty Ford, phụ trách việc cung cấp hàng của các nhà máy duyên hải phía đông cho Bộ Quốc phòng, đã được thông báo rằng nếu chi nhánh của ông không đóng góp tài chính cho đảng Dân chủ, thì các hợp đồng sẽ bị huỷ bỏ. Tôi đã làm việc nhiều năm với Duffy ở Công ty Ford. Khi tôi giận dữ hỏi Rod rằng tại sao Duffy không trực tiếp thông báo một hành động rõ ràng là bất hợp pháp đó cho tôi, Rod trả lời rằng Duffy sợ các quan chức ở Bộ Quốc phòng mà tôi sẽ phải đưa vấn đề này ra giải quyết sẽ trả thù Công ty Ford.
Tôi cám ơn Rod, gác máy và ngay lập tức gọi cho Tổng Thanh tra Không quân, Thiếu tướng William H. “Butch” Blanchard. Blanchard đã từng là anh hùng phi công lái máy bay ném bom B-17 ở Phillipin, chỉ huy phi đội B-29 ở Ấn Độ, Trung Quốc và quần đảo Marianas; và là bạn lâu năm của tôi từ Chiến tranh thế giới thứ II. Tôi nói: “Butch, hãy xuống phòng tôi và đừng nói với ai - kể cả Bộ trưởng cũng như Tham mưu trưởng không lực - rằng ông tới chỗ tôi”.
Khi Butch tới, tôi kể với ông câu chuyện trên và nói thêm: “Tôi muốn ông ngừng mọi công việc đang làm và điều tra kỹ vấn đề này, rồi báo cáo trực tiếp lại cho tôi”.
Sau khoảng một tháng, tôi gọi Butch để hỏi về các tiến bộ của việc điều tra. Ông trả lời rằng tình hình xấu hơn người ta báo cáo. Ông đã phát hiện các trường hợp khác liên quan đến các công ty ở nơi khác trên nước Mỹ. Sau sáu tháng ông đặt lên bàn tôi một bản báo cáo dầy về những gì đã xảy ra. Khi tôi hỏi ai là người phải chịu trách nhiệm, ông đã nói tên một quan chức dân sự được Kenny O’Donnell, Trợ lý Tổng thống, cử làm việc tại văn phòng cung ứng không lực.
Tôi gọi điện cho Bộ trưởng Không quân và chỉ thị cho ông ta sa thải quan chức đó ngay trong ngày, theo lệnh của tôi, không giải thích gì hết. Sau đó tôi gửi một bản sao báo cáo cho O’Donnell với một dòng chữ bên ngoài rằng quan chức đó không còn được làm việc tại Bộ Quốc phòng. Tôi chẳng bao giờ nhận được một hồi âm nào.
John Kennedy có một khái niệm rất rõ ràng về vai trò của một Tổng thống. Một hôm tại phòng Bầu Dục, tôi thảo luận về ngôi vị Tổng thống với ông. Tôi vẽ một biểu đồ sau:
(http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/AnhsachQsu/BieuDo.jpg)
Quyền lực nằm trên trục tung và thời gian trên trục hoành. “Thưa Tổng thống”, tôi nói, “Ngài vào nhận nhiệm sở với một số quyền lực đáng kể. Tôi hy vọng Ngài sẽ rời nhiệm sở tay không, sau khi đã sử dụng hết tất cả số quyền lực đó vào những gì mà Ngài và tôi tin rằng có lợi cho dân tộc mình”. “Bob”, Kennedy trả lời, “đó đúng là những gì tôi nghĩ”. Ông nghĩ theo hướng đó, và tôi tin rằng ông cũng sẽ hành động theo hướng đó.
Tổng thống Kennedy cũng có khả năng lùi xa ra khỏi một vấn đề và quan sát ý nghĩa của nó trên một bình diện rộng lớn hơn. Ông hành động với một cảm nhận về lịch sử và vị trí của mình trong đó. Trong thời gian ông làm Tổng thống, một số chúng tôi thỉnh thoảng lại tụ tập buổi tối để tổ chức các buổi thảo luận được gọi là các cuộc hội thảo đồi Hickory. Tại một cuộc thảo luận, tổ chức tại khu gia cư của Nhà Trắng, phụ tá Tổng thống Arthur Schlesinger đã đưa cha mình là Ngài Arthur Schlesinger - nhà sử gia đáng kính của Harvard - đến làm khách danh dự. Tôi không may mắn lại bận việc của Lầu Năm Góc nên phải vắng mặt. Khi trở về nhà tôi hỏi Marg tối hôm đó đi dự một mình: “Cuộc gặp mặt thế nào?”.
“Thật là tuyệt vời” nhà tôi trả lời. “Không ai có thể chen vào một lời nào. Cả buổi tối được dành cho những câu hỏi của Tổng thống: “Ông đánh giá một Tổng thống như thế nào?”, “Với những tiêu chuẩn gì?”, “Tại sao bạn lại coi Tổng thống X vĩ đại hơn Tổng thống Y?”. John Kennedy nhìn cả thế giới như một lịch sử và ông có một tầm nhìn rộng lớn.
Ông đúng là nhà lãnh đạo vĩ đại, với uy tín phi thường và một khả năng gây cảm hứng. Ông đã động viên được cả người già và người trẻ ở trong và ngoài nước, khơi dậy những gì tốt đẹp nhất trong họ. Đây là một năng khiếu vô giá ở các nhà lãnh đạo chính trị. Trong một thế gian không hoàn hảo, ông đã hướng mắt chúng ta về phía các vì sao.
Và huyền thoại của ông vẫn tồn tại. Bao nhiêu năm trời sau cái chết của ông, tôi với tư cách Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, đã đi cùng với Marg đến các góc xa xôi hẻo lánh nhất của thế giới, tới những ngôi làng đơn độc ở Ấn Độ, Nigeria và Paraguay, nơi hiếm khi thấy một người Mỹ. Ở đó chúng tôi đã nhiều lần gặp ảnh Kennedy, xé từ một tờ báo hay một tạp chí, gắn lên tường của một túp lều, một trong những vật giá trị nhất của chủ nhà. Mọi người đều cần những anh hùng. Và họ tìm thấy một người như vậy ở John F. Kennedy. Nếu ông còn sống, tôi tin chắc rằng dân tộc ta và cả thế giới đã trở nên tốt đẹp hơn.
Việc Tổng thống Kennedy hoàn toàn không hài lòng với cách Dean Rusk điều hành Bộ Ngoại giao không phải là một điều bí mật. Nhưng tôi vẫn ngạc nhiên khi ít lâu sau cái chết của Tổng thống, tôi được Bobby và một số người khác cho biết Tổng thống dự định cử tôi thay Dean làm Ngoại trưởng khi vào nhiệm kỳ thứ hai. Tôi sẽ từ chối vì hai lý do: tôi rất kính trọng và có cảm tình với Dean, và tôi không cho rằng mình có đủ năng lực để đảm nhiệm chức Ngoại trưởng. Sau này, khi đã kết thúc bẩy năm làm Bộ trưởng Quốc phòng và 13 năm tiếp theo làm Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tôi có thể có suy nghĩ khác, nhưng vào thời điểm đó, nếu Kennedy ép tôi, tôi có thể đề nghị ông bổ nhiệm Mac Bundy, người có hiểu biết về lịch sử, quan hệ quốc tế và địa-chính trị tốt hơn tôi rất nhiều.
Tôi vẫn thường đề cập đến Mac Bundy trong hồi ký này. Tôi nên nói một lời đặc biệt ở đây vì nhân cách của ông rất mạnh mẽ và có ảnh hưởng trong suốt thời gian chúng tôi làm việc cùng nhau dưới thời Tổng thống Kennedy và Johnson. Cả cuộc đời tôi - dù ở Công ty Ford, Bộ Quốc phòng hay Ngân hàng Thế giới - tôi luôn cố gắng bồi đắp thêm những khả năng của mình bằng cách liên hệ hoặc “vay mượn” từ những người có khả năng nhất mà tôi có thể tìm thấy. Nếu họ có khả năng hơn tôi, điều đó càng tốt hơn. Mac là một người trong số đó. Năm 22 tuổi là cán bộ nghiên cứu trẻ, giảng viên của Harvard, 29 tuổi là nhà viết tiểu sử của Henry Stimson, 34 tuổi là Trưởng khoa Nghệ thuật và Khoa học của Harvard, ông có một tri thức sắc sảo mà tôi chưa từng gặp. Cho đến nay ông là Cố vấn an ninh quốc gia có năng lực nhất mà tôi đã quan sát trong 40 năm qua*.
Ông John F. Kennedy sẽ làm gì đối với Việt Nam nếu như ông còn sống? Người ta đã hỏi tôi câu hỏi trên không biết bao nhiêu lần trong hơn 30 năm qua. Từ đó đến nay, tôi vẫn từ chối trả lời câu hỏi trên vì hai lý do: ngoài những vấn đề tôi vừa kể, Tổng thống đã không hề nói cho tôi biết về kế hoạch của ông trong tương lai. Hơn thế nữa, bất kể những suy nghĩ của ông trước khi xảy ra cái chết của Diệm là gì đi chăng nữa, thì những suy nghĩ này cũng đã có thể thay đổi, khi mà tác động của sự kiện đó đối với những biến động về chính trị ở Nam Việt Nam càng trở nên rõ ràng hơn. Thêm vào đó, tôi cũng không thấy có lợi lộc gì cho đất nước chúng ta trong sự suy đoán của tôi hay của những người khác về việc ông Tổng thống quá cố sẽ có thể đã hành động như thế nào.
Nhưng hiện nay tôi lại thấy hoàn toàn khác. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng các tài liệu và nhờ những nhìn nhận lại vấn đề về sau này, tôi cho rằng nếu như Tổng thống còn sống, rất có thể ông đã đưa chúng ta ra khỏi Việt Nam. Có thể ông đã đi đến kết luận rằng người dân Nam Việt Nam không thể tự vệ được, và rằng điểm yếu chính trị nghiêm trọng của chế độ Sài Gòn đã làm cho việc cố gắng bù đắp lại những hạn chế của các lực lượng Nam Việt Nam bằng việc gửi quân Mỹ đến trên quy mô lớn là dại dột. Tôi cho rằng ông đã có thể đi đến kết luận đó mặc dù ông đã lập luận, và tôi tin rằng ông đã làm như vậy, rằng Nam Việt Nam và cuối cùng là cả vùng Đông Nam Á sẽ rơi vào tay cộng sản. Có thể ông đã xem xét sự mất mát đó là đắt giá hơn so với đánh giá của chúng ta hiện nay. Nhưng cũng có thể là ông đã chấp nhận cái giá đó vì ông cho rằng những điều kiện mà ông đặt ra - chẳng hạn đây là một cuộc chiến tranh của Nam Việt Nam, và chỉ có họ mới có thể chiến thắng, và để thắng được trong cuộc chiến này họ cần phải có một cơ sở chính trị vững chắc - là không thể đáp ứng được, Kennedy có thể đã nhất trí rằng sự rút lui sẽ làm cho các con bài Domino đổ, nhưng nếu quân Mỹ còn ở lại thì cuối cùng cũng đi đến kết cục như vậy trong khi đó lại buộc phải trả một cái giá đắt kinh khủng bằng máu.
Khi mới lên nắm quyền, Tổng thống Kennedy yêu cầu các quan chức trong nội các của ông và các thành viên của Hội đồng An ninh quốc gia đọc cuốn sách Những họng súng tháng tám của Barbara Tuchman. Ông nói cuốn sách này đã tái hiện lại bằng chữ về việc các vị lãnh tụ châu Âu đã bị thất bại như thế nào trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ I. Và ông nhấn mạnh: “Tôi không bao giờ muốn ở trong tình trạng như vậy”. Kennedy đã nói với chúng tôi sau khi chúng tôi đọc xong cuốn sách: “Chúng ta sẽ không sai lầm lao vào cuộc chiến”.
Trong suốt thời gian làm Tổng thống của mình, dường như Tổng thống Kennedy luôn giữ bài học đó trong đầu. Trong cuộc khủng hoảng Vịnh Con Lợn tháng 4/1961, ngược lại với áp lực mạnh mẽ của CIA và các chỉ huy quân sự, ông luôn giữ niềm tin chắc chắn - như ông đã từng giải thích rõ ràng và đầy đủ với những người Cuba lưu vong trước đó - rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ can thiệp bằng lực lượng quân sự để hỗ trợ cho cuộc xâm lược. Ông vẫn tiếp tục giữ quan điểm này thậm chí cho tới khi mọi việc đã trở nên rõ ràng rằng nếu không có sự hỗ trợ đó thì cuộc xâm nhập này sẽ thất bại, như nó đã thất bại1.
Tôi cũng nhận thấy sự sáng suốt như vậy trong những ngày căng thẳng của cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba. Đến hôm thứ bảy, 27/10/1962, đỉnh cao của cuộc khủng hoảng, đại bộ phận các cố vấn quân sự và dân sự của Tổng thống đã sẵn sàng khuyến cáo rằng nếu như Khrushchev không chuyển số tên lửa đó ra khỏi lãnh thổ Cuba (điều mà ông ta đồng ý vào ngày hôm sau đó) thì Mỹ cần phải tấn công hòn đảo này**. Nhưng Tổng thống Kennedy trong ngày hôm thứ bảy đó đã luôn luôn khẳng định, cả trong cuộc họp của Ban chấp hành và sau đó, là trong cuộc họp phạm vi hẹp với Bobby, Dean, Mac và tôi rằng Hoa kỳ phải hết sức cố gắng để tránh nguy cơ của một cuộc chiến tranh không thể dự đoán trước. Ông tỏ ra mong muốn, nếu như cần thiết, đổi việc rút những tên lửa Jupiter đã cũ của Hoa Kỳ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ lấy việc Liên Xô rút tên lửa ra khỏi Cuba nhằm tránh nguy cơ này. Ông biết rằng một hành động như vậy sẽ bị Thổ Nhĩ Kỳ, NATO và cả hầu hết các quan chức cao cấp của Bộ Quốc phòng và Chính phủ Hoa Kỳ phản đối mạnh mẽ2. Nhưng ông vẫn sẵn sàng chấp nhận điều đó để tránh cho chúng ta khỏi vướng vào một cuộc chiến tranh.
Vì thế tôi đi đến kết luận rằng John Kennedy rốt cục có lẽ sẽ rút quân khỏi Việt Nam chứ không dấn sâu thêm vào cuộc chiến này. Bây giờ tôi trình bày sự lý giải trên đây của mình vì, dưới ánh sáng của nó, tôi phải giải thích như thế nào và vì sao chúng ta - bao gồm cả Lyndon Johnson - những người kế tục chính sách - thực hiện các vai trò của mình sau cái chết của Kennedy đã quyết định việc đưa nửa triệu quân chiến đấu Hoa Kỳ sang Việt Nam. Vì sao chúng ta đã làm như vậy? Và chúng ta có thể rút ra những bài học gì từ những hành động của chúng ta?
________________________________
* Ông bạn Henry Kissinger của tôi sẽ tự ái về điều này, nhưng câu trả lời của tôi sẽ là: Mặc dù ông mang danh hiệu Cố vấn an ninh quốc gia và văn phòng của ông nằm ở Nhà Trắng, trong những năm đó, thực tế ông đảm nhiệm chức trách như là Ngoại trưởng”.
1. Xem Báo cáo cho trướng Maxwell Taylor, 26/4/1961, “Cuba-Vấn đề, Nhóm nghiên cứu bán quân sự, Báo cáo của Taylor phần III, phụ lục 18,” Hộp số 61A, NSF, JFKL.
** Lúc đó chúng tôi đều không biết, và trái với dự đoán của CIA, Liên Xô đã có khoảng 160 đầu đạn hạt nhân ở Cuba, kể cả một loạt vũ khí hạt nhân chiến thuật. Một cuộc tấn công của Mỹ hầu như sẽ dẫn đến đụng đầu hạt nhân với hậu quả nghiêm trọng. Xem phụ lục để có thông tin chi tiết hơn về điểm này.
2. Xem Bản tốc ký cuộc họp về khủng hoảng tên lửa ở Cuba, 27/10/1962, mọi thành phần, Văn kiện của John F. Kennedy, Văn kiện của Tổng thống, Hồ sơ Văn phòng Tổng thống, JFKL.
Mặc dù bị chấn động bởi vụ Tổng thống bị ám sát, đất nước này tiếp tục sống mà không có John F. Kennedy. Vào buổi chiều chủ nhật, ngày 24/11, trong khi các hoạt động chuẩn bị tang lễ đang tiếp tục và những người công nhân đang tụ tập xung quanh Văn phòng Bầu Dục để chờ đón vị chủ nhân mới của nó thì Tổng thống Jonhson có cuộc gặp với Dean, Mac, George Ball, Henry Cabot Lodge (trước đó đang có mặt ở Washington theo kế hoạch thoả thuận có từ trước), John McCone, và tôi trong văn phòng Phó Tổng thống mà Johnson đã là chủ nhân trong toà Văn phòng hành pháp cũ nằm ngay phía Tây của Nhà Trắng.
Lyndon Baines Jonhson là một trong những người phức tạp, thông minh và cần cù nhất mà tôi đã từng gặp. Trong con người ông chứa đựng tính cách phức tạp: vừa cởi mở, vừa xảo quyệt, vừa nhân hậu, vừa ích kỷ, hẹp hòi, vừa nhiệt tình, vừa cứng rắn, vừa hiền lành, vừa độc ác. Ông là một nhân vật mạnh mẽ, đầy mâu thuẫn, làm tôi nhớ đến một câu trong bài “Bài hát về tôi” của Walt Whitman:
Phải chăng mâu thuẫn với chính mình là tôi đó?
Cũng tốt thôi, vì cũng chẳng làm sao.
Tôi to lớn, để chứa đựng tất cả.
Ông là một nhà chính trị có khả năng điều khiển, chỉ huy người khác. Ông quan niệm vai trò của mình là phân biệt những sự khác biệt giữa những người dân Hoa Kỳ và sau đó điều hoà những điểm khác biệt đó để cho đất nước có thể đi lên, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Với ý nghĩa đó, ông lên nhậm chức Tổng thống đúng vào thời điểm người ta cần đến ông nhất: một thời kỳ của tình trạng bất đồng sắc tộc ngày càng tăng và sự bất bình đẳng về kinh tế dai dẳng.
Mặc dù Jonhson đã từng là một bộ phận của chính quyền Kennedy trong ba năm, không một ai trong số chúng tôi đã từng làm việc gần gũi với ông. Sự không ngờ vực lẫn nhau giữa hai phái Kennedy và Jonhson chắc cũng đã làm cho Jonhson phải tự hỏi: liệu ông có thể trông mong vào sự trung thành tuyệt đối ở các thành viên trong nội các của Tổng thống Kennedy hay không? Chỉ trong vòng vài ngày, nếu như không nói là vài giờ sau đó. Ông đã hiểu ra rằng cả Dean và tôi - cũng trung thành, như chúng tôi đã từng trung thành với John Kennedy - đã đến Washington để phục vụ đất nước mình, một đất nước mà bây giờ ông là vị lãnh lụ theo Hiến pháp quy định. Trong những năm tiếp theo, không một lần nào ông lại có thể có lý do để nghi ngờ về lòng trung thành của chúng tôi đối với ông nữa. Nhưng vào thời điểm ông lên nhậm chức, tôi chỉ biết rất ít về ông.
Trong khoảng thời gian từ khi Jonhson lên nắm quyền cho tới khi tôi rời khỏi Lầu Năm Góc, Tổng thống Jonhson và tôi đã thiết lập một mối quan hệ chặt chẽ tin tưởng lẫn nhau nhất có thể có được. Tuy nhiên, mối quan hệ của chúng tôi khác hẳn với mối quan hệ của tôi với Tổng thống Kennedy, và phức tạp hơn. Jonhson là một người thô thiển, đối với cả bạn bè cũng như kẻ thù của chính ông. Ông xét nét tất cả mọi người. Ông cố tìm ra những điểm yếu của mỗi người, và một khi ông đã tìm ra được điểm yếu đó, ông cố gắng sử dụng nó. Ông có thể là một người cục súc, mặc dù ông chưa xử sự như vậy với tôi bao giờ. Ông hiểu rằng tôi sẽ xử sự một cách thẳng thắn với ông, nói cho ông biết tôi tin tưởng vào cái gì hơn là nói những gì mà tôi nghĩ là ông muốn nghe, nhưng một khi ông, với tư cách là Tổng thống, đưa ra một quyết định, tôi sẽ cố gắng hết sức mình để thực hiện nó. Lòng trung thành một cách thẳng thắn như vậy luôn là phong cách của tôi, và tôi cho rằng điều đó làm cho cả Tổng thống Kennedy và Tổng thống Jonhson đều tin tưởng vào tôi. Họ biết rằng những gì họ nhìn thấy là những gì họ có, rằng tôi sẽ không nói với họ những gì mà họ muốn nghe nếu như tôi không đồng ý với họ. Giống như tất cả những vị lãnh tụ vĩ đại khác, cái mà họ muốn chính là kết quả công việc.
Về một khía cạnh nào đó, cách xử sự như vậy với Kennedy và Jonhson cũng giống như trước kia tôi đã xử sự với Henry Ford II. Một khi tôi đã hoàn thành công việc, họ không phải lo lắng gì nữa. Họ biết rằng lòng trung thành của tôi là tuyệt đối, và rằng các mục liêu của tôi và của họ là một.
Cả hai Tổng thống đều hay đề nghị tôi cố vấn hay giúp đỡ trong cả các vấn đề bên ngoài phạm vi quyền hạn của một Bộ trưởng Quốc phòng. Chính điều này làm cho cuộc sống của tôi trở nên phức tạp.
Một ví dụ về điều này xảy ra vào một mùa thu. Con trai của tôi, Craig, đã chơi trong đội bóng đá của trường St.Paul được ba năm và được coi như là một trung vệ cứng của đội toàn vùng New England, nhưng cả Marg và tôi đều chưa bao giờ được xem nó đá bóng cả: Trận đấu cuối cùng của nó được ấn định vào một ngày nghỉ cuối tuần của tháng 11. Tôi nói với Tổng thống điều đó, đề nghị ông cho tôi nghỉ việc vào một buổi chiều thứ bảy và sẽ trở lại văn phòng vào buổi sáng ngày chủ nhật. Jonhson cằn nhằn: “Nghỉ suốt cả thời gian đó à”, nhưng tôi cho rằng lời nói đó nghĩa là ông đành chấp thuận.
Ngay khi Marg và tôi đến khách sạn ở Concord, bang New Hampshire vào buổi chiều thứ bảy, tôi nhận được một bức thư nhắn phải gọi điện thoại ngay lập tức cho Tổng thống. Khi tôi gọi điện cho ông, Tổng thống nghe điện thoại và hét lên: “Anh đang ở đâu?”. Tôi kiên nhẫn giải thích cho ông tôi đang ở đâu và tại sao lại như vậy. “Tôi muốn anh quay về đây ngay lập tức để làm cho cái giá hàng nhôm chết tiệt ấy hạ xuống”, ông nói một cách giận dữ. Tôi nói rằng tôi không biết một tí gì về giá nhôm cả, và, dù sao Tổng thống cũng đã có Bộ trưởng Thương mại giúp giải quyết vấn đề như vậy. “Thôi được, nếu như anh muốn đặt sự vui vẻ của bản thân mình lên trên lợi ích của Tổng thống của anh và của đất nước anh” - ông dừng lại - “thì anh hãy cứ ở nguyên tại chỗ đó”. Tôi nói: “Tôi xin thoả thuận thế này, tôi và Marg sẽ xem trận đấu bóng buổi chiều nay và tôi sẽ quay trở lại phòng làm việc sáng sớm ngày mai”. Ông dập điện thoại xuống.
Khi tôi đến Lầu Năm Góc hôm chủ nhật, ngay lập tức tôi gọi điện cho người trợ lý trước đây của tôi là Joe Califano ở Nhà Trắng và đề nghị anh ta giải thích điều gì đã xảy ra. Các công ty buôn bán nhôm, dự đoán rằng nhôm sẽ lên giá, đã tăng giá bán nhôm của mình. Lo sợ rằng điều này sẽ gây ra lạm phát trên phạm vi cả nước, Tổng thống đã yêu cầu phải hạ giá nhôm xuống.
“Chúng ta có thể làm gì bây giờ để đạt được điều đó?”, tôi hỏi Joe. Chúng tôi thảo luận về vấn đề đó trong khoảng một hai tiếng, và cuối cùng nẩy ra một ý kiến: Chính phủ đã liên tục cất giữ một cách không cần thiết một lượng dự trữ chiến lược lớn các nguyên liệu thô, trong đó có nhôm, còn lại từ sau cuộc chiến tranh Triều Tiên. Vậy tại sao không nói cho các công ty buôn bán nhôm biết chúng ta đang dự kiến tung một phần số nguyên liệu dự trữ đó ra thị trường? Điều đó chắc chắn sẽ làm cho giá nhôm hạ xuống.
Tôi lập tức gọi điện thoại cho John Harper, chủ tịch của Alcoa, và nói: “John, những người cộng hoà các anh đã từ lâu đòi chúng tôi giảm sự thâm hụt. Cuối cùng chúng tôi đã tìm ra được cách làm được điều đó và tôi hy vọng rằng anh sẽ ủng hộ chúng tôi. Chúng tôi định bán một phần trong số nhôm dự trữ của Chính phủ và chuyển khoản tiền thu được cho Bộ Tài chính”. “Đồ chó đẻ”, anh ta nói. “Anh đang cố gắng tống tiền chúng tôi. Tôi sẽ đến phòng làm việc của anh vào buổi sáng ngày mai”.
Vào hôm thứ hai, John cùng với Edgar Kaiser và luật sư của ông là Lloyd Cutler đến gặp Joe và tôi. Sau một cuộc thảo luận dài, chúng tôi vạch ra một kế hoạch đưa lại kết quả là hạ giá nhôm, bằng cách tung bớt một phần kho dự trữ, và chúng tôi đã làm được điều đó mà không làm rối loạn thị trường.
Tình hình Jonhson kế thừa ở Việt Nam không thể phức tạp, khó khăn và nguy hiểm hơn nữa. Vị nguyên thủ, người đã từng liên kết lại các lực lượng ly tâm của Nam Việt Nam trong gần mười năm vừa mới bị gạt ra ngoài trong một cuộc chính biến mà Jonhson phản đối. Nam Việt Nam không có truyền thống thống nhất dân tộc. Nó bị vây hãm bởi lòng hận thù tôn giáo, sự chia rẽ của các đảng phái chính trị, lực lượng cảnh sát tham nhũng và, đặc biệt là sự nổi dậy ngày càng tăng lên của quân du kích được miền Bắc hậu thuẫn. Trước khi Diệm chết, thậm chí những người ủng hộ một cuộc đảo chính chống lại ông cũng phải thừa nhận rằng các cơ hội để có được sự lãnh đạo chính trị ổn định thay thế ông giỏi lắm là 50/50. Thậm chí điều này cũng đã là quá mức lạc quan: hai chính phủ Nam Việt Nam ra đời và lần lượt ra đi chỉ trong vòng 90 ngày đầu tiên của chính quyền Jonhson, và thêm bốn chính phủ nữa trong vòng chín tháng tiếp theo đó. Hơn nữa, Jonhson còn tiếp nhận một cơ quan an ninh quốc gia mặc dù vẫn còn nguyên vẹn, nhưng đã bị chia rẽ sâu sắc về vấn đề Việt Nam. Các quan chức cao cấp của cơ quan này đã không thể giải đáp được các vấn đề cơ bản mà trước tiên là chính quyền Eisenhower và sau đó là chính quyền Kennedy phải đương đầu: Liệu việc mất Nam Việt Nam có là một mối đe doạ đối với an ninh của Hoa Kỳ nghiêm trọng tới mức cần thiết phải có hành động cực đoan để ngăn chặn nó không? Nếu có, thì chúng ta phải hành động như thế nào? Liệu chúng ta có cần đưa lực lượng không quân và bộ binh Mỹ vào hay không? Có tấn công Bắc Việt Nam hay không? Có nên phiêu lưu tiến hành một cuộc chiến tranh với Trung Quốc hay không? Cái giá cao nhất về mặt kinh tế, quân sự, chính trị, con người của một hành động như vậy là gì? Liệu nó có thành công không? Nếu như cơ hội để thắng lợi thấp và cái giá phải trả cao thì có thể có các phương cách xử thế khác – chẳng hạn như trung lập hoá hoặc là rút quân - đáng được nghiên cứu và thảo luận hay không?
Lyndon Jonhson kế thừa những vấn đề này (mặc dù chúng không hề được trình bày một cách rõ ràng cho ông), và ông kế thừa chúng mà không có những câu trả lời. Những câu hỏi này không được trả lời trong suốt nhiệm kỳ Tổng thống của ông và cả trong nhiều năm sau đó. Nói một cách ngắn gọn, Jonhson kế thừa một mớ bòng bong cực kỳ khủng khiếp, rõ ràng còn nguy hiểm hơn là tình thế mà Kennedy kế thừa từ Eisenhower. Vào một buổi tối không lâu sau khi ông lên nắm quyền Jonhson thú nhận với Bill Moyers, trợ lý của ông, rằng ông cảm thấy mình như một con cá trê “vừa mới đớp được một con giun béo mập trên một lưỡi câu nhọn nằm ngay chính giữa”1.
Tuy nhiên, ngược lại với những tưởng tượng trong dân chúng, Lyndon Jonhson đã không hề lãng quên Việt Nam khi ông lên nhậm chức Tổng thống. Mặc dù ông chỉ tới thăm đất nước này có một lần - vào tháng 5/1961 - và tham dự một vài cuộc họp về vấn đề này trong thời gian cầm quyền của Tổng thống Kennedy, ông hiểu rất rõ vấn đề và trách nhiệm của mình phải giải quyết nó. Một trong những hành động đầu tiên của ông trên cương vị là một Tổng thống, là triệu tập cuộc họp với các cố vấn của ông về Việt Nam vào ngày 24/11.
Một số người nói rằng ông triệu tập cuộc họp này là vì các lý do chính trị nội bộ. Họ lý giải rằng với việc cuộc bầu cử sẽ được tổ chức trong vòng một năm nữa, ông sợ rằng nếu như ông không tỏ ra quan tâm và vững vàng về vấn đề này thì ông sẽ gặp phải những cuộc tấn công dữ dội của những người cứng rắn cực hữu của đảng Cộng hoà. Tôi không tán thành như vậy. Tất nhiên, chính trị nội bộ luôn luôn giữ vai trò hàng đầu trong suy nghĩ của ông và đúng là ông lo ngại những hậu quả về mặt chính trị nội bộ nếu như tỏ ra yếu đuối. Ông cũng còn lo ngại về những tác động đối với các đồng minh của chúng ta, nếu như Mỹ tỏ ra là không thể hoặc không muốn thực hiện các nghĩa vụ an ninh của mình. Nhưng trên hết, Johnson tin chắc rằng Liên Xô và Trung Quốc đều đang cố hết sức mình để giành bá quyền. Ông coi việc họ chiến thắng ở Nam Việt Nam là một bước để họ đạt được mục tiêu đó - đây chính là sự phá vỡ chính sách ngăn chặn của chúng ta - và ông quyết tâm không để điều đó xảy ra. Johnson hiểu rõ hơn Tổng thống Kennedy rằng cái giá phải trả của việc mất Việt Nam còn cao hơn việc đưa quân Mỹ vào tham chiến trực tiếp, và đây chính là điểm chi phối quan điểm và các quyết sách của ông trong năm năm tiếp theo đó. Ông đã không nhận thức được bản chất chính trị cơ bản của cuộc chiến tranh này.
Tổng thống Johnson nói rõ với Lodge hôm 24/11 rằng ông muốn giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh này, và rằng, ít nhất là trong khoảng một thời gian ngắn. Ông muốn các hoạt động quân sự được ưu tiên trước so với cái gọi là “những cải cách xã hội”. Ông cảm thấy rằng Hoa Kỳ đã mất quá nhiều thời gian và sức lực vào việc cố nắm các nước khác theo hình ảnh của mình. Phải chiến thắng trong cuộc chiến này! Đó là thông điệp của ông2.
Để làm được điều đó, đòi hỏi phải cải thiện tình hình trong giới quan chức Mỹ ở Sài Gòn. Giữa các quan chức dân sự của đại sứ quán và các quan chức quân sự Mỹ tồn tại những bất đồng gay gắt, vặt vãnh và lòng căm ghét nhau ra mặt. Tổng thống muốn có một đội ngũ mạnh, và ông đã giao trách nhiệm cho người phụ trách vấn đề này, đó là Lodge.
Hai ngày sau, trong bản giác thư về hành động an ninh quốc gia số 273 (NSAM) đã có ngay những chỉ thị của Tổng thống. Nó cho thấy rõ ràng rằng chính sách của Tổng thống Jonhson cũng giống như của Tổng thống Kennedy: “Nhằm giúp đỡ nhân dân và Chính phủ Nam Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh của họ chống lại mưu đồ của cộng sản được sự chỉ đạo và hậu thuẫn từ bên ngoài” bằng việc giúp đỡ huấn luyện mà không có sự tham gia công khai của lực lượng quân sự Mỹ. Nhưng Jonhson cũng thông qua kế hoạch về các hoạt động bí mật chống lại Bắc Việt Nam của các lực lượng Nam Việt Nam được CIA hậu thuẫn. Lần đầu tiên được đưa ra tại hội nghị ở Honolulu ngày 20/11/1963, kế hoạch đó sau này được gọi là Kế hoạch hành quân 34A.3
__________________________________
1. Bill Moyers, “Dẫn đoạn”, Newsweek, 10/2/1975, tr. 76.
2. Xem Báo cáo để ghi âm cuộc họp, Văn phòng Chỉ huy, 24/11/1963, FRUS, 1961-1963, t.4, tr. 635-637.
3. NSAM 273, 26/11/1963, sách đã dẫn, tr. 637-640. Xem Chương 5 để có thêm thông tin về Kế hoạch 34A.
Hai tuần sau đó, Tổng thống yêu cầu tôi tới gặp ông để bàn về Việt Nam. Ông đã giảng bài cho tôi. Ông tin tưởng chắc chắn rằng Chính phủ Hoa Kỳ chưa làm hết những gì cần làm. Ông yêu cầu tôi tới Sài Gòn trên đường trở về từ một cuộc họp của khối NATO ở Paris để xét xem chúng ta có thể làm gì thêm nữa, và ông đặc biệt hỏi ý kiến tôi về việc có cần đặt kế hoạch thêm nữa cho các hoạt động bí mật không1.
Một chương trình hành động bí mật nhỏ bao gồm kế hoạch đưa người đột nhập, phân phát các tài liệu tuyên truyền, thu thập tình báo, và các lực lượng của Chính phủ Nam Việt Nam đã tiến hành các hoạt động phá hoại chống lại Bắc Việt Nam với sự hậu thuẫn và chỉ đạo của Hoa Kỳ trong vài tháng. Nhưng bộ máy kiểm soát cộng sản nghiêm ngặt của Hà Nội - bao gồm cả các chi ủy nằm ở các làng xã và thị trấn đã khám phá ra ngay cả những biểu hiện thay đổi nhỏ nhất - đã làm vô hiệu hoá chương trình này. Nhằm tìm cách làm tổn hại Bắc Việt Nam mà không cần có hoạt động quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ, Tổng thống Jonhson muốn kế hoạch bí mật này được tăng cường hơn nữa.
Bill Bundy cùng đi với tôi trong chuyến công du này. Giống như người anh em trai tên là Mac. Bill thừa hưởng được tính trung thực và thông minh từ người cha, ông Harvey H. Bundy, người trợ lý lâu năm của Henry Stimson. Cùng với John McNaughton, và sau này là Paul Warnke (người lên thay John làm trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng phụ trách các vấn đề an ninh quốc tế), Bill là một trong những cố vấn đáng tin cậy nhất của tôi về Việt Nam.
Vào lúc kết thúc hội nghị ở Paris, chúng tôi lên chiếc máy bay quân sự ở sân bay Orly, mang theo một lượng xăng dầu nhiều nhất có thể được, để bay thẳng tới Nam Việt Nam. Khi chúng tôi bay dọc theo đường băng dầy đặc sương mù, máy bay tăng tốc độ chuẩn bị cất cánh, một chiếc máy bay dân dụng TWA, vừa mới hạ cánh xuống trước đó bỗng đột nhiên hiện ra lù lù ở phía trước chúng tôi. Viên phi công của chúng tôi, cơ trưởng Sutton, phanh mạnh lại. Chúng tôi xô dúi trong một cú dừng đột ngột diễn ra trong một vài giây (nhưng nó dường như vô tận). Lốp, bánh, phanh bốc cháy và chúng tôi rời máy bay theo cửa thoát khẩn cấp. Trình độ lái siêu việt của đại uý Sutton đã cứu chúng tôi và khoảng 150 hành khách đang ở trên chiếc máy bay của hãng TWA.
Cho đến lúc này, các báo cáo của quân báo gửi tới thông báo rằng chúng ta đã có nhiều tiến bộ ở Việt Nam. Thế nhưng vào ngày 13/12/1963 tôi nhận được bản ghi nhớ từ Cục tình báo quốc phòng nói rằng mặc dù Việt cộng không giành được các thành tích ngoạn mục nào trong năm vừa qua, họ đã duy trì và thậm chí còn tăng cường khả năng chiến đấu của mình. Bản thông báo viết thêm rằng ngoại trừ quân lực Nam Việt Nam cải thiện các hoạt động của mình, các hoạt động của Việt cộng sẽ có thể gia tăng2.
Cuộc họp của tôi ở Sài Gòn ngày 19 và 20/12 đã củng cố nhận định mới ảm đạm này. Điều trở nên rõ ràng rằng cuộc đảo chính chống Diệm đã tạo nên một khoảng trống chính trị đang ngày càng được lấp đầy bởi các sĩ quan đầy tham vọng của quân đội Việt Nam Cộng hoà, những người chỉ muốn làm chính trị ở Sài Gòn hơn là tham gia vào các chiến dịch quân sự trên chiến trường. Cũng đã rõ là thông báo trước đó về các thắng lợi quân sự đã bị thổi phồng vì dựa trên các báo cáo, số liệu giả tạo do các quan chức Nam Việt Nam cung cấp cho Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ. John McCone thông báo lên Tổng thống khi chúng tôi trở về: “Hoàn toàn rõ ràng rằng các số liệu nhận được trong năm qua và thậm chí trước đó từ các quan chức Chính phủ Nam Việt Nam và được Phái đoàn Mỹ thông báo, dựa trên đó chúng ta dự đoán chiều hướng của cuộc chiến tranh về cơ bản là sai lạc”3.
Tại cuộc họp của chúng tôi ở Sài Gòn, Lodge và tướng Harkins đồng ý rằng các nguồn lực vật chất cần thiết cho Nam Việt Nam để chiến đấu - gồm cả hỗ trợ huấn luyện và trợ giúp hậu cần của Mỹ - đã tồn tại. Tuy nhiên họ cũng đồng ý rằng vẫn chưa có được một ban lãnh đạo Nam Việt Nam cần thiết. Dù vậy, họ cảm thấy rằng trong khi tình hình là nghiêm trọng, nó không có nghĩa là không sửa chữa được.
Để tăng cường vị trí của Việt Nam, Harkins và Lodge đã đệ trình một chương trình hành động bí mật mở rộng theo yêu cầu trước đó của tôi. Chương trình sau đó được phê chuẩn bởi Ủy ban 303, một cơ quan liên ngành chịu trách nhiệm xem xét các kế hoạch như vậy. Tiếp sau khuyến nghị của Dean, Mac, McCone và tôi, Tổng thống đã thông qua một chương trình thử nghiệm bốn tháng, bắt đầu từ ngày 1/2/1964. Mục tiêu của nó là nhằm thuyết phục Bắc Việt Nam rằng vì lợi ích của bản thân họ, họ nên kiềm chế không xâm lược Nam Việt Nam. Nhìn lại, nó quả thật là một mục tiêu đầy tham vọng một cách ngớ ngẩn với một cố gắng nhỏ bé như vậy. Chương trình đã kết thúc chẳng đạt được điều gì4.
______________________________________
1. Xem Biên bản một cuộc nói chuyện điện thoại của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại sứ tại Việt Nam, 12/12/1963, sách đã dẫn, tr. 702-703.
2. Xem Báo cáo của Giám đốc Cơ quan Tình báo Quân đội gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 13/12/1963, sách đã dẫn, tr. 707-710.
3. Xem thư John McCone gửi Tổng thống, 23/12/1963, sách đã dẫn, tr. 737.
4. Xem Biên bản ghi âm của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Trợ lý đặc biệt, 21/12/1963, sách đã dẫn, tr. 728-731; Báo cáo của Trợ lý đặc biệt của Tổng thống về các vấn đề Quốc phòng gửi Tổng thống ngày 7/1/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 4-5.
Khi tôi trở về Washington vào ngày 21/12, tôi đã không thật là thành thật khi thông báo cho báo chí. Có lẽ một quan chức cao cấp của Chính phủ ở giữa một cuộc chiến tranh khó có thể nói thẳng vấn đề ra được hơn tôi. Tôi cũng không thể không nhận thấy tác động của những nhận xét kém phấn khởi đối với những người mà chúng ta muốn ủng hộ (người Nam Việt Nam) cũng như đối với những người mà chúng ta đang cố gắng vượt qua (Việt cộng và Bắc Việt Nam). Đây là một tình trạng tiến thoái lưỡng nan sâu sắc, kéo dài, có tính phổ cập về đạo lý và tinh thần: làm sao, trong thời điểm chiến tranh và khủng hoảng, các quan chức cao cấp của Chính phủ có thể hoàn toàn thẳng thắn với đồng bào mình mà lại tránh được việc tạo ra sự hỗ trợ và khích lệ cho kẻ thù?
Dù sao trong hai cuộc trả lời phỏng vấn ngày 21/12, tôi đã nói: “Chúng tôi đã chứng kiến những kết quả của việc gia tăng cơ bản các hoạt động của Việt cộng” (đáng kể); nhưng tôi bổ sung thêm: “Chúng tôi đã nghiên cứu các kế hoạch của chính quyền Nam Việt Nam và chúng ta có đủ cơ sở để tin rằng họ sẽ chiến thắng” (một tuyên bố cường điệu hết mức)1.
Bản báo cáo của tôi gửi Tổng thống thẳng thắn và ảm đạm hơn nhiều: “Tình hình rất đáng lo ngại”, tôi thông báo, dự đoán rằng: “Xu thế hiện nay, trừ khi có thể đảo ngược trong hai - ba tháng tới, tốt nhất thì sẽ dẫn đến trung lập hoá, hoặc có nhiều khả năng hơn là sẽ dẫn đến một quốc gia do cộng sản kiểm soát”.
Tôi thông báo với ông vấn đề nằm ở cả chỗ những người thay thế Diệm lẫn Phái đoàn Mỹ. Các tướng lĩnh Việt Nam chẳng thể hiện tài năng nào trong điều hành chính trị, không ngừng cãi cọ, kèn cựa nhau và không có khả năng kiểm soát sự phát triển của Việt cộng ở trên chiến trường. Nỗi e ngại tồi tệ nhất của những người phản đối đảo chính dường như đang trở thành sự thật.
Sứ quán Mỹ thiếu sự lãnh đạo, rất ít thông tin và không hoạt động theo một kế hoạch chung. Tôi đã chỉ trích mạnh mẽ Đại sứ Lodge về tình trạng này. Ông ta hầu như không liên hệ gì với Harkins và không chịu chia sẻ những bức điện quan trọng từ Washington gửi tới. Tôi đã nói rõ rằng Lodge không biết phải điều hành như thế nào một hoạt động phức tạp như phái đoàn của Mỹ tại Việt Nam. Hơn nữa, Dean và McCone cũng đồng ý với tôi rằng, mặc dù tất cả chúng tôi đều cố gắng giúp ông ta, nhưng là một con người cô đơn suốt cuộc đời, đơn giản là Lodge đã không thể nghe theo những lời khuyên nhủ. Tuy nhiên, vào lúc này ông ta vẫn là vị Đại sứ2.
Ngay sau khi tôi trở về Washington, Tổng thống đã nhận được một bản ghi nhớ của người lãnh đạo phe đa số tại Thượng viện - Thượng nghị sĩ Mike Mansfield (đảng Dân chủ), kiến nghị rằng Mỹ nên thúc đẩy một Đông Nam Á trung lập, không phụ thuộc vào viện trợ quân sự của Mỹ và cũng không chịu sự khống chế của Trung Quốc thông qua một kiểu đình chiến hoặc dàn xếp nào đó. Tổng thống đã yêu cầu Dean, Mac và tôi phải có ý kiến3.
Cả ba chúng tôi đều cho rằng con đường của Manfield sẽ dẫn đến việc Nam Việt Nam rơi vào sự kiểm soát của cộng sản với những hậu qủa hết sức nghiêm trọng đối với Mỹ và phương Tây. Tôi đã nêu rõ suy nghĩ chung lúc đó của các quan chức dân sự và quân sự hàng đầu của Mỹ như sau:
Ở Đông Nam Á, Lào gần như chắc chắn sẽ nằm trong vòng ảnh hưởng của Bắc Việt Nam, Campuchia tuy mang vẻ bề ngoài trung lập nhưng trên thực tế sẽ phải chấp nhận sự khống chế của Trung Quốc cộng sản, Thái Lan sẽ rất bất ổn định và Malaixia, vốn đã bị Inđônêxia quấy rầy cũng sẽ như vậy; kể cả Mianma cũng sẽ coi những diễn biến này như một dấu hiệu rõ ràng là cả khu vực giờ đây phải hoàn toàn ngả theo chủ nghĩa cộng sản (với hậu quả nghiêm trọng cho nền an ninh của Ấn Độ).
Về cơ bản thì một Đông Nam Á “trung lập” thực sự là rất không có khả năng hình thành từ chuỗi những sự kiện như vậy, thậm chí dù chính Mỹ cố giữ một vị trí chắc chắn ở Thái Lan, dù ngay cả Malaixia cố đứng vững, và dù những cường quốc ở xa và không dính líu như Pháp ủng hộ khái niệm “trung lập”.
Trong con mắt của các nước còn lại ở châu Á và của những khu vực chủ chốt đang bị chủ nghĩa cộng sản ở cả những nơi khác đe doạ, Nam Việt Nam là một thử thách về sự kiên quyết của Mỹ và đặc biệt là một thử thách đối với khả năng của Mỹ đối với các cuộc “chiến tranh giải phóng dân tộc”. Tại châu Á, từ Nhật Bản chẳng hạn, có bằng chứng là việc Mỹ giảm cam kết và chấp nhận sự khống chế của chủ nghĩa cộng sản sẽ có hậu quả nghiêm trọng đối với lòng tin. Nói rộng ra hơn, gần như chắc chắn là bất kỳ một nước nào bị đe doạ bởi sự lật đổ của cộng sản, trong tương lai sẽ có lý do để nghi ngờ là liệu chúng ta có thực sự giúp họ vượt qua hay không. Điều này cũng sẽ đúng với ngay cả những vùng xa xôi về mặt lý thuyết như Mỹ Latinh.4
Tôi vừa trích một đoạn dài từ bản ghi nhớ của mình vì hai lý do: để cho thấy tính hạn chế và nông cạn trong sự phân tích và trao đổi của chúng tôi về những thay đổi chính sách hiện hành của chúng tôi ở Việt Nam, ví dụ như trung lập hoá hay rút quân; để minh hoạ rằng hậu quả của việc để mất Đông Nam Á đối với Mỹ và an ninh phương Tây lần này đã được trình bày lên Tổng thống Johnson một cách mạnh mẽ và chi tiết hơn trước.
Bản ghi nhớ này đã làm cứng rắn hơn lập trường bấy lâu nay của Tổng thống. Do khả năng thất bại trong chiến lược huấn luyện của chúng tôi trở nên rõ ràng hơn trong mấy tháng tới, chúng tôi ngả dần, nhưng cũng hầu như không để ý thấy, về hướng tán thành việc áp dụng trực tiếp quân lực Mỹ. Chúng tôi đã làm như vậy vì chúng tôi ngày càng sợ về những gì có thể xẩy ra nếu Mỹ không làm như vậy (sau này nghĩ lại mới thấy rõ đó chỉ tại một nỗi sợ hãi phóng đại mà thôi). Nhưng chúng tôi đã không bao giờ tranh luận kỹ về việc lực lượng Mỹ cuối cùng sẽ phải làm gì, về khả năng thành công như thế nào, hoặc về cái giá chính trị, quân sự, tài chính và con người sẽ như thế nào nếu chúng tôi làm điều đó. Thực ra thì những vấn đề cơ bản này đã không hề được xem xét.
Chúng tôi bắt đầu trượt xuống một cái dốc trơn và đầy bi thảm.
___________________________________
1. Giao ban tại Nhà Trắng, 21/12/1963, PSRSM, 1963, t.6, tr. 2792.
2. Báo cáo gửi Tổng thống, 21/12/1963, FRUS 1961-1963, t.4, tr.732-735
3. Xem báo cáo của Thượng nghị sĩ Mike Mansfield gửi Tổng thống, 6/1/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 2-3; và Báo cáo của Trợ lý đặc biệt của Tổng thống về các vấn đề Quốc phòng gửi Tổng thống ngày 9/1/1964, sách đã dẫn, tr. 8-9.
4. Báo cáo gửi Tổng thống, 7/1/1964, sách đã dẫn, tr. 12-13.
Các Tham mưu trưởng liên quân đã đưa ra một đề nghị với những bước đi mạnh mẽ hơn trong một bản nghi nhớ gửi tôi ngày 22/1/1964. Họ quả quyết rằng trong Bản bị vong lục về Hành động an ninh quốc gia số 273, Tổng thống đã quyết tâm “giành thắng lợi ở Nam Việt Nam”. Trên thực tế, Tổng thống đã không hề làm chuyện này, chắc chắn là không bất chấp cái giá về tính mạng con người. Các Tham mưu trưởng liên quân còn nói rằng: “để giành thắng lợi, các Tham mưu trưởng liên quân cho rằng Mỹ phải sẵn sàng gạt sang một bên nhiều hạn chế tự áp đặt đang hạn chế những cố gắng của chúng ta, và Mỹ phải có những hành động táo bạo hơn dù có thể có những rủi ro lớn hơn”1. Nhưng với giá nào và khả năng thắng lợi ra sao? Bản bị vong lục này cũng như các bản sau này gửi đến tôi trong bốn năm sau đều không đưa ra câu trả lời cho các câu hỏi quân sự then chốt này.
Tôi chỉ trích Tổng thống, những cố vấn của ông, và cả chính mình cũng như các Tham mưu trưởng liên quân về sự cẩu thả này. Nghề của chúng tôi là phải đòi các câu trả lời đó. Nhưng chúng tôi đã không đủ cố gắng để có câu trả lời. Các Tham mưu trưởng cũng đã không chủ động đưa ra câu trả lời. Tướng Bruce Palmer (Jr.), người đã từng là một chỉ huy lữ đoàn ở Việt Nam năm 1967 và sau này là Phó COMUSMACV, và vào năm 1968 trở thành Phó Tham mưu trưởng lục quân, đã viết: “Suốt thời gian chiến tranh các Tham mưu trưởng liên quân đã không mảy may một lần khuyên Tổng tư lệnh và Bộ trưởng Quốc phòng rằng, chiến lược đang theo đuổi rất có nhiều khả năng sẽ thất bại và Mỹ sẽ không thể đạt được những mục tiêu của mình”2. Tôi coi đây là một sự phê bình có giá trị, nhưng chúng tôi - những cán bộ dân sự cấp trên của họ - đã mắc sai lầm tương tự do không bắt họ phải đưa ra những đánh giá như vậy.
Tại sao chúng tôi đã không nêu ra những câu hỏi này và đòi được trả lời? Đây chính là chủ đề mà tôi sẽ quay lại một cách chi tiết hơn nhưng nó chứa đựng một lời nhắc nhở rằng thất bại của chúng ta phần nào là kết quả của việc có nhiều cam kết khác chứ không chỉ có Việt Nam. Bất ổn định ở Mỹ Latinh, châu Phi, và Trung Đông, và mối đe doạ tiếp tục của Liên Xô ở châu Âu đều đòi hỏi thời gian và sự quan tâm. Chúng ta không có một nhóm cao cấp tập trung vào vấn đề Việt Nam, do đó cuộc khủng hoảng ở đó chỉ là một trong nhiều món trên chiếc đĩa của mỗi người. Nếu kết hợp với sự cứng nhắc trong mục tiêu của chúng ta, và với thực tế là chúng ta đã không thực sự điều tra kỹ những gì thực sự là nguy cơ và quan trọng đối với chúng ta, chúng ta đã bị quấy rầy và có quá nhiều gánh nặng, cầm trong tay một tấm bản đồ mà chỉ có duy nhất một con đường trên đó. Sốt sắng muốn tiến bước, chúng ta đã không bao giờ dừng lại để thăm dò đầy đủ xem có còn con đường nào khác để đi tới đích không.
Các Tham mưu trưởng liên quân cũng đã tuyên bố trong bản ghi nhớ của mình rằng “chúng ta và những người Nam Việt Nam đang tiến hành cuộc chiến tranh theo điều kiện của đối phương”, và “đã ràng buộc chính chúng ta vào những hạn chế do tự mình áp đặt”. Những hạn chế này bao gồm việc “giữ cuộc chiến trong phạm vi biên giới của Nam Việt Nam”, và “tránh sử dụng trực tiếp lực lượng chiến đấu Mỹ”. Các Tham mưu trưởng liên quân đã khuyến nghị rằng chúng ta cần mở rộng cuộc chiến sang oanh tạc Bắc Việt Nam bằng không quân Mỹ và chuyển từ huấn luyện người Nam Việt Nam sang tiến hành cuộc chiến tranh ở cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam bằng lực lượng chiến đấu Mỹ. Trên thực tế, khuyến nghị này, một thay đổi cách mạng trong chính sách của Mỹ, chỉ là một bản dài hai trang rưỡi với vài lời phân tích và lý lẽ lập luận sơ sài3.
Các Tham mưu trưởng liên quân đề nghị tôi trao đổi về bản ghi nhớ của họ với Ngoại trưởng. Tôi đã làm như vậy và sau đó chúng tôi trình bày với Tổng thống. Ông ta yêu cầu các Tham mưu trưởng liên quân có đề nghị cụ thể. Họ bắt đầu xây dựng các đề nghị đó vào tháng sau đó, trong đó họ ưu tiên kế hoạch không quân Mỹ oanh tạc đường mòn Hồ Chí Minh (một hệ thống các con đường tiếp tế trong rừng mà Bắc Việt Nam sử dụng xuyên qua Lào và Campuchia) và các mục tiêu quân sự và công nghiệp Bắc Việt Nam, các Tham mưu trưởng liên quân cho rằng: “không có khả năng những người cộng sản Trung Quốc sẽ đưa một số lượng có ý nghĩa các đơn vị bộ binh có tổ chức vào Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Bắc Việt Nam)”, và họ cũng nghi ngờ Matxcơva sẽ “có hành động, mà theo sự suy xét của Liên Xô, sẽ làm tăng khả năng của cuộc chiến tranh hạt nhân”4.
Ý nghĩ của các Tham mưu trưởng liên quân về việc leo thang sang chiến tranh hạt nhân trong kế hoạch tác chiến của Mỹ ở Việt Nam không bao giờ xuất hiện trong đầu tôi. Nhưng từ ban đầu và rồi trong suốt bốn năm sau đó, tôi quyết tâm làm giảm nguy cơ do hành động quân sự của Mỹ ở Đông Dương sẽ đưa các lực lượng không quân và mặt đất của Trung Quốc hoặc Liên Xô vào thế đối đầu với Mỹ, dù với lực lượng thông thường hay hạt nhân, ở châu Á hay bất kỳ nơi nào khác. Tổng thống Johnson cũng có quan điểm như vậy. Mối quan tâm đó chính là một trong các lý do khác khiến chúng tôi chống các khuyến nghị liên tục được đưa ra trong bốn năm sau đó đòi tăng cường nhanh chóng hơn cuộc không chiến và mở rộng nhanh hơn cuộc chiến trên bộ.
Sau này, chúng ta sẽ thấy chúng khi nào xuất hiện bằng chứng thuyết phục là Nam Việt Nam sẽ không bị mất nếu chấp nhận quy mô tác chiến mà giới quân sự đã khuyến nghị thay vì một quy mô nhỏ hơn do Tổng thống thông qua. Tuy nhiên, việc mở rộng các hoạt động tác chiến chắc chắn sẽ đưa lại những thiệt hại to lớn hơn về tính mạng cho cả Mỹ và Việt Nam. Tôi đã đề cập các vấn đề này vào ngày 17/2/1964 khi tôi ra điều trần về tiến bộ của Mỹ ở Việt Nam trước Tiểu ban Ngân sách quốc phòng của Hạ viện. Hạ nghị sĩ Harry Sheppard (đảng Dân chủ - bang California) nói: “Thưa ông Bộ trưởng Quốc phòng tôi khen ngợi tính thẳng thắn của ông, nhưng ngồi đây phân tích tuyên bố của ông, tôi thấy như sau: tôi không thể nghĩ tới một sự lựa chọn nào khác ngoài việc tiến hành mọi biện pháp cần thiết trong khả năng của chúng ta để ngăn chặn thắng lợi của cộng sản”. Ông ta chỉ ra rằng trước đó tôi đã miêu tả chính sách của Mỹ là một kế hoạch huấn luyện hạn chế và trợ giúp hậu cầu cho Nam Việt Nam, nhưng giờ đây tôi lại nói là chúng ta sẽ giành “mọi”sự hậu thuẫn cần thiết. Ý tôi thực sự là như thế nào? Tôi chững lại một lúc trước khi trả lời (điều này vẫn đúng cho hôm nay): “Khả năng quân sự tự nó không thể giải quyết mọi vấn đề ở Việt Nam và cũng như vậy, ở nhiều nơi khác trên thế giới”. Tôi nói tiếp: “Với kiểu chiến tranh đang diễn ra ở Việt Nam thì chỉ có chính nhân dân Việt Nam mới có thể giành thắng lợi. Một trong số các điều kiện cần có để thắng cuộc chiến tranh như vậy là phải có một chính phủ mạnh, ổn định và hữu hiệu, được nhân dân hoàn toàn trung thành và ủng hộ”. Tôi kết thúc câu trả lời của mình bằng mấy lời sau: “Tôi sẽ không hoàn toàn thành thật nếu tôi không bày tỏ với các ngài mối quan tâm của chúng tôi về những lĩnh vực vượt ra ngoài khả năng của chính chúng ta”. Tôi liên tục nhắc lại điểm này trong các tuyên bố với Quốc hội và báo chí, như trong bản điều trần của tôi trước Ủy ban ngân sách Thượng viện vào ngày 22/7/1964, tôi đã nói: “Vấn đề hàng đầu ở Nam Việt Nam không phải là vấn đề quân sự. Vấn đề hàng đầu là vấn đề chính trị và kinh tế. Trừ khi chúng ta có thể đem lại sự ổn định chính trị và kinh tế ở nước này, thì sẽ không có bất kỳ một khả năng nào cho một giải pháp quân sự”5.
Nhưng dưới sức ép của các sự kiện và do không hề nhận rõ hành động của chúng ta sẽ đi tới đâu, chúng ta đã bắt đầu chuyển hướng. Tổng thống đã thông báo cho Lodge vào 21/2 rằng: “Với sự đồng ý của tôi, Ngoại trưởng Rusk và Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã bắt đầu chuẩn bị kế hoạch cụ thể gây sức ép đối với Bắc Việt Nam cả trên lĩnh vực ngoại giao và quân sự”. Ông nói thêm rằng tôi sẽ tới thăm Sài Gòn đầu tháng 3 để nghe quan điểm của Lodge và sau đó “chúng tôi sẽ có những quyết định dứt khoái”6.
_________________________________________
1. Báo cáo 46-64 của JCS gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 22/1/1964, PP, t.3, tr. 496-499.
2. Bruce Palmer (Jr.), Cuộc chiến 25 năm: Vai trò quân sự của Mỹ tại Việt Nam (Lexington: Nhà xuất bản Trường Đại học Tổng hợp Kentucky, 1984), tr. 46.
3. Báo cáo 46-64 của JCS gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 22/1/1964, PP, t.3, tr. 496-499.
4. Báo cáo 174-64 của JCS gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 2/3/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 112-118.
5. Quân sự, 17/2/1964, PSRSM, 1964, t.2, trang 698; và Điều trần trước Ủy ban Đánh giá của Thượng nghị viện, 22/7/1964, sách đã dẫn, t.3, tr. 1423.
6. Deptel 1281, Tổng thống gửi Lodge, 21/2/1964,FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 96.
Cùng ngày, tôi yêu cầu các Tham mưu trưởng liên quân nghiên cứu một loạt các hành động chống Bắc Việt Nam nhằm “làm cho chính phủ Bắc Việt Nam chấm dứt sự ủng hộ và khuyến khích khởi nghĩa ở Nam Việt Nam và Lào”. Tôi hỏi họ xem Trung Quốc sẽ phản ứng ra sao ở Đông Dương, Thái Lan, Nam Triều Tiên và Đài Loan, và xem Mỹ phải có cố gắng gì trên không, trên biển và mặt đất để đối phó với phản ứng của Thái Lan. Do tầm quan trọng và tính phức tạp của vấn đề và do khả năng họ sẽ đối đầu với chúng ta trong thời gian tới, tôi đã gợi ý các Tham mưu trưởng liên quân lập một đơn vị chính sách đặc biệt để xử lý với họ1.
Các Tham mưu trưởng liên quân đã trả lời bằng một bản ghi nhớ dài vào ngày 2/3. Trong đó, họ khẳng định quan điểm của mình về “tầm quan trọng hàng đầu đối với lợi ích an ninh của Mỹ trong việc ngăn không để mất Nam Việt Nam”. Nhằm mục tiêu đó, họ tuyên bố rằng chúng ta sẽ phải chuẩn bị đập tan các mục tiêu quân sự và công nghiệp ở Bắc Việt Nam. Họ công nhận là Trung Quốc có thể can thiệp quân sự để phản ứng hành động như vậy, và nếu phản ứng của Mỹ chỉ là phi hạt nhân thì sẽ không buộc Trung Quốc dừng tay được. Họ nói thêm rằng “tấn công hạt nhân sẽ có khả năng to lớn hơn nhiều để ngăn Trung Quốc, nhưng chính ngay lúc đó họ cũng không tuyên bố rõ chương trình dự kiến đó của họ sẽ có thể ngăn không để mất Nam Việt Nam hay không?2.
Rõ ràng là các Tham mưu trưởng liên quân đã công nhận rằng chương trình của họ tạo nên một sự thay đổi trong chính sách của Mỹ, bao gồm cả khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân, nhưng dù sao họ cũng đã hối thúc đòi được thông qua chương trình này.
Trong những tháng này, tình hình ở Nam Việt Nam xấu đi nhanh chóng. Tập đoàn quân sự cầm quyền đã nắm được quyền lực sau khi cuộc đảo chính đã không giúp được gì nhiều trong việc ngăn không cho tình hình tiếp tục xấu đi. Vào ngày 29/1/1964, một nhóm sĩ quan trẻ do Tướng Nguyễn Khánh cầm đầu lật đổ chính phủ chia rẽ và bất lực. Washington đã không khuyến khích và cũng không thúc đẩy thêm cuộc đảo chính; trên thực tế, tình trạng hỗn loạn kinh niên mà cuộc đảo chính là một tượng trưng đã làm tăng thêm sự sốt ruột của Tổng thống Johnson và mối lo ngại của ông là sự mất ổn định chính trị hơn nữa sẽ ảnh hưởng đến nỗ lực chiến tranh. Vì vậy, ông ta cho rằng chúng ta phải làm cho Khánh trở thành “cậu bé của chúng ta”.
Với cặp mắt nhanh nhẹn, một chòm râu dê và thân hình nhỏ con thường hay đội chiếc bêrê đỏ, Nguyễn Khánh đã gây ấn tượng cho tôi như một người ăn nói rành mạch. tính cách mạnh mẽ, lanh lợi, sắc sảo và đầy tham vọng. Ông ta mới 37 tuổi, là một sinh viên tốt nghiệp trường huấn luyện quân sự Mỹ tại Fort Leavenworth, và sau này là chỉ huy sư đoàn và lữ đoàn, Khánh đã có một bề dày kinh nghiệm nhà binh, nhưng lại ít am hiểu về các vấn đề chính trị và kinh tế. Mặc dù có những hạn chế đó, nhiều người Mỹ và những người khác, kể cả Robert Thompson của nước Anh, đều coi ông là một trong những vị tướng lĩnh có khả năng nhất của Nam Việt Nam.
Trước khi Max và tôi rời đi Sài Gòn, Tổng thống gọi chúng tôi đến Nhà Trắng. Chỉ thị trước khi chia tay, Tổng thống nói: “Bob, tôi muốn thấy hàng ngàn bức ảnh anh chụp với tướng Khánh, mỉm cười, vẫy tay để chỉ ra cho nhân dân ở đó rằng đất nước này hoàn toàn đứng đằng sau Khánh”.
Tổng thống đã đạt được ý nguyện. Mặc dù mắc cỡ biết bao, trong mấy ngày giữa tháng ba này, người Mỹ nhặt tờ báo lên và mở tivi ra xem đều thấy tôi trông rất giống một chính khách đi tranh cử tại miền quê Nam Việt Nam, từ đồng bằng sông Mê Công cho tới Huế, vai kề vai với ông Tướng Nguyễn Khánh thấp lùn, nhanh nhẹn, trước đám đông người Việt Nam, nhằm tán dương ông trước đồng bào của ông. Do vẫn không nhận ra bản chất dân tộc của cuộc đấu tranh của Bắc Việt Nam và Việt cộng, chúng ta đã không bao giờ nhận thấy rằng khuyến khích hình ảnh gắn Khánh với Mỹ trước công chúng chỉ làm củng cố thêm quan điểm của nhiều người Việt Nam là chính phủ của ông ta chỉ tranh thủ sự hậu thuẫn của Mỹ chứ không phải của nhân dân Việt Nam.
Trong khuôn khổ những hạn chế tôi đã nêu ở trên, tôi cố tránh đánh lạc hướng dư luận về tiến bộ của chúng tôi. Trong khi tiếp nhiên liệu ở Hawaii, trên đường đi Sài Gòn, một phóng viên đã nói: “Hôm qua người ta đã trích lời ông nói rằng tình hình hiện nay ở Việt Nam là nghiêm trọng. Đúng vậy không?”. Tôi đáp lại: “Đúng, tôi nghĩ vậy. Như tôi báo cáo hồi tháng 10 và sau đó là tháng 12, tình hình là nghiêm trọng... Chúng ta đã có ba chính phủ trong vòng ba tháng... Việt cộng đã tranh thủ những biến đổi này và tăng cường hơn nhiều mức độ tiến công của họ, cùng những hành động khủng bố và quấy rối. Tình hình là nghiêm trọng”3.
Quay về Washington bốn ngày sau, ngày 16/3 tôi báo cáo Tống thống rằng không nghi ngờ gì, các điều kiện ở Nam Việt Nam đã tồi tệ hơn sau cuộc đảo chính. Điều nổi lên rõ ràng là thế suy yếu của Chính phủ. Bắc Việt Nam tiếp tục tăng sự hậu thuẫn cho cuộc nổi dậy, nhưng nhân tố lo lắng nhất vẫn là khả năng tồn tại không chắc chắn của Chính phủ Khánh. Chuyến đi Nam Việt Nam của tôi đã làm tôi tin rằng Khánh không có sức hấp dẫn chính trị sâu rộng; tôi đã cảm nhận thấy điều này, không bằng từ ngữ, đơn giản là qua nét mặt vô thần của hầu hết dân quê. Hơn nữa, vòng kiểm soát quân đội của Khánh cũng tỏ ra không chắc chắn.
Lại một lần nữa tôi đã bàn về những hướng hành động thay thế khác. Rút quân xem ra không thể chấp nhận được bởi hậu quả Domino. Lại vẫn chính kết luận cũ đã được đưa ra vào nhiều dịp trước đây và vẫn như trước đây... lại chẳng mấy ai ủng hộ. Tôi cũng trao đổi về vấn đề trung lập hoá và kết luận rằng cách đề cập của De Gaulle cũng sẽ dẫn đến việc cộng sản chiếm lại Nam Việt Nam để lại hậu quả cho an ninh của phương Tây cũng nghiêm trọng như trong trường hợp Mỹ rút quân. Không ai nghĩ đến việc hỏi một câu: Nếu De Gaulle, người cũng mất nhiều như chính chúng ta do “cú đánh” vào phương Tây, có thể chấp nhận trung lập hoá, thì tại sao chúng ta lại không thể?
________________________________________
1. Báo cáo gửi Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tham mưu liên quân, 21/2/1964, Sách đã dẫn, tr.97-99.
2. Báo cáo 174-64 của JCS gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 2/3/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 112-118.
3. Văn bản gửi báo chí, Căn cứ Không quân Hickam, Hawaii, 9/3/1964, PSRSM, 1964, t.3, tr. 970.
Các tuyên bố công khai của Tổng thống Pháp và trung lập hoá có thể thiếu nội dung và do đó cũng thiếu tính chất nghiêm chỉnh. Vài tuần sau khi tôi gặp Johnson. Ngoại trưởng Pháp Maurive Couve de Murville thú nhận với Dean Rusk là Paris thiếu một kế hoạch cụ thể và tuyên bố Pháp không muốn Việt Nam rơi vào tay phe cộng sản1. Nhưng dáng ra ít nhất chúng ta cũng nên ép De Gaulle cố hết sức đạt được mục tiêu mà ông ta đã tuyên bố. Chúng ta đã không làm điều đó.
Tôi cũng đã báo cáo với Tổng thống rằng đề nghị của các vị sử dụng không quân để tiến công Bắc Việt Nam đã được thảo luận rất kỹ. Người ta thừa nhận nguy cơ Trung Quốc sẽ leo thang cũng như không có khả năng các cuộc tiến công bằng không quân sẽ bẻ gãy ý chí và làm giảm bớt hẳn khả năng của miền Bắc tiếp tục ủng hộ quân phiến loạn ở miền Nam. Tuy nhiên, do chẳng có sự lựa chọn nào tốt hơn nên đa số có mặt tại cuộc họp ở Sài Gòn đã ủng hộ các cuộc tiến công này! Đây là một cố gắng tuyệt vọng mà về sau đã trở thành động lực chủ yếu trong chính sách Việt Nam của chúng ta trong những năm sau. Các con số và phân tích đều cho thấy việc dùng không quân tiến công sẽ không có hiệu quả, nhưng có một sự quyết tâm làm một cái gì đó để ngăn chặn những người cộng sản, nên các bản báo cáo đầy sự chán chường thường bị lờ đi.
Bất chấp quan điểm của đa số những người từng có mặt trong các cuộc họp ở Sài Gòn, tôi vẫn kiến nghị chống lại việc mở các cuộc tiến công bằng không quân. Tôi chỉ ra rằng Khánh cũng tán thành với quan điểm của tôi vì cơ sở của ông ta ở miền Nam không đủ mạnh để chịu đựng sự trả đũa có thể xảy ra của Bắc Việt Nam. Trong khi tôi không kiến nghị Mỹ tăng cường can thiệp quân sự. Tôi lại đồng ý bắt đầu đặt kế hoạch để quân Mỹ tiến công miền Bắc bằng không quân. Nhưng chúng tôi thậm chí đã chẳng bàn đến chuyện đưa bộ binh Mỹ vào2.
Tôi báo cáo những kiến nghị trên đây với Tổng thống với sự tán thành của tất cả những quan chức quân sự và dân sự cao cấp đi cùng tôi gồm Max Taylor, John McCone và Bill Bundy. Tuy vậy, khi các Tham mưu trưởng liên quân trình bày ý kiến của mình thì Tướng Wallace Greene, Chỉ huy Lữ đoàn lính thủy đánh bộ và Tướng Curtis LeMay, Tham mưu trưởng Không quân không tán thành bản báo cáo của tôi. Greene cảm thấy rằng nếu chúng ta muốn ở lại và chiến thắng ở miền Nam, thì mục tiêu này phải được theo đuổi bằng toàn bộ tinh lực của Mỹ (nhưng điều này có nghĩa là gì thì ông ta lại không nói). LeMay lại tin rằng phải ném bom các căn cứ hậu cần và đường hành quân tiếp viện của Bắc Việt Nam và Việt cộng ở Lào và Campuchia. Dean đã đồng ý với những kiến nghị của tôi và Tổng thống thông qua những kiến nghị này3.
Những người khác ngoài Greene và LeMay cũng chỉ trích gay gắt những kiến nghị của tôi chống lại việc không quân tiến công miền Bắc ngay lập tức. Những người chỉ trích tôi lập luận rằng Tổng thống do dự trong việc ném bom miền Bắc vì một cuộc khủng hoảng chính trị trong nước trước bầu cử4.
Năm 1964, vì Lyndon Johnson đang chạy đua trong bầu cử nên nhiều người đã tin rằng ông ta giải quyết mọi vấn đề trên cơ sở thực dụng chính trị. Nhưng tôi thì không tin như vậy. Tôi cũng không tin rằng đó là lý do khiến ông ta quyết định chống lại việc dùng không quân đánh phá miền Bắc. Bản thân Khánh cũng chống lại hành động như vậy trong thời gian này. Còn tôi chống lại hành động này vì muốn tránh nguy cơ trả đũa của Trung Quốc và/hoặc Liên Xô nếu có thể. Mọi Tổng thống đều phải cân nhắc thoả đáng chính sách đối nội, nhưng tôi không tin được rằng những sai lầm của chính quyền Kennedy và Johnson ở Việt Nam có thể được giải thích trên cơ sở này.
Ngày 26/3/1964, theo yêu cầu của Tổng thống, tôi đã đọc một bài diễn văn dài tại cuộc chiêu đãi trao giải thưởng ở Washington để công bố lập trường về Việt Nam của chúng tôi với dân chúng Mỹ. Thật là ngẫu nhiên, ngày hôm trước, Chủ tịch Ủy ban đối ngoại của Thượng nghị viện, ông William Fulbright - sau này trở thành một trong những người chỉ trích chúng tôi kịch liệt nhất - đã đọc diễn văn quan trọng tại Thượng nghị viện với nhan đề “Huyền thoại cũ và thực tế mới”, trong đó, ông ta đã đưa ra quan điểm tương tự với những gì tôi sẽ nói trong buổi tối hôm sau. Về các cuộc đàm phán, Fulbright nói: “Trong những điều kiện quân sự như hiện nay, thật khó có thể thấy khả năng những cuộc thương lượng có thể đem lại việc chấm dứt cuộc chiến tranh với điều kiện vẫn duy trì được nền tự do của Nam Việt Nam”. Vì thế, ông ta còn nói thêm:
Dường như rõ ràng rằng chỉ có hai cách lựa chọn thực tế đang mở ra cho chúng ta trong tương lai gần: hoặc mở rộng cuộc xung đột bằng cách này hay cách khác, hoặc có những cố gắng mới nhằm tăng cường năng lực của Nam Việt Nam để giành chiến thắng trong cuộc chiến trên quy mô như hiện nay. Vấn đề này đòi hỏi các quan chức có trách nhiệm trong cơ quan hành pháp phải suy xét kỹ và cho tới khi họ có cơ hội để đánh giá những bất ngờ và tính khả thi của sự lựa chọn trên đây đem lại, tôi cảm thấy rằng chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục ủng hộ Chính phủ và Quân đội Nam Việt Nam với mọi biện pháp hữu hiệu có thể có. Bất kỳ quyết định nào có thể được thông qua đều rõ ràng cho tất cả những ai quan tâm rằng Mỹ sẽ tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ và lời hứa của mình với Việt Nam5.
__________________________________________
1. Xem Bản ghi âm nội dung cuộc họp lần thứ 528 của Hội đồng An ninh quốc gia, 22/4/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 258.
2. Báo cáo gửi Tổng thống, 16/3/1964, sách đã dẫn, tr. 153-167.
3. Các nhận xét của Tướng Greene trong JCS 2343/346-1, 17/3/1964, và của Tướng Lemay trong CSAFM-263-64 gửi JCS, 14/3/1964; trích dẫn trong Ban Lịch sử, Liên Bộ, Bộ Tham mưu liên quân; Lịch sử của Bộ Tham mưu liên quân: Bộ Tham mưu liên quân và chiến tranh Việt Nam, 1960-1968 (viết tắt là HJCS) (1970), Phần 1, Chương 9, tr. 18-19. Tôi xin cám ơn Vụ Lịch sử của Bộ Quốc phòng đã chia sẻ gánh nặng nghiên cứu này với tôi, và Ban Lịch sử của JCS đã loại khỏi danh mục giữ bí mật phần này để sử dụng nó trong quyển sách.
4. Xem Báo cáo của Michael V. Forrestal gửi Cố vấn đặc biệt của Tổng thống về các vấn đề Quốc phòng, 18/3/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 174- 175.
5. Ghi âm của Quốc hội, t. 110, tr. 6227-32.
Bài phát biểu của tôi đã đưa ra nhiều nhận định thẳng thắn về Việt Nam: tôi chỉ ra rằng “không thể chối cãi được rằng tình hình ở Việt Nam đang xấu đi”; rằng “thật không thể dễ dàng đánh giá bức tranh toàn cảnh, và do địa hình và kiểu chiến tranh thông tin không phải bao giờ cũng có và chính xác”; rằng “việc nhiều người bản xứ ủng hộ Việt cộng chứng tỏ rằng giải pháp phải vừa mang cả tính chính trị và kinh tế vừa mang cả tính quân sự”; và rằng “con đường phía trước ở Việt Nam sẽ là dài lâu, khó khăn và thất vọng”. Tất cả đều là sự thật. Rồi sau đó, tôi cũng kiểm điểm lại những cách lựa chọn mà tôi từng trình bày với Tổng thống, và một người nghe bất kỳ nào cũng sẽ kết luận rằng tôi đã không đưa ra được bất kỳ câu trả lời nào cho vấn đề của chúng tôi. Hơn thế nữa, tôi còn cả quyết:
Những mối quan tâm của Trung Hoa cộng sản là rõ ràng. Họ đã công khai chỉ trích Matxcơva về sự phản bội sự nghiệp cách mạng mỗi khi Liên Xô đưa ra những lời nói thận trọng. Họ cũng miêu tả Mỹ là một con hổ giấy và khẳng định rằng cuộc đấu tranh cách mạng vì “giải phóng và thống nhất” của Việt Nam có thể được tiến hành mà không lo ngại mối nguy cơ phải luồn cúi trước lực lượng phòng thủ hạt nhân và thông thường của Thế giới tự do. Vì vậy Bắc Kinh dường như cảm thấy họ có quyền lợi lớn trong việc thể hiện chiến lược mới, sử dụng Việt Nam như một thử nghiệm. Thành công ở Việt Nam sẽ được Bắc Kinh xem như sự minh chứng cho quan điểm của Trung Quốc trong cuộc đấu tranh về ý thức hệ đang diễn ra trên toàn thế giới1.
Chúng ta sẽ không biết được rằng những đánh giá của tôi về mục đích địa - chính trị của Trung Quốc là đúng hay sai cho tới khi Bắc Kinh mở kho lưu trữ của họ về giai đoạn này. Nhưng khi tôi bày tỏ quan điểm chung của các đồng nghiệp cao cấp về chính trị và quân sự thì chỉ có một trường hợp ngoại lệ, đó là trợ lý riêng của tôi, ông Adam Yarmolinsky, tuy không phải là chuyên gia về Trung Quốc, ông ta đã nói rằng những đánh giá của chúng tôi là sai lầm. Điều này cũng đã chứng minh cho một điểm tôi đã nêu trước đây rằng các quan chức chóp bu của Chính phủ cần tới các chuyên gia, chuyên viên dưới tay họ khi đưa ra các quyết định có liên quan tới các vấn đề nằm ngoài sự hiểu biết của họ. Giá như chúng tôi có nhiều chuyên gia hơn về châu Á xung quanh mình hơn nữa, có lẽ là chúng ta đã không nghĩ về Trung Quốc và Việt Nam đơn giản như vậy. Chúng ta đã từng có những chuyên gia như vậy trong cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba; và nói chung chúng ta cũng đã có lớp chuyên gia như vậy trong các vấn đề về Liên Xô; nhưng chúng ta đã không có họ trong khi giải quyết vấn đề Đông Nam Á.
Vài ngày sau, phóng viên Đài Truyền hình NBC Peter Hackes đã phỏng vấn tôi trong văn phòng của tôi tại Lầu Năm Góc. Cuối buổi phỏng vấn, anh ta hỏi: “Trong điều kiện nào thì nước ta sẽ hậu thuẫn các cuộc tập kích chớp nhoáng Bắc Việt Nam?”. Tôi đã trả lời rằng một trong những phương án của Max và tôi với Tổng thống sau khi trở về từ Nam Việt Nam bao gồm: “Khởi xướng các hoạt động quân sự ngoài biên giới Nam Việt Nam, cụ thể là chống lại Bắc Việt Nam”. Tôi kết luận rằng: “Bất kể hướng hành động cuối cùng nào do phía bên kia buộc chúng ta phải tiến hành... đều phải được coi là sự bổ sung, chứ không phải là sự thay thế cho những tiến bộ đạt được trong phạm vi Nam Việt Nam”2.
Tôi đã coi bản tuyên bố của mình là một lời cảnh cáo tới tất cả về những gì có thể nằm ở phía trước.
Trong thời gian này, vào tháng 4/1964, tướng Khánh thay đổi suy nghĩ của mình và bắt đầu kêu gào cho cuộc tiến công Bắc Việt Nam. Thất vọng về cuộc chiến kéo dài và buồn tẻ, cáu giận bởi không đạt được tiến bộ ở miền Nam, và bị khó chịu bởi sự can thiệp liên miên của Hà Nội, Khánh hướng ra miền Bắc như một giải pháp. Tại cuộc gặp với Lodge ngày 4/5, ông ta đề nghị cảnh cáo Hà Nội rằng bất cứ một sự can thiệp nào nữa của miền Bắc vào miền Nam sẽ có thể dẫn đến sự trả đũa, và ông ta cũng đã hỏi thẳng rằng liệu Mỹ có sẵn sàng ném bom Bắc Việt Nam không. Tổng thống đã đề nghị tôi dừng chân ở Sài Gòn trên đường trở về sau cuộc gặp với các nhà lãnh đạo Tây Đức ở Bonn và cùng với Max đánh giá lại vấn đề cùng Lodge, Harkins và Khánh.
Tôi gặp Khánh ở Sài Gòn ngày 13/5. Ông ta nói ông thực sự đã thay đổi quan điểm của mình kể từ chuyến viếng thăm trước đó của tôi tới Sài Gòn vào tháng 3. Các hoạt động bí mật thco kế hoạch 34A chống lại Bắc Việt Nam tỏ ra không có hiệu quả và cũng sẽ không có khả năng hiệu quả (một nhận định mà tôi cũng đồng ý). Mâu thuẫn hẳn với những gì đã nói trong tháng 3. Khánh nói rằng việc căn cứ của ông ta ở miền Nam thiếu chắc chắn và sức mạnh có thể sẽ là lý do để tiến công đánh miền Bắc ngay, còn hơn ngồi chờ người ta sửa chữa nhược điểm đó3.
Nhưng trước khi tôi rời Sài Gòn, Khánh một lần nữa lại bất ngờ thay đổi quan điểm của mình. Ông ta nói với tôi rằng giờ đây ông không muốn có một cuộc tiến công bằng không quân vào Bắc Việt Nam ngay lập tức nữa, bởi vì ông ta chưa sẵn sàng để sử dụng quân đội Nam Việt Nam vào những mục đích như vậy, và ông ta cũng không muốn kêu gọi không quân Mỹ tham gia.
Lodge phản đối dữ dội. Ông ta muốn tiến công miền Bắc thật nhanh, vừa để cắt đứt sự thâm nhập bằng người và đồ tiếp tế, vừa để tiêu diệt ý chí chiến đấu của Hà Nội. Lodge cũng nói rằng một cuộc đảo chính khác có thể lật đổ Khánh, và trong trường hợp này “Mỹ phải sẵn sàng nắm quyền điều hành đất nước, có thể là từ Vịnh Cam Ranh”. Tôi thật khó có thể tin vào tai mình. Nhưng tôi cũng chẳng thể đưa ra được lời khuyên nào với Tổng thống là làm thế nào để ngăn chặn một cuộc đảo chính khác và phải phản ứng thế nào khi nó xảy ra4.
Trong cơn bối rối, bất trắc và thất vọng này, tôi đã ra một lời tuyên bố công khai đầy bốc đồng, không tính toán kỹ và chính tuyên bố này đã đeo đuổi tôi mãi cho tới ngày nay. Tại cuộc họp báo ở Lầu Năm Góc ngày 24/4, những mẩu trao đổi sau đây đã diễn ra:
Phóng viên: Thưa ngài Bộ trưởng, Thượng nghị sĩ (Wayne) Mose (đảng Dân chủ, bang Oregon) gọi đây là “cuộc chiến tranh của McNamara”... Ngài trả lời như thế nào về việc này?
McNamara:... Đây là cuộc chiến tranh của Chính phủ Mỹ. Tôi thco đuổi chính sách của Tổng thống và hiển nhiên là tôi hành động trong sự cộng tác chặt chẽ với Ngoại trưởng. Tôi phải nói rằng (trong nghĩa này) tôi không phản đối việc gọi cuộc chiến này là Chiến tranh của McNamara. Tôi nghĩ rằng đây là một cuộc chiến tranh rất quan trọng và tôi lấy làm hài lòng khi được gắn cùng với nó và tôi sẽ làm bất kỳ điều gì để giành chiến thắng5.
Điều tôi đã cố muốn nói là tôi cảm thấy trách nhiệm phải làm tất cả những gì mà tôi có thể làm được để bảo vệ lợi ích của đất nước trong cái đã trở thành một cuộc xung đột lớn. Với các báo cáo láo về chiến tranh của người Nam Việt Nam và những cách hiểu khác nhau của các quan chức quân sự lẫn dân sự ở Sài Gòn và Washington, Tống thống và tôi đều thấy cần thiết cử một người đồng sự thân cận của ông cứ một hoặc hai tháng sang Việt Nam một lần và báo cáo với Tổng thống, Hội đồng An ninh quốc gia và nhân dân Mỹ qua báo chí. Trọng trách này rơi vào tôi. Kết quả là tôi trở nên gắn liền với chiến tranh hơn bất kỳ quan chức Washington nào khác trong con mắt dư luận nước Mỹ. Đó là thực tế, và tôi cũng chẳng phủ nhận nó. Trong một nội các khác, điều này có thể rơi vào một quan chức khác. Nhưng với nội các này, tôi là người đó.
__________________________________
1. Phát biểu trước bữa ăn tối tưởng nhớ James Forrestal của Hiệp hội Công nghiệp Quốc phòng, Khách sạn Sheraton Park, Washington, D.C., 26/3/1964.
2. Trả lời tại phỏng vấn của Peter Hackes, NBC-TV, (chương trình) Sunday Show, 29/3/1964.
3. Xem Embtel 2203, Lodge gửi Rusk, 14/5/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 315-321.
4. Chú thích trong Báo cáo gửi Tổng thống, 14/5, 1964, sách đã dẫn, tr. 322-327.
5. Họp báo, Lầu Năm Góc, 24/4/1964, PSRSM. 1964, t.3, tr. 1210.
Ngày 15/5/1964, CIA đã gửi một đánh giá tình báo đặc biệt về Việt Nam cho Tổng thống. Dean, Mac, và tôi. Họ đưa ra những tin tức ảm đạm:
Tình hình bao trùm ở Nam Việt Nam là cực kỳ mỏng manh. Tuy đã có một số cải thiện trong khả năng của quân đội Nam Việt Nam, sức ép kéo dài của Việt cộng tiếp tục xói mòn quyền lực của Chính phủ trong cả nước, gây phương hại đến các chương trình của Mỹ và Việt Nam (Cộng hoà) và làm suy sụp tinh thần của Nam Việt Nam. Chúng tôi không nhận thấy dấu hiệu cải thiện nào... Nếu chiều hướng đang xấu đi này không bị chặn lại vào cuối năm nay, thì vị trí chống cộng của Nam Việt Nam sẽ không thể đứng vững1.
Không còn một kế hoạch nào khác trong tầm mắt nhằm ngăn chặn cái “chiều hướng đang xấu đi” này, vài ngày sau, chúng tôi đã cho phép kéo dài thêm bốn tháng chương trình hành động bí mật mà lẽ ra đã kết thúc ngày 31/5. Cho dù các Tham mưu trưởng liên quân đều thừa nhận rằng kế hoạch hành động 34A chẳng thể đạt được gì mấy, nhưng họ vẫn kết luận rằng tiềm năng của chương trình vẫn còn “cao”. Tuy vậy, tình hình cũng chẳng cải thiện hơn trước, và có thể nó đã khiêu khích Bắc Việt Nam có phản ứng đặc biệt trong vụ Vịnh Bắc Bộ2.
Trước những đánh giá ảm đạm trong báo cáo của CIA và trong những kiến nghị khẩn thiết của các Tham mưu trưởng liên quân, Tổng thống đã yêu cầu Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng soạn thảo một kế hoạch hành động từng bước, kết hợp cả chính trị và quân sự chống lại Bắc Việt Nam. Cùng với việc đặt kế hoạch này, Bộ Ngoại giao đã dự thảo một nghị quyết nhằm tìm kiếm sự phê chuẩn của Quốc hội trong việc mở rộng các hoạt động quân sự của Mỹ tại Đông Dương.
Đây chính là cội nguồn của cái mà sau này trở thành Nghị quyết về Vịnh Bắc Bộ. Điều đó cũng phản ánh những lời cảnh cáo của Tổng thống Johnson rằng, nếu sự kiện buộc chúng ta phải mở rộng chiến tranh, chúng ta cũng phải tránh những sai lầm của Tổng thống Truman mắc phải tại Triều Tiên, có nghĩa là tiến hành các chiến dịch quân sự mà không được Quốc hội cho phép. Johnson nói, Quốc hội sẽ không chịu bất cứ một trách nhiệm nào về “vụ đâm máy bay”, trừ phi Quốc hội ngồi trên đó lúc “cất cánh”, và như thế, ông ta muốn được sự cho phép của Quốc hội khi mở các hoạt động quân sự lớn ở Đông Nam Á nếu ông ta phải làm việc này.
Một nhóm nhỏ dưới sự chỉ đạo của George Ball chuẩn bị và trình một dự thảo nghị quyết của Quốc hội cho Hội đồng An ninh quốc gia ngày 24/5. Nghị quyết này đã cho phép Tổng thống, với sự đề nghị của Chính phủ Nam Việt Nam hoặc của Chính phủ Lào, “sử dụng mọi biện pháp, kể cả đưa quân” nhằm bảo vệ họ. Chúng tôi đã tranh luận dự thảo này tại cuộc họp Hội đồng An ninh quốc gia ngay ngày hôm đó (không có mặt Tổng thống). Tôi cảm thấy rằng nếu Tổng thống quyết định sử dụng lực lượng chiến đấu của Mỹ (ngoài mục đích huấn luyện) ở Đông Nam Á trong hai, ba tháng tới, chúng tôi phải xúc tiến vấn đề nghị quyết ngay lập tức. Nếu không, chúng tôi có thể sẽ phải chờ3.
Mặc dù tình hình đang xấu đi, tất cả chúng tôi vẫn nhận thức được tính mạo hiểm của việc ném bom đánh phá miền Bắc hoặc đưa lực lượng chiến đấu Mỹ vào miền Nam. Max tin rằng Chính phủ Nam Việt Nam không thắng hoặc bại nhanh và ông ta nói vì vậy quân Mỹ nên chờ đến mùa thu, trước khi tiến hành các hoạt động mở rộng. Chúng tôi đã họp với Tổng thống ngày 26/5 nhưng chẳng rút ra được kết luận gì. Ông ta yêu cầu chúng tôi thảo luận thêm vấn đề này với Lodge và người thay thế Harkins làm COMUSMACV, Tướng William C Westmoreland, và người thay thế cho Felt làm CINCPAC, Đô đốc Hải quân Grant Sharp (Jr.), ở Honolulu.
Westy, người đã là Tư lệnh chiến trường của Mỹ ở Việt Nam từ năm 1964 đến năm 1968, là khuôn mẫu mơ ước cho vai trò của một vị tướng. Ông ta rất đẹp trai, quả quyết và thẳng thắn. Tối nghiệp West Point, là sĩ quan chiến đấu trong Chiến tranh thế giới thứ II và Chiến tranh Triều Tiên, và là cựu quản trị trưởng của Học viện Quân sự Mỹ, Westy tránh được cả tính ba hoa loè loẹt của Patton và cả tính gàn bướng của LeMay, nhưng lại có được sự cương quyết và lòng yêu nước của họ.
_____________________________________
1. An ninh quốc gia, 24/5/1964, sách đã dẫn, tr. 369-374. Báo cáo của Văn phòng Giám đốc Tình báo, Cục Tình báo Trung ương (CIA-ND), 15/5/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 336.
2. Báo cáo 426-64 của JSC gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 19/5/1964, sách đã dẫn, tr. 338-340.
3. Xem Biên bản nội dung cuộc họp của Ủy ban Chỉ đạo Hội đồng An ninh quốc gia, 24/5/1964, sách đã dẫn, tr.369-374.
Cuộc họp Honolulu diễn ra ngày 1/6 trong phòng bản đồ lớn của CINCPAC. Khác với các lần trước đây, khi còn có vài người tham gia tỏ ra đầy hy vọng, lần này, hầu hết tất cả đều tỏ ra lo ngại và chán chường. Lodge tiếp tục tin rằng mọi sự đều sẽ trở nên tốt đẹp hơn, nhưng ông ta là một ngoại lệ đáng kể.
Cuộc thảo luận tập trung vào kế hoạch hành động đã được dự thảo ở Washington nhưng chưa được Tổng thống, Dean, hay tôi thông qua. Những hoạt động mở đường cho nó bao gồm một nghị quyết của Quốc hội và sự liên lạc với Hà Nội*, được tiếp nối bằng một loạt các biện pháp gây sức ép về quân sự, mà đỉnh cao là tiến công bằng không quân hạn chế chống lại Bắc Việt Nam (việc này có thể sẽ do quân đội Nam Việt Nam tiến hành tới mức độ lớn nhất có thể được). Trước đó mấy ngày, một bản Dự đoán cho Tình báo quốc gia đặc biệt đã kết luận rằng có khả năng sẽ dẫn Hà Nội đến chỗ phải giảm bớt mức độ nổi dậy, dẫu cho điều đó nhấn mạnh khả năng Hà Nội có thể vẫn tiếp tục trụ được1.
Liên quan đến kế hoạch hành động, bốn điểm chính đã được bàn đến:
Sài Gòn tỏ ra vẫn không sẵn sàng cho cả việc leo thang oanh tạc bằng không quân miền Bắc lẫn xử lý sự trả đũa bằng quân sự chống miền Nam trong vài tháng tới; khả năng có sự can thiệp của Trung Quốc có vẻ như kêu gọi phải triển khai vài sư đoàn lính Mỹ; dân chúng Mỹ dường như vẫn tỏ ra hoài nghi về sự quan trọng của Đông Nam Á đối với an ninh của nước Mỹ; một nghị quyết thích hợp của Quốc hội sẽ có tác dụng vừa chứng tỏ sự quyết tâm của nước Mỹ và vừa làm thức tỉnh đất nước này. Tuy nhiên, vấn đề chủ yếu mà chúng tôi đụng phải trong một thời gian dài vẫn không được nêu ra và cũng không tìm được câu trả lời, và cuối cùng thì buổi họp đã kết thúc mà không có kết luận2. Chúng tôi không đi tới một quyết định nào đối với bản dự thảo kế hoạch hành động.
Tôi kể lại cuộc thảo luận ở Honolulu một cách tương đối chi tiết vì hai lý do: (1) chúng tôi đã tiến gần đến miệng vực của sự leo thang chiến tranh lớn mà không xem xét đầy đủ hậu quả cũng như các phương án thay thế khác - nhưng vào giây phút cuối cùng lại lùi ra; và (2) vì không có quyết định nào về việc mở rộng các hoạt động quân sự được thông qua, chính quyền đã quyết định hoãn việc trình Quốc hội dự thảo nghị quyết cho đến tháng 9, khi đó, theo dự kiến, Thượng nghị viện đã thông qua Dự luật về Dân sự. Về sau những người chỉ trích đã lên án Tổng thống giấu nghị quyết trong túi hàng tháng để chờ cơ hội thuận lợi – hoặc hy vọng tạo ra cơ hội đó - để nhét gọn nó qua sự ngây thơ của Quốc hội. Điều đó không phải là đúng trong trường hợp này.
Ngay sau khi tôi từ Honolulu trở về, các Tham mưu trưởng liên quân (không có ông Chủ tịch Hội đồng) đã đệ trình một bản ghi nhớ cho tôi, trong đó tuyên bố rằng chúng tôi chưa hề định ra “một mục tiêu quân sự có giá trị cho Đông Nam Á”, và cũng chưa thông qua, một hướng hành động quân sự để đạt được mục tiêu này”. Họ đề nghị hai hướng hành động: hướng họ thích hơn là bẻ gãy ý chí và khả năng của miền Bắc và hướng khác ở “cấp độ thấp hơn”, đó là chấm dứt sự ủng hộ của Bắc Việt Nam với các cuộc nổi loạn ở miền Nam. Tuy nhiên, các vị Tham mưu trưởng liên quân này cũng đã không đưa ra được một kế hoạch nào cho cả hai hướng trên3.
Khi Max đọc bản ghi nhớ này của các Tham mưu trưởng liên quân, anh ta tuyên bố rằng nó đã không “diễn đạt đầy đủ và chính xác các cách lựa chọn của chúng ta”. Anh ta còn chống lại hướng hành động được ưa thích hơn vì nó làm tăng đáng kể nguy cơ leo thang4.
______________________________________
* Trong mùa hè 1964, chính quyền Johnson đã mở các cuộc tiếp xúc ngoại giao bí mật với Bắc Việt Nam thông qua J. Blair Seaborn, Đại diện của Canađa tại Ủy ban Kiểm soát quốc tế (ICC), tổ chức được thành lập nhằm giám sát việc thực hiện các Hiệp định Geneva năm 1954 và năm 1962. Seaborn nói với Hà Nội rằng nếu họ đồng ý chấm dứt sự trợ giúp cho Việt cộng và chấm dứt xung đột, thì Mỹ sẽ cung cấp viện trợ kinh tế và ủng hộ về ngoại giao. Nếu khác đi, họ sẽ phải lường trước sự tiến công bằng không quân và hải quân của Mỹ. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam Phạm Văn Đồng trả lời rằng Mỹ phải rút khỏi Nam Việt Nam và chấp nhận sự tham gia của Việt cộng trong Chính phủ liên hiệp “trung lập”. Quan điểm của hai bên thật là xa nhau.
1. Ủy ban Đặc biệt Quốc gia về Tình báo 50-2-64, 25/5/1964, sách đã dẫn, tr. 378-380.
2. Xem Biên bản nội dung cuộc họp, Honolulu, 1/6/1964, 8 giờ 30 sáng - 12 giờ 30 trưa, sách đã dẫn, tr. 412-422; Biên bản nội dung cuộc họp, Honolulu, 2/6/1964, sách đã dẫn, tr. 428-433; và William Bundy, Bản thảo về Việt Nam (viết tắt WB, VNMS), Chương 13, tr. 19.
3. Báo cáo 471-64 của JCS gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 2/6/1964, FRUS, 1964-1968, t. 1, tr. 437-440
4. Báo cáo của Taylor gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, CM-1451-64, 5/6/1964, sách đã dẫn, tr. 457-458.
Năm 1964, chiến dịch vận động bầu cử Tổng thống của đảng Cộng hoà trở nên quyết liệt hơn, Lodge cảm thấy anh ta phải từ chức để tập trung sức lực vào công việc của cánh ôn hoà của mình. Đây cũng là củng cố đội ngũ người Mỹ tại Nam Việt Nam. Trong đó, trước hết, phải kể đến ông Đại sứ có khả năng mạnh nhất. Mac, Bobby và tôi đều tình nguyện nhận nhiệm vụ này. Tổng thống đã chọn Max Taylor, và cử Alex Johnson tăng cường thêm cho ông ta. Điều này, cùng với sự thay thế Tướng Harkins bằng Westy, đã đánh dấu quyết tâm của Tổng thống làm tất cả những gì có thể để nâng cao hiệu quả của chính sách của Mỹ tại Đông Dương.
Ngay sau khi Tổng thống quyết định không cử tôi làm đại sứ ở Đông Nam Á, và khi cuộc bầu cử năm 1964 luôn ở trong đầu, ông ta đã yêu cầu tôi chấp nhận việc đề cử tôi làm người tranh cử chức Phó Tổng thống của ông ta. Trước đó đã từng có những cuộc suy đoán của báo chí về đề nghị này - thí dụ Stewart Alsop đầu năm đó đã nhắc tới khả năng này. Dù sao chăng nữa, rất hiểu Tổng thống, tôi hiểu rằng nếu tôi trả lời “có” thì sau này có thể ông ta nghĩ lại và sẽ rút lời mời của mình. Trong mọi trường hợp, tôi đã nói “không”.
Nhưng Tổng thống vẫn tiếp tục có những kế hoạch cho tôi. Ngày 1/8 ông ta tuyên bố muốn tôi trở thành “Phó Chủ tịch thứ nhất thường trực phụ trách Nội các” của ông ta trong nhiệm kỳ tới*. Johnson chẳng bao giờ giải thích cho tôi về ý nghĩa của câu nói trên, nhưng ông ta thường xuyên cho gọi tôi giải quyết những việc khác ngoài các lĩnh vực quốc phòng và tôi đã làm mọi việc trong khả năng của mình để hoàn thành những đề nghị của ông.
Tôi đã từ chối lời đề nghị của Johnson trở thành phó của ông trong chiến dịch vận động bầu cử Tổng thống không phải vì tôi đã không suy nghĩ về cơ hội này, ngược lại nữa là khác. Nhìn lại, nếu tôi có thể làm lại cuộc đời lần nữa, tôi sẽ nắm lấy cơ hội để rèn luyện khả năng và tìm kiếm một cơ hội cho chức trách của một dân biểu. Chẳng có mục đích gì khác quan trọng hơn trong một chế độ dân chủ là giải quyết sự khác biệt giữa con người với nhau và tìm ra một phương hướng cho hành động được hậu thuẫn đủ để đất nước có được một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Đó chính là thách thức và cũng là trách nhiệm của chính trị gia. Nhưng thời đó, tôi thiếu khả năng chính trị và tôi cũng nhận thức được điều này.
Cũng trong khoảng thời gian này, chúng tôi nhận được một báo cáo khác từ Vụ Dự đoán quốc gia. Nó phúc đáp câu hỏi của Tổng thống vài ngày trước đó về khả năng diễn ra “hậu quả Domino” ở Đông Á sau khi Nam Việt Nam và Lào thất thủ. Nhóm các quan chức cao cấp và có kinh nghiệm nhất của Chính phủ, gồm những nhà phân tích tình báo, những người không có trách nhiệm gì trong việc đề ra chính sách và cũng không có quyết sách nào trước để bảo vệ, đã kết luận:
Việc Nam Việt Nam và Lào rơi vào tay cộng sản sẽ gây tác hại sâu sắc tới vị trí của Mỹ ở Viễn Đông, đặc biệt bởi vì Mỹ đã cam kết kiên trì, dứt khoát và công khai với việc cộng sản nắm quyền ở hai nước này. Thất bại ở đây sẽ phá hoại uy tín của Mỹ, và sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới độ tin cậy về ý chí và khả năng của Mỹ trong việc ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản bành trướng ở bất cứ nơi nào trong khu vực. Kẻ thù của chúng ta sẽ được khích lệ để tiến những bước mới tại các nước khác ngả theo cộng sản mạnh hơn.
Họ tiếp tục nhận xét:
Bên cạnh sự mừng vui lập tức của miền Bắc vì đã đạt được lý tưởng của dân tộc, hiệu quả chủ yếu có thể sẽ là đối với Trung Quốc cộng sản, kích thích thêm lòng tự tin vốn đã mạnh mẽ của họ, cũng như nâng cao uy tín của họ như người lãnh đạo thế giới cộng sản. Bắc Kinh đã bắt đầu quảng cáo Nam Việt Nam như sự minh chứng cho luận thuyết của họ rằng thời cơ làm cách mạng đã chín muồi cho thế giới những nước kém phát triển, rằng Mỹ chỉ là con hổ giấy, rằng nổi dậy cục bộ có thể tiến hành thắng lợi mà không có nguy cơ nổ ra chiến tranh thế giới. Nam Việt Nam và Lào sụp đổ có thể sẽ hỗ trợ cho quan điểm chiến thuật hiếu chiến của Bắc Kinh, trái với những quan điểm thận trọng hơn của Liên Xô. Trong chừng mực nào đó điều này có thể sẽ khiêu khích và tăng cường các phong trào cách mạng ở nhiều nơi khác trong thế giới kém phát triển1.
Những phân tích của họ dường như một lần nữa, lại khẳng định sự e ngại của tôi và những người khác, mà đây là mối lo sợ nhầm lẫn khi hồi tưởng lại (nhưng không kém phần thực tế trong thời gian đó) rằng chính sách ngăn ngừa của phương Tây đã đứng trước nguy cơ nghiêm trọng ở Việt Nam. Và cứ như thế, chúng tôi đã tiếp tục tuột xuống cái dốc trơn.
_____________________________________
* Đoạn trích này (cũng tương tự như những đoạn trích khác tôi sẽ sử dụng trong các chương sau) là rút ra từ các cuốn băng ghi âm và các biên bản của Tổng thống (từ đây sẽ được viết tắt bằng từ PR) trong thư Viện Lyndon B. Johnson (LBJL). Những đoạn băng và tốc ký trên đây bao gồm các giai đoạn: từ tháng 11/1963 đến tháng 8/1964, tháng 11/1964, tháng 1/1965, tháng 6-7/1965, tháng 12/1965 và từ tháng 12/1966 đến tháng 2/1968. Tôi xin cảm ơn Harry J. Middleton, Giám đốc LBJL đã tạo điều kiện cho tôi đọc các văn kiện, và Hội đồng An ninh quốc gia nhanh chóng bỏ dấu mật các bản ghi chép của tôi để sử dụng trong cuốn sách này. Có một điều cũng rất quan trọng đối với bạn đọc là, hiện nay, Thư viện Kennedy và Johnson vẫn còn lưu trữ những cuộn băng mà tôi và các tác giả khác chưa được đụng chạm tới. Chỉ khi những cuốn băng này được công bố, thì khi đó chúng sẽ rọi thêm ánh sáng lên lịch sử cuộc chiến tranh.
1. Báo cáo của Hội đồng Ủy ban Quốc gia đặc biệt gửi Giám đốc CIA McCone, 9/6/1964, sách đã dẫn, tr. 484-487.
5
NGHỊ
QUYẾT VỊNH BẮC BỘ
NGÀY 30/7 - 7/8/1964
Sự kiện gần nhất với việc Hoa Kỳ tuyên bố chiến tranh là Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ tháng 8/1964. Những sự kiện xung quanh nghị quyết này vẫn tiếp tục gây nhiều tranh cãi quyết liệt cho tới tận ngày nay.
Trước tháng 8/1964, dân chúng Mỹ theo dõi sự phát triển của tình hình Việt Nam một cách rời rạc và không mấy quan tâm, chiến tranh dường như xa lắc. Vịnh Bắc Bộ đã làm thay đổi tình hình. Trước mắt, cuộc tiến công tàu chiến Mỹ trong Vịnh cùng nghị quyết sau đó của Quốc hội dẫn tới khả năng nước Mỹ sẽ phải can thiệp vào cuộc chiến trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Quan trọng hơn nữa, về lâu dài, chính quyền Johnson đã viện dẫn bản nghị quyết để khẳng định tính hợp hiến của các hành động quân sự tiến hành tại Việt Nam kể từ năm 1965.
Quốc hội công nhận quyền lực to lớn mà bản nghị quyết đã trao cho Tổng thống Johnson, nhưng lại không nhận thức được rằng nghị quyết này về thực chất là sự tuyên chiến và cũng không có ý định sử dụng như nó đang được sử dụng là cho phép triển khai số lượng khổng lồ lực lượng quân sự của Mỹ ở Việt Nam - từ 16.000 cố vấn quân sự lên 550.000 quân chiến đấu. Bảo đảm sự tuyên chiến và cho phép sử dụng lực lượng chiến đấu trong nhiều năm sau có thể là điều không thể được; nhưng không tìm cách đạt được những điều này dĩ nhiên là sai lầm.
Nhiều người nhìn nhận thời kỳ 9 ngày từ ngày 30/7 đến 7/8 là thời kỳ gây tranh cãi nhất trong “Cuộc chiến tranh hai mươi lăm năm”. Chẳng có gì là lạ. Trong suốt ba thập kỷ, người ta bàn cãi dữ dội xung quanh câu hỏi: thực sự cái gì đã xảy ra trong Vịnh; chúng tôi đã thông báo việc này như thế nào với Quốc hội và công luận; quyền hạn mà chúng tôi giành được từ Quốc hội để phản ứng với các sự kiện; và đội ngũ các nhà hành pháp dưới hai đời Tổng thống tiếp theo đã sử dụng quyền lực này như thế nào trong những năm tiếp theo.
Các câu hỏi lớn và trả lời của tôi như sau:
* Các cuộc tiến công của tàu tuần tiễu Bắc Việt Nam vào chiến hạm của Mỹ được thông báo là đã diễn ra hai lần - ngày 2 và ngày 4/8/1964. Liệu các cuộc tiến công này có diễn ra thật không?
Trả lời: Bằng chứng của cuộc tiến công lần thứ nhất là không cần bàn cãi. Cuộc tiến công thứ hai là rất có thể, nhưng không chắc chắn.
* Thời đó và cho tới nhiều năm sau - vài thành viên Quốc hội và công chúng tin rằng chính quyền Johnson đã cố ý khiêu khích để các cuộc tiến công nổ ra nhằm leo thang chiến tranh và sau đó lẩn tránh bằng cách sử dụng luận điệu, nhằm đạt được sự cho phép của Quốc hội trong việc leo thang chiến tranh. Quan điểm này có giá trị gì hay không?
Trả lời: Không có giá trị gì hết
* Phản ứng đối với các cuộc tiến công này, Tổng thống đã ra lệnh cho máy bay của Hải quân Mỹ tiến công vào bốn căn cứ tàu tuần tiễu và một kho xăng dầu của Bắc Việt Nam. Cuộc tiến công này có được phê chuẩn hay không?
Trả lời: Có thể.
* Liệu nghị quyết của Quốc hội có được đệ trình hay không, nếu không có sự kiện Vịnh Bắc Bộ, và nó có được thông qua không, nếu sự kiện này không xảy ra?
Trả lời: Hầu như chắc chắn là một nghị quyết sẽ được đệ trình lên Quốc hội trong phạm vi mấy tuần, và rất có khả năng được thông qua. Nhưng nghị quyết sẽ được đưa ra thảo luận rộng rãi và từ đó có thể sẽ có xu hướng hạn chế quyền lực của Tổng thống.
* Có phải các hoạt động quân sự ở Việt Nam của chính quyền Johnson - kể cả việc mở rộng phạm vi quân đội - đã được bào chữa trên cơ sở Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ hay không?
Trả lời: Tuyệt đối không. Dẫu cho nghị quyết này đã trao quyền lực một cách khoáng đạt để hỗ trợ việc leo thang sau đó, như tôi đã nói. Quốc hội đã không bao giờ có ý định để nó bị sử dụng làm cơ sở cho hành động kiểu như vậy, và đất nước vẫn tiếp tục muốn thấy nó như vậy.
Các sự kiện ở Vịnh Bắc Bộ đã kéo theo hai chiến dịch khác nhau của Mỹ: hoạt động thuộc Kế hoạch 34A và các cuộc tuần tra mà chúng ta đã biết dưới cái tên DESOTO.
Như tôi đã trình bày, tháng 1/1964, Hội đồng An ninh quốc gia đã cho phép CIA giúp đỡ Nam Việt Nam trong các chiến dịch bí mật chống lại Bắc Việt Nam được đặt mật danh là Kế hoạch 34A. Kế hoạch 34A bao gồm hai loại hình hoạt động: thứ nhất, tầu thuyền và máy bay ném điệp viên người Nam Việt Nam được trang bị máy vô tuyến điện vào miền Bắc để phá hoại và thu thập tin tức tình báo; thứ hai, tàu tuần tra tốc độ cao do người miền Nam hoặc người nước ngoài làm thuê, tiến hành các cuộc tập kích bờ biển miền Bắc và đánh phá các căn cứ trên đảo. CIA giúp Nam Việt Nam trong việc tiến hành Kế hoạch 34A, còn MACV duy trì liên lạc thường xuyên với họ như Tướng Krulak của Bộ Tham mưu liên quân ở Washington từng làm.
Ủy ban 303 - được gọi như vậy bởi vì nó đã có các cuộc họp đầu tiên lại phòng 303 trong Trụ sở cũ của cơ quan hành pháp - xét duyệt lại lịch trình của các chiến dịch tuyệt mật. Mọi hoạt động tình báo bí mật của CIA trên khắp thế giới đều phải được Ủy ban 303 này thông qua. Cố vấn về an ninh quốc gia của Tổng thống (Mac Bundy) chủ toạ nhóm này, thời đó còn các ủy viên khác bao gồm: Thứ trưởng Ngoại giao George Ball, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Cyrus R. Vance (người thay thế Ross Gilpatric từ đầu năm 1964) và phó Giám đốc phụ trách kế hoạch của CIA (Richard Helms).
CIA thường bị những người chỉ trích nó gọi là con “voi độc”, nhưng riêng tôi lại cho rằng đó là một nhận xét sai lầm. Trong suốt bẩy năm tôi ở Bộ Quốc phòng, (và tôi tin rằng cả dưới thời các chính quyền trước đó và sau này), mọi “chiến dịch bí mật” của CIA (trừ các hoạt động gián điệp) đều phải được phép của Tổng thống và các Bộ trưởng Ngoại giao, Quốc phòng hoặc đại diện của họ. CIA không có quyền hành động không được phép. Theo như tôi được biết thì CIA đã không bao giờ làm như vậy.
Mục đích và cách tiến hành các cuộc tuần tra của DESOTO khác về căn bản so với kế hoạch 34A. Chúng là một phần của hệ thống do thám toàn cầu do các tàu hải quân có trang bị đặc biệt của Mỹ tiến hành. Hoạt động trong vùng biển quốc tế, các tàu này thu các tín hiệu từ đài phát và ra-đa đặt trên đất liền ở các nước cộng sản như Liên Xô, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên và trong trường hợp này là Bắc Việt Nam*1. Những con tàu này cũng giống như các con tàu Liên Xô rà quét gần bờ biển của chúng ta. Những thông tin thu thập được có thể dùng thậm chí trong trường hợp Mỹ cần phải tiến hành các chiến dịch quân sự chống lại các nước này. Các Tư lệnh của Hạm đội Hải quân - trong trường hợp này là Đô đốc Thomas Moorer, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương - xác định tần số và hành trình của các tàu DESOTO và xem xét chúng cùng với Bộ Tham mưu liên quân ở Washington.
Dù rằng có một số người biết về sự tồn tại của cả các chiến dịch 34A lẫn các cuộc tuần tiễu DESOTO, nhưng việc thông qua quá trình này lại riêng biệt đối với mỗi người. và nếu có, thì rất ít quan chức cao cấp có thể theo dõi hoặc lập kế hoạch chi tiết cho cả hai chiến dịch trên đây. Chúng tôi đã làm như vậy.
Ngay từ trước khi các sự kiện tháng 8/1964 xảy ra ở Vịnh Bắc bộ, nhiều người trong số chúng tôi, những người biết về các chiến dịch 34A, đã đi tới kết luận rằng chúng chẳng có giá trị gì hết. Phần lớn các điệp viện người Nam Việt Nam được tung vào Bắc Việt Nam đều bị bắt hoặc bị tiêu diệt, còn các cuộc tiến công từ ngoài khơi thì có giá trị hơn một cú châm bằng đinh ghim. Có người sẽ đặt câu hỏi: “Vậy thì vì sao các chiến dịch này vẫn cứ tiếp tục?”. Xin trả lời rằng người Nam Việt Nam đã coi chúng như một phương tiện rẻ tiền để quấy phá Bắc Việt Nam và trả đũa cho sự ủng hộ của Hà Nội đối với Việt cộng.
Đêm 30/7/1964, những tàu tuần tiễu của Nam Việt Nam, theo kế hoạch 34A đã tiến công hai hòn đảo của Bắc Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ vì nghĩ rằng những hòn đảo này giúp cho việc xâm nhập chống lại miền Nam. Sáng hôm sau, tàu khu trục của Mỹ Maddox trong quá trình tuần tiễu DESOTO đã tiến vào Vịnh Bắc Bộ và ở khá xa các hòn đảo. Hai ngày rưỡi sau đó, hồi 3 giờ 40 phút chiều (3 giờ 40 phút sáng, giờ Washington) ngày 2/8. Maddox báo cáo nó bị bao vây bởi một số tàu có tốc độ cao. Trong vòng vài phút, nó bị tiến công bằng thủy lôi và hoả lực tự động. Maddox báo cáo không bị thương vong hay hư hại gì. Không còn nghi ngờ gì nữa, chiếc tàu đang bị pháo kích, thủy thủ đoàn đã tìm được một mảnh đạn trái phá của Bắc Việt Nam trên boong và tôi đã đòi gửi nó về văn phòng của mình để thẩm tra cuộc tiến công; vả lại, Bắc Việt Nam, trong lịch sử chính thức về chiến tranh của mình, đã khẳng định họ ra lệnh tiến công Maddox. Khi bị tiến công, Maddox đang nằm trong hải phận quốc tế, cách bờ biển Bắc Việt Nam hơn 25 hải lý2.
_____________________________________
* Điểm gần nhất được quy định cho Bắc Việt Nam là 8 hải lý tới đất liền và 4 hải lý tới các đảo ngoài khơi. Vì Mỹ không có các hồ sơ về đòi hỏi của Bắc Việt Nam về lãnh hải của họ nên Washington đã kết luận rằng hải phận quốc tế là 3 hải lý tới đất liền - ranh giới do Pháp quy định khi còn kiểm soát Đông Dương. Chỉ sau vụ Vịnh Bắc Bộ thì Hà Nội mới đưa ra giới hạn 12 hải lý. Trong tháng 8/1964 không khi nào tàu Mỹ tiến đến gần các hòn đảo gần quá 5 hải lý.
1. Xem Hải quân Mỹ và cuộc tranh chấp ở Việt Nam, t.2, Từ Cố vấn quân sự đến Chiến đấu, 1959-1965, Edward J. Marolda và Oscar P. Fitzgerald (Washington: Trung tâm Lịch sử Hải quân, 1986), tr. 396 và 411.
2. Xem Việt Nam: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tr. 60, và Hải quân Mỹ và cuộc tranh chấp ở Việt Nam, Marolda và Fitzgerald, tr. 415.
11 giờ 30 phút trưa ngày 2/8, Tổng thống họp với các cố vấn cao cấp của mình để nghiên cứu các báo cáo mới nhất và đề ra phản ứng của Mỹ. Cy Vance đã thay mặt cơ quan tôi. Cuộc họp tin rằng có lẽ đây chỉ là sáng kiến của một vị chỉ huy địa phương của Bắc Việt Nam nào đó chứ không phải là của một quan chức cao cấp, và vì thế Tổng thống đã quyết định không trả đũa. Ông đồng ý sẽ gửi công hàm kịch liệt phản đối Hà Nội và tiếp tục tuần tra, đồng thời tiếp viện thêm một tàu khu trục nữa, tàu C. Turner Joy1.
Max Taylor, sau là Đại sứ ở Nam Việt Nam, phản đối quyết định không trả đũa. Trong một bức điện gửi Bộ Ngoại giao đêm khuya ngày 2/8, ông ta đã nói rằng việc chúng ta không trả đũa cuộc tiến công không có nguyên nhân vào tàu chiến Mỹ ngoài khơi hải phận quốc tế có thể sẽ bị hiểu như một “dấu hiệu cho thấy Mỹ ngần ngại không muốn ra mặt đối đầu trực tiếp với Bắc Việt Nam”2.
3 giờ chiều ngày hôm sau, Dean Rusk và tôi đã thuyết trình trước các Ủy ban Thượng viện về các vấn đề đối ngoại và quân sự trong một buổi họp kín về sự kiện ngày 30/7 và 2/8. Chúng tôi đã nói về các chiến dịch 34A, cuộc tiến công các tàu tuần tiễu DESOTO và vì sao Tổng thống quyết định không trả đũa. Dù cũng không thể tìm được hồ sơ của cuộc họp này, tôi tin là chúng tôi đã nhấn mạnh rằng chúng ta đã không cố ý khiêu khích để gây ra cuộc tiến công của Bắc Việt Nam vào chiếc tuần dương DESOTO. Chúng tôi cũng thông báo với các Thượng nghị sĩ rằng các cuộc tuần tra DESOTO cũng như các chiến dịch 34A vẫn sẽ tiếp diễn, và sự thật là trong thời gian đó, có một cuộc tiến công 34A vào bờ biển Bắc Việt Nam (nó diễn ra sau đó, vào sáng sớm ngày 4/8, giờ Sài Gòn).
7 giờ 40 sáng, giờ Washington (7 giờ 40 chiều, giờ Sài Gòn), ngày 4/8, Maddox đánh điện, thông báo cuộc tiến công của các tàu chiến chưa xác định đang sắp sửa xảy ra. Thông tin của Maddox đến từ các báo cáo tuyệt mật do Cơ quan An ninh quốc gia bắt được các chỉ thị của Bắc Việt Nam chuyển tới. Một giờ sau, Maddox đánh điện thông báo nó đã bắt được liên lạc bằng ra-đa với ba tàu lạ. Hàng không mẫu hạm gần đó, tàu Ticonderoga đã gửi máy bay chiến đấu đến giúp Maddox và Turner Joy.
Thời tiết nhiều mây và đầy dông bão của đêm không trăng đó đã gây khó khăn cho việc quan sát. Trong vài giờ tiếp theo đó, sự hỗn loạn bao trùm khắp Vịnh. Maddox và Turner Joy báo cáo đã có hơn 20 cuộc tiến công bằng thủy lôi, những vệt sáng thủy lôi, ánh đèn pha của quân địch, hoả lực tự động và các cuộc liên lạc bằng ra-đa và thiết bị dò quét.
Vì tình hình đang phát triển nhanh, tôi và Cy đã họp với thành viên của Bộ Tham mưu liên quân để bàn biện pháp đối phó. Chúng tôi thống nhất rằng, giả sử các báo cáo là chính xác, phản ứng đáp lại cuộc tiến công thiếu nguyên nhân thứ hai này là hoàn toàn cần thiết. Trong khi chúng tôi chưa chấp thuận quan điểm của Max Taylor về biện pháp trả đũa cuộc tiến công ngày 2/8, thì suy nghĩ của chúng tôi về cuộc tiến công lần thứ hai vào tàu chiến Mỹ ngoài khơi hải phận quốc tế không còn nghi ngờ gì nữa, cần phải trả đũa. Bởi vậy, chúng tôi đã đề ra thật nhanh kế hoạch cho máy bay ném bom bốn căn cứ tuần dương Bắc Việt Nam và hai kho xăng cung cấp nhiên liệu cho chúng.
Hồi 11 giờ 40 phút sáng, tôi họp với Dean, Mac, và các tướng lĩnh để xem xét các cách chọn lựa của chúng tôi. Chúng tôi tiếp tục cuộc bàn bạc tại cuộc họp Hội đồng An ninh quốc gia và sau đó tại bữa trưa với Tổng thống, Cy và John McCone.
Các cuộc tiến công của Bắc Việt Nam vào khu trục hạm Mỹ ngoài biển khơi tỏ ra hết sức vô lý (trong đó, họ bị buộc phải đẩy mạnh cuộc xung đột) từ đó mà chúng tôi đã suy đoán về động cơ của Hà Nội. Một số người cho rằng các chiến dịch 34A đã có vai trò trong việc kích động các hành động của Bắc Việt Nam chống lại các cuộc tuần tra DESOTO, nhưng một số người khác nhấn manh sự vô hiệu của các chiến dịch 34A, cách giải thích này là khó chấp nhận. Dù sao chăng nữa, Tổng thống cũng đã đồng ý rằng, đối với cuộc tiến công thứ hai, nếu nó có thật, phải áp dụng các biện pháp tiến công trả đũa nhanh chóng và mạnh mẽ.
Từ đó có câu hỏi: liệu cuộc tiến công thứ hai có thật sự xảy ra hay không?
Như tôi đã trình bày, trong thời gian cuộc tiến công xảy ra, tầm nhìn rất hạn chế. Vì lý do đó và vì các báo cáo dựa trên tiếng ồn của các thiết bị dò quét thường tỏ ra không đáng tin cậy, nên vẫn chưa chắc chắn liệu cuộc tiến công thứ hai có thực sự xảy ra hay không. Vì thế, tôi đã phải cố gắng hết sức để hiểu chuyện gì thật sự đã xảy ra. Theo đề nghị của tôi, Trung tướng Không quân David A. Burchinal, Tham mưu trưởng Bộ Tham mưu liên quân gọi điện cho Đô đốc Sharp ở Honolulu nhiều lần để hỏi về chi tiết của vụ này.
__________________________________
1. Xem Chính phủ Mỹ và cuộc chiến tranh Việt Nam: Vai trò Hành pháp và Lập pháp và các mối quan hệ, phần 3, Tháng 1 - tháng 7, 1965, William Conrad Gibbons (Princeton: Nhà Xuất bản trường Đại học Tổng hợp Princeton, 1989), tr. 10.
2. Embtel 282, Taylor gửi Rusk, 3/8/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 593-594.
Hồi 1 giờ 27 phút chiều, giờ Washington, chỉ huy các hoạt động DESOTO trên tàu Maddox, Đại uý John J. Herrick đã gửi mẩu tin ngắn sau đây về Honolulu và Washington:
Việc kiểm tra lại hoạt động dẫn đến các cuộc liên lạc và tiến công bằng thủy lôi như đã được báo cáo là đáng ngờ vực. Thời tiết thay đổi đã gây ảnh hưởng làm những người điều khiển ra-đa và máy dò quét đưa ra nhiều báo cáo. Maddox không nhìn thấy gì cụ thể cả. Đề nghị đánh giá cẩn thận trước khi tiến hành bất kỳ hành động nào1.
41 phút sau, Sharp gọi điện cho Burchinal và nói với ông ta rằng, không kể tới thông báo của Herrick, ông ta cả quyết là “không còn phải nghi ngờ” gì nữa, cuộc tiến công thứ hai đã diễn ra. Hai giờ 48 phút chiều, giờ Washington, Đại úy Herrick gửi tiếp một thông điệp về với nội dung: “Cuộc tiến công đúng là có thật”2.
Chính tôi đã gọi điện thoại vài lần để có được càng nhiều thông tin càng tốt. Bởi vì đã 30 năm rồi, mà giờ đây các sự kiện vẫn còn tiếp tục gây tranh cãi, nên tôi muốn thuật lại một vài cuộc nói chuyện của tôi (được ghi lại vào thời đó) một cách chi tiết. Hồi 4 giờ 8 phút chiều, tôi gọi điện cho Đô đốc Sharp bằng điện thoại an toàn và nói: “Có tin giờ chót về hoạt động chưa ?”.
“Tin cuối cùng mà ta có, thưa Ngài - Sharp trả lời - cho thấy có ít nghi ngờ về những gì đang thực sự diễn ra... Rõ ràng là cuộc phục kích được mưu toan bởi các tuần dương hạm có gắn thủy lôi”. Ông nói thêm: “Mưu toan tập kích nói trên đã được xác định”. Tuy vậy, ông ta còn có ý nói rằng “Sóng ra-đa rất không ổn định”, và cánh lính trẻ điều khiển các máy dò quét lại nói rằng mọi tiếng động đều là của thủy lôi, vì vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, số thủy lôi không nhiều như trong các báo cáo”. Sharp còn nói rằng Turner Joy thông báo có ba tuần dương hạm gắn thủy lôi bị bắn trúng và một đã bị chìm, trong khi đó Maddox lại thông báo rằng có một hay hai bị chìm.
“Không thể có khả năng là không có cuộc tiến công nào đã diễn ra chứ ?”, tôi hỏi Sharp. Ông ta trả lời: “Vâng. Tôi có thế nói rằng cũng có một khả năng mong manh”.
Tôi nói: “Hiển nhiên là chúng ta không muốn làm điều đó (tiến hành việc đánh trả đũa.) cho đến khi chúng ta biết rõ điều gì đã xảy ra”.
Sharp đồng ý và nói rằng ông tin là sẽ có thêm thông tin sau vài giờ nữa3.
Lúc 4 giờ 47 phút chiều, Cy và tôi họp với các Tư lệnh để kiểm điểm lại các bằng chứng có liên quan tới cái được cho là cuộc tiến công thứ hai. Năm nhân tố trên thực tế đã thuyết phục chúng tôi rằng nó đã xảy ra: tàu Turner Joy đã bị rọi sáng khi bị vũ khí tự động bắn: một trong các khu trục hạm đã trông thấy ánh sáng trong buồng lái của tuần dương hạm gắn thủy lôi, các khẩu đội phòng không đã bắn hai máy bay Mỹ đang bay trong khu vực này, chúng tôi bắt được tin mật của Bắc Việt Nam cho biết có hai tàu của họ đã bị đánh chìm; và Đô đốc Sharp quả quyết rằng có lẽ đã có cuộc tiến công xảy ra ở đó. Lúc 5 giờ 23 phút chiều, Sharp gọi điện cho Burchinal và nói rằng không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc tiến công các khu trục hạm đã xảy ra4.
Hồi 6 giờ 15 phút chiều, Hội đồng An ninh quốc gia họp tại Nhà Trắng. Tôi phác qua bằng chứng khẳng định các kết luận của chúng tôi và trình bày về dự kiến phản ứng. Mọi thành viên của Hội đồng An ninh quốc gia nhất trí về hành động, và Tổng thống đã ủy nhiệm cho lực lượng Không quân trên biển của chúng ta bắt đầu tiến công5.
Hồi 6 giờ 45 phút tối, Tổng thống, Dean Rusk, Tướng Earle G. Wheeler6 “Xe buýt” - Tổng Tham mưu trưởng mới của Bộ Tư lệnh liên quân và tôi đã họp với các lãnh tụ trong Quốc hội để thông báo sơ qua cho họ về các sự kiện trong ngày và kế hoạch phản ứng của chúng tôi. Trong khi trình bày cơ sở cho hành động trả đũa của chúng tôi, Dean đã nói với các lãnh tụ rằng Bắc Việt Nam đã có một quyết định nghiêm túc khi tiến công các chiến hạm của ta ngoài khơi, rằng chúng ta không nên hiểu cuộc tiến công của họ chỉ là sự ngẫu nhiên, rằng chúng ta phải tỏ rõ quyết tâm của Mỹ tại Đông Nam Á, và rằng phản ứng hạn chế của ta có thế tỏ ra rằng chúng ta không muốn chiến tranh với miền Bắc. Tổng thống đã thông báo với cuộc họp là ông đã có kế hoạch trình nghị quyết để đề nghị Quốc hội ủng hộ các chiến dịch tác chiến của Mỹ tại Đông Nam Á, nếu điều đó là cần thiết. Một vài Thượng nghị sĩ và đại biểu nói họ sẽ ủng hộ đề nghị này7.
Hồi 7 giờ 22 phút tối, tàu Ticonderoga nhận được điện của Tổng thống cho phép tiến công và sau đó vài phút, tàu Constellation cũng đã nhận được chỉ thị này. Những máy bay đầu tiên đã cất cánh từ các hàng không mẫu hạm hồi 10 giờ 43 phút đêm, theo giờ Washington. Tổng cộng, các máy bay của Hải quân Mỹ đã bay 64 lần đánh phá các căn cứ Hải quân và khu cung cấp nhiên liệu cho chúng. Điều này được coi là một chiến dịch thành công tuy có hạn chế, nhưng chúng tôi nghĩ là thích hợp để trả đũa cho ít nhất là một và rất có thể là hai cuộc tiến công tàu chiến Mỹ.
____________________________________
1. 041727Z, Bộ Ngoại giao, Hồ sơ trung tâm, POL 27 VIET S., trích trong sách đã dẫn, tr. 609.
2. Ghi chép - Đô đốc Sharp gửi Tướng Burchinal hồi 2 giờ 8 phút, giờ phía Đông ngày 4/8, Tốc ký buổi điện đàm, ngày 4 - 5/8, tr. 3 1, và 041848Z, cả hai trong “Vịnh Bắc Bộ (hỗn hợp)”, Hồ sơ quốc gia, Việt Nam (Viết tắt là CF, Việt Nam), Hộp số 228, NSF, LBJL.
3. Điện đàm giữa Bộ trưởng McNamara và Đô đốc Sharp, sách đã dẫn.
4. Ghi chép - Đô đốc Sharp gửi Tướng Burchinal hồi 5 giờ 23, giờ phía Đông ngày 4/8, sách đã dẫn.
5. Xem Chú thích về Cuộc họp thứ 538 của Hội đồng An ninh quốc gia, 4/8/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 611-612.
6. Wheeler trong tiếng Anh có nghĩa là cái bánh xe (ND).
7. Xem Ghi chép về Cuộc hội đàm cấp cao, 4/8/1964, sách đã dẫn, tr. 615-621.
Chẳng bao lâu sau lại xuất hiện những cuộc tranh cãi dai dẳng về sự kiện này. Ngày 6/8, vài Thượng nghị sĩ đã tranh luận về bản báo cáo của chúng tôi về những gì đã diễn ra. Cuộc tranh luận đã không kết thúc, vài năm sau (tháng 2/1968) một cuộc điều trần tại Thượng nghị viện đã được tổ chức để xem xét lại các bằng chứng. Cuộc họp này cũng đã đòi xét lại các báo cáo của Chính phủ. Năm 1972. Louis Tordella, sau này là phó giám đốc Cơ quan An ninh quốc gia đã đưa ra kết luận rằng các thông điệp ra lệnh tiến công bắt được của Bắc Việt Nam, vẫn được hiểu là dành cho ngày 4/8 về thực chất là của hành động trong ngày 2/8. Ray S. Cline, Phó Giám đốc phụ trách tình báo của CIA năm 1964 đã lặp lại đánh giá này trong một lần trả lời phỏng vấn năm 1984. Và James B. Stockdale - một phi công trên tàu Ticonderoga năm 1964, người sau này đã trải qua 8 năm trong nhà tù của Hà Nội và đồng thời cũng được Quốc hội tặng Huân chương Danh dự, tuyên bố trong hồi ký của mình rằng anh ta chẳng nhìn thấy con tàu nào của Bắc Việt Nam khi bay trên hai khu trục hạm ngày 4/8, và anh ta tin rằng chẳng có cuộc tiến công nào đã diễn ra1. Cuộc tranh luận còn kéo dài tới tận ngày nay.
Hồi 9 giờ sáng ngày 6/8, Dean, Bus, và tôi bước vào phòng kín của Thượng nghị viện và ngồi vào chỗ của mình trước khi cuộc họp chỉ đạo hỗn hợp Ủy ban của Quốc hội về Đối ngoại và Quân sự tiến hành để đánh giá các sự kiện xảy ra tại Vịnh Bắc Bộ trong hai ngày 2/8 và 4/8, và để phát biểu ủng hộ nghị quyết của Quốc hội và sau đó trước lưỡng viện.
Dean bắt đầu lời tuyên bố đã được chuẩn bị sẵn của mình bằng cách nhấn mạnh “lý do trực tiếp của bản nghị quyết này, tất nhiên là các cuộc tiến công của Bắc Việt Nam nhằm vào các chiến hạm của ta đang hoạt động trên hải phận quốc tế trong vùng Vịnh Bắc Bộ ngày 2 và 4/8”. Ông ta tiếp tục: “Các cuộc tiến công trên đây... không phải là các sự kiện riêng lẻ. Chúng là một phần trong những cố gắng của cộng sản nhằm thống trị Nam Việt Nam, đang tiếp tục chinh phục và cuối cùng là thống trị những đất nước tự do khác trong vùng Đông Nam Á”. Sau đó, tôi miêu tả chi tiết hai cuộc tiến công và Bus tuyên bố sự nhất trí tán thành của Bộ Tham mưu hỗn hợp về các hành động trả đũa của Mỹ mà họ cho là hợp lý trong hoàn cảnh này.
Câu hỏi của các Ủy ban xoay quanh hai vấn đề riêng biệt như sau: Cái gì đã xảy ra trong Vịnh này? Phải chăng nghị quyết này là sự ủy quyền hoàn toàn cho Tổng thống sử dụng lực lượng quân sự ở khu vực này?
Thượng nghị sĩ Wayne Morse đã lên tiếng kịch liệt bác bỏ mô tả của chúng tôi về những sự kiện trong Vịnh, phản ứng quân sự của chúng tôi và bản thân nghị quyết:
Tôi kiên quyết chống lại lối hành động mà theo sự đánh giá của tôi là lối hành động xâm lược do Mỹ gây ra. Tôi nghĩ rằng chúng ta đang lừa phỉnh thế giới nếu các ngài tìm cách gây ấn tượng rằng chúng ta không dính líu vào việc tàu chiến của hải quân Nam Việt Nam bắn phá các hòn đảo nằm trên một khoảng cách không xa với bờ biển Bắc Việt Nam.
Về phía Mỹ, tôi nghĩ rằng sự viện trợ toàn diện của chúng ta cho Nam Việt Nam đủ để thế giới tin rằng các tàu đó không hoạt động một cách vô tư. Chúng ta đã biết rằng các tàu này đang hoạt động ở đó và hoạt động hải quân này chính là sự xâm lấn lãnh thổ Bắc Việt Nam và các chiến hạm của ta ở trong Vịnh Bắc Bộ, trong hải phận quốc tế, nhưng dù sao chăng nữa việc chúng ở trong Vịnh Bắc Bộ - được hiểu như sự yểm trợ cho các hoạt động hải quân của Nam Việt Nam.
Tôi cho rằng điều đã xảy ra là Khánh đã buộc chúng ta đứng sau lưng để công khai xâm lược chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ của Bắc Việt Nam. Tôi đã nghe hết cuộc điều trần này đến cuộc điều trần khác và đến nay, vẫn chẳng có mảy may chứng cớ nào trong bất kỳ cuộc điều trần nào về việc Bắc Việt Nam tiến hành xâm lược Nam Việt Nam bằng bộ binh hay hải quân của họ.
Lời bình luận cuối cùng đã đi ngược lại với bằng chứng hiển nhiên về sự hỗ trợ của Bắc Việt Nam cho Việt cộng bằng đường bộ và đường biển, về người và vũ khí. Thượng nghị sĩ kết thúc tuyên bố của mình bằng khẳng định: “Các chiến hạm của Hải quân Mỹ (đã) rõ ràng là đang túc trực để làm chỗ dựa cho” các chiến dịch 34A của Nam Việt Nam.
Tôi đáp lại: “Hải quân ta đã hoàn toàn không đóng vai trò gì, không cộng tác, (và) không biết gì về bất cứ hoạt động nào của Nam Việt Nam”. Như tôi đã giải thích, Hải quân Mỹ không điều khiển các chiến dịch 34A, và các cuộc tuần tiễu DESOTO không phải là “màn che” mà cũng chẳng là chỗ dựa cho các hải đội 34A. Thượng nghị sĩ Morse biết rõ thực tế này bởi vì ông ta đã có mặt ngày 3/8 khi Dean, Bus và tôi báo cáo về các cuộc hành quân 34A và DESOTO cho các Thượng nghị sĩ. Vì vậy, phần này trong lời đáp của tôi là đúng. Tuy nhiên, khi tôi nói tiếp rằng tàu Maddox “không được thông báo, không biết, và không có bằng chứng nào, cũng như tôi hôm nay, không được biết về bất cứ khả năng nào về các hành động của Nam Việt Nam với hai hòn đảo mà Thượng nghị sĩ Morse đã đề cập”. Sau này, tôi nhận ra rằng phần này trong lời đáp của tôi là hoàn toàn không chính xác; Đại úy Herrick chỉ huy cuộc tuần tiễu DESOTO đã biết về 34A. Lời tuyên bố của tôi đã rất chân thành nhưng sai lầm.
_____________________________________
1. Xem Báo cáo tin Mỹ và Thế giới, 23/7/1984, tr. 63-64; và Tình yêu và Chiến tranh, James Bond Stockdale và Sybil B. Stockdale (New York: Harper và Row 1984), tr. 21, 23.
Rồi cuộc điều trần chuyển thành một cuộc thảo luận nghị quyết. Đoạn chủ yếu của nghị quyết tuyên bố:
Trong khi các đơn vị hải quân (của Bắc Việt Nam)... đang vi phạm luật pháp quốc tế, đã cố ý và liên tục tiến công các chiến hạm Hải quân Mỹ có mặt một cách hợp pháp trong hải phận quốc tế... và khi những cuộc tiến công đó là một phần của chiến địch xâm lược có chủ ý và có hệ thống... chống lại láng giềng của nó,... vì vậy, nước Mỹ chuẩn bị, như Tổng thống xác định, sẽ áp dụng mọi bước đi cần thiết kể cả sử dụng lực lượng vũ trang, để giúp bất cứ thành viên hoặc quốc gia nào ký kết Hiệp ước Phòng thủ tập thể Đông Nam Á yêu cầu sự trợ giúp trong việc bảo vệ nền tự do của mình.
Thảo luận về văn phong, Dean nhấn mạnh rằng nghị quyết trao quyền lực giống như đã được Quốc hội thông qua trong Nghị quyết Formosa năm 1955, Nghị quyết về Trung Đông năm 1957, và Nghị quyết về Cuba năm 1962. Lời tuyên bố đã được chuẩn bị trước của ông ta ghi nhận rằng “chúng ta không thể nói về những bước đi cần thiết trong tương lai”, và ông ta nói thêm: “Vì tình hình ở Đông Nam Á đang phát triển, và nếu nó phát triển theo hướng chúng ta không thể lường trước, thì tất nhiên sẽ có các cuộc tham khảo chặt chẽ và thường xuyên giữa Tổng thống và Quốc hội (nhấn mạnh của tác giả)”.
Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng nghị viện, Thượng nghị sĩ William Fulbright - người đã chủ trì toàn bộ cuộc điều trần, đã cố gắng đạt được nghị quyết tại phòng họp Thượng nghị viện và sau này đã nhiều lần chỉ trích cách giải quyết các sự kiện tại Vịnh Bắc Bộ của chính quyền Johnson - hôm đó đã đưa ra lời nhận xét có tính tán dương qua câu nói: “Sự nhanh nhậy và quyết định... mà các vị đã đưa ra hôm nay thật đáng tuyên dương”.
Những người khác đã tán thành nội dung nghị quyết về việc trao cho Tổng thống quyền hành rộng rãi. Thí dụ như Thượng nghị sĩ Clifford P. Case (đảng Cộng hoà, bang New Jersey) đã hỏi xem có phải là trong ba nghị quyết vừa được nhắc tới cùng chứa đựng một ngôn ngữ rộng rãi: “như Tổng thống quyết định” hay không. “Chúng đã dùng những câu tương tự như vậy”. Thượng nghị sĩ Fulbright trả lời. Thượng nghị sĩ Case tuyên bố hoàn toàn ủng hộ. Hai Ủy ban này đã tán thành đệ trình Thượng nghị viện thông qua bản nghị quyết với số phiếu 31-1, còn Morse bỏ phiếu chống1.
Trong cuộc tranh cãi tại phòng họp chiều hôm đó, Thượng nghị sĩ John Sherman Cooper (đảng Cộng hoà, bang Kentucky) đã có cuộc trao đổi sau đây với Thượng nghị sĩ Fulbright:
COOPER: Phải chăng chúng ta sắp sửa trao cho Tổng thống toàn quyền tiến hành mọi hoạt động mà ông ta thấy là cần thiết có liên quan tới Nam Việt Nam và nền quốc phòng của nó, hoặc có liên quan tới việc phòng thủ của bất cứ quốc gia nào khác trong Hiệp ước (SEATO)?
FULBRIGHT: Tôi cho rằng đúng là như vậy.
COOPER: Rồi thì, sau này, nếu Tổng thống quyết định rằng phải dùng một lực lượng như vậy vì có thể dẫn tới chiến tranh thì bằng Nghị quyết này, chúng ta cũng sẽ trao quyền đó phải không?
FULBRIGHT: Đó là một cách mà tôi có thể giải thích2.
Tôi chẳng nghi ngờ gì về việc Quốc hội hiểu sự rộng lớn trong quyền lực mà bản Nghị quyết đã trao cho Tổng thống. Nhưng cũng không có mối nghi ngờ nào trong tôi rằng Quốc hội hiểu Tổng thống sẽ không sử dụng quyền lực rộng lớn đó mà không tham khảo nó một cách cẩn thận và đầy đủ.
Ngày hôm sau, mùng 7/8, Thượng nghị viện và Hạ nghị viện đã biểu quyết về bản Nghị quyết. Thượng nghị viện đã thông qua nó bằng số phiếu 88-2. Morse và Ernest W. Gruening (đảng Dân chủ - bang Alaska) bỏ phiếu chống; Hạ nghị viện đã nhất trí thông qua, 416-0.
______________________________________
1. Điều trần Hỗn hợp trước các Ủy ban Thượng nghị viện về Quan hệ Đối ngoại và Quân sự, Nghị viện khoá 88, cuộc họp lần thứ 2, 6/8/1964 (Washington: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1988), tr. 291-299.
2. Thảo luận của Thượng nghị viện, trích trong Ghi chép tại Thượng nghị viện, t. 110, tr. 18399-471.
Trong một thời gian dài, những người chỉ trích khẳng định rằng có một trò lừa đảo được che giấu kỹ xung quanh vụ Vịnh Bắc Bộ. Họ kết án Chính phủ, thèm muốn có được sự ủng hộ của Quốc hội trong chiến tranh Đông Dương, đã tự soạn thảo nghị quyết cho phép, gây ra sự kiện để nhận được sự ủng hộ và đã đưa ra lời tuyên bố giả để tranh thủ sự ủng hộ này. Lời kết án này là không có cơ sở.
Bản Nghị quyết đã nảy sinh từ niềm tin của Tổng thống cho rằng nếu hoàn cảnh buộc Mỹ đưa quân vào Đông Dương - như một vài vị Tư lệnh liên quân đã đề nghị từ tháng 1/1964 - thì việc triển khai lực lượng đó phải được tiến hành với sự tán thành của Quốc hội. Vì mục đích đó, Bộ Ngoại giao đã soạn thảo Nghị quyết vào cuối tháng 5. Tuy vậy, vì Max Taylor, đang giữ chức Chủ tịch Hội đồng các Tham mưu trưởng liên quân, đã bác lại việc hoãn tiến hành các chiến dịch quân sự của Mỹ ít nhất cho đến mùa thu - một lời đề nghị mà cả Tống thống, Dean, Mac và tôi đều tán thành - nên đã có quyết định hoãn việc trình bản Nghị quyết lên Quốc hội cho tới khi Dự luật về Quyền Dân sự được Thượng nghị viện thông qua vào tháng 9.
Chúng tôi duy trì lịch trình này cho đến khi các cuộc tiến công tàu chiến Mỹ của Bắc Việt Nam làm cho chúng tôi tin rằng chiến tranh đang trở nên nóng bỏng và tự hỏi rồi tiếp đến sẽ là cái gì. Chính điều này làm chúng tôi tin rằng có thể cần đến bản Nghị quyết sớm hơn chúng tôi từng dự đoán. Có thể Tổng thống cũng đã bị ảnh hưởng bởi điều mà ông ta coi như một cơ hội để gắn nghị quyết này với hành động thù địch của Hà Nội, và để làm điều đó ông ta buộc phải tỏ thái độ cứng rắn vừa phải, đối lập với thái độ hiếu chiến của ứng cử viên Tổng thống đảng Cộng hoà Barry Goldwater.
Lời buộc tội về một cuộc khiêu khích có chủ ý đã kéo dài một phần bởi vì một số cựu quan chức của Chính phủ cũng tán thành điều này. Trong một lần trả lời phỏng vấn đài BBC năm 1977, George Ball đã tuyên bố: “Nhiều người có liên quan tới cuộc chiến tranh này...đã tìm cách bào chữa cho việc bắt đầu ném bom... Cuộc tuần tra DESOTO thực chất chỉ là để khiêu khích... Đã từng có cảm giác rằng nếu khu trục hạm này gặp khó khăn, điều đó sẽ tạo ra sự khiêu khích mà chúng ta cần”1.
Ngược lại, Bill Bundy cũng nói với thính giả của đài này rằng Mỹ không có ý định tạo ra khủng hoảng và cũng không “bày ra” những vụ xô xát và coi đó như lý do để bào chữa cho các hành động quân sự của mình. Thật ra, ông ta đã nói rằng, “nói một cách thắng thắn điều này hoàn toàn không phù hợp với các kế hoạch của chúng tôi một chút nào. Chúng tôi không nghĩ rằng, tình hình đã xấu đi đến mức chúng tôi phải cân nhắc hành động mạnh hơn so với những gì đang diễn ra tại Nam Việt Nam”. Ở chỗ khác ông ta viết rằng: “Trường hợp một chính quyền nào đó phải khiêu khích để có va chạm không đơn giản chỉ là thiếu cơ sở, mà nó không thể tồn tại”2.
Ông ta tiếp tục đưa ra một luận điểm khác nhưng không kém quan trọng:
Rốt cuộc, sai lầm trong tính toán của cả Mỹ và Bắc Việt Nam, có nguồn gốc từ giả thiết có tính chất nhận thức muộn màng về thái độ của Hà Nội. Nói một cách đơn giản, thì đó chính là lỗi của một chính quyền đã quá chú ý đến việc giảm bớt sự mạo hiểm của nó để cho cả các chiến dịch 34A và khu trục hạm tuần tiễu hoạt đông, thậm chí trong cùng một thời gian. Những người có lý trí có thể không lường trước được Hà Nội có thể làm họ nhầm lẫn... nhưng các tính toán hợp lý lẽ ra phải tính tới sự vô lý... Washington đã không muốn có sự rắc rối, và dường như Hà Nội cũng đã không muốn điều này. Nhưng mỗi bên đều đã tính nhầm về nhau, và rồi thì sự việc rắc rối đã xảy ra3.
Tôi đồng ý với cả hai đánh giá trên. Và tôi tin Dean, Mac và Max cũng sẽ đồng ý.
Tất nhiên là, nếu Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ không dẫn đến việc can thiệp quân sự càng nhiều và nghiêm trọng vào Việt Nam, thì có thể nó sẽ không còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Nhưng nó đã được sử dụng để mở cửa cống. Tuy nhiên, suy nghĩ rằng chính quyền Johnson đã cố tình lừa dối Quốc hội là sai lầm. Vấn đề không phải là ở chỗ Quốc hội đã không hiểu thấu được khả năng của bản Nghị quyết, mà là ở chỗ nó đã không thấu hiểu tiềm năng của chiến tranh và chính quyền sẽ phản ứng như thế nào trước cuộc chiến tranh này. Báo cáo của Ủy ban Đối ngoại Thượng nghị viện năm 1967, với lời lẽ chung chung, đã kếl luận: “Quốc hội đã phạm phải sai lầm trong việc trao quyền phán quyết cho cá nhân Tổng thống Johnson, để thực hiện Nghị quyết mà lẽ ra nó phải là sự phán quyết tập thể, thứ nhất, vì rằng mọi Tổng thống sẽ làm gì với sự thừa nhận lớn lao như vậy về quyền lực, và thứ hai, vì rằng có trong Hiến pháp hay không điều khoản Quốc hội có quyền trao hoặc ban sự ủy quyền về vấn đề đó (nhấn mạnh trong nguyên bản)”. Tôi đồng ý với cả hai điểm này4.
Thời đó, Thượng nghị sĩ Fulbright đã có cảm giác rằng ông ta đang bị đánh lạc hướng - và quả thật là như vậy. Ông ta đã nhận được sự bảo đảm rõ ràng của Dean ngày 6/8/1964, khi nghe nói (và tôi cũng tin rằng LBJ cũng nói riêng với ông) rằng Tổng thống sẽ không sử dụng quyền lực to lớn trao cho ông mà không có sự thỏa thuận đầy đủ với Quốc hội. Nhưng khi cuộc điều trần được triệu tập ngày 20/2/1968 để xem xét lại sự vụ này, Thượng nghị sĩ Fulbright đã tha thứ một cách khoan dung cho tôi về lời buộc tội đã lừa dối Quốc hội một cách có chủ ý. “Tôi chưa bao giờ định nói rằng tôi nghĩ là ngài đã cố tình lừa dối chúng tôi”, ông ta nói. Các Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, Claiborne Pell và Stuart Symington cũng có những tuyên bố tương tự như vậy5.
Vấn đề chủ yếu dính líu đến Vịnh Bắc Bộ không phải là mánh khóe lừa đảo, mà đúng hơn, là sự lạm dụng quyền hành được Nghị quyết trao cho. Ngôn từ của bản Nghị quyết đã trao một cách đơn giản các quyền hành mà sau đó Tổng thống đã sử dụng, Quốc hội đã hiểu phạm vi rộng của các quyền hành đó khi nó thông qua với đa số áp đảo bản Nghị quyết ngày 7/8/1964. Nhưng không ai nghi ngờ rằng Quốc hội đã không định ủy quyền mà không có thoả thuận thêm về việc tăng quân Mỹ từ 16.000 lên 550.000 người, về tiến hành các chiến dịch rộng lớn đầy mạo hiểm, mở rộng chiến tranh với Trung Quốc và Liên Xô, và kéo dài sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam trong nhiều năm sau.
Vấn đề Quốc hội chống lại sự ủy quyền cho Tổng thống trong việc điều hành các chiến dịch quân sự của Mỹ còn kéo dài một cách nóng hổi tới ngày nay. Cốt lõi của cuộc đấu tranh này nằm trong sự mơ hồ về ngôn từ của Hiến pháp, đã coi Tổng thống như Tổng tư lệnh nhưng lại trao cho Quốc hội quyền tuyên chiến.
Vào tháng 12/1990, trước cuộc chiến tranh vùng Vịnh Pecxic, tôi đã phát biểu trước Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội về khả năng sử dụng quân chiến đấu Mỹ tại đó. Trước đó vài ngày, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Richard B. Cheney đã nhấn mạnh rằng Tổng thống Bush sẽ sử dụng quyền lực như Tổng lư lệnh để đưa số lượng lớn quân đội Mỹ tới tham chiến tại Vùng Vịnh (cuối cùng thì chúng ta cũng đã có tới 500.000 người cả nam lẫn nữ ở đó). Thượng nghị sĩ Paul S. Sarbanes (đảng Dân chủ - bang Mariland) đã hỏi ý kiến tôi về lời tuyên bố của Cheney. Tôi trả lời rằng tôi không phải là luật sư Hiến pháp và vì vậy từ chối trả lời. Biết chắc rằng tôi sẽ từ chối nhận xét tuyên bố của Cheney, Thượng nghị sĩ Sarbanes đã ép tôi rất mạnh để có câu trả lời.
Cuối cùng, tôi đã nói với ông này rằng ông ta đã đặt sai câu hỏi. Vấn đề không đi tới chỗ các thủ tục pháp luật. Nó mang trong mình vấn đề cơ bản của các hoạt động chính trị: Tổng thống có đưa dân tộc ta vào chiến tranh hay không (khác hẳn với việc đẩy lùi một cuộc tiến công trên đất nước ta) khi không có sự tán thành rộng rãi như biểu quyết của Quốc hội? Tôi nói rằng không có Tổng thống nào làm như vậy và tôi tin Bush cũng sẽ không làm thế. Ông ta đã không làm thế. Trước khi bắt đầu các chiến dịch chống Irắc, ông ta đã tìm kiếm và có được ủng hộ của Quốc hội (cũng như của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc).
Tổng thống Bush đã đúng. Tổng thống Johnson và những ai đã làm việc cùng ông ta đã sai.
______________________________________
1. Xem Nhiều lý do vì sao: Mỹ dính líu vào Việt Nam, Michael Charlton và Anthony Moncrieff (New York: Hill và Wang, 1978), tr. 108.
2. Sách đã dẫn, tr. 117; và WB, VNMS, tr. 14A-36.
3. WB, VNMS, tr. 14A-38, 14A-40.
4. Báo cáo của Thượng nghị viện 90-797 (1967), tr. 21-22.
5. Ủy ban Đối ngoại của Thượng nghị viện, Vịnh Bắc Bộ, các sự kiện năm 1964, Cuộc điều trần ngày 20/2/1968, Nghị viện khoá 90, cuộc họp thứ 2 (Washington: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1968), tr. 82-87 và 106.
6
CUỘC
BẦU CỬ NĂM 1964 VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ
NGÀY 8/8/1964 - 27/1/1965
Nhiều người hôm nay tin rằng Tổng thống Johnson trì hoãn đưa ra những quyết định về Việt Nam là vì ông muốn tập trung vào giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1964. Thậm chí một số người cho rằng ông Johnson che giấu ý đồ mở rộng cuốc chiến tranh vì các lý do chính trị, tức là ông ta muốn vẽ nên hình ảnh Thượng nghị sĩ Barry M. Goldwater (đảng Cộng hoà-bang Arizona) ứng viên của đảng Cộng hoà như một người hiếu chiến, còn bản thân ông ta là một chính trị gia biết lẽ phải và yêu hoà bình.
Nếu Lyndon Johnson đã có trong đầu một kế hoạch leo thang chiến tranh, thì ông ta cũng chẳng bao giờ cho tôi biết. Và tôi đã tin rằng ông chưa bao giờ có kế hoạch đó. Ông cũng chưa bao giờ tỏ ra cho tôi, hay các Tham mưu trưởng liên quân biết rằng ông muốn chúng tôi ngừng cuộc chiến ở Việt Nam lại để phục vụ cho cuộc bầu cử. Thực tế, hồi đó giữa các cố vấn của ông vẫn không nhất trí được về những việc cần phải làm.
Suốt cả thời gian đó, tình hình chính trị và quân sự ở Nam Việt Nam xấu đi nhanh chóng, làm căng thẳng thêm tình trạng tiến thoái lưỡng nan mà chúng tôi phải đương đầu - đó là giữa việc tránh can thiệp quân sự trực tiếp vào Việt Nam và không để mất Nam Việt Nam. Những bất đồng sâu sắc về việc phải làm gì trước tình trạng suy sụp nhanh chóng của chính quyền Sài Gòn làm chúng tôi bối rối trong việc hoạch định chính sách. Nỗi thất vọng và vỡ mộng trước tình hình ngày càng khó khăn và nguy hiểm cứ như một điềm đen tối len lỏi xuyên suốt các cuộc tranh cãi của chúng tôi.
Trong cả quá trình vận động bầu cử, ông Barry Goldwater luôn thể hiện chính sách cứng rắn về Việt Nam. Vào đầu tháng 3, người ta trích lời ông hồi tưởng rằng 10 năm về trước, khi quân Pháp bị bao vây ở Điện Biên Phủ, lẽ ra Mỹ nên ném bom nguyên tử có sức công phá nhỏ để làm rụng lá tại các khu rừng nơi đối phương ẩn nấp. Ngày hôm sau, ông Barry Goldwater đã khuếch trương luận điểm đó. Bây giờ, khi Mỹ đã tham gia vào cuộc chiến thì, ông ta nói: chúng ta “lẽ ra đã tiến hành chiến tranh ở Bắc Việt Nam - 10 năm trước chúng ta đã có thể ném bom Bắc Việt Nam mà không hề nguy hại gì tới cuộc sống của chúng ta”. Chẳng cần phải nói cũng biết là những lời lẽ hiếu chiến đó đã làm nhiều cử chi lo ngại1.
Trong khi đó, Tổng thống Johnson lại tỏ ra là một hình mẫu của con người ôn hoà và kiềm chế. Một trong những lời bình luận đầu tiên và thận trọng nhất trong nhiều phương diện về Việt Nam được đưa ra trong diễn văn của ông tại hiệp hội Luật sư Mỹ của thành phố New York ngày 12/8. Lời phát biểu phản ánh kỹ năng của người viết diễn văn cho ông (các báo cáo không nói tên người này), nhưng những niềm tin trong đó thì rõ ràng là của Tổng thống:
Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc chúng ta đã kiên nhẫn lao động nhằm xây dựng một trật tự thế giới mà trong đó cả hoà bình và tự do đều phát triển rực rỡ.
Đã sống lâu cùng khủng hoảng và hiểm nguy nên gần như chúng ta nhất trí chấp nhận các tiền đề của mối lo ngại của người Mỹ đối với những gì đe doạ trật tự đó.
Chúng ta làm như vậy vì đã từng phải trả giá đau đớn để học được rằng, không thể chờ lâu hơn nữa, cho đến khi những con sóng xung đột đánh vào bờ chúng ta. Xâm lược và bạo động ở một vài nơi trên thế giới đã reo rắc mầm mống phá hoại nền tự do và văn minh của chính chúng ta.
Cuối cùng, chúng ta làm như vậy vì một lý do nhiều khi khó hiểu đối với người khác. Chúng ta làm như vậy vì chúng ta làm thế là đúng.
Những người hay phê phán một cách xây dựng hoặc kẻ thù ghê gớm đều thường đánh giá thấp, thậm chí lờ cả cốt lõi của định hướng tinh thần xuyên suốt hệ thống lịch sử nước Mỹ.
Tất nhiên, an ninh và phúc lợi xã hội cấu thành các chính sách của chúng ta. Nhưng sinh lực cho các cố gắng của chúng ta lại bắt nguồn từ các định hướng tinh thần.
Đúng là những nước mạnh nên giúp những nước yếu bảo vệ tự do của họ.
Đúng là các quốc gia này không được áp bức quốc gia khác2.
______________________________________
1. Xem Tạo ra Tổng thống, 1964, Theodore H. White (New York: Atheneum, 1965), tr. 132-133.
2. Phát biểu tại thành phố New York trước Hiệp hội Luật sư Mỹ, 12/8/1964, Văn kiện công khai, Lyndon B. Johnson: 1963-1964, tr. 952.
Người ta tranh cãi sục sôi rằng liệu chính sách đối ngoại của Tổng thống Johnson có dựa trên các nền tảng đạo lý hay không. Tôi tin rằng những suy xét như vậy đã tác động tới Tổng thống và nhiều cố vấn của ông, trong đó có tôi. Liệu những suy xét đó có còn tác động tới chính quyền hôm nay hay không - điều này vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi gay gắt. Những người giáo điều và các chính trị gia thực tế tranh cãi rằng các suy xét đó không tác động đến chính quyền. Tôi thì cho rằng có tác động, đơn cử là đã có lựa chọn giữa việc tránh ném bom bừa bãi Bắc Việt Nam, hoặc gánh chịu nguy cơ sử dụng vũ khí hạt nhân. Những vướng mắc như vậy đáng được đưa ra tranh cãi, vì Mỹ đang cố sức tìm đúng vị trí của mình trong thế giới sau chiến tranh lạnh.
Trong mọi sự kiện của những tháng đó và rất lâu sau cuộc bầu cử. Tổng thống Johnson lo ngại rằng cánh hữu có thể sẽ đẩy chúng ta dấn sâu hơn vào Đông Dương, cũng như đặt chúng ta trước nguy cơ lớn hơn bất cứ lúc nào về cuộc chiến tranh với Trung Quốc và Liên Xô. Để chống đỡ với sức ép đó, ông đã phát biểu những điều nhằm tự trấn an mình. Chẳng hạn, vào tháng 8, ông đã tuyên bố và rõ ràng có ngụ ý đề cập tới Barry Goldwater: “Một số người đang thèm khát mở rộng cuộc xung đột. Họ muốn chúng ta gửi thanh niên Mỹ đi làm những việc mà thanh niên châu Á phải làm và chẳng đem lại giải pháp nào cho vấn đề Việt Nam”. Ông nói thêm: “Người Nam Việt Nam có trách nhiệm cơ bản bảo vệ tự do của chính họ”1. Ông nhắc đi nhắc lại câu nói đó trong suốt cuộc vận động bầu cử ở New Hampshire và Oklahoma, ở Kentucky và Ohio.
Liệu ông ta có che giấu điều gì không? Với chúng tôi, những người ở sau hậu trường, thì Jonhson lại rất rõ ràng trong mục tiêu đối với chiến tranh Việt Nam. “Phải thắng” - ông nói vậy với Dean Rusk, Mac Bundy và tôi, ngay trong buổi gặp chúng tôi lần đầu với tư cách là Tổng thống. Ông không bao giờ sao nhãng khỏi mục tiêu đó. Nhưng chúng tôi đã chẳng bao giờ có thể vạch ra được cho ông thấy phải thắng như thế nào với cái giá phải chăng và sự mạo hiểm chấp nhận được.
Lẽ ra ông ta đã có nhiều hơn thế để nói với nhân dân Mỹ. Trong khi chúng tôi chưa hề có một kế hoạch được phê duyệt để gửi quân chiến đấu thì đã có một kế hoạch triển khai lực lượng không quân Mỹ ở mức tối thiểu được đem ra bàn thảo hàng tháng trời, và người ta ngày càng nghi ngờ rằng Sài Gòn có thể kéo dài việc tự đứng vững. Tổng thống không hề tiết rộ một chút gì về thực tế đó cho công chúng. Nếu ông có tiết lộ, thì chắc ông sẽ phải thêm đôi lời như: “Chúng ta đang mắc trong đám bùng nhùng khủng khiếp mà không biết cái gì sẽ xảy ra”. Nhưng ông đã không làm như vậy.
Tất nhiên, trong bối cảnh như vậy, tính vô tư tuyệt đối không phải là thuộc tính của các chính trị gia. Ông Woodrow Wilson đã không hề thể hiện được phẩm chất trên trong thời gian vận động bầu cử tổng thống năm 1916; khi ông nêu khẩu hiệu: “Ông đã giúp chúng ta thoát khỏi cuộc chiến tranh” chỉ để mùa xuân năm sau ông tuyên chiến với Thống chế Đức. Franklin Roosevelt đã không thể hiện phẩm chất đó trong cuộc vận động bầu cử tổng thống năm 1940, khi ông nói sẽ không gửi quân Mỹ đi tham chiến ở châu Âu ngay trước khi chúng ta bước vào Chiến tranh thế giới thứ II. Tổng thống Johnson tin tưởng chắc chắn là việc ông Goldwater thắng cử có thể gây nguy hiểm cho Mỹ và đe doạ ổn định thế giới. Ông Johnson cũng tin rằng cuối cùng ông Goldwater thất cử đã minh chứng cho suy nghĩ trên của ông là đúng. Vì thế, những gì ông Johnson tuyên bố công khai trong thời gian vận động bầu cử chỉ đúng ở một khía cạnh nhỏ. Điều đó là sự thật, nhưng còn rất xa mới là toàn bộ sự thật.
Vẫn biết việc không hoàn toàn trung thực với công luận đó không có nghĩa là ngài tổng thống đã có sẵn trong tay kế hoạch leo thang chiến tranh. Mặc dù đầu năm 1964, một số Tham mưu trưởng liên quân thúc giục tăng cường hoạt động quân sự ở Việt Nam, nhưng William Westmoreland, Max Taylor, cũng như lãnh tụ của Nam Việt Nam là Nguyễn Khánh lại yêu cầu hoãn các hoạt động quân sự đó lại. Cuối tháng 1/1965 khi tôi và Mac khuyên Johnson thay đổi tiến trình, thì thực sự chúng tôi cũng không chắc là nên mở rộng chiến tranh hay nên rút, trong khi đó Dean không chống lại bất cứ thay đổi nào.
Đánh giá các báo cáo của Tổng thống Johnson trong suốt sự nghiệp lâu dài của ông, một số người có thể cho rằng với cuộc bầu cử chưa ngã ngũ, có khả năng Tổng thống đã giấu công chúng ý định về một cuộc chiến tranh. Có lẽ là như vậy. Nhưng không thể nói là chúng tôi đã quyết định vào năm 1964. Các chứng cứ cho thấy khác hẳn.
__________________________________
1. Sách đã dẫn, tr. 953.
Trong vận động bầu cử, Goldwater đã tiến công cả tôi lẫn Tổng thống. Ông ta thích nhấn mạnh vào vấn đề: liệu Mỹ có sẵn sàng tiến hành một cuộc chiến tranh hạt nhân hay chiến tranh thông thường, và ông ta đã nhai đi nhai lại rằng chính tôi là người làm yếu sức phòng thủ của Mỹ. Ngày 20/3 ông ta ráo hoảnh buộc tội: “Bộ trưởng Quốc phòng McNamara và Bộ Ngoại giao đã dính líu vào việc đơn phương giải trừ quân bị”. Ngày 11/8 ông ta tuyên bố: “Dưới sự lãnh đạo của các nhà quân sự hiện nay của chúng ta và việc họ hoàn loàn coi thường các loại vũ khí mới, khả năng hạt nhân của chúng ta có thể bị cắt giảm tới 90% vào thập niên tới”. Ngày 6/10 ông lại có lập luận cứng rắn và tố cáo tôi là “chủ tâm cắt 90% khả năng hạt nhân của chúng ta”. Đoạn trích cuốn tự truyện Nơi tôi đứng của Goldwater đăng trên tờ The Washington Post mùa thu năm đó xác nhận:
Ông Bộ trưởng Quốc phòng hiện tại đã thực sự trở thành người đi đầu trong việc ủng hộ, mà quả thực, ông ta là kiến trúc sư chính của cái gọi là chính sách quốc phòng mà vào cuối những năm 60 - đầu những năm 70, sẽ biến lá chắn vững chắc của nền cộng hoà thành một bức tường làm bằng pho-mát Thụy Sỹ đầy lỗ hổng; một chính sách quốc phòng mà sẽ khích lệ kẻ thù của chúng ta trở nên trâng tráo hơn, mạo hiểm dấn một bước liều mạng cuối cùng tới cuộc chiến tranh hạt nhân...
Tôi nhắc lại: kiến trúc sư của chính sách này là Bộ trưởng Quốc phòng đương chức. Nói một cách đơn giản, chính sách quốc phòng của chính quyền đương nhiệm biểu lộ sự đơn phương giải trừ quân bị1.
Còn bây giờ là thực tế.
Ngày 3/2/1964 tôi nói với Goldwater và các thành viên khác của Ủy ban Quân lực Thượng viện rằng trong 5 năm tới có thể tăng số vũ khí hạt nhân chiến lược và số đầu đạn đã ấn định trong chương trình của Tổng thống Eisenhower, và người tiền nhiệm của tôi, ngài Tom Gates, cũng sẽ tăng 74% với tổng sức công phá tăng 31%. Ngày 18/9 tôi công khai tuyên bố: “Một cuộc tổng lực chiến tranh hạt nhân giữa Mỹ và Liên Xô sẽ tiêu diệt 100 triệu người Mỹ ngay trong giờ đồng hồ đầu tiên. Nó cũng có thể giết người Nga nhiều hơn thế, nhưng không có con người lành mạnh đúng mực nào có thể gọi đó là “chiến thắng”. Việc tôi ngày càng nhấn mạnh hoặc công bố công khai hạn định chặt chẽ trong chính sách vũ khí hạt nhân, những rủi ro, đã làm ông Goldwater cáu điên lên. Những phát biểu của ông Goldwater cho thấy là ông không thấy có sự khác biệt thực sự giữa vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân. Ông ta còn đi xa tới mức đề nghị Tổng thống có thể chỉ thị cho các chỉ huy ở Việt Nam sử dụng mọi loại vũ khí có trong kho của chúng ta. Tôi hoàn toàn không đồng ý với ý kiến đó và đã nói thẳng ra.
Nhưng vì Goldwater lặp đi lặp lại những phát biểu thiếu thận trọng và không có cơ sở một cách ổn ào và liên tục; nên Tổng thống Johnson e rằng những ý kiến này đang đạt được những tác động chính trị mà nó muốn. Vì vậy, Tổng thống yêu cầu tôi và Dean đưa ra tuyên bố ở hội nghị của Ủy ban Cương lĩnh chính trị của đảng Dân chủ của thành phố Atlantic. Khuôn khổ truyền thống quy định một cách rất khôn ngoan là các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Quốc phòng phải đứng ngoài các đảng phái. Thật đáng tiếc, Dean và tôi bị Tổng thống thuyết phục nên chúng tôi đã phát biểu tại hội nghị đó.
Lúc đó, dường như ông Thượng nghị sĩ bang Arizona đang chống lại chúng tôi chứ không phải đang chống lại ông Johnson. Ông trách tôi về việc Công ty ôtô Ford quyết định tiến cử Công ty Edsel là công ty năm 1959 đã gây ra vụ thua thiệt tài chính lớn nhất trong lịch sử kinh doanh của nước Mỹ. Ông buộc tội tôi, tương tự như vậy, đang làm phá sản chính sách an ninh của quốc gia. Goldwater biết rõ là tôi không hề liên đới trách nhiệm trong việc thua lỗ của Công ty ôtô Edsel. Ông Goldwater cứ bám vào suy nghĩ đó đến nỗi, cuối cùng, chính ông Ernest R. Breech, cựu Phó Chủ tịch điều hành của Công ty Ford là công ty tài trợ chính cho cuộc vận động bầu cử của Goldwater, đã viết cho ban chỉ huy chiến dịch vận động bầu cử để giải thích là: “Ông McNamara không có liên quan gì tới các dự án cho Công ty sản xuất ôtô Edsel dù ít hay nhiều”2. Nhưng Thượng nghị sĩ Goldwater vẫn tiếp tục buộc tội tôi và những lời buộc tội đó đã trở thành tư liệu của các báo trên thế giới. Thế là mỗi khi tôi bị đem ra chỉ trích vào những năm sau đó thì các nhà báo đều có thể gắn vào tên tôi một tiếp đầu ngữ là “cha đẻ của Edsel”*
________________________________________
1. Barry Goldwater, Nơi tôi đang đứng (New York; McGraw-Hill, 1964), tr. 67.
2. Emest R. Breech gửi Frank Middleton, Điều phối viên Tài chính, Tổng hành dinh Chiến dịch Goldwater, 5/4/1964, Văn kiện của Robert S. McNamara (viết tắt là RSMP).
* Vài năm sau, cuối cùng, tôi phải yêu cầu cán bộ phụ trách các vấn đề dư luận của tôi ở Ngân hàng Thế giới là cứ mỗi khi người ta buộc tội tôi thì lại cung cấp cho báo chí một bản copy bức thư của ông Ernest R. Breech. Cuối cùng, các đợt tiến công đã dừng lại.
Trong suốt thời gian vận động bầu cử, chính quyền đã cố sức giữ cân bằng giữa hai mục tiêu về Việt Nam: tránh sử dụng lực lượng lính chiến của Mỹ, đồng thời không để mất Nam Việt Nam vào tay cộng sản.
Thực hiện cả hai mục tiêu cùng một lúc ngày càng trở nên khó khăn. Trong khi đó tình hình Nam Việt Nam, nhất là về mặt chính trị, xấu đi nhanh chóng, chính quyền Sài Gòn sụp đổ đến nơi mà chúng tôi vẫn bị chia rẽ sâu sắc ở cả Washington và Sài Gòn về việc phải làm gì. Chúng tôi họp liên miên, tranh cãi liên miên. Chúng tôi vẫy vùng tuyệt vọng vì rắc rối ở Việt Nam, vì khó khăn và bối rối của chính chúng tôi. Nhưng chúng tôi vẫn không có được sự nhất trí để giải quyết vấn đề.
Ngày 13/8 Mac gửi tới Tổng thống một giác thư đưa ra một loạt cách giải quyết khả thi cho Đông Nam Á. Bức thư phản ánh ý tưởng của Mac, của Dean, của chính tôi và của các đồng nghiệp khác trong Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao. Bức giác thư đó và các tài liệu liên quan trở thành tâm điểm trong các cuộc tranh cãi gay gắt của chúng tôi trong suốt năm tháng sau đó.
Bức giác thư mở đầu bằng sự thừa nhận “tình hình ở Việt Nam đang xấu đi”. Bức thư nêu tiếp là khả năng nắm giữ quyền lực của Khánh chỉ là 50/50, chính quyền Sài Gòn mang nhiều triệu chứng của chủ nghĩa thất bại, những tình hình đó tạo ra sức ép cần phải mở rộng chiến tranh bằng cách quân Mỹ can thiệp trực tiếp hoặc xem xét kỹ lưỡng một giải pháp đối thoại, mà trong bối cạnh lúc đó, tương đương với đầu hàng. Kiến nghị duy nhất rõ ràng và không thích hợp của bức giác thư là: “Chúng ta phải tiếp tục chống lại bất cứ cuộc đàm phán nào về Việt Nam”, bởi vì “đàm phán mà không tiếp tục các hoạt động quân sự thì chúng ta sẽ không đạt được mục tiêu trong tương lai gần”.
Mac liệt kê các hoạt động quân sự có thể áp dụng, từ việc mở rộng chiến dịch quân sự ngầm tới việc không quân Mỹ ném bom có hệ thống Bắc Việt Nam và đường vận chuyển của họ vào Nam. Mac tán thành một đề nghị của Max Taylor, theo đó chúng ta lấy ngày 1/1/1965 là ngày triển khai mọi kế hoạch mở rộng hoạt động quân sự mà chúng tôi có thể chấp nhận1.
Các Tham mưu trưởng liên quân cũng đồng ý rằng nên chuẩn bị kế hoạch ném bom các mục tiêu ở Bắc Việt Nam và Đường mòn Hồ Chí Minh với mục đích triệt hạ ý chí chiến đấu và khả năng tiếp tục hỗ trợ Việt cộng của Hà Nội. Những kế hoạch đó, vào những năm sau, kết hợp với các cố gắng trên bộ, đã thật sự là chiến lược quân sự mà chúng tôi theo đuổi. Kể cả lúc đó và sau này, không bao giờ các Tham mưu trưởng nghiên cứu kỹ khả năng đạt được các mục tiêu đề ra, cần bao nhiêu thời gian, thiệt hại về người và của và mức độ rủi ro của các chiến lược quân sự đó2.
Để triển khai chiến lược không chiến, các Tham mưu trưởng công thức hoá cái gọi là “Danh sách 94 mục tiêu”. Danh sách này bao gồm các sân bay Bắc Việt Nam, các trục liên lạc, các cơ sở công nghiệp và quân sự, các lối trinh sát vũ trang. Họ cho rằng việc tiến công vào các mục tiêu đó sẽ ngăn chặn được vị trí của Mỹ ở Đông Nam Á khỏi sụp đổ. Công trình về danh sách đó chẳng đề cập gì tới việc liệu phải tiến hành bao nhiêu đợt tiến công từ các sân bay Nam Việt Nam, hoặc cần bao nhiêu quân chiến đấu Mỹ để bảo vệ các sân bay.
Khi đọc những kiến nghị này, tôi đã yêu cầu các Tham mưu trưởng liên quân cần đánh giá hiệu quả về kinh tế, quân sự khi tiến công các mục tiêu đó. Tôi không biết rằng việc tôi yêu cầu như vậy đã gây ra tranh cãi gay gắt giữa các Tham mưu trưởng liên quân. Trong cuộc thảo luận ngày 4/9, Tham mưu trưởng quân đội-tướng Harold K. Johnson lập luận rằng những nguyên nhân cơ bản để ném bom là hoàn toàn sai lầm. Mặc dầu các Tham mưu trưởng đã luôn luôn trích dẫn: “Tiến trình hoạt động quân sự sẽ tạo ra khả năng triệt hạ bằng không quân Bắc Việt Nam và có thể buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngừng trợ giúp quân phiến loạn ở Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hoà)”, nhưng Tướng Johnson không đồng ý như vậy. Ông chỉ ra rằng có rất nhiều bằng chứng cho thấy “phiến loạn Việt cộng ở Việt Nam Cộng hoà sẽ có thể tiếp tục hoạt động trong một thời gian dài với mức độ như hiện có, thậm chí còn mạnh hơn cho dù Bắc Việt Nam có bị phá hủy hoàn toàn (nhấn mạnh thêm)”. Vì lý do đó, Tướng Johnson đã khuyên các đồng sự của ông rằng đồng thời với việc ném bom Bắc Việt Nam, nên chặn các hoạt động của Việt cộng ở miền Nam, “cuộc chiến chống lại phiến loạn có thể thành công ở miền Nam và dọc theo các biên giới. Ông tiếp tục khuyến nghị rằng nên gác “Danh sách 94 mục tiêu” lại, trừ khi Bắc Việt Nam và Trung Quốc xâm chiếm Nam Việt Nam hoặc Lào. Ông nghĩ rằng đề nghị đó của ông là tiếp tục tất yếu dựa theo tiên đoán của các Tham mưu trưởng rằng, nếu tiến công tất cả 94 mục tiêu đó thì sẽ đẩy đến khả năng tiềm tàng là Bắc Việt Nam và Trung Quốc sẽ phản ứng tổng lực3.
Nhưng cuộc thảo luận giữa các Tham mưu trưởng với Max và tôi ngày 8/9 lại không đề cập gì tới các quan điểm trên, hay là các quan điểm khác của Tướng Johnson.
____________________________________
1. McGeorge Bundy gửi Tổng thống, 13/8/1964, FRUS, 1964-1968, t.1 tr. 672-679.
2. Xem JCSM-701-64, Bộ Tham mưu liên quân gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 14/8/1964, sách đã dẫn, tr. 681-682.
3. CSAM-472-64 gửi JCS, 4/9/1964, JMF 9155.3, trích trong Lịch sử các Tham mưu trưởng Liên quân, Phần 1, Chương 12, tr. 14-16.
Trong suốt ba năm rưỡi sau đó, quan điểm của Tướng Johnson về tác hại của hoạt động ném bom đã trở thành vấn đề tranh cãi cơ bản giữa một bên là Tổng thống và tôi; với các Tham mưu trưởng và Tư lệnh quân sự ở Nam Việt Nam. Đó cũng chính là vấn đề đã gây ra hai cuộc điều trần gay gắt cao độ trước Quốc hội vào năm 1966- 1967, trong hai buổi đó, hầu hết các thành viên của Ủy ban Quân lực và những nhân chứng quân sự đã thừa nhận quan điểm năm 1964 của Tướng Johnson (và được Tổng thống, cũng như các quyết định tiếp theo của tôi, ủng hộ).
Nhưng sự bất đồng giữa các Tham mưu trưởng về vấn đề trên đã nhấn mạnh đến các vấn đề cơ bản hơn. Những người theo xu hướng sử dụng không lực trong lực lượng không quân và hải quân công nhận là tác dụng của việc ném bom là không hoàn hảo, và rất khó biết được chính xác rằng trong các trường hợp cụ thể các cuộc ném bom đó có đạt hiệu quả hay không. Quân đội (ngoại trừ lực lượng đặc biệt) và thủy quân lục chiến nhận thấy quả là rất khó khăn khi nhận thức và thực hiện có hiệu quả các chiến dịch chống quân du kích. Toàn thể quân đội (và cả tôi nữa) đều còn xa mới đánh giá đúng được quyết tâm, lòng bền bỉ và khả năng của Hà Nội tăng cường và mở rộng sức mạnh của Việt cộng ở miền Nam.
Tôi đã gần như tìm thấy câu trả lời trực tiếp cho yêu cầu của mình về 94 mục tiêu trong một báo cáo về một trò chơi chiến tranh tên là “Sigma II-64” do cơ quan Joint War Games của liên quân đưa ra tháng 9/1964. Nó kết luận là ném bom các cơ sở công nghiệp và quân sự ở miền Bắc “sẽ không ngăn chặn được các cuộc nổi dậy ở Nam Việt Nam”, và chắc chắn là “chỉ có một chút tác động tới mức sống thấp của đối phương”1.
Chính quyền Sài Gòn rối tung quá nhanh đến mức chúng tôi không kịp bàn với Tổng thống về các hướng hành động. Ngày 6/9, Max bực tức đánh đi một bức điện “Chỉ có sự xuất hiện của một nhà lãnh đạo xuất chúng mới có thể cải thiện được tình hình, mà lại không có George Washington nào xuất hiện”. Từ những ngày đầu tiên của chính quyền Kennedy chúng tôi đã xác định ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết cơ bản cho chiến lược của chúng tôi ở Việt Nam. Theo như Max nói thì giờ đây điều đó rõ ràng không thể đạt được. Một bản dự đoán tình báo quốc gia đặc biệt (SNIE) đưa ra ngay sau đó đã nhắc lại lời nhận xét giống như Max. Bản dự đoán này kết luận: “Khó khăn, phức tạp đang cản trở việc hình thành một chính phủ ổn định đủ sức tiến hành có hiệu quả cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam”2.
Hai lời nhận định này lẽ ra đã làm chúng tôi phải suy nghĩ lại mục tiêu cơ bản của chúng tôi và khả năng đạt được mục tiêu đó. Chúng tôi đã không làm như vậy, phần lớn là do không ai sẵn sàng thảo luận việc rút ra. Chúng tôi cho điều này sẽ dẫn đến một lỗ hổng nghiêm trọng trên con đê ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, và chúng tôi không chấp nhận điều đó.
Vì tôi dựa rất nhiều vào các bản dự đoán SNIE và sẽ luôn nhắc tới chúng trong những trang tới nên tôi sẽ giải thích chúng là gì. Năm 1950, CIA đã thành lập một đơn vị độc lập gọi là Ban Dự đoán quốc gia (BNE). Chức năng của nó là tập hợp xu hướng và dự đoán các đánh giá về các sự kiện chính trị và quân sự. Những phân tích này được rút ra từ các báo cáo của nhiều cơ quan tình báo khác nhau, kể cả Cục Nghiên cứu và Tình báo của Bộ Ngoại giao (INR) và các cơ quan tình báo quân sự. Thông thường, BNE sẽ chuyển các bản dự thảo của họ tới các cơ quan khác và giám đốc BNE sẽ chấp nhận hoặc phản bác các ý kiến đóng góp của các cơ quan đó trong khi tuyển lựa. Sau đó, những phân tích này được chuyển lên cấp cao nhất là Cục Tình báo Mỹ (USIB), và cuối cùng là Giám đốc CIA. Ông này sẽ trực tiếp chuyển những phân tích cuối cùng tới giới chóp bu: Tổng thống hoặc cố vấn cấp cao của Tổng thống.
Sherman Kent, nguyên Giáo sư sử học Trường Đại học Yale, đứng đầu BNE trong suốt thời gian tôi làm Bộ trưởng Quốc phòng. Sherman, trông giống như ông Chips, người đầu tiên đứng đầu cơ quan BNE là người có lối tư duy địa-chính trị vô cùng sắc bén và cứng rắn mà tôi từng gặp. Thậm chí khi tôi không đồng tình với ông ta, tuy không thường xuyên tôi vẫn đánh giá cao ông. Các báo cáo được viết dưới sự chỉ đạo của ông có ảnh hưởng rất lớn đối với tôi.
Cuối cùng, vào ngày 9/9, khi chúng tôi gặp để thảo luận với Tổng thống về các hướng hành động thì sự bất đồng cơ bản giữa các cố vấn quân sự trở nên rõ ràng. Tham mưu Không quân và Tư lệnh Lính thủy đánh bộ thấy cần mở ngay các cuộc không kích Bắc Việt Nam. Tổng Tham mưu trưởng liên quân (Bus Wheeler), Tổng Tham mưu trưởng, Tham mưu trưởng các lực lượng Hải quân, Tướng Westmoreland và Đại sứ Taylor, tất cả đều cho rằng chúng ta không nên làm quá tải chính quyền Sài Gòn đang yếu kém bằng việc tiến công Bắc Việt Nam.
_____________________________________
1. Báo cáo cuối cùng của Sigma II-64, LBJL, tr. D-14, D-15.
2. Embtel 768 (Sài Gòn), Taylor gửi Rusk, 6/9/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 733-736; và SNIE 53-64, “Cơ hội ổn định Chính phủ Nam Việt Nam”, 8/9/1964, sách đã dẫn, tr. 742-746.
Tình hình chính trị bất ổn định của Nam Việt Nam làm Tổng thống Johnson lo ngại sâu sắc và ông tự nói lên băn khoăn của mình rằng hiện nay mọi cố gắng của chúng ta có nghĩa lý gì hay không. Max nói thẳng thừng là chúng ta không thể để cho Hà Nội thắng. Bus đồng tình với ý kiến đó và nhấn mạnh rằng các Tham mưu trưởng nhất trí cho rằng mất Nam Việt Nam có nghĩa là mất cả Đông Nam Á. Dean Rusk và John McCone ủng hộ mạnh mẽ quan điểm đó. Nhưng không ai (kể cả tôi) đặt câu hỏi là liệu hoặc làm thế nào chúng ta có thể ngăn chặn được điều đó. Tổng thống kết thúc cuộc họp bằng việc chỉ thị cho Bus nói lại với các Tham mưu trưởng, những người muốn tiến công Bắc Việt Nam ngay lập tức - rằng chúng ta không thể đẩy võ sĩ của chúng ta vào cuộc đấu mười hiệp trong khi anh ta còn chưa hoàn hồn sau hiệp thứ nhất. “Chúng ta cần phải để cho anh ta sẵn sàng đấu ít nhất là ba bốn hiệp”, ông càu nhàu. Điều có thể nhận thấy ngay được là Tổng thống không đả động gì đến tác động mà việc leo thang có thể gây ra cho cuộc bầu cử mà chỉ trong vòng hai tháng nữa sẽ diễn ra.
Johnson đã đúng khi lo ngại cho sự vô vọng của Nam Việt Nam. Chỉ bốn ngày sau đó đã diễn ra một cuộc binh biến có thể gọi là đảo chính, do một nhóm theo Đạo Thiên chúa trong quân đội nghĩ rằng tướng Khánh quá ưu ái những người theo Đạo Phật. Quân Thiên chúa giáo kéo vào Sài Gòn và chiếm được một số cơ quan chính phủ, nhưng đã bị những sĩ quan trẻ trung thành với tướng Khánh đẩy lui.
Sau khi thông báo cho Tổng thống về tình tiết đó, Dean điện cho Max rằng “Bức tranh về sự cãi vã lẫn nhau giữa các nhà lãnh đạo Nam Việt Nam gây nên một ấn tượng rất tồi tệ ở nước ngoài”. Ông hỏi đầy mỉa mai: “Mục đích cam kết của chúng ta là gì nếu các nhà lãnh đạo Nam Việt Nam không tuyên bố chấm dứt các thù địch cá nhân?”. Thậm chí Đô đốc Sharp cũng bắt đầu tỏ ý nghi ngờ. Ngày 25/9, ông điện cho Bus Wheeler rằng “Tình hình chính trị ở Nam Việt Nam hiện mất ổn định đến mức phải đặt ra các câu hỏi nghiêm túc về hành động tương lai của chúng ta... Có thể nghĩ tới quyết định là không dính líu”. CIA nhất trí và nói rằng: “Trong những tuần sắp tới tình hình tiếp tục làm suy sụp ý chí và hiệu quả của chính quyền Nam Việt Nam, đã đến mức đe doạ nền tảng chính trị của chính sách và các mục tiêu hiện tại của Mỹ ở Nam Việt Nam”1.
Giữa lúc tình hình u ám, ngày 5/10/1964, George Ball gửi cho Dean, Mac và tôi một bản ghi nhớ dày 62 trang đưa ra các giả thiết về chính sách Việt Nam của Mỹ hiện tại. Sự sâu rộng và tính chỉ trích của tài liệu thật phi thường, giống như chính tác giả của nó. Là một người cao lớn như một con gấu, với tâm hồn trong sáng, thông minh và ngọn bút đầy tài năng, George là người nghiên cứu về Đại Tây Dương, luôn luôn quả quyết rằng quan hệ với châu Âu là ưu tiên hàng đầu của Mỹ. Ông đã từng công tác tại Ban Điều tra ném bom chiến lược của Mỹ tại Đức vào cuối Chiến tranh thế giới thứ II và là cố vấn của Chính phủ Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương những năm 50. Bởi vì ông là người có thiên kiến nghiêng về châu Âu nên Dean, Mac và tôi xem xét quan điểm của ông một cách thận trọng.
George bắt đầu bằng những điều đã rõ: tình hình chính trị ở Sài Gòn đã xấu đi rất nhiều và ít có khả năng thiết lập được một chính quyền đủ mạnh để đàn áp các cuộc nổi dậy. Tiếp đó, ông đề ra bốn lựa chọn cho chính sách của Mỹ: (1) tiếp tục chính sách hiện nay; (2) trực tiếp tiến hành cuộc chiến tranh; (3) mở các cuộc tiến công bằng không quân vào Bắc Việt Nam; và (4) tìm kiếm một giải pháp chính trị. Ông phân tích từng phương án, và cho rằng chính sách hiện tại sẽ đưa tình hình chính trị và quân sự, vốn đã yếu kém, càng đi xuống. Trực tiếp tiến hành chiến tranh sẽ gây ra nhiều tổn thất cho sinh mạng Mỹ trên địa hình rừng núi và đồng ruộng. Ném bom Bắc Việt Nam sẽ không bẻ gãy được ý chí cũng như làm suy chuyển gì khả năng của miền Bắc ủng hộ Việt cộng. (Ông cũng nói rằng một cuộc oanh kích không làm tăng tư thế của chúng ta trên bàn đàm phán. Nhưng ông đã phải xem xét lại nhận định này vào đầu năm sau).
___________________________________
1. Deptel 654, Rusk gửi Taylor, 6/9/1964, sách đã dẫn, tr. 766-767; CINCPAC 25, Sharp gửi Wheeler, 25/9/1964, PP, t.3, tr. 569-570; và tài liệu của CIA “Sự sa đọa ở Nam Việt Nam”, 28/9/1964, FRUS, 1964-1968, t. 1, tr. 801, McGeorge Bundy gửi Tổng thống, 13/8/1964, FRUS, 1964-1968, t.1 tr. 672-679. Xem cả SNIE 53-2-64, 1/10/1964, sách đã dẫn, tr. 806-811.
Đặc biệt, George đặt giả thiết “chúng ta có thể tiến hành phản công, đồng thời khống chế các rủi ro”. Bằng những lời lẽ chua cay và mang tính tiên tri, ông viết: “Một khi đã ngồi trên lưng hổ chúng ta không thể bám vào đâu mà xuống được nữa”*.
Chỉ còn lại phương án 4. Với nhận xét rằng chúng ta “hầu như không chú ý đến các biện pháp chính trị có thể có để tìm đường ra. George kết luận, chúng tạ phải nhanh chóng bắt tay vào nghiên cứu vấn đề này”.
Ông hoàn toàn đúng ở cả hai nhận định. Nhưng tài liệu của ông không đi sâu vào giải pháp chính trị. Ông lập luận rằng một giải pháp thương lượng phải bao gồm:
a) Cam kết của Bắc Việt Nam chấm dứt các cuộc nổi dậy ở miền Nam.
b) Thành lập một chính phủ độc lập ở Sài Gòn đủ khả năng quét sạch các phần tử nổi dậy một khi Hà Nội đã chấm dứt ủng hộ trực tiếp đối với họ.
c) Thừa nhận chính quyền khi Gòn được tự do kêu gọi Mỹ hoặc bất cứ cường quốc bạn bè nào giúp đỡ nếu họ thấy cần.
d) Các nước ký kết bảo đảm nền độc lập của chính quyền Sài Gòn1.
Dean, Mac và tôi rất tán thành các mục tiêu này. Nhưng chúng tôi cùng cho rằng chủ trương một giải pháp chính trị mà không có các biện pháp có hiệu quả để đạt được giải pháp đó thì cũng tương tự như là sự rút lui không điều kiện. Chúng tôi cân nhắc khả năng đó vì tính đến tác động tiềm tàng của nó đối với an ninh toàn cầu của Mỹ. Chúng tôi đã thấy một thế giới mà: lực lượng Pathet Lào được sự ủng hộ của Hà Nội tiếp tục lấn tới ở Lào, Sukamo đưa Inđônêxia đi gần vào quỹ đạo của cộng sản, Malaixia chịu sức ép của các phiến quân được Trung Quốc ủng hộ, Trung Quốc đã cho nổ quả bom nguyên tử đầu tiên và tiếp tục bài ca cách mạng bạo lực. Khrushchev và những người kế tục ông ta ở Kremlin tiếp tục những lời tuyên bố hiếu chiến chống phương Tây. Với tất cả các mối đe dọa đó, chúng tôi xem việc rút lui không điều kiện là hoàn toàn không thể chấp nhận được.
George cũng đồng ý với kết luận đó. Chính mâu thuẫn bên trong này là điểm yếu của tài liệu của George. Ông ta đã đúng khi xác định vấn đề chúng ta đang đối mặt. Ông đã đúng khi rà soát các yếu tố rủi ro trong các hành động chúng tôi dự kiến. Ông đã đúng khi kêu gọi hãy quan tâm hơn đến đàm phán. Và ông đã đúng khi định ra các mục tiêu của đàm phán. Nhưng không rõ là hành động dự kiến này có đạt được các mục tiêu đó hay không.
Dean, Mac và tôi thảo luận với George về bản tài liệu vào thứ bẩy ngày 7/11. Tôi đã không tìm ra cuốn sổ tay ghi lại cuộc họp, nhưng tôi tin chúng tôi đã làm rõ quan điểm của mình.
George thừa nhận còn có những “khiếm khuyết dễ thấy” trong tài liệu mới “sơ khai” của mình. Ông nói ông gợi ý ra một số lĩnh vực để tiếp tục xem xét, để từ đó có thể dẫn đến những lựa chọn khác2.
Chúng tôi đã sai lầm nghiêm trọng khi không tiến hành việc nghiên cứu tìm hiểu đó. Tôi trách cả bốn chúng tôi. Bản ghi nhớ của George thể hiện cố gắng của một người trung thực đưa ra một loạt các đề nghị đáng được thảo luận kỹ càng ở cấp cao nhất. Chúng tôi kính nể ông, nhưng ông còn xứng đáng hơn thế nhiều. Lẽ ra chúng tôi phải thảo luận ngay lập tức với Tổng thống về bản báo cáo. Nhưng mãi đến 24/2 năm sau Johnson mới để ý đến nó khi George chuyển cho ông thông qua cố vấn của Tổng thống, Bill Moyers. Và lẽ ra chúng tôi phải trả lại bản báo cáo cho George và yêu cầu ông trình ngay cho các chuyên gia của Bộ Ngoại giao, CIA, Bộ Quốc phòng và Ủy ban An ninh quốc gia (NSC) để đánh giá và phân tích. Chúng tôi đã tỏ ra không tin rằng ông ấy đã tìm ra cách để đạt các mục tiêu mà tất cả chúng tôi đang tìm kiếm. Trong suốt mùa đông và mùa xuân năm 1965, suy nghĩ của George tiến gần đến quan điểm của tôi là đàm phán sau khi gây sức ép quân sự đối với Bắc Việt Nam.
Theo dõi Dean và tôi vật lộn với cuộc chiến tranh Việt Nam, Mac Bundy đưa ra một nhận xét mà tôi sẽ không bao giờ quên. Ông chỉ rõ ràng ngài Ngoại trưởng thì đang tìm kiếm giải pháp bằng biện pháp quân sự, còn tôi, Bộ trưởng Quốc phòng lại tìm cách đi thương lượng. Lời mỉa mai này nói lên rất nhiều về mâu thuẫn sâu sắc mà chúng tôi vấp phải.
_____________________________________
* Nhưng ông không thấy rằng chúng ta đang ở thế đó.
1. George W. Ball, “Tối mật: Lời tiên đoán về sự loại bỏ Tổng thống”, Nguyệt san Atlantic, tháng 7/1972, tr. 45.
2. Sách đã dẫn, tr. 49.
Tình hình ở Nam Việt Nam tiếp tục trượt xa hơn trong suốt tháng 10, khi đó chính quyền Khánh suy yếu và ngày càng có nhiều những lời kêu gọi đòi trở lại chính quyền dân sự. Tới cuối tháng 10, các Tham mưu trưởng liên quân gửi cho tôi một bản ghi nhớ bày tỏ mối quan tâm sâu sắc của họ. Họ đề nghị có một chương trình hành động quân sự mới và mạnh mẽ hơn nữa, bao gồm hoạt động của không quân Mỹ đánh phá cả miền Bắc và miền Nam. Họ mở đầu bản khuyến nghị của họ bằng cách nói rằng việc Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam hoặc Đông Nam Á là không thể chấp nhận được. Các Tham mưu trưởng thấy giật mình và cương quyết đòi hành đông quân sự, đến mức đề nghị tôi chuyển bản ghi nhớ của họ cho Tổng thống càng sớm càng tốt1.
Ngày 1/11/1964, tôi gặp Bus Wheeler để thảo luận về ý kiến của các Tham mưu trưởng. Ông nói các Tham mưu trưởng cảm nhận mạnh mẽ rằng trong khi Tổng thống quyết định không có thêm các biện pháp quân sự, thì hầu hết trong số họ tin rằng Mỹ phải rút ra khỏi Nam Việt Nam. Max Taylor lại có quan điểm khác hẳn. Khi hỏi ông nhận xét gì về những đề nghị của các Tham mưu trưởng, Max nói họ đã bỏ nguyên tắc từ lâu nay của chính quyền Kennedy và Johnson là “chiến tranh ở Nam Việt Nam phải do người Việt Nam thực hiện”. Vài tuần trước đó, Westy đã điện báo rằng “trừ khi có những triển vọng về một chính quyền tương đối có hiệu quả ở Nam Việt Nam trong thời gian ngắn trước mắt, còn nếu không thì không có một cuộc tiến công nào của Mỹ ở bên trong hay bên ngoài Nam Việt Nam có thể đảo ngược được tình hình đang xấu đi nghiêm trọng”2.
Trước những lời góp ý đầy mâu thuẫn đó, ngày 2/11, Tổng thống đã thành lập một nhóm công tác do Bill Bundy chỉ đạo để xem xét lại các lựa chọn chính sách. Ngày hôm sau, Lindon Johnson thắng cử với số phiếu áp đảo nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Nhóm công tác bắt tay từ con số không*. Nhóm tiến hành xem xét, đánh giá toàn bộ các giả thuyết, tiền đề, các phương án, bắt đầu bằng việc đánh giá lại vị trí của chúng ta ở Nam Việt Nam và mục tiêu của chúng ta ở Đông Nam Á. Công việc kéo dài bốn tuần lễ và họ đưa ra một số nhận xét đáng báo động. Để chuẩn bị cho cuộc gặp làm việc với Tổng thống vào mùng 1/12, Nhóm soạn thảo một báo cáo, trong đó có đoạn:
Chúng ta không thể đảm bảo duy trì một Nam Việt Nam không cộng sản mà lại thiếu sự cam kết quân sự của chúng ta ở bất cứ một mức độ cần thiết nào để đánh Bắc Việt Nam, và rất có thể cả Trung Cộng, bằng quân sự. Cam kết quân sự như vậy có thể dẫn đến nhiều nguy cơ nổ ra xung đột lớn ở châu Á, không chỉ giới hạn ở các hoạt động của không quân và hải quân, mà còn rất có thể không tránh khỏi chiến sự trên mặt đất ở mức độ như chiến tranh Triều Tiên, và thậm chí cả khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân”.
____________________________________
1. JCSM-902-64, Tướng Wheeler gửi McNamara, 27/10/1964, FRUS, 1964-1968, t. 1, tr. 847-857.
2. Ghi chép về cuộc họp với Tướng Wheeler, 1/11/1964, tài liệu của Robert S. McNamara, Bộ Quốc phòng, Embtel 251 (Sài Gòn), Taylor gửi McNamara, 3/11/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 882-884; và MACV 5532, Westmoreland gửi Wheeler, 17/10/1964, sách đã dẫn, tr. 838-839.
* Ngoài trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao William Bundy, Nhóm công tác còn có Phó Đô đốc, Lloyd M. Mustin, sĩ quan cao cấp của Tham mưu liên quân; Harold Ford, sĩ quan cao cấp về Trung Quốc-châu Á của CIA; và John T.Mac Naughton, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc tế.
Các Tham mưu trưởng coi nhẹ những nguy cơ này và lập luận rằng chúng còn dễ chấp nhận hơn là “tiếp tục các chính sách hiện nay hoặc rút ra khỏi Đông Nam Á”. Nhưng đó chính là những phiêu lưu mà Tổng thống Johnson và tôi quyết định phải tránh. Cố gắng của chúng tôi tác động mạnh mẽ tới cách quản lý gây nhiều tranh cãi đối với cách thức chúng ta tiến hành chiến dịch oanh kích Bắc Việt Nam những năm sau đó1.
Tổng thống nhận được một báo cáo về sự tiến triển vào ngày 19/11. Dean nói với Tổng thống, Nhóm công tác đã bắt đầu tập trung vào ba phương án: (1) một giải pháp thông qua thương lượng trên bất cứ một cơ sở nào có thể có được*; (2) tăng mạnh sức ép quân sự với Bắc Việt Nam; (3) chính sách xen kẽ giữa gây sức ép đối với Bắc Việt Nam đồng thời nỗ lực duy trì các kênh tiếp xúc trong trường hợp Hà Nội mong muốn có một giải pháp. Ông đảm bảo với Tổng thống rằng chúng ta không cho phép sự cám dỗ đi theo một phương án và do đó, Tổng thống tự do đưa ra bất cứ quyết định nào mà ông tin là có lợi nhất cho đất nước.
Ngày mùng 1/12 là một ngày có nắng, trời lạnh và tuyết đầu mùa phủ một lớp mỏng màu trắng lên mọi vật. Tổng thống Johnson trở về sau Lễ Tạ ơn Chúa ở LBJ Ranch, gặp cố vấn cao cấp về vấn đề Việt Nam để ra các quyết định xung quanh các khuyến nghị của Nhóm công tác. Sự có mặt của Max Taylor từ Sài Gòn về và Phó Tổng thống Hubert Humphrey cho thấy tầm quan trọng của cuộc họp. Tổng thống lại nghe những lời than vãn về tình hình chính trị mong manh của Nam Việt Nam và những lời cảnh tỉnh rằng sự thất bại ở đây sẽ phá hoại nghiêm trọng chính sách ngăn chặn của chúng ta.
Nhóm công tác đưa ra ba phương án (phương án “Giải pháp thương lượng trên bất kỳ cơ sở nào có được” thậm chí không được đề cập):
A. Tiếp tục chiều hướng hiện nay với rất ít hy vọng tránh được thất bại.
B. Tiến hành một chiến dịch ném bom ồ ạt vào các tuyến giao thông nối miền Bắc với miền Nam và 94 mục tiêu do các Tham mưu trưởng đề nghị, nhằm buộc Hà Nội phải chấm dứt ủng hộ Việt cộng và/hoặc ngồi vào bàn thương lượng.
C. Tiến hành chiến dịch ném bom tương tự theo cách thức từng bước vào cùng các mục tiêu trên, nhưng ít nguy cơ làm chiến tranh lan rộng.
Giữa các quan chức quân sự cũng có những bất đồng sâu sắc: các Tham mưu trưởng ủng hộ phương án B; Max thích phương án A rồi từng bước một đi đến phương án C; Westy muốn giữ phương án A thêm 6 tháng nữa.
Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi CIA, ngay trước khi cuộc họp bắt đầu đã trình bản đánh giá về tính hiệu quả của việc ném bom. CIA nhắc lại quan điểm của các Tham mưu trưởng là hệ thống giao thông và các cơ sở công nghiệp của miền Bắc rất dễ bị oanh tạc. Nhưng CIA còn nhấn mạnh: vì nền kinh tế của Bắc Việt Nam chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và phần lớn là phân tán trong hàng ngàn làng mạc tự cấp tự túc, việc ném bom sẽ không gây nên các vấn đề khó khăn kinh tế lớn và không ngăn chặn được Hà Nội cung cấp người và vật chất để tiếp tục cuộc chiến tranh du kích ở miền Nam. CIA cũng nhận xét rằng các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam đã nhìn thấy sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn và thắng lợi là rõ ràng. Do đó, họ sẽ chịu đựng được cuộc ném bom và không thay đổi chính sách của họ2.
Khi nhìn lại, điều rõ ràng là sự trình bày của chúng tôi với Tổng thống đầy những lỗ hổng. Chúng ta đã bỏ qua một số vấn đề cơ bản:
- Nếu vào thời điểm Tổng thống Kennedy chết, chúng ta tin rằng Nam Việt Nam sẽ thắng trong cuộc chiến này (và điều này đòi hỏi cần có sự ổn định chính trị), thì bây giờ cái gì đã làm cho sự vật khác đi?
- Cái gì là cơ sở cho niềm tin rằng kế hoạch ném bom “ồ ạt” và “từng bước” sẽ buộc Hà Nội ngừng ủng hộ Việt cộng và/hoặc đi vào đàm phán?
- Đặt giả thiết Bắc Việt Nam buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, mục tiêu Mỹ muốn đạt trong cuộc thương lượng đó là gì?
- Phương án B và C sẽ đòi hỏi lực lượng quân sự nào của Mỹ tham gia để bảo vệ các căn cứ không quân ở miền Nam và ngăn chặn sự sụp đổ của quân đội Việt Nam cộng hoà trong khi chiến dịch ném bom được tiến hành?
- Tổn thất của Mỹ qua mỗi phương án là như thế nào?
- Quốc hội và nhân dân Mỹ sẽ phản ứng ra sao về chính sách chúng ta lựa chọn?
______________________________________
1. Phó Đô đốc Mustin gửi William Bundy, 10/11/1964, PP, t.3, tr. 621-628, và JCSM-955-64, Wheeler gửi McNamara, 14/11/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 1057-59.
* Đại diện của Tham mưu trưởng liên quân soạn thảo báo cáo này, khi được hỏi sự thất bại ở Nam Việt Nam sẽ ảnh hưởng xấu như thế nào đến lòng trung thành và ý chí của các quốc gia không cộng sản khác, ông trả lời một cách ngắn gọn: “thảm khốc hoặc tồi tệ hơn thế”, và thêm rằng “Nam Việt Nam là yếu tố quyết định về quân sự”.
2. Đánh giá tình báo của CIA: Tình hình ở Việt Nam, 24/11/1964, PP, t.3, tr. 651-656.
Rõ ràng là Tổng thống Johnson đã trở nên hoàn toàn thất vọng. Ông phải đương đầu với một tình thế kéo dài triền miên. Sự lo lắng và thất vọng của ông được. tuôn ra bằng một loạt các câu hỏi nhận xét: “Chúng ta có thể làm gì?”; “Tại sao không nói rằng nó là thế đấy?”; “Chúng ta lấy nguồn lực nào?”; “Nếu họ cần đôla, hãy đưa cho họ”; “Ngày thanh toán đang đến”; “Nếu tôi đang sốt 40oC thì tôi chưa thể đánh người hàng xóm được. Tôi muốn mình phải khoẻ đã... Vì vậy nếu chúng ta bảo Wheeler tát cho họ một cái thì chúng ta cũng có thể nhận một cái tát trả lại”.
Đáp lại nhận xét cuối cùng này. Max nói: “Tôi nghi ngờ là Hà Nội sẽ tát trả lại”.
Johnson đập lại: “Thế sao Mac Arthur không nói như vậy khi Trung Quốc nhảy vào Triều Tiên?”.
Cuối cùng Tổng thống quyết định: “Tôi muốn dành cho Max một cơ hội cuối cùng để ổn định tình hình chính trị. Nếu không đạt được điều đó khi ấy tôi sẽ nói với anh, Tướng Wheeler (về việc ném bom miền Bắc)”. Tổng thống chấp thuận có điều kiện kế hoạch hai giai đoạn. Giai đoạn 1 sẽ bao gồm cho máy bay trinh sát có vũ trang tiến công các con đường thâm nhập vào Lào, đồng thời đánh trả đũa quân Bắc Việt Nam khi họ tiến công các mục tiêu của Mỹ. Trong khi đó, Max sẽ sử dụng khả năng thực hiện giai đoạn 2 - chiến dịch ném bom Bắc Việt Nam - làm điều khích lệ các nhà lãnh đạo miền Nam ổn định tình hình của họ1.
Max trở lại Sài Gòn với một thông điệp cho các tướng lĩnh Nam Việt Nam: để có được sự ủng hộ tiếp tục của Mỹ thì cần phải ổn định chính trị và điều này có nghĩa là các tướng lĩnh phải chấm dứt việc chống đối lẫn nhau và chống chính phủ của mình. Mệnh lệnh đã tỏ ra là vô ích. Các tướng lĩnh Sài Gòn vẫn xấu tính như vậy. Ngay sau khi Max ra về, họ đã loại bỏ một bộ phận lớn của Chính phủ, trên thực tế là một cuộc đảo chính nữa. Mục tiêu của họ là thay thế chính phủ dân sự bằng giới quân sự. Việc này làm Max tức giận. Ông xem đây là một sự xúc phạm cá nhân và yêu cầu các nhà lãnh đạo Nam Việt Nam gặp ông và sàng lọc họ một cách kỹ lưỡng như một huấn luyện viên để có được một đội quân sơ tuyển. Có lẽ tiếng Pháp của ông không được tốt. Ông nói mỉa mai (ông nói rất trôi chảy) với các sĩ quan đã không hiểu mệnh lệnh của ông về việc thiết lập sự ổn định: “Các anh đã làm vỡ rất nhiều đĩa và bây giờ chúng ta phải tìm cách thu xếp đống ngổn ngang này”. Lời khiển trách làm một số cười ngượng ngùng và cả tức giận với Max, nhưng cũng chẳng có kết quả cụ thể nào.
Phần vì tức giận, phần vì thất vọng, Max gửi về Washington một bản báo cáo đánh giá cuối năm, nói rằng: “Nếu điều vốn đã tồi tệ trở nên tồi tệ hết mức... chúng ta có thể ngay từ bây giờ tìm cách không dính líu trong quan hệ với GVN (chính quyền Nam Việt Nam), rút phần lớn cố vấn của chúng ta về nước... Bằng cách này, chúng ta có thể tách mình ra khỏi người đồng minh không thể tin cậy được và tạo cơ hội cho GVN tự đi bằng đôi chân của họ và chịu trách nhiệm về những yếu kém của họ”2.
Nhiều người trong số chúng tôi đọc bức điện của Max đã không chú ý vào đoạn này. Chúng tôi (và tôi tin là cả Max nữa), mong muốn không làm gì để làm vỡ “con đê ngăn chặn”, chừng nào vẫn còn giải pháp khác. Với nhận thức muộn màng, bây giờ nó mới trở nên rõ ràng một cách đau đớn, rằng chính con đường mà Max đã đề cập đó giúp nước Mỹ ít tổn thất hơn nhiều về người, của và sự xói mòn trong chính sách ngăn chặn của chúng ta - trong khi đó, theo đuổi cái kế hoạch của chúng ta đến một điểm nào đó, người Nam Việt Nam cũng sẽ yêu cầu chúng ta rút đi hoặc là sẽ xảy ra một tình hình rối loạn đến mức buộc chúng ta phải rút các cố vấn về nước. Rõ ràng, không dính líu là con đường lẽ ra chúng ta phải chọn.
Chúng ta đã không làm như vậy.
Trái lại, chúng ta lại tiếp tục bận rộn với câu hỏi chúng ta phải đi theo chính sách quân sự nào. Trong một bức điện riêng gửi Max ngày 30/12, Tổng thống tỏ ra tức giận trước việc các Tham mưu trưởng liên quân nhiều lần yêu cầu cho phép ném bom miền Bắc. “Cứ mỗi lần tôi nhận được một khuyến nghị quân sự” - ông nhắc nhở Max một cách phê phán - “họ lại đề nghị ném bom quy mô lớn. Tôi chưa hề tin rằng chúng ta sẽ thắng trong cuộc chiến này bằng không quân... Điều cần hơn và có hiệu quả hơn là phải có sức mạnh quân sự đủ mạnh trên mặt đất. Tôi sẵn sàng ủng hộ các nỗ lực của Mỹ theo hướng đó”. Thế là đột nhiên xuất hiện ý kiến triển khai trên quy mô lớn lực lượng bộ binh Mỹ3.
___________________________________
1. Trích dẫn từ bản viết tay trong cuộc họp này của John McNaughton và McGeorge Bundy, trong Hộp số 1, Hồ sơ ghi chép trong cuộc họp (viết tắt MNF), LBJL, và tài liệu của McGeorge Bundy, sách đã dẫn.
2. Embtel 2010 (Sài Gòn), Taylor gửi Rusk, 31/12/1964, NSF, LBJL.
3. CAP-64375, Tổng thống Johnson gửi Taylor, 30/10/1964, FRUS, 1964-1968, t.1, tr. 1057-59.
Max trả lời bằng một bản phân tích gửi từ Sài Gòn về, một phân tích thấu đáo với tư duy sâu sắc nhất mà tôi có được trong vòng 7 năm vật lộn với cuộc chiến tranh Việt Nam:
“Ở Nam Việt Nam này chúng ta đang phải đối mặt với một tình hình ngày càng xấu đi nghiêm trọng bởi sự xáo động chính trị, sự thiếu trách nhiệm và chia rẽ trong quân đội, sự kém hiệu quả trong các chiến dịch bình định, tình cảm chống Mỹ gia tăng, các cuộc khủng bố của Việt cộng gia tăng đánh trực tiếp vào người và căn cứ Mỹ cùng với sự nhụt chí, mất tinh thần trên toàn Nam Việt Nam. Nếu tình hình này không thay đổi bằng cách này hay cách khác, thì chúng ta sẽ sớm đối mặt với... việc thành lập một chính quyền thù địch và chính quyền này sẽ yêu cầu chúng ta đi khỏi đây, đồng thời lại tìm kiếm thoả hiệp với Mặt trận dân tộc giải phóng (chính đảng của Việt cộng) và Hà Nội... Còn rất ít thời gian để tháo ngòi nổ cho tình hình này”.
Tiếp đó, ông chuyển sang vấn đề chiến đấu trên bộ, ông báo động cho Tổng thống rằng thông thường trong quân sự, đánh bại Việt cộng đòi hỏi phải triển khai một lực lượng quân lớn:
“Việc không đảm bảo an ninh cho dân chúng là do những thắng lợi liên tục của hoạt động bạo động lật đổ của Việt cộng. Lực lượng này được hình thành từ những năm 1954-1955 và đến nay có khoảng 100.000 du kích tinh nhuệ. Lực lượng này có được tài sản vô giá là sự cung cấp hậu cần từ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Lào. Tôi không nhớ là trong lịch sử đã có chiến dịch nào chống du kích mà thắng lợi với ưu thế về quân số ta 10, quân du kích 1 và có sự giúp sức từ bên ngoài”.
Max nhấn mạnh rằng tỷ lệ đó ở Nam Việt Nam chưa bao giờ vượt quá con số 5/1 trong vòng hai năm qua và dường như không thể đạt được tỷ lệ mong muốn trong một lương lai gần.
Tiếp đó ông ta lại hỏi câu hỏi muôn thủa: Chúng ta phải làm gì? Chúng ta không thể. - ông nhận xét. “thay đổi đặc tính dân tộc, xây dựng nên giới lãnh đạo ở một nơi không có những con người như vậy, tăng thêm lực lượng GVN hoặc bịt các lỗ dễ rò rỉ của những hàng rào ngăn chặn sự xâm nhập”. Ông cho rằng để đạt kết quả, chúng ta phải sử dụng thêm nhân tố mới và “nhân tố duy nhất có thể tạo cơ hội cho một thắng lợi mong muốn trong một thời gian nhất định là kế hoạch oanh kích từng bước đánh thẳng vào ý chí của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” và phải tạo ra “một tình hình thuận lợi để nói chuyện với Hà Nội”. Ông cũng nhất trí với quan điểm của Tổng thống là không thể thắng chiến tranh du kích bằng không quân. Nhưng đó không phải là mục tiêu của ông. Mà mục tiêu của ông là “gây áp lực đối với ý chí của các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Max kết thúc bức điện dài bằng việc cảnh tỉnh rằng: “Chúng ta hiện đang trên con đường thất bại nên phải dám mạo hiểm tạo ra một sự thay đổi”, bởi vì “không có hành động tích cực nào vào lúc này có nghĩa là chấp nhận sự thất bại trong một tương lai rất gần”1.
__________________________________
1. Các Embtel 2052-2058 (Sài Gòn), Taylor gửi Tổng thống Johnson, 6/1/1965, “Triển khai các lực lượng quân sự chủ lực của Mỹ tại Việt Nam, tháng 7/1965” viết tắt là “Triển khai”), t. 1, Mục 1-10, Lịch sử Hội đồng An ninh quốc gia (viết tắt là NSCH), Hộp số 40, NSF, LBJL.
Nhưng chúng tôi không hề làm gì. Đầu tháng giêng, Việt cộng đã xơi gọn hai đơn vị thiện chiến của Sài Gòn trong những trận đánh lớn. Cùng với tin tình báo cho biết Bắc Việt Nam đã bắt đầu đưa bộ đội chính quy của họ vào miền Nam, những thất bại đó làm gia tăng mối lo sợ của chúng tôi là Hà Nội và Việt cộng đang chuẩn bị một cuộc tiến công tổng lực mà Sài Gòn và quân đội của nó khó có thể chịu đựng nổi. Nam Việt Nam dường như đang trên bờ vực của sự sụp đổ hoàn toàn.
Những sự kiện này buộc tôi đau lòng và miễn cưỡng rút ra kết luận rằng đã đến lúc phải thay đổi chính sách. Ngày 27/1/1965 - chỉ một tuần sau ngày tuyên thệ nhậm chức Tổng thống - Mac và tôi đã gửi cho Tổng thống Johnson một bản báo cáo ngắn nhưng đầy sức công phá. Buổi sáng hôm đó, chúng tôi thảo luận khá lâu với Tổng thống và Dean tại Phòng Điều ước của Chính phủ, nơi trước đây Abraham Lincoln đã từng họp nội các của ông trong cuộc nội chiến. Mac và tôi cho rằng tình hình đang ở mức nguy kịch và chúng tôi muốn Tổng thống hiểu điều đó tác động đến suy nghĩ của chúng tôi như thế nào. Chúng tôi nói với Tổng thống rằng:
Hiện tại cả hai chúng tôi đều tin rằng chính sách hiện nay của chúng ta sắc chỉ dẫn đến thất bại thảm hại. Điều chúng ta đang làm chủ yếu là chờ đợi và hy vọng có được một chính phủ ổn định. Các chỉ thị của chúng ta trong tháng chạp nói rất rõ rằng chúng ta sẽ không mở rộng hoạt động tiến công cộng sản, trừ phi chúng ta đạt được một chính phủ như vậy. Sáu tuần qua, cố gắng đó đã không đem lại kết quả. Bob và tôi cho rằng không hy vọng thành công trong việc lập một chính phủ ổn định, trừ khi và cho đến khi chúng ta thay đổi chính sách và các ưu tiên của chúng ta.
Những khó khăn ở Sài Gòn nổi lên từ những lời khẳng định lan tràn rằng tương lai của lực lượng chống cộng không có hy vọng gì. Ngày càng nhiều người tốt chỉ lo giữ xương sườn của họ và lẩn tránh trách nhiệm thực thi chính sách chống cộng cứng rắn. Những người bạn tốt nhất ít nhiều thất vọng về khả năng yếu kém của chúng ta trong việc đối phó với các cuộc tiến công của cộng sản vào chính các căn cứ của chúng ta. Người Việt Nam biết rõ như chúng ta là Việt cộng đang giành được vùng nông thôn. Trong khi đó, họ thấy sức mạnh to lớn của Hoa Kỳ lại phải chịu nín nhịn và họ không thấy ý nghĩa của chính sách năng nổ và cứng rắn của Mỹ. Họ cảm thấy rằng chúng ta không sẵn sàng mạo hiểm. Trong một nghĩa nào đó, tất cả những điều này là sự lăng nhục xét theo tất cả những gì chúng ta đã làm và tất cả những gì chúng ta sẽ sẵn sàng làm nếu như họ chỉ cần xắn tay áo lên thôi. Nhưng đó là một thực tế - hoặc ít ra cũng là điều mà McNamara và tôi đang nghĩ.
Sự không chắc chắn và một phương hướng lan tràn trong các quan chức Việt Nam, bây giờ cũng xuất hiện ngày càng rõ trong chúng ta, thậm chí cả ở những người trung thành và quyết tâm nhất. Ta có thể nhận thấy những lời ám chỉ thực hiện tâm trạng này trong các bức điện từ Sài Gòn về và trong số các sĩ quan trung thành nhất của chúng ta tại Washington này. Phương châm cơ bản cho thấy rằng chúng ta sẽ không đi xa hơn, cho đến khi có được một chính phủ ổn định và không mấy ai có nhiều hy vọng là sẽ có một chính phủ ổn định nếu chúng ta ngồi yên một chỗ. Kết quả là chúng ta bị cuốn vào một chính sách: trước hết viện trợ cho các nhà chính trị hay tranh cãi nhau và phản ứng thụ động trước các sự kiện mà chúng ta không cố gắng kiểm soát chúng. Hoặc là có vẻ tương tự như vậy.
Bob và tôi tin rằng kế hoạch hành động kém hiệu quả nhất là tiếp tục duy trì vai trò rất thụ động hiện nay mà cuối cùng chỉ dẫn đến thất bại và hãy thoát ra khỏi tình cảnh nhục nhã này.
Chúng tôi thấy có hai giải pháp. Thứ nhất, sử dụng sức mạnh quân sự của chúng ta ở vùng Viễn Đông và buộc cộng sản phải thay đổi chính sách của họ. Thứ hai, triển khai mọi nỗ lực theo hướng đàm phán nhằm cứu lấy những gì ít ỏi nhất có thể bảo vệ được mà không làm tăng thêm các rủi ro quân sự hiện tại của chúng ta. Bob và tôi thiên về phương án thứ nhất, nhưng chúng tôi nghĩ cả hai phương án cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng và các kế hoạch sửa đổi phải được bàn bạc với Ngài.
Hai chúng tôi hiểu rằng bất cứ một quyết định nào đại loại như vậy sẽ tạo ra những vấn đề rất nghiêm trọng. Hai chúng tôi thừa nhận rằng chúng tôi không phải là người chịu trách nhiệm tối cao. Mấy tháng trước, chúng tôi đã hoàn toàn ủng hộ thái độ lưỡng lự của Ngài nhằm thoát ra khỏi giai đoạn giữa. Chúng tôi đồng ý là cần tiếp tục nỗ lực để cải thiện các hoạt động trên bộ và chỉnh đốn giới chức cầm quyền Nam Việt Nam theo hết khả năng của chúng ta. Nhưng chúng tôi tin rằng tất cả những điều này là chưa đủ và đã đến lúc phải lựa chọn biện pháp cứng rắn hơn.
Ngài nên biết là Dean Rusk không nhất trí với chúng tôi. Ông ta không phủ nhận lời khẳng định của chúng tôi là mọi việc đang xấu đi và tình hình đang đảo lộn. Ông ta không chắc rằng có thể chặn đứng tình hình tồi tệ này. Điều ông ta nói là hậu quả của việc leo thang cũng như rút lui xấu đến mức chúng ta đơn giản là phải tìm một cách khác để đem lại hiệu quả cho chính sách hiện nay. Sẽ rất tốt nếu có thể tìm ra được. Bob và tôi không nghĩ điều đó sẽ xẩy ra1.
Sau nhiều tháng bập bênh và thiếu quyết đoán, chúng tôi đã đi đến ngã ba đường.
______________________________________
1. McGeorge Bundy gửi Tổng thống Johnson, 27/1/1965, “Báo cáo gửi Tổng thống”, t.8, 1/1-2/28/65. Hồ sơ phụ, McGeorge Bundy, Hộp số 2, NSF, LBJL.
7
QUYẾT
ĐỊNH LEO THANG
NGÀY 28/1 - 28/7/1965
Sáu tháng sau bản giác thư “đứng trước ngã ba đường” của chúng tôi là thời gian đánh dấu giai đoạn then chốt nhất đối với sự dính líu kéo dài 30 năm của Mỹ ở Đông Dương. Đó là thời gian từ 28/1 đến 28/7/1965. Tổng thống Johnson đã phải đối đầu với những vấn đề nêu ra trong bản ghi nhớ và đưa ra những sự lựa chọn số phận, khoá chặt nước Mỹ vào con đường can thiệp quân sự ồ ạt ở Việt Nam, một sự can thiệp cuối cùng đã phá tan địa vị Tổng thống của ông và làm chia rẽ nước Mỹ chưa từng có, kể từ sau cuộc Nội chiến.
Trong thời kỳ định mệnh này, Johnson đã khởi xướng cuộc ném bom Bắc Việt Nam và đưa lục quân Mỹ vào Nam Việt Nam, đưa tổng số quân Mỹ từ 23.000 đến 175.000, với khả năng đưa thêm 100.000 quân nữa vào năm 1966 và sau đó thậm chí nhiều hơn nữa. Tất cả mọi chuyện này đều xảy ra mà không có sự công bố hoặc tranh luận công khai đầy đủ, gieo mầm cho sự khủng hoảng lòng tin, điều đã làm suy yếu nước Mỹ về sau này.
Chuyện đã xảy ra như thế nào? Tại sao Tổng thống Johnson không tin nhân dân Mỹ? Tại sao chiến lược quân sự của Tướng Westmoreland không được tranh luận đầy đủ? Tại sao chúng ta lại leo thang mà không rút quân giữa lúc tình hình đang xấu đi nhanh chóng? Tại sao chúng ta không đoán trước được hậu quả của hành động của chúng ta? Các lực lượng chính trị nội bộ - đặc biệt là nguyện vọng của Tổng thống về xây dựng “Xã hội vĩ đại” và những sức ép của các lực lượng bảo thủ ở cả hai đảng - đã gây ảnh hưởng tới chính sách Việt Nam của Mỹ như thế nào, nếu có? Những niềm hy vọng, nỗi sợ hãi, quan niệm và sự phán xét gì, dù đúng hay sai, đã chi phối suy nghĩ và quyết định của chúng ta?
Đúng vào ngày Tổng thống đọc bản ghi nhớ của chúng tôi, ông đã phái Mac Bundy đi Sài Gòn để đánh giá triển vọng về một chính phủ ổn định ở đó và để cố vấn xem Mỹ có nên tiến hành hành động quân sự chống Bắc Việt Nam hay không? Những người ngả theo hướng ủng hộ hành động này, gồm Mac, Max Taylor và tôi - đều tin là những hành động đó sẽ làm tăng lòng tin của Nam Việt Nam đối với sự sẵn sàng của Mỹ chiến đấu cho Nam Việt Nam, và như vậy sẽ củng cố thêm tinh thần và cơ chế chính trị của Nam Việt Nam.
Tình hình ở Sài Gòn đã khẳng định nỗi ghê sợ nhất của Mac: các tướng lĩnh Nam Việt Nam tiếp tục đấu đá lẫn nhau và chống lại các Phật tử; các chính trị gia vẫn hoàn toàn bất lực; các giáo phái kiên trì các cuộc biểu tình và phản đối của mình trên các đường phố. Mac gửi bức điện cho Tổng thống: “Tình hình hiện nay trong các lực lượng phi cộng sản cho thấy mọi dáng vẻ của một cuộc nội chiến trong lòng một cuộc nội chiến”1.
Vào ngày thứ ba trong chuyến đi của Mac, Việt cộng đã dùng mìn và đạn pháo tiến công vào một chỉ huy sở của quân đội Nam Việt Nam và căn cứ không quân Mỹ gần Pleiku, cách Sài Gòn 240 dặm về phía Bắc. Tám quân vụ Mỹ bị chết và trên 100 người khác bị thương. Được Max và Tướng Westmoreland ủng hộ, ngay lập tức Mac đề nghị một cuộc oanh tạc trả đũa bằng không quân chống Bắc Việt Nam đúng như kiểu đang được xem xét tại Washington trong mấy tháng qua. Cuộc tiến công vào Pleiku và phản ứng của chúng ta đã góp phán đáng kể vào cuộc leo thang sau này.
Ngay khi Tổng thống nhận được bản kiến nghị của Max, ông đã triệu tập một cuộc họp của Hội đồng An ninh quốc gia với sự tham dự của các nhà lãnh đạo Quốc hội tại phòng Nội các. Mặc dù cuộc tiến công miền Bắc đã chứa đựng nguy cơ lớn hơn vì Thủ tướng Liên Xô Alexei Kosygin đang ở thăm Hà Nội, hầu hết mọi người có mặt, kể cả chuyên gia về Liên Xô là ông Tommy Thompson và George Ball, đều thúc giục trả đũa cuộc tiến công của Việt cộng. Chỉ có Thượng nghị sĩ Mike Mansfield đã phát biểu mạnh mẽ chống lại. Nhìn thẳng vào ông Tổng thống đang ngồi phía bên kia bàn, ông lưu ý rằng, kể cả khi Hà Nội chỉ đạo cuộc tiến công thì nó cũng sẽ làm “nhiều người mở mắt ra”. “Dân chúng Nam Việt Nam không đứng đằng sau chúng ta”, Mansfield tuyên bố, “nếu không thì Việt cộng đã không tiến hành cuộc tiến công bất ngờ của họ”. Ông thúc giục Johnson cân nhắc thực tế này cẩn thận, bởi vì cuộc tiến công trả đũa có nghĩa là Mỹ đã đặt cược cao lên trong cuộc chơi này. Tổng thống đã không nghe theo ý kiến của Mansfield; dựa trên quyền lực dành cho mình, trong Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ. Ông đã ra lệnh tiến công2.
_____________________________________
1. Lời nhận xét của Bundy trong Ghi chép của Bromley Smith gửi Tổng thống, 4/2/1965, “Chuyến công tác McGeorge Bundy - Sài Gòn, t.1, 2/4/65”, Hồ sơ các cuộc gặp gỡ quốc tế và các chuyến công tác, Hộp số 28/29,NSF, LBJL.
2. Bản tóm lược cuộc họp lần thứ 545 của NSC (của Bromley Smith), 6/2/1965, Hộp số 1, MNF, LBJL
Tối hôm sau, Mac trở về Washington với một bản báo cáo có đoạn viết:
Tình hình ở Việt Nam đang xấu đi và nếu Mỹ không có hành động mới, thì thất bại là tất yếu... Nguy cơ thất bại của Mỹ ở Việt Nam là cực kỳ cao... Uy tín quốc tế của Mỹ, và phần lớn ảnh hưởng của chúng ta, đang đứng trước nguy cơ trực tiếp ở Việt Nam. Không thể có chuyện trút gánh nặng lên chính người Việt Nam, và không thể có chuyện thương lượng đưa chúng ta ra khỏi Việt Nam vì hiện không có bất kỳ khả năng hứa hẹn nào... Một sự rút quân bằng thương lượng hôm nay sẽ có nghĩa là sự đầu hàng từng bước.
Do đó, Mac đã kiến nghị một chính sách ném bom từng bước và kéo dài ở Bắc Việt Nam. Ông ta nêu ra hai mục tiêu: về lâu dài, ông ta hy vọng nó sẽ ảnh hưởng tới ý chí của miền Bắc - khiến họ giảm sự ủng hộ đối với Việt cộng và/hoặc phải thương lượng; trước mắt, ông tin rằng nó sẽ làm tăng mạnh và ngay lập tức tinh thần lạc quan ở miền Nam.
Liệu hướng hành động được kiến nghị ấy có làm thay đổi được điều tiên lượng hay không? Mac đã không hứa rằng nó sẽ như vậy. Ông ta nhận mạnh rằng “triển vọng ở Việt Nam là mờ nhạt”, và rằng “có một loạt vấn đề mà người Việt Nam cần làm tốt hơn”. Nhưng “có một điểm yếu nghiêm trọng trong thế của chúng ta ở Việt Nam trong phạm vi sức mạnh của chúng ta có thể giải quyết được”. - ông ta nêu tiếp “và rất nhiều người tin rằng chúng ta không có ý chí và lực lượng, lòng kiên trì và quyết tâm có những hành động cần thiết và duy trì hướng đó”.
Đoạn cuối cùng của ông ta nhấn mạnh một điểm lớn: “May mắn lắm thì cuộc đấu tranh của chúng ta ở Việt Nam sẽ là lâu dài. Dường như điều quan trọng đối với chúng ta là phải làm rõ thực tế cơ bản này và sự hiểu biết của chúng ta về thực tế đó cũng phải được làm cho chính nhân dân chúng ta hiểu rõ”1. Như tôi sẽ liên hệ lại, chuyện đó đã không diễn ra như vậy.
Mac trình bày báo cáo của ông tại một cuộc họp của Hội đồng An ninh quốc gia ngày 8/2/1965, với sự tham gia của các vị lãnh đạo Quốc hội. Tổng thống ủng hộ chương trình ném bom dự kiến nhưng miêu tả nó như một bước để đánh bại xâm lược “mà không leo thang chiến tranh”. Rõ ràng, đây là một tuyên bố không thành thực, hoàn toàn phớt lờ đi tầm vóc của sự thay đổi trong hoạt động quân sự của Mỹ do chương trình đó tạo ra. Johnson biết điều đó, nhưng do sợ ảnh hưởng của nó đối với dư luận, ông đã chọn cách che giấu những bình luận của ông và hy vọng vào những bình luận của người khác: trả lời câu hỏi của Thương nghị sĩ Everett Dirksen rằng ông sẽ nói gì với báo chí, Johnson nhắc ông không được ngụ ý rằng Mỹ đang tìm cách “mở rộng chiến tranh”2.
Mặc dù Tổng thống giữ không cho dư luận biết về sự thay đổi chính sách này, ông đã tìm lời khuyên của một số người có kinh nghiệm ngoài Chính phủ, đặc biệt là cựu Tổng thống Eisenhower. Ông đề nghị Trung tướng Andrew Goodpaster, cựu trợ lý quân sự của Ike, và đồng thời là thành viên của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, báo cáo cho ông cựu Tổng thống. Ông cũng mời Eisenhower gặp ông và các cố vấn cao cấp của ông tại Nhà Trắng.
Tôi đã dự cuộc họp hôm 17/2, Tổng thống, Mac, Bus Wheeler, Andy Goodpaster và tôi – tất cả đều là các sĩ quan trẻ trong Chiến tranh thế giới thứ II - tập trung xung quanh bàn nội các trong hai tiếng rưỡi chiều hôm đó để nghe ý kiến của ông Trung tướng về quyết định ném bom và về Việt Nam nói chung. Ike mở đầu bằng lời phát biểu rằng nhiệm vụ đầu tiên của Johnson là ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á. Thế rồi ông nói rằng ném bom sẽ giúp đạt được mục tiêu đó. Nó sẽ không chấm dứt sự xâm nhập, nhưng sẽ góp phần làm suy yếu ý chí của Hà Nội muốn tiếp tục cuộc chiến. Vì vậy, ông tin rằng đã đến lúc Tổng thống phải chuyển từ các cuộc tiến công trả đũa sang một “chiến dịch gây sức ép”. Khi có một vị mà tôi không nhớ tên nói rằng cần phải có một lực lượng rất lớn gồm 8 sư đoàn Mỹ để ngăn cộng sản chiếm lại Nam Việt Nam, Eisenhower nói ông ta hy vọng sẽ không cần đến như vậy. Ông nói nếu Trung Quốc hoặc Liên Xô đe doạ can thiệp, thì “chúng ta sẽ chuyển lời tới họ rằng hãy coi chừng, nếu không muốn hậu quả khủng khiếp (ví dụ như tiến công hạt nhân) sẽ xảy ra với họ”3.
_______________________________________
1. McGeorge Bundy gửi Tổng thống, 7/2/1965, “T. 3, MỤC 29, 2/8/65 Tình hình ở Việt Nam, Mục B”, Hồ sơ các cuộc họp của NSC (viết tắt là NSCMF), Hộp số 1, NSF, LBJL và phụ lục A, “Chính sách trả đũa được chấp nhận” (do McNaughton soạn thảo cho Bundy), “McGeorgc Bundy - Bảo cáo gửi Tổng thống, t.8, 1/1-2/28/65”, Hồ sơ phụ, McGeorge Bundy, Hộp số 2, sách đã dẫn.
2. Bản tóm lược cuộc họp lần thứ 547 của NSC, 8/2/1965, “T. 3, - Mục 29, 2/8/65, tình hình ở Việt Nam”, NSCMF, Hộp số 1, sách đã dẫn.
3. Báo cáo về cuộc họp với tổng thống, 17/2/1965 (của Goodpaster), “17/2/1965 - 10 giờ sáng. Cuộc họp với Tướng Eisenhower và những người khác”, Hộp số 1, MNF, sách đã dẫn.
Những lời lẽ mạnh mẽ của Ike được nhắc lại trong bản ghi nhớ hiếm có và mạnh mẽ của Dean Rusk gửi Tổng thống. Trong bức thư đó ông ta nói: “Tôi tin rằng sẽ là thảm hoạ cho Mỹ và Thế giới tự do nếu để cho Đông Nam Á bị miền Bắc cộng sản tràn qua”. Ông ta nói thêm: “Tôi cũng tin rằng cần phải làm mọi việc có thể để đẩy lùi cuộc xâm lăng của Hà Nội và Việt cộng, thậm chí dù có mạo hiểm tiến hành leo thang lớn”. Về việc rút quân, Dean viết: “Không thể chấp nhận thương lượng để che đậy cho việc bỏ rơi Đông Nam Á vào tay cộng sản Bắc Việt Nam”1.
Cuối cùng, Tổng thống đã quyết định hôm 17/2 rằng cuộc tiến công thường xuyên miền Bắc sẽ bắt đầu, nhưng ông lại từ chối lời đề nghị của Mac là phải thông báo công khai quyết định này. Lời phán quyết này cuối cùng đã làm cho Tổng thống phải trả giá rất đắt. Vào tháng 2/1965, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy người dân Mỹ ủng hộ mạnh mẽ chính sách Việt Nam của ông. Khi được hỏi “Nước Mỹ nên tiếp tục cố gắng hiện nay của mình ở Nam Việt Nam hay nên rút các lực lượng của chúng ta ra?”, 64% đã ủng hộ “tiếp tục” và chỉ có 18% ủng hộ “rút quân”. Nhưng những con số này thay đổi mạnh trong 3 năm sau, do sự thiếu thành thực liên tiếp của Tổng thống đã làm giảm lòng tin của dân chúng vào tính tin cậy và khả năng lãnh đạo của ông2.
Tại sao Tổng thống Johnson không chịu tin nhân dân Mỹ? Một số người lấy tính kín đáo của ông làm lý do, nhưng câu trả lời thì phức tạp hơn thế nhiều. Có hai nhân tố đặc biệt ảnh hưởng tới ông. Một là, sự lo lắng ám ảnh ông là làm sao để được Quốc hội tán thành và tài trợ cho chương trình nghị sự Xã hội vĩ đại của ông; ông không muốn bất cứ cái gì có thể làm sao nhãng sự quan tâm và giảm bớt nguồn tài lực vào các cuộc cải cách đối nội mà ông ấp ủ. Nhân tố thứ hai là ông rất ngại sức ép của phái bảo thủ của cả hai đảng đòi có hành động quân sự lớn hơn, liều lĩnh hơn, điều đó có thể gây ra các phản ứng, đặc biệt là bằng vũ khí hạt nhân của Trung Quốc và/hoặc Liên Xô. Tổng thống đã đối phó với tình thế tiến thoái lưỡng nan của ông bằng cách che giấu nó đi - một hành động không khôn ngoan, và rốt cuộc mang tính tự hủy hoại mình.
Nỗi sợ thất bại ở Việt Nam đã khiến Tổng thống Johnson chấp nhận ném bom, bỏ qua mọi do dự của ông về tính bất ổn định của Nam Việt Nam*3. Kết quả là, việc ném bom kéo dài của Mỹ chống Bắc Việt Nam được giấu kín dư luận Mỹ, cuối cùng, đã bắt đầu vào ngày 2/3. Hôm đó, hơn 100 máy bay, được phóng từ các tàu sân bay ở biển Nam Trung Hoa và từ các căn cứ không quân ở Nam Việt Nam đã tiến công một kho vũ khí ở Bắc Việt Nam. Chương trình không quân được gọi là chiến dịch “Sấm Rền” đã bắt đầu. Nó kéo dài trong ba năm và khối lượng bom thả ở Việt Nam đã lớn hơn ở toàn châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ II.
__________________________________
1. Dean Rusk gửi Tổng thống, 23/2/1965, “Triển khai”, t.2, các mục 61-87, NSCH, Hộp số 40, NSF, LBJL.
2. Xem George Gallup, “Ném bom Việt Nam đạt được sự đồng ý của 67% dân chúng Mỹ”, Washington Post, 16/2/1965.
* Không gì có thể gạt bỏ những nỗi lo sợ đó, kể cả bản ghi nhớ ngày 5/10/1964 của George Ball mà như tôi đã nói, George đã chuyển tới Tổng thống thông qua Bill Moyers ngày 24/2, và Johnson đã đề nghị phải đưa ra bàn ngày 26/2. Trước đó bản ghi nhớ đó đã được thay thế bằng một bản thứ 2 mà George đệ trình ngày 13/2 (Mac, Tommy Thompson và tôi tán thành bản này), chủ trương ném bom như một phương tiện để “tăng thế mặc cả của Mỹ… tới khi có khả năng đạt một giải pháp chính trị thoả đáng”. Theo bình luận của Ike, bản ghi nhớ của Dean và sự thay đổi lập trường của George, thì hậu quả đã được định sẵn trước cuộc họp ngày 26/2.
3. Xem George Ball gửi Tổng thống, 13/2/1965, “Triển khai”, t.1, các mục 42-60, NSCH, Hộp số 40, NSF, LBJL.
Chiến tranh tự tạo đà cho chính nó và tuân theo quy luật, nhưng hậu quả không được lường trước. Việt Nam đã chứng tỏ không phải là trường hợp ngoại lệ. Việc Tổng thống Johnson ra lệnh mở chiến dịch “Sấm Rền” không những chỉ bắt đầu một cuộc kháng chiến, mà còn bất ngờ khơi mào việc đưa quân đội Mỹ vào tham chiến trên bộ.
Trong lúc Mỹ gia tăng việc chuẩn bị oanh tạc bằng không quân vào tháng 2, Westy đã tìm kiếm thêm lực lượng trên bộ để bảo vệ các căn cứ không quân, nơi xuất phát các cuộc oanh tạc. Ông ta bắt đầu đề nghị đưa hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ đến Đà Nẵng. Đề nghị này đã làm Max phải giật mình và cảnh giác. Mặc dù Max thúc giục cuộc không chiến, ông ta vẫn chống lại mạnh mẽ việc triển khai quân trên mặt đất, và ông đã lập tức điện về Washington, bác lại đề nghị của Westy. Sau này Max nói: “Một khi anh đưa người lính đầu tiên cập bến, anh không thể biết được sẽ có bao nhiêu người lính khác sẽ theo sau anh ta”1. Nhưng nhu cầu đã trở nên cấp bách và việc chuyển quân dường như còn hạn chế, và bên cạnh đó, làm sao Tổng thống có thể bác lời vị Tư lệnh mặt trận đề nghị gửi quân trên bộ để bảo vệ sinh mạng của những phi công Mỹ? Johnson đã chấp nhận đề nghị của Westy.
Một số người cho rằng Westy và các Tham mưu trưởng liên quân muốn triển khai quân lớn hơn nhiều - một học giả đã gọi đây là chiến lược “đưa một chân vào trong cửa” - khi họ lần đầu đề nghị đưa lính thủy đánh bộ vào bảo vệ các căn cứ không quân Nam Việt Nam đang phát động các cuộc tiến công “Sấm Rền”. Theo suy luận, những người này cho rằng Westy và Tham mưu trưởng liên quân đã giấu Tổng thống và tôi ý định rõ ràng của họ muốn khởi đầu bằng việc triển khai quân nhỏ và biết chắc rằng điều này tất yếu sẽ dẫn đến nhiều cuộc triển khai quân lớn hơn”2.
Tôi không thấy bị thuyết phục. Tất cả chúng tôi đáng lẽ phải lường trước nhu cầu đưa quân trên bộ tham chiến ngay từ khi chiếc máy bay chiến đấu đầu tiên bay tới Nam Việt Nam - nhưng chúng tôi đã không làm điều đó. Vấn đề không phải là ở việc cố đánh lừa, mà là ở chỗ không tiên đoán được ảnh hưởng của những hành động của chúng tôi. Nếu chúng tôi làm như vậy, thì chúng tôi cũng đã có thể hành động theo cách khác đi.
Cũng nên lưu ý rằng vào lúc đó ý kiến của các Tham mưu trưởng liên quân bị chia rẽ sâu sắc về chiến lược phù hợp phải theo đuổi ở Việt Nam. Mặc dù họ nhất trí tán thành cuộc không chiến trong bản ghi nhớ ngày 11/2 gửi tôi, Tướng Bruce Palmer (Jr.), lúc đó là Phó Tổng Tham mưu trưởng quân đội, sau này đã nói rằng:
Quân đội Mỹ đã không cho rằng việc ném bom Bắc Việt Nam sẽ mang lại kết quả mong muốn, và Hải quân cũng không chắc về điều này. Chính Không quân và Quân đoàn lính thủy đánh bộ là những người chủ xướng mạnh mẽ việc dùng không lực. Chính Tướng Wheeler đã thuyết phục các Tham mưu trưởng liên quân trình một văn bản đã được thống nhất với lý lẽ rằng nếu chúng ta trình một bản còn có những ý kiến khác nhau, thì điều này sẽ dành cho Bộ trưởng Quốc phòng một sự phán xét quân sự cơ bản và đặt ông ta và Tổng thống vào điểm khó là phải quyết định.
Khi nhận xét những nhà vạch chính sách của quân đội, Palmer nói thêm: “Điểm sai lầm của tôi là đã đồng ý trong một quyết định của Tham mưu trưởng liên quân cho tiến hành và thử những việc này... để xem nó có hiệu quả không”3.
Sau này, Westy cũng đã nói rằng ông đã chống lại việc ném bom kéo dài trước khi đưa Lục quân Mỹ vào Nam Việt Nam. “Thực sự, về nguyên tắc, tôi đã không ủng hộ chiến dịch ném bom cho đến tận năm 1966, khi tôi có đủ quân để tự bảo vệ họ”. Ông tán thành chiến dịch “Sấm Rền” không phải vì ông tin nó sẽ ảnh hưởng đáng kể tới ý chí hoặc khả năng của miền Bắc tái chi viện miền Nam, mà chỉ vì hy vọng nó có thể tăng thêm tinh thần chiến đấu của Nam Việt Nam mà thôi4.
_______________________________________
1. Trích dẫn trong Gốc rễ của sự dính líu: Mỹ ở Việt Nam, Marvin Kalb và Elie Abel (New York: Norton, 1971), tr. 184.
2. George C. Herring đã tranh cãi về điểm này trong văn kiện được giao cho Hội thảo về Việt Nam tại Thư viện Lyndon B. Johnson vào tháng 10/1993.
3. Xem Cuộc chiến tranh lần thứ hai ở Đông Dương do John Schlight hiệu đính (Washington: Văn phòng in ấn của Chính phủ Mỹ, 1986), tr. 154; và Trả lời phỏng vấn của Tướng Bruce Palmer (Jr.), năm 1975, Chuyên viên chính của Chương trình Lịch sử truyền miệng, Viện Nghiên cứu Lịch sử Quân đội và Quân sự Mỹ, Carlisle Barrack, bang Pennsylvania.
4. Sở Nghiên cứu của Quốc hội (viết tắt là CRS), trả lời phỏng vấn của Tướng William C. Weslmoreland, 15/11/1978.
Các sĩ quan cao cấp của quân đội và tư lệnh mặt trận tỏ ra thực tế hơn các tư lệnh không quân cao cấp về tiềm năng của không lực ở Việt Nam. Về phần mình, các tướng lĩnh không quân cao cấp và các đô đốc hải quân có lẽ cũng thực tế như vậy về sự hạn chế của các hoạt động của lục quân.
Mỗi bên đều có thể thấy rõ điểm yếu của bên kia mà không thể nhận ra tính hạn chế của chính mình. Tôi đã chia sẻ sự hoài nghi của cả hai nhóm, nhưng tôi đã không cảm thấy - và tôi cũng không được biết tới sự mâu thuẫn quan trọng đang bộc lộ ra giữa họ với nhau. Vì thế mà những mâu thuẫn đó chưa bao giờ được tranh luận ở cấp cao nhất. Đáng lẽ nên bàn bạc kỹ về chúng.
Tổng thống luôn hoài nghi về những gì mà việc ném bom có thể đạt được. Ông muốn có nhiều tiến bộ trên bộ ở Nam Việt Nam hơn. Ngày 2/3, ông ra lệnh cho Tổng Tham mưu trưởng quân đội, Tướng Harold K. Johnson đi Sài Gòn để đánh giá tình hình và cho ông biết cần phải làm gì thêm.
Tổng thống đã cử đi con người tốt nhất. “HK” Johnson đã từng qua được tháng 3 chết chóc ở Bataan và nếm chịu ba năm thiếu thốn và phải làm tù binh chiến tranh của Nhật trong Chiến tranh thế giới thứ II. Từ những kinh nghiệm đó, ông ta đã xây dựng một ý chí sắt đá, tinh thần dẻo dai kiệt xuất và một tính cách mạnh mẽ*.
Tướng Johnson đã nghe thấy sự đánh giá ảm đạm khi ông tới Sài Gòn. Max nói với ông ta: “vấn đề cơ bản chưa được giải quyết” là tình hình thiếu an ninh cho người dân Nam Việt Nam; vấn đề này chủ yếu xuất phát từ việc chúng ta không có khả năng giành áp đảo về số lượng thậm chí năm đấu một với Việt cộng, trong khi những chiến dịch chống nổi dậy thành công gần đây như ở Philippin và Malaixia cho thấy sự cần thiết phải áp đảo về số lượng - mười hay thậm chí hai mươi đấu một. Westmoreland kiến nghị Mỹ nên áp dụng “bất cứ biện pháp nào cần thiết để làm hoãn lại mãi mãi ngày sụp đổ”.
Vì vậy, không ngạc nhiên gì khi Tướng Johnson chuẩn bị báo cáo của mình đã cho cả một đề nghị tăng thêm lính bộ binh. Trong số những đề nghị khác, ông đề xuất mở rộng chiến dịch không kích Bắc Việt Nam; thiết lập một đội quân đa quốc gia chống xâm nhập vẫn chuyển dọc Khu phi quân sự (DMZ); và triển khai một sư đoàn của Mỹ gồm khoảng 16.000 quân gần Sài Còn hoặc ở cao nguyên miền Trung ở phía bắc thành phố.
Ngày 15/3 Tổng thống và tôi đã gặp Tướng Johnson và các Tham mưu trưởng khác tại Nhà Trắng để xem xét bản báo cáo của ông ta. Tại cuộc họp, Tướng Johnson đã ước tính là với 500.000 lính Mỹ thì phải mất năm năm mới có thể giành chiến thắng1. Ước tính của ông ta đã làm cho không chỉ tôi và Tổng thống, mà cả các Tham mưu trưởng khác nữa phải sửng sốt. Không ai trong chúng tôi đã từng nghĩ tới những con số như vậy.
________________________________________
* Những đức tính đó đã làm cho ông trở thành tiêu biểu cho những gì tôi chứng kiến và ngưỡng mộ trong rất nhiều nhà lãnh đạo quân sự Mỹ lão luyện khác mà tôi đã có dịp phục vụ như: Max Taylor, Bus Wheeler, Westy Westmoreland, George Brown, Larry Norstad, Dave Shoup, Arleigh Burke, Dave Mac Donald, Andy Goodpaster và nhiều người khác. Những con người đó và những người kế vị của họ hôm nay không phải là những kẻ hiếu chiến thích bóp cò như lối những ai không biết gì về quân sự miêu tả về họ. Chẳng hạn, bộ phim “JFK” mang tính tưởng tượng của Oliver Stone có cảnh trong cuộc tranh cử 1964, Tổng thống Johnson như muốn nói: “Thưa các quý vị, các vị dành lá phiếu bầu cho tôi và tôi sẽ dành cho các vị chiến tranh”.
Cảnh như vậy là bất nhã vì tất cả chúng ta nghĩ những người này đã đặt tính mạng của họ và của những con người mà họ có trách nhiệm trước nguy nan và dẫn họ vào trận. Nói rằng những nhà lãnh đạo quân sự muốn chiến tranh là hiểu lầm động cơ của họ. Như tôi nêu rõ trong toàn bộ cuốn sách này, tôi không bao giờ ngại bất đồng ý kiến với các Tham mưu trưởng liên quân khi tôi cho rằng họ đã thiển cận trong tầm nhìn và sai lầm trong phán quyết; nhưng tôi không bao giờ quên rằng họ và những người lính, thủy thủ, phi công thuộc mọi cấp mà họ chỉ huy có một động cơ là lòng mong muốn sâu sắc và cao thượng được phục vụ đất nước mình và sẵn sàng hy sinh tính mạng khi cần để đạt mục tiêu đó.
1. Tướng Andrew Goodpaster trả lời phỏng vấn của CRS ngày 16/11/1978.
Cũng khoảng thời gian này, một sự việc khác xảy ra mặc dù không liên quan tới cuộc chiến tranh, nhưng đã làm rõ một điểm quan yếu, đó là tất cả những người đang đấu tranh với Việt Nam, nhưng chủ yếu là Tổng thống, mỗi ngày gặp phải hàng trăm vấn đề. Ngày 17/3, Mục sư Martin Luther Kinh (Jr.) và các môn đệ của mình đã giành được quyền từ Toà án liên bang cho phép họ tuần hành từ Selma tới Montgomery và Alabama, mà không bị cản trở và không bị quấy rối, để phản đối việc tước quyền bầu cử của người da đen ở miền Nam. Chúng tôi đã nhận được các tin tức tình báo cho biết họ sẽ bị các nhóm bạo lực phân biệt chủng tộc của người da trắng chặn lại. Thống đốc bang Alabama George Wallace đã từ chối sự bảo vệ của bang đối với những người tuần hành, mặc dù ông ta cũng nhận được những tin tức đó.
Tôi nói với Tổng thống Johnson rằng ông ta phải thực thi quyền lực của mình với tư cách là Tổng tư lệnh để liên bang hoá Lực lượng bảo vệ quốc gia của bang Alabama, rồi từ đó tước quyền kiểm soát “không làm gì” của Thống đốc Wallace. Tổng thống đã thẳng thừng từ chối.
Khi tôi kiên quyết phản đối, Tổng thống đã nói: “Bob ạ, đó chính là điều không ổn đối với anh. Đơn giản là anh không hiểu chính trị. Nhiều người dân Alabama sẽ nổi giận trước bất cứ cuộc bạo lực nào do việc Wallace không ra tay, đến nỗi họ sẽ chôn vùi ông ta trong cuộc bầu cử tới đây. Đó là điều tôi mong muốn”.
Tôi nói với Tổng thống: “Tôi cũng muốn chôn vùi thằng cha Wallace như ngài mong muốn vậy, nhưng tôi không muốn thấy hàng chục nếu không phải là hàng trăm người bị thương hay bị giết trong cuộc tuần hành”.
Johnson đã miễn cưỡng nhượng bộ.
Từ ngày 21 đến 24/3/1965 đã diễn ra cuộc tuần hành lịch sử từ Selma tới Montgomery. Quân đội liên bang và cảnh sát Mỹ xếp dọc đường đi đã hạn chế nhiều hành động bạo lực, mặc dầu một người tham gia tuần hành, chị Viola Liuzzo, đã bị bắn chết trên xe hơi.
Đêm sau cuộc tuần hành, khoảng 9 giờ tối, tôi từ Lầu Năm Góc trở về nhà mệt mỏi và đói bụng thì thấy đứa con đầu của chúng tôi, Margy, đang ngồi chờ tôi. Con bé trở về nhà để nghỉ lễ cùng tôi và mẹ nó. Vui mừng vì gặp lại con, tôi hỏi con bé xem chuyến đi về có thú vị không.
Con bé trả lời: “Ôi bố ơi, thật kinh khủng! Con đã ở trên xe buýt 33 giờ đồng hồ”.
Tôi hỏi: “Lạy Chúa, tại sao lại thế?”.
“Con đã tham gia cuộc tuần hành của Martin Luther Kinh từ Selma đến Montgomery”. Lập tức tôi gọi điện thoại cho LBJ và nói: “Thưa ngài Tổng thống, tôi biết ngài đã đau đớn nhường nào về quyết định liên bang hoá Lực lượng bảo vệ bang Alabama. Nhưng vì biết ngài yêu quý cháu Margy, nên tôi chắc giờ đây ngài sẽ nhận thấy mình đã hành động đúng. Con bé là một trong những người tham gia tuần hành!”.
Những chia rẽ quanh vấn đề Việt Nam vẫn sâu sắc. Những chia rẽ này được phân ra làm nhiều loại. Một số người vẫn tiếp tục ủng hộ ném bom miền Bắc. Một số khác tin là để giải quyết được cuộc xung đột cần phải có chiến thắng ở miền Nam. Tuy vậy, vẫn có một số người dần dần tin là chúng tôi không thể chiến thắng và do đó, nước Mỹ phải theo đuổi đàm phán. Sẽ là sai lầm nếu quá đơn giản hoá vấn đề bằng cách phân loại những người có quan điểm lúc thế này lúc thế khác, nhưng cũng không sai nếu nói đơn giản là chúng tôi, với tư cách là một chính phủ, đã không quan tâm tới những vấn đề cốt lõi hay giải quyết được vấn đề.
Những hành động của chúng tôi trong mùa xuân và hè năm 1965 đã minh chứng cho quan điểm này khi chúng tôi liên tiếp giải quyết các yêu cầu tăng thêm quân. Ngày 17/3, Westmoreland đã yêu cầu thêm một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ để đảm bảo an toàn cho căn cứ ở Đà Nẵng. Ngày 19/3, Oley Sharp vẫn đòi thêm một tiểu đoàn nữa. Ngày hôm sau, Hội đồng Tham mưu trưởng đã đệ trình kế hoạch của riêng họ. Lo sợ đang thất bại trong cuộc chiến, họ thúc ép triển khai một sư đoàn lính thủy đánh bộ tới các tỉnh phía nam và một sư đoàn lính bộ binh tới cao nguyên miền Trung để tiến hành các chiến dịch tiến công. Một quyết định phủ bóng lên những cuộc triển khai quân lớn mới1.
Ngày 1/4, chúng tôi đã họp tại Nhà Trắng. Dean, Max và tôi đã chất vấn về tính đúng đắn của đề xuất của các Tham mưu trưởng. Tình cảm chống Mỹ đang âm ỷ bên trong miền Nam, việc đưa một số lượng quân Mỹ tới sẽ có nguy cơ làm cho nó bùng lên. Tổng thống đã chấp nhận đánh giá của chúng tôi. Chúng tôi phản đối đề xuất của các Tham mưu trưởng, nhưng chấp nhận đề nghị tăng thêm hai tiểu đoàn của Westmoreland và Oley, và quan trọng hơn là đã nhất trí thay đổi nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho căn cứ của quân lính thủy đánh bộ sang thường trực chiến đấu. Mặc dù chúng tôi cắt giảm triển khai quân, nhưng chúng tôi đã nới rộng đáng kể nhiệm vụ của họ. Lính bộ binh của Mỹ sẽ trực tiếp tham chiến2.
Việc Tổng thống chấp thuận tăng thêm quân Mỹ ở miền Nam và thay đổi nhiệm vụ của họ, mà trong lúc đó lại không tăng cường không kích miền Bắc, đã làm John McCone không thoải mái. Trong một cuộc họp của Hội đồng An ninh quốc gia ngày hôm sau (và trong một bức giác thư gửi cho Dean, Mac, Max và tôi), McCone đã mạnh mẽ thúc giục mở rộng chương trình ném bom với lý lẽ là chương trình hiện tại sẽ không buộc được Hà Nội thay đổi chính sách của họ.
Tôi đồng ý là chỉ bằng chương trình ném bom hiện nay, chúng tôi không thể buộc được Việt cộng và Bắc Việt Nam thay đổi chính sách của họ. Chỉ trừ một hai người trong số các Tham mưu trưởng liên quân, số còn lại đều cho rằng chỉ riêng ném bom sẽ không tạo ra được chuyển biến. Họ nhất trí là chương trình ném bom chỉ có hiệu quả nếu đồng thời có các hành động khác ở miền Nam để làm cho Việt cộng thấy rằng họ không thể thắng. Muốn làm được việc này cần tăng thêm lính bộ binh Mỹ để bổ sung cho những cố gắng yếu ớt của Quân đội Nam Việt Nam.
McCone không chấp nhận ý kiến này. Ông ta nghĩ là chúng tôi có thể đem lại một sự thay đổi thông qua chương trình ném bom. Tôi tin chúng tôi không thể làm được nếu không có sự giết chóc mà cả ông ta và những người khác đều không dám gợi ý3. Khi Mac soạn thảo bản chỉ thị thông báo về các quyết định ngày 1/4 của Tổng thống cho các bộ liên quan của Chính phủ, Johnson yêu cầu ông ta phải viết là “phải thận trọng tránh công khai khi chưa chín muồi. Bản thân các hành động không thể được tiến hành theo những cách hạn chế tối đa những chuyển biến đột ngột về chính sách... Mong muốn của Tổng thống là những hành động và thay đổi này phải được hiểu là dần dần và hoàn toàn phù hợp với chính sách hiện hành”4.
Những ngày sau, cả Dean, George, Max và tôi đều ra trước các uỷ ban của Quốc hội để chứng minh. Mỗi chúng tôi đều đảm bảo với các thính giả của chúng tôi rằng Tổng thống Johnson, theo lời George, có “chủ ý giữ mối tư vấn gần gũi nhất với Quốc hội về tất cả những động thái như thế này”. Nhưng những lời nói như vậy chỉ làm cho sự khác biệt về lòng tin vào chính quyền ngày càng lớn.
____________________________________
1. Xem CINPAC 192207Z và Báo cáo của JCS 204-65, trích dẫn trong PP, t.3, tr. 406.
2. Xem Ghi chép của McGeorge Bundy tại cuộc họp này ngày 1/4/1965 lưu trong tài liệu của McGeorge Bundy, LBJL.
3. Xem “Nội dung cuộc họp NSC ngày 2/4/1965” do Chester Cooper ghi lại ngày 5/4, “T. 3, Mục 33, 4/2/65, Tình hình ở Nam Việt Nam”, NSCMF, Hộp số 1, NSF, LBJL; và McCone gửi Rusk và những người khác, ngày 2/4/1965, “Triển khai”, t.2, các mục 120-140, NSCH, Hộp số 40, LBJL.
4. Xem NSAM 328, 6/4/1965, in lại trong PP, t.3, tr. 702-703.
Khi hành động quân sự của Mỹ tăng lên, một giải pháp chính trị cho cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn luôn thường trực trong suy nghĩ của chúng tôi. Ngày 6/3, Mac đã báo cáo lên Tổng thống cuộc thảo luận với Dean và tôi đêm hôm trước:
Hai trong ba chúng tôi (ý nói ông ta và tôi) cho rằng những cơ hội của một sự chuyển biến ở Nam Việt Nam vẫn kém ổn định... Vẫn còn một câu hỏi trong tâm trí chúng tôi là chúng tôi nên mở rộng cửa đến chừng nào để sẵn sàng chấp nhận “đàm phán”. Đây là điểm mà Dean và đặc biệt là Bob hết sức quan tâm. Cả hai người, vì những lý do khác nhau, đều cho rằng điều quan trọng là phải thấy rằng chúng ta sẵn sàng đàm phán về Việt Nam luôn theo những điều kiện của chúng ta bằng tất cả các kênh quốc tế thích hợp... Nhưng Bob còn đi xa hơn thế nữa. Ông ta tin là chúng ta nên tìm cách để có được các cuộc đàm phán thực sự tại một hội nghị quốc tế. (Tôi cho rằng mục đích của ông ta là chúng ta sẽ cần một bàn hội nghị nếu tình hình trở nên xấu đi, như ông ta tin như vậy)1.
Mac đã truyền đạt chính xác mối quan tâm của tôi. Đến thời điểm này, năm 1965, tôi đã cho rằng chúng tôi phải tiến hành mọi nỗ lực để làm cho các cuộc đàm phán dẫn tới chỗ kết thúc cuộc xung đột. Đây vẫn là quan điểm của tôi cho tới khi tôi rời Lầu Năm Góc.
Đầu tháng 4 đã có hai đề án đàm phán. Tổng Thư ký Liên hợp quốc U Thant đã đề xuất một cuộc ngừng bắn dọc chiến tuyến giữa Bắc và Nam Việt Nam, và 17 quốc gia không liên kết kêu gọi đàm phán “không có các điều kiện tiên quyết”. Ngày 7/4, trong một bài phát biểu quan trọng tại trường Đại học Johns Hopkins, Tổng thống Johnson đã bác bỏ ý kiến đầu nhưng đáp lại đề xuất sau.
Trong bài phát biểu này, ông ta đã bày tỏ sự sẵn sàng đàm phán vô điều kiện. Đồng thời, Tổng thống nhấn mạnh: “Chúng ta sẽ không bị thất bại. Chúng ta sẽ không trở nên mệt mỏi. Chúng ta sẽ không rút lui hoặc công khai hoặc dưới bóng của một thoả thuận vô nghĩa... Và chúng ta phải chuẩn bị cho một cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn lâu dài”. Để tìm cách dụ Việt cộng và Bắc Việt Nam vào một thoả thuận, sau đó Tổng thống đã vạch ra một kế hoạch phát triển một tỷ đôla cho Đông Nam Á mà theo lời ông ta thì “trong tầm của một nỗ lực hợp tác và kiên quyết”2.
Ngay lập tức, Hà Nội lên án bài phát biểu và đưa ra công thức hoà bình “Bốn điểm” làm cơ sở cho việc hoà giải trong suốt cuộc xung đột. Họ đề nghị chúng tôi công nhận những quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, kể cả quyền sống không có quân đội nước ngoài; rằng hai “miền” của Việt Nam tránh các liên minh quân sự với nước ngoài để chờ thống nhất; và việc thống nhất phải do nhân dân ở cả hai miền thực hiện. Tất cả những điều này chúng tôi đều có thể chấp nhận được. Nhưng điểm cuối cùng - “các công việc nội bộ của Nam Việt Nam phải do chính nhân dân Nam Việt Nam giải quyết phù hợp với chương trình của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Nam Việt Nam (tác giả nhấn mạnh) - rõ ràng là điểm then chốt của cuộc tranh chấp. Chấp nhận điểm này tức là chấp nhận quyền kiểm soát Nam Việt Nam của cộng sản.
__________________________________
1. McGeorge Bundy gửi Tổng thống, 6/3/1965, “Các báo cáo gửi Tổng thống, t.9, tháng 3-14/4/1965”, Các hồ sơ phụ, McGeorge Bundy, Hộp số 3, NSF, LBJL
2. Phát biểu tại Trường Đại học Tổng hợp Johns Hopkins: “Hoà bình không có xâm lăng”, 7/4/1965, Tài liệu công khai: Lyndon B. Johnson, 1965, q. 1, tr. 394-399.
Trong khi đó, các Tham mưu trưởng liên quân, CINCPAC, Westmoreland và tôi, tất cả vẫn giải quyết các sự vụ trên cơ sở từng ngày mà nhẽ ra chúng tôi, đặc biệt là tôi, với tư cách là Bộ trưởng, phải mạnh mẽ hơn nữa trong việc xây dựng một chiến lược quận sự và một kế hoạch lâu dài cho cơ cấu quân lực cần thiết để triển khai.
Ngày 6/4, CIA thông báo cho Tổng thống Johnson là Hà Nội đã chuyển một tiểu đoàn quân đội Bắc Việt Nam vào cao nguyên miền Trung và các đơn vị quân chính quy gần Đà Nẵng. Các Tham mưu trưởng đã đáp lại những diễn biến này bằng cách yêu cầu điều tới Nam Việt Nam thêm hai lữ đoàn nữa (khoảng 8.000 quân), Westmoreland đã tán thành đề nghị của họ nhưng Max thì không. Chỉ được biết về đề nghị này sau khi nó đã được đưa ra, nên Max đã tức giận gửi ngay một bức điện tới Nhà Trắng nói rằng: “Đề nghị này cho thấy sự ngần ngại dấn vào một cuộc chiến tranh trên bộ rõ hơn điều tôi đã bày tỏ ở Washington trong chuyến đi gần đây của tôi”1.
Cùng với tình hình ngày càng xấu đi và cảm giác là cần phải làm thêm điều gì đó, Tổng thống đã ngả theo hướng thông qua đề xuất của các Tham mưu trưởng. Tuy nhiên, do mối lo ngại của Max mà Tổng thống đã yêu cầu tôi gặp Max và các quan chức cấp cao khác ở Honolulu để xem xét yêu cầu triển khai thêm quân.
Ngày 20/4/1965 chúng tôi đã gặp nhau. Ngồi quanh một chiếc bàn hội nghị lớn dưới một hàng đồng hồ tại Sở chỉ huy Thái Bình Dương, chúng tôi bắt đầu bằng việc thảo luận chương trình ném bom Bắc Việt Nam. Một vài ngày trước, Max đã bày tỏ ý kiến của mình khi ông ta đánh điện cho Dean: “Không một mức độ bắn phá nào... sẽ buộc được Hà Nội ngừng các hành động của họ... mà cũng không có tiến triển thực sự trong việc chống Việt cộng ở Nam Việt Nam. Phải làm cho Hà Nội tin là Việt cộng không thể thắng được ở đây”.
Hoàn toàn đơn giản, ý ông ta nói rằng chỉ riêng ném bom thôi thì không thể làm được gì. Lúc đó tôi cũng đồng ý với kết luận này, tôi vẫn tiếp tục giữ ý kiến này trong suốt thời gian làm Bộ trưởng còn lại, và như sau này tôi sẽ bình luận, những năm sau tôi đã chẳng nhìn thấy gì, đọc được gì và nghe thấy gì cả để thay đổi ý kiến của mình. Mặc dù một, hai người trong Hội đồng Tham mưu trưởng không đồng tình với tôi (và quan điểm của tôi sau này đã gây ra tranh cãi gay gắt), nhưng mọi người tại cuộc họp – Max, Westmoreland, Bus, Oley, Bill Bundy và John McNaughton - đồng ý rằng ném bom không thôi không phải là giải pháp.
Do vậy, chúng tôi đã chuyển sự chú ý của mình vào điều có thể làm được ở miền Nam. Có sự nhất trí chung về việc cần tăng thêm quân Mỹ để giữ cho Sài Gòn khỏi sụp đổ. Nhưng bao nhiêu? Theo đuổi chiến lược gì? Với kết quả gì? Ở đây đã xuất hiện bất đồng đáng kể. Bus, Oley và Westmoreland lại nhắc lại đề nghị thêm hai sư đoàn cộng với hai lữ đoàn mà Max đã phản đối; và họ thêm các yêu cầu về lực lượng hỗ trợ hậu cần. Tổng số quân tham chiến đã lên tới xấp xỉ 60.000. Với sự ủng hộ của Max, tôi đã bác bỏ việc thêm hai sư đoàn vì không có giải trình rõ ràng về việc họ sẽ được sử dụng như thế nào, nhưng tôi đồng ý ủng hộ các yêu cầu khác. Điều này có nghĩa là một mức tăng đáng kể về lực lượng Mỹ ở Việt Nam, từ 33.000 lên 82.0002.
Tôi trình những kiến nghị của tôi lên Tổng thống trong một cuộc họp tại Phòng họp nội các ngày 21/4. Tôi thúc giục Tổng thống ngay lập tức thông qua con số triển khai quân để hỗ trợ Nam Việt Nam chống lại một cuộc tiến công theo dự đoán của cộng sản trong khi ngăn chặn “sự thất bại của Chính phủ Việt Nam (Nam Việt Nam) hay của quân đội Mỹ”. Tôi biết rằng số quân lớn như vậy cùng với nhiệm vụ chiến đấu mới của quân đội có nghĩa là sẽ không tránh khỏi con số thương vong cao và sự chú tâm sát sao hơn của công chúng tới cuộc chiến tranh. Cho nên, tôi đã giục Tổng thống Johnson thông báo cho các nhà lãnh đạo Quốc hội về cả “các cuộc triển khai quân dự tính” và “thay đổi gần đây- về nhiệm vụ của quân đội Mỹ ở Việt Nam”3. Nhưng Tổng thống không muốn làm như vậy và khi gửi điện cho Max thông báo về quyết định thông qua các kiến nghị ở Honolulu, ông đã viết: “Không phải chúng ta có ý định tuyên bố toàn bộ chương trình vào lúc này, nhưng sẽ công bố các cuộc triển khai riêng vào những thời điểm thích hợp”. Ngay sau đó, vào đầu tháng 5, Tổng thống đã trình bày một đề nghị bổ sung riêng trước Quốc hội với nội dung: “Đây không phải là một sự lạm dụng thông thường... Mỗi một nghị sĩ Quốc hội ủng hộ đề nghị này cũng sẽ bỏ phiếu tán thành nỗ lực của chúng ta nhằm chặn đứng sự xâm lược của cộng sản ở Nam Việt Nam”. Dự luật này đã được thông qua với số phiếu thuận 408-7 ở Hạ nghị viện và 88-3 ở Thượng nghị viện4.
________________________________________
1. Embtel 3248 (Sài Gòll), Taylor gửi Rusk, 7/4/1965, “T.32”, CF, Việt Nam, Hộp số 16, NSF, LBJL.
2. Xem John McNaughton, “Những phút giây ngày 20/4/1965 - cuộc họp ở Honolulu”, trong “McNaughton XV - Tạp văn, 1964- 1966”, Hồ sơ John McNaughton, Tài liệu của Paul Warnke (viết tắt là PPW), Hộp số 7, LBJL.
3. Báo cáo gửi Tổng thống, 21/4/1965, “Việt Nam 2EE, 1965-67” CF, VN, Hộp số 74/75, NSF, LBJL.
4. Xem Phác thảo của Rusk gửi Taylor, 22/4/1965, “T. 32”, CF, VN, Hộp số 16, NSF, LBJL; phác thảo cuối cùng có bổ sung, Deptel 2397, Rusk gửi Taylor, 22/4/1965, “NODIS-LOR, t.2(B)”, CF, VN, Hộp số 45/46, NSF, LBJL; và các cuộc họp báo của Tổng thống, 27/4/1965, Tài liệu công khai: Lyndon B. Johnson, 1965, q 1 tr. 448-456.
Phản ứng trước các kiến nghị được đưa ra tại Honolulu, George Ball, người cùng tham gia cuộc họp ngày 21/4, lập luận rằng chúng ta, “không nên mạo hiểm lao vào mà không khai thác các khả năng của một giải pháp”. Tổng thống trả lời: “Được, George ạ! Tôi cho anh, đến ngày mai phải lên cho tôi một kế hoạch về giải pháp. Nếu anh làm được, tôi sẽ hoàn toàn ủng hộ anh”1.
Đêm đó, Ball đệ trình lên Tổng thống một kế hoạch giải pháp. Ball bắt đầu bằng cách nói rằng: “Chúng ta phải trong tư thế sẵn sàng khi có một giải pháp xuất hiện trước khi đạt được cái đích mà chúng ta đã nói công khai, nhưng giải pháp đó vẫn phải đáp ứng các mục tiêu cơ bản của chúng ta (nghĩa là một Nam Việt Nam độc lập không bị cộng sản kiểm soát)”.
Không một ai trong chúng tôi - Tổng thống, Dean, Mac và tôi - bác bỏ quan điểm đó. Nhưng một lần nữa, tài liệu của Ball vẫn không nói được là làm thế nào để đạt được các mục tiêu chúng tôi cần có.
George nói chúng ta không nên chấp nhận một chính phủ liên hiệp kiểu của Lào, nhưng nên để cho đại diện của Việt cộng tham gia vào các cuộc bầu cử tự do. Ông nói thêm: “Tất nhiên, chúng ta không thể đồng ý về bất cứ một giải pháp nào về các điều khoản đó mà không đòi hỏi rằng các đơn vị Việt cộng ở miền Nam phải bị giải tán và Việt cộng phải hoà nhập vào đời sống dân tộc của đất nước này”. Tổng thống, Dean, Mac và tôi cũng đồng ý với điều này. Nhưng George không làm rõ được là làm thế nào đạt được các cuộc “bầu cử tự do” nếu Bắc Việt Nam khăng khăng đòi một giải pháp phải “phù hợp với chương trình của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam”. Ông ta cũng không nói được phải làm thế nào để đạt được các mục tiêu khác mà ông ta đã nêu ra2.
Điều mà George đã thực sự đề nghị - mà có lẽ chúng tôi đã không làm được một cách cụ thể - là nhờ các nước trung gian (như Thuỵ Điển, Liên Xô, 17 nước không liên kết) nói rõ với Hà Nội rằng chúng tôi chấp nhận lập trường mà ông đã nêu ra. Trong vài tuần sau đó, chúng tôi có liên hệ với một đại diện của Bắc Việt Nam tại Paris. Chúng tôi đã cố gắng có được nhiều cuộc gặp gỡ khác trong ba năm tiếp theo. Nhưng chúng tôi đã không sử dụng hết các kênh tiếp xúc có thể có và đã không truyền đạt được rõ ràng lập trường của chúng tôi.
Mấy ngày sau, tôi bảo John McNaughton soạn thảo một đề nghị ngừng ném bom một tuần. Tôi hy vọng đề nghị đó sẽ dẫn đến việc Hà Nội ngồi vào thương lượng và giảm sự ủng hộ đối với quân nổi dậy, qua đó tăng cường sự ủng hộ ở trong nước và quốc tế đối với chính sách của chính quyền Mỹ. Giống như mọi đề nghị ngừng ném bom sau này của tôi, nó đã gây ra những tranh cãi đáng kể trong nước. Nhiều vị chỉ huy quân sự cao cấp phản đối vì họ e rằng Bắc Việt Nam sẽ lợi dụng đề nghị đó để tăng cường thâm nhập. Một số cố vấn của Tổng thống sợ rằng Hà Nội sẽ lừa chúng ta vào tròng bằng cách chấp nhận đàm phán nếu Mỹ tiếp tục ngừng ném bom, từ đó Bắc Việt Nam sẽ duy trì, thậm chí tăng cường ủng hộ Việt cộng với sự bảo đảm không có ném bom. Còn số khác sợ rằng cánh hữu ở Mỹ sẽ cho đây là một hành động yếu kém và đòi ném bom nhiều hơn nữa nếu như nó không nhanh chóng đem lại kết quả.
Nhưng trong mấy tuần gần đây, những lời chỉ trích chính sách Việt Nam của Tổng thống Johnson nổi lên đáng kể trong các nghị sĩ Quốc hội và các nhân sĩ tự do, và Tổng thống Johnson phiền muộn phải tìm cách trả lời và làm dịu những lời chỉ trích đó. Chính điều này, chứ không phải một niềm tin cá nhân rằng ngừng ném bom ở giai đoạn này sẽ dẫn đến đàm phán, đã dẫn Tổng thống đến việc chấp nhận đề nghị của tôi.
Dẫu sao thì một cuộc ngừng ném bom không tuyên bố đã bắt đầu ngày 13/5. Cùng ngày hôm đó, Đại sứ Mỹ tại Matxcơva, Foy Kohler nhận được chỉ thị chuyển thông điệp cho Đại sứ Bắc Việt Nam tại đây. Bản thông điệp viết “Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã xem xét các ý kiến... của các đại diện của Hà Nội là sẽ không có hoà bình nếu còn các trận oanh kích vào Bắc Việt Nam... Hợp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ rất thận trọng xem xem liệu trong thời gian ngừng ném bom này phía Hà Nội có giảm đáng kể các hoạt động quân sự của Việt cộng và Bắc Việt Nam hay không”3. Đại sứ Hà Nội từ chối không gặp Kohler. Tối hôm đó, một quan chức ngoại giao Mỹ cấp thấp hơn đã gửi tay bức thông điệp đến Đại sứ quán Bắc Việt Nam. Bức thông điệp không một lời nhận xét được nhét trong một phong bì màu trắng toát, bên ngoại ghi “Đại sứ quán Mỹ” được gửi trả lại vào sáng hôm sau.
Bị cự tuyệt và lo ngại cánh hữu chỉ trích, Tổng thống nói ông dự định nối lại các cuộc ném bom khi họp nội các vào ngày 16/5. Tôi nài xin Tổng thống khoan hãy làm như vậy, và cho rằng chúng ta phải theo kế hoạch ban đầu ngừng ném bom trong bảy ngày để Hà Nội có thời gian suy nghĩ cách trả lời. Nhưng Tổng thống nghĩ rằng nếu Hà Nội quan tâm thì họ đã phải trả lời rồi. Cuối cùng, chúng tôi thoả hiệp là ngừng ném bom sáu ngày. Chiến dịch ném bom tiếp tục vào ngày 18/5.
_______________________________________
1. Trích dẫn của Johnson trong Quá khứ có thêm dạng mới: Các hồi ký, George W. Ball, (New York: Norton, 1982), tr. 393.
2. Ball gửi Johnson, 21/4/1965, “Các tài liệu về đường lối chính trị, 4/65”, CF, VN, Hộp số 213, NSF, LBJL.
3. Xem Hoạt động ngoại giao bí mật trong chiến tranh Việt Nam: Văn kiện hội đàm trong tài liệu của Lầu Năm Góc, do George C. Herring hiệu đính (Austin: Nhà xuất bản Trường Đại học Tổng hợp Texas, 1983), tr. 57-58.
Ba tuần tiếp theo đó là quãng thời gian đầy lo âu và thất vọng của Tổng thống và chúng tôi, những cố vấn của ông. Tình hình bất ổn định chính trị ở Nam Việt Nam trở nên trầm trọng hơn – nếu có khả năng. Những người Thiên chúa giáo và Phật giáo trong và ngoài quân đội âm mưu chống lại chính quyền quân sự của Phan Huy Quát. Một cuộc đảo chính vừa thất bại thì tiếp theo là một cuộc đảo chính khác do các sĩ quan trẻ thực hiện đã thành công. Họ lập tướng Nguyễn Văn Thiệu, 42 tuổi làm người đứng đầu nhà nước và tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ, 35 tuổi làm Thủ tướng. Phó Đại sứ Mỹ Alex Johnson mô tả Kỳ như là “một tên lửa không điều khiển”. Ông ta là con người như vậy. Ông ta uống rượu, đánh bạc và chơi gái khủng khiếp. Ông ta ăn mặc rất phô trương; thường tôi thấy ông ta mặc một bộ quần áo bay mầu đen có khoá kéo, dây lưng có hai khẩu súng lục cán khảm trai. Ông ta còn có những câu nói thái quá: khi được hỏi ông ngưỡng mộ ai nhất. Ông ta trả lời: “Tôi ngưỡng mộ Hítle... Chúng ta cần bốn hoặc năm Hítle ở Việt Nam”. Bill Bundy sau này,nhận xét Kỳ và Thiệu là “những kẻ trống rỗng, hoàn toàn trống rỗng”1.
Trong khi đó, tính kém hiệu quả của việc ném bom làm tăng thêm sức ép mở rộng chiến tranh trên bộ. Ngày 3/6, Max điện về Washington: “Chúng ta phải thấy rõ rằng chúng ta không tin là bất cứ một khối lượng bom nào tự bản thân nó có thể ngăn được Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (DRV) chấm dứt và từ bỏ hoạt động quân sự của họ ở miền Nam. Một sự thay đổi như vậy trong thái độ của DRV chỉ có thể xảy ra khi ở phía họ cũng có sự nhận thức rằng thủy triều đã hoặc sẽ cuốn trôi họ ở miền Nam”2.
Hai hôm sau; anh ta lại gửi một bức điện nữa mô tả quân đội Nam Việt Nam mắc căn bệnh trầm trọng do sự chỉ huy tồi, tệ đào ngũ và trượt nhanh trên con đường sụp đổ. Là người nhiều tháng qua chống lại việc đưa quân Mỹ vào chiến đấu ở miền Nam, giờ đây Max rút lui ý kiến của mình, viết rất cần thiết phải có lực lượng bộ binh Mỹ chiến đấu trên chiến trường”3.
Chiều thứ bẩy, ngày 5/6, Dean, Mac, Bill, George, Tommy Thompson và tôi họp tại văn phòng của Dean để thảo luận về bức điện của Max. Đột nhiên và ngoài dự kiến, Tổng thống bước vào. Rõ ràng là Tổng thống đi có một mình. Bà Bird đi vắng. Tổng thống nói, ông đến để kiếm vài người đi cùng. Nhưng cái mà ông được lại là một gáo nước lạnh.
Càng đọc điện của Max, ông càng lo lắng. Dean cố tỏ ra còn hy vọng, nhưng tôi nói: “Chúng ta không tìm thấy gì ngoài sự bế tắc ở miền Nam, chúng ta có thể chiến thắng trong cuộc chiến này không? Tôi không biết. Cộng sản vẫn luôn nghĩ rằng họ đang thắng”.
Tổng thống lắng nghe. Ông tỏ ra bồn chồn và lo lắng. Ông kết luận một cách đen tối: “Điều nguy hiểm nhất là ngày nào chúng ta cũng sẽ vớ được một vấn đề rất lớn”4.
Tổng thống đã rất đúng.
“Quả bom” đã nổ vào ngày 7/6, Hôm đó, Westy đã gửi một bức điện về Lầu Năm Góc, nói rằng:
“Cuộc chiến ở Đông Nam Á đang trong quá trình tiến đến một mức độ cao hơn. Một số lực lượng PAVN (Bắc Việt Nam) đã vào Nam Việt Nam (SVN) và có thể còn rất nhiều lực lượng đang trên đường vào... Cho đến nay, Việt cộng chưa sử dụng hết khả năng của họ trong chiến dịch này... Trái lại, lực lượng ARVN (quân đội Nam Việt Nam) đã nếm mùi thất bại khi phải đương đầu với sức mạnh bổ sung của Việt cộng. Tỷ lệ quân đào ngũ cao quá mức. Thiệt hại trên chiến trường cao hơn nhiều so với dự kiến... Do đó, quân đội Nam Việt Nam (ARVN) bắt đầu có biểu hiện lừng chừng không muốn tiến công và trong một số trường hợp thật đáng nghi ngờ khả năng cầm cự của họ trong các trận giao tranh... Tỷ lệ quân số tiếp tục có lợi cho Việt cộng... Chính quyền Nam Việt Nam không thể đứng vững trước một sức ép như vậy nếu không có sự chi viện... Tôi không thấy chúng ta có một giải pháp nào trừ việc tăng thêm các nỗ lực của chúng ta ở Nam Việt Nam, bằng cách tăng thêm quân Mỹ hoặc quân đội của nước thứ ba khác càng nhanh càng tốt trong những tuần quyết định tới… Mục đích cơ bản của việc triển khai thêm quân là nhằm tạo cho chúng ta khả năng tiến công có sức đánh mạnh trên chiến trường để cho Việt cộng thấy rằng họ không thể tháng được”.
Westy nói, trước mắt, ông ta cần thêm 41.000 quân chiến đấu và sau đó cần thêm 52.000 quân, đưa tổng số quân Mỹ từ 82.000 quân lên 175.000 quân. Đoạn cuối của bức điện viết “Cần phải tiếp tục nghiên cứu và lên các kế hoạch khi nào cần triển khai thêm nhiều quân hơn nữa”. Yêu cầu của ông ta có nghĩa là một sự dính líu quân sự mạnh mẽ không có đoạn kết của Mỹ5.
Trong số hàng ngàn bức điện, tôi nhận được trong vòng bảy năm ở Bộ Quốc phòng, đây là bức điện làm tôi lo lắng nhất. Chúng tôi bị ép phải ra quyết định. Chúng tôi không thể trì hoãn lâu hơn nữa quyết định lựa chọn con đường nào phải đi. Trong bảy tuần liền, vấn đề này treo lơ lửng trên đầu chúng tôi như một đám mây đầy hăm doạ.
______________________________________
1. Kỳ phỏng vấn Brian Moynahan, đăng trên Tấm gương Chủ nhật (London), 4/7/1965, tr. 9; và bản tốc ký, Phỏng vấn Lịch sử truyền miệng William Bundy, 29/5/1969, do Paige E. Mulholand thực hiện, mục 2, tr. 30, LBJL.
2. Embtel 4035 (Sài Gòn), Taylor gửi Rusk, 3/6/1965, “T. 2(A), 3/65-9/65”, CF, VN, Hộp số 45/46, NSF, LBJL.
3. Embtel 4074 (Sài Gòn), Taylor gửi Rusk, 5/6/1965, “Triển khai”, t. 4, các mục 258-280, NSCH, Hộp số 41, NSF, LBJL.
4. Xem Tài liệu của McGeorge Bundy, LBJL; và WB, VNMS, Chương 26, tr.3-6.
5. MACV 19118, Westmoreland gửi Sharp và Wheeler, 7/6/1965, “Triển khai”, t.4, các mục 258-280, NSCH, Hộp số 41, NSF, LBJL.
Sáng hôm sau, chúng tôi bắt đầu họp phân tích trong Phòng Bầu Dục.
Nam Việt Nam tỏ ra suy sụp nhanh chóng, mà phương thuốc duy nhất là sự nhảy vào ồ ạt của quân Mỹ. “Chúng ta đang ở trong một mớ bòng bong”, tôi nói với mọi người. Nhưng cũng giống như họ, tôi không biết làm sao thoát ra được1.
Cuộc thảo luận tiếp tục vào ngày 10/6. Có một người - tôi không nhớ là ai - bắt đầu cuộc thảo luận bằng cách nói “Nhân dân Mỹ cảm thấy chúng ta bưng bít tin tức”. Tôi cũng nghĩ như vậy. Từ lâu chúng ta đã lẩn tránh dư luận.
Tổng thống hỏi chúng tôi một cách dồn dập các câu hỏi khác nhau, như:
Hỏi: Liệu có còn cần tăng số lính Mỹ lên hơn con số 175.000 không?
Trả lời: Đó có vẻ là khả năng tối ưu để có thể ngăn chặn thành công của ARVN.
Hỏi: Chúng ta làm cách nào để tự giải thoát mình?
Trả lời: Hy vọng về một giải pháp làm tê liệt Việt cộng và luôn gây sức ép với Bắc Việt Nam.
Hỏi: Mục đích của chúng ta là gì?
Trả lời: Có người nói là làm tê liệt. Có người coi mục đích của chúng ta là quyền tự quyết của Nam Việt Nam.
Hỏi: Liệu có điều gì mà chúng ta đã không đả động đến trên mặt trận đàm phán?
Trả lời: Mở mối liên lạc với Việt cộng. Nhưng điều này có nguy cơ là một đòn mạnh giáng vào tinh thần của Sài Gòn và không hứa hẹn nhiều hy vọng thành công. Dean tin rằng thương lượng với Việt cộng thực sự là một đảm bảo cho thất bại.
Hỏi: Cuộc ngừng ném bom tháng 5 có tạo ra ảnh hưởng xấu không?
Trả lời: ở Sài Gòn thì ít. Nó đã loại trừ một điểm mà các nhà phê bình sử dụng. Nhưng sự phản đối cả trong nước lẫn ngoài nước vẫn còn là: chúng ta đang hướng tới đâu? Mac và tôi đã gợi ý giải thích thêm, thúc giục Tổng thống làm rõ điều mà ông dự định làm thông qua một bài phát biểu quan trọng.
Trong cuộc họp, Tổng thống đã chỉ thị phải hỏi Westmoreland xem tiếp sau sẽ là chiến lược và chiến thuật quân sự nào; Việt cộng và Bắc Việt Nam sẽ đáp lại như thế nào; Mỹ sẽ phải chịu con số thương vong cao đến đâu; sẽ có những hành động trả đũa nào đối với các hành động của Mỹ và khi nào thì điều đó sẽ xảy ra. Việc không có lời giải đáp cho những câu hỏi này đã hạn chế việc ra quyết định của chúng tôi trong những tháng tới2.
Các sự kiện đã làm tôi lo lắng về mức độ dính líu của chúng tôi. Trong một cuộc nói chuyện qua điện thoại với Tổng thống Johnson tối hôm đó, tôi nói với ông ta: “Trong thâm tâm, tôi thấy có một sự hạn chế rất rõ ràng về cam kết quân sự của chúng ta, nhưng tôi không nghĩ là các Tham mưu trưởng cũng có cùng ý kiến này. Thực ra, tôi biết là họ khống đồng tình”.
Tổng thống hỏi: “Ông có cho là đề nghị của Westmoreland là nấc thang tiếp theo không?”.
Tôi trả lời: “Đúng. Họ hy vọng là họ không phải đi tiếp nữa. Nhưng trong bức điện của mình, Westmoreland vạch ra bước tiếp theo vượt khỏi giới hạn đó. Và ông ta không nói đó là bước cuối cùng”3.
_____________________________________
1. Tài liệu của McGeorge Bundy, LBJL.
2. Sách đã dẫn.
3. 10/6/1965, 6 giờ 40 chiều, Mục 6506.02, Chương trình Số (viết tắt là PNO) 8, PR, LBJL.
Giữa lúc tình hình còn chưa rõ ràng và đang rối loạn này, ngày 16/6, tôi gặp gỡ với giới báo chí. Khi được hỏi: “Ngài có dự đoán trước là sẽ có sự gia tăng về quân số từ 70.000 đến mức 75.000 quân không?”. Tôi trả lời: “Ngài Bộ trưởng Ngoại giao và tôi và cả Tổng thống, đã nhiều lần nói rằng chúng ta sẽ làm tất cả những gì cần thiết để đạt được mục tiêu của chúng ta ở Nam Việt Nam. Tôi chỉ có thể trả lời như vậy đối với câu hỏi của ông”. Khi được hỏi: “Chiến lược tổng thể của Hoa Kỳ là gì?”, tôi trả lời: “Mục tiêu của chúng ta, chiến lược của chúng ta là làm cho người Bắc Việt Nam tin rằng hoạt động du kích được cộng sản xúi giục, chỉ đạo và hậu thuẫn nhằm lật đổ chính quyền đã được lập nên ở miền Nam là không thể thực hiện được và sau đó là đàm phán với chúng ta về hoà bình và an ninh của đất nước này trong tương lai”1.
Cùng ngày, Andy Goodpaster đã tới trang trại Gettysburg của Eisenhower theo chỉ thị của Tổng thống Lyndon Baines Johnson để trình bày với vị cựu Tổng thống này về yêu cầu sử dụng quân lính của Westy. Lời khuyên của Ike đơn giản và thẳng thắn: hiện nay Hoa Kỳ đã “sử dụng đến vũ lực” ở Việt Nam, và vì vậy, “chúng ta phải chiến thắng”. Yêu cầu sử dụng quân lính của Westy cần phải được đáp ứng.
Chiều ngày hôm sau, Tổng thống Johnson đã xem xét kết quả cuộc thăm dò dư luận cho thấy dân chúng ủng hộ cho việc có hành động mạnh mẽ hơn nữa. 65% dân chúng tán thành cách xử lý cuộc chiến tranh của ông. 47% dân chúng ủng hộ gửi thêm quân tới Nam Việt Nam. Con số này gấp đôi con số những người trả lời “không chắc chắn” (23%); và gấp hai lần rưỡi số người “muốn giữ nguyên quân số hiện nay” (19%); và gấp hơn bốn lần số người muốn rút quân khỏi Việt Nam (11%)2.
Nhưng Tổng thống biết rõ dư luận sẽ thay đổi nhanh như thế nào. Ngày 21/6 ông nói với tôi:
Tôi nghĩ rằng sẽ đến lúc... tình thế sẽ trở nên khó khăn đối với chúng ta khi theo đuổi một cuộc chiến tranh ở xa nước Mỹ với các sư đoàn chúng ta hiện có và đặc biệt là các sư đoàn quân sẽ có mặt tại đó. Điều đó đã khiến cho tôi trăn trở một tháng trời nay và tôi cảm thấy rất buồn phiền về nó, vì tôi không thấy chương trình nào của cả Bộ Quốc phòng lẫn Bộ Ngoại giao có thể đem lại cho tôi hy vọng làm được gì đó ngoài việc cầu nguyện và cố gắng cầm cự được trong suốt mùa mưa và hy vọng rằng cộng sản sẽ từ bỏ mục tiêu của họ. Và tôi không tin là có lúc nào đó họ sẽ từ bỏ. Và tôi không thấy... chúng ta có một kế hoạch nào giành thắng lợi cả về mặt quân sự hay ngoại giao... Russell* cho rằng chúng ta phải sử dụng một trong những lần thay đổi (chế độ) này để rút khỏi Nam Việt Nam. Tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể rút khỏi nơi đó với thoả thuận của chúng ta như hiện nay và với tất cả những gì chúng ta đã nói. Tôi cho rằng việc rút chạy sẽ làm mất mặt chúng ta trên thế giới, và tôi rùng mình khi nghĩ về những gì mà họ sẽ nói khi đó3.
Tổng thống cảm thấy đau đớn. Tôi cảm nhận được điều đó, và những người khác cũng cảm thấy như vậy. Henry Graff, một nhà sử học của Trường Đại học tổng hợp Columbia, người đã phỏng vấn Johnson trong những ngày đó, sau này đã viết rằng: Tổng thống nói với ông rằng Tổng thống đã nhiều đêm mất ngủ chỉ nghĩ về việc ông sẽ cảm thấy như thế nào, “nếu Tổng thống của tôi nói với tôi rằng những đứa con của tôi phải sang Việt Nam trong một đại đội lính thủy đánh bộ... và có thể sẽ chết”4.
Lyndon Johnson thường hay cường điệu hoá để gây ấn tượng và những người yếm thế hay hoài nghĩ sẽ cho rằng những câu nói của ông phản ánh cách cư xử đó. Nhưng họ đã những nói ra như vậy. Không có một vị Tổng thống nào mà tôi được biết lại sử dụng quân lực của mình để đưa quân Mỹ đến chỗ bị tổn hại có thể suy nghĩ khác thế. Tôi chia sẻ cảm xúc, suy nghĩ này của Tổng thống.
Các quyết định bị trì hoãn lại vì chúng tôi còn phải mò mẫm tìm kiếm một phương cách khả dĩ để thực hiện. Trong khi cuộc tranh cãi đang quyết liệt thì các nhà báo đã phỏng vấn Tổng thống Johnson về yêu cầu gần đây của Thượng viện đòi hỏi phải có những hoạt động tiếp theo của Quốc hội, vượt lên trên phạm vi của Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, trước khi ông triển khai thêm lính Mỹ ở Nam Việt Nam. Ông đã đánh lạc hướng những người phỏng vấn mình bằng cách nói rằng “Những người được đọc Nghị quyết đó” có thể thấy nó cho phép Tổng thống “thực hiện tất cả - tất cả - tất cả - những biện pháp cần thiết” mà ông cho rằng cần phải làm trong tình hình đó5.
Những lời bình luận đó của Tổng thống được đưa ra sau khi ông nhận được những lời khuyên của Thượng nghị sĩ Mansfield (người chống lại việc tăng thêm quân) và Thượng nghị sĩ Dirksen (người ủng hộ việc tăng thêm quân). Cả hai người đều thuyết phục ông không nên đưa vấn đề này ra trước Quốc hội, vì cả hai đều lo ngại rằng nó sẽ làm chia rẽ nước Mỹ; bất kể là cuộc bỏ phiếu sẽ diễn ra thế nào đi chăng nữa thì nó cũng làm phương hại tới những cố gắng của chúng ta trong cuộc chiến này. Đó chính là câu trả lời mà Johnson muốn nghe, nhưng đó lại là câu trả lời sai. Không hề có một thời điểm “thích hợp” nào để giành sự đồng tình của công chúng đối với một hành động quân sự thông qua một cuộc bỏ phiếu ở Quốc hội. Cuộc thảo luận sẽ chỉ luôn luôn xoay quanh vấn đề là phải làm thế nào và khi nào thực hiện điều đó. Thực tế là điều đó cần phải được thực hiện, dù rằng một cuộc bỏ phiếu gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ, có thể đưa đến nguy cơ sẽ trợ giúp và làm yên lòng đối thủ của chúng ta. Chúng ta đã không làm điều này, và chúng ta phải vất vả mới học được rằng một chính phủ cần phải chấp nhận nguy cơ đó để có thể đưa một đất nước đoàn kết vào cuộc chiến tranh và duy trì sự ủng hộ đối với nó. Thay vì hướng tới sự thống nhất, chúng ta đã chọn việc che giấu cuộc thảo luận có thể gây ra rắc rối dưới tấm thảm của Phòng Bầu Dục. Liệu ngày nay chúng ta có thông minh hơn không?
_______________________________________
1. Họp báo, Lầu Năm Góc, l6/6/1965, PSRSM, 1965, t.5, tr. 1794 và 1800.
2. Xem A. J. Goodpaster, “Báo cáo về cuộc họp với Tướng Eisenhower, 16/6/1965, Tổng thống Eisenhower,” Hồ sơ Tên, Hộp số 3, NSF, LBJL; và Nghiên cứu bí mật của Louis Harris gửi Tổng thống, 17/6/1965, “ND 19/CO 312 VIETNAM (Tình hình các năm 1964- 1965)”, Hồ sơ Mật, Hộp số 80, NSF, LBJL.
* Richard B. Russel (đảng Dân chủ - bang Georgia), một cố vấn cũ giàu kinh nghiệm trong Thượng viện của Tổng thống Johnson và là Chủ tịch đầy quyền uy của Ủy ban quân lực của Thượng viện Mỹ.
3. 21/6/1965, 12 giờ 15 trưa, Mục 6506.04, PNO 18, PR, LBJL.
4. Trích dẫn trong bài “Johnson đã ra chính sách đối ngoại như thế nào” của Henry F. Graff, Tạp chí New York Times, 4/7/1965, tr. 18-20; và Nội các ngày thứ Ba: Sự cân nhắc và quyết định về hoà bình và chiến tranh dưới thời Lyndon B. Johnson (Englewood Cliffs: Nhà xuất bản Người học nghề, 1970), tr. 53-55.
5. Họp báo của Tổng thống, 17/6/1965, Tài liệu công khai, Lyndon B. Johnson, 1965, q. 2, tr. 669-685.
Chúng tôi ở trong tình trạng náo động triền miên trong khoảng từ giữa tháng 6 đến giữa tháng 7. Cứ cách vài ngày, chúng tôi lại nhận được điện của Max hay Westy gửi về báo cáo về tình hình ngày càng xấu đi ở Sài Gòn hay trình bày những lý lẽ để đưa thêm quân sang. Chúng tôi dự hết cuộc họp này đến cuộc họp khác. Tôi thảo luận hết giờ này đến giờ khác với các Tham mưu trưởng liên quân về các kế hoạch chuyển đổi và đề nghị của Westy. Bill Bundy và các cộng sự của mình không ngừng xem xét các khả năng ngoại giao. Và gần như hằng ngày, Tổng thống nghiên cứu từng mặt của vấn đề phức tạp và khó khăn này với các cố vấn cao cấp của ông.
Ngày 18/6, George Ball gửi cho Tổng thống một giác thư nữa với lời lẽ hùng hồn. Cũng giống như trong giác thư của ông ta hồi tháng 10/1964, lần này cũng vậy, bức giác thư này không hề được các quan chức của Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng bàn luận tới. Ban đầu nó chỉ được gửi tới cho Tổng thống và Dean, trừ Ngoại trưởng, không một ai trong Bộ Ngoại giào có được một bản sao của nó, thậm chí cả Bill Bundy. George thuyết phục Tổng thống hạn chế việc triển khai thêm quân dưới mức 100.000 người - gần giống với mức 95.000 quân mà tôi đã nêu hôm 10/6. Tuy vậy, những tổn thất chồng chất của quân đội Việt Nam Cộng hoà Nam Việt Nam) và đề nghị của Westy đã nhanh chóng đẩy Dean và chúng tôi đến quyết định vượt mức 100.000 quân. Vì vậy, khi George trong cuộc họp hôm 23/6 đề nghị giữ ở mức 100.000 quân và nếu như việc này làm cho chúng ta buộc phải rút quân khỏi Nam Việt Nam thì sẽ rút sang Thái Lan và cố gắng trụ lại ở đó, Dean và tôi đã phản đối kịch liệt. Chúng tôi nghi ngờ liệu Thái Lan có thể đứng vững không nếu như Nam Việt Nam sụp đổ. Tôi thúc giục để đề nghị tăng quân của Westy được thông qua, nhưng đồng thời cũng tăng cường các cố gắng đàm phán hơn so với trước đây.
Trước sự bất đồng ý kiến như vậy, Tổng thống yêu cầu George và tôi xây dựng một đề xuất chi tiết của riêng từng người. Ông cho chúng tôi một tuần để làm điều đó1.
Chúng tôi ngay lập tức bắt tay vào thực hiện. Trong khi làm như vậy, George đã có một bước chuyển biến lớn: cho tới lúc này, ông vẫn chủ trương hạn chế nhưng không từ chối triển khai thêm quân; xem xét, nhưng không thúc đẩy rút ra. Nhưng giờ đây ông không nghĩ như vậy nữa. George bây giờ đi đến kết luận rằng, thay vì chỉ hạn chế trong phạm vi hoạt động ở miền Nam, chúng ta cần phải giảm bớt các thiệt hại của mình càng nhanh càng tốt bằng cách làm tất cả những gì có thể được đối với Bắc Việt Nam, Bill Bundy không thể chấp nhận được điều này và bắt tay vào thảo ra một kế hoạch thứ ba, trong đó đưa ra một giải pháp dung hoà - đó là giữ nguyên quân số ở mức hiện nay với khoảng 85.000 lính Mỹ.
Trong khi soạn thảo kế hoạch của mình, tôi nhận được một bức điện đầy lo ngại của Westy. Bức điện nêu tới khả năng một cuộc chiến lâu dài và tốn kém, đòi hỏi số lượng quân Mỹ tham chiến ngày càng tăng, trong đó có việc tăng đáng kể số lính Mỹ trong năm 1966 so với gợi ý trước đó của ông. Sau khi bàn bạc với Bộ Tổng tham mưu, vào ngày 26/6, tôi đưa ra một dự thảo kế hoạch, tổng hợp cả các ý kiến của Westy mà tôi đã chuyển cho Dean, Max, George và Bill, và đề nghị họ cho ý kiến nhận xét.
Kế hoạch của tôi tập trung vào quan điểm cho rằng sức mạnh quân sự của Mỹ và Nam Việt Nam cần phải được tăng cường tới mức “đủ để chứng minh cho Việt cộng thấy rằng họ không thể chiến thắng, và vì vậy, sẽ đẩy lùi nguy cơ bùng nổ cuộc chiến tranh”. Westy tính toán là sẽ cần phải đưa tổng số quân lên tới 175.000 trong năm 1965 (và một con số nhiều hơn nữa chưa được quyết định trong năm 1966). Vì thế, tôi đã nêu ra con số này. Tôi nêu ra con số này cùng với đề nghị mở rộng các hoạt động quân sự chống lại Bắc Việt Nam và các sáng kiến ngoại giao nhằm mở đường đối thoại với Hà Nội, Bắc Kinh và Việt cộng. Tôi kết luận với một “dự kiến sẽ thắng lợi” như sau:
Thành công của chương trình này về mặt quân sự tuỳ thuộc vào việc liệu những cố gắng ngày càng tăng đó có ngăn chặn được một làn sóng mở rộng cuộc chiến ở Nam Việt Nam hay không; điều đó lại phụ thuộc vào hai vấn đề - liệu quân đội Việt Nam Cộng hoà có giữ vững được con số và tinh thần chiến đấu không, và liệu quân Mỹ có thể hoạt động có hiệu quả trong vai trò là lực lượng dự bị phản ứng nhanh không, một vai trò mà họ chưa được thử nghiệm bao giờ. Số lượng lính Mỹ quá ít để có thể đem lại một thay đổi gì đáng kể trong công thức vốn có xưa nay là 10:1 giữa quân chính phủ và quân du kích nhưng con số đó cũng không phải là quá nhỏ để có thể đem lại thay đổi đáng kể trong kiểu chiến tranh đang phát triển ở Việt Nam - một... cuộc chiến tranh thông thường, trong đó rất dễ dàng xác định, tìm ra và tiến công kẻ thù2.
__________________________________
1. Xem WB, VNMS, Chương 26, tr. 22-23.
2. Dự thảo Báo cáo gửi Tổng thống, 26/6/1965, “T. 3, Mục 35, 7/27/65, Triển khai thêm quân ở Việt Nam”, NSCMF, Hộp số 1, NSF, LBJL.
Kế hoạch này của tôi đã làm Mac vô cùng kinh ngạc và ông ta đã đáp lại bằng một tài liệu “nhằm nêu ra các câu hỏi chính và không phải là để trả lời”. Và ông đã nêu ra các câu hỏi. Ông viết: “Phản ứng đầu tiên của tôi là tự hỏi liệu kế hoạch này (tăng gấp đôi lực lượng quân Mỹ hiện có ở Nam Việt Nam, tăng gấp ba lần các hoạt động không quân chống lại Bắc Việt Nam, và một kế hoạch mới và rất quan trọng là phong toả bằng hải quân) có phải là thiếu suy nghĩ và không khôn ngoan hay không?”. Ông ta nêu ra một câu hỏi đầy tính tiên tri mà sau này cho thấy là rất cơ bản: “Liệu có triển vọng thực tế là các lực lượng quân chính quy của Mỹ có thể tiến hành các chiến dịch chống du kích, sẽ là vấn đề cốt lõi ở Nam Việt Nam?”. Ông nhắc đến tuyên bố của Tổng thống Eisenhower rằng chính viễn cảnh của một cuộc tiến công hạt nhân đã đem lại sự đình chiến ở Triều Tiên, và đề nghị chúng tôi “ít nhất thì cũng xem xét xem liệu có thể có cách đe doạ thực tế nào về một hành động mạnh mẽ hơn của chúng ta để bắn tin cho Hà Nội hay không?” Ông kết thúc với câu hỏi: “Liệu chúng ta có muốn dùng 200.000 quân để che đậy một cuộc rút lui mà rút cục sẽ phải xảy ra không? Liệu chúng ta có thể không làm điều đó hay không?”1.
Bất chấp lời nhắc nhở của Mac về các vũ khí hạt nhân và lời nói bóng gió rằng chúng ta phải xem xét việc đe doạ sử dụng chúng, tôi chia sẻ tất cả mọi quan điểm và mối quan tâm của ông. Nhưng vấn đề thách thức là việc đưa ra các câu trả lời - chứ không phải chỉ có các câu hỏi. Ba bản kế hoạch (của George, của Bill và của tôi) được gửi tới Nhà Trắng vào đêm ngày 1/7. Nhưng tôi, và tôi tin rằng cả George và Bill, đều không biết là ngoài chúng ra còn có một bản kế hoạch khác nữa.
Như tôi đã trình bày Dean rất ít khi viết gì để trình lên Tổng thống, và tôi chưa hề thấy ông ta làm như vậy trong các vấn đề liên quan đến quân sự mà không thông báo cho tôi biết. Trong trường hợp này, ông đã làm điều đó, để bày tỏ lòng tin tưởng sâu sắc và nỗi lo sợ lớn nhất của mình mà rõ ràng ông không tin rằng George đã nêu ra trong kế hoạch của mình. Tôi muốn trích dẫn nguyên văn những lời của Dean, vì quan điểm của ông là nếu chúng ta mất Nam Việt Nam, chúng ta sẽ làm tăng nguy cơ của cuộc Chiến tranh thế giới thứ III - đã tác động tới những người khác trong chúng tôi ở những mức độ khác nhau. Ông viết:
“Tính toàn vẹn của những cam kết của Mỹ là trụ cột cơ bản của hoà bình trên thế giới. Nếu cam kết đó trở nên không tin tưởng được, thế giới cộng sản sẽ đi đến kết luận mà sẽ dẫn đến sự sụp đổ của chúng ta và hầu như chắc chắc dẫn đến một cuộc chiến tranh bi thảm. Khi mà quân Nam Việt Nam đang sẵn sàng chiến đấu để tự bảo vệ, chúng ta không thể bỏ rơi họ mà lại không xảy ra thảm hoạ đối với hoà bình và các lợi ích của chúng ta trên thế giới (nhấn mạnh thêm)”2.
Bạn đọc có thể cho là không thể hiểu được rằng tại sao Dean lại nhìn thấy trước được những hậu quả kinh khủng của sự sụp đổ của Nam Việt Nam, nhưng tôi không thể nói quá lên về tác động mà những kinh nghiệm của thế hệ chúng ta đã gây ra cho ông (và, ít hay nhiều, lên tất cả chúng ta). Chúng ta đã sống qua thời kỳ nhân nhượng ở Munich, nhiều năm làm các nhiệm vụ quân sự trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ II, chống lại cuộc xăm lăng ở châu Âu và châu Á; việc Liên Xô giành được ảnh hưởng ở Đông Âu; những đe doạ lặp đi lặp lại đối với Berlin, gồm cả mối đe doạ vào tháng 8/1961, cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba năm 1962, và gần nhất là những tuyên bố của Trung cộng rằng cuộc xung đột ở Nam Việt Nam là thí dụ tiêu biểu của “những cuộc chiến tranh giải phóng”, mà họ cho là đang lan ra trên phạm vi toàn cầu. Tài liệu của George đã không đề cập những mối quan ngại bên trong đó, và nó đã bị Tổng thống Johnson bác bỏ.
Mac đệ trình bốn bản kế hoạch nói trên lên Tổng thống và kèm theo kế hoạch của chính mình. Trong bản kế hoạch này. Ông đã thay đổi quan điểm so với những suy nghĩ ông bày tỏ với tôi hôm trước. Ông viết: “Tôi có linh cảm, Ngài muốn xem kỹ kế hoạch của George Ball và sau đó là phản đối đề nghị của ông ta. Nếu đúng là như vậy thì cuộc thảo luận có thể sẽ chỉ còn là sự lựa chọn hẹp giữa kế hoạch của anh, tôi và của McNamara”3.
Chúng tôi gáp Tổng thống vào ngày hôm sau. Trông ông có vẻ như bị giằng xé sâu sắc về việc sẽ phải làm gì. Sau một hồi lâu tranh cãi, ông kết thúc cuộc họp bằng yêu cầu tôi sang thăm Sài Gòn một lần nữa để đánh giá nhu cầu về tăng cường quân sự với Max và Westy. Ông cử Averell Harriman đi Mátxcơva để thăm dò việc nối lại Hội nghị Geneva (một công việc mà tôi ủng hộ mạnh mẽ). Và ông chỉ thị cho George xem xét việc mở ra cuộc tiếp xúc trực tiếp với đại diện của Hà Nội ở Paris (một động thái khác hướng tới đàm phán mà tôi cũng ủng hộ)4.
Cuộc tiếp xúc sau đó, mang tên mật mã là XYZ, được mở ra vào tháng 8 và gồm các cuộc thảo luận bí mật ở Paris giữa cựu quan chức ngoại giao Mỹ Edmund Gulliton và ông Mai Văn Bộ của Bắc Việt Nam. Gulliton đã thăm dò ý nghĩa của những tuyên bố công khai và bí mật của Hà Nội để xét xem liệu có khả năng đàm phán thực sự không. Sau khi nhiệt liệt hoan nghênh việc sớm tổ chức các cuộc đàm phán, Bắc Việt Nam bất thình tình đóng cửa kênh tiếp xúc này trong tháng 9.
____________________________________
1. McGeorge Bundy gửi McNamara, 30/6/1965, “Triển khai” t.6, các mục 341-356, NSCH, Hộp số 43, NSF, LBJL.
2. Rusk gửi Tổng thống, 1/7/1965, sách đã dẫn, các mục 357-383.
3. McGeorge Bundy gửi Johnson, 1/7/1965, Sách đã dẫn.
4. Xem WB, VNMS, Chương 27, tr. 13.
Giữa lúc đang diễn ra các cuộc tranh cãi trong tháng 7, Tổng thống đưa tới Washington một nhóm các chính khách cao tuổi thuộc hai đảng phái chính trị, những người về sau này được nhắc tới như những nhà thông thái. Ông hay họp bàn với họ. Thành phần nhóm này thường xuyên thay đổi giữa các cuộc họp. Nhân dịp này, ông đề nghị họ đánh giá những tiến triển của cuộc chiến và cố vấn cho ông về việc cần phải tiếp tục như thế nào?
Những nhà thông thái tập hợp thành một nhóm người rất gây ấn tượng bằng sự hiểu biết, kinh nghiệm và uy tín của mình. Trong nhóm lần này có Dean Acheson, một kiến trúc sư chính tạo nên chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong suốt thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh lạnh với cương vị là Bộ trưởng Ngoại giao của Tổng thống Truman, Tướng năm sao đã về hưu, Omar Bradley, là một thành viên khác trong danh sách phản ánh tính cách nhà nghề không ồn ào mà điềm tĩnh của ngành quân sự Hoa Kỳ; John Cowles, chủ tờ báo Minneapolis Star and Tribune và tạp chí Look, một người của đảng Cộng hoà theo phái tự do, người tiêu biểu cho chủ nghĩa quốc tế hoá những tờ báo và tạp chí hàng đầu ở Mỹ; chuyên gia pháp lý và nhà ngoại giao Arthur Dean, người đã từng tham gia trong các cuộc đàm phán về đình chiến ở Triều Tiên dưới thời Eisenhower, cùng chung quan điểm về chủ nghĩa tự do cộng hoà và chủ nghĩa quốc tế với hai đảng của Cowles; Ros Gilpatric là biểu tượng của sự kế tục của việc điều hành các công việc về an ninh quốc gia từ chính quyền Kennedy đến chính quyền Johnson; nhà triệu phú công nghiệp Paul Hoffman, người đứng đầu kế hoạch Marshall, điển hình của việc khai thác các hoạt động trong lĩnh vực chính sách đối ngoại của Mỹ; nhà hoá học xuất sắc của Trường Đại học Harvard George Kistiakowsky là hiện thân của mối liên hệ đan xen lẫn nhau giữa khoa học và chính trị trong thời đại hạt nhân: giáo sư luật học của Trường Đại học tổng hợp Duke, Arthur Larson, người đã từng phục vụ dưới nhiều đời Tổng thống kể từ năm 1933, biểu tượng của mối liên minh giữa giới học thuật và quan chức chính phủ đã được rèn giũa trong Chiến tranh thế giới thứ II, ông Robert Lovett đã từng phục vụ trên cương vị là Thứ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời Tổng thống Truman; người bạn đồng nghiệp của Lovett trong Chiến tranh thế giới thứ II và là Thống đốc Hoa Kỳ tại vùng lãnh thổ Đức bị chiếm đóng, John McCloy, kết thúc bảng danh sách đầy ấn tượng này. Tất cả những nhân vật này tạo nên lòng quyết tâm, sự tin tưởng và lòng tự tin của một thế hệ bị ảnh hưởng bởi những thắng lợi của cuộc Chiến tranh thế giới thứ II và thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh lạnh.
Một số người trong nhóm kể trên - gồm Bradley, Gilpatric, Kistiakowsky, Larson và McCloy đã họp với Dean, Tommy, Bill và tôi vào buổi sáng ngày 8/7. Chúng tôi đã thông báo tất cả cho họ, trả lời các câu hỏi của họ và đề nghị họ nói ra những suy nghĩ thẳng thắn của mình cho tất cả mọi người trong nhóm. Tất cả, trừ Larson, đã khuyên nên đưa bất cứ lực lượng nào mà chúng ta thấy cần thiết vào cuộc chiến để ngăn chặn Nam Việt Nam sụp đổ dưới sự kiểm soát của cộng sản. Vài người, trong thực tế, đã chỉ trích những hành động trước đây của chúng tôi là “quá dè dặt”.
Về sau, trong ngày hôm đó, họ đã trình bày quan điểm của mình cho tất cả nhóm. Tất cả nhóm, trừ Hoffman, đều hoàn toàn nhất trí. Đặc biệt, Acheson và Arthur Dean còn phản đối mạnh mẽ lời kêu gọi đàm phán của Hoffman; Arthur Dean nói rằng đây không phải là thời gian để “chuyển giao chính sách về Viễn Đông của chúng ta cho Liên hợp quốc” hay bất cứ ai khác. Thay mặt cho cả nhóm. McCloy đã nói với Dean Rusk và tôi: “Chúng ta sắp sửa làm cho mũi mình chảy máu, nhưng các anh cần phải làm như vậy. Các bạn phải đưa quân vào Việt Nam”.
Buổi tối ngày hôm đó, Acheson, Bradley, Cowles, Arthur Dean, Lovelt và McCloy tới gặp Tổng thống ở Văn phòng Nội các. Vài ngày sau đó, Acheson đã báo cáo lại với cựu Tổng thống Truman rằng sau khi nghe Johnson phàn nàn về những vấn đề của mình, “tôi đã mất bình tĩnh và nói với ông ta... rằng ông ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến... Điều đó đã dẫn đến việc là các đồng nghiệp của tôi lớn tiếng phát biểu công kích giống như buộc tội Scots Greys ở Waterloo... Bob Lovett, thường rất thận trọng, đã nói ra hết ý kiến của mình, và dĩ nhiên, Bradley đã thể hiện rõ rằng ông luôn luôn ở bên cạnh tôi. Tôi nghĩ... chúng tôi đã ghi điểm”. Nhưng họ đã không “ghi được điểm” trong niềm tin mà họ đã bày tỏ một cách mạnh mẽ với Dean Rusk và tôi, rằng chính phủ phải giải thích đầy đủ cho dân chúng Hoa Kỳ về tình hình quân sự, và sự cần thiết của việc gửi thêm quân lính sang Việt Nam. Cả Cowles và Lovett đều chê trách Tổng thống vì đã “vẽ một bức tranh có quá nhiều màu hồng” về cuộc chiến tranh1.
____________________________________
1. Xem William Bundy, “Nhóm Việt Nam” phác thảo 10/7/1965), “Triển khai”, t.7, các các mục 401-420, NSCH, Hộp số 43, NSF, LBJL; WB, VNMS, Chương 27, tr. 15-21; Acheson gửi Truman, 10/7/1965, “Tài liệu của Acheson (1964-1971),” Hồ sơ tên sau Tổng thống, Thư viện Harry S. Truman; và Walter Isaacson và Evan Thomas, Những con người khôn ngoan: sáu người và thế giới do họ tạo ra (New York: Simon và Schuster, 1986), tr. 650
Vào thời gian này, những người bảo thủ trong Quốc hội bắt đầu gây sức ép đòi tăng chi phí quốc phòng để hỗ trợ cho kế hoạch bổ sung đang được thực hiện và những nỗ lực hơn nữa trong tương lai. Các nghị sĩ Gerald Ford và Melvin Laird đã thúc giục việc thông qua một khoản chi phí quốc phòng bổ sung từ một đến hai tỷ đôla và gọi khoảng 200.000 quân dự bị. Thượng nghị sĩ Dirksen còn thúc giục Tổng thống phải tìm kiếm “thêm quyền lực và thêm tiền - một khoan tiền lớn”1. Trong khi đó, chương trình Xã hội vĩ đại lại bước vào một thời kỳ gay go: Thượng nghị viện cuối cùng đã thông qua đạo luật về y tế và nó sẽ được đưa ra bàn bạc: còn việc ban hành luật về các vấn đề khác thuộc chương trình Xã hội vĩ đại, trong đó có việc cải cách chế độ nhập cư, chương trình chống đói nghèo, viện trợ cho Appalachia, và đạo luật về môi trường không khí sạch còn phải tiếp tục xem xét. Tổng thống Johnson tin rằng việc tăng chi phí quốc phòng sẽ giết chết đề xuất của ông về việc cải thiện phúc lợi xã hội lớn nhất kể từ thời Chính sách mới (New Deal). Ngày nay, chúng ta nhìn nhận những hành động của ông trong chính trị, kinh tế, xã hội là sự lẩn tránh - cái vẫn thường được gọi là sự lừa dối - nhưng trong lúc đó có lúc chúng ta không nhận thấy mong muốn sâu sắc của ông trong việc giải quyết các vấn đề xã hội của chúng ta.
Vào ngày 14/7/1965, khi tôi chuẩn bị bay sang Sài Gòn, Johnson đã gặp chủ bút báo Newsweek, ông James Cannon. Cannon đã phỏng vấn ông về mục tiêu cao nhất mà ông phấn đấu với cương vị là Tổng thống. Ông trả lời: “Làm cho cuộc sống của tất cả nhân dân chúng ta tốt đẹp hơn, sung sướng hơn và có ý nghĩa hơn”. Khi Cannon hỏi ông sẽ làm như thế nào để thực hiện được điều đó với một số lượng kỷ lục các nghị sĩ ngày càng bảo thủ hơn, ông nói: “Tôi biết rõ hơn về các vấn đề của nhiều người hơn trước đây. Tôi nhậy cảm hơn với những bất công mà chúng ta đã đối xử với người da đen chẳng hạn, bởi vì hiện nay tôi gặp gỡ và nói chuyện với họ nhiều hơn. Tôi đã bớt ích kỷ đi một chút, và không nghĩ về mình quá nhiều... Trong trường hợp này bạn không thể đi xa hơn nữa và việc duy nhất bạn muốn làm là những gì đúng đắn”2.
Khi đọc những dòng này, nhiều người có thể cho rằng đây là một cuộc tuyên truyền cho bản thân, một nỗ lực của một diễn viên quá thành thạo nhằm làm cho dân chúng nhìn anh ta khác đi so với con người thật của anh ta! Tôi không tin trường hợp này lại là như vậy. Người ta nói rằng chính những cố gắng thường xuyên của Johnson để che đậy bản thân đã làm tổn hại đến uy tín của ông, điều mà ông cảm thấy đúng từ những sai lầm đã làm nhiều người trong chúng ta đau khổ.
Tổng thống Johnson dành tất cả mọi phút giây không ngủ của ông để thực hiện các kế hoạch của mình, bất kể kế hoạch đó có liên quan đến vấn đề nhân quyền, chương trình Xã hội vĩ đại, hay là cuộc chiến tranh Việt Nam. Vào một buổi tối mùa hè năm đó, trong thời gian có cuộc thảo luận tại Quốc hội về đạo luật quyền bầu cử. Marg và tôi cùng ăn tối với Tổng thống và phu nhân (Bà Bird) trong khu nhà dành cho các gia đình ở Nhà Trắng. Bốn chúng tôi ngồi xung quanh một chiếc bàn nhỏ, vừa ăn vừa nói chuyện. Bỗng nhiên Tổng thống cúi xuống, cầm ống nghe điện thoại treo bên dưới chỗ của ông ta, đặt lên bàn và gọi người nhân viên trực tổng đài Nhà Trắng: “Cho tôi nói chuyện với Ev Dirksen”.
Vị lãnh tụ phe thiểu số của Thượng nghi viện có mặt bên điện thoại ngay lập tức. Tôi chỉ có thể nghe được một nửa cuộc nói chuyện này, nhưng nó diễn ra như sau: “Ev”. Tổng thống nói và dừng lại để nhấn mạnh, “anh đã thất bại trong cuộc bỏ phiếu chết tiệt ngày hôm nay”. Ông đang nhắc đến một cuộc bỏ phiếu có tính chất thủ tục quan trọng có thể quyết định thất bại hay thành công cuối cùng của dự luật đó. Tôi nghe thấy Dirksen nói lắp bắp: “Quỷ tha ma bắt, anh nói tôi bị thất bại nghĩa là thế nào? Những người dân chủ ở miền Nam chết tiệt của anh đã bỏ mặc anh rồi”.
Tổng thống kiên nhẫn nghe, sau đó nói một cách trơn tru: “Ev, tôi biết là những người dân chủ ở miền Nam đang chuẩn bị bỏ rơi tôi. Tôi hoàn toàn dựa vào anh để tạo ra đủ số người cộng hoà để bù đắp lại điều đó”. Họ quay sang nói đùa trong với phút nữa. Cuối cùng Johnson nói: “Này Ev, có một thứ mà anh muốn. Đó là gì? Tôi muốn nói với anh rằng có một thứ mà tôi muốn - đó là đạo luật về quyền bầu cử”. Sau đó, họ trao đổi để thoả thuận với nhau về cuộc nói chuyện tiếp theo trên điện thoại. Đó chính là Tổng thống Johnson, người đã làm việc không ngừng để theo đuổi các mục tiêu lập pháp của mình - mà trong trường hợp này, là nhằm đạt được một trong những đóng góp to lớn nhất cho sự hoà hợp các chủng tộc trong thế kỷ này.
Vào một dịp khác, ông yêu cầu tôi cùng với ông gặp gỡ với các vị lãnh đạo giới kinh doanh và lao động tại Văn phòng Nội các. Cuộc gặp này không liên quan gì tới vấn đề quốc phòng - ông muốn giành được sự ủng hộ của họ đối với dự luật về quyền dân sự - nhưng, như tôi đã nói, ông thường kéo tôi vào các vấn đề không hề có liên can gì đến phận sự chính của tôi. Trong suốt một tiếng đồng hồ ông thuyết phục các vị khách của mình, gây áp lực với các nghị sĩ Quốc hội của họ để bỏ phiếu cho dự luật này. Dường như ông đã đạt được không mấy kết quả. Cuối cùng, trong tâm trạng thất vọng hoàn toàn, ông nói: “Các bạn, chắc các bạn đều biết Zephyr”. Tôi nghi ngờ việc ngoài tôi ra, trong số những người có mặt trong phòng lúc đó còn có ai nữa biết rằng cô ta là người đầu bếp da đen lâu năm của Johnson. “Mùa hè năm ngoái, khi cô ta, Bird và tôi đi qua bang Mississippi trên đường trở về Washington từ trang trại, Bird nói: “Lyndon, liệu ông có thể dừng xe lại ở trạm xăng gần đây nhất không? Tôi muốn đi vệ sinh”. Tôi trả lời: “Dĩ nhiên là có”. Sau đó chúng tôi dừng lại, đi vệ sinh rồi trở lại xe và tiếp tục đi được một lúc thì Zephyr nói: “Thưa Tổng thống, liệu ông có thế dừng lại ở bên lề đường được không?”. “Vì sao cô muốn dừng lại?”, tôi hỏi, “Tôi muốn đi vệ sinh”. “Quỷ tha ma bắt, tại sao cô không đi vệ sinh ở trạm xăng khi Bird và tôi đi?”, “Bởi vì họ sẽ không cho phép tôi làm như vậy, cô ta trả lời”. Kể xong, Johnson đấm tay xuống bàn và nói bằng giọng đau đớn: “Các bạn, đó có phải là đất nước mà các bạn muốn không? Đó không phải là cái tôi muốn”. Ai đó có thể nói rằng đó là một rạp kịch. Còn tôi thì biết rằng không phải như vậy.
Cũng như vậy, nhiệm kỳ Tổng thống của Johnson được phán xét phần lớn là về Việt Nam. Nhưng tôi tin rằng những nhà sử học tương lai, ít chịu ảnh hưởng của sự chia rẽ, bất hoà của cuộc chiến tranh, sẽ đưa ra đánh giá công bằng hơn, công nhận ông với hai cống hiến lớn về luật pháp: đạo luật về quyền dân sự năm 1964 và đạo luật về quyền bầu cử năm 1965. Nếu không có hai văn bản pháp luật này, đất nước chúng ta hôm nay chắc chắn đang ở trong biển lửa, cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tôi cho rằng lịch sử sẽ ghi nhận chúng trong số các thành tựu về chính trị to lớn nhất của thế kỷ này. Và tầm nhìn sâu rộng của Lyndon Johnson về tương lai của chúng ta - chương trình Xã hội vĩ đại - vẫn mãi là một mục tiêu để phấn đấu. Phải đau buồn nhận thấy rằng nó vẫn chưa được thực hiện, dù đã 30 năm trôi qua kể từ khi ông đặt ra vấn đề đó.
________________________________
1. Trích dẫn có trong Tin tức nước Mỹ và thế giới, 26/7/1965, tr. 45.
2. James Cannon và Charles Roberts phỏng vấn Tổng thống, 14/7/1965, in lại trong Newsweek, 2/8/1965, tr. 20-21.
Trước khi rời Washington vào đêm 14/7, tôi gọi điện cho Tổng thống Johnson để bàn về nhiệm vụ của tôi ở Sài Gòn và ở Việt Nam nói chung. Chúng tôi nói về việc chúng tôi đã bước vào thời điểm này như thế nào, và những gì chúng tôi cần phải làm trong những ngày gay go sắp tới.
Tổng thống (TT): Bản thân chúng ta biết trong tiềm thức của mình rằng, khi chúng ta đề nghị đưa ra Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, chúng ta không hề có ý định gửi đi nhiều... lính bộ binh như thế này.
Mc Namara (Mc): Đúng vậy.
TT: Và bây giờ chúng ta đang làm như vậy, và chúng ta biết rằng nó sẽ trở nên tồi tệ. Vấn đề là ở chỗ: phải chăng chúng ta chỉ muốn làm điều đó một cách đơn phương?
Mc:... Nếu chúng ta làm như tôi đã đề nghị trong bản kế hoạch của mình - tức là gửi quân sang Việt Nam - thì chúng ta phải gọi thêm quân dự bị... Gần như là chắc chắn, nếu như chúng ta gọi thêm quân dự bị, Ngài sẽ muốn đề nghị Quốc hội trao cho thêm quyền. Đây sẽ là phương tiện để giành được sự ủng hộ. Bây giờ có thế là Ngài sẽ nói: “ờ được, nhưng điều đó cũng có thể dẫn tới một cuộc tranh luận kéo dài và những tuyên bố mâu thuẫn với nhau”. Tôi cho rằng chúng ta có thể tránh được điều đó. Tôi thực sự nghĩ rằng, nếu chúng ta đến... và nói với họ: “Nào, đây chính là tình thế của chúng ta, chúng ta không thể chiến thắng với số quân của chúng ta hiện có ở đó, chúng ta phải tăng thêm quân nếu như chúng ta muốn chiến thắng theo cách hạn chế này mà chúng ta định nghĩa là “chiến thắng”. Nó đòi hỏi phải đưa thêm quân sang Việt Nam. Cùng với hành động đó, chúng ta đang tiếp tục các sáng kiến chính trị nhằm thăm dò khả năng đàm phán về một giải pháp hợp lý ở đây. Và chúng tôi đề nghị các vị ủng hộ chúng tôi trong hoàn cảnh này”. Tôi cho rằng Ngài sẽ giành được sự ủng hộ của họ trong hoàn cảnh này. Và đó là một phương tiện để Ngài vừa giành được quyền gọi quân lính dự bị, vừa lôi kéo được họ vào kế hoạch này.
TT: Ờ, điều đó nghe cũng có lý.
Mc: Tôi không biết rằng Ngài có muốn đi xa như vậy không, và tôi cũng sẽ không thúc giục Ngài làm điều đó. Theo tôi, Ngài cần phải làm như vậy. Nhưng sự đánh giá đó của tôi ở đây có thể là sai.
TT: Nói chung, Rusk có đồng ý với anh không?
Mc: Có. Ông ấy hoàn toàn đồng ý. Ông ấy là một nhân vật cứng rắn xét về việc ông ấy không muốn mất Nam Việt Nam trong bất cứ hoàn cảnh nào – kể cả nếu như điều đó có nghĩa là đi tới một cuộc chiến tranh tổng hợp. Hiện nay, ông ấy không nghĩ là chúng ta phải tiến hành một cuộc chiến tranh tổng hợp nữa; ông ấy cho rằng chúng ta phải cố gắng tránh nó. Nhưng nếu đó là những gì phải làm để giữ được Nam Việt Nam, thì ông ấy sẽ tiến hành cuộc chiến tranh tổng hợp này1.
Tôi gặp Westy ở Sài Gòn vào ngày 16-17/7/1965. Những, cuộc họp này làm tăng thêm những lo ngại và nghi ngờ xấu nhất của tôi. Westy nói là cho đến cuối năm ông ấy cần 175.000 quân. và thêm 100.000 quân nữa trong năm 1966. Với nỗi hoài nghi rằng liệu các cuộc tiến công bằng không quân có thể làm giảm được số lượng người và vật chất của miền Bắc gửi vào miền Nam xuống dưới mức cần phải có để áp đảo quân Nam Việt Nam và quân Mỹ hay không, cho nên tôi đã thăm dò Westy và các cộng sự của ông ta về hiệu quả của cuộc ném bom. Những điều mà tôi nghe được hoàn toàn không làm giảm được sự hoài nghi của tôi. Sau khi thảo luận một hồi lâu, cuối cùng tôi nói:
Đây là những kết luận của tôi, nhưng tôi muốn các bạn chứng minh được rằng tôi sai:
1. Việt cộng (và Bắc Việt Nam) có thể huy động được thêm rất nhiều người (quân) so với hiện nay. Chúng ta, vì vậy, cần phải sẵn sàng tăng cường sức mạnh của mình.
2. Việt cộng không hề nhận được nhiều viện trợ trong quá khứ và hiện tại. Và, tôi không nghĩ rằng, họ sẽ được viện trợ nhiều trong tương lai.
3. Vì Việt cộng không được cấp nhiều viện trợ như vậy, nên những cuộc tiến công bằng không quân sẽ không đem lại tác dụng phá hoại đối với ngành hậu cần của Việt cộng. Tôi không nói rằng chúng ta phải chấm dứt các cuộc công kích. Tuy vậy, tôi nói rằng chúng ta sẽ cần phải có thêm nhiều quân lính ở miền Nam để đối phó một cách có hiệu quả với vấn đề này trên mặt đất2.
____________________________________
1. 14/7/1965, 6 giờ 15 chiều, Mục 6507.02, PNO 22, PR, LBJL
2. “Biên bản các câu hỏi và trả lời tại cuộc họp giữa Bộ trưởng McNamara cùng các cộng sự của ông với Đại sứ Taylor cùng nhân viên của ông ta, và COMUSMACV và nhân viên của ông ta, 16 (và 17) tháng 7/1965”, Westmoreland - tài liệu CBS, Lưu trữ Quốc gia.
Sau đó tôi tìm hiểu về vai trò của quân Mỹ ở Nam Việt Nam. Hai tuần trước đó, tôi đã chỉ thị cho Hội đồng các Tham mưu trưởng liên quân nghiên cứu các vấn đề chiến lược và chiến thuật quân sự và đánh giá về sự đảm bảo thắng lợi của quân Mỹ ở Nam Việt Nam trong trường hợp chúng ta làm tất cả những gì có thể làm. Tôi yêu cầu rằng việc nghiên cứu này phải vạch rõ chiến lược cụ thể của chúng ta sẽ là như thế nào. Bus Wheeler yêu cầu Andy Goodpaster làm việc này. Ông ta đã sử dụng một nhóm nghiên cứu và cho ra đời một bản báo cáo dày 128 trang mà tôi nhận được vào ngày tôi bay đi Sài Gòn.
Trả lời câu hỏi: “Liệu chúng ta có thể chiến thắng nếu chúng ta làm tất cả những gì có thể không?”, bản báo cáo viết: “Trong khuôn khổ của những đánh giá một cách hợp lý... không thấy có lý do cho việc chúng ta không thể chiến thắng nếu như đó là ý muốn của chúng ta - và nếu như ý muốn đó được thể hiện trong chiến lược và các hoạt động chiến thuật”. Nhưng bản báo cáo cũng khuyến cáo một cách thẳng thắn rằng “bất cứ sự đánh giá nào về sự đảm bảo thắng lợi của quân Mỹ ở Nam Việt Nam nếu như chúng ta “làm tất cả những gì có thể được” cần phải giữ ở mức độ dự kiến vì nhiều lý do, trong đó đặc biệt bao gồm kinh nghiệm hạn chế của chúng ta ở Nam Việt Nam trong việc xác định thời gian của các cuộc hành quân tiến công gần đúng như loại được dự tính trong báo cáo này”1.
Đó là điểm then chốt còn chưa rõ ràng của vấn đề. Westy và Bộ Tổng tham mưu cho rằng quân Việt cộng và Bắc Việt Nam sẽ bước vào cái mà Bộ trưởng Quốc phòng của Hà Nội, ông Võ Nguyên Giáp, gọi là “giai đoạn 3”, các hoạt động ở quy mô lớn mà chúng ta có thể đối phó và tiêu diệt bằng chiến thuật quân sự thông thường (hoạt động “tìm và diệt”). Còn có một giả thiết khác có tính tuyệt đối hơn: nếu quân Việt cộng và Bắc Việt Nam không bước vào giai đoạn 3, Mỹ và quân Nam Việt Nam có thể phát động các cuộc phản công chống du kích có hiệu quả.
Mặc dù tôi đã chất vấn về những đánh giá cơ bản này trong các cuộc họp của tôi với Westy và các cộng sự của ông ta, các cuộc thảo luận xem ra có vẻ hời hợt. Xét lại vấn đề, tôi thấy đã sai lầm rõ ràng khi không buộc phải có - lúc đó hay về sau này, cả ở Sài Gòn và Washington - một cuộc thảo luận phân rõ thắng bại về những đánh giá lỏng lẻo, những câu hỏi không được trả lời này và những phân tích hời hợt về chiến lược quân sự của chúng ta ở Việt Nam. Tôi đã 20 năm làm việc trên cương vị là một người quản lý, xác định các vấn đề và bắt buộc các tổ chức - thường là ngược lại với mong muốn của họ - phải suy nghĩ kỹ càng và thực tế về các hoạt động mang tính chất phải lựa chọn, hoặc thế này hoặc thế kia, và những hậu quả của nó. Tôi không biết rằng sẽ có khi nào tôi hoàn toàn hiểu được rằng tại sao tôi đã không làm được điều đó ở đây hay không.
Vào ngày 21/7, tôi quay trở về Washington và đệ trình lên Tổng thống bản báo cáo tôi đã chuẩn bị trong chuyến đi. Bản báo cáo được bắt đầu bằng một đánh giá thẳng thắn nhưng gây lo ngại như sau:
Tình hình Nam Việt Narn xấu hơn so với một năm trước đây (khi nó đã xấu đi so với một năm trước đó). Sau vài tháng trì trệ, nhịp độ cuộc chiến đã nhanh dần. Việt cộng đang đẩy mạnh các hoạt động để chia cắt đất nước và đánh tan quân đội Nam Việt Nam. Nếu không có sự giúp đỡ thêm nữa từ bên ngoài, quân đội Nam Việt Nam sẽ phải đối phó với những thất bại về chiến thuật liên tiếp, mất những con đường huyết mạch và các trung tâm dân cư, đặc biệt là ở các vùng cao, sự tiêu tan dần dần các đơn vị quân đội Việt Nam Cộng hoà... và sự mất lòng tin của dân chúng.
Tôi viết tiếp:
“Không có biểu hiện cho thấy rằng chúng ta đã, hoặc có thể, chặn đứng được nguồn cung ứng cho Việt cộng trong khi nhu cầu về vật chất của họ thấp như vậy... cũng như những cuộc không kích của chúng ta vào Bắc Việt Nam đã không đưa lại những bằng chứng rõ ràng về mong muốn của Hà Nội đi tới bàn đàm phán với một tinh thần phù hợp. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Bắc Việt Nam và Việt cộng dường như tin rằng Nam Việt Nam đang đi xuống dốc và sắp sụp đổ; họ không cho thấy những biểu hiện của việc giải quyết vấn đề theo cách nào khác, ngoài việc giành lấy hoàn toàn Nam Việt Nam.
Sau đó tôi nhắc lại ba khả năng mà chúng tôi đã xem xét tới nhiều lần trước đây: (1) rút lui trong những điều kiện tốt nhất có thể có - gần như chắc chắn có nghĩa là một cái gì đó gần như là cuộc đầu hàng không điều kiện; (2) tiếp tục như mức độ hiện nay - gần như chắc chắn buộc chúng ta sau này phải chấp nhận sự lựa chọn thứ nhất, hoặc (3) tăng cường lực lượng của chúng ta đáp ứng các yêu cầu của Westy, trong khi hết sức cố gắng để mở ra đàm phán - gần như chắc chắn là ngăn chặn được thất bại trước mắt, nhưng cũng tăng thêm khó khăn và cái giá phải trả cho cuộc rút lui về sau này. Tôi bị lôi cuốn bởi phương án 3 đã nêu trên, một phương án mà tôi cho rằng “đòi hỏi phải có trước hết một giải pháp nào đó có thể chấp nhận được”. Tôi kết thúc bản báo cáo bằng việc trình bày lập luận của mình rằng “các hoạt động được đưa ra trong bản tài liệu này - nếu như các hoạt động quân sự và chính trị được phối hợp với nhau một cách hài hoà và được tiến hành với sự mạnh mẽ liên tục và lòng quyết tâm rõ ràng - sẽ tạo ra cơ hội tốt cho việc giành được những kết quả có thể chấp nhận được trong một khoảng thời gian hợp lý”. Các sự kiện tiếp sau đó đã chứng tỏ rằng những lập luận nói trên của tôi là sai lầm2.
_____________________________________
1. “Tăng cường các chiến dịch quân sự tại Việt Nam, nhận thức và danh giá”, tr. ii và J-1, CF, VN, LBJL.
2. Báo cáo gửi Tổng thống, 20/7/1965, (đệ trình 21/7), “Việt Nam 2EE, 1965-67” CF, VN, Hộp số 74/75, NSF, LBJL.
Trong thời gian tôi ở Sài Gòn, Cy Vance đã điện báo cho tôi biết rằng: “ý định hiện nay” của Tổng thống là đồng ý thông qua số quân lính được gửi sang Nam Việt Nam mà ông dự kiến là tôi sẽ đề nghị. Suốt trong tuần lễ tiếp theo sau khi tôi trở về, chúng tôi gặp nhau ít nhất là một lần mỗi ngày để bàn bạc cân nhắc cho tới khi Tổng thống đưa ra quyết định. Những cuộc họp bàn trong những lúc khác nhau này có tất cả các quan chức an ninh quốc gia cao cấp tham dự - đặc biệt là của Bộ Tổng tham mưu và các thư ký Bộ Quốc phòng (Paul Nitze, Eugene Zuckert và Stanley Resor). Tất cả mọi người tham dự đều ủng hộ những khuyến cáo được nêu ra, chỉ trừ có George Ball.
Tổng thống thông qua kế hoạch mở rộng cuộc chiến vào ngày 27/7 và thông báo quyết định của mình cho nhân dân Mỹ trong bài phát biểu vào buổi trưa ngày 28/7. Nhưng ông đã không thông qua biện pháp thích hợp để tài trợ cho kế hoạch này. Tôi dự kiến rằng kế hoạch này đòi hỏi phải chi phí thêm 10 tỷ đôla trong năm tài chính 1966. Với sự ủng hộ của một số nhân vật trọng yếu trong Quốc hội, Tổng thống đã quyết định giữ nguyên đề nghị về khoản chi dành riêng ban đầu của mình thấp hơn nhiều so với dự tính, với một hứa hẹn rằng sẽ xem xét cấp thêm vào tháng 1, “khi mà những con số trở nên chắc chắn hơn”. Ông cũng từ chối thẳng thừng lời khuyên của tôi là tăng thêm thuế để trang trải cho cuộc chiến và để tránh được lạm phát. Tôi đệ trình lên Tổng thống dự kiến chi phí và dự kiến mức tăng thuế của mình trong một bản phúc trình được phân tích rất tỉ mỉ mà chỉ có một số ít người được biết đến. Thậm chí cả Bộ trưởng Ngân khố và Chủ tịch Hội đồng cố vấn kinh tế cũng không được biết.
Khi Tổng thống đọc bản phúc trình và các điều khoản về tài chính của nó, ông nói: “Anh sẽ dành được bao nhiêu phiếu?” (Tôi hiểu ông muốn nói: ông tin chắc rằng một dự luật về thuế sẽ không được Quốc hội thông qua). “Tôi không giành được một phiếu nào cả”, tôi trả lời, “Tôi biết là sẽ khó khăn, nhưng đó chính là cái mà Ngài được những người dân của mình ủng hộ”.
“Anh đã lùa con lừa của mình lên trên đỉnh đồi*, và đừng có quay trở lại cho tới khi anh giành được số phiếu cần thiết”.
Tôi đã làm như vậy. Và dĩ nhiên là không có những lá phiếu ở đó. Tôi nói với Tổng thống về điều đó và nói tiếp: “tôi sẽ đấu tranh cho những gì là đúng và chịu thất bại còn hơn là không thử cố gắng làm như vậy”.
Ông nhìn tôi, bực bội: “Đồ chết tiệt, Bob, đó là điều rất dở của anh - Anh không phải là một nhà chính trị. Đã bao nhiêu lần tôi phải nhắc nhở anh riêng sau khi FDR (Tổng thống Rudơven) cố gắng đưa người của mình vào Hội đồng tối cao để giành đa số phiếu khi quyết định và đã thất bại. Ông ta đã không thuyết phục được Quốc hội quên được điều đó”.
Ông đã cường điệu lên như vậy, nhưng tôi hiểu ý ông muốn nói gì. Ông bảo vệ chương trình Xã hội vĩ đại của mình. Nếu như cùng lúc đó ông không làm trầm trọng thêm sự khủng hoảng về sự tín nhiệm một cách ghê gớm - điều đã làm xói mòn khả năng xây dựng Xã hội vĩ đại của ông thì có thể là tôi đã đồng ý với ông.
Trong khi đó, Bill Bundy đã lập một danh sách các hành động bao gồm tất cả các mặt trong thông báo của Tổng thống, từ việc thông báo cho Quốc hội tới thông báo cho nhân dân Mỹ. Đó là một chương trình tuyệt vời. Và như hai trợ lý của Tổng thống là Douglas Cater và John Gardner - cả hai đều là những người theo phái tự do mạnh mẽ - nhấn mạnh, vẫn còn thời gian để Johnson giải thích cho dân chúng về những vấn đề mà ông phải đối phó và những biện pháp ông nêu ra, để giành được sự ủng hộ của họ. Cater báo cáo rằng: “những lời chỉ trích hiện nay đại diện cho không ai khác ngoài một nhóm những người bất bình. Gardner tin tưởng rằng, một cuộc bỏ phiếu chỉ dành riêng cho giới trí thức sẽ cho thấy tính phổ biến cũng cao như trong bất cứ nhóm nào khác”1.
Nhưng những lời khuyên của Bundy, Cater và Gardner đã không được thực hiện. Thay vào đó, một thực tế là đất nước này đã bước vào một con đường sẽ đưa nó tới một cuộc chiến tranh lớn đã bị che giấu.
Tại sao như vậy?
Tổng thống hiểu rõ tầm quan trọng của quyết định mà ông đưa ra và cái giá mà ông có thể phải trả cho cách thức mà ông thông báo về nó. Nhưng ông cảm thấy bị kẹp giữa hai sự lựa chọn cay đắng. Sự lẩn tránh mối nguy hiểm gấp đôi của áp lực đòi hỏi sự điều chỉnh và sự thất bại trong các chương trình xã hội của ông.
Chúng ta đang chìm xuống vũng lầy.
_____________________________________
* Ý nói đã đưa được đảng Dân chủ (có biểu tượng là con lừa) vào cuộc đối đầu với Quốc hội (trên đồi Capital) - ND.
1. Cater gửi Tổng thống, 10/7/1965, Hồ sơ phụ của Nhà Trắng, Hồ sơ Văn phòng của Douglass Cater, LBJL.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét