Thứ Tư, 14 tháng 1, 2015

Binh đoàn mang tên một dòng sông

LỜI NÓI ĐẦU


Binh đoàn Hương Giang thành lập ngày 17 tháng 5 năm 1974, là một trong những Binh đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của các lực lượng vũ trang nhân dân ta, sự ra đời và trưởng thành lớn mạnh của Binh đoàn Hương Giang thể hiện sinh động quy luật về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; đánh dấu một bước phát triển quan trọng của quân đội ta.

30 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Binh đoàn Hương Giang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt nhiều thành tích to lớn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ - xây dựng Tổ quốc. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Binh đoàn đã tiến công phá vỡ tuyến phòng thủ kiên cố của địch ở Đông - Nam Sài Gòn, tổ chúc lực lượng đột kích cơ giới đánh chiếm "Dinh Độc Lập", bắt sống Tổng thống và toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975 góp phần vào thắng lợi cuộc kháng chiến của dân tộc.

Vừa bước ra từ khói lửa cuộc chiến tranh giải phóng, Binh đoàn Hương Giang đã kịp thời có mặt ở những mặt trận nóng bỏng của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Bước vào giai đoạn mới, trên cơ sở quán triệt sâu sắc nhiệm vụ của cách mạng, cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn Hương Giang không ngừng phát huy cao độ truyền thống "Thần tốc, táo bạo, quyết thắng" xây dựng Binh đoàn ngày càng hùng mạnh, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Năm 1994, nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Binh đoàn, Bộ tư lệnh Binh đoàn Hương Giang đã cho xuất bản cuốn "Lịch sử Binh đoàn - Tập 2" và Tập 1 sách văn học gồm văn, thơ với tựa đề "Binh đoàn mang tên một dòng sông". Hai cuốn sách trên đã phát huy tốt giá trị, tác dụng giáo dục truyền thống, động viên tinh thần cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong thời gian qua.

Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Binh đoàn, Thường vụ Đảng ủy – Bộ Tư lệnh Binh đoàn Hương Giang đã chỉ đạo biên soạn và xuất bản sách văn học "Binh đoàn mang tên một dòng sông" bao gồm các phóng sự, bút ký, truyện ngắn, thơ của một số nhà văn, nhà báo, các đồng chí cựu chiến binh từng là cán bộ, chiến sĩ đang học tập, công tác tại các cơ quan, đơn vị trong Binh đoàn.

Với đặc điểm thể loại và bản thân các tác giả đều là người đã và đang sống, chiến đấu, học tập, công tác tại Binh đoàn ở nhiều cương vị và thời kỳ khác nhau, cuốn sách đã phản ánh một cách sinh động và chân thực sự kế thừa tiếp nối cuộc sống, chiến đấu, công tác và học tập của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn hôm qua và hôm nay. Bên cạnh giá trị cơ bản là khắc họa chân dung, in đậm dấu ấn truyền thống lịch sử của Binh đoàn Hương Giang anh hùng qua 30 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng vẻ vang, cuốn sách còn biểu hiện ý chí và tâm hồn, đồng thời chứng minh tiềm năng sáng tạo văn học - nghệ thuật của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn qua các thời kỳ lịch sử là hết sức dồi dào, ngày càng phong phú và không ngừng phát triển, trực tiếp góp phần bồi đắp, nâng cao hơn nữa giá trị thẩm mỹ và đời sống văn hóa - tinh thần cho bộ đội.

Tuy nhiên, do yêu cầu về đề tài, thể loại cũng như phạm vi, quy mô của cuốn sách, nên không sao tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết, nhất là về nội dung. Đặc biệt, tác giả của các bài viết và tác phẩm trong cuốn sách phần lớn là những cây bút không chuyên và đây là những tác phẩm đầu tay của họ, do đó về mặt giá trị nghệ thuật chắc chắn sẽ có nhiều bài viết mới chỉ đạt ở mức độ nhất định.

Nhân dịp cuốn sách "Binh đoàn mang tên một dòng sông" ra mắt bạn đọc, Thường vụ Đảng ủy – Bộ Tư lệnh Binh đoàn Hương Giang chân thành cảm ơn các nhà văn, nhà báo, các đồng chí cựu chiến binh từng lãnh đạo, chỉ huy Binh đoàn, chiến sĩ đang học tập công tác tại các cơ quan, đơn vị trong Binh đoàn - những cây bút đã rất hăng hái, nhiệt tình sưu tầm, sáng tạo các tác phẩm hưởng ứng cuộc vận động sáng tác văn học; cảm ơn Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã tạo điều kiện thuận lợi để xuất bản cuốn sách, đáp ứng kịp thời nhu cầu học tập, nghiên cứu của đông đảo bạn đọc vào đúng dịp kỷ niệm 30 năm ngày truyền thống Binh đoàn (17-5-1974 - 17-5-2004). Rất mong nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến xây dựng của các đồng chí và các bạn.


                                                                              THƯỜNG VỤ ĐẢNG ỦY - BỘ TƯ LỆNH
                                                                                      BINH ĐOÀN HƯƠNG GIANG

CAO TIẾN LÊ

THÁNG TÁM Ở SƯ ĐOÀN VINH QUANG

                                                                                                               Ghi chép


Chúng tôi gặp trung tá Phạm Quang Thệ ở con đường dẫn ra bãi tập huấn luyện chiến thuật quay vòng cấp phân đội. Gió sớm le le trên những tàu lá chuối qua nhiều ngày đêm trăn trở không còn nguyên vẹn, nhưng vẫn giữ sắc thái đậm đà của vùng đất trung du.

Sau một giây quan sát, Thệ bước tới đưa cả hai tay nắm chặt lấy tay tôi.
- Cứ ngỡ là khách lạ, không ngờ được gặp anh lần thứ ba.
Tôi cũng xác nhận:
- Đúng ... lần thứ ba.

Lần thứ nhất là hồi năm 1974. Thệ làm cán bộ tiểu đoàn dẫn một mũi tấn công vào Thượng Đức. Vất vả gian nan, nhưng với quyết tâm cao, phát huy truyền thống quyết chiến quyết thắng lập thành tích chào mừng Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, sau hơn một tuần lễ chiến đấu đoàn Vinh Quang đã làm chủ được Thượng Đức, ghìm chân lữ đoàn dù số 3 ngụy tạo thế thuận lợi góp phần cho toàn mặt trận miền Trung Trung Bộ hoàn thành nhiệm vụ.

Lứa tuổi tháng tám năm ấy không những gắn vào lá cờ Quyết thắng thêm nhiều huân chương mà còn rút ra kinh nghiệm cuộc sống: "Trong những giờ phút gay go khó khăn, tự chủ là phẩm chất dự trữ cuối cùng và mạnh nhất của con người".

Lần thứ hai gặp Thệ ở dinh Độc Lập khi anh đang loay hoay với việc đã từ chối lúc Dương Văn Minh xin phép được bắt tay người chỉ huy một cánh quân cách mạng đầu tiên tiến vào Sài Gòn. Thệ tuyên bố. "Quân ngụy Sài Gòn đã thất bại hoàn toàn. Ông phải đầu hàng vô điều kiện". Thệ đưa Dương Văn Minh lên đài phát thanh. Không kịp báo cáo với cấp trên...

Bây giờ trông khuôn mặt Thệ sắc nét hơn, hoàn chỉnh hơn bởi lông mày rậm, mặt vuông và bước đi chắc nịch.

Thệ đưa tôi vào nhà, kéo ghế mời ngồi, vừa rót nước vừa nói :
- Chúng tôi đã hoàn thành tốt giai đoạn một của năm huấn luyện 1982, và đã bước sang giai đoạn hai.
- Hoàn thành xuất sắc chứ? Tôi hỏi.
- Vâng, cũng khá. Thệ trả lời và báo cáo tiếp bằng một bản thành tích đã đánh máy sẵn.

Tôi nghe nhưng không chăm chú theo dõi mấy. Chẳng phải vì tôi không hiểu công việc quân sự. Tôi đã có hàng chục năm say mê vất vả với huấn luyện, sầy da, chảy máu toát mồ hôi để nâng phân đội mình chỉ huy đạt yêu cầu lên khá. Tôi tin những bản báo cáo này lắm, tin những người như Thệ chỉ nói thiếu chứ không bao giờ nói thêm thành tích. Nhưng giờ đây tôi muốn nhanh chóng rút ngắn thời gian làm việc với các cấp chỉ huy để xuống tận từng đại đội cơ sở. Tôi muốn mắt thấy chiến sĩ sống, tai nghe chiến sĩ nói để mình kết luận.

Nguyễn Chiến Trọng, phó đoàn trưởng về chính trị, bước vào, giọng vui vẻ gây không khí đầm ấm người nhà ngay từ đầu.
- Biết các anh xuống nhưng tôi đang bận hướng dẫn cho đảng viên học tập Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ 5.
- Đã đến giờ nghỉ rồi à? Tôi hỏi.
- Chưa. Nhưng cho nghỉ sớm hơn một chút. Tôi ngại cái lối làm việc cứ ép cho họ nghe, khi mình đang phân tán tư tưởng.

Chuông điện thoại đổ hồi. Thệ bước tới cầm ống nghe, trả lời gay gắt.
- Hai cậu ở vệ binh đưa xuống đấy à. Được rồi, bắt lại giao cho bên tham mưu xử lý ... mà này, hai thằng ấy là con cưng của ông Trọng đó ...
Trọng vẫn giữ nguyên tư thế ngồi, bình thản trả lời:
-Con cưng ông Trọng nhưng lại là cháu ruột ông Thệ.
Tiếng Thệ vẫn vang vang ở góc nhà.
- Nhắc nhở ông "ngựa trưởng" kiểm tra xe pháo chu đáo chuẩn bị bước vào giai đoạn huấn luyện hai.

Khi Thệ quay trở lại tôi cố giữ nét mặt bình thường để khỏi tỏ ra mình đang khó chịu. Bước sang giai đoạn huấn luyện hai rồi mà chiến sĩ còn vi phạm kỷ luật. Cán bộ cấp trên không nghiêm chỉnh gì cả, cứ đùa tếu với chiến sĩ "con con, cháu cháu" lại còn "ngựa trưởng". "Ngựa trưởng là cái gì?" Tôi tự hỏi nhưng bật ra thành tiếng, làm Thệ tưởng là hỏi Thệ anh vội vàng trả lời: 
- "Ngựa trưởng" là tiểu đoàn trưởng.
- Các anh hơi quá đáng, gọi tiểu đoàn trưởng là ngựa.
- Chuyện hay lắm và thông minh lắm.
Tôi cắt ngang:
- Thôi anh nói tiếp đi.
Tiếng Thệ rõ ràng:
- 100% A bộ binh bắn tập đạt loại giải kỹ thuật vận dụng trong chiến thuật tốt ...

Tay tôi như một bộ phận riêng lẻ ghi hết những nội dung Thệ báo cáo. Còn óc tôi nghĩ đến chuyện khác, nghĩ đến truyền thống tốt đẹp của Sư đoàn Vinh Quang mà tôi là người lính đầu tiên ở ngày thành lập sư đoàn trên mảnh đất lịch sử Lam Sơn, Thanh Hóa.

Tháng tám của những năm đánh Pháp chúng tôi đã thắng địch ở các chiến dịch Hoàng Hoa Thám,Quang Trung, Hòa Bình, Điện Biên... Trước mắt tôi hiện lên những lớp trẻ bạn bè của tôi trong trận công đồn bị thương, đầu quấn băng trắng máu khô đọng cứng chân tóc còn vẫy tôi lại nhắc nhơ kinh nghiệm trận đánh vừa rồi mà bản thân anh rút ra được.

Lớp trẻ bây giờ ra sao, có còn giữ vững và phát huy truyền thống ấy không? Tôi nhớ hôm vừa xuống xe đang tìm đường rẽ vào khu vực cơ quan đoàn bộ đóng quân thì thấy một bà già khoát tay vời tôi lại, như muốn nói một điều hệ trọng lắm.

Tôi bước tới, bà nói ngay:
- Đằng kia có hai chú lính đang bán mấy cái bát sắt tráng men.
- Sao họ lại bán bát hở bà?
- Còn sao nữa. Bát phát cho để ăn cơm hàng ngày mang bán đi thật là quá đáng. Chú lớn tuổi rồi phải nhắc nhở lớp trẻ.
- Vâng, cháu sẽ góp ý với anh em.

Tôi đi tới mấy quầy bán hàng bên đường, được họ cho biết, đúng là có hai người lính vừa bán hai chiếc bát tráng men mới toanh, sau đó họ mua hai chiếc bát cũ thay thế để thừa tiền mua thuốc lá. Họ vừa đi xong.

Cái bà lúc nãy chờ tôi trở lại và nói ngay:
- Chân chú không bắt được?
- Vâng. Không bắt được.
- Họ nhanh lắm chú ạ. Họ tạo ra lắm chuyện bất ngờ đến quỷ quái. Vừa ghét lại vừa thương họ. Chú cũng đi về phía này à. Ừ thì đi cho vui.
- Bà đưa cháu xách chiếc túi cho.
- Quý hóa quá. Này chú ạ. Nhà tôi ở gần chỗ bộ đội tập luyện họ đi ngang về tắt xe pháo cứ ù ù suốt ngày. Chú nào cũng quen nhưng tôi không biết tên, bởi vì tất cả trông mây mẩy xinh đẹp cả. Của đáng tội, ngoài những sơ suất nhỏ như làm gãy vài cành sắn, tàu lá chuối, vỡ cái bờ ruộng, thì họ chẳng gây trở ngại gì cho chúng tôi cả. Còn vui nữa là đằng khác.

... Vừa huấn luyện vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa huấn luyện vừa hoàn thành mọi kế hoạch phương án chiến đấu tại chỗ, triển khai xây dựng cái cơ sở dự bị để khi cần thiết toàn đoàn rời khỏi vị trí tập trung.

"Đã làm được ba bãi tập huấn luyện quay vòng giữa chiến thuật, kỹ thuật cho cấp phân đội. Bài bắn tập trong chiến thuật trong cấp đại đội, tự túc bãi tập lái xe tăng trị giá 300.000 đồng. Tự túc toàn bộ đồ dùng học tập bộ binh... " . Tiếng Thệ rõ ràng rành rọt nêu lên thành tích của đơn vị. Tôi hình dung một bãi tập rộng lớn chạy qua các triền đồi thưa thớt nhà dân và trong óc tôi tiếng bà già kia tái hiện:

Họ đùa vui và phát ra những điều hết sức bất ngờ. Cái hôm đại đội đóng quân ở làng bên liên hoan văn nghệ. Cũng chẳng có sân khấu, họ diễn ngay giữa sân phơi của hợp tác xã, xung quanh cây lá qua ánh trăng thả bóng xuống nên rất mát mẻ. Họ đệm đàn và hát những bài hát mới đã hay nhưng khi nghe hát chèo  lại càng hay hơn. Một chú cải trang con gái đóng vở  tiễn đưa chồng lên đường nhập ngũ. Chà cái đoạn "sử rầu" lúc chia tay nghe đến chảy nước mắt. Người chồng ra đi người vợ trở về. Nghĩa là người vợ đã rời sân hợp tác xã đi sâu vào hàng cây xoan phía sau nhà, chèo tưởng như sắp hết. Chợt cô ta chạy hớt hải ra giữa sân hét to: "Con hổ anh ơi!".

Bà con ngồi xem nhổm hẳn dậy. Có người định chạy, vì ở làng chúng tôi lâu lâu lại có một con hổ mò về bắt lợn và có lần suýt vồ người, nên nghe nói đến hổ là ai cũng hốt hoảng. Nhưng may quá không phải là hổ thật mà cô ta chuyển từ giọng hét to hạ xuống điệu hát văn trầm bổng: "Con hổ anh ơi. Lọ dầu con hổ anh ơi, anh mang theo để phòng khi gió trời". A, thì ra cô ta quên đưa cho chồng lọ dầu con hổ, nên vội vàng chạy theo. Tất cả cười ầm lên, lớp trẻ đấm vào lưng nhau thùm thụp. Các chú phụ trách đêm văn nghệ gào to đến rát cổ vẫn không lấy lại được trật tự. Lớp trẻ càng về sau càng nảy sinh những ý nghĩ mới mẻ chú ạ, ngay con gái tôi cũng vậy thôi. Mình già rồi mình không hiểu chúng nó, cứ bắt chúng nó theo ý mình.

Trong phong trào thi đua chúng tôi đã tổ chức chấm điểm hàng ngày trên bảy mặt công tác cho  trung đội, tiểu đội, hàng tuần cho đại đội và hàng tháng cho tiểu đoàn. Trong sáu tháng đầu năm đã nổi  lên những tấm gương xuất sắc như Nguyễn Minh  Đức, Đỗ Vũ Quang, Hoàng Công Mậu, Phạm Văn  Bình... (chúng tôi đặt vấn đề học tập và chỉ huy đơn vị  như thế nào khi chính quy chưa theo kịp hiện đại? Phải học tập bằng lối Việt Nam...).

Tôi bật lên một tiếng cười. Thệ ngừng báo cáo nhìn tôi hỏi: Anh không tin là phải học tập theo cách Việt Nam à?

Tin chứ. Nhưng mình cười là nhớ tới một mối quan hệ khác. Mối quan hệ giữa chiến sĩ với nhân dân.

Ở lại đơn vị Phạm Quang Thệ chỉ huy - tức là một trung đoàn thuộc Sư đoàn Vinh Quang - tôi mới hiểu thấm thía thêm về mối quan hệ hiện nay, và điều tôi có thể rút ra là: người ta thường hay sống bằng những cảm tính, hoặc chỉ dừng lại ở cảm tính, dừng lại ở những nhận xét bên ngoài sử dụng những lời nói bằng cách nhắc lại những lời của người khác chưa thật chín chắn, và thế là sự không chính xác càng lan rộng ra... Với cách nghĩ này đã vội vàng kết luận: bộ đội ta hiện nay kém trước.

Con tàu xình xịch chạy qua khu vực đóng quân của đại đội 6. Khói trắng bốc thành từng cuộn rải vẩn vơ lên khu rừng cây xanh thắm. Nhiều màu áo lấp ló ở khung cửa và đột nhiên tiếng còi tàu gióng giả nổi lên như kêu gọi, như thôi thúc một sự ra đi. Chính tôi mới xa Hà Nội chưa đầy nửa tháng đã muốn lên tàu, sự lên tàu không phải vì muốn về Hà Nội mà muốn đi đâu đó muốn nhanh chóng rời khỏi nơi mình đang dừng. Tiếng còi tàu đã gây ra một tâm lý như vậy.

Tôi nhìn xung quanh, những chiến sĩ mới xa nhà bảy tám tháng, vài ba năm sống trên miền đất trung du thầm lặng nay hẳn không thể tránh khỏi sự xao xuyến khi một tiếng còi tàu cất lên. Hơn nữa, năm 1982 là năm có nhiều biến động, nửa số quân hết hạn nghĩa vụ, lớp mới thay thế vào.

Không. Không có ai để ý đến tiếng còi tàu cả. Họ đang mải mê với công việc của mình. Những chiến sĩ quê ở Bình trị Thiên đã hết hạn nghĩa vụ quân sự theo yêu cầu của chuyên môn ở lại thêm thời gian nữa, giúp anh em mới vào hiểu được kỹ thuật chiến thuật làm chủ vũ khí hiện đại. Họ đang đan các loại bia chuẩn bị cho những đợt bắn tập giữa giai đoạn huấn luyện hai. Họ đưa bia lên ngắm, đặt bia xuống sửa, miệng lẩm bẩm "cố nội cái thằng nứa lô ô ni phơi lâu khô, khó đan dữ". Lòng bàn tay thành chai, vuốt qua rét chực từng múi lạt, như người thợ lành nghề của công ty xuất khẩu.

Xa hơn nữa, một tốp chiến sĩ, người cởi trần, người mặc áo, lưng đầy sọc nắng nhấp nháy, đang kỳ cọ, moi trong các cạnh xe lau rửa hết bùn đất do đêm hôm qua báo động sẵn sàng chiến đấu dính vào. Cạnh đó là nhà xe ghi rõ quy tắc chuẩn bị kỹ thuật khi niêm cất xe:
- Nhiên liệu đầy đủ.
- Không có hỏng hóc nhỏ.
- Giãn cách đúng quy định.
- Trong ngoài sạch sẽ. 
- Cố định chắc chắn.
Và quy tắc mở niêm cất xe :
- Mở các vị trí niêm phong.
- Lắp cáp điện vào bình điện.
- Kiểm tra nước, nhiên liệu, áp suất.
- Quay máy bằng tay từ 10 đến 15 vòng.
- Nổ máy kiểm tra các chế độ làm việc của động cơ và các đồng hồ.
- Tháo mễ xe cho xe lăn bánh.

Vài chiếc mũ sắt che lấp hết mái tóc và nửa đầu phía sau của tổ thông tin nhưng tôi vẫn nhận ra dáng dấp quê hương từng người trên khuôn mặt họ. Dù trong chiếc mũ sắt, mũ cối, mũ nan, mũ vai hay mũ rơm vẫn nhận ra đặc điểm người Hà Nội. Mới đầu bằng cảm tính, bằng kinh nghiệm rồi chuyển qua phân tích khoa học. Tôi đi tới ngồi xuống bãi cỏ cùng với họ. Một chiến sĩ tháo mũ sắt, gỡ cáp đeo bên tai rồi rút thuốc lá vàng ươm cuốn bằng giấy báo, mời tôi, giọng hồ hởi:
- Sắp đến mùa hoa sữa rồi anh nhỉ. Hết tháng tám, sang tháng chín là hương hoa sữa trùm lan khắp thành phố, nhất là dọc con đường Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Mai Hắc Đế... Hồi ở nhà sao em ghét hoa sữa thế, thơm đến nhức đầu, nhưng đi rồi thì nhớ ơi là nhớ... Họ bảo đó là đặc điểm của hoa sữa.
- Này các bạn trẻ ạ, nhớ hoa sữa nhưng không được bỏ về Hà Nội ngửi mùi hoa sữa đâu nhé.
Người chiến sĩ trẻ mở rộng mắt nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên.
- Anh cứ như trên trời rơi xuống. Chiến sĩ 1982 mà tụt tạt à. Không hiểu tình hình thực tế...
Tôi nghe chiếc cáp bỏ thõng ở tai cậu ta vang lên tiếng gọi:
- Một, hai, ba bốn. Sông Lô gọi Sông Hồng nghe rõ không trả lời.
Bắt tay tôi cậu ta xin lỗi:
- Đến giờ liên lạc, không lơ mơ với tiểu đoàn trưởng Nguyễn Xuân Kỳ được đâu. Nhà em ở sát chùa Quan Hoa, đến giữa Cầu Giấy rẽ phải, em là Nguyễn Văn Thông... Anh nhớ vào chơi cho thầy mẹ em mừng, vào trước 2 - 9 nhé.

Vòng về phía bên phải đồi, tôi vào đại đội 12 - đại đội cối 82 mi li mét của tiểu đoàn, sự đến thăm bất ngờ buộc tôi phải dừng chân chờ qua đi khoảng thời gian sinh hoạt sáng của họ.

Thiếu úy trung đội trưởng Nguyễn Ngọc Đam đang tập họp trung đội thành hàng ngang trong nhà sau tiếng hô nghiêm nhỏ gọn dõng dạc: "Đồng chí Quang làm chuẩn, nhìn bên trái thẳng". Đam giao nhiệm vụ: "Kiểm tra nội vụ sớm nay, nội dung thứ nhất: chăn, màn, ba lô. Nội dung thứ hai: giầy, dép. Sau đây dưới quyền chỉ huy của tiểu đội trưởng".

Một binh nhất theo lệnh tiểu đội trưởng bước lên ngắm xem hàng chăn màn đã thẳng và vuông góc chưa.

Nắng sớm rọi qua những song cửa làm không khí dịu mát sau cơn áp thấp nhiệt đới kéo liền ba ngày. Trên tấm bảng đen trước nhà cán bộ đại đội ở còn lưu lại lời nhận xét qua trực ban ngày hôm qua: "Tác phong nhanh, kỷ luật nghiêm, nội vụ gọn, vũ khí sạch, số quân làm công tác đủ. Xếp loại một gồm các tiểu đội: 1, 4, 5. Cá nhân khá trong ngày, trung đội 1: đồng chí Dân, trung đội 2: đồng chí Thế, Niên". Dưới ghi tên trực ban: Văn Bản.

Nơi ở của đại đội 12 mới chỉ bằng lá gồi lợp trên những khung nhà do anh em tranh thủ vào rừng lấy về dựng nên. Nó thiếu cái mặt bằng của doanh trại chính quy, nhưng mọi người hiểu ra là phải chăm phải lợp cho có một nơi ở, mùa không dột, bão không lay, không bị những cơn nắng rát đe dọa. Trong căn nhà bằng lá ấy nóc không dột, nơi ở sạch se ngăn nắp. Đầu mỗi giường nằm ghi tên chức vụ rõ ràng: "Hoàng Đức Đạt binh nhất, chiến sĩ; Lê Văn Thế, hạ sĩ, chiến sĩ". Sự gọn gàng ngăn nắp, làm cho căn nhà phong quang sạch sẽ hơn. Con người cảm thấy thoải mái dễ chịu, muốn làm việc.

Thượng úy phó tiểu đoàn trưởng về chính trị Nguyễn Lan đã nói với tôi bằng cái giọng ri rỉ nhát gừng của người Nghệ Tĩnh:
- Cái gì ở đây cũng rách anh ạ. Nhà rách, quần áo rách, da thịt rách. Vất vả quá, sáu tháng huấn luyện rồi còn chi nữa. Tui đã nói với anh em: "Đói cho sạch, rách cho thơm". Nhà rách dột, thì dọi lại, quần áo rách thì vá lại, da thịt rách thì rịt thuốc vô. Chỉ cần có một nơi không rách đó là trái tim. Trái tim người lính và nhất là những người lính năm 1982 phải luôn luôn khỏe mạnh.

Tiểu đoàn 6 đã dùng mọi thời gian có thể của tiểu đoàn tập trung vào việc nâng cao đời sống cho anh em. Từ năm người nằm trên ba tấm ván đã làm được mỗi người một giường. Chỉ riêng việc có đủ hàng trăm chiếc chiếu để trại nằm cũng là một công trình lớn, khi cấp trên chưa kịp cấp phát. Nuôi gà, nuôi vịt, nuôi lợn, trồng rau, nhà đọc sách, có đàn ghi ta xuống đến trung đội, lập lò rèn, rèn lấy kéo cắt tóc, dao cạo và mọi đồ dùng khác cho tiểu đoàn. Chiến sĩ rèn của tiểu đoàn coi thợ rèn xung quanh khu vực đóng quân là xoàng. Không những hơn thợ rèn bên ngoài về kéo, mà cả dao thợ bên ngoài cũng khó địch nổi.

Chẳng có sách vở mang đi theo nhưng Nguyễn Lan nói với tôi vanh vách từng chiến sĩ trong tiểu đoàn của anh, nhập ngũ tháng, năm nào, quê ở đâu, học lớp mấy, tình hình gia đình ra sao, có hoa tay gì, đã bắn tập mấy lần, biết sử dụng loại súng gì, nét xấu đẹp trong tính tình từng người và hiện nay họ muốn gì.

Lan kể cho tôi nghe ở tiểu đoàn anh lưu truyền câu chuyện ông thủ trưởng đến giảng dạy một bài học chính trị. Ông thao thao bất tuyệt với những ví dụ trên thế giới những nhà bác học phương Tây... không đáp ứng được điều mọi người đang mong muốn. Hết giờ dạy, ông ra ngoài đón hỏi một chiến sĩ:
- Bài nói chuyện của tôi hôm nay các đồng chí có thích không?
- Dạ , thích ạ ?
- Thích nhất là đoạn nào?
- Thích nhất là đoạn sau cùng ạ ?
- Đoạn sau cùng như thế nào, đồng chí nhắc lại.
- Dạ, đoạn sau cùng là thủ trưởng nói: "Tôi nói đến đây là hết".
- Chiến sĩ bây giờ họ trả lời trực diện, bộc lộ sự thật ra ngay không ấp a ấp úng vòng vèo. Mình cũng đừng cho là họ vô lễ mà tìm cách phê phán trù úm. Phải tạo sự gần gũi giữa cán bộ, chiến sĩ, làm cho họ thấy đây là gia đình của họ, họ có trách nhiệm giữ gìn chăm sóc, từ giường nằm, sân chơi, nơi ngồi nghe đài, nghe âm nhạc... họ là người chủ không nên ghìm họ trong một dây cương quá ngắn.

Lan nói rất kỹ với tôi về việc chú ý đến tâm tư tình cảm riêng của từng người. Kể cả lúc họ phạm kỷ luật. Ví như tự ý bỏ về nhà, tự ý bỏ về nhà là có tội, nhưng mình nghiên cứu kỹ xem tội ấy liên quan tới những đâu. Có chiến sĩ cả tháng học tập rất tốt, việc gì cũng làm, thức khuya dậy sớm rèn luyện bắn súng giỏi, ấy mà, cuối tháng bỏ về nhà, tìm nguyên nhân mới biết là gia đình hứa hẹn: "Con đi bộ đội, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ cứ mỗi ngày gia đình trợ cấp cho năm nghìn. Cuối tháng gửi tới". Hết tháng, không thấy gia đình gửi tiền, xin phép chưa chắc cán bộ đã cho, đành bỏ về vài ngày.

Cũng có trường hợp một chiến sĩ bỏ về trong một đêm sau đợt huấn luyện chiến sĩ mới ba tháng. Nghe thì đáng ngạc nhiên. Nhưng chuyện xảy ra thật đơn giản. Hết ba tháng huấn luyện, cán bộ phụ trách bảo: "Ngày mai các đồng chí nghỉ để ngày kia chuyển đi học hạ sĩ quan". Vậy là đêm đến họ rủ nhau đi khỏi đơn vị, họ không muốn đi học hạ sĩ quan. Tròn một tuần cho qua đợt đi học rồi họ lên. Nhiều trường hợp do cán bộ mình duy trì không chặt hoặc thiếu trách nhiệm lơ là trong lãnh đạo đơn giản hóa công việc nên sinh ra rắc rối, khắc phục mãi không xong. Cán bộ phải có trách nhiệm cao, cấp nào cũng thế, nhưng trước hết là cấp tiểu đội trưởng.

Tiểu đội trưởng là một cán bộ chủ chốt, là đầu mối tiếp xúc với người lính. Nếu người lính có những thay đổi như hôm qua nằm màn tuyn hôm nay nằm màn vải, hôm qua chỉ một chiếc áo mới hôm nay hai áo mới, hôm nay đội chiếc mũ khác hút thuốc lá ngoại, nhận một lá thư, một câu chuyện bâng quơ một tiếng thở dài, một mối quan hệ mới nảy sinh là tiểu đội trưởng phải nghe hết, nhìn thấy hết tìm ra nguyên nhân tức khắc những thay đổi ấy, có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Tiểu đội trưởng là cửa ngõ dẫn mọi sai đúng vào quân đội. Nếu cửa ngõ đó được kiểm soát chặt chẽ, được thực hiện đúng mọi chế độ thì ở các phân đội cơ sở sẽ không xảy ra chuyện gì đáng tiếc.

Tôi nói:
- Quá chú trọng xây dựng hàng ngũ tiểu đội trưởng lại bỏ quên một số cán bộ khác.
Lan cắt ngang:
- Tôi biết anh định nêu trường hợp cụ thể nào rồi. Đây là đồng chí phó đại đội trưởng về chính trị của đại đội 12. Trong tiểu đoàn cũng chỉ mỗi đồng chí này là yếu kém. Thực ra thì đồng chí ấy cũng không phạm kỷ luật gì, chỉ là làm việc chưa thật hăng hái, không muốn ở bộ đội, muốn chuyển ngành.
- Nhưng mà tác động lớn đến chiến sĩ chứ.
- Không tác động đến chiến sĩ, hoặc có cũng chỉ là rất ít. Tôi khẳng định với anh như vậy. Đó cũng là điều mới mẻ của chiến sĩ năm 1982. Họ thường xuyên học tập gương đảng viên, gương cán bộ, chiến sĩ thi đua, các gương điển hình những điểm chung nhất, nhưng họ không học tập, không làm theo một người cụ thể nào để rồi người ấy sai lầm, người ấy hỏng mà mình "bơ vơ" mất phương hướng, hỏng theo. Điển hình nào cũng được họ phán xét, tự họ kết luận điểm tốt để noi theo. Chiến sĩ bây giờ làm việc theo chức tránh quân nhân, hành động theo điều lệnh từ đó tạo cho họ một yêu cầu làm việc, một nhiệm vụ phải hoàn thành, một phương hướng để phấn đấu. Đến đại đội 12 anh thấy rõ điều đó rồi chứ. Cán bộ chính trị của đại đội, ngày xưa gọi là linh hồn của đơn vị - linh hồn của đơn vị mà yếu kém thì đơn vị còn ra cái gì nữa. Nhưng bây giờ khác rồi. Đại đội 12 vẫn khá, khá toàn diện từ bắn súng, chiến thuật đến trật tự nội vụ, điều lệnh, đời sống, văn hóa văn nghệ .... Tinh thần làm chủ tập thể trong quân đội là ở chỗ đó, ở chỗ mình biết ghép mình vào kỷ luật, không phải chờ người khác có kỷ luật mình mới có kỷ luật. Còn đồng chí đại đội phó chính trị ở đại đội 12, nếu không chuyển biến, sẽ có biện pháp xử lý.

Nghe Nguyễn Lan nói đến kỷ luật, làm tôi nghĩ tới mấy lâu nay đi các đơn vị trong Sư đoàn Vinh Quang, đơn vị nào cũng cho biết họ không có người đào ngũ. Cả Sư đoàn Vinh Quang thực sự không có ai tự ý bỏ về nhà ư? Khi Sư đoàn Vinh Quang hiện nay không đứng "đầu sóng ngọn gió" như bảo vệ biên giới hoặc bảo vệ thủ đô, chỉ là đơn vị xây dựng huấn luyện bình thường trong toàn quân. Vậy lấy gì để động viên, lấygì khơi dậy niềm vinh quang. Họ giấu giếm chăng? Hay họ có một phương pháp lãnh đạo tối ưu nào?
Tôi hỏi :
- Tiểu đoàn 6 có người đào ngũ không?

Nguyễn Lan nhìn ra dãy nhà thư viện của tiểu đoàn nơi một số chiến sĩ đang bước vào mượn sách với câu trả lời tôi ngỡ như anh né tránh điều tôi hỏi:
- Sau ba tháng huấn luyện chiến sĩ mới. Chiến sĩ nào cũng xác định được rõ ràng rồi đây mình làm gì? Sẽ đi học sĩ quan, hạ sĩ quan, chuyên môn, hay chỉ hết hạn nghĩa vụ quân sự rồi về. Bởi vì chúng tôi phổ biến cho chiến sĩ biết các tiêu chuẩn. Ví như học sĩ  quan cần phải có trình độ chính trị, văn hóa, tuổi đời, thể lực, kỹ thuật chiến thuật như thế nào... Về chuyên môn cũng có yêu cầu riêng. Ai đủ tiêu chuẩn là được gọi đi. Ai không muốn đi hoặc không đủ tiêu chuẩn thì phải hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quân sự ... Ngày xưa chúng tôi nghe nói ở Liên Xô đi nghĩa vụ ngày nào và về ngày nào là từng người họ biết trước gia đình ra ga đón. Nghe như một chuyện xa lạ. Còn ở ta ngày nay cũng thế thôi. Tính đến hết ngày nghĩa vụ quân sự là ra về, không kéo thêm thời gian.

Trong thời gian làm nghĩa vụ quân sự, anh bị một lần cảnh cáo là xóa đi hai tháng nghĩa vụ. Một lần bỏ về nhà cũng bị cảnh cáo và kéo dài thêm sáu tháng nghĩa vụ, hai lần bỏ đơn vị kéo dài một năm. Bị thêm nữa hoặc bị nặng hơn kỷ luật cảnh cáo, sẽ đưa đi cải tạo lao động, cho đến bao giờ tiến bộ mới đưa về làm tiếp nghĩa vụ quân sự. Cao hơn nữa sẽ phạt giam, đưa tòa án quân sự xét xử.

Cảnh cáo ai, trường hợp nào là chi ủy kết hợp chính quyền nghiên cứu đủ hồ sơ thông qua trước chi bộ, đảng ủy tiểu đoàn xét và đảng ủy trung đoàn kiểm tra kỹ lần nữa mới phê chuẩn. Sau đó chuyển hồ sơ cho ban quân lực lưu trữ. Hết hạn nghĩa vụ mọi người biết mình ra về, hay còn phải ở thêm bao nhiêu lâu nữa.

Chiến sĩ mình ngày nay mang theo nhiều chất công nghiệp, thích sống có luật. Cứ theo luật mà làm. Cái luật ấy ban hành cụ thể xuống đến đại đội. Ví như giai đoạn huấn luyện đầu năm để súng gỉ, trật tự nội vụ kém, lời thề không thuộc, kỹ thuật, chiến thuật à uôm, la cà trong nhà dân... sẽ bị cảnh cáo và xin mời ở thêm hai tháng nữa. Còn chiến sĩ thi đua những người hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc sẽ được cấp trên thưởng cho đi phép. Cho nên toàn đoàn không ai đào ngũ cả là vì đã có luật. Luật nghĩa vụ quân sự ban hành và được triển khai thực hiện nghiêm chỉnh.

- Theo đồng chí chỉ cần có luật là người lính hoànthành được nhiệm vụ?
- Luật nghĩa vụ là điều cơ bản đối với người lính, nhưng để thực hiện được luật còn bao gồm nhiều mặt khác nữa. Ví như công tác Đảng, báo chí đã nói rất nhiều rồi. Tôi thấy còn một điều quan trọng nữa là công tác Đoàn và quan hệ quân dân. Hai điểm này chúng tôi cũng làm tốt, nhưng chưa tốt bằng bên Trung đoàn 68 - pháo mặt đất.

Đại úy Trần Vũ, trợ lý thi đua của Đoàn Vinh Quang, có dáng dấp như một học sinh vừa tốt nghiệp trung học phổ thông. Anh đi cùng chúng tôi xuống các đơn vị và ở đâu anh cũng bổ sung thêm những đặc điểm của con người mới gặp, hoặc đơn vị mới đến làm cho buổi tìm hiểu có hồn và sinh động hẳn lên.

Nói chuyện với Nguyễn Lan xong, Trần Vũ hỏi tôi:
- Anh đánh giá Nguyễn Lan như thế nào?
- Một cán bộ khá, có năng lực lãnh đạo, rất chặt chẽ trong công việc. Khi anh ta đề ra công việc rồi sẽ làm đến nơi. Cấp trên cũng không dễ gì bác bỏ.
- Đúng. Nguyễn Lan biết suy nghĩ, chịu khó suy nghĩ và quyết đoán. Song con người đâu phải mặt nào cũng nghĩ được hoàn chỉnh.
- Nguyễn Lan có chuyện gì à?
- Anh có hỏi chuyện gia đình cậu ta không?
- Có. Một vợ, một con, quê ở Đô Lương, gần con đường Truông Bồn, một trọng điểm trong những năm chiến tranh phá hoại miền Bắc cửa giặc Mỹ. Vợ chồng hạnh phúc.
- Về Sư đoàn Vinh Quang lần này có thời gian các anh nên đi sâu vào phần tâm tư tình cảm của sĩ quan. Họ cũng lắm vấn đề đấy anh ạ. Không phải mình biết để chê trách gì họ, mà biết để hiểu cuộc sống của họ không bình lặng, họ đã vượt qua những khó khăn về nội tâm về gia đình.

Trường hợp cậu Lan, anh biết nó lấy vợ thế nào không? Lấy vợ khi nó chưa biết mặt vợ, vì ở nhà bố mẹ sắp chết, mà bà ta lại muốn nhìn thấy mặt con dâu trước khi nhắm mắt, hơn nữa lâu nay bà đã ướm sẵn cô gái cạnh nhà cho con trai, nên đã cưới chạy. Khi về nhà cậu ta nghe nói mình có vợ liền sững người, cứ ba lô trên vai, mắt đăm đăm nhìn vào người gọi là vợ mình.

Lan nghĩ tới hoàn cảnh gia đình neo đơn, công việc tiểu đoàn đang mùa huấn luyện, sự hồn nhiên và nỗi buồn của cô gái hàng xóm ... cuối cùng Lan đặt ba lô xuống giường, nói gọn một câu: "Thôi, tớ lấy cậu vậy?”.

Con người chu đáo kỹ càng trong công tác đơn vị mà lại dễ dãi, đơn giản trong riêng tư. Thực ra không phải là đơn giản mà cái chính là mình phải biết dẹp gọn lại phần nào đó cuộc đời mình chưa được hoàn chỉnh.

Tôi đứng trong căn nhà tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 6 làm theo hình chuôi vồ, hút gió suốt mùa hè, chợt nhận ra trước sân các đại đội trong tiểu đoàn đều rực rỡ những vườn hoa có tay người chăm chút. Màu trắng của hoa nhài, hoa đơn, màu vàng của hoa cúc, hoa chuối nước, hoa mướp, màu đỏ của hoa hồng, hoa phấn, hoa tiên... Rạng rỡ thanh lịch, đỏ thẫm, nhỏ nhoi nhưng vẫn dễ nhận ra đó là hoa liễu leo năm cánh rải đều trên một thân cây nhẹ nhàng. Điều gì đã giảm đi cái nắng trưa tháng tám quang mây, đã làm tâm hồn tôi thanh thản. Phải chăng đây là những vườn hoa trên đồi cao đất cằn đá sỏi, hay những con người tạo đất cằn đá sỏi thành vườn hoa? Những sắc hoa tuổi trẻ.

Hôm chúng tôi xuống Trung đoàn 68 pháo mặt đất, không may là cán bộ chủ chốt đi vắng hết chỉ mỗi đồng chí chủ nhiệm chính trị ở nhà nhưng lại bận lên lớp Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 5 cho tiểu đoàn 10.

Không nghe được báo cáo tình hình chung, chúng tôi đi thăm các phân đội nhỏ. Đấy là một buổi sáng mát mẻ, sau đêm mưa gió thổi tung những quần áo anh em gửi treo ở phòng may vá. Hạ sĩ Trần Văn Đãi quê ở Đan Phượng, Hà Nội đang chăm chú vào từng đường may, thấy chúng tôi tới anh ngẩng đầu lên nở một nụ cười rất tươi để lộ đôi răng cửa có khe hở trông vui vui và cũng như chứng minh khuôn mặt chỉ thành công trong một nghề chuyên môn, không mơ ước xa xôi.

Sau lưng anh là một bản quy định thời gian làm việc lịch nhận may vá, trả quần áo cắt tóc và bán hàng căng tin. Về may vá, dù vá mấy miếng cũng chỉ lấy năm hào tiền công một bộ quần áo. Riêng về sửa chữa hoặc may quần áo mới mỗi bộ năm đồng.

Cắt tóc quy định:
"Bí thư chi đoàn phải thường xuyên nắm được Những đồng chí tóc rậm, căn cứ lịch, đề nghị có lệnh của chỉ huy bố trí cho anh em lên cắt tóc. Khi đi có người phụ trách. Quân nhân chuyên nghiệp và sĩ quan trả hai hào, hạ sĩ quan chiến sĩ, giá một hào". Dưới ký tên: Chủ nhiệm chính trị - đại úy Nguyễn Xuân Thanh.

Cái mạnh của Sư đoàn Vinh Quang hiện nay là công tác thanh niên. Thanh niên đã làm chủ trên mọi lĩnh vực. Chưa bao giờ Đoàn thanh niên mạnh như bây giờ, trụ cột như bây giờ. Mạnh hơn cả những năm đánh Mỹ. Bởi vì bây giờ lực lượng quân đội ta rất trẻ. Không những trẻ từ chiến sĩ mà trẻ cả chỉ huy. Cán bộ trung cấp trẻ đã đành, cán bộ cao cấp cũng rất trẻ. Cán bộ chiến sĩ Sư đoàn Vinh Quang, những người đang giữ nhiệm vụ chủ chốt hiện nay đều vào sinh ra từ sau Cách mạng tháng Tám, kể cả các đồng chí mang quân hàm trung tá, thượng tá. Tháng tám năm l945, cha mẹ họ còn là những thanh niên đi trong đội ngũcách mạng, nổi dậy cướp chính quyền. Cha mẹ họ hồi ấy chưa biết nhau, chưa yêu nhau, chưa lấy nhau. Rất nhiều đồng chí hiện nay thành sĩ quan, tính ra hồi tháng tám năm 1945 cha mẹ họ còn là thiếu nhi.

Sư đoàn Vinh Quang là một sư đoàn rất trẻ, bởi thế nơi đây đã nảy sinh khẩu hiệu đầy tự hào chứa chất sức mạnh: "Có chúng tôi, tuổi trẻ sư đoàn!". Tuổi trẻ phải làm chủ lấy tuổi trẻ, và phát huy truyền thống của các thế hệ trẻ đi trước. Sĩ quan cấp thượng úy và đại úy hầu hết lại sinh sau ngày thành lập sư đoàn (1950). Có đồng chí còn sinh sau ngày đế quốc Pháp thất bại cút khỏi Đông Dương (1954). Đối với họ sự phát huy truyền thống là một điều rất thiêng liêng, rất xúc động, và như ta thường thấy những người càng xa lịch sử bao nhiêu càng muốn tìm hiểu lịch sử và quý mến lịch sử bấy nhiêu.

"Có chúng tôi tuổi trẻ sư đoàn?” bao gồm bằng những chương trình cụ thể, đã hành động thành côngnhiều năm nay rồi và rực rỡ nhất là giai đoạn huấnluyện năm 1982.

Chúng tôi gặp trên khuôn mặt cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 68 những nét thoải mái, vừa lòng, những cách nhìn coi thường khó khăn và phảng phất thêm nét nào đó như lưu luyến.

Phải rồi, đoàn viên thanh niên Trung đoàn 68 đã xung kích giành hai điểm cao thắng lợi: một là huấn luyện giỏi công tác tốt, hai là kỷ luật nghiêm, nếp sống đẹp. Để đạt hai điểm cao đó họ đã đạt được 5 nhất: huấn luyện giỏi nhất, kỷ luật nghiêm nhất, an toàn cơ động nhất, bảo quản tốt nhất, bảo đảm đời sống vật chất tốt nhất.

Đi đôi với đạt thành tích cao nhất về huấn luyện trong giai đoạn một Trung đoàn 68 còn thực hiện được những điểm riêng:
- Mỗi đoàn viên lao động ngoài giờ 50 viên gạch mộc, chuyển lên sân trung đoàn để dựng 5 lò gạch, châm lửa đốt vào ngày mừng công.
- Củng cố xây dựng và phát triển khu hoạt động thanh niên, gồm thư viện, cắt tóc may quần áo, căng tin, sân chơi bóng bàn, bóng chuyền, bóng đá...
- Xây dựng xong con đường Thanh niên dài 2 kilômét phẳng lỳ, đẹp mắt, uốn cong trên đường vàotrung đoàn.
- Xây dựng đồi cây lưu niệm làm râm mát nơi trú quân và bảo vệ đất đai không bị xói mòn thoái hóa. Khu đồi phía trước dành cho chiến sĩ ra quân hàng năm trồng cây lưu niệm, khu đồi phía sau dành cho khách đến thăm đơn vị trồng cây lưu niệm.
- Dưới chân đồi đào ao thả cá, có phân định từng lớp nước cho các loại cá.

Những con số khô khan, khép tròn người chiến sĩ trong mọi kế hoạch, như tăng gia sản xuất, toàn sư đoàn đã thu được 87.131kg rau xanh, 94.610kg sắn tươi, 116.000kg đậu các loại, 2.00kg thịt, 2.698kg cá tươi, 6.758kg cây dược liệu, 95.000 viên thuốc các loại. 2.397.000 viên gạch, 265 tấn vôi, 30.000 viên ngói cải tiến, 932 mét khối cát, 532 mét khối sỏi đá, 185 mét khối gỗ, 2. 000 mét vuông nhà ở tạm... Những con số hết sức khô khan nhưng phải làm nên con số đó mới tự mình nuôi sống mình, mới xây dựng được đơn vị,đáng quý bao nhiêu trong hoàn cảnh này làm ra một cân lương thực cho đất nước, đáng quý bao nhiêu bằng hai bàn tay trắng dựng nên cả một cơ ngơi. Đáng quý bao nhiêu vừa huấn luyện quân sự vừa xây dựng kinh tế, đáng quý bao nhiêu chỉ 6 tháng đầu năm, 190 đoàn viên trở thành đảng viên và hết năm 1982 cũng có thêm một lực lượng xấp xỉ như thế bước vào đội ngũ Đảng cộng sản vinh quang.

Thêm những mối quan hệ làm vững chắc đơn vị, Sư đoàn Vinh Quang đã đỡ đầu trường con em liệt sĩ mang tên anh hùng Hoàng Văn Miện. Hàng tháng, hàng năm đoàn đến với trường và trường đến với đoàn, mối quan hệ thắm thiết ấy đã nâng thêm trách nhiệm của người anh, người chú, của người cháu, người em.

Mặc dầu gấp gáp trong mùa luyện quân, mới hai tháng của giai đoạn một, toàn sư đoàn đã góp mỗi người một viên gạch (tính thành một đồng) gửi lên Trung ương Đoàn thanh mền cộng sản Hồ Chí Minh, ủng hộ xây dựng khách sạn Khăn Quàng Đỏ.

Sư đoàn còn mời các huyện, các quận có con em đang làm nghĩa vụ quân sự tại sư đoàn tổ chức những đoàn đại biểu đến thăm góp sức vào xây dựng đơn vị.

Nổi bật lên là mối quan hệ với quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Quận Lê Chân đã về một đoàn gồm đại biểu ủy ban nhân dân, cơ quan quân sự, công đoàn, thanh niên, phụ nữ cùng đi, có đội ca khúc chính trị mang theo tặng phẩm đến dự ngày hội tuổi trẻ báo công của toàn sư đoàn. Các chiến sĩ của quận Lê Chân đã gặp riêng đoàn đại biểu báo cáo kết quả học tập của mình và hứa hẹn khắc phục những thiếu sót. Quận Lê Chân đã mời những đồng chí hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc nhất trong giai đoạn huấn luyện một về dự đại hội tổng kết 6 tháng đầu năm của quận. Cách làm như thế, mỗi chiến sĩ đều thấy công việc của mình gắn liền với tập thể, với quê hương.

Sáng thứ hai hàng tuần như thường lệ, tiếng kèn gióng giả nổi lên từ phòng chính trị cũng là lúc tiểu đoàn tập họp đông đủ nghiêm chỉnh tại khu vực đóng quân của mình. Sáu khi chào cờ, đọc mười lời thề, nhận xét ưu khuyết điểm tiểu đoàn trưởng thông báo tình hình thời sự thế giới, trong nước, trong tuần mà ban tuyên huấn đã ghi tin đọc chậm qua đài Tiếng nói Việt Nam phát vào ngày thứ bảy cộng với những nhận định bổ sung của tuyên huấn xoáy vào thời sự nóng bỏng như Palextin, Libăng... gửi xuống các đơn vị.

Sự đoàn Vinh Quang đã thực hiện quy tắc giáo dục mới, thông báo tình hình thời sự vào sáng thứ hai, học chính trị hai giờ vào sáng thứ ba, thứ sáu. Mỗi chiến sĩ của Sư đoàn Vinh Quang phải thường xuyên nắm vững kẻ thù của ta hiện nay là ai, bạn của ta là ai và ta là người như thế nào, vị trí của ta ra sao.

Không nhận ra thù, bạn, mình sẽ gặp phải một cuộc sống luẩn quẩn, mất phương hướng, thụt lùi, tiêu cực ...

Sinh hoạt đầu tuần xong, các đơn vị ùn ùn kéo ra bãi tập chiến thuật, mở đầu cho giai đoạn huấn luyện hai.

Chúng tôi đi trên chiếc xe con của trung tá Phạm Quang Thệ và thiếu tá Nguyễn Chiến Trọng. Phía trước đoàn xe tham dự buổi tập đang lùi lũi vượt qua đồi núi trung du yên tĩnh. Nắng tháng tám đã có vẻ dịu đi vào buổi sáng không kịp làm tan những dải khăn sương lãng đãng trên các rừng cây phía xa.

Đến bãi tập cơ bản, đoàn xe đi trước dừng lại. Tôi bắt gặp những khuôn mặt trẻ trung rạng rỡ, đấy là các kíp xe Đỗ Vũ Quang, Hoàng Công Mậu, Nguyễn Văn Tỉnh, Nguyễn Minh Đức, Đoàn Bá Khâu... Pháo thủ Phạm Xuân Mạch, Nguyễn Thọ Thược... Trắc thủ Nguyễn Viết Dũng, Nguyễn Công Bằng... Chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thông...

Khuôn mặt chiến sĩ bộ binh đẫm mồ hôi, hồng hào, trang nghiêm trong chiếc mũ sắt, khuôn mặt chiến sĩ lái xe, pháo thủ rắn rỏi trong chiếc mũ công tác có máy thông tin gắn liền với thành xe.

Nhìn đội ngũ hôm nay không biết ai đã hết hạn nghĩa vụ quân sự, không biết ai đã nhập ngũ tháng 2 năm 1982. Bởi vì ai cũng say mê học tập. Thượng sĩ  Đỗ Vũ Quang ba năm liền chiến sĩ thi đua, một lái xe  tin cậy của mọi cấp chỉ huy, hết hạn nghĩa vụ quân sự từ năm trước, sáu tháng vừa rồi vẫn được cấp bằng khen về tinh thần tích cực xây dựng đơn vị.

Kia là kíp xe Hoàng Công Mậu, cả kíp đã đoàn kết giúp đỡ nhau, kíp trưởng, lái xe, pháo thủ đều trở thành đảng viên.

Tuổi trẻ có thể loạc choạc phần nào khi bước chân vào quân đội, nhưng qua giai đoạn huấn luyện một họ đã đồng hóa được trình độ kỹ thuật, chiến thuật, chính trị và tư tưởng.

Có thể nói thêm đôi điều về lái xe Nguyễn Minh Đức Anh quê Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ Tĩnh, vào bộ đội ngày 16 tháng 11 năm 1978, vào Đảng ngày 4 tháng 5 năm 1980, cấp bậc thượng sĩ. 

Đức có dáng người tầm thước, khuôn mặt hiền, con người thoải mái, gây một sự cảm tình ban đầu và càng lưu luyến hơn khi gặp anh trong bộ quần áo đã bạc màu, mái tóc bay lơ phơ, tất cả như muốn nói không bao giờ anh quan tâm đến riêng tư.

Nghe tiếng máy là Đức biết được tình trạng xe và có thể biết tức khắc nếu trong xe cháy một bóng đèn hoặc hỏng một cầu chì. Là chiến sĩ lái xe nhưng Đức thường xuyên làm nhiệm vụ phó đại đội trưởng về kỹ thuật, chẳng hề ngại khó dù đang chuẩn bị đi chơi, nhưng nghe tiếng bạn gọi là lăn mình vào sửa chữa, sẵn sàng chia sẻ gian nan cùng bạn mà không hề tính toán riêng tư.

Xe quân sự là loại xe tương đối hoàn chỉnh, nhưng Đức vẫn tìm ra chỗ cần phải cải tiến. Ví như, bình thường người lái nhìn bảng số thấy có một bóng điện tắt, đây là báo hiệu bộ binh đã lên xe xong. Đức đặt ra câu hỏi, nhỡ có trường hợp hỏng hóc kỹ thuật bóng đèn ấy bị cháy và mình không biết, cứ tưởng bộ binh  đã lên xe rồi thì nguy hiểm xiết bao, nên Đức có sáng kiến đấu thêm vào xe một chiếc còi. Khi bộ binh lên xe xong thì đèn tắt và còi kêu.

Đã có lần một cán bộ quân sự cấp cao về tận cơ sở kiểm tra, trong đoàn có những chuyên viên xe máy. Họ ngồi lên xe của Đức, nổ máy cho xe chạy. Xe đi  qua các sườn đồi chênh vênh, nghệ thuật như một diễn viên trong rạp xiếc. Người không hiểu chuyên môn nhìn thấy lo sợ tưởng có thể vỡ tim, khi nghĩ đến khối thép khổng lồ kia trượt xích mất thăng bằng lăn nhào xuống suối. Sau đó họ cho xe vượt qua 11 vật cản trên đường dài 4,5 kilômét chỉ mất 15 phút, đạt tiêu chuẩn giỏi.

Người chuyên viên quân sự kia đỡ nắp trên xe bước ra, đưa khăn lau mồ hôi trán giữa tiếng hoan hô rào rào không ngớt của toàn thể cán bộ, chiến sĩ  có mặt hôm đó. Ánh mắt người chuyên viên lộ vẻ tự hào lướt nhìn các chiến sĩ lái trẻ tuổi với câu nói thách thức: "Các bạn có ai lái được như tôi không?".

Đức im lặng bước ra khỏi hàng quân, mặt lạnh tanh.

Xung quanh nhiều tiếng lao xao: "Đừng tự ái, phải lường được sức mình. Định múa rìu qua mắt thợ ư?".

Đức nhẹ nhàng giao nhiệm vụ cho các chiến sĩ trong kíp xe, dặn dò thêm pháo thủ rồi báo cáo với người chỉ huy xin phép thực hành.

Xe nổ máy từ từ bò lên dốc, khói đen phụt ra thành từng vòng luẩn quẩn quanh xe. Những người có mặt hôm đó tưởng như mình cũng đang cầm lái, nên thần kinh căng thẳng, nhịp tim dồn hơn, chân, tay run run như lúc nào cũng xuýt ôm lấy đầu nhận thất bại.

Đức bình tĩnh lắm, xe đã bắt đầu vào khu vực có 11 vật cản. Xe qua vật cản thứ nhất là tránh hai cọc hạn chế, mọi người ào lên một tiếng nhẹ nhõm, xong rồi!

Vượt vách hụt - tiếng xuýt xoa: đạt yêu cầu!
- Lên dốc 35 độ, xuống dốc 35 độ - Được!
- Tránh 5 cọc hạn chế - tốt!
- Vượt cầu vệt - Hay quá!
Tiếng đệm theo về sau càng bình tĩnh hơn và về
sau nữa trở thành tiếng cổ vũ.
- Vượt bãi mìn - Khá!
- Vượt bãi lái tổng hợp - Giỏi!
- Vượt cầu chống lầy - Ưu tú!
- Tránh vách hụt đứng - Tuyệt vời!
- Vượt qua hào chống tăng 8 mét - vô địch!
- Tiêu diệt mục tiêu xuất hiện - Hoan hô.
Thời gian hết 10 phút 30 giây.

Cả thao trường rộn lên tiếng hoan hô. Những người lái xe tự hào với thành tích đồng đội, gọi tên đồng chí thân yêu bằng nhiều cách. Những người chỉ huy rơm rớm nước mắt, những giọt nước mắt sung sướng, chứa đựng gian nan vất vả, chịu khó mày mò kiên nhẫn tiến lên. Những giọt nước mắt tự hào.

Người chuyên viên xe máy của phái đoàn quân sự cấp cao có cái nhìn thách thức Đức lúc nãy đã xô tới đưa hai tay nâng Đức lên cao quá đầu ông. Ông thực lòng sung sướng: Hoan hô thế hệ trẻ.

Trên bãi tập sớm nay các chiến sĩ xe tăng đang lấy lá ngụy trang đột nhiên dừng lại hò la vẫy gọi. Tôi nhận ra họ vẫy chào đoàn xe tiểu đoàn công binh 17. Dẫn đầu đoàn là phó tiểu đoàn trưởng về kỹ thuật Trịnh Đình Thân.

Nhớ hôm đến thăm tiểu đoàn, Trịnh Đình Thân đã nói với chúng tôi: "Trong lúc đang đói mình phải làm sao cho anh nào cũng chạy được. Anh xem, đưa hai mươi tấn thép lên cao hạ xuống bằng mấy sợi dây cáp nhỏ như ngón tay cái, để biến thành một chiếc cầu cho xe tăng qua sông. Sợ quá? Khi nhận những trang bị mới này về, chúng tôi hoa mắt, trố mắt, trợn tròn mắt, ngơ ngác, bàng hoàng... Mình phải chỉ huy phải sử dụng những trang bị hiện đại như thế này ư? Trên chỉ thị: "Giao cho trang bị gì thì phải chiến đấu bằng trang bị đó". Chúng tôi bắt đầu tính chi li từng đức tính của người lính. Yếu gì, bổ sung gì. Cán bộ phải bám sát chỗ yếu, chỗ bổ sung đó. Tất cả phải trải qua thực nghiệm.

Giờ đây Trịnh Đình Thân ngồi thoải mái trên chiếc xe thứ hai, khuôn mặt toát lên vẻ đã làm chủ được khoa học kỹ thuật đưa tay vẫy vẫy chào các chiến sĩ xe tăng hứa hẹn một đợt diễn tập hợp đồng binh chủng vào cuối mùa huấn luyện giai đoạn hai.

Một xe xích khác từ bên trái đồi vọt lên. Trên xe một đại úy đưa tay ôm lấy nòng pháo, tư thế toát lên toàn vẻ mơ mộng của đời học sinh. Tôi nhận ra đại úy đó là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 5, Nguyễn Xuân Kỷ, người điều khiển buổi học tập hôm nay. Kỷ nhảy xuống đưa tay lên mũ chào Thệ, chào tôi, rồi chạy tới ôm chầm lấy tôi: Bỗng chốc mới đó mà đã 8 năm rồi anh nhỉ!

Kỷ là trợ lý tác chiến của Trung đoàn 66, hồi ấy anh như một học viên thực tập đã đi cùng tôi tìm hướng đánh, cách đánh cho tiểu đoàn 8, tiểu đoàn 9 mở đột phá khẩu vào Thượng Đức. Bây giờ trông Kỷ gầy đen, sốt rét chưa tan hết, trên đôi môi thâm, đôi mắt quầng. Trông anh vẫn còn mang nhiều dáng dấp của người lính đánh Mỹ.

Chưa đến giờ học tập nên vẫn giữ không khí trò chuyện thoải mái thân mật, dù giữa cấp trên và cấp dưới. Phạm Quang Thệ đi tới, giọng vui vẻ:
- Thế nào, "ngựa trưởng" bố trí quân xanh và các điểm bộc phá nổ xong chưa. Bảo vệ an toàn tuyệt đối. Chú ý giữ gìn bờ ruộng cho dân, mất nước là cày bừa gay lắm.
Thệ chỉ tay về phía mấy đám ruộng, chúng tôi nhìn theo thấy một ông già vác cuốc đi đi lại lại.
- "Ngựa trưởng" nhớ cho công binh đắp bờ ngay khi xe vừa chạy qua.

Tôi nói với Kỷ: .
- Mình không ngờ ngày nay cậu có biệt hiệu là "ngựa trưởng".
- Lỗi tại cái cô nhân viên của đoàn đấy anh ạ. .Con gái ngày nay thật là bạo mồm, trả đũa ngay tức khắc.
Trần Vũ hỏi tôi:
- Anh chắc chưa biết chuyện "ngựa trưởng"?
- Chưa.

Số là tiểu đoàn trưởng Kỷ cũng hay vênh mặt lên ra vẻ phớt đời trước hàng ngũ con gái. Chất lính đánh Mỹ là thế. Nhưng cô nhân viên của ban tuyên huấn chúng tôi cũng không vừa. Hôm sinh hoạt cơ quan tham mưu có cả Kỷ ở đó nữa, nhân góp chuyện vui cô ta mới kể rằng có anh bộ đội về nhà. Lại nhờ vợ giặt giúp quần áo. Người vợ lục tìm trong túi áo thấy có tấm giấy phép ghi chức vụ chồng mình là D trưởng. D trưởng là chức gì? Hay chồng mình chỉ huy một trại nuôi dê nên gọi là dê trưởng. Có lẽ thế. Thôi thì thời buổi kinh tế khó khăn này chỉ huy một đàn dê cung cấp thực phẩm cho đơn vị cũng là quý lắm rồi. Nghĩ vậy, nhưng cô ta còn chút phân vân là chồng đi mười năm rồi mà chỉ chỉ huy một đàn dê thì chậm tiến quá!

Hôm sau mấy người bạn đến chơi, liền hỏi thẳng là anh ấy đi bộ đội đã tiến bộ như thế nào, giữ chức vụ gì. Ý nghĩ chỉ huy đàn dê nhỏ quá trở lại nên cô ta định đặt cho chồng một chức vụ gì cao hơn, buộc mấy cô bạn kia phải khâm phục. A cô ta nghĩ ra rồi, oai hơn dê, cao hơn dê, đông hơn dê và cũng rất cần thiết cho quân đội. D là ngựa. Anh ấy chỉ huy đàn ngựa. Đã gọi D trưởng thì cũng có thể gọi “ngựa trưởng". Cô ta thoải mái trả lời bạn: "Chức vụ của chồng mình là "ngựa trưởng".

Kỷ thua cuộc đấy. Da đen mà vẫn nhìn rõ nét mặt đỏ bừng. Anh thấy các chiến sĩ gái Sư đoàn Vinh Quang táo tợn và thông minh chưa. Hôm nào tôi sẽ đưa anh đi xem nơi họ làm ngói, làm gạch, làm thuốc đông y... Toàn con gái thôi nhá.

Từ dưới sườn đồi bò lên một chiếc xe con vòng qua chỗ xe xích rồi dừng lại giữa bãi phẳng. Hai đồng chí mang cấp bậc thượng tá nhảy xuống gọn gàng như lứa tuổi thượng úy. Đó là Phúc Thanh sư đoàn trưởng Sư đoàn Vinh Quang và Lê Hồng Hải phó sư đoàn trưởng về chính trị. Phúc Thanh thoăn thoát bước tới chỗ cán bộ đang tập trung. Phạm Quang Thệ hô nghiêm và anh chạy tới báo cáo với sư trưởng. Trong mấy phút, bãi tập như lặng ngắt, xe tăng không nổ máy, con người đứng nghiêm như bất động... Phúc Thanh đáp lễ, chỉ thị mấy câu ngắn gọn. Bãi tập ồn ã trở lại.

Lê Hồng Hải bắt tay tôi nói:
- Đang phát động đợt thi đua lập thành tích chào mừng ngày Quốc khánh 2 tháng 9. Anh có thể nói chuyện cho chúng tôi nghe về Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2 tháng 9 được không?
Tôi trả lời:
- Đấy là một đề tài dễ nhất nhưng cũng khó nhất vì mọi chuyện mình nói ra người ta biết hết rồi, sổ sách ghi chép đầy đủ cả rồi... Tôi thường né tránh những buổi nói chuyện như vậy.

Hải nêu ý kiến:
- Thuở Cách mạng tháng Tám thì tôi và anh Phúc Thanh đều chưa ra đời, nên nói chuyện không hấp dẫn tí nào cả. Còn anh, anh cứ nói những chuyện mắt thấy tai nghe. Lúc ấy anh ở đâu làm gì, bọn Nhật cầm chân những người chỉ huy của ta đang diễn thuyết giữa sân Đô Lương kéo xuống như thế nào, quần chúng ồ ạt và cũng có những anh cuốn cờ cho vào ngực bỏ trốn ra sao. Hay quá chứ anh. Hấp dẫn vô cùng. Tiện thể anh nói chuyện về ngày thành lập Sư đoàn Vinh Quang trên đất Vinh Lộc ...

Có sự gợi ý của Hải lòng tôi cũng thấy rộ lên không khí cướp chính quyền. Tuy hồi đó tôi còn là một chú bé chạy lon ton theo bố, nhưng mà giờ đây tái hiện tất cả, khẳng định tất cả.

Trước khi bước vào tổ chức buổi tập, Nguyễn Xuân Kỷ vẫy vẫy, tay chỉ ông cụ đang vác cuốc đứng phía mấy đám ruộng lên chỗ mình rồi nói:
- Cụ ơi chúng cháu sẽ bảo đảm hoàn toàn các bờ ruộng. Mời cụ lên trên này kẻo chốc nữa ở đấy bộc phá nổ, không an toàn.

Kỷ quay sang nói với chúng tôi: .
- Mời các anh đến dưới cây mít của căn nhà ở bìa đồi kia cho có bóng mát. Hôm nay đang tập phân đoạn, sai đâu sửa đó. Đợt một tập đến đây tạm dừng, các anh sẽ thấy hết.

Chúng tôi kéo nhau đến đứng gọn dưới bóng cây mít cạnh nhà dân lợp gianh, vách đất. Trong nhà qua cửa sổ nhỏ như lỗ châu mai, tiếng một bà già vẳng ra nhắc nhở con cái làm tiếp các công việc.

Phía sườn đồi bên kia Nguyễn Xuân Kỷ đã tổ chức xong đội hình huấn luyện. Anh đi tới đâu chiến sĩ thông tin vội vàng bê máy chạy theo tới đó. Xe tăng, xe chiến đấu che lá ngụy trang kín mít như một đồi cây. Không gian yên lặng, tiếng máy thông tin mở sẵn kêu vo vo đợi lệnh tiểu đoàn trưởng...

Kỷ ra lệnh ngắn gọn:
- Xe H91 xuất phát!
- H93 xuất phát!
- H95 xuất phát!

Rừng ran lên tiếng nổ, đất chuyển động, tai mọi người âm u. Xe tiến thành hàng dọc và lần lượt thực hiện theo mệnh lệnh của tiểu đoàn trưởng.
- H91 tản sang trái 50 mét!

Không cần phải to tiếng nhưng chiến sĩ thông tin cũng gào lên như muốn tiếng mình vang to ngang tầm cỡ với tiếng máy xe tăng.
- H91 sang trái 50 mét!
- Vượt vật cản!
- Chú ý vượt vật cản!
- Pháo ngăn chặn! Quân xanh đâu? Pháo ngăn chặn? Sao chậm thế?

Tiếng những người làm quân xanh trả lời thu rõ trong máy chỉ huy.
- Ai bảo chậm. Còn chờ bộ binh lên đã chứ. Này thằng Thông đừng bép xép cạnh thủ trưởng...

Bộc phá nổ! Những tiếng nổ rền, sức nổ mạnh, cộng với tro bụi, làm không gian trùm lên một khoảng trắng, khét lẹt.

Trong nhà gianh vẳng lên tiếng nói:
- Mẹ ơi cho con một nắm tro.
- Trong bếp ấy, cứ vào mà lấy.

Tôi nhìn lại thấy một chiến sĩ tay cầm cờ quân xanh, bưng đầy thúng tro chạy ra, liền hỏi:
- Xin một nắm, sao lại bê cả thúng?
Tiếng bà già vẳng ra:
- Không việc gì, cứ cho chúng nó lấy.
Chiến sĩ quân xanh toét môi cười:
- Phải cho khói lửa mù lên, như đánh trận thật sự, để còn chụp ảnh quay phim nữa chứ.

Nói xong anh băng băng chạy qua đồi cây vút thẳng đến hướng bộc phá đang liên tục nổ.

Xe chiến đấu thành đội hình hàng ngang, lùi lùi tiến, tiếng gầm rú như đe dọa kẻ thù. Bộ binh tiến trước xe 50 mét. Bộ binh băng qua ruộng lên đồi hỗ trợ cho xe tăng, xe tăng hỗ trợ cho bộ binh. Đội hình tuyệt đẹp, tuyệt hiên ngang. Quân đội ta mãi mãi là bách chiến bách thắng.

Nguyễn Xuân Kỷ lệnh ngừng tập 15 phút rút kinh nghiệm.

Trong căn nhà gianh bà già lễ mễ bưng ra một nồi nước chè xanh. Bà nói:
- Giỏi quá. Các chú tập giỏi quá. Ngày xưa tôi đã được xem Pháp đổ bộ. Các chú giỏi hơn Pháp nhiều.
Ông già vác cuốc lúc nãy đi tới, mặt hầm hầm:
- Bà này thật là... Đem ví quân ta với quân Pháp. Tôi nói cho bà biết cái thứ như thằng Pháp đã bị lớp  người như chúng tôi đánh thua rồi (chúng tôi đã đuổi cho chúng chạy re ở Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Điện Biên).
Tôi hỏi:
- Bác trước ở bộ đội?
- Vâng. Bộ đội đánh Pháp (ở cái trung đoàn Ký Con thuộc Đại đoàn 304). Chà, thời trẻ của chúng tôi cũng oai hùng lắm các chú ạ. Chèo thuyền ra biển để đánh nhau với tàu chiến Pháp. Nó phải dùng đến đại liên mới bắn được ghìm thuyền chúng tôi. Thuyền đắm chúng tôi bơi vào bờ bàn cách đánh khác. Mỗi lần nghĩ lại máu trong người tôi ran lên... Biết các chú lập bãi tập ở đây tôi đi xem.
 - Cháu cứ tưởng bác sợ hỏng mất bờ ruộng.
- Vớ vẩn. Cái bờ ruộng có nghĩa lý gì. Nhìn thấy quân đội ta trưởng thành ngỡ như mình thêm sức sống trẻ lại mươi tuổi. Năm nay tôi bảy mươi...

Bà già lúc này bưng nước mời anh em uống nhận ra tôi, nói:
- Chú cũng đến đây à? Mời chú vào nhà chơi. Đi sát gần tôi bà hạ giọng. Cái chú "con hổ anh ơi?" kia kia. Đi với chiếc xe tăng thứ hai. Chú ấy lội nước nhanh thế, vượt được xe tăng. Trông nét mặt chú ấy nghiêm thế mà đóng kịch hay đáo để.
Tôi hỏi :
- Bà có thấy người bán hai chiếc bát tráng men không?
- Không thấy. Có lẽ họ ở đơn vị khác, đơn vị tập tành nghiêm trang đứng đắn thế này làm gì có người tính toán nhỏ nhen. Vả lại nếu có thì cũng nên tha  thứ, đời người ai chẳng một lần sai phạm, nhất là những người mới vào đời.

Sai phạm thì phải nhận kỷ luật. Thệ đi tới nói vậy và thêm: Hai người mang bát ra phố bán hôm nọ là ở đơn vị này đấy bác ạ. Đang cải tạo lao động. Rất tiếc rằng sai phạm ấy không thuộc anh em chiến sĩ mới 1982 mà lớp cũ...

Trước mắt tôi là trời xanh, mây trắng ùn lên từng cuộn đông đặc. Trời càng xanh, mây càng trong và lòng người càng mênh mang. Sự mênh mang ấy như hát lên trong lòng tôi về "Tháng Tám mùa thu xanh thẳm". Tôi chợt nhớ đến câu một nhà thơ đã viết:
"Mây nhởn nhơ bay, hôm nay ngày đẹp lắm. Mây của ta trời thắm của ta ... ".


                                                                                                      14-8-1982
                                                                                                         C.T.L

VƯƠNG TRỌNG



THÁNG TƯ TA GHÉ BINH ĐOÀN


                                                                                                              Bút ký

Có tiếng gì gióng giả âm vang làm tôi tỉnh giấc. Tỉnh giấc chứ chưa thể tỉnh ngủ vì đôi mắt vẫn nhắm nghiền, chập chờn suy nghĩ chưa thể xác định được mình đang nằm ở đâu. Làm anh nhà báo hết  xuôi Nam lại ngược Bắc, hết lên rừng, xuống bể... thời gian ngủ trên giường khách nhiều hơn ngủ trên giường nhà mình, không có trạng thái lạ giường khó ngủ, nhưng những phút chập chờn thức dậy lúc bình minh thường khó xác định được mình đang ở đâu? Chính cái âm thanh gióng giả kia đã lôi tôi ra khỏi giấc ngủ và thả vào trạng thái lâng lâng, trôi nổi. Tôi khe khẽ trở mình và nhận ra mình đang nằm trên đệm ấm. Lại thoang thoảng mùi nước hoa! Ở đâu nhỉ, tất nhiên là không phải ở nhà mình, vì không gian vắng lặng không hề có tiếng xe cộ và âm thanh phố phường. Tôi quờ tay chạm phải chiếc công tắc đèn ngay đầu giường và vội vàng bật đèn lên: cô gái mặc đồ tắm trên tờ lịch chào tôi bằng nụ cười cố định. Đây là đâu nhỉ? Tôi nhìn lên bức tường phía đầu giường và gặp ngay một chiếc áo quân phục có cài sẵn quân hàm thượng tá! Đến lúc đó tôi mới trở lại trạng thái tỉnh táo hoàn toàn và xác định được mình đang nằm trên chiếc giường của thượng tá Nguyễn Thanh Tùng, Lữ trưởng Lữ đoàn pháo binh 164.

Căn phòng bên cạnh vẫn còn vang vọng tiếng ngáy khá sôi nổi của "bố già" Khoa. "Bố già" Khoa chính là thần đồng thơ Trần Đăng Khoa đấy? Mới ngoài ba mươi lăm tuổi nhưng Khoa khi nào cũng tự coi mình là "bố già". Đó là Khoa tự trào về mình đấy thôi, sự thật Khoa vẫn còn trẻ trung lắm.

Chiều qua, khi tới Lữ đoàn phòng không 673, Khoa liền từ bỏ cái vai "bố già" anh vẫn thích đóng để trở lại chính mình, hơn thế nữa lại là cái chính mình cách đây hơn hai mươi năm với đôi mắt mở tròn ngỡ ngàng và những câu hỏi hồn nhiên trước cảnh quan khoáng đãng và những công trình xây dựng hiện đại, đẹp đẽ của khu vực này. Không chỉ nhà của lữ đoàn bộ, nửa giống khách sạn, nửa giống như một ngôi nhà nghỉ mát dành cho cán bộ cấp cao và nhà của chiến sĩ các tiểu đoàn đều đàng hoàng sạch đẹp. Nhìn cơ ngơi tiểu đoàn, ngay những phút đầu tiên, khách có thể hiểu được nền nếp của đơn vị cũng như khả năng của các cấp chỉ huy. "Chỉ có thời bình bộ đội ta mới có những ngôi nhà như thế này!". Khoa tấm tắc khi ngắm nhìn ngôi nhà hai tầng của lữ đoàn bộ ngự trị trên đỉnh đồi, từ kiểu cách xây dựng đến vật liệu, màu sắc đều hiện đại, hài hòa. Tôi bổ sung: "Chỉ có thời bình cộng với cơ chế kinh tế thị trường thì mới có ngôi nhà như thế này, chứ nếu chỉ dựa vào kinh phí trên cấp thì làm sao có được". Thiếu tá Trần Xuân Thái, phó tham mưu trưởng lữ đoàn xác nhận điều bổ sung của tôi và nói rõ thêm:
- Kinh phí quốc phòng trên rót xuống cho việc xây dựng doanh trại chỉ một phần thôi, đủ bảo đảm cho lính có nơi ăn chốn ở, còn muốn đẹp đẽ và tiện nghi thì đơn vị phải bỏ thêm tiền vào, chứ không có cách nào khác.
Khoa hỏi ngay:
- Số tiền đó "các bác" lấy ở đâu?

Và Khoa cứ nhìn thẳng vào mặt tham mưu phó như muốn nói rằng "nếu ông không nói rõ điều này thì tôi không chịu nhìn đi nơi khác". Nhưng thiếu tá Thái có định lảng tránh câu trả lời đâu, anh nói:
- Thời gian huấn luyện, tất cả đơn vị phải tập trung, còn thời gian khác, trừ quân số thưởng trực sẵn sàng chiến đấu, chúng tôi sắp xếp cho một số chiến sĩ đi lao động, xa là vùng than Quảng Ninh, gần là làm gạch ở Bố Hạ, số tiền thu được ngoài việc cải thiện bữa ăn thường ngày cho anh em, số còn lại đem vào sửa sang doanh trại, tóm lại là để cải thiện ăn và ở mà thôi.

Cứ mỗi lần tới một căn phòng đàng hoàng của chiến sĩ, Khoa lại nhắc tới đời sống của các chiến sĩ hải quân ở đảo cách đây mười mấy năm mà anh đã từng sống với họ. Chiếc nhà chòi trên đảo chìm Thuyền Chài, nơi võng lính mắc thành từng tầng như những con dơi ngủ ngày, phía dưới, ngay trên mặt đảo những con cá mập lượn lờ, sẵn sàng đớp những con mồi, bất kể từ phương nào lại. Khoa bảo rằng, lính ta đã làm quen với những con mập thường đến kiếm ăn dưới chân chòi, đặt tên cho từng con để phân biệt, còn khi cần việc phải bơi mà thấy chúng thì nhớ bơi đứng, cá mập không bao giờ đớp đâu?

Khi theo thiếu tá Thái lên dốc để thăm trận địa phòng không, Khoa vẫn còn nuối tiếc quay lại nhìn những ngôi nhà to đẹp, miệng lẩm bẩm: "Lính bây giờ ăn ở sướng thật!".

Sau khi từ giã Lữ đoàn phòng không 673, chúng tôi đến Lữ đoàn pháo binh 164. Khi thấy dòng chữ "Đoàn pháo binh Bến Hải" khắc nổi trước hội trường, Khoa quay sang hỏi tôi:
- Lại pháo binh à? Sao quân đoàn này sẵn pháo thế?

Tôi hiểu ý Khoa là muốn tới một đơn vị khác, chẳng hạn như bộ binh, xe tăng... nhưng do thời gian không cho phép, chúng tôi không thể tới các đơn vị đó trong dịp này. Đó cũng là nỗi lo của tôi... Nhận trách nhiệm viết một bài bút ký về quân đoàn mà thời gian thâm nhập lại rất ít ỏi, sự hiểu biết hạn hẹp, thì làm sao lột tả được cái thần? Thôi thì, ta như người làm công việc quy hoạch rừng mà mới biết được một vài thứ cây thì cứ nói lên, người nghe cũng có thể hiểu đôi nét về khu rừng. Nhưng những cái cây – lữ - đoàn này cũng không dễ gì hiểu được, nó không phải là cây mà là một khu rừng nhỏ nằm trong khu rừng lớn, mà chúng tôi mới mon men chạm tới bìa rừng, đang nhờ cậy những người dẫn đường có kinh nghiệm. May mắn thay, người dẫn đường cho chúng tôi là một trong những người phụ trách, trung tá lữ đoàn phó Dương Hồng Niệm. Bây giờ thì anh đang tập thể dục với cán bộ và chiến sĩ trên sân với những tiếng hô đều đặn, khỏe khoắn, còn tôi đang nằm nhớ lại những gì anh đã tâm sự với mình, về truyền thống của lữ đoàn, về nỗi niềm của sĩ quan và chiến sĩ.

Gọi tên Lữ đoàn pháo binh 164 thì ít người biết hơn tên Đoàn pháo binh Bến Hải, bởi chiến công thời chống Mỹ từng làm nức lòng cả nước, đặc biệt nhân dân hai bờ sông Bến Hải. "Tự lực tự cường, đánh giỏi, bắn trúng" là truyền thống của Đoàn tạo nên từ ngày ấy. Đã từng tham dự 2.784 trận, riêng trận tập kích vào căn cứ Dốc Miếu của Mỹ ngày 20 tháng 3 năm  1967 thì toàn lữ đoàn không một ai không biết, dù mọi người trong lữ đoàn bây giờ, kể cả các sĩ quan trong ban chỉ huy, ngày đó chưa ai nhập ngũ cả. Hơn một ngàn lính Mỹ bị tiêu diệt, hàng phục khẩu pháo và xe quân sự, nhiều kho xăng, kho đạn bị phá hủy, bọn tướng tá Mỹ ngụy không tài nào hiểu được, trên vùng đai trắng Vĩnh Linh, đất không còn cây, làng không còn nhà, trên bầu trời lúc nào cũng có máy bay  trinh sát thay ca túc trực, thế mà pháo binh của ta có thể bí mật kéo vào, ngụy trang bí mật đến giờ nổ  súng, làm chúng bất ngờ không thể trở tay! Sau ngày đất nước hòa bình, năm 1985 và 1992 tôi có hai lần tiếp xúc nói chuyện với nhà thơ Mỹ Bruce Weigl, giáo sư đại học, vốn là lính Mỹ từng chốt giữ tại Cồn Tiên, Dốc Miếu. Khi chuyện trò vui vẻ, tôi hỏi: "Năm 1967, khi pháo binh của chúng tôi tập kích vào đó, ông thấy thế nào?". Bruce Weigl nói: May quá, lúc đó tôi được chuyển về Khe Sanh rồi! Nhưng sự khủng khiếp của trận tập kích đó thì lính Mỹ chúng tôi ở nơi nào cũng biết"!

Tôi đã lần đọc lại những trang sử của lữ đoàn ghi lại chi tiết trận tập kích này và xem những tấm ảnh trong phòng truyền thống. Những bức ảnh đen trần ở màu thời gian có sức hấp dẫn ghìm chân người tham quan dừng lại. Trần Đăng Khoa chăm chú nhìn tấm ảnh chụp một cô dân quân mặc quần đen, áo gụ, đội mũ cài lá ngụy trang đang nạp đạn cho pháo giữa trận địa mịt mù khói lửa. Bức ảnh đó có dòng chữ chú thích:
Dân quân Vĩnh Giang (Bến Hải) phối hợp chiến đấu cùng cùng đơn vị đánh địch ở Dốc Miếu năm 1967.

Sau một hồi yên lặng. Khoa thốt lên lời hỏi bâng quơ: "Không biết cô gái này bây giờ ở đâu? Chắc đã thành bà rồi!". Không một ai ở lữ đoàn này có thể trả lời được câu hỏi đó cũng như không một ai biết được đại đội phó trinh sát Lê Ngọc Trường bây giờ ở đâu,nhưng hình ảnh anh trinh sát trận địa địch, điều chỉnh cho đạn pháo ta rơi trúng đích thì quá quen thuộc với cán bộ và chiến sĩ lữ đoàn này. "Chúng tôi hết sức quan tâm tới công tác giáo dục truyền thống cho đơn vị. Truyền thống giúp chiến sĩ tự hào về quá khứ, thêm sức mạnh cho hiện tại và tương lai". Trung tá Niệm nói thế khi dẫn chúng tôi xem từng tấm ảnh như lật lại từng trang truyền thống của lữ đoàn ...

Mùi nước hoa thơm nhè nhẹ đưa tôi trở lại với căn phòng lữ trưởng Tùng. Không may, tôi đến đơn vị anh công tác thì anh lại đi công tác Hà Nội, tôi được ngủ trên giường của anh nhưng không được trò chuyện cùng anh. Thế nhưng qua lời kể của trung tá Niệm, tôi hình dung ra anh rõ lắm! Anh là một lữ trưởng có năng lực trong việc lãnh đạo, tổ chức đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ như huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, cải thiện đời sống bộ đội. Anh là người yêu thơ, yêu nhạc và yêu hoa. Việc cải tiến bước đầu chế độ tiền lương cho sĩ quan đã có tác dụng thiết thực cho cán bộ yên tâm công tác, gắn bó hơn với đơn vị. Nếu chỉ có thế hoàn toàn chưa đủ. Đặc điểm chung của sĩ quan ở lữ đoàn này cũng như nhiều đơn vị trong quân đoàn là có vợ con ở quê xa, vài ba tháng anh em mới có dịp thăm nhà vài hôm còn hầu hết thời gian sống với đơn vị ở doanh trại. Bởi thế nơi ăn chốn ở phải đàng hoàng. Bộ đội không những giỏi trồng rau mà phải biết trồng hoa và thưởng thức hoa. Lữ trưởng Tùng nghĩ thế và được nhiều sĩ quan, chiến sĩ tán đồng. Luống hoa đủ loại, đủ màu sắc ngoài sân và ảnh của những cô gái đẹp trên tường làm cho cuộc đời người lính bớt khô khan, thêm vui, thêm đẹp.

Buổi tập thể dục đã kết thúc, tiếng hô: "Rèn luyện thân thể... " vang vọng một vùng trung du. Thế mà tiếng hô đó không hề có ảnh hưởng gì đối với tiếng ngáy của "bố già" Khoa. Đêm qua tôi mải mê chơi cờ tướng với một sĩ quan pháo binh cao cờ, đặc biệt sử dụng rất linh hoạt và hiệu quả đôi pháo, còn Khoa nói chuyện thơ với anh em đơn vị, kể cả số sĩ quan của lữ đoàn đang dự lớp tập huấn. Khoa có hàng chục bài nói khác nhau đối tượng nào cũng có bài phù hợp. Đêm qua anh giới thiệu, bình giảng thơ viết về người lính qua các cuộc chiến tranh. Giọng nói rủ ri, từ tốn của Khoa không những cung cấp cho người nghe lượng kiến thức đáng kể, mà đối với người lính, điều đáng kể hơn là giúp cho họ tiếng cười sảng khoái. Tin chắc rằng, nhiều chi tiết Khoa cung cấp, đối với anh em mấy tháng sau còn được nhắc lại như nhắc lại một chuyện tiếu lâm.

Đại tá Tư lệnh phó quân đoàn Phạm Xuân Thệ niềm nở đón tiếp chúng tôi tận hành lang. Sau cái bắt tay rất lính, anh dẫn tôi và Khoa vào căn phòng làm việc Anh tự tay rót nước mời từng người và hỏi han công việc mấy hôm chúng tôi đến các lữ đoàn. Ngồi đối diện với anh, tôi có dịp quan sát tướng mạo con người mà báo chí và đài phát thanh đã bao lần nhắc đến với sự ngưỡng mộ lớn lao. Tóc dày, mày rậm, cằm  vuông, với giọng nói hào hứng và khỏe khoắn. Thầy tướng Khoa thì thầm: "Tướng ông này rồi còn làm rất to". Không hiểu sao từ khi bước vào căn phòng này là tôi cách ly hiện tại để sống lại không khí những ngày cuối tháng tư năm 1975. Mười chín năm nay, anh đã từng tiếp hàng trăm nhà báo, anh đã tường thuật bao lần trận đánh trên đường tiến vào Sài Gòn, những câu chuyện đã xảy ra ở Dinh Độc Lập và Đài phát thanh vào buổi trưa lịch sử 30 tháng 4 đó. Thế nhưng mỗi lần kể lại, chính bản thân anh được sống lại những ngày tháng không thể nào quên, anh trở lại tuổi đời hai bảy, cấp bậc đại úy, chức vụ phó trung đoàn trưởng Trung đoàn bộ binh 66 thuộc Sư đoàn 304. Anh tâm sự:
- Hồi đầu chiến dịch, chỉ là một đại úy trung đoàn phó tôi chưa hiểu được toàn cục, tầm chiến lược còn hạn chế nên sau khi giải phóng thành phố Đà Nẵng tôi chưa thể hình dung được tình hình có thể diễn biến nhanh như thế! Ngày 16-4 chúng tôi được lệnh hành quân về phía nam, theo đường quốc lộ 1. Trung đoàn tôi đi đầu đội hình quân đoàn. Ngày 19 giải phóng Phan Rang, đêm 21 giải phóng Hàm Tân. Đêm 23 chúng tôi đã hành quân đến đồn điền ông Quế cách Sài Gòn chỉ 60 cây số...

Đại tá Thệ hào hứng nói về những cuộc hành quân và những địa danh vừa mới được giải phóng. Tôi nhớ lại những ngày đó, tôi, Duy Khán, Gia Dũng đang bị kẹt ở Huế vì xe ùn ùn vào Nam nhưng đang lúc ưu tiên chở lính, chở đạn vào đánh trận cuối cùng hơn là chở mấy nhà thơ tạp chí Văn nghệ quân đội vào để bổ sung cho Văn nghệ quân giải phóng. Ban đêm tôi nghe đài BBC mô tả chi tiết từng cánh quân hùng mạnh của Binh đoàn 2 tiến theo đường 1, ban ngày theo các đồng chí cán bộ thông tin của thành phố liên tiếp tô đỏ những tỉnh vừa được giải phóng. Sáng nào chúng tôi cũng kéo đến chất vấn đồng chí phụ trách đoàn giao liên về chuyện chưa bố trí được xe để chúng tôi theo kịp chiến dịch.

Tôi hỏi anh Thệ:
- Các anh tiến quân như vậy không có sự kháng cự nào đáng kể của đối phương à?
- Không phải thế - đại tá lắc đầu - Đành rằng ta tiến nhanh tiến mạnh, nhưng bọn chúng cũng không dễ dàng gì đầu hàng đâu. Chúng ta còn phải đổ máu ngay trước cửa Dinh Độc Lập. Tôi nói tuần tự để anh biết. Ngày 25 - 26 chúng tôi đi trinh sát và bọn địch đã phát hiện ra ta, chúng liền gọi máy bay ném bom và pháo tập kích. Ngày 26, E9 đánh căn cứ Nước Trong, không giải phóng được, bị thiệt hại đáng kể. Ngày 27, trung đoàn chúng tôi kết hợp với E9 mới giải phóng được Nước Trong rồi tiến về Long Thành. Lúc này binh đoàn mới quyết định thành lập mũi thọc sâu để khoan vào Sài Gòn gồm trung đoàn chúng tôi, lữ đoàn thiếu 203, một tiểu đoàn pháo, một tiểu đoàn cao xạ và lực lượng công binh, đặc công... Chúng tôi được lệnh đánh để vào Sài Gòn, cho phép bỏ qua những lực lượng địch chống cự hai bên đường. Năm mục tiêu của mũi thọc sâu này là Dinh Độc Lập, Đài phát thanh, Bộ tư lệnh Hải quân, Tổng nha Cảnh sát và Ngân hàng Đông Á.
- Địa hình thành phố Sài Gòn "các bác" đã được học kỹ từ trước à? Thần đồng thơ hỏi.
- Không, không - Đại tá cười rồi giải thích – Chúng tôi chỉ có tấm bản đồ hành chính Sài Gòn do anh Đinh Quang Thành ở Thông tấn xã tặng sau khi anh lấy được ở Đà lạt. Thời gian chúng ta không nhiều, tôi bỏ qua một số trận dọc đường để kể hai anh nghe từ trận đánh cầu Sài Gòn. Đi đầu mũi tiến công của ta là xe tăng, hai bên xe tăng buộc nhiều cây cao su, bao gạo cho bộ binh cầm AK, B40, B42... sẵn sàng  nhả đạn. Chúng tôi đến cầu Sài Gòn lúc bảy giờ sáng. Địch dùng ụ cát, thùng phi xây dựng các vị trí phòng . thủ. Hỏa lực của chúng từ lô cốt, xe tăng và pháo từ những chiếc tàu trên sông bắn vào đội hình của ta. Mũi tiến công của ta bị dừng lại. Có xe tăng bị sa lầy, tiểu đoàn trưởng Ngô Xuân Nhỡ hy sinh ngay khi đang chỉ huy xe tăng của mình. Chúng tôi được lệnh dùng pháo bắn thẳng vào lô cốt và xe tăng địch. Một chiếc xe tăng M.41 của địch cháy ngay giữa cầu, đạn trong xe nổ ầm ầm, lửa bốc lên chế ngự mặt đường. Lợi dụng có cơn gió thổi bạt ngọn lửa về một phía, và biết đạn trong xe đã nổ hết, xe tăng và bộ binh của ta lần lượt qua cầu. Đến ngã tư Hàng Sanh, đoàn đang lúng túng thì thấy những người dân hé cửa nhìn quân giải phóng và chỉ cho lối rẽ vào cầu Thị Nghè. Một ông già vác lá cờ Giải phóng từ Thảo Cầm viên chạy ra, tự nguyện leo lên xe dẫn đoàn tiến về dinh Độc Lập. Lúc này bọn lính dù còn cố thủ ở đây bắn tỉa vào đội hình của ta. Chiến sĩ Nguyễn Huy Hoàng trúng đạn ngã từ trên xe tăng xuống hy sinh ngay trước cửa dinh Độc Lập. Sau ba chiếc xe tăng của ta húc cổng vào trong dinh thì xe Jeep của tôi vào, tập trung lính dù ngồi lại một góc. Ngay sau đó thì quân ta và các nhà báo ùa vào rất đông...

Khi vào đến dinh Độc Lập, ai cũng muốn cắm cờ để chứng tỏ rằng mình đã đến cái đích cần đến nên dọc lan can anh em ta cắm rất nhiều cờ. Một người to béo bệ vệ thấy tôi vào thì đứng nghiêm nói: "Báo cáo cấp chỉ huy, tôi là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ...Tổng thống Dương Văn Minh đang có mặt trong phòng, đợi các ông vào để bàn giao...". Lúc đó chúng tôi không ai mang quân hàm, nhưng có lẽ ông Hạnh thấy tôi cầm súng ngắn nên nghĩ tôi là cấp chỉ huy. Tôi vào, Dương Văn Minh đứng dậy đưa tay ra để bắt tay nhưng tôi từ chối. Tôi bảo: "Các ông phải đầu hàng vô điều kiện và sang Đài phát thanh để kêu gọi binh lính hạ vũ khí". Dương Văn Mình xin được làm thủ tục đầu hàng ngay tại dinh Độc Lập vì sợ trên đường đi sang Đài phát thanh không được an toàn. Tôi dùng chiếc xe Jeep của mình để đưa Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu sang Đài phát thanh, tôi và ông Minh ngồi cùng ghế, ông ta ngồi phía trong, tôi ngồi ngoài. Lúc đó nhân viên đài phát thanh nghỉ hết, có người phải đi gọi. Tôi viết lời đầu hàng để ông Minh đọc nhưng do tôi viết tháu quá, ông Minh không đọc được, ông đề nghị tôi đọc để ông ấy chép. Tôi đọc ông ghi đến câu: "Tôi, Dương Văn Minh, đại tướng, tổng thống chính phủ Việt Nam cộng hòa... " thì ông dừng bút bảo: "Thưa ông, chỉ đề là đại tướng thôi, chứ tổng thống thì tôi chỉ mới nhận vài ngày... Tôi bảo: Dù một giờ cũng là tổng thống... ".

Tôi hỏi đại tá Thệ:
- Hồi tháng 5 năm 1975, khi vừa mới giải phóng Sài Gòn tôi có về công tác tại Lữ đoàn xe tăng 203 của Quân đoàn ta và có làm việc với trung tá chính ủy lữ đoàn Bùi Tùng. Anh Tùng có kể chuyện bắt Dương Văn Minh đầu hàng và báo chí của ta cũng in lại chuyện này. Anh nghĩ như thế nào về điều đó?
Đại tá Thệ giải thích:
- Về chuyện này, có nhiều tình tiết tôi và anh Bùi Tùng chưa thống nhất với nhau. Còn điều tôi kể với anh là kể những gì tôi đã chứng kiến vào buổi trưa lịch sử đó. Khi Dương Văn Minh chép xong lời tôi đọc thì tôi thấy một người đứng tuổi, to cao, da ngăm đen hỏi tôi :
- Anh là ai?
Tôi liền giới thiệu họ, tên, chức vụ, cấp bậc của mình. Người ấy nói: .
- Tôi là Bùi Tùng, trung tá, chính ủy lữ đoàn 203.

Lúc ấy tôi chỉ là đại úy, nên phần tiếp nhận lời đầu hàng của Dương Văn Minh thì do anh Tùng thảo và đọc trước đài...

Sau khi làm xong thủ tục đầu hàng ở Đài phát thanh, tôi lại đưa Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu trả lại dinh Độc Lập. Có người còn dọa bỏ tù tôi vì tội tự tiện mang ông Minh đi đâu mà không xin phép. Tôi thì nghĩ đơn giản: Ông Minh tuyên bố đầu hàng sớm phút nào thì máu người Việt Nam ngừng đổ sớm phút ấy.Chỉ tiếc là mảnh giấy tôi viết và mảnh giấy ông Minh chép lại, bỏ trong túi áo tôi đã giặt mất ngày đi tiễu phỉ ở Tây Nguyên. Hơn nữa, mình đâu có ý thức bảo tồn,bảo tàng và không ngờ về sau lại có chuyện phức tạp quanh vấn đề này!

Nhân dân Thái Bình vẫn tự hào về bốn người con của quê hương cùng thuộc lực lượng vũ trang, cùng lập được những chiến công như đánh dấu cái mốc của những giai đoạn lịch sử. Bốn người đó đã có dịp đứng kề nhau trong một tấm ảnh đó là Nguyễn Thị Chiên, Tạ Quốc Luật, Phạm Tuân và Bùi Quang Thận.  Người anh hùng lực lượng vũ trang đợt đầu tiên,người bắt sống tướng Đờ Cát ở Điện Biên Phủ, nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Việt Nam và người cắm cờ trên nóc dinh Độc Lập trưa 30 tháng 4 năm 1975. Một trong bốn người đó, anh Bùi Quang Thận, hiện là thượng tá trưởng phòng Tăng - Thiết giáp của Binh đoàn 2. Đầu tháng 5 năm 1975, tôi tìm đến Lữ đoàn 203 để gặp anh ở Long Bình nhưng không lần nào gặp được vì hết nhà báo này lại đến đoàn làm phim nọ liên tục kéo anh vào dinh Độc Lập để nghe anh tường thuật, ghi tiếng, ghi hình. Anh em ở đơn vị còn bảo tôi rằng, anh Thận mấy lần đi xe Jeep về Sài Gòn bị các loại xe khác va quệt, thế là có lần anh dùng xe M113 chiến lợi phẩm để vào thành phố. Mặc dù đã trông thấy ảnh anh in trên sách báo nhiều lần, thế nhưng khi ngồi đối diện với anh, tôi không khỏi ngỡ ngàng. Đó không chỉ là cảm tưởng của tôi và Khoa mà hầu hết những người đã nghe chiến công của anh, khi gặp anh đều có sự ngỡ ngàng như thế. Ở anh Thận, ta không thể tìm thấy nét gì đặc biệt ngoài sự biến dị có pha chút quê mùa từ mái tóc khuôn mặt đến cử chỉ và đặc biệt là giọng nói. Nhắc tên tôi, anh nhận ra ngay vì anh biết năm 1975 tôi đã mấy lần đến tìm anh ở đơn vị. Không vì thế mà anh vồn vã, vồ vập. Ở kiểu người như anh, yêu quý ai thì chỉ giấu trong lòng, nhưng nếu có điều gì không bằng lòng với người khác, kể cả cấp trên mình, thì hay nói thẳng. Nói chuyện với anh chúng tôi phải hỏi liên tục, vì với một câu hỏi, người khác có thể kể một chuyện dài, nhưng anh chỉ nói một vài câu, khi nhắc lại một chuyện gì cảm động anh thường lặng đi, mắt nhìn xuống mặt bàn. Đó là khi anh nói đến sự hy sinh của Ngô Xuân Nhỡ, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn một. Anh và Nhỡ vốn ở hai tiểu đoàn khác nhau nhưng cùng chung một mũi tiến công, 7 giờ sáng ngày 30 tháng 4 đã đến cầu Sài Gòn. Nhỡ đứng nhô nửa thân ra khỏi cửa xe tăng chỉ huy xe của mình và các xe khác trong đơn vị bắn vào những ổ hỏa lực của giặc thì bị một viên đạn AR.15 bắn đúng vào giữa trán. Nhỡ hy sinh, gục đầu lên thành xe, chân vẫn đứng nguyên vị trí nên đồng đội ngồi trong tăng không hềbiết anh hy sinh, mà cứ theo mệnh lệnh của anh phát ra trước đó. Hạ hết mục tiêu này đến mục tiêu khác, một lúc sau không nghe anh ra lệnh tiếp hoặc nói một câu nào mới phát hiện ra anh đã hy sinh trong thế đứng chỉ huy của mình. Điều cảm động là nhiều đồng đội không cầm được nước mắt, sau ngày đất nước giải phóng, vợ anh mới viết thư vào cho anh, khoe rằng chị đã sinh một đứa con trai thật giống anh! Đứa con đó không phải do kết quả một lần anh về phép mà do chị lặn lội từ quê hương Hiệp Hòa, Hà Bắc vào thăm anh tận nới đóng quân của anh ở Quảng Trị vào mùa hè năm 1974, vào dịp thành lập Binh đoàn 2. Chị biết đâu đứa con trai chẳng bao giờ được thấy mặt bố và khi lá thư của chị tới đơn vị thì anh đã vĩnh biệt cuộc đời. Nhớ thương anh, chị nguyện nuôi con khôn lớn và cho nó đi theo con đường của anh. Năm ngoái chính chị đã đưa con lên đơn vị cũ, Lữ đoàn 203 và xin cho con được nhập ngũ làm lính xe tăng... Trần Đăng Khoa rất muốn gặp người lính trẻ, chắc Khoa dự định làm một bài thơ, nhưng vì thời gian quá ít, quãng đường lại xa nên đành chịu, trí tưởng tượng của nhà thơ gánh lấy phần thiếu hụt của tai nghe, mắt thấy. Anh Thận và hai chúng tôi lặng đi một lúc lâu rối trí óc lại quay về quãng đường từ cầu Sài Gòn đến dinh Độc Lập. Tôi nhớ chuyện đại tá Phạm Xuân Thệ kể, chiếc xe Jeep của anh Thệ vào dinh Độc Lập sau ba chiếc xe tăng, nghĩa là khi anh Thệ đến nơi thì đã thấy ba chiếc xe tăng trong sân dinh Độc Lập, chứ không thể biết được những chiếc xe đó đến từ khi nào. Và anh Thận cho biết ba chiếc đó vào dinh thời gian cách nhau khá xa. Tôi hỏi:
- Khi qua cầu Sài Gòn, xe của anh dẫn đầu đoàn nên vào dinh được sớm nhất phải không?
Anh Thận lắc đầu:
- Đến ngã tư Hàng Sanh, xe của tôi vẫn còn đi thứ ba sau hai chiếc xe của tiểu đoàn một. Lại phải đánh nhau với bốn chiếc M113 của địch, rồi chiếc đi đầu cứ thế đi thẳng, chiếc thứ hai rẽ theo đường vào cầu Thị Nghè, tôi quyết định cho xe mình đi theo chiếc thứ hai. Chiếc xe đi trước xe tôi bị địch bắn cháy ngay ở cầu Thị Nghè, chúng tôi tiêu diệt hai chiếc M.41 vượt qua cầu rồi tìm đường về dinh Độc Lập. Hỏi dân, họ bảo, cứ qua bảy ngã tư, rẽ trái là đến...

- Anh nghĩ như thế nào khi cho húc đổ cổng sắt?
- Nói thật với hai anh, khi trông thấy dinh Độc Lập đứng sừng sững, tôi muốn ra lệnh bắn một phát đạn vào chính diện cho hả giận, vừa trả thù cho đồng đội mới hy sinh vừa uy hiếp bọn lính dù lúc đó còn lẻ tẻ bắn tỉa. Rủi thay và may thay, rủi là với ý nghĩ thời điểm đó, xe tăng tôi không còn viên đạn nào nữa? Tôi và Khoa nhìn nhau. Hú vía, nếu những viên đạn xe tăng bắn thẳng vào dinh, khi mà ông Dương Văn Minh và nội các còn ở trong đó thì tình hình diễn ra có lẽ phức tạp hơn nhiều. Phải tặng thưởng huân chương cho người nào quyết định cơ số đạn mang theo ngày hôm đó!
- Thế là anh húc đổ cổng để thị uy, xích xe thay thế những phát đạn. Ai giao cho anh nhiệm vụ cắm cờ?
- Nhiệm vụ cắm cờ quân đoàn giao cho đại đội 3 của tiểu đoàn một, vốn là đại đội anh hùng, nhưng lúc này xe họ chưa vào dinh. Phải làm cái gì đó để chứng tỏ mình chiếm được dinh Độc Lập rồi chứ? Khi xe tăng dừng lại, tôi nghĩ ngay chuyện cắm cờ và lấy luôn cái cờ giải phóng, cỡ mét hai nhân tám mươi phân vốn buộc trên cần ăng-ten của xe, chạy vào dinh...

Rồi anh kể về sự lúng túng của mình khi tìm đường lên nóc dinh. Anh đang phân vân không biết đi lối nào thì gặp một người to béo, hình như là ông Nguyễn Hữu Hạnh, chuẩn tướng ngụy quân Sài Gòn, dẫn anh tới thang máy. Cũng như hầu hết cán bộ và chiến sĩ ta, lúc đó anh chưa biết thang máy là gì nên khi thấy người đàn ông kia ấn nút cho thang mở và mời anh vào thì anh cảnh giác lui lại, bảo ông ta vào trước đi. Khi hai người đứng trong thang, ông kia định đưa tay ấn nút cho thang chạy thì anh nghĩ đó là một hành động ám muội nên dùng bàn tay mình chộp lấy mu bàn tay múp míp kia, làm cho ông ta phải dừng lại và giải thích.

Cờ ngụy khác xa cờ ta và cách buộc cờ của họ cũng khác. Khi kéo lá cờ ba que trên cột cờ xuống, định gỡ nó ra, anh đã chú ý điều đó. Họ không luồn dây vào cờ như ta quen làm mà dùng nhiều đoạn dây thép ngắn buộc chặt vào dây, làm cho công việc tháo gỡ mất rất nhiều thời giờ, khi thời gian phải tính bằng giây, bằng phút. Tháo được hai nút dây thép, nhìn số nút còn lại khá nhiều, anh ghé răng vào cắn rồi xé lá cờ đó rách dọc theo mép dây, treo lá cờ Giải phóng lên, sau khi ghi tên mình và thời điểm 11 giờ 30 phút. Lá cờ ngụy anh vất trên sân thượng, đi một đoạn, không hiểu sao, anh quay lại nhặt, gấp lại cắp vào nách thanh thản đi xuống.
Vâng, chuyện cắm cờ của anh lịch sử đã ghi nhận và vinh quang đó không chỉ của mình anh mà của Lữ đoàn 203, của Binh đoàn Hương Giang. Bắt tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh đầu hàng và tiếp nhận sự đầu hàng của ông ta ở Đài phát thanh cũng là chiến công của Binh đoàn 2. Cuộc hội thảo khoa học do binh đoàn tổ chức năm 1990 đã kết luận:
Phạm Xuân Thệ là người bắt Dương Văn Minh ở Dinh tổng thống, đưa sang Đài phát thanh còn trung tá Bùi Tùng là người đã đại diện cho Quân giải phóng, chấp nhận sự đầu hàng đó.

Trời sắp tối, chúng tôi phải chia tay Bùi Quang Thận. Khi lên xe trở về Hà Nội, Khoa nói với tôi: Rất tiếc là ta chưa biết gì về đời tư anh Thận. Vâng, tiếc thật, bạn đọc muốn biết rất nhiều thứ xung quanh chiến công những người anh hùng. Hẹn dịp sau ta lại lên thăm binh đoàn, trò chuyện với các anh lâu hơnvà thế nào cũng tìm đến Lữ đoàn 203, nghe họ kể chuyện mà sống lại những ngày tháng Tư lịch sử, mà gặp mặt với người lính trẻ tại đơn vị của người cha đã hy sinh ở cửa ngõ Sài Gòn. Và để cho chuyến đi có thêm nhiều ý nghĩa, ta sẽ thăm quân đoàn vào tháng Tư hàng năm như lần này ta đã ghé thăm...


                                                                                                                    V.T

LÊ LỰU



NĂM THÁNG VÀ ĐỒNG ĐỘI


                                                                                                                   Ghi chép

Chúng tôi ngồi nhũng nhẵng trong chiếc "oát"  nhảy chồm chồm trên những đoạn đường bụi mịt mù đùn ra từ những xe chở đạn, xe kéo pháo, xe chỉ huy chạy phía trước để "tiến vào trận địa". Tóc, mi mắt trắng bụi. Mồm sàn sạn cát và người đau như bị đánh. Nhưng mà vui. Cuộc diễn tập thực binh có bắn đạn thật của Sư đoàn B25 xốn xang gợi lại không khí trận mạc. Nôn nao nhớ những đêm Trường Sơn, xe đi trong dòng sông bụi "tăng cung vượt chuyến", nhớ những đoàn quân "thần tốc", "táo bạo" ùn ùn pháo xe để đi "tổng tiến công" trên đường quốc lộ 1. Rồi những chuyến đi Mèo Vạc, Đồng Văn, Thanh Thủy, Vị Xuyên, Lạng Sơn và Tiên Yên, Ba Chẽ... đã có bao nhiêu là kỷ niệm, vô vàn là những gian nan từng nếm trải cùng đồng đội. Vậy mà cộng cả cái đã làm được và cả cái phần quá khứ thêm thắt cho mình cũng không đủ sức leo lên chỗ lấp lóa hai nhà bạt trên đỉnh đồi lởm chởm cây và đất sỏi. Nắng cuối đông hanh khô đổ xuống thung lũng màu vàng như lửa cháy từ các ruộng tua tủa gốc rạ đến chân các điểm cao 134 và 283.

"Hay là ta quay lại sở chỉ huy đoàn đã". Anh Thư - thiếu tá, trợ lý của binh đoàn đi cùng như đọc được ý nghĩ của chúng tôi, anh nói ngập ngừng rồi quả quyết: "Sắp đến giờ ăn trưa, mà các "cụ" lại có tuổi. Thôi, mời các "cụ" lên xe".

Cái mệnh lệnh ấy thật mát rượi, nhưng cũng hơi xấu hổ và chột dạ vì cái sự nhàu nhĩ trên khuôn mặt mình quả đã già cũ lắm rồi sao! Mười năm trước, chúng tôi leo lên cao điểm 500 ở Lạng Sơn cũng vào cái giờ sắp ăn cơm trưa và nắng cuối mùa khô gắt như thế này mà vẫn thản nhiên, vẫn nói cười hăm hở. Bây giờ, đã trên dưới năm mươi (tất nhiên nhà thơ Anh Ngọc còn trẻ hơn tôi rất nhiều), đã đuối sức quá so với các anh đoàn trưởng Trần Đại Loạn, tham mưu trưởng Thiều Chí Đình, chủ nhiệm chính trị Phạm Quang Tách. Các anh ấy có người chỉ kém bọn tôi bốn năm tuổi vẫn leo lên, leo xuống các điểm cao vài ba lần một ngày. Cứ thản nhiên như đi dạo. Thèm quá. Cách nhau bốn năm tuổi đã là một khoảng cách. Một khoảng cách không rõ ràng nên cứ lầm tưởng mình còn trẻ trung lắm, cứ hí hửng mình còn dư thừa sức lực còn làm được nhiều việc lắm. Ai ngờ? Vài tháng trước tôi phạm luật đi đường qua ngã tư đèn đỏ. Anh công an rất trẻ huýt còi, nghiêm mặt, phảy tay ra hiệu cho xe tôi dẹp vào lề đường. Một tay giơ lên chào, tay kia nhanh chóng rút chìa khóa điện, anh yêu cầu tôi xuất trình giấy tờ. Xem xong, khuôn mặt anh dịu đi đột ngột, miệng tủm tỉm cười.
- À, à... Bố thì con có biết. Thế năm nay bố sáu mấy nhát rồi?
Chắc là anh ta nhầm. Tôi nghĩ và mủm mỉm cười:
- Sáu bảy nhát.
Chỉ vào bà vợ tôi đã vào "trạc ngoại tứ tuần", giọng anh thân tình sởi lởi.
- Bố nhá. Bố sáu bảy nhát, là bố có chết cũng là được rồi. Nhưng bố còn phải lo cho con gái bố ngồi ở đằng sau nữa chứ. Thế bố không nghĩ đến "tương lai con em chúng ta" à? Con đề nghị bố, một là, bố phắn con honđa này đổi con city. Hai là, bố để con gái bố lai bố. Bố rõ chưa.
- Rõ.

Một thoáng buồn lúc ấy thoảng qua.

Một thoáng đứng ở bờ ruộng nhìn con đường cheo chênh vênh lên đến chót vót điểm cao lúc này lại thấy nỗi bất lực mênh mông hiện ra rõ ràng trước mặt mình. Ngỡ chuyện bỡn cợt chỗ ngã ba, ngã tư xô bồ ầm ĩ là nhầm lẫn, đến đây, hóa ra nó là "các cụ có tuổi" thật.

Đêm. Thung lũng như dâng lên trong sương mù. Không trông thấy gì. Chỉ nghe thấy tiếng lép bép của những cọng rạ đổ rập dưới bước chân người. Bộ đội đã vào vị trí chiến đấu. Sau ba ngày "vào tình huống", họ giấu quân ở bãi Chua đến mười tám giờ hôm qua được lệnh bôn tập vào vị trí chiến đấu ở thung lũng này. Hai mươi ba giờ đêm, hầu hết các đơn vị đã vượt qua chặng đường đồi và dốc, suối và sông dài trên hai mươi kilômét đến địa điểm quy định. Đến sáng nay, lúc chưa rõ mặt người họ đã đào xong hào giao thông, hố cá nhân và ngụy trang. Buổi trưa, khi chúng tôi đến "nhà khách" là chiếc lán bạt thì cả thung lũng ắng lặng, chỉ nghe tiếng xe trâu kĩu kịt chở lúa. Chốc chốc có tiếng ì ì xa xa rồi vang lên ầm ầm của xe kéo pháo, xe tải đạn kín lá ngụy trang chạy trong bụi cuốn tung mù mịt. Những đám bụi tản ra dần và tan đi theo gió, lại nhìn rõ những nhuốm khói bay lên từ  những mái nhà tranh thấp tè thưng tường đất xung quanh. Tiếng roi tre quất đen đét vào những con trâu đang quần rơm ở giữa sân của những người vợ trẻ xen với tiếng pháo "địch" bắn cầm canh nghe ập ình xa xăm. Tiếng trẻ con khóc ré lên và tiếng những người cha quát dọa con giữa sự im lặng nghiêm trang của trung đoàn đang giấu mình dưới các thửa ruộng tua tủa gốc rạ, bên một sườn đồi hay giữa điểm cao! Giữa tiếng "vắt vắt . . . lắt tắt, này này diệt này, hò họ" vớinhững tiếng súng các loại từ AK, AR15 đến B40, 41, ĐK và các đại bác tầm gần tầm xa sẽ gầm rú vào sáng ngày mai... Tất cả vẫn rất là hồn nhiên, như là nửa vời như là cẩu thả không nghiêm ngặt giữa các tình huống rất nghiêm ngặt.

Từ đêm qua bộ đội đã bí mật chiếm lĩnh trận địa. Nấu không có khói, nói không có tiếng và giấu mình hết sức kín đáo để kẻ "địch" ở điểm cao cách họ chưa đầy một cây số đường chim bay không thể phát hiện nổi. Vậy mà lúc nhập nhoạng tối lại có bà cụ cầm đèn đi qua rào sang trận địa pháo "xin chú bộ đội tí lửa vào đèn". Và tham mưu trưởng hỏi đội trưởng bảo vệ qua máy điện thoại như sau:
- Trong khu vực trường bắn sáng mai nhân dân đã sơ tán hết chưa?
- Báo cáo, bà con bảo: chết đói mới sợ. Không sợ đạn lạc. Bộ đội họ bắn trúng lắm.
- Tôi nhắc lại: đây là mệnh lệnh chiến đấu. Phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho dân, anh hiểu không?
- Báo cáo tham mưu trưởng, chúng tôi cũng đã giải thích và các đồng chí ở địa phương cũng rất kiên quyết nhưng đồng bào cứ thản nhiên bảo, bộ đội tập đấy không có "địch" đâu. Lúc nào có thằng địch thật đồng bào cũng phải đánh nó, ai để bộ đội đánh một mình.
- Nhưng chúng ta sẽ bắn đạn thật, không để bất cứ ai trong khu vực đạn rơi.
- Bà con bảo: bắn vào giờ nào bộ đội cứ nói trước để bà con thu dọn. Lúc nào bắn, đi trước một lúc thôi, đi lâu mất việc, không ai cho trâu, cho lợn ăn, nó đói.

Đang trong tình huống bí mật bất ngờ, lại đi thông báo trước giờ nổ súng! Tham mưu trưởng buông máy, trút ra một hơi thở, hai cánh môi hơi nhếch lên như có một chút chán chường trước một tình huống như là đùa bỡn. Thật là vô lý. Tưởng anh sẽ nói thế. Nhưng anh lại bảo chúng tôi:
- Bà con cũng có cái lý của họ. Sơ tán từ đêm nay người ta ngủ ở đâu. Còn trẻ con, ông già, bà già rồi đồ đạc lợn gà trâu bò ai trông nom chăm bẵm. Với những ý nghĩ ấy chắc rằng tham mưu trưởng của đoàn sẽ phải có phương án cho sớm ngày mai vừa bảo đảm tình huống cho các đơn vị, vừa giữ được an toàn tuyệt đối cho dân chỗ pháo rơi, đạn nổ.

Giữa một cuộc sống bình yên đến lặng tẻ của dân với sự luyện rèn cho một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc quyết liệt có thể sẽ xảy ra chen lẫn vào nhau, chồng chéo lên nhau tưởng như có cái gì đấy không khoa học, không nghiêm túc, như một khuyết tật, không thể nào đưa một đội quân tiến lên hùng mạnh.

Những kẻ thù xa và gần, lâu dài và trước mắt trong tay nắm những phương tiện hoàn hảo nhất thế gian, gian ngoan và mưu mẹo thâm hiểm nhất thế gian có rất nhiều mánh khóe dò la biết rõ những khuyết tật của ta, biết tỉ mẩn có khi chúng ta là người trong cuộc không biết hết. Vậy mà sau cuộc chiến tranh Việt Nam đã gần hai mươi năm có hàng nghìn tổ chức và cá nhân với những bộ óc lý tưởng nhất vẫn chưa lý giải được câu hoi: vì sao nước Mỹ chỉ biết ngửa mặt lên giời lại bị thua trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Việt Nam, dân tộc chỉ biết yêu thương bạn bè. Chỉ khát khao được yên hàn. Nhất quyết phải có những tình yêu nồng nàn, đem đến sự tôn trọng và bình đẳng thật sự chân thành mới khám phá nổi cái tiềm ẩn sâu xa và biến hóa đến khôn lường.

Nếu không như thế, dù có dò la, rình rập biết tất cả, tưởng tất cả là thế, nhưng khi vào cuộc, tất cả lại không phải thế. Tất cả đều bất ngờ, luôn luôn bất ngờ đến bàng hoàng trước mọi điều tưởng đã nằm sẵn trong lòng bàn tay. Thậm chí, có lúc có nơi, có một người hoặc nhiều người nhẹ dạ cả tin và mềm yếu đến mức "nỏ thần vô ý trao tay giặc”, thì cũng không phải vì thế mà những kẻ gian ngoan lừa lọc, kẻ đầy sức mạnh "lấy thịt đè người" có thể quên được bài học khi họ đóng vai tên xâm lược đến dân tộc này.

Những bước chân bộ đội di chuyển vị trí và cái ấm nồng nàn còn hăng hăng tỏa ra từ những gốc rạ dưới lớp chiếu trải ở ruộng lúa mới gặt khiến tôi trằn trọc không ngủ được. Buổi chiều đã hẹn với đại đội 14 pháo 120 ly là đêm nay sẽ đến hàn huyên với họ, mà trời tối lắm lắm. Định nhờ Hà, chiến sĩ vệ binh phục vụ "nhà khách" mượn hộ đèn pin nhưng Hà vừa đặt mình xuống đã ngáy đều đều nghe rất ngọt, rất say trên chiếc chiếu không lót ni lông, gốc rạ lởm chởm quanh người. Từ lúc mười giờ rưỡi đến giờ, tôi thấy chưa có một phút nào Hà được ngơi tay. Một mình cắt rạ, cắm lều bạt, bê chăn chiếu đồ dùng cho mươi người khách. Rồi lội qua suối, đi tắt cánh đồng hàng cây số bê cơm, gánh nước, lấy nước sôi pha trà, rửa dọn... rồi lại phải theo "tình huống" mới di chuyển "nhà khách" đến chỗ khác xa hơn. Lại cắt rạ. Lại đi gánh nước, lấy cơm, làm liên lạc giữa khách và sở chỉ huy, mời người đến làm việc, dẫn khách đi đơn vị. Hơn mười giờ đêm, qua ánh sáng của ngọn đèn dầu tôi nhìn thấy Hà lách miếng vải bạt bước vào. Định đợi cậu thay quần áo rồi nhờ một vài việc. Ngẩng đầu, đã nhìn thấy chiếc chăn mỏng quấn quanh người, màn cá nhân vo tròn đắp lên mặt. Và, tôi lại phải nằm im nghĩ cách định hướng để lần mò đến đại đội 14.

Sẽ vô cùng ân hận nếu tôi không đến đại đội. Uyên đại đội trưởng cao gầy, đại đội phó chính trị tên là Nhân lởm chởm râu trên khuôn mặt cháy hốc hác. Hai trung đội trưởng Trung và Xô còn rất trẻ trông bẽn lẽn như con gái. Cả bốn người đều ngồi trong lán chạm đầu vào tấm ni lông căng ở trên được ngụy trang bằng cành cây và phía dưới cũng là lành cây xếp xuống làm giường. Họ chờ tôi quanh khay nước chè đặc như nước đậu đen, một chiếu điếu cày, và bao thuốc Du lịch.
- Cháu vừa đi kiểm tra các phần tử bắn về, thấy anh em bảo các chú đến. Cháu tiếc ngẩn cả người. Nhưng thấy bảo đến tối chú quay lại, mừng quá chú ơi Thôi thì.... Đại đội trưởng Uyên vừa nói vừa lặng lẽ đưa tay ra phía sau rờ rờ bi đông rượu: Báo cáo với ông chú là chúng cháu không nghiện. Nhưng lúc vui quá dứt khoát phải có một vài chén. Thôi thì...
- Thôi thì... mình không uống được.
- Ấy ấy ông chú chơi chữ cháu rồi. Thôi thì... ông chú chiếu cố đến anh em chúng cháu.
- Một chút gọi là để chúc mừng ngày mai.
- Báo cáo ông chú cứ ở đây xem. Bảo đảm ngày mai chúng cháu bắn đẹp.
- Các cậu đã bắn ở địa hình này chưa.
- Dạ, đây mới là lần đầu.
- Sự quả quyết của đại đội trưởng có...
- Có căn cứ là chúng cháu đã tập trong mọi địa hình, mọi thời tiết và tất cả những tình huống phức tạp. Điều quan trọng là anh em chỉ huy chúng cháu đã uốn nắn rèn luyện cho từng người, biết rất rõ sự tiến bộ các mặt của anh em chiến sĩ. Nào thôi. Cạn hết chén rồi chú kể chuyện với anh em chúng cháu.
- Để anh em nghỉ lấy sức.
- Báo cáo nhà báo. Chúng em thức trắng cả tuần lễ nay. Đêm hành quân. Ngày đào công sự, hào giao thông. Nhân nói. Đêm nay chờ đợi giờ nổ súng chúng em chộn rộn quá. Em vừa đi xem lại các khẩu hiệu ở công sự và trên mũ các chiến sĩ nhắc anh em tranh thủ ngủ mà bản thân cứ thấy háo hức như thể chờ đón giao thừa.
- Còn cháu lại thấy như cái đêm chờ ngày mai mình cưới vợ ấy chú ạ.
- Đại đội trưởng thổn thức cái đêm chờ cưới ấy đã lâu chưa?
- Mới đầu năm nay thôi chú. Nhưng có kết quả ngay. Cháu được nghỉ phép mười lăm ngày. Tổ chức xong, còn lại có mười một ngày. Cháu hỏi: "Em có thích có con ngay hay để thư thư?". "Tùy anh", "Nếu có con ngay em có thích không?", "Anh thế nào thì em thế". Nói vậy nhưng cháu biết là nàng rất muốn có đứa con cho chắc ăn. Cháu lại hỏi: "Nếu hết phép, chưa ăn thua gì, có lên chỗ anh không?", "Có, nhưng em sợ...", "Sợ quái gì. Lính bọn anh cứ là thoải mái. Chỗ anh có ông chủ nhiệm pháo ba mươi sáu tuổi chưa vợ. Bọn anh bảo nhau: cùng binh nhưng thằng nào có vợ đến thăm cho mượn vài buổi đưa lên hội trường, mắc micrô cẩn thận để ông ấy tán thử rồi anh em góp ý bổ sung. Không làm thế ông ta đến ế mất". "Bộ đội các anh tán như quỷ em không đi đâu”. "Ừ, không thì thôi".

Đến hôm trước khi đi, cháu vẫn giả vờ im lặng buộc nàng phải thốt ra lời trước "Thế anh bảo lên đơn vị thì định bao giờ?". "Anh định thế, em bảo chả thích đi nên anh thôi ý định ấy". Liếc nhìn thấy mặt cháu vẫn tỉnh bơ thế là chú ơi... Bỗng giọng anh vút lên, anh hát: - "Đôi mắt vốn mơ màng huyền ảo như khói lam chiều giăng giăng trùng điệp nơi ải biên cương bỗng hai hàng lệ tuôn rơi làm cho cháu đây thấy tái tê đau đớn ở trong ờ ờ ờ nòng. . . òng. . . ". Cái câu cải lương đổ xuống rất mùi nhưng lại ngọng nên Ơû công sự khẩu đội nào đó cách dăm mười mét bỗng tóe lên những tiếng cười. Nhưng Uyên vẫn say sưa tiếp :
- Nó phức tạp quá chú ơi.
- Phức tạp nên mới phải lên đây hàng tháng để giải quyết tư tưởng đấy nhà báo ạ.
- Thằng nào đấy? Giờ này vẫn chưa ngủ?
- Em cứ thổn thức như ngày cưới vợ ấy đại trưởng ạ.
- Láo. Nhưng mà được. Lên đây tao thưởng cho điếu Du lịch.

Lập tức có đến ba bốn cậu lính trẻ măng nhảy từ công sự bẽn lẽn đưa cả hai tay, mỗi cậu rút một điếu thuốc. Xong, các cậu đều giống nhau: dắt thuốc vào mang tai, vê điếu thuốc lào châm lửa bằng miếng giấy báo vụn, hít một hơi rõ dài, ngửa mặt lên nhưng lại nuốt khói vào trong. Nhưng khuôn mặt ấy đỏ rân rân, hai mắt lim dim, miệng anh nào cũng cứ cười cười, rút thuốc từ mang tai châm lửa hút rồi lặng lẽ quay về công sự. Đại đội trưởng quát đuổi theo:
- Hút xong, ngủ đi nhé.
- Rõ. Cả bốn người cùng đáp nghe gọn, có cảm giác đáp xong miệng anh nào cũng vẫn tủm tỉm cười.

Đã viết văn mươi mười lăm năm nay, nhưng tôi vẫn không bỏ được thói quen của anh làm báo thời quân khu, quân đoàn. Lẽ ra phải xin phép đại đội cho mấy anh em chiến sĩ ngồi lại chuyện trò tâm tình với tôi và cứ để cho Uyên tán thả sức, may ra mới ghi nhận được tí chút gì đó về tâm trạng, tính nết và cái không khí đầy sức sống của người lính trong lần diễn tập này. Nhưng tôi lại giở sổ ra yêu cầu: "Chúng ta làm việc nhé".
- Cháu cứ tưởng từ nãy đến giờ chú làm việc được ối ra rồi.
- Thôi đừng tán nữa. Cho mình hỏi: Nhiệm vụ chủ yếu của đơn vị các bạn là gì?

Uyên đưa mắt nhìn đại đội phó chính trị. Từ nãy đến giờ Nhân và hai trung đội trưởng chỉ nghe rồi cười rồi gật đầu phụ họa sự tán tỉnh của Uyên, bây giờ anh ngồi ngay ngắn và giọng nói trịnh trọng hẳn:
- Báo cáo nhà báo, nhiệm vụ chủ yếu của đơn vị hôm nay là giáo dục cho cán bộ chiến sĩ luôn luôn đề cao cảnh giác vượt qua mọi thử thách khó khăn rèn luyện trong mọi tình huống phức tạp đoàn kết hiệp đồng giành thắng lợi trong bất cứ hoàn cảnh nào và kiên quyết giữ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ vững chắc...
- Thôi được, anh nói cụ thể hơn đi. Kể chuyện về những điển hình, cho tôi những số liệu cụ thể trong các mặt...

Nhân xin phép lách mình vào phía trong lục ba lô tìm cuốn sổ mà các trang đã nhàu và hơi phồng lên, hình như anh đã chuẩn bị từ lâu để báo cáo cung cấp  cho các nhà báo các cán bộ tham quan và kiểm tra nhiều lần rồi. Anh đọc làu làu, có chỗ phải nhìn vào sổ, có chỗ anh nói "bộ" nhưng rất chính xác và đầy đủ.

Tôi cặm cụi ghi chép rất mải miết, rã cả tay. Đến gần hai giờ sáng cả khách và chủ đều giấu giếm nhau quay về phía sau lấy tay che miệng ngáp tôi mới ra về. Nằm trong lán "nhà khách" cứ hí hửng với mười lăm trang sổ tay ghi nguệch ngoạc vội vã, mẩm bụng sẽ viết được cái gì đó sau cái chuyến đi "cưỡi ngựa xem hoa". Nào ngờ... Về nhà đọc lại sổ tay cách đây đúng ba mươi năm, năm 1963 tôi đến một đơn vị pháo binh dân quân ở Hải Phòng cũng ghi những điều giống hệt như hôm nay. Cũng hỏi câu hỏi ấy. Cũng trả lời những câu trả lời ấy. Cũng nhiệm vụ chủ yếu và những "điển hình". Cũng thành tích các mặt và những khó khăn thử thách phải vượt qua.

Đã là người chiến sĩ, dù dân quân hay bộ đội, ở trong Nam hay ngoài Bắc thì ai mà không cảnh giác, ra sức tập luyện để lúc ra trận phải đánh thắng.

Hăm hở đi. Vội vàng ghi chép. Về đến nhà nhăn  nhó trằn trọc viết cả đêm. Sáng ra thằng con trai  đang học lớp 9 đọc trộm bản thảo của bố rồi: "Con thành thật góp ý với bố nhớ. Con đã đọc ối bài như bài của bố viết. Nhưng người ta còn hay hơn. Thôi bố bỏ đi đừng tiếc bố ạ".

Thế là phải bỏ chứ biết làm thế nào. Có những điều viết ra chỉ người lớn mới hiểu, hoặc trẻ con thích, còn người lớn lại thấy nó tầm thường. Nhưng viết ra, trẻ con đã thấy nhạt thèo thẽo và giống ở mức thấp kém những cái nó đã biết thì tiếc làm gì mà không xé.

Đi Binh đoàn Hương Giang hứa hứa, hẹn hẹn với anh Rinh, anh Sơn, anh Sự và bao nhiêu người rằng sẽ viết cái nọ, cái kia mà về nhà hàng tuần lễ, tòa soạn giục năm bảy lần cũng không xong bài báo dăm bảy trang ở mức trung bình thấp. Cũng là điều phải nghĩ ngợi lắm.

Cái sức lực của chúng tôi chỉ thực sự được kiểm tra chính xác vào sáng ngày hôm sau. Ba giờ sáng bộ đội đã chiếm lĩnh xong vị trí chiến đấu, chuẩn bị nổ súng. Hà bê xoong cơm gọi chúng tôi dậy. Hầu như cả Thư, Anh Ngọc và tôi đều mất ngủ nhưng hoặc phải cố tỏ ra, hoặc đã tỉnh táo thực sự, chúng tôi và vội bát cơm rồi vội vàng bước theo Hoàn trợ lý tác chiến leo lên cao điểm, chỗ hai lều bạt lấp ló trên đỉnh chót vót, trưa hôm qua chúng tôi phải quay xe lại vì "các cụ có tuổi". Bây giờ lại hăng hái bước thập thõm trong mịt mù sương đêm. Con đường từ "nhà khách" đến chân điểm cao chừng vài kilômét có thể đi ôtô đến đó rồi chỉ cần leo chừng dăm bảy trăm mét là tới sở chỉ huy tổng diễn tập. Chúng tôi yêu cầu Hoàn cố gắng bảo đảm an toàn. Hoàn bảo chúng tôi đi bộ đi đường vòng. Nó dài ra gấp đôi, và phải qua mấy con suối, lên xuống bốn ngọn núi đều có độ cao tương đương với ngọn có hai lều bạt. Là vì đường cấm? - Hoàn nói thế. Cấm sao xe cấp cứu đi được? Là vì để "các cụ" đi cho biết địa hình! Chỉ cần đứng ở một điểm cao nhìn qua ống nhòm là biết tất cả, biết rất rõ việc gì phải hành nhau thế nào. Nhưng vì cái "vì" cơ bản là do lúc đầu lò dò theo Hoàn chúng tôi cứ nghĩ anh trợ lý tác chiến đã dẫn đi chắc phải là con đường ngắn nhất, vừa an toàn vừa dễ dàng để anh em đỡ mệt nên hăm hở theo. Chỉ đến khi cởi cả áo bông, cởi cả áo bludông, mồ hôi vẫn tóa ra đầm đìa, hơi thở đứt ra gấp gáp như không thể thở được nữa, ngồi bệt xuống bất cứ chỗ nào để khỏi ngã vật ra tôi mới tự đặt bao nhiêu câu hỏi ấm ức ở trong đầu mình. Thư đi theo sau cách Hoàn độ vài chục mét. Anh Ngọc cách Thư khoảng gấp đôi. Còn tôi, mỗi lần leo được một đỉnh núi lại ngồi vật ra, mọi người nén bực bội để kiên trì chờ tôi. Còn tôi nén bực bội vì cảm giác như bị mắc lừa, như Hoàn đã đi lạc đường. Biết đâu đấy. Ngày xưa nhà văn Nguyễn Minh Châu có một dạo làm trợ lý tác chiến của Trung đoàn 64 cũng đã dẫn sư trưởng đi lạc vào đồn địch đấy thôi. Có khi ông tướng này cũng nghệ sĩ như thế, chưa biết chừng. Hay là cái "chất lính" trong tôi đã thiếu hụt? Hay là đã quá lâu không giáp mặt với bao nỗi vất vả gian nan. Và sự kiên cường của người lính trong những năm quyết liệt vừa qua? Hay là, tình cảm và sự hiểu biết của mình đã có gì hời hợt nhạt nhòa? Vì những bực bõ ấy, những anh "lính chiến" muốn nhìn ngắm chân dung anh lính "bàn giấy” xem tình cảm và trí lực đến đâu, rồi ra anh sẽ nói nàng viết lách như thế nào, hay là cứ bịa đặt véo von thánh thót bốc lên như gió bốc bụi cuốn mù mịt qua đầu chúng tôi.

Cái sức lực của chúng tôi chỉ thực sự được kiểm tra chính xác vào sáng ngày hôm sau. Ba giờ sáng bộ đội đã chiếm lĩnh xong vị trí chiến đấu, chuẩn bị nổ súng. Hà bê xoong cơm gọi chúng tôi dậy. Hầu như cả Thư, Anh Ngọc và tôi đều mất ngủ nhưng hoặc phải cố tỏ ra, hoặc đã tỉnh táo thực sự, chúng tôi và vội bát cơm rồi vội vàng bước theo Hoàn trợ lý tác chiến leo lên cao điểm, chỗ hai lều bạt lấp ló trên đỉnh chót vót, trưa hôm qua chúng tôi phải quay xe lại vì "các cụ có tuổi". Bây giờ lại hăng hái bước thập thõm trong mịt mù sương đêm. Con đường từ "nhà khách" đến chân điểm cao chừng vài kilômét có thể đi ôtô đến đó rồi chỉ cần leo chừng dăm bảy trăm mét là tới sở chỉ huy tổng diễn tập. Chúng tôi yêu cầu Hoàn cố gắng bảo đảm an toàn. Hoàn bảo chúng tôi đi bộ đi đường vòng. Nó dài ra gấp đôi, và phải qua mấy con suối, lên xuống bốn ngọn núi đều có độ cao tương đương với ngọn có hai lều bạt. Là vì đường cấm? - Hoàn nói thế. Cấm sao xe cấp cứu đi được? Là vì để "các cụ" đi cho biết địa hình! Chỉ cần đứng ở một điểm cao nhìn qua ống nhòm là biết tất cả, biết rất rõ việc gì phải hành nhau thế nào. Nhưng vì cái "vì" cơ bản là do lúc đầu lò dò theo Hoàn chúng tôi cứ nghĩ anh trợ lý tác chiến đã dẫn đi chắc phải là con đường ngắn nhất, vừa an toàn vừa dễ dàng để anh em đỡ mệt nên hăm hở theo. Chỉ đến khi cởi cả áo bông, cởi cả áo bludông, mồ hôi vẫn tóa ra đầm đìa, hơi thở đứt ra gấp gáp như không thể thở được nữa, ngồi bệt xuống bất cứ chỗ nào để khỏi ngã vật ra tôi mới tự đặt bao nhiêu câu hỏi ấm ức ở trong đầu mình. Thư đi theo sau cách Hoàn độ vài chục mét. Anh Ngọc cách Thư khoảng gấp đôi. Còn tôi, mỗi lần leo được một đỉnh núi lại ngồi vật ra, mọi người nén bực bội để kiên trì chờ tôi. Còn tôi nén bực bội vì cảm giác như bị mắc lừa, như Hoàn đã đi lạc đường. Biết đâu đấy. Ngày xưa nhà văn Nguyễn Minh Châu có một dạo làm trợ lý tác chiến của Trung đoàn 64 cũng đã dẫn sư trưởng đi lạc vào đồn địch đấy thôi. Có khi ông tướng này cũng nghệ sĩ như thế, chưa biết chừng. Hay là cái "chất lính" trong tôi đã thiếu hụt? Hay là đã quá lâu không giáp mặt với bao nỗi vất vả gian nan. Và sự kiên cường của người lính trong những năm quyết liệt vừa qua? Hay là, tình cảm và sự hiểu biết của mình đã có gì hời hợt nhạt nhòa? Vì những bực bõ ấy, những anh "lính chiến" muốn nhìn ngắm chân dung anh lính "bàn giấy" xem tình cảm và trí lực đến đâu, rồi ra anh sẽ nói nàng viết lách như thế nào, hay là cứ bịa đặt véo von thánh thót bốc lên như gió bốc bụi cuốn mù mịt qua đầu chúng tôi.

Còn ngọn núi cuối cùng, cái nấc kiểm tra cuối cùng đã xác nhận sự bất lực của tôi. Hoàn, Thư và Anh Ngọc đã leo đến sở chỉ huy. Tôi vẫn đang ngồi tựa vào mỏm đá ngửa mặt lên trời thở dốc ở sườn ngọn núi thứ ba. Cơn buồn ngủ ập đến. Có cảm giác không thể gượng dậy. Rất thèm được nghỉ một mạch đến ba bốn giờ chiều. Mặt trời đã chớm nóng ran rát vào mặt. Có lẽ sắp đến giờ nổ súng rồi. Ngước sang ngọn núi "chỉ huy" thấy bốn năm người lố nhố gần mỏm đưa tay đưa mũ vẫy vẫy. Chắc là họ gọi tôi. Không nghe thấy tiếng mọi người, nhưng tôi cũng cố bật dậy. Nếu không dồn hết sức lực và lòng tự trọng tối thiếu để sang đỉnh bên kia thì kỳ cục quá. Thật lạ lùng. Tôi chạy xuống dốc rất nhanh. Rồi lại leo lên mỏm cuối cùng cũng rất nhanh. Khi các anh chủ nhiệm chính trị và tham mưu trưởng đoàn B25 nắm lấy tay tôi, nói những lời ái ngại như là xin lỗi thì tôi còn đang thở như đứt hơi. Không nói được gì. Cũng không nhìn thấy cái mặt của mình sượng sùng đến mức nào. Các anh có vẻ không bằng lòng hỏi tại sao Hoàn không đưa chúng tôi đi đường ôtô đến chân cao điểm theo đường thoải lên? Hoàn báo cáo là bộ đội đã sẵn sàng nổ súng, anh rất sợ đi đường ôtô không an toàn. Mà lệnh của thủ trưởng là phải bảo đảm thật an toàn cho các nhà báo.

Thì ra, không phải chỉ "nhàn cư vi bất thiện". Trong lúc bí bách, mệt mỏi cũng "vi bất thiện", ngờ vực người khác bằng những ý nghĩ không thiện cảm. Tôi muốn đến bên Hoàn xin lỗi và nói: "Tại bọn tôi cũng yêu cầu Hoàn phải đi "đường nào thật an toàn bảo đảm. Mà đã muốn hoàn toàn được bảo đảm an toàn thì phải đi đường vòng, biết làm thế nào". Chưa nói được gì, Hoàn đã có lệnh đi làm việc khác. Các cán bộ chỉ huy tham mưu các cấp, các sĩ quan đạo diễn,. phục vụ đã tất bật ra vào lán nhận chỉ thị, xin ý kiến và những mệnh lệnh ngắn đã được truyền đi. Sau chén nước trà và điếu "Vina” anh Tách chủ nhiệm chính trị trao cho, tôi thấy người mình đã tỉnh táo, đã thấy trở nên lạc lõng vô tích sự nếu như không giở quyển sổ ra ghi ghi, chép chép. Tham mưu trưởng Đinh giơ tay nhìn đồng hồ, anh quay sang tôi:
- Mười lăm phút nữa là nổ súng. Nhà báo viết nội dung thế nào thì viết nhưng bên ngoài "cụ" cứ phải nói đến Binh đoàn Hương Giang. Còn bên trong là đoàn B25 tổ chức diễn tập thực binh có bắn đạn thật. Cho nó thật kêu vào.
- Nếu lát nữa bắn nó lại tịt?

Tôi đã có cớ để bắt chuyện với các anh cho khỏi ngượng.
- Ấy, cứ nói về cái "tịt" ấy vì lý do đít đạn nó mềm quá hoặc là đạn tồn kho cũng hay lắm. Tán thế nào cho nó hay người ta xúm vào mà đọc là được rồi.
- Có lẽ chính anh viết nó còn có sự lạ và chân thật, còn có nhiều người đọc hơn tôi.
- Đúng đấy. Hồi bảy nhăm tôi cũng ngồi kể chuyện cho một anh viết đăng hẳn một bài mang tính quốc gia đàng hoàng.
- Thế anh ký tên gì?
- "Tác phẩm" của mình mà người ta viết thì người ta muốn đề là gì thì đề. Cho mình được chữ: Thiếu Chí Đinh vào đấy là quý quá rồi còn gì nửa.
- Báo cáo tham mưu trưởng, các điểm bảo vệ báo về dân đã sơ tán hết.
- Họ ngồi xem kia kìa. Dân mình cũng gan thật. Tham mưu trưởng vừa nói vừa ra khỏi lán hô:
- Đồng chí trung đoàn trưởng Trung đoàn 18 thực hiện tình huống một như mệnh lệnh đã giao.
-  Rõ.

Trinh, trung đoàn trưởng mặc quần áo rằn ri đội mũ sắt đứng trong công sự hô dõng dạc. Tiếng anh vang vang truyền qua hệ thống phát thanh:
- Quân địch đang ồ ạt tiến vào trận địa của chúng ta. Trung đoàn hạ lệnh tất cả các đơn vị hỏa lực có nhiệm vụ nổ súng làm tan rã đội hình địch không cho chúng triển khai trận địa, tạo điều kiện cho bộ binh tiến lên.

Trung đoàn trưởng dứt lời, tất cả các đỉnh núi, sườn đồi khe suối quanh nơi chúng tôi đứng đồng loạt những tiếng hô: mục tiêu, cự ly, tầm, hướng...

 Những tiếng nổ vang lên đột ngột, những viên đạn lao vào mục tiêu khói mù mịt. Xe tăng cháy, giữa tiếng reo hò ầm ầm của nhân dân cũng đứng trên các sườn núi ngoài khu vực bắn để xem, để vỗ tay reo hò và kêu lên: "Tuyệt. Tuyệt, cháy rồi, cháy rồi. Giỏi. Giỏi ơi là giỏi. Giỏi quá". Trong khi các loại pháo ĐK, B40, B41 bắn phát đầu tiên trúng mục tiêu, gần như không ai bắn chệch thì tim tôi hơi thót lại. Đại đội 14 pháo 120 của tôi đáng lẽ phải bắn trước tiên thì vẫn im lặng. Nhìn dãy núi mờ sương bên kia suối mục tiêu của đại đội 14 sẽ phải bắn pháo, mắt tôi như nhòa đi. Bỗng "ùng ùng" tiếng nổ đầu nòng và tiếng reo: "Một trăm hai mươi lên tiếng rồi". Tôi chưa nghe hết tiếng reo ấy thì một, rồi hai đụn khói ùn lên ở dãy núi bên kia suối và tiếng reo của chính các đạo diễn, của các cơ quan binh chủng cấp trên đứng quanh tôi nghe như hét: Trúng rồi, trúng ngay lá cờ, trúng nữa. Như đi xem phim.

Cả tám phát đạn pháo 120 của đại đội 14 bắn vô cùng đẹp. Anh Đinh quay sang tôi:
- Ngay những viên đầu tiên nó bị đạn tồn kho làm tịt nhưng quan sát qua ống nhòm tôi thấy bản lĩnh của chỉ huy và lính của nó giỏi thật anh ạ. Điềm tĩnh xử lý một cách nhanh chóng mà thận trọng. Trông mặt mũi anh nào cũng lý lắm. NÓ bắn đâu trúng đấy là phải. Tôi muốn kêu lên: Tại sao lại để anh em bắn những viên đạn "tịt" ấy? Một thoáng bực bội. Lại một thoáng nghĩ lại. Đêm qua Trung, trung đội trưởng trẻ măng bảo tôi: "Chúng cháu tập luyện và bắn đều phải nhẩm tính xem mỗi viên đạn là bao nhiêu tạ thóc và - bố mẹ mình ở nhà một năm làm ra được bao nhiêu tạ. Cái đó nó cứ tự nhiên đến như thế chú ạ. Không nghĩ, nó cứ chợt đến bằng một phép tính nhoáng qua đầu óc  mình. Quê cháu cũng ở Hải Hưng. Nghe ở nhà bảo năm nay được mùa to. Lần đầu tiên trong lịch sử toàn tỉnh đạt: 1,2 triệu tấn. Mừng quá chú ơi. Nhưng mà lúc bắn thì vẫn có con tính: một viên đạn là bao nhiêu tạ thóc. Nó như một dấu hỏi.

Trước mặt, cách chúng tôi đứng chừng năm chục mét đường chim bay là hai khẩu đội 12 ly 7. Mỗi lần nghe khẩu lệnh bắn, những viên đạn đỏ lừ vun vút lao đi và trong nháy mắt đã thấy nhưng viên đạn đỏ lừ ấy quấn quít bọc lấy "quân địch nhảy dù" như là một thỏi nam châm khổng lồ hút tất cả mọi viên đạn vào đấy. Đẹp quá. Đẹp như đang xem một đoạn phim màu. Nhưng lạ thay, mỗi tiếng "bắn" của đại đội trưởng phát ra thì chỉ có một khẩu đội nổ còn một khẩu đội "tịt". Tôi thất vọng nhưng không dám hỏi.

Anh Đinh bảo tôi, đại đội 12 ly 7 đánh cũng đẹp. Tôi ngập ngừng chữ "nhưng" thì anh đã hiểu ý giải thích:
- Cứ một viên đạn thật phải có một viên đạn giả, con nhà nghèo mà anh.
- À, vâng. Đúng là con nhà nghèo tiêu pha bất cứ việc gì cũng phải tằn tiện. Tuy không "bằng anh, bằng em" nhưng nó cứng cáp từng trải. Có thể tự chống đỡ hết thảy mọi bão bùng lụt lội. Con nhà nghèo sớm khôn là thế.

Các loại cối 82, 61, ĐK, B40, B41 và điểm xạ của AK đều đẹp quá, đạt khá giỏi cả. Cái kết quả trăm phần trăm mục tiêu bị tiêu diệt, mà vẫn tiết kiệm đạn là cốt cách của những con người biết chắt chiu rèn luyện cho bản sắc riêng của người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng dày dạn bền vững.Có người hỏi tôi sau chuyến đi này thấy những nét gì mới của cán bộ chiến sĩ hôm nay. Tôi không nhìn thấy cái mới trong bữa cơm, đã có chút đậu, chút thịt, lính ăn no nê cơm gạo mới. Tôi cũng không thấy những bộ quần áo có kiểu dáng gì mới. Cũng chưa thấy bộ đội dùng những súng nhỏ, súng to khác lạ với những gì  chúng ta đã có. Cái mới mà tôi nhìn thấy ngày hôm nay lại là cái cũ, cái bản chất truyền thống cũ của một quân đội biết chịu đựng hy sinh được quán triệt để phát huy giữa ào ạt cơ chế thị trường như sóng xô vào cuộc sống người lính. Sự thiếu thốn khó khăn bên cạnh một khó khăn thiếu thốn khác thì chỉ còn một nửa. Nếu bên cạnh nó là sự xa hoa đàng điếm phung phí thì khó khăn thiếu thốn tăng lên gấp bội phần. Ngỡ tưởng điều đó như một quy luật nhưng nó lại trở nên vô nghĩa trong bữa cơm trưa nay ở đại đội pháo 120. Vẫn cái lán ngồi chạm đầu vào mái nilông nóng hầm hập, trưa nay có thêm Dũng tham mưu, Thái trợ  lý pháo binh, Anh Ngọc và tôi. Tám người cả chủ và khách ngồi quanh một đĩa quân dụng thịt mỡ xào và hai bát canh rau cải để ăn mừng đại đội bắn đẹp, mừng kết thúc diễn tập thắng lợi. Đến chén rượu thứ hai Nhân mời Anh Ngọc và tôi cùng uống với anh. Cầm chén lên định chạm nhưng nghe anh nói và tôi phải "đối thoại" thành ra mỏi cả tay mà vẫn cứ phải cầm.
- Em biết nhà thơ, nhà báo chiếu cố đến chúng em mới ở lại ăn bữa cơm lính.
- Chúng mình rất hạnh phúc được những lúc như thế này.

Bỗng nét mặt hốc hác của Nhân nghiêm lại, hai mắt anh vằn lên nhìn vào mặt tôi.
Một giây qua đi, anh đặt chén rượu xuống đưa cả hai bàn tay ôm lấy tay tôi:
- Cháu xác nhận. Nhà báo còn "lính" lắm. Cháu thì không có văn hay chữ tốt bằng nhà thơ, nhà báo nhưng cháu nói thật: không gì sung sướng cho bằng sống có tình cảm thoải mái vô tư.
Uyên rót rượu vào các chén khác nói chen:
- Thì người ta được bao nhiêu thứ khác, mình chỉ được mỗi cái tình cảm thoải mái vô tư lại chả nhất.
 Nhân:
- Thế mới là cuộc sống đa dạng và phức tạp.
Uyên cầm chén rượu hướng về hai nhà pháo binh cấp trên.
- Nào các anh, cùng nhau ta uống mừng cuộc sống phong phú phức tạp.
Tất cả chúng tôi chạm chén và uống cạn một hơi. Nhân vứt chén lăn ra bên cạnh, hai tay lại như ôm lấy tay tôi.
- Sướng lắm nhà báo ạ. Chúng cháu không ngờ có cuộc gặp gỡ này. Tiếc quá. Chúng cháu lại phải cho bộ đội hành quân ngay. Nhà báo đưa bát cháu xới cơm. Ăn no luôn với chúng cháu ở đầy nhé. Thỉnh thoảng nhà báo lại đến với lính. Thoải mái vô tư lắm nhà báo ạ.

Và miếng cơm vào miệng, tôi như nuốt cả vào lòng mình những cử chỉ, lời nói vô cùng thật, vô cùng xúc động của anh em. Đã lâu lắm cái tình cảm hời hợt nhạt nhẽo của mình mới lại thấy xốn xang ấm lên như lúc này.

Đến khi các anh cho bộ đội luồn đòn ống vào thừng khiêng bàn, khiêng nòng pháo, chúng tôi ôm lấy nhau, nắm thật chặt bàn tay của nhau để rồi các anh cùng bộ đội đi thập thõm trên những thửa ruộng tua tủa gốc rạ, quành lên sườn đồi, khuất sau những mái nhà lúp xúp... tôi vẫn ngơ ngẩn nhìn theo mà không thấy gì. Chắc là họ đã đến chỗ lội qua suối, sẽ lại lên dốc, sẽ lại vượt qua đèo, sẽ lại... Những người lính đã đi xa rồi. Tôi lững thủng quay về lán "nhà khách" của đoàn. Những tiếng gốc rạ đổ ra dưới chân tôi nghe lép đép. Tiếng rào rào của bầy chim mồng bay về dãy núi bên trường bắn, nơi buổi sáng tôi đã nhìn thấy chúng bay đi. Tiếng trẻ con đùa, lẫn với tiếng những người mẹ trẻ đang ghì thừng kéo trâu đi vòng quanh quần lúa. Tiếng người cha đứng ở cửa bếp gọi con về ăn cơm. Và từ đấy những nhuốm khói bay lên làm cho cái nắng cuối đông gay gắt như mơ màng như dịu đi. Tất cả vẫn đang là bình yên. Tất cả vẫn mãi là năm tháng và đồng đội của tôi.


                                                                                                          20 tháng 11
                                                                                                                L.L

 NGUYỄN BẢO
ÁNH SÁNG KHÔNG TẮT


                                                                                                                Truyện ký

Cùng ngồi ăn với tôi ở nhà khách sư đoàn có một thiếu tá trẻ, vận quân phục mùa đông. Hai mắt kính sáng quắc, cập rập rời bàn vội vã. Chiều trung du, chút ánh sáng muộn mằn trong ngày nhuộm tím trong màu xanh ngút ngàn của rừng núi. Anh bước đi dò dẫm. Sợ anh ngã, tôi đến dìu anh:
- Anh không nhìn thấy gì sao?
- Ờ hờ.... Có chứ ! Tôi đi được mà. Anh thảng thốt luống cuống.
 Cũng là người không muốn phiền lụy đến người khác đây - tôi nghĩ và nói:
- Tôi ăn xong rồi. Ta về phòng uống nước. Hình như mắt anh có kém phải không?
- Bây giờ thì còn lờ mờ. Đợi tí nữa là không thấy gì sất. Tôi có mang theo thuốc nhỏ mắt. Thuốc này của Nhật, nhỏ vào sáng được bốn tiếng. Nhưng cũng chỉ dùng khi làm việc. Nhỏ nhiều hại mắt lắm.

Khi đã ngồi đối diện với nhau ở bàn trà, tôi mới biết anh là Lê Duy Ứng - một họa sĩ một nhà điêu khắc mà tên tuổi đã có lúc vang lên như một huyền thoại. Cảm thấy cuộc đời anh có nhiều điều bổ ích đối với những ai đang lận đận đi tìm lẽ sống trong cuộc đời đầy chông gai, bão tố này, tôi xin chép ra đây những điều tôi đã ghi được về anh.

Ứng nhập ngũ lúc còn là sinh viên năm thứ ba trường đại học Mỹ thuật. Anh yêu nghề, học giỏi, nhưng lại tình nguyện vào bộ đội. Chuyện ấy bình thường như vô số những thanh niên khác lúc bấy giờ. Sau một thời gian luyện tập anh được phân vào tiểu đoàn trinh sát. Trưởng phòng tổ chức động viên hỏi anh: "Trước đây đồng chí làm nghề gì?". "Học vẽ". "A, thế vào trinh sát". Vậy là anh thành lính trinh sát. Chỉ thưa đầy một năm ở chiến trường Bình - Trị - Thiên khói lửa anh đã được kết nạp Đảng. Kết nạp trên chiến hào. Với Ứng, đấy là một kỷ niệm, một niềm tự hào đi suốt cuộc đời mình.

Ứng gặp Lê - người vợ anh gọi là tuyệt vời, vào năm 1973. Thời gian đó, hai bên bờ sông Thạch Hãn, ta và địch đang hòa hoãn với nhau. Một số cô gái Hà Nội đại diện cho các cơ quan xí nghiệp thủ đô vào thăm đơn vị. Với anh, trong tất cả các cô túa lên đồi sim chiều hôm ấy đòi anh vẽ chân dung, Lê là người thương mến nhất. Gương mặt cô tròn, đôi mắt to sáng, hai mi mắt rất nét. Đôi bím tóc dài mượt ôm lấy cái cổ cao ba ngấn trước khi đổ xuống bộ ngực căng tròn, tràn trụa sức trẻ. Thời gian Lê ở Đông Hà không nhiều nhưng âu cũng là duyên số dành cho anh. Đêm ấy trước khi Lê đi Cồn Tiên thăm một đơn vị khác, anh bị ngã sái chân, Lê hớt ha hớt hải, tái mặt đi tìm thuốc. Thuốc chữa của cô là một quả đu đủ xanh  nướng lên, bổ đôi ấp vào chỗ đau. Cô xuýt xoa thổi phù phù vào chân ứng: "Nóng quá không anh? Mẹ em bảo càng nóng, vết thương càng chóng khỏi". Nào Ứng có cảm giác nóng lạnh gì nữa đâu. Lòng thương cảm của một người phụ nữ đôi khi xoay chuyển cả một tình thế. Ứng thấy lòng nghiêng ngả, muốn được xả thân, muốn được chinh phục tức thì. Bộ tóc mượt mà, thơm thoảng của Lê đang ở ngay dưới cằm anh. Ứng run lẩy bẩy, đầu anh bỗng dưng cứ thấp dần xuống, thấp dần xuống. Hai ba này, cứ liều cái xem sao? Anh nghĩ, mắt hoa lên, người nóng rực. Làm như vô tình, đôi môi anh chạm khẽ vào chiếc gáy trắng lộ ra giữa hai bím tóc. Lê làm như không hay biết gì. Đã thế, không thể giả bộ được nữa, Ứng nâng đầu Lê lên, hôn vào má cô. Lê để yên. Anh hấp tấp ôm gọn lấy khuôn người nhỏ nhắn của cô, hôn lên mắt, lên môi... Tất cả chỉ  có thế. Sau lần đó, hai người còn có dịp gặp lại nhau nhưng chưa ai hứa hẹn một điều gì. Sau này bị thương hỏng cả hai mắt, ưng vẫn nghĩ: Nếu Lê rút khỏi tình yêu cũng là bình thường. Chưa có sự ràng buộc gì ngoài nụ hôn.

Lê trở lại Hà Nội kịp lúc đơn vị Ứng chuẩn bị giải phóng Huế. Chiến thắng Buôn Mê Thuột - tạo một cơn bão lớn rung chuyển khắp các chiến trường. Ứng xin quân đoàn được đi xuống cơ sở. Bây giờ không ít người coi đó là sự khó hiểu, thậm chí dại dột. Kệ họ, Ứng không bao giờ ân hận vì lẽ đó. Anh đi với tiểu đoàn 3 Sư đoàn 325. Anh được biết trung đoàn này sẽ có những trận đánh then chốt đầy ác liệt. Quả nhiên, trung đoàn Ứng tiến đánh Đại Nội, cắm cờ trên Phú Văn Lâu. Ứng hối hả vẽ tranh, ký họa. Con người, đường phố cảnh vật đổ ào ra trước mắt anh bao điều mới lạ. Anh coi đó là cơ hội ngàn năm có một cho những bức tranh, những ký họa của mình. Đêm trước khi rời Huế, tiến đánh Đà Nẵng, anh nhào xuống sông Hương tắm táp vẫy vùng và anh mơ tưởng đến Lê. Đơn vị tiếp tục hành quân vào phía trong. Thủ trưởng binh đoàn cho Ứng xem thư của đại tướng Võ  Nguyên Giáp. Trong thư có câu "Thần tốc, thần tốc, táo bạo" với cảm xúc háo hức anh vẽ tranh "Bác cùng chúng cháu hành quân". Bắt đầu từ đó, đơn vị ào ào như cơn lốc, tiến đánh Phan Rang, Xuân Lộc và ưng cứ ao ước "ôi, giá Bác Hồ còn sống". "Một hôm đơn vị dừng chân ở rừng cao su Xuân Lộc, thủ trưởng Lê Khả Phiêu bảo Ứng chuẩn bị máy ảnh vào dự một cuộc họp quan trọng. Cuộc họp này gồm nhiều cán bộ cấp cao và các tướng lĩnh. Được biết sư 304 sẽ đánh thẳng vào Sài Gòn, Ứng liền xin đi với cánh quân này. Biết ý định của Ứng, sư trưởng 325 nói: "Thủ trưởng cấp trên đồng ý rồi, tùy cậu thôi. Riêng ý tớ cậu nên đi với sư đoàn này. Chậm vào Sài gòn một phút nhưng chắc. Vào sớm đánh nhau loạn xạ cậu cũng không làm ăn gì được đâu. Ứng không nghe. Mình cũng là một người lính, viết, vẽ động viên bộ đội dũng cảm hy sinh, vậy mà lũi chũi phía sau thì còn ra sao? Có  một cái gì đó thuộc về lòng tự trọng đằm trong máu lính còn "nặng cân" hơn cả cái chết. Khi  ứng bị thương, sư trưởng đến thăm và nói: "Tớ có linh cảm ưng đi với 304 sẽ có chuyện không hay. Giá cứ đi với tớ thì đâu đến nỗi”. Đấy là chuyện sau này, còn lúc đó Ứng háo hức, người chôn rộn, phơi phới, ứng gặp chính ủy Trần Bình, xin được đi cùng đơn vị xe tăng. Trần Bình khuyên Ứng nên đi với chỉ huy sư đoàn. Ứng không mê tín nhưng đi đâu, làm việc gì, có nhiều người khuyên ngăn thường chẳng được may mắn đó chăng? Rời sư đoàn, ứng lặn lội đi tìm đại đội 8 xe tăng. Lái xe là một chiến sĩ trẻ măng, tự giới thiệu:
- Tên em là Mạnh, quê Hải Hưng. Vào dinh Độc Lập, thủ trưởng "tách" cho em một "pô" làm kỷ niệm...

Xe Ứng đi đầu. Các xe khác rùng rùng tiến theo. Bộ binh vẫy tay hò reo. Ứng đứng ngay ở tháp pháo để quan sát. Anh thay mặt cả xe vẫy chào lại họ. Xe chạy thẳng xuống xa lộ Biên Hòa. Đấy là cả một đoạn đường khốc liệt. Thép chọi thép, xe tăng chọi xe tăng. Địch nằm dưới hầm tăng quạt đạn lên. Bộ đội hy sinh rất nhiều. Sẽ là có tội nếu trong ống kính không ghi lại được hình ảnh bộ đội xông lên đối mặt với cái chết trước giờ thắng lợi. ưng bị ý nghĩ đó thu hút. Chiếc xe tăng của anh đang ở vị trí rất nguy hiểm. Bọn địch ở đâu đó đang nã đạn vào chiếc xe. Một luồng lửa nóng rát phụt vào mắt Ứng. Ứng có cảm giác hai hố mắt bị xé nát, tóe ra một khối thủy tinh vỡ. Vô số những mảnh thủy tinh đó là các màu sắc nhiễu loạn, sắc nhọn. Sau đó đất trời đóng sập, đen ngòm. Ứng ôm lấy mặt. Máu trào qua những kẽ ngón tay, đầm đìa xối xuống ngực. Ứng ngã vật xuống sàn xe, lịm dần. Không thể ước tính được thời gian Ứng ngất lịm đi  là bao lâu. Chỉ biết khi tỉnh dậy, Ứng thấy đầu óc thật tỉnh táo. Có cảm giác như đang ở một vực thẳm đã đậy kín. Có một cái gì rất nặng đè lên ngực. Ứng sờ lên. Một cái chân. Ứng nhớ cạnh mình là chiến sĩ bắn súng 12 ly 7. Ôi, thế là người cuối cùng chiến đấu bảo vệ kíp xe không còn. Ứng chưa kịp biết tên anh.  Thôi vĩnh biệt vĩnh biệt đồng chí nhé. Ứng cầm lấy chân người lính, định nhấc khỏi ngực. Nặng quá, chiếc chân to đến thế. Chao! Chắc không phải của xạ thủ 12 ly 7. Anh ta nhỏ con nhất xe. Khi Ứng ngã gục anh vẫn còn bắn. Anh có hy sinh cũng mới đây, sao chân đã cóng lạnh thế này. Hay của Mạnh, chiến sĩ lái xe? Thôi thật rồi, chỉ có Mạnh, Mạnh to lớn chắc nịch. Mạnh có thể hy sinh trước. Kẻ thù muốn tiêu diệt chiếc xe bao giờ cung nhằm cái đích đầu tiên người lái, Mạnh ơi! Thế là cả hai ta không vào Sài Gòn được rồi. Mình còn nợ Mạnh một pô ảnh, chụp ở dinh Độc Lập . Biết làm thế nào được. Cũng phải có người nằm lại ở đầu cầu để quân ta qua cầu chứ Mạnh nhỉ? Bằng sức lực tối đa, Ứng hất chiếc chân xuống đất. Tay Ứng nẩy lên vì đụng phải một cái gì đau nhói. Cái gì vậy? Nó rống lên ầm ầm. A, chiếc xe tăng. Duy chiếc xe tăng là vẫn còn sống. Ứng đang nằm cạnh nó, chỗ ống xả đang phun khói. Dưới lưng Ứng là một đoạn xích xe, vẫn cố bám lấy vành bánh, quẫy lên ràng rạc. Hai mắt Ứng bỗng nóng ran như ai đó vừa lấy dùi sắt nung đỏ chọc vào. Ứng đưa tay lên, đụng phải một cục ươn ướt nhầy nhầy, lòng thòng trên ngực. Con mắt phải, đúng con mắt phải chưa chịu đứt liên hệ với hố mắt. Mới đụng vào nó đã nằm vạ. Ứng đau đớn uốn người lên như tự mình rút tủy rút óc mình ra. Thôi kệ. Ứng quờ tay sang mắt bên này. Máu vẫn chảy nóng hôi hổi. Làm gì bây giờ. Quân ta ở đâu? Địch ở đâu? Ứng biết tỉnh táo thế này là để chết hẳn đây. Chết đã đành, nhưng sao lại chết trong đơn độc thế này. Ứng thèm một tiếng nói của đồng đội quá. Đâu đó vẫn còn tiếng nổ. Như vậy là trận đánh chưa dứt điểm. Cuộc tấn công đã dừng lại hoặc bị đẩy lùi. Nhưng có khó khăn bao nhiêu, thương vong bao nhiêu quân ta nhất định rồi sẽ tiến đến cái đích cuối cùng. Mình như ngọn đèn sắp tắt rồi. Đang phụt những tia sáng cuối cùng đây. Có còn góp được chút ít gì vào trận đánh nữa không? Đột nhiên, Ứng nhớ lại câu chuyện đã được nghe về một chiến sĩ công binh bảo vệ tuyến đường Trường Sơn. Tuyến đường bị máy bay B. 52 rải thảm, đồng đội của anh chiến sĩ công binh hy sinh hết. Xe ta không còn vượt qua được. Anh là người cuối cùng bám con đường. Bị thương nặng, biết mình không thể sống được nhưng cũng không chịu nằm yên chờ chết, anh dùng dao găm khắc hình Bác trên một gốc cây cháy trụi. Những nét khắc vội vã của người chiến sĩ nọ trên cao điểm ác liệt ấy đã làm rưng rưng nước mắt những chiến sĩ trinh sát đi tìm đường. Họ quyết định  mở lại con đường có chân dung Bác. Những đoàn xe, đoàn quân sau đó khi vượt qua điểm cao này như được tăng thêm sức mạnh. Ứng cũng chợt nhớ đến một họa sĩ bậc thầy. Họa sĩ đã dùng máu mình vẽ chân dung Bác. Sẽ còn có ích nếu biết sử dụng những hơi thở cuối cùng vào công việc gì đấy. ứng quờ tay tìm cặp. Đây rồi. Ứng mở cặp, rút một tờ trôky, xé một manh áo may ô quấn vào ngón tay trỏ, Ứng chấm ngón tay vào hố mắt, lúc này Ứng hình dung ra Bác quá rõ ràng. Chỉ mấy nét đã hoàn thành xong bức chân dung. Phía dưới bức chân dung ứng ghi: "ánh sáng niềm tin", Ứng tin đồng đội sẽ qua đây, sẽ nhìn thấy chân dung Bác và dòng chữ này. Và các chiến sĩ sẽ coi đây là di chúc của Ứng, của đồng đội Ứng. Những người đã nằm xuống nơi này vẫn vĩnh viễn tin rằng: cuộc chiến đấu của mình, của dân tộc mình sẽ toàn thắng. Bỗng Ứng nghe có tiếng chân người. Tiếng bước chân thận trọng, cảnh giác. Ứng vội gấp tấm chân dung cho vào túi áo. Nếu bước chân kia là của địch? Chúng bồi thêm cho mình viên đạn đã đành. Chúng sẽ xé nát bức chân dung và lấy đi chiếc cặp cùng máy ảnh. Ở đó có nhiều tư liệu quý. Anh nằm xuống, nín thở. Tiếng bước chân ai đó rõ hơn: người mới đến ghé tai vào nghe mình, ý chừng nghe tim anh còn đập không? Chỉ có người mình mới làm việc này. Ứng mừng thầm hỏi:
- Ai thế, tôi còn sống, chỉ bị thương.
- Tốt rồi, người ấy nói! Em ở 304 đây. Anh chịu đau em đưa anh đi, chỗ này nguy hiểm lắm.

Ứng vội dặn người chiến sĩ một số việc, đề phòng không có dịp nói nữa. Anh chiến sĩ đeo máy ảnh vào người cầm lấy chiếc cặp và xốc nách Ứng đưa đi. Tiếng nổ bỗng rộ lên xung quanh. Anh cúi xuống, nâng hai chân ưng lên xốc vào lòng và chạy băng băng. Bỗng lưng Ứng bị giáng xuống đất, muốn gãy xương sống. Lập tức, một quả pháo gần cạnh nổ bung. Người chiến sĩ lúc đó đã đè lên, trùm lấy Ứng. Ứng biết anh quyết không để Ứng bị thương lần nửa. Lại một quả pháo, đã nghe tiếng nổ đề pa rồi. Đất đá phủ lên lưng rào rào. ứng nghiến chặt răng. Trời ơi! Không biết anh có việc gì không? May thay anh đang đứng dậy. Anh như đội đất mà lên. Ôm gọn lấy Ứng, anh lại chạy sầm sập. Đường gập ghềnh. Người Ứng lúc bồng lên, lúc tụt xuống. Đạn địch vẫn bắn rát buốt nhưng người lính đã đưa Ứng đến chỗ an toàn. Anh nhè nhẹ đặt Ứng xuống, tuồn vào một cái cống. Ứng đoán vậy. Xung quanh sực mùi bùn tanh tưởi.  Anh ngồi ngoài cửa cống, che cho Ứng. Anh thở lấy được vừa thở vừa rủa bọn địch:
- Mẹ cha chúng mày, chết đến đít còn làm già...

Sau này tên tuổi Ứng đăng gần đủ các mặt báo, cuộc triển lãm tranh tượng của anh mở suốt từ Nam chí Bắc. Hàng trăm nghìn người đã đến xem tranh tượng của anh nhưng niềm hy vọng được gặp lại người chiến sĩ ấy gần mù khơi. Người chiến sĩ ấy đã lẫn vào đất đai, cây cỏ chiến trường trước ngày đất nước toàn thắng hay đã lẫn vào hàng nghìn hàng vạn lượt người xem tranh tượng của chính Ứng mà Ứng không biết. Nhưng dù sao tấm lòng của người chiến sĩ xả thân vì đồng đội, mãi mãi là đề tài anh mang nợ đến trọn đời.

Ứng chìm vào cõi u mê. Hình như sau đó những người lính phía sau rứt anh ra khỏi cống, đưa anh lên băng ca chuyển đến một trạm phẫu thuật nào đó. Anh được băng bó, được chuyển vào một cái hầm nhà.

Hình như anh cựa mình và động phải những cái xác chết khác, cũng quấn băng đầy người. Khô nẻ từ cuống họng đến tận mỗi ngón chân, ngón tay. Anh ú ớ kêu khóc rồi lại lịm đi. Có ai đó đặt trên mũi anh một dúm bông. Họ kiểm tra xem trong bốn cái xác ai là người còn sống. Tỉnh lại: anh nghe một cô gái, giọng còn rất trẻ, ngồi bên anh kể:
- Anh còn cao số lắm. Em vừa tách anh ra khỏi xác ba tử sĩ, đưa anh về hầm này thì lập tức mấy quả pháo giội vào chiếc hầm xác. Ba tử sĩ tan biến.

Vì mù cả hai mắt Ứng không biết đã ở dưới hầm với cô gái bao lâu. Sau đó anh lại tắt thở. Những người lính bó cứng anh vào nilông đưa lên rừng Trai chỗ đã đào sẵn những cái huyệt. Người chiến sĩ mang anh đi chôn có cái tên là Hùng. Hùng không vội đẩy anh xuống huyệt lấp đất ngay. Chắc anh thấy huyệt còn nông và chưa được đẹp, cần phải sửa sang lại. Hùng đặt anh nằm trên miệng huyệt, rồi nhảy xuống dùng xẻng đào, khoét hất đất lên. Ứng nghe đất rào rào đổ lên mặt, lên người. Nóng như nung. Con người ta ngay khi đã bị bó tròn trong cái chết vẫn có những phản ứng rất lạ. Để tránh nắng, tránh đất đổ lên người, Ứng cứ dũi dần khỏi chỗ đang nằm. Anh nghe lá khô, rác mục dưới lưng kêu rốt roạt. Dũi mãi, dũi mãi, cuối cùng anh cũng tới được một cái bóng râm của một bụi tre. Hùng, sau khi đã đào sâu thêm sửa lại huyệt vuông thành sắc cạnh như ý mình liền nhảy lên bờ. "Ô!". Anh kêu lên một tiếng ngơ ngác.
Nhìn quanh quất tìm kiếm anh reo:
- Trời ơi, đất hỡi, còn sống chúng mày ơi!
Hùng lại cõng Ứng về. Trên đường cứ thanh minh với Ứng mãi.
- Cái số anh thế nào. Y tá kiểm tra mấy lần đều bảo anh chết thật rồi. Kể em hấp tấp đưa anh xuống huyệt ngay có khốn không? Sư bố trò đánh nhau, cứ như đùa cợt. Thôi anh bỏ qua đi nhé.

Ngay trong ngày hôm đó, ưng được chuyển về bệnh viện phía sau. Ứng nghe tin Hùng tiếp tục ở lại với công việc mai táng tử sĩ và đã hy sinh trước ngày đất nước toàn thắng.

Theo tuyến điều trị, Ứng dược chuyển về bệnh viện phía sau. Hoàn toàn anh không hay biết rằng cùng hành quân với anh còn có chiếc ba lô, trong đó có hai bộ quần áo bộ đội của anh được giặt giũ sạch sẽ. Và dưới đáy ba lô là bức chân dung Bác anh vẽ bằng máu lúc chuẩn bị từ giã cõi đời. Cô y tá mà anh không biết tên, biết mặt, lẳng lặng làm việc này. Cô không hay biết sự ra đời của bức tranh, giá trị của nó. Nhưng nó là tài sản của thương binh nên cô trân trọng cất giữ. Cô có hay chăng - người con gái ấy bức tranh mà cô đã không giặt nát, không vứt bỏ, hiện nay đang nằm trong Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh. Nó đi từ Nam đến Bắc theo các cuộc triển lãm tranh tượng của Ứng. Hàng vạn người đã đến xem bức tranh đó vui lòng ngưỡng mộ, quý trọng. Ứng nói với tôi: "Không lần nào đi triển lãm tôi lại không nhớ cô y tá ấy, mong lại gặp cô ta. Nhưng cũng như những người chiến sĩ đã cưu mang tôi, tôi không có cái may mắn được gặp họ". Giọng anh buồn, chỉ thiếu rơi nước mắt...

Sau lần gặp Lê Duy Ứng ở sư 325, một tháng sau tôi mới có dịp đến nhà anh. Nhà của anh ngay mặt phố. Đây là ngôi nhà tình nghĩa, quân đội xây dựng cho anh. Một ngôi nhà thiết kế đẹp nhưng còn quá bề bộn. Ở hiên nhà, Lê muốn mở quán hàng khô nên đang cơi nới ra. Gạch cát, vôi vữa ngổn ngang. Bên trong nhà lỉnh kỉnh những tranh, những tượng của ứng đang được lôi ra hoàn chỉnh, chuẩn bị đưa đi triển lãm ở quê Bác. Đúng là gia đình chỉ giàu có ở cái xác nhà. Tủ, giường chắc của đơn vị nào cho, gỗ xấu, đóng cũng xấu, bây giờ ọp ẹp, mọt nghiến cót két nhức cả tai.

Ứng đưa tôi lên tầng hai nơi anh làm việc không có bàn, chỉ có một chiếc giường nhỏ cổ lỗ. Tôi và Ứng nằm lên chiếc giường ấy. Anh có hai đứa con. Con trai đầu tên là Đông Hà (kỷ niệm lần gặp Lê ở Đông Hà) đang học lớp bảy. Theo nghiệp cha, cháu đang chí thú học vẽ. Đứa con gái út tên là Thu Hà. Sau 8 năm mù lòa, mắt anh được chữa sáng vào mùa thu. Cháu học lớp năm. Cháu có đôi mắt đen láy dễ thương, đã một lần gặp khó lòng quên được. Biết bố Ứng chuẩn bị kể chuyện cháu reo:
- A, ở trên này nghe bố kể chuyện.
- Ấy xuống hết dưới nhà, để bố và bác làm việc.
- Ứ, nghe bố kể chuyện có sao mà, ừ đi bố!

Suốt buổi sáng hôm đó, được bố cho phép, hai cháu nằm nghe im thin thít, trừ đôi tay có lúc quàng nhẹ vào cổ bố hoặc vuốt vuốt lưng bố, nước mắt ứa ra vì thương cảm. Đó là những đứa con ngoan mà cuộc đời Ứng đã là một sự giáo dục hướng nghiệp hiệu quả. Còn Ứng, tôi cảm như chưa bao giờ anh nặng lời với hai cháu. Ứng nói với tôi:
- Ngày mai tôi vào Nghệ Tĩnh đi triển lãm tranh tượng rồi. Ta tranh thủ làm việc anh nhỉ. Hôm ấy tôi đã kể với anh những ân nhân của tôi thời kỳ ở chiến trường phải không? Những con người như thế không thể kể hết được. Nhưng tôi muốn kể thêm cho anh nghe một người bạn của tôi nữa - cô Dung, y tá ở bệnh viện Nha Trang. Lê Duy Ứng có một trí nhớ cực tốt. Nhưng vì luôn rộn với chuyến đi ngày mai nên anh kể rất nhanh, tôi không ghi kịp được. Tôi đành nhớ lấy ý chính và sau đó về chép lại:
 Ở bệnh viện Nha Trang, Lê Duy Ứng được tin Sài Gòn hoàn toàn giải phóng. Anh đã nhảy cẫng lên cùng với mọi người đón nhận tin vui này. Niềm vui dào dạt trong anh trôi qua rất nhanh. Mấy ngày sau bệnh viện xác định anh là thương binh tám trên tám. Sự xác định đó khác nào tuyên bố anh anh mãi mãi là một người mù. Đối với một họa sĩ, sự kiêng kỵ nhất trong thương tật là cụt tay phải hoặc mù hai mắt. Anh đang rơi vào một trong hai trường hợp khốn nạn. Anh không thể sống mà không làm việc, không chỉ sống để chỉ phiền lụy đến người khác. Không ân hận đau khổ vì tất cả những gì đã đến với mình nhưng quá thất vọng, anh lẳng lặng chuẩn bị chấm dứt cuộc đời mình. Mỗi lần cô y tá Dung đến thăm bệnh anh đều kêu mất ngủ. Anh đề nghị mỗi tối cô cho anh một viên thuốc an thần. Anh biết rằng dồn được mươi viên là có một giấc ngủ vĩnh viễn. Anh đã giấu được sáu viên dưới gối, ba viên trên túi áo. Tối nay anh nhận thêm một viên nữa là đủ liều. Dung vẫn đến với anh như thường lệ. Cô đưa cho anh viên thuốc ngủ, nói với anh đôi ba chuyện rồi ra khỏi phòng. Anh nghe có tiếng kẹt cửa hẳn hoi. Anh ngồi dậy, lôi chiếc gối ra. Kỳ quặc, không thấy viên thuốc nào cả. Anh lôi ruột gối ra giũ giũ, chẳng nghe thấy tiếng rơi. Ngay lúc đó tiếng Dung nghẹn ngào:
- Thôi anh đừng tìm nữa. Không còn đâu. Em cất đi rồi .

Như một người vụng trộm bị bắt quả tang, Ứng "ơ" lên một tiếng. Té ra Dung chỉ giả vờ đi ra, cô đã quan sát hết mọi việc làm của Ứng.
- Anh giấu sao được em. Từ nửa tháng nay em thấy anh buồn, em biết ngay - Giọng Dung bỗng se nhỏ - Em có một anh trai cũng bằng tuổi anh. Sau giải phóng em chỉ mong một lần được nhìn thấy anh ấy mù cũng được, cụt chân cụt tay cũng được, vậy mà có nổi đâu anh. Anh hy sinh ở trên rừng, xác cũng không còn. Anh Ứng có nhiều thiệt thòi hơn người khác nhưng so với đồng đội của anh như thế cũng chưa phải đã mất hết. Hay anh trách giận gì chúng em?
- Cô Dung này. Nào tôi có oán trách gì ai đâu. Cô không ở hoàn cảnh của tôi. Giá đổi được cho anh trai cô tôi đổi liền. Mỗi lần cô dắt tôi đi đánh răng, rửa mặt, đi ỉa, đi đái, tôi cứ thấy tồi tội cho cô thế nào. Tôi tâm niệm đã làm xong nhiệm vụ của mình rồi. Bây giờ là nghỉ. Nghỉ để không phiền lụy đến ai nữa...

Câu chuyện hai người chỉ dừng ở đó. Ứng chưa nhụt chí trong việc kiếm tìm một cái chết. Còn Dung, cô cho rằng thương binh muốn tự tử là lỗi ở chính cô. Cô không biết động viên an ủi họ. Cô tự thấy phải làm cho Ứng vui lên, đưa Ứng vào các hoạt động, để quên đi sự buồn tủi. Đang là mùa hè. Dung nghĩ ra chuyện đưa Ứng đi dạo bờ biển. Biển ngàn năm vẫn thế, thét gào khi gió lộng, dạt dào mời gọi lúc trăng lên. Và buổi sáng lúc mặt trời như chiếc mâm đồng khổng lồ nung đỏ chạm vành trên mặt biển, sóng nước bỗng phát ra trăm ngàn màu sắc khác nhau, lung linh như dát vàng dát bạc. Chiều nào Dung cũng dẫn anh ra biển. Biển buổi chiều thường khêu gợi sự ngọt ngào dịu mát. Những lớp sóng bạc đầu từ đâu đó bất chợt trèo lên giữa cồn sóng, trắng phau. Dung tả cho Ứng hay tất cả những cái đó. Ứng khen Dung tả giỏi. Được gần Dung, anh như người sáng mắt. Anh hay cười, vui. Thật ra, đối với anh, biển chỉ một màu đen kịt. Anh xin Dung được tắm biển. Anh nói, anh là dân vùng biển. Ngày còn sáng mắt anh phải bơi cách bờ cả mấy tiếng đồng hồ. Chiều anh, Dung để Ứng tắm. Những ngày đầu, Ứng chỉ quanh quẩn gần bờ, dần dà anh bơi xa hơn. Anh nói với Dung rằng được vùng vẫy ngoài xa, anh cảm thấy thanh thản thoải mái hơn. Cô y tá đủ thông minh để nhận ra anh này đang đánh lừa mình. Từ đó, cô không đưa anh đi biển nữa. Cô nói thương bệnh binh về nhiều nên cô không thể đi xa. Cô chỉ có thể dẫn anh đi dạo quanh bệnh viện. Một hôm, đang cùng Dung dạo trên mặt đường, Ứng bỗng nghe tiếng ôtô sầm sầm lao tới. Ước lượng đúng cự ly xe sắp tới ngang mình, Ứng lao ra mặt đường. Bàn tay dịu dàng của cô gái lúc đó bỗng cứng như một gọng kìm. Dung níu áo anh kéo giật lại. Anh ngã kềnh bên một bụi rậm. Tối hôm đó, Dung đến ngồi cạnh Ứng rất lâu, cô nói với Ứng rằng: Khoa học đang ngày càng một phát triển. Khả năng chữa sáng cho người mù chẳng bao lâu nữa. Lúc đó Dung sẽ tự nguyện san cho anh một con mắt.

Đêm ấy chắc đã khuya lắm. Ứng đoán vậy, thời gian đối với người mù rất vô nghĩa. Bỗng chợt từ đâu đó vang lên những tiếng hát éo ẹo. Khó phân biệt người hát là nam hay nữ. Bài "Suối Lênin" vốn là bài hát anh thích. Vớ phải người không biết hát thành ra chối tai. Ứng hỏi Dung:
- Ai hát mà nghe buồn cười vậy cô?
- Anh Phương đấy! Xạ thủ 12 ly 7 ở chiến trường ra. Anh Phương bị thương, nặng hơn anh nhiều. Hai mắt anh không còn, hai tay bị cụt. Hàm của anh bị một viên đạn làm gãy xương. Các cô phục vụ phải đánh răng rửa mặt cho anh ấy. Đi đái đi ỉa phải cởi quần cho anh ấy. Vậy mà tích cực học hát ghê lắm. Từ hôm về đây, thuộc đến mười bài hát rồi. Anh cũng phải học tập anh Phương đi thôi. Kế hoạch của em là thế này: Bắt đầu từ ngày mai, em sẽ kiếm giấy bút cho anh tập viết tập vẽ. Rồi anh sẽ thấy khuây khỏa và sẽ làm được tất cả cho mà xem...

Những đêm sau đó, Ứng nằm mơ thấy một cô tiên xinh đẹp từ trời gieo xuống, cho ưng một đôi mắt ứng viết vẽ bình thường. Nhưng đấy là giấc mơ, còn sự thực thì gian khổ biết bao nhiêu, ngày nào anh cũng nhờ Dung đứng xem hộ. Có hôm anh mải mê viết năm sáu trang liền. Anh đưa Dung đọc, Dung cười rũ rượi. Thì ra trên giấy chỉ là những nét miết của ngòi bút không ra mực. Ứng còn giữ được một tập ghi chép trong thời kỳ đó. Chữ chẳng ra hàng ra lối, lúc lên dốc lúc xuống dốc, lúc ríu vào nhau như một đàn kiến chạy lụt. Nhưng đấy cũng chỉ là giai đoạn đầu. Sau đó anh viết khá hơn. Thời kỳ này anh ghi được đến năm tập nhật ký.

Tôi đã mượn được trọn vẹn những tập nhật ký của Lê Duy ứng viết thời gian anh bị mù. Xin phép anh được trích một vài đoạn trong những tập nhật ký này.

Ngày ... tháng ... năm ... Trang danh sách đi điều trị ở tuyến cao hơn, tôi được chuyển đi 108. Dung nói với tôi: "Thích nhé, chuyến này anh gặp chị Lê rồi". Tôi không nói gì. Câu nói ấy chỉ gợi trong tôi nỗi xót xa. Những ngày biết chắc đôi mắt mình không thể sáng được nữa tôi đã phải luyện đầu óc rất dữ. Tôi cố quên Lê đi. Khi lên máy bay. Dung thì thọt bên tai tôi: "Cầu thang khó đi lắm,' anh để em cõng". "Không sao đâu, có cô dìu thế này lên trời còn nổi nữa là", "Anh không muốn chiều em sao? Em cũng chỉ được gần anh vài tiếng nữa chứ bao nhiêu". Dung nói vậy còn nỡ nào từ chối. Đây quả là một cô tiên trong đời tôi. Sau này tôi còn mơ nhiều về cô tiên của tôi.

"Ngày ... tháng . . . năm . . . Khi chiếc trực thăng bay qua vùng trời Hà Nội. Tôi nghe tiếng reo: "Cầu Long Biên kia rồi! Tôi chợt mủi lòng. Nỗi buồn lại dậy lên từ đấy. Mới một tháng trời chứ đâu xa, tôi còn cùng với Lê đạp xe trên cầu này đến thăm một người bạn quen. Từ trên cầu, tôi còn nhìn thấy nước sông Hồng sánh lên một màu vàng mịn và đôi bờ xanh chóng mặt những vạt rau đang thời vụ. Xa xa nữa là những chiếc thuyền dong trôi bồng bềnh. Trên cầu người hối hả xuôi ngược chật như nêm. Lúc đó Lê hỏi tôi: Anh Ứng chưa có bức vẽ nào về cảnh này?". - "Sẽ có" – tôi đã nói với Lê như thế. Tôi đâu chỉ nói cho Lê vui lòng. Chao ôi! Sẽ không bao giờ có một bức tranh như thế nữa rồi.

Một thoáng bi quan lại trùm lên đầu tôi. Giá như từ trên máy bay tôi được phép lao xuống dòng sông kia... về đến bệnh viện, tôi vẫn không sao khuây khỏa được, nhưng lỗi lầm có ý định không hay tôi lại nghĩ  đến cô tiên của tôi. Tôi đã tập viết. Cô tiên đã giúp tôi viết được. Tôi đang tập vẽ, khó khăn lắm nhưng rồi biết đâu sẽ vẽ được".

"Ngày ... tháng ... năm .... Để không chết chìm chết đắm vào nỗi buồn tủi, tôi lao vào làm việc. Thường những bức vẽ, tôi phải nhờ người khác nhìn hộ. Họ không chê không khen là tôi biết bức tranh dở lắm rồi. Họ không muốn nói rõ đó thôi. Vậy là cả trong công việc tôi cũng không có niềm vui. Một hôm, bác sĩ Đoàn Xuân Trà đứng xem tôi vẽ bỗng thở dài. Cái thở dài ấy gieo vào lòng tôi một nỗi buồn vời vợi. Bác sĩ cầm lấy bàn tay tôi bóp bóp và nói: "Đừng buồn Ứng ạ. Bàn tay của Ứng nhạy cảm lắm. Mình biết ở Liên Xô có một phụ nữ mù nhưng nặn tượng rất giỏi. Ứng thử chuyển sang nặn tượng xem”. Khuyên như thế tức là bảo tôi đừng vẽ nữa. Vậy thì tôi chỉ còn một  công việc khác để thử sức mình là nặn tượng. Tôi nhờ các bạn ở trường Mỹ thuật mang cho tôi một ít đất sét. Tượng đầu tiên tôi tập là tượng Bác. Ấn tượng về Bác in sâu trong trí não, giúp tôi tạo được hình khối dễ dàng. Lẽ dĩ nhiên trong nghệ thuật không thể có sự chiếu cố. Vẽ hay nặn tượng phải biểu hiện được tài năng ở những đường nét. Tôi chau chuốt thể hiện những đường nét đó. Nặn xong bức tượng, tôi chưa muốn ai xem. Ban đêm, khi mọi tiếng động đã tắt, tôi mang tượng ra hành lang phơi gió, định bụng khi có tiếng gà gáy sẽ cất đi. Không ngờ tối đó tôi ngủ say quá. Một vài người đã dậy mà tôi vẫn không hay biết gì. Bỗng có tiếng gắt gỏng trong phòng. Tôi bừng tirnh, nhận ra giọng của đồng chí bảo vệ bệnh viện:
- Đồng chí Ứng...Đồng chí nặn gì thì nặn, không được nặn tượng Bác Hồ. Ai lại nặn tượng Bác Hồ thế này.

Tôi hốt hoảng. Sao ông này lại cấm mình nặn tượng Bác? Tôi nhận bức tượng trên tay bác bảo vệ, rờ lên những đường nét, tay tôi bật run cầm cập, bức tượng to bè thấp lùn. Tôi thuốn thét lên: “Có kẻ phá!”. Chỉ có kẻ hại tôi mới làm bức tượng dị dạng thế này.
- Ai phá? Tôi tự kiểm tra. Ở bệnh viện này, tôi có làm gì để ai oán giận đâu? Mà oán giận tôi sao lại làm dị dạng tượng Bác? Không có lý. Có sự cố gì đó thôi. Thất vọng làm cho màng đen bao bọc quanh tôi như dày thêm. Tôi hẫng hụt chơi vơi trong mông lung của đêm trường. Tôi ước ao đến cháy lòng, một giây thôi, mắt tôi được lóe sáng để biết được nguyên do của sự trớ trêu này. Tôi lại lần tìm trên bức tượng. Các đường nét bị dồn cục thô chướng. Thôi rồi. Đây là kết quả của việc tôi nặn đất ướt. Khi se khô, bức tượng dần dà tụt xuống. Bao nhiêu công sức thế là trôi sông, trôi biển. Khi đã tìm ra nguyên nhân, niềm hy vọng trong tôi lại lóe lên. Bác bảo vệ vẫn nói róng riết:
- Thôi đừng nặn nữa, mù còn nặn gì được. Lấy vợ đi. Về nuôi gà, nuôi lợn giúp vợ là được rồi.

Tôi không thể nói gì với bác bảo vệ. Bác đâu có hiểu được lòng tôi. Giữa tôi và bác là một khoảng cách lớn về ước mơ, về lý tưởng. Tôi chỉ buồn. Nặn tượng tôi cũng bó tay rồi chăng? Cái khó khăn nhất của tôi lúc này là sự xét đoán. Mỗi bức tượng được nặn ra lấy gì làm chuẩn thước đánh giá sự thành bại. Mình chỉ có sự cảm nhận ở đôi tay, ở tâm hồn. Nhưng nó: đôi mắt lại phán xét sự cảm nhận đó. Sau sự việc này, tôi quyết định làm việc vào ban đêm. Sẽ không ai ngó ngàng khi tôi nặn tượng nữa. Thành hay bại chỉ mình tôi biết thôi. Tôi lại làm việc, lại sửa chữa, trao gởi vào tượng tất cả sức lực của mình. Nặn tượng mà không nhìn thấy gì, lại giấu giếm cả mọi người, vậy thì nặn để làm gì đây? Kệ, tôi cứ nặn, cứ hy vọng. Hy vọng để sống, không thể sống mà không làm việc, lần này tôi chọn loại đất khô hơn. Nặn xong, tôi để nằm xuống. Tôi nặn tượng Bác, tượng các chiến sĩ, đã ghi sâu khắc cốt trong tâm khảm của tôi. Một đêm, đang mê mải làm việc, tôi giật thót nghe công tắc điện đánh "tách" và một tiếng quát:
- Ai cho anh làm việc ban đêm?
Tôi trấn tĩnh, nhận ra tiếng cô Xuân. Chắc là ca trực đêm của Cô.
- Khốn nạn, tôi mù thế này, đêm với ngày có nghĩa lý gì.

Nhưng sao anh không làm ban ngày. Anh không chấp hành, tôi sẽ báo cáo viện trưởng. Đây là quy định chung của bệnh viện. Ơ, anh này mù mà nặn được nhiều tượng đẹp quá hí.

 Ấy thế rồi chính Xuân là người phá mọi quy định. Cô ơi ới gọi mọi người đến xem tượng của tôi. Thấy mọi người tấm tắc khen, tôi biết tôi đã vượt qua được cửa ải đầu tiên. Bây giờ thì tôi không sợ nữa. Tôi có thể nặn tượng ban ngày. Tin có người mù nặn được tượng lan nhanh trong bệnh viện. Mỗi lần làm việc, tôi biết xung quanh tôi có nhiều người xem. Một hôm, đang nặn tượng, tôi quờ tay sang bên cạnh, và đụng phải một người nào đó. Tay tôi đang bê bết đất tôi vội hỏi:
- Ai đó, xin lỗi nghe?
- Võ Nguyên Giáp đây, Ứng nặn tượng khá lắm. Tôi đến thăm Ứng với cương vị là đồng hương của nhau. Tôi yêu hội họa, cũng rất yêu âm nhạc Ứng ạ. Trong âm nhạc tôi rất thích Bettôven. Những bài hay nhất của ông: từng biết được sáng tác lúc nào không? Lúc ông bị điếc.

Chia tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tôi cứ xúc động mãi. Đêm nằm thao thức không ngủ được. Rõ ràng không có tài, không có chí mới trở thành người vô dụng. Tôi nhận ra những lời khen của mọi người chỉ cốt động viên. Cả sự rùm beng của một vài bài báo về những bức tượng của tôi chỉ là phục vụ cho một ý định gì đó. May thay, tôi chưa "hếch" mũi lên. Chưa đặt đít lên chiếc máy bay giấy. Lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là động viên mà còn là đòi hỏi rất gay gắt ở chính mình nữa đây. Thời gian sau đó tôi làm việc bất kể ngày đêm. Tôi không chỉ nặn mà  còn đục tượng gỗ. Những ngày đầu, lưỡi đục xấn cả vào ngón tay, máu chảy ròng ròng. Tôi biết, người sáng muốn có một bức tượng tốt còn mướt mồ hôi huống chi kẻ mù...

Tôi đã được xem hai quyển sổ với những lời ghi cảm tưởng của hàng vạn người xem trong các cuộc triển lãm tranh tượng của Lê Duy Ứng. Chỉ tính trong thời gian bị mù anh đã làm đến năm mươi tượng. Có thể trích ra đây đến vô tận lời của các lãnh tụ cấp cao, của những họa sĩ, những nhà điêu khắc, những trí thức, những nông dân, những sinh viên, học sinh, các cháu nhỏ. Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng viết: “Chúc thành công lớn của nghệ sĩ Lê Duy Ứng". Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghi: “xem những bức tranh, những pho tượng của nghệ sĩ Lê Duy Ứng, tôi rất cảm phục. Người đều có thần, cảnh đều có hồn. Cả đất  nước đang đứng lên sống và chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp của Bác Hồ và của Đảng. Chúc Lê Duy Ứng với tâm hồn trong sáng hiếm thấy và tài nghệ trong nhiều thể loại có những tác phẩm lớn". "Tinh thần phấn đấu đã tạo ra trình độ nghệ thuật hội họa và điêu khắc cao. Chúng ta rất xúc động về sự cống hiến của nghệ sĩ cho nghệ thuật". (Lời của giáo sư Thượng tướng Hoàng Minh Thảo). Họa sĩ Văn Đa ghi: "Anh từng vẽ bằng tâm hồn. Tranh anh giản dị và đôn hậu do đó để lại trong tôi một ấn tượng đẹp đáng yêu đáng quý. Là đồng nghiệp cùng đơn vị với anh: chúc anh ngày càng có nhiều tác phẩm đẹp hơn... ".

Cũng trong hai cuốn sổ dày cộp chi chít những dòng chữ như vậy tôi thấy có nhiều ảnh mầu, anh chụp chung với các đồng chí: Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công, Đỗ  Mười, Võ Nguyên Giáp, Lê Khả Phiêu, Đặng Vũ Hiệp... trong ảnh có cả chị Lê, cháu Đông Hà và Thu Hà. Tôi nói với Ứng:
- Chắc cái tổ ấm hạnh phúc này cũng là một trong những nguyên nhân giúp anh thành công trong điêu khắc và hội họa.
- Đúng thế - Ứng cười rất đỗi tự hào. Thời gian tôi đục được nhiều tượng nhất là thời gian tôi cưới Lê, về ở hẳn nhà Lê. Lê chăm sóc tôi, cổ vũ tôi rất nhiều. Vậy mà rất nhiều lần tôi đã trốn chạy tình yêu của Lê.
- Vì sao vậy? Tôi hỏi.
- Đơn giản là tôi không muốn mình là gánh nặng của Lê. Không biết ai bảo Lê đến thăm tôi ở bệnh viện 108. Tôi nói thẳng với Lê: "Giữa chúng ta không còn gì nữa đâu. Lê đi tìm người khác đi thôi". Sau đó chúng tôi còn giận nhau, cãi nhau rất nhiều buổi nữa. Lần cuối cùng Lê nói với tôi thế này:
- Anh không lấy em, anh cũng sẽ có một người vợ. Nhưng anh sẽ rất thiệt thòi là không được nhìn thấy người ấy. Với em, dù sao anh cũng đã nhìn thấy mặt mũi, vóc dáng. Con cái sau này dù anh không nhìn thấy anh vẫn hình dung ra nó giống em hoặc giống anh, hoặc giống cả hai người. Lấy người vợ khác anh mất luôn cả điều ấy.

Lê nói vậy thì được quá phải không anh? - Ứng hỏi tôi và ngồi dậy định kết thúc buổi nói chuyện. Tôi chưa kịp trả lời, cháu Thu Hà đã sà vào lòng Ứng vui vẻ:
- Được quá đi chớ bố!
- Ồ, cái con chít, mày biết gì? - Nói vậy nhưng anh lại cười như bằng lòng với lời của con gái.
- Cháu nói đúng đấy anh ạ. Được quá. Chỉ xin hỏi anh câu cuối cùng: Với cuộc sống hiện tại anh có gì phàn nàn không?
- Của riêng tôi thôi phải không? Chả có gì ngoài sự còn nghèo. Anh thấy đấy. Vợ tôi đi làm bữa đực bữa cái vì cơ quan không đủ việc làm. Đồng lương thiếu tá của tôi gần như phải bao toàn bộ gia đình.
- Vậy sao anh không xin ra ngoài? - Tôi hỏi. Không bao giờ. Trừ phi quân đội không còn sử dụng mình nữa. Ứng quả quyết - Sau khi bác sĩ Nguyễn Trọng Nhân dùng mắt tử thi ghép vào mắt  hỏng bên phải của tôi, trả lại cho tôi ánh sáng, việc đầu tiên là tôi xin được trở lại quân đội. Tôi không thể làm khác. Con đường mình đã tự chọn vẫn hoàn toàn đúng. Đã đúng còn phải rẽ ngang rẽ tắt làm gì? Thái độ cửa Lê Duy Ứng thật quyết liệt. Thái độ đó đúng và cần thiết cho những ai đang băn khoăn trăn trở trên con đường chiến đấu cho lý tưởng cua mình. Thành công thất bại của một đời người, của một dân tộc đôi khi cũng chỉ tùy thuộc ở thái độ này. Lê Duy Ứng đã thành công trong sự nghiệp bởi ngay khi mù loà ánh sáng niềm tin trong anh cũng chưa bao giờ tắt.


                                                                                     Hà Nội, ngày 9 tháng 8 năng 1990
                                                                                                       N.B.

KHUẤT QUANG THỤY



TIỆC LÍNH


                                                                                              Truyện ngắn
                                                                          Kính tặng các chiến sĩ Binh đoàn Hương Giang


Con đường đất đỏ sục bụi vần lên như một dòng sông mây đỏ rực. Hãn vừa đánh nhẹ tay lái, tránh một cái ổ gà vừa văng tục: "Bố khỉ? Sao lại đi sau mấy cái thằng kéo pháo này cơ chứ!". Trung đoàn trưởng Thịnh ngồi ở ghế trước, úp chiếc mũ mềm vào mặt che bụi, nghe thấy vậy liền bật cười lớn "Tại cái xe thổ tả của cậu đấy chứ. Nửa tiếng mới nổ được, chậm chân hít bụi là đáng đời rồi”.Hãn nhăn nhó vặc lại: "Đâu phải tại tôi? Tại cái xe đã sắp về hưu rồi mà cấp trên vẫn thải xuống cho trung đoàn ta đấy chứ. Suốt đợt diễn tập chưa phải nghỉ đường ăn cơm với khỉ lần nào là còn khá đấy".

Quả có thế thật, cấp trung đoàn xưa nay chỉ có ngồi ca bin xe tải đi họp mà thôi. Nay được trang bị cái "oát" chỉ huy, dù có ghẻ lở cóc cáy cũng thơm chán. Ở binh đoàn này đâu phải trung đoàn nào cũng được cấp xe chỉ huy. Ư tiên đấy. Mà trong giấy tờ vẫn chỉ ghi là "tạm thời trang bị”, nghĩa là bất cứ lúc nào cấp trên vẫn có quyền lấy lại, chứ đâu phải chuyện đùa!

Ngồi ở phía sau, các sĩ quan trong ban chỉ huy trung đoàn lèn chặt như nêm. Đó là tất cả những thằng "hoàn chỉnh” nhất, chưa có xe máy thì mới phải bám càng xe của chỉ huy trung đoàn, chứ cãi bọn ,'lính nhà giàu', chúng nó vi vu cúp kích vọt về trước cả rồi. Tuy đông, chật nhưng vui. Vui vì nhiệm vụ diễn tập đã hoàn thành, trung đoàn được cấp trên xếp loại giỏi về chiến thuật. Các phái viên của Bộ về kiểm tra dù tiết kiệm lời khen, cũng phải nhiều lần biểu dương Trung đoàn 6. Thế là được rồi. Với Thịnh cuộc diễn tập này còn có ý nghĩa đặc biệt. Anh vừa về nhận chức trung đoàn trưởng được ba tháng. Với cấp trên đã đành, nhưng điều anh ớn nhất là những cái nhìn của cán bộ chỉ huy cấp dưới và trợ lý cơ quan. Từ ba tháng nay, những cái nhìn ấy vẫn bao hàm ý nghĩa "chờ xem ra làm sao đã". Cuộc diễn tập này thành công tốt đẹp, coi như anh đã vượt qua thời kỳ thử thách và được chính thức thừa nhận là một trung đoàn trưởng “đời mới" xứng đáng với truyền thống của Trung đoàn 6, một trung đoàn có "thâm niên" chiến trận rất oanh liệt, có mặt trong hầu hết những chiến dịch quan trọng nhất trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ Quảng Trị đến tận thành phố Hồ Chí Minh. Anh thuộc vào lớp chiến sĩ có cái may mắn là kịp có mặt trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đầu mùa xuân năm 1975 anh được bổ sung cho chính trung đoàn này, chưa kịp biết mặt biết tên hết đồng đội và các cấp chỉ huy đơn vị thì trung đoàn đã vào chiến dịch, rồi cứ cuồn cuộn cuồn cuộn mà tiến sâu vào chiến trường vừa đánh vừa đi cho đến tận ngày 30-4. Khi anh vừa làm quen được với khói lửa đạn bom thì cuộc chiến tranh cũng chấm dứt. Anh trở thành một trong những người lính vinh dự được có mặt ở cái đích cuối cùng của cuộc chiến. Trung đoàn trở thành một đơn vị anh hùng. Còn anh, sau cái ngày vinh quang ấy ít lâu thì được cấp trên cử đi họe sĩ quan. Từ đó, anh cứ học miết, hết trường này đến trường khác, hết trong nước lại ngoài nước, cách đây bốn năm anh mới thoát khỏi kiếp học đường để về chỉ huy một tiểu đoàn bộ binh cơ giới của sư đoàn bạn. Anh đã nhanh chóng trở thành một tiểu đoàn trưởng giỏi. Và rồi, đùng một cái, anh được điều thẳng về "trung đoàn của mình” làm trung đoàn trưởng. Điều đó khiến anh vừa mừng, vừa lo. Mừng vì được trơ về trung đoàn cũ, một đơn vị có truyền thống vẻ vang. Lo vì anh sợ mình quá sức: Nếu như cấp trên điều anh về làm chỉ huy một trung đoàn khác, có lẽ anh không lo lắng nhiều đến như vậy. Vừa về tới trung đoàn, anh giáp mặt ngay với Đề, người sẽ là phó trung đoàn trưởng của anh, người cùng một "xê ry 75", với anh nhưng khác anh. Đề hầu như liên tục có mặt ở trung đoàn từ dạo đó đến nay, tham gia rất nhiều trận đánh ác liệt trên đất bạn Campuchia và cả biên giới phía Bắc. Đề chỉ rời trung đoàn một năm để đi học một lớp bổ túc. Tóm lại, Đề dày dạn hơn anh rất nhiều. "Cậu về đây là rất hay - Đề nói ngay khi hai người vừa tay bắt mặt mừng - những kiến thức cơ bản của cậu cộng với kinh nghiệm của tớ nhất định sẽ làm cho trung đoàn ta mạnh lên rất nhanh". Tuy vậy phải qua cuộc diễn tập thực binh này, anh mới thực sự tự tin ở khả năng của mình.

Ở phía sau, mọi người vẫn đang ồn ào cười nói. Thế - trợ lý tác chiến hét rất to:
- Hôm nay là thích hợp nhất. Không, nhất định hôm nay ông Đề phải khao.
- Đúng rồi. Hôm nay thôi. RTC đấy nhé?
Thịnh cũng quay xuống tuyên bố.
-Lên kế hoạch rồi. Ra đến thị trấn: có quán cầy tơ nào thì dừng lại, Hãn nhé.
- Hôm nay mới mồng bốn thôi, các thầy ạ - Hãn cằn nhàn - ăn bậy ăn bạ có ngày chết.
- Thằng này mê tín bỏ mẹ? Thôi được, sẽ cho cậu suất ăn chay, kiêng. Được chưa?
- Này... này - Bấy giờ mới nghe, Đề lên tiếng – ông Thịnh này ... Trong túi tôi chỉ còn hơn chục ngàn thôi đấy? Để khi khác đi?
- Tớ sẽ cho cậu vay - Thịnh đập cái mũ bịt mồm vào thành xe - Khi nào cái Tuyết nó bán lợn, về lột của nó mà trả. Hay kỳ này về móc túi ông bố vợ cậu ấy.
- Cứ lấy béng một tháng lương hưu của ông đại tá là đủ chứ gì. Coi như phạt cụ can tội gả con gái cho lính. Được chưa? Nếu cụ gây khó khăn, cứ cho lính về đánh béng dăm cây quất đem ra hà Nội bán là ăn đủ! Hả?
- Cần gì - Cậu trợ lý tác chiến lại lên tiếng – Anh Đề về lần này cứ dọa đưa chị Tuyết và thằng Cún lên "lập nghiệp" ở trên này là khắc cụ phải hối lộ ngay thôi mà!
- Thôi được! Xong. Coi như phương án tài chính đã được duyệt - Đề hăng hái tuyên bố - Tớ sẽ khao và ông Thịnh sẽ trả tiền!

Chuyện phó trung đoàn trưởng Đề lấy vợ cũng là một trong những "giai thoại" chắc chắn sẽ còn được nhớ lâu ở Trung đoàn 6. Hồi đó anh còn là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1. Ba mươi tám tuổi, chưa vợ. Nói cho đúng ra, anh đã thử lấy vợ một lần, nhưng ăn hỏi xong thì phát hiện ra cô dâu đã có mang được ba tháng. Hú vía! Từ đó đi tìm hiểu cô nào anh mắc cái tật hay nhìn vào bụng người ta và... hay hỏi tọc mạch. Thành thử ra, các cô gái tử tế đứng đắn thấy vậy đều lảng. Còn những cô có “bản lĩnh" hơn một chút thì chính anh lại sợ họ. Ông Kiệt, hồi đó còn là sư đoàn trưởng, mỗi lần xuống kiểm tra tiểu đoàn, thường nói vui với Đề "Này, thôi cậu làm rể tớ đi cho rồi. Con gái tớ năm này mười tám tuổi rồi, nó đang học sư phạm mẫu giáo. Chỉ sang năm ra trường là có thể cưới được"

Đề vái ông sư đoàn trưởng mà rằng: "Con lạy bố ạ? Bố chỉ cần một vai thủ trưởng, con đã đủ bở hơi tai  rồi. Dại gì con lại trao thân cho bố vai bố vợ nữa, để con ra bã à?".

Câu chuyện tưởng chỉ nói đùa cho vui đời lính thôi ai ngờ năm sau quả nhiên thành sự thật.

Hồi đó, lính tiểu đoàn 1 toàn là lính cậu Hà Nội, phá như quỷ. Một lần tụi nó ăn cắp thuốc nổ ra sông đánh cá, một cậu bị tai nạn bay mất một bàn tay. Sư đoàn lập tức triệu tiểu đoàn trưởng Đề lên để làm kiểm điểm. Ai cũng nghĩ phen này ông Đề ra tóp. Đề lên nhà khách của sư đoàn nằm đã hai ngày chẳng thấy ai ngó ngàng gì đến đã sốt ruột, lại điên tiết lên, Đề quyết định xộc thẳng vào nhà sư trưởng.

Ra sao thì ra, cho xong đi chứ. Cái án cứ cù cưa như dao cùn cứa cổ thế này, chịu sao nổi. Anh tới phòng riêng của sư trưởng vào lúc bảy giờ tối, đinh ninh giờ này chắc cụ Kiệt đang ngồi xem ti vi, có thể gặp được. Ai ngờ... khi anh vừa xộc vào nhà thì thấy một cô gái đẹp như tiên sa đang ngồi hí hoáy vẽ chim vẽ cò gì đó trên cái bàn làm việc của sư trưởng. "Này? Sư đoàn đổi mới thật? Có công vụ nữ từ bao giờ thế này?" Nghĩ vậy, anh liền hắng giọng rồi hỏi: "Này đồng chí lính mới? Thủ trưởng đâu rồi?". "Dạ... cháu ... cháu không"... cô gái lí nhí đáp, có vẻ hơi hoảng trước sự xuất hiện đột ngột của một anh chàng to cao lừng lững như một ông hộ pháp.
- Này, xưng hô cho đúng điều lệnh nhé!. Quân đội chính quy hiện đại, không có chú cháu gì hết nhé.
- Dạ... nhưng cháu ... cháu là ... cháu...
- Cháu? Cháu cái gì. Tôi hỏi sư đoàn trưởng có nhà không?
- Dạ ... không... cháu ...
- Lại cháu! Ấm ớ hội tề. Cụ Kiệt nghiêm khắc lắm kia mà. Thì ra bố già này chỉ nghiêm với cánh con trai chúng tôi thôi, phải không? Còn với các nữ quân nhân, xem chừng cụ cũng uyển chuyển lắm, hả?
 - Ai cho phép cậu phê bình thủ trưởng, hả.

Một giọng trầm vang lên ở phía sau khiến anh giật bắn người. Không dám quay lại, anh đập gót đứng nghiêm, báo cáo sư trưởng đại úy Nguyễn Xuân Đề, tiểu đoàn trưởng xin phép được gặp sư đoàn trưởng mười phút.

Cô "nữ quân nhân" nhìn thấy sự thay đổi bộ dạng quá đột ngột của anh liền phá lên cười. Tiếng cười của cô thật giòn và trong trẻo khiến anh vô cùng lúng túng.

Sư đoàn trưởng tiến lên vài bước, đứng ngắm cái dáng cứng ngắc của anh và cũng phá lên cười ha hả rồi ôn tồn bảo: "Thôi nào? Ngoài giờ. Tớ đang mặc thường phục đây mà. Ngồi xuống đấy đi". Rồi ông quay sang cô "nữ quân nhân" vẫn đang che miệng cười khúc khích. "Tuyết, đi pha trà cho bố đi con". Anh tiểu đoàn trưởng bỗng kêu "a" lên một tiếng, rồi bất động. Sư trưởng Kiệt nháy mắt hỏi: "Sao? Cậu ngạc nhiên hả? Con gái tớ đấy mà".

Mặc dù bất ngờ, nhưng Đề đầu óc nghe chừng vẫn tỉnh táo, và máu "quậy" trong anh đã kịp trỗi dậy.
- Trời ơi! Nhưng đã có bao giờ bố nói con gái bố xinh đẹp thế này đâu cơ chứ?
Sư đoàn trưởng Kiệt lại bật cười lớn:
- Thế nào? Cậu đã hối hận rồi phải không?
- Về chuyện gì cơ ạ ? Việc mấy đứa đánh cá bị bay tay thì tôi đã viết kiểm điểm đưa cho phòng tham mưu rồi. Ngồi chờ đã hai ngày nay, tôi sốt ruột quá nên mới bò vào đây. Thủ trưởng định kỷ luật tôi thế  nào thì làm liền đi cho rồi. Chờ đợi, căng thẳng, tôi phát rồ lên mất.
- Về việc đó sáng mai tôi và tham mưu trưởng sư đoàn sẽ làm việc với cậu. Kỷ luật là dĩ nhiên rồi.Quyết định phong quân hàm thiếu tá của cậu đã có rồi, nhưng... trước mắt phải treo lại cái đã. Vừa rồi,mình hỏi cậu có hối hận nhưng là hỏi về việc khác kia - Ông khẽ nháy mắt hất hàm về phía con gái đang loay hoay bên ấm trà - Tôi đã cho cậu cơ hội, nhưng cậu đã để lỡ mất rồi ...
- Lỡ rồi à? Anh tiểu đoàn trưởng ngơ ngẩn hỏi lại.
- Là tớ đoán thế. Ai mà biết được - ông lại nháy mắt thêm một lần nữa.
- Cái đó thì... thủ trưởng phải biết chứ ạ?
- Có giời biết? Về việc này tớ không có quyền can thiệp.
- Trời ơi! Một việc tày đình như thế... thủ trưởng cứ là phải quyết ngay!
- Cậu này láu cá thật! Thế tại sao khi tớ gợi ý, cậu lại sợ rằng tớ có thêm một vai nữa để trị cậu.
Đề nhăn nhó cười:
- Nhưng... nếu ... nếu tôi biết... mẫu mã thế này thì... chết tôi cũng chịu.
Cô con gái yêu của sư trưởng bỗng lên tiếng.
- Bố và chú xơi nước đi ạ. H ai cụ ... nói chuyện gì mà nghe bí hiểm thế ạ?
- À... - Ông bố cười xòa - là cái chuyện... cái con bò ở dưới tiểu đoàn 1 ấy mà! Này con, anh này là thủ trưởng của cậu Toán con dì Hà đấy.
- Thế ạ - Mắt cô bỗng sáng lên. - Toán nó ở gần đây không ạ?
- Gần thôi - Ông sư đoàn trưởng lại nháy mắt với Đề - Ngày mai, bố sẽ cho con đi cùng với anh tiểu đoàn trưởng này xuống đơn vị thăm nó. Con đi chứ?
- Dạ ...- Thế thì may quá. Có một lô thư của bạn nó gửi cho nó đấy bố ạ. Dì Hà cũng gửi quà cho nó nữa. Thưa chú ... Toán nó có khỏe không ạ?
- Ờ khỏe!Cậu ấy chơi đàn ghi ta hay lắm phải không?
- Dạ ... phải đấy ạ. Nhưng... phải cái nó hay nghịch ngợm nữa.
- Đúng... hay nghịch. Nhưng may mà vừa rồi nó không dính vào cái vụ đánh cá đấy. Thưa thủ trưởng, Toán nó là người nhà ... mình... sao thủ trưởng không để nó ở trên sư bộ cho đỡ.
- Cái cậu này... láu cá thật - Ông Kiệt bỗng mỉm cười - Nếu nó ở trên này thì cậu còn khuya mới có được cơ hội. Nói rồi ông vỗ vai anh cười.

Đề chợt hiểu ra cũng phá lên cười. Dĩ nhiên cô con gái của sư trưởng cũng không biết vì sao mà họ cười vui vẻ đến thế.

Hôm sau, Đề nhận cái "án" kỷ luật một cách "ngon lành". Quả đắng ấy sở dĩ dễ nuốt vì anh cũng chỉ còn nghĩ đến việc chiều nay sẽ được cùng Tuyết về đơn vị. Anh đã quyết rồi, chết thì chết, lần này anh cũng liều.

Cuối năm ấy Đề trở thành con rể sư đoàn trưởng. Nhưng có lẽ số anh không được làm rể ông lớn nên vừa cưới chồng cho con gái xong thì ông Kiệt nhận quyết định về nghỉ hưu. Nhà ông ở ngoại thành Hà Nội, có nghề trồng hoa ươm cây cảnh nên ông về hưu nhưng vẫn sống rất thanh thản, phong lưu. Chỉ hiềm vì ông có mỗi một cô con gái nên Đề phải chấp nhận để vợ sống với bố mẹ. Kể ra như thế cũng là điều may cho anh, vì gia đình anh đông anh em, mỗi người đã mỗi phần, bố mẹ anh cũng đã qua đời cả rồi: nếu có đưa vợ về quê thì cũng lại phải bắt đầu từ hai bàn tay trắng.

Trước khi bước vào cuộc diễn tập này, anh nhận được điện của ông Kiệt báo tin vợ anh vừa sinh con trai. Lính trung đoàn 6 nói, ông Đề chậm mà chắc, rồi lại nói anh là "bìm bịp bắt gà cả bu”. Mặc kệ chúng nó. Nói gì thì nói anh đang là người hạnh phúc nhất trung đoàn.

Hãn cua một vòng rất điệu nghệ rồi đỗ xịch trước tấm biển "A! Đây rồi ... " từ trên xe lần lượt chui ra hơn chục chàng sĩ quan, anh nào anh nấy đều đỏ quạch vì bụi đường. Trung đoàn trưởng Thịnh ngạc nhiên hỏi Đề:
- Quái? Sao mà nhét được lắm người thế nhỉ? Những mười hai thằng. Ông chủ quán này hôm nay phát tài rồi!
- Này... - Đề ghé vào tai Thịnh nói lào phào – Liệu mà gọi nhé. Tôi không có tiền thật đấy.
- Nhưng cậu vẫn còn con Senkô chém cạnh đó thôi. Ăn hết cái ấy là mệt!
- Anh đừng có đùa! Đó là quà tặng của cô Tuyết đấy đem cắm quán thì tôi toi đời!

Cả bọn ào ào kéo vào nhà hàng. Một bà sồn sồn và một cô gái quãng hai chục tuổi, không xinh nhưng giòn và có duyên đon đả chạy ra.
- Chào các chú! Mời các chú vào phòng trong này.
Cô gái hối hả dọn bàn rồi bê ra một thau nước.
- Mời các chú rửa mặt mũi chân tay.
Cánh lính phá lên cười:
- Chúng tôi lấm như ma trôn thế này mà rửa thì cần phải có một cái ao, chứ chậu nước của cô thì ăn nhằm gì.
- Thôi, thế này. - Trung đoàn trưởng Thịnh lên tiếng - Dù sao các chiến hữu cũng nên rửa qua cái tay. Hôm nay sẽ có cái để mà bốc chót đấy.
Chỉ một loáng chậu nước đã đỏ quạch những đất. Cô chủ quán vội bê ra một chậu khác.
- Dạ mời các chú... dùng thêm ạ!
- Cô gái này lịch sự quá bọn bay ạ. Nhưng cô em ơi, tay bọn anh có thể sử dụng được rồi.
Tiếng cười lại rộ lên khiến cô gái đỏ bừng cả mặt  mũi. Bà chủ quán vội vào chi viện cho con gái.
- Xin lỗi các chú, cháu nó còn vụng lắm ạ.
- Xem chừng cô ấy cũng chẳng vụng dại lắm đâu. Bà chủ có định kén rể lính không đấy!
- Úi dà! "Trai khôn tìm vợ chợ đông. Gái ngoan tìm chồng ở chốn ba quân". Con gái tôi mà kén được chồng sĩ quan như các chú thì còn gì bằng. Chả giấu gì các chú, cháu cũng là con nhà lính đấy.
- Thế. . . ông nhà cũng là cựu chiến binh à?
- Dạ vâng... ông cháu là bộ đội chống Mỹ, hòa bình được vài năm thì cấp trên cho nghỉ hưu. Về quê chẳng có công việc gì làm. Ruộng thì người ta chia hết cả rồi. Thế là ông kéo cả nhà lên đây lập nghiệp. Vừa khai hoang, làm rẫy vừa mở cái quán này. Ông ấy học được nghề làm thịt chó khi ở lính đấy. Kìa, ông ấy về kia rồi. Để tôi kêu ông ấy vào tiếp chuyện mấy chú. Ông ấy vẫn bảo hễ có khách hàng là bộ đội thì để đích thân ông ấy tiếp.

Ông chủ quán hai tay xách hai chú cẩu vàng hùng dũng bước vào ném uỵch giữa nhà.
- Bảo thằng Kha nó xả ngay hai con này bà nhé. Chiều nay đông khách đấy.

Nhìn vào phòng trong, thấy lố nhố toàn là lính mắt ông chủ quán bỗng sáng lóe lên. Chưa cần bà chủ giới thiệu: ông phăm phăm bước vào, giọng oang oang:
- Chào các chiến hữu!
Trung đoàn trưởng Thịnh buộc phải đứng dậy.
- Chào ông chủ - Anh đưa tay ra và bỗng nhăn mặt vì cái bắt tay quá chặt của ông chủ quán - Bọn tôi nghe danh quán bác, tiện đường ghé vào nhậu một bữa.
- Hân hạnh! Hân hạnh. Thiếu tá ngồi xuống đi. Ơ mà chưa có món gì à. Bà nó đâu? Dọn ra đi chứ. Bộ đội chúng tôi đâu có nhiều thời gian. Lấy rượu trắng cái can bọc nilông xanh ấy nhé. Thứ đó mới ngon. Xin chào! Xin chào - ông vừa nói như máy vừa lần lượt bắt tay từng người. Đến trung đoàn phó Đề ông chợt  sững lại - Anh chàng này... sao quen quá hả? Hình như... chú là ... - Ông vỗ vỗ vào trán một hồi rồi bỗng “à” một tiếng - Thôi đúng rồi. Mày là con rể ông Kiệt phải không?
- Dạ phải ạ - Đề bỗng lúng túng. - Nhưng... ông là ...
- Tao là Cung, bạn chiến đấu của bố vợ mày chứ ai.Cái hôm cưới tụi bay, tao chả về ăn cưới là gì. Thằng này, mày còn trẻ mà trí nhớ kém thế.
- Dạ thưa... bữa đó, bạn bè của bố cháu về đông lắm, cháu không thê nhớ hết được.
- Đúng thế. Nhưng tao thì mày không thể quên được. Hôm đó, tao còn đọc cả một bài thơ lục bát dài dằng dặc, chúc mừng bố con nhà mày cơ mà.
- À cháu nhớ ra rồi - Đề bỗng phá lên cười. – Hôm đó bác say rượu, cứ hát mãi bài hát "Tiến về Sài Gòn" ... phải không ạ?
- Đúng! Đúng! Hôm đó tao hơi quá chén thật. Thế thì bác đúng là có duyên với bố con cụ Kiệt rồi - Thịnh lên tiếng - Hôm nay, tụi tôi được con rể cụ Kiệt mời uống rượu mừng vợ vừa sinh cậu ấm đấy ạ.

Ông chủ quán thịt cầy bật cười ha ha:
- Hay! Hay thật. Đúng là tôi có duyên thật. Này cháu Đề. Ta với bố cháu thì có nợ với nhau. Ta nợ ông Kiệt cả cái mạng sống này. Hôm nay cháu có tin mừng, lại đến mở tiệc khao đồng đội ở ngay cửa hàng ủa ta. Vì vậy ta tuyên bố, tiệc này là tiệc ta mừng cháu và đồng đội của cháu. Bởi vì đồng đội của cháu cũng là đồng đội của ta. Ta vốn là cựu tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 của Trung đoàn. Các anh em đây có lẽ cũng là lính Trung đoàn 6 cả phải không?
- Thưa tiền bối - Thịnh cung kính đứng trước ông hủ hiệu thịt chó - Tôi là Nguyễn Hoàng Thịnh, trung đoàn trưởng đương kim của trung đoàn. Còn thiếu tá Nguyễn Xuân Đề là phó trung đoàn trưởng, các anh em đây là sĩ quan trong ban chỉ huy trung đoàn cả.
- Kỳ ngộ! Kỳ ngộ - Ông chủ quán gật gù - Vậy thì rất đáng để hôm nay chúng ta say sưa. Bà chủ đâu, đóng cửa hàng lại. Tôi tuyên bố sáng nay tôi chỉ tiếp đồng đội binh đoàn Hương Giang của tôi thôi.

Một lát sau, trên bàn la liệt các món ăn. Rượu đã rót tràn các ly. ông Cung trịnh trọng nâng ly, giọng bỗng lắng xuống.
- Các bạn trẻ! Cuộc gặp gỡ hôm nay thật bất ngờ hú vị nhưng không hoàn toàn ngẫu nhiên. Tôi và các bạn thuộc hai thế hệ khác nhau của cùng một đơn vị anh hùng. Năm bảy mươi lăm, tôi chỉ huy tiểu đoàn tuột đánh vào Đà Nẵng. Lúc đó ông Kiệt còn là trung đoàn trưởng trung đoàn 6, hình như sau trận Đà Nẵng, anh Thịnh, anh Đề mới được bổ sung về trung đoàn. Trong một cuộc hành quân tiến công bằng xe cơ giới, ông Kiệt đã nhảy lên ngồi trên thiếc xe Jeep chiến lợi phẩm của tôi để dẫn đầu mũi đột kích. Đến gần cầu Trịnh Minh Thế thì bọn tôi đụng địch. Cậu lái xe hy sinh ngay tức khắc, tôi thì bị thương. May sao ông Kiệt lại là một tay lái giỏi, nên ông đã đưa được bọn tôi ra khỏi vòng lửa đạn. Thế là tôi bị loại khỏi cuộc tiến công như bão táp của binh đoàn thẳng  tiến vào Sài Gòn. Đời tôi, có lẽ đó là điều đáng tiếc nhất. Sau ngày lễ diễu binh mừng chiến thắng ở Sài Gòn, tôi mới lành vết thương trở về đơn vị. Thật vô duyên hết sức. Đánh nhau hàng chục năm trời không hề trầy vi tróc vẩy, đến cái đoạn hay nhất của đời binh nghiệp thì gãy cầu, các cậu thấy có cay cú không?
- Còn bọn chúng cháu thì lại gặp may - Đề vội lên tiếng - Chúng cháu đã kịp xuất hiện vào những ngày kỳ vĩ nhất của cuộc chiến. Tuy vậy, chúng cháu vẫn hiểu rằng sở dĩ mình được có mặt trong ngày vui đại thắng ấy là vì đã có biết bao đồng đội ngã xuống dọc đường.
- Thôi được rồi, đó là chuyện của lịch sử - Ông Cung nâng chén rượu lên - Ai tới được cái đích cuối cùng của cuộc chiến, điều đó không quan trọng. Điều đáng nói là cuối cùng dân tộc ta đã tới đích. Uống đi các cháu! Chén rượu này chúng ta uống để tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh dọc những chặng đường đi đến thắng lợi cuối cùng.
- Chén này, xin uống để biểu lộ sự kính trọng đối với lớp cha anh đi trước.Rượu lại tràn ra ly. Ông Cung càng uống càng tỉnh. Còn cánh sĩ quan trẻ thì đã bắt đầu giai đoạn tranh nhau nói. Căn phòng trở nên ồn ào náo nhiệt lạ thường.
- Nghiêm! Các chiến sĩ Trung đoàn 6 - Thịnh phải hét lớn để át tất cả mọi người - Nghe tôi nói đây. Chúng ta quên mất mục đích của bữa tiệc này rồi. Tôi đề nghị, chén này chúng ta hãy uống mừng cho con trai của người đồng đội chúng ta vừa ra đời. Chúc cho thế hệ của cháu được sống trong hòa bình, hạnh phúc. Mọi người nâng ly uống cạn chén rượu mừng một cách trang nghiêm. Ông Cung đổ rượu tràn ra cả bộ râu đã bạc phếch của mình, trên gò má ông long lanh những giọt nước mắt, hay những giọt rượu, cũng thật khó mà phân biệt. Rồi bỗng dưng ông đứng dậy vung tay:
 - Các bạn trẻ ... ta hát... át chứ. Hát... bài ca truyền thống của binh đoàn... các bạn... Nào, một... hai... chúng ta ra đi từ núi sông này...

Giọng ông cất lên ồm ồm. Rõ ràng ông đã chếnh choáng rồi. Các sĩ quan trẻ ồn ào hát theo. Lúc đầu còn chệch choạc ... rồi người trước đợi người sau, dàn đồng ca đã ăn nhịp hùng tráng vang lên.

Bà chủ quán và cô con gái từ phía sau hốt hoảng chạy ra. Trong tiếng hát, vẫn có thể nghe thấy tiếng bà ra lệnh cho cô con gái "Mau đi chuẩn bị cho mỗi người một ly chanh đá ... Xin cả một ít vôi về đây nữa... Không khéo lại say khướt cả rồi" .


                                                                                                Hà Nội, tháng 2 năm 1993
                                                                                                               K.Q.Th




VŨ PHƯƠNG HIỀN



CHUYỆN BÊN SUỐI VÀNG



Dễ đến mười năm rồi tôi mới có dịp trở lại Suối Vàng. Con đường độc đạo chạy từ mỏ than Đồng Rì đi Mai Sưu, Đồng Đỉnh uốn lượn, lên xuống toàn đất đỏ ngày nào nay đã thay bằng đường nhựa rộng rãi, phẳng lỳ, đẹp đẽ.

Duy có dòng Suối Vàng trong suốt với những hạt cát vàng lấp lánh, róc rách, chảy ngày đêm là không hề thay đổi. Và kia, bãi cỏ rộng, bằng phẳng, chứa đầy những kỷ niệm, những ngày dã ngoại khai thác cây giàng cho đơn vị làm vật liệu xây dựng doanh  trại. Cảnh vật hiện ra trước mắt tôi nguyên vẹn như ngày nào, nhưng sao vẫn có cái gì đó khang khác len lỏi trong tôi.

Dạo ấy, chừng giáp Tết Nguyên đán, chỉ còn có hơn tháng nữa là Tết. Rét! Rét như cắt da, cắt thịt. Ngày nào cũng mưa, mưa dầm dề, dai dẳng. Những hạt thưa phùn nho như sương cứ lắc rắc rơi, và gió cứ từng cơn, từng cơn lạnh buốt thốc vào người. Đại đội 10 chúng tôi, lán trại dựng trên bãi cỏ ven bờ suối. Ngày ngày len lỏi vào rừng giàng mênh mông, như con ong cần mẫn, lúc đi thì không, lúc về một vác nặng trên vai. Đống giàng đầu tiên nhỏ xíu, về sau cứ lớn dần, to dần lên theo thời gian. Một đống rồi hàng chục đống như những ngôi nhà uy nghi, cao ngất. Đừng ngỡ cả rừng cây giàng đấy, cứ thoải mái mà chặt? Không đâu! Phải tìm cây không to quá vì cây to hay bị ộp, cũng không được nhỏ quá vì cây non. Phải chọn cây vừa bằng nắm tay hoặc nhỉnh hơn, lại phải dùng sống dao gõ vào thân cây nghe tiếng cứng lanh canh. Cây phải có ngọn chặt cách mặt đất 10 xàng ti mét, bỏ ngọn, lấy trên bốn mét, dưới sáu mét. Mỗi ngày ba mươi cây. Thoạt nghe thì cứ ngỡ là nhẹ nhàng, nhưng không đâu! Khó khăn lắm, vất vả lắm. Càng vào sâu trời càng tối do các tán lá ken dày, đan chằng chịt vào nhau nên muỗi nhiều tưởng chừng vốc được. Những cây giàng mọc dầy, có chỗ thành hàng đều tăm tắp, tạo thành lòng hang dài hun hút. Không cẩn thận lạc như chơi, loay hoay chẳng tìm thấy lối ra. Lại có loại dây leo chằng chịt, từ cây nọ bám quấn vào cây kia. Bởi thế tìm được cây để chặt đã lâu công, chặt xong kéo cây xuống càng khó. Có khi lấy hết sức, choãi chân kéo mãi mà không được. Trời rét là vậy mà mồ hôi nhỏ giọt. Có khi phải hai, ba anh hợp sức mới kéo được. Cho nên chỉ huy đại đội phân theo nhóm tổ ba người. Vừa tạo điều kiện hỗ trợ nhau, vừa để tránh các tình huống xấu khi bắt gặp. Vì ở đây có rất nhiều tổ ong bò vẽ và ong đất. Có hôm, anh em đem về đến ba, bốn tổ ong. Những ngày ấy, đơn vị được món ong rán thỏa thuê.

Những ngày đầu, chẳng mấy ai bỏ chỉ tiêu do lấy phải cây ộp, cây non hoặc bị sâu giữa thân hoặc không đủ kích thước. Nhưng càng về sau, số lượng càng tăng dần, rồi số người vượt chỉ tiêu mỗi ngày một nhiều. Do nhiều lần tìm chặt, anh em đã tìm ra bí quyết. Đó là làm thang, leo lên chặt dây leo, chặt tán lá. Và càng khai thác, rừng cây càng  nhiều lỗ hổng, nên việc tìm chặt, kéo cây càng dễ dàng hơn.

Chúng tôi khai thác cây giàng giữa rừng cây bạt ngàn, mênh mông, nhưng không phải vì thế mà cứ thích chặt chỗ nào cũng được, mà phải khai thác ở  khu vực được khoanh vùng nhất định, do ủy ban nhân dân xã Đồng Rì và huyện Sơn Đông cùng PhòngKiểm lâm huyện cho phép.

Để thắt chặt mối quan hệ, tình đoàn kết quân dân và cũng là tạo chỗ dựa vững chắc của đơn vị với địa phương. Lãnh đạo, chỉ huy đơn vị tổ chức hai ngày giúp dân lao động, sản xuất. Trung đội tôi được chia làm ba tổ đi ba gia đình. Tôi chỉ huy một tổ bảy người vào gia đình ông Quang. Nhìn thấy anh em chúng tôi cuốc, xẻng, dao đi vào, ông Quang, chủ nhà khoảng  sáu mươi tuổi, dáng cao gầy, nước da đen sạm dãi dầu  mưa nắng, bàn tay chai sạn .đang chẻ lạt bước ra, tròn  xoe mắt ngạc nhiên. Không để ông lên tiếng, tôi thay mặt anh em trình bày lý do. Vừa lúc đó một cô gái từ trong nhà bước ra:
- Em chào các anh! Ơ! Anh Hiền!
Tôi cũng nhận ra em, đây là người con gái tôi tình cờ quen trên đường hành quân hôm nào.

Hôm hành quân từ Biển Động rẽ vào con đường mòn đi Chợ Lớn. Con đường như sợi chỉ mảnh, len lỏi xuyên qua khu rừng rậm rạp, rừng nguyên sinh hai bên đường um tùm cây lá. Có lúc, chúng tôi phải lội qua những con suối. Dòng nước trong xanh, lạnh buốt, có anh rụt chân lại, có anh hăm hở lội qua. Đá dưới lòng suối đầy rêu, làm một vài anh ngã sóng soài Vậy là rộn lên tiếng cười, tiếng trêu chọc nhau vang cả một góc suối.

Qua khỏi con suối, đang điều chỉnh lại đội hình hành quân của trung đội. Bất chợt có tiếng "huỵch", rồi một bóng người té ngã. Tôi giật mình quay lại. Một cô gái chừng mười tám, đôi mươi, một tay chống đất định nhổm dậy, còn tay kia cầm làn cói. Su hào, bắp cải từ làn bắn ra lăn tung tóe. Tôi vội vàng lao tới nhặt giúp rau củ cho em rồi đưa tay cho em vịn đứng lên. Em đứng lên ngượng ngập nói cảm ơn. Dù chỉ là một thoáng nhìn, tôi vẫn nhận ra cô gái có nước da trắng ngần, đôi bàn tay với những ngón tay thon, mềm mại.
Chợt nhìn dáng đi hơi tập tễnh của em, tôi nói:
- Em bị đau chân rồi! Thôi! Để anh mang giúp làn rau cho.
- Ấy chết? Ai lại thế! Em không sao đâu! Em mang được mà!

Tôi phải nói đến lần thứ ba, em mới chịu để tôi mang giúp. Dọc đường hành quân, có thêm một cô gái, vui chuyện, chúng tôi như quên đi thời gian, không gian, quên cả mình đi đã qua mấy con suối, mấy khoảnh rừng.

Qua trò chuyện, em nói với tôi là em làm ruộng. Tôi biết em nói dối, trông dáng người em: có những nét mềm mại, đôi bàn tay thon mềm thế kia hẳn em phải là cô giáo hoặc sinh viên. Em nói quê em ở mãi tận Mai Sưu cơ, xa lắm. Nhưng em và bố lên Đồng Rì làm nương trồng ngô sắn vì điều kiện kinh tế gia đình khó khăn. Điều này thì tôi tin ngay và càng cảm thấy kính trọng em hơn.

Tôi tự giới thiệu tên mình và hỏi em. Cười bẽn lẽn, em nói:
- Tên em xấu lắm, mai kia anh vào, em sẽ cho biết tên.
- Nhưng mà làm sao anh biết để đến thăm?
Em cười bí mật, nói vui:
- Thế em mới đố anh chứ!

Đoạn đường đi cũng đã hết, chúng tôi dừng lại, triển khai làm lán. Còn em, em đi tiếp. Trước lúc chia tay, em nói rất nhiều lời cảm ơn tôi. Từ bữa ấy, mải bận rộn việc khai thác, tôi cũng dần quên. Nào ngờ hôm nay gia đình mà chúng tôi đến giúp lại chính là nhà em.

Em đã nghe hết câu chuyện của chúng tôi với lý do tôi vừa trình bày, em ngỏ lời từ chối, nói cảm ơn:
- Cảm ơn nhã ý của các anh. Nhà em nương ít, chỉ hai bố con làm là vừa. Các anh sang giúp những gia đình khác trong xóm.

Nhưng tôi vẫn cứ cương quyết với lý lẽ của mình, vừa là nhiệm vụ, vừa là tình cảm. Mấy anh em sẽ giúp gia đình ít nhiều.

Rồi chẳng để bố em và em phân giải thêm, tôi dõng dạc phân công:
- Đồng chí Hải mượn bò của bác, cày! Đồng chí Thanh, đồng chí Lợi vun luống, đồng chí Hảo, đồng chí Kỳ bỏ phân, đồng chí Thân chặt hom, đồng chí Hoàng và tôi đặt hom lấp đất.

Tần ngần một lúc, sau đó em và bố em cũng chạy đi chạy lại, chỉ bảo việc nọ, việc kia. Chẳng mấy chốc, bảy anh em và tôi cùng gia đình đã trồng xong ba sào đất sắn. Chiều đến, mấy anh em lại tiếp tục phá hoang, phát cây, dọn cỏ. Sang ngày hôm sau, chúng tôi lại làm đất và trồng cho gia đình em một mảnh đất sắn khoảng ba sào. Ngoài ra còn trồng một sào với các loại rau khác nhau.

Thời gian đã hết và công việc cũng hoàn tất, khi chúng tôi ra về, bố em cứ xoa tay rối ni cảm ơn đơn vị cảm ơn chúng tôi, nét mặt bác rạng ngời niềm vui, xen lẫn niềm hân hoan. Còn em, em cứ nài nỉ ép chúng tôi nhận cho bằng được bó chè xanh và nải chuối tiêu chín vàng.

Ngày lại ngày, những chuyến xe  ôtô đã dần dần bốc xếp, chuyên chở những đống giàng về đơn vị. Còn chuyến cuối cùng cũng là lúc anh em chúng tôi tạm biệt rừng giàng để lên đường lui quân. Buổi sáng hôm ấy hai bố con em chỉnh tề trong bộ quần áo đẹp, ra từ rất sớm, giúp chuyển giàng, quân tư trang, đồ đạc. Khi chúng tôi lên xe, hai bố con em bùi ngùi tiễn biệt:
- Chúc các anh đi chân cứng đá mềm, chúc thượng lộ bình an.

Chúng tôi cũng vẫy tay chào lại. Xe từ từ chuyển bánh. Hai bàn tay của bố con em vẫn giơ lên cao vẫy vẫy vừa như muốn đưa tiễn, vừa như níu kéo chúng tôi.

Đã hơn mười năm trôi qua, Suối Vàng đã trải cùng bao mưa nắng, thời gian mà vẫn giữ nguyên dáng nguyên sơ, lạ kỳ thật. Nhìn từ những ngôi nhà mái  bằng, nhà hai, ba tầng nối tiếp dọc bên suối và hai bên đường đi. Nhìn những cây đào lá xanh non đang kết trái, những cánh hoa rụng đầy bên gốc, tôi thấy lòng mình khoan khoái dễ chịu.

Mùa xuân, với tiết trời xanh tươi, ấm áp. Và kề bên, cuộc sống cũng đang khởi sắc từng ngày. Tôi bồi hồi nóng lòng muốn biết sự thay đổi trong gia đình em...



                                                                           Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang
                                                                                            Tháng 11 năm 2002
                                                                                                     V.P.H

PHÙNG VĂN TIẾN



CUỘC GẶP MẶT KHÔNG HẸN TRƯỚC


"...Đế quốc Mỹ ngày một leo thang trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ở miền Bắc chúng đã điều hàng nghìn lượt máy bay đánh phá các khu kinh tế trọng điểm, nhằm cắt đứt sự chi viện cho tiền  tuyến. Từ vĩ tuyến 17 trở vào chúng cùng với ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn liên tục mở các đợt tấn  công tàn sát đồng bào miền Nam ruột thịt, gây ra không biết bao nhiêu tội ác...".

...

Mạnh sinh ra và lớn lên ở vùng quê chuyên làm nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa bên dòng sông Dáy. Học xong phổ thông trung học, cùng một lúc, anh  nhận hai giấy báo: đi du học Ơ nước ngoài và lên đường nhập ngũ. Còn bao hoài bão chưa thực hiện được cùng người mẹ già đang tuổi xế chiều, mái tóc bạc trắng khiến mẹ trông già hơn so với tuổi, bởi đã bao nhiêu năm tháng, mẹ sống trong nỗi khắc khoải chờ đợi người chồng đi chiến đấu rồi vĩnh viễn nằm lại ở chiến trường.

Nhìn lên tấm bằng Tổ quốc ghi công trên bàn thờ cha, lồng trong khung kính bức hình cha chụp lúc còn rất trẻ (đoán chừng ngoài hai mươi), anh thương mẹ vô cùng. Mẹ đã tần tảo một mình nuôi anh suốt mấy chục năm, anh là niềm an ủi, là chỗ dựa duy nhất về tinh thần của bà, là nguồn động viên bà vượt qua những mất mát to lớn do chiến tranh gây ra.

... Xoan - người bạn gái học cùng lớp trên trường cấp III huyện với anh ở làng bên mấy hôm nay đang bận rộn chuẩn bị cho chuyến đi du học ở Tiệp Khắc đợt này. Tuy Xoan bằng tuổi, nhưng trong chuyện riêng tư đã tỏ ra rất ý tứ, còn Mạnh thì mộc mạc chân thành.

Hôm hai đứa cùng từ trường về, đi dọc theo con đê quai quen thuộc, anh đã tâm sự cùng Xoan ý định nhập ngũ của mình vào miền Nam chiến đấu. Xoan im lặng. Ánh mắt cô nhòe đi, bàn tay hai người đưa lại gần nhau siết nhẹ, rồi cả hai thì thầm với bao nhiêu lời hẹn ước ngày chiến thắng trở về.

... Máy bay Mỹ đánh phá ngày càng khốc liệt. Các chuyến tầu quân sự vào Nam được bố trí đón khách ở ga Thường Tín vào buổi tối theo những thời gian bí mật. Anh vội vã vào thắp nén nhang lên bàn thờ cha và chia tay mẹ để chuẩn bị hành quân bộ gần hai chục cây số đến địa điểm tập kết. Bảy giờ tối, mỗi người được phát một nắm còm kèm ruốc trước khi lên tầu để ăn điểm tâm cho đỡ đói.

"Tiệc lính" vừa xong thì đã có tiếng còi tầu vọng từ xa lại. Mọi người sắp xếp lại tư trang để lên tầu. Cùng đi đợt này với Mạnh còn bao nhiêu anh em khác. Mỗi người một quê, một hoàn cảnh khác nhau nhưng thật vui.

Hơn mười tiếng đồng hồ sau, tàu đến ga Vinh. Đơn vị hành quân tiếp vào mặt trận, vừa đi vừa huấn luyện. Mạnh được biên chế về một đơn vị trinh sát ở mặt trận B5. Đại đội của anh có hơn ba chục người, mỗi người ở một miền quê khác nhau nhưng mọi người thương yêu nhau như anh em một nhà. Điếu thuốc chung nhau hút, lá thư cùng nhau đọc, chẳng có điều gì giấu được. Trong chiến dịch tấn công thành Quảng Trị, quân Mỹ đã tập trung lực lượng đánh trả ác liệt. Nhiều đồng đội của Mạnh đã hy sinh trước ngày giải phóng. Còn Mạnh bị một mảnh pháo xuyên vào phần mềm phía sau chân phải. Anh em cứu thương đưa Mạnh về điều trị tại viện quân y tiền phương. Trong những ngày nằm điều trị, Mạnh đã kiên trì tự nhủ mình phải tập luyện cho nhanh lành, trở lại chiến đấu, tra thù cho đồng đội, quét sạch quân Mỹ, ngụy giải phóng miền Nam để được trở về quê chăm sóc mẹ già.

Ở quân y viện, Mạnh được sự chăm sóc rất ân cần của các y bác sĩ. Anh đã gặp Loan - người con gái đất Kinh Bắc có mái tóc dài, đôi mắt lá răm và nụ cười tươi tắn, là người luôn thay rửa vết thương và giúp anh những sinh hoạt hàng ngày. Khi rảnh rỗi, cô thường đọc truyện và hát dân ca cho Mạnh nghe, để anh quên đi sự đau đớn do vết thương gây ra và sự thiếu thốn tình cảm của anh từ thuở bé. Cô đã để lại ấn tượng sâu sắc về người thầy thuốc trong anh. Chính vì thế mà anh đã định hướng cho Tâm - đứa con gái của anh và Xoan sau này đi học ngành y.

Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước thắng lợi. Mười một giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 nărn 1975, lá cờ đỏ sao vàng phần phật bay trên nóc dinh Độc lập, thủ phủ của ngụy quân ngụy quyền, chấm dứt cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Những người lính từ chiến trường trở về mang theo niềm vui thắng trận. Mạnh được đi phép ra Bắc. Quê nhà lúc này đã thay đổi nhiều lắm. Mẹ anh đã mất trước đó hơn một năm. Căn nhà nhỏ nơi anh ra đi nay vắng bóng người. Hàng tuần, Xoan vẫn về thắp nén nhang cho hai bác. Từ khi trở về nước công tác ở một phòng kỹ thuật trên cơ quan huyện, Xoan vẫn chờ anh. Mạnh vừa buồn tủi vừa mừng và thầm cảm ơn cô.

Gần cuối đợt phép, đám cưới của anh và Xoan được tổ chức. Ngày xum họp chưa qua đã tới ngày chia tay. Anh phải trở về đơn vị vì đất nước vừa qua chiến tranh, công việc của người lính vẫn là chủ yếu trong việc xây dựng lại đất nước.

Năm tháng trôi qua, Mạnh trở thành một sĩ quan quân đội công tác tại binh đoàn. Cháu Tâm - con gái đầu lòng của anh chị nay đã tốt nghiệp Học viện Quân y về công tác tại Bệnh viện 43. Vợ chồng anh thường đến thăm và động viên con làm việc sao cho xứng đáng với các bác, các cô, các chú năm xưa đã cứu chữa cho bố.

Lần này, anh lên thăm con đúng vào dịp kỷ niệm ngày thành lập viện. Không khí thật vui, mọi việc chuẩn bị được tiến hành khẩn trương. Khách mời gồm các thế hệ cán bộ công tác tại bệnh viện đều về đông đủ. Anh rất bất ngờ và vui mừng khi gặp lại Loan - cô y tá năm xưa đã chăm sóc anh trong suốt thời gian anh bị thương, nay nguyên là bác sĩ chủ nhiệm khoa của viện. Trông chị già đi nhiều, mái tóc đã thấp thoáng những sợi bạc, nhiều nếp nhăn xuất hiện trên khuôn mặt làm cho đôi mắt duyên dáng năm xưa đã bớt đi phần quyến rũ. Chỉ riêng nụ cười của chị là vẫn giữ nguyên nét tươi tắn và đôn hậu.

Bắt tay chị, anh mừng vô hạn, chị cũng nhận ra anh. Một tình cảm đồng chí đồng đội bỗng trào dâng trong anh. Sau hơn ba mươi năm xa cách do cuộc chiến tranh phân gián không ngờ nay được gặp lại...

... Cuộc vui kết thúc. Mọi người ra về trong nỗi lưu luyến, bịn rịn không thôi. Trong phút chia tay với chị Loan, còn có cậu sĩ quan trẻ mang lon thượng úy được giới thiệu là con trai của chị. Anh Mạnh và chị Loan càng bất ngờ hơn khi biết cậu sĩ quan đó do Tâm mời sang. Lúc này, hai má Tâm ửng hồng, lời nói cử chỉ trở nên lúng túng, thiếu tự nhiên hơn. Trộm nhìn bố và cô Loan, Tâm thấy trên gương mặt hai người rạng ngời hạnh phúc. Thấp thoáng trong ánh mắt họ một niềm hy vọng bền vững, thắm thiết.



                                                                                            Bắc Giang, tháng 2 năm 2003
                                                                                                        P.V.T

HƯƠNG CHANH



TÌM VẦNG TRĂNG CHO ĐỒNG ĐỘI

Trời lại thu. Hơi gió heo may và những con đường trải đầy lá vàng khiến tôi lại nhớ tới mùa thu năm nào - mùa hội diễn toàn quân tại Hải Phòng. Hôm ấy, cả đội văn nghệ Binh đoàn 2 đã tập trung đầy đủ để đi tham gia hội diễn, duy chỉ có thiếu mỗi mình Mai.

Đã quá giờ xuất phát vẫn chẳng thấy bóng dáng Mai đâu, càng đợi càng sốt ruột. Chú trưởng đoàn nghiêm mặt tuyên bố. "Đợi đúng 5 phút nữa nếu Mai không đến thì chúng ta lên đường". Tôi rất lo cho Mai, nếu không đến kịp, xe chạy thì phải tự bắt xe xuống Hải Phòng, không những thế mà còn bị kỷ luật nữa. Một phút... Hai phút... Thời gian như ngưng lại trong sự nín lặng đến nghẹt thở của chúng tôi. Phút thứ ba vừa trôi qua thì có tiếng reo "Mai kia rồi!". Không gian như vỡ ra. Không hẹn, cả đoàn cùng đổ dồn ánh mắt về phía vọng gác. Mai xuất hiện trong tư thế rất vội, vai đeo một chiếc túi, tay phải xách một chiếc ba lô nhỏ, tay trái cầm con ốc biển lao nhanh về phía chúng tôi. Mai vừa đến nơi mấy đứa bạn gái đã thi nhau hỏi:
- Sao Mai đến muộn thế?

Bước vội lên xe, gương mặt còn lấm tấm mồ hôi, hai má ửng hồng, Mai thả chiếc túi xuống, đưa tay lau bớt mồ hôi rồi chậm chạp thanh minh.
- Xin lỗi cả đoàn, tôi đến muộn, vì phải chuẩn bị đồ ăn cho mẹ ở nhà, đi diễn dài ngày quá, mẹ ở nhà chẳng có ai chăm nom, phải gửi thực phẩm nhờ hàng xóm mua giúp.

Chả là bố Mai đã hy sinh năm 1968 tại Quảng Trị, mình mẹ tần tảo nuôi Mai khôn lớn, nay mẹ lại mắc bệnh khớp đi lại có nhiều khó khăn. Cả đơn vị ai cũng biết và hết sức thông cảm với hoàn cảnh của Mai.
- Con ốc biển ai tặng Mai đấy? - Một giọng nữ hỏi vẻ như trêu đùa.
Mai ấp úng trả lời.
- Chiếc đèn ngủ đó mà.
Mai mới nói được vậy thì một câu nói cắt ngang của cô bạn gái ngồi cùng.
- Chiếc đèn ngủ đó chính là của anh Hùng, người yêu Mai tặng đó. Anh Hùng đang công tác tại đoàn văn công của Đảo thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân.

Mai cúi đầu không dám nhìn mọi người, mặt nóng bừng. Thực ra Mai và Hùng đã mất liên lạc với nhau gần một năm rồi, không biết vì lý do gì? Bản thân Mai cũng chưa bao giờ nhắc đến chuyện đó. Lần hội diễn này, Mai rất mong gặp Hùng để biết được lý do thích đáng.

Xe vẫn đang chạy, chúng tôi hát tập thể đủ các bài hát theo nhiều chủ đề khác nhau nhằm tạo không khí vui nhộn cho các chị em không bị say xe. Mải hát, xe đã đến lúc nào không hay. Biển Đồ Sơn đã hiện ra trước mặt, tuy đi xe mệt nhưng chúng tôi nhanh chóng thu xếp hành lý vào Nhà nghỉ Hương Giang của Binh đoàn 2 để được ra biển hưởng thụ những làn gió mát từ biển thổi vào và nô đùa với những con sóng.

Nghỉ một ngày thật thoải mái, sáng hôm sau chúng tôi bước vào hội diễn. Đoàn chúng tôi lần này đã gặt hái được nhiều thành tích xuất sắc, bởi vì bảy tiết mục đoàn chúng tôi đem đến đều giành bảy huy chương vàng và là đơn vị có huy chương vàng cao nhất. Thành tích đó được thủ trưởng đơn vị tặng cho mười ngày đi biển, thăm các chiến sĩ hải quân ở các đảo ven biển và thăm thắng cảnh Vịnh Hạ Long.

Đảo đầu tiên chúng tôi đến là đảo Dáu - nơi mà anh Hùng, người yêu của Mai đang đóng quân. Chắc Hùng sẽ rất bất ngờ vì anh không biết Mai ra đảo. Đồng chí trưởng đội văn nghệ triển khai nội dung phục vụ văn nghệ và giao lưu. Ánh đèn bật sáng. Mai ra chào khán giả với bài hát "Bèo dạt mây trôi". Giọng Mai mượt và êm như gió. "Bèo dạt mây trôi, chốn xa xôi anh ơi em vẫn đợi... ". Mai thả hồn theo bài hát mà mắt vẫn tìm kiếm người yêu. Bất chợt, mắt Mai sáng lên rồi lại lặng đi theo giai điệu gọi bạn da diết của bài hát. Tiếng hát vừa dứt, Mai vụt chạy vào trong sân khấu bỏ lại đằng sau những tràng vỗ tay liên tiếp, và Mai khóc. Thắng là diễn viên kịch của đoàn theo sát Mai, hỏi:
- Mai, em sao vậy?
Mai nén giọng trả lời:
- Không có gì.
Rồi Mai lùi vào góc tối để tránh những khoảng sáng của ánh đèn sân khấu. Tôi cũng không dám lại gần, nhưng những tiếng nấc của Mai, làm tôi càng bối rối.

Cả đoàn mải diễn, thay trang phục giúp nhau, còn tôi thì cứ quanh quẩn bên Mai. Biết Mai đã có người yêu nên không dám gần gũi, sợ mọi người bàn tán ảnh hưởng tới Mai. Nhưng trong lòng thì rất lo lắng cho Mai.

Bỗng nghe có tiếng gọi.
- Đến tiết mục của Mai rồi.
Tôi vội vào đỡ Mai dậy nhưng Mai đã xin bỏ tiết mục hôm đó, đồng chí trưởng đoàn đã chữa cháy bằng tiết mục tấu hài của tôi, đọc tấu vui mà giọng lại buồn, bởi lẽ tôi buồn vì nỗi buồn của Mai. Tiết mục không thành công cho lắm nhưng những chàng lính vui tính đều thưởng thức thật say sưa. Đêm đó, cả đoàn ngủ lại phòng khách của đảo. Tôi không ngủ mà ngồi nhìn những ngọn hải đăng trên biển, và tôi quyết định tìm đến phòng Mai. Cả phòng đã ngủ. Mai ngồi một mình bên cửa sổ, ngắm trăng ngoài đảo mà tay vẫn cầm con ốc biển, tôi mời Mai đi ngắm biển và Mai đã nhận lời. Biển mùa này thật êm dịu, xa xa là những chiếc đèn của ngư dân trên biển tạo cho biển có hàng ngàn ngôi sao lấp lánh. Trăng mùa thu chiếu xuống mặt biển bị các con sóng tách thành những mảnh trăng khuyết lấp lánh, trông thật là cô đơn, tội nghiệp. Tôi lên tiếng phá tan bầu không khí im lặng giữa tôi và Mai.
- Em có thể nói chuyện với anh được không? Anh luôn coi em như em gái mà.
Im lặng một lúc lâu, Mai nức nở:
- Anh Thắng! Cái tên Thắng chính là cha mẹ đặt cho tôi. Anh Hùng em đã có bạn gái.
- Sao em biết?
- Lúc diễn em đã nhìn thấy anh Hùng cùng cô bạn gái ngồi hàng ghế thứ hai, họ đã chụm đầu vào nhau để nghe một bài hát chờ đợi và nghe một cách thoải mái. Em nhận thấy ánh mắt ấy không còn là của em nữa, không còn là ánh mắt của chàng trai Kinh Bắc ngày nào- em dám chắc là anh ấy cố tình như vậy. Mặc dù đã cố gắng kìm nén nhưng Mai vẫn không giấu được sự đau khổ của mình qua giọng nói. Tôi không biết phải an ủi Mai ra sao. Đợi đến khi chia tay Mai, tôi quyết định tìm gặp Hùng.

Sau tiếng gõ cửa, Hùng xuất hiện trước mặt tôi. Tôi nói hết câu chuyện về Mai cho Hùng nghe.

Nghe xong, Hùng đáp lại bằng một câu trả lời tỉnh không:
- Nhờ cậu nói với Mai là mình đã có bạn gái. Mai đừng chờ mình nữa.
- Mai có lỗi gì chứ? - Tôi cự lại Hùng.
- Không hợp, vậy thôi?
- Hùng nên gặp Mai lần cuối nói chuyện thử xem - Tôi cố thuyết phục.
- Không cần phải thế, mình không muốn người thứ hai như Mai phải đau khổ.

Không kìm nổi, tôi đã tát Hùng một cái rồi bỏ về động viên an ủi Mai nên quên con người bội bạc đó đi. Mai buồn và trách cho phận mình tin tưởng vào một tình yêu không có đích. Biết vậy nhưng tôi vẫn đọc được trong suy nghĩ của Mai. Mai không sao quên được Hùng đó là mối tình đầu, họ yêu nhau từ những ngày còn huấn luyện tân binh lại cùng quê Kinh Bắc. Ngày đó ai cũng bảo Mai và Hùng là một đôi trai tài gái sắc, tâm đầu ý hợp. Không hiểu sao Hùng đã thay đổi nhanh như vậy. Tôi mải băn khoăn suy nghĩ và đã có lúc tôi cho rằng mình thật là vô duyên, tại sao cứ hay nghĩ chuyện tình của người khác, muốn gạt bỏ mọi chuyện đó đi, nhưng càng nghĩ tôi càng không sao quên được. Mặc dù đã hết hội diễn, các diễn viên trong đoàn đã được thưởng phép và đi nghỉ nhưng tôi vẫn quyết định tìm đến đơn vị Hùng một lần nữa. Và lần này tôi đến với mục đích tiếp cận bạn bè của Hùng trước. Qua tìm hiểu, tôi được biết Hùng là một đồng chí cương trực, có năng lực, trình độ, tuy nhiều lúc hơi nóng nảy bất cần. Hùng rất yêu Mai, tình yêu ấy đã bao năm nay chắp cánh cho Hùng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nếu có dịp Hùng sẽ xin thủ trưởng đơn vị cho chuyển công tác về gần người yêu. Dự định đó của Hùng chưa kịp đề xuất với thủ trưởng đơn vị thì nhận được lá thư nặc danh viết về Mai. Nội dung lá thư nói Mai không chung thủy với Hùng. Hùng không tin được là Mai như vậy. Anh lặng lẽ về quê và đến đơn vị Mai công tác, nhưng cũng không gặp được Mai. Mai đã đi lưu diễn gần ba tháng với đội văn nghệ Binh đoàn. Hùng sinh nghi và quyết định không liên lạc gì với Mai từ đó. Tôi còn nghe nói hôm diễn ở Đảo, Hùng đã mượn cô báo vụ ngồi dưới hàng ghế sân khấu nhằm trả thù Mai chứ hiện nay Hùng vẫn chưa yêu ai cả.

Biết được chuyện cua Hùng như vậy. Tôi cứ băn khoăn tự hỏi: có nên nói với Mai không: có nối lại chuyện tình yêu của họ không, hay im lặng? Biết đâu Mai sẽ yêu tôi. Bao nhiêu câu hỏi đặt ra, đeo đuổi, ám ảnh tôi đêm ngày. Mặc dù rất yêu Mai nhưng tôi vẫn biết rằng đó là tình yêu đơn phương. Cuối cùng, tôi quyết định viết thư cho Hùng và nói rõ mọi chuyện về Mai cho Hùng nghe, trong thư có đoạn:


"... Hùng ơi! cậu có biết không, những tháng ngày lưu diễn của Mai là những ngày Mai buồn và nhớ Hùng nhất, mỗi ngày đến mỗi đơn vị, ăn uống theo thực phẩm của từng vùng rất hhó khăn, khổ nhất là nước tắm, cả đội văn nghệ ai cũng bị ghẻ nước, ở miền núi nhiều đồi đi tắm cũng phải xa hàng cây số, những tất cả vì đồng đội vì bà con dân tộc thiểu số, cả đoàn đã đem đến những đêm diễn thật vui vẻ.

Mai là một diễn viên sáng giá của đoàn, đẹp người, đẹp nết, rất nhiều chàng trai  theo đuổi trong đó cũng có mình. Nhưng Mai của cậu cũng không nhận lời ai cả mà chỉ yêu mỗi Hùng thôi. Hạnh phúc của mình mà không biết giữ, đến lúc tuột khỏi tay mình rồi, nhận ra thì... cũng đã muộn. Hiện bây giờ còn chưa muộn nên mình thư cho cậu, mình nghĩ cậu sẽ biết phải làm gì. Giá mình là cậu, mình sẽ ôm trọn vầng trăng mà không bao giờ khuyết..."


Hết đợt lưu diễn phục vụ các đơn vị trong năm, tôi được cử đi học nâng cao tại trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật quân đội. Ra trường tôi được ở lại công tác tại trường. Từ đó tới nay đã bốn năm. Tôi mới có dịp trở lại đơn vị cũ dự ngày gặp mật truyền thống kỷ niệm ba mươi năm thành lập Binh đoàn. Gặp lại Mai. Mai vẫn đẹp như ngày nào, và đã lập gia đình cùng Hùng, họ đã sinh được một cậu con trai kháu khỉnh. Trong không khí đầm ấm của ngày hội ngộ, Hùng bắt tay tôi và nói, gương mặt rạng ngời hạnh phúc:
- Cám ơn cậu đã tìm lại cho mình vầng trăng tròn Kinh Bắc.


                                                                                               Bắc Giang, tháng 3-2002
                                                                                                            H.C

NGUYỄN QUỐC HƯNG



NỀN TẢNG VỮNG CHẮC

"... Đó là những vấn đề mà Đại hội chúng ta cần thẳng thắn, đánh giá bàn biện pháp thực hiện xây dựng vào đề án Đại hội nhiệm kỳ.
       Sau đây mời Đại hội chúng ta nghỉ giải lao mười lăm phút..."

Tranh thủ lúc giải lao của đại hội Ban chấp hành Đoàn xã Lan Mẫu, là đại biểu của đơn vị kết nghĩa với Đoàn địa phương tới dự, tôi đang mải mê ngắm nhìn những giọt sương đêm tinh khiết còn vương trên những cánh hoa điạ lan tím ngắt, chợt có tiếng người con gái :
- Mời anh vào trong phòng uống nước.

Tôi quay lại thì thấy Lan, cô bí thư chi đoàn mà tôi mới biết tên cách đây được ít phút đang nở nụ cười tươi rói nhìn tôi.

Lan có dáng người mảnh mai, nhanh nhẹn, khuôn mặt rạng ngời với đôi mắt đen huyền bí như cất giấu đi cái tuổi hai tám của người phụ nữ đã có hai con.
- Vâng! Chị cứ để tôi tự nhiên - tôi đáp.

Rồi tôi đưa mắt nhìn Lan và hỏi:
- Lan này? Hình như tôi nhớ không nhầm, thì ngay đám địa lan này ngày xưa là một cây đa to?

Lan đưa mắt nhìn tôi có vẻ hoài nghi rồi hỏi:
- Anh mới về nhận công tác ở đơn vị được thời gian ngắn, mà sao anh lại biết chuyện ngày xưa của địa phương em? Lại còn biết cả cây đa ở đây nữa?

Câu hỏi của Lan đã làm trỗi dậy trong tôi kỷ niệm của những ngày đầu đời quân ngũ, chính trên quê hương của Lan...

Ngày ấy, nơi đây, dưới gốc đa này đã từng diễn ra những buổi giao lưu giữa Đoàn thanh niên của hai đơn vị. Những câu hò, điệu hát, rồi những buổi hái hoa dân chủ... những hoạt động phong phú có ý nghĩa đã đưa cánh trẻ chúng tôi gần nhau, hiểu biết nhau hơn. Rồi những ngày lao động xã hội chủ nghĩa thật là tưng bừng náo nhiệt, băng cờ khẩu hiệu, những lời ca tiếng hát được cất lên xua đi cái mệt mỏi, nhọc nhằn, cái nắng oi ả của tháng năm. Để những con đường lại đẹp hơn, bằng phẳng hơn, rộng rãi hơn. Cũng chính từ những hoạt động này đã nảy nở  những tình cảm lứa đôi... Tôi nhắc lại tất cả những kỷ niệm đó với Lan. Lan nhìn tôi dò xét:
- Thế anh là...
- Hóa ra, Lan chính là người yêu của trung đội trưởng chúng tôi ngày xưa sao? - Tôi hỏi lại Lan, không giấu nổi sự ngạc nhiên.
- Vâng anh ạ! Lan đáp khẽ, giọng hơi chùng xuống. Sau những ngày tháng đó, em buồn lắm. Chỉ vì các cụ nhà em phong kiến quá, lại không muốn gả con gái đi xa. Còn chúng em thì dù sao vẫn quyết tâm đến với nhau. Anh Mạnh cũng biết chuyện đó. Anh ấy buồn ghê lắm. Đến tháng 8 năm 1993 anh ấy chuyển đơn vị khác. Lúc đầu chúng em luôn thư từ cho nhau, sau thưa dần và rồi chúng em chia tay nhau trong im lặng như thế.

Rồi giọng Lan trở nên cứng cáp hơn:
- Thôi! Đấy là chuyện của ngày xưa! Bây giờ đã khác nhiều lắm rồi anh ạ! Em đã có hai cháu, một gái, một trai. Cháu gái đầu năm nay lên tám tuổi đang học lớp hai, còn cháu trai năm nay lên ba, chúng nó nghịch ghê lắm cơ. Thay mặt nhà em, lúc nào rảnh mời anh đến chơi với gia đình em.
- Cảm ơn Lan! Khi nào rỗi, tôi nhất định sẽ đến thăm gia đình! Thế anh ấy nhà em hiện đang công tác ở đâu?
Lan đưa mắt nhìn ra xa và thở dài:
- Anh ấy nhà em hơn em hai tuổi, anh ấy cũng là bộ đội, ngày trước đóng quân ở tận trên Lạng Sơn. Không hiểu vì sao em thấy bảo nhà em... anh ấy vì sức khỏe yếu không thể đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, nên tổ chức đã cho anh ấy xuất ngũ năm 1997! Cũng là cái may anh ạ!
- Sao lại là may? - Tôi cắt ngang lời Lan.
- Thì anh bảo, nếu không có anh ấy luôn ở bên động viên, đỡ đần cho mẹ con em thì chắc em không có điều kiện, thời gian để tham gia hoạt động đoàn thể được.
Lan nhìn tôi cười đầy ẩn ý:
 - Không biết thế nào chứ? Ở bên em anh ấy khỏe vô địch đấy anh ạ...
 Tôi bật cười nhìn Lan và thầm nghĩ... "Đúng là cán bộ đoàn”.

Lan kể tiếp :
- Chắc anh mới về đơn vị nên chưa biết đấy thôi. Giữa chính quyền và các đoàn thể lãnh đạo, chỉ huy đơn vị vẫn giữ được tình cảm tốt đẹp trên nền tảng ,vững chắc và đang đơm hoa kết trái anh ạ? Như anh đã biết đó, tuy đời sống quệ em có phần đã thay da đổi thịt, nhưng nếu không có được sự giúp đỡ của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Binh đoàn cũng như sự giúp đỡ của cán bộ, chiến sĩ K291 thì không biết đến bao giờ bộ mặt một vùng quê như nơi đây mới mở mày, mở mặt được hả anh?

Để minh chứng Lan đưa ra những dẫn chứng:
- Anh biết rồi đấy, con đường từ quốc lộ 13 vào đến đây ngày xưa hễ mưa là lầy lội, ổ gà ổ voi, ngày nắng thì bụi bặm, từng chuyến xe vào lấy hàng đi qua là một luồng bụi đất quấn theo đỏ quạch. Hai bên đường không thấy màu xanh của lá, của hoa mà chỉ thấy độ dày của bụi đường. Khổ lắm anh ạ! Nếu cứ phải đi ra chợ Sàn thì đâu có dám ăn mặc diện như bây giờ!
- Thiệt thòi cho bọn con gái chúng em. Giọng Lan trở nên xa vắng, nuối tiếc. Người ta thì như hoa, như lụa. Còn chúng em thì... Chỉ thấy bụi đường bám đỏ. Nhưng ngày nay thì hoàn toàn đổi thay rồi. Con  đường huyết mạch đấy thực sự đã tô thắm cho bộ mặt quê hương em, nó đã làm thay đổi toàn bộ cuộc sống và cả nếp nghĩ của người dân quê em đấy anh ạ? 
Chẳng đợi phản ứng của tôi. Lan vẫn say sưa:
- Anh không biết chứ, ngay mới đây thôi. Bằng công sức, tiền của, đặc biệt bằng tình cảm, tấm lòng của toàn thể cán bộ, chiến sĩ K291 các anh, đã trao tạng cho trường tiểu học Lan Mẫu xã em toàn bộ trang bị nội thất cho các phòng học. Thật là một tình cảm đáng trân trọng...

Vừa lúc đó, từ trong hội trường tiếng đồng chí tổ chức Đại hội triệu tập tiếp tục vào giờ thứ hai. Chúng tôi cùng vào hội trường, những suy nghĩ trong tôi về Lan, về vùng quê này trong cuộc sống hiện tại chiếm hết quãng thời gian còn lại của Đại hội. Ánh nắng ban mai rắc đầy căn phòng dần xua tan cái lạnh đầu mùa.
Lòng tôi thấy ấm áp vô cùng.


                                                                                                  Tháng 11 năm 2002
                                                                               Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang
                                                                                                         N.Q.H

BÙI HUY CƯỜNG
NGÀY MAI TRỜI ĐẸP

Tôi đang chuẩn bị cho chuyến công tác sáng hôm sau thì có tiếng đồng chí Thiền – tiểu đội trưởng gọi từ ngoài sân:
- Anh Cường ơi! Anh có thư đây này!
Lướt nhanh ngoài phong bì tôi biết đó là thư của Hẹn, mặc dù thư không đề tên người gửi.
- Nó bỏ chung phong bì thư gửi cho em. - Thiền vừa đưa bức thư cho tôi vừa nói.

Hẹn là chiến sĩ của đại đội tôi đã xuất ngũ đợt đầu năm 2002. Đọc xong thư tôi cứ suy nghĩ mãi và nhận ra một điều: ngay ở nơi khó khăn vất vả vẫn tìm thấy niềm vui từ cuộc sống, từ công việc.

Thư Hẹn viết có đoạn: "... Khi còn trong quân ngũ ở Sư đoàn 325 của mình, em cứ mong từng ngày hết nghĩa vụ để được trở về quê hương. Nhưng khi đã về địa phương rồi, lại thấy nhớ đơn vị vô cùng. Giờ đây, em mới hiểu sự mong mỏi đso không phải vì sự  huấn luyện, rèn luyện chặt chẽ, vất vả, mà là lòng mong muốn  làm tròn nghĩa vụ của người thanh niên với Tổ quốc. Khi em hiểu ý nghĩa của những năm tháng sống trong quân ngũ, những tình cảm của các anh, của đồng đội thì cũng là lúc em phải xa mọi người. Gia đình, bạn bè làng xóm ai cũng bảo: Thằng Hẹn đi bộ đội về trông chững chạc, chín chắn hẳn, ăn cơm Nhà nước có khác...".

Những kỷ niệm theo từng con chữ của Hẹn ùa về trong tôi. Ngày đó, vào cuối năm 1999 đầu năm 2000, tiểu đoàn 6 chúng tôi có nhiệm vụ tuyển chọn hơn bốn trăm chiến sĩ mới thuộc bốn huyện của tỉnh Hải Dương. Do đơn vị thiếu cán bộ, nên cấp trên giao cho tôi làm trưởng đoàn tuyển quân ở huyện Gia Lộc. Tôi rất lo lắng, vì mình ra trường mới được một năm, chưa đi tuyển quân bao giờ, nói gì đến làm trưởng đoàn. Ngoài việc chuẩn bị đầy đủ các tài liệu văn bản có liên quan, tôi còn hỏi thêm kinh nghiệm của những người đã đi tuyển quân nhiều năm. Nghe mọi người nói tuyển quân trong thời buổi kinh tế thị trường phức tạp lắm, không ít thanh niên nghiện hút, nhiễm HIV, tôi càng lo lắng hơn.

Ngày đầu tiên đến để họp hiệp đồng công tác với địa phương là một buổi sáng mùa đông se lạnh, những tia nắng mùa đông yếu ớt đang xua đuổi dần đi sự lạnh giá còn đọng trên những ngọn cỏ, cành cây. Tôi thực sự bị cuốn hút bởi sự náo nhiệt, hối hả của một thị trấn miền xuôi. Nó khác hẳn với Chũ - thị trấn huyện Lục Ngạn nơi đơn vị tôi đang đóng quân. Dòng người, xe cộ ngược xuôi tấp nập, ai cũng như muốn đi cho thật nhanh - đúng là thời mở cửa có khác. Tôi thầm nghĩ. Đang chăm chú ngắm nhìn phố phường, suy nghĩ miên man, bỗng một giọng nói bên tai:
- Cái chú này? Sao đi lại nghênh ngang.

Liền đó tôi thấy cánh tay mình đau nhói, tê đi, cặp tài liệu văng xuống đường. Tôi quay lại... Ôi... một khuôn mặt nữ sinh với đôi mắt trong veo, vừa hồn nhiên, vừa tinh nghịch đang nhìn tôi. Cái bực tức trong tôi bỗng tan biến khi bắt gặp ánh mắt ấy:
- Ơ... chú. . . à anh có làm sao không ạ? - Cô bé cười xí xoa.
- Sao húc vào người ta còn bảo người ta đi nghênh ngang, đúng là nhất quỷ nhì ma.- Tôi châm chọc và cúi nhặt cặp tài liệu.
- Tại cái ôtô chứ đâu phải tại em! - Cô bé cự lại.

Trông khuôn mặt cũng xinh xắn, nhưng sao giỏi cãi thế. Chắc đành hanh phải biết, đúng là xui xẻo, ngày đầu đi làm đã không gặp may mắn - Tôi nghĩ thế nhưng không nói gì.

- Thế anh đóng quân ở đâu cơ ạ? - Cô bé bắt chuyện.
Thoáng ý nghĩ tinh nghịch, tôi trả lời: .
- Ở rừng sâu bé ạ !
- Rừng sâu là ở đâu mới được chứ? - Cô bé gặng hỏi.
- Đã là rừng sâu rồi thì còn biết ở đâu nữa!
Tôi nhủ thầm sẽ chọc tức để xem cô bé đành hanh tới mức nào.
- Cái anh này, đúng là ... thế anh về đây làm gì?

Giọng nói nghe dịu dàng hơn không còn chanh chua như lúc đầu nữa. Kể ra cũng dễ thương đấy chứ.
Tôi chợt nghĩ.
- Anh về đây tuyển quân, em có muốn đi bộ đội không? - Tôi đổi cách xưng hô.

Em định nói điều gì đó, nhưng bạn em giục đi sợ muộn học. Em nhìn tôi cười rồi đạp xe đi. Tôi đọc được trong ánh mắt hồn nhiên vô tư đó một điều gì khó gọi thành tên. Tôi cũng cười đáp lại thầm nói - Mong có ngày gặp lại. Từ hôm đó, khuôn mặt, nụ cười, ánh mắt của em luôn ám ảnh tôi.

Hội nghị hiệp đồng hôm đó, thành phần gồm trưởng đoàn tuyển quân các đơn vị về lấy quân và Huyện đội. Tôi hồi hộp, lo lắng vì có một mình đeo quân hàm thiếu úy, nhưng rồi những đề nghị, yêu cầu của tôi cũng được chấp thuận, văn bản được  ký, tôi thở phào nhẹ nhõm, ngày đầu như vậy là  tốt đẹp.

Những ngày tiếp theo, chúng tôi ở trọ tại nhà dân và đi thâm nhập thực tế. Đó là gia đình chú Thìn, cô Chải, nhưng chúng tôi quen gọi là chú Thìn Chải hoặc cô Chải Thìn. Nhà còn có bà cụ đã ngoài bảy mươi nhưng vẫn minh mẫn và cậu con trai học lóp bảy rất thích các chú bộ đội. Chúng tôi có sáu người: Tôi, đồng chí Quân, Ngọc, Phúc - Trung đội trưởng và đồng chí Cương - Tiểu đoàn phó quân sự phụ trách cả bốn huyện mà tiểu đoàn tuyển quân. Gia đình cô chú Thìn Chải làm nghề buôn bán rau quả ở chợ Cuối. Cô chú dành cho chúng tôi cả một ngôi nhà lầu sáu mươi mét vuông và một chiếc tủ để làm việc.

Ba ngày đầu, chúng tôi nghiên cứu hồ sơ, ghi lại những chi tiết cần lưu ý để đi thâm nhập.

Hàng ngày, chúng tôi có nhiệm vụ sáng đi xuống xã chiều về báo cáo kết quả. Mấy ngày đầu trôi qua, kết quả bình thường, cũng không mấy phức tạp như tôi đã nghĩ.

Tôi phụ trách khu vực thị trấn. Hôm đó, cũng như mọi ngày đi thâm nhập. Tôi và hai đồng chí huyện đội bắt đầu phần việc của mình. Chúng tôi tìm đến gia đình ông Bình có con trai nhập ngũ tên là Minh. Có mặt lúc chúng tôi làm việc còn có bà nội của Minh. Tôi ngồi trên chiếc ghế đã ọp ẹp kín đáo nhìn khắp căn nhà một lượt. Trong ngôi nhà gạch cấp bốn chưa kịp trát, ở mấy hàng gạch gần móng đã bắt đầu mọc rêu ấy không có gì đáng giá hơn là một chiếc xe đạp nam khung đen bóng mầu sắt chứ không phải màu sơn, ba chiếc giường gỗ tạp đã nga mầu bởi thời gian và mồ hôi người.

Vẫn thủ tục quen thuộc, tôi bắt đầu:
- Báo cáo chú và gia đình, đơn vị cháu là đơn vị 95 - Sư đoàn 325 - Binh đoàn 2 là đơn vị anh hùng đã lập nhiều chiến công trong hai cuộc kháng chiến cứu nước. Hiện nay, đơn vị cháu đang đóng quân tại huyện Lục Ngạn - Bắc Giang. Là đơn vị chủ lực đủ quân, nhiệm vụ chính là huấn luyện sẵn sàng chiến đấu...

Sau phần giới thiệu về đơn vị tôi hỏi những chi tiết liên quan đến chính trị về gia đình và bản thân Minh để ghi vào hồ sơ. Khi được hỏi về nguyện vọng gia đình, ông Bình nói:
- Cháu Minh là con cả trong gia đình tôi, các em còn đang đi học, mẹ cháu đau ốm luôn, hiện vẫn đang nằm viện, bà thì đã già yếu nên tôi phải lấy vợ sớm cho cháu để có người làm. Gia đình muốn xin cho cháu hoãn nhập ngũ năm nay vì con nó còn nhỏ.

 Chắc lại không muốn cho con đi bộ đội đây mà - nghĩ vậy nên tôi nói:
- Gia đình cứ yên tâm, đơn vị và địa phương sẽ xem xét lại trường hợp của Minh nhà ta, nếu không nằm trong diện được hoãn hoặc miễn thì vẫn phải nhập ngũ đợt này.

Chúng tôi chào gia đình ra về. Do phải cất tài liệu nên tôi ra sau, lúc đó đồng chí Đào - xã đội phó và đồng chí Phán - trợ lý huyện đội đã ra ngoài sân. Tôi đứng dậy định đi ra thì bố của Minh níu lại.
- Anh cố gắng giúp đỡ em nó và gia đình tôi.

Ông nói rồi giúi vào tay tôi một nắm tiền loại mười nghìn đồng. Tôi đoán khoảng hai, ba trăm nghìn gì đó. Tôi thật sự bị bất ngờ, liếc nhìn mọi người, bà cụ, bố Minh và Minh đều nhìn tôi chờ đợi. Nhìn khuôn mặt già nua khắc khổ, buồn rầu của bà cụ, tôi cũng thấy có nét gì đó rất quen. Đúng rồi, mỗi khi nói đến hoặc phải chứng kiến những chuyện bất công, những điều trái ngang, bà tôi cũng thường như vậy. Bà tôi suốt một đời chắt chiu lo cho con cháu, nay đã gần tám mươi tuổi nhưng có miếng gì ngon vẫn nhường con nhường cháu. Có lẽ, những người mẹ, người bà Việt Nam đều như vậy cả . Còn thằng bé trên tay Minh kia, chắc chỉ bằng thằng Thanh - con anh trai tôi.

Gạt tay ông Bình, tôi nói:
- Chú không cần phải làm như vậy đâu, đây là nhiệm vụ, trách nhiệm của chúng cháu, chú cất tiền đi.
Ông Bình vẫn ngần ngừ, cố giúi nắm tiền vào tay tôi và nói:
- Gia đình không có nhiều, biếu các anh mấy đồng uống nước, mong các anh nhận cho.
Tự nhiên thấy mặt nóng bừng, tôi nói:
-Chú cất tiền đi, lỡ người ta nhìn thấy hiểu lầm ảnh hưởng đến bản thân cháu và đơn vị, chú sẽ phải chịu trách nhiệm đấy.
- Vâng... vâng!

Ông Bình nói và miễn cưỡng bó nắm giấy bạc vào túi, vẻ mặt lộ rõ sự thất vọng. Tôi không nói gì nữa, xoay người định bước ra. Nhưng rồi, nghĩ thế nào, tôi quay lại nói:
- Gia đình cứ yên tâm, cháu sẽ báo cáo cấp trên cùng hội đồng nghĩa vụ quân sự xem xét lại trường hợp của Minh.
- Vâng... Vâng... các anh cố gắng giúp đỡ, gia đình sẽ không quên ơn các anh đâu. - Ông Bình rối rít đáp lời.
Mặc dù ông nói vậy, nhưng nhìn vào mắt ông, tôi thấy hình như ông chưa hẳn tin vào điều tôi nói.

Tôi ra về mà lòng cứ thấy băn khoăn, day dứt. Tuy đã nghe nhiều chuyện tiêu cực của thời kinh tế thị trường, nhưng chẳng lẽ có người dân lại nhìn bộ đội bằng con mắt như vậy sao? Bao năm học trong trường sĩ quan, công sức thầy cô dạy bảo, cả cuộc đời cha mẹ chắt chiu chăm sóc, nuôi nấng ta, chẳng lẽ chỉ đáng mấy trăm ngàn thôi sao?! Hay mình quá dại dột, không thức thời, không biết tận dụng cơ hội? Là trưởng đoàn, tôi biết mình đủ khả  năng gạt một vài trường hợp ở lại mà không ai ý kiến gì.

Ngay ngày hôm sau ông Bình đến nhà chúng tôi trọ có vẻ tự nhiên hơn, ông nói rành mạch:
- Các anh lo giúp em nó, tốn kém bao nhiêu các anh cứ nói để gia đình lo liệu.

Như có cái gì đó chạy qua thái dương, nhưng tôi vẫn cố gắng kìm chế. Mấy trăm ngàn so với những người giầu có chẳng đáng là bao, nhưng với tôi nó bằng cả tháng lương thiếu úy và chắc chắn nó có thể nuôi sống gia đình ông cả tháng trời. Bất chợt tôi thấy rùng mình, nếu tất cả mọi thứ đều có thể mua bán được thì sẽ chẳng còn gì là quý giá nữa. Tôi nói với ông, giọng lạnh lùng:
- Chú cứ về đi, nếu lần sau có gì đề nghị, chú cứ đến cơ quan Huyện đội, chứ cháu không giải quyết công việc ở nơi đây.

Ông chào tôi ra về. Nhìn những bước chân nặng trĩu và dáng đi như tàu lá héo kia, tôi đoán chắc ông đang nghĩ tôi chê số tiền đó là ít!?

Tôi đem những băn khoăn báo cáo với đồng chí hướng - Tiểu đoàn phó quân sự, anh nói:
- Cậu làm thế là đúng đấy! Chúng ta không thể đánh mất danh dự, sự nghiệp của mình, truyền thống của đơn vị vì những đồng tiền đó được, tiền thì bao nhiêu tiêu cũng hết. Nhưng cậu nhớ kiểm tra lại trường hợp đó xem, nếu khó khăn quá thay người khác cũng được.

Thế rồi những ngày công tác tại Gia Lộc cũng hết, quân số đã chốt, chỉ chờ bàn giao. Tối trước hôm nhận  quân về đơn vị, chúng tôi đi chào bà con quanh xóm.

Về đến nhà thì đã muộn. Đến cổng tôi nghe tiếng bà cụ gọi:
- Cường ơi! Có cô nào chờ cháu từ tối đây này!

Tôi hồi hộp tự hỏi: "Ai vậy nhỉ? Mình có quen ai ngoài Hoài đâu”. Hoài chính là cô bé đã húc xe đạp vào tôi hôm đầu tiên đến Gia Lộc. Sau cái "va chạm định mệnh" ấy, trái tim tôi luôn ấp ủ hình bóng của em. Tình cờ một hôm đến nhà chú Vần - Trưởng thôn để liên hệ công tác, tôi gặp lại em. Em là con gái của chú Vần. Từ hôm đó chúng tôi trở nên thân thiết và tình cảm đến với chúng tôi rất tự nhiên và trong sáng.

Chắc không phải là Hoài rồi, vì tôi vừa chia tay em. Ai nhỉ? Tôi bước vào nhà...
- Bà ơi! Cô ấy đâu rồi?
- Đó! Bà chỉ người đàn ông đang ngồi ở ghế.
- Thế mà cháu cứ tưởng thật!
Tôi nhận ra đó là chú Bình, bố của Minh. Tôi rót nước mời chú rồi chủ động hỏi.
- Chú gặp cháu có chuyện gì không ạ?
Chú Bình chậm rãi:
- Nghe cháu Hoài nói ngày mai các anh về đơn vị, hôm nay, tôi mới dám sang gặp các anh, trước hết là cám ơn các anh đã cho em Minh hoãn nhập ngũ năm nay, sau là mong các anh thông cảm về chuyện "tiền nong” hôm trước.
Nghe nhắc tên Hoài, tôi giật mình ấp úng.
- Dạ! Thế Hoài là ... ?
Như hiểu được thắc mắc của tôi, ông giải thích:
- Hoài là cháu họ nhà tôi! Thế mà tôi đâu có thấy Hoài nói gì?
- Chú cẩn thận quá, chuyện ấy có đáng gì đâu ạ.
- Gia đình, đặc biệt bà cụ nhà tôi cứ áy náy mãi vì đã hiểu sai về các anh bộ đội.
- Thưa chú! Bộ đội chúng cháu đều là con em của nhân dân, đi đến đâu cũng được nhân dân đùm bọc giúp đỡ, nên cháu nghĩ, ở cương vị của cháu chắc ai cũng sẽ làm như vậy thôi! Được chú, gia đình, bà con hiểu và thông cảm là chúng cháu mừng lắm rồi. Ông vui vẻ ra về không quên chúc chúng tôi lên đường mạnh khỏe, công tác tiến bộ.

Nhìn lên bầu trời với muôn ngàn vì sao lung linh, tôi bỗng thấy thanh thản lạ thường. Những người  nông dân thật thà, mộc mạc nhưng vẫn sâu sắc biết bao...

Bỗng có bàn tay ai đó vỗ vào vai tôi. Tôi quay lại, nhận ra Cường:
- Lại nhớ cái Hoài phải không? - Cường vừa hỏi vừa nháy mắt trêu.
- Không hẳn thế anh ạ!
- Thôi, đi ngủ đi, mai còn nhận quân. Nhiều sao thế này, nhất định mai trời sẽ đẹp! - Anh Cường nói rồi đi vào nhà.

Tôi theo chân anh Cường vào nhà, lòng vẫn miên man suy nghĩ ngoài kia, bầu trời đầy sao lấp lánh.


                                                                     Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang
                                                                                      Tháng 11 năm 2002
                                                                                               B.H.C

 NGUYỄN VĂN HIỆP
ANH TẤN


Tôi được mời đến dự lễ kỷ niệm ba mươi năm ngày thành lập tiểu đoàn 32 ôtô vận tải anh hùng.

Thời tiết mấy ngày hôm nay xấu quá. Trên bầu trời, từng đám mây đen vần vũ, mưa rơi rả rích, đến sáng nay thì càng xấu hơn. Mưa tầm tã. Mưa như trút  nước. Tuy vậy, trong hội trường vẫn rất đầy đủ, những mái đầu bạc, những mái đầu hoa râm và cả những mái đầu xanh kề bên nhau kín hội trường. Tất cả đại diện cho các thế hệ kế tiếp nhau từ ngày đầu thành lập tiểu đoàn cho đến bây giờ. Trong không khí trang nghiêm, chúng tôi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm, những chiến tích và truyền thống hào hùng qua ba mươi năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành của đơn vị.

Trong dòng hồi tưởng đó, bỗng có tiếng lộc cộc gõ trên nền đá hoa đều đều rồi dừng lại nơi cưa vọng vào tai tôi. Tôi ngước nhìn ra phía đó. Sát sau cô gái tiếp tân là một người đàn ông cao gầy với chiếc nạng gỗ, mái tóc đã bạc, làn da đen, đặc biệt nơi đuôi mắt phải có một vết sẹo to bằng ngón tay làm xếch lên hàng lông mày lưỡi mác. Trong phút giây, tôi sững người nhận ra đồng đội. Anh Tấn – đúng! Đúng anh Tấn rồi. Mắt tôi chợt nhòa đi. Hình ảnh của chiếc nạng gỗ đưa tôi trở về quá khứ ...

Những ngày cuối năm 1974 đầu năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang bước vào thời kỳ ác liệt, với khí thế hừng hực "Tất cả vì tiền tuyến", "Tất cả vì miền Nam ruột thịt". Chiến trường đang vẫy gọi chúng tôi, những chiến sĩ lái xe mới ra trường tiếp tục vào bổ sung và tăng cường trên huyết mạch giao thông mà quân thù đang điên cuồng chống phá quyết liệt, hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến. Tôi và Thủy cùng quê ở Đông Anh - Hà Nội được điều về nhận nhiệm vụ ở đại đội 3 - tiểu đoàn 32 Vận tải - Cục Hậu cần - Binh đoàn 2.
Sau khi làm xong thủ tục, tôi đi xuống lán ở. Qua  những ngày hành quân vất vả, đặt chiếc ba lô nặng trịch xuống đất, tôi đặt mình nằm xuống. Lán ở vắng tanh. Tất cả đều đi làm nhiệm vụ. Trong cái âm u dưới tán lá rừng, cơn buồn ngủ kéo sập mí mắt tôi lúc nào không biết nửa.

Chợt tôi giật mình tỉnh giấc. Có tiếng nói cười lao xao rõ dần, chắc là cánh lái xe đã về. Rồi một giọng cất lên:
- Này các cậu, cô tiểu đội trưởng thanh niên xung phong hôm nay xinh đấy chứ?
- Cô nào? Cô nào hả? - Tiếng lao xao hỏi lại.
- Cái cô dáng cao cao, da trắng, tết tóc đuôi sam ấy. Dân Hà Nội gốc đấy!
- Cũng được. Một giọng ồm ồm thổ bùn cất lên - Nhưng so với cô y sĩ của mình thì còn kém vài chân kính ...
- Thôi, cậu dừng có nói phét! Cái tướng cậu mà có người yêu xinh thì cô em "Zin-khơ" của mình chạy bằng nước lã.
 - Không tin hả?- Lại giọng nói ồm ồm cất lên – Sau này hòa bình thì các tướng sẽ rõ. Tứ đại mỹ nhân mà nhìn thấy cô em của mình chắc cũng phải lấy tay che mặt.

Tiếng cười rộ lên. Tôi cũng thấy vui vui, thầm nghĩ: Anh này bẻm mép thuộc diện "Một tấc lên trời" đây.

Chợt tiếng anh trung đội trưởng, người mà tôi gặp lúc mới đến vang lên:
- Tiểu đội 3 được bổ sung thêm lính mới nhé. Dân ven đô đấy.
- Đâu? Đâu? Tài mới của tiểu đội đâu rồi?- Cùng với cái giọng đặc trưng, tôi thấy một anh bước vào trong lán. Cái bóng cao kều che đi một phần ánh sáng, tôi thoáng thấy một nụ cười và hàm răng trắng lóa:
- Ái chà! Trắng trẻo thư sinh quá. Dáng này thì  "dài lưng tốn vải" lắm đây.
Đó là người đầu tiên của tiểu đội mà tôi được gặp. Tên anh là Tấn quê ở Hưng Yên.

Chúng tôi nhanh chóng hòa mình cùng đơn vị mới. Có lẽ trong khói lửa ác liệt của chiến tranh con người ta sống gắn bó gần gũi, yêu thương và tình cảm với nhau hơn. Tiểu đội chúng tôi có mười một chiến sĩ lái xe, phần lớn đã có nhiều kinh nghiệm. Tôi trở thành đứa em út của tiểu đội ấy.

Đầu năm 1975, đại đội chúng tôi nhận được lệnh vận chuyển đạn, gạo từ Cam Lộ vào A Sầu, A Lưới và Nam Đông dọc theo hướng của chiến dịch. Trên các con đường quân sự làm gấp, từng đoàn xe hối hả nối đuôi nhau với quyết tâm “Sống bám xe, bám đường, chết kiên quyết dũng cảm", "Tất cả để chiến thắng", "Tuyến trước đạn gạo chưa đủ, chiến sĩ kho ăn ngủ không yên" cuốn chúng tôi trong những ngày tăng cung, tàng chuyến, mặt mũi ai cũng sạm lại, cảm giác đặt đâu là ngủ đấy. Chỉ có ý chí và quyết tâm mới làm con người ta bền bỉ và dẻo dai đến thế.

Giữa tháng, giai đoạn chuẩn bị cho chiến dịch Huế - Đà Nẵng đến thời kỳ cao điểm, tiểu đội chúng tôi nhận mệnh lệnh chuẩn bị kỹ càng phương tiện để vận chuyển phục vụ chiến dịch. Đúng vào ngày mưa tầm tã con đường 10C lầy lội và trơn trượt bởi cái thứ bùn đỏ quạch. Chúng tôi vận chuyển đạn dược từ kho K3 vào khu vực Động Truồi, Ngầm Truồi để tập kết. Xe của tôi đi ở gần cuối đội hình, phía sau là xe anh Tấn và Thuỷ. Trong cái âm u của đêm rừng, xe tôi trườn đi chậm chạp, tiếng bánh xe lăn trên bùn lầy lép  nhép. Phía sau ánh sáng vàng ệch của chiếc đèn gầm,  trời tối đen, đặc quánh, căng mắt ra cũng chẳng thấy gì, cảm giác như có thể cắt ra được thành từng miếng. Không còn tiếng ầm ì của bom đạn, những giây phút lặng đi đến rợn người của chiến tranh như báo hiệu cái ác liệt đang đón chờ phía trước.

Chợt tôi giật thót người. Có ánh sáng trắng vút lên bầu trời. Pháo sáng! - Tôi nghĩ, rồi nghiêng người nghe ngóng. Không có tiếng máy bay, không có tiếng rít lên của pháo đạn. Có lẽ chúng bắn canh đường. Tranh thủ ánh sáng ấy, tôi nhấn ga cho xe chạy nhanh thêm. Bỗng: khục, khục, chiếc xe giật lên, tiếng máy lịm đi rồi tắt ngấm. "Thôi chết, xe có vấn đề rồi". Tôi lo lắng thầm nghĩ. Cầm vội chiếc đèn pin, tôi lao ra khỏi buồng lái, bật tung nắp ca-bô, hơi nóngtràn lên mặt tôi bỏng rát. Trong ánh đèn đã bịt đi còn nhỏ xíu, tôi vội lần dây cao áp bật nhẹ má bạch kim,  tiếng cao áp kêu tanh tách, xanh lét mập đều. Điện tốt! Sao lại thế nhỉ? Tôi loay hoay lần tìm cuống quýt, mồ hôi chảy ròng ròng nhớp nháp. Ánh sáng của chiếc pháo sáng chợt run rẩy rồi vụt tắt trên bầu trời.
- Xe cộ chuẩn bị thế nào mà nằm chềnh ềnh ở đây, định làm mồi cho địch hả?
Tôi giật mình quay lại. Mải loay hoay, không để ý, anh Tấn đã đứng phía dưới từ lúc nào! Tôi quay ra chăng để ý đến giọng gắt gỏng của anh, mặt nhăn nhó:
- Chẳng hiểu sao xe đang chạy lại lịm đi như lả đói. Mà hôm ttrước, em đã kiểm tra và chuẩn bị kỹ rồi cơ mà ...
- Cơ mà cái gì? Không nhanh lên đến Ngầm Truồi là dính vào giờ cao điểm thì có nước ăn cám - Vừa nói anh vừa leo lên bađờxốc - Đưa đèn pin đây cho tao, đã kiểm tra điện chưa?
- Rồi, điện tốt - tôi đáp.
Anh cúi gập người trên nóc máy một lát chợt hỏi:
- Sao bơm xăng lại nặng thế này. Hôm trước có kiểm tra bơm xăng và đường tuy-ô không?
-Có - tôi đáp
- Kiểm tra trong thùng xăng xem.

Tôi bước về phía sau, bùn thụt sâu đến lưng ống chân nhão nhoét. Mở nắp thùng xăng, tôi đưa tay về phía ống hút rồi vuốt sâu xuống dưới. Tôi chợt sững người, có miếng giẻ to bằng ngón tay đã bịt chặt lấy miệng ống từ lúc nào. Tôi liền kéo miếng giẻ đó ra, phải rồi, đây là miếng giẻ tôi đã dùng để lót nắp thùng xăng, thế nào mà lại rơi xuống đáy bị hút vào miệng ống. Hôm chuẩn bị xe, tôi đã chủ quan không xúc rửa, cứ nghĩ là vẫn tốt. Thế mà...
- Đây rồi anh ạ - Tôi nói vọng lên - Giẻ bít đường  xăng. Em sơ suất quá!
Anh Tấn kéo sập nắp ca-bô xuống rồi nói:
- Khẩn trương lên để bám đoàn, còn đứng ngẩn ra đâý à. Tao bơm xăng rồi đấy.

Tôi lên xe xoay nghiêng chìa khóa điện. Tiếng máy gầm lên, chiếc xe lại tiếp tục lao đi trong đêm tối.

Ngầm Truồi đã hiện ra phía trước. Đây là nơi trọng điểm mà địch thường bắn phá. Có lẽ vì thế mà cánh lái xe gọi đây là "Ngầm tử". Xung quanh ngầm chi chít những hố bom, bộ đội công binh và thanh niên xung phong đã tốn bao công sức và xương máu để phá bom và san lấp, nhưng ngày nào cũng phải hứng chịu thêm những quả bom tạ càng làm hoang tàn, chằng chịt, nham nhở thêm những hố nông, sâu. “Bằng mọi cách phải vượt qua ngầm". Ý nghĩ đó thoáng qua, tôi vội rà phanh, đạp ly hợp, giảm số. Chiếc xe chở đầy hàng nặng nề trườn xuống, ánh đèn ngầm loang loáng theo gợn nước lan ra. Tiếng xèo xèo  từ ống xả, từ thân máy bốc lên hơi nước nóng hầm hập. Tôi nhấn ga khi buồng lái đã ghếch lên, một khoảng sáng bờ bên kia đã tiếp vào bánh trước. Bỗng: “Uỳnh" - Một cụm sáng bùng lên cách bên phải xe một đoạn, đất đá văng lên ràn rạt, khói xộc vào trong buồng lái cay xè. Tiếng gầm rú rít lên như xé toác bầu trời. Tôi giữ chắc vô-lăng, nhấn ga, tiếng máy gằn lên giận giữ. Mặc kệ những tiếng nổ chát chúa, xe tôi vẫn lao đi. Hai tai tôi ù đặc, máu sôi lên, chỉ còn đôi mắt căng ra nhìn về phía trước để lách xe qua những hố bom. Chợt tôi thấy mình hẫng đi. Chiếc xe chao nghiêng như muốn đổ. Ánh sáng chói lòa và một tiếng nổ lớn trùm lên giật mạnh. Ngực tôi căng tức như muốn nổ tung, hoa cà, hoa cải như muốn vãi bung trong mắt, miệng sặc sụa những khói bom. Tôi lao ra khỏi ca-bin. Một mảng bên phải thùng xe vỡ toác, lửa bốc lên ngùn ngụt. Phải cửu được hàng! Tôi kéo vội chiếc chăn lao đến trùm lên chỗ cháy, hơi nóng lan nhanh tiếng lép bép to dần. “Nguy quá! Không nhanh lên thì làm mồi cho địch tập trung bắn phá dội bom". Đang nghĩ thế, tôi chợt thoáng thấy một bóng người lao đến. Anh Tấn. Anh đã vượt lên từ lúc nào rồi lao vào chỗ cháy, trong tay cầm chắc chiếc chăn thấm nước. Đám cháy lụi dần... Từ quần áo và chiếc chăn của anh tỏa ra mùi khét lẹt, mặt mũi đen sạm, nhem nhuốc. Anh lao xuống quát lên:
- Lên xe tiếp tục chạy.

Tôi lao lên xe, bỗng thấy tay anh chộp chặt bả vai tôi giật mạnh, ngã dúi. Người anh đè lên tôi, đúng lúc đó một tiếng nổ đanh gọn, chát chúa vang lên. Khói, đất đá trùm lên chúng tôi nghẹt thở. Tôi vội trồi người lên: Nguy rồi! Người anh Tấn mềm nhũn, anh đã bị thương vào đùi, máu ra ướt đẫm. Tôi cởi chiếc áo đang mặc, băng tạm vết thương cho anh. Một lát, anh tỉnh lại, giọng nói yếu ớt đứt quãng:
- Để mình nằm đây.... mau cứu xe... cứu hàng!
Tôi ôm lấy anh không nỡ rời bước. Giọng anh gấp gáp :
- Sơn ... nghe anh!
Tôi ghé vào tai anh, nghẹn ngào, cương quyết:
- Anh Tấn ... Em không thể... !

Tôi bế xốc anh lao đến bên ca-bin. Đặt anh bên ghế phụ rồi nhào lên tay lái. Chiếc xe rùng rùng lao đi trong lửa đạn. Lên đến Động Truồi, tôi đưa anh vào đội điều trị 16 của Viện quân y 43. Lúc này, anh đã  lả đi mặt nhợt nhạt. Tôi ôm ghì lấy anh, đôi môi mặn chát.
Giọng người y sĩ vang lên:
- Anh ấy ở đây đã có chúng tôi, đồng chí cứ yên tâm mà tiếp tục thực hiện nhiệm vụ.
Tôi quay lại nhìn anh, khuôn mặt thân thương giờ đang thiêm thiếp, rồi vội vã chạy đi...

Chiến tranh kết thúc, tôi còn ở lại phục vụ trong quân đội hai năm nữa, sau đó chuyển ngành. Nhiều lúc nhớ đến anh, tôi vẫn tự vấn mình: "Giá như, giá như...". Nhưng có bao giờ sửa lại được cái "giá như" ngày ấy. Đôi lần, tôi có dò hỏi tin tức về anh thì được biết anh đã chuyển về tuyến sau, rồi đi điều trị ở một tuyến an dưỡng nào đó.

Lễ mít tinh kỷ niệm kết thúc, tôi chạy đi tìm anh. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau mừng mừng, tủi tủi rồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm ngày xưa. Cái tiểu  đội có mười một anh tài ngày ấy giờ chỉ còn lại có mấy người - Tôi nói:
- Thằng Thủy về cùng đợt với em, giờ ở Plây Cu. Sau chiến tranh nso về quê lấy vợ, đến năm 1981 thì đi xây dựng vùng kinh tế mới. Còn em thì chuyển về bên thương nghiệp, năm ngoái thì nghỉ hưu. Em được hai cháu, cháu trai đầu học đại  học mới ra trường, cháu gái thử hai thì đang học dở ...
Dừng lại một lát, tôi hỏi:
- Còn anh thế nào?
Anh nhìn tôi chậm rãi: "Cuối năm 1979, mình xây dựng gia đình. Vợ mình vẫn là cô y sĩ ngày xưa đã chăm sóc mình suốt thời gian mình ở trạm. Thú thực đã nhiều lần mình lẩn trốn tình cảm của cô ấy vì sợ với cái nạng gỗ kia, mình sẽ thành gánh nặng cho cô ấy trong suốt cuộc đời. Nhưng cô ấy yêu mình và cô ấy chấp nhận hết tất cả. Cuối năm 1977, vợ chồng mình sinh. một cháu gái; năm 1979, sinh một cháu trai. Cả hai anh em lúc nhỏ thật bụ bẫm, dễ thương. Ai ngờ cử đến tháng thứ tám, thứ chín là chân tay chúng teo tóp dần, đầu phình to ra. Đi khám thì bệnh viện kết luận: Vợ mình bị chất độc màu da cam, cái vết thương ấy còn đau đớn gấp trăm ngàn lần vết thương ở ngoài da thịt, cậu ạ! Cách đây năm năm thì cô ấy bị liệt hẳn".
Anh ngừng lại, giọng nói chợt nghèn nghẹn:
- Gia đình mình, hai vợ chồng và hai đứa con giờ chỉ còn lại một bàn chân...

Tôi nắm chặt tay anh, bàn tay cứng cáp năm nào đã đẩy tôi ngã xuống, che chở cho tôi trong vòng lửa đạn, giờ gầy gò khẳng khiu, xương xẩu. Những vất vả khó khăn của cái gia đình có bốn con người ấy dồn lên cơ thể chỉ còn một bàn chân khiến hai vai anh rũ xuống. Tôi thầm thán phục anh. Anh đâu chỉ đứng lên trong cuộc sống này với một bàn chân ấy, mà đứng lên bằng chính chí ý nghị lực phi thường của ruột người lính được rèn luyện, hun đúc trong khói lửa ác liệt của chiến tranh. Người lính của Binh đoàn Hương Giang anh hùng.

Tôi ôm chặt lấy anh, chiếc nạng gỗ chợt xiêu xiêu như muốn đổ, mắt tôi nhòe đi. Tôi thốt lên giọng tắc nghẽn... Anh Tấn!


                                (Theo lời kể của đồng chí Phạm Thanh Sơn, Cựu chiến binh - Đông Anh - Hà Nội)
                                          Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang, tháng 11 năm 2002
                                                                             N.V.H

PHẠM THỊ LOAN



NGHĨA TÌNH ĐỒNG ĐỘI

Đã lâu tôi mới có dịp rảnh rỗi ghé về thăm đơn vị cũ đóng quân trên địa bàn xã Dĩnh Trì. Từ nơi ở đến nơi làm việc của đơn vị cách nhau 1 kilômét. Con đường đất đỏ dẫn chúng tôi đến nơi làm việc chạy dọc theo xóm Núi, một xóm nhỏ dưới chân đồi heo hút năm nào nay đã thay đổi đến ngỡ ngàng. Ngọn đồi cao vợi nay tràn ngập ánh điện bởi trạm trung chuyển điện cao thế đã được xây dựng đồ sộ ngay trên nền bạt bớt của quả đồi. Hình ảnh cái xóm nhỏ chân chất thuần nông, heo hút năm xưa, nay đã rực rỡ hẳn. Sự thay da, đổi thịt của xóm làng là công sức của bàn tay, khối óc bao con người dang ngày đêm vượt lên trên khó khăn của cuộc sống nông nhàn để vươn lên xây dựng quê hương mình giàu đẹp. Nhìn dòng người tất bật ngược xuôi, gánh hàng đủ các loại, đầy ắp trên vai kĩu kịt rảo bước tới chợ làng, bất giác trong tôi trỗi dậy hình ảnh của anh Kỳ nơi xóm nhỏ này. Trong một đợt tôi theo đoàn cán bộ của Viện 43 Cục Hậu cần đến thăm và tặng quà anh vào dịp tết cuối năm 1996. Cuộc gặp gỡ ấy với những gì mắt thấy tai nghe là cả một bức tranh sống động về hình ảnh anh Bộ đội Cụ Hồ trong chiến đấu cũng như trong lao động, xây dựng, bảo vệ đất nước, vượt lên khó khăn của gia đình góp phần xây dựng quê hương mạnh giầu. Hình ảnh đẹp đẽ ấy đã được anh Kỳ và đồng đội của anh là những cán bộ chiến sĩ Cục Hậu cần để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người dân xóm Núi qua câu chuyện mộc mạc anh kể với chúng tôi.

Anh Kỳ quê Thạch Hà, Hà Tĩnh, xây dựng gia đình với chị Bằng quê tại xóm Núi. Anh chị ngụ cư ở đây. Tình yêu của anh chị xuất phát từ sự cảm thông sâu sắc của hai trái tim mất mát hợp cùng lại với nhau để gánh vác cho nhau những vất vả trong cuộc đời.

Anh Kỳ là người đàn ông đã từng có vợ. Nhưng rồi vợ anh mất, để lại cho anh một cháu trai.

Chị Bằng cũng đã từng lập gia đình. Chồng chị đi chiến đấu rồi hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc tháng 2 năm 1979, để lại cho chị một cháu gái khi ấy mới vừa tròn một tuổi.

Hai người góa bụa đơn côi đến với nhau, xây dựng tổ ấm gia đình sau bao mất mát, thua thiệt mà họ phải gánh chịu, những tưởng cuộc đời sẽ xuôi chèo, mát mái nhưng sự thật lại trớ trêu.

Niềm khát khao của anh chị được có đứa con chung với nhau nhưng chiến tranh đã để lại trong anh chất độc màu da cam - vậy là anh, chị không thể có con chung.

Với đồng lương hưu trung tá 920.000 đồng mỗi tháng, anh chị thuộc diện có thu nhập cao nhất trong cái xóm nhỏ chân chất thuần nông này, cũng là niềm an ủi lúc tuổi già đủ ăn, đủ tiêu. Nhưng cháu gái con anh chị lại mắc bệnh viêm cầu thận nặng từ năm mười ba tuổi.

Để cứu con vượt qua căn bệnh, anh lại bắt đầu cuộc sống đầy khó khăn, bươn chải. Ngoài việc đong thóc, xát gạo kiếm cám chăn nuôi, nhận thầu hai sào ao nuôi cá, anh còn nhận thêm những ruộng trũng cạnh ngòi nước (mà dân ở đây gọi là ùng) những ùng này anh chị cấy lúa một vụ, khi nước dâng cao, dân làng bỏ cấy, anh chị lại cấy rau tăng vụ và đánh bắt cá tự nhiên để lấy tiền thêm thắt vào chữa bệnh cho con. Mặc dù đã đưa đi khắp các bệnh viện, hết lang nọ thầy kia mà cháu vẫn chưa khỏi bệnh.

Anh tâm sự với chúng tôi :
- Nghĩ thương cháu quá, bố mất lúc cháu còn quá nhỏ.
Giọng trùng xuống, anh nói tiếp:
- Có lẽ đời sinh ra tôi và run rủi cho tôi gặp cô ấy để cùng nuôi con cho nhau hay sao ấy!... Thôi thì mọi việc đã sắp đặt, hai chúng tôi chung mà lại riêng, trái lại riêng mà lại chung.
- Nói cho đúng ràng: Hai đứa con đều là của chúng tôi - anh cười đôn hậu. Trên khuôn mặt già nua của anh sáng lên niềm vui, ánh mắt trìu mến nhìn con gái, anh kéo cháu ngả đầu vào vai mình. Bàn tay khô ráp chai sần nhùng vất vả, anh đưa lên vuốt nhẹ mái tóc con. Rồi anh đưa tay kéo cậu con  trai vào lòng mình, tất cả chúng tôi đều nghẹn ngào xúc động.

Câu chuyện rồi cũng đến hồi kết thúc bởi cái tết đang từng giờ, từng phút nhích lại gần, mọi nhà rộn rã gói bánh chưng xanh. Chúng tôi ra về mà lòng chạnh hỏi: có mấy người được như anh Kỳ!

Năm tháng qua đi, dân làng xóm Núi nay đã thay đổi quá nhiều, không biết anh và gia đình thế nào?

Tôi quyết định ghé thăm anh chị. Tìm mãi mới ra cái ngõ nhỏ ngày nào. Vẫn đấy, cảnh xưa người cũ, vẫn khoảng tường trình đất đồi rêu phong đã phủ kín, thỉnh thoảng có khoang đất bị xói lởm chởm bởi nước mưa. Căn nhà xưa vẫn vậy, cả anh chị và cháu  gái đều đang ở nhà. Trông anh chị già hơn, mái tóc anh nay đã bạc đi nhiều. Cháu gái đã ra dáng một cô thiếu nữ, cười nói rất vui. Tôi hỏi:
- Sắp cho cô ăn cỗ chưa?
Cháu cười nói:
- Bất cứ lúc nào cô muốn ạ.
Rồi chạy ra ngõ với đám bạn đến chơi. Anh chị vui mừng mời tôi uống nước và nói :
- Khổ quá, nó đi mấy tuần nay mới về - bạn nó đến chơi.
Tôi mừng quá vội hỏi:
- Thế cháu làm ở đâu? Lương có khá không?
Anh chị vội nháy tôi:
- Không, cháu đi chữa bệnh đấy chứ làm lụng gì đâu!
Chị buồn bã phân trần: .
- Cô đi lâu nay mới về nên không biết, cháu phải đi chạy thân nhân tạo, nếu dừng hai tuần là cháu chết ngay. Tôi sững sờ nghe câu "chết ngay" ở miệng anh chị mà tôi cảm thấy cái chết nó nhanh và nhẹ nhàng làm sao!
Anh kể tiếp:
- Mấy năm vừa rồi khổ lắm cô ạ. Nhà túng bấn đến cạn kiệt vì đi các viện đều không chữa được, nay cháu đi chạy thận nhân tạo. Ngoài tiêu chuẩn bảo hiểm và  tiêu chuẩn ưu tiên con liệt sĩ ra, cháu còn phải tiêu hết 1.500.000 đồng một tháng vào các khoản như: Thuê nhà ở, điện nước, tiền ăn, tiền tàu xe đi lại.
Anh trầm ngâm giây lát rồi nói tiếp:
- Nghĩ lại cái ngày cho cháu đi chạy thận nhân tạo, tất cả mọi thủ tục lo lắng như mọi người, chưa biết đơn từ xin chế độ cho cháu nên cơ cực lắm. Gia đình lúc bấy giờ dốc hết từ lợn, gà đến thóc lúa, đi vay mượn hàng xóm, vay cả ngân hàng mà chẳng đủ. Thậm chí dân làng cũng như mình với vài sào ruộng cấy cộng thêm chăn nuôi thì lấy đâu ra dư dật nhiều  mà cho vay mãi, thành ra có lúc chẳng vay nổi nữa. Mà bệnh của cháu dừng lại là cô biết đấy! Chết ngay! Ngày xưa, trước quân thù chỉ xác định một sống hai chết không quan trọng, chỉ biết đánh thật hăng. Vậy mà đứng trước cái sống, cái chết của con kề nhau chỉ trong gang tấc mà lòng tôi rối bời. Bất chợt tôi nghĩ đến đơn vị xong cũng mất mấy ngày đấu tranh tư tưởng mãi mới dám làm đơn xin trợ cấp khó khăn, vì mình về rồi, mà nhiều người cũng khó khăn chứ không riêng gì mình. Hơn nữa, ngày xưa còn bao cấp nó khác, nay cơ chế thị trường, ai cũng có đồng lương cả. Có tí quỹ vốn là công sức của anh em trong đơn vị lao động suốt cả năm trời. Xoay đi, tính lại, không biết vơ víu vào đâu nên anh liều làm đơn gửi Đảng ủy chỉ huy Cục Hậu cần giúp đỡ. Cô có biết không. Lúc cầm đơn ra đến ngõ có các ông bạn trong hội cựu chiến binh đến chơi, biết việc nói:
"- Cũng khó đấy ông ạ, Nhưng thôi cử đi xem. sao, may ra là phúc cho cháu ". Vậy là anh đi mà không tin tưởng sẽ có kết quả. Thế nhưng may quá cô ạ, khi  đem lá đơn lên, đọc xong các anh trong lãnh đạo Cục đồng ý ngay, các anh ấy nói:
- Thôi dù ít, dù nhiều chúng tôi biết anh và gia đình đang rất khó khăn. Lúc này anh rất cần đến đơn vị, mà cuộc sông của cháu đang rất cần chúng ta, vì vậy còn nước còn tát, đơn vị sẽ hỗ trợ anh gọi là một chút không nhiều". Một lần nữa: Cháu lại được cứu sống.

Còn thời gian sau này nhờ có chính sách đãi ngộ của Đảng và Nhà nước đối với gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng cho nên gia đình bớt được một phần khó khăn.

Anh cho biết thêm: Tất cả khoản lương hưu 920.000 đồng anh dành trọn cho con gái, còn anh chị và cháu trai bươn trải thêm đê sinh sống và kiếm tiền chu cấp thêm cho cháu gái.

Anh nói với tôi rất thật lòng:
- Thôi thì cháu trai đã lớn và có vợ rồi, cho nên hai vợ chồng cháu tự lo thu xếp cho nhau. Nghĩ đi thì cũng áy náy lắm vì vợ chồng cháu cũng vất vả, xong nghĩ lại thì trách nhiệm mọi mặt mình phải lo cho cháu gái để cháu tiếp tục sống.
Tôi hỏi cắt ngang lời anh:
- Thế đoàn thể có ai giúp gì không ạ?
Anh chưa kịp nói thì cháu đã xen vào:
- Có cô ạ! Cả bà Trương Mỹ Hoa cũng đến thăm và tặng quà. Cả ông Nguyễn Trọng Nhân bên hội chữ thập đỏ, rồi cả Bệnh viện Bảo vệ bà mẹ, trẻ em cũng đến.
Cháu còn ghé sát tai tôi nói: Bà Trương Mỹ Hoa còn điện thẳng về cơ quan tỉnh Bắc Giang thế là tỉnh cũng cử người lên thăm và cho quà cháu nhé.
Quay qua anh, tôi hỏi tiếp:
- Thế sau lần trợ cấp ấy đơn vị mình thế nào anh?
Anh vội vàng nói:
- Có, có đấy cô ạ! Năm nào Viện 43 Cục Hậu cần cũng vào thăm và tặng quà cháu nhân dịp tết. Riêng Đảng ủy, chỉ huy Cục Hậu cần đã xuống thăm và tặng quà cháu với danh nghĩa là thăm gia đình chính  sách khó khăn. Tôi trân trọng lắm chứ cô: dẫu ít, dẫu nhiều, tôi thấy cái đẹp đạo đời, nó có trước, có sau, nó có nghĩa, có nghì, nó sâu nặng nghĩa tình người ở lại, người về địa phương. Cục Hậu cần đến với tôi nó còn là tình cảm đồng chí, đồng đội, mà cái nghĩa tình ấy, sứ mệnh tôi đang gánh vác suốt cuộc đời với bố cháu là người đã khuất. Đúng lúc tôi gặp khó khăn nhất thì có đồng đội ở bên!. Đúng lúc cháu gặp hiểm nguy nhất thì đơn vị đã cứu cháu qua cơn nguy hiểm...
Chị Bằng cảm động nói thêm:
- Nếu không có các anh chắc chị không chữa nổi cho cháu đâu em ạ!

Với lời nói mộc mạc từ sâu thẳm đáy lòng mình, chị đang thầm cảm ơn anh, cảm ơn đồng đội của anh đã giành lại cho chị niềm hạnh phúc lớn lao mà chị tưởng như đã tuột khỏi tay từ lâu lắm rồi!


                                                                                Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang
                                                                                                          P.T.L

VÕ XUÂN TRÍ



TÔI VÀ ANH


Xong khóa huấn luyện tân binh tại tiểu đoàn 2, đơn vị 9, Sư 304, tôi và một số anh đã tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm - Đại học Tổng hợp (nay là Trường Khoa học Tự nhiên và Xã hội) được trên điều về nhận công tác tại trường Văn hóa Binh đoàn 2.

Trường ra đời ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta vừa kết thúc. Trường được xây dựng mãi tận trong Long Bình - Đồng Nai. Nhiệm vụ của trường là giảng dạy bổ túc văn hóa gồm các môn: Toán, Lý, Hóa, Văn cho các đối tượng là cán bộ, chiến sĩ trong binh đoàn chưa học hết phổ thông trung học, thậm chí phổ thông cơ sở và ôn tuyển sinh, tạo nguồn đào tạo cho các trường sĩ quan trong toàn quân.

Được về nhận công tác tại trường là một vinh dự với chúng tôi. Bởi chúng tôi biết, mình vừa làm tròn nghĩa vụ với Tổ quốc vừa được rèn luyện thêm chuyên môn.

Vừa đặt chiếc ba lô, treo chiếc áo K82 còn đo bụi đường lên móc, đã nghe tiếng anh Hoàng Khắc Huệ cười đón:
- Xin chào! Các chú đã về đây rồi à. Đi đường có mệt không?

Sự cởi mở, chan hòa của anh trưởng ban khiến tôi thấy bớt đi phần nào nỗi lo lắng, e sợ.

Sau buổi gặp gỡ chóng vánh, chưa kịp làm quen với các anh trong ban, chúng tôi đã nghe anh Huệ nêu khái quát sự ra đời, nhiệm vụ và đặc điểm của trường. Nghỉ ngơi hai ngày để chuẩn bị, chúng tôi được giao nhiệm vụ ngay.

Tôi được phân công thay đồng chí Ánh dạy lớp 10B (hệ bổ túc văn hóa hồi ấy gồm 8, 9, 10A và 10B).
Tôi phân vân:
- Ấy chết, sao lại thế. Báo cáo anh, em mới ra trường, kinh nghiệm chưa có, anh cho em vừa kiến tập vừa đảm nhiệm lớp dưới, vì em...

Vẫn nụ cười sảng khoái, hồn nhiên, cách nói bộc trực của người con xứ Nghệ, anh Huệ ôn tồn nói:
- Chú này, thế là không thực hiện đúng lời thề thứ hai, trong mười lời thề danh dự của quân nhân rồi: Chống lệnh là kỷ luật đấy nhé !

Anh lại cười to, phá tan bầu không khí im lặng của căn phòng. Cả bọn chúng tôi cùng cười theo trước cách vận dụng dí dỏm của anh.

Tôi biết, mình không còn cách lựa chọn nào khác, nên bỗng thấy lo lắng trước nhiệm vụ được giao. Dường như hiểu được nỗi băn khoăn, lo lắng của tôi, tan buổi họp, anh Huệ động viên:
- Có gì, chú cứ hỏi kinh nghiệm anh Ánh, anh Khang. Nhưng phải vững tin ở mình, vạn sự khởi dầu nan mà.
Anh vỗ nhẹ vào vai tôi rồi cười xòa như muốn nhắc: Hãy cố lên.

Từ phòng họp, tôi lặng lẽ, đăm chiêu đi về nhà nghỉ. Chiều hôm đó, mọi người náo nhiệt chơi thể thao, tôi ngồi thu mình trong căn phòng lợp lá cọ đã mục nát loáng thoáng mạng nhện. Nên bắt đầu gì đây? Tôi lục ba lô, lấy ra mấy quyền vở chép tay ở trường, tranh thủ đọc lại. Chưa yên tâm, tôi mạo muội lên thư viện, mặc dù đã đến giờ đóng cửa, cố nài chị thủ thư cho mượn mấy quyển giáo khoa.

Sau một tuần, vừa tu sửa nơi ăn chốn ở, vừa chuẩn bị giáo án, tôi cảm thấy đã có  thể bước vào giảng dạy được rồi.

Sáng thứ hai, tôi thức dậy trước cả kẻng báo thức cố đọc lại giáo án, hình thành trong đầu từng phần của một tiết học. Keng! Keng! Keng! Dứt ba tiếng kẻng tôi đi sau anh Huệ, ngập ngừng bước vào lớp học. Vừa đặt chân vào phòng, tôi bị cuốn hút bởi lớp học khá đông, toàn là những người bằng tuổi anh, tuổi chú của tôi. Cố trấn tĩnh, nhưng không tài nào giấu được bộ mặt bối rối, lúng túng đã đỏ ửng. Anh Huệ cười, nhìn xuống lớp, tiếng xì xào cũng lặng dần:
- Tôi xin giới thiệu, đây là thầy Trí - vừa nói anh vừa chỉ tay về phía tôi - Anh tiếp: Thầy Trí đây sẽ thay thầy Ánh, đảm nhiệm giảng dạy môn văn cho đến lúc hết khóa.

Một tràng vỗ tay rào rào vang lên. Tôi nhìn xuống lớp nở một nụ cười thân thiện, thay cho lời chào.

Anh Huệ chào lớp rồi đi ra. Còn lại tôi với hơn bốn  mươi học viên lớn tuổi. Tôi bỗng thấy lúng túng, miệng cứng lại, chưa biết nên nói câu nào đầu tiên. Lâu sau, tôi nghĩ ra cách giới thiệu tên tuổi, quê quán, học trường nào. Tôi không quên nói thêm đặc điểm cá tính, trình độ hạn chế mong các anh giúp đỡ, góp ý. Giờ học hôm ấy, tôi chỉ củng cố lại bài của anh  Ánh đã lên lớp tiết trước, đồng thời đề ra một số quy định: Nào là phải có bằng ấy quyển ghi chép, nào kiểm tra bài cũ, cho bài tập về nhà. Tôi định, tiết sau mình sẽ thực hiện đúng quy định đã đề ra.

Đúng như quy ước, tiết sau, tôi kiểm tra bài cũ.

Tôi gọi lần lượt ba đồng chí lên bảng, chỉ duy nhất một đồng chí trả lời được, còn hai đồng chí kia (anh  Hưng và anh Sơn) báo cáo là chưa chuẩn bị bài. Tôi tỏ ra thất vọng, khá bực mình vì sao lại có chuyện học viên không thuộc bài, mặc dù câu hỏi của tôi đưa ra có gì là khó đâu? Tôi không ngần ngại "tặng" cho họ những điểm kém, coi đó là sự cảnh cáo về tinh thần học tập của học viên. Sau khi nhận điểm kém, khuôn mặt của anh Hưng, anh Sơn trông buồn bã và trầm lặng hẳn.

Giờ học cứ thế trôi qua nặng nề. Tôi giảng, viết, thuyết trình, nêu câu hỏi gợi mở. Oái oăm thay, tất cả những câu hỏi tôi nêu ra, chẳng có ai xung phong xây dựng bài. Tôi buồn lắm, tự cho rằng: Có lẽ đây là hình thức lớp phản đối mình đây.

Cuối tiết học, dành ít phút củng cố dặn dò tôi bộc lộ sự không hài lòng của tôi với lớp và đồng thời phê bình hai đồng chí không chuẩn bị bài.

Từ lớp ra về, tôi đi thẳng vào phòng trưởng ban, với vẻ mặt cau có. Thấy anh Huệ đang hí hoáy ghi chép ở bàn, tôi chào và kể lại ngay sự tình buổi học hôm nay.

Nghe xong, anh phá lên cười. Bao giờ cũng vậy, anh hơn chúng tôi là nụ cười sảng khoái, vô tư, có phần hồn nhiên thái quá:
- Chú đúng là một anh mới ra trường!

Tôi tưởng nghe xong câu chuyện của tôi, anh sẽ  đứng về phía tôi mà chỉ trích các học viên lười học chứ. Đằng này, anh lại chê tôi là giáo điều, sách vở, mới ra trường.
Anh hạ giọng nói nghiêm túc:
- Chú chưa biết học viên của mình mà vội đánh giá chụp mũ. Chú không biết đấy thôi. Học viên của chúng ta là những người lớn tuổi, bỏ học đã lâu. Họ lăn lộn trong chiến trường, nay hòa bình, do nhu cầu phát triển của quân đội họ về đây tiếp tục đèn sách. Với lại lớp chú cũng có mấy trường hợp rơi vào tình trạng khó khăn đặc biệt.

Tôi lắng nghe, và đặc biệt chú ý đến: "Có mấy trường hợp khó khăn đặc biệt". Lẽ nào, hai trong số những người không thuộc bài sáng nay lại rơi vào hoàn cảnh đó? Chia tay với anh Huệ, lòng tôi cứ mãi phân vân.

Buổi tối sinh hoạt xong, tôi xin phép trưởng ban xuống nhà ở của học viên chơi. Nói là chơi, chứ thực tình tôi muốn xem các anh học đêm thế nào, nhân tiện tranh thủ tìm hiểu anh Sơn, anh Hưng.

Từ xa, trong dãy nhà lá cọ, nằm cạnh đồi bạch đàn, le lói những ánh đèn dầu. Thấp thoáng, những mái đầu đang mải mê dán mắt vào sách vở. Tôi nghe nhiều tiếng tranh luận lúc to, lúc nhỏ, thỉnh thoảng lại có tiếng người cười phá lên xen lẫn tiếng ho...tiếng ho sặc sụa... Cách nhà ở chừng mười mét, tôi bước nhẹ lại cố lắng nghe xem các anh tranh luận điều gì với nhau.
- Anh Lành ơi - em khai căn số 38 sao mãi không được nhỉ, được 6 dư 2 thì đưa nó vào đâu cho đúng hả anh?

Một anh nào đó hỏi những người xung quanh đầy khẩn thiết. Tôi nghe tiếng anh lớp trưởng chậm rãi: Có thế mà chú mày không làm được, nếu dư 2 thì chú mày xếp vào mâm bảy.

Cả phòng cười ồ lên với câu nói hài hước, hóm hỉnh của anh lớp trưởng. Tôi cũng khẽ cười vì cách tính toán đặc chất lính của các anh.

Tôi bước vào phòng, lên tiếng đánh động:
- Em chào các anh!

Cả phòng đang huyên náo, bỗng im bặt. Mọi người vội vã mặc áo quần, rối rít chào hỏi. Tôi thấy mình tự tin hơn vì la liệt khắp phòng là những quyển vở đang mở ra, người thì kê lên hòm, kẻ nằm choài ra giường...Bất giác tôi liên tưởng, sao giống cái thời mình đi học thế.

Sau mấy câu chào hỏi xã giao, tôi bày tỏ ý định của mình với đồng chí lớp trưởng. Nghe xong, đồng chí lớp trưởng cười kín đáo, rót thêm nước vào chén cho tôi, chậm rãi kể.

"Đúng là thầy có hỏi, chúng tôi mới dám bộc lộ. Về việc thầy cho điểm kém lớp chúng tôi không phản đối vì mình học yếu, không thuộc bài thì nhận điểm yếu là xứng đáng. Trường hợp anh Hưng và anh Sơn không thuộc bài cũng có nguyên nhân cả. Chuyện là thế này thầy ạ:
- Các anh đó quê mãi Quảng Bình, Quảng Trị. Gia đình các anh đạc biệt khó khăn: Vợ yếu, con dại. Chẳng may, năm 1985 cơn bão số tám đổ bộ vào miền Trung gia đình các anh nằm trong mắt bão. Sau một đêm, cơn phẫn nộ của thiên nhiên đã đánh sập nhà của, cuốn trôi đồ đạc gia đình theo dòng nước ra biên. Nhận được tin xấu trên đã cho các anh về khắc phục hậu quả kèm theo là những trợ cấp ít ỏi. Thời gian mà thầy Ánh lên lớp bài đó các anh khôn được nghe thành thử, các anh không thuộc bài, hiểu bài là chuyện bình thường".

Đồng chí lớp trưởng nói giọng bùi ngùi, thương cảm. Tôi nghe mà bỗng cảm thấy hối hận về sự nóng vội của mình. Tất cả mọi người trong phòng đều im lặng, nghe rõ tiếng lá bạch đàn ngoài sân xào xạc, tiếng côn trùng râm ran đâu đó.
- Tôi xin hứa với thầy, lớp tôi sẽ cố gàng, không để thầy phiền lòng nữa đâu - Anh lớp thượng hạ giọng.

Đêm đã khuya, tôi chào các anh ra về. Nằm trên giường, tôi cứ dằn vặt mình. Sao mình vô tình quá. Sao trước khi làm việc với lớp mình không tìm hiểu tâm tư, tình cảm, cảnh ngộ các anh, để rồi ngày đầu  đến lớp, đã để lại ấn tượng không hay trong lòng anh em học viên.

Thời gian sau đó, tôi nhận thấy không ai khác, chính anh Sơn và anh Hưng lại là người hăng hái học tập nhất. Hầu như giờ nào của tôi, các anh đều tích cực đóng góp ý kiến xây dựng bài. Mỗi lần trả bài kiểm tra, tôi đều động viên khen ngợi các anh làm tăng không khí của lớp. Khoảng cách giữa giáo viên và học viên không còn nữa thay vào đó là mối quan hệ anh em,  đồng chí đồng đội thắm thiết.

Khóa học kết thúc. Các anh về lại đơn vị tiếp tục công tác theo sự phân công của tổ chức. Tôi không có điều kiện gặp gỡ đủ gương mặt anh em trong lớp nữa.

Riêng tôi, từ ấy đến nay vẫn là người giáo viên của trường Quân sự - Binh đoàn Hương Giang, vẫn là người chèo đò đưa bao khách sang sông.

Khi viết lại những dòng này tôi luôn mong mỏi rồi đây những học viên cũ của tôi sẽ đọc được, để qua trang sách lại dành ra ít phút cùng tôi sống lại những ngày là học viên dưới mái trường Văn hóa – Tân Thanh - Lạng Giang. Những tháng ngày vô giá ấy sẽ mãi không bao giờ trở lại nữa...


                                                                                                              V.X.T

PHAN BA



TRÊN CHIẾC GHẾ ĐÁ


Người đàn ông tập tễnh bước tới chiếc ghế đá trống trong vườn hoa. Một đứa bé xách hòm gỗ ào đến.
- Đánh giầy, chú!
Người đàn ông chỉ vào đôi dép nhựa dưới chân mình. Cả hai cùng phá lên cười rồi cùng gieo người xuống ghế đá.

Đứa bé chừng mười hai tuổi đưa bàn tay khẳng khiu gõ nhè nhẹ vào chiếc hòm gỗ đặt trên đùi, đôi mắt tinh nhanh phóng về phía người khách hàng hụt ngồi cạnh, bỗng nó thốt lên:
- Ơ! Cụt mất bàn tay! Sao vậy chú?.
- Đạn Mỹ! - Người đàn ông trả lời gọn lỏn.
Đứa trẻ gật gù cái đầu. Rồi với vẻ quan tâm nó lại hỏi :
- Thế còn cái chân lập bập của chú?
Chú thương binh chăm chú nhìn cậu bé rồi cười hiền từ:
- Cũng là đạn Mỹ.

Đứa nhỏ tròn miệng phát ra tiếng "ồ! ồ!" đầy vẻ thán phục xen lẫn sự ngạc nhiên.
- Chuyện chiến tranh ấy mà.
Người thương binh đưa cánh tay cụt lặng lẽ xoa mái tóc hoe đỏ nắng gió của cháu đánh giầy, rồi chậm rãi từng lời một.
- Cháu chưa ngày nào được cắp sách đến trường ư?
 Nó quay mặt đi vẻ láu táu biến mất, chòm tóc hoe đỏ lúc lắc, bàn chân di di trên những hòn sỏi tạo nên những âm thanh lạo xạo, lạo xạo.
Rồi đột nhiên, đứa bé ôm chiếc hòm gỗ đứng vụt dậy.
- Cháu phải đi đây? - Nó nói bằng giọng buồn bã nhưng đầy quả quyết.
Được vài bước, nó ngoảnh lại:
- Hôm nào chú đi giầy da, cứ đến chỗ này cháu  đánh cho thật bóng loáng. Cháu không lấy tiền đâu.

Đến lượt người đàn ông quay mặt đi.
Trên cao, những chùm lá xanh rờn, lao xao.


                                                                                                                P.B

BÙI XUÂN TƯƠI
VƯỢT THÁC


Rầm rầm...
Bụi nước bắn lên trắng xóa cùng dòng thác cuốn theo chiếc bè vầu dài chừng hơn hai mươi mét. Bốn đồng chí đứng trên bè dùng sào chống đỡ để cho con rồng tre khỏi đâm vào bờ. Tiếng hô tiếng thét chìm vào tiếng thác đổ. Hai đồng chí đứng phía sau bè cầm sào chạy lên phía đầu giúp đỡ. Không kịp rồi. Từng mảng bè vầu cứ nối tiếp nhau cắm vào bờ sông,còn đoạn đuôi bè bị dòng nước đẩy mạnh ôm ngang hòn đá chắn giữa dòng. Cả bốn đồng chí Dúng, Loan, Chưng, Hậu bỏ sào sợ hãi nhảy phắt lên bờ đứng chôn chân nhìn chiếc bè vầu bị dòng thác phá tan ra từng mảnh, xoong nồi, hoa phong lan bắn ra trôi theo dòng nước.

Đầu thượng nguồn con sông Lục Nam, vào mùa cuối năm nước cạn lắm, có đoạn cạn trơ ra những hòn đá to đen vì rêu bám, có thể đi bộ được qua sông, mà không ướt chân có chỗ thắt lại chỉ rộng khoảng hơn một mét làm cho nước chảy xiết, có đoạn lại phình to ra rộng hơn một trăm mét, nước trong xanh chảy lững lờ nhìn thấy cả đáy sông. Sang chiều ngày thứ hai đơn vị chúng tôi gồm sáu chiếc bè vầu mới đi được hơn hai mươi kilômét đường sông, từ xã Tuấn Đạo, huyện Sơn Động đến đầu của xã Đồng Cốc huyện Lục Ngạn, từ phía trước, trên con thác, Tuấn cho bè của mình từ từ tạt vào bờ và quay lại gọi với về phía tôi, đại phó ơi bè của anh Dúng xuống thác bị vỡ rồi. Tuấn - quê ở Huế dáng người cao, đậm, nước da ngăm đen, là trung đội phó kiêm chức và là cây văn nghệ của đại đội. Tuấn có giọng hát xứ Huế rất hay, hồi còn chưa đi bộ đội Tuấn đã phải theo cha đi rừng nên Tuấn có nhiều kinh nghiệm đi sông nước.

Năm ấy đơn vị chúng tôi huấn luyện bộ đội ở nhiều vùng quê khác nhau về đây song nhiều hơn vẫn là quê Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh và Huế.

Tôi bàn với anh em trong đơn vị đưa bè sát vào bờ, nếu để bè ở giữa dòng, khi đến gần con thác nước chảy xiết hơn thì không xử lý kịp, cho anh em ghim  lại bè xong, toàn đơn vị chạy xuống để giúp đỡ bè của Dúng. Song tất cả đều bất lực, toàn bộ bè đã bị bẻ gãy, dòng thác cuộn lên như muốn nuốt chửng, dấn chìm và phá tan bè vầu của Dúng. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu. Không thể kéo toàn bộ chiếc bè tre dài hơn hai mươi mét ra khỏi dòng thác điên cuồng kia được, phải làm lại từ đầu thôi.

Tôi cùng mấy đồng chí xuống tháo dỡ con bè rời ra từng mảng, đưa qua thác xuống dưới đóng lại từ đầu, sau đó lần lượt đưa từng bè qua thác. Tôi phân công: Tuấn, Hoàng và Loan đứng đầu bè, dùng sào đẩy, lái không cho đầu bè đâm vào bờ. Ba đồng chí khác đứng phía sau, dùng sào đẩy không cho đuôi bè ôm vào hòn đá. Tôi và hai đồng chí khác đứng ở hòn đá, khi thân bè áp vào thì đẩy hất ra. Làm cho con rồng tre cứ thế lồng lên uốn mình lao theo dòng nước. Theo cách đó, lần lượt năm bè vầu còn lại qua thác an toàn. Thác này, nhân dân địa phương gọi là “ Thác mắc".

Củng cố lại bè xong, chúng tôi đi thêm được một đoạn thì trời chạng vạng tối. Tia nắng yếu ớt cuối ngày đi ngủ đông, để lại phía sau chân trời những đám mây đen, vàng loang lổ, tạo ra một thứ ánh sáng hư vô hắt xuống mặt sông. Những bóng dáng nhỏ bé nhấp nhô cong lưng chống sào đẩy cho những con rồng tre nặng nề tiến về phía trước. Tất cả lặng đi chỉ còn nghe tiếng những cây sào chọc xuống mạt nước nghe lõm bõm, khô khốc. Từ xa, tôi nhận ra phía trước mặt có một rặng tre, những làn khói xanh nhẹ bay lẫn trong rặng tre làm mất đi cái mầu xanh của lá, rồi từ từ lan rộng, hòa vào khoảng không yên tĩnh. Vẳng nghe xa xăm tiếng lợn đòi ăn, tiếng của lũ trẻ gọi nhau í ới nhà ai đó. Tôi cho đơn vị tiến vào khu rặng tre trước mặt ghim bè lại đó để nghỉ qua đêm. Ở đó là một bản nhỏ chỉ có năm nóc nhà nằm sát bờ sông. Tôi cho đơn vị dừng lại và cùng Hoàng lên bờ đi liên hệ cho đơn vị chỗ nghỉ ngơi ăn tối.

Hoàng quê ở Thanh Hóa, là trung đội trưởng kiêm chức, Tuổi còn trẻ, song rất có năng lực trong chỉ huy, là xạ thủ bắn B41 giỏi và là cây ghi-ta của đơn vị. Chúng tôi vào một gia đình gần đó, căn nhà làm bằng gỗ lợp ngói máng đã lâu, khói bếp đã bám vào đen kịt, làm cho nó càng cũ hơn theo thời gian.
- Chào bác ạ - Tôi lên tiếng.

Không ai trả lời, mấy đứa trẻ quần áo nhếch nhác mặt mũi nhọ nhem than bếp nấp sau cánh cửa ngó nhìn chúng tôi ngơ ngác. Từ trong nhà người đàn ông dáng cao, hơi gầy bước ra, ông có lẽ khoảng chừng năm mươi tuổi. Lướt nhìn qua chúng tôi, ông nói bằng tiếng Kinh khá rõ.
- Các anh hỏi gì đấy.
Tôi nhanh nhẩu trả lời:
- Dạ thưa bác, anh em bộ đội chúng cháu đóng quân ở thôn Hạ Long xã Giáp Sơn, thuộc đơn vị 18, Đoàn 325, Binh đoàn Hương Giang. Do điều kiện đơn vị khó khăn, nhà ở dột nát hư hỏng nhiều, được trên cử đi khai thác tre vầu về tu sửa củng cố chống sập, chống dột cho đơn vị, về đến đây thì trời đã tối, anh em chúng cháu không thể đi tiếp được, chúng cháu ghé lại đây vào xin phép bác và bà con thôn bản cho chúng cháu nghỉ tạm một đêm.
Tôi vừa trình bày xong, ông nói ngay:
- Không được đâu à. Nhà chật lắm không ngủ được đâu.
- Thưa bác, anh em chúng cháu chỉ xin được nghỉ ở ngoài bờ tre kia thôi ạ - Tôi nói rồi chỉ ra phía bờ sông.
- Không được đâu. Đi tìm chỗ khác thôi - vừa nói người đàn ông vừa hất tay ra hiệu cho chúng tôi đi tìm chỗ khác.

Tôi và Hoàng lặng lẽ đi ra phía bờ sông. Sự mệt mỏi cộng với cái đói cái rét càng làm tăng thêm nỗi buồn của người lỡ độ đường. Tôi bước đi mà lòng trống vắng. Nhìn vào khoảng không trước mặt, tôi cứ thầm hỏi đi đâu bây giờ? Tất cả chỉ là trùng trùng rừng núi. Đơn vị gần ba mươi đồng chí, người ngồi ủ rũ, người nằm uể oải rải khắp bờ sông. Thương anh em lòng  như quặn lại. Tôi bàng hoàng như nghe tiếng trách của đồng đội bên tai, đơn vị tin yêu gắn cho hai chữ "trách nhiệm" bên mình. Vậy mà tôi lại để anh em trong hoàn cảnh thế này sao? Tôi quyết định cùng Hoàng quay trở lại ngôi nhà ấy. Nhìn thấy ông, tôi nói ngay: "Dạ thưa bác ngày đầu tiên chúng cháu đi bè trên sông, đường còn chưa thuộc chúng cháu biết đến đâu bây giờ. Thực lòng ban chiều anh em chúng cháu đưa bè qua thác, kinh nghiệm không có, bè vỡ hết cả, phải khó khăn vất vả lắm anh em đơn vị mới  đến được đây. Trời đã tối rồi, đi tiếp thì lại phải ngồi lại ngoài sông như đêm qua thôi. Đêm qua cả đơn vị chịu rét suốt đêm, nếu đêm nay cũng vậy thì ngày   mai anh em chúng cháu không còn đủ sức để đi tiếp được. Bác và bà con trong bản thương tình mà giúp đỡ anh em đơn vị chúng cháu hoàn thành nhiệm vụ trên giao". Nói đến đây người tôi run lên, nước mắt như trực trào ra.

Người đàn ông nhìn tôi như muốn thông cảm và đo độ tin cậy về những điều tôi vữa trình bày. Rồi ông bảo:
- Thôi được, anh cho đơn vị nghỉ ngoài đó nhưng phải đảm bảo an toàn cho chúng tôi. Tôi vui sướng như trút đi gánh nặng trên vai. Cảm ơn ông rối rít.

Khụ... khụ... khụ... - Có tiếng cụ già ho nặng nhọc từ trong nhà vọng ra. Tôi hỏi bác, bác bảo: "bà ốm mấy hôm nay rồi, cứ về chiều thì lại sốt đấy".
- Sao gia đình không cho bà đi viện? - tôi hỏi.
- Đã đi chợ mua thuốc cho bà uống rồi mà vẫn chưa khỏi.

Ngay lập tức, tôi cho Hoàng ra gọi đồng chí Toán - y tá đơn vị vào khám cho bà, và báo cho đồng chí Dúng tập trung toàn đơn vị lên bờ nhận nhiệm vụ. Đồng chí y tá đơn vị đã có mặt khám bệnh cho bà cụ kiểm tra, đo huyết áp với động tác thành thạo về chuyên môn. Toán nói: Bà chỉ bị viêm phế quan và sốt nhẹ thôi. Tôi nhắc Toán kiểm tra cẩn thận và cử luôn cậu ta ở lại điều trị cho bà.

Tôi xin phép gia đình ra tập trung giao nhiệm vụ cho đơn vị. Tập trung đơn vị, tôi quán triệt công tác tư tưởng, kỷ luật dân vận, phân công nhiệm vụ tổng dọn vệ sinh toàn bộ khu vực thôn bản và tổ chức nấu cơm cho đơn vị. Ai vào việc đấy. Thế là tiếng nói tiếng cười cứ xôn xao rộn ràng xóm nhỏ. Bà con trong bản đổ ra xem đơn vị hăng hái quét dọn vệ sinh đường ngõ, hình như ai cũng mừng vui phấn khởi. Nỗi vui mừng hiện ngay trên nét mặt mỗi người. Tình cảm bộ đội với nhân dân như đang được đong đầy vào trong thôn bản.

Thấy đơn vị đang chuẩn bị dùng ni lông dựng lán trại nghỉ ngoài bờ sông. Một bà nhanh nhẩu chạy sang nhà bác chủ, bà vừa đi vừa chỉ tay về phía bờ sông nói “đừng để cái bộ đội ngủ ngoài đó rét chết nó à, cho bộ đội nó vào nhà tôi ngủ đi". Mấy bà mấy chị gần đó cũng thêm vào nhưng họ nói bằng tiếng dân tộc nên chúng tôi không hiểu gì cả. Sau đó bác chủ nhà đi đến chỗ tôi, bác bảo tôi - "Anh cho bộ đội vào các gia đình gần đó để nghỉ".

Thế là tôi cùng bác đi vào các gia đình xin phép nghỉ trọ, vào gia đình nào hỏi họ cũng đồng ý ngay.

Trời đã tối. Mọi nhà đã lên đèn. Các bộ phận đã  hoàn thành xong công việc, đơn vị chia cơm ăn ngoài sân nhà bác chủ. Bác cẩn thận thắp chiếc đèn treo ra ngoài hiên nhà cho bộ đội ăn cơm. Tôi sực nhớ ra hình như vẫn còn ba hộp cá, tôi bảo Hoàng lấy ra hai hộp đưa vào cho bà và các cháu trong nhà còn để lại một hộp phòng khi có ai đau yếu để bồi dưỡng cho họ.

Ăn cơm xong, các bộ phận cử người canh gác bè và chia nhau về ngu Ơû các gia đình gần đó. Bác chủ mời chúng tôi vào trong nhà uống nước. Bác pha trà, lấy thuốc lá ra mời chúng tôi cuốn hút và vui vẻ tâm sự với chúng tôi. Bác tên là "Tíu"  người dân tộc Sán Dìu, là thanh niên xung phong thời chống Mỹ, bác tham gia làm tuyến đường Trường Sơn. Ngày ấy gian khổ vất vả lắm. Nào là mưa rừng, muỗi vắt, sốt rét. Nhiều người chết vì sốt rét chứ chưa kê chết vì bom đạn, vì vậy khi nhìn thấy bộ đội đi khai thác vất vả rét mướt, anh em trẻ chưa quen sông nước, tôi thấy thương lắm. Nhưng vì sợ như mấy lần trước, mấy bọn đi bè qua đây cũng ăn mặc quần áo bộ đội cả, lên bờ tre nghỉ nhưng họ không xin phép ai, sau đó họ nhổ trộm sắn, khoai, rau, có lực lượng đi qua còn lén vào bắt lợn bắt gà của dân, nên lúc đầu chúng tôi chưa dám cho các anh nghỉ nhờ. Đến đây Hoàng nhanh nhầu xen vào "Thế bây giờ bác tin anh em chúng cháu là bộ đội thật chưa?" - Bác gật đầu cười nói: "Tin chứ, nhìn thái độ phong cách cư xử của các anh chúng tôi tin chứ, thế mới đúng là bộ đội Cụ Hồ. Bộ đội là con em của dân mà".

Trời đã về khuya, các bộ phận được phân công về từng gia đình đã lặng im không còn tiếng rì rầm chuyện trò to nhỏ. Thôn bản đã chìm trong không gian tĩnh lặng, vẳng nghe tiếng thác reo rì rào từ xa vọng lại. Gió bấc thổi nhẹ, thỉnh thoảng có tiếng kêu gọi nhau đi tìm ăn vọng sâu vào vách núi nghe rờn rợn.

Chúng tôi xin phép bác đi ngủ, nằm chưa ấm lưng tôi đã chìm sâu vào giấc ngủ ấm áp tình quân dân. ánh sáng ban mai chiếu qua khe cửa khiến tôi choàng tỉnh dậy. Gia đình đà chuẩn bị sẵn mâm cơm thịnh soạn trên bản. Bác Tíu mang rượu ra mời chúng tôi. Cơm nước xong, đơn vị chia tay gia đình và bà con thôn bản. Người đi, người ở lưu luyến mãi không thôi. Thời gian và nhiệm vụ không cho phép chúng tôi kéo dài cái giờ phút chia tay ấy, bà con trong bản người cho sắn, cho khoai, cả rau xanh nữa. Bác Tíu vào nhà lấy bịch thuốc Lạng Sơn và hai cuộn giấy. Bác bảo chúng tôi mang theo đi đường hút cho đỡ lạnh.

Bà cụ già được y tá tiêm cắt sốt đêm qua hình như đã khá hơn, cũng chống gậy ra để tiễn đưa chúng tôi. Bà bảo chúng tôi đi sông nước cẩn thận và thỉnh thoảng nhớ về thăm bà. Nghẹn ngào tạm biệt bà con xóm nho, chúng tôi xuống bè xuất phát.

Mặt trời vừa nhô lên khỏi ngọn núi phía xa, ánh nắng ban mai dọi sáng cả khúc sông, nhưng chưa đủ ấm để làm tan đi những giọt sương đêm đậu dầy như dát bạc trên tầu lá. Gió bấc thổi nhẹ vào mặt sông tạothành những đợt sóng vỗ nhẹ vào cạnh bè kêu lách tách, tạo ra những chùm bọt nước màu trắng đục cố níu bám vào bè vầu chúng tôi. Bè đã nhổ neo đẩy xa bờ tre xóm nhỏ, bà con chòm xóm vẫn bồng bế nhau đứng trên đó nhìn chúng tôi cho đến khi chiếc bè cuối cùng của đơn vị trôi khuất dần ở đoạn sông uốn khúc. Lòng chúng tôi như mang theo những người thân yêu ruột thịt của mình trên những chiếc bè vầu bồng bềnh kiên nhẫn trên sông.


                                                                                                              B.X.T

LÊ THU HOÀI



CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ


"- Cha bố chị, con gái gì mà cứ lồng như ngựa vía. Tính lại nghịch ngợm như con trai. Rồi thì ế thôi con ạ!".

Không biết bao nhiêu lần mẹ bảo tôi như thế. Nhưng tôi thì chẳng hề bận tâm đến điều đó. Ngày tôi quyết định làm đơn xin nhập ngũ, hai mắt mẹ sưng húp và đỏ mọng nước.

Rất may mắn, học xong trung cấp nấu ăn tôi được điều động về nhận công tác tại Phòng Bảo đảm (Cục Hậu cần - Binh đoàn Hương Giang). Bây giờ tôi là "Lê Anh Nuôi".

Trước khi về đơn vị, thầy phụ trách nói với chúng tôi: "Bằng cấp chỉ là một chuyện, kỹ năng và kinh nghiệm mới là vấn đề". Tôi ghi nhớ điều này như một cẩm nang nghề nghiệp, và luôn tự nhủ mình không ngừng phấn đấu, học tập ngay cả khi đã ra công tác. Chắc không cần phải kể thì các bạn cũng hình dung ra công việc của chúng tôi là phục vụ ăn uống cho bộ đội. Ấy thế nhưng ngoài phục vụ thường xuyên tôi rất hay được đi phục vụ các hội nghị, truyền thống, mừng công, đón danh hiệu rồi đám cưới, tiếp khách... Hình như tất cả các đơn vị trong Binh đoàn đều in dấu chân của chúng tôi. Nhưng có lẽ tôi cảm thấy thích thú, ấn tượng hơn với những lần đi phục vụ trinh sát địa hình hay phục vụ diễn tập. Bao nhiêu lần đi là bấy nhiêu tình huống, chẳng lần nào giống lần nào. Tất cả đều trở thành kỷ niệm. Còn nhớ hồi mới về phòng, lần đầu tiên thấy tên mình trong danh sách phục vụ diễn tập tôi vừa háo hức lại vừa thấy lo lo. Anh Luân (trung đội trưởng) đưa cho tôi một quyên sổ và bảo:
- Em xuống kho nhận dụng cụ để chuẩn bị xếp xe nhé!
Tôi liếc nhanh qua trang sổ giở sẵn thấy đề "Dự trù dụng cụ cấp dưỡng phục vụ diễn tập... " . Một dãy dài dằng dặc những danh mục: bát to, bát bé, đĩa lớn, đĩa nhỏ... thôi thì đủ thứ mà loại nào cũng nhiều. Tôi đâm hoảng!
- Dạ , nhưng... nhiều thế này... mỗi mình em....! – Tôi ngập ngừng.
Như đọc được suy nghĩ cua tôi, anh mỉm cười:
- Được rồi. Em cứ xuống kho trước rồi anh sẽ cho cậu Tiến xuống phụ với em.
- Nhưng sao phải mang nhiều dụng cụ và hàng hóa thế ạ? - Tôi mạnh dạn hỏi anh.
- Lên trên đó thực phẩm khan hiếm và đắt đỏ lắm, chỉ riêng việc bảo đảm định lượng rau xanh đã là cả một vấn đề, lại còn thực phẩm khác... - Anh giảng giải.
Mấy anh bạn đồng nghiệp của tôi đã từng quen rồi thì tếu táo :
- Anh em mình cứ phải nắm chắc quy tắc "Tình yêu 4 M" em ạ! - Phong "hạc" úp mở.
- Nghĩa là thế nào ạ? - Tôi ngơ ngác.
- E hèm... - Hoan "giáo sư" lên tiếng - Nghĩa là em  phải chắc chắn rằng "tình yêu của chúng ta" phải hội tụ đủ bốn yếu tố, đó là "Mắm - Mỡ - Muối - Mì" ... nếu không sẽ phải ly hôn" ... nghề!
Vừa nói cậu ta vừa khoa chân múa tay khiến mọi người cùng cười vang.

Sau gần hai giờ đồng hồ, ngược đường 13 (bây giờ là đường 31) chúng tôi đến Trường bắn Quốc gia khu vực 1 thuộc xã miền núi Cấm Sơn. Chúng tôi tạm dừng chân để mượn thêm một số đồ dùng và chờ lệnh.

Buổi chiều, trời mưa tầm tã. Chúng tôi nhanh chóng xếp dụng cụ và hàng hóa lên xe. Con đường đất đỏ khi nắng thì bụi mù mịt, đỏ quạch nhưng mới qua một trận mưa mà những đoàn xe tải, xe kéo pháo đi qua con đường đã trở nên lầy lội, trơn và nhão nhoét. Chúng tôi phải đi trong đêm!

Qua khỏi địa điểm tập kết chừng 12 ki-lô-mét, xe bị sa lầy. "Thầy tớ" chúng tôi xắn quần, đội mưa bốc bớt hàng hóa và dụng cụ cho xe đỡ nặng. Chúng tôi dồn sức rồi cùng hô "Hai... ba... nào!, nhưng chiếc xe vẫn ì ra đấy. Những bó củi được mang xuống để "Cài cầu" cho xe nhưng tình hình cũng chẳng khá hơn. Càng cố vượt ra khỏi vùng lầy thì xe càng bị "pan". Những tiếng thở gấp gáp. Quần áo ai cũng dính bê  bết và ướt sũng vừa nước mưa vừa mồ hôi, nhưng chắc là không ai còn tâm trí để ý đến. Đêm càng sâu, càng đen đặc lại. Thời gian lặng lẽ trôi đi. Thỉnh thoảng lại có tiếng thở dài trong đêm.
- Nếu không đến địa điểm quy định trước 3 giờ sáng thì không bảo đảm bữa sáng ngày mai cho bộ đội. Đồng chí Trưởng phòng lo lắng.
Một bầu không khí căng thẳng bao bọc quanh chúng tôi.
- Hay là điện về Sở chỉ huy xin chỉ thị? - Có ai đó lên tiếng.
Vừa lúc đó xuất hiện một chiếc xe cẩu hàng. Không biết anh trung đội trưởng của chúng tôi nói gì với anh lái xe cẩu mà tôi chỉ nghe được một giọng nói  rất vang và ấm:
- Các cậu yên trí, tránh cả ra để tớ "lôi" nó lên cho. Ngày xưa tớ cũng đã từng là lính vận tải đấy?
Khi chiếc xe cẩu đã chạy xa hút rồi chúng tôi mới giật mình, chẳng một ai kịp hỏi tên anh.

Thế là chúng tôi đến An Sinh (Đông Triều - Quảng Ninh) lúc 1 giờ 30 phút sáng...

Trời vẫn mưa! Chúng tôi ai vào việc nấy. Những bó củi chống lầy cho xe giờ dính bùn bê bết.

Phương vừa rửa củi vừa nấu cơm sáng. Củi ướt – hai chị em loay hoay nhóm, loay hoay quạt. Mắt cay xè vì khói. Mặt mũi, chân tay lấm lem vừa bùn vừa nhọ. Hai chị em nhìn nhau cười mà mắt nhòe nước.
Bắt đầu một ngày như thế.

Chúng tôi đến Trại Mít. Gọi là Trại Mít nhưng ở đây chỉ là một mỏm đồi cao, tịnh không có một cây mít nào. Có lẽ cái tên này gắn với một sự tích nào đó!

Đường từ An Sinh đến Trại Mít phải qua tám khúc suối. Con đường do đơn vị Công binh 219 mới mở. Đó là một lối vừa đủ cho xe ôtô chui qua dưới tán rừng xum xuê và lởm chởm đá. Càng đi vào sâu, con đường càng trở nên âm u.
- Nếu thả mình ở đây chắc là không ra nổi- một cậu lính trẻ bâng quơ.

Các anh, chị lớn tuổi, mỗi người dường như đang theo đuổi những ý nghĩ, những trăn trở riêng.

Phong "hạc" và Nam "béo" ngủ gà ngủ gật. Tôi bị cuốn vào sự thích thú của cánh lính trẻ mỗi khi xe lội qua suối hay nghiêng nghiêng theo triền núi.
- Chị ơi! Hay là chị em mình hát đi - Cậu Hiệu, lính mới tò te đề nghị.
- Ừ, tôi hưởng ứng.
- Thế thì em hát trước rồi chị hát theo nhé.

Không chờ tôi trả lời, cậu ta cất giọng giả con gái. "Chân em đi trong yêu thương lắm lối nhưng em chọn lối này, em đây chọn lối này thôi!".

Bất ngờ, chiếc xe chồm lên, dụng cụ va vào nhau loảng xoảng. Cậu Nam "béo" bị tung hê lên rơi gọn vào lòng chị Vân Anh!

Chúng tôi được một trận cười nghiêng ngả!

Buổi trưa ở Trại Mít trời nắng chang chang. Chúng tôi nấu ăn ở đỉnh đồi ngay gần một con suối. Bảy cái bếp cơ động đồng thời phát hỏa càng làm không khí nóng hầm hập. Chúng tôi, mỗi người được phân công phụ trách một phần việc. Tôi đảm nhiệm món canh cua. Sau khâu sơ chế (rửa, nhặt, giã, vắt, lọc), tôi bắt nồi lên bếp đun, nồi canh bắt đầu sôi thì có lệnh chuyển địa điểm đến chỗ mới cách đó chừng 1,5 ki-lô-mét. Thế là chúng tôi hối hả chuyển tất cả lên xe. Tôi kiếm cái chăn bông quấn kỹ xung quanh nồi canh cua cho đỡ bỏng. Đoạn đường có 1,5 ki-lô- mét mà sao dài thế, đã vậy lại xóc kinh khủng. Tôi khư khư giữ xoong canh để nó đỡ bị nghiêng nhưng đến nơi, mở ra thì nó đã bị sóng ra và hút vào cái chăn bông gần một nửa! Nước mắt tôi ứa ra.

 Đó cũng là lần đầu tiên tôi biết thế nào là diễn tập thực binh. Sau hàng loạt những tiếng nổ ùng oàng của mìn và cả những tiếng đạn xé gió chíu chíu, "quân xanh" bắt đầu đổ bộ. Từng tốp từng tốp "địch" chui ra từ cái bụng to tướng của những chiếc máy bay. Những cảnh này tôi tưởng chỉ có thể nhìn thấy trên phim hoặc qua những câu chuyện chiến đấu mà bố kể. Không nén nổi tò mò, tôi ấn đôi đũa đang đảo nồi thịt cho bữa chiều vào tay Phong nói nhanh:
- Cậu giúp tớ, tớ đi xem một lúc!
Không chờ Phong kịp phản ứng. Tôi ào đi. Chọn ruột chạc cây cao nhưng kín trong vòm lá, tôi vắt vẻo, yên tâm ngồi quan sát. Đang rất say sưa, chợt tôi nghe có ai đó gọi mình ở phía dưới.
- Cậu ở đâu, Hoài ơi...!
- Em ở đây! Tôi đáp khẽ và "nhảy dù” xuống đất.
- Úi giời ơi! Con khỉ... - Chị Anh giật mình, cốc cho tôi một cái đau điếng rồi nói như ra lệnh:
- Về ngay! Chuẩn bị hành quân tiếp.

Tổ chức phục vụ bữa trưa xong, không kịp rửa bát đũa, chúng tôi bốc tất cả lên xe để đến Hoành Bồ (Quảng Ninh). Đây là lần đầu đến địa danh này, dọc đường lại thưa dân, chúng tôi vừa đi vừa hỏi đường. Con đường gập ghềnh, khúc khuỷu. Chiếc xe liên tục bị chồm lên rồi hẫng xuống, có lúc lại lắc lư chao đảo. Chúng tôi ngồi sát vào nhau cho đỡ nghiêng ngả, thế mà thỉnh thoảng những cái đầu lại “cục" vào nhau kèm theo những tiếng xuýt xoa. Những dụng cụ bằng nhôm và bằng inôx bị xóc lên dằn xuống kêu lạch cạch, loảng xoảng. Mấy chị em nữ chúng tôi bị say xe mỗi người một tư thế. Chị Phương nôn thốc nôn tháo.Thấy thế, anh -Luân thở dài:
- Thế này thì lát nữa làm sao nấu được bữa chiều.
Tôi đọc được trong giọng nói của anh cả sự lo lắng, băn khoăn vội nói:
- Anh yên tâm, chúng em môi người cố gắng một chút là sẽ ổn thôi mà.

Đến được địa điểm mới thì đã 16 giờ 15 phút. Chỉ có 75 phút để vừa tiếp phẩm vừa tổ chức nấu bữa chiều cho 120 xuất ăn. Chúng tôi nhanh chóng thống nhất phân công mỗi người một việc. Chị Anh đun nước uống, nước canh và nấu cơm. Tôi ốp trứng. Nam, Phong, Hoan và hai đồng chí chiến sĩ nhanh chóng dỡ hàng và dụng cụ để giải phóng xe đi tiếp phẩm. Anh Luân và Nam đi chợ. Số còn lại chia đôi, hai người làm rau, hai người bày bàn. Chúng tôi khẩn trương hối ha trong tư thế "chạy nước rút" với thời gian. Đến 17 giờ 30 phút mọi công việc đã hoàn tất. Có điều, sự gập ghềnh, dằn dỗi của con đường từ Trại Mít đến Hoành Bồ đã biến xoong thịt kho tàu thành xoong thịt vụn!
Sau bữa ăn có ai đó nói như trách móc?
- Ừ, hôm nay nhà bếp cho ăn món đặc biệt: "thịt hộp"!.
Lòng tôi thoáng nặng trĩu!

Đêm xuống. Một ngày đã qua. Chắc rằng, những gian khổ, vất vả đang chờ tôi vào ngày mai, vào những ngày trong đợt diễn tập này.

Thấm thoát đã 7 năm có lẻ sau cái ngày đầu tiên đi phục vụ diễn tập ấy. Đã thành lệ, mỗi lần về thăm nhà, tôi lại kể cho bố mẹ nghe về những miền quê đã đi qua, những tên người tên đất vừa quen vừa lạ. Tôi còn nói cho mẹ biết về công việc đã quen, về những chuyến đi tôi không còn nhớ rõ. Kỷ niệm đã trở thành hành trang nhưng, sau mỗi chuyến đi lòng tôi lại háo hức chờ đợi...
- Cha bố chị, Con gái mà giống bố, lúc nào cũng thích đi! - Mẹ lại "mắng" tôi.

Tôi gục đầu vào ngực mẹ, lòng cảm thấy nhẹ nhõm, bình yên.


                                                                                               Tháng 11 năm 2002
                                                                               Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang
                                                                                                       L.T.H

NGUYỄN ĐÌNH TÚ
RẤT DÀI VÀ RẤT XA...


Nhà âm, đó là một khái niệm không xa lạ đối với bộ đội phòng không. Còn tôi vốn quen sống trong "nhà dương", bây giờ mới có dịp được ngủ trong căn nhà âm trên một đỉnh đồi không cao lắm, trước cái lạnh đầu đông quả thật lạ lẫm và đầy cảm hứng tò mò.

Gọi là nhà nhưng thực chất chỉ có mấy thanh kèo cột được dựng lên, mái thì lợp tôn và xung quanh là những tấm cót bao bọc. Quá nửa căn nhà ấy chìm sâu trong lòng đất, cửa thông với những đoạn hào ngang dọc dẫn ra các trận địa pháo. Cái "anh" pháo cao xạ bao giờ cũng vậy, cứ phải chọn đồi cao một tí, đơn độc một tí, nhưng cứ nhất thiết phải bắt cái bóng kiêu hãnh của mình xuống núi đồi.

Mỏm đồi mà tôi đang có mật là trận địa trực chiến phòng không của đại đội 1. Đại đội này năm 1971 đã được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang. Đại đội 1 lại nằm trong đội hình của tiểu đoàn 1 . Tiểu đoàn 1 cũng được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang vào năm 1973. Tiểu đoàn 1 nằm trong đội hình của Đoàn Phòng không S73. Đoàn S73 lại cũng được nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang năm 2000. Hóa ra quanh khu vực Hố Vầu mà tôi tha thẩn mấy ngày hôm nay tới đâu cũng gặp anh hùng, đến đơn vị nào cũng là anh hùng, gặp khẩu pháo nào cũng hiểu là nó mang trên mình đầy chiến công. Và năm 1973, khi Đoàn Phòng không S73 còn đang đóng quân tại Quảng Trị đã vinh dự được đón Thủ tướng Cu Ba tới thăm. Chính trên những trận địa pháo còn sặc mùi thuốc súng đó, đồng chí Phi đen Catstrô đã giương cao lá cờ quyết thắng cổ vũ những người anh hùng chống Mỹ cứu nước, làm nức lòng cán bộ chiến sĩ toàn đơn vị.

Mới đó mà đã mấy thập kỷ trôi qua. Những người lính pháo gần ba chục năm trước, liệu còn được mấy ai hiện đang công tác tại đơn vị? Với suy nghĩ ấy, tôi đã tìm và cuối cùng cũng gặp được một người lính cựu duy nhất còn "sót" lại. Người lính cựu ấy bây giờ đã tuổi ngũ tuần, lại giữ một trọng trách rất quan trọng của Đoàn Phòng không S73, đó là thượng tá, chỉ huy trưởng Đồng Văn Huế. "Vào những ngày tháng tư năm bảy nhăm, anh ở đâu và làm gì?”, tôi hỏi anh Huế và trong đầu cố mường tượng ra cảnh Binh đoàn Hương Giang cùng các binh đoàn khác đang thần tốc tiến vào Sài Gòn để tham gia trận quyết chiến cuối cùng giải phóng miền Nam.
- Khi ấy tôi mười chín tuổi, bằng tuổi của những tân binh bây giờ - Anh Huế khẽ kháng tâm sự - Tôi là A trưởng A chỉ huy của đại đội 27, tiểu đoàn 6, đơn vị 245 Đoàn Phòng không S73, A chỉ huy của chúng tôi gồm có bốn chiến sĩ thông tin, bốn trinh sát, hai đo xa, nhiệm vụ của A là phục vụ trực tiếp người chỉ huy quyết định các trận chiến đấu cho đại đội. Đại đội của chúng tôi lúc ấy có bốn khẩu pháo 23 ly do bốn xe kéo, đi theo mũi Tây Thừa Thiên. Tới Ngầm Truồi, trong khi chúng tôi đang rải người ra để thực hiện nhiệm vụ thì một quả lựu đạn pháo 175 từ Phá Tam Giang kích vào hõm đá, chụp xuống tiểu đội. Lúc ấy tôi đang rải dây thông tin, sau tiếng nổ lao lên thấy bốn đồng đội của mình đã hy sinh, thi thể văng mỗi nơi một mảnh, đại đội trưởng cũng bị mảnh pháo xé nát đầu và ngực, chết ngay trên tay tôi, toàn thân vẫn còn ấm nóng.
- Đó là những cái chết đầu tiên mà anh được chứng kiến kể từ khi vào chiến trường phải không?

- Vâng, lần đầu tiên. Chỉ có một người là còn nguyên vẹn, bốn người kia phải ghép những mảnh xương thịt lại để mai táng. Tôi còn nhớ mãi hình ảnh người đại đội trưởng của tôi. Anh ấy quê Thái Bình, ba mươi sáu tuổi, chưa có người yêu, rất to khỏe. Khi tôi ôm lấy anh, hình như anh muốn nói với tôi điều gì đó mà không còn đủ sức để nói. Rồi cứ thế anh xấu đi. Pháo địch vẫn tiếp tục kích tới. Cái loại 175 - Vua chiến trường ấy kinh khủng lắm. Các lỗ kích gần nhau san sát, chi chít khắp xung quanh chúng tôi. Chẳng hiểu sao tôi lại sống được? Cho đến khi tiến vào giải phóng Sài Gòn, A chỉ huy của chúng tôi là một A thiếu, đơn vị đang thần tốc hành tiến nên không còn kịp bổ sung nữa. Lúc ấy chúng tôi cũng không có nhiều thời gian để mà nghĩ ngợi về cái sống và cái chết. Trong đầu chúng tôi chỉ nghĩ đến chiến đấu sao cho hiệu quả nhất, thực hiện các mệnh lệnh của cấp trên sao cho chuẩn xác nhất. Và cứ nghĩ đến chiến thắng!
- Từ Huế vào đến Sài Gòn bốn khẩu pháo 23 ly của các anh có nhả đạn lần nào không?
- Nhiều chứ! Qua năm nhăm ngày đêm chiến đấu liên tục kể từ khi bắt đầu chiến dịch, tham gia giải phóng Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Phan Rang, Phan Thiết và cuối cùng là Sài Gòn, Đoàn Phòng không S73 của chúng tôi trong đội hình tiến công của Binh đoàn Hương Giang đã đưa 280 xe, 142 khẩu pháo và các phương tiện chiến đấu khác vượt qua chặng đường dài hơn 1.000 ki-lô-mét, nổ súng chiến đấu 150 trận, bắn rơi 27 máy bay, bắn cháy 10 tàu chiến, diệt trên 500 tên địch kia mà. Riêng đại đội pháo của tôi cũng nổ súng nhiều lần. Pháo 23 ly có tầm bắn hiệu quả từ 2.500 đến 3.000 mét, bắn xa là 5.000 mét. Nó có chức năng tiêu diệt các loại mục tiêu trên không nhằm bảo vệ đội hình bộ binh tiến công và khi được phép thì có thể hạ nòng bắn các mục tiêu mặt đất, mặt nước. Tôi còn nhớ mãi hôm hai chín tháng tư. Khi ấy chúng tôi hành quân đến phà Cát Lái. Các loại pháo của ta đã bắn "dập đầu" pháo địch, sức đề kháng của chúng gần như tê liệt. Nhưng rồi bầu trời Sài Gòn bỗng tràn ngập trực thăng địch chở tàn quân di tản. Thế mà bọn địch ở mặt đất lại tưởng Mỹ đổ quân vào ứng cứu, chúng liền đồng loạt ngóc đầu lên. Tàu địch trên sông cũng quay trở lại bắn vào đội hình đang tiến của ta. Trước tình huống ấy, bốn khẩu pháo của chúng tói đã hạ nòng xuống bắn thẳng vào tàu chiến địch, rồi bắn vào các ổ đề kháng ở bên kia sông, hỗ trợ cho các đơn vị của ta qua phà tiến vào nội đô Sài Gòn. Mười một giờ ngày ba mươi tháng tư chúng tôi sang được phà Cát Lái, cứ thế tiến thẳng đến dinh Độc Lập. Bây giờ nghĩ lại những ngày hào hùng đó, tôi thấy mình là người hạnh phúc vì đã được chứng kiến những phút giây lịch sử thật huy hoàng của dân tộc.
- Và anh tiếp tục theo đơn vị từ ngày đó đến nay?
 - Giải phóng miền Nam khi tôi vừa bước vào tuổi đôi mươi. Lúc ấy tôi chỉ nghĩ đến việc mình sẽ được trở lại quê nhà, được tiếp tục làm ruộng rồi sẽ lấy vợ như bao chàng trai khác. Nhưng đơn vị lại cử tôi đi học. Tôi còn tiếp tục tham gia một vài chiến trường, công tác ở một vài đơn vị khác nữa rồi mới quay trở lại Đoàn Phòng không S73. Thế là cả đời tôi gắn với đồi và núi. Cả đời tôi gắn với câu ca Rất dài và rất xa...

Cả hai chúng tôi đều cười trước ca từ mà anh vừa dẫn ra. Lính pháo phải cảm ơn nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu và nhà thơ Bùi Công Minh rất nhiều vì họ đã để lại một bài ca bất hủ, có thể gọi là "binh chủng ca" của những chàng trai chân sắt vai đồng. Tôi quay sang hỏi anh Huế:
- Đoàn Phòng không S73 của ngày hôm nay có thay đổi gì so với chính nó hai mươi bảy năm về trước không anh?
Anh Huế lắc đầu:
- Cơ bản không có gì thay đổi, chỉ rút gọn hơn cho phù hợp với thời bình thôi. Và chúng tôi không gặm nhấm quá khứ. Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang mà chúng tôi vừa nhận là phần thưởng cho thời kỳ đổi mới. Hôm qua hay hôm nay thì vẫn là không thay đổi bản chất anh hùng. Phẩm chất ấy không dễ gì có được và cũng không dễ gì mất đi.

Tôi tiếp lời anh: "Thế còn những chiến sĩ của anh bây giờ thì sao, có nét tương đồng nào với chàng trai binh nhì Đồng Văn Huế năm xưa không?". Anh Huế bảo: "Cái đó thì anh cứ lên trận địa với anh em, có lẽ anh sẽ cảm nhận được nhiều hơn những gì mà tôi muốn nói".

... Đó chính là lý do mà tôi đến với những mỏm đồi cao trên dưới nghìn mét, đến với căn nhà âm lạnh lẽo chôn nửa mình dưới lòng đất này. Trăng ló rạng nơi xa xa kia, hắt ánh vàng xuống những nòng pháo một thời oanh liệt. Dưới chiến hào tiếng hát của các chiến sĩ trực chiến thuộc trung đội 2 lan trong không gian, theo gió vọng khắp triền đồi. Pháo anh lên đồi cao nã vào đầu giặc Mỹ, bục giảng dưới hầm sâu em cũng là chiến sĩ, ngày và đêm xa nhau đâu chỉ dài và nhớ... Tôi nhìn sang mỏm đồi phía bên tay phải mình. Ở đó cũng có một ánh đèn leo lét, mờ nhạt hắt lên từ đâu đó dưới lòng đất. Nơi ấy là trận địa của đại đội 2. Hôm qua tôi đã leo lên mỏm đồi đó để xem các khẩu đội tập hiệp đồng chuẩn bị chiến đấu. Trong giờ nghỉ, khẩu đội trưởng khẩu đội 3 Trần Hải Vinh hỏi tôi: "Hà Nội đã rét nhiều chưa anh?". Tôi ngạc nhiên: "Sao Vinh lại quan tâm đến thời tiết ở Hà Nội?".
Vinh bảo: "Mùa đông con gái Hà Nội ra đường ăn mặc rất đẹp". Thì ra vậy. Chàng hạ sĩ này sinh ra và lớn lên ở phường Thành Công, Ba Đình nên đi xa còn nhớ đến cả cái rét Hà Nội với những tấm khăn quấn cổ của thiếu nữ Hà Thành thì cũng là điều đương nhiên dù có hơi lãng mạn. Vinh sinh năm 1979, đã tốt nghiệp Trung cấp Tài chính, vào bộ đội được hơn một năm rồi, đã qua lớp huấn luyện khẩu đội trưởng. Lúc nãy tôi nghe Vinh nói về khóa nòng, thân pháo, máy nạp đạn, máy ngắm, máy hãm lùi, máy cân bằng, máy tầm, máy hướng, bệ pháo, xe pháo, chiếu sáng... tự tin và thành thạo lắm. Lại nghe Vinh hô khẩu lệnh đâu ra đấy, tay phất cờ đỏ, cờ trắng dứt khoát, gãy gọn chỉ huy các pháo thủ vào ra thao tác rất thuần thục từng động tác theo vị trí của mình. "Gào thét" bên những khẩu đại bác là thế mà rời khỏi trận địa đã nghĩ ngay đến con gái Hà Nội "vào đông" thế nào. Tôi hỏi Vinh: "Tết năm ngoái không được về có nhớ nhà không?”. Vinh cười: "Ăn tết ở nhà nhiều quá rồi nhưng tết lính có nhiều cũng chỉ xơi được có ba cái thôi. Không tranh thủ thì sau này có muốn cũng chẳng còn có hội".
- Sao lại chỉ có ba cái thôi?
- Thì khẩu đội trưởng như em thực hiện nghĩa vụ ba năm. Ra quân em sẽ đi theo cái nghề tài chính mà mình đã được học. Lúc ấy muốn ăn một cái tết lính chắc gì đã được?

Vinh thẳng thắn và hồn nhiên quá nhỉ? Mới ngày nào nhập ngũ, bạn bè còn đưa tiễn theo mấy chục cây số bằng một "thê đội" xe máy, rầm rộ như đi hội thể thao vậy. Và trong mắt bạn bè ngày ấy đứa nào cũng lo cho thằng Vinh thư sinh, mảnh khảnh không chịu nổi những tháng ngày quân ngũ. Ai ngờ nó lại thích ứng nhanh đến thế, mới có một cái tết thôi mà đã hạ sĩ khẩu đội trưởng rồi. "Nếu có điều kiện thì theo nghề binh chứ?", tôi hỏi. Vinh lắc đầu: "Em chưa nghĩ đến điều ấy, em vẫn xác định là mình đang thực hiện nghĩa vụ của một công dân đối với đất nước thôi". Điều ấy thì hẳn rồi. Dẫu sao thì sống trong thời bình cũng thật hạnh phúc. Mọi người có quyền lựa chọn hướng đi cho mình và đâu phải cứ tại ngũ mới là người lính. Khi đất nước cần thì mọi công dân đều là người lính kia mà. Vinh gật đầu đồng tình với tôi điều ấy. Rời trận địa, xuống tới chân đồi rồi tôi vẫn còn thấy Vinh đang phất cờ chỉ huy khẩu đội của mình diễn tập bên tháp pháo. Ngày nào họ cũng mải mê với những khẩu pháo của mình như thế. Còn bây giờ, dưới ánh trăng vàng như mật này, bên ánh đèn mờ nhòa hắt lên từ dưới lòng đất kia có Vinh đang ngồi đấy không? Mỏm đồi bên này tiếng hát đã tắt rồi. Giờ sinh hoạt đã hết. Các chiến sĩ của trung đội 2 đã vào vị trí của mình. Trung đội trưởng Nguyễn Văn Thái đến bên tôi bảo: "Đêm nay anh thức cùng với pháo chứ?". Khiếp thật! Pháo mà biết thức cơ à? Như đọc được ý nghĩ ấy, Thái bảo: "Người thức là pháo thức. Anh đã thấy những quả đạn đặt bên mâm pháo rồi chứ? Nếu có mục tiêu cần tiêu diệt, pháo sẽ cất lên âm thanh của riêng nó".

Chàng thiếu úy trung đội trưởng này có lối diễn đạt hào sảng quá. Lúc chiều tôi đã được xem tấm ảnh cô bạn gái của Thái nơi túi cóc ba lô. Chỉ là một tấm ảnh kỷ niệm thôi, Thái bảo với tôi thế. Sao lại là kỷ niệm?. "Bọn em có cảm tình với nhau từ hồi học cấp ba, nhưng khi em chọn Học viện Phòng không để vào học thì cô ấy có vẻ buồn. Cô ấy sợ em phải đi xa. Bộ đội có mấy khi được ở gần nhà. Bây giờ thì quả là em đã ở một nơi rất xa cô ấy. Khoảng cách địa lý đã làm ngọn lửa được thắp lên trước đó yếu dần đi ..." .

Lại một câu chuyện tình man mác buồn thường gặp ở những sĩ quan trẻ. Tuổi trẻ bao giờ cũng đi liền với tình yêu. Và tình yêu có mấy khi thôi đỏng đảnh? Tôi đã không thể "thức cùng pháo" như lời rủ rê của Thái khi nãy. Tôi chui vào trong nhà âm tìm chỗ ngả lưng. Vừa chợp mắt được một chút đã nghe thấy còi báo thức rồi. Tôi cùng những người lính pháo rời mỏm đồi chưa kịp quên tên, rời căn nhà âm chưa kịp lưu hơi ấm để bàn giao trận địa trực chiến lại cho trung đội khác lên thay thế. Trên đường về sở chỉ huy, tôi thấy từng đoàn bộ đội đang hành quân lên những mỏm đồi để bắt đầu một ngày huấn luyện mới. Bóng họ lẫn vào với keo, bạch đàn và vải. Họ mất hút rất nhanh như thể đã hóa thân vào chút sắc xanh thưa  thớt của núi đồi đang giăng mắc trước nền trời đông chuyển màu xám trắng. Và tiếng hát của họ như còn vương lại đâu đó quanh những triền dốc thoải, quẩn bên những tán keo bông vàng, ngập ngừng bên những chiến hào đầy hoa cỏ. Bỗng nhiên tôi cũng lẩm nhẩm hát theo họ, với những câu hát đã xưa cũ nhưng hôm nay, dường như, lại rất mới mẻ đối với tôi.

Rất dài và rất xa, là tháng ngày thương nhớ...


                                                                                           Hố Vầu, đầu đông 2002
                                                                                                      N.Đ.T

ĐỖ BÍCH THỦY



MỘT NGÀY Ở ĐƠN VỊ XE TĂNG ANH HÙNG


"... Xe tăng 843 do đại đội trưởng Bùi Quang Thận trực tiếp làm trưởng xe dẫn đầu, tiếp theo là xe 390 của chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn tiến thẳng vào Dinh Độc Lập. Xe 843 húc đổ cổng phụ, xe 390 húc đổ cổng chính, trung úy Bùi Quang Thận cầm lá cờ giải phóng chạy lên cắm trên nóc dinh tổng thống ngụy quyền Sài Gòn. Lúc ấy là 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975...".

Hình ảnh này đã vĩnh viễn đi vào lịch sử oanh liệt của dân tộc, là niềm tự hào của nhiều triệu dân Việt Nam. Đó là những chiến công như thần thoại của đơn vị xe tăng 203 anh hùng. Năm 1975 lịch sử ấy cũng là năm đơn vị 203 tròn mười tuổi, cũng là năm đơn vị được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng là đơn vị đầu tiên của Binh chủng Tăng - Thiết giáp được nhận danh hiệu cao quý này.

Và hôm nay, hai mươi bảy năm sau đại thắng mùa Xuân 1975, đơn vị 203 nằm trong đội hình Binh đoàn Hương Giang lại đang án ngữ ở một vùng phía Bắc Tổ  Quốc. Chiến tranh đã lùi xa, và cũng đã rất xa chiến trường xưa, những cỗ xe tăng nặng vài chục tấn vẫn mang trên mình dấu vết một thời đạn bom khói lửa lại lặng lẽ giấu mình giữa một vùng núi non trùng điệp, mịt mờ sương khói... Tôi, cũng như nhiều người ở thế hệ lớn lên trong thời bình, khi đến với họ thì những vinh quang, oanh liệt một thời đã được lặng lẽ cất đi Cái phải đối mặt là những nhiệm vụ trong thời kỳ mới, không phải là nặng nhọc và vô cùng vất vả...

C26 sửa chữa, một trong 5 đại đội trực thuộc của đơn vị, một trong những cánh tay không thể thiếu của kíp xe tăng khi lên đường - đầu giờ chiều một ngày đầu đông. Ở rừng, mùa đông đến sớm. Trời hanh và gió nhưng vẫn không át nổi mùi dầu mỡ sực lên. Trong xưởng có hai chiếc T34 đang được tháo dỡ bảo dưỡng định kỳ. Trưởng nhóm sửa chữa chiếc thứ nhất là thiếu úy Nguyễn Ngọc Trường - thợ sửa chữa cơ tăng. Cùng với Cường còn hai thợ sửa chữa cơ tăng và một thợ sửa chữa điện tăng nữa là Trần Văn Phương, Nguyễn Văn Trung và Nguyễn Minh Hùng. Bốn người là một nhóm để tiến hành tất cả các khâu của quy trình bảo dưỡng một chiếc xe tăng theo định kỳ. Bốn người bọn họ, làm việc liên tục cả ngày nghỉ, trong vòng nửa tháng đến hai mươi ngày thì hoàn tất ruột chiếc xe. Mỗi năm, chỉ riêng bảo dưỡng đã có 9 - 10 chiếc xe tăng được đưa vào xưởng. Mỗi lần bảo dưỡng đều phải trải qua các giai đoạn tháo dỡ động cơ và các bộ phận khác bên trong xe cạo gỉ lòng xe, hiệu chỉnh các thông số kỹ thuật, thay các bộ phận hỏng hóc, xuống cấp. Phương dẫn tôi sang chiếc xe tăng thứ hai, một nhóm bốn người khác đang làm việc, chiếc xe này đã được tháo dỡ xong, hai người đang cúi lom khom trong lòng xe, cạo gỉ bằng một dụng cụ chuyên biệt. Gỉ sắt rơi thành từng đống dưới nền bê tông. Phương bảo, cạo gỉ xong phải rửa một lượt bằng dầu, lượt tiếp theo dùng bàn chải sắt, đánh bằng xà phòng và nước sạch, xong bằng ấy công đoạn đã mất đứt ba ngày.
Tôi hỏi thiếu úy Nguyễn Ngọc Trường:
- Tháo toàn bộ phần "ruột xe" ra thì phải vặn bao nhiêu cái ốc?
Cả tổ cười rộ lên:
- Ôi trời, ai mà đếm được. Có mà hàng thúng.
Trường nói thêm:
- Chỉ riêng số cờ-lê dùng để mở được hết các con ốc đã lên đến hơn một trăm loại rồi chị ạ. Có những con ốc ở các vị trí đặc biệt thì phải có loại cờ-lê chuyên dụng, cờ-lê hình chừ Z hoặc chữ L mới lách vào được.

Phương chỉ cho tôi xem một khay ốc mới được tổ bên kia tháo ra. Đúng là "một thúng" ốc thật. Thế này thì ai mà nhớ được có bao nhiêu chiếc ốc lớn ốc bé, ốc mẹ ốc con đã từng qua tay mình. Và phải mất đứt một ngày rưỡi với bốn người cho phần vặn các con ốc.

Tất cả đều làm bằng tay, dùng sức người là chính. Tháo ra đã khó, lắp vào càng vất vả, vì khi lắp còn phải hiệu chỉnh lại các thông số kỹ thuật cho chuẩn  xác. Hình như do suốt ngày tiếp xúc, hít thở các loại dầu mỡ nên da dẻ ai cũng xanh tái như người sốt rét. Khẩu trang cũng không thấy đeo, có người bảo, đeo khẩu trang một lúc còn chịu được chứ đeo cả ngày khó chịu lắm, mà ngửi mùi dầu mỡ nhiều năm nay rồi nên cũng quen. Cái vất vả của người thợ sửa chữa không ai tính được, số lượng công việc cũng không gạch đầu dòng liệt kê ra được. Ấy nhưng khi ra trận, khi kíp xe tăng được ngồi trong khối sắt lừ lừ lao thẳng vào quân địch, nã pháo ùng oàng thì mấy anh lính thợ lại không được hưởng cái cảm giác trực tiếp tấn công kẻ thù, đành ngậm ngùi chịu "phận".

Trường cũng như Phương, Hùng, Trung đều ít nói. Hỏi đâu trả lời đấy. Không thấy ai kêu khổ, kêu vất vả Dường như hàng trăm bộ phận trong chiếc xe tăng này đã quá thân thuộc với họ. Mỗi chiếc xe tăng ở đơn vị này, dù thuộc loại nào cũng đều đã kinh qua chiến đấu. Nghĩa là chúng đều đã mang trên mình một câu chuyện lịch sử có thể giống hoặc không giống nhau. Chính vì thế mà mỗi khi nhận về xưởng một chiếc xe tăng là T34 hay T54, T59 mỗi người trong xưởng đều có một tư thế nâng niu, trân trọng. Chiếc ghế trưởng xe đã rách một miếng da này có thể người ngồi trên nó đã hy sinh, ô kính nhỏ hơn bàn tay trước ghế lái kia có thể vẫn còn vương vài giọt máu đồng đội trong một trận tấn công quyết liệt nào đó. Phương kể, nhiều lần, khi tháo dỡ xe bảo dưỡng anh em thợ vẫn còn nhặt được vài viên đạn các loại giắt trong các khe, kẽ. Đó là đạn đã được sử dụng trong một trận đánh nào đó gần ba mươi năm trước còn sót lại.

 Khi kíp xe ở lại doanh trại huấn luyện tại chỗ thì thợ sửa có việc trong xưởng, khi xe đi dã ngoại thì thợ sửa cắp "tráp" đi theo, bất kể mưa nắng, nóng nực hay giá rét thì anh thợ sửa chữa vẫn như một bác sĩ cơ động, xe trục trặc ở đâu thì ngả đồ ngay ra đấy mà  mổ xẻ. Cũng ở  C26 này đã có một sáng kiến giúp ích rất nhiều cho việc huấn luyện chiến sĩ mới, đó là mô hình mạch điện thân xe T54. Trước đây, khi huấn luyện cho anh em chiến sĩ mới, giáo viên phải mô tả bằng cách vẽ lên giấy, thậm chí phải chui vào xe, thì lần này chỉ cần sử dụng mô hình này là sau đợt huấn luyện chiến sĩ đã có thể nắm được toàn bộ mạch điện trên xe, có thể tháo lắp được các bình điện, sửa chữa khắc phục các trục trặc trong mạch điện...

Sở dĩ tôi tiếp cận với cánh thợ sửa chữa nói ít làm nhiều trước khi đến gặp anh em lái xe là bởi trong thâm tâm tôi vẫn cho rằng, nếu không có những người thợ này thì những cỗ xe tăng nặng nề đã có tuổi thọ nhiều chục năm kia hẳn là không thể còn phát huy được sự dũng mãnh của nó. Thời gian và khí hậu khắc nghiệt ở nước ta không cho phép lơ là sự chăm sóc với chúng. Đến cả kính ngắm đêm và đèn hồng  ngoại ở nhiều xe còn phải niêm phong, dán kín đê tránh sự hủy hoại của thời tiết miền núi khắc nghiệt. Anh thợ sửa chữa cũng như anh thông tin đảm bảo liên lạc, dù chỉ là một khoảng cách ngắn từ trưởng xe tới lái xe, pháo thủ thì cũng không thể hét lên bằng liệng trong tiếng gầm rú của động cơ; cũng như anh công binh dọn đường, lo cầu phà; cũng như anh vận tải chở đạn dược, lương thực thực phẩm; cũng như anh quân y lo sức khỏe cho từng thành viên đang ngồi trong lò nướng là chiếc xe tăng kia... đều không thể thiếu mỗi khi đoàn quân sắt thép này ra trận. Thậm chí chỉ là khi ra thao trường. Trước mỗi ngày chiếc xe lăn bánh, xích nghiến ken két trên đường bêtông, là tất cả năm bộ phận phục vụ này đã phải hoàn tất công việc.

Có những người đầu tiên phát minh ra một loại xe dũng mãnh như xe tăng không bao giờ tưởng tượng được rằng sau này nó sẽ được sử dụng trong những hoàn cảnh đặc biệt như thế nào. Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược quân  đội ta đưa xe tăng vào cuộc là trận đánh cứ điểm Tà Mây trong chiến dịch Khe Sanh năm 1968. Xe tăng 555 do trung đội trưởng Lê Xuân Tấu chỉ huy đã lừng lững xông thẳng vào cổng chính của cứ điểm mở đường cho bộ binh và công binh tiến vào tiêu diệt địch. Lần đầu tiên xe tăng xung trận, địch bất ngờ, bộ đội ta được tiếp thêm khí thế, chúng ta đã chiến thắng giòn giã. Đây là trận đánh mở màn của xe tăng đơn vị 203, là trận mở ra một truyền thống của Binh chủng Tăng Thiết giáp: Đã ra quân là đánh thắng. Sau này, có người phải thú thật rằng khi xe tăng ta lần đầu tiên ra trận, trong lòng họ lo lắng không tả xiết. Lần đầu tiên, bộ đội ta, từ nhân dân lao động mà ra, tiếp xúc, sử dụng với một loại vũ khí hiện đại, liệu rồi vận mệnh của trận đánh đầu tiên sẽ ra sao? Nói dại, nhỡ có thất bại thì những trận sau tinh thần anh em chiến sĩ sẽ giảm sút đi rất đáng kể. Sau trận đánh chiếm Tà Mây, bộ đội ta tiếp tục tiến đánh căn cứ Tà Vây của địch. Lần này những cỗ xe tăng cồng kềnh nặng nề đã lội hẳn xuống lòng sông Sê Pôn. Con sông Sê Pôn nhỏ hẹp, quanh co, lòng sông đầy đá hộc, bờ  sông có đoạn dốc đứng, một lần nữa địch hoàn toànbất ngờ, không thể tưởng tượng được xe tăng ta có thể vận động được theo hướng này. Và lần thứ hai tác chiến hiệp đồng binh chủng, xe tăng 203 lại giành chiến thắng. Cho đến tận ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến, chiếc xe 843 hùng dũng húc đổ cổng sắt Dinh Độc Lập lại một lần nữa in đậm và mãi mãi khắc ghi vào lịch sử dân tộc hình ảnh của một binh chủng đã ra quân là đánh thắng.

Đó là chuyện hôm qua.

Trong một chiếc T54 mang phiên hiệu 060 tại đại đội 2, tiểu đoàn 1 có thiếu úy Đoàn Đình Nghĩa - trưởng xe, chuẩn úy Trịnh Văn Cường - lái xe, chuẩn úy Nguyễn Văn Dũng - pháo thủ và hạ sĩ Nguyễn Tiến Anh - nạp đạn. Đây là một kíp xe hoàn chỉnh. Trong khoang xe chật hẹp, các cửa chưa sập lại đã thấy đặc sệt mùi dầu mỡ đến nghẹn thở. Khi xe nổ máy, các của xe đã khép chặt, kín tới mức có thể ngập trong nước mà trong xe vẫn khô ráo, thì ngay lập tức cơ thể sẽ phải chịu tác động cùng lúc của: Bụi, rung, xóc, ồn với cường độ cực lớn và mắt cũng phải làm việc hết khả năng có thể. Mùa hè, nếu nhiệt độ bên ngoài 37 độ C thì trong xe phải lên đến 40 độ C, và sau ba giờ đồng hồ trong xe thì ai nấy đã mặt tái nhợt, có thể sút hàng kg trọng lượng vì mất nước. Chính vì cường độ hoạt động quá cao mà khẩu phần ăn của lính xe tăng phải lên đến 12.500 đ/ngày, cao gấp đôi so với lính bộ binh. Và việc tuyển chọn, huấn luyện lính xe tăng cũng phải đặt yếu tố sức khỏe lên hàng đầu. Trung tá Nguyễn Đức Long, Phó chủ nhiệm Phòng Chính trị đơn vị cho biết, mỗi đợt nhận tân binh về, sau ba tháng huấn luyện thì chỉ chọn được 15 đến 20 người là cùng, trong số 250 - 300 người. Những người đã qua tuyển chọn này tiếp tục qua một khóa đào tạo nữa rồi mới về đơn vị, rồi còn đứng ngoài ngắm nghía, lý thuyết chán chê mới được leo lên xe, vào đúng vị trí.

Con đường từ trục đường chính vào đơn vị chỉ khoảng 3 - 4 ki-lô-mét, đất đỏ sục lên bụi mù, trời mưa thì ngập ngụa bùn, thứ bùn vừa dẻo vừa mịn, bám vào lốp xe thì chỉ có cách dắt bộ. Một sĩ quan đưa tôi từ binh đoàn xuống giải thích: Chưa làm được đoạn đường này là bởi còn để cho xe tăng đi. Vì để chịu được độ nặng của xe và sức nghiến của xích thì ngoài nền đường vững chắc ra còn phải tăng vật liệu lên gấp nhiều lần so với đường nhựa hoặc bê tông thông thường, cũng như đòi hỏi kỹ thuật thi công khắt khe hơn nhiều. Cho đến nay, mỗi khi xe tăng rời đơn vị lên khu trường bắn cách đó mấy chục ki-lô-mét đều phải nhờ đến một loại xe chuyên dụng từ Bộ tư lệnh Binh chủng lên vận chuyển giúp để không làm hư hại đến đường giao thông chính. Mỗi chiếc KAMAZ như thế chỉ chở được hai chiếc  xe tăng một chuyến mà cấp đơn vị, binh đoàn vẫn chưa thể tự trang bị được.

Họ đang giữ một khoản tài sản quốc gia trị giá nhiều tỉ đồng trong tay, và dù chỉ một mảnh kính ngắm bằng nửa bàn tay bị nứt vỡ thì muốn thay cũng phải nhập ngoại. Thiếu úy Trường tại xưởng sửa chữa cho hay, hầu như tất cả các bộ phận của xe, nếu muốn thay thế hiện chúng ta đều phải nhập ngoại (mà nhập ngoại với những loại xe sản xuất gần đây còn dễ chứ xe cũ, sản xuất cách đây vài chục năm thì càng khó). Cũng đã có nơi thử sản xuất xích xe nhưng chất lượng không thể đảm bảo như xích nguyên bản. Do vậy, áp dụng kinh nghiệm từ thời chiến tranh, khi xích xe xuống cấp, không đảm bảo độ an toàn nữa thì cánh thợ nhà ta gỡ tung toàn bộ xích ra rồi đảo lại vị trí, đặt mắt tốt bên cạnh mắt đã yếu, xe lại tiếp tục chạy. Việc tháo và lắp hàng trăm cái mắt xích xe tăng thật không thể đơn giản, Trường cho biết phải dùng búa loại 10 ki-lô-gam mà quai lớn mới đánh được các chốt xích tuột ra. Thử làm một phép tính, mỗi chốt xích phải quai ít nhất ba lần. Mười chốt xích là ba mươi lần, một trăm chốt xích là 300 lần, hai trăm chốt xích là 600 lần. 600 lần, 800 hoặc 1.000 lần cho một lần tháo gỡ hai tấm xích của một chiếc xe tăng thì với hàng trăm chiếc, đời một người thợ khi còn mặc áo lính ở  đơn vị xe tăng này sẽ phải qua bao nhiêu quai búa? Bao nhiêu năng lượng đã tiêu hao chỉ riêng cho việc quai búa, chưa kể đến độ độc hại do tiếp xúc trực tiếp với dầu mỡ?

Núi rừng xanh thẫm đang yên ả bỗng chốc ngả nghiêng, không gian như bị băm vụn ra bởi tiếng xích sắt nghiến rợn người xuống mặt đường. Chiếc xe nặng nhọc sục vào đất đỏ thành từng quầng, từng quầng nối tiếp nhau, đặc sệt. Tôi đưa tay kéo thử cần lái trong chiếc xe tăng, chiếc cần gần như không nhúc nhích. Một trong số những lái xe bảo mỗi lần kéo như vậy là bốn mươi ki-lô-gam đấy. Một quả đạn pháo cũng nặng gần bằng ấy, mà mỗi người nạp đạn phải nạp mấy chục quả mới hết một cơ số đạn.

Họ chỉ còn rất ít thời gian để chăm cho luống rau, ao cá, vườn cây ăn quả. Trung tá Nguyễn Đức Long bảo tôi, sang năm, quãng tháng sáu tháng bảy cô lên thì tha hồ mà ra vườn bẻ các loại quả. Ở trên cao, thời tiết thất thường, tắt ánh mặt trời là rét căm căm, nhưng chỉ 8 - 9 giờ sáng, mặt trời lên là quả đồi trơ trọi lên cao lại hứng cho bằng hết cái nóng nực hanh khô. Lại có người bên đại đội quân y đùa, mùa này mà đi chọn vợ là chính xác nhất, bởi da dẻ các cô có đẹp hay không chỉ đem "phơi" dưới nắng này một ngày là rõ.

Sau một ngày đánh vật với chiếc xe tăng ai nấy đều mệt mỏi, rã rời, bóng đêm xuống sớm, trả lại cho rừng núi, cho cả đơn vị sự yên tĩnh như chưa hề có những tiếng gầm rú của động cơ. Ngay sát với con hào cua doanh trại, bà con người Tày, người Dao, người Hoa vẫn đang cố vun nốt mấy gốc ngô đang đến độ trổ hoa. Bầu trời bình yên, mặt đất bình yên, cuộc sống đang trôi đi theo nhịp điệu đều đều, trôi đi như ngày như tháng, chỉ có những cỗ xe tăng và những kíp lái đã đổ mồ hôi bên trong nó là không một phút được ngơi nghỉ.

Có một giọng hát nào đó lanh lảnh vút lên giữa ruộng ngô: Anh bay lên trời em cũng đuổi / Anh trốn vào sao em cũng tìm / Em cũng một mình chờ anh tới / Mong đợi phương xa anh đến tìm... giọng hát ngưng lại một lúc, im bặt, rồi một giọng nam từ trong khu nhà của đại đội thông tin lại nối theo, khàn khàn: ới anh bộ đội ơi... nữa chứ! Tiếng cười đuổi nhau lan xa trên mặt ruộng ngô xanh mướt, lẫn vào đất trời đang buông rèm...


                                                                                                  Binh đoàn Hương Giang
                                                                                                       Tháng 11-2003
                                                                                                             Đ.B.T

HOÀNG KIM THẤT



DẤU ẤN NGƯỜI LÍNH ĐƠN VỊ 66 ANH HÙNG


Chúng ta có chung niềm vui, niềm tự hào về bề dày chiến công oanh liệt hào hùng ngót nửa thế kỷ của đơn vị 66 Sư đoàn Vinh Quang mà các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã xây đắp nên.

Ra đời từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, do yêu cầu phát triển lực lượng vũ trang lúc bấy giờ. Từ các đại đội độc lập, hình thành các tiểu đoàn Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Gô Tô (Ký con), Hoàng Diệu. Bằng trận đánh tiêu biểu vào thị xã Hà Đông ngày 20 tháng 3 năm 1947 đã trở thành ngày truyền thống của đơn vị 66. Là một trong những đơn vị ra đời sớm, lớn lên dưới sự lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy sự giúp đỡ của chính quyền cách mạng, sự tin yêu đùm bọc của nhân dân các địa phương, dấu chân người lính đơn vị đã in khắp mọi nẻo đường đất nước và trên đất bạn. Trong kháng chiến chống Pháp, đơn vị 66 đã tham gia hầu hết các chiến dịch lớn như Hòa Bình, Trung Lào, Quang Trung, Trần Hưng Đạo. Đơn vị được Bác Hồ về thăm năm 1955 và tặng cờ quyết chiến quyết thắng, lá cờ ấy là nguồn lực vô cùng to lớn, là tài sản tinh thần vô giá dẫn dắt bước chân cua người lính đơn vị bước tiếp trên chặng đường chông gai, vượt qua muôn ngàn thủ thách và chiến công sau lẫy lừng hơn chiến công trước. Cuộc trường chinh chống đế quốc Mỹ xâm lược, tên tuổi của đơn vị được đánh dấu bằng những nét vàng chiến công chói lọi như trận Plây Me 1965 trận đầu ra quân đánh Mỹ, đơn vị 66 đã cùng các đơn vị đánh bại lữ đoàn kỵ binh số 1 của Mỹ ở thung lũng Ia Đrăng trên chiến trường Tây Nguyên. Trận đánh Mỹ ở Ia Đrăng là trận đánh tiêu biểu vì ý chí quyết thắng của cán bộ, chiến sĩ đơn vị với tinh thần nắm thắt lưng Mỹ mà diệt, là ý chí biết đánh và quyết thắng là chiến công vang dội nhất, oanh liệt nhất, là điểm đỉnh sáng chói nhất của thời kỳ cả miền Nam đánh Mỹ. Chiến công của đơn vị là nỗi kinh hoàng của lữ đoàn kỵ binh số 1 được mệnh danh là Anh cả đỏ của Mỹ đã gây cho bọn xâm lược nỗi khiếp đảm, mà ngày nay còn chấn động nước Mỹ. Chiến công của đơn vị còn gắn với những địa danh Khe Sanh, Làng Vây 1968, đường 9 Nam Lào 1971, Thượng Đức 1974 và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975. Có mặt ở những thời điểm lịch sử Mậu Thân 1968, ở  mặt trận khốc liệt, nóng bỏng hè 1972 ở Quảng Trị, thử thách cam go ở Thượng Đức, cao điểm 1062 Quảng Nam - Đà Nẵng 1974. Cán bộ chiến sĩ Đơn vị 66 vào chiến dịch Hồ Chí Minh với nhuệ khí: Thần tốc, táo bạo, quyết thắng. Khí thế của Đơn vị thọc sâu trong đội hình của Binh đoàn thần tốc dọc Duyên hải miền Trung. Cán bộ, chiến sĩ đơn vị 66 cùng Lữ đoàn xe tăng 203, cùng với lực lượng của toàn binh đoàn vượt qua chặng đường ngót ngàn ki-lô-mét tiến thẳng vào Sài Gòn, sào huyệt cuối cùng của chính quyền ngụy. Mũi tiến công của xe tăng 843 do đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy đến trước húc vào cánh cổng phụ, xe tăng 390 mang lá cờ giải phóng kéo lên đỉnh Dinh Độc Lập ngụy Sài Gòn lúc 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng tháng 4 năm 1975. Lực lượng thọc sâu do đơn vị phó đơn vị 66 Phạm Xuân Thệ chỉ huy kịp thời có mặt tiến vào phòng khánh tiết bắt sống nội các Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Chính quyền ngụy Sài Gòn hoàn toàn sụp đổ, miền Nam hoàn toàn giải phóng, kết thúc cuộc trường chinh giải phóng dân tộc suốt 30 năm. Cán bộ, chiến sĩ đơn vị 66 một lần nữa vinh dự được chứng kiến thời điểm lịch sử vinh quang của dân tộc Việt Nam trong niềm vui đại thắng Tổ quốc thống nhất.

Chúng ta rất tự hào trong chiến công chung ấy, đơn vị có 66 tập thể được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều anh hùng tiêu biểu mà tên tuổi các anh được nhiều người nhắc đến, đó là anh hùng trong thời kỳ chống Pháp: Đặng  Đình Hồ, Hoàng Khắc Được; anh hùng trong chống Mỹ: Lê Xuân Phôi, Trần Hữu Bào, Trần Công Đoàn. Còn có hàng ngàn đồng chí được công nhận là dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt xe cơ giới, dũng sĩ bắn máy bay. Với 2.040 đồng chí được tặng Huân chương Chiến công các loại, 7.667 đồng chí được tặng bằng khen, giấy khen trong chiến đấu, làm rạng danh tên tuổi của một sư đoàn thiện chiến.

Chặng hành trình hơn nửa thế kỷ ấy, lớp lớp các thế hệ người lính đơn vị tiếp bước dưới ngọn cờ quyết thắng kế thừa, tiếp thụ những tinh hoa của cha anh đi trước, chắt lọc kinh nghiệm qua khói lửa của chiến tranh, biết rèn luyện mình không mệt mỏi, với mồ hôi trên thao trường cũng đúc lên thành thép đã làm nên chất lính của đơn vị.

Suốt 50 năm, biết bao thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã đi qua, có người ở đơn vị thời gian ngắn, có người đã từng chiến đấu dăm bảy năm, cũng có người đã đóng góp công sức, trí tuệ, máu xương ngót vài chục năm, còn có người cống hiến trọn cuộc đời binh nghiệp cho đơn vị. Dẫu ngắn hay dài, mỗi người lính của đơn vị 66 đều có kỷ niệm của riêng mình về đơn vị anh hùng trong khói lửa chiến tranh hay trong hòa bình xây dựng đều có niềm vui, niềm tự hào là người lính đơn vị, biết trân trọng quá khứ, thuỷ chung tình đồng chí, trọn tình vẹn nghĩa với bạn bè, cùng chia sẻ sướng vui, gian khổ cùng đồng đội, đã không hề tiếc máu xương mà hy sinh phấn đấu vì danh dự của đơn vị anh hùng. Trong những ngày chúng ta gặp lại nhau hàn huyên những chuyện của hôm qua, chuyện về đời thường, chuyện về ngày mai. Trong những cuộc hội ngộ còn rất nhiều chiến hữu chưa có điều kiện gặp mặt, nhưng chúng ta không thể nào quên tên tuổi, địa danh, chiến công của họ, những gương mặt thân quen của đồng đội, đồng chí chúng ta, cùng vui buồn sướng khổ sống chết có nhau. Giờ đây, mỗi người mỗi hoàn cảnh, mỗi cương vị công tác. Dù ở đâu! Làm gì! Chúng ta vẫn có chung niềm cảm xúc, niềm tự hào đã từng chiến đấu, xây dựng đơn vị qua các thời kỳ oanh liệt hào hùng với biết bao chiến công, bao kỷ niệm không thể phai mờ trong màu xanh quân phục bình dị, ở đó đọng lại niềm tự hào, nét đặc trưng chân dung người lính đơn vị 66.

Trong những ngày vui trong không khí hòa bình đất nước đi lên trong thời kỳ đổi mới, quân đội ta đang xây dựng chính quy, từng bước hiện đại, không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ đơn vị 66 ngày đêm ra sức rèn luyện về mọi mặt để xứng danh người lính Cụ Hồ. Có được ngày hôm nay chúng ta kính cẩn nghiêng mình bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn các đồng chí của chúng ta đã anh dũng chiến đấu, hy sinh oanh liệt vì nước, vì dân. Tổ quốc trong lòng các anh, đồng đội vẫn luôn bên anh, các anh đã cống hiến tuổi thanh xuân đẹp nhất của đời mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì thống nhất đất nước, vì chủ nghĩa xã hội. Tên tuổi của các anh đã hóa thân vào mùa xuân vĩnh viễn, tên các anh mãi mãi là bài ca bất diệt mà các thế hệ mai sau không thể nào quên. Chiến công của các anh ở khắp mọi nẻo đường đất nước và ở cả đất nước Chăm Pa, đất Chùa Tháp. Ngay tại mảnh đất Vĩnh Phúc, nơi hiện tại đơn vị đóng quân, trong chiến dịch Trần Hưng Đạo cách đây 48 năm, trong cuộc đọ sức với quân xâm lược Pháp, các chiến sĩ của đơn vị 66 đã anh dũng chiến đấu, có người đã ngã xuống, góp phần tô thắm địa danh giàu truyền thống này. Còn vô vàn đồng đội chúng ta, có người để lại một phần cơ thể ở chiến trường, có người bị chất độc màu da cam của đế quốc Mỹ để lại di chứng cho bản thân và cho con cái phải gánh chịu, sự mất mát ấy là vô cùng to lớn.

Chúng ta tự hào về đơn vị 66 anh hùng, cái nôi đã nâng bước cho mỗi chúng ta và trong cuộc hành trình đầy gian khổ và vinh quang với truyền thống oanh liệt hào hùng ngót nửa thế kỷ qua. Lớp lớp cán bộ, chiến sĩ ta hôm nay hiểu sâu sắc rằng, thành quả mà chúng ta có được là sự kết tinh của một chặng đường hơn nửa thế kỷ, ở đó có cả mồ hôi, máu và nước mắt của các thế hệ cha anh, là tài sản không gì có thể so sánh được. Lớp người kế tục truyền thống đơn vị hiện nay xin bày tỏ lòng ngưỡng mộ công lao to lớn của lớp cha anh đi trước đã làm rạng danh, tạo dựng cho đơn vị 66 anh hùng một vóc dáng oai hùng chứa đựng những tố chất đa dạng, sinh động tựa huyền thoại. Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn cấp ủy, chính quyền, nhân dân các địa phương đơn vị đã từng đóng quân trên mọi miền đất nước và trên đất bạn Lào, Campuchia đã cứu mạng, che chở, giúp đỡ tận tình về mọi mặt và giành cho cán bộ, chiến sĩ đơn vị một tình Cảm đặc biệt thật cao quý, thiêng liêng. Lớp cán bộ, chiến sĩ của đơn vị hôm nay xin nguyện làm tất cả những gì có thể để không phụ truyền thống đơn vị đã có Thời gian đi về phía trước để lại quá khứ đáng tự hào mãi mãi không chút mờ phai. Sự lấp lánh của những chiến công thực sự có ý nghĩa khi lớp người kế cận hôm nay biết trân trọng, kế thừa, tiếp thụ để phát triển. Tự nó sẽ có tác dụng củng cố niềm tin yêu cho thế hệ trẻ, tiếp thêm sức mạnh mới cho lớp lớp cán bộ, chiến sĩ đơn vị say mê rèn luyện về mọi mặt vững bước tiến vào thời kỳ mới với niềm tự hào là người lính của đơn vị 66 anh hùng.


                                                                                                              H.K.T

NGUYỄN ĐÌNH TÚ



KHÔNG CHỈ LÀ KHOẢNH KHẮC



Sau bộ phim Khoảnh khắc chiến tranh (kịch bản: Hà Đình Cẩn, đạo diễn: Trần Phi) ra mắt công chúng và được Giải thưởng Ban Giám khảo Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 13, nhiều ý kiến cho rằng chỉ có điện ảnh quân đội làm phim mới điều được quân đông như thế, mới điều được xe tăng, pháo binh, tạo cảnh chiến trường thật như thế chứ các nhà làm phim bên ngoài thì chịu.

Quả là nhờ có những thước phim như thế, thế hệ hậu sinh mới ít nhiều hiểu được thế nào là chiến tranh, dù chỉ là khoảnh khắc, dù chỉ là tiếp cận bằng nghệ thuật, bằng tâm thế của người ngoài cuộc. Còn tôi sau khi xem phim xong, cứ tò mò một câu hỏi: Không biết các nhà làm phim lấy bối cảnh ở đâu? Quân tướng ấy, xe pháo ấy, núi rừng ấy, khói lửa ấy, tiếng nổ ấy là thật hay giả, giữa thời buổi đất nước thanh bình này họ lấy đâu ra được những "chất liệu” ấy đề mà làm phim?

Và rồi câu trả lời đã có khi tôi biết đạo diễn Trần Phi đã dẫn đoàn làm phim xuống "nằm" hằng năm trời ở Trường bắn Quốc gia khu vực I (TB1) để có được những cảnh quay đậm "sắc màu” chiến tranh như vậy. Và cũng nhờ điều này mà tôi biết thêm rằng trên đất nước ta vẫn còn những nơi đang diễn ra những hình ảnh thu nhỏ của "chiến tranh", vẫn còn những người lính đang hàng ngày sống bên bom rơi đạn nổ, vẫn còn những khoảnh rừng ám màu khói súng, những khoảng trời rền vang âm thanh chiến trận và chiến tranh không phải là thứ đã bị lãng quên đối với người lính thời bình.

Trường bắn TB1 thuộc sự quản lý của Binh đoàn Hương Giang có diện tích rộng tới trên ba chục cây số vuông nằm trên đất của 84 thôn, 3 xã, 4 huyện, vắt qua hai tỉnh trung du và miền núi. Chỉ nghe các địa danh thôi đã thấy gợi lên toàn núi rừng xa xôi, heo hút. Nào Cầu Ma, Đèo Váng, Cống Lầu, Bản Chu, Bản Piềng. Nào Pò Khưa, Khuổi Bốc, Nà Danh, Nốc Mỏ, Đồng Cuồm, Suối Cai. Và địa danh ở đây gắn với rất nhiều "Sơn", như Biên Sơn, Giáp Sơn, Kim Sơn, Quý Sơn, Thạch Sơn, Sơn Động, Cấm Sơn. Phải rồi, hai từ Cấm Sơn lại làm người ta liên tưởng đến những câu thơ của nhà thơ liệt sĩ Thôi Hữu: Tôi lên vùng Cấm Sơn /Đi tìm thăm bộ đội / Đây bốn bề núi, núi / Heo hút vắng tăm người / Đèo cao rồi lũng hẹp/ Ngóng đợi tin xuôi ngược / Chỉ thấy mây xanh bát ngát trời... Hơn 50 năm trước Thôi Hữu lên Cấm Sơn với một "tình trai mạnh" như thế. Còn những ngày này, tôi lên Cấm Sơn, lên với Trường bắn TB1 với cái không khí náo nức của cảnh tượng: Trùng trùng quân đi như sóng/ Lớp lớp đoàn quân tiến về... Quả là bộ đội hành quân ngập các nẻo đường. Họ đang đổ về các vị trí tập kết, đang lẫn trong sắc lá xanh của cây rừng, đang thấp thoáng bên những hầm hào công sự, đang mang vác gánh gồng mọi thứ trên đôi vai của mình. Họ đang tập dượt một chuyến đi vào chiến  trường và sắp tới, sẽ thực hiện trên các tình huống của một cuộc chiến tranh giả định.

Trường bắn TB1 là nơi diễn ra những đợt diễn tập của các đơn vị trong toàn quân với nhiều cấp độ khác nhau. Người lính không có thao trường chẳng khác gì nhà nông không có ruộng. Với trên ba chục cây số vuông này, các quân binh chủng đã có được một thao trường lý tưởng để “rèn quân luyện cán". Trường bắn TB1 có nhiều ải bắn dành cho nhiều nội dung diễn tập như xe tăng, pháo binh, bộ binh, phòng không... Để làm công tác đảm bảo cho việc diễn tập bắn đạn thật thành công, trường bắn có nhiều đơn vị làm công tác bảo vệ đường biên, bảo dưỡng trang thiết bị và nuôi dưỡng môi trường sinh thái. Những người lính làm nhiệm vụ này không đơn giản như chúng ta vẫn tưởng. Họ là những người lính luôn sống bên "khoảnh khắc chiến tranh". Các đơn vị diễn tập đến rồi đi, còn những người làm công tác đảm bảo ở đây hầu như ngày nào cũng sống với tiếng đạn nổ, tiếng quân reo, tiếng gầm rú của phản lực, tiếng xích sắt nghiến vào lòng đất, tiếng hô khẩu lệnh, tiếng thu phát tín hiệu thông tin, cùng với những âm thanh ấy, là những thắc thỏm lo âu tên sai đạn lạc luôn hằn ám lên từng khuôn mặt cán bộ, chiến sĩ nơi trường bắn bốn mùa heo hút gió này.

Tôi đến đại đội tăng ngay sau khi đơn vị diễn tập vừa rút đi. Hàng dãy xe tăng còn đang nằm bên vạt đồi chờ bảo dưỡng duy tu để phục vụ cho những lần bắn sau. Thượng úy Nguyễn Văn Đông, đại đội trưởng, chỉ vào những vệt xích bám đầy đất đá bảo: “Anh xem, những con chiến mã già nua của chúng tôi sau mỗi lần xung trận bẩn thỉu như thế này đây. Chúng tôi lại phải làm vệ sinh cho nó, vỗ về chải chuốt cho nó thật bóng bẩy để rồi lại bàn giao cho đơn vị khác đến diễn tập. Bảo dưỡng duy tu nhưng anh "chàng" tăng này phải qua những công đoạn vất vả lắm anh ạ!".
Tôi bảo:
- Thì lấy nước phun rửa qua là xong, có gì đâu?
Đông cười:
- Không đơn giản thế đâu. Chúng tôi phải dùng búa tạ đập xích cho đất đá rời hết ra rồi dùng nước xà phòng phun rửa, kỳ cọ cho thật sạch cả trong và ngoài. Nhưng đấy mới chỉ là một công đoạn. Sau đó chúng tôi còn phải sửa chữa mọi hỏng hóc, bảo đảm  cho xe ở tình trạng kỹ thuật tốt rồi mới tiếp tục đến công đoạn niêm động cơ và pháo súng. Khi niêm phải nổ máy cho xe nhiệt độ cao lên. Dầu nhớt phải đun qua cát, sôi bốn tiếng đồng hồ mới được múc ra để đổ vào các xy lanh đưa vào các máy. Với súng pháo lại phải kỹ càng hơn nữa. Chúng tôi phải dùng thông nòng đánh rửa nòng pháo sạch đến mức đưa vải trắng vào kiểm tra không còn một vết bẩn nhỏ. Sau đó tuốt dầu bo, rồi dùng than xoan đánh sạch những chỗ han gỉ (nếu có), cuối cùng lại dùng dầu bo và mỡ đun qua cát để niêm, đồng thời làm sạch chích khí. Kỳ công lắm! Đấy là chưa kể quá trình bơm dầu khí vào hãm lùi đẩy lên của nòng pháo, rất cực nhọc. Bốn, năm người làm trong hàng tháng trời mới xong. Có thế khi xung trận nó mới hạ gục được những mục tiêu cần tiêu diệt chứ.

Đông nói say sưa về các bước bảo quản xe, đôi lúc hứng chí còn nhảy cả lên tháp tăng chỉ chỏ từng bộ phận cho tôi xem. Nhìn Đông không có dáng của một anh lính xe tăng vì anh eo vóc người thư sinh, mái tóc rẽ ngôi bên hơi điệu đàng, lại cả giọng nói nhỏ nhẹ như một anh giáo làng. Đông quê ở Hà Tây, năm nay ba mươi tuổi rồi. Đông bảo: "Năm ngoái có người đưa ra Chũ tán một cô học Trung cấp Y đang thực tập ở bệnh viện huyện. Ngay trong buổi nói chuyện đầu tiên cô ấy đã ngỏ ý là không muốn lấy chồng xa. Thế là mình đành phải nói dối mình là người Bắc Giang. Ai ngờ Hai hai tháng mười hai cô ấy mang hoa vào tặng, tới cổng trường bắn cứ hỏi "Anh Đông Bắc Giang", mọi người bảo ở đây chỉ có "Anh Đông Hà Tây thôi". Sau hỏi mãi người ta mới chỉ đến chỗ đại đội tăng. Hôm ấy thấy cô bé mang hoa đến tặng mà mặt cứ buồn buồn. Rồi cô ấy giận cho đến hàng tháng trời. Mãi sau này cô ấy mới bảo: "Ngay lần gặp đầu tiên anh đã nói dối em, mà bọn em thì rất tin bộ đội, hôm ấy em thất vọng ghê gớm!". Mình đành chống chế: "Anh làm thế vì anh đọc ở đâu đó một câu nói rằng nói dối là tội lỗi nhưng trong tình yêu thì nói dối có thể được tha thứ".
- Anh tán gái cứ hay như trong phim ấy. Thế bây giờ chuyện của hai người tiến triển đến đâu rồi? - Tôi hỏi .
- Có lẽ đầu sang năm bọn mình sẽ tổ chức. Nhiều thứ phải lo quá, quê thì ở xa, nhà cửa không có, đồng lương thượng úy không biết sẽ duy trì được cuộc sống gia đình ở mức nào?

Suy nghĩ của Đông cũng là suy nghĩ của rất nhiều sĩ quan trẻ đang phải sống xa nhà hiện nay, trong đó có tôi người viết bài bút ký này. Nhưng mà thôi, khó khăn thì lúc nào mà chẳng có. Cố gắng mà khắc phục. Rồi thì hạnh phúc sẽ đến, mọi thứ sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn, có tình yêu là may mắn rồi, có tình yêu sẽ có được tất cả kia mà, phải không chàng thượng úy thích "tầm chương trích cú?".

Rời đại đội tăng tôi muốn đến với những đơn vị bảo đảm còn lại nhưng đại tá chỉ huy trưởng trường bắn Vũ Đăng Bình bảo: Muốn đi hết khu vực trường bắn này phải mất hàng năm, ngoài các đơn vị bảo đảm còn các đơn vị bảo vệ, đơn vị trồng rừng, chưa kể các đội công tác bám nắm địa bàn, anh muốn đến với những người lính gác đạn hay đến với những người lính phủ xanh đất trống đồi trọc?".

Tôi biết gần chục năm qua các đơn vị trồng rừng của trường bắn đã trồng mới và khoanh nuôi bảo vệ rừng rất tốt, trung bình mỗi năm trồng mới được 300 héc ta, trồng dặm khoanh nuôi rừng tái sinh được 400 héc ta, gieo ươm hàng vạn cây con các loại. Nhưng cái việc trồng rừng nghe ra không có gì lạ, còn cái việc "gác đạn"  là thế nào nhỉ?. "Chúng tôi có hai đơn vị làm công tác bảo vệ trường bắn - Đại tá Vũ Đăng Bình tiếp tục - Anh cứ thử hình dung trong mấy trăm cây số vuông này liên tục có các đơn vị đến diễn tập. Đã diễn tập là có bắn đạn thật. Đã bắn đạn thật thì có viên nổ, viên không, viên rơi trúng mục tiêu, viên ra ngoài đường biên. Làm sao để hạn chế đến mức thấp nhất những điều không may mắn xảy ra, thì đó là nhiệm vụ của các đội bảo vệ của chúng tôi".
- Trong khi đó phạm vi khu vực trường bắn của các anh vẫn còn tám mươi tư thôn thuộc mười ba xã? Mà như anh nói, có những trận diễn tập phát triển tiến công chiều sâu tới hàng chục ki-lô-mét, có xe tăng, pháo binh và các loại hỏa lực khác tham gia. Thế thì các anh lo bảo đảm an toàn thế nào được?

Anh Bình không trả lời câu hỏi của tôi mà bảo: "Bây giờ chúng ta đi đến một nơi được coi là túi đạn để anh thấy những người lính của chúng tôi phải thức canh đạn như thế nào?".

Cái "túi đạn" ấy tưởng gần hóa ra cách sở chỉ huy trường bắn tới bốn chục ki-lô-mét. Mà là bốn chục cây số đường rừng. Cứ thấy xe lên đèo rồi lại xuống dốc, quẹo trái rồi lại quẹo phải, càng đi càng thấy hoang vu, càng thấy núi đồi giăng giăng trước mặt. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến được nơi ở của đại đội bảo vệ số 2. Có mình đại đội trưởng Hoàng Công Cán đang trực ở nhà. Anh bảo. "Đại đội prải ra đóng ở bốn vị trí khác nhau, cách nhau tới hàng chục cây số, có thể coi đây là xê bộ".

Phải rồi, hôm nay là ngày bộ đội phòng không diễn tập nên cả xê bộ cũng vắng, tất cả đều đang ở những vị trí canh đạn. Đại đội trưởng Cán bảo: "Anh em dậy từ hai giờ sáng, ai về vị trí của người ấy. Ở từng vị trí đảm nhiệm phải di dân ra khỏi khu vực mất an toàn trước sáu giờ sáng. Có khi bắn một buổi, có khi bắn cả ngày, có khi bắn đêm. Có lần nhận được kế hoạch là bắn trong buổi sáng. Cũng thông báo cho dân thế. Nhưng quá trưa vẫn chưa bắn xong. Các em học sinh không được chuẩn bị trước, đói quá, vào đại đội xin cơm. Anh nuôi đành phải chia cơm cho các em ăn rồi nấu cơm khác cho bộ đội. Gác dân đã khổ rồi, gác đạn còn khổ hơn. Ở trên đài quan sát chúng tôi đếm từng quả đạn một. Ví như cối lần này bắn sáu mươi quả. Lại chỉ nổ có năm mươi hai quả. Thế là chúng tôi phải đi tìm tám quả đạn chưa nổ để hủy. Hòn đạn nó đâu có mắt. Tính khí nó lại thất thường. Nó rơi vào nhiều chỗ rất oái oăm. Chúng tôi còn để sót một viên đạn nào là còn ăn không ngon ngủ không yên. Nó có thể gây nguy hiểm cho dân hoặc các đơn vị đến diễn tập sau. Mà để mất an toàn là chúng tôi không hoàn thành nhiệm vụ. Để hoàn thành nhiệm vụ đôi khi chúng tôi phải trả bằng máu. Công việc của chúng tôi nghe thì có vẻ rất đơn giản nhưng quả thực nguy hiểm và rất căng thẳng. Anh cứ ở đây với chúng tôi một mùa diễn tập thì anh sẽ thấy rõ hơn".

Chả phải ở đến một mùa diễn tập tôi cũng đã thấy quá rõ những gian lao vất vả của cán bộ chiến sĩ làm công tác bảo vệ ở đây. Mấy ngày vừa qua tôi đã lang thang ở nhiều chốt "canh dân", "canh đạn" và tôi còn thấy nhiều điều khổ cực khác mà đại đội trưởng Cán chưa nói hết. Ví như cái chuyện dân chui vào khu vực mục tiêu nấp trong công sự tự tạo để chờ bắn xong thì ào lên nhặt mảnh đạn chẳng hạn. Rồi cái chuyện tế nhị vào lúc hai, ba giờ đêm gõ cửa bảo vợ chồng con cái người ta đi ra khỏi đường biên mới nhọc nhằn, khốn khó làm sao. Rồi đạn bay vù vù trên đầu. Rồi đi tuần rừng không để dân chặt cây lấy củi, đốt cây làm  nương rẫy... Cũng là bộ đội mà có mấy khi được ở trong doanh trại, toàn ở rừng, ở núi, ngủ tăng, ngủ võng, lắng nghe tiếng đạn nổ như nhẩm học thuộc bài, canh dân không vào đường biên như canh kẻ trộm không cho vào nhà mình, tìm đạn để hủy như tìm rắn tìm rết trong chăn. Trung úy Thọ, trung đội trưởng trung đội 1 bảo tôi: "Ngày em tốt nghiệp lục quân, vác ba lô lên đến đây thấy các anh chỉ huy đại đội đang ngồi uống nước ngoài trời với ngọn đèn dầu tù mù em ngán quá, nhìn ngang nhìn dọc chả thấy nhà cửa đâu chỉ lúp xúp vài căn chòi thấp tịt, xê bộ mà còn như thế thì các chốt cắm rải rác trong rừng sẽ tạm bợ đến đâu? May thay, sang tới đầu năm ngoái thì có điện. Và năm nay thì dãy doanh trại mới đã được xây. Tháng sau sẽ bàn giao. Thôi thì, sau những ngày ở rừng, về đến xê bộ được nằm trong cái nhà đẹp cũng thấy ấm lòng". Tôi nghe Thọ nói mà thấy lòng mình chùng lại. Đấy là Thọ còn chưa nói đến hành trình về nhà mỗi khi được nghỉ phép. Phải đi bộ từ tối hôm trước, mất hơn một tiếng đồng hồ mới ra tới đường cái. Xe thường chạy từ một giờ đến ba giờ đêm. Lỡ có ngủ quên bên đường trong khi đợi xe thì lại phải chờ đến đêm hôm sau mới có xe về. Đường sá như thế, nghĩ đến mà ngại. Chả lẽ có phép lại không về?
Tôi băn khoăn:
- Chẳng lẽ một trường bắn tầm cỡ quốc gia thế này mà cứ để kéo dài mãi cái chuyện "canh dân" hay sao? Trên đường trở về sở chỉ huy trường bắn, đại tá Vũ Đăng Bình đã trả lời cái điều mà tôi vẫn canh cánh trong lòng. "Có rồi, có cách giải quyết rồi. Chính phủ đã phê duyệt Dự án di dân tái định cư khu vực trường bắn, đầu năm tới sẽ bắt đầu tiến hành, dự án lớn lắm, tổng vốn đầu tư lên tới gần năm trăm tỷ kia đấy".
Tôi ngạc nhiên:
- Làm gì mà nhiều thế anh?
Chỉ huy trưởng Bình hào hứng:
- Hiện trong trường bắn vẫn còn 2.421 hộ với 13.176 khẩu cư trú. Bảy mươi phần trăm trong số đó  là dân tộc ít người: Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ. Tính ra có 53 thôn đang cư trú và canh tác trong khu vực trường bắn, 31 thôn dân cư trú ngoài trường bắn nhưng có đất canh tác trong đường biên. Như vậy dự án di dân này chẳng khác gì di dân khỏi lòng hồ sông Đà, quy mô và tính chất mang tầm cỡ quốc gia, chúng tôi chỉ tham gia thực hiện một phần công việc thôi. Tôi được biết thực hiện dự án lần này sẽ triệt để hơn và chính sách đền bù cũng thỏa đáng hơn. Các hộ sẽ được phân loại, mỗi loại sẽ có cách tính đền bù khác nhau nhưng nhìn chung mỗi hộ sẽ được cấp từ 200 đến 400 mét vuông đất ở, một đến hai héc ta đất sản xuất, sẽ tính giá đền bù về nhà cửa, mồ mả, các vật dụng kiến trúc khác. Ngoài ra còn có các chính sách hỗ trợ như cấp tiền sử dụng điện, tiền di chuyển, cấp lương thực giai đoạn đầu, cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu để ổn định sản xuất. Rồi tại các điểm tái định cư sẽ phải xây dựng cơ sở hạ tầng tương ứng với thiết chế xã hội như trạm y tế, trạm điện, trường học, chợ, khu thể thao - văn hóa và các công trình công cộng khác. Dự án sẽ triển khai trong ba năm. Hy vọng đến năm 2005 cái việc canh dân của chúng tôi sẽ đỡ vất vả hơn.
Tôi dè dặt hỏi:
- Hình như vẫn có gì chưa ổn anh Bình nhỉ? Dân vẫn có thể ra vào trường bắn khai thác các nguồn lợi của núi rừng, quân ta ít, làm sao rải ra mà ngăn họ được?
Chỉ huy trưởng Bình cười:
- Vâng, đó chính là suy nghĩ của chúng tôi khi tham gia đóng góp vào dự án. Chính vì thế trong lần tu chỉnh cuối cùng dự án đã được bổ sung thêm phần xây dựng hệ thống đường biên. Khi trường bắn đã được khoanh lại bằng một đường biên hữu hình thì có nghĩa là cơ bản đã giải quyết được việc "canh dân", những người làm công tác phục vụ bảo đảm như chúng tôi chỉ còn tập trung vào việc làm sao cho các cuộc diễn tập đạt kết quả tốt. Thú thực với anh, tôi mong tới ngày được thấy một thao trường hoàn chỉnh, cũng như người nông dân ấy mà, ai chẳng mong có một khoảnh ruộng vuông vắn của riêng mình.

Suốt mấy ngày được đi với chỉ huy trưởng Vũ Đăng Bình dọc ngang khu vực trường bắn, tôi nhận thấy anh là người rất sâu sắc tỉ mỉ. Anh nắm rất vững địa hình, lại rất hiểu nỗi gian khó của những người lính làm công tác bảo vệ cũng như tâm tư nguyện vọng của người dân nơi đây. Anh bảo: "Ngày xưa đất đai sông núi là thứ bị bỏ quên, lại mấy chục năm chiến tranh kéo dài liên miên, bộ đội ở đâu chẳng được, huấn luyện chiến đấu ở đâu chẳng xong. Nhưng bây giờ đất đai đã được sở hữu hóa, người dân vẫn rất tốt với bộ đội nhưng không thể nào cứ nhập nhằng lẫn lộn giữa quân với dân được. Tôi biết nhiều đơn vị thiếu đất để xây dựng thao trường. Cũng mảnh vườn ấy quả đồi ấy, con sông ấy, ngày xưa bộ đội hành quân diễn tập qua đó suốt ngày đêm không sao, nhưng bây giờ sông suối, đất đai, núi đồi đều đã được thầu, đều đã có một người chủ cụ thể, một nhành cây một ngọn cỏ cũng đã là tài sản, là đồng tiền bát gạo của người ta, chẳng thể cứ "mượn", cứ "nhờ" mãi được. Chắc là Bộ và Chính phủ cũng đã thấy thực tiễn mới này. Việc Chính phủ phê chuẩn Dự án xây dựng Trường bắn TB1 là điều rất đáng mừng đối với chúng tôi cũng như với các đơn vị về đây huấn luyện. Nói thật với anh, cứ mỗi khi nghe thấy có tiếng đạn nổ là tôi lại hồi hộp. Chuông điện thoại reo là tôi lo có sự cố xảy ra. Khi vào trận diễn tập có khác gì chiến tranh thực thụ, làm sao cân đong cho hết được các tình huống xảy ra. Ngồi ở sở chỉ huy nhưng lòng dạ tôi cứ thắc thỏm nghĩ tới cái nơi được gọi là túi đạn cách mình bốn năm chục cây số. Rồi tin báo về bao nhiêu quả đạn chưa nổ, bao nhiêu quả đã tìm được, bao nhiêu quả đã hủy và bao nhiêu quả còn đang chơi  trò ú tim trong từng bụi cây hốc cỏ. Quả thực, tôi luôn có cảm giác chiến tranh đang ở rất gần mình".

Thảo nào trông anh Bình già hơn cái tuổi bốn tám của mình rất nhiều. Anh có dáng dấp của một cán bộ tuyên giáo tỉnh ủy hơn là một sĩ quan cao cấp đang từng ngày sống bên thao trường. Mỗi khi anh nói có cảm giác anh đang tủm tỉm cười vì những... hai cái răng khểnh đua nhau làm duyên trên khóe miệng anh. Đúng là chỉ còn nụ cười của anh chưa già theo năm tháng. Lại chợt nhớ đến hai câu thơ của Thôi Hữu: Ở đây những mặt buồn như đất/ Bộ đội cười lên tươi như hoa. Sao nụ cười của anh Bình giống nụ cười của Đông, của Cán, của Thọ, của các sĩ quan trẻ mà tôi đã gặp đến thế!

Nếu không có những nụ cười ấy, có lẽ, người ta sẽ thấy sợ cái gọi là "khoảnh khắc chiến tranh".
Mà ở trường bắn này "chiến tranh" không chỉ là khoảnh khắc!


                                                                                                     Trường bắn TB1, 11-2002
                                                                                                                  N.Đ.T

BÙI HOÀNG HẢI



ÂM VANG DÒNG SÔNG


Tạm biệt quốc lộ 13 tôi rẽ phải đến thăm Đoàn pháo binh Bến Hải. Đó là Lữ đoàn M64 nằm trong đội hình chiến đấu của Binh đoàn Hương Giang. Những đơn vị mang cái tên dịu dàng của dòng sông miền Trung xứ Huế.

Trước mắt tôi, những quả đồi lúp xúp nối nhau dài ra mãi. Trên đó là những cây vải thiều đang vào mùa hoa, cứ thả sức khoe hương sắc cùng đất trời trung du. Vượt một đoạn qua khu ruộng trống, trước mắt tôi những ngôi nhà cấp bốn xen lẫn những ngôi nhà mái bằng một, hai tầng kiên cố, thấp thoáng ẩn hiện sau rừng cây đó là "đại bản doanh” của Đoàn pháo binh Bến Hải.

Lữ đoàn mới nhận tân binh. Các anh cán bộ từ lữ đoàn trưởng đến trung đội trưởng đang khẩn trương chuẩn bị cho mùa ra quân huấn luyện. Tiếp đón chúng tôi được ban chỉ huy lữ đoàn giao cho Chủ nhiệm chính trị Phạm Đình Tuấn. Tôi biết trong lúc này anh đang bận trăm công ngàn việc. Sau những lời thăm hỏi xã giao tôi vào thẳng vấn đề:
- Chúng tôi về đây muốn hiểu thêm truyền thống chiến đấu của lữ đoàn - Tôi nhìn thẳng vào Tuấn. Còn anh nâng ấm trà rót thêm nước mời chúng tôi, động tác kéo thời gian để sắp xếp lại tư duy tìm cách dẫn dắt vấn đề cho khúc triết.

Có thể nói, đến ngày nay bất cứ một cán bộ chiến sĩ nào, cũng đều tự hào mình là lính của Đoàn pháo binh Bến Hải - Tuấn nói rõ ràng chậm rãi nhẩn nha từng câu chữ rất mạch lạc - Đặc biệt là truyền thống trong chiến đấu. Truyền thống ấy đã được các thế hệ sau này phát huy trong huấn luyện, xây dựng lữ đoàn ngày một vững mạnh.

Ngừng lại một chút anh kể tiếp. Thành lập ngày 25 tháng 10 năm 1954 mấy chục năm chiến đấu xây dựng trưởng thành, chiến công của lữ đoàn gắn liền với những địa danh lịch sử như Quân khu 4, Mặt trận Đường 9 Nam Lào, năm 1972 tham gia giải phóng Quảng Trị, cùng đơn vị bạn giữ vững Thành cổ trong suốt 86 ngày đêm, rồi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Theo lời Tuấn kể, tôi bắt đầu thả trí tưởng tượng của mình theo dấu chân người lính pháo binh. Những người lính mang biểu tượng: "Chân đồng vai sắt, đánh giỏi bắn trúng". Dấu ấn của các anh đã in đậm lên mọi miền đất nước quê hương, từ vùng duyên hải Quân khu 3 đồng bằng Bắc Bộ đến Điện Biên Phủ, Thượng Lào, Tây Nguyên, miền Nam Trung Bộ... Tiếng pháo của các anh là những đòn sấm sét giáng 46 xuống đầu thù cùng toàn quân toàn dân cất lên bản hòa ca chiến thắng.
Rồi Tuấn nói tiếp:
- Mỗi trang sử của đoàn là những chiến công hiển hách - giọng anh trầm xuống - và gắn liền với nó là thắm đượm mồ hôi nước mắt và máu của cán bộ, chiến sĩ lữ đoàn.
Tôi sợ câu chuyện trùng xuống nên cắt ngang:
- Tôi nghe nói đoàn ta giàu thành tích chiến đấu lắm phải không anh?
- Vâng! Lữ đoàn đã từng tham gia đánh tầu chiến và máy bay địch bảo vệ Quân khu 4. Rồi những trận đọ pháo ở phía nam sông Bến Hải 1967. Cùng với toàn quân, toàn dân tham dự chiến dịch Mậu Thân 1968, rồi Khe Sanh cuối 1968. Đoàn lại tiếp tục đánh địch ở bắc Quảng Trị, Đường 9 (1969 - 1971), chiến dịch Quảng Trị 1972. Tôi chỉ kể những mốc chính thôi nhé. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng tháng 3 năm 1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Vị chi lữ đoàn đã đánh 2.784 trận, diệt và bắt 34.766 tên địch, phá hủy 2.785 khẩu pháo từ 105 đến 175 ly. Bắn cháy 174 xe tăng, xe bọc thép. Bắn chìm, bắn cháy 53 tầu xuồng các loại. Bắn rơi 35 máy bay. Đánh sập 31 sở chỉ huy và bắt sống một xe tăng M41 .

Tôi thực sự bị chinh phục bởi thành tích chiến đấu của lữ đoàn. Ngần ấy trận đánh, cả một hệ thống trang bị khí tài cùng những người lính ngày đêm "xẻ dọc Trường Sơn" hành quân chiến đấu. Không ít những cán bộ, chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại nơi rừng xanh, đất đỏ để tô thắm thêm truyền thống của lữ đoàn.

Chúng tôi cùng nâng chén uống trà. Phía phòng bên số trợ lý không ồn ào như trước nữa, họ cũng đang tâm đắc với câu chuyện của chúng tôi.

Để minh chứng cho hiệu quả trong hoạt động chiến  đấu Tuấn thống kê khen thưởng cho tôi nghe.
- Lữ đoàn được tặng thưởng 27 Huân chương Quân công, 132 Huân chương Chiến công cho tập thể, 500 Huân chương Chiến công cho cá nhân. Lữ đoàn được Bác Hồ tặng cờ "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" Đoàn được tuyên dương "Đơn vị Anh hùng". Có 2 tiểu đoàn của lữ đoàn được tuyên dương danh hiệu "Đơn vị Anh hùng" lần thứ hai.

Tôi từ ngỡ ngàng đến khâm phục người cán bộ chính trị ngồi đối diện với tôi. Những con số anh thuộc lòng trong đầu. Anh biết ép thời gian, trình bày khái quát cho tôi nghe bằng phương pháp thống kê mang tính định lượng.

Tôi hỏi anh - Phương pháp giáo dục truyền thống của lữ đoàn đối với chiến sĩ mới?
Anh kể tôi nghe một loạt vấn đề trong đó có kể chuyện chiến đấu, giới thiệu chiến lệ trận đánh cho bộ đội nghe.
- Trận nào thu hút chiến sĩ nhất? - Tôi hỏi.
- Nhiều lắm - Tuấn cười rất hóm nhìn tôi như hiểu thế nào tôi cũng đòi anh kể một chuyện - ví dụ như: trận Dốc Miếu, trận Gio An - Mậu Thân 1968, chiến dịch 72...

Để có tư liệu cho từng trận đánh tôi đề nghị Tuấn kể cho nghe một số chuyện chiến đấu cụ thể. Trong đó đáng chú ý trận Dốc Miếu. Câu chuyện để lại cho tôi một ấn tượng sâu sắc cho đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in lời Tuấn kể: Dốc Miếu là căn cứ được Mỹ ngụy bỏ công sức xây dựng như "một pháo đài bất khả xâm phạm". Toàn bộ căn cứ cách cầu Hiền Lương về phía nam 6 ki-lô-mét. Mỹ ngụy đã từng tự hào đây là con mắt thần của hàng rào điện tử Mắc Namara. Với 11 lớp rào thép gai xen vào giữa từng lớp có chiến hào sâu, rộng tới bốn mét cắm chông sắt. Đây thực sự là chướng ngại cho bất cứ một lực lượng tấn công nào. Hỏa lực nơi đây được bố trí cực mạnh gồm 20 khẩu pháo 105 và 175 ly (những "ông vua chiến trường”) đã từng khét tiếng gây tội ác không những đối với đồng bào miền Nam mà ngày đêm bắn phá ra miền Bắc, đặc biệt đối với đồng bào Vĩnh Linh. Địch cũng đã từng đề phòng khi "gieo gió sẽ gặt bão" chúng đã tổ chức một hệ thống hầm ngầm kiên cố, cùng với hệ thống giao thông hào liên hoàn vững chắc. Từ căn cứ này chúng đã làm nhiều "cánh đồng quê chảy máu”đối với người dân xung quanh, nỗi mất mát đau thương càng tăng lên gấp bội. Ngăn chặn ta, làm tắc nghẽn mạch máu giao thông chi viện cho chiến trường miền Nam...

Đoàn Pháo binh Bến Hải nhận lệnh của mặt trận, đại diện cho pháo binh miền Bắc xã hội chủ nghĩa trừng trị căn cứ này.

Cán bộ chiến sĩ Lữ đoàn M64 cho đến tận bây giờ vẫn nhớ bức điện mà Bác Hồ  gửi cho đơn vị tham gia đánh trả pháo binh địch bên kia vĩ tuyến 17 "Các chú đại diện cho pháo binh miền Bắc xã hội chủ nghĩa đánh trả hành động leo thang của pháo binh địch ở bờ Nam vì vậy trận đầu các chú phải đánh thắng... ". Mệnh lệnh của Bác đồng thời là nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nhiệm vụ Bác giao thấm vào từng con tim khối óc của cán bộ chiến sĩ lữ đoàn. Đơn vị vinh dự được nhận nhiệm vụ trực tiếp là tiểu đoàn 1 và 11 của lữ đoàn. Đảng ủy đoàn chỉ đạo các đơn vị bước vào công tác chuẩn bị với phương châm và tư tưởng chỉ đạo là: "Chuẩn bị thật chu đáo, bí mật tuyệt đối, nắm chắc thời cơ đánh trúng, đánh mãnh liệt thể hiện sức mạnh của Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam, gây lòng tin tưởng sâu sắc cho nhân dân hai miền Nam - Bắc".

Trong những ngày đầu tháng 3 năm 1967 từ căn cứ Dốc Miếu, pháo địch bắn trùm ra xung quanh bất  cứ chỗ nào nghi ngờ có quân ta, trong tầm khống chế  của chúng. Vùng đất Vĩnh Linh sau những tiếng nổ căng như người đập đe từng cụm khói bốc lên, lửa cháy ngùn ngụt. Nhà cửa tan hoang đất đá bị cày xới be bét. Có  nơi mùi gia súc lẫn với xác người bị cháy bốc lên khét lẹt. Những hình ảnh đó càng thôi thúc đoàn Pháo binh Bến Hải bí mật tiến hành công tác chuẩn bị kỹ càng hơn...

Sau một thời gian ngắn trận địa pháo của hai tiểu đoàn, bao gồm 22 khẩu đã được triển khai dọc bờ bắc sông Bến Hải. Phát huy vai trò của chiến tranh nhân dân Đoàn đã cùng dân quân du kích xã Vĩnh Sơn tổ chức thêm bốn trận địa giả để nghi binh đánh lừa địch. Các đài luồn sâu sau một thời gian ngắn bơi sông, lội suối, cắt rừng đã đến đúng vị trí quy định mà địch không hề hay biết. Điều bất ngờ đối với địch tổ đài quan sát bổ trợ được bố trí ngay đỉnh cột cờ cầu Hiền Lương do trung đội trưởng Trịnh Văn Suất chỉ huy. Từ các vị trí đài quan sát không phải có “mắt thần, mắt thánh" mà là những chiến sĩ pháo binh "người trần mắt thịt" với lòng căm thù giặc sâu sắc một ý chí quyết tâm giành chiến thắng. Họ không những nhìn thẳng vào mục tiêu căn cứ của địch mà còn nhìn rõ tim đen của kẻ thù, hiệu chỉnh từng viên đạn pháo chính xác cao, hiệu quả đến tuyệt vời.

 Dưới làn bom đạn địch, nhân dân xóm Bàn xã Vĩnh Thủy đã vác gỗ ván, chặt trong vườn nhà lát đường chống lầy cùng bộ đội âm thầm lặng lẽ kéo pháo vào trận địa. Hình ảnh người công nhân giao thông Vĩnh Linh đồng chí Thuộc bất chấp nguy hiểm dùng máy húc kéo pháo của tiểu đoàn 1 bị chìm ở bến phà Sa Lung đã anh dũng hy sinh, một tấm gương có sức cổ vũ cả đoàn vượt lên giành chiến thắng.

Mọi công việc chuẩn bị cho trận đọ pháo đã vào hồi kết. Những quả đạn pháo vàng óng, được các chiến sĩ nâng niu lau chùi cẩn thận, xếp ngay ngắn bên càng pháo. Những hòm đạn đã được mở khóa. Nòng pháo thép hiên ngang hướng về phía Dốc Miếu điềm tĩnh tự tin chờ lệnh trút lửa xuống đầu thù. Đúng 18 giờ 18 phút ngày 20 tháng 3 năm 1967 được lệnh toàn cụm pháo đồng loạt nổ súng. Bắn cấp tập. Một trận bão lửa bất ngờ trùm lên căn cứ Dốc Miếu. Nhiều pháo thủ của ta lúc này mình trần nạp đạn. Nguyễn Văn Thuật một mình nạp liên tục 120 quả đạn với trọng lượng gần 5 tấn qua tay. Sau trận đánh anh được tặng Huân chương Chiến công hạng ba. Trận đánh thắng lợi giòn giã, 4 khẩu 175 ly "vua chiến trường", 17 khẩu 105 ly, 57 xe quân sự bị phá hủy. Ba kho xăng dầu bị đốt cháy. Bắn cháy 5 máy bay trực thăng cùng nhiều bộ binh Mỹ bị tiêu diệt.

Chiến thắng Dốc Miếu có ý nghĩa chính trị, quân sự to lớn, có tiếng vang trên toàn mặt trận, phá tan toàn bộ ý định trận càn "Đếch Hao" ngay từ trong trứng nước. Sau trận đánh, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 11 đều được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba. Riêng tiểu đoàn 1 còn được Bác Hồ tặng một chiếc máy thu thanh. Đơn vị được Bác tặng cờ "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Bộ tư lệnh Pháo binh tặng cờ "Đánh mạnh, bắn trúng". Đó là phần thưởng cao quý và niềm tự hào chung cho mọi thế hệ của đoàn Pháo binh Bến Hải.

Tôi ngồi nghe anh kể mà như bị thôi miên bởi chiến công của thế hệ đi trước trong lữ đoàn. Đã đến lúc tôi phải chia tay anh ra về. Đứng giữa khoảng trời khoáng đạt lộng gió bây giờ tôi mới có điều kiện ngắm kỹ cơ ngơi của lữ đoàn. Như đọc được sự băn khoăn trong tôi, anh nói: "Rồi đây lữ đoàn sẽ chuyển sang khu mới, sẽ xây dựng khang trang hơn". Đúng cần phải có một cơ ngơi bề thế như truyền thống của nó  trong chiến tranh. "Đánh mạnh, bắn trúng". Tôi nhớ về dòng sông Bến Hải, con sông đã từng chứng kiến bao cảnh đổi thay của đất trời, dòng nước tinh khiết từ lòng đất chảy ra sẽ còn mãi mãi âm vang tên tuổi và chiến công của một lữ đoàn.

BÙI HOÀNG HẢI



NHỮNG NGƯỜI LÍNH THỢ CỦA BINH ĐOÀN


 Vào những ngày cuối xuân đầu hạ tôi đến thăm tiểu đoàn N1 thuộc Cục Kỹ thuật Binh đoàn Hương Giang. Cảnh vật nơi đây sau cơn mưa rào đầu mùa sáng bừng lên tươi rói. Từ các khu nhà mái tôn tiếng búa tiếng đe chen lẫn tiếng máy nổ ầm ầm vang lên rộn rã cả vùng đồi trung du.

Cách đây 30 năm ngày mùng 10 tháng 10 năm 1977 ngày khai sinh của tiểu đoàn trên quê hương Phú Bài - Thừa Thiên - Huế. Mảnh đất đã từng nhuốm màu khói lửa chiến tranh đã tạo nên sự rắn rỏi của một tiểu đoàn. Chỉ mới hai năm sau ngày thành lập các anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên biên giới Tây Nam. Đến năm 1979 cả Binh đoàn tạm biệt sông Hương có nhiều duyên nợ và cố đô Huế giàu cảm xúc mộng mơ "thần tốc" hành quân ra Bắc. Dấu chân người lính thợ binh đoàn đã từng in đậm vùng Đồng Bẩm - Thái Nguyên, Đáp Cầu - Bắc Ninh, Lục Nam - Hà Bắc. Hành quân của tiểu đoàn đảm bảo kỹ thuật mang tính đặc trưng riêng, nó không giống các đơn vị bộ binh, binh chủng khác, đến đâu tiểu đoàn cũng phải tập trung chuẩn bị chu đáo cho các nhà xưởng để có điều kiện đảm bảo kỹ thuật cho toàn binh đoàn, điều đó làm cho tôi khâm phục sự rong ruổi của các anh trên chiều dài đất nước.

Nhìn cơ ngơi, địa điểm đóng quân của tiểu đoàn vẫn còn in đậm dấu vết của một thời dã chiến. Doanh trại bộ đội chen lẫn với làng dân "biên giới" phân chia là những con đường nhỏ, bờ rào găng, thậm chí ban chỉ huy tiểu đoàn còn mua lại ngôi nhà ở sát kề của dân để tiện việc sử dụng. Có phải chăng điều kiện trên đã tạo cho các anh chú ý xây dựng thế trận lòng dân. Trải qua những năm xây dựng trưởng thành tiểu đoàn luôn được nhân dân địa phương tin yêu giúp đỡ và ngược lại các anh cũng đã từng góp công sức của mình xây dựng địa phương đảm bảo khu vực an toàn. Nhiều hoạt động giao lưu văn hóa, kết nghĩa được tiến hành thường xuyên mang lại hiệu quả. Nhiều anh lính từ miền xuôi miền ngược về đây "nghe em hát câu người ơi người ở" cứ ngẩn ngơ trăm mối tơ vò để cho "lòng anh hóa rễ tựa cây đề" từng đôi, từng đôi  cứ vịn câu ca dao mà nên chồng, nên vợ. Những người lính thợ lại có điều kiện ổn định gia đình và toàn tâm cho nghề nghiệp.

Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Bá Cận dẫn tôi đi thăm xưởng. Tôi đùa gọi Cận là thế hệ "d trưởng" của thế  kỷ 21. Cận sinh năm 1968 từ một cậu học sinh ham mê kỹ thuật anh đã tìm đến với Học viện Kỹ thuật quân sự, năm 1990 thi tốt nghiệp ở đó. Về đơn vị công tác được ít năm anh được cử đi đào tạo cao học. Với học vị thạc sĩ, nhà khoa học này được đề bạt tiểu đoàn trưởng vào đầu thiên niên kỷ mới (2001) . Vừa đi vừa tâm sự tôi biết Cận quê ở An Bình - Thuận Thành - Bắc Ninh cho tới nay không những một mình anh mà cả mấy anh trong ban chỉ huy tiểu đoàn vợ con gia đình vẫn còn ở quê. Anh còn cho tôi biết những người lính thợ ở đây không giống lính thợ ở các xí nghiệp của Bộ, của các binh chủng, họ sẵn sàng thay đổi vị trí liên tục nếu binh đoàn yêu cầu.

Tiểu đoàn quân số không đông nhưng lại quản lý một khối lượng trang bị kỹ thuật tương đối lớn. Mọi việc được tiến hành một cách nhịp nhàng có tính kế hoạch cao. Hôm nay tiểu đoàn không sản xuất toàn bộ, mà chia một số thợ phải làm công tác chuẩn bị tập huấn kỹ thuật cho binh đoàn. Vào phân xưởng ôtô cùng công việc sửa chữa các anh đang trực tiếp thực nghiệm việc ứng dụng cải tiến kỹ thuật. Tôi quan sát tỉ mỉ từng động tác, từng thao tác của các anh nhanh gọn và chính xác tuyệt đối, trong xây dựng trưởng thành tiểu đoàn rất chú trọng đến đội ngũ lính thợ, bởi chính bàn tay của họ đã tạo nên sức sống của một tiểu đoàn. Tính đến nay có 11 thợ bậc 7/7 còn lại đều là bậc 3 đến bậc 6 với đủ các ngành nghề khác nhau. Điện, máy, gò, hàn, phay, tiện ... và cũng chính từ bàn tay người thợ chăm chỉ này có biết bao nhiêu sáng kiến, đề tài được đơm hoa kết trái phục vụ một cách có hiệu quả cho huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của binh đoàn. Tham quan một lượt xưởng, nhà kho điều làm tôi tâm đắc nhất là Đảng ủy, thủ trưởng tiểu đoàn ở đây đã biết phát huy cao độ vai trò của từng cá nhân trong phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật theo phương châm chung của ngành kỹ thuật, binh đoàn "Công nghệ chính quy, an toàn tiết kiệm".

Trong thực hiện nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ nào cũng có những sáng kiến, tương ứng có những sáng kiến ứng dụng cho toàn quân như trong công tác huấn luyện. Từ một cái bảng, trước kia bộ đội ta học tập dã ngoại phải khênh cả cái bảng lớn ra bãi tập cồng kềnh, phức tạp. Vậy mà vào tay những người lính thợ tiểu đoàn N1, hình thức kinh điển của bảng đã bị phá vỡ thông qua nhóm thợ các anh đã sản xuất hàng loạt bảng học tập phục vụ cho huấn luyện. Tính hiệu quả của nó là cơ động thuận tiện, có thể gấp lại gọn nhẹ mang đi, được mở rộng khi dùng với diện tích sử dụng lớn. Lượng thông tin lưu lại trên bảng nhiều, ngoài ra còn có thể treo được cả bản đồ, sơ đồ cần thiết cho giảng dạy.

Sáng kiến xây dựng mô hình trực quan cho học tập giúp cho thợ sửa chừa, lái xe hiểu biết bản chất của nguyên lý hoạt động, tình trạng hoạt động của hệ thống bôi trơn xe YAZ. Có sáng kiến chỉ đơn giản vậy thôi mà kỹ sư, lính thợ ở đây đã phải lao tâm khổ tứ đã từng mất ăn mất ngủ hàng tháng trời cứ canh cánh trong lòng vì chất lượng của từng sản phẩm.

Giữa niêm cất và sẵn sàng chiến đấu là mối quan hệ phức tạp cần được giải quyết ở xe trực nhiệm vụ A2. Muốn niêm cất tốt đòi hỏi phải kỹ lưỡng đến từng chi tiết, công phu, tỉ mỉ. Còn sẵn sàng chiến đấu lại đòi hỏi khi có lệnh phải thực hiện nhiệm vụ ngay trong thời gian ngắn nhất. Khi vào trạng thái niêm cất xe cần được kê kích giảm tải cho lốp, nhíp và được bảo quản theo chế độ sẵn sàng chiến đấu. Để giải quyết mối quan hệ trên, trước đây một số đơn vị trong toàn quân đã nghiên cứu thực hiện song vẫn chưa đáp ứng được, đặc biệt khi hạ xe phải mất nhiều người để đẩy xe, dễ gây mất an toàn, thời gian lại lâu phải mất tới 5 - 7 phút mới xong một xe. Cùng một lúc không hạ được nhiều xe ... Nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu sẵn sàng chiến đấu đề ra. Tổ đề tài của tiểu đoàn được sự chỉ đạo của trên đã bắt tay vào  nghiên cứu. Công việc không đơn gian như người ta tưởng. Lúc đầu các anh chịu nhiều thất bại cả ý tưởng sáng tạo đến thực nghiệm ban đầu. Song lớp kỹ sư trẻ cùng những người thợ bậc cao với kinh nghiệm lâu năm và lòng say mê sáng tạo; yêu nghề các anh đã vượt lên tất cả. Năm 1977 "Kích hạ nhanh xe ôtô" của tiểu đoàn đã ra đời với niềm hân hoan của cán bộ, chiến sĩ những người thợ của tiểu đoàn N1 . Kích có kết cấu đơn giản chịu tải tốt cho các loại xe trực A2. Thao tác dễ, sử dụng thuận tiện chỉ cần hai đồng chí lái xe và phụ xe là có thể cho xe hạ đất an toàn tuyệt đối, khác với trước đây phải cần đến cả tiểu đội mới hạ xong một xe. Và cũng chính vì thế khi có lệnh cùng một lúc nhiều xe có thể thực hiện mệnh lệnh được ngay. Nếu trước kia là 5 - 7 phút cho hạ một xe thì ngày nay chỉ 1 phút đã hạ được nhiều xe (tùy theo mệnh lệnh điều động xe). Sáng kiến "kích hạ nhanh ôtô" được phòng khoa học công nghệ binh đoàn đánh giá đạt yêu cầu và cho phép sản xuất hàng loạt trang bị cho binh đoàn. "Hữu xạ tự nhiên hương" nhiều nơi trong toàn quân đổ về tiểu đoàn N1 đặt hàng. Sáng kiến được tặng thưởng của Tổng cục Kỹ thuật tại Hội nghị tổng kết mười năm hoạt động khoa học công nghệ môi trường ngành kỹ thuật toàn quân. Tôi được tiểu đoàn phó kỹ thuật Trần Ngọc Thêm dẫn ra tận nơi, cả dãy xe xếp hàng thẳng tắp, những xe trực A2 đang thư thái nằm gọn trên từng chiếc kích nghỉ ngơi. Chiến sĩ lái xe túm cần giật mạnh hai thanh sắt tiếp giáp giữa kích và xe bung ra hai bánh trước tiếp đất nhẹ nhàng đầu xe rung nhẹ theo nhịp giảm xóc. Quả thật rất nhanh chóng và thuận lợi.

 Các anh còn rất nhiều sáng kiến khác có giá trị thực tiễn cao trong công tác bảo dưỡng, sửa chữa, sản xuất như: thiết bị bơm dầu, tời cơ động, sản xuất nắp đuôi nòng pháo BM41... và còn nhiều sáng kiến áp dụng trong sửa chữa và sản xuất của đơn vị.

Tiểu đoàn còn tiến hành sửa chữa, cứu kéo trong hành quân dã ngoại phục vụ huấn luyện, diễn tập phòng chống bão lụt. Trong thực hiện nhiệm vụ này tiểu đoàn trưởng Nguyễn Bá Cận kể tôi nghe câu chuyện vào mùa mưa năm 2000 binh đoàn diễn tập. Hướng hành quân qua nhiều khe suối. Buổi chiều hôm đó mưa tầm tã, nước từ trên sườn núi như một mái nhà khổng lồ đổ xuống suối. Chả mấy chốc nước suối dâng cao, đường đi đất bùn nhão nhoét. Mệnh lệnh của trên tất cả xe vận tải, kéo pháo phải đến vị trí tập kết trước lúc trời sáng. Tiểu đoàn Ni được giao nhiệm vụ bảo đảm kỹ thuật cho cuộc diễn tập này. Anh đã tổ chức cho xe cứu kéo của tiểu đoàn phải kéo lùi mới tận dụng được thời gian, có nghĩa là lúc kéo xe không thể đi nhanh, khi xe được kéo sang bên này suối thì xe kéo tiến thẳng sang bên kia suối, đi không kéo nên nhanh hơn. Tôi chưa dám đánh giá là sáng kiến mà đây là mẹo của các anh nó bất chợt nảy sinh  trong đầu óc giàu tư duy sáng tạo của những người lính thợ ở binh đoàn. Cái mẹo đó của các anh đêm hôm ấy đã giúp gần 300 xe pháo vượt suối an toàn đến đúng vị trí trước lúc trời sáng.

Phó tiểu đoàn trưởng về chính trị Thân Đức Phận, tôi cứ ấn tượng mãi với cái họ tên của anh mà cha mẹ anh đặt cho, nghiệp anh gắn liền với những người lính thợ. Anh kể tôi nghe thành tích mà tiểu đoàn đạt được là một sự thừa nhận của trên về giá trị sáng tạo của tiểu đoàn N1. Trải qua những năm tháng chiến đấu xây dựng trương thành, đơn vị đã từng được Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng tặng thưởng Huân Chương Chiến công hạng ba và 3 cờ thưởng luân lưu trong sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Được ban chấp hành Trung ương Đoàn tặng Huy chương Tuổi trẻ sáng tạo. Đảng ủy Bộ tư lệnh Binh đoàn tặng 33 cờ thi đua, 16 năm liền đạt danh hiệu đơn vị quyết thắng. Cho tới nay cán bộ, chiến sĩ trong tiểu đoàn đã có tới gần 200 đồng chí được tặng huân, huy chương các loại 147 đồng chí được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua, Chiến sĩ quyết thắng, cùng nhiều đồng chí được tặng giấy khen, bằng khen... cứ trên đà này tôi tin bản thành tích của các anh sẽ còn dài thêm nữa. Cùng với thời gian tiểu đoàn sẽ góp thêm vào thành tích chung của ngành kỹ thuật binh đoàn.

Chuẩn bị chia tay các anh, tôi cùng phó tiểu đoàn trưởng về kỹ thuật Trần Ngọc Thêu dạo quanh một vòng nơi ăn chốn ở của bộ đội. Những ngôi nhà cấp 4 còn đơn sơ nhưng bên trong được chăm chút cẩn thận. Điều làm tôi ngạc nhiên trước mỗi dãy nhà là hệ thống các loại cây cảnh có cây tới 10 - 15 năm đang được một số lính thợ tranh thủ tỉa tót. Mấy cậu trẻ giới thiệu với tôi: đây là thế tình yêu, thế mẹ chờ con, thế chàng nàng tâm sự... Thế mới biết các cụ ngày xưa xem cây cảnh biết cốt cách con người. Còn ở đây mỗi cây cảnh là ẩn chứa tâm trạng của người lính thợ là chủ nhân của nó.

Chia tay những người lính thợ của binh đoàn, bất chợt tôi liên tưởng đến sự tổng kết quốc tế những giải Nôben hầu hết đều bắt nguồn từ những nhà khoa học hoạt động tại phòng nghiên cứu ở xí nghiệp, nhà máy, chứ không ra đời nhiều ở các vụ, viện nghiên cứu. Rồi đây binh đoàn sẽ được đón nhận nhiều sản phẩm mới từ bàn tay khối óc của những người lính thợ tiểu đoàn N1.


                                                                                                               B.H.H

NGUYỄN THÁI



TƯ LỆNH NGUYỄN HỮU AN


Ông sinh năm 1926 tại xã Trường Yên thuộc đất Cố đô Hoa Lư lịch sử của tỉnh Ninh Bình.

Năm 1972 - 1974 ông được Nhà nước và Quân đội cử sang Liên Xô học trường Vô Rô Xi Lốp, ông đã tận tâm nghiên cứu học hỏi bạn để nâng cao kiến thức về  chỉ huy lãnh đạo các binh đoàn lớn, chiến đấu binh chủng hợp thành trong chiến tranh hiện đại. Kết thúc khóa học ông đạt kết quả loại ưu, đã được Nhà nước và Quân đội Liên Xô cấp bằng đỏ và phần thưởng danh dự.

Về tinh thần chiến đấu dũng cảm, nghệ thuật chỉ huy, sự bình tĩnh, tính quyết đoán và tác phong xông xáo, sâu sát cơ sở tình thương yêu binh sĩ của ông thì cán bộ, chiến sĩ trong binh đoàn đã kể cho nhau nghe khá nhiều chuyện cảm động.

Trong kháng chiến chống Pháp ông đã qua các cương vị chỉ huy eấp đại đội, tiểu đoàn thuộc các Trung đoàn 115 Phúc Yên. Trung đoàn 74 Cao Bằng và Trung đoàn 174 Cao - Bắc - Lạng, đã tham gia hầu hết các chiến dịch: Thu Đông năm 1947. Biên Giới năm 1950... Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn l74 Sư đoàn 316. Ông đã chỉ huy trung đoàn anh hùng của mình 3 lần tấn công đồi A1, đặt qủa bộc phá bằng 1 tấn thuốc nổ phá vỡ tung hầm ngầm diệt gọn một tiểu đoàn âu Phi ngoan cố, đồng thời là hiệu lệnh tổng công kích đợt 3 tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm địch, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.

Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược từ đầu năm 1965, Mỹ ồ ạt đổ quân vào tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ hòng đè bẹp sức kháng của Việt Nam. Quân chủ lực ta lập tức chạm trán với các sư đoàn tinh nhuệ bậc nhất của đế quốc Mỹ. Trong trận đọ sức đầu tiên ở Ia Đrăng, Plây Me, trên cương vị là Tư lệnh phó mặt trận B3 được trực tiếp chỉ huy trận đánh Mỹ vào đầu chiến cuộc, ông đã cùng với Chủ nhiệm Chính trị Đặng Vũ Hiệp và Bộ chỉ huy mặt trận lãnh đạo, chỉ huy bộ đội và đồng bào Tây Nguyện vận dụng linh hoạt nghệ thuật quân sự độc đáo Việt Nam "Lai vô ảnh, khứ vô tung" bất thần xuất kích giáng cho Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 của Mỹ một đòn phủ đầu sấm sét, khiến bọn tướng tá Mỹ không kịp định thần đối phó, phải hốt hoảng thu tàn binh tháo chạy thục mạng không sao hiểu nổi sức mạnh thần kỳ của quân đội ta.

Thời gian đã trôi qua hơn 20 năm rồi mà âm vang của "Trận đòn nhớ đời" ở Ia Đrăng vẫn còn ám ảnh mãi trong đầu óc của viên trung tướng Mỹ Harôn-Morơ .Năm 1993, ông ta đã cùng phái đoàn Bộ Quốc phòng Mỹ sang thăm Việt Nam và cố nài nỉ xin Bộ Tổng Tham mưu ta cho gặp lại viên Tư lệnh quân giải phóng năm xưa đã đánh tan tác Lữ đoàn "Kỵ binh bay" của ông ta cố tìm ra lời giải đáp "Vì sao Mỹ thua, ta thắng?".

Trong cuộc gặp gỡ tranh luận này, lúc đầu Harôn- Morơ còn hoài nghi trước những câu trả lời của Đại tướng Chu Huy Mân, nhưng đến khi Thượng tướng Nguyễn Hữu An rút trong cặp ra tấm sơ đồ trận đánh Ia Đrăng mà đồng chí còn giữ để làm kỷ niệm và tiếp tục phân tích cụ thể diễn biến toàn bộ trận đánh thì Harôn-Morơ mới thực sự nói những lời sám hối "Bộ đội các ông thật tuyệt vời" và thừa nhận: "Mỹ đã thua đau cả về chiến thuật và chiến lược".

Ông được Bộ Quốc phòng điều về làm Tư lệnh trưởng Quân đoàn 2 vào đầu năm 1975 tại chiến khu Ba Lòng lịch sử. Ngay từ những ngày đầu về Quân đoàn ông đã lập tức tìm hiểu nhiệm vụ, nắm vững ý đồ chiến lược của Bộ Chính trị, của Tổng Quân ủy và phương hướng nhiệm vụ của Quân đoàn do Đảng ủy đề ra. Ông đã đề xuất một chương trình xây dựng Quân đoàn chủ lực cơ động chiến lược mạnh, chiến đấu theo phương thức: Hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Ông luôn nói với mọi người: "Ta phải khẩn trương nâng sức chiến đấu của Quân đoàn lên ngang tầm nhiệm vụ mới. Mỗi Quân đoàn phải trở thành quả đấm thôi sơn của Bộ Tổng Tư lệnh mới sớm giải quyết cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ khốc liệt này".

Trong cuộc chiến "Mùa Xuân năm 1975" lúc đầu Quân đoàn 2 được Bộ giao nhiệm vụ: "Cùng quân dân Trị Thiên tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quân địch mở rộng vùng giải phóng, giành dân lấn đất, uy hiếp địch ở Thành phố Huế, phối hợp với chiến trường chính Tây Nguyên... chuẩn bị điều kiện tiến lên giải phóng Trị Thiên Huế khi thời cơ tới.

Quân đoàn chủ động chuẩn bị chiến trường gấp, mở màn chiến dịch giải phóng Trị Thiên Huế lấy tuyến La Sơn, Tây Nam Huế làm hướng tiến công chủ  yếu kịp thời phối hợp với mặt trận chính Buôn Ma Thuột. Sư đoàn 324 đã nổ súng tiến công địch ngày 8 tháng 3 năm 1975.

Đợt 1 ta giành thắng lợi lớn, tiêu diệt, tiêu hao một số tiểu đoàn, trung đoàn địch một cách nhanh gọn, thu hút phần lớn lực lượng của Sư đoàn 1 "Anh Cả đỏ" và Liên đoàn biệt động quân số 15 tại khu vực đường 14 Tây Nam Huế, đây là đòn rất hiểm.

Lo sợ bị mất Huế, địch đã dồn sức chống cự với ta khá quyết liệt ở đây. Khi ở Buôn Ma Thuột ta đại thắng, địch hoảng loạn rút bỏ Tây Nguyên, tình hình dẫn đến những chấn động lớn... Bằng tri thức mẫn tuệ của vị tướng chiến trường ông nói: "Ta cần chủ động nắm thời cơ và tạo thời cơ nhanh hơn nữa, trên đã chỉ đạo, ta cần thay đổi chiến thuật "Từ tấn công trực diện bằng sức mạnh, nay chuyển sang bao vây vu hồi lớn". Sư đoàn 325 nhanh chóng cắt đứt đường số 1, Sư đoàn 324 chỉ để Trung đoàn 3 kìm giữ và tiêu diệt 303, còn Trung đoàn 1 và 2 tổ chức thành mũi nhọn thọc sâu xuống đồng bằng rồi vít Chặt Cửa biển Thuận An - Tân Mỹ và cửa Tư Hiền chặn đứng sự tháo chạy của địch vào Đà Nẵng.

Quả nhiên trước sức tấn công như vũ bão của quân ta, địch từ chỗ chống trả quyết liệt đến hoảng loạn tan rã từng mảng lớn toan tìm cách "Bỏ đất chạy lấy người" nhưng chúng chạy đâu cho thoát, tất cả các  ngả đường, dòng sông, cửa biển quân giải phóng (gồm Quân đoàn 2 và Quân khu Trị Thiên) và nhân dân địa phương đã hoàn toàn làm chủ. Toàn bộ Sư đoàn 1, Liên đoàn biệt động số 15 và Lữ đoàn 258 TQLC ngụy đã bị quân dân ta tiêu diệt và bắt sống tại trận. (6 vạn tên).

Khi đi cùng đoàn quân vào giải phóng Cố đô Huế, đến trước cửa Ngọ Môn ông bảo cho xe dừng lại giây lát. Khi đưa mắt nhìn bao quát một lượt thấy cảnh bề bộn của chiến trường Thành phố ngổn ngang xe pháo địch, đó đây tường đổ ngói tan, phố xá, xóm làng, cầu cống sập đổ tan hoang, đôi mắt hiền từ của Tư lệnh bỗng thẫn thờ phiền muộn. Ông lâm bẩm nói một mình:
- Biết bao giờ mới chấm dứt cảnh tượng đau lòng này - Bỗng khoảnh khắc sau đó mắt ông lại sáng lên vui vẻ, vội nhảy khỏi xe bước gấp tới nắm chặt đôi tay đồng chí Phó Chính ủy Sư đoàn 324 Lê Văn Dánh (1) nói như reo:
- Cảm ơn anh đã dẫn đầu bộ đội thọc sâu lội Phá Tam Giang, vượt đầm Thủy Tú chốt chặt cửa Thuận An, Tân Mỹ, Tư Hiền khiến đường tháo chạy của địch về phía cửa biển đều bị ta chặn đứng. Hơn 8 vạn quân lính ngụy ở Trị Thiên Huế dồn lại đây đều bị quân dân ta tóm gọn cả rồi!



----------------------------
Chú thích: Phó Chính ủy Sư đoàn 324 Lê Văn Dánh sau này là Thiếu tướng, phó Tư lệnh Chính trị Quân khu 4.

Nhìn hai vị chỉ huy dạn dày chiến trận nắm tay nhau nói cười hoan hỉ, các chiến sĩ ta ai cũng thấy rộn ràng, vui sướng vỗ tay, giương súng hò reo vang dậy.

Đến trưa ngày 25 tháng 3 năm 1975 Thành phố Huế và cả Trị Thiên đã được hoàn toàn giải phóng.

Ngay sau khi giải phóng Cố đô Huế một ngày, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 liền nhận được lệnh của trên "đánh ngay Đà Nẵng".

Với tinh thần tích cực chủ động, quả quyết, ông nói với các cấp chỉ huy "Khi quân địch khiếp đảm phải co cẳng chạy thì ta tức khắc truy sát gót tiêu diệt địch gay, đó là thượng sách".

Liền sau đó ông đã cùng Bộ Tư lệnh, cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần tài trí của mình điều chỉnh lại lực lượng, xếp sắp lại đội hình tiến công. Lúc này Bộ phái thêm Trung tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng Tham mưu trưởng và Trung tướng Lê Quang Hòa - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị vào chỉ đạo và đốc chiến, tạo thêm sức mạnh và niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 2 tiến lên lập chiến công mới.

Quân đoàn tổ chức thành 3 cánh quân binh chủng hợp thành đánh vào thành phố cảng.

Đường số 1 từ Phú Lộc, Thừa Thiên và Đà Nẵng phải vượt qua 3 đèo dốc lớn: Phước Tường, Lăng Cô và đỉnh Hải Vân.

Về phía địch, sau thất thủ Tây Nguyên và Trị Thiên Huế. Thiệu ráo riết đốc thúc tướng Ngô Quang Trưởng, con trai người anh hùng của chế độ Cộng hòa tay sai Mỹ rằng: "Phải chặn đứng Cộng quân ở phía bắc đèo Hải Vân để tử thủ Đà Nẵng và cho cả dải đất trung phần đủ thời gian thực hiện "'Co cụm chiến lược”.

Về phía ta, trên tư thế thừa thắng xông lên, các cánh quân (của Quân đoàn 2) từ Phú Lộc lên, từ đường 14 vào, từ Thượng Đức xuống; (Quân khu 5) Sư đoàn 2 từ Quảng Ngãi ra, tất cả đã hình thành thế hợp vây lớn vượt qua núi đèo và bom đạn địch, kiên quyết chiến đấu thực hiện đúng như ý đồ chiến thuật của Bộ chỉ huy và đến trưa ngày 29 tháng 3 năm 1975, bốn cánh quân ta đã chiếm lĩnh hoàn toàn Thành phố Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà.

Khi đứng giữa tòa đại sảnh ở trung tâm thành phố cảng, với vẻ mặt hân hoan mãn nguyện, ông nói vui với cán bộ cấp dưới đứng vây quanh:
- Ta đến đây có lẽ ngoài dự kiến của Trung tướng  Ngô Quang Trưởng đến dăm bữa, nửa tháng các đồng chí ạ? Giữa lúc mọi người đang vui cười náo nhiệt thì  Đại tá Chính ủy Sư đoàn 325 Lê Văn Dương tiến đến trước Tư lệnh nghiêm chỉnh báo cáo:
- Thưa đồng chí Tư lệnh! Nói chung ta thắng lớn quá nhưng cũng thật đáng tiếc là chúng tôi để sổng mất Ngô Quang Trưởng; khi chúng tôi tiến vào bán đảo Sơn Trà thì hắn nhảy xuống biển ngoi ra tầu Mỹ mất. Khi phát hiện ra thì đã quá muộn!
- Tướng Trưởng liều mạng chạy chốn, ta không ngờ hắn hoảng sợ đến thế, tình huống này là bất ngờ ngoài dự kiến, thôi tiếc rẻ mà làm gì, biết đâu vào Nam Bộ ta lại gặp hắn. Khi đến thăm đại tá Nguyễn Chơn, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 (Quân khu 5) ông nói:
- "Hoan nghênh các anh đã đánh giỏi, tiến nhanh chặn đứng được làn sóng tháo chạy của hơn 10 vạn ngụy quân, ngụy quyền về hướng nam, đỡ cho Nam Bộ gánh nặng sau này”.
Đồng chí Chơn vui cười đáp lại: "Chúng tôi vừa đánh "vừa vắt chân lên cổ" chạy việt giã để kịp đến hội sự với 3 cánh quân của đồng chí đó!"

Mọi người cười vang tán thưởng lời nói vui của người anh hùng. Tư lệnh An nói tiếp.
- Thật là anh hùng hội ngộ, cuộc hợp vây của bốn cánh quân tiến vào Đà Nẵng diễn ra tuyệt đẹp và đã làm nên thắng lợi diệu kỳ. Sau ý kiến trao đổi hàn huyên giữa hai người thì có liên lạc đến mời Tư lệnh An về dự hội nghị quân chính đột xuất. Vừa về đến nơi chính ủy Lê Linh liền đứng dậy tươi cười yêu cầu mọi người tĩnh tâm đón nhận tin vui. Đó là bức điện của Tổng Quân ủy long trọng tuyên dương công trạng binh đoàn trước toàn quân lần thứ 2 ... Đọc xong bức điện thiếu tướng chính ủy nói đại ý "Chiến thắng ở Thừa Thiên Huế tiếp theo là chiến thắng Đà Nẵng là biểu hiện tập trung sự sáng suốt mạnh bạo, của trên được dưới chấp hành rất thông minh dũng cảm. Cán bộ, chiến sĩ ta vào thời điển lịch sử rất đặc biệt "Một ngày bằng 20 năm" nên hành động trong chiến thuật chiến dịch rất thông minh, sáng tạo đồng cảm giữa sự sáng suốt của trên, tài năng biến hóa ở dưới đã đưa ta đến thắng lợi rất oanh liệt, vẻ vang".

Sau lời chính ủy, Tư lệnh nói tiếp: Vừa qua ta đã chủ động, sáng tạo thời cơ và đón bắt thời cơ khá nhanh nhạy đã hoàn thành vượt mức nhiệm vụ trên giao, nay Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đề ra tư tưởng chỉ đạo chiến lược: "Thần tốc, tạo báo, bất ngờ, chắc thắng!" Với quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam. Quân đoàn sau hai trận đánh lớn lực lượng vẫn còn rất sung mãn, nay Bộ có ý muốn tách Sư đoàn 325 và Lữ đoàn 203 xe tăng bổ sung cho Quân đoàn 1 để ta ở lại miền Trung làm quân dự bị, tôi thấy ta cần phải suy nghĩ và kiến nghị với trên một số phương án thích hợp hơn. Theo ý tôi muốn đề nghị với Bộ cho ta đưa toàn bộ đội hình Quân đoàn 2  vào tham gia giải phóng Sài Gòn và Nam Bộ, tiến thẳng theo đường số 1 các đồng chí nghĩ sao? Mọi người, đều vui vẻ tán thưởng:
- Nhất trí! Nhất trí!

Ngay sau đó Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 và cả đồng chí Lê Trọng Tấn, Lê Quang Hòa đồng thời đề nghị nguyện vọng lên cấp trên và lời đề nghị đó đã được cấp trên chấp nhận ngay.

Với tầm nhìn chiến lược, với kiến thức sâu rộng, toàn diện về tổ chức hành quân cơ giới đường dài của các binh đoàn lớn mà ông học được ở Liên Xô, khi từ biên giới phía tây tiến sang giải phóng các nước Đông Âu và công phá Béclin. Trong đại chiến thế giới lần thứ hai ông đã cùng Bộ Tham mưu năng động từng trải của mình lập ra kế hoạch: "Hành quân thần tốc hỗn hợp đường dài" cho toàn binh đoàn rất khoa học và hoàn chỉnh, trong đó có kế hoạch vận chuyển bằng tầu hải quân, chở những xe tăng, xe bọc thép từ cảng Đà Nẵng đổ xuống cảng Quy Nhơn, nhờ đó mà toàn Binh đoàn đã đến được vị trí tập kết chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử trước thời gian cấp trên quy định.

Khi toàn Binh đoàn binh chủng hợp thành đã đủ mặt tại khu tập kết, trước hội nghị quân chính binh đoàn ông nhận định: Lần đầu tiên Quân đoàn tiến hành cuộc hành quân cơ giới đường dài, với hành động tác chiến rất táo bạo (đánh địch trong hành tiến) đánh Phan Rang và Phan Thiết mỗi tỉnh một  ngày. Hàm Tân tròn một đêm, tiêu diệt bắt sống hàng vạn tên địch, bắt sống tướng Nghi, Sang tại trận, bắt sống hàng chục máy bay ở Thành Sơn hàng chục tầu chiến ở Phan Rang, Phan Thiết. Đi tới đâu ta cũng phối hợp chặt chẽ với đơn vị bạn và địa phương, thực hiện "Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến" tốc độ hành quân có ngày đạt 80 cây số trong đất địch khống chế, nếu đem so với tốc độ quân đội Liên Xô khi tiến sang "mặt trận phía Tây" thì Quân đoàn 2 đạt tốc độ kỷ lục. Nhờ tổ chức chỉ huy hành quân chiến đấu khoa học, cách đánh nhanh mạnh táo bạo, linh hoạt, cán bộ chiến sĩ anh dũng hùng mạnh đã đánh cho quân địch không kịp trở tay. Đây là cái mới lần đầu xuất hiện, rất đáng mừng trong vận dụng chiến đấu, chiến dịch của Binh đoàn ta nói riêng và Quân đội ta nói chung.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Quân đoàn 2 vinh dự được Bộ chỉ huy mặt trận trao nhiệm vụ vẻ vang "Nổ súng đầu tiên mở màn chiến dịch" đánh thẳng vào hướng Đông - Đông Bắc Sài Gòn. Mục tiêu chủ yếu ban đầu là "lá chắn thép" - căn cứ thiết giáp ở Nước Trong. Trong kế hoạch bảo vệ Sài Gòn, các nhà chiến lược Mỹ, ngụy quyết tâm xây dựng vùng căn cứ Nước Trong thành "lá chắn thép" trực tiếp bảo vệ phía Đông Sài Gòn, chúng đã huy động thêm hai chiến đoàn 318 và 322 cùng các xe tăng, thiết giáp của Trường thiết giáp gồm 140 đầu xe do tên trung tướng Nguyễn Văn Toàn khu trưởng vùng 4 chiến thuật làm chỉ huy trưởng và tên chuẩn tưởng Nguyễn Văn Tám, Tư lệnh thiết giáp làm chỉ huy phó. Bộ  tham mưu ngụy còn huy động phần lớn các đơn vị thuộc lực lượng tổng dự bị chiến như các sư đoàn dù, thủy quân lục chiến. Biệt động quân và sĩ quan các học viên toàn vùng là những tên ác ôn ngoan cố nhất tập trung lại đây quyết "tử thủ với đô thành".

Chúng dựa vào công sự, chiến hào kiên cố được xây dựng từ trước, được không quân, pháo binh chi viện tối đa (chúng ném loại bom 7 tấn) hòng chặn, phá vỡ đội hình tiến công của ta. Ngày đầu ta chiếm được một số vị trí đầu cầu quan trọng nhưng bị thiệt hại một số xe tăng, có trung đoàn bị tổn thất nặng, tốc độ tiến quân bị chựng lại. Tư lệnh Nguyễn Hữu An lập tức cùng phó chính ủy Quân đoàn Nguyễn Công Trang rời sở chỉ huy cơ bản xuống tại sở chỉ huy Sư đoàn 304 xem xét tình hình diễn biến chiến đấu, nhận thấy nếu cứ dùng sức mạnh tăng, pháo đánh vỗ mặt sẽ không thể nhanh chóng đè bẹp được quân địch. ông đã bàn với Tư lệnh Sư đoàn 304 và Lữ đoàn trưởng xe tăng cho một mũi vu hồi đánh võng từ phía trước rừng cao su thọc vào sau lưng cạnh sườn quân địch, quả nhiên chỉ vài giờ sau, quân địch lập tức rối loạn, tan vỡ ta làm chủ hoàn toàn căn cứ thiết giáp. Thế là suốt hai ngày đêm quần đảo với địch cái "lá chắn thép" rắn chắc bảo vệ Đông Bắc Sài Gòn của địch đã bị đập nát vụn vào chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975 đáng nhớ. Hướng tiến công của Sư đoàn 325 chiếm các căn cứ Long Thanh, Nhân trạch, Thành Tuy Hạ và khu mố cầu phía bắc phà Cát Lái, khẩn trương chuẩn bị vượt sông Nhà Bè đánh phá cản cứ hải quân mở đường tiến vào nội Đô. Hướng Sư đoàn 3, đánh chiếm xong vùng căn cứ Đức Thạnh, Bà Rịa tiến thẳng vào chiếm Vũng Tàu và cửa Cần Giờ chặn đứng sự tháo chạy của địch ra biển.

Thực hiện mệnh lệnh tổng công kích của Bộ chỉ huy chiến dịch, các quân đoàn bạn được các lực lượng tại chỗ phối hợp mở đường ào ạt đánh vào nội đô.

Quân đoàn 1 chiếm căn cứ Phú Lợi, Tân Uyên chuẩn bị đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy.

Quân đoàn 3 làm chủ căn cứ Đồng Dù, Trảng Bàng đánh tan tác sư đoàn 25 ngụy, đánh chiếm cầu Bông, cầu Sáng chuẩn bị đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất.

Quân đoàn 4. Sau khi đập nát Xuân Lộc thừa thắng đánh chiếm Hố Nai, sân bay và thị xã Biên Hòa.

 Đoàn 322 vượt qua sông Vàm Cỏ Đông, đánh chiếm được nhiều khu cầu phà quan trọng áp sát vùng ven, tạo điều kiện thuận lợi thông đường cho quân chủ lực tiến vào Sài Gòn.

Đường hướng tiến công của Quân đoàn 2 là theo trục đường xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn. Đây là con đường cao tốc hiện đại, mặt đường rộng, hai bên đường dày đặc các kho tàng, công trình quân sự, các căn cứ quan trọng nhất là phải vượt qua hai cầu lớn: Cầu Sông Đồng Nai (Biên Hòa) và cầu cái Sài Gòn, phải vượt qua hai căn cứ: Nguyễn Huệ (Thủ Đức) và căn cứ cầu Rạch Chiếc (có E116 đặc công phối hợp).

 Để thực hiện phương châm "Thần tốc, táo bạo chắc thắng" của Bộ chỉ huy mặt trận, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 có sáng kiến thành lập "Binh đoàn thọc sâu" gồm những đơn vị tinh nhuệ nhất, lực lượng binh chủng hợp thành mạnh nhất của Quân đoàn để tiến vào nội đô đánh chiếm Dinh Độc lập. Đích thân Tư lệnh Nguyễn Hữu An , Phó Tư lệnh Hoàng Đan, Phó chính ủy Nguyễn Công Trang đi trong đội hình đoàn xe tăng, pháo binh trực tiếp chỉ huy đè bẹp mọi ổ đề kháng, các khu “tác chiến trì hoãn" của địch trên đoạn đường hàng mấy chục cây số đưa đội hình "Binh đoàn thọc sâu” tiến thẳng vào Thành đô.

Nhìn thấy Tư lệnh và những tướng lĩnh lừng danh quả cảm của mình ngồi trên xe tăng điều khiển đoàn quân dũng mãnh tiến công vào Sài Gòn, chiến sĩ ta hết sức xúc động, náo nức lập công, sẵn sàng xả thân trước giờ toàn thắng.

Trận chiến đấu cuối cùng đặc biệt diễn ra ác liệt giằng co trước cửa ngõ Sài Gòn.

Khi lực lượng "Binh đoàn thọc sâu" gồm Lữ đoàn 203 xe tăng, Trung đoàn bộ binh cơ giới 66/304, Lữ đoàn 164 pháo binh, Lữ đoàn 673 cao xạ, Trung đoàn 18/325 (dự bị) với số đầu xe là 400 chiếc dàn thành đội hình hàng dọc tiến tới cầu xa lộ Đồng Nai, quân địch đã bố trí lực lượng dày đặc và tự đốt 3 xe M113 chứa đầy chất nổ đạn pháo các loại, chúng định phá sập cầu lớn này để chặn đứng quân ta lại. Đúng như nhận định của Bộ Tư lệnh mặt trận "trong cơn hấp hối nhưng lực lượng địch vẫn còn đông (trên 40 vạn tay súng) chúng sẽ rất ngoan cố tung toàn bộ lực lượng còn lại chống trả ta một cách tuyệt vọng".

Kiên quyết mở thông đường tiến vào nội đô, Tư lệnh Quân đoàn lập tức điều động tiểu đoàn 4 pháo hạng nặng tầm xa bắn phá tiêu diệt trận địa pháo địch ở ngã ba Long Bình rồi chuyển làn bắn kiềm chế các trận địa hỏa lực của địch ở phía Tây sông Đồng Nai yểm trợ cho xe tăng và bộ binh đánh chiếm cầu xa lộ và ngã ba Long Bình. Điều tiểu đoàn 1 xe tăng Lữ đoàn 203 tiến tới sát cầu bắn nổ tung 3 xe bọc thép M113 chứa đầy chất nổ nằm án ngữ giữa cầu.

Tiếng nổ dữ dội nhưng không bị sập cầu. Quân ta tràn lên chiếm cầu Xa Lộ, địch vội cho xe tăng phản kích xe tăng D1/203 bắn cháy liền 4 xe tăng địch, chúng hoảng hốt quay đầu tháo chạy về hướng Thủ Đức- Sài Gòn...

Tới căn cứ Nguyễn Huệ - Thủ Đức địch dốc sức chống cự và sát sau lưng chúng là thủ phủ Sài Gòn. Từ các lô cốt, các ổ đề kháng. Từ các lầu cao, góc tường ở căn cứ, các c pháo, các hỏa điểm liên thanh của địch bắn xả vào đội hình tiến công của ta. Để phá vỡ các ổ kháng của địch, sở chỉ huy tiền phương của Quân đoàn điều các pháo 85 ly nòng dài bắn thẳng vào trận địa của địch. Đặc biệt tiểu đoàn 5 Lữ đoàn 203 xe tăng đã dũng mãnh đột phá dọc ngang căn cứ đè bẹp nhiều hỏa điểm của tạo điều kiện cho Trung đoàn 18/325 bộ binh làm chủ căn cứ , nổi trội nhất là chiếc tăng 707 do Trần Quang Nhàn chỉ huy đã dùng luôn xe "đuốc sống" của mình lao thẳng vào đội hình dày đặc hỏa lực ở trung tâm căn cứ đè bẹp địch xuống, góp phần quyết định vào trận thắng ở căn cứ Nguyễn Huệ.

Khi bộ phận đi đầu "lực lượng thọc sâu" cơ giới của Quân đoàn tiến sát tới cầu Rạch Chiếc - Sài Gòn thì trên mặt cầu địch đã bố trí sẵn 8 xe tăng và xe bọc thép xông ra nổ súng ngăn chặn ta. 6 tàu chiến neo đậu ở Tân Cảng cũng nổ súng bắn xối xả vào đội hình quân ta khiến 2 xe tăng của ta bốc cháy đại đội 8 của d8/304 bị thương vong nặng, hàng chục máy bay phản lực lao tới bắn chéo vào đội hình ta. Để đập tan sự kháng cự của địch ở đây, Bộ Tư lệnh Quân đoàn hạ lệnh bộ binh 304 đánh quân phản kích, điều pháo nòng dài lên trước bắn cháy một số tàu chiến. Lực lượng cao xạ bắn rơi 2 máy bay A37 tại chỗ. Điều chỉnh pháo lớn bắn hơn 100 phát trúng khu vực cầu. Nơi đây bầu trời mặt đất như muốn vỡ tung ra với muôn ngàn tiếng nổ rung chuyển của đạn pháo lớn, tiếng gầm rú của hàng ngàn động cơ máy nổ, của xe tăng, cơ giới đang rú ga xông tới những mục tiêu đã định.

Trước sức tấn công, đột phá như vũ bão của quân ta, quân ngụy tan vỡ từng mảng tháo chạy thục mạng về hang ổ cuối cùng. Đến 9 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975 "Binh đoàn thọc sâu" Quân đoàn 2 đã tiêu diệt và đánh tan toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch ở khu vực cầu Rạch Chiếc và cầu Sài Gòn, phát triển tới cầu Thị Nghè địch lại cho xe tăng và bộ binh ra ngăn chặn: Đại đội 4 xe tăng Lữ đoàn 203 nổ súng diệt 4 xe tăng M41 và M113 rồi cùng Trung đoàn 66/304 nhanh chóng vượt qua cầu Thị Nghè tiến thẳng vào đường Hồng Thập Tự. Tiếng gầm rú của xe tăng xen lẫn tiếng nổ của hàng ngàn hàng vạn qủa bom, đạn, tiếng động cơ chuyển đất, tiếng hò reo vangdậy khắp bốn phương tám hướng đang tăng tốc tiến tới những mục tiêu trọng yếu trong dinh luỹ cuối cùng, đầu não của địch, khiến lũ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn hết sức khiếp đảm, hoảng loạn, chúng vứt súng, trút bỏ quân phục phù hiệu, cấp hiệu trà trộn trong dân hoặc tháo chạy nháo nhào vào cả những nơi dơ bẩn nhất.

Được nhân dân chỉ đường, đoàn xe tăng cơ giới của Quân đoàn rầm rộ theo đường Hồng Thập Tự tiến lên, chiếc xe tăng mang số hiệu 390 do Trần Văn Toàn và Lê Văn Phương phó kỹ thuật, Nguyễn Văn Tập lái xe đột ngột tăng hết tốc độ dẫn đầu đội hình lao tới húc đổ "Cánh cổng sắt" chính giữa, lập tức đến chiếc xe tăng thứ 2 của lữ 203 mang số 843 của C trưởng Bùi Quang Thận song hành dẫn dắt toàn "Lực lượng thọc sâu", Quân đoàn 2 tràn tới chiếm lĩnh hoàn toàn phủ tổng thống ngụy quyền.

Đúng "11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm l975" lá cờ "trăm trận trận thắng" của Bác Hồ trao cho quân dội nhân dân Việt Nam anh hùng đã được đồng chí Bùi Quang Thận, ngòi chiến sĩ oanh liệt của Quân đoàn 2 vinh quang phất cao trên nóc "Dinh Độc Lập" trước sự reo hò như sấm dậy của quân dân Sài Gòn-Gia Định.

Trong buổi tổng kết chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh, đồng chí Tư lệnh Nguyễn Hữu An đã phát biểu trước đông đủ cán bộ của Quân đoàn như sau:
"Đây là chiến dịch vĩ đại nhất, quy mô nhất từ trước đến nay, ta đánh vào Sài Gòn với 5 Quân đoàn chủ lực mạnh, bằng nhiều hướng nhiều mũi tấn công, quyết định trong thời gian ngắn. Địch bị bất ngờ từ: mục tiêu, địa điểm, hướng tấn công và sử dụng lực lượng cũng như cách đánh của ta. Từ cách nhận định chủ quan, khinh thường đối phương lúcđầu, đến khi có biến động lớn đã dao động hoảng hốt,bị động lúng túng, tớ thầy mỹ ngụy đã phạm phải hết sai lầm này đến sai lầm khác và cuối cùng chúng đã bị ta đánh bại hoàn toàn.

Đứng về chiến lược mà nói thì ta mở chiến dịch Hồ Chí Minh thì rất kịp thời, rất chính xác, rất táo bạo. Mặc dầu những ngày tàn địch vẫn còn co cụm quanh Sài Gòn là hơn 40 vạn quân, nhưng ý định của Bộ Chính trị, ta luôn muốn giải quyết nhanh ngay khi Thiệu chạy, Minh chưa ló mặt ta đã đánh xong rồi... Nhưng thực tế vì phải điều động binh lực lớn về cả số lượng các binh đoàn cơ sở vật chất kỹ thuật và các tướng lĩnh... sao cho các lực lượng ta chiếm ưu thế tuyệt đối áp đảo địch, để dẫu địch có ngoan cố mấy cũng bị ta tiêu diệt. Riêng Quân đoàn ta mới tới vị trí tập kết ngày 24 tháng 4 năm 1975 đến chiều ngày 26 tháng 4 năm 1975 đã phải nổ súng tấn công. Thời gian chuẩn bị chiến đấu cho cả Quân đoàn binh chủng hợp thành như vậy là quá gấp nhưng chúng ta đã làm được, đó cũng là một điều kỳ lạ chưa từng thấy bao giờ. Hôm nay Thành phố mang tên Bác đã được hoàn toàn giải phóng mà vẫn giữ được nguyên vẹn. Hàng triệu các tầng lớp nhân dân nội thành và ven đô trở lại cuộc sống yên bình. Toàn Nam Bộ đã được hoàn toàn giải phóng, chiến tranh kết thúc nhanh gọn. Theo tôi đây là một kỳ công lớn có một không hai của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong thế kỷ 20 này.

Vinh quang đời đời thuộc về Đảng Cộng sản anh minh, nhân dân anh hùng và Quân đội nhân dân Việt Nam vô địch trong đó là niềm tự hào chính đáng của mỗi chúng ta.

Trong những ngày hào hùng sôi động của chiến dịch vừa qua, hầu hết cán bộ chiến sĩ trong Quân đoàn ta đã phát huy cao độ lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo. Hàng trăm các đồng chí đã anh dũng, xả thân hy sinh cho ngày toàn thắng. Chúng ta đã góp phần xứng đáng nhất của mình cùng các cánh quân bạn, cùng quân, dân Sài Gòn - Gia Định giành thắng lợi quyết định cho chiến dịch. Kết thúc oanh liệt cuộc chiến tranh cứu nước trường kỳ suốt 30 năm ròng của dân tộc.

Trong niềm vui lớn hôm nay và riêng chiến dịch lịch sử nay, Quân đoàn ta lại vinh dự được Nhà nước và Quốc hội tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất và Huân chương Hồ Chí Minh hạng nhì. Những phần thưởng cao quý, những tấm huân chương lấp lánh ánh hào quang sẽ mãi soi sáng con đường vinh quang phía trước của chúng ta. Vinh quang tột đỉnh hôm nay đã khiến chính những người trực tiếp, làm nên những giờ phút thiêng liêng lịch sử cũng phải bàng hoàng ngây ngất, nhiều chiến sĩ ta cứ đứng như trời trồng để mặc cho những giọt nước mắt sung sướng tự hào chảy tràn hai bên má. Trước sự mừng mừng tủi tủi và tiếng reo hò vang dậy sôi sục khí thế chiến thắng của hàng triệu đồng bào đồng chí mình và chắc những bạn bè cách mạng tiến bộ ở khắp năm châu bốn biển trên hành tinh này cũng rầm rộ xuống đường hoan hô mừng thắng lợi của ta và kẻ thù mới cũ gần xa cũng phải ngơ ngác kinh hoàng không sao hiểu nổi sự sụp đổ của chế độ ngụy quyền Sài Gòn lại thảm hại đến thế và cái mốc son chói lọi ánh hào quang.

11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Quân đoàn 2, một trong 5 cánh quân tiến về Sài Gòn đã hoàn thành nhiệm vụ một cách đặc biệt và xuất sắc.

Nó như một mũi tên lao từ đất mẹ Trị Thiên từ "góc mặt trận Miền Trung" Thừa Thiên Huế -Đà Nẵng, được cánh tay khổng lồ đầy xung lượng của Đảng vinh quang phóng đi và điều khiển nó vượt qua đoạn đường hơn một nghìn cây số, xuyên thủng các "lá chắn thép" dọc đường và bay trúng đích cuối cùng là "Dinh Độc Lập" góp phần kết thúc oanh liệt chiến dịch mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.


                                                                                                                        N.T

HỮU THỈNH



BỮA CƠM CHIỀU Ở "DINH ĐỘC LẬP"


Cơm đã chiên nấu bằng bếp điện
Rau muống xanh hái tự ao nhà ...
Trời còn đầy ắp hoa và pháo
Nhìn nhau chưa vội mở vung ra.

Mâm xanh - sân cỏ xanh mải miết
Quây quần đồng đội đến vuii chung
Hàng cây so đũa cùng ta đó
Ăn bữa cơm ở đích cuối cùng.

Khách thường: thương mấy anh nhà báo
Theo tăng băng dốc mấy mươi ngày
Sáng chiếm núi Bông, chiều Cửa Thuận
Vượt đèo Phước Tượng buổi chiều mây.

Tăng vẫn dàn theo đội hình chiến đấu
Xích còn vương đất đỏ Phan Rang
Vừa mới vào mâm anh nuôi bận
Chia - thêm - tổng thống ngụy đầu hàng.

Kìa gắp đi anh, ai nấy giục
Có gắp chi đâu mải ngắm trrời
Tự do xanh quá, mênh mông quá
Vượt mấy ngàn bom mới tới nơi.

Bỏ lại đằng sau bao trận đánh
Kịp vào thành phố sáng tên Người
Bình minh theo tăng vào cổng chính
Cờ treo trên đỉnh nước non ơi.

Ta trẻ như cờ ta trẻ lắm
Ta reo trời đất cũng reo cùng
Ta no cười nói, say đôi mắt
Bát canh ngày hẹn cũng mênh mông.



                                             Ngày Sài Gòn giải phóng
                                                            H.T

VƯƠNG TRỌNG


LÁ CỜ VÀ NGƯỜI CHIẾN SĨ


              (Tặng cán bộ và chiến sĩ Binh đoàn Hương Giang                 
                   đã cắm cờ lên phủ tổng thống ngụy quyền)




Cửa sắt chưa kịp mở
Tăng chồm lên như ngựa tung bờm
Đầu sỏ giặc xô nhau hoảng sợ
Lùi vào những góc phòng đen

Cờ giải phóng ôm vào lòng, anh lao tới
Nhanh như quả đạn rời nòng
Từ mũi xe vút lên gác thượng
Mặt sắc cầu vồng

Cờ ba que như rọc ra từ một tấm bao bì
Ố vàng tanh tưởi
Không ai thèm ngó tới
Rủ buồn mang dáng cờ tang
Đai thép, dây dù không giữ nổi
Khi cả chế độ tay sai đã cúi mặt xin hàng

Lá cờ từ lòng anh bay lên
Trời Sài Gòn sáng bừng ánh nắng...
Cứ bừng lên từ đất, từ cây
Cứ bừng lên từ những bàn tay

Chân anh dẫm lên lá cờ đã chết
Đứng chiêm ngưỡng lá cờ vào tuổi thanh xuân
Lá cờ đã hành quân
Suốt chiều dài đất nước
Đưa quân đi san bằng đồn bốt
Để sau lưng quê giải phóng thênh thang
Huế, Đà Nẵng, Nha Trang
Cam Ranh, Phan Rang, Phan Thiết...
Mang bình minh chạy dọc đường số 1
Mảnh đạn bay cờ thủng - hóa trời xanh

Ta vẫn nâng niu mơ ước niềm tin
Tiến về Sài Gòn quân đi bão nổi
Sáng nay cờ ta đã bay trên cái đích cuối cùng phải tới
Anh treo cờ mà lòng tưởng là mơ
Ước là cờ thêm to...
Cho bóng mát trùm lên thành phô'
Cho nhân dân nhìn lên mặt trời tươi màu đỏ
Lá cờ này nhuộm lại những màu da
(Nhợt nhạt mấy mươi năm - một đêm dài bão tố)
Từ chỗ đứng của lá cờ anh nhìn rất rõ
Những cửa ô quân giải phóng tràn vào
Tiếng súng in dần thình phố hóa cờ sao.


                                             Sài Gòn tháng 5 năm 1975
                                                           V.T

QUỐC THẮNG


       THÌ THẦM

                (Tặng những người vợ bộ đội)

Tháng năm anh mãi đi xa
Ba lô khẩu súng bài ca quân hành
Người trai một thuở chiến tranh
Tình yêu sâu kín cất dành tháng năm
Gian nan nào chút băn khoăn
Anh đi thương nhớ ngập tràn trái tim
Đâu phần dành để riêng em
Đâu cho con để góp thêm tháng ngày
Đã là vợ lính em ơi
Đừng quên một thuở nói lời yêu anh
Dẫu cho đến tận bây giờ
Đồng lương, bát gạo góp chờ về quê
Một năm vài bận anh về
Thương em vất vả đồng quê bao ngày
Dẫu nhanh tay chẳng nắm tay
Nhưng tình yêu vẫn tràn đầy tháng năm
Thì thầm nói với thời gian
Mong sao gió chuyển đến em lời này
Ước mơ sẽ có một ngày
Anh về giục bước trâu cày thay em.


                                Q.T

TRƯƠNG VĂN KHANH


         BÔNG HỒNG

Có người đi thăm mộ chồng
Đặt tay viếng một bông hồng đỏ tươi
Bông hồng như trái tim rơi
Xuống mồ để gặp một người mình thương
Người kia ngã xuống chiến trường
Mong cho liền dải quê hương một nhà
Mỗi năm lại một bông hoa .
Mái đầu giờ đã sương sa, trắng trời
Không còn nước mắt để rơi
Chỉ trái tim cứ bồi hồi xót xa
Người nằm dưới mộ nhận hoa
Bông hồng cử đỏ thiết tha như là...


                         T.V.K

NGUYỄN VIỆT CƯỜNG


       THỎA LÒNG CHA


Tôi sinh ra đất nước đã hòa bình
Cảnh chiến tranh chỉ còn là dĩ vãng
Nhưng tôi hiểu nỗi gian nan vất vả
Của cha anh những người lính Cụ Hồ

Qua những trang thơ và lời văn cô dạy
Cùng lời cha với ước nguyện mai sau
Khi lớn lên tôi sẽ vào bộ đội
Nối tiếp nghề cha tôi truyền thống anh hùng

Tôi đã lớn bằng lời ru của mẹ
Bằng hạt cơm củ sắn của bà
Bằng mồ hôi chị đổ dưới đồng xa
Và tình thương của quê hương hàng xóm

Nhớ ngày nào mẹ tôi thường nói
Cha tôi xưa lính của một binh đoàn
Sinh ra lớn lên giữa Trị Thiên khói lửa
Giữa dòng sông Hương với hai bờ nỗi nhớ
Và những câu hò thắm đượm tình quê

Thỏa ước lòng cha nay tôi là người lính
Tiếp bước lên đường giữ vững biên cương
Nơi xưa kia cha tôi đã từng chiên đấu
Và đổ mồ hôi xương máu đêm ngày

Để ngày mai chúng tôi thêm vững bước
Viết tiếp thêm những trang sử anh hùng
Thỏa lòng cha với bao điều mong mỏi
Xứng danh tên một đơn vị anh hùng.


                  Lan Mẫu ngày 26-2-2003
                              N.V.C

HOÀNG THẮNG


   NẮNG THAO TRƯỜNG


Nắng thao trường chắc em đã nghe
Qua sách qua đài qua báo chí
Nhưng hôm nay trong dòng nhật ký
Anh gửi cho em chút nắng thao trường
Sáng nắng ra, nắng vàng ngọn cỏ
Khi chiều về nắng đỏ ngọn cây
Ôi! Cái nắng tháng năm tháng bảy
Suốt cả ngày nắng gắt nắng gay
Nhưng ở đây anh thấy rất vui
Cùng đồng đội cùng nhau luyện tập
Em không tin nhưng là sự thật
Tuổi hai mươi rất đáng tự hào.


                        H.T

NGUYỄN VĂN ÂN


     LỜI RU CỦA MẸ


À ơi... !Vvõng ngủ cho ngoan
Lời ru ngơ ngác bàng hoàng cỏ cây
À ơi... võng ngủ cho say
Nhớ thương còn khúc ru này gửi con.
Vầng trăng lặng lẽ khuyết, tròn.
Mẹ ru võng - Mẹ ru con cuối trời
À ơi ... ! Cánh võng không người
Rưng rưng tóc bạc, nụ cười héo hon
Tắt rồi khói lửa đạn bom
Rừng bia mộ, khói hương vờn mỏng manh
Hận thù, mưa nắng rêu xanh
Đớn đau lòng mẹ có lành được đâu
Cách ngăn giờ đã sang cầu
Máu im lặng thấm, xanh màu cỏ xanh.
Con nằm lại phía chiến tranh
Thắt lời ru, mẹ dỗ dành trái tim!


                        N.V.Â

NGUYỄN VĂN HIỆP



         THEO DẤU XE ANH

                 "Tặng những chiến sĩ lái xe tiểu đoàn 32 ôtô vận tải anh hùng"


Hơn ba mươi năm - thời gian ấy thật nhỏ nhoi
Đó chỉ là dấu chấm son trong chiều dài lịch sử
Nhưng với cuộc đời đó là cả những tháng năm đáng nhớ
Khi nỗi đau chưa thoát khỏi hình hài
Cha anh chúng tôi - những chiến sĩ lái xe đã thức bao đêm dài
Cùng bánh xe lăn khắp các tuyến đường chiến dịch
Những gian khổ hiểm nguy không cản đường tới đích
Khi mất mát đau thương biến thành nỗi căm hờn


Nào bom đạn dốc núi đường trơn
Xe ta băng qua đâu phải bằng xăng dầu sức máy
Mà ta đã đi bằng trái tim, ý chí
Diệt giặc thù vì đất nước tự do
Biết bao người đâu hề tiếc máu xương
Đánh địch mà đi mở đường mà tiến
Lính lái xe khi chưa tàn cuộc chiến
Là còn dặm dài theo vết bánh xe lăn...

Chúng tôi sinh ra khi đất nước đã hòa bình
Không còn thấy cảnh bom rơi đạn nổ
Nhưng những niềm đau thì vẫn còn đâu đó
Nơi nghĩa trang bao liệt sĩ vô danh
Những chiếc xe vẫn còn mang vết bom đạn trên mình
Và thịt da con người đâu phải bằng sắt thép.


                                 
                                N.V.H


ĐỖ CÔNG HÀ



   CĂN NHÀ CỦA MẸ

              Kính tặng mẹ Việt Nam Anh hùng: Đồng Thị Sắc

Căn nhà của mẹ cuối làng
Mái tranh, tường trình đất thó
Ngõ rêu ngoằn ngoèo đất đỏ
Ấp ôm một lũy tre ngà.

Sớm hôm tựa bên bậc cửa
Mẹ ngóng chồng con trở về
Bấm đốt ngón tay ngày, tháng
Bóng ai về phía triền đê...?

Mẹ nhìn bức tường đất thó
Có ghi ngày tiễn bước cha
Ngày anh lên đường đánh giặc
Và ngày chồng con ... đi xa.

Mẹ ghi khi tóc còn xanh
Đến nay mái đầu bạc trắng
Một đời buồn vui cay đắng
Bức tường lưu giữ đầy vơi.

Xã xây căn nhà tình nghĩa
Giúp mẹ an dưỡng cuối đời
Liếc nhìn bức tường mẹ lắc
"Không" mẹ ở đây được rồi.


                 Năm 2002               
                     Đ.C.H

TRẦN VĂN HẢO



TỰ HÀO NGƯỜI LÍNH BINH ĐOÀN


Mới hôm nào nhập ngũ
Nay đã tròn ba năm
Thoạt nhìn thấy quân hàm
Biết mình là hạ sĩ
Cuộc sống rất giản dị
Bộ quần áo màu xanh
Chiếc mũ đã sờn vành
Ngôi sao còn đỏ chói
Trong lòng rất phấn khởi
Nghĩa vụ đã hoàn thành
Sắp sửa được ra quân
Xây quê hương giàu đẹp
Nghe tiếng gọi đanh thép
Trên biên giới Vị Xuyên
Lòng phấn khởi hẳn lên
Được ra nơi tuyến lửa
Đối mặt với quân thù
Trên địa bàn quân khu
Mười năm trôi oanh liệt
Với lời thề bất diệt
Quyết giữ vững biên cương
Cho Tổ quốc hòa bình
Đàn em thơ ca hát
Ruộng đồng xanh bát ngát
Nhà máy vang còi tầm
Đất nước rộn trời xuân
Mùng ngày vui thắng lợi.


                   T.V.H

LÊ THẾ TÌNH



       ÂN TÌNH CỦA ĐẢNG

                             "Kính tặng các Mẹ liệt sĩ"

Một ngôi nhà mới khang trang thoáng mát
Cũng ngói đỏ tường xanh, sao khác nhà người
Có gì đâu mà bếp lửa hồng tươi
Khiến mắt mẹ cười, nhòa trong dòng lệ
Thắp nén hương cho con về mẹ hể
... "Các con không về lòng mẹ thương đau
Có những chiều nhớ con nước mắt mẹ tuôn trào
Nhưng có Đảng, có đồng bào hợp sức
Lòng mẹ nguôi vơi dù mất mát vẫn tự hào
Và một điều kỳ diệu ngỡ chiêm bao
Mẹ được mời ở ngôi nhà cao cửa rộng
Được tắm giếng khơi, đón gió lộng mỗi trưa hè
Được chiếu hoa, bàn gỗ, giường tre
Được vô giá... tình bạn bè cao rộng
Tình Đảng dân, mẹ được sông đủ đầy
Dù mưa to, gió lớn, bão lay
Lay sao được ngôi nhà này có "thép "
"Khối thép đã tôi" khối thép nghĩa tình
Nhân ngày liệt sĩ thương binh
Xin cảm ơn ân tình của Đảng
Chúc đất nước ta ngày một rực sáng.



                             L.T.T

PHẠM HƯƠNG CHANH


        NOI GƯƠNG ANH

                      (Kính tặng Đoàn B04 - Binh đoàn Hương Giang)

Trang giấy trắng cùng dòng máu đỏ
Quyết tâm thư anh viết tại chiến trường
Trong chiến đấu các anh không lùi bước
Thượng Đức trận đầu, quyết thắng vẻ vang
Đơn vị 66 chí sắt gan vàng
Chớp thời cơ kéo pháo vào trận địa
Cuộc chiến đấu bất ngờ - quân thù khiếp sợ
Cờ đỏ sao vàng sáng mãi điểm cao
Truyền thông hiên ngang sử vàng ghi lại
Kỷ vật thiêng liêng lưu giữ tại Bảo tàng
Bao thế hệ ngày ngày qua lại...
Noi gương anh, nguyện tiếp bước các anh.




         Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang
                        Tháng 11 năm 2002
                               P.H.C

LÊ ĐẮC HẠNH


BÊN BẾN SÔNG QUÊ


Dấu chân em trên cát,
Lấp lánh ánh nắng vàng,
Dạt dào con sóng vỗ,
Như tình em mênh mang.

Em dõi theo ngọn sóng,
Nhớ ngày anh ra đi,
Bến nước còn ghi mãi,
Với tình yêu bao la.

Khi hè về mưa lũ,
Nước dâng cao triền đê,
Em ngóng nhìn lo lắng,
Lại mong anh, ngày về.

Thời gian trôi, năm tháng,
Câu quan họ ngân nga,
Miếng trầu chưa dám ngỏ,
Em đợi người đi xa.

Mang theo tình quê ấy,
Anh hẹn về bên sông,
Cho thỏa lòng em nhớ,
Người lính pháo phòng không.



Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang
                Tháng 11 năm 2002
                       L.Đ.H


ĐỖ VĂN CHUNG


         GỬI TẶNG EM

Anh gửi tặng em cái nắng thao trường
Nắng chói trong trưa hè cháy bỏng
Gửi tặng em làn da xám nắng
Cơn mưa vô tình làm chậm bước hành quân.

Gửi về em hơi gió mùa xuân
Trang thư xanh trên thao trường viết vội
Bóc thư xem đừng mỉm cười bối rối
Đừng trách hoài sao nỡ chậm thư em.

Gửi về em con đường nhỏ thân quen
Bao tháng ngày đưa anh tìm nỗi nhớ
Con đường nhỏ trái tim anh đó
Tặng riêng em và chỉ mình em thôi.


                     Đ.V.C

HOÀNG HÀ


  TÂM SỰ NGƯỜI HỌC VIÊN

Chúng tôi những người học viên
Từ khắp mọi miền đất nước
Trở về đây sum họp thành gia đình
Một gia đình chỉ có con trai
Sát bên nhau tháng ngày luyện tập
Sáng giảng đường, chiều thao trường - chiến thuật
Dưới mái trường xưa cha anh đã đi
Và cuộc đời lại qua những lần thi
Cho mỗi đứa nâng tầm cao hiểu biết
Bộ quân phục, một màu xanh thắm thiết
Chúng tôi cùng mang một ước mơ chung
Dẫu bận nhiều vẫn có lúc ung dung
Cả đại đội cùng bên nhau trò chuyện
Bao mệt nhọc sau một ngày huấn luyện
Giờ tan học rồi rộn rã tiếng cười vui
Điếu thuốc chuyền tay mỗi đứa một hơi
Quên cái rét ngoài thao trường lạnh giá
Ngày nắng hạ gió lào khô rát má
Hớp nước chia đều đỡ khát lúc hành quân
Từ nơi đây chúng tôi lớn lên dần
Trong tình thương yêu bạn bè đồng đội
Đem kiến thức vào mùa luyện mới
Bảo vệ vùng trời, giữ vững đất quê hương.


                                   H.H

NGUYỄN TRỌNG SANG


   GẶT LÚA GIÚP DÂN

Tin bão xa, tin bão gần
Đơn vị được lệnh giúp dân gặt màu
Quản chi rét mướt trời mưa
Tay liềm tay hái, chung đua với trời
Sức ta biển lấp, núi dời
Quân dân đoàn kết nơi nơi hiệp đồng
Gặt xong trời đã hừng đông
Mặt trời thẹn, má ửng hồng quang mây
Chim chuyền ríu rít cành cây
Bão tan nắng mới, lúa đầy sân phơi.


                      N.T.S

ĐỨC VỌNG


HUYỀN THOẠI VỀ MỘT DÒNG SÔNG

Em hỏi tôi huyền thoại dòng sông đó?
Tôi kể rằng – Bến Hải khí anh hùng
Đã tạo nên bao chiến công kỳ tích.
Của Vĩnh Linh - Quảng Trị ngày nào,
Rồi đến trận Dốc Miếu - Gio An
Làm Mỹ kinh hoàng, bạt vía,
Chân đồng, vai sắt
Súng đạn đâu có
Có dòng sông nhuốm máu quân thù
Mang tên Đoàn Pháo binh Bến Hải anh hùng
Đã trở thành huyền thoại hôm nay.
Ôi! Chiến thắng mùa xuân 68.
Đồng đội tôi người nằm lại với núi rùng
Người nằm lại với biên cương, hải đảo
Không về nữa sau tháng ngày chiến đấu
Có nghe chăng tiếng sóng hát tên mình
Dòng Bến Hải muôn thuở trở màu xanh
Như sự chuyển mình - hôm nay Bến Hải
Dù hành quân khắp mọi miền đất nước
Vẫn nhớ về nơi ấy - một dòng sông!



   Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang
                    Tháng 10 năm 2002
                            Đ.V

NHỮ VĂN ĐÔNG


   NGƯỜI LÍNH


Chiến tranh
Người lính
Chết
Không nhắm mắt
Khoảng trời xanh
Lần cuối
Anh nhìn
Khoảng trời xa
Lần cuối
Anh tìm
Dáng mẹ.
Hoàng hôn lửa cháy
Người lính
Người con cuối cùng không trở lại
Mẹ là trầm hương
Thắp sáng mộ anh.


          N.V.Đ

T.N. T



HÁT VỀ NGƯỜI CHIẾN SĨ HẬU CẦN
     BINH ĐOÀN HƯƠNG GIANG


"Nổi lửa lên em" câu hát đã quen rồi
Phải em hát cho riêng anh nghe đó
Anh đứng gác trong đêm nhìn không tỏ
Cứ trông theo ánh lửa mênh mang

Hẳn đêm nay em có dậy sớm hơn
Trời mưa rét gió heo may lạnh giá
Em vẫn hát bài ca về ánh lửa
Tiếng vọng vào nơi anh đứng riết vang

Súng quàng vai anh đứng giữa đêm khuya
Trời sắp sáng nhìn sao mai nhấp nháy
Ở nơi đó có tình yêu rục cháy
Bao nỗi niềm anh gửi trọn về em

Tuổi hai mươi em đẹp với thời gian
Và tất cả tình yêu đồng đội
Dậy sớm thức khuya hoàn thành nhiệm vụ
Bên bếp lửa hồng em hát mãi với thời gian.


                                T.N.T

BÙI QUANG THỦY


           HỒN QUÊ

Mẹ cặm cụi chang từng luống thóc nhỏ
Mồ hôi rơi cho hạt lúa thơm giòn
Áo sờn bạc dưới nắng chiều ngày hạ
Lưng mẹ còng cõng cả thời gian

Kỷ niệm nhỏ ngày xưa con ghi nhớ mãi
Tuổi thơ xiên hạt bưởi đốt nến rằm
Để rực cháy hồn quê tháng tám
Đèn sao cười vang tiếng trông xen
Con khôn lớn trong lời ru của mẹ
Tiếp bước cha vẫn chân cứng đá mềm
Rất vinh dự được vào binh đoàn thần tốc
Trọn niềm tin tốt đẹp ở tương lai
Mẹ dõi theo từng bước con đi
Đường Chín, Khe Sanh, Dốc Miếu, Cồn Tiên
Những trận đánh oai hùng trang sử
Hòa bình rồi con không về nữa
Suối tóc mềm cạn cả với thời gian

Con sống mãi trong tình yêu của đất
Lịch sử mãi ghi người mẹ anh hùng
Ngôi nhà rộng khói hương trầm nghi ngút
Gió đừng về gõ cửa đùa mẹ tôi.


                    B.Q.T


TRẦN VĂN HẢO


    LÊN ĐIỂM TỰA

Đường lên biên giới Vị Xuyên
Chênh vênh dốc núi bồng bềnh mây bay
Ta vào thay chốt hôm nay
Không hoa, chẳng rượu mà say lạ thường
Đường ta đi đẹp vô cùng
Nghìn năm luyện bước anh hùng đó chăng
Núi cao mây phủ giăng hàng
Xanh màu áo lính rộn ràng trời xuân
Non xanh mây trắng vô ngần
Ta đi bảo vệ non sông vững bền.

     

             Vị Xuyên, tháng 3 năm 1988
                          T.V.H

TRẦN MẠNH HÙNG

NHỚ MÃI BINH ĐOÀN

Lịch sử sang trang
Quá khứ khép lại
Nhưng... trong lòng mọi người còn vang mãi
Thần tốc, táo bạo, quyết chiến, quyết thắng
Binh đoàn Hương Giang anh dũng - kiên cường
Ra đời giữa cái nôi cùng thời máu lửa
Lớn lên trên mảnh đất đầy những khói bom
Thuở ban đầu còn gặp vô vàn khó khăn
Bao giọt lệ góa phụ và máu anh hùng đổ
Để tô thắm lá cờ vinh quang rực đỏ
Để viết lên truyền thống hào hùng
Binh đoàn Hương Giang
Quả đấm thép giáng lên đầu giặc Mỹ
Nỗi kinh hoàng của bè lũ tay sai
Niềm vinh dự - tự hào của bao chàng trai
Được đứng dưới lá cờ của binh đoàn anh dũng
Lịch sử đã sang trang
Nhưng trong lòng mọi người còn nhớ mãi...


T.M.H

HỒNG QUANG


CẢM GIÁC PHÚT CHIA TAY

Hôm nay chúng tôi chia tay
Những người lính lặng im không nói
Chỉ ánh mắt nhìn nhau nóng hổi
Thời gian trôi thổn thức dưới trăng mờ
Chiếc lá rơi trong không gian
Như kỷ niệm trôi vào nỗi nhớ
Những người lính ngày thường sôi nổi thế
Bỗng nghẹn ngào lưu luyến phút chia tay
Ừ nhanh thật đã hai năm rồi đấy nhỉ
Ngày mới về bỡ ngỡ chẳng hề quen
Cậu ở đâu?
Tau Thanh Hóa! Còn mi?
Choa Hà Tĩnh! Còn quân ni?
Thạch Thất!
Cả bọn quây quần bên ấm trà thơm
Một điếu thuốc chuyền chưa nửa vòng đã hết.
Qua bỡ ngỡ ngày đầu thành đoàn kết
Đồng đội bên nhau cùng học cùng rèn.
Nhớ những buổi học trên hội trường cùng nhau tranh luận
Khản tiếng vang nhà chẳng chịu thua
Rồi chiến thuật trên đồi cao sỏi đá
Chân rộp phồng vai áo đẫm mồ hôi
Da đen sạm mang sắc màu nắng lửa
Vẫn cười vui tiếng hát rộn thao trường
Quên làm sao những buổi học đêm
Cả bọn rét run người vì lạnh
Đêm trung du bàng bạc ánh trăng thanh
Tìm phương vị cắt đồi mà tiến.
Rồi những buổi hành quân dã ngoại
Trời bỗng đổ mưa thêm vất vả đường dài
Mưa ào ạt mưa trắng trời trắng đất
Những dấu giày bấm nát mặt đường trơn
Mày nặng quá ba lô đâu tao giúp
Đưa tay đây không trượt ngã bây giờ
Con đường xa thăm thẳm tiếng mưa
Tình đồng đội giúp chúng tôi đi tới
Nghỉ giải lao mới thật là vui
 Những giây phút chỉ riêng đời lính có
Ôm ghi-ta cả bọn hát vang trời
Gõ muôi bát nhảy choi choi không biết chán.
Có những lúc cả bọn chợt lặng đi

Có đứa nhận tin quê mùa này bão lụt
Cánh thư nhà chuyền tay nhau đọc
Đồng đội bên nhau cũng vợi nỗi đau riêng
Chúng tôi lớn lên trong nghĩa tình thiêng liêng
Chung buồn vui chia ngọt sẻ bùi
Chung nỗi nhớ niềm đau, chung khát khao hy vọng
Như đàn chim tung cánh giữa phong ba
Tạm biệt nhé ngôi nhà đồng đội
Cùng bạn bè vất vả sớm hôm
Đã chắp cánh cho chúng tôi bay tới
Ngang cuộc đời và cả trời cao
Tạm biệt nhé chi đoàn kết nghĩa
Vừa mới quen nay đã phải xa
Buổi lao động hai chi đoàn mới đó
Hương nắng nồng nàn tất cả ngỡ như say
Ôi nhớ lắm bát chè xanh em nấu
Miệng em ca, lúng liêng mắt em tìm
Nhớ da diết câu dân ca em hát
Mai xa cách biết tìm đâu người hỡi
Hương đồng gió núi nghĩa tình em trao
Đêm nay chúng tôi chia tay
Những người lính lặng im không nói.


                         H.Q

LÊ VĂN KHANH


ĐÊM GÁC NHỚ NGƯỜI!

Đêm đêm vọng gác sườn đồi
Vai mang súng đạn - sáng ngời núi sao
Nhớ Người ở những công lao
Dựng xây non nuộc ước ao bao đời
Hòa bình đã thấy đây rồi
Đánh tan giạc Mỹ ta thời tiến lên
Tay cờ - tay súng - tay liềm
Vùng lên ta giữ hai miền non sông
Trải qua mấy chục năm ròng
Giờ đây non nước đồng lòng hát ca
Những người nay đã đi xa
Cháu con xum họp một nhà Bác ơi
Đêm tôi vẫn nhớ Người
Nhớ sao giọng nói nụ cười thiết tha
Sáo diều vang vọng xa xa
Tựa như giọng nói người Cha vọng về
Nước non chung một lời thề
Nguyện chắc tay súng đêm về bình yên
Chiến sĩ ta quyết vươn lên
Làm theo lời Bác giữ yên quê nhà.


                          L.V.K

PHẠM ĐỨC



NGƯỜI ƠI, NGƯỜI Ở...


"Người ơi! Người ở đừng về"
Muôn năm câu hát còn mê mẩn hồn
Trèo lên quán dốc chiều hôm
Gốc đa năm tháng đã mòn chờ ai

Nhớ Trường Sơn những dặm dài
Nghe câu quan họ qua đài mà say
Thầm mong đến hội hôm nay,
Dù không hát cũng hẹn ngày tìm nhau

Gặp em cách đó khá lâu
Cách quê quan họ mấy cầu, mấy sông
Em đi khai phá ruộng đồng
Gieo câu hát xuống một vùng đất hoang
Tôi nghe trong nắng chói chang
Đám mây quan họ mát sang lòng người
Người ơi ở lại người ơi
Câu em hát để cho tôi, hay là
Cho em quen với rừng xa
Mà mai đây ấm mái nhà, quê hương
Mà mai đây sẽ vấn vương
Những câu hát của yêu thương lại về

Người ơi, người ở đừng về
Như em, tôi gặp vùng quê của mình!


                       P.Đ

PHAN BA


     CON TÔI ĐÓ!

Tròn mười năm bom đạn thời chiến tranh
Trở về quê ôm ấp mộng gia đình
Như mọi người, tôi ao ước những đứa con
Một đứa con như bao triệu đứa con
Bi ba bi bô vui cửa vui nhà
Lớn là cột trụ, chỗ dựa tuổi già!

Nhưng trời ơi, con tôi
Ba tuổi chưa biết nói
Năm tuổi chưa biết đi
Đầu bẹt không sợi tóc
Mồm méo, răng không mọc!
Vợ tôi buồn lìa đời
Nỗi đau thêm nỗi khổ
- "Con ơi! Mẹ chết rồi!".
Ngơ ngơ con nhe lợi
Chăng biết khóc hay cười?!

Rừng Trường Sơn trụi lá
Liệu có nẩy mầm tươi ?
Con tôi quái dị quá
Người không thể thành người!

Ơ Hi-rô-si-ma!
Còn không bụi phóng xạ?
Chúng diệt nòi Việt Nam
Bằng chất độc da cam!
Chúng là bọn qủy xám
Giết bao triệu sinh linh
Trẻ thơ thành quái dạng
Điêu tàn hóa hành tinh!

Ôm con hỏi trời xanh
Phép nào lành dị dạng
Kẻ ác gây họa thảm
Nhởn nhơ mãi thế chăng?


                P.B

TRẦN VĂN HẢO


    DẤU CHÂN BINH ĐOÀN

Ba mươi năm một chặng đường
Trưởng thành từ những chiến trường gian lao
Tình đồng chí, nghĩa đồng bào
Cùng nhau chung một chiến hào lập công
Viết nên trang sử hào hùng
Bảo vệ Tổ quốc non sông vững bền
Núi sông điệp điệp trùng trùng
Đã in dấu những bàn chân binh đoàn
Ấm tình đồng chí đồng bào
Hậu phương tiền tuyến biết bao nghĩa tình
Lời thề son sắt đinh ninh
Xứng danh truyền thống Binh đoàn Hương Giang.


                                 T.V.H

PHẠM THANH SƠN


    KỶ NIỆM QUẢNG BÌNH

Nào ai nhớ
Nào ai mong
Cái thời bom đạn miền trong Quảng Bình

Đêm
Em mặc áo trắng tinh
Dẫn đường xe vượt rập rình cầu phao
Ngày em nhuộim khói chiên hào
Người đi chỉ nhớ câu chào: "Về nghe!"

Tôi là anh lính lái xe
Cũng từ mái rạ bờ tre bình thường
Hồn tôi gửi ở chiến trường
Tình tôi gắn với con đường và ... em!

Một lời nên ngãi nên quen
Một thời gắn bó nên duyên một thời

"Về nghe!" Em gửi bao người
Mà tôi ngỡ gửi riêng tôi - một mình
Phải đâu là kể vô tình
Nên tôi trở lại Quảng Bình hôm nay
Quả vàng trĩu ngọt cành cây
Đời vui sao mắt cử cay... lệ nhòa
"Về nghe"! - Anh đến đây mà
Dù em mãi mãi đi xa không về...


                         P.T.S

HỒ VĂN ƯU



ANH CỰU CHIẾN BINH
BINH ĐOÀN 2 ANH HÙNG


Anh về làm cựu chiến binh
Hăng say công tác nhiệt tình vì dân
Tuy là sức khỏe kém dần
Mái đầu đã bạc đôi chân đã mòn
Nghĩ mình vì nước vì non
Ra đi chiến đấu sắt son lời thề
Sang Lào cho đến vào B
Bom rơi đạn nổ cận kề hy sinh
Biết bao đồng đội của mình
Giờ đây thành đóa hoa rừng ngát hương
Biết bao bà mẹ yêu thương
Miền quê ngóng đợi chiến trường báo tin
Toàn dân kháng chiến hy sinh
Tự do độc lập hòa bình hôm nay
Hoàn thành nhiệm vụ chia tay
Gác đời binh nghiệp, mê say đời thường

Anh là người lính yêu thương
Nhân dân trong tổ, trong phường kính yêu
Nghỉ hưu chẳng được bao nhiêu
Phường giao nhiệm vụ với nhiều chức danh
Sớm hôm cùng với mọi ngành
Chăm lo xây dựng phường anh đổi đời
Anh luôn vun đắp cho người
Bản thân liêm khiết cho người noi theo
Quyết tâm xóa đói giảm nghèo
Anh là người lính làm theo Bác Hồ
Dù cho sóng dạt bèo xô
Anh là người lính Cụ Hồ năm xưa.



           Ngày 6 tháng 9 năm 2002
                      H.V.Ư


VŨ THÀNH


ĐƠN VỊ TRONG TRÁI TIM TÔI

Hôm nay trở lại đơn vị
Bâng khuâng trước cổng bên hàng cây xanh
Tiếng vang xa bước quân hành
Lòng tôi ấm lại nghĩa tình năm xưa.

Đồng đội tôi đến bây giờ
Đứa còn ở lại, đứa giờ đã xa
Giầu sao những tháng năm qua
Chứa đầy kỷ niệm thật là khó quên.

Căn nhà mái ngói đỏ tươi
Ngoài tường vôi trắng công người tạo ra
Nghĩa tình đồng đội chẳng phai
Cùng nhau ôn lại một thời đã qua.

Cuộc đời quân ngũ chúng ta
Vui buồn sướng khổ cũng là lẽ chung
Gặp nhau tay bắt, mặt mừng
"Gừng cay mặn xin đừng quên nhau".


                              V.T

NGUYỄN VĂN KHẢM



VIẾT VỀ ANH NGƯỜI CHIẾN SĨ 
    XÂY DỰNG ĐƯỜNG HẦM


         Tặng chiến sĩ xây dựng đường hầm Đơn vị H19


Người chiến sĩ làm hầm
Tháng năm với rừng núi
Đêm ngày với đá sỏi
Khoảng không gian nhỏ hẹp
Hút sâu trong lòng núi
Ì ầm tiếng nổ vọng
Rộn ràng tiếng máy xa
Người chiến sĩ làm ca
Như bước vào trận đánh
Dù nắng cháy trưa hè
Hay đêm đông giá lạnh
Chẳng nao núng tinh thần
Chẳng quản ngại khó khăn
Xây đắp những công trình
Lập nên bao chiến công
Âm thầm và lặng lẽ
Cho Tổ quốc bình  yên.


                 N.V.K

VŨ TIẾN THỊNH


  MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG

Xin mẹ đừng ra ngõ tiễn làm chi
Gió bấc chiều nay về lạnh buốt
Con nhìn mẹ lòng thêm xa xót
Chiếc áo bông sờn mẹ khoác ngày đông
Qua mấy cuộc chiến tranh tóc mẹ trắng như bông
Hình bóng mẹ khắc sâu vào trí nhớ
Mỗi bước của con đều có bàn tay mẹ
Dắt con đi trong lúc hành quân.
Con sẽ đi như cha thuở trước
Xin mẹ đừng ra ngõ tiễn làm chi.


                       V.T.T

QUANG DŨNG


             NHỚ


Nhớ đến xôn xao từng chặng đường
Một ngày xẻ núi vai đẫm sương
Đường hầm len lỏi sâu thăm thẳm
Xóm núi đi về ngát ngát hương.

Gà gáy canh khuya rừng xao động
Chồn kêu vách núi tiếng còn vương
Nhớ ơi đồng đội thời xẻng cuốc
Xây những chặng đường hầm giữ bình yên.


                              Q.D

NGUYỄN VĂN THỨ


   NGƯỜI THỢ THÔNG TIN


Tôi là người lính thông tin
Tư hào khi được cấp trên cử mình
Trèo đèo lội suối băng rừng
Tìm đường dây đứt kịp thời nối thông
Cho dù gió bão mưu giông
Đêm hôm giá lạnh tôi không ngại gì
Một tay cầm máy cầm kìm
Tay kia tôi khoác bên mình cuộn dây
Nhịp nhàng giữa những đồi cây
Đôi chân thoăn thoắt tới ngay hiện trường
Mọi việc phải rất khẩn trương
Tiếp cận hiện trường sự thể ra sao
Đường dây thì vẫn mắc cao
Chỉ riêng một chỗ ấy là khả nghi
Đúng rồi chỗ ấy đoán chi
Đoạn dây kia đứt cớ gì nó thông
Mặc trời gió bão mưa giông
Việc ta ta cứ xông lên mà làm
Kịp thời, chính xác, an toàn
Nối thông liên lạc ta bàn tính sau.


                          N.V.T

BÙI QUANG HIẾU


        ĐÊM TRÊN SÔNG

           (Tặng các chiến sĩ công binh vượt sông tiểu đoàn 1)

Hoàng hôn tắt lặng phía xa xa
Màn đêm phủ xuống quyện sương tà
Đêm cuối đông về trời giá lạnh
Hun hút từng cơn gió cắt da

Thấp thoáng ánh đèn sáng ven sông
Bếp lửa nhà ai khói bập bùng
Bên cảnh đời thường trong đêm lạnh
Mải miết âm thầm lính vượt sông

Mặt song vắng lặng chốc tan ra
Tiếng máy ca nô tiếng hạ tời
Nhanh chóng từng khoang phà rời bến
Vỗ bờ liên tiếp tiếng sóng xô

Đêm nay ta diễn tập vượt sông
Nào nhanh tay chung sức hiệp đồng
Vượt dòng nước đến bên bờ chiến thắng
Ta cùng nhau vượt lên đầu ngọn sóng.
“Mở đường thắng lợi " ta ca
Giọt mồ hôi trên lung áo mặn mà
Trời giá lạnh nhưng lòng ta thêm ấm
Cả đêm nay ta thức cùng với sóng
Mỗi chuyến phà mang theo cả niềm tin.


                         B.Q.H

HỮU DŨNG


  50 NĂM MỘT NGÀY HỘI NGỘ


Ngày gặp lại sớm thu nay vui quá
Lính công binh về với đơn vị
Những đôi mắt bồi hồi kỷ niệm
Nhớ thương tình đồng đội chứa chan.

Đường chinh chiến áo vải thô chân đất
Phút xa quê lưu luyên tần ngần
Thiếu nắm gạo chia nhau từng mẩu sắn
Đêm ngủ rừng tìm hơi ấm bàn chân.

Nhớ tay cuốc mở đường trong chiến dịch
Nhớ cầu phao đêm pháo sáng địch tìm
Nhớ giờ vặn kíp bom nổ chậm
Nhớ xẻng xuyên hầm đồi A1 Điện Biên.

Nhớ đồng đội chân chôn làm trụ vững
Đỡ đầu cầu lát ván cho xe qua
Cơn lũ cuốn dòng sông sâu lạnh buốt
Ai trở xe qua sông "Cát lái" năm nào?

Những sự tích anh hùng trang truyền thống
Bao tấm gương dũng cảm trước gian nguy
Những cái chết âm thầm lặng lẽ
Cha, anh nay chẳng muốn kể về mình

Ngày gặp lại những ai còn, ai mất
Ai về đây tóc bạc da mòn
Ai về đâu hội ngộ thiết tha tình đồng đội
Truyền thống Trung đoàn 50 năm bản hùng ca.


                                H.D

CHU ĐÌNH THOAN


      HÀNH QUÂN ĐÊM


Một mảnh trăng treo giữa lưng đèo
Nhìn lên chỉ thấy núi cheo leo
Đoàn xe đom đóm bò quanh dốc
Núi dốc nhấp nhô mũ tai bèo.

Dừng chân mắc võng giữa ngàn cây
Màn đêm buông đặc lớp sương dày
Vẳng xa nghe tiếng đàn chim hót
Róc rách khe tuôn nước ứ đầy.

Ngả lưng chợp mắt vài giây phút
Muôn nẻo đường xa bỗng với tay.


                        C.Đ.T

NGUYỄN ĐỨC THUẬN


       CHA LÀ NGƯỜI LÍNH


Tuổi trẻ của cha đi qua chiến tranh
Đời vất vả bởi cha là người lính
Mẹ yêu cha không một ngày yên tĩnh
Bão thổi không ngừng trong nỗi nhớ màu xanh
Ước mơ xanh những khát vọng trong lành
Cha trăn trở suốt cả đời tuổi trẻ
Và mẹ con cũng một thời lặng lẽ
Mang màu xanh theo suốt cuộc chiến tranh
Con ra đời trong mơ ước màu xanh
Của mẹ của cha suốt cuộc đời trận mạc
Con còn bé làm sao con hiểu được
Bao đêm dài chông lạnh giữa mẹ cha
Con lớn rồi cha vẫn ở cách xa .
Con đừng trách bởi cha là người lính
Có lúc nào nơi lòng cha yên tĩnh
Để nghĩ về những mơ ước ngàn năm
Con đừng hỏi và nhìn trong mắt mẹ
Đang một thời tuổi trẻ của cha.


                         N.Đ.T

TRẦN BÍCH THỌ



             HỌP MẶT
 QUÂN TÌNH NGUYỆN GIÚP LÀO


             (Kính tặng đồng chí Ngạn Chủ nhiệm CLBNYHN)

Kỷ niệm 50 năm quân tình nguyện
Cùng về họp mặt, hồi tưởng lại ngày xưa
Thật tự nhiên, mà cũng thật bất ngờ
Anh và em lại cùng chung chiến hào thuở ấy
Em lính quân y, còn anh thuộc sư nào vậy
Đến hôm nay mới nhận biết nhau sao
Nghe gọi tên, em cứ ngỡ người nào
Quay nhìn lại để chào, hóa ra đồng chí Ngạn
Ôi! Vui quá anh em ta là bạn
Bạn nghĩa quân chí nguyện giúp Lào
50 năm rồi mà như mới hôm nao
Từ tóc còn xanh, nay mái đầu phơ bạc
Về gặp nhau để chung vui ca hát
Lòng rộn ràng tình man mác bao la
Của những chí nguyện quân xông pha chiến trận
Nay về đây cùng bạn đón nhận huân chương
Ôi vui quá em chúc anh mạnh khỏe khang cường
Để anh em mình tuổi già thêm thọ
Đóng góp sức mình cho con cháu chúng ta.



                       Ngày 30-10- 1999
                             T.B.T

NGUYỄN TIẾN LONG


      GIỜ NGHỈ THAO TRƯỜNG


Tổ bộ binh tạm nghỉ cạnh chiến hào
Giọt mồ hôi tròn lăn trên má
Cành cỏ lau uốn mình óng ả
Nắng chiều vàng buông lửng dốc ngẩn ngơ
Đôi mắt xa xăm một anh thầm mơ
Bụi lau này là ngọt ngào sắc lúa
Cánh đồng quê hương đang vào độ sữa
Mình ôm vào lòng cho đỡ nhớ mẹ chút thôi
Miệng huýt sáo theo em tu hú kêu
Một anh chàng thu mình sau phiến đá
Bỗng ngẩn ngơ có mùi hương rất lạ
Khóm hoa li ti chưa biết gọi tên gì
Một anh chợt phát hiện phía chân đồi
Hai cô gái bản bên... ngập ngừng sang suối
Bẻ vội cành sim khẽ khàng vẫy gọi
Ánh mắt cười tinh nghịch xinh quá xinh
Mười phút thao trường trôi thật nhanh
Trán mồ hôi chưa kịp khô lại nhỏ
Đồi cỏ lau vẫn vui đùa trong gió
Chiến sĩ thao trường lại vui với "AK".


                          N.T.L


NGUYỄN PHÚC THỌ


         NHỚ QUÊ


Tôi là con trai Bắc Ninh
Khi đi xa, vẫn nhớ tình quê hương
Nhớ bến nước, nhớ con đường
Nhớ câu quan họ người thương đừng về
Nhớ người em gái thôn quê
Người gieo bao nỗi bộn bề trong tôi
Con tim đập nhịp bồi hồi
Câu ca mang nặng một đời nhớ nhau
Khen ai khéo bắc nhịp cầu
Cho cau Thôn Phượng, nhớ trầu Thôn Đông
Hói người con gái còn không?
Bao năm vất vả môi hồng vẫn tươi
Gặp nhau cứ  nhoẻn miệng cười
Nhớ ôi là nhớ lúc tôi lên đường
Bao năm xa vẫn nhớ thương
Bao năm vất vả nắng sương nhọc nhằn
Nhớ câu hát vẫn ngọt lành
Khi đi vẫn nhớ quê mình đẹp tươi
Tôi là con trai Bắc Ninh
Giờ đây lính của Binh đoàn Hương Giang
Ra đi bảo vệ xóm làng
Miên man câu hát rộn ràng nhớ quê.



                        Xuân 2003
                           N.P.T

XUÂN HẢI


     VÒM TRỜI THÁP PHÁO


Thắng trận rồi chúng tôi trở về đây
Phút thảnh thơi quây quần bên tháp pháo
Đêm buông xuống vòm trời trăng móc áo
Những vì sao bỗng vui dáng long lanh

Trống trải dài trên tháp pháo màu xanh
Và trên ngôi sao vẫn bừng sắc đỏ
Hóa sao trời đêm nay sáng rỡ
Là vì sao bản tháp pháo chúng tôi
Đánh giặc xong ta ngắm bầu trời
Càng thấy xôn xao nhiều vẻ đẹp
Sao ở trên trời sao ngời ánh thép
Ngồi bên nhau thân thiết quá trăng ơi

Đất nước mình dài rộng cánh chim bay
Có tự bao giờ giang sơn gấm vóc
Khi nhìn lên lộng lẫy trăng sao
Có phải lòng ta thêm yêu Tổ quốc

Trời Tổ quốc là vòm trời rất cao
Trời xe tăng và vòm trời tháp pháo
Một ngôi sao thức ngàn ngày tháp pháo
Thắp sáng đường mỗi bước xe qua.


                          X.H

NGUYỄN THÁI


     NIỀM VUI CHIẾN THẮNG


Đêm giới tuyến tiết trời đông giá lạnh
Đoàn pháo binh được lệnh xuất quân
Trước 1úc ra đi Tư lệnh đến dặn rằng:
"Tìm mọi cách bắn tan tầu giặc
Không đế kẻ thù ngang nhiên gây tội ác
Bảo vệ quê hương cô bác mẹ cha
Bảo vệ bầu trời mặt biển bao la
Cho trăm họ muôn nhà làm ăn yên ổn"
Pháo thủ lên xe trong mưa rào gió cuốn
Ôi ngọn heo nay lạnh ớn quá chừng
Đường trập trùng trời tối như bưng
Cả vũ trụ mịt mùng thăm thẳm
Xe hạng nặng trườn qua đồi cát trắng
Pháo lắc lư thỉnh thoảng lại xa lầy
Gớm con đường cát lún nơi đây
Cứ lì lợm mà gây khó dễ
Ôi! May quá có dân quân tự vệ
Từ các xóm thôn ven biển đến thông đường
Lót bánh xe: Bằng gỗ, ván, tre, bương
Giúp đẩy pháo khẩn trương vào chiếm lĩnh
Từng bước nhích lên kiên trì bình tĩnh
Và cuối cùng đến điểm định giữa đêm
Tới đích rồi trời vẫn cứ tối đen
Mưa gió cứ triền miên gào rú
Rét và đói lính ta mệt lử
Nhưng mọi người vẫn cố động viên nhau:
"Đưa pháo tới nơi là thắng lợi bước đầu
Cần ráng sức đàomau trận địa"
Chúng tôi mời đồng bào về nghỉ
Để anh em đơn vi đợi đánh tầu
Mọi người ra về đã khá lâu
Mà vẫn chẳng thấy tầu quân giặc
Thời khắc đợi chờ kéo dài dằng dặc
Màn mưa đêm càng dày đặc mịt mù
Biển réo vi vu từng đợt sóng vỗ bờ
Nghe bồm bộp xô bồ vào vách đá
Càng về khuya tiết trời càng lạnh giá
Gió heo nay vẫn xối xả bay về
Quần áo ướt đầm, chân tay cóng tái tê
Mắt chức cay xè, đầu đau choáng váng

Nhiều đồng chí mệt nhoài chán nản
Nói vung văng: Địch không dám đến đâu
Chẳng can chi ngồi chờ đợi dãi dầu
Để mưa gió đổ xuống đầu cho khổ
Nhưng, khoảnh khắc thời gian sau đó
Tiếng động ngoà i khơi nghe rõ dần dần
Và kia rồi bốn tầu chiến địch quân
Đang rẽ sóng tới gần khu trận địa
Chỉ huy trưởng vẫn ung dung đường bệ
Cầm máy bộ đàm nói rành rẽ mấy câu:
"Giờ phút lập công sắp sửa bắt đầu
Cử để chúng vào sâu chút nữa!"
Lòng ai nấy nóng bừng như bốc lửa
Quyết bắt quân thù đền nợ nơi đây
Pháo sáng bừng lên thức tỉnh đêm dầy
Đầu ai nấy ngất ngây căng thẳng
Pháo hạm địch bắn lên bờ lóe sáng
Đoàn trưởng pháo binh căm phẫn thét lên
"Bắn!" Những dòng lửa xuyên thủng màn đêm
Lao tới tấp vào hãm tầu giặc Mỹ
Giữa biển khơi vụt bùng cao cột lửa
Tiếng hô râm ran tầu nó cháy rồi
Chỉ khoảnh khắc sau địch bắn trả liên hồi
Hòng cứu chiếc bị chúng tôi bắn trúng!
Giáp trận lần đầu nhưng lính ta đã tỏ ra anh dũng
Thấy đạn tầm xa của chúng vượt qua đầu
Chúng tôi nhắc nhau: Cứ bắn lạnh vào
Thật chuẩn xác để vít đầu chúng nó
Tiếng đoàn trưởng hô to: Lại cháy thêm chiếc nữa!
Bắn mạnh nữa lên cho cả lũ đi đời!
Giữa lúc chúng tôi đang la hét rầm trời
Bỗng từ phía cũng đồng thời phát hỏa
Công an biên phòng và dân quân các xã
Cùng bắn liên thanh xối xả về phía quân thù
Địch sợ cứu nhau sẽ gặp nguy to
Đã hốt hoảng hét hò nhau chạy trốn
Giữa lúc tầu giặc chìm - ta reo hò thắng trận
Thì hừng đông hửng sáng dần dần
Lãnh đạo địa phương cùng nhân dân tấp nập tới thăm
Bầu không khí càng bội phần rộn rã
Pháo thủ ôm nhau cười như hoa nở
Và nhìn lên cổ, nơi đính kết phù hiệu Pháo binh
Càng rực rỡ lên ánh sáng bình minh
Ai cũng thấy lòng mình tràn đầy vui sướng
Tôi muốn báo tin vui đi bốn phương tám hướng
Để mọi người cùng vui sướng hoan nghênh!
Vẻ vang thay! Binh chủng Pháo binh
"Thần thánh của chiến tranh" mà Xtalin thường gọi
Giữa chiến thắng này ta liên tưởng lại
Bốn bẩy năm xưa (1947) ta đánh bại quân thù
Vang vọng bài ca chiến thắng Sông Lô
Pháo đã đóng vai trò xuất sắc
Chiến dịch Hòa bình pháo ta gầm thét
Trận Lạc Song nhiều tầu pháo tan tành
Đầu năm hai (1952) pháo xuống đồng bằng
Đoạt chiến thắng Bến Sanh oanh liệt
Trận Điện Biên pháo đã gây kinh hoàng khủng chiến
Pháp sợ cuống cuồng vỡ mật tan thây
Miền Bắc hòa bình lập lại đến nay
Pháo từng phút từng giây không ngừng lớn mạnh
Nay giặc Mỹ hung hăng mù quáng
Dấn thân dơ bén mảng đến nơi nào
Miền Bắc, miền Nam hay tới nước Lào
Pháo lập tức bắn nát đầu chúng nó
Chiến sĩ Pháo binh không bao giờ khiếp sợ
Sự bạo tàn hung dữ của địch quân
Họ sẵn sàng cảm tử vì dân
Cho Tổ quốc ngàn năm rạng rỡ
Vĩnh Linh hôm nay tô thắm trang lịch sử
Pháo binh ta bắn tầu Mỹ tan tành
Nó mở đầu cho chiến thắng quang vinh
Của khu Bốn - Vĩnh Linh những ngày đầu chống Mỹ
Trời biển của ta, ta quyết tâm bảo vệ
Cho sóng đại dương cứ nhè nhẹ rì rào
Cho cá biển Đông cứ đi lại xôn xao
Thuyền dân biển cứ ra vào tung lưới
Cho rừng phi lao reo hò diệu vợi
Cho thiếu nữ xinh tươi vui tuổi dậy thì
Và cho bầy em nhỏ thiếu nhi
Lại hớn hở đi về trường sở
Cho cha mẹ già yên lòng hưởng thọ
Cho các em thơ yên giấc ngủ trong nôi
Cho cánh diều bay bổng nơi nơi
Cho tất cả biển trời thanh bình tươi sáng

Và câu chuyện niềm vui chiến thắng
Kể đến xin tạm ngừng lời.



               Vĩnh Linh ngày 20-12-1964
                            N.T

ĐOÀN ĐÌNH LỢI


        NGÀY GIỖ BẠN


Tôi rì rầm trò chuyện với anh
Tấm ảnh thờ năm hai mươi mốt tuổi
Trước đôi mắt u buồn biết nói
Mẹ già như cây héo tựa vào tôi.

Ngày ra trường không phải ngày vui
Nam Định sục sôi những cơn báo động
Đạn cao xạ nhoáng nhoàng chớp sáng
Ba lô chặt căng quân phục thùng thình.

Những tiếng loa phóng thanh gọi tôi lên đường
Xe giao liên đưa anh vào binh trạm
Cái túi nỉ bọc mấy chồng nhật ký
Tôi nhận phần gửi cho mẹ ở quê.

Có ngờ đâu anh mãi không về
Rừng Căm Pốt mịt mùng cây lá
Mẹ mất anh sau trận bom phá
Tên anh vĩnh viễn nằm lại với núi rừng.

Hai bốn năm mẹ vẫn giữ gìn
Cái túi nỉ bọc mấy chồng nhật ký
Những dòng chữ không già theo năm tháng
Lần giỗ nào mẹ cũng mở ra hong.

Vẫn biết gặp tôi mẹ thêm chạnh lòng
Nhưng ngày giỗ anh làm sao khuây khỏa được
Tôi đứng lặng trước u buồn đôi mắt
Như người mắc nợ giữa nhân gian.



                Bắc Giang tháng 5-2002
                         Đ.Đ.L

TRẦN GIA BẰNG


         HẠT LÚA QUÊ HƯƠNG


Những hạt vàng muôn thuở của đồng quê
Như con thuyền chở tôi qua cơn đói
Với hạt lúa mẩy tròn, chín tới
Tôi giống trẻ thơ trước bầu sữa căng đầy.

Dạy tôi yêu cái cuốc, cái cày
Lưỡi mòn vẹt qua mùa vỡ đất
Cái hái, cái liềm xôn xao mùa gặt
Cha tôi cầm lấp lánh vầng trăng
Dạy tôi yêu lối ngõ, con đường
Có vết chân trâu lối về hạt lúa
Dải đê lớn mở rộng vòng tay cỏ
Con sông dài chia nhánh phù sa.

Những hạt vàng của sự ấm no
Như lửa ấm đời đời truyền lại
Nằm ở tay cha lên đồng lên bãi
Nằm trong tay mẹ lên khói cơm chiều
Nằm trong tay em lên câu hát dặt dìu
Nằm ở tay anh hóa tình yêu thực chất
Bàn tay con người mênh mông mảnh đất
Những đường vân dọc ngang như dé lúa chen dày.

Mùa lúa chín vàng mang nắng sớm bừng lên
Tiếng chim gáy rủ đất trời vào mẩy
Tôi đi giữa mùa màng nhiệt đới
Qua trung du tới Đồng Tháp xa vời
Vẫn chưa hết mùa vàng hạt lúa
Hạt lúa dài theo đất Việt Nam tôi ...


                       T.G.B

NGUYỄN DUY ĐÍCH


THĂM MỘ LIỆT SĨ TRƯỜNG SƠN


Chiều nay đứng trước Nghĩa trang
Lặng nhìn hàng mộ, ruột gan bồi hồi
Biết bao đồng đội của tôi
Hiến dâng trọn cả cuộc đời tuổi xanh

Hôm nay tháng đẹp ngày lành
Gọi là có chút tâm thành cầu mong
Các anh các chị yên lòng
Muôn năm bia đá tượng đồng ngàn thu

Máu xương mất mát khó bù
Non sông đất nước thiên thu vững bền
Nhân dân Quẩng Trị, Thừa Thiên
Và khắp đất nước mọi miền nhớ ơn
Ơn cao như núi Trường Sơn
Nghĩa nặng tựa sóng rập rờn sông Hương
Gửi bao nỗi nhớ niềm thương
Chúng tôi thắp một tuần hương viếng người.



             Kỷ niệm 20 năm giải phóng Huế 3-1995
                               N.D.Đ

HƯƠNG CHANH


         MẸ


Quê mẹ vùng chiêm trũng
Quanh năm chỉ một mùa
Lưng còng mẹ tần tảo
Lội đồng làm sớm trưa

Nào con cua con ốc
Nào cái hến cái trai
Ngày này qua tháng nọ
Lặn lội bờ mương quê

Con mẹ đi kháng chiên
Chín năm vẫn chưa về
Đêm khuya trằn trọc giấc
Mỏi mòn chờ tin con

Mái nhà tranh xiêu vẹo
Gió bấc lùa suốt đêm
Co mình bên vách chiếu
Mẹ nằm đợi bình yên

 Đất nước ngày giải phóng
Tin vui chẳng theo về
Từ đâu, tờ giấy báo
Làm mắt mẹ mờ đi

 Lưng còng giờ chớm gối
Lặng nhìn trời xa xăm
Nỗi buồn đau nguôi vợi
Nhờ làng  xóm bạn cùng.



                        Ngày 23 - 11- 2002
          Trại sáng tác văn học Binh đoàn Hương Giang
                                  H.C


VŨ THỊ PHẤN


TUỔI TRẺ HƯƠNG GIANG


Xa nhà khoác chiếc ba lô
Bước vào quân ngũ Cụ Hồ Trường Sơn
Mưa bom bão đạn không sờn
Bắc Nam một dải giang sơn vững bền
Hòa bình ai đã lập nên
Hôm nay nhớ lại lòng thêm chí cường
Đời trai chẳng quản gió sương
Quên mình vì nước noi gương Cụ Hồ
Chân qua bao suối bao đồi
Núi sông chẳng ngại mồ hôi chẳng sờn
Áo xanh sao mũ sáng ngời
Bóng anh cao quá gió trời vi vu
Hạ vàng nắng lại sang thu
Đông qua xuân đến bốn mùa nở hoa
Kính dâng lên Đảng hiền hòa
Phát huy truyền thống Binh đoàn Hương Giang
Thanh niên ta hãy sẵn sàng
Quân dân cá nước xóm làng xanh tươi
Tuổi trẻ phấn đấu bạn ơi
Gắng công tôi luyện âu đời nở hoa.



                Phòng Hậu cần - Cục Hậu cần
                              V.T.P

PHẠM VĂN KIẾN


        CHỌN MÀU YÊU


Người ta yêu màu vàng duyên dáng
Người ta yêu màu trắng mộng mơ
Người ta yêu màu hồng tươi trẻ
Nhưng còn em,
Em yêu màu áo xanh
Màu bao la của những cánh đồng xanh
Màu của những chuyến đường xa bụi bặm
Màu của giọt sương đêm chìm trong im lặng
Khi hành quân đánh đuổi kẻ thù
Đó là màu của những năm về trước
Màu của hiện tại, màu của tương lai
Màu của cuộc đời người lính anh ơi
Không! Không bao giờ em so sánh
Màu áo anh với bất cứ màu nào
Vì cuộc đời người lính lắm gian lao
Màu áo anh là màu chiến thắng
Em sẽ đợi anh về một mùa nắng

Giặt cho anh chiếc áo đẫm mồ hôi
Bạn em yêu màu áo da trời
Và hỏi rằng em yêu màu gì nhất
Em sẵn sàng đáp câu thành thật
Yêu màu áo xanh - màu áo của anh.


                         P.V.K

NGUYỄN TRUNG KIÊN


    NHÀ THƠ VÀ NGƯỜI LÍNH


Nhà thơ – người lính thật giống nhau
Trời xanh lộng gió ở trên đầu
Biển biếc quanh năm ru khúc hát
Cánh buồm lướt sóng, cánh buồm nâu

Nhà thơ - người lính thật giống nhau
Người lo tính của để làm giàu
Riêng cánh lính thơ say góp sức
Bền bỉ âm thầm tựa bể sâu.

Nhà thơ - người lính thật giống nhau
Cái ăn cái mặc nghĩ gì đâu
Giản dị, đơn sơ mà cao khiết
Tình nghĩa yêu thương vốn lẽ đầu.

Nhà thơ – người lính thật giống nhau
Lộng gió bốn phương đậm sắc màu
Đôi chân đi mãi còn khao khát
Tầm mắt xa nhìn cánh hải âu...


                       N.T.K

HOÀNG HIỂN


         ĐỒNG ĐỘI


Đồng đội của tôi trẻ lắm
Quê hương ở khắp mọi miền
Lớn lên một sương hai nắng
Cái nghèo đeo bám triền miên

Rời quê tham gia bộ đội
Tuổi đời mười chín đôi mươi
Băng đèo, vượt sông, lội suối
Rừng sâu rộn rã tiếng cười.

Ba lô súng đạn nặng vai
Trường Sơn tây mưa, đông nắng
Dép lốp bao lần thay quai
Ngủ hầm bầm da giá lạnh

Đồng đội của tôi trẻ lắm
Giành nhau đi trước công đầu
Khi ngã trườn về phía trước
Cho quê hương rộng dài hơn

Để lại trong chiếc ba lô
Bọc kỹ tấm hình của mẹ
Lá th ư chưa gửi bạn bè
Chiếc bút tập thơ nhỏ bé.

Đồng đội bây giờ ở đâu
Ai có thể quên đồng đội
Ai có thể quên rừng sâu
Những cuộc hành quân bước vội.


                      H.H

NGUYỄN THẠCH HÙNG


            GẶP LÍNH


Lại gặp đây những màu áo xanh
Những nụ cười tươi trên môi người lính
Cái nhìn vô tư không chút toan tính
Tâm hồn không chút vụ lợi thỏ nhen.
Trái tim kia không ý nghĩ thấp hèn
Chỉ biết yêu bằng tấm lòng chân thật
Những con người không thể nào đánh mất
Sự chân thành giản dị vị tha
Gặp một lần chẳng muốn chia xa
Mong rồi đây gặp những người lính ấy
Tạm biệt nhau sao bỗng buồn quá vậy
Ta tránh nhìn để đừng gặp mắt nhau
Màu áo xanh mãi sẽ chẳng phai mờ
Trong tấm lòng người dân nước Việt
Cao cả thay những tấm lòng bè bạn
Giã từ rồi ta bỗng thấy buồn sao.


                         N.T.H


  NGƯỜI LÍNH QUÂN Y BINH ĐOÀN

              Kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Binh đoàn


Có những vì sao trên cao lung linh
Có nhũng vì sao đêm đêm vẫn sáng
Bệnh viện vào đêm yên tĩnh
Nhè nhẹ bước chân

Em gài lại cho anh!
Góc màn căng gió tốc
Và một phần chăn rơi nghiêng xuống đất
Em đắp lại cho anh
Giấc ngủ ngon lành
Tiếng nói trong mơ!
Em hay là hoa mà cho đời tất cả
Hương vị ngọt ngào, tuổi trẻ ngành y

Yêu quê hương, yêu đồng đội thân thương
Yêu cuộc sống, yêu con đường em bước
Nước Hương Giang êm đềrn mà thao thức
Khói lưa Trị Thiên vang bóng một binh đoàn
Chiến tranh qua đi thời gian không trở lại
Đất nước mình đã từng bước đổi thay
Cuộc hành quân thần tốc "Hương Giang"
Nay trở về với miền quê quan họ
Với người mẹ hiền ngồi vá áo năm xưa

Viện quân y trong thời kỳ đổi mới
Vẫn vững vàng và từng bước đi lên
Luôn thu dung và chữa trị an toàn
Gắn với chương trình quân dân y kết hợp
Mở rộng thêm phạm vi chữa bệnh
Đoàn kết hiệp đồng cùng tập thể lập công

Mẹ hiền ơi! Khi trái gió trở trời
Đã có chúng con chăm lo cho mẹ
Viện thuốc nghĩa tình cùng tấm lòng người lính
Như bếp lửa hồng sưởi ấm mẹ giữa đêm đông!



                        Bắc Giang, ngày 27 – 2 - 2003
             Tập thể cán bộ nhân viên khoa XNCĐHA Viện QY 43


VŨ VĂN HOÀN


        THƯƠNG CHỊ


Những chiến sĩ mới về
Gọi chị bằng cô
Chị biết
Mình không còn trẻ nữa
Chiến tranh đã lùi xa
Nhưng hạnh phúc vẫn chỉ là ước mơ
Một mình
Một mình lặng lẽ với thời gian.

Nhớ lại ngày xưa
Lúc chị tròn mười tám
Đất nước đang thời khói lửa
Lấp những hố bom thành con đường đất đỏ
Nối mạch máu liền cho những chuyến xe qua
Tuổi thanh xuân chị vùi trog đó.

Chiến tranh lùi xa
Chị trở về
Để lại chiến trường những gì ấp ủ
Một thời con gái.

Lẳng lặng thời gian
Tuổi thanh xuân trôi cùng năm tháng
Ngày ngắn, đêm dài
Tóc ngả màu sương...

Một mình
Một mình
Lặng lẽ với thời gian...



           Lạng Giang, tháng 4 năm 2002
                        V.V.H

KIM VĂN ĐĂNG


           OAI


Giàu nhất là lính kho
Và cũng cho oai nhất
Nhỏ nhặt từ vẻ mặt
Đến vóc dáng hình hài

Thứ đến chẳng lai rai
Như trăm chàng lính khác
Làm việc không lười nhác
Hết vác rồi lại khuân

Không lần khân chờ nghỉ
Chẳng bao giờ nghi kỵ
Hay kéo cánh a dua
Nhưng lại thích vui đùa

Không chịu thua người khác
Học hành thì rất ác
Mà thi cũng rất cừ
Đồng đội băn khoăn ư

Đến ngã tư thử hỏi
Gặp ai mà chả nói
Hãy đến chơi với họ
Những người lính coi kho.


                 K.V.Đ

NGUYỄN VĂN HẢI


    ĐƯỢC THƯỞNG PHÉP


Con được thưởng phép thăm nhà
Mẹ cha biết được chắc là vui lây
Mẹ ơi con ở nơi đây
Con như được sống trong tay mẹ hiền
Tuần qua con lại có tên
Đơn vị đã viết con lên hàng đầu
Thi đua nối lại bình bầu
Cá nhân xuất sắc đứng đầu là con
Tháng trước phụ cấp vẫn còn
Quà về cho mẹ cỏn con có gì
Con mua chiếc áo sơ mi
Tặng mẹ đợt phép còn gì vui hơn
Giấy phép in dấu dỏ son
Chữ ký thủ trưởng còn hơn áo nhiều
Thủ trưởng nhắ n gửi đôi điều
Những lời nhắn ấy hơn nhiều quà mua
Từ nay tôi quyết thi đua
Gian lao vất vả chẳng thưa luyện rèn
Phép tới tôi sẽ tặng em
Đôi dòng quyết thắng mà em mong chờ.


                             N.V.H


NGUYỄN ĐÌNH TIÊN


       GỬI MẸ QUÊ NHÀ


Đường con đi mùa này nhiều hoa đỏ
Vạt nắng sẽ sàng vương nhẹ đôi vai
Con vẫn đi quên gian khổ, miệt mài
Quyết huấn luyện đạt đỉnh cao quyết thắng

Mẹ quê nhà gánh trên vai mùa nắng
Rút nhọc nhằn cho hạt gạo trắng thơm
Bước cuộc đời nặng trĩu áo vai sờn
Vẫn xa cách con đường dài bóng mát

Con vẫn đi giữa bao nhiêu câu hát
Gửi về bên mẹ màu nắng con yêu.


                          N.Đ.T


NGÔ CHUNG


       THÁNG BA


Tháng ba hoa gạo đó trời
Hoa xoan tim tím một thời tuổi thơ
Người đi người một dạ chờ
Màu hoa rợp cả đôi bờ yêu thương.

Tuổi xuân gửi lại chiến trường
Bây giờ ngồi học tóc sương ngả màu
Bao nhiêu mơ ước khát khao
Ấp iu ngày tháng ủ vào lặng thinh

Tuổi thơ sông mãi khôn cùng
Rơi trên trang sách ngập ngừng cánh hoa...



            Học viện Chính trị - Quân sự 1997
                           N.C

LÊ VĂN MINH


  NHỚ VỀ BINH ĐOÀN HƯƠNG GIANG


Vui buồn nhớ lúc hành quân
Tháng năm nhớ lúc gian truân chiến trường
Sông Hương đất Huế thân thương
Binh đoàn sáng một tấm gương anh hùng
Quyết tâm không đội trời chung
Đánh Nam, dẹp Bắc ta cùng thi đua
Đánh cho giặc Mỹ phải thua
Cho quân Pôn Pốt như lùa vào hang
Thần tốc từ phía Tây Nam
Đổ về phía Bắc lại càng dẻo dai
Hương Giang là một pháo đài
Quân thù khiếp sợ tới hai đời liền
Mang tên từ đất Trị Thiên
Nay về phía Bắc gắn liền Lạng Giang
Giờ đây lịch sử sang trang
Ba mươi năm ấy lại càng hiểu sâu
Thức khuya ngắm cảnh đêm thâu
Anh hùng hai chứ - lại giàu tình thương
Trải qua trên khắp chiến trường
Dù đi, dù ở muôn thương nhớ về
Binh đoàn nay đã đề huề
Tháng năm kỷ niệm nhớ về Hương Giang.



                       Ngày 28-02 -2003
                              L.V.M

BÙI ANH ĐỨC


      TUỔI TRẺ CHÚNG TÔI


Tuổi trẻ chúng tôi, cũng từ nơi đây
Ngày đêm vang tiếng hát
Đồng đội bên nhau, phấn đấu học, rèn
Rồi ngày mai đây, ra đi khắp miền đất nước
Bảo vệ quê hương, yêu dấu của ta
Dù phải gian lao, quyết không lùi bước
Nêu cao truyền thống, anh dũng kiên cường!
Những bước chân dãi dầu
Đêm sương giăng mái đầu
Chụm đầu đọc chung lá thư
Ba lô làm bàn, sách bút theo hành trang
Dẫu gian nguy xá gì
Tâm tư luôn xin thề
Dù phải xả thân xá chi
Nêu cao giữ vững, truyền thống vẻ vang của Binh đoàn
Hương Giang!


                                   B.A.Đ


MAI THẾ HÙNG


      TÍN HIỆU ĐI VỀ

             "Tặng Bộ đội Thông tin"

Đêm ào ạt mưa rơi
Vẫn nghe tiếng tịch tà
I ưng đèo cao gió hát
Mang cánh sóng bay xa

Biên cương xanh màu lá
Hải đảo ngàn sóng xô
Vượt muôn trùng gian khó
Tín hiệu nối đôi bờ

Lặng lẽ như lời ru
Giữa mùa xuân Tổ quốc
Tháng ngày hành khúc hát
Mang đất  nước bay xa


                  M.T.H

HOÀNG LÂM


   CHIẾN CÔNG THẦM LẶNG


              Kính tặng thầy cô giáo Trường Quân sự - 
                        Binh đoàn Hương Giang


Thầy đúng trên bục giảng
Mái tóc dầy, hoa râm
Cử ngỡ là bụi phấn
Không! Màu của thời gian

Ba lần từ đơn vị
Về trường làm học viên
Vẫn gặp thầy giảng dạy
Dáng thầy rất uy nghiêm

Đôi cầu vai đã cũ
Cấp hàm vẫn như xưa
Vừa ngạc nhiên tôi hỏi
Thầy mỉm cười vô tư

Ba mươi năm thầm lặng
Người lái đò sang sông
Trang bị bao kiến thức
Bằng tất cả tấm lòng

Tôi trưởng thành từ đây
Biết ơn thầy dạy dỗ
Trở thành người cán bộ
Thầy là cả đời tôi.



                  Bắc Giang
          Xuân Quý Mùi năm 2003
                      H.L

THU BA



        KHÚC QUÂN HÀNH
    VÀ NGƯỜI LÍNH HÔM NAY



Vẫn là khúc hát cho anh
Tháng năm nối tiếp đến thành hôm nay
Bâng khuâng cái buổi chia tay
Khúc quân hành giục cánh bay giữa trời.

Sức trai với tuổi hai mươi
Trái tim rộn rã những lời nước non
Hát lên khúc hát hành quân
Đường ra phía trước mùa xuân theo cùng
Biên cương rừng núi chập trùng
Nghe người lính hát xanh từng mắt cây
Đèo cao, dốc đứng nơi đây
Nghe người lính hát cánh tay ngang bầm.

Kẻ thù sợ khúc hành quân
Khi người lính hát vang ngân đất trời
Vẫn là khúc hát muôn đời
Những người lính hát nối lời cha anh.



                        2-1987
                          T.B


THUÝ DUNG


         HÁT VỀ ĐỒNG ĐỘI


Sẽ chẳng bao giờ tôi hát hết được đâu
Những bài ca về đồng đội
Đêm đông mưa và ngày nắng chín
Khúc quân hành vang mãi không thôi

Đất nước chưa một lần bình yên dựng xây
Đồng đội tôi chưa một lần dừng bước
Nước còn giặc, còn đi đánh giặc
Câu hát trao nhau vọng đến bây giờ

Sẽ chẳng bao giờ tôi viết được thành thơ
Nếu không có đồng đội tôi cầm súng
Những vùng đất xa xôi, những tháng năm bề bộn
Mà cuộc đời vẫn đẹp với tình yêu

Cuộc sống còn nhiều suy nghĩ lo âu
Đồng đội tôi vẫn ước mơ - hy vọng
Tay biết gẩy đàn, biết ôm khẩu súng
Làm cột mốc biên thùy cho Tổ quốc bình yên

Sẽ chẳng bao giờ tôi vô ý lãng quên
Khúc quân hành đồng đội tôi vẫn hát
Bao núi, bao sông... đồng đội tôi đã vượt
Để bây giờ tôi được hát mê say!


                         1986

ĐÌNH HIỂN


            TRÁI TIM CHIẾN SĨ


Có cuộc đời nào đẹp như cuộc đời chiến sĩ
Khi chúng mình mang màu xanh bình dị
Tạm biệt làng quê khoác súng lên đường
Trong tim mình ấm áp mãi quê hương
Đời chiến sĩ là cuộc đời đẹp nhất
Phải thế không em?

Có tình yêu nào đẹp như tình yêu chiến sĩ
Khi chúng mình gọi tên nhau đồng chí
Tiếng gọi đồng lòng và chan chứa yêu thương
Thẳng một con đường trọn vẹn thân thương
Nên chiến sĩ có tình yêu đẹp nhất
Phải không em?

Có trái tim nào đẹp như trái tim người chiến sĩ
Một trái tim đã luyện thành chí khí
Biết yêu thương và căm giận tột cùng
Có lời thề nào son  sắt thế này không
Như lời thề chiến sĩ?

Khi chúng mình trăm người cùng chung ý chí
Đứng dưới quân kỳ rực rỡ trang nghiêm
Xúc động tự hào và trân trọng hôn lên
Màu Tổ quốc chói lòa ánh sáng.

Và tất cả đồng thanh hô lớn
"Chúng tôi quân nhân trong quân đội... "
Ôi lời thề sắt son vang dội
Mà thiêng liêng tự trái tim mình.
...


                         Đ.H


LÊ MẬU LÂM


  KHÚC HÁT GIỮA RỪNG


Giữa hai chặng hành quân
Những người lính tạm nghỉ
Nơi đầu nguồn con suối
Sẵn đá phiến ngả lưng

Giữa rừng sâu nhen lưa
Qua bữa phong lương khô
Rồi bên nhau họ hát
Khúc quân hành tháng năm

Cánh rừng mượt trăng đêm
Mơ màng trong tiếng hát
Nhịp đàn là tiếng suối
Reo vui bếp lửa hồng

Bài hát đã trao dâng
Từ lòng người chiến sĩ
Về chặng đường đã qua
Và chặng đường tiếp nối.


                L.M.L


NGHỆ NGUYÊN


      ĐI TRÊN ĐƯỜNG 30-4


Có một con đường mang tên thời gian
Cho hôm nay anh và em dạo bước
Cho hôm nay anh và em cùng hát
Về con đường người lính đã đi qua

Năm tháng hy sinh – chiến đâu - ước mơ
Ai ngã xuống bìa rừng trong cơn sốt
Ai ngã xuống trước bình minh chiến thắng
Không trở về, mỏi mắt mẹ chờ trông

Những con đường người lính đã hành quân
Qua năm tháng gian lao, qua rộng dài đất nước
Để đến với Sài Gòn - thành phố mang tên Bác
Để có một con đường 30-4

Trong bình yên, em nhé chớ bao giờ
Dẫu chỉ một lần ta quên đi ngày ấy
Ngày người lính cắm cờ cho phố phường vang dậy
Khúc hát hào hùng "Đất nước trọn liềm vui"

Đi trên đường 30-4
Ta có cả hôm nay, ngày mai và hy vọng...
Biết còn lắm gian nan
Nhưng em ơi - cuộc sống ...
Là điệp khúc muôn lần vẫy gọi chúng ta!



                             4-1987
                               N.N

VỆ SỸ


           THỜI GIAN


Ngày 30 tháng 4 năm 1975
Sài Gòn náo nhiệt
Thành phố không ngủ đâu - cờ bay và tiếng hát
Nước mắt rơi sau năm tháng mong chờ.

Chuyện người lính cắm cờ
Chuyện xe tăng vào "Dinh Độc Lập"
Trang thư gửi về em – để em tin vào sự thật
Ngày mai? Rất gần! Cuộc sống sẽ đẹp hơn

... Sau năm 1975 công việc vẫn bộn bề
Chuyện lính hôm nay nói sao cho hết
Có Tổ quốc bình yên đổi bằng bao cái chết
Bát cơm chưa no, manh áo vá vụng về

Đừng trách anh sao không biết nghĩ suy
Em chờ đợi mà anh thì biền biệt
Biển cả mênh mông, núi rừng trùng điệp
Chẳng có gì mà cất giấu riêng tư

Thì cử đi, như thế tháng năm qua
Bình dị quá cuộc đời người lính
Mọi cơ hội, mưu mô ... đều hổ thẹn
Trước những điều người lính có hôm nay

Kẻ thù phía bên kia, ở ngoài biển xanh này
Đối mặt với đê hèn là trát tim người lính
Đối mặt với chính mình là niềm tin vô tận
Là giản đơn chuyện người lính hôm nay

Thời gian cứ vang lên những âm hưởng vơi, đầy.



                          Tháng 4-1988
                                 V.S

NGUYỄN TẤT TƯỜNG


XUÂN VỀ, NGƯỜI LÍNH BIÊN CƯƠNG


Rộn ràng khí thế Chi Lăng
Đường lên biên giới ánh trăng thượng tuần
Hoa rừng như níu bước chân
Đẹp sao cả một mùa xuân đang về

Ở đây cái rét buồn tẻ
Càng thêm ấm cúng tình quê ngọt ngào
Ở đây tiếng suối xôn xao
Tưởng như tiếng mẹ ngày nào ru ta

Ngập ngừng ngắt một đóa hoa
Nhớ câu hò hẹn quê nhà năm nao
Mưa bay phấp phới chiến hào
Mưa xuân quê mẹ bay vào lòng con

Xốn  xang chim hót véo von
Nhớ chăng tiếng sáo thuở còn chăn trâu
Mây ngàn trôi giữa rừng sâu
Mơ màng một cánh buồm nâu xuôi dòng

Thư nhà đến giữa ước mong
Thư riêng mà lại vui chung mọi người
Vẫn là điếu thuốc chia đôi
Giòn tan chung một tiếng cười trẻ trung

Xuân về thế trận ung dung
Tiếng ca rộn cả một vùng biên cương.


                        N.T.T

VŨ NHƯ THỈNH


ĐẤT NƯỚC VÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG


Đường
Đất nước đẹp bởi những con đường
Xanh ngát những hàng dương
Đường không tự nhiên mà có
Theo bước người đường mới vươn lên
Đường ngang dọc, khoanh vùng trời đất
Đường với người tha thiết yêu thương
Đường viền đỏ chàm tươi ấm hơi người, đường không nghỉ
Rạo rực cả đêm cùng cả nước đi đánh Mỹ
Đẹp! Con đường đỏ nâng tầm suy nghĩ
Ta đi mở đường tháng ngày không nghỉ
Tiếng mưa rơi rầm rì
Tiếng bom rơi rung trời
Đường vẫn đi theo người
Qua đèo, qua suối
Mỗi ngày mốc mới, xốc tới vây chặt quân thù
Tiếp bước cha anh
Ta tạc lên mình Tổ quốc
Những con đường giữ nước thân yêu.


                             V.N.T


VÕ TOÁN


   KHÚC QUÂN HÀNH THẦN TỐC

                           Tặng T.Luận


Chúng tôi đi
Khúc quân hành thần tốc
Xao xuyến trong lòng hai tiếng VỊ XUYÊN
Biên giới thân yêu - mảnh đất dịu hiền
Mà đá trắng
Cây khô
Nước dòng Lô đỏ đục

Chúng tôi đi
Khúc quân hành thần tốc
Suốt mười lăm năm chân cứng đá mềm
Thành Cổ kiên cường tám mươi hai ngày đêm
Vang mãi trong tim
Quãng hòa âm
CHỐT THÉP!

Chúng tôi đi
Khúc quân hành thần tốc
Từ cửa ngõ Tây Nguyên xốc thẳng tới Sài Gòn,
Diệt lũ quỷ mặt người, phóng Công Pông Xom
Cho âm hưởng dân ca
Ngọt chất đường
Thốt nốt

Chúng tôi đi
Khúc quân hành thần tốc
Nay lại về đâu với "Cổ Ích", "Đồi Đài"
Với tất cả tình yêu thương đất nước
Sẽ lại xây thành
LŨY THÉP
Vị Xuyên ơi !



                 Vị Xuyên 8-1988
                        V.T

HOÀNG KIM THẤT


    KHÚC HÁT MỘT DÒNG SÔNG


Có dòng sông nào đẹp bằng Hương Giang
Trong sáng như tình thương
Nghĩa tình sâu nỗi nhớ
Tím thủy chung muôn thuở?

Từ cội nguồn sông ơi!
Bao tháng ngày vất vả
Chắt chiu từ mọi ngã
Góp thành dòng Hương Giang.

Em lớn cùng dòng sông
Hương thơm màu đồng nội
Đẹp tên anh đồng đội
Tên Binh đoàn Hương Giang

Ai đặt tên dòng sông
Đi vào trong tiếng hát
Lịch sử cùng chiến công
Của binh đoàn thần tốc

Ta hát mãi bài ca
Vang chiến công oanh liệt
Của Binh đoàn Anh hùng
Đẹp dòng sông Hương Giang.


                  H.K.T

TIẾN THỰ


                 HOA CHIẾN SĨ


Khi mẹ sinh con đất nước quằn quại trong chiến tranh
Bố mẹ còng lưng dưới bom làm ra hạt thóc
Nuôi con lớn không
Nuôi con ăn học
Mỗi ngày con lớn lên, mỗi trang bài con viết
Có vị mặn mòi của đồng đất quê hương
Để hôm nay con lên đường trở thành chiến sĩ
Như những chuyện thường ngày bố kể
Về những năm chiến tranh
Cả nước ra chiến trường
Cả nước thành chiến sĩ
Như những chuyện thường ngày anh kể
Dưới đạn bom của thời đánh Mỹ
Con gái vẫn ra chiến trường

Con vẫn nhớ hôm con lên đường
Bố không nói chỉ nhìn con im lặng
Là con hiểu niềm tin sâu lắng
Bố dành cho con
Nhìn đôi mắt mẹ rưng rưng
Con biệt mẹ thương con sẽ vào nơi bão táp
Còn như anh nắm tay em ấm áp
Như trao niềm tin cho thế hệ sau mình
Bây giờ con khoác áo màu xanh
Mang cả hình hài Tố quôc
Có lẽ không gì khác được
Nỗi nhớ nhung con biết lắng trong mình
Con hiểu rằng gian khổ sẽ quang vinh
Tuổi trẻ chúng con là  nơi tuyến đầu Tổ quốc
Con hiểu nỗi nhọc nhằn của cha
Con thấm thía nỗi gian truân của mẹ
Nên mỗi việc con làm dù nhỏ bé - cũng màu xanh quê ta
Bây giờ đang là tháng ba
Tuổi trẻ chúng con đang mì là thi đua mới
Ở quê nhà chắc gia đình mong đợi
Con lập chiến công
Xin bố mẹ yên lòng
Con mãi mãi là hoa chiến sĩ.


                          T.T

LÊ ANH THỐNG



NGƯỜI LÍNH MÙA XUÂN
   VÀ CÂU QUAN HỌ


Anh có về đâu mà em hát "Người ơi ... "
Trời phía Bắc sáng nay mưa nhè nhẹ
Mùa xuân đến cho đất trời thêm trẻ
Câu quan họ bồi hồi nhắn gửi trong anh

Đồng đội anh lên từ thuở còn xanh
Tóc đốm bạc vẫn hát lời "Người ở... "
Một vùng đất, một vùng trời thương nhớ
Say nồng nàn câu quan họ quê em

Anh lên đây với trời đất biên cương
Để được gặp mùa xuân sớm nhất
Để tìm lại trong lời ca em hát
Niềm tự hào người lính với thời gian

Phía bên kia pháo giặc vẫn bắn sang
Người lính đứng ở đây làm cột mốc
Cho xuân đến những chồi non xanh biếc
Cho ngọt ngào câu quan họ trao duyên

Mùa xuân và quan họ quê em
Vẹn nguyên mãi cũng đất trời thương nhớ
Ấm mãi lòng người lính sang xuân.


                               1986

LÊ DUY VĂN


           TỪ THAO TRƯỜNG

Nắng đến khô người cái nắng tháng năm
Cũng là gió nhưng gió toàn hơi nóng
Đất trung du chiều nay trong im lặng
Chỉ riêng lời người lính vẫn tươi nguyên

Chiến hào dài, chiến hào nối dọc ngang
Nắng và bụi cho thêm hồng gương mặt
Những người lính ùa lên từ lòng đất
Và tiếng hô lại loang mãi đất trung du.

Đây là thao trường người lính phải đi qua
Hết mùa khô rồi đến mùa mưa rét
Là đất quê hương trên mỗi bàn chân bước
Là khát vọng tràn đầy trong mỗi trái tim.

Khi ấy chân trời bất chợt hiện lên
Những người lính hành quân lên phía Bắc
Những người lính từ thao trường đi đánh giặc
Đứng bên nhau thành cột mốc biên thùy.


                                 L.D.V

NGUYỄN TỰ LẬP


     KHÚC TÂM TÌNH

I- TRANG SỬ VÀNG
Đã ba mươi năm
Từ ngày ấy ra đi
Chúng tôi đã qua bao mùa chiến dịch
Từ Cao Lạng - Hà Tuyên
Đến Tây Ninh - Đồng Tháp
Qua Lào
Đất bạn Cam-pu-chia
Mỗi chiến công thêm tô thắm màu cờ
Mỗi thành quả cùng đơm bông kết trái
Mỗi chặng đường thêm yêu thương biết mấy
Bao đồng chí ra đi không hẹn ngày về
Những đồng đội suốt đời mang thương tích chiến tranh
Bao người vợ mất chồng
Bố mẹ mất con


Ông bà mất cháu
Máu của chúng tôi - lính binh đoàn đã chảy
Nào vì hạnh phúc riêng ai?

Giây phút thiêng liêng
Nén nhang thơm vương tỏa ngát tượng đài
Kính viếng hương hồn liệt sĩ
Các anh đi xa về nơi yên nghỉ
Luôn có chúng tôi
Trong mỗi bước đi cho hạnh phúc cuộc đời
Luôn có các anh đi trong đội ngũ


II- KẾ TỤC
Chặng đường dài hành quân
Muôn bước chân không nghỉ
Con tiếp nối cha
Em nối tiếp anh

Ba mươi năm
Thời gian trôi nhanh
Còn tươi mãi muôn màu xanh, sắc áo
Còn trẻ mãi bao tuổi xuân kỳ diệu
Ơi Hương Giang
Hương Giang!

Đất nước mẹ hiền đã qua cuộc chiến tranh
Mà hải đảo, biên cương chưa ngừng cơn bão tố
Con sóng biếc
Muôn rừng xanh núi đỏ
Vẫn đêm đêm thao thức giữa năm canh

Đất nước tôi đã đi qua chiến tranh
Và cuộc sống hôm nay đã không còn đói khổ
Nhưng những gì diễn ra còn bao điều trăn trở
Trong cơn lốc thị trường

Đất nước tôi
Qua mất mát, đau thương
Nên mỗi người dân đều trở thành người lính
Tay mẹ bồng con
Khoác trên lưng khẩu súng
Trẻ em đi học có mũ rơm
Đất nước ơi trong mỗi bước đi lên
Cùng đội ngũ có chúng tôi trong đó

Nước mắt
Và hoa
Tương lai
Trắc trở ...
Người lính vẫn tiên phong suốt cuộc hành trình
Đất nước tôi luôn mong muốn hòa bình
Người lính khát khao tình yêu - hạnh phúc
Như con sông không mang dòng nước đục
Mãi là ngời biếc, xanh trong

Ba mươi năm
Mỗi bước trưởng thành
Trong đội ngũ bao lớp người kế tiếp

Hương Giang
Ơi Hương Giang!
Bản trường ca bất diệt
Với bao điệp khúc về Anh ...

Hương Giang
Hương Giang!
Lớp lớp đã sẵn sàng.



                    Hà Nội
         Ngày 21 tháng 07 năm 2003
                     N.T.L


NGUYỄN TỰ LẬP


             NHỚ


Buổi anh đi
Theo bạn tiễn đưa
Em hhông khóc mà lệ tròn khóm mắt
Phút chia tay
Chẳng lo buổi học
Lo đường dài anh cay mắt, rộp chân.

Thế rồi anh đi, tháng tháng, năm năm
Ai bảo yêu đâu
Nhưng thương thương, nhớ nhớ!

Giếng nước trong xanh
Mái trường tươi ngói đỏ
Những con đường in đậm dấu chân ai?

Thế rồi anh đi bao mùa phượng đâm chồi
Tu hú gọi
Nhắc hoài người tri kỷ...

Ơi anh - Người chiến sĩ
Tiễn anh đi
Nguyện chờ đón anh về
Thương nhớ tháng năm thành đường chỉ ai xe



                        Xuân 1974 - 1994
                                N.T.L

NGUYỄN TRỌNG BÍNH


             LÀ KHI

           Tặng Liên chiến sĩ thông tin E463


Là khi thay bạn bị đau
Em ngồi trực máy đêm sâu núi đồi
Sao Hôm đổi gác Sao Mai
Ngôi sao thức trong đêm dài là em

Là khi mưa gió triền miên
Bóng em ẩn hiện những miền gần xa
"Trăm đứt ngàn nối... ", như là
Phải đâu vì chuyện riêng ta với mình

Là khi em ngồi đánh gianh
Mắt anh xao xuyến đan thành mến thương
Lợp nhà, em gái quê hương
Thì ra em cũng cột rường, kém chi...

Là khi vượt núi em đi
Vực sâu dốc dựng, máy tì nặng vai
Gió đưa bối rối tóc mai
Là khi núi rộng sông dài vẫy theo!



                   2-9-1974
                     N.T.B


----------------
Chú thích:
"Trăm đứt ngàn nối... ": Ý từ câu ca dao:
 Đôi ta như sợi dây thừng
Trăm chắp ngàn nối xin đừng quên nhau

LÊ DUY VĂN


         HÁT VỚI  HÔM NAY

"Ta đốt lửa cho đời thêm ấm mãi"
Hát lên em giữa giá rét ngày đông
Gió vật vã, cành cây rơi, lá úa
Đón ngày xuân rạo rực nắng hồng.

Ta đốt lửa cho đời thêm ấm mãi
Chút lo toan quên lãng giữa niềm vui
Em xa lạ cũng chính em gần gũi
Nhịp tim nhân hòa nhịp đất trời

Ta đốt lửa cho đời thêm ấm mãi
Sưởi bàn tay chai sạn tháng ngày
Chim tránh rét bay về đang hót
Khúc nhạc nào làm em mê say?

Ta đốt lửa cho đời thêm ấm mãi
Câu hát ơi nhắn gửi một điều gì?
Trong lặng lẽ hai bàn tay nắm chặt
Nghe lòng mình hát với hôm nay.



                   12 - 1993
                     L.D.V



ĐÀO DUY NGHIÊM


    TIN ĐIỀU CHẲNG MẤT


Thắp một nén nhang
Trên bàn thờ bạn
Là thông lệ mỗi lần về phép
Để hồi tâm nhớ thuở bạn bè ...

Tuổi học trò
Tuổi hoa niên
Cái tuổi mơ màng, bình yên
Nhưng
Chúng mình chưa một ngày được thế
Có buổi học đôi ba lần dang dở
Trường lớp ngả nghiêng những trận bom thù
Rồi tất cả lên đường mang theo những lời ru
Màu áo xanh hướng theo chiều súng nổ
Giữ nguyên vẹn những bồi hồi bỡ ngỡ
Một chấm lệ rơi – Cô bạn cùng trường

Gần hai mươi năm trở lại đời thường
Bạn bè của chúng mình thuở trước
Đứa gặp thời, đứa làm ăn được
Thằng vận đen vất vả trường đời
Nhưng tất cả chúng nó đều nhớ cậu
Nằm một mình, xa tít cánh rừng hoang!

Chốn vĩnh hằng cậu có biết hay không
Mái nhà xưa giờ chỉ còn mình mẹ
Suốt tháng ngày ra vào đơn lẻ
Đợi một sự bất ngờ
Cầu mong trời phật
Một ngày kia con mình lại trở về !

Hôm nay về phép
Thắp một nén nhang
Trên bàn thờ bạn
Hướng cõi hư vô
Tin điều chẳng mất.



               9-1993
                Đ.D.N


VƯƠNG TRỌNG


     TIẾNG VE TRƯA ẤY

            Tặng chiến sĩ xe tăng Lữ đoàn 203


Cắm cờ lên đích cuối cùng
Tăng về nép dưới bóng rừng nghỉ ngơi
Cửa tròn vừa mới hé thôi
Nhô đầu ra, ngập một trời tiếng ve
Từng người cởi mũ lắng nghe
Nhìn nhau: mùa hạ đã về rồi sao?

Lên xe đang lúc hoa đào
Mùa xuân đưa tiễn mát vào thép tăng
Con đường số Một giăng giăng
Thương xe, cành lá núi rừng gửi theo
Trong bầu - trời - thép thân yêu
Có khi xung trận nhớ nhiều trời xanh.

Tiếng ve gọi nắng trong cành
Hàng cây thay lá mát lành lộc non.

Tăng đi đất lở, đá mòn
Ngỡ dây xích quấn cả con đường vào
Tiếng cờ xé gió trên cao
Ầm ầm đại pháo, ào ào đại liên
Vẫn còn những phút lặng yên
Trong tăng nghe rõ nhịp tim từng người...

Bao nhiêu âm điệu quen rồi
Mà nay nghe tiếng ve sôi, ngỡ ngàng
Bè trầm, trầm sát đất bằng
Bè cao, cao vút  mấy hàng cây xanh
Tiếng ve mấy chục năm dành
Hôm nay đọng mật ngọt lành trái cây...

Thật rồi, mùa hạ về đây
Có nhau đâu, tiếng ve này, bạn ơi
Bởi mình say trận quá thôi
Trong tăng quên mất ngoài trời mùa đi!



                  Thủ Đức 5-1975
                        V.T

TRẦN ĐĂNG KHOA



        KHÚC VUI CA
   CỦA LÍNH THỜI BÌNH


         Tặng các chiến sĩ Quân đoàn 2


Đất nước không bóng giặc
Tưởng về gần, lại xa
Vẫn gian nan làm bạn
Vẫn gió sương làm nhà.

Bãi hoang thành đô thị
Ai đi áo dài bay
Còn ta thì đóng gạch
Lấm lem hơn thợ cày

Trước giặc, là lính cựu
Sau trâu, là tân binh
Cái nghèo và cái dốt
Bày trận giữa thời bình.

Trông lâm ly sỏi đá
Lòng ta mềm cỏ hoa
Nhớ nhà, lên dốc vắng
Dõi một làn khói xa.

Em vẫn thầm lộng lẫy
Chờ ta như thuở nào
Lặn lội tìm biết có
Gặp ta trong chiêm bao?

Và những kẻ thù xưa
Nhìn mặt, giờ quen cả
Có gì đâu, máu người
Chẳng phải là nước lã !

Các cậu đến làm bạn
Ô kê! Rượu uống chơi
Nhảy múa ư? Hảo hảo
Tớ cũng học được rồi !

Pháo nằm như mơ ngủ
Núi bay dải mây tình
Các cậu đừng có tưởng
Chúng tớ lính thời bình!



              Lạng Giang 4- 1994
Kỷ niệm ngày thành lập Binh đoàn Hương Giang
                    T.Đ.K


ANH NGỌC


       TRỞ LẠI SƯ ĐOÀN


                      Kính tặng Đoàn B25
          Binh đoàn Hương Giang đơn vị cũ của tôi


Giá có ở đây một đồng đội cũ
Để ngồi bên nhau trong phút giây này
Tất cả sẽ như hai mươi năm về trước
Cả sắc trò, dáng núi màu mây

Hai m ươi năm... tất cả vẫn còn đây
Vẫn còn đây những đồi cao lũng thấp
Công sự mới và mùi thơm của đất
Những chiến hào len lỏi giữa sim mua.

Cả tiếng cười tron trẻo của ngày xưa
Cũng vọng về đây từ môi người lính trẻ
Chàng đứng đó hòn nhiên tươi tắn thế
Mắt binh nhì ngơ ngác tuổi đôi mươi

Vầng trăng quen đã lặn phía sau đồi
Tôi trở về dưới mái lều lính trận
Đêm cuối thu ngả mình nằm giữa ruộng
Lại như xưa ngửa mặt đếm sao trời

Vây quanh tôi vẫn rơm rạ tháng Mười
Vẫn cọng cỏ dưới lưng mình ram ráp
Nghe rậm rịch chân ai vừa đổi gác
Con cào cào đập cánh ở đâu đây

Hai mươi năm ... mới lại có đêm nay
Đêm cuối bãi đầu bờ lăn lóc
Những người lính màn trời chiếu đất
Ngủ ngon lành sau một chặng hành quân

Thế là tôi đã về giữa sư đoàn
Dẫu quanh mình không một gương mặt cũ
Có sao đâu, đêm nằm năm ở
Sáng mai ra tất cả lại thành quen.



                  Đêm dã ngoại
                   10-11-1993
                       A.N

Quân đoàn 2 - Bản trường ca chiến thắng anh hùng
                                                                                                   Nhạc và lời: Thuận Yến

Một sáng tháng năm trước ngày sinh nhật Bác
Một ngày thiêng liêng lịch sử
Rừng Ba Nang-Ba Lòng bông lau nở trắng
Từ nơi đây Quân đoàn 2 ra đời
Từ ngày ấy viết thêm trang sử mới về những sư đoàn và những trung đoàn vượt núi băng sông,
xuyên qua màn đêm đi dọc miền Trung tiến vào giải phóng Thượng Đức lập chiến công đầu vẻ vang
Chiến dịch Xuân hè năm ấy cả nước bừng bừng khí thế tiến công.
Cả quân đoàn như một dòng sông tràn về biển Đông ào ào như thác đổ.
Đánh giặc mà đi!
Mở đường mà tiến đánh chiếm thành Huế, giải phóng Đà Nẵng thừa thắng xông lên thần tốc thần tốc! Táo bạo quyết thắng
Tiến vào Sài Gòn quân thù đầu hàng.
Cắm cờ lên dinh Độc Lập
Vẻ vang thay! Quân đoàn Hai – Bản trường ca chiến thắng anh hùng.


Một sáng tháng năm trước ngày sinh nhật Bác
Một ngày thiêng liêng lịch sử
Rừng Ba Nang-Ba Lòng bông lau nở trắng
Từ nơi đây Quân đoàn 2 ra đời
Ngày toàn thắng tiếp thêm trang sử mới  truyền thống quân đoàn điệp khúc quân hành, nào xá gian lao băng qua Trường Sơn lên tận miền tây giúp bạn bình yên cuộc sống tình nghĩa bạn bè thẳm sâu!
Có gì vui bằng xuân ấy
Tổ quốc hòa bình thống nhất Bắc Nam niềm khát khao chưa trọn niềm vui
bọn giặc dã man vượt rừng sang đất Việt
Bảo vệ phương Nam, giữ yên phương Bắc
Đứng trước đầu sóng ở nơi tiền phương
Tổ quốc yêu thương đánh tan xâm lăng bảo vệ hòa bình xây dựng quê hương đẹp giàu
Quân đoàn Hai – Bản trường ca chiến thắng anh hùng.


---------------------------
Do hình ảnh của bài nhạc quá nhỏ nên tôi tạm chép lại lời bài hát như trên, còn nhịp điệu và cách ngắt nhịp của bài hát như thế nào kính nhờ các bác, các chú... biết bài hát này chỉnh giúp.

Ơi thân thương Hương Giang
                                                                                               Nhạc và lời: Thái Văn Hóa

Dịu dàng ơi tên của dòng sông tháng năm lẫy lừng bao chiến công
Hương Giang, Hương Giang thân thương tên gọi mà nghĩa nặng tình sâu ơi chiến khu Ba Lòng.
Mẹ kể quê mình đây Trị Thiên khói lửa, sắt son kiên cường mang nặng nghĩa tình dân.
Hạt thóc nuôi quân bao lần thắm đỏ, để sáng tháng năm lớn dậy binh đoàn a hà hà hà.
Thượng Đức, La Sơn trận đầu thắng lợi
quân ta reo mừng mặt mẹ rạng ngời,
đường mùa xuân như thác đổ giữa thành đô vang tiếng quân reo.
Hương Giang, Hương Giang, quân ta đi như muôn dòng sông,
Nghe Hương Giang hát với Mê Công,
Mãi thủy chung tình bè bạn dạt dào như sông nước quê hương, Hương Giang, Hương Giang
Nghe Hương Giang hát với sông Cầu nay hiên ngang trụ vững tuyến đầu,
Qua gian lao bao nghĩa tình vẫn ngọt ngào,
Tên gọi Hương Giang vẫn ngọt ngào
Tên gọi Hương Giang ơ hờ.

Mãi gọi tên binh đoàn
                                                                               
                                                                                                       Nhạc và lời: Ngọc Toán

Ngược dòng Hương Giang đi tìm dấu chân xưa
Dốc Miếu, Cồn Tiên Quảng Trị ơi! Cửa Tùng
Ngược dòng thời gian lần theo năm tháng,
Vẫn vẹn nguyên khúc hát lính Binh đoàn ...
Quảng Trị ơi hôm nay ta trở lại lòng bồi hồi vẫn thấy bóng đoàn quân
Mẹ hiền ơi! Huế của ta ơi! Tình nghĩa nặng sâu bền lâu kỷ niệm
Một giọng hò trên sông Hương
Cả cuộc đời ta mang theo
Mỗi bước quân đi mang chiến thắng trở về

Ngược dòng Hương Giang đi tìm dấu chân xưa
Dốc Miếu, Cồn Tiên Quảng Trị ơi! Cửa Tùng
Ngược dòng thời gian lần theo năm tháng,
Vẫn vẹn nguyên khúc hát lính Binh đoàn ...
Mẹ hiền ơi! hôm nay con trở lại, lòng bồi hồi bỗng thấy bóng mẹ ta
Đồng đội ơi! Mãi gọi tên nhau! Trận đánh còn đây và bao kỷ niệm
Lại gọi đò trên sông Hương
Để ngàn lần ta mang theo mỗi bước quân đi
Hương Giang ơi! Hương Giang ơi! Gọi mãi tên Binh đoàn ...

Khúc quân hành chiến sĩ Quân đoàn Hai

                                                                                            Nhạc và lời: Vũ Trọng Tường

Chiến sĩ binh đoàn Hương Giang trận đầu ra quân đã chiến thắng Thượng Đức, La Sơn.
Thần tốc dọc duyên hải tiến công
Giải phóng Huế, Đà Nẵng, Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân
Hiệp đồng đánh lớn chiến dịch Hồ Chí Minh xốc tới giải phóng miền Nam
Mãi mãi không quên những chiến công lẫy lừng
xe tăng quân đoàn đã húc tan cửa sắt
cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập
sáng chói trang sử vàng truyền thống Quân đoàn Hai.

Thần tốc dọc duyên hải tiến công
Giải phóng Huế, Đà Nẵng, Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân
Hiệp đồng đánh lớn chiến dịch Hồ Chí Minh xốc tới giải phóng miền Nam
Mãi mãi không quên những tấm gương anh hùng hy sinh thân mình quyết đánh tan ngoại xâm
vì giải phóng quê hương xây đất nước mạnh giàu
hát mãi khúc quân hành chiến sĩ Quân đoàn Hai.

HẾT

Không có nhận xét nào: