LỜI NÓI ĐẦU
Lý Quí Chung (Chánh Trinh, 01.09.1940-03.3.2005) là một nhà báo lão
luyện, một chủ bút độc lập quả cảm, đồng thời lại là một dân biểu, một
nghị sĩ của chế độ cũ, sớm lựa chọn con đường đối lập ở nghị trường miền
Nam trước 1975 đương đầu chống lại chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Với
ngần ấy vị trí, ông là một nhân vật có điều kiện nhìn sâu vào bên trong
bộ máy chính quyền Sài Gòn do Mỹ dựng lên. Từ góc nhìn của ông, những
sự kiện, biến động chính trị - xã hội, cũng như một số góc khuất trong
chính trường Sài Gòn từ 1965 đến 1975 được phản ánh sinh động trong
quyển hồi ký này. Và nhất là, ông đã cho người ta được hiểu thêm những
đóng góp khác nhau của nhiều người Việt yêu nước cho ngày toàn thắng.
Hồi
ký là một góc nhìn, một góc nhớ của một người, cho nên nếu có những
phân tích, đánh giá mang tính chủ quan thì cũng là điều có thể chấp nhận
của một thể loại. Với hồi ký liên quan đến lịch sử thì cũng thế, dù
không phải là biên niên sử các sự kiện mà người viết được chứng kiến,
thì điều quan trọng nhất vẫn là tôn trọng đúng dòng chảy lịch sử chung
của cả dân tộc. Còn những cái nhớ, cái ghi về những chi tiết, quan hệ
riêng tư, sau 30 năm còn lại bao nhiêu, chính xác li ti đến mức nào, xét
cho cùng cũng là việc mà người đọc nên “rộng rãi” khi đọc.
LỜI TỰA CỦA NHÀ VĂN TRẦN BẠCH ĐẰNG
Tên tuổi Lý Quí Chung không xa lạ gì với giới trí thức TP. HCM và miền
Nam, bây giờ càng gần gũi hơn với những người hâm mộ bóng đá qua các bài
viết mà anh ký tên Chánh Trinh.
Vào tuổi 64, anh viết hồi ký - Hồi
ký không tên. “Không tên” nhưng vẫn “có tên” bởi mọi hồi ký đều do một
người, một nhóm người nhớ lại và ghi chép những gì mà đời mình đã trải
qua, đương nhiên kèm theo suy nghĩ về thế sự, nhân tình và, không loại
trừ, tâm sự. Tập hồi ký có mặt rất nhiều tên mà tôi hiểu tác giả chọn
tên cho tập hồi ký này đã hàm ý khái quát “số thành” của những cái tên
được thể hiện trong dòng chảy của năm tháng, những cái tên hóa thân vào
sự kiện – mà không ít sự kiện nằm trong một quá trình chuyển động dữ dội
của Sài Gòn và miền Nam, của Việt Nam – đặc biệt 15 năm (1960-1975) đất
nước ta đối mặt với Mỹ, đối mặt trên chính trường, trên chiến trường.
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả và Nhà xuất bản đề nghị tôi viết lời
giới thiệu tập hồi ký này, bởi hầu hết sự kiện cùng nhân vật được nhắc
trong hồi ký, bản thân tôi có biết, có tiếp xúc, thậm chí, về sự kiện,
có chịu trách nhiệm với cương vị - trong thời gian ấy – người phụ trách
phong trào cách mạng Thành phố Sài Gòn. Cho nên, những gì anh Lý Quí
Chung kể lại, ít nhiều tôi hiểu – hiểu cả phần chiều sâu. Tuy nhiên, đọc
lại hồi ký, tôi vẫn cảm ơn tác giả đã hệ thống, không theo logic hình
thức mà bằng “chuỗi” diễn tiến của tình thế và tác giả giúp tôi nhớ lại
quá khứ chưa xa lắm song chưa phải người trong cuộc nào cũng đánh giá
chính xác. Giá trị lớn nhất của hồi ký là tác giả “kể chuyện” một cách
giản dị, rõ ràng, “lớp lang”, dù chỉ thông qua thực tế thu hẹp liên quan
đến cá nhân mình. Có thể còn một số điều cần trao đổi thêm với tác giả,
chủ yếu chung quanh hiện tượng và bản chất của một số sự kiện, song đó
là thu nhận của tác giả trong một thân phận cụ thể - Lý Quí Chung không
thuộc một gia đình truyền thống cách mạng, hay có chân trong đội ngũ
quần chúng trỗi dậy từ Cách mạng Tháng Tám, hay nằm trong tầng lớp bị áp
bức bóc lột thậm tệ, càng không phải là… “một Việt Cộng nằm vùng”. Anh
“đại diện”- nếu hiểu chữ “đại diện” theo nghĩa chẳng do ai bầu mà là sự
đương nhiên – cho lớp trung gian của xã hội, “trung gian” cả về kinh tế
lẫn chính trị.
Lý Quí Chung sinh năm 1940. Anh vào đời đúng lúc đất
nước ta vừa dứt được ách đô hộ của Pháp, đang đứng trước sự đe dọa của
đô hộ Mỹ. Anh Chung, trong tuổi sinh viên, tiếp cận với những năm cuối
cùng của chế độ Ngô Đình Diệm và trải dài suốt cuộc chiến tranh khốc
liệt vào bậc nhất của Việt Nam, cho đến tận ngày 30-4-1945. Độ dài của
hiện thực chiến tranh tuy gói gọn ở anh Chung có 15 năm, song lại đúng
vào lúc lịch sử đặc quánh những nội hàm rất tiêu biểu.
Trước đây,
tôi chưa gặp anh, song đã biết tiếng anh trong hai trường hợp mà tận bây
giờ tôi vẫn còn nhớ. Trường hợp thứ nhất, tôi đọc trên báo Tiếng Dội
bài của nhà báo vốn rất quen thuộc với tôi là Trần Tấn Quốc – người được
giới báo chí Sài Gòn vào những năm 60 suy tôn là “đại trưởng lão” trong
làng báo – viết một bài nói về các nhà báo trẻ ở Sài Gòn, đặc biệt đánh
giá cao Lý Quí Chung, khi ấy Lý Quí Chung ký tên là Nguyễn Lý. Ông Quốc
viết, đại ý: Làng báo Sài Gòn xuất hiện nhiều cây viết tài năng và ông
cảm thấy mình khó sánh kịp, bởi “cái bóng đồ sộ của Nguyễn Lý” – tôi nhớ
câu này và chữ “cái bóng đồ sộ” theo cách nhìn của ông. Tôi biết Trần
Tấn Quốc khi ông còn mang trên Trần Chí Thành, từng hoạt động cộng sản
lâu năm, bị tù Côn Đảo, một nhà báo trí thức khá kiêu kỳ đã đánh giá Lý
Quí Chung như thế và điều đó khiến tôi suy nghĩ. Trường hợp thứ hai,
trên báo Tiếng Nói Dân Tộc, Lý Quí Chung có viết một bài xã luận nói về
Quốc hội Sài Gòn, anh là dân biểu: Rất xấu hổ khi làm “cây kiểng” cho
chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Tất nhiên, tôi còn đọc những tờ báo mà Lý
Quí Chung hoặc cộng tác hoặc làm chủ bút, tôi đọc khá nhiều. Bấy giờ,
tức vào những năm 60 và đầu những năm 70, báo chí Sài Gòn khá nổi bật
trong đấu tranh chống Mỹ và chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Nhiều tờ báo đăng
bài của các dân biểu đối lập, nhất là nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận,
Hồ Văn Minh, Dương Văn Ba, Nguyễn Văn Binh, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc
Lan… Báo chí đối lập là hiện tượng độc đáo của Sài Gòn trong suốt hai
cuộc kháng chiến, tôi chỉ nói báo chí công khai, trong khi báo chí nửa
công khai, nhất là của sinh viên, học sinh và các hội đoàn, thì gần như
“tràn ngập lãnh thổ”. Những tờ báo do các dân biểu đối lập “chịu trận”
quy tụ rất đông số trí thức có tinh thần dân tộc. Lý Quí Chung có mặt
trên các bài xã luận với phong cách riêng. Anh không “dữ dội” như Nguyễn
Ngọc Lan – khi Nguyễn Văn Thiệu phản đối khẩu hiệu chống Mỹ cứu nước
của Mặt trận Giải phóng, Nguyễn Ngọc Lan bấy giờ còn là linh mục, đã
“hiến kế” cho tổng thống, đảo ngược khẩu hiệu của Mặt trận Giải phóng
thành “chống nước, cứu Mỹ” – cũng không mang tính chất nghiên cứu như
linh mục Trương Bá Cần về thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, cũng không “chua” và “sát rạt” như Tư Trời Biển (Ngô Công Đức). Anh
Chung nhạy bén ở khía cạnh thời sự.
Sau ngày đất nước thống nhất,
tôi gặp anh Lý Quí Chung thường hơn, và gần đây, gặp trong một vài cuộc
hội thảo về bóng đá. Do vậy, ở một chừng mực nào, tôi hiểu anh. Anh đã
sống dưới chế độ cách mạng ngót 30 năm, dài hơn thời gian chạm mặt với
chế độ cũ, nếu tính chỗ xuất phát từ một Lý Quí Chung 20 tuổi. Không có
gì đặc biệt khi trong tập hồi ký hoặc nói thẳng hoặc ẩn chứa ưu tư của
một trí thức trước thời cuộc, song Lý Quí Chung hướng về phía trước,
hướng về những khám phá, hướng về nghĩa vụ. Tôi cho rằng tập hồi ký là
nỗ lực của Lý Quí Chung để tự hiểu mình, tự đặt mình trong vận nước và,
thật đáng quý, tự vượt qua chính mình. Ở cái tuổi 64, cái “ngộ” ấy chắc
chưa viên mãn, song nó là cái nền cho một hồi ký khác – tôi hy vọng sẽ
viên mãn hơn.
Thật ra, giới lớp trí thức Sài Gòn như Lý Quí Chung,
“phơi phới sống với chế độ mới” là chuyện không thể có, tức không thể
đòi hỏi. Rồi đây độc giả sẽ còn đọc nhiều hồi ký nữa của nhiều nhân vật
có mặt lúc này lúc khác giữa lòng Sài Gòn. Những tư liệu ấy – nếu được
đọc với sự phê phán và lòng bao dung – sẽ thêm cho pho sử hiện đại nước
ta các khía cạnh không phải là không thú vị.
Cách mạng Việt Nam đa dạng. Góp vào bức tranh đa dạng ấy những đường nét riêng, tôi xem đó là cống hiến của Lý Quí Chung.
Với xác tín như thế, tôi giới thiệu Hồi ký không tên của Lý Quí Chung.
8-2004
T.B.Đ
LỜI NÓI ĐẦU CỦA TÁC GIẢ
Hồi ký này ghi lại những sự kiện và những tháng ngày đáng nhớ trong cuộc
đời tôi – chủ yếu từ năm 1963 đến năm 1975 (phần hai từ 1975 đến 2004
được tóm lược). Tôi cố gắng tìm một cái tên đặt cho hồi ký này. Nhưng
nghĩ mãi không ra. Hồi ký cũng là cuộc đời của mình. Đặt tên cho cuộc
đời mình, điều ấy quả thật không dễ dàng. Cho nên tôi xin phép không đặt
tên vậy!
Người Việt Nam chúng ta rất thích kể chuyện và nghe kể
chuyện. Lâu ngày gặp nhau thường hay hỏi: “Có gì nghe kể không?”. Tôi
cũng là một trong số ấy. Cuộc đời tôi chẳng làm được chuyện gì “đại sự”,
nhưng 40 năm làm báo và có tham dự vào một số sự kiện đất nước có lẽ
cũng có nhiều điều để kể.
Thật ra mỗi cuộc đời là một thế giới
riêng, là một cuốn tiểu thuyết đầy những tình tiết hấp dẫn. Không hẳn
phải là bậc danh nhân hay những con người có cuộc sống lẫy lừng mới có
chuyện kể về đời mình.
Tôi không có tham vọng viết lại lịch sử
miền Nam Việt Nam trước 1975. Khoảng thời gian tôi lớn lên và hoạt động
tại Sài Gòn, từ thập niên 60 cho đến khi kết thúc chiến tranh (tháng Tư
1975) là một thời kỳ đầy biến động phức tạp. Miền Nam là một bức tranh
có đủ màu sắc, từ sáng đến tối, màu này chồng lên màu kia, sự kiện này
che lấp sự kiện kia, chi tiết này chen lẫn chi tiết nọ. Thật không dễ
dàng nắm hết “cái thần” của bức tranh ấy nếu chúng ta chỉ có một cái
nhìn đơn giản. Những chuyện kể của tôi xuất phát từ chỗ đứng và sự cảm
nhận của riêng cá nhân tôi do đó chắc chắn không tránh khỏi sự hạn chế.
Nếu những điều tôi ghi lại trọng “Hồi ký” này có thể giúp người đọc hiểu
rõ thêm về một số sự kiện xảy ra tại miền Nam trước 1975 thì đó là hơn
sự mong mỏi của tôi. Còn nếu có điều chi thiếu chính xác, tôi rất mong
nhận được những phản hồi và góp ý.
Đây chỉ là chuyện kể của một người, nhớ đến đâu kể đến đó.
CHƯƠNG 1
Tôi sinh năm 1940 tại Mỹ Tho (Tiền Giang) nhưng chỉ ở đấy đến năm 3 tuổi
thì cùng gia đình đến sống tại Biên Hòa (Đồng Nai). Cha tôi làm công
chức, do có mâu thuẫn với tỉnh trưởng Mỹ Tho, nên có lệnh đổi lên Bà Rá.
Thời Pháp, địa danh này ở miền Đông dành để “lưu đày” các công chức vô
kỷ luật. Trên đường di chuyển lên Bà Rá ngang qua Biên Hòa, cha tôi được
viên tỉnh trưởng ở đây giữ lại do được đánh giá là một công chức có
trình độ (cha tôi học Collège Mỹ Tho, đậu Diplôme và rất giỏi tiếng
Pháp).
Tuổi thơ của tôi ở Biên Hòa – từ 3 đến 12 tuổi (1943 -
1952)- trải qua khá êm đềm mặc dù đây là một giai đoạn đầy biến động của
đất nước. Sự kiện lịch sử Pháp theo chân quân đội Anh đánh chiếm lại
các tỉnh miền Đông để lại trong ký ức của tôi – hồi đó mới 5 tuổi –
những hình ảnh tuy không rõ ràng và lớp lang, nhưng được giữ lại mãi cho
đến sau này. Tôi còn nhớ không khí chuẩn bị rộn ràng, không hề sợ hãi,
của người dân Biên Hòa cùng với lực lượng Việt Minh nhằm chống lại sự
tấn công của quân Pháp. Lần đầu tôi được thấy cây tầm vông vạt nhọn, vũ
khí tiêu biểu cho những ngày đầu kháng chiến chống Pháp tại miền Nam.
Tôi cũng tham gia lần đầu tiên và là lần duy nhất cắt dán những lá cờ đỏ
sao vàng dùng gắn trên ngực cho thanh thiếu niên trong khu phố của tôi.
Lá cờ đỏ sao vàng in một dấu ấn đậm nét trong ký ức tuổi thơ của tôi
mặc dù tôi không hiểu ý nghĩa chính trị của nó vào thời điểm ấy. Nhưng
cái không khí chung quanh dành cho lá cờ đỏ sao vàng đủ khiến cho thằng
bé con trong tôi cảm nhận được lá cờ tượng trưng cho một điều gì đó hết
sức đặc biệt đối với mọi người. Tôi không nhỡ rõ lúc đó cha tôi làm gì
và ở đâu (trước đó ông vẫn là công chức ở tỉnh) nhưng tôi lại nhớ mình
không hề bị cha ngăn cản làm theo những người lớn tham gia Việt Minh…
Khi
những người kháng chiến ở thành phố Biên Hòa không thể ngăn trở người
Pháp theo chân quân đội Anh tái chiến tỉnh nhà, nhiều người đã phải
“chạy giặc”, tức là rời thành phố chạy về các vùng nông thôn để tránh
quân Pháp và Anh. Mẹ tôi đưa tôi và em gái tôi mới một tuổi “chạy” khỏi
thành phố Biên Hòa trên một chiếc ghe chài chất đầy các thứ vật dụng
giường, tủ, bàn, ghế, mùng mền như dọn nhà. Ghe đi đến đâu cũng thu hút
sự tò mò của người dân sống dọc hai bên sông. Họ đổ xô ra xem. Chiếc ghe
khá to thả xuôi theo con sông Đồng Nai không biết đi đến đâu. Mẹ tôi
lúc ấy mới 23 tuổi (mẹ sinh tôi lúc 17 tuổi), ăn mặc theo thị thành, đẹp
một cách đài các, đứng một mình trên ghe ngơ ngác, tay bồng em gái tôi.
Cảnh ấy không khác gì một bức tranh siêu thực! Cha tôi không “tản cư”
cùng với vợ và các con vì hướng tản cư đi sâu vào vùng Việt Minh kiểm
soát. Cái gốc công chức làm cho chính quyền do Pháp cai trị khiến ông lo
ngại. Ông ở lại thành phố, lẩn trong giới người Hoa mà ông quen biết.
Khi
ghe đi qua làng Tân Vạn, một bà chủ lò lu giàu có tại đây thương cảm
tình cảnh của mẹ tôi với hai đứa con nhỏ đã gọi ghe lại và cho gia đình
tôi tá túc trong cơ sở lò lu của bà. Căn nhà xưa của bà tọa lạc giữa một
khu đất rộng lớn, bốn bề bao bọc bởi một hàng rào cao khoảng hơn hai
mét được dựng lên với những cái lu bị thải ra vì kém chất lượng hoặc nứt
bể. Bà cho mẹ tôi ở một căn nhà nhỏ nằm một góc khu đất gần hàng rào,
khá sáng sủa. Tình cảnh một người phụ nữ đẹp, không có mặt chồng, ở một
mình với hai đứa con không thể không gây chú ý nhiều người trong làng.
Có một nhân vật thế lực ở địa phương thường rón rén đến sát hàng rào
nhìn trộm mẹ tôi qua những lỗ hở của những cái lu bể. Tôi là người phát
hiện đầu tiên chuyện đó và liền chạy đi “mét” mẹ tôi. Chính bà chủ lò lu
cho người lấp các lỗ hở trên hàng rào. Lò lu (nơi để lu vào nung) đối
với tuổi thơ của tôi quả là một cái hang khổng lồ. Nó không khác hang
động của 40 tên cướp trong truyện thần thoại Alibaba. Mỗi khi có máy bay
của Tây đến dội bom, mọi người đều chạy vào núp trong hầm lò. Gia đình
tôi luôn nhớ ơn lòng tốt của bà chủ lò ở Tân Vạn.
Khi Pháp tái lập
lại guồng máy cầm quyền đô hộ của họ tại Biên Hòa, ông tỉnh trưởng cũ
thuyết phục cha tôi trở lại làm việc ở tòa bố (tòa hành chánh của tỉnh).
Về giai đoạn ấy, sau này hình như cha tôi có giải thích không rõ ràng
lắm, đại khái như: “Làm công chức gần như là cái nghề của ba”.
Dù
ông làm công chức cho Pháp rồi lần lượt cho các chính quyền Sài Gòn
trong gần suốt đời ông, nhưng cứ mỗi khi nói về kháng chiến, về một số
bạn bè của ông thời học trường Collège Mỹ Tho đã đi theo cách mạng, ông
luôn tỏ ra kính trọng và hãnh diện. Mãi khi tôi đã lớn, thỉnh thoảng tôi
vẫn nghe cha tôi nhắc về họ.
Tôi không hề có ý định vẽ lại một
chân dung khác của cha tôi mà cuộc đời làm công chức đã gắn liền với
guồng máy cai trị Sài Gòn thời Pháp cho đến các chính quyền do Mỹ dựng
lên sau này. Ông đã từng làm quận trưởng, phó tỉnh trưởng hành chánh ở
nhiều tỉnh, quận (Thủ Đức, Long Thành thuộc tỉnh Biên Hòa, Tiểu Cần
thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Củ Chi, Tân Uyên…) và sau cùng làm phó
đô trưởng hành chánh Sài Gòn (1970-1972); nhưng ông vẫn là một công chức
thuần túy, chưa bao giờ tham gia chính trị như một chính khách. Thời
Ngô Đình Diệm ông không vào đảng Cần Lao, thời Nguyễn Văn Thiệu, ông từ
chối gia nhập đảng Dân Chủ để củng cố địa vị của mình. Ngay từ nhỏ, tôi
đã nghe ông hơn một lần nói:
“Không phải ai cũng có thể chọn con
đường đi của mình. Đôi khi hoàn cảnh đặt mình ở bên này hay bên kia.
Nhưng cái chính là dù ở đâu, mình cũng ráng lo cho dân là tốt rồi”. Tất
nhiên một suy nghĩ như thế là gần như phi chính trị; nhưng cha tôi tin
thật lòng mình điều ông nghĩ và ông cố gắng hành động như ông quan niệm.
Thế nhưng chính cái quan niệm phi chính trị ấy của cha tôi đã sớm
gieo vào đầu tôi một ý thức nào đó về trách nhiệm công dân, một cuộc
sống không thể thờ ơ với những gì xảy ra chung quanh mình. Bởi nghĩ cho
cùng, cách giải thích và biện minh của cha tôi về “hoàn cảnh” của ông,
cũng là sự trăn trở của một người trí thức có lòng yêu nước, nhưng thật
sự không “yên tâm” với sự lựa chọn bất đắc dĩ của mình.
Rồi sau đó
ông rất thanh thản đón ngày quân giải phóng vào Sài Gòn, vui vẻ gặp lại
bạn bè cũ từ Hà Nội trở về (như ông Trần Thanh Xuân, Phó Tổng giám đốc
Thông tấn xã Việt Nam hay ông Cao Tấn Bổ công tác tại Văn phòng Đại biểu
Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh, xưa kia là bạn học chung với ông). Dù
là công chức cao cấp của chế độ cũ, nhưng cha tôi không bị đi học tập
cải tạo tập trung. Vì từ năm 1973 cha tôi đã bị cách chức Phó đô trưởng
hành chánh Sài Gòn và bị chế độ Thiệu cho về hưu sớm do các hoạt động
chống chế độ của con trai ông. Lúc bấy giờ tôi đang làm dân biểu Hạ nghị
viện, thuộc khuynh hướng chính trị đối lập, gần như ngày nào cũng
“xuống đường” hoặc có lời phát biểu chống chế độ Sài Gòn trên diễn đàn
quốc hội hay trên báo chí. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tay chân ông
nhiều lần tìm cách trực tiếp hoặc gián tiếp buộc cha tôi gây áp lực với
tôi đứng về phe họ hay ít ra phải ngưng các hoạt động chống họ. Nhưng
biết rõ thái độ chính trị của tôi, cha tôi luôn tìm cách né tránh các
yêu cầu của họ. Có một lần đại tá Đỗ Kiến Nhiểu, đô trưởng Sài Gòn Chợ
Lớn, cấp trên trực tiếp của cha tôi, đặt thẳng vấn đề ông ta muốn gặp
tôi để bàn một số việc. Cha tôi thừa biết Đỗ Kiến Nhiểu muốn bàn chuyện
gì (không có chuyện gì khác hơn là yêu cầu con mình ngưng chống chế độ
Thiệu) nhưng thật khó thối thoát. Ông cũng thấy trước rằng nếu để con
mình gặp và từ chối lời đề nghị gì đó của đại tá Nhiểu thì tình thế càng
căng hơn. Cuối cùng cha tôi nảy ra một ý kiến: cuộc hẹn định 8 giờ sáng
nhưng tôi sẽ đến văn phòng Đô trưởng tại Tòa Đô vào lúc 7 giờ 30. Dĩ
nhiên vào giờ đó Đỗ Kiến Nhiểu chưa đến. Tôi chỉ cần viết vài chữ cho
biết mình đã đến và bận họp Quốc hội nên phải đi ngay, không thể chờ ông
ta. Dù sao đó chỉ là kế hoãn binh. Phe ông Thiệu không thể chấp nhận
duy trì ở cương vị Phó đô trưởng một người có con trai hoạt động chống
họ một cách tích cực. Khi cha tôi bị cách trức (1973), ông nói với tôi
như thông báo một việc biết trước thế nào rồi cũng đến: “Tụi nó cho ba
nghỉ rồi!”. Cha tôi mất năm 1991 mà không kịp được nhìn thấy những đổi
thay tốt đẹp sau này của đất nước.
Cái máu say mê thể thao của tôi
thừa hưởng từ cha tôi. Từ những năm 14-15 tuổi, tôi đã đọc thường xuyên
các báo thể thao của Pháp như L’Equipe, Mirroir Sprint (chuyên về xe
đạp) v.v… Các báo này ba tôi đặt mua dài hạn ở nhà sách Albert Portail
(nay là nhà sách Xuân Thu, đường Đồng Khởi). Tôi nhớ có lần cha tôi đưa
tôi lên Sài Gòn xem đấu quần vợt tại Xẹc Tây (Cercle Sportif Saigonnais –
bây giờ là Cung văn hóa Lao động). Đó là khoảng năm 1953-1954, lúc đấu
thủ huyền thoại Võ Văn Bảy vừa nổi lên. Trận đấu diễn ra trên sân số 4
gần hồ bơi của Xẹc. Đối thủ của anh Bảy là tay vợt người Úc nổi tiếng
thế giới. Thế mà anh Bảy chơi rất ngang ngửa. Cha tôi là người ủng hộ
anh Bảy một cách sung sướng. Thế nhưng ngồi gần cha tôi có một vị khán
giả cứ thỉnh thoảng lại nói: “Thằng Úc nó thả cho anh Bảy đó, chứ làm gì
anh Bảy kiếm được một jeu (tiếng Pháp: một ván)”. Lúc đầu cha tôi làm
như không nghe, nhưng vị khán giả kia cố tình lặp lại cho lọt vào tai
cha tôi nhận định của ông ta. Thế là cha tôi nổi nóng lên, quay sang nói
thẳng vào mặt ông ta “Sao ông tự ti mặc cảm đến như thế. Võ Văn Bảy
chơi hay thật chứ đâu được thả”. Rồi hai người cãi nhau quyết liệt và
thách nhau ra ngoài để “giải quyết”. Khi hai người sắp đánh nhau, tôi lo
sợ khổ tâm vô cùng, không biết phải bênh vực cha mình thế nào đây.
Chẳng lẽ nhảy vào tiếp tay cho cha tôi đánh lại cái ông khán giả kia?
Rất may, có một công chức cao cấp thuộc đàn anh của cha tôi đi ngang
qua, thấy cha tôi đang đứng thủ thế, liền can thiệp: “Phát, mày làm cái
gì kỳ vậy”. Thế là cuộc đấu... võ giữa hai người được ngăn chặn kịp lúc!
Thật không thể tưởng tượng, 25 năm sau cũng tại Xẹc Tây, lúc này
có tên là Nhà Văn hóa Lao động, cha tôi lại suýt đánh nhau lần thứ hai
cũng tại sân quần vợt. Lần này ông đi xem cháu nội của ông, tức con trai
lớn của tôi – Lý Quí Hùng – thi đấu với anh Võ Văn Bảy ở giải toàn
thành, hình như lúc đó là năm 1979. Hùng thi đấu khá xuất sắc và lấy
được của anh Bảy mấy jeu. Người ngồi kế bên cha tôi lần này là bác sĩ
Nguyễn Phước Đại, cũng là một người say mê quần vợt. Tôi rất thân với
bác sĩ Đại, nhưng cha tôi và ông Đại lại chưa từng gặp mặt nhau. Ông Đại
bình luận mấy bàn thắng của Lý Quí Hùng là do…” cha nó (tức là tôi) mua
chuộc anh Bảy”! Cha tôi ngồi kế bên liền lên tiếng: “Xin lỗi ông, cha
của thằng Hùng không bao giờ làm chuyện đó”. Bác sĩ Đại đáp trả lại:
“Làm sao ông biết cha thằng Hùng bằng tôi”. Cha tôi bình tĩnh nói lại:
“Chắc chắn tôi phải biết cha của thằng Hùng hơn ông, đơn giản tôi là cha
của cha thằng Hùng”. Lúc này hai người suýt choảng nhau. May mà có một
người quen biết cả hai cản ngăn kịp.
Mẹ tôi là một phụ nữ suốt đời
vì chồng con. Hồi trẻ bà được xem là người phụ nữ đẹp nhất Biên Hòa.
Những năm tôi hoạt động chính trị đối lập, mẹ tôi luôn tỏ ra chia sẻ và
hỗ trợ. Bà rất hãnh diện về lập trường độc lập và đối lập của con trai
mình trong Quốc hội và trên báo chí. Mẹ tôi dư biết các hoạt động chống
chế độ của tôi tất yếu sẽ dẫn tới kết cuộc cha tôi sẽ bị cách chức. Rất
yêu chồng nhưng không bao giờ bà ép buộc con trai mình đầu hàng hay bỏ
cuộc.
Thời trẻ cha tôi rất mê đánh bạc và thường vắng nhà. Chuyện
học hành của tôi hoàn toàn do mẹ tôi lo. Bà đặt tất cả tình thương và hy
vọng vào đứa con trai trưởng. Bà muốn tôi trở thành bác sĩ. Cha mẹ tôi
có tất cả tám người con. Tôi có sáu em gái và một em trai cũng là đứa em
út trong nhà. Về đường học vấn của tôi, công sức mẹ bỏ ra rất nhiều,
nhưng thẳng thắn mà nói bà không nhận được sự đền đáp như ý nguyện. Tôi
chưa bao giờ là một học sinh giỏi hoặc chuyên cần. Khi cha tôi còn là
một thư ký quèn ở Biên Hòa, mẹ tôi quyết tâm đưa tôi vào học trường Pháp
ở tỉnh nơi chỉ dành cho con Tây và con công chức cao cấp trong tỉnh.
Theo suy nghĩ của mẹ tôi, trường Nguyễn Du mà tôi theo học (đến lớp tư,
tức lớp hai hiện nay) dạy kém. Trường Pháp ở Biên Hòa do bà vợ của ông
chánh thanh tra giáo dục ở tỉnh tổ chức. Bà là người Việt Nam nhưng có
quốc tịch Pháp. Chánh thanh tra là ông Trần Bá Chức, trước kia là giáo
sư trường Collège Mỹ Tho và là thầy cũ của cha tôi. Có lẽ nhờ mối quan
hệ này mà tôi được đặc biệt nhận vào học trường Tây. Tôi còn nhớ cái tên
Tây mà bà hiệu trưởng đặt cho tôi: Charles.
Trường Việt tôi học
lôi thôi, sang trường Pháp cũng không khá. Tôi chỉ mê tắm sông Đồng Nai
và đá banh trên đồng ruộng sau mùa gặt. Các gốc rạ chĩa lên thật cứng và
bén, các lỗ chân trâu đầy trên mặt ruộng như những cái bẫy lúc nào cũng
có thể làm lọi chân các cầu thủ chân đất tí hon, nhưng những hiểm nguy
này vẫn không ngăn trở bọn trẻ chúng tôi quần quật suốt ngày với quả
banh nhựa. Ngay từ lúc ấy tôi đã tỏ ra có năng khiếu bắt gôn. Bạn bè gọi
tôi là “gôn Tịnh”, tên của một thủ môn huyền thoại cùng thời với những
Trương Tấn Bửu, Guichard, Tốt, Cúi…
Sông Đồng Nai đã cướp đi lần
lượt nhiều mạng sống của bạn bè tôi thời thơ ấư, bản thân tôi cũng suýt
chết mấy lần. Một lần vì trốn người nhà ra gọi về, tôi lặn xuống núp
dưới cây cầu ván và bị kẹt dưới cây cầu suýt chết ngộp. Một lần khác thi
nhau lặn qua đáy một chiếc ghe lớn, do nước chảy mạnh làm lạc hướng nên
hụt hơi mà vẫn không trồi được đầu qua phía bên kia ghe! Nhưng bọn nhóc
chúng tôi không hề sợ hay hờn dỗi con sông Đồng Nai. Các buổi trưa, dù
nắng hay mưa, bọn tôi không bao giờ lỡ hẹn với nó. Nơi chúng tôi tắm có
một cây đa thật to, tán phủ cả một đoạn sông trông vừa hùng vĩ vừa bí
hiểm như trong rừng châu Phi. Chính ở đây bọn nhóc chúng tôi thường đóng
vai người rừng Tarzan, với những pha đu cây (là rễ chằng chịt của cây
đa) tung người ra xa rồi buông rơi xuống nước một cách ngoạn mục.
Mẹ
tôi cuối cùng cũng phát hiện ra hai năm học trường Tây ở tỉnh của tôi
chẳng đến đâu. Tôi đen thui như người Campuchia vì cả ngày ở dưới sông
hoặc rượt bóng trên đồng. Nhưng mẹ tôi không chịu nhìn nhận sự yếu kém
này là do con mình mà lại cho rằng do nhà trường thiếu sâu sát và chăm
sóc. Thế là mẹ tôi lại nghĩ đến một trường Tây khác ở tận Sài Gòn! Đến
bây giờ tôi vẫn không hiểu xuất phát từ đâu mẹ tôi lại có ý nghĩ đưa tôi
lên Sài Gòn học trường Chasseloup Laubat, trường trung – tiểu học Pháp
lớn nhất toàn Đông Dương lúc đó chỉ dành cho con em người Pháp hoặc
“quan lớn người Việt”. Trường này là nơi Thái tử Norodom Sihanouk (nay
là Quốc vương Campuchia) từng học nội trú hồi nhỏ. Nhiều con em hoàng
tộc Lào cũng được gởi đến học ở đây. Ý nghĩ của mẹ tôi quá táo bạo, gần
như không tưởng vào lúc đó bởi cha tôi chỉ là một công chức cấp tỉnh
bình thường. Nhưng cuối cùng mẹ tôi cũng thực hiện được ước vọng của
mình. Một người bạn cũ của cha tôi làm trong tòa đại sứ Pháp ở bộ phận
văn hóa đã giúp mẹ tôi. Tôi hoàn toàn không có tiêu chuẩn vào học trường
này – về trình độ Pháp văn và cả về vai vế xã hội thời đó.
Tôi vào
học nội trú trường Chasseloup Laubat bắt đầu niên học 1951-1952, lớp
8ème (nay là lớp 5). Tôi còn nhớ tên bà giáo là Fabiani, một người gốc
Corse. Tôi học nội trú vì gia đình không có ai ở Sài Gòn (gia đình tôi
luôn luôn di chuyển theo cha tôi đến các tỉnh, quận, những nơi cha tôi
đến làm việc). Vào nội trú, giường ngủ của tôi ở cạnh giường ngủ một
“ông hoàng – con” Campuchia tên là Sisowath Charia. Chúng tôi trở thành
bạn thân, sau này cũng có nhiều lần gặp nhau lại tại Phnom Pênh và Sài
Gòn. Năm đầu vào Chasseloup Laubat, tôi vật lộn với tiếng Pháp vô cùng
khổ sở. Cái vốn tiếng Tây tôi học ở Biên Hòa không được bao nhiêu, lại
trả cho thầy gần hết. Tôi còn nhớ những ngày đầu đang học bị chột bụng,
tôi không biết phải nói thế nào bằng tiếng Pháp để xin phép thầy ra khỏi
lớp… Thế là tôi phải “thuê” thằng bạn ngồi cạnh dạy cho tôi một câu
tiếng Tây học thuộc lòng. Có khi trả cho nó bằng tiền, có khi trả bằng
phần ăn tráng miệng. Nhưng nhờ qui định học sinh phải ở luôn trong
trường, thứ Bảy hoặc Chủ nhật mới được ra bên ngoài chơi, và nhờ trường
cấm triệt để không được nói tiếng Việt – ngay trong lúc sinh hoạt bình
thường như giờ ra chơi, giờ ăn – nên không bao lâu tiếng Pháp của tôi
cũng khá lên.
Một tuần chúng tôi được ra phố chiều thứ Bảy và Chủ
nhật. Nhưng không phải thứ Bảy, Chủ nhật nào cũng được phép ra phố. Nếu
bị phạt ½ PS (Privation de sortie – truất phép được ra)- truất nửa phép –
học sinh nội trú đó không được cha mẹ hoặc người thân rước ra chiều thứ
Bảy, sáng Chủ nhật mới được ra. Còn lãnh trọn cái PS thì ở lại trường
cả thứ Bảy và Chủ nhật để chép bài phạt! Ngày Chủ nhật bị ở lại trường
được “surveillant” (giám thị) dắt đi “promenade” (đi dạo) ở sân Richaud
(nay là sân Phan Đình Phùng) nằm sát bên trường. Những dịp này các học
sinh bị phạt hy vọng có một an ủi: được phép của giám thị cho gọi xe mì
dạo lại xơi một trận đã thèm. Không phải ông “surveillant” Tây nào cũng
dễ tính và gật đầu nói “oui” (đồng ý). Có khi ông ta chẳng nói gì, nhưng
nhìn chỗ khác làm lơ là coi như “oui”. Thời đó trong bọn học sinh người
Việt, đứa nào cũng mê mì, vì một tuần ăn đồ Tây hết sáu ngày, chỉ có
ngày thứ Tư mới có “repas vietnamien” (cơm Việt Nam). Nhưng cũng phải
nói rằng cách đây 50 năm, mì bán dạo trên xe đẩy, rao gõ cóc cóc là ngon
nhất! Tiếng mì gõ trên các đường xung quanh trường nhiều đêm làm bọn
học sinh nội trú chúng tôi nằm trên giường thèm quá, không sao ngủ được.
Cái thú chính yếu khi được phép ra khỏi trường chiều thứ Bảy và
Chủ nhật là đi xem xi nê. Thời đó các rạp thịnh hành nhất là Nam Quang,
Long Thuận (nằm sát tòa soạn báo Sài Gòn Tiếp Thị hiện nay), Majestic
(sát khách sạn Cửu Long hiện trở thành nhà hàng Maxim). Nhưng rạp chiếu
phim mới nhất, chiếu phim màu Technicolor trên màn ảnh rộng (lúc đó gọi
là écran panoramique ) thì chỉ có rạp Olympic trên đường Chasseloup
Laubat (bây giờ là đường Nguyễn Thị Minh Khai). Lúc đó rạp Olympic hiện
đại và ăn khách nhất. Tôi mê các tài tử như Errol Flynn, Gene Kelly,
Stewart Granger, Victor Mature, Deborath Kerr, Ava Gardner… Những bộ
phim như “Samson và Dalila”, “Scaramouche” hay “Ba người lính Ngự lâm”
(Les Trois Mousquetaires) bây giờ nhớ lại vẫn thấy hay. Sau này, có
nhiều bộ phim làm lại tác phẩm của nhà văn Alexandre Dumas, nhưng với
tôi, phim “Ba người lính Ngự lâm” hay nhất vẫn là bộ phim do Gene Kelly
đóng cùng với Lana Turner. Có lẽ cái gì đến với mình lần đầu, lúc tuổi
thơ, vẫn là đẹp nhất chăng? Lúc đó đi xem xi nê còn có cái thú sưu tập
các tờ programme (chương trình) in nhiều màu trên giấy láng, rất đẹp.
Mỗi phim mới, ở tất cả các rạp đều có tờ programme mới. Những ngày bị
phạt ở lại trường, lấy chồng chương trình ra xem lại, thấy thích thú
không kém gì được đi xem xinê!
Năm 1954, sự kiện Điện Biên Phủ rồi
Hiệp định Genève diễn ra, trường Albert Sarraut từ Hà Nội chuyển vào Sài
Gòn sát nhập với Chasseloup Laubat. Trường không đủ lớp để chứa tất cả
học sinh từ Hà Nội vào, nên hủy bỏ chế độ nội trú để mở thêm lớp học. Mẹ
tôi không cho tôi học tiếp tại đây vì sợ rằng học ngoại trú, giữa Sài
Gòn nhiều “cạm bẫy” tôi sẽ sớm hư hỏng! Mẹ tôi chuyển lên Đà Lạt vào học
nội trú tiếp lại Lycée Yersin.
Sự kiện Điện Biên Phủ và Hiệp định
Genève đối với một thằng bé 14 tuổi đang học trường Tây dĩ nhiên không
để lại được bao nhiêu trong ký ức. Tuy nhiên, ngoài chuyện…chuyển trường
từ Sài Gòn lên Đà Lạt, tôi vẫn nhớ cái không khí bất thường của Sài Gòn
trong những ngày Pháp hấp hối ở Điện Biên Phủ. Những ánh mắt lo âu của
người Pháp và cả những người Việt thân Pháp. Mặc dù cha tôi là công chức
nhưng tôi không thấy ông âu lo. Có lẽ do ông luôn không chịu gắn số
phận của ông với số phận của người Pháp. Lúc đó cha tôi đang làm quận
trưởng quận Tiểu Cần (Trà Vinh). Như mọi kỳ nghỉ hè, tôi rời nội trú về
nhà. “Nhà” của gia đình tôi lúc đó là nơi cha tôi đang làm việc. Cha tôi
nhận nhiệm sở ở đâu thì cả gia đình dời theo đến đó. Cả gia đình đi
theo cha tôi từ tỉnh này sang tỉnh nọ. Nhưng tôi nhớ năm 1954 tôi không
về thẳng được quận Tiểu Cần mà cùng gia đình tạm ở lại tỉnh lỵ Trà Vinh.
Vì Tiểu Cần được chọn làm nơi tập kết ra Bắc của quân đội Việt Minh
trong tỉnh theo Hiệp định Genève.
Tôi rất thích đọc báo, báo Việt
và cả báo Pháp do cha tôi thường mua về. Từ lúc đó tôi đã thuộc những
cái tên như De Lattre de Tassingy, Cogny, Salan, Navarre, De Castries…
không khác lắm mười, mười lăm năm sau quen thuộc với những cái tên như
Haig, Maxwell Taylor, McNamara, Westmoreland… Bây giờ nhắc lại những cái
tên tướng lĩnh Pháp – Mỹ ấy, thật lạ lùng nó vang vọng trong tôi cùng
một âm hưởng, như thể họ đều cùng thời, dù họ đến đây trước hay sau hàng
chục năm, có mặt ở hai cuộc chiến khác nhau. Họ như những lá bài của
một bộ bài. Những lá bài trong cùng một canh bạc thảm hại. Có một điều
oái oăm là lúc đó tôi chỉ biết được Điện Biên Phủ và tên vị tướng huyền
thoại Võ Nguyên Giáp – một cách sơ lược thôi – nhờ xem báo Paris Match ,
nhưng ngược lại tôi biết tường tận chiến thắng Austerlitz của Napoleon
vì học sử của… Pháp. Trong trường Chasseluop Laubat tôi được học lịch sử
nước Pháp thay lịch sử Việt Nam. Có ai đã so sánh Austerlitz của
Napoléon với Điện Biên Phủ của Võ Nguyên Giáp chưa? Hai cuộc chiến ở hai
thời đại khác nhau, đúng là khó sánh, nhưng tôi vẫn thấy Điện Biên Phủ
vĩ đại hơn, còn về sự chính nghĩa thì Austerlitz không có cơ sở nào để
so sánh với Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ là niềm tự hào chung của mọi
tầng lớp người Việt Nam. Đó là chiến tích tầm vóc thế giới của dân tộc
Việt Nam. Khi tôi bắt đầu vẽ tranh năm 1990, rất tự nhiên, một trong
những cảm hứng đầu tiên của tôi là Điện Biên Phủ. Bức tranh sơn dầu khổ
lớn có tên “Điện Biên Phủ trong ký ức của người Pháp” theo thể loại “mix
media” của tôi đã ra đời (bức tranh này hiện Công ty sơn mài Lam Sơn sở
hữu).
…Rời Chasseloup Laubat lên trường Yersin Đà Lạt học tiếp,
tại đây tôi đã có những năm tháng đẹp nhất thời học sinh của mình (1954-
1959). Bây giờ thỉnh thoảng nhớ lại tôi vẫn thấy lòng mình xao xuyến.
Cho đến sau này, tối nằm vào giường trước khi ngủ, thỉnh thoảng tôi vẫn
cố gắng nhớ lại một đoạn nào đó thời mình học ở Đà Lạt, nhớ lại từng
gương mặt bạn bè, từng góc trường, góc phố Đà Lạt, như thể xem lại một
đoạn phim cũ mà mình yêu thích. Nhà trường nằm trên một ngọn đồi, có sân
bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, điền kinh. Có cả phòng tập thể dục thể
thao rộng thoáng trong nhà dành cho các môn bóng bàn, thể dục dụng cụ
v.v… Khác với trường Chasseloup Laubat xây vuông vức như một trại lính,
kiến trúc của trường Yersin thuộc loại đẹp và độc đáo nhất Việt Nam và
có thể là cả Đông Nam Á. Nó là một loại campus như các trường đại học ở
Mỹ - Úc. Tòa nhà chính của trường hình vòng cung theo phong cách La Mã,
với một nóc cao như vọng chuông nhà thờ, đứng từ chợ Đà Lạt cũng nhìn
thấy. Niềm say mê thể thao đến với tôi cũng từ những năm tháng sống ở
môi trường này. Tôi là vận động viên đại diện trường ở các môn bóng đá
(thủ môn), điền kinh (nhảy cao), bóng rổ. Trường Yersin còn dạy tôi
những bài căn bản về môn vẽ, chất lượng tương đương với một trường
chuyên ngành mỹ thuật. Với vốn liếng ban đầu ấy, 30 năm sau tôi đi vào
hội họa khá thuận lợi.
Tôi làm quen, yêu thích rồi mê bộ môn khiêu
vũ cũng từ trường này. Nhiều chục năm sau tôi vẫn không quên được buổi
đi “nhảy đầm” lần đầu ở vũ trường Dancing Đà Lạt! Sau thời gian tập tành
trong câu lạc bộ ở trường, một chiều thứ Bảy, tôi mạnh dạn đi “trắc
nghiệm” ở một vũ trường ngoài phố những gì mình mới học được.
Cái
buổi ban đầu khiêu vũ trong dancing hồi hộp không thể tả. Nhạc trỗi
lên, tim tôi đập trong lồng ngực còn mạnh hơn dàn trống của ban nhạc.
Đầu nóng ran vì phải cố gắng nhận ra cho được bản nhạc thuộc điệu nào.
Bolero, Slow, Tango hay Cha Cha Cha? Cùng lúc hai chân của tôi ở dưới
bàn thử di chuyển theo nhịp điệu của nhạc một cách kín đáo để khi ra sàn
nhảy không bị bỡ ngỡ. Dù vậy, khi cùng cô vũ nữ bước ra “piste” (sàn
nhảy), tôi không tránh khỏi lúng túng và run rẩy vì xúc động. Trước đó
tôi chưa bao giờ ôm trong tay mình một cô gái, nhất là giữa “piste”
nhảy. Đúng lúc bị “chới với”, tôi nghe bên tai mình: “Anh cứ bình tĩnh.
Để em dìu cho”. Cô vũ nữ đoán biết “người khách” của cô – một cậu thiếu
niên 17-18 tuổi – mới đi nhảy ở dancing lần đầu. Tôi thầm cảm ơn cô vũ
nữ mà tuổi nhất định lớn hơn tôi, nhưng vẫn gọi tôi ngọt xớt bằng anh.
Mãi sau này tôi vẫn nhớ cái giọng nói hết sức dịu dàng ấy.
Những
tối thứ Bảy được phép ra khỏi trường, cùng một số bạn bè đi “nhảy đầm” ở
ngoài phố là những kỷ niệm được nhớ mãi. Rời dancing lúc hai, ba giờ
sáng để về nhà trọ, trời Đà Lạt lạnh cắt da nhưng mặc ấm đầy đủ, cái
lạnh ấy lại dễ chịu vô cùng. Ánh đèn trên các cột điện dọc đường không
đủ sức lấn vào làn sương mù dày đặc chỉ tỏa được một vừng sáng nhẹ trông
từ xa tưởng chừng như những chiếc đèn lồng treo lơ lửng trên cao, làm
cảnh vật Đà Lạt vào lúc gần sáng càng thêm lãng mạn. Ra khỏi dancing
chúng tôi thường đi bộ, nói chuyện thoải mái trên con đường vắng tanh và
đến tận lò bánh mì để mua những chiếc bánh ra lò đầu tiên và nóng hổi.
Trong các học sinh nội trú ở trường Yersin Đà Lạt, tôi là đứa có ít
tiền nhất khi ra phố. Cha mẹ tôi không dư dả gì, mặt khác mẹ tôi không
muốn cho con mình xài nhều tiền. Có những hôm ra phố, trong túi chỉ có
mấy đồng, vừa đủ mua vài trái bắp nướng. Trái bắp bỏ trong túi áo mưa
làm ấm hai bên đùi. Cái mùi thơm bắp nướng, hơi ấm trong chiếc áo mưa là
những cảm giác thuộc về một thời niên thiếu không thể nào quên. Rồi
những lần “faire le mur” (trốn ra khỏi trường) để ăn “phở ga”, tức cửa
hàng phở ở gần nhà ga xe lửa Đà Lạt nằm ngay dưới chân đồi của trường
Yersin. Sao mà mùi phở ga thơm như thế, còn dĩa rau lại tươi xanh hấp
dẫn không đâu sánh bằng.
Đậu xong Tú tài phần 1, tôi luyến tiếc rời
thành phố Đà Lạt, để trở về Sài Gòn học nốt phần 2. Thành phố Đà Lạt
trong tâm hồn tôi thời niên thiếu thay đổi quá nhiều theo thời gian. Trở
lại Đà Lạt những năm sau này tôi không còn gặp lại Đà Lạt của mình xưa
kia. Một trong những nỗi buồn khổ tâm của tuổi già là phải chịu đựng một
hình ảnh ký ức thân thương nào đó của mình nay bị biến dạng.
Khi
tôi trở lại trường Chasseloup Laubat thì trường này đã đổi tên thành
Jean Jacques Rousseau (1959). Rất hiếm học sinh theo học ở trường Pháp
trước kia học cả hai trường ở miền Nam – nhất là dưới đủ ba cái tên khác
nhau – như tôi: Chasseloup Laubat, Yersin DaLat rồi Jean Jacques
Rousseau (tên mới của Chasseloup Laubat). Trường Jean Jacques Rousseau
nay là trường Lê Quí Đôn.
Về Sài Gòn, đúng như trước kia mẹ tôi
từng lo ngại, việc học hành của tôi trở lại lôi thôi. Tôi kết thúc thời
gian học ở Đà Lạt với bằng Tú tài 1 Pháp loại “mention Assez bien” tức
hạng khá.
Cái môn khiêu vũ mà tôi say mê ở trên Đà Lạt suýt nữa làm
hỏng năm cuối cùng của tôi tại Jean Jacques Rousseau. May mắn, do
trường không còn chỗ để nhận vào ban Toán (section Math Elem), tôi đành
chọn vào ban Triết (section Philosophie) học không “nặng” và không cần
chuyên cần như ban Toán, lại phù hợp với tôi hơn. Nhờ thế tôi ì ạch đậu
xong Baccalaureat 2ème Partie vào năm 1960. Tôi còn nhớ tôi thi viết
môn Philo với đề tài “Le doute” (Sự hoài nghi) khá tốt. Còn ở phần thi
Oral (vấn đáp) đầu đề là “Le temps” (Thời gian). Nếu năm đó mà tôi không
đậu Tú tài 2 thì có lẽ mãi mãi tôi không bao giờ đậu do tôi quá ham
chơi. Trong lớp Philo có một lần giáo sư công bố điểm và thứ hạng kỳ thi
tam cá nguyệt cho học sinh, khi đọc đến tên học sinh đứng hạng nhì là
tôi, ông tỏ ra kinh ngạc: sao trong lớp ông lại có một học sinh lạ hoắc,
ông không hề biết mặt. Lý do đơn giản tôi thường “cúp cua” các tiết học
hoặc có mặt trong lớp thì lén nằm ngủ đâu đó ở cuối lớp vì tối qua đi
chơi quá khuya!
Khi tôi vào đại học, mẹ tôi vẫn không quên mơ ước
ban đầu của bà là muốn tôi theo học ngành y khoa. Nhưng một năm học PCB
(physique, chimine, biologie – các môn lý – hóa - sinh) để chuẩn bị thi
vào y khoa đủ chứng minh với bản thân tôi rằng con đường khoa học không
phải là con đường thích hợp với mình.
Cuối cùng, để tránh bị gọi
quân địch, tôi thi tuyển vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (HVQGHC). Cả
ngàn người dự thi từ Huế vào Sài Gòn, chỉ lấy 100 (trong 100 này lại
dành trước 50 cho Huế và miền Trung). Thế nhưng tôi trúng tuyển hạng 99.
Khi chen lấn xem kết quả, tôi vẫn tưởng mình rớt. Đến khi nhận giấy báo
đậu gửi tận nhà mới hay mình đậu. Khóa tôi vào học là khóa 10 (1963),
khóa cuối cùng có Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Ngô Đình Diệm chủ
tọa lễ khai giảng. Đây là lần đầu tôi được nhìn thấy ông Diệm ở một
khoảng cách rất gần khi ông bước xuống xe và từ ngoài cổng trường đi vào
giữa hai hàng sinh viên được trường tổ chức đứng chào đón ông. Trước
đây tôi chỉ nhìn thấy ông trên màn ảnh khi đi xem xinê. Ở Sài Gòn lúc
đó, trước khi chiếu phim truyện, rạp nào cũng phải chiếu “Thời sự Việt
Nam”, trong đó hầu như luôn luôn có sự xuất hiện của Tổng thống Diệm,
khi thì đi kinh lý tỉnh này, khi đi kinh lý tỉnh kia. Thường khi hình
ảnh của ông vừa hiện lên thì phần đông khán giả phải cố gắng lắm mới nín
cười được vì sợ gặp rắc rối với cảnh sát chìm ở đâu cũng có, kể cả
trong rạp hát. Người ông Diệm rất thấp, khá tròn, bụng lại to, nhưng khi
di chuyển lại rất nhanh, hai cánh tay như đang bơi dưới nước khiến ông
có một dáng dấp và tướng đi rất hài. Ông luôn mặc bộ com-lê màu trắng.
Tôi không ngờ lần nhìn thấy ông Diệm lần đầu tiên bằng xương bằng thịt ở
buổi khai trường tại HVQGHC cũng là lần cuối cùng. Chỉ ít tháng sau,
ông bị lật đổ và bị phe đảo chánh giết chết cùng với người em trai là
Ngô Đình Nhu.
HVQGHC không gây cho tôi sự thú vị nào. Tôi không có ý
định theo nghiệp cha tôi, trở thành phó đốc sự, đốc sự, để làm quận
trưởng hay phó tỉnh trưởng. Lúc này tôi bắt đầu mê nghề báo nên “cúp”
các giờ học ở HVQGHC để la cà ở một số tòa soạn báo trên đường Phạm Ngũ
Lão mà tôi có viết bài cộng tác. Thật ra ở hai năm cuối trung học, tôi
đã có bài đăng trên báo thể thao Đuốc Thiêng của nhà báo thể thao nổi
tiếng Sài Gòn là Thiệu Võ. Lúc đầu là những bài dịch từ các báo và tạp
chí Pháp như L’Equipe, Mirroir Sprint . Các hiểu biết của tôi về thể
thao thế giới được tích lũy là nhờ tiếp cận với các loại báo ấy. Niềm
say mê thể thao cũng từ cha tôi truyền sang. Ông còn truyền cho tôi cả
tinh thần mã thượng trong thể thao lẫn trong quan hệ với mọi người – kể
cả với người đối địch mình.
Bút danh đầu tiên tôi ghép tên cha với
tên mình: Phát Chung. Ngoài ra tôi còn có bút danh ghép họ tôi với họ vợ
- Nguyễn Lý – ký trên các bài phóng sự những năm 1963-1965. Bút danh
sau 1975 thì ghép tên các con tôi: Chánh Trinh, Trung Dũng. Bút danh
cũng là mạng sống nghề nghiệp và chính trị của mỗi người viết văn, viết
báo. Do đó người ta thường chọn tên những người mà mình yêu thương nhất
để ghép thành bút danh.
CHƯƠNG 2
Tôi không hề được chuẩn bị để đi vào nghề báo. Lúc đầu tôi viết báo chỉ
vì quá yêu thể thao. Từ môi trường báo chí, tôi được tiếp cận với đời
sống chính trị Sài Gòn, biết bức xúc trước những bất công, những việc
làm phi dân chủ, độc tài của chính quyền Sài Gòn. Rồi phẫn nộ trước sự
can thiệp thô bạo của chính quyền Mỹ vào nội bộ của Việt Nam và sự áp
đặt các ý muốn và quyền lợi của họ lên đất nước Việt Nam. Tôi đi vào con
đường hoạt động chính trị là như thế. Tôi cũng không hề được chuẩn bị
hoặc được ai, tổ chức nào dẫn dắt. Thực tế cuộc sống và các diễn biến
thời cuộc của đất nước điều chỉnh dần dần các hoạt động và thái độ chính
trị của tôi, mỗi ngày thấy rõ hơn con đường mà mình nên chọn.
Những
năm 60, Sài Gòn chưa có trường báo chí nên những ai muốn theo ngành này
không có điều kiện để học hỏi chính qui. Riêng trường hợp của tôi, từ
nhỏ theo học trường Pháp, tiếng Việt không thông thạo vì trong trường
tiếng Pháp được coi là tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt là môn sinh ngữ 1, còn
Anh văn sinh ngữ 2, nên việc theo đuổi nghề viết báo với tôi càng không
dễ dàng. Tôi còn nhớ bài báo đầu tiên tôi gởi cho tuần báo Đuốc Thiêng
viết về cuộc đua Vòng quanh nước Pháp. Thời đó là những năm tháng huy
hoàng của các cua rơ Louison Bobet (Pháp), Bahamontes (Tây Ban Nha),
Fausto Coppi (Ý). Để viết một bài báo thể thao, tôi tham khảo các báo
Pháp như L’Equipe, Mirror Sprint và tốn hai, ba chục tờ giấy pơluya vì
phải viết đi viết lại nhiều lần, vừa viết vừa xem các bài báo của các
nhà báo viết trên báo Việt, xem người ta dùng từ như thế nào, có khi
phải “ăn cắp” cả câu của họ rồi sửa lại cho phù hợp chuyện của mình. Hai
năm hì hục như thế, tôi mới viết suôn sẻ, được mời cộng tác chính thức
và được phân công tường thuật các trận bóng đá trên sân Cộng Hòa (nay là
sân Thống Nhất).
Thời đó ông Thiệu Võ là một tượng đài trong làng
báo thể thao Sài Gòn (từ những năm 50 cho đến những năm 70). Cả miền Nam
mê say các bài phê thuật của ông. Văn phong của ông bay bướm. Các tên
tuổi lớn thể thao đều được ông phong cho họ những biệt danh đầy ấn
tượng, gắn luôn với tên tuổi họ cả đời đồng thời được độc giả và giới
thể thao công nhận. Chẳng hạn ông gọi nhà vô địch xe đạp Đông Dương Lê
Thành Các là “Phượng Hoàng” do sở trường của cua rơ tài giỏi này là “leo
đèo” và “bay” trên các đỉnh núi. Còn thủ môn Phạm Văn Rạng, từng là
tuyển thủ châu Á là nhà “Lưỡng thủ vạn năng”. Cua rơ xe đạp miền Bắc
lừng danh Vũ Văn Thâm – đối thủ số 1 của Lê Thành Các – được ông gọi là
“Con Hùm Xám”. Cặp tiền đạo xuất sắc của đội bóng Cảnh sát Sài Gòn những
năm 50 – hữu nội Lê Hữu Đức và tả biên Nguyễn Văn Tư – một người ông
phong là “Chiếc Đầu Vàng”, còn một người là “Mũi Tên Vàng”. Khi mới vào
làng báo thể thao, tôi cộng tác với báo Đuốc Thiêng của ông, nên chịu
ảnh hưởng văn phong của ông là điều khó tránh. Nói về “chỗ đứng” của ông
trong làng báo thể thao nói riêng và cả làng báo Sài Gòn nói chung có
một dẫn chứng cụ thể: trước đó và mãi sau này trong lịch sử báo chí Sài
Gòn, chưa từng có chuyện một tờ báo hàng ngày nào nêu trên trang đầu,
ngay dưới manchette (tên tờ báo) chức danh “Giám đốc thể thao” như đã
xảy ra với tờ Tiếng Dội Miền Nam , một tờ báo có nhiều độc giả và có uy
tín trong giới nghệ thuật và trí thức (Giải thưởng cải lương Thanh Tâm
do tờ báo này khởi xướng). Dưới manchette tờ báo, bên trái là tên chủ
nhiệm kiêm chủ bút Trần Tấn Quốc, bên phải là tên Giám đốc thể thao
Thiệu Võ. Lúc này ông Thiệu Võ vừa phụ trách trang thể thao của tờ Tiếng
Dội Miền Nam đồng thời là chủ nhiệm tờ Đuốc Thiêng .
Tôi không
thể quên lần đầu tôi được ông nhắn tin trên báo Đuốc Thiêng đến gặp
ông “để trao đổi về sự hợp tác” tại tòa soạn của Tiếng Dội Miền Nam ở
đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng). Không khí của tòa soạn Tiếng Dội
Miền Nam rất nghiêm trang, bày biện như trong một công sở, không thấy
ai nói chuyện cười đùa, khác hẳn tòa soạn các báo Sài Gòn bấy giờ luôn
rất ồn ào náo nhiệt. Tôi rón rén bước vào gặp ông Thiệu Võ ngồi bệ vệ
sau một cái bàn to để nhận số tiền nhuận bút đầu tiên trong cuộc đời làm
báo của mình. Sau này, dù cộng tác với ông khá lâu trên tờ Đuốc Thiêng
(khoảng gần hai năm) nhưng tôi rất ít có dịp nói chuyện thân mật với
ông. Ông rất ít khi tiếp xúc với các đồng nghiệp trẻ. Cũng có một thực
tế trước năm 1975, trong giới báo chí luôn có một khoảng cách khá lớn
giữa các ký giả kỳ cựu và các nhà báo trẻ. Vào những năm 60, không dễ gì
một phóng viên trẻ thấy bút danh mình được ghi đầy đủ dưới bài báo của
mình.
Tôi may mắn khi gia nhập làng báo Sài Gòn còn được tiếp cận
và học hỏi với một nhà báo thể thao kỳ cựu khác: ông Phan Như Mỹ (có anh
trai là Phan Ngươn Đang tập kết ra miền Bắc và đã từng là Hội trưởng
Hội bóng đá của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa). Ông làm việc chính thức
ở Việt Tấn Xã nhưng cộng tác thêm cho báo Buổi Sáng phụ trách trang
thể thao báo này. Tờ Buổi Sáng cũng là một tờ chuyên về kịch trường và
thể thao do ông Tam Mộc tức Mai Lan Quế làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, là
đối thủ cạnh tranh trực tiếp với tờ Tiếng Dội Miền Nam . Tờ báo này có
một phụ trang trào phúng cuối tuần rất nổi tiếng có tên “Giỏ vịt”. Ông
Tam Mộc tự mình đảm trách phụ trang này và lấy bút danh là Tám Móc. Mục
ăn khách nhất của trang này là “Lá thư Ba Ếch”. Đây là những cảm nghĩ
hàng tuần của một nông dân miền Tây về những chuyện xảy ra quanh ông ở
dưới quê và cả những chuyện ở trên Sài Gòn. Mặc dù tôi mới vào nghề
nhưng ông Mỹ không ngần ngại mời tôi chuyển sang báo Buổi Sáng cùng ông
lo trang thể thao. Được cùng ông “đứng trang” một tờ báo lớn như Buổi
sáng là một vinh dự quá lớn đối với một cây viết mới 21 tuổi như tôi.
Chính ông cũng là người giới thiệu tôi với tờ báo Pháp “Journal d’
Extrême Orient ” viết bài thể thao trực tiếp bằng tiếng Pháp cho tờ báo
này. Nhà báo Phan Như Mỹ có lối viết khác hẳn cây viết Thiệu Võ. Không
có sự bay bướm trong các bài báo của ông. Câu ngắn, đơn giản nhưng đi
sâu cụ thể vào trận đấu; các bài phê thuật bóng đá của ông theo phong
cách hiện đại. Nghề làm báo thông tấn đã ảnh hưởng phong cách viết báo
thể thao của ông. Với ông, tôi đã học bài học vỡ lòng của báo chí: giá
trị của một bài báo trước hết ở lượng thông tin. Tôi ngưỡng mộ ông Thiệu
Võ nhưng người thầy đầu tiên của tôi chính là nhà báo Phan Như Mỹ.
Còn
một nhà báo kỳ cựu nữa cũng ảnh hưởng vào cuộc đời viết báo của tôi. Đó
là ông Nguyễn Kiên Giang, lúc ấy là Chủ tịch Nghiệp đoàn ký giả Nam
Việt. Trong một lần tiếp xúc với ông tại Hội quán bóng bàn Nam Việt ở
đường Bùi Chu, nay là đường Tôn Thất Tùng (hội quán này của thầy Năm
Nghiệp, cha của hai nhà vô địch bóng bàn miền Nam Trần Quang Nhụy và
Trần Kim Ngôn), tôi được ông khuyên: “Em có ăn học nên đi theo nghề báo
rất thuận lợi”. Rồi ông nói bằng tiếng Pháp: “Le journalisme mène à tout
” (Nghề báo dẫn đến mọi ngả). Lúc đó tôi vừa đỗ Tú Tài 2 và đang theo
học ở HVQGHC. Lời khuyên này lại khớp với tâm lý tôi đang chán học ở
HVQGHC. Chán vì như đã nói, tôi không có ý định đi theo nghề công chức
như cha mình và chán vì chính chương trình học cũng rất chán. Tôi chỉ
đến trường một, hai ngày một tuần và nhất là ngày trường phát phụ cấp
hàng tháng (học ở trường này có ăn lương). Ngay năm đầu tôi bị ở lại lớp
và qua năm sau tôi rời trường vĩnh viễn, không chút luyến tiếc.
Trong
năm đầu học HVQGHC tôi đã có điều kiện viết lách, lui tới với một số tờ
báo khác. Đầu tiên là tờ Thanh Việt do Tô Yến Châu chủ trương biên tập
qui tụ các nhà báo, nhà văn, nhà thơ như Tam Đức, Kiên Giang Hà Huy Hà,
Tô Nguyệt Đình cộng tác. Đây cũng là nơi tôi khởi đầu học nghề phóng
viên. Từ lãnh vực thể thao, tôi bắt đầu tập viết sang các lãnh vực khác.
Tòa soạn báo Thanh Việt nằm trên đường Phạm Ngũ Lão. Con đường này có
rất nhiều tòa soạn báo và nhà in. Tạp chí Phổ Thông của nhà thơ Nguyễn
Vỹ cũng ở trên con đường này. Phần đông các cộng tác viên của báo Thanh
Việt rất ít khi được trả nhuận bút. Tờ báo rất nghèo nhưng anh em sống
với nhau rất vui. Khi gom được tiền bán báo thì ưu tiên để mua giấy in
và trả cho thợ sắp chữ. Các cộng tác viên “ruột” được anh Tô Yến Châu
gần như ngày nào cũng kéo đi ăn trưa: một cách trả nhuận bút khá độc
đáo! Tại tòa báo Thanh Việt , tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì tòa soạn
cần, từ tiếp tay sửa morát cho đến đi lấy thông báo hoặc lấy tin “xe
cán chó” ở các bót cảnh sát. Đây cũng là cách học nghề, tiếp cận với
nghề rất tốt, bởi một nhà báo càng biết đầy đủ các khâu trong tờ báo
càng có lợi.
Bây giờ nhớ lại những năm tháng đầu tiên vào làng báo,
tôi luôn cảm ơn các nhà báo đàn anh ấy. Dù cuộc sống của họ phần nhiều
rất khó khăn, điều kiện làm báo rất cực nhọc, giấy in chạy mua từng ngày
– nhưng những người mà tôi có cơ hội đầu tiên làm việc chung trong cuộc
đời báo chí của mình đều không để cho các thế lực tiền bạc và chính trị
mờ ám trong nước và ngoài nước mua chuộc. Rất nhiều những nhà báo này
từng tham gia kháng chiến thời chống Pháp. Cái môi trường ban đầu ấy đã
tạo cho một thanh niên như tôi, chưa hiểu nhiều thực trạng báo chí miền
Nam lúc đó, kể cả những ngóc ngách về chính trị, đã có được sự hòa nhập
khá tốt, ít lệch lạc với nghề nghiệp mà sau này mình gắn bó suốt đời.
Cũng cần nói rõ, từ năm 1954, sau hiệp định Genève, nhiều thành phần
chống cộng ở miền Bắc ồ ạt di cư vào miền Nam. Nhiều đảng phái chống
cộng mọc lên như nấm. Làng báo Sài Gòn cũng không tránh khỏi sự xâm nhập
rồi tràn ngập những người làm báo theo khuynh hướng chống cộng. Không
bao lâu, thêm một tổ chức báo chí ra đời, cạnh tranh với Nghiệp đoàn ký
giả Nam Việt, đó là Nghiệp đoàn ký giả Việt Nam, tập hợp chủ yếu các nhà
báo chống cộng từ miền Bắc vào. Hàng loạt tờ báo chống cộng do người
Bắc di cư đứng ra thành lập, phần nhiều được sự tài trợ của chính quyền
Diệm, kể cả cơ quan tình báo Mỹ (CIA). Từ năm 1954 cho đến tháng 4
-1975, làng báo Sài Gòn phân làm hai phe rõ rệt.
Tờ báo Thanh Việt ,
trong những lúc khó khăn, thỉnh thoảng có nhận được sự giúp đỡ tài
chánh của ông Võ Văn Ứng, tức bầu Ứng, một nhà Mạnh Thường Quân thể thao
ở Sài Gòn. Ông ở trong Ban chấp hành, có lúc là Chủ tịch Tổng cục bóng
tròn (bây giờ gọi là Liên đoàn Bóng Đá). Ông cũng là chủ nhân nhà thuốc
Đông y nổi tiếng Võ Văn Vân nằm ở góc đường Phạm Ngũ Lão – Nguyễn Thái
Học. Tôi quen biết ông bầu Ứng từ dạo làm báo Thanh Việt . Khi xảy ra
cuộc đảo chánh ngày 1 – 11 – 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ,
trung tướng Dương Văn Minh lên làm Quốc trưởng, ông bầu Ứng là người đầu
tiên được chính quyền mới cấp giấy phép ra báo. Tờ báo có tên Bình Minh
. Ông bầu Ứng có được đặc quyền này do trước đây ông có mối quan hệ rất
đặc biệt với ông Dương Văn Minh. Thời trẻ, ông Ứng là bầu của đội bóng
Thủ Dầu Một (Bình Dương), còn ông Minh là thủ môn đội này và tình bạn
thể thao giữa họ kéo dài qua năm tháng.
Khi được phép xuất bản tờ
Bình Minh , ông bầu Ứng kéo cả ê kíp Thanh Việt về làm. Tại đây, lần
đầu tiên tôi ăn lương phóng viên và hành nghề phóng viên đúng nghĩa. Một
trong những bài phóng sự đầu tiên của tôi khi tập sự làm phóng viên là
tường thuật vụ “Tòa án Cách mạng Sài Gòn” (tức tòa án của phe đảo chính
lật đổ Ngô Đình Diệm) xét xử cố vấn Ngô Đình Cẩn, em út trong dòng họ
Ngô, sau khi hai người anh của ông đều bị phe đảo chính giết. Lúc ông
Ngô Đình Diệm còn là tổng thống, ông Cẩn hùng cứ ở miền Trung như một
lãnh chúa. Thế lực của Ngô Đình Cẩn còn lấn cả chính quyền trung ương,
vào tận miền Nam. Chẳng những ông cho quân càn quét, tiêu diệt các phần
tử cộng sản và thân cộng tại Huế và miền Trung, mà còn tổ chức các đoàn
gọi là “Đoàn công tác đặc biệt miền Trung” vào tận Sài Gòn và miền Nam
để truy lùng những người cộng sản trốn chạy vào đây.
Theo nhà báo
Mỹ Zalin Grant, ba ngày sau khi hai người anh của mình – Ngô Đình Diệm
và Ngô Đình Nhu – bị giết chết, ông Ngô Đình Cẩn xin tị nạn chính trị
trong tòa tổng lãnh sự Mỹ tại Huế. Từ Huế, ông Cẩn được đưa vào Sài Gòn
trên một máy bay Mỹ có một phó lãnh sự Mỹ, một thiếu tá Mỹ đi theo.
Ngoài ra còn có hai quân cảnh Mỹ bảo đảm an ninh. Khi đến Sài Gòn, ông
Cẩn được giao cho Lou Conein, một nhân viên CIA đảm trách liên lạc giữa
đại sứ Cabot Lodge và nhóm tướng lãnh đảo chính Diệm. Nhưng sau đó đại
sứ Lodge ra lệnh giao Cẩn cho các tướng lãnh đảo chính. Mặc dù sau này
tướng Trần Văn Đôn có kể rằng Lodge yêu cầu đối xử với Cẩn đàng hoàng,
đúng theo pháp luật, nhưng ngay việc Lodge giao sinh mạng của ông Cẩn
cho những người vừa giết hai người anh của ông thì đủ hiểu trách nhiệm
của đại sứ Lodge trong cái chết sau này của ông Cẩn như thế nào. Từ đây
người ta cũng thấy rõ ra vai trò đích thực của Cabot Lodge, bàn tay của
người Mỹ trong cái chết của Diệm – Nhu. Như vậy Lodge dính líu đến cả ba
cái chết của ba anh em nhà Ngô.
Tôi vẫn nhớ thái độ của ông Cẩn
trước tòa án rất ngạo mạn. Ông chẳng quan tâm gì đến diễn tiến phiên
tòa, chẳng chú ý tới các lời buộc tội ông. Ông mặc bộ đồ bà ba lụa màu
trắng, mắt nhắm nghiền như ngủ qua suốt các phiên xử; nhiều lúc còn có
cử chỉ tỏ vẻ khinh khi các tướng tá đang ngồi xử mình. Có lẽ vì những
tướng tá này đã từng khúm núm, xin xỏ hoặc chịu ơn mưa móc của ông trước
đây. Các tướng tá, các công chức cao cấp ở Sài Gòn và các tỉnh phía Nam
có địa vị quan trọng trong chính quyền họ Ngô mỗi năm đều phải kéo nhau
ra Huế ít nhất hai lần: Một lần chúc Tết và một lần mừng sinh nhật ông
Cố vấn. Nghe nói phần đông những người vào gặp ông Cẩn, khi trở ra đều
đi thụt lùi! Ông tỏ ra coi khinh những người ngồi xử ông như thế. Và ông
không có một phản ứng hay xúc động gì khi ông bị tòa tuyên án tử hình.
Với tư cách phóng viên báo Bình Minh , tôi có mặt tại khám Chí Hòa
trong ngày hành quyết Ngô Đình Cẩn. Địa điểm thi hành án ở phía sau
khám, nằm bên trong bức tường kiên cố. Cột hành quyết dựng tại một bãi
đất trống thường ngày được sử dụng như sân bóng chuyền. Các nhà báo theo
dõi cuộc hành quyết được sắp xếp đứng cách đó chứng 50 mét, gần một cái
miếu.
Đúng giờ hành quyết, ông Cẩn xuất hiện từ một cửa nhỏ bên
hông khám đường nhìn thẳng ra bãi đất trống, ông nằm trên một cái băng
ca được bốn người khiêng. Nhiều ngày trước đó sức khỏe của ông suy sụp
không phải vì sợ mà do bệnh tiểu đường trở nặng. Từ cửa hông này đến cột
hành quyết khoảng 30 mét. Khi chiếc băng ca rời cửa hông được vài mét
thì ông Cẩn cố gắng ngồi chồm dậy, đòi bước xuống đất. Lúc đầu các nhà
báo không ai hiểu gì cả, có người vội vàng đoán ông Cẩn có cử chỉ hoảng
hốt khi đối đầu với cái chết. Nhưng sau đó mới biết ông Cẩn muốn rời cái
băng ca để tự mình đi đến cột hành quyết! Những người khiêng ông được
lệnh dừng lại. Ông bước xuống một cách khó khăn. Vì quá yếu, ông không
thể tự đi một mình, nên có hai người nách ông hai bên. Cảnh tượng thật
bất ngờ và căng thẳng, khiến giới báo chí và những người có trách nhiệm
theo dõi đều im bặt.
Sau khi bị trói chặt vào cột hành quyết và lúc
sắp sửa bị bịt mắt bằng một băng vải đen thì ông ta phản ứng. Ông nhất
định không để bịt mắt, muốn được nhìn tận mắt cuộc hành quyết mình.
Nhưng những người thi hành án giải thích với ông rằng luật lệ không được
phép cho họ làm khác. Người ta vẫn bịt mắt ông và một loạt súng kết
liễu mạng sống của người thứ ba và là em út trong dòng họ Ngô từ sau
cuộc đảo chính 1-11-1963.
Bài tường thuật của tôi nhấn mạnh hai
điểm: Ông Cẩn không sợ cái chết và tỏ vẻ khinh khi những người xử ông
tại tòa án. Tôi cũng có nói đến yếu tố tín ngưỡng – gia đình của ông Cẩn
theo đạo Công giáo – đã giúp ông đón nhận cái chết một cách bình thản
đáng kinh ngạc.
Bản án tử hình và cuộc hành quyết Ngô Đình Cẩn đã
chứng minh cái chết của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu trước đó cũng nằm
trong chủ trương nhất quyết loại cả ba anh em từng nắm quyền sinh sát
tại miền Nam. Thực tế chính trị của tình hình miền Nam lúc đó cho thấy
nếu ba anh em họ Ngô vẫn sống thì trước sau gì họ cũng có cơ hội phục
hồi quyền lực vì gia đình họ Ngô có hai thế lực rất lớn hỗ trợ: tòa
thánh Vatican và hơn một triệu người Bắc di cư đang nắm những vị trí
then chốt trong guồng máy nhà nước và quân đội, kể cả các điểm huyết
mạch của kinh tế miền Nam.
Bị lật đổ ngày 1-11-1963, qua ngày hôm
sau hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu chấp nhận đầu hàng phe đảo chính
sau khi chạy khỏi dinh Gia Long và trốn tại Nhà thờ Cha Tam (Nhà thờ St
Francis Xavier) ở Chợ Lớn. Nhưng sau đó cả hai đều bị bắn chết trên
chiếc thiết vận xa M113 trên đường được áp tải về Tổng tham mưu (gần Tân
Sơn Nhất). Theo John S. Bowman, chủ biên quyển “The Vietnam War day by
day ”, hai người trực tiếp giết hại ông Diệm và Nhu là thiếu ta Dương
Hiếu Nghĩa và đại úy Nguyễn Văn Nhung, theo lệnh của trung tướng Dương
Văn Minh, lúc đó đứng đầu phe đảo chính.
Nhà báo Mỹ Stanley Karnow,
mà tôi đã từng gặp tại Sài Gòn trước năm 1975 khi ông phỏng vấn tôi, đã
ghi lại trong quyển sách đoạt giải báo chí Pulitzer của ông (có tựa đề
“Vietnam – A history ”) ba cuộc trao đổi giữa ông Ngô Đình Diệm với
trung tướng Trần Văn Đôn, một trong những tướng lãnh cầm đầu đảo chánh,
và với ông Henry Cabot Lodge, đại sứ Mỹ tại Sài Gòn trước khi hai anh em
họ Ngô bị giết như sau:
Dù dinh Gia Long đã bị phe đảo chánh bao
vây, nhưng hai anh em vẫn còn bình tĩnh, nhất là ông Nhu vẫn tin rằng sẽ
có một cuộc “phản – đảo chánh” mang mật hiệu Bravo 1 và Bravo 2 sẽ khai
diễn và sẽ “bóp vỡ từ trong trứng” cuộc đảo chánh của phe tướng lãnh
nổi loạn. Các kế hoạch Bravo 1 và Bravo 2 của ông Nhu được giao cho
tướng Tôn Thất Đính, bấy giờ là Tổng trấn Sài Gòn – Gia Định, thực hiện.
Tai họa cho hai anh em Diệm, Nhu là tướng Đính lại nằm trong nhóm tướng
lãnh cầm đầu cuộc đảo chánh.
Lúc đầu, ông Diệm vẫn hy vọng rằng
cuối cùng cuộc phản loạn này cũng kết thúc như cuộc đảo chánh bất thành
ngày 11-11-1960. Ông đã chủ động gọi tướng Trần Văn Đôn.
Ông Diệm: Tướng lãnh các anh đang làm gì vậy?
Tướng
Đôn: Thưa cụ, chúng tôi đã đề nghị với cụ nhiều lần rằng cụ cần cải
cách chính sách theo nguyện vọng của nhân dân. Bây giờ đã đến lúc quân
đội phải đáp lại nguyện vọng của nhân dân. Mong cụ hiểu chúng tôi.
Ông
Diệm: Tại sao chúng ta không ngồi lại với nhau nói chuyện? Chúng ta sẽ
bàn về cái mạnh và cái yếu của chế độ, và tìm ra con đường củng cố lại
chế độ.
Tướng Đôn: Có lẽ đã quá trễ để bàn luận việc đó, thưa cụ.
Ông
Diệm: Chưa bao giờ là trễ, do đó tôi mời tất cả các anh đến dinh cùng
bàn vấn đề, vạch ra một giải pháp được cả đôi bên chấp nhận.
Tướng Đôn: Thưa cụ, tôi phải hỏi lại ý kiến những người khác xem sao.
Vào lúc 4 giờ 30 chiều 1-11-63, ông Diệm gọi điện thoại cho đại sứ Mỹ Cabot Lodge.
Ông Diệm: Một đơn vị quân đội làm loạn và tôi muốn biết thái độ của nước Mỹ ra sao.
C.
Lodge: Tôi không nắm được thông tin đầy đủ về chuyện này để trả lời
tổng thống. Tôi có nghe tiếng súng nổ nhưng không rõ các sự kiện xảy ra.
Vả lại bây giờ là 4 giờ 30 sáng tại Washington, do đó chính phủ Mỹ
không thể bày tỏ một quan điểm nào đó vào lúc này.
Ông Diệm: Nhưng
ông phải có một số ý kiến rõ rệt chứ. Dù sao, tôi cũng là quốc trưởng.
Tôi đã cố gắng làm tròn trách nhiệm của tôi. Tôi muốn hành xử vào lúc
này điều mà trách nhiệm và ý thức đúng đắn đòi hỏi ở tôi. Tôi tin vào
bổn phận của mình trước hết.
C. Lodge: Chắc chắn ngài đã làm đúng
bổn phận của mình. Như tôi đã nói với ngài sáng nay thôi, tôi ngưỡng mộ
sự dũng cảm và sự đóng góp to lớn của ngài cho đất nước của ngài. Không
ai có thể phủ nhận những gì mà ngài đã làm. Nhưng bây giờ tôi âu lo cho
sự an toàn thân thể của ngài. Tôi có một báo cáo cho biết những người
chịu trách nhiệm tình hình hiện nay sẵn sàng cấp cho ngài và em của ngài
giấy thông hành an toàn (safe-conduct) rời khỏi nước nếu ngài từ chức.
Ngài có nghe nói về việc này?
Ông Diệm: Không (dừng một lúc) Ông có số điện thoại của tôi chứ.
C. Lodge: Vâng. Nếu ngài cần đến tôi liên quan đến vấn đề an toàn sinh mạng của ngài thì ngài hãy gọi tôi…
Ông Diệm: Tôi đang cố gắng thiết lập lại trật tự.
Đến
6 giờ 30 cùng ngày, ông Diệm gọi lại tướng Đôn, nhưng được tướng Đôn
thông báo sự khước từ của phe lãnh đảo chánh. Họ đòi hỏi hai anh em ông
Diệm phải rời khỏi nước. Ông Diệm đồng ý nhưng đặt một điều kiện: phe
đảo chánh phải chấp nhận cho ông một “đặc ân”.
Ông Diệm: Tôi là
một tổng thống dân cử của quốc gia. Tôi sẵn sàng từ chức công khai, và
tôi cũng sẵn sàng rời khỏi nước. Nhưng tôi yêu cầu các ông dành cho tôi
các nghi thức danh dự ra đi của một tổng thống.
Tướng Đôn: (Suy nghĩ một lúc) Thật sự, tôi phải nói rằng chúng tôi không thể thỏa mãn yêu cầu của cụ về điểm này.
Ông Diệm: Thôi được. Cảm ơn.
Có
dư luận ở Sài Gòn cho rằng tướng Dương Văn Minh là người ra lệnh giết
hai anh em ông Diệm. Nhiều nhà báo nước ngoài có mặt lúc đó cũng nghĩ
như thế. Người được giao nhiệm vụ thực hiện lệnh kết liễu sự sống của
hai ông Diệm và Nhu là tướng Mai Hữu Xuân, một người thân cận nhất của
tướng Minh. Còn thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa và đại úy Nguyễn Văn Nhung là
hai người trực tiếp hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Sau này có dịp làm việc
gần gũi với ông Dương Văn Minh tại Dinh Hoa Lan, nhiều lần tôi có ý định
hỏi thẳng ông chung quanh cái chết của hai anh em ông Diệm. Nhưng đây
là điểm rất tế nhị trong cuộc đời chính trị của ông, chưa bao giờ ông đề
cập trở lại chuyện này với bất cứ ai, nên tôi do dự không dám hỏi.
Làm
việc với ông Minh, tôi nhận thấy ông là con người quyết đoán, không do
dự trong các chọn lựa chính trị của mình, và khi đã chọn lựa thì nhất
quyết đi đến cùng. Tuy nhiên có một chi tiết trong tường thuật của nhà
báo Mỹ Stanley Karnow trong quyển Vietnam – A history mà tôi cho là hư
cấu. Karnow kể rằng trước khi nhóm tướng tá (Mai Hữu Xuân, Dương Hiếu
Nghĩa, Nguyễn Văn Nhung) rời bộ tổng tham mưu đi thực hiện lệnh kết liễu
hai anh em ông Diệm, tướng Dương Văn Minh có đưa lên hai ngón tay hướng
về những người này để ra hiệu giết cả hai! Cử chỉ của ông Minh được
Stanley Karnow mô tả theo kiểu “cao bồi Mỹ” rõ ràng không đúng với bản
chất và tính cách ông Minh mà tôi biết khá rõ.
Theo hồi ký của cựu
tướng Đỗ Mậu của chính quyền Sài Gòn thì đã có một cuộc bàn luận giữa
các tướng lãnh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm mà người chủ trì là tướng
Dương Văn Minh. Tướng Mậu có chứng kiến cuộc bàn luận quyết định số phận
của Diệm – Nhu. Ông là người duy nhất không tán đồng giết hai anh em
nhà Ngô.
Trở lại những ngày đầu tôi vào nghề sau bài phóng sự về cuộc hành quyết ông Ngô Đình Cẩn.
Ngày
29-10-1964, ông Trần Văn Hương, cựu giáo sư trường Collège Mỹ Tho,
trước đây từng làm Đô trưởng Sài Gòn – Chợ Lớn, được Thượng Hội đồng
quốc gia chỉ định làm thủ tướng (Thượng Hội đồng cũng chỉ định ông Phan
Khắc Sửu làm Quốc trưởng). Tuy về mặt danh nghĩa chính Thượng Hội đồng
gồm 17 thành viên dân sự chỉ định Quốc trưởng và Thủ tướng nhưng tất cả
đều do bàn tay quyền lực của tướng Nguyễn Khánh đứng phía sau phù phép.
Sau nhiều cuộc đảo chính hụt nhằm vào ông ta, Nguyễn Khánh lùi ra sau
nhưng vẫn là người nắm quyền hành lúc bấy giờ. Đây là chính phủ thứ 7
được thành lập kể từ khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Sở dĩ tôi
đề cập đến chính phủ Trần Văn Hương là vì dưới chính phủ này lần đầu
tiên tôi được cấp giấy phép đứng tên chủ nhiệm một tờ báo hàng ngày! Lúc
tôi mới 24 tuổi, chưa đủ tuổi theo luật định (25 tuổi) để đứng tên xuất
bản một tờ báo. Nhưng Bộ Thông tin vẫn phải cấp giấy phép vì có sự can
thiệp đặc biệt của chính Thủ tướng. Ông Thủ tướng Trần Văn Hương là thầy
của cha tôi khi cha tôi còn học ở trường Collège Mỹ Tho. Số trí thức
miền Nam là học trò của ông Hương lúc đó rất đông. Để hỗ trợ thầy cũ của
mình trong cuộc tranh giành và củng cố quyền lực, các cựu học sinh
Collège Mỹ Tho tập hợp trong một tổ chức ái hữu lúc đầu gồm riêng học
sinh trường mình. Nhưng sau đó, tổ chức này mở rộng ra thành Hội Liên
Trường, kết nạp cả cựu học sinh các trường như Collège Cần Thơ, Pétrus
Ký và Chasseloup Laubat. Trong thực tế, đây là một tổ chức chính trị trá
hình của một số trí thức miền Nam dựa vào lá bài Trần Văn Hương. Một số
khá đông hội viên có khuynh hướng đố kỵ người Bắc di cư.
Trong bối
cảnh đó, tôi được cha tôi khuyến khích xin ra tờ Sài Gòn Tân Văn .
Chính vì vậy mà dù không đủ tuổi, tôi vẫn được cấp giấy phép. Tiền làm
tờ báo, cha tôi bảo do cha tôi bỏ ra. Nhưng có khả năng do nhiều bạn bè
của ông trong Hội Liên trường góp lại.
Quá khứ của ông Trần Văn
Hương, khi tham chính lần đầu với chức vụ Đô trưởng Sài Gòn – Chợ lớn,
đã được nhiều người truyền lại là trong sạch. Người ta kể mỗi ngày ông
đi làm bằng xe đạp (do đó ông được mệnh danh “Đô trưởng xe đạp”). Là một
người thầy của cha mình và lại là một chính khách có tiếng tăm tốt, ông
Hương dễ dàng nhận được sự ủng hộ, thậm chí là sự ngưỡng mộ của một nhà
báo vừa còn quá trẻ vừa non kinh nghiệm như tôi. Cuối tháng 1 -1965,
sau ba tháng ngồi ghế Thủ tướng, ông Hương bị tướng Nguyễn Khánh và quân
đội “hất” xuống, người thay ông là bác sĩ Phan Huy Quát. Phe quân đội
đưa ông Hương ra Vũng Tàu, giam lỏng ông trong một biệt thự.
Tờ báo
Sài Gòn Tân Văn của tôi sống lâu hơn chính phủ Trần Văn Hương chỉ đúng
một tháng! Chính phủ Phan Huy Quát ngồi chưa “nóng đít” thì phải đối
đầu với một cuộc binh biến ngày 19-2-1965. Một trong những sĩ quan cầm
đầu phe quân đội đảo chính là đại tá Phạm Ngọc Thảo. Nhưng phe đảo chính
đã không bắt được tướng Nguyễn Khánh như kế hoạch đề ra khi tấn công
vào Tổng tham mưu. Nhờ sự tiếp tay của tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ,
Nguyễn Khánh (người thật sự nắm quyền lực) chạy thoát lên Đà Lạt. Chính
phủ ông Quát sau hai ngày tan rã quay trở lại!
Tờ báo Sài Gòn Tân
Văn của tôi là tờ báo duy nhất tiếp tục xuất bản trong hai ngày binh
biến và Sài Gòn không có chính phủ; thêm nữa còn có bài tường thuật rõ
Tổng trưởng Bộ Thông tin – thiếu tướng Linh Quang Viên – trốn phe đảo
chính chui lên trần nhà và khi phe đảo chính vào nhà lục soát thì từ
trên trần nhà ông rơi xuống đất, bị phe đảo chính tóm gọn. Phóng viên
viết tin như thế, trong bối cảnh hỗn loạn lúc đó, thật khó kiểm tra thật
hư thế nào. Lẽ đương nhiên khi chính phủ Phan Huy Quát giành lại chính
quyền và tướng Viên trở lại Bộ Thông tin thì quyết định đầu tiên của ông
ta là đóng cửa và thu hồi giấy phép xuất bản của tờ Sài Gòn Tân Văn .
Lý do chính thức: tờ báo đã không nộp lưu chiểu khi phát hành trong hai
ngày 19 và 20-2-1965. Thực tế dù có muốn tôn trọng luật báo chí, hai
ngày đó cũng chẳng biết phải nộp lưu chiểu ở đâu vì cả Bộ Thông tin đều
trốn biệt!
Nhớ lại kinh nghiệm đầu tiên làm chủ báo, tôi thấy mình
còn non tay quá. Không phải riêng chuyện một mình phá rào ra báo trong
hai ngày Sài Gòn không có chính phủ khiến cho tờ báo bị đóng cửa, mà
ngay cả cách làm báo, tổ chức tờ báo, nói theo bây giờ là nghiệp vụ của
tôi lúc đó còn rất sơ sài. Nội dung của tờ Sài Gòn Tân Văn chỉ có một
mục đáng nhớ là bức tranh liên hoàn “Anh Tám Sạc Ne ” xuất hiện hàng
ngày trên trang nhất. Tác giả tranh liên hoàn này là nhà báo Cát Hữu.
Ông từ Hà Nội vào Sài Gòn năm 1954 theo đợt sóng di cư. Tuy nhiên ông
không nhập theo các nhà báo di cư chống cộng như Tô Văn, Chu Tử, Đặng
Văn Sung, Nghiêm Xuân Thiện… Ông là một trong những nhà báo thế hệ cũ có
bằng tú tài Pháp (Bachelier). Vào thời đó nhà báo có đỗ tú tài như Cát
Hữu rất hiếm. Nghe đâu thời trẻ Cát Hữu đi kháng chiến chống Pháp và
từng là thầy giáo Pháp văn của một đảng viên cộng sản cao cấp. Theo tôi,
kể từ sau hai nhân vật hí họa Lý Toét – Xã Xệ, nhân vật Tám Sạc Ne của
Cát Hữu là thành công nhất. Anh Tám Sạc Ne là một phu đạp xích lô, mang
râu cá chốt, nhậu ba xi đế và bàn chuyện thế sự một cách thâm thúy! Dù
tác giả là người Bắc nhưng nhân vật Tám Sạc Ne chính cống Nam Bộ, Sạc Ne
là tên một con đường chính – Boulevard Charner – ở trung tâm Sài Gòn
(đường Nguyễn Huệ bây giờ), thời trước chưa cấm xe xích lô đạp.
Cát
Hữu để sẵn tại tòa soạn một bình mực tàu, một cây viết ngòi lá tre, mỗi
sáng đến lấy một mảnh giấy trắng đâu đó và thực hiện tranh của ông
không quá 15 phút. Vẽ xong, ông xẹt qua tiệm hút thuốc phiện cuối đường
Phạm Ngũ Lão làm vài điếu. Nhà báo Tam Đức, thư ký tòa soạn của báo tôi
cũng thế, xẹt qua tiệm hút sáng một cữ, chiều một cữ. Khi còn là phóng
viên tập sự, được tòa soạn giao nhiệm vụ đến tiệm hút lấy bài của các ký
giả đàn anh, nhiều lần tôi được các bác, các chú khuyến khích làm thử
một điếu “để viết bài thêm bay bổng”. Nhưng tôi luôn lễ phép từ chối mặc
dù thời đó nhiều nhà báo lớn đều làm bạn với ả phù tiên!
Dù tờ báo
Sài Gòn Tân Văn không phải là một thành công nghề nghiệp đối với tôi,
nhưng mặt nào đó, tờ báo đã cung cấp cho tôi một “mảnh đất” đầu tiên hết
sức quí giá để đi sâu vào cái nghề mà chỉ có thực tiễn mới dạy cho mình
những bài học sâu sắc nhất. Mặt khác, tờ Sài Gòn Tân Văn cũng chỉ ra
cho tôi thực tế đầu tiên gắn báo chí với đấu tranh xã hội và dân chủ. Từ
tờ báo Sài Gòn Tân Văn cho đến mãi sau này, tôi luôn coi nghề báo
không thể tách rời các cuộc đấu tranh cải tiến xã hội, bảo vệ dân chủ và
lẽ phải. Một nhà báo dứt khoát phải là một trí thức dấn thân.
Tờ
Sài Gòn Tân Văn có khoảng 7 – 8 ngàn độc giả. Vấn đề tích cực nhất lúc
đó được đặt ra trên mặt báo Sài Gòn Tân Văn là vận động dư luận áp lực
với chính phủ Sài Gòn thành lập một trường Đại học ở miền Tây. Tôi viết
một loạt bài tố cáo chính phủ Sài Gòn cố tình không mở trường Đại học ở
miền Tây với ý đồ duy trì vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong tình trạng
lạc hậu về chính trị và dân trí để dễ dàng cai trị. Vào thời điểm này,
một số trí thức như giáo sư Lý Chánh Trung, nhà kinh tế Nguyễn Văn Hảo,
giáo sự Phạm Hoàng Hộ, kỹ sư Võ Long Triều, anh Hồ Ngọc Nhuận, giáo sư
Châu Tâm Luân cũng lên tiếng trên báo chí và tổ chức nhiều cuộc hội thảo
để tăng áp lực đối với chính phủ Sài Gòn thành lập Đại học miền Tây.
Tôi cũng có dịp xuống tận Cần Thơ tham gia một số cuộc hội thảo. Cuộc
vận động này cuối cùng đạt kết quả khi nhận được sự đồng tình của thiếu
tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương,
một chức danh cầu kỳ tương đương với Thủ tướng. Khi nắm quyền thủ
tướng, ông Kỳ nhanh chóng nhận ra đây là chỗ có thể thu phục cảm tình
của trí thức miền Nam, cân bằng lại dư luận phần đông cho rằng chính phủ
Kỳ nghiêng về người Bắc di cư và chèn ép người Nam. Người bị tố cáo có
chủ trương kỳ thị là đại tá Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc cảnh sát,
cánh tay mặt của Nguyễn Cao Kỳ.
Cuộc đấu tranh thành lập Đại học
miền Tây là cuộc dấn thân đầu tiên của tôi vào một hoạt động xã hội –
chính trị ngoài báo chí. Chỗ đứng tự nhiên của tôi, ngay từ lúc đó trong
làng báo là đối nghịch với chính quyền. Phải chăng do tôi đã từng ủng
hộ ông Trần Văn Hương rồi ông bị truất quyền nên tôi chọn thái độ đối
lập lại các chính phủ kế tiếp? Không hẳn thế. Câu trả lời ở một lẽ khác:
Không khí ở Sài Gòn những năm đó rất dị ứng với các chính phủ do các
tướng lãnh quân đội dựng lên. Tướng tá Sài Gòn hầu hết nằm trong tay
người Mỹ, phần nhiều lại tham nhũng, tất nhiên không được lòng dân. Thái
độ ngạo mạn của các viên chức và tướng tá Mỹ đối với những người Việt
Nam hợp tác với họ càng làm cho chính quyền Sài Gòn càng mất uy tín. Báo
chí đối lập (đôi khi cả báo chí theo chính quyền) mỉa mai gọi các đại
sứ Mỹ là “quan thái thú”, “quan toàn quyền”. Hình ảnh đại sứ Mỹ Henry
Cabot Lodge (thời chế độ Ngô Đình Diệm) mặc áo dài khăn đóng chẳng những
không làm cho ông gần được với người dân Sài Gòn mà trái lại bị coi như
một minh họa đậm nét về vai trò “quan thái thú” thật sự của ông ta. Các
tuyên bố của Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ đòi oanh tạc miền Bắc đều gặp
sự phản ứng gay gắt ngay cả trong thành phần người Sài Gòn bình thường
không thiên cộng.
Trong không khí và bối cảnh ấy, đối nghịch lại
chính quyền Sài Gòn cũng là thái độ hiển nhiên đối với nhiều người ở
miền Nam, trong đó có tôi. Nhưng đi xa hơn nữa, chọn cho mình một thái
độ chính trị dứt khoát trên bình diện toàn cục của cuộc chiến ở Việt
Nam, đối với một thanh niên như tôi, vừa bước vào đời khá đơn độc sau
thời gian dài bị “nhốt” trong các trường nội trú, quả thật là khó. Tôi
tiến tới từng bước, mò mẫm, quan sát, tìm hiểu, lúc đúng lúc sai phải tự
điều chỉnh rồi lại bước tới. Một quá trình hết sức gian nan nhưng cũng
hết sức hứng thú vì lúc đó động cơ chi phối các hành động và thái độ
chính trị của tôi đều xuất phát từ lòng yêu nước rất hồn nhiên, từ ý
muốn được đứng về phía đa số nhân dân, không bị người dân coi mình là
“tay sai Mỹ” hay “gia nô” của một chính quyền không được lòng dân.
Sau
khi tờ Sài Gòn Tân Văn bị đóng cửa, tôi trở lại làm tổng thư ký tòa
soạn cho tờ Bình Minh của ông Võ Văn Ứng, lúc này tờ báo không còn ra
hàng ngày nữa mà chỉ ra hàng tuần.
Sau cuộc đảo chính hụt ngày
19-20 tháng 2-1965, qua ngày 21-2, Nguyễn Khánh bị Hội đồng Quân lực do
hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ chi phối, truất quyền và
buộc lưu vong với danh nghĩa “đại sứ lưu động”. Một thời kỳ quyền lực
mới xuất hiện với sự nổi lên của hai nhân vật rất khác nhau về tánh
tình, luôn ngấm ngầm kình chống nhau và tìm cách loại bỏ nhau nhưng vẫn
phải dựa vào nhau để tồn tại cho đến khi nào Washington quyết định chọn
một!
Chính vào thời điểm này, đại sứ Mỹ Maxwell Taylor thông báo
cho Thủ tướng Phan Huy Quát biết Mỹ đang chuẩn bị 3500 thủy quân lục
chiến đầu tiên trực tiếp tham chiến tại miền Nam. Nhưng ba ngày sau, Sứ
quán Mỹ tại Sài Gòn đưa ra “đề nghị” buộc chính phủ Quát phải ra tuyên
bố “yêu cầu” chính phủ Mỹ gửi thủy quân lục chiến sang Việt Nam. Dĩ
nhiên lời “yêu cầu” của chính phủ Quát trước khi công bố đã được Hội
đồng Quân lực, mà Chủ tịch là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu thông qua,
mặc dù trên danh nghĩa người lãnh đạo cao nhất lúc đó vẫn còn là quốc
trưởng Phan Khắc Sửu! Ngày 8-3-1965, các đơn vị thủy quân lục chiến đầu
tiên thuộc Lữ đoàn 9 thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng.
Sau này trong hồi ký của mình, ông Bùi Diễm lúc đó là cố vấn của thủ
tướng Quát có kể lại rằng thái độ ban đầu của ông Quát là không tán đồng
đề nghị của Mỹ đưa quân tham chiến trực tiếp ở miền Nam. Ông Quát cho
rằng sự hiện diện của quân đội Mỹ sẽ không thuận lợi cho cuộc chiến
chống Cộng của người Việt Nam. Tôi không có điều kiện để phối kiểm lại
điều tiết lộ này của ông Bùi Diễm. Nhưng một thủ tướng Sài Gòn chống lại
một chiến lược lớn của Mỹ ở Việt Nam và Đông Nam Á là điều không tưởng.
Các cuộc xung đột giữa Công giáo và Phật giáo trên đường phố Sài Gòn
không được quân đội vãn hồi trật tự, trái lại nhắm mắt làm ngơ. Người ta
hiểu đã đến lúc quân đội có ý định “cất” chính quyền dân sự theo ý muốn
của Washington để phục vụ cho đường lối tham chiến trực tiếp của Mỹ tại
Việt Nam. Cuộc xung đột giữa ông Phan Khắc Sửu đóng vai trò quốc trưởng
với thủ tướng Quát chỉ thêm một cái cớ để lật đổ chính phủ dân sự lúc
này.
Ngày 19-6-1965, thiếu tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ được Hội
đồng Quân lực bổ nhiệm vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương,
tương đương chức vụ thủ tướng. Còn Nguyễn Văn Thiệu là Chủ tịch Ủy ban
lãnh đạo quốc gia, tương đương Quốc trưởng.
Lúc này tình hình chính
trị ở Sài Gòn rất rối ren, đặc biệt các cuộc xung đột giữa Công giáo và
Phật giáo. Mặt khác chính quyền Sài Gòn hầu như mất sự kiểm soát miền
Trung nằm trong ảnh hưởng của trung tướng Nguyễn Chánh Thi. Nguyễn Văn
Thiệu khôn khéo núp sau “vai trò tượng trưng” Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo
quốc gia, đẩy Nguyễn Cao Kỳ ra phía trước nhận trách nhiệm giải quyết
tất cả các thứ rối ren. Thiệu nghĩ rằng Kỳ sẽ tiêu ma uy tín và lún lầy
trong tình hình trước mắt. Vậy là ông ta không cần ra tay cũng loại được
Kỳ.
CHƯƠNG 3
Quyền hành vô tay, Nguyễn Cao Kỳ hành xử một cách hết sức mạnh bạo. Lúc
này các tướng lãnh thế hệ trước, có ảnh hưởng ngay sau ngày đảo chính
chế độ Diệm đã lần lượt bị loại ra khỏi sân khấu chính trị miền Nam.
Trước khi tướng Nguyễn Khánh đi làm “đại sứ lưu động”, thật sự là lưu
vong tại Mỹ, thì trung tướng Trần Thiện Khiêm ngày 4-10-1964 cũng đã lên
đường thực hiện “chuyến viếng thăm thiện chí” một số nước châu Á vô
thời hạn (ông bắt đầu cuộc sống lưu vong khá dài hạn tại Đài Loan). Ban
lãnh đạo “Tam đầu chế” do Nguyễn Khánh dựng lên cuối tháng 8 -1964 gồm
ông ta, tướng Khiêm và tướng Dương Văn Minh chỉ tồn tại ngắn ngủi. Sau
Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm, đến lượt tướng Dương Văn Minh bắt buộc
rời Sài Gòn và sống lưu vong tại Thái Lan.
Nhân vật Nguyễn Cao Kỳ
lúc đầu được người Mỹ xem như một nhân vật lãnh đạo trẻ và triển vọng
trong nhóm tướng tá mà báo chí Mỹ và Pháp gọi là “Les jeunes Turcs ”
(Lực lượng trẻ đang lên). Nhưng sau đó tướng Kỳ mất dần sự tự tin tưởng
của Tòa Bạch Ốc. Nguyễn Cao Kỳ ăn nói bộc trực và khá bạt mạng. Với
những ai có cơ hội gần gũi ông, có thể nhận ra khía cạnh thẳng thắn
trong con người của ông. Nhưng so sánh với Nguyễn Văn Thiệu bình tĩnh,
tính toán và nhiều mưu mô, Nguyễn Cao Kỳ bị người Mỹ đánh giá là hời hợt
và bốc đồng trong các tuyên bố và hành động. Ông dễ để lộ ra nhiều sơ
hở cho đối thủ khai thác. Nguyễn Văn Thiệu là tướng làm chính trị, có
một đời sống kín đáo hơn, ăn nói kỹ lưỡng từng lời, còn Nguyễn Cao Kỳ
vừa võ biền lại “nặng phần trình diễn”. Mỹ nhận ra họ khó “nắm” Kỳ hơn
Thiệu. Với Kỳ, họ phải đối đầu trước nhiều bất trắc hơn. Chính vì vậy
cuối cùng Mỹ chọn Nguyễn Văn Thiệu đưa vào vai trò tổng thống chứ không
phải Nguyễn Cao Kỳ. Đó là một mối hận không bao giờ phai của Kỳ đối với
người Mỹ.
Tôi có một số lần gặp cả hai người nhưng không đi xa hơn
mối quan hệ công khai và chính thức giữa một nhà báo và sau đó một dân
biểu Quốc hội với những người đang nắm quyền. Riêng Nguyễn Cao Kỳ, khi
ông không còn chức vụ nào nữa, hoàn toàn bị Mỹ và Nguyễn Văn Thiệu loại
ra khỏi guồng máy quyền lực, tôi có dịp gặp lại ông một cách tình cờ một
buổi trưa (năm 1974) tại CLB Xẹc Tây, tức CSS (Cercle Sportif
Saigonnais, nay là Cung Văn hóa Lao Động). Lúc đó tôi đang chơi tennis ở
sân số 1. Ông Kỳ vào Xẹc cũng với ý định đánh tennis. Chính ông Kỳ gợi ý
với tôi đấu một set. Ông Kỳ chơi quần vợt trước tôi khá lâu; tôi chỉ
bắt đầu tập đánh từ năm 1971 tại CLB CSV (Cercle Sportif Vietnamien, nay
là CLB Hồ Xuân Hương). Trận đấu thách thức ấy có cá độ, tôi thắng với
tỷ số 6-3. Ông vui vẻ ra lệnh cho các đàn em không quân bắt độ theo ông
gom tiền thanh toán trận thua ấy.
Trở lại giai đoạn Nguyễn Cao Kỳ
làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp (thủ tướng) có lắm chuyện để kể khi ông
mới nhậm chức. Chính phủ Kỳ là chính phủ duy nhất tại Sài Gòn đã ra
quyết định đóng cửa tất cả các báo ngày (lúc đó Sài Gòn có khoảng 40 tờ
báo ngày). Đây là lần đầu tiên Sài Gòn trải qua những ngày không có báo!
… Khi Kỳ cho báo chí xuất bản lại thì chỉ có 12 tờ được cấp phép.
Ông Kỳ hô hào “thắt lưng buộc bụng” và chống tham nhũng nhưng đàn em của
Kỳ nắm ty cảnh sát ở các quận Sài Gòn – Chợ Lớn là những con cá mập hối
lộ và tham nhũng. Mặc dù thế, tướng Kỳ vẫn muốn mình nổi bật trong vai
trò chống tham nhũng. Ông đã chọn một mục tiêu cho ý đồ của mình: đó là
Tạ Vinh, một doanh nghiệp người Hoa giàu có nổi tiếng ở Chợ Lớn. Theo
chính phủ của Kỳ thì Tạ Vinh phạm tội ăn gian sắt thép ở một công trình
xây dựng cho quân đội Mỹ mà Tạ Vinh đã trúng thầu. Sắt thép ăn bớt này
được Tạ Vinh tuồn ra chợ đen.
Một “pháp trường cát” dựng tại bờ
tường trụ sở hỏa xa, nằm bên hông bùng binh chợ Sài Gòn được chính phủ
Kỳ quảng cáo như một biểu tượng chống tham nhũng. Chính tại đây Tạ Vinh
bị đem ra hành quyết.
Tướng Kỳ chống tham nhũng nhưng mỉa mai thay,
ông lại bị chính báo chí Mỹ tố cáo nằm trong danh sách các tướng tá Sài
Gòn trước 1975 có tham gia vào buôn bán ma túy. Để thanh minh dư luận
tố giác này, trong cuốn hồi ký mới nhất của mình (Buddha’s Child – Đứa
con cầu tự), ông Kỳ kể rằng ông có một người chị ruột lớn hơn ông 10
tuổi, một “con cừu ghẻ” trong gia đình, tên là Nguyễn Thị Lý, rời Việt
Nam sang sống tại Lào từ sau Thế chiến thứ hai. Tại đây, Thị Lý trở
thành một tay buôn bán ma túy”. Ông Kỳ nói: “Chính do người chị này mà
có dư luận cho rằng Thị Lý và tôi cùng hợp tác buôn bán ma túy”. Ông Kỳ
kể tiếp rằng trong thời kỳ ông làm thủ tướng, chị ông có trở về Sài Gòn
và đại tá Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc cảnh sát, nắm được tin này đã
tìm đến phòng trọ của Thị Lý để kiểm tra, lục xét, nhưng không thấy gì!
Có một thực tế là trái ngược với nhiều tướng lãnh Sài Gòn giàu có khi di
tản ra nước ngoài, tướng Kỳ trải qua một cuộc sống thường thiếu thốn
tiền bạc… Nhưng, điều đó có đủ chứng minh sự trong sạch của ông chăng?
Đầu
tháng 10-1965, giám đốc Sở báo chí của Bộ thông tin là Hoàng Nguyên cho
tôi biết trong danh sách các nhà báo được mời tham gia chuyến thăm
chính thức sắp tới của Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương đến Đại Hàn
(tức Nam Triều Tiên) có tên tôi. Chuyến viếng thăm này của Nguyễn Cao Kỳ
nằm trong cuộc vận động của chính phủ Sài Gòn tìm kiếm sự ủng hộ của
các nước đồng minh trong khu vực.
Chưa bao giờ đi ra nước ngoài, cơ
hội này đối với tôi thật hấp dẫn. Tôi có hỏi giám đốc báo chí Bộ Thông
tin tại sao tôi được chọn vào danh sách này và được ông ta tiết lộ hết
sức bất ngờ: Thủ tướng Kỳ bảo Nha báo chí phải mời “cái anh ký giả
Nguyễn Lý hay viết bài chống tôi”. Lúc đó tôi ký bút danh Nguyễn Lý trên
các bài xã luận và phóng sự của mình trên tờ Bình Minh và thường chỉ
trích chính phủ Kỳ. Bút danh Nguyễn Lý kết hợp họ của tôi và họ của vợ
tôi.
Nhưng ngay lập tức tôi sực nhớ mình đang trong tình trạng
“không hợp lệ quân dịch”! Lúc ấy lệnh gọi quân dịch còn đích danh từng
người. Một buổi trưa đầu năm 1965, tôi ngồi trước sân nhà của cha mẹ tôi
ở đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn Trọng Tuyển) thì có một người
đến tìm gặp Lý Quý Chung. Tôi hỏi lại có việc gì không và được trả lời
“Có lệnh gọi Lý Quý Chung nhập ngũ”. Dĩ nhiên tôi nói rằng Lý Quý Chung
không có ở nhà và từ chối nhận giấy triệu tập! Thế là từ đó tôi bị liệt
vào thành phần “không hợp lệ tình trạng quân dịch”, tức trốn lính. Khi
tôi vào Học viện Quốc gia hành chánh (1963), tôi được hưởng quyền miễn
quân dịch trong suốt thời gian theo học tại đây. Nhưng qua năm 1964 nghỉ
học, đương nhiên tôi sẽ bị gọi nhập ngũ năm 1965! Trong năm 1965, tôi
vẫn sử dụng tấm thẻ sinh viên màu vàng 3 sọc đỏ của HVQGHC để đối phó
với các cuộc chận xét bắt quân dịch trên đường phố. Lá bùa hộ mệnh ấy
không còn hiệu quả nữa khi bước vào năm 1996. Về mặt giấy tờ chính thức,
hồ sơ ở quân đội và cảnh sát, thì tên tôi bất hợp pháp ngay từ đầu năm
1965. Do đó vào thời điểm tôi được ghi tên vào danh sách ký giả đi Nam
Triều Tiên (tháng 10 -1965) trên nguyên tắc tôi không thể lọt qua khâu
làm thủ tục ở Tổng Nha Cảnh sát Đô thành. Lúc đầu vì sợ lộ chuyện trốn
quân địch, tôi có ý định bỏ cuộc. Nhưng sau đó tôi dò hỏi và biết được
các ký giả tháp tùng theo thủ tướng sẽ được cấp thông hành công vụ, có
nghĩa làm thẳng thủ tục ở Bộ Ngoại giao chứ không qua Tổng nha Cảnh sát.
Như thế có khả năng tôi không bị lộ.
Chuyến đi Nam Triều Tiên là
chuyến xuất ngoại đầu tiên trong cuộc đời tôi. Nhưng đó cũng là một
chuyến xuất ngoại nhớ đời. Phái đoàn chính phủ Việt Nam Cộng hòa viếng
thăm chính thức Nam Triều Tiên theo lời mời của thủ tướng nước này. Tháp
tùng đoàn có phó thủ tướng (tướng Nguyễn Hữu Có) và các phu nhân cùng
một số thành viên nội các. Điều không thể tưởng tượng về chuyến đi này
là: Một phái đoàn cấp cao quốc gia nhưng đi đứng rất tự do và vô trật
tự. Các sĩ quan đi theo “phò” chủ tướng Nguyễn Cao Kỳ đều thuộc binh
chủng không quân, bạn bè thân thiết cũ hoặc đàn em tâm phúc của ông ta
cho nên bất kể vấn đề tôn ti trật tự trong đoàn.
Khi chiếc
Caravelle vừa rời khỏi sân bay Tân Sơn Nhất một lúc thì đoàn tháp tùng
ngồi phía sau máy bay gần ngay một dòng sòng bài bửu chơi bằng đô la Mỹ.
Có lúc phu nhân của Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ - bà Đặng Tuyết Mai cũng
rời phòng VIP tham gia cuộc vui một cách rất tự nhiên. Các sĩ quan không
quân cao cấp đều là bạn của hai vợ chồng bà. Nhưng cứ ra một lúc thì bà
Kỳ lại bị ông Kỳ gọi vào! Phải nhìn nhận rằng ông Nguyễn Cao Kỳ khi trở
thành Thủ tướng rất ít thay đổi trong đối xử với bạn bè cũ của ông thời
hàn vi.
Tôi cũng được mời tham gia sòng bạc lưu động trên cao mấy
ngàn mét ấy. Tôi chỉ mang theo khoảng 250 USD, do vợ gom góp từ đủ thứ
tiền, kể cả mượn của cha mẹ. Thế mà khi máy bay còn 25 phút đến Hán
Thành (tức Seoul) thì tôi chỉ còn vỏn vẹn 30 USD! Tôi chuẩn bị tinh thần
tham quan Đại Hàn một cách lành mạnh và khắc khổ. Nhưng may mắn đã trở
lại với tôi. Khi còn 10 phút nữa máy bay đáp xuống Seoul, tôi thắng lại
gần đủ số tiền đã thua.
Trong những ngày viếng thăm chính thức Nam
Triều Tiên của phái đoàn chính phủ Sài Gòn, người được báo chí và dư
luận nước này chú ý không phải là nhân vật chính Nguyễn Cao Kỳ mà là vợ
của ông. Tôi còn nhớ hình ảnh bà Kỳ mặc chiếc áo dài màu xanh “turquois”
(ngọc lam) đứng bên cạnh chồng tại sứ quán Sài Gòn ở Seoul trong cuộc
tiếp tân chính thức đẹp làm sao! Không đề cập các mặt khác, nói về sắc
đẹp, bà Tuyết Mai là một hoa khôi (trước khi trở thành vợ của Nguyễn Cao
Kỳ, bà đã là một hoa khôi trong hàng ngũ nữ tiếp viên hàng không Air
Việt Nam). Tuy nhiên sắc đẹp của bà không được người dân Sài Gòn và miền
Nam ngắm nhìn một cách bình thường và thiện cảm. Bà Tuyết Mai không can
thiệp vào các công việc của chồng và cũng không bị tai tiếng hối lộ
tham nhũng như các bà vợ tướng tá khác. Nhưng cách bà xuất hiện – có lẽ
theo ý chồng – như một siêu người mẫu hay một diễn viên điện ảnh, trước
công chúng giữa lúc đất nước chìm trong khói lửa đã gây nên sự dị ứng,
thậm chí gây “sốc” đối với số đông. Hình ảnh bà Kỳ từng mặc bộ đồ phi
công, quần áo liền nhau, màu vàng nghệ chói lọi như một thứ thời trang
cao cấp đi bên cạnh chồng cũng ăn mặc như thế, không được người dân Sài
Gòn chấp nhận.
Trong chuyến đi Nam Triều Tiên, có một sự việc liên
quan giữa ông Kỳ và tôi mà đến bây giờ tôi vẫn không quên: khi quân đội
Mỹ đưa toàn chính phủ Sài Gòn tham quan bằng trực thăng một điểm cao ở
khu vực Bàn Môn Điếm (sát ranh giới Nam – Bắc Triều Tiên), thời tiết ở
đây lạnh dưới 0 độ, nhưng tôi chỉ mặc một áo len bên trong và một áo vét
bên ngoài, do đó không đủ để chống lại cái rét dữ dội. Lúc mọi người
dừng lại trước một lều đóng quân của Mỹ để uống trà ngoài trời, hai hàm
răng của tôi đánh lập cập thành tiếng không sao kềm lại được. Tướng
Nguyễn Cao Kỳ đứng cách tôi chừng hai mét đột nhiên quay lại hỏi tôi:
“Nhà báo không mang theo pardessus à?”. Tôi trả lời: “Thưa không”. Trước
khi đi tôi vẫn nghĩ Nam Triều Tiên lạnh cũng ngang Đà Lạt mà thôi! Ông
Kỳ lại quay sang nói với viên sĩ quan tùy viên của mình: “Cậu hãy lấy
cái pardessus dư của tôi cho nhà báo mặc”. Tôi hết sức bất ngờ. Lúc đó
tôi chỉ là một nhà báo mới vào nghề vô danh. Chắc chắn ông Nguyễn Văn
Thiệu sẽ không có một cử chỉ như thế. Nhưng cũng cần hiểu thêm con người
của Kỳ đầy những mâu thuẫn: sự chân thành chen lẫn với những cuộc trình
diễn kiểu diễn viên kịch; một mặt muốn sắm vai người hùng kiểu Lương
Sơn Bạc nhưng cách nói năng đao to búa lớn và kiểu ăn mặc lập dị lại tạo
cho ông một hình ảnh không nghiêm túc. Ông đã tự chế cho mình một kiểu
áo mặc riêng, nửa lai Ấn Độ nửa lai Trung Quốc thời Mao Trạch Đông! Ngày
15-7-1965, trong một lúc cao hứng Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố với một tờ báo
tiếng Anh rằng một trong những “thần tượng” của ông là Adolf Hilter,
tên độc tài Đức quốc xã bị cả thế giới nguyền rủa! Nhưng sau đó ông gặp
sự phản ứng kịch liệt trong nước và quốc tế, ông Kỳ đã nói lại là ông
chỉ ngưỡng mộ Hilter ở cách Hilter đoàn kết được dân tộc Đức!
Hãy
trở lại chuyến đi có lắm chuyện để kể của phái đoàn chính phủ Nguyễn Cao
Kỳ tại Nam Triều Tiên. Sau mấy ngày viếng thăm chính thức, đoàn chuẩn
bị sáng hôm sau lên đường trở về nước. Nhưng chiều tối trước khi giã từ
Seoul, một số sĩ quan cao cấp thân thuộc của ông Kỳ đã tìm gặp bà Kỳ “đề
đạt nguyện vọng của nhiều người trong đoàn” muốn ở lại Seoul thêm một
ngày để có thời gian “shopping”. Từ “shopping”, tôi được nghe lần đầu
đời mình trong dịp này. Ông Kỳ tán đồng ngay. Sáng hôm sau thủ tướng Nam
Triều Tiên đến khách sạn Chosun cổ kính với mục đích tiễn đưa đoàn của
Thủ tướng Sài Gòn về nước đành ra về và hôm sau phải tiễn lại. Tại Sài
Gòn, việc phái đoàn Nguyễn Cao Kỳ ở lại Seoul thêm một ngày không thông
báo kịp đến các đoàn ngoại giao nên phòng VIP ở sân bay Tân Sơn Nhất đầy
nghẹt các đại sứ ra đón phái đoàn theo đúng thủ tục ngoại giao. Vợ tôi
cũng ra đón hụt! Chẳng ai hiểu chuyện gì đã xảy ra bên Seoul.
Đi
shopping ở Seoul, tôi mua ít trà sâm và một cái đồng hồ hiệu Seiko lúc
đó rất mốt. Chiếc đồng hồ này sẽ có riêng một “lịch sử” của nó.
Đoàn
rời Seoul đúng ngày lễ Song thập của Đài Loan. Tôi nhớ rất rõ ngày này
vì rằng khi máy bay sắp sửa vào không phận Đài Loan trên đường về Sài
Gòn, ở khoang sau nhóm sĩ quan tùy tùng lại “kiến nghị” với bà Kỳ đoàn
nên đáp xuống Taipei chơi, vì hôm nay là lễ Song thập (tức Quốc Khánh)
của Đài Loan. Bà Kỳ thấy có lý và vào phòng VIP năn nỉ chồng. Khoảng một
phút sau, ông Kỳ xuất hiện trước cửa phòng VIP và thông báo với đoàn:
“Đoàn ta sẽ dừng lại Taipei một hôm”. Thế là tại Sài Gòn, các đoàn ngoại
giao có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhất lại lũ lượt kéo nhau ra về một
lần nữa vì thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ lại dời ngày về. Và vợ tôi lại đón
tôi hụt lần thứ hai.
Tại Taipei, khi được phái đoàn thủ tướng Việt
Nam Cộng hòa thông báo từ trên máy bay cuộc viếng thăm đầy bất ngờ,
chính phủ Đài Loan không thể không lúng túng. Vì đúng vào ngày lễ lớn
của mình, Đài Loan không còn chỗ trong các khách sạn sang trọng để đón
khách ở hàng quốc gia. Rốt cuộc họ đã phải khẩn trương dồn khách ở một
số khách sạn để dành chỗ cho đoàn của chính phủ Sài Gòn! Thật không thể
tưởng tượng phái đoàn của một chính phủ lại có thể bất chợt ghé nơi này
nơi khác như một tay du lịch ba- lô.
Chưa hết. Sáng hôm sau các
đoàn ngoại giao Sài Gòn lại được thông báo dời ngày đón thủ tướng lần
thứ ba vì rằng khi cả đoàn đã ngồi vào máy bay chuẩn bị rời phi trường
Taipei thì phát hiện chiếc Caravelle bị trục trặc bộ phận xăng. May mà
sự cố này được phát hiện kịp thời nếu không thì không biết chuyện gì xảy
ra!
Máy bay phải cần một ngày để sửa chữa. Thế là đại diện chính
phủ Đài Loan lại phải rước trở đoàn vào thành phố Taipei và lại dồn
khách của họ lần nữa để có chỗ dành cho đoàn của ông Kỳ tá túc thêm một
đêm. Sáng hôm sau, máy bay sửa chữa xong, đoàn mới về đến Sài Gòn.
Chuyến
đi ra nước ngoài lần đầu của tôi là như thế và đây cũng là dịp đầu tiên
tôi tiếp cận với ông Nguyễn Cao Kỳ. Cuộc tiếp cận này để lại trong tôi
một kỷ niệm khó quên vì cử chỉ đẹp của ông nhưng mặt khác lại là một sự
thất vọng lớn đối với một nhân vật đang là đại diện một chính phủ.
Với
tôi và nhiều người Sài Gòn lúc đó vẫn tiếp tục ảo tưởng vào ông Trần
Văn Hương để có một chính phủ đại diện miền Nam một cách đàng hoàng. Một
số người cho rằng ông Hương sở dĩ không làm được việc ở cương vị thủ
tướng (cuối năm 1964) là do sự cố tình gây khó khăn của tướng Nguyễn
Khánh. Nhiều người trí thức miền Nam coi ông Hương là một nhân vật trong
sạch, ngay thẳng, không màng danh lợi. Dù ông Hương đã bị Nguyễn Khánh
lật đổ và quản thúc trong một biệt thự tại Vũng Tàu, nhưng các học trò
của ông trong Hội Liên Trường vẫn nuôi hi vọng đưa ông trở lại chính
trường. Tôi cũng nghĩ không có một lựa chọn nào khác. Từ Nam Triều Tiên
trở về, tôi cùng một người bạn đi ra Vũng Tàu tìm cách thăm ông. Tôi
mang biếu cho ông những gòi trà sâm mua từ Seoul và nhân dịp này cảm ơn
ông đã tạo điều kiện cho tôi xuất bản tờ Sài Gòn Tân Văn (đã bị chính
phủ Phan Huy Quát đóng cửa). Lần tiếp xúc đầu tiên ấy với ông Hương gây
cho tôi một ấn tượng mạnh mẽ. Ông có một nghệ thuật chinh phục người đối
diện một cách khá dễ dàng. Giọng nói Nam Bộ của ông mộc mạc, thân tình.
Đối nghịch lại thân hình cục mịch và một cái bụng rất to, nặng nề như
một con gấu là những cử chỉ nhỏ nhẹ, tình cảm và một nụ cười rất hiền
lành. Trong khi nói chuyện thỉnh thoảng ông phải hỏi lại vì nghe không
rõ. Ông cho biết ông bị bệnh lãng tai sau thời gian bị Tây (Pháp) bắt
nhốt khi ông hoạt động chống Pháp. Về cái bệnh lãng tai của ông Hương,
mãi sau này tôi mới khám phá ra rằng tai ông bị nghễnh ngãng một cách có
chọn lọc: ông nghe rất bình thường nếu câu chuyện chẳng có gì làm ông
bất bình; nhưng sẽ nghễnh ngãng ngay khi ông không muốn nghe một nội
dung nào đó mà ông không hài lòng.
Cuối cuộc viếng thăm ông tại
Vũng Tàu hôm đó, một sự kiện bất ngờ xảy ra khiến cho tôi vô cùng xúc
động: ông bảo tôi hãy cởi chiếc đồng hồ tôi đang đeo trên tay ra và liền
đó ông tháo chiếc đồng hồ trên tay ông và mang vào tay tôi. Một cuộc
trao đổi vật kỷ niệm vô cùng vinh dự cho tôi. Khi tôi rời khỏi biệt thự,
nơi ông Hương bị quản thúc, gặp lại người bạn ngồi ngoài ô tô chờ tôi
thì mới hiểu rằng đây không chỉ đơn thuần là một cuộc trao đổi “vật lưu
niệm” vì cái đồng hồ Seiko tôi vừa mua ở Seoull giá không bằng 1 phần 10
so với cái đồng hồ của cựu thủ tướng Trần Văn Hương. Người bạn của tôi
là một thầu khoán, rất sành điệu về các loại đồng hồ, nói cho tôi biết
ông Hương đã đeo vào tay tôi chiếc Rolex giá nhiều trăm đô la! Thì ra
ngoài cử chỉ trao đổi kỷ niệm đây còn là một cách kín đáo biếu cho tôi
một món quà khá đắt tiền. Nhưng với tôi giá trị lớn nhất của chiếc đồng
hồ đó vẫn là vật kỷ niệm từ một người mình từng ngưỡng mộ.
Sau đó
nhiều lần tôi trở ra Vũng Tàu thăm ông, tránh cho ông bớt cảnh cô độc
bởi ít người dám đến gặp ông trong tình trạng biệt thự bị canh gác,
những người lui tới đều bị chụp ảnh. Có khi tôi ra cùng vợ và đứa con
trai đầu lòng của tôi. Vợ tôi nấu cho ông ăn cái món mắm và rau mà ông
rất thích. Có lần thằng con trai lớn của tôi, Lý Quí Hùng, lúc đó khoảng
4 tuổi, nằm chung với ông Hương trên cái võng to (được người thân đặt
đan đặc biệt cho ông) đưa tay rờ vào bụng ông và hỏi: “Ông ơi sao cái
bụng ông to quá?” thì được ông Hương trả lời một cách rất hài hước làm
thằng nhỏ khoái chí: “Ông nuốt trong bụng một con chó”. Vào thời điểm
ấy, ông Hương mê hoặc cả ba thế hệ trong gia đình tôi: cha tôi, tôi và
con tôi. Nhưng rồi những diễn tiến của sân khấu chính trị những năm sau
này sẽ làm lộ ra một Trần Văn Hương rất khác với những gì giới trí thức
Sài Gòn nghĩ về ông và chờ đợi ở ông. Thần tượng “Ông già gân” – người
ta yêu mến gọi ông như thế những năm 1964-1965 – khi sụp đổ, đã gây thất
vọng sâu sắc trong nhiều người trí thức miền Nam: “Ông già gân” thật sự
chẳng gân gì!
Khi trở về Sài Gòn, tôi lại phải đối diện với thực
tế không hợp pháp về tình trạng quân dịch của mình. Từ khu dân cư đông
đúc ở Cầu Chong, Tân Định, mỗi ngày tôi đi ô–tô–buýt đến chợ Bến Thành,
rồi từ đây đi bộ đến tòa soạn báo Bình Minh trên đường Nguyễn Thái Học.
Chiều về cũng bằng ô–tô–buýt. Phương tiện ô –tô–buýt thường tránh được
các chốt cảnh sát chặn xét giấy tờ quân dịch. Nhưng có một lần xe chạy
ngang chợ Tân Định thì bị chặn lại. Cảnh sát rằn ri ào lên và đứng bít
cả hai cửa lên xuống. Hành khách được lệnh bước ra khỏi xe từng người
một, cảnh sát nhìn mặt từng hành khách, ai còn ở tuổi quân dịch thì bị
xét giấy tờ. Tôi nghĩ trong bụng hôm nay mình hết cửa thoát rồi. Làm thế
nào nhắn tin cho vợ mình biết đây nếu bị bắt?
Nhưng khi đến lượt
tôi bước xuống xe thì không hiểu sao không một nhân viên cảnh sát nào ra
hiệu tôi đứng lại để xét hỏi. Thế là tôi cứ bước xuống xe rồi nhắm
thẳng hướng chợ Tân Định đi càng lúc càng nhanh, với sự hồi hộp có thể
bị gọi lại bất cứ lúc nào. Tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại thoát
khỏi cuộc chặn xét hết sức gắt gao đó. Có lẽ trên chuyến xe ô–tô–buýt ấy
chỉ có mỗi mình tôi là thắt cà vạt một cách trịnh trọng, không có dáng
vẻ gì là một kẻ trốn quân dịch chăng? Cái thói quen đi làm thắt cà vạt,
dù trong túi đôi khi không còn một đồng nào – đã cứu tôi?
Năm 1965
ấy đặc biệt hết sức khó khăn đối với cái gia đình nhỏ bé của tôi. Trước
đó, khi còn ở chung với cha mẹ tôi trong một biệt thự trên đường Nguyễn
Minh Chiếu (Phú Nhuận) thì hầu như chúng tôi chẳng tốn kém gì riêng,
thêm nữa đồng lương của tôi ở báo Bình Minh rất khá. Nhưng cuộc sống
chung không kéo dài suôn sẻ vì mẹ tôi không hài lòng với cô dâu mà bà đã
bị con trai mình áp đặt phải cưới. Sự thiếu khéo léo và tế nhị của tôi
trong vai trò làm con và làm chồng cũng góp thêm phần căng thẳng. Cha mẹ
tôi không đồng ý chút nào việc tôi bỏ học nửa chừng tại Học viện quốc
gia hành chính và lấy vợ. Thế là cơn giận dữ của mẹ tôi đổ trút lên vợ
tôi. Mẹ tôi cho rằng làm vợ mà không khuyên lơn được chồng, để chồng bỏ
học đi làm báo là không làm tròn vai trò làm vợ! Trong con mắt của mẹ
tôi, thủ phạm làm tôi hư hỏng – cãi cha mẹ lấy vợ sớm, không đi Pháp để
học thành tài, bây giờ lại bỏ học đại học nửa chừng – chính là vợ tôi.
Bà không thể chấp nhận việc một cô gái nào đó bên quận Tư - một quận lao
động – đột nhiên xuất hiện và “bắt sống” thằng con trai trưởng của bà
(!)
Vợ tôi dù cố gắng làm tròn bổn phận làm dâu nhưng vẫn không
thuyết phục được mẹ tôi. Cha mẹ tôi rất phong kiến: con trai có lỗi hay
bê bối việc gì, ông bà không la rầy con trai mình mà lại gọi con dâu lên
hỏi tội. Có những lúc cha tôi giận tôi không chịu xuống nhà ăn cơm nằm
luôn trên lầu, vợ tôi phải thay tôi lên xin lỗi ông, có khi phải quỳ lạy
ông mới hết giận và xuống ăn cơm! Dĩ nhiên tối đến khi chỉ còn hai vợ
chồng trong phòng, vợ tôi không thể tiếp tục nén nhịn những đau khổ và
ấm ức phải òa khóc. Lúc ấy tôi mới 23, còn vợ tôi 22, nhưng chúng tôi đã
có một đứa con trai và vợ tôi đang mang thai đứa thứ hai.
CHƯƠNG 4
Không thể kéo dài tình hình này, nửa đêm một ngày cuối năm 1964 tôi lén
đưa vợ con rời khỏi nhà cha mẹ, sang Tân Định tạm ở chung với mẹ vợ
trong khi chờ thuê một nơi nào đó.
Nơi cuối cùng hai vợ chồng tôi
thuê được là một căn phòng nhỏ khoảng 12 mét vuông, trong một căn nhà có
một gác gỗ xóm lao động Cầu Phong (Tân Định). Căn nhà này nằm sát kinh
Nhiêu Lộc nước đen ngòm, bùn lầy, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Khi
mới đến nơi này, tôi không tưởng tượng được rằng mình có thể ở lại đây.
Nhưng vợ chồng tôi không có lựa chọn nào khác vì thu nhập của tôi ở
báo Bình Minh đột ngột bị cắt phân nửa. Từ 16 trang, báo rút xuống còn
8 trang do số phát hành sụt giảm, tiền lương của nhân viên cũng bị giảm
theo. Nhưng kể cũng lạ, khi đã sống được ở nơi này rồi thì không còn
nghe thấy mùi hôi thối nữa. Cái mũi con người ta luôn phải thích nghi
với môi trường sống một cách tài tình.
Thời điểm này tôi rất khó
khăn về tiền bạc. Có hôm, tiền đi xe ô-tô-buýt cũng không có, tôi phải
thập thò ở đầu cầu thang gỗ năn nỉ mượn tiền cô con gái nhỏ của bà chủ
nhà. Đứa con thứ hai của chúng tôi sinh ra (Lý Quí Dũng) bị suy dinh
dưỡng. Một lần nó bị bệnh nặng nhưng trong nhà không có tiền đi bác sĩ.
May mắn hôm đó một người bạn gái thân của vợ tôi tình cờ đến thăm và đem
cầm sợi dây chuyền đang đeo để cho vợ chồng tôi mượn.
Có lúc tôi
có ý định đưa vợ con trở về nhà cha mẹ vì thấy vợ con cực khổ quá nhưng
vợ tôi cương quyết không chịu, nhất định tạo dựng cho được cuộc sống tự
lập. Quỳnh Nga (tên vợ tôi) không hề than van cuộc sống khó khăn và đồng
lương ít ỏi của chồng. Yêu nhau năm tôi còn học ban Philo ở trường Jean
Jacques Rousseau, tức chưa đậu Tú tài 2 và lấy nhau khi tôi chưa có một
nghề ngỗng gì, rõ ràng nàng chuẩn bị tinh thần để đối đầu trước cuộc
sống đầy khó khăn khi chọn tôi làm chồng.
… Tôi gặp Quỳnh Nga lần
đầu khi đi xem cuộc đấu bóng bàn quốc tế tại Nhà Kiếng, lúc đó là trụ sở
của Tổng liên đoàn Lao công (tổ chức công nhân của chế độ Sài Gòn) trên
đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám). Buổi tối đó có
mặt Quỳnh Nga là cháu của nhà vô địch Mai Văn Hòa (gọi Mai Văn Hòa bằng
chú). Khi gia đình của Quỳnh Nga còn ở Kompong Cham, Mai Văn Hòa được
cha của Quỳnh Nga nuôi ăn học và tập đánh bóng bàn. Trước khi trở thành
vô địch miền Nam, Mai Văn Hòa đã từng vô địch Nam Vang (Campuchia).
Trong buổi xem bóng bàn tại nhà Kiếng, tôi đi chung với một người bạn
cùng lớp và chính người bạn này đầu tiên tìm cách làm quen với Quỳnh
Nga, chứ không phải tôi, mặc dù trong lòng tôi cũng rất muốn được làm
quen nàng. Không có tiền nhiều trong túi, không có ô tô như thằng bạn,
tôi tự thấy mình thua trước trong cuộc chạy đua này. Quỳnh Nga không có
sắc đẹp kiểu rực rỡ, thu hút ngay ở cái nhìn đầu tiên, mà nàng đẹp một
cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Sau vài lần đi theo người bạn sang chơi bên
nhà của Quỳnh Nga ở quận Tư, tôi càng mến nàng, nhất là ở tánh tình rất
giản dị và thẳng thắn của nàng. Sự phô trương của người bạn tôi, con
trai một của một gia đình giàu có ở Sài Gòn – mỗi lần đến nhà Quỳnh Nga
đều tự lái xe hơi hiệu Mercedes, sẵn sàng tặng nàng những món quà đắt
tiền như nhẫn hạt xoàn – vẫn không “lung lạc” được Quỳnh Nga. Nàng dứt
khoát từ chối các món quà bất thường của bạn tôi. Thái độ ấy của nàng
càng làm rung động con tim tôi.
Lần đầu tôi “bạo gan” mời Quỳnh Nga
đi xem chiếu bóng ở rạp Majestic trên đường Catinat (bây giờ là Đồng
Khởi), trong túi tôi chỉ đủ tiền xe taxi và tiền mua hai chiếc vé. Cha
mẹ tôi thuộc gia đình khá giả nhưng ông bà rất khắt khe trong việc cho
tiền con cái. Sau này khi đã yêu nhau, tôi có kể lại cho Quỳnh Nga nghe
về “tình hình tài chính” của tôi ở buổi đi chơi lần đầu tiên ấy. Nàng
cười và nói với tôi: “Trong đầu em lúc đó cũng có thoáng qua thắc mắc
sao anh ấy không mời mình đi uống nước hay ăn kem sau khi xem chiếu bóng
nhỉ?”. Khi đã thành vợ chồng rồi, vợ tôi mới biết vào thời điểm mới
quen nhau, trước mỗi tối đi chơi và mời nàng ăn nhà hàng, tôi đều lén
lấy trong tủ rượu của cha tôi một chai rượu ngoại rồi đem bán ở Chợ Cũ.
Tủ rượu của cha tôi vơi đi hai phần ba thì cũng vừa lúc tôi và Quỳnh Nga
trở thành chồng vợ!
Con đường đi đến chồng vợ của chúng tôi thật
vô cùng gay go. Ban đầu, cả mẹ của Quỳnh Nga và cha mẹ tôi đều chống
đối, mỗi bên có lý do khác nhau. Lý do về phía cha mẹ tôi trước hết là
vấn đề môn đăng hộ đối, thêm nữa ông bà không muốn con mình lấy vợ quá
sớm không tập trung vào việc học hành. Với riêng mẹ tôi, việc bà mất
quyền chọn cô dâu đầu tiên là cả một sự thất vọng và đau khổ. Còn về
phía mẹ của Quỳnh Nga, làm sao bà vui vẻ được khi người con trai muốn
làm rể của bà chưa có nghề ngỗng gì. Vả lại bà cũng không biết rõ gia
thế chàng rể như thế nào, ngoại trừ nghe phong thanh cha mẹ cậu ta nhất
quyết không chịu chấp nhận con gái mình làm dâu. Quỳnh Nga lúc đó đã đi
làm – thư ký hành chánh ở Tổng nha Thanh niên (sau đó tại Tòa Đô Chính).
Nàng là một trong hai nguồn thu nhập chính của gia đình. Nguồn thu nhập
kia từ mẹ nàng, làm công nhân may thêu ở khách sạn Caravelle. Người anh
lớn thất nghiệp ở nhà, còn ba em trai đều còn nhỏ đang đi học. Cha của
Quỳnh Nga, Nguyễn Bá Linh, là một nhà báo từng cộng tác với tờ Sài Gòn
Mới nhưng đã mất khi Quỳnh Nga được khoảng 10 tuổi. Nếu Quỳnh Nga đi
lấy chồng, nhất là lấy một anh chàng sinh viên như tôi, thì gia đình sẽ
mất một trong hai nguồn thu nhập. Bà còn âu lo không biết con gái mình
sẽ có cuộc sống ra sao với cậu sinh viên vô nghề này! Nhưng mẹ vợ tôi là
một người phụ nữ không hẹp hòi tính toán, bà sống trải lòng với mọi
người, luôn hy sinh cho con cái. Do đó dù không hài lòng về tôi nhưng
rốt cuộc mẹ của Quỳnh Nga vẫn không nỡ cự tuyệt tôi vì bà rất thương con
gái mình. Bà làm lơ để tôi lui tới nhà khá tự do. Thế là có tuần tôi ở
bên nhà Quỳnh Nga đến bốn, năm ngày, bất chấp sự cấm đoán của cha mẹ
tôi. Bấy giờ tôi đã thật sự yêu nàng và quyết tâm cưới nàng làm vợ - dù
không được cha mẹ tán đồng và cũng không biết hai đứa sẽ sống bằng thu
nhập nào khi lấy nhau. Lúc đó thường trong túi tôi chỉ đủ tiền đưa nàng
đi xem hát hoặc ăn bò vò viên!
Lúc này cha tôi đang làm Phó tỉnh
trưởng hành chính ở tỉnh Ba Xuyên (tức Sóc Trăng). Khi về Sài Gòn hay
tin tôi vẫn đeo đuổi Quỳnh Nga và ở luôn bên đó, ông tức giận đi xe hơi
xang quận Tư tìm địa chỉ nhà Quỳnh Nga với ý định trực tiếp áp lực với
mẹ của Quỳnh Nga không để tôi lui tới nữa. Có lần Quỳnh Nga ngồi trong
nhà, núp sau cửa sổ nhìn ra đường, sợ run lên khi thấy chiếc ô tô chở
cha tôi chạy qua chạy lại năm, bảy lần, nhưng vẫn không dừng lại. Tôi
nói với Quỳnh Nga: “Cha anh sẽ không vào đâu. Ông không có lý do chính
đáng để xông vào nhà em tìm gặp anh hoặc gặp mẹ em. Anh là con trai chứ
đâu phải con gái đâu mà mắng vốn”. Nhưng thực tế cha tôi nghĩ rằng con
trai mình đã bị “một cô con gái sành sỏi” rù quến và ông tự thấy phải ra
tay cứu con. Chuyện không thể tưởng tượng đã xảy ra ít ngày sau đó: cha
tôi vào tận nơi làm việc của Quỳnh Nga (ở Tòa đô chính) và gặp xếp của
nàng là trung tá Phước, phó đô trưởng nội an để “tố cáo” rằng nữ nhân
viên của ông ta đã “dụ dỗ con trai tôi”! Trung tá Phước là người quen
biết với cha tôi. Để không làm phật lòng bạn mình, ông ta đã cho gọi
Quỳnh Nga vào phòng làm việc và trước mặt cha tôi, ông đã nhẹ nhàng “hỏi
tội” nàng cho có lệ: “Sao cháu lại dụ dỗ con trai của bác Phát?”. Tan
giờ làm, gặp tôi đến rước, Quỳnh Nga khóc sướt mướt, kể lại chuyện vừa
xảy ra và nói: “Cha anh đã làm nhục em ngay tại cơ quan. Em đâu còn mặt
mũi nào để tiếp tục đi làm?”
… Dù tôi nài nỉ cách mấy và nói rõ
tánh tình, con người của Quỳnh Nga xứng đáng như thế nào, cha mẹ tôi vẫn
nhất quyết không chịu cho tiến hành lễ cưới. Nhưng ngược lại mẹ của
Quỳnh Nga vẫn chấp nhận tôi như một chàng rể tương lai và đã tổ chức một
bữa cơm đạm bạc ra mắt gia đình. Và từ đó tôi được coi như con rể chính
thức của gia đình Quỳnh Nga. Thế là tôi đành triển khai kế hoạch tổ
chức cuộc sống riêng. Đầu tiên, tôi cố gắng tìm cho mình một công việc:
tôi đi cùng Quỳnh Nga đến một số trường tư thục xin vào dạy môn Pháp
văn. Các nơi đều từ chối vì cái bằng Tú tài Pháp còn mới toanh của tôi
chưa có gì bảo đảm về khả năng đứng lớp. Tôi đánh liều thuê phần trước
một căn phố gần nhà Quỳnh Nga để trực tiếp mở lớp luyện Pháp văn dành
cho người lớn. Ngày khai giảng có khoảng 10 người đăng ký nhưng dạy được
nửa tháng chỉ còn ba người theo học! Lúc này Quỳnh Nga cũng vừa nghỉ
việc ở sở làm theo yêu cầu của tôi. Lý do: tôi không thể chịu đựng lâu
hơn cái tình trạng có quá nhiều người đàn ông trong sở làm đeo đuổi nàng
đến tận nhà. Trong số đó có một trung tá chiều nào cũng đến nhà Quỳnh
Nga “trồng cây si”. Tôi bực bội vô cùng nhưng không biết cách nào để
loại hắn. Nghĩ mãi tôi mới tìm ra một cách: chờ đúng lúc hắn tới và vừa
ngồi vào ghế xa–lông ở nhà Quỳnh Nga, tôi từ ngoài bước vào chào hắn một
cách đầy tự tin. Rồi tôi đi thẳng vào trong buồng và một lát sau trở ra
với bộ đồ pyjama, ung dung đến ngồi xuống ghế bên cạnh hắn. Tôi xử sự
như mình là chủ trong nhà và là chồng sắp cưới của Quỳnh Nga. Sau đó tôi
mới gọi Quỳnh Nga đang còn ở phía nhà sau: “Em ơi rót trà cho khách”.
Kể từ chiều hôm sau, không còn thấy “cây si” đến mọc giữa nhà Quỳnh Nga nữa!
Và
rồi chuyện khó tránh giữa nam nữ yêu nhau tự do đã xảy ra. Một buổi
sáng đầu năm 1962 trong nhà chỉ còn lại hai chúng tôi, Quỳnh Nga sợ sệt
nói với tôi “Em đã có…”. Tôi không hoảng hốt nhưng lúng túng không biết
phải lo cho Quỳnh Nga như thế nào đây trong những ngày sắp tới. Suy nghĩ
mãi tôi thấy chỉ còn một nước là thử về nói thật với cha mẹ xem sao.
Giận
con cãi lời mình tự quyết định việc chọn vợ, nhưng khi nghe mình sắp
sửa có cháu nội, cả hai ông bà đều dịu giọng. Mẹ tôi bảo xin lỗi cha tôi
để ông đồng ý tổ chức đám cưới. Tôi đã xin lỗi và quì lạy cha tôi. Sau
đó quyết định tiến hành đám cưới rất mau chóng vì Quỳnh Nga đã có thai
gần một tháng. Đám cưới được tổ chức khá lớn, lần lượt tại hai nơi: ở
Sài Gòn, nhà riêng của gia đình tôi và ở Sóc Trăng, nơi cha tôi đang làm
phó tỉnh trưởng.
Thời đẹp nhất và cũng gay go nhất trong đời – tôi
đã sống với Quỳnh Nga (từ 1961 đến 1985). Khi không còn là vợ chồng
nữa, do những bất đồng phát sinh trong cuộc sống chung không thể giải
quyết, chia tay nhau nhưng chúng tôi vẫn kính trọng nhau và tất cả đã
diễn ra khá êm đẹp. Chúng tôi hứa với nhau vẫn là bạn tốt của nhau. Thời
gian đã chứng minh đúng như thế. Dù sau này vì hoàn cảnh đặc biệt, tôi
phải đi thêm hai bước nữa (người vợ thứ hai của tôi – Cúc Phượng – mất
vì bệnh) nhưng giữa tôi và Quỳnh Nga luôn giữ một quan hệ rất tốt đẹp và
tình nghĩa với nhau. Quỳnh Nga vẫn duy trì một sự quan tâm đặc biệt đối
với tôi và giáo dục các con (bốn trai, một gái) luôn yêu thương và chăm
sóc cha của chúng. Nhờ vậy dù cuộc hôn nhân thứ nhất không được trọn
vẹn, nhưng những dằn vặt, mất mát tình cảm cũng được giảm thiểu tối đa
cho cả hai phía, nhất là cho các con.
Quỳnh Nga là một mẫu phụ nữ
khá đặc biệt, không coi nặng đồng tiền và danh vọng. Gắn bó với chồng,
nàng gắn bó với cả lý tưởng của chồng, sẵn sàng chấp nhận mọi bất trắc
và hy sinh. Trong thời kỳ hoạt động chính trị đối lập của tôi, có những
lúc nhà riêng bị cảnh sát chìm theo dõi và bao vây ngày đêm, nàng bình
tĩnh chịu đựng mà không hề thở than. Sau tờ Sài Gòn Tân Văn là tờ báo
đầu tiên tôi làm chủ nhiệm do cha tôi tài trợ, các tờ báo sau đó tôi
xuất bản đều do tiền của hai vợ chồng vay mượn. Mỗi khi chính quyền
Thiệu ra lệnh đóng cửa một tờ báo tôi bỏ tiền ra làm là coi như thêm một
lần trắng tay, nợ nần lại chồng chất. Khi tự khai thác một tờ báo, tôi
mượn trước các nhà phát hành một số tiền, tiền mua giấy để in báo cũng
được trả chậm có khi năm, bảy số, còn tiền nhà in được “gối đầu” ít nhất
hai, ba kỳ in. Do đó vốn bỏ ra cũng không bao nhiêu, thế nhưng với khả
năng tài chính và cái sức của chúng tôi lúc đó thì mỗi khi báo bị đóng
cửa là cả vấn đề gay go. Nhưng chẳng bao giờ nàng than van hay hỏi tôi
làm báo như thế để làm gì. Quỳnh Nga chỉ biết một điều là chồng mình
hành động vì một lý tưởng nào đó, chắc chắn là đẹp, không nhằm làm giàu
hay thu lợi riêng, nhưng được bạn bè thân thiết ủng hộ, những người
chung quanh và độc giả tán đồng. Có lần, khi tôi làm tờ Tiếng Nói Dân
Tộc (1966), nửa chừng hết tiền mua giấy để tiếp tục in báo, đầu óc căng
lên chưa biết tính sao, thì vợ tôi đưa ra ý kiến: Hãy bán chiếc ô tô
FIAT 125 (do một người bạn vừa giúp mua trả góp không đầy hai tháng), để
có tiền mua giấy. Tờ Tiếng Nói Dân Tộc là tờ báo duy nhất trong các tờ
báo tôi bỏ tiền ra làm có hi vọng phất lên. Có thể Tết năm đó (1967) sẽ
là cái Tết tốt đẹp cho tờ báo và nhất là cho anh em công nhân sắp chữ.
Khi tôi xuống phòng sắp chữ theo dõi việc lên trang, anh xếp typô nói
với tôi bằng giọng gần như van nài: “Anh Chung ơi, tờ báo đang bán rất
chạy, anh ráng “dịu giọng” cho qua cái Tết này để anh em tránh lận đận”.
Nhưng số phận khắc nghiệt đã định sẵn, không làm sao né tránh hay “dịu
giọng”, một sự kiện chính trị xảy ra buộc tờ báo phải nói lên chính kiến
của mình. Đó là vụ án Châu–Hồ-Trúc. Cả ba đều bị tòa án của chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu kết án tử hình. Hai người – dân biểu Trần Ngọc Châu và
nhà báo dân biểu Hoàng Hồ - bị coi là hoạt động cho cộng sản, còn người
thứ ba, cũng là dân biểu, anh Phạm Thế Trúc, bị ghép tội “phản quốc” vì
đã đốt hình nộm Nguyễn Văn Thiệu trong một cuộc biểu tình phản chiến ở
Tokyo bên Nhật. Tôi phản đối sự kết án của tòa án chính quyền Sài Gòn và
trong một bài báo tôi đặt vấn đề: đất nước đang bị chia đôi, vậy Tổ
quốc ở đâu và họ đã phản lại Tổ quốc nào?
Chính phủ Nguyễn Văn
Thiệu đã trả lời câu hỏi của tôi một cách rất đơn giản: đóng cửa tờ báo
Tiếng Nói Dân Tộc khi chỉ còn không đầy một tháng là Tết đến! Tôi chẳng
than phiền gì cái quyết định của chính phủ Thiệu vì nó nằm trong luật
chơi của chính trường. Đối đầu với thế lực cầm quyền là đương nhiên phải
hứng chịu những đánh trả của nó. Biết trước những hậu quả ấy nhưng tôi
vẫn không cưỡng lại được cái xu thế phải đứng về phía người dân – phần
đông chống chính quyền Thiệu, chống lại chính sách can thiệp của Mỹ tại
Việt Nam. Cái xu thế ấy chảy trong huyết quản tôi như thể một dòng thác.
Nó cuốn trôi các toan tính riêng tư và quyền lợi cá nhân, mặc dù lúc ấy
tôi không ý thức được rõ ràng dòng thác ấy sẽ đưa mình đến đâu.
Nhưng
khi gặp lại các anh em sắp chữ, tôi thấy xót xa vô cùng. Tết này họ
không có những món tiền thưởng kha khá để mang về cho gia đình. Với vợ
tôi, hình như nàng đoán trước những bất trắc luôn chực chờ các hoạt động
của chồng nên nàng không tỏ ra bất ngờ mà ngược lại nàng còn tán đồng
lập trường của chồng. Cái xe FIAT 125 bay mất, tôi không tiếc nó, nhưng
nhiều năm sau này tôi vẫn tự hỏi mình có thể chọn một thái độ nào khác
mềm dẻo hơn để vẫn giữ vững lập trường, tránh được cho anh em công nhân
sắp chữ một cái Tết khó khăn, lại đồng thời duy trì được lâu dài hơn một
công cụ đấu tranh cho dân chủ và hòa bình?
Suốt 10 năm chồng làm
dân biểu Quốc hội, Quỳnh Nga vẫn sống và sinh hoạt rất giản dị, thời
gian của nàng chủ yếu dành cho chồng con, cái thú đam mê duy nhất của
nàng là quần vợt. Nàng vẫn là nàng, chẳng thay đổi bao nhiêu so với cô
gái mà tôi quen biết ở bên quận Tư ngày nào. Nàng không se sua và tụ tập
với các bà, các cô thuộc xã hội trưởng giả Sài Gòn. Chiếc áo dài vẫn
luôn là cách ăn mặc quen thuộc của nàng.
Mỗi khi tôi làm chủ nhiệm
một tờ báo hoặc thuê manchette một tờ báo nào đó tiếp tục làm báo, Quỳnh
Nga đều đảm nhận vai trò người quản lý của tờ báo. Trong quan hệ với
các ký giả làm việc với chồng, Quỳnh Nga luôn tạo được tình cảm thân
thiết, gắn bó. Cái cảnh cảnh sát hùng hổ đến bao vây nhà in và tòa soạn
tịch thu báo, phá tung các bản kẽm mỗi khi tờ báo có bài chống chính
phủ, chẳng xa lạ đối với nàng. Tinh thần của nàng không hề bị lung lạc.
Mỗi khi biết báo sắp sửa bị tịch thu, nàng tổ chức tuồn báo ra ngõ sau
nhà in để bán vớt vát phần nào (báo bị tịch thu thường bán rất chạy!)
Là
một người trực tính nên tính cách của Quỳnh Nga cũng khá đặc biệt. Nàng
thường hành động theo bản năng và sở thích cá nhân, đôi khi bất kể
những ràng buộc hay khuôn phép chung nên làm tôi nhiều phen cũng phải
điên đầu. Tôi không thể quên được những chuyện xảy ra trong chuyến tham
dự Hội liên hiệp các đại biểu dân cử châu Á (APU) năm 1967 tổ chức tại
Bangkok. Vợ các dân biểu nghị sĩ dự hội nghị cũng được mời tháp tùng.
Lúc đó Quỳnh Nga đang mang thai đứa con gái (Lý Quỳnh Kim Trinh) một
tháng. Ngày đầu thành viên các đoàn (có cả cựu Thủ tướng Nhật Kisi bấy
giờ là Thượng nghị sĩ) được Nhà Vua Thái Lan và Hoàng hậu mời dự tiếp
tân tại Hoàng cung. Các đoàn đều xuất phát từ khách sạn đúng giờ, duy
chỉ có vợ tôi chậm trễ mặc dù tôi liên tục thúc hối nàng. Nàng không
chịu hiểu rằng dự buổi tiếp tân – “reception” – của Nhà Vua hoàn toàn
khác các “reception” bình thường mà khách có thể đến trễ cũng không sao.
Còn lại chỉ hai vợ chồng tôi, xe cảnh sát Thái dẫn đường phải chạy trên
tuyến ngược chiều để hạn chế sự trễ nải. Khi chúng tôi vào Hoàng cung
thì thành viên các đoàn đã đứng xếp hàng đâu đó ngay ngắn nhưng nhà vua
và hoàng hậu vẫn chưa xuất hiện vì ban nghi lễ còn chờ chúng tôi! Đứng
vào hàng, tôi như người mọc đầy gai. Nhưng sau đó khi buổi tiệc bắt đầu,
khách mau chóng quên đi cái lỗi quá cỡ của hai vợ chồng tôi. Chiếc áo
dài màu xanh turquoise (ngọc lam) vừa vặn thân hình rất thon thả của
Quỳnh Nga đã trở thành trung tâm của sự chú ý đầy thiện cảm.
Trong
chuyến đi Bangkok còn xảy ra một chuyện tày trời khác: Vợ tôi vốn không
thích ăn đồ Tây, mà các món ăn chiêu đãi trong suốt mấy ngày ở Bangkok
đều là đồ Tây. Nàng đang ốm nghén nên càng thèm ăn các món Việt Nam. Do
đó khi cả đoàn dự Hội nghị được đưa đi tham quan khu Chợ Nổi (Floating
market), lúc chiếc thuyền máy đưa chúng tôi đi chạy ngang một chiếc ghe
bán hủ tiếu, thế là cơn thèm ăn ở người đang ốm nghén không làm sao kềm
chế được. Nàng nhất định yêu cầu chiếc thuyền máy dừng lại cho nàng ăn
hủ tiếu, bất kể bị cả đoàn bỏ lại đàng sau. Sống với nhau biết tính ý,
tôi đành chiều nàng thôi. Chuyện này may không bị đoàn phát hiện!
Còn
khi nàng nổi cơn ghen lên thì chẳng coi trời đất ra gì, dù đang dự buổi
tiếp tân tại một sứ quán đi chăng nữa. Lần đó chỉ vì một cái bắt tay
với một nữ chính khách duyên dáng nhưng hơi lả lơi, nàng đã buộc tôi
phải rời sứ quán ra về tức khắc “nếu không sẽ bùng nổ chuyện không tốt
lành” vì “tôi không thể kềm chế lâu được”. Cái tính ghen tuông của Quỳnh
Nga nổi tiếng trong giới bạn bè, nhưng thẳng thắn mà nói lỗi ấy do tôi.
Nếu tôi là một người đàn ông nghiêm túc, không yếu lòng với phụ nữ,
không tái đi tái lại “tội lỗi” đối với vợ, thì chắc chắn Quỳnh Nga vẫn
giữ được sự thùy mị, dịu dàng thời con gái. Lấy vợ lúc còn quá trẻ, sự
tò mò về phụ nữ còn đầy ắp khát khao, cho nên dù rất yêu vợ, tôi vẫn
không thể giữa được sự thủy chung đúng nghĩa với vợ mình. Khi chia tay
nhau sau 25 năm chung sống, tôi đã nhận trách nhiệm sự gãy đổ về mình,
dù rằng chưa bao giờ trong suốt thời gian chung sống với Quỳnh Nga tôi
lại có một cuộc sống chung song song với ai khác. Đó chỉ là những cuộc
tình lãng mạn, những dan díu ngắn ngủi nhưng không thể đi xa hơn giới
hạn mà tôi cố gắng đặt ra, bởi mình là người đã có vợ và vợ mình chẳng
có lỗi lầm gì cho mình đối xử tệ bạc. Tôi may mắn, trong tình cảm riêng
tư, đã gặp những phụ nữ luôn ý thức về hoàn cảnh người đàn ông mà họ
đang yêu để biết tự kiềm chế và dành cho nhau những cảm nghĩ tốt dù đã
chia tay. Tôi không bao giờ coi những quan hệ đó là những chiến tích, mà
coi đó là những rung động con tim mình không né tránh được, trách nhiệm
thuộc về mình.
Và khi chính mình không gương mẫu, tôi thấy khó
hướng dẫn, khuyên can vợ cái đúng cái sai trong cuộc sống chung. Cứ thế,
những căng thẳng cứ nổ ra, những mâu thuẫn phát sinh, sự tương kính
cũng giảm dần để rồi vẫn còn yêu nhau nhưng không thể tiếp tục chung
sống với nhau được nữa. Cuộc tình lý ra có thể kéo dài một đời thật đẹp
với biết bao nhiêu kỷ niệm, đành kết thúc sau 25 năm! Hôm chúng tôi chia
tay nhau, tôi đặt lên hai má nàng hai cái hôn đầy tình cảm biết ơn, bởi
vì cuộc đời tôi trong 1 phần 4 thế kỷ sống với nàng, hơn phân nửa sự
nghiệp gây dựng lên là do công lao của nàng. Tôi rời khỏi nhà mang theo
cho riêng mình “sự nghiệp tinh thần” mà cả hai đã cố gắng xây đắp và
chẳng để lại gì đáng giá cho nàng. Vào cái năm 1985 còn đầy khó khăn ấy,
gia đình tôi tay trắng hoàn toàn.
Thế nhưng, một mình bươn chải,
từ một người phụ nữ nội trợ, nàng cùng các con dần dần thoát qua các
giai đoạn hết sức khó khăn ấy để cuối cùng rất thành đạt trong ngành
kinh doanh nhà hàng ở TP. HCM. Nàng vẫn là một phụ nữ mà tôi rất kính
trọng.
CHƯƠNG 5
Trở lại những năm tháng đầu tiên rời gia đình – sống riêng đầy khó khăn ở
bên kinh Nhiêu Lộc nơi nước đen xì hôi hám, đứa con thứ nhì bị bệnh
không có tiền đưa đi bác sĩ – bản thân tôi ở trong tình trạng trốn quân
dịch, may mắn một lần thoát khỏi lưới cảnh sát – dù như thế, nhưng thời
kỳ đó thật sự không hoàn toàn đen tối. Trốn quân dịch, nhưng tôi cũng đã
có dịp đi tận Seoul (Nam Triều Tiên). Và cũng ở trong tình trạng không
hợp lệ quân dịch, tôi lại được mời làm giám đốc Nha tác động tâm lý của
Bộ Thanh niên Thể thao! Chuyện khó tin ấy xảy ra như thế này: Năm 1965,
tôi đang làm tổng thư ký tòa soạn báo Bình Minh , tôi có viết loạt bài
vận động sự thành lập một đại học ở miền Tây. Tôi chỉ trích nội các
Nguyễn Cao Kỳ cố tình không thành lập đại học tại miền Tây để tiếp tục
duy trì khu vực đồng bằng sông Cửu Long ở tình trạng dân trí thấp, hạn
chế sự phát triển dân chủ. Cùng lúc này có một nhóm trí thức miền Nam
tên tuổi như Phạm Hoàng Hộ, Nguyễn Văn Trường, Lý Chánh Trung, Nguyễn
Văn Hảo, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh, Võ Long Triều cũng mở cuộc vận động
mạnh mẽ đòi thành lập đại học miền Tây (ban đầu chưa xác định tên Đại
học Cần Thơ). Người tự đứng ra phối hợp các cuộc vận động này là kỹ sư
Võ Long Triều. Chính anh đã mời tôi nhập nhóm và tham gia các cuộc hội
thảo tổ chức ở Cần Thơ để gây áp lực với chính quyền. Võ Long Triều là
người Công giáo, có hậu thuẫn từ Tòa Tổng giám mục, thêm nữa lúc bấy giờ
anh là một gương mặt trí thức trẻ miền Nam có khá nhiều uy tín, nên
Nguyễn Cao Kỳ chọn anh làm đầu cầu để với tới giới trí thức miền Nam mà
phần đông dị ứng phong cách “cao bồi” của ông và đồng thời không ủng hộ
lập trường hiếu chiến của “nội các chiến tranh” mà ông đứng đầu. Thủ
tướng Kỳ (chức vị chính thức lúc đó gọi là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp
Trung ương) mời Võ Long Triều vào nội các của mình với tư cách Bộ trưởng
Thanh niên (chức danh chính thức là Ủy viên Thanh niên). Để lấy lòng
người dân miền Nam, Thủ tướng Kỳ cũng ra quyết định thành lập Đại học
Cần Thơ.
Khi ông Võ Long Triều trở thành Bộ trưởng, qua trung gian
đại tá Lê Quang Hiền (anh ruột của liệt sĩ Lê Quang Lộc), ông mời tôi
tham gia Bộ này, lúc đầu ở cương vị phó giám đốc Nha thể thao, nhưng tôi
từ chối. Sau ông lại mời tôi vào chức vụ giám đốc Nha tác động tâm lý.
Cái tên Nha này nghe rất “xôm” nhưng thực chất là phụ trách tuyên truyền
và báo chí. Nha này có sẵn trong sơ đồ tổ chức của Bộ Thanh niên từ
trước khi ông Triều về làm Bộ trưởng.
Ngày đầu tiên tôi vào làm ở
Bộ Thanh niên, đại tá Hiền đến tận nhà rước tôi bằng xe Mercedes. Cả xóm
nghèo bên kinh Nhiêu Lộc tò mò ào ra xem. Trước khi nhận lời làm ở Bộ
Thanh niên, tôi có ý về nhà hỏi ý kiến cha tôi. Ông vẫn chưa hết giận về
chuyện tự ý lấy vợ của tôi và nhất là việc nửa đêm tôi đem vợ con trốn
ra ở riêng. Không quay lại nhìn tôi, tiếp tục đọc báo, ông nói: “Có
thằng điên mới mời mày làm giám đốc!”. Với ông, đó là một chuyện khó
tin, vì trong con mắt của ông, tôi còn là một thằng thanh niên hư hỏng.
Phần khác, bản thân ông từ tỉnh trở về Sài Gòn không tìm được cái ghế
giám đốc dù ngạch trật của ông ngang với một Đốc phủ sứ (ngạch bậc cao
nhất của công chức Sài Gòn trước đây). Thế mà “ông con” lại được ai đó
mời làm giám đốc một Nha hẳn hòi – làm sao tin nổi!
Trong thực tế
việc làm giám đốc của tôi ở Bộ Thanh niên suýt nữa không thành. Tôi vẫn
đang trong tình trạng bất hợp lệ về quân dịch. Khi Bộ trưởng Võ Long
Triều ký xong quyết định bổ nhiệm tôi, ông mới biết tình hình này. Ông
có hơi trách tôi đã không cho ông hay trước. Nhưng thật sự mục đích
chính của tôi khi nhận làm giám đốc là muốn hợp thức hóa tình trạng quân
dịch của mình. Tôi xử sự như thế với người tin tưởng mình là không đúng
nhưng đây là cơ hội gần như duy nhất để gỡ bỏ thế bí của tôi. Cũng nên
nói rõ thêm lý do tôi “trốn quân dịch”: hoàn toàn không do sợ cầm súng
ra chiến trường mà là sợ chết một cách vô nghĩa. Vào năm 1964, chiến
trường miền Nam chưa ác liệt. Tôi mê làm báo, không muốn niềm say mê của
mình bị gián đoạn, đó là một lý do. Nhưng lý do lớn hơn là tôi không
tìm thấy trong chuyện cầm súng bảo vệ chế độ Sài Gòn một mục đích lý
tưởng, một ý nghĩa nào để dấn thân.
… Nếu biết trước tôi không hợp
lệ tình trạng quân dịch, rất có thể ông Triều đã không mời tôi tham gia
Bộ Thanh niên. Còn khi đã lỡ rồi (đã có quyết định bổ nhiệm) nên ông
phải tìm cách hợp thức hóa tình trạng của tôi. Ông Triều có quan hệ khá
thân với đại tá Nguyễn Đình Vinh, đổng lý văn phòng Bộ Quốc phòng (lúc
này, Bộ trưởng Quốc phòng là trung tướng Nguyễn Hữu Có). Nhờ sự can
thiệp của đại tá Vinh với đại tá Bùi Đình Đạm, giám đốc Nha động viên,
tôi được cấp giấy tạm hoãn quân dịch một khóa (khóa mà tôi không trình
diện) và phải trình diện ở khóa tới. Và như thế coi như tôi được hợp
thức tình trạng quân dịch bất hợp lệ trước đây của tôi. Nếu diễn tiến
các sự việc bình thường, tôi phải nhập ngũ trong bốn tháng tới. Điều tôi
không thể nào ngờ là cái giấy hoãn dịch ấy, đến đúng lúc đã giúp tôi có
một bước ngoặt hết sức quan trọng trong cuộc đời mình.
Ngày
6-6-1965, Ủy ban lãnh đạo quốc gia, một định chế do quân đội lập ra gồm
các tướng lãnh, đứng đầu là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, đóng vai quốc
trưởng (còn thiếu tướng Kỳ, chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương, đóng
vai trò thủ tướng) dưới sức ép của Mỹ buộc phải tuyên bố tổ chức Quốc
hội lập hiến. Sắc lệnh tổ chức bầu cử do tướng Kỳ ký hai tuần sau đó, ấn
định ngày bầu cử là 11-9-1966. Ý đồ của Mỹ là tạo ra một nền tảng pháp
lý và dân chủ do chính quyền Sài Gòn, từ đó sự can thiệp của Mỹ vào Việt
Nam, núp dưới chiêu bài theo yêu cầu của chính quyền Sài Gòn, cũng có
cơ sở pháp lý với quốc tế.
Cả ông Thiệu và ông Kỳ đều hiểu rằng đây
cũng là lúc Washington sẽ chọn chính thức – trong hai người, ai sẽ đứng
đầu miền Nam vì tiếp theo cuộc bầu Quốc hội lập hiến, sẽ là cuộc bầu cử
tổng thống. Người Mỹ được chọn ra ứng cử sẽ đương nhiên đắc cử vào vị
trí này. Cuộc chạy đua giành ảnh hưởng và gây thế lực giữa hai người đã
diễn ra ngay sau khi ngày bầu cử Quốc hội lập hiến được công bố. Ông
Thiệu và ông Kỳ đều muốn rằng đa số dân biểu trong quốc hội sắp tới là
người của mình. Do đó cả hai phía đều tung ra tay chân để tập hợp lực
lượng, đưa người ra ứng cử vào quốc hội.
Từ khi lên làm thủ tướng,
ông Kỳ tìm cách lấy thêm hậu thuẫn ở cánh trí thức miền Nam để lấp vào
chỗ yếu nhất của mình. Ông là người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954.
Người làm trung gian đắc lực cho ông Kỳ trong ý đồ này là kỹ sư Bộ
trưởng Thanh Niên Võ Long Triều. Chính ông Triều đã “thầy dùi” cho thủ
tướng Kỳ ký quyết định thành lập Đại học Cần Thơ. Tôi cũng đã chứng kiến
một nỗ lực khác của Kỳ, qua trung gian ông Triều, nhằm lôi kéo trí thức
miền Nam vào chính phủ của ông ta. Thời gian này tôi đang làm giám đốc ở
Bộ Thanh niên. Ông Triều thay mặt thủ tướng Kỳ mời một nhóm trí thức
miền Nam như Âu Trường Thanh, Nguyễn Văn Trường, Khương Hữu Diểu, Âu
Ngọc Hồ, Nguyễn Văn Bông, Trương Văn Thuấn đến nhà riêng của tướng Kỳ
nằm trong một khu đặc biệt ở sân bay Tân Sơn Nhất. Tôi cũng có mặt trong
cuộc gặp gỡ này. Ông Nguyễn Cao Kỳ xuất hiện trong bộ đồ bay phi công.
Sau khi nâng ly và có vài lời thăm hỏi xã giao với khách, ông Kỳ đi
thẳng vào mục đích cuộc gặp gỡ. Đầu tiên ông than phiền cụ ngoại trưởng
Trần Văn Đỗ già quá, đi họp với Mỹ ở Honolulu (đầu tháng 2 năm 1966) mà
ho sù sụ, do đó ông muốn trẻ hóa nội các. Ông cũng muốn đính chính một
cách cụ thể nội các của ông không phân biệt Nam Bắc bằng cách muốn mời
nhiều người miền Nam tham gia chính phủ của ông. Đến đây nhìn những vị
khách ngồi trước mặt mình, ông Kỳ nói: “Tôi chính thức mời tất cả quý vị
có mặt ở đây tham gia chính phủ. Quí vị cần trả lời đồng ý là tôi bổ
nhiệm”. Ngay lúc đó không ai trả lời “đồng ý” với ông Kỳ. Nhưng sau đó,
nội các của ông Kỳ cũng “kéo” được bốn người miền Nam tham gia: Âu
Trường Thanh (Bộ trưởng tài chánh), Trương Văn Thuấn (Bộ trưởng giao
thông), Nguyễn Văn Trường (Bộ trưởng giáo dục), Trương Thái Tôn (Bộ
trưởng kinh tế), không kể Võ Long Triều được bổ nhiệm làm Bộ trưởng
Thanh niên trước đó. Tướng Kỳ tha thiết mời ông Nguyễn Văn Bông, đang là
Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh, làm bộ trưởng tại Phủ tướng
nhưng ông Bông từ chối. Có thể tướng Kỳ không biết hoặc biết nhưng phớt
lờ, sở dĩ ông Bông không quan tâm tới lời mời của ông là vì chính ông
Bông đang nuôi tham vọng giành lấy chức vụ thủ tướng của tướng Kỳ. Hơn
nữa còn phải hiểu khuynh hướng chính trị của ông Bông gần với trung
tướng Thiệu hơn là thiếu tướng Kỳ. Có lẽ trên thế giới chưa có một thủ
tướng nào mời người tham gia nội các một cách độc đáo như thế!
Trở
lại cuộc chạy đua giành ảnh hưởng trong quốc hội lập hiến giữa hai tướng
Thiệu, Kỳ, phía nào cũng tìm cách đưa người của mình ra ứng cử. Ông
Triều là một trong những đầu mối tập hợp quân cho tướng Kỳ. Dĩ nhiên khi
làm việc này, ông Triều cũng nhằm củng cố cho mình một hậu thuẫn riêng
có thể mặc cả có lợi cho mình trên sân khấu chính trị sắp tới. Theo tôi
hiểu, người tài trợ cho các ứng cử viên dân biểu được ông Triều tập hợp
chính thức là tướng Kỳ chứ không ai khác. Rất có thể ông Kỳ đã lấy tiền
từ quỹ đen (caisse noire) dành cho thủ tướng để chi. Trong số những
người được ông Triều đưa vào danh sách ứng cử có tôi. Nhưng trong kế
hoạch ban đầu của ông Triều, tôi chỉ đóng vai người lót đường trong một
liên danh ứng cử mà người đứng đầu là ông Nguyễn Bá Nhẫn, một người bạn
thân của ông Triều, đang là tổng cục trưởng Tổng cục tiếp liệu.
Thể
thức bầu cử Quốc hội lập hiến, theo liên danh tỷ lệ, tiến hành như sau:
chẳng hạn như đơn vị tôi ra ứng cử là đơn vị 3 Sài Gòn gồm các quận 4,
6, 7, 8, có khoảng 250 ngàn cử tri bầu 5 dân biểu. Như vậy trên lý
thuyết 1 dân biểu đại diện cho 50 ngàn cử tri. Mỗi liên danh ứng cử gồm 5
người. Nếu có liên danh nào lấy được tất cả 250 ngàn phiếu thì giành
trọn 5 ghế dân biểu về mình, cũng có nghĩa cả 5 người trong liên danh
đều trúng cử. Điều đó trong thực tế không thể xảy ra. Liên danh về đầu
khó đoạt hơn 2 ghế, bởi muốn đoạt 2 ghế phải giành ít nhất từ 75 ngàn
phiếu trở lên (3 ghế phải trên 125 ngàn phiếu). Các liên danh kế tiếp
thường chỉ đoạt số phiếu 50 ngàn trở xuống và giành tối đa 1 ghế. Do đó
gần như chỉ có người đứng đầu liên danh mới hi vọng đắc cử. Trong liên
danh của ông Nguyễn Bá Nhẫn, gồm 5 người, tôi đứng thứ hai sau ông. Tôi
không có tham vọng chính trị và cũng chưa ý thức được vào quốc hội để
làm gì nên bình thản chấp nhận vai trò “người lót đường” theo yêu cầu
của ông Võ Long Triều, lúc đó vừa là người đứng đầu một tập hợp chính
trị có tên Phong trào Phục hưng Miền Nam (PTPHMN). PTPHMN qui tụ một số
trí thức trẻ miền Nam, phần nhiều là nhà giáo – học trò cũ của các giáo
sư Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trường. Ông Triều và ông Trung đều là
người Công giáo và là bạn thân thiết với nhau trong thời điểm đó. Tôi
cũng có tham gia phong trào này lúc ban đầu. Các liên danh do ông Triều
thúc đẩy ra ứng cử tại Sài Gòn và một số tỉnh miền Tây đều trương bảng
hiệu PTPHMN. Phong trào này không đề ra một cương lĩnh chính trị rõ
ràng, chủ yếu chỉ đề cao tình yêu nước chung chung, và kêu gọi góp sức
phục hưng các giá trị truyền thống của miền Nam Việt Nam. Với sự hỗ trợ
tích cực phía sau của thủ tướng Kỳ, ông Triều và những người bạn thân
thiết của ông như Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận, Hoàng Ngọc Tuệ, Đỗ Ngọc
Yến, Trần Văn Ngô còn thành lập một phong trào hoạt động xã hội có tên
là “Phong trào phát triển quận 8”. Phong trào này nhằm hô hào chính
quyền và dân chúng góp tay biến các khu ổ chuột thành những khu dân cư
khang trang.
Chỉ còn không đầy một tuần hết hạn nộp đơn ứng cử thì
xảy ra một sự kiện hoàn toàn bất ngờ: ông Nguyễn Bá Nhẫn thông báo cho
ông Triều quyết định rút tên của ông. Lý do chính thức ông Nhẫn nêu ra
thật hết sức lạ: mẹ ông không đồng ý cho ông tham gia chính trị. Thật hư
thế nào không thể biết được. Nhưng hậu quả là thời gian còn lại quá cận
kề, ông Triều chỉ còn cách yêu cầu tôi thay ông Nhẫn, tức đôn tên tôi
lên và tìm thêm một người bổ sung vào vị trí độn (tôi mời một nhà báo
Hoa văn có quốc tịch Việt Nam bổ sung cho đủ danh sách năm người). Việc
ông Nhẫn rút lui, với tôi như một thứ định mệnh: nó làm thay đổi dòng
chảy của đời tôi. Từ lãnh vực báo chí, tôi bước sang lãnh vực chính trị
một cách hết sức tình cờ! Kết quả liên danh của tôi về thứ ba với khoảng
40 ngàn phiếu (được một ghế) sau liên danh của dược sĩ La Thành Nghệ
(có trên 75 ngàn phiếu giành 2 ghế) và liên danh của Văn Công Đính, một
cựu nghị viện Hội đồng thành phố (được trên 50 ngàn phiếu cũng chỉ được 1
ghế). Liên danh về thứ tư của một giáo viên, ông Nguyễn Văn Sâm, giành
chiếc ghế dân biểu cuối cùng của đơn vị Sài Gòn. Vào thời điểm này rất
ít ai biết tôi, vì tôi còn quá trẻ, chưa từng tham gia hoạt động chính
trị, thời gian hoạt động báo chí cũng ngắn ngủi – nên đạt vị trí thứ ba
trên năm liên danh là khá lắm rồi. Nếu cuộc bầu cử này không theo thể
thức liên danh tỷ lệ thì chắc chắn tôi không có chút hi vọng nào. Mục
đích của thể thức liên danh tỷ lệ nhằm thành lập một quốc hội làm Hiến
pháp với sự tham gia của đại diện nhiều đảng phái và khuynh hướng chính
trị khác nhau, dĩ nhiên ngoại trừ những người cộng sản. Cuộc tham gia
vào chính trường miền Nam của tôi bắt đầu như thế - không do tôi chủ
động và với quá nhiều tình cờ không thể tưởng tượng (nhưng hầu như đều
thuận lợi cho tôi).
Thế là trong vòng không đầy một năm, từ một
sinh viên bỏ học dở dang, trốn quân dịch, mới tập tễnh với nghề viết
báo, tôi trở thành giám đốc ở Bộ Thanh niên rồi bây giờ là dân biểu Quốc
hội! Lúc đó tôi tròn 26 tuổi.
Khi tôi làm giám đốc Nha tác động
tâm lý tại Bộ Thanh Niên, dưới quyền tôi có hai chánh sự vụ (tương đương
với trưởng phòng hiện nay, cả hai đều tốt nghiệp Học viện quốc gia hành
chánh. Một người tốt nghiệp khóa 3 (anh Nguyễn Dõng )và một người tốt
nghiệp khóa 6 (anh Đỗ Tiến Đức). Tôi cũng học trường này nhưng lại bỏ
ngang; khóa học của tôi là khóa 10, lúc tôi làm giám đốc, khóa của tôi
vẫn còn một năm nữa mới tốt nghiệp! Làm thế nào để hai người thuộc thế
hệ đàn anh rất xa mình, tốt nghiệp trước mình từ 4 đến 7 năm, lại chấp
nhận cộng tác dưới quyền mình – quả thật không đơn giản. Tôi còn nhớ
ngày đầu tiên tôi đến bộ Thanh niên để nhận nhiệm vụ, anh Đỗ Tiến Đức
(sau này làm giám đốc Trung tâm điện ảnh quốc gia ở Sài Gòn) đã đưa tôi
đi giới thiệu với các nhân viên trong Nha với một thái độ gần như thiếu
kính trọng đối với tôi – một cấp trên vừa nhỏ tuổi đời, lại học dưới ông
quá xa. Tôi bình tĩnh và phớt lờ như chẳng thấy gì cả. Nhưng liền sau
đó tôi cho mời cả hai ông chánh sự vụ vào phòng tôi và nhấn mạnh cho hai
ông rõ chức vụ giám đốc của tôi được Bộ trưởng trao là nhiệm vụ chính
trị (fonction politique) chứ không phải một chức vụ thuần về hành chính.
Về mặt điều hành hành chính của Nha, hai ông vẫn là những người chịu
trách nhiệm chính; các văn bản và đề xuất do hai ông trình ký phải có
chữ ký tắt của một trong hai người, chịu trách nhiệm trước về mặt quy
cách hành chính.
Một thời gian sau có lệnh tổng động viên, mỗi cơ
quan chỉ được giữ lại một người ở tuổi quân dịch thuộc diện gọi là “tối
cần thiết”. Ông Đỗ Tiến Đức xin gặp tôi để biết số phận của ông ra sao.
Ông trình bày với tôi nếu ông không được tôi xếp vào loại nhân viên “tối
cần thiết” thì cho ông biết sớm, để ông “chạy” một nơi khác có thể giữ
ông lại khỏi đi quân dịch. Tôi trả lời: “Ông Đức yên tâm. Người được xếp
vào loại tối cần thiết ở Nha này là ông, chứ không ai khác”. Khi bước
vào phòng tôi, tôi nghĩ ông Đức đang chờ đợi nhận một câu trả lời như
thế bởi ông chưa quên được thái độ của ông trong ngày đầu ông giới thiệu
tôi với nhân viên của Nha như thế nào.
Tại Nha tôi điều hành còn
có một tạp chí chuyên đề thanh niên do nhà văn Lê Tất Điều phụ trách.
Tôi đã từng đọc và thích thú một số tác phẩm của Lê Tất Điều nên khi gặp
anh trực tiếp tại Bộ Thanh niên tôi không giấu giếm tình cảm của mình
dành cho anh.
Cũng chính trong thời gian tôi cộng tác với ông Triều
tại Bộ Thanh niên – thể thao, bóng đá Việt Nam đạt đỉnh cao ở Đông Nam
Á: đoạt danh hiệu vô địch Merdeka, một giải có qui mô tương đương với
Tiger Cup sau này. Tôi có tham dự buổi chiêu đãi của Bộ Thanh niên dành
cho đoàn quân chiến thắng mà cầu thủ nổi bật là Tam Lang. Nhưng cần nói
ngay, vai trò về mặt nhà nước của Bộ Thanh niên đối với bóng đá lúc đó
hoàn toàn khác. Sinh mệnh của làng bóng đỉnh cao hoàn toàn nằm trong tay
của Tổng cụ bóng tròn, một tổ chức 100% xã hội hóa.
Khi tôi vào
Quốc hội sau đó, hành trang chính trị của tôi hầu như chẳng có gì, vì
tôi chưa từng trải qua một ngày học luật và chưa từng có những hoạt động
chính trị đúng nghĩa. Tuy nhiên phải nói rằng thời gian hòa nhập vào
làng báo trong 3 năm (từ 1963 đến 1966) cũng giúp tôi có một số hiểu
biết về tình hình đất nước và hình thành bước đầu thái độ chính trị của
mình. Lập trường của tôi trong Quốc hội ở những ngày đầu tiên là sự
khẳng định lại quan điểm chính trị mà mình đã từng phát biểu trên báo
chí. Dù đây là một Quốc hội làm hiến pháp nhưng tôi nghĩ trước hết nó
phải là diễn đàn của dân và vì dân và tiếng nói quan trọng nhất đối với
một dân biểu trên diễn đàn Quốc hội vào thời điểm đó nhất thiết phải là
tiếng nói đấu tranh cho dân chủ và công bằng, tiếng nói đòi chấm dứt
chiến tranh, chống lại sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam.
CHƯƠNG 6
Buổi khai mạc Quốc hội, tôi mời cha tôi và Quỳnh Nga, vợ tôi tham dự với
tư cách khách mời riêng của cá nhân tôi (mỗi dân biểu đắc cử được mời
hai người khách trong buổi khai mạc). Dù thế nào, đây cũng là bước thành
đạt đầu tiên của tôi khi tham gia vào đời sống chính trị Sài Gòn, tôi
muốn cha tôi và vợ tôi được chứng kiến ngày này. Đó cũng là một cách nhớ
ơn sinh thành của cha mẹ và công lao của người vợ đã chia sẻ những gian
nan và khó khăn ban đầu với mình. Ngồi giữa khung cảnh rộng lớn của Nhà
hát thành phố, lần thứ hai được sử dụng làm trụ sở Quốc hội (lần đầu
dưới chế độ Ngô Đình Diệm), tôi vẫn chưa hết ngỡ ngàng những gì đã xảy
ra với mình. Tôi bước vào sân khấu chính trị không do chính tôi chủ động
mà do định mệnh chọn lựa mình. Tôi không than phiền gì về sự “chỉ định”
này của định mệnh vì trong hoàn cảnh đặc biệt của đất nước rất cần
tiếng nói ở nhiều phía và từ nhiều đấu trường khác nhau để có một sức
mạnh tổng hợp lòng lay chuyển tình thế thì diễn đàn Quốc hội cũng là một
môi trường hoạt động khá thuận lợi. Mặc dù nhiều lúc Quốc hội Sài Gòn
khi ấy không khác một nhà hát hài kịch rẻ tiền và lố lăng, nhưng từ diễn
đàn này cũng đã vang lên khá nhiều tiếng nói của những phần tử đối lập,
của những ý thức vận nước tìm cách thể hiện nguyện vọng của người dân
miền Nam không chịu tách rời với miền Bắc ruột thịt, muốn được thấy Tổ
quốc hòa bình, độc lập và thống nhất.
… Lúc đó tôi không bao giờ
ngờ mình sẽ ngồi luôn trong cái “nhà hát” ấy ở Công trường Lam Sơn suốt
10 năm qua, qua 3 nhiệm kỳ liên tiếp: 1966-1967, 1967-1971 và 1971-1975!
Biết bao tấn tuồng đã diễn ra ở nơi này. Chẳng thiếu gì cả: từ dân biểu
buôn lịch “ở truồng” đến dân biểu buôn bạch phiến, từ những màn đấu
miệng đến những màn đấu đá thật sự u đầu sứt trán. Những cuộc mua bán
phiếu như ngoài chợ trời v.v… Nó đúng là sân khấu thu hẹp của một chế độ
bát nháo, tham nhũng, mất định hướng, mỗi lúc một suy tàn. Và màn chỉ
hạ xuống sau ngày 30-4-1975.
Phong trào Phục hưng miền Nam do kỹ sư
Võ Long Triều tập họp có khoảng bảy người lọt vào Quốc hội lập hiến.
Trong 117 dân biểu được bầu ở toàn miền Nam, tôi là người nhỏ tuổi thứ
hai (26 tuổi) sau nhà giáo Nguyễn Hữu Hiệp, đắc cử tại Đà Lạt. Mặc dù số
dân biểu của Phong trào Phục hưng Miền Nam chỉ có bảy người nhưng tôi
vẫn vận động được sự liên kết của một số dân biểu khác để thành lập khối
dân biểu Dân tộc. Theo nội qui của Quốc hội lập hiến, bất cứ một nhóm
dân biểu nào, từ 20 người trở lên, tự nguyện tập họp lại sinh hoạt chung
thì được chính thức công nhận là một khối, được bầu một trưởng khối,
một hay hai phó trưởng khối và một thư ký khối. Quốc hội dành cho khối
một văn phòng trong trụ sở Quốc hội, một ô tô riêng với tài xế cho
trưởng khối. Tại diễn đàn quốc hội, trưởng khối được hưởng quyền ưu tiên
phát biểu (không chờ thứ tự đăng ký) khi đại diện cho khối. Trong 117
dân biểu có đủ tất cả các tôn giáo như Công giáo, Phật giáo, Hòa hảo,
Cao đài, Tin lành, đủ các thành phần như quân nhân, công chức, giáo
viên, doanh nhân, trí thức, các đảng phái như Việt Nam Quốc dân đảng,
Đại Việt, Tân Đại Việt. Do chưa có ai nắm trọn quyền lực tại miền Nam
vào thời điểm này, cuộc đối đầu lúc ngấm ngầm, lúc công khai giữa hai
tướng lãnh Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ vẫn chưa ngã ngũ, nên có lẽ
đây là quốc hội có nhiều thành phần độc lập nhất so với các kỳ Quốc hội
sau này (1967-1971 và 1971-1975). Để thành lập khối Dân tộc, tôi dựa
vào 3 thành phần: các dân biểu Phục hưng miền Nam, các dân biểu Phật
giáo và một số dân biểu độc lập. Người tiếp tay một cách tích cực dựng
lên khối này, không có anh không thể hình thành khối là dân biểu Phan
Xuân Huy, đơn vị Đà Nẵng. Là một giáo viên dạy toán nhưng thuộc thành
phần đấu tranh cánh tả trong giới trí thức miền Trung, đồng thời hoạt
động trong hàng ngũ Phật giáo chống chính quyền (thường được gọi là Phật
giáo Ấn Quang), Phan Xuân Huy đã thuyết phục các dân biểu Phật giáo và
một số nhân sĩ miền Trung gia nhập khối Dân tộc. Để thuyết phục mạnh mẽ
hơn các dân biểu Phật giáo gia nhập khối Dân tộc do tôi làm trưởng khối,
dân biểu Phan Xuân Huy đưa tôi đi thăm thượng tọa Thích Thiện Minh,
người có ảnh hưởng khá lớn trong Phật giáo Ấn Quang.
Nhưng cho đến
gần hạn chót nộp danh sách của khối, chúng tôi vẫn thiếu một người để
khối được công nhận chính thức. Người cuối cùng chúng tôi tìm ra để bổ
sung cho đủ 20 người là ông Giáp Văn Thập, chủ trường dạy lái xe ở Tân
Định, đắc cử dân biểu ở đơn vị 1 Sài Gòn nhờ những phát biểu ồn ào và mị
dân. Dân chủ theo kiểu tư sản, một thứ tự do vô tổ chức, thường sản
sinh những phần tử cá biệt như ông Thập. Nhưng vẫn cần ông để có đủ số
dân biểu thành lập khối. Thuyết phục ông không phải dễ dàng, lúc đầu ông
đặt điều kiện gia nhập khối phải được trao chức Trưởng khối, vận động
mãi ông mới chịu hạ yêu sách xuống còn phó trưởng khối. Trong khối còn
có một nhân vật đối lập rất được báo chí theo dõi và đưa tin vì ông luôn
có những tuyên bố chống chính phủ mạnh mẽ: Trương Gia Kỳ Sanh, dân biểu
Bình Thuận. Tôi nhớ ông Kỳ Sanh được mời làm cố vấn khối.
Tôi được
bầu trưởng khối vì số dân biểu Phong trào Phục hưng miền Nam đông nhất
và mặt khác tôi cũng được sự ủng hộ của các dân biểu Phật giáo. Không
công khai tuyên bố nhưng mặc nhiên khối Dân tộc trở thành khối dân biểu
đối lập đầu tiên trong quốc hội Sài Gòn, do lập trường chống chính quyền
quân sự và chống chiến tranh. Dân biểu Phan Xuân Huy nhiều lần bị các
tờ báo thân chính quyền tố cáo là tay sai của cộng sản nhưng anh Huy
không hề nao núng. Chúng còn tìm cách bôi lọ anh bằng cách tung tin tại
quốc hội và trên báo chí rằng anh bị bệnh liệt dương! Nhưng Phan Xuân
Huy đã phản công trở lại ngay trong một phiên họp khoáng đại bằng cách
lên diễn đàn công khai đặt vấn đề: Những vị nào bảo rằng tôi bị bệnh
liệt dương thử để các bà vợ đến “kiểm tra” tôi thì biết ngay sự thể như
thế nào!
Giới quân nhân đang chi phối chính trường miền Nam lúc đó
có ý định đưa vào hiến pháp một chương riêng công nhận vai trò lãnh đạo
miền Nam Việt Nam của một Hội đồng quân sự tối cao. Số dân biểu đàn em
của các tướng Thiệu – Kỳ ra sức vận động cho mục tiêu này. Phản ứng của
các dân biểu độc lập và đối lập cũng rất quyết liệt. Cụ Phan Khắc Sửu
được bầu làm chủ tịch Quốc hội là một trong những tiếng nói có trọng
lượng chống lại ý đồ này của các dân biểu gốc quân nhân và thân chính
quyền. Phe quân đội tổ chức nhiều cuộc hội thảo để gây áp lực với quốc
hội. Bản thân tôi được mời tham dự một cuộc đối thoại với sinh viên cao
học luật khoa mà mục đích là vận động cho sự chấp nhận một Hội đồng quân
sự trong bản hiến pháp. Buổi đối thoại này được chủ trì bởi hai vị giáo
sư hàng đầu của Đại học Luật là Nguyễn Cao Hách và Vũ Quốc Thúc lúc đó
có khuynh hướng ủng hộ phe quân nhân. Cần nói thêm rằng các sinh viên dự
buổi đối thoại phần nhiều cũng được chọn theo quan điểm của lãnh đạo
trường. Ở phía dân biểu, ngoài tôi còn có dân biểu – bác sĩ Phan Quang
Đán. Rất may ông Đán có lập trường giống tôi đối với vấn đề này: bác bỏ
một cách thẳng thừng sự hiện diện của Hội đồng quân sự trong hiến pháp.
Cuộc đối thoại đôi khi căng thẳng nhưng vẫn giữ được không khí ôn hòa.
Với
tư cách trưởng khối Dân tộc, gần cuối nhiệm kỳ quốc hội, tôi cũng được
Học viện quốc gia hành chính mời thuyết trình về bản dự thảo hiến pháp
cho lớp Cao học (ngạch đốc sự). Điều đáng nói là các sinh viên cao học
dự buổi thuyết trình của tôi đều là bạn học cùng khóa với tôi trước khi
tôi đi bỏ học nửa chừng. Người chủ trì là giáo sư Nguyễn Ngọc Huy cũng
là nhân vật lãnh đạo của đảng Tân Đại Việt, thân chính quyền Thiệu,
chống Cộng và rất có thế lực trong giới quân nhân cấp tá và công chức.
Giáo sư Huy còn là một chuyên viên về luật Hiến pháp. Thật không dễ dàng
chút nào cho một tay ngang như tôi nói về luật Hiến pháp trước ông thầy
dạy môn hiến pháp và với những sinh viên mà đáng lý mình vẫn còn phải
ngồi học chung với họ. Nhưng sau gần một năm tham dự không biết bao
nhiêu phiên họp của quốc hội, bàn đi bàn lại từng điều của Hiến pháp –
được nghe từ những phát biểu chính thống của những chuyên viên luật
nhiều kinh nghiệm cho đến những đề xuất, yêu cầu rất thực tế của các dân
biểu thuộc các thành phần khác nhau – hầu như tôi được tiếp cận với tất
cả các ngóc ngách liên quan đến luật Hiến pháp. Không có câu hỏi hay
thắc mắc nào mà không được mổ xẻ trên diễn đàn Quốc hội. Nhờ trải qua
cái trường “đại học luật” đặc biệt ấy, tôi đã đối đầu khá suôn sẻ và
thuyết phục trước những đồng học cũ của mình tại buổi thuyết trình.
Cũng
trong thời gian này, với tư cách dân biểu đối lập, tôi được Tổng hội
Sinh viên Sài Gòn mời tham dự cuộc hội thảo về tình hình miền Nam và
quốc hội lập hiến tại trụ sở của Tổng hội ở số 4 Duy Tân (nay là Nhà Văn
hóa Thanh niên). Tôi nhắc lại cuộc hội thảo này vì đây là cuộc tiếp xúc
đầu tiên của tôi với giới sinh viên và cũng là lần đầu tôi gặp linh mục
Nguyễn Ngọc Lan. Linh mục cũng là khách mời của Tổng hội. Tại cuộc hội
thảo, linh mục Lan tỏ ra rất tả khuynh, thỉnh thoảng tấn công lập trường
của tôi lúc đó còn khá ôn hòa. Tôi còn nhớ cha Lan nhìn tôi như “một
chàng thanh niên làm chính trị tài tử” sẽ không đủ sức và đủ quyết tâm
kiên trì theo đuổi con đường chính trị đối lập của mình. Ngày hôm sau,
khi báo chí Sài Gòn, nhất là báo chống Cộng tường thuật cuộc hội thảo,
họ lại tấn công chủ yếu vào tôi, tố cáo tôi có lập trường lập lờ.
Từ
cuộc gặp nhau lần đó tại trụ sở Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, tôi và linh
mục Lan suốt cả chục năm sau này (cho đến ngày 30-4-1975) có rất nhiều
cơ hội hoạt động chung với nhau và thời gian đã trả lời cho cha Lan “cái
chàng thanh niên có vẻ làm chính trị tài tử” ấy cũng có đủ sự kiên trì
để đi đến cùng con đường đã chọn.
… Thời gian hoạt động khoảng một
năm trong Quốc hội lập hiến đã tạo điều kiện cho tôi tích lũy được một
số uy tín đối với cử tri đã bầu cho mình và cả trong dư luận xã hội nói
chung. Tên của tôi xuất hiện thường xuyên trên các báo qua các phát biểu
thẳng thắn và mạnh dạn tại quốc hội, dần dần được nhiều giới biết đến
và ủng hộ. Báo chí Sài Gòn rất “mặn mà” với các buổi thảo luận và “đấu
khẩu” trên diễn đàn quốc hội vì loại bài tường thuật này rất được độc
giả ưa chuộng. Phần nhiều các báo đều dành thiện cảm cho các dân biểu
đối lập và tỏ ra coi thường các phần tử thân chính quyền mà họ gọi là
“gia nô”. Chính sự thuận lợi này trong dư luận và trên báo chí đã giúp
tôi sau này tái đắc cử vào Quốc hội lập pháp (1967) mà không cần phải
dựa vào một thế lực hay đảng phái chính trị nào.
Tại Quốc hội lập
hiến, sau khi dân biểu Trần Văn Văn bị ám sát ở ngã ba Phan Kế Bính và
Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) – lúc đó nhiều người cho rằng
do bàn tay của trung tá Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc cảnh sát – tôi
được Quốc hội bầu làm chủ tịch “Ủy ban điều tra vụ ám sát DB Trần Văn
Văn”. Tôi tiến hành cuộc điều tra một cách hăng say và cũng rất thơ
ngây! Đầu tiên tôi yêu cầu Tổng nha cảnh sát phải cung cấp cho tôi chứng
cứ người ám sát ông Trần Văn Văn là “Việt cộng” như trung tá Loan đã
công bố với báo chí. Tiếp đó tôi đòi Tổng nha tổ chức cho tôi buổi gặp
riêng với “thủ phạm” Võ Văn Em mà không có sự chứng kiến của bất cứ
người thứ ba nào.
Diễn tiến buổi gặp do Tổng nha cảnh sát tổ chức
ngay tại Tổng nha có vẻ đáp ứng các yêu cầu của tôi với tư cách là chủ
tịch Ủy ban điều tra Quốc hội. Điều mà tôi không hay biết là đại tá Loan
đã giăng sẵn cái bẫy ở phía sau. Khi tôi vào gặp nhân vật có tên là Võ
Văn En, theo Tổng nha là người đã cầm súng ngắn hạ sát ông Văn và thuốc
súng còn tìm thấy trên bàn tay của Võ Văn En lúc bị bắt cách hiện trường
không xa, thì đúng như yêu cầu của tôi: trong phòng riêng chỉ có tôi và
anh En. Tôi bước vào và ra dấu cho En không nói gì cả và để tôi kiểm
tra xem trong phòng có đặt máy nghe lén không. Ngoài một cái bàn và hai
cái ghế, trong phòng chẳng có một vật nào khác. Bố bức tường cũng hoàn
toàn trống trải. Tôi không thấy chỗ nào cảnh sát có thể đặt máy. Cuộc
nói chuyện giữa tôi và anh En có thể tóm lược như sau: En cho rằng anh
chỉ lái xe máy chở một người lạ mặt thuê anh, còn người cầm súng bắn
ngồi phía sau anh đã tẩu thoát. Về phần tôi, tôi nói với En nếu anh
không phải là thủ phạm thì phải cương quyết phản đối, tối sẽ giúp anh
làm việc đó. Nếu không phản đối quyết liệt, họ có thể xử kín và thủ tiêu
anh.
Về nhà, tôi chuẩn bị một bản tường trình để ngày mai báo cáo
với các thành viên trong Ủy ban điều tra và sau đó là trước phiên họp
khoáng đại của quốc hội. Thật bất ngờ: sáng hôm sau khi vừa bước vào
phòng họp Quốc hội, tôi thấy trên bàn của mỗi dân biểu đều có một tập hồ
sơ của Tổng nha cảnh sát với nội dung: “Dân biểu Lý Quý Chung đã xúi
giục Võ Văn En phản cung như thế nào?”. Kèm theo những lời lẽ lên án tôi
và đòi Quốc hội “phải có thái độ với dân biểu Lý Quý Chung” là một tài
liệu ghi lại nguyên văn cuộc nói chuyện của tôi với bị cáo Võ Văn En.
Tài liệu ghi lại chính xác cuộc nói chuyện từng lời, điều đó chứng tỏ
Tổng nha đã tổ chức ghi băng toàn vẹn cuộc gặp này. Sau này tôi mới biết
từ thời đó đã có những thiết bị hiện đại nghe lén, không cần đặt máy
thu trực tiếp trong phòng.
Trước sự việc quá bất ngờ, trấn tĩnh một
lúc lâu tôi mới tìm ra cách gỡ bí. Trước hết hồ sơ của Tổng nha cảnh
sát phổ biến trong phòng họp Quốc hội nhưng lại không có chữ ký cho phép
của Chủ tịch Quôc hội, như vậy đây là một tài liệu phổ biến vi phạm nội
qui của Quốc hội. Mặt khác Tổng nha cảnh sát đã vi phạm nguyên tắc đã
được Ủy ban điều tra đề ra: cuộc gặp chỉ diễn ra giữa hai người và nội
dung không được tiết lộ trước khi Ủy ban điều tra có bản báo cáo của
mình trước Quốc hội. Khi phiên họp khoáng đại vừa bắt đầu, tôi lên diễn
đàn ngay và yêu cầu ông Chủ tịch Phan Khắc Sửu ra lệnh thu hồi tất cả
các tài liệu được phân phát bất hợp pháp trong Quốc hội vì không có ý
kiến chấp thuận của Chủ tịch. Ông Phan Khắc Sửu đáp ứng ngay yêu cầu của
tôi. Ở đây cần nói thêm về con người của cụ Sửu: khi cụ được đưa lên
làm Quốc trưởng thay trung tướng Dương Văn Minh, cụ đã tỏ ra là một con
người không dễ dàng để cho phe quân nhân nhào nắn. Cuộc đối đầu của Quốc
trưởng Phan Khắc Sửu với Thủ tướng Phan Huy Quát khiến cho chính phủ
này phải sụp đổ (và chức vụ Quốc trưởng của ông cũng bị dẹp bỏ luôn!).
Trong suốt thời gian cụ Sửu làm Chủ tịch Quốc hội, cụ dã tương đối giữa
được tư cách của một nhân sĩ có tinh thần dân tộc và không chịu bán mình
cho chính quyền dù luôn phải đối phó với rất nhiều áp lực.
Do sự
cố kể trên, Ủy ban điều tra do tôi làm chủ tịch đã tự giải tán để phản
đối thái độ “hợp tác không trung thực của Tổng nha cảnh sát”. Thật sự
quyết định giải tán này cũng nhằm tránh sự bế tắc mà ủy ban chắc chắn sẽ
gặp phải.
Từ khi tôi làm chủ tịch Ủy ban điều tra vụ ám sát dân
biểu Trần Văn Văn, đi đâu tôi cũng bị hai cảnh sát chìm theo dõi. Tôi
đưa việc này ra Quốc hội và tố cáo trên diễn đàn. Tôi cho đó là một hành
động đàn áp tinh thần nhằm vào dân biểu đối lập. Đối phó lại, trung tá
Nguyễn Ngọc Loan gửi một công văn cho Quốc hội, giải thích rằng Tổng nha
cảnh sát buộc lòng làm điều này là để bảo vệ tính mạng của một số dân
biểu có nguy cơ bị Việt cộng ám sát, trong đó có tôi (!). Tổng nha cảnh
sát cũng gởi riêng cho tôi một công văn, đặt vấn đề với tôi phải chấp
nhận một trong hai biện pháp bảo vệ: Cảnh sát chìm – như đang diễn ra
hoặc chính thức nhận hai cận vệ thuộc phòng bảo vệ yếu nhân. Còn nếu tôi
từ chối cả hai biện pháp bảo vệ do Tổng nha đề ra thì phải trả lời
chính thức bằng văn bản và Tổng nha không còn chịu trách nhiệm về vấn đề
an ninh của tôi.
Đây là một cách bắt bí của Tổng nha cảnh sát.
Hoặc tôi phải chấp nhận sự theo dõi ngày đêm của họ hoặc có thể trở
thành mục tiêu của một hành động mờ ám nào đó mà mình không có quyền kêu
ca! Tôi đem việc này hỏi ý kiến cha tôi. Theo cha tôi, việc Tổng nha có
theo dõi tôi chẳng phiền hà gì cho lắm vì các hoạt động của tôi đều
công khai. Tôi chẳng phải là “Việt cộng nằm vùng” mà cũng không làm việc
cho CIA. Ngược lại nếu từ chối sự “bảo vệ” của họ nghĩa là tôi sẽ cung
cấp cho họ lý do chính thức phủi sạch trách nhiệm về những gì có thể xảy
ra với tôi. Vào thời điểm này, không ai đoán trước được trung tá Loan
sẽ ra tay với ai và lúc nào. Cái chết đầy bí ẩn của đại tá Phạm Ngọc
Thảo sau cú đảo chính hụt tháng 2-1965- mà nhiều người cho rằng kẻ ra
tay là đàn em của trung tá Loan - trong nhiều năm là một ám ảnh đe dọa
đối với nhiều giới hoạt động chính trị tại Sài Gòn. Đại tá Thảo bị cảnh
sát chìm của trung tá Loan phục kích bắt tại địa phận thuộc một nhà thờ
công giáo ở miền Đông, nơi ông đang trốn với sự tiếp tay của cha xứ tại
đây. Khi bị bắt, sức khỏe của đại tá Thảo tuy yếu vì bị trúng đạn trong
lúc chạy trốn, nhưng tính mạng không hề bị đe dọa. Theo một nguồn tin
đáng tin cậy, chính trên chiếc máy bay trực thăng đưa đại tá Thảo về Sài
Gòn, các đàn em của đại tá Loan đã ra tay bằng cách bóp vào tinh hoàn
đại tá Thảo cho đến khi tắt thở. Lúc trực thăng đáp xuống sân Tổng tham
mưu thì đại tá Thảo đã chết. Sự thật như thế nào là một dấu hỏi. Sau này
trong hồi kỳ của mình, tướng Nguyễn Cao Kỳ có nhắc đến cái chết của đại
tá Thảo nhưng cho rằng ông chết trong tù sau mấy tuần bị giam và bị
đánh đập.
Mặc dù chỉ là một cấp thừa hành trong guồng máy chính
quyền đứng đầu ngành cảnh sát nhưng trung tá Loan – sau thăng đại tá –
tự coi mình là nhân vật thứ hai trong chính quyền của Kỳ, chẳng coi ai
ra gì. Các phiên họp nội các do thủ tướng Kỳ chủ trì, đáng lý chỉ có các
Bộ trưởng hoặc cấp ngang Bộ trưởng dự nhưng gần như luôn luôn có sự
hiện diện của trung tá Loan với khẩu súng “ru lô” mang kè kè bên hông!
Có lần trung tá Loan can thiệp thô bạo vào một vụ việc của Bộ kinh tế
ngay trong buổi họp nội các khiến lãnh đạo Bộ này đe dọa đưa đơn từ
chức, việc này đã gây nên một cuộc khủng hoảng nội các.
Sau này cả
dân biểu Quốc hội cũng bị trung tá Loan trực tiếp đe dọa: trong một
phiên họp Quốc hội lập hiến (năm 1967), lúc đó tướng Kỳ còn là thủ
tướng, trung tá Loan đã xuất hiện trên bao lơn tầng trên của phòng họp
(khu loge của Nhà hát) bên hông vẫn đeo khẩu súng kè kè. Trung tá Loan
có mặt ở đây theo lệnh của tướng Kỳ nhằm gây áp lực cuộc bỏ phiếu của
dân biểu để hợp thức hóa kết quả bầu cử liên danh tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ. Từ dưới hàng ghế phòng họp nhìn lên, tôi thấy
trung tá Loan đi qua đi lại với vẻ đầy tự tin như thể đang đi bách bộ
trong văn phòng riêng của mình. Tôi không phải là người duy nhất phát
hiện sự có mặt của ông Loan trên tầng trên, nhiều dân biểu cũng ngước
nhìn lên nhưng không ai có phản ứng gì. Rõ ràng đây là một xúc phạm đối
với định chế quốc gia dù cho định chế này được giới cầm quyền Sài Gòn
dựng lên với ý đồ sử dụng nó như một thứ trang trí dân chủ. Tôi bước
ngay lên diễn đàn và đặt vấn đề với chủ tịch Hạ nghị viện Phan Khắc Sửu:
“Dân biểu chúng tôi không thể tiếp tục họp dưới áp lực của trung tá
Tổng giám đốc cảnh sát, vả lại nội qui của quốc hội cấm mang súng vào
phòng họp nếu không có phép của Chủ tịch. Do đó tôi yêu cầu ông Chủ tịch
mời trung tá Nguyễn Ngọc Loan rời khỏi phòng họp, nếu không chúng tôi
sẽ ngưng họp và chính chúng tôi sẽ rời khỏi phòng họp Quốc hội”. Liền đó
Chủ tịch Hạ nghị viện đã công khai yêu cầu trung tá Loan ra khỏi phòng
họp và ông Loan không thể làm gì khác hơn là chấp hành lệnh của chủ tịch
Hạ Nghị Viện.
Thế là đã có hai lần tôi “đụng đầu” trung tá Nguyễn
Ngọc Loan từ cuộc điều tra vụ ám sát dân biểu Trần Văn Văn đến vụ phản
đối ông ta xuất hiện tại buổi họp của Hạ nghị viện. Nhưng lần thứ ba,
cuộc gặp giữa ông ta và tôi đã diễn ra trong một bối cảnh hoàn toàn
khác. Trung tá Nguyễn Ngọc Loan bị Việt cộng bắn gãy chân trong cuộc
tổng công kích Tết Mậu thân, nằm trong bệnh viện Grall (nay là bệnh viện
Nhi đồng 2). Một đồng viện của tôi cũng thuộc phe đối lập đưa ra ý
kiến: bây giờ trung tá Loan đã gãy chân, sắp mất hết quyền lực, đi thăm
ông ta lúc này cũng nên lắm. Cần nhắc lại trung tá Loan bị bắn gãy chân
chỉ ít ngày sau vụ ông ta tự tay cầm súng ngắm bắn vào đầu một quân giải
phóng bị trói tay ra sau lưng và đứng cách ông ta không hơn một mét.
Đây là một hành động trái với công ước Genève về tù binh chiến tranh,
còn về mặt con người thì mất hết tính người, xảy ra giữa đường phố Sài
Gòn hết sức dã man. Tướng Kỳ sau này có những lời biện hộ cho chiến hữu
của mình, nhưng hình ảnh về sự kiện nay mau chóng loan truyền trên khắp
thế giới đã tiêu hủy cuộc đời chính trị của Nguyễn Ngọc Loan (sau này
được thăng cấp đại tá) và cả cái “chính nghĩa” mà người Mỹ cố gắng xây
đắp trong cuộc chiến tại miền Nam. Người đã ghi lại và truyền đi hình
ảnh khủng khiếp của vụ “hành quyết giữa đường phố” khiến cho cả thế giới
xúc động và góp phần cho phong trào phản chiến nổi lên khắp nơi, nhất
là tại Mỹ, chính là phóng viên ảnh Eddie Adams của hãng tin AP
(Associated Press). Chứng kiến cảnh tượng dã man này còn có một
cameraman người Việt Nam tên Võ Sửu, cộng tác cho đài truyền hình Mỹ
National Broadcasting Company, có mặt đúng lúc trung tá Loan nổ súng vào
đầu người lính Việt cộng. Với bức ảnh này, nhà báo Eddie Adams được
trao giải Pulitzer. Nhưng không hiểu sao người ta ít nhắc tới cameraman
Võ Sửu.
Khi tôi vào thăm trung tá Loan tại bệnh viện Grall, trong
phòng của ông ta có bà Đặng Tuyết Mai – vợ của tướng Kỳ - đã đến trước.
Ông Loan nằm trên giường, đắp một chiếc mềm mỏng ngang ngực, nói năng
vẫn to tiếng như mọi khi. Ông ta kể cho bà Kỳ nghe: “Tôi là người đầu
tiên nhận huy chương mà không mặc quần”. Vừa nói ông ta vừa chỉ phần
dưới thân thể của mình để cho những người hiện diện hiểu rằng dưới lớp
mềm của ông ta chẳng có gì mặc cả, khi ông ta được tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu vào tận giường bệnh gắn huy chương. Bà Kỳ không thể nín cười sau
điều tiết lộ của Nguyễn Ngọc Loan. Đấy là lần cuối cùng tôi gặp ông ta.
Hai tháng sau, khi trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đã củng cố cái ghế tổng
thống của mình, ông ta liền đưa đại tá Trần Văn Hai lên thay Nguyễn Ngọc
Loan (lúc này đã là đại tá) ở chức vụ Tổng giám đốc Tổng nha cảnh sát.
Từ đó đại tá Loan chìm vào quên lãng trên chính trường Sài Gòn, thỉnh
thoảng chỉ được nhắc tới khi báo chí thế giới đưa trở lại bức ảnh của
phóng viên Mỹ Eddie Adams. Tại Mỹ sau 1975, ông Loan gặp nhiều khó khăn
trước khi được chấp nhận vào quốc tịch Mỹ do có một số người Mỹ phản đối
tư cách của ông Loan bằng cách nêu trở lại chuyện ông hành quyết người
lính Việt cộng trên đường phố. Nghe nói khi ông Loan chết, phóng viên
nhiếp ảnh Eddie Adams có đến dự đám tang.
Trong cuộc tổng tiến công
Tết Mậu thân 1968, phe của phó tổng thống Kỳ chịu thiệt hại khá nặng.
Ngoài trường hợp Nguyễn Ngọc Loan bị loại, nhiều đàn em thân cận của ông
Kỳ đã bị một máy bay trực thăng chiến đấu của quân đội Mỹ “bắn lầm” làm
thiệt mạng 6 sĩ quan và nhiều người bị thương tại một trường người Hoa ở
khu vực Chợ Lớn. Theo ông Kỳ, chính tổng thống Thiệu âm mưu với người
Mỹ định giết ông. Ông Kỳ còn quả quyết rằng trên chiếc trực thăng đã bắn
rocket xuống trường học ở Chợ Lớn có sự hiện diện của đại tá Trần Văn
Hai là tay chân thân cận của tướng Thiệu.
… Trở lại thời điểm
quốc hội lập hiến (1966-1967), cuối cùng tôi đã đồng ý nhận hai cảnh sát
thuộc “phòng bảo vệ yếu nhân” do Tổng nha cảnh sát của Nguyễn Ngọc Loan
gửi đến. Rất may mắn, hai nhân viên cảnh sát chìm này biết cư xử đúng
cương vị của mình, lễ độ và hợp tác. Chính cách đối xử của vợ chồng tôi
cũng tạo được phần nào tình cảm gắn bó giữa hai người đối với gia đình
tôi. Mỗi lần “phòng bảo vệ yếu nhân” ở Tổng nha cảnh sát muốn thay hai
người mới tôi đều phản đối với lý do: nhận người lạ đến bảo vệ, tôi
không an tâm. Hai cảnh sát chìm này: Phan Xuân Trường (25 tuổi) và
Nguyễn Văn Bé (20 tuổi) làm cận vệ cho tôi suốt 10 năm, từ Quốc hội lập
hiến (1996) cho đến ngày 30 -4-1975! Sau này tôi được biết người đã tạo
điều kiện cho hai anh Trường và Bé gắn với tôi lâu dài chính là trung tá
cảnh sát Lâm Chánh Bình trong Tổng nha. Trung tá Bình bà con với anh
Lâm Phi Điểu là một người bạn thân và là đồng viện của tôi trong Quốc
hội lập pháp.
Anh Bé được vợ tôi cho tiền học thêm nghề lái xe để
lái chiếc xe riêng của tôi, khi tôi xuất bản tờ báo Tiếng nói Dân tộc .
Còn anh Trường làm thêm công việc liên lạc, thu tiền quảng cáo cho báo.
Như thế cả hai đều có thêm một đầu lương phụ giúp gia đình họ. Ngay năm
đầu hai người làm việc với tôi, tôi đã chứng minh cho cả hai hiểu rõ: từ
nay dù muốn hay không, số phận của họ cũng bị buộc chặt với tôi. Nếu
tôi bị ám sát thì kẻ chủ mưu đến từ phía chính quyền chứ không thể từ
phía “Việt cộng”. Do các hoạt động chống chính quyền, chống chiến tranh
và chống lại sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam của tôi rất dễ dàng xác
định phía hãm hại tôi là ai nếu có chuyện đó xảy ra. Và khi tay chân của
chính quyền Sài Gòn ra tay nhằm vào tôi thì họ sẽ không chừa hai người
cận vệ để đánh lạc hướng dư luận. Như vậy hai anh Bé và Trường phải
triệt để cảnh giác nguy cơ có thể đến từ chính cơ quan của mình. Ngồi
trên ô tô do Quốc hội cấp cho tôi, hai anh luôn cẩn trọng theo dõi những
chiếc xe máy vượt lên hai bên hông ô tô. Buổi sáng họ kiểm tra xe rất
kỹ đề phòng gài mìn. Hàng tuần một trong hai người vẫn phải vào cơ quan
của họ để báo cáo hoạt động và chuyện đi đứng của tôi. Họ cho tôi biết
điều đó. Trong 10 năm sống với tôi, họ cùng chia sẻ mọi sự căng thẳng,
khó khăn. Khi tôi mở cuộc họp báo chống chính phủ hoặc “xuống đường”
biểu tình, tôi bảo họ ở lại nhà để tránh cho họ khỏi lúng túng trước
những tình huống khó xử: không biết phải can thiệp thế nào trước sự đàn
áp của các đồng nghiệp cảnh sát nhắm vào người mà mình có trách nhiệm
bảo vệ. Suốt thời gian 10 năm tôi chẳng có gì phiền hà về họ. Giữa hai
người, lúc đầu, tôi có chút nghi ngờ Trường vì cấp bậc của Trường là
trung sĩ cảnh sát, từng được đào tạo ở trại huấn luyện đặc biệt của quân
đội Mỹ ở Thái Lan. Nhưng sau ngày đất nước thống nhất, thật vô cùng bất
ngờ tôi mới biết Trường lại là một “Việt cộng” nằm vùng. Cả gia đình
anh ở Bến Tre đều tham gia cách mạng, bản thân anh từ tuổi thiếu niên đã
cầm súng chiến đấu. Bị bắt trong lúc hoạt động tại Sài Gòn, vào trong
khám bắt liên lạc trở lại với tổ chức, ra tù anh được tổ chức đưa vào
Tổng nha làm cảnh sát, nhưng sau đó mất liên lạc với người giới thiệu,
do đó tình cảnh của Trường sau ngày 30-4-1975 không thể tránh lận đận
một thời gian. Cố nhà báo Huỳnh Bá Thành, nguyên Tổng biên tập báo Công
an TP. HCM đã từng viết giấy xác nhận cho Trường vì trước 1975, anh
Huỳnh Bá Thành thường lui tới nhà tôi và hay gặp Trường. Tôi không biết
họ có nói gì, bàn gì với nhau vào lúc ấy hay không.
Sau 1975, anh
Trường bị “kẹt” trong trại học tập cải tạo một thời gian ngắn và khi trở
về anh có thăm hai vợ chồng tôi. Lúc đó anh mới nhắc lại một sự việc
xảy ra trước 1975. Số là trong thời gian anh Nguyễn Hữu Thái, sinh viên
kiến trúc, bị cảnh sát Sài Gòn săn lùng, anh đã trốn ở tầng 3 trong nhà
tôi cả năm (từ 1974-1975). Ban đầu, anh Thái xin “tá túc” ở chùa Ấn
Quang nhưng Thượng tọa Thích Trí Quang có mời tôi đến và cho biết sự
theo dõi rất chặt chẽ của cảnh sát nên không thể để anh Thái ở chùa.
Thượng tọa Trí Quang gợi ý tôi đưa anh Thái trốn trong “Dinh Hoa Lan”
của đại tướng Dương Văn Minh. Nhưng ở đây đã có số người “lánh nạn” khá
đông: ông Nguyễn Văn Cước, một nhà hoạt động công đoàn, cựu dân biểu
Dương Văn Ba, nhà báo Nguyễn Đình Nam. Không còn cách nào khác, tôi đã
nhận che giấu anh Thái tại nhà mình.
Hai cảnh sát chìm được tổng
nha gửi “bảo vệ” tôi, anh Trường và anh Bé, dĩ nhiên cũng “ngửi” thấy có
người lạ trên tầng 3. Anh Trường kể lại: một hôm anh Bé báo cáo với anh
Trường (là tổ trưởng) rằng anh vừa lục thấy trong phòng, nơi anh Thái
trốn, có thư chúc Tết của Hồ Chủ Tịch. Anh Bé phát hiện việc này khi anh
Thái vào buồng tắm. Anh Bé có ý định báo cáo với “phòng bảo vệ yếu
nhân” – cơ quan của mình. Anh Trường rất lúng túng, nhưng nhanh chóng
nghĩ ra cách đối phó. Anh khuyên anh Bé “không nên hấp tấp, anh Thái là
một sinh viên, những hoạt động như thế này chẳng có gì thật ghê gớm. Nếu
mình báo cáo dĩ nhiên ông Chung sẽ được Tổng nha tra hỏi và ông sẽ biết
sự việc này. Phản ứng của ông chắc chắn là trả mình về Tổng nha. Mình
sẽ mất một đầu lương không và không chắc tìm được một chỗ yên ổn như ở
đây”. Theo anh Trường thì mình nên theo dõi tiếp xem sao rồi hãy quyết
định cũng không muộn”. Thế là anh “trung sĩ – cảnh sát viên” Phan Xuân
Trường đã âm thầm cứu anh Thái khỏi bị rơi vào tay cảnh sát Sài Gòn mà
anh Thái không hề hay biết.
...Trong thời gian làm dân biểu Quốc
hội lập hiến, sau khi kết thúc nhiệm vụ chủ tịch Ủy ban điều tra vụ ám
sát dân biểu Trần Văn Văn, tôi được bầu tiếp làm chủ tịch Ủy ban cứu xét
các vụ án chính trị. Ủy ban này thật sự không giở lại từng hồ sơ các vụ
án chính trị xảy ra dưới chế độ Diệm đàn áp Phật giáo, hoặc sau 1 -11-
1963 đến phiên những người Công giáo và những người thân chế độ Diệm bị
tù tội và tịch thu tài sản. Chủ trương của Quốc hội lập hiến là ra một
đạo phật “đại xá” cho cả hai phía, kể cả việc hoàn trả tài sản. Quốc hội
lập hiến đúng ra chỉ có một Ủy ban: Ủy ban dự thảo Hiến pháp do một
luật sư đứng đầu. Còn một Ủy ban kia (Ủy ban điều tra vụ ám sát và Ủy
ban cứu xét các vụ án chính trị) được thành lập nhằm đáp ứng những yêu
cầu đặc biệt.
Để soạn thảo bản dự thảo luật “Cứu xét các vụ án
chính trị”, tôi mời chuyên viên luật Vương Văn Bắc – luật sư và là giáo
sư Học viện quốc gia hành chính. Trong lúc soạn thảo dự luật này, tôi có
tiếp một người khách đặc biệt tại nhà: Ông Nguyễn Văn Bửu, chủ đoàn tàu
buôn lớn nhất Sài Gòn và là nhà kinh tài nổi tiếng của gia đình Ngô
Đình Diệm. Ông đề nghị, thông qua một người thân của tôi, trao cho tôi
một số tiền lớn để tôi can thiệp trả lại tài sản cho ông. Lúc này tôi
không còn ở cái phòng thuê chật hẹp hôi tanh mùi bùn quanh năm bên kinh
Nhiêu Lộc và đã dọn về một căn phố tuy khá hơn trên đường Nguyễn Tri
Phương, bề ngang 3 mét, bề dài 12 mét nhưng vào mùa nóng không khí trong
nhà không thua lò nướng bánh mì. Ông Bửu đến nhà tôi vào một buổi trưa
như thế. Tôi trả lời ông ngắn gọn: “Ông yên tâm về nhà. Quốc hội sẽ ra
một đạo luật rất có thể bao gồm cả trường hợp của ông. Chuyện của ông
được hay không được là do đạo luật đó chứ không thể do sự can thiệp
riêng của tôi”. Vợ tôi ở phòng trong nghe rất rõ đề nghị của ông với số
tiền rất lớn và cũng nghe sự từ chối của tôi. Khi ông Bửu về, Quỳnh Nga
đã vui vẻ tán đồng thái độ của chồng mình.
Cũng trong thời gian làm
chủ tịch Ủy ban cứu xét các vụ án chính trị, tại văn phòng của mình ở
Quốc hội tôi đã tiếp một người khách khác cũng khá đặc biệt. Khi cô thư
ký đưa cho tôi phiếu xin tiếp, thấy tên, tôi đã nhớ ngay con người này.
Ông là cựu trung tá tỉnh trưởng Ba Xuyên (Sóc Trăng) – thời ba tôi làm
phó tỉnh trưởng hành chính tại đây. Ông cựu trung tá này là “con cưng”
của ông Diệm, là một thứ hung thần đối với người dân địa phương những
năm 1962-1963. Cha tôi từng là nạn nhân của ông ta. Có lẽ do không thể
tự do thao túng vấn đề tiền bạc và ngân sách tỉnh nằm dưới sự kiểm soát
trực tiếp của phó tỉnh trưởng hành chính, tức cha tôi, nên ông tìm đủ
mọi cách hãm hại và loại trừ cha tôi. Ông gửi nhiều báo cáo mật về Bộ
nội vụ ở Sài Gòn tố cáo cha tôi có quan hệ với “Việt cộng”. Dĩ nhiên đây
là chuyện hoàn toàn bịa đặt. Cha tôi tình cờ biết được việc này nhờ bạn
bè ở Bộ nội vụ tiết lộ với ông. Đám cưới của tôi tổ chức tại Ba Xuyên
năm 1962 có vợ chồng trung tá tỉnh trưởng này dự. Cho nên khi ông ta vừa
bước vào phòng, tôi nhận ra ngay. Ông ta già hẳn đi, không còn cái vẻ
tự mãn và hách dịch của năm năm về trước. Chuyện bể dâu thật đáng sợ.
Con người toan tính hãm hại cha tôi đang ngồi trước mặt tôi. Ông không
dám nhìn thẳng tôi và rụt rè ngồi xuống ghế. Ông trình bày một mạch
trường hợp ông bị bắt, giam cầm và tịch thu tài sản sau khi chế độ Diệm
sụp đổ. Nguyện vọng của ông là được cứu xét xóa án và hoàn trả tài sản.
Tôi không muốn kéo dài không khí căng thẳng cho ông, liền mở lời: “Có
phải ông là trung tá HMT? Tôi là con trai của Lý Quí Phát. Chắc trung tá
còn nhớ, trung tá có dự đám cưới của tôi. Tôi thông cảm trường hợp của
trung tá nhưng tôi không có thẩm quyền can thiệp cho từng trường hợp. Sẽ
có một đạo luật ra đời giải quyết chung các trường hợp như của trung
tá”. Có lẽ ông ta không ngờ người con của nạn nhân mà ông từng ra tay
hãm hại lại tiếp ông đàng hoàng như thế. Tôi có kể lại cho cha tôi nghe
cuộc gặp gỡ này, cha tôi nói “Con xử sự như vậy là đúng”.
Quốc hội
lập hiến kéo dài một năm đã cung cấp cho tôi một môi trường học tập đấu
tranh chính trị tại nghị trường và từ diễn đàn này, tôi cũng có cơ hội
bày tỏ công khai qua mạng lưới báo chí Sài Gòn các quan điểm của mình
đối với chính quyền, đối với các vấn đề dân chủ, chiến tranh, hòa bình
v.v… Vào thời điểm này, báo chí Sài Gòn chưa bị chính quyền kiểm soát
hoàn toàn vì giữa tướng Kỳ và tướng Thiệu vẫn chưa ngã ngũ ai là người
nắm trọn quyền hành. Cả hai đều còn trong tư thế chờ đợi trước cuộc chạy
đua giành chức tổng thống sẽ diễn ra. Thực tế cuộc chạy đua ấy bắt đầu
sớm hơn ngày bầu cử chính thức. Nó diễn ra ngay sau khi hiến pháp được
Quốc hội biểu quyết và trọng tài tối cao cho vòng sơ tuyển này không ai
khác hơn là người Mỹ. Nói cách nào đó, cuộc bầu tổng thống ở miền Nam
diễn ra hai vòng. Vòng đầu ở hậu trường trong bóng tối mới mang tính
quyết định. Ứng cử viên được người Mỹ chọn đương nhiên sau đó sẽ đắc cử
tổng thống.
Khi Quốc hội lập hiến hoạt động được ít tháng, tôi đã
phải có một quyết định liên quan đến mối quan hệ giữa tôi và Phong trào
Phục hưng miền Nam (PTPHMN), Kỹ sư Võ Long Triều, đứng đầu PTPHMN, thấy
rằng ông không thể lèo lái khối Dân tộc như ý muốn của mình nên có ý
định thay tôi và đặt vào vị trí trưởng khối Dân Tộc một dân biểu khác
của PTPHMN trung thành với ông. Tôi đã bác bỏ ý kiến này vì hai lý do:
1. Khối Dân tộc được lập không gồm duy nhất các dân biểu PTPHMN, số đông
ngoài tập hợp này chủ yếu do cá nhân tôi vận động. 2. Mặt khác, do qui
tụ nhiều thành phần dân biểu khác nhau, khối Dân tộc không chấp nhận sự
chi phối của riêng một tổ chức chính trị nào.
Sự bất đồng giữa tôi
và ông Triều chính thức nổ ra sau sự kiện này. Hơn nữa sự thiếu thuyết
phục về mặt lý tưởng của PTPHMN đã khiến tôi quyết định tách ra khỏi
phong trào này – đó cũng là tổ chức chính trị duy nhất mà tôi có dính
líu trong suốt cả thời kỳ hoạt động trước năm 1975. Nó không để lại cho
tôi một dấu ấn nào vì thật sự nó không vạch được đường hướng nào đáp ứng
hoàn cảnh đất nước, mà theo tôi đây cũng chỉ là một nhóm áp lực nhằm
gây thanh thế chính trị cho cá nhân mà thôi. Những con người đầy thiện
chí có mặt trong Chương trình Phát triển quận 8 (một chương trình chủ
lực của PTPHMN) giành được sự ủng hộ của dân chúng địa phương chủ yếu do
các hoạt động xã hội của chính bản thân họ như bác sĩ Hồ Văn Minh, anh
Hồ Ngọc Nhuận… Tuy nhiên tôi không thể phủ nhận ông Võ Long Triều là
người đã có một ảnh hưởng khá lớn trong sự khởi đầu bước đường chính trị
của tôi.
… Thật sự không dễ dàng cho một thanh niên như tôi tự mò
mẫm tìm con đường đi giữa một chính trường Sài Gòn cực kỳ hỗn loạn. Các
đảng phái mọc như nấm, có đến hàng trăm bảng hiệu, có nhiều đảng chỉ vài
người. Tình hình này khiến cho đảng phải ở Sài Gòn trong những năm 60
và 70 trở thành một trò hề, bị báo chí và dư luận thường xuyên giễu cợt.
Tôi tự vạch con đường đi cho mình với một thứ ánh sáng duy nhất xuất
phát từ con tim: đó là lòng yêu nước rất đơn sơ với mong muốn Tổ quốc
của mình được độc lập, hòa bình và thống nhất. Trước mắt, sự can thiệp
của người Mỹ phải chấm dứt, người Việt Nam yêu thương nhau và nước Việt
Nam phải là của người Việt Nam. Thái độ chính trị của tôi trong suốt
những năm tháng đất nước chiến tranh được chọn lựa và không ngừng điều
chỉnh theo tiêu chí rất chung chung như thế, “bạn – thù” cũng được căn
cứ như thế để nhận diện. Tôi không có một ngọn đuốc lý tưởng nào thật cụ
thể soi rọi. Khi tôi mới bước vào lãnh vực chính trị và trở thành dân
biểu Quốc hội lập hiến, dù sớm chọn chỗ đứng đối lập với chính quyền Sài
Gòn nhưng lúc đó tôi vẫn tự coi mình thuộc về hàng ngũ “quốc gia”.
Nhưng từ Quốc hội lập pháp kỳ 1 (Hạ nghị viện 1967-1971), chỗ đứng chính
trị của tôi chuyển dịch vào giữa, được công khai hóa với bài xã luận ký
tên của mình trên báo Tiếng Nói Dân Tộc nói về thành phần những “người
Việt cô đơn”, “người Việt đứng giữa”, không đứng về phía chế độ Sài Gòn
nhưng cũng không đứng về phía người cộng sản. Tôi không tự coi mình
thuộc thành phần “quốc gia” nữa vì những năm tháng hoạt động trong lòng
chế độ Sài Gòn, tôi đã nhận ra đó là một chế độ không đại diện cho nhân
dân miền Nam, phản dân chủ và hoàn toàn không có khả năng bảo vệ chủ
quyền đất nước. Đáng nói hơn nữa, đó là một chế độ hiếu chiến, không hề
tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho đất nước. Tôi cũng không đứng về
phía cộng sản bởi lý do đơn giản: gần như tôi không biết gì về người
cộng sản. Nhưng từ năm 1971 trở về sau, sự chọn lựa chính trị của tôi
lại tiếp tục chuyển dịch: tham gia nhóm chính trị do đại tướng Dương Văn
Minh đứng đầu. Cùng với nhóm, chúng tôi chọn lập trường: “Nếu có chính
phủ 3 thành phần theo Hiệp định Paris thì nhóm ông Minh sẽ hoạt động
trong cương vị thành phần thứ 3, nhưng sẽ liên kết với Mặt trận Dân tộc
Giải phóng Miền Nam (MTDTGPMN) chứ dứt khoát không liên kết với chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)”.
Đó là sự chuyển dịch về thái độ
chính trị do những thực tế diễn tiến của đất nước, là kết quả của sự đối
chiếu lập trường chính trị, nhất là lập trường chiến tranh và hòa bình
giữa các bên. Đây hoàn toàn không phải là sự thay đổi lập trường vì thấy
rằng ai là người sắp sửa chiến thắng. Trước ngày 30-4-1975 một vài
tháng, vẫn có nhiều người không đoán được ngày kết thúc chiến tranh Việt
Nam và đoán được nó sẽ kết thúc như thế nào. Huống hồ trước đó hai, ba
năm! Chuyển dịch lập trường sang hướng tả, nhiều anh em trong nhóm Dương
Văn Minh từ năm 1971 ý thức rất rõ rằng mình phải sẵn sàng chấp nhận
các đòn đàn áp và triệt tiêu từ phía chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Tôi
còn nhớ vào khoảng năm 1974, tình hình gần như bế tắc đối với giới thanh
niên trí thức tiến bộ, kể cả các phần tử đối lập, tôi có gặp anh Dương
Văn Ba lúc đó đang “tị nạn chính trị” trong Dinh Hoa Lan của tướng Dương
Văn Minh, bàn chuyện tìm cách liên lạc với MTDTGPMN và chọn hẳn con
đường hoạt động bí mật. Tôi thừa biết nếu chế độ Thiệu đứng vững đến năm
1975 và tổ chức bầu cử Hạ nghị viện lần ba thì tôi sẽ không có đất sống
ở cái đất Sài Gòn này. Nhất định tôi sẽ bị chế độ Thiệu xóa sổ!
Nhưng cả tôi lẫn anh Ba chẳng ai biết cách nào để liên lạc với MTDTGPMN.
CHƯƠNG 7
Để kịp thời hạn do Washington đặt ra, hai tướng Thiệu, Kỳ buộc Quốc hội
lập hiến phải họp cả ngày lẫn đêm ở giai đoạn cuối cùng. Bản hiến pháp
vừa được Quốc hội thông qua ngày 18-3-1967 thì liền đó chỉ hai ngày sau
(20-3-1967), hai tướng Thiệu và Kỳ đã vội vàng mang nó sang đảo Guam để
tổng thống Mỹ Johnson duyệt. Chính ngoại trưởng Henry Kissinger sau này
đã nói rõ trong hồi ký của ông rằng hiến pháp của chế độ Sài Gòn đã được
thảo ra “với sự cố vấn và giúp đỡ của người Mỹ” (nguyên văn: drafted
with American advice and assistance ). Tại đảo Guam có mặt đầy đủ các
nhà lãnh đạo Washington, từ tổng thống Johnson đến bộ trưởng ngoại giao
Dean Rusk và bộ trưởng quốc phòng McNamara. Cho đến lúc này, tướng Kỳ có
ảo tưởng mìh đang nắm tình hình chính trị ở Sài Gòn, lèo lái luôn cái
Ủy ban lãnh đạo quốc gia mà người đứng đầu là tướng Thiệu. Cả bản hiến
pháp, ông cũng tự xem là tác phẩm của ông. Do đó tại Guam, ông tự coi
mình là người đối thoại chính với tổng thống Johnson. Trong cuốn tự
truyện của ông Kỳ “Đứa con cầu tự ” (Buddha’s child- Nhà xuất bản ST.
Martins Press – New York), kể lại rằng tại Guam, ông đã đề xuất với tổng
thống Johnson một kế hoạch nhanh chóng kết thúc chiến tranh Việt Nam
bằng cách ngay sau cuộc bầu cử tổng thống ở miền Nam, ông sẽ từ chức thủ
tướng và đích thân ông sẽ chỉ huy một cuộc tấn công vào miền Bắc với
lực lượng quân đội Sài Gòn. Theo ông Kỳ, cuộc tấn công này buộc Bắc Việt
phải ra lệnh rút quân khỏi miền Nam và chấp nhận hòa bình. Trước đề
xuất này, T. T Johnson lạnh lùng quay qua nói với MacNamara: “Này Mac,
hãy nói cho tướng Kỳ biết chúng ta không tính đến chuyện đó”.
Tướng
Kỳ luôn tìm cách thúc đẩy giải pháp quân sự và vận động Mỹ dùng tối đa
sức mạnh quân sự để giành chiến thắng. Bản thân ông chưa chắc tin rằng
một cuộc tấn công như thế sẽ khiến miền Bắc “khuất phục”, nhưng có một
điều ông biết khá chắc chắn là với cuộc chiến đẩy lên cao, tất yếu vai
trò và vị trí của ông trong chiến tranh sẽ được củng cố. Nhưng với người
Mỹ lúc này, ý đồ của họ là tạo ra một nền dân chủ giả tạo tại miền Nam
trước đã. Với một quốc hội dân cử và một tổng thống được dựng lên, sự
can thiệp của Mý vào Việt Nam sẽ có được một cái vỏ hợp pháp.
Ngay
sau khi hiến pháp vừa ban hành (ngày 18-3-1967), cuộc chạy đua giành ảnh
hưởng của hai ông Thiệu và Kỳ diễn ra ráo riết. Ngày 11-5-1967, ông Kỳ
tuyên bố sẽ ra ứng cử, ngay sau đó ông Thiệu cũng thông báo: “hoàn toàn
có khả năng” ông sẽ ra tranh cử với ông Kỳ. Tướng Kỳ liền dựa vào các
tướng lĩnh thuộc phe mình để áp lực lượng Thiệu thay đổi quyết định với
lập luận: chính ông là người lãnh đạo miền Nam khá tốt trong thời gian
làm thủ tướng. Người được tướng Kỳ phái đi gặp tướng Thiệu để truyền đạt
ý kiến này là thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng, đang giữ chức bộ trưởng Bộ
Chiêu hồi trong nội các của Kỳ. Tướng Thắng khuyên Thiệu không nên ra
ứng cử và nên lui về đứng đầu quân đội. Thiệu bác bỏ đề nghị này và cho
rằng Kỳ và phe ông ta âm mưu đưa ông vào bẫy để loại bỏ ông. Thấy không
lay chuyển được đối thủ của mình, Kỳ triệu tập các tướng lĩnh đang nắm
những vị trí quan trọng nhất (theo Kỳ đây là bộ phận đầu não, một
politburo của quân đội) để hợp thức hóa sự chọn lựa ông với tư cách ứng
cử viên chính thức và duy nhất của quân đội. Theo Kỳ kể lại, ông được
cuộc họp này bỏ phiếu nhất trí chọn ông, nhưng cuộc họp lại không tìm ra
giải pháp để buộc Thiệu tự nguyện rút lui khỏi cuộc tranh cử. Tướng Kỳ
cho rằng Thiệu không thể thắng cử mà không có sự ủng hộ của quân đội, do
đó cứ để Thiệu ứng cử với tư cách một ứng cử viên tự do và ông ta sẽ dễ
dàng bị đánh bại. Ông Kỳ còn toan tính cả việc đưa tướng Cao Văn Viên
thay tướng Thiệu ở cương vị Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia. Nhưng các
toan tính của Kỳ không hề lay chuyển tướng Thiệu vì Thiệu hiểu rất rõ
rằng người quyết định “ai là ứng cử viên của quân đội ” chính là người
Mỹ chứ không phải các tướng lãnh Sài Gòn. Thiệu có thông tin khá chắc
chắn là đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker – người được báo chí Sài Gòn đặt tên
“ông già tủ lạnh” (có lẽ do gương mặt lạnh lùng) vừa thay đại sứ Henry
Cabot Lodge – và phần đông các quan chức Mỹ cao cấp tại Sài Gòn đều
nghiêng sự chọn lựa về mình. Kể cả tướng William Westmoreland, người
đứng đầu quân đội Mỹ tại miền Nam. Trong hồi ký của Westmoreland về
chiến tranh Việt Nam, xuất bản năm 1976, nhắc lại cuộc tranh chấp giữa
Thiệu và Kỳ giành quyền ứng cử tổng thống, tướng Westmoreland viết rằng:
“Trong các ứng cử viên dự kiến, tôi thấy Nguyễn Văn Thiệu là niềm
hi vọng thật sự cho đất nước (miền Nam Việt Nam)”. Với Nguyễn Cao Kỳ,
Westmoreland mô tả bằng những từ như “flamboyant ” (khoa trương, cường
điệu), “impetuous ” (hay bốc).
Chính vì thế, dù cho sau đó tướng Kỳ
có lèo lái Ủy ban lãnh đạo quốc gia họp chính thức bỏ phiếu chọn ông
làm ứng cử viên của quân đội nhưng giờ chót Kỳ vẫn phải rút tên và
nhường cho ông Thiệu. Tướng Kỳ khi nhắc lại sự kiện này vẫn coi đây là
một cử chỉ fair play (chơi đẹp) của mình nhưng nhiều năm sau vẫn tiếc
rằng hành động “quân tử Tàu”- nhường cho Thiệu ra ứng cử tổng thống – là
một sai lầm trong cuộc đời chính trị của ông. Ông nói rằng chính sự
nhân nhượng ấy đã dẫn tới sự thất bại của phe chống Cộng ở miền Nam.
Nhưng những người hiểu rõ tình hình tranh giành quyền lực giữa Thiệu và
Kỳ lúc đó thì Kỳ không thể làm gì khác hơn trước áp lực của tòa đại sứ
Mỹ. Đại sứ Bunker lúc ấy là một “quan toàn quyền” đúng nghĩa. Ông muốn
chọn ai là người ấy được. Ông Kỳ quá hiểu rằng đi ngược lại ý muốn của
người Mỹ là tự sát chính trị. Sau khi Kỳ rút lui thì Ủy ban lãnh đạo
quốc gia đề nghị Kỳ đứng phó trong liên danh ứng cử “để giữ sự đoàn kết
trong quân đội”. Cũng cần ghi nhận ở đây, với cuộc đấu đá giữa Thiệu và
Kỳ tranh giành ứng cử, người dân Sài Gòn phần đông không đứng về phía
nào cả, bởi trong thực tế họ đều bác bỏ cả hai.
Ngoài liên danh
Thiệu–Kỳ, có 10 liên danh khác của các nhân sĩ và đảng phải ghi danh ứng
cử. Trung tướng Dương Văn Minh đang sống lưu vong ở Bangkok, ngày
28-6-1967, cũng lên tiếng đòi về nước tranh cử.
Nhưng Ủy ban quốc
gia chống lại ý định trở về của tướng Dương Văn Minh. Trong các liên
danh dân sự, có liên danh của ông Trần Văn Hương được đông đảo trí thức
miền Nam ủng hộ. Tôi là một trong những người tích cực vận động cho ông
Hương. Chỗ dựa chính của ông Hương vẫn là Hội Liên trường.
Nhân dịp
tham gia phái đoàn dân biểu dự cuộc họp của Hội liên hiệp nghị sĩ Á
châu (APU) tại Bangkok, tôi được ông Hương ủy nhiệm để tiếp xúc với ông
Dương Văn Minh và yêu cầu ông đưa ra lời tuyên bố ủng hộ ông Hương. Đây
là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với trung tướng Dương Văn Minh. Tướng Minh
tiếp tôi tại câu lạc bộ thể thao cưỡi ngựa ở Bangkok trong một buổi ăn
trưa. Ông cho tôi biết tuyên bố của ông ra ứng cử tổng thống chỉ nhằm
mục đích tìm cách trở về Sài Gòn một cách hợp pháp thế thôi, chứ không
có ý định thật sự tranh chức tổng thống. Sau khi nghe tôi trình bày lời
yêu cầu của ông Hương, ông Minh hứa sẽ có lời tuyên bố ủng hộ ứng cử
viên Trần Văn Hương. Cuộc tiếp xúc ngắn ngủi ấy để lại trong tôi một ấn
tượng tốt đẹp về nhân vật mà báo chí Mỹ thường gọi là “Big Minh”, tức
“Minh lớn”, để phân biệt với một tướng Minh khác, Trần Văn Minh, được
gọi là “Minh nhỏ”. Dĩ nhiên, khi tiếp xúc lần đó với trung tướng Dương
Văn Minh, tôi không làm sao đoán ra rằng một phần cuộc đời sau này của
tôi lại gắn bó với ông.
Trong cuộc vận động cho ông Trần Văn Hương,
tôi còn lãnh một ủy nhiệm khác của ông: đến thành phố Đà Nẵng để mời
bác sĩ Trần Đình Nam, một nhân sĩ có uy tín ở miền Trung, tham gia liên
danh của ông Hương với tư cách ứng cử viên phó tổng thống. Bác sĩ Trần
Đình Nam từng làm bộ trưởng thời chính phủ Trần Trọng Kim. Sau đảo chính
Diệm 1963, bác sĩ Nam được mời vào Thượng hội đồng quốc gia, một định
chế chính trị được các tướng lãnh Sài Gòn lập ra. Hội đồng này là một
thay thế tạm thời cho quốc hội Sài Gòn đã bị giải tán. Chính ông Trần
Văn Hương cũng được mời tham gia Hội đồng này. Bác sĩ Nam, lúc đó gần 60
tuổi, đã tiếp tôi thẳng thắn bày tỏ quan điểm của ông về chính quyền
Sài Gòn như sau: ngày nào còn người Mỹ tại miền Nam thì chính quyền Sài
Gòn không thể có quyền tự quyết và không thể thoát khỏi thân phận bị cầm
tù. Bác sĩ Trần Đình Nam bảo tôi chuyển lời tới ông Hương rằng ông
không thể cùng ông Hương ra ứng cử tổng thống – phó tổng thống, và có
lời khuyên ông Hương nên rút lui ý định của mình vì không thể ra gánh
vác việc nước vào lúc này. Tôi rất cảm phục thái độ của ông Trần Đình
Nam, nhưng lúc đó tôi lại nghĩ thái độ đó quá khích hoặc bảo thủ. Nhiều
năm sau nghĩ lại tôi mới nhận ra rằng, trong cuộc tiếp xúc ấy, bác sĩ
Trần Đình Nam đã cung cấp cho chính bản thân tôi một bài học chính trị
quý giá.
Cuối cùng ông Hương mời ông Mai Thọ Truyền, hội trưởng Hội
Phật học Nam Việt, trụ sở chính nằm tại chùa Xá Lợi, cùng đứng chung
liên danh với ông. Tôi được ông Hương chọn làm người phụ trách báo chí
Việt Nam cho liên danh. Người phụ trách báo chí tiếng Anh là giáo sư Tôn
Thất Thiện. Người viết các bài diễn văn tranh cử cho ông Hương là giáo
sư Lý Chánh Trung. Các liên danh dân sự đáng chú ý khác gồm có: liên
danh của cụ Phan Khắc Sửu, của luật sư Trương Đình Dzu. Nhưng mạnh nhất
vẫn là liên danh Trần Văn Hương- Mai Thọ Truyền. Nếu phe cầm quyền, tức
quân đội, không gian lận phiếu thì chắc chắn liên danh Trần Văn Hương về
đầu. Bấy giờ ông Hương là gương mặt đối lập sáng nhất. Mọi người đều
không tin cuộc bầu cử sẽ diễn ra trung thực. Những người ủng hộ ông
Hương cũng không có ảo tưởng rằng ông Hương sẽ đắc cử. Nhưng cuộc bầu cử
là một dịp để những người đối lập với chính quyền có cơ hội bày tỏ quan
điểm của mình, áp lực mạnh mẽ hơn chống độc tài quân phiệt và chống
chiến tranh.
Đúng như sự tiên đoán của các giới, liên danh Trần Văn
Hương–Mai Thọ Truyền về đầu tại khu vực bầu cử Sài Gòn – Gia Định, liên
danh Nguyễn Văn Thiệu về nhì. Do có sự hiện diện của khá đông quan sát
viên quốc tế tại Sài Gòn và Gia Định, phe quân đội đã “thả nổi” cuộc bỏ
phiếu tại khu vực này, mặc dù họ cũng dùng rất nhiều đơn vị quân đội đi
bỏ phiếu nhiều lượt để hạn chế sự thất bại của họ. Còn ở các tỉnh thì họ
tha hồ gian lận. Các thùng phiếu đều bị đánh tráo khi được chuyển về
các nơi kiểm phiếu. Liên danh Thiệu – Kỳ về đầu trên toàn miền Nam với
35% phiếu, một tỷ lệ thấp, chỉ được Washington công nhận sớm nhất. Dư
luận quốc tế, kể cả phe đồng minh của Mỹ, cũng tỏ ra dè dặt. Ở miền Nam,
tuyệt đại đa số dân chúng không ai coi đó là một kết quả trung thực. Ở
các tỉnh, liên danh Trương Đình Dzu, với chủ trương hòa bình và thương
thuyết với MTDTGPMN để chấm dứt chiến tranh, đã thu được một số phiếu
khá cao (chỉ đứng sau liên danh Thiệu – Kỳ).
Theo hiến pháp, kết
quả bầu cử phải được Quốc hội hợp thức hóa. Đây là một âu lo không nhỏ
cho Nguyễn Văn Thiệu và phe ông. Mặc dù ông Kỳ đã lùi một bước, chịu
đứng phó cho ông, nhưng ông Thiệu thừa biết Kỳ không mặn mòi gì với địa
vị phó tổng thống. Thậm chí ông cũng đoán ra rằng Kỳ vẫn nuôi ý đồ phá
vỡ cuộc hợp thức hóa bầu cử để có cơ hội “xóa bài làm lại”. Một mặt ông
Kỳ tiết lộ rằng ông không tán đồng đề xuất của một nhóm dân biểu đến tìm
ông để vận động bỏ phiếu chống lại sự đắc cử của liên danh Thiệu tại
quốc hội. Nhưng thực tế mà tôi chứng kiến với tư cách dân biểu thì rõ
ràng ông Kỳ đã ngầm ngầm khuyến khích các cuộc xuống đường phản ứng của
các giới chống lại sự hợp thức hóa kết quả bầu cử. Các dân biểu thuộc
phe ông được bật đèn xanh liên kết cùng phe đối lập để tạo áp lực chống
Thiệu và gây tình hình xáo trộn.
Thời điểm này, ông Thiệu còn đơn
độc, hậu thuẫn sau lưng ông còn mỏng, chưa đủ lực và tay chân để triệt
các đòn ngầm phá bĩnh của ông Kỳ. Chính lúc này, một tùy viện quân sự
của Nguyễn Văn Thiệu là trung tá Nguyễn Văn Đẩu, bạn quần vợt của cha
tôi (khác với trung tá cùng tên Đẩu nhưng là tùy viên quân sự của tướng
Dương Văn Minh) tìm gặp tôi để chuyển lời chính thức của trung tướng
Thiệu muốn có một cuộc tiếp xúc riêng với tôi. Mục đích của tướng Thiệu
là vận động tôi và khối dân biểu Dân tộc bỏ phiếu hợp thức hóa sự đắc cử
của ông ta. Trung tá Đẩu còn nhờ cha tôi nói thêm với tôi nhằm thuyết
phục tôi. Nể người bạn của cha mình, đồng thời nghĩ rằng gặp ông Thiệu
chưa có nghĩa là chấp nhận các đề nghị của ông, tôi đồng ý gặp tướng
Thiệu nhưng đưa ra điều kiện cuộc gặp gỡ chỉ có hai người, không có
người thứ ba. Ông Thiệu chấp nhận điều kiện. Cuộc tiếp xúc tay đôi diễn
ra tại nhà riêng của tướng Thiệu, lúc này còn nằm trong khu tưỡng lãnh ở
bộ Tổng tham mưu (trên đường vào phi trường Tân Sơn Nhất). Nhà ông ở
cạnh trung tướng Trần Thiện Khiêm. Sĩ quan liên lạc của ông đưa tôi vào
phòng khách. Cánh cửa mở ra và tướng Thiệu từ phòng bên cạnh xuất hiện.
Ông ta có nụ cười dễ gây cảm tình. Ông bước tới bắt tay tôi: “Kính chào
ông dân biểu”. Tôi đáp lại: “Kính chào trung tướng” (Lúc này ông vẫn
chưa được gọi là tổng thống). Có lẽ đã được sắp xếp trước, cái sa – lông
tôi đang ngồi chỉ có hai ghế với cái bàn nhỏ ở giữa khiến cho hai người
đối thoại nhau không cách nhau xa. Ông Thiệu đi thẳng vào vấn đề:
“Trước hết tôi xin trình bày với ông dân biểu tình hình hiện này. Chính
phủ VNCH rất cần sự ổn định chính trị và nhất là một nền tảng dân chủ
vững chắc để được chính phủ và quốc hội Mỹ tiếp tục ủng hộ và viện trợ
mạnh mẽ. Do đó rất cần cuộc biểu quyết hợp thức hóa cuộc bầu cử tổng
thống sắp diễn ra tại Quốc hội được thông qua với một số phiếu cao nhất.
Điều đó thể hiện sự đoàn kết của quân dân ta. Vì vậy tôi mong ông dân
biểu cùng khối Dân tộc của ông sẽ bỏ phiếu hợp thức hóa kết quả bầu cử”.
Tôi không cần suy nghĩ, vì câu trả lời đã có sẵn trong đầu:
-
Thưa trung tướng, tôi là đại diện báo chí của liên danh Trần Văn Hương.
Sau khi có kết quả bầu cử, liên danh Trần Văn Hương đã họp báo và tố
cáo cuộc bầu cử diễn ra không trung thực. Vậy tôi không thể nào đi ngược
lại lập trường này và bỏ phiếu hợp thức hóa kết quả cuộc bầu cử.
Suy
nghĩ một lúc, tướng Thiệu đưa ra một gợi ý: Quốc hội sẽ được lèo lái để
cuộc bỏ phiếu diễn ra theo thể thức kín. Ông nói với tôi:
- Công khai thì ông dân biểu vẫn giữ lập trường mình nhưng khi bỏ phiếu kín, ông dân biểu có thể bỏ phiếu hợp thức hóa.
Tôi trả lời ngay:
-
Thưa trung tướng, tôi không thể có hai lập trường khác nhau khi công
khai và khi bỏ phiếu kín. Các thành viên trong khối chúng tôi chắc chắn
sẽ phản đối. Nhưng tôi hứa nếu trung tướng lãnh đạo được một chính phủ
hợp lòng dân thì tôi sẽ hoạt động với tinh thần xây dựng trong tư cách
đối lập hợp pháp – opposition légale.
Cuộc nói chuyện kết thúc dĩ nhiên không đem lại sự hài lòng cho ông Thiệu. Tuy nhiên ông đã tiễn tôi ra cửa một cách lịch sự.
Cuối
cùng Quốc hội lập hiến đã hợp thức hóa sự đắc cử của liên danh Thiệu–Kỳ
với số phiếu rất thấp: 58 thuận và 43 chống. Khối dân biểu Dân tộc vẫn
giữ vững lập trường bác bỏ cuộc bầu cử. Ông Kỳ ngấm ngầm khuyến khích
những lá phiếu chống nhưng về mặt công khai, ông Kỳ nói với ông Thiệu
rằng ông đã cử trung tá Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc cảnh sát, có mặt
trong cuộc biểu quyết “để thúc đẩy các dân biểu bỏ phiếu hợp thức hóa”
(như đã kể ở đoạn trước, tôi đã phản đối sự hiện diện của trung tá Loan
trong phòng họp Quốc hội).
Về cuộc bầu tổng thống ở miền Nam 1967,
theo một số tài liệu mật được tiết lộ sau này của tình báo Mỹ, đã có một
cuộc “đi đêm” giữa tướng Thiệu và ông Trần Văn Hương. Đáng tiếc thay
cho một số đông trí thức và nhân sĩ miền Nam lúc đó đã coi ông Hương như
một lãnh tụ đối lập sáng giá, một “ông già gân” có thể là chỗ dựa đối
đầu phe tướng lãnh. Sau này những người đã từng ủng hộ ông đã phải thất
vọng nặng nề. Từ vị trí người đối đầu liên danh Nguyễn Văn Thiệu, ông
Hương chấp nhận trở thành thủ tướng của ông Thiệu. Ở cuộc bầu cử tổng
thống nhiệm kỳ 2, năm 1971, ông Hương lại đi một bước liên kết xa hơn:
ứng cử phó tổng thống trong liên danh Nguyễn Văn Thiệu. Cho nên những
tiết lộ từ các tài liệu CIA, được phát hiện sau năm 1975, nói về sự “đi
đêm” giữa ông Thiệu và ông Hương từ năm 1967 trong cuộc bầu cử tổng
thống nhiệm kỳ 1 là có cơ sở. Nhưng đó không phải là sự thất vọng duy
nhất đối với giới trí thức miền Nam nói riêng và giới đối lập Sài Gòn
nói chung. Cùng lúc với cuộc “đi đêm” giữa Thiệu–Hương còn có một cuộc
“đi đêm” khác giữa Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Lộc.
Ông Nguyễn Văn
Lộc là một luật sư, thời trẻ ông có tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông
là Tổng thư ký hội Liên Trường, một tổ chức ái hữu gồm cựu học sinh các
trường trung học lớn ở miền Nam như Chasseloup Laubat, Petrus Ký,
Collège Mỹ Tho, Collège Cần Thơ. Các cựu học sinh này đều đang giữ những
vị trí then chốt trong guồng máy chính quyền Sài Gòn hoặc là những trí
thức, nhân sĩ hoạt động tự do có uy tín xã hội. Hội Liên Trường cũng là
chỗ dựa chính cho ứng cử viên tổng thống Trần Văn Hương. Trong khi ông
Thiệu “móc nối” ông Hương thì ông Kỳ lôi kéo ông Lộc! Vào thời điểm ấy
các phe quân nhân đều cần liên kết với những nhân vật gần gũi với giới
trí thức và quần chúng miền Nam và luật sư Lộc đã trở thành thủ tướng
đầu tiên sau khi liên danh tổng thống – phó tổng thống Thiệu–Kỳ được
Quốc hội lập hiến hợp thức hóa. Vậy tại sao chức vụ thủ tướng rơi vào
tay luật sư Lộc – người của phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ - chứ không
phải là ông Hương là người của tổng thống Thiệu? Để hiểu rõ hơn điều khó
hiểu này, có lẽ phải trở lại những thỏa thuận mật đã có trong phe tướng
lãnh trước khi phe này đi đến quyết định đưa Nguyễn Văn Thiệu ra ứng cử
thay vì Nguyễn Cao Kỳ.
Trong hồi ký Buddha’s child (Đứa con cầu
tự ), tướng Kỳ tiết lộ ngay say khi tướng Thiệu được phe quân đội đề cử
làm ứng cử viên tổng thống thì một “hội đồng tướng lãnh” được bí mật
thành lập trong đó có cả Thiệu và Kỳ. Các thành viên của tổ chức này
được chọn lựa lại từ các tướng lãnh có ảnh hưởng trong Ủy ban lãnh đạo
quốc gia. Theo ông Kỳ, hội đồng này được giao trách nhiệm chọn đại diện
quân đội ứng cử tổng thống tương lai và một khi đại diện này đắc cử tổng
thống vẫn phải tiếp tục là thành viên trong hội đồng này và chịu sự chi
phối của hội đồng. Ông Kỳ được bầu là chủ tịch của hội đồng này. Ông
viết: “Với tư cách chủ tịch hội đồng, tôi có nhiều quyền hành hơn”. Có
thể trong thời gian đầu, khi quyền lực của mình chưa được thiết lập vững
vàng, tổng thống Thiệu đã phải nhượng bộ ông Kỳ và nhường cho ông Kỳ
quyền chỉ định thủ tướng. Cũng rất có thể điều này nằm trong sự thỏa
thuận giữa Thiệu và Kỳ khi thành lập liên danh duy nhất. Đừng quên rằng
cho đến Tết Mậu Thân 1968, gần một năm sau khi Nguyễn Văn Thiệu ngồi vào
ghế tổng thống, chức Tổng giám đốc cảnh sát vẫn nằm trong tay đại tá
Nguyễn Ngọc Loan, cánh tay mặt của ông Kỳ. Sau nhiệm kỳ của luật sư Lộc,
ông Thiệu mới thực hiện thỏa ước với ông Hương, cử ông Hương làm thủ
tướng. Bấy giờ coi như phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ chỉ còn ngồi “làm
vì”.
Thế là cả hai nhân vật đại diện cho trí thức, nhân sĩ miền Nam
đều bị thế lực đương quyền (phe quân đội) mua chuộc khá dễ dàng. Chỉ vì
cái ghế thủ tướng mà cả hai quay lưng lại với những người ủng hộ mình
một cách tỉnh bơ!
Với tôi, đây là thất vọng đầu tiên trong giai
đoạn tập tễnh bước vào con đường chính trị. Tuy nhiên tôi và khá nhiều
anh em trí thức khác đã không bị lôi cuốn theo sự “trở cờ”. Cho đến kết
thúc chiến tranh, tôi vẫn chống lại sự hợp tác với chế độ Thiệu. Giáo sư
Lý Chánh Chung, một người cũng từng ủng hộ tích cực ông Trần Văn Hương
trong cuộc bầu cử tổng thống, đã có một phản ứng rất quyết liệt trước sự
“trở cờ” của ông Hương: trên tờ báo Điện Tín , ông đã viết lá thư không
niêm “Kính gửi ông Trần Văn Hương ”, trong đó giáo sư Trung nói thẳng
sự không tán đồng của ông và bạn bè ông đối với thái độ chính trị của
ông Hương trong sự cộng tác với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Trong thư
có nhiều lời lẽ lên án khá nặng nề. Bức thư đã gây một luồng dư luận
mạnh mẽ tại Sài Gòn và được coi như là sự “ly dị” dứt khoát của giới trí
thức, nhân sĩ miền Nam đối với ông Trần Văn Hương. Nhưng thật ra, ông
Hương chẳng quan tâm đến dư luận. Dù bệnh tật và già yếu, đi đứng phải
có người dìu hai bên, nhưng ông rất say mê quyền hành. Đó là điều tôi
không nhận ra khi tiếp xúc với ông lúc đầu. Tôi vẫn tưởng là do sự đòi
hỏi thời cuộc mà ông trở lại chính trường chứ không đeo đuổi một tham
vọng cá nhân nào khác. Cho đến những ngày cuối tháng tư 1975, ông vẫn cố
bám vào ghế tổng thống do ông Thiệu để lại và tuyên bố sẵn sàng “chiến
đấu cho đến khi Sài Gòn chỉ còn viên gạch cuối cùng ”.
CHƯƠNG 8
Liền sau cuộc bầu cử tổng thống lại đến cuộc bầu cử Quốc hội lập pháp.
Theo hiến pháp, Quốc hội lập pháp Sài Gòn gồm hai viện: Hạ nghị viện
(viện dân biểu) với nhiệm kỳ bốn năm và Thượng nghị viện (viện nghị sĩ)
với nhiệm kỳ sáu năm nhưng mỗi ba năm bầu lại phân nửa. Tôi ghi tên ứng
cử vào Hạ nghị viện ở đơn vị cũ, tức đơn vị 2 gồm các quận 4, 6, 7, 8 và
9. Có hơn 80 ứng cử viên, tranh 5 ghế dân biểu. Thể thức bầu cử lần này
khác kỳ bầu cử Quốc hội lập hiến (theo liên danh tỷ lệ): năm người đoạt
số phiếu cao nhất trong 80 ứng cử viên ghi danh sẽ giành 5 chiếc ghế
dân biểu.
Khác với cuộc bầu cử trước – lúc rất ít người biết tôi và
tôi chỉ trung cử nhờ vào thể thức bầu cử khá đặc biệt (gần như các ghế
dân biểu được chia đều cho các ứng cử viên đứng đầu các liên danh) – lần
này tuy cuộc bầu cử gay go gấp trăm lần nhưng tôi có một sự chuẩn bị
rất thuận lợi trong thời gian hoạt động tích cực trong Quốc hội lập
hiến. Tên tôi không còn xa lạ đối với đông đảo quần cử tri Sài Gòn.
Người dân Sài Gòn lúc đó ủng hộ rất triệt để các nhà hoạt động chính trị
đối lập, đồng thời có lập trường chống chiến tranh. Và quần chúng rất
nhạy bén trong sự phân biệt giữa “đối lập thật” với “đối lập cuội”.
Mỗi
ứng cử viên được in hai loại tài liệu phục vụ cho vận động bầu cử: một
loại áp–phích 80cm-120cm để dán cho những nơi công cộng và một loại
truyền bươm bướm 21cm-28cm in tiểu sử và tuyên ngôn của ứng cử viên để
phát trực tiếp cho cử tri. Biểu chưng chính thức của tôi in trên các
áp-phích, truyền đơn và phiếu bầu là “bó lúa và ngôi sao ”. Slogan (khẩu
hiệu) trên áp phích tranh cử của tôi có nội dung: “Một miền Nam trung
lập trong một Đông dương trung lập ”. Tôi chọn chủ đề này để tranh cử
không do ảnh hưởng của bất cứ ai hay đảng phái chính trị nào, mà do suy
nghĩ của cá nhân tôi, mong muốn tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh.
Đối với một cá nhân hoạt động chính trị độc lập như tôi, thật không dễ
dàng tìm ra con đường đi tới giữa một tình hình sáng tối rất phức tạp ở
miền Nam. Dù cho con tim có lòng yêu nước chân chính, nhưng không phải
các bước đi bao giờ cũng đúng đắn. Sự mù tịt về “Việt cộng” và sự thiếu
hiểu biết sâu sắc về mục tiêu lý tưởng đấu tranh của “những người ở bên
kia nửa phẩn Tổ quốc” do sự bưng bít thông tin rất chặt chẽ và các chiến
dịch tuyên truyền chống cộng bền bỉ của chính quyền Sài Gòn qua nhiều
thời kỳ, khiến cho không ít những người thuộc thế hệ trưởng thành ở miền
Nam sau năm 1954 như tôi, không thể tự mình nhận định thực chất cuộc
xung đột và chọn cho mình một hướng đi đúng đắn.
Với bản thân tôi,
ngay cả sự hiểu biết về Hồ Chủ tịch, về cuộc chiến đấu của Mặt trận Dân
tộc Giải phóng Miền Nam là rất trễ tràng và lúc đầu rất ít ỏi. Cho đến
năm 1968, nguồn tìm hiểu duy nhất của tôi là hai quyển sách mà tôi mang
về từ Paris nhân một chuyến sang Pháp. Đó là quyển: Hồ Chí Minh của
Jean Lacouture và Vietnam: Inside Story of the Guerilla War của Wilfred
Burchett (New York, International Publishing, 1965). Thật quá ít và
chẳng đi đến đâu để hiểu sâu sắc về con người Việt Nam vĩ đại nhất cũng
như việc đánh giá đúng đắn cuộc chiến làm rung chuyển cả thế giới. Nhưng
tôi không thể không cảm ơn Jean Lacouture và Wilfred Burchett vào thời
điểm ấy đã mở cho tôi cánh cửa, dù là rất hẹp, để tiếp cận với một thực
tế khác của đất nước, hiểu biết khách quan hơn lý tưởng mà những người
cộng sản Việt Nam đang đeo đuổi với biết bao hy sinh xương máu. Cái may
mắn lớn nhất của tôi là không bị ràng buộc bởi một thế lực chính trị nào
(tôi hoạt động chính trị độc lập) và cũng không vì một quyền lợi riêng
tư nên cứ “sáng” ra thêm một chút nào do những tiếp thu nhận thức mới
thì tôi lại sẵn sàng điều chỉnh, chẳng chút mặc cảm. Ánh sáng duy nhất
soi đường cho tôi đi tới trong những năm tháng ấy như đã nói – xuất phát
từ con tim yêu nước, sự mong muốn được thấy dân tộc độc lập, đất nước
hòa bình và thống nhất. Thế thôi. Ở Sài Gòn vào thời điểm này, không một
tổ chức chính trị hoạt động công khai nào có khả năng đáp trả những vấn
đề bức thiết của đất nước đồng thời không một tổ chức chính trị công
khai nào thể hiện được một lý tưởng có hệ thống và lý luận chặt chẽ
hướng tới sự thực hiện dân chủ và công bằng xã hội. Ánh sáng lý tưởng
tỏa từ trong chiến khu và từ “bên kia nửa phần Tổ quốc” không dễ dàng
đến với tất cả thanh niên và trí thức miền Nam, tổ chức chỉ đến với một
số người chọn lọc, thường qua một số trung gian bí mật mà một người bình
thường không thể nào bắt liên lạc được.
… Slogan tranh cử Quốc hội
lập pháp của tôi – “Một miền Nam trung lập trong một Đông Dương trung
lập ” – như một thứ công chức hòa bình – theo suy nghĩ của tôi – cho
cuộc chiến mà lúc đó tưởng như không thể tìm ra lối thoát. Cái chính là
chấm dứt chiến tranh, buộc người Mỹ rút quân, không can thiệp vào vấn đề
nội bộ của người Việt Nam. Là một cá nhân độc lập, không đại diện cho
bất cứ thế lực chính trị nào, cũng không còn là con cờ của một cường
quốc nào – nên rốt cuộc lời kêu gọi của tôi cho công thức này như tiếng
kêu giữa sa mạc. Tôi không khác gì một Don Quichotte của nhà văn
Cervantès. Tôi cũng ý thức được việc mình làm là “đội đá vá trời” nhưng
tôi vẫn tin rằng trong tất cả các cuộc đấu tranh cho những chính nghĩa
lớn, tiếng nói của từng người, dù là người rất bình thường, nếu được
mạnh dạn bày tỏ công khai cũng có thể góp thành dư luận và sức mạnh.
Nhưng mặt khác sự dấn thân và bày tỏ thái độ cũng là nhu cầu tự thân của
những thanh niên trí thức như tôi ở vào thời điểm ấy. Vào những lúc
này, tôi còn nhớ, nhạc Trịnh Công Sơn cũng là thứ thuốc kích thích tinh
thần cho những người như tôi, lên lại “giây cót” mỗi khi cảm thấy buồn
nản, bế tắc. Nhạc Trịnh đã thúc đẩy sự dấn thân cho nhiều thanh niên và
trí thức đấu tranh vì hòa bình và dân tộc.
… Kết quả cuộc bầu cử
Quốc hội lập pháp cuối năm 1967: tôi về nhì trong số hơn 80 ứng cử viên
tranh ở đơn vị 2 Sài Gòn. Người về nhất là bác sĩ Hồ Văn Minh, chủ tịch
Chương trình Phát triển quận 8. Anh Hồ Ngọc Nhuận, cũng hoạt động trong
chương trình này, đắc cử ở vị trí thứ ba. Tôi chẳng có tiền bạc để tổ
chức cuộc vận động đúng nghĩa cho mình trong khi nhiều ứng cử viên khác
đã chi những số tiền rất lớn, thậm chí có ứng cử viên bỏ tiền ra mua
phiếu. Họ có cả một đội quân đi dán áp phích và phát truyền đơn đến từng
nhà. Nhưng kết quả bầu cử cho thấy cử tri ở Sài Gòn không dễ dàng bỏ
phiếu vì tiền, hay vì bất cứ một áp lực nào. Cử tri đi bỏ phiếu được
nhân viên phòng phiếu phát 80 phiếu rời, mỗi phiếu in tên, hình và biểu
trưng của ứng cử viên. Chọn lại 5 phiếu ứng cử viên mà mình tín nhiệm
trong một xấp 80 phiếu dầy cộm quả thật không dễ dàng, nhưng đa số cử
tri đã làm điều đó khá chính xác: không có ứng cử viên nào theo chính
quyền hay có lập trường chủ chiến lọt vào 5 vị trí đầu ở đơn vị này.
Quận Tư, quận Tám, quận Chín là những quận gồm đông đảo người lao động.
Chính họ đã có chọn lựa đúng theo nguyện vọng của mình.
Cuộc bầu cử
Quốc hội lập pháp năm 1967 còn có kẽ hở cho những thành phần đối lập và
độc lập lọt vào. Ở ba đơn vị bầu cử tại Sài Gòn, sự can thiệp của chính
quyền hầu như không có. Mục đích của chính quyền Sài Gòn và nhất là của
Mỹ là cố gắng tạo ra một “tủ kính dân chủ” tại thủ đô miền Nam để tuyên
truyền cho chế độ. Còn ở các tỉnh, chính quyền địa phương chưa được
lệnh gắt gao lắm trong việc chọn lọc ứng cử viên. Mặc dù đã đắc cử tổng
thống, nhưng ông Thiệu vẫn chưa nắm trọn quyền hành, vẫn còn dè chừng
các phản ứng của phó tổng thống Kỳ và các đảng phái khác. Phải đến Quốc
hội lập pháp kỳ 2 (bầu năm 1971), tổng thống Thiệu mới triệt để gạt ra
ngoài tất cả các ứng cử viên đáng nghi ngờ hoặc không cam kết (trên giấy
tờ hẳn hòi) ủng hộ ông. Muốn trở thành dân biểu ở các tỉnh, các ứng cử
viên phải cam kết vào đảng Dân chủ của Nguyễn Văn Thiệu. Chính quyền
Thiệu, một lần nữa, chỉ thả nổi duy nhất các đơn vị bầu cử ở Sài Gòn để
cố gắng duy trì bộ mặt dân chủ giả hiệu.
Đeo đuổi lập trường hòa
bình của mình đã nêu lên trong khẩu hiệu tranh cử, sau khi đắc cử, tôi
đã tiếp tục cuộc vận động cho công thức “một Miền Nam trung lập trong
một Đông Dương trung lập ” bằng cách gửi thư trực tiếp đến một số nhà
lãnh đạo Châu Á như thủ tướng Malaysia Tengku Abdul Rahman, thủ tướng
Singapore Lý Quang Diệu, thủ tướng Nhật Bản Sato yêu cầu hỗ trợ cho giải
pháp này để chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Tôi không biết vì lý do gì
các thư này đều không được các địa chỉ trên hồi âm. Tôi không nghĩ các
vị lãnh đạo quốc gia kể trên thấy rằng không cần thiết có thư đáp trả
một dân biểu vô danh như tôi, với một sáng kiến hòa bình chẳng có trọng
lượng (bởi không có một nhân vật quốc tế tên tuổi hay một quốc gia nào
trước đó lên tiếng bảo trợ hay ủng hộ). Tôi nghi ngờ các thư của mình đã
bị chính quyền Sài Gòn chặn lại. Sau đó tôi có gửi thư riêng cho một
nghị sĩ Nhật thuộc đảng cầm quyền (ông Harizumi) mà tôi đã từng quen
biết ông khi cùng dự Hội nghị Liên hiệp Nghị sĩ Châu Á tại Thái Lan. Ông
Harizumi đã mời tôi sang Tokyo trình bày sáng kiến của mình với đại
diện bộ Ngoại giao Nhật. Tôi đã đến thủ đô Nhật cùng vợ tôi với tư cách
cá nhân. Một chuyến đi có nhiều kỷ niệm khá đẹp về sự tiếp đón nồng hậu
của chủ nhà, nhưng về cuộc vận động thì chỉ dừng lại ở mức độ xã giao.
Tôi không có ảo tưởng cuộc vận động của mình sẽ đi đến đâu, đó chỉ là
cách thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế về chiến tranh Việt Nam và ước
vọng hòa bình của một người Việt Nam.
Liên quan đến đề tài vận
động bầu cử của tôi – về một giải pháp trung lập – có một chuyện rất
đáng nhớ. Đầu năm 1968, một tổ chức tôn giáo của người Mỹ có tên Quaker,
hoạt động cho hòa bình tại Việt Nam đã mời tôi tham dự một cuộc hội
thảo “Hòa bình ở Châu Á” tổ chức tại Xiêm Rệp – Campuchia. Cùng được mời
dự cuộc hội thảo này còn có các dân biểu Nguyễn Hữu Chung và Hồ Ngọc
Nhuận. Vương quốc Campuchia dưới sự lãnh đạo của nhà vua Sihanouk, bấy
giờ không nhìn nhận chính quyền Sài Gòn và không có quan hệ ngoại giao.
Nhà vua Sihanouk lúc đó ủng hộ tích cực Hà Nội và Mặt trận dân tộc giải
phòng miền Nam. Tuy nhiên do cả ba chúng tôi đều thuộc khuynh hướng đối
lập với chính quyền Sài Gòn, nên Vương quốc Campuchia chấp nhận cấp phép
nhập cảnh.
Trong thời gian dừng chân ở thủ đô Phnom Pênh, tôi sực
nhớ người bạn học xưa cùng ở nội trú tại trường Chasseloup Laubat những
năm 50, con của một thành viên hoàng tộc Campuchia. Đó là Sisowath
Charya. Tôi nhờ đại diện của chính quyền Sài Gòn tại Phnom Pênh tìm
giùm. Vì không được Vương quốc Campuchia chính thức nhìn nhận, nên đại
diện của Sài Gòn phải “tạm trú” trong Đại sứ quán của Nhật. Tại Phnom
Pênh, lần đầu tiên tôi nhìn thấy lần lượt ô tô của Đại sứ VNDCCH và
MTDTGP có cắm cờ chạy trên đường phố!
Người đại diện của Sài Gòn
tìm Sosiwath Charya không khó lắm vì ông là con của cựu thủ tướng, hoàng
thân Sirik Matak và bản thân Sisowath Chayra là một nhân vật khá nổi
tiếng ở Phnom Pênh. Lúc này các hoạt động giải trí ở Phnom Pênh như vũ
trường, rạp hát, nhà hàng, chiếu bóng đều là quốc doanh. Sisowath Charya
được giao phụ trách tất cả mảng này. Tôi được đưa đến một căn hộ ở tầng
hai một cao ốc. Người hướng dẫn cho tôi cho biết vào giờ này, buổi
sáng, ông không có ở nhà. Căn hộ này là của một người bạn gái. Khi tôi
bấm chuông thì một phụ nữ rất đẹp có nước da đậm đà ra mở hé cửa và hỏi
bằng tiếng Campuchia: “Ông tìm ai?”. Người hướng dẫn dịch lại cho tôi
hiểu và tôi nhờ ông nói lại với người phụ nữ rằng tôi muốn gặp ông
Sisowath Charya. Cô gái liền trả lời: “Ở đây không có ai tên đó”. Trong
khi đó thì tôi thấy loáng thoáng bên trong có một bóng người và đúng là
Sisowath Charya. Ông hỏi vọng ra bằng tiếng Campuchia. Tôi nói to bằng
tiếng Pháp “Lý Quý Chung, bạn cũ ở Chasseloup Laubat đến thăm bạn”.
Charya chạy ra ngay, ôm chầm lấy tôi. Thế là 14 năm sau, tôi gặp lại
người bạn nằm cạnh giường mình ở nội trú trường Chasseloup Laubat ngày
nào. Charya kéo tôi đi ăn cơm trưa ở khách sạn sang trọng nhất Phnom
Pênh. Anh lái chiếc ô tô Cadillac đời mới. Anh nói căn hộ đó không phải
là nơi anh ở. Sau buổi ăn trưa, anh đưa tôi về nhà để giới thiệu với gia
đình anh ở một biệt thự nằm trong khu nhà ngoại giao và các nhân vật
thuộc hoàng tộc. Khi tôi đến, ông Sirik Matak đang trông coi công nhân
sửa chữa phía sau ngôi biệt thự. Ông trở vào phòng khách tiếp tôi. Khi
được biết tôi đến từ Sài Gòn và là bạn học cũ của con ông, ông vui vẻ kể
lại những kỷ niệm về thời trẻ của ông: mỗi tối thứ bảy từ Phnom Pênh
ông đi ô tô xuống thẳng Sài Gòn, ăn uống ở Chợ Lớn và khiêu vũ ở trường
Grand Monde trong khu giải trí Đại Thế Giới. Ông còn kể lúc đó ông có
một người yêu Việt Nam ở vùng Tân Định. Tôi hỏi ông có muốn nhắn gì với
người phụ nữ năm xưa không. Ông cười: người phụ nữ ấy tôi quen thời trai
trẻ bây giờ đã trở thành bà ngoại rồi, chưa chắc bà ta còn nhớ tôi là
ai!
Buổi nói chuyện rất thân thiện, lúc thì bằng tiếng Pháp lúc thì
tiếng Việt. Ông Sirik Matak nói tiếng Việt như người Việt. Sau này khi
ông Matak trở lại cương vị thủ tướng khoảng năm 1970 hay 1971, tôi nghe
nói ông chủ trương một đường lối chống người Việt Nam rất mạnh mẽ, điều
đó khiến cho tôi rất ngạc nhiên. Tôi không làm sao nối kết được một
Matak nói về Việt Nam đầy thiện cảm mà tôi đã gặp với một Matak thủ
tướng Campuchia chống lại người Việt Nam như vậy.
Sau lần gặp nhau
đó, tôi và Charya không có dịp gặp lại nhau. Sự kiện bi thảm ở đất nước
Campuchia khiến tôi nhiều lần dằn vặt vì không biết Charya còn hay đã
chết như hàng triệu nạn nhân của chế độ Pôn Pốt. Số phận của người cha
thì tôi được biết rất sớm qua báo chí phương Tây: ông đã bị lính Pôn Pốt
hành quyết trong những ngày đầu bọn chúng chiếm Phnom Pênh.
Nhưng
một ngày gần cuối năm 2001, tôi nhận được một cú điện thoại của Sisowath
Charya. Anh đang có mặt tại TP. Hồ Chí Minh và muốn gặp tôi. Chúng tôi
hẹn nhau ăn cơm trưa tại nhà hàng Sao Mai ở đường Đông Du, quận 1. Thế
là sau 33 năm cuộc gặp ở Phnom Pênh, tôi và Charya lại có dịp hội ngộ.
Tôi không ngờ anh còn sống sót sau thời kỳ Pôn Pốt. May mắn cho anh là
anh đã rời Phnom Pênh trước khi quân Pôn Pốt tràn vào. Anh đã kể lại cái
chết bi thảm của cha anh như sau: ông Matak được tòa đại sứ Mỹ mời di
tản nhưng cha anh đã từ chối mặc dù thừa biết rằng ở lại là rước lấy cái
chết chắc chắn.
Trong hồi ký của cựu ngoại trưởng Mỹ Henry
Kissinger, Ending the Vietnam War , kể lại sự sụp đổ của chế độ Phonm
Pênh, tác giả có nhắc lại cái chết của ông Sirik Matak với vài chi tiết
rất đáng được nêu lại. Cuộc di tản ở Phnom Pênh bắt đầu từ 8 giờ sáng
ngày 12-4-1975 bằng trực thăng. Có tất cả 82 người Mỹ, 159 người
Campuchia và 35 người thuộc các quốc tịch khác được tòa đại sứ Mỹ đưa ra
khỏi Campuchia bằng trực thăng. Duy nhất chỉ có một người từ chối thư
mời di tản của đại sứ Mỹ John Gunther Dean: đó là cựu thủ tướng Sirik
Matak. Trong một lá thư tự tay ông viết, bằng một thứ tiếng Pháp mà cựu
ngoại trưởng H. Kissenger cho là rất “tao nhã”, ông Sirik Matak đã trả
lời đại sứ Mỹ Dean như sau:
Thưa ngài đại sứ và là bạn thân mến của tôi!
Tôi
hết sức thành thật cảm ơn ông về lá thứ ông viết cho tôi và về đề nghị
của ông đưa tôi đến tự do. Rất tiếc thay, tôi không thể rời nơi đây một
cách hèn nhát. Tôi không bao giờ tin rằng vào lúc này, với ông cũng như
với đất nước vĩ đại của ông, lại có cái cảm nghĩ rằng mình đã bỏ rơi một
dân tộc đã chọn tự do. Chúng tôi cần sự bảo vệ của các ông nhưng các
ông đã từ chối, chúng tôi không thể làm gì trước tình thế này.
Ông
rời nơi đây, lời chúc của tôi cho ông và đất nước của ông là sẽ tìm
được hạnh phúc dưới bầu trời này. Nhưng, hãy khắc ghi rằng, nếu tôi chết
ngay ở nơi này, tại đất nước mà tôi yêu dấu, thì cũng chẳng thành vấn
đề, vì rằng tất cả chúng ta sinh ra rồi đều tử biệt. Tôi chỉ mắc mỗi sai
lầm là đã tin các ông (người Mỹ).
Xin ngài, cũng là người bạn thân mến của tôi, vui lòng nhận những tình cảm thân thiện của tôi.
S/Sirik Matak.
Người
ta được biết ông Sirik Matak bị lính Pôn Pốt bắn vào bụng và để nằm tại
chỗ mà không có thuốc men gì cả. Ba ngày sau ông ấy mới chết.
Trở
lại chuyến đi Campuchia dự hội thảo do tổ chức tôn giáo Quaker tổ chức,
sau khi thăm người bạn học cũ, Sisowath Charya, tại Phnom Pênh, tôi lên
máy bay đi Xiêm Rệp. Cuộc hội thảo với đề tài “Hòa bình ở Châu Á” được
tổ chức tại một model nằm đối diện với đền Angkor Watt chừng vài trăm
mét. Khi tôi và hai dân biểu Hồ Ngọc Nhuận và Nguyễn Hữu Chung vừa đến
khách sạn, chưa kịp sắp xếp đồ đạc, thì một nhà ngoại giao người Anh
cũng dự cuộc hội thảo này gõ cửa phòng tôi. Ông xin phép được trao đổi
chỉ một phút. Nội dung: Ông ta thông báo “một cách thân hữu” rằng tại
cuộc hội thảo này có một nhà ngoại giao Nga đến từ Hà Nội nói tiếng Việt
rất giỏi. Và ông ta dặn “Các ông hãy cảnh giác”. Ông ta chỉ nói thế rồi
biến đi. Ông ta đi rồi tôi vẫn đứng tần ngần một lúc khá lâu. Thì ra ở
cuộc hội thảo này các nhà ngoại giao cũng đồng thời là những nhà tình
báo. Nhưng với tôi, sự cảnh giác của người Anh, đồng minh với chế độ Sài
Gòn, chẳng có tác dụng gì. Tôi không làm việc cho ai, kể cả chính quyền
Sài Gòn, do đó không giữ một bí mật gì để sợ bị lộ. Những ngày ở Xiêm
Rệp, tôi tò mò quan sát sự rình rập, theo dõi nhau giữa các nhà ngoại
giao thuộc hai khối đối nghịch. Tình cờ tôi tham gia vào một bộ phim OSS
117 không được thông báo trước.
Khi cuộc hội thảo kéo dài 4 ngày
sắp kết thúc (trong cuộc hội thảo nhà vua Sihanouk đến nói chuyện hai
lần, một lần bằng tiếng Pháp và một lần bằng tiếng Anh suốt hai tiếng
đồng hồ), tất cả những người tham dự được mời chụp chung một bức ảnh kỷ
niệm trước cổng vào đền Angkor Watt. Lúc đó tôi không chú ý người đứng
kế bên tôi là ai. Trong khi người chụp ảnh đang điều chỉnh góc độ của
máy ảnh thì tôi nghe người đàn ông phương Tây đứng cạnh tôi nói bằng một
giọng rất thấp vừa đủ cho tôi nghe với một thứ tiếng Việt rất chuẩn,
giọng Bắc: “Ông là dân biểu Lý Quý Chung phải không? Tôi làm việc ở sứ
quán Xô Viết ở Hà Nội. Tôi được biết lập trường của ông về trung lập hóa
miền Nam. Ông nên biết Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chủ trương trung lập
hóa miền Nam”. Tôi liếc thấy “nhà ngoại giao Anh” đứng phía sau tôi chỉ
cách hai người. Tôi trả lời nhà ngoại giao Xô viết cho có lệ vì biết
rằng ở đây đầy rẫy những nhà tình báo đội lốt ngoại giao: “Tôi chưa được
biết Chủ tịch Hồ Chí Minh có một chủ trương như thế về miền Nam”. Kỳ
thật, tôi cũng nghe đồn vào thời điểm đó người ta có dự kiến vận động
một giải pháp trung lập cho miền Nam, mang ý nghĩa chiến lược nhằm xóa
bỏ sự hiện diện và ảnh hưởng của Mỹ ra khỏi miền Nam.
Lúc đó tôi
rất ngạc nhiên về những gì nhà ngoại giao Xô viết nói với tôi. Tôi không
ngờ hoạt động của mình đã được theo dõi sát như thế từ Hà Nội. Sau khi
đất nước thống nhất, hơn một lần tôi có ý định tìm lại “nhà ngoại giao
Xô viết” khi tôi ra Hà Nội và nhất là trong một lần viếng thăm Liên Xô
năm 1979. Nhưng vì không nhớ tên, còn ảnh lúc đó lại thất lạc, nên tôi
không làm sao tìm ra nhà ngoại giao này.
Trở lại hoạt động tại Hạ
nghị viện mà tôi vừa tái đắc cử, tôi lại được bầu làm trưởng khối dân
biểu Dân tộc. Năm sau, bác sĩ Nguyễn Đại Bảng, dân biểu Huế, được bầu
thay tôi ở cương vị này. Năm đầu của Hạ nghị viện, tổng thống Thiệu chưa
kiểm soát được định chế này một cách tuyệt đối. Tòa đại sứ Mỹ tỏ ý lo
ngại những tiếng nói chống đối chính phủ trong quốc hội Sài Gòn sẽ ảnh
hưởng các cuộc biểu quyết của quốc hội Mỹ liên quan đến các khoản viện
trợ cho chính phủ Thiệu. Các nhà ngoại giao Mỹ tại Sài Gòn cố gắng vận
động các dân biểu và nghị sĩ đối lập giảm bớt sự chỉ trích đối với chính
phủ Thiệu. Tôi và một thành viên trong khối Dân tộc là dân biểu Nguyễn
Hữu Chung được hai nhân viên tòa đại sứ Mỹ là David Lambertson và John
Negroponte mời dùng cơm trưa. Hai nhà ngoại giao này rất quen thuộc đối
với các dân biểu và nghị sĩ Sài Gòn vì họ liên tục tìm cách gặp gỡ, trao
đổi các dân biểu và chính khách Sài Gòn để thăm dò và tiên liệu phản
ứng của các giới chính trị. Dĩ nhiên các cuộc tiếp xúc ấy cũng nhằm ảnh
hưởng và lôi kéo những cá nhân sẵn sàng ngả theo Mỹ. David Lambertson và
John Negroponte lúc đó đều thuộc ngạch ngoại giao đệ nhị tham vụ tòa
đại sứ. Sau 1975 Lambertson đã từng là đại sứ Mỹ tại Bangkok (Thái Lan)
và nằm trong danh sách những nhân vật mà Washington có ý định đưa sang
làm đại sứ tại Hà Nội đầu tiên khi hai nước bình thường hóa quan hệ
ngoại giao. Còn Negroponte sau thời sang Việt Nam đã tiếp tục làm đại sứ
tại một quốc gia Nam Mỹ và là người đóng một vai trò quan trọng trong
chính sách Mỹ can thiệp vào khu vực này. Ông là đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp
Quốc trong thời gian Mỹ tiến đánh Irak và chiếm đóng nước này (từ tháng 3
năm 2003) và gần đây nhất ông là đại sứ Mỹ tại Irak.
Trong buổi
cơm trưa tại nhà riêng của một trong hai người ở trong khu nhà dành cho
nhân viên cao cấp sứ quán Mỹ trên đường Tú Xương, David Lambertson,
không cần ỡm ờ, đặt vấn đề với chúng tôi “nên giảm cường độ chỉ trích
chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, bởi nếu không, có khả năng quốc hội Mỹ sẽ
cắt bớt viện trợ cho miền Nam”. Đồng viện của tôi, anh Nguyễn Hữu Chung,
có cái tính rất thẳng và tưng tửng, đã gạn hỏi lại Lambertson: “Chẳng
lẽ dân biểu chúng tôi khi phát biểu tại Hạ Nghị Viện lại phải dè chừng
quốc hội Mỹ phản ứng ra sao?”. David Lambertson đột ngột phản ứng không
kiềm chế, quên mình là một nhà ngoại giao: “Đúng thế, ông dân biểu phải
quan tâm đến phản ứng của quốc hội Mỹ”. John Negroponte chẳng nói gì,
làm thinh theo dõi. Tôi kéo câu chuyện qua hướng khác để hạ nhiệt độ.
Chắc chắn hai nhà ngoại giao Mỹ rất thất vọng về thái độ của tôi và anh
Nguyễn Hữu Chung. Và đương nhiên hai chúng tôi chẳng bao giờ “được” nằm
trong danh sách những chính khách Sài Gòn được Mỹ tin cậy!
Tôi
thường nói chuyện với các nhà ngoại giao Mỹ bằng tiếng Pháp hoặc tiếng
Việt. Tiếng Anh của tôi học trong các trường trung học Pháp lúc đó chưa
đủ để có thể sử dụng trong giao tiếp với người Mỹ. Đa số các nhà ngoại
giao Mỹ có mặt tại miền Nam những năm 60 và 70 đều nói được tiếng Việt
hoặc tiếng Pháp. Họ biết rằng các nhân sĩ, trí thức thuộc thế hệ này đều
trưởng thành từ thời chiếm đóng của Pháp. Chỉ có các chuyên viên và trí
thức thuộc thế hệ sau, hoặc du học ở Mỹ trở về những năm 60, mới nói
tiếng Anh thông thạo. Do vị trí của tôi trong Hạ Nghị Viện, giới ngoại
giao Mỹ thường mời tôi dự tiệc tùng mỗi khi họ đón tiếp một nhân vật
quan trọng từ Washington sang. Đặc biệt vào mỗi cuối tuần (Week-end),
John Negroponte và David Lambertson thường tổ chức các buổi ăn trưa và
bơi lội tại biệt thự riêng của cố vấn chính trị tòa đại sứ Mỹ Philip
Habib tại số 6 đường Tú Xương. Sau này Philip Habib trở thành đại sứ Mỹ
tại Hàn Quốc (1971) và thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ phụ trách các vấn đề
Đông Nam Á (1975, trước khi chế độ Sài Gòn sụp đổ).
Và tôi còn nhớ
trong một trận đấu bóng nước tại hồ bơi của ông Habib, tôi đã bị John
Negroponte đè sâu dưới nước suýt nữa ngoi lên không được khi đôi bên
tranh bóng quyết liệt. Negroponte to lớn gấp đôi tôi. Tôi không biết ông
ta có cố tình “dằn mặt” tôi không.
Có lẽ khó chịu bởi các cuộc
trao đổi với tôi luôn dùng tiếng Pháp, một hôm Negroponte hỏi tôi có dị
ứng gì với tiếng Mỹ hay không và tại sao tôi không học thêm tiếng Mỹ.
Tôi trả lời lý do hết sức đơn giản: quá bận nên không có thời giờ cố
định để đi học. Thế là Negroponte đề xuất một cách học tiếng Mỹ cho tôi
thật thuận tiện và thoải mái do một nữ nhân viên tòa đại sứ phụ trách.
Giờ học không cố định mà tùy thuộc giờ giấc của tôi. Có nghĩa khi nào
tôi có giờ rỗi rãi thì điện thoại cho người dạy và người này sẽ đến
ngay. Tôi không còn lý do nào để từ chối một đề xuất đầy thiện chí như
thế. Hôm đầu tiên tôi gọi đến số điện thoại đã được Negroponte trao thì ở
đầu dây là một phụ nữ Mỹ. Cuộc gặp đầu tiên với cô giáo người Mỹ thật
bất ngờ: một thiếu nữ rất đẹp, duyên dáng, mặc chiếc váy mini-jupe khá
ngắn rất thịnh hành lúc đó. Với một cô giáo như thế thật khó mà học tập
trung. Sự đàng hoàng, ngay ngắn của tôi sau đó chẳng qua do tôi luôn ám
ảnh cái bẫy CIA đang rình rập đâu đó. Học cả năm chẳng tiến bộ bao nhiêu
khiến cho cô giáo cũng nản. Có lẽ do nhu cầu thật sự lúc đó không có,
nên chuyện học hành không tiến bộ. Tiếng Anh của tôi chỉ khá lên sau
1975 do công việc làm báo và viết báo, bởi ở giai đoạn này đòi hỏi tôi
phải có thêm tiếng Anh ngoài tiếng Pháp để tham khảo tài liệu, sách báo
nước ngoài nên tôi buộc phải tự học thêm một cách tích cực.
Nhân
nói về CIA, mà cái bóng của nó phủ trùm lên cả miền Nam trước 1975, sau
này tôi vẫn tự hỏi, cớ gì trong suốt thời kỳ tôi hoạt động chính trị ở
Sài Gòn, có rất nhiều quan hệ với người Mỹ trong mọi lĩnh vực, thế mà
chẳng bao giờ “con bạch tuộc” ấy thả vòi đến tôi? Tôi đã hai lần dự cơm
tôi tại nhà riêng của đại sứ Mỹ ở đường Phùng Khắc Khoan, lần thứ nhất
thời Henry Cabot Lodge trở lại làm đại sứ tại Sài Gòn lần hai
(1965-1967) nhân buổi tiếp trợ lý ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Nam Á
William Bundy, lần thứ hai thời Ellsworth Bunker (1967-1973) khi ông
chiêu đãi thượng nghị sĩ Mỹ George McGovern, một ứng cử viên tổng thống
phản chiến.
Khi tôi vừa đắc cử vào quốc hội, còn ngơ ngác về chính
trị, tôi đã được một nhân vật Mỹ khá bí hiểm ở Sài Gòn là Clyde Bauer
mời tham gia một tổ chức phi chính phủ “Hiệp hội Bang giao Phát triển
Quốc tế ” (HHBGPTQT) với tư cách hội viên sáng lập cùng với những tên
tuổi rất gần gũi với tòa đại sứ Mỹ như ông Trần Văn Lắm (cựu dân biểu
thời Ngô Đình Diệm, là ngoại trưởng trong nội các của tướng Trần Thiện
Khiêm), ông Nguyễn Ngọc Linh (tổng giám đốc Việt Tấn Xã), ông Trần Trung
Dung (cựu dân biểu thời Ngô Đình Diệm), ông Ngô Khắc Tĩnh (sau là bộ
trưởng Bộ giáo dục của nội các Trần Văn Hương và Trần Thiện Khiêm), ông
Nguyễn Vạn Lý, (một lãnh tụ Cao đài thân chính quyền) v.v… Vài năm sau
nhìn lại, tôi nhận ra rằng các tổ chức Hiệp hội Bang giao Phát triển
Quốc tế có lẽ đã được người Mỹ dùng làm một trong những nơi kiểm tra và
chọn lọc các nhân vật chính trị để đưa vào guồng máy chính quyền Sài
Gòn ở các vị trí như bộ trưởng, đại sứ v.v… Trong các thành viên sáng
lập của HHBGPTQT gần như tôi là người duy nhất vẫn đứng ngoài guồng máy
của chính quyền Thiệu. Clyde Bauer, người đứng ra thành lập tổ chức
“ngoại giao nhân dân” này (“people to people”) là một cựu đại tá và anh
hùng quân đội của Mỹ tại chiến tranh Triều Tiên. Khi tôi không sinh hoạt
với HHBGPTQT nữa, có người nói với tôi Clyde Bauer là một nhân viên
CIA. Thế nhưng trong suốt thời gian sinh hoạt khá gần gũi, chưa bao giờ
Clyde Bauer để lộ ý đồ lôi kéo tôi theo cái hướng ủng hộ Washington. Mục
đích chính của hiệp hội này là đánh bóng hình ảnh của chế độ Sài Gòn và
làm cho dư luận Mỹ chia sẻ một cách thuận lợi hơn chính sách của
Washington tại Việt Nam. Tại Hội nghị Honolulu năm 1969, tổng thống
Johnson từng cảnh báo với tổng thống Thiệu và phó tổng thống Kỳ về tình
hình “anti Vietnam ” của quần chúng Mỹ mỗi lúc một cao hơn và khuyến cáo
hai ông Thiệu – Kỳ phải làm gì đó để đối phó tình hình này. Sự ra đời
của những tổ chức như HHBGPTQT rất có thể nằm trong mục tiêu trên.
Các
buổi sinh hoạt ăn uống, vui chơi cuối tuần tại nhà riêng của cố vấn
chính trị tòa đại sứ Mỹ, từ thời ông Habib đến ông Calhoun (người thay
ông Habib), mà tôi được mời tham dự nhiều lần, cũng là nơi các chuyên
viên Mỹ như David Lambertson, John Negroponte xem “giò cẳng” một số trí
thức trẻ Sài Gòn có thiện cảm với đường lối của người Mỹ ở Việt Nam. Hầu
hết những người Việt Nam trẻ mà tôi gặp tại đây đều nói tiếng Mỹ như
tiếng Việt, gần hết tốt nghiệp tại Mỹ hoặc đã tu nghiệp tại Mỹ. Và cũng
như với tổ chức HHBGPTQT, đa số những người đến cái biệt thự trên đường
Tú Xương đều lần lượt chiếm những vị trí trọng yếu trong chính quyền Sài
Gòn. Cái khác giữa HHBGPTQT và chỗ tụ tập cuối tuần tại nhà riêng của
cố vấn chính trị tòa đại sứ Mỹ là ở địa chỉ đầu thì đa số thành viên đều
ở tuổi trung niên trở lên, còn ở địa chỉ sau, phần đông đều rất trẻ, từ
25 đến 30. Không may mắn cho người Mỹ: tất cả những con người ấy đều
không có chỗ dựa trong quần chúng, họ dựa chủ yếu vào người Mỹ.
Báo
chí cũng là mảnh đất màu mỡ cho hoạt động tình báo của Mỹ. Người ta cho
rằng trong chiến tranh Việt Nam có đến trên 50% phóng viên, nhà báo Mỹ
là nhân viên CIA trá hình. Ngay trong số những nhà báo có tên tuổi lớn,
cũng không thể đoan chắc rằng không có người làm việc cho CIA. Bởi với
không ít người Mỹ, làm việc cho CIA không hẳn là đáng ghét, mà ngược lại
là một hành động yêu nước. Họ không tự coi mình là những “ugly
american” (người Mỹ xấu xa). Các phóng viên, nhà báo Mỹ này là những
an-ten thu lượm tin tức và qua các cuộc phỏng vấn trá hình là những công
cụ nhằm thăm dò phản ứng, thái độ của dư luận Sài Gòn trước các biến cố
chính trị, quân sự. Những nhà báo có tên lạ hoắc, tự nhận làm đặc phái
viên “free lance” (nhà báo tự do), luôn gây cho tôi sự nghi ngờ cảnh
giác.
Qua các máy lọc của CIA, tên tôi bị loại trừ ra khỏi danh
sách những nhân vật coi là “có khả năng tiếp cận”. Có một đánh giá cho
rằng CIA chỉ sai trật với một tỷ lệ không quá 0,5% khi tiến hành chọn
lựa người để tuyển dụng!
CHƯƠNG 9
Trong Hạ nghị viện nhiệm kỳ 1, phe đối lập gồm nhiều tiếng nói mạnh mẽ
và có nhiều ảnh hưởng trong dư luận. Nào là Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức,
Hồ Văn Minh, Nguyễn Hữu Chung, Dương Văn Ba, Kiều Mộng Thu, Trần Ngọc
Châu, Phan Xuân Huy v.v… Lúc này các dân biểu thuộc phe quân nhân thân
tướng Kỳ cũng nghiêng về phe đối lập trong một số cuộc biểu quyết. Ngay
cả các dân biểu thuộc phong trào Cấp Tiến thuộc ảnh hưởng các giáo sư
Nguyễn Văn Bông và Nguyễn Ngọc Huy như Trương Vị Trí, Nguyễn Tấn Trạng,
Nguyễn Văn Tiết, Trần Minh Nhựt, Nhan Minh Trang… lúc đầu cũng chưa ngả
qua công khai ủng hộ chính quyền Thiệu. Sau này phong trào Cấp Tiến mới
lộ ra là một đồng minh quan trọng của chính phủ Thiệu.
Nhưng bước
vào thời kỳ Quốc hội lập pháp, tổng thống Thiệu cũng bắt đầu củng cố địa
vị của mình. Ông Thiệu ít e ngại Thượng nghị viện vì phần đông gồm các
đại diện đảng phái chống cộng và cựu tướng lãnh thân chính phủ. Những
nhân vật như bà luật sư Nguyễn Phước Đại (độc lập), luật sư Nguyễn Văn
Huyền (công giáo), tướng Nguyễn Văn Chuân (quân đội) v.v… có những thái
độ chính trị độc lập trong Thượng viện kể ra khá hiếm hoi.
Sự ồn áo
và dám tấn công trực diện của tổng thống Thiệu chủ yếu diễn ra tại diễn
đàn Hạ nghị viện. Tổng thống Thiệu đã tìm ra một con người lý tưởng để
đối phó với những chống đối và bất ổn nơi đây. Đó là dược sĩ Nguyễn Cao
Thăng, chủ nhân viện bào chế dược phẩm OPV được độc quyền sản xuất và
nhập nhiều thứ thuốc bán rất chạy. Cách làm của dược sĩ Thăng để “nắm”
Hạ nghị viện rất đơn giản và hiệu quả: ông bỏ tiền ra mua chuộc tất cả
các dân biểu ham tiền, không có lập trường chính trị rõ ràng hoặc sẵn
sàng bán mình cho chính quyền Thiệu. Hàng tháng, các dân biểu này đều có
“bao thư”. Mỗi khi có các cuộc biểu quyết quan trọng mà chính quyền
Thiệu cần quốc hội thông qua thì mỗi lá phiếu đều được ra giá cụ thể.
Người ta cho rằng lúc đầu tổng thống Thiệu chưa nắm trọn quyền lực trong
tay mình, chính dược sĩ Thăng phải bỏ tiền nhà để làm cái việc này. Mới
nghe qua tưởng rằng dược sĩ Thăng chịu một “hy sinh” lớn cho tổng thống
Thiệu, nhưng kỳ thật tiền đó của ông Nguyễn Cao Thăng chẳng mất vào
đâu. Chuyện làm ăn riêng của ông (Viện bào chế OPV) được ưu đãi mang lại
cho gia đình ông một mối lợi còn to hơn gấp nhiều lần tiền ông bỏ ra để
gây hậu thuẫn cho cá nhân tổng thống Thiệu. Dĩ nhiên sau này khi ông
Thiệu nắm trọn quyền lực trong tay, đồng tiền được sử dụng cho những
chuyện này không xuất ra từ túi riêng của ông Thăng nữa mà từ các quỹ
đen của chính phủ.
Tuy nhiên phải nói rằng ông Thăng với chức vụ
chính thức là “phụ tá đặc biệt tại phủ tổng thống” (ngang cấp với bộ
trưởng) làm việc này khá thành công không chỉ vì có nhiều tiền để chi,
mà còn do con người mềm mỏng và tế nhị của ông. Các cuộc tiếp xúc và vận
động của ông đều thực hiện khéo léo của người biết làm lobby ở hậu
trường chính trị. Ngay cả với những dân biểu chẳng ra gì, thấy mặt ông
là xin tiền, ông vẫn tỏ ra tôn trọng và lễ độ! Nhờ thế lần lần ông “nắm”
gần hết các dân biểu lúc đầu là tay chân của phó tổng thống Kỳ. Kể từ
nhiệm kỳ Quốc hội lập pháp thứ nhất (1967-1971), các dân biểu bị chính
quyền Thiệu “mua chuộc”, được báo chí đặt cho cái tên: “dân biểu gia
nô”. Nhưng không phải tất cả các dân biểu theo chính quyền đều bị báo
chí gọi là “dân biểu gia nô”. Những dân biểu đứng về phía chính phủ
Thiệu do lập trường của mình, có ý thức về sự lựa chọn chỗ đứng chính
trị của mình, có nghĩa là không theo chính phủ vì tiền, họ không bị báo
chí liệt vào hạng “dân biểu gia nô”.
Các “dân biểu gia nô” thường
nhắm mắt bỏ phiếu theo lệnh của “Phủ đầu rồng” (từ được dùng để ám chỉ
Phủ tổng thống do báo Tin Sáng của dân biểu Ngô Công Đức đặt ra đầu
tiên). “Dân biểu gia nô” gần như không bao giờ lên diễn đàn để bảo vệ
lập trường của chính phủ hay đáp trả những lời chỉ trích ác liệt từ phía
các dân biểu đối lập. Họ ngồi lặng im như những cái bóng và chỉ chờ đến
lúc biểu quyết bỏ phiếu theo lệnh của “Phủ đầu rồng” do phụ tá đặc biệt
Nguyễn Cao Thăng truyền đạt. Các “dân biểu gia nô” gây ra nhiều vụ “xì
–can –dan” làm nhục quốc hội và chế độ Sài Gòn như: lợi dụng các chuyến
công tác nước ngoài, họ buôn từ vàng, đô la, ma túy, đến “lịch ở truồng”
(lịch Playboy), đồ lót phụ nữ v.v…Quốc hội đã phải truất quyền dân cử
một dân biểu bị phát hiện cất giấu heroin trong hành lý của mình tại phi
trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến công tác nước ngoài trở về. Một phó chủ
tịch Hạ nghị viện thân chính phủ bị an ninh phi trường Bangkok bắt tại
trận vì giấu hàng chục ký vàng trong người trước khi lên máy bay về Sài
Gòn!
Khi phụ tá Nguyễn Cao Thăng đã tổ chức chặt chẽ hàng ngũ “dân
biểu gia nô” ở Hạ nghị viện và “nghị gật” ở Thượng nghị viện thì các
nhóm dân biểu, nghị sĩ đối lập – thiểu số tại hai viện quốc hội – chỉ
còn phát huy vai trò và ảnh hưởng của mình bằng những phát biểu gây
tiếng vang trên diễn đàn Quốc hội hoặc báo chí. Còn khi bỏ phiếu, chính
phủ Thiệu gần như toàn quyền lèo lái quốc hội theo ý mình.
Tuy thế,
dù sao tiếng nói của dân biểu đối lập trên diễn đàn quốc hội cũng là
một áp lực thường xuyên đối với chính phủ Thiệu. Những người chống chính
phủ vẫn lợi dụng được diễn đàn này để tố giác tham nhũng, các vi phạm
dân chủ và cả sự phản đối chiến tranh.
Trong nhiệm kỳ Hạ nghị viện
1967-1971, phe đối lập còn có hai tờ báo hàng ngày khá mạnh về số lượng
phát hành và nhất là về ảnh hưởng đối với dư luận người dân Sài Gòn. Hai
tờ đều được cấp giấy phép xuất bản gần cuối năm 1968 là Tin Sáng do
dân biểu Ngô Công Đức, đơn vị Trà Vinh, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút và
Tiếng Nói Dân Tộc do tôi đứng tên chủ nhiệm kiêm chủ bút. Tờ Tin Sáng
có một số phận khá đặc biệt: tháng 8 – 1971, anh Ngô Công Đức ra nước
ngoài sau khi thất cử ở đơn vị cũ (Trà Vinh) vì chắc chắn sẽ bị chính
quyền Thiệu đàn áp khi quyền bất khả xâm phạm của mình hết hiệu lực. Anh
Đức đi đường bộ qua Campuchia, rồi từ đây đi tiếp sang Bangkok. Cuối
cùng anh định cư tại Thụy Điển. Theo một người thân của anh Đức, trước
khi rời Sài Gòn, anh Đức đã được anh Phạm Xuân Ẩn khuyến khích nhanh
chân ra đi vì anh Ẩn thấy trước nguy cơ anh Đức có thể bị chính quyền
Thiệu hãm hại. Tờ báo vắng mặt chủ nhiệm (nhưng được giấu kín) tiếp tục
phát hành thêm khoảng 2 tháng. Người điều hành tờ Tin sáng trong thời
gian chủ nhiệm vắng mặt là dân biểu Hồ Ngọc Nhuận. Chức danh của ông
Nhuận trong tờ báo là giám đốc chính trị. Tháng 1-1972, Bộ thông tin mới
phát hiện sự vắng mặt của chủ nhiệm và rút giấy phép của Tin Sáng . Anh
Đức bị chế độ Sài Gòn kết án vắng mặt ba năm tù và tịch thu tài sản. Có
những lúc, trong một tháng, báo Tin Sáng bị Bộ Thông tin ra lệnh tịch
thu 15 ngày (mỗi đợt ba, bốn ngày). Nhưng tờ báo tiếp tục sống vì tòa
soạn có cách tuồn báo ra ngoài bán. Thường báo bị tịch thu lại bán chạy
hơn báo phát hành bình thường. Mục ăn khách nhất của báo Tin Sáng là
“Tư trời biển” do chính ông Đức phụ trách.
Trước năm 1975, tờ báo
Sài Gòn nào cũng có mục tiểu phẩm châm biếm. Nó thường chiếm vị trí quan
trọng, nằm ở phía dưới bên phải trang nhất tờ báo, đối xứng với một mục
“ăn khách” khác là xã luận nằm ở bên trái trang báo. Độc giả Sài Gòn
những năm 50 không thể quên cây viết trào lồng Tiểu Nguyên Tử với mục
châm biếm xuất hiện hàng ngày “Gẫm cười hai chữ nhân tình” trên tờ Tiếng
Chuông . Tiểu Nguyên Tử là bút danh của một luật sư nổi tiếng, ông
Dương Tấn Trương. Ông có lối viết và chơi chữ rất độc đáo.
Tờ báo
ngày Tiếng Nói Dân Tộc (TNDT) xuất bản cùng thời điểm với tờ Tin Sáng ,
cũng có mục châm biếm thường xuyên lấy tên “Xỉa răng cọp” do tôi phụ
trách trực tiếp với bút danh “Người Giấu Tên”. Vào lúc này, báo chí
chống cộng như tờ Sống của nhà văn Chu Tử (tác giả của tiểu thuyết ăn
khách Yêu ) là tiếng nói khá nặng ký của những người Bắc di cư hoặc tờ
Xây Dựng do linh mục Nguyễn Quang Lãm làm chủ nhiệm đều có mục châm
biếm. Chu Tử đặt tên mục của báo mình là “Ao thả vịt”, còn linh mục Lãm
viết châm biếm dưới bút danh Thiên Hổ.
Không thể tránh những cuộc
bút chiến xảy ra giữa các tờ Tin Sáng và Tiếng Nói Dân Tộc thuộc
khuynh hướng tiến bộ với các báo Sống và Xây Dựng . Tuy nhiên, dù các
cuộc bút chiến có lúc khá gay gắt nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ lịch sự.
Số phận của tờ TNDT khá lận đận. Vừa ra được mấy số thì đã bị bộ
trưởng Bộ thông tin Tôn Thất Thiện gọi lên hăm dọa đóng cửa với lý do:
trong tòa soạn TNDT có chứa cộng sản. Tôi phản đối: Ông không nên nói
nửa úp nửa mở như thế. Ông phải nêu ra rõ ràng ai là cộng sản? Tôi đặt
lại vấn đề với tổng trưởng Thiện: Bộ thông tin đâu có phổ biến đến các
báo danh sách các nhà báo cộng sản để các nhà báo biết mà tránh không sử
dụng. Tôi nhấn mạnh: “Tòa soạn báo TNDT , những người cộng tác với tôi
đều là những công dân hợp pháp”. Ông Thiện chẳng nói gì nhưng cho tôi
hiểu đây là một lời cảnh cáo đối với tờ TNDT . Tổng trưởng Thiện từng ở
“một chiến tuyến” với tôi khi ông cùng tôi phụ trách báo chí cho liên
danh Trần Văn Hương, ứng cử tổng thống năm 1967. Ông Thiện phụ trách
liên lạc báo chí tiếng Anh, còn tôi liên lạc báo chí tiếng Việt. Khi ông
Trần Văn Hương nhận làm thủ tướng cho chính phủ Thiệu, ông có hỏi ý
kiến tôi nên chọn ai làm tổng trưởng thông tin. Tôi là người đã nêu tên
Tôn Thất Thiện. Nhưng trong cuộc gặp nhau tại Bộ thông tin liên quan đến
tờ TNDT , ông Thiện tiếp tôi một cách lạnh lùng như không hề quen biết.
Người Pháp nói “Quyền hành làm hư hỏng con người” (le pouvior corrompt
l’homme), còn ở đây thì quyền hành làm thay đổi tình bạn. Thời gian ông
Thiện làm tổng trưởng thông tin, báo chí chống đối ông quyết liệt và đặt
cho ông biệt danh: “Bảy T”, dựa vào bảy chữ T (tổng trưởng thông tin
Tôn Thất Thiện). Một số báo còn gọi ông là Bảy Thất: thất thiện, thất
tâm, thất tín v.v…
Trở về tòa soạn sau khi lên Bộ thông tin, tôi có
thuật lại chuyện xảy ra cho nhà báo Triệu Công Minh nghe, lúc đó ông
Minh làm tổng thư ký tòa soạn của tờ báo. Ông Minh suy nghĩ một lúc rồi
nói với tôi: “Tụi nó nhắm vào tôi và vợ tôi đó”. Vợ của ông Minh là bà
Ái Lan cũng là một nhà báo quen thuộc ở Sài Gòn. Hai ông bà đi đâu và
làm gì cũng có đôi, như hình với bóng, ngay cả khi vào tù thời Pháp
trước đó hay sau này của các chính quyền Diệm và Thiệu cũng đủ đôi.
Nhớ
lại khi tôi vừa có giấy phép xuất bản báo TNDT và dự định in tại nhà
in của ông Nam Đình (chủ nhiệm tờ Đuốc Nhà Nam , cũng là chủ nhiệm tờ
Thần Chung xưa kia), tôi có nhờ ông Nam Đình giới thiệu một tổng thư ký
tòa soạn. Ông Nam Đình đã giới thiệu tôi với ông Triệu Công Minh, lúc
đó khoảng 60 tuổi. Ông Triệu Công Minh còn hoạt động cho cộng sản không,
lúc đó tôi không biết. Nhưng với cả làng báo Sài Gòn, ai cũng biết hai
vợ chồng ông Minh là những nhà báo kháng chiến và không bao giờ hai ông
bà từ bỏ lý tưởng của mình.
Ông Minh nói tiếp với tôi: “Để tránh
rắc rối cho tờ báo của cậu, vợ chồng tôi phải rút lui thôi. Tôi sẽ giới
thiệu cho cậu một người khác thay tôi làm thư ký tòa soạn”. Ông Minh
giới thiệu với tôi nhà báo kỳ cựu Phan Ba mà theo tôi biết cũng là một
nhà báo cựu kháng chiến. Anh Ba đã từng bị chế độ Ngô Đình Diệm bắt và
bị tỉnh trưởng Mỹ Tho Nguyễn Trân đưa ra đấu lý về chủ nghĩa cộng sản
tại tỉnh này cùng với nhiều người cộng sản khác hoạt động trong lãnh vực
báo chí tại Sài Gòn. Anh Phan Ba cộng tác với tôi cho đến khi báo TNDT
bị chính quyền Thiệu đóng cửa (đầu năm 1970). Sau đó anh làm cho tờ Tin
Sáng của anh Ngô Công Đức. Sau 30-4-1975, khi Tin Sáng tái bản, tôi
và anh Phan Ba lại có dịp làm chung. Tôi phụ trách tòa soạn, còn anh lo
tin quốc tế.
Tờ TNDT đánh dấu bước chuyển đầu tiên trong lập
trường chính trị của tôi, từ vị trí đối lập nhưng vẫn tự coi mình là một
thành viên trong hàng ngũ “quốc gia”, chuyển sang đứng giữa, không xếp
hàng theo chính quyền quốc gia mà cũng không theo cộng sản. Thái độ
chính trị này thực chất không có gì khác hơn là sự biểu hiện tâm trạng
gần như bế tắc của cá nhân tôi. Sau Tết Mậu Thân, một số trí thức tên
tuổi và nhiều học sinh sinh viên rời thành phố đi theo Mặt trận Dân tộc
Giải phóng Miền Nam hoặc theo Liên minh Dân tộc Dân chủ Hòa bình do luật
sư Trịnh Đình Thảo đứng đầu. Lúc đó tôi thấy rằng, không phải tất cả
mọi người muốn đi tìm một lý tưởng đều có thể đi theo con đường
MTDTGPMN, vì không phải ai yêu lý tưởng cũng có đủ can đảm, và chưa kể
MTDTGPMN vẫn là một tổ chức hoạt động chính trị bí mật, nên muốn tiếp
cận để tìm hiểu và gia nhập là cả một vấn đề đối với những ai không được
“móc nối” hoặc không có người làm trung gian. Chính vì thế, tôi cũng tự
gọi mình là người thuộc thành phần “những người Việt cô đơn”.
Lập
trường “đứng giữa” của tôi xuất phát từ quan điểm chối từ tính đại diện
hợp pháp của chính phủ Sài Gòn và mặt khác do sự hoàn toàn không hiểu
biết tổ chức MTDTGPNMN vì chưa từng được tiếp xúc.
Để bảo vệ lập
trường “đứng giữa” của mình, tôi đã phải đối đầu công khai với các bài
báo chống cộng trên tờ TNDT . Ngày 22-11-1968, tôi đã có cuộc bút chiến
với tờ Xây Dựng linh mục Nguyễn Quang Lãm và ngày 1-12-1968 với tờ
Chính Luận của nghị sĩ Đặng Văn Sung – một nhân vật chống cộng và thân
Mỹ nổi tiếng tại Sài Gòn. Và đây là một giai đoạn của bài báo “Đi mô đấy
ông Lý Quý Chung” ra ngày 21-11-1968 trên tờ Xây Dựng :
“Ở giữa
đây là quay về nguồn gốc của dân tộc để vì Dân tộc mà sống với Dân tộc,
cùng một lúc từ chối cả hai ảnh hưởng từ hai phía”.
Câu trên đây
của ông dân biểu Lý Quí Chungnếu được tuyên bố trong một cuộc mít tinh
khí thế bừng bừng của sinh viên học sinh, tất cả sẽ vang như sấm sét,
giữa những tiếng hoan hô vang dậy ngất trời.
Chẳng nói đến thanh
niên, ngay cả cái cỡ long đầu gối, thận suy, răng rụng như Thiên Hổ cũng
sẽ phải hỉ hả, vỗ đến toét cả hai bàn tay ra.
Thú thực là để cho nó sướng cái miệng! Thế thôi, chứ cũng thú thực cóc hiểu cái tuyên bố đó.
Tất
nhiên rồi. Những Lý Quí Chung, Nguyễn Hữu Chung, Lý Chánh Trung, Nguyễn
Văn Trung và các anh em có tên Chung hay Trung cũng như các đứa con chỉ
được quen mồm gọi thằng cu như Thiên Hổ, nghĩa là đại đa số con dân
Việt Nam ở ba miền Trung, Nam, Bắc, vẫn muốn là ‘những người ở giữa’. Nô
lệ nhục lắm, ai chả biết dân tộc mình nhiều tự ái, đến mần cái việc của
Hàn Tín ngày xưa với anh hàng thịt cũng chưa chắc đã thèm làm (.)
Giữa
lúc thập tử nhất sanh của đất nước mà chỉ oang oang “Chúng tôi muốn là
những người ở giữa” thì câu đó ‘nông a lê u’, mà còn tổ làm cớ cho cộng
sản nó khai thác! Nhà dân biểu hăng say Lý Quí Chung ‘vì dân tộc, với
dân tộc’ hẳn đã nghĩ đến điều đó. Dù sao Thiên Hổ cũng xin phép nói
trước, sợ đàn anh quá sốt sắng đến thành ngây thơ. Chết cho dân tộc
chúng em đấy!
Thiên Hổ
Rõ ràng lập trường “đứng giữa” của
tôi lúc đó gây phản ứng với các thế lực chống Cộng như thế. Tôi chấp
nhận sự “ngây thơ chính trị” của mình để có thể tự tách mình ra khỏi một
chế độ không đáp ứng lý tưởng của mình mà cũng không đại diện nguyện
vọng của nhân dân miền Nam. Lập trường “đứng giữa” làm tức tối các phần
tử chống cộng, nhưng cũng chính thức không nghiêng về phía cộng sản, nên
không có đủ lý do để chính phủ Thiệu đóng cửa tờ báo.
Với tôi, lúc
đó nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng là một “người Việt cô đơn”, một “người
Việt đứng giữa”. Có một hôm tôi mời anh Sơn đến tòa soạn TNDT chơi và
trong một giây phút cao hứng tôi đề nghị anh sáng tác một bản nhạc dành
cho người Việt đứng giữa. Nhưng Sơn khéo léo nói sang chuyện khác. Tôi
biết Sơn ngại dính líu vào chính trị. Dù tôi không tham gia một đảng
phái chính trị nào nhưng tôi cũng đang hoạt động chính trị. Sơn vẫn đặt
các sáng tác của anh trên những xúc cảm chung nhất của dân tộc: chống
chiến tranh, vì hòa bình thống nhất đất nước, vượt lên trên những vấn đề
thời sự cụ thể. Anh đau niềm đau chung của dân tộc.
Nhạc Trịnh
Công Sơn có những lúc là cái phao tinh thần cho cá nhân tôi. Nhiều buổi
tối trở về nhà chán nản, tâm trạng khủng hoảng, bế tắc sau một cuộc
xuống đường mệt mỏi nhưng chẳng lay động được gì chế độ Mỹ - Thiệu, tôi
nằm ngay trên sàn nhà, không cần bật đèn, chỉ bật nhạc Trịnh Công Sơn để
nghe như nghe chính tâm trạng mình, nhưng đồng thời lại nuôi nấng được
trong con tim niềm hi vọng hòa bình và ước mơ được thấy một ngày nào đó,
Huế - Sài Gòn – Hà Nội sẽ liền một dải. Thế là nhạc Trịnh làm tươi lại
tâm hồn tôi và làm mới ý chí tôi.
Có những đêm, sau cuộc họp chính
trị tại Dinh Hoa Lan (biệt thự của tướng Dương Văn Minh) tôi không về
thẳng nhà mình mà đến phòng trà Khánh Lý trên đường Tự Do (nay là Đồng
Khởi) để ngồi nghe một mình nhạc Trịnh. Nhạc Trịnh chống chiến tranh
nhưng không hề khiến những người yêu nước mềm ý chí. Anh kêu gọi hòa
bình nhưng không làm cho những ai đang chiến đấu vì đồng bào và Tổ quốc
lại gác súng. Trái lại nó nuôi ý chí làm quật khởi những tâm hồn yêu
nước.
Cuộc sống quá hối hả, dồn dập lắm biến chuyển không có nhiều
cơ hội để tôi và Trịnh Công Sơn gặp nhau. Vả lại tôi và Sơn hoạt động ở
hai quỹ đạo rất khác nhau. Sau 1975, chúng tôi gặp nhau thường hơn,
nhưng vì tôi không uống rượu và cũng không sành về âm nhạc nên cũng
không lọt vào cái quỹ đạo đặc biệt của Sơn gồm những bạn rượu và văn
nghệ sĩ. Mỗi lần tôi tới chơi nhà Sơn, tôi đều báo trước và thường ngồi
nói chuyện với nhau chỉ có hai đứa.
Khi tôi lấy vợ lần thứ hai (năm
1985) và tổ chức đám cưới tại hội trường báo Tuổi Trẻ , tôi có mời Sơn.
Tôi và Sơn rất mê khiêu vũ nên giữa buổi tiệc chúng tôi dẹp bớt đi bàn
ghế và cho nhạc trỗi lên. Vào thời điểm này hầu như không ai dám “liều”
như chúng tôi. Khai mạc buổi khiêu vũ, Sơn mời cô dâu nhảy đầu tiên, còn
tôi mời chị Kim Hạnh, Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ . Tôi còn nhớ đó là
một bản nhạc theo nhịp Be Bop. Sơn rất thích nhảy Be Bop. Sau này khi
bệnh tiểu đường trở nặng, đi đứng khó khăn, Sơn không còn khiêu vũ được,
làm anh hối tiếc vô cùng. Có một hôm (khoảng đầu năm 2000) tôi cùng vợ
tôi khiêu vũ ở vũ trường Tự Do ở đường Đồng Khởi, đang nhảy ngoài piste,
tôi linh cảm có ai nhìn mình từ quầy bar, tôi quay lại và nhìn thấy
Trịnh Công Sơn. Đứng bên cạnh là họa sĩ Trịnh Cung. Anh đưa tay lên chào
tôi. Khi bản nhạc kết thúc tôi liền đến chỗ anh. Tôi hỏi Sơn: “Ông
không nhảy à?”. Giọng Sơn buồn man mác: “Mình đi đứng còn khó khăn thì
làm sao nhảy. Thấy toa nhảy, moa thèm quá”. Sơn còn hỏi thêm: “Hình như
toa nhảy disco hơi khác người ta phải không?”. Tôi cười trả lời: “Khiêu
vũ đâu nhất thiết phải giống như người khác. Mình nhảy theo cảm xúc của
mình – như thế tự do và hứng thú hơn”. Nhìn Sơn đứng bên piste mà không
nhảy, tôi buồn và thương anh vô cùng. Tôi biết bệnh tình của anh đã tới
thời kỳ khá nặng.
Mùng 5 Tết năm Tân Tị (năm 2001), tôi vào bệnh
viện Chợ Rẫy cùng với họa sĩ Trịnh Cung thăm Sơn. Đây là lần cuối cùng
tôi gặp mặt người nghệ sĩ tài hoa này. Chỉ một thời gian ngắn sau đó,
ngày 1-4-2001, anh vĩnh viễn từ giã bạn bè và tất cả những người yêu
thương và ngưỡng mộ anh. Cuộc gặp Sơn tại bệnh viện Chợ Rẫy, tôi có ghi
lại thành một bài báo đăng trên tạp chí Đẹp số đầu tháng 2-2001:
“…Sơn
vẫn nằm trên giường khi nói chuyện với chúng tôi, nhưng trông anh vẫn
khỏe khoắn, thần sắc tinh anh. Tôi chợt cười thầm trong bụng bởi một ý
nghĩ thú vị vụt đến: Con người gầy gò và nhẹ bâng này đang mang nhiều
thứ bệnh trong người, tưởng như dễ dàng rơi vào tay tử thần, lại là
người chiến đấu cho cuộc sống bản thân dữ dội nhất.
Cách đây mấy
năm, Sơn bị đưa vào bệnh viện cấp cứu trong tình trạng hôn mê. Lần đó,
bạn bè thật sự lo lắng cho anh. Cuối cùng Sơn vẫn trở về an toàn. Gặp
lại Sơn tại nhà riêng của anh lần đó, tôi tò mò hỏi: “Đúng là ông trở về
từ cõi chết, vậy ông suy nghĩ gì về… cái chết?”
Tôi vẫn gọi Sơn
như thế, từ “ông” được dùng theo cách xưng hô thân mật. Có lúc chúng tôi
gọi nhau bằng “toa” và “moa”, cách xưng hô giữa những người bạn có thời
học trường Pháp. Sơn không cần suy nghĩ, trả lời ngay: “Chết là thiệt
thòi. Người Pháp nói: Les absents ont toujours tort. Chết, mình không
còn họp mặt với bạn bè, không còn được ngắm cuộc đời rất đẹp này”. Nhớ
câu trả lời cách đây mấy năm, tôi tò mò muốn biết nằm trên giường bệnh
lần này, anh nghĩ gì. Câu trả lời còn nhanh hon và gọn hơn lần trước:
“Mình muốn ra khỏi đây càng sớm càng tốt”.
Hãy cứ vui chơi với đời
Đừng cuồng điên mơ trăm năm sau
Còn đây em ngọt ngào
Đứng bên ngày yêu dấu
Nhìn mây trôi đang tìm về núi cao
(«Hãy cứ vui như mọi ngày»)
Vóc
dáng mảnh khảnh, quen thuộc của anh Sơn với mọi người trong nhiều năm
qua, khiến không ai có thể nghĩ rằng Sơn đã có một thời trai trẻ là con
nhà thể thao chính cống. Mỗi sáng anh đều quần một hai hiệp quyền Anh.
Anh đồng thời còn là đệ tử Vovinam từ những ngày đầu môn này được thành
lập ở Sài Gòn, và là vận động viên điền kinh 10 môn. Nếu người em trai
của Sơn không tung một cú quật trong một lần luyện võ với nhau, khiến
ngực anh đập xuống nền nhà làm vỡ mạch máu phổi phải nằm trên giường
suốt hai năm, thì chắc chắn chúng ta chỉ có một vận động viên Trịnh Công
Sơn (chưa bảo đảm là xuất sắc) nhưng mất đi một Trịnh Công Sơn tài năng
âm nhạc. Đó là khúc quanh cuộc đời của anh. Sơn nói: “Trên giường bệnh
mình suy nghĩ rất nhiều…”. Khi rời giường bệnh năm 1957, trong anh đã có
một đam mê khác: âm nhạc. Với nhiều người, tác phẩm đầu tay của Sơn là
“Ướt mi”. Nhưng Sơn tiết lộ:
“Bản nhạc đầu tiên đúng nghĩa của
mình có tên “Sương đêm”. Không ai biết sáng tác này. Nó đã thất lạc. Bản
thân mình cũng không nhớ lời và nhạc như thế nào!”.
Tác phẩm đầu
tiên của Sơn – “Ướt mi” – như công chúng yêu nhạc biết, đã được Thanh
Thúy – ca sĩ thời thượng những năm 50, người có giọng ca liêu trai,
trình diễn lần đầu tại phòng trà Văn Cảnh. Không như suy nghĩ chung của
nhiều người, Khánh Ly không phải là người đầu tiên và duy nhất hát thành
công nhạc Trịnh Công Sơn trước năm 1975. Sau Thanh Thúy, một giọng ca
lừng danh khác của Sài Gòn thời đó góp phần giới thiệu tác phẩm của Sơn –
đó là nữ ca sĩ Lệ Thu.
Khánh Ly là người thứ ba và là người hát
toàn bộ các nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn. Lần đầu chính Sơn chủ động
tiếp xúc với Khánh Ly tại phòng trà Night Club ở Đà Lạt bằng cách tự
giới thiệu mình là tác giả bài “Ươt m”. Sau một tháng tập bể cả giọng,
Khánh Ly cùng Trịnh Công Sơn xuất hiện lần đầu tiên tại sân sau Đại Học
Văn Khoa Sài Gòn (hiện là Thư viện Quốc gia) trước 5000 sinh viên. Khánh
Ly trình bày luôn 24 sáng tác của Sơn trong đêm đó. Sau đó Khánh Ly đã
nói với Sơn: “Trước đây mình chỉ hát trong phòng trà, lần đầu tiên hát
trước hàng ngàn sinh viên, tối đó mình không làm sao ngủ được”. Đó là
năm 1965, các sáng tác của Sơn bấy giờ đều là tình ca.
Đến năm 1968, Sơn mới sáng tác nhạc phản chiến.
Hình
như Trịnh Công Sơn có hai bài sáng tác về Hà Nội và chẳng có bài nào
viết về Huế. Tôi hỏi anh điều ấy. Sơn không trả lời thắc mắc của tôi mà
nói: “Có lần Hoàng Hiệp phát biểu, bài nào của Sơn cũng có Huế trong đó
mặc dù không có đề cập Huế trực tiếp”.
Thêm một thắc mắc, tò mò khác: “Có bao giờ ông nghĩ đến chuyện lấy vợ?”
- Có một lần thoáng qua lúc mình trẻ. Nhưng thời đó, các cô gái ít chịu lấy mấy ông chồng nghệ sĩ sống bấp bênh.
- Bao nhiêu phần trăm các sáng tác của ông lấy cảm hứng từ một người đẹp nào đó?
- Một phần năm mình viết cho một người cụ thể.
Họa sĩ Trịnh Cung, bạn thân của Trịnh Công Sơn từ thời trẻ, nói chen vào:
- Theo tôi hơn con số đó. Phải là 40%. Tôi có thể chứng minh bài nào ông viết cho người nào.
Sơn
không phản đối. Tôi lại hỏi Sơn: “Bửu Ý viết Thay lời tựa cho Tuyển
tập những bài ca không năm tháng của ông, có đoạn nói rằng ông đã chuẩn
bị tinh thần cho cái phút sau rốt cuộc đời bằng cách trích lại 4 câu ở 4
sáng tác khác nhau của ông:
… một trăm năm sau mãi ngủ yên (“Sẽ còn ai”)
… mai kia chào cuộc đời (“Những con mắt trần gian”)
…một hôm buồn núi nằm xuống (“Tự tình khúc”)
…một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời (“Bên đời hiu quạnh”)
- Vậy ông có thật sự chuẩn bị cho cái chết?
-
Mình không chuẩn bị cho cái chết. Lạ lùng là sau cơn hôn mê, mình tỉnh
lại vẫn không thấy vui mừng. Thế mà ngủ nằm mơ thấy chết, sáng thức dậy
lại mừng. Đúng là có những chuẩn bị hẳn hòi cho cái chết của mình và có
những người chẳng chuẩn bị gì cả, coi thường cái chết. Riêng mình hơi
khác, mình không sợ cái chết nhưng nếu phải rời bỏ cuộc đời này mình rất
luyến tiếc. (Sơn dùng thêm tiếng Pháp regret). Trong khi sống mình đã
nuối tiếc rồi, mình sợ mất nó. Mình khát sống.
- Ông có bao giờ nghĩ đến chuyện viết di chúc?
-
Không. Một cô ca sĩ đã hỏi mình câu đó. Mình có tài sản chi đâu? Với
mình cái hiện tại là cái có thật, cùng sống với nó. Còn cái sau đó…
- Bây giờ nhìn lại cuộc đời đã qua, về tình yêu, ông thấy thế nào?
-
(Không cần suy nghĩ) Thất bại nhiều, thất bại nặng. Thời trẻ sự thất
bại mang lại nỗi đau bàng bạc, kéo dài. Bây giờ nó dữ dội, nhưng ngắn.
Mình để nó rơi vào quên lãng, không lục soát lại, coi như một xác chết
của quá khứ.
Tôi chuyển sang chuyện khác và hỏi: Ông có kẻ thù không?
-
Có (Rồi dừng lại một giây suy nghĩ). Đúng ra là không. Dĩ nhiên cũng
có người ghét mình. Riêng mình đã loại trong đầu mình khái niệm kẻ thù.
- Ông là nhạc sĩ dấn thân – engagé?
- Từng giai đoạn, nhưng
nói chung mình chủ trương ‘nghệ thuật vị nhân sinh’ chứ không ‘nghệ
thuật vị nghệ thuật’. Cho nên nếu vì một hoàn cảnh nào đó buộc mình đi
tu, thì mình sẽ đi tu giữa cuộc đời này.
- Ông có hối tiếc vì không có con để nối dõi?
-
Không nghĩ tới. Mình chưa bao giờ nghĩ tới một Trịnh Công Sơn con. Tại
sao? Để mình xem có lý do nào không? (Sơn suy nghĩ một lúc) Mình không
thấy lý do nào cả. Có lẽ cuộc sống vội vàng đi qua, đi qua, rồi… Thỉnh
thoảng xưa kia các em mình có nhắc, mẹ mình cũng có nhắc nhưng không ai
đặt thành vấn đề, rồi thôi…
Thoắt một cái người đã 61 tuổi, người
đã 62. Nhớ lại lần gặp nhau tại tòa soạn báo Tiếng Nói Dân Tộc ở Sài
Gòn năm 1966, thế là đã 35 năm.
Cùng thời điểm Sơn sáng tác những
bài hát phản chiến (bắt đầu từ năm 1968), phần tôi trên báo Tiếng Nói
Dân Tộc cũng tổ chức cuộc thi viết phóng sự với chủ đề “Viết cho quê
hương, dân tộc ” dành cho bạn đọc. Các bài dự thi đều chống cuộc chiến,
chống sự can thiệp của người Mỹ, phản ánh tâm trạng và thực trạng khắp
miền Nam, tất cả hợp thành một bức tranh xúc động và trung thực của nửa
phần Tổ quốc phía Nam. Những bài đoạt giải như “Phục sinh đất chết ” nói
về hậu quả của chất độc hóa học của quân đội Mỹ rải xuống ruộng vườn;
“Khi người Mỹ đến ”, mô tả chi tiết quá trình một xã ven đô hiền hòa bị
biến thành một nơi buôn hoa bán phấn vì chạy theo đồng đô la Mỹ; hoặc
“Ông lão trong vùng oanh kích tự do ” bi kịch của một ông lão sống trong
vùng đất bị quân đội Mỹ coi là “Free Fire Zone” nhưng nhất định không
chấp nhận dời căn lều của mình đi nơi khác v.v…
Báo TNDT đã mời giáo sư Lý Chánh Trung làm chủ tịch Hội đồng chấm giải và tận tay trao giải cho những người về đầu cuộc thi.
10
phóng sự xuất sắc nhất đã được dịch ra tiếng Anh và được Nhà xuất bản
Mỹ Praeger in thành sách (tựa sách Between Two Fires ). Nhà báo Lê Trang
của báo Saigon Daily News giúp tôi khâu dịch thuật, sau đó nhà báo Mỹ
Arthur J. Dommen (phụ trách văn phòng báo Los Angeles Times tại Sài
Gòn) hiệu đính lại. Tôi đã mời nhà văn nữ người Mỹ Frances Fitzgerald
viết Lời mở đầu (Frances Fitzgerald đã từng đoạt giải Pulitzer với quyển
“Fire On The Lake ” – Lửa trong hồ) quyển sách do tôi đứng tên thực
hiện và viết lời giới thiệu. Fitzgerald từng viếng thăm Hà Nội trước
1975 và là người tán đồng ngay từ lúc đó sự thống nhất Việt Nam dưới
ngọn cờ của cách mạng.
CHƯƠNG 10
Nhớ lại nhà báo A. J. Dommen, tôi rất cảm ơn ông đã giúp tôi thực hiện
quyển sách đã góp một phần nhỏ làm cho dư luận Mỹ hiểu thêm thực trạng
miền Nam Việt Nam từ khi quân đội của họ can thiệp vào. Ở đó chỉ toàn là
những lời ca thán và phẫn nộ chứ không hề có sự hàm ơn. Trước năm 1975,
tôi có dịp gặp gỡ và thân thiết nhiều nhà báo nước ngoài, kể cả nhà báo
Mỹ. Rất nhiều người trong số họ thật sự gắn bó tình cảm với đất nước
Việt Nam, dân tộc Việt Nam, họ đã chọn một thái độ chính nghĩa vượt lên
trên nghĩa vụ nghề nghiệp thuần túy.
Bi kịch chiến tranh Việt Nam
chi phối rất nhiều cuộc đời và sự nghiệp của các nhà báo nước ngoài, đặc
biệt là các nhà báo Mỹ. Không ít người đã trở thành nổi tiếng, nhận
những giải thưởng báo chí cao quí như Pulitzer, nhưng cũng có lắm nhà
báo bị cuộc chiến ám ảnh mãi cuộc đời còn lại. Họ vĩnh viễn không tìm
lại được cuộc sống bình thường khi trở về quê hương. Có người vì quá gắn
bó với đất nước và con người Việt Nam, đã ôm trọn bi kịch của dân tộc
này vào cuộc đời của mình. Nhiều người trong số họ trở thành một phần ký
ức trong cuộc đời hoạt động báo chí và chính trị của tôi. Hoạt động
chính trị trong lòng Sài Gòn trước 1975 không thể thiếu những quan hệ
mật thiết với báo chí, nhất là báo chí nước ngoài, vì theo tôi, họ đã
góp phần rất lớn vào việc đánh động dư luận nước Mỹ và thế giới về những
gì xảy ra tại miền Nam Việt Nam.
… Một trong những nhà báo Mỹ đầu
tiên tôi quan hệ là Peter Arnett, lúc đó là phóng viên của hãng tin AP
(Associated Press ), sau này nổi tiếng trong hai cuộc chiến Irak (1991
và 2003). Tôi muốn nhắc đến Peter Arnett đầu tiên vì thời điểm tôi bước
vào nghề báo cũng là lúc Peter Arnett gây sự chú ý trong các đồng nghiệp
của anh qua một cuộc tranh luận gây sốc với đô đốc Harry Felt, tư lệnh
lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương. Chuyện xảy ra sau trận đánh Ấp Bắc lịch
sử hai ngày. Đô đốc Felt cố gắng biện minh sự thất bại đầu tiên của quân
Mỹ và quân đội Sài Gòn trong chiến tranh trực thăng vận bằng cách lập
luận rằng đã đánh bật được địch ra khỏi Ấp Bắc. Nhưng Peter Arnett cho
rằng đó là cách đánh giá thắng bại theo sự chiếm cứ đất đai trong chiến
tranh thế giới thứ hai và chiến tranh Triều Tiên, hoàn toàn không ăn
nhập gì với cuộc chiến tranh du kích ở miền Nam. Sau trận đánh Ấp Bắc,
chiến tranh du kích ở miền Nam đã đạt một tầm vóc phát triển mới. Peter
Arnett đặt vấn đề và chất vấn Đô đốc Felt theo chiều hướng này khiến cho
Felt không giữ được bình tĩnh và quật ngược lại Arnett: “Anh hãy trở
lại hàng ngũ”, ý muốn nhắc Peter Arnett đừng quên anh trước hết là một
người Mỹ. Các bài viết của Peter Arnett trong chiến tranh Việt Nam luôn
cố gắng tìm ra một sự thật khác hơn cái sự thật được Washington và chính
quyền Sài Gòn đưa ra. Ở cuộc chiến vùng Vịnh 1991 (Irak 1) và ở cuộc
chiến Irak 2 (2003) cũng thế. Ở cuộc chiến Irak 2, Arnett đang là phóng
viên của NBC (Mỹ) nhưng lại xuất hiện trong cuộc phỏng vấn trên đài
truyền hình Irak (Lúc lãnh tụ Saddam Hudssein còn nắm quyền) và đưa ra
nhận định rằng những hình ảnh bom đạn Mỹ sát hại dân thường Irak và nhất
là trẻ thơ vô tội cung cấp thêm sức mạnh cho các phong trào phản chiến ở
Mỹ và thế giới. Sau cuộc trả lời phỏng vấn này, Peter Arnett bị NBC sa
thải. Nhưng liền đó, một tờ báo Anh lại thuê ông tiếp tục làm đặc phái
viên tại Irak.
Peter Arnett gặp và phỏng vấn tôi trong khoảng thời
gian 1967 – 1968. Sau chiến tranh Vùng Vịnh (Irak 1), năm 1996, Peter
Arnett có trở lại Việt Nam. Khi đến TP.HCM, ông có đến thăm tôi cùng một
người bạn của ông tại nhà hàng “Đôi đũa tre” của tôi ở đường Bà Hạt
thuộc quận 10 TP.HCM. Chúng tôi nhắc lại chuyện xưa và được nghe ông kể
nhiều chuyện về chiến tranh Vùng Vịnh.
Peter Arnett là phóng viên
Mỹ đầu tiên nhìn thấy ở trận Ấp Bắc một bước ngoặt của chiến tranh du
kích ở Việt Nam. Còn với Henry Kamn, phóng viên của New York Times , là
một trong những người đầu tiên đưa vụ thảm sát Sơn Mỹ ra trước công luận
Mỹ. Điều gì thúc đẩy những nhà báo như Peter Arnett, Henry Kamn lật
ngược những “sự thật” được chính nhà cầm quyền Mỹ… dựng lên, và đưa ra
công luận những tội ác mà chính quân đội Mỹ gây ra? Theo tôi, trong một
nhà báo chân chính luôn tồn tại hai con người: con người bình thường gắn
với quê hương, dân tộc, và một con người khác vượt lên trên ranh giới
quốc gia, chia sẻ những nỗi đau và bất hạnh của nhân loại, để đấu tranh
cho một thế giới công bằng và tốt đẹp hơn.
Chính Henry Kamn đã kể
lại cho tôi nghe diễn tiến việc ông thực hiện bài phóng sự điều tra vụ
thảm sát Sơn Mỹ (vào lúc đó báo chí quốc tế gọi là vụ thảm sát Mỹ Lai)
như sau:
- Một buổi trưa tại văn phòng báo New York Times ở Sài
Gòn, tôi nhận một cú điện thoại từ văn phòng ở New York cho biết có tin
một đại úy phi công Mỹ đã tố giác một vụ thảm sát dân thường do lính Mỹ
gây ra tại một làng ở tỉnh Quảng Ngãi. Đại úy phi công này đã chứng kiến
tận mắt vụ thảm sát và anh đã dùng trực thăng của mình cứu được một số
người. Sau một thời gian im lặng, do lương tâm cắn rứt, anh đã lên tiếng
tố giác.
Nhận được thông tin này, Henry Kamn tức tốc gọi cô thư ký
mua ngay vé máy bay đi Đà Nẵng đầu giờ chiều hôm đó. Đến Đà Nẵng, Kamn
không có phương tiện nào đi Quảng Ngãi, trời lại bắt đầu tối. Cuối cùng,
Kamn đã xin được một chỗ trên một máy bay quân sự Mỹ đến tỉnh này. Trên
máy bay, Kamn ngồi cạnh một người Mỹ mặc quần áo dân sự. Trò chuyện với
nhau một lúc, người Mỹ này hỏi mục đích của chuyến đến Quảng Ngãi của
Kamn. Kamn tiết lộ mình là nhà báo nhưng vẫn úp mở về mục đích chuyến đi
của mình. Người Mỹ kia nhìn thẳng Kamn và nói “Tôi biết ông tìm gì ở
đó. Vụ thảm sát ở Mỹ Lai phải không?”. Thế là Henry Kamn đành thú nhận
mục đích của chuyến đi của mình. Bấy giờ, người Mỹ kia mới nói rõ ông là
cố vấn của tỉnh trưởng Quảng Ngãi và mời Kamn khi đến Quảng Ngãi nên ở
nhà ông “để được an toàn”. Viên cố vấn Mỹ này cũng hứa giới thiệu Henry
Kamn với trung tá tỉnh trưởng Quãng Ngãi, ông ta sẽ giúp cho cuộc điều
tra của Kamn dễ dàng hơn. Viên cố vấn Mỹ cho biết tỉnh trưởng hiện tại,
vừa được bổ nhiệm thay tỉnh trưởng cũ, không dính líu gì với vụ thảm sát
sẽ sẵn sàng giúp Kamn. Nếu không có sự giới thiệu của viên cố vấn Mỹ
với tỉnh trưởng Quảng Ngãi, không thể nào Kamn có thể đặt chân đến làng
Mỹ Lai.
Khi Henry Kamn đến đó, trong làng không còn ai cả. Một số
ít người còn sống sót đã lánh sang làng kế bên. Số nhân chứng này giúp
Kamn dựng lại khá đầy đủ một trong những tội ác tồi tệ nhất do quân đội
Mỹ gây ra trong chiến tranh Việt Nam. Trở lại tỉnh lỵ Quảng Ngãi, Henry
Kamn mượn điện thoại tại nhà riêng của viên cố vấn Mỹ để đọc bài báo của
mình về văn phòng New York Times ở Sài Gòn rồi từ đây chuyển về Mỹ.
Viên cố vấn Mỹ hỏi Kamn: “Tôi có thể đứng đây nghe nội dung bài báo của
ông được không?”. Kamn trả lời: “Ông cứ nghe vì ngày mai cả nước Mỹ và
thế giới sẽ biết chuyện gì đã xảy ra tại cái làng hẻo lánh này”. Khi kể
cho tôi nghe câu chuyện, đến đoạn này Kamn hỏi tôi: “Anh có đoán viên cố
vấn Mỹ phản ứng thế nào sau khi nghe tôi đọc hết bài báo?”. Rồi không
cần tôi trả lời, Kamn nói tiếp: “Ông ta đã khóc vì quá xúc động”. Từ
buổi gặp nhau tình cờ này, Kamn và viên cố vấn Mỹ trở thành bạn thân: họ
cùng nhìn ra bản chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt
Nam. Sau này viên cố vấn trở thành đại sứ Mỹ ở một nước ở Trung Đông và
họ vẫn liên lạc với nhau.
Sau năm 1975, Henry Kamn trở lại Việt Nam
nhiều lần và mỗi khi đến TP. Hồ Chí Minh, ông đều ghé thăm tôi. Chúng
tôi nói chuyện với nhau như hai đồng nghiệp bên tách cà phê tại nhà tôi,
có khi đến tận khuya. Khi Kamn lần đầu đến miền Nam Việt Nam những năm
60, ông tự coi mình là một nhà báo đã hiểu biết rành rẽ cả thế giới. Ông
đến từ Châu Âu, nơi ông làm đại diện cho báo New York Times trong
nhiều năm. Ở đây ông quen biết hầu hết các nhà chính trị và lãnh đạo các
nước Tây Âu lẫn Đông Âu. Cho nên khi nhận nhiệm vụ sang Việt Nam, ông
miễn cưỡng lên đường và tự hỏi mình đến đất nước xa lạ này để làm gì.
Nhưng đặt chân đến Việt Nam không bao lâu, Kamn đã nhận ra: Nếu mình
chưa đến đây thì chưa biết gì về cái thế giới mình đang sống. Rất nhanh,
Kamn yêu đất nước này và khi đến nước Lào thì thêm một phát hiện chinh
phục con tim ông. Ông đã khám phá ở những vùng xa xôi của trái đất những
đất nước và dân tộc mà theo ông vô cùng đáng yêu và đáng kính.
Henry
Kamn có vợ Việt Nam. Nhưng ông gặp người vợ này sau khi ông rời Việt
Nam. Trong thời gian ở Việt Nam, ông đã có vợ người Mỹ. Sau tháng 4 –
1975, ông được báo New York Times cử làm trưởng văn phòng tại Tokyo
(Nhật). Một buổi tối đang ngồi trong Câu lạc bộ báo chí nước ngoài tại
thành phố này thì có người báo tin: một nhóm người Việt Nam vượt biên
bằng thuyền máy được một tàu Nhật vớt và đưa vào đất liền Nhật. Những
người trên chiếc thuyền máy không ai nói được tiếng Anh. Quyết định của
Kamn là lên đường ngay. Nhưng có một rắc rối không nhỏ là làm thế nào có
ngay một người biết tiếng Việt Nam và tiếng Anh hoặc Pháp để làm thông
dịch trong cuộc tiếp xúc với những người trên thuyền. Rất may tối hôm đó
trong câu lạc bộ có một phụ nữ Việt Nam rất rành tiếng Pháp và tiếng
Anh. Một người bạn giới thiệu người phụ nữ ấy với Henry Kamn và cô sẵn
sàng đi ngay cùng Kamn. Đó là sự khởi đầu của một cuộc hợp tác rất tốt
đẹp.
Sau loạt bài về những người Việt Nam di tản này, người phụ nữ
Việt Nam tự nguyện làm thông dịch cho ông đã trở thành vợ chính thức của
ông. Những năm sau này Henry Kamn sống tại miền Nam nước Pháp, vẫn viết
cho New York Times nhưng được hưởng chế độ đặc biệt chỉ làm việc 6
tháng trong một năm. Vợ ông điều khiển một Gallerie ở Thụy Sĩ, chuyên
bán tranh của những họa sĩ lớn, đặc biệt là của Picasso.
Trong
chiến tranh Việt Nam, có rất nhiều nhà báo không chỉ dũng cảm bảo vệ sự
thật và chân lý mà còn bày tỏ công khai tình cảm, sự gắn bó của mình đối
với dân tộc Việt Nam như Kamn.
Câu chuyện của Carl Robinson, phóng viên – nhiếp ảnh của hãng tin AP là một trường hợp điển hình khác.
Như
một số thanh niên Mỹ thời Kennedy đến Việt Nam với nhiều ảo tưởng mang
từ đất nước họ: Tự coi mình là sứ giả của thế giới văn minmh, có sự mạng
giúp xây dựng một xã hội dân chủ, tiến bộ và phồn vinh tại miền Nam
Việt Nam- Carl Robinson ở tuổi đôi mươi đặt chân đến miền Nam Việt Nam
cũng với một tâm trạng như thế. “Tinh thần Kennedy” đã thôi thúc cả một
thế hệ Mỹ hướng tới những lý tưởng cao đẹp. Carl Robinson nghĩ rằng khi
mình đến miền Nam sẽ được dân chúng ở đây tiếp đón như cha ông của anh
đã từng được ôm chầm niềm nở bởi những chàng trai cô gái Pháp, Ý mà anh
từng được thấy trong các đoạn phim ghi lại sau Chiến tranh thế giới thứ
hai. Nhưng khi vừa xuống phi trường Tân Sơn Nhất, anh được đưa lên một
chiếc xe ca quân đội Mỹ mà các cửa sổ đều được bảo vệ bằng một lớp lưới
thép để chống lại tấn công bằng lựu đạn. Carl Robinson hiểu ngay rằng
anh không đặt chân đến một vùng đất thân thiện như anh đã được tuyên
truyền!
Khi anh được điều về Gò Công, một tỉnh lỵ ở miền Tây cách
Sài Gòn chỉ mấy mươi cây số, với tư cách nhân viên USAID (Cơ quan viện
trợ Mỹ), Carl càng thấy rõ sự sai lầm quá lớn của mình khi tình nguyện
sang đây theo lời kêu gọi của chính quyền Mỹ. Đây là một cuộc chiến mà
người Mỹ hoàn toàn bị cô lập, bị chính những người mà họ có sứ mạng “bảo
vệ, giúp đỡ”, chống lại và thậm chí căm thù. Carl còn nhận ra với tất
cả sự thất vọng rằng “những đồng minh” của Mỹ cũng chẳng quan tâm đến sự
chinh phục người dân miền Nam Việt Nam mà ngược lại còn gây thêm đau
thương cho họ. Các Tỉnh trưởng – thường là một quân nhân – là những “ông
vua” ở địa phương, một thứ “hung thần” khiến người dân sợ hãi. Carl
quyết định từ nhiệm.
Nhưng Gò Công sẽ mãi mãi gắn bó với Carl: anh
yêu một cô gái tại đây và thiếu nữ này cũng yêu anh. Nhưng cuộc tình của
họ không suôn sẻ dù Carl hết sức chân thành, gặp cha mẹ cô gái và chính
thức xin cưới. Cha cô gái là một nhân sĩ địa phương, nhất định từ chối.
Sự từ chối của ông cũng dễ hiểu vì vào những năm 60, gia đình nào có
con gái lấy Mỹ đều bị bà con hàng xóm coi như không đàng hoàng, dễ bị
khinh rẻ. Carl có thể đưa người yêu lên Sài Gòn sống bất kể sự chống đối
của cha mẹ cô nhưng anh không chọn giải pháp này mà vẫn kiên trì chờ
đợi sự chấp nhận chính thức của gia đình cô gái. Cuối cùng anh nhận được
tín hiệu vui. Cha cô gái đồng ý gặp Carl Robinson nhưng lại đặt một
điều kiện: Carl chỉ được vợ sau khi trả lời một câu hỏi do cha cô gái
nêu ra. Ngày Carl hồi hộp đến gia đình của người yêu, anh không đoán
được câu hỏi sẽ là gì. Cuối cùng câu hỏi của cha cô gái rất vắn tắt:
“Anh có phải là nhân viên CIA không?”. Carl thở phào nhẹ nhõm vì bản
thân anh rất dị ứng với tổ chức tình báo Mỹ sau khi không làm cho USAID
nữa, Carl xin là phóng viên nhiếp ảnh cho hãng tin AP (Mỹ). Lúc đầu, anh
không được thu nhận vì áp lực của tòa đại sứ Mỹ. Carl bị liệt vào “danh
sách đen” (black list) những người Mỹ bị theo dõi tại Sài Gòn. Nhưng
cuối cùng AP vẫn nhận anh.
Khi làm rõ điểm này (có phải là nhân
viên CIA không), Carl cha cô gái nhận làm rể. Thế là Carl xây dựng kế
hoạch cuộc sống của mình gắn vĩnh viễn với quê hương bên vợ. Anh không
nghĩ đến ngày trở về Mỹ. Anh yêu vợ, mặt khác đất nước và con người Việt
Nam lại rất thích hợp với tâm hồn và lối sống của anh. Kế hoạch sống
tại Việt Nam của anh bị đảo lộn với sự kiện lịch sử 30-4. Tòa đại sứ Mỹ
ra lệnh Carl di tản với cả gia đình, có cả ông già vợ đã từng nghi ngờ
Carl làm việc cho CIA. Anh đau khổ rời Việt Nam, nơi mà anh đã chọn làm
quê hương thứ hai, nhưng sự đau khổ của Carl còn là sự mất mát vật chất
khiến anh hoàn toàn phá sản khi trở về Mỹ. Những gì anh đầu tư tại miền
Nam, anh không thể mang theo về Mỹ. Nhưng bi kịch đối với Carl Robinson
chỉ thật sự bắt đầu khi anh đặt chân trở lại quê hương anh. Hai vợ chồng
phải sống trong những điều kiện khó khăn tại Washington, mỗi ngày Carl
đến trụ sở hãng AP với vỏn vẹn hai đô la bỏ túi; nhưng cái mà Carl không
thể chịu đựng nổi chính là thái độ của các đồng nghiệp anh tại AP. Khi
từ miền Nam Việt Nam trở về, lúc đầu Carl hình dung rằng anh sẽ được các
đồng nghiệp trong cơ quan đón anh với một sự quan tâm đặc biệt. Họ sẽ
quay quắt đặt vô số câu hỏi về Việt Nam: Tại sao người Mỹ thất bại,
những ngày cuối ở Việt Nam ra sao, cuộc di tản diễn ra thế nào v.v…
Nhưng thực tế hoàn toàn khác hẳn. Không ai hỏi Carl điều gì về Việt Nam.
Họ còn cố tránh nói chuyện hoặc chạm mặt với Carl Robinson trong cơ
quan bởi vì họ muốn vĩnh viễn quên đi Việt Nam. Carl là cây đinh trong
mắt họ.
Carl bắt đầu uống rượu, bỏ bê công việc, rồi cuối cùng rút
khỏi hãng AP vì không chịu đựng nổi những bất mãn và tủi nhục của người
khác về chiến tranh Việt Nam cứ đổ trút lên anh. Để cứu chồng mình ra
khỏi tình trạng khủng hoảng có thể dẫn tới căn bệnh trầm uất, người vợ
Việt Nam đã đưa cả gia đình sang sống ở Sydney (Úc). Tại đây một người
bạn giúp anh trở lại với nghề báo bằng cách giới thiệu anh với tuần báo
Mỹ Newsweek . Anh trở thành trưởng văn phòng của tờ báo này ở Sydney.
Ngoài ra anh cùng gia đình vợ mở một quán ăn Việt Nam lấy tên là Sài
Gòn. Carl có dịp trở lại Việt Nam lần đầu nhân kỷ niệm 15 ngày thống
nhất đất nước. Chúng tôi rất mừng rỡ khi gặp lại nhau. Gần đây tôi được
biết Carl cùng vợ cố gắng tiếp nối kế hoạch xưa kia là xây dựng một lần
nữa cuộc sống của họ ở Việt Nam.
… Trước năm 1975, các nhà báo nước
ngoài là một bộ phận gắn liền với cuộc chiến tại Việt Nam. Các nhà báo
tiến bộ đã góp phần làm sáng rõ lên nhiều góc khuất hoặc thực trạng bị
bóp méo trong chiến tranh Việt Nam. Nhiều nhà báo cũng bày tỏ công khai
thái độ chống chiến tranh, chống sự can thiệp của người Mỹ ở Việt Nam.
Họ đã góp phần thúc đẩy cho cuộc chiến tranh sớm đi tới sự kết thúc vào
30-4-1975. Jean Claude Pomonti của báo Le Monde , Nayan Chanda của báo
Far Eastern Economic Rewiew (có lúc cộng tác với Le Monde Diplomaitque
), Francois Nivelon của báo Le Figaro, Paul Quinn Judge của báo
Christian Science Monitor , Tiziano Terzani của báo Der Spiegel v.v…
là những nhà báo mà tôi quen biết có thái độ ủng hộ những người hoạt
động đối lập và thành phần thứ ba.
J. C. Pomonti giúp tôi hai lần
viết bài để bày tỏ lập trường đối lập và chống chiến tranh của mình trên
mục “La tribune internationale” của báo Le Monde , một diễn đàn thường
dành cho chính khách có tên tuổi các nước phát biểu. Anh Pomonti và tôi
cùng sinh năm 1940. Anh có vợ Việt Nam là con gái của ông Lê Quang Thanh
cũng làm báo (cho hãng tin AFP tại Sài Gòn) và là em gái của ông Lê
Quang Uyển từng là thống đốc Ngân hàng quốc gia (chế độ Sài Gòn). Sau
1975, Pomonti rất thường trở lại Việt Nam và đưa các con anh về thăm quê
ngoại. Chúng tôi có một vài dịp đánh tennis với nhau trên sân Nhà Văn
hóa Thanh niên ở đường Hai Bà Trưng.
Sau 1975, tôi cũng gặp lại
Nayan Chanda tại TP. Hồ Chí Minh. Anh từ Hồng Kông sang, lúc này anh là
editor in chief (chủ bút) tờ Far Eastern Economic Review. Anh rất
ngạc nhiên khi nghe tôi kể cuộc sống của tôi giờ đây gắn với công việc
viết báo, đặc biệt là viết báo thể thao. Các bài bình luận bóng đá của
tôi viết cho các báo (có lúc cho bốn tờ báo ngày và tuần) mang lại cho
tôi một thu nhập mỗi tháng tương đương 2000 USD (trước khi tôi bị bệnh)!
Bài báo của Nayan Chanda viết về tôi trên Far Eastern Economic Review
có câu khá vui:
“Một cựu dân biểu và là cựu tổng trưởng thông tin
chế độ cũ hiện sống hào hứng với nghề viết báo thể thao; quá khứ chẳng
làm vướng bận đầu óc ông”. Được biết gần đây Chanda đã từ giã nghề báo
và làm giám đốc nhà xuất bản của Trung tâm nghiên cứu về toàn cầu hóa ở
đại học Yale.
Và Tiziano Terzani, một người bạn khác của tôi trong
giới báo chí nước ngoài hoạt động tại miền Nam trước năm 1975. Terzani
đến Sài Gòn từ năm 1971 với tư cách đặc phái viên báo Der Spiegel tại
Đông Nam Á. Ông là nhà báo ủng hộ các nhóm đối lập tại miền Nam và đặc
biệt là lực lượng thứ ba khi có Hiệp định Paris. Ông chống lại sự can
thiệp của người Mỹ tại Việt Nam và công khai coi cuộc chiến đấu của
MTDTGPMN và Bắc Việt là cuộc chiến yêu nước của người Việt Nam cần được
thế giới ủng hộ. Khi tổ chức các cuộc họp báo chống tổng thống Thiệu,
tôi luôn báo tin cho Ternazi. Với sự giới thiệu của tôi, Ternazi cũng
trở thành một người khách luôn được đón tiếp niềm nở tại Dinh Hoa Lan
của ông Dương Văn Minh. Ông được coi là “cái loa” bán chính thức của
những người đối lập chế độ Thiệu. Ông là người Ý sinh tại Florence.
Suýt
nữa ông mất cơ hội chứng kiến tận mắt ngày 30-4-1975, cũng có nghĩa mất
đi cơ hội thực hiện cuốn sách “Giai Phong ” được chọn là Book of the
Month Selectioln ở Mỹ năm 1976. Giữa tháng 3-1975, ít ngày sau khi chế
độ Thiệu mất Buôn Mê Thuột, nhà báo Tiziano Ternazi được Nguyễn Quốc
Cường – người đứng đầu Trung tâm báo chí – báo rằng một trong những bài
báo của ông đã xúc phạm tổng thống và vấy bùn lên nước VNCH. Nguyễn Ngọc
Bích, Tổng giám đốc Việt Tấn Xã (Vietnam Press) cũng lặp lại những điều
ấy với ông. Thế là Ternazi bị trục xuất khỏi miền Nam. Ông kể rằng đón
nhận lệnh này ông vô cùng thất vọng. Suốt 4 năm dài theo dõi một cuộc
chiến làm lay động cả lương tâm nhân loại, nhưng đến khi sắp kết thúc
thì mình lại vằng mặt nên Ternazi nhất định không chấp nhận… sự bất công
này. Ternazi biết rất rõ nếu ông trở lại Sài Gòn thì ông sẽ bị chính
quyền bắt ngay tại sân bay. Chỉ còn một cách là chọn chuyến bay nào khi
đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất thì không còn… chuyến nào nữa rời khỏi
Sài Gòn. Tức là chuyến bay cuối cùng đến Sài Gòn.
Tiziano Terzani
kể: “Tôi rất may mắn. Khi chiếc phản lực Air Vietnam xuất phát từ
Singapore đáp xuống Tân Sơn Nhất thì lúc đó tất cả cảnh sát sân bay đã
biến đi đâu hết, không có ai kiểm tra “danh sách đen” trong đó có tên
tôi. Tizani thích thú nói: “Thế là tôi vào lại Sài Gòn”.
Tiziano
Terzani đã nhìn thấy cảnh xe tăng của quân giải phóng vào dinh Độc Lập
cùng với nhà báo Nayan Chanda. Sau ngày 30-4-1975, Tizani được phép ở
lại Việt Nam thêm ba tháng, đi khắp các tỉnh miền Tây, rồi ra Hà Nội,
gặp nhiều lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và Nhà nước. Cuối năm 1975, Tiziano
Terzani viết xong cuốn “Giai Phong ”. Tức khắc cuốn sách được khắp nơi
đón nhận nồng nhiệt, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tại Ý, quê hương của
Terzani, nhà xuất bản của anh cho in một loại ấn bản đặc biệt (rút ngắn)
dành phổ biến cho các trường học ở Ý.
Quyển sách kể lại ba ngày
giải phóng và ba tháng Tizani quan sát đất nước Việt Nam sau khi thống
nhất và bước vào giai đoạn đầu của cải tạo xã hội chủ nghĩa. Quyển sách
là một cái nhìn đầy hào hứng và lạc quan về chiến thắng tất yếu của nhân
dân Việt Nam và những đổi thay diễn ra tiếp đó.
Tháng 4-1976 kỷ
niệm một năm giải phóng, cùng một số nhà báo như Jean Lacouture, Nayan
Chanda, Jean Claude Pomonti, Francois Nivelon v.v… Tiziano Terzani được
chính quyền Việt Nam mời trở lại thăm Việt Nam. Đoàn báo chí nước ngoài
được đưa đi bằng ô tô từ Hà Nội vào Sài Gòn và các tỉnh phía Nam. Một
chuyến đi thực tế rất phong phú cho người làm báo nếu chuyến đi ấy được
tổ chức chu đáo. Nhưng trong khâu thực hiện có nhiều điều bất cập nên đã
gây một số phản ứng không thuận lợi cho nước chủ nhà. Nhưng cái bất lợi
nhất là tình hình kinh tế của Việt Nam một năm sau giải phóng không lạc
quan chút nào. Terzani không nhận ra Sài Gòn mà ông từng gắn bó. Tinh
thần của ông càng bị lung lạc khi ông không tìm lại được phần đông các
bạn bè quen biết của ông trước năm 1975. Nhiều người đã vượt biên ra
nước ngoài bằng thuyền, có không ít người bỏ mạng giữa biển. Nhiều người
khác “đi học tập” chưa thấy về. Ông nhắc nhiều về trường hợp một người
bạn, một phóng viên Việt Nam, từng giúp ông trước 1975: Cao Giao. Khi
Tiziano Ternazi cho xuất bản quyển “Giải Phóng ”, ở phần lời nói đầu,
ông nhắc đến Cao Giao như sau:
“Một số người Mỹ quen biết anh rời
khỏi Sài Gòn ở tuần lễ cuối cùng đầy sợ hãi đã thúc hối anh sang Hoa Kỳ
cùng gia đình. Họ nói với anh: “Anh biết ngoại ngữ, anh cũng không bao
giờ ngủ, anh sẽ tìm được một việc dễ dàng như làm nhân viên khách sạn
vào ban đêm”
Đó không phải lý do anh ở lại Việt Nam.
“Ở mỗi
người Việt Nam đều có một viên quan lại, một kẻ cắp, một kẻ nói dối – và
có cả một con người mơ mộng ngủ im bên trong” anh nói với tôi như thế.
“Cách mạng cho tôi được mơ và tôi muốn được nhìn thấy giấc mơ ấy bằng chính mắt mình”
Tôi (Tiziano Terzani) cũng thế, muốn được thấy điều ấy.
Trở
lại Việt Nam tháng 4-1976, Tiziano Terzani nghĩ rằng mình không thấy
giấc mơ ấy thành hiện thực. Quá nhiều điều để cho Terzani thất vọng. Gặp
lại tôi tháng 4- 1976 tại tòa soạn báo Tin Sáng bộ mới, Terzani không
che giấu tâm trạng ấy của anh. Tôi cố gắng nói với anh: những gì anh đã
viết trong quyển sách có giá trị lịch sử, vượt thời gian. Nhưng lúc đó
quả thật tôi không có đủ lý lẽ để thuyết phục anh rằng những gì đang xảy
ra chưa phải hoàn toàn là bản chất của cách mạng Việt Nam. Riêng tôi
chấp nhận các diễn tiến của những năm đầu sau 1975 chủ yếu bằng con tim,
con tim của người Việt Nam, với niềm tin đặt cơ sở vào quá trình lịch
sử của người cộng sản. Tôi tin rằng rồi Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ có
những điều chỉnh thích nghi để đất nước đi lên. Nếu người cộng sản đích
thực là người yêu nước như tôi vẫn tin tưởng, thì dứt khoát họ sẽ có
những điều chỉnh cần thiết và không quá chậm trễ để vực dậy đất nước, và
bảo đảm làm sao cho người dân đã sống quá lâu trong chiến tranh, trong
cảnh mất nước và cơ cực, được hưởng những thành quả của cuộc cách mạng.
… Sau đó tôi được một số đồng nghiệp gần gũi với Tiziano Terzani có
dịp đến Việt Nam cho biết: hình như sau chuyến trở lại Việt Nam tháng
4-1976, Terzani đã phủ nhận quyển sách “Giai Phong ” của anh – như một
người mẹ quyết định từ bỏ đứa con mà mình đã mang nặng đẻ đau. Nghe tin
này tôi rất buồn cho Terzani và càng buồn vì Việt Nam mất đi một người
bạn thân thiết.
Mãi đến năm 1995, cũng qua một đồng nghiệp nước
ngoài, tôi được biết Tiziano Terzani đã cho xuất bản lại quyển “Giải
Phóng ” dưới một cái tựa mới: “Saigon 1975 – Three Days and Three
Months” (Sài Gòn 1975 – Ba ngày và ba tháng). Không bao lâu, tôi có
cuốn sách trong tay. Lời mở đầu của ấn bản này có tên “Twenty Years
After” (Hai mươi năm sau) nói rõ sự đổi tựa sách chỉ nhằm mục đích để
quyển sách tiếp cận dễ dàng hơn với người đọc thuộc thế hệ mới. Về nội
dung, Terzani nhấn mạnh: “Cuốn sách được in lại hoàn toàn đúng như nó
được viết hồi năm 1975. Không có một tên tuổi nào thay đổi, không một
tính từ hay một dấu than nào bị xóa đi hoặc một dấu hỏi nào được thêm
vào”.
Như thế trái với những tin không chính thức mà tôi từng nghe
vào những năm trước, Tiziano Ternazi không hề phủ nhận đứa con tinh
thần của mình. Ông kể: “Có nhiều người hỏi tôi: Có phải lúc đó ông đã
sai lầm?”. Sự khiêu khích đáng được trả lới và câu trả lời là “Không”.
Trong lời tựa hai mươi năm sau, Tizani viết:
”Những gì xảy ra
sau chiến tranh tại Việt Nam không thể thay đổi suy nghĩ của tôi về thực
chất cuộc chiến này trước đây. Đối với thế hệ của tôi, trước hết đó là
một vấn đề của đạo đức (a question of morality). Người Việt Nam đã chiến
đấu cho cuộc chiến vì độc lập, cũng là cuộc chiến mà họ đã bắt đầu ở
đầu thế kỷ khi bị những độ quâni Pháp đầu tiên đặt chân lên bờ biển của
đất nước họ. Người Mỹ, đơn giản chỉ thay thế người Pháp trong ý đồ thực
dân mới của họ, không có lý do gì can thiệp ở đất nước xa xôi này; họ
không có quyền “tàn phá đất nước này trong mục đích cứu vớt nó”. Giữa bộ
máy chiến tranh tinh vi của Mỹ và cuộc chiến du kích của người Việt, sự
chọn lựa anh hùng của chúng tôi quá đơn giản.
“Các nguyên lý mà
chúng tôi tin tưởng, đó là mỗi dân tộc phải tự quyết định vận mệnh của
mình, rằng các xã hội phải nhân bản và công bằng. Cuộc cách mạng Việt
Nam cho thấy sự hứa hẹn ở tất cả những điều đó. Các cuộc cách mạng luôn
là như thế vì nó hướng tới tương lại, một tương lai đầy hi vọng, chắc
chắn sẽ tốt đẹp hơn hiện tại gắn liền với khốn khổ và bất công. Đất nước
Việt Nam là như thế: một bên là thực tế bày ra trước mắt từ một chế độ
đàn áp được ủng hộ bởi sự can thiệp của Mỹ, còn bên kia là sự khắc khổ,
một tinh thần cách mạng bất khuất, hứa hẹn hòa bình và cuộc sống tốt đẹp
cho mọi người…”
Thật lạ lùng, những suy nghĩ của Tiziano Ternazi
lúc đó không khác lắm suy nghĩ của tôi dù anh là người Ý còn tôi là
người Việt Nam. Thì ra giữa những người không bị những quyền lợi ích kỷ
chi phối hoặc theo đuổi những mục đích chính trị tư riêng thì dễ dàng
gặp nhau trong sự chọn lựa đứng về phía nào trong cuộc chiến tranh Việt
Nam.
… Hai mươi năm sau, khi Tiziano Terzani cho in lại quyển sách
của mình, chắc chắn ông cũng thấy rằng cuộc cách mạng mà mình ủng hộ đã
bắt đầu có thành quả tốt đẹp. Nước Việt Nam mà ông nhìn thấy năm 1976
khi trở lại Việt Nam – có nhiều điều làm ông thất vọng – nay đã đổi khác
nhiều.
CHƯƠNG 11
Sau Tết Mậu Thân, không khí chính trị tại Sài Gòn hoàn toàn thay đổi.
Chẳng hạn trước Tết Mậu Thân, một cuộc thăm dò dư luận Mỹ vào tháng
11-1967, cho thấy 44% người Mỹ muốn quân đội của họ rút về nước toàn bộ
hoặc dần dần; 55% chủ trương một đường lối cứng rắn, tức sử dụng vũ khí
hạt nhân. Tháng 2-1968, khi cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân đang diễn
ra ác liệt, 53% người Mỹ chủ trương tăng cường các cuộc hành quân quân
sự với một qui mô lớn hơn và chấp nhận cả nguy cơ chạm trán với Liên Xô
và Trung Quốc. Chỉ có 24% người Mỹ muốn thấy cường độ chiến tranh hạ
thấp xuống. Thế nhưng chỉ 6 tuần lễ sau sự kiện Tết Mậu Thân, sự ủng hộ
của người Mỹ dành cho tổng thống Lyndon Johnson từ 40% rớt xuống còn
26%. Người ta còn nhớ khi ông Johnson mới vào Nhà Trắng, cứ 10 người Mỹ
thì có đến 8 người ủng hộ ông.
Theo nhà báo Stanley Karnow trong
quyển Vietnam: A History mà ông là tác giả: Cuộc tổng công kích Tết Mậu
Thân “làm bàng hoàng” tổng thống Johnson (stunned Johnson). Johnson
không bao giờ tưởng tượng rằng Việt cộng có thể tấn công vào tòa đại sứ
Mỹ và tất cả các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngay
sáng 31-1-1968 Lyndon Johnson đã ra lệnh cho guồng máy tuyên truyền Mỹ
phối hợp tạo ra một dư luận lạc quan trong nước Mỹ đối với tình hình
chiến tranh Việt Nam. Johnson chỉ đạo tổng tư lệnh liên quân Mỹ tại Việt
Nam Westmoreland trong các cuộc họp báo với báo chí Mỹ tại Sài Gòn phải
khẳng định quân đội Mỹ “đang nắm vững tình hình tại đây”. Lyndon Johson
cho phụ trách báo chí tại Nhà Trắng biết “cuộc tổng công kích của cộng
sản hoàn toàn thất bại”. Johnson cũng chỉ thị cho ngoại trưởng Dean
Rusk, cựu bộ trưởng quốc phòng McNamara, Walt Rostow và các phụ tá thân
cận khác luôn giữ một lập luận như thế trước báo chí và truyền hình khi
được phỏng vấn.
Tuy nhiên tinh thần của phần đông các phụ tá của
tổng thống Mỹ sau Tết Mậu Thân thật ra đã suy giảm đáng ngại. Harry
McPherson – luật sư và là một trong những người viết diễn văn cho tổng
thống Johnson, được Johnson coi như con nuôi của mình (ông Johnson chỉ
có con gái chứ không có con trai) đã phát biểu với giới thân cận rằng
những hình ảnh về tòa đại sứ Mỹ bị tấn công mà truyền hình phát đi từ
Sài Gòn, cũng như hình ảnh Nguyễn Ngọc Loan bắn vào đầu một Việt cộng
trên đường phố trước ống kính truyền hình Mỹ đã gây sự thất vọng cho
ông, khiến ông thấy cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam là phi nghĩa và mất hẳn
khả năng chiến thắng. Nhiều năm sau đó người ta tìm thấy trong sách
giáo khoa của trường quân sự Mỹ West Point sự đánh giá cuộc tấn công Tết
Mậu Thân gây bất ngờ cho tình báo Mỹ ngang với cuộc tấn công của Nhật ở
Pearl Harbor (Trân Châu Cảng) trong lịch sử.
Trong khi từ Việt
Nam, tướng Westmoreland thúc bách Johnson tăng cường thêm 206.000 quân
Mỹ đến miền Nam, thì tại Washington, Clark Clifford, người thay Mc
Namara, đã có suy nghĩ khác. Một cách âm thầm, tổng thống Johnsonn cũng
khuyến khích các phụ tá có nhiều ảnh hưởng nhất tính tới “một cách khác
giải quyết cuộc chiến Việt Nam”. Một trong những cuộc họp không chính
thức diễn ra tại bộ Ngoại giao Mỹ ngày 25-3-1968 đã có ảnh hưởng gần như
quyết định đối với diễn tiến tiếp theo của chính sách của Mỹ tại Việt
Nam. Cuộc họp này có 14 người tham dự, trong đó có Dean Acheson – cựu
ngoại trưởng Mỹ (1942-1952), người đã từng thuyết phục tổng thống Mỹ
Truman viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến Đông Dương; Arthur Goldberg –
đại sứ Mỹ tại Liên hợp quốc; George Ball, McGeorge Bundy; Henry Cabot
Lodge – cựu đại sứ Mỹ tại Sài Gòn; Averell Harriman; Cyrus Vance v.v...
Ngoài ra bên cạnh Clark Clifford còn có Dean Rusk – ngoại trưởng
(1961-1968); Walt W. Rostow – cố vấn an ninh của tổng thống Johnson
1966-1968; Earle Wheeler – chủ tịch Ban tham mưu liên quân Mỹ.
Tổng
thống Johnson giao cho bộ trưởng Bộ quốc phòng Clifford thăm dò tìm
giải pháp cho một trong ba chọn lựa: một là leo thang chiến tranh với
việc đưa quân Mỹ đến Việt Nam nhiều hơn gia tăng oanh tạc miền Bắc; hai
là duy trì hiện trạng; ba là hạn chế tấn công không quân và tập trung
quân đội Mỹ ở những vùng đông dân cư đồng thời chuẩn bị cho chính quyền
Sài Gòn điều khiển trực tiếp cuộc chiến.
Ba chuyên viên cao cấp
được mời đến thuyết trình mà người quan trọng nhất là Philip Habib – cựu
cố vấn chính trị tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn – lúc này là phó trợ lý bộ
trưởng Ngoại giao. Khi ông Habib kết thúc bản thuyết trình của mình, bộ
trưởng Clifford đã chất vấn ông như một luật sư chất vấn một nhân chứng
trước tòa (Clifford gốc là một luật sư). Ông hỏi: “Phil, bạn có nghĩ
chúng ta có thể giành được chiến thắng quân sự?”. Ông Habib do dự một
giây vì ngại rằng câu trả lời có thể làm phật lòng sếp của mình là Dean
Rusk:
“Trong những điều kiện hiện nay thì khônlg!”. Liền đó
Clifford hỏi tiếp một câu mà sau này Habib, khi kể lại, cho rằng gay go
nhất trong sự nghiệp của ông: “Bạn sẽ làm gì nếu quyền quyết định thuộc
về bạn?”. Habib im lặng một giây rồi nói: “Ngừng ném bom và thương
thuyết”.
Ngày 31-3-1968, trong bài diễn văn với nhân dân Mỹ, tổng
thống Johnson thông báo quyết định của ông không ra ứng cử nhiệm kỳ thứ
hai “để tránh cho nước Mỹ khỏi bị chia rẽ trong năm bầu cử”. Ngày
13-5-1968 hai phái đoàn Mỹ và VNDCCH khai diễn cuộc hòa đàm tại Paris
sau 30 ngày tranh luận với nhau về địa điểm.
Sau Tết Mậu Thân, tinh
thần của quân đội Mỹ xuống hẳn. Tháng 3-1968 lại xảy ra vụ thảm sát Mỹ
Lai (Sơn Mỹ) làm cho dư luận Mỹ càng phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh
Việt Nam.
Có ba vấn đề được đề cập công khai trong dư luận và báo
chí vào thời điểm này tại Sài Gòn: ngưng hay không ngưng ném bom miền
Bắc; nhìn nhận hay không nhìn nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam;
chính phủ Sài Gòn nên hay không nên tham dự Hội nghị Paris. Trước ba
vấn đề này, giới chính trị Sài Gòn phân đôi rõ rệt: phe chống cộng và
ủng hộ chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đều chủ trương “ba không”: không ngưng
ném bom, không nhìn nhận MTDTGPMN và không dự hòa đàm. Giới đối lập,
trong đó có tôi, chọn một lập trường ngược lại hẳn.
Tôi không phải
là một nhà chính trị chuyên nghiệp. Với tôi, lúc này, các mục tiêu vì
dân tộc và hòa bình được đặt lên trên tất cả. Sự chết chóc của người
Việt Nam ở hai chiến tuyến đều đau xót như nhau. Những giải pháp nào để
chấm dứt cuộc chiến ấy tôi đều ủng hộ. Cuộc hòa đàm sẽ đưa đến sự sụp đổ
của chế độ Sài Gòn? Tôi không biết chuyện ấy sẽ ra sao nhưng có một
thực tế rõ ràng là sự tồn tại của chế độ Nguyễn Văn Thiệu không phải là
điều mong muốn của đa số nhân dân miền Nam.
… Khi mở lại chồng báo
cũ để tìm tài liệu viết Hồi ký này, tôi bắt gặp tờ Tiếng nói Dân tộc
đề ngày 22-10-1968 trong đó có bài báo của tôi với hàng tít: “Một bài
báo chờ dịp khác đăng: Ha! Ha! Đây là ngày vui dân tộc!”. Nội dung bài
báo như sau:
“Chiều ngày 19-10-1968 vào lúc 16 giờ, tôi đang thâu
thập tin tức giờ chót cho số báo ra ngày hôm sau thì nhận được một bản
tin của hãng Reuter cho hay Mỹ đã đồng ý ngưng oanh tạc miền Bắc và miền
Bắc chấp nhận nói chuyện với VNCH. Trong cái giây phút bỗng nhiên
thiêng liêng ấy, tôi đã cầm viết và viết bài này để kịp đăng với nguồn
tin trên. Nhưng rốt lại nguồn tin trên bị đính chính, bài này không còn
giá trị nữa, đúng ra nó phải nằm trong hộc tủ để chờ như mấy chục triệu
dân hai miền Nam Bắc vẫn đang chờ… suốt 20 năm qua.
L.Q.C
“Thế
là đã hoàn toàn ngưng oanh tạc trên toàn lãnh thổ Bắc Việt. Thế là
người dân miền Bắc đã chấm dứt được cảnh sống hãi hùng kéo dài hơn 44
tháng qua, bắt đầu từ vụ tàu Maddox tháng 4 – 1965. Bốn năm chẵn! Bốn
năm phải hứng chịu tổng cộng hết cả số bom mà quân Đồng minh đã trút lên
nước Đức trong thời gian thế chiến thứ hai – có cơn ác mộng nào bằng!
“Vài lần bị pháo kích trong một năm, Sài Gòn đã không ngủ; cảnh
tang tóc thê lương đã phủ trùm, thử hỏi bốn năm oanh tạc, kiếp sống con
người với tiếng phản lực cơ gào thét, với tiếng bom vang dội ngày đêm,
có còn là một kiếp sống hay chỉ là những chuỗi ngày dài vô tận trốn chạy
tử thần?
“Tôi muốn thét lên cho mọi người nghe niềm vui vô tận
của tôi. Để nếu trước đây vì cớ gì không thể chia sớt được niềm đau
chung của đồng bào ruột thịt ngoài ấy, thì nay ít ra cũng tỏ được không
muộn lòng mình. Ở giây phút này, dầu bạn hay thù, dầu quốc gia hay cộng
sản, chỉ cần là người Việt biết nghĩ đến những cảnh tang thương trước
đây dưới những trận mưa bom, ai ai cũng cảm thấy tự nhiên vùng lên một
NIỀM THƯƠNG DÂN TỘC. Có người anh nào thấy em vui mà không vui, có người
em nào thấy anh thoát cơn nguy hiểm lại không mừng. Niềm thương ấy là
niềm thương ruột thịt, xuất phát từ hơi thở, trong nhịp tim, không cần
tìm kiếm, không suy nghĩ mà vẫn cảm nhận đậm đà.
“Tôi không biết
ngưng oanh tạc rồi sao. Cộng sản sẽ thắng hay đó là dấu hiệu cộng sản
bắt đầu lùi. Tôi quên suy tính. Tôi thấy cần vui cái vui tận cùng cái
đã. Trong giây phút tâm hồn lâng lâng, tôi chợt nghĩ bom ngoài Bắc ngừng
dội, tiếng súng trong Nam hết nổ. Ha! Ha! Đó là ngày vui của dân tộc.
Những buổi đồng bào di cư bỗng chốc lóe lên hình ảnh một buổi chiều vàng
gặp lại cha già mẹ yếu bên lũy tre xanh xiêu vẹo vì bom đạn. Những bà
mẹ già trong Nam đứng ngồi không yên nhìn ra đồng ruộng thẳng tấp trông
ngóng bóng con về.
“Tôi mơ ngày vui dân tộc ấy”.
Một bài báo quả là hồn nhiên chính trị. Với không ít người còn coi đó là ngây thơ chính trị.
Thật
sự vào cuối tháng 10-1968, báo chí Mỹ đã “ngửi” thấy từ Washington sắp
sửa có một quyết định quan trọng chung quanh việc ngưng oanh tạc miền
Bắc để phá vỡ bế tắc về hòa đàm giữa Mỹ và Bắc Việt. Tổng thống Johnson
đã có ý định sẽ công bố lệnh này vào ngày 31-10 và bắt đầu cuộc nói
chuyện với Bắc Việt ngày 2-1-1968. Nhưng trước khi ra quyết định sau
cùng, tổng thống Johnson muốn nghe ý kiến của người có tiếng nói trọng
lượng nhất trong vấn đề này: tướng Creighton Abrams, Tổng tư lệnh quân
đội Mỹ tại Việt Nam. Tướng Abrams lên chiếc C -141 từ Sài Gòn bay suốt
đêm và đến phi trường quân sự Andrews vào lúc 1 giờ sáng. Abrams được
đưa ngay đến Washington và gặp tổng thống Johnson cùng các phụ tá thân
cận tại nhà Trắng vào lúc 2 giờ 30 sáng.
Câu hỏi đầu tiên của
Johnson đặt ra với Abrams: “Với hiểu biết sáng suốt của ông về tình hình
Việt Nam, ông có hối tiếc hay do dự khi có quyết định ngưng ném bom
miền Bắc Việt Nam?”. Tướng Abrams: “Thưa ngài, không”. Câu hỏi tiếp theo
của Johnson: “Nếu là tổng thống, ông có hành động như thế?”. Abrams trả
lời “Sẽ không do dự” và thêm rằng: “Tôi không nghĩ đó là điều đúng đắn
phải làm mà là một việc thích đáng phải làm”.
Nhưng thời điểm này,
tại Mỹ đã khởi đầu cuộc chạy đua vào nhà Trắng. Johnson muốn hòa đàm về
Việt Nam là khởi đầu tốt đẹp để ứng cử viên Đảng Dân chủ có tham vọng
thay ông có nhiều thuận lợi hơn ứng cử viên Richard Nixon của Đảng Cộng
hòa. Biết được chỗ yếu này, tổng thống Thiệu tìm cách khai thác tình
hình chính trường Mỹ có lợi cho mình. Mặt khác chính Nixon cũng cho
người thân thuộc móc nối Thiệu để khuyến khích Thiệu đối đầu lại áp lực
của Washington và làm trì hoãn ý đồ ngưng ném bom của tổng thống Johnson
trong lúc không còn bao lâu nữa nhiệm kỳ của Johnson kết thúc. Tổng
thống Thiệu tính rằng nếu ứng cử viên của Đảng Dân chủ là Hubert
Humphrey đắc cử thì đồng nghĩa “chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập
trong 6 tháng; nhưng nếu Nixon trúng cử thì vẫn còn hi vọng”. Trong cuốn
sách “No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam”
của tác giả Larry Berman đã tiết lộ bộ trưởng Mỹ Clark Clifford tố cáo ý
đồ của Thiệu lợi dụng cuộc bầu cử ở Mỹ là “thối như cứt ngựa”
(horseshit).
Ngày 28-10-1968, theo chỉ thị của tổng thống Johnson,
đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker đến gặp tổng thống Thiệu thông báo rằng ngày
31-10 vào lúc 8 giờ chiều, giờ Washington, tổng thống Mỹ sẽ thông báo
chính thức ngừng ném bom, và cuộc gặp phái đoàn Bắc Việt sắp tới sẽ là
ngày 6-11 sau khi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ diễn ra. Tổng thống Mỹ hi
vọng rằng tổng thống Thiệu sẽ tán đồng sự công bố này. Thay vì đáp ứng
lời yêu cầu của Johnson, Thiệu xuất hiện trước quốc hội lưỡng viện (có
cả Hạ viện lẫn Thượng nghị viện) chỉ trích Washington với những lời lẽ
mà đại sứ Bunker gọi là “nẩy lửa”. Thiệu bày tỏ quan điểm “tẩy chay”
cuộc hòa đàm. Còn phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, ngoài hành lang Quốc
hội, nói với một số dân biểu, nghị sĩ rằng quyết định ngưng ném bom của
tổng thống Johnson khiến “chúng ta không thể tiếp tục tin người Mỹ - họ
đúng ra chỉ là một đám lừa đảo” (“a band of crooks” – trích trong “The
Vietnam War – Day by day” của John S. Bowman). Trong hồ sơ của CIA được
công khai sau này có một báo cáo ghi lại lời tố cáo của Thiệu về quyết
định của tổng thống Johnson là “không khác gì sự phản bội của Mỹ khi bỏ
rơi Tưởng Giới Thạch sau các cuộc thương lượng ở Yalta, Teheran và
Casablanca”.
Hai người làm gạch nối Thiệu với Nixon để chống lại
Johnson là Anna Chennault và Bùi Diễm – đại sứ của chế độ Sài Gòn tại
Washington. Anna Chennault là vợ góa của tướng Claire Chennault – một
anh hùng không quân Mỹ. Hồ sơ của FBI được tham khảo tự do tháng 12
-2000 tiết lộ bà Chennault thông qua Bùi Diễm liên tục thúc đẩy Thiệu
giữ vững lập trường không hợp tác với tổng thống Johnson. Bà ta nói rõ
mình nhận được ý kiến từ “ông chủ” (boss) của bà, tức từ Nixon. Nhìn
thấy ý đồ của Thiệu, tổng thống Johnson nói với Bộ trưởng quốc phòng
Clark Clifford rằng Thiệu là một kẻ nói dối và một con người hai mặt (a
liar anh a double – crosser).
Phía sau sự kiện chính phủ Thiệu nghe
lời Nixon phá vỡ kế hoạch hòa đàm của tổng thống Johnson hồi năm 1968,
người ta phát hiện vai trò xấu xa của Henry Kissinger trong âm mưu này!
Vào thời điểm đó, Kissinger là nhân vật thân cận của thống đốc Nelson
Rockefeller và từ chỗ đứng này trong phe Dân chủ, ông trở thành một
thành viên không chính thức trong ban tham mưu chiến lược hòa đàm của
tổng thống Johnson. Thấy trước rằng ứng cử viên của đảng Dân Chủ trong
cuộc bầu cử tổng thống sắp tới là Hurbert Humphrey (đang là phó của tổng
thống Johnson) khó thắng đối thủ đảng Cộng Hòa là Richard Nixon,
Kissinger chơi trò hai mặt: vẫn đứng trong ban tham mưu của Johnson
nhưng làm việc ngầm cho phe Nixon với mục đích giành một địa vị quan
trọng trong chính phủ tới nếu Nixon đắc cử! Ông ta đã thông báo trực
tiếp cho Nixon biết các chi tiết quan trọng trong kế hoạch kết thúc
chiến tranh của tổng thống Johnson và tham mưu cho Nixon cải cách đối
phó. Nhờ các thông tin quí giá do Kissinger cung cấp, phe Nixon liên hệ
với chính phủ Thiệu qua trung gian của Bùi Diễm – đại sứ Sài Gòn tại Mỹ -
liên kết nhau phá vỡ kế hoạch thương thuyết hòa bình với Hà Nội của
chính phủ Johnson. Nixon hứa với Thiệu nếu ông ta thắng cử, Thiệu sẽ tại
vị thêm bốn năm nữa và lúc đó sẽ có những điều kiện thương lượng thuận
lợi hơn cho chính phủ Thiệu (nhưng thực tế bốn năm sau với Nixon, ông
Thiệu đã phải chịu đắng cay và nhục nhã hơn rất nhiều).
Lúc đó tuy
Kissinger không phải là thành viên chính thức nhưng được trưởng đoàn
thương thuyết của tổng thống Johnson là Averell Harriman xem là một nhân
vật cốt cán trong ê kíp mình. Richard Holbrooke, trợ lý Bộ trưởng ngoại
giao của chính phủ Johnson sau này cho biết: “Henry là người duy nhất
ngoài chính phủ mà chúng tôi cho phép tham gia các cuộc thảo luận về hòa
đàm”. Ông Holbrooke nói thêm rằng mọi người rất tin tưởng Kissinger nên
không ai ngờ rằng trong ê kíp thương thuyết của chính phủ Johnson lại
bị cài người nằm trong chiến dịch tranh cử của Nixon.
Đề cập trở
lại dư luận tố cáo ông và Kissinger tiếp tay cho Nixon phá vỡ nỗ lực hòa
đàm của chính phủ Johnson nhằm cản trở ứng cử viên Dân Chủ thắng cử,
trong hồi ký của mình (In the Jaws of History) ông Bùi Diễm gián tiếp
xác nhận sự tố cáo này bằng cách thú nhận rằng: “Ông Humphrey (ứng cử
viên tổng thống của đảng Dân Chủ) và những nhân vật trong đảng Dân Chủ
khiến tôi thất vọng vì những người này trước đây ủng hộ chính sách can
thiệp vào Việt Nam bao nhiêu thì nay lại tìm cách lảng ra bấy nhiêu. Bởi
thế phản ứng tự nhiên của tôi là bắt đầu ngả về phía đảng Cộng Hòa rồi
từ đó cũng gặp nhiều bạn trong đảng Cộng Hòa”. Bùi Diễm còn nhắc lại một
mật điện của ông đề ngày 23-10-1968 gửi cho tổng thống Thiệu khuyến
khích Thiệu tiếp tục giữ lập trường cứng rắn để đối đầu áp lực của tổng
thống Johnson: “Nhiều bạn bè thuộc đảng Cộng Hòa tiếp xúc tôi và khuyến
khích chúng ta giữ vững lập trường”.
Thái độ của dân chúng và giới
đối lập ở miền Nam lúc này phần đông đều muốn chính phủ Sài Gòn cử phái
đoàn đến Paris để sớm chấm dứt chiến tranh. Lập trường cứng rắn không
dự hòa đàm của ông Thiệu không được hậu thuẫn mạnh mẽ, ngoại trừ phe
chống cộng.
Tác giả quyển “The Trial of Henry Kissinger ” (Phiên
tòa xét xử Henry Kissinger – Nhà xuất bản Verso, London – New York) là
Christopher Hitchens coi Kissinger là một tội phạm chiến tranh xứng đáng
đưa ra tòa án Nuremberg hay The Hague. Sau khi phá vỡ cuộc hòa đàm 1968
của chính phủ Johnson, bốn năm sau (1972), Kissinger trở thành “kiến
trúc sư” của Hiệp định Paris được chính phủ Nixon ký kết với những điều
kiện gần giống hoàn toàn những điều kiện mà thời chính phủ Johnson đã
sẵn sàng chấp nhận nếu không có sự phá bĩnh từ bên trong của Kissinger
(và Bùi Diễm). Tác giả Christopher Hitchens coi Kissinger là kẻ gây ra
tội ác chống lại nhân loại vì rằng cuộc chiến đáng lý có thể chấm dứt từ
năm 1968 cùng với những điều kiện của năm 1972, đã kéo dài thêm bốn năm
“khiến cho có thêm ba triệu thường dân Việt Nam bị thương vong hoặc mất
nhà cửa, 31.205 lính Mỹ, 86.101 lính VNCH và 475.609 quân địch bị thiệt
mạng” (theo tài liệu của Lầu Năm Góc). Kết quả thật mỉa mai: Kissinger
không bị đưa ra Tòa án Nuremberg hay The Hague mà lại được trao tặng
giải Nobel hòa bình!
Theo Christopher Hitchens, Kissinger còn là
người chịu trách nhiệm chính về một hành động tội ác khác: vụ “bình địa”
Kiến Hòa. Vụ thảm sát ở Mỹ Lai chẳng nghĩa lý gì so với cuộc tàn sát ở
Kiến Hòa, xảy ra một năm sau (tháng 3-1969), lúc đó Henry Kissinger là
người chỉ huy cuộc chiến Việt Nam. Theo báo cáo của Bộ trưởng quốc phòng
Mỹ Robert McNamara ngày 22-1-1968 với Thượng nghị viện (thời tổng thống
Johnson) thì không có đơn vị Bắc Việt nào có mặt ở đồng bằng sông Cửu
Long lúc đó. Do đó không thể viện lý do nhằm chống lại sự tràn ngập của
quân Bắc Việt để tiến hành cuộc “tẩy sạch” vùng này.
Phóng viên
Kevin Buckley, trưởng văn phòng Newsweek tại Sài Gòn đã tố cáo vụ tàn
sát ở Kiến Hòa tháng 3 -1969 trên tờ báo (ngày 19-6-1972) như sau:
“…
Theo một viên chức khoảng 5000 người dân thường bị hỏa lực của Mỹ giết
chết trong cuộc “bình định” ở Kiến Hòa. Sự chết chóc ở đây khiến cho
cuộc thảm sát ở Mỹ Lai không thể nào so sánh. Sư đoàn 9 (Ninth Division)
huy động tất cả sức mạnh vào cuộc hành quân này. 8000 lính bộ binh cày
nát Kiến Hòa nhưng rất hiếm xảy ra đụng độ với địch. Cuộc hành quân được
50 khẩu đại bác, 50 trực thăng hỗ trợ. Máy bay đã thực hiện tất cả
3.381 lần tấn công ném bom trong cuộc hành quân mang tên “Speedy
Express” này. Trên một trực thăng có kẻ khẩu hiệu “Death is our business
and business is good” (tạm dịch “Bắn giết là công việc của chúng tôi và
đó là công việc thú vị”).
“Thật khó giải thích về sự khác biệt
khủng khiếp giữa số xác người được đếm (11.000) và số vũ khí đã tịch thu
được (748). Chỉ có thể giải thích: đa số những xác chết ấy là của người
dân vô tội…”
Theo Christopher Hitchens, từ khi Henry Kissinger trở
thành cố vấn an ninh của Nixon không có một quyết định nào trong cuộc
chiến ở Việt Nam lại không được thông qua ông ta. Cho nên tướng Telford
Taylor, từng đứng đầu Ủy ban điều tra tại tòa án Nuremberg, đã viết
trong quyển Nuremberg và Việt Nam rằng có thể đưa Henry Kissinger ra
xét xử như đã xét xử người chỉ huy quân đội của Nhật hoàng Hirohito là
tướng Tomoyuki Yamashita vì ông ta đã bị không kiểm soát quân Nhật và để
xảy ra các vụ tàn sát dân thường. Yamashita đã bị xử treo cổ. Ngoài
những tội ác gây ra ở Việt Nam, Campuchia, Lào, Kissinger còn bị coi là
người chịu trách nhiệm các tội ác khác xảy ra ở Bangladesh, Chile, Síp,
Đông Timor…
…Trở lại vấn đề hòa đàm Paris, sau cùng thì chính phủ
Thiệu cũng không thể đối đầu với áp lực của Washington, phải cử phái
đoàn do đại sứ Phạm Đăng Lâm dẫn đầu dự hội nghị bắt đầu ngày 25-1-1969.
Nguyễn Cao Kỳ được chỉ định là cố vấn chính trị của phái đoàn Sài Gòn.
Có một chuyện bên lề được kể rộng rãi về thái độ của nước Pháp chủ nhà,
đối với phó tổng thống Kỳ. Tổng thống Pháp là tướng De Gaulle từ chối
tiếp ông Kỳ với nghi thức chính thức. Nhưng ông Kỳ vẫn đến Paris với
danh nghĩa cố vấn của phái đoàn Sài Gòn. Ngay lúc ông Kỳ còn trên đất
Pháp, trong một cuộc họp báo của tổng thống De Gaulle, một nhà báo đã
hỏi De Gaulle về Nguyễn Cao Kỳ thì được De Gaulle hỏi lại “Qui est Ky?”
(Ky là ai?). Một cách chơi chữ của De Gaulle coi thường ông Kỳ. Vai trò
của ông Kỳ dù không công khai tại Paris nhưng cũng góp phần làm cho tư
thế của phái đoàn VNCH càng sút giảm. Bởi hình ảnh của tướng Nguyễn Cao
Kỳ là “diều hâu 100%”.
Đầu tháng 2-1969, phụ tá đặc biệt của tổng
thống Thiệu là Nguyễn Cao Thăng đến tòa soạn báo Tiếng Nói Dân Tộc mời
tôi tham gia một phái đoàn trí thức nhân sĩ miền Nam thăm chính thức một
số nước châu Á, châu Âu và châu Mỹ với mục đích làm cho thế giới hiểu
thêm về miền Nam và chế độ Sài Gòn. Nhưng tôi nói liền với ông Thăng:
tôi là một dân biểu đối lập, không thể tham gia một cuộc “giải độc” cho
chính phủ Nguyễn Văn Thiệu được. Ông Thăng bảo tôi hãy yên tâm: “Ông dân
biểu không có trách nhiệm làm việc đó. Ông vẫn có thể giữ lập trường
độc lập của ông, miễn ông không công khai tuyên truyền cho cộng sản”.
Đoàn
gồm có cựu trung tướng Trần Văn Đôn – đang là nghị sĩ quốc hội; Hà Thúc
Ký – một lãnh tụ đảng chính trị (Đại Việt); bà nghị sĩ Nguyễn Phước
Đại; nghị sĩ Trần Văn Lắm sau này là Tổng trưởng Giáo dục; GS. Nguyễn
Xuân Oánh – cựu phó thủ tướng và thống đốc Ngân hàng quốc gia Sài Gòn,
Nguyễn Gia Hiến – công giáo chống cộng và khoảng ba hay bốn người nữa mà
tôi không nhớ tên. Đoàn được các chính phủ thân chế độ Sài Gòn như
Nhật, Bỉ, Ý, CHLB Đức, Hà Lan, Pháp, Anh, Mỹ đón tiếp trân trọng nhưng
không vượt qua khuôn khổ ngoại giao. Khi đoàn đến Nhật, người được chủ
nhà đón tiếp nồng hậu nhất là giáo sư Nguyễn Xuân Oánh vì từng du học
tại đây và sau đó trở lại dạy đại học trên đất Nhật. Ông Oánh có buổi
nói chuyện với sinh viên Nhật tại Tokyo bằng tiếng Nhật.
Rời Nhật
đến châu Âu trên máy bay Janpan Airlines qua ngả Anchorage, tôi có dịp
đặt chân lên Bắc Cực (Alaska). Một sự cố nhỏ xảy ra với tôi: khi máy bay
dừng lại để mua đồ lưu niệm, thì tôi không làm sao mang lại đôi giày da
của mình. Số là tất cả hành khách đi máy bay đường dài của Japan
Airlines đều được phát tất ấm và dép vải để được đi thoải mái trong cuộc
hành trình. Khi nào xuống máy bay mới mang giày của mình trở vào. Đôi
giày da mới toanh của tôi vừa đóng tại Sài Gòn, do nhiệt độ quá lạnh
trong máy bay, đã co rúm lại. Tôi cố gắng thế nào cũng không thể mang
vào. Thế là tôi đành đặt chân nửa trong nửa ngoài đôi giày rồi xuống máy
bay cho kịp với các hành khách khác. Tất cả hành khách đến Anchorage
đều được Japan Airlines cấp cho một giấy chứng nhận đã đặt chân lên Bắc
Cực.
Đoàn đến Paris 9 giờ ngày 18-1-1969, cũng trong ngày này, một
tiếng rưỡi sau (10 giờ 30), Hội nghị Paris mở rộng chính thức khai diễn
tại Hotel Majestic. Tôi và ông Hà Thúc Ký được đại sứ Phạm Đăng Lâm,
trưởng đoàn VNCH mời gặp tại nơi làm việc của đoàn (đặt tại 101, Avenue
Raymond Poincafé) với sự có mặt của các thành viên như luật sư Vương Văn
Bắc, luật sư Nguyễn Phương Thiệp, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy để nghe báo
cáo những diễn tiến mới nhất của hội nghị. Đoàn cũng gặp chính thức phái
đoàn Mỹ do Cyrus Vance tiếp. Riêng tôi và bà Nguyễn Phước Đại có dịp mở
một cuộc họp báo dành cho các nhà báo Pháp hoạt động trong quốc hội
(presse parlementaire) tại Thượng viện Pháp. Cuộc họp báo trực tiếp bằng
tiếng Pháp, không thông qua thông dịch. Chủ yếu chúng tôi vận động giải
pháp chấm dứt chiến tranh, nói lên sự tha thiết của nhân dân Việt Nam
muốn thấy đất nước mình được thống nhất. Tôi còn nhớ bà Đại đã gây xúc
động với các nhà báo Pháp khi nói về cuộc chiến ở Việt Nam. Về phần tôi,
tôi lưu ý dư luận Pháp và quốc tế rằng trong cuộc chiến ở miền Nam,
ngoài hai phe đối nghịch còn có những người Việt Nam đứng giữa là những
người thầm lặng không chấp nhận Mỹ - Thiệu nhưng cũng không xếp về phía
Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam.
Tại Paris, trong khuôn khổ
riêng, tôi đã gặp và ăn cơm trưa với nhà báo Jacques Decornoy của báo Le
Monde , lúc đó phụ trách khu vực Đông Nam Á, theo sự giới thiệu của nhà
báo Jean Claude Pomonti thường trú tại Sài Gòn. Sau cuộc tiếp xúc,
Jacques Decornoy đề nghị tôi viết một bài báo trên mục “Tribune
internationnale” của Le Monde để đánh động dư luận quốc tế về sự thảm
khốc của cuộc chiến ở Việt Nam và tình cảnh của những người Việt đứng
giữa. Jacques Decornoy cũng ủng hộ quan điểm của một số người ở miền Nam
vào thời điểm ấy là cần có một thành phần thứ ba. Tôi viết bài báo đó
tại Paris và giao cho J. Decornoy trước khi rời nước Pháp. Tuần sau đó,
bài báo được Le Monde đăng tải.
Đại sứ Phạm Đăng Lâm có mời tôi
một buổi riêng ăn tại nhà hàng L’ Orée du Bois ở Bois de Boulogne. Đây
là một buổi chiêu đãi có tính cách riêng tư. Đại sứ Lâm là bạn học của
cha tôi thời cả hai người học tại trường Collège Mỹ Tho.
Nhưng
chuyện đáng nhớ nhất trong chuyến đi này là khi đến nước Anh. Trong
nhiều hoạt động của đoàn có buổi dự chiêu đãi do đảng cầm quyền lúc bấy
giờ (Công Đảng) tổ chức tại Điện Westminster, trụ sở quốc hội Anh. Phía
chủ nhà, ngoài các lãnh tụ của đảng, còn có hai đại diện đoàn thanh niên
của Công Đảng. Trước khi buổi tiệc bắt đầu, chủ nhà phát biểu rồi đến
khách phát biểu. Nhưng đại diện của đoàn miền Nam là Hà Thúc Ký chưa kịp
nói gì thì một trong hai đại biểu thanh niên Công Đảng đứng lên phủ
nhận tính cách đại diện miền Nam Việt Nam của đoàn, anh cho rằng đại
diện hợp pháp duy nhất của miền Nam Việt Nam là Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam. Trên ngực của anh thanh niên người Anh có đeo một huy
hiệu của MTDTGPMN. Tôi nhìn qua anh thanh niên ngồi bên cạnh, cũng thấy
một huy hiệu MTDTGPMN trên ngực. Rồi cả hai đồng loạt đứng lên hô to
khẩu hiệu phản đối đoàn nhân sĩ trí thức Sài Gòn và hoan hô MTDTGPMN.
Đến đây người chủ trì buổi chiêu đãi cho gọi bốn viên cảnh sát vào, cứ
hai viên cảnh sát “kẹp” một chàng thanh niên, đưa ra khỏi phòng ăn một
cách khá êm. Vào lúc đó, trong đầu tôi xuất hiện một suy nghĩ mà trước
đây còn lờ mờ: rõ ràng chế độ Nguyễn Văn Thiệu đã bị đánh bại trên mặt
trận ngoại giao nhân dân.
Tại CHLB Đức, đoàn đã được đưa đi xem
“bức tường Berlin”. Đứng trên một vọng gác sát tường bên phía Tây, tôi
nhìn qua Đông Đức. Đó là một thế giới xa lạ và đầy “bí hiểm” đối với
tôi. Sự hiểu biết của tôi về “chế độ cộng sản” nói chung và về Đông Âu
nói riêng, lúc đó còn lờ mờ lắm.
Nên lúc đó nhìn qua bên kia “bức
tường Berlin”, tôi cảm thấy điều gì đó không yên ổn. Những con chó
berger có mặt dọc theo chân tường phía bên Đông Đức càng làm sự cảm nhận
nặng nề hơn. Sau khi đất nước thống nhất, năm 1980 tôi có dịp sang thăm
Liên Xô trong đoàn trí thức miền Nam (cùng các anh chị: Bác sĩ Nguyễn
Thị Ngọc Phượng, giáo sư Trần Văn Tấn, giáo sư Trần Phước Đường, tiến sĩ
Trần Xuân Danh, nữ nghệ sĩ Phùng Há, tiến sĩ Tôn Nữ Thị Ninh, nhà báo
Tô Nguyệt Đình, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba v.v…). Ước ao của tôi lúc đó là
được đến CHDC Đức, được viếng “bức tường Berlin” từ phía Đông, để đối
chiếu cái nhìn từ hai phía. Nhưng tôi không có cơ hội đạt được mong muốn
đó trước khi bức tường bị triệt hạ. Tuy nhiên chuyến đi Liên Xô năm
1980 đã để lại trong ký ức tôi những ấn tượng đẹp về một đất nước xã hội
chủ nghĩa (dù nhiều mặt chưa hoàn chỉnh và yếu kém). Tôi có cảm tình
với Liên Xô của năm 1980 mà tôi có dịp đến và thăm viếng nhiều nơi. Từ
Moscow, tôi đoán được phần nào phía bên này “bức tường Berlin”. Sau khi
“bức tường Berlin” được hạ xuống, hai nước Đức thành một, khi những thực
tế đối chiếu hai chế độ xã hội trở thành trực diện thì người ta mới
nhận ra rằng ở chế độ cộng sản ngày trước cũng có thật nhiều điều tốt
đẹp để cho người dân Đông Đức cũ thật sự nhung nhớ, luyến tiếc. Các tờ
báo thuộc cánh hữu ở châu Âu cũng nhìn nhận thực tế này bên cạnh những
gì mà họ chỉ trích, tấn công.
Khi đoàn trí thức nhân sĩ miền Nam
rời châu Âu tiếp tục chuyến đi sang Mỹ, lúc ấy cận Tết nên tôi không
theo đoàn. Từ nước Anh, tôi về thẳng Sài Gòn. Không đến Mỹ trong dịp
này, tôi không có dịp nào khác đến nước Mỹ. Sau năm 1975, hai lần tôi
xin nhập cảnh vào Mỹ để thăm mẹ của tôi đã 82 tuổi nhưng đều bị Tổng
lãnh sự Mỹ tại TP. HCM từ chối.
Các thành viên của đoàn trở về Sài
Gòn đều lần lượt tham gia chính phủ Thiệu hoặc đứng vào tập hợp đảng
phái của Thiệu. Chỉ có hai người vẫn đứng ngoài chính quyền là bà nghị
sĩ Nguyễn Phước Đại và tôi. Trong buổi chiêu đãi đoàn tại Dinh Gia Long
(nay là Bảo tàng TP. Hồ Chí Minh đường Lý Tự Trọng) sau chuyến đi, tôi
có nghe tổng thống Thiệu chính thức mời bà Đại tham gia chính phủ nhưng
bà Đại khéo léo từ chối. Riêng với tôi, qua trung gian là giáo sư Nguyễn
Xuân Oánh đến gặp tôi tại tòa soạn báo Tiếng Nói Dân Tộc ông Thiệu mời
tôi tham gia đảng do ông sắp sửa thành lập và đứng đầu. Tôi nói với ông
Oánh cảm ơn lời mời này nhưng sự chọn lựa chính trị của tôi vẫn là đứng
ngoài chính quyền, tiếp tục hoạt động đối lập với chính phủ. Ngày
25-5-1969, Nguyễn Văn Thiệu cho ra mắt mặt trận 6 đảng do ông đứng đầu,
trong đó có Đại Việt Cách Mạng, Lực lượng Đại Đoàn Kết (Công giáo di
cư), Dân Xã (Hòa Hảo), Việt Quốc… Trái với mong mỏi của ông Thiệu, mặt
trận không được dư luận ủng hộ và bị báo chí nước ngoài tại Việt Nam gọi
là “liên minh sáu quả trứng ung”!
Trong thời gian này, ông Hoàng
Đức Nhã, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân vận chiêu hồi là cánh tay mặt của
ông Thiệu, cũng tiếp cận tôi qua sự móc nối của Phạm Ngọc Kha, đã từng
quen biết tôi khi còn học chung ở Lycée Yersin Dalat (Kha từng là đổng
lý văn phòng Bộ Phát triển sắc tộc). Bản thân ông Nhã cũng là một cựu
học sinh trường Yersin. Nhã mời hai vợ chồng tôi cuối tuần đến Suối Tre,
địa điểm giải trí của Plantation SIPH trên đường đến Xuân Lộc, ăn trưa,
đánh quần vợt và bơi lội. Cùng tham gia có một số tổng trưởng thuộc
cánh của Nhã. Có lẽ Nhã thăm dò để lôi kéo tôi đứng về phía Nhã và chính
phủ Thiệu. Hai vợ chồng tôi tham dự những Weekend như thế khoảng ba,
bốn lần thì không đi nữa. Lý do: giữa tôi và Hoàng Đức Nhã không thể
liên kết với nhau. Bởi cho dù có những buổi đi chơi chung cuối tuần, tôi
vẫn liên tục viết báo và lên diễn đàn Hạ nghị viện tấn công chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu.
Hoàng Đức Nhã có liên hệ gia đình rất gần với
ông Thiệu (hình như là anh em cô cậu) đã từng học tại Mỹ nên có phong
cách làm việc và suy nghĩ rất Mỹ. Khi Nhã về nước và được Thiệu sử dụng,
Nhã đã gặp sự phản ứng bất lợi từ giới trí thức và công chức thuộc thế
hệ cũ. Nhã đã không mang lại cho ông Thiệu thêm một sự ủng hộ nào, trong
guồng máy chính quyền cũng như ngoài quần chúng. Nhã đưa vào chính phủ
một loạt bộ trưởng trẻ được đào tạo tại Mỹ như ông ta. Thiệu hi vọng với
Nhã ông sẽ “nắm” các chính khách Mỹ và chính trường Mỹ sâu sát hơn. Nhã
đã từng cáo giác với ông Thiệu: “Người Mỹ là những người có đầu óc kinh
doanh (businessmen) họ sẽ bán đứng tổng thống nếu tổng thống không còn
mang lợi cho họ”. Trong quyển No peace, no Honor , Larry Berman đã kể
lại một đoạn đối thoại giữa Kissinger và thủ tướng Singapore Lý Quang
Diệu về Hoàng Đức Nhã ngày 4-8-1973 tại sân bay Kennedy ở New York như
sau:
Kissinger nói với Lý Quang Diệu “Nhã ghét tôi lắm”, rồi hỏi
ông Lý Quang Diệu “Cảm tưởng của ông thế nào về Nhã?”. Lý Quang Diệu trả
lời “Hắn sáng sủa và tham vọng. Đầy tự tin, hắn tự cho rằng những điều
hắn nói đều có trọng lượng đối với Thiệu”. Kissinger kết luận “Điều đó
đúng. Nhưng hắn vẫn còn non nớt (immature)”.
Các cuộc tiếp xúc với
Hoàng Đức Nhã không để lại ở tôi một ấn tượng đặc biệt nào. Hoàng Đức
Nhã có thể là một người có nhiều năng lực nhưng không phải là một chính
khách có sức thuyết phục.
CHƯƠNG 12
Cho đến khi ra tờ Tiếng Nói Dân Tộc , tôi làm tất cả 5 tờ báo: Đuốc
Thiêng, Buổi Sáng, Thanh Việt, Bình Minh, Sài Gòn Tân Văn. Tờ Sài Gòn
Tân Văn do tôi làm chủ nhiệm bị chính phủ Phan Huy Quát đóng cửa. Tờ
Tiếng Nói Dân Tộc là tờ thứ hai tôi trực tiếp làm chủ, ra ngày
17-12-1968 đến trước Tết năm 1970 thì bị chính quyền Thiệu đóng cửa. Lý
do đóng cửa chính thức như đã nói: tờ báo chống lại vụ án “Châu–Hồ-
Trúc”.
Tôi xin nói thêm về ba người này. Ông Trần Ngọc Châu từng
làm trung tá tỉnh trưởng ở Bến Tre có người anh là Trần Ngọc Hiền đại tá
tình báo Việt cộng. Qua sự tiếp tay của CIA, Thiệu tìm ra bằng chứng
Trần Ngọc Châu có liên lạc với người anh của mình (thời đó tội liên lạc
với cộng sản là tội nặng nhất). Nhưng nhiều người cho rằng đó không phải
là lý do chính. Châu có quan hệ sâu với nhiều nhân vật Mỹ có thế lực
tại Việt Nam và cả tại Mỹ. Theo nhà báo Zalin Grant, người đã từng có
mặt tại miền Nam từ 1964 đến 1973 và sau đó đã gặp và trao đổi với Trần
Ngọc Châu nhiều lần tại Mỹ (sau 1975) thì ông Châu là người đã từng làm
việc chặt chẽ với CIA. Một trong những người rất thân với ông Châu là
Edward G. Lansdale, nhà hoạt động tình báo nổi tiếng nhất của Mỹ trong
chiến tranh Việt Nam. Lansdale từng là cố vấn của tổng thống Ngô Đình
Diệm, năm 1966 trở lại Việt Nam làm trợ lý đặc biệt cho đại sứ Henry
Cabot Lodge và sau đó cho đại sứ Elslworth Bunker. Grant nói rõ điều này
trong quyển sách của ông có tên “Facing the Phonenix” (xuất bản năm
1991). Theo Grant, Trần Ngọc Châu còn là người ảnh hưởng chính đối với
John Paul Vann trong đường lối bình định. Vam là một loại quan theo kiểu
thực dân Pháp, tự gán cho mình “sứ mạng khai hóa” (mission
civilisatrice). Đến Việt Nam từ thập niên 60, Vann đã có mặt tại Ấp Bắc
sau khi Mỹ thất bại thảm hại trong trận đánh bằng máy bay trực thăng.
Vào
thời điểm Châu bị bắt, năm 1970, đại sứ Bunker và CIA tại Sài Gòn tin
rằng Thiệu có thể chiến thắng cộng sản và chương trình bình định của
chính quyền Thiệu (chiến dịch Phượng Hoàng) là một thành công. Nhưng
Châu và “một số người bạn Mỹ” của ông thì chỉ ra chiến lược mà Thiệu va
những người Mỹ ủng hộ Thiệu áp dụng trong cuộc chiến giành dân ở nông
thôn là một sai lầm. Đó cũng là một trong những lý do tòa đại sứ Mỹ và
CIA đã bật đèn xanh cho Thiệu loại Châu.
Theo Grant, chính Ted
Shackley thuộc văn phòng CIA tại Sài Gòn đã theo dõi Châu một thời gian
dài và thu thập tài liệu về mối quan hệ giữa Châu và anh mình là Trần
Ngọc Hiền để cung cấp cho chính quyền Thiệu có lý do bắt và kết án Châu.
Ted Sackley không thuộc cánh của Lansdale, ngược lại còn ác cảm với
Lansdale. CIA đã từng dùng Trần Ngọc Châu nhưng khi thấy Châu trở thành
một trở ngại cho đường lối của họ ủng hộ chế độ Thiệu thì họ không ngần
ngại chối bỏ mối quan hệ này và hy sinh Châu! Trong khi đó Edward G.
Lansdale và John Paul Vann vẫn nhất quyết cho rằng dân biểu Châu là
“người yêu nước quốc gia” có đầu óc chống cộng mặc dù có quan hệ với anh
mình là sĩ quan tình báo Việt cộng.
Tôi không thân lắm với ông
Châu khi còn là đồng viện. Trong thời gian ở Quốc hội, tôi thường tránh
những quan hệ mà tôi thấy phức tạp. Nhưng với tư cách đồng viện, tôi
phản đối quyết liệt việc chính quyền Thiệu bắt Châu, vi phạm quy chế bất
khả xâm phạm của đại diện dân cử. Cũng theo nhà báo Zalin Grant, khi
biết được chính quyền Thiệu có ý định sẽ bắt Châu, “những người bạn Mỹ”
của Châu trong đó có John Paul Vann, tìm cách giấu Châu tại Cần Thơ
trong một khu nhà dành riêng cho người Mỹ chỉ cách trụ sở CIA Cần Thơ
vài bước. John Paul Vann có ý định đưa Châu ra khỏi Việt Nam qua đường
Campuchia. Nhưng dân biểu Châu từ chối, cho rằng trốn đi là tự xóa sinh
mệnh chính trị của mình. Khi cảnh sát rằn ri và cảnh sát chìm ùa vào bắt
Châu (26-2-1970), một số dân biểu đối lập cố gắng ngăn chặn, đặc biệt
là Kiều Mộng Thu chiến đấu đúng nghĩa để bảo vệ ông Châu tới cùng. Lúc
đó trên ngực Trần Ngọc Châu có đeo Bảo quốc huân chương – huân chương
cao quí nhất của chế độ Sài Gòn – và hai tay cầm cái huy hiệu Quốc hội
to bằng gỗ lấy ra từ bục diễn đàn Hạ nghị viện để che chắn cho mình.
Nhưng cảnh sát của Thiệu vẫn lôi xềnh xệch Châu từ phòng họp ra tận cửa
lớn và kéo anh như một con vật xuống các bậc thang trước Hạ nghị viện
rồi ném lên xe chở đi. Dù phía sau vang lên những lời la hét, chửi bới
chế độ dữ dội của dân biểu Kiều Mộng Thu.
Dân biểu thứ hai bị tòa
án quân sự của Thiệu kết tội liên lạc với cộng sản là ông Hoàng Hồ, một
nhà báo, chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ “Trinh Thám ”. Thể loại báo của ông
Hoàng Hồ lúc đó khá độc đáo, chủ yếu khai thác chuyện các vụ án trong
nước và thế giới, có những bài nghiên cứu khá sâu về tội phạm học là
ngành chuyên môn mà ông đã theo đuổi khi ông du học ở Pháp. Tôi không rõ
tại sao ông bị kết án và làm thế nào ông biến mất khỏi Sài Gòn trước
khi chính quyền Thiệu ra tay.
Người thứ ba là Phạm Thế Trúc, cũng
là một dân biểu, được giáo hội Phật giáo cử sang Tokyo để nhận tiền và
quà của người Nhật gửi tặng cho nạn nhân bão lụt miền Trung. Nhưng tại
Nhật, Trúc tham gia các cuộc biểu tình chống chính quyền Sài Gòn và đã
tự tay đốt một hình nộm của Thiệu. Dĩ nhiên ông Thiệu không hề tha thứ
hành động này. Nếu Phạm Thế Trúc trở lại Sài Gòn, anh sẽ bị bắt ngay.
Trong ba người bị chính quyền Thiệu kết án, tôi thân Trúc nhất vì tôi và
Trúc cùng học một trường – Lycée Yersin Đà Lạt – và có một năm học
chung một lớp (lớp 4ème ). Trong lớp- đa số là Tây con – chỉ có hai
chúng tôi biết mê các bài thơ của Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, TTKH,
Tế Hanh, Hàn Mặc Tử… Mỗi đứa có một tập thơ chép tay, từng câu từng chữ
được viết một cách nắn nót. Sau chuyện xảy ra ở Tokyo, tôi không có dịp
gặp lại anh. Trúc sống luôn tại Pháp.
Lý do chính thức đóng cửa tờ
Tiếng nói Dân tộc là vì tôi đã viết bài phản đối vụ án Châu–Hồ-Trúc.
Nhưng nguyên nhân tiềm ẩn là từ khi tờ báo xuất bản, đường lối của TNDT
ngày càng đi ngược lại đường lối của chính phủ Thiệu, nhất là các vấn
đề liên quan đến chiến tranh và hòa bình. Chính phủ Thiệu dồn tất cả nỗ
lực của mình, lúc đầu để ngăn cản Washington không ngừng ném bom miền
Bắc. Khi thất bại thì tìm cách ngăn trở và trì hoãn cuộc hòa đàm tại
Paris. Ông Thiệu cũng phủ nhận sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam và sự thành lập của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam. Trong khi đó Báo TNDT thúc đẩy quá trình chấm dứt chiến
tranh, thương lượng hòa bình và đề cao tinh thần hào giải hòa hợp dân
tộc. Một bộ phận người dân miền Nam, vào thời điểm 1968-1969, không ràng
buộc quyền lợi và địa vị với chính quyền Thiệu có khuynh hướng chung là
chờ đợi sự rút quân của Mỹ và một cuộc hòa đàm vời miền Bắc để kết thúc
chiến tranh.
Những người như tôi thuộc loại được ưu đãi ở xã hội
miền Nam bấy giờ vậy cớ gì chống chế độ, đòi hỏi một kết thúc chiến
tranh mà không đoán được nó sẽ ra sao đối với số phận chính trị của
mình? Sẵn sàng đánh đổi cái lợi lộc trước mắt rất đảm bảo cho mình để
đấu tranh cho một tương lai gần như là một ẩn số hoàn toàn đối với mình,
tại sao? Tôi vẫn nhớ cái tâm trạng của mình lúc đó: tôi không tưởng
tượng được chỗ đứng chính trị của mình ở đâu khác hơn là vị trí đối lập
với chính quyền. Cuộc sống với tôi sẽ mất đi tất cả ý nghĩa nếu không
bày tỏ thái độ đối với cuộc chiến, thái độ trước thực trạng đất nước
chia đôi mà theo tôi là nỗi bất hạnh lớn nhất của thế hệ mình. Tôi say
sưa đấu tranh cho các mục tiêu ấy. Tôi cảm nhận những ưu đãi mà mình
đang được hưởng là phù du và trước tình cảnh đất nước đang bị giằng xé
đó, mình không thể an lòng thụ hưởng những ưu đãi ấy.
Những tấn
công của các đồng nghiệp trong làng báo Sài Gòn như Chu Tử (báo Sống ),
linh mục Nguyễn Quang Lãm (Xây Dựng ) hay Đặng Văn Sung (Chính Luận )
cho rằng tôi “ngây thơ chính trị” cũng chẳng làm tôi lung lay.
Những
người có suy nghĩ như tôi lúc ấy khá đông, trong giới trí thức, kể cả
trong quân đội, trong hàng ngũ công chức và trong dân thường. Suy nghĩ
và lập luận của họ rất đơn giản dù chưa biết người cộng sản ra sao nhưng
có một điều chắc chắn họ là người Việt Nam. Nếu chiến tranh kết thúc
thì cái lớn nhất đạt được là chấm dứt máu đổ. Vấn đề ưu thế chính trị
thuộc về ai trở thành thứ yếu. Một trong những nguyên nhân thất bại của
chế độ Thiệu trong thời điểm khởi đầu cuộc đấu tranh quyết liệt với
người cộng sản và đồng thời với cả người Mỹ - gần như đã bỏ rơi Thiệu
khi quyết định rút chân khỏi Việt Nam – là ở chỗ, phía sau chế độ đó
không có hậu thuẫn dân chúng và các lực lượng chính trị có uy tín.
Lật
lại hồ sơ chiến tranh Việt Nam của FBI và CIA (mà thời gian bảo mật
không còn) người ta nhận ra rằng cuộc đối đầu chế độ Thiệu với đường lối
Washington – muốn rút chân khỏi Việt Nam – đơn độc làm sao! Gần như chỉ
có ông Thiệu và Hoàng Đức Nhã chiến đấu. Chính phủ Thiệu không dấy lên
được một phong trào quần chúng đúng nghĩa làm hậu thuẫn cho quan điểm
chính trị của mình. Tại Mỹ ông Thiệu chỉ có “đầu cầu” rất trơ trọi là
đại sứ Bùi Diễm tiếp tay. Phó tổng thống Kỳ cũng đứng về phía hai anh em
ông Thiệu, chống lại đường lối hòa đàm của Washington, nhưng không có
sự phối hợp thật sự giữa hai ông Thiệu và Kỳ. Mâu thuẫn quyền lực giữa
Thiệu và Kỳ vẫn quá nặng nề.
Do đó cái cảnh lạc lõng của phái đoàn
VNCH tại Paris càng thảm hại. Trên tờ Tiếng Nói Dân Tộc ngày 5-01-1969
tôi có ghi lại lời thuật của luật sư Vương Văn Bắc, một thành viên của
đoàn, về tình hình của đoàn tại Paris như sau:
“… Paris rất lạnh,
như chưa bao giờ lạnh như thế vào dịp Giáng Sinh, lạnh nhất kể từ năm
1873 đến nay. Tuyết rơi trắng trên thân xe và trên mặt đất rừng
Boulogne. Anh Nguyễn Xuân Phong, anh Nguyễn Ngọc Huy và tôi thường đi bộ
trong rừng để bàn những vấn đề đất nước, một lúc cả giày lẫn tất đều
ướt thẫm. Trở về phòng riêng không thể được vì lẽ đơn giản là không có
phòng riêng. Mấy người ở chung nhau một phòng lớn. Những lúc đêm khuya,
tôi tiếp tục đọc sách vì không ngủ được. Giáo sư Huy phải dùng khăn lông
lớn che mắt ngủ. Buổi sáng chúng tôi xếp hàng để sử dụng phòng tắm độc
nhất. Phải nói chúng tôi hoạt động trong một môi trường ghẻ lạnh, đối
đầu những kẻ thù hăm hở và bên cạnh những người bạn ngập ngừng.
“Hôm
đầu tiên, anh Huy và tôi xuống phố mua áo len, mũ khăn về để chống cái
lạnh của Paris. Về tới nhà, vừa mới mở cửa xe bước xuống, hai tay lễ mễ
bưng gói đồ thì mấy ông phóng viên đã xuất hiện, chụp hình và quay phim
lia lịa. Kinh nghiệm “thập mục sở thị” ấy làm cho chúng tôi không muốn
đi đến đâu.
“Tôi thấy rạp chiếu bóng chiếu mấy phim có tiếng như
La Chamade của Francoise Sagan hay La Prionniere của Clouzot cũng muốn
đi coi nhưng rồi lại thôi vì người ta cho là du hí. May chúng tôi có vài
cuộn băng nhạc Việt Nam và báo chí ở bên nhà gửi sang. Chị Vui (tức
Nguyễn Thị Vui) nóng lòng muốn biết dư luận ở bên nhà ra sao đối với
cuộc hòa đàm. Ngoài ra dĩ nhiên chị cũng nóng lòng muốn biết số phận của
Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ ra sao”.
Nhớ lại mấy chục
năm, đọc đoạn này, tôi thấy lòng mình chua xót thế nào ấy. Họ đơn độc và
chẳng có chút khí thế gì khi “ra trận”. Họ đến Paris nhưng đã thấy
trước sự thất bại, bởi họ phải bảo vệ cho một chế độ không thể bảo vệ
nữa. Tôi nhớ như in những gương mặt xưa: một Vương Văn Bắc lúc nào cũng
mặc bộ đồ vét với cà vạt chỉnh tề, ngay cả khi đi dạy ở Học viện Quốc
gia Hành chính. Thời tôi còn là sinh viên HVQGHC, chỉ có giờ của giáo sư
Bắc là tôi không cúp cua. Ông chuẩn bị bài giảng nghiêm túc, nói trực
tiếp chứ không cầm tài liệu đọc lê thê như các giáo sư khác. Bỏ qua vấn
đề khác biệt chính kiến – ông là người miền Bắc di cư, lập trường chống
cộng – thì theo tôi, ông là một trí thức có tư cách. Chị Nguyễn Thị Vui,
luật sư, là một trường hợp khá phức tạp. Chị đã từng gần gũi với những
người cộng sản trong thời chống thực dân Pháp nhưng rồi tách dần ra
nhưng vẫn chưa thật sự tìm ra một bến bờ mới cho cuộc sống tinh thần của
mình. Chị vẫn bơi giữa dòng. Trong giới trí thức ở miền Nam bấy giờ chị
được đánh giá là một nhân vật trong sáng, có nhiều thiện chí với đại
cuộc. Nghe đâu cả hai vợ chồng chị đều từng đứng trong hàng ngũ phong
trào thanh niên Việt Nam cộng sản ở Châu Âu những năm 50 khi đi du học ở
Pháp. Chồng chị là kỹ sư Lâm Văn Sĩ. Có lúc chị tự nhận mình là một
“người Việt đứng giữa”. Chị tiết lộ riêng với tôi về sự thân thiết với
một vài nhân dân trong MTDTGPMN. Có người đã đến tiếp xúc với chị ngay
tại văn phòng luật sư của chị ở đường Nguyễn Du trước 1975. Khi chế độ
Sài Gòn sụp đổ, chồng chị, anh Lâm Văn Sĩ, có đến sinh hoạt ở Hội trí
thức yêu nước ở đường Nguyễn Thông, nhưng chị thì ở nhà, hạn chế các
cuộc tiếp xúc, nhất là tránh gặp những người quen từ trong rừng trở về.
Khi ông Thiệu giao cho Nguyễn Cao Kỳ thành lập phái đoàn đại diện
VNCH tại Hội nghị Paris, ông Kỳ đã thuyết phục được luật sư Vui tham
gia. Có lẽ chị nghĩ đây cũng là một cách đóng góp cho viêc chấm dứt
chiến tranh. Nhưng ông Kỳ thì có ý đồ là dùng chị Vui để “đối xứng” và
đối đầu với một nhân vật nữ ở trong phái đoàn chính phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng hòa Miền Nam là bà Nguyễn Thị Bình. Không hiểu từ đâu, lúc đó
lại có dư luận cho rằng bà Vui và bà Bình là bạn cũ với nhau. Kỷ niệm 30
năm ký Hiệp định Paris (năm 2003) tôi có dịp gặp bà Bình trong một buổi
tiệc do Ủy ban Việt kiều tại TP. HCM tổ chức tại nhà khách số 1 đường
Lý Thái Tổ. Tôi tò mò hỏi bà Bình chuyện xưa, thì được bà xác nhận là
không quen biết bà Nguyễn Thị Vui và bà nói thêm: “Ở Sài Gòn trước đây
có người lẫn lộn tôi với một người khác cũng tên Nguyễn Thị Bình nhưng
là con gái của nhà báo cách mạng Nguyễn An Ninh”.
…Tháng 3-1969,
tổng thống Nixon gửi Bộ trưởng quốc phòng Mervin Laird sang Sài Gòn gặp
ông Thiệu, cùng đi có tướng Wheeler, mang theo một thông điệp: nhân dân
Mỹ muốn chính quyền mới (tức Nixon) đưa cuộc chiến đi đến một kết thúc
mĩ mãn và “kết thúc mỹ mãn” ấy đối với đa số người Mỹ có nghĩa là đưa
nước Mỹ ra khỏi cuộc chiến. Trở về Mỹ, Laird gặp Nixon và bàn về kế
hoạch “Termination Day” (Ngày kết thúc), một chương trình chi tiết rút
quân Mỹ và đồng thời chuyển giao thiết bị cho chính quyền Sài Gòn. Kế
hoạch của Nixon là “de- Americanize the war” (phi Mỹ hóa cuộc chiến)
nhưng khi được đưa ra công khai nó lại trở thành “Vietnamisation” (Việt
Nam hóa chiến tranh), mà theo Nixon có nghĩa xây dựng cho quân đội VNCH
đủ mạnh để chủ động được chiến trường để quân đội Mỹ rút dần. Theo tác
giả Larry Berman trong cuốn No Peace, No Honor , Thiệu lúc đầu tin rằng
Nixon sẽ giúp VNCH đứng vững trong 8 năm, thời gian đủ để chế độ Thiệu
củng cố và vững mạnh.
Ngày 9-7-1969 đơn vị quân đội Mỹ đầu tiên trở
về nhà, tại căn cứ không quân McChord, gần Tacoma- Washington. Tướng
William Westmoreland có mặt đón họ. Theo tôi dù 30-4-1975 mới là ngày
chính thức Mỹ cuốn cờ chạy khỏi Việt Nam nhưng chính cái ngày 9-7-1969
Mỹ đã bắt đầu “tháo chạy” và cũng đã quyết định số phận của chế độ Sài
Gòn rồi… Tờ Tiếng Nói Dân Tộc bị đóng cửa; dân biểu Trần Ngọc Châu bị
bắt bất kể ông được hưởng quyền bất khả xâm phạm của Quốc hội, chủ nhiệm
tờ báo tiếng anh Saigon Daily News , ông Nguyễn Lâu, cũng bị bắt trong
lúc này cùng một lý do (ngoài ra còn có 26 trí thức khác). Đó là thời kỳ
Thiệu siết lại đời sống chính trị ở miền Nam để củng cố quyền lực của
mình. Dĩ nhiên phong trào sinh viên không thể không bị đàn áp. Tôi có dự
buổi họp báo của ban chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn (khóa 1967
-1968) bị cảnh sát Thiệu tấn công tại số 4 Duy Tân (hiện nay là Nhà Văn
hóa Thanh Niên) do Nguyễn Đăng Trừng (hiện là trưởng đoàn luật sư TP. Hồ
Chí Minh) làm chủ tịch. Chính quyền Thiệu không công nhận Ban chấp hành
này. Buổi họp báo này nhằm phản đối chính quyền Thiệu bắt sinh viên
Nguyễn Trường Cổn. Nhưng cuộc họp báo vừa bắt đầu thì cảnh sát tấn công
bằng lựu đạn tay và ập vào. Trừng nhanh chân chạy thoát. Sau cuộc tổng
công kích đợt 2, Trừng rời Sài Gòn ra vùng giải phóng đi theo Liên minh
Dân tộc Dân chủ Hòa bình của luật sư Trịnh Đình Thảo. Sinh viên Nguyễn
Trường Cổn bị tòa án quân sự Sài Gòn kết án 5 năm tù về tội phản nghịch.
Tòa án quân sự cũng tuyên án tử hình khiếm diện Nguyễn Đăng Trừng khi
biết được anh đã vào rừng theo Việt cộng. Vào thời điểm này một số đông
trí thức và sinh viên cũng có chọn lựa như Trừng.
Để nắm chặt hơn
nữa tình hình chính trị và quân sự trong lúc quân Mỹ rút, ông Thiệu lèo
lái Hạ nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm thủ tướng Trần Văn Hương để bổ
nhiệm người bạn thân và đáng tin cậy nhất của mình là tướng Trần Thiện
Khiêm vào chức thủ tướng (23-8-1969). Cũng từ lúc này, các dân biểu đối
lập như tôi không còn được cấp hộ chiếu xuất ngoại. Bởi Thiệu biết rất
rõ các dân biểu đối lập thường lợi dụng các chuyến ra nước ngoài để hoạt
động chống chính phủ.
Nhật báo Tiếng Nói Dân Tộc bị đóng cửa, tôi
hợp tác với nghị sĩ Hồng Sơn Đông làm tờ Điện Tín . Hợp đồng giữa anh
Đông và tôi khai thác Điện Tín được ký ngày 1-4-1971. Anh Đông là chủ
nhiệm, tôi làm chủ bút và là người bỏ tiền ra khai thác tờ báo. Nói bỏ
tiền ra nhưng thực tế tiền đầu tư chẳng là bao. Do làm báo lâu năm được
sự tin cậy trong làng báo, tiền ban đầu chúng tôi phải bỏ ra rất ít,
không như các nhà tài phiệt làm báo. Anh Hồng Sơn Đông là một cựu đại tá
quân đội, đắc cử nghị sĩ trong liên danh của tướng Trần Văn Đôn. Tuy
nhiên ông Hồng Sơn Đông còn là một người thân thuộc và trung thành của
tướng Dương Văn Minh.
Làm tờ Điện Tín , tôi mời anh Trương Lộc đảm
trách vai trò tổng thư ký tòa soạn. Khi chúng tôi cùng học ở Đại học
Khoa học, năm PCB (Physique – Chimie - Biologie) thì tôi đã bắt đầu viết
báo thể thao. Tôi không mê ngành khoa học, (sau chuyển sang học Hành
chính) ít khi vào trường, chủ yếu dành thời gian đi viết báo, còn Lộc
tiếp tục học cho đến khi đậu bằng cử nhân khoa học. Vài năm sau, tôi rất
bất ngờ khi gặp lại Lộc cộng tác với một hãng thông tấn của Nhật. Anh
Lộc đi cùng họ đến phỏng vấn tôi. Rồi chỉ một hai năm sau, anh lại gia
nhập làng báo Sài Gòn.
Trước năm 1975, anh Lộc là một trong những
nhà báo hiếm hoi sớm quan tâm tới một hình thức trình bày hiện đại cho
tờ báo – từ cách đặt tít cho đến cách giới thiệu từng trang báo, bài
báo. Sau 1975, anh tiếp tục làm báo với tôi ở tờ Tin Sáng , tiếp đó anh
phụ trách bộ phận quốc tế cho báo Sài Gòn Giải Phóng . Sau này anh lại
chuyển sang lĩnh vực kinh doanh về quảng cáo và tiếp thị (Công ty VMC).
Tờ Điện Tín có nhiều mục rất được độc giả ưa chuộng và gây tiếng
vang. Chẳng hạn mục “Ký sự nhân vật” do anh Trần Trọng Thức viết, mục
“Văn tế sống” theo thể loại thơ châm biếm của anh Cung Văn tức Nguyễn
Vạn Hồng. Mỗi ngày Điện Tín còn có một tranh châm biếm của họa sĩ Ớt
tức nhà báo Huỳnh Bá Thành. Người giới thiệu anh Huỳnh Bá Thành với tôi
là anh Trần Trọng Thức. Trong buổi gặp đầu tiên tại tòa soạn ở đường Võ
Tánh (bây giờ là Nguyễn Trãi), tôi hỏi anh Thành có thể làm được gì
trong tờ báo. Anh cho biết trước đây anh có sửa bản in, ngoài ra anh
cũng có thể vẽ tranh. Thế là tôi gợi ý cho anh Thành vài đề tài để anh
về vẽ thử. Hôm sau anh mang tranh đến, rất đạt. Lúc bấy giờ anh Thành
chưa chọn bút danh cho mình. Tôi và anh Lộc cùng tìm một bút danh để anh
Thành ký trên tranh. Và bút danh Ớt ra đời. Lúc đầu bên dưới tên Ớt,
anh Thành còn vẽ một trái ớt trông rất vui!
Thời kỳ này, tranh của
Ớt nhắm chủ yếu vào hai mục tiêu: tổng thống Thiệu và tổng thống Nixon,
với cách vẽ đơn giản, chỉ cần vài nét nhưng Ớt đủ làm cho độc giả nhìn
ra Thiệu và Nixon. Tôi nhớ mãi bức tranh Ớt vẽ Nixon nằm trong cái quan
tài không đậy nắp, thò tay ra ngoài kéo Thiệu cùng vào. Đó là thời điểm
tổng thống Nixon phải từ chức vì vụ xì- căn- đan Watergate. Ý của Ớt:
Nixon ra đi sẽ kéo theo Thiệu. Vụ thảm sát ở Sơn Mỹ cũng bị Ớt lên án
trên tranh của mình: tên trung úy đồ tể William Calley được Ớt cho mặc
một bộ sĩ quan đại lễ với từng cái cúc áo là sọ người! Khi tôi không còn
làm tờ Điện Tín nữa, chuyển sang các anh Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận
phụ trách, họa sĩ Ớt và các anh Trương Lộc, Minh Đỗ, Cung Văn… vẫn tiếp
tục cộng tác với tờ Điện Tín bộ mới.
Ở bất cứ tờ báo nào tôi làm
tòa soạn, bao giờ tôi cũng dành cho tranh biếm họa một vị trí quan trọng
nơi trang nhất. Với tờ Sài Gòn Tân Văn (tôi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút
năm 1964), cây vẽ tranh liên hoàn trên mỗi số báo là Cát Hữu với nhân
vật Tám Sạc Ne. Đến tờ Tiếng Nói Dân Tộc, tranh liên hoàn được giao cho
họa sĩ Diệp Đình với nhân vật có tên Tư Cầu Kho. Các tranh của Ớt cũng
luôn chiếm vị trí quan trọng trên trang nhất tờ Điện Tín . Sau năm 1975,
phụ trách tòa soạn báo Tin Sáng , tôi rất thích thú các tác phẩm biếm
được vẽ rất kĩ lưỡng của họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi. Cố họa sĩ Chóe đạt
đỉnh cao của mình về thể loại biếm họa cũng là lúc anh cộng tác với báo
Lao Động : Tranh được đăng với kích thước to và ngay trên trang nhất,
mỗi tranh có sức nặng như một bài xã luận.
Trương Lộc, Trần Trọng
Thức, Nguyễn Vạn Hồng, Huỳnh Bá Thành lúc đó đều là những nhà báo trẻ,
đại diện cho một cách viết báo và làm báo mới mẻ và tiến bộ trong làng
báo Sài Gòn.
Trước khi đến với tờ Điện Tín , anh Trương Lộc đã làm
thư ký tòa soạn cho các tờ Đất Mới và Tìm Hiểu- cả hai đã đánh dấu
những bước cải tiến đầu tiên về cách trình bày, đặt tít, viết tin trong
làng báo Sài Gòn.
Các bài “Văn tế sống” của Nguyễn Vạn Hồng với bút
hiệu Cung Văn dữ dội và độc đáo, đả kích lần lượt các nhân vật trụ cột
của chế độ gần như không thiếu một ai. Anh tế sống họ. Lúc đầu tôi không
tin anh tài hoa như thế và có lần tôi nói nửa đùa nửa thật với anh: “Có
phải người ở “trỏng” viết sẵn và mang ra cho anh, rồi anh nộp bài cho
tòa soạn không?”. Nhà của anh Hồng lúc đó nằm trong làng báo chí bên kia
cầu Sài Gòn, coi như vùng ven đô. Tôi nói “ở trỏng” là ngầm ý nói trong
vùng giải phóng. Ngay thời điểm đó dù chưa biết Cung Văn có quan hệ với
người cộng sản, tôi vẫn cảm nhận khá rõ tình cảm của anh với “bên kia”.
Anh Trần Trọng Thức, được đào tạo chính qui tại Việt Tấn Xã bởi
các nhà báo nước ngoài (Philipines và Mỹ) có một phong cách viết rất
chặt chẽ và luôn giàu thông tin. Các bài “Ký sự nhân vật” của anh ký tên
Trần Văn Lê là những chân dung nhân vật tiêu cực lẫn tích cực, được
viết một cách sinh động và độc đáo – có thể coi là những tài liệu phong
phú giúp những ai muốn tìm hiểu về bộ mặt xã hội Sài Gòn những năm đầu
thập niên 70.
Nhân đề cập chuyên mục “Ký sự nhân vật” của anh Trần
Trọng Thức, không thể không nhắc: Chính từ chuyên mục này mà nữ nghệ sĩ
Kim Cương và anh Thức có dịp quen biết nhau và sau đó trở thành vợ
chồng. Nghệ sĩ Kim Cương là một trong những “nhân vật tích cực” được nhà
báo Trần Trọng Thức đưa lên mục “Ký sự nhân vật”. Bài báo đã chinh phục
“kiều nữ” Kim Cương lúc đó đang rất nổi tiếng về tài năng diễn kịch và
cả về hoạt động xã hội.
Anh Trần Trọng Thức là nhà báo Việt Nam đã
phát hiện và đưa lên mặt báo Điện Tín vụ lính Mỹ thảm sát dân thường ở
Sơn Mỹ, là sự tố cáo đầu tiên tội ác chiến tranh này trên báo chí Sài
Gòn. Sau đó một hãng tin Mỹ trích đăng lại, góp phần làm nổ bùng thông
tin về vụ tàn sát này tại Mỹ.
Sự việc này bắt đầu từ một số nạn
nhân chiến tranh chạy từ miền Trung vào Sài Gòn, sống chui rúc ở một khu
tồi tệ thuộc vùng Tân Định đã đến tòa soạn kêu cứu. Anh Thức đến tận
nơi điều tra và phát hiện vụ thảm sát tại Sơn Mỹ. Nhưng vì ngại Bộ thông
tin tịch thu khi báo ra, nên mẩu tin chỉ có khoảng 300 chữ. Sau đó khi
vụ thảm sát đã được đưa ra quốc hội Mỹ dưới sức ép của dư luận Việt Nam,
quốc hội Sài Gòn mới tiền hành điều tra, gửi một phái đoàn do nghị sĩ
Trần Văn Đôn dẫn đầu đi Quảng Ngãi. Với tư cách phóng viên Việt Tấn Xã,
anh Thức tháp tùng phái đoàn này và viết bài cho Điện Tín dưới một bút
danh khác.
Khi tổng thống Mỹ Nixon ân xá cho trung úy William
Calley, báo Điện Tín đã phản ứng quyết liệt bằng bài viết và bằng tranh
biếm của họa sĩ Ớt. Truyền hình Mỹ (hình như là CBS) có phỏng vấn tôi
với tư cách là chủ bút báo Điện Tín về phản ứng đối với quyết định ân
xã Calley của Nixon. Lúc đó tiếng Anh của tôi còn rất yếu, tôi phải nhờ
anh Trương Lộc chuẩn bị sẵn cho tôi một số ý trước, để thể hiện sự cực
lực phản đối việc Nixon bao che tội ác!
Với Calley thật sự không
thể ân xá. Hắn nói: “Tôi coi cộng sản cũng như người Mỹ miền Nam nhìn
một tên mọi đen (negro). Cá nhân tôi, ngày hôm đó tôi không có giết một
người Việt Nam nào cả. Tôi nói rõ – cá nhân tôi. Tôi đại diện cho Hoa
kỳ. Quê hương tôi”. Hắn cho rằng giết cả trẻ em vì lớn lên chúng sẽ là
VC như cha mẹ chúng. Theo Calley, nếu hắn chỉ giết đàn bà, ông già, con
nít – đều đó có nghĩa cha chúng đã đi chiến đấu. Chúng đều là VC. Calley
lập luận chuyện bắn giết của hắn không có gì tồi tệ hơn so sánh với
chuyện ném bom 500 pound từ một pháo đài bay B52. Hay khi chính quyền Mỹ
ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki… Những lời lẽ khủng khiếp
này của Calley được in trong quyển “VietNam – A war lost and won” của
Nigel Cawthorne (nhà xuất bản Capella).
Về chuyện tàn sát dân
thường của lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, đạo diễn điện ảnh Mỹ
Oliver Stone (các phim Platoon và Born on the Forth of July ) có phát
biểu như sau:
“Tôi rất phẫn nộ khi nghe các cựu chiến binh nói: “Ồ!
Đây là chiến tranh, có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Mẹ kiếp! Bọn
dân thường khốn nạn làm gì biết được điều đó”, lập luận này không thể
lọt vào tai tôi một giây nào. Tôi chán nghe bọn ngu xuẩn đó nói rằng
trong chiến tranh họ có thể tàn sát bất cứ ai. Dù rằng chiến tranh khơi
dậy những bản năng xấu xa nhất của con người, nhưng ở đó vẫn còn có chỗ
của đạo đức. Chúng ta (người Mỹ) đi đến sự thất bại không tránh khỏi vì
cuộc chiến này không có mục tiêu đạo đức và chúng ta chiến đấu mà không
có một lý tưởng trong sáng nào”.
Oliver Stone đến miền Nam Việt Nam
hai lần. Lần đầu năm 1965, lúc đó 19 tuổi làm giáo viên Anh văn tại Chợ
Lớn. Lần sau năm 1967 trong hàng ngũ quân đội Mỹ.
Nhắc những người cộng tác với tờ Điện Tín mà quên nhà văn Thiếu Sơn là một thiếu sót lớn.
Nhà
văn Thiếu Sơn rất lựa chọn báo để viết. Không phải báo nào mời ông cũng
viết, dù đời sống vật chất của ông không dư dả. Mặt khác, theo ông thà
không viết, còn nếu đã viết ông luôn đòi hỏi nhuận bút rất cao, nhất là
với những tờ báo mà ông biết họ có tiền. Nhưng khi viết cho báo Điện Tín
có lập trường gần gũi với ông, ông sẵn sàng nhận số tiền nhuận bút
tượng trưng mà thôi. Ông nói với tôi: “Báo ông bị tịch thu liên miên,
đâu có tiền để trả nhuận bút cao”. Tôi nhớ rất rõ hình ảnh quen thuộc
của ông mỗi khi tạt ngang tòa soạn: bao giờ cũng xách theo một cái túi
đệm đơn sơ, trong đó có một cái khăn lau mặt, một cái quần cụt, một áo
thun ba lỗ và một cái bàn chải đánh răng. Ông giải thích với tôi: “Bất
cứ lúc nào bị bọn chúng lượm thì mình cũng sẵn sàng”. Tôi có một kỷ niệm
riêng với ông vừa hài vừa bi: một hôm ông đến gặp tôi và chờ khi không
có ai, ông nói nhỏ vào tai tôi một cách bí mật: “Tới nơi rồi ông Chung”.
Ý ông muốn nói: Quân giải phóng sắp vào đến thành phố rồi. Nhưng chỉ
một ngày sau, chưa thấy quân giải phóng đâu mà tôi lại nhận được tin ông
bị cảnh sát chìm Tổng Nha bắt. Rồi ông bị “cất” luôn cho đến ngày 30-4!
Trong cuộc đời làm báo có hai lần tôi được hợp tác với hai ê kíp
viết báo gồm những đồng nghiệp tài giỏi, có thể gọi đó là những “Dream
team”: Lần đầu với ê kíp Điện Tín (1970-1971), lần thứ hai với ê kíp
Lao Động (1991-1994).
Làm tờ Điện Tín sau khi tờ Tiếng Nói Dân Tộc
bị đóng cửa, trước hết tôi muốn duy trì tiếng nói đối lập của mình.
Một dân biểu đối lập mà không có tờ báo trong tay thì như cua không có
càng. Năm 1970 là năm bầu cử bán phần Thượng nghị viện và năm chuẩn bị
bầu cử lại Hạ nghị viện (1971). Do lời mời hợp tác của trung tướng –
nghị sĩ Trần Văn Đôn, chấm dứt nhiệm kỳ ba năm của ông và có ý định ra
tranh cử trở lại, bấy giớ tôi cũng có ý định ứng cử vào Thượng nghị
viện. Theo thế thức tổ chức Thượng nghị viện thì cứ ba năm, một nửa
trong số 60 nghị sĩ phải được bầu lại. Sự phân định ở đợt đầu 30 nghị sĩ
ra đi và 30 nghị sĩ ở lại do một cuộc rút thăm (có nghĩa sẽ có ba liên
danh mới đắc cử). Sau khi bàn bạc giữa tướng Đôn và tôi thỏa thuận đạt
được như sau: liên danh mười người ra ứng cử sẽ gồm hai thành phần, một
do tướng Đôn đứng đầu với năm ứng cử viên là cựu nghị sĩ (tướng Trần Văn
Đôn, tướng Tôn Thất Đính, bà Nguyễn Phước Đại, tướng Nguyễn Văn Chuân,
ông Tôn Ái Liêng), và một gồm năm dân biểu đang tại chức (Lý Quý Chung,
Nguyễn Hữu Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Thạch Phen). Tuy liên
danh có đến ba cựu tướng lãnh nhưng họ đều có quan điểm chống tổng thống
Thiệu. Đây là một liên danh đối lập, có nhiều khả năng sẽ thắng cử với
số phiếu cao.
Nhưng khi liên danh sắp sửa đăng ký ứng cử thì phát
hiện có vấn đề về điều kiện tuổi: tôi thiếu một ngày! Luật bầu cử Thượng
nghị viện qui định muốn ra ứng cử phải đủ 30 tuổi tròn tính đến ngày
bầu cử. Ngày bầu cử là 30-8-1970 nhưng tôi lại sinh ngày 1-9-1940. Như
thế chưa “tròn” 30 tuổi tính từng ngày bởi tháng Tám có 31 ngày. Lúc đầu
có ý kiến phớt lờ chi tiết này nhưng tướng Trần Văn Đôn thận trọng đã
tham khảo ý kiến của thẩm phán Trần Văn Linh, chủ tịch Tối cao pháp
viện, nơi sẽ phân xử tính hợp hiến các đạo luật và cả sự vận dụng nếu có
sự khiếu nại hoặc tranh chấp. Dự đoán các đối thủ, nhất là phe chính
quyền, chắc chắn sẽ không bỏ qua cơ hội khai thác điểm sơ hở này để loại
liên danh chúng tôi, nên cuối cùng tôi phải rút tên. Có lúc tướng Đôn
đề nghị đưa cha tôi (Lý Quí Phát) có nhiều quen biết với cử tri người
Việt gốc Hoa, thay tôi. Nhưng sau đó thấy không ổn, liên danh dự kiến
không thành. Bà Nguyễn Phước Đại vẫn muốn tiếp tục ra tranh cử đã thành
lập một liên danh khác không có năm dân biểu có mặt trong danh sách
trước nhưng rồi bà đã thất bại. Lúc đó tôi cũng tiếc vì thiếu chỉ một
ngày trong điều kiện tuổi nên mất cơ hội hoạt động ở Thượng nghị viện.
Tiếc không vì cái danh xưng nghị sĩ mà tiếc vì với cương vị nghị sĩ
tiếng nói đối lập ở Thượng nghị viện của mình sẽ có ảnh hưởng lớn hơn.
Với
tờ Điện Tín , sự tách biệt về lập trường chính trị của tôi với chế độ
Thiệu càng dứt khoát hơn xuất phát từ diễn tiến của tình hình lẫn chuyển
biến ở lập trường chính trị cá nhân. Tờ báo liên tục bị Bộ Thông tin ra
lệnh tịch thu. Có tuần, tờ Điện Tín phát hành lậu đến 3 ngày, có
nghĩa là dù số báo được lệnh của Bộ Thông tin cấm phát hành nhưng chúng
tôi vẫn chuyền báo qua nóc nhà kề bên và tuồn báo ra phía sau tòa soạn ở
đường Lê Lai, để bán ra ngoài. Trong lịch sử báo chí ở Sài Gòn, dưới
thời chế độ Thiệu, chỉ có tờ Tin Sáng vượt qua Điện Tín về số lần bị
tịch thu và ra tòa. Dĩ nhiên các lần tịch thu như thế đều làm kiệt quệ
tài chính của vợ chồng tôi bởi có tuồn được báo ra ngoài bán đi nữa thì
số lượng không thể nhiều được. Chúng tôi mắc nợ nhà in, mắc nợ nơi cung
cấp giấy in và nợ cả tiền lương của các anh em nhà báo. Không thể trả
lương cho mọi người cùng một lúc, vợ tôi – đảm trách khâu quản lý, kế
toán đã nghĩ ra một cách giải quyết khá đặc biệt: anh em nào có đời sống
khó khăn thì lãnh lương trước, còn những anh em ít khó khăn thì lãnh
trễ hơn vào giữa tháng. Thường thì Minh Đỗ, Trần Trọng Thức là những
người lãnh sau cùng.
Nhưng khi làm tờ Điện Tín , tôi còn nhắm một
mục tiêu nữa: hỗ trợ giải pháp Dương Văn Minh thay thế tổng thống Thiệu,
nhằm thành lập một nội các hòa bình, góp thêm một điều kiện thuận lợi
để chấm dứt chiến tranh. Lúc này, tướng Minh đã chấm dứt thời kỳ bị bắt
buộc sống lưu vong (tại Bangkok, Thái Lan). Chính thái độ công khai ủng
hộ giải pháp Dương Văn Minh khiến cho Bộ Thông tin của chính phủ Thiệu
càng tỏ ra gắt gao với tờ Điện Tín . Tờ Điện Tín , sau hơn một năm xuất
bản, tạm đình bản không do một quyết định chính thức của Bộ thông tin mà
do một cuộc tấn công phá hoại của “kẻ giấu mặt” theo tôi không ai khác
hơn là “tay chân” của chính quyền. Vào lúc 5 giờ sáng, một chiếc xe máy
chạy ngang tòa soạn Điện Tín ném một bọc có chứa chất cháy vào cửa. Bác
bảo vệ ngủ bên trong không hay biết gì cả. Nếu vụ cháy không được tri
hô kịp lúc thì chẳng những tòa báo bị thiêu rụi mà cả sinh mạng của bác
vệ cũng không còn. May mắn là khi bên trong tòa báo vừa bén lửa thì
người ở nhà đối diện bên kia đường Võ Tánh là phóng viên nhiếp ảnh Lỗ
Vinh phát hiện nên vụ cháy đã được ngăn chặn. Lúc xảy ra vụ phá hoại tòa
soạn Điện Tín , nghị sĩ Hồng Sơn Đông, chủ nhiệm tờ báo, đang đi công
tác ở nước ngoài. Gia đình anh Đông sống ở Thủ Đức nghe tin phá hoại này
bị lung lạc tinh thần, yêu cầu tôi tạm ngưng xuất bản tờ báo và chờ anh
Đông về quyết định tiếp.
Sau đó có vài trục trặc trong sự bàn luận
hợp tác trở lại khi anh Đông về, tôi rút lui khỏi tờ Điện Tín và
chuyển sang thuê “manchette” tờ Bút Thần (của anh Nguyễn Văn Phương làm
chủ nhiệm) làm tiếp. Tôi không thể không buồn về sự gián đoạn với tờ
Điện Tín . Sau thời gian tự đình bản, tờ Điện Tín đã xuất bản trở lại
(tháng 2-1972) do ê kíp Tin Sáng sang khai thác. Tờ Tin Sáng vắng chủ
nhiệm – anh Ngô Công Đức – không thể tồn tại. Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận,
bạn thân của anh Đức, giám đốc chính trị tờ Tin Sáng chuyển sang làm
chủ bút tờ Điện Tín . Cùng chủ biên tờ Điện Tín ở giai đoạn này còn có
giáo sư Lý Chánh Trung, cựu dân biểu Dương Văn Ba. Họa sĩ Ớt phụ trách
phần trình bày. Người điều khiển thật sự tờ Điện Tín là anh Dương Văn
Ba, năm đầu làm việc trực tiếp tại tòa soạn nhưng sau đó chính quyền
Thiệu truy nã anh vì anh bị thất cử ở nhiệm kỳ dân biểu kế tiếp và chống
lại lệnh gọi đi lính. Do đó anh Ba phải lẩn trốn trong Dinh Hoa Lan, tư
dinh của thủ tướng Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quý Cáp (nay là đường Võ
Văn Tần). Nhưng từ đây anh vẫn phụ trách tòa soạn cho tờ Điện Tín . Mỗi
ngày anh biên tập và chuẩn bị đủ bài vở cho số báo rồi chuyển ra tòa
soạn cho Huỳnh Bá Thành thực hiện. Người làm liên lạc giữa anh Ba và tòa
soạn Điện Tín hàng ngày là Triệu Bình, em trai của Cung Văn. Sau 1975,
Triệu Bình làm phóng viên báo Tin Sáng rồi làm ở báo Sài Gòn Giải
Phóng .
Tờ Điện Tín của các anh Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung,
Dương Văn Ba, Huỳnh Bá Thành nối tiếp tờ Điện Tín do tôi làm trước đó
cũng có chung một mục đích: Tăng cường tiếng nói đối lập, chống chiến
tranh và vận động cho giải pháp Dương Văn Minh. Trên báo này còn có sự
đóng góp tiếng nói của nữ dân biểu Kiều Mộng Thu, linh mục Nguyễn Ngọc
Lan. Các bài bút ký của anh Lý Chánh Trung dưới tiêu đề chung “Bọt biển
và sóng ngầm” thu hút một số đông độc giả và gây một ảnh hưởng lớn trong
cách suy nghĩ của nhiều giới tại Sài Gòn về tình hình đất nước, về thân
phận của những người dân không có quyền tự quyết. Các bài của linh mục
Nguyễn Ngọc Lan luôn làm cho chính quyền Thiệu phải nhức đầu.
Tôi
không trực tiếp làm tờ Điện Tín nữa nhưng vẫn tham gia tờ báo với anh
em ở hai mục: viết một “feuillenton” (chuyện dài nhiều kỳ có tên “Nhật
ký nàng Kiều Dung” tố cáo buộc sống đa đọa của giới trưởng giả Sài Gòn)
và một tuần góp một bài xã luận.
CHƯƠNG 13
Trong năm 1971 Sài Gòn có hai cuộc bầu cử: cuộc bầu cử hạ Nghị viện
nhiệm kỳ 2 vào tháng 8 và bầu cử tổng thống vào tháng 10. Muốn tiếp tục
hoạt động ở nghị trường, tôi phải ra tranh cử trở lại, lần thứ ba trong
vòng năm năm (hai lần trước là Quốc hội lập hiến năm 1996, Hạ nghị viện
kỳ 1 năm 1967). Còn cuộc bầu cử tổng thống, đại tướng Dương Văn Minh có ý
định tham gia với tư cách ứng cử viên đối lập, lập trường kết thúc
chiến tranh bằng thương thuyết. Tôi được ông Minh mời làm đại diện báo
chí.
Cuộc bầu cử Hạ nghị viện lần này không lơi lỏng như hai cuộc
bầu cử trước. Chính quyền Thiệu quyết tâm kiểm soát tối đã Hạ nghị viện
sắp tới, nên các dân biểu đối lập trở ra ứng cử ở các đơn vị thuộc các
tỉnh đều bị các chính quyền địa phương thẳng tay gian lận. Các thùng
phiếu bị đổi một cách trắng trợn. Trong các dân biểu đối lập là nạn nhân
của cuộc bầu cử gian lận có hai người bạn của tôi là anh Ngô Công Đức
(đơn vị Trà Vinh) và Dương Văn Ba (đơn vị Bạc Liêu). Biết rằng mình có
thể bị bắt sau khi thất cử, anh Đức chọn con đường vượt biên và sống lưu
vong ở Thuỵ Điển (nhưng phần lớn thời gian anh sang Paris hoạt động).
Cuộc vượt biên của anh đi qua biên giới Campuchia với sự hướng dẫn của
dân biểu Thạch Phen (gốc Campuchia), rồi từ đây sang Thái Lan. Tại
Bangkok, lúc đầu anh được nhà báo Pháp Jean Claude Pomonti vận động cho
anh sang tỵ nạn tại Pháp nhưng không hiểu tại sao Pháp từ chối. Cuối
cùng anh được tỵ nạn tại Thụy Điển.
Anh Dương Văn Ba thì không đi
đâu, không còn làm dân biểu đối lập, anh chuyển sang làm báo đối lập.
Nhưng anh chỉ được tự do làm báo không đầy một năm thì chính quyền Thiệu
có lệnh truy nã anh. Ông Dương Văn Minh đưa ra ý kiến cho anh Ba “tỵ
nạn” trong dinh của ông. Lúc đó trốn trong dinh Hoa Lan (biệt thự của
ông Minh có tên này vì trồng nhiều phong lan, thú đam mê của ông Minh)
còn có cựu dân biểu Phan Xuân Huy (đơn vị Đà Nẵng), ông Nguyễn Văn Cước
(hoạt động công đoàn) và nhà báo Kỳ Sơn (tức Nguyễn Đình Nam).
Chính
quyền Thiệu chỉ “chừa” cho các đơn vị ở Sài Gòn bầu cử tương đối tự do,
coi đó là những “tủ kính dân chủ” để đối phó với dư luận quốc tế, đặc
biệt với dư luận Mỹ. Một dân biểu đối lập thân thiết với tôi lúc đó là
Nguyễn Hữu Chung, do đã chuyển đơn vị bầu cử từ Bến Tre lên Sài Gòn nên
tránh được đòn gian lận của chính quyền Thiệu. Phần tôi chỉ xê dịch từ
đơn vị 2 Sài Gòn gồm các quận 4, 7, 8, 11 sang đơn vị 1 Sài Gòn gồm các
quận 1, 2, 4 và 9. Các anh Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận ứng cử lại ở đơn
vị 2, dựa vào thế mạnh của mình ở quận 8 mà cả hai từng đầu tư uy tín
trong một chương trình xã hội có ảnh hưởng lớn trong dân chúng địa
phương. Hai anh đã tái đắc cử một cách vẻ vang.
Nhiệm kỳ Hạ nghị
viện đầu tiên (1967), tôi tranh cử với slogan: “Một miền Nam trung lập
trong một Đông Dương trung lập”. Lần này chủ đề chính trị của tôi là:
“Chống chủ trương hòa bình trong chiến thắng của tổng thống Thiệu”. Cái
áp phích với hàng chữ slogan ấy do họa sĩ Ớt thiết kế. Thời đó chưa có
vi tính, anh Ớt phải tự tay kẻ từng chữ trên áp phích. Ước mơ của Ớt lúc
đó không phải trở thành một nhà báo nổi tiếng mà là một họa sĩ gây được
tiếng vang quốc tế. Anh vẽ chân dung khá đẹp, đặc biệt anh nghiên cứu
cách khắc chân dung trên đá từ những chấm nhỏ li ti (như kỹ thuật tranh
sơn dầu của Seurat) theo lối truyền thống của quê hương Quảng Nam – Đà
Nẵng của anh. Anh có thực hiện một chân dung như thế cho vợ tôi. Giữa
anh Ớt với tôi có nhiều gắn bó. Chuyện làm báo và cả chuyện tư riêng,
trước 1975 và cả sau 1975. Trong thời gian Ớt làm báo với tôi, anh cưới
vợ. Vợ chồng tôi lấy chiếc ô tô riêng của mình chở anh xuống Mỹ Tho rước
dâu.
Đơn vị 1 Sài Gòn có trên 80 người ra ứng cử, tranh ghế dân
biểu. Một cuộc cạnh tranh hết sức gay go. Tôi không có tiền để thuê
người cổ động, dán áp phích. Rất may là nhiều sinh viên đã tự nguyện
tiếp tay. Trong số này nhiều người là bạn bè của các em gái tôi, số khác
ủng hộ lập trường đối lập và chống chiến tranh của tôi. Nữ nghệ sĩ Kim
Cương đã vào chợ Bến Thành phát các tờ bướm vận động bỏ phiếu cho tôi.
Nghệ sĩ Trần Văn Trạch (em trai của giáo sư Trần Văn Khê) vào các khu
lao động phát các tờ bướm của tôi tận tay cử tri. Trong số các thanh
niên phụ trách khâu dán áp phích còn có Trương Quốc Khánh, tác giả bài
hát bất hủ “Tự nguyện ”. Trương Quốc Khánh là bạn của em gái tôi. Những
tình cảm đó cả đời tôi không thể quên.
Ở kỳ bầu cử này tôi về nhì
trước khoảng 85 ứng cử viên! Đầu tiên tôi đạt số phiếu về đầu. Nhưng các
biên bản kiểm phiếu giờ chót liên tục bị sửa chữa. Chính quyền rõ ràng
có ý đồ ngăn chặn một ứng cử viên phe đối lập về nhất ở đơn vị quan
trọng nhất tại Sài Gòn. Tôi đã phải mời thừa phát lại đến lập biên bản
sự vi phậm tại Trung tâm tổ chức bầu cử đặt tại Tòa Đô Chính (nay là trụ
sở Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh). Nhưng chẳng làm được gì.
Cuối cùng tôi kém hơn người về nhất chỉ vài chục phiếu!
Trong thời
gian vận động bầu cử này tôi có một tuyên bố trên truyền hình (mỗi ứng
cử viên được phát biểu trong 3 phút) và cả trên báo chí rất dứt khoát.
“Nếu
tôi đắc cử Hạ nghị viện và sau đó ông Nguyễn Văn Thiệu cũng đắc cử tổng
thống một trong cuộc bầu cử độc diễn, thì tôi sẽ từ nhiệm và rút khỏi
Hạ nghị viện để phản đối cuộc bầu cử không dân chủ của ông Thiệu”.
Ba
mươi năm sau nhắc lại quyết định này, tôi vẫn không chắc mình đã hành
động đúng hay sai. Ở ngoài hay ở trong Hạ nghị viện có lợi hơn trong
hoạt động của mình? Nhưng vào thời điểm đó tôi phẫn nộ thật sự và thấy
mình chỉ còn là một con rối trong bàn cờ gian lận trắng trợn của chế độ
Thiệu nếu tiếp tục ngồi lại trong Hạ nghị viện. Hoạt động chính trị của
tôi lúc đó trước hết là thỏa mãn nhu cầu bản thân: được đứng trong quần
chúng tiến bộ, được quần chúng chấp nhận. Con đường chính nghĩa, với một
ít người hoạt động khá đơn độc như tôi lúc đó quả thật không dễ dàng
nhận ra, nhưng tôi luôn tìm cách tiếp cận nó, coi đó là mục tiêu phấn
đấu. Sinh mệnh chính trị của mình không thể tách khỏi con đường tìm kiếm
ấy.
Ngày 29-8-1971, tôi đắc cử dân biểu Hạ nghị viện, đến ngày
3-10-1971 ông Thiệu cũng đắc cử tổng thống trong cuộc độc diễn như nhiều
người dự đoán. Đã hứa với cử tri của mình khi ra tranh cử, tôi phải giữ
lời. Vả lại, đó cũng là cách gần như duy nhất để gây tiếng vang tố cáo
chế độ dân chủ trá hình của tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu.
Sau phiên
họp khai mạc của Hạ nghị viện mà chương trình nghị sự chính là hợp thức
hóa tư cách dân biểu của các ứng cử viên vừa đắc cử, ở phiên họp kế tiếp
tôi lên diễn đàn đọc lá thư gửi cho chủ tịch Hạ nghị viện chính thức
xin từ nhiệm, thực hiện đúng lời tuyên bố của mình trong khi ra tranh
cử. Đơn từ nhiệm không được chủ tịch Hạ nghị viện chấp thuận với lý do
đơn giản: nhiệm kỳ dân biểu do nhân dân ủy thác bằng lá phiếu, do đó chủ
tịch Hạ nghị viện không có thẩm quyền giải quyết sự từ nhiệm của người
đắc cử. Dù không được chính thức từ nhiệm, tôi vẫn giữ quyết định “tẩy
chay” quốc hội của Nguyễn Văn Thiệu. Thế là tuy vẫn giữ tư cách dân biểu
nhưng tôi không dự các phiên họp của Hạ nghị viện. Hoạt động chính thức
của tôi lúc này là báo chí. Ngoài ra tôi mở một nhà hàng bên đường
Trương Định do vợ tôi quản lý và phụ trách kế bếp. Kể cũng hiếm ở Việt
Nam có một nhà hàng được dân biểu trực tiếp phục vụ như thế: tôi tham
gia cả việc bưng bê các thức ăn cho khách để tiết kiệm cả việc thuê
người. Các nhà báo cộng tác với tờ báo của tôi được khuyến khích ăn uống
tại nhà hàng và chỉ ký bông – cuối tháng trừ vào lương!
… Cuộc độc
diễn của tống thống Thiệu, đó là điều ngoài ý muốn của Washington. Vào
lúc này Washington rất cần một chính quyền Sài Gòn được dư luận quốc tế
công nhận, bộ mặt dân chủ dù là giả hiệu đi nữa cũng hết sức cần thiết
để tổng thống Nixon có một cơ sở nào đó tiếp tục biện hộ cho chế độ Sài
Gòn trước quốc hội Mỹ. Nhưng Nguyễn Văn Thiệu vẫn muốn giới hạn số người
ra ứng cử, và ngày 3-6-1971, Quốc hội Sài Gòn mà đa số là người của
Thiệu đã nhào nặn ra một luật bầu cử tổng thống buộc mỗi ứng cử viên
phải hội được một trong hai điều kiện: có 40 dân biểu, nghị sĩ hoặc 100
nghị viên hội đồng tỉnh ký tên giới thiệu.
Luật bầu cử này thật sự
nắm trực tiếp vào tướng Nguyễn Cao Kỳ. Theo bộ tham mưu của Thiện, cuộc
tranh cử tay ba giữa Thiệu, Kỳ, Minh sẽ là cuộc bỏ phiếu giữa hai khuynh
hướng. Một bên là khuynh hướng có thể thỏa hiệp với cộng sản mà ông
Minh là đại diện. Một bên là khuynh hướng chống cộng tích cực mà hai ông
Thiệu và Kỳ đều là đại diện tiêu biểu. Theo nghiên cứu của ban tham mưu
của ông Thiệu, một cuộc đầu phiếu trong điều kiện như vậy sẽ dọn đường
cho ông Minh vào ghế tổng thống, vì Thiệu và Kỳ sẽ chia nhau số phiếu
của những người chống cộng. Thấy rõ nguy cơ đó, phe Thiệu tìm cách chặn
ông Kỳ ra tranh cử.
Nhân vật được Thiệu giao công việc ngăn chặn Kỳ
ra ứng cử là phụ tá Nguyễn Văn Ngân, người thay chỗ phụ tá Nguyễn Cao
Thăng sau khi ông này chết vì bị ung thư. Ngân cũng là tác giả của luật
bầu cử tống thống, phó tổng thống biểu quyết ngày 3-6-1971.
Trước
khi luật bầu cử được các dân biểu thân chính quyền thông qua và chính
phủ ban hành, phụ tá Ngân cho đi thu chữ ký của các đại biểu dân cử.
Ngân đã tính trước: Minh sẽ có đủ 40 chữ ký dân biểu nghị sĩ (con số chữ
ký chính xác mà ông Minh có được là 42) và Kỳ sẽ không có cách nào lấy
đủ chữ ký trong Quốc hội như luật định. Kỳ chỉ có mỗi con đường lấy chữ
ký của các nghị viện hội đồng tỉnh.Ở khu vực này Ngân cũng thu gom tất
cả các chữ ký về phía Thiệu. Gần hết hạn nộp đơn, Kỳ thu được 101 chữ ký
của các nghị viện nhưng vẫn bị Tối Cao Pháp Viện họp ngày 6-8 bác vì
trong số 101 chữ ký giới thiệu Kỳ có đến 39 chữ ký đã có trong danh sách
ủng hộ Thiệu. Coi như 39 chữ ký này bất hợp lệ. Do đó trong danh sách
ứng cử viên tổng thống niêm yết lần thứ nhất chỉ có hai ông Thiệu và
Minh.
Tướng Kỳ tố cáo rằng một số nghị viện các tỉnh đã bị tỉnh
trưởng và thị trưởng ép ký vào tờ “bạch khế” (giấy trắng) từ trước khi
có luật bầu cử mà không biết là giấy đó sau này dùng để ủng hộ Thiệu ứng
cử tổng thống. Những nghị viện muốn chuyển sang ký ủng hộ Kỳ đều bị kẹt
những tờ giấy ký… trắng trước đây.
Nhưng điều mà ban tham mưu của
Thiệu không đoán trước: ngày 20-8-1971 ông Minh tuyên bố rút tên. Lý do
đưa ra: Thiệu đã bố trí guồng máy gian lận kết quả của cuộc bầu cử. Ông
Minh có trong tay một tài liệu về việc Phủ tổng thống chỉ thị cho các
tỉnh trưởng những cách thức để đảm bảo Thiệu thắng cử. Ông Minh đã trao
tài liệu này cho đại sứ Mỹ Bunker. Nghe đâu đại sứ Mỹ xác nhận đây là
một tài liệu có thật.
Ông Minh rút tên làm cho phe Thiệu bối rối vì
đứng trước nguy cơ chỉ có mỗi mình Thiệu tranh cử với chính… mình. Thế
là “quân sư” Nguyễn Văn Ngân phải tính tới chuyện đưa Kỳ ra tranh cử trở
lại để tránh tình trạng độc diễn bằng cách trả lại cho Kỳ 39 chữ ký
trước đây. Tối Cao Pháp Viện tuyên bố bất hợp lệ vì có sự khiếu nại của
phe Thiệu. Kết quả màn “ảo thuật” này là ngày 21-8-1971, Tối cao Pháp
Viện cho niêm yết danh sách ứng cử viên “lần thứ hai và là lần chót”
trong đó có tên Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ. Nhưng ngày 23-8, Kỳ
tuyên bố không tranh cử nữa và còn đề nghị Thiệu cùng Kỳ từ chức để cho
Chủ tịch Thượng Viện Nguyễn Văn Huyền tạm điều khiển chính phủ với nhiệm
vụ tổ chức một cuộc bầu cử tổng thống khác trong vòng ba tháng. Dĩ
nhiên ông Thiệu bác bỏ đề nghị này. Ngày 1-9, Tối cao Pháp Viện đồng ý
cho Kỳ rút tên.
Khi Kỳ từ chối “ân huệ” của Thiệu cho ra ứng cử,
ông tuyên bố với báo chí: “Tôi không tiếp tay cho một trò hề bẩn thỉu,
càng làm cho người dân vỡ mộng với chế độ dân chủ”. Đại sứ Mỹ Ellsworth
Bunker cố gắng thuyết phục ông Kỳ tiếp tục ra tranh cử nhưng ông dứt
khoát từ chối.
Trường hợp ông Dương Văn Minh, tuy đã công bố ra ứng
cử Tổng thống từ tháng 6 (với ứng cử viên Phó tổng thống là bác sĩ Hồ
Văn Minh, dân biểu quốc hội) nhưng ê kíp của ông vẫn tiếp tục quan sát
tình hình để quyết định. Khi hay tin ông Minh rút lui, đại sứ Bunker hối
hả xin gặp ông Minh nhằm cứu vãn tình thế cho chế độ Sài Gòn. Tôi có
mặt trong buổi tiếp Bunker của ông Minh. Ông Minh phân tích cho Bunker
thấy rằng không có sự công bằng và trung thực trong cuộc bầu cử giữa các
ứng cử viên. Ông Minh nói:
“Trong cương vị tổng thống, ông Thiệu
có cả guồng máy quân đội và hành chánh khổng lồ hỗ trợ ông ta, không kể
tiền bạc thuộc ngân sách quốc gia gần như không hạn chế. Chúng tôi, với
phương tiện cá nhân quá kém cỏi, không thể đối đầu ông Thiệu trong một
cuộc bầu cử hoàn toàn bất bình đẳng”. Bunker với kiểu suy nghĩ thực dụng
của người Mỹ nghĩ ngay rằng ông Minh gián tiếp đặt điều kiện được Mỹ
“hỗ trợ”. Bunker hỏi lại ông Minh: “Theo Đại tướng dự trù một cuộc tranh
cử như thế cần bao nhiêu tiền?”. Ông Minh trả lời thẳng thắn để cho
viên đại sứ Mỹ thấy rằng cuộc tranh cử này nằm ngoài khả năng của ông:
“Ít nhất một triệu đô la”. Và thật bất ngờ, Bunker nói ngay: “Thưa ngài
đại tướng, nếu ông ra tranh cử, ông sẽ có một triệu đô la đó”. Ông Minh
xua tay: “Tôi không thể nhận số tiền ấy và tôi cũng không thay đổi quyết
định rút lui khỏi cuộc bầu cử”.
Chung quanh sự kiện này, trong
quyển Vietnam: A History , nhà báo Mỹ kỳ cựu Stanley Karnow viết, “Đại
sứ Ellsworth Bunker” tìm cách gián tiếp đút lót ông Minh ra tranh cử để
làm cho cuộc bầu cử có vẻ “dân chủ” (Ambassador Ellsworth Bunker
reportedly tried to bride Minh to run in order to make the exercise look
“democratic”). Dù có những vận động như thế từ phía Mỹ để tránh xảy ra
cuộc độc diễn, nhưng trong thâm tâm các nhà lãnh đạo Washington lúc bấy
giờ đã nghiêng về sự chọn lựa Thiệu – người mà Henry Kissinger, cố vấn
an ninh quốc gia của Nixon, ca ngợi hết lời trong quyển hồi ký của ông
(Ending The Vietnam War ): “Không phải tình cờ mà Nguyễn Văn Thiệu trở
thành tổng thống. Không thể chối cãi ông ta là vị lãnh đạo quân sự xuất
sắc nhất ở miền Nam, có lẽ là người có năng lực nhất trong tất cả các
nhân vật chính trị”. Còn về ứng cử viên Dương Văn Minh thì Kissinger
viết như sau “Minh có thể là người mà Hà Nội chấp nhận, lý do chắc chắn
nằm ở chỗ yếu mềm nhất trong các bộ mặt chính trị. Nều Hà Nội chấp nhận
ông – điều này cũng không rõ ràng – chỉ vì ông là người dễ dàng lật đổ
nhất trong các ứng cử viên nếu ông trở thành tổng thống”. Washington
thường có đánh giá không đúng về con người ông Dương Văn Minh. Theo họ
ông là con người nhu nhược, thiếu quyết đoán. Trong cuốn sách “Saigon
1975-3 ngày và 3 tháng” , nhà báo Tiziano Terzani đã từng tiếp xúc với
ông Minh, có một đánh giá khác về ông Minh:
“Không như rất nhiều
đồng nghiệp của ông – những tướng lãnh hèn nhát và phản bội luôn bị tố
cáo tham nhũng và dính líu vào những vụ làm ăn mờ ám nhất – ông Minh là
một người lính lương thiện. Được binh lính dưới quyền kính trọng, ông là
một con người có dũng khí và có một ý thức danh dự truyền thống. Ông
Minh từng bị quân Nhật bắt tra tấn nhiều ngày, đánh gãy cả hàm răng
nhưng ông không chịu khuất phục. Ông nói với tôi ‘Đất nước tôi đáng giá
hơn cái hàm răng’”.
Bản thân ông Minh không hề xa lạ trước cách
đánh giá của người Mỹ đối với ông. Bởi nhiều lần ông đã làm họ thất vọng
với một lập trường không chịu khuất phục họ. Người Mỹ càng không “tha
thứ” cho ông Minh khi ông tiết lộ với báo chí Mỹ điều mà vị đại sứ của
họ đã đề xuất trong “mật nghị” với ông. Sau cuộc bầu cử độc diễn của
Thiệu, ông Minh tiếp chủ bút tờ Washington Post , Ben Bradley, cây cổ
thụ trong làng báo Mỹ. Washington Post là một tờ báo chống chiến tranh
Việt Nam có ảnh hưởng lớn ở Mỹ. Ông Minh giao cho tôi chuẩn bị buổi tiếp
này và chọn người làm phiên dịch. Tôi đích thân đi mời nhà báo Phạm
Xuân Ẩn, đang làm cho văn phòng đại diện tuần báo Time Magazine tại Sài
Gòn. Tôi quen biết anh Ẩn từ khi vào quốc hội (1966). Chỗ “đóng đô” mỗi
sáng của anh Ẩn là nhà hàng Givral. Anh ít khi ăn mà chỉ gọi một tách
cà phê đen. Chiếc xe Renault 4 ngựa cũ xì của anh luôn đỗ ngay trước cửa
Givral bên phía đường Lê Lợi. Thường bao giờ cũng có một hai nhà báo
nước ngoài “đeo” theo anh với hi vọng hiểu thêm tình hình chính trị và
quân sự đang diễn ra tại miền Nam. Anh luôn phân tích tình hình một cách
sắc sảo. Dĩ nhiên những điều anh “xì” ra đều có chủ đích. Lúc đó tôi
hoàn toàn không nghĩ rằng anh là người của cộng sản. Thực tế anh có rất
nhiều bạn bè là tay chân thân thiết của Hoàng Đức Nhã, cố vấn của Thiệu,
thường xuyên đến Givral, uống cà phê với anh. Các vị tai to mặt lớn của
chế độ đều liên lạc mật thiết với anh, trong đó người nổi tiếng nhất là
bác sĩ Trần Kim Tuyến, đứng đầu ngành tình báo của chế độ Ngô Đình
Diệm.
Tôi cũng nằm trong số người thường uống cà phê với anh Phạm
Xuân Ẩn tại Givral vì Hạ nghị viện (hiện nay là Nhà hát thành phố) nằm
bên kia đường đối diện với Givral. Khi Hạ nghị viện bàn về những đề tài
chán phèo, những đạo luật không quan trọng thì tôi (và nhiều dân biểu
khác) bỏ sang Givral. Ngoài ra trong một số trường hợp báo chí Mỹ phỏng
vấn tôi, họ cũng nhờ anh Ẩn dịch (lúc đó tôi sử dụng chủ yếu tiếng
Pháp). Anh Ẩn thông dịch rất chính xác, không thiếu mà cũng không dài
dòng, rất chậm rãi, dễ theo dõi.
Anh Ẩn nhận lời mời của ông Minh
nhờ anh thông dịch trong buổi tiếp chủ bút báo Washington Port . Ngoài
ông Minh và Ben Bradley, chỉ có tôi và anh Ẩn có mặt. Chính trong buổi
phỏng vấn này của báo Washington Post , ông Minh đã kể cho nhà báo kỳ
cựu Bradley biết đề nghị của đại sứ Bunker đưa cho ông một triệu đô la
nếu ông ra ứng cử. Và người ta không ngạc nhiên khi sau đó tin này được
báo Washington Post tung ra, gây xì-can-đan trong chính trường và dư
luận Mỹ.
Sau năm 1975, tôi gặp lại anh Phạm Xuân Ẩn nhiều lần, khi
đi ăn sáng, khi đi ăn trưa, thường có mặt anh Ngô Công Đức. Tôi vẫn gặp
một Phạm Xuân Ẩn của hơn 30 năm về trước, hoàn toàn không thay đổi về
mặt con người: vẫn vui tính, kể chuyện phong phú và duyên dáng, pha trộn
giọng “móc lò” và hài hước của người Nam Bộ chính cống. Anh luôn tạo
cho người tiếp xúc với anh sự thoải mái và tự nhiên. Nói chuyện với anh,
tôi quên hẳn anh là một vị tướng cộng sản tình báo nổi tiếng trên thế
giới. Một nhà báo nước ngoài đã phong cho anh danh hiệu “nhà tình báo dễ
thương nhất” (l’espion le plus aimable) mà tôi vẫn nghĩ danh xưng này
rất xứng đáng được làm tựa cho một bộ phim tình báo hấp dẫn.
…
Trước khi rút lui, ông Dương Văn Minh đã tổ chức họp báo và ra một tuyên
bố bằng ba thứ tiếng – Việt, Anh, Pháp – nói rõ lý do rút tên và tố cáo
cuộc bầu cử không đảm bảo công bằng và dân chủ. Một đòn khá đau cho chế
độ Thiệu và Washington. Trong cuộc họp báo này, lần đầu tiên báo chí
trong và ngoài nước được nhìn thấy đầy đủ các nhân vật hình thành ê kíp
làm việc (staff) của ông Minh. Họ ngồi sau lưng ông đông đủ. Tôi nhớ có
nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, giáo sư Lý Chánh Trung, bác sĩ dân biểu Hồ Văn Minh,
luật sư Trần Ngọc Liễng, nghị sĩ Hồng Sơn Đông, các dân biểu Hồ Ngọc
Nhuận, Dương Văn Ba, Nguyễn Hữu Chung và tôi…
Cuối cùng thì ông
Dương Văn Minh rút tên ứng cử nhưng bộ máy tranh cử được tổ chức trước
đó vẫn được giữ nguyên và duy trì cho đến ngày 30-4-1975! Ê kíp Dương
Văn Minh không là một tập hợp có tính chất đảng phái nhưng tự nó trở
thành một nhóm áp lực chính trị làm điên đầu chính phủ Thiệu. Trước các
vấn đề nhân quyền, dân chủ, hòa bình làm người dân bức xúc, nhóm Dương
Văn Minh đều lên tiếng bày tỏ thái độ. Và như thế, nhóm Dương Văn Minh
được báo chí trong và ngoài nước coi như một tiếng nói đối lập chính yếu
tại miền Nam.
Trong khi chuẩn bị cuộc vận động cho liên danh Dương
Văn Minh, với tư cách đại diện báo chí cho liên danh này, tôi đã tiếp
cận với Phật giáo Ấn Quang tìm sự ủng hộ của lực lượng Phật giáo có hậu
thuẫn quần chúng lớn nhất. Tôi không nhớ rõ tôi tiếp xúc với thượng tọa
Thích Trí Quang lần đầu nhân cơ hội nào. Rất có thể do tôi tham gia vào
Lực lượng hòa giải dân tộc do luật sư Vũ Văn Mẫu đứng đầu có mối quan hệ
chặt chẽ với chùa Ấn Quang. Lực lượng này còn có nghị sĩ Bùi Tường
Huân, cư sĩ Võ Đình Cường… tham gia. Hình như dân biểu đơn vị Huế là
Trần Ngọc Giao cũng có giới thiệu tôi với thượng tọa Thích Trí Quang lúc
này đang ở tại chùa Ấn Quang.
Đến chùa Ấn Quang, dọc theo hành
lang dẫn vào phòng riêng của thượng tọa Trí Quang ở lầu một thuộc dãy
nhà nằm sát bên trái của ngôi chùa, luôn luôn có ít nhất hai hay ba cảnh
sát chìm theo dõi những người đến thăm viếng thượng tọa Trí Quang. Lần
đầu tôi gặp “Người làm rung chuyển nước Mỹ” – báo Newsweek đã gọi
thượng tọa Thích Trí Quang như thế trên trang bìa một số báo thời Phật
giáo đối đầu chế độ Ngô Đình Diệm – trong một căn phòng riêng của thượng
tọa nhỏ hẹp, trang trí rất đơn sơ. Tôi đã đối diện một người giản dị và
rất bình thường, nhưng khi đã tiếp xúc thì con người ấy toát lên một
thứ thần sắc khác thường. Ánh mắt như sao băng, chiếu thẳng vào người
đối thoại như nhìn thấu những suy nghĩ của họ. Tôi nhớ mãi ấn tượng đầu
tiên ấy khi lần đầu gặp nhà tu nổi danh.
Tôi không theo đạo Phật
hay bất cứ một tôn giáo nào, chỉ thờ cúng tổ tiên, nhưng mẹ tôi thỉnh
thoảng đi chùa. Tôi không hiểu nhiều về đạo Phật nhưng trong chốn tôn
nghiêm của chùa chiền mà tôi đặt chân đến bao giờ cũng gây cho tôi sự
xúc động. Tôi tin tưởng rằng tôn giáo chân chính nâng tâm hồn con người,
đặt con người ở một trách nhiệm cao hơn đối với đồng loại.
Nhưng
mỗi lần gặp thượng tọa Trí Quang, hầu như chẳng bao giờ tôi nói chuyện
tôn giáo, mà thích tượng tọa cũng thế. Có lẽ nhà tu đoán rằng tôi không
thạo và cũng không thiết tha lắm đề tài này. Chúng tôi chủ yếu bàn về
tình hình đất nước, cuộc chiến tranh chưa thấy lối thoát. Có một lần tôi
đến thăm thượng tọa, cánh cửa kính khóa bên trong, tôi nhìn thấy nhà tu
đang lạy trước bàn thờ Phật đặt trong một góc phòng. Tôi chờ suốt 15
phút, bên trong phòng thượng tọa Trí Quang vẫn tiếp tục quỳ xuống đứng
lên, tôi đếm đến gần cả trăm lần. Khi thượng tọa bước ra mở cửa mời tôi
vào, tôi tò mò hỏi ông mỗi lần lạy Phật như thế thì lạy bao nhiêu lần.
Thượng tọa Trí Quang thản nhiên trả lời tôi: “Lạy Phật nhưng đồng thời
cũng để giữ gìn sức khỏe”. Thượng tọa Trí Quang cho rằng chế độ Thiệu
không đại diện người dân miền Nam, cần có một chính phủ biết cách chấm
dứt chiến tranh và mang lại hòa bình. Khi tôi đề cập với thượng tọa về
giải pháp Dương Văn Minh, thượng tọa không hào hứng lắm nhưng cũng không
bác bỏ. Thượng tọa đưa ra nhận định: “Bây giờ cần một người cầm cờ, ông
ấy có thể làm được chuyện đó trong lúc này”. Sau đó thượng tọa gián
tiếp bình luận: tướng Dương Văn Minh không phải là người làm chính trị
có bản lĩnh.
Để tiếp tay cho cuộc vận động giải pháp Dương Văn
Minh, thượng tọa Trí Quang sẵn sàng giúp tôi thực hiện một chuyến ra Huế
gặp một số vị cao tăng đang lãnh đạo phong trào Phật giáo đấu tranh.
Đặc biệt thượng tọa viết một thư tay cho tôi cầm theo ra Huế để được Đức
Thăng thống Thích Tịnh Khiết tiếp tại chùa Bảo Quốc. Chùa Bảo Quốc nằm
trên một ngọn đồi yên tịnh, xa thành phố, về hướng các lăng. Đường từ
ngoài cổng vào đến chùa, đi lên một ngọn đồi khoảng 300m. Vào đến chùa,
người hướng dẫn đưa tôi gặp Đức Tăng thống đang ngồi im lặng trên một bộ
ván đặt ngoài hiên chùa. Đức Tăng thống đang ăn sáng – tay cầm một mẩu
bánh mì, ly sữa để ở bên cạnh – thỉnh thoảng Hòa thượng rứt ruột bánh mì
ra từng miếng nhỏ ném cho các con chim đang nhảy nhót quanh ngài. Nhiều
con ăn trong lòng bàn tay hòa thượng, một hai con thản nhiên đậu trên
vai ngài. Tôi tưởng như mình lạc bước nơi cõi tiên.
Trong chùa Bảo
Quốc chỉ treo một bức ảnh chân dung duy nhất trên tường. Đó là chân dung
của thượng tọa Trí Quang. Như thế đủ thấy ảnh hưởng của thầy Trí Quang
với người lãnh đạo tinh thần cao nhất Giáo hội Phật giáo là như thế nào.
Khi Đức Tăng thống đọc thư của thầy Trí Quang giới thiệu tôi, rõ ràng
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết tỏ ra ân cần và thiện cảm ngay. Nên sau đó
Hòa thượng không từ chối lời đề nghị của tôi xin phép được chụp chung
một bức ảnh với ngài tại sân sau của chùa.
Trong chuyến ra Huế lần
đó tôi cũng có dịp đến viếng thăm Thượng tọa Thích Huyền Quang, tại chùa
Từ Đàm. Dĩ nhiên cũng với mục đích trình bày với vị lãnh đạo Phật giáo
lập trường hòa bình và chống chế độ Nguyễn Văn Thiệu của nhóm Dương Văn
Minh. Anh Trần Ngọc Giao còn đưa tôi đi gặp một vị tu có uy tín lớn ở
Huế và trong cả Giáo hội Phật giáo, đó là Ôn Trúc Lâm. Đặc điểm các vị
cao tăng này là đều quan tâm đến tình hình đất nước, không tán đồng chế
độ Thiệu, chống triệt để sự hiện diện của người Mỹ ở Việt Nam.
Sau
này khi Hiệp định Paris được ký kết, nghị sĩ Vũ Văn Mẫu cùng nghị sĩ Bùi
Tường Huân, cư sĩ Võ Đình Cương… thành lập một tổ chức chính trị hoạt
động mời tôi cùng tham gia và làm thuyết trình viên của lực lượng.
…Trở
lại cuộc bầu cử tổng thống biến thành cuộc độc diễn, ngày 3-10-1971,
liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Trần Văn Hương đắc cử với 94,3% số phiếu
bầu. Trong nước và cả ngoài nước coi kết quả đó như một trò hề chính
trị. Nhưng cũng chưa bao giờ, Thiệu và tay chân của ông ta tỏ ra hung
hăng như lúc này. Chính quyền Thiệu càng siết chặt sự kiểm soát trong
quân đội, cảnh sát, báo chí và cả trong Quốc hội. Phe đối lập đứng trước
hai sự chọn lựa: để Thiệu xóa sổ hoặc đối đầu để tồn tại. Và họ đã chọn
cách thứ hai. Lúc này nhiều phong trào và tổ chức dưới nhiều hình thức
khác nhau nhưng có chung mục đích chống chiến tranh và chống Thiệu đã
nổi lên. Các cuộc biểu tình, xuống đường chống Thiệu bắt đầu nổ ra gần
như hằng ngày.
CHƯƠNG 14
Giữ lời hứa lúc ra tranh cử quốc hội lập pháp nhiệm kỳ hai, tôi “tẩy
chay” Hạ nghị viện mặc dù đơn từ nhiệm của tôi không được Chủ tịch Hạ
nghị viện chấp nhận. Những ngày tháng đầu tiên của thời kỳ này thật chán
nản đối với tôi. Bỗng chốc nhận ra sự bất lực của hoạt động chính trị
nghị trường và thân phận làm “đối lập kiểng” của mình, tôi cảm nhận mình
không khác gì một con gà bị trụi lông, chẳng còn cái lớp ngoài để che
giấu đi cái thực trạng đáng tội nghiệp của mình.
Không đi họp Hạ
nghị viện, tôi lại ra báo: thuê manchette tờ Bút Thần của anh Nguyễn
Văn Phương tiếp tục làm sau khi gián đoạn với tờ Điện Tín .
Từ
1971, sau khi Nguyễn Văn Thiệu tái cử trong cuộc độc diễn, cho đến tháng
Tư 1975, ngày Mỹ cuốn cờ, là một thời kỳ dài khá u ám nhưng rất sôi
động đối với các thành phần đối lập và các trí thức yêu nước tại miền
Nam. Chính quyền Thiệu tăng cường các biện pháp siết chặt phe đối lập,
đồng thời tiến hành triệt để đàn áp, bắt bớ các phần tử bị coi là thân
Cộng. Diễn đàn quốc hội, nằm trong tay phe Thiệu, không còn là nơi hoạt
động có ảnh hưởng của những tiếng nói chống chế độ. Còn báo chí bị chi
phối bởi một đạo luật mới được phe của Thiệu biểu quyết – luật 007 – vô
hiệu hóa hầu hết báo chí đối lập, vì không có tiền đóng ký quỹ để tiếp
tục xuất bản nên năm 1972 chỉ còn là mảnh đất riêng dành cho báo chí của
Thiệu và thân Thiệu. Trong tình hình bế tắc ấy, các thành phần chống
Thiệu không còn sự lựa chọn nào khác là phản đối chính quyền Thiệu bằng
cách xuống đường biểu tình, làm báo lậu, tổ chức báo nói v.v…
Những
người tích cực nhất thúc đẩy các hoạt động chống chế độ Thiệu trên
đường phố phải kể đến: lực lượng Phật giáo Ấn Quang, phong trào học sinh
sinh viên tiến bộ và các cá nhân như bà Ngô Bá Thành, ni sư Huỳnh Liên,
các dân biểu đối lập trong đó người hăng hái nhất và cũng có óc tổ chức
liều lĩnh nhất là anh Hồ Ngọc Nhuận. Tôi không vào Hạ nghị viện họp nữa
và mỗi khi các đồng viện của mình tổ chức xuống đường, tổ chức báo nói
v.v.. tôi không bao giờ vắng mặt. Trước mỗi cuộc xuống đường, không thể
nào không nghĩ đến sự ác liệt của những trận tấn công lựu đạn cay, dùi
cui, những cú đánh lèn tàn bạo của cảnh sát rằn ri và cảnh sát chìm…
đang chờ đợi mình. Nhưng rồi đúng hẹn mọi người đều có mặt. Khi hai phía
– những người biểu tình và cảnh sát chống biểu tình – xáp vào nhau thì
tức khắc những suy nghĩ do dự ban đầu đều biến mất, không khác tâm lý
của các chiến binh ngoài mặt trận sau khi súng đã nổ. Thật sự không phải
bao giờ cảnh sát cũng hăng hái ra tay đàn áp những người biểu tình khi
mà đa số là trí thức tay không, là phụ nữ, người tu hành, học sinh sinh
viên ở tuổi con em của họ. Do đó các tay chỉ huy cảnh sát ác ôn phải
nghĩ ra những đòn ma giác để biến các nhân viên cảnh sát bình thường
thành những “con thú dữ”: họ cho những tên cảnh sát chìm (mặc thường
phục) len lỏi vào đám đông biểu tình, rồi từ đây chúng ném đá và các vật
cứng khác có thể gây thương tích về phía lực lượng cảnh sát đang dàn ra
để ngăn chặn biểu tình. Thế là lực lượng cảnh sát điên lên vì cho rằng
những người biểu tình đã tấn công họ, họ bắt đầu phản ứng lại và đàn áp
không còn nương tay. Trong sự hỗn loạn này, nguy hiểm nhất cho những
người tham gia biểu tình là sự can thiệp của bọn cảnh sát chìm. Chúng
tấn công từ phía sau đầy bất ngờ, với gậy gộc và những khúc gỗ dài có
đóng đinh nhọn ở đầu. Cảnh sát sắc phục dù sao vẫn còn e ngại những hành
động quá tay của mình có thể bị báo chí nước ngoài chụp ảnh, lên án làm
ảnh hưởng xấu chế độ. Còn cảnh sát chìm nếu có quá tay thì được chính
quyền đổ thừa cho sự bộc phát của “quần chúng” chống lại các phần tử
thiên cộng (!).
Sau khi liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Trần Văn Hương
trúng cử trong cuộc bầu cử độc diễn, cuộc biểu tình phản đối đầu tiên
được tổ chức mấy ngày sau đó với sự kết hợp giữa các dân biểu đối lập và
các tổ chức quần chùng như “Phụ nữ đòi quyền sống” của bà Ngô Bá Thành,
Lực lượng Hòa giải Dân tộc của Phật giáo Ấn Quang. Đoàn biểu tình tập
hợp tại cao ốc nằm bên cạnh trụ sở Hạ nghị viện, phía sau khách sạn
Caravelle. Cao ốc này được dùng làm văn phòng cho ác Ủy ban chuyên môn
của Hạ nghị viện. Sáng sớm, khoảng 7 giờ, tôi có mặt ở điểm hẹn này. Tôi
đoán trước chính quyền Thiệu sẽ đàn áp không nương tay. Để ngăn ngừa
mọi toan tính phủ nhận kết quả cuộc bầu cử và các biểu lộ khác có thể
phá vỡ uy tín bốn năm cầm quyến sắp tới của mình, Nguyễn Văn Thiệu sử
dụng triệt để quân đội và cảnh sát để duy trì quyền lực. Biết như thế
nhưng tất cả những gương mặt dân biểu đối lập chính quyền đều có mặt: Hồ
Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Nguyễn Hữu Chung, Hồ Văn Minh, Phan Xuân Huy,
Kiều Mộng Thu, Dương Văn Ba, Vũ Văn Mẫu, Bùi Chánh Thời, Võ Đình Cường.
Ngoài ra còn có bà Ngô Bá Thành, chị Trần Thị Lan v.v…
Nhóm biểu
tình đông khoảng từ 40 đến 50 người với những biểu ngữ tố cáo cuộc bầu
cử gian lận, phủ nhận sự trúng cử của liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Trần
Văn Hương v.v… tiến từ bên hông khách sạn Caravelle sang mặt trước của
Hạ nghị viện. Vừa đến khoảng trống trước Hạ nghị viện, nơi dành cho các
dân biểu đậu ô tô, tôi nhìn thấy ngay phía bên kia đường Tự Do (bây giờ
là đường Đồng Khởi), dọc theo công viên, cảnh sát dã chiến xếp “dàn
chào” sẵn đó từ lúc nào. Họ giăng hàng ngang, súng phóng phi tiễn hướng
thẳng qua tiền đình Hạ nghị viện, nơi nhóm biểu tình sắp sửa tiến về
hướng ra chợ Sài Gòn. Tôi vẫn nhớ cái cảnh đầy đe dọa ấy: cảnh sát dã
chiến trong tư thế sẵn sàng nổ súng, một đầu gối chịu xuống đất, súng
đưa lên tầm ngắm với túi đạn phi tiễn đeo bên người, phía sau là bức
tượng khổng lồ đen xì của hai Thủy quân lục chiến dùng chĩa súng M16 về
phía tòa nhà lập pháp (tượng này đã bị quần chúng giật sập sau ngày
30-4-1975). Thoạt đầu, tôi không nghĩ cảnh sát dã chiến dám nổ súng.
Nhưng
lệnh được một tên chỉ huy nào đó phát ra và súng nổ. Các quả phi tiễn
được bắn thẳng về phía đám biểu tình, xé toạc các biểu ngữ và làm vỡ
kính cửa chính của tòa nhà Hạ nghị viện. Anh em dân biểu lúc đó mới nhận
ra rằng nếu lãnh một quả phi tiễn vào người thì cũng khó sống. Thế là
mọi người phải chạy tản ra tránh đạn. Tôi chạy dạt ra hướng bên phải sân
trước Hạ nghị viện, nép mình phía say mấy chiếc ô tô đậu tại đây. Đúng
lúc đó một quả phi tiễn bay thẳng đến tôi. Tôi chỉ kịp nghiêng người để
không phải lãnh trọng quả đạn. Nó trúng sớt vào bả vai tôi. Phản xạ tự
nhiên của tôi lúc ấy là ngả người xuống đất, phía sau một chiếc ô tô.
Nhưng tôi chợt nghĩ chúng có thể tiếp tục bắn phi tiễn về hướng tôi và
một trong những quả đó mà bắn trúng bình xăng ô tô thì khó tránh tai
họa. Tôi liền cố gắng đứng lên, nhắm hướng khách sạn Continental bên kia
đường mà chạy a vào. Hai mắt tôi sưng lên, nhức nhồi vì hơi cay. Những
người phục vụ trong nhà hàng Continental xếp sẵn khăn ướp lạnh và chanh
cắt lát trên những cái mâm tặng miễn phí cho những người biểu tình vào
lánh nạn. Chanh rất hiệu quả để hóa giải hơi cay ở mắt.
Trong khi
tôi đã vào sân bên trong Continental – khu vườn dành cho khách nước
ngoài ăn sáng và uống cà phê – thì anh Ngô Công Đức vẫn còn ở bên ngoài.
Anh nhặt các quả phi tiễn còn xì hơi cay, ném lại về phía cảnh sát. Anh
chạy díc dắc trên đường Tự Do, len vào khu Passage Eden (Thương xá
Eden), vừa chạy vừa “chọc giận” bọn cảnh sát dã chiến để chúng bắn theo.
Đây là cuộc biểu tình cuối cùng anh Đức có mặt. Vì không tái cử ở đơn
vị bầu cử Trà Vinh và có thể bị chính quyền Thiệu bắt như anh Trần Ngọc
Châu, nên anh quyết định vượt biên qua Campuchia, sang Thụy Điển định cư
cho đến ngày 29-4-1975. Anh Phạm Xuân Ẩn là người đã khuyên anh Đức nên
rời đất nước vì có khả năng – theo đánh giá của Ẩn – phe Thiệu sẽ “mần
thịt” anh.
Trở lại cuộc biểu tình trước Hạ nghị viện, lúc này anh
Hồ Ngọc Nhuận đang hộ tống bà Ngô Bá Thành và chị Trần Thị Lan. Cảnh sát
chìm đang tìm cách bắt hai phụ nữ này bởi họ không được hưởng quyền bất
khả xâm phạm như các dân biểu. Anh Nhuận cũng đoán biết nguy cơ đang
chờ đợi họ, nên đưa hai chị vào lánh mặt trong khu vườn của khách sạn
Continental, nơi có nhiều nhà báo nước ngoài tụ tập. Anh hi vọng với sự
có mặt của giới báo chí, bọn cảnh sát chìm sẽ không dám ra tay. Nhưng
không lâu, chúng đánh hơi và bắt đầu siết vòng vây chung quanh khu vực
hai người phụ nữ lẩn trốn, bất kể sự có mặt của các nhà báo nước ngoài.
Anh Nhuận phải tính giải pháp khác: tìm cách đưa bà Thành và chị Lan vào
bên trong Hạ nghị viện, họa may tại đây cảnh sát mới chịu bó tay. Nhưng
khi anh Nhuận vừa đưa hai người băng qua đường, hướng về phía Hạ nghị
viện, thì tức thời một chiếc xe Jeep ập tới, kèm theo là một trận mưa
lựu đạn cay khiến anh Nhuận chẳng nhìn thấy gì. Khi anh bình tĩnh lại
thì bọn cảnh sát đã ném hai chị lên xe Jeep và chở đi rồi.
Theo tôi
thì các nhân vật trí thức miền Nam gan lì, có sức chịu đựng gần như phi
thường trước sự đàn áp của nhà tù chế độ Sài Gòn trước 1975 thì không
ai bằng bà Ngô Bá Thành. Ở tù bà vẫn tiếp tục hoạt động chống chính
quyền. Hàng ngày bà vẫn làm báo nói trong xà lim bằng ba thứ tiếng:
Việt, Anh, Pháp. Đúng giờ là giọng bà vang lên, đọc tin tức và bình luận
chính trị, bất kể sự đàn áp của các cai ngục. Để làm im tiếng người phụ
nữ này, chúng ném vôi vào xà lim, rồi tạt nước vào. Nhưng với bà Thành
vẫn chẳng ăn thua gì. Kể cả khi bà bị đưa ra tòa án quân sự ở bến Bạch
Đằng (nay là đường Tôn Đức Thắng), người biện hộ cho bà là luật sư Vũ
Văn Mẫu, lúc ấy đang là nghị sĩ Thượng nghị viện cũng không lay chuyển
thái độ chính trị của bà. Trong các nhân chứng mà luật sư yêu cầu có mặt
tại tòa có tôi và anh Hồ Ngọc Nhuận. Thế là tôi có dịp chứng kiến tận
mắt bà Thành đấu tranh với tòa án của Thiệu như thế nào. Vốn trước đây
bà có bệnh suyễn, nên bà nhất quyết từ chối ra tòa như một người bình
thường. Bà yêu cầu bác sĩ riêng của bà có mặt và bà xuất hiện trước tòa
trên cái băng ca. Tòa vừa bắt đầu làm thủ tục thì cơn xuyễn- thật hư
không rõ cũng bắt đầu tấn công bà. Rồi cơn đau tim dữ dội như sắp sửa
cướp đi mạng sống của bà khiến bác sĩ cuống cuồng lên, yêu cầu tòa phải
ngừng ngay phiên xử. Dĩ nhiên luật sư Vũ Văn Mẫu tuyên bố thân chủ của
ông không thể dự phiên tòa trong tình trạng sức khỏe như thế này và yêu
cầu tòa dời một ngày khác khi thân chủ ông có đủ điều kiện sức khỏe.
Trong
giai đoạn này bà có nhiều hình thức đấu tranh rất độc đáo và kiên
cường. Trước khi bị bắt, bà Thành đã từng dùng nhà mình để họp báo quốc
tế, trưng bày tài liệu, hình ảnh chống chính quyền.
…Khi luật sư
Ngô Bá Thành chưa bị bắt, người ôm sách và tài liệu của chị em phổ biến
cho báo chí nước ngoài và cho bạn bè, không ai khác hơn chính là cô con
gái của chị (tên Thiện) giỏi cả hai sinh ngữ Pháp và Anh. Đến khi chị
Thành bị bắt cầm tù, cô con gái của chị vẫn tiếp tục làm người liên lạc
và phân phát tài liệu của chị một cách tích cực và gan lì. Một mình hai
mẹ con bà Thành cũng góp phần làm rung chuyển chế độ Thiệu.
Cũng
cần nhắc lại, sau khi Hiệp định Paris được các bên ký, bà Ngô Bá Thành
chính thức tự nhận mình là “nhân viên dân sự Thực thể Chính trị thứ ba”.
Tại cuộc tiếp tân do dân biểu Kiều Mộng Thu tổ chức tại nhà hàng
Continental ngày 8-10-1973 “để mừng ngày trở về đời sống tự do của bà
Ngô Bá Thành”, bà Thành đã choàng qua người một dải băng xanh thêu chữ
trắng “Thực thể chính trị thứ ba” và phía sau lưng có ghi “Phong trào
phụ nữ Việt Nam Đòi Quyền Sống”. Tôi có mặt trong cuộc tiếp tân này cùng
luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Lý Chánh Trung, cụ Đặng Văn Ký, linh
mục Phan Khắc Từ, linh mục Nguyễn Ngọc Lan, các dân biểu Hồ Ngọc Nhuận,
Phan Xuân Huy, Trần Văn Tuyên, Ni sư Huỳnh Liên, Hòa thượng Thích Pháp
Lan, giáo sư Nguyễn Văn Trung v.v…
Sau khi đất nước thống nhất, năm
1991, tôi tổ chức cuộc triển lãm tranh sơn dầu cá nhân tại Gallerie
Tràng Tiền Hà Nội. Một trong những người khách khá bất ngờ của cuộc
triển lãm chính là bà Ngô Bá Thành, lúc bấy giờ là đại biểu Quốc hội của
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chúng tôi vui mừng gặp lại
nhau. Sau bao nhiêu thăng trầm tại mảnh đất Sài Gòn đầy biến động và
trắc trở, có lúc tưởng rằng thế hệ mình mãi mãi không bao giờ được nhìn
thấy đất nước thống nhất thế mà nay có dịp hội tụ ngay tại thủ đô đất
nước, quả thật với tôi không khác một giấc mơ. Sau đó chị Thành dành cho
tôi thêm một bất ngờ khác: chị quyết định mua một bức tranh của tôi là
bức “Bến Cảng Nhà Rồng” theo phong cách “bán trừu tượng”, giá 500 USD.
Chị nói: “Tôi có hai lý do mua tranh của anh: Thứ nhất vì tôi muốn ủng
hộ một trí thức Sài Gòn, thứ hai tiền này tôi có được do dịch một quyển
sách luật của Việt Nam ra tiếng Mỹ chứ bình thường làm gì tôi có đô la
để mua tranh”. Năm sau tôi trở ra Hà Nội được chị mời dùng cơm tại nhà
riêng. Tự chị làm bếp. Trong phòng khách chật hẹp, bức tranh của tôi
chiếm một vị trí trang trọng.
Tuy hoạt động tại Sài Gòn, nhưng sau
khi đất nước thống nhất, chị Thành sống luôn tại Hà Nội. Chị yêu Hà Nội
và thích hợp với đời sống chính trị ở thủ đô.
Trở lại với các hình
thức đấu tranh đa dạng của người Sài Gòn chống chế độ Thiệu trước 1975
không thể không nhắc đến một hình thức rất độc đáo: xuống đường làm báo
nói. Ai có sáng kiến đầu tiên về hình thức đấu tranh này: dân biểu Hồ
Ngọc Nhuận hay linh mục Nguyễn Ngọc Lan? Hoặc cả hai kể rằng anh đã lấy
sáng kiến từ những chiếc xe bán dạo “mì Ba Con Cua” (một loại mì ăn
liền).
Tôi xin kể chuyến đi làm “báo nói” ở Mỹ Tho và Cần Thơ gồm
chị Kiều Mộng Thu, nhà thơ nhà báo Cung Văn, nhà báo trẻ Mỹ John
Spragens, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận…
Thời điểm diễn ra các cuộc “báo
nói” là sau khi ông Thiệu tái cử tổng thống trong cuộc bầu cử độc diễn,
Hội nghị Paris đã có sự thương lượng tích cực giữa phái đoàn Hà Nội và
Washingtonn. Sáng sớm, chúng tôi hẹn nhau ở một địa điểm bí mật để xuất
phát. Tôi nhớ, ngoài chúng tôi còn có anh Triệu Quốc Mạnh (lúc đó đang
là chánh biện lý tòa án Gia Định của chế độ Sài Gòn), Kỳ Nhân (phóng
viên ảnh tự do, nhưng kỳ thật là một phóng viên Việt cộng!) và hai linh
mục Nguyễn Ngọc Lan và Chân Tín. Lúc xuất phát, hai linh mục cải trang
người thường để tránh con mắt theo dõi của cảnh sát chìm. Nhưng chiếc ô
tô của anh Nhuận, chở cả đoàn, trực chỉ miền Tây, sắp đến tỉnh Mỹ Tho
thì đột ngột dừng lại một căn nhà xưa nằm sát quốc lộ (hình như thuộc
làng Tân Hội Tây) là nhà của cha mẹ anh Nhuận. Tại đây hai linh mục Lan
và Chân Tín mặc trở vào chiếc áo linh mục của mình. Trong chiến lược đối
phó với lực lượng cảnh sát ở tỉnh, hai vị tính toán rằng cảnh sát sẽ
lúng túng trước các linh mục. Mà thật thế, đối diện với các linh mục mặc
áo đen, cảnh sát tại Mỹ Tho tỏ ra lúng túng thật sự.
Chiếc xe đến
Mỹ Tho vào lúc 9 giờ sáng, bấy giờ chợ Mỹ Tho vẫn còn buôn bán đông đúc.
Chiếc xe đậu ngay ở đầu chợ. Mọi người nhảy xuống xe trong chớp mắt.
Máy phát điện hoạt động cấp kỳ, loa phóng thanh hướng về phía chợ. Tôi
là người xung phong “phát thanh” trước. Trong khi tôi báo cáo, đồng bào
tụ lại càng lúc càng đông. Tôi nói về những tin tức trong nước và thế
giới bị chính quyền Thiệu bưng bít và sau đó là bình luận về tình hình
hội đàm Paris, kêu gọi đồng bào cùng tham gia đấu tranh cho hòa bình,
còn các thành viên khác trong đoàn làm công việc phát truyền đơn cho
đồng bào. Cảnh sát Mỹ Tho quá bất ngờ không kịp phản ứng ngay. Chúng tôi
“phát thanh” được hơn 10 phút thì cảnh sát mới rầm rộ kéo đến. Hôm đó
là một sáng chủ nhất, trưởng ty cảnh sát Mỹ Tho là trung tá Đỗ Kiến Nâu
(em của đại tá Đỗ Kiến Nhiễu, đô trưởng Sài Gòn) về Sài Gòn thăm gia
đình nên cảnh sát Mỹ Tho như rắn không đầu, chẳng biết phải đối phó ra
sao với nhóm “báo nói” gồm cả linh mục. Có nên mạnh tay đàn áp không?
Hay chỉ cần cô lập họ với đồng bào? Cuối cùng thì đám cảnh sát chọn giải
pháp thứ hai. Mặt khác họ cũng lúng túng tới sự hiện diện của một nhân
vật không biết là “ta hay địch”: ông ta đứng tách ra khỏi nhóm đang
“phát thanh” và phát truyền đơn, thỉnh thoảng quay lại phía cảnh sát
(đang vây thành vòng tròn chung quanh chiếc xe) đưa tay ra hiệu như chỉ
đạo họ: “Anh em cứ đứng yên xem sao”. Người đó chính là biện lý Triệu
Quốc Mạnh, người có thẩm quyền đích thực chỉ đạo cảnh sát, nhưng thực ra
đang đứng về phía những người hoạt động chống chính quyền! Ông có thể
bị cách chức như chơi. Mãi sau này khi cuộc chiến hạ màn, người ta mới
biết ông tránh biện lý tòa Gia Định đó là một đảng viên cộng sản!
Khi
cảnh sát còn đang chờ chỉ thị từ cấp trên thì chúng tôi đã nhảy lên xe
rút đi hướng ngã ba Trung Lương. Trên đường đi lại tiếp tục rải truyền
đơn. Nhưng đến nga ba Trung Lương, ô tô không chạy thẳng vào Sài Gòn mà
rẽ trái, tiếp tục đi xuống miền Tây. Ý định của chúng tôi là đến Cần Thơ
gây một cuộc nữa.
Vì trời sắp tối lại phải qua hai cái phà bắc Cần
Thơ và Mỹ Thuận mới về đến Sài Gòn mà đi đêm cũng không biết chuyện gì
xảy ra (Cảnh sát làm gì đó chúng tôi rồi đổ thừa cho Việt cộng thì sao?)
cho nên đoàn báo nói quyết định ngủ lại ở Cần Thơ. Sáng hôm sau, ăn
sáng xong mới lên xe trở về Sài Gòn. Khi chúng tôi rời Tây Đô, cảnh sát
“đưa tiễn” rầm rộ như đưa tiễn đoàn nguyên thủ quốc gia. Xe cảnh sát
chạy trước chạy sau hú còi inh ỏi. Họ đưa chúng tôi đến bắc Cần Thơ, thở
phào nhẹ nhõm khi thấy ô tô của chúng tôi đã lên phà. Cảnh sát Cần Thơ
coi mình đã làm xong phận sự. Bên kia bờ thuộc trách nhiệm của cảnh sát
Vĩnh Long. Tâm trạng của tôi lúc đó là coi như “thua cuộc” ở Cần Thơ.
Quang cảnh trên phà thật rộn rịp với mấy trăm con người là hành khách
của bốn chiếc xe đò và hai xe du lịch, chưa kể chiếc của chúng tôi. Nhìn
số người đông đúc ấy, trong đầu tôi lóe lên một ý nghĩ: đây một nơi lý
tưởng để làm “báo nói”. Tôi liền bàn với anh Nhuận và linh mục Lan. Hai
anh tán đồng. Thế là máy phát điện lại nổ trước sự ngơ ngác của hành
khách trên phà. Tôi cầm ngay mi-crô, nhảy lên đứng trên đầu xe và bắt
đầu nói chuyện với bà con về tình hình đất nước, về hội đàm Paris v.v…
Các thành viên khác trong đoàn lại phát truyền đơn bươm bướm. Cảnh sát
trên bờ Cần Thơ bắt đầu đoán được chuyện gì xảy ra trên phà, nhưng đã
quá trễ để ra lệnh phà quay trở lại.
Khi phà sắp đến bờ bên kia,
chúng tôi dẹp tất cả đồ nghề. Cảnh sát ở hai bên bờ chắc chắn có liên
lạc vô tuyến với nhau, cho nên xuống phà chúng tôi lại được “đón” rất
long trọng. Lại cái cảnh xe cảnh sát chạy trước chạy sau xe chúng tôi,
còi hụ inh ỏi. Nhưng đến Bắc Mỹ Thuận, các xe cảnh sát lại dừng ở bờ bên
này, cũng coi như mình đã làm xong phận sự. Phà rời bến được một khoảng
cách an toàn, nghĩa là không thể ra lệnh quay lại bờ, đoàn báo nói của
chúng tôi lại hoạt động. Chuyến đi đó được phóng viên nhiếp ảnh Kỳ Nhân
ghi lại hình ảnh đầy đủ. Không biết sau này anh có giữ được hình ảnh đó
hay không?
Cũng trong chuyến đi này tôi có một phát hiện: đồng
nghiệp và là người bạn của tôi, nhà báo – nhà thơ Cung Văn đúng là có
quan hệ với cộng sản. Trên đường đi, khi anh Nhuận lái xe, tôi ngồi phía
sau với Cung Văn. Anh đã đọc bài thơ “Thăm lúa” của nhà thờ Trần Hữu
Thung cho tôi nghe. Đọc xong bằng cái giọng Đà Nẵng quen thuộc, anh nói
thêm: “Bài này đoạt giải thưởng Vacxava”. Trước đây khi tôi nói với anh
Cung Văn rằng các bài “Văn tế sống” của anh trên báo Điện Tín chắc là
do “ở trỏng” đưa ra cho anh, tôi chỉ nói đùa, nhưng đồng thời cũng muốn
ngầm nói với anh rằng tôi hiểu “khuynh hướng chính trị” của anh. Nhưng
sau chuyến đi làm báo nói đó thì tôi quả quyết Cung Văn là người có quan
hệ “ở trỏng” thật!
Kiểu xuống đường làm “báo nói” – như chuyến đi
Mỹ Tho và Cần Thơ ấy – thời gian sau khi Hiệp Định Paris đã ký kết chúng
tôi mang tận ra Huế để “diễn” rất thành công ngay tại chợ Đông Ba.
Hồi ký mội người bên kia chiến tuyến ở Sài Gòn - Phần 2
Hồi ký mội người bên kia chiến tuyến ở Sài Gòn - Phần 2
1 nhận xét:
Đọc hồi ký của Lý Quí Chung có nhiều điều tôi đồng cảm và thấy rỏ một điều: TỘI CHO THẾ HỆ CHÚNG TÔI (sinh 1940-1950). Tôi nhớ nhiều đến câu thơ tôi học lúc còn nhỏ:
....
Bên kia (vĩ tuyến 17) có một mùa thu
Bên này ta cũng có dư lá vàng
Bên kia tan tác xóm làng
Bên này phấn mốc hương tàn khác chi
....
Đó là từ 1954 đến 1975.
Sau 75: cả một thảm trạng, thôi đừng nói thêm đau lòng.
Tiếc rằng anh Lý Quí Chung đã mất...
Nguyễn Khắc Phú
Đăng nhận xét