Đây là cuốn hồi ký của Kim Jin Sun, một cựu chiến binh Hàn quốc đã
tham chiến ở VN trong biên chế sư đoàn Mãnh Hổ. Ông này đã về hưu với
quân hàm Đại tướng. Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, tướng Kim giữ
chức Đại uý, Đại đội trưởng Đại đội 11 trong sư đoàn Mãnh hổ. Tướng Kim
khá được trọng dụng vì "chỉ biết truy tìm và diệt Việt Cộng (VC)" với
biệt danh "tướng cướp rừng xanh". Tuy nhiên qua hồi ký này người đọc sẽ
thấy những gì diễn ra trong cuộc chiến ở Việt Nam đã làm tướng về hưu
Kim Jin Sun phải suy nghĩ và ân hận trong giai đoạn cuối đời. Ông đã
từng quay lại thăm Việt Nam.
Lời nói đầu
Mặc dù mới lập gia đình được 10 tháng, tôi đã phải
tạm biệt vợ, quên đi hai chữ tình yêu để sang Việt Nam. Ở đó tôi đã lùng sục
khắp các hang núi như một con thú, tìm mọi cách để tiêu diệt hoặc bắt toàn bộ
đối phương. Đã có rất nhiều người bị chết bởi những kế hoạch của tôi.
Tại nơi chiến trường chỉ có giết và giết đó, các giá trị đạo đức đối với
chúng tôi cũng bị tan vỡ chẳng khác nào những mảnh đạn pháo. Và dần dần tôi cũng
trở thành một con người không biết gì khác ngoài bắn giết. Sự điên dại trên
chiến trường là điều không thể tưởng tượng được bằng lý trí lúc bình thường.
Tôi không hề cảm thấy bận lòng khi thấy đứa trẻ chăn trâu hay một dân thường
bị chết. Tôi đã truy lùng với một khoái cảm còn hơn cả cảm giác đi săn thú. Tôi
đã ăn uống và chụp ảnh không hề vướng bận ngay bên cạnh những xác chết. Tôi đã
xông vào hầm của đối phương không một phút chần chừ và bóp cò súng không hề run
sợ. Chiến tranh đã qua lâu mà tôi vẫn không thể hiểu nổi tại sao mình lại có thể
hành động như vậy. Tôi đã bắn giết mà không hề quan tâm và cũng không thể hiểu
được bản chất của chiến tranh VN. Tôi không được phép suy nghĩ gì khác ngoài
việc phải giết thật nhiều VC để tồn tại và ngăn chặn CS.
Tôi đã chiến đấu liên tục với một chiếc mũ cao bồi trên đầu. Trong bộ não của
tôi được nhồi đầy những ý nghĩ rằng miền Bắc là nơi những kẻ ác tụ tập. Sau khi
kết thúc cuộc đời binh nghiệp với quân hàm đại tướng, tôi đã có dịp sang thăm Hà
nội. Cái đập vào mắt tôi lúc đó là một sân bay nhỏ bé. Tiếng súng đã tắt 20 năm
rồi..., tại sao một VN như vậy lại có thể thắng được siêu cường số một là nước
Mỹ. Tôi cũng muốn đi tìm lời giải cho những hành động của những người lính giải
phóng mà tôi đã từng gặp và giao chiến. Những người sống và chiến đấu trong hoàn
cảnh mà con người bình thường khó có thể sống nổi, những người lính giải phóng
đã lao thẳng vào căn cứ địch, chỉ với trái lựu đạn; người chiến sĩ giải phóng đã
chống cự gần 8 giờ đồng hồ với một thân hình gần như cụt cả tay chân, không chịu
đầu hàng... lúc đó tôi đã viết vào nhật ký như sau:
“Thật đáng thương cho chiến dịch Tết Mậu Thân của VC. Lúc đó tôi chẳng hiểu
vì cái gì mà họ lại lao vào đội quân hùng mạnh của Mỹ và Hàn quốc như vậy. Thật
đáng thương. Không thể hiểu nổi những người lính VC gầy guộc như một đứa bé,
trên tay chỉ có một khẩu súng cổ lỗ và một trái lựu đạn vì cái gì mà chiến đấu
như vậy”.
Quang cảnh trận Điện Biên Phủ mà tôi được xem ở một bảo tàng Hà nội thật là
cảm động. Và tôi đã hiểu rằng Hồ Chí Minh là một lãnh tụ vĩ đại, một con người
vĩ đại. Người đã dẫn dắt cả dân tộc VN đi theo chân lý “Không có gì quý hơn độc
lập tự do”. ông là một người có nhân cách lớn. Tôi đã bị sốc và vô cùng cảm động
khi thăm địa đạo Củ chi, nơi tượng trưng cho trí tuệ, sự kiên trì và ý chí đấu
tranh của VN. Tôi đã cảm thấy đã tìm được lời giải cho câu hỏi vì sao họ lại
chiến đấu, vì sao họ lại chiến thắng.
Tôi thấy đã đến lúc đưa ra những kết luận cho riêng mình về chiến tranh và
lịch sử của VN. Tôi muốn viết ra đây về bản thân tôi và cuộc chiến tranh mà tôi
đã tham gia. Nếu không, cuốn sách này sẽ không thể hiện được sự ân hận của tôi,
cũng như không đem lại một chút ý nghĩa nào.
Tôi mong các độc giả sẽ đọc cuốn sách này để hiểu thêm về chiến tranh. Mong
các bạn hiểu hơn về đất nước VN nhỏ bé mà kiên cường, hiểu thêm về sự ngạo mạn
của các cường quốc, hiểu cho những ân hận về những tội ác mà tôi và các chiến
hữu đã gây ra ở VN.
PHẦN 1
Ngày 3 tháng 4 năm 1970, đại đội của chúng tôi lùng sục xung quanh con sông
Lư Diên thuộc huyện Phù Cát tỉnh Bình Định. Trách nhiệm của tôi với tư cách là
Đại đội trưởng là không được phép để cho bất cứ một VC nào xuất hiện thuộc khu
vực trách nhiệm chiến thuật của mình. Đại đội đang vượt sông và đi qua khu vực
rừng tre, bỗng có tiếng súng bắn ra từ phía khu rừng vốn rất yên tĩnh. Đó là khu
vực đã có bắn nhau đêm qua, ba VC đã bị chết bởi mìn Clâymo của tổ phục kích của
chúng tôi. Thế mà giờ lại có tiếng súng.
Ngay lập tức đại đội vừa tiếp cận, vừa bắn tập trung vào khu vực phát ra
tiếng súng. Nhưng tiếng súng vẫn tiếp tục, và hai lính tôi đã bị thương. Sau khi
thấy không thể tiếp cận được, chúng tôi đã cho xe chở cối đến. Ngay lập tức một
cơn mưa đạn cối xối xả và các súng phóng lựu được tuôn ra xối xả. Chúng tôi lại
thử tiếp cận, nhưng tiếng súng quái ác vẫn dai dẳng bắn ra từ phía khu rừng. Cứ
liên tục như vậy, chẳng mấy chốc 7 giờ đồng hồ đã trôi qua. Chuyện gì thế này?
Một đại đội mà phải giao chiến với một nhóm quân địch.
Nếu để đến khi mặt trời lặn, quân giải phóng từ căn cứ 226 có thể tấn công.
Nghĩ vậy, tôi đã phải dùng thủ đoạn cuối cùng. Tôi ra lệnh đặt chắc chắn hai
khẩu súng máy ở phía bờ đê và bắn sao cho đối phương không thể ngóc đầu lên
được, trong lúc hai lính của tôi sẽ bò lên tiếp cận vị trí của đối phương. Ngay
sau khi súng ngừng bắn, hai người đó sẽ nhanh chóng xông liên tiêu diệt. Và
chúng tôi đã thành công. Thắng lợi cuối cùng thuộc về chúng tôi.
Trận chiến đã diễn ra suốt 8 tiếng đồng hồ. Trong thời gian đó, không biết
bao nhiêu đạn dược đã bị tiêu tốn. Hình ảnh của địch đã bị tiêu diệt sau khi đã
kháng cự suốt 8 giờ liền đã làm tôi bị sốc thực sự. Chỉ có một người. Người lính
giải phóng đó gần như bị tiện đứt một bên cổ chân, một bên cánh tay cũng bị
thương nặng. Anh ta đã dùng bông và mảnh áo tự băng bó cho mình và chiến đấu với
đại đội của tôi trong suốt 8 tiếng liền. Trong khi khám thi thể người chiến sĩ
giải phóng, tôi đã phát hiện ở ngực anh ta có một cuốn sổ, trong đó có ảnh một
thiếu nữ xinh đẹp với mái tóc dài buộc sang hai bên. Phía sau tấm ảnh là dòng
chữ: “Em luôn yêu anh, dù anh ở bất cứ nơi đâu” bằng tiếng Việt.
Chắc chắn hai người là vợ chồng hoặc là người yêu. Đây là bằng chứng tình yêu
của người thiếu nữ gửi cho người lính miền Bắc. Trong bầu không khí còn sặc sụa
khói đạn, thoảng qua trong đầu tôi suy nghĩ, hoá ra anh ta cũng là người bình
thường, cũng có người yêu.
Tám giờ đồng hồ quả là một quãng thời gian dài dằng dặc, có đủ thời gian cho
việc đầu hàng. Đây là một việc hoàn toàn khác với việc lính đặc công của Nhật
bản cảm tử ôm bộc phá lao vào mục tiêu. Đó là một cái chết tức thì. Còn ở đây,
anh ta chờ đợi cái chết trong 8 giờ liền. Trong thời gian đó, anh ta đã nghĩ gì,
trong khi nếu không đầu hàng thì không còn cách nào khác là phải chết. Những
ngưòi lính Hàn quốc bị thương bắt đầu báo thù lên thi thể của ngưòi lính giải
phóng. Chúng tôi đem theo mảnh thi thể không còn hình thù, hành quân về căn cứ
như một đoàn quân thắng trận. Mọi người nói rằng đây là truyền thống của đơn vị.
Tôi vui vẻ dẫn lính về doanh trại, trong lòng không có cảm giác tội lỗi nào.
Hai mươi năm sau sự kiện đó, tôi đã là thiếu tướng, sư đoàn trưởng đóng ở
Hwachon, tỉnh Kangwon. Một hôm trong lúc đang đi dạo một mình qua một hang núi
tuyệt đẹp, nhũng hình ảnh 20 năm trước đã làm tôi trào nước mắt. Tôi vừa khóc
vừa hồi tưởng lại những sự việc của ngày hôm đó. Mặc dù lúc đó đối với tôi,
người chiến sĩ giải phóng đó là địch, nhưng đó là một chiến sĩ dũng cảm,...
Trong cơn điên loạn của chiến tranh, tôi đã làm tổn hại thi thể của người chiến
sĩ ấy trong cơn say máu cuồng loạn. Sự hối hận đã vò xé lòng tôi.
Tôi đau lòng hơn khi nghĩ về người thiếu nữ trong ảnh, ngưòi mà bây giờ còn
sống chắc đã 40 tuổi. Hẳn người thiếu nữ đó không biết về những giây phút dũng
cảm cuối cùng của người yêu. Có thể người thiếu nữ đó đến giờ vẫn chờ đợi hoặc đi
tìm tung tích người yêu cũ. Nếu tôi có thể giữ lại được dấu tích của người chiến
sĩ ấy, có lẽ sẽ an ủi được phần nào trái tim của người thiếu nữ đó.
Chính cái chết của người chiến sĩ giải phóng và hình ảnh của người thiếu nữ
ấy
đã đưa tôi đi đến quyết định viết cuốn sách này. Mong rằng cuốn sách được viết
tự đáy lòng của tôi sẽ khiến tôi vợi bớt nỗi đau đớn, dằn vặt vì ân hận. Vàtôi
cũng mong rằng sẽ có thêm nhiêù người nữa hiểu về sự thật của lịch sử VN qua
những gì tôi đã hiểu trên chiến trường. Cái chết của người chiến sĩ giải phóng
đó đã góp phần viết nên trang sử hào hùng của VN.
Tôi đã từng tham gia trận đánh quy mô sư đoàn với tên gọi "Chiến dịch M ãnh
hổ". Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi được tham gia một trận có
quy mô lớn như vậy. Lúc đó để ngăn chặn việc báo cáo sai sự thật, tren sư đoàn ra
lệnh mỗi khi tiêu diệt VC phải cắt tai trái đem về. Có thể hiểu được một phần
tại sao các viên chỉ huy lại ra một mệnh lệnh dã man như vậy. Điều đó cũng có
nghĩa là đã có quá nhiều báo cáo sai sự thật.
Trước ngày toàn sư đoàn tham gia vào chiến dịch “Mãnh hổ”, tôi đã tập hợp
toàn đơn vị lại sau khi đã hoàn thành việc chuẩn bị chiến đấu để huấn thị. Tôi
cũng đã tổ chức liên hoan và khích lệ tinh thần binh sĩ. Tôi tràn đầy quyết tâm
là sau trận đánh này quân VC ở khu vự xung quanh sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt.
Nhưng ngay từ ngày đầu của chiến dịch, tôi và chỉ huy sư đoàn đều hiểu rằng đó
chỉ là giấc mơ viễn vông.
Tại điểm đổ quân, đối phương đã đặt rất nhiều mìn, chỉ cần vướng vào dây là
mìn nổ.Có rất nhiều trường hợp trực thăng bay đến không đổ quân được phải bay
về. Dường như quân giải phóng đã biết rất rõ về thời gian, hình thức tác chiến
của quân Hàn quốc. Trong thời gian pháo bắn dọn đường và trực thăng bay đến đổ
quân thì quân VC đã rút êm ra ngoài qua những con đường bí mật. Chỉ còn lại
trong căn cứ trống rỗng của họ những dây mìn được gài lại như mạng nhện. Họ chỉ
để lại một vài người trong tổ cảnh giới ở lại sâu trong rừng, những nơi không
thể nào phát hiện ra được, và quân Hàn quốc đã thương vong bởi những quả mìn do
họ gài lại.
Nhưng mệnh lệnh từ trên vẫn tiếp tục được đưa xuống và lùng sục vẫn được tiến
hành. Đó đúng là một mệnh lệnh ngớ ngẩn. Rừng ở VN đầy rẫy những cây lớn nhỉ,
ngay giữa ban ngày cũng tối như mực. Nếu tiến vào trong đó thì không nhìn thấy
trời mà cũng không thể xác định được phương hướng. Binh lính phải mất tới 4 giờ
để tiến lên một quãng 400m. Nếu phải tiến quân theo đường rừng dày đặc thì những
cây nhỏ và dây leo theo đúng nguyên tắc thì chưa cần đến 1 giờ là sẽ bị xuống
sức nghiêm trọng. Hơn nữa, khi leo núi, cứ tiến 10 m thì lại phải dừng lại nghỉ
20 phút. Trên lưng đeo 8 quả đạn cối nên nhiều lúc tôi cứ leo được 2m thì lại bị
tụt xuống tới 3m.
Binh lính được đưa vào cuộc lùng sục bất đắc dĩ này, không còn cách nào khác
là phải đi hàng một, theo những con đường có sẵn. Nhưng quân giải phóng đã gài
lại đầy mìn trên con đường này trong khi rút lui. Một hôm trung đội đi đầu bị
vướng mìn và thương vong 11 người. Điều này làm cho toàn đại đội phải dừng lại
trong hẻm núi 1 giờ liền với đội hình kéo dài 4km. Nếu quân giải phóng tấn công
bất ngờ thì chắc chắncó một thảm kịch xảy ra bất ngờ.
Hỡi những sĩ quan chỉ biết ngồi ở bộ tư lệnh và chờ đợi những thắng lợi tốt
đẹp, các ông có biết tâm trạng của những người lính phải ngồi lại phờ phạc
nhưđoàn quân thất trận trên những con đường trong rừng sâu không... Tôi thật
nghi ngờ về cái kết quả của chiến dịch "Nguyệt quế" lại có thể tiêu diệt được
330 VC.
Trung đội1 của đại đội trong khi lùng sục đã bị vướng mìn, 9 người gồm cả
trung đội trưởng đã phải đưa về hậu phương. Cũng may quyền chỉ huy đã được giao
cho hạ sĩ Moon. Trong khi lùng sục, do bất cẩn tôi cũng đã vướng phải dây mìn
60mm do đối phương gài lại. Chốt an toàn đã bị tung ra, nhưng thật may mắn là
mìn đã không nổ.
Khu vực mà chúng tôi được lệnh lùng sục trong ngày đầu tiên là một ngọn núi
mà lên tới đỉnh khoảng 400m. Sau 10 giờ leo trèo,lên tới đỉnh, lính của tôi gần
nhưđã kiệt sức. Bộ quần áo chiến đấu của tôi loang lổ những vết muối do mồ hôi
đọng lại. Đây là kết quả của việc phục tùng lệnh cấp trên.Sau những cố gắng có
khi phải trả bằng máu ấy, cái mà chúng tôi phát hiện được chỉ là những chiếc
xẻng dùng rồi, được bỏ lại trong hang núi. Tôi trông thấy cảm giác thất vọng
tràn trề trên khuôn mặt binh lính.
Phải làm thế này trong một tháng liền ư. Tôi muốn được ngẩng lên trời mà chửi
thật to. Đây là cáitrò hề gì vậy. Bây giờ chúng tôi mới hiểu được sức mạnh của
thiên nhiên. Thời tiết thì nóng bức mà nước uống thì không đủ. Trên người, kể cả
chỗ kín bắt đầu sinh bệnh ngoài da. Có những lúc sấm chớp rồi mưa sầm sập trên
đầu. Những cơn mưa trong rừng nhiệt đới ở VN cứ như dùng nước dội lên đầu vậy.
Có căng bạt lên cũng chẳng ăn thua gì. Binh lính không còn cách nào khác là phải
dừng mọi việc lại chờ cho tới khi mưa tạnh. Và ngồi cầu nguyện sao cho sét đừng
đánh vào mình. Có một lần xảy ra cháy và có lệnh sơ tán, những binh lính chỉ có
biết ngồi run rẩy sợ hãi trong cánh rừng tối om, không thể biết được có cái gì
phía trước.
Cả tuần rồi mà đại đội tôi không làm nên trò trống gì, ngay cả bóng của VC
cũng không phát hiện ra được. Ngược lại bệnh viện 106 đã đầy chặt lính bị thương
và tử sĩ Hàn quốc vấp phải mìn. Bệnh viện đã phải căng thêm lán nhưng vẫn không
đủ chỗ. Lính bị thương của đại đội tôi cũng chỉ được cấp cứu xong là phải đưa về
đội cứu thương của tiểu đoàn. Trong thời gian đó đại đội tôi đã phát hiện và
lùng sục được 40 hang núi. Chúng tôi cũng đã phát hiện khoảng 2 xe tải quần áo
và đem đốt hết. Và chúng tôi cũng phát hiện những dụng cụ cắt tóc nữa. Nhưng
điều mà chúng tôi thực sự mong đợi là VC thì lại không phát hiện được một người
nào. Rõ ràng là đối phương đã thoát ra khỏi khu vực lùng sục và ở xa đâu đó,
đang xem vở kịch do quân Hàn quốc diễn.
Sau khi giai đoạn một của chiến dịch kết thúc, sư đoàn bước vào giai đoạn hai.
Tại đây sư đoàn đã ra lệnh không cần phải cắt tai đem về nữa. Thế là đã đến nước
phải chấp nhận báo cáo láo rồi đây. Mệnh lệnh này một lần nữa làm tôi vô cùng
tức giận. Thế là kết quả tay trắng của giai đoạn một đã được dịp thay đổi.
Theo lời kể của binh lính thì một nhân viên của đội an ninh đã mua súng ở chợ
với giá 20 đô la và bán lại cho họ với giá 40 đô la. Sau khi mua, họ tháo rời
súng ra và bí mật đem vào trận đánh. Sau đó sẽ báo cáo là tiêu diệt 3 địch và thu
được một khẩu M16.
PHẦN 2
Pon Moltke đã nói rằng: “Rồi các bạn sẽ biết là quân địch sẽ
chỉ có 3 cách lựa chọn. Nhưng quân địch sẽ chọn cách thứ 4 trong số các
cách đó”. Nghĩa là trong chiến tranh đối phương sẽ chọn phương án mà
ta không thể ngờ tới. Trong chiến đấu, việc thắng bại phụ thuộc rất lớn
vào người chỉ huy. Người VN đã có kinh nghiệm chiến tranh du kích
trong mấy ngàn năm lịch sử và họ là những bậc thấy trong lĩnh vực này.
Sau khi sang VN, tôi có cơ hội được tìm hiểu một cách khá sâu sắc về
cách thức tiến hành chiến tranh ở VN tại sở chỉ huy tiểu đoàn trong
hai tháng. Chiến thuật thông thường của quân Hàn quốc là lập ra các căn
cứ cấp đại đội ngay trước khu vực của VC. Tiếp đó dùng những trận phục
kích bên đường để tiêu diệt khi VC từ căn cứ xuống để công tác chính
trị, thu gom nhu yếu phẩm và tiến hành tấn công du kích.
Hai bên bờ sông từ căn cứ trên núi Đầu Voi, nơi có một đại đội đặc
công của quân giải phóng xuống đến làng được che phủ bởi một khu rừng
tre. Chỉ có hai con đường đi qua khu vực đấy. Đây là con đường di chuyển
của VC, nhưng do nó nằm quá gần với căn cứ đối phương nên việc phục
kích tại đây là rất nguy hiểm. Theo con đường này, mỗi ngày những đứa
trẻ chăn trâu dắt trâu đi qua vài ba lần. Buổi sáng chúng dắt trâu đi
vào khu vực do VC kiểm soát, đến chiều thì chúng đưa trâu về, vừa đi vừa
kiểm tra xem có quân Hàn quốc phục kích không. Sau đó chúng sẽ báo lại
cho quân giải phóng bằng cách dùng khói hoặc ánh đèn. Để có một trận
phục kích thành công, điều quan trọng với chúng tôi là làm sao để những
đứa trẻ chăn trâu không phát hiện ra. Và chúng tôi cũng phải nghi binh
làm ra vẻ như quân Hàn Quốc không có ý định phục kích ở đó.
Một hôm tôi định dùng một trung đội lập một trận phục kích quan
trọng. Để làm được điều đó, tôi ra lệnh cho trung đội 1 phải diễn tập
ngụy trang trong rừng tre sao cho không bị những đứa trẻ chăn trâu phát
hiện. Chúng tôi lấy sợi từ các bao đay ra, gắn lá tre vào, sau đó phủ
kín lên mặt mũi, thân thể sao cho từ ngoài nhìn vào vẫn tưởng như rừng
tre. Để làm cho đối phương tin rằng chúng tôi không có ý định phục
kích, tôi dẫn toàn đại đội đi lùng sục dọc rừng tre bên sông Lư Diêm.
Sau đó tôi bí mật cho trung đội1 đã được nguỵ trang kỹ lưỡng chia làm 2
tổđi phục kích ở cả 2 tuyến đường. Số còn lại tôi ra lệnh bắn vào xung
quanh khu vực đó rồi quay về căn cứ. Điều này cốt để cho đối phương
nghĩ rằng không hề có mai phục.
Khoảng 9 giờ sáng hôm sau, tổ phục kích ở một con đường do trung đội
trưởng chỉ huy báo cáo về là đã bắt sống được1 nữ, còn 2 người khác đã
thoát. Sau đó một lúc đã diễn ra cuộc đọ súng giữa2 tổ phục kích của
tôi với quân giải phóng. Như vậy tôi đã thất bại trong trận phục kích
đó. Đáng lẽ ra không nên bắt cô gái đó mà cứ để cho đi qua. Sau đó phải
nhẫn nại đợi cho đến tối khi họ quay về dẫn theo VC. Tôi ra lệnh cho
bắn lung tung ra xung quanh rồi rút về làm ra vẻ nhưđã rút hết tổ phục
kích về. Nhưng tổ phục kích do một trung sĩ chỉ huy thì vẫn ở nguyên vị
trí tại một con đường khác.
Tất nhiên, buổi sáng cũng như buổi tối, khi dắt trâu đi qua, những
đứa trẻ chăn trâu đã không phát hiện được tổ phục kích. Nếu phát hiện
ra, chúng sẽ lùa trâu vào để kiểm tra xem khu vực đó có phục kích hay
gài mìn Clâymo không. Khoảng 19 giờ quân giải phóng dùng AK bắn vào khu
rừng để kiểm tra lần cuối, nhưng tổ phục kích không hề bắn trả mà vẫn
nằm im. Như vậy trận phục kích này chắn chắn thành công. Khoảng 20 giờ,
VC bắt đầu xuất hiện. Ngay lập tức tổ phục kích cho nổ mìn Clâymo. Một
lúc sau từ phía đó có 5 tiếng nổ lựu đạn. Khoảng 21 giờ đối phương
dùng cối 60mm pháo kích vào khu vực có tổ phục kích. Bình thường đối
phương không pháo kích vào nơi có phục kích. Đáp lại chúng tôi dùng cối
81mm bắn tập trung vào khu vực căn cứ của đối phương và dùng pháo15mm
bắn mãnh liệt vào bờ bắc của con sông.
Sau khi trời sáng, tôi dùng xe bọc thép đi tới hiện trường, trong
thời gian đó tổ phục kích báo cáo là viện hạ sĩ đã bị mất một phần ngón
cái do trúng mìn. Tôi đã bị sốc. Hạ sĩ Kimlà một thuộc hạ thân tín của
tôi. Tại hiện trường tôi lại một lần nữa được chứng kiến tinh thần
chiến đấu ngoan cường của quân giải phóng. Một trung uý bị chết do mìn
Clâymo. Nhưng người lính đó chết trong tư thế ôm một quả lựu đạn đã rút
chốt vào ngực với ý định giết chết tổ phục kích đến kiểm tra xác chết.
Không hiểu con người lúc gần chết trong đau đớn tột cùng như vậy có khả
năng rút chốt lựu đạn ôm vào người rồi mới chết như vậy không? Chỉ cần
lay nhẹ người một chút là bản thân sẽ bị tan xác ngay tại chỗ cơ mà...
Để làm được điều này cần phải có một tinh thần dũng cảm vô song. Hạ sĩ
Kim đã bị trúng mìn trong lúc tìm cách buộc dây vào cái xác đó kéo đi
để xử lý quả lựu đạn.
Khi tôi tới nơi vẫn còn một người lính giải phóng còn thoi thóp, mỗi
khi anh ta thở máu lại trào ra trên lồng ngực. Dựa vào việc họđem theo
3khẩu AK, một M16 và một khẩu súng lục Liên xô cũng như những tài liệu
có trong một viên trung uý thì có thể thấy rằng họđang thi hành một
nhiệm vụ rất quan trọng. Chúng tôi cho 5 cái xác chết đó lên xe thiết
giáp và đem về căn cứ. Trong khi thực hiện nhiệm vụ bình định, chúng
tôi nhận được sự chi viện của hai đại đội truy lùng của tiểu đoàn Mỹ và
một đại đội quân nguỵ Sài gòn. Chúng tôi đã đi lùng sục và phục kích 3
ngày liền ở khu vực làng Vĩnh Long mà không phát hiện ra được một bóng
VC nào. Tôi linh cảm thấy rằng nguyên nhân nằm ở chỗ chúng tôi cùng
tác chiến với quân VNCH. Có lẽ trong số binh lính đó đã có người cung
cấp thông tin cho VC, và điều này dẫn đến thất bại của chúng tôi.
Để trận này thành công, chúng tôi phải làm ra vẻ là trận đánh hợp
đồng tác chiến với đại đội VNCH đã kết thúc, và sau đó chúng tôi sẽ
tiếp tục tác chiến một mình. Nhưng trước đó tôi phải kiểm tra lại tinh
thần cũng như sức lực của binh lính. Thêm vào đó, việc tiếp tế cũng cần
phải được tiến hành trong bí mật. Tôi đã giải thích cho các trung đội
trưởng là chúng tôi phải tiến tục trận đánh một mình nhưng đối với quân
VNCH phải làm ra vẻ như chúng tôi sắp sửa rút. Sau khi chia tay, tôi
đã báo cáo xin được tiếp tế lương thực và đạn dược bằng trực thăng tại
một địa điểm không ai ngờ tới. Tôi đã bố trí trung đội 3 phục kích tại
một địa điểm được cho là VC sẽ đi qua trong số các địa điểm mà chúng
tôi đã lùng sục. Số còn lại thì di chuyển ra khu vực trống, làm các
động tác nghi binh khác làm ra vẻđang rút lui về căn cứ. Nhưng trước
khi chúng tôi về đến căn cứ thì đã nghe thấy tiếng nổ của mìn Clâymo từ
hướng phục kích của trung đội 3. Trong những trận phục kích vừa qua,
đây là lần đầu tiên VC xuất hiện giữa ban ngày.
Có lẽ quân giải phóng nhận được thông báo từ tình báo gài trong quân
đội VNCH là chúng tôi đã rút hết về căn cứ rồi. Lần này họ cũng mang
theo tài liệu, và trong số người chết có 1 sĩ quan. Còn một người khác
bị trúng đạn vào chân. Nhưng trên chiến trường việc đem theo tù binh
rất bất tiện nên anh ta đã bị bắn ngay tại chỗ. Sinh mệnh người lính
cụt chân đó hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh tại chỗ cũng như tâm
trạng của viên chỉ huy. Viên trung đội trưởng chỉ nói một câu cụt lủn:
“bắn bỏ” và thế là người tù binh ấy đã bị giết.
Bây giờ nghĩ lại tôi mới thấy sinh mạng của con người không cho phép
ai coi thường. Và tôi tin rằng giết người là tội ác. Nếu tôi có được
suy nghĩđúng đắn về giá trị cuộc sống thì người lính giải phóng đó dù
có bị cụt chân nhưng vẫn được sống. Nhưng khi đó tôi đã không ngăn cản
mệnh lệnh của viên trung đội trưởng.Tôi ân hận cầu xin linh hồn người
chiến sĩđó tha thứ cho tôi.
Một hôm trên đường đi tuần sát, ngẫu nhiên chúng tôi ghé vào nhà xã
trưởng phụ trách an ninh. Tại đó tôi thấy một cậu bé chăn trâu mặt sưng
húp, chân thì cuốn băng do bị phó xã trưởng đánh. Xã trưởng giải thích
rằng cậu ta đã ném lựu đạn vào căn cứ quân đội VNCH và bỏ chạy, nhưng
đã bị bắt. Ông xã trưởng có thâm thù với VC nên rất căm thù cậu bé này.
Thẩm vấn mãi mà cậu không khai nên ông ta đã dùng đến đòn vọt. Đòn vọt
cũng không xong, cuối cùng ông ta lấy súng bắn nát chân cậu bé. Tôi đã
đề nghị ông xã trưởng giao cậu ta cho tôi và đưa cậu bé về căn cứ.
Thời đó mỗi khi bắt được VC, nếu lính VNCH hoặc lính Mỹ doạ sẽ giao
cho lính Hàn quốc thì tù binh, nếu hèn nhát sẽ khai báo thành khẩn
ngay. Nghe như vậy cũng đủ biết lính Hàn quốc đáng sợ như thế nào. Trên
đường dẫn cậu bé chưa đến 16 tuổi ấy về căn cứ, tôi cảm thấy rất
thương hại cậu ta. Tại sao một đứa bé lại có thể làm những việc như
vậy? Phải chăng nó cho rằng VC mạnh hơn? Trong gia đình cậu ta đã có
người chết trong chiến tranh? Hay cậu bé bị VC dùng tiền mua chuộc? Tôi
bắt đầu thẩm vấn cậu bé một cách thật hệ thống và khoa học.
Tôi chia quá trình thẩm vấn thành 3 giai đoạn bao gồm “bỏ mặc hoàn
toàn”, “hình phạt nặng”, và sau cùng là: “thuần hoá bằng tình cảm”. Tôi
thả cho cậu bé tự do trong đại đội nhưng ra lệnh bất kỳ ai cũng không
được tỏ ra quan tâm đến cậu ta. Mấy ngày sau tôi bắt đầu giai đoạn 2,
lúc này nếu phát hiện nói dối là tôi dùng hình phạt rất nặng như treo
người lên xà nhà. Thế mà cậu ta vẫn nhất quyết không chịu tiết lộ bí
mật. Tôi nói là nếu tiết lộ căn cứ hoặc con đường đi lại của VC, thì
tôi sẽ cho 5 vạn đồng, nhưng cậu bé vẫn không chịu.
Người lính giải phóng bị bắt làm tù binh trong trận phục kích tại
làng Thuần Phong không phải là lính cứu thương. Theo kết quả thẩm vấn
của các chuyên gia thì anh ta đã nói dối. Khi đến thăm lính của tôi bị
thương tại bệnh viện 106, tôi được biết là người tù binh đó cũng đang ở
tại bệnh viện này. Vì tò mò tôi đã ghé qua phòng dành cho các tù binh
một chút. Y tá hướng dẫn tôi đến căn phòng đó đã cho biết anh là chính
trị viên kiêm đại đội phó của một đại đội đặc công.
Khi tôi bước vào phòng, anh ta đón tôi với một thái độ bình tĩnh.
Mặc dù anh ta là đối phương, nhưng trước sự bình thản của người lính
giải phóng, tôi rất cảm phục. Tôi hỏi:
- Có biết tôi là ai không?
- Tất nhiên rồi. Đại uý Kim, đại đội trưởng đại đội 11
- Tại sao anh lại biết rõ tôi như vậy?
- Tôi đã nhìn thấy anh 4 lần rồi.
- Nếu vậy thì trước đây anh đã thấy tôi rồi ư?
- Một lần tôi trông thấy trong làng, một lần trông thấy ông đang
luyện bắn cho binh sĩ trong rừng tre cạnh trường bắn của đại đội 11.
- Thế sao anh không giết tôi?
- Đại đội 11 của ông phục kích chặn hết đường đi của chúng tôi, duy
chỉ có cánh rừng đó là còn sử dụng được. Nếu nổ súng trong khu rừng đó,
chúng tôi bị lộ.
Thật là sét đánh ngang tai. Con đường mà anhta nói tới đó nằm ngay
cạnh trường bắn của đại đội. Chúng tôi không thể tưởng tượng được quân
giải phóng lại sự dụng nó là tuyến đường đi lại. Cánh tay đã gần như
đứt rời của anh ta đã được phẫu thuật và bó bột.
Về sau tôi đã mấy lần phục kích tại khu rừng tre nhưng không có kết
quả. Đã thế lại xảy ra bắn nhầm với một đơn vị VNCH làm thiệt hại nặng
đơn vị này. Người lính giải phóng đó chẳng bao giờ nói với tôi bí mật
ấy nếu như con đường vẫn được sử dụng. Bây giờ, khi đã hiểu Việt Nam,
tôi mới biết điều đó.
Khi tôi còn tham chiến ở VN, một sĩ quan VNCH đã nói với tôi rằng:
Tôi không thích chủ nghĩa CS nhưng tôi kính trọng Hồ Chí Minh. Hồ Chí
Minh là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc VN. Mặc dù đất nước chia cắt, Hồ Chí
Minh vẫn được rất nhiều người dân miền Nam yêu quý và ủng hộ.
Hồ Chí Minh là một người rất khiêm tốn, giản dị và nhất mực yêu
thương nhân dân. Tính cách của Hồ Chí Minh rất thuần hậu và trong sáng
như lòng trẻ thơ. Và trên thực tế, ông cũng rất yêu quý trẻ em. Trong
căn phòng làm việc đơn sơ của mình, ông đã làm cho những băng ghế gỗ
xung quanh để các cháu thiếu nhi ngồi mỗi khi đến chơi. Kể cả trong
thời gian chiến tranh, ông cũng vẫn ngồi chơi với các cháu thiếu nhi
trên bờ hồ.
Ông có cuộc sống giản dị. Mặc dù đã trở thành Chủ tịch nước nhưng
ông vẫn không ỏ Phủ Chủ tịch. Thay vào đó Ông ăn ở trong một căn phòng
trước đó từnglà nơi ở của người thợ điện. Đây hoàn toàn không phải là
một màn kịch của một nhà chính trị tài ba. Chiếc ghế mà ông ngồi là một
chiếc ghế nhỏ có tựa đến ngang lưng, chiếc bàn làm việc cũng nhỏ.
Trong tâm hồn của HCM chỉ có sự hy sinh, tinh thần phục vụ và lòng yêu
thương dân tộc VN.
Ông không lập gia đình, ở độc thân như vậy cho đến khi mất ở tuổi
79. Tất cả hiện vật ông để lại chỉ có chiếc mũ, những đồ dùng để viết
lách, quần áo, sách vở. Ông đã đến đây chỉ với hau bàn tay trắng và tấm
lòng hy sinh vì dân tộc.Và khi ra đi ông cũng không đem theo một thứ
gì.
Ông là một nhân cách lớn, làm việc không phải chỉ với cái đầu mà còn
với một trái tim cháy bỏng. Mấy chục năm sau khi ông mất, dòng người
xếp hàng vào viếng trước cửa lăng vẫn kéo dài hàng ngày. Tất nhiên họ
đến đây không phải vì mệnh lệnh của ai. Hồ Chí Minh chưa bao giờ tự
nhận mình là anh hùng và nói rằng khi chết đi cũng muốn được chết như
một người dân bình thường. “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Đánh
cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”. Đây là những lời thể hiện sự nuối tiếc
vì đã không được nhìn thấy ngày đất nước thống nhất. Đúng theo Di chúc
của Người, Mỹ đã phải rút quân và nguỵ quyền cũng đã sụp đổ.
Việc tranh luận ông là nhà CS hay là nhà dân tộc chủ nghĩa không có
một ý nghĩa nào hết. Chỉ có chân lý là quan trọng. Đối với tất cả các
nước thuộc địa thời đó độc lập và tự do dân tộc là giá trị cao nhất, là
tiêu chuẩn cho mọi giá trị.
Trong hồi ký, Nguyễn Cao Kỳ đã cho rằng miền Bắc do có được một nhà
lãnh đạo có khả năng thống nhất được ý chí của toàn dân nên đã chiến
thắng.
Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ vĩ đại nhất trên thế giới.
PHẦN 3
Đúng 12 giờđêm, ngày 7 tháng 6 năm 1970 đạn cối bất ngờ rơi
xuống đại đội tôi. Quân Việt Cộng tấn công. Thực ra thì việc dùng pháo
cối để tấn công một đơn vị tiền tiêu như đại đội của tôi là một việc làm
rất không có hiệu quả. Bởi vì họ có nhiều mục tiêu quan trọng hơn để
tấn công. Những quả đạn cối đã khó khăn lắm mới được vận chuyển từ Hà
Nội xa xôi tới đây.
Trong khi chúng tôi còn đang chuẩn bị chiến đấu thì đã có những
tiếng nổ từ phía doanh trại quân nguỵ Sài gòn nằm cách đó khoảng 400m.
Để hiểu thêm về tình hình bên đó, tôi đã vào mạng vô tuyến của họ. Trên
đó đầy những âm thanh gấp gáp: “VC, VC, VC”. Đó chính là tín hiệu cho
thấy quân VC đã lọt vào căn cứ của quân nguỵ Sài gòn.
Theo suy nghĩ của tôi thì quân VC đã đồng thời tấn công cả chúng tôi
lẫn quân VNCH. Tình hình rất khẩn cấp và cũng rất phức tạp. Liệu mục
tiêu chủ yếu của đối phương là căn cứ nào?
Theo tôi, trong chiến đấu nhiều khi phải dùng cảm giác chứ không
phải lúc nào cũng có thể dùng lý luận mà phán đoán. Đầu tiên tôi xác
định xem VC có tấn công căn cứ của chúng tôi hay không. Ngay sau khi
xác định được là VC không tấn công chúng tôi, tôi đã đơn phương thông
báo cho quân VNCH biết là tôi sẽ pháo kích vào căn cứ của họ. Và chúng
tôi bắt đầu bắn một cách vô tội vạ vào căn cứ của họ. Chúng tôi đã bắn
đạn cối đến đỏ rực cả trời. Đồng thời khẩu đội pháo 155mm trong đại đội
cũng bắn đạn nổ trên không lên khắp khu vực xung quanh.
Theo mệnh lệnh của tôi, khu vực xung quanh cứ của quân VNCH đã biến
thành bãi máu và những mảnh da thịt rơi vãi. Trong chốc lát, xung quanh
căn cứ bị bao trùm bởi đạn phát sáng, bởi những chớp đạn, bởi những
tiếng nổ dữ dội và mùi thuốc đạn nồng nặc. Cứ như cảnh ma quỷđang tụ
họp để phân định sự sống và cái chết. Rõ ràng là những linh hồn chết
trước và những linh hồn chết sau đó đang cùng nhau than khóc trong khói
bụi và làn mưa đạn.
Khi ánh chớp lửa đạn ít dần đi, căn cứ của quân VNCH bị bao phủ dầy
đặc bởi làn khói bụi. Trong lồng ngực tôi, người đã chứng kiến từ đầu
trận bắn giết tơi bời đó,là cảm giác căng thẳng tột cùng. Thật lòng mà
nói, là một người lính Hàn quốc, tôi không quan tâm lắm tới việc ở đó
bên nào bị chết. Điều quan trọng là chúng tôi vẫn được an toàn.
Đến sáng sớm tôi ra lệnh ngừng pháo kích. Ngay lập tực một cảm giác
im lặng rợn người bao quanh toàn khu vực. Theo phán đoán của tôi thì
trong trận pháo kích đó, không còn ai sống sót. Ngay khi trời sáng, tôi
dẫn đại đội tiến sang bên căn cứ quân VNCH. Chúng tôi đi trong trạng
thái rất căng thẳng. Xung quanh im lặng như tờ. Chỉ nghe rõ có tiếng
chân của đại đội đang tiến một cách thận trọng. Liệu có bao nhiêu xác
chết ở đó? Sau khi tiến vào căn cứ của quân VNCH, tôi cho bắn pháo hiệu
quân nhà lên.
Thế là bắt đầu nhô lên những cái đầu đang ẩn kỹ trong căn cứ. Sau
khi xác định được chúng tôi, họ bắt đầu chạy tới, vừa giơ súng lên trời
vừa la hét. Họ hôn chúng tôi, ôm lấy và nhẩy vòng tròn trên đất. Đại
đội trưởng VNCH cũng chạy tới chỗ tôi, ôm chầm và hôn lấy hôn để trên
mặt. Có nhiều tình huống trên chiến trường không thể dùng lời mà diễn
tả hết được. Đây chính là lúc như vậy. Hoan hỉ, cảm kích, vui vẻ, xúc
động, cuồng nhiệt... Không có một lời nào có thể tả hết được hình ảnh
vừa sung sướng vừa khiếp sợ của những người lính Sài gòn lúc đó.
Họ đã phải chịu một cơn mưa đạn pháo suốt đêm. Và họ cũng đã phải
trải qua một thời gian dài trong nỗi sợ hãi giữa sự sống và cái chết.
Trong tình cảnh đó, điều duy nhất mà họ có thể làm được là gửi sinh
mạng cho ông trời, còn bản thân thì cố làm sao ẩn nấp được càng kỹ càng
tốt.
Bên ngoài hàng rào, tứ phía là bông băng. Vết máu từ thương binh kéo
dài cho đến tận hang Đầu Voi. Có vẻ quân VC đã thiệt hại khá nặng. Căn
cứ của quân đội Sài gòn được bao bọc bở i6 lớp hàng rào giây thép gai.
Những người lính VC bò vào dưới hàng rào đó chỉ mặc mỗi một chiếc quần
cộc đen và toàn thân cũng nguỵ trang bằng một màu đen. Có một điều rất
đặc biệt là quân VC không có ai đem theo súng cả. Họ chỉ đem theo thủ
pháo được chế tạo thủ công từ những hộp lương khô C. Họ bò vào căn cứ
và kéo theo sau những túi mây trong đó đựng khoảng 20 quả thủ pháo.
Chiến thuật của họ là trong khi quân VNCH còn đang sợ hãi ẩn nấp
trước làn đạn súng máy bắn yểm hộ từ bên ngoài thì họ bò qua hàng rào
vào căn cứ và cho mỗi hầm một quả thủ pháo. Chính vì vậy, những khẩu
súng vướng víu không được đem theo. Họ coi lính cộng hoà chẳng khác nào
bù nhìn và chiến thuật của họ là tiêu diệt hết và sau đó cướp lấy vũ
khí.
Điều làm tôi khâm phục nhất là tinh thần chiến đấu của quân giải
phóng. Họ xâm nhập vào căn cứ được bảo vệ bằng lớp rào thép gai vững
chắc mà chỉ mang theo có thủ pháo. Đây là hành động không phải chỉ do
mệnh lệnh. Đằng sau mệnh lệnh về phục tùng của quân đội là điều gì đó
mãnh liệt hơn thôi thúc họ. Sứ mệnh đánh đuổi hết ngoại xâm đã ăn sâu
vào tận xương tuỷ của mỗi người dân VN, mỗi người lính giải phóng. Vì
vậy họ đã có một tinh thần chiến đấu ngoan cường như vậy.
Tôi đã phải chơi trò sinh tồn suốt1 năm trời với khoảng một đại đội quân giải phóng như vậy đấy.
Một hôm, một chiếc xe chở đầy các cô gái đỗ xịch trước cổng căn cứ
đại đội. Các cô gái hướng tới lính của tôi vừa vẫy tay vừa la hét. Lính
của chúng tôi cũng hò hét đáp lại thành ra làm cả một vùng xung quanh
căn cứ náo loạn cả lên. Nhưng khi những người đàn ông bước vào căn cứ
thì tôi nhận ra họ là các quan chức địa phương của chính quyền Sài gòn
mà ngày thường tôi biết rất rõ. Với vẻ ngạc nhiên ra mặt, tôi đón họ
vào trong phòng khách.
Họ nói với tôi rằng nhờ sự chiến đấu dũng cảm của đại đội 11 mà họ
được sống một cách yên ổn, vì vậy nên họ muốn tặng các cô gái kia cho
đại đội làm quà. Tưởng là họ đem đoàn biểu diễn đến phục vụ đại đội nên
tôi cảm ơn và hỏi đùa rằng làm quà nghĩa là như thế nào. Lời của các
quan chức đó là hãy cho lính của đại đội vui chơi với các cô gái đó.
Binh lính VNCH thường sinh sống cùng gia đình trong các doanh trại. Có
lẽ vì đó mà các quan chức địa phương đã nghĩ ra việc làm này.
Tôi đề nghị với họ là nếu thật lòng muốn như vậy thì hãy sử dụng
ngôi làng trống ởở phía trước căn cứ. Nhưng họ nói rằng như vậy sẽ
phiền toái. Họ bảo rằng họ là quan chức địa phương, nếu có lời đồn đại
ra ngoài thì rất khó xử. Trong khi tôi còn đang nói chuyện thì lính của
tôi đã ào ra hò reo ầm ĩ, còn các cô gái thì vẫy tay và hò hét loạn
xạ.
Đạo đức và luân lý lúc này đối với chúng tôi có thể chỉ là giả tạo.
Tôi liền cho gọi các trung đội trưởng lại để hỏi ý kiến. Vàý kiến của
các trung đội trưởng cũng phức tạp không kém. Hai trung đội trưởng thì
bảo rằng “Đang trong chiến tranh mà, có gì mà đại đội trưởng phải lo
nghĩ. Chỉ quyết một cái là xong ngay”. Nhưng hai người khác lại phản
đối. Tất nhiên để cho phụ nữ ra vào căn cứ là một việc làm sai trái.
Trong căn cứ của đại đội còn có 3 tổ lính dù, và có cả đơn vị pháo
binh nữa. Tôi cũng không hy vọng là sự việc sẽ giữ được trong bí mật mà
chỉ mong họ hiểu rằng đây là một việc làm không đúng và hãy biết như
vậy là đủ rồi. Tôi và các trung đội trưởng quyết định cùng quên việc
binh lính dưới quyền đang làm gì và cùng các quan chức địa phương đó
ngồi uống bia nói chuyện trong một căn phòng nhỏ phía sau.
Nhưng sau này tôi mới biết rằng các cô gái đó đã nhận tiền từ lính
của tôi và họđã phải nộp một phần số tiền đó cho các quan chức địa
phương. Hay nói cách khác, các quan chức địa phương đã làm cái trò của
ma cô để kiếm lấy chút tiền. Không bao giờ và sẽ không bao giờ là quà
tặng như họđã nói với tôi lúc đầu.
Tôi đã từng đi săn nhưng không có khoái cảm nào tuyệt vời bằng khoái
cảm giết người trên chiến trường. Khi nhìn thấy đối phương bị giết,
chúng tôi có một cảm giác hân hoan khó tả. Vì thế, chúng tôi có thể đặt
chân lên xác người mà chụp ảnh, có thể ngồi lên cái xác đó vừa nói
chuyện vui vẻ. Không thể có một chút gì gọi là nhân tính con người.
Nội dung nói chuyện vô tuyến khi phục kích được quân địch cũng rất đơn giản: Bấm chưa?
Bấm rồi ạ. -Xong chưa? -Vâng, chỉ nghe thấy tiếng rên thôi ạ.
Mấy thằng tất cả? -Khoảng 5, 6thằng gì đó. -Quăng thêm lựu đạn vào.
Nếu không phải là chiến tranh, không phải là những người như chúng
tôi thì có thể vừa giết người xong lại nói những lời như trên không? Có
lẽ những người có suy nghĩ bình thường sẽ nghĩ tôilà một thằng điên,
một thằng đầy thú tính.
Chiến trường VNlà nơi chúng tôi đã sống với bản năng dã man. Quân Mỹ
cũng không phải là bạn của tôi, người VN lúc đó cũng không phải bạn
của tôi, những quân nhân Hàn quốc chỉ nhăm nhăm kiếm tiền và giả tạo
chiến công cũng chỉ là đối tượng cho sự căm phẫn của tôi. Lúc đó trong
tôi không còn chỗ cho tình cảm loài người hay những khái niệm phức tạp
khác. Tôi trở thành người chỉ biết chém giết. Cuộc sống của tôi là
những bữa nhậu vui vẻ mỗi khi thắng trận.
Tôi đã không thể kìm được nước mắt khi “ông rậm râu”, hạ sĩ Kim bị
tử trận. Không còn cách nào làm vơi đi nỗi sầu, tôi đã dẫn đại đội đi
nhổ một cây dừa thật to về trồng trong căn cứ. Trước khi lên đường tôi
và hạ sĩ Kim chỉ nói với nhau mấy câu đơn giản thế này:
-Có phải Dae Yong là phân đội trưởng phân đội dẫn đầu không? -Vâng,
đúng ạ. -Làm ăn cẩn thận nhé! Có tự tin không? -Vâng tôi rất tự
tin. Trên khuôn mặt râu mọc rậm rì của anh ta nở một nụ cười thận
trọng. Nhưng thật bất hạnh, viện phân đội trưởng đó lại bị chết bởi đạn
của đại đội10 bắn nhầm. Tôi tức giận đến nỗi muốn đem bắn bỏ hết cả
đại đội 10 đó. Tôi không thể chịu nổi chuyện thuộc hạ của mình lại chết
bởi tay chính quân mình. Vì thế nên khi cậu lính bắn nhầm đến đại đội
để xin lỗi, tôi đã chửi mắng và đánh, thậm chí tôi còn định lấy súng
bắn chết anh ta nữa.
Khoảng 12 giờ đêm ngày 6 tháng 10 năm 1970 trong phòng nghỉ của đại
đội, tôi đang lên lớp cho các đại đội trưởng. Nhưng không hiểu sao, hôm
đó trong khi còn chưa nói thì tôi bỗng nhiên bảo với các trung đội
trưởng “tất cả đứng dậy ra ngoài”. Đúng vào lúc tất cả ra ngoài, một
trái đạn pháo không giật 75mm rơi trúng vào chiếc bàn chữ Tmà tất cả
vừa ngồi họp. Quả đạn làm nổ tung chiếc bàn. Tiếp theo đó một quả đạn
khác bắn trúng vào cửa sổ lán của trung đội 1, một quả khác vào kho 24
đang trong lúc dọn dẹp, một quả khác vào phòng y tế trong lúc đang bật
đèn làm việc. Tất cả đều chính xác 100%. Tôi không thể không khâm phục
tài bắn đêm của pháo binh quân giải phóng. Tất nhiên họ không được phép
bắn trượt bởi mỗi quả đạn được vận chuyển từ tận Hà nội là vô cùng quý
giá. Nhưng dù sao việc bắn chính xác 100% vào ban đêm cũng khiến người
ta kinh ngạc.
Tôi và các trung đội trưởng đều sống sót, nhưng hai lính đang làm
việc thì một người bị chết, còn một bị thương. Một lính khác đã bị cụt
chân trong khi đang ngủ gác chân lên bệ cửa sổ lán y tế do bị đạn pháo
không giật 57mm xuyên qua đúng chân. Mới sáng nay anh ta còn nhẩy tưng
tưng. Anh lính bị cụt chân vừa mếu máo khóc lóc, vừa than thở không có
chân thì làm sao sống được. Nhưng chúng tôi không thể chỉ ngồi nhìn anh
ta than vãn, bởi vì trước mắt còn có những trận đánh mới.
Tôi đã cho bắn khoảng 1000 quả đạn cối vào nơi nghi ngờ là trận địa
pháo của quân giải phóng. Sáng sớm hôm sau tôi cho pháo bắn ra xa hơn
và cùng bộ binh đi lùng sục. Nhưng mưu trí của quân giải phóng lại một
lần nữa khiến tôi kinh ngạc. Để chống lại trận phản pháo của chúng tôi,
họđã ẩn nấp vào trong những căn hầm chữ T được đào bên cạnh những giao
thông hào cớ từ thời đánh Pháp. Và tới sáng họ mới rút khỏi nơi này.
Cho đến bây giờ tôi vẫn giữ mảnh đạn pháo rơi trúng chiếc bàn chữ T làm
kỷ niệm.
PHẦN 4
Quốc lộ 1 là con đường rải nhựa nối giữa Sài gòn và Hà nội.
Căn cứ của đại đội nằm cách Quốc lộ 6 km về phía cao nguyên và được nối
với quốc lộ bằng một con đường đất. Con đường này là nơi tôi thường
xuyên đi lại.
Một hôm, tiểu đoàn trưởng ghé thăm và nói đại đội đã lập nhiều chiến
công nhất nên có gì khó khăn cứ thẳng thắn đề xuất. Nghe tôi nói là
cần một chiếc xe Jeep, ông ta liền nhấc ngay điện thoại về sở chỉ huy
yêu cầu cử một chiếc xe khác đến để đưa ông ta về, còn chiếc xe ông ta
đang đi để lại cho tôi. Thế là tôi tự nhiên lại có một chiếc xe Jeep,
mặc dù chức vụ mới là đại đội trưởng.
Nhưng tai ương cũng từ đó bắt đầu đến với chiếc Jeep của tôi. Những
quả mìn chống tăng được rải trên đường thường xuyên đùa giỡn với tình
mạng của tôi. Trong thời gian phục vụ 10 tháng tại đây, các đại đội
khác đã có 18 người chết và 40 người bị thương trên con đường này. Cũng
trong thời gian này 1 xe làm đường, 3 xe bọc thép, 1 xe GMC và 3 xe
khác của quân VNCH đã bị phá huỷ. Vì vậy tiểu đoàn đã ra lệnh đóng cửa
con đường này và dùng trực thăng để tiếp tế cho đơn vị. Nhưng tôi phản
đối là dù bất cứ trong điều kiện nào tôi vẫn sẽ sử dụng con đường này.
Việc tôi muốn được dùng xe Jeep mà mãi tôi mới có được đã khiến tôi bảo
vệ ý kiến này.
Những quả mìn bằng thuốc nổ TNT được Việt Cộng chế tạo rất tinh vi.
Điều làm tôi ngạc nhiên là ý tưởng sử dụng trọng lực của xe đi qua để
nối cực âm và dương của pin để kích nổ mìn. Để chống lại đối phương trên
con đường này, tôi thường xuyên thay đổi vị trí phục kích nhưng thường
thất bại. Trong các tài liệu thu giữ được có ghi lại là quân giải
phóng đã làm được khoảng 300 kg mìn TNT và 100 quả lựu đạn.
Không biết tự bao giờ các đường dây điện thoại nối đại đội với các
trận địa thường xuyên bị mất cắp. Để tìm hiểu xem ai đã gây nên chuyện
này, tôi đã cho gài mìn lên đường. Nhưng ngoài dựđoán của tôi, khi mìn
nổ thì không phải là VC mà là một đứa trẻ chăn trâu. Thật là kỳ lạ.
Phải chăng nó cũng là VC?
Chúng tôi tìm mọi cách để tìm ra nơi đặt mìn, thậm chí phun cả dầu
phế thải ra mặt đường để làm cho mặt đường đen đi và khi VC đào đất đi
để đặt mìn sẽ làm thay đổi màu đất. Cũng có khi chúng tôi dùng cả chổi
quét để tìm ra dấu tích của mìn TNT. Cũng có vài lần tôi đã phát hiện
được ra mìn. Một lần tổ trinh sát báo về đã phát hiện một dây điện màu
vàng trong lòng đất. Thế là tôi đến ngay hiện trường và dùng dao đào
đất theo hướng của sợi dây đó. Sau một hồi quả mìn cũng hiện ra. E rằng
cạnh mìn TNT còn có mìn vướng nổ khác gài lại nên tôi đã dùng dây buộc
quả mìn đó và sau khi ra xa 30 m đó thế nào cũngcó một quả TNT khác gài
cùng. Vì vậy tôi đã ra lệnh cho binh lính dò xét thật kỹ khu vực đó.
Đúng là họ đã phát hiện ra một quả TNT khác. Tôi ra lệnh cho binh lính
tránh xa khỏi khu vực khoảng 30 m và sau đó ném một quả lựu đạn, định
dùng sức nổ của lựu đạn để kích nổ quả TNT. Đúng là một suy nghĩ ngớ
ngẩn. Và quả lựu đạn cũng không trúng đích.
Sau khi đặt lựu đạn lên tôi có khoảng 3 giây để chạy, và ngay khi
tôi vừa kịp nằm sấp xuống bờ ruộng thì một tiếng nổ lớn của quả lựu đạn
và 40 kg TNT phát ra cùng với cát bụi bay rào rào về phía bờ ruộng nơi
tôi nằm. Một cột khói bụi bốc cao lên tận trời, còn con đường thì gần
như bị đứt làm đôi. Lúc đó tôi tự thấy là mình quá liều lĩnh. Vụ việc
xảy ra lớn nhất trên con đường đó là việc mìn TNT đã giết 5 lính và làm
bị thương 15 lính khác của đại đội 19. Lần đó tôi đã nổi cáu với chỉ
huy tiểu đoàn. Nguyên nhân mà họ xuất quân là ngày hôm trước quân giải
phóng đã bắn 5 phát B40 vào sân bay Phù Cát. Mà sân bay Phù Cát là sân
bay của quân Mỹ. Sau khi bắn xong, ngay trong đêm đó họ đã rút, việc
xuất quân lùng sục chẳng qua là muốn xun xoe với quân Mỹ thôi. Cuối
cùng thì trò hề đó kết thúc với một thiệt hại to lớn. Khi đi lại trên
con đường này tôi không bao giờ giao tay lái cho lính lái xe vì sợ
chẳng may lại đúng phải mìn. Vì thế tôi luôn tự cầm tay lái. Tôi có một
cách lái xe đặc biệt mỗi khi đi qua con đường này: không bao giờđi vào
giữa điểm, mà lần thì đi sát vào bên trái, lần thì đi sát vào bên phải
đường. Vào mùa khô khi ruộng không có nước tôi đi cả xuống ruộng. Tức
là không theo một quy tắc nào cả. Lối lái xe đó là sự đảm bảo cho tính
mạng của tôi. Nhờ đó mà chiếc Jeep của tôi an toàn. Thậm chí có lúc có
chiếc CMG đi theo ngay phía sau lại trúng mìn làm 3 lính chết trong khi
xe tôi đi qua an toàn. Đây chẳng khác nào một trò chơi chết người. Tất
nhiên mỗi khi đi qua con đường đó tôi cũng chẳng được yên tâm, luôn
phải nhấp nhổm căng thẳng với mặt đất dưới bánh xe. Tôi cũng nhiều lần
lái xe như tên bắn trên con đường đó với suy nghĩ nếu chẳng may có đụng
phải mìn thì sau khi xe chạy qua mìn mới kịp nổ. Mỗi lần như vậy là
tôi lại được nếm thử mùi vị căng thẳng tột độ.
Sau khi tôi về nước, trên con đường đó đã xảy ra một sự kiện bi thảm
làm chết 9 người và bị thương nặng 3 người của đại đội. Quân giải
phóng đã không chôn mìn TNT trên đường nữa mà đã chôn đạn pháo 155mm
bên rìa đường, khi xe đi qua thì dùng máy kích nổ của mìn Clâymo cho
nổ. Rõ ràng mục tiêu là nhằm vào chiếc Jeep đi lại không có quy tắc gì
của tôi. Đây là một ví dụ cho thấy quyết tâm của những người lính phía
bên kia mãnh liệt đến mức nào. Dù sao tôi cũng đi qua con đường đó một
cách bình yên vô sự.
Phần 11 và 12 của cuốn hồi ký này có chung một nội dung: nói về tinh
thần yêu nước của người Việt Nam. Hai phần này khá ngắn lại có chung
một chủ đề nên tôi ghép làm một. Tiêu đề phần này do tôi tự đặt.
Đến làng Việt Cộng
Con người không ai có hai mạng sống. Nhưng trên chiến trường tôi đã
hành động như là mình có những hai mạng vậy. Tôi gần như là đã đánh bạc
với mạng sống của mình bằng những hành động thiếu suy nghĩ và ngu
xuẩn. Không phải là tôi dũng cảm hơn người mà do tôi đã điên rồ cho
rằng mình không thể chết được. Và đồng thời tôi cũng muốn làm một điều
gì đó ra trò trước mặt binh lính.
Một hôm tôi dẫn một lính liên lạc và một lính dân sự cùng vượt qua
cầu tự do, nơi có trạm kiểm soát cuối cùng, để đi về hướng bắc. Đại đội
trưởng đại đội 7 làm nhiệm vụở cầu đã can tôi đừng có đi vào khu vực
Việt Cộng kiểm soát với 3 người. Điều đó quá nguy hiểm. Nhưng tôi vẫn
giữ nguyên ý định và vượt qua cầu.
Sau khi vượt qua cầu, chúng tôi bỏ lại chiếc xe Jeep bên đường rồi
vượt qua khu làng được coi là thuộc quyền kiểm soát của quân giải phóng
tới núi ở phía bắc. Sau khi đi một hồi, quay lại nhìn ngôi làng chúng
tôi phát hiện có 4 người trong trang phục đen có trang bị súng xuất
hiện. Tôi hỏi tên lính dân sự: “đó chắclà VC hẳn?” Anh ta trả lời “cũng
cóthể là bọn dân vệ” và hét to gọi những người kia. Lập tức họ bắn về
phía chúng tôi và biến mất vào trong làng. Chúng tôi cũng lập tức bắn
trả lại. Tôi ngắm bắn vào những bóng áo đen đó, nhưng ở khoảng cách 150
m thì khó mà trúng được. Nhưng đạn của chỉ huy bao giờ cũng phát sáng
nên sau khi bay không trúng đích nó đã trúng vào mấy ngôi nhà làm chúng
bốc cháy. Đây chính là tín hiệu cho quân giải phóng biết là chúng tôi
đã vào tận căn cứ của họ.
Ngay lập tức chúng tôi nhanh chóng quay về. Hai người bắn, một người
bò. Đây cũng là lần đầu tiên kể từ khi tham chiến tôi phải bò. Chúng
tôi phải làm sao thật nhanh ra được quốc lộ 1 và quay về phía cầu.
Rồi chúng tôi cũng bắt đầu nhận ra thấp thoáng những chiếc mũ sắt
của quân Hàn quốc canh đường sắt song song với quốc lộ. Đó là tổđi cứu
tôi của đại đội 7 sau khi nghe tiếng súng nổ. Chắc là họđã nghĩ tôi là
một đại đội trưởng ngớ ngẩn không biếtgì về nguyên tắc chiến đấu. Sau
đó tôi đã cùng với 1 trung đội của đại đội7 đi lùng sục ngôi làng đó.
“VC chạy ra khỏi ngôi nhà nào?”. Tôi hỏi
Nhưng tất cả người trong làng đều trả lời không biết. Tôi liền bắn
vào chân một người đàn ông. Những hành động ngớ ngẩn của tôi không dừng
lại ởđây. Một hôm 1 trong 3 đội lính dù được cử đến trợ chiến cho đại
đội được phái đi phục kích ở gần làng Thuần Phong liên lạc về là những
đứa trẻ chăn trâu đã để trâu vào làm nổ mất bãi mìn Clâymo. Đây làkhu
vực mà trước đó một trung đội của tôi đã từng bị bao vây và tôi đã từng
trực tiếp dẫn lính đi giải vây. Tất nhiên là tôi rất bực tổ lính dù đó
đã để cho bọn trẻ chăn trâu phát hiện. Tuy nhiên tổ phục kích đó có
thể bị bao vây và cũng vì tôi vốn luôn nghi ngờ bọn trẻ chăn trâu nên
tôi đã cối bắn khoảng 1 phút vào khu vực đó. Vậy là những người dân vô
tội có thói quen đi vệ sinh ở ngoài vào sáng sớm đã bị trúng đạn pháo.
Ngày hôm sau khoảng 200 người trong làng khiêng theo 9 người bị thương
nặng kéo đến đại đội biểu tình.
Tinh thần đấu tranh của người phụ nữ Việt Nam
Ngưòi VN có câu “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Tinh thần đó đã
được kế thừa thường xuyên suốt chiều dài lịch sử VN. Theo điều tra thì
trong khu vực trách nhiệm chiến thuật của đại đội tôi luôn có 4 cô gái
làm nhiệm vụ trinh sát cho Việt Cộng. Những cô gái xinh đẹp này ăn mặc
khá đẹp. Khi một trung đội bắt được một người trong sốđó trong trận
phục kích, dân làng đã kéo đến biểu tình và nói rằng cô gái đó là dân
lương thiện. Nhưng gia đình thật sự của cô gái đó lại không thấy xuất
hiện. Điều đó có nghĩa là gia đình cô ta đang ở trong núi, và cô ta có
quan hệ với quân giải phóng.
Trong khi phục kích ở núi Đầu Voi, đại đội tôi cũng đã nhìn thấy một
cô gái trong chiếc áo dài đỏ đi ngang qua. Lúc đó tại khu vực đang có
chiến dịch quy mô lớn với tên gọi “Mãnh hổ”. Và chắc chắn trong khu vực
núi đó có căn cứ của quân giải phóng. Binh lính do mong chờ cô gái
xinh đẹp tuyệt vời đó sẽ quay lại con đường này dẫn theo VC nên đã để
cho cô gái cứ thế đi qua.
Nhưng cuối cùng thì cả người đẹp đó lẫn VC đã chẳng xuất hiện. Thế
là chúng tôi đã mất cả chì lẫn chài. Binh lính đã tỏ ra rất tiếc rẻ khi
phải cho cô gái xinh đẹp đó đi qua theo lệnh của đại đội trưởng. Tất
nhiên là tôi cũng thấy tiếc. Cô gái mà chúng tôi bắt được rõ ràng là đã
bị bắt trong khi dang ở khu vực hoạt động của VC nhưng vẫn một mực kêu
là dân bình thường. Binh lính đã lột quần áo cô ta, nhốt vào căn cứ
trên điểm cao 166.
Sau khi tôi về nước, quân giải phóng đã dụ đại đội tôi vào ổ phục
kích và tiêu diệt một trung đội. Người đảm đương nhiệm vụ kéo cả đại
đội tôi vào ổ phục kích cũng là một cô gái. Lúc cả đại đội hô “Bắt tên
Việt cộng gái kia” và đuổi theo cũng là cả đại đội rơi vào ổ phục kích.
Một trung đội đã tử trận.
Tinh thần đấu tranh kiên cường vì độc lập, tự do của Tổ quốc của
người phụ nữ VN cóthể ví như bản năng bảo vệ con cái. Lần đầu tiên Việt
Nam nổi lên chống lại thế lực thống trị nước ngoài, ngưòi lãnh đạo
cuộc nổi dậy đó là hai người phụ nữ tên là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Hai
Bà Trưng đã được tưởng nhớ cho đến tận ngày nay, và tên tuổi họđã được
đặt cho các đường phốở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố
lớn khác của Việt Nam. Những người phụ nữđã từng thấy khi tham chiến ở
Việt Nam đều là những người đã kế thừa tinh thần quật cường đó của dân
tộc.
PHẦN 5
Tham chiến ở VN, chúng tôi lấy biện pháp giết người đáng lên án nhất
để làm cân bằng tâm trạng mệt mỏi, sợ hãi, buồn nản, đói khát, cô đơn
luôn chế ngự.
Điều chi phối tinh thần binh lính
Một lần có một lính vốn nhát gan đã tưởng nhầm quả dừa là đầu quân
giải phóng nên bắn loạn cả lên và làm các binh sĩ khác hoảng sợ. Và họ
đã phải chiến đấu với những quả dừa trong suốt mấy giờ liền. Một lần
khác một lính gác nhát gan khác cũng đã bắn nhầm. Do đó toàn bộ đại đội
đã tập trung bắn vào khu vực xạ kích của mình. Vào những lúc như thế
này mệnh lệnh ngừng bắn cũng khó mà thực hiện được. Chỉ cần nỗi sợ hãi
lan ra là tình trạng sẽ trở nên không thể nào kiểm soát được.
Tính ác của con người cũng không khác nỗi sợ hãi là mấy, chỉ cần bị
cái ác chi phối một lần là khó mà thay đổi được. Tất cả đều sẽ trở
thành những người cổ vũ, ca ngợi cái ác. Vì vậy mà trên chiến trường
chúng tôi mới có những hành vi không thể nào hiểu nổi. Đã bắn giết bằng
những cách dã man rồi lại còn hành thạ thi thể của phía bên kia nữa.
Binh lính Hàn quốc đã từng lật thi thể những người lính giải phóng để
tìm kiếm vật dụng cá nhân, và nhổ cả những chiếc răng trong miệng xác
chết nữa. Thậm chí còn lấy cả nịt ngực trên thân thể của những người
phụ nữ đã chết. Đó là bản năng tàn ác của loài cầm thú đã nhập vào
chúng tôi.
Chúng tôi đã chiến đấu vì cái gì?
Một đại đội trưởng đóng quân gần căn cứ đã nói với tôi, một người
chỉ biết có chiến đấu, sục sạo và phục kích rằng: “Mày chiến đấu vì ai
chứ?”. Đây cũng là suy nghĩ của rất nhiều lính Hàn quốc tham chiến ở VN
thời đó. Đối với họ, chiến tranh VN chẳng qua là cuộc đánh lộn ở nhà
người, vì vậy chỉ cần kiếm được chút tiền và vượtqua 1 năm an toàn là
được. Tất nhiên là tôi từ chối sự nhàn hạ này và cố gắng hết sức để
hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng dù sao thì tất cả họ, người luôn tìm Việt
Cộng để giao chiến hay người luôn phải giao chiến với VC, đều không
hiểu rõ ràng về lịch sự VN. Chiến đấu ở VN và chiến đấu ở trong nước là
hai sự việc hoàn toàn khác nhau. Lính Hàn quốc tham chiến ở VN không
biết mình chiến đấu vì ai, vì mục đích gì. Họ chẳng có nhân duyên sâu
sắc gì với VN, họ cũng chẳng có thâm thù gì với VN. Muốn tạo ra một
danh nghĩa gì đó cho binh lính thì cũng chẳng qua là hô “ngăn chặn làn
sóng CS” trên thế giới mà thôi. Nhưng điều này lại khó lọt tai họ.
Những người lính chỉ có thể chiến đấu khi họ biết rõ mình đang sống
và chết vì cái gì. Vì vậy làm sao họ có thể bỏ mạng tại một nơi chiến
trường cách xa quê nhà, với một đối phương nghèo về vũ khí nhưng cực kỳ
dũng cảm như vậy được.
Ở đâu đó , người lính Hàn quốc có thể còn chiến đấu vì lòng căm thù,
vì tín ngưỡng... Nhưng ở nơi này, không có bất cứ một biện pháp hữu
hiệu nào để đưa những cái đó vào đầu họ. Những binh lính tham chiến ở
VN đều do mệnh lệnh cấp trên hoặc vì mấy đồng lương thưởng. Hơn nữa
trong lòng người dân VN tràn đầy lòng căm thù quân đội ngoại quốc đến
xâm lược nước họ.
Biệt hiệu của tôi là “tướng cướp rừng xanh”. Binh lính tin tưởng
tôi. Những người lính không vượt qua được chính mình nơi đất khách quê
người này rất dễ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng tâm lý.Vì vậy mà tôi
thường xuyên dùng thể thao, trò chơi, lùng sục, phục kích, trinh sát,
lao động, huấn luyện để kéo mình ra khỏi cô đơn và đem lại sự cân bằng
nhất định.
Bộ phận điện báo AIU từ đơn vị cấp trên liên tục chuyển đến cho
chúng tôi tin tức về 4 chuyên gia quan Bắc Triều Tiên đến VN để huấn
luyện cho 400 quân giải phóng về cách tiêu diệt một đại đội quân Hàn
quốc. Và đại đội của tôi được cho biết sẽ là đối tượng thực hành của kế
hoạch này. Phía quân Hàn quốc thì sưđoàn trưởng đã trực tiếp xuống tận
đại đội để chỉ thị cách đối phó.
Trên cao điểm 166, cách căn cứ của đại đội khoảng 1km, có một trung
đội độc lập của đại đội đóng quân. Vị trí của đại đội nằm án ngữ trước
căn cứ 226, một căn cứ chủ yếu của đối phương. Đại đội tôi đã dùng các
loại pháo 105 đến 155mm pháo kích mãnh liệt vào khu vực từ cao điểm 166
cho đến thung lũng. Từ “pháo kích tầm xa”, “pháo kích cuối cùng”,
“pháo kích căn cứ”, đều được mang ra áp dụng.
Sưđoàn trưởng và tôi đang theo dõi trận pháo kích đó trên điểm cao
166 thì bỗng nhiên thấy đạn pháo rơi ngay trên đầu. Chúng tôi không thể
ngờ rằng pháo binh đã dùng cả “pháo kích căn cứ” trong trận này. Sư
đoàn trưởng đã phải nằm bẹp xuống đất dưới làn đất đá, không ngẩng đầu
lên. Việc “pháo kích căn cứ” này là do ý của tôi. Tháng trước đại đội
đã chết một và bị thương hai lính trong một trận pháo kích của đối
phương. Sưđoàn trưởng đã lập tức tới thăm đơn vị chúng tôi. Tất nhiên
chúng tôi cho rằng sưđoàn trưởng đến để hỏi thăm và khích lệ. Vừa ngồi
xuống một cái là ông ta đã nói: “Cái bọn bệnh hoạn này”. Ông ta đã chửi
mắng vì chúng tôi đã bất cẩn trong tiếp đón nhưng ông ta đã không hề
nghĩ gì đến những người lính không biết sống chết lúc nào. Tất nhiên
một người chỉ quen với việc đón tiếp long trọng ở hậu phương có thể
không hài lòng với cách đón tiếp của một đơn vị chiến đấu. Việc một cấp
chỉ huy mắng chửi thuộc hạ của mình vì một lỗi không có gì đặc biệt
như thế là hoàn toàn không đúng.
Việc tôi cho pháo kích căn cứ chính là một kiểu kháng nghị, một kiểu
biểu tình vũ lực. Việc này cũng là ý muốn của toàn đơn vị và đồng thời
cũng được thoả thuận trước với pháo binh. Sau này trước khi hết hạn
phục vụ tại VN, tôi cũng đã kiến nghị với tiểu đoàn trưởng xin được
đánh một trận quyết định với 400 người được quân Bắc Triều tiên huấn
luyện trong khu căn cứ A Nội. Đó là thời điểm 1 tuần trước khi tôi lên
đường về nước. Tiểu đoàn trưởng đã khuyên tôi hãy lên đường về nước cho
an toàn, chẳng may có chuyện gì thì làm sao còn trông thấy mặt vợ ở
nhà.
Khi còn học ở trường sĩ quan lục quân, tôi và tiểu đoàn trưởng cùng
là thành viên của đội bóng bầu dục nên chúng tôi rất hiểu nhau. Tất
nhiên tiểu đoàn trưởng cũng biết rất rõ vợ tôi, người luôn có mặt trên
sân vận động mỗi khi có trận đấu. Tôi đã giải thích cho đại đội biết là
trong rừng đang có quân Bắc Triều tiên và ra lệnh cho đại đội chuẩn bị
một trận đánh kéo dài 4 ngày 3 đêm. Chúng tôi rời căn cứ kéo vào thung
lũng A Nội. Nhưng một tình huống đã phát sinh ngoài dựđoán của chúng
tôi. Trên đường hành quân chúng tôi đã gặp phải một đầm lầy. Trong bóng
đêm dày đặc chúng tôi không thể biết đầm lầy đó sâu rộng ra sao. Điều
này đã khiến tôi lúng túng. Hơn nữa trong đêm, tiếng lội bì bõm vượt
qua đầm lầy nghe chẳng khác nào tiếng thác đổ, và điều này sẽ làm cho
đối phương trong thung lũng phát hiện ra. Lúc đó trong đầu tôi đã nghĩ
tới chuyện nếu chẳng may đụng đối phương thì có lẽ đây là trận đánh
cuối cùng của chúng tôi.
Mặc dù tôi liên tục dùng vô tuyến điện ra lệnh cho đại đội không
được phát ra tiếng động, nhưng tình hình lúc đó đã hoàn toàn không thể
kiểm soát nổi. Tôi ra lệnh cho các trung đội trưởng không được tiếp tục
tiến nữa, tất cả dừng lại và từng trung đội một sẽ vượt đầm lầy. Nhưng
binh lính của tôi không còn muốn nghe lệnh nữa mà chỉ muốn sao thoát
ra khỏi đầm lầy ngập đến ngực này càng nhanh càng tốt. Tôi liền ra lệnh
người nào để phát ra tiếng động sẽ bị bắn ngay lập tức, nhưng tiếng
động mỗi lúc một to hơn. Có lẽ đối phương đã không thể tưởng tượng được
là quân Hàn quốc, đội quân thường sử dụng trực thăng để di chuyển
trong những cự ly như thế này, lại có thể vượt đầm lầy trong đêm, và
gần sáng thì tiếp cận được với điểm cao 100 nằm ngay giữa thung lũng.
Trên cao điểm có một vị trí mà từđó có thể quan sát được toàn bộ
thung lũng. Tôi đã lên đó để quan sát tình hình xung quanh. Tôi đã nhìn
thấy những làn khói bếp nấu cơm sáng bay lên khắp nơi, sâu trong thung
lũng. Tại đây không hề có một khu dân cư nào nên có thể chắc chắn rằng
có một đơn vị khá lớn của quân chính quy VC đang giấu mình trong đó.
Tôi đã gọi pháo 155mm và hướng pháo vào những nơi có khói bốc lên đã
được tôi đánh dấu trên bản đồ. Tại chỗ chúng tôi cũng pháo kích bằng
cối 81mm. Trong giây lát làn khói bếp trong thung lũng đã được thay
bằng khói đạn pháo mù mịt.
Nhưng không như mong muốn, “trận quyết chiến cuối cùng” đã không đạt
được kết quả mong muốn. Tất nhiên là đối phương sẽ bị thiệt hại trong
trận pháo kích đó, nhưng chúng tôi không thể nhìn tận mắt. Đáng ra
chúng tôi phải tiêu diệt đối phương bằng cách phục kích trên đường di
chuyển chứ không phải bằng pháo kích. Sau khi bị đạn pháo bắn chính
xác, có lẽ quân giải phóng đã nhận ra rằng quân Hàn quốc đã xâm nhập
vào thung lũng. Vì vậy họ bắt đầu phái từng người một ra trinh sát ở
thung lũng. Nếu bị đối phương phát hiện thì phần bất lợi sẽ thuộc về
chúng tôi. Đối phương biết quá rõ về địa hình trong thung lũng và biết
cách phải phòng thủ thế nào. Nhưng đối với chúng tôi, thung lũng lại là
một địch thủ mới và nếu bị bao vây thì chúng tôi sẽ rơi vào tình thế
tiến thoái lưỡng nan, không có phần thắng.
Đối phương đã phái người ra trinh sát ngay trước mắc các trung đội
của tôi, những người đã lập nên trận địa phục kích ngay trong thung
lũng. Tình hình lúc này đòi hỏi phải xem xét một cách thận trọng việc
có tiếp tục trận đánh nữa hay không. Cuối cùng tôi đã hướng dẫn pháo
bắn thêm một lúc nữa và quyết định cho đại đội rút lui. Tôi đã cố gắng
để có một trận quyết chiến cuối cùng, nhung thật tiếc kết quảđã là
không.
Sự chuẩn bị của quân giải phóng rất tỉ mỉ. Họđã chuẩn bị quyết chiến
tại ngôi làng nằm bên cạnh căn cứ của đại đội và cũng là nơi tôi hay
đi lại mà không đem theo súng. Trong ngôi làng này có một cô gái xinh
đẹp tên là Hiệp, là con gái một gia đình Việt Cộng. Thỉnh thoảng tôi có
ghé nhà này. Và VC đã lập trận địa phục kích chính tại nơi đó. Họ đã
vào đây, chuẩn bị trận địa trong đêm và rút đi trước khi trời sáng sau
khi đã ngụy trang trận địa, cứ như vậy liên tục trong một tuần. Kế
hoạch của họ dùng khoảng 200 quân lập một trận địa phục kích và sau đó
dụ đại đội 11 vào để tiêu diệt. Sau này qua lời kể của binh nhất Pak
Chang Soon, tôi có thể tưởng tượng ra trận đánh đó. Trong quyển nhật ký
chiến đấu của anh ta đã ghi lại như sau:
“Chúng tôi đã bị lừa vào trận địa phục kích. Anh lính điện đài bị
trúng đạn ngay khi vừa định đánh điện về. Viên hạ sĩ quan cũng bị bắn
gục. Anh lính điện đài đang nhảy tưng tưng vì đạn bị bắn trúng mặt.
Phân đội trưởng phân đội 1 không còn nghĩ gì đến việc bắn súng nữa mà
quay sang cầu nguyện cho các đội viên, anh ta cũng bị trúng đạn và chết
trong lúc đang cầu nguyện. Còn phân đội trưởng của tôi, người cũng bị
bắn giữa mặt thì đang xả đạn loạn xạ lên các cây dừa. Tôi bồng nghe
thấy tiếng kêu “nước, nước” và quay lại thì thấy Chang Man đã hấp hối
vì bị đạn trúng cổ. Tôi lấy khăn ướt đắp lên mặt cho anh ta và tiếp tục
nổ súng. Tôi có cảm giác như mình đang ở trong một bộ phim cao bồi
miền Tây.
Sau một lúc thì tôi hết đạn. Trong khoảnh khắc hình ảnh vợ con và
quê hương hiện lên trong mắt tôi, và tôi khóc. Thấy lựu đạn ném về phía
mình, tôi liền nhỏm dậy và chạy, nhưng ngay lập tức bị ngã vì vấp phải
xác của đồng đội. Tôi nghe thấy tiếng chân ngày càng tiến gần về phía
mình, tôi gọi thầm tên con gái “Jong Nye ơi” thì một nòng súng hướng về
đầu tôi bóp cò. Nhưng thật may mắn là viên đạn đã không trúng đầu mà
chỉ xuyên thủng vai bên trái. Vừa hay lúc đó pháo của quân ta bắt đầu
bắn đến.
Khi tôi tỉnh lại thì thấy mình đã bị lột hết quần áo. Thay vào đó là
tôi bị cát bụi do đạn pháo phủ kín người. Tôi đứng dậy đúng lúc đó đạn
pháo lại bay đến. Lợi dụng lúc này tôi chạy thục mạng về phía ngược
lại. Sau một hồi tôi thấp thoáng thấy bóng mũ sắt của quân Hàn. Khi tôi
mở mắt ra thì đã thấy mình nằm trong bệnh viện. Đội trưởng đội an ninh
và sĩ quan y tế đến bên tôi và yêu cầu kể lại chi tiết trận đánh. Lời
đầu tiên của tôi là: “tất cả đã chết”".
Binh nhất Pak Chang Soon là người duy nhất sống sót hôm đó. Ngay lập
tức quân Hàn quốc đã huy động một tiểu đoàn quân đi phục thù, nhưng
không gặt hái được kết quả gì. Quân Hàn đã bao vây kín khu vực đó,
nhưng chỉ có lực lượng thiết giáp của quân Hàn bị thiệt hại bởi đạn B40
của đối phương mà thôi. Đêm hôm đó 200 quân giải phóng đã lọt qua vòng
vây và rút lui nhẹ nhàng về núi Đầu Voi.
PHẦN 6
Ở nơi sự sống và cái chết đan xen nhau, tâm lý của con người rất dễ
bị kích động. Việc biết trước được hành động của đối thủ là một năng lực
để tồn tại. Nhưng ở trong chiến tranh thì chỉ như vậy thôi thì chưa
đủ. Đặc biệt ở người chỉ huy cần thêm một giác quan nữa. Không biết
phải gọi cái đó là gì nhỉ? Nhục cảm hay linh cảm? Những “chiến công” mà
đại đội tôi lập được phần lớn là nhờ vào linh cảm của tôi.
Có một điều lạ là mỗi khi ở các đại đội khác của tiểu đoàn 1, sưđoàn
Mãnh hổ xảy ra chuyện thì đại đội của tôi lại lập chiến công. Vì thế
mà trên sưđoàn hay nghi ngờ chúng tôi báo cáo sai sự thật. Một hôm đại
đội tôi báo cáo thành tích lên sưđoàn, ngay lập tức một sĩ quan thanh
tra của sưđoàn đáp trực thăng tới với một dáng điệu rất oai vệ. Ông ta
đến thăm sự thật với một thái độ hết sức ngạo mạn.
Tôi đã đón ông thiếu tá đó với một ánh mắt đầy căm thù và tức giận.
Đối với tôi, những người trên bộ tư lệnhlà những kẻ chỉ biết ngồi trên
bàn giấy mà ăn cắp chiến công và kiếm tiền. Xác của VC được để trong
một góc của đại đội. Viên thiếu tá tham mưu đó có vẻ hơi rờn rợn. Với
vẻ ngượng ngùng ông ta không nói được câu nào, lên máy bay về thẳng
sưđoàn.
Nguyên nhân là do tôi đã dựđoán được VC sẽ xuất hiện nơi nào để lập
công. Lúc đầu khi nghe tôi ra lệnh mai phục trong khu làng tái định cư,
hay trong các ngôi nhà đổ nát, lính của tôi thường tỏ ra không phục.
Nhưng khi những suy đoán đó đúng chẳng khác nào lời sấm truyền thì họ
bắt đầu tỏ ra tin tưởng vào tôi.
Các đại đội khác không mấy khi bị quân giải phóng pháo kích trực tiếp, nhưng đại đội tôi đã bị pháo kích tới6 lần. Bộ đội chủ lực thường dùng những quả đạn pháo được vận chuyển từ Hà nội vượt qua hàng ngàn km để bắn vào những mục tiêu quan trọng như sở chỉ huy hoặc sân bay. Vì vậy việc họ pháo kích vào căn cứ của đại đội chứng tỏ họ rất muốn tiêu diệt đại đội 11 của tôi.
Các đại đội khác không mấy khi bị quân giải phóng pháo kích trực tiếp, nhưng đại đội tôi đã bị pháo kích tới6 lần. Bộ đội chủ lực thường dùng những quả đạn pháo được vận chuyển từ Hà nội vượt qua hàng ngàn km để bắn vào những mục tiêu quan trọng như sở chỉ huy hoặc sân bay. Vì vậy việc họ pháo kích vào căn cứ của đại đội chứng tỏ họ rất muốn tiêu diệt đại đội 11 của tôi.
Một số sĩ quan và binh lính nghĩ rằng quần lót của phụ nữ có thể bảo
vệ sinh mạng cho bản thân nên mỗi khi ra trận là họ lại nhét vào balô
một chiếc quần lót phụ nữ. Những ca sĩ hoặc diễn viên nổi tiếng mối khi
sang biểu diễn động viên binh lính thường hay đem theo rất nhiều quần
lót để chia cho các binh lính.
Và tôi cũng nhận từ một nữ ca sĩ một chiếc. Nhưng đúng hôm đó, một
lính của tôi bị tử trận nên tôi đã đem ngay chiếc quần đó đi đốt. Một
chiếc quần phụ nữ làm sao có thể bảo vệ sinh mạng cho con người. Linh
cảm của người chỉ huy sẽảnh hưởng tới sự an toàn của toàn bộ đơn vị và
tất nhiên linh cảm của mỗi cá nhân binh lính sẽảnh hưởng tới an toàn
của họ. Vì vậy các thuộc hạ của tôi đưa ra rất nhiều yêu cầu.
-Thưa đại đội trưởng, hôm nay em thấy khang khác thế nào ấy. Xin phép cho em nghỉ buổi phục kích hôm nay.
-Hôm nay em có cảm giác chẳng lành tí nào. Hay là ngày mai hãy cho em đi lùng sục.
Rặt một kiểu như vậy.
Một hôm, một lính dân sự tên là Kim I Kon, người luôn đi theo tôi làm nhiệm vụ phiên dịch, đến và xin tôi:
-Thưa đại đội trưởng, đại đội trưởnglà người sẽ không bao giờ bị
chết đâu. Nhưng em có cảm giác sẽ bị giết trong khi đi theo đại đội
trưởng. Xin hãy cho em về nước sớm.
Thấy lời nói của anh ta cũng có lý nên tôi đã cho phép anh ta được
về nước sớm. Người đến thay anh ta mỗi khi sắp phải cùng tôi đi đến
những nơi nguy hiểm thường nước mắt lưng tròng ôm lấy chân tôi van xin.
Và tôi luôn từ chối yêu cầu đó. Một trung uý phụ trách vũ khí tên là
Seol Jong Book, khi tôi kết thúc thời hạn về nước đã năn nỉ xin cho
được chiếc mũ cao bồi mà tôi thường vẫn đội.Anh ta nói rằngtôi có thể
sống sót mà ra khỏi được nơi nguy hiểm là nhờ vào phép lạ trong chiếc
mũ đó. Không thể từ chối trước yêu cầu thiết tha của viên trung uý, tôi
đã cho lại anh ta chiếc mũ cao bồi đó trước khi về nước.
Những chiến hữu đã cùng vào sinh ra tử với tôi trong chiến tranh VN
đã lập ra "hội Mãnh hổ" và gặp nhau định kỳ một năm hai lần. Rất nhiều
người trong chúng tôi vẫn phải chịu thương tật sau chiến tranh, người
thì bị cụt cả hai chân, người bị mất một tay, người bị mất cằm, người
phải sống với những mảnh đạn trong cơ thể.
Tất cả đều không trùng họ, trùng tên và mỗi người cũng làm những
công việc khác nhau nhưng chúng tôi có cùng một điểm chung là đã gặp
nhau ở VN. Chính điều này đã gắn kết chúng tôi với nhau. Đến đây là nơi
chúng tôi vứt bỏ hết những vui buồn của cuộc sống đời thường.
Một lần hội chúng tôi tổ chức đi du lịch đảo Cheju, mang cả vợđi
theo. Tại đó tôi đã được thấy các chiến hữu cũ, người thì đang nhảy với
chiếc nạng bên hông, người khác bị cụt tay phải nên đang dùng tay trái
nắm lấy micro và hát. Những người vợ bên cạnh thì vừa nhảy vừa hát và
vừa giúp đỡ họ. Những người vợđó đã trở thành người trông nom chăm sóc
chồng của mình suốt đời. Tôi đã phải cố nén cảm xúc. Để an ủi tôi, họ
đều nói họ không phải bị thương trong thời gian ở VN.
Mỗi khi chúng tôi gặp nhau là chuyện chiến tranh lại tuôn ra tưởng
không bao giờ ngừng. Những cánh rừng rậm rạp, những khoảnh khắc chết
người, những chuyện đã nói năm ngoái năm nay lại được kể lại, nhưng dù
nghe lại cũng không báo giờ thấy chán. Mỗi khi nhắc đến những câu
chuyện có liên quan tới tôi, mọi người lại tranh nhau kể rất hào hứng
nhưng riêng tôi lại ngồiim lặng, tôi phải kìm nén nỗi đau sầu thẳm
trong lòng. Bởi vì còn đó ký ức đau buồn về chiến tranh, về những tội
ác không rửa được, những chiến hữu đến bây giờ vẫn phải sống trong vất
vả, những linh hồn không bao giờ quay trở về.
Năm nào chúng tôi cũng họp nhau và đi viếng nghĩa trang. Tại đó bằng
lòng thành tâm của mỗi người chúng tôi đều cầu nguyện cho linh hồn của
người đã chết. Bởi vì chúng tôi đều là những người đã ôm họ vào lòng
và chứng kiến những phút giây cuối cùng của họ.
Hỡi những chiến hữu đã vào sinh ra tử cùng với tôi, hỡi những linh hồn đã chết ở VN! Xin Chúa hãy cứu vớt linh hồn họ.
Hết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét